drphan ThoatViBen
THOÁT VỊ BẸN I Đại cương Thoát vị bẹn là tình trạng một tạng trong ổ bụng rời khỏi vị trí chui qua ống benh xuống bìu, là loại hay gặp trong các loại thoát vị thoát vị thành bụng. 1.1. Giải phẫu ống bẹn. Ống bẹn là một đường hần taio nên bởi cân coe thành bụng trước, ống bẹn dài khoảng 6cm tương ứng với ½ trong của đường nối từ gai mu đến điểm cách gai chậu trước trên 1cm về phía trong. Có 2 lỗ bẹn: - Lỗ bẹn nông- lỗ bẹn trong - Lỗ bẹn sâu – lỗ bạn ngoài Mặt trong của vùng bẹn co động mạch thượng vị, thường đông mạch rốn và dây treo bàng quang đội lá phúc mạc thành nhô lên và tạo thành ba hố bẹn - Hố bẹn ngoài: Nơi sảy ra thoát vị ch o ngoài, mà tuyệt đại bộ phận là thoát vị bẩm sinh. - Hố bẹn giữa: Nơi sảy ra thoát vị trực tiếp. - Hố bẹn trong: Nơi sảy ra thoát vị ch o trong ( hiếm gặp ) II. Phân loại thoát vị. 2.1. Theo giải phẫu. a) Thoát vị ch o ngoài: - Tạng chui ra ở hố bẹn ngoài vào ống phúc tinh mạc để xuống bìu. - Tuyệt đại đa số là thoát vị bẩm sinh. - Túi thoát vị nằm trong bao thớ của thường tinh. b) Thoát vị trực tiếp. - Tạng chui ra ở hố bạn giữa, - Là thoát vi mắc phải ( không bao giờ có thoát vị bẩm sinh ở vị trí này. - Túi thoát vị nằm ngoài bao thớ của thừng tinh. c) Thoát vị ch o trong. - Tạng chui ra ở hố bẹn trong. - Hiếm gặp 2.2. Theo nguyên nhân. a) Thoát vị bẩm sinh: - Do con tồn tại ống phúc tinh mạc. - Luôn là thoát vị ch o ngoài - Thường gặp trong lâm sàng. - Hay ở trẻ nhỏ và vị thành niên. b) Thoát vị mắc phải. - Do cân cơ thành bụng quá nhẽo, yếu, công thêm tác động tăng áp lực đột ngột - ổ bụng - Ít gặp, thường gặp ở tuổi già. - Tạng thoát vị chui ra ở hố bạn giữa, là thoát vị trực tiếp. - Ít bị ngh t vì túi thoát vị hình chỏm, mổ hay tái phát. III. Triệu chứng. 3.1. Cơ năng. Xuất hiện khối phồng vùng bẹn – bìu, to ra khi đi lại, lao đông. Nghỉ ngơi mất có thể tự đẩy lên được. Toàn trạng bình thường. 3.2. Thực thể. a. Khối phồng vùng bẹn khám có những đặc điểm: - Trên nếp nằn bẹn, chạy theo hướng của ống bẹn. Khối phồng xuông thấp làm bìu to lên nhưng điểm xuất phất vẫn nằm trên nếp lằn bẹn. - Khối phồng mềm, không dau, căng to hơn khi rặn, ho. - Dùng tay đẩy nhẹ nhàng từ từ lên khối phồng mất, khi bn rặn hoặc ho khối phồng xuất hiện theo hướng từ trên xuống dưới từ ngoài vào trong. - Gõ thấy vang khi khối thoát vị là ruột, gõ đặc tạng thoát vị là mạc nối. b. Lỗ bạn nông rộng c. Có cảm giác khối ruột chạm vào đầu ngón tay khi luôn tay vào lỗ bạn nông và bao bệnh nhân ho. IV. Chẩn đoán. Dựa vào triệu chứng ở trên, nhìn chung chẩn đoán thoát vị bẹn dễ. Những trường hợp khó cần phân biệt với một số bệnh sau: - Tràn dich màng tinh hoàn: - Da bìu căng, có dấu hiệu ba động. - Không sờ được mào tinh hoàn, không bấm được màng tinh hoàn. - Soi đèn pin ánh sáng xuyên qua khối dịch màu hồng nhạt xung quang, giữa tối. - Giãn tĩnh mạch thừng tinh: - Sờ bìu có cảm giác như sờ vào búi giun dưới tay. - Dồn khối phồng lên hết, bịt lỗ bẹn nông, cho bn đứng dậy thả tay thấy khối phồng xuất hiện từ dưới lên (nếu từ trên xuống là trong thoát vị bẹn). - Tinh hoàn lạc chỗ: - Không sờ thấy tinh hoàn cùng bên. - Gianh giới rõ, mật đọ chắc ấn đau tức. *Chẩn đoán phân biết giữa thoát vị ch o ngoài và thoát vị trực tiếp Thoát vị trực tiếp Hay gặp ở người già yếu, thường bị cả hai bên Lỗ thoát vị rộng, khối thoát hình chóp, tạng thoát vị có thể là ruột, mạc nối lớn có thể có manh tràng, bàng bang thâm trí cả niệu quản Khối thoát vị chui ra theo hướng từ trong ra ngoài và từ sau ra trước, khối thoát vị đẩy vào dễ dàng Dùng ngón tay luồn vào khối thoát vị có thể sờ được đm thượng vị đập ở phía ngoài Rất ít bị nghẹt, Sau mổ thường hay tái phát Mổ thấy búi thoát vị nằm ngoài bao thớ thừng tinh IV. Tiến triển và biến chứng. Thoát vị chéo ngoài Hay gặp ở trẻ tuổi, vị thành niên Lỗ thoát vị hẹp Khối thoát vị theo hướng từ trên xuống dưới và từ trong ra ngoài Hay bị nghẹt, mổ tái tao thành bụng tốt ít bị tái phát Khối thoát vị nằm trong bao thớ thừng tinh Thoát vị bẹn khi không được khắc phục băng các biện pháp thì ngày càng to ra, ảnh hưởng ít nhiều đến đi lại sinh hoạt của người bệnh và có thể gặp các biến chứng nguy hiểm là: - Bị nghẹt - Viêm dính tạng thoát vị với bao thoát vị - Chấn thướng khối thoát vị làm tốn thương các tạng trong khối thoát vị. V. Điều trị. Hai phương pháp là đeo băng và phẫu thuật 5.1. Đeo băng. Phương pháp tạm thời không cho tạng xa xuống thêm và chờ phẫu thuật. Đối với trẻ nhỏ đôi khi đeo băng làm khối thoát vị không xa xuống tạo điều kiện cho ống phúc tinh mạc bị bịt lại, cân cơ phát triển có thể khỏi. Đối với những trường hợp có chống chỉ định phẫu thuật ( quá già yếu, suy tim mạch..) thì đeo băng liên tục để tránh thoát vị không lơn hơn và tránh nghẹt. 5.2. Phẫu thuật. Là phương phát triệt để, nhằm hai mục đích: - Tìm khâu cổ túi và cắt túi thoát vị - Khâu túi thoát vị ở lỗ bẹn càng cao càng tốt nhưng không được khâu buộc vào ống dẫn tinh. - Cắt túi thoát vị nếu bóc tách dễ. Nếu dích nhiều không bóc được thì lộn mặt trong ra và khâu ôm lấy thừng tinh ( lôn bao thoát vị) - Tái tạo thành bụng: Là thì quan trọng tránh tái phát về sau. Có nhiều phương pháp tái tạo thành bụng, thành bụng được tái tạo theo hai bình diện nông và bình diện sâu. Tùy vị trí thừng tinh so với hai bình diện ta có các nhóm phương pháp sau: - Thừng tinh nằm trước hai bình diện: Phương pháp Halsteck - Thừng tinh nằm giữa hai bình diện: Phương pháp Bassini - Thừng tinh nằm sau hai bình diện: Phương pháp Forgue, Kimba-rov-ski … 61. THOÁT VỊ NGHẸT Thoát vị nghẹt là tình trạng cơ quan ở trong túi thoát vị bị đè p, thắt nghẽn lại ở cổ túi, dẫn tới rối loạn chức năng, rối loạn tuần hoàn và cuối cùng là rói loạn tổ chức. Đây là một biến chứng nguy hiểm nhất của tất cả cácc loại thoát vị thành bụng, đòi hỏi phải chẩn đoán và cấp cứu kịp thời. I. Nguyên nhân sinh bệnh Cho tới nay nhiều tác giả giải thích nguyên nhân của thoát vị nghẹt dưới nhiều khía cạnh khác nhau: 1. Do áp lực trong ổ bụng tăng đột ngột (ví dụ: nâng vật nặng, ho mạnh….), làm cho tạng chui qua lỗ thoát vị nhanh, đột ngột nên dẫn tới nghẹt. 2. Do lỗ thoát vị hẹp, cân cơ ở lỗ thoát vị chắc, ít đàn hồi nên dễ bị nghẹt hơn là lỗ thoát vị to,tạng lên xuống dễ dàng. 3. Do có một quai ruột mới chui qua lỗ thoát vị trong lúc đã có một quai ruột khác chui xuống. 4. Do quai ruột trong túi thoát vị bị gấp khúc nhiều và bị quay theo trục của nó. 5. Một số tác giả đã chứng minh rằng: nhu động ruột của quai đến bao giờ cũng tăng, đồng thời lại có sự gấp khúc của quai ruột nên làm cho dịch và hơi ứ đọng lại.Vì ứ đọng nhiều làm cho áp lcj trong lòng quai đến tăng cao, dãn to và đè p cả quai đi. 6. Nhiều tác giả cũng thừa nhận các yếu tố kể trên và giải thích như sau: áp lực trong quai đến tăng khá mạnh hoặc rất mạnh làm căng cả lỗ thoát vị vốn đã ít đàn hồi. Hiện tượng trên sẽ gây một kích thích đau đớn, do đau mà làm tăng phản xạ co cơ thành bụng, chính co cơ lại làm cho lỗ thoát vị hẹp thêm và dẫn tới tình trạng không phù hợp giữa cổ túi thì bé mà khối lượng ruột nằm trong bao thoát vị lại lớn nên dẫn tới nghẹt. II. Giải phẫu bệnh lý Đièu nguy hiểm và thường gặp nhất là ruột bị nghẹt. Quai ruột bị nghẹt tổn thường nhiều hay ít là phụ thuộc vào: Sự thắt hẹp ở ngay lỗ thoát vị (mức độ thắt hẹp). Thời gian bị nghẹt lâu hay mới. Quan sát một quai ruột bị nghẹt ta thấy: 1. Phần ruột tương ứng với vòng thắt của lỗ thoát vị bị tổn thương sớm nhất và nặng nhất, vòng lỗ thoát vị càng bé thì tổn thương càng nặng và càng sớm. Tổn thương ở quai đến bao giờ cũng nặng. 2. Phần ruột nằm trong bao thoát vị hoại tử nhanh hay chậm phụ thuộc vào 2 yếu tố: a. Nếu tĩnh mạch mạc treo bị đè p trước, trong khi động mạch còn cung cấp máu phần nào cho tổ chức ruột thì: - Ruột hoại tử muộn hơn. - Quai ruột giãn to. - Lúc đầu quai ruột màu đỏ thẫm, sau chuyển dần sang màu tím. - Thành dầy do phù nề. - Lòng ruột tích nhiều dịch và cả bao thoát vị cũng có dịch màu hồng. - Đến lúc cả động mạch cũng bị tắc làm cho ruột hoại tử từng điểm, từng đám rồi hoại tử hoàn toàn. Hoại tử bao giờ cũng từ niêm mạc trước, sau đó đến cơ và thanh mạc. b. Trường hợp cả động mạch và tĩnh mạch bị tắc ngay từ đầu thì: - Đoạn ruột bị nghẹt có màu trằng nhợt, chóng hoại tử. - Dịch ít thấm ra ở lòng ruột và bao thoát vị. - Đối với các đoạn ruột nằm trong ổ bụng thì tổ thương giống như trong tắc ruột cơ học. 3. Mạc treo của quai ruột nghẹt bị phù nề, dầy và điều nguy hiểm hơn là tĩnh mạch bị tắc, không những ở phần bị nghẹt mà có lúc lên cao hơn thậm chí lên tới gốc mạc treo. Khi mổ cấp cứu, việc đánh giá tổ thương của quai ruột có { nghĩa rất quan trọng. Người phẫu thuật viên phải trả lời cho được câu hỏi “ Đoạn ruột còn có khả năng hồi phục được nữa không?” để quyết định thái độ xử trí. Muốn vậy trong nhiều trường hợp phải có thời gian chờ đợi, trước hết phải đắp huyết thanh ấm, phong bế novocain 0.25% ở gốc mạc ttreo, đợi 15-20 phút nếu thấy: · Ruột không có nhu động. · Vẫn mềm nhẽo, màu sắc không hồng trở lại. · Động mạch mạc treo không đập. Quai ruột như vậy không còn khả năng hồi phục nữa, phải cắt đoạn. Ngoài ra cũng cần lưu {: Có trường hợp ruột tuy hồng trở lạị, vẫn nhu động nhưng có những ổ hoại tử nhỏ. Trường hợp trên nếu vẫn bảo tồn thì các ổ hoải tử nhỏ sẽ thủng, gây viêm phúc mạc, rất nguy hiểm cho bênh nhân. 4. Nghẹt ngược chiều. Là do hai quai ruột chi vào bao thoát vị kiểu W. Khi bị nghẹt, quai ruột hoại tử lại nằm trong ổ bụng, việc chẩn đoán khó khăn, ngay lúc mổ cũng dễ bỏ sót nguy hiểm.5. Nghẹt một phần của thành ruột: Chỉ một phần của thành ruột bị nghẹt, còn lòng ruột vẫn lưu thông được. III. Triệu chứng Lấy điển hình ruột non bị nghẹt trong thoát vị bẹn: 1. Triệu chứng cơ năng. · Đau dữ dội, đột ngột vùng thoát vị, đau toát mồ hôi khiến bênh nhân phải đến viện, có khi bị choáng vì đau. Nhiều bênh nhân có thể cho ta biết: Trước đó ở vùng đau vẫn có khối phồng, lúc xuất hiện, lúc mất đi hoặc tự tay ấn lên được. Nay khối phồng đau và không tự đẩy lên được nữa. · Nôn, bí trung đại tiện, biểu hiện của tắc ruột cơ học. · 2. Triệu chứng thực thể - Tại vùng thoát vị thấy có khối phồng: Căng chắc. Không đẩy lên được. Rất đau khi ta sờ nắn Gõ đục. - Các triệu chững của tắc ruột cơ học: Chướng bụng,. Dấu hiện rắn bò. Toàn thân: Mất nước và điện giải do nôn nhiều. - X-quang: Có mức nước và mức hơi trong ổ bụng. Bệnh nhân đến sớm, triệu chứng đau là chủ yếu, nhưng nếu đến muộn sau 6-12 giờ thì các triệu chững tắc ruột càng rõ. IV. Các thể lâm sàng Có nhiều cách phân chia. 1. Theo diễn biến của bệnh a) Thể tối cấp: Hay gặp ở người có khối thoát vị nhỏ, quai ruột bị thắt nghẽn hoàn toàn ngay từ đầu, triệu chứng toàn thân nặng nề nhanh chóng. · Nôn nhiều · Truỵ mạch. · Nếu không được cấp cứu sớm sẽ tử vong trong 36-40 giờ. · B) Thể bán cấp: Khối thoát vị thỉnh thoảng lại đau, căng to dần, lúc đầu không đẩy lên được nhưng nếu nằm nghỉ, bệnh nhân có gắng cũng tự đẩy lên được. · ít lâu sau, hiện tượng trên lại tái diễn. · Cần mổ để tránh bị nghẹt cấp tính. c) Thể tiềm tàng: Thường ở người già và do mạc nối lớ chui xuống, triệu chứng cơ năng không rõ lắm, bệnh nhân có lúc đau tức nhưng chịu đựng được, có nôn hoặc buồn nôn. Nhưng rồi sẽ qua đi khá dễ dàng, bệnh nhân lại sinh hoạt bình thường. 2. Theo các tạng thoát vị bị nghẹt. Ruột non - ruột già - manh tràng - ruột thừa - đại tràng ngang - đại tràng xích ma - bàng quang - các phần phụ của nữ. 3. Theo vị trí của thoát vị. - Thoát vị bẹn nghẹt: Chiếm tỷ lệ cao 50-75% so với tổng số thoát vị nghẹt vì thoát vị bẹn gặp nhiều hơn các loại khác. các loại khác. 60%. ( So với cùng loại) - Thoát vị rốn. - Thoát vị vùng thắt lưng. - Thoát vị cơ hoành. - Thoát vị đường trắng giữa. - Thoát vị ở lỗ khuyết hổng của mạc treo. - Thoát vị bịt. - Thoát vị ngồi. - Thoát vị đáy chậu. V. Diễn biến của bệnh 1. Nếu không được điều trị sớm, bênh nhân sẽ tử vong trong bệnh cảnh: - Tắc ruột cơ học với mọi diễn biến của nó. - Viêm phúc mạc toàn thể do ruột hoại tử, thủng vào ổ bụng. Có trường hợp ruột chưa bị thủng, mới chỉ hoại tử niêm mạc và một phần của cơ nhưng vẫn bị viêm phúc mạc vì vi khuẩn theo dịch tiết, xuyên qua thành ruột vào ổ bụng. 2. Khối thoát vị tự lên được nhưng đây chỉ là may mắn và không chắc chắn. VI. Chẩn đoán 1. Chẩn đoán xác định. Dựa vào: - Đau đột ngột dữ dội vùng thoát vị. - Khối thoát vị phông to đau và khong đẩy lên được. - Có triệu chứng của tắc ruột cơ học. Tuy vậy ở một số trường hợp việc chẩn đoán thoát vị nghẹt rất khó khăn, nhất là thoát vị trong ổ bụng hoặc các vùng khác rất hiếm gặp. Những trường hợp trên, bệnh nhân thường được mổ với chẩn đoán tắc ruột cơ học, còn nguyên nhân thì sau khi mổ mới được sáng tỏ hoàn toàn 2. Chẩn đoán phân biệt. Tùy theo vị trí của thoát vị nghẹt mà chẩn đoán phân biệt cho phù hợp. Thoát vị bẹn và thoát vị đùi nghẹt là 2 loại hay gặp, ta phải chẩn đoán phân biệt với: a. Viêm tinh hoàn cấp. - Tinh hoàn rất đau. - Khối đau này có danh giới rõ và cách biệt với thành bụng. - Có hội chứng nhiễm khuẩncả tại chỗ và toàn thân. - Không có hội chững tắc ruột và không có bệnh cảnh cua thoát vị bẹn trước đó. b. Viêm hạch bẹn: - Có hội chứng nhiễm khuẩn, có sưng, nóng, đỏ, đau tại vùng bẹn. c. Các tắc ruột cơ học khác không do thoát vị nghẹt. d. Tràn dịch màng tinh hoàn ở nhũ nhi, phải có phương pháp khám thích hợp để phân biệt trẻ đau thực sự hay khóc vì sợ hãi. VII. Điều trị Thoát vị nghẹt là loại cấp cứu ngoại khoa, có thể áp dụng các phương pháp điều trị sau: 1. Bảo tồn. Nếu bệnh nhân đến rất sớm, ta có thể đấy khối thoát vị nghẹt lên và theo dõi. Với trẻ nhỏ, điều kiện đến sớm, toàn thân chưa có nhiễm độc, cách tiến hành là: - Tiêm thuốc an thần, giảm đau theo liều thích hợp. - Ngâm nửa người cháu bé vào chậu nước ấm, chờ 15-20 phút, khối thoát vị có thể tự lên được.- Có thể dùng tay xoa nhẹ ở khối thoát vị nhưng không được nắn thô bạo đề phòng vỡ tạng bên trong. - Khi tạng đã lên được thì vẫn phải theo dõi sát đề phòng ruột hoại tử thứ phát gây viêm phúc mạc. 2. Phẫu thuật. Là phương pháp điều trị chính nhằm mục đích: - Giải phóng nhanh tạng thoát vị bị nghẹt, thiếu máu. - Khâu cổ túi và cắt túi thoát vị. - Phục hồi thành bụng. Cần lưu {: - Không được đẻ tụt quai ruột vào ổ bụng khi chưa có quan sát kết luận chính xác tình trạng quai ruột bị nghẹt. - Phải đánh giá đúng khả năng đoạn ruột còn hội phục được không. - Chú ý toàn thân và có hồi sức bù đắp nước và điện giải. 62. THOÁT VỊ SAU MỔ I - ĐỊNH NGHĨA. Thoát vị sau mổ là tạng chui ra ngoài qua vết mổ cũ, nó khác với các thoát vị thành bụng khác ở chỗ: Khối khoát vị không được phúc nạc thành bao phủ mà trực tiếp ngay với tổ chức xơ của vùng mổ. II. NGUYÊN NHÂN Có thoát vị sau mổ là do đường khâu cân cơ của thành bụng không liền được, hai mép vết mổ bị toác rộng ra, chỉ có lớp tổ chức xơ sẹo mỏng hoặc da che phủ vết mô. Các yếu tố làm vết mổ không liền tốt là: 1. Nhiễm khuẩn làm toác vết mổ Thường gặp những vết mổ nhiễm khuẩn trong các trường hợp: - Mổ các vết thương thấu bụng - Đường mổ của các loại viêm phúc mạc - Đường mổ của viêm ruột thừa cấp đã có mủ - Mổ các tạng dễ nhiễm khuẩn như đại tràng, tiểu tràng.v.v. v 2. Đối với các đường mổ vào ổ bụng: Mổ đường trắng giữa ít bị nhiễm khuẩn nhất các đường mổ ngang cắt cơ nhiều, vết mổ kém liền hơn, dễ nhiễm khuẩn và hay gây thoát vị sau mổ. Người ta cũng thấy rằng những vết mổ khâu ít lớp thì tỷ lệ thoát vị sau mổ ít hơn so với những vết mổ được khâu nhiều lớp. 3. Cơ thể bệnh nhân suy nhược già yếu vết mổ khó lành 4. Do cân cơ thành bụng bị căng nên vết mô lành kém, chậm ví dụ: Sau mổ bụng, ruột bao giờ bụng cũng chướng do liệt, hoặc sau mổ bị ho nhiều. 5. Do kỹ thuật : Khâu không lấy được các lớp cân, buộc không chặt, mép cân còn dãn cách sau khi buộc. III. GIẢI PHẪU BỆNH LÍ. 1. Vòng thoát vị (lỗ thoát vị). - Ở ngay vùng sẹo cũ - Hình bầu dục hoặc tròn - Bờ của lỗ thoát vị do cân cơ bị xơ hoá tạo nên, lớp phúc mạc thành bị dính và xơ hoá dọc theo chu vi của lỗ thoát vị, còn bề mặt của lỗ thoát vị thì không có phúc mạc chỉ có tạng dính vào vùng sẹo xơ. 2. Túi thoát vị: Có kích thước và hình dáng khác nhau, tùy theo từng trường hợp, thường có nhiều ngõ ngách cũng có khi không hình thành túi thoát vị. 3. Lớp học ngoài khối thoát vị. Chỉ là lớp sẹo xơ mỏng và chính đó cũng là túi thoát vị, lớp này có lúc chỉ có da, tổ chức dưới da cùng với vết sẹo ở giữa nhưng sẹo cũng bị giãn rộng và mỏng. 4. Tại thoát vị: Chủ yếu là ruột. IV. TRIỆU CHỨNG. Chẩn đoán thoát vị sau mổ thường dễ dàng. Thấy khối phồng ở ngay đường mổ cũ, khối phòng to rõ khi bệnh nhân rặn, nhưng ấn thì xẹp lại ngay, sờ có cảm giác tạng thoát vị ở ngay dưới tay vì lớp sẹo xơ mỏng nhưng khi thả tay thì khối phồnglại xuất hiện hoặc chỉ rặn nhẹ đã lồi ra. Vì ruột dính vào lớp sẹo, vào hở lỗ thoát vị nên không đẩy hoàn toàn vào trong bụng được. - Sờ được bờ của vòng thoát vị dễ dàng bờ xơ và chắc V. ĐIỀU TRỊ: Mổ là chủ yếu. 1. Bóc tách tạng dính vào vùng sẹo cũ và bóc dọc theo bờ của vòng thoát vị. 2. Tái tạo thành bụng những sợi chỉ không tiêu, để đảm bảo kết quả nhất thiết phải khâu, kéo hai lớp cân cơ vào vòng thoát vị sát với nhau. Để đạt yêu cầu này nhiều lúc phải làm thủ thuật chuyển vạt cân, hiện nay trường hợp vòng thoát vị quá lớn không thể làm thủ thuật chuyển vạt cân được thì một số tác giả đã dùng các màng lưới chất dẻo để bịt chỗ khuyết hồng thành bụng. Mổ tái tạo lại thành bụng cho những bệnh nhân thoát vị sau mổ không phải lúc nào cũng dễ dàng, kết quả cũng còn hạn chế có bệnh nhân phải mổ nhiều lần vì vậy cần chú ý: Ở người có già yếu không nên mổ chỉ đeo băng giữ không cho khối thoát vị lồi ra. - Vì vết mổ trước đã bị nhiễm khuẩn lâu ngày, do đó mổ lại cũng rất dễ bị nhiễm khuẩn là làm thất bại cuộc mổ. Vì vậy phải xem xét kỹ ở vết mổ còn nhiều khuẩn tiềm tàng nữa không, thường phải dựa vào: - Kết quả xét nghiệm máu: BC, CTBC, máu lắng. - Từ lúc lành vết mổ cũ đến lúc mổ lại phải từ 6 tháng đến 1 năm. Nếu bệnh nhân có nhiều vết mổ (thường do vết thương chiến tranh thì nên chờ sau 2 - 3 năm mới mổ lại). 3. Nên mổ dưới gây mê nội khí quản và phải tránh làm tổn thương các quai ruột dính vào vùng mổ cũ.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top