Phần Không Tên 6
1.Đặc điểm địa lý cơ bản của các vùng biển Việt Nam?
Số lần xem: 286 Ngày đăng: 22/09/2015
Việt Nam là một quốc gia biển lớn nằm ven bờ tây Biển Đông. Trong Biển Đông, liên quan tới Việt Nam có hai vịnh (gulf) lớn là vịnh Bắc Bộ ở phía Tây Bắc, rộng khoảng 130.000 km2 và Vịnh Thái Lan ở phía tây nam, diện tích khoảng 293.000 km2. Đây là biển duy nhất nối liền hai đại dương - Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương.
Biển Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chế độ gió mùa thịnh hành hướng Đông Bắc và Đông Nam. Vì thế, biển Việt Nam gánh chịu nhiều rủi ro thiên tai và sự cố môi trường biển trên Biển Đông, đặc biệt từ các loại dầu tràn và dầu thải không rõ nguồn gốc đưa vào vùng bờ biển nước ta.
Chế độ khí hậu vùng biển Việt Nam khác nhau ở ba miền khí hậu chủ yếu: (i) Miền khí hậu phía bắc từ đèo Hải Vân trở ra, có chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh, (ii) Miền khí hậu phía nam từ Đà Nẵng vào tới các tỉnh ven biển đồng bằng sông Cửu Long, có chế độ khí hậu gió mùa nhiệt đới cận xích đạo với 2 mùa mưa và khô rõ rệt, nhiệt độ luôn cao, (iii) Miền khí hậu Biển Đông có chế độ khí hậu mang tính chất gió mùa nhiệt đới biển. Vùng Biển Đông nói chung và biển Việt Nam nói riêng là khu vực chịu nhiều thiên tai bão, tố, biến đổi khí hậu và có nguy cơ sóng thần. Trung bình hàng năm có khoảng 8 cơn bão đổ bộ vào vùng biển và nội địa Việt Nam và dự báo sóng thần có thể sẽ xuất phát từ các hẻm vực sâu ven bờ tây Phi-lip-pin (Palawan) và chỉ sau 02 giờ sẽ tiếp cận đến bờ biển Nha Trang.
Chế độ hải văn ven bờ cũng biến tính rõ. Chế độ dòng chảy bề mặt và sóng biến đổi theo mùa gió trong năm, cả về hướng chảy và cường độ. Các đặc trưng khí hậu - hải văn nói trên góp phần hình thành các vùng địa lý - sinh thái khác nhau, kéo theo thế mạnh tài nguyên sinh vật và tiềm năng phát triển khác nhau.
Khu vực biển nông thuộc thềm lục địa địa lý (đến độ sâu 200m) chiếm toàn bộ diện tích vịnh Bắc Bộ, vịnh Thái Lan, vùng biển trước châu thổ sông Cửu Long và thắt hẹp lại ở miền Trung nước ta.
Biển Việt Nam là một bộ phận quan trọng của Biển Đông, bao gồm vùng nội thuỷ, lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa (theo quy định của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982).
Hình thế phần đất liền của Việt Nam hẹp chiều ngang (không có nơi nào cách biển trên 500km) với đường bờ biển dài trên 3.260km (không kể bờ các đảo) chạy theo hướng kinh tuyến, kéo từ Móng Cái (Quảng Ninh) ở phía đông bắc xuống tới Hà Tiên (Kiên Giang) ở phía tây nam. Bờ biển Việt Nam khúc khuỷu, nhiều eo, vụng, vũng/ vịnh ven bờ và cứ 20 km chiều dài đường bờ biển lại bắt gặp một cửa sông lớn với tổng số khoảng 114 cửa sông đổ ra biển, chủ yếu từ phía lục địa Việt Nam. Đặc biệt, Việt Nam có hai đồng bằng châu thổ rộng lớn và phì nhiêu ven biển là đồng bằng châu thổ sông Hồng ở phía bắc và đồng bằng châu thổ sông Cửu Long ở phía nam. Lượng nước và phù sa lớn nhất đổ vào Biển Đông hàng năm chính là từ các hệ thống sông của hai đồng bằng này. Bên cạnh việc bổ sung nguồn dinh dưỡng cho biển Việt Nam và Biển Đông, các hệ thống sông này cũng đổ ra biển không ít chất gây ô nhiễm môi trường biển và vùng cửa sông ven biển nước ta.
2.Tiềm năng biển việt nam và những định hướng chiến lược cơ bản để xây dựng và phát triển
(ĐCSVN) - Nghị quyết 09 - NQ/ TW ngày 9/2/2007 "Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020" đã nhấn mạnh: "Thế kỷ XXI được thế giới xem là "thế kỷ của đại dương". Các quốc gia có biển đều rất quan tâm đến biển và coi trọng việc xây dựng chiến lược biển. Khu vực biển Đông, trong đó có vùng biển Việt Nam, có vị trí địa kinh tế và địa chính trị rất quan trọng...với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, ngày nay biển càng có vai trò to lớn hơn đối với sự nghiệp phát triển đất nước" .
Có thể khẳng định, tiềm năng tài nguyên biển và vùng ven biển của nước ta có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp phát triển đất nước. Trước hết là dầu khí với trữ lượng khoảng từ 3 đến 4 tỉ tấn dầu qui đổi, cùng các loại khoáng sản có giá trị khác như than, sắt, ti tan, cát thuỷ tinh. Bên cạnh đó là nguồn lợi hải sản với chủng loại rất phong phú, đa dạng, có tổng trữ lượng khoảng từ 3 đến 4 triệu tấn. Dọc bờ biển có hơn 100 địa điểm có thể xây dựng cảng, trong đó có nhiều nơi có thể xây dựng cảng trung chuyển quốc tế; có nhiều đảo có tiềm năng phát triển kinh tế tổng hợp. Ngoài ra, biển nước ta còn có 125 bãi biển lớn, nhỏ nông thoải, nước trong và sạch, nắng ấm quanh năm, không khí trong lành với cảnh quan đẹp... là điều kiện lý tưởng để xây dựng các khu nghỉ mát, nghỉ dưỡng, du lịch cao cấp.
Vấn đề đặt ra là làm sao để đánh thức tiềm năng to lớn đó của đất nước để kinh tế biển thực sự đóng vai trò quan trọng, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế đất nước.
Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiềm lực kinh tế biển của đất nước ta đã không ngừng lớn mạnh, phát triển với tốc độ khá nhanh và đã có những đóng góp quan trọng vào nhịp độ tăng trưởng kinh tế - xã hội của đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tuy nhiên, trước một tiềm năng kinh tế lớn, bên cạnh những thuận lợi, thì với một khoảng thời gian thực tế chưa dài nên chúng ta đang phải đối mặt với những khó khăn thách thức là tất yếu.
Về khách quan, một số vùng biển nước ta thường xảy ra thiên tai với cường độ lớn và tần suất cao làm ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân vùng ven biển cũng như trong việc khai thác tiềm năng kinh tế biển.
Về chủ quan, việc nhận thức về vị trí, vai trò của biển trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của các cấp, các ngành và nhân dân chưa đầy đủ. Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có một chiến lược biển cùng những chương trình phát triển cụ thể để phát huy toàn diện tiềm năng tài nguyên đó. Đó là bên cạnh quy mô phát triển kinh tế biển còn nhỏ bé, manh mún, chưa tương xứng với tiềm năng; thì cơ cấu ngành, nghề chưa hợp lý, mới chỉ phát triển trên một diện hẹp; chưa chuẩn bị đủ các điều kiện cần thiết để đủ sức vươn ra vùng biển quốc tế. Trong khai thác, đánh bắt, chế biến nguồn lợi kinh tế biển vẫn đang chủ yếu là sản xuất nhỏ; với hệ thống hạ tầng còn thiếu thốn, yếu kém, chưa đồng bộ; cùng với đang thiếu những cảng biển lớn với dịch vụ hậu cần quy mô, hệ thống những cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ biển, các cơ sở dự báo thiên tai từ biển đang bộc lộ những yếu kém, bất cập v.v...
Nguyên nhân cơ bản của thực trạng trên là do công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và nhân dân về vị trí, vai trò của biển chưa đầy đủ; các cơ quan quản lý nhà nước về biển chưa phát huy tốt vai trò của mình, nhất là trong việc xây dựng chiến lược và hoạch định chính sách; vốn đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng biển và phát triển ngành, nghề biển còn ít; công tác hợp tác quốc tế về biển còn nhiều hạn chế, trong khi tranh chấp giữa các nước liên quan đến biển Đông còn diễn ra phức tạp.
Theo dự báo của Liên hợp quốc, đến năm 2025, thế giới sẽ mất đi 70 triệu héc ta đất canh tác do bị ngập mặn hay bị chìm trong nước biển. Do đó, những dự án chiến lược khai thác biển, biến biển cả thành nơi phát triển nông nghiệp đang được các quốc gia và các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, xây dựng.
Là một quốc gia có biển, đảo, Việt Nam cũng không nằm ngoài nguy cơ này, nên cũng như đang hết sức quan tâm đến việc xây dựng chiến lược phát triển biển.
3.Định hướng chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020
Về quan điểm chỉ đạo
Với những nhận định quan trọng trên, Hội nghị lần thứ tư ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) đã có quan điểm chỉ đạo về định hướng chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, thể hiện rõ trên các luận điểm sau.
Một là, nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn.
Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng - an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường; kết hợp giữa phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Ba là, khai thác mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường biển trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa, phát huy đầy đủ và có hiệu quả các nguồn lực bên trong; tranh thủ hợp tác quốc tế, thu hút mạnh các nguồn lực bên ngoài theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Trên tinh thần đó, Đảng ta đã xác định rõ mục tiêu và định hướng chiến lược phát triển kinh tế biển đến năm 2020 và tầm nhìn xa hơn.
Mục tiêu và định hướng chiến lược phát triển kinh tế biển
Mục tiêu tổng quát là đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cho đất nước giàu mạnh. Mục tiêu cụ thể là xây dựng và phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học - công nghệ, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế trên biển và ven biển đóng góp khoảng 53 – 55% tổng GDP của cả nước. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống nhân dân vùng biển và ven biển; có thu nhập bình quân đầu người cao gấp 2 lần so với thu nhập bình quân chung của cả nước. Cùng với xây dựng một số thương cảng quốc tế có tầm cỡ khu vực, hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, sẽ xây dựng một số khu kinh tế mạnh ở ven biển; xây dựng cơ quan quản lý nhà nước tổng hợp thống nhất về biển có hiệu lực, hiệu quả; mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực về biển.
Trên cơ sở đó, Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) đã có những định hướng chiến lược sát đúng và cụ thể về phát triển kinh tế biển đến năm 2020 trên một số lĩnh vực quan trọng dưới đây.
Về kinh tế - xã hội: Đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản về tài nguyên biển và bảo vệ môi trường biển; phát triển khoa học - công nghệ biển; xây dựng kết cấu hạ tầng biển gắn với phát triển mạnh các ngành dịch vụ; xây dựng tuyến đường ven biển, trong đó có một số đoạn cao tốc và các tuyến vận tải cao tốc trên biển. Hình thành một số lĩnh vực kinh tế mạnh gắn với xây dựng các trung tâm kinh tế để ra biển, làm động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Đến năm 2020, phát triển thành công, có bước đột phá về kinh tế biển, ven biển gồm: khai thác, chế biến dầu khí; kinh tế hàng hải; khai thác và chế biến hải sản; phát triển du lịch biển và kinh tế hải đảo; xây dựng các khu kinh tế, các khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất ven biển gắn với phát triển các khu đô thị ven biển. Trước mắt, sẽ tập trung đầu tư phát triển du lịch biển, xây dựng cảng biển, phát triển công nghiệp đóng tàu, phát triển những ngành dịch vụ mũi nhọn như vận tải biển, các khu kinh tế ven biển; tạo các điều kiện cần thiết bảo đảm an ninh, an toàn cho người dân hoạt động, sinh sống trên biển, đảo và ở những vùng thường bị thiên tai.
Về chiến lược quốc phòng, an ninh, đối ngoại
Phát huy sức mạnh tổng hợp, giữ vững độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, vùng trời Tổ quốc. Kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp đấu tranh chính trị, ngoại giao, pháp lý, kinh tế, quốc phòng trong quản lý vùng trời, bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc gắn với thế trận an ninh nhân dân. Xây dựng lực lượng vũ trang, nòng cốt là hải quân, không quân, cảnh sát biển, biên phòng, dân quân tự vệ biển mạnh, làm chỗ dựa vững chắc cho ngư dân và các thành phần kinh tế sản xuất và khai thác tài nguyên biển. Sớm xây dựng chính sách đặc biệt để thu hút và khuyến khích mạnh mẽ nhân dân ra đảo định cư lâu dài và làm ăn dài ngày trên biển, phát triển kinh tế kết hợp làm nhiệm vụ bảo vệ vùng biển của Tổ quốc.
Về phát triển khoa học - công nghệ biển
Xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ biển đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới, phục vụ hiệu quả quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đẩy mạnh nghiên cứu và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ứng dụng khoa học - công nghệ, phục vụ công tác điều tra cơ bản, dự báo thiên tai và khai thác tài nguyên biển; nhanh chóng nâng cao tiềm lực khoa học - công nghệ cho nghiên cứu và khai thác tài nguyên biển, đáp ứng được yêu cầu giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Về xây dựng kết cấu hạ tầng biển
Phát triển mạnh hệ thống cảng biển quốc gia, xây dựng đồng bộ một số cảng đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế, đặc biệt chú trọng các cảng nước sâu ở cả ba miền của đất nước, tạo những của mở lớn vươn ra biển thông thương với thế giới. Tăng cường đầu tư chiều sâu, cải tiến đồng bộ và hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, sớm khắc phục tình trạng lạc hậu về trình độ kỹ thuật - công nghệ các cảng; tăng nhanh năng lực bốc xếp hàng hoá, giảm thiểu tối đa chi phí, bảo đảm có sức cạnh tranh cao trong hội nhập kinh tế quốc tế. Sớm hoàn chỉnh khai thác có hiệu quả hệ thống sân bay ven biển, xây dựng tuyến đường ven biển và đường cao tốc Bắc - Nam trên biển v.v...
Tiềm năng biển Việt Nam là một lợi thế lớn, là niềm tự hào của đất nước trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, tiềm năng đó vẫn chỉ là tiềm năng, nếu thiếu đi một chiến lược tổng thể, cùng những mục tiêu, biện pháp cụ thể. Vì vậy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) có thể nói là một công cụ dẫn đường kịp thời và đắc lực để phát huy vững chắc và hiệu quả tiềm năng đó.
Cùng với sự chỉ đạo, lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự điều hành, quản lý hiệu quả của nhà nước; cần có sự nỗ lực nhiều hơn nữa của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương và toàn dân để có thể nhanh chóng biến mục tiêu thành hiện thực. Với một chiến lược biển tổng thể, đúng đắn và phù hợp, cùng với quyết tâm cao của các cấp, các ngành và toàn dân, nhất định chúng ta sẽ khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế của vùng biển đẹp, giàu của đất nước, góp phần quan trọng và xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.
4. Đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 09-NQ/TW, "Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020"
23:18' 10/9/2014
TCCSĐT - Thực hiện Nghị quyết 09-NQ/TW, ngày 09-02-2007, "Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020" của Ban Chấp hành Trung ương khóa X là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang với nòng cốt là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân có vai trò, trách nhiệm đặc biệt.
Việt Nam là một quốc gia ven biển, có tổng chiều dài bờ biển khoảng 3.260 km, phần diện tích biển nước ta chiếm 29% diện tích Biển Đông, rộng gấp 3 lần diện tích lãnh thổ đất liền. Vùng biển nước ta có hơn 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ; hơn 50% số dân sống ở các tỉnh ven biển; ngư dân ta có truyền thống khai thác đánh bắt thủy sản trên biển. Từ đặc điểm biển, đảo nước ta được phân chia thành 3 vùng chính: Vùng Vịnh Bắc Bộ, vùng Biển Đông và vùng Biển Tây - Nam; trong đó, vùng Biển Đông có diện tích trên 500.000km2, bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Xuất phát từ đặc điểm địa lý và điều kiện khách quan, trở thành một quốc gia mạnh về biển là mục tiêu chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Khái lược pháp luật quốc tế về biển
Luật Biển quốc tế nhằm mục đích chủ yếu phân chia chủ quyền trên biển, việc sử dụng, khai thác biển, bảo vệ môi trường biển và hợp tác giữa các quốc gia trong các lĩnh vực này. Năm 1973, Hội nghị Liên hợp quốc lần thứ 3 về Luật Biển được tổ chức tại Niu-Óoc (Mỹ), sau đó, Hội nghị tổ chức liên tiếp các phiên họp tại Ca-ra-cát (Vê-nê-zuê-la), Giơ-ne-vơ (Thụy Sĩ), đến ngày 10-12-1982 tại Vịnh Môn-tê-gô (Ja-mai-ca), mới kết thúc đàm phán với sự tham gia của hơn 160 nước và thông qua được Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982) theo một quy trình đồng thuận thay cho bỏ phiếu lấy đa số. Công ước có hiệu lực từ ngày 16-11-1994. Đây là văn bản pháp luật quốc tế (gồm 17 phần, 320 điều, kèm theo 9 phụ lục và 4 nghị quyết), được coi như hiến pháp trên biển, có vai trò quan trọng chỉ sau Hiến chương Liên hợp quốc. Quốc hội Việt Nam đã phê chuẩn Công ước UNCLOS 1982 ngày 23-6-1994 và nộp lưu chiểu Liên hợp quốc ngày 25-7-1994.
Nội dung các điều khoản quan trọng nhất của Công ước UNCLOS 1982 quy định về việc thiết lập các giới hạn, giao thông đường biển, trạng thái biển, đảo và các chế độ quá cảnh, các vùng đặc quyền kinh tế, quyền tài phán thềm lục địa, khai khoáng lòng biển sâu, chính sách khai thác, bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học và dàn xếp các tranh chấp. Công ước đặt ra giới hạn cho nhiều khu vực, tính từ một đường cơ sở được định nghĩa kỹ càng, biểu hiện có các khu vực dưới đây:
Vùng nội thủy: Bao phủ tất cả vùng biển và đường thủy ở bên trong đường cơ sở (phía đất liền). Tại đây, quốc gia ven biển được tự do áp đặt luật, kiểm soát việc sử dụng và sử dụng mọi tài nguyên. Các tàu thuyền nước ngoài không có quyền đi lại tự do trong các vùng nội thủy.
Vùng lãnh hải: Vùng nằm ngoài đường cơ sở có chiều ngang 12 hải lý. Tại đây, quốc gia ven biển được quyền tự do đặt luật, kiểm soát việc sử dụng và sử dụng mọi tài nguyên. Các tàu thuyền nước ngoài được quyền "qua lại không gây hại" mà không cần xin phép nước chủ. Đánh cá, làm ô nhiễm, sử dụng vũ khí và do thám không được xếp vào dạng "không gây hại". Nước chủ quyền có thể tạm thời cấm việc "qua lại không gây hại" này tại một số vùng trong lãnh hải của mình khi cần bảo vệ an ninh.
Vùng nước quần đảo: Công ước đưa ra định nghĩa về các quốc gia quần đảo và vẽ đường cơ sở giữa các điểm ngoài cùng nhất của các đảo ở ngoài cùng nhất, bảo đảm các điểm này phải đủ gần nhau một cách thích đáng. Mọi vùng nước bên trong đường cơ sở này sẽ là vùng nước quần đảo và được coi như là một phần của lãnh hải quốc gia đó.
Vùng tiếp giáp lãnh hải: Bên ngoài giới hạn 12 hải lý của lãnh hải là một vành đai có bề rộng 12 hải lý, đó là vùng tiếp giáp lãnh hải. Tại đây, nước chủ có thể vẫn thực thi luật pháp của mình đối với các hoạt động như buôn lậu hoặc nhập cư bất hợp pháp.
Vùng đặc quyền kinh tế: Rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong vùng này, quốc gia ven biển được hưởng độc quyền trong việc khai thác đối với tất cả các tài nguyên thiên nhiên. Khái niệm vùng đặc quyền kinh tế được đưa ra để ngừng các cuộc xung đột về quyền đánh cá, tuy rằng khai thác dầu mỏ cũng đã trở nên một vấn đề quan trọng. Trong vùng đặc quyền kinh tế, nước ngoài có quyền tự do đi lại bằng đường thủy và đường không, tuân theo sự kiểm soát của quốc gia ven biển. Nước ngoài cũng có thể đặt các đường ống ngầm và cáp ngầm.
Thềm lục địa: Được định nghĩa là vành đai mở rộng của lãnh thổ đất cho tới mép lục địa, hoặc 200 hải lý tính từ đường cơ sở, chọn lấy giá trị lớn hơn. Thềm lục địa của một quốc gia có thể kéo ra ngoài 200 hải lý cho đến mép tự nhiên của lục địa, nhưng không được vượt quá 350 hải lý, không được vượt ra ngoài đường đẳng sâu 2.500m một khoảng cách quá 100 hải lý. Tại đây, nước chủ có độc quyền khai thác khoáng sản và các nguyên liệu không phải sinh vật sống.
Công ước UNCLOS 1982 còn thiết lập các nghĩa vụ tổng quát cho việc bảo vệ môi trường biển và bảo vệ quyền tự do nghiên cứu khoa học trên biển. Công ước cũng tạo ra một cơ chế pháp lý mới cho việc kiểm soát khai thác tài nguyên khoáng sản tại các lòng biển sâu nằm ngoài thẩm quyền quốc gia, được thực hiện qua Ủy ban đáy biển quốc tế. Các nước không có biển được quyền có đường ra biển mà không bị đánh thuế giao thông bởi các nước trên tuyến đường nối với biển đó.
5.Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020
Quan điểm của Đảng "Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020" nêu lên những định hướng chiến lược cần được tiếp tục quán triệt, nhận thức sâu sắc và vận dụng cụ thể phù hợp với tình mới bao gồm:
- Biển, đảo là bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo là nhiệm vụ trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, giữ vững độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, toàn vẹn vùng biển của Tổ quốc.
- Kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp ngoại giao, pháp lý, kinh tế, quốc phòng - an ninh để quản lý, bảo vệ vùng biển của Tổ quốc.
- Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh trên biển; tập trung xây dựng thế trận quốc phòng an ninh gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc trên biển; xây dựng lực lượng vũ trang, trước hết là lực lượng hải quân, cảnh sát biển, bộ đội biên phòng và dân quân, tự vệ biển, đủ sức làm nòng cốt trong nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền biển quốc gia.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp nguồn lực trong nước với nguồn lực từ bên ngoài, thông qua hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế; trong đó nguồn lực trong nước là nhân tố quyết định, thực hiện vừa hợp tác vừa đấu tranh, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên các vùng biển, đảo để phát triển kinh tế biển và bảo vệ an ninh, chủ quyền quốc gia trên biển.
- Đối với các tranh chấp trên Biển Đông, chủ trương nhất quán của Việt Nam là các bên tôn trọng nguyên trạng, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, giải quyết mâu thuẫn thông qua thương lượng hòa bình trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước UNCLOS 1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), nhằm tìm kiếm một giải pháp cơ bản, lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của các bên, tiến tới xây dựng Biển Đông thành vùng biển hòa bình, hợp tác và phát triển.
Triển khai thực hiện Nghị quyết của Đảng "Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020", Chính phủ đã ra Nghị quyết số 27/2007/NQ-CP, ngày 30-5-2007 và Chương trình hành động của Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 137/2007/QĐ-TTg, ngày 21-8-2007, phê duyệt Đề án tổ chức thông tin phục vụ công tác phòng, chống thiên tai trên biển; Quyết định số 1041/QĐ-TTg, ngày 22-7-2009, phê duyệt Đề án đảm bảo mạng lưới thông tin biển, đảo; Quyết định số 373/QĐ-TTG, ngày 23-3-2010, phê duyệt Đề án đẩy mạnh công tác tuyên truyền về quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển và hải đảo Việt Nam... Các cơ quan ở Trung ương và địa phương, cùng với các lực lượng vũ trang đã chủ động xây dựng kế hoạch, trực tiếp triển khai chương trình hành động của Chính phủ và đã đạt được những kết quả quan trọng.
6. Lực lượng vũ trang trong thực hiện quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước "Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020"
Để góp phần thực hiện tốt quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về chiến lược biển, trong tình hình mới, lực lượng vũ trang với nòng cốt là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cần thực hiện có hiệu quả một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, đẩy mạnh tuyên truyền "Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020" và tình hình bảo vệ chủ quyền biển, đảo nước ta hiện nay.
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là hai lực lượng nòng cốt trong công tác tuyên truyền về biển, đảo, góp phần thực hiện thắng lợi chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 mà Đảng, Nhà nước ta đã xác định. Yêu cầu đối với công tác tuyên truyền cần làm cho mỗi cán bộ, chiến sĩ và người dân nhận thức rõ tầm quan trọng của biển, đảo trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh của đất nước; trên cơ sở đó để mỗi người, mỗi tổ chức luôn nêu cao trách nhiệm, chủ động, tích cực tham gia phát triển kinh tế biển gắn với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong mọi tình huống.
Nội dung công tác tuyên truyền trước hết cần làm rõ những thuận lợi, khó khăn, thời cơ và thách thức đối với Việt Nam trong quá trình thực hiện chiến lược biển. Tuyên truyền, phổ biến những kiến thức pháp luật quốc tế và trong nước về biển, đảo; những cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với các đảo, quần đảo trên Biển Đông, đặc biệt hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong giải quyết tranh chấp trên biển thông qua thương lượng hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế và trong nước; đồng thời, nâng cao lòng yêu nước, tạo sự đồng thuận xã hội, kiên quyết đấu tranh bảo vệ, giữ gìn chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, củng cố tình hữu nghị, hợp tác và cùng phát triển giữa các quốc gia có chung Biển Đông.
Công tác tuyên truyền cần chú trọng giới thiệu những thành tựu phát triển kinh tế biển, đảo của từng ngành, địa phương và cả nước; vai trò của các thành phần kinh tế tham gia vào phát triển kinh tế biển, đảo. Tuyên truyền về công tác dự báo, phòng chống thiên tai; cứu hộ, cứu nạn trên biển; bảo vệ môi trường biển; đấu tranh chống các hiện tượng vi phạm pháp luật trên biển, đảo. Đặc biệt phải vạch rõ mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực bành trướng, thù địch xuyên tạc về chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Tăng cường tuyên truyền về cuộc sống lao động và sẵn sàng chiến đấu của nhân dân và lực lượng vũ trang ở vùng hải đảo; nâng cao tinh thần trách nhiệm, tình cảm của các tầng lớp nhân dân đối với lực lượng đang làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập quốc tế ở nước ta, công tác tuyên truyền về bảo vệ chủ quyền biển, đảo cần được mở rộng và đẩy mạnh cả ở phạm vi ngoài nước, nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước, các tổ chức quốc tế đối với Việt Nam về chủ quyền, quyền chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Kiên quyết đấu tranh không nhân nhượng trước những hành vi xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền đối với vùng biển, đảo Tổ quốc của các thế lực bành trướng nước ngoài. Cần phát huy hiệu quả các hình thức tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, mạng Internet, hội thảo, tọa đàm, sinh hoạt của các tổ chức, đoàn thể,... nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang và nhân dân về quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về biển, đảo và tình hình các thế lực bành trướng đang tìm cách độc chiếm Biển Đông hiện nay.
Hai là, tăng cường tiềm lực, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với tiềm lực, thế trận an ninh nhân dân trên vùng biển, đảo với lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân làm nòng cốt, được xây dựng theo hướng "cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại".
Quán triệt sâu sắc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế biển kết hợp với tăng cường quốc phòng - an ninh bảo vệ chủ quyền biển, đảo, vấn đề cấp thiết đặt ra cần xây dựng tiềm lực, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với tiềm lực, thế trận an ninh nhân dân trên biển, đảo một cách liên hoàn, vững chắc, bảo đảm phục vụ hiệu quả cho nhiệm vụ quản lý, bảo vệ vùng biển, đảo của Tổ quốc. Với tính chất đặc thù về địa hình, hệ thống đảo, quần đảo nước ta có lợi thế trong bố trí thế trận phòng thủ liên hoàn giữa biển với bờ, tạo cơ sở thuận lợi cho việc làm chủ vùng biển. Do vậy, lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cần có sự phối hợp chặt chẽ trong thực hiện các chương trình, dự án xây dựng tuyến đảo và khu vực ven biển với mục đích tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, bố trí lực lượng vừa làm nhiệm vụ bảo vệ, vừa kết hợp làm kinh tế, dịch vụ biển, dịch vụ hậu cần theo một cơ chế quản lý riêng. Để giữ vững chủ quyền biển, đảo, phải chú trọng xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân liên hoàn bờ - biển - đảo, đáp ứng yêu cầu quản lý và bảo vệ biển, đảo trong mọi tình huống, kể cả trong chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao trên biển.
Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân theo phương hướng "cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại" theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; trong tình hình mới cần tập trung đầu tư để đẩy nhanh hiện đại hóa đối với lực lượng Hải quân nhân dân, Cảnh sát biển, thông tin liên lạc, lực lượng cảnh sát cơ động, Kiểm ngư Việt Nam... phát triển nhanh về số lượng, chất lượng, chủng loại, có khả năng cơ động cao, phối hợp hiệp đồng với nhau chặt chẽ, đủ sức phát hiện, kiểm soát mọi hành động vi phạm trên các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng - an ninh, ngăn chặn các hành động cướp biển, xâm phạm lãnh hải, gây bạo loạn ảnh hưởng đến an ninh quốc gia; hướng dẫn, khắc phục hậu quả do biến đổi khí hậu, cứu hộ, cứu nạn...
Đẩy mạnh củng cố tổ chức, phát triển lực lượng dân quân, tự vệ và dân phòng ở vùng biển có số lượng hợp lý, có chất lượng cao, trước hết là chất lượng chính trị; tập trung nâng cao hiệu quả hoạt động và trình độ sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng đó; chú trọng nâng cao khả năng hiệp đồng, phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng trong thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trong từng khu vực phòng thủ địa phương, liên hoàn bờ - biển - đảo. Chuẩn bị tốt các phương án tác chiến cả về quân sự và an ninh để bảo vệ chủ quyền biển, đảo; tổ chức hiệp đồng chặt chẽ giữa các bộ, ban, ngành, địa phương với các lực lượng vũ trang trong luyện tập thành thạo các phương án tác chiến, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu nham hiểm và hành động xâm phạm trắng trợn chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, bảo vệ vững chắc lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc.
Ba là, đẩy mạnh phát triển kinh tế biển gắn với tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc.
Mục tiêu tổng quát của chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho đất nước ngày càng giàu mạnh. Mục tiêu cụ thể là xây dựng và phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học - công nghệ, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh; phấn đấu đến năm 2020, kinh tế trên biển và ven biển đóng góp khoảng 53-55% tổng GDP của cả nước. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống nhân dân vùng biển và ven biển phấn đấu có thu nhập bình quân đầu người cao gấp hai lần so với thu nhập bình quân chung của cả nước. Cùng với xây dựng một số thương cảng quốc tế có tầm cỡ khu vực, hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, sẽ xây dựng một số khu kinh tế mạnh ở ven biển; xây dựng cơ quan quản lý tổng hợp thống nhất về biển có hiệu lực, hiệu quả, mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực về biển.
Lợi ích quốc gia trên biển ngày càng có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nếu chúng ta không phát triển được kinh tế biển thì nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước xung quanh là rất hiện hữu; đồng thời cũng gặp nhiều khó khăn trong việc giữ vững chủ quyền và các quyền lợi quốc gia trên biển, đảo. Vì vậy, nhiệm vụ của quốc phòng - an ninh là phải giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải; phát huy sức mạnh tổng hợp trong quản lý bảo vệ vùng biển; phát triển kinh tế biển phải gắn liền với bảo vệ biển; kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp đấu tranh bảo vệ biển. Trách nhiệm của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân phải đặt trọng tâm xây dựng quốc phòng - an ninh trên biển, đảo ngày càng vững mạnh, có bước phát triển mới về tiềm lực và sức mạnh, nhất là lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân trên biển, đủ sức ngăn chặn và làm thất bại mọi mưu đồ, hành động xâm phạm vùng biển, đảo nước ta dưới mọi hình thức, mọi quy mô./.
7.Dân quân tự vệ phối hợp bảo vệ biên giới, biển, đảo
Số lần xem: 99 Ngày đăng: 30/12/2015
Chính phủ ban hành Nghị định quy định việc phối hợp của Dân quân tự vệ với các lực lượng trong hoạt động bảo vệ biên giới, biển, đảo; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở; bảo vệ và phòng, chống cháy rừng.
Cụ thể, trong bảo vệ biên giới đất liền, Nghị định quy định Dân quân tự vệ phối hợp với đơn vị Bộ đội Biên phòng và lực lượng liên quan bảo vệ đường biên giới quốc gia, đấu tranh ngăn chặn các hành vi xâm phạm lãnh thổ biên giới, vượt biên, nhập cư, cư trú trái phép, khai thác trái phép tài nguyên và những hành vi khác xâm phạm đến chủ quyền, lợi ích quốc gia; đấu tranh chống âm mưu và hành động của các thế lực thù địch, phản cách mạng, gián điệp, thổ phỉ, biệt kích, các tội phạm khác xâm phạm an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới trên đất liền; đấu tranh chống buôn lậu, vận chuyển trái phép vũ khí, chất cháy, chất nổ, chất độc hại, ma tuý, văn hoá phẩm độc hại, hàng hoá cấm xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới theo quy định của pháp luật, truy đuổi, bắt giữ người, phương tiện vi phạm pháp luật từ biên giới vào nội địa.
Trong hoạt động bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền trên các vùng biển Việt Nam, Dân quân tự vệ phối hợp với các đơn vị Hải quân, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Kiểm ngư và lực lượng liên quan đấu tranh bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền trên các vùng biển Việt Nam; nắm tình hình thời tiết, khí tượng, thủy văn, an ninh, trật tự, các hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền trên các vùng biển Việt Nam, báo cáo người chỉ huy trực tiếp và thông báo kịp thời cho đơn vị chủ trì; ngăn chặn, xua đuổi, bắt giữ người, phương tiện, tàu, thuyền vi phạm pháp luật Việt Nam, chủ quyền, quyền chủ quyền trên các vùng biển Việt Nam; bảo vệ ngư dân, ngư trường và tài nguyên biển; phối hợp huấn luyện, diễn tập, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn và thực hiện nhiệm vụ đột xuất được giao.
Khi xảy ra tình huống tranh chấp, khiếu kiện đông người, có hành vi vi phạm pháp luật, phá hoại tài sản của Nhà nước, tập thể và nhân dân ở cơ sở, biểu tình trái phép, Dân quân tự vệ phối hợp với Công an cấp xã và lực lượng liên quan tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về giải quyết, xử lý tranh chấp, khiếu kiện có hành vi vi phạm pháp luật; phá hoại tài sản của Nhà nước, tập thể và nhân dân; chủ trương, biện pháp của cấp uỷ, chính quyền cấp xã, cơ quan, tổ chức ở cơ sở trên địa bàn; phối hợp với Công an cấp xã và lực lượng liên quan nắm tình hình, báo cáo cấp ủy, chính quyền cấp xã, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, thông báo kịp thời với Công an có thẩm quyền.
Đồng thời, Dân quân tự vệ phối hợp với Công an cấp xã và lực lượng liên quan phát hiện, ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật, bắt giữ đối tượng chủ mưu, cầm đầu, kích động phá hoại tài sản, phạm pháp quả tang và phối hợp xử lý theo quy định của pháp luật./.
8.
Giải pháp
PV. Để hiện thực hoá các mục tiêu Chiến lược biển do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, theo TS trong ngắn hạn, cần tập trung đầu tư vào các ngành kinh tế biển nào có thể đạt được hiệu quả?
TS Phùng Minh Lai: Đây là một Chiến lược vô cùng quan trọng, có tác động đến quá trình phát triển của nước ta trong vòng 15 năm tới hoặc xa hơn trên nhiều phương diện như kinh tế, xã hội, ngoại giao, an ninh quốc phòng... Nghĩa là tầm nhìn Chiến lược rất xa và rất rộng lớn, nhưng đòi hỏi trong một thời gian ngắn (khoảng 5 năm) có thể đạt được hiệu quả. Đó là bài toán khó nhưng không thể không giải quyết được, trước hết, đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn các giải pháp, bước đi hợp lý và khả thi. ưu tiên tập trung đầu tư nguồn lực vào một số ngành kinh tế biển trọng điểm có lựa chọn với sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng và Nhà nước để tạo ra các sản phẩm chủ lực hướng về xuất khẩu, từ đó tạo động lực cho các ngành kinh tế khác cùng phát triển. Một số ngành kinh tế biển trọng điểm có thể lựa chọn sau đây:
- Ngành dầu khí, cần đẩy mạnh thăm dò, đánh giá trữ lượng dầu khí ở biển để gia tăng sản lượng khai thác trong giai đoạn tới. Nghiên cứu xây dựng đồng bộ hệ thống dịch vụ dầu khí trên bờ, trên đảo để chuẩn bị cho việc mở rộng hoạt động thăm dò, khai thác. Phải tính đến ưu tiên phát triển ngành chế biến khí bằng công nghệ cao để tiến đến xuất khẩu khí thiên nhiên và khí hoá lỏng.
- Ngành thuỷ sản, ưu tiên phát triển khai thác xa bờ, phát triển các đội tầu lớn, kết hợp xây dựng các khu hậu cần nghề cá ven biển và trên đảo. Sắp xếp, quản lý các nghề cá ven bờ có tổ chức để bảo vệ và phát triển các nguồn lợi thuỷ sản. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới để nâng cao hiệu quả nuôi trồng thuỷ sản ven biển kết hợp canh tác nông nghiệp, kỹ thuật nuôi thuỷ sản quy mô tập trung, phát triển nuôi cá theo hướng công nghiệp, chú trọng công nghiệp chế biến thuỷ sản hiện đại để gia tăng kim ngạch xuất khẩu.
- Du lịch biển cần, xây dựng các tuyến du lịch biển tổng hợp: biển - ven biển - đảo, xây dựng một số khu du lịch biển tầm cỡ quốc tế, khu vực có điều kiện thuận lợi như: Hạ Long - Cát Bà, Huế - Đà Nẵng, Văn Phong - Nha Trang, Vũng Tàu - Côn Đảo, Hà Tiên - Phú Quốc... Phát triển đồng bộ hiện đại các khu du lịch với việc đào tạo đội ngũ cán bộ du lịch ven biển ngày càng chuyên nghiệp hơn.
- Cảng biển và hàng hải, cần tập trung xây dựng mới hoặc nâng cấp một số cảng biển ba miền Bắc - Trung - Nam đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế hướng ngoại. Chú trọng phát triển dịch vụ cảng biển và không gian biển. Xây dựng một số cảng biển địa phương trên cơ sở cân nhắc hiệu quả đầu tư, nhu cầu vận tải và mức độ phát triển kinh tế địa phương. Chú trọng phát triển đồng bộ hệ thống cảng biển, đội tầu, công nghiệp đóng mới, sửa chữa và dịch vụ hàng hải. Từng bước hiện đại hoá đội tầu quốc gia để đến năm 2010 sẽ có đủ năng lực vận chuyển 100% nhu cầu vận tải hàng nội địa và khoảng 40% hàng xuất nhập khẩu, đồng thời tích cực tham gia vào thị trường thuê tầu quốc tế. Tạo bước phát triển mạnh trong ngành đóng tầu biển, chú trọng lựa chọn mô hình đóng tầu phù hợp để có thể cạnh tranh với khu vực. Hình thành các cụm cơ khí tầu biển đủ mạnh ở ba miền Bắc - Trung - Nam để đáp ứng nhu cầu đóng mới, sửa chữa tầu biển các loại nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và an ninh quốc phòng.
9.
Những nhiệm vụ và giải pháp mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đã xác định nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế biển?
Số lần xem: 84 Ngày đăng: 22/09/2015
Xuất phát từ việc phân tích tiềm năng, lợi thế, các bài học thành công và những thách thức đối với phát triển kinh tế biển trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và trong bối cảnh tranh chấp phức tạp trên Biển Đông, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra các quan điểm cơ bản để thúc đẩy phát triển kinh tế biển nhằm phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển.
Đó là: (1) Phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn; (2) Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; (3) Thu hút mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường biển trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa; phát huy nội lực, thu hút mạnh ngoại lực theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Để đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, Đảng và Nhà nước ta đã định hướng triển khai các nhiệm vụ cơ bản, lâu dài và xuyên suốt là hình thành một số lĩnh vực kinh tế mạnh gắn với xây dựng các trung tâm kinh tế hướng biển, làm động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, từng bước nâng cao đời sống dân cư vùng ven biển, trên các đảo và những người hoạt động trên biển; phát triển kinh tế biển gắn với quản lý và bảo vệ biển, đảo. Nhiệm vụ trước mắt đến năm 2020, tiếp tục phát triển thành công, có bước đột phá đối với các ngành kinh tế biển ven biển, như: Khai thác và chế biến dầu khí, kinh tế hàng hải, khai thác và chế biến hải sản, du lịch biển và kinh tế hải đảo, xây dựng các khu kinh tế, các khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất ven biển gắn với phát triển các khu đô thị ven biển; tạo các điều kiện cần thiết bảo đảm an ninh an toàn cho những người dân sinh sống ở những vùng thường bị thiên tai; xây dựng các cơ sở bảo vệ môi trường biển.
Các giải pháp chung cần phải thực hiện, trước tiên là đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng, thường xuyên và có hệ thống trong nhân dân nhằm nâng cao và tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của biển đối với sự nghiệp phát triển kinh tế và bảo vệ Tổ quốc. Ý thức và nhận thức về biển phải được thế hiện rõ và đầy đủ trong chính sách phát triển của các ngành có liên quan và các địa phương có biển.
Cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực kinh tế biển hợp lý gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Tăng cường hiện diện dân sự trên các vùng biển, đảo của tổ quốc gắn với tổ chức dân cư, tổ chức sản xuất và khai thác biển cùng với ban hành các chính sách đặc biệt để khuyến khích nhân dân định cư ổn định trên đảo và làm ăn dài ngày trên biển.
Đẩy mạnh điều tra cơ bản và phát triển khoa học - công nghệ biển mạnh và hiện đại gắn với việc xây dựng và quản lý tốt cơ sở dữ liệu biển quốc gia phục vụ việc hoạch định chính sách, quy hoạch khai thác, sử dụng biển, đảo; tăng cường năng lực giám sát, quan trắc giảm thiểu và xử lý các thảm họa thiên tai, sự cố môi trường biển, ven biển và hải đảo.
Triển khai quy hoạch khai thác, sử dụng biển và hài đảo ở các cấp độ khác nhau đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Trên cơ sở đó phân bổ nguồn lực và điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các ngành, địa phương nhằm tiến tới chấm dứt việc khai thác biển, đảo và vùng ven biển một cách tự phát, thiếu quy hoạch, góp phần giảm thiểu mâu thuẫn lợi ích trong sử dụng.
Quản lý nhà nước có hiệu lực và hiệu quả về biển và hải đảo. Trước hết cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về biển một cách đầy đủ, làm cơ sở cho việc xác lập chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia, quản lý khai thác sử dụng các vùng biển, ven biển và hải đảo. Ban hành cơ chế, chính sách đảm bảo cho phát triển kinh tế biển nhanh, hiệu quả và bền vững. Đặc biệt, sớm thể chế hóa phương thức quản lý nhà nước tổng hợp về biển và hải đảo, làm cơ sở cho việc thống nhất quản lý nhà nước đối với biển và hải đảo, gắn với tăng cường năng lực cho hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về biển và hải đảo từ Trung ương xuống địa phương cả về số lượng và chất lượng.
Tăng cường hội nhập và hợp tác quốc tế về biển để tranh thủ công nghệ tiên tiến, thu hút thêm nguồn lực cho phát triển kinh tế, khoa học -công nghệ biển, cho khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên biển, quản lý và bảo vệ môi trường biển. Nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của các ngành kinh tế biển và sản phẩm biển của Việt Nam trên trường quốc tế.
Bảo đảm chất lượng môi trường biển cho phát triển bền vững kinh tế - xã hội biển thông qua tăng cường kiểm soát môi trường biển; quản lý và xử lý hiệu quả các chất thải, chất gây ô nhiễm trước khi đổ ra biển từ các lưu vực sông ven biển và từ các hoạt động kinh tế biển. Phòng ngừa và sẵn sàng ứng cứu các sự cố môi trường biển, các vụ tràn dầu không rõ nguồn gốc; ngăn ngừa suy thoái và phục hồi các Hệ sinh thái đã bị mất, đã bị suy thoái; triển khai Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển đến năm 2020 được Thủ tướng phê duyệt năm 2010.
Chủ động phòng ngừa và thực thi các biện pháp thích ứng, giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đến vùng ven biển, biển và hải đảo. Khuyến khích sự chủ động tham gia của cộng đồng địa phương vào tiến trình nói trên và cải thiện sức chống chịu của vùng ven biển, hải đảo trước các tác động của biến đổi khí hậu.
10. Giải pháp triển khai thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020
Nghị quyết 09-NQ/TW đã xác định 9 nhóm nhiệm vụ và giải pháp trong thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020:
- Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Xây dựng lực lượng mạnh để bảo vệ vững chắc chủ quyền và an ninh trên biển.
- Đẩy mạnh điều tra cơ bản và phát triển khoa học - công nghệ biển.
- Triển khai mạnh mẽ và có hiệu quả công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh.
- Quản lý nhà nước có hiệu lực và hiệu quả đối với các vấn đề liên quan đến biển.
- Xây dựng đầy đủ đồng bộ hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư phát triển.
- Phát triển nguồn nhân lực biển đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội vùng biển và ven biển.
- Tăng cường công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế về biển.
- Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh làm nòng cốt trong phát triển kinh tế biển với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế.
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 27/2007/NQ-CP ngày 30/5/2007 về Chương trình hành động của Chính phủ; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 137/2007/QĐ-TTg ngày 21/8/2007 phê duyệt đề án tổ chức thông tin phục vụ công tác phòng, chống thiên tai trên biển; Quyết định số 1041/QĐ/TTg ngày 22/7/2009 phê duyệt đề án bảo đảm mạng lưới thông tin biển, đảo; Quyết định số 373/QĐ-TTg ngày 23/3/2010 phê duyệt đề án đẩy mạnh công tác tuyên truyền về quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển, đảo Việt Nam...
Từ khi ban hành đến nay, Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã có những đóng góp tích cực vào việc định hướng bảo vệ và phát triển sự nghiệp biển Việt Nam. Tuy nhiên, Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 vẫn còn một số hạn chế, như: một số giải pháp chưa cụ thể, chưa có lộ trình cụ thể, việc triển khai thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 chưa đạt hiệu quả cao; việc tuyên truyền giáo dục về biển, đảo chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế cuộc sống; bộ máy quản lý và thực thi chính sách, pháp luật biển chưa đủ mạnh, thiếu sự phối hợp nhịp nhàng, còn phân tán...
Là một quốc gia ven biển, Việt Nam có các vừng biển và thềm lục địa rộng lớn, chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng. Ở giữa biển Đông, còn có 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam hiện đang là tiêu điểm của những tranh chấp chủ quyền lãnh thổ hết sức phức tạp và nhạy cảm... Việt Nam không thể không có một Chiến lược Biển xứng tầm, được nghiên cứu, xây dựng dựa trên các căn cứ khoa học, hiện đại, các cơ sở dữ liệu, được đánh giá một cách toàn diện về thực trạng phát triển biển, những thuận lợi, thế mạnh và cả những khó khăn, thách thức mà Việt Nam phải đối mặt...
Có được một Chiến lược Biển tổng thể, xứng tầm, đúng đắn và phù hợp, cùng với quyết tâm cao của các cấp lãnh đạo, quản lý, của các ngành và toàn dân, Việt Nam sẽ khai thác hợp lý, hiệu quả tiềm năng, lợi thế của các vùng biển giàu đẹp của đất nước; khắc phục và vượt qua được những khó khăn, thách thức hiện hữu để vươn lên trở thành quốc gia mạnh về biền, thực hiện được mục tiêu chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới.
11.
PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM
MỤC LỤC
A. TẦM QUAN TRỌNG CỦA KINH TẾ BIỂN ĐỐI VỚI NƯỚC TA
1. Tiềm năng phát triển kinh tế biển Việt Nam
2. Chủ trương phát triển kinh tế biển Việt Nam
B. PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN: CHỦ TRƯƠNG VÀ BIỆN PHÁP
1. Kinh tế hàng hải
2. Đánh bắt, nuôi trồng và chế biến hải sản
3. Khai thác và chế biến dầu khí
4. Du lịch biển
5. Nghề làm muối
6. Kinh tế đảo
7. Các lĩnh vực kinh tế biển khác
C. CHỦ TRƯƠNG, BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÙNG VEN BIỂN VÀ QUẢN LÝ, KHAI THÁC VÙNG BIỂN QUỐC GIA
1. Phát triển kinh tế vùng ven biển
2. Quản lý và khai thác vùng biển quốc gia
D. KẾT LUẬN
A. TẦM QUAN TRỌNG CỦA KINH TẾ BIỂN ĐỐI VỚI NƯỚC TA
Bước sang thế kỷ 21,"Thế kỷ của biển và đại dương", khai thác biển đã trở thành vấn đề quan trọng mang tính chiến lược của hầu hết các quốc gia trên thế giới, kể cả các quốc gia có biển và các quốc gia không có biển. Trong điều kiện các nguồn tài nguyên trên đất liền đang ngày càng cạn kiệt, các nước ngày càng quan tâm tới biển. Mặt khác, sự bùng nổ dân số ngày càng gia tăng, theo thống kê đầu năm 2006 toàn thế giới có 6,5 tỷ người, dự báo đến 2015 dân số thế giới khoảng 7,5 tỷ người. Sự phát triển của dân số thế giới làm cho không gian kinh tế truyền thống đã trở nên chật chội, nhiều nước bắt đầu quay mặt ra biển và nghĩ đến các phương án biến biển và hải đảo thành lãnh địa, thành không gian kinh tế mới. Một xu hướng mới nữa là hiện nay, trong điều kiện phát triển khoa học công nghệ nhanh chóng, việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ về biển đang là một xu thế tất yếu của các quốc gia có biển để tìm kiếm và bảo đảm các nhu cầu về nguyên, nhiên liệu, năng lượng, thực phẩm và không gian sinh tồn trong tương lai.
Nước Việt Nam ta nằm bên bờ Tây của Biển Đông, một biển lớn, quan trọng của khu vực và thế giới. Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 thì nước ta ngày nay không chỉ có phần lục địa tương đối nhỏ hẹp "hình chữ S" mà còn có cả vùng biển rộng lớn hơn 1 triệu km2, gấp hơn ba lần diện tích đất liền. Dọc bờ biển có hơn 100 cảng biển, 48 vụng, vịnh và trên 112 cửa sông, cửa lạch đổ ra biển. Vùng biển Việt Nam có hơn 3.000 đảo lớn, nhỏ với diện tích phần đất nổi khoảng 1.636 km2, được phân bố chủ yếu ở vùng biển Đông Bắc và Tây Nam với những đảo nổi tiếng giàu, đẹp và vị trí chiến lược như Bạch Long Vĩ, Phú quốc, Thổ Chu, Côn Sơn, Cồn Cỏ, Phú Quý, Cát Bà, Hoàng Sa, Trường Sa... Tuyến biển có 29 tỉnh, thành phố gồm: 124 huyện, thị xã với 612 xã, phường (trong đó có 12 huyện đảo, 53 xã đảo) với khoảng 20 triệu người sống ở ven bờ và 17 vạn người sống ở các đảo. Khai thác biển cho phát triển kinh tế là một cách làm đầy hứa hẹn, mang tính chiến lược và được đánh giá là đóng vai trò ngày càng quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của nước ta.
1. Tiềm năng phát triển kinh tế biển Việt Nam
Từ bao đời nay, biển luôn gắn bó chặt chẽ với mọi hoạt động sản xuất, đời sống của dân tộc Việt Nam. Bước vào thế kỷ 21, giống như nhiều quốc gia khác, Việt Nam đang hướng mạnh về biển để tăng cường tiềm lực kinh tế của mình. Đây là hướng đi đúng đắn, bởi lẽ biển Việt Nam chứa đựng nhiều tiềm năng phát triển kinh tế to lớn, trong đó nổi bật lên các lợi thế là:
1.1. Vị trí chiến lược của biển - nhân tố địa lợi đặc biệt của sự phát triển
Việt Nam nằm ở rìa Biển Đông, vùng biển có vị trí địa kinh tế, chính trị đặc biệt quan trọng và từ lâu đã là nhân tố không thể thiếu trong Chiến lược phát triển không chỉ của các nước xung quanh Biển Đông mà còn của một số cường quốc hàng hải khác trên thế giới.
Hiện nay, nhiều nước và vùng lãnh thổ trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Singapore... có nền kinh tế hầu như phụ thuộc sống còn vào con đường Biển Đông. Hàng năm, có khoảng 70% khối lượng dầu mỏ nhập khẩu và 45% hàng hóa xuất khẩu của Nhật Bản, khoảng 60% khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của Trung Quốc... được vận chuyển bằng con đường này. Đặc biệt, nền kinh tế Singapore hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào Biển Đông.
Việt Nam có lợi thế là vùng biển nằm ngay trên một số tuyến hàng hải chính của quốc tế qua Biển Đông, trong đó có tuyến đi qua eo biển Malacca, là một trong những tuyến có lượng tàu bè qua lại nhiều nhất thế giới. Bờ biển Việt Nam lại rất gần các tuyến hàng hải đó nên rất thuận lợi trong việc phát triển giao thương quốc tế. Hiện nay, hầu hết khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu và một phần giao lưu nội địa của nước ta được vận chuyển bằng đường biển trên Biển Đông. Trong một vài thập kỷ tới, với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của các nước trong khu vực, khối lượng hàng hóa vận chuyển qua Biển Đông sẽ tăng gấp hai, ba lần hiện nay, khi đó Biển Đông nói chung và vùng biển Việt Nam nói riêng càng có vai trò to lớn trong thương mại thế giới; vùng biển Việt Nam sẽ trở thành chiếc cầu nối quan trọng để phát triển thương mại quốc tế và mở rộng giao lưu với các nước trong khu vực và trên thế giới.
1.2. Các nguồn tài nguyên biển có khả năng khai thác lớn, đóng góp quan trọng cho tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong số các nguồn tài nguyên biển, trước tiên phải kể đến dầu khí, một nguồn tài nguyên mũi nhọn, có ưu thế nổi trội của vùng biển Việt Nam. Trên vùng biển rộng hơn l triệu km2 của Việt Nam, có tới 500.000 km2 nằm trong vùng triển vọng có dầu khí. Trữ lượng dầu khí ngoài khơi miền Nam Việt Nam có thể chiếm 25% trữ lượng dầu dưới đáy Biển Đông. Có thể khai thác từ 30-40 nghìn thùng/ngày (mỗi thùng 159 lít), khoảng 20 triệu tấn/năm. Trữ lượng dầu khí dự báo của toàn thềm lục địa Việt Nam khoảng 10 tỷ tấn quy dầu. Mặc dù so với nhiều nước, nguồn tài nguyên dầu khí chưa phải là thật lớn, song đối với nước ta nó có vị trí rất quan trọng, đặc biệt là trong giai đoạn nền kinh tế đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh dầu, Việt Nam còn có khí đốt với trữ lượng khoảng 3 nghìn tỷ m3/năm. Ngoài dầu và khí, dưới đáy biển nước ta còn có nhiều khoáng sản quý như: thiếc, ti-tan, đi-ri-con, thạch anh, nhôm, sắt, măng-gan, đồng, kền và các loại đất hiếm. Muối ăn chứa trong nước biển bình quân 3.500gr/m2. Vùng ven biển nước ta cũng có nhiều loại khoáng sản có giá trị và tiềm năng phát triển kinh tế như: than, sắt, ti-tan, cát thuỷ tinh và các loại vật liệu xây dựng khác.
Nguồn lợi hải sản nước ta được đánh giá vào loại phong phú trong khu vực. Ngoài cá biển là nguồn lợi chính còn nhiều loại đặc sản khác có giá trị kinh tế cao như tôm, cua, mực, hải sâm, rong biển... Riêng cá biển đã phát hiện hơn 2.000 loài khác nhau, trong đó trên 100 loài có giá trị kinh tế cao với tổng trữ lượng hải sản khoảng 3- 4 triệu tấn, khả năng cho phép khai thác 1,5- 1,8 triệu tấn/năm. Đến nay đã xác định 15 bãi cá lớn quan trọng, trong đó 12 bãi cá phân bố ở vùng ven bờ và 3 bãi cá ở các gò nổi ngoài khơi. Dọc ven biển có trên 37 vạn héc ta mặt nước các loại có khả năng nuôi trồng thuỷ sản nước mặn - lợ, nhất là nuôi các loại đặc sản xuất khẩu như tôm, cua, rong câu... Riêng diện tích nuôi tôm nước lợ có tới 30 vạn ha. Ngoài ra còn hơn 50 vạn ha các eo vịnh nông và đầm phá ven bờ như Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, Phá Tam Giang, Vịnh Văn Phong... là môi trường rất thuận lợi để phát triển nuôi cá và đặc sản biển. Với tiềm năng trên, trong tương lai có thể phát triển mạnh ngành nuôi, trồng hải sản ở biển và ven biển một cách toàn diện và hiện đại với sản lượng hàng chục vạn tấn/ năm.
Việt Nam với bờ biển dài hơn 3.260 km, nằm trong số 10 nước trên thế giới có chỉ số cao nhất về chiều dài bờ biển so với diện tích lãnh thổ (không kể một số đảo). Tính bình quân cứ 100 km2 đất liền nước ta có 1 km bờ biển, cao gấp sáu lần chỉ số trung bình của thế giới, đồng thời bờ biển lại mở ra cả ba hướng đông, nam và tây nam, rất thuận lợi cho việc đi ra mọi nẻo đường đại dương. Dọc theo bờ biển nước ta có hơn 100 địa điểm có thể xây dựng hải cảng, trong đó một số nơi có thể xây dựng cảng nước sâu, quy mô tương đối lớn (kể cả cảng trung chuyển quốc tế) như: Cái Lân và một số điểm ở khu vực Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, Nghi Sơn, Hòn La - Vũng Áng, Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quất, Văn Phong, Cam Ranh, Vũng Tàu, Thị Vải... Riêng khu vực từ Vũng Tàu đến Hà Tiên do biển nông, nhiều sình lầy nên ít có khả năng xây dựng cảng biển lớn, nhưng vẫn có thể xây dựng cảng quy mô vừa ở Hòn Chông, Phú Quốc hoặc cảng sông Cần Thơ. Khả năng phát triển cảng và vận tải biển là yếu tố trội cơ bản, là nguồn lực rất quan trọng để phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tài nguyên du lịch biển cũng là một ưu thế đặc biệt, mở ra triển vọng khai thác tổng hợp để phát triển mạnh. Dọc bờ biển Việt Nam có hàng trăm bãi tắm, trong đó có những bãi tắm có chiều dài lên đến 15- 18km và nhiều bãi tắm có chiều dài 1-2km đủ điều kiện thuận lợi khai thác phát triển du lịch biển. Các bãi biển của nước ta phân bố trải đều từ Bắc vào Nam. Từ Móng Cái đến Hà Tiên có hàng loạt các bãi tắm đẹp như Trà Cổ, Sầm Sơn, Cửa Lò, Cửa Tùng, Lăng Cô, Mỹ Khê, Đại Lãnh, Nha Trang, Ninh Chữ, Mũi Né, Vũng Tàu, Hà Tiên... Một số địa danh du lịch biển của Việt Nam đã được biết đến trên phạm vi toàn cầu như Vịnh Hạ Long- hai lần được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới, đang nằm trong danh sách đề cử kỳ quan thiên nhiên của thế giới, Vịnh Nha Trang được coi là một trong những vịnh đẹp nhất hành tinh, bãi biển Đà Nẵng được tạp chí Forbes bầu chọn là một trong 6 bãi tắm quyến rũ nhất hành tinh. Tiềm năng du lịch biển của nước ta không thua kém bất kỳ một quốc gia nào trong khu vực.
Chúng ta không chỉ có bờ biển dài mà còn có hệ thống đảo và quần đảo phong phú, trải dài từ vùng biển Quảng Ninh đến Kiên Giang. Theo thống kê, ven bờ nước ta có 2.773 đảo lớn, nhỏ các loại với tổng diện tích vào khoảng 1.700 km2. Trong đó có 24 đảo có diện tích tương đối lớn (trên 10 km2), 82 đảo có diện tích lớn hơn 1 km2 và khoảng 1.400 đảo chưa có tên. Đặc biệt có ba đảo có diện tích trên 100 km2 là Phú Quốc, Cái Bầu và Cát Bà. Bên cạnh đó, các tỉnh ven biển nước ta còn có nhiều thế mạnh khác trong đất liền như các di tích, danh lam thắng cảnh, các làng nghề truyền thống, các lễ hội. Hiện nay Việt Nam có đến 6/7 di sản thiên nhiên, văn hóa thế giới được UNESCO công nhận đều nằm ở các tỉnh ven biển (Quảng Ninh, Quảng Nam, Thừa Thiên Huế, Quảng Bình) nên sẽ là điều kiện thuận lợi để du lịch biển phát triển mạnh hơn. Hệ thống cảng biển của nước ta hiện nay đủ tiêu chuẩn để đón các tàu khách quốc tế cỡ lớn.
Sự kết hợp hài hoà giữa cảnh quan tự nhiên với cảnh quan văn hoá - xã hội của biển, vùng ven biển và các hải đảo cùng với điều kiện thuận lợi về vị trí, địa hình của vùng ven biển đã tạo cho du lịch biển có lợi thế phát triển hơn hẳn so với nhiều loại hình du lịch khác trên đất liền.
1.3. Nguồn nhân lực dồi dào ven biển là một nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định kết quả khai thác tiềm năng nguồn lợi biển
Với số dân hơn 20 triệu người đang sinh sống, các vùng ven biển và đảo của Việt Nam đang có lực lượng lao động khoảng 12,8 triệu người, chiếm 35,47% lao động cả nước. Đây là nguồn nhân lực quan trọng đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2. Chủ trương phát triển kinh tế biển Việt Nam
Kinh tế biển hiểu theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển và các hoạt động kinh tế diễn ra trên đất liền nhưng trực tiếp liên quan đến khai thác biển. Cụ thể là:
- Các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển, chủ yếu bao gồm: (1) Kinh tế hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển); (2) Hải sản (đánh bắt và nuôi trồng hải sản); (3) Khai thác dầu khí ngoài khơi; (4) Du lịch biển; (5) Làm muối; (6) Dịch vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; và (7) Kinh tế đảo.
- Các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển, tuy không phải diễn ra trên biển nhưng những hoạt động kinh tế này là nhờ vào yếu tố biển hoặc trực tiếp phục vụ các hoạt động kinh tế biển ở dải đất liền ven biển, bao gồm: (1) Đóng và sửa chữa tàu biển (hoạt động này cũng được xếp chung vào lĩnh vực kinh tế hàng hải); (2) Công nghiệp chế biến dầu, khí; (3) Công nghiệp chế biến thuỷ, hải sản; (4) Cung cấp dịch vụ biển; (5) Thông tin liên lạc biển; (6) Nghiên cứu khoa học - công nghệ biển; (7) Đào tạo nhân lực phục vụ phát triển kinh tế biển; và (8) Điều tra cơ bản về tài nguyên - môi trường biển.
Với cơ cấu ngành, nghề đa dạng, trong đó có nhiều ngành, nghề then chốt như khai thác dầu khí, hải sản, hàng hải, kinh tế biến đóng vai trò đặc biệt quan trọng đóng góp cho tăng trưởng và phát triển kinh tế của nước ta. Trong mấy thập kỷ gần đây, Ðảng và Nhà nước ta đã đề ra những chủ trương, chính sách, biện pháp quan trọng nhằm quản lý, bảo vệ, khai thác biển. Có ý nghĩa quan trọng đối với các hoạt động kinh tế biển phải kể đến Nghị quyết 03-NQ/TW ngày 6/5/1993 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt, trong đó khẳng định rằng, phải đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia. Song song với nhiệm vụ đó là bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái biển, phấn đấu trở thành một nước mạnh về biển vào năm 2020. Sau Nghị quyết này, Thủ tướng Chính phủ đã có các chỉ thị triển khai thực hiện như Chỉ thị 399 ngày 5/8/1993 về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt và Chỉ thị 171/TTg năm 1995 triển khai Nghị quyết 03-NQ/TW.
Ngày 22/9/1997, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa ra một số quan điểm trong phát triển kinh tế biển. Đó là: "Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá kinh tế biển hướng mạnh vào xuất khẩu, dựa trên những tiến bộ khoa học, công nghệ làm động lực; vừa thúc đẩy nghiên cứu, quản lý, khai thác tiềm năng biển có hiệu quả, vừa tái tạo tài nguyên biển, bảo vệ môi trường, đào tạo nhân lực". Quan điểm này được cụ thể hoá bằng các giải pháp: "Đầu tư thích đáng cho khoa học- công nghệ; tăng cường năng lực điều tra khảo sát, nghiên cứu khí tượng- thuỷ văn và môi trường, thực trạng tài nguyên và dự báo xu thế biến động trong những thập kỷ tới. Từ nay đến năm 2000 cần tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm thăm dò dầu khí, khoáng sản biển, nguồn lợi hải sản và năng lượng biển, nghiên cứu và bảo vệ môi trường biển, tiếp tục hiện đại hoá khí tượng- thuỷ văn". Thi hành Chỉ thị này, một loạt kế hoạch về phát triển kinh tế biển đã được thông qua như: Chiến lược phát triển thuỷ sản 2010; Chiến lược phát triển du lịch 2010; Chiến lược phát triển giao thông vận tải 2010...
Bước sang thế kỷ 21, Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) khẳng định mục tiêu: "Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển và hải đảo, phát huy thế mạnh đặc thù của hơn 1 triệu km2 thềm lục địa. Tăng cường điều tra cơ bản làm cơ sở cho các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế biển. Đẩy mạnh công tác nuôi trồng, khai thác, chế biến hải sản; thăm dò, khai thác và chế biến dầu khí; phát triển đóng tàu thuyền và vận tải biển; mở mang du lịch; bảo vệ môi trường; tiến mạnh ra biển và làm chủ vùng biển. Phát triển tổng hợp kinh tế biển và ven biển, khai thác lợi thế của các khu vực cửa biển, hải cảng để tạo thành vùng phát triển cao, thúc đẩy các vùng khác. Xây dựng căn cứ hậu cần ở một số đảo để tiến ra biển khơi. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh trên biển". Những nội dung nêu trên tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng lần thứ X (2006).
Từ những quan điểm, biện pháp nêu trên, cùng với việc tiếp tục nhấn mạnh chủ trương lớn xây dựng Việt Nam trở thành một nước mạnh về biển, phát triển kinh tế- xã hội vùng biển, hải đảo, ven biển phải gắn kết với yêu cầu bảo vệ đất nước, có thể thấy rõ hơn chủ trương rất quan trọng là: cần đặt kinh tế biển trong tổng thể kinh tế cả nước, trong quan hệ tương tác với các vùng và trong xu thế hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới.
Việc thực hiện những chủ trương, chính sách nêu trên đã đạt được một số thành tựu quan trọng. Ðến nay, kinh tế biển và vùng ven biển đóng góp gần 50% GDP của cả nước (trong đó riêng kinh tế trên biển chiếm hơn 20% GDP), với quy mô tăng khá nhanh, cơ cấu ngành nghề chuyển dịch theo hướng phục vụ xuất khẩu đem về một lượng ngoại tệ lớn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hình thành một số trung tâm phát triển để hướng ra biển... Tuy nhiên, xét cả về mặt chủ quan và khách quan, thực tế hiện nay cho thấy trong việc khai thác lợi thế từ biển còn không ít hạn chế, khó khăn và yếu kém. Quy mô kinh tế biển và vùng ven biển nước ta vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, giá trị tổng sản phẩm hằng năm còn nhỏ bé, chỉ bằng 1/20 của Trung Quốc, 1/94 của Nhật Bản, 1/7 của Hàn Quốc và 1/260 kinh tế biển của thế giới. Những năm qua, do chưa có chiến lược tổng thể, cho nên các ngành, các địa phương thiếu căn cứ để quy hoạch. Tính đồng bộ của các chủ trương, chính sách ở tầm vĩ mô, nhận thức về vai trò, vị trí của biển, sự quan tâm phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển của một số cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, các ngành, cả Trung ương và địa phương còn nhiều hạn chế. Cho đến trước kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XII, cũng chưa có cơ quan chuyên trách giúp Chính phủ quản lý, điều hành chung, dẫn đến những hoạt động đầu tư manh mún, chưa đồng bộ, hiệu quả thấp, kinh tế biển phát triển chậm, thiếu bền vững và cơ cấu chưa hợp lý.
Thực tế trên đặt ra yêu cầu cấp bách là Đảng và Nhà nước ta cần nâng các quan điểm chỉ đạo nêu trên lên tầm của một văn bản chiến lược. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa X đã thông qua Nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 (Nghị quyết 09-NQ/TW ngày 9/2/2007), nhằm đáp ứng yêu cầu nêu trên. Quan điểm chỉ đạo được nêu trong phần định hướng Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 là "nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn". Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế biển đóng góp khoảng 53 – 55% GDP, 55 – 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống của nhân dân vùng biển và ven biển. Để đạt được mục tiêu tổng quát nêu trên, cần thực hiện tốt các nhiệm vụ chiến lược quan trọng. Trong đó, nhiệm vụ chiến lược kinh tế "làm giàu từ biển" được chỉ đạo bởi quan điểm: kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng - an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cho một quãng thời gian gần 3 kế hoạch 5 năm (2007-2020), không gian kinh tế biển được mở rộng và nhất thể hóa trên phạm vi vùng biển, ven biển và hải đảo gắn kết chặt chẽ với các vùng quy hoạch lâu nay trong đất liền. Sự phát triển các ngành kinh tế biển được gắn kết hữu cơ với nhau trên cơ sở phát huy cao nhất lợi thế của mỗi ngành.
Có thể nói rằng, Nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã kế thừa những quan điểm về phát triển kinh tế biển và các lĩnh vực khác liên quan đến biển đã ban hành trước đó, nhưng phải khẳng định rằng, đây là Nghị quyết của Trung ương toàn diện đầu tiên về biển, mở ra một chương mới trong tư duy về biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 21. Trong Chiến lược biển, phần về chiến lược phát triển kinh tế biển là một trong những nội dung chủ yếu nhất.
B. PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN: CHỦ TRƯƠNG VÀ BIỆN PHÁP
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) về Chiến lược biển là bước tiến lớn, đặc sắc về lĩnh vực này. Để thực hiện thắng lợi Chiến lược biển, cần nâng cao nhận thức của toàn Đảng, toàn dân về vị trí, vai trò của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng cơ sở luật pháp và lực lượng nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền và an ninh trên biển; đẩy mạnh điều tra cơ bản và phát triển khoa học – công nghệ biển; triển khai công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh các vùng biển và ven biển; tiếp tục xây dựng đồng bộ khung khổ pháp lý về biển và hệ thống cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển và vùng ven biển; xây dựng cơ quan quản lý nhà nước có hiệu lực, hiệu quả đối với mọi vấn đề liên quan đến biển; tăng cường công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế về biển; phát triển nguồn nhân lực và phát triển một số tập đoàn kinh tế mạnh trong lĩnh vực kinh tế biển.
Những chủ trương, biện pháp nêu trên cần được cụ thể hóa trong từng lĩnh vực kinh tế biển. Trong những năm qua, các lĩnh vực kinh tế biển nước ta đã có bước chuyển biến đáng kể. Cơ cấu ngành, nghề đang có sự thay đổi lớn. Ngoài các ngành nghề truyền thống, đã xuất hiện nhiều ngành kinh tế biển gắn với công nghệ - kỹ thuật hiện đại. Tuy vậy, các lĩnh vực kinh tế biển nhìn chung đang gặp phải không ít vấn đề, và đặc biệt là đang chứa đựng nhiều tiềm năng phát triển chưa được khai thác. Phần này phân tích khái quát thực trạng của một số lĩnh vực kinh tế biển quan trọng, từ đó nêu lên các chủ trương, biện pháp nhằm đẩy mạnh sự phát triển của các lĩnh vực này trong thời gian tới.
1. Kinh tế hàng hải
1.1. Thực trạng
- Về vận tải biển:
Trong 10 năm qua, đội tàu biển quốc gia Việt Nam đã có những bước phát triển đáng khích lệ, bình quân tăng gần 10%/năm về số lượng tàu và trên 10%/năm về trọng tải. Theo thống kê sơ bộ, hiện nay cả nước có trên 1.000 tàu với tổng trọng tải hơn 3,5 triệu DWT. Năng lực vận tải tăng lên, đồng thời có sự thay đổi cơ bản về cơ cấu, chất lượng đội tàu, tạo thêm thị trường và trực tiếp tham gia thị trường khu vực, khách hàng nước ngoài đã sử dụng trên 50% năng lực đội tàu của Việt Nam.
Tuy nhiên, đội tàu của Việt Nam còn tương đối nhỏ bé, đặc biệt là so với các nước trong khu vực. Thí dụ, Singapore chỉ có khoảng 900 tàu các loại, song tổng trọng tải lên tới 36,39 triệu DWT; Inđônêsia có 718 tàu với trọng tải 4,3 triệu DWT; thậm chí trọng tải của đội tàu của Campuchia còn lớn hơn trọng tải đội tàu của nước ta tới gần 1 triệu DWT. Với chiến lược đầu tư không rõ ràng, manh mún, không bền vững, đội tàu Việt Nam cũng kém đa dạng. Trong khi thế giới đang ngày càng chú trọng đến việc phát triển các thế hệ tàu biển có sức chở lớn cũng như các tàu chuyên dụng thì các doanh nghiệp Việt Nam chỉ có phần lớn các tàu vận tải hàng khô với trọng tải nhỏ, chủ yếu không quá 20.000 tấn. Xu hướng vận tải của thế giới hiện nay là hàng container, trong khi đội tàu container của Việt Nam chỉ chiếm khoảng 2% số lượng tàu với 7% số tấn trọng tải. Trong tổng số trên 1.000 tàu của đội tàu quốc gia chỉ có hơn 300 tàu hoạt động tuyến quốc tế và chủ yếu chỉ làm nhiệm vụ trung chuyển hàng hóa đến các cảng lớn trong khu vực như Singapore, Malaysia, Hồng Kông, Hàn Quốc để đưa lên tàu lớn đi các các châu lục khác. Ngay cả nguồn dầu thô xuất khẩu với khối lượng lớn, song đội tàu Việt Nam rất khó tham gia, phần vì không có tàu chuyên dụng, phần do việc đàm phán để giữ nguồn hàng khó khăn do không được sự hỗ trợ của chính các doanh nghiệp Việt Nam có nguồn hàng. Tóm lại, năng lực cạnh tranh của đội tàu biển Việt Nam thấp, không đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực, thậm chí thua ngay trên sân nhà.
Có nhiều nguyên nhân được nêu ra giải thích thực trạng nêu trên, trong đó phải kể đến những nguyên nhân chủ yếu sau đây. Thứ nhất, các doanh nghiệp thiếu nguồn hàng chuyên chở cho nên rất ít doanh nghiệp dám đầu tư mua hoặc đóng tàu lớn. Trong xuất nhập khẩu, các chủ hàng nội đã quen với tập quán bán FOB tại Việt Nam dẫn tới người mua hàng ở nước ngoài được "mua tận gốc" và có quyền chỉ định tầu chuyên chở. Mặt khác, các chủ hàng ngoại lại chỉ thích bán CIF tức là "bán tận ngọn" và giành luôn quyền lựa chọn tàu chuyên chở. Thứ hai, theo nhận định của Hiệp hội chủ tàu Việt Nam, việc Nhà nước ta cho phép các công ty liên doanh sản xuất được đầu tư khép kín từ sản xuất, kinh doanh cảng, vận tải biển, đại lý hàng hải đã làm cho cạnh tranh trong dịch vụ vận tải biển trở nên phức tạp hơn. Thứ ba, việc bảo hộ ngành đóng tàu trong nước thông qua việc áp dụng thuế nhập khẩu, thuế VAT đối với nhập khẩu tàu biển từ nước ngoài cũng làm cho các doanh nghiệp vận tải biển khó khăn hơn trong việc đầu tư tàu, đặc biệt là những tàu lớn, có chất lượng tốt, tuổi tàu thấp. Thứ tư, ngoài đội tàu thì đội ngũ thuyền viên, quản lý tàu cũng đang là vấn đề làm đau đầu các hãng tàu. Hiện Việt Nam đang thiếu trầm trọng đội ngũ thuyền viên, đặc biệt là thuyền trưởng, máy trưởng. Để đào tạo được một người sau khi tốt nghiệp Đại học Hàng hải lên thuyền trưởng, máy trưởng mất thêm ít nhất 10 năm, tuy mức lương khá cao nhưng do tính chất công việc thường xuyên xa nhà nên không nhiều người theo đuổi. Chính vì vậy rất nhiều tàu của Việt Nam đang thuê thuyền trưởng hoặc quản lý là người nước ngoài, và không ít nơi còn cho nước ngoài thuê tàu, điều này cũng khiến vận tải biển Việt Nam còn "đánh vật" ngay trên sân nhà.
- Về cảng biển và dịch vụ cảng biển:
Như đã nêu ở trên, với hơn 3.260 km bờ biển, Việt Nam có một tiềm năng về cảng biển hết sức to lớn. Hệ thống cảng biển bao gồm trên 100 cảng biển lớn nhỏ, trong đó có một số cảng đã và đang được nâng cấp và mở rộng như Hải Phòng, Cái Lân, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Sài Gòn, Cần Thơ. Khối lượng hàng hoá thông qua cảng biển Việt Nam tăng nhanh chóng. Tốc độ tăng trưởng bình quân là 17%/năm. Các cảng lớn như Hải Phòng, Sài Gòn đạt một mức tăng trưởng hành hoá kỷ lục. Nhưng, nhìn chung các cảng biển vẫn đang ở trong tình trạng kém hiệu quả, thiếu sức cạnh tranh bởi các lý do: quy mô cảng nhỏ bé, thiết bị xếp dỡ lạc hậu, thiếu cảng nước sâu, cảng tàu container, những cảng tổng hợp quan trọng đều nằm sâu trong đất liền như Hải Phòng (30 km), Sài Gòn (90km) luồng lạch hẹp lại bị sa bồi lớn không cho phép các tàu lớn ra vào cảng, mặt bằng chật hẹp, thiếu hệ thống đường bộ, đường sắt nối vào mạng lưới giao thông quốc gia.
Xu thế vận tải hiện nay là sử dụng tàu có trọng tải lớn, áp dụng các công nghệ vận tải tiên tiến, đặc biệt là vận tải đa phương thức. Do vậy, việc xây dựng các cảng nước sâu với trang thiết bị hiện đại, công nghệ quản lý điều hành tiên tiến là yêu cầu bức xúc. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của hệ thống cảng biển đối với phát triển kinh tế nên trong 10 năm qua Nhà nước đã tập trung vốn đầu tư cho một số cảng trọng điểm như:
- Cảng Hải Phòng hoàn thành giai đoạn I với công suất 6,2 triệu tấn/năm, cho tàu 10.000 DWT ra vào và dự kiến sẽ hoàn thành giai đoạn II trong kế hoạch 2000 - 2010 với công suất 8 - 8,5 triệu tấn/năm, cho tàu 10.000 tấn ra vào.
- Cảng Cái Lân: Công suất 1,8 - 2,8 triệu tấn/năm, cho tàu đến 40.000 tấn ra vào giai đoạn I (năm 2003) và 16 – 17 triệu tấn/năm cho tàu 50.000 tấn ra vào giai đoạn II (đến năm 2010 - 2020).
- Cảng Sài Gòn: Công suất 8,5 - 9,5 triệu tấn/năm cho tàu 25.000-35.000 tấn ra vào (giai đoạn II đến năm 2010) và một số cảng khác sẽ được đầu tư cải tạo mở rộng cơ sở vật chất như cảng Cửa Lò, Quy Nhơn, Nha Trang.
- Một số cảng chuyên dùng như bến thứ nhất của cảng tàu Dung Quất (liên doanh Việt Xô); Cảng Nghi Sơn (xi măng); Cảng Cát Lái (xi măng và container) và một số cảng ở khu công nghiệp Gò Dầu, Hiệp Phước...
Để đáp ứng nhu cầu vận tải biển ngày một tăng trong bối cảnh hội nhập, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2010 với 114 cảng (chưa kể các cảng tiềm năng). Tất cả các cảng đều gắn liền với các trung tâm kinh tế, là đầu mối giao lưu với thế giới trong xuất, nhập khẩu của đất nước. Tuy vậy, trong công tác quy hoạch cảng biển từ lâu đã nổi lên rất nhiều vấn đề. Trong thời gian qua, các địa phương cạnh tranh nhau xây cảng nước sâu tầm cỡ khu vực, thậm chí có người gọi là xảy ra hiện tượng "cảng sau đè cảng trước"
Bên cạnh cảng biển, các dịch vụ logistics trong vận tải biển Việt Nam (chuỗi dịch vụ giao nhận kho vận từ làm các thủ tục giấy tờ, tổ chức vận tải, lưu kho bãi...) cũng kém phát triển. Theo ước tính, chi phí cho logistics của Việt Nam hàng năm khoảng 8- 12 tỷ USD, ước chiếm khoảng 15% - 20% GDP của Việt Nam năm 2006, trong đó chi phí cho ngành vận tải khoảng 60%, phần lớn là vận tải biển. Tuy nhiên, phần lớn số lợi nhuận trên đang rơi vào tay các công ty, tập đoàn nước ngoài. Cả nước hiện có khoảng 600- 800 doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực này, nhưng phần đông là nhỏ và rất nhỏ nên hạn chế về vốn, nguồn nhân lực, công nghệ. Hiện các doanh nghiệp Việt Nam không kết nối được với mạng lưới toàn cầu và chỉ dừng lại ở nhà cung cấp dịch vụ vệ tinh cho các đối tác nước ngoài có mạng điều hành toàn cầu, tức là chỉ làm một phần công việc trong chuỗi dịch vụ này như kê khai thủ tục hải quan, thuê kho bãi... Trong nhiều trường hợp, thay vì liên kết, hợp tác thì các doanh nghiệp Việt Nam lại cạnh tranh không lành mạnh, làm ăn chụp giựt, phá giá... trong khi chất lượng chưa cao, tự làm yếu nhau và làm yếu chính mình. Do các doanh nghiệp vốn ít nên tổ chức doanh nghiệp đơn giản, không chuyên sâu, không có văn phòng đại diện ở các nước khác, không có thông tin, công việc phải giải quyết thông qua các đại lý của các công ty nước ngoài... Những yếu kém nêu trên góp phần kìm hãm năng lực cạnh tranh cũng như sự phát triển của kinh tế hàng hải Việt Nam.
- Về công nghiệp đóng tàu:
Với đường bờ biển dài, Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển ngành công nghiệp đóng tàu. Trong những năm 90 của thế kỷ trước, ngành công nghiệp đóng tàu gặp rất nhiều khó khăn và bước vào thời kỳ sàng lọc, củng cố, định hướng chiến lược, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Đến nay, sau hơn 10 năm thay đổi, ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam, đi đầu là Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin), đã đạt những bước phát triển đáng khích lệ, ngày càng được nhiều hãng tàu lớn của nước ngoài tín nhiệm, góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia được công nhận là có ngành công nghiệp đóng tàu đứng hàng thứ 11 trên thế giới.
Hiện nay, Việt Nam có hơn 60 nhà máy sửa chữa và đóng tàu trực thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Bộ Giao thông Vận tải, trong đó Bộ Giao thông Vận tải có số lượng lớn nhất chiếm trên 70% công suất đóng tàu của ngành. Trong những năm gần đây, Chính phủ đã đẩy mạnh đầu tư vào một gói thầu nhằm nâng cao hoạt động toàn ngành thông qua Chương trình Phát triển Công nghiệp Tàu thủy 2002 - 2010. Chính phủ đã quyết định đưa đóng tàu trở thành một ngành xuất khẩu mũi nhọn. Kết quả là tính tới năm 2003, ngành đóng tàu đã đạt doanh thu tiêu thụ trong nước là 251 triệu USD và 71 triệu USD từ xuất khẩu, dự kiến tăng tổng doanh thu lên 5,11 tỷ USD vào năm 2010. Các nhà máy đóng tàu Việt Nam từ chỗ chủ yếu đóng các tàu hàng và tàu đánh bắt hải sản xa bờ có trọng tải trên dưới 4.000 tấn, thì đến nay đã có thể đóng các tàu container có trọng tải 14.000 tấn, tàu chuyên chở 12.500 tấn, tàu chở hàng 6.500 tấn và tàu chở dầu 100.000 tấn... theo tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương các nước trong khu vực và quốc tế. Hiện nay, đã có 10 quốc gia trên thế giới đặt hàng tại Vinashin.
Vì những bước phát triển nhanh chóng nêu trên, Việt Nam đã quyết định thay đổi chiến lược phát triển ngành đóng tàu. Từ một kế hoạch 10 năm (2001-2010) tương đối khiêm tốn với tổng mức đầu tư khoảng 450 triệu đô la Mỹ, Việt Nam chuyển sang kế hoạch 5 năm (2006-2010) đầy tham vọng với tổng mức đầu tư lên đến 3 tỉ đô la Mỹ. Một số mục tiêu chủ yếu của kế hoạch này bao gồm: (1) Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia đóng tàu mạnh trong khu vực và thế giới, bên cạnh các cường quốc đóng tàu hiện nay là EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, và Trung Quốc; (2) Nâng tỷ lệ nội địa hóa từ khoảng 15% hiện nay lên 60%; (3) Nâng mức sản lượng từ 300.000 tấn tàu lên 3 triệu tấn vào năm 2010 (chưa kể Liên doanh Hyundai - Vinashin) và chiếm khoảng 6-7% thị phần đóng tàu thế giới (mục tiêu năm 2015 là 5 triệu tấn, chiếm khoảng 10% thị phần). Khi đó, quy mô của Vinashin bằng ba phần tư quy mô của Hyundai, hãng đóng tàu lớn nhất thế giới hiện nay.
Đầu tháng 11-2005, Chính phủ đã chuyển 750 triệu đô la Mỹ từ phát hành trái phiếu quốc tế lần đầu tiên cho Vinashin để doanh nghiệp này triển khai kế hoạch phát triển này. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, đây là một kế hoạch quá tham vọng, không dễ thực hiện, bởi lẽ xét về các điều kiện hay lợi thế mà Nhật Bản và Hàn Quốc đã từng có và Trung Quốc đang có để phát triển ngành đóng tàu thì Việt Nam gần như không có lợi thế nào. Điều này thể hiện ở một số khía cạnh sau đây:
- Thứ nhất, tuy giá nhân công ở Việt Nam rẻ, nhưng không thể thấp hơn Trung Quốc (hiện tại, chi phí nhân công ở Trung Quốc chỉ bằng 1/15 đến 1/10 so với ở Nhật Bản và Hàn Quốc, nơi lao động chiếm tới 30% tổng chi phí).
- Thứ hai, Nhà nước không thể tiếp tục trợ cấp như vừa rồi đối với Vinashin khi Việt Nam gia nhập WTO cũng như dưới sự đe dọa của các vụ kiện bán phá giá từ các đối thủ cạnh tranh. Hơn nữa, với tiềm lực ngân sách hạn chế, Nhà nước rất khó có khả năng mỗi năm dành ra 5-6% ngân sách quốc gia để trợ cấp riêng cho ngành công nghiệp đóng tàu.
- Thứ ba, trong kế hoạch phát triển ngành đóng tàu, Việt Nam không có các nước phương Tây đứng đằng sau hỗ trợ như Nhật Bản và Hàn Quốc trước đây, hay có thị trường nội địa rộng lớn như Trung Quốc hiện nay.
- Thứ tư, khả năng phát triển nguồn nhân lực là có thể, nhưng với tình trạng nền giáo dục đang có nhiều vấn đề và sự chậm trễ trong cải cách giáo dục như hiện nay thì nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam vẫn rất hạn chế.
- Cuối cùng, và có lẽ quan trọng nhất, việc phát triển các ngành phụ trợ là thách thức khó có thể vượt qua do chúng ta không có một thị trường đủ lớn như Trung Quốc, không nằm trong một liên minh như Nhật Bản và Hàn Quốc để tạo lợi thế theo quy mô hay sự tập trung của các ngành, cụm công nghiệp.
1.2. Chủ trương, biện pháp phát triển
Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế nói chung và vận chuyển hàng hoá nói riêng, trong giai đoạn đến năm 2020, ngành vận tải biển phải được đầu tư phát triển nhanh và toàn diện cả về hệ thống cảng biển, đội tàu, công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu biển, dịch vụ cảng biển và dịch vụ hàng hải... theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và mở rộng hợp tác với nước ngoài. Cụ thể là:
- Nhanh chóng xây dựng quy hoạch phát triển đội tàu quốc gia hoàn chỉnh, có đủ số lượng và chất lượng để cạnh tranh với đội tàu nước ngoài. Có những chính sách ưu đãi cho công tác vận tải nhằm khuyến khích và tạo điều kiện phát triển đội tàu quốc gia. Xây dựng hệ thống dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động hàng hải như tài chính, công nghệ thông tin... Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về hàng hải để các doanh nghiệp hình thành và phát triển, tạo điều kiện hỗ trợ cho các dịch vụ hàng hải đặc biệt như đại lý, giao nhận, ngân hàng...
- Về xây dựng hệ thống cảng biển, trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, cần thực hiện tốt công tác quản lý quy hoạch hệ thống cảng biển, tiến hành lập và quy hoạch chi tiết các nhóm cảng quan trọng. Trong đầu tư cảng, cần tạo liên kết cảng với các hệ thống giao thông mặt đất nhằm tạo thuận lợi nhất cho khách hàng qua phương thức vận tải đa phương tiện. Vai trò vận tải ven biển cũng ngày càng tăng đối với hàng rời thông thường và hàng bách hoá. Đầu tư ngắn hạn cho cảng tại các cảng tổng hợp với mục tiêu nâng cao năng suất cảng, hiện đại hoá những thiết bị dẫn luồng. Nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải trong xếp dỡ, khuyến khích các tàu lớn, hiện đại vào cảng Việt Nam. Đối với các cảng địa phương và cảng do các Bộ quản lý cần lựa chọn những cảng có đủ lượng hàng hoá hoạt động có hiệu quả để nâng cấp nhằm phát huy hiệu quả đầu tư.
- Đối với công nghiệp tàu biển, Vinashin chỉ nên tập trung vào một vài cụm công nghiệp đóng tàu nơi có sẵn lợi thế và chấm dứt việc đầu tư dàn trải ở hầu hết các vùng miền. Đồng thời, chỉ nên chọn những công đoạn phù hợp trong chuỗi giá trị toàn cầu trước khi tính đến phát triển tất cả các ngành phụ trợ. Thay vì đầu tư rất lớn cho kế hoạch đóng tàu như đã nêu trên, Việt Nam nên tìm phương thức kết hợp lợi thế vốn có của mình là lao động rẻ với công nghệ tiên tiến của nước ngoài. Nhà nước cần xem xét mở rộng thêm cơ hội và phương thức đầu tư cho các đối tác nước ngoài, nhất là Nhật Bản và Hàn Quốc. Trên cơ sở đó thúc đẩy sự chuyển giao công nghệ và phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ hạ nguồn.
2. Đánh bắt, nuôi trồng và chế biến hải sản
2.1. Thực trạng
- Về đánh bắt (khai thác) hải sản:
Đánh bắt hải sản là nghề biển truyền thống có thế mạnh của nước ta, là lực lượng nòng cốt trong việc thực hiện ba mục tiêu chiến lược phát triển ngành thủy sản Việt Nam, đó là: khai thác tiềm năng nguồn lợi hải sản tạo sản phẩm cung cấp cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; tạo công ăn việc làm, thu nhập, cải thiện đời sống ngư dân các tỉnh ven biển; đảm bảo sự hiện diện, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên các vùng biển. Từ năm 1993, sau khi thuỷ sản được coi là ngành kinh tế mũi nhọn, nghề đánh bắt thuỷ sản đã có những bước phát triển đáng kể. Trong giai đoạn 1995-2005, sản lượng thuỷ sản tăng bình quân 7,7%/năm, sản lượng khai thác tăng bình quân 5%/năm. Đánh bắt hải sản đã tạo việc làm cho hơn 5 vạn lao động đánh cá trực tiếp và 10 vạn lao động dịch vụ nghề cá. Số lượng tàu thuyền cũng tăng đều đặn qua các năm, theo thống kê trong khoảng 15 năm (1990 - 2005), tàu cá Việt Nam tăng 4,7 lần về số lượng (95.000 chiếc năm 2005 so với 41.000 chiếc năm 1990) và 5,7 lần về công suất, bình quân công suất đã vượt quá 60 CV/tàu (so với công suất bình quân 18 CV/tàu năm 1991 và 44 CV/tàu năm 2000). Tuy nhiên, nghề khai thác hải sản của Việt Nam đang đứng trước không ít khó khăn và bất cập.
Sự dễ dãi tiếp cận khai thác nguồn lợi hải sản, những bất cập trong quản lý, kiểm soát khai thác và những hạn chế về tài chính, đội tàu cá Việt Nam được đầu tư phát triển theo phong trào, thiếu quy hoạch, tập trung tăng về công suất máy đẩy và tăng về số lượng dẫn đến, sau gần vài thập kỷ tập trung khai thác, nguồn lợi hải sản đã có những biến động đáng kể về mật độ sản lượng, chủng loài, kích thước... đặc biệt vùng biển ven bờ, tập trung trên 80% tổng số phương tiện nghề cá, sản lượng khai thác hằng năm chiếm từ 70 -80% tổng sản lượng hải sản của cả nước. Ba ngư trường trọng điểm là Hải Phòng-Quảng Ninh, Ninh Thuận-Bình Thuận và Cà Mau-Kiên Giang, những khu vực tập trung trên 50% tổng số phương tiện nghề cá tham gia đánh bắt hàng năm, qua kết quả khảo sát, mật độ sản lượng đều giảm. Cùng với những thay đổi về sản lượng, chủng loài hải sản cũng biến động đáng kể về mật độ, kích cỡ và ngày càng có nhiều loài trở thành quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng. Sự thay đổi trên là nguyên nhân giảm năng suất, sản lượng khai thác của nhiều nhóm nghề (khai thác cá nổi nhỏ ven bờ, cá đáy, câu cá rạn...), đồng thời tăng thời gian khai thác thực tế trên biển, thời gian tìm kiếm ngư trường, chi phí, giá thành sản phẩm... Thống kê gần đây cho thấy dấu hiệu dư thừa cục bộ phương tiện đánh bắt hải sản đã xuất hiện, công suất huy động tàu tham gia đánh bắt giảm dần, có tàu chỉ huy động khoảng 50% thời gian hoạt dộng (khai thác cá nổi, tôm biển...)
Nghề cá biển thuộc nhóm nghề vất vả, tai nạn luôn rình rập, đặc biệt đối với những quốc gia nằm trong khu vực thường chịu tác động của các hiện tượng thời tiết bất thường như Việt Nam. Môi trường hoạt động khai thác hải sản rất khắc nghiệt, song đội tàu cá lại chưa được đầu tư tương thích. Trong khoảng 95.000 phương tiện nghề cá hiện nay, loại dưới 50 CV và thuyền thủ công có khoảng 64.500 chiếc, chiếm 68%, số tàu cá lắp máy từ 90 CV trở lên có khoảng 13.600 chiếc, chiếm khoảng 14,3%. Cơ cấu đội tàu cá Việt Nam hiện nay, xét về sự tương thích với ngư trường, với nguồn lợi hải sản cho thấy không có sự bất cập lớn, song chất lượng kém của vỏ, máy, các thiết bị an toàn hàng hải đã hạn chế thời gian hoạt động hữu ích trong năm. Vào những năm 1980, phần đông các tàu cá, nếu thực tế hoạt động khai thác đạt 80-100 ngày/năm, thì hạch toán kinh tế thường không bị lỗ, song những năm gần đây các tàu làm nghề khai thác cá nổi nhỏ ven bờ, lưới kéo xa bờ... để khỏi bị lỗ, thời gian thực tế khai thác hải sản trên biển phải từ 160-180 ngày/năm. Với thời gian khai thác thực tế tăng, thời gian tìm kiếm ngư trường tăng, kéo theo chi phí tăng, đồng thời rút ngắn tuổi thọ của các tàu, đặc biệt các tàu cũ, cải hoán, nâng cấp hoặc chất lượng đóng không đảm bảo. Từ năm 1997, thực hiện Chương trình đánh bắt cá xa bờ, Nhà nước đã đầu tư 1.300 tỷ đồng đóng 1.292 chiếc tàu đánh bắt xa bờ, tuy nhiên cho đến nay Chương trình này bị đánh giá là không hiệu quả.
Ngoài ra, chất lượng đội tàu, lao động trên tàu còn nhiều bất cập nên số vụ tai nạn tàu cá trên biển có xu hướng ngày càng tăng. Thống kê chưa đầy đủ, trong vòng 15 năm gần đây, mỗi năm trên các vùng biển xảy ra khoảng 500 vụ tai nạn tàu cá, gây thiệt hại đáng kể về người và tài sản, chỉ riêng ba tháng cuối năm 2006 và hai tháng đầu năm 2007 có gần 400 vụ, trong đó hơn 50% vụ tàu bị hỏng máy, vỏ bị phá nước. Bên cạnh đó, tàu cá bị các nước trong khu vực bắt, bị cướp biển trong những năm gần đây là vấn đề phức tạp, không chỉ ảnh hưởng đến mối quan hệ láng giềng giữa Việt Nam và các quốc gia vùng biển giáp ranh, mà tác động trực tiếp đến tâm lý ngư dân tham gia đánh bắt hải sản. Theo thống kê chưa đầy đủ, từ 1999 đến 2002 cả nước đã có 274 tàu thuyền bị các nước lân cận bắt. Những vất vả vốn có của nghề đánh bắt hải sản và những thay đổi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của đất nước đã tác động không nhỏ đến nghề đánh bắt hải sản, đòi hỏi nghề này sớm được cải thiện để phát triển bền vững.
- Về nuôi trồng hải sản:
Bên cạnh đánh bắt hải sản, nuôi trồng hải sản cũng có nhiều tiềm năng và lợi thế. Tính trên phạm vi cả nước, diện tích có khả năng nuôi trồng hải sản trên biển gồm hơn 400.000 ha vùng vịnh và đầm phá; nhiều vùng biển có điều kiện phát triển như Quảng Ninh - Hải Phòng hơn 200.000 ha, khu vực ven biển miền trung từ Thừa Thiên - Huế đến Bà Rịa - Vũng Tàu hơn 41.000 ha, khu vực Ðông và Tây Nam Bộ có hơn 62.000 ha, vịnh Văn Phong tỉnh Khánh Hòa 20.000 ha... Giống loài thủy sản nuôi phong phú, đối tượng nuôi chủ yếu là tôm hùm, cá song, cá giò, cá cam, cá hồng, cá đù đỏ, cua, ghẹ, hải sâm, bào ngư, nuôi trai lấy ngọc, nuôi ngao, nghêu, hầu, trồng rong sụn, nuôi sứa đỏ và san hô...
Trước tình trạng nguồn lợi hải sản đang suy kiệt, ngư dân đã chuyển từ khai thác sang nuôi trồng thủy sản ở biển với nhiều hình thức đa dạng. Nhà nước đã ban hành các chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng hải sản trên biển và hải đảo. Nhà nước phân cấp cho UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giao, cho thuê đất và mặt nước biển cho tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có nhu cầu sử dụng mặt nước biển, đất trên đảo để nuôi trồng hải sản, tạo điều kiện để nhà đầu tư tự quản lý đất mặt nước, yên tâm đầu tư phát triển sản xuất. Nhà nước đã đầu tư và hỗ trợ đầu tư cho quy hoạch nuôi hải sản trên biển, hải đảo; cho nhập khẩu giống gốc một số loài đặc sản sạch bệnh có giá trị kinh tế cao, quý hiếm và kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo đòi hỏi công nghệ sản xuất cao và nuôi thương phẩm hải sản trên biển và hải đảo; đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật; ưu tiên bố trí kinh phí cho công tác khuyến ngư nuôi hải sản; hỗ trợ các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu của các vùng nuôi hải sản biển. Ngân hàng chính sách, các tổ chức tín dụng đã đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn của các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có đủ điều kiện vay vốn nuôi trồng hải sản trên biển và hải đảo. Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhiều biện pháp hỗ trợ lãi suất vốn vay, ưu tiên bố trí nguồn vốn cho vay của Quỹ quốc gia về việc làm cho các dự án nuôi trồng hải sản khả thi.
Kết quả là, trong những năm qua, nuôi trồng hải sản đã phát triển khá mạnh ở nhiều địa phương trên cả nước. Thí dụ, chỉ tính riêng hình thức nuôi lồng bè, trong giai đoạn 2001-2004, tổng số lồng bè nuôi hải sản trên biển đã tăng lên hơn 1,6 lần. Năm 2001, tổng số lồng bè nuôi trên biển là 23.989 chiếc, trong đó số lồng nuôi tôm hùm là 19.912 chiếc, nuôi cá biển là 4.077 chiếc. Năm 2004 tổng số lồng bè nuôi tôm, cá trên biển đã tăng đến 38.965 lồng, trong đó số lồng nuôi tôm hùm là 30.115 lồng, nuôi cá là 8.850 lồng. Sản lượng nuôi lồng bè nước mặn năm 2001 chỉ đạt 2.635 tấn, năm 2004 đạt hơn 10.000 tấn. Thủy sản nuôi trên biển có chất lượng và giá trị hàng hóa cao, có thị trường tiêu thụ rộng mở, được khách hàng thế giới ưa thích. Vì vậy, hải sản nuôi trên biển có đóng góp quan trọng cho xuất khẩu của nước ta. Bên cạnh nuôi trồng hải sản tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, nước ta cũng đã sản xuất được giống một số loài như cá giò, cá song chấm nâu, cá sú chấm (cá Hồng Mỹ), cá vược, bào ngư, ốc hương, cua... và chuyển giao công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm cho nhiều địa phương phát triển sản xuất.
Việc phát triển nuôi trồng hải sản trên biển và hải đảo giúp các tổ chức, giúp người dân có cơ hội đầu tư phát triển, góp phần điều chỉnh nghề khai thác ven bờ bằng phương tiện thủ công sang nuôi trồng thủy sản biển (nhất là người dân ở các xã nghèo vùng bãi ngang ven biển, hải đảo), bảo vệ và phát triển được nguồn lợi thủy sản. Nuôi trồng thủy sản biển còn giúp người dân có điều kiện tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo, thay đổi cơ cấu kinh tế; góp phần bảo vệ an ninh vùng biển và hải đảo. Ngành thủy sản dự kiến đến năm 2010 nuôi cá biển ở nước ta ước đạt khoảng 200.000 tấn, nuôi nhuyễn thể đạt 380.000 tấn, rong biển đạt 50.000 tấn khô, đuổi kịp và vượt các nước tiên tiến trong khu vực và vùng lãnh thổ về trình độ nuôi hải sản trên biển.
Tuy nhiên, nuôi trồng hải sản nước ta hiện nay mới tập trung vào một số doanh nghiệp, xí nghiệp liên doanh và các hộ có vốn lớn, sản xuất mang tính tự phát ở một số vùng ven biển; còn đại bộ phận người dân ven biển chưa có sự hiểu biết và điều kiện tham gia nuôi trồng hải sản trên biển. Việc sử dụng diện tích mặt nước biển để nuôi hải sản chưa đáng kể, việc giao, cho thuê mặt nước biển còn nhiều bất cập, sản lượng nuôi chưa nhiều, giống loài thủy sản tham gia sản xuất còn ít, giá trị kim ngạch xuất khẩu so với tiềm năng hiện có còn thấp. Chính sách khuyến khích đầu tư, phát triển công nghệ và xây dựng cơ sở hạ tầng hầu như chưa có gì đáng kể để phục vụ yêu cầu sản xuất, đã làm hạn chế phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển và hải đảo.
- Về chế biến hải sản:
Nghị quyết 03/NQ/TW ngày 6/5/1993 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 05-NQ/HNTW ngày 10/6/1993, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đều khẳng định xây dựng thủy sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Bởi vậy, ngành chế biến thủy sản (trong đó có chế biển hải sản) cũng nhận được sự chú trọng đặc biệt của các cấp, các ngành và các địa phương. Nhiều chương trình, dự án táo bạo đã được thực hiện nhằm phát triển ngành này. Chương trình chế biến và xuất khẩu thủy sản đến năm 2005 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, và bắt đầu thực hiện từ năm 1998 là một chương trình tạo bước ngoặt trong thế kỷ 21 cho ngành chế biến thủy sản nước ta. Có thể nói, chế biến xuất khẩu thủy sản là động lực cho tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu trong khai thác và nuôi trồng thủy sản. Đến nay, cả nước đã có tổng số hơn 470 cơ sở - doanh nghiệp chế biến thủy sản. Trong đó, 248 cơ sở - doanh nghiệp (chiếm gần 53%) đã đạt tiêu chuẩn của thị trường EU - một thị trường khó tính vào bậc nhất thế giới; trên 300 cơ sở - doanh nghiệp được Hàn Quốc công nhận tiêu chuẩn chất lượng... Hiện nay, hàng thủy sản Việt Nam đã có mặt trên 140 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, có chỗ đứng vững chắc ở các thị trường lớn như Nhật Bản, EU và Bắc Mỹ. Về giá trị kim ngạch xuất khẩu, thủy sản Việt Nam hiện đã vươn lên đứng hàng thứ 7 trên thế giới. Năm 2006, sản lượng thuỷ sản Việt Nam đạt 3,75 triệu tấn, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 3,75 tỉ USD.
Chiến lược biển đến năm 2020 đã đặt ra mục tiêu Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn. Ngành chế biến thủy sản cũng sẽ phát huy đầy đủ vị trí, vai trò của mình, tạo động lực thúc đẩy các ngành khác cùng phát triển.
2.2. Chủ trương, biện pháp phát triển
- Tiến hành nghiên cứu, đánh giá đầy đủ về sự phát triển của lĩnh vực khai thác hải sản, nâng cấp thông tin về nguồn lợi hải sản, nhất là nguồn xa bờ, từ đó đổi mới phương thức tổ chức sản xuất, tiếp cận công nghệ khai thác tiên tiến, đưa các đội tàu cá vươn ra khai thác xa bờ. Tiến hành cơ cấu lại đội tàu khai thác hải sản xa bờ theo phương pháp đánh bắt phù hợp nhất với cơ cấu đội tàu và hiện trạng của nguồn lợi hải sản xa bờ, đạt được mục tiêu sản lượng khai thác bền vững.
- Tiến hành quy hoạch xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho khai thác, nuôi trồng và chế biến hải sản. Cụ thể là:
+ Hoàn chỉnh các cụm bến cảng hải sản trên các cửa sông, cửa lạch có điều kiện tự nhiên thuận lợi, có năng lực khai thác lớn; từng bước nâng cấp và củng cố các bến cá nhân dân, tạo điều kiện cho nghề cá nhân dân với số lượng tàu thuyền ít, qui mô nghề nghiệp nhỏ nhằm cải thiện điều kiện sản xuất, an toàn tàu thuyền ở vùng trú đậu, bố trí hậu cần tương ứng.
+ Xây dựng một hệ thống chợ hải sản ở các vùng trọng điểm nghề hải sản có qui mô công nghiệp kết hợp với việc phát triển hệ thống chế biến sản phẩm hoặc hình thành các trung tâm tiêu thụ sản phẩm lớn của các vùng nuôi tập trung và các trung tâm đô thị lớn.
+ Xây dựng các khu vực tránh trú bão cho ngư dân, đặc biệt những vùng có gió bão lớn từ Nam Trung Bộ trở ra Bắc và những tỉnh có mật độ tàu thuyền đánh cá cao.
+ Xây dựng các công trình cung cấp, dẫn nước, bảo vệ vùng nuôi cho các vùng nuôi tôm công nghiệp. Xây dựng hệ thống thuỷ lợi để cải tạo các vùng nuôi nhằm nâng cấp các công trình thoát nước và xử lý nước thải cho các vùng nuôi thuỷ sản đặc biệt, những vùng nuôi tôm sú tập trung, các vùng nuôi cá lồng bè.
+ Xây dựng các công trình cung cấp điện hạ thế, hệ thống đường giao thông tiếp cận với các vùng nuôi tập trung (trên 50 ha).
- Tiến hành quy hoạch phát triển hệ thống dịch vụ đóng và sửa tàu thuyền: tập trung nâng cấp và hoàn thiện mạng lưới dịch vụ cơ khí phục vụ thuỷ sản nhằm nâng cao năng lực chế tạo phụ tùng, phụ kiện và năng lực cung ứng các dịch vụ kỹ thuật bảo dưỡng, bảo hành và cung ứng thiết bị cơ khí thuỷ sản. Hệ thống cơ sở vật chất gồm các cơ sở tại hai thành phố lớn là Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh; các cơ sở đóng sửa tàu thuyền hiện có tại các địa phương được khuyến khích hoạt động theo Luật Doanh nghiệp để phục vụ đội tàu thuyền vỏ gỗ cỡ vừa và nhỏ.
- Thực hiện các chính sách khuyến khích nuôi trồng hải sản, hoàn thiện việc xây dựng quy hoạch chi tiết phát triển các vùng nuôi hải sản tập trung và thiết kế các vùng nuôi tập trung; hoàn chỉnh việc nâng cấp và xây dựng mới các trung tâm giống quốc gia, trung tâm giống vùng, các khu sản xuất giống tập trung nhằm đáp ứng nhu cầu nuôi trồng ngày càng gia tăng. Triển khai việc "thực hành nuôi tốt" cho tất cả các vùng nuôi trồng hải sản và hoàn thành việc mã hoá các vùng nuôi.
- Quy hoạch lại hệ thống chế biến hải sản gắn với xuất khẩu và tiêu thụ nội địa, gắn với nhu cầu thị trường và khả năng cung ứng nguyên liệu; hoàn thành việc nâng cấp 100% các doanh nghiệp chế biến đảm bảo đủ tiêu chuẩn an toàn vệ sinh và thú y thuỷ sản theo tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế, đảm bảo sản phẩm chế biến đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào mọi thị trường. Đẩy mạnh công tác xây dựng thương hiệu cho sản phẩm thuỷ sản Việt Nam.
3. Khai thác và chế biến dầu khí
3.1. Thực trạng
Ngành dầu khí Việt Nam đã trải qua quá trình phát triển đầy ý nghĩa kể từ khi dòng dầu đầu tiên được khai thác ở mỏ dầu Bạch Hổ vào năm 1986. Trước đó nền kinh tế Việt Nam lệ thuộc nặng nề vào các sản phẩm dầu mỏ nhập khẩu từ Liên bang Xô Viết. Hiện nay, Việt Nam đứng thứ ba về sản lượng dầu mỏ trong các quốc gia Đông Nam Á, chỉ sau Inđônêsia và Malaysia. Nếu tốc độ phát triển hiện tại tiếp tục được duy trì, Việt Nam sẽ trở thành quốc gia sản xuất dầu mỏ lớn thứ 30 trên thế giới. Về dầu mỏ, Việt Nam có hơn 600 triệu thùng trữ lượng dầu đã được phát hiện. Tuy nhiên, việc thăm dò ở Việt Nam tiếp tục đem lại những phát hiện mới và trữ lượng có thể lên tới 4,5 tỷ thùng. Hiện tại, Việt Nam có sáu mỏ dầu đang khai thác: Bạch Hổ, Rạng Đông, Ruby, Đại Hùng, Bunga và Kekwa. Thêm nữa, một giếng dầu mới, Sư Tử Trắng, đã có kế hoạch khai thác vào năm 2008. Trữ lượng khí đốt thậm chí được coi là có nhiều hứa hẹn hơn so với trữ lượng dầu mỏ. Việt Nam đã xác định trữ lượng khí đốt là 220 tỷ m3, nhưng dự kiến trữ lượng có thể lên tới 651 tỷ m3. Sản xuất và tiêu thụ khí đốt tự nhiên của Việt Nam đang tăng lên và dự kiến còn tăng thêm nữa khi có thêm các mỏ được đưa vào khai thác.
Tuy nhiên, dầu và khí đốt nằm khá sâu 3.000 – 4.000 m dưới lòng đất nên việc tìm kiếm và khai thác dầu khí là việc rất khó khăn, cần nhiều vốn, kinh nghiệm và trình độ kỹ thuật cao. Cũng giống như nhiều nước đang phát triển khác, Việt Nam có các chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này. Hiện có 25 công ty dầu khí nước ngoài từ 13 quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam, trong khuôn khổ 27 dự án khác nhau. Các công ty dầu khí nước ngoài đã đầu tư hơn 7 tỷ USD vào Việt Nam. Có nhiều đối tác nước ngoài đã làm việc với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam) trong nhiều thập kỷ. Trong số đó, có liên doanh Vietsopetro giữa Petro Vietnam với công ty Zarubezhneft của Nga, hiện đang hoạt động tại các mỏ Bạch Hổ ở ngoài khơi phía Nam. Những công ty dầu khí thượng nguồn nước ngoài hàng đầu khác ở Việt Nam bao gồm Conoco Phillips, BP, Petronas, Chevron, Tập đoàn Dầu lửa Quốc gia Hàn Quốc, và Talisman Energy. Những công ty này hoạt động với tư cách là nhà thầu cho Petro Vietnam và chia sản lượng dầu khai thác được theo thỏa thuận.
Không chỉ hoạt động tại thị trường nội địa, Petro Vietnam đang tăng cường các hoạt động tìm kiếm và khai thác dầu khí trên thị trường quốc tế. Trong khoảng thời gian từ năm 2006 - 2010, tập đoàn này đã lên kế hoạch ngân sách 6,7 tỷ USD cho việc thăm dò ở nước ngoài, và sẽ tăng thêm 9,7 tỷ USD cho giai đoạn 2011-2015. Trong năm 2007, Petro Vietnam đã tiến hành thăm dò dầu khí ở Cuba và Peru và hiện tiến hành đấu thầu để thăm dò dầu khí ở Nigeria và Kazakhstan. Đến nay Petro Vietnam đã tiến hành thăm dò và khai thác dầu khí ở Algeria, Iraq, Madagascar, Venezuela, Mông Cổ, cũng như tại Indonesia và Malaysia, nơi tập đoàn lần đầu hoạt động tại nước ngoài vào năm 1998.
Trong gần 20 năm vừa qua, sản lượng dầu mỏ khai thác và xuất khẩu của Việt Nam liên tục gia tăng với tốc độ bình quân đạt gần 15%/năm. Tính từ năm 1990 đến năm 2006, Việt Nam đã khai thác và xuất khẩu hơn 190 triệu tấn dầu thô, đóng góp quan trọng cho tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước (Hình 1).
Song song với công việc khai thác dầu để xuất khẩu, công nghiệp khí cũng được triển khai tích cực. Dòng khí đồng hành của mỏ Bạch Hổ sau những năm đầu không được sử dụng, đến giữa năm 1995 đã được dẫn vào bờ với công suất gần 1 triệu m3/ngày sau đó tăng lên 3-4 triệu m3/ngày cung cấp cho các nhà máy điện, đạm Phú Mỹ. Đồng thời công trình này cũng đã cung cấp một khối lượng lớn condensate và khí hóa lỏng LPG cho công nghiệp và dân sinh. Dự án khí Nam Côn Sơn khai thác các mỏ khí Lan Tây, Lan Đỏ hàng năm cung cấp được 5-6 tỷ m3 khí thiên nhiên. Các công trình đó đã tạo thành cụm công nghiệp khí-điện-đạm ở miền Đông Nam bộ. Sản phẩm chính là điện và đạm cùng các sản phẩm phụ khác của cụm công nghiệp này đã góp phần quan trọng cân đối nhu cầu phân bón, nhu cầu nguyên-nhiên liệu cho các ngành kinh tế khác. Ở miền Tây, dự án tổ hợp khí-điện-đạm Cà Mau đang được thực hiện có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh tế-xã hội ở đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và của cả nước nói chung.
Tuy nhiên, trong một số năm gần đây, sản lượng dầu khai thác ở Việt Nam đã bắt đầu khựng lại và có xu hướng giảm. Đặc biệt, năm 2007, Petro Vietnam đã phải điều chỉnh giảm sản lượng dầu thô khai thác năm 2007, từ 17,5 triệu tấn xuống còn 16,8 triệu tấn. Nguyên nhân được nêu ra là do dự án mua mỏ tại Kazakhstan không đạt được theo dự kiến nên kế hoạch khai thác 1 triệu tấn dầu thô nước ngoài trong năm 2007 không thực hiện được. Bên cạnh đó, một số mỏ dầu đang khai thác không thể gia tăng công suất vì phải đảm bảo sơ đồ công nghệ khai thác và các mỏ có cấu tạo tương đối phức tạp (địa chất, địa tầng và tình trạng các tầng sản phẩm). Các chuyên gia dự báo rằng, nếu không tìm kiếm thêm được những nguồn mới, sản lượng dầu khai thác của Việt Nam sẽ tiếp tục giảm trong những năm tới.
Về chế biến dầu khí, do chưa có nhà máy lọc dầu cho nên toàn bộ dầu thô khai thác của Việt Nam đều được đem xuất khẩu. Hiện nay, Việt Nam đang xây dựng Nhà máy lọc dầu Dung Quất (tỉnh Quảng Ngãi) với số vốn đầu tư 2,5 tỷ USD và công suất 50 triệu thùng/năm, đang tiến hành các thủ tục đầu tư xây dựng Nhà máy lọc dầu phía Nam và một số dự án khác như: dự án Polypropylen, nhà máy lọc dầu Nghi Sơn, nhà máy đạm Cà Mau, tổ hợp hóa dầu phía Nam... Tuy nhiên, nhìn chung phần lớn các dự án này đều đang bị chậm tiến độ. Đến nay, Việt Nam mới chỉ có Nhà máy Đạm Phú Mỹ hoàn thành và đang hoạt động bình thường với công suất tối đa 740.000 tấn/năm.
3.2. Chủ trương, biện pháp phát triển
Quan điểm chủ đạo trong phát triển ngành dầu khí Việt Nam là kết hợp đảm bảo an ninh năng lượng với đảm bảo an ninh quốc gia, tăng cường sức mạnh bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển. Hướng phát triển là dựa trên cơ sở nguồn tài nguyên sẵn có trong nước, đồng thời tích cực mở rộng ra nước ngoài. Phát triển ngành dầu khí một cách đồng bộ, hiệu quả, an toàn mang tính đa ngành và liên ngành. Phát triển đi đôi với bảo vệ tài nguyên môi trường sinh thái, tiết kiệm năng lượng cho sự phát triển bền vững của đất nước. Mục tiêu chiến lược của phát triển ngành dầu khí là trở thành một ngành kinh tế- kỹ thuật quan trọng, hoàn chỉnh từ tìm kiếm thăm dò, khai thác, chế biến, tàng trữ, phân phối, dịch vụ và xuất nhập khẩu.
Trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện các biện pháp chủ yếu sau đây:
- Xây dựng Petro Vietnam thành một tập đoàn dầu khí mạnh ở khu vực Đông Nam Á, có khả năng điều hành các hoạt động thăm dò, khai thác, vận chuyển, chế biến và phân phối dầu khí, gia tăng trữ lượng thu hồi khoảng 250 - 300 triệu tấn quy dầu vào năm 2010, đảm bảo sản lượng khai thác từ 30 - 32 triệu tấn quy dầu vào năm 2010.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật có trình độ học vấn cao, công nhân kỹ thuật lành nghề. Tiến tới làm chủ công nghệ tìm kiếm, thăm dò tiên tiến của thế giới, nghiên cứu ứng dụng các công nghệ khoan, khai thác, tăng khả năng thu hồi tại các mỏ đang và sẽ đưa vào khai thác, phát triển các mỏ dầu khí nhỏ hoặc chứa hàm lượng CO2 cao.
- Tiếp tục các hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác, vận chuyển dầu khí.
- Đầu tư xây dựng các cơ sở vật chất kỹ thuật và phát triển các dịch vụ kỹ thuật chuyên ngành như dịch vụ căn cứ; tàu thuyền, sửa chữa thiết bị, khoan, dung dịch khoan, hóa phẩm cho khoan, phân tích mẫu, gia công chế tạo, lắp ráp các khối chân đế giàn khoan - khai thác; xây lắp và bảo dưỡng các công trình biển...
- Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ, giải quyết các vấn đề kỹ thuật phục vụ điều tra cơ bản, xác định tiềm năng dầu khí các khu vực đến nay chưa được nghiên cứu, gia tăng trữ lượng thu hồi và sản lượng khai thác ở các khu mỏ. Nghiên cứu chi tiết cấu trúc địa chất và tiềm năng dầu khí ở các vùng nước sâu, xa bờ, các vùng chưa được nghiên cứu đầy đủ và các vùng chồng lấn. Nghiên cứu các giải pháp công nghệ khai thác và bảo dưỡng các công trình dầu khí, tiến tới thực hiện chức năng thẩm định các công trình dầu khí. Chế tạo các tổ hợp sinh hóa phục vụ khai thác, vận chuyển dầu khí đặc thù của Việt Nam.
- Đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng các nhà máy lọc dầu và các dự án hoá dầu khác nhằm cho ra các sản phẩm dầu khí đáp ứng nhu cầu trong nước và tiến tới xuất khẩu.
- Từng bước hình thành và phát triển thị trường dầu khí cạnh tranh; mở rộng và đẩy mạnh phát triển các loại hình dịch vụ dầu khí, đa dạng hoá các phương thức đầu tư và kinh doanh trong lĩnh vực dầu khí.
4. Du lịch biển
4.1. Thực trạng
Vùng biển và ven biển của Việt Nam tập trung tới ba phần tư khu du lịch tổng hợp và 10/17 khu du lịch chuyên đề của cả nước. Hàng năm, vùng biển thu hút 73% số lượt khách du lịch quốc tế, với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 12,6%/ năm, và thu hút hơn 50% số lượt khách du lịch nội địa, với tốc độ tăng trưởng bình quân 16%/năm. Có thể nói những tuyến điểm du lịch biển Vũng Tàu, Nha Trang, Phú Quốc, Phan Thiết, Hạ Long... không thua kém hoặc có thể nói vượt trội về độ hấp dẫn so với những tuyến điểm biển nổi tiếng ở Đông Nam Á như Pattaya, Phuket, Ko-Samui (Thái Lan), Bali (Inđônêsia)... Thời gian gần đây, nhiều địa phương có lợi thế biển đã và đang chọn mô hình phát triển du lịch làm ngành kinh tế mũi nhọn, tăng nguồn thu, giải quyết công ăn việc làm, là động lực thúc đẩy sự phát triển các ngành kinh tế đầu tư, thương mại, văn hóa, xã hội. Hệ thống cơ sở lưu trú vùng ven biển không ngừng tăng lên, đặc biệt số lượng những cơ sở lưu trú từ 3 sao trở lên phần lớn tập trung ở các địa phương ven biển. Theo thống kê, vùng ven biển có gần 1.400 cơ sở lưu trú với trên 45.000 buồng. Đội ngũ lao động du lịch vùng ven biển hiện chiếm khoảng 65% tổng số lao động trực tiếp làm du lịch của cả nước, tập trung nhiều nhất ở Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu (trên 60%); Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng (8,5%); Hải Phòng - Quảng Ninh (8,1%). Bên cạnh đó, sự phát triển của du lịch biển còn tạo việc làm gián tiếp cho 60 vạn lao động là các dân cư ven biển.
Nhiều nhà đầu tư du lịch lớn quốc tế đã và đang chọn Việt Nam làm địa điểm đầu tư. Sản phẩm du lịch bắt đầu đa sắc, không chỉ còn gói gọn loại hình nghỉ dưỡng mà mở rộng sang du lịch kết hợp tìm hiểu văn hóa lịch sử truyền thống, thể thao, hội nghị hội thảo, tổ chức sự kiện quy mô hơn. Nguồn khách quốc tế đến bằng đường biển đang tăng lên. Sắp tới có thêm những hãng tàu du lịch quốc tế khác đến nước ta, trong đó Saigontourist đã ký thỏa thuận với một hãng tàu du lịch lớn Hoa Kỳ mở tour du lịch đường biển hành trình Bắc - Nam.
Tuy nhiên, việc khai thác những lợi thế của vùng biển cho phát triển du lịch còn nhiều hạn chế. Trong một thời gian dài, tỷ trọng khách du lịch, thu nhập từ du lịch biển so với du lịch cả nước không có sự thay đổi đáng kể, mặc dù vùng ven biển là lãnh thổ có nhiều thuận lợi hơn những vùng lãnh thổ khác về tài nguyên du lịch. Du lịch biển Việt Nam vẫn chưa tạo được sự hấp dẫn đặc biệt đối với khách du lịch. Năm 2006, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam bằng đường biển chỉ chiếm khoảng trên 6% trong tổng lượt khách quốc tế. Thời gian neo đậu của tàu du lịch ở các cảng chỉ từ 8 đến 24 giờ, do đó, khách không có nhiều cơ hội tham quan, giải trí mua sắm.
Nguyên nhân được các chuyên gia đưa ra là hiện nay ở Việt Nam hầu hết các cảng biển là cảng hàng hóa, chưa có cảng chuyên biệt cho tàu du lịch. Nhiều tàu có trọng tải lớn không thể cập bờ và phải di chuyển khách bằng canô hoặc tàu du lịch mất nhiều thời gian, giảm hứng thú cho du khách. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền và quảng bá về du lịch biển Việt Nam lâu nay chưa được quan tâm đúng mức. Du lịch Việt Nam chưa tham gia các hội nghị, hội chợ chuyên về du lịch biển và du lịch tàu biển trên thế giới. Một vấn đề đáng quan tâm nữa là hiện nay có không ít địa phương do nóng vội đã đưa ra các chiến lược phát triển thiếu tính bền vững, gây trùng lắp, thiếu quy hoạch chi tiết phù hợp để bảo vệ môi trường và văn hóa bản địa, tính thương mại hóa quá cao, trong khi đáng lẽ phải tìm ra sự khác biệt, bản sắc riêng của du lịch biển.
4.2. Chủ trương, biện pháp phát triển
Hiện nay, Bộ Văn hoá- Thể thao và Du lịch chuẩn bị trình Chính phủ Đề án phát triển du lịch biển, đảo mục tiêu năm 2010 và tầm nhìn 2020. Theo đó, đến năm 2020, kinh tế biển và ven biển đóng góp khoảng 53-55% GDP cả nước, trong đó du lịch biển là khâu đột phá thứ tư sẽ có mức đóng góp khoảng 14-15% GDP của nền kinh tế biển quốc gia. Để đạt được mục tiêu trên, theo các chuyên gia về kinh tế biển, cần có những giải pháp đồng bộ như quy hoạch và quản lý quy hoạch phát triển du lịch biển; đầu tư phát triển các loại hình du lịch biển; bảo vệ môi trường biển; củng cố và mở rộng thị trường khách du lịch tàu biển; xây dựng một chương trình đào tạo mới, đào tạo lại nguồn nhân lực phục vụ phát triển du lịch biển; cạnh tranh trong phát triển du lịch; sự tham gia của cộng đồng và hoạt động phát triển du lịch; quản lý tổng hợp sự phát triển của các ngành kinh tế biển... Cụ thể hơn, cần tập trung vào một số biện pháp quan trọng sau đây:
- Thứ nhất, đẩy mạnh công tác xúc tiến du lịch, tăng cường sự liên kết, phối hợp, chia sẻ quyền lợi và chi phí trong công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch giữa cơ quan xúc tiến du lịch quốc gia, cơ quan xúc tiến du lịch địa phương và doanh nghiệp bằng nhiều hình thức khác nhau.
- Thứ hai, đa dạng hoá và nâng cao các sản phẩm và dịch vụ du lịch biển. Cần tập trung phát triển nhiều loại hình du lịch biển như lặn biển, câu cá, tìm hiểu đời sống dưới biển, các hoạt động thể thao lướt ván, đua thuyền buồm... Việc làm này không phải chỉ chú ý tới khâu hiện đại hóa mà ngay từ trong quy hoạch, đầu tư phát triển, cần phải có định hướng cụ thể, để du lịch biển Việt Nam mang những nét bản sắc riêng của dân tộc mình, mang cái hồn của đất Việt. Có như vậy, chúng ta mới có những vùng biển mang thương hiệu Việt đạt tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó, các địa phương có biển cần mở rộng các tour du lịch liên kết với các điểm ở sâu trong đất liền như: các di tích, rừng quốc gia, các danh thắng khác... để tạo cảm giác thoải mái, tránh sự nhàm chán cho du khách.
Mỗi địa phương nên chọn chủ đề mà mình có lợi thế nhất để tạo ra các sản phẩm du lịch đặc sắc. Thí dụ, Vũng Tàu có thể phát triển mô hình du lịch biển kết hợp các môn thể thao, văn hóa giải trí...; Phú Quốc, Côn Đảo trở thành tuyến điểm du lịch biển nghỉ dưỡng cao cấp; Nha Trang, Phan Thiết du lịch biển kết hợp mua sắm, hội nghị, hội thảo; Quảng Nam, Đà Nẵng, Ninh Thuận thích hợp với mô hình du lịch biển kết hợp tìm hiểu lịch sử, văn hóa truyền thống Việt Nam khi có điểm nhấn là các di sản thế giới và các nền văn hóa Sa Huỳnh, Champa độc đáo; Sầm Sơn (Thanh Hóa), Cửa Lò (Nghệ An), Đồ Sơn (Hải Phòng) trở thành những điểm du lịch sinh động, hấp dẫn khu vực phía Bắc...
- Thứ ba, du lịch Việt Nam mà cụ thể là du lịch biển cần phối hợp chặt chẽ với các ngành, các lĩnh vực hữu quan khác để khai thác một cách triệt để lợi thế này, đặc biệt là với ngành vận tải biển. Thí dụ, Viện Chiến lược và Phát triển Giao thông Vận tải đã đưa ra một trong những giải pháp quan trọng là phối hợp chặt chẽ giữa ngành giao thông và ngành du lịch trong việc xây dựng quy hoạch phát triển các tuyến vận tải khách biển, lồng ghép các chương trình, dự án đầu tư phát triển vận tải hành khách bằng đường biển với các dự án du lịch biển để tạo sự phát triển đồng bộ và đạt hiệu quả cao.
- Thứ tư, cần nâng cao nhận thức của cộng đồng dân cư sống ven biển về tài nguyên du lịch biển để họ nhận thấy rằng chính du lịch sẽ đem lại những điều tốt đẹp và đời sống kinh tế khá hơn cho người dân bằng nhiều hình thức, để từ đó họ có thể tham gia phát triển du lịch bền vững (thể hiện ở văn hoá du lịch, văn minh du lịch, giữ gìn vệ sinh môi trường, phát triển các hình thức dịch vụ, hướng tới khai thác giá trị du lịch biển lâu dài và biến du lịch thành nguồn lực chủ đạo trong phát triển kinh tế khu vực đó).
5. Nghề làm muối
5.1. Thực trạng
Nghề làm muối là một nghề có truyền thống lâu đời của Việt Nam, gắn chặt với biển và phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, thời tiết. Trong những năm qua, mặc dù điều kiện thời tiết không thuận, song nhờ những bước tiến mới trong công tác quy hoạch, đầu tư sản xuất muối, đặc biệt là muối công nghiệp, cho nên nghề muối Việt Nam đã phần nào giảm bớt những khó khăn. Cả nước hiện nay có 20 tỉnh thành có nghề sản xuất muối biển với tổng diện tích hơn 12 nghìn ha và sản lượng bình quân đạt từ 800 nghìn tấn đến 1,2 triệu tấn muối/năm, tạo việc làm cho hơn 90 nghìn lao động. Hiện nay, ngành muối Việt Nam đang tích cực triển khai các dự án xây dựng đồng muối công nghiệp, đổi mới công nghệ sản xuất muối, nhất là công nghệ sản xuất muối sạch, nhằm thực hiện được mục tiêu đến năm 2010 đạt 1,5 triệu tấn muối và đến năm 2020 đạt 2 triệu tấn, trong đó các đồng muối công nghiệp đảm bảo 53 – 67% tổng sản lượng muối tiêu thụ. Hoạt động đầu tư về vốn, công nghệ sản xuất trên đồng muối có nhiều chuyển biến tích cực theo hướng xã hội hoá. Ngoài nguồn vốn xây dựng cơ bản của ngành nông nghiệp dành để đầu tư một số dự án về muối, ngành muối đang tập trung tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào các dự án sản xuất, chế biến, tiêu thụ muối công nghiệp. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang đẩy mạnh cổ phần hoá toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước trong ngành muối; xây dựng chính sách đầu tư cho vùng muối để đảm bảo đáp ứng nhu cầu tiêu dùng muối của nhân dân, ngành Công nghiệp và các ngành khác.
Tuy nhiên, hiện nay ngành muối chưa hội tụ đủ các yếu tố để phát triển ổn định và bền vững vì nhiều nguyên nhân: diện tích quy hoạch các vùng sản xuất muối luôn bị thay đổi; một số địa phương vùng biển lại không mặn mà với nghề muối, đời sống của diêm dân nhiều vùng bấp bênh, vì diện tích đất dành cho sản xuất muối lớn, nhưng nguồn thu cho ngân sách lại không nhiều, nên lãnh đạo địa phương chưa quan tâm đầy đủ đến việc chỉ đạo và tạo nguồn vốn đầu tư phát triển ngành này cũng như hỗ trợ cho diêm dân; nhiều sức ép cạnh tranh, nhất là về chất lượng và giá cả, sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới. Hiện tại, phần lớn diện tích, sản lượng, lao động đang duy trì phương pháp sản xuất muối truyền thống đã có từ hàng trăm năm nay với phương tiện lạc hậu, thao tác thủ công, quy mô nhỏ, phân tán, cho nên năng suất và chất lượng sản phẩm thấp. Nhiều chủ trương, chính sách của Nhà nước đối với ngành muối trong thời gian qua hiệu lực thấp, bất cập và thiếu đồng bộ, như chính sách mua muối theo giá sàn, chính sách cho dân vay vào thời điểm giáp vụ để mua sắm vật tư, chuẩn bị sản xuất, củng cố quan hệ sản xuất qua chủ trương xây dựng các mô hình hợp tác xã muối kiểu mới, đầu tư chiều sâu nâng cấp cơ sở hạ tầng sản xuất để tăng năng suất, sản lượng..., tất cả đều chưa tạo ra được sự chuyển biến rõ ràng và tích cực. Sự vào cuộc của "bốn nhà" để lo đầu ra cho sản phẩm muối phần nhiều còn mang tính hình thức. Chẳng hạn, việc giao cho UBND các địa phương công bố giá sàn mua muối cho diêm dân ngay từ đầu vụ sản xuất là không khả thi vì UBND không đủ thông tin và căn cứ để đưa ra giá sàn hợp lý có tương quan với giá muối các địa phương bạn trên cùng khu vực và cả nước.
5.2. Chủ trương, biện pháp phát triển
Dự báo trong tương lai, cùng với sự phát triển nhanh chóng của các ngành công nghiệp, nông nghiệp, y tế, hoá chất, nhu cầu muối cho dân sinh và công nghiệp tối thiểu phải đạt 1,6-2 triệu tấn/năm. Để nhanh chóng phát triển nghề muối đáp ứng nhu cầu trong nước và tiến tới xuất khẩu, trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện các biện pháp sau đây:
- Tiếp tục hoàn thiện, bổ sung chính sách về đầu tư, khoa học và công nghệ, đào tạo nhân lực, xúc tiến thương mại cho ngành muối. Cụ thể là: tạo điều kiện thuận lợi cho diêm dân tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và tăng tỷ lệ hỗ trợ của Nhà nước cho người dân thông qua đầu tư cơ sở hạ tầng, đào tạo, xúc tiến thương mại; trao quyền cho UBND cấp tỉnh, huyện chủ động tổ chức đầu tư những dự án xây dựng đồng muối với số vốn đến hàng chục tỷ đồng; xem xét những đề xuất của ngành nông nghiệp về chính sách tăng hỗ trợ cho dân, như: hỗ trợ 50% vốn đầu tư thiết bị, công nghệ mới; đẩy nhanh tốc độ giao quyền sử dụng đất sản xuất muối; bố trí đủ vốn cho các dự án muối trọng điểm ở khu vực miền Trung.
- Tiếp tục tiến hành rà soát, quy hoạch các đồng muối và xây dựng đề án chuyển đổi những đồng muối không có hiệu quả và khả năng cạnh tranh thấp sang phát triển ngành, nghề khác theo quy định của Quyết định số 161/QĐ-TTg ngày 05/02/2007 của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch sản xuất muối đến năm 2010 và năm 2020, góp phần nâng cao đời sống của người dân ở vùng muối.
- Thực hiện đầu tư dứt điểm một số dự án nâng cấp, cải tạo khu vực sản xuất muối thuộc nhóm C đã có quyết định đầu tư từ năm 2000, 2001, nhưng còn kéo dài đến nay, tại vùng ven biển phía Bắc và đồng bằng sông Cửu Long
- Nghiên cứu xây dựng một số khu công nghiệp hoá học biển bao gồm các cơ sở sản xuất xút, axít clohydríc và các hoá chất cơ bản khác, khai thác nguồn nguyên liệu muối biển có sản lượng lớn và chất lượng cao ở ven biển các tỉnh từ Đà Nẵng đến Sóc Trăng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp lớn trong tương lai.
6. Kinh tế đảo
6.1. Thực trạng
Với hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ phân bố tập trung ở vùng ven bờ và các quần đảo ngoài khơi, nước ta có tiềm năng lớn để phát triển kinh tế hải đảo. Mỗi đảo là một "thỏi bạc", bên cạnh các giá trị cảnh quan nổi, quanh đảo còn quy tụ các hệ sinh thái quan trọng đối với nguồn lợi hải sản, đối với phát triển nghề cá và du lịch sinh thái biển. Ngoài ra, một số hòn đảo còn có lợi thế vị trí địa lý để phát triển dịch vụ cảng biển, hàng hải.
Tóm lại, các hải đảo của nước ta đa dạng, giàu tiềm năng, song cho đến nay chưa có tài liệu điều tra khảo sát, công trình nghiên cứu đầy đủ và toàn diện nào về hiện trạng, tiềm năng và khả năng phát triển của các hải đảo. Thế mạnh của các hải đảo chưa được đặt đúng vị trí trong chiến lược phát triển của đất nước. Vì vậy, nhiều đảo có điều kiện để phát triển nhanh chưa được đầu tư đúng mức và toàn diện. Một số đảo có điều kiện phát triển kinh tế thì chưa được quy hoạch, thiếu nguồn vốn, thiếu lao động. Một số đảo tiền tiêu chưa có dân sinh sống, chưa có chính sách khuyến khích thích đáng những người lao động ra sinh sống ở tuyến đảo. Trình độ văn hoá, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân nhiều đảo còn thấp kém, còn thiếu nhà trẻ, trường học, bệnh viện, nước ngọt, điện, phương tiện thông tin truyền hình, công cụ để sản xuất.
Trong nhiều năm qua, kinh tế hải đảo tiến triển một cách tự phát theo nhu cầu mưu sinh của người dân mà thiếu chiến lược rõ ràng của Nhà nước. Thực tế, người dân ra đảo "định cư" vì sinh kế, do đó thường có tâm lý "có cái gì khai thác cái đó" nên hiện tượng phá rừng trên đảo, khai thác hải sản quá mức... diễn ra khá phổ biến. Thí dụ, đảo Cát Bà từng có cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp nhưng do quy hoạch, quản lý xây dựng kém nên trên đảo đã xuất hiện một "Hải Phòng thu nhỏ" với những dãy nhà ống đơn điệu. Nguồn lợi hải sản cũng bị cạn kiệt nhanh chóng. Số lượng loài hải sản có mức độ nguy cấp đưa vào Sách đỏ Việt Nam ngày càng tăng. Nghiên cứu của Viện Tài nguyên thế giới công bố năm 2002 cho thấy, 80% hệ sinh thái biển nằm trong tình trạng rủi ro, trong đó 50% là rủi ro cao. Các nhà khoa học cảnh báo, biển Việt Nam có nguy cơ trở thành thủy mạc, không còn tôm cá. Hệ quả là sinh kế của hơn 20 triệu người dân sống ở các đảo và ven biển bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đời sống của họ vẫn nằm trong cái vòng luẩn quẩn: nhu cầu sinh kế - khai thác quá mức - cạn kiệt nguồn lợi - nghèo khó...
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện trạng nêu trên, trong đó phải kể đến việc thiếu quy hoạch tổng thể cũng như các quy hoạch chi tiết về phát triển kinh tế - xã hội hải đảo. Do thiếu quy hoạch, cho nên từ cấp Trung ương đến cấp địa phương chưa có chính sách và biện pháp quản lý hải đảo phù hợp. Việc áp dụng mang tính dập khuôn mô hình quản lý kinh tế - xã hội trong đất liền cho hải đảo là không phù hợp, bởi vì không gian kinh tế biển đảo hoàn toàn khác không gian kinh tế trong đất liền. Hơn nữa, vì biển và hệ thống đảo trải dài qua nhiều vùng tự nhiên nên thế mạnh của từng vùng biển, từng hòn đảo có khác nhau. Nếu các nhà quy hoạch, các nhà hoạch định chính sách và các nhà quản lý biển đảo không tìm ra được tính đặc thù của từng hòn đảo thì khó có thể phát triển kinh tế hải đảo thành công.
6.2. Chủ trương và biện pháp phát triển
Công việc quan trọng nhất hiện nay là phải xây dựng quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết về phát triển kinh tế hải đảo, từ đó đưa ra những chính sách và biện pháp quản lý phù hợp. Tiến hành xây dựng chiến lược phát triển kinh tế hải đảo gắn với an ninh quốc phòng. Cần nghiên cứu để xác định các nhóm đảo dành cho quốc phòng, nhóm đảo cho phát triển dân sự gắn với quốc phòng và nhóm đảo thuần về dân sự. Đồng thời, cần có chính sách riêng cho hệ thống đảo và từng hòn đảo; chính sách phải nhắm đến thu hút đầu tư, mở cửa cho cả nhà đầu tư nước ngoài, áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ cho các lĩnh vực kinh tế biển trong đó có việc giải quyết nguồn nước ngọt, sử dụng các nguồn năng lượng gió, mặt trời...
Căn cứ vào vị trí địa lý, điều kiện khí hậu, dân cư, tập quán và tổ chức sản xuất có thể chia làm ba nhóm đảo sau đây: (1) nhóm đảo tiền tiêu; (2) nhóm đảo ven bờ; và (3) nhóm đảo có diện tích lớn, cơ sở hạ tầng và dân cư tương đối ổn định. Đối với từng nhóm đảo, định hướng phát triển thể hiện ở một số nội dung sau đây:
- Nhóm các đảo tiền tiêu bao gồm các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, đảo Trần, Bạch Long Vĩ, Cồn Cỏ, Phú Quí, Côn Đảo, Thổ Chu... Đây là các pháo đài, các căn cứ nổi, cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai tài nguyên biển, phát triển kinh tế và bảo vệ vùng biển.
- Nhóm các đảo ven bờ là cơ sở hậu cần hết sức thuận lợi cho nghề cá nhân dân, bao gồm nuôi trồng và khai thác hải sản. Đó cũng là nơi trú đậu của các tàu thuyền tránh gió bão, là vùng trọng yếu trong việc bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản, là nơi để phát triển du lịch và du lịch sinh thái. Tuỳ theo khí hậu, thời tiết và các vùng sinh thái của các đảo mà đầu tư phát triển nuôi và khai thác yến sào, nuôi cá biển, bào ngư, hải sâm, trai ngọc, đồi mồi... Một số đảo có khả năng xây dựng các Vườn Quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên kết hợp với kinh doanh du lịch và sản xuất nông nghiệp, trồng rừng... Đa số các đảo còn lại là núi đá, đảo san hô... cần có điều tra quy hoạch, tổng kết các mô hình để nhân rộng và phát triển hợp lý.
- Nhóm các đảo lớn đã có dân cư, cơ sở hạ tầng, cơ sở kinh tế, có nghề nghiệp và đời sống ổn định đã được Nhà nước đưa vào hệ thống các huyện đảo gồm Cô Tô (Cẩm Phả - Quảng Ninh); Cát Hải, Cát Bà (huyện Cát Hải), Bạch Long Vĩ (Hải Phòng); Cù Lao Ré (Quảng Ngãi); Phú Quí (Bình Thuận); Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu); Kiến Hải, Phú Quốc (Kiên Giang); Trường Sa (Khánh Hoà)..., cần được đầu tư thích đáng để trở thành những thành phố trên biển, thị trấn, thị tứ, các trung tâm kinh tế biển sầm uất và giàu mạnh phục vụ cho việc di chuyển ngư trường theo mùa vụ, phát triển kinh tế tổng hợp: công- nông- lâm nghiệp, giao thông vận tải biển. Đồng thời, đây cũng là cơ sở hậu cần để vươn ra khai thác tài nguyên ở vùng biển đặc quyền kinh tế.
7. Các lĩnh vực kinh tế biển khác
Một số lĩnh vực kinh tế biển khác như cứu nạn trên biển, thông tin liên lạc biển, khoa học, giáo dục, đào tạo biển... trong những năm qua cũng được các cấp, các ngành quan tâm đầu tư, tạo cơ hội phát triển. Tuy nhiên, nhìn chung các lĩnh vực này còn kém phát triển (so với các lĩnh vực khác và so với các nước trong khu vực và trên thế giới), đóng góp chưa nhiều cho phát triển kinh tế biển nói chung. Để thực hiện được mục tiêu Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, trong những năm tới, những lĩnh vực này đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Trong quá trình chuyển đổi từ "khai thác giá trị vật chất biển" sang "khai thác chức năng biển"... thì các lĩnh vực như điều tra cơ bản về biển, khoa học- công nghệ biển, giáo dục- đào tạo biển đóng vai trò then chốt. Vì vậy, trong quá trình hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách, biện pháp phát triển kinh tế biển, cần quan tâm thoả đáng đến phát triển những ngành này, nâng cao những đóng góp của chúng vào phát triển kinh tế biển nói chung.
C. CHỦ TRƯƠNG, BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÙNG VEN BIỂN VÀ QUẢN LÝ, KHAI THÁC VÙNG BIỂN QUỐC GIA
1. Phát triển kinh tế vùng ven biển
Như đã đề cập, vùng ven biển Việt Nam có 29 tỉnh, thành phố gồm: 124 huyện, thị xã với 612 xã, phường (trong đó có 12 huyện đảo, 53 xã đảo) với khoảng 20 triệu người sống ở ven bờ và 17 vạn người sống ở các đảo. Đây là một vùng lãnh thổ bao la, rộng lớn, trải dài trên khắp các vùng, miền của đất nước. Để phát triển kinh tế biển, một mặt cần thực hiện các chủ trương, biện pháp phát triển mạnh các lĩnh vực kinh tế biển như đã nêu trên đây. Mặt khác, cần thực hiện tốt quy hoạch, các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế vùng ven biển. Cụ thể là:
1.1. Thực hiện công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng- an ninh các vùng biển và ven biển
- Tiến hành quy hoạch các trung tâm phát triển ra biển và các khu vực biển, đảo có khả năng đột phá trong phát triển kinh tế như Móng Cái, Vân Đồn, Nghi Sơn, Vũng Áng, Đà Nẵng, Dung Quất – Chu Lai, Vân Phong, Phú Quốc, Côn Đảo, Phú Quý...
- Công tác quy hoạch phải trên cơ sở của kinh tế thị trường, có tầm nhìn dài hạn, hiện đại, theo những tiêu chuẩn phù hợp với quốc tế và khu vực. Đồng thời, phải tiến hành một cách có hiệu lực và hiệu quả công tác quản lý quy hoạch nhằm đảm bảo sự phát triển hài hoà, bền vững và đúng định hướng.
- Trong quy hoạch, cần quán triệt quan điểm coi vùng duyên hải gắn với kinh tế biển là vùng động lực để mở cửa, thúc đẩy phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đẩy mạnh phát triển những cơ sở công nghiệp chế biến các sản phẩm từ biển.
1.2. Chính sách khuyến khích đầu tư phát triển kinh tế ven biển
- Tập trung đầu tư mạnh cho phát triển kinh tế các tỉnh ven biển, đặc biệt là kết cấu hạ tầng, các khu công nghiệp, cảng biển, các cơ sở sản xuất. Tập trung đầu tư đủ mức, đồng bộ và dứt điểm để sớm đưa vào hoạt động, phát huy cao nhất năng lực khai thác và đạt hiệu quả cao.
- Đẩy mạnh công tác xã hội hoá đầu tư cho phát triển kinh tế vùng ven biển. Khuyến khích mạnh các hình thức đầu tư phát triển kinh tế biển, kể cả các công trình thuộc kết cấu hạ tầng lớn như cảng biển, đường giao thông, các khu đô thị, khu công nghiệp... của mọi loại hình sở hữu, bao gồm cả hình thức BOT, BT,...
1.3. Hình thành các trung tâm kinh tế biển mạnh ở mỗi vùng, miền
- Ở vùng biển phía Bắc, cùng với việc hợp tác với Trung Quốc xây dựng vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ, cần đẩy nhanh tốc độ xây dựng khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái, các khu kinh tế Hải Hà, Vân Đồn, nối với Hạ Long, Hải Phòng và xây dựng tuyến đường cao tốc ven biển vùng đồng bằng Bắc Bộ, tạo ra một sức bật mới, mạnh mẽ của cả vùng để kết nối với hai tuyến hành lang cùng đẩy nhanh tốc độ phát triển.
- Vùng biển miền Trung với điểm nhấn là cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong, cùng với Đà Nẵng, Dung Quất, Chu Lai, Nha Trang... hình thành hệ thống trung tâm phát triển kinh tế biển mạnh của miền Trung.
- Vùng biển phía Nam lấy việc phát triển Phú Quốc thành trung tâm giao thương quốc tế, trở thành trung tâm du lịch sinh thái đảo- biển lớn của cả nước và khu vực để cùng với Vũng Tàu, Rạch Giá, Trường Sa thành những trung tâm hạt nhân phát triển các lĩnh vực của vùng liên quan đến biển.
1.4. Chính sách khuyến khích người dân ra biển làm kinh tế
Thực hiện các chủ trương, biện pháp như đã nêu trong mục 6.2 của phần B. Đồng thời, cần có các chính sách tạo điều kiện thuận lợi, thu hút mạnh mẽ nhân dân ra làm ăn, sinh sống lâu dài trên các đảo và lao động dài ngày trên biển, góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo của quốc gia.
1.5. Chính sách đảm bảo an toàn, an ninh cho các hoạt động kinh tế biển
- Đầu tư cho hệ thống dự báo thời tiết khí hậu, nhất là bão, sóng thần, hình thành các trung tâm tránh bão, các trung tâm quan sát và cung cấp thông tin cho người dân hoạt động trên biển cũng như người dân các tỉnh ven biển.
- Hình thành lực lượng đủ mạnh để hỗ trợ một cách tích cực, có hiệu quả cao cho ngư dân khi gặp nạn. Bảo đảm cho mọi lực lượng hoạt động trên biển được an toàn, an ninh. Đồng thời, cần chú trọng phát triển các hoạt động bảo hiểm cho lĩnh vực kinh tế biển.
- Đầu tư cho các hoạt động tìm kiếm, cứu nạn trên biển. Phối hợp, kết hợp mọi nguồn lực để nâng cao hiệu quả, ưu tiên các hoạt động để cứu người bị nạn và bảo vệ môi trường. Chủ động xây dựng các phương án chuẩn bị sẵn sàng lực lượng hoạt động ứng phó theo từng khu vực, từng tính chất vụ, việc. Tổ chức thu nhận, xử lý thông tin báo nạn kịp thời, ưu tiên bảo đảm thông tin cho hoạt động ứng phó, báo cáo kịp thời đến cấp có thẩm quyền khi xét thấy tình huống vượt quá khả năng của lực lượng ứng cứu. Chỉ huy thống nhất, phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ các lực lượng, phương tiện hoạt động trên biển tham gia cứu nạn khi có tình huống.
2. Quản lý và khai thác vùng biển quốc gia
Như đã phân tích ở các phần trên, biển Việt Nam có tiềm năng to lớn cho phát triển kinh tế, tuy nhiên chúng ta chưa khai thác biển một cách có hiệu quả. Biển là mênh mộng và rộng lớn, nhưng hoạt động kinh tế biển nước ta vẫn xoay quanh và bó hẹp ở ven bờ, chưa tham gia hoặc mở rộng hoạt động ra khỏi hải phận quốc gia và tiến ra "biển lớn". Giá trị dịch vụ ngoài biên giới quốc gia (vùng biển quốc tế, hoạt động viễn dương và khai thác đại dương...) của nền kinh tế biển thế giới chiếm phần rất quan trọng. Theo đánh giá của các nhà hoạch định chính sách, đối với các nước phát triển, chỉ 1 km biển họ có thể khai thác thu về 100.000 USD, trong khi Việt Nam chỉ kiếm được 20.000 USD. Sở dĩ có sự chênh lệch lớn như thế là vì các nước phát triển tập trung khai thác "chức năng biển", trong khi đó Việt Nam mới tập trung khai thác "giá trị vật chất biển". Biển có giá trị vật chất và giá trị chức năng nhưng từ trước đến nay chúng ta chủ yếu khai thác giá trị vật chất. Thực tế ấy khiến cho chúng ta không những không khai thác được hết giá trị của biển mà còn dẫn đến hệ quả là sự phát triển của kinh tế biển trong những năm qua diễn ra một cách tự phát, manh mún, tác động xấu đến tính bền vững của vùng biển và ven biển nước ta.
Có nhiều nguyên nhân đã được nêu ra, trong đó, theo đánh giá của các chuyên gia của Bộ Tài nguyên và Môi trường, nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên là do trình độ kỹ thuật của các ngành kinh tế biển ở nước ta còn rất thấp. Hầu hết, các ngành, nghề mới được trang bị kỹ thuật, công nghệ thông thường và lạc hậu xa so với những nước đã có kinh tế biển phát triển. Bên cạnh đó, nền khoa học công nghệ biển nước ta còn yếu; tiềm lực khoa học công nghệ về biển chưa được xây dựng đủ mức, đủ tầm; công tác nghiên cứu khoa học biển chưa có quy hoạch, kế hoạch và thiếu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước; chất lượng nghiên cứu khoa học còn ở mức độ thấp, chưa đủ cơ sở để làm căn cứ xác định chiến lược phát triển dài hạn và điều chỉnh, bổ sung các chính sách phát triển kinh tế biển. Thời gian gần đây, môi trường biển và vùng biển ven bờ ở nhiều nơi bị ô nhiễm, đặc biệt ở các vùng biển tập trung phát triển công nghiệp, vận tải biển và công nghiệp ven bờ. Hiện tượng đánh bắt hải sản bằng chất nổ, bằng điện vẫn xảy ra, đe dọa sự phát triển bền vững của môi trường biển.
Thực tế trên đặt ra vấn đề cấp bách là cần phải đổi mới tư duy và có giải pháp hữu hiệu về khai thác và quản lý biển nhằm nâng cao hiệu quả và tính bền vững của những hoạt động này. Trước hết, Việt Nam cần xây dựng các chiến lược bao quát những vấn đề cơ bản về quản lý, khai thác biển một cách có hiệu quả. Nổi bật là chiến lược tìm kiếm, bảo vệ, khai thác nguồn lợi biển và ven bờ; chiến lược ngành, nghề; chiến lược an ninh; chiến lược bảo vệ và làm giàu môi trường biển; chiến lược khoa học công nghệ biển; chiến lược xây dựng nguồn nhân lực; chiến lược hợp tác khu vực quốc tế; chiến lược quản lý thống nhất biển quốc gia và tổ chức thực hiện chiến lược. Để làm được việc đó, chúng ta cần đánh giá tổng thể và đầy đủ tiềm năng lợi ích của biển trong khung cảnh động, gắn với thành tựu phát triển khoa học công nghệ. Tất cả phải được đo lường lại bằng một tầm nhìn hiện đại toàn bộ các lợi thế về nguồn lợi mặt biển, tài nguyên trong lòng biển, bờ biển, thậm chí cả không gian bầu trời trên biển. Muốn thế, công tác điều tra cơ bản về tài nguyên - môi trường biển phải đi trước một bước, tạo ra hệ thống thông tin cơ sở tin cậy, phục vụ việc hoạch định các chính sách phát triển biển; đồng thời, phải tiến tới xây dựng được tiềm lực khoa học công nghệ biển đủ sức làm tiền đề tạo ra những khâu đột phá trong phát triển biển và phát triển hệ thống dự báo, phòng, chống thiên tai.
Thứ hai, Việt Nam cần hoạch định và thực hiện đầy đủ, đồng bộ, có hiệu quả các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế các vùng ven biển như đã nêu trong mục 1 phần C. Trong đó, quan trọng nhất là các chính sách khuyến khích mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư dưới mọi hình thức để phát triển kinh tế biển.
Thứ ba, chúng ta phải ưu tiên giải quyết vấn đề thiết chế tổ chức quản lý Nhà nước về biển để sớm có một chủ thể quản lý biển đủ quyền lực, khắc phục hiện tượng đầu tư phát triển kém hiệu quả. Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường được giao chức năng quản lý tổng hợp và thống nhất về biển. Để thực hiện chức năng này, Bộ cần thành lập một tổ chức trực thuộc Bộ (Tổng cục hoặc Cục), giúp Bộ thực hiện nhiệm vụ quản lý ngành tổng hợp về biển, đảo. Trong thời gian trước mắt, Bộ Tài nguyên Môi trường phải làm đầu mối, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương liên quan tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm như: xây dựng cơ quan quản lý Nhà nước về biển, đảo, bảo đảm quản lý biển, đảo có hiệu lực, hiệu quả; xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về biển, đảo; đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về tài nguyên, môi trường biển, hệ thống thông tin, quan sát và cảnh báo thiên tai trên biển; hạn chế, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường biển; bảo vệ và phát triển bền vững các hệ sinh thái biển và ven biển; xây dựng các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các vùng biển và ven biển, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh trên biển. Bộ phải đóng vai trò "nhạc trưởng" của cơ quan quản lý nhà nước về biển, tức là phải tập hợp được các Bộ, ngành và địa phương liên quan để phối hợp giải quyết các vấn đề trên biển nhằm thực hiện được việc tham mưu và quản lý Nhà nước theo các luật chuyên ngành; hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ, bảo đảm tính thống nhất chung toàn lĩnh vực trong phạm vi cả nước.
Cuối cùng, Việt Nam cần xác định rõ nhiệm vụ cho các lĩnh vực kinh tế biển then chốt đến năm 2020, nhanh chóng thoát khỏi lối tư duy "khai thác, đào bới", tiếp đó là xác định nhiệm vụ các ngành phụ trợ cho kinh tế biển. Thực hiện các chủ trương, biện pháp phát triển các lĩnh vực kinh tế biển như đã trình bày trong mục 2 phần B của chuyên đề này.
D. KẾT LUẬN
Việt Nam, đất nước nằm bên bờ Biển Đông, là một đất nước đã có lịch sử phát triển lâu dài luôn gắn liền với biển. Ngày nay, biển chứa đựng nhiều tiềm năng to lớn để phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam, đáng chú ý là những lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên khoáng sản và nguồn lực con người. Trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua, nhận thức tầm quan trọng của biển đối với sự phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành và thực thi nhiều chủ trương, chính sách quan trọng nhằm khai thác các tiềm năng, các lợi thế của biển để phát triển kinh tế và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. So với thời kỳ trước, kinh tế biển của Việt Nam trong giai đoạn đổi mới vừa qua đã có bước chuyến biến đáng kể. Cơ cấu ngành, nghề đang có sự thay đổi lớn. Ngoài các ngành nghề truyền thống, đã xuất hiện nhiều ngành, kinh tế biển gắn với công nghệ - kỹ thuật hiện đại. Việc khai thác nguồn lợi biển đã có đóng góp quan trọng cho sự phát triển của đất nước, nhất là cho xuất khẩu. Kinh tế biển đã được chú ý hơn và các công việc về biển đã làm được nhiều hơn (hoạch định biên giới trên biển, ban hành khung luật pháp, phát triển các hải đảo kết hợp bảo vệ quốc phòng, an ninh trên biển)...
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, các lĩnh vực kinh tế biển còn kém phát triển ở nhiều mặt, việc quản lý và khai thác biển kém hiệu quả, gây lãng phí tiềm năng của biển... Thế kỷ 21 được thế giới xem là "Thế kỷ của đại dương", nhiều quốc gia trên thế giới đang hướng mạnh ra biển để phát triển, để hội đủ ba thế mạnh: mạnh về kinh tế biển; mạnh về khoa học biển; và mạnh về thực lực quản lý tổng hợp biển. Việt Nam không phải là ngoại lệ, việc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa X thông qua Nghị quyết 09-NQ/TW ngày 9/2/2007 về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã cho thấy quyết tâm của Việt Nam đi theo xu hướng trên. Nghị quyết đã xác định rõ mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn.
Để thực hiện thắng lợi Chiến lược biển, cần nâng cao nhận thức của toàn Đảng, toàn dân về vị trí, vai trò của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng cơ sở luật pháp và lực lượng nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền và an ninh trên biển; đẩy mạnh điều tra cơ bản và phát triển khoa học – công nghệ biển; triển khai công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh các vùng biển và ven biển; tiếp tục xây dựng đồng bộ khung khổ pháp lý về biển và hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển và vùng ven biển; xây dựng cơ quan quản lý nhà nước có hiệu lực, hiệu quả đối với mọi vấn đề liên quan đến biển; tăng cường công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế về biển; phát triển nguồn nhân lực và phát triển một số tập đoàn kinh tế mạnh trong lĩnh vực kinh tế biển.
Riêng về phát triển kinh tế biển, cần tập trung vào một số định hướng biện pháp chính sau đây:
- Huy động và phát huy tốt tất cả các nguồn lực để khai thác tối đa mọi tiềm năng và lợi thế nhiều mặt của biển, tạo sự chuyển biến cơ bản, toàn diện về kinh tế biển, hướng mạnh về xuất khẩu, góp phần tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển.
- Tạo bước "nhảy vọt" trong phát triển kinh tế biển, kết hợp kinh tế ven biển, kinh tế trên biển và kinh tế hải đảo theo một chương trình liên kết có hiệu quả và hiệu lực cao.
- Phát triển và hiện đại hoá có trọng tâm, trọng điểm và bước đi thích hợp, có tính tới hợp tác quốc tế và hội nhập quốc tế.
- Kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với an ninh quốc gia, đảm bảo sự phát triển bền vững của vùng biển, ven biển và các hải đảo.
12.
Ý ĐỊNH BÀI GIẢNG
Lời mở đầu
Tiềm năng biển Việt Nam là một lợi thế lớn, là niềm tự hào của đất nước trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) đã vạch ra chiến lược tổng thể cùng những mục tiêu biện pháp cụ thể trở thành công cụ dẫn đường kịp thời và đắc lực để phát huy vững chắc và hiệu quả tiềm năng đó.
I. Mục đích yêu cầu:
1. Mục đích
- Nhằm trang bị cho người học những nội dung cơ bản về chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020.
- Làm chuyển biến nhận thức, nâng cao trách nhiệm công dân trong bảo vệ, khai thác có hiệu quả tiềm năng của biển góp phần thực hiện thắng lợi chiến lược biển đến năm 2020.
2. Yêu cầu
- Người học tập trung nghe giảng, ghi chép năm chắc những nội dung cơ bản của chiến lược biển đến năm 2020.
- Vận dụng vào thực tiễn công tác, nâng cao ý thức trách nhiệm phát hiện, ngăn chặn các hành vi làm ảnh hưởng, thất thoát tài nguyên biển.
II. Nội dung
1. Cơ sở xây dựng chiến lược Biển Việt Nam
2. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về chiến lược biển đến năm 2020
Trọng tâm: Phần 2
III. Thời gian: 4 giờ ( lên lớp 3 giờ; 1 giờ nghiên cứu thảo luận )
IV. Phương pháp: Vận dụng tổng hợp các phương pháp, trong đó sử dụng thuyết trình là chủ yếu và kết hợp trao đổi với người học.
+ Tài liệu tham khảo:
1. Nội dung cơ bản của chiến lược biển Việt Nam.
2. Nội dung cơ bản của Luật biển Việt Nam năm 2012.
3. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, X.
NỘI DUNG
* Khái quát:
Việt Nam có diện tích hơn 330,000 km² bao gồm khoảng 327.480 km² đất liền và hơn 4.200 km² biển nội thuỷ, với hơn 4.000 hòn đảo, bãi đá ngầm lớn nhỏ, gần và xa bờ, có vùng nội thuỷ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa xác định gần gấp ba lần diện tích đất liền khoảng trên 1 triệu km².28 trong số 64 tỉnh/thành phố nước ta nằm ven biển, diện tích các huyện ven biển chiếm 17% tổng diện tích cả nước và là nơi sinh sống của hơn 1/5 dân số cả nước.
Hội nghị lầ thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thông qua Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020. Thời gian và các mục tiêu cương lĩnh của Đảng và nghị quyết các Đại hội Đảng IX, X: Đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Việc triển khai thực hiện Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
Trong Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, phải phấn đấu để nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, góp phần giữ vững ổn định và phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế – xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường; có chính sách hấp dẫn nhằm thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế biển; xây dựng các trung tâm kinh tế lớn vùng duyên hải gắn với các hoạt động kinh tế biển làm động lực quan trọng đối với sự phát triển của cả nước. Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế biển đóng góp khoảng 53 – 55% GDP, 55 – 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống của nhân dân vùng biển và ven biển.
I. Cơ sở xây dựng chiến lược Biển Việt Nam
Một là, biển có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển và an ninh của các nước có biển nói riêng và của thế giới nói chung.
+ Các nước có biển luôn vươn ra biển, khai thác và phát huy tiềm năng của biển. Tài nguyên biển và lợi thế do biển mang lại hứa hẹn nhiều triển vọng to lớn.
+ Với sự tăng trưởng kinh tế và dân số hiện nay, nguồn tài nguyên thiên nhiên nhất là tài nguyên không tái tạo được trên đất liền đang được khai thác với quy mô và tốc độ ngày càng cao sẽ bị cạn kiệt nhanh chóng.
Ví dụ: có thể xem giá dầu mỏ hiện nay là nhân tố chính quyết định nền kinh tế và hoà bình của toàn thế giới. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Hãng British Petroleum, nếu với tốc độ khai thác như bây giờ thì trữ lượng dầu mỏ đã được thăm dò của Canada, Việt Nam và Anh sẽ cạn kiệt sau 16 năm, Nauy – 8 năm, Mỹ – 11 năm, Turkmenistan – 12 năm, Nga – 19 năm, Kazakhstan – 27 năm, Mêhicô – 21 năm, Nigiêria – 20 năm và Qatar – 55 năm. Trữ lượng dầu mỏ của Ảrập Xêút còn khai thác được 85 năm, Các tiểu Vương quốc Ả rập thống nhất – 114 năm, Kuwait – 127 năm và Irắc – 128 năm.
+ Biển chứa đựng nguồn tài nguyên dồi dào nước ta 3 mặt giáp biển, đặc biệt trong đó Biển Đông đóng vai trò sống còn. Đây là một trong 6 biển lớn nhất của thế giới, nối hai đại dương là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, có 9 quốc gia bao bọc: Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia, Singapore, Thái Lan và Campuchia.
+ Biển Việt Nam có hơn 2000 loài cá, trong đó có gần 130 loài cá giá trị kinh tế cao và hàng trăm loài được đưa vào sách đỏ VN và thế giới, 1600 loài giáp xác, 2500 loài thân mềm, cho khai thác 45000-50000 tấn rong biển ... Kinh tế thuỷ sản tăng trưởng liên tục bình quân 5-7%/năm, giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản năm 2006 tăng 250 lần so với năm 1981. Năm 2006, tổng sản lượng thuỷ sản đạt gần 3,7 triệu tấn, chủ yếu khai thác từ biển (1,8 triệu tấn) và nuôi nước lợ (1 triệu tấn). Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản năm 2000 đạt 1 tỉ USD, năm 2002 là 2 tỉ USD, 2005 đạt 2,5 tỉ USD, 2006 là 3,7 tỉ USD, và năm 2007 đạt 4,2 tỉ USD, hiện Việt Nam là 1 trong 10 nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu thuỷ sản. Biển Việt Nam có trữ lượng dầu khí lớn. Đã thăm dò chủ yếu 6 mỏ Bạch Hổ, Rồng, Đại Hùng, Hồng Ngọc, Rạng Đông, Bunga Kekwa – Cái Nước , Lan Tây ... 1,2 tỷ m3 dầu , 2.800 tỷ m3 khí. Dọc bờ biển có hơn 100 địa điểm có thể xây dựng cảng, trong đó có nhiều nơi có thể xây dựng cảng trung chuyển quốc tế; có nhiều đảo có tiềm năng phát triển kinh tế tổng hợp. Ngoài ra, biển nước ta còn có 125 bãi biển đẹp... là điều kiện lý tưởng để xây dựng các khu nghỉ mát, nghỉ dưỡng, du lịch cao cấp. Các nước lớn đều có chiến lược biển, tăng cường mọi mặt khai thác biển.
Hai là, vị trí của Việt Nam nằm trên tuyến hàng hải quan trọng theo vị trí địa lý, thông thương với nhiều trung tâm vận tải của thế giới.
+ Đây cũng là con đường chiến lược của giao thương quốc tế, có 5/10 tuyến đường hàng hải lớn nhất của hành tinh đi qua. Hàng năm, vận chuyển qua biển Đông là khoảng 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu từ Trung Đông và Đông Nam Á, khoảng 45% hàng xuất của Nhật, và 60% hàng xuất nhập khẩu của Trung Quốc. Theo những nghiên cứu do Sở môi trường và các nguồn lợi tự nhiên Philippine, vùng biển này chiếm một phần ba toàn bộ đa dạng sinh học biển thế giới, vì vậy nó là vùng rất quan trọng đối với hệ sinh thái.
+ Đặc biệt biển, đảo có vai trò vị trí hết sức quan trọng đối với an ninh Quốc phòng. Trong lịch sử trong 14 cuộc chiến tranh với nước ngoài thì có đến 10 cuộc xâm lăng qua đường biển vào nước ta. Quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và thềm lục địa phía Nam có vị trí tiền tiêu, tạo thành vòng cung án ngữ bảo vệ tổ quốc ở phía Đông. Phần lục địa nước ta không có nơi nào cách xa biển trên 500 km, nên biển có thể phát huy ảnh hưởng đến mọi miền đất nước. Dải ven biển nước ta không chỉ tạo ra lợi thế "mặt tiền hướng biển" để mở cửa thông thương với thế giới bên ngoài, mà còn có thể kết nối biển với vùng lãnh thổ đông nam Trung Quốc, Lào, đông bắc Thái Lan và Cam-pu-chia thông qua hệ thống cảng biển, đường sắt và đường bộ. Điều này rất hữu ích để phát triển dịch vụ "quá cảnh" cho các nước hoặc các vùng lãnh thổ không có biển nói trên, cũng như các dịch vụ hàng hải và tìm kiếm cứu nạn trên biển. Như vậy, các vấn đề biển của nước ta sẽ vừa chứa đựng yếu tố quốc gia, vừa chứa đựng yếu tố quốc tế.
Ba là, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có một số nghị quyết, chính sách về các lĩnh vực liên quan đến biển.
+ Kinh tế biển và khu vực ven biển đang chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong nền kinh tế.
Ví dụ: Trong giai đoạn 1954-1960 Bác Hồ đã nói "Biển bạc của ta do nhân dân ta làm chủ" khi Người về thăm làng cá Tuần Châu (Quảng Ninh) và Cát Bà (Hải Phòng). Hiến pháp nước ta năm 1992 khẳng định chủ quyền và quyền chủ quyền của nước ta trên biển (Điều 1). Nghị quyết 03-NQ/Trung ương của Bộ Chính trị ngày 6/5/1993 chỉ rõ: "Vị trí và đặc điểm địa lý của nước ta cùng với bối cảnh phức tạp trong vùng vừa tạo điều kiện, vừa đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia, bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái biển. Phấn đấu trở thành một nước mạnh về kinh tế biển". Quan điểm chính trị đó đã tiếp tục được cụ thể hoá trong nghị quyết Đại hội VIII, IX "Phát triển mạnh kinh tế biển vừa toàn diện, vừa có trọng tâm, trọng điểm với những ngành có lợi thế so sánh để đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế" (Phương hướng 5 năm 2006-2010).
=> Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 chiến lược đã đề ra hàng loạt phương hướng, nhiệm vụ cơ bản và giải pháp chủ yếu tiến ra biển xa là chiến lược toàn diện nhằm phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
II. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về chiến lược biển đến năm 2020
Một là, nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn.
Quan điểm này làm động lực cho phát triển kinh tế biển đã được định hướng tập trung trên một số lĩnh vực quan trọng:
Về kinh tế - xã hội:
- Đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản về tài nguyên biển và bảo vệ môi trường biển; phát triển khoa học - công nghệ biển; xây dựng kết cấu hạ tầng biển gắn với phát triển mạnh các ngành dịch vụ; xây dựng tuyến đường ven biển, trong đó có một số đoạn cao tốc và các tuyến vận tải cao tốc trên biển.
- Hình thành một số lĩnh vực kinh tế mạnh gắn với xây dựng các trung tâm kinh tế để ra biển, làm động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Đến năm 2020, phát triển thành công, có bước đột phá về kinh tế biển, ven biển gồm: khai thác, chế biến dầu khí; kinh tế hàng hải; khai thác và chế biến hải sản; phát triển du lịch biển và kinh tế hải đảo; xây dựng các khu kinh tế, các khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất ven biển gắn với phát triển các khu đô thị ven biển. Trước mắt, sẽ tập trung đầu tư phát triển du lịch biển, xây dựng cảng biển, phát triển công nghiệp đóng tàu, phát triển những ngành dịch vụ mũi nhọn như vận tải biển, các khu kinh tế ven biển; tạo các điều kiện cần thiết bảo đảm an ninh, an toàn cho người dân hoạt động, sinh sống trên biển, đảo và ở những vùng thường bị thiên tai.
Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng - an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường; kết hợp giữa phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Về chiến lược quốc phòng, an ninh, đối ngoại phải phát huy sức mạnh tổng hợp, giữ vững độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, vùng trời Tổ quốc. Kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp đấu tranh chính trị, ngoại giao, pháp lý, kinh tế, quốc phòng trong quản lý vùng trời, bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc gắn với thế trận an ninh nhân dân. Xây dựng lực lượng vũ trang, nòng cốt là hải quân, không quân, cảnh sát biển, biên phòng, dân quân tự vệ biển mạnh, làm chỗ dựa vững chắc cho ngư dân và các thành phần kinh tế sản xuất và khai thác tài nguyên biển. Sớm xây dựng chính sách đặc biệt để thu hút và khuyến khích mạnh mẽ nhân dân ra đảo định cư lâu dài và làm ăn dài ngày trên biển, phát triển kinh tế kết hợp làm nhiệm vụ bảo vệ vùng biển của Tổ quốc.
Về phát triển khoa học - công nghệ biển : Xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ biển đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới, phục vụ hiệu quả quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đẩy mạnh nghiên cứu và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ứng dụng khoa học - công nghệ, phục vụ công tác điều tra cơ bản, dự báo thiên tai và khai thác tài nguyên biển; nhanh chóng nâng cao tiềm lực khoa học - công nghệ cho nghiên cứu và khai thác tài nguyên biển, đáp ứng được yêu cầu giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Về xây dựng kết cấu hạ tầng biển : Phát triển mạnh hệ thống cảng biển quốc gia, xây dựng đồng bộ một số cảng đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế, đặc biệt chú trọng các cảng nước sâu ở cả ba miền của đất nước, tạo những của mở lớn vươn ra biển thông thương với thế giới. Tăng cường đầu tư chiều sâu, cải tiến đồng bộ và hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, sớm khắc phục tình trạng lạc hậu về trình độ kỹ thuật - công nghệ các cảng; tăng nhanh năng lực bốc xếp hàng hoá, giảm thiểu tối đa chi phí, bảo đảm có sức cạnh tranh cao trong hội nhập kinh tế quốc tế. Sớm hoàn chỉnh khai thác có hiệu quả hệ thống sân bay ven biển, xây dựng tuyến đường ven biển và đường cao tốc Bắc - Nam trên biển v.v...
Kết luận
Tiềm năng biển Việt Nam là một lợi thế lớn, là niềm tự hào của đất nước trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) đã vạch ra chiến lược tổng thể cùng những mục tiêu biện pháp cụ thể trở thành công cụ dẫn đường kịp thời và đắc lực để phát huy vững chắc và hiệu quả tiềm năng đó.
Cùng với sự chỉ đạo, lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự điều hành, quản lý hiệu quả của nhà nước; cần có sự nỗ lực nhiều hơn nữa của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương và toàn dân để có thể nhanh chóng biến mục tiêu thành hiện thực. Là cán bộ Quân đội, đảng viên cần hưởng ứng tham gia các phong trào Quốc gia về biển như bình chọn Vịnh Hạ Long, Phong Nha - Kẻ Bàng là di sản thiên nhiên thế giới. Tuyên truyền để mọi người dân hiểu được biển nhất là thế hệ trẻ tiếp tục sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, trong đó sẵn sàng tham gia bảo vệ phát triển vùng biển đảo. Giáo dục, tuyên truyền các nội dung giữ gìn môi trường trong sạch khi đi tham quan du lịch biển... Đoàn kết chặt chẽ với bộ đội, lực lượng vũ trang trên biển , sẵn sàng tham gia, ứng cứu, giúp đỡ, nhận nhiệm vụ làm việc khi Tổ quốc cần.
Câu hỏi ôn tập
1. Cơ sở hình thành chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020?
2. Quan điểm của Đảng về chiến lược biển đến năm 2020? Trách nhiệm của công dân trong thực hiện chiến lược biển?
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top