Phần Không Tên 5
Quan điểm về "đối tác, đối tượng" - cái mới, khẳng định trí tuệ, bản lĩnh của Đảng ta trong đổi mới, hội nhập quốc tế
23:36' 7/5/2015
TCCSĐT - Trong sự nghiệp đổi mới, mở cửa hội nhập quốc tế, quan điểm về "đối tác, đối tượng" của Đảng ta làm nên sự khác biệt căn bản. Quan điểm này là cái mới, góp phần khẳng định trí tuệ, bản lĩnh của một đảng cộng sản chân chính không ngừng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Chính những thành quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử từ thực tế đời sống của nhân dân đã minh chứng rõ ràng, chân thực nhất tính đúng đắn của đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Ba mươi năm đổi mới trên đất nước ta đã có vô số cái mới không ngừng nảy nở, vun trồng, phát triển trực tiếp góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: mới trong tư duy lý luận; mới trong chủ trương, đường lối của Đảng; mới trong lao động sản xuất; mới trong sáng tạo văn hóa, nghệ thuật của quần chúng nhân dân;... Những cái mới được hòa quyện giữa truyền thống văn hóa dân tộc với giá trị thời đại để trở thành căn cứ chủ yếu của chính sách đối nội, đối ngoại cùng với kế sách xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm về "đối tác, đối tượng" là một trong những cái mới làm nên bước đột phá mở đầu cho sự nghiệp đổi mới thắng lợi, góp phần khẳng định trí tuệ, bản lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam - một đảng cộng sản chân chính, xứng đáng là lực lượng duy nhất lãnh đạo toàn dân, toàn quân tiến hành sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới tư duy từ "bạn và thù" sang "đối tác và đối tượng" là bước đột phá mở đầu cho những thành tựu trong sự nghiệp đổi mới của cách mạng nước ta
Thời điểm Việt Nam thực hiện đổi mới, mở cửa hội nhập quốc tế, thế giới chia thành hai phe đối kháng trên cơ sở ý thức hệ đối lập, quan hệ giữa các quốc gia được chia thành: ta, bạn, thù. Khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu tan rã làm cho cục diện thế giới thay đổi căn bản thì quan niệm "bạn - thù" trong quan hệ giữa các nước đã bị lung lay, đòi hỏi mỗi quốc gia dân tộc cần phải có cái nhìn mới toàn diện, sâu sắc hơn để giữ vững lợi ích của mình, nhất là các nước nhỏ.
Tháng 12-1986, Đại hội VI của Đảng diễn ra với phương châm "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật", vạch đường lối đổi mới toàn diện, mở cửa giao lưu hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vấn đề đặt ra là: làm thế nào đưa đường lối đổi mới vào cuộc sống; làm thế nào mở cửa mời gọi được nước ngoài vào trao đổi thương mại hợp tác đầu tư; làm thế nào để giao lưu hội nhập với các nước láng giếng, trong khu vực và các nước trên thế giới. Đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ truyền thống dân tộc và kinh nghiệm của thế giới, Đảng ta chuyển từ quan niệm "bạn, thù" sang quan điểm "đối tác, đối tượng" trong nhận thức và xứ lý các quan hệ quốc tế. Thực tiễn những thành tựu trong đối nội, đối ngoại của gần 30 năm đổi mới cho thấy quan điểm "đối tác, đối tượng" là bước đột phá quan trọng trong tư duy và hành động, đưa đường lối đổi mới thành hiện thực, góp phần khẳng định bản lĩnh, trí tuệ của Đảng ta. Quan điểm "đối tác, đối tượng" không ngừng được thực tiễn phong phú của cách mạng củng cố, bổ sung, phát triển toàn diện, ngày càng khẳng định giá trị lịch sử và hiện thực.
Quan điểm "đối tác, đối tượng" là tư duy biện chứng sâu sắc, toàn diện của Đảng ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Lịch sử dựng nước đi đôi với giữ nước đã nhắc nhở dân tộc ta kiên trì thực hiện quan điểm "thêm bạn, bớt thù" trong mọi suy nghĩ và hành động. Bài học ấy một lần nữa được phát huy, góp phần cô lập kẻ thù, đồng thời tận dụng sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ trên thế giới trong cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Nhưng chỉ trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập quốc tế, truyền thống dân tộc kết hợp tinh hoa nhân loại và xu thế thời đại mới định hình quan điểm "đối tác, đối tượng" của Đảng ta.
Từ những vấn đề rất cơ bản có tính định hướng về "đối tác, đối tượng" trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), được thực tiễn bổ sung, phát triển thành quan điểm trong Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới: "Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng. Mặt khác, trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh"(1).
Quan điểm trên của Trung ương Đảng không những chỉ ra các dấu hiệu cơ bản quan trọng để nhận thức đâu là "đối tác" có thể mở rộng quan hệ hợp tác, đâu là "đối tượng" cần kiên quyết đấu tranh, mà còn cho thấy tư duy biện chứng sâu sắc, toàn diện của Đảng ta về "đối tác" và "đối tượng", hoàn toàn phù hợp với tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay. Nếu như trong Nghị quyết Trung ương 8, khóa IX chỉ nêu "...trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta", thì Nghị quyết Trung ương 8, khóa XI đã khẳng định tính hai mặt cùng tồn tại, đan xen một cách phổ biến trong "mỗi đối tác" và "mỗi đối tượng".
Tư duy biện chứng của Đảng ta được thể hiện sâu sắc trong giải quyết mối quan hệ giữa "đối tác" và "đối tượng" với mỗi chủ thể nhất định. Trước hết, khi đã nhận thức về "đối tác và đối tượng" trong cùng một chủ thể thì phải lấy mục tiêu "xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa" làm tiêu chuẩn để quyết định mức độ quan hệ hợp tác. Nghĩa là, trong khi mở rộng quan hệ hợp tác với "đối tác" cần nêu cao tinh thần cảnh giác phát hiện các mâu thuẫn có thể nảy sinh để kịp thời đấu tranh. Đồng thời, trong đấu tranh với "đối tượng" không có nghĩa là phân tuyến đối đầu mà cần tranh thủ mọi cơ hội tìm hiểu, tạo lòng tin để đi đến"tôn trọng độc lập, chủ quyền" của nhau mà mở rộng hợp tác bình đẳng cùng có lợi. Mục tiêu cơ bản lâu dài trong nhận thức và vận dụng quan điểm "đối tác, đối tượng" là nhằm không ngừng tăng cường đoàn kết, mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị với bạn bè quốc tế. Đấu tranh với quan điểm, tư tưởng nhận thức máy móc, khô cứng, khi xem "đối tác"là để hợp tác và chỉ rõ "đối tượng" là để cô lập đấu tranh.
Nhận thức và vận dụng đúng đắn, sáng tạo quan điểm "đối tác và đối tượng", góp phần xây dựng củng cố đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc
Suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, việc Đảng ta luôn nỗ lực phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân là hạt nhân đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, cội nguồn gìn giữ và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh quốc tế. Chúng ta cần tiếp tục quán triệt, xây dựng và củng cố, không ngừng nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên quyết, kịp thời đấu tranh với tư tưởng, lối sống cá nhân ích kỷ làm hại tới lợi ích của giai cấp, của nhân dân và của dân tộc. Thực tiễn cho thấy, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, xuống cấp về đạo đức, lối sống, quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nguyên nhân hàng đầu ảnh hưởng trực tiếp đến công tác xây dựng Đảng, làm xói mòn niềm tin của nhân dân với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Như vậy, bộ phận cán bộ, đảng viên này phải được nhận thức là "đối tượng" cần kiên quyết đấu tranh. Quá trình nhận dạng và đấu tranh với "đối tượng" này sẽ vô cùng khó khăn, phức tạp vì nó tồn tại trong mỗi cán bộ, đảng viên, trong mỗi cơ quan, mỗi tổ chức. Hơn nữa, sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức lối sống là môi trường tốt nhất để các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ ta; và ngược lại quá trình "tự biễn biến, tự chuyển hóa" lại là điều kiện tốt, là cái cớ "ngụy biện" cho mọi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của bộ phận cán bộ đảng viên ấy.
Quán triệt sâu sắc quan điểm "đối tác, đối tượng" trong công tác xây dựng Đảng để mỗi cán bộ, đảng viên đề cao cảnh giác, tích cực nỗ lực phấn đấu, rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh, khắc phục triệt để sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức lối sống, chống tham ô, lãng phí. Muốn vậy, cần tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình đúng với ý nghĩa là quy luật phát triển của Đảng, là biện pháp hiệu quả nhất không chỉ nhận rõ "đối tác" và "đối tượng", mà còn trực tiếp góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên và tăng cường đoàn kết trong Đảng trên cơ sở Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bởi vì, "thực thà tự phê bình và thành khẩn phê bình là thứ vũ khí sắc bén nhất để sửa chữa khuyết điểm và phát triển ưu điểm"(2) và "trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết thống nhất của Đảng"(3).
Trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, bài học "Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế"(4) của 85 năm thực tiễn lãnh đạo cách mạng phải tiếp tục được quán triệt và thực hiện nghiêm túc. Đây là cội nguồn sức mạnh của Đảng, sức mạnh của dân tộc để vượt qua bao khó khăn, thử thách trong những tình huống ngặt nghèo của cách mạng. Để tiếp tục hội nhập quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quan điểm "đối tác, đối tượng" cần được quán triệt, vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong cả đối nội và đối ngoại. Đây chính là "cẩm nang" cách mạng và khoa học để các cấp, các ngành, các lực lượng, các địa phương và toàn dân nêu cao tinh thần cảnh giác, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, kiên trì chủ trương "thêm bạn, bớt thù" góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế, bảo đảm sự ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.
Phương pháp luận phân tích mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng trong nhận thức của Đảng ta
Phan Trọng Hào(*)
Nguồn: Tạp chí Triết học, số 7 (206), tháng 7 - 2008
Từ góc độ triết học, trong bài viết này, khi đề cập đến một vấn đề có ý nghĩa chính trị trong quan hệ quốc tế – mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng, tác giả đã chỉ ra và luận giải ý nghĩa phương pháp luận trong việc phân tích mối quan hệ này của Đảng ta. Nhận thức rõ mối quan hệ này theo một nguyên tắc nhất quán – tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, Đảng ta luôn xác định rõ các cấp độ bao quát về phạm vi đối tác và đối tượng, phân định rõ đối tác và đối tượng, xác định rõ đối tác chiến lược, lâu dài. Đó là cách nhìn nhận mới, mang ý nghĩa phương pháp luận của Đảng ta về mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng trong bối cảnh quốc tế hiện thời.
Ảnh minh họa
Nhận thức về đối tác và đối tượng là vấn đề nhạy cảm và cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sự cần thiết phải thống nhất về nhận thức trong vấn đề này luôn là một đòi hỏi chính đáng và hợp lý, trên cơ sở lợi ích chung của quốc gia, dân tộc. Vì thế, trong Văn kiện Đại hội X, Đảng ta đã nhấn mạnh việc cần phải "chú trọng giáo dục thống nhất nhận thức về đối tượng và đối tác; nắm vững đường lối, quan điểm, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh thần cảnh giác trong thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh"(1).
1. Thực ra, không phải đến Đại hội X, Đảng ta mới bàn đến vấn đề này. Dưới các cách diễn đạt khác nhau, vấn đề bạn, thù, đối tác, đối tượng đã được Đảng ta bàn đến trong Luận cương chánh trị đầu tiên (1930). Tuy nhiên, phải đến Hội nghị Trung ương 8, khóa IX (tháng 7 - 2003), lần đầu tiên, trong Nghị quyết chuyên đề về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng ta mới đưa ra cách nhìn mới, thống nhất về vấn đề đối tác và đối tượng theo nguyên tắc: Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh... Trong mỗi đối tượng vẫn có mặt cần tranh thủ, hợp tác trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta(2).
Có thể nói, nguyên tắc trên đây cũng đồng thời là tiêu chí để xác định đối tác và đối tượng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Về nhận thức, cần xem xét, làm rõ các cấp độ bao quát về phạm vi đối tác và đối tượng. Trước hết, xét trên tầm vĩ mô, tổng thể (của chủ thể), đối tác (và đối tượng) được xác định là một chủ thể: một con người (ai); hay nhiều người, nhiều lực lượng (những ai, những thế lực,...). Theo đó, có thể hiểu là một người (cá nhân), một nhóm người (tổ chức) hay suy rộng ra, một tập đoàn người, một quốc gia, dân tộc, v.v. đều có thể là đối tác (hay đối tượng) của chúng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ở đây, đối tác (hay đối tượng) được xác định là một chủ thể hoàn chỉnh (một người, một tổ chức). Thứ hai, ở tầm vi mô, phạm vi hẹp, trong khuôn khổ của mỗi chủ thể, đối tác và đối tượng không phải là một chủ thể hoàn chỉnh, mà chỉ là những "mặt", những "thuộc tính", những bộ phận của mỗi chủ thể đó. Trong trường hợp này, đối tượng (hoặc đối tác) chỉ là một, một số, đa số hay hầu hết các mặt, thuộc tính, bộ phận của một chủ thể trong quan hệ với chúng ta. Vì thế, bất cứ chủ thể nào cũng có thể vừa là đối tượng lại vừa là đối tác, hay nói chính xác hơn, vừa có mặt đối tác, vừa có mặt đối tượng trong quan hệ với chúng ta. Diễn đạt theo cách khác, đối tượng và đối tác là hai mặt luôn đan xen và thống nhất trong mỗi chủ thể. Không có chủ thể nào chỉ là đối tác hoặc ngược lại, chỉ là đối tượng của cách mạng Việt Nam. Vấn đề là, trong quan hệ với chúng ta, những "mặt", những "thuộc tính", những bộ phận ấy bộc lộ ra với tư cách gì, là đối tác hay đối tượng. Và, ngay trong mỗi "mặt", mỗi "thuộc tính", mỗi bộ phận cũng bao hàm các yếu tố đối tác và đối tượng ở trong nó. Như vậy, đối tác và đối tượng có những cấp độ rất khác nhau; chúng không chỉ là những thuộc tính đối lập nhau trong mỗi chủ thể, mà còn có ở trong nhau, ngay trong mỗi thuộc tính của chủ thể. Từ những phân tích trên cho thấy, về mặt lý luận, sẽ không có đối tác (hoặc đối tượng) toàn diện, thuần túy. Các đối tác (hay đối tượng) toàn diện, thuần túy mà ta vẫn được nghe, nói trong cuộc sống thường ngày chỉ là khái niệm trừu tượng, có ý nghĩa tượng trưng và biểu đạt một sắc thái tình cảm chủ quan mà thôi. Tuy vậy, cần thấy rằng, vẫn có những đối tác (hay đối tượng) nhiều mặt trong quan hệ với chúng ta. Thực tế cách mạng Việt Nam cho thấy, chúng ta đã từng phải đối phó với kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ thù nguy hiểm.
2. Cũng cần thấy rằng, "đối tác" và "đối tượng" không phải chỉ gồm những "mặt", "thuộc tính", những bộ phận ở trong cùng một chủ thể, đã được bộc lộ ra trong quan hệ với chúng ta. Bởi lẽ, đối tác hay đối tượng được xác định là những "mặt", những "thuộc tính", những bộ phận nào đấy của một chủ thể trong quan hệ với chủ thể khác. Ngoài những thuộc tính được biển hiện ra là những đối tác hay đối tượng trong quan hệ với các chủ thể, thì vẫn còn những thuộc tính khác đang ẩn giấu vai trò trong quan hệ với các chủ thể. Nghĩa là, trong mối quan hệ của một chủ thể xác định với chúng ta, không phải ngoài những mặt, những thuộc tính biểu hiện ra thành mặt đối tác (hay đối tượng) thì các thuộc tính còn lại đều là những mặt đối tượng (hay đối tác). Kể cả trong trường hợp chủ thể bộc lộ rất nhiều mặt đối tác và mặt đối tượng thì trong nó, vẫn còn những mặt, những thuộc tính chưa được biểu hiện ra. Đó có thể là những "đối tác thầm lặng", đối tác tiềm năng trong tương lai. Và, đó cũng có thể là những "đối tượng giấu mặt", "đối tượng tiềm ẩn". Như vậy, đối tượng và đối tác, xét về phương thức biểu hiện, có hai dạng: một đã hiện hữu trong các mối quan hệ thực tế với chúng ta và một đang tồn tại dưới dạng tiềm năng, tiềm ẩn. Nhận thức đúng và dự báo được những dạng biểu hiện của hai loại đối tác và đối tượng này luôn là đòi hỏi thiết yếu của thực tiễn chính trị và khoa học chính trị.
3. Sự phân định đối tác, đối tượng là rất cần thiết. Song, sự phân định này cần phải "mềm dẻo" và "uyển chuyển" trong nhận thức. Trong thực tế, ranh giới giữa đối tác và đối tượng thường rất "mờ nhòe", tương đối và do vậy, nhận thức chúng không phải dễ dàng, đơn giản. Do đó, cần xác định rõ những tiêu chí và quan điểm trong nhận thức và xử lý vấn đề này. Một trong những tiêu chí rất quan trọng để xác định đối tác là lợi ích. Lợi ích (hiểu theo nghĩa đầy đủ của nó) phải được bảo đảm cho cả hai phía: phía chúng ta và phía đối tác, làm sao để đôi bên "cùng có lợi", phù hợp với pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế. Tiêu chí "cùng có lợi" đã trở thành cơ sở của quan hệ giữa các đối tác. Tiêu chí này bác bỏ quan điểm "lợi kỷ", chỉ biết giành lợi ích về phía mình mà thiếu quan tâm đến lợi ích của phía đối tác. Quan điểm ích kỷ, hẹp hòi này sẽ dẫn tới không tôn trọng nhau, không bình đẳng, lợi dụng nhau trong quan hệ giữa các đối tác. Từ "lợi kỷ" sẽ dẫn tới "hại nhân", sẵn sàng làm tất cả để "lợi mình, hại người". Điều này cực kỳ nguy hiểm, vì nó có thể đưa đến sự chuyển hóa đối tác thành đối tượng. Đây là sản phẩm của lối tư duy thực dụng, thiển cận, không phù hợp với không gian quan hệ mới giữa các đối tác văn minh, hiện đại. Vì thế, trong quan hệ giữa các đối tác, ngoài mối quan tâm về lợi ích là chủ chốt nhất, thì vấn đề chữ "tín" đã và đang cần phải được đặt lên hàng đầu. Cần phải tín nhiệm, tin tưởng nhau, tôn trọng nhau và chỉ có như vậy, mới trở thành đối tác thực sự của nhau.
Như vậy, về tính chất, dưới góc độ lợi ích chung, có thể thấy đối tác và đối tượng mang lại lợi ích đối lập nhau (trái ngược nhau) trong quan hệ với chúng ta: đối tác mang lại lợi ích cho ta, đối tượng thì ngược lại.
Tuy nhiên, lợi hay hại là xét trong những quan hệ xác định, rất cụ thể, ở những thời điểm cụ thể của những đối tác, đối tượng cụ thể. Từ đó, có thể hiểu là: sẽ không có đối tác vĩnh viễn và cũng sẽ không có đối tượng bất biến, mãi mãi không thay đổi. Đối tượng và đối tác có thể thay đổi tính chất, có thể chuyển hoá cho nhau trong những điều kiện, không gian và thời gian của những quan hệ nhất định. Biện chứng của cuộc sống đòi hỏi phải khách quan, toàn diện trong xem xét, đánh giá đối tác, đối tượng và phải biết phân tích, nắm vững bước chuyển hoá đó để có đối sách phù hợp. Cần tránh giáo điều, siêu hình, máy móc hay tuỳ tiện, vô nguyên tắc trong xử lý vấn đề đối tác và đối tượng. Phải biết tranh thủ khai thác mặt đối tác, nhưng cũng luôn phải cảnh giác, đấu tranh với mặt đối tượng trong quan hệ với các chủ thể. Cần phải lấy lợi ích căn bản của quốc gia, dân tộc, của chủ nghĩa xã hội làm "cái bất biến" để đối phó với "cái vạn biến" của đối tác và đối tượng. Thực hiện phương châm "thêm bạn, bớt thù", tranh thủ mọi khả năng, điều kiện để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
4. Mặc dù không có đối tác vĩnh viễn, nhưng vẫn và luôn cần phải có đối tác chiến lược, lâu dài. Chúng ta đang thiếu những đối tác chiến lược, tầm cỡ và "toàn diện", có thể bảo đảm lợi ích lâu dài, chắc chắn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thực tế cho thấy, nếu tự neo mình vào một "điểm tựa" bất biến thì chưa đủ để bảo đảm sự ổn định lâu dài và phát triển bền vững của đất nước. Cần phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa các đối tác song song với giải quyết mối quan hệ giữa các đối tượng và mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng. Làm thế nào để tránh sự chuyển hóa bất lợi từ đối tác trở thành đối tượng, mà chỉ có thể tạo ra sự chuyển hóa ngược lại: từ đối tượng trở thành đối tác. Đây chính là sự nhận thức mới về vấn đề địch - ta, đối tượng - đối tác theo tinh thần: "Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực"(3). Không đồng nhất đối tác với bạn, nhưng cũng không đồng nhất đối tượng với thù. Bạn, theo nghĩa rộng, đã bao hàm đối tác trong đó. Còn đối tác chưa hẳn đã là bạn theo đúng nghĩa, đó có thể chỉ là "bạn" trên một góc độ nào đấy, chưa phải là bạn đích thực. Như vậy, đối tác chỉ là một loại "bạn"; kẻ thù cũng chỉ là một loại đối tượng, nó có thể hiện diện là "đối tượng tác chiến" - loại đối tượng cần đấu tranh để loại bỏ, chứ không phải loại đối tượng đấu tranh để hợp tác. Chúng ta không mong muốn có nhiều "đối tượng", nhất là đối tượng kẻ thù. Chúng ta càng không muốn có "kẻ thù truyền kiếp", nhưng thực tế cuộc sống buộc chúng ta phải thường xuyên nêu cao cảnh giác và đấu tranh cách mạng.
Trong bối cảnh tình hình diễn biến mau lẹ và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng về mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng. Trên cơ sở đó, cần khắc phục cả hai khuynh hướng mơ hồ, mất cảnh giác hoặc cứng nhắc trong nhận thức, chủ trương và trong xử lý các tình huống cụ thể, nhạy cảm. Nếu không thấy được sự mâu thuẫn, khác biệt trong các đối tác dễ đi đến chỉ thấy mặt hợp tác, sự thống nhất mà quên đi sự đấu tranh. Bài học lịch sử của An Dương Vương còn đó! Ngược lại, không thấy mặt cần tranh thủ, hợp tác trong mỗi đối tượng thì sẽ bỏ mất cơ hội có thể làm phân hóa, chuyển hóa đối tượng thành đối tác, đồng minh có lợi cho ta. Khi giải quyết vấn đề đối tác, đối tượng phải có tư duy chiến lược, kết hợp giữa chiến lược với sách lược; giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích cả trước mắt và lâu dài, cả cục bộ và toàn cục, cả đối nội và đối ngoại. Vấn đề này, trong bối cảnh chiến tranh trước đây, chúng ta đã làm tốt, nhưng trong bối cảnh chiến trường - thương trường phức tạp hiện nay, chúng ta cần quan tâm nghiên cứu thoả đáng và phải tỉnh táo, thực tế hơn nữa. Cần thấm nhuần sâu sắc chủ trương Việt Nam sẵn sàng "làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai"(4) mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra 60 năm trước đây.
________________________________________
(*) Tiến sĩ, Học viện Chính trị – Quân sự.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 109.
(2) Xem: Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương. Tài liệu học tập Nghị quyết lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 44.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam Sđd., tr. 112.
(4) Hồ Chí Minh Toàn tập, t.5. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 220.
ốc
Xác định đối tượng, đối tác trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc
Thứ năm, ngày 12 Tháng 9 năm 2013 14:35 |
Xác định đúng đối tượng, đối tác trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đặc biệt là trong điều kiện quốc tế hóa và toàn cầu hóa ngày càng sâu sắc, sự liên kết giữa các quốc gia dân tộc trở nên ngày càng chặt chẽ, gắn bó hữu cơ trong một thế giới đầy biến động.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang hội đàm với Tổng thống Obama tại phòng Bầu dục (Nhà Trắng)
Nằm ở vị trí địa - chiến lược, địa - chính trị xung yếu trong khu vực, cửa ngõ một lục địa cổ, là bao lơn tiến ra biển có thể kiểm soát các tuyến thông thương giữa Thái Bình Dương và Đại Tây Dương, trong lịch sử, dân tộc ta luôn phải đối phó với nhiều thế lực ngoại xâm lớn mạnh. Do đó, "dựng nước đi đôi với giữ nước" đã trở thành quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta. Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, việc xác định đối tượng, đối tác chiến lược có một vị trí đặc biệt quan trọng, đây là một trong số những điều kiện căn bản nhất để triển khai đường lối đối nội, đối ngoại, quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội; xây dựng các tiềm lực, lực lượng và thế trận quốc phòng; định hướng nghiên cứu về nghệ thuật quân sự; tổ chức xây dựng, huấn luyện lực lượng vũ trang sẵn sàng đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ đất nước, bảo vệ Đảng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc.
Để phát huy thuận lợi, hạn chế thách thức, cần có cách nhìn nhận mới và thống nhất về vấn đề đối tác và đối tượng theo nguyên tắc mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã đề ra:
- Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta.
- Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của nước ta đều là đối tượng đấu tranh.
- Trong tình hình diễn biến mau lẹ và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn nhận biện chứng: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta. Trên cơ sở đó, cần khắc phục cả hai khuynh hướng mơ hồ mất cảnh giác hoặc cứng nhắc trong nhận thức, chủ trương và trong xử lý các tình huống cụ thể.
Nhờ những định hướng chiến lược mang tính nguyên tắc trên, trong những năm qua, nước ta đã có chủ trương, chính sách đúng đắn để "thêm bạn, bớt thù", tăng cường sự hợp tác, hữu nghị với các nước trên thế giới. Chúng ta đã tranh thủ khai thác, phát huy được các mặt tích cực của các đối tác trong phát triển kinh tế - xã hội và hạn chế được những mặt tiêu cực của các đối tượng, góp phần bảo đảm được sự ổn định chính trị, trật tự xã hội làm nền tảng vững chắc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc, có một nội dung căn bản nhất là phải xác định được mục tiêu chiến lược, đối tượng đấu tranh quốc phòng. Nếu không xác định được đối tượng cụ thể thì sẽ không có cơ sở để xây dựng thành chiến lược. Có chỉ ra đối tượng cụ thể mới xác định được âm mưu, thủ đoạn, lực lượng chống phá, từ đó mới đề ra được chủ trương, biện pháp chiến lược đúng đắn, có đối sách phù hợp trong quan hệ và đấu tranh quốc phòng. Không thể xây dựng chiến lược mà không có đối tượng đấu tranh quốc phòng và đối tượng tác chiến cụ thể.
Việc công khai phân loại đối tượng, đối tác hiện nay là một vấn đề rất "nhạy cảm" trong quan hệ quốc tế. Nhưng không vì thế mà né tránh, bỏ qua, không bàn đến, nói đến, thậm chí chỉ "hiểu ngầm" với nhau vì sợ "va chạm, mất lòng". Đây là công việc phải làm vì: nếu không chỉ rõ được đối tượng, đối tác trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc sẽ dẫn đến sự mơ hồ, mất cảnh giác, thiếu tính định hướng về đường lối, chủ trương trong quan hệ đối ngoại, đặc biệt tác động đối với lực lượng vũ trang trong tổ chức, xây dựng lực lượng, xây dựng các phương án tác chiến, huấn luyện chiến đấu... hoặc dẫn đến những thông tin thiếu tính chính thống lan truyền một cách tự do, tùy tiện kích động dư luận làm tổn hại đến quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta.
Hiện nay, trong quan hệ đối ngoại đã có thể phân loại một số đối tác theo mức độ quan hệ như: đối tác truyền thống, đối tác tin cậy, đối tác toàn diện, đối tác chiến lược toàn diện... Đối tác truyền thống, tin cậy là những nước không có khả năng bị lôi kéo chống phá ta; đối tác cảnh giác, đề phòng là nước có thể chuyển thành đối tượng; đối tác đồng thời là đối tượng là những nước đang có âm mưu và hành động chống phá ta. Việc phân loại đối tượng là một vấn đề hết sức khó khăn, đòi hỏi phải có sự phân tích toàn diện, khoa học, khách quan trên cơ sở đánh giá chính xác cục diện chính trị, xã hội thế giới, khu vực với tầm nhìn chiến lược sâu sắc. Trong nghiên cứu phân loại đối tượng cần tập trung vào một số nước lớn, có tiềm lực mạnh, có khả năng chi phối đến tình hình quốc phòng, an ninh nước ta. Trong đó cần chú ý đến ba dạng đối tượng: đối tượng đối lập về ý thức hệ có âm mưu tập trung xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta; đối tượng vì lợi ích dân tộc hẹp hòi đang có tham vọng về chủ quyền lãnh thổ nước ta; đối tượng có thể bị chuyển hóa bởi sự thao túng của nước lớn có âm mưu chống phá ta.
- Đối tượng đối lập về ý thức hệ có âm mưu tập trung xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Với bản chất đối lập về ý thức hệ, đối tượng này cầm đầu liên kết với một số nước đồng minh dùng nhiều thủ đoạn, biện pháp thâm độc hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Bằng chiến lược "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ kết hợp với nhiều loại hình can thiệp khác (kể cả can thiệp vũ trang) nhằm mục tiêu lật đổ chính quyền, dựng lên một chính quyền mới chịu sự chi phối về lợi ích chiến lược của chúng. Mục đích chủ yếu của đối tượng này không phải là chiến tranh đánh chiếm đất đai, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, nhưng nếu ta sai lầm trong xử lý các vấn đề về chiến lược, đưa nước ta vào thế đối đầu có thể chúng sẽ tạo cớ, tạo thời cơ tập hợp đồng minh, tiến hành chiến tranh lật đổ. Đây là đối tượng đã được xác định rõ ràng, ta luôn cảnh giác phòng chống. Tuy nhiên, trong quan hệ đối tác về kinh tế, văn hóa, xã hội cũng còn một bộ phận không nhỏ nhấn mạnh đối tác và xem nhẹ đối tượng, mơ hồ, ảo tưởng chạy theo lối sống thực dụng; mặt khác cũng có bộ phận nhận thức máy móc, cực đoan, nhấn mạnh đối tượng, đòi công khai chỉ mặt, vạch tên, có thể đẩy nước ta vào thế đối đầu trực tiếp, gây bất lợi trong quan hệ hợp tác cùng chung sống hòa bình trong bối cảnh toàn cầu hóa.
- Đối tượng vì lợi ích dân tộc hẹp hòi đang có tham vọng về chủ quyền lãnh thổ nước ta
Đây là đối tượng có thể tương đồng về ý thức hệ, cùng thống nhất con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, cùng đấu tranh để bảo vệ sự tồn tại của chủ nghĩa xã hội, nhưng vì lợi ích dân tộc hẹp hòi đã và đang có tham vọng về chủ quyền, quyền chủ quyền lãnh thổ nước ta. Thực tế độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền lãnh thổ nước ta đã bị xâm phạm công khai, trắng trợn và sẽ tiếp tục bị uy hiếp, từ đó có thể dẫn đến nguy cơ diễn ra xung đột vũ trang và chiến tranh giới hạn khi chủ quyền lãnh thổ, biển đảo nước ta bị chiếm đoạt. Nhận thức về đối tượng này không khó vì những sự kiện đã diễn ra. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn hai luồng ý kiến trái chiều. Một là, sự tương đồng về ý thức hệ sẽ giúp ta vượt qua một số rào cản, tạm gác các bất đồng, nâng tầm đối tác chiến lược toàn diện về lợi ích, cùng tồn tại phát triển một cách hòa bình, ổn định. Ý kiến này có thể dẫn đến sự chủ quan coi nhẹ mặt đối tượng, dẫn đến sự bị động, bất ngờ về chiến lược, thiếu chuẩn bị để có biện pháp đối phó hiệu quả khi chủ quyền, quyền chủ quyền lãnh thổ của đất nước bị xâm phạm, chiếm đoạt. Hai là, sự bất đồng về lợi ích chiến lược trong tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền lãnh thổ khó có khả năng dung hòa, nhất là khi nước ta cả thế và lực chưa phải là đối thủ xứng tầm để có thể tự bảo vệ, do vậy phải chỉ rõ để có các biện pháp chiến lược liên kết, phòng ngừa. Đây là ý kiến dễ bị lợi dụng, kích động dư luận, gây phân hóa nội bộ, đòi hỏi liên kết với nước này để chống nước kia bảo vệ mình, nhưng thực chất là rơi vào thủ đoạn của một số nước lớn trong kiềm chế lẫn nhau, đưa nước ta vào thế đối đầu với nước khác.
Đối tượng nêu trên rất "nhạy cảm" trong quan hệ ngoại giao, nhưng không thể không xác định. Đối với loại đối tượng này, về mặt mục tiêu chiến lược, ta phải kiên định giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc và bảo đảm toàn vẹn chủ quyền, quyền chủ quyền lãnh thổ. Về biện pháp chiến lược phải khôn khéo, mềm dẻo, nâng tầm đối tác chiến lược toàn diện, kiên trì xây dựng lòng tin chiến lược, phát huy những mặt tương đồng, tranh thủ tối đa mặt đối tác cùng tồn tại, phát triển hòa bình; từng bước thu hẹp những bất đồng trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lợi ích của nhau trên cơ sở luật pháp quốc tế. Mặt khác, ta cũng cần nghiên cứu kỹ đối tượng, có những biện pháp phòng ngừa trong một số tình huống có những xử lý sai lầm ở cấp chiến lược, không để bị động, bất ngờ khi xảy ra xung đột, chiến tranh.
- Đối tượng có thể bị chuyển hóa bởi sự thao túng của nước lớn có âm mưu chống phá ta
Đây là một số nước bị các nước lớn thao túng về lợi ích. Trong điều kiện bình thường họ có thể là những đối tác tốt, tương đồng về lợi ích, tuy có thể còn có một số khác biệt về chế độ chính trị, về lợi ích đối ngoại. Ở trong những điều kiện nhất định, họ có thể bị lôi kéo, thao túng, phụ họa. Trong nghiên cứu chiến lược, các đối tượng này cần phải có sự phân tích, đánh giá chính xác, sâu sắc theo xu thế phát triển về tương quan lực lượng, phát triển về lợi ích dân tộc, để có chủ trương, biện pháp chiến lược đúng đắn nhằm xây dựng tình đoàn kết, hữu nghị bền vững giữa các dân tộc, phát huy tối đa mặt đối tác trong liên kết, liên doanh về lợi ích, chống sự chuyển hóa đối tác thành đối tượng để phá thế phong tỏa, kiềm chế của địch khi xảy ra tình huống chiến tranh.
Như vậy, các loại đối tượng nêu trên đều là những đối tượng mà chiến lược bảo vệ Tổ quốc đang và sẽ phải thường xuyên liên tục đấu tranh, phòng ngừa. Tuy nhiên, trong đối tượng vẫn có mặt đối tác, trong đối tác vẫn có mặt đối tượng, hai mặt đối tượng, đối tác tồn tại song song không ngang bằng nhau, trong đó mặt đối tượng cần phải đặc biệt quan tâm. Mặt khác, xét về tính chất của các loại đối tượng cũng không giống nhau, thậm chí có mặt khác nhau căn bản liên quan đến chủ trương, giải pháp chiến lược.
Điều đó cho thấy, không thể đánh đồng các đối tượng khi nghiên cứu đề ra chủ trương, giải pháp chiến lược. Mặt khác, trước các diễn biến mau lẹ, phức tạp về tương quan lực lượng trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, cần có cách nhìn nhận biện chứng, phân tích đánh giá một cách khách quan, khoa học, khắc phục khuynh hướng cứng nhắc trong nhận thức về đối tượng, đối tác.
Vấn đề đối tác - đối tượng trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc
9:58' 31/1/2015
TCCSĐT - Sau khi kết thúc Chiến tranh lạnh, đất nước ta vẫn phải đối diện với rất nhiều nguy cơ, thách thức trên mọi lĩnh vực; đồng thời, phải đứng trước sự lựa chọn, phân định bạn - thù, đối tác - đối tượng, để định hình chiến lược, sách lược; đề ra và triển khai có hiệu quả đường lối đối nội, đối ngoại; bảo vệ lợi ích của dân tộc và vai trò lãnh đạo của Đảng, sự vững mạnh của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (từ ngày 02-7 đến ngày 12-7-2003), trên cơ sở phân tích tình hình chính trị thế giới, khu vực và trong nước; đồng thời căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra và âm mưu, khả năng hoạt động chống phá của các thế lực thù địch đối với nước ta, Đảng ta đã đề ra "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong hình hình mới" (gọi tắt là Chiến lược bảo vệ Tổ quốc năm 2003). Trong đó, Đảng ta đã đưa ra một số phương châm chỉ đạo trong việc xác định đối tác - đối tượng, cụ thể là: Phải trên tinh thần thêm bạn, bớt thù, phân hóa, cô lập các thế lực thù địch chống đối ta, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Không có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia, dân tộc là vĩnh viễn. Không nên xác định cả một quốc gia là đối tượng đấu tranh mà chỉ nên nói các thế lực thù địch, hoặc một số người trong giới cầm quyền ở một số nước nào đó có hành động cực đoan, hiếu chiến, chống đối ta, các cơ quan tình báo nước ngoài có hoạt động phương hại đến an ninh quốc gia của ta. Không có đối tác vĩnh viễn, song phải xác định được những đối tác chiến lược, lâu dài, nhất quán trên cơ sở chủ trương thêm bạn, bớt thù, khai thác triệt để mặt đối tác nhằm bảo đảm lợi ích lâu dài và chắc chắn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những phương châm chỉ đạo trên đã cho thấy sự đổi mới mạnh mẽ, khách quan, toàn diện trong tư duy của Đảng ta về vấn đề đối tác - đối tượng: từ chỗ chỉ dựa trên ý thức hệ để xác định bạn - thù, sau đó mới tới lợi ích của quốc gia, dân tộc, đã chuyển sang quan niệm mềm dẻo, biện chứng hơn khi nhìn nhận đúng đắn về sự đan cài lợi ích trong quan hệ với các quốc gia. Đồng thời, cũng trên cơ sở phương châm chỉ đạo trên, Trung ương Đảng ta đã đề ra nguyên tắc trong việc xác định đối tác, đối tượng phù hợp với bối cảnh của đất nước, đó là: "Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Mặt khác, trong tình hình diễn biến mau lẹ và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn nhận biện chứng: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta. Trên cơ sở đó, cần khắc phục cả hai khuynh hướng mơ hồ, mất cảnh giác hoặc cứng nhắc trong nhận thức, chủ trương và trong xử lý các tình huống cụ thể"(1).
Sau hơn 10 năm quán triệt thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc năm 2003 nói chung và các phương châm, nguyên tắc trong xác định đối tượng, đối tác, chúng ta đã thu được rất nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt chúng ta đã: "...bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc,... Tiềm lực kinh tế, uy tín, vị thế quốc tế của đất nước được nâng cao. Nền quốc phòng toàn dân, an ninh được tăng cường; sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc được nâng lên một bước"(2). Nước ta đã hội nhập ngày càng sâu với quốc tế, thiết lập quan hệ bình thường với hầu hết các quốc gia; tham gia chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao vào các tổ chức ở cấp khu vực và thế giới. Đặc biệt, nước ta đã tiếp tục củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống với các đối tác láng giềng; tạo quan hệ ổn định, lâu dài và không ngừng đưa các mối quan hệ với các nước lớn đi vào chiều sâu (3); tranh thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư, tri thức, công nghệ mới và các nguồn lực quan trọng khác của quốc tế vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động can thiệp, lật đổ, chống phá mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của các thế lực thù địch.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng phải thẳng thắn nhìn nhận đúng về những hạn chế, thiếu sót. Nghị quyết số 28-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, ngày 25-10-2013, nêu rõ: "... một số yếu tố quan trọng để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc chậm được củng cố, tăng cường, có mặt còn giảm sút và phát sinh những vấn đề phức tạp mới. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc chưa đầy đủ, sâu sắc; chủ quan, mất cảnh giác; quan liêu, không gắn bó với nhân dân, không nắm chắc tình hình, có nhiều sơ hở... Các nguy cơ mà các Đại hội Đảng đã chỉ ra, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI tiếp tục cảnh báo chưa được khắc phục, có mặt còn nghiêm trọng hơn"(4).
Trên thực tế, một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn mơ hồ, mất cảnh giác, nhìn nhận phiến diện về vấn đề đối tượng, đối tác; chưa có quan điểm khách quan, toàn diện trong đánh giá các nguy cơ, thách thức và cơ hội của đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế. Từ đó, chưa nhận thức đầy đủ về các lợi ích quốc gia, dân tộc; đồng thời, chưa gắn kết chặt chẽ giữa yêu cầu hội nhập quốc tế với yêu cầu phát triển bền vững, bảo đảm sự độc lập, tự chủ, bảo vệ vững chắc chủ quyền của Tổ quốc Việt Nam. Cho nên, trong một số trường hợp chúng ta vẫn còn rơi vào thế bị động, bất ngờ.
Chính từ việc nhận thức đúng về mối nguy hiểm, đe doạ từ những hạn chế nói trên có thể tác động làm giảm sút sức mạnh tổng hợp của đất nước, cũng như khả năng bảo vệ Tổ quốc trước các khó khăn, thách thức đặt ra trong thời gian tới, ngày 25-10-2013, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã tổ chức Hội nghị lần thứ tám và nhất trí thông qua Nghị quyết số 28-NQ/TW về "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới". Với hệ thống 7 quan điểm đề ra trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Nghị quyết lần này tiếp tục nhấn mạnh và làm rõ hơn quan điểm về vấn đề đối tượng - đối tác.
Việc xác định đối tượng, đối tác là tương đối "nhạy cảm" trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, không phải vì thế mà chúng ta né tránh, để rồi rơi vào trạng thái mơ hồ, mất cảnh giác, mất tính chiến đấu và khó có thể vạch ra chủ trương, sách lược, chiến lược đúng đắn trong bảo vệ Tổ quốc. Thực tế, xác định đối tượng - đối tác là một trong những nội dung căn bản nhất trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Do đó, vấn đề đối tượng, đối tác vừa qua đã được Trung ương Đảng ta khẳng định rõ: "Vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng: Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta. Mặt khác, trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh"(5).
Quan điểm trên của Trung ương Đảng vẫn thể hiện được tính mềm dẻo, biện chứng toàn diện trong cách nhìn nhận về đối tượng và đối tác. So với nội hàm quan điểm cùng về vấn đề này trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, thì quan điểm lần này vừa có tính kế thừa, nhưng vừa có sự bổ sung những nội dung phù hợp, đòi hỏi cần phải được nghiên cứu, quán triệt nghiêm túc. Cụ thể:
Thứ nhất, quan điểm về đối tượng đấu tranh
Trung ương Đảng tiếp tục khẳng định: "... bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta". Đây là một sự khẳng định khôn khéo, mềm dẻo của chúng ta trong quyết tâm bảo vệ các lợi ích quốc gia, dân tộc Việt Nam và mục tiêu, con đường cách mạng mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Chúng ta không vạch tên, chỉ mặt đối tượng nào, không tạo ấn tượng hiềm khích với ai, nhưng sự khẳng định trên cũng đủ để vừa quy tụ ý chí, sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, vừa đề cao được lợi ích tối thượng của quốc gia, dân tộc.
Bởi vì, "Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm"(6), cho nên tiếp tục đề cao mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc là hoàn toàn hợp lý, dễ hiểu. Hơn nữa, điều này cũng phù hợp với phương hướng xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mà Đại hội VII (năm 1991) đã đề ra đó là "Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc"(7). Thực tế chỉ ra rằng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam chính là nền tảng vững chắc nhất để xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta - đó cũng chính là lợi ích quốc gia, dân tộc ta đang hướng tới.
Do đó, bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng chính là các thế lực có âm mưu, hành động chống lại nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; chống lại các lợi ích quốc gia, dân tộc Việt Nam; chống lại sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng, nhân dân ta đã lựa chọn và tất cả những thế lực đó đều là đối tượng đấu tranh của chúng ta.
Thứ hai, quan điểm về đối tác
Trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc năm 2003, xác định "Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta". Tuy nhiên, hiện nay Nghị quyết số 28-NQ/TW "về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới", ngày 25-10-2013 đã cắt bỏ đi hai từ "chủ trương" của quan điểm trước đây và khẳng định: "Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác".
Điều này vừa bảo đảm sự phù hợp với các nguyên tắc trong quan hệ quốc tế. Đồng thời, nó cũng phù hợp với đường lối đối ngoại nhất quán của nước ta đã được Đảng ta xác định trong Đại hội XI: "là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế"(8); "Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế"(9).
Hơn nữa, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, uy tín, vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao, trách nhiệm quốc tế của Việt Nam cũng ngày càng lớn và được các đối tác tin cậy. Do đó, việc cắt bỏ đi hai từ "chủ trương"trong quan điểm cũ là một bước khẳng định rõ ràng rằng chúng ta sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy với những đối tác nào tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với chúng ta; chứ không phải chỉ dừng lại ở mức độ "chủ trương". Mặc dù vậy, để bảo đảm tính khách quan, toàn diện thì khi nhận thức về vấn đề đối tác cần phải đặt nó trong mối quan hệ với vấn đề đối tượng ngày nay.
Thứ ba, về tính biện chứng giữa đối tượng - đối tác
Trước đây, Trung ương Đảng chỉ nêu "... trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta". Nhưng hiện nay, Trung ương Đảng đã khẳng định: "... trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh".
Có thể thấy, Trung ương Đảng đã quan niệm một cách khái quát, khách quan, toàn diện và đầy đủ hơn về tính biện chứng trong mỗi đối tác, chứ không chỉ dừng lại ở một số đối tác như trước đây. Thực tế đã khẳng định về tính đúng đắn của quan điểm này, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và tính cạnh tranh song hành cùng tính lệ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia đang ngày càng gia tăng.
Như vậy, đối tượng và đối tác luôn tồn tại trong một thể thống nhất. Do đó, sẽ có những đối tác rất đáng tin cậy, rất khó có khả năng chuyển hóa thành đối tượng, nhưng cũng có những đối tác có thể bị chuyển hóa thành đối tượng trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định, đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn cảnh giác. Thậm chí có đối tác bản thân đã, đang là đối tượng, buộc chúng ta phải vừa hợp tác, vừa phải đấu tranh. Bên cạnh đó, trong các loại đối tượng sẽ có những đối tượng mâu thuẫn, khác biệt ở mức độ nhất định, trong khoảng thời gian nhất định với chúng ta về ý thức hệ, hoặc về lợi ích chủ quyền, lãnh thổ hoặc về lợi ích kinh tế, văn hóa, xã hội,... Tuy nhiên, xét trong tổng thể thì vẫn còn có mặt có thể hợp tác được, mà không phải là đối tượng hoàn toàn hay đối tượng vĩnh viễn.
Thứ tư, chủ trương ứng xử đối với những mặt mâu thuẫn, khác biệt về lợi ích ở đối tác với chúng ta
Quan điểm về vấn đề đối tượng, đối tác mà Trung ương Đảng đề ra trong Nghị quyết 28-NQ/TW còn thể hiện tính cách mạng sâu sắc, rằng với những điểm mâu thuẫn, khác biệt về lợi ích giữa ta với mỗi đối tác đó, chúng ta không phải vì vậy mà chấp nhận nó, mà "cần phải đấu tranh". Bằng sự mưu trí, sáng tạo để "đấu tranh"nhằm tăng cường sự hiểu biết, lòng tin, tăng cường tính đồng thuận, mở ra các thời cơ thuận lợi, tranh thủ tận dụng được những ưu điểm của mỗi đối tác để giúp chúng ta phát triển nhanh. Mặt khác, hạn chế tiến tới triệt tiêu các mâu thuẫn, lực cản phát sinh ở mỗi đối tác, mà không phải là nhằm mục tiêu triệt tiêu đối tác.
Tóm lại, trong nhận thức về vấn đề đối tượng, đối tác cần phải có cách nhìn khách quan, toàn diện, khoa học. Phải thấy được trong mỗi đối tượng, đối tác đâu là điểm có thể hợp tác được, đâu là điểm cần đấu tranh. Không nên cực đoan, máy móc hoặc rơi vào mơ hồ, ngộ nhận, thiếu cảnh giác rằng đối tác chỉ là hợp tác, còn đối tượng nhất định phải đấu tranh. Đồng thời, phải hết sức mềm dẻo trong hoạch định chủ trương, sách lược, chiến thuật đấu tranh với từng loại đối tượng, ở từng mặt, từng vấn đề vào từng thời điểm cụ thể, trên tinh thần hòa bình, hợp tác và phát triển; tránh xung đột, đối đầu, nhất là với các nước lớn; tránh bị cô lập, lệ thuộc.
Bên cạnh đó, để góp phần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về vấn đề đối tượng, đối tác, đòi hỏi các cơ quan, ban, ngành chức năng cần phải nghiên cứu, xây dựng nội dung phù hợp, tổ chức tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức cho từng đối tượng cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đối với các cán bộ chủ chốt và các lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc thì cần phải mở chuyên đề riêng, có sự phân tích sâu sắc, toàn diện hơn để giúp cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu đúng, hiểu rõ, nâng cao sức cảnh giác, đề phòng, nhận diện được đối tượng, đối tác của ta, tạo nên sự đồng thuận cao trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Mỗi cơ quan, ban, ngành, tổ chức, doanh nghiệp,... cần phải xây dựng kế hoạch, cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Trung ương Đảng thành các chương trình hành động, kiểm tra, giám sát phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình, để đóng góp cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc./.
Vài nét về quan hệ đối tác chiến lược
20:1' 1/8/2013
TCCSĐT - Sau Chiến tranh lạnh, trong quan hệ quốc tế hình thành một số hình thức mới. Các quốc gia với thể chế chính trị, kinh tế khác nhau đã tìm những phương cách mới và áp dụng chúng một cách linh hoạt để thúc đẩy quan hệ với nhau. Một trong các hình thức quan hệ mới đó là việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược.
Vấn đề hợp tác trong lý thuyết quan hệ quốc tế
Liên minh (Alliance): Là mối quan hệ hợp tác chính thức hoặc không chính thức giữa hai hoặc nhiều nước nhằm hỗ trợ lẫn nhau trên một mức độ nào đó về phối hợp chính sách liên quan đến các vấn đề về an ninh hiện tại và tương lai. Hình thái "an ninh tập thể" thường là cách thể hiện mô hình này. Theo đó các nước ký kết một hiệp ước (chính thức hoặc không chính thức) cam kết giúp đỡ nhau khi bất cứ thành viên nào bị đe dọa.
Chức năng của liên minh là để "củng cố an ninh của đồng minh" thông qua việc hợp tác để "hợp lực" chống lại một thế lực khác. Lịch sử quan hệ quốc tế cho thấy, sự phát triển của mô hình liên minh là các đồng minh đánh giá nhau qua khả năng trợ giúp nhau về mặt quân sự nhằm răn đe hoặc trừng phạt một liên minh đối lập.
Đối tác (Partnership): Là thuật ngữ chỉ mối quan hệ cộng tác - hợp tác nhưng ở mức độ cao hơn và cụ thể hơn. Các nhà nghiên cứu định nghĩa: "Đối tác bao gồm hai hay nhiều bên hành động cùng nhau để nâng cao hợp tác bằng việc thực hiện những mục tiêu chung. Xây dựng những kênh/cơ chế giải quyết các bất đồng/tranh chấp, biện pháp thúc đẩy quan hệ hợp tác và phương pháp đánh giá tiến bộ cũng như chia sẻ những thành tựu hợp tác". Hành động cùng nhau chung mục tiêu và chung lợi ích là những tiêu chí của quan hệ đối tác. Một mối quan hệ đối tác bao gồm sự gần gũi, bình đẳng, có đi có lại, và thỏa thuận về những mục tiêu chung.
Chiến lược (Strategic): Nghĩa rộng là sự quan trọng có tính toàn cục, then chốt và có giá trị tương đối lâu dài về mặt thời gian, đặc biệt, trong các bối cảnh liên quan đến việc sử dụng sức mạnh quân sự. "Chiến lược" dùng để chỉ tính tổng thể, để tạo sự khác biệt với những chi tiết (chiến thuật); nghệ thuật sử dụng nguồn lực, kết hợp với các giá trị về đạo đức, để đạt được những mục tiêu. Trong nhiều tình huống, từ "chiến lược" thường liên quan đến các lĩnh vực an ninh - quân sự mặc dù không hoàn toàn là một thuật ngữ chỉ dùng trong lĩnh vực an ninh - quân sự.
Đối tác chiến lược (Strategic Partnership) chỉ một mối quan hệ hợp tác quan trọng (nhưng không nhất thiết chỉ tập trung trong lĩnh vực an ninh - quân sự) vừa có tính hướng vào mục tiêu cụ thể, vừa có hàm ý mong muốn quan hệ lâu dài (quan hệ "win - win" cùng có lợi). Đặc điểm của quan hệ đối tác chiến lược là không có giới hạn về không gian, thời gian; không hạn chế về đối tượng áp dụng; không hạn chế về lĩnh vực hợp tác, và không nhất thiết phải mang nội dung an ninh - quân sự.
Đối tác chiến lược là một dạng quan hệ hợp tác phong phú, trong đó thành phần, nội dung, hình thức, mức độ... hoàn toàn tùy thuộc vào sáng kiến của các bên. Các nhà nghiên cứu quốc tế cho rằng, hạn chế duy nhất đối với mối quan hệ đối tác chiến lược là "sức tưởng tượng của các bên tham gia".
Thuật ngữ "đối tác chiến lược" lần đầu được sử dụng vào khoảng những năm 1990, 1991 để chỉ quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc. Từ đó, thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi.
Theo quan niệm của GS. Va-lê-ri Lót-xkin (Nga), "đối tác chiến lược" phải bao gồm những nội dung sau: không tấn công lẫn nhau; không liên minh chống lại các nước khác; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; phải có lòng tin lẫn nhau. Đối với Mỹ, đối tác chiến lược phải bao gồm hợp tác chặt chẽ về quân sự, an ninh.
Về hình thức: đối tác chiến lược có thể diễn ra linh hoạt (chính thức hoặc không chính thức, song phương hoặc đa phương, diện và mức độ tham gia rộng hoặc hẹp, nhiều hoặc ít...) và có tính mở vì không hướng tới một kết cục cụ thể.
Trong thực tế, có những mối quan hệ tuy không phải là đối tác chiến lược, nhưng thực chất lại còn hơn cả đối tác chiến lược. Ví dụ: Quan hệ Mỹ - EU tuy không phải là đối tác chiến lược, nhưng mối quan hệ hợp tác thì vô cùng chặt chẽ. Còn quan hệ Bra-xin - EU tuy là quan hệ đối tác chiến lược nhưng mức độ quan hệ không thể so sánh được với quan hệ Mỹ - EU.
Quan hệ đối tác chiến lược của Việt Nam
Với Việt Nam, đối tác chiến lược là mối quan hệ chiến lược gắn với ngoại giao, kinh tế. Theo TS. Lê Hồng Hiệp (Học viện Ngoại giao): Quan hệ đối tác chiến lược mà Việt Nam quan niệm bao gồm hợp tác về an ninh, thịnh vượng và nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam.
- An ninh: quan hệ đối tác chiến lược đó sẽ giúp cho Việt Nam củng cố nền tảng ngoại giao và quốc phòng, hỗ trợ tích cực cho Việt Nam trong việc giữ gìn an ninh, bảo toàn chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ.
- Thịnh vượng: mối quan hệ kinh tế với đối tác đó phải góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Nó thể hiện trên các lĩnh vực: quan hệ thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển (ODA) và chuyển giao công nghệ. Ví dụ như: thương mại song phương phải đạt kim ngạch tối thiểu 10 tỷ USD, đầu tư song phương đạt từ 5 tỷ USD trở lên,... Nếu các tiêu chí đó chưa đạt được thì phải xét đến quy mô và mức độ phát triển của quốc gia đó.
- Nâng cao vị thế của Việt Nam: quốc gia đối tác chiến lược phải là những nước lớn, hoặc cường quốc hạng trung tiêu biểu; có vị thế và ảnh hưởng quan trọng, đáng kể đối với đời sống chính trị thế giới và khu vực.
Ngoài 3 tiêu chí an ninh, thịnh vượng, nâng cao vị thế của Việt Nam cần phải có những tiêu chí khác nữa như quan hệ lâu dài, cùng có lợi (mức độ lợi ích có thể chia đều, hoặc hơn kém do hai nước quy định), có niềm tin tưởng vào nhau...
Tháng 1-2013, nhân chuyến thăm I-ta-li-a của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, hai nước đã ký tuyên bố thiết lập quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - I-ta-li-a. Ngày 26-6-2013, Việt Nam và Vương quốc Thái Lan ra Tuyên bố chung Việt Nam - Thái Lan về chuyến thăm chính thức Thái Lan của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng theo lời mời của Thủ tướng Y. Si-na-oa-tra, theo đó, hai nhà lãnh đạo đã quyết định đưa quan hệ hai nước lên đối tác chiến lược. Trong buổi hội đàm ngày 27-6-2013 tại Gia-các-ta, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống In-đô-nê-xi-a S. B. Y-u-đô-y-ô-nô chính thức tuyên bố nâng cấp quan hệ Việt Nam - In-đô-nê-xi-a thành đối tác chiến lược, nhằm đưa quan hệ hai nước lên một tầm cao mới.
Đây là những mối quan hệ đối tác chiến lược mới nhất mà Việt Nam thiết lập với một nước khác. Trước đó, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Liên bang Nga (năm 2001), Nhật Bản (năm 2006), Ấn Độ (năm 2007), Trung Quốc (năm 2008), Hàn Quốc, Tây Ban Nha (năm 2009), Vương quốc Anh (năm 2010), và Đức (năm 2011). Trong các quan hệ đối tác chiến lược này, có một số mối quan hệ đã được nâng lên tầm "đối tác chiến lược toàn diện" như với Trung Quốc và Liên bang Nga.
Bên cạnh đó, từ năm 2009, Việt Nam cũng đã thiết lập quan hệ "đối tác toàn diện" với Ô-xtrây-li-a. Trong chuyến thăm gần đây tới Pháp của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh, hai nước cũng thống nhất sẽ sớm nâng quan hệ song phương lên tầm "đối tác chiến lược".
Việc mở rộng và làm sâu sắc hơn quan hệ với những quốc gia quan trọng trên thế giới phù hợp với lợi ích của mỗi nước, góp phần vào hòa bình, ổn định, thịnh vượng của khu vực và thế giới chính là sự thể hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế./.
Một số vấn đề về đối tác, đối tượng trong tình hình mới theo quan điểm của Đảng ta
QĐND - Đối tác, đối tượng là vấn đề cơ bản, quan trọng trong chính sách, chiến lược và phức tạp, nhạy cảm trong quan hệ quốc tế của mọi quốc gia. Xây dựng quan hệ và xử lý mối quan hệ đối tác, đối tượng có tác động rất lớn đến sự ổn định, phát triển bền vững trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước
Nhận thức về đối tác, đối tượng không bất biến. Khi thế giới tồn tại hai phe đối kháng, "chiến tranh lạnh", quan hệ giữa các quốc gia được chia thành: Ta, bạn, thù. Cơ sở chủ yếu của sự phân chia đó là ý thức hệ, giai cấp. Có nước đưa ra "tiêu chí" phân loại quan hệ rất máy móc: Bạn của thù là thù, thù của thù là bạn! Không ít nước công khai xác định nước khác là kẻ thù cơ bản, lâu dài. Cùng với những biến động to lớn, bất ngờ của thế giới, quan hệ giữa các nước đan xen, chuyển hóa rất phức tạp. Xuất hiện những quan niệm dẫn đến sự thay đổi lớn trong quan hệ giữa các nước. Năm 1859, Henry Temple Palmerston, một chính khách Anh với hơn 10 năm làm Bộ trưởng Ngoại giao, 6 năm làm Thủ tướng, người bảo vệ thành công lợi ích quốc gia trong các cuộc xung đột kéo dài giữa Anh với Pháp và nước Nga Sa Hoàng, đã rút ra kết luận rất quan trọng: Giữa các nước không có đồng minh vĩnh viễn và không có kẻ thù truyền kiếp, chỉ có quyền lợi dân tộc là lâu dài mà thôi. Trong xu thế toàn cầu hóa, sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng, sự bền vững của quốc gia, sự tồn tại của thể chế chính trị bị tác động ngày càng nhiều bởi yếu tố bên trong, thì việc bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc càng được đề cao, được xem là mục tiêu cơ bản, lâu dài. Lãnh đạo quốc gia không còn tự bó hẹp quan hệ chỉ với đồng minh mà mở rộng quan hệ với các nước khác theo lợi ích của chính mình. Nếu xảy ra tranh chấp giữa đồng minh với một nước khác, thái độ của nước lớn trước hết là xuất phát từ chính lợi ích của mình. Hành động của Mỹ trong vụ tranh chấp chủ quyền đảo Scarbrough (Hoàng Nham) giữa Trung Quốc và Phi-lip-pin; của Nga, Trung Quốc trong xung đột ở Xy-ri... là những minh chứng cho điều đó. Khi thể chế chính trị, chính quyền thay đổi thì quan hệ đồng minh cũng dễ thay đổi theo... Cùng với việc đề cao lợi ích quốc gia, tính thực dụng trong quan hệ giữa các nước cũng gia tăng, kiểu như "mèo trắng, mèo đen đều tốt, miễn là bắt được chuột"! Thực tiễn ấy đã thuyết phục nhiều quốc gia. Họ xử lý vấn đề đối tác, đối tượng linh hoạt, nhằm tạo môi trường thuận lợi để phát triển, bảo vệ đất nước, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc. Các nước ưu tiên lựa chọn những cường quốc cùng chung lợi ích chiến lược để xây dựng quan hệ đối tác chiến lược nhằm tìm kiếm sự ủng hộ, chỗ dựa cho xây dựng và bảo vệ đất nước. Quan hệ đối tác có cấp độ khác nhau, tùy theo lợi ích quốc gia, dân tộc, mục tiêu bảo vệ đất nước và chiến lược, sách lược trong từng giai đoạn. Có không ít quan hệ đối tác, thậm chí là đối tác chiến lược giữa những nước có thể chế chính trị khác nhau; hoặc giữa những nước đang có tranh chấp chủ quyền với nhau. Xu hướng chung trên thế giới là không công khai chỉ rõ ai là đối tượng. Tuy nhiên, khi có mối đe dọa trực tiếp, các nước cũng xác định đối tượng đấu tranh cụ thể.
Vị trí địa - chiến lược và những lý do khác làm cho Việt Nam không ít lần phải xử lý quan hệ đối tác, đối tượng trong những hoàn cảnh không dễ dàng. Chúng ta cũng từng bị ảnh hưởng, quan niệm cứng nhắc về đối tác, đối tượng. Từ truyền thống dân tộc, kinh nghiệm của thế giới và qua trải nghiệm của chính mình, nhận thức của Đảng ta về đối tác, đối tượng có sự phát triển, để từ đó đưa ra những chủ trương sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, xu thế của thế giới. Cương lĩnh năm 1991 đã xác định những vấn đề rất cơ bản, có tính định hướng về đối tác, đối tượng. Theo Cương lĩnh, những lực lượng xâm phạm độc lập dân tộc, cản trở việc thực hiện 6 mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là đối tượng đấu tranh của nhân dân ta; đối tượng trực tiếp, trước mắt là "chủ nghĩa thực dân mới và các thế lực thù địch chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội"; đối tượng tác chiến và đấu tranh của quân và dân ta là: "chống lại sự can thiệp và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc nhằm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc"(1). Nghị quyết Đại hội Đảng VII, VIII tiếp tục cụ thể hóa, bổ sung, phát triển quan điểm về đối tác, đối tượng. Định hướng như vậy là đúng đắn nhưng chưa thật bao quát được sự phức tạp trong quan hệ quốc tế trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa. Với tư duy mới, Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc đã khái quát thành nguyên tắc, thể hiện cách nhìn nhận mới và thống nhất về đối tác, đối tượng. Sau khi Nghị quyết ra đời, nguyên tắc xác định và xử lý quan hệ đối tác, đối tượng được kiểm nghiệm qua thực tiễn và khẳng định tính đúng đắn. Do đó, Nghị quyết số 28-NQ/TW của BCH Trung ương khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã đưa nguyên tắc trên thành quan điểm: Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng. Mặt khác, trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh"(2).
Quan điểm của Đảng vừa có tính khái quát cao, vừa đầy đủ, làm cơ sở để nhận thức và xử lý quan hệ đối tác, đối tượng một cách bình tĩnh, sáng suốt. Trong đó, căn cứ xác định đối tác được đặt lên trước là phù hợp với quan điểm của Đảng lấy đối tác làm cơ sở để thiết lập quan hệ quốc tế: "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế"(3). Đối tượng không chỉ là thế lực có âm mưu, hành động gây chiến tranh, bạo loạn lật đổ chế độ, mà còn là những kẻ xâm phạm độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc, bằng phương thức vũ trang và phi vũ trang, cả từ bên ngoài và bên trong. Ai là đối tượng không phải tự chúng ta áp đặt mà do chính âm mưu và hành động của họ. Quan điểm chỉ rõ sự đan xen, chuyển hóa phức tạp giữa đối tác và đối tượng, ngay trong từng đối tượng vẫn có mặt đối tác, cần tranh thủ, hợp tác; sự chuyển hóa giữa đối tượng, đối tác phụ thuộc rất lớn vào phương thức ứng xử của chúng ta. Quan điểm chỉ đạo phải triệt để phân hóa, cô lập cao độ với từng bộ phận của đối tượng. Nghị quyết nhấn mạnh, trong khi tăng cường quan hệ đối tác, vẫn phải chú ý mặt đối tượng và phải đấu tranh với nó. Quan điểm của Đảng đã quán triệt tư tưởng đặt lên hàng đầu lợi ích quốc gia, dân tộc với mục tiêu xuyên suốt là giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững chế độ chính trị XHCN, kết hợp chặt chẽ với tạo dựng môi trường thuận lợi nhất cho xây dựng đất nước. Nhận thức và xử lý quan hệ đối tác, đối tượng theo quan điểm của Đảng không phải là sách lược nhất thời mà là chủ trương cơ bản, nhất quán, lâu dài. Lịch sử dân tộc cũng như thực tiễn hoạt động của Đảng đã chứng tỏ điều đó và được thế giới thừa nhận.
Quan điểm về đối tác, đối tượng là một trong những điểm nổi bật, có sự đột phá trong tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc; khắc phục được hạn chế của tư duy cũ, không cứng nhắc, làm cản trở hội nhập, hợp tác, không mơ hồ, mất cảnh giác; vừa giữ nguyên tắc, vừa đủ linh hoạt, được xem như cẩm nang "dĩ bất biến" để ứng với "vạn biến" trong quan hệ, xử lý các tình huống chiến lược. Quan điểm của Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là cơ sở chính trị trực tiếp cho đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại. Thành công trong phát triển quan hệ đối ngoại, không để xảy ra xung đột, đối đầu trong những năm qua có sự góp phần đáng kể của quan điểm nêu trên. Chưa bao giờ chúng ta có được nhiều bạn bè, đối tác như ngày nay. Việt Nam đã có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với hơn 20 nước, trong đó có tất cả các nước lớn, các nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, các nước láng giềng, bạn bè truyền thống. Trong khi tăng cường quan hệ đối tác, chúng ta vẫn kiên trì đấu tranh, giải quyết thỏa đáng các vấn đề nảy sinh, thu hẹp những khác biệt trong tranh chấp chủ quyền Biển Đông, không để mâu thuẫn, tranh chấp cản trở các quan hệ khác. Chúng ta đã tạo được sự đan xen lợi ích chiến lược, giữ vững và củng cố môi trường hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quan điểm của Đảng về đối tác, đối tượng có giá trị to lớn về lý luận và thực tiễn. Nhưng cũng có ý kiến cần định hướng cụ thể hơn về đối tác, đối tượng để tránh bất cập, lúng túng, hoặc lẫn lộn giữa chiến lược và sách lược trong xử lý các trường hợp cụ thể. Để giải quyết điều đó, quan trọng nhất là phải quán triệt sâu sắc và vận dụng linh hoạt, sáng tạo quan điểm của Đảng. Xử lý mối quan hệ đối tác, đối tượng phải xem xét trên quan điểm tổng thể, lấy lợi ích cơ bản và lâu dài của quốc gia, dân tộc làm nền tảng; không vì lợi ích cục bộ, trước mắt mà làm tổn hại đến lợi ích chung. Cần tính đến sự tác động qua lại lẫn nhau giữa chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; giữa lợi ích quốc gia và đoàn kết quốc tế. Đặc biệt coi trọng công tác nghiên cứu dự báo chiến lược, kịp thời phát hiện cơ hội để khai thác, nhận rõ thách thức để hóa giải, không để rơi vào tình thế bị động, bất ngờ...
Đại tá TS VŨ ĐĂNG MINH
NÂNG CAO NHẬN THỨC CHO HỌC VIÊN ĐÀO TẠO SỸ QUAN
16.03.2010 09:44
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết với Sỹ quan Không quân
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược xuyên suốt tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ đó có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, không tách rời nhau, luôn song hành thể hiện quy luật "Dựng nước đi đôi với giữ nước" của dân tộc Việt Nam. Từ khi đất nước giành được độc lập đến nay, Đảng ta không lúc nào coi nhẹ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, do tình hình thế giới và trong nước những năm gần đây có nhiều biến đổi sâu sắc, nên vấn đề đặt ra là bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới như thế nào. Nhận thức về đối tượng và đối tác là một trong những yêu cầu đặc biệt quan trọng và cấp thiết hiện nay.
NÂNG CAO NHẬN THỨC CHO HỌC VIÊN ĐÀO TẠO SỸ QUAN CẤP PHÂN ĐỘI TẠI HỌC VIỆN PHÒNG KHÔNG-KHÔNG QUÂN VỀ ĐỐI TÁC VÀ ĐỐI TƯỢNG TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ HIỆN NAY
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược xuyên suốt tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ đó có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, không tách rời nhau, luôn song hành thể hiện quy luật "Dựng nước đi đôi với giữ nước" của dân tộc Việt Nam. Từ khi đất nước giành được độc lập đến nay, Đảng ta không lúc nào coi nhẹ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, do tình hình thế giới và trong nước những năm gần đây có nhiều biến đổi sâu sắc, nên vấn đề đặt ra là bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới như thế nào. Nhận thức về đối tượng và đối tác là một trong những yêu cầu đặc biệt quan trọng và cấp thiết hiện nay.
Đảng ta, đã có sự đổi mới về nhận thức, tư duy lý luận và có những bước tiến mang tính đột phá, không những đáp ứng với đòi hỏi tình hình trước mắt, mà còn tạo ra thế chủ động, đặt cơ sở cho việc phát triển học thuyết bảo vệ Tổ quốc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sau này. Đó chính là sự nhận thức, kế thừa có tính nguyên tắc và phát triển sáng tạo học thuyết bảo vệ Tổ quốc của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện hoàn cảnh thực tiễn của cách mạng Việt Nam hiện nay.
Điều đó khẳng định qua mỗi lần Đại hội, Đảng ta đã từng bước hình thành và hoàn thiện nhận thức mới về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, thể hiện tập trung ở Nghị quyết Hội nghị Trung ương Tám khoá IX. Tại hội nghị này Đảng ta đã ra nghị quyết về " chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới", trong đó quốc phòng gắn với an ninh, quốc phòng an ninh gắn với kinh tế - xã hội và đối ngoại dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Sự gắn kết này được thực hiện từ chiến lược, quy hoạch phát triển chung, trong chủ trương, chính sách, luật pháp của Nhà nước và trong tổ chức thực hiện, trên quy mô cả nước và ở từng vùng, từng địa phương, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh tạo nên sức mạnh tổng hợp giữ vững ổn định chính trị, chủ quyền quốc gia, tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Với nhận thức trên Đảng ta đó có một chiến lược mới, thích hợp với hoàn cảnh đất nước hoà bình để xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội, đồng thời chống lại âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, sẵn sàng đối phó với chiến tranh xâm lược kiểu mới, vũ khí công nghệ cao của chủ nghĩa đế quốc.
Với những thành tựu to lớn hơn hai mươi năm đổi mới đất nước đã đưa cách mạng Việt Nam lên một tầm cao mới. Hiện nay trước xu thế toàn cầu hoá, hội nhập và phát triển, việc nâng cao nhận thức về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, nhận thức về đối tượng và đối tác cần phải được coi trọng hơn bao giờ hết, và được trang bị một cách có hệ thống, đồng bộ, triệt để cho mọi cấp mọi nghành, cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, nhằm góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ rõ: " Chú trọng giáo dục thống nhất nhận thức về đối tượng và đối tác; nắm vững đường lối, quan điểm, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh thần cảnh giác cách mạng trong thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng an ninh. "(1)
Từ yêu cầu này đòi hỏi qúa trình đào tạo học viên trong các nhà trường quân đội nói chung, ở Học viện Phòng không- Không quân nói riêng cần phải quán triệt, vận dụng và thực hiện tốt quan điểm tư tưởng, đường lối quân sự của Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, nâng cao sức mạnh tổng hợp, có khả năng chiến đấu và đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Điều quan trọng là việc giáo dục nâng cao nhận thức cho người học viên về đối tác và đối tượng, nắm chắc bản chất và phân biệt rõ trong nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn. Chúng ta cần phải thấy rằng đối tượng và đối tác là hai mặt của một vấn đề, luôn tồn tại trong cùng một chủ thể. Bất cứ chủ thể nào cũng có thể vừa là đối tượng lại vừa là đối tác. Đối tượng và đối tác luôn thống nhất trong chính chủ thể đó, vấn đề cốt lõi ở đây là cần nhận thức, khai thác khía cạch nào trong quan hệ với chủ thể. Giữa đối tượng và đối tác có thể chuyển hoá cho nhau trong những điều kiện nhất định. Trong quá trình nhận thức nó chúng ta cần phải tuân thủ theo phép biện chứng duy vật để nắm vững sự chuyển hoá đó. Cần tránh thái độ cứng nhắc siêu hình, máy móc tuỳ tiện vô nguyên tắc trong xử lý vấn đề đối tượng và đối tác. Phải tranh thủ khai thác mặt đối tác nhưng luôn cảnh giác đấu tranh với mặt đối tượng trong quan hệ với các chủ thể.
Nắm chắc đường lối, quan điểm tư tưởng của Đảng, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới mà Đảng ta đã xác định: "Bảo vệ vững chắc Tổ quốc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ(2.)
Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được tiến hành một cách toàn diện, trên mọi lĩnh vực, mọi phương diện. Bảo vệ Tổ quốc phải gắn với quá trình xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ phải trên cơ sở giữ vững nguyên tắc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu lý tưởng, là nhu cầu khát vọng, và là sự lựa chọn duy nhất, của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù. giữ vững ổn định tạo điều kiện để xây dựng và phát triển kinh tế đất nước.
Hiện nay trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào, tận dụng ưu thế đó, với bản chất hiếu chiến, xâm lược và phản động, chủ nghĩa đế quốc càng điên cuồng chống phá cách mạng nước ta. Chúng coi Việt Nam là một trọng điểm để chống phá, chúng không từ bỏ bất cứ một âm mưu, thủ đoạn nào, kể cả tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới. Vì vậy, đòi hỏi mỗi chúng ta phải luôn chủ động nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở mọi lúc, mọi nơi và trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nhất là trong hợp tác phát triển kinh tế- xã hội, trong liên doanh, liên kết đầu tư và trong công tác đối ngoại, phải luôn giữ vững nguyên tắc, bảo đảm sự đồng thuận, gắn kết và phát triển ổn định bền vững.
Để nâng cao nhận thức, về đối tượng và đối tác cho người học viên đào tạo sỹ quan chỉ huy tham mưu kỹ thuật ở Học viện Phòng không- Không quân hiện nay cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:
Một là, trong quá trình đào tạo cần tăng cường trang bị cho học viên thế giới quan, phương pháp luận mác - xít, học thuyết Mác- Lênin về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối quân sự của Đảng. Đây là cơ sở và là nền tảng lý luận để người học viên nhận thức đúng đắn sự vận động, biến đổi, chuyển hoá và phát triển hai nhiệm vụ chiến lược, và hai mặt đối tượng và đối tác trong mỗi chủ thể. Từ đó xây dựng cho mình lập trường tư tưởng đúng đắn và có thái độ kiên quyết đấu tranh với mọi quan điểm sai trái.
Hai là, cần giáo dục quán triệt cho cho học viên có nhận thức rõ, đúng, thống nhất về đối tác và đối tượng theo nguyên tắc; Những ai chủ trương mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt nam đều là đối tác. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Mặt khác cần có cách nhìn biện chứng; trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta. Trên cơ sở đó chống mơ hồ mất cảnh giác và cứng nhắc trong nhận thức, chủ trương và trong xử lý các tình huống cụ thể.
Ba là, phải chú trọng giáo dục cho mọi học viên nêu cao chủ nghĩa yêu nước, tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc; ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân đội ta. Đó là cội nguồn tinh thần cực kỳ quý báu luôn có trong tiềm thức, tâm trí của người Việt Nam nói chung và mỗi học viên nói riêng, đòi hỏi phải được trân trọng gìn giữ, tiếp nhận, kế thừa và phát triển lên một tầm cao mới. Chính từ sự thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước, tiếp nhận được những giá trị truyền thống tốt đẹp đó, sẽ giúp cho người học viên tạo dựng niềm tin, nâng cao tinh thần cách mạng, nhận ra bản chất đích thực âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, đánh giá đúng không mơ hồ,lẫn lộn về đối tác và đối tượng.
Bốn là, phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của mỗi học viên trong quá trình học tập và rèn luyện, nêu cao ý thức trách nhiệm, xác định động cơ quyết tâm, xây dựng bản lĩnh chính trị, nhân cách của người sỹ quan chỉ huy tham mưu kỹ thuật Phòng không- Không quân. Đây là yếu tố cơ bản quyết định trực tiếp nhất đến việc nâng cao nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, về đối tượng và đối tác trong mỗi người học viên.
Giáo dục nâng cao nhận thức ở người học viên đào tạo trong các nhà trường quân đội nói chung Học viên Phòng không- Không quân nói riêng về đối tượng và đối tác, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là một quá trình, đòi hỏi có sự tham gia của cả hệ thống, các tổ chức, các lực lượng. Có như vậy mới thực hiện thắng lợi đường lối quân sự, nhiệm vụ quốc phòng và an ninh của Đảng ta về "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới", góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Những định hướng lớn về công tác đối ngoại quốc phòng năm 2015
Năm 2014, mặc dù tình hình thế giới, khu vực, nhất là trên Biển Đông diễn biến phức tạp, tác động không nhỏ đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của quân và dân ta, nhưng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, trực tiếp là của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, công tác đối ngoại quốc phòng (ĐNQP) đã đạt nhiều thành tựu quan trọng. Nổi bật là, toàn quân đã tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới"; Nghị quyết 806-NQ/QUTƯ, ngày 31-12-2013 của Quân ủy Trung ương về "Hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo", tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế sâu rộng. Công tác ĐNQP đã triển khai toàn diện, tập trung đột phá về hoàn thiện cơ chế, chính sách và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hội nhập quốc tế về quốc phòng. Bộ Quốc phòng đã tăng cường chỉ đạo các cơ quan, đơn vị rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; tổ chức soạn thảo các thông tư, hướng dẫn liên quan đến công tác ĐNQP, làm cơ sở để các cấp triển khai thực hiện, v.v. Nhờ đó, hoạt động ĐNQP không ngừng được mở rộng, phát triển trên nhiều lĩnh vực, cả về bề rộng và chiều sâu, góp phần quan trọng bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và giữ vững ổn định chính trị; đồng thời, kiến tạo, gìn giữ môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước. Đây cũng là năm đánh dấu bước phát triển của ĐNQP Việt Nam trong tiến trình hội nhập sâu, rộng vào đời sống khu vực và quốc tế, nhằm tăng cường hợp tác, xây dựng, củng cố lòng tin chiến lược với các nước, các tổ chức quốc tế, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước, của Quân đội trên trường quốc tế.
Năm 2015, dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn ra gay gắt. Cộng đồng ASEAN (với ba trụ cột)1 sẽ được hình thành; theo đó, nước ta đứng trước những cơ hội lớn nhưng cũng có không ít khó khăn, thách thức đan xen. Trong bối cảnh đó, ĐNQP phải tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối đối ngoại của Đảng, triển khai toàn diện các mặt công tác với những định hướng lớn như sau:
Một là, toàn quân cần tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các chủ trương và nhiệm vụ đối ngoại được xác định trong Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới"; Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về "Hội nhập quốc tế", trực tiếp là Nghị quyết 806-NQ/QUTƯ của Quân ủy Trung ương. Qua đó, tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động, nâng cao năng lực đánh giá, dự báo tình hình, vận dụng sáng tạo đường lối đối ngoại của Đảng để xử lý đúng đắn những vấn đề phức tạp, nhạy cảm trong quan hệ quốc tế về lĩnh vực quốc phòng.
Hoạt động ĐNQP phải được đặt trong tổng thể của chiến lược chung, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Trong đó, phải tập trung phát huy được nội lực, tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ được sức mạnh của quốc tế và thời đại, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp của lực lượng và thế trận đối ngoại - quốc phòng - an ninh cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động ĐNQP song phương và đa phương theo hướng: chủ động, tiết kiệm, thiết thực và hiệu quả. Trong quan hệ quốc phòng song phương cần đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, ưu tiên các nước láng giềng có chung biên giới, không ngừng củng cố và nâng cao sự tin cậy lẫn nhau, nhằm tăng mặt đồng thuận, giảm điểm bất đồng. Chú trọng quan hệ với các nước trong khu vực, đưa các quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu, hiệu quả; thúc đẩy có trọng tâm, trọng điểm, tạo sự đột phá và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ với các nước lớn, các nước công nghiệp phát triển với những bước đi phù hợp, tránh bị lợi dụng gây bất lợi cho quốc phòng, an ninh; đồng thời, củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, tạo sự ủng hộ mạnh mẽ về mọi mặt. Tiếp tục thúc đẩy quan hệ quốc phòng với các nước đối tác, đặc biệt là đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện đi vào chiều sâu, ổn định, thực chất và tăng cường sự tin cậy; trọng tâm là cụ thể hóa và xây dựng các chương trình hành động, cơ chế triển khai các khuôn khổ quan hệ, hợp tác; rà soát, tổng kết đánh giá việc triển khai thỏa thuận hợp tác đã ký với các đối tác thông qua cơ chế hợp tác song phương cùng có lợi.
Cùng với đó, cần tiếp tục đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc phòng đa phương, nhất là trong khuôn khổ hợp tác ASEAN. Trên thực tế, ASEAN đang ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong các vấn đề an ninh khu vực. Các cơ chế hợp tác của ASEAN, như: Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+),... đã và đang tạo điều kiện thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia thành viên ASEAN và giữa ASEAN với các nước đối tác, đối thoại để xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định và phát triển. Tích cực tham gia và đề xuất sáng kiến, bày tỏ quan điểm ở các diễn đàn đa phương, nhằm tạo sự ủng hộ rộng rãi của quốc tế trong đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
Ba là, đẩy mạnh các hoạt động thương mại về quốc phòng, nhằm cung cấp cho Quân đội những trang bị, thiết bị, vũ khí phù hợp với điều kiện và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Hiện nay, cùng với duy trì quan hệ thương mại với các bạn hàng truyền thống, Việt Nam đã mở rộng quan hệ thương mại quốc phòng với các đối tác có tiềm năng, trên cơ sở tuân thủ những quy định của luật pháp quốc tế và đã đem lại hiệu quả thiết thực. Thời gian tới, trước yêu cầu hiện đại hóa Quân đội, nhất là đối với các lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, việc đẩy mạnh hoạt động thương mại quốc phòng càng có ý nghĩa quan trọng. Theo đó, việc đẩy mạnh hoạt động này cần theo một kế hoạch thống nhất trong khuôn khổ của hội nhập quốc tế về quốc phòng. Trong đó, hợp tác về công nghiệp quốc phòng phải hướng tới các nước lớn, những nước có trình độ công nghiệp phát triển hiện đại và tập trung vào thúc đẩy chuyển giao công nghệ, tiếp thu, áp dụng các quy trình quản lý, sản xuất tiên tiến theo cơ chế thị trường. Thông qua hợp tác, vừa phải tranh thủ được các nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến, vừa phải nâng cao năng lực tự chủ để từng bước có thể tự bảo đảm vũ khí, khí tài ngày càng hiện đại cho Quân đội.
Bốn là, tiếp tục mở rộng cơ chế đối thoại quốc phòng cấp cao với các nước đối tác để tăng cường hiểu biết, xây dựng lòng tin trong hợp tác quốc tế về quốc phòng. Đến nay, chúng ta đã thực hiện đối thoại quốc phòng với gần 20 nước trên thế giới; trong đó có nhiều nước lớn, như: Trung Quốc, Nga, Mỹ, Nhật Bản, Ô-xtrây-li-a, Pháp, Ấn Độ, Niu Di-lân, v.v. Thời gian tới, Bộ Quốc phòng tiếp tục nghiên cứu mở rộng cơ chế đối thoại quốc phòng cấp cao với các nước đối tác, nhất là cơ chế đối thoại chiến lược, đối thoại chính sách quốc phòng với các nước đối tác chiến lược, đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, v.v. Thông qua các cơ chế đối thoại, tham vấn quốc phòng, làm cho các nước hiểu rõ hơn về những vấn đề có liên quan đến chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam và chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong việc giải quyết các bất đồng, tranh chấp về chủ quyền biển, đảo. Trên cơ sở đó, xây dựng lòng tin, đẩy mạnh hợp tác quốc phòng vì hòa bình, phát triển, thịnh vượng của mỗi nước, khu vực và thế giới.
Năm là, từng bước tham gia có hiệu quả vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Đây là vấn đề mới nên việc tham gia cần được tiến hành từng bước, thận trọng. Trước mắt, cần tập trung xây dựng, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật; đẩy mạnh nghiên cứu về tổ chức biên chế, chuẩn bị lực lượng và cơ sở hạ tầng của Trung tâm gìn giữ hòa bình Việt Nam để từng bước mở rộng mức độ tham gia vào các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc. Năm 2014, với việc gửi sĩ quan tham gia phái bộ của Liên hợp quốc tại Nam Xu-đăng, Việt Nam đã chính thức tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Đây là bước phát triển mới của hợp tác quốc phòng đa phương, thể hiện tinh thần tích cực, chủ động hội nhập quốc tế về quốc phòng của Đảng và Nhà nước ta, nâng cao uy tín của đất nước và Quân đội nhân dân Việt Nam trên trường quốc tế. Trên nền tảng đó, năm 2015, cần đẩy mạnh việc phối hợp, hợp tác giữa Trung tâm gìn giữ hòa bình Việt Nam với các trung tâm gìn giữ hòa bình của các nước ASEAN và các quốc gia khác, nhất là hợp tác về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực: công binh, quân y, cứu hộ, cứu nạn, v.v.
Sáu là, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu dự báo và tham mưu chiến lược về ĐNQP, coi đó là một trong những khâu đột phá của năm 2015. Theo đó, cần tập trung kiện toàn hệ thống cơ quan nghiên cứu dự báo và tham mưu chiến lược về ĐNQP theo hướng "tinh, gọn, mạnh, hợp lí, đồng bộ"; chú trọng bổ sung, hoàn chỉnh chức trách, nhiệm vụ của từng cơ quan; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Trong đó, việc phát triển nguồn nhân lực cho công tác này cần coi trọng từ khâu phát hiện, lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng, bảo đảm cả về phẩm chất, năng lực, trình độ chuyên môn và có tính kế tiếp, kế thừa vững chắc. Các cơ quan, đơn vị, nhất là các đơn vị làm công tác đối ngoại, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình, thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong lĩnh vực nghiên cứu dự báo và tham mưu chiến lược về ĐNQP; đồng thời, có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện để cán bộ tích cực tham gia nghiên cứu đối ngoại.
Trong bối cảnh khu vực, thế giới có nhiều biến động phức tạp, khó lường, công tác nghiên cứu dự báo và tham mưu chiến lược về ĐNQP cần thường xuyên bám sát thực tiễn, nhất là các động thái mới ở khu vực và thế giới để khái quát, rút ra những vấn đề có tính bản chất, kịp thời tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng trong hoạch định kế hoạch, chiến lược đối ngoại phù hợp. Ngoài ra, ĐNQP phải thường xuyên phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các bộ, ngành, địa phương và lực lượng có liên quan trong nghiên cứu dự báo và tham mưu chiến lược về ĐNQP, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp trong phân tích, đánh giá tình hình, đưa công tác này đi vào chiều sâu, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Bảy là, tăng cường công tác thông tin ĐNQP, làm cho cộng đồng quốc tế, nhất là các nước đối tác, đối thoại và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài nhận thức đúng chủ trương hội nhập quốc tế về quốc phòng của Đảng và Nhà nước ta; hiểu rõ chính sách quốc phòng của Việt Nam là hòa bình, tự vệ, hợp tác cùng phát triển. Trên cơ sở đó, phản bác, vạch trần các luận điệu vu khống, xuyên tạc chính sách quốc phòng Việt Nam của các thế lực thù địch; tranh thủ sự ủng hộ tích cực của cộng đồng quốc tế. Để công tác này đạt hiệu quả thiết thực, thời gian tới, phải tích cực đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp thông tin, tuyên truyền cho phù hợp với từng đối tác; tăng cường về bề rộng nhưng phải chú trọng về chiều sâu. Nội dung thông tin, tuyên truyền phải bảo đảm toàn diện trên các mặt; trong đó, chú trọng làm rõ, có sức thuyết phục những thành tựu của Việt Nam về kinh tế - xã hội; về xóa đói giảm nghèo và những tiến bộ về dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo ở các vùng, miền, v.v. Công tác thông tin đối ngoại phải làm cho thế giới biết đến Việt Nam không chỉ là một đất nước yêu chuộng hòa bình, đang vươn lên sau chiến tranh, mà còn là quốc gia đã, đang tham gia một cách có trách nhiệm trong giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực. Thông qua đó, thông tin, tuyền truyền cho nhân dân trong nước và cộng đồng quốc tế hiểu rõ mục đích, nhiệm vụ và vai trò của Quân đội nhân dân Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế và trong tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.
Thực hiện tốt những định hướng trên, chúng ta tin rằng, năm 2015 và những năm tiếp theo, hoạt động ĐNQP sẽ có sự phát triển toàn diện, tranh thủ tối đa các cơ hội, hóa giải thành công thách thức, góp phần giữ vững môi trường hòa bình của đất nước, trong khu vực và trên thế giới.
Thượng tướng NGUYỄN CHÍ VỊNH, Ủy viên BCHTƯ Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top