Phần 1
Đảng lãnh đạo phòng chống chiến lược diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch ở Việt Nam hiện nay
Trong những năm gần đây, lợi dụng xu thế toàn cầu hóa kinh tế thế giới và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhất là tin học đang phát triển mạnh mẽ cùng với những khó khăn, thách thức nảy sinh do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu và những diễn biến phức tạp mới trong tranh chấp chủ quyền Biển Đông, các thế lực thù địch ngày càng ráo riết đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta. Những phần tử cơ hội chính trị ở trong nước hùa theo những luận điểm sai trái của địch, ra sức công kích Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
“Diễn biến hoà bình” là chiến lược cơ bản nhằm lật đổ chế độ chính trị của các nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong bằng biện pháp phi quân sự do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tiến hành.
“Diễn biến hòa bình” là bộ phận quan trọng trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch nhằm xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào độc lập dân tộc trên thế giới. Chúng sử dụng mọi thủ đoạn kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, đối ngoại, an ninh… để phá hoại, làm suy yếu từ bên trong các nước xã hội chủ nghĩa; kích động các mâu thuẫn trong xã hội, tạo ra các lực lượng chính trị đối lập núp dưới chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, tụ do tôn giáo, sắc tộc, khuyến khích tư nhân hoá về kinh tế và đa nguyên chính trị, làm mơ hồ giai cấp và đấu tranh giai cấp trong nhân dân lao động. Khích lệ lối sống tư sản và làm phai nhạt mục tiêu, lí tưởng xã hội chủ nghĩa ở một số bộ phận sinh viên; triệt để khai thác và lợi dụng những khó khăn, sai sót của Đảng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực đời sống xã hội, tạo nên sức ép, từng bước chuyển hoá và thay đổi đường lối chính trị, chế độ xã hội theo quỹ đạo chủ nghĩa tư bản.
Bạo loạn lật đổ là hành động chống phá bằng bạo lực do lực lượng phản động hay lực lượng li khai, đối lập trong nước hoặc cấu kết với nước ngoài tiến hành gây rối an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội hoặc lật đổ chính quyền ở địa phương hay Trung ươngthông qua các hình thức như bạo loạn chính trị, bạo loạn vũ trang, bạo loạn chính trị kết hợp vũ trang.
Bên cạnh đó, nhằm mục tiêu “chuyển hóa” niềm tin của nhân dân, chúng thường xuyên theo dõi mọi diễn biến đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của nước ta, chúng nghiên cứu, tổng hợp có hệ thống mọi vấn đề; tận dụng triệt để những nhận định hạn chế, yếu kém, sơ hở trên các mặt, nhất là về chính trị, kinh tế, an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại qua các báo cáo chính thức của các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước, bộ, ngành, địa phương…được các thế lực thù địch xem đó là điểm tựa, “chứng minh” cho những quan điểm, chính kiến, nhận địch sai lầm của chúng. Để tăng “hiệu quả”, chúng luôn đan cài những tư tưởng, quan điểm mácxít - giả danh mácxít, đúng - sai lẫn lộn, làm cho người đọc mất phương hướng, không phân biệt được ngay - gian, chính - tà. Ví như: Trích dẫn một cách cắt xén, nửa vời những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để đối lập, bác bỏ, phủ nhận hệ thống đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước ta, nhằm bác bỏ, phủ nhận luôn cả chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; hướng lái người đọc theo định hướng tư tưởng của chúng, mà thực chất chỉ là những tư tưởng hận thù dân tộc, dân tộc cực đoan hay dân chủ tư sản phản động. Mục tiêu của chúng nhằm:
Một là, xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin để thay thế bằng hệ tư tưởng tư sản trong các nước xã hội chủ nghĩa. Các nhà lý luận của chiến lược "diễn biến hòa bình" cho rằng, tư tưởng là lĩnh vực có tầm quan trọng hàng đầu, vì vậy, mục tiêu phải đạt tới là tước bỏ vũ khí tư tưởng của đối phương và coi đó là khâu đột phá của chiến lược "diễn biến hòa bình".
Hai là, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập trong các nước xã hội chủ nghĩa. Luận điệu được sử dụng thường xuyên là đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo là "độc tài", là "bóp nghẹt dân chủ", vì thế phải thay thế bằng chế độ chính trị đa đảng! Từ đó, tìm mọi cách nhen nhóm các lực lượng phản động chống đối, cơ hội chính trị trong các nước xã hội chủ nghĩa.
Ba là, gây mất ổn định về chính trị trong các nước xã hội chủ nghĩa. Thủ đoạn thường xuyên được sử dụng là lợi dụng, kích động những vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn giáo" để gây mâu thuẫn nội bộ, phá vỡ sự đồng thuận xã hội và khi có thời cơ lôi kéo một bộ phận quần chúng vào các cuộc bạo loạn chính trị.
Bốn là, làm suy yếu, chệch hướng phát triển của nền kinh tế, tiến tới chi phối, lũng đoạn, khống chế kinh tế.
Năm là, chuyển hóa văn hóa, đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa theo quỹ đạo và các giá trị phương Tây, từ đó làm biến đổi theo chiều hướng tiêu cực và tha hóa con người, dẫn tới biến chất cả một xã hội.
Sáu là, "phi chính trị hóa" để vô hiệu hóa quân đội và công an.
Nhận rõ bản chất, mục đích phá hoại của các thế lực thù địch, Đảng, Nhà nước ta đã đề ra các quan điểm, giải pháp nhằm chống lại âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch. Cụ thể:
Quan điểm chỉ đạo của Đảng: Đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” là một cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc gay go, quyết liệt, lâu dài và phức tạp trên mọi lĩnh vực. Chống “diễn biến hòa bình” là cấp bách hàng đầu trong các nhiệm vụ quốc phòng- an ninh hiện nay để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”.
Phương châm tiến hành: Chủ động, khôn khéo, kiên quyết xử lí tình huống và giải quyết hậu quả khi có bạo loạn xảy ra, giải quyết các vụ gây rối, không để phát triển thành bạo loạn. Xây dựng tiềm lực đất nước vững mạnh, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân trong nước và quốc tế, kịp thời làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù đối với cách mạng Việt Nam.
Giải pháp nâng cao hiệu quả và vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đấu tranh chống các thế lực thù địch:
- Tiếp tục giữ vững, củng cố và nâng cao niềm tin về mục tiêu lý tưởng cách mạng. Phải nhận thức rõ trong quá trình đấu tranh tư tưởng, đấu tranh và đi lên của sự nghiệp cách mạng, bên cạnh những ưu điểm là cơ bản, tất yếu không tránh khỏi những sai lầm, vấp váp, khuyết điểm. Trách nhiệm chính trị lúc này hơn lúc nào hết phải tích cực nghiên cứu, đề cao trách nhiệm tham gia những ý kiến xác đáng, mang tính xây dựng cho Đảng, cho đường lối, nghị quyết của Đảng.
- Đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cách mạng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về quan điểm, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.Nhận thức là cơ sở của hành động, nhận thức đúng dẫn đến hành động đúng đắn và ngược lại. Do đó, cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, đồng thời triển khai thực hiện đúng đắn quan điểm, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước nhằm khơi dậy truyền thống yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, tự hào về thành tựu to lớn do Đảng, Nhà nước, nhân dân lao động sáng tạo ra trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
- Tiếp tục củng cố “thế trận”, tổ chức lực lượng đấu tranh kịp thời, sắc bén và hiệu quả. Dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, các cấp ủy đảng cần chủ động xây dựng kế hoạch, nội dung đấu tranh trọng tâm, sát với sự chỉ đạo của trên; dự báo kịp thời với sự phát triển của tình hình; phát huy triệt để các lực lượng tinh nhuệ, thiện chiến, các chuyên gia khoa học hàng đầu, đội ngũ cán bộ đầu ngành, các nhà khoa học, nhà báo và đông đảo các cộng tác viên nhiệt huyết và bản lĩnh cùng tham gia đấu tranh.
- Giữ vững nguyên tắc sinh hoạt Đảng, chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, ý thức tổ chức kỷ luật, nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, kỷ cương của Đảng; thực hiện tốt những điều qui định đảng viên không được làm. Dân chủ thảo luận, tham gia đóng góp ý kiến cho Đảng là quyền lợi, là trách nhiệm của mọi người; tuy nhiên, phải thực sự làm chủ trong thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ.
- Chủ động định hình, thiết lập hệ thống khung lý luận, luận cứ, luận điểm đấu tranh tư tưởng, lý luận khoa học, sẵn sàng tuyên truyền và đáp trả những quan điểm, tư tưởng thù địch. Đây là việc làm cấp bách hiện nay, cần có sự chỉ đạo, lãnh đạo sáng suốt, tập trung, thống nhất từ Trung ương, bộ, ngành liên quan đến các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học. Các cơ quan khoa học, các học viện, nhà trường hàng đầu về khoa học xã hội và nhân văn trong cả nước phải là lực lượng tiên phong, nòng cốt trong việc nghiên cứu, tham mưu cho Đảng, Nhà nước để xác lập hệ thống các luận cứ đấu tranh tư tưởng, lý luận chính xác, thống nhất; đồng thời giáo dục, tuyên truyền trong các cơ quan, đơn vị, tạo dựng một hệ thống cán bộ chuyên trách, sắc sảo về đấu tranh và hiệu quả trong tuyên truyền, giáo dục quần chúng.
- Đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước về báo chí và tuyên truyền. Có biện pháp quản lý chặt chẽ mạng Internet, ngăn ngừa các trang mạng độc hại kết hợp với tăng cường mở mới, đa dạng các trang mạng, báo chí có nội dung đấu tranh tư tưởng, lý luận của ta. Đây là một nội dung, biện pháp quản lý nhà nước đặc biệt quan trọng, nhằm ngăn chặn tận “gốc” nguồn tuyên truyền, phát tán những tư tưởng, quan điểm sai trái, thù địch; quản lý chặt chẽ, không để lộ, lọt, sơ hở về đăng tải thông tin theo quy định của Nhà nước.
Với đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, gần 30 năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã vượt qua tình trạng đói nghèo, kém phát triển; tình hình chính trị, kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh tiếp tục ổn định và phát triển; uy tín, vị thế của nước ta không ngừng nâng cao trên trường quốc tế; sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng; đời sống an sinh xã hội tiếp tục được cải thiện; các lĩnh vực văn hóa, xã hội được quan tâm và có sự phát triển tốt. Việt Nam tiếp tục nhận được sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước ta là rất rõ ràng; kẻ thù tìm mọi cách tấn công ta không một phút ngơi nghỉ, nhất là trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay, Song, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và niềm sâu sắc của toàn bộ dân tộc Việt Nam vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước, bảo đảm công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay sẽ tiến hành một cách đồng bộ cả về công tác xây dựng hệ thống pháp luật, kinh tế, văn hóa và chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; xây dựng và bảo vệ đất nước; tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qúa độ lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân Việt Nam nguyện đoàn kết một lòng, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường xây dựng đất nước, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác./.
Công tác tư tưởng văn hóa là một bộ phận cơ bản, một lĩnh vực trọng yếu, hàng đầu của công tác đảng, công tác chính trị; trực tiếp giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt trong công tác giáo dục thế hệ trẻ
.
Hiện nay, trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước ta đã chỉ đạo thường xuyên và chặt chẽ cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, làm thất bại âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Nhiều nghị quyết của Đảng đã chỉ ra những nguy cơ, trong đó nguy cơ “diễn biến hòa bình” được xem là nguy cơ cực kỳ nguy hiểm. Ngày 24 tháng 4 năm 2009, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 34-CT/TW về “Tăng cường đấu tranh chống âm mưu hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa”. Đây là yêu cầu cấp thiết trong tình hình hiện nay, bởi vì sự chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa đối với Việt Nam hiện nay không chỉ dừng lại ở những âm mưu mà bằng những hành động tinh vi, xảo quyệt, không từ một thủ đoạn nào. Mục tiêu tấn công trước hết tập trung vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đặc biệt trong thời điểm hiện nay, chúng ta đang chuẩn bị tiến hành Đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Các thế lực thù địch coi đây là một cơ hội để tập trung chống phá nhằm thúc đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với cách mạng Việt Nam.
Đại học Quốc gia Hà Nội là trung tâm đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực, đi đầu trong cả nước trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Quá trình đào tạo là quá trình vừa phát huy tối đa nội lực vừa tăng cường mở rộng liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo trong nước và quốc tế nhằm không ngừng nâng cao tri thức toàn diện, cập nhật, thích ứng kịp thời, trang bị kỹ năng, trình độ tổng hợp cho sinh viên. Vì vậy, quá trình đào tạo là quá trình sinh viên được tiếp cận và có điều kiện tiếp cận một cách phong phú, đa dạng các đối tượng dạy, học, các học trình, học liệu theo hướng mở, cả trong nước và quốc tế; theo đó, ngoài kiến thức chuyên nghành, sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội còn được tiếp cận đa dạng các kiến thức khoa học, tự nhiên, chính trị - xã hội một cách rộng lớn... Và cũng vì thế, sự tác động đến nhận thức, nhất là về chính trị - xã hội, trong đó nhận thức về âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch trong chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá CNXH và chống phá cách mạng Việt Nam đối với sinh viên luôn diễn ra hết sức phức tạp.
Trong những năm qua, lãnh đạo Đại học Quốc gia Hà Nội đã không ngừng quan tâm phát triển toàn diện quá trình đào tạo, nâng cao chất lượng chuẩn đầu ra của sinh viên đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trên tất cả mọi lĩnh vực; định hướng nghề nghiệp trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội đất nước, trách nhiệm tuổi trẻ, trách nhiệm sinh viên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Tuy nhiên, trong quá trình giáo dục, đào tạo; để thực hiện sứ mệnh của giáo dục đại học là góp phần vào yêu cầu phát triển bền vững và phát triển xã hội nói chung, việc nâng cao nhận thức phòng, chống chiến lược “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa của sinh viên cũng còn bộc lộ những hạn chế cần được khắc phục. Vì vậy, việc nghiên cứu, đề xuất những giải pháp phù hợp để nâng cao hơn nữa ý thức phòng, chống chiến lược “diễn biến hoà bình” của sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội hiện nay là vấn đề cần được chú trọng thực hiện. Để nâng cao hiệu quả phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong giảng dạy quốc phòng - an ninh cho sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Một là, kết hợp chặt chẽ việc giáo dục cho sinh viên về nhận thức, trách nhiệm trong giữ gìn bản sắc, tinh hoa văn hóa dân tộc với giáo dục nâng cao nhận thức về âm mưu, thủ đoạn chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực. Đặc biệt về tư tưởng và văn hóa, làm cho sinh viên hiểu được hiện nay các lực lượng phản động ra sức xuyên tạc lịch sử, truyền bá các quan điểm sai trái, làm rối loạn tư tưởng, khủng hoảng niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của cách mạng. Một trong các thủ đoạn đó là thông qua các tổ chức phi chính phủ, qua các hình thức giao lưu, hợp tác kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học… để thâm nhập, làm chuyển hóa tư tưởng, chuyển hóa chính trị, mua chuộc cán bộ, cài cắm nội gián; móc nối với những phần tử bất mãn, cơ hội chính trị, tìm cách can thiệp để đưa một số người ra nước ngoài dự hội thảo, học tập; đưa giáo viên và lưu học sinh nước ngoài vào Việt Nam học tập, nghiên cứu, tiếp xúc, giao lưu… nhằm thực hiện những mục đích đen tối của chúng. Lợi dụng các diễn đàn công khai (hội nghị, hội thảo) để tuyên truyền “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”, tuyên truyền, truyền bá, cổ vũ cho lối sống thực dụng, suy đồi trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên, học sinh, sinh viên. Chúng huy động tối đa các phương tiện thông tin truyền thông và tăng cường liên kết giữa các tổ chức phản động trong và ngoài nước để chống phá cách mạng nước ta. Đưa một số tài liệu, sách báo, truyền đơn, băng hình, băng nhạc có nội dung phản động, đồi trụy vào nước ta. Lợi dụng những thư từ góp ý, những cuộc hội thảo, những tranh luận nội bộ để xuyên tạc, cắt xén, nhào nặn theo ý của chúng rồi đưa lên Internet. Tổ chức gặp gỡ, phỏng vấn những đối tượng chúng có thể lôi kéo được. Triệt để khai thác, sử dụng tài liệu, thông tin từ những phần tử cơ hội chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội; kích động lôi kéo một số người có quan điểm sai trái, biến họ thành công cụ đắc lực thực hiện các thủ đoạn của “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ.
Hai là, giúp sinh viên nắm vững phương châm, phương pháp đấu tranh chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, vạch trần âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Từ đó định hướng cho sinh viên đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa là một nội dung của cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp đang diễn ra hết sức gay go và quyết liệt trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội vì cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng bao gồm đấu tranh về quan điểm lý luận, tư tưởng chính trị, cương lĩnh, đường lối…diễn ra trên tất cả các lĩnh vực (kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, quân sự, ngoại giao…), thể hiện dưới nhiều hình thức (công khai, hợp pháp, bán công khai, bí mật…) và được thực hiện bằng nhiều phương tiện (báo chí, xuất bản, văn hóa - nghệ thuật, hội thảo, tiếp xúc trực tiếp, truyền miệng…). Do đó phải kết hợp chặt chẽ giữa chủ động ngăn chặn, phòng ngừa từ xa với chủ động tiến công làm thất bại âm mưu và ý đồ chống phá của các thế lực thù địch, thể hiện rõ tư tưởng cách mạng tiến công trong chỉ đạo cuộc đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của Đảng ta.
Ba là, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, lý tưởng sống cao đẹp cho sinh viên. Tiếp tục đẩy mạnh công tác bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho sinh viên thông qua các hoạt động công tác Đoàn, công tác Hội và nhiều phong trào hành động phù hợp với cuộc sống và việc học tập của sinh viên… Đặc biệt chăm lo bồi dưỡng lý tưởng chính trị, lý tưởng nghề nghiệp, lý tưởng thẩm mỹ, chuẩn mực đạo đức văn hóa Việt Nam.
Bốn là, áp dụng phương pháp giảng dạy phù hợp với từng đối tượng, có nhiều hình thức học tập sinh động và lôi cuốn. Làm tốt công tác cung cấp và định hướng thông tin, tập trung đổi mới nâng cao ý thức, trách nhiệm của sinh viên trong nghiên cứu vận dụng lý luận vào thực tiễn nhằm góp phần làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn của “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động.
Công tác tư tưởng, văn hóa trong thời kỳ đổi mới đã đóng góp tích cực trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”. Tuy nhiên, những khó khăn, thách thức trên mặt trận này vẫn gia tăng. Đặc biệt, trước thềm tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, sự chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa càng trở nên quyết liệt và thâm hiểm hơn. Do vậy, việc tiến hành giáo dục, nâng cao nhận thức cho sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội về cuộc đấu tranh trên mặt trận chính trị, tư tưởng hiện nay vừa có tính cấp bách; đồng thời là một nhiệm vụ chiến lược lâu dài./.
Dân quân tự vệ Việt Nam trong chiến tranh nhân dân và quốc phòng toàn dân
QĐND - Trong đường lối quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam, quan điểm về chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân là những quan điểm cơ bản, bắt nguồn từ tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh chống xâm lược của dân tộc ta và từ nhận thức đúng đắn của Đảng về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử: “Nước lấy dân làm gốc. Trong cuộc kháng chiến, kiến quốc, lực lượng chính là ở dân”; “Khi cả một dân tộc đã đoàn kết lại quyết tâm chiến đấu vì quyền sống trong độc lập tự do của mình, thì không quân đội nào, súng bom nào có thể chống lại được”.
Chiến tranh nhân dân Việt Nam là cuộc chiến tranh do toàn dân Việt Nam tiến hành một cách toàn diện nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng triệt để nhân dân lao động, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; mang tính chất “của dân, do dân, vì dân”; với nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân được xây dựng trên cơ sở lực lượng chính trị của quần chúng; được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển lên một tầm cao mới phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam trên cơ sở quán triệt sâu sắc quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc, tinh hoa quân sự của nhân loại.
Quốc phòng Việt Nam là công cuộc giữ nước của quốc gia, gồm tổng thể hoạt động đối nội và đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học... của Nhà nước và nhân dân để phòng thủ đất nước, tạo nên sức mạnh toàn dân, toàn diện, cân đối, với sức mạnh quân sự là đặc trưng, nhằm giữ vững hòa bình, đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt động gây chiến của kẻ thù và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức, quy mô. Quốc phòng Việt Nam được hình thành, phát triển trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, phát triển lên tầm cao mới trong thời đại Hồ Chí Minh; đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước...; mang tính chất “của dân, do dân, vì dân” và xây dựng theo hướng toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng, củng cố nền quốc phòng Việt Nam là trách nhiệm của toàn dân, của cả hệ thống chính trị với lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt.
Như vậy, cả trong tiến hành chiến tranh nhân dân và xây dựng, củng cố quốc phòng toàn dân, Đảng là người lãnh đạo và Nhà nước quản lý, điều hành (khi giành được chính quyền), nhân dân làm chủ; đều vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đều do nhân dân tiến hành một cách toàn diện với lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt...
Trên cơ sở lấy dân “làm gốc”, động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân với ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Trong “Nghị quyết về đội tự vệ” do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất thông qua, Đảng khẳng định dân quân tự vệ có vai trò chiến lược to lớn đối với sự nghiệp đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam: “Tự vệ đội càng mạnh thì tức là có điều kiện thuận lợi để sau này tổ chức du kích chiến tranh và vũ trang bạo động”; đồng thời, xác định những vấn đề về tổ chức, chỉ đạo, xây dựng, huấn luyện và hoạt động của lực lượng dân quân tự vệ. Đây là sự tiếp nối và cụ thể hơn quan điểm của Đảng tại Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 10 năm 1930, khi Đảng chỉ ra: “Mục đích của Đảng là lãnh đạo quần chúng võ trang bạo động. Phải tổ chức bộ phận quân sự; giúp cho công, nông hội tổ chức đội tự vệ”.
Cùng với sự phát triển của cách mạng, Đảng dần hoàn thiện quan điểm, đường lối quân sự và chỉ rõ: Muốn tiến hành chiến tranh nhân dân, củng cố nền quốc phòng toàn dân thì phải “vũ trang toàn dân”, phát động toàn dân đánh giặc. Ngoài việc tổ chức ra bộ đội chủ lực thì phải tổ chức bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Sự ra đời, phát triển của lực lượng dân quân tự vệ là quy luật phổ biến trong duy trì sức mạnh quân sự, quốc phòng đất nước và là nghệ thuật tổ chức lực lượng vũ trang, là kế thừa kế sách giữ nước của Tổ tiên. Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng sinh ra và lớn lên trong phong trào cách mạng của nhân dân, gắn bó mật thiết với quê hương, làng bản, với từng đường phố, nhà máy, xí nghiệp, nông-lâm trường và sống, chiến đấu vì nhân dân, trong lòng nhân dân, được nhân dân dạy dỗ, chở che, đùm bọc. Lực lượng dân quân tự vệ là thành tố tạo cơ sở vững chắc, rộng rãi nhất của đấu tranh vũ trang và lực lượng vũ trang nhân dân; là lực lượng chiến lược của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam trong đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành chiến tranh nhân dân và xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân; là công cụ chuyên chính của tổ chức đảng và chính quyền cơ sở; là lực lượng dự bị vô tận của Quân đội nhân dân Việt Nam và là trường học chuẩn bị mọi mặt cho thanh niên làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Một trong những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng, củng cố lực lượng dân quân tự vệ hùng hậu, rộng khắp, có chất lượng cao trên cơ sở nhân dân vũ trang và chất lượng chính trị vững chắc. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ là trách nhiệm của các cấp, các ngành, của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp dân quân tự vệ và sự lãnh đạo của Đảng là nguồn gốc, nguyên tắc cơ bản, nhân tố quyết định quá trình trưởng thành, chiến thắng của lực lượng dân quân tự vệ Việt Nam; Nhà nước quản lý, chỉ huy là nhân tố cơ bản, giữ vai trò chủ đạo bảo đảm thống nhất hoạt động của lực lượng dân quân tự vệ; Nhân dân là nền tảng sức mạnh và chỗ dựa vững chắc của lực lượng dân quân tự vệ... Nâng cao sức mạnh tổng hợp của dân quân tự vệ phải lấy chất lượng làm chính đồng thời bảo đảm số lượng, cơ cấu biên chế tổ chức hợp lý, được huấn luyện và quản lý tốt, từng bước nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu...
Trên nhận thức và tư tưởng chỉ đạo đó, lực lượng dân quân tự vệ và du kích Việt Nam luôn trung thành với Đảng, với nhân dân, ngày càng phát triển cùng sự phát triển của cách mạng. Từ hình thức tổ chức ban đầu là các đội tự vệ và tự vệ chiến đấu, lực lượng dân quân tự vệ đã từng bước được thống nhất về tổ chức, trở thành lực lượng vũ trang đông đảo của Đảng không thoát ly sản xuất; được tổ chức ở khắp các địa phương, cơ sở trên cả nước; đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của tổ chức đảng và sự quản lý của chính quyền các cấp, do cơ quan quân sự địa phương trực tiếp chỉ huy.
Trong cuộc chiến đấu gay go quyết liệt để giữ làng, giữ nước, dân quân tự vệ đã nêu cao tinh thần chủ động tích cực tiến công địch bằng phương thức tác chiến phân tán nhỏ, rộng khắp; có mặt và sẵn sàng đánh địch ở bất cứ nơi nào quân địch đặt chân đến; lấy cách đánh bí mật, bất ngờ, luồn sâu, đánh hiểm bằng mọi thứ vũ khí của nhân dân làm cách đánh của mình, hình thành thế trận xen kẽ, cài răng lược với địch... Lực lượng dân quân tự vệ đã cùng bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương trở thành lực lượng chủ yếu tiến hành chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch và bảo vệ hậu phương rộng lớn của ta; phối hợp với bộ đội chủ lực chuẩn bị chiến trường và trực tiếp đánh địch tại chỗ; hỗ trợ đắc lực cho phong trào nổi dậy của nhân dân đấu tranh giành và giữ chính quyền, làm chủ ở cơ sở... phát huy cao độ sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân, góp phần phát triển lối đánh truyền thống độc đáo của dân tộc Việt Nam “nhỏ đánh lớn”, “ít địch nhiều” lên tầm cao mới, làm cơ sở cho sự hình thành và phát triển lối đánh chính quy, hiệp đồng binh chủng quy mô lớn.
Trong hòa bình, quán triệt và thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân của Đảng, lực lượng dân quân tự vệ Việt Nam được chú trọng củng cố, xây dựng cùng với việc tăng cường xây dựng quân đội thường trực. Dân quân tự vệ đã trở thành lực lượng hậu thuẫn của quần chúng nhân dân ở cơ sở trong cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giành thắng lợi hoàn toàn cho chủ nghĩa xã hội; là công cụ chủ yếu của nền chuyên chính của giai cấp công nhân để trấn áp mọi phần tử phá hoại sự nghiệp cách mạng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ nhân dân ở cơ sở và tham gia lao động sản xuất, xây dựng quê hương...
Suốt chặng đường lịch sử oanh liệt và vẻ vang của mình, dân quân tự vệ Việt Nam tự hào có nhân dân, có Đảng; Đảng, nhân dân tự hào có dân quân tự vệ. Dân quân tự vệ góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và các lực lượng vũ trang nhân dân giành những thắng lợi lịch sử trong chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945, trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.
Lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã minh chứng: Nhờ có sự lãnh đạo của Đảng, sự che chở, nuôi dưỡng, giáo dục, rèn luyện và đùm bọc của nhân dân... mà dân quân tự vệ và du kích Việt Nam đã ngày càng trưởng thành, phát triển, trở thành của dân, vì dân. Trong mọi thời kỳ, dân quân tự vệ luôn là một lực lượng chiến lược quan trọng, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân ghi nhận: “Là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận địch nhân hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã"(*).
Ghi nhận những công lao và thành tích của lực lượng dân quân tự vệ và du kích qua các thời kỳ, hàng trăm tập thể và cá nhân dân quân tự vệ được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Trong đó tiêu biểu là Đại đội nữ dân quân Ngư Thủy (Lệ Thủy, Quảng Bình), Đại đội nữ dân quân Tiền Hải (Thái Bình), Trung đội lão dân quân Hoằng Hóa (Thanh Hóa), dân quân du kích huyện Củ Chi (TP Hồ Chí Minh), huyện Giồng Trôm, Mỏ Cày (Bến Tre) v.v.. và hàng nghìn, hàng vạn cá nhân dân quân tự vệ và du kích anh hùng tiêu biểu khác đã góp phần tô thắm thêm những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Hiện nay, tình hình thế giới đã và đang tiếp tục diễn biến rất phức tạp, tiềm ẩn nhiều nhân tố bất trắc, khó lường và xuất hiện nhiều loại hình chiến tranh, phương thức tác chiến mới... Ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tiếp tục diễn ra quyết liệt; tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo vẫn phức tạp. Đối với nước ta, bên cạnh những thành tựu đạt được thì những nguy cơ, thách thức mà Đảng cảnh báo vẫn hiện hữu; các thế lực thù địch vẫn đang đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ... Trong tương lai, nếu xảy ra một cuộc chiến tranh xâm lược đối với nước ta thì để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa chúng ta vẫn phải tiến hành chiến tranh nhân dân do nhân dân Việt Nam tiến hành một cách toàn diện dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Lực lượng dân quân tự vệ vẫn là một lực lượng chiến lược, rộng khắp. Để dân quân tự vệ phát huy tốt truyền thống, làm tròn nhiệm vụ, cần làm tốt các vấn đề sau:
Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng và sự quản lý, điều hành thống nhất của chính quyền các cấp đối với dân quân tự vệ. Theo đó, cấp ủy, chính quyền, cơ quan quân sự các cấp cần quán triệt sâu sắc hơn nữa đường lối quân sự của Đảng, nhận rõ đặc điểm tình hình hiện nay và yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trước mắt cũng như về lâu dài, tùy theo phạm vi trách nhiệm của mình mà tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, thúc đẩy xây dựng dân quân tự vệ thật sự là lực lượng trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ trong mọi tình huống, nhất là ở các vùng trọng điểm về quốc phòng, an ninh, địa bàn chiến lược và những nơi có vấn đề phức tạp. Trong đó, chú trọng quán triệt và thực hiện đúng mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo và những nhiệm vụ, giải pháp mà Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25-10-2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Chiến lư¬ợc bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” đã đề ra; các chủ trương, phương hướng, giải pháp xây dựng dân quân tự vệ trong từng thời kỳ; nguyên tắc tổ chức và hoạt động của dân quân tự vệ, đặc biệt là cơ chế Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp đối với dân quân tự vệ. Xác lập và thực hiện chế độ công tác, quy chế làm việc, quyền và nghĩa vụ của các cấp bộ đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức các cấp về dân quân tự vệ. Lãnh đạo chính quyền bổ sung hoàn thiện các kế hoạch quân sự, quốc phòng, xử trí các tình huống, huấn luyện dân quân tự vệ, giáo dục quốc phòng cho nhân dân… Cơ quan quân sự các cấp cần phát huy vai trò nòng cốt trong tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền các cấp ban hành nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo dân quân tự vệ phù hợp tình hình thực tế. Đề cao vai trò, trách nhiệm của thủ trưởng các ngành, đơn vị trong cụ thể hóa, thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ và quy định đối với dân quân tự vệ; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh; đầu tư ngân sách, cơ sở vật chất bảo đảm cho việc thực hiện chế độ, chính sách, xây dựng và hoạt động của dân quân tự vệ. Lãnh đạo các ngành, các đoàn thể địa phương, quần chúng tham gia xây dựng lực lượng dân quân tự vệ. Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện và lấy kết quả xây dựng lực lượng dân quân tự vệ làm tiêu chí để đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể, cơ quan quân sự. Đề cao vai trò nòng cốt của đảng viên trong dân quân tự vệ đồng thời làm tốt công tác phát triển Đảng trong lực lượng dân quân tự vệ. Trong lãnh đạo, chỉ đạo không khoán trắng cho cơ quan quân sự địa phương hoặc buông lỏng.
Trên cơ sở nắm vững quan điểm, đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng và Luật Dân quân tự vệ, các địa phương, các ngành, các cấp và các tổ chức có liên quan cần tiếp tục củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của ban chỉ huy quân sự cấp mình, ngành mình. Rà soát, củng cố và kiện toàn tổ chức biên chế dân quân tự vệ theo đúng phương châm vững mạnh, rộng khắp, có chất lượng cao; củng cố đi đôi với phát triển, phát triển tích cực đồng thời phải vững chắc, chặt chẽ, không ồ ạt; số lượng đi đôi với chất lượng, có tỷ lệ và cơ cấu hợp lý giữa lực lượng nòng cốt và rộng rãi, phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phương, cơ sở. Chú trọng xây dựng lực lượng dân quân tự vệ ở các địa bàn chiến lược, trọng điểm như biên giới, biển, đảo. Tuyển chọn, kết nạp công dân vào dân quân tự vệ chặt chẽ, đúng tiêu chuẩn. Thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân cử, dân chăm lo” trong xây dựng dân quân tự vệ. Huấn luyện dân quân tự vệ theo từng đối tượng, đúng chương trình, nội dung quy định sát với tình hình, nhiệm vụ, địa bàn, hết sức coi trọng huấn luyện quân sự, rèn luyện dân quân tự vệ biết xử lý các tình huống, biết đánh giặc theo cách đánh của dân quân tự vệ. Từng bước trang bị vũ khí và phương tiện tác chiến tương đối hiện đại và thích hợp cho dân quân tự vệ đi đôi với chú trọng cải tiến vũ khí, trang bị hiện có. Xây dựng cơ quan quân sự và đội ngũ cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm công tác quân sự, quốc phòng, cán bộ dân quân tự vệ có phẩm chất, năng lực đủ sức làm tốt vai trò tham mưu cho lãnh đạo, chỉ huy và quản lý tốt dân quân tự vệ trong thời kỳ mới.
Đặc biệt, cần chú trọng xây dựng lực lượng và thế trận dân quân tự vệ biển, đảo trên cơ sở nâng cao ý thức, trách nhiệm bảo vệ biển, đảo cho toàn dân, nhất là nhân dân các địa phương có biển, đảo. Phối hợp chặt chẽ hoạt động của dân quân tự vệ biển và lực lượng hải quân, biên phòng, cảnh sát biển, kiểm ngư¬¬, các lực lượng có liên quan đến khu vực phòng thủ biển, đảo theo chức năng, nhiệm vụ và phạm vi hoạt động để làm chỗ dựa cho nhân dân làm ăn, sinh sống, tổ chức nhân dân làm "tai mắt" phát hiện các hành vi lấn chiếm biển, đảo tạo thành thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Bằng nhiều hình thức, biện pháp, cách thức và các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên, nhân dân, lực lượng dân quân tự vệ nắm vững nội dung các văn bản của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng về tình hình và nhiệm vụ quốc phòng, quân sự, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ trong tình hình mới, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng về tăng cường quốc phòng và an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Chiến lư¬ợc bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”... Giáo dục, bồi dưỡng nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức trách nhiệm và kiến thức của mỗi người dân và mỗi ngành, đoàn thể đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Phát động phong trào quần chúng tự giác tham gia xây dựng lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ. Tập trung đổi mới nội dung và cách thức tổ chức giáo dục quốc phòng và an ninh, nhất là tại các trung tâm giáo dục quốc phòng cho phù hợp với từng đối tượng. Bảo đảm cơ sở vật chất, thao trường cho giáo dục quốc phòng và an ninh. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác bồi dưỡng quốc phòng và an ninh cho cán bộ các cấp, các ngành, các đoàn thể. Thường xuyên rút kinh nghiệm công tác giáo dục quốc phòng và an ninh theo chức năng, nhiệm vụ, kết quả thực tế và làm tốt công tác khen thưởng, kỷ luật trong giáo dục quốc phòng và an ninh.
Cấp ủy đảng, chính quyền, các ngành và đoàn thể quần chúng ở các địa phương, cơ sở phải nhận thức rõ vị trí trọng yếu của công tác quân sự địa phương đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng để thực hiện tốt việc kết hợp kinh tế với quốc phòng, xây dựng và tích lũy tiềm lực quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Bổ sung hoàn chỉnh các kế hoạch và quyết tâm chiến đấu. Kết hợp thực hiện tốt các chính sách xã hội với chính sách gia đình dân quân tự vệ. Coi trọng xây dựng tiềm lực và nguồn bảo đảm để đáp ứng nhu cầu quốc phòng trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Nghiên cứu, kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng cơ quan quân sự địa phương các cấp để làm tốt nhiệm vụ chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang địa phương trong xây dựng, hoạt động, chiến đấu và sản xuất; tham mưu cho cấp ủy, đoàn kết hiệp đồng với các ban, ngành, các đoàn thể và với các lực lượng khác trong việc thực hiện các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quân sự địa phương về phẩm chất và năng lực, nhất là bản lĩnh và trình độ chính trị, quân sự, nghiệp vụ, pháp luật, quản lý nhà nước về quân sự, quốc phòng và kiến thức kinh tế, văn hóa, xã hội. Đi đôi với cử đi học tại các nhà trường, hết sức coi trọng việc tổ chức học tập tại chức và bồi dưỡng ngắn ngày về những mặt công tác cần thiết, nhất là đối với cán bộ ở các địa phương. Dựa vào nhân dân đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ Tổ quốc, góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm ổn định chính trị và các quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước, đấu tranh phòng ngừa và chống các loại tội phạm. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phối hợp, hiệp đồng chiến đấu giữa Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, các ngành nội chính, tư tưởng, văn hóa, đối ngoại trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Tiếp tục xây dựng tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc, đặc biệt là thế trận lòng dân làm nền tảng của thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện. Nắm chắc tình hình, chủ động phát hiện và xử lý kịp thời, hiệu quả mâu thuẫn nội bộ và âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch, quyết không để chia rẽ đoàn kết dân tộc.
Với vai trò là cơ quan của Chính phủ chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về quốc phòng, trực tiếp thực hiện việc xây dựng, quản lý, chỉ huy dân quân tự vệ, Bộ Quốc phòng cần tiếp tục thực hiện tốt công tác tham mưu chiến lược cho Đảng, Nhà nước các chủ trương, chính sách, biện pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng nền an ninh nhân dân; kết hợp kinh tế với quốc phòng; kết hợp tăng cường quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội... Tham mưu cho Đảng, Nhà nước và chủ trì, phối hợp với các bộ ngành địa phương xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ hùng hậu, rộng khắp làm nòng cốt thực hiện nhiệm vụ quốc phòng trên cơ sở kết hợp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kết hợp sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân với sức mạnh của toàn dân, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm với sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, chủ trì, phối hợp với các bộ ngành địa phương và các tổ chức có liên quan để thực hiện quản lý nhà nước đối với dân quân tự vệ. Chỉ đạo và hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các chỉ tiêu, kế hoạch nhà nước, đề án, dự án, biện pháp xây dựng dân quân tự vệ của các cơ quan, tổ chức, địa phương. Xây dựng tổ chức, con người trong lực lượng dân quân tự vệ. Bảo đảm vũ khí trang bị của dân quân tự vệ. Hướng dẫn, kiểm tra việc xây dựng, hoạt động của dân quân tự vệ...
Một số nội dung, biện pháp nâng cao công tác dân vận trong dân quân tự vệ trên địa bàn tỉnh
Ngày 06 tháng 10 năm 2011 Ủy ban Nhân dân tỉnh Kon Tum đã ban hành Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 773/CT-QP ngày 07/5/2001 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về đẩy mạnh công tác dân vận của Dân quân tự vệ trong tình hình mới.
Ủy Ban nhân dân tỉnh xác định trong những năm tiếp theo để thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 773/CT-QP của Bộ Quốc phòng cần thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp như sau :
Cấp ủy, chỉ huy các cấp tiếp tục quán triệt và nhận thức đầy đủ nội dung Chỉ thị 773/CT-QP, Kế hoạch 20/KH-QK về tăng cường công tác dân vận của Dân quân tự vệ trong tình hình mới. Trên cơ sở đó nâng cao trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện ở cấp mình.
Phát huy tốt vai trò tham mưu của cơ quan quân sự các cấp, giúp cấp ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng Dân quân tự vệ làm công tác dân vận theo đúng nội dung, yêu cầu, hình thức, phương pháp đã được xác định trong Chỉ thị 773/CT-QP , Kế hoạch 20/KH-QK và Hướng dẫn số 300/HD-CT của Cục Chính trị. Chú trọng phát huy vai trò của các cấp ủy, chi bộ quân sự xã, phường, vai trò chinh trị viên, chỉ huy trưởng quân sự và các cấp trong việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện ở cơ sở. Lưu ý công tác dân vận của dân quân tự vệ là hướng dẫn cách làm theo mô hình, tránh làm thay nhân dân.
Thường xuyên bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, nhiệm vụ quân sự quốc phòng hàng năm ở cơ sở để đề ra Nghị quyết lãnh đạo lực lượng Dân quân tự vệ làm công tác dân vận ở địa phương mình. Ban Chỉ huy quân sự các cấp phải xây dựng kế hoạch cụ thể, xác định nội dung biện pháp, phân công địa bàn cho các đơn vị Dân quân tự vệ để tổ chức thực hiện. Thông qua sinh hoạt đơn vị dân quân, các đợt sinh hoạt chính trị địa phương, các đợt huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị hàng năm để quán triệt phổ biến nội dung công tác dân vận cho Dân quân tự vệ, qua đó nâng cao nhận thức, phát huy vai trò trách nhiệm cho cán bộ, chiến sỹ Dân quân tự vệ.
Tăng cường bồi dưỡng kiến thức công tác dân vận, nhiệm vụ chính trị địa phương, chính sách dân tộc, tôn giáo, thường xuyên thông tin, giáo dục tinh thần cảnh giác trước những âm mưu, thủ đọan của các thế lực thù địch. Bồi dưỡng những kiến thức cần thiết để cán bộ, chiến sỹ Dân quân tự vệ chủ động tuyên truyền vận động gia đình, người thân và nhân dân trong thôn làng, khu phố, cụm dân cư và cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan, doanh nghiệp thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương.
Tiếp tục củng cố, nâng cao chất lượng chính trị, tư tưởng và tổ chức của Dân quân tự vệ, đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và huấn luyện quân sự, tăng cường chất lượng chính trị, làm sạch đội ngũ cán bộ, chiến sỹ lực lượng Dân quân tự vệ, bảo đảm độ tin cậy về chính trị, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao, gương mẫu chấp hành và vận động gia đình, người thân thực hiện tốt các chủ trương , chính sách của Đảng, Nhà nước, xây dựng Dân quân tự vệ trở thành lực lượng nòng cốt trong thực hiện các cuộc vận động cách mạng ở địa phương.
Duy trì và thực hiện có hiệu quả công tác phối hợp giữa Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, Ban Chỉ huy quân sự các huyện, thành phố với Ban Dân vận, các tổ chức chính trị xã hội ở địa phương làm tốt công tác dân vận theo yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của địa phương với nội dung, hình thực phong phú, hiệu quả.
Cơ quan quân sự các cấp phải thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện Chỉ thị 773/CT-QP ở cơ sở ,kịp thời phát hiện những sai sót để cấán chỉnh và hàng năm cần tổ chức tốt công tác sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm. Những nơi tình hình chính trị phức tạp cần nghiên cứu kỹ, tham mưu kịp thời cho các cấp ủy, chính quyền địa phương có chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư kinh phí để Dân quân tự vệ hoạt động công tác dân vận có hiệu quả.
Dươ
Phát huy vai trò của Dân quân tự vệ trong công tác vận động quần chúng hiện nay
Khối dân quân tự vệ tham gia diễu hành mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội.
(TCTG) - Tiến hành làm công tác dân vận vừa là chức năng, nhiệm vụ, vừa là yêu cầu thực tế đối với Dân quân tự vệ cả trong giai đoạn cách mạng trước đây, cũng như trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.
Dân quân tự vệ có vị trí quan trọng trong đấu tranh cách mạng và chiến tranh cách mạng. Cùng với lực lượng vũ trang nhân dân, Dân quân tự vệ có chức năng là đội quân chiến đấu, công tác và lao động sản xuất. Tiến hành làm công tác dân vận vừa là chức năng, nhiệm vụ, vừa là yêu cầu thực tế đối với Dân quân tự vệ cả trong giai đoạn cách mạng trước đây, cũng như trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.
Trong những năm kháng chiến chống pháp, Dân quân du kích trong cả nước vừa là lực lượng quan trong trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu ở khắp chiến trường, góp phần to lớn vào chiến thắng của toàn quân, toàn dân ta, mặt khác, Dân quân du kích cũng là lực lượng trực tiếp tuyên truyền vận động các tầng lớp nhân dân đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền ở cơ sở.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Dân quân, du kích trên chiến trường miền Nam đã cùng với các lực lượng thực sự làm nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc ở cơ sở. Đồng thời, dân quân du kích cũng là lực lượng đi đầu trong các hoạt động tuyên truyền, vận động và tổ chức nhân dân nổi dậy đấu tranh: “Diệt ác phá kìm”, “Chống dồn dân lập ấp chiến lược”; làm nòng cốt cho nhân dân tổ chức các đợt đấu tranh chính trị góp phần to lớn vào thắng lợi quân sự trên các chiến trường. Trên miền Bắc XHCN, Dân quân tự vệ là lực lượng đông đảo rộng khắp vừa trực tiếp tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu chống lại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ. Dân quân tự vệ cũng là lực lượng nòng cốt trong việc tổ chức và duy trì các hoạt động sản xuất trên tất cả các lĩnh vực công, nông, lâm nghiệp, cũng như trong giao thông vận tải, thương nghiệp, y tế, giáo dục. Bên cạnh đó Dân quân tự vệ còn là lực lượng đông đảo hùng hậu, thường xuyên sẵn sàng bổ sung lực lượng cho các chiến trường. Trong điều kiện chiến tranh ác liệt đó, Dân quân tự vệ đã làm tốt nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục nhân dân ở từng địa phương cơ sở, vừa tích cực đóng góp sức người, sức của cho tiền tuyến và vừa hoàn thành các nghĩa vụ đối với Đảng và Nhà nước.
Trong những năm gần đây, tuy có tác động ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, trước âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, Dân quân tự vệ ở các địa phương trên cả nước vẫn là lực lượng được cấp ủy Đảng và chính quyền nhân dân tin tưởng, là lực lượng nòng cốt trong việc bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ nhân dân ở địa phương cơ sở.
Dân quân tự vệ làm công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay có những tác động chi phối, gây khó khăn nhất định. Đó là tác động ảnh hưởng của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, sự phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội, tình trạng tiêu cực, tham nhũng ngày càng gia tăng và chưa được ngăn chặn, đặc biệt nhất là âm mưu phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
Tuy nhiên, Dân quân tự vệ cũng có nhiều thuận lợi: Dân quân tự vệ là lực lượng đông đảo, tại chỗ và rộng khắp là con em của nhân dân. Các hoạt động của Dân quân tự vệ đều gắn liền với cuộc sống của bản thân và gia đình, quê hương, làng bản, khối phố và đơn vị cơ sở. Nội dung tuyên truyền và hành động của Dân quân tự vệ sẽ có tác động, ảnh hưởng trực tiếp tới nhận thức và hành động của quần chúng nhân dân ở cơ sở. Mặt khác, Dân quân tự vệ thường xuyên và trực tiếp được cấp ủy, chính quyền các cấp lãnh đạo và chỉ đạo, được cơ quan quân sự địa phương trực tiếp quản lí và hướng dẫn. Do vậy, trong tình hình hiện nay, để Dân quân tự vệ tiến hành công tác vận động quần chúng đạt kết quả cao, các cấp ủy đảng, chính quyền, cơ quan quân sự địa phương phải có các nội dung, biện pháp thích hợp và phải thường xuyên được đổi mới, luôn kết hợp chặt chẽ giữa nội dung, hình thức và biện pháp sau:
1. Dân quân tự vệ thường xuyên trực tiếp tham gia tuyên truyền, vận động nhân dân, hiểu rõ các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, hiểu rõ và nắm vững các Nghị quyết, chủ trương, quy định của cấp ủy Đảng và chính quyền đoàn thể ở địa phương tổ chức hướng dẫn tự giác và nghiêm chỉnh chấp hành. Do vậy, cần tập trung đi sâu tuyên truyền, vận động và tổ chức thực hiện từng nội dung cụ thể, thiết thực trong từng thời gian cần thiết như: tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các chỉ tiêu về phát triển kinh tế của địa phương, thực hiện nếp sống gia đình văn hóa, dân số kế hoạch hóa gia đình. Chấp hành nghiêm chỉnh các điều luật qui định về kinh tế, an toàn xã hội và các nghĩa vụ của công dân đối với Nhà nước, địa phương. Chống các tập tục và hoạt động mê tín dị đoan, hoặc lợi dụng mê tín dị đoan làm tổn hại đến đời sống vật chất tinh thần và sức khỏe của nhân dân. Để tuyên truyền, vận động nhân dân có kết quả, trước hết mỗi Dân quân tự vệ phải tích cực nghiên cứu, học tập, nắm vững nội dung mà mình được tuyên truyền, đồng thời phải tự giác chấp hành nghiêm chỉnh và cùng giáo dục, tổ chức, hướng dẫn gia đình, người thân cùng hiểu rõ và tự giác nghiêm chỉnh chấp hành.
2. Thường xuyên, kịp thời tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Luôn cảnh giác với mọi hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc của chúng. Bản thân mỗi Dân quân tự vệ phải nêu cao cảnh giác và tổ chức hướng dẫn quần chúng nhân dân không bị kẻ địch và phần tử xấu kích động, lôi kéo và mua chuộc. Tuyên truyền, giải thích cho nhân dân không tham gia tụ tập vào các hoạt động nếu không có lãnh đạo, chính quyền, đoàn thể địa phương tổ chức và cho phép. Phải làm cho quần chúng nhân dân hiểu rõ và có trách nhiệm bảo vệ, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương cơ sở chính là bảo đảm an toàn cuộc sống, tính mạng cho mỗi gia đình và mọi công dân. Thông qua tuyên truyền và vận động để hướng dẫn cho quần chúng nhân dân thường xuyên chủ động phát hiện mọi âm mưu hoạt động phá hoại của bọn phản động và các thế lực thù địch, phát hiện sớm các nguyên nhân, mầm mống dẫn tới mất trật tự an toàn xã hội và các biểu hiện tiêu cực khác ở địa phương cơ sở. Khi có các vụ việc mâu thuẫn ở địa phương, cơ sở, Dân quân tự vệ phải chủ động cùng với cấp ủy chính quyền địa phương kịp thời ngăn chặn và giải quyết đúng với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, theo tập quán của địa phương và phải có lý, có tình. Dân quân tự vệ không để bị kích động, lôi kéo tham gia vào các hoạt động làm ảnh hưởng tới an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và làm cho nhân dân hiểu sai về vị trí, vai trò của Dân quân tự vệ.
3. Tuyên truyền giáo dục, vận động nhân dân hiểu rõ vị trí, tầm quan trọng của nhiệm vụ Quốc phòng - An ninh trong tình hình hiện nay. Vận động nhân dân đóng góp sức người, sức của xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng thế trận an ninh nhân dân ở cơ sở. Trước hết, tập trung xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành) vững chắc, ra sức xây dựng, củng cố Dân quân tự vệ và Bộ đội địa phương có chất lượng cao, sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ, xứng đáng là lực lượng nòng cốt trong phòng chống “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ; bảo vệ Đảng, chính quyền và nhân dân ở cơ sở. Dân quân tự vệ phải tự chăm lo xây dựng đơn vị vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đổi mới hình thức và phương pháp để nâng cao chất lượng giáo dục chính trị và huấn luyện quân sự. Luôn thực hiện phương châm: “Dân bàn, dân cử, dân chăm lo” trong tổ chức xây dựng Dân quân tự vệ.
4. Dân quân tự vệ cùng với nhân dân tham gia xây dựng, củng cố tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể ở cơ sở góp phần xây dựng địa phương vững mạnh về mọi mặt. Xây dựng cơ sở vững mạnh là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng trong tình hình hiện nay và là nhiệm vụ quan trọng cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị, đòi hỏi sự cố gắng và sự phối hợp đồng bộ, kiên trì của các cấp, các ngành, nhằm đạt mục tiêu cơ bản ở cơ sở là: ổn định về chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, quốc phòng - an ninh vững mạnh, có nếp sống văn minh, lành mạnh, góp phần làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” và sẵn sàng đối phó thắng lợi với các tình huống khác.
Vấn đề quan trọng hàng đầu trong xây dựng cơ sở là tập trung xây dựng, củng cố cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương vững mạnh. Dân quân tự vệ sẽ không thể làm tốt công tác vận động quần chúng và bản thân Dân quân tự vệ sẽ không có chất lượng cao nếu không có cấp ủy, chính quyền vững mạnh. Dân quân tự vệ làm sao có thể tuyên truyền, vận động được quần chúng khi mà nội bộ cấp ủy, chính quyền mất đoàn kết, cán bộ, đảng viên tiêu cực, tham nhũng, cuộc sống của nhân dân không đảm bảo và quyền tự do, dân chủ bị vi phạm. Vì vây, Dân quân tự vệ phải tuyên truyền, vận động nhân dân và cùng với nhân dân tham gia xây dựng cấp ủy, chính quyền vững mạnh về mọi mặt. Việc tham gia xây dựng cấp ủy, chính quyền cơ sở vững mạnh là cả một quá trình thường xuyên và lâu dài. Yêu cầu xây dựng được đội ngũ Dân quân tự vệ vững mạnh có đủ phẩm chất, năng lực, biết chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, đủ sức lãnh đạo xây dựng địa phương vững mạnh cả về chính trị, kinh tế, quốc phòng - an ninh và văn hóa xã hội.
Hành động thiết thực nhất của mỗi dân quân tự vệ và của nhân dân là nghiêm chỉnh, tự giác chấp hành các Nghị quyết, Chỉ thị và quy định của địa phương. Phấn đấu thực hiện các mục tiêu về kinh tế, xã hội của địa phương đề ra. Đồng thời, tham gia tích cực vào việc đấu tranh, chống tiêu cực, tham nhũng, góp phần xây dựng cấp ủy và chính quyền địa phương thực sự là “Của dân, do dân và vì dân”.
Trong quá trình Dân quân tự vệ tiến hành công tác vận động quần chúng thường vận dụng và kết hợp nhiều hình thức và biện pháp, trong tình hình hiện nay có thể vận dụng các hình thức và biện pháp sau đây:
Bằng nhận thức, kinh nghiệm và trách nhiệm của từng người, mỗi Dân quân tự vệ (cả lực lượng tập trung và rộng rãi) thường xuyên liên tục cả lời nói và hành động, trước hết tự tuyên truyền, vận động gia đình, người thân về những nội dung thiết thực trong từng thời gian thích hợp và điều kiện thích hợp. Để đạt được yêu cầu như vậy, vấn đề quan trọng hàng đầu là cần nâng cao chất lượng chính trị của Dân quân tự vệ và tích cực bồi dưỡng, hướng dẫn phương pháp cụ thể cho Dân quân tự vệ. Đồng thời, thông qua nhiệm vụ huấn luyện, công tác thường xuyên và đột xuất để tiến hành làm công tác tuyên truyền vận động nhân dân như trong các đợt tập trung huấn luyện hằng năm, các đợt hoạt động xây dựng cơ sở ở vùng sâu, vùng xa, các đợt phòng chống thiên tai, bão lụt…
Tập trung bồi dưỡng và sử dụng lực lượng Dân quân tự vệ thường trực cơ động, hoặc thành lập các tổ Dân quân tự vệ chuyên trách làm công tác dân vận theo từng nhiệm vụ, thời gian đột xuất, tập trung vào các địa bàn trọng điểm, xung yếu; đồng thời dùng các tổ chuyên trách để làm nhiệm vụ tuyên truyền, giải thích cho quần chúng nhân dân khi có các cuộc tụ tập, gây rối, biểu tình xảy ra.
Có thể kết hợp với các đợt hoạt động của các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, hoặc phối hợp với đội công tác của các đơn vị đó để tiến hành công tác dân vận, nhất là đối với các nhiệm vụ chính trị quan trọng và những điểm nóng cần phải tập trung giải quyết.
Có thể kết hợp sử dụng các phương tiện thô sơ với hiện đại bằng miệng, loa tay, đến loa đài, thông qua hệ thống truyền thanh bằng phim ảnh cả với biểu diễn văn nghệ.
Để tiến hành làm công tác dân vận có kết quả, cần có tài liệu hướng dẫn từ Bộ chỉ huy quân sự tỉnh đến cơ sở. Đối với cấp tỉnh, huyện cần có nội dung và chương trình bồi dưỡng cho cán bộ chỉ huy quân sự xã, phường và cán bộ Dân quân tự vệ ở cơ sở về nội dung, cách tiến hành công tác dân vận . Ở cơ sở cần đưa chương trình giáo dục chính trị thường xuyên hằng năm cho các đối tượng Dân quân tự vệ. Đồng thời, căn cứ vào nhiệm vụ, đặc điểm cụ thể của từng địa phương để có nội dung, biện pháp tiến hành công tác dân vận một cách hiệu quả thiết thực. Do vây, Đảng, Nhà nước phải có biện pháp cụ thể để thực hiện pháp lệnh Dân quân tự vệ, Đồng thời, cần có chính sách thoả đáng với Dân quân tự vệ và cán bộ quân sự xã (phường) đó là biện pháp thiết thực để nâng cao chất lượng công tác vận động quần chúng của Dân quân tự vệ./.
ăn kiện Đại hội XI của Đảng về công tác dân tộc ở nước ta hiện nay
Đảng cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi công tác dân tộc là nhiệm vụ chiến lược của Đảng. Văn kiện Đại hội XI của Đảng xác định, đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của đất nước ta.
Nước ta có 54 dân tộc anh em cùng chung sống từ ngàn đời nay. Đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tồn tại và phát triển là quy luật và truyền thống quý báu của đồng bào ta. Đảng cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi công tác dân tộc là nhiệm vụ chiến lược của Đảng. Văn kiện Đại hội XI của Đảng xác định, đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của đất nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh, đồng bào dân tộc nước ta đều là anh em một nhà, sướng khổ cùng nhau, đoàn kết, luôn giúp nhau cùng tiến bộ. Đây là những tư tưởng nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong thực hiện công tác dân tộc. Bước sang thời kỳ đổi mới thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở cửa hội nhập với thế giới hiện đại, công tác dân tộc được Đảng ta nhấn mạnh qua Văn kiện Đại hội XI thể hiện ở một số điểm chính.
Một là, mọi cán bộ, đảng viên, đồng bào dân tộc cần nhận thức sâu sắc về nhiệm vụ chiến lược của công tác dân tộc nước ta hiện nay.
Không phải tất cả mọi cán bộ, đảng viên và từng người dân nước ta đều đã hiểu sâu sắc vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng có tính chiến lược về công tác dân tộc ở nước ta. Trong khi 54 dân tộc anh em với những điều kiện, trình độ, phong tục, tập quán khác nhau, hàng ngày, hàng giờ chung sống với nhau phấn đấu cho một mục đích chung dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, nếu không có sự cảm thông, chia sẻ, đồng thuận, giúp đỡ nhau, bình đẳng, tôn trọng nhau thì khó có thể bền vững. Cho nên nhận thức đúng sẽ chỉ đạo hành động đúng ở mỗi người dân, người cán bộ, đảng viên trực tiếp hoặc gián tiếp làm công tác dân tộc.
Đảng và Nhà nước, các đoàn thể có biện pháp làm cho đồng bào dân tộc đa số và thiểu số cùng hiểu biết, tôn trọng, bình đẳng, giúp đỡ nhau. Đảng và Nhà nước có chính sách, cơ chế để hỗ trợ giúp đỡ đồng bào dân tộc thiểu số vùng khó khăn phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo, giáo dục đào tạo, mở mang văn hóa, văn minh tiến bộ.
Những chính sách phải thật cụ thể, thiết thực, kết quả của nó được đo bằng sự thụ hưởng đích thực của đồng bào. Mặt khác, bản thân đồng bào phải chủ động vươn lên, tranh thủ sự hỗ trợ của Nhà nước, sự giúp đỡ của các dân tộc anh em để phát triển. Có như vậy chúng ta mới thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược công tác dân tộc một cách hiệu quả, bền vững theo Văn kiện Đại hội XI của Đảng đề ra.
Hai là, tập trung thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược công tác dân tộc ở nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ, mục tiêu chiến lược công tác dân tộc được Đại hội XI của Đảng xác định, các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Những mục tiêu, nhiệm vụ này có mối liên hệ biện chứng, tác động lẫn nhau. Các dân tộc có thật sự bình đẳng, yêu thương, giúp đỡ nhau mới đoàn kết gắn bó với nhau. Ngược lại, đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc thì mọi khó khăn, trở lực đều có sức mạnh vượt qua.
Tuy nhiên, những điều đó không thể tự nhiên diễn ra mà phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp bộ Đảng, các cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền, đoàn thể chỉ đạo thông qua hệ thống chính sách cụ thể, phù hợp với từng nơi, từng lúc, từng đồng bào vùng dân tộc. Để thực hiện bình đẳng, đoàn kết các dân tộc, chúng ta phải tập trung phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đối với từng dân tộc, từng vùng một cách cơ bản, cụ thể trước mắt và lâu dài. Trong lãnh đạo, chỉ đạo phải rất cụ thể, xác định rõ phát triển kinh tế là cái gì, như thế nào, ai làm, làm trong bao lâu, đồng bào được cải thiện thế nào…
Tương tự, các công tác khác như giáo dục, đào tạo; phát triển văn hóa; xóa đói giảm nghèo; trồng và bảo vệ rừng; trật tự an toàn xã hội… đều phải có mục tiêu, nội dung, biện pháp, hình thức, bước đi, trách nhiệm người thực hiện rõ ràng, cụ thể, thiết thực. Tránh tình trạng làm theo phong rào “leo cột mỡ”, hình thức không có hiệu quả vừa tốn kém, lãng phí, vừa mất lòng tin với đồng bào. Cho nên, tính chiến lược của công tác dân tộc theo văn kiện Đại hội XI của Đảng là phải được xác định trong chính sách, trong cơ chế, trong hình thức, bước đi chính xác. Gắn thực hiện chiến lược công tác dân tộc với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ba là, nâng cao đời sống văn hóa, đào tạo đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số.
Bác Hồ từng chỉ rõ, văn hóa soi đường cho quốc dân đi. Muốn đưa đồng bào dân tộc thiểu số còn đang sống ở những vùng khó khăn, dân trí hạn chế phát triển về kinh tế xã hội thì nhất thiết phải nâng cao dân trí, bồi dưỡng văn hóa, mở rộng sự giao lưu, hiểu biết của đồng bào.
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp tích cực phát triển văn hóa, nâng cao dân trí cho đồng bào vùng dân tộc. Tuy nhiên, kết quả còn chậm, không đồng đều và thiếu vững chắc. Sự phát triển văn hóa như vậy chưa đủ làm biến đổi về chất trong nhận thức, tư duy, trong cải thiện đời sống kinh tế - xã hội nhiều vùng dân tộc.
Điều quan trọng là Đảng, Nhà nước có chính sách đào tạo, sử dụng, chăm lo đội ngũ cán bộ là người dân tộc, cũng như là người Kinh lên công tác ở vùng đồng bào dân tộc, miền núi. Xác định họ là lực lượng nòng cốt, quyết định trong việc đưa chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước vào vùng dân tộc.
Đây là công việc chúng ta đã làm, vẫn làm, nhưng còn những yếu kém, hạn chế; làm không nhất quán, đồng bộ nên có nhiều hạn chế.
Việc đào tạo, xây dựng con người, nguồn nhân lực là rất chiến lược, là cơ sở để thực hiện chiến lược công tác dân tộc.
Bốn là, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, các tệ nạn vùng đồng bào dân tộc.
Mặt trái của kinh tế nhiều thành phần gắn với thị trường, mở cửa, hội nhập dẫn đến khá nhiều tiêu cực, tệ nạn xã hội vùng đồng bào dân tộc, khiến chúng ta không thể xem thường.
Tệ buôn lậu, nhất là vùng giáp biên, cửa khẩu còn khá phức tạp, làm ảnh hưởng đến cuộc sống, sinh họat của đồng bào. Các tệ nạn nghiện hút, đào vàng, phá rừng, đất đai canh tác, nguồn nước… là những bức xúc ở nhiều vùng dân tộc, gây bất ổn với đời sống đồng bào. Tệ tham ô, tham nhũng, lãng phí ở một số cán bộ làm mất lòng tin của nhân dân.
Những hiện tượng tiêu cực như vậy xảy ra ngay trong địa phương, nơi sinh sống hàng ngày khiến cho lòng tin, tình đoàn kết, yêu thương giúp đỡ nhau trở thành hình thức, mất đi những giá trị thiêng liêng của chiến lược công tác dân tộc. Trong khi đó, bọn xấu, các thế lực thù địch không ngừng lợi dụng những sở hở, yếu kém của ta; lợi dụng những vấn đề lịch sử, tôn giáo để chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, gây hiềm khích giữa các dân tộc.
Thực hiện quan điểm chiến lược của Đảng về công tác dân tộc ở nước ta hiện nay phải được đặt ra một cách cơ bản, xác định nội dung, hình thức, biện pháp, bước đi một cách tòan diện và hệ thống, phù hợp với thực tiễn cụ thể nước ta hiện nay.
Thực hiện chính sách tôn giáo theo tinh thần nghị quyết Đại hội XI của Đảng
Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo, có tôn giáo du nhập từ bên ngoài vào, có tôn giáo nội sinh. Trong những năm qua tôn giáo ở Việt Nam phát triển phong phú và đa dạng làm cho tình hình tôn giáo ở Việt Nam có những thay đổi cơ bản.
Đến năm 2010, cả nước có 12 tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài, Hồi giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Tịnh độ cư sĩ Phật hội, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, đạo Ba’hai, Minh Chơn đạo, Minh Lý đạo, Bửu Sơn Kỳ Hương đang hoạt động, với 32 tổ chức giáo hội, hội thánh có trên 20 triệu tín đồ các tôn giáo, với trên 85.000 chức sắc, nhà tu hành và trên 26.000 cơ sở thờ tự các tôn giáo ở hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước.
Trước tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, với chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo đúng đắn và nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đông đảo chức sắc, tín đồ các tôn giáo đã phát huy truyền thống yêu nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, đoàn kết đồng bào tôn giáo với đồng bào không theo tôn giáo, hăng hái tham gia các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, tham gia xây dựng và củng cố quốc phòng, đảm bảo an ninh trật tự, góp phần làm nên những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới quê hương, đất nước. Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo được in ấn kinh sách, sửa sang, làm mới cơ sở thờ tự, tổ chức sinh hoạt bình thường. Hoạt động xã hội, nhân đạo, từ thiện của các tôn giáo ngày càng được mở rộng. Các tổ chức giáo hội từng bước được củng cố; quan hệ của tôn giáo với Nhà nước ngày càng được hoàn thiện.
Nhìn chung, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào tôn giáo những năm qua được nâng lên, đa số chức sắc, chức việc, tín đồ phấn khởi, tin tưởng trước những thành tựu đổi mới của đất nước và chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo; các tôn giáo luôn đồng hành cùng dân tộc, hành đạo theo pháp luật, tích cực tham gia phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo, làm từ thiện, xây dựng đời sống văn hóa,… góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách về tôn giáo và công tác tôn giáo, như Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị (khóa VI); đặc biệt sau khi có Nghị quyết 25/NQ-TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về “công tác tôn giáo”, các tỉnh, thành phố đều xây dựng chương trình hành động; nhiều tỉnh, thành phố có Nghị quyết chuyên đề về công tác tôn giáo, thành lập Ban chỉ đạo công tác tôn giáo để chỉ đạo thống nhất trong hệ thống chính trị thực hiện công tác tôn giáo.
Nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền, các cơ quan quản lý về công tác tôn giáo được nâng lên, trong xử lý những vấn đề liên quan đến tôn giáo đã vận dụng linh hoạt hơn các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương, giải quyết tương đối kịp thời các nhu cầu chính đáng về sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào; tạo điều kiện giúp đỡ các giáo hội, chức sắc sinh hoạt tôn giáo đúng pháp luật.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội tích cực vận động đồng bào các tôn giáo thực hiện phương châm sống “tốt đời, đẹp đạo”, chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện tốt cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Các đoàn thể đẩy mạng công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước trong đồng bào tôn giáo, tích cực phát triển đoàn viên, hội viên, tăng cường xây dựng lực lượng nòng cốt cho phong trào quần chúng ở địa phương.
Công tác quản lý Nhà nước có chuyển biến, đã từng bước xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về tôn giáo. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Chính phủ có Nghị định số 22/NĐ-CP ngày 01/3/2005 Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; rồi Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg ngày 04/2/2005 của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin lành,…
Hệ thống pháp luật trên là công cụ pháp lý quan trọng để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, giúp các cơ quan nhà nước nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; đã cụ thể hóa một cách hữu hiệu, tích cực đường lối chủ trương của Đảng đối với công tác tôn giáo trong thời kỳ mới, đồng thời toát lên tinh thần dân chủ đối với hoạt động tôn giáo, đáp ứng yêu cầu của cải cách hành chính trong quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, đồng thời đảm bảo được tính tương thích của luật pháp quốc tế điều chỉnh về quyền con người trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đặc biệt là những điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, ký kết hoặc gia nhập.
Sự phối kết hợp giữa các bộ, ban, ngành và địa phương đã tạo được sự thống nhất trong việc thực hiện quản lý Nhà nước đối với tôn giáo, giảm bớt các thủ tục hành chính rườm rà. Các bộ, ban, ngành chủ động cùng với Ban chỉ đạo Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ triển khai chủ trương công tác đối với đạo Tin lành, đề xuất chủ trương công tác đối với những vấn đề tôn giáo. Hướng dẫn, giúp đỡ các tổ chức tôn giáo Đại hội nhiệm kỳ theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo theo quy định của pháp luật.
Chính phủ và các địa phương đã giải quyết kịp thời, đúng quy định pháp luật về nhu cầu hoạt động tôn giáo và một số nhu cầu chính đáng của các tổ chức, cá nhân tôn giáo, như phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc các tôn giáo; cho xây mới và cải tạo nhiều cơ sở thờ tự. Nhiều tỉnh, thành đã tích cực giải quyết việc lập hồ sơ, xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các tôn giáo; tạo điều kiện thuận lợi để các tôn giáo sinh hoạt bình thường, đúng theo tinh thần Nghị quyết hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa IX) về Công tác tôn giáo đã nêu: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đã, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đảng, Nhà nước Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đảng, Nhà nước Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc. Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng trong giai đoạn mới của đất nước; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc tín đồ sống tốt đời đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh với hành vi lợi dụng tôn giáo, để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Để thực hiện tốt chính sách tôn giáo theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, trong những năm tới, theo chúng tôi cần làm tốt những nhiệm vụ cụ thể sau:
Một là, thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và các chương trình đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của Đảng, Nhà nước, quan tâm đúng mức đối với các vùng trọng điểm: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và dân trí cho nhân dân trong đó có đồng bào các tôn giáo.
Hai là, nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể đối với công tác tôn giáo. Trên cơ sở triển khai nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về tôn giáo, trong cán bộ, đảng viên và nhân dân làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân làm cho cán bộ, đảng viên nhận thức rõ yêu cầu nhiệm vụ của công tác tôn giáo trong tình hình mới.
Ba là, đẩy mạnh công tác tham mưu, từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với công tác tôn giáo, tích cực tham gia xây dựng các văn bản pháp luật về tôn giáo, đồng thời bổ sung kịp thời những chính sách đối với tôn giáo ở những vùng, miền khác nhau. Trước mắt, làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tôn giáo để thống nhất nhận thức về công tác tôn giáo trong hệ thống chính trị, trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tập trung tuyên truyền sâu rộng Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị định của Chính phủ về hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị 01/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ vè một số công tác đối với đạo Tin lành; các địa phương đảm bảo tốt thông tin hai chiều, tập trung giải quyết kịp thời những vấn đề vướng mắc, nảy sinh trong công tác tôn giáo như: đất đai, cơ sở thờ tự, tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.
Bốn là, thực hiện tốt hơn công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo, tạo điều kiện giúp đỡ Đại hội, Hội nghị thường niên của các tổ chức tôn giáo, xem xét cho đăng ký hoạt động một số tổ chức tôn giáo theo quy định của pháp luật. Xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật và mọi hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để kích động, chia rẽ tôn giáo, dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia; góp phần đảm bảo an ninh chính trị ở địa phương.
Năm là, tăng cường công tác kiểm tra thực hiện chủ trương, các kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ đối với công tác tôn giáo hiện nay. Xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, nhất là đối với vùng đồng bào dân tộc, vùng đông tôn giáo.
Sáu là, Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng tuyên truyền sâu rộng các chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước trong chức sắc, tín đồ các tôn giáo. Vận động chức sắc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo” thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ công dân, tích cực tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng và thực hiện cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Hướng dẫn các tôn giáo hoạt động đúng pháp luật, phát huy những giá trị văn hóa đạo đức lành mạnh, hướng thiện của các tôn giáo phù hợp với văn hóa truyền thống dân tộc.
Bẩy là, công tác đối ngoại tôn giáo và đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo trong tình hình hiện nay, cần chủ động và tăng cường hơn nữa sự phối hợp giữa các bộ, ban, ngành, các tỉnh, thành trong việc đối thoại và xử lý những vấn đề tôn giáo nhạy cảm đang được các thế lực thù địch lợi dụng chiến lược “diễn biến hòa bình” để xuyên tạc tình hình tôn giáo và chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, gây sức ép với Nhà nước về tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền. Tích cực triển khai công tác đấu tranh ngăn chặn chống đối trong các tôn giáo. Thực hiện tốt công tác tranh thủ, động viên và với những phần tử lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo đi ngược lại tôn chỉ, mục đích và đường hướng hành đạo của các tổ chức tôn giáo.
Tám là, tiếp tục kiện toàn bộ máy làm công tác tôn giáo của Đảng , chính quyền, mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân từ Trung ương đến cơ sở đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo các cấp theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, nhất là đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo ở cơ sở. Đồng thời xây dựng chế độ phụ cấp ưu đãi cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo nhằm động viên kịp thời cán bộ toàn ngành quản lý nhà nước về tôn giáo./.
Kết hợp công tác dân vận với tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số
18:03 | 12/01/2015
(Bqp.vn) - Tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước là một trong ba chức năng của quân đội ta. Đặc biệt là trong tình hình nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có sự phát triển cả diện rộng và chiều sâu, đã và đang đặt ra những nội dung, yêu cầu mới đối với việc thực hiện chức năng của “Đội quân công tác”. Thực tiễn cho thấy, những năm qua, quân đội là lực lượng nòng cốt tham gia công tác vận động quần chúng đấu tranh trên mặt trận chính trị tư tưởng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực diễn biến hết sức phức tạp, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch vẫn tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá chế độ ta bằng những âm mưu, thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt. Chúng kích động, chống phá chia rẽ mối quan hệ đoàn kết gắn bó giữa Đảng với nhân dân, Đảng với quân đội, quân đội với nhân dân... tập trung ở những nơi vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, kích động tuyên truyền, phát tán tài liệu, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; xúi giục, kích động, tập hợp những người nhẹ dạ cả tin gây rối, vượt biên trái phép… nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Kết hợp công tác dân vận với tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số có nhận thức đúng đắn về đường lối chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đập tan mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch hòng chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc; đồng thời vận động đồng bào tích cực phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, giúp dân xoá đói giảm nghèo, nâng cao dân trí; khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, tham gia xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh là một nhiệm vụ quan trọng cấp thiết của các cơ quan, đơn vị quân đội đứng chân trên địa bàn. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ này cấp ủy, chỉ huy các đơn vị trong quân đội cần thực hiện tốt một số nội dung biện pháp sau:
Một là, tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước về công tác dân vận và phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, cơ quan chức năng trong tuyên truyền phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số. Trước hết, cần quán triệt sâu sắc Chỉ thị số 123/2002/CT-BQP ngày 16/9/2002 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Hướng dẫn số 745/HD-CT ngày 12/10/2002 của Tổng cục Chính trị về tổ chức và hoạt động của các đội công tác tăng cường cho cơ sở; Nghị định số 77/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của Chính phủ về quy chế phối hợp giữa Bộ Công an với Bộ Quốc phòng trong bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới. Đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới; Chỉ thị số 32-CT/TƯ của Ban Bí thư Trung ương (khoá IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho nhân dân; Chỉ thị số 21/2003/CT-BQP của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong quân đội và dân quân tự vệ, dự bị động viên. Trên cơ sở đó, đề cao ý thức trách nhiệm của cấp ủy, người chỉ huy, các cơ quan chức năng về tầm quan trọng của công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật, gắn việc tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, người chỉ huy với phát huy vai trò tham mưu của Hội đồng Phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật; thường xuyên chú trọng củng cố, kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng Phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật theo Chỉ thị số 785/CT-BQP của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Khi xây dựng quy chế phối hợp cần phải cụ thể với từng nhiệm vụ, từng địa bàn, nhất là đối với cấp cơ sở xã, thôn, bản, nội dung phối hợp giữa các lực lượng phải làm rõ cách thức tổ chức thực hiện, biện pháp tuyên truyền giáo dục, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng bộ phận.
Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa cơ quan, đơn vị với chính quyền và các đoàn thể địa phương trong tuyên truyền phổ biến pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Công tác dân vận và tuyên truyền, phổ biến pháp luật liên quan tới nhiều cấp, nhiều ngành, chỉ có trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp thông qua sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ, thường xuyên giữa các cơ quan, đơn vị với chính quyền và đoàn thể địa phương mới mang lại hiệu quả thiết thực. Sự phối hợp cần được thực hiện tốt giữa lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị với các tổ chức chính quyền và các đoàn thể địa phương, nhất là cơ quan pháp luật; trên cơ sở đó đề ra nội dung, chương trình, kế hoạch cụ thể, sát thực; đồng thời phối hợp hiệp đồng chặt chẽ giữa đơn vị với chính quyền và các đoàn thể địa phương trong tổ chức thực hiện; thực hiện tốt việc sơ tổng kết, trao đổi, rút kinh nghiệm kịp thời qua đó tìm ra biện pháp tuyên truyền phổ biến pháp luật phù hợp, không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Trong quá trình thực hiện cần tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng và phát huy vai trò của các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương (Mặt trận Tổ quốc, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên…) để tiến hành lồng ghép các nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật, tổ chức các buổi nói chuyện thời sự, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, tổ chức chiếu phim… Cơ quan Chính trị cần đề cao trách nhiệm giúp lãnh đạo, chỉ huy xây dựng nội dung, chương trình, kế hoạch, đồng thời hướng dẫn, phối hợp với các cơ quan chức năng triển khai thực hiện đúng kế hoạch, gắn nội dung tuyên truyền, phổ biến pháp luật với công tác dân vận hướng vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị.
Ba là, tích cực cụ thể hóa nội dung và đổi mới hình thức, phương pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật phù hợp trình độ dân trí của đồng bào dân tộc thiểu số ở từng địa phương. Các tổ, đội công tác tăng cường cho cơ sở cần thực hiện tốt phương châm “5 bám”: bám dân, bám địa bàn, bám chính quyền, bám đường lối chủ trương, bám đối tượng; “bốn cùng”: cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng địa phương, để nắm chắc tình hình, lựa chọn nội dung, hình thức phương pháp tuyên truyền, giáo dục phù hợp; kết hợp với các đợt hành quân dã ngoại của đơn vị để tăng cường giúp đỡ nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế, xã hội, đẩy mạnh các phong trào thi đua, thực hành tiết kiệm, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, tệ nạn xã hội; tham mưu giúp cấp ủy và chính quyền xây dựng, củng cố các tổ chức chính trị xã hội ở địa phương. Chủ động nắm tình hình, giải quyết kịp thời các mâu thuẫn, tranh chấp trong nhân dân; xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch nhằm phá hoại sự nghiệp đổi mới của đất nước. Coi trọng nhiệm vụ bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, không để các tình huống bất ngờ xảy ra. Chủ động giải thích cho nhân dân hiểu rõ các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, giữ vững khối đoàn kết toàn dân, mối quan hệ quân dân. Kết hợp nhiều hình thức, biện pháp tuyên truyền phổ biến pháp luật tạo sự đa dạng về các kênh thông tin pháp luật, giúp cho đồng bào dễ hiểu, dễ nhớ, dễ tiếp thu. Tổ chức tốt các đợt tuyên truyền trực tiếp, thông qua phong trào quần chúng đấu tranh chống tội phạm, phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng; củng cố, kiện toàn và khai thác có hiệu quả Tủ sách pháp luật; câu lạc bộ thanh niên, phụ nữ với pháp luật; gắn các hoạt động văn hoá - văn nghệ với tuyên truyền, phổ biến pháp luật, cần hết sức tránh phô trương, hình thức.
Bốn là, lựa chọn cán bộ, chiến sĩ có khả năng, tâm huyết, xây dựng, bồi dưỡng lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên làm nòng cốt trong tuyên truyền, phổ biến pháp luật. Chú trọng đội ngũ cán bộ và cơ quan chuyên trách làm công tác dân vận và tuyên truyền, phổ biến pháp luật tâm huyết và trách nhiệm cao với công việc được giao. Coi trọng công tác tập huấn bồi dưỡng, nâng cao năng lực, kỹ năng chuyên môn, hiểu biết phong tục tập quán và tiếng nói của đồng bào dân tộc thiểu số cho đội ngũ tuyên truyền viên, báo cáo viên. Đồng thời, thường xuyên định hướng, hướng dẫn và động viên cán bộ, chiến sĩ học tập nâng cao trình độ, kiến thức pháp luật, kỹ năng tiến hành công tác dân vận và tuyên truyền phổ biến pháp luật, chỉ có như vậy việc kết hợp công tác dân vận với tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số mới mang lại hiệu quả thiết thực.
Năm là, nắm vững các thiết chế của từng tôn giáo, dân tộc trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Trong tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đối với đồng bào dân tộc cần nghiên cứu nắm vững những tác động của hệ thống thiết chế xã hội cổ truyền của từng tôn giáo, từng dân tộc, biết kế thừa và phát triển những yếu tố tích cực, tiến bộ trong phong tục, tập quán của từng dân tộc, tôn giáo còn phù hợp với pháp luật trong giai đoạn hiện nay; xây dựng nội dung, hình thức tổ chức, phương pháp hoạt động phù hợp với đặc điểm, điều kiện, tình hình cụ thể ở từng địa bàn, phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, có sự đầu tư thoả đáng cho lực lượng tại chỗ, có đủ sức xử lý những tình huống xảy ra ngay tại địa bàn; phải quan tâm đúng mức giải quyết những vấn đề đặc thù về vấn đề dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng và phong tục tập quán của địa phương. Khi tiến hành công tác dân vận kết hợp với tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số phải đặc biệt chú trọng vào công tác tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc tại chỗ, quan tâm giáo dục bồi dưỡng tầng lớp thanh, thiếu niên trong đồng bào dân tộc thiểu số.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top