Dong que-Lenghiabk05

Chuyện "cải cách" mâm cỗ làng quê

20/08/2005 15:15

Khi đời sống ngày càng phát triển thì theo đó mâm cỗ cưới cũng ngày một thịnh soạn và... tinh tế hơn. Điều này đôi khi trở thành một nỗi lo đối với nhiều bạn trẻ ở các làng quê khi sắp phải tính chuyện lập tổ ấm riêng cho mình.

Mới đây, Thành - em họ tôi là thợ xây từ Phú Thọ vào TP.HCM kiếm việc. Cậu tâm sự: "Em sẽ cố gắng gom góp trong 1-2 năm, đủ một vài chục triệu tiền cưới vợ là em về quê ngay". Nhiều người ngạc nhiên: Cưới ở quê gì mà tốn kém vậy ? Thành cười: "Ở quê bây giờ "kềnh dềnh" chẳng kém gì thành thị. Cũng tốn kém lắm, mà dân quê lấy đâu ra tiền nhiều để mừng? Trung bình mỗi người mừng hai chục, đi năm chục ngàn đồng là sang. Anh em thân thuộc mỗi nhà mừng trăm ngàn bạc thì kéo cả già trẻ lớn bé sang ăn 2, 3 ngày từ khi bắc rạp".

Thành ngồi liệt kê ra: nào tiền thuê váy áo cưới cho cô dâu chú rể, nếu cách làng thì mất tiền thuê ô tô, tiền phông rạp, tiền chụp hình làm album, "phong bì" chạm ngõ nhà gái, anh nào sang còn thuê ghi hình video. Nhưng có lẽ gay go nhất vẫn là khoản tiền cỗ cưới.

Quả thực, mâm cỗ ở quê bây giờ đã khác xưa rất nhiều. Ngày trước cỗ thiên về nhiều số lượng bát đĩa trên mâm thì nay lại thiên về chất lượng. Những lần về quê ở làng Lương Lỗ, huyện Thanh Ba, Phú Thọ, tôi từng được nghe kể khá nhiều về chuyện "cải cách" mâm cỗ cưới ở đây. Bắt đầu là đám cưới con ông chủ tịch xã lấy một cô gái người thành phố, được tổ chức rất linh đình: từ cách trang trí đám cưới tới mâm cỗ cưới khiến bà con phải xuýt xoa… Dần dà không ai bảo ai nhưng nhà nào cưới cũng lấy mâm cỗ cưới nhà ông chủ tịch làm gương. Sau đó, người ta đua nhau "đầu tư" vào mâm cỗ cưới cho thật phong phú, khác người.

Đầu tiên phải kể đến chuyện thịt mỡ biến mất khỏi mâm cỗ: món thịt luộc, bát chuối nấu thịt ba chỉ không còn được ai đụng đũa trong mâm cỗ cưới. Những loại giò mỡ, giò lòng - món "truyền thống" của cỗ xưa cũng không mấy được đả động đến nữa. Cưới xịn thời nay chẳng mấy nhà mổ lợn, tốt hơn hết là đi ra ngoài mua thịt nạc cho đỡ bị ế thịt mỡ! Có một dạo, tự nhiên trên mâm cỗ cưới "lạ" hẳn đi bởi sự xuất hiện của… 6 trái trứng, được gọi là món "bồi dưỡng" sau khi uống rượu. Cũng chẳng nhớ ai là người đầu tiên đưa "chiêu" trứng luộc này vào song nó đã tồn tại một thời gian khá dài và thậm chí trong nhiều tiệc cưới thiếu món này lập tức bị đánh giá là cỗ không… sang (!). "Khúc biến tấu" từ trứng luộc chính là… trứng cút, cũng là một sự đổi mới thú vị. Cỗ cưới nông thôn bây giờ lại đưa thêm vào món tráng miệng học được từ cỗ cưới thành thị: trái cây, bánh ngọt, xôi chè…

Thành cho biết: cỗ cưới sang ở quê thời nay phải đưa vào những món đặc sản như thịt bò, thịt lươn, thịt thỏ. Nếu thịt gà phải đúng loại gà ta chứ gà công nghiệp hoặc gà tam hoàng là coi như mất sang. Nhà ai mà nghĩ ra món độc đáo sẽ coi như một sự kiện để bà con bình phẩm. Ấn tượng nhất là có nhà đã đưa vào mâm cỗ cưới món… mộc tồn, được dân mê nhậu hoan nghênh nhiệt liệt, coi như một sáng tạo độc nhất vô nhị! Cỗ cưới sang thường có bia chai. Nếu uống rượu gạo thì phải là loại nếp cái hoa vàng hạ thổ 100 ngày mới đạt tiêu chuẩn cỗ cưới xịn!

Ở các làng quê, sau mỗi đám cưới bao giờ cũng có phần bình phẩm. Có người đã nói vui: "Bị chê cô dâu xấu đành chịu chứ bị chê cỗ bé thì ấm ức lắm! Đã thế, nhiều người dân quê đi ăn cưới nhìn sơ qua thấy cỗ xoàng đã lẻn ra sau nhà rút bớt tiền mừng khỏi phong bì trước khi gửi đến tay cô dâu chú rể".

Trung bình, mỗi đám cỗ phải tốn từ 8 đến 25 triệu đồng, cộng tiền mừng cưới nhà nào may lắm thì hòa vốn, còn lại đa số là thâm thủng ngân sách. Xem ra, ăn uống là chuyện nhỏ nhưng lại không hề nhỏ chút nào đối với các bạn trẻ mới vào đời. Bởi thế sau nhiều đám cưới, đôi vợ chồng trẻ thay vì hưởng tuần trăng mật thì phải lo sốt vó, lao ra thành phố buôn thúng bán bưng, làm thuê lần hồi để dành tiền trả nợ cho bữa tiệc của ngày hạnh phúc. Hẳn là cuộc sống của cặp vợ chồng trẻ đã kém vui đi rất nhiều…

Ký ức đồng quê

Tuổi thơ ai cũng có 1 thời đã từng lang thang ra những cánh đồng để tham gia những trò chơi mà chỉ trẻ con mới thích hoặc hơn nữa là tham gia vào những công việc của người lớn. Nhưng trên hết có một điều tôi dám đảm bảo rằng, không đứa trẻ nào là không thích những trò mò cua, bắt ốc, bẫy chim,...Với tôi, những ngày tháng hồn nhiên đó đã rời xa được khoảng chục năm kể từ ngày ra HN học tập và ở lại lập nghiệp. Nhưng mỗi lần trở về quê luôn muốn thèm khát được trở lại những tháng ngày đó để thỏa mãn những đam mê bất tận, thích thú khi bắt được con cua, con cá, bẫy được con chim để rồi cười mãn nguyện. Tuần vừa rồi trở về quê, ra thăm đồng ruộng thấy người ta đang đánh bẫy Cò, trẻ con bẫy chim chèo bẻo làm tôi chợt nhớ về 1 thời......

ĐI BẮT CUA ĐỒNG: cua đồng ở Hoằng Hóa chỗ tôi gọi là con Đam, chỗ sống của nó gọi là cái Mà. Đi ra đồng nếu gặp cái Mà Đam vừa ùn đất thì kiểu gì cũng bắt được 1 chú Đam béo ngậy khi nấu canh. Nếu đi bắt ở những Mà Đam không có đất đùn thì có thể không có, có thể có cá và đôi khi là 1 con rắn nước, rắn Nùng Nục. Sau một mùa gặt, 10 đầu ngón tay chỉ toàn vết xước do bị Đam cắp (nhiều khi đau chảy nước mắt).

Nhắc đến kỷ niệm này, ấn tượng không thể quên đối với tôi là 1 lần nấu miến Đam, 2 anh e buổi sáng hôm đó bắt được gần 200 con Đam (ngày đó Đam rất là nhiều). Gia đình chỉ có 4 người nhưng nấu 1 nồi Đam gần 200 con và kết quả là mỗi người chỉ ăn được 1 bát nhỏ vì quá béo do chỉ toàn gạch Đam (gạch cua).

P/s: canh Đam nấu từ 30 con Đam có gộp màu tím thì ngon thôi rồi!

ĐI BẮT ỐC: ngày đó thường bắt các loại ốc đá, ốc giấy, ốc quắn và ốc nhồi. 3 loại ốc đầu thường đi bắt và buổi sáng khi nước trên ruộng đang còn trong, lũ trẻ con chúng tôi cứ xách 1 cái ống quần đã cắt túm lại 1 đầu và đi thoăn thoắt trên ruộng rồi nhặt cho vào đấy. Còn ốc nhồi bắt ở ruộng lúa có rất ít, thường đi vào ruộng rau muống để mò mới có, còn ban đêm chúng tôi mang 1 chiếc đèn Pin và 1 cái vợt có đường kính khoảng 30-40cm lắp cán tre dài 3-4m, đi soi ở các ao làng. Ban đêm, ốc nhồi thường nổi trên mặt nước trong và cứ thế là ...a lê hấp chui vào vợt.

Để ăn được ốc, thường chúng tôi ngâm nước vo gạo trong 1 ngày, ốc nhồi thì đem nấu giấm dọc mùng hoặc nấu chuối. Còn ốc đá, ốc giấy và ốc quắn thì đem luộc, chạy ra vườn vặt 1 nắm lá chanh cho vào nồi. Khi chín, dùng gai bưởi to để lôi ruột ốc ra ăn, đối với ốc đá do nó quá bé nên bao h cũng phải dùng kìm để bóp vỡ đít ốc rồi hút chùn chụt..

Tháng Năm gõ cửa bằng con mưa đầu Hạ một chiều đi làm về, ướt nhẹp, chẳng cần lôi áo mưa ra khỏi túi, cứ thế đầm mình cùng mưa…Hoa phượng đỏ rực chỉ còn trong ký ức bởi thành phố quá chật chội, chẳng đủ chỗ để màu đỏ ấy thắp lửa tháng Năm...

Ta lật trang lưu bút ngày cũ …

Rồi lại đến cái mùa hoa phượng đỏ

Kỷ niệm xưa chìm khuất ở nơi nào

Tiếng ve vỡ ra trăm ngàn mảnh nhỏ

Em không về nhận mặt tháng Năm sao?”

Lao xao cơn gió đầu Hạ, ta nhớ ai đó đã cùng ta một chiều lên đồi, ngồi dưới gốc đại thụ và ngắm nhìn những chùm phong lan đong đưa trong gió, ta nhớ lời nhắn gửi trong thư của một người bạn đến từ vùng đất huyền bí Champa - Phan Rang, ta nhớ, ta là đứa trẻ đến từ đồng ruộng…

Mùa hè, với đám trẻ ruộng đồng luôn bắt đầu bằng một chút bối rối bởi hôm nay đã là lễ tổng kết năm học, đã hết năm, phải xa những gương mặt cũ, xa chỗ ngồi, xa biết bao nhiêu trò nghịch phá trên khoảng sân trường rợp đỏ phượng vĩ, cả những bậc thang đất leo lên sân trường bị nước mưa bào chỉ còn trơ lại những gờ đất hững hờ …Nhưng rồi những xao xuyến ấy qua nhanh khi ta được trở về với chính ta, ta – đứa trẻ đến từ đồng ruộng….

Mùa hè tha hồ đi bắt dế. Những luống đất mới được cày vỡ, cố lật tới lật lui thế nào cũng thấy những chú dế đen chũi, óng ả trốn đâu đó. Đám con trai thường chơi đá dế, con gái không thích vậy, nó cưng nựng những chú dế bằng cách nhốt chúng vào những cái túi nilon hay ống lon và chẳng hiểu sao, dế chết! Con trẻ thường chẳng buồn lâu vì chúng biết cách quên đi những cái không đáng nhớ! Chúng thả diều. Diều dán bằng giấy tập học sinh, nham nhám, xam xám chứ không trắng tinh, thẳng thớm, thơm tho như vở học sinh bây giờ. Với ta bé bỏng đến từ đồng ruộng, được đi học là cả một hạnh phúc lớn lao nên ta hầu như chẳng bao giờ quan tâm và hỏi tại sao ta chỉ có những cuốn vở đen để viết khi đó, bởi ta yêu chúng biết nhường nào!

Cắt giấy dán diều, vót nan tre, cột lại. Dây chẳng biết kiếm từ đâu ra nhưng chẳng phải là những cuộn dây dù tinh tươm như bây giờ, nhưng ta chẳng quan tâm, diều vẫn cất lên cùng với gió đồng mát rượi. Tha hồ mày chạy, tha hồ thả, tha hồ vừa chăn trâu, vừa tung tăng thả diều, thi xem diều của đứa nào bay cao hơn…Con diều ấy đôi khi vẫn được thả lên ở một miền quê nào đó, trong miền ký ức nào đó, tôi tin như thế!

Mùa hè, tha hồ đi …ăn cắp và đánh lộn!

Chẳng biết những đứa trẻ đến từ thành phố có thế không nhưng với đám trẻ đến từ đồng ruộng, ăp cắp không phải là xấu, chỉ là một trò nghịch mùa hè mà thôi! Vườn nhà cũng đầy đủ xoài, chuối, thơm, đu đủ, mít. Mía trồng thành vườn. Tuy nhiên, đi ăn cắp vẫn là một thú vui …khó bỏ! Hăm he vườn nhà đứa nào có thứ cây trái mình thích là bẻ chứ không hẳn vì nhà không có nên đi …ăn trộm! Nướng khoai lang trộm mới thú làm sao! Những cái rễ to to, những củ khoai chồi lên khỏi mặt đất, cứ thế mà moi trộm vài củ rồi đem lùi trong bếp than. Một lát moi ra, khoai đã chín, vỏ bong ra, thơm nức! Có hôm mải chơi, quên mình đã lùi khoai trong bếp, lúc nhớ ra thì khoai đã trở thành cục than đen sì, tiếc hùi hụi! Đánh lộn đánh lạo vì nhiều lẽ mà những lẽ đó là gì thì … chẳng đứa nào biết! Sáng ghét thì đuổi về, không cho nó qua nhà mình chơi, nó không về thì nhảy vô đánh nhau, nắm tóc, giựt áo. Chiều, lại kiếm tụi nó chơi như thường vì không chơi với đám trẻ ấy thì chơi với ai, bầy trò nghịch với ai suốt những tháng hè! Giờ ngồi đây, thèm một củ khoai nướng và một tiếng í ới khe khẽ, rúc rích cảu đám con nít ngoài bờ rào…

Đứa trẻ ta đến từ đồng ruộng ngày bé rất thích bắt cá và đi câu. Câu cá rô, có hôm cả trăm con. Bắt cua cũng thế, chỉ cần lấy nắm lá sắn cột lại, lấy một cái que giữ đám lá cho chắc rồi cắm xuống đồng. Cua tìm nơi trốn nóng bu ngay vào đám lá sắn, thế là ta chỉ còn việc lâu lâu đi …thăm lá, nhấc lên, bắt cua là xong! Đến những ngày giữa hè, mưa nhiều hơn, nước về lênh láng, ta lại có cái thú lội tong tong trên con đường trước nhà đã bị nước tràn qua cùng bố và các chị đi đặt vó bè. Cái vó to và nặng được kéo bằng một sợi dây thừng chắc. Nước chảy, cá lòng tong, cá rô, cá lóc thi nhau bơi theo dòng nước, kéo vó lên và hốt là xong! Vài năm nữa, khi ta lớn, con đường trước nhà được tôn cao, cống đã làm lại, điều phối nước bằng mương thủy lợi, ta chẳng còn được đi cất vó bè…

Thế nhưng ngày hè với ta vẫn còn dài lắm, với những đứa trẻ đến từ đồng ruộng cũng thế, hẳn ai cũng cất giữ trong mình cả kho ký ức về những tháng ngày ấy. Ta cũng thế. Một hôm thức dậy, nước đã trắng xóa cánh đồng phía sau nhà, hai chị “đặc cách” dắt theo đứa em bé nhất nhà lội bì bõm ra cánh đồng phía sau nhà đi …lượm trứng vịt đẻ hoang! Chị bảo rằng mưa xuống, tôm cá nhiều, vịt ăn no, mắc đẻ là đẻ chứ không cần chờ tới tối. Chúng đẻ hoang ngoài đồng và phần đó tất nhiên thuộc về …chị em tôi! Có hôm, ba chị em mang hẳn cái rá đi lượm trứng, kha khá đấy!

Rồi một hôm nữa chị Nga cho theo vào ruộng. Ruộng xa nhà, mang em nhỏ theo phải bế khi nó mỏi chân nên các chị ít cho đi. Ngày xưa chẳng có trâu cày, bố, mẹ và 3 chị lớn hì hụi cuốc đất đến nhừ tay để gieo lúa một vụ, trồng bắp một vụ và trồng đậu một vụ. Tôi chẳng nhớ nữa, chỉ nhớ khi ấy trời lâm thâm mưa, cả nhà chen chúc trong chiếc lều dựng trên nền ụ mối san phẳng với nồi bắp luộc nghi ngút khói. Sau này lớn lên, tôi vẫn thích ăn bắp nhưng chẳng còn bắt gặp hương vị bắp bốc lên giữa đồng trong một sáng mưa, quay quần xung quanh là bố, mẹ, các chị và em nhỏ nhất là tôi. Mùi hương ấy lâu ngày tôi đã quên nhưng hình ảnh ấy, khung cảnh ấy vẫn rất rõ ràng, gần gũi, tưởng có thể nhìn thấy và nắm ngay lấy được.

Lại đến tháng Năm, mùa hè. Đứa trẻ tôi đến từ đồng ruộng khao khát được về lại tuổi thơ mình. Tôi đã đặt sẵn cho mình chiếc vé về ga Tuổi Thơ, ai đó đã nhắn lại rằng “hãy giữ chiếc vé đó trong túi áo để bất cứ lúc nào muốn, bạn hãy ra ga và đặt một chỗ trên chuyến tàu đi Tuổi Thơ. Chuyến tàu ấy không có người soát vé!”…

Ký ức tuổi thơ

(24.06.2011, 08:28 am GMT+7)

“Mẹ ơi! Đón ghe hàng mua mì cho con”. “Ừ! Hôm nay, mẹ con mình ăn mì thay cơm nghe!”. Đó là những gì tôi nghe thấy từ hai mẹ con người phụ nữ trẻ sống trong ngôi nhà nhỏ bên một con kênh giữa đồng. Lúc này đây, chợt trong tôi như có một chuỗi dài của suy nghĩ và hồi tưởng.

Nằm cạnh gốc bạch đàn to rợp bóng mát bên bờ một con kênh lặn sóng vì ít tàu ghe qua lại, tôi giữ chiếc tam bản chở phân bón từ nhà lên bón cho mảnh ruộng cách đó vài trăm mét. Dưới cái nắng sớm ấm áp, cái mát mẻ dễ chịu của những làn gió “tự do” ngoài đồng rộng, cùng âm thanh xào xạc của lá bạch đàn, tưởng như tôi đã thiếp đi vào một giấc ngủ thật ngon lành. Nhưng âm thanh của tiếng máy nổ ghe hàng và hơn thế là câu nói ngây thơ của đứa bé cùng giọng nói ấm áp của người mẹ trẻ đã làm tôi phải tỉnh giấc. Rồi tự dưng, những dòng suy nghĩ, những hồi ức về một thời tuổi thơ từ xa xôi lắm cứ lần lượt hiện về trong tâm tưởng tôi.

Hình ảnh đứa bé nghèo đầu trần, đi chân đất, mặc bộ đồ cũ kỹ sống nơi đồng ruộng xa phố chợ, chỉ trông đợi mỗi chiếc ghe hàng chạy theo những con kênh giữa đồng bán các vật phẩm thường ngày, cùng lời nói cửa miệng ấy là hình ảnh anh chị em chúng tôi của nhiều năm về trước.

Một ngôi nhà nhỏ, thấp “lè tè”, cánh cửa thấp lắm, muốn ra vào nhà phải cúi người xuống. Cột nhà được làm bằng thân tre,  rồi mấy tấm bạc đã chuyển màu che bên vách nhà để không cho mưa tạc vì vách lá cũ quá. Nếu so ra cũng chẳng hơn gì mấy với ngôi nhà của mẹ con người phụ nữ trẻ kia. Đó là nhà của gia đình tôi của nhiều năm trước, nơi mà anh em tụi tôi trải qua thời thơ ấu, nơi chúng tôi nhận được sự thương yêu của mẹ, sự che chở của ba - Mái ấm của chúng tôi.

Trước kia, nhà tôi còn nghèo lắm. Một ngôi nhà nhỏ, tiêu điều như vậy lại là nơi che nắng che mưa của bảy thành viên, ba mẹ và năm anh chị em chúng tôi. Có đến năm người con nhưng ba mẹ tôi vẫn là ông bố, bà mẹ trẻ về tuổi tác vì ba mẹ tôi khi ấy chỉ ở tuổi ngoài ba mươi thôi. Ừa…Ngày xưa ấy mà.

Không một mảnh vườn, mẫu ruộng, chỉ sống bằng nghề làm thuê, làm mướn nhưng phải lo cho bảy miệng ăn như thế, đâu phải là chuyện dễ. Thế mà ba mẹ tôi đã làm được. Giờ đây khi lớn khôn hết rồi, mỗi khi sum họp gia đình, anh chị em chúng tôi vẫn hay thường nhắc lại và nói đùa nhau rằng : “Thật ngưỡng mộ ông ba bà mẹ”.

Vui miệng thì nói vậy thôi, chứ khi nhắc lại chúng tôi thương ba mẹ nhiều lắm. Không dễ gì mà lo nỗi nếu không phải chịu thật nhiều hy sinh và tủi nhục. Để nuôi được anh em tụi tôi, ba tôi phải đổi lại bằng mái tóc màu tuyết và những lần đau nhức không sao ngủ được lúc giữa đêm, còn mẹ, mẹ phải đánh đổi đôi bàn tay mềm mại của người phụ nữ với sự chai sần thô kệch và những vết nhăn hằn rõ trên khuôn mặt – điều mà bao người phụ nữ phải lo sợ dẫu rằng họ chỉ đang ở tuổi ngoài bốn mươi thôi. Vì con, vì tương lai sau này của những “báu vật”, cha mẹ nào quản.

Bây giờ, cuộc sống đã khá hơn nhiều, anh chị em chúng tôi đã có thể làm ra đồng tiền tuy không phải là công việc danh giá gì nhưng tôi vẫn không thể nào quên được ký ức một thời. Mỗi khi nhìn hủ gạo lúc nào cũng đầy trong nhà, hay những buổi chán cơm đòi mẹ nấu món này, món kia ăn là tôi lại nhớ về thời gian mẹ phải lường gạo từng ngày. Nói lường gạo ở đây nghĩa là khi mua gạo về, mẹ phải phân chia trước cho từng bữa sao thật vừa đủ để những buổi sau không phải thiếu. Dẫu là khi mua gạo, mẹ đã phải lựa mua thứ gạo gãy, rẻ tiền. Đã vậy mà vẫn thiếu ăn, những bữa ba ăn rau nhường cơm cho vợ lúc mang bầu, cho con nhỏ là chuyện thường.

Thế đó, gạo không có đủ mà ăn nói chi là thứ khác. Vì vậy, hình ảnh gói mì là thứ mà anh em chúng tôi xem là hàng bánh xa xỉ. Mỗi khi được cho vài đồng lẻ là anh em thay nhau canh ghe hàng để đón mua mì. Chỉ cần nghe tiếng máy nổ thôi đã đua nhau chạy xuống bờ kênh để chờ. Lúc đó, tôi vẫn thường hay thắc mắc tại sao mì gói mà lại ngon đến vậy. Giờ đây, tôi mới hiểu được.

Đó là một trong những hình ảnh đi vào ký ức tuổi thơ của tôi. Rồi hình ảnh chiếc quần xà lỏn vá nhiều mảng lớn nhỏ nữa chứ, cũng hết sức gần gũi. Thậm chí nó trở thành một hình ảnh khó phai mờ trong trí nhớ của anh em tụi tôi. Cách miêu tả về chiếc quần của quá khứ vẫn được chúng tôi nhắc đến một cách dí dỏm: “Cái quần gắn hai chiếc ti vi ở sau mông”. Chắc có lẽ nhiều người còn thắc mắc với cách nói này. Nó đơn giản thôi, vì chiếc quần cũ được mặc lâu bị mòn ở hai bên mông và mẹ tôi đã phải vá những mảnh vải lớn hai bên như thể hai chiếc ti vi vậy.

Nhưng rồi đến lúc những chiếc quần có ti vi sau mông đó không còn mặc được nữa phải đến lúc thay, nhưng có đâu mà thay. Thế mà với bàn tay của mẹ, chúng tôi cũng có những chiếc quần mới. Trong mắt trẻ thơ thật là vô tư hồn nhiên, chỉ cần có đồ mới là vui tít mắt rồi chứ biết đâu đó là những bộ đồ bà ngoại cho mẹ khi xuất giá theo chồng, mẹ đã cắt ra may lại đồ cho con dẫu rằng mẹ có đủ mặc đâu.

Lúc này đây, khi nghĩ lại tôi mới thấm thía được câu: “Cơm cha, áo mẹ”. Cha không chỉ làm lụng để kiếm cái ăn cho con mà còn là sự hy sinh hoàn toàn cho con no bụng trong khi mình phải thay cơm bằng rau. Đôi tay mẹ không chỉ may những chiếc áo, chiếc quần xinh xắn mà còn là sự hy sinh cái mặc của mình cho con trong những lúc túng thiếu. Sự hy sinh ấy của ba mẹ chỉ có càn khôn kia không bờ không bến mới có thể sánh được.

Và có một điều bấy lâu nay tôi nào hiểu, đó là nét mặt ba đượm buồn, còn mẹ lại ươn ướt nước mắt mà không nói gì khi gia đình có những bữa tiệc thịnh soạn, khi anh em chúng tôi khoe nhau những bộ đồ mới thời trang. Thì ra, những lúc đó là những lúc quá khứ của một thời khổ cực, hy sinh mà ba mẹ tôi đã trải qua để lo cho các con lại hiện về.

Ba ơi! Mẹ ơi! Niềm từ hào và hãnh diện trong con khi được gọi Người như vậy. Hai tiếng thân thương đó con sẽ mãi giữ gìn trong cuộc đời này như báu vật, vì đó là thứ quý giá nhất mà đấng tối cao đã ban cho chúng con. Bây giờ và sau này, dù có ra sao đi nữa thì ký ức tuổi thơ với hình ảnh gói mì, với cái quần gắn hai chiếc ti vi đó sẽ mãi là điều con nhớ mãi, để con mãi được tự hào về ba mẹ của con, về những hy sinh mất mát của Người đã dành cho chúng con.

Về Bạc Liêu ăn... năn

Mới nghe tới ăn năn, nhiều người vội nghĩ ngay tới chuyện... sám hối. Nhưng không phải, năn là một loại cỏ có đọt non được làm rau sạch, ăn rất ngon!

Gần đây ở Bạc Liêu phong trào nuôi tôm phát triển, người ta “sàng lọc” ở những ruộng nuôi tôm quảng canh và trồng năn thì năng suất tôm rất cao. Thế là người ta đổ xô trồng năn trở lại. Vừa nâng cao năng suất tôm vừa có có đọt năn bán hàng ngày. Từ đó ở các chợ huyện chợ tỉnh có rất nhiều người đi hái đọt năn để bán.

Năn là một loại rau sạch lại giúp ruộng tôm tăng năng suất, trở thành thứ cây trồng thời thượng tại Bạc Liêu

Cách đây một tháng tôi có đi xã Vĩnh Hưng, một vùng quê xa lắc của tỉnh Bạc Liêu rồi ghé thăm mẹ của một người bạn. Thấy có khách quý, bà già “móc ruột” ra đãi bằng món đặc sản của đồng quê, đọt năn ba món; năn xào thịt trâu, năn chấm mắm kho, năn làm dưa chua.  Những món ăn cũ còn in trong ký ức lâu ngày.

Trước, có những lúc mảnh ruộng năn “lấn” lúa đến lúa mọc không nổi. Thế nhưng năn mọc đến đâu là hình thành hệ sinh thái rất lạ đến đó và có những lợi ích khác. Những nơi nhiều năn là những vùng đất rất giàu sản vật của đồng đất như: cá đồng, lươn, rùa, rắn…

Đối với trẻ chăn trâu vùng Bạc Liêu ngày xưa thì đồng năn đã đỡ đần họ nhiều lắm. Tháng 7 – 8 âm lịch là lúc năn cao đến lưng quần, cũng là lúc trâu làm xong mùa, người ta thả trâu vào đồng ăn cỏ năn không phải lo thức ăn cho chúng, đó cũng là lúc chim cò về xây tổ và trú ngụ rất nhiều. Tôi còn nhớ chim cò dạn dĩ như gà, đặc biệt là rất nhiều chim chích, vì chúng rất khoái ăn đọt năn. Nào chích cồ, chích ghé… Chỉ cần ra đồng nhặt một hồi là cả nón trứng chích, trứng cò. Dân chăn trâu thì toàn con nhà nghèo, bữa cơm thường là cơm vắt mắm đồng. Hay có bữa chỉ có keo nước mắm biển. Nhưng chẳng lo gì. Có mắm chưng thì tước đọt năn chấm mắm, còn nước mắm mặn thì luộc trứng chim giằm nước mắm ăn với đọt năn cũng no. Năn rất dễ ăn và vì ngày xưa vùng Bạc Liêu nơi nào cũng có năn mọc nên hầu hết dân nông thôn đều biết ăn năn, thế cho nên người ta sáng tạo ra nhiều cách ăn đọt. Năn ăn sống, năn xào, năn nấu canh, thậm chí đến năn làm dưa chua.

Chưa hết, đến tháng 11 – 12 âm lịch đồng khô năn chín sang vàng úa rồi lụi tàn, lũ trẻ trong làng vẫn có thể kiếm được cái ăn từ đám năn. Đó là lúc năn xuống củ, ta dùng vá đào lên dưới bụi năn héo là những chùm củ. Củ năn ăn tươi cũng được, luộc ăn cũng được cách nào thì củ năn ăn cũng rất ngon, có người làm bánh từ bột củ năn. Lúc năn xuống củ là lúc củ năn gọi lũ chuột đồng và chuột không biết ở đâu kéo về những đồng năn để ăn củ rất nhiều. Thế là dân những vùng nông thôn kéo ra bắt chuột trên những cánh đồng năn theo cách bắt “dậm cù”. Tức là họ dậm theo vòng tròn đặt lọp vào… nhưng cứ thế dậm dần cho đến khi chuột không còn chỗ trú đành chui vào rọ. Những lần bắt chuột như thế chuột nhiều đến quảy không nổi.

Cách đây vài thập niên, phong trào làm lúa cao sản tăng vụ với khoa học diệt cỏ đã đẩy những cánh đồng năn đến chỗ diệt vong. Chẳng những người có ký ức về đồng ruộng thích ăn mà cả dân thị thành cũng tìm mua ăn. Bởi năn vừa ngon vừa là một loại rau sạch.

Lặn lội cá đồng

TT - Mùa nước nổi cũng là dịp cư dân miền Tây vào mùa đánh bắt tôm cá trên đồng. Chỉ cần nhắc đến hai chữ “cá đồng”, người ta đã thấy cả một trời ký ức của thời “trên cơm dưới cá” ở chốn Tây Nam bộ. Còn bây giờ, câu chuyện tôm cá trên đồng ruộng miền Tây như thế nào?

Kỳ 1: Du cư mùa nước nổi

Sáu Tâm quê ở xã Hiệp Xương, huyện Phú Tân (An Giang). Năm nào cũng vậy, đầu tháng 8 âm lịch vợ chồng ông lại “dọn nhà” xuống ghe, cắt ngang dòng lũ trên sông Tiền, sông Hậu vào vùng Trường Xuân, Mỹ An (Đồng Tháp) tìm chỗ mưu sinh.

áu Tâm, ngư dân hơn 20 năm đặt lợp nhủi (chuyên bắt cá lóc) mà chúng tôi gặp bên tỉnh lộ 831 xã Vĩnh Châu B, huyện Tân Hưng (Long An). Quanh quẩn ở sông Tiền, sông Hậu cho tới khi nước giật, lũ xuống thì ông lại dời sâu vô Đồng Tháp Mười. “Đây là loại lợp nhủi, chuyên trị cá lóc. Cứ lựa lùm cây đám cỏ trên đồng nhủi xuống là xong. Lợp đặt không cần mồi, nhưng cách ngày mới thăm một lần nên tui chơi luôn hai giàn, hơn trăm rưỡi cái, mỗi ngày thăm một giàn” - đứng dỏng người trên sạp xuồng, tay cầm chiếc lọp che ngang mặt trời, từ ngoài đồng Sáu Tâm gân cổ nói. Hỏi mua vài ký cá lóc đồng, Sáu Tâm kêu: “Không bán đâu, đã hứa với lái rồi, trúng thất có nhau, cho người ta kiếm chút lời”.

Mấy tháng qua, trục quốc lộ 62 từ Tân Hưng qua Vĩnh Hưng, Mộc Hóa, Thạnh Hóa, ra tới Tân Thạnh (Long An) dài hơn trăm cây số như cái xương sống xuyên vùng nê địa Đồng Tháp Mười, gánh những xóm “du cư” làm nghề “bà cậu” từ khắp nơi tựu về. Dưới chân cầu Quảng Cụt, xã Tân Lập, huyện Mộc Hóa, xóm ghe của những ngư dân chuyên nghề đặt sà di (ngư cụ bắt cá rô) đang dần đông lên. Mấy chiếc xe máy chở đầy can nhựa loại 30 lít khoét rộng miệng, đã đổ đầy nước chờ tới lượt cân cá chở ra Tân An, Mỹ Tho.

“Nay đỡ không anh Hai?”, một lái cá cất tiếng. “Chừng ba, bốn chục ký gì đó” - Hai Bằng, ngư dân có mái đầu muối tiêu, trả lời. Năm nay Hai Bằng mới 50 nhưng tuổi nghề thì đã ngót 40, kể từ lúc ông theo cha xuống ghe rày đây mai đó phụ cha trộn xác mắm với lúa hột bỏ vô sà di làm mồi dụ cá. Chừng lấy vợ, ông được cha chia cho chiếc ghe, tách ra làm ăn riêng. Tám mùa du cư trên đồng lũ, bốn đứa con ra đời. Lớn lên con nối nghề cha, sống đời sông nước.

Mùa lũ năm nay, vợ chồng con cháu ông có cả thảy 10 người đi trên ba chiếc ghe, hai con đầu đã lập gia đình, mỗi người đi một ghe, hai người còn lại đi làm chung với vợ chồng ông. Ba chiếc ghe kéo theo năm chiếc xuồng từ Châu Phú (An Giang) qua kênh 28 thị trấn Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Hưng neo lại, tỏa ra tìm chỗ đặt sà di. Được hơn tháng nước lên vùn vụt, sà di cao 1,5m bị ngập lút, cá vào ngộp chết, không đặt được nữa nên đại gia đình di dời sang Tân Lập, Mộc Hóa, neo ghe ven quốc lộ 62 cho tiện việc bán cá. Hằng ngày Hai Bằng cùng bốn người con dậy từ 2, 3 giờ sáng, mỗi người một chiếc xuồng con gắn máy “đuôi tôm”, mang theo cơm nước, chạy băng đồng tràm, ngược lên Bình Bắc, Bình Thạnh, sát biên giới với Campuchia để thăm giàn sà di hơn trăm cái. Đoạn đường đi và về cả trăm cây số nên mấy cha con làm không ngơi tay mới kịp quay về cân cá cho lái. Mấy ngày gần đây cá ra nhiều nên mỗi người cũng kiếm được đầy hai khoang xuồng, cân ngang cho lái 13.000 đồng/kg, trừ tiền xăng cũng bỏ túi được vài trăm ngàn đồng.

Chiều muộn, chúng tôi ghé lại làng du cư ở ấp Bến Kè, xã Thủy Đông, huyện Thạnh Hóa. Hơn chục chiếc ghe và ngần ấy xuồng con đậu dài theo con rạch. Mấy người đàn ông vừa cân cá xong, quay ra trộn mồi, thăm xăng nhớt máy, đâu đó sẵn sàng để rạng sáng mai lại đi tiếp. Đằng lái ghe, những người vợ lui cui bên bếp lửa hồng. Tiếng củi tràm nổ tí tách, tỏa mùi hăng hắc. Mấy đứa trẻ con lên 3, lên 4 ghé mắt qua vách ghe lén nhìn khách lạ. Một không khí yên bình hiếm thấy giữa bốn bề rừng cây và sóng nước.

Bữa cơm với cá rô đồng chiên giòn vàng rụm thêm vài ly rượu đế khiến ngư dân mở toang tấm lòng. “Dòng họ tôi theo nghề sà di tính đến nay đã qua bốn đời. Nó như là nghiệp rồi, không bỏ được chú ơi” - ông Tư Chúc, 51 tuổi, quê ở Châu Phú, An Giang, bộc bạch. Chừng ấy năm rong ruổi khắp nơi, từ tứ giác Long Xuyên qua tới Đồng Tháp Mười, khiến Tư Chúc mỏi gối chồn chân, nên làm xong mùa lũ năm ngoái ông đã tính chuyện “giải nghệ”. Về quê, ông làm sẵn mấy cái bể sau nhà, mua lươn giống về thả. Đầu mùa lũ ông quanh quẩn ở nhà bắt ốc về xay cho lươn ăn. Nhưng khi thấy nước lên vùn vụt ông lại “nhớ nghề” không chịu nổi, đành cầm lái chiếc tắc rán, lai dắt theo hai chiếc ghe và ba xuồng con từ An Giang qua Đồng Tháp Mười để cùng ba người con trai tiếp nối nghề của cha và ông nội. Ba anh em ruột Dệnh, Cang, Thum tuổi 24-30 mà người nào cũng có thâm niên hơn mười năm trong nghề. “Ghe xuồng, dụng cụ đánh bắt có sẵn, đường đi nước bước thuộc lòng như trong vườn nhà mình nên bỏ nghề thì thấy tiếc” - một người con của ông Tư Chúc tâm sự.

Ông Lê Văn Nữa, một ngư dân cùng quê với ông Tư Chúc, lý giải: Bình Phú và cả vùng Láng Linh cũng trũng tấp như Đồng Tháp Mười, một thời gian dài chỉ độc canh cây lúa mùa nổi. Lúa sạ rồi bỏ đó, nước dâng tới đâu cây lúa vọt lên theo tới đó, tháng 11, tháng chạp lũ rút, đồng ruộng cạn khô, mọi người đi cắt vần công, quây mê bồ đập tại chỗ, dùng cộ trâu kéo về nhà ăn tết. Thời gian lũ tràn đồng, người dân quay ra làm thêm nghề đánh bắt cá dưới chân ruộng, ngay sau nhà. Cứ mười hộ thì hết tám có xuồng câu lưới. “Một năm chỉ làm trong hơn ba tháng mùa lũ, nếu chịu khó cũng kiếm được cả cây vàng. Nhưng rồi việc làm bờ bao ngăn lũ, sản xuất ba, bốn vụ lúa mỗi năm đã thu hẹp môi trường sống của cá, nên ngư dân chúng tôi ngày càng phải đi xa hơn và rồi cái nghề bắt cá đồng xa đầy may rủi cứ đeo riết lấy” - ông Tư Chúc phân tích.

Lấy ghe làm nhà, chiếc xuồng con làm phương tiện mưu sinh, hàng trăm gia đình bị mất địa bàn đánh bắt từ khắp nơi cứ tiến lần vô Đồng Tháp Mười, nơi còn nhiều lung, bàu, rừng sản xuất, là môi trường tốt cho cá trú ngụ sinh sôi...

Mò cua, bắt ốc giữa lòng Hà Nội

HÀ NỘI (VNN) - Hồ Tây là một thắng cảnh nổi tiếng và nơi hầu hết các du khách đều muốn đặt chân đến khi viếng thăm Hà Nội. Thế nhưng trong làn nước trong xanh của thắng cảnh này, mỗi ngày có hàng chục người vẫn mưu sinh bằng nghề mò cua bắt ốc.

Một bài ký sự trên Vietnamnet cho hay, với những người mò cua bắt ốc dưới hồ Tây thì đây "cả một cuộc mưu sinh lạ lùng mà đầy truân chuyên của họ."

Tờ báo dẫn lời chị Nguyễn Thị Gái - năm nay đã ngoài 50 tuổi, quê Thái Bình, cho biết: "Công việc này chẳng qua là lựa chọn bất đắc dĩ với những người dân tỉnh lẻ vừa thiếu vốn, vừa lạ nước, lạ cái lúc mới đặt chân lên đất Hà Nội."

Chị Gái vẫn hóm hỉnh nói với Vietnanet: "Tôi mới lên đây có ba tháng, ngày ngày ra dốc Bưởi đứng chờ việc, ai người ta thuê gì thì làm nấy. Những ngày vắng khách như hôm nay, thấy vài chị em rủ nhau đi mò ốc, tôi tò mò đi theo. Ai ngờ lại thành cái 'nghề phụ' thế này."

Theo lời chị Gái, một ngày làm việc của chị nếu chỉ mò cua, ốc ở Hồ Tây thường bắt đầu sớm, tầm 5 giờ sáng - sớm hơn nếu đi làm cửu vạn. Nghề này, hầu như chỉ có các chị em làm.

"Lặn ngụp từ tinh mơ mờ đất, giờ ấy người ta qua lại còn vắng, không bị nhắc nhở. Hơn nữa, bắt đầu sớm thì được nhiều, muộn thì được chẳng bao nhiêu." Chị Gái giải thích.

Tất cả những gì các chị mang theo chỉ là chiếc áo mưa mỏng teng khoác ngoài, cái thùng xốp, cái bao tải dứa và chiếc nón đã cũ mèm. Không ủng tay, không ủng chân, chẳng có gì để bảo vệ. Các chị cứ tay không mà sục xuống bùn đất, mà trầm mình xuống nước sâu.

"Có gì mà bảo hộ, chân lấm tay bùn quanh năm, sợ gì!" Chị Gái nói.

Cứ kiên trì di chuyển từng chút ven hồ, kiên trì dùng tay, chân, mò mẫm, rất nhiều những vốc ốc nhỏ ấy sẽ đong đầy phần nào cái thùng xốp sau lưng chị, đổi lấy tiền, lấy gạo, đỡ đần cuộc sống khó khăn nơi đô thành.

"Bây giờ làm ăn khó lắm. Tôi nghe các chị làm lâu năm bảo, ngày trước, một buổi sáng thu được cả mấy yến ốc con, ốc to là chuyện thường. Thế mà bây giờ, có cày cục từ sáng sớm đến trưa cũng chỉ được vài chục cân. Tính ra, thu được đến 100 nghìn đồng một ngày là cao." Chị Bình, người phụ nữ đi cùng chị Gái bây giờ mới lên tiếng.

Tính ra, hơn sáu tiếng đồng hồ, mỗi người lao động cật lực mới được khoảng 100 nghìn đồng. Mà nào phải có ốc, có trai trong thùng là đổi ngay lấy tiền được. Không có sẵn mối thu mua, nhiều lần các chị còn phải mướt mồ hôi đi bán hàng ở mấy khu chợ cóc. Không cẩn thận, ế ẩm hay bị công an, bảo vệ "dẹp" thì coi như tất cả thành công cốc.

Hành trình quy đổi sản phẩm mò cua bắt ốc của các chị lấy những đồng bạc sao còn lắm gian truân đến thế...

Vietnamnet kể tiếp: "Không phải vô cớ mà những người phụ nữ như chị Gái, chị Bình lại phải bươn bả ra thành phố kiếm sống. Cũng không phải vô cớ họ lại tìm đến với cái nghề lạ lùng ở đất thủ đô này."

"Làm nghề này là phải chấp nhận rồi. Bấp bênh, khốn khó, lại bị xua đuổi. Có ai cho chúng tôi mò cua bắt ốc ở đây đâu! Có hôm mới bảy, tám giờ họ đã cho thuyền ra 'xua' rồi, cực lắm." Chị Bình than thở. Rồi chị đưa lên ngang mặt vốc tay toàn cát sỏi, vương rác rưởi. Gương mặt như sầm đi vì thất vọng, chị lại lầm lũi sục cả người xuống dưới mặt nước.

Sau một hồi trò chuyện, các chị tiết lộ, tuy mò cua mò ốc ở hồ Tây này "bạc" nhưng cũng không đến nỗi. Với những người nông dân quen chân lấm tay bùn, quen dầm sương dãi nắng với con cua, con ốc như các chị thì tất cả vẫn còn nhàn nhã chán.

Nhàn nhã so với việc bươn bả chợ búa, vừa tốn tiền vốn lại phải vật lộn, bốp chát ngoài chợ. Các chị em ngoại tỉnh đổ về Hà Nội kiếm sống mạn Hồ Tây sống thành xóm trọ. Những người "làm thêm" như các chị cũng không ít, thành cả một "khu cua ốc" ở khu vực này.

"Ở quê bây giờ đang lúc nhàn rỗi. Nhàn rỗi thì không có tiền, mà con cái, học hành, ăn ở, tháng nào cũng phải đôi triệu. Ngày trước giá cả còn đỡ, bây giờ cái gì cũng tăng vù vù. Chúng tôi không ra Hà Nội làm thuê thì khéo chết đói cả. Nhưng làm gì thì làm, cũng bữa đực bữa cái. Cái khó ló cái khôn, rủ nhau ra đây mò cua bắt ốc cũng là bất đắc dĩ thôi." Chị Gái ngượng ngùng bảo.

"Chỉ mong đừng sơ sẩy đạp phải mảnh chai, mảnh sành, đinh nhọn gì thôi. Chứ lỡ mà bị nhiễm trùng, ngã ra đây ốm thì tiền thuốc chẳng đủ tiền thang." Chị chia sẻ thêm.

Những tai nạn như chị nói quả thực không hiếm trong cái nghề mò cua bắt ốc này. Chị bảo, mọi người trong xóm chị kể, một chị đi mò ốc ở Hồ Tây này, vô ý giẫm phải mảnh sành, lại lấn cấn không đi khám xét, cuối cùng bị nhiễm trùng, phải đi bệnh viện rồi về quê, không biết cái chân cuối cùng ra làm sao, mà chẳng còn thấy quay về xóm nữa.

Cũng có người mải làm, trời nắng quá, ngã sức, tí nữa thì đuối nước. May mà có các chị em đi cùng không thì nguy khốn. Làm bạn với sông nước, với con cua, con ốc, không phải các chị không lường được những nguy hiểm rình rập ấy. Song tất cả vẫn phải lùi chỗ cho nỗi lo cơm áo gạo tiền.

Ở cái tuổi ngoài năm mươi, nhưng chị nào đã được nghỉ ngơi. Gánh nặng đồng áng tạm vơi vì chưa vào mùa vụ, chị đã lại xăm xắn lên Hà Nội để mong kiếm thêm thu nhập, chu cấp cho hai con đang ăn học đại học.

Tâm sự về hành trình bám đất Hà Nội nuôi con ăn học của mình, chị Gái nhẹ nhàng bảo: "Xóm trọ của tôi có ba, bốn chị em cũng có con học đại học ở Hà Nội. Nhưng chẳng giấu gì, đi làm thế này, chẳng bố mẹ nào bảo cho con cái biết đâu. Sợ nói ra, các con lại suy nghĩ, bận tâm. Cứ tháng tháng lại chắt chiu, vun vén tiền rồi nhờ người quen gửi cho chúng nó. Chúng nó học hành tấn tới, thì làm nghề gì có bố mẹ nào quản!"

Người mẹ ấy chia sẻ bằng chất giọng tâm tình pha niềm tự hào. Bên dưới cái nắng chói chang, cái nóng hầm hập của mùa Hè Hà Nội, đôi mắt của người mẹ ấy vẫn lấp lánh những niềm vui, niềm hy vọng dành cho các con mình.

Vợ chồng già bị 7 đứa con đẩy ra ăn Tết ngoài đường cùng cỗ quan tài

Thứ bảy, 28/01/2012 15:43

Sinh hạ được 7 người con, chịu bao đắng cay để nuôi nấng chúng nên người. Vậy mà, giờ đây chúng "báo hiếu" ông bà bằng những cú đấm thẳng mặt, những lời rủa sả...

Đó là bi kịch của vợ chồng cụ Nguyễn Văn Quý (84 tuổi) và cụ Nguyễn Thị Chén (82 tuổi), ngụ thôn Đồng Lư, xã Đồng Quang, huyện Quốc Oai, Hà Nội. Tám năm bị con cái đẩy ra đường là tám cái Tết buồn của cặp vợ chồng bất hạnh.

Những đứa con “trời đánh”

Tìm đến thôn Đồng Lư hỏi thăm vào ngôi chùa có vợ chồng cụ già phải tá túc, mọi người đều biết chính xác: “Chắc cô chú tìm ông bà Quý hả? Tội nghiệp ông bà ấy lắm cô chú ạ, hiền lành, chịu thương chịu khó nhưng về già mất phúc. Con cái thì đông đúc, giàu có mà có đứa nào chịu nuôi bố mẹ đâu”. Rồi không kịp để khách hỏi thêm câu nào, mọi người tranh nhau kể tội mấy đứa con bất nhân của hai cụ: “Mấy hôm trước chúng nó lại vừa hành hung bố mẹ”.

Cụ bà Nguyễn Thị Chén đang cầm chổi quét sân chùa, tuổi già, mắt kém nên lẩy bẩy lia từng nhát chổi chậm chạp, cứ vài phút lại dừng tay đấm lưng. Trời Hà Nội những ngày cuối năm lạnh đến dưới 10 độ C nhưng bà cụ cho biết ông lão chồng mình từ sáng sớm đã ra đồng mò cua bắt ốc. Nghe có người muốn đến hỏi chuyện bi kịch của mình, khóe mắt nhăn nheo của bà cụ trào nước mắt: “Một đời chúng tôi vì con vì cái, nuôi nấng dựng vợ gả chồng cho chúng, không để nợ một đồng một cắc nào cho chúng. Vậy mà giờ chúng đối xử với vợ chồng tôi thế này đây”.

Cách đây 60 năm, ông bà quen nhau trong một lần đi làm thuê ở miền sơn cước rồi nên duyên vợ chồng. Về sống với nhau, ông bà lập nghiệp từ đôi bàn tay trắng trong hoàn cảnh khó khăn nghèo túng. Lúc vợ chồng ra ở riêng tài sản chỉ có duy nhất 20 cây tre để dựng căn nhà làm nơi tá túc tránh mưa tránh nắng.

Ông bà lần lượt sinh hạ được bảy người con, ba trai, bốn gái. Cuộc sống vốn dĩ đã khó khăn, khi bảy đứa con lần lượt chào đời thì cuộc sống càng túng quẫn hơn. Để nuôi được bảy người con thành người, ông bà đã phải chịu trăm ngàn cực nhục. Ông đi làm thuê làm mướn hùng hục suốt ngày, còn bà thì tối ngày cắm mặt trên mấy thửa ruộng kiếm miếng cơm manh áo nuôi con. Căn nhà nhỏ cũ nát đêm mưa không có chỗ nằm, ông bà nhường cho các con chỗ khô ráo, còn mình thì chịu trận giữa mưa gió. Bữa no bữa đói, nồi cơm độn

sắn ngô không đủ cho đàn con đông đúc, có bữa ông bà phải nhịn ăn nhường con.

Xã hội ngày càng càng phát triển, cuộc sống rồi cũng bớt khó khăn. Rồi ông bà dựng vợ gả chồng cho mấy đứa con lớn, mấy đứa nhỏ thì do cuộc sống khó khăn quá nên ông bà dắt lên vùng kinh tế mới ở Tiến Xuân thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình (nay là xã Tiến Xuân, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội). Đến vùng kinh tế mới, do chịu khó làm ăn nên cuộc sống gia đình đã thoát khỏi cảnh túng quẫn. Lúc này ông bà dựng vợ gả chồng nốt cho mấy đứa nhỏ.

Tuy không bằng ai nhưng ông bà vẫn cố gắng lo lắng cho con cái chu đáo, 3 người con trai thì cho mỗi anh một dinh cơ khi lấy vợ, không để nợ một xu một đồng cho đứa con nào. Khi người con trai thứ ba của ông bà lấy vợ xây nhà, đứa con xui ông bà bán đất ở vùng kinh tế mới để lấy tiền xây nhà cho mình, ông bà cũng nghe theo vì cha mẹ nào chẳng “cá đuối đắm đuối vì con”.

Những bữa cơm chan nước mắt

Bà cụ giơ tay gạt dòng nước mắt rồi tiếp tục câu chuyện. Sau khi dồn hết tiền làm nhà cho anh con trai thứ ba, ông bà về ở với người con trai cả khi trong tay ông bà không còn tiền. Người con cả khi đó đã hậm hực hắt hủi ông bà với lý do: “Bao nhiêu tiền cho thằng thứ ba hết, tôi không được gì”, trong khi chính anh ta thừa hưởng mảnh đất trước đó cha mẹ cho.

Sống với người con cả, vợ chồng cụ phải làm như người đi ở. Hàng ngày hai cụ phải lấy bèo nuôi bảy con lợn, cày cấy gặt hái, đi làm sớm về muộn mới được miếng cơm để ăn. Đến mùa vụ, có khi cụ bà đi gặt được mấy gánh lúa thì con dâu mới ra đồng. Cực nhục là vậy nhưng với bản tính hiền lành chịu thương chịu khó, ông bà cắn răng không kêu nửa lời cho vừa lòng vợ chồng con cả. Nhưng cũng chẳng được bao lâu thì anh con cả tuyên bố thẳng thừng: “Ông bà cút khỏi nhà này, đi đâu thì đi”.

Vợ chồng cụ đành lẳng lặng ôm quần áo tìm đến nhờ vả anh con trai thứ ba. Những tưởng trước đây mình đã lo lắng bán nhà đi lấy tiền cho nó xây nhà thì con sẽ tốt với mình, thế nhưng trái lại người con này cũng không kém phần tệ bạc với cha mẹ và tỏ rõ “quan điểm”: “Ông cả không tử tế với ông bà thì tôi việc gì phải tử tế?”.

Ở đây, cảnh khổ không kém gì con cả khi đã không những phải làm lụng vất vả, họ còn năm lần bảy lượt bị con đuổi đi. Nhục nhã nhất là những bữa cơm chan nước mắt. Bữa ăn nào cũng vậy, người con trai bắt bố mẹ phải cung kính mời… vợ chồng con cái mình ăn cơm bằng câu: “Mời ông bà ăn cơm, mời các cháu ăn cơm”. Có những người làng xóm thấy vậy thì bực mình thay và phẫn nộ: “Ông bà hiền quá để nó bắt nạt, mình là bố mẹ đến bữa thì sao phải mời chúng nó”. Thử một lần “phạm thượng”, tối đó hai cụ không mời thì bị con trừng mắt nạt nộ: “À, cái nhà này ăn cơm không ai mời ai à”. Sợ ông “trời con”, ông bà run rẩy “trở về nếp cũ”: “Mời ông bà…”.

Nhẫn nhịn bao lâu những mong yên thân nhưng “cây muốn lặng mà gió chẳng dừng”, đến một hôm gã con trai thứ ba giơ tay đấm vào mặt mẹ, vác dao kề cổ bố xua đuổi: “Bước mẹ chúng mày ra khỏi nhà, không tao cho nhát dao bây giờ” (Lời nguyên văn của cụ Chén - PV). Thấy bố mẹ lủi thủi ôm mớ quần áo rách bước đi, gã còn thẳng thừng tuyên bố: “Còn quay về đây thì đập chết”.

Vẫn còn một niềm hi vọng nữa là người con trai thứ. Biết bố mẹ phải lang thang ngoài đường, anh này đón ông bà lên ở cùng nhưng cũng được vài hôm. Phải sống trong cảnh những lời nói móc máy của cô con dâu ra rả trong nhà suốt cả ngày, ông bà cảm thấy sống còn khổ hơn chết. Nước mắt lưng tròng, không còn nơi nương tựa vợ chồng cụ lang thang đây đó, đến khi không còn chỗ nào nữa đành phải vào ở nhờ nhà chùa. Tám mươi năm cuộc đời vất vả làm lụng, gia tài các cụ có trong tay là bảy đứa con bất hiếu và bất lực, sau miếng ván dùng để đóng áo quan khi chết cùng 3 bao tải đựng lá khô dùng đun nấu. Người làng thấy vậy liền thương tình người cho cái bát, người cho manh chiếu, người cho cái giường cũ để các cụ dựng thành cái “tổ ấm” cuối đời.

Rơi lệ nghe những kỷ niệm buồn

3 người con trai thì vậy, những người con gái cũng không “khá khẩm” gì hơn. “Mấy đứa con gái thì một đứa lấy chồng ở Xuân Mai, một đứa lấy ở trại  Bà Nhà, một đứa ở Cố Đụng (đều là những địa điểm gần nơi ông bà đang ở nhờ - PV), còn đứa út thì lấy chồng ở làng Đồng Lư này thôi”, bà lão nhẩm đếm. 3 đứa con gái của cụ theo lời kể của bà lão tội nghiệp thì kinh tế đều khá giả, chỉ có cô út lấy chồng ở làng thì nghèo “rớt mồng tơi”. Chẳng biết giàu sang cỡ nào nhưng mấy đứa con gái hàng năm không ngó ngàng tới bố mẹ, năm thì mười họa mới mua cho ông bà mấy viên thuốc, Tết nhất may ra cho được túi kẹo cái bánh. Riêng cô con út cùng làng thương cha mẹ già thì thỉnh thoảng ghé qua nhưng nghèo quá, nuôi còn chưa nổi nói gì lo cho cha mẹ già.

Trở lại câu chuyện những người con trai. “Sòng phẳng” mà nói thì lúc ra nhà chùa ở, hai cụ vẫn chưa đến nỗi không còn “miếng đất cắm dùi” vì vẫn còn một sào ruộng để cấy lúa sinh nhai. Thế nhưng tài sản cuối cùng này cũng bị đứa con trai cả tranh cướp. Đã mấy lần cô út đi giúp bố mẹ già làm ruộng thì bị vợ chồng anh cả vác cuốc đuổi đánh, không cho làm hộ vì “đó là ruộng của tao, mày đừng có động vào”,

Chưa hết, mấy năm trước hai cụ đến tuổi thượng thọ nên được hưởng chính sách

 của Nhà nước, theo quy định thì phải có sổ hộ khẩu, chính quyền mới có thể làm giấy tờ chúc mừng, làm chế độ. Vẫn đứng tên trong hộ khẩu gia đình con trai cả, ông bà lủi thủi về van vỉ con cho mượn cái sổ hộ khẩu để làm giấy tờ cũng bị đứa con từ chối thẳng thừng. Khi người cha về van vỉ: “Con cho bố mượn sổ hộ khẩu một lát, bố chỉ mang đi photocopy rồi trả ngay” thì đứa con nại ra lý do “Sổ đang ở nhà trưởng thôn”. Lóc cóc tìm đến nhà trưởng thôn thì được biết rằng con đã lừa mình, ông lão lại lộn trở lại nhịn nhục xin mượn lần nữa thì con trai – con dâu đùn đẩy nhau. Uất ức, người cha gạt nước mắt lủi thủi quay đi và thề “không bao giờ bước chân đến đây nữa”.

Cũng có những lúc ông bà lão 80 này được những đứa con “đối xử tử tế” một cách bất thường. Đó là những lúc chúng cần các cụ làm “con ở”. Thằng con trai thứ ba của họ là một ví dụ, khi vợ sinh nở thì người này tới đón vợ chồng cụ vào. Đã “cảnh giác” sau nhiều lần bị lợi dụng nên cụ ông không đi vì nghĩ “nó chỉ đạo đức giả”, riêng cụ bà thương con thương cháu nên theo vào chăm sóc, giặt giũ, làm lụng “phục vụ” gia đình con. Lời ông cụ đã đúng khi đứa cháu đã cứng cáp, vợ chồng đứa con lại đuổi bà đi: “Bà đi làm lấy mà ăn, không được ở đây nữa”. Gần 10 năm nay thấy ông bà lão chui rúc trong căn lều rách, nhiều người hàng xóm khuyên: “Hai cụ đi ở nhờ đình chùa làm gì cho khổ, về làm một túp lều ở góc vườn nhà thằng con mà ở”. Phong phanh nghe thấy, đứa con ngang ngược nói bóng gió: “Về tao không cho làm, tao “băm” chết”.

Với những “kinh nghiệm xương máu” từ những đứa con, bà cụ thành thật: “Chẳng biết rồi khi chúng tôi chết chúng có để ý đến bố mẹ không, hay lại phải nhờ cậy đến chính quyền, đến dân trong làng”. Những đứa con trai chưa từng một lần đến xem túp lều nơi cha mẹ trú thân, chưa từng một lần ngó ngàng để ý bố mẹ còn sống hay chết. Táng tận lương tâm hơn, chúng còn cấm tiệt các con không được chào hỏi, không được ra chơi với ông bà. Những đứa con dâu “rách giời rơi xuống” thì đã đành, nhưng những đứa cháu có lẽ đã được bố mẹ “huấn luyện” nên có gặp ông bà hay cô út ngoài đường chúng cũng “bơ” đi như người dưng nước lã.

Chúng tôi hỏi tại sao hai cụ không nhờ chính quyền địa phương can thiệp sự việc, ít nhất nếu con cái không nuôi cha mẹ thì cũng phải trả các cụ mảnh ruộng cho các cụ kiếm gạo chứ? Cụ bà nghẹn ngào: “Chính quyền cũng không làm gì được mấy thằng con tôi. Ở đây chúng nó chửi nhau hết với họ hàng rồi đến hàng xóm, sống một mình mà không chơi với ai cả”. Chị út khi đó vừa đến thăm mẹ cũng gục đầu nức nở: “Trước kia khi anh tôi kề dao vào cổ bố dọa chém, chính quyền và dân quân có đến bắt anh ta viết giấy cam đoan không được hành hung bố mẹ nữa nhưng chỉ hôm trước hôm sau lại đâu vào đấy. Tôi thì cũng đau lòng lắm nhưng “lực bất tòng tâm” các anh chị ạ, muốn nuôi bố mẹ mà sức không nổi vì nghèo, lại lấy chồng nên phải lo nhà chồng”.

Sống khổ hơn chết

Góc nhà nơi ông bà lão “trời đày” này trú ngụ rộng khoảng dăm m2, chiếc giường xin được ở đâu nên hai chân còn, hai chân phải lấy gạch kê lên. Người già đã khó ngủ, đêm mùa đông càng khó ngủ hơn khi gió cứ len lỏi qua cửa sổ thốc vào nhà dù hai cụ đã cẩn thận nhét đầy ni long, giẻ rách vào các khe hở. “Nghĩ cực lắm, chúng tôi có làm gì nên tội đâu mà lại bị đày đọa thế này. Nhưng vợ chồng tôi cũng kiên gan lắm đấy, nhiều khi cũng muốn phát điên hay cắn lưỡi mà chết, nhưng bây giờ mà chết thì chính quyền với làng xóm lại khổ nên sống được ngày nào cứ cố sống. Đêm nào cũng nước mắt chảy xuôi, cụ Chén nói.

Đọc đến đây, nhiều người sẽ thắc mắc ông bà lão sinh sống bằng gì. Bà cụ cho biết ngoài việc ông lão ngày ngày đi mò cua bắt ốc, người trong làng còn mỗi người giúp một chút, hôm thì cho lon gạo, hôm thì cho ít muối, mà người già ăn ít, chẳng có nhu cầu mua sắm gì nên ông bà vẫn cầm cự được. “Năm nay là cái Tết thứ tám vợ chồng tôi ở đây rồi, Tết nhất chẳng có gì, cứ nhìn nhà người ta con cái sum vầy thì mình lại khóc. Mình có đến bảy đứa con, hàng chục đứa cháu mà lại khốn khổ khốn nạn nhất cái làng này”, cụ Chén khóc.

Rồi cụ bà ngóng ra ngoài xem cụ ông đã về đi mò cua bắt ốc về chưa, chép miệng thương chồng: “Khổ thân ông ấy, tôi thì ốm đau nên mọi việc đều phải ông ấy làm. Sáng nay tôi bảo trời vẫn rét lắm, đừng đi ra đồng lặn lội nữa mà ông ấy vẫn gạt đi, bảo là Tết đến nơi rồi phải kiếm mớ ốc con tép bán kiếm tiền mua nén nhang cúng tổ tiên. Trời rét thế này tôm tép cũng trốn sạch, có khi mình còn chết rét ấy chứ”. Cụ bà kể lại cụ ông ngày may mắn thì cũng kiếm được vài con ốc bán lấy dăm ngàn, có ngày đi từ sáng đến tối mới về mà tay không vì “tay đưa thìa cháo lên miệng còn run, mắt kèm nhèm thì làm sao bắt được tôm tép. Có ngày bắt được nửa giỏ ốc về nhưng đổ ra tôi mới thấy quá nửa toàn là… vỏ ốc. Những ngày không có gì ăn hay gần hết cái ăn, hai cụ phải nấu cháo húp dằn lòng, hoặc cố đi nhặt nhạnh rau dại ăn trừ bữa. Chùa cũng không có nước, hàng ngày cụ ông lọc cọc kéo xe bò từ giếng làng về để dùng sinh hoạt.

Ấy là mấy hôm trước ông lão vừa đi viện về, vậy mà vừa xuất viện hôm trước hôm sau lại đã lọ mọ ra đồng tìm cái ăn. Nhắc đến chuyện này, bà cụ lại rưng rưng nước mắt nhớ “bạn”. “Bạn” của bà là một con chó gầy giơ xương, tám năm nay lủi thủi quanh quẩn cùng ông bà, lúc ông đi kiếm ăn thì bầu bạn với bà, cho bà vỗ về. Vậy nhưng hôm ông lão ốm, nhà làm gì có đồng nào xu nào nên bà chạy nháo nhác khắp làng hết vay rồi xin cũng chỉ được vài chục ngàn. Bà lão đành gọi lái chó đến bán “bạn” mình đi. Bà vỗ về “bạn” trước khi người lái chó thòng dây vào cổ con chó ốm: “mày thông cảm, hoặc là chồng tao chết, hoặc là mày chết. Thôi “mày” đi thay ông ấy”. Không rõ con chó lẽ cũng hiểu tình cảm của bà lão, hay vì đói quá nên chẳng còn sức ăng ẳng kêu như những con chó khác khi bị bán, chỉ mắt long lanh nước nhìn bà chủ ngoảnh mặt đi.

Trong cuộc đời này không nỗi buồn nào buồn bằng nỗi buồn con bất hiếu – cha mẹ bị hắt hủi. Ai cũng có mẹ có cha nên chạnh lòng trước thảm cảnh của hai cụ, chúng tôi cũng muốn khóc nhưng phải cố dằn lòng vì khóc không  giúp được gì cho hai cuộc đời khổ sở cùng cực này, chỉ mong thông qua mặt báo chuyển tải đến hàng triệu bạn đọc trên cả nước lời khẩn cầu có một sự đóng góp nhỏ giúp đỡ hai cuộc đời này. Lẩn thẩn nghĩ lại thấy hai cụ ngày xưa đã nghèo, nay còn nghèo hơn nữa: 60 năm trước khi lấy nhau các cụ còn có mơ ước về những đứa con là “của để dành” và 20 cây tre làm nhà; nay cuối đời các cụ còn gì ngoài sự thất vọng về đạo lý làm người và 6 miếng gỗ mới chỉ đủ làm một chiếc áo quan, lại động chạm đến nỗi áy náy của bà cụ: “Hai người chết chung thì còn chôn một hòm được, nếu không chết cùng nhau thì chẳng lẽ một người lại… bó chiếu?”…

Bắt cá tôm ở đồng bằng sông Cửu Long. 

Tác giả: Hai Rạch Dừa 

Chận Ụ 

Trưa nắng gắt, nước lớn được nửa sông. Nước Rạch Dừa đổi từ màu đục ngầu phù sa sang màu trong xanh. Tiếng chim bìm bịp kêu trầm trầm: bịp.. bịp.. bịp... Văng vẳng từ bên sông có tiếng mẹ hát ru con: 

Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi, 

Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê... 

Tôi đang thơ thẩn dưới gốc cây ổi tìm trái chín, thì chú tôi lớn tiếng kêu: 

- Thằng cu Tèo đâu, chuẩn bị đi chận ụ. 

Tôi, thằng cu Tèo, lúc đó 4 tuổi, chạy lăng xăng đi chuẩn bị. Tôi hì hục lấy cho chú tôi một cái rổ xúc lớn, cho tôi một cái rổ nhỏ, một cái thùng thiếc đặt sẵn gần bờ ụ. Trong khi đó chú tôi lấy một cái nồi đất đi rang vài nắm cám. 

Cám rang thơm phức, chú tôi đem ra thảy từng nắm xuống cái ụ tròn mà chú đào được mấy tháng nay. Ụ là một cái hồ nhỏ đường kính khoảng 4 mét, sâu 1.5 mét sát bờ sông và ăn thông ra sông Rạch Dừa bằng một cửa rộng 1.5 mét. Cửa ụ làm bằng tre đan có thể hạ xuống bất thình lình, chận không cho cá chạy ra sông. 

Ngày ngày chú tôi rải cám xuống ụ nhử cá ngòai sông vào ăn cho quen. Mỗi tuần một lần, khi thấy cá ăn nhiều, chú tôi chận ụ. Tức là khi thấy cá đã vào nhiều chú hạ cửa ụ xuống, dùng một rổ xúc lớn lội vòng vòng trong ụ. Cái rổ to tướng đặt trước ngực xúc cá. Chú vừa đi vừa xúc một hồi làm nước trong ụ đục lên và quay vòng vòng theo bước đi của chú. Những con cá lòng tong, cá he, cá mại bị nước đục ngộp thở nổi đầu lên bị chú dùng rổ xúc chuyền cho tôi đổ vào thùng. Phần tôi cũng cầm cái rổ nhỏ trong tay vừa chạy tới lui vừa la hét: 

- Xúc con nầy đi chú. 

- Xúc con kia đi chú. 

Có một lần tôi với tay hớt một con cá he, trật chân cắm đầu xuống tận đáy. Chú tôi đang xúc cá nghe tiếng động nhìn lại không thấy tôi chỉ thấy hai bàn chân nhỏ ngo ngoe trên mặt nước, vội vã kéo tôi lên. Tôi khóc thút thít vì bị uống nước no bụng. 

Tôi lớn lên trong một làng nhỏ gần Đồng Tháp Mười, ven bờ sông Cửu Long. Làng Mỹ Long không giàu nhưng lúa gạo, cá tôm đủ nuôi dân làng no ấm. Câu nói “ăn cơm với cá” là một câu nói quen thuộc hàng ngày của chúng tôi vì lâu lắm chúng tôi mới được ăn cơm với thịt một lần. Lúc nhỏ, gia đình tôi sống với bà nội và cô chú tôi. Trong thời gian nầy tôi hay đi bắt cá với chú tôi. Khi tôi lớn lên gia đình ba má tôi ra riêng, tôi đi bắt cá với ba tôi hay các em tôi. Xúc Cá Trên Đồng 

Chỉ vài tháng sau lần tôi té xuống ụ là mùa nước nổi. Nước ngập ruộng, nước mênh mông nhìn ra ruộng như một cái biển. Cơm nước xong chú gọi tôi: 

- Thằng Tèo đâu, đi gom cỏ với tao. 

Tôi chẳng biết ất giáp gì, cũng chạy đi lấy nón đội. Chú tôi bỏ tôi lên chiếc xuồng, chèo xuyên qua những con rạch và nhiều thửa ruộng đến miếng đất trong sâu, xa nhà. Vấn một điếu thuốc phì phèo xong, chú lấy cái bàn cào Trư Bát Giới gom nhiều đống cỏ lớn nổi lều bều trên ruộng nước. 

Mỗi lần chú vung bàn cào lên, cả đám cào cào, châu chấu đậu trên cỏ hoảng hốt nhảy toán loạn, nhiều con hụt chân rớt xuống nước búng tanh tách. Một con cá lóc nhỏ lao tới đớp mồi, mấy con cá rô rượt theo một con dế chạy loăng quăng trên mặt nước. Chú tôi cười: 

- Chà, coi bộ năm nay có cá nghe cu Tèo. 

Lòng tôi rộn ràng như hội giữa vùng trời nước mênh mông. Vài cuộn mây trắng trôi trên nền trời trong xanh. Những con chuồn chuồn bay lượn xung quanh, có con cả gan bay đậu trên nón của chú tôi. Coi chuồn chuồn chán, tôi hồi hộp theo dõi mấy con cò trắng không biết từ đâu bay đến đang đậu trên một đống cỏ của chú tôi. Con thì đứng rỉa lông, con thì co một chân lim dim ngủ, con khác thì đang lom khom mổ cá. 

Chú tôi giải thích những đám cỏ nầy sẽ làm chỗ trú ngụ cho các loại côn trùng như cào cào, châu chấu, cóc nhái...,những con cua sẽ chui vào đó đẻ con. Rồi thì những con lươn, con cá và rắn sẽ vào đó ăn côn trùng, nhưng nhiều nhất là lươn. 

Đợi ba bốn ngày sau, chú cháu tôi chèo xuồng trở lại. Chú nhẹ nhàng lội xuống dùng rổ xúc dưới đám cỏ. Sau khi bỏ hết cỏ ra, chú tôi trút rổ vào xuồng. Tôi thì vui mừng la ơi ới: 

- Có lươn, có lươn chú ơi! Có rắn nữa chú ơi! Ái, hu hu, ái, ái.... cua. 

Tôi bị một con cua kẹp ngón chân. Chú tôi nhẹ nhàng bẻ càng và gỡ con cua ra dùm tôi. Lòng xuồng lổn ngổn những con lươn vàng nghế, những con cá chạch, vài ba con rắn và hàng đống cua đồng. Chú tôi cẩn thận tóm cổ các con rắn râu, rắn trung liệng đi, các con rắn ri cá, ri voi, rắn nước thì bỏ vào một cái giỏ tre riêng. Mỗi lần xúc xong một đám cỏ, chú tôi trèo lên xuồng, bứt từ chân chú ra một hai con đỉa ném ra xa. 

Vài giờ sau, chú cháu tôi mang về nhà một thùng lươn, cá và một mớ rắn ăn cả tuần mới hết. Cá chạch cặp gắp nướng ăn vừa dai vừa thơm ngon. Lươn thì làm món lươn um với nước cốt dừa, lá cách, thôi thì ngon hết chỗ nói. Rắn nước, rắn ri cá, ri voi bằm ra nấu cháo đậu xanh ăn vô mát cả ruột gan. Cua đồng nhiều vô số, chúng tôi đập ra cho vịt và heo ăn cho mau lớn. 

Khu vực châu thổ sông Cửu Long với sông ngòi chằng chịt, với đồng ruộng rộng lớn là một môi trường sinh thái tốt cho nhiều loài tôm cá. Hàng năm sau mùa mưa lũ vào tháng 6, tháng 7, tháng 8, tháng 9, một lượng nước mưa lớn từ thượng nguồn tận bên Miến Điện, bên Lào, bên Miên đổ ra sông Cửu Long chảy ra biển Đông. Trên đường ra đại dương, khối nước khổng lồ đó làm ngập lụt đồng bằng sông Cửu Long trong 2 tháng là tháng 9 và tháng 10. 

Vào mùa nước lụt, số lượng cá tôm lớn tràn lên đồng kiếm ăn và sanh sản mạnh. Nguồn thực phẩm trời cho dồi dào trong tháng nầy là hàng bao nhiêu tấn trùng, dế, cào cào, châu chấu, sâu bọ và lúa trên những cánh đồng ngập nước. Cá tôm ăn nhiều, lớn mạnh, để những tháng nước rút sau đó chúng đổ xuống sông rạch hay tụ tập vào những mương đìa, cung cấp thực phẩm cho con người. Bắt cá được nhiều nhất là vào những tháng nước nổi và những tháng nước rút trong dịp Tết. Xúc Cá Chạch 

Năm tôi mười tuổi, tôi biết chập chững chèo xuồng. Xuồng chèo miền Tây dùng hai cây chèo dài. Người chèo đứng thẳng bước lui ra sau lấy thế xong bước tới và đẩy mạnh hai mái chèo, động tác nhịp nhàng, dẻo dai, đẹp mắt. Nhìn thấy dễ dàng nhưng mới tập chèo thì khó lắm, dùng sức nhiều mà thuyền không chịu đi, hay đi không thẳng. Một hôm, ba tôi sai tôi chèo về thăm bà nội và chú tôi. Tôi thích lắm, ra sức chèo, mồ hôi ra ướt cả áo. 

Chèo được vài cây số, rẽ vào vàm sông Rạch Dừa nước đã cạn, tôi thấy lác đác có người mò cá. Chỉ còn ba trăm thước nữa là đến nhà nội tôi, tôi thật là hồi hộp, vui mừng. Lòng sông cạn nước nhỏ lại, hai bên bờ là hai bãi sình. Tôi tập trung tinh thần, bặm môi chèo mà chiếc xuồng nhỏ vẫn lủi hết bên nầy qua bên kia. Khi chèo ngang qua một ông đang đội nón lá xùm xụp mò cá bên bờ, ông quay lại cười: 

- Thằng cu Tèo, mầy mới lên hả. Xuống bắt cá chạch với tao, mau ! Ôi, đó là chú tôi. Lâu quá chú cháu không có dịp bắt cá với nhau. Tôi vui mừng cặm một cây dầm xuống sình, cột xuồng vào, cởi áo phóng ngay xuống sông. Thì ra đang mùa cá chạch, chú tôi dùng rổ xúc, múc từng mảng sình lớn, rồi dùng tay xắn sình bỏ ra từ từ. Cuối cùng lộ ra những con cá chạch đang giẫy lăng xăng, đành đạch trong rổ tìm đường tẩu thóat. 

Cá chạch là loại cá ngon sống ở đáy sông. Cá có mình dẹp, vảy nhỏ, thân có hình dáng như một lá tre dài, lớn hơn hai ngón tay, dài độ 25cm. Khi nước cạn, chúng chui vào sình chỉ ló một cái mỏ nhỏ như cây tăm lên để thở. Cũng như lươn, cá chạch trơn trợt nên chỉ hớt bằng rổ, rất khó bắt bằng tay. Hôm đó chú cháu tôi bắt được gần 50 con cá chạch đem về cho nội tôi. 

Bữa cơm chiều, chúng tôi ăn cơm với cá chạch kho nghệ và cá chạch nướng. Thịt cá chạch dai, ngọt mà thơm. Người không quen ăn cá chạch thì rất sợ làm cá vì họ nghĩ là phải cạo vẩy, phải mài xuống xi măng cho ra vảy, thật khó khăn. Chính ra là dễ hơn nhiều: Cá nướng thì không cần làm gì cả, chỉ rửa sạch rồi cặp gắp nướng trên than hồng. Cái gắp cá thì chặt một nhánh tre hay một cọng tàu dừa là xong. Câu cá 

Trưa, nước lớn, em gái tôi rủ tôi: 

- Đi câu đi anh hai. 

Ngoài vườn nhà tôi lúc nào cũng có sẵn vài bụi trúc. Gió đưa cành trúc la đà… Tôi chặt một cây trúc thẳng thớm, cột nhợ gân và lưỡi câu nhỏ để anh em tôi câu cá lòng tong và cá rô. Cá lòng tong dưới sông hay dưới mương vườn nhiều lắm và rất dễ câu. Mồi gì chúng cũng ăn, từ một hột cơm, một miếng tép, một chút mồi trùng hay một con cào cào. Cơm thì lấy trong nồi. Tép thì xúc trong rễ lục bình. Lấy một cái rổ nhuyễn, xúc đại từ dưới dề lục bình trong mương vườn thế nào cũng được vài con tép nhỏ. Trùng thì đào gần lu nước chỗ đất ướt. Cào cào thì đi bắt trong những bụi rau mác, bụi cỏ lác gần nhà. Cá lòng tong rất háu ăn, nếu bỏ mồi ngay bầy thì chúng tranh nhau ăn giựt không kịp, có khi chỉ liệng cái lưỡi không mồi xuống, chúng cũng tranh nhau ăn và dính câu. Còn cá rô hay cá he thì ăn chậm hơn, phải bỏ mồi tép hoặc mồi trùng hơi sâu. Khi bắt đầu ngậm mồi, cá rô nhả một bọt nhỏ, phải để yên đợi khi nó kéo nặng tay mới giựt một cái. Có một lần, trong mương vườn chỗ gốc bưởi, anh em tôi câu dính một con cá rô nghệ lớn hơn ba ngón tay ngừời lớn. Tôi còn nhỏ, con cá kéo cong cần câu, phải lôi kéo một lúc tôi mới đem được cá vào bờ. Anh em tôi mừng quýnh, trống ngực đánh thình thình . Hình ảnh con cá rô lớn đó trong đời tôi vẫn còn nhớ mãi. 

Tôi có một anh bạn hiền học chung lớp nhì trường làng. Nhà nghèo, đi học về anh Nam phải đi câu cá, nấu cơm cho cả gia đình ăn. Phần anh sáng đi học xách theo một gà mên cơm với mấy con cá nướng có chan vài muỗng nước mắm. Hồi đó học trò tiểu học ngày học hai buổi sáng chiều. Học sinh ở xa thường xách cơm theo, ở lại trường ăn trưa, tới chiều mới về nhà . Một buổi sáng nọ chúng tôi tới trường, được thầy cho nghỉ học vì sắp có mưa bão lớn. Tôi và anh Nam ra về, lúc đó mới khoảng 9 giờ sáng. Anh rủ tôi thanh toán gà-mên cơm của anh. Chúng tôi tìm một bệ đá bên đường chia nhau phần cơm. Chỉ là cơm nguội với mấy con cá rô biển, mà anh câu được hôm qua, muối nướng thật mặn, chấm nước mắm ớt. 

Cá rô biển hình tròn dẹp, con lớn nhất bằng bàn tay, thường mình bắt được cỡ 3-4 ngón tay . Cá sống theo các nhánh chà dưới sông, thịt ăn ngọt như cá rô đồng. Chỉ là bữa cơm của học sinh nghèo đạm bạc, nhưng không hiểu sao, bữa cơm đó ăn giữa đất trời, tôi thấy quá ngon, ngọt bùi tình cảm. Sau nầy tôi được thưởng thức nhiều bữa tiệc tùng, nhưng bữa cơm đạm bạc với anh Nam vẫn còn ghi đậm trong lòng tôi. Dù xa nhau đã trên 40 năm, tôi vẫn luôn ấp ủ tình bạn của anh Nam trong lòng. 

Câu Vụt 

Một hôm nước sông lớn đầy, trong xanh. Gió thổi bông bần rơi bồng bềnh trên mặt nước, làm bầy cá lòng tong thấy động nổi lên đớp mồi. Mẹ tôi biểu tôi: 

- Cu Tèo, đi hái cho mẹ mấy cái bông mù u để mẹ làm mồi câu vụt. 

Mẹ tôi lấy một cây kim may cũ, hơ trên đèn cho đỏ rồi bẻ thành một lưỡi câu nhỏ không có ngạnh. Mẹ tóm nhợ bằng chỉ may, móc một miếng nhụy bông mù u nhỏ hình tròn, nhỏ hơn hột tiêu. Đợi khi nước lớn cá lòng tong vào gần bờ ăn, mẹ thảy từng nhúm cám nhỏ cho cá bu lại. Mẹ tôi ngồi gần bờ, ném lưỡi câu xuống rồi vụt lên liên tục cho dù cá có ăn hay không. Người câu vụt ném mồi và vụt lên đều đặn, điệu bộ khoan thai nhịp nhàng. Cá lòng tong, cá mại rất háu ăn và tranh ăn . Khi thấy một cái lá, con sâu rơi xuống nước, không cần biết đó là món gì, chúng tranh nhau bu táp, rỉa lia lịa . Khi mẹ tôi ném một miếng mồi trắng rớt xuống là chúng lao tới đớp không cần biết đó là mồi gì. 

Vì lưỡi câu không có ngạnh, khi cá bị dính và vụt lên, cá liền văng ra phía sau. Mẹ tôi cứ tiếp tục vụt, những con cá bạc lấp lánh cứ tiếp tục bay lên và anh em tôi chạy lăng xăng, rối rít bắt cá bỏ vào thau nước. Tuổi thơ chúng tôi rộn ràng trong những ngày vui như hội. Trưa hôm đó mẹ tôi làm món cá lòng tong xào dấm. Mẹ tôi sai tôi ra vườn bẻ mớ rau, chính yếu là rau cải trời, rau ngò gai, rau húng. Những thứ nầy mọc sau vườn lẫn trong cỏ và nhiều như cỏ. Cắt thêm vài cọng hẹ là xong. Câu cá trong nhà 

Tôi lội ra đám cỏ, bắt mấy con cào cào, xong xách cần câu trở lại cái chõng nơi các em tôi ngồi chờ. Em gái tôi đứng bắt mấy con nhện trên vách lá. Từng tốp cá lòng tong bơi lượn loang loáng dưới chân giường. Lấp ló bên vách nhà, mấy con cá rô đang lượn lờ, thỉnh thoảng vọt lên mặt nước đớp mồi rồi lặn nhanh mất dạng. Tôi móc mồi bỏ xuống và giật lên một con lòng tong. Thằng em tôi lấy cái nồi ở đầu giường, múc nửa nồi nước cho tôi bỏ cá vào. Chúng tôi thay phiên câu cá. Người rình nhử cá, cá rình xem người làm rớt đồ ăn xuống nước là xúm lại đớp mồi. 

Bốn anh em chúng tôi đang ngồi trên chõng tức là cái giường ngủ của người dân quê, ngay trong nhà của chúng tôi. Mùa nước nổi Đồng Tháp, nước ngập cả ruộng cả vườn, cả xóm cả làng. Bốn bề nước nổi mênh mông, chợ nhóm trên những chiếc xuồng, trường học đóng cửa. Anh em tôi phải ngồi trên giường. Nước ngập trắng xóa khắp làng, che cả ruộng vườn, ngập mất con đường làng. Mọi sự di chuyển đều phải dùng ghe xuồng. Xuồng bơi vào nhà tới tận giường ngủ. Trong căn nhà lá của cha mẹ tui, mỗi năm vào mùa nước nổi, nước lên tới lưng quần. Giường ngủ của chúng tôi là những cái chõng đóng thật cao, có vách ngăn cả 3 phía. Tối đến bọn con nít chúng tôi ngủ phía trong, người lớn ngủ phía ngoài đề phòng bọn trẻ té xuống nước trong lúc ngủ say. Mua cá mè vinh 

Tết nhứt xong, nồi thịt kho đã hết từ lâu. Cha con tôi bận cắt lúa, đập lúa. Phần tôi đập lúa với ba tôi. Em tôi đi đội lúa xuống xuồng chở vào nhà cho mẹ tôi phơi. Gió thổi nồng nồng, thơm mùi lúa chín. Tiếng chim cu gáy cu cu... trên mấy cây xoài cao. Nhà tôi đã hết thức ăn, nhưng không ai rảnh đi bắt cá. Mẹ tôi biểu tôi: 

- Con lên bác Ba mua 2 đồng cá mè vinh, đi lẹ về tiếp ba mầy nghe. 

Tôi dạ, rồi lội lên xóm trên nói với bác Ba: 

- Bác ba ơi, bán cho má con 2 đồng cá mè vinh. 

Bác ba lưỡng lự: 

- Tao bận phơi lúa, không bán được... Mày ra sông câu đi. Đưa tiền đây. 

Mặt bác đỏ gay, giọng nói lè nhè, nồng mùi rượu. Bác trao cho tôi một cần câu dài và dặn dò: 

- Câu 5 con thôi nghe, câu xong đem vô tao coi, mồi lúa treo ngoài đầu cầu đi ra đống chà đó... 

Tôi xách cần câu đi ra bờ sông. Dưới bến của bác Ba lối xóm là một đống chà cá he to tướng. Bác lấy hàng trăm nhánh cây khô chất lại thành đống chà, ngày ngày bác Ba thẩy lúa nhử cá ăn. Bác lại cắt dây “cứt quạ“ sau vườn cột thành chùm bỏ xuống làm mồi cho cá. Nước sông chảy xiết, cá tôm đủ loại tìm thấy những đống chà là chỗ trú ngụ an toàn lại có thức ăn, nên tụ tập lại đây. 

Tuy gọi là “chà cá he”, nhưng thật ra trong đống chà đó có đủ loại cá tôm, mà cá he, cá mè vinh là nhiều nhất. Bác ba bắc một cây cầu từ trong bờ ra giữa đống chà có tay vịn hẳn hòi. Ai đến mua cá bác sẽ ra câu lên bán. Bác không cho phép ai đến gần đống chà vì làm cá sợ chạy đi. Hôm nay bận phơi lúa, bác cho phép tôi câu. Tôi thích lắm, rải một nhúm lúa xuống nước, vài con cá mè vinh bạc lội loang loáng. Tôi cẩn thận móc một hột lúa vào cái lưỡi câu thả xuống, hồi hộp đợi chờ...âu cắm 

Câu cá còn có 2 loại nữa là câu cắm và câu giăng. Câu cắm dùng những nhánh tre cứng tóm lưỡi lớn, móc mồi sống như cá lòng tong, cá linh, nhái, cóc con, dế... Móc mồi cho khéo sao cho con mồi còn bơi lội trên mặt nước. Cần câu được cắm dọc theo bờ ruộng, bờ mương vườn. Cá lóc, cá trê lớn thấy mồi động đậy sẽ lên táp. Có khi dính nhiều, cá lóc nướng trui ăn không hết. Cá lóc nướng trui là cả một nghệ thuật mà chỉ có dân ở vườn mới biết. Con cá tươi mới đập chết, để nguyên con, xỏ một nhánh tre vào miệng cắm chặt xuống đất. Phủ rơm khô lên rồi đốt đến khi vảy cá cháy đen đều thì cá chín. Đốt nhanh quá cá còn sống trong ruột, ăn tanh. Đốt quá độ, thịt cá sẽ khô không còn ngon ngọt nữa. 

Một cách nướng trui khác là nướng với củi. Cá lóc sống, đập đầu, không đánh vảy, lụi một nhánh tre vào bụng, chừa tay cầm. Ðem cá nướng trên lửa. Nướng lửa ngọn cháy mạnh. Ðến khi vảy cháy đen đều hết là xong. Cá lóc nướng trui cuốn bánh tráng với rau thơm, khế chua xắt mỏng, chấm mắm nêm ăn vào, cả một trời quê hương sẽ chui vào trong ruột bạn. Còn cá lóc nấu canh chua me với rau muống, rau ngổ, ngò gai, ngò om, chấm nước mắm ớt là cả một đời sống giản dị, chân chất hương quê sẽ thơm ngát trong lòng. Câu tép 

Anh em tôi còn một thú vui nữa là câu tép. Ðầu mùa nước nổi khi nước bắt đầu ngập sát mé bờ sông, anh em tôi chuẩn bị đi câu tép. Cần câu chỉ là một cọng lá dừa chuốt nhỏ, lớn bằng cọng chân nhang, dài chừng 4 tấc. Ðầu nhỏ của cọng lá dừa quấn lại thành một vòng tròn bằng chiếc nhẫn đeo tay. Cột vào đầu “cần câu” là một sợi chỉ dài chừng 3 tấc. Không có lưỡi câu, nhưng thay vào đó là một vòng tròn dây kẽm nhỏ, luồn dọc thân một con trùng làm mồi . Chúng tôi tự chế tạo 5-6 cái cần câu … nội hoá như vậy và bắt đầu đi câu . 

Cần câu được cắm dọc theo bờ sông, cách nhau chừng vài thước. mỗi khi cắm một cần câu, chúng tôi búng xuống mặt nước kêu “chụt, chụt” vài cái . Phải búng đúng cách, chỉ tạo tiếng kêu mà không làm nước văng tung tóe. Búng nghe “chụt” chúng tôi gọi là búng tôm, còn búng làm nước văng tung tóe chúng tôi gọi là búng cá, chỉ thu hút được mấy con cá mà thôi. 

Con tép nghe tiếng búng sẽ tìm đến ăn mồi. Khi đeo được vào vòng mồi trùng, con tép rất say mồi. Nó đeo dính vào cục mồi và lội vòng vòng. Nó chỉ buông mồi khi mình kéo nó lên mặt nước. Ðầu cần câu nhỏ bé sẽ gục xuống hẳn, và cọng chỉ nhợ câu sẽ quay vòng vòng vẽ trên mặt nước một cái vòng tròn đường kính độ một tấc . Mặt nước sông rộng mênh mông, lên tới mé bờ, loang loáng sáng. Gió thổi bông mận, bông bần rơi lả tả . 

Ði tới đi lui thăm câu, thấy một cần gục xuống, cọng nhợ chỉ quay vòng, anh em chúng tôi mừng quá đỗi mà không dám la lớn, sợ tép bỏ mồi . Chúng tôi sẽ dùng tay trái nhẹ nhàng nâng cần câu lên cho con tép lên gần tới mặt nước. Tay phải chúng tôi cầm một cái rổ nhỏ, nhẹ nhàng xúc từ phía ngoài sông vào bờ. Khi con tép được nâng lên tới mặt nước nó sẽ buông mồi, búng mạnh một cái thoát thân ra phía ngoài sông và sẽ lọt vào trong rổ . Dỡ rổ lên, một con tép đang búng chành chạnh liên hồi và những trái tim nho nhỏ của anh em chúng tôi cũng đập thình thịch, thiệt là hào hứng ! 

Có khi cá cũng lại ăn mồi trùng của chúng tôi. Nhưng nhìn cách ăn câu chúng tôi biết được đó là con cá hay con tép. Con cá ăn câu thì cần câu sẽ giựt xuống rồi bật lên. Con tép ăn câu thì cần câu gục xuống rồi giữ ở đó, còn cọng chỉ nhợ câu quây vòng vòng vẽ theo một cái hình nón. Khi mình lại dùng rổ hớt, con cá thường chạy đi, con tép thì vẫn đeo mồi. Câu tép như vậy không nhiều, bữa nào trúng mùa lắm cũng chỉ được 10-20 con tép, mỗi con to bằng ngón tay. 

Nhưng chúng tôi sẽ xách rổ ra vườn hái thêm một rổ rau, nào là rau má, rau ngót, rau muống, rau lang, rau cải trời, rau dịu… Thôi thì hầm bà lằng, gặp rau gì ăn được là hái đem về cho mẹ tôi nấu một nồi canh tép, cả nhà cùng ăn. Hí ha, hí hố thiệt là vui vẻ. Câu Tôm 

Nếu câu tép dành cho bọn trẻ con chúng tôi vui vẻ, thì câu tôm là công việc nghiêm chỉnh của người lớn, kiếm tiền nuôi sống gia đình. Cậu Ba lối xóm tôi là hay đi câu nhất trong xóm. Ban ngày cậu làm ruộng làm vườn như bao người khác. Chiều chiều, sau khi cơm nước xong, cậu sửa soạn đồ nghề đi câu. Trước hết cậu đào thêm vài con trùng hổ, kiểm lại cây vợt, cây cần câu, coi lại chiếc xuồng, chỉnh lại cái bánh lái, cây dầm, cây sào, cái rộng tôm. Lúc nào cậu cũng có một hũ trùng để sẵn, trong đó có nhiều con trùng lớn mà dân quê gọi là trùng hổ. Trùng hổ lớn bằng ngón tay, thân mình đen bóng, khác xa các loại trùng cơm và trùng đất mà anh em chúng tôi hay làm mồi câu. 

Cần câu tôm của người lớn cũng không có lưỡi câu, thay vào đó là một vòng dây kẽm đường kính khoảng 1 tấc, luồn vào thân vài con trùng hổ cho thật đầy. Câu tôm cần một cái vợt lưới mỏng manh, đường kính khoảng 1 mét, cán dài một mét rưỡi. Người đi câu bơi một mình trên chiếc xuồng nhỏ, nhưng họ không ngồi phía sau bơi lái như hầu hết những người bơi xuồng miền Tây khác, mà họ ngồi phía trước móc cho xuồng đi tới . Vì thế họ cần một cái bánh lái nhỏ phía sau cho xuồng không lủi . Kè kè bên hông xuồng là một cái rộng tôm hình trụ dài khoảng 1,2 mét, có nắp mở phía trên. Một cây sào tầm vông dài hơn 5 mét để dọc theo chiều dài chiếc xuồng. 

Cậu Ba mang đồ nghề xuống xuồng, đem theo cái nóp ngủ đêm, chỉnh lại bánh lái, móc tà tà dọc theo bờ sông. Ðến đầu đống chà nhà tôi, cậu Ba dùng cây sào tầm vông cắm xuồng lại. Cậu ngồi xếp bằng trên xuồng, mang cây vợt để sát vào mình bên tay phải, đáy vợt nằm dưới mặt nước, cầm cần câu bên tay trái, chỉnh lại vị thế chiếc xuồng sao cho cậu có thể xử dụng cây vợt thoải mái không vướng chà, vướng cỏ, vướng lục bình… 

Sửa soạn xong, cậu Ba nhẹ nhàng thả vòng mồi trùng cho gần đụng đất. Cậu dùng ngọn cần câu quất “chủm chủm” trên mặt nước vài cái gọi tôm lại. Ngồi một lúc, cái cần câu động đậy, cục mồi bị kéo xuống và bắt đầu quay vòng vòng. Cậu Ba nhẹ nhàng, chậm rãi dỡ cái cần câu lên. Tay phải cậu nghiêng cây vợt hạ xuống và vớt từ dưới con tôm lên. Hai tay cậu một dỡ lên, một hạ xuống, nhẹ nhàng ăn khớp nhau. Con tôm gặp mồi trùng, nó đeo dính. Khi lên gần tới mặt nước, con tôm bỏ mồi, búng mạnh thoát thân và lọt vào cái vợt. Cậu Ba dỡ cái cần câu cao cho khỏi cây vợt, bỏ xuống nước lại, nhịp “chủm chủm” vài cái cho con tôm mới. Xong cậu mới từ từ kéo vợt lên coi. Một con tôm càng đang búng chành chạch. Chà, ngon quá ! Cậu Ba khéo léo tóm con tôm, nghiêng mình bỏ vào cái rộng đan bằng trúc phía sau. Sửa lại vị trí cái vợt, chỉnh lại thế ngồi, cậu Ba kiên nhẫn chờ đợi… Bắt được vài con tôm, cậu biết rằng lượng tôm đã thưa, cậu Ba nhổ sào bơi đi nơi khác. Cậu vừa móc xuồng, vừa ca nghêu ngao vài câu vọng cổ. Tối tối, nước lớn, sáng trăng, đoạn sông nhà tôi tấp nập những chiếc xuồng câu tôm. Tiếng hát tiếng hò vang dậy cả xóm. Lúc đó chưa có karaoke, thanh niên hay ca lúc họ đi câu tôm. Công việc nhẹ nhàng, tâm hồn thanh thản, trăng nước hữu tình, nên anh nào cũng trổ tài ca hát cho vui. Nào là vọng cổ, nào là tân nhạc, nào là tân cổ giao duyên… 

Câu được một đỗi nước cạn, tôm ít ăn, cậu Ba chun vào cái nóp ngủ một giấc, chờ con nước sáng câu thêm một chập nữa . Nóp là một cái túi ngủ đan bằng cọng bàng, giống như một cái đệm bàng mà người quê dùng phơi lúa, gấp lại làm 2, khâu ba mặt chừa một mặt cho người ta chui vào. Tôi có ngủ thử một lần, thấy khó chịu chớ không thoải mái như cái sleeping bag của Mỹ. Nhưng vì dưới quê không có phương tiện gì khác nên người dân quê đành phải chịu. âu Rê 

Thằng Cu đâu, tối nay bắt cho tao mấy con thằn lằn nghe. 

Nghe tiếng cậu Ba gọi, tôi dạ lớn rồi đi kiếm cái hộp, chộp vài con thằn lằn đang đeo trên tường cạnh cái bóng đèn. Bỏ thằn lằn vào hộp, cẩn thận dùi vài cái lỗ cho nó thở để dành cho ngày maì. Tôi bắt thêm vài con kiến cánh, vài con dế con chung quanh đó bỏ vào hộp cho thằn lằn ăn kẻo nó chết. Vào năm 1961, khi giặc giã bắt đầu nổi dậy bắn phá ở nông thôn, trường Tiểu học làng tôi đóng cửa. Ba má tôi gởi tôi ra nhà bà dì để đi học. Nhà bà ở một cái chợ nhỏ gần lộ xe. Ông bà tôi sống với mấy cậu và mấy dì. 

Hai ngày nay, cậu Ba bỏ thì giờ o bế một cái cần câu thật lớn. Cậu vô xóm trong lựa mua một cây tầm vông cở trung bình, dài và suông. Cậu róc bỏ nhánh làm thành một cái cần câu dài chừng 6 mét. Cột thêm một nhợ dài khoảng 6-7 mét nửa. Tóm một cái lưởi câu to tướng ở đầu nhợ, có chừa ra một chút giây gân chừng 2 phân, rồi ra lịnh cho tôi bắt sẳn vài con thằn lằn để ngày mai cậu cháu đi câu rê, câu cá lóc. 

Hôm sau, khi tôi đi học về, cậu Ba kêu tôi và cậu Út cùng nhau đi câu rê. Tôi xách hộp mồi và một cái giỏ tre lon ton đi theo 2 cậu. Hai ông cậu tôi có tập tạ, tướng người chắc nịch, khỏe mạnh, bắp thịt cuồn cuộn. Ði sau hai ông cậu lực lưởng là tôi, một thằng nhóc 7 tuổi ốm tong teo như một con thằn lằn. (Nếu mà cậu móc tôi vào lưỡi câu làm mồi thì chắc cũng nhấp được vài con cá lóc!). 

Chúng tôi đi ra một cái ruộng lúa dọc theo lộ xe cách nhà chừng 800 mét. Ðang mùa nước nổi, lúa đã cấy xong được hơn một tháng, bắt đầu xanh ngọn. Gió thổi mát rượi, mặt nước lăn tăn, sóng lúa mấp mô. Nước ngập tới đầu gối, cào cào châu chấu nhảy tí tách. 

Chọn một khoảng ruộng sạch sẽ, trống trãi, gần một cái mương đầy lục bình, rau mác, cậu Ba ngừng lại, hạ cái cần câu dài quá cở trên vai xuống. Tôi bắt đưa cho cậu một con thằn lằn. Cái lưỡi câu to đến 4 phân. Con thằn lằn lớn như vậy mà cậu móc trọn cả con mồi. Móc mồi xong, cậu Ba tôi cắt một cộng cỏ ống bên đường, dài chừng 4 phân. Cậu luồn cọng cỏ vào đầu nhọn lưỡi câu, đầu kia luồn vào cọng dây gân mà cậu còn chừa lại lúc tóm lưỡi câu. 

Cậu cháu tôi đứng cạnh bờ lộ. Ra dấu cho cậu Út và tôi im lặng, đừng gây tiếng động, câu Ba đứng lấy thế, dùng cần câu quất mạnh nghe một cái “véo”. Con thằn lằn và cái lưỡi câu bay ra thật xa, có trên 10 mét. Rồi cậu rung rung đầu cần câu, kéo con mồi vào. Con thằn lằn đã chết, nhưng bị kéo lưng tưng nhấp nhô trong ruộng lúa, như một con mồi sống đang nhảy nhót. Cọng cỏ che cái móc câu nhọn, nên khi cậu Ba quăng mồi ra và kéo vào, lưỡi câu nhọn không móc vướng vào lúa, vào cỏ. Có lẽ vì phải rê cục mồi tới lui như vậy nên người ta gọi là câu rê. Cậu Ba quăng ra kéo vào ba lần thì một chuyện lạ xảy ra làm tôi phải há hốc mồm. Một con cá lóc thật lớn không biết từ đâu lao tới, phóng như bay, như đằng vân giá vũ trên mặt nước rượt theo con thằn lằn. Nó đớp con mồi nghe một tiếng “phập” thật lớn. Cậu Ba tôi ngừng lại vài giây rồi giựt một cái thiệt là mạnh. Con cá lóc dính câu, từ dưới ruộng bay lên ngang qua đầu chúng tôi rồi rớt phía bên kia đường trong đám cỏ cách chổ chúng tôi đứng gần 10 mét. Tôi vội qua đường vạch cỏ bắt con cá bỏ vào giỏ. Con cá bự thiệt, có đến nửa kí lô. 

Chúng tôi lên tinh thần, riêng tôi khoái chí không thể tả. Cậu Ba cẩn thận móc con mồi khác rồi đi qua đám ruộng kế bên câu tiếp. Một lát sau, cậu giựt thêm một con cá lóc nữa, rồi chúng tôi ra về. Tôi khệ nệ đeo cái giỏ... chiến lợi phẩm, với gần 1 kí cá lóc. Sau nầy tìm hiểu thêm, tôi biết rằng con cá lóc thường im lặng lượn lờ trong nước, nghe ngóng tìm mồi. Khi nghe tiếng động của một con dế, con cóc, con nhái hay một con cá khác nó lặng lẽ lội về phía con mồi và quan sát. Khi cách con mồi chừng một mét, nó lao tới như một tia chớp đớp mồi. Khi cậu tôi rê con thằn lằn trên mặt nước, nó mở hết tốc lực rượt theo táp con mồi. Cậu cháu tôi được xem một màn rượt đuổi ngoạn mục. 

Tối hôm đó cả nhà được thưởng thức một bửa canh chua cá lóc và cá lóc kho tiêu. Vừa ăn, chúng tôi vừa thi nhau trò chuyện râm ran về thành tích “vĩ đại” ban chiều. Ðặt trúm 

Cơm chiều xong, chú Năm vác 4 cái ống tre lớn trên vai đi ra ruộng, tay cầm theo 1 cái thùng nhỏ. Ðó là những ống trúm lươn làm bằng loại tre lồ ồ đường kính khoảng 1 tấc 2 phân, dài một mét rưỡi. Chú đi ra mương ranh giữa nhà chú với chú Tư Nhuận, đặt 2 ống trúm. Ði về phía mương ranh giữa nhà tôi và chú Hai Cầm, đặt thêm 2 ống nữa. Nhìn thấy cái lọp lớn của Ba tôi đặt ở mương ranh có mấy con cua, chú dỡ lọp, đổ mấy con cua vào thùng rồi đặt lọp trở lại. Thấy tôi đi ra ruộng, chú 5 kêu: 

- Cu à, lọp mầy dính cá lóc kìa. Tao mới đổ lọp bắt mấy con cua đặt trúm đó nghe. 

Tôi dạ, rồi lại đổ lọp, cái lọp mà chú 5 mới đổ cua, bắt được một con cá lóc. 

Chú Năm là người xóm trên, không có bà con dòng họ nhà tôi. Nhà nghèo, nhưng tính tình hiền lành nên anh em tôi rất quý chú. Bù lại chú cũng quý anh em tôi. Nếu chú thấy đứa nhỏ nào vào vườn tôi phá phách, hái trộm trái cây thì chú cho nhà tôi hay, hay la rầy dùm. 

Không hiểu từ thời nào, xóm tôi có những cái ước lệ tương đối dể dải. 

- Những con cá, con lươn trong vườn là của chủ vườn, vào câu vào bắt là ăn cắp, là xâm phạm chủ quyền của nhau. Nhưng cá tôm ở những mương ranh thông ra sông là của chung, ai cũng bắt được. 

- Những con cá tôm bên trong đống chà là của chủ chà, không được câu, không được đập phá cho cá chạy ra. Nhưng cá bên ngoài đống chà là của chung, ai cũng được quyền câu, chài lưới. Ðược quyền thả cám, thả mồi, miễn sao bên ngoài đống chà. 

- Những trái xoài, trái cam trên cây là của chủ vườn, không ai được đụng tới. Nhưng khi trái xoài rụng xuống dọc đường đi, thì người khác đi ngang có quyền lượm ăn chơi. 

- Cái lờ cái lọp của người khác đặt, mình không được quyền đụng tới. Ðụng tới là ăn cắp. 

- Khi chủ vườn tát hầm bắt cá, lối xóm được quyền đến ngồi chờ. Chủ nhà bắt cá xong đi lên thì người lối xóm được xuống bắt hôi. Thường thì họ bắt những con cá nhỏ, những con cua, con ốc không đáng kể. Nhưng có khi gặp hên họ bắt được những con lươn, những con cá lóc lớn mà chủ nhà bỏ sót. 

Nhưng cũng có những trường hợp ngoại lệ : 

- Trường hợp chú Năm thì khác, chú thấy lọp nhà tôi có cua có ốc chú cứ thoải mái đổ lọp bắt chơi, cá tôm thì chú chừa lại cho nhà tôi. Nếu chú gặp anh em tụi tui thì chú cho hay. Nếu không gặp thì thôi, mai mốt gặp sẽ nói sau. Hình như có lần chú hỏi ba tôi có bắt cua không, nếu không thì cho chú. Ba tôi dặn chú gặp cua ốc cứ lấy đi. Từ đó chú có thói quen như vậy. 

- Gia đình tôi có 1 nhà nhỏ, chứa cái bồ lúa ngoài vườn là kho lúa của gia đình. Có lần nhà tôi bị mất trộm lúa vì bồ lúa bị khuyết một lõm. Thấy dấu chân đi về phía xóm dưới, nhưng không dám cả quyết là ai. Năm sau vợ chồng ông cậu lối xóm đội 2 thúng lúa lên nói với ba tôi: “ Năm ngoái túng quá, tụi tui có xúc của anh 2 thúng luá. Năm nay gặt lúa xong, tụi tui đem trả anh”. Ba tôi vẫn thản nhiên :” Vậy cậu mợ đem đổ ngoài bồ lại cho tui đi”. Trả lúa xong, cậu mợ đi về, và chúng tôi vẫn vui vẻ với cậu mợ như không có việc gì xảy ra. 

Trở lại việc đặt trúm bắt lươn. Ống trúm làm bằng thân cây tre lồ ồ lớn. Tre lồ ồ là lọai tre ống dài, vỏ mõng, đường kính gần một tấc rưỡi. Ống trúm dài khoảng 1 mét rưởi, một đầu bít bởi một mắt tre. Ðầu kia là miệng trúm cho lươn chui vào. Ngay miệng là 1 cái hom đan bằng cọng tre chuốc nhọn sao cho lươn chui vào được nhưng không ra được. Mổi ống trúm dài chừng 3 lóng tre, vì thế cần có dụng cụ đục bỏ những mắt tre bên trong, cho rổng ruột. Trên thân trúm có đục 1 khe nhỏ để khi đặt trúm người ta ghim xuyên qua đó một thanh tre dẹp, giử thân trúm xuống đáy mương, không bị nước cuốn trôi. 

Bên trong ống trúm, người ta bỏ và vài con cua, con ốc đã đập chết cho dậy mùi. Con lươn thích ăn cua ốc chết, đánh hơi, sẽ chui vào qua cái hom rồi kẹt trong đó. Sau vài giờ chủ trúm đi ra ruộng vác trúm về gỡ cái hom rồi đổ ra. Gặp lúc trúng mùa, một ống trúm có thể có 5-7 con lươn, đặc cả ruột trúm. Ăn không hết chủ trúm phải đem lươn ra chợ bán. Con lươn miền Tây khi phát triển đầy đủ, to gần bằng cổ tay, dài khoảng 1 mét.Thịt lươn làm được nhiều món, món nào ăn cũng ngon. Món mặn thì có lươn xào xả ớt ăn với cơm. Món canh thì có lẩu canh chua, ăn với bún. Một con lươn to khoanh tròn trong cái lẩu. Nước lẩu nên cho chua ngọt, nấu sôi lên. Nhúng rau canh chua vào như bắp chuối, rau muống, rau ngổ, bông súng, chuối cây ... Nhớ bỏ nhiều rau mùi cho canh chua như hành, ngò gai, rau om, rau quế ... Lẩu chua được ăn với nước mắm ớt. 

Lươn còn được rút xương, dồn thịt trộn với bún, nấm, củ hành đem hấp chín, rồi chiên sơ cho thơm. Còn một món ngon, khá cầu kỳ là lươn um. Lươn làm sạch để nguyên con khoanh trong nồi. Người ta vắt vào nước cốt một trái dừa khô. Rồi để vô nồi môn ngọt, lá cách, củ hành, đậu nành rang đâm bể là tư. Nấu lửa riu riu, khi chín, nồi lươn um thơm bể mũi. Nước chấm của lươn um là nước tương trộn với tỏi, ớt, đậu nành rang giả nhỏ. Vắt thêm nước cốt dừa vào cho béo. Ăn món lươn um một lần, bạn sẽ nhớ cả một đời. Bạn sẽ tự hỏi rằng sao trên đời có những món ăn ngon đến như vậy. Giăng Câu 

Câu giăng có thể là giăng trên ruộng hoăc giăng dưới sông: 

“Em hỏi anh đêm nay đi đâu ? 

Anh nói rằng anh đi giăng câu..." 

Lúc nhỏ, anh em tôi thích giăng câu trên ruộng vào mùa nước nổi. Chiều chiều khi nước còn cạn, chúng tôi đi đốn một mớ cây sậy, gọi là cây đài, chuẩn bị những đường câu giăng. Ra những thửa ruộng vừa cấy xong, lúa còn lưa thưa, cắm hai cây đài cách nhau chừng 3 mét. Ở giữa cột một đường câu có 3 lưỡi cách đều nhau rồi móc mồi trùng hoặc mồi cá lòng tong cắt ra từng khoanh gọi là mồi cắt, xong trở về nhà. Ngủ vài tiếng đồng hồ, nước lớn ngập ruộng, các loại cá đồng là cá lóc, cá trê, cá rô từ dưới sông hay trong mương vườn sẽ theo con nước tràn lên ruộng kiếm ăn. Giữa khuya anh em tôi thức dậy bơi xuồng ra ruộng thăm câu. Những miếng ruộng hồi chiều còn khô giờ nước ngập linh láng. Tôi chống xuồng sau lái, em gái tôi ngồi trước rọi đèn, thằng em trai đang ngồi giữa xuồng. Anh em chúng tôi còn say ngủ, mắt nhắm mắt mở. Bỗng em gái tôi la lên: 

- Coi kìa, coi kìa... anh hai. 

Giọng nó líu lại. Tôi và thằng em bỗng nhiên tỉnh hẳn khi nhìn thấy cây đài giật lia lịa trong anh đèn mờ mờ, tim chúng tôi đập như tiếng trống làng. Dở đường câu lên, một con cá trê vàng lườm đang giẫy giụa. Cẩn thận lấy cái rổ hứng, tôi lôi nó bỏ vô xuồng. Chúng tôi hì hục chống xuồng qua đường câu khác. Có tiếng quậy bì bõm từ xa. Chà chà, con gì đây? Một con lươn đang tìm cách thoát thân, tôi mang lẹ nó lên xuồng. Ngày mai chúng tôi sẽ ăn cá trê vàng nướng và lươn kho xả. Qua đường câu thứ ba, cũng là đường câu chót, cây đài đứng lặng yên, tôi hờ hững dở đường câu lên thăm. Ối chà, một con rô đồng lớn đang ngoe nguẩy. Vậy là có thêm món cá rô kho tiêu. Chúng tôi cẩn thận móc mồi lại và sẽ trở ra thăm một lần nữa trước khi trời sáng. Những mùa câu đêm như vậy anh em tôi thường hay ngủ gục trong lớp. Cá đồng của miền Tây ngon lắm. Những con cá trê vàng nướng ăn với nước mắm gừng, cá lóc nướng trui cuốn bánh tráng, cá rô kho tiêu, lươn kho xả ngon không có gì sánh bằng! 

Giăng câu dưới sông thì tôi chưa làm nhiều, nhưng thằng em trai thứ 5 của tôi có nhiều kinh nghiệm. Phải dùng một cây đài bằng tre thật chắc, dùng một đường câu dài cả trăm mét và hàng trăm lưỡi câu. Cũng dùng mồi trùng hay mồi cắt, những chỉ bắt những loại cá sông như cá bống, cá lăng, cá trèn, cá leo, cá sửu, cá phèn. Cũng nên biết thêm là những loại cá sông kể trên chỉ ở dưới sông ít khi lên ruộng đồng, trong khi những loại cá đồng như cá lóc, cá trê, cá rô thì sống trên ruộng đồng hay ở mương vườn chớ ít khi xuống sông. Giăng câu sông phải dùng xuồng, khi thả câu hay cuốn câu phải khéo léo, nếu để rối thì lưỡi câu dính lại với nhau rất khó gỡ. 

Hồi tôi còn nhỏ khoảng 4-5 tuổi, gia đình tôi còn sống với Nội tôi. Tôi còn nhớ có một ông câu, sống cuộc đời tương đối bí ẩn đối với tôi, mà tôi hay tò mò theo dõi. Ông Cậy sống trên một chiếc xuồng nhỏ, mui làm bằng hai tấm lá chầm hình chử nhật ghép lại như hai cái mái nhà lá dưới quê. Tất cả giang sơn của ông là trên chiếc xuồng. Khoảng giửa là nơi ông ngủ, phía sau là một cái bếp nho nhỏ nấu ăn. Có lu nước uống, có mấy cây tầm vông gác dọc theo hông xuồng. Ban ngày ít ai thấy ông Cậy làm gì, thường thì ông cắm ghe cạnh một bóng cây gừa cho mát, rồi nằm ngủ hay nhậu lai rai vài ly rượu đế. Khi thì tôi thấy ông đậu ghe gần dưới bến nhà Nội tôi, khi thì tôi thấy ông đậu ghe tận ngoài vàm. Ban đêm, đúng con nước ông mới ra tay. Ông giăng câu cá cóc, cá sửu. 

Cá cóc là một loại cá quý, thịt ngon, hơi nhiều xương. Cá hình thoi dài, vảy mềm nên khi kho người ta để vảy ăn luôn, không đánh vảy như những con cá khác. Cá sửu cũng là một loại cá quý, vảy bạc hình dáng giống như con cá lù đù nhưng lớn hơn, hai bên hông có hay lằn chỉ dài. Cá sửu thịt ngon, ít xương. Cả hai loại cá trên ít xuất hiện, người chài lưới thường chỉ bắt được những con cá nhỏ. Chỉ có những tay câu đặc biệt như ông Cậy mới bắt được những con cá lớn 5-3 kí lô. Người ta chỉ biết ông giăng câu, vì ông có đường câu treo lủng lẳng trên mui ghe. Còn chi tiết giăng như thế nào thì ông kín đáo lắm và chỉ làm vào ban đêm thanh vắng, không ai biết. 

hỉ biết thỉnh thoảng một hai lần trong tháng, người ta thấy bên hông chiếc xuồng nhỏ của ông có cột theo vài ba con cá cóc, cá sửu thật bự. Ông hay bơi lại bến nhà Nội tôi rồi kêu: “Bà Năm ơi, ăn cá cóc không ? Có cá ngon nè “. Thừơng thì Nội tôi đi xuống bến lựa mua một con. Tôi lóc nhóc chạy theo, nhìn mấy con cá đang lượn lờ bên cạnh ông một cách kính nể. Loại cá nầy mắc tiền nên ông chỉ mời vài nhà khá giả trong làng. 

Vài năm sau, gia đình tôi ra riêng, ba má tôi dời đi cách nhà Nội tôi chừng 5 cây số, cũng sống gần bờ sông. Tôi lại gặp một ông câu khác mà tôi ba má tôi gọi là ông Năm Râu, cũng sống lênh đênh trên chiếc xuồng con tương tự như ông Cậy. Ông Năm cũng sống âm thầm một mình, cũng tự nấu cơm ăn, cũng khề khà ly rượu đế. Ðặc biệt thỉnh thoảng cũng cột kè kè bên hông xuồng mấy con cá cóc, cá sửu mấy kí lô. 

Hai ông câu trên tạo cho đầu óc bé nhỏ của tôi những ấn tượng rất là thâm trầm, bí ẩn. Nhưng sau nầy lớn lên đi câu nhiều tôi mới hiểu là mổi loại cá có cách ăn mồi riêng vào những con nước thủy triều riêng. Có loại săn mồi ban ngày, có loại săn mồi ban đêm yên tịnh. Có loại ăn lúc trăng tỏ, có loại ăn lúc tối trời. Hai ông câu kia hiểu được đặc tính của các con cá cóc, cá sửu nên âm thầm câu bắt mà không để cho người khác biết cách của mình. Chài cá trên sông 

- Thằng cu đâu, về bơi chài. 

Tôi đang chơi u với các bạn lối xóm thì ba tôi kêu về. 

- Con đi móc đất sét nắn mồi cho ba. 

Cha tôi ít khi đi câu nhưng thường hay chài. Ba tôi ở trần, bắp thịt cuồn cuộn quăng chài bắt cá. Chài là một miếng lưới hình tròn như một cái nón lá khổng lồ. Phía dưới là những túi nhỏ có cột dây chì cho nặng, phía chóp nhọn là một sợi dây dài mà người đi chài cột dính vào cườm tay. Người chài đứng trước mũi xuồng, dùng tay và đầu gối, sắp xếp cái chài trong tay theo một cách thức nhất định gọi là bắt chài. Bắt chài đúng, khi vãi ra nó phải xòe như một cái nón lá to chụp xuống nước, bắt không đúng vãi ra nó không bung cũng tương tự như dù không bọc vậy. Những cộng dây chì, dây lòi tói ở đáy chài làm cho chài chìm xuống nước bao phủ một vòng tròn đường kính chừng 5 mét. Những con cá hay tôm trong khu vực đó sẽ bị dính trong chài. 

Đi chài cần một chiếc xuồng nhỏ và một người ngồi phía sau để bơi chài. Người ngồi sau phải bơi khéo léo, không khua dầm lộp cộp làm cá sợ chạy đi, nhất là phải ăn ý với người chài đứng ở phía trước. Khi người chài quăng chài ra, vì đứng trên một chiếc xuồng nhỏ mũi xuồng sẽ lệch ngang làm người chài dễ mất thăng bằng té xuống nước. Người bơi ngay lúc đó phải nại lái xuồng một cái nhẹ để xuồng lấy lại thăng bằng. Ba tôi và mấy đứa em trai tôi quăng chài rất giỏi. Tôi thử vài lần nhưng lần nào cũng bị té xuống nước, còn chài thì vãi không bung, chẳng bắt được gì. Mổi lần thấy tôi đi chài mấy cô gái lối xóm gọi nhau: 

- Tụi bây ơi, ra coi anh hai vãi chài. Chuẩn bị vỗ tay nghe. 

Họ đứng sẳn ở bờ sông, đợi tôi té một cái đùng xuống nước vỗ tay cười chơi. Từ đó tôi mắc cở, không tập nữa, chỉ làm người bơi chài thôi! hài Nòng 

- Cu Tèo, cá ăn nhiều lắm, kêu ba mày đi chài nòng đi. 

Cậu Năm xóm dưới kêu tôi. Tôi đi chặt và lột cho ba tôi một mớ bẹ chuối từ những cây chuối đã đốn lấy buờng xong. Bẹ chuối hình như một cái máng xối hứng nước mưa, dài hơn xải tay . Ba tôi róc bẹ chuối thành 3 mảnh, mỗi mảnh bề ngang độ 6 cm, dài hơn xải tay, cột lại thành một cái phao tròn đừng kính độ 1,5m gọi là cái nòng. Cắm một cây đài sậy giữ cái nòng không trôi, ba tôi thả vào đó một nắm cám rang. Cái nòng bằng bẹ chuối làm bằng vật liệu có sẵn, không tốn kém gì, chỉ dùng để giữ cám bên trong không trôi. 

Cám thơm nổi trong nòng quyến rũ một bầy cá lòng tong, cá he, cá mại đến ăn và vài ba con cá ngựa bơi lảng vảng (loại cá lớn thích theo táp cá nhỏ). Cha con tôi đợi cá đến nhiều, bơi xuồng nhẹ nhàng đến vãi chài. Phải khéo léo không gây tiếng động làm cá sợ chạy mất . Có khi cá nhiều vô kể, dính trắng xóa cả chài, gỡ không kip. Khi đó chỉ 2 chài là đủ ăn cho cả nhà . Cá lòng tong đem về kho tiêu, nấu canh chua, nhúng dấm cuộn rau thơm và rau cải trời, món nào cũng ngon cả ! Giăng lưới cá 

Năm 1970, tôi ra tỉnh Sa Đéc học, sự nghiệp cá mắm của tôi bị dở dang. Một hôm về thăm nhà, thằng em trai chạy ra mừng tôi: 

- Đi thăm lưới chơi anh hai. Tui đương giăng lưới cá rô đó. 

Tôi ngạc nhiên đi theo thằng em 9 tuổi, học lớp 4 tay đang xách cái thùng, vì chưa nghe nói lưới cá rô bao giờ. Ra miếng ruộng sau nhà, nước ngập mênh mông, gió mát rười rượi, từng đàn cò trắng phau bay lượn đó đây. Hai anh em lội xuống ruộng, một đường lưới gân ngắn dạo giăng thẳng tắp giữa hai cây đài bằng sậy, vài con rô đồng dính lưới đang giẫy giụa. Anh em tôi vui mừng gỡ cá bỏ vào thùng. Thì ra năm ấy cá rô từ đâu lên ruộng rất nhiều. Ba tôi mua một tay lưới cá rô dài chừng 50 mét cho anh em tôi giăng cá. Chiều hôm đó chúng tôi ăn cá rô chiên tươi dầm nước mắm với cá rô nấu canh chua thơm đậm mùi ngò om, ngò gai. 

Mấy hôm sau đi học, tôi xin ba tôi một khúc lưới chừng 3 mét đem theo. Tôi đang ở trọ học, giữ một miếng vườn nhỏ cho thầy tôi. Trước khi đi học tôi thả lưới ngang mương vườn, chiều về dở lên bắt được vài con cá rô, cá sặt, chiên hay kho ăn ngon lắm. Học trò nghèo thường chỉ ăn rau luộc chấm nước tương, nay có được cá ăn, thì tuyệt, không gì bằng ! 

Lưới giăng sông cũng dùng hai cây đài bằng tre cột lưới vào giữa, giăng ngang hay dọc bờ sông. Cá lội qua lại vướng vào lưới. Người giăng lưới chỉ ngồi trên xuồng, ca nghêu ngao vài câu vọng cổ đợi gỡ cá. Tuy nhiên, lưới sông thì dùng lưới cao dạo, mắt to để bắt cá mè vinh, cá he, cá ngựa, cá ét, cá đỏ mang là những con cá sông khá lớn. Trên ruộng dùng lưới ngắn dạo và mắt lưới nhỏ hơn để bắt cá rô, cá sặt, cá lóc, cá trê…những loại cá nhỏ hơn. hả lưới trên sông 

Sông Hậu Giang là nhánh lớn của sông Cửu Long có rất nhiều cá tôm: 

“Chiều chiều quạ nói với diều, 

Ngã ba sông Hậu có nhiều cá tôm.” 

Trong thời gian sống ở Cần thơ, tôi đã được chứng kiến cảnh thả lưới trên sông Hậu giang trong mùa cá. Từng đoàn thuyền nhỏ khởi hành từ miệt Ô Môn, Săng Trắng, Thơm Rơm cách Cần Thơ khoảng 15 cây số, thả những đường lưới ny lông dài độ 30 mét với những chiếc thuyền nhỏ trôi theo dòng nước về phía thị xã Cần Thơ. Lưới ni lông nhẹ, mắt thưa khoảng 3 ngón tay, giăng theo bề ngang sông. Những phao nhỏ giữ một cạnh lưới nổi trên mặt nước, phía dưới gắn chì giữ đáy lưới chìm thẳng đứng. Cá mè vinh, cá đỏ mang lội tung tăng kiếm ăn, dính vào lưới. 

Khi gần tới ngã ba Trà Nóc, họ kéo lưới lên gỡ độ vài ba ký cá mè vinh ghé chợ Trà Nóc bán. Bán xong, họ tiếp tục thả lưới theo dòng nước. Khi đến chợ Bình Thủy cách đó chừng 5 cây số họ lại thâu hoạch một mẻ lưới khác rồi lên bán ở chợ Bình Thủy. Xong lại thả tiếp xuống bán ở chợ Cần Thơ. Cứ thả được một bận như vậy người chài lưới có tiền rủng rỉnh về nhà nghỉ ngơi . Tôi cũng đã may mắn được thưởng thức những con cá mè vinh thơm ngon trong mùa cá đó. Cá mè vinh là một loại cá ngọt thịt, béo và hơi nhiều xương. Cá chiên tươi dầm nước mắm chanh tỏi, hay kho lạt với hành, thôi thì ngon không kể hết ! 

Còn một loại lưới mà anh em tôi hay xử dụng là “lưới mé”. Chúng tôi lựa một bãi sông hứa hẹn có nhiều cá, cắm nhiều cây đài tre dọc bờ sông, móc sẳn lưới trên cao, đợi chờ. Khi nước cạn chúng tôi thẩy nhiều mồi cám nắn trong đất sét như những nắm xôi để nhử cá vào trong khu vực thả lưới . Đợi khi nước lớn lên cao, cá tôm vào nhiều chúng tôi hạ lưới chặn đường rút lui. 

Xong chúng tôi đi ngủ, đợi khi nước rút cạn, đi dọc theo đường lưới là bắt nhiều cá tôm. Các loại thu hoạch được thường là cá lòng tong, cá he, cá ét, cá mè vinh, cá lăng, cá trê, cá vảnh, cá rằm, cá ngựa, cá trèn, cá lưỡi trâu, tôm, tép. Kéo Lưới 

“Kéo lưới” là dùng một tay lưới dài chừng 10 mét, bề dạo độ 2 mét, hai đầu cột vào hai khúc tre. Hai người cầm hai đầu kéo dọc theo bờ sông, một người đi trong bờ, một người lội phía ngoài. Khi đi kéo lưới, người nào nhỏ, yếu hơn đi phía trong bờ, người khỏe mạnh bơi lội giỏi lội phía ngòai . Lâu lâu người lội phía ngoài tấp vào bờ, hai người cùng dở lưới lên bắt cá. Thỉnh thoảng cũng bắt được tôm tép hoăc cá lớn như cá lóc, cá ngựa, cá leo. Phần lớn kéo lưới bắt được cá nhỏ như cá cơm, cá lòng tong, cá linh, cá rằm, cá he, cá chốt, cá trèn cơm, cá trèn bầu, cá lưỡi trâu ... 

“Cá lưỡi trâu sầu ai méo miệng, 

Cá trèn bầu nhiều chuyện sứt môi.” 

Câu hát trên để diễn tả con cá lưỡi trâu là loại cá mình dẹp, sống sát đáy sông. Thân mình có 2 màu khác nhau, bên trên có màu bùn. Từ trên nhìn xuống rất khó thấy con cá vì tiệp màu với đáy sông, bên dưới màu trắng. Trải qua bao nhiêu ngàn năm không biết, con cá từ trên xuống sống sát đáy sông nên phải thích nghi, hai con mắt nó di chuyển từ hai bên sang nằm cùng một bên phía trên vì con mắt bên dưới sình không còn hữu dụng nữa, và cái miệng nó cũng méo đi không như miệng cá thường . 

Còn con cá trèn bầu miệng rộng và có nhiều răng chơm chởm, chớ tui không thấy nó “sứt môi” chỗ nào ! Câu hát ru con miền Nam trên, tui thấy câu trên thì đúng, nhưng câu dưới thì tui không hiểu ý của nó, có thể vì sứt môi mà miệng cá trèn bầu rộng chăng ? 

Tôi chỉ có kinh nghiệm kéo những tay lưới nhỏ, bắt cá nhỏ như vừa kể trên. Một thằng bạn thân của tôi kể rằng nhà chú nó có một tay lưới rùng rất lớn, dài tới 30 mét cần nhiều người phụ mới kéo nổi. Bạn tôi thỉnh thoảng có dịp đi theo chú nó phụ lưới. Loại lưới nầy không kéo trong sông nhỏ chỉ kéo dọc theo sông cái lớn để bắt cá to. Phần lớn kéo được cá lăng, cá leo, cá cóc, cá he vàng … Nhưng hấp dẫn nhất là mùa gần Tết, khi người ta xả những ruộng ấu, thu hoạch trái. Những con cá rô, cá lóc lớn, mập mạp từ trong ruộng ấu đang còn lơ lững dọc theo sông cái, bắt được con nào là đáng con đó. u.. tu.. tu.. tù... 

Tiếng tù và rúc lên vang vọng từ xóm dưới như tiếng còi thu quân của mấy ngàn năm trước làm nôn nao lòng người. Tiếng tù và gợi trong tui cái thời “Lệnh vua hành quân trống vang rền” . Tôi mơ màng mường tượng đây là tiếng tù và gọi binh khi vua Quang Trung đại phá quân Thanh, hay thi quân ta thủy chiến với quân Xiêm qua mấy bài lịch sử mà tôi vừa học. Bỗng tôi bừng tỉnh khi nghe mẹ tôi kêu: 

- Thằng cu đâu, đi mua 2 đồng cá đáy coi con. 

Tôi dạ lớn, lấy cái rổ với 2 đồng rồi rủ thằng em cùng đi. Hai anh em bơi xuồng ra rượng đáy giữa dòng sông ngang mấy bụi gừa xanh lá. 

Ông chủ đáy ở trần mình đen bóng màu đồng, bắp thịt nổi lên cuồn cuộn, đang đứng ở mũi ghe hùng dũng thổi tù và như một ông tướng điểm binh. Thân mình của ông chắc cũ oai vệ như anh chàng Vọi trong “Trống Mái” của Khái Hưng . Ông quay tù và về xóm trên: tu.. tu.. tu... Ông quay qua xóm trong: tu.. tu.. tu... Ông quay xuống xóm dưới: tu.. tu.. tu.... Ông đang dùng một phương tiện cổ xưa là chiếc tù và làm bằng sừng trâu để thông báo cho bà con đầu trên xóm dưới biết rằng đáy ông đang có cá, ai muốn mua thì đến mua. 

Đáy cá là một cái túi bằng lưới thật to đường kính miệng độ 30 mét chiều dài có đến 40 mét. Ở cuối cái túi tóp nhỏ lại là một thùng chứa cá đan bằng tre gọi là cái “đục” có dung tích chừng hai trăm lít. Đáy được giăng giữa 2 cây đài thật to cắm sâu giữa dòng sông. Khi nước đổ ra biển, những con cá linh, cá trèn, cá chốt, tép bạc sanh sôi từ phía thượng nguồn sông Cửu Long bơi theo dòng nước kiếm ăn sẽ chui vào miệng đáy rồi chui vào đục. Lâu lâu, người chủ đáy kéo ghe từ trong bờ theo đường dây giữa 2 cây đài ra kéo đục lên đổ cá vào ghe. Vì làm việc với một cái đáy quá to, giữa nơi nước đang chảy xiết, nên đáy là một việc làm nặng nhọc cần những người khỏe mạnh, tháo vát. Khi có cá người chủ ghe rút một cây tù và làm bằng sừng trâu thổi lên: tu .. tu .. tu... 

Dân trong làng nghe tiếng tù và bơi xuồng ra mua cá. Những ngày trúng mùa, cá đầy tràn ra khỏi đục, gọi là “bứa đục”, bán không hết, người ta chỉ lựa những con cá ngon để riêng ra bán như cá trèn, cá lăng, cá phèn, cá bống, tôm tép. Số cá dư phần lớn là cá linh, được đổ vào một chiếc ghe khác dùng để ủ nước mắm, nước mắm cá linh. Ai cũng vui mừng khi thấy ghe cá linh đang đầy vì biết là năm đó đồng bằng sông Cửu Long có nhiều cá . 

Khi tôi còn nhỏ, được sai đi mua cá đáy là một điều vui thú. Tôi thường hay bơi xuồng ra đậu sẵn nơi đây, ngồi nghe ông chủ đáy cùng vài ông nông dân khác trong làng, ngồi trên một chiếc ghe lớn của ông chủ đáy, uống nước trà hay nhâm nhi chung rượu nói chuyện đời xưa, chuyện đời nay, chuyện làng, chuyện tỉnh, chuyện miệt trên, miệt dưới... Ðợi khi đổ đục, tôi mua một mớ cá tươi ngon bơi lẹ về nhà cho mẹ tôi. Dở Chà Cá He 

Tôi vừa bước lên con đò ngang Rạch Mít là đã nghe tiếng ồn ào vọng lại từ nhà ông sáu Bún. Sau mấy tháng đi học ở tỉnh về thăm nhà, sao hôm nay nhà ông sáu đông người như thế nầy. Tôi tò mò đi chậm lại quan sát. Nhà ông sáu Bún sát đường đi, có hai mái rộng nhưng chỉ có phía đông là có vách, còn 3 phía kia để trống. Trong nhà không có chia phòng, chỉ kê ba bộ ván và 2 cái chõng. Phía ngoài đường đi là cái cối quết bột và cái lò trấu nấu bún. Tôi thấy trên bộ ván lớn giữa nhà khoảng 15 người đang ngồi lố nhố ăn uống với nhau. 

Giữa bộ ván là mấy dĩa bàn lớn cá tôm chất cao nghệu với mấy dĩa rau sống, chuối, khế, cùng mấy chén nước mắm ớt đỏ ối. Ba bốn chai rượu đế to tướng được chuyền tới chuyền lui. Chỉ có ông sáu Bún và vài ông lối xóm là tôi biết mặt, còn lại là người lạ. Người nói người cười ồn ào như đang nhóm chợ : 

- Vô một ly nữa đi anh Tư, sao bữa nay uống yếu vậy ? 

- Nè, làm cái đầu cá nầy đi chú Hai, béo lắm đó nghe ! 

- Chú Sáu nè, tổng cộng được năm chục kí tôm không ? 

- Vô đi anh, bữa đó ở nhà thằng Sáu Lác tui không uống nhiều với anh vì tui đang bực nó nói móc tui hòai ! 

À, thì ra hôm nay ông sáu Bún dở “Chà Cá He”. Ông có đống chà lớn nhất xóm. “Chà” là một đống nhánh cây khô xếp đặt có thứ tự dưới sông . Hằng ngày ông thẩy mồi cho cá ăn. Mồi là cám hay gạo, lúa, cơm nguội. Cá tôm vào đó làm chỗ trú ngụ, lại có mồi ăn. Chà Cá He là một loại chà chất ở nước có độ sâu, nhánh cây nhiều và lớn hơn các loại chà gia đình, nhỏ hơn, chất trong chỗ cạn hơn . Độ hai tháng ông Sáu kêu thợ lưới chuyên nghiệp lại dở chà một lần. 

Thợ lưới là một tổ hợp, có một tay lưới rất lớn với năm bảy người thợ lặn. Họ bao lưới, dở chà ăn công. Sau đó chủ chà bao họ một bữa ăn nhậu phủ phê bằng cá tôm bắt được. Nếu trúng mùa, ông sáu kiếm được trăm kí cá ngon và vài chục kí tôm càng. Loại tôm càng xanh ở miền Tây ngon hảo hạng. Sau khi ăn nhậu no say, số còn lại vợ con ông sẽ đem đi chợ bán sáng sớm ngày mai. Bà sáu Bún đang ngồi nhồi bột hỏi tôi: 

- Mầy đi học mới dìa hả cu Tèo ? 

Tôi dạ, rồi tấp vô vắt một cục bột bằng trái cam, bóp dẹp lại rồi lụi vô lò trấu nướng. Xong tôi đeo tòng ten lên cái cần ép bột với con bà sáu. Tôi tiếc là không về sớm hơn để được coi dở chà cá he, hồi hộp nhất là lúc coi cá nhảy, dù là tôi đã được coi dỡ chà cá he nhiều lần. Sau khi bao lưới xong, người ta bắt đầu kéo từng nhánh chà lên, cá thấy động tìm cách thoát thân. Lội vòng vòng không thoát được, chúng bắt đầu nhảy. úc đầu chúng nhảy thấp để quan sát lưới gọi là nhảy “đo lưới”, sau đó chúng nhảy thật cao để thoátt thân. Lưới cách mặt nước chừng 2.5 mét mà một số vẫn nhảy qua được. Tài nhất là cá ngựa, kế đến là cá mè vinh, cá đỏ mang. Nếu con người mà nhảy tài như con cá ngựa, chúng ta có thể nhảy cao chừng 30 mét chở chẳng chơi . Nhảy qua lưới cá gặp phải một số người trên năm bảy chiếc xuồng nhỏ cầm vợt đứng chờ. Đây là những người lối xóm chỉ đến bắt hôi cá nhảy, có nghĩa là không bắt cá trong chà vì vi phạm chủ quyền của ông Sáu Bún, nhưng họ có quyền bắt những con cá coi như đã thóat khỏi đống chà. 

Tôi đã thấy có người may mắn vợt được liên tiếp hai con cá ngựa mỗi con chừng năm kilô. Đàn ông thì đứng dưới xuồng cầm vợt. Đàn bà con nít thì đứng dàn trên bờ như đang coi trận đá banh. Mỗi lần cá lớn nhảy, người ta la hét náo động cả một khúc sông. 

Gia đình ông bà Sáu làm bún bán ở chợ làng. Làm bún phải xay gạo thành bột, ủ bột, xong quết bột cho dai rồi để vô khuôn ép thành những cọng bún rớt xuống một nồi nước đang sôi. Công việc tương đối nặng nhọc và qua nhiều giai đọan. Bọn trẻ chúng tôi hay tụ tập trước cửa nhà bà sáu chơi bắn cu li, thẩy đáo. Chơi chán chúng tôi chạy vô xay bột, quết bột hay ép bún dùm bà Sáu. Bù lại, lúc nào chúng tôi thích ăn bánh nướng cứ tới lấy bột làm bánh nướng mà ăn. Nó giống như ăn bánh pizza ở Mỹ nhưng không có nhưn. Đăng Rạch 

- Cá nhảy, cá nhảy rồi anh hai ơi! 

Thằng em tôi có nhiệm vụ canh đăng kêu vang dưới bến. Tôi vội xuống xuồng đi với nó. Bơi xéo qua Rạch Dừa nơi chúng tôi đang có giàn đăng, tôi cẩn thận cột xuồng nằm ngang chỗ nước sâu giữa rạch, bên ngoài cái “ÐÓ”, xong anh em tôi ngồi chờ. Nước bắt đầu từ Rạch Dừa chảy ra. Một con cá ngựa nhảy đo đăng. 

Sọat... Sọat... Bộp... bộp... bộp... 

Hai con cá ngựa cùng nhảy qua đăng một lượt và rớt lên xuồng chúng tôi. Tôi và em tôi nhanh nhẹn tóm chúng bỏ vào khoang. 

Soạt... Tỏm. 

Một con cá mè vinh lao ra trúng vai tôi và rớt xuống sông bơi mất, làm anh em tui tiếc hùi hụi. 

Chúng tôi đang đăng rạch. Dùng những tấm đăng bện bằng tre cao khoãng 2 mét chúng tôi chận ngang Rạch Dừa lúc nước lên cao. Người làm đăng chẻ tre ra chuốt từng cọng lớn hơn chiếc đủa, dài khoãng 2 mét. Xong dùng dây trại bện lại thành tấm lưới thưa có kẽ khoãng 1 cm, sao cho nước chảy qua được nhưng cá tôm bị giử lại. 

Cá từ sông lớn vào Rạch Dừa lên ruộng kiếm ăn. Giờ nước bắt đầu rút, cá trở ra sông lớn bị đăng chận lại. Những con cá Ngựa, cá Mè vinh bắt đầu nhảy qua đăng thóat thân. Chúng tôi đậu xuồng ở đây đón chúng. Nhưng phần lớn cá tôm sẽ chui vào trong cái đó ngay bên cạnh chúng tôi. 

ĐÓ là một cái thùng chứa hình trụ cũng đan bằng tre. Dọc theo hông đó có xẻ một cửa dài với nhiều hom nhọn quay vô trong đó. Cá lội ra sông lớn, bị đăng chận lại sẽ bơi dọc theo đăng và chui vào trong cái đó. Chúng chui vào rất dễ nhưng không trở ra được vì những hom nhọn cản lại. Lát nữa đây khi nước cạn anh em tôi sẽ kéo đó lên đổ cá tôm vào khoang xuồng. Thường thì chúng tôi bắt được cá lòng tong, cá he, cá trèn, cá linh, cá rô, cá đỏ mang, tôm lớn, tép nhỏ ... Bắt cá xong, chúng tôi sẽ giặt đăng cho sạch bùn sình, cỏ rác đem về phơi khô, cuộn lại để dành cho kỳ tới . 

Có câu ca dao nói về cái đăng, cái đó như sau: 

Xin đừng tham đó bỏ đăng, 

Có lê quên lựu, có trăng quên đèn. Ðăng Mé 

Ðăng mé tức là đăng dọc theo mé sông bắt cá . Người ta lựa một khúc bờ sông phẳng phiu, nước lớn lên ngập mé, nước ròng rút ra khỏi mé lòi bãi sình để có thể bắt cá được. Trước khi đăng độ một tuần người ta thảy lúa, cám dọc theo mé làm mồi, để cho cá tôm có thói quen vào khu vực đó kiếm ăn. 

Ðăng mé có hai cách: một là dùng những tay đăng bằng tre, hai là dùng lưới cá. Ðăng tre là dùng những thanh tre lớn hơn chiếc đũa ăn cơm một chút, dài độ 2 mét, dùng dây bện lai với nhau như một chiếc chiếu thưa, có khe hở độ 1 cm giữa 2 thanh tre. Còn lưới là loại lưới dầy, mắt lưới vuông độ 1 phân. Ðăng tre chỉ thịnh hành vào thời trước 1968. Sau các năm 1967-1968 tôi thấy lưới ny lông bắt đầu rẻ và thịnh hành. Gia đình tôi có một tay lưới cao khoảng 2 mét, dài khoảng 50 mét dùng để đăng mé hay dở chà gọn và nhẹ hơn xài đăng tre. 

Tới ngày đăng mé, anh em tôi đi cắm sẵn độ 30 cây đài tre dọc theo mé sông. Treo lưới lên các cây đài sẵn sàng hạ lưới khi cần thiết. Chúng tôi thảy cám, thảy lúa nhử cá. Khi nước lớn đầy, cá tôm vào trong mé sông ăn mồi, chúng tôi cẩn thận dùng xuồng bơi tới, tuyệt đối không gây tiếng động, nhẹ nhàng hạ lưới xuống dọc theo mé sông. Phía dưới dạo lưới thì nằm dưới bãi, nhưng phía trên của lưới thì vẫn còn treo trên mấy cây đài. Một đứa trong chúng tôi cởi trần nhẹ nhàng lội xuống nước dùng chân đạp nhẹ đường viền đáy cho lưới lún xuống sình chừng 5 phân giữ cá tôm trong lưới, không chui ra được. 

Thường thì chúng tôi chọn con nước tối, hạ lưới khoảng 12 giờ khuya, lúc đó yên tĩnh, cá lớn dạn dĩ vào bờ. Xong, chúng tôi leo lên ghe nằm ngủ đợi nước cạn. Trời hừng sáng, nước cạn, anh em chúng tôi đốt đèn lên đi bắt cá. Không nên để nước cạn sát quá, những con chồn, mèo, chuột có thể lội xuống ăn cá, cắn rách lưới. Những cá lòng tong đâm đầu vào lưới trắng xoá phải gỡ ra. Những con cá he, cá mè vinh, cá trèn, cá cóc, cá lưỡi trâu, tôm tép… thì nằm dọc theo các vũng nước còn đọng lại. 

Phải nhanh chóng bắt cá chuyển về nhà . Nếu cá ít, độ 1-2 kí lô thì đủ gia đình chúng tôi ăn một ngày. Nếu cá tôm nhiều, có khi phải đi chợ bán bớt, kiếm tiền chi dụng chuyện khác. Ðợi nước lớn lên, anh em chúng tôi giặt lưới cho sạch sình bùn, cỏ rác, phơi lưới khô rồi thu dọn về nhà, ra ruộng, ra đồng tiếp tay với Ba tôi. Mò Tép, Quậy Hầm 

- Dính nữa nè cu. 

Chú tôi đưa cho tôi một con tép trứng nhỏ bằng ngón tay. Tôi xỏ con tép vào cọng dây lạt dừa đang ngậm trong miệng rồi mò tiếp. Chú tôi xuống chơi. Nước sông ấm nồng, tôi và chú rủ nhau đi mò tép. Chúng tôi mò dọc theo những nọc cầu, những cọng rễ bần, những cây trụ chà và đã bắt được chừng hai mươi con tép lớn bằng ngón tay cái, hứa hẹn một bữa cơm chiều. 

Bổng em tôi chạy đến kêu: 

- Ba kêu chú với anh hai về lẹ, ba đương quậy hầm. 

Quậy hầm. Hà hà, quậy hầm bắt tôm ! Tôi và chú tôi lội dọc theo bờ sông về nhà, theo đứa em tôi ra sau vườn. Ba tôi đang móc đất be bờ, thấy chúng tôi, ba nói: 

- Tụi bây xuống quậy đi, tao mới đụng tôm. 

Chà, nghe ba nói chúng tôi hăng lên, vội xuống nước và bắt đầu... quậy. Nước sâu tới bụng, chúng tôi dở những cây chà liệng lên rồi đi dọc theo cái hầm dài hai mươi thước, rộng hai thước, dùng tay chân quậy sình cho nước đục lên. Ngày thường đứa nào "quậy" thì bị đòn, nhưng lúc nầy mới đúng là QUẬY, quậy càng nhiều càng tốt, được khen ! 

Cái hầm nay ba tôi đã chuẩn bị mấy tháng trước vào mùa nước nổi, ba bỏ chà xuống làm chỗ trú ngụ cho tôm. Mùa nước nổi, tôm nhỏ từ dưới sông tràn vào ruộng kiếm ăn. Mùa nước rút, tôm từ ruộng theo nước ra sông. Đi ngang qua cái hầm nầy, thấy có chà chôm, là chỗ trú ngụ lý tưởng, một số ở lại. Sau mấy tháng chúng đã lớn gần bằng cườm tay, mổi con nặng tới 100-200 cà ram. 

Con tôm thích nước trong. Chúng thở bằng mang và hệ thống thở của chúng không chịu được nước đục. Chúng tôi quậy được một lúc nước đục xình, tôm không thở được bắt đầu nổi lên. Râu tôm lác đác nổi lên trước dọc hai bên bờ. Những sợi râu đỏ, ngo ngoe, là những cần ăng-ten thăm dò. Từ từ chúng sẽ lộ cả hai mắt đỏ lên và thở trên mặt nước. Khi phản ứng thoát thân, con tôm búng mạnh thân mình giật lùi rất nhanh. Chúng tôi chỉ việc đi dọc theo bờ, chụp nhanh phía sau đuôi chúng rồi bỏ vào một cái rộng tre để phía nước trong cho chúng khỏi chết. 

Những con tôm càng xanh, nặng độ hai trăm cà ram to gần bằng cườm tay tôi, đuôi nhọn, càng cứng, búng vào tay đau điếng. Nhưng khi nướng lên thì tuyệt vời. Hôm đó chúng tôi bắt được hơn hai chục kí tôm. Cơm chiều, mẹ tôi nướng tôm dọn ra hai dĩa bàn đầy ăn không hết. Số còn lại trong rộng để dành cho ngày mai. Sáng sớm mai, mẹ tôi sẽ đem tôm ra chợ bán. Tôm càng xanh bán rất có giá vì thịt tôm ngon, các nhà hàng cơm ngoài chợ mua với giá cao. Ðặt lọp tép 

Sau mùa nước nổi, những con tép từ trên đồng ruộng đã lớn và trở lại sông Cửu Long, chuẩn bị chu kỳ sanh đẻ. Sống trong sông Cửu Long có 2 loại tôm tép khác nhau. Khi nói tôm, là người ta nói những con tôm càng xanh, lớn kềnh càng. Con đực lớn bằng cườm tay và có một cặp càng xanh to bằng ngón tay, càng dài chừng 3 tấc. Con cái nhỏ hơn, cặp càng cũng nhỏ hơn, bụng mang đầy trứng. Còn tép là những con nhỏ hơn con tôm nhiều, chỉ to bằng ngón tay. Tép đực là các con hơi lớn, vỏ dày sần sùi, màu đậm có cặp càng lớn, còn được gọi là tép thợ rèn. Tép cái là những con nhỏ hơn, vỏ mỏng trơn láng hơn và bụng mang nhiều trứng. 

Với tôm càng người ta bắt bằng cách dở chà, câu, đặp lọp ven. Với các con tép, người ta đặt lọp tép . Lọp tép là một cái lồng hình trụ đường kính khoảng 2 tấc, dài độ 4 tấc đan bằng trúc . Ba tôi chuốt những cọng trúc nhỏ bằng cây nhang dùng dây kẽm bện lại . Miệng lọp đặt 2 tầng hom tức là các cửa vào một chiều sao cho tép chui vào được mà chui ra rất khó vì bị các hom nhọn cản trở. Hom làm bằng những cọng trúc chuốt nhọn bện thành một cái cửa hình nón. Khi tép thấy mồi đặt trong lọp, tìm cách chui vào . Chui vào khá dễ, chui ra thì lại chẳng dễ tí nào. Phía đuôi lọp có một cửa nhỏ để trút tép ra khi thu hoạch. Mồi là một con cua đồng hay một con ốc bưu, ốc lác, đập bể dập, để cho dậy mùi quyến rũ tép. Khi nước bắt đầu lớn, ba tôi đem chừng 20 cái lọp đặt dọc mé sông. Dùng một cây ghim dẹp bằng tre, dài chừng 5 tấc, ghim cái lọp xuống sình, cạnh một cây bần hay bụi cỏ. Nước lớn cao, tép từ dưới sông bơi vào bờ kiếm ăn, sẽ chui vào trong lọp và kẹt trong đó . 

Khi nước ròng, ba tôi bơi xuồng đi thu hồi lọp. Ba tôi dạo rửa vài cái cho sạch bùn sình rồi chất lên xuồng. Lọp đem về, anh em tôi xúm lại, trút ra bắt tép. Phần lớn chỉ bắt được tép thợ rèn và tép trứng. Thỉnh thoảng, chúng tôi cũng bắt được cá bống đen, cá bống cát, cá chốt. Những lúc trúng mùa, với 20 cái lọp, mổi ngày gia đình tôi kiếm được hai ba kí lô tép, lớp nấu canh, lớp kho mặn kho lạt, ăn không hết. 

Vì làm bằng những cọng trúc chuốt nhỏ, mỏng manh, lọp tép xài chỉ một mùa rồi bỏ, sang năm phải đan lọp mới. Ðặt lọp tương đối nhẹ nhàng, nhưng cũng có nỗi cực riêng. Phải chịu khó đi thụt cua hay bắt ốc làm mồi. Một nỗi phiền nữa là đặt lọp vào con nước tối và dỡ lọp vào con nước sáng sớm mới được nhiều tép. Nhưng buổi sáng sớm dưới quê, con mùi mắt nhiều lắm. Khi mình ngồi đổ lọp hay ngồi làm tép, nó nghe mùi thúi của cua ốc chết, nó bu lại cắn mình, rất ngứa. 

Con mùi mắt nhỏ như đầu cây kim, tỏ mắt mới thấy được. Nhưng khi nó bu lại cắn mình hút máu, ngứa như muỗi cắn. Nếu mình gãi trầy da có mùi máu, nó càng bu lại chỗ trầy, cắn dữ dội hơn. Ai có kinh nhiệm thì chỉ xoa xoa cho nó chết. Nếu bị cắn dữ quá thì phải đốt một ít vỏ dừa khô, hun khói thì con mùi mắt sẽ bay đi . Có người bạn còn dạy tôi lấy một chùm lá cách bóp dập ra, xoa khắp chân tay, những chỗ mùi mắt hay cắn. Mùi lá cách có lẽ là thứ mà con mùi mắt không ưa, nên tôi cũng đỡ bị cắn rất nhiều. Ðặt lọp ven 

Khác với lọp tép hình dáng nhỏ đan bằng cây trúc, lọp ven đan bằng cọng tre lớn, chắc chắn. Lọp ven là một cái lồng hình trụ, đan bằng những cọng tre to bằng ngón tay út, bề dài khoảng 2 mét. Ðường kính của lọp khoảng 1 mét. Lọp cũng có 2 cửa hom hình nón, đan bằng tre chuốt nhọn, đặt sao cho tôm cá chui vào dễ dàng, nhưng chui ra rất khó. Sau nầy người ta còn làm lọp ven bằng lưới kẽm khung tre nhưng hình dáng cũng tương tự như trên. 

Khi nước lớn, những con tôm con cá lội dọc theo bờ sông kiếm ăn. Lợi dụng đặc tính đó, người ta dùng những tay đăng bện bằng tre, cao khoảng 1 mét rưỡi, bền dài khoảng 2-3 mét chận ngang đường di chuyển của tôm cá . Phía cạnh dưới của đăng người ta khoét một cửa vuông mỗi cạnh chừng 3 tấc rồi đặt cái lọp ven quay miệng vào cái cửa vuông đó . Lọp ven được giữ ở vị trí cố định bằng 3 cây tre dài khoảng 2 mét rưỡi cắm chéo vào nhau có cột dây chỗ chéo. Hai cây cặp hai bên hông, một cây chận phía đuôi lọp, phía đầu lọp đã bị tấm đăng chận lại. Như vậy nước chảy cái lọp không trôi được. 

Cá tôm lội dọc theo bờ sông kiếm mồi. Khi đi tới tấm đăng tre, nó không đi được nữa, có khuynh hướng lủi xuống đáy sông, đi dọc theo tấm đăng. Khi tới cửa vuông 3 tấc chừa sẵn, cá tôm chui vào đi tiếp. Như vậy nó đã chui vào cửa lọp. Câu tép 

Anh em tôi còn một thú vui nữa là câu tép. Ðầu mùa nước nổi khi nước bắt đầu ngập sát mé bờ sông, anh em tôi chuẩn bị đi câu tép. Cần câu chỉ là một cọng lá dừa chuốt nhỏ, lớn bằng cọng chân nhang, dài chừng 4 tấc. Ðầu nhỏ của cọng lá dừa quấn lại thành một vòng tròn bằng chiếc nhẫn đeo tay. Cột vào đầu “cần câu” là một sợi chỉ dài chừng 3 tấc. Không có lưỡi câu, nhưng thay vào đó là một vòng tròn dây kẽm nhỏ, luồn dọc thân một con trùng làm mồi . 

Chúng tôi tự chế tạo 5-6 cái cần câu … nội hoá như vậy và bắt đầu đi câu . Cần câu được cắm dọc theo bờ sông, cách nhau chừng vài thước. mỗi khi cắm một cần câu, chúng tôi búng xuống mặt nước kêu “chụt, chụt” vài cái. Phải búng đúng cách, chỉ tạo tiếng kêu mà không làm nước văng tung tóe. Búng nghe “chụt” chúng tôi gọi là búng tôm, còn búng làm nước văng tung tóe chúng tôi gọi là búng cá, chỉ thu hút được mấy con cá mà thôi. 

Con tép nghe tiếng búng sẽ tìm đến ăn mồi. Khi đeo được vào vòng mồi trùng, con tép rất say mồi. Nó đeo dính vào cục mồi và lội vòng vòng. Nó chỉ buông mồi khi mình kéo nó lên mặt nước. Ðầu cần câu nhỏ bé sẽ gục xuống hẳn, và cọng chỉ nhợ câu sẽ quay vòng vòng, vẽ trên mặt nước một cái vòng tròn đường kính độ một tấc. Mặt nước sông rộng mênh mông, lên tới mé bờ, loang loáng sáng. Gió thổi bông mận, bông bần rơi lả tả. 

Ði tới đi lui thăm câu, thấy một cần gục xuống, cọng nhợ chỉ quay vòng, anh em chúng tôi mừng quá đỗi mà không dám la lớn, sợ tép bỏ mồi . Chúng tôi sẽ dùng tay trái nhẹ nhàng nâng cần câu lên cho con tép lên gần tới mặt nước. Tay phải chúng tôi cầm một cái rổ nhỏ, nhẹ nhàng xúc từ phía ngoài sông vào bờ. Khi con tép được nâng lên tới mặt nước nó sẽ buông mồi, búng mạnh một cái thoát thân ra phía ngoài sông và sẽ lọt vào trong rổ . Dỡ rổ lên, một con tép đang búng chành chạnh liên hồi và những trái tim nho nhỏ của anh em chúng tôi cũng đập thình thịch, thiệt là hào hứng ! 

Có khi cá cũng lại ăn mồi trùng của chúng tôi. Nhưng nhìn cách ăn câu chúng tôi biết được đó là con cá hay con tép. Con cá ăn câu thì cần câu sẽ giựt xuống rồi bật lên liên hồi. Con tép ăn câu thì cần câu gục xuống rồi giữ ở đó, còn cọng chỉ nhợ câu quây vòng vòng vẽ theo một cái hình nón. Khi mình lại dùng rổ hớt, con cá thường chạy đi, con tép thì vẫn đeo mồi. 

Câu tép như vậy không nhiều, bữa nào trúng mùa lắm cũng chỉ được 10-20 con tép, mỗi con to bằng ngón tay. Nhưng chúng tôi sẽ xách rổ ra vườn hái thêm một rổ rau, nào là rau má, rau ngót, rau muống, rau lang, rau cải trời, rau dịu… Thôi thì hầm bà lằng, gặp rau gì ăn được là hái đem về cho mẹ tôi nấu một nồi canh tép, cả nhà cùng ăn. Hí ha, hí hố thiệt là vui vẻ. 

Hến

Chừng hai tuần sau khi gia đình chúng tôi đến Hoa Kỳ và nhập cư ở thành phố này, Chung đến thăm. Trước anh một tuần thì có ông mục sư Tuế. Ông này mang cho một số thịt đông lạnh gói trong lớp giấy bọc màu vàng xỉn. Mẹ tôi đem bỏ hết vào tủ lạnh, và phải đến hơn một tuần sau chúng tôi mới khám phá ra mớ thực phẩm cao cấp này đã hết hạn cả năm về trước. Mẹ tôi mang vất thùng rác một cách tiếc nuối, nhất định bà còn chưa quên những rổ cá ươn thối cả khu phố giành giật nhau ở cửa hàng mậu dịch quốc doanh đầu con hẽm nhà chúng tôi ở Sài Gòn. “Mô Phật, đừng có nói hành người ta tội nghiệp. Người ta có lòng đem cho mình mà các con.” Tất nhiên là tôi không nói gì. Mấy cái chuyện đó đã có vợ tôi và mấy cô em gái lo liệu. 

Chung đến không mang theo gói thịt cá đông lạnh nào hết. Nhưng anh có một thùng đồ nghề để trong chiếc pickup [1] màu xám của mình. Chung đi một vòng căn apartment hai phòng đầy nghẹt người và trống hoang tất cả những thứ khác, săm soi từng lỗ cắm điện, mấy vòi nước trong nhà tắm, cái bếp ga, và cái tủ lạnh mới toanh cô em gái sang Mỹ đã lâu mua cho gia đình. Cả nhà xúm lại quan sát từng cử chỉ của Chung và luôn luôn có một ai đó sẵn sàng trả lời một cách mau mắn những câu hỏi của anh. Lần viếng thăm đầu tiên của Chung đủ làm cho mẹ tôi mê anh tít thò lò. “Ôi cái thằng sao mà tử tế!” Vợ tôi nhìn cô em chồng độc thân cười cười, “Người ta có vợ hai con rồi đó mẹ à.” Cô em phát cáu, “Cái đồ thằng cha đen thui đen thủi ai mà thèm!” Mẹ tôi chấm dứt cuộc thảo luận bằng một câu tục ngữ rất chi là bóng bẫy, “Đúng là bồ hóng chê lọ nghẹ!” 

Chung và tôi làm thân với nhau rất nhanh. Ở tuần thứ ba của quãng đời tị nạn, tôi tìm được một việc làm khiêm tốn ở một tiệm ăn do người bản xứ làm chủ. Tôi sẽ tiếp tục có những công việc khiêm tốn như thế trong những năm về sau. Vào những ngày nghỉ, Chung gọi điện thoại mời tôi đến chơi, thường là vào buổi tối. Ở đó chúng tôi ngồi ở chiếc bàn ăn trong căn bếp uống bia và nói chuyện người chuyện mình. Vợ anh chẳng khi nào tham dự vào những buổi nói chuyện như vậy. Chị không biết tiếng Việt. Chị trả lời chồng với cái giọng mềm và hơi kéo dài của người miền Nam Hoa Kỳ. 

Đó là một người đàn bà Mỹ tầm thước, chị cao hơn Chung nửa cái đầu, và ít lời. Khuôn mặt tròn lốm đốm tàn nhang mang vẻ bình yên một cách buồn bã, hoặc buồn bã một cách bình yên, như thể hai điều này cần thiết phải đi chung với nhau. Về sau tôi biết được rằng Chung đã làm việc cực nhọc mấy năm ròng để chị có cơ hội hoàn tất chương trình y tá ở ngôi trường Đại Học nằm ở phía Tây của thành phố chúng tôi đang cư ngụ. Chung tiếp tục làm việc cực nhọc như thế sau khi người vợ Mỹ ra trường và tìm được việc làm. Chung làm thợ tiện, và xem ra anh hài lòng với công việc của mình. Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa hề biết gì về đoạn mở đầu của cuộc hôn nhân giữa cô gái người Mỹ và anh cựu binh thiết giáp Việt Nam. Chung chưa bao giờ kể và tôi chưa bao giờ hỏi. 

Thành phố tôi ở nằm lọt thỏm trong một thung lũng bằng phẳng kéo dài hàng trăm dặm. Từ thành phố, đi về hướng nào cũng gặp phải những cánh đồng ngút mắt, và xa hơn nữa là trùng trùng lớp lớp những núi và núi. Thỉnh thoảng Chung đưa tôi đến những cánh đồng vừa mới thu hoạch xong. Ở đó chúng tôi đi lom khom dọc những luống đất thẳng băng tìm mót tỏi, hành củ, hoặc khoai tây còn sót lại. Những chiếc bao nhựa lấy từ siêu thị Safeway hay Von’s sẽ nhanh chóng đầy lên với mớ nông phẩm và được buộc lại kỹ càng trước khi vất vào thùng chiếc pickup màu xám. Chúng tôi cười nói vui vẻ trên đường về, mặc kệ tay chân mặt mũi lấm lem bụi đất. 

Vào những dịp này, Chung thường nhắc lại những lần đi mót khoai mót đậu ngày còn nhỏ. Những mầm khoai lang màu đỏ tím không lớn hơn ngón tay út được phủi sơ đất cát và bỏ vào miệng nhai rau ráu. “Ngọt lịm, ông ơi!” Trong một số năm tháng sau đó, chúng tôi vẫn thường đi chung với nhau trong những chuyến “gặt hái” như vậy, có khi chỉ có hai người, có khi với một số bạn bè người Việt trong cùng thành phố. Vợ con của Chung không bao giờ hiện diện trong những chuyến đi như vậy. “Chúng nó bảo sao không ra siêu thị mua, vừa rẻ, vừa đỡ mất thì giờ.” Chung thường bảo vậy mỗi khi có ai đề cập đến việc này. 

Một hôm Chung gọi điện thoại, giọng hào hứng. “Ông qua đây, tôi có cái này hay lắm.” Khi tôi đến nơi, chỉ có mỗi một mình Chung đang loay hoay ở nhà bếp. Chắc là vợ con anh đã đi chơi hay mua sắm gì đó rồi. Chung đang nướng mấy cái bánh tráng trên cái bếp điện. “Cái hay lắm” thơm nức mùi hành mùi sả đang bốc hơi nghi ngút trong chiếc đĩa sứ lớn đặt trên bàn ăn. Thì ra là nghêu xào. “Nghêu ở đâu mà nhỏ xíu vậy?” Tôi hỏi. “Không phải nghêu, hến đó.” Chung trả lời, giọng chắc nịch. Tôi không biết là quanh đây có hến. Những con hến nhỏ bằng móng tay cái, vỏ màu xanh rêu mẹ tôi thỉnh thoảng vẫn mua về nấu canh mồng tơi. Đã lâu lắm rồi tôi không còn được ăn canh hến nấu với mồng tơi. Không có mồng tơi, và nhất là không có hến ở quanh đây. Tôi cúi nhìn mấy cái vỏ hến đen xỉn cỡ ngón tay cái của mình và đâm ra nghi ngờ. Đây là những con baby clams![2] “Anh tìm chúng ở đâu vậy?” “Ở một cái hồ trên núi. Hôm nào mình đi nhé.” Chung trả lời, vẫn với cái giọng chắc nịch. 

Bỏ lại phía sau lưng những cánh đồng trồng cây ăn trái, xa lộ 178 sẽ ôm sát thượng nguồn sông Kern, the killer river,[3] như người bản xứ vẫn gọi. Bắt đầu từ nơi đây, xa lộ 178 biến thành một đường đèo hiểm trở. Con đường hẹp lại, hai lối đi ngược chiều nhau chạy vòng vèo giữa một bên là vách núi dựng dứng và phía bên kia là bờ vực chênh vênh nhìn xuống giòng nước sôi sục của sông Kern ba trăm bộ phía dưới. Dọc hai bên đường, chừng vài dặm lại có một khoảng trống nhỏ đục sâu vào vách núi hoặc nằm chơi vơi bên gành đá để xe hỏng máy hoặc chạy chậm ghé vào nhường chỗ cho những xe phía sau. Những nơi này được gọi là turnouts. Ở mãi trên đỉnh đèo, nơi con đường chấm dứt, là một chiếc hồ thực lớn. 

Hồ Isabella nguyên là một cái lũng thiên nhiên nằm giữa những hòn núi cao, nước từ những cơn mưa và từ những khối tuyết tan vào mùa Xuân đổ xuống đây trước khi hòa nhập vào thượng nguồn sông Kern và biến nó thành một giòng thác khổng lồ. Mặt phía Nam được chặn lại bởi một con đê bằng bê tông cốt sắt cao sừng sững như một dãy núi bị phạt ngang. Ngoại trừ cửa đập, hai bên bờ dốc thoai thoải của con đê được phủ đầy bởi những tảng đá lớn từ đó mọc lên những bụi cây nhỏ cằn cỗi. Hồ rộng mênh mông, một con đường trải đá chạy vòng vèo ôm lấy bờ hồ. Vào cuối tuần, thiên hạ từ những thành phố xa gần kéo đến cắm trại, câu cá, trượt nước làm khu hồ náo nhiệt hẳn lên. Chính là ở hồ Isabella này Chung và tôi đã đến nhiều lần để bắt hến. 

Nơi chúng tôi dừng lại khá vắng vẻ. Mang theo một chiếc cào sắt nhỏ và một bao cát, chúng tôi lội ra chỗ nước ngang thắt lưng, cào xới sục sạo dưới lớp bùn đen lẫn cát của đáy hồ tìm bắt những con nghêu nhỏ. Lũ nghêu sinh sôi nẩy nở khá nhiều nên công việc không mấy khó khăn. 

Chỉ vài tiếng đồng hồ sau, bốn bao cát mang theo đã đầy cứng những con nghêu nhỏ đen thui thủi. Chung vất chúng vào thùng xe, và chúng tôi ra về hân hoan. Xe xuống đèo, bờ vực phía tôi ngồi thỉnh thoảng biến mất trong tầm mắt ở những khúc quanh hiểm nghèo làm tôi thót ruột. Thực sâu phía dưới, dòng sông Kern quằn quại gào thét giữa hai bờ vực dốc đứng. Chung hoàn toàn không để ý đến vẻ bứt rứt của tôi. Thỉnh thoảng anh rời mắt khỏi con đường vòng vèo trước mặt, nhìn vào kính chiếu hậu. Tôi đoán Chung đang bận tâm đến những con baby clams mà anh nhất định gọi là “hến” trong những cái bao cát trong thùng chiếc pickup. 

Chung thường kể đi kể lại không mệt mỏi những lần đi bắt hến ở sông Cái. Con sông đào bên tả ngạn cướp đi dòng thủy lưu, sông Cái ngày mỗi cạn dần, có nơi lòng sông trơ ra toàn cát. Những con hến nhỏ bằng móng tay có lớp vỏ màu xanh rêu sống ở những quãng vắng, nơi nước chỉ đến thắt lưng. Chung sinh ra ở miền Trung. Con nhà nghèo. Cha mất sớm, mẹ vất vả một đời. Những mầm rễ khoai lang màu đỏ tím bám đầy đất cát, những gié lúa hiếm hoi rơi vãi trên cánh đồng mới gặt, những con hến nhỏ màu xanh rêu ở quãng sông cạn theo đuổi Chung suốt những tháng năm tuổi nhỏ. “Có khi bắt được cả chem chép. Tôi luôn luôn cạy vỏ chúng ra để tìm ngọc trai!” Tôi phá lên cười, làm gì có ngọc trai trong chem chép, hoặc ngay cả trong những con sò huyết đắt tiền. “Hồi đó mình còn nhỏ, ngu lắm. Cứ nghĩ đến truyện Trọng Thủy Mỵ Châu.” 

Cái đất nước nghèo xác của chúng tôi có nhiều huyền thoại. Gần như ai cũng biết chuyện Trọng Thủy được cha, vua nước Triệu, gởi đến triều đình vua Thục để ăn cắp chiếc nỏ thần đã nhiều lần chặn đứng những đợt tấn công của ông ta trước đây. Ông hoàng Trọng Thủy thành hôn cùng công chúa Mỵ Châu và cả hai nhất định đã có hạnh phúc với nhau, ít nhất cho đến khi Trọng Thủy đánh tráo được chiếc nỏ thần và kiếm cớ về nước. “Nếu có chuyện gì xảy ra và em phải rời bỏ kinh thành, hãy để lại dấu tích cho anh tìm em.” Ôm chiếc gối nhồi lông chim vào lòng, Mỵ Châu trả lời, “Anh đi theo con đường lông ngỗng thì sẽ tìm thấy em.” Cuộc tấn công sau đó của quân nhà Triệu xảy đến bất ngờ như cơn lốc. Vứt chiếc nỏ vô dụng, vua Thục kéo con gái lên lưng ngựa phóng ra khỏi kinh thành Cổ Loa đang bốc cháy ngùn ngụt. 

Trong lúc hối hả, công chúa Mỵ Châu chỉ mang theo được có mỗi chiếc gối nhồi lông ngỗng trên đó mỗi đêm nàng vẫn tựa đầu và nghĩ về những ngày tháng hạnh phúc với chồng. Những chiếc lông ngỗng trắng mềm mại từ chiếc gối được tung ra dọc con đường đào vong. Vua Thục dừng ngựa ở chiếc hồ đổ vào biển. Hồ lớn quá, không thể vượt qua, và tiếng vó ngựa của lính nhà Triệu vọng đến từ phía sau. Nhà vua quay đầu lại chính vào lúc chiếc lông chim cuối cùng từ tay công chúa Mỵ Châu rơi xuống đất. Con đường lông ngỗng đã hoàn tất nhiệm vụ đưa đường cho kẻ thù tìm đến. Vua Thục tuốt gươm ra. Mỵ Châu ngã xuống cạnh bờ nước, máu từ cơ thể nàng chảy vào chiếc hồ lớn. Những con trai trong hồ sẽ ấp ủ những giọt máu của Mỵ Châu trong lớp ngọc trắng óng ánh tiết ra từ cơ thể của chúng. Đó là chuyện về sau, rất lâu sau khi Trọng Thủy tìm đến nơi. Mọi sự đã quá trễ. 

Kẻ phản bội luôn luôn xuất hiện quá trễ nhưng hình phạt có khi đến rất sớm. Người ta nói rằng ngọc trai ở chiếc hồ lớn sẽ lóng lánh hơn, đẹp đẽ hơn nếu được chùi rửa bởi nước lấy từ cái giếng ở thành Cổ Loa nơi Trọng Thủy đã nhảy xuống trầm mình. Có khi quyết định của ông-hoàng-điệp-viên đến từ niềm ân hận không thể chịu đựng nổi hoặc từ nỗi nhớ thương người vợ quá cố hoặc từ cả hai. Những viên ngọc trai được mang qua bên Tàu, ở đó những ông hoàng bà chúa sẽ gắn chúng lên bộ xiêm y lộng lẫy của mình trước khi đến tham dự buổi dạ tiệc của triều đình. Không có viên ngọc trai nào dành cho đứa bé bắt hến ở con sông chảy qua ngôi làng nhỏ thuộc miền Trung nước Việt. 

Tôi tiếp tục đi bắt hến và lượm nông sản cùng với Chung một thời gian. Đến một lúc nào đó, đời sống bỗng trở nên bận rộn. Có nhiều điều bức thiết hơn những con baby clams ở chiếc hồ nhân tạo trên núi. Công ăn việc làm, những nhu cầu và những vấn đề mới trong đời sống hôn nhân đòi hỏi nhiều thì giờ và công sức để giải quyết. Khi tôi từ chối lời rủ rê đi lượm tỏi của Chung, anh không giấu được vẻ thất vọng. “Không có ai khác đi cùng anh sao?” Tôi hỏi. “Mấy người đó bảo sao không ra siêu thị mua, vừa rẻ, vừa đỡ tốn thì giờ hơn.” 

Những lần đi cùng Chung bắt hến ở hồ Isabella ngày càng thưa ra, và sau đó tôi ngưng hẳn. Những bất đồng ý kiến giữa vợ chồng chúng tôi xem ra không còn có thể hoá giải được nữa. 

Chúng tôi sau cùng quyết định sẽ tự mình thử giải quyết vấn đề theo cách riêng của mỗi người. Và chúng tôi chia tay, mang theo với mình nguyên vẹn những nan đề chưa có lời giải cộng thêm nỗi phiền muộn đến từ sự thất bại của chính mình. Về sau Chung thỉnh thoảng ghé thăm căn apartment nhỏ xíu của tôi, mang theo những nhánh tỏi còn bám đầy đất cát hoặc những con hến có lớp vỏ đen xỉn mà anh tìm bắt được trong những chuyến đi lẻ loi. Có vẻ như vợ con anh và những người bạn Việt Nam trong vùng chỉ thích dùng tỏi mua ở siêu thị. Ngay cả đĩa hến xào hành sả thơm phức và những cái bánh tráng dòn rụm sẽõ trở nên nhạt nhẽo khi phải ngồi ăn một mình. 

Chính là nhờ vào bản tin buổi tối phát vào lúc mười một giờ đêm của một đài truyền hình địa phương mà tôi biết được cái tai nạn trên đèo 178. Chiếc pickup màu xám rơi xuống bờ vực lởm chởm đá và chìm nghỉm trong giòng nước xoáy của sông Kern, mang theo những bao cát chứa đầy những con nghêu nhỏ màu xám đen. “Mọi sự đã quá trễ khi người tài xế của chiếc xe tải hạng nặng nhìn thấy người đàn ông đang lúi húi phía sau chiếc xe của mình. 

Nạn nhân và chiếc pickup màu xám được gởi qua bờ vực, rơi xuống dòng sông Kern ba trăm bộ phía dưới, và tức khắc bị dòng nước hung hãn cuốn đi hàng dặm về phía hạ lưu. Tất cả những gì còn lại một vệt dài những con nghêu nhỏ vỡ nát nhầy nhụa dưới bánh xe của chiếc xe tải hạng nặng.” Ống kính máy thu hình bây giờ chuyển xuống mặt đường nhựa, và tôi có thể thấy chiếc vỏ nát nhừ của những con nghêu nhỏ. Không có một lời nào về những chiếc bao cát đã rơi xuống lòng sông cùng lúc với chiếc pickup màu xám và người đàn ông xấu số. “Người ta sẽ không bao giờ biết được điều gì đã khiến người đàn ông dừng xe một cách bất cẩn ở đàng sau khúc quanh nguy hiểm bên cạnh bờ vực cheo leo ở thượng nguồn con sông Kern hung hãn.” Người phóng viên của đài truyền hình đã chấm dứt buổi tường thuật như vậy. 

Tôi có chỗ không đồng ý với nhận định này của ông ta. Tôi cho rằng mình có thể hiểu được phần nào những gì đã xảy ra. Tấm chắn phía sau chiếc pickup màu xám đã bung ra vì một lý do nào đó và những con nghêu nhỏ từ một trong những chiếc bao cát đã tuôn xuống dọc con đèo 178 quanh co lồi lõm. Tôi có thể hình dung ngay tức khắc Chung đang hấp tấp dừng xe bên cạnh bờ vực dốc đứng và lui cui đóng lại tấm chắn. Có khi anh còn mò mẫm trong cái chập choạng của hoàng hôn để thu lượm những con nghêu nhỏ rơi vãi trong lòng xe và có lẽ ngay cả trên mặt đường. Người phóng viên bản xứ sẽ không bao giờ hiểu được vì sao người ta có thể trở nên bất cẩn cùng cực chỉ vì những con nghêu nhỏ vô giá trị như thế. Dù sao thì ông ta cũng đã nhắc đến “con đường xác hến,” a trail of smashed baby clams. 

Quê hương tôi không có huyền thoại nào về hến. Những viên ngọc trai màu trắng bóng ngời đến từ những hạt máu của nàng Mỵ Châu vẫn được các ông hoàng bà chúa mang lên người trong những dạ tiệc sang trọng không có chút liên quan nào đến loài hến hèn mọn, ở quê hương tôi hay trên đất Mỹ. Những con hến đen đủi trong mấy chiếc bao cát hoặc sẽ va vào vách đá lởm chởm của sông Kern và vỡ nát hoặc sẽ rơi tỏm vào giòng nước hung hãn và nhanh chóng bị cuốn về mạn dưới. 

Một hành trình gian khổ cho những con hến tội nghiệp. Một số sẽ kẹt lại dưới lớp đá ngầm, một số khác sẽ bị bắn tung khỏi mặt nước, nằm phơi mình trên đá sỏi làm mồi cho lũ chim và những con rái cá háu ăn. Những con nghêu nhỏ may mắn còn lại sẽ trôi mãi về miệt hạ lưu, ở đó dòng nước chậm lại và đổ vào một chiếc hồ rộng. 

Chung quanh hồ là những cây thông, cây bồ đề, cây khuynh diệp tỏa bóng mát lên dãy bàn ghế bằng hợp kim nhôm sơn màu xám nhạt. Vào những ngày cuối tuần, người ta kéo đến và bày thức ăn lên những chiếc bàn dài, tụm lại ăn uống nói cười vui vẻ, mắt thỉnh thoảng nhìn xuống hồ trông chừng đám trẻ nhỏ đang bơi lội, đùa giỡn ở thềm nước cạn. Tôi cũng sẽ đến đó, ngồi một mình ở chiếc ghế đá cạnh bờ hồ, nhấm nháp miếng khoai tây chiên mỏng dính, mắt không rời những đứa con gái nhỏ xinh đẹp trong bộ đồ tắm sặc sỡ đang rượt đuổi những con ngỗng ngờ nghệch trên bờ cát. Rượt đuổi chán, chúng sẽ chạy ùa xuống hồ, đắm mình trong làn nước mát. 

Thỉnh thoảng chúng chúi xuống sâu trong nước, mò mẫm tìm kiếm. Có khi là một viên sỏi chẳng ra hình dạng gì hết, có khi chỉ là một cọng rong xanh thẩm. Cuối cùng rồi chúng cũng tìm được vật tôi muốn chúng tìm thấy. Cả bọn sẽ chạy ùa lên bao vây lấy tôi, miệng liến thoắng giành nhau nói. “Ba có biết tụi con đã tìm thấy cái gì không?” Tất nhiên là tôi biết chứ, daddy knows everything![4] “Một con cá vàng,” tôi trả lời. Cả bọn phá ra cười, “Không có cá vàng trong hồ này, cá vàng chỉ ở trong những cái chậu bằng kiếng ở nhà hàng Tàu mà thôi, ba không biết hay sao?” Một đứa trong bọn sẽ nhắc nhở tôi như vậy. Và đứa kia sẽ xòe bàn tay nhỏ xíu của nó ra một cách thận trọng. “A baby clam!” Chúng đồng loạt hét lên. 

Tôi sẽ cầm lấy con nghêu nhỏ trong tay ngắm nghía một lúc rồi cải chính. “Không phải, đây là con hến.” Những cặp môi nhỏ hồâng hào sẽ mở ra, cong lên, uốn éo, và từ đó phát ra những tiếng “hến” tròn trịa, trong vắt như tiếng sáo. Rồi chúng lại phá lên cười. Kéo chúng vào lòng, tôi sẽ xoay mình về hướng Đông Nam, nơi có rặng núi cao màu xanh nằm phơi mình dưới nắng chiều. Và xuống giọng thật thấp như thể đang nói về một điều gì vô cùng bí mật, tôi sẽ kể chúng nghe cuộc hành trình của con hến nhỏ trong lòng bàn tay mình, bắt đầu không phải từ đỉnh núi cao ngất trên kia, nơi có chiếc hồ nhân tạo mang tên Isabella, không phải từ cái bờ vực dốc đứng nhìn xuống dòng sông Kern hung bạo ở ba trăm bộ phía dưới, mà từ một ngôi làng nhỏ bên kia bờ Thái Bình Dương, nơi dòng sông chảy qua sẽ cạn dần theo ngày tháng. 

tháng 4, 2000 

   [1]Một loại xe vận tải nhẹ có thùng trống phía sau để chứa hàng, rất thông dụng ở Hoa Kỳ 

   [2]Một loại nghêu nhỏ, tìm thấy ở vùng nước mặn lẫn nước ngọt, tương tự như hến ở Việt Nam 

   [3]Sông Kern chảy vào lãnh thổ Kern County, ở thung lũng San Joaquin, miền Trung tiểu bang California, Hoa Kỳ còn được biết đến như là “giòng sông giết người.” 

   [4]Cha thì cái gì cũng biết!

Câu Ếch 

Em gái tôi làm nghề gõ đầu trẻ, có đứa em chồng tên là con Phượng, nó lấy thằng Dậu, nhưng có lẽ vì thường coi vở kịch có tên là Vợ Thằng Đậu nên má tôi gọi tụi nó là vợ chồng thằng Đậu cho dễ nhớ. 

Hai đứa nó nghèo lắm, trôi dạt cùng với bày vịt từ tỉnh này qua tỉnh kia, từ ruộng này qua đồng khác, cứ nơi nào lúa gặt xong là nó đem vịt tới ăn lúa rơi rớt và ăn cua ăn ốc. Có những địa danh lạ hoắc tôi chưa từng nghe tới bao giờ như Tràm Chẹt, Gò Quau, Trà Qươn mà vợ chồng con cái nó gọi là "Gò Goao, Trà Guơn". 

Trên ruộng đồng ở quê tôi, không phải là chủ vịt tự do muốn lùa vịt chỗ nào cũng được, mà có nhiều khi phải trả tiền, vì ruộng người ta tuy đã gặt rồi nhưng còn thâu hoạch được lúa chét cả mấy giạ một công. 

Cách đây sáu bảy năm, tụi nó xin cắm cái chòi lá phía sau vườn nhà con em tôi bên Kinh 7 mà che nắng che mưa. 

Có nhiều lời ra tiếng vào là sao cô để tụi nó ở đó, mời tới thì dễ nhưng sau này đuổi ra khó lắm đó, nhất là vợ chồng cô lại ly dị rồi thì bảo bọc mấy đứa em chồng làm quái gì(?) 

Con em tôi bỏ ngoài tai hết thảy, đã vậy có năm còn qua nhà má tôi ở bên Kinh 5 xin cho tụi nó qua chăn vịt, cắm lều ở vườn nhà chị Tư tôi kế bên nhà. Anh Chị Tư có cái nhà xây khá đẹp, vườn mía ổi, nhãn chuối xum xuê nhưng đã qua bên Úc ở, vì tất cả con cái đều đi định cư ở bển, mấy năm ổng bả mới về chơi một vài tháng. 

Má tôi khen thằng Đậu hết lời: 

- Không biết nó dạy con làm sao mà chớ hề đụng tới trái ổi cây mía, kêu tụi nó hái mà ăn hông thôi cũng rụng đầy đất mà không một đứa nào dám rớ tới, chừng mình hái cả rổ mang vô lều tụi nó mới dám ăn. 

Thằng Nghi con ông bố đỡ đầu của tôi cũng có nuôi đàn vịt, nên thường đi chăn với thằng Đậu. Khi biết tánh nết của thằng kia rồi, có lần nó tuyên bố trong buổi nhậu: 

-Tôi dám chắc trong nguyên cái Kinh 5 này không ai tốt bằng thằng Dậu, tuy nó nghèo nàn, quê mùa, thất học nhưng ngay thẳng và rất tốt bụng.. 

Mãn mùa nước năm đó, tụi nó bán vịt rồi lại kéo nhau về bên Kinh 7 để làm lúa mướn và có thể để cho mấy đứa con đi học. 

Cả 3 đứa con trôi nổi theo cha mẹ rày đây mai đó nên có được đi học ngày nào đâu. Con em tôi lại là cô giáo nên bắt buộc từ giờ cả ba đứa phải đến trường xin học (Cháu cô giáo mà mù chữ coi sao được). 

Khi lục giấy khai sanh thì mới tá hoả vì hai thằng em không phải là con trai mà là con gái! 

Thằng lớn nhứt, chú nó đặt tên giùm nên có cái tên nghe cũng được lắm: Nguyễn Trường Giang. Tới hồi phiêu bạt thì đẻ 2 thằng kế tiếp đặt tên là Cảnh và Kiểng bởi vì thằng Đậu nói "có cảnh ắt có kiểng". Đẻ rồi nhưng không có nơi ở nhất định và tiền nong không nhiều nên tụi nó trây luôn không làm khai sanh gì hết. 

Tới hồi về Kinh 7 mới đóng tiền phạt rồi khai sanh một lần luôn, ghi là Nguyễn Trường Cảnh và Nguyễn Trường Kiểng. 

Không biết cái ông nào điền đơn giùm trong sổ hộ khẩu, thấy thằng lớn là Nguyễn Trường Giang rồi, thì ghi hai thằng em là Nguyễn T. Cảnh và Nguyễn T. Kiểng. 

Cũng không trách được vì ta thường thấy nếu ông nào có tên Nguyễn Văn Xoài thì có thể viết tắt là Nguyễn V. Xoài. 

Bây giờ giở khai sanh 2 thằng em ra, mới thấy là khi vô sổ bộ họ thấy chữ T. bèn ghi vô cho đủ chữ là Nguyễn Thị Cảnh và Nguyễn Thị Kiểng. 

Đã thế đằng sau còn mở ngoặc ra mà thêm (Nữ) mới chết cha con người ta, thế này là con gái đứt đuôi con nòng nọc rồi chớ còn gì nữa. 

Năm má tôi bị té, nằm liệt giường, mấy anh chị em ở xa về muốn tìm một người săn sóc giúp đỡ bà, con Phượng liền xung phong lãnh nuôi. Thấy nó tận tuỵ với mẹ mình như là con gái ruột, chúng tôi trả tiền gấp mấy lần tiền công cho nó, nên nó cũng cảm động lắm. 

Rồi từ đó về sau, trong nhà có việc gì dù lớn dù nhỏ, gọi điện thoại là tụi nó đều qua giúp đỡ hết lòng. Mà má tôi cũng rộng rãi với nó lắm. 

Mùa hè vừa qua, con em tôi nghỉ dậy hè, lên SG chơi, nó nói: 

-Thằng Dậu biết anh về, nó cứ áy náy là không biết gởi quà gì cho anh, gởi ếch được không(?) Em nói chắc anh thích, nên đêm hôm rồi nó đi cắm câu, về làm sạch sẽ rồi sáng nay gởi em mang lên đây cho anh. 

Tôi mở hộp mốp đông lạnh ra coi thì có tới gần 2kg thịt ếch nên hỏi: 

-Trời ơi, ếch làm sạch sẽ như vầy mà được chừng này, thì nó câu mấy ngày mới được? 

-Nó câu có một bữa thôi đó. 

-Tao không tin, vì hồi còn nhỏ, tao biết đi soi, đi câu lâu lắm mới được một chục con ếch chứ không phải dễ dàng. 

Loài ếch khôn tổ mẹ chứ đâu có khờ như cá. Ngoại trừ hằng năm khi có những cơn mưa đầu mùa, ếch nó ra khỏi hang tìm kiếm bạn tình, nó kêu "chuộc chuộc" trên khắp cánh đồng, sau đó có mấy bữa là tụi nó trốn đâu mất tiêu. Đến hồi nước lớn, đi soi đêm ở những ao đìa rậm rạp thì lâu lâu mới đâm được một con ếch bà thiệt bự; còn mấy người câu ếch ở những ao đầy lục bình thì dùng cần câu rê với mồi bông mướp vàng, giả làm con bươm bướm, ếch nhảy theo táp, nhưng cũng được một vài ba con đã mừng thấy tổ chứ đâu có được nhiều như vầy. 

Hồi còn ở nhà, cứ mỗi năm đến khoảng tháng ba, trời gầm gừ đổ mưa là mấy con ếch nằm trốn trong hang thỉnh thoảng kêu lên một tiếng "uệch" là tao đi tìm ra hang nó, đào hoặc thọc cù nèo vô bắt được chừng hai ba con đã quí lắm rồi. Bây giờ mày nói đi câu có một đêm mà được mấy chục con thì sao tao nghi quá, vì bây giờ đang trái mùa. 

-Ai biết đâu, bữa nào anh về dưới đi theo nó một bữa là biết liền chớ gì. 

Tôi về dưới Kinh 5 thăm bà già, rồi qua em tôi bên Kinh 7 ở chơi vài ngày và tỏ ý muốn đi câu ếch với thằng Đậu. 

Nhà nó ở tuốt luốt đằng sau vườn giáp mí ruộng. Gọi là nhà chớ thiệt ra đó là cái chòi lá cất túm húm trên cái gò đất bề ngang chừng sáu bảy thước. Tuy nhỏ nhưng phía trong cũng kê được 3 cái chõng cũ có trải chiếu đã xười mép hết trơn. 

Tụi nó nấu ăn phía ngoài hiên trên mấy cái cà ràng, mùa mưa lấy lá mà che chắc là khổ lắm. 

Quần áo thì ôi thôi nó máng quanh vách lá, nhét cả lên xà nhà. 

Nhà nó con đông nên tôi cũng hiểu là tại sao vợ chồng nó lam lũ cùi đày mà mãi cho tới bây giờ không có nổi một cục đất chọi chim, phải đi ở nhờ ở đậu thế này. 

Thấy tôi ái ngại vì hoàn cảnh của mình thì nó cười hịch hạc: 

-Chị Ba cho ở ké như vầy sướng quá trời còn đòi gì nữa hả anh, người ta con còn đông hơn em mà phải ở dưới cái ghe chút híu đó thì sao. 

Nói để anh cũng mừng cho tụi em, nhờ mấy năm qua các anh chị về đây chơi, có cho tiền hoài nên em lo đi làm mướn góp thêm vô, mua được mấy công ruộng dưới gần Hòn Đất miệt Hà Tiên rồi, nhưng vùng đó công ăn thời có mà việc làm thời ...chưa, nên bây giờ hai vợ chồng chia ra ở hai nơi, chỉ có tới mùa mới tụ về một chỗ mà cắt lúa mướn, chớ ruộng rẫy nhà có bao nhiêu đâu. 

Tôi hỏi: 

-Bộ cái đìa cá dồ này không bắc cầu nữa hay sao? 

-Dạ chánh phủ cấm. Nghe nói có cơ quan nước ngoài hay quốc tế Unicef gì đó nói nếu mà còn để dân cho cá ăn cứt, thì họ không viện trợ nữa, nên xã ấp làm dữ lắm, bắt được ai đi cầu như kiểu xưa là phạt một táo lúa. Ỉa có mấy cục cứt mà phạt cả táo lúa, lúa phạt đó xay ra một nhà ăn được cả tuần! 

-So sánh kiểu nghe ghê luôn! Anh nhớ cái đìa này hồi trước khoảng khoát lắm mà sao bây giờ bình bát mọc dầy bịt xung quanh vậy? In hình như chỉ có một cây bự ngay góc đìa thôi mà. 

-Dạ cũng tại mấy đứa con của em. 

-Sao lại tại tụi nhỏ? 

-Hồi mới về đây, quà bánh có gì đâu, tụi nhỏ thèm khát đủ thứ, nên khi trái bình bát chín vàng là tụi nó ních hết. Cũng hổng ngon lành gì, chỉ thơm chút đỉnh chớ ăn lạt nhách. Thứ trái này bây giờ đâu có ai mua, nên tụi nó ăn thả giàn. 

Mà mấy đứa nhỏ nuốt luôn hột anh à. Ăn rồi ra cầu cá ngồi, cá táp hết nhưng cái hột có một lớp vỏ xốp cứng lắm, cá cũng không tiêu hoá nổi nên khi cá ỉa ra thì nổi đầy trên mặt ao, gió thổi tấp vô bờ đìa rồi mọc lên xanh um. Lâu lâu em chặt tỉa bớt làm củi chụm đó chớ, cũng may nhờ nó cũng đỡ được một số tiền mua củi. Trong chị Ba bây giờ ai nấy đều nấu bếp bằng ga hết trơn rồi. 

Bữa cơm chiều ăn sớm cho khỏi nuỗi chích, chỉ có món cá rô nướng chấm muối ớt, với mấy mục măng xắn trong bụi tre sau nhà, luộc lên chấm nước mắm tỏi, mà ăn ngon quá xá. 

Thằng Dậu sửa soạn đồ câu: Nó xách cuốc ra góc vườn đào ít trùn, cắt khúc khoảng một lóng tay, móc vô lưỡi câu rồi ngâm vô chất nước gì sền sệt như dầu hắc mà bốc mùi thúi hoắc.

Dậu giải thích: 

-Chất này người Tàu gọi là A-quì, hồi trước mình không biết nó là chất gì nên cứ phải mua ngoài tiệm, nhưng thực ra nó chỉ là gan con cá đuối. Cá đuối lớn đâu có ai mua nguyên con, người ta xả cá ra từng miếng nhỏ mà bán. Khi mình mua một vài ký, phải nhớ xin cho được một miếng gan, lúc xào nấu gì cũng phải bóp nát miếng gan này vô trong nồi, thì món cá đuối không còn tanh nữa. Nhưng gan cá đuối lớn lắm, họ bán rẻ rề, có khi phải bỏ thùng rác hay nấu cho heo ăn, em xin về bằm nhỏ rồi bỏ vô hũ, không thêm muối hay chất gì khác nên chừng vài ba tuần là thúi lắm, phải móc trùn vô lưỡi câu rồi mới ngâm vô a quì, chớ ngâm mồi trong thuốc này rồi mới móc thì cái tay thúi đến mấy ngày, dù rửa bằng bất cứ xà bông gì cũng vẫn còn thum thủm. 

Chúng tôi đi dọc theo những mương đìa rậm rạp, thằng Dậu nhắm địa thế rồi mới cắm câu, đầu cần câu xoay qua hướng nào thì cần kế tiếp phải theo hướng đó, nếu không làm như vậy, đến đêm trời tối mịt đi soát câu không biết đàng nào mà tìm, cho dù có xách theo đèn. Mồi không bỏ xuống nước mà chỉ để khơi khơi trên bờ. 

Trời nhá nem tối là đã bủa câu xong, nhái ngoài đồng hoà lên bản nhạc "nhắt nhen" nghe đều đều buồn tênh. 

Chúng tôi pha cà phê nói chuyện gẫu để chừng 10g tối sẽ đi soát câu. 

Tức cười nhứt là giọng con Phượng, hễ đề cập tới ai là nó khen dẫu: 

-Trời, ông đó bây giờ giàu dữ, ở nhà tường! 

Nó nói chuyện lan man tới mấy đứa cháu gái gọi nó bằng dì, chỉ ước mong đổi đời nếu lấy được chồng Đài Loan. Mấy đứa đó đứa nào coi cũng được, nhưng không sao lấy chồng được, vì cả đám không có đứa nào có giấy khai sanh hay chứng minh nhân dân gì ráo trọi, mà tiền để đi làm giấy bây giờ cũng không có. 

Chúng tôi xách đèn pin đi dỡ câu, vì theo thằng Dậu nói là cá thì ăn câu chừng chạng vạng tối với lúc hừng đông, còn ếch thì chỉ ăn câu lúc buổi tối rồi thôi, nên mình cuốn câu về hết cho rồi. 

Quả thực cái mồi tẩm a quì này hấp dẫn con ếch một cách kỳ lạ, cứ cách vài cần là có một con dính câu đang ngồi xổm, hai chân trước đang mày mò gỡ lưỡi câu ra, mà khốn nỗi con nào con nấy đều nuốt tuốt vô tới cổ họng thì làm sao mà gỡ cho nổi. 

Chẳng phải loài ếch ngu muội mà cắm đầu ăn mồi thúi tha, thiếu gì người có chức có quyền, "chi dân phụ mẫu" tưởng mình khôn ngoan mà ăn dộng những thứ thúi gấp trăm lần, bị thiên hạ gọi là ăn bẩn! 

Câu cá bằng ong

Chào các bác. 

Nói về các kiểu câu lạ và độc đáo khắp mọi nên trên thế giới thì rất muôn hình vạn trạng. Riêng ở VN câu cá lóc bằng con ong bầu có lẽ cũng độc đáo ko kém. 

Hồi nhỏ, năm ấy vào khoảng 1978 thế kỷ trước, đất nước trong thời kỳ bao cấp và phải nói cực kỳ khó khăn. Gia đình em được cơ quan ông già cấp cho một căn nhà tập thể. Cách đấy khoảng 500m là một cái hồ trồng sen, súng và rau muống mọc hoang. 

Lũ trẻ bọn em thì nghịch ngợm vô cùng, hết đánh đáo, tạt lon, bắt chim thả diều. Nói chung ko trò nào mà không chơi hết. Một trong những thú vui tuổi thơ còn có thú vui bắt con ong bầu buộc chỉ vào cánh làm diều chơi (một loại ong màu đen hay hút mật ở cây mướp). Cách bắt ong rất đơn giàn, lấy bịch nilon lận xuống một hai vòng giống như ta mặc áo len cổ lọ mùa lạnh. Cai đáy bịc nilon thì buộc túm vào cái que rồi cứ ra giàn bầu bí hoặc mướp mà bắt. Nói vậy chứ không ít hơn vài ba lần bị ong chích. Nhưng nó nhức độ hơn 1h đồng hồ là hết. 

Một hôm cả bọn kéo nhau ra cái hồ nước lấy thuyền giấy buộc con ong vào để nó kéo cái thuyền chạy. Bay được một lúc con ong mệt quá rơi xuống nước và nằm im bất động. Duy chỉ có đôi cánh lâu lâu lại dùng chút ít sức lực của mình để vẫy vùng nhằm thoát khỏi cai hồ nước quái ác. 

Bỗng nghe một cái "bụp". Chiếc thuyền giấy chạy băng băng rồi chìm nghỉm dưới làn nước xanh thẫm. Lũ trẻ bọn em nháo nhác chả hiểu chuyện gì xảy ra với chú ong thân yêu. 

Chưa đến hai phút. Một con cá lóc to bằng bắp chân người lớn lờ đờ nổi trên mặt nước mà lũ trẻ vẫn chưa hiểu ra chuyện gì. 

Thì ra lóc ta thấy con mồi động đậy nên lao lên đớp. Theo phản xạ tự nhiên khi gặp nguy hiểm, con ong sẽ thụt ra thụt vào cái ngòi đầy nọc độc với tần suất 137 lần / phút nên em lóc dính đòn là cái chắc. 

Một phát minh mới được bọn trẻ áp dụng. Thế là cái trò câu cá lóc bằng ong ra đời kể từ đấy

Cá đuối

Con cá đuối to lớn đại chang như cái nia thì ngư dân gọi là con cá "đuối biềng", chẳng biết tại sao người ta đặt tên nó hay ho làm vậy. Còn con cá có cái mỏ quặp xuống hai bên, hình thù giống như con chim đại bàng đang bay trên trời, oai phong như máy bay tàng hình B1 thì lại kêu là con Đuối Ó. 

Ở bờ biển California vào mùa hè, cá đuối hay nằm phục kích để bắt mồi dưới cát chỗ nước không sâu lắm, ai đạp lên mình nó là nó cong đuôi lên "chơi" liền. 

Bởi vậy nếu đi tắm biển chúng ta phải cẩn thận, ngộ nhỡ bị nó đâm, hãy nặn máu ra nhiều nhiều cho bớt nọc độc, phải lấy ngay một điếu thuốc lá đang cháy mà hơ thật sát vô vết thương, rồi chở đi bác sĩ hay bịnh viện liền để được chích thuốc chống phong đòn gánh tetanos và thuốc trụ sinh. 

Nói đến vụ cá đuối đâm, tôi có một kỷ niệm nhớ đời: 

-Số là năm 1980, sau khi ở trại Songkhla -Thái Lan được 3 tháng thì gia đình tôi có danh sách đi Bangkok, mà nghe người ta nói thì ở trên trại chuyển tiếp này phát nước rất hạn chế, mỗi người chỉ được 5 lít, nên buổi chiều trước khi đi một ngày, tôi vọt ra bãi biển tắm cho đã đời chứ mai mốt không có nước, chỉ kì khô, kì hòm mà thôi. 

Bơi xa bờ chừng 100m, chân tôi chạm vào một cồn cát và nếu không có từng đợt sóng thì cũng không đến nỗi nước ngập vô mũi. 

Đang dập dờn sóng nước thì tôi đạp nhằm cái gì mềm mềm nhão nhão, trong lòng thầm nghĩ: "À thì ra mấy đứa thiếu niên đem da gà, da heo ghim vô một cái đũa mà cắm vòng vòng nơi cồn cát này để dụ bắt ốc hương đây". 

Tôi đã từng thấy họ lặn bắt được cả sô ốc mà mang vô bờ. 

Bụng nghĩ như vậy nên tôi dí chặt chân xuống để lấy toạ độ, sau đó lặn xuống bắt mấy con ốc hương mà chơi, ai dè đó là một con cá đuối nằm vùi dưới cát để rình bắt mồi. 

Nó cong đuôi lên, quất vào mu bàn chân tôi một cái đau điếng. Tôi dỡ hổng giò lên khỏi mặt nước mà coi, thì một vòi máu phọt ra gần khe cẳng cái và ngón kế tiếp. 

Bàn chân đau tê dại liền, tôi đành bơi ngửa bằng hai tay và một chân vô bờ. 

Mấy người trên bờ thấy vẻ mặt tôi đau khổ quá, họ nhào tới hỏi han và trong nhóm người này có mấy người là gốc ngư dân, nên họ bày cho tôi là đái ngay vào vết thương, để không thôi nó làm độc. 

Tôi đi cà nhắc về lều, trong người gây gây lạnh. Ngủ chừng nửa giờ thì mấy người bạn còn kẹt lại trại Songkhla mời tôi đi uống một chầu cà phê để chúc thượng lộ bình an. 

Uống xong tôi không đứng lên được nữa, anh bạn bèn dìu lên bệnh xá xin Bác Sĩ chích cho một mũi trụ sinh. 

Đêm đó tôi thức trắng, nhưng sáng hôm sau cũng phải ráng lê bước, trèo lên xe buýt mà đi Bangkok. 

Từ phía nam nước Thái lên tới Bangkok xa lắm, xe nghỉ mấy lần tại các nhà hàng mà tôi không xuống xe được, nhằm lúc vắng người len lén đái vô cái chai mà thôi, không nhúc nhích ăn uống gì được. 

Xe vô trại chuyển tiếp thì cái chân tôi sưng lên như cái chân voi, đành xin lên bệnh xá của trại. Ông BS hỏi tại sao bị như vầy, tôi dùng hết mớ ngôn ngữ ba rọi để tả cho ông ta nghe "Đoạn đường chiến binh". Ông ấy ồ lên rồi vác ra một cuốn sách có hình tôm cua cá ghẹ. 

Tôi chỉ vào con cá đuối rồi nói: 

-That’s it. 

Ông ta gật gù: 

-Stingray. 

Nói đoạn ông lấy hai bàn tay vuốt dọc cái chân voi một phát, thì trời ơi một vòi máu lẫn mủ phụt ra từ vết thương, tôi suýt té đái trong quần. 

Ông nói cái gai đâm trúng ngay động mạch, nên nọc độc chạy lên quá đầu gối, bị nhiễm trùng nặng lắm. 

Y tá bơm thuốc trụ sinh vào nước biển rồi chuyền cho tôi liên tiếp trong ngày đêm đó tới mấy bình. 

Cái khổ nhứt là khi nhờ người ta dìu vào cầu tiêu, không thể ỉa được, vì khi lấy hơi để rặn thì đau quá trời quá đất. 

Ông BS khi đi khám từng bịnh nhân, hỏi tôi có bị problem gì không, tôi nói không đi restroom được. Ổng hỏi sao không nhờ người khác dìu đi, nhưng tôi chỉ biết chữ restroom để tả cái sự đi ỉa mà thôi, chứ không biết động từ ỉa nói ra làm sao. Thiệt khổ quá trời. 

Hai ngày sau họ đưa tôi lên xe cứu thương và chạy tới bịnh viện lớn. Vợ con tôi không biết đâu mà hỏi thăm thì may quá, một anh bạn thân có vợ đẻ nên được cho đi theo xe Ambulance đến nhà thương. Anh Hồ đi ngáo nghến dòm vào từng phòng thì nhìn thấy tôi. 

Nỗi mừng biết lấy chi cân. 

Thế là ngày hai buổi, anh mua cá lóc thịt heo ở chợ gần đó, đem về trại làm thức ăn rồi đem qua cho vợ và cho tôi. Được mấy bữa, anh thông báo là vợ con tôi đã khám sức khoẻ và ngày mai hay mốt sẽ đi Philippines. Tôi tá hoả xin Bác sĩ cho tôi về trại. Ông nói tuỳ đấy, nhưng cái chân coi chừng bị cưa, vì mấy bữa nay cứ vuốt một cái là mủ máu lại phọt ra có vòi. 

Tôi nhất định đòi về, vì có thể lần sau họ lại có chuyến qua tuốt Indonesia thì tôi lạc mất vợ con hay sao. 

Thế là "Độc Cước Đại Hiệp" đành xin một cái nạng, để cùng vợ con lên máy bay đi Phi Luật Tân. 

Qua đó rồi, hàng ngày tôi vẫn phải đi bịnh viện chích thuốc, mấy tháng sau mới hết, và chỗ vết thương đã lành da rồi mà sau hơn 20 năm nó thỉnh thoảng lại tê tê, ngứa ngứa, không gãi không chịu được. 

Khi tôi kể chuyện này cho bạn hữu nghe trên trang Không Quân Cánh Thép, có người nói tôi còn hên hơn ông Steve Erwin (Crocadile Hunter), ông ta là nhà Hải Dương Học bên nước Úc, quen với bao nhiêu độc vật như cá sấu, rắn rết, mà sau cùng sanh nghề tử nghiệp, cách đây vài năm, lúc đang quay phim dưới biển, con cá đuối ó đã đâm trúng tim phổi ông. 

Ông qua đời lúc còn sung sức, mới 44 tuổi! 

Người khác lại kể rằng có cô bạn đã từng bị cá đâm, cái mặt sưng to lên gấp hai, cả người lốm đốm như cái nấm rơm, nếu không được chở ngay đến Trung Tâm Chống Ngộ Độc (Anti-Poison Center) thì có thể chết rồi. 

Thỉnh thoảng trong siêu thị Việt Nam có bán những miếng cá đuối cắt giống như những miếng pizza trông rất ngon lành, nó được lột da cả hai bên, màu thịt nâu hồng, ở giữa có lớp gân sụn ăn rất dòn, nhưng xin quí vị đừng có thấy nó ngon quá mà mua nhiều, chỉ nên rinh về chừng một vài pound, vì thực ra những loài độc vật như hùm beo rắn hết hay cá đuối, thế nào trong thịt nó cũng tránh sao khỏi có chút nọc độc(?) 

Cá đuối có thể dùng để nấu cà ri, hay nấu canh chua, ăn lúc còn nóng rất ngon, nhưng nếu có dư, ta nên đổ bỏ, đừng để hôm sau ăn thừa rất dễ bị trúng thực. Người nào nói thịt cá đuối ăn ngon bổ, mát mẻ, ăn rồi tối ngủ khỏi... đội nón là nói láo đó, nó độc tàn canh. Người ta đồn ai có chứng phong, ăn cá này sẽ bị cùi! 

Từ ngày rời Thái Lan tôi thù con cá đuối, bởi vậy bây giờ mỗi lần câu nó lên, nó biết tôi căm thù nên dùng hết sức trì sát bụng xuống đáy biển, có khi đứt dây, có khi sức nó yếu hơn, bị kéo bung lên mặt nước thì nó sàng qua lạng lại như cái dĩa bay, đôi khi phải giòng nó vô sát bờ vì nó nặng quá. 

Kéo lên rồi, tôi dùng kềm cắt cái gai cứng như thép nguội phía trên cái phao câu vất vô thùng rác, rồi mới quăng cu cậu ĐUỐI BIỀNG trở về biển cả. 

Thôi nhé, từ nay mày có muốn đâm ai cũng cóc đâm được nữa! 

RƯỢT CÁ LEO 

    Miền Nam Việt Nam, một năm chỉ có hai mùa: mưa, nắng. Khi mưa, như trút nước,mưa rồi tạnh, rồi lại mưa, kéo dài đến sáu tháng. Sáu tháng còn lại, nắng chói chang nhưng dễ chịu vì có gió, đỡ oi bức hơn miền Trung và miền Bắc. 

    Mưa ít, nước lên chậm, gọi là nhích, bò lên bờ. Mưa nhiều, nước leo nhanh lên bờ. Nước nhảy bờ khi mưa già liên miên cùng với nước từ thượng nguồn chảy xuống mạnh, nhận chìm đất cát, đồng ruộng dưới làn nước phù sa. 

    Hàng trăm loại cá, tôm từ dòng nước Biển Hồ xứ Chùa Tháp đẩy trôi xuống miền Châu Đốc... sinh sản. Khi nước tràn bờ kinh rạch vào ruộng rẫy trũng thấp, đó là thời điểm lý tưởng hưởng tuần trăng mật của cá leo. 

    Các cô cậu cá leo làm tình mùi mẫn, quần nhau cho bằng thích,rượt đuổi nhau tung tóe nước lấp lánh dưới ánh trăng bàng bạc.   

    Sau này đến tuổi lớn khôn, Ngọc thắc mắc tự hỏi : 

         - Tại  sao  người  ta  lại  đặt tên là cá leo mà không đặt tên khác ? 

    Mỗi cái tên của con người, con vật, thực vật đều có nguyên nhân nguồn gốc của nó. Đặt tên cho con, cháu; cha mẹ, ông bà thường gởi gắm hoài bão, ước vọng hay giao phó một trách vụ gì đó để con cháu có thể thực hiện, hoàn thành. Cái tên nhiều khi ảnh hưởng, đi liền với cuộc đời, số phận cho đến ngày lâm chung. 

    Được gọi tên là cá leo vì nó thích leo, chạy trên nước cạn mỗi khi đi tìm sự sung sướng, hạnh phúc lứa đôi. Chúng không chịu ở vùng nước sâu như các loài thủy tộc khác. 

    Hình dung từ leo cũng cho mọi người biết khái niệm về đặc tính của loài cá này. Như cá bông, mình có bông, rằn ri; cá linh, một loại cá mà người sa viên (người đánh bắt cá chuyên nghiệp)  thường  làm  miếu  thờ Thần Cá và Thần Hoàng Bổn Cảnh Đất Đai Nhơn Trạch ở trước cửa vào miệng rọ, miệng đáy, vó gạc, vó càng. Loài cá này theo các sa viên tin tưởng, rất linh, muốn cho ai giàu to hay sạt nghiệp cũng được. Cá linh cũng là loài cá trắng như cá leo nhưng rất nhỏ bé so với cá leo, và nhiều vô số kể, thường dùng làm mắm hay ủ làm nước mắm. Thật đúng với câu: Nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá. Nghề đánh bắt cá còn gọi là nghề hạ bạc. Còn đâm hà bá có nghĩa là làm nghề thủy sản, nơi hà bá ở dưới nước sâu. Giàu cũng nhanh mà mạt cũng mau. 

    Cá leo là một loại cá chỉ ở vùng nước ngọt, có nhiều ở  tỉnh  Châu Đốc, Kiến Phong, Kiến Tường nằm sát biên giới Việt-Miên. Cá leo mình dẹp, dài, đầu to, miệng móm, môi trớt, không vẩy, thịt cá ăn ngon; cá lớn có thể nặng đến ba, bốn kí lô. Cá leo cùng một họ hàng với cá trèn, cá kết : 

         Cá lưỡi trâu, sầu ai méo miệng, 

         Cá trèn bầu nhiều chuyện trớt môi. 

    Câu phong dao trên đây đã mô tả rõ hai loài cá này: cá lưỡi trâu với cái miệng méo và dẹp như lưỡi trâu, còn cá trèn bầu cũng như cá leo, miệng trớt vớt, môi dưới (hàm dưới) dài hơn hàm trên. 

Cá leo làm tình sôi nổi và dữ dội nhất trong các loài cá mà người ta được biết. Cũng như mèo, một loài vật khi làm tình thì phải kêu, gào, la hét, cào rớt ngói, làm hư mái lợp lăn lộn rầm rầm. Đôi khi từ trên mái nhà cao rơi tủm xuống đất mà chúng vẫn không buông ra, dính như sam. 

    Gia đình của nhiều cư dân ở ấp Bà Bài, chuẩn bị rượt bắt cá leo vào giữa tháng năm đến giữa tháng sáu; nhưng tính kỹ lại chỉ chừng mười ngày mà thôi. Khi nước nhảy bờ qua những kinh rạch chằng chịt, nước tràn vào đồng ruộng, chỗ nào trũng thấp, nước tràn vào trước, cá leo cũng theo vào để hưởng tuần trăng mật. 

    Rượt bắt cá leo bằng những cái nôm, thường là những người khỏe mạnh và rất nhanh nhẹn, hai tay hai cái nôm. 

    Trời mưa lất phất, trên nền trời có trăng non là thời điểm thuận lợi nhứt để rượt bắt cá leo. Người ta đứng yên một chỗ tại vùng nước cạn nơi có nhiều cá leo di chuyển. Hai tay hai nôm chuẩn bị sẵn sàng ra quân. 

    Cô cậu cá leo từ dưới kinh rạch phóng lên, mơn trớn nhau tung tóe nước trắng xóa, chạy đến đâu người ta đều nhận biết đến đó. Không phải một cặp mà hàng chục cặp rượt đuổi nhau thật hào hứng. Chỗ nào nước hơi sâu chỉ thấy được đường dợn sóng của cá leo đang di chuyển; còn chỗ nước cạn, nông, kỳ, lưng cá leo bày lên chạy ngờ ngờ trông đã con mắt. Nhiều khi cô cậu mải mê rượt đuổi, quần nhau chạy rướn leo lên bờ, mắc cạn. 

    Thế là tới số, muốn trở lại nước chúng phải mất đôi  giây phút.  Những tay thiện nghệ rượt bắt cá leo làm sao để chúng chạy thoát được. Đó  là cơ hội bằng vàng của người săn bắt cá, cô cậu đành chịu số phận hẩm hiu, cuộc tình dang dở, đành nằm gọn trong nôm, sau đó vào giỏ. Lụy vì tình là như vậy đó, vọng cổ có câu xuống xề: một khi đã lậm với tình... chết xuống tuyền đài chưa tan. 

    Muốn bắt được cá leo, người ta chọn vùng nước cạn và không rộng lắm, nếu rộng quá cá leo chạy tứ tung khó chận bắt được. Rượt bắt cá leo đi từng nhóm hai, ba người là lý tưởng nhứt, mỗi người đứng một phía cách nhau độ mười, mười lăm mét. Cá leo chạy rượt nhau đàng này rồi chúng đổi hướng sang đàng khác. Gần ai nhứt thì người đó ra tay thật nhanh mới chụp nôm được cô cậu. Có khi được cả hai cô cậu chung tình cho đến chết; đôi khi chỉ nôm được một cô hay một cậu, cô cậu còn lại teo bu-gi chạy chết bỏ xuống kinh rạch. Tội nghiệp, âm dương chia cắt, hai ngã chia ly. Người ta ra tay đúng lúc khi cô cậu đang quằn quại, sướng tuyệt vời, ngã nghiêng, phơi bụng trắng toát. Cô cậu phải thúc thủ không tài nào né tránh được. Thời gian mùi rệu này chỉ trong nhấp nháy. Hạnh phúc chóng tàn, cái chết đến liền. 

    Mỗi loài cá có đặc tính riêng. Sự mơn trớn, ve vuốt, làm tình của cá lia thia rất dịu dàng, êm ái. Con trống, con mái đâu mỏ vào nhau, tỏ tình yêu thương. Cá trống giương xòe kỳ vi, khoe màu sắc, lắc mình uốn cong bao quanh cá mái nằm bất động lim dim chỉ có đưa miệng lên mặt nước để thở, nhả bọt. Đây là giây phút mê ly của loài thủy tộc này. Trái lại, cá leo được mang tên leo nên leo thật sự vào nước cạn để lao vào cuộc tình sôi nổi và cũng để chuốc họa vào thân. 

    Một cặp trứng cá leo, loại cá lớn để đầy một dĩa khá lớn. Khi trứng nở thành con có đến hàng ngàn con lận. Trứng cá leo, dân quê thường  muối sương, nướng  hoặc chiên, món ăn rất hấp dẫn.      Trứng  cá  leo  còn được chiên hoặc nướng tươi, nghĩa là không có muối để ăn với nước mắm tỏi ớt, có pha giấm  hoặc  vắt  chanh. Nước  mắm ăn trứng cá leo hay cá leo nướng, chiên tươi phải là nước mắm pha loãng. Trứng, thịt cá ngập trong nước mắm mới thấm, ăn ngon hơn. Ở nhà quê, có nhiều bông súng, bông điên điển sống hoặc làm dưa chua chấm vào nước mắm dầm cá chiên ăn thật bắt. Cá leo càng lớn càng ngon, thịt nhiều và dai. Phần thịt ngon nhứt là từ cổ cúc đến hai phần ba thân cá, còn phía sau, đuôi dẹp lép ít thịt hơn. 

    Cá leo chỉ chế biến quanh quẩn có các món ăn: chiên, nướng, hấp, nấu canh chua, kho, và người ta còn làm khô, làm mắm nữa. 

    Giòng họ của cá leo có cá kết, cá trèn. Cá kết lớn hơn cá trèn hình dáng giống như cá leo, cũng môi trớt, mình dẹp nhưng trắng hồng, còn cá leo thì trắng xam xám ; cá kết nhỏ con hơn cá leo nhiều. 

    Cá kết như là thục nữ ẻo lả, mảnh khảnh, nhỏ thó hay là một tiểu thơ khuê các ở thành thị. Còn cá leo thì vạm vỡ, gân guốc như một thôn nữ khỏe mạnh, đầy sức sống. Thịt cá kết ngon thơm hơn thịt cá leo, ngọt và mềm hơn. Cá kết cũng được làm các món ăn như cá leo, và làm khô, mắm. Ở xứ Chùa Tháp, Biển Hồ là nơi sản sinh và tích chứa cá gồm nhiều chủng loại khác nhau, cá sống quanh năm không phải chỉ có một mùa nước lớn như ở Việt Nam. Cá kết, người Miên làm khô kiểu đặc biệt, xỏ thành từng xâu, một chục con hay một tá xếp lại thành hình cái quạt, phơi và xông khói để dành được lâu và ăn rất ngon. Nhậu với khô cá kết nướng, chiên thật tuyệt cú mèo. Khô cá kết xông khói còn làm gỏi sầu đâu nữa. 

    Có hai loại cá trèn: cá trèn và cá trèn bầu. Cá trèn có loại lớn con, loại nhỏ con. Cá trèn nhỏ con, người ta thường làm mắm, gọi là mắm cá trèn. Mắm cá trèn cao cấp, giá  cả mắc hơn mắm  thái  (mắm  cá lóc xắt, xé nhỏ trộn với  đu đủ bào). 

Cá trèn nhỏ, dân quê thường ăn bằng món kho mặn. Còn cá  trèn lớn hoặc cá trèn bầu thì cũng được chế biến làm thành nhiều món ăn như cá leo, cá kết. Trong giòng họ nhà cá nầy, cá trèn bầu ngon nhứt mà chỗ ngon của cá trèn bầu chính là cái bầu, cái nọng của nó, thịt nhiều, béo ngậy. 

Ngoài món cá trê, cá lóc, cá rô kho tộ, người ta còn có món cá trèn bầu, cá trèn lớn hoặc cá trèn nhỏ kho tộ "rắc" thêm nhiều hành, tiêu lên trên mà ăn với cơm gạo nàng hương chợ Đào, ngon hết ý. 

Người dân quê ở ấp Bà Bài có hàng chục cách đánh bắt cá. 

    Một cách bắt cá rất độc đáo : 

         Những vùng nước cạn, dòng rạch nhỏ cạn hoặc những cái đìa lạn rộng, người ta đắp những cái tàu từ bờ đất bên này sang bên kia để cá nhảy vào đó mà bắt. 

Cái tàu là gì nhỉ ? 

    Hình dáng cái tàu, bề ngang chừng một mét hay hơn một chút, chiều dài từ bên bờ này sang bên bờ kia, chận giữa vũng nước hoặc chận chỗ nào tương đối cạn mà hai bên đều có nước để chận đường cá qua lại. Người ta kéo lục bình, rau muống hoang, ngổ, nghễ, cỏ mục, cỏ tươi đang sống ở nước đắp thành cái tàu. Trên mặt tàu đắp thêm một lớp bùn, đất vừa trét lòng tàu vừa làm cho nặng để tàu có chân, không có lỗ hổng ở dưới nước. Hai bờ tàu cao hơn lòng tàu chừng một gang tay, chạy suốt chiều dài. 

    Cái tàu vắt ngang vũng nước, chia ra hai khu vực khác biệt. Tối đến, như thường lệ, cá di chuyển đi đó đây, tìm mồi hay đi tìm đào, tán mái. Gặp vật cản, gây trở ngại, chúng tức giận nhảy từ bên này qua, bên kia nhảy lại, có con  thì rớt mắc kẹt trên tàu, có con rớt lại xuống nước. Chúng tiếp tục nhảy, nhảy riết, lòng tàu có đủ loại cá, cá lóc, cá bông nhiều nhứt vì chúng nhảy khỏe. Người ta thường nằm ngủ gần chỗ đắp tàu để giữ tàu. Một là nếu để cá lâu trên tàu, chúng có thể lại nhảy xuống  nước,  hai  là   sợ  người khác đến lượm bắt mất cá đi vì làm đắp tàu rất cực, mất nhiều công sức. Thứ đến cá để lâu trên tàu chúng sẽ chết, bán không có giá và cũng không rộng để dự trữ được 

    Dân nhậu thường rủ vài ba người đem nóp theo ngủ, không quên mang theo vài lít đế cũng như rau, dưa, nước mắm... mà người ta gọi là đồ tẩm liệm để ăn cá. Nhiều khi người ta còn đờn ca vọng cổ nữa để tận hưởng thú ăn cá tại chỗ. Có những cái tàu gặp những nơi có nhiều cá, một cái tàu dài chừng năm, bảy mét, một đêm có thể bắt được vài gánh cá tha hồ mà ăn, làm khô, làm mắm. Một điều lưu ý là loài cá cũng rất khôn, đắp được cái tàu cũng rất tốn công mệt sức,nhưng chỉ dùng được một đêm đầu, mấy đêm sau rất ít cá vì chúng biết đó là nơi tử huyệt nên không nhảy nữa. 

    Những cách bắt cá khác như đâm cá bông bằng mũi xà búp, chĩa sa di năm mũi có ngạnh; mũi chĩa thành bó bằng cây kèo dù để đâm cá nhái (cá lìm kìm)... Muốn bắt cá được nhiều, người ta "làm chà", đặt đáy, chào rào, lọp, lờ, lưới, giăng câu, xây rọ, vó gạc, đặt vó càng... Ba cách: xây rọ, đặt đáy, vó gạc là bắt được nhiều cá nhứt, tính bằng tấn chứ không tính bằng hàng chục, trăm kí lô như các loại cách bắt khác. 

    Cá leo ngoài cách rượt nôm nhưng bắt chẳng được bao nhiêu, mỗi lần như vậy chỉ bắt được năm, ba con cá lớn. Cá leo cũng cùng chung số phận như các loài thủy tộc khác qua hàng chục cách đánh bắt cá mà người dân quê càng ngày càng có kinh nghiệm và phát huy sáng kiến độc đáo hơn. 

    Từ thập niên 60 trở về sau này, giống cá leo ít dần và chúng ta hy vọng giống cá nầy không bị tiệt chủng. 

-------------------------------- 

ĐÂM CÁ BÔNG 

Cá bông cùng họ hàng với cá lóc, hình dáng gần giống nhau, nhưng màu sắc khác biệt rõ ràng nhứt. Cá bông sống lâu năm, lớn "tổ bà nái" to gấp ba bốn lần hơn cá lóc. Cá lóc lớn nhứt vài ký lô, loại có râu, mình xám đen, người ta ví von gọi là cá lóc biết nói. Cá bông, cá lóc mới đẻ, còn nhỏ xíu gọi là cá lòng ròng. Có nhiều nơi như ở vùng quê Tây Ninh, cá lóc còn nhỏ gọi là cá trào, lớn mới gọi là cá lóc. Còn vùng quê Bà Bài, cá lóc, cá bông lớn nhỏ gì cũng gọi một tên thôi. Cá bông, loại lớn, hiếm thấy, có con đến gần mười ký lô. Cá bông có sọc dài, to ở hai bên hông, những sọc dài nhỏ hoặc các đốm màu xanh đậm, đen khắp thân mình, ngoại trừ bụng thì màu trắng đục. Có nhiều màu sắc, sọc, đốm rằn ri, cá bông ở trong nước trông rất ngầu, dễ sợ vì tính hung dữ của nó. Cá bông, hình như có một số người gốc miền Bắc gọi là cá lóc bông (hay bông lóc ?). Cùng họ với cá bông, cá lóc còn có một giống cá hình thù cũng giống như vậy, có tên là cá dầy. Cá dầy gần giống với cá bông vì nó cũng có sọc, rằn ri nhưng mình cá không tròn trịa như cá bông lại môi trề, miệng móm, đầu dài, dẹp hơn đầu cá bông. Có tên gọi là cá dầy nhưng mình không dầy bằng cá lóc, cá bông, thịt lại nhão nữa. Người dân quê chê cá dầy, ăn không ngon nên giá bán rẻ hơn rất nhiều so với họ hàng của nó. Cá dầy cũng được làm mắm, làm khô để lẫn lộn với cá bông cá lóc và khó phân biệt được. 

    Nhiều cách bắt cá độc đáo của xứ Bà Bài mà các nơi khác không có, người ta bắt cá bằng cách giăng lưới, giăng câu, đặt lọp, vó gạc, vó càng, đặt chà... Một cách bắt cá thông dụng của nhiều gia đình mà lại có nhiều loại cá, trong đó có cá bông. Đó là chào rào, còn gọi là "bò". 

    Người ta đan chào rào bằng loại tre già, miệng thật to, trong lòng chào rào để nhiều nhánh cây gọi là chà, lục bình, đặt sâu dưới nước, trước nhà, chỗ quang đãng dốc thoai thỏai dễ kéo lên bờ khi bắt cá. Người ta còn cho vào trong chào rào nào đầu, ruột cá, lòng gà, cua ốc, chuột chết... làm mồi để cá tôm vào ăn, trú ẩn. 

    Có nhiều cá linh, cá con vào ăn thì cá bông, cá lóc cũng vào để rượt bắt săn mồi. Đúng với câu phong dao tục ngữ "cá lớn nuốt cá bé". Những chỗ có nhiều cá, chào rào được kéo lên mỗi ngày vào sáng sớm, vì qua đêm, có nhiều loại cá tôm vào hoạt động và ăn mồi. Nếu để sáng quá, khi trời nắng lên cá lại đi ra sông. Cá trê, tôm bắt được mùi hôi thúi cũng vào chào rào. Mỗi lần kéo chào rào lên, người ta bắt được hàng rổ cá từ vài ký trở lên, nào là cá lóc, cá bông, cá trê, cá rô, cá linh, cá lòng tong, cá thiểu, cá mại, cá he, cá chốt, cá lăng và tôm càng nữa. 

    Tùy theo chào rào lớn nhỏ và chỗ có nhiều hay ít cá, người ta rất thoải mái bắt cá khi mùa nước cạn bằng cách này. Khi ít cá, người ta để vài ngày mới kéo chào rào lên một lần. 

Một cách bắt cá độc đáo nhứt là nằm tum đâm cá bông với mũi chĩa ba hoặc mũi chĩa sa-di năm mũi 

Mùa  nước  giựt, còn gọi là mùa nước xuống, từ giữa tháng mười âm lịch. Mùa nước lên còn gọi là mùa nước nổi từ tháng năm đến giữa tháng chín. Một tháng, từ giữa tháng chín đến giữa tháng mười là mùa nước đứng. Nước chảy chậm, không còn chảy siết nữa. Một thời gian ngắn, từ một đến hai tuần nước trong đồng ruộng hình như nước đứng hẳn, không còn luân lưu. Đó là thời gian nước trong nhứt, cũng là cơ hội đâm cá bông tốt nhứt. 

Lúc nước lên chảy siết, bùn đất từ thượng nguồn đổ xuống nước đục ngầu đất phù sa. Thời điểm này, cá mẹ cá cha dung dăng dung dẻ, tình tự ân ái sanh con nối giòng và chúng dẫn đàn con tung tăng bốn phương tám hướng khi nước tràn bờ kinh rạch đục ngầu mênh mông. Mùa này, hình như tất cả mọi loài thủy tộc đều sinh đẻ. 

Sau bốn, năm tháng, cá bông lớn nhanh nhất cá bông rất dữ, săn mồi tài tình hơn các loài cá khác. Có con nặng vài ký lô, những lứa cá đẻ muộn vào cuối tháng năm, tháng sáu, đến tháng chín tháng mười cũng được trên một ký. Cá bông  thường đi từng bầy, cá cha cá mẹ thật lớn, nhiều khi còn sống sót từ vài năm trước. Cá bông cha mẹ là Tư lệnh và Tư lệnh phó chiến trường, tả xông hữu đột tấn công các loài thủy tộc khác bảo vệ đàn con khi chúng còn nhỏ, nhứt là lúc còn là cá lòng ròng. Cá bông cha mẹ vừa bảo vệ an ninh vừa chăm sóc, dạy các con cách săn mồi và thường đùa giỡn với đàn con..Cá con có tình nghĩa mẹ con, huống chi là con người. 

Đầu tháng chín âm lịch, nước chảy yếu dần, mực nước không lên nhiều, mưa bắt đầu thưa, cỏ, lúa thi nhau lên cao khỏi mặt nước vài tấc. Nước sâu từ ba, bốn mét hoặc hơn nữa, tùy theo thế đất gò hay nong và lúa cũng theo kịp nước, nên người ta gọi là lúa nổi (le riz flottant). Nước chảy yếu, nước ít đục, báo hiệu mùa nước giựt sắp đến. Thời điểm này là thời điểm lý tưởng nhứt để làm tum đâm cá bông. Thời gian đâm cá bông  thường  hai  tuần  lễ,  đôi khi cũng kéo dài nhưng không quá một tháng. Khi nước giựt nhiều, mực nước không nhanh và nước "thúi" nặng thì không còn đâm được cá bông. Nước thúi, sau khi nước "đứng" không lên không xuống, không luân lưu, lúc đầu nước rất trong và sau đó cỏ úa, mục làm cho nước đục ngầu có mùi một chút và mặt nước thường nổi váng, cá tôm không còn nhanh nhẹn, vì môi trường bị ô nhiễm. Chính lúc này người ta bắt cá dễ nhứt và nhiều nhứt bằng đủ mọi cách, ngoài trừ ngồi tum đâm cá bông. 

Tại sao người ta gọi là cái tum. đó có phải là tiếng Khờ-Me được phiên âm chăng ? Dân quê có câu thành ngữ "ngồi tum" là một cách ngồi chờ đợi hay là chờ thời. Trong giới cờ bạc, nhứt là người đánh xì-phé, dân chơi phé đợi khi nào có phé hoặc tẩy có xì, có già mới vô, theo. Đại khái, dân đánh phé tính toán chơi chắc ăn thì mới theo hoặc tố lại, nhưng có lúc cũng bị phản phé, thua sạch túi. Người ngồi tum đôi khi cũng bị phản phé nghĩa là đâm không được con cá bông nào, hoặc đâm được ít cá bông và quá nhỏ, uổng công dang nắng, mất thời giờ mà chẳng có lợi là bao. 

Cái tum được làm mỗi cạnh trên dưới hai mét bằng tre hoặc bằng cây tràm. Bốn góc tum, cây trụ cột được đóng sâu vững chắc, cây tràm hoặc tre già đầu vạt nhọn, dùng "chày vồ" đóng xuống đất. Ngang mặt nước, tràm nhỏ hoặc thanh tre ràng buộc chặt bốn cạnh và thả cây ngang dọc cũng khá dày, trên phủ cỏ mục hoặc cỏ tróc gốc kín, không chừa một khe hở nhỏ nào cả. Ở giữa tum, người ta chừa một ô vuông, gọi là lỗ tum, mỗi cạnh khoảng trên dưới một gang tay. 

Trên cao, người ta căng một tấm đệm cũ hay chiếc chiếu rách hoặc một tấm vải, hay một thứ gì đó để che nắng, chú ý che kỹ lỗ tum. Khi ngồi hoặc nằm tum, người ta còn trùm lên đầu bằng một cái mền hay miếng vải lớn bao trùm lỗ tum để nhìn thấy cho rõ đến tận mặt đất. Bất kể loài thủy tộc gì từ tôm  cua  bò sát  mặt đất hoặc cá nhỏ lớn đi vào tum đều được nhìn thấy rõ ràng. 

Cả đồng trống mông quạnh chọn khu nào có cỏ lúa thưa thớt, tum thường làm ở những khu nầy và còn nằm cạnh đường mòn nhỏ khi trâu bò và người ta đi thành lối vào lúc mùa khô. Dưới cơn nắng gắt chói chang, nắng càng nhiều càng tốt, từ mười một giờ trưa đến hai giờ chiều, thời gian lý tưởng nhứt để ngồi tum đâm cá bông. 

Đặc tính và thói quen của các loài thủy tộc là sống hợp quần; chúng ở từng khu vực, sinh sống ở từng mực nước sâu cạn khác nhau. Rõ rệt nhứt là cá bông, từ lúc còn là cá lòng ròng, lúc còn nhỏ cho đến lúc lớn chồng ngồng, chúng cũng đi từng đàn từng bầy dưới sự dẫn dắt chỉ huy của vị Tư lệnh chiến trường cá cha, cá mẹ hoặc các con cá huynh trưởng, to, khỏe nhứt. Những con cá chỉ huy nầy thường đi đầu hoặc đi cuối. 

Giữa trưa, trời nắng chang chang, bầy cá bông đang di chuyển, đùa giỡn, rượt đuổi nhau, thỉnh thoảng mở cuộc tấn công vào các loài cá nhỏ bé, nhứt là cá linh vừa nhiều vừa là món mồi ngon dễ khuất phục. Đang ngao du, rượt đuổi mồi, trời lại nắng gắt mà gặp bóng mát nữa, bầy cá bông tắp vô trú nghỉ gọi là "đụt" trong chốc lát, rồi lại tiếp tục đi. Lúc này bầy cá bông vui đùa hào hứng, thoải mái tung tăng, rượt đuổi nhau trong bóng mát, mẹ cha lẩn quẩn bên cạnh. 

Dưới mặt tum, từ mặt nước đến dưới sâu, đâu đâu cũng có cá bông, nước dậy sóng, bóng mát tum không đủ chỗ, chúng lội chạy rượt đuổi ở bên ngoài chung quanh tum, vô ra tum liên tu liền liền. Chúng có biết đâu, kẻ sát thủ đang rình rập chờ đợi con cá nào lớn nhứt lọt vào tầm nhìn ở lỗ tum là ra tay liền. Một mũi chĩa ba, bố trí theo hình tam giác đều hoặc mũi chĩa sa-di, ba mũi hay năm mũi thẳng hàng ngang, cách khoảng đều nhau. Mũi chĩa, đầu thật nhọn lại có ngạnh, cán chĩa là một cây tầm vông vừa nắm tay, già, chắc, được chọn lựa cẩn thận, dài khoảng bốn, năm mét. 

Người đâm cá bông cũng như người lính ra trận, đợi chờ cá bông như kẻ địch vào tầm tác xạ. Nhìn qua lỗ chiếu môn là lỗ tum đến mục tiêu chọn lựa, thường là cấp chỉ huy, cá lớn nhứt, nhởn nhơ, ít lăng xăng, ít đùa giỡn. Lý tưởng hơn nữa là lúc chúng sựng lại, không di chuyển hoặc đang uốn éo, cạ mình vào cây trụ tum, đưa bụng trắng toát như mơn trớn, lả lơi. Đó là lúc sát thủ ra tay chớp nhoáng, phóng mũi chĩa xuống đâm trúng vào chỗ nghiệt như cổ cúc cá hay bụng cá mà người ta đã ngắm chọn trước. Cây chĩa được ấn mạnh thêm đến chạm mặt đất để cá dính vào chĩa ngập sâu vào mấy cái ngạnh, rồi người ta mới rút chĩa lên gỡ ra cho cá vào khoang xuồng. Động tác thật nhanh, tiếp tục trùm mền trên đầu và rình đâm thêm những con cá khác. Một bầy cá bông vào tum và lẩn quẩn ở đây chừng năm mười phút, người ta có thể đâm được vài con cá lớn, chúng thấy động tĩnh nhiều hoặc có con cá nào bị sẩy làm náo động mạnh, chúng sợ bỏ đi nơi khác và bầy cá khác lại vào tum. 

Theo kinh nghiệm, khi đâm trúng được cá bông chỗ nghiệt hay không, người ta cũng phải ấn cây chĩa xuống chạm mặt đất để các ngạnh của mũi chĩa ăn sâu vào mình cá vì cá dẫy dụa dữ dội dễ bị sứt, thoát. Hơn nữa, ấn mạnh chạm đất, động tác dẫy dụa của cá cũng đỡ khuấy động nước làm các con cá khác hoảng sợ. Khi kéo cá lên, người ta cố xoay trở cách nào để đầu cá lên miệng tum trước. Vừa tới mặt nước, gặp những con cá bông to lớn, dùng một khúc cây nhỏ đập vào đầu cá, rồi mới dùng tay bợ dưới bụng cá kéo lên, theo chiều đầu lên trước vì cá dài hơn miệng tum. Người ta không dám bợ tay trước khi chưa đập đầu cá vì cá bông rất dữ, rất khỏe, lơ đễnh nó táp vào tay đứt cả ngón tay như chơi và cũng dễ bị sẩy lúc nầy vì là lúc chúng vùng vẫy dữ dội nhứt. Dù bị đập vào đầu như thế, nhưng nhiều con cá bông chỉ ngất không chết hẳn, cho cá vào trong khoang xuồng, có nắp đậy lại. Công việc nầy thật chóng vánh, người ta còn phải tiếp tục rình đâm cá bông nữa cho đến khi không còn cá bông nào vào tum mới thôi. 

Nhát đâm đầu tiên, người ta chọn lựa những con cá to, thường là cá cha hay cá mẹ. Cũng như con người, cá to mập thì có phần chậm chạp hơn và là thế hệ trước nên ít chạy rượt lung tung hơn thế hệ tiếp nối. Tiếp tục ngắm tìm con cá nào vào đúng tầm của mũi chĩa, người ta cũng lựa chọn, nhưng chọn lựa con cá nào dễ đâm nhứt. Một bầy cá chừng vài chục con, may ra đâm đến con thứ tư, thường chỉ đâm được một, hai con, thấy bị động, chúng chạy tán loạn đi nơi khác. 

Vài chục thước hoặc xa hơn nữa mới có một cái tum. Thời gian đâm cá bông rất hạn chế, lúc mặt trời gần đứng bóng hay quá đứng bóng một chút. Lý do, mặt trời vào lúc đứng bóng ngay đỉnh đầu, bóng râm của cái tum trùm thẳng xuống, khi mặt trời xiên, chênh chếch, bóng râm bị lệch ra ngoài tum. Bóng mát lệch càng xa thì sẽ không thấy cá xuất hiện trong tầm nhìn lỗ tum. Đến đây, người ta đành thu dọn đồ đoàng xuống xuồng bơi về, đợi đến ngày hôm sau cũng vào giờ trưa có nắng gắt lại tiếp tục nằm tum đâm cá bông 

----------------------------------------------- 

THẰNG BÉ NGỒI TUM 

Một buổi trưa, trời nắng chói chang như đổ lửa. Ông Hương Tuần và những người lớn bận đi đâu đó, không ai nằm tum. Ngọc, lúc ấy, lên bảy, tám tuổi, tò mò cũng muốn biết nằm tum đâm cá bông như thế nào ? 

Trời đứng bóng, đem mũi chĩa xuống xuồng cùng với đồ nghề có sẵn trong xuồng, Ngọc bơi xuồng ra cái tum gần nhà nhứt, ở phía sau hè, cách vài chục mét. Đang nằm quan sát những con cua, tôm tép và cá nhỏ qua lại, bỗng một con cá bông trông dữ tợn khủng khiếp, to như một cái gối ôm, xuất hiện nhìn sững vào lỗ tum như muốn chạm vào mặt của Ngọc đang dí mắt quan sát theo dõi rình tìm cá. Tiếp theo một đàn cá bông đông nghịt chạy rượt làm mặt nước trong tum nổi sóng.  Con cá bông lớn quá, to quá, trong đời Ngọc chưa thấy lần nào, nó rất dạn, hai mắt nhìn thẳng vào mặt của Ngọc như chực muốn táp lên, Ngọc hoảng sợ, tốc mền, la lớn : 

    - Má ơi ! Có cá bông lớn lắm, mau kêu ai ra đâm, con sợ quá. 

    - Mầy  nằm  yên  chờ tao. Cũng  may chú Búp vừa về đến, chú nói tiếp : 

    - Đừng làm động, cá đi hết, tao ra liền. 

Ngọc vững bụng. Chú Búp là bà con xa với ông Hương Tuần, Ngọc rất kính phục vì chú là người làm công siêng năng, giỏi nhứt lại võ nghệ cùng mình, có chú Búp mọi việc khó khăn gì kể như xong. 

Chú Búp chống xuồng thật nhanh, cây sào cong lại như muốn gãy dưới sức mạnh khủng khiếp của chú. Ra đến tum, bảo Ngọc ngồi yên, chú lấy mền trùm đầu lại, nằm yên lặng chờ đợi đàn cá quay lại. Chừng mươi phút, có đàn cá bông đến tum, Ngọc nghe tiếng nước lụp bụp vì đàn cá đang vào tum ngớp trên mặt nước, không biết đàn cá cũ trở lại như lời chú Búp nói hay là đàn cá khác. 

Một cú đâm mạnh, Ngọc nghe một cái rột và tiếp theo tiếng động khác bựt, bựt, chú Búp nói lớn : 

    - Ngọc, tao đâm được con cá tổ chản, lớn nhứt đám, chiều nay tha hồ mà ăn món tả pín lù. 

Chú còn bảo : 

    - Mầy đến đây, giữ chặt cây chĩa, tao phải lặn xuống đập con cá nầy chết mới đem lên an toàn, nó mạnh, dữ quá, sẩy uổng lắm. 

Vừa nói, chú kéo tay Ngọc ấn vào cán chĩa bảo giữ chặt và ấn mạnh xuống đất, còn chú cởi quần xà lỏn ra, cầm theo một khúc cây, tuột xuống nước, phía ngoài tum. Lặn vào tum, Ngọc quan sát theo dõi, chú Búp đập ba bốn cái thật mạnh vào đầu, máu cá loang ra thật nhanh. Một tay cầm khúc cây nâng mình cá, tay kia cầm cán chĩa nhấc lên. Ngọc hiểu ý, rút cây chĩa lên nhanh, cũng vừa lúc chú Búp hết hơi phải vọt ra ngoài tum, ngoi lên mặt nước thở. 

Chú nói lớn : 

    - Mầy cố giữ yên, tao lên liền. 

Không  cần  mặc quần vào, ở truồng tồng ngồng, chú nắm cây chĩa, Ngọc đang đỏ mặt vì sức nặng của cá. Chú bảo Ngọc tiếp tục giữ cây chĩa, một tay chú cho vào móc mang cá, còn bàn tay kia bợ mình cá nâng lên. 

Chú lại ra lệnh : 

    - Mầy kéo chĩa lên nghe, coi chừng bị vướng miệng tum. 

Hai chú cháu hì hục đưa được con cá bông quá xá cỡ nầy ra khỏi miệng tum, cho xuống xuồng. Cả hai không nằm tum nữa, bơi xuồng vào nhà. Cả xóm nghe đâm được cá bông tổ bà nái bơi xuồng đến xem. Từ đầu mùa đâm cá bông đến nay, chú cháu Ngọc đâm được con cá bông lớn nhứt, dài gần cả thước, như một cái gối ôm to. Sau nầy, lớn lên, Ngọc nhớ lại kỷ niệm không bao giờ quên này, con cá bông đó chắc cũng khoảng mười kílô. Ông Hương Tuần phỏng đoán con cá bông nầy sống sót cũng được bốn, năm năm. 

Người lớn, khỏe, thường nằm tum, còn người yếu sức hoặc nhỏ như Ngọc thì ngồi để có thế và đủ sức mạnh đâm nhanh xuống cá. Ăn quen, Ngọc thường ngồi tum. Có một lần chừng sau mười phút, Ngọc thấy năm, bảy con cá bông lội tới. Ngọc nhớ lời chú Búp dặn bảo truyền nghề, khi đâm cá bông phải đâm từ sau tới ngay cổ cúc của cá. Nếu mũi chĩa phóng từ trước mặt, cá bông rất tinh ranh, nhìn thấy bóng mũi chĩa, né tránh rất nhanh tài tình, khó trúng được. Áp dụng bài học ấy, Ngọc đâm được một cá bông trên dưới 2 ky ïlô. Lại ngồi tiếp, Ngọc đâm thêm một con cá bông nhỏ hơn, hai con cá rô biển cũng thuộc loại cá biết nói, to bằng một cái dĩa vừa.. Ngồi tum thêm chốc lát nữa nhưng cá không còn qua lại và bóng râm của tum bắt đầu xê dịch ra khỏi tầm nhìn. Chống xuồng về, mang theo bốn con cá mà Ngọc ngồi tum đâm được lần đầu tiên. Dù tuổi con nít nhưng Ngọc nhờ theo mấy chú làm công phụ giúp cho ông Hương Tuần nên Ngọc học được nhiều cách bắt, đâm chuột, rắn, lươn, rùa, cá và cách làm những món ăn da î chiến  ở giữa đồng nội. Người lớn không cho con nít ngồi tum, sợ chúng không biết cách đâm cá bông làm động, cá không dám vào tum nữa.         o 

Thịt cá bông rất ngon, cá càng to, dai, càng ngon, ngọt. Món cá bông tả pín lù hay món cá tái thì khỏi nói, các tay nhậu chịu lắm. 

Món tả pín lù mà dân quê thường gọi: Thịt cá bông thái nhỏ nhúng vào nước dấm có pha đường hoặc nước dừa đun sôi. Ở thành thị, món tả pín lù được làm với nhiều loại cá thịt, nào là thịt bò, tôm, mực tươi và cá, cá bông hay cá lóc hoặc loại cá lớn khác. Còn ở nhà quê món tả pín lù độc nhất chỉ có cá, khi nào không có cá bông, cá hô người ta dùng cá lóc, còn các loại cá khác thì không có trong món ăn này. Ăn món tả pín lù mà thiếu các loại rau, dưa thì đâu có ngon lành gì đâu. 

Còn món cá tái của nhà quê : nước dừa lửa, loại trái dừa màu vàng nâu sẩm, nước có vị hăng vì có "ga", một loại nước dừa uống vào lưỡi bị tăng tăng. Dân quê dùng nước dừa lửa, nhúng thịt cá bông, cá lóc, hoặc tôm hay thịt bò thái thật mỏng. Khi miếng thịt cong co lại và tái một chút là người ta đem ra ăn với tương hột đâm nhuyễn có rắc đậu phộng rang đâm nhỏ hoặc nước mắm nêm, mắm tôm, hay nước mắm chanh, nước mắm me. Ở nhà quê làm món ăn, nước chấm rất đa dạng linh động, không khe khắt như ở thành thị. Ở nhà quê quan niệm có gì làm nấy, hơn nữa làm sao có nhiều chỗ bán mà mua, nên những món ăn không có cầu kỳ, rất bình dân đại chúng. Có những món ăn ngon mà không biết nhấm nháp một tí rượu để đưa cay, xin lỗi, chết còn sướng hơn phải không mấy ông liền ông? mấy ông lưu linh ? 

Cá bông hấp lá dứa, lá bầu rồi rưới mỡ phi hành thơm phức cuốn bánh tráng, bún, rau sống thì làm sao không mê được. Còn cá bông nướng trui thì thơm không thể tả. Bộ ruột cá  để  nguyên vậy cho vào tô nước mắm me, ớt làm cho nước mắm đậm đã ngon thêm và người nào làm chủ xị được thưởng bộ ruột nầy. Nhiều con cá bông hoặc cá lóc lớn quá, có cả trứng nữa thì hai ba người chia đều cùng cụng ly "vô" một cái ọt ngọt xớt, hết sẩy. Cá bông và cá lóc có những món ăn giống nhau. Cá bông ít hơn cá lóc, cá lóc lại sống dai hơn cá bông nên ở thành thị người ta chỉ biết nhiều về cá lóc. Ở thành thị thường ăn "khô" gọi là cá lóc nhưng những con thật to, dầy thịt và dai nữa đó là cá bông làm khô. Cá bông, cá lóc làm hàng chục món ăn, ngoài những món độc đáo là tả pín lù, tái, nướng trui, hấp, người ta còn nấu canh chua, nấu với các loại canh rau, kho mắm, chiên, xào với đậu ô-ve, rau muống, kho mặn, kho tộ, làm mắm, làm khô. Món nào cũng ngon, cũng hấp dẫn không những hấp dẫn cho dân nhậu mà ngay cả các bà cũng khoái, cũng mê. 

Kỷ niệm thời thơ ấu, một kỷ niệm khó quên. Năm 1947 cả dòng họ của Ngọc đều nghe theo lời ông Hương Tuần tản cư ra thị xã Châu Đốc. Ấp Bà Bài, quân lính  Pháp thường bố ráp, bắt bớ dân thường xuyên, chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh càng ngày càng khốc liệt. Một đoàn ghe xuồng lớn nhỏ của ông Hương Tuần có đến hơn một chục chiếc. Trên một chiếc ghe Cà Vom lớn, đầu mũi có làm thêm một cái nhà nhỏ đủ để bộ bàn ghế tiếp khách, một cái đi văng và một tủ thờ; ở lái ghe cũng có che làm một cái nhà nhỏ nữa, chỗ làm bếp núc. 

Đoàn ghe đậu san sát gần nhau. Lúc ấy, Ngọc mười hai tuổi, học lớp ba trường tỉnh. Sau Tết Nguyên Đán, từ tháng giêng đến đầu tháng tư, trời nắng gắt như thiêu như đốt. Đoàn ghe của đại gia đình Ngọc đậu kề nhau trong một vũng sâu, phía ngoài là con sông nhỏ chảy ngang qua. Dân quê Bà Bài dù ra thị thành, nhưng bản chất mưu sinh bắt cá ở nhà quê được mang theo. Gia đình Ngọc bỏ lại ở quê : nhà cửa, ruộng nương, chỗ  chôn  nhau cắt rún nhưng những cái mũi chĩa, loại mũi chĩa hình tam giác, mũi chĩa sa di, mũi chĩa đâm cá lìm kìm lại được đem theo. Những mũi chĩa làm bằng cây kèo dù không có ngạnh, làm thành hình ống tròn nhỏ để đâm cá lìm kìm, còn được gọi là cá nhái, một loại cá mình dài, tròn, mỏ nhọn dài, con to nhứt chỉ bằng ngón tay cái là cùng và dài chừng hai tấc. Món khô cá kìm nhậu rất bắt, mà phải chấm với nước me chua sống, ít dùng me chua chín. Còn món kho tiêu cá kìm cũng độc đáo không thua gì món cá lòng tong kho tiêu, kho quéo, kho tộ. 

Mỗi ngày, Ngọc học hai buổi, trưa về ăn cơm xong, dò lại bài vở cho buổi chiều. Trước khi đi học, khoảng từ một giờ đến một giờ rưỡi trưa, chỉ ba mươi phút mặt trời nghiêng bóng, nắng đổ lửa, gió im phăng phắc, người lớn đang ngủ, trẻ con thì chơi giỡn, đâu có đứa nào chịu ngủ trưa. Khi phát hiện những con cá bông hoặc cả bầy vài chục con núp bóng mát của chiếc cà vom khi ánh nắng chênh chếch. Điểm đặc biệt của cá bông, khác hơn các loại cá khác, trời nắng gắt có bóng mát chúng vào đụt, im lìm như nghỉ ngơi, tìm giấc ngủ. Ngọc lấy mũi chĩa ba kết hàng ngang nhỏ, nhẹ hơn mũi chĩa ba hình tam giác khó mà phóng xa được, có buộc một đoạn dây dài. Ngọc rình xem coi có con cá bông lớn nào nằm ở chỗ thuận tiện dễ đâm. 

Rón rén bước nhẹ, rình rập, nước trong, trời nắng gắt, không gió thấy cá rất rõ và hai con mắt của cá bông cũng đang nhìn lại. Ngọc lựa thế, phóng mạnh cây chĩa xuống, hầu như mỗi cú phóng, đâm như vậy đều dính một con cá bông. Bóng mát một chiếc ghe dù có dài, rộng bao nhiêu đi nữa khi bị động vì nhát phóng của cây chĩa và sự vẫy vùng của con cá làm cho cả đàn, bầy cá lặn mất. Ngọc thường đâm được một, hai con vào các buổi trưa ngày đi học. Còn những buổi chiều thứ năm, chiều thứ bảy cũng như chủ nhựt nghỉ, có nhiều thời giờ hơn, Ngọc hoặc người lớn đâm được nhiều cá bông hơn. 

Đâm cá bông đụt bóng mát như thế nầy mỗi chỗ chỉ đâm vài lần, cá bị động và sợ nên bỏ đi nơi khác. Ghe xuồng của đại gia đình Ngọc và bà con có đến mấy chục chiếc gần nhau nên Ngọc đâm cá bông cũng được một thời gian vài tuần. Yếu tố chính của việc đâm cá bông buổi trưa, trời thật nắng và lặng gió, ghe xuồng không bị nghiêng qua lắc lại, bị động cá bông sợ lặn mất. Người đâm cá bông phải bình tĩnh không bộp chộp, lựa con cá nào đầu quay về hướng khác, không hướng về phía mũi chĩa lao tới. Cá bông rất tinh mắt, lách, tránh né tài tình. Rất nhiều người ngồi tum hoặc xách chĩa đi tìm cá bông "đụt" trong bóng mát đâm, nhưng có người đâm được nhiều, có người đâm chẳng được con nào hoặc đâm được rất ít. Đó cũng là khiếu, bí quyết kỹ thuật hay nói cách khác, như người bình dân, sát cá. Câu cá cũng vậy, cùng ngồi câu ở chỗ gần nhau, người thì câu giựt lên liền liền, người thì ngồi cả tiếng đồng hồ không có con cá nào đớp mồi, "sát cá" là như thế đấy. 

Thói quen của cá bông mà các lòai cá khác thường ít gặp, là hễ trời nắng gắt chúng tìm bóng mát đụt. Vì vậy người ta làm tum chỉ để đâm cá bông. 

Bóng râm của những chiếc ghe lớn cũng là chỗ nghỉ ngơi lý tưởng buổi trưa của cá bông. Khi bị động ở ghe này, cá bông lại tìm đụt nắng ở bóng râm ghe khác. 

Đâm cá bông vừa có món cá ăn ngon, vừa sinh lợi đem đi bán hoặc làm khô làm mắm, và cũng là thú vui có cảm giác mạnh của người nông dân. 

Chuyện Chim Chuột 

Khi trai gái làm chuyện bất chánh, thậm thà thậm thụt thì người ta gọi là làm chuyện chim chuột. Thật là oan cho loài chim, vì chúng rất chung tình, làm tổ cũng có đôi, mà ấp trứng, tha mồi nuôi con cũng có đủ cả chồng vợ, chỉ có loài chuột là tệ, anh chuột dái xong chuyện là quay đít đi thẳng, anh bận bịu đi tìm tình duyên mới mặc kệ đàn con với sự chăm sóc của mẹ chúng. 

Năm Đinh Hợi đã sắp hết -Người ta gọi là năm Heo Vàng- nên số trẻ sơ sanh vượt trội hơn hẳn những năm trước, kể cả những nước nghiêm ngặt về kế hoạch hoá gia đình như Trung Quốc. Như vậy số quý tử ra đời trong những tháng cuối năm này lại càng nhiều hơn nữa. 

Chẳng biết những đứa cháu nội, cháu ngoại của tôi đã được bố mẹ nó tính toán kỹ càng mới cho ra đời này, có làm nên vương tướng gì hơn cha ông nó không(?) Còn tôi cho dù là heo vàng hay kim cương hột xoàn đi nữa, mà bây giờ vợ tôi thông báo thụ thai đứa thứ chín, thì chắc tôi phải trốn sang xứ Ai Cập! 

Bởi không thiết tha như vậy nên tôi ngồi lan man nghĩ tới năm Mậu Tý sắp tới, phân vân tự hỏi tại sao một con vật bé nhỏ nhất lại được chọn đứng đầu trong 12 con giáp(?) và những điều hiểu biết về cái giống ăn hại này lại lần lượt trở về: 

Chuột được xếp vào loại dịch hại, sức sinh sản của nó lại vô địch trong tất cả các loài động vật mà Thượng đế đã tạo thành, sanh sôi nảy nở theo cấp số nhân. Đặc biệt "tình yêu trai gái" của chúng lại mạnh, lâu nhất trong các loài, có khi gần nhau cả tiếng đồng hồ mà coi bộ lúc nào cũng năng nổ, hăng hái chứ không "dở dở ương ương" như ai kia mà tôi không biết?? Mấy năm gần đây, họ đồn thổi rằng tinh hoàn của chuột còn tốt hơn thuốc Viagra, thế nên ai có nhu cầu thì "liên hệ" với Chung Mốc. 

Trong lịch sử, giống chuột bọ này đã gây cho thế giới nhiều trận dịch hạch khủng khiếp giết chết rất nhiều người. Ngoài ra, giống ranh con này còn phá hại mùa màng một cách tàn khốc. 

Tôi còn nhớ hồi năm 1971 quê tôi mới nhập về giống lúa Thần Nông IR.8, vì là giống mới nên mỗi nhà chỉ cấy thử mấy công mà thôi, ruộng còn lại hầu hết để xạ lúa mùa. Lúa Thần nông thì năng xuất rất cao, lại chưa tới 3 tháng đã được gặt, nhưng lúa mùa tới bảy tám tháng mới chín, có điều lúa mùa thì công chăm bón rất ít, hầu như cứ xạ xuống rồi phú mặc cho trời, đến mùa thì gặt. 

Mùa Đông Xuân năm 1972, từng đàn chuột từ phía biên giới Campuchia đổ về, hằng hà xa số và nó phá hoại thật khủng khiếp. 

Hà Tiên nằm sát biên giới nhưng ruộng đồng phần nhiều khô cằn, phèn mặn. Từ đây mà về Rạch Giá còn phải qua Kiên Lương (có nhà máy xi măng Hà Tiên) rồi Hòn Me, Hòn Đất, Sóc Xoài.. là những địa danh nổi tiếng vì du kích, vì mật khu. 

Dân cư khu này đã thưa thớt mà phần đông đều bỏ nhà chạy loạn, tránh tên bay vạ gió nên đất đai rất hoang vu, càng trở nên hang ổ cho họ hàng nhà Tí sanh đàn đẻ nái, coi như chúng chẳng sợ một ai. Mà năm đó còn bị nạn cháy rừng nên chuột ồ ạt, trùng trùng như sóng kéo về hướng quê tôi là huyện Tân Hiệp. Dân chúng nhìn đàn chuột kéo quân đi mà sởn da gà, hằng trăm ngàn tiếng kêu của nó vang lên ầm ĩ như những sân chim ở vùng U Minh. Chỉ trong vòng một đêm, nó cắn gục hằng trăm héc ta lúa đang ôm đòng hoặc mới trổ lác đác. Các thửa ruộng khi bị chúng vượt qua rồi thì thân cây lúa bị cắn đổ rạp xuống, chỉ còn mấy hàng lúa sát mé bờ ruộng. 

Trước đây tôi thường nghe người ta nói "Chuột chừa miệng lỗ" với nghĩa bóng rằng: Dù có ăn trộm ăn cướp 10 phương, cũng phải chừa hàng xóm láng giềng của mình ra; còn nghĩa đen thì dễ thấy vì ngay miệng hang, bọn chuột không khi nào cắn phá, chắc để nguỵ trang hoặc tỏ ra cho loài người biết rằng "Em ở đây nhưng không hề phá hoại, tụi khác làm chứ đâu phải em". 

Nạn chuột năm này, hàng đoàn lũ chúng đi đông như kiến, không thấy nó đào một lỗ nào, mà cứ vượt qua hết cánh đồng này lại tới ruộng lúa khác, như đang điều quân vậy. Ban ngày thì chuột án binh bất động dưới cỏ lúa, chập choạng tối là con đầu đàn phóng lên đường hay bờ ruộng, hai mắt láo liên coi rất gian xảo, nếu thấy êm êm là nó ra hiêụ cho cả đoàn ào ạt tiến lên hoặc à-la-xô ngoi qua sông ngòi. Tôi đã có dịp chứng kiến cuộc đổ bộ này, chúng đi từng đàn, có bộ chỉ huy, có quân trinh sát đi trước. Tới mỗi bờ sông, thì chỉ một ít con bơi qua trước thám thính coi có an toàn không rồi bơi ngược trở lại báo tin. Nhóm này trước khi đi cũng bịn rịn, lăng xăng chạy tới chạy lui từ giã vợ con y như tráng sĩ Kinh Kha trước khi sang Tần, một đi là không trở lại vậy. 

Năm ấy tôi mới chừng mười lăm tuổi. Chúng tôi cắm đăng theo hình chữ V và đặt lọp như trong mùa nước lớn để bắt chuột thay vì bắt cá. Trời vừa tối là dân chúng xếp hàng ngang, người thì cầm đuốc, kẻ đánh phèng la, chậu thau, nắp nồi... vui đáo để để đi dồn đuổi chuột, nhưng than ôi, khi đến lọp thì mới biết chúng đã cắn tan hoang cả đăng lẫn lọp rồi. Sau đó mọi người phải thay vật liệu bằng lưới mắt cáo thì bắt được quá nhiều chuột, thậm chí chỉ cần lấy một thùng phuy nhét vô một ít rơm để ở cuối ruộng, khi bị dồn đuổi, chuột rúc vô đó đầy nhóc hàng mấy trăm con. 

Thịt chuột ăn không hết, đổ bỏ thì tiếc nên có người phơi khô, hoặc bắt chước người Miên làm mắm chuột, có kẻ còn xào lên, lọc bỏ xương, trộn thêm ít bì hay tai heo luộc mà bó giò, ăn không khác giò thịt heo là mấy. 

Theo cách lùa chuột vào đăng, chúng tôi còn bắt được vô số chim chàng nghịch, ốc cao, cút... lẫn lộn trong đám chuột. Câu Chim Chuột bây giờ mới thấy tận mắt. 

Tuy đã bắt được nhiều như thế mà cũng không thấm tháp gì, nông dân bèn dùng nhớt máy pha thêm dầu cặn với thuốc trừ sâu Endrin, rồi đổ hỗn hợp này loang trên mặt nước ruộng, con chuột lội dưới nước bị ướt lông thì nó thường liếm cho khô, mà lông đã dính dầu nhớt có thuốc độc nên chết khắp nơi. 

Cá tôm cũng bị chết nổi đầy ngoài ruộng. Những con chó lùng sục ngoài đồng, thấy cá và chuột chết liền ăn vào, rồi trúng thuốc cũng chúi vào bờ ruộng nào đó mà chết. 

Trời ơi, cả mấy thứ đó xình lên thì thúi không ai chịu nổi. 

Hồi xa xưa mỗi năm còn làm một mùa lúa thì chuột có rất nhiều, bởi vì sau khi gặt thì ruộng đồng bỏ không, tha hồ cho họ hàng nhà chuột đào hang hốc. Đến mùa nước nổi thì không còn nhiều, ấy thế mà năm đó mùa nước nhưng chuột về tràn đồng, không mấy ai bắt chuột để ăn, mà tìm đủ mọi cách giết nó. Khi thuốc không xuể nữa, dân chúng phải mua từng cuộn vải nhựa nylon, cắt ra cao chừng sáu tấc mà bao ruộng lúa lại, vậy mà nó cũng tìm cách làm cho xập hàng rào này xuống. 

Cách đây hơn 10 năm, lần đầu tiên coi phim hoạt hình Tom and Jerry, dân VN từ trẻ con tới người lớn đều mê chú chuột nhắt nhỏ bé láu lỉnh, nhiều lần làm cho anh mèo Tom khốn đốn. Phim của trẻ con mà người lớn xem cũng cảm thấy nhẹ nhàng thư thái, có người vì coi phim này mà đâm ra yêu thương giống chuột. 

Họ hàng nhà chuột thì đông lắm: Chuột cống lang thì ghẻ lở dơ dáy, nhìn thấy là tởm rồi; chuột chù thì hôi khỏi nói, tổ của nó hôi đã đành, mà khi chập tối, nó chạy đến đâu là hôi đến đấy; chuột nhắt cắn phá quần áo và đồ gia dụng; chuột đồng thì phá hại thóc lúa mùa màng nên béo mập nên càng ngày càng bị người ta săn lùng để làm thịt; duy chỉ có con chuột bạch là mang lợi ích cho loài người khi được dùng trong phòng thí nghiệm. 

Trong dân gian lưu truyền rằng mật chuột rất quý, chữa được bệnh tim, bệnh suyễn, nhưng khi bị bắt, con chuột sợ quá nên mật tan hết, bằng chứng là khi ta làm thịt chuột, kế bên lá gan không thấy mật đâu. Chính vì thế mà người ta bắt con chuột con còn đỏ hỏn, nuốt sống luôn, vì nghĩ rằng chuột con chưa mở mắt thì chưa biết sợ, nên còn nguyên mật. Cứ nghĩ đến con chuột bằng ngón tay, còn ngo ngoe chui vào cổ họng thì đã muốn hết bịnh rồi. 

Con chuột chù hôi như thế, mà người ta để nguyên lông lá, đắp đất sét chung quanh rồi nướng thành than, tán nhuyễn ra uống để trừ bá bịnh. 

Càng ngày lãnh địa của chuột càng thu hẹp dần, tuy nhiên vẫn còn bờ đê, bờ ruộng hay ven bờ đìa bờ ao, vườn cây quanh nhà để chúng làm mật cứ. Số lượng chuột cung cấp cho dân nhậu giảm đi rất nhiều. Cầu thì nhiều mà cung thì ít nên chiều chiều có những ghe nhỏ chở nhiều tầng lồng bẫy chuột làm bằng lưới mắt cáo 7X7X15cm đi dọc theo bờ kinh để tìm lối đi của chuột, rồi đặt cách khoảng 15m một bẫy. Loại bẫy này thường dính một con một lồng mà thôi. 

Về đồng quê bây giờ muốn ăn thịt chuột lúc nào cũng có. Muốn giải trí hay tìm cảm giác lạ thì cứ nhìn ra đồng, thấy có mấy người lố nhố, chạy lăng xăng với vài ba con chó thì đúng là họ đang bắt chuột đó. Mùa khô thì đi đào hang, có con chó thính mũi đi kèm thì tốt nhứt, vì ngoài việc đánh hơi, nếu trong hang có rắn thì con chó cũng báo hiệu cho mình biết khi vừa sủa vừa thụt lùi. 

Đào hang chuột quan trọng hơn hết là phải vít hết các hang ngách kẻo mấy chú len lén phóng đi mất lúc nào không biết. 

Đất chuột đào bằng răng và chân, vo lại nhỏ như hột tiêu, nó đùn ra cửa hang từng đống gọi là "mà". 

Khi con chuột đang đẻ hoặc nuôi con, nó sẽ vít cứng cửa hang lại bằng đất sét ướt, vì rắn hay chui xuống hang mà bắt chuột con lắm. 

Nếu thấy mà ít, thì đúng là hang chuột dái, mấy anh này làm biếng lắm, hoặc chỉ dành thời giờ để đi o gái mà thôi, nên cái hang nông quèn. Mà đùn lên nhiều thì thường là chuột đàn, nhưng dân đi bắt chuột gặp mà to như ngón chân cái thì mừng lắm, vì đó là hang chuột cống nhum, nó đào thẳng đứng xuống đất, nên chỉ một thùng nước dội vào là anh chuột to bằng con mèo phóng ra ngay, có khi chui ngay vào rọ đang đặt trên cửa lỗ. Vì nó to quá nên có người gọi nó là chuột Mỹ. 

Mùa nước nổi chuột không thể làm hang ổ dưới thấp được nữa nên leo hết lên cây. Đi đâm chuột mùa này khoẻ re. Cứ vài người cặp ghe dài dài theo mấy rặng trâm bầu, cà na.. và cầm cây chĩa làm bằng căm xe đạp ở đầu cây trúc lớn dài bốn năm thước, cứ nhắm cho trúng là phóng chĩa, nếu có trật thì anh chuột cũng hết hồn, cuống cuồng nhảy xuống nước, để rồi hết hơi trồi lên là lãnh một cán chèo quay cu lơ. 

Trong nhóm đi săn, thỉnh thoảng có mấy cô gái ngổ ngáo, tay cầm chèo, tay cầm chĩa, đứng tênh hênh nơi mũi ghe coi cũng đã mắt lắm .. 

Chuột bắt về thường được ướp gia vị rồi áp chảo, xào lăn, xào lá cách, hay gói lá mướp rồi hấp cơm (xin đừng cười vì nước cơm thấm vào thịt chuột thơm hết xẩy nghe). Những món này ăn với xoài sống, khế, chuối chát đều ngon cả. 

Đồng quê thú vị biết bao, chả thế mà bây giờ mấy quán nhậu đặc sẩn ở ngoại ô càng ngày càng mọc lên nhiều, lúc nào cũng đông khách, lại toàn là khách hạng sang, có điều mắc quá. 

Khi thấy mấy ông nhà giàu ăn chim chuột rắn rùa, chúng tôi hỏi ăn thấy thế nào, họ trả lời: 

-Y hệt thịt gà. 

Quái! Y hệt thịt gà thì việc gì phải bỏ ra số tiền to để ăn mấy thứ kia. Mấy cha nội này điên hết rồi. 

Cũng nhờ học lỏm đầu bếp của những nhà hàng đặc sản, chúng tôi biết chế biến thêm nhiều món thịt chuột như nấu canh chua, lẩu ... Ngon nhứt là chuột nhúng hèm, thịt nó trắng tươi và dai mà mềm, xé ra trộn gỏi bắp chuối rau răm thì thịt gà không sao sánh nổi. 

Cứ nghĩ đến con chuột xấu xí, lông lá bèo nhèo chắc nhiều người ghê sợ, nhưng nếu có dịp xin thử món chuột đồng chính hiệu, bảo đảm ngon bổ rẻ. Nên ăn cho biết. 

Người ta chở lúa từ Miền Tây lên SG bằng những ghe chài -không phải là ghe chài lưới đâu - Đó là những ghe đóng bằng gỗ dầy, lớn lắm, nó không tự hành được mà phải kéo bằng "tàu dòng". Sức chở của nó hàng mấy chục ngàn giạ lúa. Tuy từ dưới mặt nước lên tới sàn tàu rất cao, không cách gì chuột leo lên được, ấy vậy mà dưới ghe chài, hay sà lan, chuột sống từng đàn phá phách không ai chịu nổi. Thì ra là mỗi ghe, mỗi tàu khi đậu ở bến hay trước nhà máy xay lúa, thường có bắt một tấm ván gỗ dài để làm cầu mà vác lúa và đi lại. Đến đêm họ hàng nhà chuột mới mon men đột nhập rồi sinh đàn ở những kẹt ngách trong xó xỉnh dưới tàu, mà người ta nuôi mèo, đặt bẫy, bỏ bả thuốc độc cũng không sao diệt được. 

Có người kia đặt bẫy lồng được chừng chục con, ông ta nắm đuôi kéo ghì từng con vào thành lồng, người khác dùng kim chỉ mà khâu bít hậu môn nó lại, sau đó thả bầy chuột này chạy tự do dưới ghe. Chỉ vài ngày sau mấy con chuột bí ỉa này hai mắt đỏ sọng, nó nổi điên lên cứ đuổi đồng loại mà cắn, chui ở hang hốc nào nó cũng rượt nà theo, phải chạy lòng vòng rồi cuối cùng sợ quá mà phóng tõm xuống sông. Từ đó dưới tàu không còn con chuột nào vì những anh bí ỉa kia sau mấy ngày cũng lăn quay ra chết hết. 

Tôi thường đọc báo, nghe nói ở bên Trung Quốc các quan tham quá nhiều, chính phủ xử bắn mấy anh rồi mà coi bộ quốc nạn khó lòng dẹp nổi, tiếc rằng tôi chưa có dịp gặp Thủ Tướng Ôn Gia Bảo, chứ tôi mà kể cho ông nghe chuyện trị chuột này thì chắc còn hay hơn kế của Gia Cát Khổng Minh, chả phải việc gì mà bắn Tham Quan cho nó phí đạn và máu me đổ ra coi thấy ghê. 

Cứ khâu đít chừng dăm anh tham nhũng cỡ bự lại (không phải là khâu thực sự đâu). Họ tham nhũng đã nhiều, tiền cả khối mà chính phủ không cho họ mua xe xịn, nhà đẹp; không cho chơi gái vì lúc nào cũng cho công an theo sát đít; họ có chuồn tiền cho vợ con họ hàng cũng bị chịt luôn. Thế là mấy cu cậu này nhìn thấy mấy thằng cha cũng tham nhũng mà chưa lộ ra kia, cứ tự do phởn phơ, tha hồ tiêu xài ăn chơi thì tức điên lên ... thì tố xả láng. Theo sách lược "Ông không ăn được thì đạp đổ". 

Thế là chính quyền từ trung ương xuống địa phương an bình như thời Nghiêu Thuấn. 

Tiếc một điều là làm sao một nông dân cỡ như mình mà được gặp mặt Ôn Tiên Sanh(?) 

Nhớ hồi đó gia đình chúng tôi chỉ cấy lúa mỗi năm một mùa, trúng thất gì cũng phó cho trời. Năm nào được mùa thì còn đỡ chứ nắng hạn hay bão lụt thì rất là khốn đốn. Vậy mà phần đông cha mẹ đều gắng sức cho con đến trường, như gia đình tôi có hai anh lớn đi học Công Trường (Trường TH Cái Sắn là một trường tư, nhưng không biết sao người ta lại gọi như thế) cứ đầu năm học là mẹ tôi lại cắp nón đến xin LM Hiệu Trưởng để ký vào biên bản thiếu nợ, chờ đến mùa gặt mới trả được học phí. 

Bọn trẻ con thì trò chơi chỉ là chơi khăng chơi quay, ống thụt thì tự làm lấy, bi sành không có thì vo bi đất, thỉnh thoảng mới kiếm được cái chai làm súng bắn nước. Nói tới cái súng này, tôi còn nhớ chị tôi âm thầm cắt đọt khoai lang đội ra chợ bán, mấy bữa mới mua được cho tôi cái súng bắn nước bằng cao su Made in Cholon, làm chúng bạn xúm lại trầm trồ. 

Nghèo thì thèm đủ mọi thứ, nhất là chất đường và chất béo, thế mà hồi nhỏ -khoảng 1958- chúng tôi ở trong khu Định Cư không biết ăn thịt chuột, rắn rùa, nếu thấy người Miên hay dân địa phương ăn những con này thì còn cho là mọi rợ, trong khi đó ngoài đồng thì chúng đầy rẫy ê hề. 

Có lần tôi quăng một con rắn bốn năm ký vào đống lửa rơm để nướng rồi chặt khúc cho heo ăn, thấy thịt nó trăng trắng thơm thơm, tò mò bóc một miếng ăn thử thì đã chẳng ngon lành gì mà còn thấy chờn chợn. Đau nhất là có đứa mét mẹ tôi vụ này nên lãnh một roi quắn đít vì dám ăn "như đồ mọi rợ". 

Còn bây giờ hả, muốn ăn mấy thứ đó phải vào nhà hàng đặc sản: Một con chuột nướng lèo giá ba mươi ngàn; một dĩa lươn dĩa ếch nho nhỏ xoàng xoàng cũng dăm chục ngàn; còn nếu chơi tới rắn hổ mang thì trên cả tiền triệu. Thôi thì đành chờ, để hễ có dịp thì đi ăn ké các Đại Gia hay Việt Kiều mà thôi. 

Ít hàng tản mạn để nhớ về những ngày xưa cũ, thiếu thốn đói nghèo nhưng đầy thi vị. Sau này nếu khoa học tiến bộ, phát minh ra được cái máy quay ngược thời gian, giá rẻ rẻ trong khả năng, thể nào tôi cũng mua một cái. 

Cua Rốc Đến Mỹ 

Tác giả: Nguyễn Viết Tân 

Nguyễn Viết Tân là tác giả vừa nhận giải Việt Bút 2010. Bạn đọc Viết Về Nước Mỹ trên Việt Báo Online, tìm theo "Danh Mục Tác Giả" phía tay trái của trang, sẽ thấy trong 10 năm Viết Về Nước Mỹ, có 12 bài viết với bút hiệu Tân Ngố và 15 bài viết với tên thật Nguyễn Viết Tân. Tham dự Giải thưởng Việt Báo từ năm đầu, ông nhận giải bán kết năm 2001 với bút hiệu Tân Ngố, bài "Bên Bờ Freeway". Suốt 10 năm qua, tác giả liên tục góp thêm nhiều bài viết giá trị, gắn bó với giải thưởng và trở thành một tác giả huynh trưởng được mọi người quí trọng. Bên cạnh những du ký sống động về nhiều địa phương tại nước Mỹ, ông cũng viết những truyện ký đặc biệt về đất lề quê thói của miền Nam trước và sau cuộc đổi đời. Những bài viết giá trị này đã xuất bản thành sách "Chuyện Miền Thôn Dã," rất được bà con hâm mộ. Trước 1975, Nguyễn Viết Tân phục vụ tại Phi Đoàn 253 Sói Thần, Đà Nẵng. Định cư tại Mỹ, như đã kể trong bài "Bên Bờ Free Way", ông từng thầu landscaping cho freeway tại vùng Nam Cali và hiện cùng bạn hữu làm một công ty xây cất. Sinh năm 1950, sang năm 2010, ông tự mô tả mình là vào tuổi ngũ tuần, căn cứ theo lối tính "chục 12" của miệt vườn miền Nam. Giải Việt Bút là một giải mới lập từ 2007, để vinh danh các tác giả từng nhận giải thưởng nhưng vẫn tiếp tục viết và vượt được chính mình . Các tác giả đã nhận giải Việt Bút gồm Lê Tường Vi, Bồ Tùng Ma, Trần Nguyên Đán và năm nay là Nguyễn Viết Tân. Xin đọc bài mới nhất của tác giả giải Việt Bút 2010. 

*** 

Cách đây ít lâu, tác giả Khánh Vân có kể chuyện anh chị Hai Lúa đến Mỹ, hôm nay tôi xin kể chuyện con cua rốc, còn thấp hơn Hai Lúa rất nhiều, chúng chỉ bò dưới chân cây lúa mà thôi. Ấy vậy mà nó mới đường hoàng vượt trùng dương tới Mỹ đó. 

Cả nước Việt Nam, bây giờ chẳng ai còn lạ gì món riêu cua. Nó là kết quả của vài chục con cua rốc, bỏ vô cối giã bát bấy bậy, lược lấy nước để nấu với rau đay, mồng tơi hay nấu chung với cà chua và hành lá, làm thành nồi bún riêu thơm phức. 

Món bún riêu xuất phát từ miền Bắc, cũng giống như món phở vậy, nhưng đây là món ăn quê mùa, không "sang" như phở, nhất là sau khi bỏ vào rau ghém, bắp chuối, rau muống chẻ, dấp cá, tía tô, kinh giới, lại phết thêm một cục mắm tôm lên trên cùng coi lại càng quê kệch. 

Trong khi ngoài Bắc một nồi riêu cua chỉ dám giã chừng vài chục con, thì trong Nam cua bò đầy đồng ruộng, mương đìa mà không ai thèm ăn. 

Cua rốc còn được gọi là cua đồng, thịt không nhiều như cua biển, lại cứng không thể ram lên để ăn cả vỏ như con rạm, con còng hay làm mắm như ba khiá, nên có thấy nó bò lổm ngổn người ta cũng mặc kệ chẳng ai thèm đoái hoài. 

Đời con cua rốc bỗng lên hương khi cả triệu người Bắc di cư vào Nam hồi 1954. 

Hồi ấy có rất nhiều trại Dinh Điền được mở ra ở Mộc Hoá và Cái Sắn thuộc vùng Lục Tỉnh, và ở nơi này thì cua rốc đầy đồng. 

Tôi nhớ ngày còn nhỏ mỗi khi tháng tư tháng năm, mưa dào dẫn làm cánh đồng ngập nước, thì cua rốc bò tràn lan trên ruộng đầy gốc rạ và rau muống, có những con cua đực với một càng khều khào to như ngón tay cái, mu ánh lên màu tím trông rất đẹp. 

Đến mùa nước rút gần Noel, mỗi buổi sáng đi đổ đó thì trong xời đầy nhóc tép ruộng và cua rốc. 

Những tháng khác, cua đào hang để trốn thì bọn trẻ nhỏ đi dọc bờ ruộng dùng một cái nèo, thọc vào hang mà bắt cua. 

Trong thôn xóm cứ khoảng 11g sáng là đó đây vang lên tiếng cum cum, tiếng giã cua trong những chiếc nón sắt nhà binh đã cũ, rồi sau đó khói lam uốn éo bốc lên từ những mái tranh nghèo. 

Khi người Nam bắt đầu biết ăn riêu cua thì không còn rẻ nữa, bởi vì cua được đóng thành từng bao bố tời, từ miền Tây chở lên phân phối từ chợ ngã ba Ông Tạ, Xóm Mới cho tới miền Hố Nai, Xuân Lộc Long Khánh, cho chí cả tới Phương Lâm, Đà Lạt, Lâm Đồng, cứ nơi nào có Bắc Kỳ di cư là cua rốc xấn tới lấn đất giành dân. 

Tuy bị đóng cứng ngắc trong bao như thế, mà con cua vẫn "sống vui, sống khoẻ, sống bất tận" (y như câu quảng cáo trong một chương trình y tế của Radio quận Cam hiện nay). 

Cua rốc chỉ lớn bằng nửa lòng bàn tay, bằng con ghẹ xanh thôi nhưng thân hình mập mạp, mu dầy hơn ghẹ rất nhiều. Đến mùa khô, trên đồng không còn giọt nước, đất nứt nẻ, nó đào hang sâu đến tận đất sét, không ăn uống gì suốt mấy tháng, thế mà khi mưa xuống, nó leo lên mặt ruộng thì vẫn béo múp míp, thịt mẩy, mu đầy gạch. Có lẽ nó đã ngủ mấy tháng qua như những động vật ngủ giấc "Đông miên". 

Tôi nghe kể là con bọ ngựa và cua cái là ác nghiệt nhất. Khi con cua đực lột, thân mình còn mềm nhũn là cua cái bèn xơi tái đức ông chồng, bởi thế khi cua đực lột vỏ, nó dùng đất bít miệng hang lại, gọi là "đùn mà" để tự bảo vệ. 

Lớn lên tôi mới thấy rằng người ta đã đổ oan cho cua cái, vì cả cua đực lẫn cái đều vít miệng hang lại khi lột, để chống các loài khác, nhất là rắn và ếch thường xông vào ăn thịt rồi chiếm luôn hang làm chỗ trú ngụ. 

Loài cua cũng giống như tôm hay rắn, cứ mỗi lần lớn lên là nó lại phải lột bỏ lớp vỏ cũ. 

Khi chui ra khỏi vỏ thì thân cua rất mềm, nếu bóp mạnh mu cua một cái là nó chảy ra chất trắng y như sữa, chứ hình như không có chút thịt nào. Hãy tưởng tượng con cua lột đang chứa đựng biết bao calcium, nó sẽ dùng chất vôi này mà tạo lớp vỏ mới. Trẻ em, người già lão, bà mẹ mới sanh xong, ăn một tô cháo có vài con cua lột sẽ bổ dưỡng biết bao. 

Hiện nay tại siêu thị bán đồ VN ở nước ngoài, có những hũ riêu cua mà chúng ta không biết trong đó là bột gì, gia vị bao gồm những hoá chất nào, xuất phát từ xứ Tàu, xứ Thái... ăn vào có khi mang hoạ. 

Mấy bà nội trợ bèn nảy ra sang kiến, mua loại tôm còn cả đầu về lột vỏ, xay ra với một chút thịt bằm, vài quả trứng, cộng với gạch tôm là thành một nồi riêu vừa ngon vừa bắt mắt, lại an toàn. 

Tuần trước tôi ghé thành phố New Orleans, cơ sở đông lạnh của người bạn Kinh 5 đóng cửa im lìm, không còn tiếng cười nói ồn ào của những công nhân, tiếng xe xúc ra vô và xe tải cũng im bặt. 

Sau trận bão Katrina, thành phố bị hoang tàn đổ nát, có nhiều nơi chưa phục hồi thì lại xẩy ra vụ tràn dầu. 

Người ta cho biết chính quyền không còn cấm đánh bắt cá tôm ghẹ và con hàu trong vùng vịnh nữa, nhưng các giới chức thẩm quyền thì đùn đẩy trách nhiệm, không ai dám ký giấy đoan quyết là hải sản có bị nhiễm dầu hay hoá chất làm tan dầu thô hay không, nên cá tôm đánh bắt về, các nhà hàng cùng các cơ sở buôn bán cũng chưa dám mua, sợ rằng dân chúng ăn vào, bị "gì đó" sẽ kiện cáo tùm lum. 

Buổi sáng, đang uống cà phê thì bạn tôi nói có xe đến lấy hàng nên chạy xuống kho đông lạnh. Những kho lớn đều mở cửa trống toác vì không có hàu, cua ghẹ nội địa nhập vào, chỉ còn 2 kho nhỏ, một cái chứa soft cell nhập cảng, cái kia chứa bắp còn nguyên vỏ. 

Nhớ trước đây khi các kho này còn hoạt động hết công xuất, tiền điện hết hơn 30 ngàn một tháng. 

Anh bạn giải thích: 

-Bắp này gọi là bắp nếp trồng ở Ban Mê Thuột, mỗi gói 12 trái. Như anh biết, người dân miền này thường nấu bắp để ăn kèm với hải sản, các nhà hàng, tư gia đều ăn như vậy. Bắp Mỹ cũng nhiều, nhưng ăn sột sột không hợp gu Pháp, nên tôi nhập bắp nếp về đây khá nhiều. Cũng là một cách giúp đỡ nông dân tỉnh này, chứ tôi không có lời bao nhiêu, vì mình phải bán giá hạ để khách hàng biết đến. 

Hiện nay chỉ có tôi là một trong những đầu mối cung cấp nhiều thứ cho Wallmart, nên có thể giới thiệu sản phẩm. 

Kho bên kia chứa toàn soft cell, có nghĩa là ghẹ lột. Con ghẹ này là sản phẩm của Phan Thiết, mỗi con tôi bán ra đồng rưỡi. 

Còn một thứ nữa, nói ra anh sẽ rất ngạc nhiên, đó là con cua rốc. Không phải thứ này bán cho người ta giã ra làm riêu cua đâu, mà nó cũng là cua lột, sản phẩm của miền Tây quê mình. 

Như anh cũng biết con cua rốc sống thảnh thơi trên ruộng, dưới gốc lúa cùng cỏ lăn cỏ lác, nó ăn rong rêu cùng những con tép nhỏ. Mỗi lứa đẻ của nó thì không biết bao nhiêu là trứng, cứ lật cái yếm dưới bụng ra mà xem, cua con lúc nhúc bám đầy những tua trong yếm mẹ tới cả mấy trăm con. 

Vì FDA kiểm soát kỹ lắm, nên tôi không muốn người ta nuôi cua trong ruộng lúa, sợ thuốc trừ sâu ảnh hưởng đến nó. Tôi hợp đồng với nông gia, bỏ hoang hoá ruộng lúa, cứ để cỏ mọc tràn trề, trong đó chỉ nuôi cua mà thôi. Đến khi con cua lớn đến một cỡ nhất định nào đó, họ vớt lên thả trong hồ, cứ con nào vừa lột xong là dùng vợt xúc lên, gói lại đưa vào đông lạnh liền, cứ mỗi hộp là mười hai con. 

Không hiểu tại sao người Mỹ lại chuộng con cua rốc đến thế, con ghẹ bán được một đồng rưỡi, trong khi con cua rốc lại bán tới hai đồng. Cho dù qua nhiều "khâu" vệ sinh, kiểm nghiệm thực phẩm rất hao tốn, nhưng tiền lời cũng còn khá nhiều. 

Trong những nhà hàng, họ tẩm con cua lột vào trong bột có gia vị, chiên trong chảo dầu deepfry, cắt ra làm hai, để trên dĩa có tàu sà lách, mấy cộng ngò, cọng cà rốt xanh đỏ cho bắt mắt, với lại chừng vài chục miếng khoai tây chiên kề bên lát cà chua, thế mà một dĩa như thế bán từ 15 đến 20 đô la. 

Một con cua ở VN đáng giá bao nhiêu cent(?) qua đến Mỹ leo lên dĩa đáng giá gấp trăm lần. 

Rồi đây khi dân Mỹ đã biết rồi ghiền món ăn bổ dưỡng đầy calcium này, chắc chắn rằng người dân quê tôi sẽ có được cuộc sống đầy đủ hơn cũng nhờ con cua rốc. 

Từ nay đi chợ, nếu bạn thấy bắp nếp và cua, ghẹ lột, mang nhãn hiệu John's Seafood, ấy là của công ty người bạn tôi đó. 

Hôm qua, nói chuyện với cô em về chứng hay bị chuột rút, cô ấy nói vì cơ thể thiếu calcium, một bằng chứng rõ ràng là các bà bầu hay bị vọp bẻ, chuột rút, vì đứa bé đang tăng trưởng, rút nhiều chất vôi của mẹ. 

Vậy để có một cơ thể cường tráng, đầy đủ chất bổ mà không sợ mập phì, không còn nhăn nhó đau đớn vì bị chuột rút, xin hãy ăn cua rốc lột. 

Cua rốc muôn năm.. 

CÁ ĐUỐI .... 

Đối với người dân Gò Công, cá đuối là loại cá quen thuộc trong đời sống hàng ngày, là cá của người lợi tức thấp, của gia đình đông con, của dân nhậu... Dân đánh cá Vàm Láng cho biết vùng biển Gò Công là ổ cá đuối , mỗi khi trúng mùa , ghe nầy tới ghe khác tấp nập chỡ các loại lớn nhỏ đủ cở , có con bằng bàn tay , có con lớn hơn cái nia. Cá đuối thân hình vuông vuông , có đuôi dài giống như cánh diều giấy trẻ con chơi thả trong mùa gió chướng . Thịt cá đuối có nhiều loại màu , nấu nướng trở thành thức ăn đa dạng , xào cải chua , xào lá nghệ , xào cà ry, kho tương , tái dấm , phơi khô làm khô cho dân nhậu . 

Hương vị cá đuối có mùi khai khai ngất ngây người sành điệu ...nhậu . Theo các tay " nghiên cứu "ẩm thực cho biết , cá đuối nhỏ bằng bàn tay gọi là cá đuối " hà nàm ", chưng thuốc Bắc ăn đại bổ tim gan , tỳ phế , thận ... Riêng loại cá đuối "cao cấp " gọi là " Hắc Cấy "thịt màu đen , không thấy xuất hiện trên thị trường ...chợ cá , loại nầy làm khô được dân nhậu mô tả như " cây quế giữa rừng gươm". Muốn có khô hắc cấy , chủ ghe phải dặn trước hoặc " nài " bạn đáy là người làm thuê cho chủ ghe đi ra ngoài biển đánh cá , năm khi mười hoạ " bạn đáy " lựa được cá đuối đen , xẻ phơi khô trên mui ghe làm thành khô " hắc cấy " . " Tắt máy , ngư ông về Vàm Láng " bạn đáy " lỏn lỏn" đem về tụ năm tụ ba nhậu quên mệt nhọc của những ngày dài làm " ngư ông và biển cả " và dĩ nhiên họ không " khai báo " với chủ ghe vụ được " hắc cấy " . Vì hiếm quý , chủ ghe tìm cách " trade in " rượu lấy khô hắc cấy để dành làm quà tặng cho " quý quan " có thẩm quyền . 

Khô hắc cấy được nướng , chiên , đặc biệt , thịt ít mùi khai khai , sớ thịt mềm dẻo , hương vị đậm đà và "quết"với nước mắm me dầm ớt " cức chim " là thành món nhậu ...quên trời đất . Xin nói thêm về ớt " cức chim " thuộc " văn minh miệt vườn " cùng loại " xuất phẩm" cafe " cứt chồn " . Vào mùa ớt chín , chim ăn ớt chín cây bay bốn phương tám hướng rồi đi " restroom "vào không gian vô tận , hột ớt không bị tiêu hoá và rơi rớt vào trong " vườn nhà ai ?". Tự nhiên không trồng mà có cây ớt đầy trái nho nhỏ màu " mùa hè đỏ lửa " . 

Hương vị ớt cức chim nầy cay âm ỷ " từng bước ... từng bước thầm " trong lưỡi cay xé họng , giống như ớt màu vàng " nhản lồng " của xứ Mể , đặc biệt để trái ớt trong dĩa nước mắm Nam Phương , nước tương Thái Bình ( dĩ nhiên , nước mắm , nước tương nào cũng được )chỉ cần ấn mạnh đầu đủa trên thân ớt ...là tan xác như tan " xác pháo nhà ai " . Nước chấm , thành phần hổn hợp gồm có , nước mắm , me chín , đường ớt , quậy sền sệt , rồi tiếp tục chương trình xé khô hắc cấy quết vô nước mắm , đưa vào miệng ...khô dẻo , mùi ngây ngấy , hương vị nước mắm chua , cay , ngọt " quền quện" thấm vị giác ...rồi đẩy thêm bia , rượu , kể như món nhậu độc đáo khó quên . 

Chuyện ra chuyện vào bình luận về khô hắc cấy nhậu quá đã , nào là chỉ thiếu đài phát thanh có nói , đài truyền hình có quay , báo Trắng Đen có đăng , nào là đen thì nên thuốc , khô hắc cấy , cá đuối đen mặc dù đồ biển mà ăn không bị phong ngứa , thịt hiền , giải nhiệt , khoẻ mình đến nổi mát mẻ , tối ngủ khỏi ...đội nón . 

Còn chuyện cái đuôi của cá đuối , đứa học trò rắn mắt , quậy xốc , phá phách cở nào cũng ngán " huyền Thoại " cây roi cá đuối . Đuôi cá đuối dài trên một thước tây , phơi khô làm roi , khúc đầu lớn cở ngón tay nhỏ từ từ tới ngọn cở sợi chỉ , roi được bao phủ một lớp hột nho nhỏ như hột cát ghe bầu , giống như bọc giấy nhám bên ngoài . Nhớ tới hồi nhỏ, ba tháng bải trường đi học tư nhà Thầy Sáu Lỉnh ở hẻm số 4 Long Chánh , đường đi học không rợp " bướm vàng bay " mà phải đi qua cua quẹo qua quán Chú Lục , qua các lò bún , lò tương Nam Quốc , Thái Bình rồi tới nhà Thầy Sáu . 

Học trò học tư ba tháng hè tụ tập đủ trường , đủ lớp , đủ tuổi tác cùng chung một mái trường trong căn nhà Thầy Sáu Lỉnh . Để tái lập an ninh trật tự đám lộn xộn nầy , ngoài học trò " Châu vi Đạo " ( lúc đó chưa có tên là Ấp Đạo ) còn có các vùng phụ cận như " bên Chợ " , xóm Thầy Phó , Xóm Cẩm Lai ...Thầy Sáu Lỉnh " biểu diễn " bài học đầu tiên là chỉ cây roi cá đuối treo lủng lẳng trên vách . Thầy Sáu có tật chưn đi cà xích , có tật thì có tài .Thầy nỗi tiếng đánh cớ tướng , phá cờ thế thuộc hạng " kỳ vương " ...Thầy uy nghi cầm cây roi cá đuối đánh gió vài đường trót trót , âm thanh nghe " ớn óc " , thầy tằng hắng : tụi bây vô đây là phải lo học , không được khỉ khọn , phá lò bún , chọc lò tương ...đứa nào lộn xộn ...tao " quánh " bằng cây roi cá đuối thì ...thì thúi thịt . 

Đám học trò nín he nhìn cây roi thần sầu quỷ khốc mà hết hồn sợ mình " vi phạm luật lệ " kể như thúi thịt bất cứ lúc nào . Lớp học " tạp lục "im lặng con ruồi bay cũng nghe , chợt có tiếng lớn họng : Con xin hỏi Chú Sáu .... tiếng của thằng Tư Địa mập ù dân bên Chợ muốn có ý kiến , thằng nầy nỗi tiếng lão thông , trên thông thiên văn , dưới rành địa lý : 

- Roi của Chú Sáu độc địa cỏ roi " cặc bò " của Ông Quản Phát hông Chú Sáu ...? 

( Nó thắng kịp chứ không nó kêu luôn tên Sáu Lỉnh ) Thầy Sáu nạt : 

- Mầy sao lộn xộn , đâu mầy thử rờ cây roi cá đuối thì mầy biết . Thằng Tư Địa bước tới bên vách , với tay cầm cây roi , nó vuốt ve cây roi từ đầu tới đuôi như các kiếm sỹ " Phù Tang"mài kiếm dưới trăng rồi vuốt coi lụt , bén cở nào . Thằng Tư Địa le lưỡi : roi cá đuối của Chú Sáu coi xấu hơn roi " cặc bò " của Ông Quản Phát mà coi bộ đánh đau giàn trời . 

NHờ cây roi cá đuối mà lớp học êm đềm trôi nhanh qua ba tháng nghỉ hè . nhờ cây roi cá đuối mà bà chủ lò tương Nam Quốc không mắng vốn học trò Thầy Sáu Lỉnh rình rình quăng xác mía, trấu vào chảo tương đang sôi ...Đám học trò về trường cũ bình an vô sự và không thấy đứa học trò nào bị Thầy Sáu Lỉnh ""đót " roi cá đuối cho thối thịt . 

Đuôi cá đuối có công dụng phơi khô làm roi " hù " học trò , còn da cá đuối lại có thêm thực dụng . Cá đuối lớn , nặng ký , muốn ăn thịt phải lột da , lớp da dầy , dai , trên mặt có hột nhám nhám rờ như tờ giấy nhám , da cá đuối loại nầy phơi khô , cuốn tròn lại như ống tre để thay thế giấy nhám . 

Thời trước , chưa có nhiều nhà máy xay lúa , người dân quê thường tự tay làm cối xay lúa , ở xóm Cẩm Lai , đi về hướng Mỹ Tho , khỏi cổng " chào mừng quý khách " đến chỗ quán cháo vịt , đối diện là xóm Cẩm Lai , có hai Ông tên Cự , để phân biệt , có một Ông Cự chuyên môn làm cối xay lúa nên dân trong làng gọi tên Cự Cối . Nói tới giòng họ Cự , người ta nghĩ tới một giòng họ nỗi tiếng giàu có như : dealer xe hơi ở Sài Gòn trước năm 75 có Salon Cự Phú , chuyên gia sữa trặc Cự Thất , nhà làm tương Cự Đà , một Ông có thế lực bự là Cự Bu , riêng Ông Cự Cối không thuộc tông họ nầy , mà chỉ suốt đời làm cối xay lúa , đặc biệt , răng cối và " cây ngổng " tức là cây trục ở giữa làm bằng loại cây đước già , loại cây nầy cứng chắc , muốn vuốt cho bằng cho tròn chỉ có cách trị bằng dũa da cá đuối . 

Công dụng thêm nửa của da cá đuối là làm dép , dép đơn giản như dép râu Bình Trị Thiên thay vì làm bằng vỏ xe thì làm bằng da cá đuối . Dép da cá đuối phổ thông cho người làm ruộng muối , mấy bà gánh cải từ miền quê ra chợ , mấy người buôn gánh bán bưng ...và người không tiền mua dép da nên đi đám giổ quảy , ăn nhậu cũng xài dép da cá đuối . 

Có một " xuất phẩm ", một món ăn chỉ ở Gò Công mới có , độc đáo " danh trấn giang hồ " món nầy được chế biến bởi mấy Ông chủ điền , Hội Đồng , con cháu " bà lớn " " sáng tác " thành tuyệt phẩm ẩm thực truyền lại cho con cháu ...ăn nhậu , đó là món gỏi da cá đuối . Muốn làm gỏi da cá đuối phải qua nhiều giai đoạn công phu : 

- Lột da cá đuối tươi đem phơi khô 

- Da khô được nướng cháy vàng lớp ngoài 

- ngâm nước cho mềm 

- Cạo lớp da cháy vàng cho da trở thành màu trắng 

- Thái thành từng cọng dài 5 cm 

- ngâm phèn chua làm da cá trong suốt 

- Rửa sạch phơi khô đựng trong keo hủ chờ làm gỏi . 

Dưới dốc cầu Long Chánh , Thị Xã Gò Công , kế bên nhà Nhạc Sỹ Lê Dinh có chị Hai Quang chuyên môn sản xuất da cá đuối theo " order " của dân Gò Công hải ngoại mang ra ngoại quốc vừa tiện lợi vừa nhẹ cân , không có mùi nên quan thuế ở phi trường không bao giờ xét hỏi và làm khó dễ . 

Muốn làm một dỉa gỏi da cá đuối phải làm tuần tự như sau : 

- Ngâm da cá đuối khô vào nước lạnh 

- Nhai thử thấy dòn vớt ra để cho ráo . 

- Trộn da cá đuối với thịt ba chỉ , tôm luộc lột vỏ , ngó sen , carot với nước gỏi hổn hợp gồm có dấm chanh , củ hành , đường ... 

- Trình bày trên dĩa lớn " trình diễn " thêm rau răm , đậu phộng rang đập bể 3 - 4 , trang trí thêm một trái ớt tỉa hoa lá gắn ở giữa " thành hoa nở trên dỉa gỏi "thêm phần xôm tụ . 

Như vậy dỉa dỏi da cá đuối đang mời mọc thực khách , diả gỏi quê hương Gò Công trước mặt khỏi đi đâu xa , khỏi phải " Anh xin em đưa về , về quê hương ăn gỏi ..." Bây giờ là phần then chốt chương trình , phần ăn gỏi . Gắp gỏi vào chén , " kiểm soát " coi đầy đủ chi tiết ...gỏi chưa ? chan một ít nước mắm ớt , kiểm soát lại lần nửa , nào là tôm thịt , rau răm , da cá đuối , nhấm một ly rượu lấy trớn ..." và" gỏi nghe rào rạo , da cá dòn dòn , thịt ba chỉ béo ngậy , cắn ngang con tôm ngập răng ...chua , ngọt , nồng cay ...một khám phá món ngon vật lạ của người dân Gò Công thực sự để đời , nhấp rượu , đưa mồi gỏi cá đuối ...tai nghe trong tai âm thanh rào rạo , mắt mờ mờ trong men rượu , nhìn cõi xa xăm quê hương ta có ...da cá đuối . 

Xin cảm tạ ơn Gò Công , địa linh nhân kiệt có "Ông lớn, Bà lớn " chế ra gỏi da cá đuối , Xin cảm ơn hiền nội chìu chồng nhắn bà con gửi da cá đuối qua Mỹ , xin giả từ gỏi rau cân , gỏi sứa , nếu so sánh với gỏi cá đuối chẳng khác nào phụng hoàng đứng bên gà vịt , hiền nội tui ơi ! Quan tể tướng của tui ơi ! sao mà khéo chìu chồng , khéo ...trộn gỏi da cá đuối ... 

Chuyện gỏi da cá đuối , lại nhớ một giai thoại mà dân ăn nhậu vẫn thường kể lại . Anh sui trai từ làng Tân Thành lên làng Đồng Sơn thăm anh sui gái . Hai Anh sui rất xứng sui gia , nghĩa là khoái nhậu . Lâu ngày mới rảnh rổi , hai anh sui thăm nhau và bày một trận " giao hữu" . Anh sui gái trãi chiếu trên bộ ván gõ , mời anh sui trai bỏ dép , phủi cẳng nằm nghỉ cho khỏe đợi món nhậu . Đường xa mệt mỏi , thêm nghỉ dưởng sức cho khỏe đợi món nhậu , nên anh sui trai ngủ ngon lành . Làm xong món nhậu , anh sui gái khều cẳng đựng đầu anh sui trai dậy mời nhập tiệc . 

Hai anh sui sáp trận , ly cạn ly đầy , khen món" chủ lực "là dỉa gỏi quá ngon , nhậu quá " bắt " chưa có độ nhậu nào ngon cở độ nhậu nầy . Rượu cạn , mồi hết , tiệc tàn , anh sui trai từ giả anh sui gái ra về thơ thới hân hoan , anh sui trai với tay lấy nón nỉ móc trên sừng nai gắn trên vách đội lên đầu , rồi ngó quanh ngó quẩn như tìm một cái gì ...mà quên ...mà tìm không thấy ...mà đâu mất . Như hiểu ý , anh sui gái hỏi : Anh kiếm đôi dép phải không anh sui ? Nói thiệt với Anh sui , vợ tôi làm gỏi đôi dép da cá đuối của anh rồi , tụi mình nhậu hết hai chiếc dép rồi . 

Anh sui trai chưng hửng , ngạc nhiên , ...hết say , khen tài chế biến món gỏi bằng hai chiếc dép da cá đuối , thôi chịu khó đi cẳng không , miễn có một trận nhậu quá đã là được rồi . Anh sui trai ra về " người đi , ừ nhỉ , người đi thật " chỉ đôi dép còn lại trong bụng hai anh sui " Bóng nhỏ đường dài " anh sui trai đội nón nỉ lửng thửng đi " xiêu vẹo " trên con đường đá đỏ buổi chiều để đón chiếc xe " lam " cuối cùng . 

Anh sui gái đưa mắt nhìn theo chép miệng : tội nghiệp anh sui ...tiêu tùng hai chiếc dép da cá đuối . Anh sui gái quay vào trong nhà , như nhớ một điều gì quan trọng , hét lớn : Má sắp nhỏ đâu rồi , phần gỏi để dành hồi nảy , nhớ đừng để mấy đứa nhỏ chòi mòi , chọc mọc ăn hết ...để tui rảnh , chút nhậu tiếp ....... 

Câu cá vàng 

Tác giả: Phan 

Tôi mê câu cá từ nhỏ, đi câu vui từ khi thọt ổ kiến trên cây mảng cầu xiêm hay thọt tổ ong ngoài bụi rậm, cây bần, cây mắm... để có mồi đi câu. Kiến lửa dữ dằn thì còn phải nói, ong cũng đâu hiền lành gì. Thể nào trên mình mảy tôi chẳng có dăm vết xưng đỏ để xuýt xoa... Thoạt đầu, kiến cắn còn xứt dầu hay vôi ăn trầu khi bị ong chích. Riết rồi quen thành ghiền cảm giác... đau đau. Những cái trứng kiến trắng phau, ấu trùng trong tổ ong cũng vậy. Đến người nhìn còn muốn ăn, nói chi cá. 

Khi giật được con cá rô mề chừng ba ngón tay, cây cần câu trúc oằn xuống... con cá giẫy dụa trong ánh nắng lóng lánh vàng ươm. Vảy, kỳ của nó dựng lên, gặp con cá trống. Kỳ, vảy ửng màu xanh biển thật đẹp - sướng mắt hết biết. Rung động truyền theo cây cần câu trúc cho cảm giác - sướng tay. Vui sướng nhất là xách về xóm chừng hai chục con cá rô mề như vậy, ai thấy cũng bắt ham và không ngớt khen ngợi: "Thằng này câu giỏi thiệt! Má nó khỏi đi chợ..." Hơn những lời khen là thỏa mãn tự tôn trong con nít. Tôi khoái cảm giác: Mình là người có ích cho gia đình và được hàng xóm nể mặt. Hình như mầm mống của nam tính đang phát triển trong tôi. Vậy là câu miết cho sở thích và cho tính tự cao. 

Lớn lên được chút thì tôi học nghề mấy ông gìa câu rê cá lóc ở những ruộng rau muống. Cái thú từ khi đi tuyển được cây trúc gìa, thẳng băng như cây ăng-ten trên xe jeep của lính. Ra tiệm sửa xe xin cả bó căm cũ mang về nhà ngồi uốn lưỡi câu. Làm chừng vài chục cái chỉ được dăm ba cái tương đối ưng ý. (có ngạnh sắc bén mà thân lưỡi không bị yếu, mới đủ sức bắt cá lớn.) Đến màn trui mấy cái lưỡi câu tương đối ấy lại hao hụt thêm mấy chục phần trăm. Đốt đỏ lưỡi câu trên bếp than hồng, kẹp từng cái nhúng vô nước muối (độ mặn của nước muối là bí quyết - không truyền nghề. Cách nhúng là kinh nghiệm - không chỉ được.) Tôi không nói qúa đâu. Có những cái lưỡi câu trị gía ba con cá lóc còn không đổi. 

Khi đã có bộ đồ nghề - coi không tệ. Lại đi săn mồi là những con nhái con (còn ai nhanh hơn nhái con? Chộp được nó đâu phải dễ.) Có câu: "Chụp ếch" trong tiếng Việt để trêu tức người bị té ngã. Săn được mớ nhái con mươi con là thấy đói bụng. Nhưng mê câu và nghĩ đến những con cá lóc nên đâu chịu về nhà ăn cơm. Chỉ rửa tay chân qua loa ở bờ ao, bờ ruộng. Cuộc đấu trí bắt đầu liền sau đó. Móc con nhái con vào lưỡi câu sao cho giống như không có sự can thiệp của bàn tay con người. Bứt cọng cỏ năng như cái ống hút (drinking straws). Ghim vào đầu nhọn của lưỡi câu để cá lóc đừng sợ mà cũng để đầu nhọn của lưỡi câu đừng vướng vào rau muống trên ruộng. Bắt đầu ném thật xa - con mồi, Tay phải rung cần... rê... rê... trên mặt ruộng, tay trái thâu giây cước ny-lon về o gỗ. Cứ thế lập lại nhiều lần... Những nơi có bầy ròng ròng (cá lóc con) là có cơ hội cá lóc mẹ đói hay không cũng phải thanh toán con nhái mồi - hiểm họa của bầy ròng ròng. Trời sinh động vật, đều có tình mẫu tử. 

Nhớ lần đầu tiên giựt được con cá lóc bằng bắp chân. Đầu tiên là tim tôi đập thình thịch đến nghẹt thở. Từ từ bình tĩnh lại... Sướng tê dại cả tâm can. Tôi đứng bần thần lâu lắm để tận hưởng cảm giác thắng cuộc đấu trí với con cá lóc. 

Sau đó không lâu tôi đã là tay sát thủ của cá lóc quê tôi. Kinh nghiệm chế tạo lưỡi câu đã nâng danh tiếng tôi lên làng trên xóm dưới. Làm cho tôi có đồng ra đồng vào - tiêu vặt với bạn bè. 

Được ông gìa trong xóm đi tuyển mãi đâu về hai câu trúc gìa, thẳng ơi là thẳng. Ông giao cho tôi róc mắt, hơ lửa trui trúc. Công việc này cần kinh nghiệm và khéo tay. Một bếp than hồng với cái nùi giẻ ướt - ngồi hong chậm từng mắt trúc, không được gìa lửa, không được vội làm cho mắt trúc bị giòn. Nhưng lửa qúa non, hơ lâu thì thân trúc (thân cần câu) sau này sẽ yếu, khó bắt được cá lớn. Như truyện chưởng trui kiếm vậy. Cây cần câu phải cứng - mềm; cương - nhu... như bảo kiếm. Tôi mê đoạn văn tả Tần Thủy Hoàng bỏ ngai vàng đi lên núi rèn - trui kiếm bằng máu một trăm con mèo đen. Chỉ không thích ông ấy, lúc hoàn thành thanh bảo kiếm thì giết người thợ rèn - có một không hai để thiên hạ không thể có cây bảo kiếm thứ hai. 

Tôi ngồi trui cần câu như trui bảo kiếm. Sau đó mỗi người một cây như đôi song kiếm danh trấn giang hồ. Tôi qúy cây cần câu đó như bảo vật. Theo thời gian cây cần câu lên nước vàng ươm, bóng loáng, lại có làm lễ khai cần cúng kiếng hẳn hoi nên linh lắm. Lần nào tôi xách cần đi thì về cũng có cá. Hôm ít, mẹ tôi lấy đầu đuôi nấu canh chua, khúc mình đem kho. Nhà tôi sẵn vườn rau đủ loại nên hai bữa cơm gia đình rất đậm đà từ chất lượng bữa ăn đến ấm cúng không khí gia đình. Những hôm tôi câu được nhiều, mẹ tôi đem cho ai đó đang bệnh để kho tiêu ăn dè. Tình xóm làng quê tôi như thế. Có khi cha tôi đốt rơm làm cá lóc nướng trui ăn với rau sống cuốn bánh tráng, chấm mắm nêm thì tuyệt cú mèo. 

Nhớ hình ảnh cha tôi khề khà chung rượu đế. Bộ đồ lòng ưu tiên cho người câu, nhưng tôi ưa nhường cho cha vì ông thích vị đắng đắng và giòn giòn của ruột cá lóc. Trong sách "Những món ăn miền Nam" của tác gỉa nào - quên rồi. Nhưng tôi nhớ có đoạn tả về ăn ruột cá lóc nướng trui, uống rượu đế nếp là một món cao lương mỹ vị của miền Nam. 

Đúng lần gần đến giỗ ông Nội tôi. Mẹ tôi rọng những con cá lóc tôi câu được trong cái lu mẻ miệng. Mẹ nói để giành chừng chục con thì đủ làm đám giỗ. Tôi biết vậy nên cố câu cho đủ. Tôi đang rê cá lóc ngoài ruộng rau muống, trời chiều thật chiều rồi nhưng ráng kiếm thêm con nữa là đủ chục cho mẹ tôi yên tâm về món cá, còn lo những món khác nữa. 

...Có ông gìa râu tóc bạc phơ, nhàn tản hưởng gío đồng. Ông ghé nhìn tôi câu thật lâu. Tôi nhìn ông là nghĩ đến Thần tiên trong truyện cổ tích. Ông mặc bà ba trắng, búi tóc như đàn bà. Ông hỏi tôi: 

"Cháu câu được nhiều chưa mà câu hoài vậy? Tối rồi." 

"Dạ được hai con rồi. Cháu ráng thêm con nữa." 

"Cháu câu bán hay câu ăn?" 

"Dạ nhà ăn thôi ông. Có dư thì cho hàng xóm." 

"..." 

Tôi giựt được con thứ ba, con cá lóc lớn nhất từ trước tới giờ mà tôi câu được. Tưởng ông gìa cho tôi lời trầm trồ khen ngợi. Nhưng ngược lại: 

"Ông hỏi cháu câu này!" 

"Dạ ông." 

"Nếu người ta đến nhà bắt mẹ cháu đem đi (giết và ăn thịt). Ai sẽ nấu cơm cho anh em cháu ăn? Cháu có thấy bầy ròng ròng bây giờ mồ côi. Chúng sẽ chết hết với những con cá lớn hơn chúng vì không còn mẹ bảo vệ. Không thì cũng chết đói vì không còn mẹ kiếm mồi cho chúng..." 

"..." 

"Cháu hiểu rồi ông." 

Tôi thả ba con cá lóc trước mặt ông gìa. Ông vui ra mặt, vuốt chòm râu cằm trắng như mây, dài đến rốn... Một gìa một trẻ về nhà ông gần đó uống nước trà. Đám giỗ ông Nội tôi lần đó chỉ có bảy con cá lóc. 

Một lần ngứa tay. Tôi xếp bì giấy, lấy cọng thun bắn con thằn lằn trên trần nhà. Đem móc vào lưỡi câu, vác cây cần câu đi nghễu nghệnh trong xóm. Gặp mẹ tôi đi đâu về. 

"Thôi đi con. Ông Hai đã nói vậy... còn câu chi nữa?" 

"Con rê chơi thôi mẹ. Buồn qúa...!" 

Tôi đi lang thang ra mấy ruộng rau muống ngoài Nghĩa địa. Thấy ông kia câu cá lóc - khác tôi. Cây cần câu của ông ấy chỉ là đoạn gốc trúc gìa dài chừng hai mét - xấu xí phát ớn. Đầu buộc đoạn dây dù hai mét - không tới. Ông ấy buộc con vịt con thì khéo - nó vẫn bơi được. Hai chân nó mang hai chùm lưỡi câu (loại mua chợ - dở ẹt). Ông núp trong bụi rậm như đi ăn trộm. Tôi thấy lạ nên đến coi. Ông ấy nhìn cây cần câu của tôi mà thèm chảy nước miếng. 

"Ở đâu mày có cây cần câu tốt dzậy?" 

"Ông không biết tôi hả? Ông từ đâu đến đây?" 

"..." 

Tôi nhìn ông ấy núp trong bụi rậm (cho cá mẹ đừng thấy bóng người). Thả con vịt con lội giữa bầy ròng ròng... Không bao lâu. Con cá mẹ quẫy nước một cái thật lớn! Ông ấy thắng được con cá thật to. Tiếng cười đắc chí của ông ấy lồng lộng trong gió chiều làm tôi tức khí. Tôi muốn câu liền một con cá lóc lớn hơn cho vị khách vãng lai - không mời mà đến đây - biết mặt thằng Thổ địa - tôi. Nhưng ông ấy mau chóng rời hiện trường. Tôi tức tối theo bản năng cọp con bị vuốt râu. Thề với lòng gặp ông này lần nữa, phải cho ông ấy biết: "Tôi là ai". 

Tôi nguôi đi cơn tức giận khi nghe tiếng kêu thống thiết của con vịt con mà ông ấy bỏ lại trên bờ ruộng. Nó không chết dù đã mất hai chân. Máu chảy hoài không dứt. Tiếng kêu đau đớn nhỏ dần... lâu lắm. Con vịt con vàng óng thật dễ thương từ từ nhắm mắt - ngoẻo đầu... chào tôi lần cuối. 

Dưới ruộng rau bầy ròng ròng hốt hoảng tìm mẹ. Chúng không còn bơi lội tung tăng hay nhởn nhơ rượt đuổi nhau như chơi đùa nữa. Lòng từ bi bất ngờ trong tôi ập đến - chiếm hết tâm tư tôi. Tôi tháo bỏ con thằn lằn, vác cây cần câu - thơ thẩn về nhà trong tiếng cười chế nhạo của hàng xóm. "Hôm nay tay sát cá đệ nhất - về không sao mảy?" 

Bộ đồ câu danh trấn giang hồ - tôi không tặng ai, không hủy bỏ. Gói ghém cẩn thận để lên gác bếp (nơi có khói thường ít mối mọt). 

Năm tôi đi Đại học thì ông Hai mất. Đêm tôi nằm mơ thấy mình đã đi câu. Tôi giật lên con cá lớn mặc bà ba trắng, râu tóc bạc phơ... Hôm sau tôi đến chỗ để bộ đồ câu đã đóng bụi thời gian, ám khói. Moi trong cái rọ đã khô khốc... Tôi cầm lên coi lại những cái lưỡi câu oan nghiệt. 

Nhiều đêm sau tôi không ngủ được mà cứ nhớ những lần ghé thăm ông Hai. Những tư tưởng Phật Giáo mà ông đã giảng cho tôi nghe, còn nhớ đến bây gìơ. Người ông ngang xương mà sao tôi kính yêu. 

Bộ đồ câu không biết có còn không? Vì tôi xa nhà đã qúa lâu. Đêm qua tôi lại nằm mơ - câu cá. Tôi câu lên con cá vàng tuyệt đẹp. Không phải là ông Hai. Sáng nay ngồi với ly cà phê - vào hạ. Tôi nhớ ông Hai ở quê mình. Không lẽ ông Hai đã đầu thai thành con cá vàng và ghé thăm tôi?! 

Câu cá xứ lạnh 

Võ Kỳ Điền 

Bạn hiền, 

..... 

Tôi sẽ kể cho bạn nghe chuyện câu cá nơi xứ lạnh và tôi tin là bạn chưa biết. Tại sao tôi dám đoán ẩu như vậy, khoan trách nghen, bởi vì tôi đã ở xứ nầy lâu lắm, mãi cho đến mấy ngày gần đây tôi mới biết được trò chơi nầy lần đầu... Bạn ở một nơi xa, đâu dễ gì biết được. Trừ khi bạn du lịch qua đây, có người hướng dẫn đi câu cá trên nước đá thì mới biết được một trong những thú vui mùa đông là thế nào. Mà nè, bạn có thiền hay tu hành không, nếu có thì dĩ nhiên là không được rồi, chơi trò câu cá là dành riêng cho người phàm tục, chớ đối với kẻ tu hành là phạm tội sát sanh đó, mình vui khi cá buồn, thiệt là tội lỗi, tội lỗi, không nên. Nhưng tôi nhớ mang máng là bạn cũng thích câu cá lắm mà... 

Khi thằng con trai tôi điện thoại rủ về Montréal câu cá trên nước đá thì tôi đồng ý ngay, không do dự chút xíu nào. Thằng nhỏ bị ảnh hưởng tôi từ lúc còn bé xíu, từ ngày định cư ở đây, vào mùa hè hai cha con suốt ngày thường kiếm bờ nước câu cá, bất kể trời nắng hay mưa, từ lúc mờ sáng cho đến đêm khuya..., câu cho vui chớ không phải để ăn vì cá sông St -Laurent bị ô nhiễm, các cơ quan truyền thông đều nói vậy và cảnh báo nhiều lần, thiệt ra mức độ ô nhiễm bằng cá bày bán ở siêu thị Việt Nam và Trung Hoa hay không, tôi không biết. Đi câu đối với đa số người lớn tuổi là một thú giải trí, thể thao nhẹ nhàng vào những ngày cuối tuần, giữa thiên nhiên khoáng đãng, hấp dẫn, thư thái, nhàn hạ, nhứt là ít tốn kém... 

Sau khi nhận lời con thì tôi giựt mình nhớ lại, câu cá mùa đông đâu có giống như câu cá mùa hè. Dĩ nhiên là khác nhau rất xa. Tôi vẫn thường nghe bạn bè nói chuyện đi câu mùa đông và cũng từng coi truyền hình thấy cảnh câu cá của thổ dân Inuits, Esquimaux,... họ mặc quần áo dày cộm bằng da thú, trùm kín cả người, mũ nón bao tay kín mít, khoét một lỗ tròn trên nước đá, ngồi co ro cầm cần câu chờ cá ăn mồi, giữa trời đất mênh mông tuyết phủ trắng xóa ở vùng Bắc Cực lạnh lẽo. Tỉnh Québec của tôi ở đâu có cách xa Bắc Cực bao nhiêu, tôi tưởng tượng cách câu của cha con tôi sắp thực hiện, chắc cũng y vậy thôi. 

Nhận lời con xong rồi mới thấy mình dại, ham vui một chút lại đi làm chuyện mạo hiểm, điên rồ. Câu cá suốt đêm đông trên một dòng sông lạnh lẽo, trong một làng nhỏ tên là Sainte-Anne-de-la-Perade, trên đường đi về hướng Québec. Tại sao không đi ban ngày cho đỡ, đi chi ban đêm cho khổ sở, vất vả. Thằng con nói ban đêm câu đươc nhiều cá hơn... Trời đất ! kể từ hôm đó, trong đầu tôi miên man tưởng tượng cảnh trên dòng sông mênh mông hiu quạnh, mặt nước đóng băng cứng ngắt, trời tối mò mò, gió lạnh thổi phần phật từng cơn, tuyết bay phơi phới, hai cha con trang bị quần áo mùa đông dầy mo, kín mít, đầu đội mũ (tuque), cổ quấn khăn choàng (foulard), tay mang bao tay (gants), cả hai ngồi lom khom trên mặt nước đá, tay cầm cần câu quờ quạng chờ mong rình rập bắt từng con cá ngu dại đêm khuya đói bụng đi kiếm mồi. Thiệt tình, không biết vui sướng ở cái chỗ nào ! Ngàn năm trước, danh sĩ Đào Tiềm, người đời Tấn đã từng nói trong Qui Khứ Lai Từ một câu bất hủ, làm sao mà quên cho được -ký tự dĩ tâm di hình dịch hề, trù trướng nhi độc bi (bắt thân xác làm nô lệ cho lòng ham muốn, đó chẳng phải là điều đáng buồn của kiếp người sao !) Cha con tôi bây giờ có khác gì câu nói người xưa, do lòng ham vui một chút mà đem thân xác phơi bày giữa tuyết gió bão bùng, giữa đồng không hiu quạnh mênh mông, tối tăm lạnh lẽo... suy đi nghĩ lại đâu có cái ngu nào hơn ! 

Nhưng rồi lời hứa đã thốt ra, làm sao rút lại được, dù là hứa hẹn với con. Người ta làm được thì mình làm được, tại sao lại sợ sệt, rụt rè... Thế là tôi bắt đầu lo lắng chuẩn bị. Ngoài trời lạnh giá, không có bao tay làm sao chịu nổi, cần phải móc mồi câu và rửa tay bằng nước lạnh buốt, tôi soạn lại các bao tay mùa đông, lựa lấy một bộ thật ấm và ít thấm nước. Phải có một cái mũ trùm đầu cho thiệt kín và dầy. Trời lạnh mà không có mũ trùm đầu, tôi thường thấy một cảm giác như xương sọ bị nứt ra. Dĩ nhiên là cần một bộ quần áo mùa đông thật ấm, bên trong lót bằng lông ngỗng trời (duvet), rồi bộ quần áo lót bằng len ấm, khăn quàng cổ... và nhứt là đôi giày tuyết cao cổ, ít nhứt cũng phải chịu đựng nổi suốt đêm ngồi đứng trên nước đá... Tất cả đã chuẩn bị đầy đủ, mà trong bụng phân vân không biết có còn thiếu gì nữa hay không, trang bị như vậy có đủ không và tự dặn trong bụng là phải nhớ đi đứng nhè nhẹ, êm ái, nếu quên mà bước mạnh chưn, dậm thình thịch, rủi mặt nước đá nứt bể ra thì sao... Lọt xuống nước là toàn thân lạnh quéo rồi, còn hơi sức đâu mà lội, rồi bám vào đâu mà leo lên, bờ nước đá trơn như thoa mỡ, rồi giữa mặt sông lạnh khuya khoắc còn có ai huỡn mà tới cứu mình ? 

Tôi đã sống ở xứ lạnh nầy gần ba mươi năm, đã từng đi bộ ngoài trời trên cả giờ đồng hồ vào những lúc trời đổ lạnh trừ ba, bốn chục độ âm. Lúc gió nổi lên từng cơn thì độ lạnh càng xuống thấp khủng khiếp, khi đi ngoài trời, lạnh quá chịu hết nổi, tay chưn đầu cổ, vành tai, lỗ mũi...tê cóng, tất cả biến đâu mất hết chỉ còn duy nhứt trái tim đập thoi thóp, thì lẹ lẹ kiếm một nơi tá túc hoặc chạy lánh vô nhà cửa bắt gặp dọc đường hầu sưởi ấm lại toàn thân, còn bây giờ thì già rồi sức yếu, bày đặt ngồi câu suốt đêm trên sông lạnh. Nếu nửa đêm lạnh quá, chịu hết nổi thì núp ở chỗ nào ? Trên mặt sông, giữa đồng không mênh mông hiu quạnh, trời tối mù mù, biết đi đâu, về đâu. Thiệt tình tôi không tưởng tượng được cảnh thê thảm khi đó tới mức nào... Không những tôi nghĩ như vậy mà những bạn bè quen ở Toronto khi nghe tôi về Québec câu cá mùa đông, đều hỏi một câu giống nhau -anh không sợ nước đá nứt bể sao ? rồi trời lạnh suốt đêm, anh lớn tuổi rồi chịu lạnh nổi không, khi buồn ngủ quá thì làm sao ? Tôi bèn nhớ tới thằng con, nó nói câu cá trên nước đá vui lắm, ba khỏi lo gì hết rồi không nói gì thêm nữa, cúp phone. Hổng lẽ nó hại cho mình khổ sở. Mình là cha nó, mình khổ thì nó đâu có vui. Rồi tự dặn lòng, thôi đi đại, đừng sợ... 

Nhưng mà bạn hiền nè, chuyện tưởng vậy chớ không phải vậy. Viết tới đây tôi đâm nhớ câu thành ngữ mới nầy, thiệt tình khâm phục cách nói chuyện dân Sài Gòn mình. Câu nầy áp dụng trong trường hợp câu cá mùa đông của riêng tôi cũng đúng nữa. Những gì tôi tưởng tượng ra kể cho bạn nghe nãy giờ, đều khác xa thực tế. Quả vậy, chuyện tưởng vậy mà không phải vậy !. 

Từ Montréal, sau khi mua sắm thức ăn và đồ dùng cho chuyến đi, cha con tôi khởi hành lúc sáu giờ chiều, mùa đông vào giờ nầy trời đã tối đen. May là xe chạy trên xa lộ nên đường xá quang đãng dễ đi, đoạn đường dài chừng hai trăm cây số, còn một đoạn ngắn nữa là tới thành phố Québec. Khi xe ghé lại một làng nhỏ có tên là Sainte-Anne-de-la-Pérade lúc tám giờ rưỡi, thì tôi ngạc nhiên sững sờ lẫn thích thú, nhìn chỗ nầy chỗ kia, rồi đâm bật cười và thấy tất cả những gì mình ngồi ở nhà tưởng tượng ra đều trật lật hết trơn ! Đúng là quê một cục!. 

Bạn hiền nè, bạn biết tại sao tôi cười không ? bởi vì nơi đây, chỗ xe cha con tôi dừng lại, cũng là chỗ câu cá đêm nay, không phải là đồng không hiu quạnh, cũng không tối tăm mù mù, cũng không vắng vẻ, quạnh hiu, cũng không thấy sông nước đâu hết... Vậy thì nó ra sao ? Tôi sẽ kể rõ từng chi tiết cho bạn nghe. Từ trên một con đường dọc bờ sông của cái làng nhỏ nầy, xe chạy thẳng xuống mặt sông hồi nào tôi không hay, chỗ nào cũng có đường xe chạy, liên tiếp nhau, không ngừng. Mặt sông đã đóng băng biến thành một cánh đồng trắng xóa rộng rãi, mênh mông. Trước mắt tôi là một thành phố nhỏ, chấp chóa, rực rỡ ánh đèn vàng, người đi đông đúc tươi vui, tiếng xe chạy, tiếng nói chuyện cười đùa rộn rịp. Trên các con đường dọc ngang là các túp lều sơn trắng xinh xắn đẹp đẽ có lớn có nhỏ, lớn thì như cái nhà, nhỏ như cái lều, được sắp xếp chạy dài san sát theo lối đi. Ngay hàng thẳng lối trật tự, nhìn rất là đẹp mắt. Cạnh mỗi lều là hai ba cái xe hơi của khách câu đậu sát cạnh bên. 

Đèn điện được thắp sáng ngoài đường, dọc theo lối đi, trên nóc lều, bên trong lều... chỗ nào cũng đèn đuốc sáng trưng, thiệt là vui mắt và ấm áp. Những người câu cá kéo nhau đi từng đoàn trò chuyện tưng bừng, đông vui. Đa số khách câu tham dự là người dân Québec, thường họ đi chơi cả gia đình cha mẹ, bạn bè cùng con cái, đùa giỡn, cười nói giọng địa phương đặc sệt khó nghe. Tôi rời xa tỉnh nầy hơi lâu, bây giờ mới nghe lại được giọng nói quen thuộc, cảm thấy gần gũi dễ thương (giọng dân quê Pháp thế kỷ 16, 17, một nghịch lý kỳ lạ là khi nghe giọng sang trọng Parisienne tôi lại khó chịu và không thích, hay là tại mình nhà quê rồi đâm ra hạp với tây nhà quê!) Từng đoàn xe truợt tuyết chạy bằng xích sắt chỡ đôi (motoneige -Skidoo) đua nhau vun vút, tiếng máy kêu ầm ầm vang động cả trời khuya. Xa xa có vài chiếc máy cày màu vàng đậu im lìm lẻ loi, những chiếc nầy nặng hàng năm, mười tấn dùng để kéo các lều sắp xếp ngay hàng thẳng lối đặt trên mặt sông khi mùa câu bắt đầu... Có vài đứa trẻ đang tập đi patin té lên té xuống... Nhìn toàn cảnh tôi cứ tưởng như là mình đang tham dự hội chợ (kermesse) của một địa phương nào đó. Cái làng câu cá nhỏ trên mặt sông đóng băng nầy chứa năm, bảy trăm cái lều cho mướn. Mỗi gia đình mướn một lều tùy theo số người đông hay ít. Giá vé mỗi người là hai mươi đồng Canada. Nếu ít hơn bốn người thì giá tối thiểu một lều phải trả là tám mươi đồng. Lều nhỏ ngang hai thườc rưởi, dọc ba thước chứa được từ sáu đến tám người. Lều lớn hơn ngang hai thước rưởi, dọc năm thước chứa được từ mười đến mười hai người. Lều lớn hơn nữa chứa tới hai mươi lăm người câu. Con nít dưới mười hai tuổi được giảm nửa giá và dưới sáu tuổi thì miễn phí. Trọn buổi câu nếu muốn dùng cà phê, củi đốt lò sưởi và mồi câu thì miễn phí, muốn lấy bao nhiêu cũng được. 

Câu cá trên nước đá thì xứ lạnh nào cũng có (ice fishing) tiếng Pháp gọi là pêche sur glace, cũng có thể gọi là pêche sous la glace hay pêche blanche, cá thì nhiều loại lớn nhỏ khác nhau, tùy từng vùng. Những xứ lạnh xung quanh Bắc Cực, mùa đông nước đóng cứng chắc thì có thể đi câu, nếu bạn chịu đựng được cái lạnh teo ruột teo gan. Nhưng theo tài liệu được phổ biến mà tôi đọc được thì vùng Mauricie của tỉnh Québec là nơi duy nhứt trên thế giới có loại cá tên gọi là Poulamon Atlantique (tiếng Anh là Migragadus Tomcod), tiếng bình dân thường dùng là poissons des chenaux (cá sông rạch). Vào năm 1938 một dân làng tình cờ thấy được trên dòng sông Sainte-Anne nầy, từng đàn cá poulamon lúc nhúc chen nhau trong một khúc sông nhỏ để đẻ trứng, mỗi năm vào giữa tháng chạp đến giữa tháng hai tây, tất cả chừng chín trăm triệu con cá nhỏ cở bằng cườm tay, mỗi con dài từ 15 đến 38cm, nặng chừng 45 đến 570 gr, da cá nâu đen, trơn láng hình dáng giống con morue hay là cod tiếng Anh (thời tụi mình hiểu sai cod là cá thu, do dược sĩ Nguyễn Chí Nhiều, (viện bào chế Cophavina) quảng cáo dầu gan cá thu là Liver cod, đúng ra cá thu là thon -tuna). 

Chúng từ cửa sông Sainte-Laurent lội ngược dòng vô sông nhỏ Sainte-Anne, con mái bụng phình ra với cặp trứng to cở bằng trứng gà chứa hàng trăm ngàn trứng nhỏ, cá trống thì ốm nhỏ tong teo, bụng chứa đầy tinh trùng màu trắng sữa, khi cá mái đẻ thì cá trống xịt làn sữa trắng trên các trứng để thụ tinh, làm xong nhiệm vụ truyền giống chúng quay về biển. Khác hẳn với tất cả loài cá khác như cá hồi (saumon...) chẳng hạn, khi đẻ thì chúng ngưng ăn uống, còn loại cá poulamon nầy khi đẻ thì chúng ăn uống liên hồi, nhứt là vào đêm. Phải nói con người thiệt là khôn, người ta lợi dụng khi chúng đói mà thả cần, làm sao không bắt thiệt nhiều cho được ! 

Tôi bước vào chiếc lều đẹp đẽ, vững chãi khá rộng, đã đặt mướn trước, chỉ có một cửa ra vô, rất kín đáo và riêng tư chỉ dành riêng cho cha con tôi. Hai ngọn đèn trăm watts chiếu sáng cả phòng. Trong phòng một chiếc ghế nệm dài dặt sát tường để khi ai mệt mõi thì có chỗ mà nằm, một cái bàn nhỏ, hai cái ghế, một tủ cây, một lò sưởi đốt bằng củi khô đang cháy nóng hừng hực. Trên mặt lò sưởi nóng hực đó mình có thể để chiếc ấm nấu nước sôi, để một vĩ sắt nướng bánh mì hoặc các món ăn khuya. Phía duới mặt sàn được làm bằng dán ép dầy trên cái nền bằng cây chắc chắn. Nhưng cái chánh tôi muốn thấy là chỗ câu trong phòng ra làm sao. Nhìn kỹ đó là một đường rãnh sâu hình chữ nhựt, được cưa theo bề dọc của sàn trên mặt nước đá, dài ba thước, bề ngang chừng bốn mươi phân tây, nhìn kỹ phía dưới nữa, thấy nước đông đá cứng dầy chừng hai, ba mươi phân, dưới nữa là nước đóng váng mỏng lỏng bỏng, nhấp nhô theo từng cơn sóng. Có một thanh sắt to dài, đặt dọc ở giữa đường câu, để ngăn ngừa khi người câu mê man vô ý, tránh bị lọt xuống nước, nguy hiểm... 

Bên trên chiếc rãnh đó, có băng ghế dài để ngồi câu. Phía trên, trước mắt tôi có một thanh gỗ được đóng theo bề dài của lều, cao hơn đầu người một chút. Hai mươi dây câu được quấn vào những hàng đinh trên thanh gỗ ngang đó, mỗi cây đinh được đóng đều đặn cách nhau khoảng hai mươi phân. Dây câu to bằng cọng bún nhỏ gắn cục chì nặng và dưới mỗi cục chì có móc hai lưỡi câu cở tương đối lớn, loại câu cá trê. Mỗi vách lều đều có cửa sổ gắng kiếng, bên ngoài đèn đuốc sáng sủa, khi bên trong muốn kín đáo thì có màn cửa bằng vải che lại dễ dàng. Thiệt là tiện lợi đôi bề, chỗ ngồi, dây câu, chỗ câu, chỗ để mồi... tất cả đều trong tầm tay với. 

Bên ngoài ở các túp lều kế cận, tụi tây đầm mỗi lần câu được cá, họ đua nhau la hét reo hò, tiếng vang lồng lộng giữa trời khuya, thiệt là hồi hộp và vui hết sức. Tôi có một thói quen xấu, hễ mỗi lần đi câu, thấy sông nước là mê man quính quáng, bèn để nguyên quần áo mũ nón không kịp cởi thay, lụp chụp tháo từng sợi dây câu, vội vàng móc mồi để bắt đầu. Mồi là gan heo đông lạnh được xắt nhỏ ra, có loại mồi bằng tôm tép nhỏ.. Xung quanh người ta đã câu từ lâu, mình tới hơi trễ... phải lè lẹ, nếu không thì còn con nào mà câu với kéo! 

Khi cha con tháo xong hai mươi sợi dây câu và gắn mồi đủ thả hết xuống rãnh nước bên dưới thì tôi toát mồ hôi chịu hết nổi, coi ra thì củi trong lò sưởi cháy đỏ rực, nhiệt độ trong phòng lên cao quá. Lạnh đâu không thấy mà mồ hôi toát ra đầy người, tôi phải cởi áo, tháo nón, tháo khăn quàng, và mở thoáng cửa cho hơi lạnh ùa vào. Cửa vừa mở thì bên ngoài có vài người tay cầm chai bia, vừa uống vừa thò đầu vô chào hỏi, chắc là say rồi nên giọng nhừa nhựa, ồm ồm -tụi bây câu được nhiều không, tôi chưa kịp trả lời thì có thằng nhỏ nhìn vô thùng đựng cá, thấy có một con nhỏ xíu, bèn la lớn -ê ê, ông nội coi nè, cá thiệt là lớn, cá thiệt là lớn. Cả đám xúm nhau cười, chọc quê. Trước khi đi ông tây già nói nhắn -nếu tụi bây muốn nhiều cá thì qua bên tao, nhiều lắm, tao cho. Rồi có một cô đầm, cao lêu khêu, mặc đồ hề xanh đỏ (clown) quảng cáo chụp hình kỷ niệm, mỗi ảnh chụp với cô giá bốn đồng. 

Đám tây đầm nầy vừa đi thì đám khác tới, chào hỏi, làm quen nhau, vui vẻ thân tình, ngoài đường thì mấy đứa con nít đi patin, năm ba cặp lớn tuổi đua xe trượt tuyết, tiếng máy nổ ầm ầm, vang động cả đêm khuya. Xe chạy rất nhanh trên mặt sông, biến mất trong đêm đen và đi tới đâu, tôi không biết ! Trong đầu tôi phân vân tự hỏi, nửa đêm xe nặng chạy đua trên mặt sông như vầy, rủi nước đá nứt bể, thì chuyện gì xảy ra. Ở đời, chuyện gì cũng có thể xảy ra được mà... 

Lại có tiếng gõ cửa, một người làm của công ty cho mướn lều, ôm tiếp tế một đống củi mới dành đốt suốt đêm. Lò sưởi đơn giản làm bằng sắt vuông vức, đặt cao hơn mặt sàn chừng một gang tay, mỗi lần đốt độ ba khúc củi to. Lữa cháy phừng phừng, thiệt là ấm áp. Tôi bèn hỏi thăm vụ nước đá cứng mềm và có bao giờ bị nguy hiểm chưa. Anh nầy trả lời -dễ lắm, quen rồi, thấy là biết liền, nhìn nước đá trong xanh thì biết là cứng chắc, còn khi nào trắng hay đục mờ thì yếu bở. Mặt nước đá phải dầy đủ hai mươi phân trở lên, mới được phép câu. Khi nhiệt độ tăng trên không độ và bị liên tiếp bốn trận mưa lớn thì không được câu nữa, mặt băng trên sông sẽ tan rã, như mùa đông năm vừa qua. Nói xong anh ta tiếp -ông yên tâm, nếu có gì nguy hiểm thì người ta đóng cửa khu vực nầy rồi, đâu có cho ai vô, thanh tra kỹ lắm... Củi trong lò phơi chưa khô lắm cháy nổ lép bép như tiếng pháo chuột ngày tết, thỉnh thoảng có tiếng nổ thật lớn khiến giựt mình. 

Trời càng về khuya thì cá ăn câu càng nhiều, đôi khi gỡ và móc mồi lại không kịp. Cũng có nhiều lúc ngồi ngáp dài vì không có một con. Những lúc đó phải chịu khó đổi mồi câu vì gan heo đã hết mùi thơm hấp dẫn cá rồi. Mồi để lâu trên năm phút là phải đổi mồi mới cho thơm ngon. Mồi bằng tôm tép thì cá mê lắm. Cục chì phải thả cho sát đáy sông, sau đó kéo lên cao chừng một lóng tay (inch) hầu cho hai lưỡi câu nằm nghiêng theo mặt đất, phải đúng như vậy thì cá mới ăn. Tôi biết được điều nầy nhờ đọc được bảng hướng dẫn có vẽ hình rõ ràng gắn trên vách. Chừng độ hai giờ khuya thì tôi chịu hết nổi, cơn buồn ngủ kéo đến và cái lưng sao mà mỏi quá chừng chừng. Thằng con tôi còn trẻ nên dáng còn tỉnh rụi, hết gỡ cá dây câu nầy tới móc mồi dây câu kia.. Tôâi qua nằm trên chiếc ghế dài mong tìm giấc ngủ ngắn ngủi cho đỡ mệt. Nằm thì cho có nằm vậy, chớ có nhắm mắt được đâu, cặp mắt vẫn ngó lom lom hàng dây câu có gắn diêm quẹt, làm sao mà ngủ cho được khi cá tranh nhau rỉa mồi. 

Vừa nằm xuống chưa yên chỗ thì mấy cọng diêm quẹt tiếp tục đong đưa. Ở giữa mỗi sợi dây câu người ta gắn sẵn cho mình một cây diêm quẹt nhỏ, khi cá rỉa mồi dù nhẹ cách mấy đi nữa thì cây diêm quẹt cũng rung rinh, nhìn là biết liền. Như vậy là cá đương rỉa mồi, phải giựt lên ngay, nếu không thì uổng lắm... Mấy chục cây diêm quẹt cứ rung rinh hoài làm sao mà ngủ nghê cho đươc. Cứ như vậy mà cha con tôi thức suốt đêm cho tới sáng, gần một trăm con cá câu được thì quăng ra ngoài trời, ướp lạnh trong đống tuyết trước sân, coi chúng nằm lạnh tanh vậy chớ không chết đâu. Khi trở về để trong thau, đổ nước hơi ấm vô một hồi là chúng ngáp ngáp, cựa quậy, sống lại... 

..... 

Bạn hiền, như vậy là tôi suốt đêm không hề chợp mắt vì mê câu cá, vậy mà khi thấy tia sáng đầu tiên le lói chưn trời xa, tôi đâm nhớ lại câu -tương dữ chẩm tạ hồ chu trung, bất tri đông phương chi ký bạch của đại thi hào họ Tô đời Tống (ôm gối mơ màng trên thuyền, nào ngờ vừng đông đã sáng trắng hồi nào không hay) . Bận về cha con phải thay nhau mà lái xe, nếu không cơn buồn ngủ kéo đến thì xe lọt xuống ruộng chỉ trong một chớp mắt. Thằng con cười và hỏi -ba có còn sợ nước đá nứt bể hay lạnh lẽo gì không ? Tôi cười trả lời -cái thằng, biết câu kiểu nầy thì tao đâu có sợ, tao cứ tưởng mầy tổ chức kiểu câu thể thao khoan lỗ trên nước đá ngoài trời như ở Alaska (ice fishing outside) , như của người da đỏ.... 

Buổi đi câu đêm đó tuy vất vả, mệt mỏi nhưng rất vui. Cũng nhờ sự hiểu lầm đó mà tôi hiểu rõ tại sao, do đâu mà người Sài Gòn đặt được câu thành ngữ thần tình. Một trong những thất bại đời người là do sự hiểu biết giới hạn nên thường tưởng tượng, mơ mộng, vẽ vời đủ kiểu, cuối cùng khi thực tế xảy ra thì lại khác hẳn cái biết mình nghĩ trong đầu -chuyện tưởng vậy chớ không phải vậy ! Câu nói mới nghe thì hơi cải lương nhưng đối với riêng tôi, người nào đặt câu nầy đầu tiên, sao mà khéo và hay quá sức, tại hạ thành tâm... bái phục, bái phục ! 

ái Điếu Cầy Ở Mỹ 

(11/12/2002) (Xem: 5358) 

Tác giả : Cao Huynh 

Người viết: Cao Huynh 

Bài tham dự số 09\VBST 

Tên thật Nguyễn Cao Huynh, sinh năm 1944 tại miền Bắc Việt Nam. 

Hiện cư trú tại Santa Ana. 

Nghề nghiệp: Dealer (chia bài) cho Pechanga Casino ở thành phố Temeculer, California. 

Tôi hút thuốc Lào từ hồi còn trẻ ở vùng quê miền Bắc, đến khi ra Hànội, vào Saigòn cũng vẫn còn hút. Nhưng từ năm 1975 di tản sang Mỹ thì đành phải gián đoạn. 

Đến năm 1991 bố tôi mất tại Hànội, tôi về chịu tang cha, gia tài duy nhất của ông chỉ còn cái điếu cầy. Khi trở về Mỹ, tôi đã quyết định đem theo cái điếu này. Cũng từ đó tôi bắt đầu hút thuốc lào lại... 

Cái điếu cầy này có dáng vẽ cũ kỹ nhưng chắc chắn, nó dài bằng hơn nửa cánh tay người lớn, to bằng bắp chân đứa nhỏ 2,3 tuổi, thứ điếu làm bằng tre già, lâu ngày lên nước bóng loáng, chẳng cần đánh vẹc ni cũng đổi sang mầu gụ nhạt. 

Như một duyên phận với người và vật, nó đã trở thành người bạn thân thiết, gắn bó hàng ngày với tôi, đi đâu tôi cũng đem nó theo, ngay cả đi làm hoặc đi chơi xa. 

Có điều phải công nhận rằng: Ở cái đất nước Hoa kỳ văn minh, khoa học, thơm phức, sạch sẽ này mà phô trương một cái điếu cầy thô thiển, mùi hôi hám, khai khai để hút ngay ở nơi công cộng, trước mặt người bản xứ thì cũng thấy kỳ kỳ, lạc hậu... 

Thôi thì nhập gia tùy tục, nhập sông tùy khúc, cho nên khi ở nhà không nói làm gì, nhưng ra ngoài là tôi chỉ hút trong xe, hút kín đáo không ai thấy. Khi đi làm tôi cũng chỉ để trong xe giờ nghĩ, sau bửa ăn, bao giờ tôi cũng lẻn ra xe làm một điếu cho đã rồi mới trở lại làm việc. Rồi một lần tôi lái xe lên Los Angeles để mua mấy món hàng họ bán sale, đang tay xách, nách mang trở lại chỗ đậu xe nơi cuối đường số 6 của downtown, tôi chợt hốt hoảng lo sợ... Sau phía xe tôi đậu là 2 xe Cảnh sát với đèn xanh, đèn đỏ chớp nhoang nhoáng. Ngang cùng chiếc xe tôi là một chiếc xe thường, nhưng ở nóc xe bên trái cũng gắn một cái đèn đỏ, to bằng trái bưởi, giữa đám xe ấy lố nhố 2,3 người mặc sắc phục Cảnh sát. Ngoài ra, còn 2,3 người mặc đồng phục màu xanh đậm sau lưng họ nổi bật lên những hàng chữ AFT (Alcohol, Firearms, Tabaco) và DEA (Drug Enforcement Agent). 

Thoạt đầu tôi cứ nghĩ là xe mình bị đụng hoặc trộm cắp, nhưng khi tới gần, thấy những nhân viên đang dòm ngó vào xe thì tôi cũng đã có thể đoán vì sao xảy ra cảnh tượng này. Khi tới gần tôi còn nghe họ xì xào: 

"Giống như mìn ống." (bomb pipe) 

"Chắc là đồ nghề xài ma túy..."" 

Thấy tôi tới nhận xe, họ bảo tôi mở cửa xe và cho họ xem cái điếu cầy, trong lúc một nhân viên khác dòm ngó trong xe. Một nhân viên AFT cầm cái hộp thuốc lào nhỏ bằng nhựa của tôi xem xét; tôi phải giải thích rằng đây chỉ là cái điếu và thuốc sợi (Tabaco) bình thường mà người miền Bắc VN chúng tôi hút rất nhiều. 

Một nhân viên cầm cái điếu ngửi ngửi rồi nhăn mũi làm tất cả phá lên cười, biến cái không khí đang căng thẳng trở thành nhẹ nhõm và vui vẻ. 

Rốt cuộc đám AFT và DEA sau một hồi xem xét cũng kết luận:-"không phải là bom cũng không có vấn đề ma túy." Tuy vậy họ vẫn hỏi giấy xe, bằng lái và nơi làm việc của tôi. Họ còn bảo tôi hút thử một điếu cho họ xem, thế là đúng lúc cũng đang thèm thuốc, tôi hút ngay một điếu. Rất bình tĩnh, thanh thản và điệu nghệ, tôi nhồi thuốc vào nõ, bật quẹt gas hít một hơi dài, đoạn ngửa cổ thả khói lên bầu trời cao... Làm tất cả bọn họ tỏ ra thích thú, có nguời còn vổ tay đôm đốp. 

Một nhân viên bài trừ ma túy mặc thường phục thắt cà vạt, súng ngắn dằng ngang ngực trái, còn xin phép được chụp ảnh cái điếu cầy của tôi. Ông ta dựa đứng nó vào bờ tường gần đó rồi bấm mấy pô liền theo những góc độ khác nhau. Trước khi chia tay ông ta còn căn dặn tôi: 

"Ông nên để cái điếu vào một chỗ kín đáo, kẻo nay mai có người tò mò lại gọi điện thoại báo cho chúng tôi..." 

Đoạn họ vẩy chào tôi rồi lên xe giải tán. Họ đi rồi, tôi bước vào xe, trút một hơi thở dài, nhẹ nhõm. Một thoáng bực mình, nhưng rồi cũng một thoáng cảm thấy vui vui. 

Thế là từ nay trong văn phòng Sở Bài Trừ Ma Túy của Los Angeles, đã có những tấm ảnh cái điếu cầy của bố tôi. 

Câu Tôm Hùm 

Ngày trước có nhiều lần tôi dùng cần câu trúc để câu cá biển ở Dinh Cậu, trên bờ đá chắn sóng ngay cửa sông Dương Đông Phú Quốc. Cá lớn, cá nhỏ rất nhiều, nhưng vì không quăng ra xa được nên dễ vướng đá làm mất lưỡi câu. 

Khi đến Mỹ định cư tôi mua cần câu máy ngay, vì tôi sống ngay tại Little Sài Gòn, miền Nam Cali nắng ấm, từ đây ra biển chạy xe chừng 15 phút.  Cảng biển ở bờ Thái Bình Dương của Mỹ thì rất nhiều: Cảng Portland, Seatle, San Francisco, Long Beach, San Diego ... nhưng nơi tôi ở chỉ có một cảng nhỏ nằm trong cái vịnh dành riêng cho tàu du lịch và tàu buồm thể thao là Newport Beach. 

Tuy nhỏ nhưng nó cũng có kè đá hai bên chạy tuốt cả hơn cây số ra ngoài biển, kè này gọi là water breaker nên cho dù biển có sóng lớn tạt ngang thì tàu ra vô vẫn an toàn không sợ bị dạt vào bờ cát. 

Cửa biển Dương Đông có kè đá thấp vì làm bằng những cục đá nhỏ, nhưng kè ở đây họ xếp những cục đá to bằng cái nhà, cái xe tải, không biết người ta đã mang từ đâu về và bằng cách gì mà rinh nó ra tận ngoài biển như thế này. Những tảng đá được xếp liền kề nhau, có đổ thêm ít bê tông cho dính liền, bề ngang chừng 20 m và dài hơn cây số, ngoài cùng có hải đăng ánh đèn chớp tắt hàng đêm và nếu có sương mù thì lâu lâu nó lại tự động hú lên ra hiệu cho tàu biết đường mà vào cửa biển. 

Nhớ nhà, tôi thường đứng nhìn ra biển khơi mịt mù sương khói. 

Cứ khoảng mười hay 15 dặm lại có một cầu bắc dài ra biển, ngoài cùng thường là một nhà hàng, cầu này chân thường làm bằng bê tông và xe hơi chạy ở trên được. Lan can ở hai bên, có ghế băng ngồi câu và cả hệ thống nước phông tên để rửa tay nữa. 

Cá ở đây nhiều nhất là cá nục chuối lớn bằng cườm tay, có khi nó lớn như con cá ngừ (bonita), cá nục gai thì nhỏ bằng cẳng cái mà thôi.  Đến mùa hè, người ta đứng đầy trên cầu, cả người câu lẫn khách du lịch, mỗi lần có bầy cá ùa vào thì cần nào cũng dính cá, có ông mắc nhiều lưỡi quá, kéo lên cả chục con một lúc, mà vì từ mặt nước lên đến cầu cao quá, nên nó dãy kinh hồn, có khi lên tới nơi chỉ còn ba bốn con.  Cá nục ăn mồi mực, tôm, nhưng ta chỉ cần một vài miếng mồi khởi đầu mà thôi, sau khi được con đầu tiên thì cắt khúc ra cỡ bằng ngón tay mà câu. Nó ăn vào lúc nước lớn, khi một con dính thì cả đàn nhào theo, lưỡi câu có mồi, có chút lông gà, hay có khi chẳng có cái mốc xì gì, chỉ lấp lánh ánh mặt trời là nó cũng đuổi theo táp ráo nạo.  Màn đêm buông xuống, mặt biển nhìn tối thui thì dùng một cây đèn lân tinh bằng ngón tay út, ánh xanh lè mà cột gần thẻo câu, loại đèn này sáng được chừng 10g rồi phải vất đi. Câu đêm có khi dính cá đục, cá lù đù, cá đuối, còn câu ngày thì có cá nhám, cá nhòng (baracuda răng rất bén nên phải xài thẻo bằng dây cáp). Nếu câu mồi sống bằng cá cơm, cá lòng tong biển thì sẽ được cá ngừ rất lớn. Mồi đủ thứ có bán ngay tại chỗ, kể cả cá sống.  Cá ở Mỹ hình như "khờ" hơn ở VN, hay là tại người ta ít ăn cá nên nó còn nhiều như vậy? 

Mà nghĩ cũng kẹt cho người Âu Mỹ, những con cá nhỏ, hoặc nhiều xương, nếu họ không đóng hộp thì làm sao mà ăn? Họ cũng không ăn món canh chua như mình, còn kho cá lên, gắp bỏ vô miếng bánh mì thì làm sao mà nhá cho được? Hóc xương bỏ bà!! Bởi thế câu lên rồi hầu hết họ thả xuống biển, còn VN ta thì cứ từng xô 20lít (loại thùng nhựa đựng sơn) chất cá vô xách về hết. Ăn không xuể thì cho bạn bè, bạn có chê thì ta ướp muối xấy khô, có khi còn dám làm nước mắm ở sân sau nữa, cũng may là cái nắp thùng sơn tốt quá nó không bị xì hơi ra, hông thôi hàng xóm Mỹ ngửi thấy họ gọi cảnh sát vì nghi có xác chết thúi trong vườn thì thêm phiền hà lắm lắm. 

Với cá nục tươi như thế, tui chỉ khoái kho nước kiểu Huế để ăn với bún, miếng thịt cá trắng bóc có lớp váng mỡ với ớt bột, ớt trái bẻ đôi, cộng bún trắng ngần, cộng rau thơm xanh mướt, ôi thôi ăn ngon chết bỏ. Ngoài ra, còn có thể cuốn con cá nục vô trong lá mướp, lá nho rồi nướng trên than, khi chín thì mở lớp lá mà rưới hành mỡ lên, gỡ thịt cuốn với bánh tráng rau sống, chấm mắm nêm thì có khi nuốt cả lưỡi hoặc chết ... vì bội thực!!!! 

Câu trên cầu riết rồi đâm chán nên tui xách cần đi ra ghè đá câu cá ngừ chơi, cần câu cá ngừ dĩ nhiên là cần tốt và dây to, mồi giả bằng inox sáng lấp loáng, chỉ có điều phiền là cứ quăng rồi lại quay vô hoài mau chán lắm, nên tui móc con mồi sống vô lưỡi câu rời. 

Quăng dây và cục chì lớn ra xa, lấy dây, lưỡi câu có khoen móc vô đuôi cá mồi lòng tong sống (smell fish) rồi móc vào dây chính (phải làm như vậy thì con cá mồi không bị sút ra văng đi mất khi mình quăng với cục chì khá nặng đi xa). Sức nặng của cá mồi sẽ theo dây mà chạy tuốt ra tới gần chì neo, nó đong dưa phập phờ, đầu ngóc lên, đuôi vẫy vẫy làm cho mấy con cá ngừ ngứa mắt, ứa gan lắm .. và thế là .. ập, là rồi đời con cá ngừ!!! Con ngừ khi dính câu thì chạy như ngựa phi, nó lạng qua lách lại quay tay đã lắm, nhưng khi nó còn khoẻ, ta phải nương thả dây câu ra bớt, chừng nào nó khờ rồi hãy kéo vào bờ, chớ không thôi có ngày trớt quớt. 

Một hôm đang câu cá ngừ tui thấy có ông VN ngồi hút thuốc giữa hai hòn đá lớn, tay lại cầm lon bia dỡ lên hạ xuống, thấy lạ tui mò đến gần và hỏi: 

-Ông làm gì vậy? 

-Câu tôm. 

Lúc đó tôi mới để ý thấy trên cái ống lon có cuốn sợi cước, tôi hỏi: 

-Được con nào chưa? 

-Có mấy con rồi, tui bỏ trong bao bố, dấu đàng hốc đá kia cà. 

Tôi chui vào hốc đá, mở miệng bao (loại bao bố đựng gạo đã thấm ướt nước biển) thì tá hoả, ở trỏng năm sáu con tôm lớn bằng cổ chân, chân cẳng râu ria chàm ngoàm đang dương mắt lên nhìn tui. 

Tui nuốt nước miếng ngồi gần đó nhìn anh ta câu, bỏ mặc cần câu và thùng cá của tôi ở tuốt đàng xa.  Nhìn kỹ mới thấy anh cắt thịt cá nục tươi ra bằng cỡ ngón tay mà móc vô lưỡi ba ngạnh chĩa ra ba phía, lưỡi câu bằng i nóc lớn như cây tăm, bên dưới lưỡi câu chừng một gang tay là cục chì bằng ngón chân cái. Dây câu rất lớn có thể bằng cây tăm tròn, và dài khoảng 10m mà thôi. 

Những cục đá tuy xếp cạnh nhau nhưng còn nhiều lỗ hổng tạo thành những cái hang thiên nhiên cho tôm trú ẩn, người ta chỉ cần thòng mồi vào giữa khe các tảng đá mà câu. 

Tôm hùm ở Mỹ chia làm hai loại: Tôm có râu sống ở Thái Bình Dương thì không có càng, tướng nó trông oai phong như viên tướng Tàu trong cải lương Hồ Quảng: Loại thứ hai là tôm có càng to như càng cua, sống ở Đại Tây Dương mà ta thường gọi là Maine Lobster vì ở tiểu bang này có nhiều lắm. 

Hầu hết tôm bán trong nhà hàng đồ biển là tôm có càng, ăn dở hơn tôm râu dài nhiều lắm. Thỉnh thoảng tui thấy ở chợ có bán loại tôm ngon này, giá dĩ nhiên mắc hơn một chút, khoảng $9/pound có nghĩa là dưới $20/kg. Ấy vậy mà bên Úc bán tới 25 đô, nhưng khi thấy ở Nha Trang bán tới 40 đô /kg thì mấy thằng Việt Kiều dỏm như tui đành lè lưỡi và rút lui có trật tự. Bán gì mà mắc quá dzậy, chỉ có những đại gia, mấy anh Tàu hay Đại Hàn mới dám mua ăn mà thôi.  Thấy tui ngồi dòm với ánh mắt thèm thuồng quá, anh kia mới chia cho tui ít lưỡi ba ngạnh và dặn nên cẩn thận vì khi bị sóng đánh hay con tôm tha cục mồi vô kẹt đá thì phải bứt đứt lưỡi câu là 

cái chắc, mà lưỡi câu thì anh ta gần hết rồi.  Tui hún hớn làm y hệt (monkey see, monkey do) và y như rằng, chưa biết mùi vị con tôm ăn mồi ra làm sao thì đứt mất mấy cái lưỡi, đành ngồi đực mặt ra mà ngó anh ta kéo lên mấy con tôm liên tiếp.  Khi anh chuyển ra ghè đá sát biển vì lúc này nước đã ròng sát, tôi cũng đi theo như một đứa trẻ con thấy chuyện lạ, bỗng anh ta giựt mạnh rồi cứ kéo lên buông xuống hoài, sau cùng nói nhỏ: 

-Con tôm này lớn lắm, nhưng tôi bị vướng vô một đám dây cước đã móc vào đá, chắc điệu này phải bứt dây bỏ! 

Tôi vội nói khoan đã và nắm lấy sợi dây câu, nó giựt búng liên hồi. Quay qua quay lại chỉ thấy hai đứa tôi và trời cũng tồi rồi, chỉ còn ánh sáng của hải đăng gần đó, tôi bèn làm một phát "sexy" rồi nhảy ào xuống biển, phăng theo sợi dây câu xuống khoảng vài thước nước thì vơ vào tay một con tôm chừng 1 kg đang lùng nhùng trong đám bùi nhùi cước câu mà ai đã vất bỏ xuống đây từ đời nào. Tôi ôm chú tôm và trụ chân vô tảng đá bứt và rinh toàn bộ chiến lợi phẩm gồm tôm, lưỡi câu và cả chục cục chì lên bờ. Lúc định bỏ con tôm vào bao bố thì nguời bạn mới quen nói: 

-Con này tôi định bỏ, mà anh bắt được thì là của anh. Nhân tiện hôm nay tôi câu được khá nhiều nên biếu thêm anh vài con ăn lấy thảo.  Không còn sự vui mừng nào hiển hiện trên mặt tôi hơn lúc đó, tôi cám ơn rối rít và mang ngay ba con tôm về khoe với vợ, vất cả thùng cá ngừ xuống biển không thèm cầm về. Và chắc các bạn 

cũng đoán được là hôm sau tôi ra biển rất sớm với đầy đủ lưỡi câu cùng chì. Phen này tôm hùm chết cả lũ với tôi.  Thế nhưng cuộc đời đâu có dễ ăn ngay như rứa?? 

Cả tuần sau tôi mới bắt đầu câu được tôm, có ngày vài con cũng có khi cả chục con. 

Tôi ra thư viện kiếm sách nói về tôm hùm mà đọc. 

Cách đây hơn 100 năm tôm hùm bò lổm ngổm trên bãi biển của Mỹ mỗi khi triều xuống, nhiều đến nỗi không ai muốn ăn.  Khi chiến tranh Nam Bắc kết liễu, chế độ nô lệ đã bị bãi bỏ, người ta phải mướn người làm và thường thì trong hợp đồng có câu: "Không bắt công nhân ăn tôm hùm 1 tuần 2 lần". Đúng là chuyện lạ! Nhưng bạn hãy tưởng tượng coi, nếu bắt chúng ta ăn tôm hùm rang muối mỗi lần 1 con tổ chảng và ăn hai lần một tuần thì liệu bao lâu chúng ta sẽ sợ mà khóc thét lên? Những ngày ấy, người ta dùng tôm hùm để nuôi tù, hay bóc ra làm mồi câu cá, uổng ghê!!! 

Loài tôm hùm có khi bị thợ lặn bắt gặp nó kéo đi nhón gót từng đàn như đi diễn binh, hình như đó là ngày đi tìm bạn tình. Con tôm to nhất mà tôi thấy đăng trên báo Register là nặng hơn 80pound (40kg) do thợ lặn bắt được ở kè đá Balboa này.  Khi đã câu có kinh nghiệm, tôi có thể cảm thấy được qua dây câu là con tôm đang bám mồi, râu nó cạ vô như có ai lấy cái que đóm thuốc lào mà cà lên dây đờn vậy, sau đó nó ghì mồi để kéo vô hang, cũng có khi hang ở phía cao hơn ta sẽ thấy dây bỗng nhẹ tênh (như kiểu bình phao). Lúc bị ghì hay bị bỗng mà giựt mạnh thì thế nào cũng dính, nhưng đưa được tôm lên bờ lại là chuyện khác: Miệng con tôm nhỏ và cứng ngắc nên ít khi lưỡi dính vô miệng nó, mà thường là xóc vô khớp chân. Khi kéo nó lên thì nó nằm êm ru, nhưng vừa quá khỏi mặt nước là nó búng cái bạch, cả con tôm to lớn rớt tõm xuống biển và thằng cha câu tôm thì ngồi vân vê cái cẳng tôm lớn như cây đũa mà tiếc hùi hụi.  Có người sẽ hỏi là tại sao không dùng vợt mà xúc, xin thưa là khe đá nhỏ tí, làm sao thò vợt xuống được, có khi dính con tôm lớn phía dưới đáy mà khe phía trên lại nhỏ nên lấy thế lượn qua kéo lại thật lâu, đến nỗi khi lên tới nơi râu ria gai góc trên đầu chú tôm bị cà vô đá trụi lủi coi như thằng trọc.  Những ngày đi câu về khuya, tôi đành hấp tôm lên hết, tống vô tủ đá rồi đem cho bạn bè vào ngày cuối tuần. Mấy đứa con tui chê mùi tôm thúi (tổ cha tụi nó) còn "bà nội" tui thì mới có bầu nên ngửi thấy mùi tôm luộc là lại ói, thế có tức không? Nhớ hồi mới qua, thèm ăn tôm quá phải chạy tuốt qua Mễ ăn một con 10 đồng, bây giờ có nhiều thì lại "chảnh". 

Tết Nguyên Đán xong, tôi rủ người bạn đi câu mấy con tôm để cúng giỗ ông già vợ (ổng mất ngày mùng 8 tết), hai anh em hút hết gần gói thuốc rồi, trời đã khuya lắm mà bị tổ trác hay sao câu không được con nào, chúng tôi bảo nhau cuốn dây đi về thì lưỡi dây của tôi như vướng vào nhánh rong lớn, nhưng kéo thì nó lại lên. Khi ánh đèn pin tôi đeo trên trán chiếu xuống mặt nước tôi thấy hai con mắt đỏ kè, tôi la: 

-Mực ma ông ơi, tiếp tôi với. 

Hai thằng hì hục kéo lên thì ra một con tôm nái, nó dãy dữ dội quá nên tay có găng mà chúng tôi đều toé máu mới dồn nó vô bao được.  Con tôm đưa về cân hơn 8pound (gần 4kg), phải lấy cái nồi nấu phở 40lít mới bỏ nó vô mà hấp được.  Lúc bỏ vô cái dĩa làm bằng foil nó còn thò đầu thò đuôi ra ngoài coi kềnh càng như một Dương vận hạm. 

Khói hương nghi ngút, ông nhạc tôi ngồi trong hình mặc áo dài khăn đống coi trịnh trọng lắm, ông nhìn con tôm, nhìn ly rượu Remy Martin mà tôi mới rót ra, ánh mắt long lanh như muốn nói với 

thằng rể: 

-Khá lắm! Phải chi còn mấy đứa con gái nữa, tao cũng gả hết cho mày! 

Chuyện Đi Săn Ở Mỹ

Tôi đã từng ăn Pheasant,tạm gọi là chim trĩ.Pheasant thịt thơm và ngon như gà VN.Bài này ông Nguyễn Viết Tân viết về săn Trĩ ở Mỹ. 

Tác giả : Nguyễn Viết Tân 

Tác giả Nguyễn Viết Tân, cư dân Costa Mesa, đã được tặng giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2001 với bài viết “Bên Bờ Freway.” Từ nhiều năm qua, ông là người viết được bạn đọc Việt Báo đặc biệt trân trọng. Bài viết mới của ông kể chuyện đi săn trên đất Mỹ. 

Mấy hôm nay tôi thường nằm dài ra ghế coi Basketball game, có lúc lấy làm ngạc nhiên là trên tường phía bên trên cái TV có đứa nào lấy một cái đinh vít màu đen thui mà đóng lên đó coi xấu quá, nhìn vậy thôi, rồi bỏ qua vì tâm trí đang để ý coi thằng Kobe ném 3 điểm. 

Bỗng O Điểm hỏi: 

-Này, con chim của ông đâu mất tiêu rồi" 

Tôi vội kiểm soát và trả lời theo kiểu tay hài hước Hoài Linh mà rằng: 

-Hẵn coòn, guẫn coòn! 

O quắc mắt: 

-Đừng có vớ vẩn. Tui hỏi ông con chim trĩ treo trên tường tê tề. 

Chết cha, thì ra cái đinh ốc kia là chỗ vẫn thường treo con chim trĩ. 

Chắc những bạn hữu nào đã từng ghé nhà tôi chơi đều đã nhìn thấy con chim thiệt đẹp màu xanh, mào đỏ, to như con gà và có hai lông đuôi thiệt dài, xoè cánh như đang bay, gắn trên tường. Hỏi cả nhà, không ai biết mất từ hồi nào. 

Than ôi, hôm nay con chim đẹp đẽ mà tôi hằng yêu quí đã bị mất. 

Trộm vào nhà bao nhiêu đồ bán được tiền nó không lấy, lại phỗng mất con chim! 

Nói mất chim chỉ là cường điệu vấn đề cho vui, chứ mục đích của tôi là kể cho các bạn nghe về vụ đi săn tại xứ Mỹ này. 

Trước khi nói về săn chim trĩ, tôi xin kể về vụ đi săn vài ba loài thú rừng: 

Cứ cầm cây súng săn vào rừng hay trên ruộng đồng, việc đầu tiên là phải mua Hunting license, có loại cho cả năm và cũng có loại cho vài ba ngày nên giá rất khác biệt, nhưng trung bình khoảng 20$. Cho dù là bạn mua giấy phép vào tháng nào, nhưng cứ đến ngày 31 tháng 12 thì nó hết hiệu lực. Thí dụ mình mua từ hồi tháng chín, không có nghĩa là tháng chín năm sau mới phải mua lại, mà là đến cuối tháng 12 dù license mình mới 3 tháng nó cũng đã hết hạn rồi. Đi săn con gì thì mình phải mua thêm stamp con đó mà dán lên license, thí dụ đi săn ngỗng hay vịt trời là 10$; con nai antelope 47$; nhưng con nai gạc bự tổ chảng elk thì lên đến 252$. 

Có những qui định thêm cho mỗi loài mà người thợ săn cần biết, như cấm bắn chim đang đậu, chỉ được bắn chim đang bay mà thôi -Cái này chắc là mấy tay Phòng Không có kinh nghiệm lắm đây- Khi đi săn những loài chim thiên di như vịt trời, ngỗng Canada ... trốn lạnh bay về phương nam, thì chỉ được nạp trong súng 2 viên đạn (khi đi săn loài khác thì có thể nạp được 5 viên). Nếu bị xét hỏi, người ta thọc một cây đo vào ổ đạn thì trong đó bắt buộc phải có một khúc gỗ tròn dài làm cây chêm, để chỉ có thể nạp 2 viên đạn mà thôi. 

Điều vô lý nhất là nếu người ta vác súng đi bắn nhau, nạp 5 viên thì không thấy ai xét hỏi (vì chưa bắn) nhưng đi săn ngỗng trời snow geese, chưa nạp đạn mà trong nòng "có thể" nạp được 5 viên là đã bị phạt rồi. 

Riêng con thỏ thì ngoài việc săn bằng súng ra, dân Anam ta còn làm như sau: Ngoài đồng ruộng sau vụ mùa thường có để một đống ống dẫn nước bằng sắt, đường kính gần hai gang và dài chừng hơn 20m. Thỏ rừng thường từng cặp chui vô ống đó mà trú ngụ, giống như những đôi tình nhân hồi xưa hay lên Xa lộ Biên Hoà chui vào đám ống cống mà tình tự vậy. Người ta nhìn ở một đầu ống, nếu thấy thông sang bên kia thì trong ống đó không có gì, ngược lại thì chắc chắn là có thỏ, nếu không hai ba con thì ít nhất cũng là một chú thỏ độc thân vui tính. Họ lấy một bao đựng gạo mà trùm kín đầu ống lại, người phía bên kia dùng một tuýp sắt mà gõ vào ống boong boong mấy phát thiệt mạnh, thế là mấy chú thỏ trong đó cuống cà kê phóng vụt vào bao, mình chỉ việc túm bao lại mà xách về nấu vang, nấu cà ri và ông nào bạo miệng còn làm cả món tái thỏ và tiết canh nữa. 

Nếu đi săn thỏ như kiểu này thì chẳng tốn tiền súng đạn, mà khi đem về con thỏ còn sạch sẽ y nguyên không bị máu me bầy nhầy. 

Nhớ hồi còn nhỏ, anh tôi có lần cùng với đám bạn thiếu niên đặt bẫy thòng lọng đón lõng ở đường mòn rồi càn đuổi một bày nai 3 con, mà dính được có một, sau đó cứ lấy làm tiếc mãi. 

Khi lớn lên rồi đi lính ở miền Trung, tôi cũng đã từng được săn nai bằng trực thăng ở những trảng tranh hay đồi sim ở vùng Mai Lộc - Quảng Trị dọc đường lên Khe Sanh, nhưng săn bắn bằng những cách kể trên thật không thú vị chút nào, mà phải là ... "Lội bùn dơ băng lau lách xuyên đêm. Sương trắng rơi đôi vai ướt lạnh mềm ..." mới khoái. 

Với súng cầm tay, đèn pha gắn trên trán, đêm rừng núi âm u bí hiểm, từng giọt sương đêm rớt trên lá cây cũng nghe rõ, đến khi con thú "bắt đèn" nghĩa là quay nhìn chăm chú ánh đèn (chắc nó nghĩ mắt con gì to thế) thì mình nhắm ngay giữa hai đốm mắt xanh lè đó mà nã đạn. Nếu gặp cọp beo hay thú dữ, ánh mắt nó đỏ lòm thì sau khi bắn, phải tràn qua một bên kẻo có khi nó bị thương, cáu sườn sẽ chồm tới vồ trúng mình. 

Ở Mỹ mỗi năm trước mùa săn nai, người ta phải điền một tờ đơn, xin săn ở zone số mấy, săn con gì, vì nai có nhiều loại lắm: Deer, white tail, antelope, mule, elk ... 

Trong đó cũng cho biết là mình đã liên lạc với chủ farm rồi, chứ nếu đi lang bang vào đất người ta sẽ bị khép tội "Trespassing". 

Không biết họ lấy dữ kiện từ hình chụp không ảnh, từ chủ đất hay từ Game officer mà biết trong zone đó có bao nhiêu con nai, rồi sẽ cấp hạn chế bao nhiêu license cho vùng đó, nếu cấp hổ lốn sợ rằng có khi loài nai bị tiêu diệt chăng. 

Nên nhớ là đối với nhiều loại thú, chính phủ chỉ cho phép bắn con đực mà thôi, bắn nhầm con cái là có chuyện ngay. (Than ôi! giống đực thường bị thiệt thòi) 

Khi đã có license rồi, mình phải phone cho chủ đất. Họ sẽ hỏi license mình số mấy, dự tính săn trong đất họ khoảng ngày nào, xe hiệu nào, màu gì, sau đó sẽ cho mình một mật hiệu, thí dụ đậu xe ở đâu, quay đầu về hướng nào. Bởi vậy khi nghe tiếng súng nổ cái đùng vang xa hàng cây số trên đồng vắng, họ chỉ cần đưa ống dòm lên là biết có phải người kia là kẻ săn lậu hay không. Ngay cả những farm kế cận, họ cũng bảo vệ cho nhau và muốn mọi người tuân thủ pháp luật, nên thường gọi cho nhau biết tin tức và nếu thấy nghi ngờ, họ gọi police thì kẻ gian khó lòng trốn thoát. 

Trong một vùng đồng rộng minh mông, người ta thường đào những cái hố rất lớn như một cái ao để lấy nước bơm lên tưới hoa màu -vì không phải nước thuỷ lợi được bán một số lượng vô giới hạn- Chung quanh hố này thường mọc nhiều cây to và vô số lùm bụi. Thợ săn phải đậu xe xa xa rồi lội bộ tới, trèo lên cây mà núp. Ngoài tiệm sport có bán cả loại lều có luôn võng nguỵ trang để móc lên những cành cây to, phục kích trên đó nhiều ngày để rình nai. 

Không phải người ta đi săn để lấy thịt mà ăn, mà vì máu mê săn bắn, cũng có khi vì muốn lấy tiếng, lấy danh hiệu là người bắn được con nai lớn nhất trong một mùa săn ở địa phương này. Dĩ nhiên sẽ có báo đăng hình mình trên trang chót, oai lắm! 

Cũng như những người mê câu cá, đi săn cực khổ hơn nhiều mà người mê săn vẫn lặn lội rình mò, lắm khi tiêu luôn sự nghiệp như cách đây hơn một năm có vài ông quan và đại gia ở VN, mất cả nghiệp vì đi săn bò tót trong rừng cấm của quốc gia. Mới đây thôi, có ông cựu chiến binh gốc người Lào, cũng vì đi săn, tranh giành chỗ núp trên cây với mấy người da trắng rồi bắn nhau đến nỗi phải bị tù đày. 

Đi tiền thám nhiều đêm trên cây, ta mới biết thói quen của đàn nai thường đi uống nước lúc mấy giờ sáng sau khi ăn cỏ suốt đêm, đàn nào có mấy con, lớn cỡ bao nhiêu rồi sẽ quyết định ngày nào đi bắn, thì rủ thêm người để khiêng nai về. 

Khi bắn là phải nhắm cho trúng, chỉ một phát là con nai đổ liền, chứ nó bị thương chạy vô xa chừng vài trăm thước thì cõng ra cực lắm. 

Việc đầu tiên là mổ bụng nai mà lôi bộ đồ lòng ra ngay, nếu không thịt sẽ hôi cỏ ăn rất tệ. 

Có một điều rất lạ lùng là chỉ trong ít phút, mùi lòng nai lan theo gió làm cho những đàn sói coyote cách xa đó cả dặm, cũng đều tru lên nghe lạnh người, nó gọi nhau tới thanh toán bộ lòng và đôi khi không đợi con người đi ra khỏi chỗ đó, đã nhào vô giành giật xâu xé vì đói quá. Chỉ cần một phát đạn ghém, ta có thể hạ mấy con chó sói đem bán cho tiệm lột da, cũng kiếm được vài chục đồng một con. Bắn chó sói thì không phải mua stamp vì hầu hết nông gia Mỹ đều ghét loài này, nó hay bắt bê, trừu con mà ăn. 

Nghĩ cũng lạ, đàn bà con gái thường thích mặc áo lông thú, nhưng áo lông thỏ hay lông cừu thì còn hiểu được vì trông hiền từ, chứ mặc áo làm bằng da chó sói hay sư tử thì dòm ghê quá, ai mà dám ôm. 

Sau khi hạ được nai rồi, ta phải lấy một mũi dao nhọn mà thọc một lỗ ở nhượng chân sau nó và xỏ license vô, rồi dán hai đầu vào nhau như cái vòng của bịnh nhân thường đeo ở cổ tay lúc vào nhà thương. Mục đích họ bắt làm như thế để mình chỉ săn được một con mà thôi, chứ không thể bắn được một con, chở về nhà cất, rồi lại đi bắn con khác. Phải ghi ngay vào license mình bắn con gì, lúc mấy giờ, tại đâu v v... 

Nếu bị chận xét mà trên xe có con nai không có kèm license dính ở chân là bị phạt rất nặng, cho dù mình đang có license để trong túi, vì như vậy là đã có ý định gian rồi. 

Dù có muốn ăn gian bằng cách lột license ra để đi săn lần khác cũng không được, vì họ dán bằng keo đặc biệt, lột ra nó rách nát bét ngay. 

Mua license và stamp đã tốn bộn tiền, phải mò đêm mò hôm, muỗi mòng, lạnh lẽo, tiền súng, tiền đạn, tiền lều chõng … mà khi bắn được nai rồi lại phải hè nhau khiêng lên xe, chở đến lò mổ để người ta lột da và ra thịt cho thành từng miếng hẳn hoi, chứ mình không biết cách thì nát bét, không giống cái gì. Lò mổ đã lấy bộ da, còn dzớt thêm tiền công 75$ nữa, mình chỉ chở cái đầu và thịt về mà thôi. Về nhà, vợ con còn chê ỏng chê eo, rằng thịt hôi quá. Lúc đó mất công chở đi cho, mà chưa chắc người ta nhận thịt một cách hoan hỉ. 

Người bạn tôi có mua một miếng đất gần Barstow, chỗ Fwy 15 và Fwy 40 rộng gần 40 mẫu. Tuy chung quanh là sa mạc và núi đá, nhưng ở thung lũng này lại có mạch nước ngầm dồi dào nên cây cỏ xanh tươi lắm. Người ta đào ao nuôi cá, trồng cỏ alfafa cho bò ăn, trồng đậu phọng, nut và nhiều loại cây ăn trái khác. 

Khởi đầu bạn tôi tính trồng mía, ổi sau đổi ý định trồng thanh long và củ chuối (giong tây), rồi lại tính lập nhà vườn trồng các loại rau thơm để bán cho nhà hàng và các chợ ... Tính thì nhiều đường binh lắm, nhưng rồi mười mấy năm trôi qua cũng chỉ là dự tính. 

Tôi nghe riết bắt chán nên có lời bàn là nên rào hết lại bằng lưới B40, trong đó nuôi nai và heo rừng. Nai giống thì tới mua ở đường Euclid và Freeway 60, còn heo rừng thì làm bẫy bắt ít con, chỉ vài năm sau thôi nó sẽ đẻ tràn lan cho mà coi. Nhớ trước đây ở vùng này heo rừng phá hại mùa màng, nhứt là đậu phọng quá xá, mà người Mỹ lại không ăn thịt heo rừng, nếu giết nó hàng loạt như bắn bỏ hoặc mồi thuốc cho chết thì hội bảo vệ thú vật lại làm rùm beng lên, thôi thì hạn chế sức sinh sản của nó bằng cách bắn thuốc mê con heo đực, rồi thiến nó đi.(Rút cục cũng chỉ có giống đực là bị thiệt thòi và ...đau nữa, vì người ta thường nói: Đau như hoạn!) 

Khi đàn nai và heo rừng đã nhiều, ta chỉ cần đăng lên báo Việt Ngữ ở Quận Cam, rằng: 

-Quí vị có đi chơi ở Las Vegas, khi đi ngang Barstow hãy ghé trang trại chúng tôi: Ở nhà lều quanh hồ nước, tối đi săn, nai heo rừng đồng hạng 200$ một con, rồi nướng thịt rừng trên lửa trại, còn dư bao nhiêu thì chở về nhà biếu bạn bè .. v v.... 

Bảo đảm sẽ hốt bạc, vì người Việt mình rất khoái món nhậu thịt heo rừng. 

Hươu nai cứ mỗi năm lại rụng sừng một lần, lớp da với lớp lông ngắn trên đó bị tuột khỏi bộ sừng, rồi nó gặc mạnh hay ủi vào gốc cây thì gạc nai sẽ gẫy như trẻ con thay răng sữa. Đầu mùa xuân lộc nhung sẽ lú lên, mềm như cái hot dog. Nếu cứ nghe lời mấy ông thày thuốc Tàu rằng thuốc Lộc Nhung Tinh bổ lắm, thì cứ bỏ ra vài trăm bạc, đã có thịt nai ăn chơi, lại có thể nấu một nồi cháo nhung tươi, húp vô chắc phải tốt hơn thuốc V. 

Con heo rừng (boar) xứ Mỹ nhỏ hơn heo rừng ở Việt Nam, nhất là loại heo lăn chai hay heo độc chiếc thì lớn lắm. Con boar thì đầu và vai cao hơn phía đuôi rất nhiều, hai đùi sau không giống như heo nhà vì nó teo tóp như đít cóc, nhưng tướng nó mạnh bạo hung hăng hiếu chiến, nó chồm tới, lông bờm thưa thớt nhưng tua tủa như lông nhím, mõm chù dù với hai cái răng nanh nhọn lễu, cong vòng ra phía trước coi rất đáng gờm, chó săn ít khi dám nhào vô, mà chỉ sủa ỏm tỏi rồi sửa soạn giựt lùi. 

Khi bắn heo rừng ta phải nã liên tiếp mấy viên trúng ngay sọ hay tim, chứ trúng chân hay bụng lòi cả phèo ra rồi đấy, nhưng nó vẫn chạy nhanh như gió, có khi năm ba trăm mét rồi rúc vào bụi thì khó mà tìm được. 

Ở Việt Nam hồi còn chiến tranh, người ta tin rằng lấy nanh heo rừng mà đeo thì đạn bắn không trúng. Nhất là mấy anh lính gốc Miên nói rằng tượng nanh do anh ta chuộc ở núi Tà Lơn cho thì chắc ăn như bắp. Nghe bùi tai, ông Trung Đội Trưởng nhờ mua cho một tượng, đeo đâu được một tháng thì anh ta bị thương. Lúc anh lính thuộc quyền ghé Quân Y Viện Long Xuyên thăm, anh ta nổi nóng: 

-Ù me, mày nói đeo nanh heo đạn bắn không trúng, sao mày xạo ke vậy" 

-Thì tui nói đeo nanh đạn bắn không trúng là vì cái nanh nhỏ xíu, chớ Thiếu uý bự chần vần như vầy, đạn bắn phải trúng chơ. 

Bây giờ nói đến vụ đi săn chim trĩ: 

Chim trĩ thì có nhiều giống, nhưng chim miền trung tây Hoa Kỳ có tên gọi là Pheasant, còn gọi là ring neck vì có một vòng trắng quanh cần cổ. Như tôi đã nói ở trên, nó lớn bằng con gà. Con mái lông màu nâu và không được đẹp, nhưng con trống thì màu sắc và dáng dấp đẹp lắm. Mỏ màu ngà, chung quanh cặp mắt vàng như hạt bắp có một vòng lông màu đỏ rực và cái đầu thì màu xanh két, lông toàn thân có nhiều màu sắp xếp hài hoà và nhất là đuôi có hai cái lông dài như ... lông trĩ! 

Nước Mỹ quá rộng lớn, đất cát đa phần rất phì nhiêu và hệ thống thuỷ lợi thì hết chỗ chê, nó dẫn nước qua những vùng núi non hiểm trở, nếu gặp núi quá cao, người ta đào hầm xuyên ngang; nếu gặp sông suối thì đã có cầu mương, máng bằng bê tông cốt sắt, bởi vậy đất trong sa mạc mà vẫn trồng cấy được nhờ hệ thống tưới nước quanh năm này. 

Chính vì lẽ đó, nông sản Hoa Kỳ làm ra nhiều quá, riêng tiểu bang California không thôi, nếu nó là một quốc gia thì đã đứng hàng thứ ba trên thế giới, chỉ sau nước Mỹ và Canada. Thực phẩm nhiều quá, không lẽ chở đi mà cho cùng khắp(") mà bán giá quá thấp thì mấy nước kia kêu ầm lên rằng Mỹ muốn tiêu diệt nền nông nghiệp thế giới, thôi chính phủ đành cho nông gia On strike, nghĩa là đình động, để đất hoang hoá xoay vòng trong một thời gian. Chắc chắn là phải trợ cấp cho những nông gia này rồi, nhưng số tiền là bao nhiêu thì còn tuỳ thuộc vào Bộ Nông Nghiệp và tài khoản năm đó sẽ chi ra, thường là 75%. Thí dụ 1 mẫu ruộng trồng bắp, trừ chi phí cày bừa, giống, thuốc, tiền công mà còn lời 100 đồng, thì chính phủ sẽ trợ cấp 75 đồng nếu mình bỏ hoang. 

Cũng không phải là mình có vài trăm ngàn mẫu, cứ bỏ hoang hết rồi tà tà lãnh tiền đâu, mà mình phải nạp đơn, kê khai có bao nhiêu ruộng rẫy, đang trồng thứ gì, dự tính bỏ bao nhiêu mẫu không trồng cấy, ở khu vực nào, chính phủ sẽ cứu xét và tuỳ nghi chấp thuận, nhưng không phải bỏ hoang là kệ bà nó, mà buộc phải trồng cỏ hoang, để những loài động vật hoang dã có môi trường sanh sôi nảy nở, và chính vì vấn đề này, nảy sinh ra một nền công nghiệp mới: Tổ chức du lịch đi săn. 

Những ông chủ farm sẽ đăng quảng cáo là mình có bao nhiêu mẫu đất hoang, trong đó có loài thú gì, nhiều không ... và những Câu Lạc Bộ, những tour du lịch săn bắn sẽ dựa theo đó mà sắp xếp cuộc chơi, khách sạn, nhà hàng. 

Có nhiều hãng muốn thưởng cho nhân viên một cuộc đi săn dã ngoại thì liên lạc với Hunting Club, văn phòng du lịch, họ sẽ sắp xếp vé máy bay, xe cộ, khách sạn, nhà hàng và chỉ riêng cuộc săn và người hướng dẫn mà thôi, trung bình tốn phí cho một người là 200 dola. 

Mùa săn chim trĩ bắt đầu từ tháng 11 đến hết tháng 3 năm sau. Thường ngày khi ta lái xe cũng vẫn thấy trĩ đứng bên lề đường, trông ngơ ngác hiền lành như một đàn gà, nhưng khi bắt đầu vào mùa săn là chúng trốn đâu mất biệt. Người đi săn thường rủ nhau thành một hội săn, họ liên lạc với chủ đất, thường là những vùng đang bỏ hoang, hay ruộng lúa đại mạch (milo) đã gặt xong, gốc rạ cao khoảng nửa thước. Chim trĩ thường sống lủi trong này chứ ít khi bay bổng lên cao như những loài chim khác. Nó cùng họ với loài chim cút nhưng to lớn hơn nhiều, chỉ nhỏ hơn gà Tây (wild turkey) mà thôi. 

Nếu một hội săn có 10 người, thì phân phối 2 người ngồi canh ở một đầu ruộng, còn 8 người kia giăng hàng ngang cách nhau khoảng 10m mà càn luớt tới. Ở giữa họ là những con chó săn chạy qua chạy lại sủa ỏm tỏi để lùa chim chạy về phía trước, chứ nếu không có chó thì có nhiều con sợ quá hay gan lì quá sẽ mọp xuống sát đất mà trốn. Lúc này nó chỉ chạy và lủi chứ không bay lên, nhưng khi gần tới cuối ruộng, bất ngờ thấy hai thằng người đang ngồi canh thì dáo dác, ùa bay vụt lên cao để thoát thân. Đó chính là lúc 8 người đi càn quì xuống nâng súng và bóp cò. 

Họ chỉ lên đạn và bắn thêm phát thứ hai rồi bắt buộc phải ngưng, bởi vì khi ấy có bắn thêm cũng quá xa đối với tầm đạn shotgun, hai người ngồi canh đang hụp xuống tránh đạn, sẽ nhổm dậy bắn bồi thêm về phía những con chim đang bay qua đầu mình. 

Cách đây ít tháng, PTT Dick Cheney đi săn cút mà bắn trúng bạn mình có thể vì người bạn này đứng xổng dậy quá sớm, lúc PTT chưa bắn hết viên thứ hai; cũng có thể ông Cheney bắn thấp quá, chắc là vì già rồi, mỏi gối chồn chân, cái gì cũng đã rũ liệt kể cả nòng súng! 

Còn nhớ sau vụ tai nạn này, báo chí có loan tin hai ông đều bị phạt vì chưa mua stamp săn con chim cút. Ấy là mấy ổng săn trong trang trại của mình mà còn bị phạt, phải ở xứ nào khác, thì bố bảo cảnh sát cũng không dám hỏi giấy phép đi săn của PTT! 

Khi săn qua thửa ruộng khác thì lại xoay tua để hai người khác làm thằng canh đầu ruộng, như vậy mới đồng đều. 

Tuy luật cấm bắn con mái, nhưng khi nó bay túa xua lên như thế thì làm sao nhắm bắn con trống với đạn ghém(") Thôi thì đành lượm con trống, còn đối với con mái rớt xuống đó, ta cứ giả đò không nhìn thấy, và ngay đêm đó đàn sói sẽ thanh toán chiến trường một cách sạch sẽ. 

Trong một ngày săn, mỗi người chỉ được bắn 4 con, nhưng trong thùng đựng đá, tủ lạnh trong nhà, ta không có quyền lưu trữ quá 12 con chim. Khi chim đã nhổ lông rồi, luôn luôn phải để cái cẳng còn dính liền với đùi, để khi bị khám xét, họ biết đó không phải là chim mái vì chân chim trống có cựa dài như cựa gà nòi. 

Nói người Mỹ khờ thì hơi quá đáng, chứ như tôi thì dù chim bị cắt cụt cẳng đi, tôi vẫn biết con nào là con mái. Con mái da lưng bị trầy xước rất nhiều, vì con trống thường nhảy lên đó mà đạp. 

Có năm tuyết xuống quá nhiều, chim không núp trong ruộng nữa, mà chui vào những lùm cây có tuyết phủ kín như một nóc nhà. Trời lạnh quá đến nỗi ta không thể dùng chân đá trên lớp tuyết này thành một lỗ hổng, nên thường lấy mũi súng thúc một cái, có khi chim rúc đầy nhóc trong đó. Lúc này thì còn bắn biếc gì nữa, sẵn súng đó, quất cho mỗi con một phát nằm thẳng cẳng, cứ như trên chiến trường đánh xáp lá cà vậy, dĩ nhiên làm vụ này là làm lén mà thôi. Chim thấy động, phá vỡ tuyết mà bay ra phía bên kia hàng đàn, cả hội săn phải dàn hàng ngang, quì xuống mà bắn, chứ mạnh ai nấy bắn loạn xạ có ngày mang hoạ vì đạn lạc. 

Khi săn được chim rồi, người ta thường để dành lại mấy con còn lành lặn đem tới người Taxidermist để họ ướp xác bằng phoọc môn, dùng làm trang trí trong nhà và cho bạn bè. Mỗi một con chim trĩ tốn khoảng trên một trăm đồng. Không biết họ làm cách nào mà con vật trông như còn sống, đang đứng nghển cổ hay xoè cánh bay coi rất đẹp. 

Đến đây, thế nào cũng có người hỏi: Thịt chim trĩ ăn có ngon không" 

Xin thưa là ngày xưa cho rằng "Nem công chả phụng" là món cực kỳ trân quí. Cách đây mấy chục năm, ông Tú Xương thi rớt hoài nên mơ tới bữa tiệc vua ban cho các Tân Khoa Tiến Sĩ: "Ăn yến xem ra có thịt công." 

Xem vậy mới biết thịt công, chim phụng đồng loại với chim trĩ quí giá vô cùng. Nó không trắng như thịt gà, mà nâu nâu, đo đỏ như thịt đùi hay thịt lưng con gà tây. Dĩ nhiên là nó dai và ngọt hơn thịt gà vì nó là loại thịt rừng. Hơn nữa vì giống quí hiếm, ít khi được ăn nên chúng ta cảm thấy ngon hơn. 

Đến mùa săn thì các khách sạn nhà hàng thường có người làm thịt chim do mình đi săn đem đến và nấu nướng luôn. Thực ra họ chỉ lột da và lấy cái ức chim mà làm một dĩa nho nhỏ vậy thôi, chứ đùi cánh và lưng chim thì vứt đi hết. 

Có người nói chim trĩ ở Mỹ do người Tàu từ tỉnh Phúc Kiến đem qua, vì hình dáng chim trĩ ở hai nơi này giống hệt nhau, và cách đây khoảng 200 năm thì người Tàu qua Mỹ làm công nhân đường xe lửa đông lắm. Điều này làm tôi nhớ đến đoạn đầu của cuốn võ hiệp Tiếu Ngạo Giang Hồ: Cậu con cưng của Lâm Chấn Nam đi săn chim trĩ, cậu đã dùng roi ngựa mà quất trúng chim trĩ khi nó bị chó săn truy đuổi mà bay vút lên khỏi bụi rậm. Trong đoạn này cũng nói là dân Phúc Kiến gọi chim trĩ là Lã Trĩ, nhưng khi bà Lã Hậu lên ngôi thì dân chúng kiêng tên mà đổi lại là dã kê, tức là gà rừng. Thực ra gà rừng giống con gà tre y hệt, từ màu sắc, dáng vẻ, cân nặng .. chỉ khác một điều là gà rừng bay như chim mà thôi. 

Riêng đầu con nai nếu mình muốn đem về treo trên tường thì phải nhờ taxidermist lột da ra, phủ lên một cái khuôn như sọ con nai làm bằng mốp, họ có rất nhiều kích cỡ nên nhìn thấy nó được treo lên, ta có cảm tưởng như là đầu con nai còn sống, với cả chà, gạc chìa chạnh và hai con mắt ngơ ngác như mắt ...nai. 

Để kết thúc bài này, tôi xin cóp hai câu thơ của Tố Như tiên sinh để hy vọng rằng: "Lời quê góp nhặt dông dài 

Mò Sò 

Cách đây hơn bốn năm, tôi đến San Jose để làm việc một tháng. Bây giờ "Đến hẹn lại lên" vì ở đây tôi đang rảnh, thế mà cũng chỉ một tháng là vội trốn về. 

San Jose với đường sá mở rộng thêm nhiều, nhưng xe cộ vẫn kẹt cứng. Những khu kỹ nghệ to lớn với parking đậu đầy xe loại mắc tiền; Ánh đèn ở những khu thương mại chói chang, xứng danh là thung lũng điện tử nổi danh trên toàn thế giới. Ấy vậy mà bên cạnh những cao ốc, vẫn còn rất nhiều đất để hoang, có hoa vàng nở rộ và hai bên xa lộ, đôi khi ta còn bắt gặp vài chú nai đi ngơ ngác, nhất là đi lên hướng Saratoga, highway 9. Cảnh trí nơi này không khác gì Đà lạt, với núi đèo, thác suối. Tiếng lá reo hòa với tiếng suối róc rách, làm cho ta ngỡ rằng đã lạc vào chốn thiên thai. 

Có lẽ vì không một ai than phiền với sở Animal Control, nên tuy là một thành phố lớn, nhưng nửa đêm về sáng, người ta vẫn nghe thấy tiếng gà eo óc gáy. Tôi phần thì nhớ nhà, phần thì bị bệnh mất ngủ, lại càng không ngủ được. Cảnh thổ ở bên quê nhà cứ lởn vởn trong trí, với bờ ao ruộng lúa. Mỗi lần nghe tiếng gà gáy, tôi lại nhớ bài thơ Nắng Mới của Lưu Trọng Lư : 

Mỗi lần nắng mới hắt ven song 

Xao xác gà trưa gáy não nùng 

Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng 

Chập chờn sống lại những ngày không 

Tôi nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời 

Lúc người còn sống tôi lên mười 

Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội 

Áo đỏ người đưa trước dậu phơi 

Hình bóng mẹ tôi chửa xóa mờ 

Vẫn còn mường tượng lúc vào ra 

Nụ cười đen nhánh sau tay áo 

Trong nắng trưa hè trước dậu thưa. 

Mẹ tôi còn sống, mà mỗi lần đọc bài thơ này là tôi muốn sa nước mắt, tôi thương cảm giùm những người mất mẹ. 

Rất may cho tôi là lần này lên làm việc đúng vào dịp hãng có vài công việc được trả tiền theo đầu người, nghĩa là làm việc tà tà, không chuyên môn cũng được (Những công nhân này được gọi là Cà Đơ). 

Dân Cà Đơ không lái được xe Heavy equipment, không biết chạy dây điện Freeway, cũng được trả ba bốn chục đồng một giờ. Tôi cũng thuộc diện Cà Đơ, nhưng may quá, được trả tới năm chục, nên khi cầm tấm check, nặng trĩu cả hai tay. 

Lần này, tôi cũng có dịp đi làm chung với nhạc sĩ Trần Chí Phúc. Không biết nhạc của anh ta hay tới đâu, nhưng giọng ngâm thơ của anh vang lên, lẫn trong tiếng suối nơi Highway 9, đã làm ruột gan tim phổi tôi lộn tùng phèo : 

Vú em như cái chũm cau 

Cho anh bóp cái, có đau anh đền. 

Nơi đây, phiá Tây Bắc San Jose, giữa rừng thông cao vút, có con đường nhỏ dẫn vào một trang trại trồng nho, mà những gốc nho già gần hai trăm tuổi, lớn bằng bắp vế, có cơ sở làm rượu Savanah Winery và tasting room. Lúc chúng tôi vào phòng nếm rượu, đã có dăm ba người Mỹ đang uống rượu trong những ly chân cao. Người phụ nữ rót rượu tươi cười giải thích từng màu sắc của từng ly rượu và nói rằng mỗi người khách phải trả bảy đô la. Chúng tôi đồng ý và sau khi uống đến ly thứ ba là đã thấy chếnh choáng. Rượu vang tuy coi vậy, nhưng độ rượu cũng mạnh ra gì. 

Không biết là tại vì thấy chúng tôi mặc áo màu vàng trông hem hễ quá, hay tại nhìn thấy ông Chí Phúc và tôi đẹp trai quá, mà cô bán rượu, sau cùng không tính tiền. (Vì đi chung với ông Chí Phúc, nên bạn bè gọi tôi là Chí Phèo). Số tiền rượu không phải trả, nếu đem mua bia, thì cả bọn uống cả tuần không hết. 

Một hôm ủi đất kế bên mương nước, tôi bị giật mình vì con vịt trời vụt bay lên, khi nhìn trong đám cỏ có ổ trứng 12 cái. Tôi cũng chẳng muốn lấy trứng làm gì, nhưng nếu không dẹp ổ vịt qua một bên, thì không có chỗ mà làm. Hai con vịt cứ bơi qua, lội lại trên mương nước nên chúng tôi bảo nhau : 

- Nếu không sợ bị phạt 500 đô, tụi mình vơ hai con vịt này về thì tối nay có tiết canh. 

Ngồi nhìn hai con vịt, tôi lại nhớ tới ngày còn nhỏ (tôi có cái tật hay nhớ như vậy), ngồi làm vịt ở cầu ao, lúc làm bộ lòng, vì tính hay lơ đãng nên đàn cá lòng tong bu lại rỉa gần hết tôi mới nhớ ra, tức nổi xung lên, tôi cằm con dao phay chặt đại xuống mặt nước mấy phát, cả chục con cá đứt đôi nổi phều lên mặt nước. Cho đáng đời, ai biểu mày rỉa! 

Hồi còn ở Orange County, có những cuối tuần tôi không biết đi đâu, làm gì cho qua ngày, nhưng những cuối tuần ở San Jose lại qua mau quá. Có lần, tôi được rủ đi đào ốc vòi voi ngoài cồn cát ở vùng vịnh San Francisco. 

Sáng thứ bảy, đoàn xe ba bốn chiếc nối đuôi nhau chạy lên hướng bắc. Tôi đi chiếc Ford F150 có kéo theo chiếc canô. Từ San Jose đến San Francisco cũng hơn một tiếng đồng hồ. Xe rời freeway để theo đường nhỏ ngoằn ngoèo qua những nông trại nuôi trừu. Những trảng cỏ non bên sườn núi xanh như ruộng mạ, có vài ba con nai đứng ngơ ngác hiền lành. 

Đến bờ biển, những người trong bọn chúng tôi chưa có license câu cá thì phải mua, tốn hơn mười đồng cho hai ngày. Khi cho tàu xuống bến rồi, chúng tôi phải chia ra làm ba toán để ra đảo cát mới đủ chỗ, vì tàu nhỏ. 

Chiếc tàu chạy nhanh quá, nó phóng như bay trên mặt nước, chỉ 15 phút đã ra đến nơi. Anh trưởng đoàn giải thích: 

- Ốc vòi voi, còn gọi là hến, là sò. Tiếng Mỹ gọi là Horse neck clam, mỗi con nặng hơn hai pound, có vòi lớn bằng nửa cổ tay và dài gần một gang. Nó nằm sâu dưới cát khoảng gần một thước Tây, cứ chỗ nào có cái lỗ cỡ bằng ngón tay, phọt nước ra, thì chắc chắn dưới đó có con hến... (Có tiếng cười khúc khích). Mỗi người được bắt mười con một ngày, nhưng chúng ta mà bắt được năm con là đã khá lắm rồi, vì mỗi con ngoài chợ bán cũng gần hai mươi đô la. 

Chúng tôi tản ra theo bốn toán, mỗi toán có một cái ống nhựa cứng, đường kính khoảng hai gang tay, và dài gần một thước, có hai dây quai để dễ kéo lên, trang bị thêm hai chiếc xẻng cán dài và mấy chiếc thùng đựng. 

Mỗi lần có bước chân động trên mặt cát, là những vòi nước lại phụt lên, lỗ hến đầy dẫy không thể đếm xuể. 

Cồn cát này chìm dưới mặt nước cả năm, chỉ trong mấy tháng hè mới lộ ra vào những ngày con nước nhỏ, mà cũng chỉ trong mấy giờ mà thôi. Lúc nước triều lên, có nhiều người vì mải mê với sò, với hến, vô bờ không kịp nên suýt chết vì nước. (Nhưng không được gọi là hy sinh vì tổ quốc). 

Đào sò là cả một nghệ thuật: Nhắm ngay cái lỗ, đào chừng vài ba xẻng cát, để cái ống vào rồi nhảy lên trên miệng ống mà nhún nhảy, để cho ống cắm sâu xuống cát. Tại sao lại phải dùng ống như vậy? Bởi vì nước với cát sẽ tràn lấp ngay sau khi ta nhấc xẻng lên, có cố gắng lắm cũng không thể đào sâu đến nửa thước. Vì có ống, nên khi móc cát phía bên trong ống, chúng ta chỉ cần ít phút là đã có thể sờ thấy vòi con hến rồi. Người không kinh nghiệm sẽ nắm lấy cái vòi mà kéo, nó thường đứt luôn, để laị nguyên con sò, mà con này rồi cũng sẽ chết vì cái vòi là bộ phận nó dùng để hút đồ ăn là phiêu sinh vật trong nước biển. Người đào cát phải biết khi nào nương tay, kẻo xẻng sẽ xén đứt luôn cái vòi voi của con sò, mà vòi này là chỗ ngon nhất. 

Người đào đương nhiên mệt lắm, nhưng người "mò sò" còn mệt hơn, phải nằm dài xuống mặt cát, tay thọc sâu để rờ rẫm xem cái vòi nằm nơi đâu. Khi bàn tay đã nắm được cái vòi, ngón tay trỏ phải nong cát chung quanh vỏ sò ra cho rộng, rồi vừa kéo, vừa lắc mà rút ra. Có nhiều khi con sò ở sâu qúa, người mò sò chui cả đầu vào ống, chỉ còn hai chân loi choi trên mặt cát, nên không có thế để lên, phải la toáng lên thì đồng bạn mới biết mà kéo ra khỏi ống. Lúc anh mò sò thoát ra khỏi miệng ống, mặt mũi lấm lem, tay nắm chặt con sò, thế mà trên môi lại còn nở nụ cười tình, mặt tươi rói như ông Đại sứ. 

Có anh bạn trong bọn chúng tôi, đi tìm những chỗ có hai lỗ ở bên nhau mà đào, thành thử anh ta cứ bắt được mỗi lần một đôi tình nhân sò hến. 

Mới xế trưa, mà gió biển thổi mạnh qúa, những người ướt quần áo thì bắt đầu run vì lạnh. Chúng tôi đành ra về vì có lẽ mỗi người đã được cả chục con. 

Tôi đã từng nhìn thấy con hến vòi voi nhiều lần được bày bán trong siêu thị, nhưng nhìn nó tôi hơi nhờn nhợn nên chưa ăn thử bao giờ. 

Buổi tối hôm ấy, là lần đầu tiên tôi ăn, mà laị ăn sống theo kiểu Sushi, tôi mơí thấy vị ngon ngọt của nó. Hèn chi người Tàu, người Nhật đi đào đông quá, nhưng họ được ít lắm, mỗi lần bắt được một con, cả bọn hò reo như đào được mỏ vàng. Còn bọn chúng tôi, nếu thả sức cho đào, có lẽ mỗi người sẽ được vài ba chục con, vì chúng tôi là chuyên viên đào mương, đào lỗ ngoài freeway của công ty Amland. Một công ty do người VN làm chủ lớn nhất (nói theo kiểu quảng cáo của những cơ sở thương mại VN), không những riêng ở Cali, mà còn trên toàn cõi Hoa Kỳ. Mà vì là công ty độc nhất, nên không có ai đứng hạng nhì. Sorry! 

Nghề Đánh Tôm Tại Texas

Tác giả tên thật Đỗ Tiến Bình Minh, sinh năm 1952 tại Thanh Hóa, di cư vào Nam năm 1954. Cựu sinh viên sĩ quan khóa 29 Trường Võ Bị Đà Lạt. Vượt biên bằng tầu. Đến Mỹ năm 1981. Hiện làm việc cho hãng Vlasic Food International Inc., Nebraska. Cư trú tại Omaha, Ne. 

Thu vén hết tài sản vốn còn ít ỏi của một năm trời sống tại Westminster, California, dồn tất cả lên chiếc xe tăng Olsmobile Delta 88 đời 75 (Chúng tôi gọi nó là xe tăng vì nó lớn như chiếc xe tăng và uống xăng như uống nước lã) . Chúng tôi trực chỉ Texas, theo tiếng gọi của biển cả, với một hy vọng lớn lao: Kiếm tiền! Tiền rừng, bạc biển mà . 

Chúng tôi đến nơi thì mặt trời đã gần lặn. Đường xá vắng hoe . Cả thị trấn chỉ có một trạm đèn xanh - đỏ. Chỉ mất độ năm phút là đi hết con đường phố chính của Thị trấn . Ba đứa con của tôi còn bé, chưa có ý kiến gì . Nhưng nhà tôi thì bắt đầu lo lắng, lộ hẳn ra nét mặt: 

- Đây là nơi mà chúng ta muốn đến sao? 

Tôi phải trấn an: 

- Đúng rồi, đây là vùng đất hứa mà chúng ta đang tìm kiếm. Vắng vẻ, buồn, nhưng rất là an ninh. Lại là nơi để chúng ta kiếm được nhiều tiền . 

Thị trấn chúng tôi đặt chân đến có tên gọi là Rock Port, cách Corpus Christi nửa giờ lái xe về hướng nam. Dân số của Thị Trấn này có khoảng độ ba ngàn dân. Mà đa số là người Mỹ già. Họ từ miền bắc rủ nhau về đây để tìm chút nắng ấm, sống cho qua những năm cuối đời. Trong lòng Thị trấn nhỏ bé này, xuất hiện một nhúm người Việt Nam, khoảng năm sáu chục gia đình, chuyên sống bằng nghề đánh tôm. Những gia đình ngư phủ này đến đây như một sự tình cờ hi hữu. Khi còn ở Việt Nam họ ở Bến Đá, Vũng Tàu. Và nay họ lại được định cư ở một nơi trên đất Mỹ cũng có tên là Bến Đá (Rock Port). Chúng tôi đến đây vào tháng Tám năm 1987 thì họ đã có mặt ở đây khoảng tám năm rồi. 

Lái xe theo con đường ven biển để ra bến tàu. Gió mát từ biển lùa vào xe làm cho chúng tôi cảm thấy dễ chịu . Nhìn ra biển chúng tôi được chứng kiến một cảnh chiều tà thật là ngoạn mục. Mặt trời to như một cái nia vàng ròng tỏa ánh sáng vàng ối xuống chân trời màu xanh thẩm của biển cả, tạo cho cảnh vật một vẻ quyến rũ lạ thường. Nhà tôi phải thốt lên: 

- Biển ở đây đẹp quá! Được sống ở đây thật là thú vị. 

Nàng quên mất những khó khăn mà chúng tôi sắp phải đối phó. Chúng tôi dừng lại chụp vài tấm hình rồi đi tiếp để ra bến tàu . 

Bến tàu đây rồi! Đây là một bến tàu nhỏ, thu gọn vào trong một kè đá được xây bên ngoài để chắn sóng biển. Có khoảng độ hơn trăm chiếc tàu đậu nơi đây: Hơn hai mươi chiếc là thuyền buồm, số còn lại là các tàu đánh tôm, đủ cỡ, đủ kiểu, đủ màu sắc , treo các lưới màu xanh hoặc đen, vắt vẻo trên các cần cẩu phía đuôi tàu, tạo nên một bức tranh đẹp mắt, sống động. Trên bến còn lác đác một số người đang cố vá lại những chiếc lưới bị rách. Đây đó có vài ba nhóm người tụm vào nhau truyện trò, uống bia. Chúng tôi dừng lại hỏi thăm vài ba câu rồi vội vã lên xe về khách sạn vì mọi người đã thấm mệt và buồn ngủ. 

Tìm nhà cho thuê trong một thị trấn nhỏ thật là khó khăn! ... Nhưng cuối cùng rồi chúng tôi cũng thuê được một căn nhà ở thu mình trong một khu rừng nhỏ. Trong vòng một cây số vuông, không có một căn nhà nào khác. Gọi là căn nhà thì không đúng lắm. Nó chính là chiếc mobil home được sửa sang lại trông giống như một căn nhà sàn của Mọi Da Đỏ. Chúng tôi đã trải qua những đêm đầu tiên ở căn nhà này trong sự sợ hãi tột độ: Khẩu súng shotgun lúc nào cũng ở trong tầm tay. Mỗi tiếng động lạ vào ban đêm đều làm cho chúng tôi phải thức giấc để theo dõi. Mà ở trong một khu rừng tịch mịch như thế thì biết bao nhiêu là thứ tiếng lạ. Những đêm đầu không thể nào ngủ được. Rồi dần dần vì quá mệt mỏi, cơn buồn ngủ xâm chiếm, chúng tôi không còn nghe thấy tiếng động nào lạ nữa. Một tuần sau thì quen. 

Nhà tôi vẫn còn sợ hãi khi tôi đi vắng, nên tôi phải chỉ cho nàng cách bắn súng. Lần đầu tiên rời khỏi nhà, tôi giao khẩu súng cho nàng, tay nàng run như lần đầu tiên cầm tay nhau . Nàng không chịu cầm súng, tôi phải ra lệnh: 

- Vì an ninh cho các con, em phải dạn dĩ lên . 

- Nhưng em không thể bắn người ta được, dù biết nó là ăn cướp. 

Tôi cười, an ủi nàng: 

- Em không cần phải bắn nó, vì nó chỉ nhìn tay em cầm súng mà run run như thế kia là nó phải rút lui rồi, không phải vì nó sợ em mà nó sợ bị lạc đạn. 

Vài tuần sau, tôi may mắn mua được một chiếc tàu gỗ của một ngư phủ Việt Nam. Tầu dài bốn mươi feet . Vỏ tầu nom còn tốt, nhưng cần cẩu và các đồ dùng bằng sắt thì đã rỉ sét như đã bị bỏ phế từ lâu. Tuy vậy tầu đã được trang bị đầy đủ mọi thứ để có thể ra khơi được. 

Người bán tầu đã mất nửa ngày đưa tôi ra biển để chỉ cho tôi cách lái tàu và thả lưới như thế nào. Sau đó thì trao tiền và lấy tầu. 

Được làm chủ con tầu thì biết bao nhiêu điều lo âu bắt đầu kéo đến: Tôi chưa bao giờ bước chân xuống một con tầu, ngoại trừ con tầu rách nát đã đưa chúng tôi rời khỏi Việt Nam thì làm sao tôi có thể điều khiển một con tầu đánh tôm với bao nhiêu là máy móc lạ hoắc. Tôi đã hỏi thăm các ngư phủ Việt Nam ở đó để tìm một người giúp việc trên tàu, mà ở đây người ta gọi là Deckhand... Không kiếm được ai. Vì lúc này đang là cao điểm của mùa đánh tôm, người nào cũng đang có công việc của mình, nhưng phần chính là do tôi là tay mơ trong nghề nên không ai dại gì bỏ các tầu khác để đi làm cho một chiếc tầu mà Captain còn chưa biết lái tầu. 

May mắn cho tôi ! Hai ngày sau tôi tìm được một thủy thủ già, người Mỹ Đen. Ông Mỹ này là một cựu thủy thủ, bị một tai nạn trên tầu nên phải cưa mất một chân - Ông ta nói vậy thì biết vậy, không biết có thực không ? 

Ông ta đi chân gỗ nên di chuyển rất khó khăn. Nhưng không sao! Tôi đang cần một Captain để lái tàu chứ không cần Deckhand. Tôi đã phải làm Deckhand trong suốt thời gian mướn ông này làm việc . Nhờ đó tôi đã biết lái tầu và điều khiển thành thạo việc thả lưới khi Captain bất đắc dĩ này xin nghỉ việc vì bệnh hai tuần lễ sau đó? Tôi đã lên chức Captain . 

Ba tháng còn lại của mùa đánh tôm. Vì không mướn được Deckhand, tôi phải đi solo một mình. Vừa làm Thuyền trưởng vừa làm Thuỷ thủ, mệt đứt hơi. Nhưng vì đang hăng hái và phấn khởi bởi một cái nghề mới lạ, lại có một lợi tức tương đối khá so với việc làm trước đây của tôi - Mỗi ngày ra khơi đem về cho gia đình 300 đến 500 đolla là một lợi tức đáng kể vào thời điểm đó . Nên tôi đã vượt qua được những ngày tháng đen tối đó một cách dễ dàng . 

Những tháng cuối cùng của mùa đánh tôm năm đó trôi qua êm đềm và thuận lợi. Chúng tôi đã kiếm được đủ tiền để trả nợ con tầu, và có đủ tiền để chi phí cho bốn tháng mùa đông còn lại để chờ đợi mùa tôm kế tiếp . 

Mùa đánh tôm trong Bay chỉ kéo dài trong tám tháng: Từ tháng Tư đến tháng Mười Một. Thực sự số ngày ra khơi chỉ khoảng sáu tháng hoặc ít hơn. Sáu tháng còn lại thì.... Free! ... Muốn làm gì thì làm. 

Nghề đánh tôm ở Mỹ có thể phân biệt làm hai loại, Đánh tôm Guft và đánh tôm Bay: 

Guft chính là Guft Of Mexico. Đánh tôm ở Guft cần phải có tàu lớn - thường là dài trên tám mươi feet. Và phải trang bị đầy đủ hải cụ, gồm cả rada và các phòng lạnh để có thể làm việc nhiều ngày trên biển mà vẫn giữ cho tôm tươi tốt. Tôm Guft có thể đánh được quanh năm, không bị luật lệ giới hạn. Tôm Guft to nhưng không ngon bằng tôm Bay vì thịt cứng và hơi tanh. 

Bay là các hồ giao tiếp giữa biển cả và sông ngòi nên vị nước hơi lợ. Không mặn mà cũng không ngọt . Có rất nhiều Bay trải dài từ Florida đến biên giới Mễ Tây Cơ. Đánh tôm trong Bay chỉ cần những chiếc tàu nhỏ dưới năm chục feet. Tàu nhỏ sẽ dễ xoay sở vì nhiều Bay có diện tích rất là nhỏ. Đánh tôm trong Bay thường thì sáng đi chiều về nên không cần trang bị rađa, Chỉ cần trang bị CB radio, hải bàn và hải đồ là đủ. Tôm Bay thịt trắng, ngọt và mềm nên dùng để ăn gỏi rất là ngon - Bạn thử tưởng tượng, tôm đang còn nhẩy lao xao như vậy mà đem bóc vỏ ra, vắt vào một tí chanh rồi chấm vào mù tạt thật cay mà đưa lên miệng, đưa cay với một hớp rượu chát nữa thì còn gì bằng . 

Bốn tháng mùa Đông, chúng tôi được hoàn toàn nghỉ ngơi: Người thì rủ nhau về California du hí hoặc đi thăm bà con; người thì tụ tập nhau đánh bài; người thì châu đầu vào các phim bộ và hầu như ngày nào cũng nhậu nhẹt tưng bừng. Chúng tôi lợi dụng dịp nghỉ ngơi này để làm quen với dân làng và để học hỏi thêm những kinh nghiệm trong nghề và cách bảo trì tầu bè... Dân làng ở đây thật là hiếu khách và dễ dãi, có lẽ nhờ kiếm tiền quá dễ dàng . Gia đình nào cũng đã trả xong căn nhà nên chẳng có gì phải lo lắng nữa. Có dư tiền là mua sắm, tiêu sài thoải mái không chút đắn đo . 

Cuối cùng, tôi đã điều khiển được con tầu một cách thiện nghệ. Tôi đã học được nhiều kinh nghiệm quí báu trong nghề đánh tôm do các ngư phủ bạn tận tình chỉ dạy . Tôi đã học được cách đọc hải bàn để có thể đi khắp mọi vùng biển mà không sợ bị lạc... Tóm lại tôi đã trở nên một Captain chính hiệu kể từ đây. Các chủ vựa tôm trân trọng gọi tôi là Captain Arsco - Arsco là tên tàu của tôi. Họ tâng bốc mình như vậy chẳng qua là mình bán tôm cho họ, đem lại nguồn lợi cho họ chứ chẳng quí hoá gì. 

Nhưng đường đời không bằng phẳng mãi! Mùa đông thứ nhất trôi qua nhanh chóng vì quá nhiều việc phải làm đối với con tầu rỉ sét này. 

Mùa Tôm thứ hai đã đến. Năm nay có hai luật mới được ban hành thật là bất lợi cho các tàu đánh tôm trong Bay: Thứ nhất là giới hạn 200 pound/một ngày cho mùa tôm nhỏ. Và cấm đánh tôm ban đêm . Đây là hai điều luật đã làm cho nghề đánh tôm Bay điêu đứng kể từ đây . 

Ngày đầu tiên của mùa tôm năm nay có một sự kiện lạ xảy ra: Tầu nào vừa ra khỏi kè đá, thả cào chủm xuống một cái, là nửa tiếng đồng hồ sau, kéo lên có cả ngàn pound tôm. Điều này rất hiếm khi xảy ra. Chắc có điềm gì đây? Về sau này nghĩ lại thì người ta đoán là tôm nó linh cảm được cơn bão sắp đến nên trốn vào bờ. Tôm đánh được nhiều như vậy nhưng chỉ được giữ lại có 200 pound, số còn lại phải lùa xuống hồ. Chỉ được đem vào bến để bán đúng 200 pound. Năm nay vì để áp dụng luật mới, Cảnh sát ( Wildlife Officer ) đứng đầy ở các bến tầu. Nếu tham lam đem vào quá 200 pound sẽ bị Cảnh sát ghi phạt ngay tại bến, hoặc tại vựa bán tôm. Trong ngày đầu tiên này, luật giới hạn 200 pound đã làm cho ngư phủ của Thị Trấn này thiệt hại hàng trăm ngàn dolla - Nếu không có luật giới hạn 200 pound, nội trong ngày hôm đó, mỗi tầu, bét nhất cũng kiếm được 2000 dolla. 

Những ngày kế tiếp, tôm bỗng nhiên biến đi đâu hết. Đi mò tìm cho được 200 pound một ngày thật là khó khăn, nhiều hôm ra khơi rồi về không, phải lỗ tiền dầu . 

Tiếp theo là một cơn bão nhiệt đới kéo đến, lùa vào Bay vô vàn sứa là sứa - Những con sứa to bằng cái tô, tràn ngập hết các Bay. Tôm tép cũng biến đi đâu hết. Rãnh rỗi, không biết làm gì, dân chúng bắt sứa mang về ăn với bún và mắm tôm, món ăn này ngon tuyệt! Có người tiếc, chở về Houston bán gỡ gạc . Năm nay mất mùa nặng. Lợi tức chỉ bằng một phần ba của các năm trước . Ngư dân ở đây cho biết chưa bao giờ lợi tức bết bát như năm nay . 

Tôm tép trở nên hiếm hoi. Phần chưa có kinh nghiệm về các vùng biển đánh tôm. Lưới chài lại điều chỉnh không đúng. Bởi thế, thay vì kéo lên được tôm, tôi kéo lưới lên toàn cá và ốc bưu. Có một lần lưới của tôi vướng phải một đàn cá sửu kéo lên tràn cả bong tàu những con cá sửu nặng ba bốn chục pound mỗi con. Bán chẳng được con nào, lại còn phải đi năn nỉ các người làm nghề bẫy cua cho họ làm mồi . Lần khác vướng phải đàn cá catfish cân được tới ba ngàn pound. Người ta thì bán tôm, mình cứ phải lo bán cá và ốc. Họ đùa với tôi rằng : 

- Captain nên dẹp lưới chài để đi câu cá coi bộ có lý hơn . Tôm nó thấy ghe của Captain là nó trốn mẹ nó hết rồi còn đâu nữa mà đánh . 

Năm kế tiếp cũng không ra gì, lại thêm một năm mất mùa nữa. Có lẽ vì ảnh hưởng của cơn bão nhiệt đới năm trước. Sứa còn đầy ở trong Bay nên tôm cũng kém đi nhiều. Lợi tức bết bát của hai năm liền làm chúng tôi điêu đứng. Phần bực bội vì luật lệ giới hạn một cách vô lý. Chúng tôi không còn kiên nhẫn được nữa đành phải bán tầu. Từ giã các ngư dân tốt bụng ở đây để trở lại đời sống dân thường. Làm Danh Ca (đánh cá) coi bộ không dễ... 

Chúng tôi bùi ngùi từ giã dân làng trở về lại California. Năm sau chúng tôi có gọi điện thoại hỏi thăm, thì họ cho biết: "Năm nay được mùa lớn ... " 

Rau Quê Nhà, Cá Nước Mỹ 

Tác giả Bùi Xuân Đáng đã góp nhiều bài Viết Về Nước Mỹ. Trước 1975, ông là một cựu quân nhân VNCH, từng hai lần du học tại Hoa Kỳ. Năm 1975, cùng gia đình định cư tại Hoa Kỳ, hiện đã về hưu và cư trú tại Placentia, CA. Sau đây, thêm bài viết mới của ông. 

Ra đi ta nhớ quê nhà 

Nhớ ao rau muống, nhớ cà dầm tương 

Nhớ canh rau sắng chùa Hương 

Nhớ con ngõ hẹp, con đường sống trâu 

Câu ca dao tân thời này chỉ thích hợp cho những năm đầu tiên của cuộc di cư tỵ nạn, hoặc những người đang định cư ở những nơi xa xôi hẻo lánh, đèo heo hút gió. Còn đối với những vị quen với những thứ cao lương mỹ vị hoặc dễ ăn dễ uống hay ở những nơi tập trung người Việt như quận Cam, Houston, Seattle thì xá gì ba cái thứ quê mùa, lẩm cẩm này. 

Người ta thường nói ra đi mang theo cả quê hương. Nhưng quê hương bao gồm nhiều thứ, từ mảnh ruộng, thửa vườn, non sông bát ngát làm sao mang đi cho được. Những người bỏ nước ra đi, chỉ đành mang theo những gì có hình bóng quê hương trong đó, từ phong tợc tập quán, lời ăn tiếng nói cho đến con cá, lá rau. 

Gia đình chúng tôi đến quận Cam vào đãàu tháng 7-75, ở đây một tháng chúng tôi đã biết thế nào là kinh đô chiếu bóng và vườn Disney vĩ đạïi. Dọn đi Texas cho gần gia đình người em, tạm cư tại vùng tam biên nơi toàn những đàn bò và cánh đồng cỏ chạy thẳng đến chân trời. 

Sau khi đãõ tạm ổn định đời sống và đãõ hết choáng váng vì hào quang văn minh vật chất, bỗng trạnh lòng nghĩ tới quê hương nghèo nàn khốn khổ khi xưa. 

Thực vậy trước mâm cơm đầy ắp những thịt là thịt chúng tôi bỗng thèm con cá, con tép, lá rau quê nhà. Không phải chúng tôi chỉ nghĩ đến chuyện ẩn uống tầm thường, nhưng bởi vì mỗi ngày 3 bữa lại là nguyên do chính yếu nhắc nhở chúng tôi đến hương vị đãõ từng gắn bó gần cả cuộc đời. Quê hƯơng là chùm khế ngọt, là chuối ba hương, là nhãn Hưng Yên, là gạo nàng hương, là hồng Bạch hạc, là cá Anh vũ, là mận Mỹ tho, là bưởi Biên hòa, là soài Thanh ca và là nhiều thứ kể ra không hết. 

Mùi vị quê hương đầu tiên chúng tôi thưởÕng thức ở nơi đất khách là dưa hấu. Cũng vận là thứ dưa thường thấy bán ở siêu thị, nhưng hương vị và cảm quan khác hẳn. Một người chủ nông trại tại Detroit, xin nhớ không phải là Detroit - Michigan mà là Detroit, Texas, mời gia đình chúng tôi tới ăn dưa do ông ta trồng. 

Khi chúng tôi tới nơi, một đống dưa chừng 50 trái đã chờ sẵn. Ông chủ nhà, bảo tôi lấy một trái và trao cho tôi một thanh kiếm Nhựt. Sau ba đường kiếm, ông ta đòi lại thanh gươm, lần lượt đưa cho các con tôi và nói rằng mỗi người phầi ăn hết phần của mình. Chúng tôi, không ai có thể ăn nổi 1/4 trái dưa dài chừng nửa thước, nặng khoảng 50 lbs. Dưa vừa chín tới nước nhiều và ngon ngọt làm tôi trạnh nhớ thứ dưa của làng Đình Cao, Hưng Yên đãõ từng dành để tiến vua. 

Nhân nói chuyện về rau cá quê hương, ông ta dẫn tôi ra cạnh hàng rào chỉ một thứ hành dại (wild onion ) và than phiền rằng đàn bò sữa của ông ta ăn phải thứ này đã làm cho sữa có mùi hành. Ông ta đã tốn công, tốn của khá nhiều mà không sao diệt nổi. Tôi cúi xuống xem và nói đùa rằng ông chỉ cần bảo lãnh cho khoảng vài chục gia đình còn đang ở trong trại tỵ nạn đến đây, thì đám cây kiệu này sẽ tuyệt tích giang hồ một thời gian rất ngắn. Từ đó chúng tôi có thêm món kiệu muối chua trong bữa ăn hàng ngày. 

Detroit là một làng nhỏ chỉ có độc nhất một tiệm bán thực phẩm toàn là thịt, bơ sữa và đồ dùng cần thiết trong nhà, không bán rau cỏ, tôm cá. Tới thị trấn Paris cách xa chừng 20 miles các siêu thị nhỏ Kroger, Safeway cũng chỉ bán toàn tôm cá đông lạnh và rau cỏ chỉ có cải bắp là còn quen thuộc. Mẹ tôi muốn có con cá nấu riêu. Con, cháu tôi muốn có con tôm rang muối còn nguyên vỏ mà không sao tìm được. Chúng tôi đàønh nghĩ đến chuyện đi câu. 

Đến tiệm bán mồi câu, tôi tìm được những hộp tôm còn nguyên vỏ và câu được vài con bull head giống hệt cá trê vàng nhưng đầu lớn hơn nhiều. Bữa ăn đầy hương vị quê nhà đầu tiên ở nơi đất khách gồm bắp cải luộc chấm trứng, cá trê nấu riêu và tôm nguyên vỏ kho mặn. Nhìn mẹ tôi với bát cơm chan riêu cá và lũ trẻ tranh nhau gắp con tôm rang vàng cháy mà lòng tôi bùi ngùi cảm súc. Câu ca dao xưa có cần phầi đổi lại cho thích hợp với hoàn cảnh mới “Già được bát canh, Trẻ được con tôm rang muối.” Món ăn quê mùa này, lúc đó đối với chúng tôi thực là còn hơn yến. 

Ngày cuối tuần cha con, bác cháu chúng tôi 9 người chất đãày trên chiếc xe Buick Skyhawk trực chỉ hồ Pat Mays, nơi chúng tôi đã bỏ ngày giờ nghiên cứu trên bản đồ. Bên con lạch nhỏ gần bãi đậu xe, bốn nàng thiếu nữ địa phương đăm đăm nhìn đám người xa lạ chúng tôi. Họ đang câu cá nhưng lạ lùng thay, chỗ này nước cạn xịt. Mặt nước đóng váng xanh lè, thứ nước còn đọng lại sau mùa đông dài đãèng đẵng. Cần câu là những cành tre cứng ngắc, dây câu là sợi giây chỉ to như chiếc que tre nướng thịt, chiếc phao to gần bằng quả trứng gà. Tôi nghĩ thầm ngữ này làm sao câu được cá. 

Hình như để trả lời cho sự thắc mắc của tôi, một cô gái giựt cần và lôi lên khỏi mặt nước con cá to hơn bàn tay. Con cá này trông giống con cá mè ở miền Nam, hay cá diếc ởÕ miền Bắc, tuy vẩy cứng trắng lại có những đốm đen ở lưÕng. Riêng cái miệng lại vêu ra trưÕớc giống nhưÕ cá chẽm hay cá thiều, một loại cá ở miền Bắc chỉ ăn mồi vào mùa thu, khi người câu dùng đầu cần câu thọc xuống nước thành tiếng gọi đàn cá đến. Rồi hai, ba cô gái khác cũng được cá và mừng reo ầm ỹ. Lại gần, chúng tôi thấy họ câu đã được lưng thùng. Họ cho biết đây là cá Crappie, một thứ Game fishes, chỉ dành cho những người đi câu chơi và cấm bán ngoài chợ. Đầu mùa xuân, cá này vào chỗ nước cạn, giao tình và sinh sản. Mùa hè cá xuống chỗ nước sâu, khó lòng câu được. Muốn câu cá Crappie phải dùng mồi cá con (Minnow) mới hấp dẫn, còn như mồi trùng hay mồi giả, cá không thèm bắt mồi. Những thiếu nữ tốt bụng này đã cho chúng tôi vài con cá và ít mồi sau khi chúc chúng tôi may mắn. 

Chiều hôm đó gia đình tôi muời mấy người được thưởng thức món cá có thể gọi là ngon nhất trên đời. Cá chiên hoặc nấu đều ngon vô tả. Không một chút mùi tanh tưởi, thịt dầy lại thơm và ngon ngọt lại không có xương dẩm. Chúng tôi ăn thả giàn mỗi người mấy con, chứ không còn bị giới hạn như những ngày còn ở quê nhà, chỉ có vài ba con cá nhỏ cho cả gia đình. 

Hai tháng sau, vì sinh kế chúng tôi rời Detroit khô cằn vắng vẻ, giã từ hồ Pat Mays đầy cá thơm ngon. Khi ra đi chúng tôi không quên mang theo những thùng cá đông lạnh và những ngọn rau cải vừa mới trổ ngồng. Đến Peoria, Illinois lập nghiệp, đây là miền đất trù phú với những cánh đồng trồng đậu nành và bắp chạy ngút ngàn đến chân trời xa tít, làm cho những cánh đồng lúa của vùng Đồng Tháp hay cánh đồng Tam thiên mẫu của cô Tán Thuật ở Hưng Yên chỉ còn là mảnh vườn nhỏ bé. 

Nơi đây sông hồ chằng chịt, cho nên sau khi tạm gọi là ổn định được đời sống, chúng tôi lại vội vàng đi theo tiếng gọi của sông Illinois, Mississipi và các nhánh phụ như Vermillion, Kankakee, Mackinaw, Sangamon, các đập nước ở Moline giáp ranh Iowa và Illinois, Starved Rock, Buffalo Rock. Peoria Dam cũng như tất cả những hồ lớn nhỏû trong vòng 200 miles đường kính như Ever Green, Rice, Chautauqua, Clinton, Spring, Shellbyville, Carlyle v.v. . chỗ nào cũng có dấu chân cha con, bác cháu chúng tôi. 

Khi mới tới, con trai tôi câu được ba con cá chép khá lớn, đem về thả vào bồn tắm ngắm nghía cho chán rồi mới bàn tính làm món gì ăn. Vợ tôi vẫn còn nặng ấn tượng khi xưa sai cậu con rể mang một con cá biếu người bảo trợ. Cậu này miễn cưỡng phải nghe lời, nhưng khi nhìn vẻ mặt tần ngần mất vui của người nhận, đoán chắc rằng khi vừa đi khởi, con cá còn tươi ngoe nguẩy cái đuôi sẽ chui tọt vào thùng rác. 

Các thứ cá chắm chép, mè chôi có tiếng là ngon ở miền Bắc nghèo nàn của tôi, dân địa phương không ai thèm ăn. Họ chê là lắm xương, là mud fishes vì loại này sống ở đầùy sông hồ. Cá chép ở đây sống từng đàøn hàng ngàn con, sau cơn mưa lội lên chỗ cạn bò lúc nhúc như đàn dòi. Có người buôn cá này mang lên New York bán cho dân gốc Âu châu và gọi đùa là Illinois bass. Còn cá chắm, Buffalo có con nặng gần 50 kí nhưng xương đầy mình lại có mùi bùn, mùi cỏ. Cá lóc hay cá quả, bowfin có những con đến 30lbs, mồm miệng xanh lè mà dân địa phương gọi là Dog fish thịt mủn như đã chết 5-7 mưÕời ngày. 

Cá ở đây quá nhiều và nhiều thứ quá ngon. Chúng tôi câu theo mùa. Tuyết vừa tan, vội vã lên Starved Rock, nơi khi xưa đoàn người thám hiểm từ Canada đi theo giòng Illinois đi xuống bị đám dân da đỏ bao vây cho đến khi chết đói. Khúc sông này vào cuối tháng 2 đầu tháng 3 đặc nghẹt những người tứ xứ, thuyền câu đặc kín khúc sông nhưÕ lá tre. Họ đến đãy để câu cá Walleyes, một thứ cá bống thông thường vào khoảng 2-3 lbs nhưng có con lớn tới 14-15 lbs, chỉ có xương sống, thịt trắng tươi,đem chiên hay hấp đều thơm ngon hơn cá bống mú rất nhiều. Cá này nằm ở đáy sông nước chẩy cuồn cuộn cho nên kỹ thuật câu khác hẳn. Chì phải đủ nặng để nước không cuốn mồi đi, người câu luôn luôn phải nhấp cành nhử cá. 

Thời tiết vào độ này thật khắc nghiệt, hàn thử biểu thường là 25-35 độ F, nhưng làn gió đông tai ác có khi lên đến 40 dặm một giờ. Cá ăn nhiều vào lúc sáng sớm, khi mặt trời lên cao là lúc ngừng ăn và luật câu ấn định 6 con cho một ngày, bất kể lớn nhỏ. 

Cuối tháng 3, khi Walleyes đã không còn ăn mồi, là bắt đầu mùa cá Crappies và khi cái nóng muà hè đổ xuống vào khoảng 4-July là mùa câu cá White bass hay Striper bass. 

Khúc sông tại Bartonville, gần đập nước Peoria nơi tập họp của đủ mọi loại cá và cũng là tụ điểm của những người Việt tỵ nạn. Lọai cá da trơn như Channel cat, thứ cá bông lau tên gọi của miền Nam, hay cá lăng của miền Bắc, Flat head cá trê đầu dẹt, Blue cat mầu xanh thậm chen lận với Large mouth bass, Smallmouth bass chen chúc đầy sông. Những thứ cá khác tuy kém ngon hơn như Drum hay Sheep head dân ta gọi là cá sửu, Sun fishes hay Blue gill gần giống như cá rô, Herring hoặc Shad giống nhưÕ cá mòi lắm xương và tanh nhưng vị không đến nỗi dở. Chúng tôi thời đó không hề đụng đũa đến các lọai cá hồi nhưÕ Salmon hay Trout lắm xương mà có mùi nồng nồng, ngai ngái. 

Những miếng lườn cá còn tươi nguyên chiên dòn tại chỗ, cuốn với bánh tráng mắm nêm làm cho kẻ tha hương cả m thấy quê nhà lẩn quẩn đó đây. Nuốt miếng cá ngon ngọt vừa qua thực quản, tôi cảm thấy ông Trời thực là quá bất công đối với những dân tộc nghèo khó, đãõ không cho họ đủÊ ăn, thịt thà thực là hiếm quý, mà cá lại toàn xương và tanh nhiều khi muốn lộn mửa nhưng vẫn phải nuốt vào. Nước Mỹ đất đã rộng, người thưa, thịt thà, cá mú đầy ắp mà lại ngon lành thực là một sự biệt đãi quá đáng. 

Ca tụng cá mà không nói đến rau cỏ quê nhà cũng là điều đáng trách. Thực vậy, thuở ban đầu, còn lạ nước lạ cái đành chịu ngốn hết bắp cải rồi lại broccoli muôn thuở. Nhân buổi đi câu tại Spring Lake, chúng tôi tìm thấy cả rừng rau húng lủi người Mỹ gọi là mint mọc bạt ngàn san dã. Rồi những giòng suối nước chẩy trong veo đầy rau cải soong hay water cress. Cắt đầy vài ba bao rác đem về tặng bà con trộn dầu dấm hay nấu canh thịt ăn lấy thảo cho đỡ nhớ quê nhà. Nhưng tin gần đồn xa, tin mừng đồn nhanh, chỉ trong vòng một tuần ngắn ngủi, cả một giòng suối xanh tươi dài hàng cây số bỗng trở nên trụi lủi. 

Xuân qua, hè tới, lận lộn trong đám cỏ dại những ngọn dền cơm hay là Pig weed dân bản xứ chỉ cho heo ăn, lại là món ăn trân quý, cho tới khi tìm thấy suốt dọc hai bên bờ sông Illinois mọc đầy thứ cây này. Ngắt những đọt còn non đem về luộc chín, vớt rau ra và bỏû vài ba trái cà chua vào. Chấm rau với nước cá kho tương, vừa nhai vừa húp tưởÕng chừng như ngốn ngấu cả quê hương vào trong bụïng. 

Mấy năm sau, chúng tôi chẳng còn thiếu thốn như trước. Vuờn cở xanh mượt sau nhà được mời đi chỗ khác, nhường chỗ cho những thứ thiết thực hơn. Bầu bí, cải trắng cải xanh, thì là, tía tô, kinh giới, lá lốt, húng quế và rau muống mọc xanh um tuơi tốt, nhờ hàng ngàn chiếc đầu cá và xương cá khỏi cần tốn tiền phân bón. 

Đến thẩm người bạn ở gần Chicago, gần 20 năm tỵ nạn, chị bạn chỉ ao ước được ăn rau lang luộc chấm mắm tép hay đọt bí xào tởi với mắm tôm. Chúng tôi mời chị quá bộ xuống thưởng thức những món ăn thôn dã. Sở tôi làm, ngay cạnh bờ sông, giòng giã mấy tháng liền, mỗi ngày tôi xúc về 6 -7 thùng cát, vườn khoai lang và bí ngô sau nhà đãõ có đủ để đãi những người khách quý còn nhớ đến hương vi quê nhà. 

Ngày nay về California cho gần con cháu và vui hưởng tuổi già chúng tôi không còn những nhu cầu của chuỗi ngày mới đến. Chợ Việt nam đầy rẫy những rau cỏ quê hương, nhưng không biết quý vị có nhận ra hay không? Rau cỏ ở đây không còn đậm đà hương vị hay thơm ngát tình quê hương cũ. Rau ngò không còn thơm như ở bên nhà, trái bầu thay vì mềm ngọt sang đây trở nên cứng ngắc, rau muống không còn mùi vị đặc biệt bùi bùi, đắng đắng, lắm khi còn dai như rẻ rách. 

Có lẽ tuổi đãõ già đâm ra lẩm cẩm hay là tấm lòng hoài vọng cố hương làm cho tôi có cảm giác vậy chăng? 

Cách đây mấy năm, anh Nguyễn Viết Tân người cùng quê Kinh 5 với tôi, có viết một bài về việc đi đào hến vòi voi ở Dillon Beach, California đăng trên Việt Báo. Năm nay mùa hè lại đến, chúng tôi cũng tổ chức một chuyến picnic y chang như vậy, mà có phần "hoành tráng" hơn, vì còn thêm cái vụ câu cua biển và đốt lửa trại nữa. 

Hơn hai mươi người lớn bé tập họp ở nhà tôi từ buổi chiều để đi ngủ sớm, vì mai phải khởi hành lúc 3g đêm, để có thể đến nơi đào hến đúng lúc thủy triều đang xuống thấp nhất là 6g sáng. 

Bọn con nít nằm sắp lớp nơi phòng khách như xếp cá mòi trong hộp, tụi nó nhi nhô ồn ào, quát mãi mới chịu im. 

Tôi gọi mọi người dậy thì mới biết bọn nhóc náo nức suốt đêm nên chúng không ngủ được, cứ sợ ngủ thì bị bỏ lại tại nhà. Khi lên xe rồi chúng mới bắt đầu ngủ gà ngủ vịt. Xe lớn và mạnh nhất kéo theo chiếc obo. 

Đến Lawsons Landing chúng tôi phải mua license cho mười người lớn, check in xe cộ. Nếu không ở lại đêm thì chỉ có $8 cho một xe, còn ở lại camping qua đêm thì $26. 

Tại đây có chia ra làm nhiều khu vực: Khu cho xe RV, những nhà nhỏ Cabin, khu có lều bạt sẵn như những tent nhà binh, nhưng chúng tôi ở khu chỉ có nền để căng lều bạt đã mang theo. 

Đi sớm như thế nhưng vì có con nít đi theo nên lục đục mãi 8g sáng mới ra tới cồn cát. Obo lại hơi nhỏ, mỗi lần chở được có bảy người nên phải ba chuyến mới đem hết người ra đến nơi. 

Chúng tôi tản ra thành từng nhóm, mỗi nhóm có mang theo thùng, xẻng và cái ống plastic lớn để đào hến. (Nếu ai không biết dụng cụ này và cách đào ra làm sao, xin đọc lại bài viết về nước Mỹ của Tân Ngố, “San Jose Dễ Đi Khó Về”, tại Việt Báo Online: http://vietbao.com/?ppid=74&p...id=590&nid=84503&pages=1, hoặc xem hình ảnh kèm theo bài viết.) 

Cồn cát này suốt nằm chìm dưới nước, chỉ mấy tháng hè mới lộ ra khi thủy triều xuống thấp, tháng hai lần, mỗi ngày độ vài giờ mà thôi. 

Màu cát đen nhờ nhờ vì pha bùn, trên mặt cát chi chít lỗ hến, có lẽ đến hàng triệu con. Vì nó ở dưới sâu gần một mét, nên người không có dụng cụ và không biết cách thì cũng rất khó mà đào, cho dù chỉ được một con. 

Nhóm chúng tôi đã có kinh nghiệm và được chỉ huy bởi ông Hảo, sếp của công ty Amland, nên chỉ trong vòng có hai giờ đồng hồ mà đã đào được cả hơn trăm con. Nên nhớ là mỗi con giá khoảng $20. 

Đến 10g sáng thì nước bắt đầu dâng cao, không thể đào thêm được nữa nên chúng tôi lên tàu qua một hòn đảo gần đó. Đảo nhỏ, cây cối khô cằn, cỏ dại lúp xúp nhưng cũng có vài cây khuynh diệp khá to, gốc khoảng hai người ôm. Trên cây, có ai đó đã cột mấy sợi dây thừng lớn để làm xích đu nên trẻ con tha hồ đùa giỡn. 

Trong khi mấy bà, mấy cô đang xúm nhau mồi lửa nấu nước bằng bếp ga mang theo, làm món Sushi từ hến vòi voi, đám đàn ông đưa tàu ra cách bờ chừng dăm chục mét, thả lồng bắt cua. Lồng làm bằng một vòng sắt có lưới, ở giữa cột túm mồi là đầu cá hoặc mấy đùi gà. Chúng tôi thả xuống bốn năm lồng một lúc, chừng mười phút lại kéo lên một lần. 

Hôm nay trúng mánh, cua nhiều quá sức, có khi đươc ba bốn con một mẻ, ngoài cua đá còn có cả cua trắng (loại vỏ mềm hay bán ở siêu thị) nhưng cua trắng chỉ được bắt con đực và đúng size mà thôi nghĩa là phải dài 6" tức dài bằng đồng tiền đô, nhỏ hơn phải vứt xuống biển trở lại. 

Cua thì hấp với beer chấm muối tiêu chanh, vòi voi thì trụng sơ qua nước sôi rồi thái ra ăn với mù tạt wasabi. Chúng tôi trải bạt ra dưới tàng cây hoặc trên bãi cát cho mấy bà và bọn trẻ nhỏ, còn mấy ông thì có người nằm soài ra trên cát mà nhậu. 

Thức ăn được đựng trong dĩa giấy, beer lạnh mở nghe lốp bốp. Đó đây vang lên tiếng hát và tiếng cười trong như thủy tinh của lũ trẻ. 

Cua và hến nhiều quá, chúng tôi ăn không hết một phần, còn bao nhiêu xếp vào thùng để mang vô bờ. 

Đã hơn 4g chiều, chuyến thứ nhất yên ả, bỗng chuyến thứ hai đi về đã khá lâu mà không thấy trở ra. Chúng tôi liên lạc điện thoại thì mới biết là tàu hư giữa đường. Thật may có chiếc tàu nhỏ hơn của những thanh niên Mỹ cũng trên đường về ghé lại tiếp cứu. Sửa không được nên họ chạy vô bờ chở người bạn biết sửa máy và có đồ thử điện nữa ra giúp. Coi mòi không thành công trước khi trời tối, họ dùng tàu của mình mà chạy ra đảo chở chúng tôi về. Vì tàu nhỏ hơn tàu chúng tôi, nên phải đi hai chuyến mới hết. Nếu không có sự giúp đỡ này, chắc mấy người đi chuyến chót của chúng tôi phải ngủ ngoài đảo, không có mùng mền chiếu gối gì hết, mà còn đói bụng khát nước nữa chứ. 

Sau cùng tàu cũng sửa xong vì hệ thống xăng bị nghẹt. Chúng tôi cám ơn đám thanh niên tốt bụng kia và ngỏ ý chia xẻ với họ tiền xăng. Họ cười vui vẻ rồi nói "Các bạn đừng lo, hôm nay tôi giúp các bạn, một ngày nào đó sẽ có người giúp chúng tôi". 

Sau khi căng lều, tắm rửa xong chúng tôi bắt đầu đốt lửa trại và nướng BBQ. Để tỏ lòng biết ơn, chúng tôi bưng sang lều nhóm thanh niên Mỹ mấy dĩa sườn bò Đại Hàn. Họ khen rối rít rằng thịt nướng thơm quá, nhậu với beer là hết xẩy. 

Để trả lễ, họ tặng lại chúng tôi cả thùng cua bự. 

Thật là một xứ sở đầy tình người, nếu chúng tôi bị hư máy ở một quốc gia nào khác, ngay cả ở VN, cũng có thể bị yêu sách trả tiền rất nhiều để được kéo vô bờ, còn hôm nay họ giúp đỡ mình mà vẻ mặt tươi cười, giọng nói thân thiện như đã quen nhau lâu ngày. 

Lúc nói chuyện, tôi mới biết nhóm của họ vừa quen nhau trên Net đây thôi, kẻ có xe RV, người khác có tàu, người nữa có xe trượt nước, ở nhiều thành phố khác nhau, cùng hẹn một ngày để đi cắm trại chung, để kết thêm bạn mới trong những mùa hè. 

Đêm nay trời trong, ngàn sao nhấp nhánh trên cao, chúng tôi có mang theo đàn để hát với nhau y như những buổi sinh hoạt Thiếu Nhi ngày còn nhỏ ở quê nhà. Lều bạt căng ở phía sau những cồn cát, nên gió biển đã không thổi trực tiếp vào lều hoặc bếp lửa của chúng tôi. 

Hát hò chuyện vãn đến gần nửa đêm chúng tôi mới chui vào sleeping bag. Tiếng sóng biển ầm ào ru chúng tôi vào giấc ngủ. 

Sáng sớm hôm sau, khi bọn con nít đã dậy sớm chạy đuổi bắt, chơi giỡn trên bãi biển, đám thanh niên đàn ông chạy tàu ra cồn cát "dzớt cú chót". Lần này không vướng chân vướng cẳng vì lũ trẻ, chúng tôi đào rất nhanh được hơn một trăm con vòi voi nữa rồi trở vào bờ, dọn dẹp để ra về. 

Chúng tôi đã mua 11 license (mỗi license là $13 nếu mua cho một ngày, còn hai ngày là $20) cho 11 người lớn, nên chỉ có thể lựa 110 con lớn nhất mà mang về. Trẻ em không được tính theo đầu người, nên tuy nhóm đi hơn 20 người mà chỉ mang được số giới hạn đó mà thôi. 

Tôi hy vọng sẽ đề nghị với đám thanh niên thiếu nữ quen biết, nên tổ chức mỗi mùa hè vài ba lần picnic như vầy, ai muốn tham gia thì liên lạc trước để biết ngày giờ đi dã ngoại. 

Chi phí cho mỗi người chỉ dưới 200 đồng, mà được hưởng vài ngày thoải mái, thở hít không khí trong lành, ăn uống mấy bữa, no nê như người tiền sử hoặc Robinson ngoài hoang đảo, mà lại còn mang cả chục con hến vòi voi về làm quà cho gia đình nữa. 

Phan Hữu Chí 

Con Vòi Voi Biển, vòi dài 1,2 mét, sống thọ 160 năm 

Con vòi voi (Panopea abrupta) là loại trai biển thân mềm có hai vỏ sống trong vùng biển nước mặn tại Canada và bờ biển tây bắc nước Mỹ. Đây là loài có tuổi thọ cao nhất, từ 146 năm tới 160 năm. 

Nhiều nơi trên nước Mỹ coi vòi voi là con vật mang đến may mắn, hình ảnh phóng lớn của vòi voi được rước đi trong các lễ hội, diễn hành. 

Vòi voi có chiều dài 15-20 cm, nhưng chiếc vòi (hay cổ) của chúng có thể đạt độ dài tới 1 hoặc 2 mét. Con vòi voi là loài trai rất lớn, với trọng lượng trung bình một vài ký lô. Nhiều con nặng tới 7,5 kg. 

Loài trai này vùi thân khá sâu dưới cát (có thể cách mặt cát tới 1 mét) và chỉ sống tại một vị trí trong suốt cuộc đời. Một khi đã bị phát giác con vòi voi sẽ không có cơ hội tẩu thoát. Người ta thường dùng các thiết bị chuyên dụng tạo hố trên cát rồi lặn xuống để tóm chúng 

Ở nhiều nước châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, con vòi voi được coi là đặc sản. Giá của chúng có thể lên tới 65 USD/kg. Trong ảnh là những con trai được trưng bày trong một nhà hàng tại Trung Quốc kèm theo giá. Để thưởng thức một đĩa con vòi voi rán, bạn sẽ phải bỏ ra 200-300 USD. 

Một con vòi voi cái đẻ khoảng 5 tỷ trứng trong suốt cuộc đời, trong khi một phụ nữ chỉ tạo ra xấp xỉ 500 trứng có thể trở thành phôi thai. 

Người ta bắt đầu đánh bắt con vòi voi với quy mô lớn từ năm 1970. Nó mang lại khoảng 80 triệu USD cho nước Mỹ mỗi năm. Tuy nhiên, chính quyền Mỹ và Canada kiểm soát rất chặt chẽ việc khai thác loài động vật đặc biệt này. 

Panopea zelandica là một loài trai có họ hàng với con vòi voi. Chúng được nuôi và đánh bắt từ năm 1989. Ngày nay người ta lập trang trại nuôi con vòi voi sát bờ biển ở nhiều nơi trên lãnh thổ Mỹ và Canada. Chúng hút sinh vật phù du qua một lỗ trên vòi để ăn rồi tống chất thải ra ngoài qua một lỗ khác.

Ăn Trộm Vịt 

Con vịt coi vậy mà gần gũi với bữa ăn của người dân quê miền Nam hơn là con gà. Món gì thịt gà làm được, thì thịt vịt cũng không thua, mà có khi hơn hẳn. Thí dụ món tiết canh, ta chỉ có món tiết canh vịt, chớ chưa hề thấy ai ăn tiết canh gà bao giờ. Biết sao không? Đàn ông mà ăn tiết canh gà, đêm đêm sẽ xửng cồ gáy, làm phiền lụng vợ, có khi bị bả đạp xuống gầm giường, rồi nói sao xui! 

Người Việt mình khiêm nhượng lắm, cứ cái gì nhỏ thì nhận là của mình, còn cái gi' to lớn một chút thì cho rằng của nước ngoài: Con Vịt Xiêm (con ngan Thái Lan) to gấp hai con vịt ta. Trái măng cầu ta lớn bằng nắm tay mà trái măng cầu xiêm lớn như trái dừa. Trái chuối Tây cũng lớn hơn trái chuối cau của ta. Mà chưa chắc gi' trái chuối lớn đó là chuối Tây, vi' ở bên Tây lạnh quá như vậy dễ gi' chuối sống nổi, ngay cả nước Tàu kế bên VN như vậy mà cây chuối c̣n đèo đọt không lên nổi vi' lạnh mà. 

Hồi xưa vịt đàn toàn là vịt sẻ màu nâu xám, mỗi con nặng chừng hơn kư lô, nhưng bây giờ vịt đàn gọi là vịt Bắc Kinh màu trắng và to như vịt bầu nhưng cổ cao hơn một chút. 

Con gà trống thi' khác gà mái rất nhiều, nhìn thấy ảnh là biết ngay, từ dáng to lớn đi nghênh ngang, đến đuôi cong vòng, mào đỏ chót, chân có cựa và lông vũ đẹp đẽ, chân vịt thì lại khác, đực cái gì chúng cũng giống nhau quá. Con đực giọng khàn khàn và chỉ có thể nhận ra anh ta là vi' ở ngay phao câu có một cái lông cong tro'n lên như chữ C. Nếu nhổ nó đi thi' chỉ vài ngày sau lại mọc lên cộng lông mới cũng cong y chang như vậy. 

Làm thịt vịt chỉ ngán một nỗi là khi mi'nh nhổ lông nó, nhứt là khi mua nhằm con vịt đang ra lông măng, nhổ muốn chết cha luôn. Muốn làm lông vịt cho dễ, người ta bỏ vô nồi nước sôi chút xà bông bột, nó sẽ làm tan chất dầu nhờn ở lông và da con vịt thi' dễ nhổ hơn. Khi vừa cắt tiết xong, lấy ống đu đủ nhỏ hay ống trúc luồn vô dưới da mà thổi cho con vịt căng lên to như con ngỗng, lấy dây cột cổ lại cho khỏi xi' hơi ra, lúc đó làm lông còn dễ hơn nữa. 

Trước khi kể chuyện về cách ăn trộm vịt giữa ban ngày, của bọn con nít rắn mắt, tôi xin nói về cái tỉn nước mắm cái đă. 

Khoảng đầu thập niên 60 người ta vẫn c̣n xài cái tỉn làm bằng đất nung để đựng nước mắm, hồi đó bi'nh bằng ny-lon chưa được phổ biến nhiều. Đó là đồ đựng hi'nh quả trám, nặng chi'nh chịch mà sức chứa chưa tới 4 lít . Khi đổ đầy nước mắm vô rồi thi' nhà thùng dùng xi măng mà khằn cái miệng lại. Tuy nhiên nước mắm vẫn rỉ ra hôi ri'nh. Đă thế chung quanh cái tỉn lại dùng lá kè non mà ràng làm quai xách coi rất bê bối. Khi mi'nh xài hết nước mắm rồi, mấy cái tỉn bị vất lăn lóc ngoài sau hè. Lâu lâu có cái xe đap ràng cần-xé hay ghe đi mua lông vịt thi' mua tỉn luôn. Có khi họ không trả bằng tiền mà chỉ đổi cốm ngào đường mà thôi. Họ đạp xe khắp hang cùng ngơ hẻm hoặc bơi xuồng trong các kinh rạch và rao: 

-Ai có ve chai, nhôm bể, lu, lông vịt, hột g̣n .... đổi cốm hông??? 

Khi nước lụt dâng lên ban đêm, thường thi' mấy cái tỉn bị trôi theo gịng nước. Cho dù gịng nước chảy khá mạnh, nhưng vi' hi'nh thể của cái tỉn tro'n tro'n, nó cứ trôi lắc lư từ từ, nên người ta có câu: “Đủng đỉnh như cái chỉnh trôi sông.” để tả con người làm gi' cũng chậm chạp, không xốc vác chút nào. 

Miền Bắc gọi cái tỉn là cái chĩnh, như trong câu: “Chuột sa chĩnh gạo.” Trong khi người Nam th́ lại nói: “Chuột sa hũ nếp.” 

Sở dĩ tôi phải dài dòng về cái tỉn nước mắm là vi' đó là dụng cụ để ăn trộm vịt. 

Nếu đàn vịt mà còn đang ăn trên đồng cạn nước thì vô phương bắt nó. Người lạ đến gần thi' cả đàn chạy dạt ra xa và kêu cạc cạc ầm lên. Anh chàng chăn vịt vác cái sào tre lại đứng trên bờ ruộng thi' làm sao bắt trộm cho được. 

Phải đợi bầy vịt ra con kinh đào hoặc sông nhỏ mới ra tay được. 

Lên phía trên gịng nước chảy, cột vô cái tỉn đă múc nước gần đầy, chỉ nổi phập phờ, một sợi dây nhợ dài như dây diều. Ngay quai xách lại móc hai lưỡi câu có mồi cua hay cá. Cái tỉn được thả trôi xuống phía bầy vịt. 

Anh chàng chăn vịt giữa trưa nắng chang chang, nóng thấy ông bà ông vải nên chui vô bóng mát dưới rặng trâm bầu. Anh nằm dài lấy cái nón lá ngửa ra kê đầu, mắt hấp háy nh́n trời và chân thi' gác tréo ngoe, vừa nhịp nhịp vừa hát: 

"Sương thu lạnh bao trùm khắp nẻo 

"Trăng đêm nay diù dịu cả không gian 

"Tôi với em đi gánh nước cạnh đi'nh làng 

"Mùi cỏ dại mơ màng trong đêm vắng ....." 

"Nước giếng trong giữa đồi cát trắng 

"Bên ánh nguyệt mờ soi đôi bóng giao kề 

"Dưới trăng khuya tôi với em quảy gánh ra về ......" 

Anh đang mơ màng cái cảnh đi gánh nước với em, thi' hai con vịt của anh ăn nhằm lưỡi câu, nó giằng qua giựt lại làm cái tỉn chao đi và nước tràn vô đầy tỉn. Cái tỉn ch́m xuống và với sức nặng đó, nó kéo cổ hai con vịt xuống theo tới dưới đáy sông và neo luôn ở đó. 

Trong khi anh chủ của nó thi' đang rướn cổ lên để ca một câu mùi tận mạng: 

"Ba năm sau, tui trở về quê cũ, gánh nước đêm trăng để ti'm lại kẻ chung ... ti'nh ..." 

"Quảy gánh lên vai tôi thờ thẩn một mi'nh ..." 

Anh nhỏm đầu nhi'n đàn vịt, lấy nón lá rách đội lên rồi vác cái sào dài "thờ thẫn" đi theo đàn vịt, vi' chúng không khi nào chịu ăn hoài một chỗ, chừng năm mười phút sau nó đă kéo nhau đi xa cả mấy công ruộng, và anh chăn vịt lại lững thững theo sau, không biết rằng có hai con vịt của anh đầu đang cắm xuống, đít nhổng lên trời, chết mà không kêu lên được một hai tiếng cạc cạc từ giă cơi đời. 

Trên cánh đồng mênh mông, giọng hát buồn thoảng theo làn gió: 

"Ho' ơi ! Ai phụ tôi có đất trời chứng giám 

"Phận tôi nghèo đâu xứng đáng cùng ai 

"Tưởng cái giếng sâu tôi nối sợi dây dài 

"Ngờ đâu giếng cạn .. 

"Ho' ơi .. ngờ đâu giếng cạn tôi tiếc hoài sợi dây !!" 

Chờ anh chăn vịt khuất dạng, bọn ăn trộm mới phăng theo sợi dây mà lấy hai con vịt dồn vô bao , thong thả xách về làm thịt để nhậu chơi. 

Gửi: 6-02-2009 9:32 pm    Tiêu đề: Câu cá Halibut tại ghềnh đá 72nd place, Long Beach

Nam California nắng ấm và vì thế cũng là nơi đông nhất người Việt Nam cư ngụ.  Tôi nhớ vào những năm 80-90 khi còn học đại học, thường hay đi câu cá nục ở nhũng cầu gổ như Redondo Beach pier, Huntington Beach pier cùng những người bạn. Vì món chơi này rất thoải mái và rất rẻ cho những anh em học sinh nghèo và cô đơn…Tại những nơi này thường hay gặp nhũng chú và bác người Việt Nam đi tìm thú vui câu cá.  Thời đó các lối câu trên cầu gỗ chì giói hạn cho cá nục, hoặc cá đuối v.v..  Sau vài năm đi làm, tôi được đi câu nhiều hơn trên tàu của bạn cùng hãng; nên cũng học hỏi thêm chút ít.  Và nhờ những năm cuối thập niên 90 khi hệ thống Internet được thịnh hành và theo đó là những forum trên mạng đễ tất cả có thễ trao đổi về môn chơi câu cá; tôi đã học được một kiểu câu cá lưỡi trâu (halibut) từ một người bạn Mỹ trên một forum câu cá trong mục câu bờ.  Anh ta đã chỉ cho tôi cách bắt mồi, và cách câu cá lưỡi trâu rất tỉ mỉ.  Chuyến đi câu ở bờ đá Long Beach đó, chúng tôi câu dính rất nhiều cá lưởi trâu nhưng đa số nhỏ nên trả về biển.  Tôi không ngờ là tôi có thể câu dính nhiều cá như vậy trên ghềnh đá.  Trước đây tôi cũng như nhiều người khác, cứ tưởng là phải đi taù ra xa mới câu được nhiều cá lưỡi trâu.  Từ chuyến câu đó, tôi gần như chọn ghềnh đá Long Beach là nơi nghỉ mát hàng tuần sau những giờ làm việc. 

Cá Lưỡi Trâu 

Cá lưỡi trâu, người Mỹ gọi là halibut là loại cá dẹp(flatfish) và bao gồm hai loại: Pacific halibut và California halibut.  California halibut là loại đặc biệt chỉ tìm được dọc theo ven biển California và xuống bán đảo Baja của Mễ Tây Cơ.  Pacific halibut là loại giống cá rất lớn và sống gần ở vùng Alaska.  Cá lưỡi trâu ở California nhỏ hơn nhưng thịt nó rất ngon hơn là cá lưỡi trâu ở Alaska.  Ða số món cá lưỡi trâu bạn gọi trong những nhà hàng là cá lưỡi trâu Alaska vì nó to hơn vì thế rẽ hơn cá ở California.  Vì vậy đây cũng là một chút quà thưởng đặc biệt cho những tay câu nào ráng tìm tòi và chịu khó dậy sớm đi săn những con cá lưởi trâu ở ven bờ California. 

Cá lưỡi trâu thường nằm dưới đáy cát và dùng vi chung quanh đập cát lên để che dấu thân mình khi chúng rình bắt những con cá nhỏ.  Ðồ ăn của chúng gồm cá con, tôm, và cua nhỏ.  Ớ ghềnh đá là nơi có nhiều thức ăn như cá con và cua hay tập chung vì thế cá lưỡi trâu thường nằm ở bãi cát ven theo bờ đá để rình bắt mồi.  Da lưng của cá lưỡi trâu nhình rất giống như đá ở bờ biễn.  Ðặc biệt là cá lưỡi trâu có thể đổi độ đậm hoặc lợt trên lưng để cho giống màu của đá ở vùng lân cận.  Thêm một điểm đặc biệt là hai con mắt nằm trên đầu và cùng bên phía lưng.  Tất cả các đặc điểm trên giúp cho cá lưỡi trâu lợi thế khi bắt mồi dưới đáy cát.  Nhưng một điểm khác bìệt với các cá loại cá nằm sát đáy là miệng của cá lưỡi trâu lại nằm dọc theo lưng qua bụng.  Có phải đây là điều thiếu sót của tạo hoá hay là khyết điểm của sự tiến hoá (evolutionary theory)?  Thông hiểu tất cả các điểm đặt biệt của loài cá lưỡi trâu sẽ giúp người câu là một lợi thế.  Những điểm này sẽ nói tiếp sau ở phần câu sau. 

Mồi cá smelt sống 

Ven biển California có loại cá con giống như loại cá bống gọi là smelt.  Chúng thưòng sống gần ven đá hoặc gần cầu tàu; vì vậy nó cũng là một món mồi rất ưa chuộng của cá lưỡi trâu.  Ðồ nghề bắt cá smelt rất rẻ bao gồm: 

 - Một thùng đựng mồi 

 - Lưới hình cây dù (Umbrella net) 

 -  Bánh mì hoặc bột cám mì. 

Lưới Hình Dù có bán ở các tiệm đồ câu khu gần biển Nam California khoảng chừng US$15.  Chi nhánh West Marine cũng có bán loại lưới này. 

Tôi thường bắt mồi ở nhửng cái cầu cho ghe vào ở những cái rạch để tàu nhỏ vào.  Cho lưới chìm xuống khỏi mặt nước  chừng 5-6 feet.  Bắt đầu bỏ bánh mì xuống chung quanh chu vi của lưới.  Nên vò bánh mì cho vụn ra thành miếng nhỏ.  Nên để ý tới thủy triều vì bột bánh mì rất nhẹ nên nó trôi theo dòng nước chảy.  Phải thả bánh mì đễ dụ cá mồi vào chu vi của lưới mới có kết quả.  Khi thấy cá mồi bắt đầu xuất hiện, cứ tiếp tục rắt bánh mì xuống điều điều và kéo thẳng lưới lên chậm rãi và dừng ở cách mặt nước chừng 3 feet.  Khi thấy cá mồi có ở giữa lòng lưới, kéo thật lẹ lưới lên khỏi mặt nước và gạt cá mồi vào thùng có nước biển.  Ðể giữ cá mồi sống lâu và khoẻ, nên dìu mồi nhẹ nhàng và tránh dùng tay khô để bắt chúng.  Mồi cá smelt cỡ chừng 3-4 inches là rất tốt, con bự 5 inch trở lên thì dành cho câu cá to.  Ðể giử cá mồi sống lâu, nước biền cần được thay mỗi khoảng 20 phút.  Vì vậy tôi thường mang một bình xúc nước nhỏ để dùng thay nước.  Có nhiều người xài máy bơm hơi (aerator), nhưng tôi thấy không có kết quả lắm.  Thay nước biển ở chổ câu không có gì khó lắm, và khỏi mang bơm và bin thì rảnh hơn. 

gày thứ  nhất  : Săn Cổ Ngư Tại Delta. 

   Chào Xóm Nhà Lá ! 

   Thứ năm 09/16/10 vừa qua nhận được lời mời của mấy A/E bắt Cali, Mr.Bond và Mr.Vũ đã có chuyến bắc tiến hợp mặt câu kéo vơi A/E. Sau khi lái xe vược đoạn đường khoảng 650 km từ Quận Cam (thủ đô của người Việt hải ngoại) đi Oakland. 2 A/E đã được đón tiếp rất nồng hậu tại nhà Mr. Tai với các món cua gạch son đặt sản (cây nhà lá vường) nổi tiếng của Sanfransisco. Sau gần 6 giờ lái xe với vài ổ bánh mì lót da gặp được nồi bánh canh cua của tuyệt cú mèo của Mr.Tai Phu Nhân làm Mr.Bond và Mr.Vũ như “buồn ngủ gặp chieu manh” quất liền mỗi người 2 tô tỉnh ca người, mới có đủ sức để ra quân đi săn hàng khủng với mấy anh ngay tối hôm đó. 

Sau chầu bánh canh cua quá đã của Mr.Tai Phu Nhân Mr.Bond và mấy A/E đã ra quan nhằm hướng Delta thẳng tiến. Vì phai đi mua permit câu co ngư cũng như bắt bào ngư cho Mr.Bond và Mr.Vũ cũng như ra quân hơi trể nên đến gần 9 giờ tối mấy a/e mới xuống tàu và câu đến 12 giờ khuya thì về vì con dưỡng sức cho sáng sớm hom sau đi câu Bass nên nhóm chỉ ngồi câu khoảng 3 giờ tại một điểm hot spot của mấy a/e. Sau 3 tiếng đồng hồ 4 a/e kéo được tổng cộng 7 con Cổ Ngư. Mr.Vũ lên được 1 em kha khá chỉ thiếu 2 inches là đủ size rồi sau đó thì tịt nghòi nhưng dầu sau cũng an ủi vì là người lên con cá đầu tiên . Sau đó thì Mr.Bond lên liền tù tì 5 em nhưng toàn là duoi size và tren size nen cũng không đem về được em nào =( !. . Vài hình ảnh của buổi câu . Enjoy! 

Gửi: 9-21-2010 2:37 pm    Tiêu đề: Chuyến đi Deepshore săn Cỗ Ngư và Salmon (Cont)

Ngày thứ hai  : Săn King Salmon Tại Vịnh San Fransico . 

   Theo như lịch trình thì ngày 2 các Anh sẽ đưa Mr.Bond và Mr.Vũ đi săn Black Bass và Striper tại Delta nhưng vì thời tiết thay đổi gió lớn không câu được nên đành đổi kế hoạch đưa Mr.Bond và Mr.Vũ đi câu cá King Samon. Vì chương trình thay đổi nen đen địa điểm câu cũng gần trưa . Có đi câu Samon thì mới thay dân câu miền bắc đúng là cũng mê con nầy, mặt dù chưa phai là weekend (chỉ mới thứ 6) mà dân câu đã đúng đặt nghẹt quăng lure như pháo bông. Nen nêú có em Samon nào chay qua cũng bị lỗ đầu mà chết … hihihi . Vì dân câu thì đông mà cá vào vịnh ăn thì ít (đay cũng la lý do Fish and Game cắm câu loại cá nầy mấy năm nay tại vịnh Sanfrancisco - Chỉ có năm nay vừa mở lại) nen nhom cung cung' chung so phan nhu cac chien huu khac lure moi ca tay. Nhưng cuoi cùng Mr.Bond và Mr.Vũ cũng thay được mặt mũi con King Samon Sanfran nó như thế nào … hehehehehhehe. Sau khi thay được em cá nầy thì a/e cuon can về đi ăn Seafood Buffet rồi về nhà nghĩ sớm vì 2g sáng hôm sau phai thức dậy đi săn Bào Ngư sớm . Vì từ Oakland nhóm phai đi lái xe thêm 3 tieng nữa mơi đen nơi bắt bào ngư . Vài hình ảnh post len6 chia sẽ với a/e . Enjoy! 

Bat Bao Ngu Tai San Francisco 

Thứ bảy 09/18/10, chúng tôi thức dậy từ 2g sáng để chuẩn bị cho chuyến đi bắt bào ngư vì từ nhà Anh Tài đến điểm bắt bào ngư lái xe khoảng 3 tiếng. Tuy đoạn đường dài khoảng 200km nhưng chúng tôi phai mất 3 giờ lái xe vi đây là đoạng đường đèo chạy dọc theo bờ biển (Pacific Coast Highway) với nhiều khúc cua cùi chỏ quanh co rất nghuy hiểm cũng như với địa hình hiểm trở một bên là vach nuoi cao và bên kia la vực biển có nơi vực xâu đến trên 1000 mét. Cảnh vật bên đây rất đẹp và rất hùng vĩ tiếc là Mr.Bond không ghi lại được những cảnh này vì lúc đi thì trời còn tối không chụp hình được còn lúc về thì máy hình vô tình để camera trong túi sách nằm sau xe nên cũng không ghi lại dươc những cảnh này. 

   Sau 3 giờ lái xe vược qua những hẻm núi và những đoạn đường đèo nguy hiểm chúng tôi đến đươc mũi Arena (nơi bắt bào ngư). Đây là một cảng nhỏ và giống như một cảng cá hơn là một điểm đổ tàu cho dân câu vì ở đay không có bến để đổ tàu mà thay vào đó là một cái can cẩu khá lớn (với tải trọng khoảng 5 ton) dùng để cẩu tàu của bạn từ xe kéo và thả xuống biển rồi sau đó lại câu tàu của bạn từ biển đặt lại vào xe. Thời tiết ngày hôm ngay đúng là trời không chiều lòng người vì biển đang động khá mạnh trời có mưa phùng nhẹ với nhiệt độ trên bờ khoảng 14-15 độ C (tuyệt vời cho Mr.Bond diện tà lỏn và áo thung…heheheheh) và nhiệt độ dưới nước thì khoảng 4-5 độ C. Theo Như mấy anh nói thì thời tiết ngày hôm nay không thuận lợi cho việc lặng bắt bào ngư cung nhu di tau vì ngoài viec gio to sóng lớn cao khoảng 8-10ft và lại là Mix Waves nên tào sẽ bị nhồi rất nhiều cũng như nước biển sẽ bị đục gay khó khăng cho việc nhìn thay bào ngư để bắt. Ngoài ra nó sẽ tạo ra những vùng soáy đột ngột rất nguy hiểm cũng như đơt sóng ngầm dưới nươc có thể cuốn trôi bạn bất cứ lúc nào trong khi đó trên mặt biển vẫn yiên lặng làm bạn không tài nào nhận ra được. 

   Theo luật California khi bắc bào ngư bạn phai mua thêm giấy phép để bắt voi gia $20 usd. Và một năm bạn chỉ bắt được 24 con và mot ngày không được bắt quá 3 con với size từ 7 inches trở lên. Ngoai ra khó khăng hơn nữa là trong khi lặng nếu bạn bắt được con nầy đem lên mặt nước đo không đủ khích thước thì bạn không thể dục nó lại biển một cách vô tư mà bạn phai lặn lại xuống biển và đặt nó lại chỗ cũ mà bạn vừa bắt nó lên (Các “Anh Hai” theo giởi rất gắt gao các việc này vì họ dùng ống dòm theo dõi bạn từ xa nếu bạn phạm những điều họ quy định cũng như bắt con không đủ size hay nhiều hơn mức cho phép thì họ phạt $600 usd/con và cứ thế mà nhân lên!). Cũng như trong viec lặn để bắt con nầy thì phai là free diving (lặng tự do không deo bình hơi). 

   Chúng tôi bắt đầu đậu xe và chuyển các dụng cu cần thiếc qua tàu câu của các anh đang đậu tại cảng nầy. Sau đó thì mọi người thay đồ lặng để chuẩn bị ra khơi lặng bắt bào ngư. Khi ra đến nơi thì mới thay việc bắt bào ngư giang nang và nguy hiểm hơn nhiều vì rủi ro có thể rình rap bạn bất co lúc nào vì điểm bắt bào ngư là một bãi rong biển rất lớn . Bạn phải lặng len lõi trong những bãi rong này ở độ xâu 20-30 ft nước để tìm những con bào ngư đủ size để đưa lên bờ. Vì hôm nay là biển động và là mix waves nên khả năng gặp sóng ngầm hay nước soáy rất cao nếu vô tình gặp vùng nước soáy hay sóng ngầm đánh bạn cuốn vào những đám rong dầy đặt nầy thì coi như xong film vì bạn lặng không có đeo bình dưỡng khí nếu thiếu khinh nghiệm trong khi lặng không chừa hơi cuối cùng cho những viec bất trắc như thế này thì coi như bạn sẽ ỡ mãi trong lòng đại dương. Có thay tận mắt những chuyện này thì mới thay sư nhiệt tình cũng như sự chiều chuộn của các anh bắt Cali dành cho Mr.Bond đúng là quá mứt vì trong điều kiện lặn nhu thế nầy thì các thợ lặn chuyen nghiệp cũng phai “Nghĩ Lại”. . Vài hình ảnh trong buổi lặn bắt bào ngư với mấy anh Mr.Bond xin post lên đây chia sẽ với A/E. Enjoy ! 

  Tép Mòng - Cá LócHai Quẹo

Bà con cô bác thử nghĩ coi, thuở đời nay người ta biểu "Gần mực thì đen. Gần đèn thì sáng" mà sao tui thấy nó trật lất. Sống ở xứ người, lúc nào cũng gần với đèn điện sáng trưng mà tui vẫn tối u tối mịt. Còn cái câu "Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn"kiểu bông sen, thì nghe nó cũng trớt quớt. Bạn bè tui, có đứa theo gương bông sen, dù mọc lên từ trong bùn, nhưng đã trở thành thanh cao, sang trọng, quý phái, có thể sánh vai với ông Phật, ông thánh trên bàn thờ thơm phức nhang đèn, khỏi dám nhận mình thoát thân từ bùn. Phần tui thì kỳ cục hổng giống ai, xa bùn mà vẫn cứ vương mùi bùn?! Tối ngày nhớ chuyện đào đuôn, đào dế, tát đìa, giăng câu, đặt chà ngôm, bắt cua, bắt cóc, bắt cá cạn. v.v., toàn mấy chuyện hết sức là quê. Lên thành lâu rồi mà cặp giò tui đâu có nhả phèn, mùa lạnh da mốc cời, phải lấy lưởi lam cũ cào hai ống quyển cho bùn khô nó tróc ra như phấn bột, rồi gọt gót chưn chai thành từng lớp từng lớp như bì. Muốn gột rửa cái gốc nhà quê đó. Mà nó vẫn đeo theo tui như đỉa suốt đời. Bởi vậy, tui đâu có chuyện gì khác hơn để mà kể, ngoài những chuyện nhà quê. Cũng chính vì vậy mà năm nay, tui xin tiếp tục chương trình bằng mấy chuyện tạp nhạp vìa con tép mòng và cá lóc, hai thứ cật ruột của tui ở vùng ruộng lúa bùn lầy. Và cũng như thuở giờ, tui chỉ kể theo kinh nghiệm chứ hổng có cầu viện từ bất cứ sách vở báo chí nào. 

À mà quên, tui vừa bắt gặp một người đồng hương, cũng rất là đồng quê, đồng điệu, đồng tình. Ðó là Anh Bắp. Trong Ðặc San TV Xuân 2005 vừa rồi, ảnh kể chuyện cộ lúa, chăn trâu, đặt trúm, đánh trổng, xay lúa, thả diều.v.v... nghe đã hết chỗ nói. Ảnh chưa kể tới chuyện trồng ấu, thả chà sông và dệt chiếu. Trước đây tui đã hú bà con cô bác tiếp sức cho vui, mà cho tới năm rồi mới hân hạnh gặp Anh Bắp. Ừa, chuyện nhà quê kể suốt đời chưa hết. Mình cứ lục lạo trong garage kỷ niệm tìm cái nào nhắm xài được, đem ra phủi sạch bụi, lau chùi cho láng, rồi hô mại dô, làm garage sale. Coi vậy mà có món sẽ trở thành đồ cổ vô giá đó nghen. Và thể theo cái hướng này, xin mời quí vị và bà con cùng Hai tui trở vìa sống lại một chút ở Prah Prabăng, sróc dợnn, trước năm 1975.

Phần I. Tép Mòng.-

Trà Vinh mình là xứ may mắn được Tiền giang, Hậu giang và biển rộng bao quanh, có thiếu gì cá sông, cá biển, tôm cua mà chắc bà con ai cũng dư biết nên miễn bàn. Ðây chỉ xin nói riêng vìa con tép ruộng nước ngọt. Tức con tép mòng hay tép muỗi. Tui sẽ hông nói tới mấy cái vụ đăng, đó, lờ, lọp, xịp, vó, chài, lưới, nò, đáy... trong nghề đánh cá, mà chỉ kể riêng cách bắt tép rất đặc biệt của đồng bào mình. Trước hết là việc đặt chà ngôm. Chà ngôm được đươn bằng tre và có nhiều loại. Mấy cái bự cao cả thước hay hơn là để đặt dưới rạch dưới xẽo, hứng ngọn nước chảy để bắt tép bạc, cá kèo, hay hầm bà lằn cá. Loại này phải trang bị thêm cái miệng hình ống loa hay cái chĩu lạo, cái quặn, mà đàng ngoài kêu là cái phểu. Bỏ qua vụ này luôn. Tui muốn nói riêng vìa loại chà ngôm khác, nhỏ hơn, dùng để đặt trên ruộng, chuyên trị tép mòng. Nhìn chung chung, chà ngôm này có hình dáng như cái giỏ nhái, nhưng nó hổng có cái cổ, hổng có miệng hình miệng bát, mình mẩy gọn hơ, cái hông suông đuột, dáng nho nhỏ dễ thương, vòng mông chừng ba bốn gang, chiều cao trên dưới đầu gối, thường được làm một cở như nhau. Bên hông khoét cái lỗ tròn gọi là miệng hom để gắn cái hom sâu vô bên trong. Ðứa nào rắng mắt thử thọc bàn tay vô khỏi hom thì biết, chỉ có nước khóc la làng và nơ nguyên cái chà ngôm chạy đi nhờ người lớn gở ra dùm. Nói vậy nghĩa là hom hình cái ống loa, ghép lại bằng nan tre mỏng dính, ngoài bự trong túm lại nhỏ xíu

Dùng chà ngôm này để đặt dưới ruộng nước im, chơ vơ trụi lủi hông cần cái miệng hay đăng chận gì ráo, thì đồng bào tui kêu là đi plong hay phlong. Nước hông chảy mà tép rủ nhau chạy vô là vì nó mê mùi mồi cám rang.

Rang cám cho thiệt thơm hén, rồi đem quết nó với cháo heo đặc, nhớ là cháo nấu bằng gạo lức nghen, rồi vò nó thành viên tròn như trái quít đường. Ðó là cục mồi. Khoảng mưa già, thời tiết tháng 6, tháng 7, đồng cấy xong, nước dâng cao, những buội lúa vừa bén rể xanh rì xếp hàng thẳng tưng ngang dọc vuông vức trên đồng, ngó y như cái khăn rằn nền trắng sọc xanh trãi dài mát mắt. Chiều chiều, cơm nước xong, lấy cây đòn bằng đọt tre hay cây tầm vong gánh chà ngôm ra đồng ruộng bao la trước nhà để đặt. Không cứ là ruộng của chủ nào, muốn đặt đâu đặt, miễn đừng làm hư lúa người ta thôi. Chim trời cá nước mà. Nước ruộng cạn, chưa liếm tới cái lai quần xà lỏn. Tuỳ sức mà làm. Thong thả mà làm. Lúa mùa hồi đó cấy thưa lắm, giữa bốn buội lúa là ô vuông cạnh cả nửa thước, dư chỗ ngồi cho một cái chà ngôm. Lựa chỗ tương đối trũng và bằng phẳng, ém sình cho hũng xuống, rồi lấy chà ngôm đặt vô lỗ hũng đó, ấn xuống cho dính, giữ miệng hom đừng cho thấp hơn mặt đất, moi bùn chung quanh túm lại để kềm cho nó đứng. Kế tiếp là dọn đường cho tép bò vô. Khoả đất cho bằng phía mặt tiền, dùng bàn tay làm cái bay vuốt cho bùn láng o từ miệng hom ra xa chừng một thước. Bỏ cục mồi cám rang vô chà ngôm, kiếm cục sình cứng nhồi với cỏ rạ mục, nắn thành một cục bự bằng cái tô làm nắp đậy, khá nặng, dằn miệng trên của chà ngôm, vừa đậy kín vừa giữ cho nó thêm vững. Cứ như vậy đặt tiếp cái thứ hai, thứ ba. Khoảng cách với nhau tuỳ ruộng tép chạy nhiều ít, thường là từ 20 tới 30 thước một cái, tính theo cả 4 hướng trước sau ngang dọc. Xong xuôi bỏ đó cho ông trời giữ giùm. Hổng có ai siêng đi ăn cắp của ai đâu. Bước lên đứng trên bờ ruộng cao lớn, mềm dịu cỏ xanh, nhìn xuống thấy lô nhô những đốm đen, ẩn hiện trong sóng lúa. Có nhiều người khác cùng ra đồng cắm câu hay giăng câu v.v... Tiếng nói vói nhau ở xa nghe mơ hồ vang đi gờn gợn như sóng. Ruộng xanh thẳm hoá đen. Xa xa chợt có giọng chầm- riêng hay là- bam ngân dài theo gió. Mấy cô cậu nhỏ người Miên ra đồng hay hát và hát hay lắm. Cò diệc thưa dần, nhường chỗ cho cúm núm, mỏ nhác. Ếch nhái kêu óp ép. Tiếng cá lóc ăn móng lỏm bỏm. Mùi bùn tanh tanh, mùi lúa non hăng hăng mà dễ chịu lắm. Tất cả môi trường hãy còn trong lành, thanh khiết. Khát nước? Cứ khom xuống bụm hai bàn tay múc nước ruộng lên uống, ngọt ngay. Thời ấy, cảnh nhà quê êm đềm như cõi tiên. Người, vật, cây cỏ cá tép, hoà chung tiết điệu và nhịp sống của đất trời. Thời gian như đứng yên. Cả ngàn năm rồi, vẫn y thinh. Cho tới ngày "cách mạng" về. 

Về tới nhà thì đỏ đèn. Chim họp mặt trên cây xôn xao chào nhau đi ngủ. Từ những hàng tre, tiếng ve giồng kêu chiều ngân dài ve ve từng hồi nối tiếp như bất tận, cùng bóng đêm ru một ngày vừa qua về nơi tiền kiếp. Rồi giấc ngủ thật êm. Giác hừng đông bửa sau, gà gáy thưa dần, thì quảy giỏ ra đồng trút tép. Nếu tép chạy nhiều thì sau khi đổ tép, đặt tiếp, giác chiều lại trở ra, vừa giở vừa đặt lại, khỏi phải gánh chà ngôm tới lui. Cùng mùa tép mòng còn có cá lòng tong ruộng chạy khi có mưa lớn. Cả thúng, cả giạ. Lòng tong ướp nghệ đem hấp hay đem kho với đọt gừng, lá gừng non đó, còn phải nói? Nó cũng là độc chiêu của quê mình.

Tép mòng.

Con tép mòng, còn gọi là tép muỗi, lớn bằng đầu đủa, và hông lớn quá đầu ngón tay út, có màu trong xanh như ngọc thạch, coi rất hiền lành. Nó to hơn và khác xa con ruốc nước mặn. Giở chà ngôm lên nghe tép nhảy rồ rồ, thấy mà ham. Rặt là tép tươi chong cùng một lứa, như lựa, sạch trơn hông cần rửa ráy gì ráo. Ðôi khi có lộn một hai con cá sặc, cua đồng, lôm chôm hay điên điển. Con lôm chôm hình dạng giống con muỗi đòn sóc khổng lồ, chưn cẳng dài thòn, mình ốm nhom tong teo, phải ưu tiên bóc nó bỏ, vì làm mắm mà có lộn nó thì ăn ói chết. Cua đồng cũng bị xé đôi, tức là tách mu ra, quăng xuống ruộng làm phân cho lúa, chừa xác vài con bỏ lợi vô chà ngôm đặng thêm mùi hĩnh hĩnh hấp dẫn. Con điên điển thì đen thui tựa con bù hung, dẹp lép như con dán, ăn được. Một cái chà ngôm có thể kiếm cả tô, hay cả lít tép. Một người có thể kiếm cả thùng tép trong ngày.(Thùng = 20 lít ). Những vùng Ða lộc, Hoà Thuận, Song Lộc, Thanh Mỹ, Hiệp Hoà, Nhị Trường, Phước Hưng, Long hiệp, v.v., thuộc quận Trà Cú và Cầu Ngang, tạm kêu là ruộng giồng, là xứ sở tép mòng. Nếu chỗ nào có dòng nước sông tưới vô thì, dù là nước ngọt, chỗ đó thường có thêm tép bạc đất. Tép mòng chạy trốn. Xứ giồng có cái ngộ là mùa nắng ruộng khô, đất nẻ, cá tép đi mất hết, in như là là nó bị khô theo, nhưng mà khi nước lợi thì nó cũng lợi theo. Mưa đầu mùa nặng hột thì ruộng có cua đồng, ốc bươu, ếch bò ra trước. Tới chừng nước đứng, đọng lợi thì tép mòng bắt đầu tràn ngập. Hằng hà sa số tép. Thực phẩm bắt đầu phong phú. Tép mòng rang muối luôn râu, hông cần mỡ tỏi gì ráo, rang cho khô, chấm nước mắm ròng dằm ớt hiểm với vài giọt chanh. Hoặc đem luột luôn râu, trộn gỏi su đủ hay cây chuối con. Hoặc đem bằm nấu canh xiêm lo rau đắn hay lá bình bác, với măng tre hay bù ngót, nêm vô chút bò hóc, vân vân và vân vân. Nếu quí bạn là dân quê chánh hiệu của Trà Vinh thì hông cần mô tả thêm, nghe nhắc tới đó cũng đã thấy chảy nước miếng rồi.

Xúc tép.

Ngoài cách đặt chà ngôm, cũng có cách khác là đi xúc tép. Bỏ công xúc tép nuôi cò. Nuôi cho cò lớn.. Xúc bằng cái xà neng. Cái xà neng giống hình cái ki xúc đất, nhưng nó bự, dài, đít nhọn và sâu, nan đươn vót láng bóng, nên dáng nó mỏng manh thanh tú lắm. Miệng nó có cái nẹp cho khỏi bén như miệng ki. Dùng xà neng đẩy, dậm và quậy. Dậm là đặt xà neng nằm ngửa ra sát bùn rồi lấy chưn dậm cho lẹ trước miệng để lùa cá tép chạy vô. Thường là dậm chỗ có cỏ. Còn quậy hay khuấy, tức là đi cà-cô, nói theo tiếng đồng bào tui, thì đứng một chỗ cào nước cho chạy theo một chiều nhứt định, cào cho bương bương lẹ lẹ, nước xoay thành vòng tròn trôn ốc chung quanh người đứng, tép chóng mặt, bị cuốn theo dòng 

nước xoáy, vớt vô xà neng hết. Mấy con cá rô con, cá sặc, hủng hỉnh, cá chốt...cũng vô luôn. Muốn mau ăn thì trước khi quậy, thẩy xuống nước mấy cục mồi cám rang nho nhỏ làm điểm, để yên một lát cho tép đánh mùi thơm, bu lại, thì nhảy xuống cà cô ngay chỗ cục mồi đó sẽ bắt được nhiều hơn. Cách này có thể chỉ dùng cái rổ dày thôi, đứa con nít cũng kiếm dư đồ ăn cho cả nhà. Còn mấy cái xịp, vó, chài, lưới xài ở đây sẽ thua.

Vài cách ăn.

Trà Vinh mình có loại mắm đặc biệt, mà may quá báo chí ít biết và hổng nhắc tới, đó là mắm brờ ọt, nói trại ra thành bờ ót, tức mắm tép chua, làm bằng tép mòng, khác vớimắm tôm chua mà dân thành thường dùng để trỏ mắm tép bạc. (Còn brờ hóc, hay bò hóc là mắm mặn, để lâu). Cách làm brờ-ọt thật đơn giản, giản đơn, chỉ có tép mòng, muối hột và côm nguội. Hông cần rượu, tỏi gì ráo mà mắm vẫn đỏ au. Rồi cũng trộn su đủ mỏ vịt, gừng, riềng, ớt. Nhưng mà thịt và vỏ tép mòng mền mịn, nên bờ-ót có vị ngọt ngào đậm đà, ngon gấp mấy lần mắm tôm chua tép bạc. Mắm ruốc so ra là đồ bỏ. Có một điều lý thú là chính brò ót tép mòng là mẹ đở đầu của cá lóc nướng trui. Hai tui sẽ nói rỏ hơn ở phần sau. Tép mòng cũng còn dùng làm brò hóc tép, ngon hết xẩy. Hoặc đem luộc rồi phơi khô, xong đập sơ sơ cho rụng râu rồi vô bao cà ròn treo nóc nhà cất, kêu là tép khô hay khô tép, chứ hổng phải là tôm khô�. Không thích làm tép khô thì làm mắm để nấu nước mắm, mà bà con mình kêu là nước mắm đồng. Dỉ nhiên nó thua nước mắm biển của Phan Thiết, Phú Quốc. Mắm bò hóc tép còn dùng để kho, hoặc nêm canh, kêu là canh xiêm lo, ít ai đem nấu nước lèo bún. ( Ximlo, tiếng Khmer, có nghỉa là canh, ăn với côm thì người mình kêu trại lại là canh xiêm-lo, ăn với bún thì kêu là nước lèo, đồng bào tui kêu tưk ximlo num chooc, lai tây thì gọinước súp). Ngoài ra mắm này còn làm gia vị cho heo kén ăn. Con heo nào yếu ăn, trộn một chút vô mámg cháo thì sẽ thấy nó táp phầm phập phát thương.

Ðây hai tui xin mở ngoặc để nói vìa việc ăn ghém một cách kỳ lạ của tụi tui hồi nhỏ. Không biết phải kêu là ăn gì, nhưng bà con tui kêu là xi chrôc le. Trưa trưa đói bụng, buồn miệng, đám con nít tui thường rủ nhau, đứa kiếm mắm bò hóc tép mòng, đứa đi kiếm khế, chuối chát, trái sung, trái đào hay trái gòn non, và nhứt là hông thiếu đọt đu đủ, hay lá su đủ non cũng là nó, ớt hiểm rừng, cơm nguội. Phành đọt đu dủ ra như miếng bánh tráng, để vô mấy lác chuối khế trái sung rồi cuốn lại như gỏi cuốn to bằng cùm tay, ăn với mắm. Hấp dẫn lắm! Cắn từng khúc bự, ngốn ngốn, gò má phùng ra như khỉ ngậm bần. Ðủ thứ vị đắng chua chát cay mặn ngọt quến lại, ngon thôi là ngon; cay quá! chảy nước mắt thì cắn một miếng cơm nguội để giải. Ăn đã, chạy lại lu nước trước hàng ba, lấy cái gáo dừa đen mun có tra cán bằng nhánh tre, giở nắp lá ra, thọc vô khoả khoả cho lăng quăng lặn xuống, rồi múc một gáo, tu vô miệng hụp ừng ực hổng kịp thở, nước tràn chảy dài xuống càm, nhễu lách chách xuống chân. Thứ nước giếng đào giữa ruộng sao mà ngọt như đường. Buông gáo ra, thở khà một cái như mấy ông già uống rượu đế, quẹt quẹt cái mỏ bằng lưng cánh tay, chạy đi chơi tiếp.

Ngày nay, khó tìm ra được bờ ót tép mòng, người ta làm bằng con ruốc có để màu nhuộm chiếu cũng đỏ tươi, rất nguy hiểm. Riêng hai tui thì khỏi lo, cứ vô sróc hỏi đồng bào tui: miệl brờ ót kompựh tê miịn, là có ngay. Kompưh, tiếng Khmer, là con tép mòng đó bạn ạ. Xin tạm ngưng chuyện này để nói qua con cá lóc.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: