Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc 3
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Nguồn: ttv
Đóng gói prc: Đa Tình Kiếm
Chương 86 : Cộng đồng Constance
Trong lúc ở Pháp Lan Tây, nhà Anjou đang lo chỉnh bị binh mã, chuẩn bị cho chiến tranh, thì cũng cùng lúc này, Công đồng của Giáo hội Công giáo La Mã đã nhóm họp ở Constance, một thành thị miền nam nước Đức, từ ngày 16 tháng 11 năm 1414, với sự tham dự của 29 hồng y, 200 giám mục, 100 đan viện phụ, 300 nhà thần học và giáo luật, khoảng 8.000 giáo sĩ, Hoàng đế Sigismund của Đế quốc La Mã Thần Thánh dân tộc Đức (thường được gọi tắt là Đế quốc La – Đức) cùng 1.000 kỵ binh, nhiều quân vương, công tước, bá tước cũng có mặt. Thêm vào đó 7 vạn giáo dân các nơi cũng kéo về Constance tham dự. Mọi người đều hy vọng Công đồng có thể kết thúc được cuộc ly giáo đã kéo dài mấy chục năm qua.
Nguồn gốc của cuộc ly giáo có nguyên nhân sâu xa từ thời kỳ “cuộc lưu đày Avignon”. Đức Cha Bonifacio VIII (1294 – 1303) đã cố gắng củng cố một quyền tối thượng về cả thế tục và tôn giáo cho Giáo hội. Chính sách đó đã gây ra xung đội với các quân vương của u châu, chủ yếu là với Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần Thánh Dân tộc Đức và quốc vương Pháp Lan Tây. Phản ứng lại với hành động của Giáo hội, quốc vương Philippe IV de France đã tấn công nước của Đức Cha (Papal of States), Bonifacio VIII vì tức giận mà qua đời. Trong khi Benedict XI được bầu lên kế vị thì Philippe IV de France công khai tuyên bố Bonifacio VIII là “dị giáo, mua bán đồ thánh, ma thuật và nô lệ của quỷ dữ”. Cùng lúc đó thì giới quý tộc La Mã lại tấn công lẫn nhau làm cho giáo đô Roma hỗn loạn. Benedict XI không can thiệp được và qua đời chỉ sau 8 tháng lên ngôi. Sau đó thì Clemente V người Pháp được bầu lên ở Lyon, và từ chối trở về Roma. Đến năm 1309, Đức Cha Clemente V chọn Avignon làm giáo đô mới. Có 7 vị Đức Cha đã trị vì tại đây, tất cả đều là người Pháp, và đương nhiên chịu ảnh hưởng của triều đình Pháp Lan Tây. Một số vị sau đó cố gắng để có thể quay về Roma, nhưng mãi đến năm 1376, dưới thời Gregorius XI mới thành công. Khi Gregorius XI qua đời năm 1378, người dân Roma nổi loạn đòi phải bầu ra một vị Đức Cha người Roma. Các hồng y vì lo sợ đám đông, đã bầu một vị giám mục người Napoli lên ngôi, tức là Urbano VI. Nhưng vì Ngài đa nghi, độc đoán và dễ nổi nóng nên các hồng y bất mãn, quay trở về Avignon bầu Clemente VI lên ngôi. Thế là Giáo hội có đến 2 vị Đức Cha. Các xứ Pháp Lan Tây, Aragon, Castile và León, Cyprus, Burgundy, Savoy, Napoli, Sicily và Tô Cách Lan ủng hộ Clemente VI ở Avignon. Còn các xứ Đan Mạch, Anh Cách Lan, Flanders, Đế quốc La – Đức, Hungary, bắc Italy, Ái Nhĩ Lan, Bồ Đào Nha, Na Uy, Ba Lan và Thụy Điển thừa nhận Urbano VI ở Roma. Đến năm 1409, một số hồng y họp Công đồng ở Pisa, bầu lên vị Đức Cha thứ ba, Alexander V. Ba người đều tuyên bố mình là chính thống. Cho đến lúc này, có Gregorius XII (Urbano VI truyền cho Bonifacio IX, rồi đến Innocento VII và Gregocius XII) thường được gọi là Đức Cha La Mã, Benedict XIII (kế vị từ Clemente VII) được gọi là Đức Cha Avignon và John XXIII (kế vị từ Alexander V) được gọi là Đức Cha Pisa. Các vị quân vương, quý tộc và cả giáo dân đều mong muốn tình trạng ly giáo sớm chấm dứt. Giải pháp được ủng hộ nhiều nhất là cả 3 vị cùng thoái vị, để Công đồng bầu ra người mới.
Các phiên họp diễn ra trong thánh đường chính tòa Constance, do Đức Cha John XXIII ngồi ghế chủ tọa, với chương trình nghị sự gồm 3 điểm chính :
1. Tái lập sự thống nhất của Giáo hội Công giáo La Mã.
2. Chống dị giáo, kết án tử hình John Wiclif và Jean Huss (hỏa thiêu Jean Huss vào năm 1415). Trong bối cảnh ba vị Đức Cha (Papal), Jean Huss đã không coi Giáo hội cơ chế là Giáo hội thực. Bị kết án, nhưng ông vẫn được dân Boheme ủng hộ. Jean Huss mạnh dạn đến Công đồng Constancia, chứng minh ý kiến mình có căn bản Phúc m. Khi bị bắt giam, ông viết thư tự nhận mình tử đạo cho chân lý. Sự hỏa thiêu Jean Huss đã gây ra nội chiến nhiều thập niên, vì ngay khi đó, có 450 lĩnh chủ viết thư bênh vực ông là người chính thống về giáo lý. Nội chiến chỉ kết thúc khi tư tưởng của Jean Huss được Đế quốc La – Đức công nhận.
3. Cải cách Giáo hội : Công đồng tuyên bố “Quyền tối thượng thuộc về Công đồng” là hợp với đạo lý của Giáo hội (trước đây thì Quyền tối thượng thuộc về Đức Cha). Cuộc cải cách này gần giống với sự chuyển đổi từ chế độ quân chủ chuyên chế sang quân chủ lập hiến.
Trong lúc cuộc hỏa thiêu Jean Huss đang làm xôn xao cả u châu thì Giám mục Trento George I thay mặt Đức Cha Gregorius XII đến mật đàm với các hồng y lãnh đạo của Công đồng. Đến chiều ngày 20 tháng 3 năm 1415, biết tin về cuộc mật đàm, John XXIII cảm thấy mình bị bỏ rơi, liền rời bỏ Constance. Việc này làm mọi người xôn xao, nhưng nhờ sự khéo léo và uy tín của Hoàng đế La – Đức Sigismund và nhiều vị hồng y khác mà Công đồng vẫn tiếp tục.
Sau nhiều phiên mật đàm, song phương đạt được thỏa thuận : Đức Cha Gregorius XII đồng ý thoái vị, Công đồng Constance đồng ý giữ lại tất cả các hồng y do Gregorius XII bổ nhiệm, và cử Ngài làm Giám mục Frascati, hiệu trưởng của Sacred College of Cardinals và thừa kế vĩnh viễn ở Ancona.
Ngày 29 tháng 5, Công đồng chính thức phế truất John XXIII.
Ngày 1 tháng 6, Trị an ty Chính sứ tỉnh Jerusalem của Thần Thánh Đế quốc là Dương Nghĩa thống suất 5.000 kỵ binh đổ bộ lên Provence (một lĩnh địa của nhà Anjou ở đông nam Pháp Lan Tây, bên bờ Địa Trung Hải), sau đó vượt qua Milan, Thụy Sĩ, đến đầu tháng 7 thì tiến vào Constance. Ngày 4 tháng 7, Dương Nghĩa cùng với 2 đại diện của Gregorius XII là hồng y Giovanni Dominici và Công tước Caroli Malatesta tham dự phiên họp thứ 14 của Công đồng. Sự có mặt của Dương Nghĩa cùng 5.000 kỵ binh đã làm giảm phần nào ảnh hưởng của Hoàng đế La – Đức Sigismund đối với Công đồng. Trong phiên họp, Công tước Caroli Malatesta đã thay mặt Đức Gregorius XII đọc diễn văn thoái vị. Sau đó, Công đồng lại tuyên bố phế truất Benedict XIII và cuộc ly giáo kết thúc. Tuy vậy, Công đồng vẫn tôn trọng Đức Gregorius XIII bằng cách chưa bầu ngay Đức Cha mới. Theo kế hoạch, Công đồng sẽ vẫn còn họp cho đến năm 1418, và sẽ bầu trước khi bế mạc.
Dương Nghĩa chỉ ở lại dự đến giữa tháng 7, sau đó rời Constance quay về Jerusalem, chỉ để lại đại diện của 4 cộng đồng hiện đang quản lý thánh địa.
Cuộc họp của Công đồng Constance đang thu hút sự chú ý của toàn u châu thì cuộc đại chiến mà mọi người chờ đợi sau gần một năm uân nhưỡng cuối cùng cũng đã bùng nổ.
Ngày 13 tháng 8 năm 1415 (Tây Lịch), quốc vương Anh Cách Lan Henry V of England đã suất lĩnh 12.000 quân đổ bộ vào vùng duyên hải phía bắc Pháp Lan Tây, tấn công thành phố cảng Harfleur. Tuy vậy, quân Pháp ở đấy đã chống cự rất ngoan cường, nhiều lần đẩy lùi quân Anh, khiến cho quân Anh không thể đánh nhanh thắng nhanh như dự kiến. Điều đó cũng có nghĩa là kế hoạch chiến tranh của Henry V of England đã đổ vỡ, và quân Anh lỡ mất cơ hội tiến thẳng vào Paris. Đến ngày 22 tháng 9, thành phố mới đầu hàng, và quân Anh đóng lại đó cho đến tháng 10. Sau trận này, quân Anh tử trận rất nhiều, chỉ còn lại khoảng 9.000, và Henry V of England quyết định chuyển đến thành phố cảng Calais, nơi mà bọn họ có thể tìm thấy những trang bị cho mùa đông.
Khi quân Anh đang bao vây Harfleur, quân Pháp đã tập hợp quân cứu viện, nhưng chỉ có được chưa đến 9.000 quân nên không thể cứu viện kịp thời. Triều đình Pháp Lan Tây đành kêu gọi các lĩnh chủ quý tộc đưa tư quân gia nhập quân đội. Khi đã tập hợp được 36.000 người, quân Pháp mới tiến lên phía bắc. Ngày 24 tháng 10, song phương gặp nhau tại Agincourt.
Quân Anh lúc này chỉ còn lại 8.500 người, thức ăn còn lại rất ít, đã hành quân 260 dặm Anh trong vòng 2 tuần rưỡi, và nhiều người bị bệnh kiết lỵ. Trong khi quân Pháp đông đến 36.000 người, và có khoảng 10.000 hiệp sĩ, 12.000 cung thủ. Chiến trường là dải đất hẹp nằm giữa các khu rừng Tramecourt và Agincourt. Quân Pháp trấn giữ phía bắc, ngăn không cho quân Anh đi đến Calais.
Sáng sớm ngày 25, Henry V of England đã triển khai quân đội thành 3 đạo, với 1.500 trường thương binh, và 7.000 trường cung binh. Đạo tiên phong do Công tước xứ York chỉ huy, đạo trung quân do đích thân Henry V chỉ huy, còn hậu đội do lĩnh chủ Camoys thống lĩnh. Ngoài ra còn có Sir Thomas Erpingham, hiệp sĩ hoàng gia nhiều kinh nghiệm chỉ huy các cung thủ ở hai bên bìa rừng. Do tình hình bất lợi, người Anh đã cầu nguyện trước cuộc chiến, hy vọng sẽ tránh được hình phạt ở địa ngục nếu tử trận.
Ngược lại, với lực lượng đông hơn gấp 4 lần, trang bị tốt hơn và có nhiều kỵ binh, người Pháp tin tưởng rằng bọn họ sẽ chiến thắng dễ dàng. Quân Pháp cũng chia làm 3 đạo. Đạo đầu tiên được chỉ huy bởi Charles de Albret, Marshal Boucicault, Công tước xứ Orléans và Bourbon, cùng với đội kỵ binh của Bá tước xứ Vendome và Hiệp sĩ Clignet de Brebant. Đạo thứ hai được chỉ huy bởi Công tước xứ Bar và Alencon, cùng với Bá tước của Nevers. Đạo thứ ba do Bá tước của Dammartin và Fauconberg chỉ huy. Người Pháp còn có khoảng 8.000 chiến xa hạng nặng. Trong quân Pháp có rất nhiều quý tộc và bọn họ đều rất hăng hái tham chiến.
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Nguồn: ttv
Chương 87 : TRẬN ANGINCOURT
Ngày 25 tháng 10 năm 1415 theo Tây lịch, tức Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.517 (́t Mùi).
Quân Anh Cách Lan gồm 8.500 người (1.500 trường thương binh và 7.000 trường cung thủ) thiếu lương thực và bệnh tật đã đụng độ cùng 36.000 quân Pháp Lan Tây được trang bị tốt (trong đó có 10.000 hiệp sĩ và 12.000 cung thủ) ở Agincourt. Trong khi quân Anh lo cầu nguyện trước trận chiến thì quân Pháp rất thoải mái vì tin tưởng vào chiến thắng.
Trái với lệ thường, trong hàng ngũ quân Pháp, giới quý tộc đều tranh nhau dẫn đầu, trong khi binh sĩ bình dân thì chỉ ở phía sau và phần lớn không thể hoặc không muốn triển khai, bởi địa hình khá hẹp, và đối với dân chúng, chiến tranh không mang lại nhiều lợi ích. Trong khi đó thì giới quý tộc lại háo hức với cuộc chiến, vì bọn họ hy vọng tù binh sau trận chiến sẽ mang lại cho bọn họ một khoản tiền chuộc đáng kể. Ngân khố của giới quý tộc Pháp hiện giờ đã bị thâm hụt rất nghiêm trọng. Với số lượng áp đảo, người Pháp tin rằng sẽ dễ dàng đánh bại quân Anh. Thêm nữa, trong hàng ngũ quân Pháp có rất nhiều quý tộc mà cha ông của họ đã từng đại bại nhục nhã ở Crecy và Poitiers, nên bọn họ đang rất khao khát báo thù.
Trận chiến bùng nổ. Giới quý tộc và các hiệp sĩ Pháp tranh nhau dẫn đầu tấn công, đội hình hỗn loạn, không ai chỉ huy được. Hơn nữa, bọn họ không lo giết giặc mà chỉ mải lo bắt tù binh. Phía bên kia thì quân Anh bắn tên ra như mưa, chỉ giết chết chứ không bắt sống. Quân Pháp xung phong nhiều đợt, nhưng không có đội hình gì và thiếu sự thống nhất chỉ huy nên không sao phá vỡ được hàng phòng ngự của quân Anh. Lại do không lo giết giặc, nên quân Pháp tổn thất thảm trọng. Đến giữa trưa, quân Anh bắt được hàng nghìn tù binh, nhưng vì không đủ khả năng canh giữ, và sợ bọn họ tái vũ trang phản kháng với vũ khí rơi vãi đầy mặt đất, nên Henry V đã ra lệnh tàn sát tất cả tù binh (trừ những tù binh có giá trị).
Đến chiều, quân Pháp thiệt hại hơn một phần ba, đành phải rút lui. Trận này, quân Anh tử trận khoảng 450 người, trong đó có Công tước York và Edward of Norwich, bị thương khoảng 1.600 người. Quân Pháp tử trận khoảng 4.000 người, bị thương khoảng 11.000 người và bị bắt hơn 2.000 người. Người Pháp còn tổn thất 3 Công tước, 8 Bá tước, 1 Tử tước, 1 Giám mục và rất nhiều quý tộc, trong đó có Công tước Charles de Orléans, Công tước John I de Alençon, Thống chế Jean Le Maingre. Trận Agincourt đã khiến cho phe Armagnacs suy sụp, bởi quân đội của họ bị thiệt hại nặng nề và phần lớn giới lãnh đạo đã thương vong hay bị người Anh bắt làm tù binh.
Dù vậy, phía quân Anh cũng bị tổn thất đáng kể, không còn khả năng tiếp tục chiến tranh mà phải tạm nghỉ ngơi chỉnh đốn. Chỉ có phe Burgundy là được lợi, chỉ 10 ngày sau trận chiến, bọn họ đã thừa cơ dẫn quân tiến vào Paris.
Sau trận Agincourt, tình thế Pháp Lan Tây rất nguy ngập, các lĩnh địa phía bắc và phía tây đa số bị Anh Cách Lan và các đồng minh của họ kiểm soát. Tuy quân Anh đã rút về Calais chỉnh đốn lại lực lượng, nhưng Paris đã rơi vào tay phe Burgundy, lực lượng đồng minh thân cận nhất của quân Anh, và cũng là lực lượng chống đối chính với triều đình Pháp Lan Tây. Đặc biệt, vùng chiến sự đã áp sát Maine và Anjou, các lĩnh địa chính của nhà Anjou, khiến họ buộc phải lên kế hoạch phản công.
Ngày 10 tháng 11, Nam tước Jean de Rais suất lĩnh 1 vạn quân Anjou, gồm 4.000 cung thủ, 6.000 trường thương binh, rời Provence tây tiến. Đại quân vượt qua Languedoc tiến vào vùng Guyenne (còn gọi là vùng Gascony), tấn công Bordeux, thủ phủ của lĩnh địa quốc vương Anh Cách Lan tại đấy. Ngày 28, quân Anjou bao vây Bordeux. Quân Anh tại đây chỉ có 1.200 người, không chống cự nổi, sau 5 ngày bị vây đã dâng thành đầu hàng. Nam tước Jean de Rais chia quân thành 10 đạo, đánh dẹp các nơi. Đến ngày 13 tháng 12, toàn cảnh Guyenne đã rơi vào tay quân Anjou. Anh Cách Lan chính thức mất lĩnh địa cuối cùng ở phía nam của mình.
Cũng trong ngày 10 tháng 11, Hạm đội Angers đang thao luyện ở Sinai thì được lệnh rời Địa Trung Hải, di chuyển sang vùng biển phía tây của Pháp Lan Tây. Hạm đội gồm 8 chiến thuyền, 102 khẩu thần công, 1.000 thủy quân và 17 tướng lĩnh. Tiểu hình chiến thuyền 5 chiếc, mỗi chiếc trang bị 10 khẩu thần công, có 100 thủy quân, 2 tướng lĩnh. Trung hình chiến thuyền 2 chiếc, mang tên ‘Comte de Maine’ và ‘Comte de Provence’, mỗi chiếc trang bị 16 khẩu thần công, có 150 thủy quân, 2 tướng lĩnh. Đại hình chiến thuyền 1 chiếc, mang tên ‘Réne de Anjou’, đồng thời cũng là Soái thuyền, được trang bị 20 khẩu thần công, có 200 thủy quân, 3 tướng lĩnh, do Đô đốc Frederick du Guesclin chỉ huy. Frederick du Guesclin là con trai của Bertrand du Guesclin, được Louis II de Anjou phong tước Hiệp sĩ và trở thành cận thần của nhà Anjou. Khi lão quản gia Ferdinand Caracciolo về đến Provence thì đã cử Frederick du Guesclin cùng với 1.000 thủy quân sang Sinai huấn luyện. Hạm đội Angers được tổ chức theo biên chế của Thần Thánh Đế quốc, nên Frederick du Guesclin đã được phong làm Đô đốc.
Ngày 3 tháng 12, Hạm đội vượt qua eo biển Gibraltar, men theo bán đảo Iberia tiến lên phía bắc. Ngày 16, Hạm đội đến Bordeux, lấy thêm 8.000 quân trong số 1 vạn quân Anjou tại đấy, rồi tiếp tục tiến về phía bắc.
Ngày 28 tháng 12. Giữa trưa. Eo biển Manche. Chiến thuyền ‘Réne de Anjou’, phòng chỉ huy.
- Đô đốc. Gặp phải Hạm đội Anh Cách Lan.
Thuyền trưởng Deprez Eugene của chiến thuyền ‘Réne de Anjou’ báo cáo với thanh âm đầy hưng phấn. Đô đốc Frederick du Guesclin nhíu mày hỏi :
- Lực lượng địch quân thế nào ?
Thuyền trưởng Deprez Eugene đáp :
- Trình Đô đốc. Hạm đội Anh Cách Lan có 42 chiến thuyền Balinger và 3 đại hình chiến thuyền (great ship), trong đó phần lớn là thuyền vận tải.
Đô đốc Frederick du Guesclin gật đầu nói :
- Quân Anh Cách Lan đang trú đóng ở Calais. Chắc Hạm đội này chở vật tiếp tế cho Calais.
Calais là một hải cảng ở phía bắc Pháp Lan Tây, nằm ở eo hẹp nhất của biển Manche, đối diện với Dover bên phía Anh Cách Lan. Đây là căn cứ tiếp tế chủ yếu của quân Anh Cách Lan trong cuộc ‘chiến tranh trăm năm’. Sau trận Agingourt, quân Anh Cách Lan thiệt hại nặng, nên quốc vương Henry V of England đã dẫn quân về đấy nghỉ ngơi, và bản thân Henry V of England thì đã về nước chuẩn bị thêm viện quân.
Đô đốc Frederick du Guesclin cùng thuyền trưởng bước lên đài chỉ huy, nhìn ra phía xa chỉ thấy nhiều chấm đen nhỏ xíu ở phía chân trời. Vì khoảng cách quá xa, chỉ có thủy thủ trên đài quan sát mới có thể nhìn thấy rõ. Đô đốc Frederick du Guesclin truyền lệnh :
- Cho Hạm đội tiến gần hơn. Bày trận.
Kỳ hiệu phất phới, mệnh lệnh được truyền đi toàn Hạm đội. Khoảng cách song phương lúc này chỉ còn hơn 5 dặm Anh, nếu không bày trận thì sẽ không còn kịp nữa. Các khẩu thần công trên chiến thuyền tuy thuộc vào loại lạc hậu (đối với Thần Thánh Đế quốc), nhưng cũng có tầm bắn xa hơn 1 dặm Anh.
Soái thuyền ‘Réne de Anjou’ dẫn đầu Hạm đội Angers tiến thẳng về phía Hạm đội Anh Cách Lan. Khi chỉ còn cách khoảng 3 dặm, Đô đốc Frederick du Guesclin truyền lệnh :
- Dàn trận chiến đấu.
Mệnh lệnh truyền xuống, các chiến thuyền lập tức phân tán ra. Những chiến thuyền ở giữa hạ nửa buồm, giảm tốc độ. Hạm đội dàn thành trận hình chữ V, có ý bao vây Hạm đội quân địch. Các chiến thuyền đều dần dần chuyển hướng để hướng mạn thuyền về phía địch hạm. Phía bên kia, Hạm đội Anh Cách Lan cũng đã nhìn thấy đối phương, quay đầu chuẩn bị chiến đấu.
Sau một lúc, thủy thủ trên đài quan sát hô lớn :
- Cách địch hạm 2 dặm.
Đô đốc Frederick du Guesclin truyền lệnh :
- Xạ thủ chuẩn bị !
Các xạ thủ đều vào vị trí, thuốc pháo được cho vào nòng. Lát sau, thủy thủ trên đài quan sát lại hô :
- Cách địch hạm 1 dặm.
Đô đốc Frederick du Guesclin truyền lệnh :
- Bắn thử.
Bắn thử tức là mỗi đội có một khẩu thần công sẽ điều chỉnh biên độ, bắn thử xem cự ly có chính xác hay không. Thời kỳ này kỹ thuật còn lạc hậu, thủy thủ trên đài quan sát chỉ có thể ước tính cự ly bằng kinh nghiệm, cần phải bắn thử mới biết chính xác hay không.
Đùng. Đùng. Đùng …
Mỗi chiến thuyền đều có một khẩu thần công bắn thử, xác định cự ly. Sau đó các khẩu thần công còn lại đều theo đó mà điều chỉnh biên độ nòng pháo. Giây lát, thủy thủ trên đài quan sát lại hô :
- Cách địch hạm 3 phần 4 dặm.
Đô đốc Frederick du Guesclin truyền lệnh :
- Pháo kích.
Xạ thủ lần lượt khai hỏa. Các khẩu thần công lần lượt pháo kích về phía Hạm đội Anh Cách Lan, từng phát từng phát, liên miên không ngớt. Thời kỳ chưa có thiết giáp hạm, dù là tối cao cấp chiến hạm cũng chỉ có thể phát xạ từng phát từng phát, hiếm khi nào toàn bộ đại pháo đồng loạt phát xạ, trừ khi cận thân hỗn chiến. Sở dĩ phải làm thế là vì lực phản chấn của đại pháo. Thử tưởng tượng, mấy chục khẩu đại pháo nặng hàng tấn, hàng chục tấn đồng loạt phát xạ, phản chấn lực cực lớn, thân thuyền thì được đóng bằng gỗ, làm sao chịu đựng nổi.
Đùng. Đùng. Đùng …
Mặt biển đang yên tĩnh đột nhiên nổi lên những thanh âm vang dội. Từ các khẩu thần công phát ra những đạo hỏa quang, cùng với nó là rất nhiều thiết đạn lao vun vút về phía thuyền địch.
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Nguồn: ttv
Chương 88 : TRẬN HẢI CHIẾN MANCHE
Ngày 28 tháng 12 năm 1415 theo Tây lịch, tức Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.517 (́t Mùi). Hạm đội Angers của Anjou đã đụng độ Hạm đội Hải quân Hoàng gia Anh Cách Lan ở ngoài khơi eo biển Manche, các thành phố cảng Calais không xa.
Hạm đội Angers có 8 chiến thuyền, gồm : 1 đại hình chiến thuyền ‘Réne de Anjou’, dài 95 mét, rộng 40 mét, cao 6 mét, 7 cột buồm, tải trọng 1,8 vạn tấn, có 20 khẩu thần công, 200 thủy thủ; 2 trung hình chiến thuyền ‘Comte de Maine’ và ‘Comte de Provence’, dài 80 mét, rộng 32 mét, cao 5 mét, 6 cột buồm, tải trọng 1 vạn tấn, có 15 khẩu thần công, 150 thủy thủ; 5 tiểu hình chiến thuyền, dài 60 mét, rộng 22 mét, cao 4 mét, 5 cột buồm, tải trọng 4.200 tấn, có 10 khẩu thần công, 100 thủy thủ. Ngoài ra trên các chiến thuyền còn có chở theo 4.000 cung thủ (bowman) và 4.000 trường thương binh (spearman).
Hạm đội Hải quân Hoàng gia Anh Cách Lan có 45 chiến thuyền, gồm : 42 chiến thuyền Balinger, dài 12 - 14 mét, rộng 3 mét, cao 2 mét, 1 cột buồm với cánh buồm vuông, tải trọng 100 tấn, có 30 mái chèo và 40 thủy thủ; 3 đại chiến thuyền (Great ship), dài 18 mét, rộng 3 mét, cao 2,1 mét, 1 cột buồm, tải trọng 180 tấn, có 50 mái chèo và 100 thủy thủ.
(chú : trong đội thuyền của Columbus sau này đi thám hiểm châu Mỹ, chiếc lớn nhất có tên là ‘Santa Maria’, dài 22,6 mét, rộng 3 mét, cao 2,1 mét, 3 cột buồm, tải trọng 223 tấn. Qua đó sẽ thấy các chiến thuyền Balinger và Great ship của Anh Cách Lan lúc bấy giờ, giai đoạn cuối của ‘Đêm dài Trung Cổ’, là lớn).
Hạm đội song phương gặp nhau, khi còn cách nhau 3 phần 4 dặm Anh, Đô đốc Frederick du Guesclin của Hạm đội Angers đã truyền lệnh pháo kích vào Hạm đội đối phương.
Đùng. Đùng. Đùng …
Cả 51 khẩu thần công lần lượt khai hỏa. Mặt biển đang yên tĩnh đột nhiên nổi lên những thanh âm vang dội. Đồng thời, từ các khẩu thần công phát ra những đạo hỏa quang, cùng với nó là rất nhiều thiết đạn lao vun vút về phía thuyền địch.
Bên phía Hạm đội Hải quân Hoàng gia Anh Cách Lan, Bá tước John Grey I of Tankerville chỉ huy Hạm đội, theo lệ thường đang cùng thuộc hạ chơi bài thì được báo phát hiện Hạm đội của Pháp Lan Tây. Khi nghe báo cáo, Bá tước chỉ cười nhạt, chẳng thèm để tâm đến, chỉ truyền lệnh cho Hạm đội tiến đến tiêu diệt Hạm đội đối phương, sau đó cùng thuộc hạ tiếp tục chơi bài. Hành động của Bá tước vốn không có gì lạ, bởi trong mắt của một quý tộc Anh Cách Lan, Hải quân Pháp Lan Tây không thể gọi là Hải quân, hễ đánh là bại. Nhiệm vụ của Bá tước chỉ là vận chuyển vật tư sang Calais, trước giờ vẫn rất an nhàn, có lẽ lâu lâu cũng nên phấn khích một chút để thay đổi không khí. Cả bọn vừa chơi bài vừa nói cười vui vẻ. Đột nhiên …
Đùng. Đùng. Đùng …
Tiếng đại pháo truyền đến làm cả bọn giật mình. Trợ thủ đắc lực của Bá tước là Thomas Kyriell đề nghị :
- Bá tước Đại nhân. Tình hình có vẻ không ổn. Chúng ta ra ngoài xem thử thế nào !
Bá tước gật đầu nói :
- Cũng được. Chúng ta ra ngoài xem thử !
Khi cả bọn ra đến bên ngoài thì loạt bắn thử của Hạm đội Angers vừa kết thúc. Bọn họ không có cảm giác bị pháo kích, nhưng tất cả đều chấn kinh khi nhìn thấy Hạm đội Angers đang sừng sững tiến đến. Khoảng cách của song phương lúc này chưa đến 1 dặm, nên tầm quan sát rất rõ ràng, đặc biệt là khi chiến thuyền của đối phương quá lớn, cực kỳ lớn.
Bá tước đưa tay chỉ về phía Hạm đội đối phương, run giọng hỏi :
- Đó mà là Hạm đội của Pháp Lan Tây hay sao ?
Một gã thuộc hạ chỉ về phía đỉnh cột buồm trên chiến thuyền đối phương, nói :
- Đại nhân hãy xem. Đó chính là hiệu kỳ của Công tước xứ Anjou.
Bá tước nhíu mày nói :
- Công tước xứ Anjou chẳng phải đang bận lo giành lại đất đai ở Napoli hay sao ? Giờ còn đến đây làm gì nữa chứ ?
Bọn họ ngạc nhiên cũng phải, bởi Công tước xứ Anjou cũng đồng thời là Quốc vương Napoli, nhưng Vương quốc Napoli đã bị cha con Ladislaus chiếm mất, đánh nhau mấy chục năm nay mà vẫn chưa giành lại được. Do đó, việc triều chính của Pháp Lan Tây, Công tước xứ Anjou ít tham dự.
Bọn họ còn đang bàn tán thì tiếng đại pháo lại nổ vang. Nhưng lần này là toàn diện pháo kích. Cả 51 khẩu thần công đều lần lượt khai hỏa, liên tục pháo kích về phía Hạm đội Anh Cách Lan. Xạ thủ của Hạm đội Angers khai hỏa hết loạt này đến loạt khác. Bọn họ không giống như tiến hành hải chiến mà như là đang huấn luyện xạ kích. Tuy nói là chiến đấu, nhưng chỉ có phía Hạm đội Angers đơn phương tấn công. Vũ khí của các thủy thủ trên Hạm đội Anh Cách Lan có cự ly xa nhất là trường cung, nhưng dù trường cung thủ (longbowman) có lực lượng mạnh nhất thì cũng không thể nào bắn đến mục tiêu cách xa cả nghìn mét. Phạm vi tấn công hữu hiệu của trường cung thủ thường chỉ đạt đến 100 mét. Do đó, xạ thủ của Hạm đội Angers tha hồ lấy chiến thuyền của Hạm đội Anh Cách Lan làm bia tập bắn.
Trong hải chiến, do điều kiện trên biển, khi pháo kích đa số thường bắn không trúng mục tiêu, bắn trúng chỉ là thiểu số. Nhưng ít ra thì cũng sẽ có bắn trúng. 51 khẩu thần công bắn ra 51 phát đạn, ít ra cũng có vài phát trúng mục tiêu. Trong khoảng cách từ 3 phần 4 dặm cho đến nửa dặm, trước sau đã có 6 chiến thuyền của Hạm đội Anh Cách Lan bị bắn chìm, và 8 chiếc khác hư hỏng nặng, không thể di chuyển.
Khi khoảng cách giữa song phương chỉ còn nửa dặm, các chiến thuyền của Hạm đội Angers chuyển hướng, bảo trì cự ly. Đối với các xạ thủ, nửa dặm là cự ly lý tưởng nhất, vừa có thể thoải mái pháo kích vừa không sợ bị tấn công.
Trên chiến thuyền ‘Réne de Anjou’, Đô đốc Frederick du Guesclin vừa cười lớn vừa nói :
- Ha ha ha. Bắn. Bắn nữa. Bắn chìm thuyền của bọn Anh Cách Lan, nhấn chìm bọn chúng xuống biển.
Thuyền trưởng Deprez Eugene thì quá hưng phấn, chạy đến giành chỗ với xạ thủ, thử cảm giác pháo kích thuyền địch. Các xạ thủ cũng rất hưng phấn, nạp đạn khai hỏa không biết mệt. Chỉ sau 5 loạt pháo kích, phía Hạm đội Anh Cách Lan đã tổn thất gần 1 phần 3 lực lượng.
Bá tước John Grey I of Tankerville bên phía Hạm đội Anh Cách Lan thấy phía mình tổn thất thảm trọng. Trong lòng rối bời, vò đầu bứt tóc, không ngừng than thở :
- Làm sao đây ? Phải làm sao đây ? Cứ như thế này, các chiến thuyền của chúng ta sẽ bị bọn chúng bắn chìm hết !
Một gã thuộc hạ đề nghị :
- Bá tước Đại nhân. Chúng ta chỉ còn cách áp sát địch thuyền, rồi tiến hành hỗn chiến. Chỉ ở cự ly gần, trường cung thủ của chúng ta mới phát huy được uy lực.
Bá tước gật đầu khen phải, nhanh chóng truyền lệnh. Các chiến thuyền còn lại của Hạm đội Anh Cách Lan đẩy mạnh tay chèo, cố gắng áp sát địch thuyền. Chỉ có điều, các chiến thuyền của Hạm đội Angers tốc độ nhanh hơn, nên dễ dàng duy trì cự ly. Với sự cố gắng tột bậc của các thủy thủ Anh Cách Lan, khoảng cách giữa song phương tuy có rút ngắn lại, nhưng tốc độ rất là chậm chạp. Mất gần 1 giờ, khoảng cách giữa song phương từ 800 mét rút ngắn lại còn 400 mét, vẫn còn nằm ngoài phạm vi tấn công của quân Anh. Và điều đó chính là thảm họa cho bọn họ, bởi vì với khoảng cách 400 mét, khả năng bắn trúng mục tiêu của các xạ thủ Hạm đội Angers tăng lên thấy rõ. Đến lúc này, Hạm đội Anh Cách Lan thiệt hại nặng nề, cả 3 chiếc đại chiến thuyền (Great ship) đều bị trọng thương; các chiến thuyền Balinger thì có 11 chiếc bị bắn chìm và 18 chiếc trọng thương, mất khả năng di chuyển, 13 chiếc còn lại thì có đến 6 chiếc bị thương nhẹ, tốc độ giảm xuống chưa còn một nửa.
Đến lúc này, các chiến thuyền của Hạm đội Angers không di chuyển để giữ cự ly nữa mà đứng yên một chỗ. Các xạ thủ thì tập trung hỏa lực vào những chiến thuyền còn lại của đối phương. Sau 2 loạt pháo kích, 102 phát đạn, 6 chiếc bị thương nhẹ thì 2 chìm, 4 trọng thương; 7 chiếc còn lại đều ít nhiều hư hỏng. Khi chiến thuyền của Hạm đội Anh Cách Lan tiến đến cự ly dưới 100 mét, trường cung thủ chuẩn bị công kích, ngửa mặt nhìn lên, thì thấy mạn thuyền của đối phương quá cao, bọn họ không thể nhìn thấy mục tiêu để công kích. Đối diện với các chiến thuyền của Hạm đội Angers, bọn họ có cảm giác như đang đứng trước những tòa thành bảo vậy. Do đó, dưới sự uy hiếp của các khẩu thần công, bọn họ đành hạ khí giới đầu hàng.
Trận hải chiến bắt đầu từ giữa trưa, kéo dài gần 4 giờ, đến cuối buổi chiều thì kết thúc. Kết quả, Hạm đội Anh Cách Lan toàn diệt : 13 chiến thuyền Balinger bị bắn chìm, 3 chiếc đại chiến thuyền (Great ship) và 22 chiến thuyền Balinger trọng thương, 7 khinh thương, tất cả đều đầu hàng. Quân Anh có 1.980 người thì đầu hàng 1.238 người, còn lại tử trận hoặc mất tích. Quân Anjou thọ thương 26 người, do pháo kích quá hăng hái mà bị phỏng.
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Nguồn: ttv
Chương 89 : Trận Calais
Lại nói, sau khi Hạm đội Anh Cách Lan đầu hàng, Hạm đội Angers bắt đầu tiến hành thu nhận hàng binh và thanh kiểm chiến lợi phẩm. Hơn nghìn tù binh là một vấn đề quan trọng cần phải giải quyết. Hạm đội Angers cần phải tấn công Calais, nếu như phái quân canh giữ tù binh thì lực lượng tấn công Calais sẽ bị suy giảm, ảnh hưởng đến chiến sự. Cuối cùng, Đô đốc Frederick du Guesclin đã tìm ra phương án tốt nhất : tạm giữ tù binh Anh Cách Lan trên mấy chiến thuyền bắt được, mà chiến thuyền được chọn toàn là những chiến thuyền trọng thương sau trận hải chiến, không còn khả năng di chuyển. Như thế Hạm đội Angers chỉ cần phái 1 chiến thuyền canh giữ là đủ. Nếu tù binh trên chiến thuyền nào nổi loạn thì sẽ lập tức bắn chìm chiến thuyền đó, nhấn chìm tất cả xuống dưới biển. Nhờ thế, 1.000 thủy thủ của Hạm đội Angers dư sức canh giữ hơn nghìn tù binh đã bị tước vũ khí, không ảnh hưởng đến tình hình chiến sự.
Còn những chiến thuyền chiến lợi phẩm mất khả năng di chuyển, đã được bọn họ dùng dây nối vào những chiến thuyền có thể di chuyển, rồi kéo vào bờ. Những chiến thuyền bị hư hỏng, chỉ cần tu sửa là lại có thể sử dụng. Sau khi thành lập Hạm đội Angers, những chiến thuyền Balinger đối với Hải quân Anjou không thể gọi là chiến thuyền, nhưng sử dụng làm thương thuyền cũng tốt chứ sao. Nó còn tốt hơn các thương thuyền mà người u châu đang sử dụng lúc bấy giờ. Hoặc là sử dụng làm thuyền vận tải cũng được.
Ngoài ra, số lượng vật tư thu được cũng rất lớn, đủ cho 1 vạn quân sử dụng trong ba tháng. Hạm đội Anh Cách Lan có nhiệm vụ vận chuyển hàng tiếp tế cho quân viễn chinh ở Calais mà.
Ngày 31 tháng 12 năm 1415, Hạm đội Angers tiến vào vùng biển Calais. Quân Anjou đổ bộ lên bờ, tiến đến chiếm giữ các yếu điểm ở vùng bờ biển phía bắc thành phố. Calais là một thành phố cảng, nằm ngay bên cạnh bờ biển, nên cũng nằm trong tầm uy hiếp của Hạm đội Angers. Sau trận hải chiến trên biển Manche, thủy thủ trên Hạm đội Angers, cho đến các tướng lĩnh, đều rất hứng thú với việc pháo kích địch quân. Trong trận hải chiến, mỗi khẩu thần công trung bình bắn 15 phát, chiếm đến hơn 1 phần 3 số đạn dược phối cấp cho Hạm đội. Do vậy, khi trận hải chiến vừa kết thúc, Đô đốc Frederick du Guesclin đã sai người khẩn cấp hồi báo với Công tước Anjou, để liên hệ với Thần Thánh Đế quốc mua thêm đạn dược.
Quân Anh Cách Lan trong thành Calais chỉ có hơn 3.000 người, trong đó có hơn 2.500 là trường cung thủ (longbowman). Sau trận Agincourt, quân Anh Cách Lan có gần 500 người tử trận, và khi về đến Calais thì đã có khoảng 1.600 người bị thương và hơn 3.800 người bị bệnh (kiết lỵ) mất khả năng chiến đấu. Do đó, quân Anh Cách Lan chỉ còn lại hơn 2.000 người, cộng với thủ quân trong thành gần 1.000 người nữa, tổng cộng có được khoảng 3.000 quân. Do đó dù chiến thắng vang dội ở trận Agincourt, quân Anh Cách Lan không còn khả năng tấn công Paris mà buộc phải rút về Calais nghỉ ngơi dưỡng sức, và quốc vương Henry V of England đã phải về nước chuẩn bị thêm viện quân.
Khi 8.000 quân Anjou đổ bộ lên bờ biển, Bá tước xứ Marshall John de Mowbray chỉ huy quân Anh Cách Lan trong thành, nhận thấy quân Anjou quá mạnh, không dám ra đánh, mà quyết định cố thủ. Calais là căn cứ địa của Anh Cách Lan trong các cuộc tấn công Pháp Lan Tây, do đó thành trì kiên cố, đã từng đứng vững trước nhiều cuộc tấn công của quân Pháp.
Calais có bức tường thành kiên cố bao quanh, có con hào đôi và nhiều công sự. Ngoài ra, Calais nằm ngay bên bờ biển, dễ dàng nhận được hỗ trợ từ Hải quân, do vậy mới được phía Anh Cách Lan lựa chọn làm tiền đồn, căn cứ địa đánh Pháp. Nhưng lần này, việc nằm ngay bên bờ biển lại có lợi cho quân Anjou.
Nam tước Jean de Rais chỉ huy quân Anjou củng cố các cứ điểm bên bờ biển trước, sau đó mới tổ chức công thành. Lần này, cả hải lục quân cùng liên hợp tấn công. Đô đốc Frederick du Guesclin chỉ huy Hạm đội tiến đến ngoài khơi đối diện cổng phía bắc của thành Calais, rồi ra lệnh cho các xạ thủ khai hỏa. Cả 51 khẩu thần công luân phiên nhả đạn vào cổng thành. Do hỏa lực tập trung, chỉ sau 10 lượt pháo kích, cổng thành đã không còn đứng vững, đổ sụp xuống. Đến lúc này, Nam tước Jean de Rais mới suất lĩnh 8.000 quân Anjou tràn vào trong thành. Calais vốn là thành phố của Pháp Lan Tây, dân trong thành đa số là người Pháp Lan Tây, do đó quân Anjou kiểm soát được thành phố mà không gặp nhiều trở ngại. Khi quân Anjou nhập thành, quân Anh Cách Lan chống trả một cách yếu ớt, đến khi thiệt hại gần 1.000 người thì rút lui vào thành bảo bên trong thành phố tiếp tục cố thủ.
Thành phố Calais cũng giống như nhiều thành phố khác của u châu lúc bấy giờ, có trung tâm là một thành bảo, hay còn gọi là lâu đài, là nơi ở của lĩnh chủ địa phương. Gia đình lĩnh chủ, quân đội và bộ máy cai trị đều tập trung bên trong thành bảo. Dân chúng sống ở bên ngoài, tạo ra các khu phố. Và một khi dân cư phát triển đông đúc thì thành phố được hình thành. Chỉ các thành phố lớn, quan trọng mới có tường thành bao quanh. Một khi thành phố thất thủ thì thành bảo là cứ điểm cuối cùng của thủ quân.
Với một tòa thành bảo, diện tích không lớn, 2.000 quân hoàn toàn đủ sức phòng ngự. Thành bảo nằm sâu phía trong, đại pháo trên chiến thuyền không bắn đến được, do đó muốn chiếm được thành bảo thì chỉ còn cách cường công. Nam tước Jean de Rais sợ thiệt hại nặng, nên không công thành mà chỉ bao vây xung quanh. Quân Anjou chia ra 6.000 người vây thành, số còn lại chia ra kiểm soát thành phố.
Đến tối, Nam tước Jean de Rais và Đô đốc Frederick du Guesclin gặp nhau tại phòng chỉ huy trên chiến thuyền ‘Réne de Anjou’ để bàn bạc tình hình chiến sự. Đô đốc Frederick du Guesclin nói :
- Chúng ta nên nghĩ cách giải quyết thành bảo cho sớm, không nên để dây dưa kéo dài. Công tước Đại nhân còn muốn chúng ta tấn công xứ Flanders.
Nam tước Jean de Rais cau mày nói :
- Ta cũng biết vậy, nhưng thành bảo rất kiên cố, không có sự hỗ trợ của pháo hạm, quân ta tấn công sẽ tổn thất rất nặng nề. Chúng ta chỉ có 8.000 quân, nếu thiệt hại nặng, làm sao có thể đánh chiếm Flanders được.
Đô đốc Frederick du Guesclin gật đầu nói :
- Cũng phải. Sau khi chiếm Calais, chúng ta phải để lại ít nhất 2.000 quân để phòng thủ. Đến lúc đó …
Nam tước Jean de Rais quay sang hỏi chúng thuộc hạ :
- Mọi người có ý kiến gì không ?
Cả bọn vò đầu bứt tóc, cố gắng suy nghĩ. Hồi lâu, thuyền trưởng của chiến thuyền ‘Réne de Anjou’ đề nghị :
- Hay là chúng ta hỏa thiêu thành bảo. Chúng ta đem hỏa dược rải xuống dưới chân tường, rồi phóng hỏa.
Nam tước Jean de Rais cau mày nói :
- Như thế thì không thể bắt được tù binh rồi. Hơn nữa, nếu phóng hỏa, những chiến lợi phẩm bên trong thành bảo sẽ bị thiêu hủy hết.
Đô đốc Frederick du Guesclin lại nói :
- Ta thấy đó là ý kiến hay. Thiêu hủy còn hơn thiệt quân. Nên nhớ xứ Flanders rất giàu có đó nha.
Phải nha ! Mọi người nghĩ đến sự giàu có của xứ Flanders ở ngay bên cạnh, ánh mắt đều sáng rỡ, lập tức tán thành đề nghị phóng hỏa. Flanders là một lĩnh địa quan trọng của Công tước xứ Burgundy, nằm ngay phía đông Calais, là trọng điểm cần tấn công của quân Anjou.
Sáng hôm sau, quân Anjou được lệnh tìm gỗ, củi, rơm rạ, và những thứ dễ cháy tập trung lại xung quanh thành bảo. Thủ quân trong thành bảo thấy thế, lo sợ vô cùng. Đến chiều, nhiều đống gỗ lớn được ném xuống chân tường, chất cao hơn cả đầu người. Quân Anjou lại còn dùng cung tên bắn lên mặt thành, áp chế không cho thủ quân ló đầu lên. Chỉ riêng đội cung thủ 4.000 người đã đông gấp đôi số lượng thủ quân trong thành, tên bắn ra như mưa, áp chế hoàn toàn đối phương.
Đến tối, ngọn lửa được đốt lên, thông qua hỏa dược làm cho ngọn lửa bùng lên rất dữ dội. Hơi nóng tỏa ra ngùn ngụt, không ai có thể đến gần. Cả một khu vực rộng lớn gần cửa bắc của thành bảo sáng bừng dưới ngọn lửa khổng lồ cao hàng mấy mét. Quân Anjou không có ý định thiêu hủy hoàn toàn thành bảo, chỉ muốn phá hủy tường thành để có thể tấn công vào trong mà thôi. Do đó toàn bộ những vật dễ cháy đều được tập trung về đây. Ngọn lửa cháy lớn đến nổi cả ở Hạm đội ngoài biển cũng nhìn thấy rõ.
Khi ngọn lửa được đốt lên thì thủ quân trong thành bảo cũng bắt đầu hỗn loạn. Ngọn lửa quá lớn, nếu không được dập tắt thì có thể cháy lan ra cả thành bảo, rồi toàn bộ thủ quân sẽ bị thiêu sống. Nhưng những người muốn cứu hỏa lại bị đội cung thủ của quân Anjou ngăn cản, tử thương không ít. Bá tước xứ Marshall John de Mowbray chỉ khống chế được hơn một giờ, rồi thủ quân tan vỡ. Rất nhiều quân Anh Cách Lan mở cửa thành bảo bỏ chạy ra ngoài. Tình hình hỗn loạn đến mức Bá tước John de Mowbray không sao kiểm soát được. Cuối cùng, cả bọn đành mở cửa thành bảo đầu hàng.
Đến lúc này, một phần của bước tường thành phía bắc đã bị ngọn lửa nung nóng, sụp xuống. Nam tước Jean de Rais vừa lo tiếp thu đối phương đầu hàng, vừa sai người lo cứu hỏa. Chiếm được thành bảo rồi, bọn họ cũng không muốn thành bảo bị thiêu hủy.
Đến sáng ngày 1 tháng 1 năm 1416, sau gần 70 năm dưới sự kiểm soát của người Anh (kể từ năm 1346), thành phố cảng Calais chính thức rơi vào tay quân Anjou.
__________________________________________________ ______
chú : trong truyện tui dùng từ Anh Cách Lan là để phân biệt với khải niệm nước Anh mà mọi người vẫn hiểu bây giờ. Hiện nay, người Việt thường sử dụng nước Anh để chỉ United Kingdom (UK). Đó là cách hiểu sai, nhưng mọi người đã dùng quen rồi nên được coi như đúng. "Đã từ lâu người ta thường dùng England một cách nhầm lẫn để chỉ Britain và cả the United Kingdom; và hiện nay Great Britain và the United Kingdom được dùng để chỉ cùng một thực thể - tuy nhiên, đây chỉ là cách gọi không chính thức." (http://vi.wikipedia.org/wiki/Li%C3%A...BA%AFc_Ireland). Ở Anh họ còn phân biệt rõ :
The English: người Anh;
The Welsh: người xứ Wales;
The Irish: người Ireland;
The Scottish hoặc Scots: người Scotland
"United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland" (Liên hiệp Vương quốc Đại Bất Liệt Điên và Bắc Ái Nhĩ Lan) , tên gọi ngắn là United Kingdom (viết tắt là UK) , gồm 4 phần chính là England (Anh Cách Lan) , Scotland (Tô Cách Lan) , Wales (Gan) và Northern Ireland (Bắc Ái Nhĩ Lan) . Trước năm 1707 thì Scotland là vương quốc độc lập; trước năm 1800 , Ireland cũng là vương quốc độc lập; Wales cũng chỉ bị sát nhập vào năm 1535 . Do đó trong truyện nói Anh Cách Lan là chỉ phần England mà thôi . Còn vương quốc Scotland theo phe Pháp Lan Tây (cũng khác nước Pháp hiện đại) . Bà con có thể xem trên bản đồ kèm theo ở chương 87 : Bà con ai coi bóng đá chắc cũng biết 4 xứ trên có 4 đội bóng đá quốc gia riêng khi tham gia World Cup hay Euro. Tóm lại, tui viết Anh Cách Lan là muốn chỉ xứ England.
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Nguồn: ttv
Chương 90 : ĐẠI TY
Đại Tây, tức chỉ u châu, người xưa gọi các nước ở u châu là ‘Đại Tây chư quốc’, hay ngày nay vẫn gọi là ‘các nước phương tây’ (người xưa thích thêm chữ Đại vào để chỉ những thứ lớn, như Đại Việt, Đại Minh, Đại Hàn, đại quân, đại tướng, …). Do đó, đại dương ở bên cạnh Đại Tây chư quốc được gọi là Đại Tây Dương.
u châu, Đại Tây chư quốc, với trung tâm là Đế quốc La Mã Thần Thánh Dân tộc Đức (Đế quốc La – Đức). Lân cận có các vương quốc lớn là Pháp Lan Tây (France), Anh Cách Lan (England), Hungary, Ba Lan (Poland). Và ở vòng ngoài nữa là các vương quốc yếu hơn : Tô Cách Lan (Scotland), Ái Nhĩ Lan (Ireland), Na Uy (Norway), Thụy Điển (Sweden), Đan Mạch (Denmark), Bồ Đào Nha (Portugal), Castile, Aragon, Sicily, Napoli, Papal of State. Giữa các vương quốc đó có xen lẫn nhiều công quốc hay nước cộng hòa nhỏ khác, như : Cộng hòa Genoa, Cộng hòa Venice, Thụy Sĩ (Swiss), Milan, Majorca, Navarre, … hay các lĩnh địa hiệp sĩ : Knight of Saint John, Teutonic Knights. Cuộc ‘chiến tranh trăm năm’ có sự tham gia của gần như toàn thể Đại Tây chư quốc, với hai phe là :
1. Pháp Lan Tây (France), Castile, Tô Cách Lan (Scotland), Genoa, Majorca, Bohemia, Aragon, Brittany (Blois).
2. Anh Cách Lan (England), Plantagenet, Burgundy, Aquitaine, Brittany (Montfort), Bồ Đào Nha, Navarre, Flanders, Hainaut, Luxembourg, Đế quốc La – Đức, Đan Mạch.
Ngoài ra còn có các cuộc chiến tranh nhỏ khác, như các cuộc chiến giữa Papal of State và Ladislaus of Napoli, Đế quốc La – Đức và vương quốc Hungary, Công tước xứ Anjou và Ladislaus of Napoli, Vương tử - Giám mục Trento và Công tước Áo, … Ở phía đông thì chiến tranh giữa Đế quốc Byzantine và Đế quốc Ottoman cũng đã kéo dài cả trăm năm. Nói chung, cả u châu gần như ngập chìm trong chiến tranh loạn lạc.
Khoảng nửa năm trở lại đây, thông qua các thương nhân ngang dọc khắp Đại Tây chư quốc, những lời ca về ‘Vương tử của bi thương’ được truyền tụng khắp nơi. Từ các vương quốc Ba Lan, Hungary ở phía đông; cho đến Bồ Đào Nha, Castile ở phía tây; Tô Cách Lan, Đan Mạch ở phía bắc; Sicily, Napoli ở phía nam, đâu đâu cũng nghe thấy những vần điệu đó. Trong cảnh tăm tối u buồn của ‘Đêm dài Trung Cổ’, những vần điệu đó mang đến cho những người dân nghèo ít nhiều hy vọng – hy vọng về Ánh sáng ở tương lai.
“Cậu vốn là vương tử của bóng tối, cậu vốn là một vị vương cô độc, cậu vốn là một chương buồn của vở kịch cuộc đời.
Bên dưới cuộc đời đầy sóng gió, che giấu một tâm hồn cô độc. Cậu vô lực tránh né, cậu vô pháp thoát ra, chỉ còn cách dụng tâm hồn cô độc an ủi trái tim bi thương.
Trong tuổi thơ ngắn ngủi của mình, cậu chứng kiến hết bi kịch này đến bi kịch khác. Cung đình phản loạn, vương quốc bị chiếm, quê hương loạn lạc, gia đình phân ly, đã khiến cho bóng dáng nhỏ bé của cậu dần dần nhiễm lấy sắc màu bi thương. Vương giả trước sau vẫn luôn cô độc.
Có lẽ cậu là một vị vương yếu đuối. Cho dù cậu phản kháng thế nào, kiên cường thế nào, cậu vẫn không thể cải biến được số phận của vương quốc và của bản thân mình. Một vị vương cô độc, phải tịch mịch suốt đời. Có lẽ đó là kết cục đã được định sẵn. Một vị vương cô độc, có lẽ sẽ vẫn mãi mãi cô độc, cùng với những dòng lệ tuôn rơi, hóa thành hư vô, chìm vào dĩ vãng.
Thế nhưng, may mắn cho cậu, tinh thần của cậu cảm động Thiên đế. Khi cậu lần đầu tiên được đối diện Thiên đế, cũng là lần đầu tiên cậu cảm thấy thế gian không chỉ toàn là hắc ám. Ánh sáng của hy vọng dẫn đường cho cậu tiến đến tương lai.”
“Cậu có đôi mắt màu tím, với con ngươi màu đen đầy ôn nhu. Màu sắc của ôn nhu thường chỉ là những màu nhẹ nhàng, tại sao sự ôn nhu của cậu lại có màu đen ? Bởi vì cuộc đời u buồn, khiến cho sự ôn nhu của cậu quá đỗi thâm trầm. Bởi vì cuộc đời hắc ám, khiến cho sự ôn nhu của cậu nhuốm màu bi thương.
Có ai biết chăng ? Sự ôn nhu đó, chỉ cần chạm nhẹ vào, sẽ có cảm giác đau đớn đến tận tâm hồn. Sự ôn nhu đó, thật ra cũng là sự tuyệt vọng gắn liền với tịch mịch, với cô độc. Sự ôn nhu đó, so với những sự ôn nhu khác, càng thêm trầm trọng.
Chân chính hạnh phúc, cậu đã từng có. Thế nhưng chiến tranh, phản bội và sự lừa dối, đã khiến cho hạnh phúc rời xa cậu, rất xa, rất xa. Sự hy vọng của cậu, bất quá cũng chỉ là có được một niềm vui nhỏ bé. Thậm chí, sự truy cầu hạnh phúc, đối với cậu, cũng đã là hạnh phúc.”
“Cậu là một vị vương cô độc. Thế gian thì vĩnh hằng, đời người thì hữu hạn. Giữa thế gian bao la, cậu phải làm gì, cậu phải đi đâu về đâu ? Sinh mệnh của cậu, lẽ nào chỉ gắn liền với bất hạnh, với bi thương ? Cho dù đóa hoa mỹ lệ, rồi cũng có lúc úa tàn. Cho dù cuộc đời bất hạnh, rồi cũng có lúc sang trang. Ánh sáng cuối cùng, chỉ đến với người có ý chí, có niềm tin – niềm tin về hy vọng, niềm tin về tương lai.”
Không ai biết vị vương tử đó là ai, là người ở đâu. Nhưng những người dân bình thường, từ nông dân cho đến thị dân, dù ở thôn quê hay nơi thành thị, mọi người đều nhận thấy bối cảnh của câu chuyện đó sao mà quen thuộc. Chiến tranh, loạn lạc, bất hạnh, bi thương, chẳng phải đang bao trùm toàn cõi u châu hay sao ? Từ đó, những vần điệu kia ngày càng đi sâu vào lòng dân chúng.
Và lúc này, nhân vật chính trong câu chuyện đó đang hướng về u châu, đang hướng về Đại Tây chư quốc.
Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.518 (Bính Thân, 1416). Xuân vương chính nguyệt. Đại Tây hành cung.
Để dễ dàng tiến hành chiến tranh với Pháp Lan Tây, Anh Cách Lan có một tiền đồn, đồng thời cũng là căn cứ địa, là thành phố cảng Calais. Thần Thánh Đế quốc cũng có một căn cứ địa để chuẩn bị cho việc kinh lược Đại Tây chư quốc, đặt ở Sinai. Nơi đây không chỉ có một căn cứ Hải quân nằm bên trong vịnh Buhayrat al Mazilah, mà còn tập trung nhiều đạo quân trú đóng huấn luyện. Ngoài ra, ở bên bờ Địa Trung Hải, gần căn cứ Hải quân còn có một tòa hành cung được xây dựng theo kiểu Trường Thanh Cung, nhưng quy mô nhỏ hơn, dự phòng sử dụng đến nếu một lúc nào đó Thánh hoàng ngự giá kinh lược tây phương. Hành cung này được đặt tên là Đại Tây hành cung, ngụ ý hướng về Đại Tây chư quốc.
Kể từ tháng 10 năm ngoái, tình hình ở Hoa Bắc đã tạm ổn định, với sự tồn tại của 7 nước : Đại Tống ở Sơn Đông, Đại Hán ở Hà Nam, Đại Đường ở Thiểm Tây, Đại Minh ở Hà Bắc, Tấn ở Sơn Tây, Hạ ở Tứ Xuyên và Lương ở Cam Túc. Thần Thánh Đế quốc chỉ để lại Hoa lục 4 đạo quân : Thần Long quân ở Kim Lăng, Thần Uy quân ở Quảng Châu, Thần Vũ quân ở Trường Sa và Định Hải quân ở Liêu Đông. Các đạo quân Uy Vũ, Uy Nghĩa, Uy Đức, Trấn Biên tiến về xứ Thái, đánh đuổi quân Miến Điện đang xâm chiếm vùng bắc Thái, nhân tiện bình định các xứ Miến Điện. Còn các đạo quân Uy Tiệp, Long Tiệp, Linh Tiệp, Bảo Tiệp, Trấn Phong, Trấn Ninh đều được triệu hồi về phương nam.
Cuộc bắc phạt đã kết thúc, Giang Phong lúc này mới rảnh tay lo việc của Long nhi, cũng là việc kinh lược u châu. Trước đó, từ cuối năm Giáp Ngọ (1414), Giang Phong đã phái 2 đạo tân quân là Chiêu Viễn, Chiêu Đức đến Sinai huấn luyện. Giờ đây, 4 đạo Uy Tiệp, Long Tiệp, Linh Tiệp, Bảo Tiệp cũng được lệnh lên đường đến Sinai. Cùng đi còn có Long nhi và Hải quân bộ bộ trưởng Chiêu Đức Vương Đinh An Bình.
Trên danh nghĩa, Long nhi là quốc vương của Napoli và Sicily (thừa kế từ Louis II de Anjou và Louis I de Anjou), đồng thời còn tranh chấp ngôi quốc vương của Aragon (thừa kế từ mẹ là Yolande de Aragon). Cuộc tranh chấp ngôi quốc vương này gần giống cuộc tranh ngôi giữa quốc vương hai nước Anh Cách Lan và Pháp Lan Tây, dẫn đến cuộc ‘chiến tranh trăm năm’. Quốc vương John I de Aragon qua đời, Yolande de Aragon là người con duy nhất còn sống, nên được thừa kế ngai vàng. Nhưng giới quý tộc Aragon lại muốn ưu tiên cho thân nhân nam hơn nữ, vì thế ngai vàng đã thuộc về chú của Yolande de Aragon là Martin I de Aragon. Đến khi Martin I de Aragon qua đời, không có người thừa kế hợp pháp, Yolande de Aragon đã đòi lại ngai vàng. Trong khi đó thì một số họ hàng xa của Martin I de Aragon cũng đòi quyền thừa kế. Những người tranh chấp ngai vàng gồm :
1. Fadrique de Aragon y Luna, Bá tước xứ Luna, cháu nội của Martin I de Aragon, người con không được thừa nhận (bastard) của con trai Martin I de Aragon.
2. Jaume, Công tước xứ Urgel, cháu nội của Alfonso IV de Aragon, con trai của em họ của Martin I de Aragon.
3. Alfonso, Công tước xứ Gandia, đã 80 tuổi (qua đời năm 1412), chú họ của Martin I de Aragon.
4. Louis III de Anjou (tức là Long nhi), cháu ngoại của John I de Aragon, thừa kế qua mẹ là Yolande de Aragon.
5. Fernando de Trastamara el de Antequera (Ferdinand), nhiếp chính của Castile, cháu nội của Peter IV de Aragon, thừa kế qua mẹ là Eleanor de Aragon, nữ vương của Castile. Cháu họ xa của Martin I de Aragon.
Cuộc tranh chấp kéo dài, và trong thời gian đó, Aragon không có quốc vương.
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Nguồn: ttv
Chương 91 : Đại Tây hành cung
Lại nói, sau 2 năm không có quốc vương, đến năm 1412, các quý tộc của Aragon đã quyết định nhóm họp để tuyển chọn tân quốc vương. Thế nhưng, hội nghị đã gặp rất nhiều khó khăn “do sự phân kỳ lợi ích giữa các phe phái của giới quý tộc; sự thiếu kiên nhẫn của những người ủng hộ Công tước xứ Urgel; và sự can thiệp của quân đội Castile do Fernando de Trastamare cầm đầu”.
Cuối cùng, Fernando de Trastamare được chọn làm quốc vương, tức Fernando I de Aragon. Thế nhưng, do có sự can thiệp của quân đội Castile, nhiều người đã không thừa nhận kết quả đó, và nhà Anjou vẫn tuyên bố quyền thừa kế của mình là hợp pháp (sau đó có giành lại được ngai vàng trong một thời gian ngắn, nên một số sử gia phương tây vẫn gọi Yolande de Aragon là Queen of Four Kingdom, với 4 vương quốc là Sicily, Jerusalem, Cyprus và Aragon, trong đó Aragon lại kiểm soát cả Majorca, Valencia và Sardinia nên còn có thể xem là 7 vương quốc).
Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.518 (Bính Thân, 1416). Mùa xuân tháng 2. Đại Tây hành cung.
Tôn Lương, nguyên là Đô Đốc của Hồng Long phân hạm đội thuộc Tây Dương Hạm đội, sau khi Hải quân cải tổ thì đã được thăng làm Đại đô đốc của Hắc Long Hạm đội, phụ trách khu vực Địa Trung Hải và Đại Tây Dương, có các căn cứ ở Gibraltar, Cathage và Sinai. Khi Long nhi và Đinh An Bình đến Đại Tây hành cung thì Tôn Lương cũng đến bái kiến, hồi báo tình hình.
Long nhi lúc này đã 13 tuổi. Sau gần 2 năm sinh sống ở Thần Thánh Đế quốc, Long nhi đã nói được ngôn ngữ của Đế quốc, và tính cách của cậu bé khiến cho mọi người đều yêu mến. Trong chính điện, cậu bé ngồi trên bảo tọa, Đinh An Bình ngồi bên cạnh, còn văn thần võ tướng đứng hầu hai bên. Long nhi hỏi :
- Tôn Đại đô đốc. Tình hình Pháp Lan Tây thế nào rồi ?
Cậu bé vẫn quan tâm tình hình Pháp Lan Tây, đặc biệt là Anjou, nhất là khi quân Anjou đã triển khai phản công từ mấy tháng trước. Đại đô đốc Tôn Lương nói :
- Hồi bẩm Điện hạ. Sau trận Agincourt, Pháp Lan Tây quân lực đại giảm, phe Armagnacs suy yếu nhanh chóng, thành Paris rơi vào tay quân Burgundy, các đạo quân Pháp Lan Tây không còn khả năng tiến hành các chiến dịch chống quân Anh Cách Lan nữa. Mùa đông vừa rồi, quân Anjou phản công, chiếm Guyenne, đánh bại Hạm đội Anh Cách Lan, rồi chiếm Calais. Sau đó, quân Anjou huy động thêm 1 vạn dân binh từ Anjou và Maine, lấy vũ khí thu được từ Calais trang bị cho dân binh, rồi tiến chiếm Flanders. Mùa xuân, Hạm đội Angers tấn công thành phố cảng Dover trên đất Anh Cách Lan, tiêu diệt Hạm đội Anh Cách Lan trú đóng ở đó. Còn lục quân đã tăng lên đến 2 vạn rưỡi, liên tục tiến chiếm các lĩnh địa ở duyên hải phía bắc Pháp Lan Tây, nằm ở khoảng giữa Calais và Anjou, như : Artois, Picardie, Eli, Longuevlle, Normandy. Đến lúc này, toàn bộ khu vực bắc bộ Pháp Lan Tây đã do quân Anjou kiểm soát.
Long nhi hỏi :
- Quân Anjou xử lý các lĩnh địa chiếm được như thế nào ?
Tôn Lương nói :
- Đương nhiên là cử người đến cai quản hoặc phân phong cho thuộc hạ. Nam tước Jean de Rais được phong là Bá tước xứ Eli, còn Đô đốc Frederick du Guesclin của Hạm đội Angers được phong làm Tử tước xứ Boulogne. Cả lão Ferdinand Caracciolo cũng được phong làm Bá tước xứ Artois.
Đối với người của Thần Thánh Đế quốc thì việc chiếm đất rồi cử người đến cai trị là chuyện bình thường. Nhưng ở u châu, mỗi lĩnh địa đều có chủ nhân, sử dụng vũ lực để chiếm lấy đa phần bị xem là không hợp pháp. Các vương công, quý tộc ở u châu mở rộng lĩnh địa hầu như đều bằng cách thừa kế, hôn nhân hay mua lại. Do vậy, Long nhi lo lắng nói :
- Làm thế có vấn đề gì bất ổn không ?
Tôn Lương ngạc nhiên nói :
- Có gì bất ổn đâu ! Đất đai chiếm được, muốn phân phong cho ai hay muốn xử lý thế nào thì đều là chuyện thiên kinh địa nghĩa mà.
Đinh An Bình mỉm cười bảo Long nhi :
- Không sao đâu ! Chỉ cần có sức mạnh, thì làm gì cũng đều đúng cả, không ai dám phản đối. Hơn nữa, quân Anjou chiếm đất từ quân Anh Cách Lan hoặc đồng minh của chúng kia mà.
Đoạn, Đinh An Bình bảo Tôn Lương :
- Phía Anjou có liên hệ với các ngươi không ?
Tôn Lương nói :
- Hồi bẩm Đại vương. Quân Anjou đã mấy lần liên hệ với bọn thuộc hạ để mua thêm đạn dược cho thần công đại pháo. Ngoài ra, sau khi tăng quân số, bọn họ cũng đã 2 lần mua lương thự vũ khí.
Đinh An Bình gật đầu hỏi :
- Được rồi. Thế còn tình hình Napoli và Aragon thế nào ?
Tôn Lương nói :
- Hồi bẩm Đại vương. Ngụy vương Ladislaus de Napoli đã qua đời cách nay 2 năm, chị gã là Joan II de Napoli kế vị. Bà ta thay chồng như thay áo vậy. Năm Tân Tỵ (1401), bà ta kết hôn với Công tước William de Austria (Áo) thì đến năm Bính Tuất (1406) chồng qua đời, bà ta có tình nhân là Pandolfello Alopo. Đầu năm ngoái, Bà ta vừa đính hôn với John de Aragon, con trai của Fernando I de Aragon, thì sang tháng sau đã chia tay ngay để đến cuối năm kết hôn với James de Bourbon, Bá tước xứ La Marche, nhằm nhận được sự hỗ trợ của triều đình Pháp Lan Tây. Thỏa thuận hôn nhân quy định rằng sau khi kết hôn, Joan II de Napoli phải phong cho James de Bourbon danh hiệu Vương tử xứ Taranto. Tuy nhiên, Joan II de Napoli đã thất hứa. Không nhận được danh hiệu như thỏa thuận, James de Bourbon đã giết chết Alopo và buộc Joan II de Napoli phải nhường ngôi cho mình, sau đó giam giữ bà ta trong phòng riêng ở vương cung. Có điều, hành vi của James de Bourbon bị giới quý tộc và dân chúng Napoli căm ghét. Hiện tại, dân chúng Napoli đang chuẩn bị nổi dậy.
Nếu không có sự xuất hiện của Thần Thánh Đế quốc thì theo đúng lịch sử, cuộc nổi dậy sẽ bùng nổ trong năm nay (1416), James de Bourbon sẽ bị lật đổ và Joan II de Napoli được phục ngôi. Đến năm 1418, James de Bourbon rời Napoli trở về lĩnh địa của mình ở Pháp Lan Tây. Năm 1423, Alfonso V de Aragon tấn công Napoli, Joan II de Napoli phải chạy sang Aversa. Tại đó, bà ta gặp Louis III de Anjou, và nhận Louis III de Anjou làm người thừa kế. Năm 1424, Joan II de Napoli khôi phục được ngai vàng, và Louis III de Anjou đến sống tại một trong các lĩnh địa của mình là Calabria, chờ được nối ngôi. Có điều, Louis III de Anjou qua đời vào 10 năm sau đó, và không có con. Quyền thừa kế thuộc về Réne de Anjou, em trai của Louis III de Anjou. Joan II de Napoli qua đời vào 1 năm sau, và Réne de Anjou trở thành quốc vương Napoli.
Giờ đây, Louis III de Anjou đã trở thành Long nhi, Hoàng tử của Thần Thánh Đế quốc, và Đế quốc đang chuẩn bị kinh lược Đại Tây chư quốc, khôi phục các tước vị mà Long nhi đang có. Đinh An Bình quay sang hỏi Long nhi :
- Điện hạ hiện đang có những tước vị nào ?
Long nhi suy nghĩ giây lát, rồi đáp :
- Quốc vương Napoli, Quốc vương Sicily, Quốc vương Aragon, Quốc vương Cyprus.
Tôn Lương nói thêm :
- Nếu vậy thì Điện hạ còn là Quốc vương Majorca, Valencia, Sardinia và Corsica; Công tước xứ Atens và Neopatria; Bá tước xứ Barcelona , Roussillon và Cerdanya. Đó là những vương quốc và lĩnh địa thuộc quyền sở hữu của Quốc vương Aragon.
Đinh An Bình lại nói :
- Joan II de Napoli cũng là thành viên của vương tộc Hungary thì phải ?
Tôn Lương nói :
- Hồi bẩm Đại vương. Charles III de Napoli, cha của Ladislaus de Napoli, người đã cướp ngôi quốc vương Napoli của Louis I de Anjou, từng là quốc vương Hungary. Sau khi ông ta qua đời thì Mary de Hungary kế vị ngôi quốc vương Hungary, và Ladislaus de Napoli kế vị ngôi quốc vương Napoli, rồi sau đó Joan II de Napoli đã kế ngôi của Ladislaus de Napoli.
Nghe nhức đầu quá, Đinh An Bình khẽ lắc đầu, nói :
- Tóm lại là Điện hạ cũng có đủ lý do để phát động chiến tranh với Hungary.
Tôn Lương gật đầu nói :
- Vâng ạ. Không chỉ Hungary, kể cả Bourbon, Aragon, Castile và Navarre.
Đinh An Bình hỏi :
- Tình hình Aragon thế nào ?
Tôn Lương nói :
- Hồi bẩm Đại vương. Sau khi Fernando I de Aragon lên ngôi thì tình hình Aragon vẫn ổn định. Cả Aragon và Castile tuy hai mà một, bởi Fernando I de Aragon vừa là quốc vương Aragon, vừa là nhiếp chính của Castile. Nữ vương Castile là chị dâu của gã. Tháng trước, thuộc hạ sai người mang thư sang yêu cầu gã trả lại ngai vàng cho Điện hạ, nhưng đã bị từ chối.
Đinh An Bình gật đầu nói :
- Rất tốt. Thế thì ta có lý do động binh với cả Castile. Tôn Đại đô đốc.
Tôn Lương vội ứng tiếng vâng dạ, cung kính chờ lệnh. Đinh An Bình truyền lệnh :
- Tập trung chiến hạm, phong tỏa vùng duyên hải Napoli, Sicily và Aragon. Vận hạm chuẩn bị sẵn sàng.
Tôn Lương cung kính nhận lệnh. Đinh An Bình lại gọi :
- Vương Nguyên, Triệu Quý Thường, Ngô Trấn Quốc, Lý Xương Văn.
Cả bốn người này đều là Tướng quân, thống lĩnh các đạo quân Chiêu Viễn, Chiêu Đức, Bảo Tiệp, Linh Tiệp. Quân chế của Đế quốc : 10 người thành 1 đội, có Đội trưởng; 10 đội thành 1 đoàn, có Thống lĩnh; 10 đoàn thành 1 vệ, có Vệ úy; 10 vệ thành 1 sư, có Hiệu úy; 3 sư thành 1 quân, có Tướng quân. Tướng quân có thể là Thiên Tướng quân, Tả Tướng quân, Trấn Bắc Tướng quân, Chinh Bắc Tướng quân, Thảo Nghịch Tướng quân, Chiêu Đức Tướng quân, Kiêu Kỵ Tướng quân, Long Nhương Tướng quân, …
Nghe gọi, cả bọn bước ra cung kính chờ lệnh. Đinh An Bình truyền lệnh :
- Hai đạo Chiêu Viễn, Bảo Tiệp tiến chiếm Napoli, Ngô Trấn Quốc làm chính, Vương Nguyên làm phó; hai đạo Chiêu Đức, Linh Tiệp tiến chiếm Sicily, Lý Xương Văn làm chính, Triệu Quý Thường làm phó.
Cả bọn cung kính nhận lệnh. Đinh An Bình lại truyền lệnh cho quan lại các tỉnh chuẩn bị lương thực vật tư hỗ trợ đại quân.
.....
Danh hiệu quý tộc ở u châu có cấu trúc giống nhau :
<Tước hiệu> <Tên> <liên từ> <tên lĩnh địa/tên nơi sinh>
Liên từ là ‘of’ trong tiếng Anh, ‘de’ trong tiếng Pháp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, ‘di’ trong tiếng Ý, ‘von’ trong tiếng Đức, ‘van’ trong tiếng Hà Lan, …
Ví dụ : Công tước Louis II xứ Anjou, Duke Louis II of Anjou, Duché Louis II de Anjou, Duca Luigi II di Angiò, Herzog Ludwig II von Anjou, Hertog Lodewijk II van Anjou, …
Những lĩnh địa không phải là vương quốc, công quốc độc lập thường được gọi là ‘xứ’, ví dụ : xứ Wales.
Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức của giới quý tộc u châu. Trong các cung đình thường sử dụng tiếng Pháp. Từ chiến tranh thế giới thứ nhất đến chiến tranh thế giới thứ hai, tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thông dụng (nói giọng Mỹ sẽ bị xem là nhà quê). Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tiếng Mỹ thay thế vai trò của tiếng Anh (nói giọng Mỹ mới sang).
Kỳ sau : Các loại tước hiệu của quý tộc u châu.
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Nguồn: ttv
Chương 92 : Chinh phục Sicily
Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.518 (Bính Thân, 1416). Mùa xuân tháng 2, ngày rằm. Quân cảng Sinai.
Đối với người phương đông, những ngày đầu tháng và giữa tháng đều là những ngày tốt, còn gọi là ngày sóc và ngày vọng, là những ngày mà triều đình thiết đại triều. Còn đối với người phương tây, đêm trăng tròn cũng là một đêm huyền diệu. Do đó, ngày rằm tháng 2 đã được chọn làm ngày đại quân xuất chinh.
Quân cảng Sinai, nằm trong căn cứ hải quân ở vịnh Buhayrat al Mazilah, cách không xa cửa biển của nhánh phía đông sông Nile, hôm nay đột nhiên náo nhiệt khác thường. Hơn hai phần ba số chiến hạm của Hắc Long Hạm đội, gồm 2 chiếc Lục tinh cấp chiến hạm, 5 chiếc Thất tinh cấp chiến hạm, 12 chiếc Tuần dương hạm và 12 chiếc đại hình chiến thuyền được tập trung ở quân cảng, phụ trách vận chuyển đại quân đến Napoli và Sicily. Trên bến cảng, các đạo quân Chiêu Viễn, Chiêu Đức, Bảo Tiệp, Linh Tiệp cũng đã chuẩn bị hoàn tất, sẵn sàng lên thuyền xuất chinh.
Ngoài ra, theo thông lệ của Thần Thánh Đế quốc, mỗi khi đại quân xuất chinh đều có dân binh đi theo hỗ trợ. Theo lệnh của Chiêu Đức Vương Đinh An Bình, các tỉnh ven bờ Địa Trung Hải đã tuyển mộ 1 vạn dân binh, toàn là người u châu, để đi theo hỗ trợ đại quân. Nhiệm vụ của dân binh là phụ trách phòng thủ những địa bàn mà đại quân chiếm được. Sau khi Thần Thánh Đế quốc kiểm soát Sinai, rồi tiếp đó là các khu vực duyên hải phía đông và phía nam của Địa Trung Hải, đặc biệt là thánh địa Jerusalem, không chỉ có vô số thương nhân đổ đến tìm cơ hội phát tài, mà số người u châu đến đấy tránh loạn cũng không ít. Do đó, việc tuyển mộ dân binh không gặp nhiều khó khăn. Tổng chỉ huy lực lượng dân binh là Long nhi, để sau này sẽ chuyển đổi dân binh thành quân đội vương quốc của Long nhi. Các tướng lĩnh chỉ huy dân binh được tuyển chọn trong số những người thuộc gia đình phú thương, hoặc bình dân có học thức – những người hy vọng có thể thông qua quân công để trở thành quý tộc. Đối với người u châu, thân phận địa vị giữa bình dân và quý tộc cách biệt vô cùng lớn.
Đến giờ hoàng đạo, Đinh An Bình và Long nhi bước lên kỳ đài giữa quân cảng, nói lời động viên quân đội trước lúc xuất chinh. Long nhi hướng về lực lượng dân binh, chỉ nói đơn giản 4 chữ : “Phú quý, yên bình”, nhưng đã làm cho cả bọn nhiệt huyết sôi trào, hừng hực khí thế, muốn lập tức ra ngay chiến trường giết giặc lập công. Hưng phấn hơn cả là giới tướng lĩnh dân binh, bọn họ đã được cho biết rằng, trong tân triều đình sẽ có chỗ của bọn họ, đương nhiên là bọn họ phải biểu hiện năng lực của mình trước đã, triều đình sẽ không thu nhận những người vô dụng.
Sau đó, đại quân lần lượt xuống thuyền, để Hải quân chở đến địa điểm tác chiến. Hai đạo Chiêu Viễn, Bảo Tiệp tiến đến Napoli; còn hai đạo Chiêu Đức, Linh Tiệp tiến đến Sicily. Mỗi lộ đại quân được phối thuộc 5.000 dân binh.
Quãng đường từ Sinai đến Sicily khoảng 1.800 kilômét, đến Napoli gần 2.000 kilômét. Hạm đội đến Sicily trước, đổ 2 đạo quân Chiêu Đức và Linh Tiệp lên bờ biển phía đông. Sau đó Hạm đội tiếp tục vượt qua eo biển giữa Sicily và Napoly, tiến lên phía bắc. Theo kế hoạch, 2 đạo quân Chiêu Viễn và Bảo Tiệp sẽ được đưa đến vùng biên giới phía bắc của vương quốc Napoli, rồi từ đó sẽ đánh dần về phía nam, mục đích là để ngăn chặn không cho giới quý tộc và quân đội Napoli chạy lên phía bắc vào khu vực lĩnh địa của Giáo hội Công giáo La Mã (Papal of States). Vương quốc Napoli nằm trên bán đảo, chỉ cần đại quân ngăn chặn phía bắc, vùng biển lại bị Hải quân Đế quốc kiểm soát, thì địch quân sẽ chẳng thể chạy đi đâu được. Quân đội Đế quốc có ưu thế tuyệt đối, không cần sử dụng chiến thuật ‘vi tam khuyết nhất’ (vây 3 mặt, để trống 1 mặt).
Sicily trước đây là một vương quốc độc lập, nhưng đến năm 1409 đã bị sát nhập vào Aragon. Tuy nhiên, do Sicily không được triều đình Aragon xem trọng lắm, nên ở đấy chỉ có 3.000 quân, chia nhau trấn giữ các thành phố quan trọng trên đảo, như Palermo, Messina, Catania, Syracuse và Ragusa, trong đó thủ phủ Palermo tập trung đến 1.000 quân.
Ngày 27, Linh Tiệp quân bao vây Syracuse, thành phố cảng ở phía đông nam đảo. Ba vạn đại quân tấn công thành phố chỉ có 500 quân phòng thủ, chỉ mất chưa đến một buổi là đã chiếm được. Sau đó, 1.000 dân binh được phái trú đóng tại đây, đồng thời phụ trách bình định các thôn làng, thị trấn trong vùng.
Ngày 28, Linh Tiệp quân chia làm hai đạo tiến đánh Ragusa ở phía tây và Catania ở phía bắc; đồng thời Chiêu Đức quân bao vây Messina, thành phố cảng quan trọng nằm bên bờ eo biển giữa Sicily và Napoli. Cuộc tấn công không gặp phải trở ngại nào đáng kể. Các Hiệp sĩ của Aragon khi thấy mấy vạn đại quân dàn trận bên ngoài thành phố, chẳng mấy ai dám dẫn vài trăm quân ra nghênh chiến, đa phần cố thủ trong thành phố một cách tuyệt vọng. Và cũng có không ít tùy nghi di tản, quyển khoản tiềm đào, hay nói nôm na là gom tài sản bỏ trốn.
Ngày 1 tháng 3, khu vực phía đông đảo Sicily tràn ngập quân đội Thần Thánh Đế quốc. Người dân Sicily lần đầu phải đối diện với hình thức chiến tranh khác hẳn u châu. Đối với quân đội Đế quốc, tinh thần Hiệp sĩ của người u châu không có nghĩa lý gì cả. Dù chỉ đối diện vài trăm kẻ địch, hàng vạn đại quân cũng đồng loạt tấn công. Đầu tiên là hàng nghìn cung thủ đồng loạt bắn tên, rải mưa tên xuống đầu đối phương. Sau đó, khi đối phương đã trúng tên gần hết, thì chỉ cần một lượt xung phong là kẻ địch sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn.
Ngày 5 tháng 3, thủ phủ Palermo bị Chiêu Đức quân bao vây. Thành phố nằm bên bờ biển, nên cũng nằm trong tầm pháo kích của Hải quân Đế quốc. Sau một ngày pháo kích vào thành phố, cổng thành bị phá hủy, thủ quân không dám xuất hiện gần khu vực cổng thành và đại quân dễ dàng tràn vào bên trong. Thành phố thất thủ.
Sau đó, đại quân phân thành các nhóm nhỏ, chia nhau đi bình định toàn đảo. Đại quân đến nơi nào, dân chúng đều được tập họp lại để phân biệt nghịch dân và lương dân (địa bàn chưa bình định, thuận dân chưa thể xác định), hễ ai tỏ ý chống đối, thậm chí là bất hợp tác, đều bị xem là nghịch dân, là kẻ địch, sẽ bị tiêu diệt hoặc bắt giữ, trở thành tù binh chiến tranh. Theo thông lệ của u châu thời bấy giờ, tù binh chiến tranh nếu không có tiền chuộc thì đều bị biến thành nô lệ. Nhưng quân đội Đế quốc không cần tiền chuộc, hễ trở thành tù binh chiến tranh thì tương lai chắc chắn trở thành nô lệ. Ngoài ra, toàn bộ giới quý tộc của Sicily đều bị xem là người của Aragon, là kẻ địch, không ai được tha thứ. Giang Phong quyết định chế độ tương lai ở vương quốc của Long nhi sẽ là trung ương tập quyền, do dó mà lĩnh chủ phong kiến theo kiểu u châu không được phép tồn tại, nhân lúc chiến tranh giải quyết hết bọn họ là thích hợp hơn cả. Bọn họ thần phục Fernando I de Aragon, một trong những kẻ tranh chấp ngai vàng với Long nhi, nên bị xem là kẻ địch cũng không có gì là không đúng.
Đến giữa tháng 3, toàn cảnh Sicily cơ bản đã được bình định. Ở Sicily giờ đây không còn ai là quý tộc, chỉ còn lại toàn bình dân. Không còn quý tộc nghĩa là việc chống đối hầu như cũng không còn. Việc trị an trở nên tốt hơn, và được chuyển giao hoàn toàn cho lực lượng dân binh. Do mất đi quý tộc cùng với thuộc hạ và gia nhân của bọn họ, dân số Sicily giảm khoảng 1 phần 10, nhưng không vấn đề gì. Hệ thống chính quyền theo kiểu Đế quốc được thiết lập ở đây. Toàn đảo Sicily được thành lập 1 quận, có 5 huyện là 5 thành phố chính của nó. Quan viên được tuyển chọn trong lực lượng dân binh.
Chỉ trong vòng nửa tháng, 6 vạn đại quân đã tiêu diệt hoàn toàn 3.000 quân Sicily và bình định toàn cảnh (chiến quả chẳng có gì huy hoàng). Sau đó, Hải quân lại vận chuyển 5 vạn đại quân sang đảo Sardinia ở phía tây bắc Sicily. Còn lại 1 vạn tiến sang chiếm lĩnh Reggio trên đất Napoli nằm bên kia eo biển.
Trong khi đó thì cuộc chiến ở Napoli thì có nhiều kịch tính hơn. Khi khu vực phía bắc đã bị các đạo quân Chiêu Viễn và Bảo Tiệp khống chế, James de Bourbon ở Napoli vội vã triệu tập quân đội bảo vệ Napoli. Do dưới thời Ladislaus de Napoli, vương quốc đã tổ chức nhiều cuộc chiến tranh, quân lực giảm sút nghiêm trọng, do vậy lúc này toàn vương quốc chỉ có hơn 300 Hiệp sĩ và 5.000 quân. Trong diễn văn động viên quân đội, James de Bourbon tuyên bố :
- Ngày xưa, người Hy Lạp chiến tranh với Đế quốc Ba Tư, tuy thành Atens bị thiêu hủy, nhưng cuối cùng người Hy Lạp với chỉ 10.000 quân cũng đã đánh bại 5 triệu quân Ba Tư của Xerxes Đại đế (sử gia Hy Lạp cổ đại Herodotus ghi nhận có 5 triệu người, với một nửa là binh sĩ lấy từ 46 tiểu quốc thuộc địa, nhưng các sử gia hiện đại cho rằng chỉ có khoảng 200.000 – 250.000 người). Nếu chúng ta đồng tâm hợp lực, chắc chắn cũng sẽ đánh bại kẻ thù, bảo vệ Napoli.
Sau đó, quân đội của James de Bourbon tiến đến pháo đài Aversa ở phía bắc Napoli.
.....
Các loại tước hiệu của quý tộc u châu (1):
1. Các loại tước hiệu chính :
Ở phương đông, mà cụ thể là Trung Quốc có nhiều loại tước hiệu, tùy triều đại, nhưng có 5 loại tước hiệu chính là Công, Hầu, Bá, Tử, Nam.
Ở u châu cũng có 5 loại tước hiệu chính, nên được phiên dịch đối ứng với các tước hiệu của phương đông là Công tước, Hầu tước, Bá tước, Tử tước, Nam tước. Ngoài ra còn có Chuẩn nam tước và Hiệp sĩ, tuy có tước hiệu nhưng chưa chính thức là quý tộc.
2. Pháp Lan Tây (Française) :
Nhóm 1 :
Empereur - Hoàng đế
Royaume - Quốc vương
Dauphin - Thái tử
Prince - Vương tử
Nhóm 2 :
Duché - Công tước
Marquisat - Hầu tước
Comté - Bá tước
Vicomté - Tử tước
Baron - Nam tước
Nhóm 3 :
Seigneurie - Lĩnh chủ
Chevalier - Hiệp sĩ
Ngoài ra còn có lĩnh địa của giáo hội, gồm :
Évêché - Lĩnh địa Giám mục
Archévêché - Lĩnh địa Tổng Giám mục
Đến năm 1870, chế độ Cộng hòa thành lập, tước hiệu quý tộc bị bãi bỏ.
(chú : lĩnh chủ, ngày xưa còn gọi là lãnh chúa, giống như : chúa nhật, bang chúa, hội chúa ... Nhưng ngày nay thường dùng 'chủ', như chủ nhật, bang chủ, hội chủ ....)
Kỳ sau : Anh Cách Lan và Tô Cách Lan
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Nguồn: ttv
Chương 93 : Chinh phục Napoli (1)
Lại nói, sau khi các đạo quân Chiêu Viễn và Bảo Tiệp khống chế khu vực phía bắc vương quốc Napoli, cả vương quốc bất ngờ phát hiện, bọn họ không hùng mạnh như vẫn tưởng. Chỉ trong 3 ngày, toàn bộ lĩnh thổ phía bắc đều rơi vào tay đối phương, và vương quốc bị phong tỏa triệt để, hoàn toàn tách biệt với phần còn lại của thế giới. Triều đình Napoli vội vã triệu tập quân đội, nhưng lúc này toàn vương quốc chỉ có hơn 300 Hiệp sĩ và 5.000 quân. James de Bourbon động viên toàn quân, hứa sẽ thăng quan tấn tước, sau đó quân đội tiến đến pháo đài Aversa ở phía bắc vương đô Napoli.
Pháo đài Aversa là một trong những pháo đài kiên cố nhất vương quốc, nằm ở phía bắc vương đô Napoli, là một cứ điểm phòng thủ mặt bắc vương đô, và cũng như là nơi lánh nạn của vương tộc nếu như vương đô thất thủ. Mất vương đô, nhưng Aversa còn, thì vẫn còn cơ hội phục quốc. Nhưng nếu như Aversa thất thủ thì vương đô cũng khó mà giữ được. Do đó, đối với triều đình Napoli, pháo đài Aversa cũng có địa vị trọng yếu không kém gì vương đô.
Khi quân đội Napoli tiến vào Aversa thì đạo Bảo Tiệp quân cũng tiến đến bao vây pháo đài.
Aversa có một bức tường thành cao, kiên cố, cùng nhiều vị trí hiểm yếu để phòng thủ. Năm xưa, khi xây dựng pháo đài này, các Bá tước xứ Aversa đã cố ý xây dựng sao cho sử dụng ít quân phòng thủ để chống lại số quân tấn công lớn hơn nhiều, thật thích hợp với tình trạng hiện tại của quân đội Napoli. Với 5.000 quân phòng thủ, muốn công chiếm pháo đài này, không thể nào không hy sinh vài vạn chiến sĩ. Đó là điều mà quân đội Thần Thánh Đế quốc không thể nào chấp nhận được. Chiêu Anh Tướng quân Lý Xương Văn, thống soái đạo quân Bảo Tiệp, liền triệu tập chúng tham mưu hội họp bàn bạc kế sách. Lý Xương Văn nói :
- Thành bảo của đối phương quá kiên cố, bất lợi cho phía tấn công. Chúng ta lại không thể sử dụng sinh mạng binh sĩ đổi lấy chiến thắng. Mọi người có kế sách gì không ?
Chúng tham mưu khẩn trương suy nghĩ tìm kế sách. Thật ra ý nghĩ trên đã theo bọn họ suốt từ khi Bảo Tiệp quân bao vây Aversa đến giờ. Bọn họ đều biết rằng nếu sử dụng sinh mạng binh sĩ để đổi lấy chiến thắng, dù có công chiếm được Aversa, bọn họ cũng chẳng có công lao gì, thậm chí nếu quân số thiệt hại nặng nề thì còn có thể bị giáng chức, cách chức.
Hồi lâu, một viên tham mưu rụt rè nói :
- Tướng quân. Có lẽ chúng ta đã rơi vào ngộ khu. Nhiệm vụ của chúng ta là chiếm lĩnh Napoli chứ không nhất thiết phải chiếm lĩnh Aversa.
Lý Xương Văn hỏi :
- Ý ngươi là chúng ta bỏ qua Aversa, trực tiếp tiến công Napoli ?
Viên tham mưu kia đáp :
- Tướng quân. Chúng ta có thể để lại 1 vạn quân bao vây Aversa. Số còn lại tấn công Napoli. Hiện tại Napoli hầu như không còn quân phòng thủ.
Lý Xương Văn gật đầu khen phải, vừa định lên tiếng khen ngợi thì một viên tham mưu khác lại góp ý :
- Tướng quân. Chúng ta không nhất thiết bao vây Aversa, hủy diệt nó luôn cũng được. Dạng kiến trúc thành bảo như thế, bản triều xây dựng lại cũng chẳng mất bao nhiêu thời gian. Aversa không giống như Napoli, chúng ta không cần phải cố kỵ nhiều.
Người u châu xây dựng lâu đài, pháo đài (Castle) bằng đá, nên mất nhiều thời gian, còn Thần Thánh Đế quốc xây dựng bằng thạch nê (tức bê tông cốt thép), nên mất ít thời gian hơn. Lý Xương Văn ngạc nhiên hỏi :
- Ngươi có kế sách gì ?
Gã ta đáp :
- Tướng quân. Hỏa công.
Hỏa công – đối với các tướng lĩnh phương đông không hề lạ. Nhất là trong lịch sử chiến tranh Trung Hoa, hỏa công được sử dụng rất nhiều. Trận Xích Bích nổi tiếng sử dụng hỏa công. Vũ Hương Hầu Gia Cát Lượng cũng thiện trường sử dụng hỏa công. Nhiều tướng lĩnh và quân sư cũng nhờ sử dụng hỏa công mà nổi tiếng. Nhiều khai quốc công thần của Minh triều cũng nổi tiếng nhờ sử dụng hỏa công. Do đó, khi nghe nhắc đến hỏa công, Lý Xương Văn lập tức hội ý, cười hắc hắc nói :
- Tốt lắm. Hôm nay hủy diệt Aversa. Ngày mai tiến chiếm Napoli.
Sau đó, tướng lệnh truyền ra, toàn thể đại quân chỉ để lại 1 vạn bao vây pháo đài, số còn lại tỏa ra xung quanh đốn gỗ, thu nhặt các vật dễ cháy. Đến chiều, một lượng lớn gỗ củi chất thành nhiều đống xung quanh pháo đài, khiến thủ quân bên trong pháo đài ngạc nhiên vô cùng, không hiểu đối phương định làm gì, chẳng lẽ định đốt củi để sưởi ấm. Đã sang xuân rồi, thời tiết đâu còn lạnh nữa, vả lại có đốt củi sưởi ấm cũng đâu cần nhiều gỗ củi như thế. Bất giác, cả bọn đều có cảm giác không hay.
Mọi sự chuẩn bị hoàn tất, tướng lệnh lại truyền ra, đại quân mang gỗ củi và các vật dễ cháy ném vào chân thành, chất kín xung quanh không để lại một khoảng trống nào. Đến lúc này, thủ quân bên trong pháo đài mới hiểu rõ mưu đồ của đối phương là định thiêu sống bọn họ, ai nấy đều lạnh xương sống.
Tướng lệnh lại truyền ra, binh sĩ y lệnh phóng hỏa và ngọn lửa bốc lên dữ dội. Do lượng gỗ củi quá nhiều, lại có hỏa dược trợ thế, nên ngọn lửa bốc lên quá cao, hỏa thế vô cùng hung hãn, và nhiệt độ tỏa ra cũng rất cao. Chỉ sau một lúc, cả thành tường cũng bị nung đỏ hồng. Pháo đài bị biến thành một ngọn đuốc khổng lồ, nổi bật trong đêm.
Xong đâu đấy, chẳng cần chờ đợi kết quả, Lý Xương Văn chỉ để lại 1 vạn quân canh giữ và phụ trách duy trì ngọn lửa, số quân còn lại đều được lệnh tranh thủ nghỉ ngơi để sáng sớm ngày mai hành quân đến Napoli.
Do số lượng gỗ củi quá nhiều, ngọn lửa duy trì suốt hai ngày đêm, và toàn bộ thủ quân trong pháo đài đều bị thiêu sống. Thật ra thì chỉ sau nửa ngày, thủ quân bên trong pháo đài đã giương cờ trắng đầu hàng. Có điều binh sĩ của Bảo Tiệp quân đều cố tình tỏ ra không nhìn thấy. Ngọn lửa quá lớn, hỏa thế quá hung hãn, không ai muốn vì kẻ địch mà mạo hiểm tiếp cận ngọn lửa, để rồi uổng mạng vô ích. Trong khi muốn tiếp nhận đầu hàng thì bọn họ phải dập tắt ngọn lửa, mở đường cho hàng binh đi ra.
Không được chấp nhận đầu hàng, thủ quân bên trong pháo đài không thể tránh khỏi số phận bị thiêu sống. Và những nạn nhân đầu tiên chính là 300 Hiệp sĩ. Hiệp sĩ của u châu thời Trung Cổ sử dụng những bộ áo giáp quá nặng nề, toàn thân sắt thép từ đầu đến chân, tuy có thể bảo hộ tốt cơ thể, nhưng cũng khiến cho việc di chuyển rất khó khăn, đồng thời mỗi khi mặc vào hay cởi ra đều mất rất nhiều thời gian và công sức. Do vậy mà Hiệp sĩ thường phải có tùy tùng trợ giúp, giúp đỡ bọn họ mặc giáp và lên ngựa. Thế rồi lúc này đây cũng chính bộ giáp đó đã góp phần khiến cho bọn họ tử vong sớm hơn những người khác. Thử tưởng tượng toàn thân bao bọc trong sắt thép, đứng giữa ngọn lửa đáng cháy hừng hực, hậu quả …
Sau khi ngọn lửa được dập tắt, pháo đài Aversa đã trở thành một đống hoang tàn, đương nhiên những người bên trong đều đã hóa ra tro. Bảo Tiệp quân đệ tam sư cũng chẳng buồn dọn dẹp chiến trường (bị ngọn lửa thiêu đốt suốt hai ngày, làm gì còn có chiến lợi phẩm tồn tại), mà kéo xuống Napoli trợ chiến. Nhưng khi đệ tam sư đến được Napoli thì thành phố đã rơi vào tay Bảo Tiệp quân. Do Napoli hầu như không còn quân đội phòng thủ, Bảo Tiệp quân đã công chiếm rất dễ dàng. James de Bourbon cùng các quý tộc của Napoli đã bỏ chạy đến xứ Taranto ở phía đông nam vương quốc, lĩnh địa mà James de Bourbon nhắm đến khi kết hôn với Joan II de Napoli.
Sau khi chiếm lĩnh Napoli, vương đô của vương quốc Napoli, Lý Xương Văn cùng Triệu Quý Thường chia hai đạo quân Bảo Tiệp và Chiêu Viễn thành nhiều toán nhỏ, ít thì một vệ, nhiều thì năm ba vệ, tỏa ra bình định khu vực trung bộ vương quốc Napoli, với mục tiêu giải quyết hoàn toàn giới quý tộc ‘phản nghịch’ của Napoli. Bọn họ bị kết tội ‘phản nghịch’ vì đã thần phục cha con Ladislaus de Napoli mà chống lại nhà Anjou, thậm chí còn theo Ladislaus de Napoli ba lần tấn công giáo đô La Mã, đuổi Đức Thánh Cha (Papal) khỏi đấy, và có lần còn buộc Đức Thánh Cha nộp tiền chuộc 100.000 florin (mỗi florin nặng 3,85 gam vàng, 1 chỉ vàng chỉ có 3,75 gam, tức 100.000 florin tương đương 10.267 lượng vàng, hay 385 kilôgam vàng). Những tội trạng đó được công bố, người u châu, nhất là những tín đồ Công giáo La Mã, nếu không ủng hộ thì cũng không phản đối việc trừng trị những kẻ ‘phản nghịch’ đó. Nhất là những bài ca về “Vương tử của bi thương” được phổ biến trước đây đã giúp cho Long nhi có lợi hơn về mặt dư luận. Đa số bình dân không chống lại sự cai trị của Long nhi, không phải đối việc thay đổi triều đại ở Napoli. Dù gì thì bọn họ cũng không ưa James de Bourbon. Những kẻ chống đối chỉ có giới quý tộc, những kẻ mà dù có chống đối hay không đều thuộc đối tượng bị giải quyết (trục xuất hay bắt giữ). Bọn họ càng chống đối thì đối với Đế quốc, đối với sự cai trị sau này của Long nhi càng có lợi.
.....
Các loại tước hiệu của quý tộc u châu (Phần 2):
3. Anh Cách Lan (England) :
Chế độ tước sĩ của triều đình Anh Cách Lan có bối cảnh lịch sử rất lâu đời (có lẽ chỉ sau Pháp Lan Tây). Phong hiệu phân thành 7 cấp chính, chia thần dân thành 2 bộ phận lớn là quý tộc (peerage) và bình dân.
Nhóm 1 :
King and Emperor / Queen and Empress : Quốc vương kiêm Hoàng đế / Nữ vương kiêm Nữ hoàng.
King / Queen : Quốc vương / Nữ vương.
Prince of Wales : Vương tử xứ Wales (tước hiệu của Thái tử)
Prince - Vương tử
Princess Royal / Princess : Đại công chủ / Công chủ.
Nhóm 2 :
Royal Duke / Royal Duchess : Đại công tước / Nữ đại công tước
Duke / Duchess : Công tước / Nữ công tước
Marquess / Magrave : Hầu tước / Nữ hầu tước
Count / Countess : Bá tước / Nữ bá tước
Viscount / Viscountess : Tử tước / Nữ tử tước
Baron / Baroness : Nam tước / Nữ nam tước
Lord : Huân tước (tước hiệu phong cho con trai của công tước, hầu tước; không có phong địa)
Nhóm 3 :
Baronet - Tùng nam tước
Knight - Hiệp sĩ
Nhóm 1 là thành viên Hoàng gia, nhóm 2 là quý tộc, nhóm 3 phi quý tộc.
Ở Anh Cách Lan, quyền lực của giáo hội không lớn.
Người Việt thường sử dụng nhầm lẫn giữa 2 loại tước hiệu Nữ hoàng và Nữ vương. Trong chế độ tước sĩ của Anh Cách Lan, đây là 2 loại tước hiệu khác nhau. Nữ hoàng (Empress) Victoria, nhưng phải là Nữ vương (Queen) Elizabeth II. Trước đây Anh Cách Lan chỉ có Quốc vương, Nữ vương. Đến năm 1876, Nữ vương Victoria gia miện thành Nữ hoàngÂn Độ, từ đó Quốc vương và Nữ vương Anh Cách Lan có thêm tước hiệu Hoàng đế, Nữ hoàng. Nhưng đến năm 1947,Ân Độ độc lập, thì tước hiệu Hoàng đế và Nữ hoàng cũng không còn.
4. Tô Cách Lan (Scotland) :
Chế độ tước sĩ của Tô Cách Lan cơ bản giống với Anh Cách Lan, chỉ có một số khác biệt :
Lord of Parliament : Nghị hội huân tước (tương đương Nam tước của Anh Cách Lan)
Ở nhóm thứ 3 có thêm :
Laird : Nam tước (đứng dưới Lord of Parliament và không phải là quý tộc)
Kỳ sau : Đế quốc La Mã Thần Thánh Dân tộc Đức
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Nguồn: ttv
Chương 94 : Chinh phục Napoli (2)
Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.518 (Bính Thân, 1416). Mùa xuân tháng 3.
Một tháng sau khi xuất chinh, khu vực bắc bộ và trung bộ vương quốc Napoli đã bị 2 đạo quân Chiêu Viễn và Bảo Tiệp chiếm lĩnh. Đồng thời khu vực tây nam cũng bị Chiêu Đức quân Đệ tam sư kiểm soát. James de Bourbon chỉ còn kiểm soát khu vực đông nam, chủ yếu là Taranto và các vùng phụ cận.
Ngày 15 tháng 3, Lý Xương Văn, tổng chỉ huy chiến trường Napoli, giao khu vực đã bình định xong cho lực lượng dân binh quản lý, rồi thống suất đại quân tiến về miền nam Napoli, mục tiêu là Taranto, nơi tập trung tàn dư của James de Bourbon. Ở đó, James de Bourbon đã triệu tập gần như toàn bộ giới quý tộc của Napoli cùng với tư quân của bọn họ, tập họp được hơn 1 vạn quân, trong đó có đến hơn 500 Hiệp sĩ và 1.500 quý tộc, chiếm gần hết tổng số quý tộc của vương quốc. Thành ra, đội quân của James de Bourbon có thể xem là đội quân quý tộc, số lượng thì đông, nhưng sức chiến đấu thì … cần phải xem lại. Chỉ trừ những quý tộc bản thân là Hiệp sĩ, năng lực chiến đấu xuất sắc, đa phần quý tộc chỉ giỏi hưởng thụ, khả năng chiến đấu có khi còn thua cả bình dân. Quan trọng hơn cả, xuất hiện đại lượng quý tộc trong quân đội, kỷ luật khó giữ, và binh sĩ phải lo bảo vệ quý tộc hơn là lo giết giặc (đặc biệt là quân đội Napoli lúc này được hình thành từ tư quân của quý tộc, đương nhiên phải lo bảo vệ chủ nhân trước).
Ngày 20, quân đội song phương đụng độ ở Mateola, phía bắc Taranto. Phía Thần Thánh Đế quốc có 7 vạn quân, gồm 2 đạo Bảo Tiệp quân, Chiêu Viễn quân, hội họp cùng Chiêu Đức quân Đệ tam sư từ phía tây nam kéo lên. Phía James de Bourbon có 1 vạn quân đội quý tộc, gồm 500 Hiệp sĩ, 1.500 quý tộc và khoảng 8.000 binh sĩ. Tỷ lệ chênh lệch giữa quân số song phương không khác nhiều so với trận Agincourt, nhưng lần này quân đội của James de Bourbon không gặp may như quân đội của Henry V of England.
Trước trận, James de Bourbon lại động viên cổ vũ toàn quân :
- Trong trận Agincourt mấy tháng trước, quân Anh Cách Lan chỉ có hơn 8.000 người mà đã đánh bại gần 4 vạn quân Pháp Lan Tây, chiến quả huy hoàng. Trận này, nếu như chúng ta đồng tâm hiệp lực, gắng sức chiến đấu, chắc chắn cũng sẽ giống như quân Anh Cách Lan, đánh bại kẻ thù, chiến thắng huy hoàng.
James de Bourbon là quý tộc Pháp Lan Tây mà lại lấy trận Agincourt ra để động viên quân đội thì thật không phải chút nào. Y vừa nói xong, một loạt những tiếng nổ vang trời từ phía trận địa đối phương truyền lại, sau đó là hơn nghìn quả đạn pháo đổ xuống đầu quân đội Napoli, mà mục tiêu chủ yếu là đội hình của các Hiệp sĩ. Hiệp sĩ ở u châu cũng đồng nghĩa với kỵ sĩ, khi xung phong thì tập họp thành đội hình san sát nhau để gia tăng xung kích lực. Nhưng lần này, đội hình đó đã trở thành tấm bia rất nổi bật cho thần công đại pháo của quân đội Thần Thánh Đế quốc. Theo quân chế của quân đội Thần Thánh Đế quốc, mỗi sư được phối cấp 200 khẩu thần công (đương nhiên là nhỏ hơn pháo hạm của Hải quân để tiện di chuyển), thành ra 7 vạn đại quân có đến 1.400 khẩu thần công, chỉ cần một loạt pháo kích cũng đủ để nhấn chìm đội hình Hiệp sĩ của quân Napoli trong khói lửa. Sau loạt pháo kích đó, toàn bộ quan quân Napoli đều nhìn nhau sửng sốt, pha lẫn kinh hoàng. Chỉ trong nháy mắt, 500 Hiệp sĩ đã bị xóa sổ, kèm theo là gần nghìn người khác ở lân cận, trong đó cũng có không ít quý tộc. Tử trạng của bọn họ vô cùng thê thảm, thịt nát xương tan.
Sau loạt pháo kích là đến phiên cung thủ phát oai. Ở quân đội Thần Thánh Đế quốc, mỗi sư thường có 1 vệ kỵ binh, 1 vệ pháo binh, 4 vệ cung thủ (trang bị cung, nỏ) và 4 vệ cận chiến bộ binh (sử dụng đao, thương). Như vậy, 7 vạn đại quân có đến 2 vạn 8.000 cung thủ. Tất cả đồng loạt công kích, 2 vạn 8.000 mũi tên đồng loạt rải xuống đầu gần 9.000 quân Napoli. Phải nói là tên bắn như mưa. Quân Napoli không chỗ tránh né, kêu khóc vang trời, đặc biệt là số quý tộc, tiếng gào thét kinh thiên động địa, đất thảm trời sầu.
Sau mấy lượt công kích của lực lượng cung thủ, quân Napoli đại bộ phận thọ thương hay tử trận, máu nhuộm đầy đồng, thây phơi đầy nội. Chỉ có lực lượng thân binh của James de Bourbon và một số quý tộc, do vận áo giáp bảo hộ kín kẽ, nên chưa bị thương hoặc chỉ bị thương nhẹ, không ảnh hưởng nhiều đến khả năng chiến đấu. Thấy vậy, Lý Xương Văn lại truyền lệnh cho trận địa thần công khai hỏa một loạt nữa, giải quyết số tàn dư, rồi mới cho quân tiến lên giải quyết chiến trường.
Sau trận Mateola, lực lượng phản kháng cuối cùng ở vương quốc Napoli bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân đội Đế quốc dễ dàng tiến chiếm Taranto. Đến ngày 24, toàn cảnh Napoli đã được bình định, và cũng giống như ở Sicily, ở Napoli lúc này chỉ còn lại toàn bình dân. Hàng loạt tướng lĩnh dân binh được bổ nhiệm làm quan viên cai trị các nơi. Còn việc phong tước, phải chờ đến khi vương quốc chính thức thành lập, Long nhi chính thức đăng quang.
Ngày 1 tháng 4, Long nhi và Đinh An Bình đến Napoli. Khi bước chân vào vương đô, Long nhi không khỏi cảm khái. Đây là kỳ vọng của Louis I de Anjou, rồi cả Louis II de Anjou, đến nay mới có thể hoàn thành. Còn nếu mở rộng ra cho cả Sicily và Napoli, thì có thể kể từ thời Charles I de Anjou (1226 – 1285). Charles I de Anjou được Đức Thánh Cha (Papal) phong cho làm quốc vương của vương quốc Sicily (bao gồm cả Napoli) từ năm 1262, đăng quang vào năm 1266, nhưng đến năm 1282 thì mất đảo Sicily (loạn quân được vương quốc Aragon hỗ trợ), chỉ còn lại Napoli.
Gia tộc Anjou là một đại gia tộc ở Pháp Lan Tây, có cùng dòng họ với quốc vương, nhưng là dòng thứ. Charles I de Anjou, người khai sinh gia tộc Anjou là em trai của quốc vương Pháp Lan Tây Louis IX de Française thuộc Vương triều Capetian, được phong làm Công tước xứ Anjou và Bá tước xứ Maine, trong đó Anjou là một công quốc chư hầu ở phía tây của vương quốc Pháp Lan Tây. Gia tộc Anjou sau phân thành 4 chi là :
1. Anjou – Maine, dòng chính, cai trị Anjou và Maine, Sicily (1266 – 1282), Napoli (1266 – 1382) và nhiều lĩnh địa lớn nhỏ khác như Provence, Forcalquier, Piedmont, …
2. Anjou – Hungary, cai trị Hungary (1308 – 1395), Ba Lan (1370 – 1399).
3. Anjou – Taranto, cai trị Đế chế Latin ở Constantinople (1313 – 1374).
4. Anjou – Darazzo, cai trị Napoli (1382 – đến giờ), dòng này bị xem là phản nghịch, vì Charles III de Napoli (cha của Ladislaus de Napoli) đã giết Joan I de Napoli (thuộc dòng Anjou – Maine) để cướp ngôi.
Ngoài ra còn có chi thứ 5 – Vương triều Valois. Sau khi Charles IV de Française qua đời, dòng Capetian không có người thừa kế, triều thần và quý tộc Pháp Lan Tây đã chọn Philippe VI de Valois, Công tước xứ Anjou, Bá tước xứ Maine và Valois lên làm quốc vương, trở thành Philippe VI de Française. Con trai của Philippe VI de Française là Jean II de Française trước khi lên ngôi cũng là Công tước Anjou. Đến đây, Jean II de Française cho con trưởng là Charles V de Française làm Dauphiné (tức Thái tử), còn con thứ là Louis I de Anjou làm Công tước xứ Anjou, Bá tước xứ Maine. Louis I de Anjou là cha của Louis II de Anjou, và là ông nội của Louis III de Anjou (tức Long nhi). Tóm lại gia tộc Anjou có quan hệ rất gần gũi với các quốc vương Pháp Lan Tây, và có địa vị hiển hách. Louis II de Anjou và Công tước phu nhân là người tài trợ cho nhiều lực lượng chống Anh Cách Lan trong cuộc “chiến tranh trăm năm”, trong đó có cả Jeanne de Arc (tiếng Anh : Joan of Arc - thánh nữ, anh hùng cứu quốc của Pháp).
Sau khi vào vương cung của Napoli, Đinh An Bình nhìn quy mô của nó, khẽ lắc đầu, nói với Long nhi :
- Nơi này không thể xem là vương cung, không phù hợp với thân phận của Điện hạ.
Long nhi ngạc nhiên hỏi :
- Ý vương gia thế nào ?
Đinh An Bình nói :
- Vương cung ít ra phải tương đương với Đại Tây Hành cung ở Sinai thì mới phù hợp với thân phận của Điện hạ. Hơn nữa, Napoli quá gần La Mã (tức Roma), không thích hợp để đóng đô.
Long nhi ngẫm nghĩ giây lát, thấy cũng có lý, liền hỏi :
- Vậy theo vương gia thì nên đóng đô ở đâu ?
Đinh An Bình nói :
- Ở Sicily là tốt nhất.
Long nhi lập tức tán thành. Trước khi Charles I de Anjou mất đảo Sicily thì vương đô đóng ở Sicily, và tên vương quốc cũng là Sicily. Do đó, đóng đô ở Sicily là rất thích hợp. Hơn nữa, Sicily nằm ở trung tâm Địa Trung Hải, cùng với bán đảo Italia chia Địa Trung Hải thành hai phần Đông và Tây. Vì vậy, Sicily giữ một vị trí trọng yếu trên các tuyến hàng hải ở Địa Trung Hải.
Cuối cùng, Đinh An Bình và Long nhi thống nhất chọn thành phố cảng Syracuse làm vương đô của tân vương quốc mà Giang Phong đặt tên cho là Latium, theo tên một quốc gia cổ trên đất Italia. Việc kiến thiết vương đô được khẩn trương tiến hành. Trong thời gian chờ đợi, Long nhi sẽ vẫn ở tại Đại Tây Hành cung.
...
Các loại tước hiệu của quý tộc u châu (Phần 3):
5. Đế quốc La Mã Thần Thánh Dân tộc Đức :
Tên tiếng Đức : Heiliges Römisches Reich Deutscher Nation
Tên tiếng Anh : Holy Roman Empire of the German Nation
Tên tiếng Pháp : Saint-Empire romain de la Nation Germanique
Tên tiếng Latinh : Imperium Romanum Sacrum Nationis Germanicæ
Tên gọi này có từ đầu thế kỷ 15 cho đến khi Đế quốc bị giải thể vào năm 1806. Trước đó, tên gọi không có cụm từ 'Dân tộc Đức'. Đế quốc được hình thành từ vương quốc Francie Orỉentable (Francie Đông), và kế thừa tên 'Đế quốc La Mã Thần Thánh' từ Charlemagne, vua của người Francs, Hoàng đế của cả phương tây.
Hoàng đế của Đế quốc không được cha truyền con nối mà được bầu lên từ các Tuyển hầu, do đó Đế quốc không có Thái tử.
Nhóm 1 :
Kaiser : Hoàng đế
König : Quốc vương
Kurfürst : Tuyển hầu
Prinz : Vương tử (các con của Hoàng đế
Fürst : Vương tử (vua của 1 công quốc chư hầu)
Nhóm 2 :
Erzherzog : Đại công tước
Herzog : Công tước
Markgraf : Hầu tước, Biên cảnh Tổng đốc (do ở biên cảnh nên có quyền hành lớn, quân đội mạnh, và tương đối độc lập đối với triều đình)
Landgraf : Cung đình Bá tước
Graf : Bá tước
Vizegraf : Tử tước
Baron : Nam tước
Freiherr : Nam tước (hoặc chuẩn Nam tước, thấp hơn Baron)
Nhóm 3 :
Ritter : Hiệp sĩ
Junker : lĩnh chủ, hương thân
Kỳ sau : Hà Lan và Bỉ
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Nguồn: ttv
Chương 96 : LẠI CHỦN BỊ CHIẾN TRANH
Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.518 (Bính Thân, 1416). Mùa thu, tháng 8. Đại Tây Hành cung.
Do chiến tranh ở Iberia bán đảo đã kết thúc, Long nhi và Đinh An Bình không ở lại bộ chỉ huy tiền phương tại Napoli nữa mà quay về Đại Tây Hành cung ở Sinai. Lúc này cung điện ở Syracuse vẫn còn đang trong quá trình xây dựng, nên Long nhi phải tạm trú ở Đại Tây Hành cung. Còn Đinh An Bình quen sống trong những cung điện kiểu phương đông, ở trong cung điện kiểu phương tây thấy không thoải mái tí nào, do đó mà khi chiến tranh vừa kết thúc thì đã cùng Long nhi quay về Đại Tây Hành cung.
Dù vậy, Đinh An Bình cũng giống như bọn Triệu Phong, đều là những phần tử hiếu chiến, nên chiến tranh vừa kết thúc là lại muốn phát động một cuộc chiến tranh mới. Do đó, ánh mắt của y lại hướng sang khu vực phía đông vương quốc Latium, những vương quốc nằm bên kia bờ biển Adriatic. Ở phía tây và phía nam của vương quốc Latium là các tỉnh trên bán đảo Iberia và các tỉnh Bắc Phi của Thần Thánh Đế quốc, ở phía tây bắc là vương quốc Pháp Lan Tây, chính bắc là Papal of States, đều là những nơi không tiện tiến hành chiến tranh, chỉ có khu vực phía đông là thích hợp, lại có lý do chính đáng. Nhà Anjou – Hungary của Ladislaus de Napoli từng chiếm đóng Napoli, sát hại nữ vương Joan I de Napoli của nhà Anjou - Maine, do vậy Long nhi hoàn toàn đủ lý do để phát động chiến tranh. Thật ra quan hệ giữa giới quý tộc u châu vô cùng phức tạp, trải qua mấy trăm năm truyền thừa, ân oán không ít, muốn tìm lý do để tuyên chiến dễ dàng vô cùng.
Khi bàn bạc cùng Long nhi chuyện quân quốc đại sự, Đinh An Bình còn chưa kịp đề xuất việc đông chinh, thì Long nhi đã nói :
- Vương gia. Các thuộc hạ của ta đều muốn ta sớm đăng quang và đại phong quần thần. Vương gia thấy thế nào ?
Đinh An Bình ngẫm nghĩ giây lát, rồi nói :
- Đại phong quần thần thì không thành vấn đề, chỉ cần không phân phong lĩnh địa là được. Mọi đất đai trong vương quốc đều phải thuộc về Điện hạ. Còn việc đăng quang thì chưa phải lúc.
Long nhi ngạc nhiên hỏi :
- Sao vậy ?
Đinh An Bình nói :
- Đệ đệ của Chiêu Vũ Vương Triệu Phong còn được Thánh hoàng cho đăng cơ xưng đế. Điện hạ không thể kém gã ta được.
Long nhi giật mình :
- Ý vương gia bảo ta xưng đế ?
Đinh An Bình nói :
- Không phải ý của ta mà là ý của Thánh hoàng. Chỉ cần quốc thổ của Điện hạ đạt đến một quy mô nhất định, Thánh hoàng sẽ đích thân gia miện cho Điện hạ làm Hoàng đế. Do đó, đại sự hiện giờ đối với điện hạ là mở mang quốc thổ.
Long nhi hỏi :
- Lại tiếp tục phát động chiến tranh nữa ư ? Chọn mục tiêu ở đâu bây giờ ?
Đinh An Bình mỉm cười hỏi :
- Điện hạ quên gã Ladislaus rồi sao ?
Long nhi giật mình :
- Ý vương gia muốn nói đến Hungary ?
Đinh An Bình gật đầu nói :
- Đúng thế. Mục tiêu sắp tới sẽ là Hungary.
Long nhi nói :
- Nhưng phu quân của nữ vương Mary de Hungary lại là Sigismund de Luxembourg, là Hoàng đế của Đế quốc La – Đức đó nha !
Đinh An Bình mỉm cười nói :
- Chính vì thế mà chúng ta càng phải tấn công Hungary. Điện hạ quên George I de Trento rồi sao ?
Long nhi lo lắng nói :
- Chúng ta mở rộng quy mô chiến tranh, có vấn đề gì không ?
Đinh An Bình cười nói :
- Không vấn đề gì cả. Chiến tranh ở Hoa Bắc đã kết thúc vào năm trước. Chiến tranh ở Miến Điện cũng đã kết thúc vào đầu năm nay. Hiện giờ còn có mười mấy đạo quân đang rảnh rỗi. Mà Điện hạ nên nhớ rằng các tướng lĩnh của Đế quốc đều hiếu chiến cả, không thể an nhàn quá lâu được.
Long nhi ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi nói :
- Nhưng quân đội của ta chỉ có 1 vạn người, chia ra phòng thủ 4 tỉnh là đã quá sức rồi, nếu mở rộng quốc thổ sẽ không có đủ quân đội để phòng thủ.
Việc công thành chiếm đất, quân đội Thần Thánh Đế quốc có thể làm thay, nhưng việc phòng thủ quốc thổ phải do lực lượng dân binh người u châu của Long nhi đảm nhiệm. Việc thiếu quân đội cũng là vấn đề, nhưng không phải không có cách giải quyết. Đinh An Bình nói :
- Vậy thì tăng quân. Quân đội Anjou mà còn có 2 vạn rưỡi người. Quân đội Pháp Lan Tây cũng có hơn 3 vạn. Vương quốc Latium không thể ít hơn được. Tăng quân lên 5 vạn, thành lập 5 sư đoàn.
Long nhi nói :
- Nhưng vương quốc mới thành lập, mức độ trung thành của thần dân chưa thể đảm bảo nha !
Đinh An Bình nói :
- Không hề gì. Ở các tỉnh quanh Địa Trung Hải của Thần Thánh Đế quốc có không ít người u châu, tạm thời cứ tuyển mộ trong số bọn họ, sau này sẽ di dân từ các vùng mới chiếm lĩnh bù lại. Sau khi Điện hạ đại phong quần thần, ta nghĩ sẽ có không ít bình dân hăng hái tham quân.
Long nhi đưa ra một bản danh sách, nói :
- Đây là danh sách ta định phong tước đợt này, vương gia xem thử rồi cho ý kiến.
Đinh An Bình cầm xem, rồi gật đầu nói :
- Quân đội phải do Điện hạ trực tiếp thống lĩnh, không thể để cho các đại gia tộc can thiệp vào. Các đại gia tộc thường xem lợi ích của gia tộc cao hơn lợi ích của quốc gia, vì thế Điện hạ không nên giao cho trọng nhậm, nhất là trong quân đội. Sử dụng tướng lĩnh từ bình dân hay tiểu gia tộc là tốt nhất. Còn tước hiệu thì chúng ta có thể phong, công tước hay hầu tước đều không thành vấn đề.
Long nhi mỉm cười nói :
- Hiện giờ trong vương quốc, đừng nói đại gia tộc, ngay cả tiểu gia tộc cũng không còn. Ở vương quốc chỉ còn lại một số tiểu quý tộc bất đắc chí, không lĩnh địa, không quyền lực mà thôi.
Đinh An Bình gật đầu nói :
- Như thế càng tốt. Trong vương quốc, quý tộc có thể cao quý hơn bình dân, nhưng không thể có nhiều đặc quyền. Người duy nhất có thể có đặc quyền chỉ có thể là Điện hạ.
Long nhi gật đầu :
- Ta hiểu rồi. Ta sẽ nắm chắc quân đội, và không để cho các gia tộc lũng đoạn triều chính.
Đinh An Bình trao lại danh sách cho Long nhi, nói :
- Vậy là ta yên tâm rồi. Quân đội Đế quốc không thể ở lại đây mãi được. Việc triều chính phải trông chờ cả ở Điện hạ đấy.
Long nhi gật đầu nói :
- Ta hiểu rồi. Vậy thì trong những trận chiến sắp tới phải cho quân đội của ta tham chiến mới được, không thể để bọn họ là dân binh mãi được.
Đinh An Binh nói :
- Điện hạ nói rất phải. Cần cho bọn họ làm quen với sự ác liệt của chiến trường. Quân đội mà chưa từng tham chiến thì không thể xem là quân đội được.
Giữa lúc đó, Chronique de Venette, cận thần của Long nhi, vào bẩm báo :
- Hồi bẩm bệ hạ, Đại vương. Có sứ thần của nước cộng hòa Genoa đến, xin được yết kiến bệ hạ.
Chronique de Venette là một tiểu quý tộc ở Pháp Lan Tây, gia tộc đã suy bại, để chạy loạn trong cuộc nội chiến giữa hai phe Armacnacs và Burgundy, đã mượn danh nghĩa hành hương đến thánh địa mà di cư sang Jerusalem. Sau cuộc tuyển mộ dân binh, gã nhờ tài năng, học thức và thông hiểu lễ nghi mà được Đinh An Bình và Long nhi chú ý, rồi được chọn làm thư ký quan của Long nhi. Chức thư ký quan của quốc vương cũng tương đương với chức vụ Chánh văn phòng Nội Các, ngang cấp Bộ trưởng, có thân phận địa vị rất cao. Hơn nữa, thư ký quan cũng có nghĩa là cận thần thân tín của quốc vương, vị cao quyền trọng hơn ngoại thần nhiều.
Nghe nói có sứ thần của Genoa đến, Long nhi ngạc nhiên hỏi :
- Bọn họ đến đây làm gì thế ?
Chronique de Venette tâu :
- Hồi bẩm bệ hạ. Bọn họ đến kháng nghị việc bản triều chiếm lĩnh Corsica. Đảo quốc Corsica tuy trên danh nghĩa thuộc về vương quốc Aragon, nhưng thực tế lại là thuộc địa của Genoa.
Đinh An Bình ánh mắt bừng sáng, hừ nhẹ một tiếng, nói :
- Kháng nghị ? Bọn chúng dựa vào đâu mà kháng nghị ? Rõ ràng Corsica danh nghĩa thuộc về Aragon, Điện hạ tiếp quản Aragon, thì tiếp quản luôn Corsica là việc thiên kinh địa nghĩa. Chúng ta chiếm lý, không cần để ý đến bọn chúng.
Chronique de Venette cũng biết Đinh An Bình có thân phận địa vị rất cao, không thua kém gì Long nhi, nhất là trong lĩnh vực quân sự thì có tiếng nói quyết định, bởi họ Đinh không chỉ thống lĩnh 18 vạn quân đội Thần Thánh Đế quốc ở đây, mà còn là Hải quân bộ bộ trưởng. Do đó, gã cung kính hỏi :
- Vậy bản triều nên đáp hạ sứ giả Genoa thế nào ạ ?
Đinh An Bình cười nhạt nói :
- Thống trách bọn chúng khinh thường vương quốc Latium, khinh thường Điện hạ. Sau đó hạ chiến thư.
Cả Long nhi và Chronique de Venette đều giật mình :
- Hạ chiến thư ?
Đinh An Bình nói :
- Đúng thế. Hạ chiến thư.
Long nhi nói :
- Vương gia. Như thế còn nên không ? Nước cộng hòa Genoa ở u châu có địa vị rất đặc biệt đó nha !
Đinh An Bình nói :
- Bọn chúng có địa vị đặc biệt là nhờ ở Hải quân. Các nước ở u châu khi có hải chiến thường thuê chiến thuyền của bọn họ tham chiến. Nhưng Hải quân của bọn họ, đối với Đế quốc, còn chưa sánh bằng các đội vũ trang thương thuyền nữa, không cần để ý đến.
Long nhi chợt nhớ đến Hạm đội Angers của nhà Anjou nguyên bản cũng chỉ là đội vũ trang thương thuyền của Đế quốc, nên gật đầu tán đồng. Đinh An Bình quay sang viên tùy tướng của mình, bảo :
- Truyền lệnh Tôn Đại đô đốc điều Hạm đội phong tỏa Genoa, vận chuyển Linh Tiệp quân đổ bộ vào Genoa. Truyền lệnh Lý Xương Văn chuẩn bị phương án công chiếm Genoa. Truyền lệnh các đạo quân còn lại chuẩn bị chiến tranh.
.....
Các loại tước hiệu của quý tộc u châu (phần 4)
6. Hà Lan :
Hà Lan nằm ở phía tây bắc của châu u và có biên giới với Bỉ, Đức và nhìn ra biển Bắc.
Thời Trung Cổ, Hà Lan thuộc lĩnh thổ của Đế quốc La Mã Thần Thánh Dân Tộc Đức. Hà Lan, tiếng Anh là Holland, thực ra chỉ là 1 trong 7 công quốc tuyên bố tách khỏi Đế quốc La - Đức hình thành Liên minh Utrecht vào ngày 23 tháng 1 năm 1579. Sau đó là cuộc chiến tranh 80 năm, đến ngày 15 tháng 5 năm 1648 mới được chính thức công nhận độc lập, thành lập "Republiek der Zeven Verenigde Nederlanden".
Danh xưng chính thức là "Het Koninkrijk der Nederlanden" (Hán Việt : Ni Đức Lan vương quốc), nhưng thông thường bị gọi lầm là Holland (Hà Lan), mà trên thực tế Hà Lan chỉ là hai vùng trong Ni Đức Lan vương quốc (North Holland và South Holland, ngày xưa chỉ là Holland), và được dùng lâu thành quen. Có lẽ thương thuyền của Công quốc Holland đến nước ta đầu tiên, nên mới bị gọi lầm như thế.
Ni Đức Lan có nghĩa là "vùng đất thấp".
(tham khảo : http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0_Lan)
Nhóm 1 :
Koning/Koningin : Quốc vương / Nữ vương
Kroonprins : Thái tử
Prins : Vương tử
Nhóm 2 :
Aartshertog : đại công (đã bãi bỏ)
Hertog : công tước
Markies : hầu tước
Graaf : bá tước
Burggraf : tử tước
Baron : nam tước
Nhóm 3 :
Ridder : Hiệp sĩ
Hà lan hiện có 2 vương tử, 31 bá tước, 103 nam tước, 8 Hiệp sĩ.
7. Bỉ :
Cái tên 'Bỉ' (Belgium) xuất xứ từ Gallia Belgica, một Tỉnh La Mã ở phần cực bắc của Gaul nơi người Belgae, một sự pha trộn giữa người Celt và German sinh sống. Về mặt lịch sử, Bỉ, Hà Lan và Luxembourg được gọi là Các nước "vùng đất thấp", thường để chỉ một vùng hơi rộng hơn nhóm quốc gia Benelux hiện tại. Thời Trung Cổ, Bỉ có nhiều công quốc, lĩnh địa; lúc thì là chư hầu của Đế quốc La - Đức, lúc thần phục Pháp Lan Tây, thậm chí phe Burgundy. Tóm lại, đây là vùng chiến loạn của u châu.
(tham khảo http://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%89)
Do lúc theo Pháp Lan Tây, lúc theo Đế quốc La - Đức, nên tước hiệu có cả tiếng Pháp/tiếng Đức.
Nhóm 1 :
Roi/Koning - quốc vương
Prince/Prins - vương tử
Nhóm 2 :
Duc/Hertog - công tước
Marquis/Markies - hầu tước
Count/Graaf - bá tước
Viscount/Burggraff - tử tước
Baron - nam tước
Nhóm 3 :
Chevalier/Ridder - Hiệp sĩ
Squire/jonkheer - lĩnh chủ, hương thân
Bỉ hiện có 9 vương tử, 5 công tước, 10 hầu tước, 85 bá tước, 35 tử tước, 317 nam tước, 113 Hiệp sĩ.
Kỳ sau : Đan Mạch và Thụy Điển
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Nguồn: ttv
Chương 97 : PAVIA ĐẠI HỘI CHIẾN
Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.518 (Bính Thân, 1416). Mùa thu, tháng 8.
Vương quốc Latium tuyên bố đối nước cộng hòa Genoa tuyên chiến nhanh chóng lan truyền khắp u châu chư quốc, nguyên nhân là vì cộng hòa Genoa khinh thị vương quốc Latium, khinh thị quốc vương Louis de Latium (tên gọi ở u châu của Long nhi, vì là quốc vương đầu tiên của vương quốc nên không thể dùng tên Louis III). Mọi người không kinh hãi với việc tuyên chiến, mà kinh hãi vì nguyên nhân tuyên chiến. Các nước đương nhiên biết việc cộng hòa Genoa phái sứ giả sang Sinai kháng nghị việc vương quốc Latium chiếm lĩnh Corsica. Mọi người không ngờ vương quốc Latium lại xem điều đó như là bị khinh thị, rồi phát động chiến tranh. Phải chăng, điều đó cũng đồng nghĩa với việc chỉ cần nước nào đó tỏ ý bất kính với quốc vương Latium là có thể trở thành nguyên nhân của chiến tranh. Đó chính là điều các nước lo lắng. Các nước không lo ngại quân đội của Latium, mà lo ngại thế lực đứng đằng sau Latium – Thần Thánh Đế quốc.
Tuy nhiên, các đại thế lực lại nghĩ đến nguyên nhân sâu xa hơn. Cuộc nổi loạn Sicilian Vespers năm 1283, buộc Charles I de Anjou phải rời Sicily, có sự hỗ trợ trực tiếp của Aragon và Genoa. Người Genoa còn cho giới quý tộc Sicily và Napoli vay để chống lại quân đội phục quốc của nhà Anjou. Nay vương quốc Aragon đã trở thành lịch sử, có lẽ Genoa cũng không tránh khỏi số phận tương tự. Nếu vậy thì những thế lực nào từng chống lại nhà Anjou cũng đều có thể trở thành mục tiêu của vương quốc Latium chăng. Và thế là bọn họ đều nhìn về phía Hungary và Burgundy. Đương nhiên, cả vương quốc Hungary và công quốc Burgundy cũng tích cực chuẩn bị chiến tranh.
Cuối tháng 8, chỉ sau nửa tháng kể từ ngày tuyên chiến, Hải quân của Thần Thánh Đế quốc đã phong tỏa vùng biển ngoài khơi Genoa, và 3 vạn quân của đạo Linh Tiệp quân đổ bộ lên bờ.
Genoa là một nước duyên hải, nằm men theo bờ biển, hẹp mà dài, rất thích hợp để các chiến hạm của Hải quân Thần Thánh Đế quốc công kích. Genoa trước đây từng có lực lượng hải quân hùng mạnh, nhưng sau chiến tranh với cộng hòa Venice năm 1380, đã bại trận và suy yếu. Hơn nữa, Hạm đội của Genoa cũng chỉ có thể xưng hùng với các tiểu quốc ở Địa Trung Hải mà thôi.
Toàn dân Genoa cũng chỉ chưa đến 10 vạn người, đại đa số là thương nhân, trừ hải quân ra thì quân đội thường trực chỉ có khoảng 1.000 người, khi có chiến tranh thì thuê cố dụng quân (để giảm chi phí duy trì quân đội). Chỉ có điều, sau khi tuyên chiến, vương quốc Latium còn tuyên bố bất kỳ ai giúp người Genoa đều là kẻ thù của vương quốc, nên nghị viện Genoa dù sử dụng nhiều tiền bạc cũng không thuê được cố dụng quân – không ai muốn trở thành mục tiêu tiếp theo của vương quốc Latium, hơn nữa xem ra Genoa chẳng có cơ hội nào để chiến thắng.
Ngày 22, đội chiến hạm tiên phong của Hắc Long Hạm đội tiến vào vùng biển Genoa.
Ngày 23, một trận hải chiến chớp nhoáng diễn ra ngoài khơi thành phố cảng Genoa. Hạm đội Genoa với 12 ‘tiểu’ chiến thuyền bị tiêu diệt hoàn toàn. Gần 50 vũ trang thương thuyền của Genoa đều ẩn náu bên trong cảng, không dám ra ngoài. Cùng ngày, quân Anjou ở Provence cũng áp sát biên cảnh Genoa và Milan, sẵn sàng hỗ trợ vương quốc Latium.
Ngày 24, sau mấy giờ pháo kích vào thành phố, các vận thuyền của Hắc Long Hạm đội đổ 3 vạn Linh Tiệp lên bờ. Sau đó, đại quân tiến vào thành phố, thế như phá trúc. Những nơi mà người Genoa ngoan cường đề kháng thì lục quân chỉ bao vây, rồi gọi chiến hạm đến pháo kích vào đó. Quân dân Genoa tổn thất thảm trọng.
Ngày 25, thành phố thất thủ. Cuộc cướp bóc bắt đầu. Đúng, cướp bóc ! Quân đội Đế quốc thực hiện chính sách giống hệt như đã từng làm ở vùng Giang Bắc khi chiến tranh với Minh triều. Toàn thể dân chúng của Genoa được tập trung ra bờ biển, sau đó được phân loại thành 2 nhóm : quý tộc và bình dân. Toàn bộ tài sản của bọn họ đều bị tịch thu, sung công. Còn tất cả bị cưỡng chế di cư, trở thành khổ công hay nô lệ (nếu là nghịch dân hoặc quý tộc). Theo lệ ở u châu thời bấy giờ, kẻ bại trận bị bắt làm tù binh có thể dùng tiền để chuộc, còn nếu không chuộc thì bị biến thành nô lệ. Có điều Thần Thánh Đế quốc không cho chuộc tù binh. Giang Phong không muốn mất công sức bắt được địch nhân, rồi vì tiền mà thả bọn họ ra để bọn họ tiếp tục chống đối.
Cuộc cướp bóc kéo dài suốt ba ngày. Sau đó, theo lệnh của Long nhi, toàn bộ quý tộc của Genoa được chuyển giao cho quân Anjou. Đó là quà Long nhi tặng cho em trai của mình Réne de Anjou. Còn toàn bộ bình dân bị cưỡng chế di cư đến Tripoli khai phát vùng đất mới mở mang ở đó.
Ngày 28, chờ mãi không thấy quân đội công quốc Milano sang cứu viện Genoa, Lý Xương Văn suất lĩnh đạo Linh Tiệp hợp cùng 1.000 quân Anjou tạo thành liên quân tiến sang Milano ở ngay phía bắc Genoa. Bởi vì cộng hòa Genova thật ra nằm dưới quyền thống trị của dòng họ Visconti xứ Milano, nên trước đó Đinh An Bình đã có kế hoạch chiến tranh với cả Genoa và Milano.
Ngày 3 tháng 9, Linh Tiệp quân Đệ nhị sư đụng độ quân đội Milano tại Pavia, cạnh bờ sông Po. Sau một trận giao chiến, 5.000 quân Milano bị bao vây ngay trên cánh đồng. Do bốn phía bằng phẳng, không có các vị trí hiểm yếu, Đệ nhị sư đành đào vô số hầm hố, cài đặt vô số cạm bẫy, đào hào đắp lũy bao vây địch quân. Quân Milano dù nhiều lần tổ chức phá vây, nhưng quân số ít hơn, trang bị kém hơn, nên đều bị đánh bật trở lại, và thiệt hại không nhỏ. Tướng chỉ huy quân Milano đành tổ chức cố thủ và phái người đi cầu viện.
Ngày 5, quân tiếp viện của Milano kéo đến, hội hợp với số quân bị vây được hơn 1 vạn, còn đang tổ chức phá vây thì Đệ nhất sư, Đệ tam sư của Linh Tiệp quân đã kéo đến. Lý Xương Văn sử dụng 3 vạn quân bao vây hơn 1 vạn quân Milano.
Ngày 6, Công tước Jean II de Fearless xứ Burgundy thống suất 30.000 quân, mượn đường của Liên minh các công quốc Thụy Sĩ (Duchies of Swiss Confederation), tiến sang tiếp viện Milano. Do nhà Burgundy liên minh với Anh Cách Lan trong cuộc ‘chiến tranh trăm năm’, nên đã bị quý tộc Pháp Lan Tây, trong đó có nhà Anjou, xem là kẻ địch. Cũng chính vì vậy mà Công tước xứ Burgundy mới phái quân đội sang tiếp viện cho Milano. Bọn họ định liên minh với nhau cùng chống lại vương quốc Latium, hay nói đúng hơn là quân đội Thần Thánh Đế quốc.
Ngày 9, quân Burgundy hội hợp cùng quân Milano, quân số tăng lên đến gần 40.000 người, định phản công tiêu diệt Linh Tiệp quân. Nào ngờ, Ngô Trấn Quốc thống suất Bảo Tiệp quân kéo đến, hợp cùng Linh Tiệp quân bao vây liên quân Milano – Burgundy.
Ngày 12, Hoàng đế Sigismund de Luxembourg của Đế quốc La – Đức đang ở Constance đã triệu tập 45.000 quân kéo sang tiếp viện cho quân Milano, nguyên nhân cũng tương tự như Công tước xứ Burgundy. Do biết thế nào vương quốc Latium cũng sẽ tấn công Hungary, mà Sigismund de Luxembourg lại là phu quân của nữ vương Mary de Hungary, vì vậy mà quân đội Đế quốc La – Đức nhân lúc này tham chiến luôn.
Quân đội Đế quốc La – Đức cũng theo đường Thụy Sĩ tiến sang Milano. Ngày 18, sau 6 ngày khẩn cấp hành quân, quân đội Đế quốc La – Đức đã đến được chiến trường. Thế nhưng, Đinh An Bình đã phái 4 đạo quân Uy Tiệp, Long Tiệp, Chiêu Viễn, Chiêu Đức mai phục chờ sẵn, khi thấy quân đội Đế quốc La – Đức vừa đến gần khu vực chiến trường thì kéo ra bao vây ngay. Trên đồng bằng sông Po lúc này có hai vòng vây cực lớn : 1 bao vây 40.000 liên quân Burgundy – Milano và 1 bao vây 45.000 quân Đế quốc La – Đức.
Ngày 19, Đinh An Bình đích thân đến chỉ huy cuộc hội chiến, lại đưa thêm 3 vạn dân binh của vương quốc Latium đến tiếp viện. Vòng vây được xiết chặt thêm. Quân đội Thần Thánh Đế quốc chỉ bao vây chứ không tấn công, thỉnh thoảng chỉ dùng thần công đại pháo nã đạn vào bên trong, thường là lúc nửa đêm, để khiến cho địch quân không ngủ được. Nhiều lúc, Đinh An Bình còn cho quân đốt gỗ ướt, hun khói vào trong vòng vây, hành hạ thể xác và tinh thần địch quân.
Ngày 25, sau hơn nửa tháng bị vây, sau hơn 10 ngày không được nghỉ ngơi, sau mấy ngày hết lương, cuối cùng liên quân Milano – Burgundy cũng hạ khí giới đầu hàng. Thật ra nếu như không đầu hàng thì bọn họ cũng không còn đủ sức chiến đấu. Đến lúc này, liên quân chỉ còn lại 3 vạn người. Hơn 1 vạn tử vong, khoảng một nửa là do chết đói, còn một nửa là tử trận khi phá vòng vây thất bại.
Ngày 6 tháng 10, sau nhiều lần phá vây thất bại, quân số tổn thất nặng nề, tinh thần và thể lực đều suy sụp nghiêm trọng, lương thực lại cạn, quân đội Đế quốc La – Đức cũng buộc phải hạ khí giới đầu hàng. Đến lúc này, trong vòng vây chỉ còn lại vài nghìn người là còn đủ sức cầm vũ khí.
Bắt được hơn 6 vạn tù binh, Đinh An Bình để 2 đạo quân Chiêu Đức, Chiêu Viễn ở lại xử lý chiến trường, số còn lại phân thành 5 đạo tỏa ra chiếm lĩnh các xứ trong công quốc Milano.
.....
Các loại tước hiệu của quý tộc u châu (phần 5)
8. Đan Mạch :
Nhóm 1 :
Konge/Dronning - quốc vương / nữ vương
Kronprins - Thái tử
Fyrste - thân vương
Nhóm 2 :
Hertug - công tước
Marki - hầu tước
Greve - bá tước
Vicegreve - tử tước
Baron - nam tước
Nhóm 3 :
Ridder - Hiệp sĩ
9. Thụy Điển :
Nhóm 1 :
Kung/Drottning - quốc vương / nữ vương
Kronprins/Kronprinsessan - Thái tử/ nữ thái tử
Furste - thân vương
Prins - vương tử
Nhóm 2 :
Hertig - công tước
Markis - hầu tước
Greve - bá tước
Vicegreve - tử tước
Baron - nam tước
Nhóm 3 :
Friherre - tùng nam tước (chuẩn nam tước)
Thụy Điển vào năm 1975 đã bãi bỏ chế độ "công thần thế tước".
Kỳ sau : Na Uy và Phần Lan
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Nguồn: ttv
Chương 98 : GIA ĐÌNH NHÀ ANJOU
Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.518 (Bính Thân, 1416). Mùa đông, tháng 10. Thành phố cảng Genoa.
Sau cuộc chiến, không chỉ thành phố cảng Genoa, toàn lĩnh thổ của nước cộng hòa Genoa không còn lại một người dân nào. Tất cả dân chúng đều đã bị đưa sang Tripoli khai phá mở mang các vùng đất mới. Ở Genoa chỉ có 1.000 dân binh của vương quốc Latium tạm thời trú đóng, chờ điều tân di dân sang đây. Nơi đây có vị trí trọng yếu, lại nằm ngay bên cạnh Provence, nên Long nhi và Đinh An Bình đều nhất trí là phải bố trí những cư dân đáng tin cậy đến sinh sống. Có điều, giờ đây trong thành Genoa còn có 1 vạn quân của Chiêu Đức quân Đệ nhất sư trú thủ, bởi sự hiện diện của Long nhi và Đinh An Bình trong thành phố. Bộ chỉ huy chiến dịch Milano đặt tại đây. Đinh An Bình đến đây để đích thân chỉ huy Pavia đại hội chiến. Còn Long nhi đến để gặp Réne de Anjou. Genoa nằm ngay bên cạnh Provence, mà lúc này Réne de Anjou lại đang ở Provence.
Do cuộc chiến tranh tại Pháp Lan Tây diễn ra rất gần các công quốc Anjou và Maine, nên nhà Anjou đã tạm thời di chuyển đến Provence, đại hậu phương của họ, chỉ có Louis II de Anjou là ở lại Anjou để chủ trì đại cuộc. Louis II de Anjou sinh năm 1377, năm nay mới 40 tuổi, chính là đang tuổi tráng niên. Theo đúng lịch sử, nếu không có sự xuất hiện của Thần Thánh Đế quốc thì sang năm Louis II de Anjou sẽ vì ưu uất mà qua đời, trao lại quyền vị và sự kỳ vọng phục quốc cho Louis III de Anjou khi đó mới 14 tuổi. Nhưng lúc này, quân Anjou đang trên đà thắng thế, Louis II de Anjou đang hứng khởi chỉ huy đại quân đông chinh bắc phạt, nên chuyện đó chắc sẽ không diễn ra. Nói tóm lại, nhà Anjou lúc này đang rất huy hoàng.
Trong lúc Đinh An Bình đã sang Pavia chỉ huy cuộc chiến, Long nhi ở lại Genoa tiếp đón các em của mình sang thăm. Lần này sang Genoa không chỉ có Réne de Anjou - 7 tuổi, mà còn có cả các em trai, em gái khác : Marie de Anjou – 12 tuổi, Yolande de Anjou – 4 tuổi và Charles de Le Maine – 2 tuổi. Long nhi có tất cả 2 em trai và 2 em gái ở nhà Anjou. Đương nhiên, lúc này Long nhi không thể được tính là người của nhà Anjou, và tên ở u châu của Long nhi là Louis de Latium. Công tước phu nhân Yolande de Aragon vì tế nhị nên không sang. Chỉ có lão quản gia Ferdinand Caracciolo, giờ là Bá tước Ferdinand de Artois, phụ trách hộ tống các vị thiếu chủ.
Nhìn thấy các em, Long nhi hoan hỉ bế người em trai nhỏ nhất, Charles de Le Maine, lên nựng nịu một hồi, rồi xoa đầu hỏi han từng người em khác. Dù Long nhi chỉ mới 13 tuổi, nhưng đã có phong thái của một đại nhân vật. Long nhi đã chuẩn bị rất nhiều quà, là những đồ chơi không có ở u châu, để tặng cho các em. Nhà Anjou quyền quý bậc nhất Pháp Lan Tây, không thiếu gì vàng bạc châu báu, do đó Long nhi chỉ tặng các em đồ chơi. Những thứ mới lạ từ đông phương khiến ai nấy đều rất thích. Yolande de Anjou hồn nhiên hỏi :
- Sao anh có nhiều đồ chơi quá vậy ?
Long nhi mỉm cười xoa đầu Yolande de Anjou, bảo :
- Anh giờ là quốc vương của Latium kia mà.
Yolande de Anjou vỗ tay nói :
- Anh là quốc vương đó nha. Vậy là anh ngang hàng với quốc vương Pháp Lan Tây rồi. Hôm nào anh cho em đến vương cung của anh chơi với nha.
Long nhi mỉm cười nói :
- Đương nhiên rồi. Vương cung hiện đang xây dựng. Khi nào xong anh sẽ dẫn các em đến đó chơi.
Vương cung ở Syracuse thực ra được thiết kế với quy cách Hoàng cung, bởi Long nhi được chuẩn bị để làm Hoàng đế chứ không phải quốc vương. Dù toàn bộ quần thể kiến trúc phải mất mấy năm mới có thể hoàn thiện, nhưng các kiến trúc chính chỉ sang năm là xong, và đến lúc đó cung đình sẽ có thể chính thường hoạt động.
Long nhi gọi người hầu sắp bày yến tiệc khoản đãi các em. Long nhi không chỉ là quốc vương của Latium, mà còn là Hoàng tử của Thần Thánh Đế quốc, nên việc ăn uống được phục vụ theo tiêu chuẩn cao nhất. Cả Long nhi và Đinh An Bình đều là những đại nhân vật của Thần Thánh Đế quốc, nên đầu bếp đều là cung đình ngự trù, tay nghề khỏi phải nói. Ngay đến Charles de Le Maine mới có 2 tuổi cũng có phần thức ăn riêng phù hợp với mình. Nhìn mọi người ăn uống vui vẻ, Long nhi mỉm cười, tự tay đút thức ăn cho Charles.
Sau bữa ăn, trong lúc trò chuyện, Marie de Anjou chợt hỏi :
- Anh ơi. Nghe nói ở Jerusalem có học viện dành cho quý tộc phải không ạ ?
Long nhi gật đầu :
- Đúng thế. Em định đến đó học ư ?
Marie nói :
- Vâng ạ. Papa và mama đều bảo rằng em đã đến tuổi đi học rồi.
Long nhi suy nghĩ giây lát, rồi mỉm cười nói :
- Cũng tốt. Em đến đó học, anh vẫn có thể chiếu cố được cho em, không sao cả.
Ở Jerusalem, Thần Thánh Đế quốc có mở một học viện để dạy cho con em của quý tộc các xứ A Lạp Bá và vùng lân cận Địa Trung Hải về các kiến thức và nghi lễ của Đế quốc. Con em quý tộc thường được phụ huynh mời gia sư về dạy tại nhà, nhưng khi học viện khai giảng, đại đa số quý tộc đều gửi con em của mình đến đó nhập học, với hy vọng con em họ có thể nhanh chóng hòa nhập với Đế quốc. Hơn nữa, đến học tại đó còn có cơ hội kết bạn với những con em quý tộc khác, sẽ rất có lợi để sau này kế thừa gia nghiệp. Giao tế quan hệ, đối với giới quý tộc rất quan trọng, thân phận địa vị càng cao thì lại càng quan trọng
Réne de Anjou chợt nói :
- Anh ơi. Hạm đội Angers mà anh tặng cho em lợi hại quá hà. Em muốn có thêm một Hạm đội nữa. Em muốn đánh sang Anh Cách Lan.
Long nhi khẽ cau mày, quay nhìn lão quản gia nhà Anjou, Bá tước Ferdinand de Artois. Lão vội giải thích :
- Quân ta đã chiếm lại được toàn bộ Pháp Lan Tây. Hiện Hạm đội Angers đang đánh nhau với Hải quân Anh Cách Lan ở vùng biển Manche. Sau 80 năm chiến tranh, cả nước bị tàn phá nặng nề, nên lúc này toàn thể quân dân Pháp Lan Tây đều muốn chuyển chiến trường sang đất Anh Cách Lan. Có điều, dù Hạm đội Angers chiếm ưu thế tuyệt đối trên biển, nhưng cũng không thể khống chế hoàn toàn vùng biển Manche, và cũng chưa đủ điều kiện để đưa quân đội đổ bộ sang đất Anh Cách Lan.
Kể từ khi chiến tranh bùng nổ năm 1337, đến nay (năm 1416) vừa tròn 80 năm, chiến tranh rất ác liệt, nhưng đều diễn ra trên đất Pháp Lan Tây, khiến cho Pháp Lan Tây phải chịu thiệt hại rất nặng nề. Cũng từ cuộc chiến này mà thù hận giữa 2 nước mới kéo dài dai dẳng đến tận thời hiện đại. Do đó, khi giành được thắng lợi với ưu thế vượt trội, người Pháp muốn báo thù rửa hận cũng không có gì là lạ. Nhưng việc Hạm đội Long nhi không thể quyết định được. Suy nghĩ giây lát, Long nhi mới nói :
- Anh không quyết định được chuyện đó. Nhưng anh sẽ nói với Chiêu Đức Vương xem sao. Chiêu Đức Vương là bộ trưởng Hải quân bộ, đối với các loại vũ trang thương thuyền chắc có quyền quyết định.
Nghe nhắc đến thuyền, Charles đang được Long nhi bế trong lòng chợt lên tiếng :
- Anh ơi. Thuyền. Xem thuyền.
Long nhi mỉm cười, xoa đầu Charles, bảo :
- Được rồi. Chúng ta ra biển chơi một chút. Em sẽ được xem thuyền.
Yolande de Anjou hỏi :
- Anh ơi. Em nghe nói thuyền của Thần Thánh Đế quốc lớn lắm phải không ạ ?
Long nhi mỉm cười đáp :
- Thuyền không lớn. Chỉ có hạm mới lớn thôi.
Charles lại nói :
- Anh ơi. Hạm. Xem hạm.
Long nhi liền truyền lệnh chuẩn bị hạm thuyền để mọi người ra biển chơi. Dưới bến cảng có rất nhiều thuyền hạm của Hắc Long Hạm đội, và bọn Long nhi đi trên chiến hạm lớn nhất - một trong hai chiếc Lục Tinh cấp chiến hạm. Mỗi khi Long nhi và Đinh An Bình đi đâu đều sử dụng Lục Tinh cấp chiến hạm, danh nghĩa là vì để phù hợp thân phận địa vị, nhưng thực chất là vì an toàn.
Lên trên chiến hạm, Charles tròn xoe mắt, nói :
- Anh ơi. Lớn quá. Lớn quá.
Bọn Réne de Anjou đứng trên boong thuyền, nhìn xuống những chiến thuyền Genoa nhỏ bé đậu trong cảng, tấm tắc xuýt xoa không ngớt. Réne de Anjou còn nói :
- Phải chi chúng ta có một chiến hạm kiểu này nhỉ ?
Long nhi khẽ thở dài, nói :
- Không thể nào được đâu. Đóng được một chiến hạm kiểu này mất rất nhiều thời gian, ở Đế quốc còn không đủ sử dụng, mỗi Hạm đội chỉ được phối cấp có 2, 3 chiếc, làm gì còn truyền ra ngoài.
Lão quản gia Bá tước Ferdinand de Artois gật gù nói :
- Bệ hạ nói phải đó. Chiến hạm kiểu này, không nước nào chấp nhận truyền ra ngoài đâu, trừ khi họ có chiến hạm khác còn lợi hại hơn.
Long nhi đã là quốc vương của Latium, Hoàng tử của Thần Thánh Đế quốc, nên lão không thể gọi là thiếu chủ như lúc trước. Long nhi nghe lão nói thế, bảo :
- Đế quốc đã có Ngũ Tinh cấp chiến hạm, nhưng cũng không có nghĩa là những chiến hạm đẳng cấp thấp hơn có thể cung cấp cho nước khác. Các Hạm đội của Hải quân Đế quốc đều đang cần bổ sung chiến hạm.
Lão quản gia Ferdinand de Artois nghe thế, giật mình hỏi :
- Còn chiến hạm lớn hơn cả chiếc này ?
Long nhi lắc đầu bảo :
- Không. Chỉ tương đương chiếc này, nhưng tốc độ nhanh hơn, nhiều thần công đại pháo hơn, khả năng tấn công và phòng ngự cao hơn.
Biết nhà Anjou đang mong mỏi tăng cường lực lượng Hải quân, Long nhi chỉ khẽ lắc đầu. Đừng nói chiến hạm kiểu này, ngay cả loại chiến hạm nhỏ nhất, tuần dương hạm, cũng chưa chắc có được. Nhưng Long nhi cũng thông cảm, bởi trước giờ Hải quân Anh Cách Lan vẫn luôn vượt trội hơn, nay có cơ hội, bọn họ không muốn bỏ lỡ. Chỉ đành hy vọng ở sự thông cảm của Đinh An Bình.
.....
Các loại tước hiệu của quý tộc u châu (phần 6)
10. Na Uy
Nhóm 1 :
Konge/Dronning - quốc vương / nữ vương
Kronprins - Thái tử
Furst - thân vương
Nhóm 2 :
Hertug - công tước
Marki - hầu tước
Greve - bá tước
Visegreve - tử tước
Baron - nam tước
Nhóm 3 :
Ridder - Hiệp sĩ
Na uy sau khi độc lập vào năm 1905 đã bãi bỏ chế độ "công thần thế tước". Trước đó Na Uy luân phiên là thuộc địa của Đan Mạch và Thụy Điển. Quốc vương Na Uy do quốc vương của tôn chủ quốc kiêm nhiệm, nên tước hiệu giống 2 nước đó.
11. Phần Lan
Nhóm 1 :
Keisari - hoàng đế
Prinssi - Hoàng thân
Arkkiherttua - đại công
Nhóm 2 :
Herttua - công tước
Markiisi - hầu tước
Jaarli - bá tước
Varakreivi - nam tước
Nhóm 3 :
Ritari - Hiệp sĩ
Phần Lan không có Tử tước.
Quý tộc chế độ của Phần Lan phụ thuộc vào quý tộc chế độ của Thụy Điển. Đến năm 1809, nước nga chiếm đóng Phần Lan, thì Phần Lan đại công quốc mới kiến lập tương đối độc lập quý tộc tước vị đẳng cấp chế độ, Phần Lan đại công do Nga quốc Sa hoàng kiêm nhiệm, chỉ sắc phong hai loại tước vị là Bá tước và Nam tước. Các tước vị cao hơn là từ nước Nga. Năm 1918, Phần Lan thành lập nền cộng hòa đã bãi bỏ quý tộc chế độ.
Ở u châu ngày trước, chỉ có Đế quốc La Mã Thần Thánh Dân tộc Đức, Nga quốc và Ottoman là có Hoàng Đế. Sa Hoàng của Nga tự nhận thừa kế từ Đế quốc Byzantine, do cưới vị công chúa của Hoàng đế cuối cùng của Byzantine. Ottoman diệt Byzantine, nên cũng xem mình là Đế quốc. Còn Đế quốc La Mã Thần Thánh Dân tộc Đức là nối tiếp từ Đế quốc Tây La Mã và Đế quốc La Mã Thần Thánh (của Charlesmagne, người Đức gọi là Karl der Große, vua Pháp, Đức, Ý, và cả Tây u).
Kỳ sau : Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Nguồn: ttv
Chương 99 : KẾT THÚC BẮC PHƯƠNG CHIẾN LƯỢC
Lại nói, Long nhi dẫn các em đi chơi trên biển một đêm, sáng hôm sau mới cho chiến hạm quay về. Trong các em, bé nhỏ nhất Charles luôn luôn bám theo Long nhi, đòi được bế. Long nhi cũng cưng chiều bé nhất. Bé mới 2 tuổi, được Long nhi yêu mến, cho nhiều đồ chơi, thức ăn ngon, nên quý mến Long nhi cũng là chuyện bình thường.
Hôm sau, khi về đến Genoa, Long nhi đã thấy Đinh An Bình về đến đó rồi. Long nhi ngạc nhiên hỏi :
- Vương gia. Cuộc chiến thế nào rồi ?
Đinh An Bình tủm tỉm cười nói :
- Đương nhiên là đã giải quyết xong cả rồi. Quân ta bắt được 6 vạn tù binh, giết được 2 vạn rưỡi , thương vong chỉ có vài trăm. Hiện tại các đạo quân đang công chiếm các xứ ở Milano.
Sở dĩ thương vong ít như thế là vì không có chiến đấu nhiều, chỉ bỏ đói địch quân rồi tự nhiên chiến thắng. Đối phương khi tổ chức phá vây thì sử dụng mưa tên và đạn pháo ngăn cản. Có thể nói, trận Pavia đại hội chiến là trận chiến tuyệt vời nhất của quân đội Thần Thánh Đế quốc từ trước đến nay.
Long nhi hỏi :
- Vương gia định xử trí Milano giống Genoa ?
Đinh An Bình cười bảo :
- Đương nhiên.
Long nhi khẽ cau mày, nhưng rồi cũng không nói gì, chỉ bọn Réne de Anjou giới thiệu với Đinh An Bình, sau đó nói :
- Vương gia. Quân Anjou muốn mở rộng Hải quân, không biết vương gia có thể giúp đỡ không ?
Đinh An Bình dễ dãi nói :
- Chiến hạm thì không được, nhưng vũ trang thương thuyền thì không thành vấn đề. Bán cho thương nhân hay bán cho quân Anjou thì cũng thế thôi. Đương nhiên không thể miễn phí. Ta chỉ có thể xem phía Anjou bình đẳng với thương nhân của Đế quốc.
Lão quản gia Bá tước Ferdinand de Artois sau khi tận mắt chứng kiến sự hùng mạnh của Thần Thánh Đế quốc, khi về đến Provence đã tranh thủ học ngôn ngữ của Đế quốc, đến nay cũng tạm nghe hiểu được, vội ứng tiếng nói :
- Vâng ạ. Chúng tôi sẽ mua. Đa tạ Đại vương đã chiếu cố.
Đinh An Bình gật đầu nói :
- Mọi người đi nghỉ ngơi trước đi. Bản vương có việc cần bàn với Điện hạ.
Lão quản gia vâng dạ, đưa các thiếu chủ đi theo sự hướng dẫn của người hầu về nơi nghỉ ngơi. Chỉ có bé Charles là không chịu rời Long nhi, nhõng nhẽo mếu máo :
- Không. Anh ơi. Anh bế.
Long nhi ngại ngùng nhìn Đinh An Bình. Họ Đinh mỉm cười nói :
- Không sao. Tiểu công tử còn nhỏ quá mà. Tiểu công tử thật đáng yêu đó nha.
Thế là Long nhi bế bé Charles cùng Đinh An Bình bàn bạc quân quốc đại sự. Đinh An Bình nói :
- Sau khi giải quyết xong chiến trường Milano, quân ta sẽ tiếp tục bắc phạt. Lúc đó sẽ có hai hướng, tây bắc sang Đế quốc La – Đức. Điện hạ muốn chọn hướng nào ?
Long nhi suy nghĩ giây lát, rồi nói :
- Vậy hãy tấn công Burgundy đi ! Nếu chiếm Burgundy thì dễ dàng sát nhập vào Latium. Còn Đế quốc La – Đức thì khó hơn, phản kháng sẽ rất nghiêm trọng, mà dù có chiếm được cũng khó sát nhập. Ở đó có đến hàng nghìn lĩnh địa lớn nhỏ, quý tộc quá nhiều.
Có thể nói Đế quốc La Mã Thần Thánh Dân tộc Đức có thể chế gần giống các vương triều Hạ, Thương của Trung Hoa cổ đại. Trong nước có đến hàng nghìn lĩnh địa lớn nhỏ, mỗi lĩnh địa độc lập với nhau như một quốc gia vậy, cũng giống như hàng nghìn tiểu quốc chư hầu thời Hạ, Thương (vua Thành Thang, tổ của nhà Thương, đã hội họp hơn 2.000 nước chư hầu để chinh phạt vua Kiệt nhà Hạ). Hoàng đế thật ra cũng chỉ là một lĩnh chủ lớn, hùng mạnh, và được các vương công quý tộc bầu lên làm Hoàng đế. Mà chức Hoàng đế đó lại không thể cha truyền con nối. Với một đất nước như thế, thật khó cai trị. Nghe Long nhi bảo thế, Đinh An Bình gật đầu nói :
- Ta cũng nghĩ giống Điện hạ. Tuy quân ta vừa tiêu diệt 4 vạn rưỡi quân Đế quốc La – Đức, nhưng đó thật ra cũng chỉ là thân quân của Hoàng đế Sigismund de Luxembourg mà thôi. Các vương công quý tộc còn rất nhiều quân đội. Nếu như lúc này chúng ta tấn công, Sigismund de Luxembourg có thể thừa cơ thống nhất lực lượng các lĩnh địa chư hầu dưới danh nghĩa chống quân ta, để củng cố địa vị của mình. Còn nếu như chúng ta cứ để mặc đó thì thế lực của Sigismund de Luxembourg sẽ càng ngày càng suy yếu. Sau khi quân đội tổn thất nghiêm trọng, các vương công chư hầu sẽ không còn nể trọng hắn ta như trước nữa. Chúng ta cũng có thể sử dụng một số thủ đoạn khác nữa để làm giảm thế lực của hắn ta.
Long nhi hỏi :
- Vậy chúng ta sẽ tấn công Burgundy ?
Đinh An Bình cười nói :
- Thật ra tấn công Burgundy còn có một điều lợi khác nữa là có thể nhân tiện giải quyết luôn công quốc Bourbon ở cạnh đó. Điện hạ còn nhớ James de Bourbon chứ ?
Long nhi kinh ngạc nói :
- Vương gia định tấn công cả Bourbon ?
Đinh An Bình cười nói :
- Bourbon tuy ở khu vực trung tâm của Pháp Lan Tây, không thích hợp để sát nhập vào Latium, nhưng Điện hạ có thể tặng nó cho tiểu công tử đây. Điện hạ trước đã có quà cho Réne de Anjou thì cũng nên có quà cho tiểu công tử đây chứ. Tiểu công tử đáng yêu thế này cơ mà.
Long nhi nhìn bé Charles lúc này đang tròn xoe mắt lắng nghe hai người nói chuyện, suy nghĩ giây lát rồi cũng tán đồng đề nghị của Đinh An Bình. Để bé Charles trở thành Công tước xứ Bourbon cũng hay, dù sao thì James de Bourbon cũng đã tử trận ở Taranto rồi.
Mấy ngày sau, khi đã ổn định tình hình ở Milano, 5 đạo quân Uy Tiệp, Long Tiệp, Linh Tiệp, Bảo Tiệp, Chiêu Viễn cùng với 2 vạn dân binh Latium được lệnh tiến sang Liên minh các công quốc Thụy Sĩ ở phía bắc. Đó là con đường bắt buộc để từ Milano tiến sang Burgundy hoặc vùng nội lục của Đế quốc La – Đức. Trên danh nghĩa, bọn Đinh An Bình tuyên bố quân của Burgundy và Đế quốc La – Đức tiến sang Milano bằng đường Thụy Sĩ, nên bọn họ xem Thụy Sĩ cũng là kẻ địch. Chiến trường tiếp theo dự kiến sẽ diễn ra ở Thụy Sĩ.
Chỉ đáng tiếc, người tính không bằng trời tính. Khi đạo tiên phong là Bảo Tiệp quân vừa tiến gần đến biên giới với Thụy Sĩ thì gặp phải sứ giả từ Thụy Sĩ sang, tỏ ý xin quy thuận. Khi gặp sứ giả Thụy Sĩ, Ngô Trấn Quốc càu nhàu nói :
- Các ngươi tại sao lại không chịu chống cự, quy thuận sớm thế làm gì ? Ít ra cũng phải chống cự vài trận đã chứ !
Sứ giả Thụy Sĩ cười khổ, thầm than : “Chống cự rồi sẽ phải gánh chịu hậu quả giống như Genoa và Milano à !”. Dù vậy, ngoài mặt gã ta vẫn phải nói :
- Mạo phạm Thần Thánh Đế quốc chính là bọn quý tộc. Quân dân Thụy Sĩ trước nay vẫn kính phục Thần Thánh Đế quốc và mến đức “Hoàng tử của bi thương”. Nay bọn quý tộc đã bỏ trốn hết rồi. Quân dân chúng tôi mới họp nhau sang xin thần phục.
Nghe nói quý tộc đã bỏ trốn hết, nghĩ rằng bọn chúng chắc chắn sẽ mang theo của cải tài sản, có tấn công cũng chẳng mang lại bao nhiêu lợi ích, vì vậy Ngô Trấn Quốc chỉ đành dẫn sứ giả Thụy Sĩ đến bái kiến Long nhi và Đinh An Bình.
Sau khi tiếp nhận sự quy thuận của các công quốc Thụy Sĩ (mà lúc này không thể xem là các công quốc nữa, bởi quý tộc đã bỏ trốn hết), Đinh An Bình để lại 1 vạn dân binh Latium trấn thủ Thụy Sĩ, triệu kiến một số nhân vật bình dân nổi tiếng của Thụy Sĩ, rồi truyền lệnh quân đội tiếp tục tiến sang công quốc Burgundy ở phía tây bắc. Thật ra công quốc Burgundy có 2 bộ phận : Đất công tước xứ Burgundy (Duchy of Burgundy) thuộc lĩnh thổ Pháp Lan Tây và Đất Bá tước xứ Burgundy (Count of Burgundy) thuộc lĩnh thổ Đế quốc La – Đức. Công tước xứ Burgundy cai quản cả 2 xứ này. Trước đây, nhà Burgundy cai quản nhiều lĩnh địa rộng lớn ở cả Pháp Lan Tây và Đế quốc La – Đức, gồm các xứ Burgundy, Nevers, Charolais, Flanders, Picardie, Clermont, Eu, Artois, Hainaut, Brabant, Gueldre, Luxembourg, Rethel. Nhưng giờ đây, nhà Burgundy chỉ còn lại Burgundy – Nevers - Charolais ở phía nam và Luxembourg - Rethel ở phía bắc. Mỗi vùng này đều có các lĩnh địa tiếp giáp nhau, một phần nằm bên Pháp Lan Tây và một phần nằm bên Đế quốc La – Đức.
Khi quân đội Thần Thánh Đế quốc tiến vào Burgundy thì giới quý tộc ở đó đã học theo giới quý tộc Thụy Sĩ, kéo nhau di tản lên Luxembour ở phía bắc. Sau trận Pavia, mất đi 30.000 quân, nhà Burgundy hầu như không còn quân đội để điều động nữa, nên chỉ còn cách di tản. Dân chúng ở đó cũng học theo dân chúng Thụy Sĩ, nhanh chóng xin quy thuận.
Thừa thế, các đạo quân Linh Tiệp, Bảo Tiệp tràn sang Bourbon, các đạo quân Uy Tiệp, Long Tiệp tràn sang Nevers ở ngay phía tây Burgundy, và đạo quân Chiêu Viễn tiến xuống Charolais, nhanh chóng chiếm lĩnh các xứ đang không hư này. Ở những xứ này, quý tộc di tản quá sớm, dân chúng quy thuận quá nhanh chóng, nên quân đội Đế quốc không có cơ hội thực hiện chính sách như ở Genoa và Milano. Dù sao thì không hao binh tổn tướng, không phí đạn dược cung tên mà chiếm được là cũng tốt lắm rồi. Thực ra nếu không phải đối diện 180.000 quân và “tam quang chính sách” ở Genoa, dân chúng ở đó cũng sẽ không quy thuận dễ dàng như thế. Dân chúng chỉ cần sống ổn định, không quan tâm nhiều ai là người thống trị, miễn sao người thống trị không tàn ác đến độ “nhân thần cộng phẫn” thì thôi.
Chiếm được Burgundy, các chiến dịch ở phương bắc xem như cũng đã kết thúc, trọng tâm của bọn Đinh An Bình sẽ chuyển sang phía đông.
.....
Các loại tước hiệu của quý tộc u châu (phần 7)
12. Tây Ban Nha :
Nhóm 1 :
Rey/Reina - quốc vương / nữ vương
Príncipe de Asturias - Thái tử (Hán tự : a tư đồ lý á tư vương tử)
Príncipe - vương tử
Nhóm 2 :
Duque - công tước
Marqués - hầu tước
Conde - bá tước
Vizconde - tử tước
Barón - nam tước
Nhóm 3 :
Señor hương thân
13. Bồ Đào Nha :
Nhóm 1 :
Imperador - hoàng đế (chỉ sử dụng ở Brasil)
Rei - quốc vương
Príncipe - vương tử
Nhóm 2 :
Duque - công tước
Marquês - hầu tước
Conde - bá tước
Visconde - tử tước
Barão - nam tước
Bồ Đào Nha khi thành lập nền cộng hòa vào năm 1910 đã bãi bỏ chế độ quý tộc.
Kỳ sau : Ý và Ba Lan
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Nguồn: ttv
Chương 100 : CHIẾN DỊCH TYROL (1)
Lại nói, sau khi chiếm được Burgundy, Nervers, Charolais và Bourbon, các chiến dịch ở phương bắc xem như cũng đã kết thúc. Đinh An Bình quyết định thừa thắng xông lên, chuyển hướng sang khu vực phía đông. Các chiến dịch ở phương bắc, quân đội không có chiến đấu nhiều, nên cũng không tiêu hao nhiều sức lực, sẵn sĩ khí đang lên, thừa cơ tấn công là có lợi hơn cả. Lúc này, sau khi thiệt hại 45.000 quân ở Milano, Đế quốc La – Đức đang trong thời gian hồi phục, không thể chủ động tham chiến. Nếu để đến sang năm, khi quân lực hồi phục, tình hình khó thể thuận lợi như lúc này.
Mục tiêu kế tiếp của bọn Đinh An Bình là Hungary, nhưng trước đó, bọn họ phải vượt qua công quốc Áo – Tyrol nằm giữa Hungary và Thụy Sĩ. Nếu không, phải đi đường biển vòng qua mũi cực nam bán đảo Italia, rồi vào biển Adriatic, thì sẽ mất rất nhiều thời gian.
Sẵn đà thắng lợi, đại quân vượt biên giới vào Tyrol, hội họp với 3.000 quân của George I de Trento tại đấy, hợp thành liên quân tấn công liên quân Áo – Tyrol. Mấy năm nay, Công tước Áo Frederic IV de Autriche đã chuẩn bị quân đội để xâm chiếm Trento, nào ngờ còn chưa kịp hành động thì đã bị tấn công trước. Tyrol là một căn cứ địa quan trọng của liên quân Áo – Tyrol, nơi chứa nhiều lương thực vật tư chuẩn bị cho công cuộc xâm chiếm Trento. Do đó, Frederic IV de Autriche không thể để mất Tyrol, đã tập trung quân đội lại đấy kháng cự, đồng thời cầu cứu các công quốc lân cận và cầu cứu Hoàng đế Sigismund de Luxembourg. Dưới sự kêu gọi của Sigismund de Luxembourg, hàng loạt các công quốc thành viên của Đế quốc La – Đức đã hội quân về đấy. Tyrol sắp sửa biến thành một đại chiến trường.
Trước khi chiến dịch Tyrol diễn ra, bọn Đinh An Bình còn có nhiệm vụ quan trọng là chỉnh hợp các vùng mới chiếm được, phái quan viên đến cai trị để sát nhập vào Latium. Cũng giống như ở 4 tỉnh cũ, toàn bộ đất đai của các lĩnh địa mới chiếm được đều trở thành tài sản của Long nhi. Ở u châu thời Trung Cổ, lĩnh địa là tài sản của lĩnh chủ, lĩnh chủ cũng tức là địa chủ, còn bình dân chỉ là tá điền, hoặc nông nô. Còn ở vương quốc Latium, chỉ có duy nhất 1 địa chủ là quốc vương. Toàn bộ đất đai trong vương quốc đều thuộc về quốc vương, đó là đặc quyền thần thánh bất khả xâm phạm. Nhưng Long nhi không thể tự mình quản lý toàn bộ số đất đai đó, nên chính sách đất đai mới đã được ban hành. Đất đai được giao cho nông dân, những người sẽ cày cấy trồng trọt trên đó, và sẽ nộp thuế cho quốc vương. Bọn họ cũng chỉ phải nộp duy nhất một sắc thuế cho quốc vương mà thôi, không phải nộp vô số các sắc thuế như nông dân ở các lĩnh địa khác. Vương quốc Latium không tồn tại nhờ nguồn thuế thu được từ nông dân. Thu nhập từ các hoạt động thương mại, từ các thành thị mới là nguồn thu chính.
Nói đúng ra, chính sách kinh tế của vương quốc Latium là học theo chính sách của Thần Thánh Đế quốc, chủ yếu là hạn chế đến mức tối đa địa chủ, và ưu đãi giới tư sản đang dần hình thành. Thương nhân, tức là tư sản phi quý tộc, rất được coi trọng và tạo điều kiện để phát triển. Thời Trung Cổ, tư sản dù giàu có cũng chỉ là bình dân, không có quyền hạn gì trong hệ thống nhà nước, đó là nguyên nhân tạo nên Cách mạng tư sản Pháp. Do đó, khi vương quốc Latium bãi bỏ chế độ phân phong lĩnh địa, chỉ có giới quý tộc – địa chủ bị ảnh hưởng, còn giới tư sản lại càng có cơ hội phát triển hơn nữa. Ở đâu cũng vậy, quý tộc có lĩnh địa chỉ là một bộ phận nhỏ, còn đại bộ phận quý tộc chỉ là tiểu quý tộc, không thân không thế, nếu không y phụ đại quý tộc thì cuộc sống cũng chỉ khá hơn bình dân một chút. Thậm chí nhiều tiểu quý tộc mà gia tộc suy bại, thì sinh hoạt có khi còn kém hơn phổ thông bình dân. Cũng vì vậy mà khi triều đình trục xuất hoặc tiêu diệt quý tộc - địa chủ, ở vương quốc không hề xuất hiện hỗn loạn. Cũng có không ít thương nhân – tư sản nhanh chóng hòa nhập thời cuộc, chuyển thân biến thành quan viên, tân quý tộc (quý tộc – tư sản).
Sau khi kết thúc bắc phương chiến lược, vương quốc Latium tăng thêm 3 tỉnh mới :
1. Milano (diện tích 54,681 kilômét vuông) : nguyên là các lĩnh địa Milano, Piedmond, và nước cộng hòa Genoa, được chia thành 6 quận là Milano, Bresia, Lecco, Turin, Piedmond và Genoa.
2. Thụy Sĩ (diện tích 54,964 kilômét vuông) : nguyên là các công quốc Thụy Sĩ và lĩnh địa Savoy, được chia thành 6 quận là Zurich, Bern, Lucerne, Valais, Uri và Savoy.
3. Burgundy (diện tích 47,784 kilômét vuông) : nguyên là công quốc Burgundy, các lĩnh địa Nevers và Charolais, được chia thành 5 quận là Nevers, Charolais, Beaune, Besançon và Pontarlier.
Còn công quốc Bourbon là quà của Long nhi tặng cho bé Charles, lúc này mới 2 tuổi. Bé là con út, sau này không thể thừa kế cơ nghiệp nhà Anjou, nên Long nhi mới tặng cho công quốc này để tương lai ít ra bé cũng sẽ là một công tước.
Sau khi chỉnh hợp xong các tỉnh mới, Đinh An Bình thân tự ra chiến trường chỉ huy chiến dịch. Còn Long nhi ở lại an phủ dân chúng trong các vùng mới chiếm được.
…
Merano, thủ phủ của Tyrol, nơi có Tyrol thành bảo (Castle of Tyrol) nằm tại thung lũng Val d’ Ultimo, gần sông Passirio.
Cờ xí nghênh phong phất phới. Hai bên vó ngựa dập dồn.
Một đạo quân đông đảo rầm rộ hành quân. Phía sau đoàn quân, những trận trận bụi mù cuốn bay theo gió, nhìn qua cứ giống như một trận bão cát nơi sa mạc. Đại quân ba đường thẳng tiến, nhanh chóng hướng về thành bảo trung tâm của Tyrol, mang theo sát khí ngút trời.
Hai vạn kỵ binh hành quân hai bên tả hữu, hộ vệ hai cánh của đại quân. Liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium – Trento đông đến 20 vạn 3.000 người được hai đạo kỵ binh bảo vệ hai bên, cả ba đường cẩn thận nhưng nhanh chóng tiến thẳng về Tyrol thành bảo. Bộ binh đội ngũ còn mang theo không ít công thành khí giới như xung xa, vân thê, và đặc biệt là hàng nghìn khẩu thần công, dư sức công phá những tòa thành bảo kiên cố nhất. Những khí giới nặng nề đó được đại quân bảo hộ ở chính trung tâm, được những binh sĩ tinh nhuệ nhất bảo vệ, được những chiến mã cường tráng nhất kéo đi, trên đường lưu lại những vết lún sâu, cho những người sau này đi qua nơi này biết rằng đã từng có một đạo quân hùng hậu đi qua đây.
Toàn đạo quân có 20 vạn 3.000 người, trong đó gồm có 18 vạn quân Thần Thánh Đế quốc, 2 vạn quân Latium và 3.000 quân Trento. Sau nhiều ngày hành quân, cuối cùng đại quân cũng đến được Tyrol thành bảo, cứ điểm của liên quân Áo – Tyrol ở thung lũng Val d’ Ultimo. Khi đại quân xuất hiện dưới chân thành, đã khiến cho đối phương rúng động không ít. Các xứ Tây u thường niên chiến loạn, nhưng bọn họ cũng chưa khi nào nhìn thấy đại quân đông đến hàng chục vạn như thế.
Có một điều lạ là ở các nước Đông u và vùng Tây Á, như Đế quốc Ottoman, Đế quốc Ba Tư, vương triều Mamluk, vương triều Timurid, Hãn quốc Kim trướng, … mỗi khi đánh nhau thường huy động đến hàng trăm nghìn quân, thậm chí có khi lên đến hàng triệu quân (Đế quốc Ba Tư xâm lược Hy Lạp, có trận Marathon nổi tiếng, khởi nguyên của môn Marathon ngày nay). Trong khi chiến tranh ở các nước Tây u thường mỗi bên chỉ có vài nghìn quân tham chiến, đôi khi lên đến vài vạn là nhiều. Giống như trong cuộc ‘chiến tranh trăm năm’ giữa Anh Cách Lan và Pháp Lan Tây, quốc vương Anh Cách Lan Henry V of England chỉ suất lĩnh 12.000 quân sang xâm lược Pháp Lan Tây, rồi sau nhiều cuộc giao tranh, tổn thất một phần quân lực, đến trận Agincourt, quân Anh Cách Lan chỉ còn lại 8.500 người vừa thương vừa bệnh, vậy mà còn đại thắng. Do đó cũng đủ thấy, với 3.000 quân chính quy trang bị tinh lương, Trento đã có thể kể là một công quốc mạnh. Còn với 5 vạn chính quy quân, Latium cũng có thể kể là một đại vương quốc, ít ra thì cũng hơn hẳn Anh Cách Lan và Pháp Lan Tây lúc này.
Đại quân thuận lợi tiến đến bên ngoài Tyrol thành bảo hạ trại. Trên đường đi, không hề có một đội địch quân nào dám chặn đường. Đối diện một đạo quân nhân số lên đến hơn 200.000 người, quân đội Tyrol chỉ còn có thể cố gắng phòng ngự chờ viện binh. Dù Công tước Áo Frederic IV de Autriche đã cầu cứu các công quốc lân cận lẫn Hoàng đế Sigismund de Luxembourg, nhưng viện quân cần có thời gian tập hợp, không thể nào đến ngay được. Phía Tyrol ít ra cần phải đan độc phòng thủ trong vòng một tháng. Một tháng a ! Nam tước Andreas de La Passiria khẽ thở dài. Đối phương không chỉ đông hơn gấp mười, mà đông hơn gấp trăm lần. Quân đội ở trong thành bảo hiện chỉ có hơn 2.000 người, làm sao ứng phó, làm sao kéo dài thời gian phòng thủ cho đến khi viện quân đến được. Có lẽ chỉ còn cách làm nhục sĩ khí của đối phương thì may ra … Có lẽ cũng chỉ còn cách đó. Suy nghĩ đến đây, Nam tước Andreas de La Passiria truyền gọi đệ nhất Hiệp sĩ dưới trướng của mình.
***********
Các loại tước hiệu của quý tộc u châu (phần 8)
14. Ý :
Nhóm 1 :
Imperatore - Hoàng đế
Re - quốc vương
Principe - vương tử
Năm 1936, Quốc vương Ý tự phong làm Hoàng đế Etiopia, cũng giống Nữ vương Anh tự phong làm Nữ hoàng đếÂn Độ năm 1876.
Nhóm 2 :
Duca - công tước
Marchesse - hầu tước
Conte - bá tước
Visconte - tử tước
Barone - nam tước
Nhóm 3 :
Cavalieri - Hiệp sĩ
Ý vào năm 1947 thành lập nền cộng hòa đã bãi bỏ chế độ quý tộc.
15. Ba Lan :
Nhóm 1 :
Krol - quốc vương
Ksiaze - vương tử
Nhóm 2 :
Ksiaze - công tước
Margrabia - hầu tước
Hrabia - bá tước
Baron - nam tước
Tước hiệu Ksiaze nếu là vương tộc thì gọi là vương tử, ngoài vương tộc gọi là công tước.
Nhóm 3 :
Rycerz - Hiệp sĩ
Giermek - hương thân
Ba Lan vào năm 1918 thành lập nền cộng hòa đã bãi bỏ chế độ quý tộc.
Kỳ sau : Hungary và Nga
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Nguồn: ttv
Chương 101 : CHIẾN DỊCH TYROL (2)
Merano, thủ phủ của Tyrol, nơi có Tyrol thành bảo, nằm tại thung lũng Val d’ Ultimo, gần sông Passirio.
Liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium – Trento thuận lợi tiến đến bên ngoài Tyrol thành bảo hạ trại. Trên đường đi, không hề có một đội quân nào thuộc phe Áo - Tyrol dám chặn đường. Đối diện một đạo quân nhân số lên đến hơn 200.000 người, đông hơn thủ quân gấp trăm lần, quân đội Tyrol chỉ còn có thể cố gắng phòng ngự chờ viện binh. Để kéo dài thời gian chờ cứu viện, Nam tước Andreas de La Passiria sau nhiều phen suy nghĩ, đã quyết định tìm cách hạ thấp sĩ khí đối phương, mong có thể vãn cứu phần nào tình hình. Nam tước Andreas de La Passiria cho rằng, nếu như đối phương sĩ khí đại giảm, tạm thời sẽ không tấn công thành bảo, hoặc có tấn công thì cũng sẽ không tích cực. Suy đi nghĩ lại, thấy cũng chỉ còn cách đó mà thôi, Nam tước liền bảo hầu cận :
- Truyền gọi Werner Kottenkamp đến đây ?
Werner Kottenkamp là đệ nhất Hiệp sĩ dưới trướng của Nam tước Andreas de La Passiria. Hiệp sĩ là một tước hiệu bán quý tộc có từ thời kỳ đầu Trung Cổ, thường để chỉ trọng kỵ binh, ban đầu để chỉ kỵ sĩ, nhưng dần về sau thì biến thành một loại tước hiệu. Gọi là bán quý tộc vì Hiệp sĩ có thân phận nằm ở trung gian giữa bình dân và quý tộc, địa vị cao hơn bình dân nhưng thấp hơn quý tộc (một số quý tộc cũng muốn làm Hiệp sĩ thì ngoại lệ), và tước hiệu Hiệp sĩ cũng không được thừa kế. Trong suốt thời kì trung Cổ, bất cứ ai cũng có thể cũng trở thành một Hiệp sĩ nhưng do trang bị rất đắt tiền, Hiệp sĩ thường xuất thân từ những gia đình giàu có hay quý tộc. Mỗi Hiệp sĩ thường chỉ huy khoảng 10 người, và có một tùy tùng hầu hạ. Áo giáo của Hiệp sĩ rất nặng, cần có tùy tùng giúp đỡ mới có thể mặc vào và lên ngựa được. Hiệp sĩ tùy tùng cũng phải phụ trách chăm lo cho chiến mã và vũ khí của chủ. Hiệp sĩ thường quy phục một vị lĩnh chủ hay quân vương, chiến đấu cho chủ của mình trong chiến tranh hay quyết đấu vì lợi ích của chủ. Khi hai quý tộc có hiềm khích, ngoài cách giải quyết bằng chiến tranh, còn có thể thông qua quyết đấu, phái Hiệp sĩ dưới quyền mình xuất chiến để bảo vệ danh dự và lợi ích của mình.
Quy trình để trở thành một Hiệp sĩ gồm 3 giai đoạn : từ người hầu cho các lãnh chúa, người hầu riêng cho các hiệp sĩ, rồi cuối cùng sau khi qua các đợt huấn luyện sẽ được phong làm Hiệp sĩ. Quá trình thường bắt đầu vào năm một cậu bé lên 7 tuổi, cậu bé sẽ được gửi đến dinh thự của một vị lĩnh chủ giúp việc như một người hầu. Ở đó, cậu bé sẽ học cách cư xử, phép lịch sự, vệ sinh và tôn giáo từ những người hầu nữ trong gia đình lĩnh chủ, đồng thời còn học cách săn bắn, cách nuôi chim ưng, và một số kỹ năng phụ khác như : chuẩn bị ngựa, cưỡi ngựa, cách sử dụng tất cả các loại áo giáp và vũ khí. Đến năm 14 tuổi, cậu bé sẽ được đi theo hầu một vị Hiệp sĩ. Điều này cho phép cậu bé học thêm nhiều điều khác từ những trận đấu của chủ nhân. Nhiệm vụ chính của cậu bé là chuẩn bị ngựa và vũ khí cho chủ nhân. Điều này rèn luyện cho cậu bé những tính cách của một Hiệp sĩ : kiên nhẫn, rộng rãi, và quan trọng nhất là trung thành. Vị Hiệp sĩ kia sẽ chỉ dạy cậu bé mọi điều cần thiết để trở thành một Hiệp sĩ. Khi cậu bé lớn hơn một ít, cậu bé sẽ theo chủ nhân vào chiến trường, và giúp đỡ các Hiệp sĩ đó nếu họ bị thương. Một số cậu bé đã được phong làm Hiệp sĩ ngay trên chiến trường nhờ sự chiến đấu dũng cảm, nhưng hầu hết chỉ được phong tước hiệu Hiệp sĩ bởi những lĩnh chủ sau khi đã huấn luyện hoàn chỉnh. Cậu bé sẽ trở thành một Hiệp sĩ vào khoảng 18 - 21 tuổi. Một khi đã hoàn tất việc đào tạo, cậu bé sẽ được phong tước. Khi đó, cậu bé sẽ phải cầu nguyện cả đêm, xưng tội trước ngày phong tước trong một nhà thờ. Sau đó, cậu bé phải tắm rửa sạch sẽ, mặc áo trắng, quần màu vàng, và áo khoác tím, rồi được phong tước bởi quân vương hay lĩnh chủ. Vào thời Trung Cổ, cậu sẽ phải thề tuân theo những quy tắc của một Hiệp sĩ, và không bao giờ chạy trốn khỏi chiến trường. Mọi phụ nữ sẽ gõ nhẹ lên áo giáp của cậu. Cậu cũng có thể được phong tước ngay trên chiến trường, lúc mà lĩnh chủ đơn giản chỉ cần đặt tay hay thanh kiếm của mình lên vai của cậu và nói : "Ngươi là Hiệp sĩ". Tuy nhiên, các lĩnh chủ cũng không thể tùy tiện phong tước, bởi theo quy định, tùy vào tước vị của mình mà lĩnh chủ chỉ có thể phong một số lượng Hiệp sĩ nhất định.
Hiệp sĩ gắn liền với những lĩnh chủ phong kiến. Một hiệp sĩ thường được trả công sau các trận đánh bằng đất đai, nhưng đôi khi cũng bằng tiền. Hiệp sĩ được hỗ trợ về mặt kinh tế bởi những nông dân làm việc trên đất của mình và từ nhà thờ. Trong thời kì chiến tranh, quân vương hay lĩnh chủ có thể ra lệnh động viên tất cả các Hiệp sĩ đang ở trong nước hoặc trong lĩnh địa của mình để tham gia vào cuộc chiến, có thể là phòng thủ hay xâm lược các nước, các lĩnh địa khác. Nhiều quý tộc thường thuê những người khác để đi thay cho mình, còn một số khác nói rằng mình không thể đánh nhau. Về sau, các quân vương thích quân đội thường trực, bởi vì họ có thể sử dụng quân đội lâu hơn, chuyên nghiệp hơn và trung thành hơn. Điều này dẫn đến việc các Hiệp sĩ được trả lương bằng tiền từ các lĩnh chủ và từ đó các Hiệp sĩ được phép thu thuế để lấy lương. Một Hiệp sĩ có quyền mang thắt lưng trắng và quần màu vàng để thể hiện đẳng cấp quý tộc của mình (dù rằng chỉ là bán quý tộc).
Nói tóm lại, Hiệp sĩ chính là lực lượng chiến đấu chủ lực của các nước u châu thời Trung Cổ. Họ có thể chỉ huy quân đội, đan độc chiến đấu, hoặc tổ hợp thành kỵ sĩ đoàn (u châu kỵ binh). Werner Kottenkamp chính là Hiệp sĩ giỏi nhất, mạnh nhất, và cũng là đoàn trưởng Hiệp sĩ đoàn dưới trướng Nam tước Andreas de La Passiria. Khi được truyền gọi, Werner Kottenkamp vội đến ra mắt Nam tước, hỏi :
- Đại nhân. Có chuyện gì không ạ ?
Nam tước Andreas de La Passiria nói :
- Ngươi hãy xuất trận thách đối phương quyết đấu, đánh bại đối phương, nhằm hạ thấp sĩ khí đối phương.
Werner Kottenkamp vâng dạ, khi chuẩn bị đi thì Nam tước lại nói thêm :
- Bằng mọi cách giành chiến thắng. Quân lực giữa ta và địch quá chênh lệch, chỉ có hạ thấp sĩ khí đối phương thì mới mong phòng thủ được cho đến khi viện quân đến nơi.
Sau đó, Werner Kottenkamp mặc giáp, lên ngựa, thống lĩnh Hiệp sĩ đoàn rời thành bảo đến trước doanh trại địch quân khiêu chiến. Gã án chiếu quy tắc của Hiệp sĩ, trước tiên giục ngựa ra trước hàng quân thách đấu :
- Các ngươi có ai dám cùng ta quyết đấu một trận ?
Giọng của gã ta rất lớn, vang vọng vào trong tận trung doanh. Và gã cũng nói tiếng Pháp rất chuẩn, nên bọn thủ hạ của Đinh An Bình hiểu ngay gã muốn nói gì, lập tức hồi báo.
Vào thời Trung Cổ, cho đến tận trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất, tiếng Pháp vẫn là ngôn ngữ chính của giới quý tộc u châu. Các vương triều Anh Cách Lan, Pháp Lan Tây, Tây Ban Nha và Đế quốc La Mã Thần Thánh Dân tộc Đức đều có nguồn gốc từ vương quốc Franks. Charlemagne Đại đế lên ngôi Hoàng đế La Mã năm 800 tại Roma, là vua của cả Tây u (Đông u là địa bàn của Đế quốc Đông La Mã, hay còn gọi là Đế quốc Byzantine ở Constantinople). Sau khi Charlemagne Đại đế qua đời, Đế quốc bị chia làm 3 phần cho 3 vị Hoàng tử : Tây Franks (Western Frankish Realm), sau thành Pháp Lan Tây; Đông Franks (Eastern Frankish Realm), sau thành Đế quốc La Mã Thần Thánh Dân tộc Đức; Trung Franks (Central Frankish Realm), sau bị mất phần phía bắc vào tay Tây Franks và Đông Franks, còn lại phần phía nam trở thành Italia. Hàng trăm công quốc và lĩnh địa lớn cũng là do Charlemagne Đại đế phân phong cho thủ hạ của mình. Sau này vùng Catalonia ở phía nam của Tây Franks trở thành tiền thân của vương quốc Tây Ban Nha Cơ Đốc giáo (phía nam là vương quốc Hồi giáo của người Moors như Almohads, Granada). Công tước Normandy ở phía bắc Pháp Lan Tây sau chinh phục và thống nhất các tiểu quốc ở đảo Anh, thành lập vương quốc Anh Cách Lan. Chính vì vậy mà tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ chính thức của giới quý tộc u châu. Khi giao tiếp, giới quý tộc sử dụng tiếng Pháp, và các cung đình cũng sử dụng tiếng Pháp.
Đinh An Bình đang ở trong Soái trướng, nghe thủ hạ hồi báo, lộ vẻ ngạc nhiên, nhìn chúng thủ hạ hỏi :
- Gã ta kêu như thế thật ư ?
Những thủ hạ biết tiếng Pháp gật đầu nói :
- Vâng ạ. Gã ta kêu như thế đấy !
Trước giờ chưa từng gặp phải cảnh này, Đinh An Bình ngần ngừ nói :
- Gã ta có phải tự tìm cái chết hay không ? Hay là còn có âm mưu quỷ kế gì ?
Chúng thủ hạ nhìn nhau, vô pháp hồi đáp. Bọn họ cũng chưa từng gặp phải cảnh này.
*************
Các loại tước hiệu của quý tộc u châu (phần 9)
16. Hungary :
Nhóm 1 :
császár - Hoàng đế
király/királyné - Quốc vương / Nữ vương
fejedelem - thân vương
herczeg - đại công
Nhóm 2 :
gróf - bá tước
báró - nam tước
Nhóm 3 :
lovag - Hiệp sĩ
Hungary nguyên bản không có Hoàng đế, quân chủ xưng hiệu là Quốc vương. Thời kỳ Áo - Hung Đế quốc, do Hoàng đế Áo kiêm nhiệm Hungary Quốc vương. Hungary cũng không có công tước, hầu tước và tử tước. Đến năm 1918 thành lập nền cộng hòa quốc đã bãi bỏ chế độ quý tộc.
17. Nga quốc :
Nhóm 1 :
Император/Императора - Hoàng đế / Nữ hoàng
Цар/Царица - Sa hoàng / Nữ sa hoàng
Цесаревич - hoàng thái tử
Великий Князь/Инфант - đại công / nữ đại công
Nhóm 2 :
Князь/Герцог - công tước / vương tử
Маркиз/Бояре - hầu tước
Граф - bá tước
Виконт - tử tước
Барон - nam tước
Nhóm 3 :
Рыцарь - Hiệp sĩ
Nga quốc đến năm 1917 đã bãi bỏ chế độ quý tộc.
Hết phần tước hiệu
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Nguồn: ttv
Chương 102 : CHIẾN DỊCH TYROL (3)
Lại nói, khi Werner Kottenkamp đến trước doanh trại của liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium – Trento khiêu chiến, Đinh An Bình rất ngạc nhiên, nhìn chúng thủ hạ bảo :
- Gã ta có phải muốn chết hay không ? Hay là còn có âm mưu quỷ kế gì ?
Chúng thủ hạ nhìn nhau, vô pháp hồi đáp. Bọn họ chưa từng gặp phải cảnh này. Hành vi của gã Werner Kottenkamp, đối với các Hiệp sĩ của u châu là anh hùng, là dũng cảm, nhưng đối với chúng tướng của Thần Thánh Đế quốc là ngu ngốc, là tự tìm cái chết. Trung Hoa thời cổ đại, chẳng hạn như thời Tam Quốc, song phương giao chiến còn phái tướng lĩnh ra quyết đấu để tăng sĩ khí. Nhưng sau này đại quân tác chiến, hơn thua nhau chủ yếu qua chiến lược, chiến thuật (vậy mới có câu : binh bất yếm trá), chuyện quyết đấu như thế không còn nữa. Và quân đội Thần Thánh Đế quốc khi tác chiến hoàn toàn không có chuyện cho tướng lĩnh ra quyết đấu hay dẫn đầu đoàn quân xung phong. Tướng lĩnh là để chỉ huy quân đội, không phải để khoe tài dũng võ.
Đinh An Bình thấy vậy, xua tay nói :
- Thôi được rồi. Kệ đi. Xạ thủ đâu, pháo kích.
Mệnh lệnh truyền xuống, và thế là vận mệnh của gã Werner Kottenkamp đã được định đoạt như vậy. Đường đường là một Hiệp sĩ nổi danh, chỉ vì cô lậu quả văn, không biết rõ phương pháp tác chiến của đối phương, trong lúc xuất trận khiêu chiến, đã bị thần công đại pháo của đối phương cướp đi sinh mạng. Khôi giáp của Hiệp sĩ vừa nặng nề vừa kiên cố, cung tên bình thường ít có tác dụng, nhưng khi đại pháo oanh kích thì cả người lẫn ngựa đều trở nên tan xương nát thịt, bỏ mạng đương trường.
Đại pháo đã khai hỏa, không lý gì chỉ nhắm vào một mình gã Werner Kottenkamp. Cả Hiệp sĩ đoàn đi theo gã ta đến quán chiến cũng bị họa lây. Một trăm Hiệp sĩ trong Hiệp sĩ đoàn cuối cùng chỉ có hơn chục người chạy về được đến thành bảo, thật là tổn thất thảm trọng. Trận tiếp xúc đầu tiên, quân Tyrol không những không thể hạ thấp sĩ khí đối phương, mà ngược lại còn gặp phải thảm bại, tự hạ thấp sĩ khí của mình.
Hay tin gã Werner Kottenkamp và đại bộ phận Hiệp sĩ đoàn đều bỏ mạng trước doanh trại của đối phương, Nam tước Andreas de La Passiria vừa giận vừa lo. Giận vì đối phương không tuân thủ quy tắc Hiệp sĩ, giở trò vô sỉ như thế. Lo vì đối phương đã giở trò vô sỉ như thế, thì khi công thành chắc chắn sẽ sử dụng âm mưu quỷ kế, bất chấp danh dự quý tộc, từ đó sẽ khiến cho tình thế của quân Tyrol càng thêm khó khăn. Nam tước Andreas de La Passiria suy nghĩ một hồi, không còn cách nào khác, chỉ đành tăng cường công tác phòng thủ. Nam tước Andreas de La Passiria còn cho quân đổ đất đá lấp kín lối vào thành bảo, việc ra vào chỉ dùng dây thừng cột vào người thả từ tường thành xuống đất, đồng thời lại phái sứ giả sang doanh trại đối phương trách đối phương về việc không tuân thủ quy tắc Hiệp sĩ. Tuy biết làm thế cũng chẳng có tác dụng gì, nhưng Nam tước Andreas de La Passiria vẫn làm, vì chút hy vọng mong manh.
Sứ giả của Tyrol vâng mệnh Nam tước đại nhân sang doanh trại liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium – Trento, nhìn thấy doanh trại san sát, đao kiếm sáng ngời, cờ xí ngợp trời, quân đông chật đất, trong lòng kinh hãi không sao kể siết. Gã có bao giờ được nhìn thấy quân dung hùng tráng đến thế !
Khi gã đi ngang qua doanh trại của quân đội Trento, quân sĩ trong doanh trại thấy gã ta là sứ giả của Tyrol, đột nhiên đồng loạt giơ tay lên cao, đồng thanh quát lớn :
- Sát. Sát. Sát.
Phản ứng của quân đội Trento làm sứ giả vừa kinh vừa sợ. Tyrol và Trento vốn thù hằn với nhau từ lâu. Ngày xưa, Tyrol vốn thuộc lĩnh địa Vương tử - Giám mục xứ Trento (Prince – Bishopric of Trento), đến năm 1027 bị Hoàng đế Conrad II le Salique của Đế quốc La – Đức tách ra, sát nhập vào lĩnh địa Công tước xứ Bavaria (Duchy of Bavaria). Đến năm 1363, Tyrol bị sát nhập vào lĩnh địa của Công tước Áo Rodolphe IV le Fondateur de Autriche của nhà Habsburg. Nhà Habsburg của Áo sau khi chiếm được Tyrol, lại chuẩn bị bành trướng xuống Trento ở phía nam, do đó mà quan hệ giữa song phương không hề tốt. Ngày nay, vùng nam Tyrol, nơi có thủ phủ Merano, trở thành tỉnh Bolzano – Bozen, thuộc vùng Trentino - Alto Adige / Südtirol của Italia; còn vùng bắc Tyrol là bang Tyrol của Áo. Di tích lịch sử Tyrol thành bảo (Castle of Tyrol) đến nay vẫn còn ở Merano.
Sứ giả Tyrol sau nhiều phen hữu kinh vô hiểm, cuối cùng cũng đến được trước Soái trướng. Gã được phái đến đây với nhiệm vụ là trách hỏi liên quân sao không tuân thủ các quy tắc của Hiệp sĩ. Có điều, sau nhiều phen bị kinh sợ, gã lo cho sinh mạng của mình, nên đã cố gắng trình bày ý kiến của Nam tước Andreas de La Passiria một cách thật nhẹ nhàng uyển chuyển, cố ý tỏ cho đối phương biết gã chỉ phụng mệnh hành sự, đó không phải là chủ ý của gã.
Đinh An Bình ngồi trong Soái trướng, cách một bức rèm, quan sát thái độ của sứ giả Tyrol, khe khẽ gật đầu. Sau khi nghe sứ giả nói xong, Đinh An Bình khẽ nói mấy câu, rồi George I de Trento thay mặt nói :
- Ngươi nói thật là vô lý. Trong quân đội chúng ta không có ai là Hiệp sĩ, các quy tắc của Hiệp sĩ có liên quan gì đến chúng ta kia chứ !
Nên biết rằng, trong thời Trung Cổ, phong khí Hiệp sĩ rất thịnh hành ở u châu. Các vị quân vương, lĩnh chủ và giới quý tộc đều lấy các quy tắc của Hiệp sĩ làm nguyên tắc ứng xử của mình. Nổi tiếng nhất trong thời gian này là quốc vương Jean II de Française (hay còn gọi là John II of France), ông là cha của Louis I de Anjou. Sau trận Poitiers trong cuộc ‘chiến tranh trăm năm’, ông đã bị quân Anh Cách Lan bắt giữ, sau được thả ra với điều kiện phải giao cho Anh Cách Lan một lĩnh địa rộng lớn và phải cho con thứ của mình là Louis I de Anjou sang Anh Cách Lan làm con tin. Sau này, Louis I de Anjou trốn thoát được về Pháp Lan Tây thì đã bị cha mình trách phạt. Để giữ đúng tinh thần Hiệp sĩ, Jean II de Française đã tự mình sang Anh Cách Lan làm con tin thay thế, kết quả chết một cách nhục nhã ở Anh Cách Lan.
Sứ giả Tyrol nghe nói thế cũng không biết nói sao cho phải. Quân đội Latium và Trento đều là bộ binh, không có Hiệp sĩ; còn quân đội Thần Thánh Đế quốc thì có kỵ binh, nhưng lại không phải là người u châu, nên cũng chẳng phải là Hiệp sĩ. George I de Trento đã từng đến Gia Định, nên khi nhận được viện trợ quân sự từ Thần Thánh Đế quốc đã tổ chức quân đội theo kiểu chính quy quân của Thần Thánh Đế quốc, không sử dụng Hiệp sĩ chỉ huy quân đội, trực tiếp dùng tiền trả lương cho binh sĩ. Làm như thế, quân đội có thể đảm bảo trung thành hơn, tiết kiệm chi phí hơn, trong khi chiến đấu lực cũng không giảm. Ở u châu, trừ quân đội Latium ra, thì quân đội Trento có quy cách tổ chức giống Thần Thánh Đế quốc nhất. Trong quân đội chỉ có một tiếng nói duy nhất, mọi binh sĩ đều chỉ trung thành với lĩnh chủ, đó là điều mà George I de Trento hài lòng nhất. Không một vị lĩnh chủ nào muốn trong quân đội của mình lại có tiếng nói khác.
Hồi lâu, George I de Trento lại bảo sứ giả Tyrol :
- Ngươi có biết Đại vương giữ chức vụ gì không ? Đại vương chính là bộ trưởng Hải quân bộ của Thần Thánh Đế quốc. Đại vương là tướng lĩnh Hải quân. Do đó, nếu các ngươi muốn quyết đấu một cách công bằng, Đại vương có thể chấp nhận quyết đấu bằng hình thức hải chiến. Chỉ cần các ngươi phái Hạm đội tham chiến, Đại vương sẽ tiếp chiến ngay.
Sứ giả Tyrol nghe nói lập tức xám mặt. Giờ đây ở u châu chư quốc đều biết Hạm đội của Thần Thánh Đế quốc rất khủng bố. Mỗi chiến hạm cứ như là một pháo đài trên biển. Ngay cả các cường quốc Hải quân ở u châu như Anh Cách Lan, Pháp Lan Tây, Genoa, Venice, … còn không chống nổi, nói gì một quốc gia nội lục như Đế quốc La – Đức.
Đinh An Bình thấy thái độ của sứ giả như thế, chỉ khẽ mỉm cười, bảo thuộc hạ mang ra trao cho sứ giả một bản danh sách, nói :
- Chỉ cần giao nộp cho chúng ta những người trong danh sách này, chúng ta sẽ tha cho cái gã Nam tước chủ nhân của ngươi. Bằng không, khi chúng ta phá thành, gà chó không tha. Hạn chót là sáng sớm ngày mai.
Sau đó truyện lệnh đưa sứ giả đi ra. Sứ giả Tyrol rời khỏi đại doanh trong lo sợ, rồi run rẩy mở bản danh sách vừa được trao cho ra xem. Chỉ mới liếc qua một loạt danh tính trong đó, gã đã toát mồ hôi. Những tên được ghi trong danh sách toàn là những quý tộc có lĩnh địa, có chức quyền ở Tyrol, thậm chí còn có tư quân không ít. Nam tước Andreas de La Passiria không có thẩm quyền, và dù cho có thẩm quyền thì cũng không dám giao nộp. Xem ra số phận của thành bảo rất đáng lo nha. Và quan trọng hơn cả là số phận của gã càng đáng lo hơn.
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Nguồn: ttv
Chương 103 : CHIẾN DỊCH TYROL (4)
Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.519 (Đinh Dậu, 1417). Mùa xuân, tháng 3. Tyrol, thủ phủ Merano, Tyrol thành bảo.
Ngay từ sáng sớm, liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium – Trento đã lần lượt rời khỏi doanh trại, kéo đến tập họp phía trước Tyrol thành bảo, chuẩn bị công thành. Trên cánh đồng phía trước thành bảo, khắp nơi đều thấy toàn người là người. Quả là :
Cờ xí nghênh phong phất phới.
Tiếng reo vang dậy đất trời.
Đao kiếm tua tủa sáng ngời.
Quân uy hào hùng cường thịnh.
Là một bộ phận của đại quân, trước quân dung như thế, tất cả tướng lĩnh, binh sĩ, không kể là thuộc quân đội Thần Thánh Đế quốc, Latium hay Trento đều có tinh thần rất tốt, hăng hái chuẩn bị giết giặc lập công. Liên quân không phải là quân Ba Tư của Xerxes Đại Đế, không ai tin rằng lấy 203.000 quân tấn công hơn 2.000 quân Tyrol lại thất bại, cho dù đối phương có ở vào vị trí phòng thủ đi nữa. Không nói đến chiến lược hay chiến thuật, ngay cả ‘lấy thịt đè người’ cũng có thể thắng được. Chỉ có Xerxes Đại Đế của Ba Tư mới dùng 5 triệu người mà đánh thua hơn 1 vạn quân Hy Lạp (sử gia Hy Lạp cổ đại Herodotus ghi nhận có 5 triệu người, với một nửa là binh sĩ, một nửa là dân phu, được huy động từ 46 tiểu quốc thuộc địa; quân Ba Tư giết vua Sparta, đốt thành phố Athens, nhưng sau thua 1 trận hải chiến nên buộc phải rút quân về).
Trong khi đó, phía thủ quân trong thành bảo thì ngược lại. Sĩ binh mặt mày hoặc xanh hoặc tái, lo lắng bất an, tay cầm vũ khí nhưng sĩ khí mất hết, tín tâm không còn. Bọn họ không hề tin tưởng có thể phòng thủ được thành bảo. Nhiều người trong bọn họ đã nghe nói về tối hậu thư của đối phương đã bị Nam tước đại nhân từ chối, và chủ soái bên phía đối phương đã tuyên bố sau khi phá thành thì ‘gà chó không tha’. Do đó, bọn họ rất lo lắng cho số phận của mình. Nhiều người đã nghĩ đến chuyện bỏ trốn, nhưng dưới quyền oai của Nam tước đại nhân, và trước cảnh một số đào binh bị xử tử thị chúng, cả bọn tạm thời vẫn còn đứng trên tường thành chờ đợi đối phương đến đồ sát. Đúng thế, bọn họ chờ đợi đối phương đến đồ sát, chứ lấy 1 địch trăm, bọn họ làm sao chống nổi. Bọn họ chỉ là phổ thông sĩ binh, không phải là dũng tướng kiểu như Quan Vũ, Trương Phi hay Triệu Tử Long mà có thể lấy 1 địch trăm.
Đinh An Bình đứng trên đài chỉ huy, nhìn về hướng Tyrol thành bảo. Đài chỉ huy là một loại đài cao, dưới chân có gắn bánh xe, do ngựa kéo hoặc quân sĩ đẩy đi; tướng soái đứng trên đó có thể quan sát toàn diện chiến trường, để có thể ra mệnh lệnh phù hợp với cục diện trận chiến. Bên cạnh Đinh An Bình chỉ có các tùy tướng thuộc hạ. George I de Trento và các tướng lĩnh Latium không có ở đấy, mà đã đi chỉ huy quân đội của mình. Trận này, Đinh An Bình quyết định giao cho quân đội Latium và Trento giải quyết, vừa có tác dụng luyện quân vừa tạo cơ hội cho bọn họ giết giặc lập công. Quân đội mà chưa từng tham gia chiến đấu, chưa từng giết giặc thì chưa thể xem là quân đội chân chính. Dù sao thì lấy 23.000 quân tấn công hơn 2.000 quân, chắc cũng không có vấn đề gì. Mà lỡ như có vấn đề gì thì còn có 18 vạn quân Thần Thánh Đế quốc ở đó, không sao cả.
Khi thấy các công tác chuẩn bị đã hoàn tất, Đinh An Bình truyền lệnh :
- Khai hỏa.
Mệnh lệnh truyền xuống. Trận địa thần công đại pháo lập tức khai hỏa, oanh kích vào tường thành và các điểm cao bên trong thành bảo. Tất cả 3.600 khẩu thần công của 6 đạo quân đã được tập trung lại một chỗ, đồng loạt khai hỏa, uy lực kinh nhân. Không chỉ địch quân, ngay cả phía liên quân mỗi khi nghe thần công phát xạ cũng chấn kinh vô cùng. Mỗi loạt đạn pháo bắn ra, khói lửa nhiễm hồng cả nửa bầu trời. Sau đó thì bên trong thành bảo cũng có khói lửa bốc cao, cùng những tiếng kêu khóc vang trời dậy đất. Bị đạn pháo dội lên đầu, thủ quân trên tường thành tổn thất thảm trọng. Nhiều người không chết vì bị đạn pháo bắn trúng, mà bị gạch đá đổ xuống đè chết.
Sau ba loạt pháo kích, hơn 1 vạn phát đạn đã phá hủy hoàn toàn thành tường của Tyrol thành bảo. Các kiến trúc bên trong cũng bị phá hủy không ít. Đinh An Bình ra lệnh ngừng pháo kích, rồi truyền lệnh xung phong. Tiếng trống thúc dồn dập, tiếng tù và rúc lên vang vọng. Quân đội Latium và Trento nghe lệnh xung phong, lập tức nắm chặt đao thương tràn vào thành bảo. Hiện giờ, thành bảo không còn tường thành, không còn các tiễn tháp phòng ngự, chỉ còn lại những đống đổ nát. Không có gì uy hiếp, liên quân khí thế hừng hực ào ạt xông vào trong tìm diệt địch quân. Theo sự an bài từ trước, quân đội Latium và Trento xung phong theo từng tiểu đội, bảo đảm không có ai đi riêng lẻ để giảm thiểu thương vong vô ích.
Mệnh lệnh xung phong truyền xuống chưa được bao lâu thì đã nghe bên trong thành bảo vang lên những tiếng sát phạt chém giết vang trời. Từng đoàn từng đoàn liên quân Latium – Trento hợp nhau truy sát địch quân, có khi mấy đội vài chục người hợp nhau truy sát vài quân địch. Không sao được, số quân tấn công đông hơn đối phương gấp 10 lần, bình quân thì cũng phải 10 người đánh 1 người, ta nhiều địch ít nên đành hợp nhau chia công lao mà thôi.
Quân Tyrol đã ở vào thế kém, mà lại còn gặp phải một vấn đề chết người nữa là thiếu sự chỉ huy, chỉ có thể tự phát chiến đấu. Các tướng lĩnh, các Hiệp sĩ của Tyrol, kể cả Nam tước Andreas de La Passiria đều ở trên những tháp cao, khi bị thần công đại pháo oanh kích thì nơi đó lại là những mục tiêu lộ liễu nhất, bị oanh kích đầu tiên. Kết quả, sau khi thần công đại pháo ngừng phát hỏa thì đại bộ phận tướng lĩnh Tyrol đã vùi thân dưới các đống đổ nát.
Nam tước Andreas de La Passiria may mắn không tử nạn vì đạn pháo, được các thân binh cứu thoát khỏi đống đổ nát, nhưng tình thế cũng chẳng khả quan hơn chút nào, vì lúc này Nam tước đang bị vây chặt trong phủ đệ của mình. Xung quanh Nam tước chỉ có vài chục thân binh, trong khi đối phương đông đến hàng nghìn. Giết chết được Nam tước Andreas de La Passiria là đại công hàng đầu, nên các tướng lĩnh Latium và Trento đều dần dần tập trung về cả nơi đây. Bọn họ đều là tướng lĩnh cao cấp, giết chết phổ thông binh sĩ chẳng mang lại được bao nhiêu công lao, chỉ có trảm địch tướng thì mới có thể kể là chiến công.
Bá tước Enguerrand de Monstrelet, quý tộc – tư sản, một Hiệu úy của quân đội Latium (thống lĩnh 1 sư, 1 vạn quân), nhìn những tướng lĩnh khác, nói :
- Chúng ta bao nhiêu người đây, mà Andreas de La Passiria chỉ có một, xử lý thế nào ?
Tử tước Bernardo Madruzzo de Garda, cũng là quý tộc – tư sản, tướng lĩnh quân đội Trento, nói :
- Ai có mặt thì có phần !
Thấy đối phương giành nhau công lao, không xem mình ra gì, Nam tước Andreas de La Passiria nổi xung quát lớn :
- Các ngươi có ai dám cùng ta quyết một trận tử chiến ?
Bá tước Jean de Venette, một Hiệu úy khác của quân đội Latium, bắt chước thần thái của chủ soái, nhìn mọi người hỏi :
- Gã ta đang muốn chết phải không ? Hay là còn có âm mưu quỷ kế gì khác ?
Bá tước Enguerrand de Monstrelet cười ha hả nói :
- Mặc kệ có âm mưu quỷ kế hay không ! Giải quyết sớm cho xong, kẻo đêm dài lắm mộng. Cung thủ đâu ?
Lập tức, mấy chục đội cung thủ tiến ra, giương cung lắp tên nhắm vào Nam tước Andreas de La Passiria và chúng thân binh. Bá tước Enguerrand de Monstrelet vung tay nói :
- Bắn.
Thế là tên bắn như mưa, kết liễu cả bọn Nam tước Andreas de La Passiria. Tiếp đó, cả bọn lại phân tán ra chỉ huy truy sát tàn binh Tyrol. Sau mấy giờ chiến đấu, thật ra không thể gọi là chiến đầu mà phải gọi là đan phương diện đồ sát, cuối cùng liên quân Latium – Trento cũng giải quyết được toàn bộ tàn quân trong thành. Tiếp đó là công tác thu nhặt chiến lợi phẩm. Đinh An Bình trị quân rất nghiêm, nghiêm cấm tất cả sĩ binh thu nhặt chiến lợi phẩm trong lúc đang chiến đấu, ai vi phạm lập tức trảm thủ. Do vậy mà khi chiến đấu kết thúc, công tác thu nhặt chiến lợi phẩm mới bắt đầu. Sĩ binh sẽ được phân chia chiến lợi phẩm tùy vào công lao.
Đến tận chiều tối, công tác thu nhặt chiến lợi phẩm và kiểm kê các kho tàng của Tyrol thành bảo mới cơ bản hoàn thành. Không hổ là cứ điểm chuẩn bị cho cuộc xâm chiếm Trento của Công tước Áo, trong các kho tàng của thành bảo có rất nhiều quân lương vật tư. Đinh An Bình thu lấy 1 phần 3, còn lại để cho quân đội Latium và Trento chia nhau.
Sau khi tiêu diệt được Tyrol thành bảo, Đinh An Bình cắt ra 10 vạn quân, phối hợp cùng quân đội Latium và Trento chia thành 10 đạo, đi tấn công các lĩnh địa quanh đó, để hoàn toàn kiểm soát Tyrol trước khi tiếp tục đông chinh. Mỗi đạo quân gồm 1 vạn quân Thần Thánh Đế quốc, 1.000 quân Latium và 300 quân Trento (làm hướng đạo).
Cuối tháng 3, toàn bộ lĩnh thổ Tyrol đã được bình định, toàn bộ quý tộc – địa chủ hay những quý tộc có tư binh đều đã bị đánh dẹp. Chỉ có một số ít nhanh chân chạy sang công quốc Bavaria ở phía bắc hay cộng hòa Venice ở phía nam lánh nạn. Ngoài ra, rất nhiều tiểu quý tộc không thân không thế đã được Đinh An Bình triệu kiến, xem xét lưu dụng. Dù sao thì những vùng đất mới chiếm lĩnh cũng cần có người cai trị.
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Nguồn: ttv
Chương 104 : CHIẾN DỊCH SALZBURG (1)
Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.519 (Đinh Dậu, 1417). Mùa hạ, tháng 4.
Sau khi đã chiếm lĩnh và bình định hoàn toàn Tyrol, liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium – Trento tiếp tục đông chinh, hướng về Salzburg, nơi liên quân Áo – Bavaria – Bohemia đang tập họp. Đinh An Bình quyết định đánh nhanh thắng nhanh, không thể để kéo dài, nếu không viện quân từ các công quốc thuộc Đế quốc La – Đức kéo đến thì muốn tiêu diệt hoàn toàn địch quân sẽ phiền phức hơn rất nhiều. Salzburg nằm ngay giao giới giữa Áo, Bavaria và Tyrol, có một vị trí chiến lược quan trọng. Đinh An Bình quyết định chiếm nơi đó, làm bàn đạp uy hiếp cả Áo và Bavaria, thậm chí cả Bohemia ở phía bắc.
Salzburg là một Tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo La Mã, là lĩnh địa của Vương tử - Giám mục Tổng giáo phận (Prince – Archbishopric). Thời Charlemagne Đại đế, Giám mục Tổng giáo phận Salzburg là Arno de Salzburg rất được Đại đế tôn trọng, giao cho quyền cai trị và truyền giáo ở Salzburg, tức là cai quản cả việc đạo lẫn việc đời ở đấy, trở thành một lĩnh chủ phong kiến. Sau này, trong các cuộc tranh chấp giữa Giáo hội Công giáo La Mã với Thánh Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần Thánh xem Đức Thánh Cha (Papal) và Thánh Hoàng đế (Saint Emperor) ai có địa vị cao hơn, khi ưu thế nghiêng về phía Thánh Hoàng đế, thì các Giám mục Tổng giáo phận Salzburg đã bị trục xuất, giam cầm hoặc lưu đày. Thậm chí thành phố còn bị Bá tước xứ Plain trung thành với Thánh Hoàng đế phá hủy vào năm 1167, và Salzburg đã bị sát nhập vào công quốc Bavaria vốn do con em hoàng tộc cai trị. Sau các cuộc hòa giải giữa song phương, Giám mục Tổng giáo phận Salzburg là Eberhard de Regensberg đã có thể trở lại truyền giáo vào năm 1200, nhưng quyền lực không còn được như trước nữa.
Người Việt có sự hiểu lầm trong các chức vụ của Giáo hội Công giáo La Mã. Người Việt thường cho rằng chức vụ cao nhất là Giáo hoàng, rồi đến Hồng y giáo chủ, các Tổng giám mục và Giám mục, dưới nữa mới đến Linh mục, Phó tế. Thật ra thì đó là cách dịch các chữ Pope (hay Papal, dịch là ‘Đức Cha’, ‘Đức Thánh Cha’ thì chính xác hơn, bởi gốc của nó là chữ ‘papa’ trong tiếng Latinh, có nghĩa là ‘cha’), Cardinal (có thể được dịch thành ‘yếu tố thuộc bản chất, nền tảng, hay trụ cột’, gốc từ chữ ‘cardo’ trong tiếng Latinh, có nghĩa là ‘bản lề’, ‘khớp nối’ hay ‘điểm mấu chốt’, người Việt dịch là ‘Hồng y’ dựa theo màu sắc y phục), Archbishop (Giám mục Tổng giáo phận), Bishop (Giám mục Giáo phận), Priest (Linh mục), và Deacon (Phó tế). Thật ra thì Giáo Hội Công giáo La Mã chỉ có 3 hàng giáo phẩm là Giám mục, Linh mục và Phó tế.
1. Giám mục : là những mục tử kế vị các thánh Tông đồ, các vị này có đầy đủ quyền năng và uy phong như nhau, kể cả Đức Thánh Cha. Nhưng vì Đức Thánh Cha là vị Tông đồ trưởng - là vị thủ lĩnh các Tông đồ (thủ lĩnh mục tử đoàn chiên chúa) nên có địa vị và quyền hạn cao hơn. Các vị Giám mục đứng đầu Linh mục đoàn, cai quản các giáo phận. Các giáo phận này có những giáo phận lớn quản lý các giáo phận nhỏ hơn ở xung quanh, được gọi là Tổng giáo phận. Các Giám mục Tổng giáo phận có địa vị cao hơn các Giám mục Giáo phận. Và trong Giáo hội Công giáo La Mã có 8 Tổng giáo phận quan trọng nhất (Roma và 7 Tổng giáo phận xung quanh), nên các vị Giám mục cai quản các Tổng giáo phận đó sẽ có địa vị cao nhất. Đứng đầu là Giám mục Tổng giáo phận Roma (tức Pope, Đức Thánh Cha); kế đó là Giám mục Tổng giáo phận Ostia (Hồng y niên trưởng, đứng đầu Hồng y đoàn); sau đó là các Giám mục Tổng giáo phận Palestrina, Albano, Frascati, Porto Santa Rufina, Sabina Poggio Mirteto và Velletri Segni. Các vị Giám mục Tổng giáo phận này (trừ Đức Thánh Cha) được gọi là Hồng y Giám mục. Các Giám mục Tổng giáo phận khác được mặc Hồng y thì được gọi là Hồng y Linh mục, còn các Hồng y cai quản các cơ quan ở Tòa thánh Vatican thì được gọi là Hồng y Phó tế.
2. Linh mục : là những người phụ tá theo đúng nghĩa của các Giám mục. Các vị linh mục phải tuân thủ hoàn toàn theo luật độc thân, tiết dục và khó nghèo. Linh mục công giáo luôn luôn là nam, và chưa hề có tiền lệ là phụ nữ. Các linh mục được làm Thánh lễ cũng như các bí tích khác khi có sự chuẩn y của Giám mục. Linh mục cai quản một ‘giáo xứ’. Khi hội đủ những điều kiện cần và đủ, mọi linh mục đều có thể được phong Giám mục.
3. Phó tế : là những người phụ tá cho Linh mục.
Sở dĩ chức vụ lớn nhất trong Giáo hội chỉ là Giám mục, là vì sau khi Đức Jesu qua đời, các môn đệ của Ngài, tức 12 vị Thánh Tông đồ, đã đi các nơi truyền giáo. Saint Peter (người Việt gọi là Thánh Phêrô) đã đứng đầu Công đồng Jerusalem, rồi đến làm Giám mục Antioh, sau lại đến Roma thành lập giáo đoàn tiên khởi, nguồn gốc của Giáo hội Công giáo La Mã ngày nay. Do Thánh Peter chỉ là Giám mục, các Đức Thánh Cha kế vị Thánh Peter không thể có chức vụ cao hơn Ngài. Vì vậy, chức vụ đầy đủ của Đức Thánh Cha là ‘Giám mục Tổng giáo phận Roma, thủ lĩnh mục tử đoàn chiên chúa’, là chức vụ do Thánh Peter truyền lại.
Lại nói về xứ Salzburg, Đức Giám mục Tổng giáo phận không còn nhiều quyền lực, phải chịu phụ thuộc vào Công tước xứ Bavaria, tình thế rất không hay. So ra thì George I de Trento may mắn hơn nhiều. Cả hai đều là Vương tử - Giám mục, nhưng vì lĩnh địa Trento chưa bị Công tước Áo xâm chiếm, nên George I de Trento có nhiều quyền tự chủ hơn. Nhưng dù sao thì Đức Giám mục Tổng giáo phận Salzburg cũng vẫn là người có nhiều uy tín nhất ở đấy. Do vậy, khi đại quân tiến vào Salzburg, George I de Trento đến gặp Đinh An Bình đề nghị :
- Đại vương. Ta với Eberhard III de Neuhaus, Giám mục xứ Salzburg, có ít nhiều quen biết. Ta có thể vận động Eberhard III de Neuhaus kêu gọi dân chúng Salzburg ủng hộ chúng ta, chống lại liên quân Áo – Bavaria – Bohemia.
Đinh An Bình nhớ đến mật chỉ của Thánh hoàng, mỉm cười hỏi :
- Ông ấy có yêu cầu gì không ?
Thấy Đinh An Bình đã biết mình có liên hệ với Eberhard III de Neuhaus, George I de Trento ngượng ngùng nói :
- Hồi bẩm Đại vương. Ông ấy chỉ hy vọng Đại vương cho phép ông ấy được ở lại Salzburg tiếp tục chăm lo cho giáo dân.
Đinh An Bình khẽ cười. Xem ra cả Ngài Giám mục cũng không nhìn thấy liên quân Áo – Bavaria – Bohemia có hy vọng chiến thắng. Cũng phải thôi. Cả ba công quốc khẩn cấp họp quân cũng chỉ huy động được hơn 5 vạn người, trong đó có đến quá nửa là nông dân mới bỏ cuốc cày cầm vũ khí.
Suy nghĩ giây lát, Đinh An Bình gật đầu nói :
- Được rồi. Bản vương chấp thuận. Nếu ông ấy lập được đại công, bản vương còn có thể cho kiêm quản cả quân chính đại quyền của Salzburg.
George I de Trento cả mừng nói :
- Đại vương yên tâm. Ta sẽ đích thân đi lo việc này, bảo đảm hoàn mỹ hoàn thành nhiệm vụ.
Đinh An Bình mỉm cười :
- Bản vương chờ tin mừng của ngươi.
Đại quân tiếp tục tiền tiến. George I de Trento rời khỏi đại quân, đi lo liên lạc với Eberhard III de Neuhaus, Giám mục Tổng giáo phận Salzburg.
…
Bên bờ sông Salzach, xứ Salzburg.
Dưới ánh thái dương chói chang, không khí bắt đầu nóng dần lên. Sĩ binh đi dưới ánh dương quang chỉ lưu lại những bóng dài và phát ra những hơi thở dồn dập. Những đoàn quân đang khẩn trương tiến về Salzburg. Hàng đoàn người đi trong mệt mỏi, tay vẫn chưa quen cầm vũ khí, dáng vẻ thiểu não, mồ hôi nhễ nhại, trông cứ như một đám bại binh. Đây đó lại nghe thấy nhiều tiếng quát tháo :
- Hừ. Đám dân đen kia, đi nhanh lên. Đi nhanh nữa lên.
- Sao lại dừng lại ? Muốn chết phải không ? Tiếp tục đi.
- Tên kia. Sao kéo lê vũ khí dưới đất. Cầm thẳng lên. Nhanh.
…
Xen lẫn vào đó là những tiếng roi đánh vào da thịt chan chát. Đoàn quân tuy đông đến 2 vạn người, nhưng xem chừng không có chút sĩ khí nào hết. Đó chính là đạo quân của Công tước xứ Bavaria tiếp viện cho Công tước Áo. Quân tinh nhuệ của Bavaria đã tiêu hao phần lớn trong chiến dịch Pavia cùng với quân đội của Hoàng đế Sigismund de Luxembourg, giờ chỉ còn lại một ít phải phụ trách bảo vệ lĩnh địa. Do đó, Công tước xứ Bavaria đã trưng tập nông dân, phát cho vũ khí rồi đẩy ra chiến trường.
‘Đại quân’ Bavaria đang khẩn cấp hành quân. Các tướng lĩnh Bavaria đang tụ tập lại than vãn càu nhàu vì phải hành quân giữa trời nắng chói chang thế này. Chủ soái thì đang vừa bực bội vì hiện tình quân đội, vừa lo lắng cho cuộc chiến sắp tới. Tóm lại, quân tướng Bavaria đều có tâm trạng không được tốt.
Quân đội cứ thế tiền tiến. Bá tước Friedrich Martin de Augsburg, thống soái quân Bavaria, ngồi trên chiến mã, đang nhíu mày nghĩ ngợi, thì chợt có viên cận tướng, Nam tước Jürgen Kotzur de Reibisch, chạy đến trước mặt, bẩm báo :
- Bá tước đại nhân. Phía trước phát hiện đại đội địch quân đang cướp phá các thôn trấn, quân số ước khoảng 2.000 người, thỉnh Bá tước đại nhân định đoạt.
Bá tước Friedrich Martin de Augsburg nhíu mày hỏi :
- Có nhìn thấy cờ hiệu của địch quân hay không ?
Nam tước Jürgen Kotzur de Reibisch bẩm báo :
- Hồi bẩm Bá tước đại nhân. Địch quân mang cờ hiệu của Trento.
Bá tước Friedrich Martin de Augsburg cả mừng nói :
- Tốt. Truyền lệnh quân đội thẳng tiến, tấn công địch quân, bảo vệ dân chúng.
‘Đại quân’ được lệnh khẩn cấp hành quân, quyết không được để lỡ chiến cơ.
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Nguồn: ttv
Chương 105 : CHIẾN DỊCH SALZBURG (2)
Lại nói, khi được tin báo phát hiện tung tích quân đội Trento đang cướp phá ở phía trước, Bá tước Friedrich Martin de Augsburg truyền lện ‘đại quân’ thẳng tiến, kéo tới tấn công địch quân. Bá tước Friedrich Martin de Augsburg sợ quân đội Thần Thánh Đế quốc, e ngại quân đội Latium, chứ không sợ quân đội Trento. Trong ý nghĩ của Bá tước, quân đội Trento còn kém hơn cả liên quân Áo – Tyrol, không có gì phải sợ hết.
‘Đại quân’ Bavaria nhanh chóng kéo đến thôn trấn trước mặt, hội ngộ cùng quân đội Trento. Thấy đối phương đông hơn gấp 10 lần, quân Trento không dám ứng chiến, vội vã tháo chạy về phía nam. Bá tước Friedrich Martin de Augsburg thấy vậy, vội thúc quân đuổi theo, còn ngồi trên chiến mã quất roi cười lớn nói :
- Chuyến đi săn này, nhất định thắng lợi. Công tước đại nhân sẽ thấy ta vừa ra quân đã chiến thắng. Ha ha ha.
Đưa mắt nhìn quang cảnh bờ sông, Bá tước Friedrich Martin de Augsburg lại nói tiếp :
- Chuyến này truy sát địch quân, nhân tiện thưởng thức phong cảnh bên sông Salzach, thật là một công đôi việc. Ha ha ha.
Tuy hứng khởi trong lòng, nhưng Bá tước Friedrich Martin de Augsburg cũng không phải là hạng hữu dũng vô mưu, nhìn thấy sĩ khí quân đội không cao, liền quay sang bảo viên cận tướng, Nam tước Jürgen Kotzur de Reibisch :
- Truyền lệnh của ta. Đại quân tăng tốc truy sát địch quân. Địch quân vừa mới cướp phá xong, chắc chắn sẽ có rất nhiều tài vật. Thông báo cho binh sĩ, chiến lợi phẩm do người nào giành được sẽ thuộc về người đó.
Bá tước Friedrich Martin de Augsburg chỉ cần chiến công, không cần chiến lợi phẩm. Thật ra thì Bá tước cũng không đánh giá cao số tài vật mà địch quân cướp được. Chỉ là các thôn trấn nghèo khổ, có gì đáng giá đâu mà cướp. Nếu như địch quân cướp phá một thành thị hay một đại lĩnh địa, chiến lợi phẩm phong phú thì Bá tước đã không truyền lệnh như vậy.
Mệnh lệnh truyền xuống, ba quân hoan hô vang dội. Có động lực, ai nấy càng chạy nhanh hơn, khoảng cách với địch quân ở phía trước cũng rút ngắn lại dần. Binh sĩ thấy có hy vọng, nên lại càng hăng hái. Nông dân bị lĩnh chủ trưng tập gia nhập quân đội, không hề được trả lương, do đó bọn họ chỉ còn biết hy vọng vào chiến lợi phẩm.
Truy đuổi hơn nửa ngày, mọi người bắt đầu nhìn thấy có nhiều vật tư, vũ khí rơi vãi trên đường, xem ra địch quân vì hối hả tháo chạy nên làm rơi rớt. Quân Bavaria hăng hái tranh cướp, rồi lại hăng hái truy đuổi, không cần các tướng lĩnh thúc giục mà ai nấy đều rất tích cực. Nhiều người nhìn thấy địch quân ở phía trước tay bao tay bị, mang xách nhiều thứ, lòng tham làm đỏ hồng cả mắt, điên cuồng đuổi theo, quên cả mệt mỏi đói khát.
Nhìn thấy địch quân chạy thẳng về phía rừng núi trước mặt, Bá tước Friedrich Martin de Augsburg như nhìn thấy chiến công trước mắt, tiếng quát tiếng cười vang vọng nơi sơn dã :
- Ha ha ha. Địch quân sắp hết đường chạy rồi. Mọi người gắng sức lên.
Song phương truy đuổi cả ngày, cuối cùng đại đội quân Trento chạy vào trong một sơn cốc. Đó là một sơn cốc vô danh nằm ngoài rìa của khu vực núi non Trung Alps (Central Alps), ở về phía nam Salzburg. Khi đến trước cửa sơn cốc, Bá tước Friedrich Martin de Augsburg giật cương dừng lại, ngần ngừ không dám tiến vào. Viên cận tướng, Nam tước Jürgen Kotzur de Reibisch, thấy thế liền nói :
- Bá tước đại nhân. Khu vực này xem ra hung hiểm, nên đề phòng địch nhân có âm mưu quỷ kế.
Bá tước Friedrich Martin de Augsburg hừ lạnh một tiếng, nói :
- Ta lẽ nào không biết ?
Nam tước Jürgen Kotzur de Reibisch vội khom lưng nói :
- Bá tước đại nhân. Chúng ta có cần phái người vào bên trong thám thính hay không ?
Bá tước Friedrich Martin de Augsburg khen phải, nói :
- Ngươi hãy suất lĩnh 1.000 quân vào bên trong thám thính tình hình.
Nam tước Jürgen Kotzur de Reibisch nghe nói thế, nhất thời toàn thân run rẩy, chút nữa là đã rơi xuống ngựa. Gã ta thân thể hồng hào mập mạp, chưa từng tham gia chiến tranh, đừng nói là chém giết, sở trường duy nhất là nịnh nọt làm vui lòng chủ tướng, nói không dễ nghe thì là tham sống sợ chết. Lần này chủ tướng phái gã vào trong thám thính tình hình địch quân, có phải là muốn lấy mạng gã hay không. Gã ấp úng nói :
- Bá tước đại nhân. Thuộc hạ nhất thời cảm mạo, hay là phái người khác đi được không ?
Bá tước Friedrich Martin de Augsburg trừng mắt nhìn gã, lạnh lùng nói :
- Hừ. Bảo ngươi đi thì ngươi cứ đi. Việc gì cứ nhiều lời như thế !
Nam tước Jürgen Kotzur de Reibisch thấy Bá tước sắc diện âm trầm, nghĩ đến tính cách hung bạo, thường xuyên đánh đập gia nhân, thuộc hạ của Bá tước, không khỏi ớn lạnh, vội vàng nói :
- Vâng ạ. Thuộc hạ đi ngay. Thuộc hạ đi ngay.
Nói xong gã ta vội vã giục ngựa chạy đi, kiểm điểm binh mã tiến vào trong sơn cốc.
Ánh dương xế bóng, gió thổi hiu hiu.
Đội tiên phong của quân Bavaria chầm chậm tiến vào trong sơn cốc, vừa đi vừa cẩn thận quan sát tứ phía, sợ kinh động địch quân. Địch quân đông đến 2.000 người, đông gấp đôi bọn họ. Nếu làm kinh động, địch nhân kéo ra vây đánh, thì dù đại quân bên ngoài có kéo vào cứu viện, không ít người trong số bọn họ cũng sẽ phải vĩnh viễn vùi thân ở đây. Có lẽ Bá tước đại nhân phái bọn họ vào đây làm mồi dụ địch chăng ? Mọi người đều nghĩ vậy. Số phận của con mồi sẽ chẳng hay ho gì. Do đó mọi người đều chẳng mấy tích cực.
Trong đội quân, Nam tước Jürgen Kotzur de Reibisch cưỡi ngựa đi sau cùng, sắc diện tái nhợt, toàn thân run rẩy, xem chừng ngồi yên được trên lưng ngựa là đã cố sức lắm rồi. Với bộ dạng như thế, nếu gặp phải địch quân thì làm sao chiến đấu. Fränkische Schweiz, Hiệp sĩ lĩnh quân, khinh miệt nhìn Nam tước Jürgen Kotzur de Reibisch một lượt, khẽ hừ một tiếng. Bọn họ rất xem thường loại người như Nam tước, chỉ biết nịnh nọt, chiến đấu thì không ra gì. Nếu không phải có mệnh lệnh của Bá tước đại nhân, bọn họ sẽ chẳng thèm lý đến Nam tước. Hồi lâu, Hiệp sĩ Fränkische Schweiz không nhịn được nữa, giục ngựa lại gần nói :
- Nam tước đại nhân. Hay là đại nhân chờ ở đây, để chúng ta vào bên trong do thám, rồi sẽ ra đây hồi báo với đại nhân, được không ?
Nam tước Jürgen Kotzur de Reibisch trong lòng mừng thầm, nhưng ngoài mặt vẫn cố nói cứng :
- Như thế … như thế e rằng không tiện. Cùng đi. Chúng ta hãy cùng đi.
Hiệp sĩ Fränkische Schweiz càng cảm thấy gã ta đáng ghét, muốn đi cho khuất mắt, nhưng vì sự an toàn của bản thân và thủ hạ, tốt nhất không nên đưa Nam tước đi theo, liền vội nói :
- Không sao đâu ! Chúng ta chỉ vào bên trong xem xét một lúc. Nam tước đại nhân cứ ở đây chờ tin tức của chúng ta.
Nam tước Jürgen Kotzur de Reibisch khẽ thở phào, nói :
- Như vậy đành làm phiền mọi người rồi.
Thế là Hiệp sĩ Fränkische Schweiz dẫn thủ hạ tùy tùng và binh sĩ vào bên trong thám thính. Nam tước Jürgen Kotzur de Reibisch ở lại đó chờ đợi. Lát sau, gã nghe bên trong có nhiều tiếng hò hét quát tháo, giây lát lại thấy quân thám thính chạy ngược trở ra. Gã kinh hãi, vội giục ngựa chạy theo, đến bên Hiệp sĩ Fränkische Schweiz, hỏi :
- Tình hình bên trong thế nào ?
Hiệp sĩ Fränkische Schweiz đáp :
- Địch quân đang xây dựng các công trình phòng ngự bên trong, có lẽ định cố thủ chờ viện quân.
…
Bên ngoài sơn cốc, Bá tước Friedrich Martin de Augsburg chờ đợi hồi lâu, có vẻ ngồi đứng không yên. Trong khi đó thì chúng sĩ binh đều ngồi bệch cả dưới đất nghỉ ngơi. Sau cả ngày truy đuổi, giờ đây ai nấy cũng đều cảm thấy mệt mỏi. Binh sĩ phải chạy bộ bằng hai chân chứ không được cưỡi ngựa như Bá tước và các tướng lĩnh, Hiệp sĩ. Bá tước thấy vậy, tuy trong lòng bực bội, nhưng cũng đành chịu.
Một gã Hiệp sĩ thân tín của Bá tước đối Nam tước Jürgen Kotzur de Reibisch rất không tín nhiệm, đến bên Bá tước nói :
- Bá tước đại nhân. Bọn họ vào bên trong đã lâu, đúng ra phải quay ra rồi, trừ khi có biến cố gì đó ?
Bá tước Friedrich Martin de Augsburg cười nhạt nói :
- Không sao đâu ! Ít ra cũng sẽ chạy ra được đôi ba người chứ !
Gã Hiệp sĩ thân tín nghe giọng lạnh lùng của Bá tước, bất giác cảm thấy lạnh cả xương sống. Hơn nghìn người a. Vào bên trong sơn cốc thám thính đến hơn cả nghìn người, Bá tước hy vọng sẽ có đôi ba người chạy ra được để mang tin tức ra. Vậy hóa ra … Gã ta thoáng rùng mình, không dám nói gì thêm nữa. Giữa lúc đó, gã chợt nghe Bá tước nói :
- Xem kìa. Bọn họ ra rồi. Hừm … Còn nhiều hơn so với sự tưởng tượng của ta !
Gã Hiệp sĩ thân tín nghe nói, lại rùng mình, quay nhìn về phía cửa sơn cốc, quả thực nhìn thấy đội tiên phong đã quay trở ra, nhân số tuy có giảm bớt, nhưng không đến một thành. Đa số binh sĩ chạy ra đến ngoài này đều ngồi bệch xuống đất thở dốc. Hiệp sĩ Fränkische Schweiz cùng với Nam tước Jürgen Kotzur de Reibisch giục ngựa đến chỗ Bá tước Friedrich Martin de Augsburg bẩm báo địch tình.
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Nguồn: ttv
Chương 106 : CHIẾN DỊCH SALZBURG (3)
Lại nói, khi ra đến bên ngoài sơn cốc, tuy nhân số có giảm bớt, nhưng không đến một thành, mọi người đều thở phào nhẹ nhõm. Trước tình cảnh hiểm nghèo như thế, chạy thoát được ra ngoài này đã là may mắn lắm rồi. Đa số binh sĩ chạy ra đến ngoài này đều ngồi bệch xuống đất thở dốc. Hiệp sĩ Fränkische Schweiz cùng với Nam tước Jürgen Kotzur de Reibisch giục ngựa đến chỗ Bá tước Friedrich Martin de Augsburg bẩm báo địch tình. Hiệp sĩ Fränkische Schweiz hướng về Bá tước hành lễ Hiệp sĩ, nói :
- Bá tước đại nhân. Bọn thuộc hạ đã thám thính rõ tình hình trong sơn cốc, nên quay ra bẩm báo với Bá tước đại nhân.
Bá tước Friedrich Martin de Augsburg gật đầu bảo :
- Từ từ mà nói !
Hiệp sĩ Fränkische Schweiz còn chưa kịp bẩm báo thì Nam tước Jürgen Kotzur de Reibisch đã giành nói :
- Bá tước đại nhân. Địch quân tập trung ở phía trong sơn cốc, đang cố thủ chờ chết. Đại quân của chúng ta có thể tập trung lực lượng tiêu diệt bọn chúng.
Bá tước Friedrich Martin de Augsburg đưa mắt nhìn Hiệp sĩ Fränkische Schweiz, gã liền vội gật đầu. Bọn họ vào trong sơn cốc thám thính, đụng độ với quân Trento, bị đánh bật trở ra. Do nhân số ít hơn nhiều nên bọn họ cũng không dám tiến vào sâu, chỉ quan sát sơ bộ tình hình rồi quay ra bẩm báo, chờ Bá tước đại nhân định đoạt. Bá tước Friedrich Martin de Augsburg nghe báo, trong lòng cao hứng, truyền lệnh :
- Tốt lắm. Đại quân tiến vào sơn cốc, tiêu diệt địch quân.
Bá tước Friedrich Martin de Augsburg lúc này ‘hùng tư anh phát, khí thế phi phàm’, xem chừng thắng lợi đã nắm chắc trong tay. ‘Đại quân’ Bavaria dưới sự thống lĩnh của Bá tước hùng hổ tiến vào trong sơn cốc. Sau một hồi nghỉ ngơi, binh sĩ phần nào đã lấy lại sức, và khi nghĩ đến chiến lợi phẩm, ai nấy đều trở nên tích cực hơn.
Đi sâu vào giữa sơn cốc mà vẫn chưa thấy tung tích địch quân đâu, Bá tước Friedrich Martin de Augsburg quay sang hỏi Hiệp sĩ Fränkische Schweiz :
- Địch quân ở chỗ nào ?
Hiệp sĩ Fränkische Schweiz nói :
- Bá tước đại nhân. Qua khỏi khúc quanh phía trước có một khu rừng, địch quân ẩn náu bên trong khu rừng đó.
Bá tước Friedrich Martin de Augsburg gật đầu nói :
- Truyền lệnh của ta, toàn quân xung phong, toàn lực tiêu diệt địch quân. Chiến lợi phẩm tự ý xử lý.
- Xung phong !
‘Đại quân’ Bavaria toàn lực xung phong, do nghĩ đến ‘tương lai tươi sáng’, toàn thể binh sĩ tướng lĩnh đều tranh nhau chạy trước, bởi ai đi trước thì có cơ hội chiếm lấy chiến lợi phẩm nhiều hơn. Bá tước đại nhân đã cho phép tự ý xử lý chiến lợi phẩm kia mà. Ai giành được thì đương nhiên sẽ thuộc về người đó.
Đột nhiên …
Một tiếng pháo hiệu chấn động cả sơn cốc, rồi tiếng reo hò vang dậy đất trời. Tiếp đó là vô số gỗ đá từ hai bên vách núi ném xuống, vô số cung tên từ các hướng bắn ra, cùng với những tiếng kêu la gào khóc thảm thiết, liên miên bất tuyệt. Quân Bavaria đã rơi vào vòng phục kích.
Hai vạn quân Bavaria chen chúc nhau bên trong một đoạn hẹp của sơn cốc, hai đầu đã bị gỗ đá lấp kín, hai bên vách núi lại có vô số cung tên liên tục bắn xuống, nhất thời tổn thương thảm trọng. Nam tước Jürgen Kotzur de Reibisch bị một hòn đá to bằng nắm tay ném trúng đầu, rơi xuống ngựa, hôn mê bất tỉnh. Bá tước Friedrich Martin de Augsburg thì may mắn hơn, bản thân không sao, nhưng chiến mã thì bị trúng tên, hất văng Bá tước xuống đất, rồi được chúng thân binh bảo hộ nên Bá tước tạm thời vẫn còn an toàn. Bá tước vừa kinh vừa sợ, không ngừng quát tháo :
- Tản ra. Mau tản ra.
Bá tước cố gắng chỉ huy quân đội tổ chức phòng ngự. Chỉ đáng tiếc hình thế cực kỳ hỗn loạn, tiếng kêu la gào khóc, tiếng hò hét quát tháo vang dậy khắp nơi, không ai nghe Bá tước chỉ huy nữa. Chẳng mấy chốc là thanh âm của Bá tước bị nhấn chìm bởi vô số những thanh âm hỗn loạn khác. Trước tình cảnh đó, Bá tước chỉ còn biết ôm đầu tuyệt vọng, than thở :
- Thôi rồi ! Thôi hết rồi !
Vô số gỗ đá, cung tên từ hai bên vách núi bắn xuống như mưa, nhanh chóng nhấn chìm binh tướng Bavaria dưới sự tuyệt vọng vô biên. Không ngừng có người trúng gỗ đá, bất tỉnh. Không ngừng có người trúng tên, thương vong. Lại càng có nhiều người tử thương do giẫm đạp lẫn nhau. Tiếng kêu khóc vang vọng khắp sơn cốc, rất lâu không tản. Máu tươi nhiễm hồng cả mặt đất. Sơn cốc bị biến thành một chốn nhân gian địa ngục. Thật là :
Cờ mở gió bay,
Trống động trời lay.
Gió bắc ào ào,
Phục binh tứ phía.
Chủ tướng khinh địch,
Rơi vòng phục kích.
Dạ phải hãi hùng,
Mạng thành đê tiện.
Sơn cốc hoang vu,
Bóng người chen chúc.
Đường lối quanh co,
Núi non cao ngất.
Ngọn gió lạnh lùng,
Nắng chiều hiu hắt.
Tên bắn như mưa,
Máu tuôn đầy đất.
Giữa cảnh hỗn loạn đầy tuyệt vọng đó, quân Bavaria chợt nghe bốn phía có nhiều tiếng hô vang :
- Đầu hàng tha chết. Đầu hàng tha chết.
Tiếp đó, đối phương tạm thời ngừng tấn công. Quân đội Bavaria là quân nông dân, hay nói rõ hơn chính là nông dân mới bỏ cuốc cày, tay vẫn chưa quen cầm vũ khí, nên chẳng có sĩ khí hay lòng trung thành gì đáng kể, giữa cảnh tuyệt vọng này, thấy có cơ hội sinh tồn liền đua nhau ném bỏ vũ khí, giơ tay xin hàng. Sau cùng, đến ngay cả các tướng lĩnh và Hiệp sĩ cũng hạ vũ khí đầu hàng. Bị rơi vào đường cùng thế này, bọn họ có muốn chống cự cũng chỉ uổng mạng vô ích. Đối phương chỉ ở trên hai bên vách núi ném gỗ đá hay bắn tên xuống chứ có chịu cùng bọn họ giao chiến đâu. Bọn họ có muốn dùng mạng đổi mạng cũng không được.
Phụ trách dụ địch là quân đội Trento, còn phụ trách phục kích là quân đội Latium. Khi thấy đối phương đã hạ vũ khí đầu hàng, liên quân Latium – Trento liền rời chỗ phục kích, xuống tiếp thu hàng binh, giải quyết chiến trường. Đáng thương cho quân đội nông dân Bavaria, mới trở thành binh sĩ chưa bao lâu, tay vẫn chưa cầm chắc vũ khí thì đã biến thành tù binh. Kiểm điểm chiến quả, quân Bavaria tử trận hơn 5.000 người, thọ thương hơn vạn, chỉ có chưa đến 3.000 người là còn lành lặn.
Người đông thế mạnh, liên quân Latium – Trento chỉ mất một ngày để xử lý chiến quả. Hôm sau, liên quân rời sơn cốc, áp giải tù binh và chiến lợi phẩm quay về cùng đại quân. Theo ý của Đinh An Bình, tù binh thì liên quân phải giao nộp lên, còn chiến lợi phẩm thì bọn họ có thể tự chia nhau. Tuy là quân nông dân, tài sản không có gì nhiều (nếu không muốn nói là không có gì), nhưng ai cũng có vũ khí, mà vũ khí có thể chuyển thành tiền; đặc biệt là chiến mã, khôi giáp của các Hiệp sĩ thì lại càng đáng giá.
Mấy ngày sau, đại quân hội họp, áp sát Salzburg, thủ phủ của lĩnh địa. Lúc này, 2 vạn quân Áo và 1 vạn quân Bohemia đã hội họp ở đấy. Khi hay tin đạo viện quân Bavaria đã toàn diệt, cả bọn chấn động, không dám xuất thành ứng chiến, chỉ cố thủ trong thành rồi gửi thư về Công tước Áo và Công tước xứ Bohemia xin thêm viện binh. Dùng 3 vạn quân ô hợp (không ít là nông dân mới bị trưng tập) chống lại hơn 20 vạn quân tinh nhuệ của đối phương, ngay cả bọn họ cũng không dám tự tin có thể kháng cự nổi, đừng nói là phải đánh lui đối phương.
Liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium – Trento đến dựng doanh trại phía ngoài thành bảo thủ phủ của Salzburg. Đinh An Bình gọi George I de Trento đến, hỏi :
- Liên hệ với Eberhard III de Neuhaus thế nào rồi ?
George I de Trento nói :
- Đại vương yên tâm. Mọi sự đâu vào đấy cả rồi. Ông ấy đã sẵn sàng phối hợp đại quân.
Đinh An Bình mỉm cười nói :
- Tốt lắm. Lần này ngươi hãy cố lập nhiều quân công. Bản vương sẽ tâu với Thánh hoàng sát nhập Tyrol vào Trento để thành lập một tân vương quốc.
Lĩnh thổ của Tyrol và Trento hợp lại đã lớn hơn cả Sicily và Sardinia, gấp 3 lần Corsica. Ba xứ đó còn là vương quốc được thì tân Trento cũng có thể thành lập vương quốc. George I de Trento nghe nói cả mừng, vội nói :
- Đại vương yên tâm. Quân đội Trento sẽ hết lòng giúp Đế quốc chinh phạt nghịch tặc.
Ở u châu, có gì sung sướng hơn khi có thể trở thành quốc vương. Ngôi vị quốc vương không chỉ đại biểu cho quyền lực, mà còn là một loại vinh dự, tượng trưng cho thân phận. Ở u châu, công tước, hầu tước, thậm chí vương tử, thân vương vô số, nhưng có mấy ai có thể trở thành quốc vương. Thời Trung Cổ, nhiều vương tử, đại công tước ở Đế quốc La – Đức muốn trở thành quốc vương, nhưng phải chờ đến khi quyền lực của các Thánh Hoàng đế suy yếu, mới có thể dùng uy bức lợi dụ, ép buộc Thánh Hoàng đế phong cho mình làm quốc vương, mà cũng không có mấy người thành công. Quốc vương, vương quốc khi đối diện công tước, công quốc tự nhiên có được tiên thiên ưu thế, giống như người Trung Hoa có câu “Quan đại nhất cấp áp tử nhân”.
An phủ George I de Trento đang tâm tình kích động, Đinh An Bình trao cho lão một chiếc túi gấm, nói :
- Cứ theo đó thi hành.
Sau đó, Đinh An Bình lại truyền lệnh cho binh sĩ nghỉ ngơi dưỡng sức, chuẩn bị cho đại chiến.
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Nguồn: ttv
Chương 107 : CHIẾN DỊCH SALZBURG (4)
Salzburg. Hohensalzburg thành bảo.
Hohensalzburg trong tiếng Đức có nghĩa là ‘Salzburg cao’ (High Salzburg). Hohensalzburg thành bảo (Hohensalzburg Castle) nằm trên đỉnh Festungsberg, với chiều dài 250 mét và chiều rộng 150 mét, là một trong những thành bảo lớn nhất u châu thời Trung Cổ (đến nay vẫn còn di tích ở Salzburg, Áo; năm 1977, nhân kỷ niệm 900 năm Hohensalzburg, Áo có phát hành đồng tiền xu in hình Hohensalzburg thành bảo). Ngay cả Tử Cấm Thành Bắc Kinh cũng chỉ dài 961 mét, rộng 753 mét, trong khi Salzburg chỉ là một lĩnh địa nhỏ phụ thuộc vào đại lĩnh địa Bavaria thuộc Đế quốc La – Đức (tính ra Salzburg chỉ tương đương châu phủ ở Trung Hoa, dưới cả cấp tỉnh), bởi vậy mà Hohensalzburg thành bảo có diện tích như thế đã là rất rộng lớn. Đây cũng chính là nơi đóng trụ sở của chính quyền lĩnh địa Salzburg, là nơi ở của các quan chức quý tộc Salzburg và quý tộc tướng lĩnh do Bavaria phái đến, đồng thời cũng là nơi cố thủ cuối cùng của bọn họ. Bên ngoài, đại quân đối phương tràn ngập khắp nơi. Vì vậy mà liên quân Áo – Bohemia đã rút về đây cố thủ chờ viện binh. Đạo quân Bavaria đã bị đánh bại, đầu hàng mất rồi, nên giờ đây liên quân Áo – Bavaria – Bohemia thiếu mất quân đội Bavaria.
Liên quân Áo - Bohemia có 3 vạn người, chỉ là đạo tiên phong, có nhiệm vụ làm chậm bước tiến của đối phương, để các vị Công tước có thời gian chinh binh. Tất cả mọi người, không ai dám tin rằng chỉ sử dụng vài vạn quân có thể chống nổi liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium – Trento. Ngay cả tạm thời ngăn chặn cũng không thể nào ! Các vị Công tước chỉ hy vọng đạo tiên phong có thể làm chậm bước tiến của đối phương mà thôi.
Trong Hohensalzburg thành bảo, những người lĩnh đạo liên quân gồm quý tộc, quan chức, tướng lĩnh, Hiệp sĩ thủ lĩnh, … đã hội họp bàn bạc kế sách. Nhiệm vụ của bọn họ là làm chậm bước tiến của đối phương. Nhưng trước tình hình hiện tại, bọn họ đã bị buộc phải cố thủ ở đây, đối phương chỉ cần để lại vài vạn quân bao vây thành bảo, rồi vẫn có thể tiếp tục tiến quân. Đó là chưa nói đến việc đối phương đại cử tấn công, bọn họ cũng không tin rằng có thể cố thủ thành công. Nếu thế thì nhiệm vụ của bọn họ xem như đã thất bại rồi. Nghĩ đến tính cách tàn bạo, nóng giận thất thường của Công tước Ernest de Autriche Intérieure, Hầu tước Kultur de Klagenfurt chỉ huy đạo quân Áo không khỏi rùng mình lo lắng nói :
- Chúng ta phải làm sao để buộc địch quân tạm hoãn công thành. Mọi người có chủ ý gì không ?
Công tước Ernest de Autriche Intérieure (tiếng Đức : Ernst der Eiserne, tức Ernest xứ Nội Áo) là nhiếp chính cho Công tước Albert IV de Habsbourg của công quốc Áo (lúc này đã 20 tuổi). Công quốc Áo bấy giờ bao gồm các lĩnh địa Autriche (tức Austria hay Áo), Styria, Carinthia, Carniola và Tyrol; trong đó các xứ Styria, Carinthia và Carniola gọi chung là Nội Áo. Các lĩnh địa của Công tước Ernest de Autriche Intérieure chiếm đến hơn một nửa lĩnh thổ của công quốc Áo, do đó mà Công tước Ernest de Autriche Intérieure quyền khuynh cả nước, vẫn giữ quyền nhiếp chính mặc dù Công tước Albert IV de Habsbourg đã lớn.
Lo lắng của Hầu tước Kultur de Klagenfurt cũng là lo lắng chung của mọi người, bởi một khi thành bảo thất thủ thì số phận những người ở đây đều như nhau cả, không tử trận cũng sẽ trở thành tù binh. Bá tước Bände de München của quân Bohemia nói :
- Ta nghĩ ... chúng ta nên phái những tiểu đội cảm tử đi quấy nhiễu địch quân, đốt phá doanh trại, chặn đường cướp lương chẳng hạn !
Bá tước Geschichte de Regensbg thuộc Bavaria tán thành :
- Phải đó. Địch quân quá đông, mỗi ngày tiêu hao rất nhiều lương thực. Chỉ cần chúng ta cắt đứt, à không, chỉ cần phá hoại đường vận lương của địch quân, khiến địch quân thiếu lương, sẽ không còn khả năng công thành nữa.
Hầu tước Kultur de Klagenfurt khen phải nói :
- Đúng. Chúng ta chỉ cần phái các tiểu đội cảm tử xuất thành, đối chúng ta không ảnh hưởng nhiều đến khả năng thủ thành, nhưng lại gây khó khăn cho địch quân, thật là phương pháp hay.
Bá tước Geschichte de Regensbg nói thêm :
- Chỉ cần nửa tháng, chỉ cần nửa tháng thôi thì viện quân sẽ đến.
Bá tước Bände de München lại nói :
- Ta còn có ý này ... không biết ...
Mọi người chụm đầu lại, nghe Bá tước Bände de München thì thầm một hồi, rồi Hầu tước Kultur de Klagenfurt vỗ bàn nói :
- Hay. Cứ làm như thế.
Những người khác cũng đồng thanh tán thành. Tiếp đó, mọi người lập tức trở về nơi đóng quân, khẩn trương tuyển mộ cảm tử quân để thi hành kế hoạch.
…
Doanh trại của liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium – Trento. Soái trướng.
Đinh An Bình nghe viên tùy tướng của mình là Lý Tuấn Thuần bẩm báo xong, ngạc nhiên nói :
- Bị cướp lương ? Có kẻ dám chặn đường cướp lương ?
Lý Tuấn Thuần cung kính đáp :
- Vâng ạ. Chỉ trong một ngày đã xảy ra liên tiếp ba vụ.
George I de Trento lo lắng hỏi :
- Có thiệt hại gì không ?
Lý Tuấn Thuần nói :
- Đại vương rất coi trọng lương thảo, phái đại quân hộ lương, làm sao xảy ra chuyện được. Hơn nữa, đối phương mỗi nhóm chỉ có vài trăm người, tiểu đả tiểu náo thì được, đối diện 1 vạn quân tinh nhuệ, trong đó có đến 3.000 kỵ binh, thì còn làm nên việc gì !
Đinh An Bình nói :
- Xem ra đối phương định quấy nhiễu quân ta, để quân ta không còn rảnh rang công thành đây mà. Thật ra thì bọn chúng không làm thế, bản vương cũng chưa có ý định công thành lúc này.
George I de Trento hỏi :
- Đại vương cho rằng do quân Áo làm ?
Đinh An Bình nói :
- Đương nhiên. Bọn chúng không tự tin có thể cố thủ thành công, nên bày ra trò này đây mà.
Lý Tuấn Thuần lại nói :
- Khải bẩm đại vương. Địch quân sau khi cướp lương thất bại, bị truy sát, không chạy về phía Salzburg mà chạy về phía nam. Kỵ binh của quân ta đuổi đến biên giới với Venice rồi thôi. Chưa có lệnh của đại vương, kỵ binh không dám tiến vào Venice.
Đinh An Bình hỏi :
- Bọn chúng chạy vào bên trong lĩnh thổ Venice ?
Lý Tuấn Thuần đáp :
- Vâng ạ. Địch quân có 3 đội thì 1 đội bị tiêu diệt hoàn toàn, còn lại tàn binh của 2 đội kia chạy thoát được vào lĩnh thổ Venice.
Đinh An Bình hai mắt sáng lên, đột nhiên vỗ bàn, ra vẻ tức giận nói :
- Bọn Venice này thật to gan mà. Bản vương đã định tha cho bọn chúng. Nào ngờ bọn chúng còn dám cấu kết với quân Áo, cướp lương của quân ta. Thật là đáng chết !
George I de Trento ngạc nhiên hỏi :
- Đại vương cho rằng Venice và Áo có cấu kết ?
Đinh An Bình nhìn lão, mỉm cười nói :
- Bọn chúng thật sự có cấu kết hay không thì không quan trọng, miễn là có chứng cứ chứng minh bọn chúng có cấu kết là được rồi.
Đinh An Bình còn không nói thêm câu nữa : “Chỉ cần bản vương bảo có cấu kết tức là có cấu kết, còn chứng cứ, muốn có bao nhiêu mà chẳng được”. Thời buổi này, phần đúng luôn luôn nằm trong tay kẻ mạnh hơn. Giống như các trận quyết đấu giữa các Hiệp sĩ ở thời này, bất kể ai đúng ai sai, sau khi quyết đấu xong, phần đúng luôn luôn thuộc về kẻ thắng. Đó cũng là một trong những ảnh hưởng của phong khí Hiệp sĩ thời Trung cổ.
George I de Trento nghe nói, gật gù tỏ ý hiểu. Lão dù sao cũng là một Giám mục, từng đi nhiều nơi truyền giáo, tiếp xúc với nhiều hạng người, kiến thức không hạn hẹp như những quý tộc bình thường. Đinh An Bình lại bảo :
- Ngươi thông tri cho phía Venice biết, hạn trong ba ngày phải giao nộp nghịch tặc và tuyên bố tuyệt giao với Đế quốc La – Đức. Nếu không, bản vương sẽ phái quân vào Venice bắt giặc. Lời lẽ phải thật cứng rắn.
George I de Trento vâng dạ, lập tức đi lo việc tiếp xúc với phía Venice. Lão biết Đinh An Bình cần có cớ để phái quân tiến vào Venice, nên cần phải tiến hành các động tác cần thiết để giành phần phải về phía mình, ít ra cũng trên danh nghĩa. Bản thân George I de Trento cũng không ưa gì Venice. Lĩnh địa Trento nằm ngay bên cạnh nước cộng hòa Venice, có ba mặt bị Venice bao bọc, chỉ có phía bắc giáp với Tyrol. Hai nơi lại thuộc về hai chính thể khác nhau : Trento – phong kiến giáo quyền và Venice – cộng hòa nghị viện. Venice lại luôn tìm cách thôn tính Trento giống như Áo vậy. Venice lại là cường quốc hải quân ở u châu (trước khi Thần Thánh Đế quốc đến đây), nên người Venice rất kiêu ngạo, bình thường chẳng xem người Trento vào đâu, còn khó ưa hơn cả Áo. Do đó, sớm giải quyết Venice thì cũng như giúp Trento giải quyết một mối tâm phúc đại họa. Còn việc Venice bị sát nhập vào Latium, Latium còn hùng mạnh hơn Venice nhiều, George I lại không sợ. Thứ nhất, Latium bản thân đã rất hùng mạnh, có hay không có thêm Venice cũng vậy. Thứ hai, George I de Trento và Long nhi rất thân thiết, từng cùng nhau đi đến Gia Định kia mà. Thứ ba, và quan trọng nhất, George I de Trento đã từng đi đến Gia Định, là vị quân chủ u châu đầu tiên đến Gia Định, và địa vị đã được Giang Phong công nhận. George I de Trento tin rằng chỉ cần thân cận Thần Thánh Đế quốc, thân cận bọn Đinh An Bình, địa vị của mình sẽ vững như bàn thạch. Lão còn cảm thấy cư xử với Đinh An Bình, với Thần Thánh Đế quốc còn dễ chịu hơn với Hoàng đế và các Công tước của Đế quốc La – Đức (vốn có hiềm khích với giáo hội).
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Nguồn: ttv
Chương 108 : SỰ BIẾN VENICE
Tuy trước đây Trento là một bộ phận của Đế quốc La – Đức, George I de Trento về danh nghĩa là thần tử của Hoàng đế Đế quốc La – Đức, nhưng George I de Trento bản thân còn là một vị Giám mục, thuộc về Giáo hội Công giáo La Mã vốn có hiềm khích với Hoàng đế Đế quốc La – Đức (tranh chấp xem Pope và Saint Emperor ai có địa vị cao hơn). Trước đây, Trento và Salzburg là hai lĩnh địa lớn của Giáo hội ở khu vực phía đông. Nhưng Salzburg đã bị Bavaria thuộc phe Hoàng đế Đế quốc La – Đức thôn tính. Trento lại bị công quốc Áo của nhà Habsbourg uy hiếp, có nguy cơ bị xâm chiếm. George I de Trento phải tìm mọi cách bảo vệ lĩnh địa của mình cũng như của giáo hội, không thể để mất giống như Salzburg. Giáo hội mất đi các lĩnh địa, thế lực sẽ ngày càng yếu. Đó là điều mà George I de Trento không muốn xảy ra.
Tình cảnh của Trento và Salzburg lại khá giống nhau. Salzburg bị các công quốc Bavaria và Áo bao bọc, sau bị sát nhập vào Bavaria (đến sau chiến tranh thế giới thứ hai lại bị sát nhập vào Áo). Trento thì ba mặt bị cộng hòa Venice bao bọc, phía bắc giáp Tyrol thuộc Áo. George I de Trento vì muốn bảo toàn lĩnh địa, đã xoay sở rất nhiều cách, cuối cùng còn tự mình đi đến Gia Định tầm cầu hỗ trợ. Lúc bấy giờ, Giáo hội Công giáo La Mã đang trong cuộc Ly giáo, cùng một lúc có đến 3 Đức Thánh Cha (Papal hay Pope), mà vị nào cũng có ít nhiều quân vương ủng hộ, khiến giáo hội bị chia rẽ, là thời kỳ buồn thảm nhất của giáo hội, còn nghiêm trọng hơn cả thời kỳ Đại Ly Giáo. Cuộc Đại Ly Giáo có nguyên nhân chủ yếu là sự khác biệt giữa cách truyền giáo, giải thích kinh nghĩa (dù sao thì trên danh nghĩa cũng là như thế). Còn cuộc Ly giáo lần này hoàn toàn là do quyền lợi thế tục, không liên quan gì đến giáo nghĩa. Bản thân là một vị Giám mục, George I de Trento cảm thấy rất đau lòng. Lão còn nhìn thấy sở dĩ có cuộc Ly giáo là do có sự hậu thuẫn của các quân vương, để làm cia rẽ, suy yếu giáo hội. Hai vị ngụy giáo chủ (Antipope) : Benedictus XIII của Avignon được Pháp Lan Tây ủng hộ, và John XXIII của Pisa được Đế quốc La – Đức ủng hộ. Chỉ có Đức Thánh Cha Gregorius XII là được dân Roma ủng hộ (được công nhận là chính thống).
Do vậy, khi giao thiệp với Venice, George I de Trento có thái độ rất cứng rắn. Khi sứ giả của Venice biện bác :
- Những kẻ cướp lương đó không phải do chính phủ cộng hòa Venice sai khiến.
George I de Trento đã nói :
- Lấy gì để chứng minh. Chúng ta chỉ thấy bọn chúng chạy vào lĩnh thổ Venice, và Venice đã để mặc cho bọn chúng ẩn náu trên lĩnh thổ của mình.
Sứ giả của Venice cố biện bác :
- Cộng hòa Venice là một quốc gia tự do dân chủ, mỗi ngày có biết bao nhiêu người ra vào biên giới, chính phủ không thể kiểm soát hết được.
Bản thân là một quân chủ, George I de Trento rất không ưa sự tự do dân chủ theo kiểu Venice (dân chủ, nhưng ‘dân’ ở đây chỉ là một số ít quý tộc, gần giống kiểu quyền thần tiếm quyền của vua ở phương đông). Do vậy, George I de Trento lạnh lùng nói :
- Đó chỉ là một cách chối cãi không mấy thuyết phục. Mỗi quốc gia đều phải chịu trách nhiệm trên lĩnh thổ của mình. Chúng ta có đầy đủ lý do để tin rằng Venice và Áo đang câu kết chống lại liên quân chúng ta. Do đó, chúng ta sẽ có cách đối phó thích hợp.
Sứ giả của Venice tái mặt, cãi :
- Nhưng …
George I de Trento xua tay nói :
- Không nhưng nhị gì cả. Đại vương đã ra tối hậu thư, ta cũng đã thông báo cho các ngươi. Các ngươi chỉ cần trả lời có thực hiện hay không mà thôi. Đến kỳ hạn, nếu các ngươi không giao người, không tuyên bố tuyệt giao với Đế quốc La – Đức, chúng ta sẽ xem các ngươi là đồng bọn của bọn chúng, và liên quân sẽ tiến vào Venice.
Sứ giả của Venice cố nói :
- Nhưng … Giám mục đại nhân. Chúng ta thật sự không có câu kết với Áo, không có sai người cướp lương, cũng không biết bọn chúng lúc này ở đâu. Chúng ta làm sao giao người.
George I de Trento cười nhạt nói :
- Được rồi. Cứ xem như lời giải thích của các ngươi tạm chấp nhận được đi. Các ngươi đã không thể kiểm soát được lĩnh thổ của mình, để cho nghịch tặc hoành hành. Vài ngày nữa, liên quân sẽ tiến vào Venice, giúp các ngươi giải quyết nghịch tặc. Còn khi đó quân đội của chúng ta lỡ có giải quyết Venice giống như đã từng giải quyết Genoa. Sau đó chúng ta chỉ cần giải thích : “Chúng ta không có ra lệnh làm vậy, đó là do thủ hạ tự ý làm, nhưng bọn chúng trốn đâu mất rồi, chúng ta cũng không biết bọn chúng lúc này ở đâu, các ngươi đành chịu vậy”. Cách xử lý đó chắc hợp ý các ngươi chứ ?
Sứ giả của Venice cả kinh thất sắc, định cố nói thêm, nhưng George I de Trento đã xua tay bảo :
- Đủ rồi. Người đâu. Tiễn khách.
Sau đó lão phất tay áo, đi vào trong, để lại sứ giả của Venice vẫn còn sững sờ thất thần ở đó.
Chẳng bao lâu sau, cả Venice chấn động. Thái độ cứng rắn của George I de Trento khiến dân chúng Venice cả kinh thất sắc. Giới quý tộc Venice thì biết rằng đối phương dĩ công mưu tư, trả thù việc bị áp bức khinh thường ngày trước. Nhưng việc những kẻ cướp lương của liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium – Trento chạy trốn vào lĩnh thổ Venice có rất nhiều người trông thấy, là sự thật không thể chối cãi được. Bọn họ đoán rằng phía Áo định lôi Venice vào cuộc cùng chống lại liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium – Trento, nên mới vu oan giá họa. Do đó ai nấy đều mắng chửi chủ tớ Công tước Ernest de Autriche Intérieure không tiếc lời. Nhưng có mắng chửi cũng không ích gì, tình hình đã vậy, bọn họ chỉ đành một mặt truy lùng bọn cướp lương, một mặt điều quân phòng thủ biên giới, đồng thời còn ra lệnh phong tỏa biển Adriatic.
Trong lúc giới quý tộc cầm quyền ở Venice đang rối lên lo cách ứng phó thì dân chúng Venice trở nên hỗn loạn. Mọi người một mặt trách chính phủ gây hấn với liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium – Trento, một mặt lo di tản khỏi Venice. Không ai muốn phải chịu hậu quả giống như dân Genoa đã từng phải chịu mấy tháng trước. Một số chạy sang Trento ở phía bắc hay Milano ở phía tây, nhưng có rất nhiều người chạy sang Papal State ở phía nam. Còn chạy sang Carinthia và Carniola thuộc Áo ở phía bắc và phía đông … không ai nghĩ đến. Ở Áo hiện đang có chiến tranh, chạy sang đó chẳng khác nào tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa.
Chỉ trong vài ngày, đại bộ phận dân chúng Venice đã di tản thành công sang các lĩnh địa lân cận an toàn hơn. Đa số thương nhân và những người giàu có phi quý tộc đều đi sang Milano, bởi chính sách ở Latium rất thích hợp với bọn họ, nhiều người còn hy vọng từ đó có thể đi sang Thần Thánh Đế quốc. Còn phổ thông dân chúng đại bộ phận đi xuống Papal State, chỉ có chưa đến 1 phần 5 là đi sang Trento. Tuy kỳ hạn của tối hậu thư đã qua từ lâu, nhưng liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium – Trento chỉ mới di chuyển về phía nam, chưa tiến vào Venice. Đinh An Bình cố ý dành thời gian cho dân chúng Venice di tản. Còn giới quý tộc Venice, thật đáng tiếc cho bọn họ, quân đội liên quân đã phong tỏa biên giới với Áo, Trento và Milano, đồng thời thông tri với Papal State không tiếp nhận bọn họ quá cảnh. Ngoài khơi Venice cũng đã xuất hiện chiến hạm của Hắc Long Hạm đội. Do vậy, bọn họ không thể chạy đi đâu được. Cho đến lúc này, ở Venice chỉ còn lại giới quý tộc, quân đội Venice và một số ít dân chúng ủng hộ bọn họ. Cũng giống như ở Genoa, quân đội Venice đa phần là lính đánh thuê, chỉ cần trả tiền là bọn họ sẵn sàng liều mạng.
Ở Salzburg, sau khi nghe báo về tình hình Venice, Đinh An Bình đã phái 3 đạo quân Uy Tiệp, Long Tiệp, Chiêu Viễn, cùng với 1 vạn quân Latium, tổng cộng 10 vạn quân cùng tiến vào Venice. Trong Salzburg thành bảo chỉ có 3 vạn quân ô hợp, để lại 10 vạn quân cũng đủ ứng phó rồi.
Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.519 (Đinh Dậu, 1417). Mùa hạ, tháng 4.
Ngày 18, mệnh lệnh truyền xuống, 10 vạn liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium rầm rộ vượt qua biên giới, tiến vào lĩnh thổ Venice. Sau một trận giao chiến chớp nhoáng, 5.000 lính đánh thuê của Venice hạ vũ khí đầu hàng. Tàn quân Venice từ các nơi rút về thành phố cố thủ.
Ngày 24, liên quân bao vây thành phố. Hạm đội Venice đã bị tiêu diệt từ trước. Vùng biển Venice hoàn toàn do các chiến hạm của Hắc Long Hạm đội kiểm soát.
Ngày 26, thần công đại pháo từ các chiến hạm nã pháo vào thành phố, báo hiệu cuộc tấn công bắt đầu. 10 vạn đại quân của liên quân còn đông hơn toàn thể quân dân trong thành phố nhiều lần. Cuộc tấn công chỉ diễn ra đến chiều thì thành phố thất thủ. Cộng hòa Venice chính thức chung kết. Hắc Long Hạm đội được lệnh phái chiến hạm đi tiếp quản các thuộc địa của Venice trong Địa Trung Hải và Hắc Hải, cũng giống như đã từng làm với Genoa trước đây. Sau đó, do Venice không còn dân, không cần trú quân, nên đại quân lại hành quân về Salzburg chuẩn bị cho cuộc chiến với liên quân các công quốc của Đế quốc La – Đức.
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Nguồn: ttv
Chương 109 : SALZBURG ĐẠI HỘI CHIẾN (1)
Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.519 (Đinh Dậu, 1417). Mùa hạ, tháng 4.
Do sự biến Venice diễn ra, Hohensalzburg thành bảo đã cầm cự được hơn nửa tháng trong yên bình mà không bị tấn công. Chỉ tiêu mà bọn Hầu tước Kultur de Klagenfurt, Bá tước Geschichte de Regensbg và Bá tước Bände de München đã hoàn thành trên cả mong đợi. Bọn họ đã cầm cự được cho đến khi viện quân đến nơi.
Lần này, không chỉ có quân đội của các công quốc thuộc Đế quốc La – Đức, mà còn có quân đội vương quốc Hungary cùng tham chiến. Thật ra thì trong thời kỳ này, Đế quốc La - Đức và vương quốc Hungary tuy 2 mà 1. Hoàng đế Sigismund de Luxembourg của Đế quốc La – Đức lại là phu quân của nữ vương Mary de Hungary của vương quốc Hungary, thuộc nhà Anjou – Hungary, một trong số các phân chi của nhà Anjou (House of Anjou), chủ nhân của các triều đại Angevin.
Nhà Anjou là gia tộc danh giá nhất u châu thời Trung Cổ, là chủ nhân của các triều đại Angevin lừng lẫy. Các phân chi của nhà Anjou làm quân vương, Hoàng đế khắp các Đế quốc, vương quốc, công quốc, và vô số lĩnh địa từ Tây u cho đến Đông u, từ Bắc u cho đến Nam u. Chỉ đáng tiếc nhà Anjou không thống nhất, và các phân chi còn thường thù địch lẫn nhau, tranh giành lĩnh địa của nhau bằng cả chiến tranh. Các triều đại Angevin của nhà Anjou được các sử gia hiện đại chia thành 3 giai đoạn :
1. Triều đại Angevin đầu tiên (the first Angevin dynasty) : bắt đầu từ Bá tước Geoffrey V de Anjou đến Quốc vương John of England. Sau đó dòng này được gọi là triều đại Plantagenet, kể từ Henry III of England cho đến Richard II of England. Rồi dòng này lại chia làm 2 trong cuộc chiến tranh Hoa Hồng :
• Nhà Lancaster : con cháu của John of Gaunt, Công tước xứ Lancaster.
• Nhà York : con cháu của Edmund of Langley, Công tước xứ York.
Triều đại này sở hữu các tước hiệu : Quốc vương Anh Cách Lan, lĩnh chủ xứ Ái Nhĩ Lan, Vương tử xứ Wales, Công tước xứ Aquitaine, Công tước xứ Normandy, Công tước xứ Brittany, Bá tước xứ Anjou, Bá tước xứ Maine, Bá tước xứ Poitou, lĩnh chủ xứ Cyprus, và trên danh nghĩa quốc vương Pháp Lan Tây, Jerusalem, Sicily, Castile, và Roma.
2. Triều đại Angevin thứ hai (the second Angevin dynasty) : bắt đầu từ Charles I de Napoli (sau khi nhà Plantagenet thành lập ở Anh Cách Lan), cai trị vùng đất chính của nhà Anjou – lĩnh địa tự trị Anjou (là chư hầu của quốc vương Pháp Lan Tây nhưng có quyền tự trị rất rộng rãi, có thể xem gần như là một công quốc độc lập, nhiều bản đồ còn vẽ lĩnh địa của nhà Anjou tách biệt với Pháp Lan Tây, với màu sắc khác hẳn để phân biệt), cùng với các vương quốc Hungary (thời Trung Cổ gồm cả Croatia, Slovakia, Rumani), Jerusalem, Sicily, Napoli, Ba Lan, và nhiều lĩnh địa ở Pháp Lan Tây, Đế quốc La – Đức. Dòng này trừ chi trưởng Anjou – Maine, còn có 4 phân chi :
• Nhà Anjou – Hungary : bắt đầu từ Charles Martel de Anjou, cai trị các vương quốc Hungary (1308 - 1385 và 1386 - 1395) và Ba Lan (1370 - 1399).
• Nhà Anjou - Napoli : bắt đầu từ Công tước Charles de Calabria.
• Nhà Anjou - Taranto : bắt đầu từ Philippe I de Taranto, cai trị Đế quốc Latin (1313 - 1374) ở Constantinople.
• Nhà Anjou – Durazzo : bắt đầu từ Công tước Jean de Durazzo, cai trị Napoli (1382 – 1435) và Hungary (1385 – 1386, chiếm ngôi của nhà Anjou - Hungary).
Triều đại này sở hữu các tước hiệu : Bá tước xứ Anjou, Bá tước xứ Provence, Quốc vương Sicily, Quốc vương Napoli, Quốc vương Hungary, Quốc vương Ba Lan, Hoàng đế của Constantinople, Quốc vương Albania, Vương tử xứ Achaea, nhà độc tài của Epirus.
3. Triều đại Angevin thứ ba (the third Angevin dynasty) : tức dòng Anjou – Maine (còn gọi là Anjou – Valois, do có họ hàng với Quốc vương Pháp Lan Tây thuộc nhà Valois), bắt đầu từ Louis I de Anjou, cai trị các lĩnh địa ở Pháp Lan Tây và Italy (Réne de Anjou làm quốc vương Napoli, gồm toàn bộ phần đất phía nam Roma).
Các tước hiệu của triều đại này gồm có : Công tước xứ Anjou, Bá tước xứ Maine, Bá tước xứ Provence và Forcalquier, Quốc vương Napoli, Công tước xứ Touraine, Công tước xứ Lorraine, Công tước xứ Bar, Công tước xứ Calabria, Bá tước xứ Piedmont, Bá tước xứ Roucy, Bá tước xứ Étampes, Bá tước xứ Gien, Bá tước xứ Giuse, Bá tước xứ Mortain, và trên danh nghĩa là quốc vương Sicily, Jerusalem, Cyprus, Aragon.
Rõ ràng là nhà Lancaster và nhà Anjou - Maine thuộc hai phe đối địch nhau trong cuộc ‘chiến tranh trăm năm’. Nhà Anjou – Maine và nhà Anjou – Durazzo đánh nhau giành ngôi Quốc vương Napoli; hoặc nhà Anjou – Durazzo và nhà Anjou – Hungary đánh nhau giành ngôi Quốc vương Hungary; thậm chí trong nhà Plantagenet vì tranh ngôi Quốc vương Anh Cách Lan mà chia thành 2 nhà Lancaster và York, … Tóm lại, nếu tính về tổng lĩnh thổ do nhà Anjou kiểm soát thì rất rộng lớn, nhưng lại phân tán thuộc nhiều phân chi độc lập, thậm chí thù địch nhau.
(tham khảo tại : http://en.wikipedia.org/wiki/Category:House_of_Anjou)
Trong số các phân chi, chỉ có nhà Anjou – Maine vì cai quản phần đất gốc của tổ tiên, nên có thân phận đặc thù, có quan hệ tương đối tốt với các phân chi khác. Theo đúng lịch sử, trong cuộc ‘chiến tranh trăm năm’, quân Anh tấn công khắp nơi trên đất Pháp, từ bắc đến nam, đến tận Aquitaine ở giáp giới với Aragon (nay là Tây Ban Nha), nhưng tránh Anjou. Hoặc Louis III de Anjou (tức Long nhi) là con nuôi của nữ vương John II de Napoli thuộc nhà Anjou – Durazzo (để được thừa kế ngôi quốc vương Napoli), lại có em gái Marie de Anjou là ‘queen consort’ của Pháp và cháu gái Margaret de Anjou (con của Réne de Anjou) là ‘queen consort’ của Anh. ‘Queen consort’ đại khái có thể dịch là vương hậu thừa kế, là người có quyền thừa kế ngai vàng khi quốc vương qua đời mà không có con nối dõi, hoặc sẽ có quyền nhiếp chính khi con còn nhỏ, thậm chí còn có thể giúp quốc vương xử lý chính sự. Không phải vị vương hậu nào cũng có tước hiệu ‘queen consort’. Tương tự là ‘king consort’ cho phu quân của nữ vương. Ngoài ra, trong cuộc ‘chiến tranh trăm năm’, Thái tử Charles VII de Française được nhà Anjou nuôi dưỡng để khỏi chết như hai người anh của mình (là những Thái tử trước đó). Yolande de Aragon, mẹ của Louis III de Anjou, người nuôi dạy Thái tử Charles VII de Française cùng với các con của mình, đã từng trả lời khi triều đình Pháp Lan Tây yêu cầu đón Thái tử về triều : “Chúng ta không nuôi dạy cậu ấy để làm cho cậu ấy chết như các anh em của mình, hoặc điên loạn như cha của mình, hoặc trở thành người Anh như các người. Ta giữ cậu ấy ở lại đây với ta. Cứ đến và đón cậu ấy đi, nếu như các người dám”.
Vì vậy, cuộc chiến ở Salzburg giữa liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium – Trento và liên quân Đế quốc La - Đức – vương quốc Hungary, cũng có thể xem là cuộc tranh chấp giữa các phân chi trong nhà Anjou, với một bên là Long nhi (nhà Anjou – Maine) và bên kia là vợ chồng Hoàng đế Sigismund de Luxembourg và nữ vương Mary de Hungary (nhà Anjou – Hungary). Trên danh nghĩa, liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium – Trento phát động chiến tranh vì cuộc tranh chấp ngai vàng ở Napoli. Công quốc Áo bị họa lây vì có quan hệ với vương quốc Napoli (Công tước Áo đời trước là phu quân của nữ vương John II de Napoli, em gái và là người kế vị của Ladislaus de Napoli, kẻ thù chính của nhà Anjou - Maine). Tuy vậy, giờ đây cuộc tranh chấp đã mở rộng thành cuộc tranh bá quyền ở u châu. Do đó, cuộc đại hội chiến ở Salzburg rất được các bên xem trọng.
Liên quân Đế quốc La – Đức – vương quốc Hungary huy động gần như toàn bộ lực lượng quân sự mà bọn họ có thể huy động được để đưa đến chiến trường Salzburg. Mọi người đều biết rằng nếu thất bại trong cuộc chiến này, bọn họ có thể mất nước. Do đó, Hoàng đế Sigismund de Luxembourg của Đế quốc La – Đức đã huy động quân đội từ các công quốc Luxembourg, Bavaria, Áo, Bohemia, Moravia, Silesia, Saxony, Württemberg, Francony, Palatinate, Lüneburg, Bradenburg, Hesse, Cologne, và hàng trăm lĩnh địa lớn nhỏ khác, tổng quân số 190.000 người (hơn 90% là quân nông dân mới trưng tập). Vương quốc Hungary phải để lại quân đội phòng ngự quân Thổ của Đế quốc Ottoman, và đề phòng người Croatia nổi dậy giành độc lập (kể từ thế kỷ 13 đã từng nổi dậy nhiều lần, đều bị đàn áp, lần gần nhất là vào 14 năm trước - năm 1403), nhưng cũng điều động 95.000 quân (đa số là quân nông dân) đến tham chiến.
Tổng quân số của liên quân Đế quốc La – Đức – vương quốc Hungary đông đến 285.000 người, chưa biết khả năng chiến đấu thế nào, nhưng thanh thế kinh nhân. Trên các cánh đồng của Salzburg toàn người là người, quang cảnh cực kỳ tráng quán. Nhưng lại có vấn đề là các nước u châu chưa từng tổ chức một đạo quân đông đến như thế bao giờ, nên không ai có kinh nghiệm và năng lực chỉ huy. Hơn nữa, quân đội đến từ hàng trăm lĩnh địa khác nhau, trừ lĩnh chủ của họ ra, không ai có thể chỉ huy được. Cuối cùng, mỗi vị lĩnh chủ hoặc tự thân, hoặc phái thân tín chỉ huy quân đội của mình, còn đích thân Hoàng đế Sigismund de Luxembourg phụ trách tổng chỉ huy thống suất đại quân tác chiến. Quân đội Hungary không có nữ vương thống suất, nhưng Hoàng đế Sigismund de Luxembourg lại là phu quân của nữ vương nên không thành vấn đề. Hoàng đế Sigismund de Luxembourg là ‘king consort’ của vương quốc Hungary, có đầy đủ quyền hạn giống với nữ vương, cho nên còn có tước hiệu là Quốc vương Hungary.
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Nguồn: ttv
Chương 110 : SALZBURG ĐẠI HỘI CHIẾN (2)
Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.519 (Đinh Dậu, 1417). Mùa hạ, tháng 4. Salzburg.
Liên quân Đế quốc La – Đức – vương quốc Hungary huy động gần như toàn bộ lực lượng quân sự mà bọn họ có thể huy động được để đưa đến chiến trường Salzburg. Hoàng đế Sigismund de Luxembourg của Đế quốc La – Đức đã huy động quân đội từ các công quốc Luxembourg, Bavaria, Áo, Bohemia, Moravia, Silesia, Saxony, Württemberg, Francony, Palatinate, Lüneburg, Bradenburg, Hesse, Cologne, và hàng trăm lĩnh địa lớn nhỏ khác, tổng quân số 190.000 người. Vương quốc Hungary cũng điều động 95.000 quân đến tham chiến. Tổng quân số của liên quân đông đến 285.000 người, thanh thế kinh nhân. Trên các cánh đồng của Salzburg toàn người là người, quang cảnh cực kỳ tráng quán.
Trong khi đó, bên phía liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium – Trento cũng có viện quân, nhưng chỉ có thêm 1 vạn tân binh Latium mới tuyển mộ, được đưa ra chiến trường để quen với việc chinh chiến. Tổng quân số liên quân đạt 213.000 người, tuy cũng đông, nhưng so với đối phương thì ít hơn khoảng 25%.
Ngày 26 tháng 4, sau khi đã ổn định quân tâm, an bài ổn thỏa nơi đóng quân, Hoàng đế Đế quốc La – Đức Sigismund de Luxembourg liền phái sứ giả sang doanh trại đối phương hạ chiến thư.
Sứ giả của Hoàng đế Sigismund de Luxembourg tay cầm một lá cờ trắng nhỏ (cờ hiệu của sứ giả, báo hiệu không phải lực lượng chiến đấu), sang trước doanh trại của liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium – Trento gọi lớn :
- Ta là sứ giả của Thánh Hoàng đế sang gặp Nguyên soái của các ngươi.
Trong doanh trại không ai lên tiếng, quân canh vẫn ở trên các vọng lâu, tiễn tháp nhìn ra ngoài, không ai thèm đáp lời sứ giả. Gã ta có cảm giác bị khinh thị, lại quát to :
- Ta là sứ giả của Thánh Hoàng đế sang gặp Nguyên soái của các ngươi. Trong các ngươi có ai có thể nói chuyện thì mau đáp lời.
Giây lát, từ trên vọng lâu có một giọng âm trầm truyền xuống :
- Đại vương của chúng ta thân phận tôn quý, đâu phải ai muốn gặp thì cũng có thể gặp được. Ngươi hãy chờ ở đó, chờ Đại vương định đoạt.
Sứ giả tự nhận rằng có đại quân hậu thuẫn, không hề lo sợ, nên quát trả :
- Ta là sứ giả của Thánh Hoàng đế, thay mặt Thánh Hoàng đế sang gặp Đại vương của các ngươi. Chẳng lẽ Thánh Hoàng đế của chúng ta lại không tôn quý hơn Đại vương của các ngươi hay sao ?
Trong thâm tâm của gã ta, Hoàng đế đương nhiên phải tôn quý hơn vương, nên dương dương đắc ý. Nào ngờ gã lại nhận được câu trả lời hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của gã. Đối phương khi nghe gã nói thế, cất tiếng cười dài, hồi lâu mới nói :
- Đương nhiên. Đương nhiên Đại vương của chúng ta tôn quý hơn Hoàng đế của các ngươi. Hoàng đế của các ngươi, so với các Hoàng đế của Trung Hoa, Mông Cổ, e rằng vẫn còn kém hơn một bậc. Trong khi Đại vương của chúng ta có thân phận còn tôn quý hơn cả các Hoàng đế của Trung Hoa, Mông Cổ.
Câu trả lời của đối phương khiến cho gã sứ giả ngớ người, lặng yên hồi lâu. Đối với người u châu thời bấy giờ, Trung Hoa, nơi có thể sản xuất tơ lụa, gốm sứ, trà diệp, … là một đại quốc. Còn Mông Cổ thì khỏi phải nói, đương nhiên là một đại quốc. Vó ngựa Mông Cổ đã làm biết bao người u châu kinh sợ. Người u châu và người Thổ - Hồi Giáo (đế quốc Ottoman) luôn thù hằn với nhau, nhưng khi Timur (Thiếp Mộc Nhi) của Hãn quốc Chagatai (Sát Hợp Đài) thống suất 140.000 quân tiến vào Ankara, tấn công Đế quốc Ottoman vào năm 1402, người u châu sợ quân Ottoman thất bại, quân Mông Cổ sẽ tràn vào u châu nên đã quay sang ủng hộ Đế quốc Ottoman. Kết quả, quân Ottoman vẫn thảm bại ở Ankara, khiến u châu chấn động. Còn trước đó, khi Hãn Batu (cháu nội Thành Cát Tư Hãn) dẫn quân tấn công u châu, Đức Thánh Cha Innocent IV đã phái sứ giả đến tận thảo nguyên Mông Cổ cầu hòa.
Marco Polo của thành Venice và Giovanni da Pian del Carpini, Giám mục Tổng giáo phận Antivari đã đến Mông Cổ và mang về u châu những thông tin về sức mạnh của Đế quốc Mông Cổ. Mặc dù vào thời Trung Cổ, những câu chuyện của Marco Polo bị nghi ngờ và bị cho là những câu chuyện viễn tưởng (ngay cả các nhà nghiên cứu thời hiện đại vẫn nghi ngờ, bởi lịch sử Trung Hoa không nhắc gì đến Marco Polo, trong khi ông tự nhận rằng mình đã được làm quan ở Trung Hoa dưới triều Nguyên của Hốt Tất Liệt; theo lẽ thường, một người u châu được làm quan ở Trung Hoa tất nhiên phải được ghi chép lại). Trong khi đó, những câu chuyện của Giovanni da Pian del Carpini lại được tin tưởng, bởi Ngài là Giám mục Tổng giáo phận Antivari, phụng mệnh Đức Thánh Cha Innocent IV đi sứ Mông Cổ. Ngài khởi hành từ Lyon vào lễ Phục sinh năm 1245, mang theo một bức thư của Đức Thánh Cha gửi đến Đại Hãn (Great Khan) để cầu hòa và mời Đại Hãn theo Cơ Đốc giáo. Sứ đoàn đi qua Kiev, vượt qua Nepere và Volga, rồi gặp Hãn Batu tại Volga. Ngài là người u châu đầu tiên ghi lại những cái tên hiện đại của các con sông đó. Sau đó sứ đoàn được kỵ binh Mông Cổ hộ tống đi đến thảo nguyên Mông Cổ gặp Đại Hãn. Kết quả của chuyến đi, sứ đoàn mang về u châu lá thư của Đại Hãn Mông Cổ yêu cầu Đức Thánh Cha và các quân vương u châu phải tuyên thệ trung thành với Đại Hãn, cùng với thông tin quân Mông Cổ tiếp tục tây tiến. Cũng từ đó, người Mông Cổ bị xem là ‘Tai họa của Chúa’ (the scourge of God). Sau khi Đế quốc Mông Cổ bị phân hóa thành 4 Hãn quốc, thì 2 Hãn quốc ở phía tây có tiếp giáp với u châu là Hãn quốc Kim trướng (Golden Hordes Khanate) có biên giới đến Hắc Hải và Hãn quốc Sát Hợp Đài (Chagatai Khanate) có biên giới đến Syria, vẫn là sự uy hiếp lớn đối với các nước u châu.
Do vậy, khi nghe nói vị Đại vương của đối phương có địa vị tôn quý hơn cả các Hoàng đế của Trung Hoa và Mông Cổ, gã sứ giả của Hoàng đế Sigismund de Luxembourg bán tín bán nghi. Người trên vọng lâu cũng không giải thích, chỉ lạnh lùng bảo :
- Ngươi cứ chờ ở đó, chờ Đại vương định đoạt.
Gã sứ giả bực bội càu nhàu một hồi, rồi đành tìm chỗ ngồi chờ. Nhiệm vụ chưa hoàn thành, gã không dám bỏ về, chỉ đành nhẫn nhịn chờ đợi. Hoàng đế Sigismund de Luxembourg tính tình nóng nảy bạo ngược, đối đãi thủ hạ chẳng nhẹ tay bao giờ.
Hồi lâu, cổng doanh trại mở ra. Một vị quý tộc u châu đến chỗ gã sứ giả của Hoàng đế Sigismund de Luxembourg, nhã nhặn nói :
- Chúng ta đi thôi. Đại nhân đang chờ.
Gã sứ giả thấy đối phương xử sự nhã nhặn, trong lòng cả mừng, cũng không ra vẻ kiêu kỳ, sợ làm đối phương phật ý, rồi sẽ đổi thành người khác tiếp đãi giống như người trên vọng lâu khi nãy, lúc đó chỉ có bản thân gã chịu thiệt thòi. Do vậy, gã cũng lịch sự đáp lễ, rồi đi theo vào trong doanh trại.
Qua nhiều khu đóng quân, đến khu trung tâm, gã sứ giả được đưa vào một doanh trướng. Ngồi giữa doanh trướng là một vị Giám mục Cơ Đốc giáo, sắc diện bất thiện. Gã sứ giả chưa từng gặp vị Giám mục kia bao giờ, nhưng cũng đoán biết đối phương hẳn là George I de Trento, là Vương tử - Giám mục của Trento. Trong quân đội đối phương, chỉ có duy nhất George I de Trento là Giám mục mà thôi. Dù song phương đang ở tình trạng đối địch nhau, nhưng gã sứ giả bản thân là một tín đồ Cơ Đốc giáo, khi gặp hàng giáo phẩm bắt buộc phải kính lễ, để biểu hiện lòng tôn kính Giáo hội, tôn kính Chúa. Do đó, gã ta vội hành lễ, làm dấu thánh, nói :
- Cầu Chúa phù hội Ngài. Giám mục Đại nhân.
George I de Trento cũng làm dấu thánh, nói :
- Chúa sẽ phù hộ ngươi !
Gã sứ giả biết không thể gặp được vị Đại vương của đối phương, cảm thấy đưa chiến thư cho George I de Trento cũng được, nên vội lấy chiến thư ra, trao cho George I de Trento, nói :
- Giám mục Đại nhân. Đây là chiến thư của Thánh Hoàng đế gửi cho các vị.
George I de Trento cầm bức chiến thư trên tay, cũng không mở ra xem mà quẳng sang một bên, rồi nghiêm giọng nói :
- Khi nào quyết chiến, chỉ có Đại vương mới có thể định đoạt. Cả Hoàng đế của các ngươi cũng không thể. Chúng ta việc gì phải nghe theo sự an bài của Sigismund de Luxembourg.
Gã sứ giả biện bác :
- Nếu vậy thì Thánh Hoàng đế cũng chưa chắc chịu nghe theo sự an bài của Đại vương các vị.
George I de Trento lạnh lùng nói :
- Vậy thì các ngươi còn hạ chiến thư làm gì ?
Gã sứ giả nói :
- Nếu không định ngày quyết chiến, chẳng lẽ quân đội song phương cứ đóng quân mãi như thế hay sao ?
George I de Trento hỏi lại :
- Vậy có sao đâu ? Khi nào thấy thích hợp, Đại vương sẽ ra lệnh tấn công. Còn lúc này, cứ chờ đấy.
Gã sứ giả nói :
- Quân đội song phương đông đến nửa triệu, cứ đóng quân mãi ở đây, không làm gì cả, hao phí biết bao nhiêu mà nói !
George I de Trento cười nhạt, biết rằng bên phía đối phương có lương thực không được dư dả cho lắm, nên mới nóng vội quyết chiến như thế. Đại quân đông đến 285.000 người, mỗi ngày tiêu hao lương thực rất nhiều, kéo dài cả tháng sẽ thành một con số thiên văn.
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Nguồn: ttv
Chương 111 : CHUYỂN HƯỚNG T́N CÔNG
Lại nói, khi nghe gã sứ giả của Hoàng đế La - Đức Sigismund de Luxembourg bảo rằng song phương cứ đóng quân mãi ở đây, không làm gì cả, sẽ hao phí lương thực rất nhiều, George I de Trento liền biết ngay bên phía đối phương có lương thực không được dư dả cho lắm, nên mới nóng vội quyết chiến như thế. Đại quân đông đến 285.000 người, mỗi ngày tiêu hao lương thực rất nhiều, kéo dài cả tháng sẽ thành một con số thiên văn. Đối với các nước phương đông, đặc biệt là ở Trung Hoa, con số 285.000 quân, tức 28 vạn 5.000 quân, là không nhiều (thua cả quân đội của Hồ Quý Ly ở Đại Việt). Nhưng ở u châu đó đã là con số rất lớn.
George I de Trento nghe gã sứ giả nói thế, chỉ cười nhạt bảo :
- Đóng quân ở đây hay đóng quân ở nơi khác đều tiêu hao lương thực cả, có gì khác biệt đâu !
Đối với quân đội của liên quân Thần Thánh Đế quốc - Latium – Trento thì không có gì khác biệt, bởi quân đội của liên quân là quân thường trực, đóng quân ở đâu cũng đều phải ăn, cũng đều phải tiêu hao lương thực. Trong khi đó, quân đội của liên quân Đế quốc La – Đức – vương quốc Hungary là quân nông dân, được chinh triệu trong lúc khẩn cấp, hậu cần bổ cấp chuẩn bị không đủ, lương thực thiếu thốn, thời gian càng kéo dài càng bất lợi. Ngoài ra, nông dân bị bắt ra chiến trường, nếu đến vụ mùa mà chiến tranh còn chưa kết thúc, sẽ lỡ mất vụ mùa, sang năm sẽ lại càng thiếu lương thực. Bọn Đinh An Bình, George I de Trento cũng biết vậy, nên không gấp phát động tấn công, tiếp tục chờ thời cơ. Gã sứ giả nghe đối phương đáp như thế, ngớ người một lúc, rồi lặng yên chẳng biết nói sao. Chẳng lẽ gã lại thú nhận quân đội bản phương là quân ô hợp, hay thú nhận bản phương không có đủ lương thực. Chỉ cần gã dám nói vậy, chuyện đến tai Hoàng đế Sigismund de Luxembourg, gã sẽ khó giữ được tính mạng. Tốt nhất là im lặng để khỏi phải ‘thần khẩu hại xác phàm’.
George I de Trento lại bảo :
- Ngươi về đi. Khi nào thấy thích hợp, Đại vương sẽ ra lệnh tấn công. Còn nếu như các ngươi không thể chờ được, cứ kéo đến đây nạp mạng.
Gã sứ giả đành quay về hồi báo với Hoàng đế Sigismund de Luxembourg. Cả bọn bàn tán phân vân, không ai có chủ ý gì. Công tước Ernest de Autriche Intérieure, nhiếp chính của Công quốc Áo, sai Hầu tước Kultur de Klagenfurt suất lĩnh 10.000 quân đến doanh trại đối phương khiêu chiến để khuếch trương thanh thế. Đại quân cũng được lệnh chuẩn bị sẵn sàng, chờ thời cơ mà phát động tấn công. Đối phương có thể chờ được, nhưng bọn họ thì không thể chờ được - hậu cần không đủ.
Hầu tước Kultur de Klagenfurt dẫn quân đến trước doanh trại đối phương, dàn thành trận thế chỉnh tề, rồi giục chiến mã ra trước hàng quân, hướng về phía đối phương quát to :
- Trong các ngươi, có ai dám ra đây cùng ta quyết một trận tử chiến.
Quan quân bên trong doanh trại thấy vậy, đều đưa mắt nhìn nhau, hỏi :
- Gã ta muốn chết hay là có âm mưu gì ?
Viên tướng phụ trách việc phòng ngự xua tay bảo :
- Mặc kệ gã ta có âm mưu hay không ! Truyền lệnh khai pháo !
Tiếp đó, mấy nghìn khẩu thần công đồng loạt khai hỏa. Đạn lửa đỏ rực cả nửa bầu trời. Một bộ phận phủ xuống đầu Hầu tước Kultur de Klagenfurt, còn đại đa số rải xuống đầu quân đội Áo đang dàn trận chỉnh tề ở phía sau. Hầu tước Kultur de Klagenfurt tử trận ngay giữa trận tiền, quân đội phía sau cũng tổn thất thảm trọng. Những người bị đạn pháo bắn trúng, lập tức tan xương nát thịt, tử trạng thê thảm. Những kẻ chưa bị đạn pháo bắn trúng, hốt hoảng tháo chạy, giẫm đạp lên nhau chết rất nhiều. Cuối cùng chỉ còn lại chưa đến 3.000 người chạy về đến doanh trại bản phương.
Tận mắt nhìn thấy thảm trạng đó, từ Hoàng đế cho đến vương công quý tộc đều kinh hãi thất sắc. Mọi người không ai nhắc đến chuyện khiêu chiến nữa, chỉ cùng nhau bàn bạc, tìm cách khắc phục sự uy hiếp bởi vũ khí của đối phương. Hoàng đế Sigismund de Luxembourg còn rao truyền trong toàn quân, ai tìm được cách sẽ được trọng thưởng, thậm chí cắt đất phong tước.
Thế là, trong mấy ngày sau đó, quân đội song phương đều án binh bất động. Cuộc đại hội chiến không diễn ra như dự kiến.
…
Nghỉ ngơi vài ngày, Đinh An Bình đột nhiên ra lệnh cho đại quân rời doanh trại, di chuyển về phía đông nam. Đại quân thừa lúc đêm tối lặng lẽ rút đi, nhưng trong doanh trại vẫn cắm cờ xí dày đặc như vẫn có quân đội đóng trong đó. Còn đại quân rời Salzburg, di chuyển sang Styria, hướng về phía Hungary. Vương quốc Hungary đã huy động đại bộ phận quân đội đến Salzburg tham chiến, còn lại một bộ phận phải đóng giữ ở biên giới phía đông đề phòng quân Thổ, trong nước lúc này trống không, là thời cơ tốt nhất để tiến chiếm. Đây là kế sách ‘tị thực kích hư’ rất bình thường, nhưng hiệu quả.
Trong khi đó, phải vài ngày sau phía liên quân Đế quốc La – Đức – vương quốc Hungary mới phát hiện có sự khác lạ bên phía doanh trại đối phương. Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg là người đã phát hiện ra điều đó, nên vội đi gặp Hoàng đế Sigismund de Luxembourg bẩm báo :
- Bệ hạ. Bên doanh trại đối phương có điều khác lạ. Chúng ta nên phái thám tử sang bên đó điều tra xem sao.
Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg là một trong bảy vị Tuyển hầu của Đế quốc La – Đức (còn gọi là Đại cử tri), những người có quyền bầu Hoàng đế, nên có địa vị rất cao. Hoàng đế Sigismund de Luxembourg không thể không tôn trọng ý kiến của các Tuyển hầu, nên vội hỏi :
- Khác lạ thế nào ?
Frederick I de Brandenburg nói :
- Mấy ngày nay, bên doanh trại đối phương không hề thấy có sự ồn ào như mọi khi, lại còn có nhiều đàn chim đáp xuống đậu ngay trên các doanh trướng. Dường như doanh trại không người.
Sigismund de Luxembourg cả kinh, vội truyền lệnh thám tử khẩn cấp sang doanh trại đối phương thám thính tình hình. Trong lúc chờ đợi, Sigismund de Luxembourg hỏi Frederick I de Brandenburg bằng giọng lo lắng :
- Đối phương quỷ kế đa đoan. Nếu như đối phương rút đi thật, chẳng biết lại có âm mưu quỷ kế gì nữa đây ?
Frederick I de Brandenburg thở dài nói :
- Quân ta tập trung ở đây, các nơi khác binh lực không hư. Ta chỉ lo đối phương chuyển hướng tấn công các nơi khác.
Sigismund de Luxembourg giật mình nói :
- Có thể lắm. Không. Không chỉ là có thể. Ta có cảm giác đối phương chắc chắn sẽ làm như vậy. Phải làm sao đây ?
Frederick I de Brandenburg lắc đầu nói :
- Đành chờ cho có kết quả chính xác đã, rồi mới định đoạt được.
Sigismund de Luxembourg gật đầu, lại sai thám tử mở rộng phạm vi thám thính sang các khu vực xung quanh. Ông ta cho rằng đối phương đã chuyển hướng tấn công các nơi khác, nên cần biết chính xác đối phương đã đi về hướng nào.
Hồi lâu, đội thám tử thứ nhất đã quay trở về, hồi báo :
- Bệ hạ. Doanh trại đối phương không có ai hết.
Do đã phán đoán từ trước, Sigismund de Luxembourg không giật mình nữa, chỉ xua tay nói :
- Được rồi. Lui ra đi.
Khi thám tử đã lui ra, ông ta quay sang nhìn Frederick I de Brandenburg, hỏi :
- Giờ chúng ta phải làm sao ?
Frederick I de Brandenburg nói :
- Mời các vương công đến bàn bạc vậy !
Sigismund de Luxembourg liền truyền lệnh :
- Người đâu. Mau mời chư vị vương công khẩn cấp đến nghị sự !
Lát sau, các vị Tuyển hầu (Elector), vương tử (Prince), công tước (Duke) kéo đến hội họp. Mọi người đều ngạc nhiên, không hiểu Hoàng đế triệu tập khẩn cấp như thế là có việc gì. Chẳng lẽ chiến sự phát sinh biến cố. Mọi người nhìn thấy Hoàng đế Sigismund de Luxembourg và Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg đều có sắc diện u ám, nên đoán chắc đã xảy ra chuyện không hay. Công tước Henry XVI de Bavaria hỏi :
- Bệ hạ. Chẳng lẽ đã xảy ra chuyện gì sao ?
Sigismund de Luxembourg nói :
- Đối phương đã rút quân. Bên doanh trại đối phương lúc này không người.
Tuyển hầu Eric V de Saxe - Lauenburg hoan hỉ nói :
- Thế thì hay quá. Cuối cùng đối phương cũng đã chịu rút lui rồi.
Một số người cũng lộ vẻ nhẹ nhõm. Cuộc chiến ở đây khiến bọn họ tốn kém quá nhiều, ai nấy đều cảm thấy mệt mỏi và tiếc của, nhưng lại không thể không tham chiến. Chỉ có Công tước Henry XVI de Bavaria tinh minh hơn, hỏi :
- Bệ hạ lo lắng chuyện gì thế ?
Sigismund de Luxembourg nói :
- Quân ta tập trung ở đây, các nơi khác không hư. Ta lo đối phương sẽ chuyển hướng tấn công các nơi khác. Những nơi có nhiều nguy cơ nhất chính là Bavaria, Württemberg, Styria và Carinthia.
Mọi người cả kinh thất sắc. Công tước Henry XVI de Bavaria tái mặt hỏi :
- Có biết đối phương chuyển đi đâu không ạ ?
Sigismund de Luxembourg lắc đầu nói :
- Chưa rõ. Thám tử đang đi điều tra. Ta cho mời mọi người đến đây, là muốn hỏi xem mọi người có cách gì ngăn trở đối phương thay đổi chiến trường hay không ?
Ai nấy đưa mắt nhìn nhau. Sigismund de Luxembourg thấy vậy chỉ biết lắc đầu, thầm than quân ta chẳng lẽ không có trí giả hay sao.
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Chương 112 : Chiến dịch hẻm núi KALWANG . (1)
Nguồn: Tàng Thư Viện
Lại nói, Hoàng đế Sigismund de Luxembourg đang thất vọng trước thái độ của chúng vương công quý tộc, đột nhiên nghĩ đến Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg vốn thông minh tài trí, liền quay sang hỏi ý :
- Chúng ta nên đối phó thế nào đây ?
Frederick I de Brandenburg suy nghĩ hồi lâu, rồi mới nói :
- Chỉ còn cách đưa quân đội đuổi theo đối phương mà thôi.
Công tước Henry XVI de Bavaria lập tức tán thành :
- Phải đó. Đối phương đã rút đi. Chúng ta tiếp tục đóng quân ở đây cũng chẳng ích lợi gì. Nên đưa quân đuổi theo đối phương.
Mọi người đều khen phải, nhất là các vị Công tước của Bavaria, Württemberg và Autriche Intérieure (tức Nội Áo, cai quản các vùng Styria và Carinthia), bởi lĩnh địa của bọn họ gần đây nhất, có nguy cơ bị tấn công trước nhất. Không còn cách nào khác hay hơn, Hoàng đế Sigismund de Luxembourg đành truyền lệnh cho mọi người chuẩn bị sẵn sàng, để khi có tin tức về địch quân là lập tức đuổi theo.
Hôm sau, thám tử đưa tin về, phát hiện đối phương hành quân về hướng Styria. Công tước Ernest de Autriche Intérieure lập tức dẫn quân đi trước để bảo vệ lĩnh địa của mình. Hoàng đế Sigismund de Luxembourg thống suất đại quân đuổi theo phía sau. Phía sau Styria chính là Hungary, là lĩnh địa của Sigismund de Luxembourg, nên ông ta thúc quân đuổi theo rất gấp, hy vọng sẽ đuổi kịp trước khi đối phương tiến vào Hungary. Lúc này Hungary hầu như không có quân phòng thủ, nếu để đối phương tiến vào cướp phá, hậu quả sẽ rất nặng nề. Khả năng cướp phá của liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium mọi người đều biết rõ, tấm gương các xứ Genoa và Milano vẫn còn rành rành ra đó. Những nơi nào mà nhắm không thể chiếm giữ được, liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium sẽ cướp phá triệt để, cướp sạch, phá sạch đến độ trở thành vùng trắng, không còn gì cả.
Sigismund de Luxembourg là phu quân của nữ vương Mary de Hungary, là ‘King consort’ của vương quốc Hungary. Như đã giới thiệu ở các chương trước, ‘King consort’ hay ‘Queen consort’ là phu quân hay vương hậu của nữ vương hay quốc vương, và có quyền thừa kế ngôi báu khi nữ vương hay quốc vương qua đời mà không có con trai kế vị. Do Sigismund de Luxembourg từng hại chết mẹ của nữ vương Mary de Hungary nên bị nữ vương thù hận, hai người chỉ là vợ chồng trên danh nghĩa, và sống riêng biệt với nhau. Dù vậy, Sigismund de Luxembourg vẫn là ‘King consort’ của vương quốc Hungary. Do đó, khi nữ vương Mary de Hungary đã qua đời vào năm 1395 trong một tai nạn đáng ngờ, không có con trai kế vị, Sigismund de Luxembourg đã kiêm nhiệm quốc vương Hungary, biến Hungary thành một trong các lĩnh địa của mình. Sigismund de Luxembourg thường xuyên gây chiến tranh bên ngoài, Hungary là một trong các hậu phương quan trọng phục vụ cho việc tham chiến, do vậy mà không thể để mất được. Sigismund de Luxembourg đã mấy lần tăng thuế để có tiền phát động chiến tranh, rồi bị dân chúng trong một số lĩnh địa nổi dậy đánh đuổi, phải dựa vào lực lượng của Hungary để khôi phục. Do đó, trong mắt Sigismund de Luxembourg, Hungary là một lĩnh địa rất quan trọng.
…
Hẻm núi Kalwang, tây bắc xứ Styria.
Do dãy núi Alps (An-pơ) trải dài từ đông sang tây, từ Áo sang đến tận Pháp, muốn đi từ Salzburg sang Styria, chỉ có thể đi men theo các hẻm núi, các thung lũng nằm giữa dãy núi. Có những hẻm núi rộng hơn chục kilômét, nhưng cũng có những hẻm núi co thắt lại, chỉ rộng vài trăm mét. Hẻm núi Kalwang gần thị trấn Kalwang là một hẻm núi nhỏ như thế. Hẻm núi tuy hẹp nhưng rất dài, là một trong những vị trí phòng ngự lý tưởng.
Hoàng đế Sigismund de Luxembourg thúc đại quân đuổi đến đầu phía tây của hẻm núi Kalwang thì gặp địch quân trở kích. Liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium – Trento để lại đấy 1 vạn quân, dựa vào địa hình thiết lập hào lũy ngăn cản. Quân đội của Sigismund de Luxembourg không thể tiến quân được, làm cho ông ta vô cùng nóng ruột, triệu tập chúng vương công bàn bạc. ‘Đệ nhất trí giả’ là Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg hiến kế :
- Bệ hạ. Mưu đồ của đối phương đã quá rõ ràng, định dùng một lượng nhỏ quân đội ngăn cản chúng ta ở đây, để tiện cho đại quân hành động. Chúng ta chỉ còn cách cường công, sử dụng ưu thế binh lực tấn công, dùng biển người nhấn chìm đối phương. Nếu không, chỉ có thể trơ mắt nhìn Styria, Hungary, thậm chí cả các xứ Áo và Bohemia thất thủ.
Các xứ Styria và Áo thuộc về Công quốc Áo không kể, nhưng Hungary và Bohemia là hai vương quốc, và cũng là hai lĩnh địa lớn nhất của Sigismund de Luxembourg, gần như chiếm đến hơn 90% tổng diện tích các lĩnh địa của ông ta. Phần còn lại chính là Công quốc Luxembourg sát biên giới Pháp Lan Tây, trong hoàn cảnh nước Pháp đang do nhà Anjou khống chế, Sigismund de Luxembourg lại theo phe Anh Cách Lan trong cuộc ‘chiến tranh trăm năm’, hoàn toàn không thể dùng làm hậu phương được.
Thế nên, suy nghĩ giây lát, Sigismund de Luxembourg vỗ bàn quyết định :
- Cường công. Huy động đại quân cường công. Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg sẽ đảm nhiệm thống soái chiến trường.
Chúng vương công đồng vâng lệnh. Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg thời gian qua đã chứng tỏ được tài trí của mình, mọi người đều kính phục nên không ai có ý kiến phản đối. Sigismund de Luxembourg lại nói thêm :
- Nếu các xứ Áo, Bohemia, Hungary đều thất thủ, đối phương phối hợp với quân Anjou ở Pháp Lan Tây, hai đầu cùng đánh, Đế quốc có khi không còn tồn tại. Mọi người phải cố gắng chiến đấu vì vận mệnh của Đế quốc.
Mọi người cả kinh, đều ứng tiếng hứa sẽ dốc sức chiến đấu. Frederick I de Brandenburg bắt đầu phân phái hoạt động cho các đạo quân. Toàn bộ quân đội của Công quốc Áo, Vương quốc Hungary và Vương quốc Bohemia gồm hơn 150.000 quân là lực lượng chủ công, số quân còn lại là lực lượng dự bị, sẵn sàng chi viện tiền tuyến. Lực lượng chủ công lại chia làm 5 bộ phận, luân phiên thượng trận, bảo đảm việc chiến đấu được liên tục, không để cho đối phương có cơ hội củng cố hào lũy.
Trời tối, trong hẻm núi bóng tối đến sớm hơn bên ngoài. Ở đó chỉ có một dãy doanh trại với 1 vạn quân. Còn phía ngoài hẻm núi, hàng trăm nghìn quân Áo – Hungary - Bohemia lũ lượt tiến tới, biển người hung dũng, quang cảnh náo động, có vẻ như cuồng phong bão tố sắp bùng phát, hay một đợt sóng thần sắp ập vào các hào lũy đang chắn giữ ngay đầu hẻm núi.
Ở nơi khác, Bá tước, Hầu tước đã là đại nhân vật, hùng cứ một phương. Nhưng ở đây, các vị Bá tước và Hầu tước đại nhân chỉ là những tiểu nhân vật, phụng mệnh hành sự, bởi phía trên nữa còn có rất nhiều Tuyển hầu, Vương tử, Công tước đại nhân. Do đó, các vị Bá tước, Hầu tước phải đích thân ra chiến trường suất lĩnh quân đội chiến đấu. Quân đội liên quân đại đa số là nông dân mới bỏ cuốc cày cầm vũ khí, nếu thiếu sự chỉ huy sẽ không thể nào hình thành nên chiến đấu lực.
Tu tu tu …
Một hồi tù và thật dài rúc lên, báo hiệu chiến đấu bắt đầu. Đội quân đầu tiên gồm 3 vạn quân Áo phát động tấn công. Công tước Ernest de Autriche Intérieure truyền lệnh :
- Cung thủ chuẩn bị. Tiến đến phía trước hai trăm bước.
Các đội cung thủ theo lệnh tiến tới phía trước. Khi đã đến cách hào lũy của đối phương khoảng một tầm tên, Công tước Ernest de Autriche Intérieure lại truyền lệnh :
- Dừng lại.
- Chuẩn bị.
Công tước đại nhân của chúng ta còn chưa kịp ra lệnh ‘bắn’ thì đã thấy từ phía hào lũy của đối phương có rất nhiều mũi tên bắn ra, rải xuống đầu quân đội Áo. Cung thủ trên lũy có ưu thế độ cao nên có tầm bắn xa hơn. Khi quân Áo vừa chuẩn bị bắn thì đối phương đã bắn trước rồi. Một lượt tên rải xuống đầu khiến đội ngũ quân Áo hỗn loạn, nhiều tân binh chẳng kể gì đến mệnh lệnh của tướng lĩnh chỉ huy, chạy loạn khắp nơi tránh né. Đội hình quân Áo ngày càng trở nên hỗn loạn, không thể nào tổ chức phản kích. Đương nhiên, phía đối phương không thể nào bỏ lỡ thời cơ. Từng loạt, từng loạt tên cứ liên tiếp bắn ra, gây cho quân Áo thương vong thảm trọng. Công tước Ernest de Autriche Intérieure không còn cách nào khác, đành ra lệnh cho quân đội tạm thời rút lui ra ngoài.
Quân Áo rút chạy ra ngoài hơn dặm mới dám dừng lại chỉnh đốn đội ngũ. Đến lúc này, sau khi kiểm điểm lại mới hay chỉ sau hơn khắc tiếp chiến, quân Áo đã thiệt hại hơn vạn, trong đó có gần 4.000 người tử vong, số còn lại tạm thời mất sức chiến đấu. Chưa chính thức tiếp chiến mà đã thiệt hại khoảng 40% quân số, Công tước Ernest de Autriche Intérieure nộ khí trùng trùng, vỗ bàn quát tháo liên hồi. Sở dĩ có thiệt hại lớn như thế, bởi sau các trận chiến ở Tyrol, Salzburg, quân chủ lực của Áo đã thiệt hại gần hết, xuất hiện trên chiến trường chỉ là quân nông dân ô hợp (số tinh nhuệ ít ỏi còn lại được Công tước đại nhân giữ lại bên cạnh hộ vệ mình, nơi chiến trường tên bay đạn lạc, tính mạng quan trọng hơn hết).
Lần đầu chiến đấu lại thảm bại như thế, sĩ khí liên quân giảm sút nghiêm trọng. Hoàng đế Sigismund de Luxembourg và chúng vương công đều hết sức lo âu. Còn Công tước Ernest de Autriche Intérieure vì hổ thẹn mà giả vờ bị thương, ở yên trong doanh trướng, không dám ra ngoài gặp ai.
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Chương 113 : Chiến dịch hẻm núi KALWANG . (2)
Nguồn: Tàng Thư Viện
Lại nói, sau khi quân Áo thảm bại, khiến cho sĩ khí liên quân giảm sút nghiêm trọng, cả Hoàng đế Sigismund de Luxembourg và chúng vương công đều hết sức lo âu. Thấy tình hình có biến, Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg đành thay đổi sách lược, truyền lệnh cho cả 4 đội quân chủ công còn lại gồm 12 vạn quân đồng loạt tấn công. Hơn 13 vạn dự binh quân cũng được lệnh chuẩn bị sẵn sàng tham chiến. Frederick I de Brandenburg quyết định một khi đã phát động tấn công, phải lợi dụng một cổ khí thế tiền tiến, tiền tiến, tiếp tục tiền tiến, mãi cho đến khi kiểm soát được hẻm núi này mới thôi. Chỉ cần vượt qua được nơi này, địa hình phía trước không còn nhiều trở ngại nữa. Phía bên kia đã là đầu phía đông của dãy Alps rồi. Tuy vẫn chưa ra khỏi vùng núi, nhưng địa hình không còn hiểm trở nữa, thuận lợi cho đại quân tác chiến hơn.
Tu tu tu …
Lại một hồi tù và dài thúc giục quân đội tiền tiến. Đại đội liên quân Hungary – Bohemia (quân Áo vừa nãy đã bị đả tàn rồi) tràn lên công kích hào lũy đối phương. Dưới sự uy hiếp của chấp pháp đội, quân binh bị xua lên phía trước, phải không ngừng tiền tiến, bất kể cung tên của đối phương rải xuống đầu. Sau khi có gần nghìn người bị xử tử giữa trận, không ai còn dám tháo lui nữa. Người phía trước ngã xuống, đã có người phía sau xông lên thay thế. Chiến huống cực kỳ thảm liệt.
Trước sự tấn công cực kỳ hung hãn của liên quân Hungary – Bohemia, phía quân đội Thần Thánh Đế quốc phải liên tục lùi vào bên trong hẻm núi, hết lùi lại lùi, liên tục lùi. Phía liên quân Hungary – Bohemia có thể tử chiến, nhưng phía Thần Thánh Đế quốc thì không. Do vậy mà hàng loạt trận địa, hào lũy lần lượt rơi vào tay liên quân Hungary – Bohemia.
Chỉ sau 2 ngày, Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg đã chỉ huy quân đội tiến được gần chục dặm, công chiếm được đại bộ phận hẻm núi, chỉ còn lại một đoạn ngắn ở đầu phía đông còn nằm trong tay đối phương. Để giành được chiến quả như thế, bọn họ đã phải đổi bằng hơn 1 vạn quân tử trận và gần gấp ba lần số ấy thọ thương, mất sức chiến đấu. Tuy vậy, chiến quả cũng làm chúng vương công rất phấn khởi. Bởi đây cũng là lần đầu tiên bọn họ giành được chiến thắng trước quân đội Thần Thánh Đế quốc. Trận chiến này đã mang lại cho bọn họ niềm tin rằng quân đội Thần Thánh Đế quốc không phải là ‘bất khả chiến thắng’, chỉ cần có ưu thế binh lực, hoàn toàn có thể đánh thắng được đối phương.
Đến ngày thứ ba, nhìn thấy chỉ còn một đoạn ngắn nữa là đã có thể vượt qua được hẻm núi, trên từ Hoàng đế Sigismund de Luxembourg, dưới đến Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg và chúng vương công đều quyết định tập trung toàn bộ binh lực quyết tâm kiểm soát cho được toàn bộ hẻm núi ngay trong hôm nay. Quân đội sĩ khí đang dâng cao, tốt nhất nên thừa cơ tấn công, không nên dừng lại.
Tu tu tu …
Lại hiệu tù và ra lệnh phát động tấn công. Quân đội liên quân Đế quốc La – Đức – Vương quốc Hungary tràn ngập toàn bộ hẻm núi. Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg bố trí như thế là để có đủ uy thế, bảo đảm sĩ khí quân đội không giảm, đồng thời cũng khiến cho quân tiên phong không có đường lùi, chỉ có thể tiền tiến, liên tục tiền tiến. Mấy ngày qua, nhờ dùng sách lược đó mà bọn họ đã đánh lui địch quân, kiểm soát gần hết hẻm núi.
Trong lúc đại quân phát động tổng tấn công, Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg an ổn ở trung quân cùng với Hoàng đế Sigismund de Luxembourg chỉ huy đội quân dự bị và chờ đợi chiến báo từ tiền tuyến. Chờ mãi … chờ mãi … chờ đến quá trưa mà vẫn chưa có tin tức gì, cả hai sốt ruột phái gã Hiệp sĩ thân tín đi ra tiền tuyến xem thử. Hồi lâu, gã ta mới trở về bẩm báo :
- Bệ hạ, Đại nhân. Phía trước địch quân xây dựng hào lũy rất kiên cố. Quân ta nhất thời không công phá được, tổn thất rất nặng.
Hoàng đế Sigismund de Luxembourg sa sầm nét mặt, quát :
- Truyền lệnh tiếp tục tấn công.
Cuộc chiến lại tiếp diễn ngày càng khốc liệt hơn. Bên ngoài quân reo dậy đất, trong trung doanh yên ắng như tờ. Cả Hoàng đế Sigismund de Luxembourg và Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg đều không có chút tinh thần nào để chuyện trò. Bọn họ đều khẩn trương chờ đợi chiến báo, hy vọng tình hình chiến cục khả quan hơn. Đến lúc này đây, quân đội Đế quốc La – Đức không thể chịu đựng thêm một thất bại nào nữa.
Sở dĩ có chuyện đó là do quốc tình của Đế quốc La – Đức. Đế quốc La - Đức (tên gọi đầy đủ là Đế quốc La Mã Thần Thánh Dân tộc Đức) thật ra không phải là một quốc gia thống nhất. Đế quốc này có chế độ gần giống như Đế quốc Mông Cổ vậy. Đế quốc Mông Cổ là một liên minh lỏng lẻo giữa các bộ tộc Mông Cổ, với Đại Hãn do các Hãn (đứng đầu các bộ tộc, Hãn quốc) bầu lên. Đế quốc La – Đức cũng là một liên minh lỏng lẻo của hơn 2.000 công quốc lớn nhỏ thuộc Vương quốc Đông Pháp Lan Khắc (Đông Frank), với Hoàng đế do các vương công quý tộc bầu lên. Từ thời Hoàng đế Thần Thánh Charlemagne (tiếng Latin : Carolus Magnus hay Karolus Magnus, nghĩa là Đại đế Carolus) thống nhất u châu vào thế kỷ VIII (chính thức lên ngôi năm 800 tại Roma, sau khi đã chiếm được hầu hết vùng Tây u), hàng loạt vương công quý tộc người Frank đã được phong thưởng, chia nhau cai trị các lĩnh địa ở khắp nơi. Các vị vương công quý tộc này chính là nền tảng của tầng lớp quý tộc u châu thời Trung Cổ. Hoàng đế Thần Thánh Charlemagne có 3 người con trai, tạo thành ba phân chi đối nghịch nhau. Sau khi ông qua đời, các người con đánh nhau tranh ngôi, và Đế quốc tan rã, chia thành 3 vương quốc Đông Frank, Trung Frank, Tây Frank, là tiền thân của các nước Đức, Ý, Pháp sau này (trong đó chỉ có Pháp là tương đối thống nhất). Do được kết hợp từ hơn 2.000 công quốc lớn nhỏ, ngôi vị Hoàng đế của Đế quốc La – Đức không hề ổn định, nếu như Hoàng đế không cường thế, các vị vương công quý tộc hoàn toàn có thể không tuân lệnh Hoàng đế nữa. Sau thất bại trong trận Pavia, uy tín của Hoàng đế Sigismund de Luxembourg đã giảm sút nghiêm trọng, mệnh lệnh truyền ra, trừ quân bản bộ thì chẳng còn mấy ai nghe theo. Lúc này liên quân hình thành được chẳng qua là vì tự thân lợi ích của các vương công quý tộc chứ không phải vì phục tùng mệnh lệnh của Hoàng đế. Trong Đế quốc có đến quá nửa số công quốc vì nhiều lý do khác nhau mà không đến tham gia liên quân (đa số là lĩnh chủ ‘bị bệnh’, khiến người ta có cảm giác dịch bệnh đặc biệt chiếu cố các vị lĩnh chủ, nếu không thì sao lại có hơn nghìn vị lĩnh chủ đồng loạt ‘bị bệnh’ như thế).
Chờ đợi khiến cho người ta có cảm giác thời gian trôi qua lâu hơn. Lúc này đây, cả Hoàng đế Sigismund de Luxembourg và Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg đều có cảm giác như thế. Quân đội đang chiến đấu là liên quân Hungary – Bohemia, là quân bản bộ của Hoàng đế. Số quân đội thương vong toàn là lực lượng của Hoàng đế cả. Vì thế mà Hoàng đế lo lắng bất an.
Đến chiều, gã Hiệp sĩ cung đình thân tín mới lại trở vào, thần sắc căng thẳng, bẩm báo :
- Bệ hạ, Đại nhân. Quân ta không công phá được hào lũy của đối phương, tổn thất cực kỳ nặng nề. Lúc này binh sĩ cũng đã rất mệt mỏi, sức chiến đấu suy giảm nghiêm trọng.
Hoàng đế Sigismund de Luxembourg giận dữ nói :
- Cả lũ ăn hại. Chỉ một đoạn hào lũy mà cũng không công chiếm được. Đúng là một lũ ăn hại mà.
Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg lựa lời khuyên giải :
- Bệ hạ. Binh sĩ chiến đấu từ sáng đến giờ, có lẽ cũng đói rồi nên mới giảm sức chiến đấu.
Hoàng đế Sigismund de Luxembourg cảm thấy cũng phải, liền truyền lệnh :
- Truyền quân đội tạm rút lui. Nghỉ ngơi ăn uống.
Mệnh lệnh truyền ra, liên quân Hungary – Bohemia ai nấy thở phào nhẹ nhõm, rùng rùng rút lui khỏi chiến trường, về bản doanh nghỉ ngơi ăn uống. Chiến đấu kịch liệt suốt cả ngày, dù là binh sĩ hay tướng lĩnh đều đói bụng cả rồi. Mà khi bụng đói thì sức chiến đấu bị giảm sút là chuyện đương nhiên. Chẳng mấy ai tình nguyện mang bụng đói mà tham gia chiến đấu cả. Quân đội Latium – Thần Thánh Đế quốc cũng chỉ giữ vững hào lũy chứ không truy đuổi.
Trong lúc binh sĩ nghỉ ngơi, Hoàng đế Sigismund de Luxembourg, Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg và vài vị vương công quý tộc thân tín cùng nhau bàn bạc tình hình chiến sự. Cuối cùng, dưới sự kiên quyết của Hoàng đế Sigismund de Luxembourg, mọi người quyết định sẽ tiếp tục phát động tấn công ngay trong đêm, dùng số lượng đánh bại đối phương. Chiến đấu vào ban đêm, uy lực hỏa khí của đối phương sẽ giảm sút nghiêm trọng. Tuy phía tấn công có thể gặp ít nhiều khó khăn, nhưng có thể sẽ có hiệu quả hơn. Những cái chết vì thần công đại pháo làm giảm sĩ khí của binh sĩ, còn chiến hữu tử trận vì đao thương chém giết còn có thể làm tăng nhiệt huyết, tăng sĩ khí. Liên quân còn đến vài trăm nghìn quân, không sợ thiệt hại.
Đông Phương Thần Thánh Đế Quốc
Tác giả: gianghoaingoc
Chương 114 : Chiến dịch hẻm núi KALWANG . (3)
Nguồn: Tàng Thư Viện
Trong một vùng đồi núi kín đáo ở phía tây nam hẻm núi Kalwang có một dãy doanh trại nằm xen giữa những khu rừng. Ở trung doanh, ba vị thủ lĩnh hội họp bàn bạc việc quân cơ. Hai người vận cẩm bào, mão vàng giáp bạc theo thể thức đại tướng của Thần Thánh Đế quốc. Người còn lại vận Hồng y theo thể thức Giám mục, đầu đội mão triều thiên hai tầng bằng vàng. Bọn họ chính là Ngô Trấn Quốc và Vương Nguyên là hai tướng thống lĩnh hai đạo quân Bảo Tiệp và Chiêu Viễn, cùng với Vương tử - Giám mục George I de Trento của Đại lĩnh địa Trento – Tyrol. George I de Trento đã được phong Hồng y Giám mục khi thay mặt Đức Thánh Cha Gregorius XII đi sứ sang Gia Định, nhưng mão triều thiên hai tầng là do lão tự chế ra với sự đồng ý của Long nhi sau khi lĩnh địa Tyrol được sát nhập vào Trento. Trong hàng giáo phẩm Cơ Đốc Giáo không có sử dụng loại mão triều thiên hai tầng, chỉ có mão triều thiên ba tầng là mão chuyên dụng của Đức Thánh Cha. Hồng y Giám mục thấp hơn Đức Thánh cha một bậc, nên mão triều thiên của lão chỉ có hai tầng.
Ba người cùng ngồi quanh một chiếc bàn tròn, vừa uống trà vừa bàn bạc. Ngô Trấn Quốc hỏi :
- Trận địa xử lý thế nào rồi ?
Vương Nguyên nói :
- Chúng ta đã chiếm lĩnh ba đạo hào lũy ở cửa phía tây hẻm núi. Binh sĩ đã đào thêm hào ở mặt đông. Địch quân đã hoàn toàn bị vây trong hẻm núi. Khi nào thì phóng hỏa ?
Ngô Trấn Quốc nói :
- Đại vương truyền lệnh đầu giờ Tuất tối nay sẽ phóng hỏa.
Theo lịch cổ, mỗi ngày được chia làm 12 canh giờ. Giờ Tý bắt đầu từ 11 giờ tối đến 1 giờ khuya. Do đó, đầu giờ Tuất chính là lúc 7 giờ tối. Vương Nguyên nói :
- Binh sĩ đã chuẩn bị đâu vào đó cả rồi, chỉ còn chờ lệnh hành sự.
George I de Trento nói :
- Bên trong hẻm núi có đến gần 300.000 người, phóng hỏa có tàn nhẫn quá không ?
Ngô Trấn Quốc nói :
- Quân giặc đông hơn quân ta. Nếu không phóng hỏa thì để chiến thắng quân ta sẽ thiệt hại rất nặng nề. Thà rằng quân giặc chết nhiều còn hơn để quân ta chết nhiều. Chúng ta không có trách nhiệm thương hại quân giặc.
Vương Nguyên cũng nói :
- Từ bất chưởng binh. Nếu song phương hỗn chiến, 3.000 quân của lão có khi còn lại không được mấy người.
George I de Trento khẽ thở dài, gật đầu nói :
- Nhị vị nói rất phải. Ai ! Hy vọng bọn chúng sớm đầu hàng.
Quân Trento 3.000 người tham gia liên quân là lực lượng tinh nhuệ nhất của George I de Trento. Lực lượng này đã tham gia các chiến dịch Tyrol, Salzburg và hẻm núi Kalwang, thực sự là lực lượng năng chinh thiện chiến, lão không thể để cho thiệt hại nặng nề được. Thế là bọn họ tiếp tục uống trà chuyện vãn, chờ trời tối.
…
Tối đến, cả Ngô Trấn Quốc, Vương Nguyên và George I de Trento cùng ra chiến tuyến đích thân chỉ huy hành động. Lúc này mặt trận đang do Chiêu Viễn quân Đệ nhị sư phụ trách phòng thủ. Vương Nguyên hỏi viên Hiệu úy Đào Anh Dũng :
- Chuẩn bị đến đâu rồi ?
Đào Anh Dũng hành quân lễ, nói :
- Báo cáo Đại nhân. Tất cả đã sẵn sàng.
Vương Nguyên đưa mắt nhìn Ngô Trấn Quốc, thấy y gật đầu, liền truyền lệnh :
- Chiếu kế hoạch hành sự.
Đào Anh Dũng lập tức chạy đi chỉ huy bản bộ binh mã phát động kế hoạch. Mấy nghìn cung thủ chiếm giữ nhiều vị trí dưới đất lẫn trên sườn núi, đồng loạt chuẩn bị cung tên, mồi lửa, trên đầu mũi tên đều có cột một mảnh vải nhúng dầu, bọc hỏa dược. Đào Anh Dũng truyền lệnh :
- Châm lửa.
Tất cả cung thủ đồng loạt châm lửa vào đầu mũi tên, sau đó giương cung lắp tên, sẵn sàng chờ lệnh. Đào Anh Dũng lại quát :
- Bắn.
Mấy nghìn mũi tên lửa đồng loạt được bắn ra. Mặt đất trước đó đã được rải hỏa dược và cỏ khô, nhiều nơi còn rải than đá, nên lập tức bốc lửa, bừng cháy dữ dội. Ngọn lửa dần dần lan về phía đông. Do có hào lũy cách lửa nên ngọn lửa không hề uy hiếp quân đội Thần Thánh Đế quốc.
Ngọn lửa lan dần, lan dần, rồi cũng lan đến khu doanh trại của liên quân Đế quốc La – Đức – Vương quốc Hungary. Do đang mùa hạ, không khí khô và nóng, nên thế lửa rất hung hãn. Khi ngọn lửa ập đến, mãn sơn biến dã đều là lửa đỏ, cả binh sĩ lẫn tướng lĩnh đều hốt hoảng tháo chạy về phía đông, bỏ của chạy lấy người. Đóng doanh trại ở khu vực phía tây này là lực lượng dự bị của liên quân, là quân đội của các tiểu công quốc thuộc Đế quốc La – Đức, toàn là nông dân ô hợp, nên khi tháo chạy cũng mãn sơn biến dã, không có hàng ngũ gì cả. Nhiều người vì tranh đường đoạt lối mà xô đẩy giẫm đạp nhau. Tiếng gào khóc vang trời dậy đất, vô cùng thê thảm.
Ở mặt trận phía đông, Hoàng đế Sigismund de Luxembourg và Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg đang chỉ huy quân đội tấn công phòng tuyến của quân đội Thần Thánh Đế quốc, đột nhiên nghe thấy từ phía sau có nhiều tiếng ồn ào hỗn loạn truyền đến. Hoàng đế Sigismund de Luxembourg cau mày nói :
- Chuyện gì thế ? Quân đội của ai mà không có quy củ gì cả ? Giữa chiến trường mà gây náo loạn như thế thì còn ra thể thống gì nữa. Người đâu. Mau đi xem thử là chuyện gì ?
Gã Hiệp sĩ cung đình thân tín vội giục ngựa đi xem xét tình hình. Nhưng gã mới đi chưa được chục mét thì chợt thấy có vô số binh sĩ phe mình đang ùn ùn chạy đến, vừa chạy vừa la hét kêu khóc. Gã cả kinh, vội vã xông tới chặn một người đang bỏ chạy lại, hỏi thăm tình hình, rồi sắc mặt tái ngắt, chạy vội về chỗ Hoàng đế Sigismund de Luxembourg bẩm báo :
- Bệ hạ. Nguy rồi. Địch quân phóng hỏa thiêu hẻm núi.
Cả Hoàng đế Sigismund de Luxembourg, Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg và những vương công quý tộc xung quanh cũng đều kinh hãi thất sắc. Nghe nói đối phương phóng hỏa thiêu hẻm núi, mọi người lập tức liên tưởng đến hậu quả khủng khiếp của nó. Hoàng đế Sigismund de Luxembourg đưa mắt nhìn về phía tây, đã bắt đầu thấy có ánh hồng ở phía xa, lo lắng nói :
- Phải làm sao đây ? Trước mặt là quân giặc, phía sau là ngọn lửa, hai bên là vách núi cao ngất. Chúng ta phải làm sao ? Mọi người ai có ý kiến gì không ?
Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, thất hồn lạc phách. Không ai có phương cách gì để lánh nạn cả. Phía trước là phòng tuyến của đối phương, hào lũy kiên cố, công phá mãi không được. Hai bên là vách núi dốc đứng, không leo lên được (thật ra có thể leo lên được nhưng phải mất nhiều thời gian, mà lúc này ngọn lửa đã sắp lan đến nơi, không còn thời gian nữa). Còn phía sau là ngọn lửa … Ai ! Không cam tâm a ! Hoàng đế Sigismund de Luxembourg thở ngắn than dài, rồi đột nhìn quay nhìn Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg. Chúng vương công cũng lần lượt nhìn Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg. Mọi người đều đặt cả hy vọng vào ông ta, vị trí giả của liên quân. Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg vò đầu bức tóc suy nghĩ một lúc, rồi đột ngột vỗ đùi nói lớn :
- Có rồi ! Có cách rồi !
Ai nấy đều mừng rỡ nhìn ông ta đầy hy vọng. Hoàng đế Sigismund de Luxembourg vội hỏi :
- Cách gì ? Mau nói đi !
Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg nói :
- Chỉ cần chúng ta tạo một vành đai cách lửa ở xung quanh, rồi đốt lửa ở phía ngoài là có thể thoát được ngọn lửa.
Mọi người ồ lên khen phải. Hoàng đế Sigismund de Luxembourg quát lớn :
- Nhanh lên. Lập tức hành động.
Chúng vương công quý tộc lập tức chia nhau chỉ huy tướng sĩ cắt cỏ đào đất tạo vành đai cách lửa xung quanh chỗ quân đội đang tụ tập. Vì sự an nguy của mình, mọi người đều hành động rất tích cực. Chỉ sau một lúc, vành đai cách lửa đã được tạo xong, mọi người liền phóng hỏa ở phía ngoài. Thế là ngọn lửa bùng lên, và cháy lan dần về phía tây. Khắp hẻm núi tràn ngập lửa đỏ, sáng rực như ban ngày. Nhưng nhờ có vành đai cách lửa, cả bọn tạm thời thoát nạn.
Sau hơn hai canh giờ, ngọn mới bắt đầu tắt dần. Phía liên quân Đế quốc La – Đức – Vương quốc Hungary ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm. Nhưng bọn họ cũng chưa dám rời khỏi khu vực an toàn, mà chờ đợi thêm hơn canh giờ nữa, đến khi ngọn lửa hoàn toàn tắt hẳn thì mới dám chỉnh đốn lớn đội ngũ, kiểm điểm thiệt hại. Ai nấy mặt mũi phờ phạc, chẳng còn chút sĩ khí nào nữa.
Đến khi kiểm điểm toàn quân, từ Hoàng đế, vương công quý tộc cho đến phổ thông binh sĩ đều mãn diện u sầu. Trận hỏa hoạn đã cướp đi sinh mạng của hơn 4 vạn người, trong đó có không ít vương công quý tộc (thuộc đạo quân dự bị ở hậu doanh). Nhưng điều đó chưa có gì là nghiêm trọng, bởi liên quân vẫn còn lại khoảng 24 vạn quân. Điều đáng sợ là ngọn lửa đã thiêu rụi toàn bộ vật tư lương thực. Trong lúc tháo chạy khỏi ngọn lửa, mọi người chỉ nghĩ đến tính mạng của mình, làm sao chạy cho thật nhanh, chạy cho thật xa khỏi ngọn lửa. Không ai nghĩ đến việc cứu vật tư lương thực cả. Mà trước ngọn lửa hung hãn, mãn sơn biến dã như thế thì dù cho có muốn cứu cũng không kịp. Còn Hoàng đế Sigismund de Luxembourg thì đang ở chiến trường chỉ huy quân đội chiến đấu, đương nhiên không có mang theo vật tư lương thực đến đây.
Sau khi thoát chết vì lửa thiêu, mọi người lại sắp đối diện với cái đói. Tình cảnh liên quân trở nên vô cùng bi đát.
Chương 115 : Đ̀U HÀNG
Lại nói, ngọn lửa bất ngờ đã khiến cho hơn 4 vạn quân Đế quốc La – Đức – Vương quốc Hungary tử vong, đồng thời còn thiêu hủy toàn bộ doanh trại, vật tư, lương thực của liên quân. Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg bày kế giúp mọi người thoát chết vì lửa thiêu, nhưng mọi người lại sắp đối diện với cái đói. Tình cảnh liên quân trở nên vô cùng bi đát. Ai nấy mãn diện u sầu.
Hoàng đế Sigismund de Luxembourg nhìn đám tàn binh bại tướng quanh mình, thở dài hỏi :
- Chúng ta phải làm sao đây ? Ai có ý kiến gì không ?
Tuy hỏi mọi người, nhưng ánh mắt của Hoàng đế vẫn nhìn về phía Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg. Và những người khác cũng vậy. Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg cười khổ, lại vò đầu bức tóc ngẫm nghĩ tìm kế sách. Hồi lâu, ông ta mới nói :
- Chúng ta không còn vật tư lương thực, không thể cầm cự lâu. Giờ chỉ còn cách toàn lực tổ chức phá vây. Nếu như không xong thì chỉ còn cách đầu hàng.
Mọi người đưa mắt nhìn nhau, nhận thấy đúng là như vậy. Vật tư lương thực mất sạch. Ngọn lửa quái ác lại thiêu rụi toàn bộ cây cỏ trong hẻm núi, muốn kiếm gì ăn cũng không có. Lúc này cả bọn lại vừa đói khát vừa mệt mỏi. Nếu không thể phá vây thành công, bọn họ không thể nào cầm cự quá ba ngày. Thế nhưng, lại một vị vương công buột miệng nói :
- Khi còn sức lực mà không thể công phá được phòng tuyến của giặc, nói gì đến lúc này !
Mọi người nghe nói đều giật nảy mình. Phải a ! Hôm qua liên quân còn sức lực, còn sĩ khí mà vẫn không thể công phá được phòng tuyến của đối phương, lại còn thương vong thảm trọng, nói gì đến lúc này, khi mà cả tướng sĩ quân binh ai nấy đều mệt mỏi bơ phờ, vừa đói vừa khát. Tuyển hầu Frederick I de Brandenburg cười khổ, nói :
- Quay về mặt tây vậy ! Hy vọng ở đó quân giặc không mạnh lắm.
Mọi người khen phải, lập tức suất lĩnh bản bộ binh mã lui về phía tây. Thế rồi cả bọn tràn trề thất vọng khi gặp phải hào lũy của liên quân Thần Thánh Đế quốc – Trento. Dựa vào vị trí, mọi người nhận ra rằng từ nơi đây ra đến cửa hẻm núi còn có đến 3, 4 đạo hào lũy như thế nữa. Trước đây bọn họ mất đến mấy ngày mới có thể công phá được mấy đạo phòng tuyến này. Còn giờ đây … E rằng chưa ra khỏi được hẻm núi thì cả bọn đã chết đói hết rồi. Công tước Ernest de Autriche Intérieure (Công tước xứ Nội Áo) tuy nóng nảy hung bạo, nhưng cũng là người sợ chết, nên nhìn Hoàng đế Sigismund de Luxembourg ngập ngừng nói :
- Bệ hạ …
Còn nước còn tát, hay chưa đến bước đường cùng thì chưa bỏ cuộc. Hoàng đế Sigismund de Luxembourg nghiêm giọng nói :
- Quyết chiến trận cuối cùng. Ta không tin rằng tướng sĩ liều chết mà vẫn không phá được vòng vây.
Nói rồi liền đi chỉnh đốn binh mã tổ chức phá vây. Công tước Ernest de Autriche Intérieure đưa mắt nhìn những người khác. Công tước Henry XVI de Bavaria hạ giọng nói :
- Chúng ta ra ngoài kia nghỉ ngơi một chút !
Thế là mọi người giải tán. Công tước Henry XVI de Bavaria, Công tước Ernest de Autriche Intérieure, Tuyển hầu Eric V de Saxe - Lauenburg và vài vị Công tước thân cận khác tụ họp một chỗ bàn bạc. Công tước Ernest de Autriche Intérieure nói :
- Chúng ta nên làm sao đây ?
Tuyển hầu Eric V de Saxe – Lauenburg thở dài nói :
- Sigismund quyết tử chiến, ta thấy hoàn toàn không có chút hy vọng nào !
Đến nước này, ông ta cảm thấy không cần tôn trọng Hoàng đế Sigismund de Luxembourg. Tình thế bi đát hiện tại khiến cho uy tín của Hoàng đế Sigismund de Luxembourg mất sạch, thậm chí không còn cả tôn nghiêm. Quốc vận Đế quốc nguy ngập, chúng vương công quý tộc đổ hết trách nhiệm cho Hoàng đế Sigismund de Luxembourg. Nếu như không có ông ta, hẳn đã không có chiến tranh giữa Vương quốc Latium và Đế quốc La – Đức.
Nghe Tuyển hầu Eric V de Saxe – Lauenburg nói vậy, chúng vương công quý tộc đều đồng cảm, phân phân gật đầu. Một người đề nghị :
- Hay là chúng ta đầu hàng vậy !
Mọi người cảm thấy cũng chỉ còn cách đó. Công tước Henry XVI de Bavaria là người tinh minh hơn cả, liền nói :
- Chúng ta phái người liên hệ đối phương thử xem. Nếu như đối phương đồng ý cho dùng tiền chuộc thì chúng ta đầu hàng.
Ở u châu thời Trung Cổ, nếu như thất trận bị bắt thì có thể dùng tiền chuộc thân. Cũng chính vì hy vọng có khoản tiền chuộc này mà quân đội triều đình Pháp Lan Tây mới thất bại ở trận Agincourt. Khi song phương giao chiến, sát tử đối phương dù sao vẫn dễ dàng hơn tìm cách bắt sống đối phương. Chỉ có điều, ở đây liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium – Trento không có chủ động giao chiến, mà chỉ phòng thủ trận địa và bỏ đói địch quân. Liên quân Đế quốc La – Đức – Vương quốc Hungary không công phá được các phòng tuyến của đối phương thì chỉ còn nước chết đói hoặc đầu hàng. Mà chúng vương công quý tộc thì chẳng muốn chịu chết chút nào. Vì thế mà ai nấy đều tán đồng đề nghị của Công tước Henry XVI de Bavaria. Mọi người bàn bạc hồi lâu, rồi cử Bá tước Henry V de Görz làm sứ giả đi liên hệ với đối phương.
Bá tước Henry V de Görz bí mật đi tiếp xúc với Vương tử - Giám mục George I de Trento, người trước giờ vẫn giữ vai trò phát ngôn của liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium – Trento. Được sự ủy quyền của Đinh An Bình, George I de Trento nhận lời đề nghị của chúng vương công quý tộc Đế quốc La – Đức, nhưng phải kèm theo một điều kiện :
- Các công quốc Bavaria và Württemberg phải cắt 5% lĩnh địa của mình sát nhập vào Trento. Còn các lĩnh địa thuộc Áo nằm bên trong Württemberg cũng phải chuyển giao cho Trento.
Bá tước Henry V de Görz ngần ngừ nói :
- Như thế …
George I de Trento cười nhạt nói :
- Đó là điều kiện tiên quyết. Nếu như Bavaria và Württemberg cảm thấy thiệt thòi thì có thể yêu cầu những người còn lại hỗ trợ để bù lại.
Bá tước Henry V de Görz thấy đối phương quyết ý như thế, không biết nói sao, đành quay về báo lại cho chúng vương công quý tộc biết. Cả bọn bàn bạc hồi lâu, cảm thấy điều kiện đó có thể chấp nhận được, nên đều thuyết phục Công tước xứ Bavaria và Công tước xứ Württemberg đồng ý. Mọi người hợp nhau đóng góp kim ngân tài bảo để đền bù cho hai người họ. Nên biết rằng việc bại trận phải cắt đất cầu hòa là chuyện thường tình. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Đế chế Đức sụp đổ, phải cắt khoảng 10% lĩnh thổ cho các nước thắng trận để cầu hòa (chưa kể khoản tiền bồi thường chiến phí và nhiều điều kiện khắc nghiệt khác). Ở đây George I de Trento đòi hỏi phần lĩnh thổ chỉ hơn 1 vạn kilômét vuông, so với toàn Đế quốc La – Đức thì không nhiều. Còn chuyện của Công tước Ernest de Autriche Intérieure không còn quan trọng nữa, bởi các xứ Nội Áo đều đã bị liên quân Thần Thánh Đế quốc – Latium – Trento chiếm lĩnh, và sau này cũng không có hy vọng phục hồi.
Thế là đại bộ phận quân đội Đế quốc La – Đức hạ khí giới đầu hàng. Hoàng đế Sigismund de Luxembourg chỉ còn lại một số cận thần thân tín, cùng hơn 100.000 tàn binh bại tướng, lại thêm lương thực vật tư không còn, lâm vào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan.
Hôm sau nữa, tin tức toàn cảnh Hungary thất thủ bắt đầu lan truyền với tốc độ thật nhanh, khiến toàn quân hoàn toàn mất tinh thần. Hơn 80.000 quân còn lại của Vương quốc Hungary quyết định đan độc hướng Thần Thánh Đế quốc đầu hàng. Bọn họ biết rằng từ nay Hungary đã trở thành một phần lĩnh thổ của Vương quốc Latium, người thân của bọn họ đã trở thành thần dân của Latium, nên chẳng ai muốn kháng cự nữa.
Thật ra khi tổ chức chiến dịch hẻm núi Kalwang, Đinh An Bình đã phái 2 đạo quân Thần Thánh Đế quốc gồm 6 vạn người phối hợp cùng 3.000 quân Trento trấn giữ mặt tây hẻm núi, lại phái 2 đạo quân khác trấn giữ mặt đông hẻm núi. Còn lại 2 đạo quân cùng với 3 vạn quân Latium, tổng cộng gồm 9 vạn người chia nhau đi chiếm giữ toàn cảnh Áo và Hungary. Cả hai nơi chẳng còn bao nhiêu thủ quân, thậm chí rất nhiều nông dân cũng bị chinh triệu tham quân, nên đã bị chiếm lĩnh rất dễ dàng. Lĩnh thổ Vương quốc Latium giờ đây đã chính thức tiếp giáp Đế quốc Ottoman ở phía đông và Vương quốc Ba Lan ở phía đông bắc, chiếm đến khoảng một nửa diện tích u châu thời bấy giờ (lúc này chưa có nước Nga; Công quốc Moscow và Cộng hòa Novgorod là chư hầu của Hãn quốc Kim trướng của người Mông Cổ, do người con trai trưởng của Thành Cát Tư Hãn lập ra).
Đứng trước tình cảnh đó, nhìn lại bên mình chỉ còn lại hơn 2 vạn tàn quân bại tướng, Hoàng đế Sigismund de Luxembourg cuối cùng cũng chấp nhận lời khuyên của các cận thần, hướng Thần Thánh Đế quốc đầu hàng. Đặc biệt, Hoàng đế Sigismund de Luxembourg nhất quyết chỉ hướng Thần Thánh Đế quốc đầu hàng chứ không chịu hướng Vương quốc Latium đầu hàng. Đinh An Bình chẳng chấp nhất chút sĩ diện nhỏ đó của ông ta, nên cũng đồng ý.
Thế là, chiến dịch quy mô lớn nhất trong lịch sử u châu thời Trung Cổ chính thức chấm dứt.
Chương 116 : TÌNH THẾ U CHU NĂM ĐINH ḌU (1)
Năm Đinh Dậu (1417), sau khi chiến dịch hẻm núi Kalwang - chiến dịch quy mô lớn nhất trong lịch sử u châu thời Trung Cổ - chính thức chấm dứt, tình thế u châu đã trở nên rất rõ ràng. u châu lúc này chủ yếu chia thành hai phần : phần phía nam thuộc về Vương quốc Latium, và phần phía bắc thuộc về các nước còn lại.
Sau khi chiếm lĩnh toàn cảnh Hungary, quân đội Thần Thánh Đế quốc không tấn công quân Thổ của Đế quốc Ottoman ở phía đông, mà tiến quân về hướng Hy Lạp ở phía nam, thừa dư âm của chiến dịch hẻm núi Kalwang mà bình định các lĩnh địa vùng Balkan, chính thức định hình cương thổ của Vương triều Latium. Do sử dụng danh nghĩa giúp người Cơ Đốc giáo phương Đông chống quân Thổ, mà các vùng này thường bị kỵ binh Thổ xâm nhiễu, nên chỉ có một số đại quý tộc tổ chức phản kháng, còn dân chúng thì rất ít chống đối việc sát nhập vùng này vào Vương triều Latium. Trước đây họ chọn thần phục Đế quốc Byzantine ở Constantinople. Nhưng nay Đế quốc Byzantine đã rất suy yếu, thành Constantinople đã bị quân Thổ bao vây kể từ năm 1371 cho đến tận lúc này, các tiểu quốc địa phương lại chống quân Thổ không hữu hiệu, nên dân chúng chọn chỗ dựa mới vững chắc hơn là điều bình thường.
Khi tiến xuống đến bán đảo Morea ở phía cực nam, Đinh An Bình mới cho quân đội xuống thuyền, vượt Địa Trung Hải trở về Sinai, giao lại các vùng đất mới chiếm được cho quân đội Latium quản lý. Quân đội Latium lúc này có 6 vạn quân chính quy, khoảng 5 vạn quân địa phương, chia nhau trú đóng khắp các quận huyện trong vương quốc. Quân Thổ của Đế quốc Ottoman hiện đang bận vây đánh thành Constantinople, nên cũng không muốn có xung đột ở biên cảnh phía tây. Vì thế mà song phương tự giác phòng thủ biên cảnh của mình, tương an vô sự.
Vương quốc Latium kiểm soát các lĩnh địa Aragon và Navarre trên bán đảo Iberia; các đảo Iviza, Majorca, Minoroa, Sardinia, Corsica, Sicily, Malta, Candia và nhiều đảo nhỏ khác trong vùng Địa Trung Hải, biển Adriatic và biển Aegaeum; toàn bộ bán đảo Ý, trừ phần Papal States ở Roma và vùng phụ cận; các lĩnh địa phía nam lục địa u châu, với phía bắc là Burgundy, Các công quốc xứ Thụy Sĩ, Tyrol – Trento, Áo, Hungary; vùng bán đảo Balkan, cho đến biên giới Đế quốc Ottoman ở phía đông. Lĩnh thổ vương triều được chia thành 22 tỉnh :
1. Sicily : gồm các đảo Sicily, Sardinia, Corsica và quần đảo thuộc địa Majorca hợp thành, được chia thành 7 quận, gồm 3 quận Syracuse, Palermo và Messina thuộc đảo Sicily; 2 quận Cagliari và Sassari thuộc đảo Sardinia; quận Corsica thuộc đảo Corsica; quận Majorca thuộc quần đảo Majorca. Trong đó Syracuse là kinh đô.
2. Napoli : nguyên là vương quốc Napoli, được chia thành 6 quận là Napoli, Taranto, Calabria, Potenza, L’Aquila và Foggia.
3. Aragon : nguyên là phần phía bắc của vương quốc Aragon cùng với công quốc Navarre; được chia thành 5 quận là Barcelona, Lérida, Navarre, Saragossa và Gerona.
4. Valencia : nguyên là phần phía nam của vương quốc Aragon; được chia thành 5 quận là Valencia, Sagunto, La Plana, Alicanté, Monreal del Campo.
5. Milano : nguyên là các lĩnh địa Milano, Piedmond, và nước cộng hòa Genoa; được chia thành 6 quận là Milano, Bresia, Lecco, Turin, Piedmond và Genoa.
6. Thụy Sĩ : nguyên là các công quốc Thụy Sĩ và lĩnh địa Savoy; được chia thành 6 quận là Zurich, Bern, Lucerne, Valais, Uri và Savoy.
7. Burgundy : nguyên là công quốc Burgundy, các lĩnh địa Nevers và Charolais; được chia thành 5 quận là Nevers, Charolais, Beaune, Besançon và Pontarlier.
8. Lombard : nguyên là nước cộng hòa Venice, và các lĩnh địa ở Lombard, Romagna phía bắc bán đảo Ý; được chia thành 6 quận là Venice, Mantova, Modena, Florence, Siena và Ferrara.
9. Bắc Adriatic : nguyên là vùng phía nam công quốc Áo; được chia thành 6 quận là Gorizia, Trieste, Styria, Carniola, Carinthia và Burgenland.
10. Moravia : nguyên là vùng phía bắc công quốc Áo và công quốc Moravia; được chia thành 5 quận là Niederösterreich, Oberösterreich, Vienna, Moravia và Zlin.
11. Bratislava : nguyên là 20 lĩnh địa của người Slovak thuộc Hungary; được hợp lại thành 5 quận là Brastislava, Kremnikx, Zips, Saris và Hont.
12. Transdanubia : là các lĩnh địa phía tây của vương quốc Hungary, khu vực sông Danub; được chia thành 6 quận là Budapest, Györ, Pécs, Székesfehérvár và Raab.
13. Hungary : là các lĩnh địa phía nam của vương quốc Hungary được chia thành 6 quận là Miskolc, Debrecen, Szeged, Békés, Bihar và Plain.
14. Transylvania : là các lĩnh địa phía đông của vương quốc Hungary được chia thành 6 quận là Bacău, Suceava, Iaşi, Bihor, Cluj và Maramureş.
15. Krajova : phần phía tây của tiểu vương quốc Wallachia, được chia thành 6 quận là Krajova, Mureş, Dolj, Gorj, Timiş và Arad.
16. Crostia : nguyên là lĩnh địa Crostia thuộc Hungary; được chia thành 5 quận là Sibenik, Dubrovnik, Split, Poreč và Trogir.
17. Bosnia : nguyên là vương quốc Bosnia; được chia thành 5 quận là Sarajevo, Zvornik, Lika, Pakrac và Mostar.
18. Belgrade : nguyên là lĩnh địa của người Serbia thuộc Hungary; được chia thành 5 quận là Belgrade, Pančevo, Novi Sad, Zrenjanin và Smederevo.
19. Servia : nguyên là vương quốc độc lập của người Serbia; được chia thành 5 quận là Tivar, Bor, Kragujevac, Nis và Novi Pazar.
20. Albania : gồm 5 quận là Tirana, Podgorica, Pristina,Skopje và Vloré.
21. Thessalia : nguyên là các lĩnh địa miền bắc bán đảo Hy Lạp; được chia thành 6 quận là Thessalia, Chalcidice, Pieria, Ipiros, Athos và Evros.
22. Athens : nguyên là các lĩnh địa miền nam bán đảo Hy Lạp; được chia thành 7 quận là Athens, Euboea, Phocis, Kriti, Corinthia, Messinia và Olympia.
Ngoài ra còn có 2 lĩnh địa giáo quyền là :
1. Đại lĩnh địa Trento – Tyrol : do Vương tử - Giám mục George I de Trento cai trị, đang xin thăng cấp lên thành vương quốc.
2. Lĩnh địa Salzburg : được giao cho Vương tử - Giám mục Eberhard III de Neuhaus cai trị, vì đã có công lĩnh đạo giáo dân nổi dậy đánh đuổi quân chiếm đóng Bavaria, thần phục vương quốc Latium.
Với một lĩnh thổ rộng đến 1,329,847 kilômét vuông, Vương triều Latium trở thành một thế lực hùng mạnh nhất ở u châu, uy hiếp tất cả các quốc gia còn lại. Hơn nữa, lĩnh thổ phần lớn nằm trong cương giới của Đế quốc La Mã cổ đại, nên vương triều Latium có thể tự nhận là sự kế thừa từ Đế quốc La Mã cổ xưa. Long nhi hoàn toàn có thể lên ngôi Imperator, tức Hoàng đế của người La Mã. Thật ra thì Long nhi đang chuẩn bị quay về Gia Định Thành thụ phong đế vị.
Phía tây bắc vương quốc Latium là vương quốc Pháp Lan Tây (Française). Trước đây, khoảng một nửa cương thổ của vương quốc Pháp Lan Tây bị quân Anh Cách Lan chiếm đóng, chủ yếu là vùng Aquitaine ở phía nam và vùng Paris ở phía bắc. Ngoài ra còn có các vùng Burgundy và Planders bị Công tước xứ Burgundy tách ra khỏi vương quốc, thành lập công quốc độc lập. Phần đất còn lại của vương quốc thì lĩnh địa Provence ở phía nam và các lĩnh địa Anjou, Maine ở lưu vực sông Loire đều thuộc về nhà Anjou. Sau khi quân đội nhà Anjou đã đánh đuổi quân Anh Cách Lan ra khỏi vương quốc thì toàn bộ các lĩnh địa do Anh Cách Lan chiếm đóng cùng với các lĩnh địa vùng Planders của Công tước xứ Burgundy cũng đều trở thành lĩnh địa của nhà Anjou. Quân Anjou chẳng khi nào đã chiếm giữ rồi lại tự nhiên nhường lại cho người khác. Vương quốc Pháp Lan Tây gần như mất nước, nhờ có nhà Anjou nổi lên phục quốc, những người khác không có công lao gì, ai lại dám đi tranh giành chiến lợi phẩm với nhà Anjou mà lúc này uy thế đang chấn nhiếp cả u châu (người u châu xem Long nhi cũng thuộc nhà Anjou). Thế cho nên, các lĩnh địa của nhà Anjou chiếm hết đại bộ phận cương thổ vương quốc Pháp Lan Tây, triều đình chỉ kiểm soát được khu vực Orléans ở vùng trung bộ, mà vùng này lại gồm vô số quý tộc lớn nhỏ. Thật ra thì vương quốc Pháp Lan Tây do các lĩnh chủ phong kiến chia nhau cai trị, quốc vương cũng chỉ là một lĩnh chủ nhỏ, lớn nhất là Anjou, tiếp đó là hai xứ Orléans và Burgundy. Sau cuộc nội chiến Armagnacs - Burgundy (1407 – 1412), các lĩnh địa của Công tước xứ Burgundy tách ra độc lập, còn Công tước xứ Orléans đại diện cho phe Armagnacs giữ vai trò nhiếp chính. Quốc vương Charles VI de Française bị bệnh tâm thần, nên chỉ là quốc vương trên danh nghĩa. Hiện tại, trong vương quốc đang có cuộc vận động tôn Công tước xứ Anjou lên làm quốc vương, bởi quốc vương hiện tại bị bệnh tâm thần, thái tử thì còn quá nhỏ và đang sống (tị nạn) ở nhà Anjou, trong khi Công tước xứ Anjou với quốc vương lại là anh em họ (cha họ là anh em ruột), và đang trực tiếp kiểm soát đến 80% vương quốc. Cuộc vận động đó còn có mục đích khác nữa là hy vọng ở sự an định của vương quốc khi nhà Anjou lên cai trị, bởi Vương triều Latium ở phía nam quá cường thế. Quốc vương hiện tại đang bị Quốc vương Anh Cách Lan tranh chấp ngai vàng (nguyên nhân của cuộc ‘chiến tranh trăm năm’). Nếu như Công tước xứ Anjou lên ngôi, mọi người tin rằng Quốc vương Anh Cách Lan sẽ chẳng dám tranh ngôi nữa. Sau hơn 80 năm chiến hỏa liên miên, hơn ai hết, người dân Pháp Lan Tây rất trông chờ vào hòa bình.
Phía bắc Vương quốc Pháp Lan Tây đương nhiên là Vương quốc Anh Cách Lan (England). Sau khi bị quân Anjou đánh đuổi ra khỏi đất Pháp Lan Tây, tình thế vương quốc Anh Cách Lan đang xấu đi rất nhanh. Vương quốc Tô Cách Lan (Scotland) ở phía bắc vốn liên minh với Vương quốc Pháp Lan Tây trong cuộc ‘chiến tranh trăm năm’, giờ đây đã chuyển sang liên minh trực tiếp với Công tước xứ Anjou, uy hiếp biên cảnh phía bắc của Anh Cách Lan. Người xứ Wales nổi lên giành độc lập năm 1400, bị quân Anh Cách Lan dập tắt cách nay hai năm (1415), giờ lại tiếp tục nổi dậy. Vương quốc Ái Nhĩ Lan (Ireland) cũng lại phản công giành lại vùng lĩnh thổ phía đông bị Anh Cách Lan chiếm đóng sau thất bại hồi 20 năm trước. Nói tóm lại, Vương quốc Anh Cách Lan lúc này ba bề thọ địch, tình thế hiểm nghèo.
Chương 117 : TÌNH THẾ U CHU NĂM ĐINH ḌU (2)
Trong khi ở vùng tây bắc u châu, Vương quốc Anh Cách Lan lúc này ba bề thọ địch, tình thế hiểm nghèo, thì vùng trung bộ u châu cũng chẳng được yên bình. Trên cương thổ của Đế quốc La Mã Thần Thánh Dân tộc Đức vốn có hàng nghìn công quốc lớn nhỏ, sau chiến dịch hẻm núi Kalwang, đã biến thành một lò lửa chiến tranh. Hoàng đế Sigismund de Luxembourg không còn uy tín gì nữa, ngôi vị Hoàng đế chỉ còn trên danh nghĩa, chúng vương công quý tộc không ai tuân phục. Những vương công quý tộc không tham gia chiến dịch hẻm núi Kalwang, nhân cơ hội những người tham chiến đang bị bắt, quân đội tổn thất hoàn toàn, liền đua nhau xua quân xâm chiếm lĩnh địa của bọn họ. Các cuộc chinh phục, thôn tính, cướp phá không ngừng bùng phát, chiến tranh diễn ra liên tục hàng ngày, dân chúng rên siết trong cảnh nước sôi lửa bỏng. Cũng chính những cuộc chiến tranh đó đã khiến cho việc chuộc thân của những vương công quý tộc bị bắt diễn ra rất thuận lợi, và Thần Thánh Đế quốc hoạch lợi nhiều hơn cả mong đợi. Chúng vương công quý tộc đều mong muốn nhanh chóng quay về bảo vệ lĩnh địa của mình, nên chẳng tiếc gì kim ngân tài bảo, bởi một khi lĩnh địa mất đi thì bọn họ cũng chẳng còn gì cả, đương nhiên lúc đó cũng sẽ chẳng còn cơ hội chuộc thân.
Xấu số nhất vẫn là Hoàng đế Sigismund de Luxembourg. Do tính cách hung bạo hiếu chiến, trước đây còn cường thế mà vẫn nhiều phen bị dân chúng đánh đuổi, nói gì lúc này. Nghiêm trọng nhất là vấn đề của phong trào Kháng Cách. Trong khi Công đồng Constantine đang nhóm họp, Jan Huss (tiếng Anh là John Huss, một nhà thần học, nhà cải cách tôn giáo Séc) đã đến Constantine để bày tỏ quan điểm của mình, nhưng đã bị Giáo hội Công giáo La Mã kết tội dị giáo, và bị thiêu sống (năm 1415). Khi đó, đã có 450 lĩnh chủ viết thư bênh vực ông là người chính thống về giáo lý, và đã dẫn đến cuộc nổi dậy của người Bohemia ủng hộ Jan Huss (lịch sử gọi là cuộc chiến tranh Hussites, kéo dài 15 năm với thắng lợi thuộc về phe Hussites, Giáo hội Công giáo La Mã tổ chức ba cuộc Thập tự chinh vào các năm 1420, 1423, 1431 để đàn áp nhưng vẫn thất bại), cũng như cuộc vận động thành lập Giáo hội Hussites sau này.
Do Jan Huss bị thiêu sống, những người ủng hộ Jan Huss (được gọi là Hussites) đã nổi dậy ở Bohemia. Và do Hoàng đế Sigismund de Luxembourg thất trận ở hẻm núi Kalwang, người Bohemia đã truất phế ông ta, tự thành lập Hội đồng quý tộc để cai trị vương quốc như một thể chế Nghị viện kiểu Anh Cách Lan. Để củng cố chính quyền, bọn họ đã học theo George I de Trento, gửi một sứ đoàn đến Gia Định. Trong khi đó, Hoàng đế Sigismund de Luxembourg mất đi hai vương quốc Hungary và Bohemia, cũng tức là đã mất đi hơn 90% lĩnh địa của mình, trở thành một tiểu lĩnh chủ, chẳng còn được ai tôn trọng nữa.
Ngoài ra, hiện tại mọi người đang tránh sử dụng tên gọi Đế quốc La Mã Thần Thánh Dân tộc Đức, chỉ gọi đơn giản bằng tên Đế quốc Đức, bởi tên gọi La Mã Thần Thánh không còn thích hợp nữa do sự xuất hiện của Vương quốc Latium.
Ở phía đông bắc Vương triều Latium, tức là khu vực phía bắc Hungary, có hai vương quốc Ba Lan (Poland), Lithuania và lĩnh địa Các Hiệp sĩ Teutonic (do Hội đồng Hiệp sĩ cai trị). Giữa Vương quốc Ba Lan và lĩnh địa Các Hiệp sĩ Teutonic đang có xung đột, tuy chưa diễn biến thành chiến tranh, nhưng tình hình cũng không được yên ổn. Ở phía đông và đông nam là các tiểu vương quốc Moldavia, Wallachia, vương quốc Bulgaria và Đế quốc Ottoman, có cuộc bao vây thành Constantinople đã kéo dài gần 50 năm nay.
Chỉ có duy nhất vùng Bắc u là ổn định nhất, với các vương quốc Đan Mạch (Denmark), Na Uy (Norway) và Thụy Điển (Sweden). Ngoài ra, phần phía tây bán đảo Iberia, gồm các vương quốc Leon, Castile, Bồ Đào Nha (Portugal) và Granada (Hồi giáo) được sát nhập vào Thần Thánh Đế quốc, thành lập 7 tỉnh vùng Iberia (Cordova, Granada, Lisbon, Toledo, Santander, Léon và Gibraltar).
Do Thần Thánh Đế quốc thực hiện tự do tôn giáo ở tỉnh Jerusalem, chấm dứt tình trạng người Hồi giáo độc quyền kiểm soát thánh địa, nên đã có rất nhiều người Cơ Đốc giáo từ u châu hành hương đến đó, và cũng có không ít người ở lại, bổ sung cho thế lực Cơ Đốc giáo ở đây. Đồng thời, bởi vì nơi đây thuộc cương thổ của Thần Thánh Đế quốc, có phong khí tự do hơn ở u châu (lịch sử gọi u châu thời kỳ này là ‘Đêm dài Trung Cổ’ thì cũng đủ biết), nên phong cách truyền giáo cũng có khác hơn. Cuộc Đại Ly giáo của Giáo hội Công giáo La Mã mới kết thúc với Công đồng Constantine (vẫn còn đang nhóm họp). Giáo hội Chính Thống giáo Đông Phương đã rất suy yếu bởi cuộc tấn công của người Thổ, và thành Constantinople đang bị bao vây. Ở Bohemia, Ba Lan và Đan Mạch đang có phong trào Kháng Cách. Do đó mà người Cơ Đốc giáo ở Jerusalem tự nhận mình tiếp nối từ Giáo hội tiên khởi thời các thánh Tông đồ (nơi này là quê hương của chúa Kitô cũng như các thánh Tông đồ, cũng là nơi hình thành tổ chức giáo hội đầu tiên), và xưng là Giáo hội Nguyên thủy, để phân biệt với Giáo hội Công giáo La Mã và Giáo Hội Chính Thống giáo Đông Phương.
…
Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.519 (Đinh Dậu, 1417). Mùa thu tháng 8. Sinai. Đại Tây hành cung.
Sau khi chỉnh đốn xong tình hình quân chính của Vương quốc Latium, Long nhi và Đinh An Bình quay trở về Đại Tây Hành cung. Vương cung ở Syracuse vẫn còn đang trong quá trình xây dựng, nên Long nhi vẫn thích ở Đại Tây Hành cung hơn. Vương quốc Latium được tổ chức theo hình thức của Thần Thánh Đế quốc, cũng chia thành tỉnh - quận - huyện, nên dù Long nhi ở tại Sinai cũng vẫn không ảnh hưởng đến việc thống trị. Thần Thánh Đế quốc rộng lớn đến thế, Giang Phong ở tại Gia Định Thành mà vẫn thống trị được đấy thôi. Vào thời Trung Cổ, chỉ cần nắm chắc quân quyền thì ngôi vị không có vấn đề gì.
Trải qua hơn một năm đông chinh bắc phạt, Vương quốc Latium đã trở thành một đại cường quốc chiếm vị trí chủ đạo ở u châu. Với diện tích quốc thổ 1,329,847 kilômét vuông, Vương quốc Latium có diện tích lớn hơn cả tổng diện tích các nước Pháp, Đức, Ý, Hà Lan, Thụy Sĩ và Bỉ thời hiện đại. Cả nước có 22 tỉnh, 124 quận, hơn nghìn huyện và 2 lĩnh địa giáo quyền. Quân đội chính quy 6 vạn người trú đóng ở các vị trí hiểm yếu, đặc biệt là khu vực biên cảnh phía bắc và phía đông. Quân địa phương gồm 5 vạn, phụ trách phòng thủ các tỉnh thành, quận thành, huyện thành. Ngoài ra, đại lĩnh địa Trento – Tyrol cũng tăng quân số lên 1 vạn. Sau chiến tranh, George I de Trento có người có của, nên đã quyết định mở rộng quy mô quân đội. Do lĩnh địa nằm ở vùng biên cảnh nên lão phải đề phòng tình trạng xấu nhất (thật ra thì lão đang chờ cơ hội mở mang lĩnh địa, bởi giờ đây các vương công quý tộc ở Đế quốc La – Đức đâu dám dẫn quân vượt qua biên giới của Vương quốc Latium). Mới hơn một năm trước lão còn lo lĩnh địa bị xâm chiếm, mà giờ đây lão lại tìm cơ hội xâm chiếm lĩnh địa kẻ khác, quả là tình cảnh khác nhau một trời một vực. Mỗi khi nói chuyện với bằng hữu, lão vẫn tự hào nói rằng việc đi đến Gia Định đã đổi thay số phận của lão.
Long nhi giờ đây đã 14 tuổi. Sau gần 2 năm gần gũi Giang Phong, sau hơn 1 năm cai trị Vương quốc Latium, Long nhi đã trưởng thành rất nhiều, đã có được ít nhiều uy thế của đế vương, nói một cách văn hoa là ‘vương giả phong phạm’. Trong chính điện, cậu bé cùng Đinh An Bình bàn bạc đại sự. Cậu bé hỏi :
- Phụ hoàng triệu chúng ta về Gia Định. Vương gia định khi nào sẽ khởi trình ?
Đinh An Bình nói :
- Tình hình u châu cũng tương đối ổn định rồi. Tin rằng hiện tại chẳng có nước nào dám gây hấn với Đế quốc cũng như Vương quốc Latium đâu. Việc ở đây để lại cho chư tướng giải quyết cũng không vấn đề gì. Mười ngày nữa chúng ta sẽ khởi trình. Điện hạ thấy thế nào ?
Long nhi gật đầu nói :
- Cũng được. Vương gia có biết phụ hoàng triệu chúng ta về cung vì việc gì không ?
Đinh An Bình mỉm cười nói :
- Còn việc gì nữa đâu ! Đương nhiên là việc điện hạ gia miện xưng đế rồi. Nên biết, Vương quốc Latium hiện tại rộng gấp rưỡi tổng diện tích 5 Đế quốc ở Trung Hoa đó nha !
Hiện tại ở Trung Hoa có 5 Đế quốc là Đại Minh (ở Hà Bắc), Đại Tống (ở Sơn Đông và vùng Khai Phong), Đại Hán (ở Hà Nam trừ vùng Khai Phong), Đại Đường (ở Thiểm Tây), Tấn (ở Sơn Tây) và 2 vương quốc Hạ (ở Tứ Xuyên), Lương (ở Cam Túc). Tổng diện tích 5 Đế quốc chỉ có khoảng 875,000 kilômét vuông, nhỏ hơn diện tích Vương quốc Latium nhiều. Đương nhiên dân số thì đông hơn. Người Trung Hoa nổi tiếng về việc đông dân kia mà. Tổng quân số của 5 Đế quốc lên đến 150 vạn, trong khi Vương quốc Latium chỉ có 11 vạn, kể luôn địa phương quân.
Long nhi nghe Đinh An Bình nói vậy, lắc đầu nói :
- Không phải. Ta nghe nói có việc xung đột ở nam Thiên Trúc. Không rõ sự tình thế nào ? Phụ hoàng có quyết định chinh phạt nam Thiên Trúc hay không ?
Đinh An Bình cười nói :
- Cũng chẳng có chuyện gì đáng kể đâu ! Trước đây Vương triều Vijayanagara thống trị toàn bộ nam Thiên Trúc, có hàng trăm tiểu quốc chư hầu. Sau này Đế quốc chiếm Tích Lan, công kích nam Thiên Trúc, buộc Vương triều Vijayanagara phải nạp cống cầu hòa. Từ đó thế lực của Vương triều Vijayanagara ngày càng yếu hơn. Gần đây, người Mông Cổ ở bắc Thiên Trúc lấn xuống phía nam, xung đột với Vương triều Vijayanagara. Các tiểu quốc phương nam thấy thế, muốn tìm nơi bảo hộ vững chắc hơn, nên đã xin thần phục Đế quốc. Vương triều Vijayanagara phản đối việc ấy, thành ra có xung đột với Đế quốc. Nhưng đối với Đế quốc, Vương triều Vijayanagara chẳng đáng kể gì !
Long nhi hỏi :
- Theo Vương gia thì phụ hoàng có quyết định chinh phạt nam Thiên Trúc không ?
Đinh An Bình nói :
- Chúng ta không nên phỏng đoán thánh ý, chỉ nên phụng chỉ hành sự. Hơn nữa, dù có tiến hành chinh phạt nam Thiên Trúc thì cũng không phải là nhiệm vụ của chúng ta. Đã đến lúc Triệu vương gia cầm quân rồi.
Đinh An Bình và Triệu Phong vẫn luân phiên nhau cầm quân chinh phạt. Đinh An Bình vừa mới phụ trách chinh phạt u châu, nên lần chinh phạt sau sẽ được giao cho Triệu Phong đảm nhiệm.
Chương 118 : ĐỨC THƯỢNG PHỤ VÀ NGÀI HỒNG Y PHÓ TẾ
Gia Định Thành.
Long nhi đứng trên đầu thuyền, nhìn về phía thành Gia Định ở phía xa. Lục Tinh cấp chiến hạm khi tiến vào Gia Định Giang, mọi thuyền bè khác đều phải nhường đường. Đã hơn một năm rồi Long nhi mới trở lại Gia Định. Ba năm trước, Long nhi lần đầu đến Gia Định cùng Hồng y Giám mục George I de Trento và quản gia Ferdinand Caracciolo (giờ đây là Bá tước Ferdinand de Artois) với thái độ lo lắng hoang mang. Giờ đây, thân phận của Long nhi đã khác đi, và thế lực của Long nhi ở u châu chỉ có đi uy hiếp nước khác chứ không sợ bị nước khác uy hiếp nữa.
Hiện tại, trên thuyền ngoài những người cũ năm xưa như Hồng y Giám mục George I de Trento và Bá tước Ferdinand de Artois, còn có thêm hai em trai của Long nhi là Réne de Anjou – 8 tuổi và Charles de Le Maine – 3 tuổi; Hồng y Phó tế Otto de Colonna của San Giorgio in Velabro, người đại diện cho Công đồng Constantine của Giáo hội Công giáo La Mã; Linh mục Jan Želivský, đại diện của Hội đồng quý tộc vương quốc Bohemia, và cũng là lĩnh tụ của những người ủng hộ Huss (Hussites); Thượng phụ giáo chủ Theophilus II của Jerusalem, tức là lĩnh tụ của Giáo hội Nguyên thủy, còn gọi là Giáo hội Cơ Đốc giáo Nam phương (để phân biệt với Giáo hội Công giáo La Mã ở phía tây và Giáo hội Chính Thống giáo Đông Phương ở phía đông). Vậy là chỉ còn thiếu đại diện của Tòa Thượng phụ Constantinople nữa là đủ mặt đại diện các hệ phái của Cơ Đốc giáo.
Tòa Thượng phụ của Jerusalem có thể tự xưng là Giáo hội Nguyên thủy, bởi vì nó có nguồn gốc từ tổ chức Giáo hội đầu tiên của Cơ Đốc giáo, với vị Giám mục đầu tiên là James the Just, người được xem là James Adelphotheos, nghĩa là James người anh em của Chúa (có những cách gọi như “the brother of God”, “Jesus’ cousin”, “the brother of our Lord”), người đã Tử vì đạo vào năm 62. Bách Khoa Toàn Thư Công Giáo (Catholic Encyclopedia, phát hành lần đầu tiên ở Mỹ năm 1907) viết : “Trong suốt nhiều thế kỷ đầu tiên của Cơ Đốc giáo, các nhà thờ nơi đây đã là trung tâm của Cơ Đốc giáo ở Jerusalem, ‘Thần thánh và vinh quang Sion, mẹ của tất cả các nhà thờ’ (Holy and glorious Sion, mother of all churches). Chắc chắn không có nơi nào trong Cơ Đốc giáo đáng kính hơn so với vị trí của Last Supper, nơi đã trở thành nhà thờ Cơ Đốc giáo đầu tiên”. Do vậy, Jerusalem mới trở thành thánh địa của toàn thể những người thờ phụng Cơ Đốc, dù theo hệ phái nào, và Tòa Thượng phụ của Jerusalem có thể tự hào về nguồn gốc của mình.
Cũng vì những nguyên nhân đó, tuy rằng quan hệ giữa Hồng y Phó tế Otto de Colonna và Linh mục Jan Želivský khá là căng thẳng, thì quan hệ giữa Thượng phụ giáo chủ Theophilus II với hai người họ vẫn tốt đẹp. Cũng giống như địa vị của nhà Anjou đối với các chi tộc thuộc các triều đại Angevin ở u châu vậy.
Từ sau cuộc Đại Ly giáo Đông - Tây, thế lực của Giáo hội Chính thống giáo Đông Phương (còn gọi là Đông Chính giáo) và Giáo hội Công giáo La Mã (còn gọi là Công giáo, nhưng bị các hệ phái Cơ Đốc giáo khác phản đối, khi có quan hệ với các hệ phái Cơ Đốc giáo khác, Tòa thánh Vatican phải dùng danh hiệu Giáo hội Công giáo La Mã) gần như tương đương nhau. Nhưng khi Đế quốc Byzantine ngày càng suy yếu, thì cán cân thế lực giữa song phương càng ngày càng nghiêng về phía Tây phương. Đến khi quân đội Thần Thánh Đế quốc tiến vào Jerusalem thuộc Vương triều Mamluk ở Ai Cập, thế lực Cơ Đốc giáo ở đây quật khởi, và Giáo hội Chính thống giáo Đông phương bị chia làm hai : phía bắc thuộc về Giáo hội Chính thống giáo Đông phương ở Constantinople và phía nam tách ra thành lập Giáo hội Nguyên thủy ở Jerusalem. Theo lẽ thì thế lực của hai hệ phái này càng yếu hơn nữa. Nhưng chỉ có Đông Chính giáo là yếu đi, còn Giáo hội Nguyên thủy dựa vào Thần Thánh Đế quốc mà phát triển mạnh mẽ, nhất là khi chế độ Cộng quản ở thành Jerusalem được thiết lập, rất nhiều tín đồ Cơ Đốc từ u châu đã kéo đến đất thánh hành hương và chạy loạn, lánh nạn chiến tranh ở quê nhà, đặc biệt là những người giàu có, mang theo cả gia tài đến đây lập nghiệp, càng khiến cho thế lực của Giáo hội Nguyên thủy tăng lên nhanh chóng. Đặc biệt là sự thành lập Vương triều Latium, đã trở thành bàn đạp cho thế lực của Giáo hội Nguyên thủy tiến vào u châu lục địa. Nên nhớ rằng toàn bộ quân đội cũng như đại bộ phận quan viên của Vương triều Latium đều được tuyển mộ từ các tín đồ Cơ Đốc ở Jerusalem và Syria.
Lúc này đây, cũng ở đầu thuyền, cách chỗ Long nhi không xa, Hồng y Phó tế Otto de Colonna và Thượng phụ giáo chủ Theophilus II đang đứng nói chuyện, không khí xem có vẻ rất hòa hảo. Thượng phụ giáo chủ Theophilus II thực tế là lĩnh tụ của Giáo hội Cơ Đốc giáo Nam phương, lại có chỗ dựa là Thần Thánh Đế quốc, nên có thế lực vững chắc, địa vị đặc thù. Còn Hồng y Phó tế Otto de Colonna mặc dù tương lai có thể trở thành lĩnh tụ của Giáo Hội Công giáo La Mã, một trong ba hệ phái lớn của Cơ Đốc giáo, nhưng lúc này vẫn chưa trở thành Đức Thánh Cha, vẫn còn là Hồng y Phó tế. Hơn nữa, chỗ dựa của Giáo hội Công giáo La Mã là các quân vương Đế quốc La Mã Thần Thánh Dân tộc Đức, mà đứng đầu là Hoàng đế Sigismund de Luxembourg, thì lúc này Hoàng đế Sigismund de Luxembourg đã thất thế, và Đế quốc La Mã Thần Thánh Dân tộc Đức danh tồn thật vong, dần dần bị thay thế bằng Đế quốc Đức tứ phân ngũ liệt. Đó là nguyên nhân chuyến đi đến Gia Định của Hồng y Phó tế Otto de Colonna. Do vậy mà khi đối diện Thượng phụ giáo chủ Theophilus II, Hồng y Phó tế của chúng ta cảm thấy ít nhiều tự ti. Cũng vì thế, câu chuyện giữa hai người họ ít nhắc đến chuyện giáo hội, mà chỉ đàm luận thời cuộc, cũng như Đức Thượng phụ giới thiệu với Ngài Hồng y Phó tế về Thần Thánh Đế quốc. Kể từ khi thuyền rời Sinai, Ngài Hồng y Phó tế đã có khái niệm rõ ràng hơn về sự rộng lớn và hùng mạnh của Thần Thánh Đế quốc.
Cả hai nói chuyện một hồi thì Long nhi đi đến chỗ bọn họ. Hai người họ vội chào hỏi :
- Điện hạ.
- Bệ hạ.
Thượng phụ giáo chủ Theophilus II gọi Long nhi là Điện hạ bởi Long nhi là Hoàng tử của Thần Thánh Đế quốc. Còn Hồng y Phó tế Otto de Colonna gọi Long nhi là Bệ hạ do chức vụ Quốc vương Latium. Đế chuẩn bị cho chuyến đi này, Hồng y Phó tế đã học tập ngôn ngữ của Thần Thánh Đế quốc, tuy chưa thể nói viết thông thạo, nhưng cũng có thể giao tiếp thông thường được. Ở u châu lúc này tràn ngập thương nhân của Thần Thánh Đế quốc hoặc có quan hệ với Thần Thánh Đế quốc (đa phần là người u châu và người Do Thái ở Jerusalem), nên việc học tập ngôn ngữ của Thần Thánh Đế quốc cũng không khó khăn gì. Long nhi mỉm cười hỏi :
- Sắp đến Gia Định rồi. Nhị vị không gặp vấn đề gì chứ ?
Thượng phụ giáo chủ Theophilus II nói :
- Điện hạ. Thuyền rất vững vàng, chúng ta không bị gì cả.
Hồng y Phó tế Otto de Colonna cũng nói :
- Đúng thế. Thuyền quá lớn, đi trên biển mà vẫn yên ổn như trên đất liền vậy.
Long nhi mỉm cười nói :
- Lát nữa đến Gia Định, nhị vị cứ đến ở tại Cung điện của ta.
Thượng phụ giáo chủ Theophilus II biết Cung điện của Long nhi nằm bên trong Trường Thanh Cung, nên cả mừng nói :
- Đa tạ Điện hạ.
Hồng y Phó tế Otto de Colonna tuy chưa hiểu rõ ý nghĩa của việc đó, nhưng thấy Đức Thượng phụ nói vậy thì cũng nói theo :
- Đa tạ Bệ hạ.
Ba người hàn huyên một lúc nữa thì chiến hạm tiến vào khu vực Quân cảng. Ở Gia Định Thành có hai bến cảng : Thương cảng và Quân cảng. Để bảo đảm an ninh cho bọn Long nhi cũng như các sứ đoàn, chiến hạm của bọn họ sẽ ghé vào Quân cảng. Thương cảng long xà hỗn tạp, không chỉ khó tiến hành việc bảo vệ mà còn gây cản trở cho việc buôn bán của dân chúng. Chỉ có điều, lúc này chiến hạm đã đến trước Quân cảng, nhưng lại không thể cập cảng được. Trong bến cảng đang có hàng trăm hạm thuyền neo đậu, trong đó có cả Thất Tinh cấp chiến hạm và Lục Tinh cấp chiến hạm, chiếm hết diện tích của cầu cảng. Long nhi ngạc nhiên nói :
- Hôm nay làm gì mà Quân cảng có nhiều hạm thuyền thế nhỉ ?
Hồng y Phó tế Otto de Colonna hỏi :
- Bình thường nơi đây không có nhiều hạm thuyền ư ?
Thượng phụ giáo chủ Theophilus II giải thích :
- Bình thường các hạm thuyền của Hải quân đều neo đậu ở căn cứ Hải quân Long Sơn. Còn dân thuyền thì neo đậu ở Thương cảng.
Giữa lúc đó thì Đinh An Bình đi đến. Long nhỉ hỏi :
- Vương gia có biết ở Quân cảng đang có chuyện gì không ?
Đinh An Bình gần đây uy danh hiển hách, chấn động u châu các xứ. Đức Thượng phụ và Ngài Hồng y Phó tế vội chắp tay chào hỏi. Đinh An Bình gật đầu đáp lễ, rồi nói :
- Hạm thuyền chở cống vật từ các tỉnh. Chúng ta phải chờ thêm một lúc nữa. Quan viên của Quân cảng đang thu xếp để hạm của chúng ta có chỗ neo đậu.
Long nhi gật đầu nói :
- Không sao. Chờ một lúc cũng không hề gì !
Chương 119 : VẠN QUỐC LAI TRIỀU
Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.519 (Đinh Dậu, 1417). Mùa thu, tháng 9. Gia Định Thành. Trường Thanh Cung. Tử Tiêu Điện.
Giờ đã cuối thu, sắp chuyển sang mùa đông, nhưng Gia Định Thành nằm ở vùng nhiệt đới, lại chịu ảnh hưởng của miền khí hậu hải dương, nên quanh năm ấm áp, mùa đông cũng không lạnh lắm, cùng với sự phồn hoa của nó, có thể xem là ‘tứ quý như xuân’, một sự xưng tụng mà người xưa chỉ dành cho các chốn thế ngoại đào nguyên.
Như thường lệ, Giang Phong duyệt đọc báo cáo về tình hình chính sự trong triều. Việc triều chính ở Đế quốc, Giang Phong giao cho chúng triều thần chia nhau xử lý, chỉ cần định kỳ hồi báo cho Giang Phong biết. Giang Phong tự biết mình không giỏi xử lý chính sự, lại muốn an nhàn, nên đã giao quyền cho triều thần. Giang Phong chỉ quyết định quốc sách, chiến lược, hay định đoạt các đại sự kiện. Thân tự thân vi chỉ khiến cho mình lao tâm lao lực, rồi đoản thọ giống như Gia Cát Vũ hầu. Quyền lực, Giang Phong đã đạt đến tột đỉnh quyền uy, nên đối với quyền lực chẳng có tham vọng gì nữa.
Khi Giang Phong duyệt đọc biểu tấu, Quảng Tế Pháp sư đứng bên cạnh giải thích những vấn đề trong đó. Lão theo Giang Phong ngay từ khi Giang Phong mới giáng lâm thế giới này, sang năm nữa là tròn 20 năm, lão cũng đã quá tuổi cổ lai hy, nhưng giờ vẫn còn khỏe mạnh, tinh thần bão mãn, xem ra sống đến trăm tuổi cũng không vấn đề gì. Khi Giang Phong xem đến những biểu tấu về các lĩnh thổ ở Mỹ châu, Quảng Tế Pháp sư nói :
- Khải tấu Thánh hoàng. Từ bán đảo Iberia đi về phía tây, vượt qua Đại Tây Dương sẽ đến một vùng bình nguyên trù phú, nhưng dân cư thưa thớt và lạc hậu. Dân bản địa còn lạc hậu hơn cả các xứ Phi châu. Bản triều đã men theo bờ biển từ bắc xuống nam thiết lập hàng trăm khu định cư, tương tự như các khu định cư ở Phi châu, cứ cách 100 dặm lại có một khu định cư như vậy. Những khu định cư nhỏ chỉ vài trăm cư dân, còn những khu định cư lớn có đến hàng nghìn, có quân đội trú đóng. Mỗi khu định cư đều được xây dựng một bức tường thành kiên cố bao quanh, cao 10 mét, dày 2, 3 mét, bên trong chứa đầy lương thực, và dân chúng đều được vũ trang, có thể giữ vững ít nhất nửa năm một khi có biến cố. Và chỉ cần tin cáo cấp được phát đi, chậm nhất là sau hai tháng sẽ có đại quân cứu ứng.
Giang Phong hỏi :
- Chỉ mới thiết lập được các khu định cư ở bờ biển phía đông ?
Quảng Tế Pháp sư tâu :
- Khải tấu Thánh hoàng. Ở bờ biển phía tây Mỹ châu, bản triều mới khai thác được vùng phía bắc. Vì Đại Đông Dương quá rộng lớn, các chiến hạm của chúng ta xuất phát từ Đông Doanh và Trung Hải đảo chỉ có thể tiếp ứng cho vùng bắc Mỹ châu. Theo kế hoạch, vùng nam Mỹ châu sẽ được khai phá trong vài năm tới.
Đại Đông Dương tức là Thái Bình Dương, vì là phần mở rộng của Đông Hải, nên được gọi là Đại Đông Dương, đối ứng với Đại Tây Dương ở phía bên kia. Hòn đảo Hawai’i ở giữa Đại Đông Dương được gọi là Trung Hải đảo. Do bờ biển phía đông Mỹ châu và bờ biển phía tây u châu, Phi châu gần như song song với nhau qua Đại Tây Dương, nên việc tiếp tế được tiến hành tương đối dễ dàng. Còn ở bờ biển phía tây Mỹ châu, Đế quốc chỉ mới tiếp tế được cho vùng bắc Mỹ châu, thông qua các căn cứ Hải quân ở Đông Doanh và Trung Hải đảo, nên vùng nam Mỹ châu phải chờ đến khi các khu định cư ở bắc Mỹ châu đã phát triển ổn định, rồi mới có thể khai thác.
Giang Phong lại xem đến biểu tấu về các sứ đoàn. Quảng Tế Pháp sư tâu :
- Khải tấu Thánh hoàng. Dịp này có đến 1 vạn 8.316 sứ đoàn của các Đế vương Trung Hoa, các phiên quốc Đông Doanh, các Hãn quốc Mông Cổ, các tiểu quốc nam Thiên Trúc, các tiểu vương Hồi giáo, các tiểu vương Phi châu, các tiểu vương và tù trưởng Mỹ châu. Sứ đoàn đông nhất có đến hơn trăm người, sứ đoàn ít nhất chỉ có 3 người. Hiện ở Gia Định Thành đã có đến hơn chục vạn sứ tiết các phương.
Thời Trung Cổ tiểu quốc như rừng (tiểu quốc lâm lập). Chỉ riêng các xứ nam Thiên Trúc (tức vùng namÂn Độ, hay Cộng hòaÂn Độ ngày nay; trước đây các xứ Pakistan, Butan, Nepan, Bangladesh cũng được gọi làÂn Độ) đã có cả nghìn tiểu quốc. Các xứ A Lạp Bá cũng tương tự. Còn Phi châu và Mỹ châu thì càng nhiều hơn. Các bộ lạc cũng được xem là các thực thể tương đương tiểu quốc, bởi có nhiều bộ lạc (ví dụ bộ lạc Mông Cổ) có dân số đông gấp mấy lần các tiểu quốc ở nam Thiên Trúc hay các xứ A Lạp Bá. Do đó, hơn vạn sứ đoàn đủ để đại biểu ‘vạn quốc lai triều’, một trong những vinh dự quan trọng của các triều đại xưa.
Giang Phong hỏi :
- Không có sứ đoàn nào đến từ u châu hay sao ?
Quảng Tế Pháp sư tâu :
- Khải tấu Thánh hoàng. Có ạ ! Nhưng bọn họ đi cùng với Điện hạ và Chiêu Đức Vương. Có sứ tiết của Giáo hội Công giáo La Mã, Vương quốc Bohemia, Đại lĩnh địa Trento – Tyrol, Lĩnh địa Salburg. Còn có hai em của Điện hạ, là Công tước Réne de Anjou và Công tước Charles de Le Maine xứ Bourbon. Ngoài ra, theo tin hồi báo từ Sinai, đã có thêm các sứ đoàn khác đang trên đường đến Gia Định, như : Vương quốc Anh Cách Lan, Vương quốc Tô Cách Lan, Vương quốc Ái Nhĩ Lan, Lĩnh địa Wales, Vương quốc Đan Mạch, Vương quốc Na Uy, Vương quốc Thụy Điển, Vương quốc Ba Lan, Vương quốc Lithuania, Lĩnh địa Các Hiệp sĩ Teutonic, Vương quốc Moldavia, Vương quốc Wallachia, Vương quốc Bulgaria, Công quốc Silesia, Công quốc Saxony, Công quốc Palatine, Công quốc Lorraine, Công quốc Cologne, Lĩnh địa Pomerania, Công quốc Liechtenstein, Liên minh các Công quốc xứ Nederland, Lĩnh địa giáo quyền Liège.
Nederland, âm Hán Việt là Ni Đức Lan, có nghĩa là Vùng đất thấp, thường bị gọi lầm là Hà Lan (Holland) mà thực tế Hà Lan chỉ là một tỉnh (provincy) của nước này (đến năm 1840 mới được chia thành 2 tỉnh là Nam Hà Lan và Bắc Hà Lan). Khi Đế quốc La Mã Thần Thánh Dân tộc Đức suy yếu, 7 Công quốc xứ này đã ly khai thành lập Liên minh Utrecht vào năm 1568 và tuyên bố độc lập vào năm 1579. Thế nhưng, lúc này Đế quốc La Mã Thần Thánh Dân tộc Đức đã tan rã và lâm vào cảnh nội chiến. Có lẽ đây cũng là cơ hội cho các xứ Nederland độc lập chăng ?
Giữa lúc này, có thị vệ vào báo :
- Khải tấu Thánh hoàng. Chiến hạm của Điện hạ và Chiêu Đức Vương đã đến Gia Định, vì gặp phải các hạm thuyền chở cống phẩm đang bốc dỡ hàng nên chưa thể vào Quân cảng.
Giang Phong cho thị vệ lui ra, rồi hỏi Quảng Tế Pháp sư :
- Hôm nay các hạm thuyền chở cống phẩm đến Gia Định.
Quảng Tế Pháp sư tâu :
- Khải tấu Thánh hoàng. Các hạm thuyền chở cống phẩm bắt đầu từ nửa tháng trước đã lần lượt đến Long Sơn. Nhưng vì khi vào Gia Định là phải phong tỏa Gia Định Giang, ảnh hưởng đến sinh kế của dân chúng, nên thần đã cho tập trung ở Long Sơn, rồi khi đến đông đủ thì cùng vào Gia Định một lúc. Chiều qua, đoàn hạm thuyền cuối cùng đến từ Mỹ châu đã đến Long Sơn, rồi hôm nay mới cùng vào Gia Định. Do hạm thuyền chở cống phẩm nặng nề chậm chạp, nên các sứ đoàn đã đi theo thuyền nhẹ đến trước.
Giang Phong bảo :
- Được rồi. Khanh hãy ra Quân cảng tiếp đón Long nhi và Đinh khanh gia.
Quảng Tế Pháp sư vâng dạ, cáo thoái rời cung, đi ra Quân cảng tiếp đón Long nhi và Đinh An Bình.
Khi lão ra đến Quân cảng thì chiến hạm của bọn Long nhi vẫn còn ở ngoài sông, chưa thể cập cảng. Lão đành thân tự chỉ huy quan quân tập trung vận chuyển hết cống phẩm trên một hạm thuyền xuống cảng, để rồi cho hạm thuyền đó rời cảng, dành chỗ lại cho chiến hạm của bọn Long nhi.
Cuối cùng thì chiến hạm cũng có thể cập cảng. Long nhi lên bờ, thấy Quảng Tế Pháp sư chờ sẵn ở đó, kinh ngạc nói :
- Sao dám phiền lão Pháp sư chờ chúng ta ở đây ?
Quảng Tế Pháp sư cười nói :
- Ta đang ở Tử Tiêu Điện tấu trình chính sự, thì Thánh hoàng được tin Điện hạ và Đinh vương gia hồi triều, nên phái ta ra đây đón tiếp.
Long nhi vội nói :
- Không dám. Không dám. Thật phiền lão Pháp sư.
Nói đoạn, Long nhi gọi hai người em của mình đến, giới thiệu :
- Lão Pháp sư. Đây là Réne de Anjou, Công tước xứ Anjou và Charles de Le Maine, Công tước xứ Bourbon. Hai em. Đây chính là Quảng Tế Pháp sư, chưởng quản toàn bộ chính vụ của Đế quốc. Hai em hãy mau chào lão Pháp sư.
Réne de Anjou vội chắp tay chào hỏi :
- Xin bái kiến lão Pháp sư.
Charles de Le Maine đứng nép phía sau Long nhi, ló đầu ra giơ tay chào :
- Xin chào lão Pháp sư. Lão Pháp sư khỏe ạ ?
Quảng Tế Pháp sư phì cười, nói :
- Tiểu công tử đáng yêu quá !
Bé Charles quả thật là rất đáng yêu, ai thấy cũng đều quý mến.
Lại nói, sau khi Long nhi giới thiệu hai em của mình với Quảng Tế Pháp sư xong, sự ngây thơ của bé Charles khiến cho lão Pháp sư rất yêu quý. Sau đó Đinh An Bình, Thượng phụ giáo chủ Theophilus II và Hồng y Giám mục George I de Trento cùng bước đến chào hỏi. Quảng Tế Pháp sư không chỉ chưởng quản chính vụ của Đế quốc, mà còn là Nguyên lão trọng thần, theo Giang Phong sớm nhất, được Giang Phong tin tưởng giao cho quản lý cả tài sản Hoàng gia và Ám bộ - tổ chức tình báo của Đế quốc. Do vậy, trong toàn Đế quốc, trừ Giang Phong ra thì lão Pháp sư có địa vị tôn quý nhất, cả bọn Đinh An Bình và Triệu Phong, hai vị quân vụ đại thần, cũng phải tôn kính.
Trong khi đó, Hồng y Phó tế Otto de Colonna và Linh mục Jan Želivský nghe nói lão Pháp sư chưởng quản toàn bộ chính vụ của Thần Thánh Đế quốc, đều cả kinh, vội vã bước đến vái chào. Quảng Tế Pháp sư cũng chào đáp lễ, rồi nói với Long nhi :
- Dịp này có 1 vạn 8.316 sứ đoàn các tiểu quốc đến Gia Định triều cống, cống phẩm hơi nhiều, nên Điện hạ phải chờ lâu.
Long nhi ngạc nhiên hỏi :
- Có đến 1 vạn 8.316 sứ đoàn các tiểu quốc ?
Quảng Tế Pháp sư cười nói :
- Đó là chưa kể Vương quốc Latium của Điện hạ, cùng với sứ đoàn Pháp Lan Tây, Bohemia và cả 22 tiểu quốc u châu đang trên đường đến đây.
Bọn Hồng y Phó tế Otto de Colonna, Linh mục Jan Želivský và cả Réne de Anjou nghe nói có đến hàng vạn sứ đoàn các tiểu quốc, đều chấn kinh vô cùng. Bọn họ chưa có khái niệm đầy đủ về thế giới, chỉ khi tiếp xúc với Thần Thánh Đế quốc thì được biết thêm về Mỹ châu, Phi châu, và biết rằng những nơi đó lớn hơn u châu rất nhiều lần. Đến khi nhìn thấy Thế Giới Đồ Bản trên chiến hạm của Đế quốc Hải quân thì mới biết được diện mạo thế giới và sự rộng lớn của Thần Thánh Đế quốc. Đối với những địa phương phức tạp, khó chinh phục, Giang Phong cho phép bọn họ thần phục trên danh nghĩa với một khoản cống nạp nhẹ nhàng. Do đó mà các xứ đông Mông Cổ (các lĩnh địa của người Mông Cổ, trừ Hãn quốc Kim trướng và Hãn quốc Chagotai ở phía tây), bắc Trung Hoa (trừ vùng Hà Bắc của Đại Minh) Đông Doanh, Triều Tiên (trừ vùng 3 đạo trung bộ của Lý thị vương triều), nội địa A Lạp Bá (vùng sa mạc Arab), nội lục Phi châu, Mỹ châu đều được xem là lĩnh thổ của Đế quốc. Trên danh nghĩa, lĩnh thổ của Thần Thánh Đế quốc đã chiếm trên 90% diện tích địa cầu (đương nhiên là có rất nhiều vùng đất chỉ trên danh nghĩa).
Trong khi đó, bé Charles nghe nói đến cống phẩm, ngơ ngác nhìn quanh với vẻ hiếu kỳ, hỏi :
- Cống phẩm ở đâu ạ ?
Quảng Tế Pháp sư nhìn bé, rồi nhìn Long nhi, mỉm cười nói :
- Nếu như Điện hạ muốn xem cống phẩm thì xin mời.
Long nhi ngần ngại nói :
- Cống phẩm chư quốc tiến cống lên phụ hoàng, chúng ta xem trước có tiện không ạ ?
Quảng Tế Pháp sư mỉm cười nói :
- Không hề gì ! Cống phẩm sau khi kiểm kê sẽ được chuyển hết vào kho, chưa chắc Thánh hoàng có thời gian nhìn đến nó. Đối với Thánh hoàng, của cải chẳng qua cũng chỉ là những con số mà thôi. Hiện tại trong cung đã tràn ngập kim ngân tài vật, kỳ trân dị bảo. Có lẽ sang năm lại phải mở rộng Trường Thanh Cung một lần nữa.
Nói đoạn lão nắm tay bé Charles, dẫn đi xem cống phẩm, vừa đi vừa vui vẻ nói :
- Tiểu công tử cứ tự nhiên thoải mái như ở nhà vậy. Không cần phải ngại. Thật ra thì ta cũng chưa nhìn thấy cống phẩm, cũng muốn xem cho biết.
Mọi người liền đi về phía trung tâm Quân cảng. Ở đó có một khu vực được dựng mái che, bên dưới bày la liệt hàng chục vạn chiếc rương lớn nhỏ đủ loại. Đó là những rương cống phẩm được tạm chuyển lên đây, chờ đưa vào cung cất giữ. Quảng Tế Pháp sư ra lệnh cho quan quân mở nắp rương ra xem. Ngay lập tức, ánh châu quang bảo khí làm mọi người lóe mắt. Trong các rương toàn là kim ngân tài vật hay kỳ trân dị bảo. Một lượng lớn tài bảo tập trung vào một chỗ, làm đa số mọi người chấn kinh đến mức mất cả tư duy, mất cả cảm giác, chỉ biết đứng lặng người mà nhìn về phía châu quang bảo khí. Hàng trăm chiến hạm cỡ lớn chở đầy cống phẩm cũng đủ thấy số lượng lớn đến mức nào. Đương nhiên bọn Quảng Tế Pháp sư, Đinh An Bình thường xuyên diện đối số lượng lớn cống phẩm, nên vẫn xem như thường. Đế quốc đâu phải lần đầu tiên thu nhận cống phẩm, chỉ có không nhiều, không tập trung như lần này mà thôi. Dù vậy, số lượng tài bảo trong Trường Thanh Cung cũng vô cùng lớn, nhiều hơn số trên bến cảng nhiều. Đế quốc tụ tập hơn chục năm nay kia mà. Thành ra bọn họ đối diện số lượng lớn cống phẩm, chỉ cảm thấy tự hào mà thôi.
Quảng Tế Pháp sư gọi Long nhi :
- Điện hạ. Chúng ta xem qua một lượt thôi rồi còn nhập cung diện thánh.
Long nhi giật mình, quay mặt đi, gật đầu nói :
- Phải rồi. Chúng ta đi thôi.
Nói rồi đến bế bé Charles lên. Bé Charles còn quá nhỏ, không có khái niệm về kim ngân tài bảo, chỉ xem đó là những thứ đồ chơi rất đẹp mà thôi. Bé chỉ vào một viên hồng ngọc to bằng nắm tay, tỏa ánh hồng quang lấp lánh, nói :
- Đẹp quá anh ơi !
Long nhi âu yếm xoa đầu bé, mỉm cười bảo :
- Được rồi. Chúng ta hãy về cung nghỉ ngơi. Em đói chưa nào !
Bé vội gật đầu nói :
- Vâng. Em đói rồi ạ. Chúng ta đi ăn đi !
Réne de Anjou chợt hỏi :
- Anh ơi. Toàn bộ số cống phẩm đó đều là lễ vật các nước dâng lên Thánh hoàng phải không ạ ?
Long nhi gật đầu nói :
- Phải rồi.
Quảng Tế Pháp sư lại nói thêm :
- Bao nhiêu đây cũng chỉ là một bộ phận. Còn rất nhiều trên chiến hạm chưa được chuyển xuống. Ngoài ra còn có 10 vạn chiến mã cống phẩm từ các xứ Mông Cổ đang được nuôi dưỡng ở Mã trường tại Long Sơn.
Hồng y Phó tế Otto de Colonna và Linh mục Jan Želivský ở gần đó đều giật thót mình khi nghe nhắc đến 10 vạn chiến mã. Khác với kim ngân tài bảo, chiến mã đồng nghĩa với chiến lực. Có được 10 vạn chiến mã thì cũng có thể huấn luyện được 10 vạn kỵ binh. Nghĩ đến 10 vạn kỵ binh xung trận, ai nấy đều rùng mình. Chiến mã khác với phổ thông mã. Phổ thông mã chỉ có thể dùng làm sức kéo, còn chiến mã dùng cho chiến trận, quý hơn nhiều. Ít thì không sao, nhưng với một số lượng lớn thì không hẳn có tiền là mua được. Vương quốc Pháp Lan Tây tập trung toàn quốc cũng chỉ được hơn vạn kỵ sĩ. Vương quốc Anh Cách Lan chỉ có hơn nghìn. Đế quốc Mông Cổ chỉ dùng 2 vạn kỵ binh để tấn công u châu, cũng đủ thấy ở u châu chiến mã quý hiếm đến mức nào.
Réne de Anjou nghe vậy, lại rụt rè nói :
- Anh ơi. Em không có lễ vật gì hết nha !
Quảng Tế Pháp sư phì cười bảo :
- Không sao. Người nhà cả mà. Không cần đâu.
Nói rồi lão dắt Réne de Anjou đi trước, Long nhi bế bé Charles đi theo, cùng rời Quân cảng. Những người khác cũng vội vã theo sau. Khi vào thành, Đinh An Bình cáo từ đi về vương phủ của mình. Đức Thượng phụ giáo chủ Theophilus II có dinh thự riêng trong thành, nên cũng từ biệt mọi người đi về đó nghỉ ngơi. Quảng Tế Pháp sư bảo Long nhi lo an bày cho các em của mình nghỉ ngơi ăn uống trước. Còn lão thì quay về hồi báo với Giang Phong.
Chính Đức Điện là cung điện của Long nhi, cách Tử Tiêu Điện không xa. Long nhi đưa hai em của mình cùng với Hồng y Phó tế Otto de Colonna và Linh mục Jan Želivský về đấy nghỉ ngơi. Thị nữ được lệnh chuẩn bị yến tiệc. Long nhi nghe lời Quảng Tế Pháp sư, lo cho các em của mình ăn uống trước. Bé Charles còn quá nhỏ, ở đây lạ chỗ lạ người, nên Long nhi phải đích thân chăm lo cho bé.
Khi cả bọn đã ăn uống xong, Long nhi định đi bái kiến phụ hoàng, thì Quảng Tế Pháp sư lại đến. Trên tay lão cầm một chiếc rương nhỏ, nhìn thấy bé Charles liền cười hỏi :
- Tiểu công tử ăn uống có ngon miệng không nào ?
Bé Charles gật đầu nói :
- Ngon lắm ! Ngon lắm ạ !
Quảng Tế Pháp sư đưa chiếc rương nhỏ trên tay ra, cười nói :
- Quà cho tiểu công tử đây này ?
Bé Charles nhận lấy, ngạc nhiên hỏi :
- Gì thế ạ ?
Quảng Tế Pháp sư cười bảo :
- Tiểu công tử cứ mở ra xem thì biết.
Bé Charles vâng lời mở ra xem. Bên trong chính là viên hồng ngọc mà bé nhìn thấy ở ngoài Quân cảng, nên hớn hở nói :
- Cám ơn lão Pháp sư.
Long nhi nghi ngại nói :
- Lão Pháp sư. Đây là cống phẩm. Có được không ạ ?
Quảng Tế Pháp sư cười nói :
- Sao lại không được. Đây là quà của Thánh hoàng ban cho tiểu công từ đấy nhé. Chứ ta làm sao dám nhiễm chỉ cống phẩm.
Long nhi thở phào nói :
- Thế thì hay quá.
Thấy Réne de Anjou nhìn viên hồng ngọc trên tay bé Charles đầy vẻ tiện mộ, Quảng Tế Pháp sư lại bảo :
- Thánh hoàng còn có quà ban cho Réne, đang ở bên ngoài đó.
Réne de Anjou cả mừng chạy vội ra ngoài cung điện, nhìn thấy một con bạch long câu nhỏ, cương vàng yên ngọc rất xinh đẹp, liền rối rít cảm tạ. Sau đó, Long nhi đi theo Quảng Tế Pháp sư đi bái kiến phụ hoàng.
Chương 121 : TRIỀU THÁNH , GIA MIỆN
Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.519 (Đinh Dậu, 1417). Mùa đông, tháng 10. Gia Định Thành. Trường Thanh Cung. Văn Nghi Điện.
Theo đúng kế hoạch, buổi triều hội đầu tiên của tháng 10 (đúng ngày sóc, tức ngày mùng 1) cũng là lúc tiếp kiến các phương sứ tiết. Lúc này, sứ tiết của u châu chư quốc chỉ mới có sứ tiết của Vương quốc Anh Cách Lan, Vương quốc Tô Cách Lan, Vương quốc Ái Nhĩ Lan, Vương quốc Đan Mạch, Vương quốc Ba Lan, Vương quốc Moldavia, Vương quốc Wallachia, Công quốc Palatine, Công quốc Liechtenstein, Liên minh các Công quốc xứ Nederland và Lĩnh địa giáo quyền Liège là đến nơi. Những sứ đoàn còn lại chưa đến kịp, và Giang Phong cũng không có ý định chờ đợi.
Tùng tùng tùng tùng tùng tùng …
Boong boong boong boong boong boong …
Long Phụng Cổ nổi dồn dập, Cảnh Dương Chung gõ liên hồi, báo hiệu điển lễ bắt đầu. Lúc này thời gian là chính Thìn, tức 8 giờ sáng, tất cả quan viên từ cấp tỉnh trở lên, hoặc tướng lĩnh quân đội từ Lục quân Hiệu úy, Hải quân Đô đốc trở lên đều tề tụ Trường Thanh Cung, tham gia đại điển. Các phương sứ tiết cũng đã tụ tập đông đủ. Bọn họ thuộc vô số dân tộc, tôn giáo, địa vực, y phục hoa lệ rực rỡ, đủ màu đủ kiểu. Ngự Lâm quân, Cấm vệ quân, Túc vệ quân dàn bày nghiêm chỉnh, kiếm kích sáng ngời. Mấy chục vạn người tụ tập trước Văn Nghi Điện mà vô cùng trật tự. Trận dung hùng hậu, khí thế uy nghiêm khiến mọi người ngây ngất, có cảm giác như đang trong mộng. Đặc biệt là các vị Đế vương Trung Hoa. Lần này đất Trung Hoa ngoài Hoàng Đế Đại Tống, còn có thêm Hoàng Đế Đại Hán, Hoàng Đế Đại Đường và Lương vương thân đến tham dự. Trận dung của đại điển vượt hẳn quan niệm ‘vạn quốc lai triều’ của bọn họ. Phải như thế này mới có thể hào xưng là ‘vạn quốc lai triều’. Chứ ở Trung Hoa trước đây, chỉ có vài quốc gia lân cận đến triều cống mà cũng dám xưng ‘vạn quốc lai triều’, thật đáng hổ thẹn.
Đã 19 năm kể từ khi Giang Phong xuyên việt đến đây, đã 10 năm kể từ khi Thần Thánh Đế quốc thành lập, Đế quốc đã phát triển vượt bậc, cường thịnh vô song. Hải quân Đế quốc xuất hiện khắp các đại dương, cờ xí của Đế quốc xuất hiện khắp các lĩnh thổ. Kim tệ của Đế quốc hầu như trở thành tiền tệ chính thức của thế giới (các đồng florin của u châu, các kim nguyên bảo của Trung Hoa chẳng còn mấy ai sử dụng nữa, bởi Thần Thánh Đế quốc không chấp nhận nó). Văn minh của Đế quốc lan truyền khắp năm châu bốn biển. Và Giang Phong trở thành ‘thần’ của ức vạn thần dân.
(chú : ngày xưa người phương đông sử dụng hệ tính ‘vạn’ chứ không phải ‘nghìn’ như người phương tây; tức ‘vạn’, rồi vạn vạn là ‘ức’, vạn ức là ‘tỷ’, ‘tỷ’ này tương đương ‘tỷ Anh’, tức ‘triệu triệu’ chứ không phải ‘nghìn triệu’, bằng ‘1000 tỷ Mỹ’; hiện tại ở Trung Hoa, Nhật Bản cũng còn sử dụng; ví dụ ‘100 万’, ‘100 wan’, ‘100 man’ tức là 100 vạn, cũng là 1 triệu).
Sau khi trống đánh chuông rung, đại điển chính thức bắt đầu. Giang Phong vận bạch y bạch bào, ngọc đái ngọc quan, ngự trên kim long ỷ. Quảng Tế Pháp sư dẫn đầu bách quan quỵ phục trước kim giai triều bái, tung hô :
- Thánh hoàng nhân nghĩa anh minh. Vạn tuế vạn tuế vạn vạn tuế.
Giang Phong phán :
- Bình thân.
Chúng triều thần đứng dậy, chia hai hàng đứng hầu hai bên kim giai. Dàn nhạc diễn tấu khúc Gia lạc, ca tụng công đức Thánh hoàng.
“Gia lạc quân tử,
Hiển hiện lệnh đức,
Nghi dân nghi nhân,
Thụ lộc vu thiên,
Bảo hựu mệnh chi,
Tự thiên thân chi.
Can lộc bách phúc,
Tử tôn thiên ức,
Mục mục hoàng hoàng,
Nghi quân nghi vương,
Bất khiên bất vong,
Suất do cựu chương.
Uy nghi ức ức,
Đức âm trật trật,
Vô oán vô ố,
Suất do quần thất,
Thụ phúc vô cương,
Tứ phương chi cương.
Chi cương chi kỷ
Yến cập thần tử,
Vạn bích khanh sĩ,
Mỵ vu thánh hoàng,
Bất giải vu vị,
Dân chi du hý.”
Tạm dịch :
Nhà vua anh tuấn vui tươi
Lại còn đức tốt rạng ngời đẹp thay !
Thích hợp với dân hay quan tước,
Lộc trời vua được hưởng dồi dào
Trời phù hộ, dạy giúp vào
Tự trời hành động biết bao nhiêu lần !
Lộc cầu trăm phúc được liền,
Cháu con thì số ức thiên vô cùng.
Lại tuấn tú khiêm cung tất cả,
Ở ngôi vương hoặc giả chư hầu,
Đều không tội lỗi tí nào,
Noi theo phép tắc dựa vào phép xưa.
Uy nghi thận trọng kín thầm
Đều đều hằng có tiếng tăm tốt lành.
Con cháu không riêng tình ghét oán,
Nhiệm dụng người tài cán cao sâu.
Phúc thì vô hạn dồi dào,
Làm nên giềng mối, trông vào bốn phương.
Thánh hoàng ổn định kỷ cương
Bề tôi nhờ đó mà hòng được an.
Vạn chư hầu và hàng khanh sĩ,
Đều mến thương, tôn kính thánh hoàng,
Chẳng lười chức vị đã dành,
Thì dân chúng được yên lành vui chơi.”
Bài này thuộc thiên Đại nhã của Kinh Thi, nói về đức độ của vua, thích hợp với triều thần bách tính, nên được hưởng lộc trời dồi dào. Trời cũng bảo hộ, giúp đỡ vua trong mọi việc, con cháu đông, tuấn tú và tài giỏi. Vua chăm lo triều chính, ổn định kỷ cương, thì triều thần chư hầu, đều kính mến vua, và bách tính được an cư lạc nghiệp. Đương nhiên nội dung của bài đã được chỉnh sửa lại cho thích hợp với Đế quốc, bởi quy mô của Đế quốc lớn hơn nhà Chu cả nghìn lần.
Tiếp đó, lễ quan cao giọng xướng :
- Truyền bách phương sứ tiết thượng triều kiến giá.
Tiếp đó, các phương sứ tiết theo thứ tự lần lượt nhập điện. Lượt đầu tiên gồm có sứ tiết các Đế quốc như Đại Tống, Đại Hán, Đại Đường, Tấn, Đông Doanh, Mông Cổ. Đó là những chư hầu bậc thứ nhất của Thần Thánh Đế quốc, hiệu xưng Đế. Đông Doanh và Mông Cổ tuy không thống nhất, phiên quốc hoặc hãn quốc rất nhiều, nhưng vẫn có một chính quyền trung ương trên danh nghĩa, nên vẫn được xem là đại quốc. Các vị Hoàng Đế Đại Hán, Đại Đường dù thân cư đế vị, nhưng khi nhập điện thì cũng cảm thấy chấn kinh không sao kể siết. Chính là ‘cư di khí, dưỡng tu thể’. Giang Phong gần 20 năm thân cư cao vị, làm Thánh hoàng, làm thần linh, lẽ nào không thể bồi dưỡng được một điểm khí chất. Hơn nữa, lúc này Giang Phong ngự trên long ỷ ở giữa kim giai. Mà long ỷ với kim giai là trung tâm của toàn đại điện, được thiết kế tam phẩm cửu giai, cùng với bối cảnh kim long cực lớn, tứ bề kim bích huy hoàng, khiến cho sự uy nghiêm của hoàng gia phát huy đến cực độ. Thêm vào đó, Giang Phong từ trên cao nhìn xuống, thần sắc uy nghiêm, dù cho chúng thần linh có lẽ cũng chỉ được thế mà thôi. Người Trung Hoa vốn tin vào ‘hoàng giả chi khí’. Đó có lẽ là ‘hoàng giả chi khí’ chăng ?
Lượt thứ hai gồm các vương quốc nhỏ hơn, dẫn đầu là Hạ, Lương, rồi đến các vương quốc Kim (bắc Triều Tiên bán đảo), Cao Ly (nam Triều Tiên bán đảo), Anh Cách Lan, Tô Cách Lan, Đan Mạch, Ba Lan, Moldavia, Đại lĩnh địa Trento – Tyrol, và những tiểu vương quốc lớn các xứ nam Thiên Trúc, A Lạp Bá, Somali. Đó là những chư hầu bậc thứ hai, hiệu xưng Vương.
Lượt thứ ba gồm những tiểu vương quốc trung bình các xứ nam Thiên Trúc, A Lạp Bá, Somali, Phi châu, Mỹ châu, thêm vào đó là một số vương quốc, công quốc ở u châu như : Vương quốc Ái Nhĩ Lan, Vương quốc Wallachia, Công quốc Palatine, Công quốc Liechtenstein, Liên minh các Công quốc xứ Nederland và Lĩnh địa giáo quyền Liège. Đó là những chư hầu bậc thứ ba, hiệu xưng Công.
Lượt thứ tư gồm những tiểu quốc và bộ lạc còn lại, được xem là chư hầu bậc bốn, hiệu xưng Hầu, Bá, Tử, Nam. Đấy là những tước vị được Thần Thánh Đế quốc công nhận, đương nhiên vẫn phải thấp hơn trực thần một bậc. Tức là Hoàng Đế Đại Tống, Đại Đường, Mông Cổ, … sẽ có địa vị tương đương tước hiệu Chiêu Đức Vương của Đinh An Bình.
Văn Nghi Điện đã được mở rộng, có thể tổ chức buổi đại triều với 1 vạn người tham gia, nhưng lúc này trở nên chật chội với gần 2 vạn người chen chúc với nhau. Tuy vậy, những người có mặt trong điện cũng vẫn lấy làm hãnh diện, bởi còn có hơn chục vạn người đang phải ở bên ngoài. Các phương sứ tiết cứ theo lượt triều bái, không tiến hành từng người một, bởi có đến cả vạn sứ thần, nếu từng người một hành lễ thì biết bao giờ mới xong.
Sau đó là đến phiên gia miện, thụ phong cho một số vương công. Đầu tiên là Long nhi, gia miện Hoàng đế. Vương quốc Latium được chính thức thăng cấp lên thành Đế quốc Latium. Long nhi quỳ trước kim giai, Giang Phong thân tự đội hoàng quan cho Long nhi. Dàn nhã nhạc trỗi khúc Thăng bình. Lễ quan xướng :
“Tung cao duy nhạc,
Tuấn cực vu thiên,
Tứ quốc vu phiền,
Tứ phương vu tuyên.”
Tạm dịch :
Sừng sững cao chính là ngọn núi
Nhô vút lên thấu đến trời mây.
Cõi bờ các nước bốn phương,
Phô truyền bốn hướng nên vương hóa này.
Tiếp theo là đến lượt Hồng y Giám mục George I de Trento, được gia miện thành Quốc vương. Đại lĩnh địa Trento – Tyrol được thăng cấp lên thành Vương quốc Trento. Giang Phong cũng đích thân gia miện. Lễ quan xướng :
“Điểu tùy loan phượng phi đằng viễn,
Nhân bạn hiền lương phẩm tự cao.”
Tạm dịch :
Chim theo loan phượng bay xa,
Người gần hiền sĩ thanh cao hơn người.
Rồi đến Réne de Anjou được phong là Quốc vương Anjou. Cuộc vận động để nhà Anjou lên nắm quyền ở Pháp Lan Tây vẫn chưa ngã ngũ. Giang Phong trực tiếp tách các lĩnh địa của nhà Anjou ra khỏi Vương quốc Pháp Lan Tây, thành lập Vương quốc Anjou, phong cho Réne làm Quốc vương. Riêng lĩnh địa Bourbon của bé Charles được tách ra thành lập Công quốc Bourbon độc lập. Dù là nước nhỏ, nhưng được Đế quốc Latium hậu thuẫn nên rất vững vàng ổn định.
Chương 122 : HUY NHI HẠ SINH
Dục Thánh Điện. Đó là một tòa cung điện có địa vị đặc thù trong Trường Thanh Cung. Bình thường nơi đó để trống, nhưng hôm nay lại đông đúc khác thường. Trên từ Thánh hoàng, dưới đến văn vũ bách quan đều tụ tập trong điện ngoài điện. Hôm nay là một ngày đặc biệt của Đế quốc. Bên cạnh Giang Phong tụ tập đông đủ văn vũ trọng thần, gồm Quảng Tế Pháp sư, Long nhi, Chiêu Đức Vương Đinh An Bình, Chiêu Vũ Vương Triệu Phong, Chiêu Liệt Vương Phạm Thế Căng, Chiêu Minh Vương Cát Ti, Diễn Công Đào Anh, Định Công Lý Ngân, Hải Công Mã Tân. Đây là những vương công đại nhân có địa vị cao nhất trong triều đình Đế quốc. Quảng Tế Pháp sư không phải là vương công, mà có tước hiệu Đại Pháp sư, là Thánh hoàng Đại ngôn nhân, là người được xem gần gũi với thần linh nhất. Vì Giang Phong là ‘thần’, nên tước hiệu của Quảng Tế Pháp sư giống như Đức Thượng phụ của Giáo hội Nguyên thủy hay lĩnh tụ của những tôn giáo khác vậy. Chỉ có điều lúc này Thần Thánh Đế quốc quá hùng mạnh, chiếm ưu thế tuyệt đối trên thế giới, nên Đông Phương Thiên Đế được xem là hùng mạnh hơn Tây Phương Thiên Chủ, do vậy mà địa vị của lão Pháp sư cũng hiển hách hơn.
Hôm nay, đứa con đầu tiên của Giang Phong sắp xuất sinh, quần thần văn vũ đều hy vọng vị Hoàng tử đầu tiên của Đế quốc chào đời, nên đều tụ tập lại đây chờ đợi tin tức. Giang Phong lên ngôi mười mấy năm nay mà vẫn không có con cái, nên quần thần bách tính đều rất lo lắng. Hoàng gia không người thừa kế, Đế quốc sẽ gặp nguy cơ. Mọi người đã quen sống dưới sự hùng mạnh của Đế quốc. Thuế phú nhẹ nhàng, giáo dục bắt buộc, triều chính thanh minh, là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự thịnh vượng của Đế quốc. Hiện tại, những khu vực do Đế quốc trực tiếp kiểm soát cũng là những khu vực văn minh, sung túc nhất thế giới. Do vậy, không ai hy vọng Đế quốc sẽ tan rã. Nhược quốc bị hiếp đáp, còn cường quốc thì đi hiếp đáp nước khác. Chẳng ai muốn mình bị hiếp đáp cả. Mặc dù Long nhi cũng là Hoàng tử của Đế quốc. Thế nhưng, Long nhi chỉ là con nuôi, theo phong tục Á Đông không thích hợp để kế thừa ngôi đại thống. Theo phong tục, chỉ có con ruột, hoặc những người trong thân tộc Hoàng gia mới được kế ngôi (vua không có con thì truyền ngôi cho anh em, hoặc cháu họ). Cuối thời Trần có một vụ nhường ngôi cho con nuôi, đã gây ra nguy cơ rất lớn cho Đại Việt.
Gần 50 năm trước, tức năm Kỷ Dậu (1369), Trần Dụ Tông mất, không có con. Triều đình tôn thất định tôn Cung Định Vương là anh của Trần Dụ Tông lên ngôi, nhưng bà Hoàng Thái Hậu nhất định lập người con nuôi của Cung Túc Vương là Dương Nhật Lễ. Nguyên mẹ của Lễ là người hát xướng, lấy người hát bội tên là Dương Khương, có thai rồi mới bỏ Dương Khương mà lấy Cung Túc Vương, sinh ra Lễ. Khi Lễ lên làm vua, cải họ là Dương để dứt ngôi nhà Trần, rồi giết bà Hoàng Thái Hậu và Cung Định Vương. Lúc bấy giờ, Cung Tĩnh Vương đang ở kinh sư cũng sợ bị hại, vả lại tính khí cũng nhu nhược, không có ý tranh cạnh, mới bỏ trốn lên mạn Đà Giang. Các tôn thất nhà Trần hội nhau đem quân về bắt Lễ giết đi, rồi rước Cung Tĩnh Vương về làm vua, tức là Trần Nghệ Tông. Khi Lễ bị giết, mẹ Lễ chạy sang Chiêm Thành, xin với vua Chiêm là Chế Bồng Nga đem quân sang đánh Đại Việt. Quân Chiêm vượt biển vào cửa Đại An, kéo lên đánh Thăng Long. Quân Trần đánh không nổi, Nghệ Tông phải chạy lên Đông Ngạn (thôn Cổ Pháp, làng Đình Bảng). Quân Chiêm vào thành, đốt sạch cung điện, bắt đàn bà con gái, lấy hết các đồ châu ngọc, rồi mới rút quân về. Và cũng từ đó, quân Chiêm quen đường, cứ vài năm là lại sang đánh cướp một trận, mãi đến khi Phạm Thế Căng trấn thủ Nam Trấn mới chấm dứt.
Nói tóm lại, mọi người mong chờ một vị Hoàng tử để có thể kế thừa đại thống. Long nhi cũng hiểu vị thế của mình, nên hài lòng với ngôi vị Hoàng đế của Đế quốc Latium. Long nhi không có căn cơ gì ở Thần Thánh Đế quốc, hơn nữa tình cảnh của nhà Anjou lúc này so với 3 năm trước khác nhau một trời một vực, nên không có gì để không hài lòng cả. Ngay cả Vương quốc Pháp Lan Tây cũng không chấp nhận Quốc vương Anh Cách Lan làm Quốc vương của mình kia mà. Dù rằng Quốc vương Anh Cách Lan là cháu ngoại của Quốc vương Pháp Lan Tây đời trước, và dòng chính của ngôi Quốc vương Pháp Lan Tây hết người thừa kế.
Ở bên ngoài phòng tiếp sinh, trong lúc quần thần bồn chồn hồi hộp thì Giang Phong vẫn bình tĩnh ngự trên long ỷ chờ đợi. Giang Phong biết rõ tình trạng cơ thể của mình, có sống đến trăm tuổi có lẽ cũng không thành vấn đề, nên không quá quan tâm con trai hay con gái. Sau khi xuyên việt, không biết bị ảnh hưởng gì của thì không loạn lưu hay không mà sức khỏe của Giang Phong càng ngày càng tốt, gần 20 năm nay mà chẳng có bệnh tật gì cả, thậm chí cũng chẳng bị suy lão. Đúng là thần tích !
Quần thần bồn chồn một lúc, rồi thấy Giang Phong vẫn lặng yên ngồi đó, cũng đành phải nén lòng mà ngồi một chỗ. Rồi chuyện gì đến cũng phải đến. Hồi lâu sau, từ trong phòng tiếp sinh truyền ra tiếng khóc oe oe của trẻ con. Một tân sinh mệnh đã chào đời. Quần thần ai nấy đều hồi hộp, đứng bật cả dậy. Rồi cửa phòng bật mở, chúng thái y ùa ra, hướng vào Giang Phong vái lạy, chúc tụng :
- Cung hỷ Thánh hoàng. Hoàng tử đản sinh.
Giang Phong nhìn tiểu hài tử nằm yên trong lòng một vị lão thái y, mỉm cười hạnh phúc, bước đến gần định bế. Bé trắng trẻo mủm mỉm, hai mắt mở to, nhìn Giang Phong giây lát, rồi thật bất ngờ, bé giơ hai cánh tay nhỏ xíu ra, thỏ thẻ gọi :
- Ba ba.
Thấy bé biết gọi ‘ba ba’ và đòi bế, Giang Phong hoan hỉ ôm bé vào lòng, âu yếm xoa đầu bé, khen :
- Con ngoan lắm. Hy vọng sau này con có thể kế thừa cơ nghiệp của phụ hoàng.
Chúng triều thần thấy Hoàng tử mới vừa hạ sinh đã biết gọi ‘ba ba’, sau giây phút kinh ngạc sững sờ, thì đều hết lời chúc tụng Giang Phong có được ‘thánh tử’. Mọi người nghĩ đến thân phận của Giang Phong, nên cảm thấy thần tích xuất hiện cũng chẳng có gì là lạ. Quảng Tế Pháp sư hớn hở nói :
- Hoàng tử mới sinh mà đã thông minh như thế, sau này chắc chắn sẽ có thế kế thừa ngôi đại thống.
Giang Phong mỉm cười, xoa đầu bé, âu yếm nói :
- Hy vọng được như thế. Cố lên con nhé.
Thấy Quảng Tế Pháp sư và chúng triều thần ngơ ngác nhìn nhau, Giang Phong mỉm cười bảo :
- Tất cả hài tử của trẫm đều mang huyết thống thần thánh, đến khi nào huyết thống đó thức tỉnh thì mới có thể kế thừa cơ nghiệp của trẫm. Phàm nhân chỉ có thể làm thái bình vương, không thể kế vị.
Quảng Tế Pháp sư nói :
- Hoàng tử thông minh thế này, sau này chắc chắn sẽ đủ tư cách kế vị.
Giang Phong mỉm cười :
- Trẫm cũng mong như thế. Phải không con ?
Bé nãy giờ nằm yên trong lòng Giang Phong, nghe mọi người nói chuyện, có lẽ cũng hiểu mọi người đang nói gì, nên khi nghe Giang Phong nói thế liền gật đầu. Giang Phong cao hứng quá, suy nghĩ giây lát, rồi nói :
- Huy nhi. Con sẽ là Giang Thiếu Huy.
Bé nghe nói thế, lại gật đầu. Long nhi đứng bên cạnh, thấy bé đáng yêu quá, liền bước đến nói :
- Phụ hoàng ơi ! Cho Long nhi bế em bé với.
Huy nhi đưa mắt nhìn Long nhi, rồi chợt giơ hai cánh tay nhỏ xíu ra, gọi khẽ :
- Ca.
Long nhi hớn hở bế Huy nhi vào lòng, hôn vào đôi má phúng phính của bé. Giang Phong quay sang chúng triều thần bảo :
- Phong cho Cầm nhi làm Vân Phi. Truyền toàn quốc đại khánh.
Nói xong liền đi vào trong phòng tiếp sinh thăm Cầm nhi, mẹ của Huy nhi. Long nhi cũng vội bế Huy nhi đi theo. Ở Trường Thanh Cung chỉ có cung nhân, Giang Phong chưa lập hậu phi. Cầm nhi sau khi sinh hạ Huy nhi mới trở thành vị phi tử đầu tiên. Tiêu chuẩn để trở thành phi tử là phải hạ sinh hài tử, bất kể con trai hay con gái. Còn hoàng hậu thì … theo ý Giang Phong, phàm nhân không đủ tư cách trở thành hoàng hậu. Giang Phong không biết có thể sống được đến bao nhiêu tuổi, nhưng trường sinh bất lão, nếu mấy chục năm sau hoàng hậu là bà lão 80 tuổi, trong khi Giang Phong dáng vẻ vẫn đôi mươi thì thật không ổn.
Tin tức từ trong cung nhanh trong truyền ra bên ngoài, dân chúng đều biết hoàng gia có thêm hoàng tử, và đặc biệt là hoàng tử vừa mới xuất sinh đã biết nói, đã biết gọi ‘ba ba’, ‘ca ca’ và còn biết đòi bế nữa. Thật không hổ danh là con của Thánh hoàng. ‘Thánh tử’ có khác. Khắp kinh thành tưng bừng lễ hội, đèn hoa cờ xí rực rỡ, pháo nổ vang dội khắp nơi. Mọi người lũ lượt đổ ra đường phố. Hoàng gia cũng cho bày đồ ăn thức uống khắp nơi để cùng dân chúng chung vui.
Chương 123 : TN CHIẾN LƯỢC
Sau khi Huy nhi hạ sinh, Giang Phong rất cao hứng. Hàng loạt biểu tấu của triều thần nhân đó cũng được phê chuẩn dễ dàng. Triệu Phong cả năm nay ở Trường Hưng Thành rảnh rỗi an nhàn đến phát chán, nên đã dâng biểu xin được xuất chinh nam Thiên Trúc, thảo phạt Vương triều Vijayanagara. Lý do được đưa ra là Vương triều Vijayanagara tấn công các nước chư hầu của Đế quốc ở vùng nam Thiên Trúc.
Số là ở nam Thiên Trúc có đến hàng trăm tiểu quốc lớn nhỏ, nếu kể luôn những tiểu quốc chỉ gồm một tòa thành thị thì phải lên đến cả nghìn. Lúc bấy giờ, bán đảoÂn Độ còn được gọi là các xứ Thiên Trúc. Vùng bắc Thiên Trúc thuộc quyền kiểm soát của người Mông Cổ, vùng nam Thiên Trúc thuộc quyền thống trị của Vương triều Vijayanagara. Thế nhưng, triều đình Vijayanagara đóng đô ở thành Vijayanagara trên cao nguyên Decan, và chỉ kiểm soát được những khu vực lân cận. Những khu vực khác thuộc vùng nam Thiên Trúc bị chia ra thành cả nghìn tiểu quốc, do các vị tiểu vương tự cai trị lấy, chỉ thần phục và nộp cống cho Vương triều Vijayanagara. Càng về phía nam, càng xa khu vực cao nguyên Decan, sự thống trị của Vương triều Vijayanagara càng yếu ớt.
Từ khi quân đội của Thần Thánh Đế quốc tiến vào khu vực nam Thiên Trúc, buộc Vương triều Vijayanagara phải dùng trọng lễ cầu hòa, thì uy tín của triều đình Vijayanagara giảm đi nhanh chóng. Các tiểu quốc chư hầu nhận thấy triều đình Vijayanagara đã suy yếu, nên bắt đầu dương phụng âm vi, dần dần chỉ còn thần phục trên danh nghĩa. Thậm chí, nhiều tiểu quốc tương đối hùng mạnh còn phớt lờ những mệnh lệnh của Vijayanagara. Ngoài ra, một số tiểu quốc khác thần phục Vương triều Vijayanagara chủ yếu là tìm chỗ dựa để được bảo hộ, thì nay lại thấy tôn chủ quốc không còn đủ mạnh nữa, không đủ sức bảo hộ bọn họ nữa. Thế là bọn họ quyết định tìm chỗ dựa mới đáng tin cậy hơn. Và tất cả đều hướng về Thần Thánh Đế quốc, bởi lúc bấy giờ, có nước nào hùng mạnh hơn Thần Thánh Đế quốc kia chứ. Vậy là Thần Thánh Đế quốc đã có thêm rất nhiều chư hầu mới ở vùng nam Thiên Trúc, đặc biệt là những tiểu quốc lân cận vùng duyên hải, có quan hệ kinh tế và chịu ảnh hưởng trực tiếp của Thần Thánh Đế quốc.
Vương triều Vijayanagara thấy nhiều tiểu quốc chư hầu theo gió trở cờ, đương nhiên không hài lòng, một mặt phái sứ giả sang Gia Định kháng nghị, mặt khác cử binh thảo phạt những tiểu quốc từ chối thần phục bọn họ. Dù sao thì những tiểu quốc đó cũng là chư hầu của Đế quốc, nên quân đội trú đóng ở Tích Lan đã tiến vào nam Thiên Trúc viện trợ. Chỉ có điều trú quân ở Tích Lan quá ít, đối phó không xuể, nên trước sau đã có gần chục tiểu quốc bị chiếm giữ, tiểu vương phải lưu vong sang Tích Lan. Những vị này đã liên hợp lại dâng biểu về Gia Định xin Đế quốc xuất quân giúp bọn họ phục quốc. Chính vì vậy mà Triệu Phong đã dâng biểu xin suất quân thảo phạt Vương triều Vijayanagara, giúp các chư hầu phục quốc. Giang Phong đã chuẩn tấu, phái Triệu Phong suất lĩnh 8 đạo quân tinh nhuệ Thần Vũ, Thần Sách, Thần Uy, Thần Long, Uy Vũ, Uy Đức, Uy Nghĩa, Uy Viễn, cùng với 4 đạo tân binh Long Giang, Đông Giang, Tương Giang, Ngân Giang; tổng cộng 36 vạn quân xuất chinh nam Thiên Trúc thảo phạt Vương triều Vijayanagara, mục tiêu là hoàn toàn tiêu diệt Vương triều Vijayanagara, khiến cho nam Thiên Trúc chỉ còn lại các tiểu quốc, để dễ cai trị hơn. Theo kế hoạch của Giang Phong, các tiểu quốc chư hầu ở nam Thiên Trúc được giữ nguyên tình trạng hiện tại. Đế quốc chỉ chiếm lĩnh địa bàn kiểm soát của Vương triều Vijayanagara, sát nhập vào lĩnh thổ Đế quốc. Đối với việc này, các tiểu quốc ở nam Thiên Trúc cũng chẳng hề phản đối, một phần vì sợ oai Đế quốc, phần khác là vì địa bàn kiểm soát của Vương triều Vijayanagara tiếp giáp với lĩnh địa của người Mông Cổ ở miền bắc, bọn họ chẳng ai muốn nhiễm chỉ cả. Đối với người Thiên Trúc, đặc biệt là các quân vương quý tộc, người Mông Cổ cũng đồng nghĩa với ác mộng.
Trong khi đó, Đinh An Bình lại dâng biểu xin thảo phạt Đế quốc Ottoman, để giải quyết hoàn toàn mối ẩn hoạn của vùng bán đảo A Lạp Bá và Đế quốc Latium. Quân Thổ của Đế quốc Ottoman hiếu chiến và ngông cuồng. Nếu không hoàn toàn đánh bại bọn họ thì khó lòng tiêu trừ hậu hoạn. Giang Phong cũng chuẩn tấu, nhưng phải chờ sau khi dẹp xong Vương triều Vijayanagara, rồi điều cả 12 đạo quân viễn chinh tiếp tục tây chinh. Trong lúc chờ đợi, Đinh An Bình phải về Sinai chỉnh bị 6 đạo quân đang trú đóng tại đấy.
Còn Cát Ti thì dâng biểu xin cho thần dân của Đế quốc được tham gia khai cương thác thổ. Dù sao thì ở Phi châu và Mỹ châu chỉ mới có khu vực duyên hải bị Đế quốc kiểm soát, nhưng bộ lạc nằm trong phạm vi vài trăm dặm thật sự thần phục. Còn những bộ lạc thổ dân nằm trong nội lục đa phần dương phụng âm vi, hoặc thậm chí kháng cự sự hiện diện của Đế quốc. Cát Ti xin cho thần dân được tổ chức Khai thác đoàn, tiến hành khai thác những khu vực mà ảnh hưởng của Đế quốc chưa đến được. Giang Phong đã phê chuẩn đề nghị này, nhưng phạm vi khai thác chỉ giới hạn trong nội lục Phi châu, ngoài ra không được vô cớ xúc phạm đến lợi ích của các bộ lạc, tiểu quốc đã ‘thật sự’ thần phục Đế quốc, cụ thể là những bộ lạc, tiểu quốc có cử sứ đoàn đến Gia Định tiến cống. Giang Phong cố ý khiến cho những kẻ một dạ hai lòng, chỉ thần phục trên danh nghĩa phải hối hận. Còn việc không cho khai thác ở Mỹ châu là bởi lúc này ở Phi châu còn rất nhiều vùng rộng lớn chưa được ‘khai hóa’, Mỹ châu lại quá xa, hơn nữa Giang Phong biết rằng Mỹ châu có rất nhiều vàng bạc, phải để cho Đế quốc quân đội đến chiếm lĩnh.
Chiếu thư quy định : Bách tính thuận dân ai có năng lực đều có thể đăng ký với quan phủ xin thành lập Khai thác đoàn, đến Phi châu nội lục khai cương thác thổ. Chỉ cần bọn họ có thể giành được đất đai từ thổ dân chưa ‘khai hóa’, kiến thiết thành trấn, thì thành trấn đó sẽ trở thành lĩnh địa của bọn họ, bọn họ chỉ cần hướng Đế quốc cống nạp thuế phú là được, địa vị được xem tương đương với các tiểu vương Phi châu. Đây là một cách để bình dân trở thành quý tộc, nên chắc chắn sẽ có rất nhiều bình dân phú hào tham gia. Còn giới quý tộc ai có hứng thú mạo hiểm, cũng có thể tham gia khai thác, không hạn chế. Nhưng chiếu thư này không có hiệu lực đối với những người không phải là thuận dân của Đế quốc, tức chỉ lương dân và nghịch dân. Lương dân là chỉ những thần dân của Đế quốc nhưng không nói được ngôn ngữ của Đế quốc, đa số là thần dân của những vùng mới ‘khai hóa’, hoặc những lĩnh địa xa xôi mà lĩnh chủ không nhiệt tâm với việc giáo dục. Còn nghịch dân là chỉ những cư dân chống đối Đế quốc, hoặc thuộc những thế lực chưa thần phục Đế quốc.
Đế quốc có thể thống trị một lĩnh thổ rộng mênh mông thế này cũng nhờ tình hình thế giới lúc bấy giờ, trừ đất Trung Hoa thì đều không tồn tại một vương triều thật sự thống nhất. Chẳng hạn như, ở nam Thiên Trúc danh nghĩa do Vương triều Vijayanagara thống trị, nhưng Vương triều Vijayanagara chỉ có thể kiểm soát được khu vực cao nguyên Decan, những nơi khác là địa bàn của các tiểu quốc bán độc lập, chỉ thần phục và nạp cống cho Vương triều Vijayanagara, đồng thời tự cai trị địa bàn của mình. Do vậy, chỉ cần Vương triều Vijayanagara sụp đổ, các tiểu vương nam Thiên Trúc sẵn sàng thay đổi tôn chủ quốc, đối với bọn họ cũng không có khác biệt gì đáng kể. Còn ở u châu cũng tương tự. Đế quốc La Mã Thần Thánh Dân tộc Đức bao gồm hàng nghìn công quốc, lĩnh địa độc lập hợp thành. Sự lỏng lẻo còn hơn cả các xứ nam Thiên Trúc. Khi liên quân của Hoàng đế Sigismund de Luxembourg bị đánh bại thì Đế quốc cũng sụp đổ. Các vương quốc khác ở u châu cũng do vô số lĩnh địa bán độc lập hợp thành, Quốc vương chỉ là một đại lĩnh chủ mà thôi. Bởi thế, mỗi khi chinh phục một khu vực, quân đội Thần Thánh Đế quốc chỉ cần đánh bại tôn chủ quốc, an phủ các chư hầu là có thể thống trị được khu vực. Đương nhiên, đó chỉ là đối những nước lớn, còn khi gặp những nước nhỏ thì trực tiếp tiêu diệt và sát nhập vào lĩnh thổ Đế quốc. Riêng ở đất Trung Hoa, do bởi mấy mươi năm bạo chính của cha con Vĩnh Lạc đế, đặc biệt là Vĩnh Lạc đế thường xuyên phát động chiến tranh, lại sinh hoạt xa hoa hoang phí, dẫn đến quốc lực suy kiệt, khiến Minh triều sụp đổ.
Long nhi chỉ ở lại Gia Định hơn tháng, rồi lại theo Đinh An Bình đi về u châu. Đối với việc thảo phạt quân Thổ, Long nhi cũng giống như những người u châu khác, rất có hứng thú. Mặc dù lần này việc chinh phạt không có quân đội Latium tham gia, nhưng Long nhi là Hoàng tử của Đế quốc, đương nhiên có tư cách tham dự. Chỉ còn chờ Triệu Phong hoàn thành việc bình định nam Thiên Trúc là có thể khởi binh.
Chương 124 : VƯƠNG TRIỀU VIJAYANAGARA DIỆT VONG (1)
Nam Thiên Trúc.
Đất Thiên Trúc lúc bấy giờ bao gồm cả đấtÂn Độ, Pakistan, Nepan, Butan, Bangladesh, Sri Lanka (Tích Lan). Vương triều Vijayanagara chỉ thống trị khu vực nam Thiên Trúc, kể từ cao nguyên Decan trở về nam, bao gồm phần đất các bang Andhra Pradesh, Goa, Karnataka, Kerala và Tamil Nadu, trong đó phần lĩnh thổ do Vương triều Vijayanagara trực tiếp kiểm soát chỉ gồm phần cao nguyên Decan ở phía bắc Vương triều. Các tiểu quốc ở nam Thiên Trúc thần phục và cống nạp cho Vijayanagara chẳng qua là vì Vijayanagara giúp bọn họ kháng cự sự xâm lấn của các thế lực người Mông Cổ ở miền bắc. Quân đội của toàn vương triều gồm khoảng 1,1 triệu người (tức 110 vạn, ít hơn quân đội Minh triều một chút), nhưng gồm có hai bộ phận rõ rệt : Quân đội triều đình bao gồm 100.000 bộ binh (shieldmen), 20.000 kỵ binh (cavalrymen) và hơn 900 con voi; phần còn lại là quân đội địa phương, tức quân đội của các tiểu quốc chư hầu.
Triệu Phong đặt đại bản doanh tại Jaffna, một đại thành thị ở phía bắc Tích Lan. Các đạo quân đã lần lượt đến Tích Lan hội họp. Riêng 4 đạo quân Thần Vũ, Thần Sách, Thần Uy, Thần Long đã đổ bộ lên đất nam Thiên Trúc, tiến về phía cao nguyên Decan, giúp các tiểu quốc bị Vương triều Vijayanagara chiếm giữ phục quốc. Triệu Phong không phải không muốn trực tiếp suất quân tác chiến, nhưng vì bản thân là Thống soái, đành phải ở lại hậu phương chủ trì đại cục. Xung phong hãm trận là việc của các vị tướng quân. Cũng giống như cuộc bao vây Kim Lăng và đánh nhau với trăm vạn đại quân của Minh triều trước đây, bọn Triệu Phong chỉ ở Trường Hưng Thành chủ trì đại cục.
Nghe tin Thần Thánh Đế quốc cử binh chinh phạt, Vương triều Vijayanagara vội vã dốc toàn bộ quốc lực nghênh chiến, đồng thời chinh triệu quân đội các tiểu quốc chư hầu tham chiến. Bọn họ biết trận chiến này quan hệ đến sự sinh tử tồn vong của Vương triều, nên buộc phải dốc toàn tâm toàn lực nghênh chiến.
Do quân đội Đế quốc viện cớ giúp các tiểu vương phục quốc, trong quân còn có các vị tiểu vương tùy hành, nên sư xuất hữu danh, không bị dân chúng trong vùng xem là hành vi xâm lược. Bốn đạo quân chia làm hai đường, mỗi đường 6 vạn quân, lần lượt tiến vào các tiểu quốc bị quân Vijayanagara chiếm giữ, đánh bại số thủ quân tại đấy, rồi giao lại cho các tiểu vương bản địa khôi phục chính quyền. Quân đội Đế quốc tạm trú đóng lại đấy giữ gìn trật tự, chờ các vị tiểu vương chinh triệu tân quân bảo vệ quốc thổ. Do quân đội Đế quốc không can thiệp vào việc chính sự ở đây, nên không gây bất mãn trong giới quý tộc bản địa.
Tiếp theo đó, lần lượt 8 đạo quân còn lại cũng tiến vào khu vực giáp giới với vùng kiểm soát của Vương triều Vijayanagara. Tất cả 12 đạo quân, 36 vạn đại quân vân tập biên giới khiến kinh đô Vijayanagara nhân tâm hoàng hoàng. Đại quân áp cảnh. Trong lúc quân đội của Vương triều Vijayanagara chỉ có 10 vạn bộ binh, 2 vạn kỵ binh, cùng với 900 con voi chiến. Các tiểu quốc chư hầu nhìn rõ hình thế, không nước nào mang quân đến trợ chiến cả. Tình thế hiện tại, chỉ cần người có chút trí thương đều có thể thấy rõ, nếu như Thần Thánh Đế quốc thất bại thì còn có thể tái lập viễn chinh quân, tiếp tục chinh phạt, còn nếu như Vương triều Vijayanagara thất bại, thì hậu quả trực tiếp là diệt vong. Mà xem ra Vương triều Vijayanagara chẳng có mấy cơ hội giành được chiến thắng. Cả về số lượng, trang bị, chiến lực, … quân đội Vương triều Vijayanagara chẳng thể nào so sánh được với quân đội Thần Thánh Đế quốc.
Đối diện đại quân áp cảnh, Vương triều Vijayanagara chỉ có thể huy động được 10 vạn bộ binh, 2 vạn kỵ binh, 900 con voi. Quân lực chênh lệch quá lớn. Quốc vương Deva Raya I của Vijayanagara vội chinh tập dân binh được thêm 30 vạn nữa, quân số tạm thời tăng lên 42 vạn, đông hơn đối phương, khiến cho sĩ khí quân đội dâng cao một chút, còn về chiến lực thì … không đáng tin tưởng lắm. Hỗn hợp 10 vạn chính quy quân với 30 vạn quân nông dân, khiến cho toàn thể chiến lực của quân đội suy giảm nghiêm trọng. Đặc biệt đây lại là quân đội Thiên Trúc, chiến lực không thể nào sánh bằng quân đội Trung Hoa. Do vậy mà Quốc vương Deva Raya I lo lắng không thôi.
Quốc vương Deva Raya I là cháu nội của Quốc vương Harihara Raya II (trị vì 1377 - 1404). Sau khi Harihara Raya II qua đời, đã có cuộc tranh ngôi giữa các vị vương tử. Virupaksha Raya trị vì trong vài tháng thì bị con trai là Bukka Raya II ám sát. Ông này trị vì được một thời gian trong giai đoạn 1405 – 1406, rồi cũng bị em trai là Deva Raya I lật đổ. Deva Raya I bắt đầu trị vì từ năm 1406. Trong suốt triều đại của mình, Deva Raya I đã liên tục chiến đấu chống lại Velamas xứ Telangana, Sultan Bahmani xứ Gulbarga, Reddis xứ Kondavidu và Gajaptis xứ Kalinga. Gần đây nhất là chiến tranh với Thần Thánh Đế quốc. Nội loạn, chiến tranh đã khiến cho quốc lực của Vương triều Vijayanagara ngày càng suy kiệt, dẫn đến quốc thế suy vi, chư hầu ly tán. Deva Raya I rất hối hận, không ngờ Thần Thánh Đế quốc lại có phản ứng cường ngạnh như thế. Nhưng giờ đây có hối hận cũng đã muộn, chỉ còn cách chuẩn bị chiến tranh mà thôi.
Thông qua thám tử báo cáo, Triệu Phong được biết đại quân Vijayanagara cơ bản so với một đám nông dân không có gì khác biệt, so ra còn kém hơn cả dân binh của Đế quốc. Tuy 12 vạn chính quy quân còn có chút chiến lực, nhưng khi bị hỗn hợp chung với 30 vạn nông dân, thì chiến lực suy giảm rất nhiều. Suy tính hồi lâu, Triệu Phong quyết định xuất chiến.
12 đạo quân được lệnh tiến sát đô thành Vijayanagara của Vương triều Vijayanagara. Do phải mang theo thần công đại pháo cùng rất nhiều đạn dược, đại quân phải mất hơn 1 tháng mới tiến được đến ngoại vi thành Vijayanagara. Song phương đại quân an doanh lập trại đối diện bên ngoài thành. Triều đình Vijayanagara đã biết đại pháo của Thần Thánh Đế quốc lợi hại, nên đã từ bỏ việc cố thủ thành trì, quyết định chính diện quyết chiến. Trong quân đội Vijayanagara có quá nhiều dân binh (thực chất là nông dân), nếu thành môn bị đại pháo phá hủy tất sĩ khí đại giảm, nhiều khả năng sẽ phát sinh đại quy mô đào binh. Thà rằng dựa vào ưu thế quân số mà quyết chiến một trận, nhất chiến định càn khôn.
Bình minh, ở bầu trời phương đông, ánh thái dương đã bắt đầu le lói. Aliva Rama và Sriranga, hai vị tướng quân của Vương triều Vijayanagara, đích thân thống suất bản bộ kỵ binh công kích doanh trại đối phương. Theo mệnh lệnh của Quốc vương Deva Raya I, bọn họ sẽ lợi dụng địch nhân đang lúc mê ngủ mà tấn công cướp trại. Cưỡi trên lưng chiến mã, cả 2 vạn kỵ binh đều giương cung lắp tên, chuẩn bị bắn ra những mũi tên lửa.
Khi kỵ binh áp sát doanh trại đối phương, gần đến tầm bắn, thần kinh chúng kỵ binh đều căng thẳng tột độ, chuẩn bị buông cung. Đột nhiên …
A a a …
Phịch phịch phịch …
Hàng loạt kỵ binh, chiến mã ở hàng đầu bị vướng cạm bẫy, ngã ngựa. Bên ngoài doanh trại bố trí rất nhiều cạm bẫy, chưa gì mà đã có vài trăm kỵ binh thương vong. Tiếp đó là một hồi tù và rúc lên lanh lảnh, báo động có địch quân đến cướp doanh.
Aliva Rama và Sriranga thấy bản bộ kỵ binh rơi vào hỗn loạn, cả kinh thất sắc, giục ngựa chạy ngược chạy xuôi, luôn miệng quát tháo cố ổn định trận hình. Sau hơn 1 khắc, đội ngũ mới ổn định. Hai người bọn họ vừa định tiếp tục xung phong thì đột nhiên …
Đoàng đoàng đoàng …
Một trận đại pháo gầm vang báo hiệu đối phương đã phản kích. Tiếp đó, hàng nghìn viên đạn pháo bắn tới, rực hồng cả nửa bầu trời. Theo đúng biên chế của quân đội Thần Thánh Đế quốc, 36 vạn quân có đến 7.200 khẩu thần công, mỗi phương hướng được bố trí trận địa pháo gồm 1.800 khẩu. Bởi đã xác định từ trước cự ly pháo kích đối ứng với cạm bẫy bên ngoài, nên đa số đạn pháo đều tìm thấy mục tiêu. Tuy đều là thật tâm đạn, mỗi viên đạn khi bắn trúng mới sát tử được đối phương, nhưng chỉ loạt pháo kích kia cũng đã khiến đối phương thương vong thảm trọng. Do đang trong trận hình xung phong, đội ngũ rất mật tập, thành ra chỉ 1.800 viên đạn pháo đã khiến cho hơn 5.000 kỵ binh thương vong hoặc mất sức chiến đấu.
Thấy chưa gặp địch nhân mà đã tổn thất 1 phần tư quân số, Aliva Rama quả đoạn quyết định rút lui. Gã cao giọng quát :
- Lui. Lui mau.
Tiếng chiêng thu quân khua vang. Aliva Rama và Sriranga đích thân dẫn quân đoạn hậu. Nào ngờ, chúng kỵ binh vừa mới quay đầu ngựa định tháo lui thì đột ngột phát hiện địch quân từ bốn phương tám hướng ùn ùn áp tới. Trông tình hình đối phương ít ra cũng có đến hơn chục vạn quân tinh nhuệ, đao thương kiếm kích sáng ngời. Quân đội của Thần Thánh Đế quốc đều là những kẻ năng chinh thiện chiến, lẽ nào lại không đề phòng địch quân đến cướp doanh. Bọn Aliva Rama chính là tự đưa cổ vào tròng.
Aliva Rama trông thấy địch quân đông đảo, và có vẻ rằng càng lúc càng đông hơn, liền vội quát lớn :
- Phá vây. Sống hay chết chỉ ở lúc này !
Quân Vijayanagara giơ cao vũ khí, chuẩn bị liều chết phá vây. Cùng lúc đó, hàng vạn mũi tên từ phía đối phương liên tục bắn ra như mưa, liên miên bất tuyệt. Chỉ trong chốc lát, đã có gần vạn kỵ binh Vijayanagara trúng tên ngã ngựa. Aliva Rama cả kinh thất sắc, vội dẫn đầu chúng thân binh toàn lực phá vây, cuối cùng bởi bị ‘đặc thù chiếu cố’ mà chết trong đám loạn binh. Chỉ có Sriranga nhanh trí cởi bỏ khôi giáp, giả trang làm phổ thông kỵ binh, nên chạy thoát cùng với hơn nghìn tàn binh bại tướng.
Chương 125 : VƯƠNG TRIỀU VIJAYANAGARA DIỆT VONG (2)
Lại nói, sau khi 2 vạn kỵ binh tinh nhuệ bị tiêu diệt, chỉ còn hơn nghìn tàn binh bại tướng chạy thoát về Vijayanagara, khiến toàn thể triều đình trên dưới chấn động không ít. Thậm chí đã bắt đầu xuất hiện dư luận yêu cầu đầu hàng. Từ quan viên tướng sĩ cho đến bình dân bách tính, không ai tin rằng triều đình Vijayanagara có thể kháng cự lại Thần Thánh Đế quốc. Thực lực song phương chênh lệch quá lớn kia mà. Chỉ có điều Quốc vương Deva Rama I và các đại quý tộc trong triều đều biết rằng ai cũng có thể đầu hàng, chỉ có bọn họ là không thể. Thần Thánh Đế quốc không thể nào tha thứ cho bọn họ, nếu không làm sao có thể an phủ các tiểu vương chư hầu đã bị bọn họ đánh đuổi trước đây (thật ra thì Đế quốc không muốn lưu hậu hoạn). Cảm thấy sĩ khí và lòng tin của quân dân ngày càng suy giảm, thời gian càng kéo dài sẽ càng bất lợi, Quốc vương Deva Rama I quyết định phát động tấn công, nhất chiến định càn khôn.
Cưỡi trên lưng voi trắng, Deva Rama I đưa mắt nhìn đại quân 40 vạn người ùn ùn kéo đi, lòng dạ không sao bình tĩnh được. Dù vậy, ông ta vẫn phải cố tỏ ra tự tin. Thân là quốc vương, nếu chưa giao chiến mà đã tỏ ra lo sợ thì cách thất bại không xa rồi. Nhìn quân đội đối phương đang dàn trận ở phía xa, Deva Rama I khẽ lắc đầu, ra lệnh cho tùy tướng thúc giục đại quân tiến nhanh hơn. Dưới sự đốc thúc của 10 vạn chính quy quân, 30 vạn dân binh bày thành trận thế ở hai bên, để lại khu vực chính giữa cho chính quy quân cùng đội tượng binh. Hơn nghìn kỵ binh còn lại được bố trí xung quanh con voi trắng của quốc vương, phụ trách bảo giá hộ hàng. Nhìn trận hình, nhìn khí thế, xem ra cũng kinh nhân.
Quân đội Thần Thánh Đế quốc cũng bày thành trận thế. Trận này do Định Công Lý Ngân chỉ huy. Lý Ngân từng là tướng thống lĩnh Tây lộ quân hồi Bắc phạt, sau lại đánh sang tận xứ Miến Điện giáp giới Thiên Trúc, nên lần này được Triệu Phong phái suất quân tấn công Vijayanagara.
Xem thấy đối phương không chủ động tấn công, Deva Rama I quyết định tiên hạ thủ vi cường. Ông ta muốn xem thử đối phương có thật sự lợi hại như lời đồn hay không.
Trống trận nổi ầm ầm. Vijayanagara đại quân bị đốc chiến đội xua tới trước. Deva Rama I đã sai hơn nghìn kỵ binh sung lâm thời đốc chiến đội. Đại quân hơn 40 vạn người bị bức bách hướng đối phương tấn công. Bọn họ đa phần chỉ vận áo giáp da, sử dụng một thanh đao, nhiều người còn đi chân không, đầu quấn khăn, ngoài ra chẳng có một trang bị nào khác.
Lý Ngân nhìn một lúc, rồi bảo viên tùy tướng :
- Truyền lệnh cung thủ chuẩn bị. Khi đối phương vượt qua tầm bắn thì công kích. Thương trận dàn ra bảo hộ cung thủ.
Mệnh lệnh truyền xuống, thương trận bắt đầu vận động. Trường thương thủ xếp thành 3 hàng ở phía trước đội hình cung thủ, trường thương dài 8 thước (3,2 mét) chĩa thẳng về phía trước. Bên cạnh mỗi trường thương thủ còn có một Đại đao binh tay cầm đao tay cầm khiên bảo hộ.
Quân Vijayanagara tiến đến trước thương trận ước 100 bước, các đội cung thủ bắt đầu phóng tiễn. Hơn chục vạn mũi tên bắn ra ào ạt, tên bay như mưa, liên miên bất tuyệt. Quân Vijayanagara lớp này ngã xuống lớp khác xông lên, rồi lại trúng tên ngã xuống, thương vong thảm trọng.
Deva Rama I vội truyền lệnh :
- Tượng binh tấn công.
Nhìn thấy phía trước quân Vijayanagara tổn thất nặng nề, Deva Rama I cuối cùng cũng hạ quyết tâm phát động toàn lực tấn công. Quân Vijayanagara phần lớn là dân binh, hay nói rõ hơn là quân nông dân, nếu gặp bất lợi, sĩ khí suy giảm thì rất dễ bỏ chạy. Đến lúc đó, dù sử dụng vũ lực cũng khó ép bọn họ trở lại chiến trường.
Mệnh lệnh của Deva Rama I được chấp hành rất nhanh. Đội tượng binh được xua lên phía trước. Tiếp theo những tiếng rống của đại tượng, 900 con voi chiến dàn hàng thành đạo tiên phong xông tới trước, theo sát phía sau là quân đội Vijayanagara. Gặp phải binh sĩ Vijayanagara ở phía trước không kịp tránh đường, đại tượng trực tiếp dẫm đạp thành một đoàn máu thịt, tử trạng thê thảm.
900 con voi chiến đồng loạt xung phong, khí thế vô cùng khủng bố. Những con vật khổng lồ này tuy tốc độ không nhanh, nhưng mỗi bước chân khiến cho mặt đất rung rinh chấn động, thanh thế kinh nhân, dẫn đến đối phương tâm thần chấn động. Quân đội Thần Thánh Đế quốc cũng không ngoại lệ.
Lý Ngân vội truyền lệnh :
- Thần công nhắm đội tượng binh khai hỏa. Sử dụng loại thần công cỡ nhỏ.
Liền đó, gần 3.000 khẩu thần công cỡ nhỏ đồng loạt khai hỏa, pháo nổ vang trời, khói bốc mù mịt, đạn bay đỏ rực nửa bầu trời. Đại tượng dù da dày đến mức nào cũng không thể chịu nổi đạn pháo tấn công. Khắp chiến trường vang dậy những tiếng voi rống. Mấy chục con voi ở hàng đầu bị đạn pháo bắn trúng, đau đớn đến phát cuồng, vừa gào rống vừa hất văng quản tượng trên lưng, sau đó quay đầu bỏ chạy. Tiếp đó là đến những con voi ở phía sau cũng lần lượt chịu chung số phận. Voi chiến một khi phát cuồng, nháo nhào tháo chạy, hậu quả vô cùng khủng bố. Vô số binh sĩ Vijayanagara bị voi dẫm đạp, thịt nát xương tan. Trận hình quân Vijayanagara đại loạn.
Lý Ngân thấy tình thế có lợi, lập tức truyền lệnh ba quân toàn lực tấn công. Đầu tiên, tất cả 7.200 khẩu thần công đồng loạt khai hỏa, rải đạn xuống đầu địch quân. Sau đó, 36 vạn quân phát động xung phong, thương trận đi trước, cung thủ đi sau, vừa đi vừa bắn tên tới tấp. Chỉ chưa đến nửa giờ giao chiến, đã có hàng vạn quân Vijayanagara tử thương bởi đạn pháo, cung tên, hay bị voi giẫm đạp. Quân Vijayanagara bắt đầu bỏ chạy, đương nhiên là quân nông dân bỏ chạy trước, đốc chiến đội ngăn cản thế nào cũng không xuể. Hơn nữa, không ít binh sĩ thuộc đốc chiến đội bị đàn voi giẫm đạp hoặc trúng đạn pháo tử vong. Thậm chí, nhiều toán đốc chiến bị đàn voi xua đuổi, đành phải gia nhập đội hình bại binh. Chẳng ai dám dùng tấm thân máu thịt để cản bước chân đàn voi cả. Mà đàn voi đều đã phát cuồng, có cản cũng vô ích. Lần lần, toàn thể quân Vijayanagara đều ùn ùn bỏ chạy. Tình thế thật đúng với cảnh tượng ‘Binh bại như sơn đảo’, dù cho Tiêu Hà tái thế, Gia Cát phục sinh cũng đành phải bó tay.
Khi địch quân đã bỏ chạy, Lý Ngân lập tức huy sư đuổi theo. Quân đội Thần Thánh Đế quốc chia thành 4 lộ, mỗi lộ 9 vạn quân, rầm rộ đuổi theo, đại pháo nổ vang như sấm, tên bắn như mưa. Quân Vijayanagara lớp chết, lớp bị thương, thi thể và thương viên nằm ngổn ngang đầy chiến trường. Lý Ngân lại truyền cho những người biết tiếng Thiên Trúc bắt loa gọi hàng. Vô số quân Vijayanagara cảm thấy tuyệt vọng, vội bỏ khí giới, quỳ dưới đất xin đầu hàng. Đúng là nhất chiến định càn khôn. Quân Vijayanagara thảm bại ngay trước kinh đô, đánh dấu cho sự diệt vong của Vương triều Vijayanagara.
Cuối cùng, quốc vương Deva Rama I cũng không chạy thoát khỏi sự truy sát của kỵ binh Thần Thánh Đế quốc, đành phải tự sát ngay trên lưng voi. Lý Ngân điều động binh mã xử lý kẻ đầu hàng, truy sát kẻ bỏ chạy, đồng thời tiến chiếm thành Vijayanagara.
Khi Lý Ngân đặt chân vào cung điện của quốc vương Deva Rama I, cũng là lúc Vương triều Vijayanagara chính thức diệt vong. Toàn bộ vương tộc cùng văn võ đại thần Vijayanagara đều bị xử lý giống như cách xử lý đối với quần thần Minh triều trước đây, tức bị sung làm nô lệ, nam bán sang u châu, nữ làm nô tỳ hoặc gả cho những thần dân chưa có vợ của Đế quốc. Do thiếu dân đi khai thác các vùng đất chiếm được, Giang Phong chủ trương khuyến khích mọi thần dân tăng cường sinh con, sinh càng nhiều con càng tốt. Những đứa con nào mà gia đình không nuôi nổi thì triều đình sẽ nhận nuôi. Giang Phong cần thật nhiều di dân đi khai khẩn Phi châu, Mỹ châu nên triều đình mới có chính sách đó.
Sau khi chiếm được Vijayanagara, Lý Ngân một mặt dâng biểu về triều, một mặt phái quân đội đi bình định các nơi. Toàn bộ khu vực kiểm soát của Vương triều Vijayanagara trước đây đều bị sát nhập vào Đế quốc. Chính vụ bộ sẽ phái quan viên đến đây tiến hành phân chia thành quận huyện và tiếp quản việc cai trị. Dân Thiên Trúc chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Bà La Môn giáo, nên đa số là thuận dân, sau khi Vương triều Vijayanagara sụp đổ thì dễ dàng cải hoán môn đình, trở thành thần dân của Thần Thánh Đế quốc. Cũng như trước đây khi Timur xâm chiếm vùng bắc Thiên Trúc thì bọn họ dễ dàng trở thành thần dân của Đế quốc Timur vậy. Việc bình định xứ này dễ dàng hơn ở Trung Hoa hoặc u châu nhiều.
Sau ba tháng ổn định tình hình, Đế quốc chỉ để lại 2 đạo quân Thần Vũ và Thần Sách ở lại trấn thủ xứ này, còn lại 10 đạo quân kia đều được Hải quân vận chuyển đến căn cứ Sinai, chuẩn bị cho việc chinh phạt Đế quốc Ottoman. Khi đại quân đến nơi, Đinh An Bình rất phấn khởi, lập tức chuẩn bị xuất chinh.
Chương 126 : CHINH PHẠT ĐẾ QUỐC OTTOMAN
Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.510 (Mậu Tuất, 1418). Mùa xuân, tháng 3. Bán đảo Tiểu Á.
Tiểu Á hay Anatolia (tiếng Hy Lạp : Ανατολία, có nghĩa là ‘Mặt trời mọc’) là một bán đảo thuộc Á châu, nằm giáp với u châu ở phía tây bắc, với Hắc Hải ở phía bắc, Địa Trung Hải ở phía nam, biển Aegean ở phía tây, và vùng đất châu Á rộng lớn ở phía đông.
Lúc này, chủ nhân của bán đảo Tiểu Á là Đế quốc Ottoman của người Thổ. Sultan của Đế quốc Ottoman là Mehmed I Çelebi được tôn xưng là ‘Vị lập quốc thứ hai của Đế quốc Ottoman’, mặc dù lúc này Đế quốc Ottoman yếu hơn thời vua cha là Bayezid I nhiều. Thời trước, khi Bayezid I còn trị vì, Đế quốc Ottoman chiếm lĩnh hầu hết bán đảo Tiểu Á và cả một phần vùng đất Balkan thuộc u châu, bao vây Đế quốc Byzantine bên trong thành Constantinople (Đế quốc Byzantine chỉ còn lại khu vực thành Constantinople, dân số chỉ khoảng 50.000 người). Nhưng đến năm 1402, khi Timur của Hãn quốc Chagatai xua quân Mông Cổ tây chinh, tấn công Đế quốc Ottoman thì quân Thổ đại bại ở Angora (nay là Ankara, Thổ Nhĩ Kỳ), đại quân Thổ tan vỡ, Sultan Bayezid I bị Timur bắt sống. Năm sau, Bayezid I chết trong nhà ngục, bắt đầu thời kỳ nội chiến của Đế quốc Ottoman. Bốn vị hoàng tử con của Bayezid I đã mỗi người chiếm giữ một vùng lĩnh địa, làm Đế quốc phân liệt, rồi đưa quân đánh nhau để tranh ngôi, gây ra thời kỳ nội chiến tàn khốc kéo dài suốt 10 năm. Bọn họ là Musa và Mehmed Çelebi chia nhau kiểm soát Amasya, Isa chiếm giữ Bursa, và Suleyman chiếm giữ Rumelia (phần đất Thổ Nhĩ Kỳ thuộc u châu).
Đến năm 1405, Isa bị đánh bại và Mehmed Çelebi kiểm soát được Bursa, một thành phố quan trọng và cũng là kinh đô của Đế quốc Ottoman, nằm bên cạnh eo biển Dardanelles ngăn cách u châu với Á châu. Năm 1410, Musa đánh thắng Suleyman, xưng bá cả vùng Rumelia và bắt đầu chiếm dần các lĩnh địa khác ở bán đảo Balkan. Đế quốc Ottoman còn lại hai vị hoàng tử cùng tranh giành ngôi vị Sultan. Năm 1413, Mehmed Çelebi liên kết với quân Byzantine, đã giành thắng lợi vang dội trước quân Musa ở Camurli. Mehmed Çelebi chính thức lên ngôi, trở thành Sultan của người Thổ, xưng hiệu là Mehmed I Çelebi cai trị cả vùng Tiểu Á và Rumelia.
Năm 1416, Belreddin nổi dậy ở bán đảo Karaburun. Cuộc nổi dậy này thu hút được sự ủng hộ đông đảo của dân chúng trong vùng. Quân khởi nghĩa phát triển đến hơn 1 vạn người, và đã giành được một số thắng lợi nhỏ trước quân triều đình Ottoman. Cuộc nổi dậy này đã phần nào làm suy yếu Đế quốc. Belreddin tên đầy đủ là Sheikh Mahmoud Bin Bin Abdulaziz Badraldin Israel, một giáo sĩ tiến bộ, nổi dậy đấu tranh để dân chúng không phải đóng thuế quá cao. Ông không chỉ là một giáo sĩ có uy tín, mà còn là phò mã của vương triều Mamluk ở Ai Cập (vợ ông là Cazibe Hatun, một công chúa Mamluk). Theo lịch sử, cuộc nổi dậy thất bại, những chiến hữu của Belreddin đều bị xử tử, còn ông bị giải về treo cổ ở Serez vào năm 1420. Nhưng lúc này (năm 1418), cuộc chiến vẫn còn đang diễn ra ở bán đảo Karaburun. Chính vì chiến tranh liên miên hơn chục năm nay, nên quốc lực của Đế quốc Ottoman không còn thật sự hùng mạnh nữa. Cũng do vậy mà khi Vương triều Latium quật khởi ở phía tây thì quân Ottoman vẫn án binh bất động, phòng giữ bờ cõi của mình và đàn áp các cuộc nổi dậy trong nước.
Ngày 15 tháng 3 năm Mậu Tuất (1418), đại quân Thần Thánh Đế quốc tế cờ xuất chinh. Các đạo lục quân vượt biên giới Syria (đất Syria thời Trung Cổ, rộng hơn lĩnh thổ nước Syria ngày nay) tiến vào lĩnh thổ Đế quốc Ottoman ở phía bắc. Trong khi đó thì các chiến hạm của Hắc Long Hạm đội kéo đến phong tỏa eo biển Dardanelles, pháo kích vào các thành thị, pháo đài ở hai bên bờ eo biển, ngăn hẳn phần Rumelia với bán đảo Tiểu Á. Kinh đô Bursa bị pháo kích rất dữ dội. Các chiến hạm của Hắc Long Hạm đội tràn ngập cả eo biển, nhiều lần dàn trận như muốn chiếm lấy một vùng bờ biển để tổ chức đổ bộ. Sultan Mehmed I Çelebi phải vội tập trung binh lực từ các nơi về bảo vệ Bursa, trong đó có một bộ phận không nhỏ chia ra phòng ngự khu vực bờ biển, ngăn không cho địch quân đổ bộ. Đồng thời, Mehmed I Çelebi còn phái một sứ đoàn đến Sinai xin thần phục Thần Thánh Đế quốc, nhưng bị bọn Đinh An Bình từ chối. Sau cuộc đại điển ‘vạn quốc lai triều’, những ai không đến Gia Định triều cống thì sẽ không được Đế quốc công nhận. Trước đó, Giang Phong đã quyết định thống trị khu vực Tiểu Á và Rumelia theo mô hình Jerusalem và Syria, nên Đế quốc Ottoman phải kết thúc. Hơn nữa, nếu như Đế quốc Ottoman thần phục thì công huân ở đâu ra. Bọn Đinh An Bình đều là những kẻ hiếu chiến kia mà.
Lộ lục quân của Thần Thánh Đế quốc do Đinh An Bình đích thân thống suất, gồm 16 đạo quân Đế quốc (6 đạo trú đóng ở Sinai trước đây và 10 đạo từ nam Thiên Trúc mới chuyển đến) với 48 vạn người, thêm vào đó có 2 vạn kỵ binh Mamluk, 10 vạn bộ binh Ai Cập và 1 vạn kỵ binh A Lạp Bá trợ chiến. Quân đội Mamluk, Ai Cập và A Lạp Bá sẽ đóng vai trò dân binh, hỗ trợ quân đội Đế quốc chiến đấu cũng như phòng thủ các vùng đất chiếm được.
Các vùng đất phía đông bán đảo Tiểu Á tuy trên danh nghĩa thuộc về Đế quốc Ottoman, nhưng thực tế có vô số tiểu bộ lạc sinh sống trên đấy, vì nộp cống cho Đế quốc Ottoman nên được xem là thuộc lĩnh thổ Ottoman. Cũng vì thế mà 16 năm trước, Timur đã xâm chiếm vùng này rất dễ dàng, đại quân Mông Cổ tiến thẳng một mạch đến tận Angora (tức Ankara) mới gặp phải quân đội Ottoman chặn đánh.
Giờ đây, Sultan Mehmed I Çelebi đang phải lo phòng thủ kinh đô Bursa, vùng này gần như bỏ ngõ. Đinh An Bình tiến quân theo đường tiến quân của người Mông Cổ trước đây, tiến đến đâu là công thành bạt trại đến đó. Các đội kỵ binh Mamluk và A Lạp Bá được thả đi cướp phá các tiểu bộ lạc trong vùng quân đội đi qua. Đinh An Bình cho bọn họ tự do tác chiến, tùy ý xử lý chiến lợi phẩm, nên cả bọn đều rất hăng hái, tiến đến đâu là cứ như ‘hoàng trùng quá cảnh’, cướp sạch, phá sạch, giết sạch đến đó, thực hiện ‘tam quang chính sách’ đến mức triệt để. Thời Trung Cổ, quân đội cướp phá là chuyện bình thường. Chẳng hạn như có một cuộc Thập tự chinh đi ngang qua Constantinople, đã nhân tiện phá thành, sau khi cướp phá xong còn phóng hỏa đốt thành, khiến cho văn vật bị hủy, sự phồn vinh thịnh vượng của Constantinople từ đó cũng chấm dứt, sau này Đế quốc Byzantine chỉ còn lại chút hơi tàn.
Đại quân tiến công thuận lợi ngoài cả sự tưởng tượng của Đinh An Bình. Vạn lý hành quân mà chẳng có một cuộc giao tranh đáng kể nào. Những cuộc giao chiến thảm liệt chủ yếu là các cuộc cướp phá của kỵ binh Mamluk và A Lạp Bá. Đại quân đông đến 610.000 người, thần công đại pháo gần vạn, mỗi khi nã pháo công thành thì cả nửa bầu trời rực hồng lửa đạn, thành trì kiên cố đến đâu cũng bị phá hủy dễ dàng, những tiểu đội quân Thổ làm sao dám ngăn cản. Đại quân tiến về phía tây, các bộ lạc Thổ cũng vội chạy về phía tây, bị dồn đuổi dần về phía Bursa. Những bộ lạc nào chậm chân thì trở thành mục tiêu của kỵ binh Mamluk và A Lạp Bá. Bọn họ ai nấy đều rủng rỉnh kim tệ trong túi. Chiến lợi phẩm thu được, bọn họ đều bán lại cho những đội thương nhân đi phía sau đại quân, đổi lấy kim tệ cho nhẹ nhàng. Hành trang phải càng nhẹ nhàng thì mới càng dễ dàng cướp phá, càng có nhiều chiến lợi phẩm hơn.
Dù vậy, cũng có không ít tù trưởng các tiểu bộ lạc mang cả quân dân ra đầu hàng Đế quốc. Đinh An Bình không chấp nhận cho Đế quốc Ottoman đầu hàng, nhưng đối với các tiểu bộ lạc thì sẵn sàng mở rộng cửa đón chào. Đinh An Bình cứ khuyên trên địa đồ những vùng đất nhất định, rồi giao cho các bộ lạc này cai quản, tự trị, giống như các tiểu vương quốc A Lạp Bá vậy. Những bộ lạc bỏ chạy về phía tây đa phần là các bộ lạc lớn, có quan hệ thân mật với triều đình Ottoman. Những bộ lạc đầu hàng, không chỉ lo di cư đến vùng đất được giao, mà còn đua nhau đóng góp kỵ binh tham chiến. Bọn họ xin với Đinh An Bình cho kỵ binh Thổ được gia nhập đội ngũ của kỵ binh Mamluk và A Lạp Bá. Đến khi đại quân đến được Angora thì kỵ binh Thổ theo quân đã đông đến hơn 2 vạn người.
Đến Angora, Đinh An Bình cho đại quân cắm trại lại đấy, tạm thời nghỉ ngơi chỉnh quân. Nơi đây là chiến trường xưa kia giữa quân Thổ của Bayezid I và quân Mông Cổ của Timur. Đinh An Bình rất hy vọng quân Thổ lại chọn nơi đây là địa điểm quyết chiến, bởi sau một lần thảm bại, dẫn đến Đế quốc tan rã, tất sẽ tạo nên ám ảnh trong lòng quân dân Ottoman. Chỉ đáng tiếc là sau mấy ngày mà vẫn không thấy có động tĩnh gì từ phía triều đình Ottoman. Bọn họ chỉ lo cố thủ Bursa mà thôi.
Chương 127 : BURSA ĐẠI HỘI CHIẾN (1)
ại nói, đại quân Thần Thánh Đế quốc đóng quân tại Angora nghỉ ngơi chỉnh quân. Đinh An Bình hy vọng sẽ có đại chiến tại đây, nhưng phía quân Ottoman lại không có động tĩnh gì, nên đại quân lại tiếp tục tiến quân.
Trong thời gian đại quân nghỉ ngơi, Đinh An Bình đã cho hậu cần quân tổ chức xây dựng ở đây một tòa tiểu thành, để lại 1 vạn dân binh Ai Cập trú đóng. Các thương nhân theo quân cũng tạm thời tập kết tại đây, bởi xa mã của bọn họ đã chở nặng quá rồi. Bọn họ chờ đại quân đánh thông đường đến khu vực eo biển Dardanelles rồi sẽ theo thuyền trở về Sinai. Mỗi thương đoàn chỉ phái một nửa nhân thủ đi theo đại quân, một nửa ở lại giữ gìn hàng hóa. Bọn họ còn mua lại rất nhiều xa mã từ các tiểu bộ lạc trong vùng hoặc từ chiến lợi phẩm của kỵ binh Thổ, Mamluk và A Lạp Bá. Đến lúc này, số kỵ binh Thổ theo quân đã đông hơn cả số kỵ binh Mamluk, đứng đầu trong số ba đạo kỵ binh trợ chiến.
Nghỉ ngơi nửa tháng, đại quân lại tiếp tục bước chinh trình, tiến thẳng đến Bursa, kinh đô của Đế quốc Ottoman. Lúc này, đại quân chỉ còn lại 48 vạn quân Đế quốc, hơn 5 vạn kỵ binh Thổ, Mamluk và A Lạp Bá, cùng với 2 vạn dân binh Ai Cập. Số dân binh Ai Cập còn lại đã được chia ra phòng thủ các thành thị trọng yếu mới chiếm được. Đinh An Bình còn chuẩn bị sử dụng đến 10 vạn dân binh Nubia hiện đang tập trung huấn luyện ở Sinai, và nếu cần thì còn có thể triệu tập dân binh Yemen và Somali.
Bursa, kinh đô của Đế quốc Ottoman, giờ đây vô cùng náo nhiệt và hỗn loạn. Hàng trăm bộ lạc, hàng chục vạn quân dân bị đại quân Thần Thánh Đế quốc dồn đuổi về phía này, dần dần đều tập trung lại quanh thành Bursa. Sultan Mehmed I Çelebi vừa mừng vừa lo. Mừng vì có thêm người để chinh binh, nhưng lo vì vấn đề trị an và lương thực. Hàng chục vạn người tập trung về đây, trong ngoài thành Bursa xuất hiện hàng vạn ngôi lều lớn nhỏ đủ loại, hàng chục vạn nạn dân không có việc gì làm, sẽ khiến cho trị an trong vùng càng thêm rối loạn. Thêm vào đó, đa phần các bộ lạc này trên đường chạy nạn đã để lạc mất phần lớn dê ngựa, hành trang (bị kỵ binh Thổ, Mamluk và A Lạp Bá truy sát, dê ngựa đi chậm quá, hành lý nặng quá nên phải bỏ lại, bỏ của chạy lấy người), thành ra hiện tại lâm vào tình trạng thiếu lương thực. Mấy ngày gần đây, nhiều hộ dân cư ngoài thành bị cướp phá, ngay cả trong thành về đêm cũng không được an toàn, càng làm cho Mehmed I Çelebi và triều đình quan viên thêm đau đầu.
Giữa cảnh rối loạn đó, tin báo về việc đại quân Thần Thánh Đế quốc áp sát Bursa càng khiến tình hình thêm hỗn loạn. Một số gia đình giàu có nhưng không phải quý tộc trong thành đã len lén thu góp tài sản chạy khỏi Bursa. Cảnh thành trì thất thủ, rồi bị cướp phá thiêu hủy ở xứ này vốn không lạ gì. Bọn họ không muốn gặp phải cảnh đó nên sớm chạy khỏi nơi này.
Trong cung điện, Sultan Mehmed I Çelebi trầm tư khổ tưởng tìm cách vượt qua quốc nạn. Xung quanh là đông đảo triều thần, nhưng ai nấy đều cúi đầu lặng im. Mehmed I Çelebi nghĩ mãi mà không tìm ra diệu sách gì, lại nhìn quần thần ai nấy co đầu rút cổ, tức giận quát :
- Các ngươi … các ngươi … bình thường ta ban cho các ngươi cao quan lộc hậu mà giờ đây không ai giúp ta đưa ra được chủ ý gì là sao, là sao hả ?
Một vị triều thần rụt rè nói :
- Bệ hạ. Nếu không muốn lánh đi nơi khác thì chỉ còn cách quyết chiến mà thôi, không còn đường nào khác đâu ạ !
Một vị triều thần khác nói thêm :
- Xin bệ hạ cho chinh thêm binh ạ ? Chúng thần thề cùng địch quân tử chiến đến cùng !
Nhiều người khác đưa mắt nhìn nhau, rồi cùng nói :
- Xin thề cùng địch quân tử chiến đến cùng !
Không ai biết bản ý bọn họ như thế nào, nhưng trước tình hình thế này, bọn họ không thể không lên tiếng thề quyết tử chiến, nếu không khó thể bình an bước ra khỏi nơi này. Mehmed I Çelebi đưa mắt nhìn khắp chúng quần thần hồi lâu rồi mới nghiêm giọng nói :
- Truyền lệnh phong tỏa toàn thành, ai dám bỏ trốn lập tức xử tử.
Nói xong lại đưa mắt nhìn một lượt chúng triều thần, ánh mắt tràn ngập sát khí khiến ai nấy cũng đều rùng mình. Sau đó, Mehmed I Çelebi lại truyền lệnh :
- Chinh triệu tất cả những người đàn ông khỏe mạnh trong thành gia nhập quân đội chống giặc.
Một vị triều thần vội nói :
- Bệ hạ. Nếu như thế e rằng chúng ta không có đủ lương thực cung cấp cho quân đội.
Mehmed I Çelebi cau mày hỏi :
- Lương thực còn được bao nhiêu ?
Vị triều thần kia cung kính nói :
- Bẩm bệ hạ. Lương thực trong thành chỉ đủ cung cấp cho 1 triệu người sử dụng trong 1 tháng nữa.
Mehmed I Çelebi cả kinh hỏi :
- Sao ít thế ?
Vị triều thần kia nói :
- Bẩm bệ hạ. Kinh đô bị công kích mấy tháng nay, nạn dân kéo đến càng lúc càng nhiều, việc canh tác sinh sản lại đình trệ, nên lương thực càng lúc càng thiếu thốn ạ ! Đặc biệt là nạn dân của các bộ lạc từ phía đông mới kéo đến gần đây, lương thực vật tư đa số bị lạc mất trên đường chạy loạn, lâm vào cảnh thiếu ăn, nếu không được triều đình tiếp tế sẽ lâm vào cảnh thiếu đói, rất dễ phát sinh họa loạn.
Mehmed I Çelebi cau mày ngẫm nghĩ hồi lâu, cười khổ nói :
- Nếu không có bọn họ thì đỡ biết chừng nào nhỉ ?
Vị đại thần kia vội nói :
- Nhưng triều đình cũng không thể đuổi bọn họ đi nơi khác ạ ! Nếu không, địch quân còn chưa đánh đến nơi mà kinh thành đã đại loạn trước rồi.
Một vị đại thần khác đột nhiên hiến kế :
- Bệ hạ. Hay là chúng ta chinh triệu bọn họ vào quân đội, sau đó lập tức đưa ra chiến trường. Triều đình chỉ mất ít ngày lương thực. Bọn họ mà giết được kẻ địch nào thì đối triều đình càng có lợi.
Mehmed I Çelebi sáng mắt lên, khen :
- Chủ ý của ngươi rất hay. Cứ thế mà làm. Việc này ta giao cho ngươi xử lý.
Vị đại thần kia cung kính vâng dạ, Mehmed I Çelebi lại nói :
- Mau thi hành đi !
Vị đại thần kia vội cáo lui, đi thực hiện ngay việc đó. Với sự nỗ lực của ông ta, chỉ hai ngày sau, quân Ottoman đã chinh triệu được thêm 750.000 dân binh, cộng với quân triều đình đạt đến hơn 1 triệu. Điều đó có nghĩa là toàn bộ trai tráng trong ngoài thành Bursa, kể cả những nơi lân cận cũng bị chinh triệu hết. Mehmed I Çelebi biết trận chiến này quan hệ đến sự sinh tử tồn vong của Đế quốc Ottoman, cũng như của bản thân ông ta, nên hoàn toàn đồng ý việc đó. Nếu như thất trận, cũng giống như phụ vương, mạng sống có thể không còn, thì còn lo gì đến chuyện tương lai. Muốn gì thì cũng phải vượt qua cơn quốc nạn này mới được.
Sau ba ngày khẩn cấp huấn luyện, Mehmed I Çelebi cho chỉnh đốn đội ngũ, rồi dẫn quân xuất thành chặn đánh địch quân. Với đạo quân đông đến hơn 1 triệu người, nếu thời gian kéo dài, thành Bursa không thể cung cấp đủ lương thực để nuôi quân, vì thế mà Mehmed I Çelebi bất đắc dĩ phải sớm tìm cơ hội quyết chiến.
Trên một khu bình nguyên cách thành Bursa hơn trăm dặm, quân đội song phương đụng độ với nhau. Do trời đã xế bóng, song phương quyết định cắm trại lại nơi này, nghỉ ngơi một đêm, đến sáng mai sẽ quyết chiến. Lúc này, trên bình nguyên này tập trung đến gần 1 triệu 700.000 quân đội song phương, doanh trướng chật đồng, người đi chật đất, đến khi nấu cơm chiều thì khói bốc mù trời giống như đang có một trận đại hỏa hoạn vậy.
Đại doanh quân đội Ottoman. Vương trướng.
Mehmed I Çelebi triệu tập các đại thần vào vương trướng cùng ăn tối và nghị bàn việc giao chiến vào ngày mai. Mehmed I Çelebi nói với vẻ lo lắng :
- Tuy quân ta đông hơn, nhưng địch quân đều là tinh nhuệ, vũ khí tinh lương, đại pháo lợi hại. Xem ra trận chiến ngày mai chúng ta không có mấy ưu thế rồi. Nghe nói trước đây bọn họ chỉ có 200.000 quân mà đã tiêu diệt cả Đế quốc La Mã Thần Thánh, càn quét cả tây phương, diệt quốc vô số, thành lập nên Đế quốc Latium rộng lớn như bây giờ.
Một viên cận thần là Miran Lazarevic nói :
- Bệ hạ. Nếu như giao chiến không có ưu thế thì chúng ta có thể dùng mưu.
Mehmed I Çelebi hỏi :
- Ngươi có mưu kế gì ? Hãy mau nói ra !
Miran Lazarevic nói :
- Bệ hạ. Chúng ta hãy cho cung thủ mai phục trên các ngọn đồi phía sau nơi đây, trên đó chuẩn bị thật nhiều đá tảng nữa. Khi giao chiến, bệ hạ có thể cho quân tạm lui về phía đó. Nếu địch quân đuổi theo, quân mai phục đổ ra đánh, quân ta cũng từ phía sau đánh tràn đến, có thể đánh bại được địch nhân.
Mehmed I Çelebi ngẫm nghĩ giây lát, rồi gật đầu nói :
- Kế ấy hay lắm ! Có thể thi hành.
Mọi người đều thấy mưu kế đó rất hay. Thế là quần thần cũng đồng thanh tán dương Sultan anh minh thần vũ, Lazarevic đại nhân trí kế phi phàm, địch nhân tất sẽ bị đánh bại, quân ta tất sẽ đại thắng, …
Chương 128 : BURSA ĐẠI HỘI CHIẾN (2)
Lại nói, khi Miran Lazarevic hiến kế được Sultan Mehmed I Çelebi chấp thuận, mọi người đều tán dương Sultan anh minh thần vũ, Lazarevic đại nhân trí kế phi phàm, địch quân tất bại, quân ta tất thắng, … Mehmed I Çelebi nghe chúng quần thần tán tụng như thế, rất lấy làm hài lòng, vẻ lo lắng về quốc nạn không còn nữa, giống như địch quân đã bị đánh bại rồi vậy. Không chỉ riêng Mehmed I Çelebi mà cả quần thần đều lấy lại được lòng tin khi đối diện với địch quân. Đó là một điều may mắn lớn cho phía quân đội Ottoman. Chứ nếu chưa giao chiến mà tướng lĩnh đã sợ thua thì còn giao chiến gì nữa.
Không chỉ có thế, Miran Lazarevic lại còn nói thêm :
- Nếu như quân ta may mắn đại thắng, đuổi chạy được địch quân thì chúng ta có thể nhân cơ hội đó chiếm lĩnh trận địa đại pháo của địch quân. Nghe nói địch quân có đến cả vạn khẩu thần công đại pháo. Nếu như quân ta mà chiếm được số đại pháo đó thì không còn sợ gì địch quân nữa.
Bọn họ đều biết thần công đại pháo rất nặng nề, nếu phải bỏ chạy thì khó mà kéo theo kịp. Mehmed I Çelebi cả mừng nói :
- Đúng thế ! Đúng thế ! Chỉ cần chiếm được số thần công đại pháo đó, dù cho có thiệt hại vài trăm nghìn quân cũng không tiếc. Địch quân mà thiếu đi đại pháo thì cũng giống như sư tử mà mất đi nanh vuốt, không còn gì đáng sợ nữa.
Thật sự thì Mehmed I Çelebi cũng không sợ gì việc tổn thất vài trăm nghìn binh sĩ. Trong hơn 1 triệu quân Ottoman ở đây thì có đến gần 75% là dân binh được chọn ra chiến trường làm bác hôi kia mà. Nếu không, duy trì một đạo quân đông đảo như thế, nhất thời triều đình Ottoman cũng không có đủ lương thực để cung cấp cho quân đội. Mehmed I Çelebi lại bảo Miran Lazarevic :
- Việc này ta giao cho ngươi toàn quyền an bài.
Miran Lazarevic cung kính nói :
- Vâng ạ. Thần sẽ an bài đâu vào đó cả. Bệ hạ cứ an tâm.
Mehmed I Çelebi lại quay sang quần thần nghiêm giọng nói :
- Ngày mai các ngươi phải đốc thúc quân binh hết sức chiến đấu. Khi có hiệu lệnh tiến quân, ai mà dám không tiến, lập tức xử trảm.
Chúng quần thần đều cung kính vâng dạ. Mọi người chia nhau đi chuẩn bị cho cuộc chiến ngày mai. Trong lòng cả bọn lúc này tràn trề hy vọng vào một trận đại thắng, mà không biết rằng ‘hành sự tại nhân, thành sự tại thiên’.
Cũng cùng lúc đó, trong soái doanh của quân đội Thần Thánh Đế quốc, Đinh An Bình triệu tập chúng tướng bàn bạc việc quân. Đinh An Bình nói :
- Quân giặc đông hơn trăm vạn, chiến đấu chắc chắn sẽ rất khích liệt. Để tránh tổn thất nặng nề, mọi người ai có chủ ý gì hay không ?
Tham mưu trưởng Trương Kỳ nói :
- Đại vương. Tối nay chúng ta có thể cướp doanh địch quân !
Đinh An Bình thoáng cau mày :
- Cướp doanh ? Có ổn không ?
Quân đội Thần Thánh Đế quốc luôn đề phòng bị cướp doanh, nên khi dựng doanh trại ở đâu đều có nhiều bố trí để phòng chống. Khó biết địch quân cũng có làm thế hay không. Trương Kỳ nói :
- Chúng ta có thể phân làm hai giai đoạn. Phái một đạo quân đi trước cướp doanh. Nếu như địch quân không có đề phòng thì thiêu hủy địch doanh luôn. Ngoài ra bố trí thêm một đạo quân mai phục ở phía sau, nếu như địch quân có đề phòng thì sẽ tấn công vào mặt sau địch quân. Bằng không thì sẽ làm đạo dự bị.
Một viên tham mưu lại hiến kế :
- Chúng ta có thể kết hợp với cả thần công đại pháo. Quân ta chỉ bao vây ở vòng ngoài, rồi pháo kích vào đại đội nhân mã của địch quân ở phía trong.
Đinh An Bình gật đầu bảo :
- Ban tham mưu lên kế hoạch đi. Rồi chư tướng sẽ theo đó thi hành.
…
Mây rất dày. Đêm nay trời âm u. Trên bầu trời chỉ có vài ngôi sao. Tinh quang chiếu xuống mặt đất mờ mờ ảo ảo. Nhiều chỗ giơ bàn tay ra không nhìn rõ năm ngón.
Đinh An Bình phái 9 vạn quân đi cướp doanh. Ngoài ra còn có 42 vạn quân mai phục ở hai bên trái phải địch doanh, chờ lệnh hành sự. Chỉ còn lại hơn 10 vạn quân ở lại bảo hộ bản doanh.
Thần Uy Tướng quân Hoàng Thắng dẫn đầu đội tiền quân lặng lẽ tiến sát đến bên ngoài địch doanh, chiến mã đều bị cột miệng lại, sĩ binh thì ngậm một thanh gỗ nhỏ trong miệng để khỏi gây ra tiếng động. Cũng may là địch quân không có bố trí cạm bẫy bên ngoài doanh trại, nên đội quân của Hoàng Thắng dễ dàng tiến sát đến bờ rào ngoài cùng. Nghĩ đến sự an bài của Đại vương, Hoàng Thắng trong lòng đại định, ngoài đạo quân của mình, vẫn còn có 6 vạn quân ở phía sau, bên ngoài lại còn có thêm 42 vạn quân và gần 1 vạn khẩu thần công tiếp ứng. Có mấy tầng bố trí như thế, lần này cướp doanh dù cho thất bại, chỉ cần xung thoát ra ngoài là vẫn an toàn.
Hoàng Thắng nhìn vào bờ rào phía trước mặt một lúc, rồi hỏi viên tùy tướng :
- Thám tử quay lại chưa ?
Viên tùy tướng lắc đầu đáp :
- Chưa ạ !
Nói đến đây, gã chợt chỉ về phía trước, hô khẽ :
- Tướng quân. Về rồi kìa !
Hoàng Thắng nhìn thấy hai gã thám tử đang rón rén quay lại, liền vội hỏi :
- Tình hình bên trong thế nào ?
Một gã thám tử nhanh nhảu nói :
- Hồi Tướng quân. Trừ một số ít canh phòng bên ngoài các địa điểm quan trọng, toàn bộ địch quân đều lăn ra ngủ trong các doanh trướng, căn bản chẳng có tuần canh gì hết. Thậm chí thuộc hạ thay đổi y phục, lẻn vào bên trong đi khắp một vòng mà chẳng ai chú ý đến thuộc hạ. Kẻ nào kẻ nấy đều ngủ như trâu, tiếng ngáy truyền ra đến tận ngoài này cũng còn nghe thấy thấp thoáng.
Hoàng Thắng ngạc nhiên nói :
- A ! Địch quân lại như thế ư ?
Gã thám tử nói chắc như đinh đóng cột :
- Thuộc hạ xin dùng tính mệnh đảm bảo. Những điều đó là do thuộc hạ tận mắt nhìn thấy. Hơn nữa, bọn thuộc hạ dạo quanh trong đó hết một vòng, toàn bộ địch doanh đều như thế cả, tuyệt đối không hề giả dối.
Hoàng Thắng ngạc nhiên không thôi. Bọn họ không biết rằng người phương tây, trong đó có cả người Thổ vốn quen dàn trận giao chiến, thổi kèn xung phong, mặt đối mặt chiến đấu, không có sử dụng nhiều âm mưu quỷ kế như người phương đông. Các trận chiến ở u châu đều như thế cả. Việc Miran Lazarevic nghĩ ra mưu kế mai phục trên ngọn đồi phía sau đã là thần mưu diệu kế trên đời hiếm có rồi. Nếu không phải gặp nguy cơ, có khi Mehmed I Çelebi cũng không chấp nhận sử dụng âm mưu, bởi theo văn hóa của bọn họ thì hành động như thế là không anh hùng, cũng giống như người phương tây tuân thủ tinh thần Hiệp sĩ vậy.
Thấy Hoàng Thắng mãi suy nghĩ, viên tùy tướng khẽ nhắc nhở :
- Tướng quân. Chúng ta tấn công thôi.
Hoàng Thắng giật mình, gật đầu bảo :
- Truyền lệnh tấn công.
Thế là đạo tiền quân 3 vạn người phá rào tràn vào bên trong, gặp người thì sát, gặp doanh trướng thì thiêu. Quân Ottoman vốn không đề phòng, nên khắp đại doanh hỗn loạn vô cùng. Hỏa quang xung thiên, liệt diệm bừng bừng. Quân Ottoman đang ngủ say sưa, tỉnh dậy trong lúc đại hỏa thiêu đến nơi, hoang mang hoảng loạn chạy ngược chạy xuôi. Thật thà một chút thì lo cứu hỏa. Lanh lợi một chút thì cảm giác thấy tình hình không hay, vội lo tìm đường thoát thân.
Thấy tình hình thuận lợi như thế, Hoàng Thắng liền vội đốt pháo hiệu tung lên trời. Các đạo quân bên ngoài lập tức reo hò xông đến, phá rào tràn vào địch doanh vừa thiêu vừa sát.
Giữa cảnh hỗn loạn đó, hỏa thế càng lúc càng lớn. Nguyên bản quân Ottoman xây dựng doanh trướng toàn bằng vải và gỗ, cũng không chuẩn bị đề phòng hỏa hoạn, bên trong cỏ dại khắp nơi, lúc này lại đang mùa hạ, khí trời oi bức, thành ra có muốn cứu hỏa cũng không xuể, mới dập tắt chỗ này thì càng có nhiều chỗ khác bùng lên. Thêm vào đó, quân Thần Thánh Đế quốc mang hỏa dược rải vào rồi mới phóng hỏa, nên hỏa thế càng dữ dội. Chẳng mấy chốc là toàn doanh trại đã chìm trong biển lửa. Phong trợ hỏa thế, hỏa tá phong oai. Hỏa thế hung hãn vô cùng, thiêu sạch mọi thứ mà nó tràn qua. Số quân Ottoman đang lo cứu hỏa cũng đành từ bỏ hành động vô ích của mình, bắt đầu tìm đường thoát thân.
Mehmed I Çelebi đang ngủ say trong vương trướng thì đột ngột bị thị vệ đánh thức, bẩm báo hung tin. Ban đầu ông ta còn cố gắng chỉ huy quân binh xung quanh cứu hỏa, đồng thời truyền lệnh quần thần chỉ huy quân binh chống cự, nhưng rồi xem ra hành động đó chẳng có mấy hiệu quả. Dù cho đốc chiến đội tuân lệnh giết chết một số kẻ bỏ chạy thì số quân Ottoman bỏ chạy lại càng nhiều hơn, xung tản cả đốc chiến đội. Hầu như cả doanh trại đều tháo chạy ra ngoài. Thật ra thì đầu tiên chỉ có dân binh bỏ chạy, số quân đội Hoàng gia vẫn tìm cách kháng địch, nhưng dân binh chiếm đến 75% toàn quân, nên khắp nơi đều thấy người bỏ chạy. Trước tình thế đó, cả doanh trại đều dần dần bỏ chạy theo cả. Chẳng ai muốn ở lại trong doanh trại để bị thiêu chết trong ngọn lửa hung hãn kia. Đến khi ngọn lửa tràn ngập cả doanh trại thì Mehmed I Çelebi cũng bị đám thị vệ trung thành đưa lên ngựa tìm đường thoát thân.
Chương 129 : HAI ĐẾ QUỐC CÙNG DIỆT VONG
Doanh trại bị thiêu hủy là một thảm họa đối với quân đội Ottoman. Quân binh nếu như không bị thiêu chết hay bị giết chết giữa trận thì cũng đều cuống cuồng tháo chạy về phía Bursa, không ai còn tập hợp hay chỉ huy được nữa.
Ngay cả Mehmed I Çelebi cũng được đám thị vệ trung thành đưa lên ngựa tìm đường thoát thân. Cả bọn chạy một mạch đến sáng, vừa mệt vừa khát. Vừa chạy từ trong ngọn lửa ra, lại cuống cuồng chạy thoát thân, ai nấy đều mất nước, cảm thấy vô cùng khát. Mehmed I Çelebi nhìn quanh, thấy chỉ còn lại hơn trăm thị vệ, áo mũ xốc xếch, mặt mũi hốc hác, thần thái hoang mang lo lắng, nhìn ra xa chưa thấy truy binh, khẽ thở dài một tiếng, nói :
- Tạm dừng lại giây lát, kiếm nguồn nước lấy chút nước uống rồi sẽ cùng ta về Rumelia.
Trong lúc khẩn trương chạy loạn, bọn họ không kịp lấy theo túi nước, hoặc có thì cũng không còn nước để uống. Một gã thị vệ nói :
- Bệ hạ. Gần đây có một dòng suối nhỏ.
Mehmed I Çelebi gật đầu nói :
- Được rồi. Chúng ta mau đi đến đó. Ngươi hãy dẫn đường.
Gã thị vệ vâng dạ, giục ngựa chạy trước dẫn đường. Cả bọn cũng vội giục ngựa chạy nhanh theo phía sau, cùng đi về phía dòng suối. Khi đến nơi, ai nấy vội vã chạy đi lấy đầy túi nước, đồng thời cho ngựa uống nước, tranh thủ thời gian để rồi tiếp tục chạy trốn. Thừa lúc này, gã thị vệ trưởng hỏi :
- Bệ hạ. Sao chúng ta không về Bursa và lại sang Rumelia ạ ?
Mehmed I Çelebi thở dài hỏi :
- Nếu chúng ta về Bursa, ngươi nghĩ chúng ta có thể ngăn được bước tiến của địch quân chăng ?
Nghĩ đến thực lực hung hãn của địch quân, gã thị vệ trưởng buồn bã lắc đầu, nói :
- Khó a !
Mehmed I Çelebi cũng thở dài. Với thực lực của quân đội Ottoman lúc này, không chỉ khó, mà có thể nói là vô vọng. Xong đâu đấy, cả bọn lại lên yên, phóng ngựa tiếp tục bước bôn trình.
Chạy được một lúc nữa, cả bọn chợt nghe phía sau có tiếng vó ngựa đuổi theo. Ai nấy lo sợ truy binh, nhưng khi nghe kỹ thì chỉ nghe thấy có tiếng vó ngựa của một con ngựa. Mehmed I Çelebi nói :
- Có lẽ là quân ta !
Những người khác cũng nghĩ vậy, đều thở phào nhẹ nhõm. Thế nhưng, trái với suy nghĩ của bọn họ, kẻ đuổi theo không phải là quân Ottoman mà là quân Thần Thánh Đế quốc. Bọn Mehmed I Çelebi đều cảm thấy ngạc nhiên, không hiểu sao đối phương chạy một mình đến đây làm gì. Gã thị vệ trưởng nói :
- Bệ hạ. Hay là phái 3 người quay lại sát gã để tuyệt hậu hoạn.
Mehmed I Çelebi gật đầu đồng ý. Gã thị vệ trưởng vừa định phái ba gã thị vệ cạnh đó đi hành sự thì đột nhiên biến cố phát sinh. Đối phương khi chạy gần đến nơi, vừa nhìn thấy đoàn nhân mã của Mehmed I Çelebi chạy phía trước, trông y phục, trông đám thị vệ thì dễ dàng xác định người cầm đầu là Sultan của Đế quốc Ottoman. Gã ta vốn là trinh sát binh, không cần phải chiến đấu, chỉ cần tìm ra Mehmed I Çelebi là đã lập được đại công. Do vậy, gã không giục ngựa phóng nhanh hơn mà lại ghìm cương cho ngựa chạy chậm lại, rồi lấy từ trong túi ra một viên hỏa pháo, ném mạnh lên trời. Viên hỏa pháo nổ bùng trên không trung, tỏa ra vạn ánh hỏa quang. Mehmed I Çelebi thấy thế cả kinh, vội nói :
- Nguy rồi ! Chạy mau !
Cả bọn vội vàng ra roi giục ngựa chạy nhanh hơn nữa. Nhưng chỉ được một lúc, bọn họ đã nghe thấy có nhiều tiếng vó ngựa từ trước mặt chạy lại, từ hai bên chạy đến, và cả từ phía sau đuổi đến. Ánh hỏa pháo đã báo động cho kỵ binh của Thần Thánh Đế quốc đang truy lùng quanh đó tụ tập lại, bao vây bọn Mehmed I Çelebi. Trước khi cuộc tập kích diễn ra, Đinh An Bình đã phái một nửa số kỵ binh trong quân gồm hơn 2 vạn người chia nhau đi chặn các đường tháo chạy của địch quân. Do vậy mà bọn họ mới có thể xuất hiện phía trước bọn Mehmed I Çelebi. Bị vây kín bốn mặt, Mehmed I Çelebi chỉ còn cách kháng cự trong tuyệt vọng, và rồi cuối cùng chết vì loạn tiễn. Ông ta thà chết kháng cự đến cùng, chứ quyết không chịu để bị bắt rồi chết trong nhà ngục như vua cha. Chiến đấu với quân đội các nước u châu, lỡ bị bắt còn có cơ hội chuộc thân, chứ với quân đội phương đông thì không có chuyện đó. Kỵ binh Thần Thánh Đế quốc thấy không thể bắt sống, nên trút làn mưa tên lên đầu đối phương, tiêu diệt tất cả.
Thành Bursa cũng nhanh chóng thất thủ đúng như dự đoán của Mehmed I Çelebi. Sau khi thất trận, tàn quân Ottoman chạy về đó, và Đinh An Bình nhanh chóng phái quân đuổi theo, dẫn đầu là hơn 5 vạn kỵ binh Thổ, Mamluk và A Lạp Bá. Số kỵ binh này tuy không thiện chiến, nhưng truy đuổi tàn binh thì rất giỏi, bởi có cơ hội tranh đoạt chiến lợi phẩm kia mà. Các đội kỵ binh này chia thành nhiều nhóm nhỏ (theo đơn vị bộ lạc, tiểu quốc) đuổi sát phía sau tàn quân Ottoman, tiến thẳng vào thành Bursa. Và thành Bursa phải hứng chịu một kiếp nạn lớn, bị tàn binh Ottoman và kỵ binh Thổ, Mamluk, A Lạp Bá luân phiên đốt phá, cướp đoạt.
Mãi gần nửa ngày, khi đại quân Thần Thánh Đế quốc tiến vào Bursa thì cuộc cướp phá mới chấm dứt. Đinh An Bình nhanh chóng phái quan viên tổ chức an dân, bình định hỗn loạn và thiết lập hệ thống cai trị. Các đạo quân cũng được phân ra đi chinh thảo những vùng chưa thần phục. Đế quốc Ottoman kể như chấm dứt.
Nghỉ ngơi nửa tháng, Đinh An Bình lại tập trung 10 đạo quân, 30 vạn người, cùng 2 vạn dân binh Ai Cập xuống chiếm hạm vượt qua eo biển Dardanelles, tiến sang đất Rumelia (tức phần đất Thổ Nhĩ Kỳ thuộc châu u ngày nay). Long nhi đang ở cùng Hạm đội cũng theo quân xuất chinh. Do Đế quốc Ottoman đã sụp đổ, vùng Rumelia lại chịu ảnh hưởng nhiều của người La Mã, nên khi có Long nhi xuất diện thì việc thu phục đất này dễ dàng hơn bên phía bán đảo Tiểu Á rất nhiều. Giờ ở đây chỉ còn lại thành Constantinople nằm trơ trọi một mình giữa vòng vây. Dưới sự cổ động của Đức Thượng phụ giáo chủ Theophilus II của Jerusalem, Đinh An Bình bàn bạc với Long nhi, quyết định chinh phục thành Constantinople.
Đinh An Bình để lại dân binh Ai Cập phòng thủ các xứ đất Rumelia, rồi dẫn đại quân kéo đến vây thành Constantinole. Trên bờ có 30 vạn đại quân, 6.000 khẩu thần công đại pháo. Dưới biển có các chiến hạm của Hắc Long Hạm đội, thần công đại pháo uy lực càng lớn hơn đại pháo của lục quân. Lần đầu tiên quân dân Constantinople nhìn thấy quân đội hùng mạnh đến thế, quân tâm hoán tản rất nhiều. Đáng chú ý là thành Constantinople đã bị quân Thổ bao vây kể từ năm 1371 cho đến tận lúc này, trải qua gần 50 năm chiến loạn và bị cô lập, toàn bộ quân dân trong thành chỉ có khoảng 5 vạn người, ít hơn quân vây thành rất nhiều. Đặc biệt là khi tuyến thương mại đường biển Gia Định – Sinai được mở ra, thay thế cho tuyến Con đường tơ lụa đi qua sa mạc, thì địa vị của thành Constantinole (vốn nằm ở đầu phía tây của Con đường tơ lụa) không còn quan trọng như xưa nữa, do đó mà triều đình Constantinole cũng không giàu có dư dả gì. Quân đội trong thành lúc này chỉ có khoảng 7.000 người, trong đó có 2.000 người là lính đánh thuê nước ngoài. Thật ra so với dân số trong thành thì tỷ lệ này đã rất cao, khoảng 1 : 7. Nhưng khi so với quân đội Thần Thánh Đế quốc bên ngoài thành thì quá nhỏ đến mức không đáng kể (chỉ tương đương 2%).
Hoàng đế Manuel II Palaiologos của Constantinople (lên ngôi từ năm 1391, xưng hiệu là Hoàng đế La Mã, lịch sử gọi là Hoàng đế Byzantine, nhưng thật ra Đế quốc Byzantine lúc này chỉ còn lại thành Constantinople) thấy đối phương quân dung hùng hậu, quân số đông đảo, nhắm bề chống cự không nổi, nên sai sứ sang xin cầu hòa. Nhưng Đinh An Bình đã lấy cớ Constantinople không có trong danh sách tiến cống của Thần Thánh Đế quốc, nên triều đình này không được công nhận, rồi từ chối nghị hòa. Đại quân đã chuẩn bị sẵn sàng, lẽ nào bỏ lỡ nửa chừng, phí công phí sức một cách vô ích hay sao.
Thành Constantinople tuy thành cao hào sâu, từng đứng vững trước sự bao vây của quân đội Ottoman trong suốt gần 50 năm, nhưng đó chỉ là đối với quân đội Ottoman trang bị lạc hậu, còn đối diện thần công đại pháo của quân đội Thần Thánh Đế quốc thì thành cao hào sâu cũng chỉ làm mất thêm chút công sức mà thôi. Đinh An Bình tập trung 6.000 khẩu thần công đại pháo của 10 đạo quân trước cổng thành phía tây, rồi cho đại pháo cùng hướng về cổng thành, tập trung khai hỏa. Cùng lúc đó, các chiến hạm cũng nã pháo vào trong thành từ ngoài biển (thành Constantinople nằm trên bán đảo, trừ mặt tây thì ba mặt còn lại đều giáp biển). Nhất thời, khắp bốn phía thành Constantinople khói bốc mịt trời, pháo thanh chấn động, hỏa quang xung thiên.
Đinh An Bình cho pháo kích suốt từ sáng đến trưa, bắn gần 10 vạn viên đạn pháo vào cổng thành và phía trong thành. Dưới sự pháo kích khủng khiếp như vậy, thành trì chỉ được xây bằng gạch đá, làm sao chịu đựng cho nỗi. Cổng thành đã sớm bị phá hủy rồi.
Đến trưa, Đinh An Bình cho dừng pháo kích, rồi nổi trống trận, truyền đại quân nhập thành. Đại quân 30 vạn người, đông gấp 6 lần toàn thể quân dân trong thành, nhanh chóng tràn ngập toàn thành. Thành Constantinople thất thủ. Hoàng đế Manuel II Palaiologos cho thiêu Cung điện tự sát. Đế quốc Byzantine diệt vong. Sự kiện này diễn ra sớm hơn lịch sử 32 năm (cũng giống như sự kiện quân Mông Cổ vây thành Bắc Kinh sớm hơn 34 năm vậy).
Chương 130 : ĐẠI KẾT CỤC
Tin tức về hai Đế quốc Ottoman và Đông La Mã (cách gọi của các nước Tây u đối với Đế quốc Byzantine) lần lượt diệt vong chỉ cách nhau vài tháng nhanh chóng truyền sang u châu, khiến chúng vương công quý tộc chấn kinh, còn dân chúng thì xôn xao bàn tán. Đối với bình dân bách tính thì đó cũng chỉ là chuyện trà dư tửu hậu, còn đối với nhiều vị vương công quý tộc thì điều đó đồng nghĩa với một nguy cơ to lớn. Tiếp sau đó, những nước từng phái sứ tiết đến Gia Định triều cống thì hoan hỉ vui mừng, còn những nước không triều cống lại lo lắng bất an, cố gắng tìm cách bổ khuyết, vừa khẩn trương thành lập sứ đoàn gửi đến Gia Định, vừa sai sứ giả liên hệ với những người quen biết thuộc nhóm được Thần Thánh Đế quốc công nhận nhờ cầu xin giúp. Đến lúc này, bọn họ đều đã nhận ra rằng không một vị quân vương nào, không một dân tộc nào có thể hứng chịu được cơn thịnh nộ của Đức Thánh hoàng ở Trường Thanh Cung.
Ở Tiểu Á, Đinh An Bình được lệnh tạm trú quân ở đó, ổn định khu vực. Ngoài ra, để có thể triệt để thống trị cương thổ rộng mênh mông, Giang Phong lại ban chiếu tăng quân. Lần này là tăng quân đến hơn trăm vạn. Đế quốc hùng mạnh, lương thực tài nguyên sung túc, có thể cung ứng cho một đội quân đông đảo. Dùng 200 vạn quân để khống chế 90% diện tích địa cầu, quả thật không nhiều. Chỉ có điều, khác với những lần trước, mục tiêu chinh binh lần này đại bộ phận là các chiến binh dũng mãnh của những bộ lạc ở Phi châu và Mỹ châu. Những chiến binh bộ lạc này cực kỳ dũng mãnh thiện chiến, chỉ có vấn đề là quá lạc hậu. Nhưng ở thời buổi lãnh binh khí này, bọn họ chỉ cần gia nhập quân đội Thần Thánh Đế quốc, được trang bị vũ khí tinh lương, được huấn luyện quân sự, được cung cấp lương hướng đầy đủ thì sẽ nhanh chóng trở thành những chiến binh tinh nhuệ ngay.
Trong số hơn trăm vạn tân binh đó, có 3 vạn kỵ binh Arab, 5 vạn kỵ binh Thổ, 2 vạn kỵ binh Somali, 5 vạn kỵ binh Mông Cổ, 10 vạn quân Nubia (dân tộc sống ở khu vực bắc Sudan, nam Ai Cập ngày nay), 10 vạn quân Berber (dân tộc sống ở khu vực nam Địa Trung Hải, từ Marocco đến Lybia), 30 vạn quân Kaffir (Kaffir trong tiếng Arab nghĩa là ‘không tin tôn giáo’, chỉ các dân tộc nam Phi châu theo tín ngưỡng địa phương, không theo các tôn giáo lớn như Hồi giáo, Cơ Đốc giáo, Bà La Môn giáo hay Phật giáo), 25 vạn quân da đỏ Mỹ châu, 10 vạn sơn địa quân Miến Điện, 2 vạn sơn địa quân Tamil (ở nam Thiên Trúc), 30 vạn quân Hán. Tổng quân số tăng thêm đến 132 vạn. Cộng với quân số của 28 đạo quân hiện hữu thì tổng số quân chính quy của triều đình đạt đến 216 vạn quân, được chia thành 72 đạo quân. Đương nhiên, khi thành quân thì các thành phần dân tộc được trộn lẫn vào nhau, không để bất kỳ một dân tộc nào chiếm ưu thế trong một đơn vị quân đội (kiểm soát đến cả cấp đội). Đồng thời, mỗi đơn vị quân đội đều có tân binh và lão binh phối hợp với nhau, để khỏi làm giảm sức chiến đấu của quân đội.
Đại quân sau khi chinh triệu xong, chia làm hai lộ, tập hợp ở nam Thiên Trúc và bán đảo Tiểu Á, giao cho Triệu Phong và Đinh An Bình huấn luyện. Nhiệm vụ sắp tới của hai người bọn họ là chinh phạt Hãn quốc Chagotai ở khu vực Ba Tư, bắc Thiên Trúc và Hãn quốc Kim Trướng ở phía bắc Hắc Hải và biển Caspian. Đây là hai trong số bốn Hãn quốc lớn của người Mông Cổ, nhưng đã tự lập ngay từ sau khi Thành Cát Tư Hãn qua đời, đương nhiên cũng chẳng thần phục nhà Nguyên, hay nay là Bắc Nguyên.
Hãn quốc Chagotai, âm Hán Việt là Sát Hợp Đài, cũng chính là Đế quốc của Timur, đã từng đánh bại quân Ottoman ở Angora năm 1402, nhưng sau khi Timur qua đời năm 1405, Hãn quốc lâm vào nội chiến, các vị vương công tranh ngôi, các vị Tổng đốc địa phương tự lập, dẫn đến Hãn quốc bị phân chia thành nhiều tiểu quốc nhỏ, thế yếu lực suy. Chỉ có Hãn quốc Kim trướng lúc này còn tương đối cường thịnh (so với các vương quốc, Hãn quốc lân bang). Hiện giờ chỉ còn lại hai khu vực này vẫn chưa nằm trong sự chi phối của Thần Thánh Đế quốc, do đó mới cần xuất quân chinh thảo.
Thật ra thì Thần Thánh Đế quốc hoàn toàn đủ năng lực để thống trị toàn bộ các vùng lĩnh thổ, nhưng Giang Phong vẫn để lại mỗi khu vực một số thế lực ‘phản nghịch’, như Đại Minh ở Trung Nguyên, Lý thị vương triều ở trung bộ bán đảo Cao Ly, các công quốc lớn nhỏ trong Đế quốc Đức, … cũng như rất nhiều tiểu quốc chư hầu khác, chính là muốn để lại chỗ cho thần dân so sánh, cho chúng vương công đại thần có chỗ lập uy, và những người hiếu chiến có chỗ mà phát tiết. Những thế lực ‘phản nghịch’ thường xuyên gặp cảnh chiến loạn, khó phát triển được. Những tiểu quốc chư hầu thực ra chính là những đại địa chủ, lĩnh dân ở đó không thể nào sinh sống tự do như ở các quận huyện của Đế quốc được. Mọi thần dân sau khi so sánh, vô hình chung sẽ có cảm giác ưu việt.
Đến Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.511 (Kỷ Hợi, 1419), mùa xuân, tháng 2, lưỡng lộ đại quân dưới sự thống suất của Chiêu Vũ Vương Triệu Phong và Chiêu Đức Vương Đinh An Bình đồng thời xuất quân chinh phạt Hãn quốc Chagotai và Hãn quốc Kim Trướng. Đại quân tiến đến đâu, địch quân tan vỡ đến đó. Bọn Đinh An Bình không cho quân thừa thắng truy kích, mà tuần tự tiệm tiến, chiếm được vùng nào thì dốc sức bình định, thiết lập quận huyện, phái quan viên cai trị và tổ chức dân binh canh giữ. Đại quân thế như phá trúc, sau gần một năm chinh chiến thì chinh phục được toàn vùng. Hai Hãn quốc hoàn toàn diệt vong.
Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.511 (Kỷ Hợi, 1419). Mùa thu, tháng 9. Thành Syracuse, kinh đô của Đế quốc Latium, trở nên vô cùng nhộn nhịp bởi sự xuất hiện của rất nhiều sứ đoàn lân bang đến chúc hạ Long nhi nhân dịp sinh nhật 16 tuổi. Long nhi sinh ngày 25 tháng 9 năm 1403 theo Tây lịch, tức ngày 9 tháng 9 năm Quý Mùi, ngay tiết Trùng Cửu. Vì vậy mà tiết Trùng Cửu hàng năm cũng trở thành ngày lễ kỷ niệm sinh nhật của Long nhi (Thần Thánh Đế quốc sử dụng m lịch, nên Đế quốc Latium cũng sử dụng m lịch). Và sinh nhật năm nay là một ngày quan trọng đối với Long nhi, bởi theo truyền thống Đông phương thì ‘nữ thập tam, nam thập lục’, sau ngày sinh nhật này thì Long nhi chính thức trưởng thành rồi. Long nhi có địa vị quan trọng ở u châu cũng như ở Thần Thánh Đế quốc, nên lễ sinh nhật của Long nhi, các vương công quý tộc lân bang đều thân tự đến dự đông đủ. Lẽ ra thì lễ sinh nhật này phải được tổ chức ở Gia Định, nhưng vì Hoàng cung của Long nhi ở thành Syracuse mới hoàn công, nên Giang Phong đã cho tổ chức ở đấy, để Long nhi ăn mừng khánh thành tân Hoàng cung và nhận lễ triều kiến của các nước chư hầu, củng cố địa vị của Đế quốc Latium.
Hoàng cung Latium tuy không có quy mô vĩ đại như Trường Thanh Cung, nhưng ở khu vực u châu thì không có nơi nào có thể sánh bằng. Rất nhiều quân vương trầm trồ thán phục, rồi thầm ghen tỵ cho sự may mắn của Long nhi. Hoàng cung quy mô rộng lớn, hoa lệ huy hoàng. Các vị quân vương, quý tộc đến dự lễ đều được bố trí ở trong cung, hưởng thụ sinh hoạt như giới quyền quý đông phương. Các sứ đoàn có hai loại : những lĩnh chủ, quý tộc trực thuộc Thần Thánh Đế quốc chỉ cử sứ giả đế chúc hạ; còn các quân vương quý tộc u châu đều thân tự đến dự (có lẽ vì sợ mất lòng Long nhi chăng). Lúc này cũng là dịp để giới quý tộc có cơ hội gặp gỡ giao lưu, bởi đây cũng là kỳ hội họp của giới quý tộc u châu có quy cách cao nhất, đông đủ nhất từ trước đến giờ.
Cũng trong dịp này, qua sự đề xuất của Quốc vương Anh Cách Lan Henry V of England, Long nhi đã cho thống kê lại thành viên các chi tộc Nhà Anjou, và chỉnh đốn gia tộc. Mọi thành viên của gia tộc đều xem Long nhi là gia chủ đương nhiên, và đều hãnh diện khi là thành viên của gia tộc cao quý nhất u châu này. Dưới sự chủ trì của Long nhi, các thành viên chủ chốt của gia tộc đã hội họp, xác định các phân chi và phân chia địa bàn ảnh hưởng (Henry V cường liệt yêu cầu) :
1. Chi trưởng : Long nhi; Đế quốc Latium.
2. Chi Anjou : Réne de Anjou; vương quốc Anjou và các lĩnh địa xứ Pháp Lan Tây.
3. Chi Plantagenet : Henry V of England; bắc u châu.
4. Chi Bourbon : Charles de Le Maine; công quốc Bourbon.
5. Chi Poland : Władysław II Jagiello; đông u châu.
Władysław II Jagiello là Đại công tước Lithuania, là phu quân của Nữ vương Jadwiga de Poland quá cố. Nữ vương Jadwiga de Poland là hậu duệ cuối cùng của chi Anjou – Hungary, từng cai trị Hungary (1308 – 1395), Ba Lan (1370 – 1399). Sau này Hungary bị Sigismund kiêm tính, chi Anjou – Hungary chỉ còn lại đất Ba Lan. Đến khi Nữ vương Jadwiga de Poland qua đời năm 1399 thì phu quân Władysław II Jagiello kế vị làm Quốc vương Ba Lan. Nguyên bản ông ta xưng hiệu là gia tộc Jagiellon, nhưng khi thấy Đế quốc Latium đột nhiên xuất hiện, chiếm trọn nửa phần u châu, và cả các xứ Anh Cách Lan, Pháp Lan Tây đều do các phân chi của gia tộc Anjou khống chế, thì ông ta theo gió trở cờ, xóa sổ gia tộc Jagiellon, tự xưng mình là người kế thừa của chi Anjou – Hungary (từ vợ), và cố làm thân với các phân chi khác. Long nhi nghĩ rằng chi Anjou – Hungary cũng giống như chi Anjou – Maine, đều là nạn nhân của chi Anjou – Darazzo (của Ladislaus de Napoli), nên đã tiếp nhận, để chi Anjou – Hungary (giờ đổi thành chi Poland) được duy trì. Tính ra, trong các phân chi của gia tộc Anjou trước đây, chỉ có 2 chi Anjou - Darazzo và Anjou – Taranto đã tuyệt hậu (thật ra tình trạng của Sigismund cũng tương tự Władysław II Jagiello, nhưng không được Long nhi công nhận, để chi Anjou – Darazzo chấm dứt luôn).
Ngoài ra, mọi người còn thỏa thuận vùng Trung Âu (tức Đế quốc Đức) không phân chia, nghĩa là ai chiếm được thì thuộc về người đó. Điều đó cũng có nghĩa là sắp tới đây, Đế quốc Đức vốn đang là bãi chiến trường, thì chiến tranh sẽ càng khốc liệt hơn.
…
Trường Thanh Cung.
Giang Phong xem biểu tấu từ các nơi đưa về, rất hài lòng. Hiện tại trên thế giới trừ ba bãi chiến trường đang hồi náo nhiệt thì phần còn lại đã thật sự thiên hạ thái bình. Ba bãi chiến trường kia là do Giang Phong cố ý để lại, cho những kẻ hiếu chiến có chỗ phát tiết tinh lực và dã tâm của mình. Ba nơi đó là Đế quốc Đức ở trung bộ u châu, Đại Minh ở bắc Trung Nguyên và Lý thị vương triều ở trung bộ Cao Ly.
Thần Thánh Đế quốc giờ đây với các Hạm đội xưng hùng tứ hải, với hơn 200 vạn đại quân tinh nhuệ trấn giữ các vùng hiểm yếu, có thể nói là vững như bàn thạch. Giang Phong cho tụ tập những học giả khắp nơi về Gia Định, thân tự chỉ đạo, đề ra hạng mục cho bọn họ nghiên cứu, khiến cho khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão. Giang Phong biết nguyên lý, các học giả kia chịu trách nhiệm biến nguyên lý trở thành thành quả, tạo ra vô số phát minh sáng chế, khiến cho Đế quốc ngày càng cường thịnh, kinh tế phát triển, cuộc sống của thần dân ngày càng được cải thiện.
“Khi Thánh hoàng đặt bút vẽ bản đồ thế giới, thiên hạ bách tính đều được thấm nhuần ơn vũ lộ, thoát khỏi cảnh tối tăm của đêm dài lạc hậu. Thần dân của Đế quốc hay thuận dân của các chư hầu đều được hưởng thụ cuộc sống văn minh, vật chất phong phú, khoa kỹ phát triển, xã hội ổn định, kinh tế phồn vinh. Thật may mắn là ông cha chúng ta đã được cứu rỗi, không giống như ‘khí dân’ của ba xứ phản nghịch, bị Thiên thóa khí, mấy trăm năm rồi mà vẫn mãi sống trong cảnh lạc hậu bần cùng. Nhờ phúc tổ tiên mà hiện tại chúng ta mới có thể dùng tư thế nhàn nhã để xem lại đoạn lịch sử này”. Đó là lời của một vị u duệ học giả mấy trăm năm sau, bình luận về phúc ấm của tổ tiên mình.
- Hết -
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top