dong phap luat Hoi giao
Nhóm 5: cần trả lời các câu hỏi: Khái niệm dòng họ pháp luật hồi giáo? Đặc điểm của pháp luật hồi giáo? Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hồi giáo? Nguồn của pháp luật hồi giáo? Sự thích ứng của pháp luật hồi giáo với sự pháp triển của xã hội hiện nay??
Cùng với Thiên chúa giáo và Phật giáo, Hồi giáo là một trong ba tôn giáo lớn nhất trên thế giới, có hơn một tỷ tín đồ.
ở đâu không có đạo Hồi thì ở đó không có pháp luật Hồi giáo. Cơ sở : Kinh Co ran.
Thuật ngữ "Hồi giáo" (Islam, Musulman) có nghĩa là "sự khuất phục", sự "hiến dâng". Đạo Hồi chính là những lời răn dạy của đấng Allah mà Mohammed đã tìm ra và truyền lại cho người đời. Đó là tập hợp những giáo lý về đạo đức cũng như những quy tắc của cuộc sống mà con người phải theo.
Đạo Hồi và hệ thống pháp luật Hồi giáo hình thành từ thế kỷ thứ VII
Đạo Hồi có 5 trụ cột cơ bản:
* Shahadan - tuyên xưng đức tin. Mỗi tín đồ Hồi giáo phải tuyên thệ: không có thánh nào khác ngoài đấng Allah và Mohammed là nhà tiên tri và là sứ giả của ngài.
* Salat - sự cầu nguyện. Các tín đồ Hồi giáo phải cầu nguyện 5 lần trong một ngày: lúc sáng sớm khi bình minh hé rạng và phải trước khi mặt trời đã lên hẳn trên đường chân trời; buổi trưa lúc mặt trời đứng bóng; buổi chiều lúc mặt trời nghiêng 45 độ so với mặt đất; lúc mặt trời lặn và buổi tối trước khi đi ngủ.
* Zakat - bố thí cho người nghèo. Con số thông thường là 2,5% thu hoạch hàng năm, hay 10% lợi tức từ mùa màng hoặc kinh doanh của họ. Những người giàu có được khuyến khích làm từ thiện nhiều hơn. Những ai làm từ thiện nhiều hơn số lượng quy định được coi là là một Sadagah - người thiện tâm.[3]
* Sawm - nhịn ăn, uống trong tháng ăn chay Ramadan. Mỗi ngày trong tháng ăn chay Ramadan, tất cả các tín đồ Hồi giáo, chỉ trừ trẻ em, phụ nữ có thai và những người ốm, đều phải nhịn ăn và nhịn uống từ lúc rạng sáng cho đến khi mặt trời lặn.
* Hajj - hành hương đến Mecca. Mecca là thánh địa của người Hồi giáo. Người Hồi giáo muốn đắc đạo thì ít nhất trong đời phải đến được thành phố Mecca - nơi có ngôi đền thờ thượng đế Kaaba, trong đó có hòn đá thiêng để cầu nguyện và được hôn hoặc sờ tay vào đó một lần. Đức tin của người Hồi giáo về Mecca và về cuộc hành hương Hajj gắn liền với vai trò của thành phố này trước kỷ nguyên Hồi giáo, khi đó đã là một trung tâm thần thánh, một địa điểm tôn nghiêm và là nơi thờ phụng của các tôn giáo đa thần. Theo đức tin Hồi giáo thì Mecca chính là trung tâm của thế giới, là nơi khởi đầu của sự sáng thế.
Bên cạnh các trụ cột cơ bản của đạo Hồi, người Hồi giáo có một số tập quán riêng rất đáng chú ý.
* Họ tên của người theo đạo Hồi (thường là ở các nước Arập) thường có tên bố và tên ông nội. Ví dụ: Ali bin Ahmed bin Saled al-Fulani có thể dịch là anh Ali, con trai ông Saled, cháu nội ông Saled, mang dòng họ Fulani hoặc Nura bint Ahmed Bin Saled al -Fulani có thể dịch là cô Nura, con gái ông Ahmed, cháu nội ông Saled mang dòng họ Fulani.[4]
* Người theo đạo Hồi không ăn thịt lợn. Kinh Coran cấm người theo đạo Hồi ăn thịt lợn. Do lợn là động vật tạp ăn, ăn tất cả những gì người ta đổ vào máng, vì vậy lợn không thể có dòng máu trong sạch như những động vật ăn cỏ.ăn thịt lợn, người Hồi giáo cho rằng, linh hồn con người có thể bị nhiễm bẩn nên không thể lên thiên đường được.
* Người phụ nữ che mạng hoặc quàng khăn qua đầu. Trong thời kỳ phong kiến, người phụ nữ Hồi giáo có một địa vị thấp kém và bị phân biệt đối xử so với nam giới. Trong thời kỳ hiện đại, trừ một số nước Hồi giáo cực đoan, còn hầu hết các nước Hồi giáo đã cho phép phụ nữ ra đường không đeo mạng che mặt. Thay vào đó, họ thường quàng một chiếc khăn qua đầu ngay cả những ngày thời tiết nóng nực. Một số ít nước Hồi giáo như Thổ Nhĩ Kỳ, người phụ nữ thành thị đã hoàn toàn thoát khỏi phong tục che mạng, họ cũng không quàng khăn qua đầu; ăn mặc thì theo phong cách hiện đại.
* Chế độ đa thê. Theo tục lệ Hồi giáo, người đàn ông có thể lấy bốn vợ với điều kiện phải cư xử với các bà vợ bình đẳng như nhau. Trong thời kỳ phong kiến, người đàn ông có nhiều vợ thường được xã hội tôn trọng do quan niệm cho rằng, đó là những người đàn ông khoẻ mạnh và giàu có. Ngày nay, tư duy này đã được thay đổi ở nhiều quốc gia Hồi giáo, bởi chế độ hôn nhân một vợ, một chồng ngày càng được phổ biến trong xã hội.
*Cắt bao quy đầu cho các bé trai. Một tục lệ khá phổ biến của người Hồi giáo là cắt bao quy đầu cho các bé trai từ hai đến năm tuổi. Cắt bao quy đầu là giáo luật đối với các nam tín đồ Hồi giáo và sự kiện này được ăn mừng như một ngày lễ. Như lễ đầy tháng ở Việt Nam, gia đình của bé trai thường làm tiệc thết đãi họ hàng và bạn hữu.
* Phong tục tang lễ. Phong tục tang lễ của người Hồi giáo khá đặc biệt so với các tôn giáo khác. Người chết phải được chôn trong vòng 24 tiếng đồng hồ kể từ khi chết, nhưng không được chôn vào ban đêm. Người Hồi giáo tin rằng sau khi chết, con người sẽ được về với đấng Allah. Sau khi thi thể được tắm rửa, người chết được quấn trong một tấm vải để hở mặt cho người thân đến viếng. Người chết được mai táng trong tấm vải lượm đó mà không cần bất cứ một quan tài nào, vì như vậy, theo quan niệm của người Hồi giáo, thi thể chóng tan vào lòng đất và người chết sẽ sớm được lên thiên đường. Huyệt mộ phải được đào sâu sao cho khi đấng Allah gọi và người chết ngồi dậy thì đầu không cao hơn mặt đất. Chân người chết phải hướng về thánh địa Mecca ở Arập Xê -út để khi được gọi, người chết nhằm hướng đó mà đi. ở nhiều nơi, người chết được chôn nằm nghiêng về bên phải, mặt quay về hướng Mecca.
Luật Hồi giáo được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản, các trụ cột của đạo Hồi và các phong tục tập quán của người Hồi giáo. Khác với các hệ thống pháp luật chúng ta đã nghiên cứu, nó không phải là một ngành khoa học độc lập, nó chỉ là một mặt, một khía cạnh của đạo Hồi. Đây là hệ thống pháp luật pha trộn giữa quy phạm tôn giáo, đạo đức và pháp luật.[5]
Tư tưởng pháp luật Hồi giáo khác hẳn với tư tưởng pháp luật phương Tây. Trong khi phần lớn các nước phương Tây coi pháp luật là sự thể hiện ý chí của nhân dân thông qua cơ quan lập pháp của mình thì pháp luật Hồi giáo lại coi nó là ý chí của đấng Allah qua sự phát hiện tuyệt vời của nhà tiên tri Mohammed - sứ giả trung thành của đấng Allah.[6]
2. Các nguồn luật của hệ thống pháp luật Hồi giáo
a) Kinh Coran - là một cuốn thánh kinh bao gồm 6.237 câu thơ chia thành 30 quyển, 114 chương. Các chương dài ngắn rất khác nhau, chương dài nhất có 286 tiết, chương ngắn nhất chỉ có 3 tiết. Trình tự các chương không phân loại theo nội dung, cũng không theo tuần tự thời gian. Nhìn chung, các chương đầu dài hơn các chương sau, những chương ban hành ở Mecca gọi là chương Mecca (chiếm khoảng 2/3 toàn bộ kinh thánh), các chương ban hành ở Madina gọi là chương Madina (chiếm khoảng 1/3 kinh thánh). Chỉ có khoảng 200 câu thơ (khoảng hơn 3%) của cuốn thánh kinh đó đó có liên quan đến pháp luật, trong đó có các nguyên tắc pháp luật; các quy định điều chỉnh các quan hệ dân sự và hôn nhân gia đình; các quan hệ hình sự; các quan hệ tố tụng; các quan hệ thương mại, tài chính và quan hệ quốc tế.
b) Sunna - Các phong tục tập quán mang tính truyền thống
Có thể so sánh coi Coran như là kinh cựu ước và Sunna là kinh tân ước.
c) Ijam - Sự thoả thuận, nhất trí của người có thẩm quyền.
d) Quiyas - Suy đoán tương tự pháp luật.
Trong 4 nguồn luật nói trên thì Coran và Sunna là nguồn luật chính còn Ijam và Quiyas là nguồn phụ.[7]
3. Các đặc điểm cơ bản của pháp luật Hồi giáo
Theo kinh Coran (người Musulman còn gọi là Chariat) hành vi của con người được chia làm 5 loại:
a. Hành vi bắt buộc phải làm (obligatoire), như nghĩa vụ chăm sóc con cái, nghĩa vụ đóng thuế…
b. Hành vi nên làm (recommandés), ví dụ thăm một người bạn bị ốm, giúp người nghèo khó v.v..
c. Hành vi làm cũng được, không làm cũng được (Indiffrerentes). Đây là các hành vi không đáng kể, không cần phải lưu ý như tham dự các trò vui, tiêu khiển có tính lành mạnh.
d. Hành vi đáng chê trách (blâmables), như sai giờ hẹn, chậm trễ, nói lời không tế nhị, thiếu lễ phép, đi đứng không đúng tác phong.
e. Hành vi cấm (interdites): giết người, cướp của, lừa đảo, trộm cắp…
Đây được coi là nguyên tắc cơ bản để đánh giá hành vi của con người về phương diện pháp luật cũng như đạo đức.
3.1. Luật hình sự.
Khái niệm tội phạm trong luật Hồi giáo nếu xét về phương diện hình phạt bao gồm 2 loại:
- Tội phạm có thể trả bằng tiền.
- Tội phạm phải trả bằng thân thể hoặc cuộc sống của mình.
Theo mức độ nặng nhẹ của tội phạm, kinh thánh Coran xác định 3 loại tội phạm:
a. Hudud: Tội phạm chống lại Chúa, bao gồm 7 tội: ngoại tình (kể cả thông dâm), vu cáo, uống rượu (nơi công cộng cũng như ở nhà riêng), tội trộm, cướp đường, phản đạo, vi phạm kinh thánh.
- Trong bảy tội phạm nói trên thì ba tội phạm đầu bao gồm: ngoại tình, vu cáo và uống rượu sẽ bị đánh bằng roi.
- Tội trộm và cướp đường bị phạt đóng đinh vào thánh giá hoặc cắt tay, chân.
- Tội phản đạo, vi phạm kinh thánh sẽ bị hình phạt chặt đầu.
b. Quesas: là các tội phạm đòi hỏi sự trả thù của người bị hại hoặc gia đình người bị hại. Đó là các loại tội phạm: giết người (cố ý hoặc vô ý); gây thương tích (cố ý hoặc vô ý); cưỡng dâm.
Khác với các hệ thống pháp luật khác, thông thường coi tội phạm giết người là tội phạm nặng nhất, trong pháp luật Hồi giáo, các tội phạm chống lại Chúa là tội phạm nặng nhất, còn tội phạm giết người và gây thương tích được coi là các tội phạm chống lại cá nhân chứ không phải chống lại Chúa, nên được coi là ít nghiêm trọng hơn Hudud. Nếu các tội trộm cắp, cướp của bị hình phạt chặt tay, chân; người vợ ngoại tình bị xử tử hình, thì hình phạt ở đây được quan niệm là phải trả bằng thân thể hoặc cuộc sống của mình, vì vậy không thể chuộc bằng tiền. Nhưng nếu phạm tội giết người thì tuỳ theo tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ mà xử tử hình hoặc chuộc tiền, tài sản. Theo luật Hồi giáo, giết một người đàn ông có thể chuộc bằng 100 con lạc đà, giết một người đàn bà có thể chuộc bằng 50 con lạc đà. Ngay cả thời hiện đại, ở Arập Xê -út (cho đến năm 1988) để được chuộc tội, người phạm tội phải trả 32.000 USD cho mạng một người đàn ông Hồi giáo, 16.000 USD cho mạng một người đàn bà Hồi giáo và một người đàn ông không phải là dân Hồi giáo; 8.000USD cho mạng một người đàn bà không phải là người Hồi giáo.
c. Các tội Taazir: bao gồm các tội như ăn thịt lợn, đưa ra lời khai man trá, hối lộ, làm gián điệp, nói năng tục tĩu, mặc quần áo khiêu dâm, vi phạm luật lệ giao thông… Việc truy tố và trừng phạt các tội Taazir thuộc quyền tự quyết của toà án và các vị chức sắc trong tôn giáo. Hình phạt có thể là tù, phạt tiền và thường là nhẹ hơn các tội Hudud và Quesas.
3.2. Luật dân sự.
Hệ thống luật nghĩa vụ rất phát triển. Nghĩa vụ xuất phát từ hợp đồng chia làm 2 loại. Sự phân biệt hai loại này được xác định trên cơ sở có hay không sự chuyển giao tài sản (là đối tượng hợp đồng).
a) Nhóm thứ nhất liên quan đến việc có chuyển giao tài sản là đối tượng của giao dịch dân sự:
- Hợp đồng trao đổi.
- Hợp đồng cho vay.
- Hợp đồng mua bán.
b) Nhóm thứ hai là nhóm không cần chuyển giao tài sản.
- Hợp đồng vận chuyển hàng hoá.
- Hợp đồng uỷ thác…
Kinh Coran đòi hỏi các bên tham gia hợp đồng lập thành văn bản và phải có ít nhất hai người đàn ông, hay một người đàn ông và hai người đàn bà làm chứng (Kinh Coran câu 2.282). Về thừa kế, người làm di chúc chỉ có quyền định đoạt 1/3 tài sản của mình. Người thừa kế chỉ hưởng quyền chứ không thừa kế nghĩa vụ. Tài sản phân chia đều cho những người được thừa kế không phân biệt hàng thừa kế thứ nhất, thứ hai như con hay cháu, đều hưởng như nhau.
3.3. Luật hôn nhân và gia đình
- Luật Hồi giáo tạo cho người đàn ông có uy thế tuyệt đối trong gia đình. Cho đến ngày nay, Coran vẫn cho phép người đàn ông có 4 vợ và không hạn chế nàng hầu. Trong hôn nhân không cần thiết sự đồng ý của người phụ nữ. Người phụ nữ trước khi lấy chồng không được phép gặp gỡ, nói chuyện với những người đàn ông khác, ra đường phụ nữ phải đeo mạng che mặt (nhiều quốc gia Hồi giáo đã bỏ quy định này). Cũng theo Coran, người phụ nữ phải giữ trinh tiết trước khi lấy chồng. Sau đêm tân hôn người vợ mới cưới có thể bị đuổi khỏi nhà chồng, nếu người chồng mới cưới phát hiện cô dâu đã không còn trinh tiết. ở nhiều nước Hồi giáo sử dụng nhiều tập quán pháp trong hôn nhân. Ví dụ, con gái lấy chồng phải có của hồi môn của cha mẹ mang đến cho gia đình chồng. Vì lý do này mà nhiều gia đình nghèo, con gái không thể lấy được chồng.ở một số quốc gia Hồi giáo còn tồn tại tập quán "cướp dâu" và được thừa nhận như một tập quán pháp luật. Theo tập quán pháp này, nếu người con trai muốn cưới một cô gái làm vợ nhưng bị cha mẹ cô gái đó khước từ (với nhiều lý do khác nhau) thì người con trai đó có thể "cướp dâu". Nếu người con trai giữ được cô gái đó qua đêm tại nhà mình và có người làm chứng thì hôm sau, anh ta có quyền đến nhà bố mẹ cô dâu để xin cưới. Và trong trường hợp này bố mẹ cô dâu không thể khước từ. Trên thực tế, cô gái có thể thỏa thuận ngầm với người con trai để cho việc "cướp dâu" đó có thể tiến hành trót lọt.
Cũng như ở nhiều nước theo các tôn giáo khác, các nước Hồi giáo thường cho rằng hôn nhân phải môn đăng hộ đối, nghĩa là gia đình cô dâu, chú rể phải tương xứng nhau về mặt địa vị và tài sản. Nếu không tìm được người môn đăng hộ đối, ở một số nước Hồi giáo người ta cho phép con cô, con cậu có thể kết hôn với nhau để giữ tài sản cho dòng họ (mẹ của chú rể là chị (hoặc em) của bố cô dâu hoặc ngược lại).
3.4. Luật tố tụng (hình sự và dân sự)
Các toà án ở các nước theo đạo Hồi là các toà án Hồi giáo truyền thống giải quyết các vụ án hình sự cũng như dân sự. Các thẩm phán trong các toà án Chariat gọi là Quadis được trải qua một khoá đào tạo tôn giáo cũng như pháp luật. Thủ tục tố tụng được quy định trong kinh Coran. Trước toà, đương sự phải có hai người đàn ông hoặc một người đàn ông và hai người đàn bà làm chứng. Nếu chỉ có một người làm chứng thì đương sự có thể thề trước đấng Allah. Lời thề trước đấng Allah được coi là bằng chứng trung thực.
3.5. Luật Nhà nước
Cho đến ngày nay, một số quốc gia theo đạo Hồi như Arập Xê -út vẫn còn tồn tại chế độ quân chủ chuyên chế. Một số quốc gia Hồi giáo trong bộ máy nhà nước chỉ có hai nhánh: hành pháp và tư pháp, không có Nghị viện lập pháp. ở những nước này, quan niệm chỉ có đấng Allah mới có quyền làm ra luật để quy định cách ứng xử của dân chúng trong xã hội. Nhà vua là người duy nhất nắm trong tay quyền lực chính trị và là lãnh tụ tôn giáo tối cao của vương quốc.ở Arập Xê -út không có đảng chính trị và lập pháp được thực hiện bởi các sắc lệnh do vua ban hành. Vua bổ nhiệm các thẩm phán, các quan chức cao cấp trong chính phủ, các thống đốc và các sĩ quan cao cấp trong quân đội (từ đại tá trở lên). Nhà vua là người có quyền xét xử (tư pháp) cao nhất, là người có quyền ân xá.
Mặc dù không có văn bản pháp luật nào hạn chế quyền lực của nhà vua, nhưng quyền lực của nhà vua cũng bị hạn chế bởi các quy định của kinh Coran. Kinh Coran đòi hỏi khi nhà vua trị vì phải tham khảo ý kiến nhân dân và cần phải được sự ủng hộ của các học giả tôn giáo. Nhà vua Arập Xê -út có một Hội đồng tư vấn và Hội đồng Hồi giáo tối cao bao gồm các nhà lãnh đạo thế tục và tôn giáo để giúp đỡ và cố vấn cho nhà vua. Ngoài ra, ông còn có một Hội đồng Bộ trưởng để xây dựng và quản lý việc thực hiện các chính sách của Chính phủ.
Một số quốc gia Hồi giáo như I -ran có chính thể Cộng hoà Hồi giáo. Chính thể Cộng hoà Hồi giáo của I -ran khá đặc thù so với các mô hình chính thể phổ biến trên thế giới. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước I -ran được thiết lập theo Hiến pháp 1979 (sửa đổi 1989), một bản Hiến pháp được thông qua bằng trưng cầu dân ý. Quyền lực tối cao về chính trị và tôn giáo thuộc về Lãnh tụ tôn giáo của quốc gia. Lãnh tụ được Hội đồng chuyên viên bầu ra và giữ cương vị suốt đời. Lãnh tụ tôn giáo có quyền cách chức Tổng thống sau khi cơ quan lập pháp hoặc Toà án tối cao đề nghị. Lãnh tụ tôn giáo cũng chịu trách nhiệm hoạch định các chính sách quốc gia trong mọi lĩnh vực. Hội đồng chuyên viên gồm 83 đại biểu được nhân dân bầu ra với nhiệm kỳ 8 năm. Hội đồng này có quyền lực rộng rãi, ngoài việc bầu và bãi miễn lãnh tụ tôn giáo, còn có quyền xây dựng dự án sửa đổi Hiến pháp để đưa ra trưng cầu dân ý. Cơ quan lập pháp gọi là Majlis (Hội đồng tư vấn Hồi giáo) gồm 290 thành viên được bầu bằng phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ 4 năm. Hội đồng tư vấn Hồi giáo không thể bị giải thể trong bất kỳ hoàn cảnh nào hoặc bất cứ quyền lực nào. Hội đồng thông qua các đạo luật, giám sát các cơ quan nhà nước, buộc tội và cách chức các bộ trưởng. Hội đồng tiến hành buộc tội Tổng thống khi có 1/3 thành viên đề nghị và có thể cách chức Tổng thống khi có 2/3 số phiếu tán thành. Tổng thống do dân bầu trực tiếp, có nhiệm kỳ bốn năm và được phép tái cử một lần. Với Hiến pháp sửa đổi 1989, Tổng thống vừa đứng đầu nhà nước vừa đứng đầu Chính phủ, chủ toạ các phiên họp của Hội đồng bộ trưởng. Tổng thống là Chủ tịch Hội đồng an ninh quốc gia tối cao (thành viên bao gồm 2 thành viên đại diện cho Lãnh tụ tôn giáo, Chánh án toà án tối cao, Chủ tịch Quốc hội (Hội đồng tư vấn Hồi giáo), Tổng tham mưu trưởng và Bộ trưởng các bộ: Nội vụ, Ngoại giao, Thông tin, Kế hoạch và ngân sách).
4. Sự cải cách của pháp luật Hồi giáo trong thế giới hiện đại
Do ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản và tư tưởng của các hệ thống pháp luật khác từ thế kỷ XIX đến nay, đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá, ngày nay nhiều quốc gia Hồi giáo đã đổi mới hệ thống pháp luật của mình. Trong các nước Hồi giáo xuất hiện ba xu hướng phát triển:
- Phương Tây hoá pháp luật, tiếp nhận các chế định pháp luật tiên tiến của phương Tây như chế độ hôn nhân một vợ, một chồng và thiết lập chế độ bình đẳng giới; xây dựng bộ máy nhà nước theo nguyên tắc phân quyền, tổ chức hệ thống toà án phi tôn giáo, tư tưởng pháp luật thoát khỏi tư tưởng tôn giáo.
- Pháp điển hoá pháp luật, xây dựng nhiều bộ luật: hình sự, dân sự, thương mại, tố tụng hình sự và dân sự theo mô hình của các nước phương Tây kết hợp với việc phát huy các truyền thống văn hoá của dân tộc.
- Loại bỏ dần các quy định cổ hủ, lạc hậu nhằm tạo điều kiện cho việc thực hiện quyền bình đẳng nam nữ, bảo vệ các quyền công dân và quyền con người, xây dựng nhà nước pháp quyền.
Các nước Hồi giáo ngày nay có thể chia thành 3 nhóm:
- Nhóm chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất của pháp luật Hồi giáo như Arập Xê -út (Saudi Arabia), Iran, Syria, Jordan, Oman, Quatar, Bahrein, Yemen, Koweit, Các tiểu vương quốc Arập, Pakistan, Afghanistan, Bangladesh, Morocco, Mauritania, Libya, Sudan… Pháp luật của các nước này thừa nhận tính tối cao của luật Hồi giáo. Luật pháp được xây dựng trên cơ sở kinh Coran và không được trái với kinh Coran.[8]
- Nhóm thứ hai là nhóm các nước chỉ dùng luật Hồi giáo để điều chỉnh một số lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội (vấn đề nhân thân, hoạt động của các tổ chức tôn giáo, có thể cả vấn đề đất đai, thừa kế…). Những nước thuộc nhóm này có thể chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật lục địa châu Âu (Civil law) như Indonesia, Iraq hoặc chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Anh - Mỹ (Common law) như Malaisia, Brunei, Myanmar.
- Nhóm thứ ba là nhóm các nước đã từng là các nước xã hội chủ nghĩa ở vùng Trung Á thuộc Liên Xô cũ như Azerbaijan, Kazakhstan, Kyrgystan, Uzbekistan, Turkmenistan, Tajikistan. Các nước này trước thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, pháp luật Hồi giáo cũng có ảnh hưởng khá sâu sắc. Tuy nhiên, sau khi gia nhập Liên bang cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết, pháp luật Hồi giáo không được khuyến khích phát triển và nhà nước Xô viết không thừa nhận kinh Coran là một nguồn của pháp luật. Người phụ nữ Hồi giáo được giải phóng và có đầy đủ các quyền bình đẳng như nam giới. Hệ thống toà án Hồi giáo không còn tồn tại. Sau khi Liên Xô sụp đổ, các nước thuộc nhóm này đã tiếp nhận hệ thống pháp luật lục địa châu Âu và gia nhập dòng họ pháp luật lục địa châu Âu, do đó, tuy Hồi giáo vẫn tồn tại như một tôn giáo nhưng ảnh hưởng của nó với hệ thống pháp luật quốc gia không ®¸ng kÓ. [9]
Vài nét về Luật Hồi Giáo
Lượt xem: 216
Cập nhật ngày: 19/11/2009
LTS: Luật Hồi Giáo thường được nghe nhắc đến trên báo chí hàng ngày nhưng ít ai biết rõ. Để giúp cho bạn đọc tìm hiểu về hệ thống luật đặc biệt này,Người bảo vệ quyền lợi xin giới thiệu bài viết của tác giả Đỗ Thị Mai Hạnh, với tựa đề bài viết của tác giả là “Bản chất và nguồn của Luật Hồi Giáo”.
Thạc sĩ Đỗ Thị Mai Hạnh, Đại học Luật TP.HCM
Trên thế giới có nhiều hệ thống pháp luật cùng tồn tại. Đó là hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, hệ thống pháp luật Thông luật, hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa và hệ thống pháp luật Tôn giáo (hay còn gọi là hệ thống Luật Hồi giáo). So với các hệ thống pháp luật khác, hệ thống Luật Hồi giáo luôn là một bí ẩn đối với giới luật gia. Hiện nay, ở Việt Nam, các thông tin về nguồn gốc và đặc điểm nguồn luật của hệ thống pháp luật này qua các tài liệu còn tương đối hiếm và không thống nhất. Vì vậy, trong bài viết, tác giả muốn giới thiệu thật cô đọng về hệ thống Luật Hồi giáo, đặc biệt là xác định bản chất và nguồn của hệ thống pháp luật này.
I. Về bản chất của Luật Hồi giáo
Trước hết cần hiểu đúng về Đạo Hồi và Luật Hồi giáo. Cũng như Đạo Phật, Đạo Thiên Chúa… Đạo Hồi là một tín ngưỡng tôn giáo. Đạo Hồi khuyên các tín đồ sống, làm việc thiện để sau này có một cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc ở cõi vĩnh hằng. Các tín đồ theo Đạo Hồi phải thực hiện những nghĩa vụ như: ăn chay, cầu nguyện, bố thí, hành hương và sống theo những lời răn dạy của thánh Alla trong Kinh Qu’ran (Koran).1 Nếu làm được như vậy, họ sẽ có một cuộc sống vĩnh hằng hạnh phúc ở thiên đường.
Luật Hồi giáo, theo nghĩa gốc bằng tiếng Arập được phiên âm sang tiếng Latinh, là Luật Shari’ah - nghĩa là “con đường đúng” (the right path) hoặc là “sự hướng dẫn” (guide)2. Đây là các quy phạm tôn giáo được nâng lên thành quy phạm pháp luật được các quốc gia trong hệ thống Luật Hồi giáo (điển hình như Afghanistan, Pakistan, Kowait, Bahrain, Quatar, Arập Xêut)3 áp dụng để điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong xã hội.
Hai yếu tố cơ bản, tiên quyết để xác định một quốc gia thuộc hệ thống Luật Hồi giáo bao gồm: Đạo Hồi là quốc đạo của quốc gia, quốc gia lấy các quy định trong Kinh Thánh của Đạo Hồi làm luật. Chính vì vậy mà Thổ Nhĩ Kỳ, dù là nước có Đạo Hồi là quốc đạo, nhưng vẫn là quốc gia thuộc hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa vì ở quốc gia này Đạo Hồi chỉ được coi là tôn giáo 4 chứ không phải là luật.
Đặc điểm mấu chốt của sự khác biệt giữa hệ thống Luật Hồi giáo với các hệ thống pháp luật thế giới khác là ở các quốc gia áp dụng Luật Hồi giáo không có sự tách rời giữa nhà thờ và nhà nước (church and state). Ở đây, chính trị thần quyền (chế độ cai trị của các tăng lữ, trong đó các luật lệ của nhà nước được tin tưởng là luật lệ của Chúa Trời) bao trùm và điều chỉnh các vấn đề mang tính chất công và tư. Cũng chính từ học thuyết này, Shari’ah là luật Thánh Alla ban hành, không biến đổi và được nhà nước áp dụng cho mọi thời đại; nói khác đi, nhà nước, luật pháp và tôn giáo chỉ là một. Khái niệm này có thể hiểu ở mức độ khác nhau giữa các quốc gia, nhưng luật pháp, chính quyền đều dựa vào khái niệm đó và là một phần của tôn giáo Đạo Hồi5.
Hiện nay có trên 1.2 tỉ người theo Đạo Hồi (chiếm khoảng 20% dân số thế giới).6 Đa số những người theo Đạo Hồi sống ở hơn 50 quốc gia có luật pháp là Luật Hồi giáo hoặc ảnh hưởng chủ yếu bởi Luật Hồi giáo.7 Số còn lại, là các tín đồ của Đạo Hồi nhưng sống ở những quốc gia chỉ coi Đạo Hồi thuần túy là một hình thức tôn giáo. Tuy không thể nói một cách chính xác có bao nhiêu người thực sự bị ảnh hưởng bởi Luật Hồi giáo, nhưng rõ ràng đó là một con số đáng kể.
Do đó hệ thống Luật Hồi giáo bao gồm những quốc gia theo Luật Hồi giáo, cũng là một hệ thống pháp luật thế giới lớn, tồn tại và phát triển và tương tác cùng các hệ thống pháp luật thế giới khác.
II. Về nguồn của Luật Hồi giáo
Như đã đề cập ở trên, Luật Hồi giáo chính là Luật Shari’ah. Luật này điều chỉnh, đưa ra nguyên tắc và quy định hành vi của người dân, hoạt động của các cơ quan tổ chức, đưa ra các quy phạm để áp dụng trong đời sống của một con người như: ăn kiêng, cách nuôi dạy con cái, đồng thời cũng quy định và miêu tả những nguyên tắc dành cho người tu hành, việc bố thí cho người nghèo và những vấn đề tôn giáo khác. Bên cạnh đó Luật Shari’ah cũng được sử dụng như những hướng dẫn đối với các hoạt động của con người trong xã hội cũng như đối với những tác động qua lại giữa các nhóm dân tộc. Ở phạm vi rộng hơn, Luật Shari’ah được áp dụng để giải quyết những tranh chấp trong phạm vi quốc gia và giữa các quốc gia với nhau, đồng thời giải quyết những tranh chấp, xung đột quốc tế và vấn đề chiến tranh8. Do đó nguồn luật của Luật Hồi giáo cũng chính là các thành tố của Luật Shari’ah. Luật này gồm 4 thành tố sau: Kinh Qu’ran (hay còn gọi là Koran), Kinh Sunna, Idjmá và Qiyás.9
Thành tố đầu tiên mang tính chất chủ đạo của Luật Hồi giáo là Kinh Qu’ran. Đây cũng là nguồn luật với những quy định mang giá trị chung thẩm khi được áp dụng10. Kinh Qu’ran là nguồn luật cao nhất của Luật Hồi giáo, được coi là những lời của Thánh Alla tiết lộ cho tiên tri Muhammed (570-632)11. Sự hình thành và phát triển của Qu’ran với tư cách vừa là Kinh Thánh vừa là luật xuất hiện ban đầu bởi sự truyền đạo của nhà tiên tri (Prophet) Mohammad tại thành phố Madinah, sau đó đã đồng loạt xuất hiện ở mọi nơi cùng với sự gia tăng những tín đồ của Đạo Hồi. Nhà tiên tri vừa là chỗ dựa tinh thần vừa là người tạm thời đứng đầu cộng đồng. Về cấu trúc Kinh Qu’ran được chia thành 30 phần và 114 chương và được sắp xếp theo ý của nhà tiên tri12 . Các chương lại chia nhỏ thành 6.200 khổ thơ (verse), các luật gia Đạo Hồi gọi chúng là “Những khổ thơ pháp luật”13. Chỉ có khoảng 3% các khổ thơ đó là liên quan đến pháp luật. Ví dụ, Luật Gia đình được quy định trong khoảng 70 khổ thơ; các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực luật tư khác được quy định trong 70 khổ thơ; khoảng 30 khổ thơ được coi là đặc trưng cho Luật Hình sự; các vấn đề về tài chính và hiến pháp thì được đề cập trong khoảng 20 khổ thơ; các vấn đề liên quan đến Luật Quốc tế thì cũng được quy định trong khoảng 20 khổ thơ14.
Cách thức thể hiện những điều răn dạy và điều cấm trong Kinh Qu’ran bao giờ cũng theo cùng một công thức: điều răn dạy đều bắt đầu bằng lời giới thiệu, sau đó kết thúc bằng một lời cấm đoán. Đơn cử như điều răn sau15:
Đoạn đầu tiên, lời giới thiệu là: “Người dân hỏi nhà tiên tri về rượu và bài bạc. Hãy nói rằng, cả hai thứ đó đều xấu xa, dù rằng nó có một thuận lợi nào đó cho đàn ông, nhưng sự xấu xa của nó thì to lớn hơn sự thuận lợi đó nhiều lần”.
Đoạn thứ hai, lời giới thiệu hướng đến điều cấm đoán: “Hỡi những tín đồ, không được cầu nguyện khi người đang say”.
Đoạn thứ ba, lời giới thiệu đã chuyển thành điều cấm hoàn toàn: “ Hỡi những tín đồ, uống rượu và chơi cờ bạc là những hành động xấu xa, là công việc của quỷ dữ, vì vậy phải tránh xa nó”.
Trong Kinh Qu’ran, tín ngưỡng tồn tại bên cạnh một số nguyên tắc pháp lý và hầu hết các nguyên tắc pháp lý liên quan đến luật gia đình (kết hôn, ly dị và thừa kế), một số liên quan đến Luật Hình sự (ngoại tình, vu khống, uống rượu), một số liên quan đến hợp đồng (hình thức hợp đồng, phương thức thanh toán), một số liên quan đến vấn đề pháp luật về tài chính, hiến pháp, tòa án, tranh chấp quốc tế… Các vấn đề liên quan đến tôn giáo, nghi lễ, nghi thức và luật pháp rất ngắn gọn trong Qu’ran và hầu như mang tính nguyên tắc, không cụ thể. Hơn thế nữa, vẫn có một số vấn đề bỏ ngỏ, chưa được đề cập. Vì vậy, về nguyên tắc, vẫn rất cần sự giải thích và mô tả từ nhà tiên tri, hay nói cách khác, bên cạnh Kinh Qu’ran vẫn cần có nguồn luật bổ trợ; đây chính là tiền đề để nguồn luật quan trọng thứ hai của Luật Hồi giáo ra đời, đó là Kinh Sunna.
Kinh Sunna chứa đựng những lời dạy bảo của tiên tri Mohamed và những giai thoại, những câu chuyện (gọi là Hadith) về nhà tiên tri và các tín đồ của mình đã sống một cuộc sống phù hợp với trật tự tôn giáo được quy định trong Kinh Qu’ran16. Những câu chuyện và giai thoại đó đã chi tiết hóa những vấn đề được đề cập mang tính nguyên tắc, hoặc chưa rõ ràng trong Kinh Qu’ran. Cuộc sống của Mohamad và tín đồ của ông dần được xem là khuôn mẫu cho cuộc sống của người dân trong xã hội. Nội dung của Sunna gồm 3 loại: lời nói của tiên tri về tôn giáo; hoạt động và hành vi của nhà tiên tri và sự chấp nhận của tiên tri đối với một số hành vi nhất định của con người. Chúng ta có thể nhận thấy rằng, trong một chừng mực nhất định, các nguyên tắc của Đạo Hồi, Luật Hồi giáo cũng được rút ra từ nguồn Sunna này. Bởi vì Qu’ran nhìn chung chỉ giải quyết những nguyên tắc lớn về pháp luật, những vấn đề cốt yếu về tôn giáo và đi sâu vào chi tiết một số ít trường hợp. Điển hình như: Kinh Qu’ran cấm uống ruợu, nhưng lại không nói gì về chế tài đối với hành vi này; chế tài này lại được tìm thấy trong Kinh Sunna bằng việc miêu tả rằng nhà tiên tri đã ra chế tài và bản thân ông là người thực thi hình phạt đánh roi đối với hành vi uống rượu này17. Như vậy, Kinh Sunna đã chi tiết hóa những vấn đề đó bằng lời giải thích và hành động của nhà tiên tri và của những tín đồ ngoan đạo đi theo ông.
Khác biệt hẳn so với Kinh Qu’ran và Kinh Sunna là hai nguồn luật của Luật Hồi giáo mang tính thần thánh, tự nhiên thì thành tố thứ ba của Luật Hồi giáo là Idjimá lại được ra đời trên cơ sở sự thống nhất về quan điểm pháp luật của các học giả pháp lý Đạo Hồi18. Những vấn đề mà các nhà học giả pháp lý Đạo Hồi bàn luận là những vấn đề về con người và cả chính trị nữa. Khi những vấn đề đó đạt được sự thống nhất, chúng được giải thích là Idjimá. Những khái niệm và ý kiến trong Idjimá thì không tìm thấy trong Kinh Qu’ran và Kinh Sunna. Đơn cử như một quy định được đề cập trong Idjimá, phụ nữ không thể trở thành thẩm phán. Quy định này không hề được đề cập trong Kinh Qu’ran và Kinh Sunna mà lại được rút ra từ quan điểm thống nhất của các học giả pháp lý Đạo Hồi.19 Trong thực tiễn, các thẩm phán có thể kiểm tra trong Idjmá để tìm kiếm nhiều giải pháp khả thi để áp dụng trong xã hội hiện đại. Và họ hoàn toàn tự do sáng tạo phương pháp mới để giải quyết các vấn đề tội phạm và vấn đề xã hội dựa trên cơ sở những quan điểm được đề cập trong Idjimá. Do vậy thẩm phán có quyền quyết định rất lớn trong việc áp dụng quan điểm nào trong Idjmá để giải quyết một vụ việc cụ thể bất kỳ.
Thành tố thứ tư của Luật Hồi giáo là Qiyas, là án lệ được tuyên bởi thẩm phán cấp cao20. Nói một cách khác, Qiyas có thể gọi là “phương pháp suy xét theo sự việc tương tự”21. Các thẩm phán của các nước theo Luật Hồi giáo có thể sử dụng tiền lệ pháp đó để giải quyết một vụ việc mới phát sinh sau này mà hướng giải quyết vụ việc đó không được đề cập trong Kinh Qu’ran, Kinh Sunna và Idjmá. Ví dụ như đó là một tội phạm về máy vi tính, trộm cắp phần mềm máy tính, trong Kinh Qu’ran và Sunna không đề cập đến loại tội phạm này. Hành vi này là cần thiết bị cấm nên thẩm phán phải dựa trên lý lẽ và logic để sáng tạo ra án lệ, hay còn gọi là Qiyas.
Vậy ở các nước theo Luật Hồi giáo có tồn tại nguồn luật là các văn bản pháp luật hay không? Có thể nói rằng, có văn bản pháp luật ở các quốc gia theo Luật Hồi giáo cũng như việc có tồn tại án lệ trong hệ thống pháp luật của những quốc gia này. Nhưng đây là sự chuyển hóa những quan điểm pháp luật, ý kiến pháp luật được thống nhất bởi các học giả pháp lý Đạo Hồi vào các văn bản pháp luật22. Và sự chuyển hóa này bắt đầu vào khoảng thế kỷ 19, thời điểm lịch sử các quốc gia theo Luật Hồi giáo có một sự thay đổi rất lớn lao, khi các quốc gia Phương Tây tăng cường quyền lực toàn cầu và chinh phục một phần rộng lớn của thế giới, trong đó có các vùng lãnh thổ của Luật Hồi giáo23.
Như vậy có thể khẳng định rằng những quốc gia nằm trong hệ thống Luật Hồi giáo là những quốc gia điều chỉnh các mối quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội bằng Luật Shari’ah - hay còn gọi là Luật Hồi giáo. Luật này bao gồm bốn thành tố, nói khác đi là bốn nguồn luật: Kinh Qu’ran, Kinh Sunna, Idjmá và Qiyas; trong đó Kinh Qu’ran và Kinh Sunna là hai nguồn luật chủ đạo nhất, có giá trị pháp lý cao nhất đồng thời thể hiện là nguồn luật mang tính thần thánh và tự nhiên, còn Idjmá và Qiyas đóng vai trò là nguồn luật bổ trợ cho hai nguồn luật trên nhưng không thể thiếu được trong hệ thống pháp luật của các quốc gia theo Luật Hồi giáo và là nguồn luật thể hiện cho sự điều chỉnh pháp luật bằng việc kết hợp những tư tưởng thần thánh tự nhiên với lý trí và sự thông thái của con người.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top