dong pham
CHƯƠNG 10. ĐỒNG PHẠM
10.1. KHÁI NIỆM ĐỒNG PHẠM
Đồng phạm là trường hợp có từ hai người trở lên cùng cố ý thực hiện một tội phạm.
(Khoản 1, Điều 20 BLHS)
Điều kiện của đồng phạm:
a. Điều kiện về khách quan của đồng phạm: Là phải có ít nhất hai người có NLTNHS và cùng tham gia thực hiện một tội phạm (tức là phải có sự liên kết về khách quan giữa các hành vi của mỗi người trong đồng phạm).
Được coi là giữa những người trong đồng phạm cùng tham gia thực hiện một tội phạm là mỗi người tham gia vào đồng phạm phải có ít nhất một trong bốn loại hành vi đối với việc thực hiện một tội phạm, đó là: hành vi thực hành, hành vi tổ chức, hành vi xúi giục, hành vi giúp sức.
Giữa các hành vi của mỗi người trong đồng phạm có mối liên kết thống nhất với nhau, hành vi của người này quyết định hành vi của người khác và hành vi của mỗi người là điều kiện hỗ trợ cho hoạt động chung.
Trong các hành vi trong đồng phạm thì hành vi của người thực hành là nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu quả còn các loại hành vi khác thông qua hành vi người thực hành mà gây ra hậu quả.
b. Điều kiện về chủ quan của đồng phạm: Theo khái niệm trên về đồng phạm thì về hình thức lỗi trong mặt chủ quan giữa những người trong đồng phạm phải cùng cố ý (tức là phải có sự liên kết về mặt chủ quan giữa những người trong đồng phạm)
Như vậy, đồng phạm chỉ có thể đặt ra với các tội thực hiện với hình thức lỗi cố ý (có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp). Tính chất cùng trong hình thức lỗi của đồng phạm thể hiện trong cấu trúc hợp thành bởi 2 bộ phận trong lỗi cố ý trực tiếp:
* Cùng lý trí: Được hiểu là cùng lý trí giữa những người trong đồng phạm khi thoả mãn các điều kiện sau:
- Mỗi người trong đồng phạm đều biết hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và đều biết người khác cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng với mình.
- Mỗi người trong đồng phạm phải thấy trước hậu quả của hành vi của mình cũng như hậu
quả chung của tội phạm mà họ tham gia thực hiện.
* Cùng ý trí: Được hiểu là cùng ý trí giữa những người trong đồng phạm khi thoả mãn các điều kiện sau:
- Giữa những người đồng phạm cùng mong muốn có sự liên kết của các hành vi.
- Giữa những người đồng phạm cùng mong muốn hoặc cùng có ý thức bỏ mặc cho hậu quả chung phát sinh.
Ví dụ: Biết tin xe tải chở gạo qua đèo Hải Vân bị lật, A rủ B và C cùng nhau ra lấy gạo (A, B, C phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản). Có thể xảy ra 2 trường hợp:
1- Mỗi người chở được số gạo tuỳ theo khả năng về nhà mình thì không phải là đồng
phạm.
2- Mỗi người chở được số gạo tuỳ theo khả năng về tập kết tại một địa điểm, sau đó chia đều cho 3 người, thì A, B, C là đồng phạm của nhau.
Chú ý: Với các tội có dấu hiệu mục đích là bắt buộc thì giữa những người đồng phạm đòi hỏi phải có cùng mục đích hoặc biết rõ và tiếp nhận mục đích đó.
Ví dụ: A vượt biên ra nước ngoài hoạt động chống chính quyền nhân dân bằng đường biển. A thuê B là dân chài chở ra khỏi hải phận Việt Nam. Trong khi A chở B, hai người trò chuyện, B biết được mục đích của A nhưng vẫn tiếp tục chở (B là đồng phạm với vai trò người giúp sức), bởi trong trường hợp này B đã biết rõ và tiếp nhận mục đích đó.
10.2. CÁC LOẠI NGƯỜI ĐỒNG PHẠM
43
Khoản 2, Điều 20 BLHS quy định có 4 loại người đồng phạm:
10.2.1. Người thực hành
. Người thực hành có hai dạng: Dạng 1: Tự mình thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong CTTP như trực tiếp
thực hiện hành vi đâm, bắn.
Dạng 2: Không tự mình trực tiếp thực hiện hành vi khách quan mà có hành vi tác động đến người khác để người này trực tiếp thực hiện hành vi khách quan. Nhưng người bị tác động là người trực tiếp thực hiện hành vi khách quan họ không phải chịu TNHS. Chúng thuộc các trường hợp phổ biến sau:
- Do họ không có NLTNHS. Ví dụ thuê em bé 13 tuổi đưa thuốc phiện qua biên giới.
- Họ không có lỗi hoặc chỉ có lỗi vô ý. Ví dụ trường hợp gửi quà trong đó có thuốc phiện mà người vận chuyển không biết đó là thuốc phiện.
- Họ bị cưỡng bức về tinh thần trong trường hợp được miễn TNHS.
10.2.3. Người tổ chức
Người tổ chức được quy định tại Khoản 2, Điều 20 BLHS bao gồm 3 loại người như sau:
- Người chủ mưu: là người chủ động về mặt tinh thần gây ra việc thực hiện tội phạm.
- Người cầm đầu: Là người đứng ra thành lập các băng nhóm phạm tội hoặc có hành vi tham gia vào việc soạn thảo kế hoạch, phân công giao trách nhiệm cho đồng bọn.
- Người chỉ huy: Là người trực tiếp điều khiển hoạt động của các băng nhóm phạm tội.
10.2.4. Người xúi giục
Người xúi giục là người dụ dỗ, kích động, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
Người xúi giục có 2 đặc điểm sau:
- Tác động đến tư tưởng người khác bằng thủ đoạn kích động, dụ dỗ thúc đẩy khiến người này hình thành ý định phạm tội.
- Hành vi xúi giục phải nhằm vào một, một số người cụ thể và phải nhằm gây ra việc thực
hiện một tội phạm nhất định.
10.2.4. Người giúp sức
Người giúp sức là người tạo điều kiện về vật chất hoặc tinh thần cho việc thực hiện tội
phạm.
Người giúp sức có 2 dạng như sau:
- Giúp sức về vật chất: Là dạng cung cấp công cụ, phương tiện cho người khác sử dụng để thực hiện tội phạm.
- Giúp sức về tinh thần: Như chỉ dẫn, góp ý kiến, cung cấp tình hình hoặc hứa hẹn trước sẽ che giấu tội phạm hoặc hứa hẹn trước sẽ tiêu thụ tang vật.
Sự khác nhau giữa những loại người trong đồng phạm được thể hiện như sau:
Người giúp sức
Người xúi giục
- Chỉ tham gia sau khi người thực
- Tham gia trước khi người thực hành có ý định phạm
hành có ý định phạm tội.
tội.
Người xúi giục
Người chủ mưu
- Chỉ tham gia trước và sau khi người - Tham gia trong suốt quá trình (trước trong và sau
thực hành cố ý định phạm tội.
khi) người thực hành thực hiện tội phạm.
- Người thực hành quyết định việc có
hay không thực hiện tội phạm.
- Người chủ mưu đóng vai trò quyết định việc thực
hiện hay không thực hiện tội phạm của người khác.
10.3. PHÂN LOẠI CÁC HÌNH THỨC ĐỒNG PHẠM
10.3.1. Phân loại theo ý thức chủ quan
- Đồng phạm có thông mưu trước: Là hình thức đồng phạm trong đó giữa những người
44
đồng phạm đã có sự thoả thuận, bàn bạc trước về tội phạm cùng thực hiện.
- Đồng phạm không có thông mưu trước: Là hình thức đồng phạm trong đó giữa những người đồng phạm không có sự thoả thuận, bàn bạc trước về tội phạm cùng thực hiện.
10.3.2. Phân loại theo dấu hiệu khách quan
- Đồng phạm đơn giản: Là hình thức đồng phạm trong đó những người cùng tham gia vào vụ đồng phạm đều với vai trò là người thực hành.
- Đồng phạm phức tạp: Là hình thức đồng phạm trong đó có một hoặc một số người là người thực hành còn lại những người khác với vai trò là người tổ chức hoặc người xúi giục hoặc người giúp sức.
Hai cách phân loại trên chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận.
10.3.3. Căn cứ vào dấu hiệu chủ quan và khách quan a. Phạm tội có tổ chức:
Như vậy, đặc điểm của phạm tội có tổ chức là sự cấu kết chặt chẽ giữa những người trong đồng phạm
Sự cấu kết chặt chẽ tức là chỉ mức độ liên kết cao hơn, chặt chẽ hơn về khách quan và sự phân hoá vai trò nhiệm vụ về chủ quan của mỗi người trong đồng phạm.
Ranh giới xác định như thế nào là sự câu kết chặt chẽ chỉ mang tính tương đối. Thực tiễn thừa nhận các trường hợp sau là phạm tội có tổ chức:
1/ Những người đồng phạm đã tham gia vào tổ chức phạm tội như Đảng phái chống chính quyền nhân dân, băng ổ trộm, cướp.
2/ Những người phạm tội đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo một kế hoạch đã thống nhất trước.
3/ Những người đồng phạm chỉ thực hiện tội phạm một lần nhưng đã thực hiện theo kế hoạch được tính toán kỹ càng, chu đáo.
b. Trường hợp đồng phạm khác: Ngoài trường hợp phạm tội có tổ chức.
10.4. VẤN ĐỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG ĐỒNG PHẠM
10.4.1. Các nguyên tắc xác định TNHS trong đồng phạm
a. Nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về tội phạm cùng thực hiện
- Tất cả những người đồng phạm đều bị truy tố xét xử về cùng một tội danh theo cùng một điều luật và trong phạm vi những chế tài mà điều luật ấy quy định.
- Tất cả những người trong đồng phạm cùng phải chịu trách nhiệm về những tình tiết tăng nặng của vụ án nếu họ đều biết.
- Phải tuân thủ các nguyên tắc chung về thời hiệu truy cứu TNHS, quyết định hình phạt
đối với loại tội mà họ đã tham gia thực hiện.
b. Nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện trong đồng phạm
- Những người trong đồng phạm không phải chịu tránh nhiệm về hành vi vượt quá của những người đồng phạm khác, nếu hành vi vượt quá là tình tiết định khung tăng nặng hoặc cấu thành tội độc lập.
- Những tình tiết tăng nặng, hoặc giảm nhẹ, hoặc miễn TNHS, miễn hình phạt thuộc riêng người nào thì chỉ áp dụng đối với người đó.
- Hành vi của người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức dù chưa đưa đến việc thực hiện tội phạm vẫn phải chịu TNHS.
- Sự tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người nào trong đồng phạm thì chỉ miễn
TNHS đối với người đó.
c. Nguyên tắc cá thể hoá TNHS
- TNHS của mỗi người trong đồng phạm phụ thuộc vào mức độ tham gia (mức độ đóng
góp) thực tế của họ vào việc thực hiện tội phạm. Ví dụ: Số vốn góp để buôn bán hàng cấm.
- TNHS của mỗi người trong đồng phạm phụ thuộc vào tính chất của hành vi của họ khi tham gia vào việc thực hiện tội phạm (hành vi tổ chức, hành vi xúi giục, hành vi thực hành, hành vi giúp sức).
10.4.2. Một số vấn đề khác liên quan đến việc xác định TNHS trong đồng phạm a. Vấn đề chủ thể đặc biệt
Đối với các tội đòi hỏi chủ thể đặc biệt chỉ cần người thực hành thoả mãn các đặc điểm về chủ thể đặc biệt còn những người đồng phạm khác không nhất thiết phải thoả mãn các đặc điểm của chủ thể đặc biệt.
b. Vấn đề xác định TNHS ở các giai đoạn thực hiện tội phạm trong đồng phạt
Nếu những người đồng phạm không thực hiện tội phạm được đến cùng do những nguyên nhân khách quan thì người thực hành thực hiện tội phạm đến giai đoạn nào thì họ phải chịu TNHS ở giai đoạn đó.
Nếu người bị xúi giục không nghe theo sự xúi giục thì chỉ riêng người có hành vi xúi giục phải chịu TNHS về tội đã xúi giục ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
Người giúp sức có hành vi giúp sức cho người khác để thực hiện tội phạm, nhưng người này đã không sử dụng sự giúp sức đó hoặc sử dụng vào việc thực hiện một tội phạm khác, thì người có hành vi giúp sức phải chịu TNHS về tội định giúp sức.
c. Vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
Nếu người thực hành tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thì các điều kiện đặt ra như trường hợp phạm tội riêng lẻ. Những người đồng phạm khác phải chịu TNHS về tội người thực hành đã thực hiện ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt, tuỳ thuộc vào thời điểm người thực hành tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.
Đối với người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội khi thoả mãn các điều kiện sau:
- Về thời điểm: Phải dừng lại việc thực hiện tội phạm trước khi người thực hành bắt tay vào việc thực hiện tội phạm.
- Phải có hành vi tích cực làm mất tác dụng của những hành vi trước đó để ngăn chặn tội
phạm như: báo cho người bị hại để phòng ngừa. Giao, nộp súng cho cơ quan chức năng
10.5. NHỮNG HÀNH VI LIÊN QUAN ĐẾN ĐỒNG PHẠM CẤU THÀNH TỘI ĐỘC LẬP 10.5.1. Tội che giấu tội phạm (Đ21 BLHS)
Tội che giấu tội phạm có 4 đặc điểm sau:
@ Không có sự hứa hẹn trước. (nếu hứa hẹn trước sẽ trở thành đồng phạm về tội mà người được che giấu đã thực hiện).
@ Chỉ thực hiện sau khi tội phạm kết thúc.
@ Luôn thực hiện bằng hành động.
@ Chỉ cấu thành tội này theo điều 313 BLHS.
Tội không tố giác tội phạm (Điều 22 BLHS) đặc điểm sau:
@ Luôn thực hiện bằng không hành động. @ Chỉ cấu thành tội này theo điều 313 BLHS.
@ Có thể thực hiện ở bất kỳ thời điểm nào của quá trình thực hiện tội phạm mà người kia đã hoặc đang hoặc sẽ thực hiện.
@ * Chú ý: Nếu người không tố giác là ông bà, cha mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội thì chỉ phải chịu TNHS trong trường hợp không tố giác tội xâm phạm An ninh quốc gia hoặc các tội khác đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Điều 314 BLHS. Ví dụ: Khoản 4, Điều 113 BLHS tội cướp tài sản. Các đối tượng trên chỉ được miễn TNHS đối với trường hợp không tố giác tội phạm vì loại tội phạm này thực hiện bằng không hành động mang tính thụ động. Còn với hành vi che giấu tội phạm thì họ không được miễn TNHS vì loại tội này nó thể hiện sự chủ động, tích cực của người phạm tội thường gây khó khăn cho việc phát hiện, xử lý tội phạm.
45
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top