CHƯƠNG BA
Việc đầu tiên tôi làm ngày hôm nay là phá cửa căn buồng bị đóng đinh bít kín-chỗ duy nhất Người Lùn có thể ẩn náu nếu như hắn bằng xương bằng thịt. Đinh đã han rỉ hết, mặc dù ván cửa còn nguyên vẹn. Trong phòng, sàn phủ một lớp bụi dày đến ba ngón tay. Không một ai có thể ẩn náu ở đó được, nên tôi lại đóng đinh bít kín cửa như cũ. Sau đó tôi lục soát tất cả các phòng ở cánh gà đối diện và đi đến kết luận là ở đó cũng không ẩn náu vào đâu được. Bên trên hành lang đêm qua tôi nghe thấy tiếng chân bước, có một gác xép sát nóc, nhưng ở đó cũng không có dấu vết gì. Phía bên phải là cửa dẫn vào phòng tôi và phòng nữ chủ nhân, tiếp theo là tường, phía ngoài tường là vườn rồi.
Tôi điên đầu lên vì tất cả những điều đó. Chẳng lẽ trên thế gian ngày nay còn tồn tại thứ gì đó siêu tự nhiên ư? Tôi, một kẻ “vô thần”, kiên quyết nhất không đời nào chấp nhận điều đó.
Tôi bỗng nảy ra một ý là phải lần mò vào thư viện tìm hiểu xem “đội săn” nó là cái của nợ gì vậy – hỏi nữ chủ nhân về điều đó tôi thấy bất tiện. Nhân thể, may ra sẽ tìm được một tấm sơ đồ thiết kế tòa nhà, cũ rích cũng được, để có thể bắt đầu cuộc truy tìm một cách có phương pháp hơn. Tôi biết là đôi khi trong tường một số tòa lâu đài cổ có gắn những thiết bị đặc biệt, thường gọi là “máy nghe”. Trong cái “máy nghe” ấy chèn kín những “máy nói”, tức những chiếc bình hình dạng đặc biệt dùng để khuếch đại âm thanh. Nhờ chúng mà chủ nhân dù đứng ở cuối tòa lâu đài vẫn có thể nghe rõ khách khứa hay gia nhân nói chuyện những gì ở tận đầu đối diện.
Rất có thể ở đây cũng có một thứ gì tương tự. Mụ quản gia đi lại ở tận tầng một, vậy mà ở trên tầng hai vẫn nghe tiếng chân. Một hy vọng quá ư mỏng manh, song mọi sự đều có thể xảy ra được.
Tôi liền đến thư viện ở giữa tầng một và tầng hai trong một dãy nhà ngang.
Ít khi tôi được thấy những căn phòng bỏ hoan phế lên như vậy. Gỗ lát sàn long hết, cửa sổ đầy bụi bậm, các cụm đèn chùm bọc trong các bao cũng bụi bặm kinh khủng. Có lẽ đây là phần cổ xưa nhất của tòa nhà, trung tâm của cả tòa lâu đài xây sau này. Tôi nảy ra ý kiến ấy khi trông thấy trước thư viện một gian phòng kỳ lạ. Ở đấy cũng có một lò sưởi, nhưng nó to lớn đến mức có thể quay cả một con bò rừng, thậm chí trên tường lò còn nguyên cả các hốc gác, que xiên thịt. Các cửa sổ đều nhỏ bé, lắp kính màu, tường trát xấu xí, hai chiếc dầm vuông vức nặng nề bắt chéo nhau đỡ lấy trần, những đường trạm trổ trên dầm đã ám khói. Trên tường treo mấy khẩu súng cổ lỗ thô sơ.
Tóm lại, đó là gian phòng điển hình cho cái “thời sung sướng xa xưa” khi các pan với gia nô cùng tụ tập trong một gian phòng quanh lò lửa. Các panhi và đám nữ tì quay tơ, trong khi đó pan chủ nhân ông chơi trò “mười hai ngón tay” hoặc chơi súc sắc với bọn gia nhân. Ôi cái thời buổi chủ tớ như cha với con xa xưa!
Của đáng tội, chính pan chủ nhân ông nhân đức nọ, khi ngồi mai phục trong cuộc săn mà bị rét cóng, có thể mổ bụng đứa gia nô đã dám thắng bạc ngài, đoạn nhét cả hai chân vào giữa ruột gan anh ta mà sưởi cho ấm (*). Đương nhiên, đó chỉ là những chuyện vặt vãnh, họa chăng chỉ bọn đa sầu đa cảm mới lưu tâm mà thôi.
(*) Ít ra, vào những thời cổ xưa nhất ông chủ có quyền như vậy, điều này tượng trưng cho quyền hành vô hạn của chủ nô. Trên thực tế không thấy ghi nhận một trường hợp nào sử dụng đến quyền đó (chú thích của tác giả).
Xin các bạn đọc kính mến thứ lỗi cho, nhưng tôi không thể bỏ qua một gian phòng nào không kể đến. Biết làm sao được, về già người ta hay lắm lời. Vả lại, các bạn chưa từng bao giờ và cũng sẽ không bao giờ được thấy những điều tương tự, cho nến rất có thể có bạn sẽ lấy làm thú vị được nghe tôi kể.
Gian thư viện cùng một cung cách với gian tiền sảnh: vòm cao, các cửa sổ tận trên đỉnh cột trong, những chiếc ghế bành bọc da cũ kỹ đã ngả một màu nâu, những chiếc tủ đồ sộ bằng gỗ sồi ngâm tẩm và sách, sách, cơ man là sách!
Làm sao có thể bỏ qua chúng, không nói với các bạn đôi lời về chúng. Tim tôi như ngừng đập mỗi khi nhớ đến những pho sách ấy. Những pho sách cổ giấy bằng da cừu, những cuốn sách bằng giấy bản thô rồi đến sách in giấy nhẵn bóng đã ngả màu thời gian. Sách thế kỷ XVII mà ta có thể nhận ra ngay theo loại da bọc bìa.
Da bọc bìa màu vàng của thế kỷ XVIII, bìa gỗ bọc lớp da mỏng màu đen trên sách thế kỷ XVI...
Tôi mê mẩn với những pho sách đến nỗi không nhận ra ngay là trong phòng còn người khác. Anh ta đã rời chiếc ghế bành đứng dậy và đang nhìn tôi chờ đợi. Môi anh ra nở một nụ cười khả ái, cả đôi mắt to cũng đang cười trìu mến. Một tay anh ra e thẹn giữ tà chiếc áo ngủ. Chúng tôi làm quen với nhau
- Tôi là Anđrêi Bêlôretxki
- Tôi – Ignat Bécman-Gatxêvich, quản lý, giọng anh ta nhỏ nhẹ ân cần
Chúng tôi cùng ngồi xuống. Tôi tò mò nhìn con người ấy. Điều gì đã giữ chân anh ta ở lại cái ấp Rừng Tùng Đầm Lầy kinh khủng này? Tiền ư? Lấy đâu ra tiền! Dường như đoán ra ý nghĩ của tôi anh ta nói:
- Ngài thấy đấy, biết bao sách quý. Tôi ở lại đây chính vì chúng đấy. Tôi là một người mê sách mà.
Người mê sách tầm vóc thấp, thiếu cân đối. Khuôn mặt anh ta thanh tú, và dịu dàng quá dịu dàng đối với một người đàn ông ở tuổi ba mươi lăm, khiến tôi chú ý do một sắc hồng thiếu sinh động, trông như ở những con búp bê bằng sứ. và nói chung, cả con người anh ra có vẻ “búp bê” quá. Đôi mắt to màu xám, hàng mi dài, cái mũi dọc dừa xinh sắn, hai môi mỏng dễ thương. Y hệt một mục đồng trên mặt hộp thuốc lá. Đến bộ râu anh ta cũng thưa thớt, như thường thấy ở nhiều người Bêlôruxia vùng đầm lầy độc địa.
- Chắc ngài là người Bắc tỉnh Minxk phải không ạ?
- Ồ! Pan đoán giỏi thật đấy – anh ta đáp – Trước tôi sống ở tỉnh lỵ, giờ thì ở đây.
Nếu như có ai hỏi tôi nét nào ở con người ấy đập vào mắt trước hết thì tôi sẽ trả lời “Sự hào hoa phong nhã khí cổ”. Anh tỏ ra có gia giáo, cái anh chàng búp bê ấy, một kiểu gia giáo theo tinh thần phong nhã sliăcta tỉnh lẻ khiến ta thấy nực cười. Mỗi khi nhìn những con người ấy ta luôn có cảm tưởng là trong gia đình họ, lũ trẻ chơi ú tim thường nấp dưới nếp chiếc váy len rộng thùng thình những sáu khổ vải của bà nội chúng, trong khi bà vẫn cặm cụi đan hoặc mạng lót những đôi tất mới tinh để khỏi chóng rách.
Tuy nhiên, cảm tưởng đó tan biến rất nhanh. Trong ánh mắt anh ra, trong khóe môi mím chặt có gì đó kiêu kỳ khổ hạnh và hơi khắc nghiệt.
Song, phải công bằng mà nói anh ta quả là một con người uyên thâm về sử sách. Chỉ hai chục phút sau tôi đã hiểu ra ngay điều đó, hơn thế nữa, toi thấy rõ là anh ta hiểu biết văn học cổ điển chẳng thua kém gì tôi, một người có học vấn đại học.
Bởi vậy tôi liền xoay câu chuyện sang đề tài “đội săn của quốc vương Xtác”
- Vì cớ gì ngài quan tâm câu chuyện vậy?
- Tôi là nhà dân tộc học mà
- Ô! thế thì đương nhiên rồi. Nhưng chắc gì kẻ tiện nhân này đã đủ tài cán kể về chuyện ấy cho vừa lòng thượng khách. Nên chăng, ta nhường lời cho những trang giấy đã ngả màu? Quý ngài đọc được ngôn ngữ văn học thế kỳ XVII chứ ạ?
Với một động tác rất nghệ sỹ (ngón tay anh ta thanh mảnh dài gấp đôi ngón tay người thường) anh ta ở một tủ sách. Và đây, trên đầu gối tôi lập tức xuất hiện một pho sách đồ sộ, trang nào cũng chi chít những nét chữ li ti nắn nót, đã ngã màu nâu cùng năm tháng: “Năm một ngàn sáu trăm lẻ một đất này bất an. Quan án sát Banvanôvích vừa mới xử xong vụ bọn gia nô hạ sát chủ nhân chúng là pan nhân đức Ianúc Bôboet. Nhiều miền đất khác cũng không đyợc yên. Bọn dân đen vác gậy sồi tiến đến sát chân thành Vitepkơ, ở Kritsop, ở Mơxchixlap, ở vùng ta, bọn nô bộc cũng làm phản, đốt phá giết chóc. Mười bốn pan chủ nhân bị giết, ba vị nữa bị đánh đập tàn tệ, không biếtliệu có qua khỏi được không”
Nhưng thôi, hẳn các bạn khó đọc cái giọng văn cổ ấy. Bởi vậy tôi xin thuật lại nội dung câu truyền thuyết xa xưa.
Số là thuở ấy không phải chỉ có nông nô nổi dậy, mà ngay cả tầng lớp sliăcta Bêlôruxia vốn bị những thể chế mới chèn ép, cũng bạo loạn. Khắp các vùng xung quanh Rừng Tùng Đầm Lầy đều sục sôi. Ngay ở trong khu rừng rậm Khôđanôp, ông Thọt Iarôsơ Stmat lập bản doanh, hưởng ứng pan thế gia vọng tộc Bêlôruxia là Xtac Goocxki mà theo dòng dõi tôi tiên vốn là chỗ thân thích với vương công Vilnô là Alêchxandro. Pan Xtác, một sliăctich trai trẻ và đầy tham vọng theo đuổi một mục đích: giành cho được sự độc lập. Để làm việc đó, ông ta có đủ mọi tiền đề: dòng máu vương giả chảy trong huyết quản (thời ấy, điều này quan trọng lắm), sự ủng hộ của giới địa chủ quý tộc quanh vùng lực lượng quân sự hùng mạnh, sự ủng hộ của giới địa chủ quý tộc quanh vùng, lực lượng quân sự hùng mạnh, sự ủng hộ của đạo hữu chính giáo và “anh em lục lâm”, tài thao lược của bản thân và điều chủ yếu nhất là sự bần cùng, tình cảnh tuyệt vòn của nông dân. Khắp một miền đất lân cận, tất cả đều đã công khai tôn vị thủ lĩnh trẻ tuổi làm quốc vương.
Tuy nhiên, lúc ấy ông ta còn đang tập hợp lực lượng đồng thời khôn khéo dùng thủ đoạn ngoại giao mê hoặc chư vị đại diện chính quyền trung ương. Nghe nói, lực lượng ông ta đã lên đến tám nghìn kỵ sỹ, phần ẩn náu trong rừng sâu, phần ở ngay trong trang trại của ông ta.
Cuối cùng, đến mùa thu năm 1602 mọi sự đều đã sẵn sàng. Trong các nhà thờ quanh vùng, nông dân đã làm lễ tuyên thệ trung thành với quốc vương Xtác và ông ta đã bất ngờ tấn công chiếm một pháo đài mạnh nhất trong huyện. Chỉ còn chờ ông Thọt Iarôsơ Stmate cùng thủ hạ đến tụ nghĩa. Quân nghĩa hùng hậu, quốc vương kiên quyết, cho nên rất có thể một trang chói ngời mới sẽ được ghi vào sử xanh Bêlôruxia.
Duy chỉ có một người không ngưỡng mộ quốc vương Xtác - ấy là Rôman Janôpxki, một lãnh chúa có thế lực, chủ nhân trang ấp Rừng Tùng Đầm Lầy. Quốc vương ngờ rằng Rôman có những mối giao du khả nghi với quận trưởng Litva, thậm chí cả với nhà thờ La Mã. Ngài đã cảnh cáo Janôpxki rằng kết cục sẽ có thể rất tồi tệ đối với Rôman. Janôpxki vội tâu trình rõ lòng tôn kính và trung thành của mình đối với quốc vương. Xtác tin lời thề thốt của Rôman, thậm chí đã ôm hôn lãnh chúa Rừng Tùng Đầm Lầy, lấy máu hai người hòa lẫn trong cốc rượu, rồi hai bên thương thuyết cùng uống cạn. Quốc vương Xtác ban tặng Rôman một bộ bát đĩa bằng bạc.
Không rõ nguyên cớ gì đã sai khiến Rôman cả gan làm những việc tiếp theo đó, lòng hiếu danh ư? Hay thói bội bạc, hay một động cơ gì khác nữa. Ông ta là bạn của một quốc vương hợp pháp kia mà...Ông ta mời quốc vương Xtác đến dự cuộc săn và quốc vương đã đến Rừng Tùng Đầm Lầy cùng với một đội săn hai chục người ngựa. Stamet phải đến tụ nghĩa vào ngày hôm sau, thời gian còn nhiều, nên quốc vương quyết định nghỉ ở lại Rừng Tùng Đầm Lầy, hơn nữa con mồi thuộc loại hấp dẫn: báo đầm lầy, một con vật cả về tầm vóc lẫn màu lông đều giống hổ, thời bấy giờ cũng đã hiếm thấy trong các vùng hoang sơ quê ta, còn như sau này, tức một trăm năm sau, đã biến hẳn.
Pan Rôman đã trù tính một vụ phản đối đen tối. Bởi dẫu quốc vương Xtác là một ông vua của dân cày, dẫu ngài bạo loạn chống lại các đấng trị vì nhân danh thượng đế, song phải chăng chính thượng đế sẽ không ban phước cho quyền lực của ngài nếu như ngài giành lại được ngôi báu của tổ tiên?
Thế là quốc vương Xtác đã đến Rừng Tùng Đầm Lầy và để rước mừng ngài, người ta đã giăng đèn kết hoa, mở yến tiệc linh đình. Và ngài đã ăn uống, cười đùa cùng Rôman, cùng các pan khác nữa, số pan này có đến cả trăm. Rồi đêm đến, họ cùng đi săn, bởi dạo ấy, đêm thanh gió mát, những đêm như vậy con báo đầm lầy rời hang ổ trong lau lách, lang thang khắp mọi vùng từ Rừng Tùng Đầm Lầy đến các thung Gò mộ và Gốc cụt, rình vồ cả súc vật lẫn những người bộ hành lẻ loi.
Chính bởi vậy, tất cả đều thù ghét nó, chính vì vậy người ta tiêu diệt nó. Chó sói gặp người là lảng xa. Báo rừng cũng thường vòng tránh, chứ báo đầm thì không: nó là giống ăn thịt người.
Vậy là, khách khứa đã ra về cả, riêng quốc vương Xtác với đội săn cùng Rôman với trưởng đàn chó săn thân tín là Alêchnô Vôrôna và sliăctich Đubôtôpkơ kéo cả đoàn đi săn báo đầm lầy. Hôm ấy phải một đêm tối trời, mảnh trăng lưỡi liềm le lói, cảnh vật mờ mờ, vậy mà họ vẫn phóng ngựa trên khắp đầm lầy, bất chấp đêm thu hoang vằng cùng ma chơi chập chờn xanh lè.
Thế rồi, ánh lửa trong mấy nếp nhà cũng đã tắt, và ai mà biết được có khi Thượng đế với thiên ý cao siêu cũng đã tắt luôn ánh sáng trong cõi lòng đôi kẻ làm người. Bởi thế pan Rôman cùng quốc vương Xtác mới tụt lại cách xa đoàn người đi săn.
Hai vị chưa kịp định thần xem xét xung quanh thì một con báo đầm lầy từ trong bụi nhảy xổ ra, lao ngực vào ức ngựa Rôman, xé bụng con ngựa, lôi ra cả một tảng thịt cùng ruột gan lòng thòng – cái thói loài báo này nó như vậy đó. Rôman ngã nhào, hãi hùng trước cái chết khôn phương trốn tránh bởi con dã thú đang hướng cặp mắt rực lửa nhìn ngài chòng chọc, mà nó lại to lướn dài rộng hơn ngài.
May thay, quốc vương Xtác tức khắc từ trên lưng tuấn mã phi thân lao lên lưng báo, một tay túm tai con thú, quay ngoặt mõm nó rời xa họng Rôman, tay kia vung lưỡi đoản kiếm chém một nhát vào họng báo. Con mãnh thú giãy chết tát quốc vương một cái bắn ra xa và lập tức chồm lên người ngài. Lại may thay, pan Rôman kịp vùng dậy, giang rìu chiến phang một đòn vỡ sọ con ác thú. Cả ba nằm chồng chất lên nhau, pan Rôman đỡ quốc vương đứng dậy, hôn vào miệng ngài và bảo:
- Vậy là ra cùng hết nợ nhé người anh em. Anh cứu mạng tôi còn tôi đã giải thoát phần hồn cho anh.
Sau đó, đoàn săn kịp đến đón họ và tất cả cùng quyết định ngủ lại trong rừng để tiếp tục tiệc tùng vui chơi bởi máu còn đang sôi, tim còn đang hăng sau cuộc huyết chiến với mãnh thú, còn đòi thêm chất men say. Thế rồi họ đốt lửa lên trong khu rừng hoang dã và bắt đầu chè chén. Mà đêm thì mịt mù và khi mảnh trăng đã khuất thì chỉ đi xa đống lửa mươi bước giơ tay lên không trông thấy ngón. Họ vần thùng rượu Rôman cho mang theo, mở ra cùng uống, cùng đùa vui... Khốn thay không ai hay biết là rượu đã đánh thuốc mê, duy có Rôman, Vôrôna với Đubôtôpkơ là đã tập cho mình quen với thuốc ấy.
Mọi người thả sức uống rượu, riêng quốc vương Xtác uống ít.
Khoan đã nào Rôman! Ngươi làm gì vậy, hỡi Rôman? Con người ấy đã quyết xả thân cứu quê hương đấy. Vậy cớ sao ngươi dám cả gan đem mưu đồ riêng thay ý nguyện chúa đã tiền định? Ngươi nuối tiếc quyền thống trị của riêng ngươi, vậy chứ ngươi có nghĩ chăng bọn ngoại bang đan dày xéo tự do của nhân dân ngươi, chà đạp tiếng nói cùng tín ngưỡng, cùng linh hồn của họ? Ngươi đâu có nghĩ đến điều đó lòng ngươi tối tăm vì tị hiềm và hiếu thắng.
Vậy là họ cứ tiệc tùng cho đến khi các kỵ sỹ trong đội săn của quốc vương Xtác díp mắt, líu lưỡi. Riêng quốc vương vẫn thao thao bất tuyệt rằng ngài sẽ đem ấm no hạnh phúc lại cho muôn dân sau khi giành lại được ngôi báu của tổ tiên.
Đến lúc ấy, Rôman mới rút đoản kiếm, nắm chặt trong hai tay, lẻn đến sau lưng quốc vương Xtác, giơ cao đoản kiếm, đâm mạnh mũi kiếm nhọn hoắt xuống gáy quốc vương. Quốc vương gục đầu, nhưng rồi lập tức ngửng lên nhìn thẳng vào mắt Rôman, và gương mặt của ngài đầm đìa những máu, tựa hồ thét lên khủng khiếp kêu xin thượng đế báo thù.
- Nhà ngươi đã làm gì vậy? Nhà ngươi là anh em kết nghĩa với ta kia mà!
Thế rồi quốc vương gắng gượng đứng lên quát lớn:
-Cớ sao mi lại phản bội nhân dân mình, hỡi tên đạo tặc kia? Giết ta, mi đã cướp đi phúc lớn của muôn nhà đó!
Rôman đâm tiếp nhát thứ hai, quốc vương khuỵu xuống nhưng ngài vẫn còn nói được:
- Vậy thì hãy coi chừng, quân phản bội. Ta nguyền rủa mi cùng cả dòng họ đen tối nhà mi! Cầu cho miếng bánh mỳ bưng đến miệng còn hóa đá, cầu cho vợ con lũ ngươi tuyệt đường sinh nở, cầu cho cha, anh, chồng họ hộc máu tươi mà chết!
Đoạn, ngài nói tiếp, giọng đã yếu ớt lắm rồi mà vẫn đanh thép:
- Mi đã bán rẻ quê hương rồi, thằng khốn nạn nguyên là anh em kết nghĩa với ta. Nhưng ta sẽ không chết đâu. Ta cùng đội săn sẽ còn hiện về với mi, với con cháu mi, với hậu thế mi.
Bọn ta sẽ báo thù không thương xót đến tận đời thứ mười hai, và bọn mi sẽ không trốn đâu cho thoát. Nghe rõ chưa- đến tận đời thứ mười hai! Và mỗi thế hệ bọn mi sẽ run sợ khủng khiếp hơn ta lúc này ở dưới chân mi.
Nói rồi, đầu quốc vương gục xuống đội săn của ngài đến giờ mới tỉnh cơn mê, vội vơ lấy gươm đao. Và hai chục kỹ sỹ đã chiến đâu chọi lại có ba. Một trận đánh khủng khiếp. Nhưng rồi ba người tỉnh đã thắng hai chục người say và giết sạch đến người cuối cùng. Sau đó họ dòng dây cột cả những người chết lẫn những người tử thương còn đang rên rỉ vào yên ngựa rồi quất cho những con ngựa lồng lên lao qua rừng rậm về phía Bãi thụt Khổng lồ.
Và không ai lưu tâm việc quốc vương vẫn đang còn thoi thóp. Đàn ngựa phóng như bay vào đêm đen, mảnh trăng lưỡi liềm le lói soi những bờm ngựa lòa xòa tung bay, và đâu đó phía trước, những ngọn lửa ma chơi xanh lè là là bay chuyền trên các mô đất giữa đầm lầy.
Và từ bầy ngựa hoang vô chủ ấy vọng lại giọng nói của quốc vương Xtác:
- Ta sẽ hiến dâng phần hồn cho quỷ dữ, nếu như Thượng đế không giúp ta báo thù. Mi hãy đợi đấy, Rôman, bọn ta sẽ phóng ngựa về hỏi tội mi! Hãy run lên, kẻ tử thù muôn kiếp! Bọn ta sẽ đến! Bọn ta nhất định sẽ trả mối thù này!
Vậy mà không một ai ngờ rằng những lời vọng lại ấy là sự thật, quốc vương Xtác quả đã biến thành vũ khí trong tay quỷ dữ, thành công cụ báo thù và trừng phạt. Bởi không một sự hạ sát nào đáng bị trừng phạt khủng khiếp hơn sự hạ sát anh em kết nghĩa.
Lũ sát nhân sống sung sướng chẳng được bao lâu. Trưởng đàn chó săn Vôrôna là kẻ đầu tiên đối mặt với những hồn ma của quốc vương Xtác cùng các thuộc hạ của ngài, chỉ hai tuần sau đó mà thôi. Đội săn không lựa đường sá, phóng như bay trên đầm lầy gớm ghiếc nhất, trên rừng rậm trên mặt nước khe lạch. Không một tiếng hàm thiếc lách cách, không một tiếng gươm kiếm lạch cạch. Các kỹ sỹ trên mình ngựa đều câm lặng và phía trước đội săn của vương quốc Xtác chập chờn những đốm lửa ma chơi xanh lè.
Alêchnô Vorôna mất trí, Đubôtôpkơ ít lâu sau cũng chết bất đắc kỳ tử. Quận trưởng Litva đánh tan các đội nghĩa binh nông dân đã mất thủ lĩnh, Iarôsơ chết trận. Riêng Rôman Janôpxki vẫn sống, vẫn cười.
Nhưng rồi một ngày kia Rôman đi ăn trở về một mình qua khu bãi hoang. Ánh trăng in soi lờ mờ mặt đường mòn, bỗng sau lưng Rôman những ánh lửa đầm lầy xanh lè bay loạn xạ rồi từ phía đó vọng lại tiếng tù và cùng tiếng vó ngựa xa xa. Chỉ lát sau, lần lượt hiẹn ra lờ mờ bóng các kỵ sỵ. Bờm ngựa tung bay trong gió, cả đoàn lẳng lặng không một tiếng động phóng như bay, lướt trên ngọn lau lách đầm lầy. Các kỵ sỹ đều câm lặng, và phóng đi trước tất cả là một kỹ sỹ cao lớn, dáng hình lờ mờ dưới ánh trăng – quốc vương Xtác! Và ngần ấy cặp mắt người ngựa, báo đều rực lửa.
Rôman chạy đoàn kỹ sỹ phóng đuổi theo, câm lặng và nhanh kinh khủng ngựa chỉ khẽ động vó trong không trung, lau lách lao xao, và trăng ...lạnh lùng rọi theo cuộc săn đuổi.
Rôman ba lần kêu to: “Đội săn!” – những tiếng kêu thất thanh mà cả mọi người trong mấy nếp nhà xa tít cũng nghe thấy. Thế rồi, đội săn đã đuổi kịp Rôman, Rôman vỡ tim mà chết.
Từ thuở ấy, đã nhiều người nhìn thấy đội săn của quốc vương Xtác trên các đống lầy than bùn. Và mặc dù không phải ai cũng bị đội săn trừng phạt, nhưng ít ai không vỡ tim mà chết khi tình cờ gặp phải những bóng ma ảm đạm ấy giữa đầm lầy.
Lũ người trong dòng họ Janôpxki đều đã chết như vậy – cả con Rôman, rồi đến con của con Rôman. Chính sau cái chết này, tôi mới viết lại ra đây tất cả để răn dạy hậu thế của y, may ra họ sẽ chuộc lỗi xưa bằng nhiều việc thiện khiến cho lời nguyền muôn thuở không còn hiệu lực.
Hỡi người đời, hãy tránh xa đầm lầy, hãy tránh xa sình lầy đêm hôm, khi những ngọn lửa xanh lè hội tụ và bắt đầu cuộc nhảy múa ở những nơi hiểm nhất. Chính những nơi ấy, các người sẽ gặp phải hai chục kỹ sỹ cưỡi những con ngựa thuần giống đrứctăng (*)
(*) Một giống ngựa Bêlôruxia – Balan, nay đã tuyệt chủng, những con tuấn mã vằn và lốm đốm như báo, gốc mũi mày hồng – (chú thích của tác giả).
Và kỵ sĩ thủ lĩnh luôn đi đầu, cách xa đoàn tùy tòng. Chiếc mũ gấp vành chụp sát mắt. Gươm kiếm không lách cách, ngựa không hí dài. Chỉ thoảng hoặc từ đâu đó xa xăm vọng lại tiếng tù và ngân nga. Bờm ngựa tung bay, những ánh lửa đầm lầy chợp chờn dưới vó ngựa.
Trên lau lách hoang vu, trên đầm lầy chết chóc, đội săn vẫn đang phi ngựa và sẽ còn phi mãi chừng nào còn tồn tạn thế gian này. Đội săn này cũng là quê hương ta, mà ta không yêu quý, mà ta ghê sợ. Cầu chúa tha tội cho chúng con!
Tôi rời mắt khỏi những trang giấy, lúc lắc đầu, mong mau chóng thoát khỏi những hình ảnh man rợ, Bécman nhìn tôi chờ đợi.
- Thế nào, thưa pan, xin lỗi, tôi hỏi khí đường đột, ngài nghĩ gì về những chuyện ấy?
- Một truyền thuyết mới kinh khủng, mới đẹp, mới hoang đường làm sao! – tôi chân thành thốt lên. Quả là một chủ đề tuyệt hay cho một cây bút cỡ lớn! Biết bao cảnh tượng tuyệt vời có thể dựng lên!
- Ôi xin ngài thứ lỗi, giá như đó chỉ là một truyền thuyết. Thưa ngài, tôi là một người có tư tưởng tự do, tôi là một người vô thần như mỗi người hằng sống bằng trái tim trong thời đại văn minh chúng ta. Nhưng tôi tin là đội săn của quốc vương Xtác là có thật. Không tin mới thực kỳ lạ. Cái đội săn ấy đã làm cho bao người trong hậu thế Rôman phải chết, dòng họ Janốpxki gần như tuyệt nọc
- Tôi đã từng nói với mọi người – tôi đáp, - và giờ xin được trình bày với ngài. Tôi có thể say mê sưu tầm các truyền thuyết, nhưng lỳ gì bắt tôi phải tin chúng có thật? Con cháu Rôman chết “bởi tay đội săn” cách đây đã hai trăm năm. Thuở ấy biên niên sử thành Môghiliốp từng nghiêm chỉnh khẳng định rằng trước khi nổ ra chiến tranh trên tường đá thành Môghiliôp, ở chỗ con người không thể nào leo tới được, thường xuất hiện những bàn tay đẫm máu.
- Có, tôi có nhớ chuyện ấy – vị mê sách xác nhận. – Cũng có thể nêu một số ví dụ khác, nhưng chúng ...e – hèm...Khí tục tĩu. Các bậc tiền bối của chúng ta là những con người thô lỗ.
- Thế đấy- tôi nói có ý trách móc. –Vậy mà ngài lại tin cái chuyện đội săn...
Tôi bỗng có cảm giác là người búp bê hơi dao động.
-Thế ngài sẽ bảo sao nếu như tôi tuyên bố là chính mắt mình thấy đội săn ấy?
-Chuyện bịa đặt- tôi cắt ngang, gay gắt. -Chẳng lẽ ngài không xấu hổ khi đem những chuyện vớ vẩn ấy ra dọa nạt đàn bà con trẻ ư?
Đây không phải là chuyện bịa đặt – Bécman hơi đỏ mặt. – Đây là chuyện nghiêm chỉnh. Chẳng phải ai cũng trở thành anh hùng hảo hán được, tôi xin thú thực là tôi sợ. Thậm chí giờ đây tôi còn không dám ngồi ăn cùng bàn với nữ chủ nhân, bởi vì cơn thịnh nộ của quốc vương Xtác cũng giáng xuống đầu những kẻ liên quan. Chắc ngài còn nhớ, trong cuốn bản thảo....
- Ngài nhìn thấy đội săn trong hoàn cảnh nào vậy?
- Y như viết trong sách đây. Tôi đến chơi nhà Đubôtôpkơ – ông láng giềng của Janôpxki. Nhân thể tôi xin giới thiệu: ông ta là hậu thế của Đubôtôpkơ trong truyện. Khi về, tôi đi đường bãi hoang, qua đúng cái đống đá tảng to tướng ấy. Đêm hôm ấy khá sáng trời. Tôi không nghe thấy họ xuất hiện lúc nào! Họ phi ngựa ngay trên đầm lầy, qua ngang trước mặt tôi! Ôi! Thực khủng khiếp!
Trong khóe mắt anh ta bỗng hiện ra một ánh đờ đẫn. Tôi chợt nghĩ: Trong tòa nhà này, hơn thế nữa – trong cả vùng bình nguyên quanh đây đã có điều gì đó không ổn xảy ra với trí não mọi người.
“Liệu ở đây có được một ai là người bình thường không? Hay là mọi người đều đã mất trí cả rồi?” Tôi thầm nghĩ.
- Lạ nhất là họ phi ngựa không một tiếng động. Ngựa toàn một giống cổ, ngay này có đốt đuốc ban ngày đi tìm cũng không thấy nữa: những con tuấn mã thuần giống đrứctăng vùng Pôlêxia cắt gần đuôi. Bờm ngựa, áo choàng hiệp sỹ tung bay trước gió.
- Áo choàng hiệp sĩ chỉ mặc khoác ngoài áo giáp trụ, - tôi ngắt lời một cách hơi khiếm nhã. – Đi săn ai mặc áo giáp trụ làm gì?
- Tôi biết – người búp bế lập tức đồng ý, giọng giản dị và chân thành: anh ta giương đôi mắt to, hiền lành như mắt nai vàng nhìn tôi – Xin ngài tin cho rằng nếu tôi bịa đặt, tôi có thể nghĩ ra những điều có lý hơn.
- Ngài bỏ qua cho, - tôi bối rối xin lỗi.
- Áo choàng hiệp sỹ bay phấp phới sau lưng. Giáo mác tua tủa chĩa ngược lên trời. Và họ phi ngựa, lướt tới như xung trận.
- Xin quý ngài bỏ quá cho tôi một câu hỏi khiếm nhã nữa: hay là trong bữa tối ở nhà ông láng giềng, gia chủ đã thiết đãi ngài món rượu mật ong?
- Tôi không uống rượu, – Bécman–Gatxêvich mím môi, giọng đầy tự trọng. – Tôi xin nói thêm là họ không để lại môt dấu vết gì. Sương mù che khuất vó ngựa. Gương mặt quốc vương bình thản, ảm đạm, không hồn, khô khan và xám xịt như sương mù. Điều đáng lưu ý nhất là họ đã đến lâu đài nhà Janôpxki vào đúng đêm ấy. Về đến nhà, mọi người kể lại với tôi rằng đúng nửa đêm, cái vòng khóa trên cửa bỗng đập loảng xoảng rồi có tiếng quát gọi: “Rôman đời thứ mười hai, ra ngay!”
- Sao lại Rôman?
- Bởi vì tiểu thư Nađeia là người nối dõi cuối cùng của dòng họ Rôman, đúng đời thứ mười hai.
- Tôi không tin, – tôi càng khăng khăng phản đối vì thấy mặt Bécman tái đi thật. Xin ngài đưa tôi cuốn gia phả họ Janôpxki.
Becman ngay tức khắc lôi ra một pho bản thảo giấy da cừu. Quả nhiên, tính từ đời Rôman đã được mười một thế hệ. Dưới đời thứ mười một, cũng lại tên Rôman, có ghi mấy dòng sau bằng những nét chữ li ti:
“Ngày 26 tháng 10 năm 1870, con gái tôi ra đời, đặt tên là Nađêia. Hỡi số mệnh khắc nghiệt, xin hãy cởi bỏ cho chúng tôi lời nguyền muôn thủa. Xin hãy đoán thương nhúm xương thịt nhỏ xíu này. Xin cứ việc gọi tôi đi, nếu cần phải như vậy, nhưng xin buông tha cho đứa con nít được sống. Nó là hòn máu cuối cùng của dòng họ Janôpxki. Trăm sự tôi nhờ ơn số mệnh”
- Đây là cụ thân sinh tiểu thư Nađeia viết à? tôi cảm động hỏi và thoáng nghĩ năm nàng sinh tôi đã tám tuổi.
-Vâng, chính ông ta, Ngài thấy đấy, ông ta đã linh cảm trước. Số phận của ông ta là một bằng chứng cho tính xác thực của truyền thuyết về quốc vương Xtác. Ông ta biết truyền thuyết này, mọi người trong dòng họ ấy đều biết, bởi vì lời nguyền nọ như búa rìu đao phủ luôn treo lơ lửng trên đầu hậu thế những kẻ vô phúc ấy. Người thì mất trí, kẻ bị anh em máu mủ giết chết vì tiền. Người thứ ba chết trong cuộc săn bắn. Ông ta biết trước nên đã thu xếp đâu vào đấy, bảo đảm cho tiểu thư một món thu nhập dẫu quá ư bé nhỏ, tìm kiếm trước người bảo trợ, lập sẵn chúc thư (nhân thể xin nói thêm là tôi rất lo ngại mùa thu này, nhiều người trong dòng họ Janôpxki không sống được đến tuổi thanh niên: hai hôm nữa sẽ đến lễ sinh nhật của tiểu thư Nađêia, vậy mà hai lần liền đội săn xuất hiện ở ngay dưới chân tường lâu đài). Rôman không bao giờ ra khỏi nhà vào ban đêm. Nhưng hai năm trước đây một bà cô bên họ mẹ là vợ sliăctich Kunsa mời tiểu thư Nađêia đến chơi. Cô bé ở chơi bên ấy tới khuya. Pan Rôman rất hay sốt ruột mỗi khi con gái vắng nhà. Nhà Kunsa ở ngay cạnh Bãi thụt Khổng lồ. Ông ta lên ngựa đi đón con. Cô bé được gia nhân của Kunsa tên là Rưgôrơ đưa về tận nhà rồi mà mãi chẳng thấy pan Rôman đâu. Gia nhân bổ đi tìm. Cũng đúng vào dịp mùa thu, chính là lúc đội săn của quốc vương Xtác đặc biệt hay xuất hiện. Chúng tôi lần theo dấu vó ngựa pan Rôman cưỡi. Tôi và Rưgôrơ. Tôi thì hết hồn mà tên Rưgôrơ cứ tỉnh như không. Dấu vó ngựa đi theo đường mòn, sau đó rẽ ngoặt sang bên và bắt đầu vòng vèo trên đồng cỏ. Dọc một bên, Rưgôrơ tìm thấy những dấu vó ngựa khác.
Hắn ta là một thợ săn cừ khôi, cái thằng cha Rưgôrơ ấy. Thật khủng khiếp, thưa ngài! Dấu vó ngựa chi chít, phải đến hai chục con. Móng sắt đều loại cổ cả, có hình đinh ba, như cái nạng xọc rơm. Ở ta từ lâu không còn đóng những móng sắt như vậy nữa. Những dấu vết ấy lúc mất lúc hiện, cách quãng đến hai ba chục bước, y như thể đàn ngựa bay lên không trung vậy. Sau đó, chúng tôi tìm thấy nùi nhồi đạn súng săn của Pan Rôman, tôi nhận ra ngay dù có trộn lẫn với hàng trăm loại khác Rưgôrơ sực nhớ ra là khi đưa cô bé về hắn có nghe tiếng súng ở phía Bãi thụt. Hai chúng tôi thúc ngựa đi nhanh hơn, vì đã năm tiếng đồng hồ trôi qua, đêm chuyển dần về sáng. Lát sau chúng tôi nghe có tiếng ngựa hí. Chúng tôi tiến ra một bãi trống to rộng. Đến đây Rưgôrơ nhận thấy tốp ngựa đội săn dàn đội hình hàng ngang và phi nước đại. Còn ngựa ông chủ cưỡi vấp liền mấy lần, có lẽ, vì đã quá mệt – Giọng Becman bỗng lạc hẳn đi, rồi im bặt – Thế rồi...ở cuối bãi trống, đúng ở nơi bắt đầu Bãi thụt chúng tôi trông thấy con ngựa nằm lăn ở đó, nó còn sống nhưng gãy chân, tiếng nó kêu như tiếng người rên, thực hãi hùng. Rưgôrơ bảo: ông chủ phải ở đâu đây thôi. Chúng tôi tìm thấy vết chân ông ta, kéo một vệt từ phía Bãi thụt tiến lại. Tôi lần theo dấu chân nhưng chúng dẫn đến chỗ con ngựa nằm thì mất hút. Đến đây, trên mặt đất ẩm ướt, có vệt lún như thể có người ngã xuống đó. Và không thấy gì nữa. Không một dấu vết nào cạnh đó. Đội săn đã rẽ ngoặt đi chừng hai chúc mét cách đó. Hoặc Pan Rôman bay lên trời, hoặc đội săn của vương quốc bay lên không trung đuổi kịp Rôman và bắt đi mất. Hai chúng tôi đứng đợi chừng nửa tiếng, đến khi trời tang tảng sáng Rưgôrơ vỗ trán đến đét mồ cái và bảo tôi đi tước vỏ cây bạch dương. Tôi – một sliăctich, hoàn toàn phục tùng tên nông nô: lúc ấy hắn như một lãnh chúa, có uy quyền ghê gớm đối với tôi. Khi chúng tôi đốt bó đuốc vỏ cây lên, hắn liền cúi sát đất, xem xét các vết chân. Đoạn hắn hỏi, giọng rất kẻ cả:”Thế nào, pan bảo sao?” Tôi lúng túng đáp:”Ta không hiểu cớ sao ông chủ lại đi ngựa từ phía Bãi thụt lại đây, và bằng cách nào ông ta lại ra được tân đây”. Nghe vậy thằng dân đen ấy cười phá lên: “Ông chủ không hề đi ngược từ Bãi thụt lại đây, và hai bàn chân ngài cũng chẳng hề quay lộn ngược ngón ra phía sau,gót ra phía trước như quý pan mường tượng đâu. Ông chủ đi giật lùi giật lùi về phía Bãi thụt, giật lùi trước một cái gì đó gớm ghiếc tiến dần đến ngài. Quý pan có thấy không đến đây ông chủ ngã. Rồi con ngựa gãy chân và ông chủ lộn mình qua nó. Thưa quý pan, ông chủ bị sái chân, đây, quý pan thấy không, vết chân phải to hơn và sâu hơn, vậy là ông chủ bị sái chân trái. Ngài lùi dần về phía sình lầy. Giờ ta đi ddến đó, chắc chắn ở đó ta sẽ thấy được kết cục”. Quả nhiên, chúng tôi đã được thấy kết cục ấy. Rưgôrơ soi ngọn đuốc về phía bờ vực thụt xuống sình lầy và nói: “Quý ngài thấy không chỗ này ông chủ trượt chân”. Tôi ôm lấy ngang lưng Rưgôrơ, hắn cúi nhìn xuống dưới bờ vực, đoạn gọi tôi: ”Pan nhìn kìa”. Bây giờ tôi mới trông thấy đầu Rôman lấp ló dưới lớp bùn lầy nâu xỉn váng đọng và cánh tay co quắp cố níu lấy chùm rễ một cái cây đã thối mục. Vất vả lắm hai chúng tôi mới lôi được ông chủ lên, đúng hơn – lôi cái xác ông chủ lên: dưới những vực thẳm sình lầy thường có những mạch nước ngầm giá lạnh, nên ông chủ đã chết cóng. Hơn nữa, tim đã không chịu đựng nổi, theo nhận xét của ông thày thuốc. Lạy chúa, mặt ông chủ méo xệch đi, bởi một nỗi kinh hoàng ghê gớm, ai đã trải qua không bao giờ sống nổi! Tay ngài có một vết cắn, cổ áo rách tan. Chúng tôi dòng dây cột thử thi vào ngựa và quay về. Nhưng chúng tôi vừa mới đi chưa được hai chục bước thì trông thấy một đoàn bóng ngựa mờ ảo bay qua đường mòn. Thật kỳ lạ: không nghe tiếng vó nện. Lát sau, đâu đó ở phía khác hẳn có tiếng tù và cất lên, nghe ọ ẹ như bị bịt bông. Hai chúng tôi im lặng nặng nề, ngựa đi như không yên vì chúng đánh hơi thấy mùi tử thi. Thực là một đêm kinh hoàng! Đâu đó vẫn văng vẳng tiếng tù và của đội săn. Thời gian sau đó đội săn chỉ thỉnh thoảng mới hiện về. Và bây giờ lại bắt đầu...Giờ báo oán lại đã điểm.
Becman im lặng, gục đầu vào lòng bàn tay-đôi tay với những ngón trắng muốt rất nghệ sỹ, và dài đến gấp đôi ngon tay người thường. Tôi im lặng, rồi bỗng nổi nóng:
- Thật đáng xấu hổ, thưa ngài. Một lũ nam nhi những mấy người đàn ông trai tráng! Thế mà không bênh vực nổi một người con gái! Thì cứ cho đó chính là quỷ sứ hiện hình đi – phải đánh chứ, quỷ tha ma bắt các vị đi ! Và tại sao không phải bao giờ cái đội săn ấy cũng hiện về? Tại sao từ ngày tôi ở đây nó không hiện về?
-Dù nó có hiện về luôn luôn thì cũng không bao giờ về vào những đêm trước các ngày lễ thánh cũng như vào thứ tư và thứ sáu.
-Hử? Những bóng ma kỳ lạ ấy, –Thế vào chủ nhật? Trong lòng tôi dấy lên mỗi lúc một mạnh hơn ý muốn giáng vào cái mặt như sứ, buồn bã và thờ ơ nọ một cái tát, bởi vì những kẻ như vậy không bao giờ có khả năng làm một việc thiện hay việc ác – chúng không phải là người mà là đám cỏ dại có cơ tràn ngập luống rau.
- Thế vào những ngày lễ thánh Philip và tháng Piôt chúng có hiện về không, nếu chúng là những hồn ma chi thánh như vậy?
- Ngày chủ nhật thì chính chúa đã cho phép họ về bởi vì, nếu như ngài chưa quên, quốc vương Xtác bị hạ sát đúng vào “Chúa nhật”. - Becman trả lời hoàn toàn nghiêm chỉnh.
- Nếu vậy thì ông ta là thứ của nợ gì vậy, cái ông Thượng đế của chư vị ấy? – Tôi bỗng quát lên-Chả lẽ ông ta đàn đúm cả với quỷ dữ hay sao? Chả lẽ ông ta sẵn lòng hãm hại linh hồn cả các cô gái vô tội chỉ vì trong huyết quản họ may ra có được một giọt máu của Rôman sao!
Becman im lặng.
- Chỉ có mộtphần bốn nghìn chín trăm lẻ sáu máu Rôman trong huyết quản của tiểu thư Nađêia – Tôi nhẩm tính – Như vậy thì đấng Thượng đế của chư vị được cái tích sự gì?
- Xin ngài chớ báng bổ! –Becman hãi hùng thốt lên – Ngài định bênh vực ai vậy?
- Hơi quá nhiều ma quỷ trong một tòa nhà đấy, – tôi chưa thôi. – Người Lùn này, Thiếu phụ Áo xanh này, rồi lại cả một đội săn của quốc vương Xtác nữa. Nội công, ngoại ứng – cầu trời thiêu ra tro cái tòa lâu đài này!
- À...xin nói thực với ngài, thưa quý pan tôn kính, tôi không tin vào chuyện Người Lùn và Thiếu phụ Áo xanh.
- Mọi người trong nhà đã nhìn thấy. Cả ngài cũng đã thấy mà.
- Tôi chưa nhìn thấy, mới nghe thấy thôi. Nhưng bản chất của âm thanh ta chưa rõ. Hơn nữa tôi là một người có thần kinh quá nhạy cảm.
- Nữ chủ nhân cũng đã nhìn thấy.
Cặp mắt của Becman bỗng khiêm tốn cụp xuống. Anh ta do dự một lát rồi nói:
- Tôi không thể tin lời tiểu thư trong mọi việc được. Tiểu thư...tóm lại, tôi có cảm tưởng là cái đầu đáng thương của tiểu thư đã không chịu đựng nổi bấy nhiêu điều khủng khiếp. Tiểu thư...à...hừm... là một người khí độc đáo về mặt tâm thần nói nhẹ ra là như vậy.
Tôi cũng nghĩ vậy, nên đành lặng thinh.
- Nhưng chính tôi cũng đã nghe thấy tiếng bước chân.
- Chuyện hoang đường. Đó chỉ là một ảo ảnh thính giác, ảo giác, thưa quý pan tôn kính.
Chúng tôi ngồi lặng thinh một lát. Tôi cảm thấy chính bản thân đang bắt đầu loạn trí vì những chuyện quái gở xảy ra ở nơi đây.
Đêm ấy, tôi nằm mơ: đội săn của quốc vương Xtác phi ngựa không một tiếng động. Ngựa hí không thành tiếng, vó nện lặng lẽ xuống mặt đường, dây cương trạm trổ đung đưa. Lau lách lạnh buốt dưới chân những bóng kỵ sỹ xám xịt cúi rạp người phi ngựa, những ánh lửa đầm lầy xanh lè trên trán ngựa. Trên đầu tất cả, trên trời cao lấp lánh độc nhất một ngôi sao, nhọn hoắt như mũi kim.
Mỗi lần tỉnh giấc tôi đều nghe thấy tiếng chân Người Lùn bước đi ngoài hành lang thảng hoặc lại cất lên tiếng rên rỉ của hắn ta nữa. Rồi sau đó tôi lại chìm sâu vào giấc mơ nặng nề, và đội săn lại lao đi như tên bắn trên ngọn lau lách trên sình lầy.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top