Đội đặc nhiệm TK1 (part3/3) haley

Chương XXI

Sau đó mấy hôm thì trời đổ mưa. Thoạt đầu là những cơn mưa chợt đến chợt đi như để thăm dò, rồi tiếp mưa dày hơn, dài hơn, và ngày càng nặng hạt, trút màn nước trắng mịt mùng xuống khắp núi rừng. Mây đen nặng trĩu bay là là suốt ngày, níu bầu trời thấp gần sát ngọn cây. Có những chiều chớp kéo nhì nhằng trong mây và sét đánh ì oang ngoài đồi cỏ. Có những đêm gió gào rú trong rừng rung lá rụng rào rào và bẻ cành cây gãy răng rắc. Ấy là dưới xuôi có bão, vùng gió mạnh lan tận đây. Đến sáng thức dậy, thấy lá cây lật mặt trái nghiêng ngửa làm màu rừng nhợt hẳn đi. Dọc bờ suối lác đác những cây chuối rừng gãy trắng lốp.

Nói chung mùa mưa năm nay cũng giống hai mùa mưa trước, ngoại trừ một lần có cơn lũ cuốn đổ về lúc nửa đêm, nước réo ầm ầm ngoài suối. Sáng ra nước dâng cao, vũng suối biến mất, tảng đá hình con voi chỉ còn một chỏm nhỏ, ngọn thác mảnh mai thường ngày giờ trở thành luồng nước khổng lồ cuồn cuộn. Nước lũ ào lên bãi cỏ ngập tới nửa cầu thang nhà, cuốn rác rều đẩy rạp cả quãng rừng non mé bờ suối.

Tôi không lo lắm vì nhà tôi làm khá cao, bốn cột chôn vững chắc. Hơn nữa ở đây nơi đầu nguồn, lũ không mạnh và sẽ mau rút. Quả nhiên đến chiều thì nước trên bãi cỏ trôi hết, dòng suối tuy vẫn chảy xiết và đục ngầu nhưng đã dịu lại.

Mùa mưa này tôi không phải lo cái ăn. Lần lên vừa rồi cha con ông Thành mang thêm cho tôi chừng hai chục cân gạo mới, gói bột ngọt nửa kí, mười cặp đường bánh, một thùng năm mươi gói mì ăn liền nhãn "Hai con cua" và một bao cá khô, loại cá chuồn con to xẻ ruột phơi được nắng mà mùi của nó luôn gợi nhớ tới tiếng rì rào của những con sóng biển chạy đuổi nhau liếm vào bờ cát. Đúng như cô gái nói, dưới đáy thùng mì có chiếc địa bàn kiểu quân sự và tấm bản đồ y hệt tấm của chúng tôi hồi trước. Và tôi mừng đến ứa nước mắt khi còn tìm thấy trong thùng mì túi thuốc gồm một lọ to đựng những viên thuốc phòng sốt rét, một lọ cồn, mấy cuốn bông băng cùng chục ống thuốc kháng sinh, loại thuốc chứa sẵn trong bơm tiêm thường dùng cho phi công tự cấp cứu khi nhảy dù bị tai nạn, chỉ cần bóc túi nhựa là tiêm ngay.

Hôm đó, tôi mở lọ thuốc phòng sốt uống ngay một liều và cảm thấy trong vị đắng của chất kí ninh có cả vị ngọt ngào khó tả. Nghĩ cũng lạ! Một mình trong rừng sâu hơn hai năm trời, mà lúc này tôi sống đầy đủ hơn bất kỳ người lính Trường Sơn nào. Nhưng rồi chính sự đầy đủ cùng những ngày nhàn rỗi đã tạo nên trong tôi cảm giác áy náy và xấu hổ, như mình đang trốn chui trốn lủi tại góc rừng này để lẩn tránh những gì mà người thân, bạn bè và đồng đội đang phải chịu đựng dưới kia. Lại thêm những trận mưa dầm dề bó chân tôi trong cái chòi nhỏ hết ngày này qua ngày khác. Mỗi ngày tôi cố gắng tập thể lực chừng hai tiếng đồng hồ bằng cách nâng đá và bằng bất cứ động tác thể dục nào nghĩ ra được mà có thể áp dụng trong hoàn cảnh này. Thời gian còn lại tôi ngồi tựa vách ngó mung lung ra góc rừng tối mờ hoặc đan hai tay gối đầu nằm ngửa nhìn lên mái nhựa phập phồng dưới mưa. Rồi nghĩ, rồi lo, rồi nhớ tới bao nhiêu là chuyện, và lúc nào cũng thấy rầu rĩ hơn lúc nào hết.

Những ngày tháng đơn độc tẻ ngắt cùng cảnh vật u tối của rừng sâu mùa mưa là nguyên nhân khiến tôi rơi vào một trạng thái khác lạ. Ban đầu thấy trong người mệt mỏi uể oải, rồi dần dần đầu óc trở nên đờ đẫn và vô cảm. Có lúc tôi nằm hàng giờ liền, mắt trừng trừng nhìn lên mái nhà mà hầu như không thấy một cái gì và cũng chẳng tưởng tới một điều gì. Lại còn tiếng mưa! Tiếng mưa rồi cứ sầm sập hết giờ này qua giờ khác, hết ngày này qua ngày khác. Tiếng mưa đơn điệu át hết mọi âm thanh, trở thành sự tra tấn làm thần kinh căng lên. Đến nỗi có lúc nào đó mưa ngừng rồi, tôi chợt giật mình, người chùng lại và hụt hẫng như vừa rơi xuống từ khoảng không. Cảm giác u uất chán chường ngày càng nặng nề. Hai mùa mưa trước tôi không bị như thế. Có thể lúc đó còn bận bịu lo toan nhiều việc, không có thời gian để buồn chán. Có thể đến lúc này, sự chịu đựng đã quá tải.

Cần phải vận động, phải làm một việc gì đó, nếu không sẽ phát điên lên mất. Nhưng làm gì? Có mấy khẩu súng, ngày nào cũng tháo ra lau đi lau lại mãi rồi.

Một hôm, tôi trùm tấm pôngsô, khoác súng đội mưa đi ra hướng đồi cỏ. Lang thang vô định, tôi bước mải miết liền mấy giờ đồng hồ như một kẻ điền. Mưa xối rào rào, gió tung tấm pôngsô phành phạch. Trượt ngã, loạng choạng đứng dậy đi, rồi lại trượt ngã... Tôi leo hết sườn dốc này đến sườn dốc khác, đến lúc dừng lại trên một mỏm đồi đưa tay vuốt nước mưa trên mặt nhìn ra, thấy bốn bề toàn loàn nước trắng xóa. Phía xa xa rừng cây tối mờ trong mưa, âm u đến rợn người. Mây đen trôi vùn vụt, nặng nề sà xuống đỉnh đồi như muốn đè nghiến lên người tôi. Gió hú từng cơn, quất những làn mưa tơi thành bụi nước bay trắng mờ như mây. Một mình tôi bé nhỏ lẻ loi giữa khoảng không gian mênh mông hoang vắng, lạnh lẽo và đầm đìa nước. Tôi ngồi phịch xuống, rồi ngả người nằm dài trên mỏm đồi, nhắm nghiền hai mắt cho giọt mưa khỏi xói vào. Mưa tầm tã trên người, nước chảy ngập dưới lưng. Tê tái và giá buốt! Sao hôm trước mình không nhảy lên chiếc trực thăng đó? Về dưới vẫn có thể tìm được cách liên lạc với người con già Lý cơ mà? Mình quá tự tin hay ngu dại? Mình cố tỏ ra anh hùng hay đã hèn nhát?... Những ý nghĩ dằn vặt trong đầu càng khiến tôi tuyệt vọng...

Tôi chìm trong trạng thái mê man như vậy không rõ bao lâu, chỉ chợt tỉnh lại khi một lằn chớp sáng lòa kèm theo tiếng sét đánh dội đất ở mỏm đồi bên cạnh. Chống tay ngồi dậy, tôi nhìn ra xung quanh thấy trời mờ mờ tối. Không biết mấy giờ rồi? Nước loang loáng trên mặt đồng hồ nên không xem giờ được. Mà biết giờ để làm gì? Tôi cần gì thời gian... Mãi đến khi nhìn thấy con báo ướt lóp ngóp run rẩy đứng bên cạnh, tôi mới nghĩ đến chuyện quay về. Nhưng không còn xác định được phương hướng nữa rồi! Bốn phía mờ mịt mưa, tầm nhìn ngắn lại trong vài mét...

Chiều tối hôm đó, nhờ bám theo con báo mà tôi về được đến nhà. Người lạnh cứng, tôi lập cập ôm củi đốt lửa sưởi và lại giương mắt nhìn ánh lửa bập bùng nhảy múa, đến khi lửa bén vào tóc cháy khét mới giật mình tỉnh lại...

Sáng ra thức dậy, tôi rùng mình khi nhớ lại chuyện hôm qua. Nếu ở quê, các cụ sẽ bảo là tôi bị "ma đưa". "Ma đưa đường, quỷ dẫn lối" là vậy! Tôi không tin chuyện ma quỷ chỉ nghĩ mình đã qua suy sụp, trạng thái trầm uất lên đến mức cuồng loạn.

Phải làm việc... Phải tạo ra việc để làm... Tôi suy nghĩ, chân như cái máy bước lui bước tới trong căn nhà hẹp. Tiếng mưa vẫn ràn rát trên đầu. Chợt cặp mắt bắt gặp một vật gì giắt trên vách, tôi nhìn nó trân trối, hồi lâu sau mới nhận ra chiếc đục trước đây vẫn dùng đục đá tìm mạch vàng. Đục đá? Ừ, hay là...

Tôi dầm mưa xuống bờ suối vác lên một tảng đá. Mình sẽ tạc một vật gì đó, vừa để tập luyện cơ bắp, vừa bắt đầu óc phải làm việc. Tôi nhìn ra ngoài trời nghĩ ngợi. Báo Aga đang nằm liếm lông trước cửa. Lúc nãy tôi đi vác đá, nó chạy theo nên bị ướt. Phải rồi! Ta sẽ tạc con báo. Trời mưa, nó vẫn thường nằm dài ở nhà. Vậy là có "người mẫu" rồi!

Tôi mài lại cái đục, hăm hở bắt tay vào việc. Hàng ngày, ngoại trừ giờ tập thể dục bắt buộc và việc chuẩn bị bữa ăn, tôi dồn hết tâm trí và sức lực vào khồl đá. Cả ban đêm tôi cũng thắp đèn kì cạch ngồi đục. Còn hơn là nằm nghĩ quẫn.

Hơn một tháng sau thì con báo đá thành hình. Ấy là tôi nghĩ vậy, chứ hình như... không được giống lắm. Ngồi ngắm đi ngắm lại, cuối cùng đành tự thú nhận là chẳng giống chút nào! Nó chỉ là một khối đá nhỏ ngoằn ngoèo với bốn cái chân cứng queo, chẳng có chút gì tư thế hùng dũng và vóc dáng uyển chuyển của con báo đang đứng trước mặt. Tôi để ra mấy ngày cố sửa, nhưng rồi một nhát đục vội vã đã phạt văng cả cái đầu. Cáu tiết, tôi cầm hòn đá dùng làm búa ném một cú thật lực vào hai cẳng sau. Vậy là đi tong "tác phẩm đầu tay". Thế mới biết việc sáng tạo nghệ thuật chẳng đơn giản chút nào.

Hôm đó nhằm lúc trời tạnh, tôi xách súng vào rừng kiếm thịt tươi bổ sung nguồn thức ăn, đồng thời để bồi dưỡng cho "người mẫu" luôn thể. Mùa này con báo ít có cơ hội kiếm mồi nên bị đói. Trông nó gầy sút hẳn đi. Còn lũ khỉ thì thỉnh thoảng tôi cũng nấu thêm cơm cho chúng ăn, hoặc lâu lâu chia cho mỗi con một mẩu đường. Nhưng không dám cho ăn luôn, phần vì của có hạn, phần sợ chúng sinh quen đâm ỉ lại, sau này mất thói tự lập. Hai nhóc khỉ ngày nào giờ đã lớn tướng, từ lâu không còn thấy chúng bám bụng bám lưng mẹ bắt cõng, vậy mà chẳng hiểu sao nhà khỉ chưa có thêm thành viên mới nào.

Xong việc, tôi lại ra bờ suối vác tảng đá khác. Lần này chọn kỹ hơn: một tảng đá thuôn dài đầy đặn, thớ đá mịn và không có kẽ nứt. Tôi mài lại cái đục cho mũi nhỏ và nhọn hơn. Phương pháp "sáng tác" cũng có rút kinh nghiệm: tạo đường sống lưng trước, sau đó đục dần từng mẩu đá, cố hình dung như mình đang moi một con báo ra từ trong đá. Và lần này tôi tạc con báo nằm, chứ không sẽ rất khó tạo bốn cái chân. Được cái "người mẫu" rất chịu khó, hầu như lúc nào cũng nằm dài trước cửa vì trời mưa to.

Ngày qua ngày, sự miệt mài với công việc mới lạ làm tôi bình tâm trở lại. Bây giờ tôi có thể vừa đục đá vừa nghĩ tới mọi chuyện với tâm trạng lạc quan hơn. Mà có gì đáng sợ đâu cơ chứ! Hết mùa mưa này là mình về được rồi! Sức khỏe đã khá lên nhiều nhờ ăn uống đầy đủ. Không phải lao động cực nhọc như mấy năm trước, lại uống thuốc phòng sốt rét đều đặn, nên khỏi lo một trận ốm bất ngờ. Mình lại có bản đồ địa bàn, có đủ lương thực, chặng đường hai trăm cây số đâu có gì ghê gớm mà phải sợ? Và điều động viên lớn nhất là tôi nghĩ rằng anh Hai Nguyên sẽ nhận được thư. Tôi không rõ vì sao đến lúc này vẫn chưa có toán TK nào tới đây, nhưng tin chắc khi biết tin tôi còn sống, dù giá nào anh ấy cũng tổ chức người tiếp cứu. Lúc đó có kẹt lại cũng không đáng ngại lắm. Có điều nếu có người đến, cũng phải sau mùa mưa.

Nghĩ tới bức thư, tôi lại nhớ đến ông Thành với lòng cảm mến và kính trọng thật sự. Ở ông có phong thái của một ông giáo già hiểu biết và nhân hậu. Dù rất thương con, nhưng ông chẳng hề có chút oán hận khi biết chính tôi bắn chết con trai ông. Ông hiểu đâu là lẽ đúng sai ở đời. Còn ông Tùng nữa ông ta là kẻ thù của tôi, của chúng tôi. Nhưng một người còn nhớ tới hàng cau tuổi thơ, nhớ tới một món ăn dân dã như nhớ những kỷ niệm sâu sắc về quê hương, thì sớm muộn gì con người ấy cũng trở lại với cội nguồn của mình. Và nếu như trong ông có sự thay đổi về cách nhìn cách nghĩ, thì quả là một điều kỳ diệu mà chỉ có sức mạnh triều dâng của Cách mạng mới tạo nên được. Tôi chỉ là một giọt nước trong đó.

Rồi cô gái! Cô ấy có nét hồn nhiên đến trong trẻo và sự vô tư rất trẻ con, nhưng lại là người có cảm nhận tinh tế sâu sắc. Không cần hỏi cô cũng biết tôi cần địa bàn, bản đồ và thuốc phòng sốt. Ở rừng lâu ngày nên thiếu gạo thiếu muối, điều đó ai cũng biết. Nhưng phải là người nhạy cảm, và cả đồng cảm nữa, mới hiểu được tôi nhớ mùi vị của biển, nhớ hương thơm cơm gạo mới đến nhường nào. Và phải là người tinh khôn lắm mới nghĩ ra vì sao khẩu đại liên không còn trên chiếc trực thăng...

Chẳng hiểu sao dạo này tôi hay nghĩ hay nhớ đến cô, và mỗi lần như vậy lại thấy bâng khuâng như đang có một sợi tơ vàng mảnh mai óng mượt vương vấn trong đầu. Những lần tiếp xúc với cô đã để lại trong lòng tôi một chút gì ấm áp và dịu ngọt... Mỗi lần ra suối, tôi lại nhớ dáng người con gái nghiêng bên bờ cát, mái tóc dày và nụ cười láu lỉnh, đôi mắt đen tròn long lanh chợt vui chợt buồn, thoắt trầm tư thoắt nhí nhảnh... Đôi lúc tôi tự nhủ: "Mình đang nghĩ gì vậy? Mơ màng như thế để làm gì? Hãy nhớ về cô ấy như nhớ nhột kỷ niệm đẹp, và chỉ thế thôi! Cần phải tỉnh táo..." Nhưng tình cảm vốn tự nhiên mà có, trong trường hợp này nó không muốn phụ thuộc vào lý trì.

Đến cuối tháng chín, tôi hoàn thành t"ác phẩm" của mình. Chỉ đục thô thôi vì không có cách gì làm bóng được. Chẳng biết có đẹp hay không, nhưng theo tôi thì rất giống, dù nó chỉ to bằng bắp chân. Nhìn vào ai cũng có thể nói ngay đó là con báo, chí ít cũng cho là mèo hoặc cọp, chứ không đến nỗi nhìn nhận thành chó. Chỉ cần sửa thêm một chút ở mõm và tai là báo Aga có thể tự hào được rồi.

Đầu tháng mười năm đó, những đợt mưa thưa dần. Đôi lúc trên bầu trời có vài khoảng không xanh ngắt ló ra, và nắng lại óng vàng màu mật như chưa hề có chuỗi ngày u ám vừa qua. Lác đác trong rừng có những tán lá ngả dần sang màu vàng màu đỏ. Dòng suối trong trở lại, con thác chảy êm hơn và vũng suối bắt đầu đọng sắc xanh của trời. Tôi phấn chấn hẳn lên, lại tiếp tục những buổi tập mang nặng leo dốc. Sức khỏe tốt hơn trước nhiều. Lúc này tôi mang được ba lô đá hai chục kí đi một mạch về bên mộ hai anh mà không phải dừng nghỉ dọc đường.

Đợt nắng đó khá dài làm tôi bỗng nghĩ: "Hay mình trở về được rồi?" Nghĩ vậy thôi chứ tôi biết chưa thể. Rừng đang ướt và vẫn còn mưa nhiều, tuy không mưa dày như vừa qua nhưng sẽ lạnh hơn. Đấy! Trời mới xanh được mấy hôm, đã lại thấy bóng mây kéo về. Phải kiên nhẫn thôi! Vài tháng nữa chứ mấy!

Tranh thủ trời nắng, tôi lội rừng suốt ngày để kiếm thêm thức ăn và bù lại những ngày bị giam hãm tù túng trong căn nhà hẹp. Không chỉ riêng tôi mà mọi sinh vật trong rừng đều náo nức hẳn lên. Mặc dù nền rừng đang ẩm ướt và sũng nước, muôn ngàn cây lá vẫn rì rào khoan khoái khi được tắm mình trong nắng. Chim chóc hót rộn khắp nơi. Tiếng côn trùng bay vù vù suốt ngày trên đầu. Những con sóc tíu tít chuyển cành tranh thủ kiếm thêm quả hạt bù vào số thức ăn bị hao hụt trong mấy tháng qua, chúng biết trước mắt vẫn còn những ngày đông lạnh giá. Lúc lúc lại bắt gặp một con thú lớn thấy động chạy ào trong bụi rậm. Những cây nấm đủ màu sắc mọc đầy trên nền đất ẩm và trên những thân gỗ mục. Thỉnh thoảng vẫn có cụm lan trổ bông giữa lưng chừng cây cổ thụ, thoảng hương rất nhẹ mà ngây ngất.

Chiều đó tôi bắn được con mang, kéo về bờ suối xẻ thịt. Giờ sẵn mấy cái xoong, bắn được con thịt tha hồ kho, nấu, hầm xương, để dành ăn trong nhiều ngày. Căn nhà nhỏ sực nức mùi thịt chín thơm phức.

Mấy ngày lội rừng mệt nhoài, nên tối đến vừa ăn xong là tôi lăn ra ngủ một giấc thật say sưa và khỏe khoắn. Vậy mà đến khuya tôi lại có giấc mơ khủng khiếp: động đất! Đã đủ thứ tai họa rồi, giờ lại đến động đất nữa ư? Sao anh Sơn bảo vùng này đợt động đất gần nhất cũng đã cách hàng triệu năm? Dung nham núi lửa ngày nào nay đã thành núi, thành rừng đại ngàn rồi cơ mà?... Nhưng đúng động đất thật rồi! Thoạt đầu là những âm thanh rì rầm mơ hồ, rồi tiếng "râm rầm rầm...", mặt đất rung chuyển, căn nhà nhỏ lay bần bật. Và ánh sáng chói lòa bùng lên. Núi lửa phun?...

Một vật gì thúc vào ngực đau điếng làm tôi giật mình tỉnh dậy. "Cái gì thế này? Phải núi lửa không?..." Luồng ánh sáng cực mạnh làm mắt tôi tự động nhắm nghiền lại. Căn nhà vẫn rung chuyển, cái màn bay tung như bị lốc cuốn.

Chỉ tích tắc sau đó là tôi tỉnh hẳn bởi một bàn tay thô bạo túm ngực áo lôi thốc dậy. Tôi quờ tay chụp hụt khâu súng, có kẻ đã nhanh chân hất nó ra xa. Một kẻ khác luồn tay dưới chiếc ba lô gối đầu thu luôn khẩu ru lô. Lúc này ý thức mới thực sự trở lại: tôi bị địch bắt giữa lúc đang say giấc nồng. Sao lại thế nhỉ? Hay mình vẫn trong cơn ác mộng?... Tim tôi đập thình thịch, mồ hôi vã ra đầy người. Ánh đèn lóe mắt làm tôi không nhìn rõ bọn người vây quanh. Chẳng biết thấy đứa, chỉ thấy cẳng chân nhặng cả lên, những cẳng chân bó trong ống quần vải ngụy trang và mang giày linh cao cổ màu đen.

Một đứa nói giọng khàn khàn ra lệnh:

- Hai đứa xét kỹ người nó rồi đưa xuống dưới. Trung sĩ ở lại soát nhà, có gì đem hết xuống cho đại úy coi.

Đấy là những tiếng nói đầu tiên. Như vậy trên này có bốn tên. Hèn gì căn nhà rung lên như muốn sập.

Bốn bàn tay cứng như thép nắn khắp người tôi, rồi một họng súng thúc vào lưng kèm tiếng nói cụt lủn: "Đi!"

Tôi bướt ra cửa, vẫn chưa hết bàng hoàng. Cố trấn tĩnh, tôi nấn ná trước hiên để tranh thủ quan sát tình hình. Phía dưới có mấy bóng lính cầm súng vây quanh nhà, chỉ thấy lờ mờ chứ không nhìn rõ người. Ngay chân cầu thang, một tên lính cao to như hộ pháp tay cắp tiểu liên, tay túm sợi dây da cố ghìm con bẹc giê to cỡ con bê đang hực hực muốn chồm lên. Đôi mắt con chó lóe sáng xanh như lân tinh khi chói ánh đèn pin. Chúng đem cả chó lên, không biết mấy con...

Một tiếng quát giật giọng: "Đ.má! Nhìn cái gì? Định nhạy hả?", rồi một bàn tay xô mạnh vào giữa hai vai khiến tôi ngay lập tức ngã giập mặt xuống đất. Sàn nhà cao hai mét, cú đẩy bất ngờ làm tôi không kịp phản xạ. Cánh tay trái bị đè dưới người đau nhói, ngực bị ép mạnh tưởng đến vờ phổi. Tôi nghẹn thở phải há miệng hớp hớp, nuốt luôn một ngụm máu. Cũng may lâu nay trời mưa nên đất mềm. Nằm úp mặt trên những lá cỏ ướt lạnh sương đêm, tôi nghe rõ tiếng chân bọn lính giẫm xuống cầu thang răng rắc, tiếng tên lính đang ghìm chó: "Ê, yên nào Mícki", và tiếng con chó hồng hộc ngay trên đầu, hơi thở của nó phả nóng ran.

Có giọng nói the thé vang lên cùng tiếng chân thình thịch chạy tới:

- Tụi bay từ từ chớ! Làm chi nặng tay quá vậy? - Rồi một bàn tay túm vai tôi kéo nhẹ - Có sao không anh Hải? Ráng đứng dậy coi?

Tôi điếng người, còn đau hơn cú ngã vừa rồi. Tên vừa nói xốc nách đỡ tôi đứng lên và dìu tới chỗ chiếc bàn đá: "Anh tới đây ngồi để tôi coi có làm sao không?" Chân không bị đau nhưng tôi vẫn tập tễnh bước nặng nhọc, người dựa hẳn vào kẻ bên cạnh, ngửi thấy cả mùi mồ hôi chua loét bốc lên từ chiếc áo lính màu xanh xám. Qua khóe mắt, thấy hắn đeo ba bông mai trên ve áo. Đại úy! Thằng này chỉ huy tốp lính.

- Anh ngồi xuống đây! - Hắn đỡ tôi ngồi xuống hòn đá rồi thét gọi tụi lính - đứa nào bật đèn lên coi!

Tôi liếc mắt, thấy hai tên lính đứng sau lưng, súng lăm lăm trong tay. Tên thứ ba đứng cách vài mét, con chó ngồi dưới chân hắn.

Nghe thằng đại úy gọi, tên lính giữ chó bật công tắt chiếc đèn pha xách tay. Một luồng ánh sáng trùm lên người làm tôi không còn nhìn thấy gì. Thằng đại úy dùng cả hai tay sờ nắn khắp người tôi, miệng dẻo quẹo:

- Đâu? Đau chỗ nào? Lúc nào thấy đau anh nói nghen!

Không biết ngứa miệng hay sao mà tên lính đứng phía sau buột nói: Đại úy khỏi lo! Tụi em soát kỹ rồi mà!

Tôi bật cười và cảm thấy môi cồm cộm đau rát, hình như nó đã sưng vù lên. Tên đại úy buông tôi ra, nói tỉnh bơ:

- Chắc không bị sao! Anh Hải thông cảm, đêm hôm mà phải lặn lội lên giữa rừng giữa núi thế này, nên tụi nó đổ cáu.

Tôi cố bình tĩnh để đánh giá tình thế, nhưng ánh đèn pha làm chói mắt nên không nhìn được, chỉ nghe những tiếng nói lao xao và tiếng động của bọn đang lục lọi trên nhà.

Tên đại úy nói tiếp:

- Ta nói chuyện vui vẻ chút nghen! Anh...

Tôi cắt ngang lời hắn:

- Nếu bị rọi đèn vào mặt, đại úy có vui vẻ được không?

Hắn phẩy tay ra hiệu. Một tên lính bước tới cầm chiếc đèn pha từ tay tên giữ chó, tháo đèn rồi đặt dựng trên hòn đá. Chiếc đèn pha trở thành bóng điện nhỏ sáng trắng.

Tôi chớp mắt, dần dần nhìn rõ hơn. Điều đập vào mắt tôi đầu tiên là cái trán hơi hói và khuôn mặt bèn bẹt của kẻ đang ngồi trước mặt. Dưới ánh đèn, da mặt hắn bờn bợt như thiếu máu, cái miệng rộng và vành môi mỏng dính thỉnh thoảng lại chóp chép rất buồn cười. Hai hố mắt hắn trũng sâu nhưng cặp mắt lại lồi ra, trông giống hòn bi đặt trong lỗ. Thằng này chừng bốn chục tuổi, nói giọng miền trong. Vẻ mặt ấy cùng với giọng nói the thé ít thấy ở đàn ông làm hắn có bộ dạng của một kẻ nhỏ nhen và thâm hiểm.

- Chắc anh Hải bị đột ngột phải không? - Tên đại úy nhẹ nhàng nói tiếp - đáng ra tụi tôi không nên đến đây giữa đêm hôm khuya khoắt như thế này, nhưng anh thông cảm! Phải vậy mới gặp được anh, chớ lên mà để anh biết trước thì chỉ có ăn đạn. Tôi biết anh là tay súng giỏi mà! He he... - hắn nhếch miệng cười.

Hai tên lính đứng phía sau vẫn im lặng, nhưng tôi cảm thấy một tên cứ ngọ nguy luôn, chốc chốc lại nghe hắn khịt mũi bực dọc. Con bẹcgiê vẫn ngồi, thè cái lưỡi đỏ hỏn thở hồng hộc dù trời đêm đang lạnh. Đằng kia bọn lính vừa đi xuống cầu thang.

"Như vậy chúng có khoảng chục đứa. Ngoài kia còn không? Có lẽ hết rồi. Chúng biết mình chỉ có một, không cần bố trí vòng ngoài. Trang bị tốt: tiểu liên cực nhanh kết hợp cối cá nhân, lựu đạn, dao găm, dao rừng, đèn pin, đèn pha xách tay... Thằng nào cũng đeo khẩu côn xề xệ bên hông. Động tác nhanh nhẹn dứt khoát... Bọn này thạo việc..."

- Anh đừng lo! Bọn tôi lên để đưa anh về dưới, chớ ai lại sống một mình giữa rừng hoang thế này. He... he... - Hắn lại cười như dê - Tất nhiên là có việc, nhưng để sau rồi tính...

Tên đại úy vẫn nói đều đều như tâm sự. Tôi liếc nhanh về phía tốp lính. Chúng đang xúm quanh đống đồ vừa đem trên nhà xuống, soi đèn xem và bàn tán với nhau. Loáng thoáng đôi tiếng lọt qua giọng nói của tên đại úy: "... Bản đồ còn mới... súng ống toàn thứ của mình không nè... ống nhòm Nga Xô... giấy tờ...đ. má thơm quá... thịt rừng nhậu hết sẩy", "Hình như có giọng nói quen quen? - Tôi phân vân - Không, chắc mình tưởng vậy thôi..."

- Anh Hải quê ở đâu ta? Này, anh có nghe tôi nói gì không? - Tên đại úy đã chú ý tới vẻ lơ đãng của tôi.

- Đại úy nói to lên. Lúc nãy ngã nên tai tôi bị ù?

- Anh quê ở đâu? - Hắn nhắc.

- Tôi nghĩ là đại úy biết hết rồi chứ?

- Biết chớ, biết chớ? - Hắn nói nhanh - Tôi biết hết. Chớ không đêm hôm làm sao tìm ra anh giữa rừng sâu? He he... he... - Hắn cười đắc ý - Này, con báo của anh đâu rồi?

- Chắc thấy đèn sáng, nó sợ chạy đâu đó... - Tôi đáp bâng quơ.

"Mà con báo đi đâu nhỉ? Nếu có nó hẳn mình đã được báo động. Đi đâu chứ không phải kiếm mồi. Lúc chiều xẻ thịt con mang ngoài bờ suối, nó mới chén no căng... Tốt nhất nó đừng về lúc này, bọn lính sẽ bắn hạ ngay tức khắc. Tức thật! Để chúng bắt giữa lúc đang ngu, một tình huống mình đã nghĩ tới..."

- Tôi đem con Mícki lên để cho nó đấu với con báo của anh, vậy mà không gặp. Xui quá! - Tên đại úy vẫn nói, tay vuốt ve con chó lúc này đã tới ngồi bên cạnh.

"Liệu chạy thoát được không? Không! Bọn lính sẽ bắn ngay. Bắn bị thương thôi, chúng cốt bắt sống. Mà chỉ cần nhỏm dậy là con chó đớp liền..."

Một tên lính bước tới nói to:

- Báo cáo đại úy, trung sĩ mời đại úy tới coi mấy thứ tìm thấy!

Thằng này xách khẩu M79, những quả đạn vàng chóe đeo thành một vòng kín quanh lưng.

- Cứ để đó! Anh biểu trung sĩ Hưng lên soát kỹ lần nữa, chú ý tìm coi có giấy tờ gì không!

Tên đại úy bảo với thằng lính, rồi không đợi hắn quay đi đã ngoảnh sang tôi:

- Anh Hải lên đây bao lâu rồi?

- Chừng trên dưới hai năm gì đó! Lâu quá nên tôi không nhớ.

- Thế anh có vợ con gì chưa?

- Đêm hôm đại úy dẫn quân lên tận đây, chắc không phải để hỏi thăm hoàn cảnh gia đình của tôi chứ?

Hắn cười xòa:

- Anh nói đúng! Nhưng đâu còn có đó, về dưới ta sẽ nói chuyện dài dài. Hôm nay chỉ là sơ ngộ. Tôi thực lòng mến phục anh, một người lính can trường đởm lược. Mình anh mà bắt sống cả toán dù, lại tha cho về không thèm giết... hê.... hê... - Hắn hể hả, làm như đang thực sự tự hào về tôi - ...Anh là trang nghĩa hiệp.. đầu xanh tuổi trẻ... tiến xa... đời binh nghiệp... đường đời đôi ngả...

Tên đại úy vẫn huyên thuyên như ca cải lương, miệng uốn éo theo giọng nói lúc trầm lúc bổng. Không ngờ vành miệng con người lại có thể uốn lượn khéo đến thế. Thằng này có dáng sĩ quan tâm lý chiến. Có điều lời lẽ hắn nhạt nhẽo, dần dần tôi chỉ còn nghe lõm bõm đôi tiếng.

- Có chi hỏi lẹ còn về, đại úy!

Tên lính đứng sau lưng tôi bực bội lên tiếng. Vẫn cái thằng nói giọng khàn khàn xô tôi ngã lúc nãy. Lính mà dám nói với chỉ huy như thế sao?

- Thượng sĩ đừng nôn, ta đâu có gì phải vội? - Tên dại úy nói lại.

- Tôi không chịu được cái kiểu đại úy ngồi ca nó như thế! Bộ đại úy không biết cái thằng người rừng này đã giết bạn tôi ngay tại đây sao?

"Bạn nào? Giết ai? Ba tên trên chiếc trực tháng... Không phải Thôi đúng rồi..." Tôi ngoảnh lại hỏi hắn.

- Thượng sĩ Tài là bạn của thượng sĩ à?

- Câm miệng, thằng mọi!

Tôi nóng gáy, nhưng vẫn cười cười:

- Rút thốt lựu đạn mà để rơi dưới chân lại không biết tránh, làm lính như thế chết cũng phải, thượng sĩ còn tiếc nỗi gì?

- Đ má... - Hắn gầm lên, trở báng súng tiểu liên thúc vào sườn tôi một cú cực mạnh.

Ruột gan đảo lộn, tôi đau cuộn người, một tay chới với cố bíu lấy phiến đá để khỏi đổ nhào xuống đất. Cơn đau thốc lên ngực rồi lên đầu, bùng ra trước mắt cuộn lửa đỏ rực.

"Thượng sĩ đừng nóng..." Tôi mơ hồ nhận thấy tên đại uý bật dậy đẩy thằng thượng sĩ ra xa, rồi tiếng chúng cãi nhau. Tên đại úy nói gì nghe không rõ, còn thằng kia vẫn oang oang: "... Đại úy không phải là xếp của tụi này đâu nghẹn... Đâu phải vì mấy trăm đô mà tui lên đây... xé xác thằng mọi... dám giỡn mặt... bẻ từng khúc xương..."

Lại thêm mấy tên lính chạy tới. Tôi gượng ngồi thẳng người lên. Trước mắt vẫn thấy quầng lửa loang loáng như có bầy đom đóm đang bay. Bụng đau thắt. Không khéo gãy xương sườn...

Tên đại úy quay lại, vẫn cái giọng "tình cảm" như không có chuyện gì xây ra:

- Đau lắm phải không? Cũng tại anh nữa, chọc tức tụi nó làm chi?

"Lần này thì hắn nói đúng, mình không nên khiêu khích. Đau thế này làm sao chạy được..."

Một tên lính bước tới:

- Báo cáo, đã kiểm tra kỹ trên nhà và xung quanh. Mời đại úy đến xem!

- Giọng nói quen quá! Tên vừa nói đứng trong bóng tối, tôi không nhìn rõ mặt.

- Được rồi, tôi tới liền! - Hắn đưa mắt ra hiệu cho tốp lính vây quanh tôi rồi bước đi.

"Rõ ràng bọn này đâu phải gặp tình cờ, chúng lên đây là để bắt sống mình. Việc này phải liên quan tới một ý đồ quan trọng nào đó, chứ chả lẽ mất công tổ chức một cuộc tập kích như vậy chỉ để bắt một người lính Giải phóng lạc rừng? Dĩ nhiên chúng đổ bộ bằng trực thăng, nhưng làm sao tìm được đến đây? Ai lái? - Tôi bỗng rùng mình - Cô ấy? Chỉ có cô mới thông thạo đường bay này... Không, mình không tin! Máy bay có thiết bị bay đêm, có máy xác định tọa độ vẫn có thể tới đây được... Nhưng biết đâu lại chính cô ta? Hoặc cô không muốn nhưng bị khống chế! Có thể lắm! Chúng bắt ông Thành để đe dọa chẳng hạn... Thôi lát ra máy bay sẽ biết. Nhưng phải có kẻ dẫn dường chúng mới tìm ra cái chòi nhỏ giữa rừng trong đêm tối thế này... Có kẻ thạo đường! Ai?" Trong đầu tôi lướt nhanh những người đã từng lên đây. "Đúng rồi Thằng trung sĩ an ninh! Hèn gì giọng nói rất quen? Giọng Bắc, không nhầm được. Đáng ra sau vụ đó mình phải ai chuyển chỗ ở..."

Tên đại úy quay lại, hỏi với vẻ thân tình:

- Anh Hải sống đầy đủ quá nhỉ?

- Vâng! Đại úy có muốn sống như vậy không?

Hắn cười gượng gạo:

- Anh hóm lắm! Này, nếu tôi không lên đây, anh cứ sống như vậy mãi sao?

- Tôi không mời đại úy lên, cũng đâu dám phiền ông đưa về?

- Tất nhiên chúng tôi có mục đích của mình. Anh tưởng tôi tin chuyện anh lạc rừng sao?

"Bắt đầu rồi đấy...", tôi nghĩ, và hỏi lại:

- Thế đại úy tưởng tới điều gì?

Hắn cười, giọng nói vẫn nhẹ nhàng nhưng nét mặt lộ vẻ bực dọc:

- Anh rất khôn khi đặt câu hỏi để tránh trả lởi. Nhưng chính điều đó càng làm anh lộ mình rõ hơn. Một tay súng điệu nghệ, nói năng cư xử sắc sảo, tinh khôn đến mức chỉ nhìn qua cũng biết người của tôi cài lên đây... Con người đầy bản lãnh như vậy mà chịu sống mấy năm trong rừng vì bị lạc ư?

- Vậy đại úy nghĩ tôi đang làm cái trò gì ở đây?

- Lại hỏi ngược! Coi bộ anh cũng khó thành thực đấy nhỉ? - Hắn mỉa, cặp mắt lồi đảo trắng dã.

- Đại úy cũng đâu có thành thực với tôi?

- Anh nói cái chi? - Hắn trợn mắt hỏi lại.

- Ở đây tôi có người quen, vậy mà đại úy cố tình giấu không cho gặp!

- À, phải rồi! Anh muốn gặp phải không? Có gì đâu mà phải giấu! - Hắn xoa hai tay vào nhau vẻ thú vị, hào hứng gọi to - Hưng, trung sĩ Hưng đâu? Tới đây!

Tên trung sĩ chạy lại. Đúng thằng này rồi! Tôi nhìn thẳng vào mắt hắn, cười cười:

- Trung sĩ tệ quá! Gặp lại nhau mà không chào hỏi lấy một tiếng!

Tên lính cúi gằm mặt cái đầu ngọ nguy như muốn xoay hẳn ra đằng sau. Tôi bỗng nhận ra chỉ có hai tên này mặc quân phục màu xanh xám, bọn còn lại đều mặc đồ ngụy trang.

Vẫn nhìn tên lính, tôi nói tiếp:

- Cũng may là hôm trước tôi ngăn không để anh thề thốt. Nếu không bây giờ anh là kẻ phản bội rồi, đúng không?

Tên đại úy ngoảnh mặt lại, xẵng giọng hỏi tên lính:

- Trung sĩ định thề gì vậy?

Tôi cười:

- Có gì đâu đại úy! Chuyện riêng thôi mà! Nhân tiện gặp người quen, đại úy cho phép tôi nhờ trung sĩ Hưng một việc.

- Việc gì? - Hắn cảnh giác hỏi lại.

- Lúc chiều mới bắn con mang, có kho mấy xoong thịt. Phiền trung sĩ mời anh em nếm thử cho biết mùi thịt rừng. Mấy khi lên tới đây... Bọn lính xung quanh trố mắt ngạc nhiên. Tên đại úy ngẩn người nhìn tôi chằm chằm như cố đoán xem có cái bẫy nào trong chuyện này.

Tôi nói ngay:

- Đại úy đừng lo! Tôi mời thực lòng chứ không có ý gì đâu. Thịt mang ngon lắm! Lát nữa tôi theo đại úy về rồi, để nó phí đi! Các vị lên bất ngờ như vậy, tôi đâu biết trước mà bỏ sẵn thuốc độc? Đại úy cứ cho người canh, tôi không dại bỏ chạy để ăn đạn đâu!

Mặt tên đại úy dịu lại. Hắn ngần ngừ một lát rồi khoát tay ra vẻ rộng rãi:

- Anh Hải đã có lòng mời, anh em cứ thiệt tình!

Bọn lính ồ lên vui vẻ. Hai tên xăng xái chạy lên nhà tìm bát đũa. Dưới ánh đèn pha, cả bọn nhốn nháo vây quanh mấy soong thịt. Sáu tên tất cả.

Tên đại úy vẫn ngồi trước mặt. Hai thằng đứng sau vẫn chĩa súng vào tôi không chút chểnh mảng, mặc dù nghe chúng nuốt nước bọt ừng ực.

"Như vậy chúng có chín tên. Mà hơn kém vài đứa cũng thế thôi. Mình phải tính kỹ, lầm lẫn một chút là trả giá bằng mạng sống..."

Tôi liếc nhanh đám lính đang ăn uống nhồm nhoàm. Thằng thượng sĩ lại là đứa hăng hái nhất. Hắn ăn nhanh như lợn táp, nhoáng cái đã lại thấy vục bát vào soong xúc thịt.

Tên đại úy nháy mắt ra hiệu cho hai thằng đứng canh rồi tới bên bọn đang ăn, hồ hởi nói:

- Tôi quên không mang mấy chai lên nhậu chơi! Anh em thấy chưa? Chuyến đi nhẹ nhàng quá, phải không nào?

"Không thể bỏ chạy lúc này được. Trực thăng đỗ ở đâu? Chắc ngoài đồi. Chung không dại đáp xuống tràng cát, sợ mình nghe tiếng động cơ. Chúng sẽ dẫn bộ mình lên đó? Qua dải rừng non chạy được không?..." Chợt có tiếng rào rào trên cây đa. Một tên vứt bát chụp súng bắn xả lên đó một loạt dài. Chết rồi, lũ khỉ? Không biết có con nào bị không? Tôi gọi to:

- Mấy con khỉ đó? Các anh yên tâm đi, không có việc gì đâu!

Hai tên đứng sau tôi thở phào. Tên đại úy quay lại vừa cười vừa nói: "Tụi nó tưởng con báo của anh..." Hai tên lính mang tới cho con chó mấy khúc xương rồi cầm súng đứng canh thay cho bọn kia đi ăn.

Đợi bọn lính ăn xong, tên đại úy ra lệnh chuẩn bị về. Mấy tên lính xếp đồ đạc của tôi vào ba lô. Nghe tiếng tên đại úy gắt gỏng: "Đ.má! Ba cái thứ này đem lên hôm bốc mộ, nhét vào làm gì? Ê, đứa nào gọi ra trực thăng báo đã đón được khách, đang chuẩn bị quay ra..."

Khi bọn lính đã sẵn sàng, tên đại úy bước tới nói với tôi:

- Nào, ta đi anh Hảil Thế là anh đã thoát khỏi rừng rậm rồi nghen! Chẳng có người lính nào bên phía các anh được hên vầy đâu!

Tôi nặng nhọc đứng dậy, bật rên một tiếng, tay ôm sườn nhăn nhó.

- Sao vậy? Đau lắm hả? Liệu có đi được không - Hắn sốt ruột hỏi dồn dập.

- Đi... đi... được... - Tôi loạng choạng bước lên mấy bước, chìa hai tay hỏi - đại úy không trói sao?

- Không cần! Hắn uốn cặp môi mỏng - Tôi là người quân tử, không làm ba cái việc nhỏ nhen đó. Và tôi tin lòng cao thượng của mình sẽ...

- Đại úy tin ở con chó thì có! - Tôi độp luôn - Ông thừa biết tôi không thể chạy thoát khỏi nó mà.

Hắn cau mặt định nói gì đó thì một tên lính chạy tới hỏi:

- Thưa, có cần đốt cái chòi không ạ?

- Không cần! Ta sẽ còn quay lại.

- Hắn trả lời rồi khoát tay ra lệnh - đi!

Bọn lính tự động sắp xếp đội hình một cách thành thạo. Một thằng cắp khẩu M.4 xách đèn pha đi trước. Tôi đi sau hắn. Theo sát là con chó, hơi thở của nó hừng hực sau bắp chân tôi. Kế đó là tên lính dắt chó. Bọn còn lại lục tục kéo theo.

Lúc bước ra bãi cỏ, nhìn thấy bóng mình mờ mờ trên mặt đất đầy sương, tôi mới nhận ra đêm nay có trăng. Vầng trăng đang trôi vùn vụt qua những dải mây mỏng, tỏa ánh sáng xanh lạnh lẽo xuống khắp rừng. Thế là hết! Vĩnh biệt cánh rừng, con suối! Vĩnh biệt những con thú biết sống tình nghĩa! Không ngờ mình lại chia tay với chúng một cách đột ngột như vậy. Lòng tôi nhói lên khi nghĩ rằng chẳng bao giờ mình còn gặp lại những con vật đáng yêu ấy. Đến sáng khi mặt trời lên, chúng sẽ nháo nhác chạy quanh tìm tôi, và mãi mãi chúng không thể biết được chuyện gì đã xây ra trong cái đêm kinh hoàng này. Nhưng thôi, lúc này không có thời gian để xao xuyến...

Tôi bước một cách vất vả, đầu căng ra cố tìm cơ hội. "Có cách nào thoát được không? Bọn này bắn nhanh như máy... Con chó theo sát quá! Tình thế này, họa chăng có phép màu mới chạy nổi..."

Đã bắt đầu đi vào dải rừng non. Có lối mòn, nhưng trong mấy tháng mưa cây cối mọc um tùm, cành lá vươn dài quệt vào người loạt soạt. ánh đèn quét loang loáng qua bụi rậm. Bọn đi sau xôn xao trò chuyện vưl vẻ, nghe rõ cả tiếng cười he he của tên đại úy. Chúng đang phấn khởi. Cũng phải thôi! Cuộc tập kích tưởng đầy căng thẳng chết chóc, không ngờ trót lọt một cách nhẹ nhàng. Lại còn được chén căng bụng món thịt rừng, tuy hơi bị thiếu gia vị nhưng vẫn ngon tuyệt...

Qua được nửa quãng rừng. Tôi vẫn lê từng bước. Thằng đi sau chốc chốc lại mắng con chó để ghìm nó lại. Bọn chúng chẳng có gì phải vội.

Gần hết rừng. Khoảng trời đằng trước sáng mờ sau ngọn cây. Chỉ còn chục mét, vòng qua lùm cây này là bước ra tráng cát. Không có cơ hội nữa rồi? "Bị địch bắt chưa phải là tình huống xấu nhất! Không biết mình đã nghe ai nói vậy nhỉ?..."

Một tiếng "soạt" nhẹ trên nhánh cây bên đường. Tôi nghiêng mặt liếc ngang, vừa kịp thấy bóng thú vàng đen lốm đốm lao vút qua ánh đèn nhảy đè lên con chó. "Con báo!" Ý nghĩ mừng rỡ lóe trong đầu như tia sáng.

Mọi việc sau đó diễn ra nhanh như chớp. Nghe động, tên lính đi trước quay ngoắt lại thọc nòng tiểu liên vào ngực tôi miệng la hoảng: "Ê, đứng yên mậy..." Tôi xoay người cho nòng súng trượt ngang trước ngực, thuận tay chụp khẩu súng giật mạnh theo hướng chĩa của nó, đồng thời trụ chân trái nghiêng người tống một cú đạp cực mạnh vào bụng dưới của tên lính. Hắn bật ngửa người xuống đất. Nhưng trước khi buông rời khẩu súng, ngón tay đặt sẵn trên cò súng của hắn đã kịp làm nổ một loạt đạn găm thẳng vào ngực tên dắt chó. Thằng này bị bất ngờ, đang chĩa súng xuống cái đống hai con thú quấn lấy nhau lăn tròn nhưng lúng túng chưa dám bắn, thì hứng trọn loạt đạn cướp cò.

Giật được khẩu tiểu liên, tôi quay nòng nã luôn hai phát vào mặt tên lính lúc này đang nằm ngửa dưới đất, tay luống cuống móc khẩu côn đeo ở thắt lưng. Trên mặt hắn hiện lên vẻ khiếp đảm trong một thoáng, trước lúc bị hai phát đạn bắn gần làm vỡ toác ra. Một bựng máu phụt lên trùm kín cây đèn pha rơi bên cạnh làm tất cả tồi sầm lại.

Chửng ấy việc diễn ra gần như cùng một lúc, nhanh đến nỗi khi tôi xoay người lại, tên lính dắt chó tay đã buông rơi khẩu súng nhưng còn loạng choạng chưa kịp ngã. Hai con thú vẫn xoắn tròn một cục đè lên bụi cây răng rắc, tiếng con chó bị cắn cổ rít ằng ặc. Bọn đi sau xô lên khỏi khúc quanh. Lối mòn chật hẹp, lại vướng cái thân hình hộ pháp của tên lính trông như còn sống nên bọn chúng chưa kịp nhận thấy điều gì xẩy ra, và cũng không dám bắn. Lợi dụng lúc đó, tôi chùng thấp người nấp sau cái xác xiêu vẹo, hai tay nâng súng lên quá đầu chúc nòng nhằm bọn lính đang nhốn nháo bắn quét một loạt dài. Chúng lăn ào ào tránh dạn. Tôi vọt luôn vào bụi rậm, miệng thét lớn: "Chạy đi Aga".

Mới được mấy bước đã nghe súng nổ rào rào như mưa. Tôi chúi đầu sát đất, lao như bơi trong đám cành lá rậm rạp. Đạn quét ràn rát cắt lá rụng lả tả trên người. Khẩu súng trên tay vướng vào cành cây, tôi thả rơi nó tiếp tục chạy thục mạng, không còn nhớ tới những chỗ đau trên người, cũng chẳng hiểu vì sao mình không bị kẹt đầu vào một lùm cây nào đó.

Chạy được chừng bốn chục mét thì hết quãng rừng non. Tôi nằm lại dưới chân một sườn dốc thoai thoải, há hốc mồm để thở. Đoạn dốc này chỉ dài hơn chục mét, leo hết nó là có thể lăn xuống cái khe cạn dẫn lên ụ đại liên. Nhưng lúc này đạn đang găm chiu chịu trên đó, vài viên chạm sỏi tóe lửa bay vọt lên trời. Không được! Nhào lên là chết. Tôi quay ngoắt người lao ra khỏi rừng, chạy chéo góc tráng cát lên đoạn dốc phía ụ súng. Mấy phút sau tôi đã lăn nhào xuống lòng khe lổn nhổn đá. "Giờ hết lo đạn bắn thẳng..."

Như biết tôi vừa nghĩ gì, một khẩu M79 bắt đầu bắn "chóc... đùng" điểm nhịp cho tiếng tiểu liên rền như tiếng máy. Những quả đạn nổ nhằm hướng rừng, ánh lửa chớp nhoang nhoáng sau ngọn cây. "Chúng chỉ bắn hả giận, bắn hú họa thôi chứ không dám đuổi theo trong rừng rậm. Đêm tối thế này không lần vết được, con chó chắc chắn đã bị loại khỏi vòng chiến. Không biết Aga có thoát được không?..."

Lúc này lại thấy bên sườn quặn lên, đau đến nghẹn thở. "Chết rồi! Không khéo xương sườn gãy, mình vận động mạnh quá nó cứa đứt mạch máu..." Tôi ôm sườn cố nén đau lần theo khe cạn đi nhanh về phía ụ súng. Trên đó ngoài khẩu đại liên, tôi có để sẵn năm quả lựu đạn và cây dao găm. Đối với bọn này, phải có súng đạn trong tay mới nói chuyện được.

Phía sau, tiếng tiểu liên đã ngừng, chỉ còn khẩu M79 vẫn bắn đều đều, chớp đạn nổ ngày càng xa trong rừng. Chúng nghĩ tôi chạy về hướng đó.

Tới ụ đại liên, tôi trườn vào bên trong mò mẫm tìm cây gỗ chống giàn dây leo ngụy trang lên. Đã thấy sáng hơn. Cởi tấm lon bọc ngoài, tôi chỉnh lại giá súng và quờ tay tìm thùng đạn đầy, mở nắp kéo dây đạn lắp vào súng. Tốt rồi! Khẩu súng này tôi chỉ mới một lần bắn thử năm viên vào hòn đá bên kia suối, nhưng lâu nay vẫn lau chùi cẩn thận nên tin chắc nó còn tốt. Khi rê súng dọc theo tràng cát, thấy mấy sợi dây leo lòng thòng vướng tầm nhìn, tôi phải leo lên dùng dao cắt nó đi.

Bọn lính vẫn chưa ra khỏi dải rừng non. Thấp thoáng ánh đèn lóe sau rặng cây, lúc lúc lại có cây đèn quét một vệt sáng lên trời. Chúng đang loay hoay với mấy thằng chết. Ít nhất cũng hai đứa. "Liệu con báo có sao không? Mong cho nó thoát được..." Mới nghĩ vậy thì nghe tiếng thở phì phì, rồi bóng nó hiện lên trên bờ ụ súng. Quên cả đau, tôi nhoài người ôm lấy đầu nó kéo tuột xuống và sờ nắn khắp mình. Không thấy chảy máu. "Giỏi quá Aga! Mày chính là phép màu kỳ diệu mà tao không dám mơ..."

Sực nhớ ra, tôi buông con báo leo lên bờ ụ súng nhìn về hướng đồi cỏ. Trực thăng nhất định đỗ ngoài đó. Căn cứ số lính, tôi đoán chỉ có một chiếc và hy vọng nhìn thấy bóng nó nổi trên nền trời, nhưng không được. Sương xuống dày làm vầng trăng nhợt nhạt, chỉ tỏa ra ánh sáng nhờ nhờ.

Bây giờ có hai tình huống. Nếu bọn địch kéo bộ lên chỗ trực thăng đỗ, tôi phải bắn quét chúng dọc theo tràng cát, và phải diệt gọn. Để tên nào chạy qua khỏi khoảng trống, coi như sổng. Tôi giương súng ngắm thử. Trời tối không nhìn rõ đường ngắm, nhưng không sao! Hai thùng rưỡi đạn, chả lẽ không diệt được bảy tên? Mà nếu còn sót thằng nào, nó cũng buốt xương sống tới già. Còn trường hợp chúng gọi trực thăng đáp xuống tràng cát để đón, công việc sẽ gọn ghẽ hơn nhiều...

Chúng ra kia rồi! ánh đèn quét loang loáng nơi bìa rừng. Không nhìn rõ người, chỉ thấy bóng chúng kéo đi trong sương, âm thầm như những bóng ma.

Đột ngột, tiếng động cơ rộ lên ngoài đồi cỏ. Tôi quay ngoắt lại nhìn. Chiếc trực thăng từ từ bay lên, hằn bóng đen trên nền mây sáng ánh trăng bàng bạc. Tôi lạnh người khi nhìn thấy nó vừa bay từ đỉnh ngọn đồi mà cô gái đã đỗ máy bay hôm đầu tiên chở tốp lính lên đây. "Có phải cô ấy?... Tim tôi đau nhói. Chẳng lẽ sự đời lại trớ trêu đến vậy sao? Trước mắt tôi như hiện lên đôi mắt đen tròn ươn ướt và giọng nói dễ thương buồn buồn: "...Còn gặp nhau nữa không anh?...Thôi em về đây! Đứng lại chút nữa chắc em khóc òa lên liền à..." Chẳng lẽ chúng tôi gặp nhau trong tình thế này sao? Và chính tay tôi bắn chết cả hai người con của ông Thành, hai người cháu của anh Hai Nguyên?

Nhưng không thể chần chừ được nữa rồi! Cái bóng đen đơn độc của chiếc trực thăng biệt kích vẫn lùi lùi bay tới. Dưới kia, bọn lính đang nháy đèn làm hiệu, từng luồng sáng chớp tắt xuyên qua màn sương đặc quánh.

Chiếc trực thăng đổi hướng. Tới đầu tràng cát, từ bụng nó, một khối sáng chói lòa hình chóp nón chợt bùng ra úp chụp xuống mặt đất. Nó bật đèn pha để tìm chỗ hạ. Tôi nhẹ người như vừa trút được gánh nặng. Không phải Thủy! Cô ấy biết tôi có khẩu đại liên chờ sẵn nên- không đời nào lại bay một đường bay dại dột như vậy, không đời nào cô dám bật đèn pha ngay trước mũi súng của tôi. Chắc chắn là vậy rồi! Tôi khấp khởi rê nòng súng bám theo nó. Giờ không sợ run tay khi bắn.

Chiếc trực thăng hạ xuống chính giữa tràng cát, đèn pha ở bụng vụt tắt. Khoảng không tối sầm lại. Tôi nhắm mắt trong vài giây rồi mở ra nhìn. Cái bóng của nó hiện ra nhờ nhờ trong màn sương. Không phải loại HU, chiếc này có vẻ kềnh càng hơn.

Tiếng động cơ nổ nhỏ lại. Bọn lính đang lục tục kéo đến. Cũng chỉ thấy những bóng đen lòa nhòa trong sương chứ không đếm được mấy tên. Tôi giương súng ngắm. Cầu trời khấn phật cho khẩu súng đừng hỏng. Lúc này mà súng hóc đạn xịt thì coi như số trời định vậy! Tiếng tim đập thình thịch trong lồng ngực. Chưa lúc nào tôi thấy mình hồi hộp như lúc này. "Bình tĩnh, đừng bắn vội! Chờ lát nữa..."

Bọn lính đã lên hết, không còn thấy ánh đèn lấp lóe bên ngoài. Tràng cát tối om. Mặt trăng cũng chui vào một đám mây đen như sợ phải chứng kiến cảnh tượng sắp diễn ra...

Tiếng động cơ lại dội lên. Và như sợ tôi ìạc mất mục tiêu, một chiếc đèn hiệu màu đỏ bật sáng nhấp nháy phía dưới đầu máy bay. "Chúng mày ngu quá! Tưởng tao chết rồi phải không?" Ít ra thì chúng cũng nghĩ tôi đã chạy bạt mạng vào sâu trong rừng.

Chiếc trực thăng bắt đầu dâng cao như đang nổi lên trong biển sương. Tôi nheo mắt nhích dần nòng súng theo. Năm mét... mười mét. "Khoan, đừng nóng..." Mười lăm mét. Tôi nín thở, ngón trỏ co lại trên cò súng. Hai mươi mét. "Bắn!" Tôi siết cò. Một vòi lửa phụt ra đầu nòng súng và ngay lập tức biến thành đàn ong lửa chụp lên chiếc trực thăng. Nó rùng mình cố bay vọt lên. Tôi căng người ghìm súng, ngón tay vẫn níu cò cứng ngắc, mắt dán vào đường ngắm chỉnh cho luồng đạn không rời khỏi mục tiêu. Đã thấy rõ những chớp lửa nháng liên tiếp trên vỏ máy bay. Chiếc trực thăng lảo đảo cố lết ra khỏi vùng đạn lửa. Nó lết đến đâu dòng đạn xoáy đến đó. Sau ánh chớp đầu nòng, tôi nhìn thấy từ bụng nó một vệt lừa trườn ra, liếm nhanh về phía đuôi Rồi một tiếng "ùm" vang lên trầm đục: bình xăng nổ. Một đám lửa màu cam cuồn cuộn trùm kín cả chiếc máy bay. Khẩu súng trong tay thôi rung, tiếng búa súng gõ khô khốc, dây đạn đã hết. Tôi buông súng, mắt trừng theo đám cháy giữa trời. Vài giây sau, từ trong quầng lửa lơ lửng, khúc đuôi máy bay từ từ đứt rời ra và rụng xuống. Phần còn lại của nó vẫn bốc cháy rừng rực. Đột nhiên từ đám cháy đó, một quả cầu lửa khổng lồ bùng lên đỏ rực và chói lòa, kèm theo tiếng nổ dữ dội rung chuyển cả trời đất. Trong khoảnh khắc, quả cầu lừa nổ tung thành hàng trăm mảnh lửa to nhỏ tóe ra như pháo hoa. Rừng núi gần xa sáng rạng lên, sóng xung kích lướt ào ào trên cỏ lau mang theo hơi nóng phả tới tận chỗ tôi đứng. Vô số mảnh vỡ rơi rào rào, vung vãi khắp một vùng rộng.

Vụ nổ thật khủng khiếp. Mãi mấy phút sau tôi vẫn còn đứng sững người nhìn lửa cháy rải rác trên tràng cát. Từ đống xác máy bay, thỉnh thoảng lại có cụm lửa nhỏ tóe lên kèm theo tiếng nổ lốp đốp, ùng oang của đạn và lựu đạn...

Rồi tất cả yên lặng trở lại. Trên xác chiếc trực thăng, vài ngọn lửa cháy leo lét sáng xanh như ma trơi. Sương mù dày đặc vừa bị xua khỏi vùng chấn động của vụ nổ, giờ đây ùn ùn tràn tới như muốn vùi lấp cảnh chết chóc bằng màn bụi nước trắng đục màu sữa.

Mệt rũ người, tôi gục đầu xuống khẩu đại liên còn nóng. Trong ụ súng nồng nặc mùi thuốc đạn. Lát sau gió lùa tới mang thêm cả mùi xăng và mùi xác người cháy khét. Tôi ọe liền mấy cái rồi gập người nôn thốc nôn tháo. Chỗ bị đánh bên sườn lại đau quặn lên. Ngồi tựa vào vách hầm, tôi cố chịu đau lấy tay ấn vào mạng sườn để kiểm tra. Hình như bị gãy hai chiếc, mong sao đừng chảy máu bên trong.

Mấy giờ rồi nhỉ? Chiếc đồng hồ vẫn còn trên cổ tay nhưng tối quá không nhìn được. Trăng đã lặn. Sương càng đổ dày càng thấy lạnh. Lúc này tôi mới nhận ra bộ quần áo trên người rách tả tơi, chỉ còn lại những dải vải lòng thòng. Đám bụi nước giá buốt tràn vào ụ súng làm mùi khét dịu đi. Tôi run lập cập ngồi ôm con báo cho có chút hơi ấm, chốc chốc lại ngóng ra ngoài xem trời đã rạng chưa...

Chương XXII

Trong khi tôi tưởng thời gian ngừng trôi thì thực ra trái đất vẫn quay. Góc trời phía đông nam đang chuyển từ màu xám đen sang màu trắng rồi xanh dần. Những tia nắng đầu ngày nhuộm màu hồng rực rỡ lên các dải mây mỏng như muốn báo rằng hôm nay trời đẹp.

Dù rất sốt ruột, tôi vẫn đợi đến khi nắng nhuộm vàng ngọn cây mới rời khỏi ụ súng.

Lần theo đường chạy tối qua, ít phút sau tôi tìm được khẩu tiểu liên bị kẹt trong bụi rậm, băng đạn còn hơn nửa. Hay lắm! Vẫn còn khẩu AR15 giấu trong hốc cây đa, nhưng ngay lúc này cần có vũ khí cầm tay. Tôi linh cảm bọn địch không bỏ cuộc một cách đơn giản như thế. Có thể chúng còn cài lại một toán để phục. Lúc đêm không đếm được có bao nhiêu đứa bước lên chiếc quan tài bay.

Trên lối mòn ướt đẫm sương đêm, bầy kiến cần cù đang xúm đen xúm đỏ quanh mấy vũng máu tím bầm, bu đặc cả trên những chiếc lá cây vấy máu. Vỏ đạn vàng chóe vương vãi khắp nơi.

Vòng qua một lùm cây, tôi mừng rơn khi nhìn thấy chiếc ba lô của mình ngay bên lối mòn. Cả con báo đá cũng nằm đó. Bọn này ghê thật, định ăn cắp cả "tác phẩm nghệ thuật"! Tuy vậy, tôi không vội nhặt ba lô mà tách khỏi lối mòn luồn qua bụi rậm đi về hướng nhà. Xung quanh vẫn nghe chim hót, con báo đi sát bên vẫn bình thản, nhưng sao cảm giác bất an cứ nặng trĩu trong đầu?

Tới sát bãi cỏ, tôi nhẹ nhàng chuồi người nằm dán xuống đất, vạch lá nhìn ra. Điều trông thấy trước mắt làm tôi nhẹ người: lũ khỉ đang ngơ ngác chạy tới chạy lui dưới chân cầu thang. Vậy là không có địch phục lại, và nhà khỉ vẫn yên lành. Quay lại chỗ chiếc ba lô, tôi ngồi xuống cách nó chừng hai mét, nhíu mày suy nghĩ. Không có địch, sao mình vẫn có linh cảm nặng nề đến thế! Tụi lính này đâu phải loại xoàng? Chúng lành nghề và xảo quyệt, chẳng lẽ chịu bó tay dễ dàng vậy sao?

Sương tan dần. Những tia nắng le lói qua ngọn cây làm lối mòn sáng rõ hơn. Tôi chăm chú quan sát và bật kêu mừng rỡ: "Đây rồi..." Một sợi dây nhỏ từ chiếc ba lô luồn xuống lớp lá rụng cạnh gốc cây. Không phải dây rừng. Sợi dây này căng và trơn đều: lựu đạn gài. Chuyện vặt! Trò này chỉ bẫy được những kẻ láu táu, mà tôi không ở trong số đó. Chỉ lát sau, tôi túm được quả lựu đạn nằm dưới lớp lá khô, bẻ quẹo chốt cho khỏi tuột rồi nhẹ nhàng cắt dây. Quanh ba lô không còn gì khác nhưng tôi vẫn đứng yên, lòng đầy lo lắng. Cái chết đang lảng vảng đâu đó trong khoảng không gian nhỏ hẹp giữa mấy lùm cây này. Mối nguy hiểm dường như sờ thấy được.

Tôi nhìn kỹ xung quanh, nhìn lên cả ngọn cây. Vẫn không thấy gì? Nhưng đúng là có chuyện khác thường. Hình như... Phải rồi! Vẫn chiếc ba lô. Nó được đặt dựng đứng bên lối mòn. Chẳng ai trong lúc vội vã mà vứt chiếc ba lô nặng được ngay ngắn như vậy.

Nhè nhẹ bước tới gần, tôi đặt tay trái lên ba lô giữ cho nó khỏi đổ, nghiêng người luồn tay phải mò trong lớp lá bên dưới. Một phút sau, mấy đầu ngón tay đã chạm vào lớp vỏ trơn và lạnh đến rợn người của quả lựu đạn. Tôi mò mẫm bóp chặt mỏ vịt, từ từ lôi nó ra. Lựu đạn đã rút chốt. Đây mới là nội dung chính của cái bẫy, quả bên ngoài chỉ nghi binh. Tự dưng tôi thấy hài lòng về tụi lính, ít ra cũng phải như thế mới đáng mặt thiện chiến! Chúng đâu chịu để tôi thắng một cách ngon lành. Có lẽ trò này là của thằng thượng sĩ hắn vốn có "tư thù" với tôi mà! Giờ này dưới âm phủ, hẳn hắn đang sốt ruột giương mắt tìm tôi và cáu kỉnh tự hỏi: "Sao lâu thế..."

Sau khi kiểm tra bên dưới ba lô một lần nữa và mở cả nắp thọc tay vào bên trong xem xét, thấy chắc ăn, tôi mới khoác nó lên vai. Còn con báo đá? Thôi, tạm để ở đây. Tôi đẩy nó vào sát gốc cây, lấy lá vùi lại.

Thấy tôi xuất hiện, lũ khỉ nhào tới mừng rối rít. Khỉ già đứng trên hai chân sau, ngước mắt nhìn tôi như muốn hỏi xem chuyện gì đã xẩy ra. Những con kia chạy lăng xăng, vò đầu bứt lông nhảy nhót. Có con lăn lộn trên bãi cỏ, con khác lại trèo vùn vụt lên cây rồi thoăn thoắt tụt xuống, miệng kêu léc chéc như hóa rồ. Chúng thể hiện sự mừng rỡ theo đúng phong cách nhà khỉ.

Tôi nhìn cảnh nhà mà ngán ngẩm. Đúng là vừa qua trận giặc! Xoong nồi bát đĩa bừa bãi dưới chân cầu thang. Đống củi dưới gầm sàn cũng bị chúng bới tung lên lục lọi. Trên nhà còn tệ hại hơn: cánh cửa bị giật ra vứt dưới đất, vách nhà bị đạp thủng nhiều chỗ. Bên trong quần áo ném lung tung, cỏ lót nệm bay đầy nhà, gạo muối đổ tung tóe vương vãi trong khe gỗ sàn và lọt cả xuống đống củi phía dưới. Mấy cặp đường bánh, những gói mì cua và xâu cá khô cũng bị chúng giật xuống vứt dỏng chỏng trên sàn.

Tôi nhặt nhạnh các thứ nhét vào ba lô, tiếc quay quắt khi nhìn những hạt gạo hạt muối đổ vương vãi. Lúc này không có thời gian để nhặt. Rất may là còn có số dự trữ giấu trên chiếc trực thăng. Thôi, chẳng tiếc! Nếu tính chi li thì ngoài số gạo muối bị đổ, mình không bị thiệt hại gì nhiều. Mọi thứ chúng định lấy đi đều để trong ba lô và đã thu lại được, kể cả bản đồ, địa bàn, bật lửa..., cả túi thuốc nữa. Chúng lấy mất khẩu tiểu liên, nhưng mình đã giật được khẩu khác cùng loại, lại còn mới hơn. Vậy đâu có mất gì? Mấy soong thịt không tính, coi như chi phí. Nhờ nó mà kéo dài được chút thời gian và làm cho bọn lính phần nào lơ là cảnh giác. Vả lại, đến lúc này nó còn có ý nghĩa như bữa ăn cuối cùng dành cho kẻ từ tội trước lúc ra pháp trường. Kể ra, còn những vết rách xước trên người và chỗ bị đánh bên sườn đang đau ê ẩm, nhưng vẫn đi được có nghĩa là không nặng lắm. Lúc nãy tôi đã tự tiêm cho mình một mũi kháng sinh.

Xuống dưới nhà, tôi lấy một bánh đường chặt ra làm sáu chia cho mỗi con thú một phần, lại còn cho hẳn lũ khỉ hai gói mì cua bị rách bao. Những lúc như thế này chẳng nên ki bo làm gì? Sau hoạn nạn mà còn gặp nhau đầy đủ nguyên lành là quý rồi...

Trong lúc lũ khỉ vui vẻ nhận quà rồi mỗi con ngồi một góc hăm hở gặm đường, thì báo Aga nằm dài trên cỏ đưa hai chân trước giữ miếng đường và thè lưỡi liếm. Cứ như vì nể quá mà ăn, chứ bộ dạng nó không mấy hào hứng. Báo và khỉ là hai "trường phái ẩm thực" khác nhau. Tôi cảm thấy áy náy bởi sau tất cả những gì con báo đã làm, đúng ra nó phải được đền đáp xứng đáng hơn. Nhưng tôi đang vội, địch có thể lên bất cứ lúc nào. Thôi, để khi khác mình sẽ đãi nó món cá nướng ăn bằng thích. Mà thực ra con báo làm mọi việc đâu phải vì miếng ăn!

Tôi ra suối tắm qua loa rồi mở lọ cồn bôi lên nhưng vết xước dày đặc trên người. Buốt nhon nhót, nhưng đỡ lo nhiễm trùng. Cũng còn may, cặp mắt không sao. Đấy! Trong bất cứ việc gì cũng đều có thể tìm ra điều may. Có phải đó là cách con người thường dùng để tự an ủi chính bản thân mình mỗi khi gặp chuyện... không may?

- Mặc vào người bộ quần áo rằn ri còn mới, tôi dầm bộ đồ rách xuống suối, lấy đá chặn lên cho khỏi trôi. Để sau giặt sạch làm giẻ sau súng, ở đây không có thứ gì bỏ đi cả.

Lúc đêm ngồi chờ trời sáng, tôi đã suy tính kỹ: bọn địch còn lên lại, ít nhất cũng để thu nhặt xác chết. Cho đến lúc này, mọi chiếc máy bay và nhưng con người tìm tới đây, dù ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, đều có liên quan đến số vàng tôi đang giữ. Có thể bọn lính đêm qua không biết chúng cần bắt sống tôi để làm gì, nhưng chỉ huy của chúng biết. Ông Tùng có dính vào đây? Tất nhiên rồi! Tên trung sĩ an ninh thuộc không đoàn Sáu, lại còn thằng đại úy xếp của hắn. Rồi lời cô gái nói hôm nào: "...Trực thăng của không đoàn đảm trách tất cả các phi vụ tác chiến chiến thuật trên khắp Vùng Một chiến thuật..." Thực lòng tôi không hề ảo tưởng về kẻ thù, nhưng đã quá tin vào phần con người trong ông ta, nên bây giờ mới thấm thía vị chua chát. Thật ngây ngô dại dột khi tưởng rằng ai cũng nghĩ như mình. Dù sao, đòn trừng trị đích đáng giáng xuống cuộc tập kích đêm qua cũng giúp tôi phần nào sửa chữa được lỗi lầm, và sẽ làm cho mắt ông ta sáng hơn. Nhưng hình như trong chuyện này còn có điều gì vương vướng, khó hiểu. Ông ta không phải là kẻ bẻm mép như thằng đại úy...

Việc trước mắt là phải di chuyển chỗ ở, nhưng hôm nay chưa được. Chỗ mạng sườn vẫn đau âm ỉ, làm việc nặng sợ trầm trọng thêm. Vả lại, lúc này mà chui sâu vào rừng để rồi sống trong thấp thỏm lo âu: "Không biết địch đã lên chưa? Chúng đang làm gì?...", thì còn hơn cực hình. Tốt nhất cứ nằm lại trên ụ súng, ở đó kín đáo và bất ngờ, lại là điểm quan sát thuận lợi. Nếu địch đổ quân, chúng sẽ không ngờ tới chuyện tôi đang ở ngay bên cạnh.

Tôi xếp vào ba lô những thứ cần thiết, bỏ thêm chục lựu đạn và mười bốn băng đạn thu được của bọn lính lần trước. Tất cả đồ dùng còn lại, tôi nhét vào chiếc ba lô của anh Hùng, rồi mang nó cùng khẩu AR15 vào giấu trong rừng.

Mọi việc xong xuôi, tôi khoác ba lô xách súng và xách theo can nước đi lên ụ súng. Lũ khỉ ngơ ngác đứng nhìn theo. Tội nghiệp! Không có cách nào bảo chúng đi kiếm nơi khác để sống, ở đây giờ đã trở nên nguy hiểm. Vì quyến luyến với tôi mà lâu nay chúng vẫn sống trên cây đa, chứ loài khỉ có bản năng tìm chỗ ở rất tốt.

Đến ụ súng, tôi chuồi can nước và ba lô vào bên trong rồi đi ngược trở lại xóa vết chân. Tôi vuốt từng ngọn cỏ bị rạp, ngắt mấy nhánh cây gãy, bứt hết những chiếc lá héo trên giàn dây leo do lửa đầu nòng súng táp vào. Khi thấy tất cả đều ổn, tôi mới chui vào bên trong hạ giàn ngụy trang xuống, trải tấm pôngsô nằm nghỉ. Toàn thân đau nhừ, từng khớp xương như đang rời ra.

Bên ngoài mặt trời đã lên cao, ánh nắng bắt đầu sưởi ấm vạn vật, nhưng trong ụ súng vẫn lạnh ngắt. Tôi lấy tấm chăn len đắp lên người, nằm lơ mơ một lúc rồi ngủ thiếp đi.

Gần trưa thì máy bay lên. Bị đánh thức bởi tiếng động cơ ù ù từ xa vẳng lại, tôi vùng dậy nhìn đồng hồ: hơn mười một giờ.

Trong ụ súng có những đốm vàng của nắng lọt qua kẽ lá. Khi hé giàn dây neo nhìn ra ngoài, mắt tôi bị lóa nắng, phải ít phút sau mới nhìn thấy hai chiếc trực thăng bay vòng vòng ở phía đông vùng đồi cỏ. Đưa ống nhòm lên mắt quan sát một lúc, tôi hiểu rằng chúng đang bay tìm kiếm, và vòng lượn ngày càng tiến lại gần.

Tôi kiểm tra súng đạn, bày những quả lựu đạn lên bờ ụ súng, rồi bóc một gói mì cua bẻ từng miếng cho vào miệng nhai. Nhờ ngủ được một lúc nên tôi thấy tỉnh táo và bình thản. Chỗ nấp kín đáo, người đứng ngay bên cạnh cũng khó phát hiện được. Còn nếu chúng dùng chó lần ra, tôi sẽ cho chúng biết thế nào là bão lửa, nhưng đó cũng là trận đánh cuối đời...

Chừng mười phút sau, hai chiếc trực thăng bay qua chỗ tôi. Khi phát hiện ra đống xác máy bay, chúng lượn vòng trở lại, mấy đầu lính đội mũ chống đạn nghiêng ngó bên cửa. Chúng bay ngoài tầm súng tiểu liên, nhưng đại liên dư sức với tới. Như vậy chúng không biết tôi có khẩu súng này. Cô gái không nói, còn những đứa biết thì chẳng bao giờ nói được nữa. Tôi buông ống nhòm xuống, sợ mặt kính phản chiếu ánh nắng làm lộ mục tiêu.

Tiếng động cơ ầm ầm xói vào tai khiến đầu óc căng lên. Như bị thôi miên, hai tay tôi tự động xoay khẩu đại liên chứa nòng lên trời, ngón trỏ lần tìm cò súng, mắt nheo trên đường ngắm. Còn trên ba trăm viên đạn, ít nhất cũng "chơi" được một chiếc...

"Không! Không được bắn! Mình còn phải trở về..." Tôi hít mấy hơi thở sâu và buông khẩu súng ra. Hai chiếc trực thăng mở những vòng lượn rộng hơn, chắc để xem xét tình hình xung quanh. Lát sau chúng bay về hướng đồi cỏ, hạ thấp dần rồi khuất sau bờ ụ súng. Tiếng động cơ lặng đi. Chúng đáp xuống ngoài đó. Vậy là sao? Đổ quân ư? Tôi sốt ruột quá, nhưng lúc này không thể trèo lên nhìn.

Dăm phút sau, có tiếng phành phạch tử xa vẳng lại và rõ dần lên. Nghe tiếng, tôi biết chỉ có một chiếc. Phải một trong hai chiếc lúc nãy, hay bây giờ chúng mới chở quân tới?

Chiếc trực thăng bay đến gần. Không phải HU1A, loại này lạ. Nó bay chầm chậm nhằm hướng tràng cát và giảm dần độ cao. Lúc còn cách chỗ tôi chừng trăm mét, bên cửa hông máy bay chợt xuất hiện lá cờ trắng có dấu chữ thập đỏ ở giữa. À, máy bay lấy xác! Tôi vừa ngạc nhiên vừa thích thú. Bọn này "lịch sự" ghê. Lại biết điều nữa! Nhưng chúng cẩn thận quá, tôi đâu ham bắn giết! Không những thế, tôi đang mong chúng xuống dọn hộ đống xác ngoài kia, sáng tới giờ cứ lo ngay ngáy về nó. Chôn thì không đủ sức, mà để vậy cũng áy náy, lại thối hoắc cả vùng. Toi còn sợ con cọp rừng dưới mò lên nếm thử đâm quen mùi, tuy không chắc là nó có thèm ăn thứ xác chết khét mùi xăng và mùi thuốc nổ kia không.

Tôi lấy chiếc máy truyền tin hí hoáy chỉnh tìm tần số của bọn trên máy bay, nhưng không được. Có thể trên mấy chiếc trực thăng này không lắp cùng hệ máy tương ứng, hoặc chúng dùng một dải tần nào đó mà tôi không dò ra. Tiếc quá! Nếu nghe được bọn địch nói gì với nhau, sẽ biết thêm nhiều điều.

Chiếc trực thăng cứu thương đỗ xuống tràng cát. Từ của máy bay túa ra sáu tên lính tay xách băng ca. Bọn chúng hì hục moi trong đống kim loại cong queo ra những mảnh thi thể cháy đen, bỏ vào túi nhựa có dây kéo, khiêng lên máy bay. Từ ngoài đổi cỏ, hai chiếc kia thỉnh thoảng thay phiên nhau bay lên lượn vòng phía trên để cảnh giới. Chúng không dám bay cả hai vì sợ hết nhiên liệu.

Phải hơn hai tiếng đồng hồ, bọn lấy xác mới rút lên máy bay. Chẳng nên kể tỉ mỉ về công việc của chúng, bởi đó là một cảnh tượng rùng rợn chứ không có gì hấp dẫn.

Khi những chiếc trực thăng bay đi, núi rừng yên ắng trở lại. Trời đã về chiều, nắng thu đang nhuộm vàng óng cánh rừng bên kia suối và lấp loáng trên dòng nước len lách qua những tảng đá, những lùm cỏ xang mượt mà. Cảnh chiều vẫn đằm thắm như vốn có từ bao đời, chỉ những mảnh vỡ và cái đống kim loại nám đen dưới kia là lạc lõng đến trơ trẽn giữa thiên nhiên hoang dã.

Tôi chống giàn dây leo lên cho nắng tràn vào ụ súng rồi leo ra ngoài, đan tay bó gồi ngồi thẫn thờ. Trước mặt là khe cỏ lau bông trắng muốt rung rung trong gió. Ngoài kia triền đồi cỏ nhuốm nắng vàng hoe. Xa xa ngọn thủy tùng như cái tháp xanh đang đung đưa. Đằng sau nó, bầu trời trắng bạc xa đến vô cùng. Phía ấy là đồng bằng, là biển.

Tôi ngồi lặng lẽ hơi lâu, không còn nhớ tới những gì vừa xây ra. Cảnh đẹp mà buồn quá! Có lẽ sau này về dưới kia tôi sẽ nhớ những buổi chiều ở đây. Còn bây giờ... Nắng đẹp thế này ở quê hoa cúc đang nở rộ. Hoa vạn thọ nữa! Nhà ai gieo cải sớm nếu không nhanh tay ngắt ngồng, những luống cải sẽ trổ hoa vàng lốm đốm. Trong vườn vàng rực lên như nắng đọng thành hoa. Cả những quả bưởi trên cành cũng được nắng nhuộm vàng lớp vỏ rồi thấm dần vào từng tép. Và lúc chập choạng tối, những bông hoa mướp sẽ lập lòe trong đám lá xanh như những đốm nắng sót lại...

Con báo vừa đi đâu về, im lặng nằm xuống bên tôi. "Mày bao giờ cũng đến đúng lúc, Aga! Chứ chỉ mình tao buồn quá..." Nhưng nó đi đâu cả ngày nay nhỉ? Bụng lép kẹp thế kia, chắc chưa ăn uống gì. Tôi vuốt bộ lông mượt của nó, thầm cám ơn con thú đã nhiều lần cứu mình thoát chết. Chẳng ai biết được đêm hôm đó con báo tình cờ có mặt đúng lúc hay phục sẵn từ trước. Còn vì sao nó tấn công vào chính con chó, mấu chốt cơ bản của việc giải thoát, tôi đoán rằng trước đó con báo từng thấy những người mặc áo lính như vậy có mùi như vậy đi với tôi, nên nó chỉ nhảy xổ vào con vật cao ngạo dám xâm phạm lãnh địa đã được đánh dấu của nó. Hoặc do bản năng tinh khôn của loài dã thú mà nó biết mối nguy hiểm nhất tập trung ở đâu...

Nói gì thì nói, báo Aga đã ra đòn thật tuyệt. Tên đại úy trước khi chết hẳn đã hài lòng vì có trận quyết đấu đúng như sự chuẩn bị, có điều kết quả ấy buộc hắn phải ôm mối hận xuống mồ. Công bằng mà xét, bọn địch không hề chủ quan khi dẫn giải tôi, chúng chỉ không ngờ được tài nghệ cao cường của con báo. Ngay cả tôi cũng bất ngờ nữa là! Con bẹcgiê tuy cao to hơn, nhưng làm sao đọ nổi móng vuốt cùng hàm răng sắc nhọn của con báo! Sức mạnh dẻo dai bền bỉ và phản xạ cực kỳ lanh lẹ thừa hưởng từ mẹ nó, khả năng tấn công bất ngờ được tập dượt thường xuyên qua việc săn mồi hàng ngày và lòng trung thành với người chăm bữm nó từ khi mới mồ côi mẹ, đã giúp con báo vượt lên và chiến thắng trong cuộc đọ sức không tính trước. Bọn địch tưởng rằng con bẹcgiê tinh khôn được "học hành" cẩn thận sẽ phát hiện ra con báo, nhưng trong mấy ngày nắng quãng rừng non đó có hàng chục con thú qua lại, mà con chó thì chưa ngửi thấy mùi con báo lần nào. Tôi cảm thấy hài lòng vì mình đã tạc tượng con báo. Nó xứng đáng được như vậy.

Mặt trời xuống thấp dần. Trong bóng chiều thấp thoáng cánh chim lạc đàn, vài tiếng chim kêu thảng thốt tan loãng vào không trung bao la. Tôi quay lại nhà xách một bao than củi lên đốt lửa để ngủ trên ụ súng. Hy vọng đêm nay yên tĩnh.

Sáng dậy, tôi về nhà định nhặt số gạo đổ nhưng chẳng còn gì. Lũ kiến đã tha hết về tổ của chúng. Cả những hạt muối cũng ngấm sương tan thành nước. Tôi đành lên chỗ chiếc trực thăng lấy ít gạo muối, chuẩn bị đi tìm nơi ở mới. Đã đến lúc từ bỏ khúc suối tuyệt đẹp này. Chính vì quyến luyến với nó mà tôi hai lần suýt mất mạng. Sắp tới kẻ địch còn làm gì nữa, chưa biết! Nhưng không thể chần chừ mãi. Đợt nắng kéo dài gần mười ngày rồi, trời sắp mưa trở lại, lúc đó không thể ngủ trên ụ súng được.

Tôi men theo con suối đi ngược lên, định tìm xem nơi nào thuận tiện dựng tạm cái chòi trú cho qua mùa đông. Lúc tới đoạn suối chảy qua bãi đá, tôi đặt ba lô xuống, lội sang bên kia để kiểm tra lại chỗ giấu vàng. Đến nơi thấy cỏ và dây leo mọc um tùm trùm kín miệng hang. Chẳng có gì phải lo nhưng cần nhớ kỹ vật chuẩn, nếu không sau này trở lại khó tìm ra ngay được.

Đang loay hoay đo khoảng cách từ tảng đá to cạnh suối lên tới hang, tôi chợt nghe trong tiếng nước chảy có tiếng ì ì. Máy bay Đúng không? Hay mình nghe nhầm? Tiếng động cơ rõ dần. Chết rồi, chúng lại lên.

Tôi vội vã xóa dấu chân, lội ào qua suối tới nơi đặt ba lô. Một âm thanh khác lọt vào tai càng làm tôi sửng sốt: tiếng tín hiệu "tít tít" vang từ chiếc máy truyền tin. Hay là cô ấy? Kẻ khác cũng có thể dùng tần số này... Tôi hồi hộp kéo cần ăng ten và bật nút nghe: "...Anh Hải đâu trả lời đi! Đây Thủy gọi..." Đúng tiếng cô ấy rồi! Nhưng sao lạ lùng vậy? Phải chăng địch đang lợi dụng cô? Nếu không, đời nào ông đại tá kia lại để cô bay?... Tiếng mạch đập ù ù trong tai át cả tiếng gọi hối hả vang ra từ máy. Dù sao cũng phải trả lời, có hỏi mới biết được. Tôi nói vào máy:

- Tôi nghe đây?

- Anh... anh Hải? - Tiếng cô reo mừng rỡ - Anh có sao không?

- Tôi không sao! Cô lên... - Tôi định hỏi "Cô lên đây làm gì", nhưng chợt nhớ ra nên nói khác đi - Cô lên với ai?

- Em lên một mình. Anh Hải, xin anh tin ở em, - Cô nói như khóc - chuyện hệ trọng lắm!

Tiếng động cơ nghe gần lắm rồi. Hình như trực thăng đang lượn vòng ngoài tràng cát. Tôi nói nhanh:

- Cô hạ xuống đi! Nhưng cứ ngồi yên trên đó đợi tôi... Không phải, hiện giờ tôi đang ở xa, khoảng hai chục phút nữa mới ra tới.

- Em đáp xuống bãi cỏ trước nhà được không?

- Hạ được không? - Tôi hỏi lại.

- Dễ ợt! - Cô reo lên - Hôm trước em coi kỹ rồi!

Mừng khấp khởi, tôi khoác ba lô nhào chạy. Mới được mấy bước, chỗ đau bên sườn lại nhói lên. Tôi cắn môi cố bước nhanh. Nhìn qua khoảng trống trước mặt, thấy chiếc trực thăng lướt trên dải rừng non, chững lại một chút rồi hạ xuống khuất sau ngọn cây.

Mấy phút sau, tôi dừng bên gốc cây cạnh thác nước, đưa ống nhòm lên mắt. Máy bay đỗ trên đám cỏ cạnh vũng suối. Chỉ thấy mình cô ngồi trên ghế lái, đôi mắt mở to ngóng ra ngoài bồn chồn. Tim đập rộn trong ngực, tôi luồn vội qua những gốc cây, hai chân cứ ríu lại.

Vừa thấy tôi, cô gái bật cửa nhảy xuống chạy ào tới. Khi còn cách mấy bước, cô khứng lại nhìn tôi chăm chăm rồi bỗng ngồi thụp xuống ôm mặt khóc. Tôi ngơ ngác đứng sừng như bị chôn chân, cảm thấy hai mắt cay cay.

Lát sau tôi bước tới, bối rồi lay nhẹ bờ vai đang rung rung, vụng về hỏi:

- Cô Thủy... sao vậy?

Cô từ từ đúng dậy, khuôn mặt giàn dụa nước mắt, miệng nói như mếu:

- Anh còn sống..

- Không phải đâu, ma đấy! - Tôi cố đùa.

Cô nhào tới đấm vào vai tôi thùm thụp:

- Anh quỷ nè! Em lo muốn chết mà anh còn giỡn... ủa, sao vậy?

- À không... không sao!..

- Đừng giấu em. Anh bị thương phải không?

Tôi đành nói thật:

- Chúng đánh báng súng vào sườn...

- Anh ngồi xuống đây. Đưa em coi? - Cô nói như ra lệnh.

Tôi phải ngồi xuống cỏ, ngượng ngùng kéo vạt áo lên.

- Trời! Thế này mà anh biểu không sao? Tím bầm hết cả nè! Ở đây đau không? - Ngón tay cô lần trên từng dẻ xương sườn khiến người tôi nóng ran - Đây? Đây nữa? - Rồi cô thở ra, nói chắc chắn - Bị ở hai xương sườn. Chỉ lún thôi, không phải gãy rời ra đâu. Anh thấy đau lắm không?

- Cũng... hơi hơi thôi. Nhưng sợ chảy máu bên trong.

- Không, nếu xuất huyết nội, giờ này anh đâu còn đi được! Đưa tay em coi! - Cô với tay tôi bắt mạch.

"Trời đất! Bắt mạch lúc này chắc mình bị quy đau tim..."

- Cô làm như bác sĩ không bằng? - Tôi càu nhàu.

- Em có biết sơ sơ. - Cô cười, nói tiếp - Mạch đập gấp, chắc tại anh mới chạy... Thôi, để về dưới em kêu bác sĩ!

Tôi bật cười:

- Cô định chở bác sĩ lên tận đây sao?

- Bí mật! Chuyện đó nói sau! - Cô tủm tỉm.

Chúng tôi đi lên nhà. Cô ngơ ngác đứng nhìn quanh:

- Sao lại thế này?

- Bọn nó lục soát ấy mà!

- Vậy làm sao anh thoát được?

- À... chuyện dài lắm, để sau tôi kể!

- Thế Aga với mấy con khỉ?

- Chúng vẫn yên lành cả!

- Ôi! - Cô đưa hay tay bưng mặt, lát sau mới ngẩng lên nhìn tôi, mắt ngấn nước - Vậy mà em sợ... em tưởng...

- Cô nghĩ gì vậy?

- Em... Giờ thì không sợ xui xẻo nữa. Lúc bay đi, em cứ nghĩ nếu lên đây mà... không còn anh... không biết rồi em có bay về nổi không...

- Nhưng... cô lên đây làm gì?

- Biết ngay mà! Anh lại hỏi như lần trước...

- Không phải! Lúc này ở đây nguy hiểm lắm! Cô lên một mình, lại không mang vũ khí, không sợ sao?

- Em sợ lắm! Nhưng lo là lo vậy thôi, chớ em tin... anh vẫn còn sống.

- Thế lỡ tôi nổ súng?

- Việc đó em không sợ. Nếu muốn giết em, anh đã bắn hôm em chở toán lính lên đây. Khi đó em... là kẻ thù của anh mà!

Tôi ngẩn người. Cô có cách nghĩ thật hay. Nhưng cô không biết được tôi đã nghĩ gì trước khi nổ súng vào chiếc trực thăng kia.

- Nhưng làm sao cô lên đây được?

- Thì em bay! Bộ anh tưởng em quên đường sao? Bay trên trời không dễ lạc như đi trong rừng đâu? Mà anh hỏi chi hỏi hoài như phỏng vấn vậy?

- Tại lâu nay đâu có ai để hỏi? - Tôi cười, hỏi tiếp - Cô bay trộm ư?

- Sao lại bay trộm? Ôi, em hiểu rồi? - Cô nhìn tôi, nét mặt chợt buồn - Không phải vậy đâu anh? Vụ tập kích vừa, rồi bác Tùng không biết.

Tôi cười gằn:

- Tôi không tin! Có thể cô chưa rõ, nhưng cô còn nhớ thằng trung sĩ đặt máy ghi âm hôm lên bốc mộ không Trung sĩ Hưng?

- Đúng? Và cả thằng xếp của hắn nữa. Cái thằng nói giọng the thé như đàn bà ấy?

- À, đại úy Quắc, trưởng ban Hai. Chả thân với Cođy lắm đó!

- Cả hai đứa nó đều có mặt trong toán lính tới đây đêm hôm trước.

Cô ngẫm nghĩ một lúc, mới nói: Việc đó em chưa hay? Nhưng em cam đoan là... bác Tùng không dính. Chính bác sắp xếp cho em bay mà!

- Cô nói rõ hơn được không?

- Chiếc trực thăng hôm đó do người Mỹ lái, loại này không lực không có. Và em được biết nó bay từ Nha Trang, chở toán thám báo từ trong đó ra. Còn làm sao có hai người của ban Hai thì em không biết.

- Nhưng ba chiếc lên lấy xác hôm qua là của không đoàn Sáu?

- Đúng vậy! Sáng qua bác Tùng nhận điện từ trong kia yêu cầu tổ chức một phi vụ cấp cứu. Khi nghe thông báo tọa độ, bác ấy mới hoảng, chạy tới nói em biết. Anh có thấy máy bay cứu hộ thả cờ hồng thập tự không?

- Có?

- Bác ấy lịnh cho phi công lên đây phải làm vậy, anh sẽ không bắn. Ấy là nói... nếu anh còn sống. Mãi tới khi toán cứu hộ trở về, bác ấy mới chắc chắn anh không sao.

Tôi thừ người. Mọi việc rõ dần lên từng nét, nhưng chính vì vậy lại càng khó hiểu. Dường như cả con người, cả sự việc trong chuyện này đều vượt quá tìm hiểu biết của tôi... Thôi, đành gác lại. Tôi nói:

- Dù sao cô cũng liều lắm! Bọn chúng có thể tới đây bất cứ lúc nào. Tôi không muốn cô bị vạ lây.

- Thế anh không lo cho anh sao?

- Có chứ! Nhưng tôi tự xoay xở được. Còn nếu có chết cũng coi như vì nhiệm vụ, chẳng có gì phải áy náy.

- Em cũng vì nhiệm vụ chớ bộ! - Cô nói một cách hãnh diện.

- Nhiệm vụ? - Tôi kêu lên, trong đầu thầm nghĩ: "Cô này... đúng là chẳng biết thế nào mà nghĩ? Lúc thì già dặn tinh khôn như quỷ, lúc lại như trẻ con..."

- Chớ anh nghĩ sao?

- Tôi nghĩ là... tôi chẳng nghĩ gì cả. Có điều nếu vì lên đây mà cô bị làm sao, chắc tôi... sẽ ân hận suất đời.

Cô lườm:

- Em không dễ chết vậy đâu! Và đừng tưởng em lên để thăm anh đâu nghen!

- Vậy cô lên làm gì?

- Anh đoán coi?

Tôi lại thừ người ngẫm nghĩ. Đơn giản nhất là cho rằng bọn địch cử cô lên đây xem tôi còn sống không, và để dò xét. Nhưng tôi không tin chuyện đó. Còn gì khác thì chưa nghĩ ra.

- Tôi chịu! Nếu không muốn nói, cô cứ giữ kín. Tôi không nài nỉ đâu.

- Đừng tự ái thế, anh giải phóng? - Cô xoay lưng về phía tôi, co tay rút tử trong ngực ra một mảnh giấy gấp nhỏ, quay lại mặt nhanh vào tay tôi - Đây nè!

Chưa kịp hiểu ra chuyện gì, nhưng hơi ấm từ mảnh giấy truyền qua tay một luồng nhiệt kỳ lạ làm người tôi nóng bừng.

Một chút bối rối, rồi tôi mở tờ giấy. Không phải một, mà hai tờ. Và điều nhìn thấy trên tờ giấy thứ nhất khiến tôi nẩy người như bị điện giật: nét chữ của tôi!

Ngẩn ngơ nhìn những dòng chữ do chính tay mình viết tôi không còn tin ở mắt mình. Sao lại có chuyện kỳ lạ như vậy? Nhưng đúng là những dòng chữ này, bốn câu đầu trong bài thơ "Từ ấy" của Tố Hữu.

Sau phút bàng hoàng, bộ óc nhanh chóng hoạt động trở lại: tờ giấy này là trang đầu trong cuốn sổ tay của tôi.

Lật xem tờ giấy thứ hai, tôi càng sửng sốt: một bức thư ngắn! Nét chữ của anh Hai Nguyên! Không thể lầm được! Cố giữ cho tay khỏi run, tôi lướt nhanh nội dung thư:

"Mày bận gì thì bận, cũng phải lên thăm chú thím chứ! Cứ hẹn lui hẹn tới, vài bữa vô mùa màng lại không đi được. Lên chơi ít ngày đi cháu! Nhân tiện có thằng cháu họ bên thím mày đi chở hàng gần đó, chú nói nó ghé qua đón cháu luôn thể. Còn mấy cây mai cử để dưới, ra giêng về chạp mộ chú lấy. Mà nhớ giữ cẩn thận cho chú nghe, đừng để hư rễ chết uổng. Giông mai đó quý lắm!

Chú thím chờ cháu."

Tôi đọc lại bức thư, lần này chậm hơn. Dần dần mọi việc trở nên rõ ràng. Như vậy lá thư tôi nhờ ông Thành gửi đã tới được tay anh Hai Nguyên và anh nói một đường dây liên lạc trở lại, mà chặng cuối cùng là cô cháu gái. Nhờ đó, thư anh đến được tay tôi. Để làm tin, anh đã tới hậu cứ Ty an ninh Quảng Trị, lấy cuốn sổ tay của tôi xé một trang gửi theo. Trong trường hợp này, không có mật hiệu nào chắc chắn hơn thế. Và theo thư anh viết, tôi phải nhảy lên chuyến "xe hàng" của "thằng cháu họ bên thím mày", tức là lên trực thăng của cô gái hiện dang đứng trước mặt tôi, để về dưới đó. Còn việc gì tiếp theo nữa, phải hỏi "thằng cháu" mới biết được.

Muốn hỏi mà không mở miệng nổi. Tôi cảm thấy choáng váng, ngực nghẹn thở, người rạo rực như say. Mọi thứ xung quanh nhòa đi. Vòm cây trên đầu bồng bềnh xoay tròn cùng mảng trời xanh. Cả người tôi lâng lâng như đang lơ lửng trong không gian bao la huyền ảo... ở đó tôi gặp lại những gương mặt thân thiết của người thân và bạn bè, những người còn sống và cả người đã chết... Rồi từ nơi nào đó xa vời trong ký ức chợt hiện về những khung cảnh quen thuộc: khu rừng nhỏ bé của tuổi thơ, mái nhà tranh và lũy tre ven làng, tiếng chim tu hú và những chùm vải chín đỏ, đồng lúa vàng và tiếng gà cục tác giấc trưa, biển xanh và bờ cát trắng, những chớp bom và ánh lửa phụt đầu nòng súng... Tất cả chập chờn lúc gần lúc xa như ảo ảnh...

Một bàn tay lay vai tôi và giọng nói thanh thanh gấp gáp: "...Anh có sao không? Anh Hải..." Những hình ảnh chợt biến mất, chỉ còn lại trước mặt'tôi đôi mắt đen mở to đầy lo lắng.

- Anh Hải, anh tỉnh lại chưa?

- Tôi có mê đâu mà phải tỉnh? - Tôi đáp tỉnh bơ.

- Anh không sao thiệt chớ? - Cô thở phào - Làm em hết hồn. Bộ dạng anh như người lên đồng vậy đó! Tưởng ai bắt mất hồn vía anh rồi chớ!

- Ở đây chỉ có mình cô, cô không bắt thì ai bắt?

- Còn chọc quê em nữa! Biết vậy chẳng đưa thư cho anh làm chi!

- Thì cô cứ giữ lấy, rồi bay về một mình!

- Em không về một mình. Về dưới ba em hỏi, em biết nói sao?

- Vậy cô làm gì?

- Em đợi! Khi nào anh chịu về em mới về. Anh đừng tưởng, em đã tính làm chi là phải làm bằng được mới chịu.

Tôi cười:

- Tôi có nghe bác kể rồi?

- Vậy nên em vừa được ba khen vừa bị mắng đó!

- Sao lạ vậy?

- Ông khen em giống tính chú, lại bảo: "Liệu con có biết việc gì đúng mà làm không?"

- Bác dạo này khỏe không cô? - Tôi hỏi, thấy ngượng vì sự vô tình của mình.

- Ba em khỏe, nhưng mấy bữa nay ông mất ăn mất ngủ vì lo.

- Sao vậy?

- Cách đây hơn tuần, anh Nghĩa, là con già Lý đó, ảnh nhắn ba em vô trỏng. Lúc trở ra, ông bảo em vô tiếp bàn công chuyện. Ba con em mới nhận được thư chú hôm kia. Bác Tùng sắp xếp cho em bay sáng qua, nhưng đụng vụ tập kích, bác ngưng lại. Vì vậy ba em lo lắm...

Tôi nín thở ngồi nghe, chuyện vừa hấp dẫn vừa lạ lùng.

- ...đến chiều qua lúc toán cứu hộ về tới, em đòi lên mà bác Tùng không chịu, nói để dò coi tụi nó có phản ứng chi không. Sáng nay bác ấy mới cho em bay. Nhưng vầy cũng hên rồi! Bên khí tượng báo từ mai trời lại mưa, bay lên đây không được.

Tôi chậc lưỡi:

- Nói gì thì nói, cô cũng liều lĩnh lắm!

- Anh lại nói vậy rồi! Đừng tưởng em bay một mình đâu nghẹn!

- Cô có một mình đó thôi?

- Không phải! Cả ngày nay bác Tùng sẽ trực ở đài kiểm soát không lưu. Bác dặn em có chuyện chi cố bay lên và liên lạc với bác ấy, sẽ có người tiếp cứu.

- Tiếp cứu bằng cách nào? - Tôi lại càng ngạc nhiên.

- Em cũng không hay, lúc sáng đi gấp không kịp hỏi. Nhưng bác ấy cũng có những phi công thân tín chớ!

Mọi việc trở nên rối rắm quá. Vừa qua mấy ngày căng thẳng, lại đang trong tâm trạng xúc động, nên tôi không kịp suy nghĩ, phân tích những điều vừa được nghe. Và hình như cũng chưa có đủ thông tin để có thể hiểu hết mọi chuyện... Nhớ tới nội dung thư, tôi hỏi tiếp:

- Về dưới đó, tôi phải làm gì?

- Chút nữa quên! Để em nói hết cho anh hay. Ở đây ta bay lúc năm giờ, về dưới chập choạng tối là vừa. Máy bay sẽ đáp xuống một quả đồi cách Đà Nàng mười cây số. Nơi đó là bãi tập của trực thăng nên sẽ không bị để ý. Bác Tùng đón anh ở đó và đưa về nhà em lúc trời tối. Anh ở lại một đêm cho biết nhà, sáng mai ba em chở anh vô chỗ già Lý. Còn khúc sau nữa... em không biết!

- Chà! Nghe ly kỳ như... trong phim tình báo. Cô sắp xếp chuyện này phải không?

- Đâu có! Anh làm như em là "Việt Cộng thứ thiệt" không bằng! Mọi chuyện ở nơi anh Nghĩa. Hôm vô đó em gặp ảnh với một anh nữa. Mấy ảnh chỉ hỏi em về vụ máy bay. Lấy máy bay lúc này hơi khó, nhưng có bác Tùng. Dĩ nhiên cũng phải lo lót cho mấy người mặt đất để khỏi ồn chuyện.

Tôi băn khoăn:

- Tiền đâu mà bác với cô... Anh đừng lo! - Cô cười rộ, ngắt lời tôi - Số trầm kỳ hôm trước anh đưa, em nhờ người bán được bộn tiền, đủ thuê cả năm chuyến bay như thế này. Anh Nghĩa biểu vụ tiền để ảnh lo, mà em đâu có chịu!

- Như vậy là ở lại tới chiều?

- Vâng! Để anh có thời gian chuẩn bị. Em cũng muốn vậy. Được ở trong rừng, thích lắm!

- Tôi chẳng có gì chuẩn bị lâu. Chỉ sợ chúng nó ập đến bất ngờ.

- Em cũng lo. Nhưng không hiểu sao bác Tùng đoán chắc là hôm nay sẽ không có việc gì xây ra. Giờ vầy nghen! Anh sắp sẵn mọi thứ, nếu thấy động ta bay liền. Em đi nấu ăn, sau đó sẽ... cắt tóc cho anh. Để mái tóc này về dưới, thiên hạ sẽ bu tới coi, mà em biết tính anh hay mắc cỡ. - Cô nhìn tôi lém lỉnh.

Tôi đỏ mặt:

- Làm gì có! Ai bảo cô vậy? Bộ cô biết xem tướng chắc?

- Đâu cần ai biểu! Con gái chúng em tinh lắm! - Cô nghiêng mặt cười rúc rích.

Lúc ở dưới suối lên, tôi chọn củi khô nhóm lửa cho cô nấu ăn rồi đi dọn dẹp lại nhà cửa. Căn nhà, nói đúng hơn là cái chòi này đã che chở mưa nắng cho tôi hơn hai năm trời, giờ sắp phải từ biệt, không nên để nó hoang tàn quá.

Những thứ còn lại tôi gói kỹ, ôm vào giấu trong rừng. Về theo cách này, ngoài súng đạn không thể mang theo gì được, kể cả khẩu AK hết đạn, cả những kỷ vật hai anh để lại.

Khi quay ra, thấy cô đang ngồi bên bếp cắt thịt bò, thỉnh thoảng lại cầm nhánh lá quạt quạt cho khói bay bớt. Mặt cô ửng đỏ hơi lửa, mấy sợi tóc dính bết vào trán, những giọt nắng nhảy nhót trên tóc, trên lưng áo. Cô nói với tôi:

- Em đem thịt bò lên cho con báo, nhưng giờ đành bớt phần nó vậy. Anh đang đau, ăn cháo khỏe hơn. Mà Aga đâu anh?

- Tôi cũng không rõ. Dạo này nó đi vắng luôn. Hình như...

- Nó làm sao, anh? - Cô vội hỏi.

- Hình như nó... - Tôi lúng túng tìm từ để nói - nó... có bạn gái.

- Thiệt không?

- Tôi đoán vậy thôi. Nó chẳng kể gì cá!

- Ối... - Cô cười ngất, đôi vai tròn rung lên - Anh coi vậy mà... nghịch ngầm à nghen!

Ăn xong bữa trưa, chúng tôi ra suối rửa bát rồi đen vào nhà úp lại cẩn thận. Để cô ngồi chải tóc, tôi lấy gạo xuống dưới bắc tiếp nồi cơm.

Trưa yên tĩnh quá! Nắng vàng và gió nhẹ. Bầu trời hơi buồn, không xanh như mọi hôm, còn rừng thì trầm tư như đang nghĩ về giờ phút chia tay với tôi. Ừ! Đừng tưởng rừng vô tri. Rừng nghe hết, biết hết. Rừng hiểu tôi nghĩ gì về nó và nhớ những việc tôi đã làm khi ở trong rừng. Chính vì vậy mà rừng đã nuôi sống tôi, đùm bọc che chở tôi thoát khỏi nanh vuốt kẻ thù, giúp tôi vượt lên để trừng trị và chiến thắng chúng. Khắc nghiệt mà bao dung, cứng rắn mà độ lượng, rừng biết trừng phạt và biết tha thứ, biết rèn luyện và biết thử thách con người. Rừng giúp ta phân biệt bạn thù, khơi dậy trong ta tình người trong sáng và chân thật, vun đắp những tình cảm đẹp đẽ... Nếu như tôi và cô ấy gặp nhau không phải ở trong rừng, hẳn mọi chuyện đã khác và chắc gì chúng tôi hiểu được nhau?

Những tháng ngày sống ở đây, tôi đã hiểu vì sao anh Hùng lại bảo rừng biết nói. Rừng có tiếng nói riêng của nó. Như lúc này, rừng đang thì thầm. Tiếng của rừng lạ lắm, chỉ ai sống lâu trong rừng, yêu mến và gắn bó với rừng mới hiểu được. Trong tiếng rừng có tiếng của suối của gió của cây, tiếng của những con vật sống trong rừng, có cả tiếng lá vàng rơi, tiếng chồi non nứt khỏi lớp vỏ, tiếng rễ cây cựa mình trong đất... Chẳng ai bắt chước được tiếng rừng, không đo được, cũng không ghi lại được bằng nốt nhạc. Chỉ khi ngồi một mình giữa rừng và lắng nghe bằng cả tâm hồn mình, ta mới hiểu được rừng đang nói gì, cảm nhận được âm thanh của cuộc đấu tranh sinh tồn khốc liệt, của sự sống và cái chết, phát triển và lụi tàn, đau đớn và hạnh phúc, cay đắng và ngọt ngào, chia lìa và gặp gỡ... Ở trong rừng có tất cả, và rừng kể tất cả cho những ai biết nghe và hiểu nó...

- Anh Hải nghĩ chi mà coi bộ mơ màng dữ ha! - Cô gái đến bên tôi từ lúc nào, cất tiếng hỏi nhẹ nhàng.

- À, ờ... - Tôi đúng túng trả lời - Tự dưng thấy buồn. Lúc ở đây thì cứ trông về, giờ sắp về lại thấy... nhớ quá!

Cô nói lảng sang chuyện khác:

- Bộ anh còn đói sao nấu cơm vậy?

- Không, nấu cho lũ khỉ. - Tôi trả lởi, và buột miệng - Tiếc quá! Còn bao nhiêu là gạo với muối

Cô che miệng cười:

- Hay anh với em ở lại đây, khi nào ăn hết rồi về?

Tôi cũng cười, hỏi lại:

- Thế cô không sợ sao?

- Em sợ chi?

- Sợ... bác mắng?

- Em chỉ sợ ông lo chứ không sợ mắng. Ba em quý và tin anh làm mới để em đi. Nếu không, đời nào ông chịu cho con gái rượu lên đây một mình! - Cô liếc nhìn tôi tinh nghịch - Mà thôi, anh ra ngồi đây em cắt tóc cho.

Tôi đỏ mặt: "Hay để tôi tự cắt..."

Cô ngắt lời:

- Anh lại mắc cỡ rồi! Lúc này cắt tóc cũng là nhiệm vụ. Đừng tưởng em nghĩ ra vụ cắt tóc đâu nghen! Anh Nghĩa dặn đó!

Tôi chịu thua, xách súng ra ngồi trên hòn đá, cúi đầu đợi. Cô mở túi xách lấy chiếc kéo, nói như ra lệnh:

- Anh ngồi yên nghen!

Cô dùng kéo cắt ngang mái tóc phía sau gáy, rồi kẹp rưỡi lam vào lược chải. Từng lớp tóc dày rụng lả tả xuống cỏ. Những sợi tóc trên đầu tôi chắc đang dựng dừng lên run rẩy dưới mấy ngón tay mềm mại của cô.

Tôi hỏi cho có chuyện nói để đỡ ngượng:

- Cô biết nghề cắt tóc từ khi nào?

- Em đâu có biết! Ý anh ngồi yên đừng cựa quậy chớ. Nếu xấu về dưới em đưa tới tiệm sửa lại. Mà anh gội bồ kết phải không? Tóc anh còn dài hơn tóc con gái nữa đó!

- Tại ở đây không có gì cắt, chứ tôi có muốn để thế đâu! - Tôi lầu bầu.

Mãi rồi công việc cũng kết thúc. Cô bấm kéo lách tách sửa lại chút ít và đứng lui ra ngắm nghía:

- Xong rồi! Gương đây nè, anh coi có đẹp không? - Cô đưa tôi chiếc gương nhỏ.

Tôi bỡ ngỡ nhìn mặt mình trong gương. Một khuôn mặt vừa quen vừa lạ, da đen sạm, những vết gai cào rớm máu đã khô lại, đôi môi bị giập vẫn còn cộm lên. "Chết thật! Mặt mũi thế này chắc khó coi lắm! Nhưng... lâu nay chẳng khi nào mình quan tâm tới "dung nhan" cả, sao hôm nay lạ thế không biết! Hay tại chiếc gương? Có nó mới biết mình già hơn trước nhiều, chứ soi xuống suối chỉ thấy nhòa nhòa..."

- Đẹp không anh? - Cô sốt ruột hỏi.

- À... đẹp lắm! Hơn xa thợ ở tiệm.

Quả thực mái tóc được gọt bằng dao nên mởn đều, còn đẹp hay không tôi không biết vì chẳng mấy khi chú ý tới. Chỉ thấy giờ đây trên đầu nhẹ hẳn đi và sau gáy cứ lành lạnh.

- Vậy là yên tâm rồi! Để về dưới em mở tiệm hớt tóc...

- Cô không bay nữa sao?

- Quên chưa kể với anh, em "giải nghệ" rồi. Hôm trước ở đây về là em nghỉ hẳn, không làm ở chỗ bác Tùng nữa. Vì vậy bữa nay bác phải kiếm cớ cho em bay. Chắc đây là lần bay cuối cùng... - Cô thở dài - Ba em đang biểu em vô Sài Gòn học văn khoa, nhưng em chưa biết tính sao. Thời buổi này học làm chi nữa anh! - Giọng cô nghe rầu rầu.

- Giờ cô lên nhà ngồi, tôi ra suối tắm qua một cái. Cầm lấy cái này, - tôi rút khẩu ru lô đưa cho cô - lỡ cọp tha mất tôi không đền được đâu.

Cô lật lui lật tới khẩu súng, hỏi tôi:

- Anh có cả cây này nữa, sao mấy lần trước lên đây em không thấy?

- Ồi, có gì đâu mà đưa ra khoe... - Tôi trả lời qua quít, bước vội đi. Lúc từ dưới suối lên, thấy cô ngồi thõng chân trước sàn, tay vẫn cầm hờ khẩu súng, mắt nhìn đi đâu đâu. "Mình vô ý quá! Khi không lại gợi ra chuyện cũ. Chẳng cần suy nghĩ gì nhiều cô ấy cũng biết đó là khẩu súng của anh cô..." Đang tự trách mình, tôi bỗng nghe cô nói:

- Giờ này dưới kìa phắc ba em đang nóng ruột lắm! Cả ngày hôm nay ông không chịu ăn uống chi cho coi.

Tôi nhìn gương mặt buồn thiu mà thấy nao cả lòng. Vì tôi nên cô phải một mình "lặn lội" lên đây...

- Cô Thủy xuống đây, tôi đưa đi xem cái này! - Tôi gọi to

- Chi vậy anh?

- Chưa nói được! Có đi mới biết!

- Cô nhanh nhẹn nhạy xuống cầu thang. Chúng tôi đi qua bãi cỏ, bước vào dải rừng non. Tới lùm cây giấu con báo đá tôi gạt lá đem nó ra, hồi hộp đặt trước mặt cô.

- Ôi, con báo! - Cô reo lên.

- Cô thấy có giống không?

- Giống! Giống lắm! Lại đẹp nữa! Nhứt là cái dáng của nó. Rồi cái đầu nè, cái mõm nè... Anh làm phải không?

- Nếu cô thích, tôi tặng cô để... kỷ niệm!

- Thiệt không anh? Ôi, vậy là nhứt em rồi! Anh giỏi quá việc chi cũng làm được...

Tiếng cô ríu rít như tiếng chim, gương mặt cô tươi hơn hớn, trong đôi mắt lung linh ngời ngợi những giọt nắng. Quãng rừng non vắng vẻ giờ rộn rã hẳn lên. Lòng tôi ấm lại, trái tim rung nhè nhẹ theo một nhịp đập khác lạ. Những đau thương mất mát dịu đi, mọi gian khổ nhọc nhằn cùng nội cô đơn hiu quạnh biến mất, sự hồi hộp lo âu cũng lắng xuống, chỉ còn lại trước mắt tôi khuôn mặt ửng hồng đang rạng rỡ mềm vui tràn trề. Cô đâu biết rằng lúc này tôi mới là người vui sướng nhất. Khi đem lại niềm vui cho người mình quý mến, thì chính mình đã hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc ngọt ngào. Tôi như nhìn thấy lại màu hoa sim tím man mác bên quãng đường đồi đất đỏ, gặp lại nỗi xốn xang tưởng đã bị đạn bom vùi lấp... Tôi nói khẽ, giọng nghẹt thông hơi thở tự dưng trở nên gấp gấp: "Để đem ra máy bay..."

Tôi ôm con báo đá đi trước, cô níu nhẹ bên tay tôi líu ríu bước theo. Những bước chân bồng bềnh trên lối mòn ngập lá vàng rơi.

Thấy trời còn sớm, tôi rủ cô ra ngồi bên suối. Nắng chiều nghiêng dần. Con suối vẫn róc rách như tiếng thời gian trôi. Nhớ hôm nào mới đến đây, tôi ngồi một mình bên con suối này và nghĩ về những người đồng đội vừa hy sinh... Tôi đã sống ở đây những ngày dài dằng dặc tưởng như vô tận, vậy mà ngoảnh lại mới thấy thời gian trôi nhanh quá. Dường như trong từng ấy ngày tháng các anh vẫn ở quanh tôi, âm thầm cùng tôi chia sẻ mọi vui buồn... Dường như lúc này đây, anh Đằng và anh Sơn đang nhìn tôi và tủm tỉm cười, còn anh Hùng thì băn khoăn hỏi: "Cậu đọc sách nhiều, thấy những lúc như thế này, các nhà văn họ viết thế nào..." Tôi nhìn cô gái đang ngồi bên cạnh và tự hỏi: "Ừ nhỉ! Rồi sẽ thế nào?..." Nhưng tôi không nghĩ tiếp được vì chợt bắt gặp một mùi hương rất lạ, mùi hương tỏa ra từ da thịt người con gái. Qua khứu giác, mùi hương mới mẻ và quyến rũ dó thấm nhanh vào người làm tôi bàng hoàng, ngây ngất... Cố nhìn chăm chăm xuống vũng suối để mắt khỏi bị hút về phía cô, nhưng từ nơi nào đó sâu thẳm trong trí não, tôi vẫn cảm nhận được hơi ấm đang toát ra tử những đường cong mềm mại trên thân hình thon thả của cô gái ngồi sát bên. Người tôi nóng lên, nhịp tim đập gấp, dòng máu trai trẻ rạo rực chảy trong huyết quản. Rất gần bên là bờ vai tròn nóng ấm. Gần lắm Chỉ khẽ nghiêng là chạm tới... Tôi bỗng muốn được quàng tay qua đôi bờ vai tròn trìa ấy, và... ước muốn trào lên thôi thúc mãnh liệt khiến tôi phải hết sức kìm nén để chế ngự. "Ba em quý và tin anh lắm...", lý trí nhắc lại lời cô nói lúc sáng. Bên cạnh, cô vẫn đang mãi ngắm con suối, không hề biết có ngọn lửa vừa cháy lên trong tôi. "Cô ấy tin mình chứ không phải vô tình..." Ý nghĩ rụt rè ấy thoáng qua trong đầu làm tôi xấu hổ.

Chừng thấy tôi ngồi im lặng, cô quay sang hỏi:

- Sắp xa nơi này, anh Hải buồn phải không? Đứng buồn anh à! Sau rồi sẽ quên thôi!

- Ừ! Lâu dần cũng nguôi đi, nhưng quên thì không quên được. - Tôi đáp, người mềm lại trong cảm giác tiếc nuối mơ hồ.

- Anh Hải biết sao không? - Giọng cô chợt vui lên một cách cố ý - Từ hôm nhìn thấy con suối này, em chỉ ước ao được tắm ở đây một lần... Thiệt con nít, phải không anh? Có đêm em còn nằm mơ thấy mình lội ra đứng dưới con thác kia cho nước chảy ào ào trên người...

Lại đỏ bừng mặt! Lại nghiêng đầu để cười một mình sau mái tóc dày!

Tôi bối rối. Ước ao nhỏ nhoi của cô thật dễ thương. Chúng tôi đang ngồi bên suối và thời gian còn nhiều. Vậy mà... Tôi không dám để cô tắm một mình, cũng không thể ngồi trông chừng...

Cô ngẩng lên nhìn tôi, và bật cười. Tiếng cười trong trẻo giòn tan, lúng liếng như những gợn sóng nhỏ lan trên mặt vũng suối. Tôi nói vội sang chuyện khác:

- Cô Thủy biết con suối này tên gì không?

- Tên chi, anh?

- Suối Tiên! - Tôi trả lời chắc chắn.

- Suối Tiên? Sao anh biết?

- Có sự tích cả đấy!

Cô nhìn tôi nghi ngờ:

- Bộ anh tính gạt em phải không?

- Sao lại gạt? Phàm dịa danh nào có từ lâu đời đều gắn liền với một câu chuyện lưu truyền trong dân gian...

- Vậy sự tích con suối này là sao?

- Cô có muốn nghe không?

- Có, có! Anh kể đi! - Đôi hàng mi cong hớn hở chớp chớp.

- Ngày xửa ngày xưa... - Tôi bắt đầu kể - Nghĩa là... cách đây đã lâu lắm rồi, tại một khu rừng hoang vắng nọ có con suối nhỏ đẹp tuyệt vời. Một nàng tiên ở trên trời hàng ngày không có việc gì làm nên thường ra đứng trên đám mây nhìn vẩn vơ xuống hạ giới. Một hôm, nàng vô tình nhìn thấy con suối. "Ôi, đẹp quá! Đẹp hơn tất cả mọi con suối có trên cõi tiên. Ở dưới trần lại có cảnh đẹp vậy sao?..." Nàng tiên thốt lên. Và từ đó nàng mất ăn mất ngủ, lén lút tìm cách bay xuống để tắm một lần cho biết.

Nhưng thuở ấy trời, đất xung khắc với nhau, luật lệ mỗi nơi một khác. Luật trời không cho phép người trên đó xuống tắm ở cõi trần tục, và dưới này cũng thế. Vậy nên nàng tiên nọ mấy lần xuống mà vẫn không sao tắm được. Cuối cùng nàng thất vọng, bèn giở phép màu bắt một người rừng ở đó, bỏ lên... máy bay trực thăng chở về...

- Ối! - Cô kêu ré lên, tay đấm vào lưng tôi thùm thụp - Em không chịu đâu! Đánh cho anh đau luôn nè...

- Thì... chuyện cổ tích mà! - Tôi oằn lưng chịu đấm, trả lời.

- Anh thiệt... khôn hết biết! Em... đã ngờ ngợ, vậy mà... Lần sau không thèm... hỏi anh... chuyện chi nữa...

Cô nói đứt quãng trong tiếng cười, khuôn ngực đầy đặn dâng lên hạ xuống dồn dập theo nhịp thở gấp. Lúc này trong cô thật đẹp. Tôi quay mặt đi, cố làm dịu cảm giác khô se trong cổ. Không để ý tới thái độ của tôi, cô đưa tay vén tóc, ngần ngừ một lúc, lại hỏi:

- Rồi sau... sao nữa anh?

- Sao là sao?

- Thì... cái chuyện cổ tích đó?

- À! Câu chuyện đến đây là hết!

- Ủa, sao kỳ vậy?

- Thường nhưng chuyện như thế người ta bỏ lửng đoạn cuối.

- Để cho hấp dẫn, phải không anh?

- Cũng có, nhưng không hoàn toàn như vậy! Người kể bao giờ cũng dành một khoảng cho người nghe thỏa sức tưởng tượng theo ý thích của mình. Người nhân hậu thường tưởng tới một kết cục có hậu. Hơn nữa, lời kể hoặc trang viết đều có hạn, mà cuộc sống lại vô cùng, ai nói ai viết hết được?

- Ờ ha! Chẳng ai biết được những điều đang còn ở phía trước... - Cô tư lự - Nhưng... con người còn có niềm tin, có ước mơ nữa chớ!

- Vậy cô Thủy đang tin đang ước điều gì?

- Em tin là, - Cô láu lỉnh nhìn tôi - Chiều nay sẽ đưa anh về tới nhà em. Còn sau này... - Tôi thoáng hồi hộp - ... em sẽ được gặp chú.

- Chỉ vậy thôi sao? - Tôi lại hỏi, cảm thấy tiếng tiếc.

- Vâng! Chừng đó đã! Ham quá đâu có được? Còn những điều cao hơn, xa hơn mà chỉ mới nghĩ tới chứ chưa dám chắc thì em đâu dám kể, sợ thành chuyện cổ tích mất à! - Cô cười thật tươi.

Nhìn đồng hồ thấy hơn bốn giờ, tôi nói:

- Cô Thủy này, ta đi sớm một chút, ghé thăm mộ.

- Vâng! Em cũng muốn xuống chào các anh ấy. Ta lên thôi anh! - Cô vội vã cặp lại mái tóc, cùng tôi đi lên nhà.

Lũ khỉ và con báo vẫn chưa về. Chúng mải chơi đâu vậy không biết? Nhưng có khi như thế lại hay, tránh được cảnh chia tay bịn rịn. Tôi không muốn nhìn thấy ánh mắt buồn bã của những con thú đáng yêu ấy.

Tôi bưng soong cơm đặt trên bàn đá, xách chiếc túi đựng mấy bánh đường và hơn chục gói mì còn lại ra treo ở gốc cây đa. Lũ khỉ lúc trở về sẽ tìm thấy những thứ tôi để lại cho chúng. Còn xâu cá khô và tảng thịt bò mà cô gái mang lên cho con báo, tôi treo lên vách nhà, phía trên chỗ nó thường nằm. Tội cho con báo quá! Nó đã từng quyến luyến với tôi từ khi mới vài tháng tuổi và chưa bao giờ xa tôi quá một ngày. Không biết rồi nó sẽ ra sao khi không còn tìm thấy tôi trong khu rừng này? Lũ khỉ chắc không buồn lâu vì chúng có bầy đàn và sống vô tư hơn. Báo Aga vốn lầm lì kín đáo, chẳng mấy khi bộc lộ tình cảm ra ngoài. Những "người" như vậy thường đau đớn nhiều hơn trước mỗi mất mát chia ly.

Tôi mở hé cánh cửa cho con báo có thể vào trú mưa, rồi chậm chạp bước xuống năm bậc cầu thang đã mòn vẹt. Cô gái nãy giờ vẫn xách hộ khẩu tiểu liên đứng đợi trước nhà. Nỗi buồn thường hay lây nên trông cô buồn thiu.

Chúng tôi im lặng đến bên chiếc trục thăng. Cô leo lên ghế lái và nhoài người đẩy cánh cửa phía bên kia. Tôi tần ngần đứng nhìn ìần cuối cùng góc rừng thân yêu. Hơn chín trăm ngày sống ở đây, đến lúc rời xa mới thấy mọi thứ đều thân thuộc, gắn bó biết nhường nào. Từng gốc cây, từng hòn đá, bãi cỏ, cánh rừng non, dòng suối Tiên và con thác nhỏ... Cả tiếng gió rì rào trên cành lá, tiếng chim kêu khắc khoải trong rừng, cả tia nắng nhạt của tiết trời sắp chuyển... Chỉ lát nữa thôi lúc hoàng hôn xuống, góc rừng này sẽ tối lại và quạnh hiu. Từ nay những con thú chẳng bao giờ còn được thấy đống lửa đốt lên mỗi chiều... "Nhất định sẽ có ngày mình trở lại...", tôi thầm nhủ, xách chiếc túi đựng máy truyền tin và hơn chục băng đạn bỏ lên máy bay, nhún người leo lên. Cô đưa trả tôi cây súng, với tay cài hộ dây an toàn, vẫn không nói lời nào.

Liếc nhìn thấy tôi ngồi ổn định, cô mới nổ máy. Lên khỏi ngọn cây, chiếc trực thăng đổi hướng bay về phía cây thủy tùng. Vài phút sau, nó đáp xuống gần ngôi mộ đá.

Cô gái ôm theo bó hương to, cùng tôi tới bên mộ. Tôi đốt trầm rồi quỳ một chân trước tấm bia. Cô lặng lẽ thắp nguyên cả bó hương cắm vào kẽ đá, quỳ xuống bên tôi. "Hai anh ơi, đây là Thủy, cháu của anh Hai Nguyên đó! Cô ấy đến chào các anh để về. Em cũng về đây? Từ nay không còn ai hương khói cho các anh nữa... Ở đây lạnh lắm! Cô quạnh lắm. Những chiều nắng vàng hiu hắt trên đồi, những ngày mưa dầm sụt sùi ngọn cỏ, những đêm đông gió rít từng cơn, mây lạnh sà thấp trên mộ... chắc các anh sẽ buồn... Em không thể đưa các anh về, nhưng sẽ có ngày em trở lại để làm tròn công việc mà vì nó, các anh phải nằm lại nơi này..." Tôi rưng rưng nước mắt thầm nói lời tạm biệt. Khói hương trầm nghi ngút quấn quanh ngôi mộ đá như không muốn chia xa.

Một ngọn gió thổi tới làm bó hương trên mộ cháy lên rừng rực. "Đấy là các anh ấy bảo mình về đi..." Tôi nói khẽ và đứng dậy, dìu cô đứng lên theo. Trong tiếng gió vi vu trên ngọn thủy tùng nghe có tiếng nói: "Gắng sống mà trở về Hải nhé... đứng lo gì cho bọn mình..."

Trước lúc lên máy bay, tôi đưa cô đến bên gốc thủy tùng. Trên lớp vỏ sù sì nứt rạn, những dấu đạn đại liên đã bị lấp kín, chỉ còn vết rốc két nổ toác nơi lưng chừng thân cây trải mưa nắng lâu ngày đen sạm, càng làm cho cây cổ thụ khổng lồ thêm vẻ dạn dày từng trải.

Với giọng nói khô khan đứt quãng, tôi kể cho cô nghe những gì xảy ra lúc đó, bên tai như còn vang tiếng ùng oang của những quả rốc két, tiếng viu víu của đạn đại liên. Có thể câu chuyện gợi lại chuyện cũ đau lòng, nhưng tôi tin cô chịu được. Chính cô đã tự vượt qua những đau đớn như thế để đến với chúng tôi, những đau đớn éo le chỉ có trong chiến tranh tàn khốc.

Chương XXIII

Trước lúc nổ máy, cô gái vén tóc đội chiếc mũ bay lên đầu và lẳng lặng đưa tôi cặp tai nghe có gắn micrô để chúng tôi có thể nói chuyện với nhau trong khi bay.

Tôi ngạc nhiên khi thấy trực thăng bay về hướng tây bắc, nhưng chợt hiểu ra: cô muốn tôi được nhìn thấy lần cuối cùng nơi mình đã sống.

Trực thăng bay là là trên dải rừng phía bắc vùng đồi cỏ, lướt qua chỗ chiếc máy bay chở vàng rơi, qua cái cây chết khô nhô trên tán cây cổ thụ, nơi tôi đã leo lên đối đầu với cái chết, và trước mắt là vòm cây đa như một tán dù khổng lồ. Nhìn từ trên cao, khúc suối trước mặt nhà tôi lượn cong cong nên vũng suối trông giống viên ngọc bích gắn trên mặt nhẫn. Không nhìn thấy ngôi nhà, cũng chẳng có bóng con thú nào. Sau vòng lượn thứ hai, chiếc trực thăng bay thẳng về hướng đông.

Lúc ra khỏi miền sơn nguyên, vùng núi non phía dưới như tụt thấp xuống. Rừng già trải mênh mông. Những đỉnh núi nhọn, những vách núi dựng đứng trở nên mềm mại hơn và bớt vẻ hiểm trở. Xung quanh tôi lúc này là khoảng không bao la, bên dưới là thảm rừng mịn màng. Tôi có cảm giác hụt hẫng và trống trải khi không còn nền đất vững chắc dưới chân cùng cây rừng vây bọc che chắn quanh người.

Chiếc trực thăng vẫn chúi đầu như trượt xuống theo chiều nghiêng của đông Trường Sơn, giữ một độ cao tương đối ổn định so với mặt đất. Nó bay ngoằn ngoèo len lách giữa những dãy núi, lúc lúc lại hiện bóng trên những sườn núi xanh rì còn đọng nắng. Những đỉnh núi lao thẳng tới rồi vụt tránh sang một bên và lướt nhanh về phía sau.

Tôi đưa mắt nhìn lên bảng điều khiển la liệt đồng hồ tìm chiếc chỉ độ cao, nhưng không nhận ra. Chắc ở đây dùng đơn vị đo khác. Như hiểu tôi nghĩ gì, cô nói trong khi mắt vẫn nhìn thẳng về phía trước:

- Ta đang bay với tốc độ một trăm năm mười cây số giờ. Em phải bay thấp để tránh tìm quét sóng của ra đa. Lúc nào về gần tới đồng bằng mới lên cao liên lạc với bác Tùng.

Tôi nhìn cô thán phục. Trông cô khác hẳn với cô gái hồn nhiên nhí nhảnh ở trong rừng lúc nãy. Có lẽ đây là cô chị. "Hai chị em" giống nhau như đúc, nhưng cô chở từng trải hơn bởi gương mặt trầm tĩnh, ánh mắt quyết đoán và những động tác thành thục tự tin. Còn tôi lúc này chắc giống chú bé nhà quê lần đầu được đi ô tô, lóng ngóng và ngơ ngác. Cô gái kéo cần lái. Chiếc trực thăng nâng độ cao rất nhanh. Nếu không bị nén chặt vào ghế ngồi, hẳn tôi đã nghĩ rằng thảm rừng phía dưới đang chìm nhanh xuống. Ở đó lác đác mấy đám nương rẫy trông như những mụn vá trên chiếc áo xanh của rừng. Phía xa hơn có những triền rừng bị rải chất độc hóa học, màu cây khô xám xịt. Đường chân trời đang duỗi ra, thẳng dần. Trong ống nghe có tiếng cười khúc khích, rồi giọng cô nho nhỏ:

- Tới đây lên cao được rồi?! Lỡ trúng đạn Quân giải phóng thì... oan lắm!

- Dưới đó là vùng giải phóng sao?

- Vâng! Anh có muốn xuống đó không?

- Vậy cũng được! Cô bay chầm chậm để... tôi nhảy.

- Ý! Đừng giỡn à nghenl Anh mà nhảy, em... cũng nhảy theo, chớ về dưới lấy chi thường cho "anh Hai" của anh?

Tít dưới xa có một dòng nước trắng bạc uốn lượn như nét vẽ. Màu xanh ở mặt đất trông cũng nhạt hơn, đôi chỗ hoe vàng. Cô gái nhìn đồng hồ đeo tay rồi ấn một chiếc nút trên bảng điều khiển, chỉnh núm rà tần số vô tuyến. Lát sau cô reo khẽ: "Có rồi!", và quay sang tôi giải thích:

- Bác ấy quy ước tín hiệu liên lạc trên sóng vô tuyến chớ không đàm thoại được. Giờ thì khỏi lo rồi! Để em xuống thấp cho anh ngắm đồng bằng.

"Đồng bằng? Nhanh vậy ư? Dễ dàng vậy ư?" Tôi thấy nghẽn nghẹn. Đã bao ngày mơ lúc về tới đồng bằng...

Nhìn từ độ cao chừng hai trăm mét, cảnh vật bên dưới hiện rõ mồn một. Trên dòng sông quanh co uốn khúc, vài chiếc thuyền nhỏ trôi lững lờ, mái chèo quẫy nước lóe nắng. Ven bờ sông thỉnh thoảng lại thấy một xóm nhỏ thưa thớt vài nóc nhà ẩn hiện dưới bóng cây xanh rờn. Chen giữa những dãy đồi là mấy vạt ruộng xác xơ màu rơm rạ. Đã qua vụ gặt. Lát sau, những quả đồi thưa dần rồi biến mất. Xóm làng xanh mướt cây lá nổi lên như những cù lao giữa cánh đồng trải rộng. Tôi xách cái túi đựng máy truyền tin hé cửa thả xương sông và lần túi quần lấy chiếc bật lửa ném ra ngoài. Định giữ làm kỷ niệm, nhưng thôi! Bật lửa Trung Quốc, để lại không tiện.

Ngắm nhìn dòng sông, tôi hỏi:

- Sông gì đây, cô Thủy?

- Thu Bồn đó anh! Từ đây về quê em có chút xíu hà!

"Sông Thu Bồn? Có phải dòng nước nơi anh Sơn hy sinh chảy về tới đây?"...

Khi còn sống trong rừng, tôi mường tượng lúc nhìn thấy đồng bằng, chắc mình sẽ lịm đi vì xúc động. Vậy mà lúc này cảm giác bồi hồi chỉ thoáng qua. "Đồng bằng? Nhưng là vùng địch! Mình đang ngồi trên chiếc máy bay của địch. Điều gì chờ ở phía trước?" Từ trưa tới giờ, một câu hỏi cứ lởn vởn trong đầu tôi: "Vì sao ông Tùng nói với Thủy hôm nay sẽ không có cuộc tập kích nào tiếp theo? Nếu ông ta không dính gì tới vụ vừa rồi thì làm sao biết được điều đó? Phải chăng đang có một cái bẫy chờ mình lúc máy bay đáp xuống? Kế "điệu hổ ly sơn" mà! Mình không hề nghi ngờ Thủy. Những gì cô ấy đã làm, lá thư của anh Hai Nguyên, những tình cảm cô biểu lộ... khẳng định lòng tin đó. Nhưng biết đâu kẻ địch lợi dụng? Biết Thủy đang nối chặng cuối đường dây liên lạc, chúng tạo điều kiện cho cô bay... Nhẹ nhàng hơn nhiều so với việc tổ chức một cuộc tập kích..."

Tôi nhìn khẩu súng trong tay. Lúc này nó chỉ là vật phụ thêm vào việc cải trang cho phù hợp với bộ quần áo rằn ri mặc trên người. Nếu địch đón bắt khi máy bay đỗ xuống, tôi cũng không thể bắn. Có thể giết thêm vài tên, nhưng Thủy sẽ bị nguy hiểm, nếu may mắn sống sót thì cũng bị thương, rồi tù đày...

- ...Anh có nghe em nói chi không? - Tiếng cô lọt vào ống nghe, kéo tôi ra khỏi nhưng suy nghĩ bồn chồn.

- Cô bảo sao?

- Em hỏi, anh có muốn ghé qua quê "anh Hai" của anh không?

- Muốn! Nhưng làm sao ghé được?

- Mình nhìn từ trên cao thôi! - Cô trả lời.

Chiếc trực thăng vẫn bay phía trên con sông. Tôi chăm chú nhìn những xóm làng hiện ra bên dưới. - Anh có thấy cái xóm nhỏ có mấy cây cau cao cao kia không? Đó, cái xóm sát khúc sông có bờ cát vàng vàng... Làng em đó!

- Cô có hay về thăm quê không?

- Em về hoài à! Mộ má em và anh Trà đều ở đó.

- Vậy cây mai còn không?

- Còn chớ! Ba em quí nó lắm. Ông kể cây mai ấy ông nội trồng từ hồi chưa có ba. Mà thôi, đến giờ hẹn rồi. Em đổi hướng đây.

Chiếc trực thăng lượn một vòng rồi bay về hướng tây bắc. Thì ra cô đã bay dấn thêm vài chục cây số để tôi nhìn thấy cái xóm nhỏ đó. Bên dưới Quốc lộ I như con rắn màu đen trườn dài trên cánh đồng và mất hút ở cả hai đầu. Nếu lúc này có nắng chắc sẽ nhìn thấy biển. Xa một chút về hướng đông bắc, thấp thoáng những mảnh trắng nhờ nhờ của nhà cửa phố xá. Nơi đó là Đà Nẵng.

- Gần tới rồi! Anh nhìn thấy quả đồi kia không? - Tiếng cô nói trong ống nghe.

Phía trước hiện ra mấy dãy đồi cây mọc cằn cỗi. Máy bay xuống thấp và bay chậm lại. Trước mặt tôi là một mỏm đồi có những vết đỏ hoét của đất sỏi bị đào bới. Tôi căng mắt nhìn. Những đường hào nông chân chạy ngoằn ngoèo. Vài ụ súng đáp bằng bao cát, mấy đường thép gai bùng nhùng. Dưới chân đồi có con đường nhựa chạy về hướng đông. Có lẽ đây là một cứ điểm đã bỏ trống. Trong ánh sáng nhá nhem của những tia nắng cuối ngày, quả đồi trông hoang vu và vắng vẻ. Không thấy người thấy xe. Biết đâu chúng đang ẩn trong mấy ụ súng?

Trực thăng hạ càng trên vạt đất bằng phẳng giữa đỉnh đồi. Tiếng động cơ dịu lại, cánh quạt vẫn quay chầm chậm. Tôi hồi hộp nhìn quanh, từng thớ thịt trong người căng lên...

Một phút... hai phút... ba phút. Tất cả vẫn yên tĩnh. Không có bọn lính cắp súng hò hét nhào ra tử mấy ụ súng, không có những chiếc xe rú máy lao hết tốc lực lên đỉnh đồi. Trong cảnh hoàng hôn vắng lặng, chỉ thấy làn bụi mỏng đang lắng xuống.

Tôi liếc nhìn cô, thấy đôi mắt mở to đang chớp chớp lo lắng:

- Bác ấy đâu kìa? Anh ngồi yên, ta đợi chút nữa!

Vẫn chăm chú quan sát xung quanh, tôi hỏi để át nỗi bồn chồn cho cả hai:

- Lúc nãy thấy cô Thủy cứ im lặng, tôi lo quái

Trên đoạn dường nhựa cách chừng hai cây số, một chiếc xe Jeep quân sự ló ra khỏi khúc quanh, bon bon về hướng chúng tôi. Trên xe chỉ có một người. Lúc nó rẽ vào con đường sỏi chạy thẳng lên đỉnh đồi, tôi nhìn rõ ông Tùng ngồi sau tay lái.

- Anh xuống được rồi! - Cô nói, vẫn cúi mặt.

Tôi mở dây an toàn, bỏ ống nghe xuống, ngần ngừ không biết nói thế nào.

- Anh về trước đil Trả máy bay xong em về liền à! - Cô lại giục, giọng dịu dàng.

Chiếc Jeep dừng ngoài vùng gió cánh quạt. Ông Tùng xuống xe, chắp hai tay sau lưng đứng nhìn lên.

Tôi xách súng nhảy xuống, giữ bước bình thản đi về phía chiếc xe. Ông Tùng mặc nguyên bộ đồ sĩ quan, đeo lon đại tá vành lưỡi trai dài thượt của chiếc mũ lính che tối đôi mắt làm tôi không thể đoán được ông đang nghĩ gì. Dù sao lúc này cũng còn quá sớm để nói lời cảm ơn. Tôi nghĩ vậy nên chỉ nói: "Chào đại tá!", rồi bước lại gần. ông im lặng chìa tay ra. Tôi đưa một tay bắt. Ông chụp tay tôi bóp mạnh và nói:

- Khá lắm! Anh bạn Việt Cộng! Tôi biết chắc chắn anh còn sống mà. Nào, lên xe! - Ông quay về phía chiếc trực thăng vẫy tay.

Tiếng động cơ rồ lên. Chiếc trực thăng sạt qua trên đầu chúng tôi, cuốn cái mũ của ông bay xông đất, bụi tung mù mịt.

- Cái con này! Nó bay kiểu gì thế không biết! - Ông Tùng càu nhàu cúi xuống nhặt mũ.

Tôi vừa áy náy vừa buồn cười. Rõ ràng ông ta bị vạ lây.

Chúng tôi lên xe. Chiếc jeep quay đầu chạy xuống đồi, lát sau đã bon nhanh trên con đường nhựa vắng tanh. Được chừng vài cây số, ông Tùng lượn xe đỗ sát lề đường và nói:

- Trời còn sáng, ta đợi một chút. Tốt nhất là không nên để ai nhìn rõ mặt anh. - Ông quàng một tay qua lưng tựa của ghế lái, quay sang phía tôi thân mật hỏi - Làm sao anh thoát được?

Tôi ngập ngừng. Biết ông hỏi về vụ tập kích, nhưng đó là lời thăm hỏi thân tình, hay muốn tìm hiểu nguyên nhân của sự thất bại?

- Có lẽ... cũng nhờ may mắn thôi. Chuyện dài lắm... - Tôi đáp ấp úng.

- Thôi để kể sau. Nhưng lúc đó anh giận tôi lắm phải không?

Tôi nhìn thẳng vào mắt ông. Hình như chỉ có sự chân thành...

- Đại tá hỏi một câu... rất khó trả lời. Chúng tôi chẳng bao giờ hoài công để giận kẻ thù của mình. Xin lỗi, tôi nói về những kẻ đã tấn công tôi đêm dó. Còn... lúc xả súng tiêu diệt chiếc trực thăng biệt kích, tôi có nghĩ đến đại tá và... quả thực tôi thấy thất vọng.

- Tôi hiểu! Dù sao cũng cám ơn là anh vẫn tin tôi khi thẳng thắn nói ra điều đó. - Ông nói, và móc túi áo ngực lấy ra mấy tờ giấy đưa cho tôi - đây là giấy tờ của anh. Tôi biết ông Thành đã móc được với bên kia, chắc họ lo đủ cho anh rồi. Nhưng phần tôi giúp được gì, tôi vẫn giúp. Anh coi qua giấy tờ đi, lỡ có gì đối đáp cho êm.

Tôi lướt nhanh hai tờ giấy. Đó là giấy nghỉ phép do chính ông ký, cho phép tôi "Nghi phép chờ làm thủ tục xuất ngũ", cùng với một giấy của quân y xác nhận tôi bị sốt rét lâu ngày, nay được nghỉ để ra ngoài chữa bệnh. Tên trong giấy ghi là Nguyễn Văn Hải, quê ở Quảng Trị, tuổi cũng khớp, cả cái bệnh sốt rét cũng hợp với nước da và tạng người tôi lúc này. Một lần nữa, ông lại làm tôi ngạc nhiên.

Tôi gấp hai tờ giấy bỏ vào túi áo ngực, cài cúc lại và nói mà không nhìn ông:

- Xin cám ơn đại tá!

Mọi việc vẫn còn ở phía trước. Vẫn còn quá sớm để bộc lộ tình cảm biết ơn chân thành. Nếu đây là một cái bẫy thì tôi đã đút cả hai chân vào bẫy. Nhưng chân là chân, còn đầu là đầu! Tôi không thể phí phạm lòng tin của mình. Có đúng không? Hay thói quen cảnh giác lúc ở rừng đã khiến tôi đa nghi? Hạ hồi phân giải! Trong truyện Tàu người ta thường nói như vậy. Mấy năm vừa qua tôi đã gặp quá nhiều chuyện lạ, nhiều đến mức đủ để hiểu rằng cuộc sống luôn chứa đựng những điều bất ngờ.

Ông Tùng liếc nhìn tôi vẻ tò mò nhưng không nói gì, chỉ đưa tay nhìn đồng hồ rồi xoay chìa khóa nổ máy. Chiếc Jeep trườn ra mặt đường nhựa và lao đi vun vút. Tôi tựa súng vào vai ngồi ghếch chân lên thành cửa xe dáng ngổ ngáo, nhưng thực ra trong lòng rất lo lắng. Cái vai lính ngụy đã "diễn" mấy lần ngoài Quảng Trị, nhưng lúc này khác. Địa bàn xa lạ, xung quanh không có đồng đội, sự hỗ trợ của tổ chức vẫn là vô hình. Với lại sau mấy năm ở rừng, giờ đùng một cái về phố xá vùng địch chiếm đóng, lại trên xe của một đại tá ngụy "thứ thiệt", là chuyện mới sáng nay tôi chưa hề nghĩ tới.

Trời sẩm tối. Sương chiều đang xuống. Mây giăng đầy trên dãy núi chạy song song với con đường, cách chừng vài cây số. Suy nghĩ khá lâu tôi mới nhớ được đấy là dãy Hải Vân đổ từ Trường Sơn ra tới biển. Phía trước hiện ra một vùng sáng mờ mờ: Đà Nẵng đã lên đèn. Trong làn gió phả ào ào vào mặt như có vị mặn của muồi biển. Phía biển lúc này đen ngòm, thỉnh thoảng lại thấy ánh chớp lóe lên từ những đám mây xa. Vậy là đêm nay trên núi sẽ mưa. "Mưa nguồn chớp biển", có bốn chữ mà gợi nhớ đến nôn nao...

Bốn bánh xe nhảy chồm chồm lúc leo qua đường tàu. Tôi cố nén để khỏi bật rên bởi chỗ bị đánh bên sườn đau nhói. Chạy thêm một quãng ngắn, chiếc Jeep bật đèn pha rồi ngoặt sang trái theo con đường nhựa rộng hơn và phẳng lì. Đây đã là quốc lộ Một. Không khí nồng mùi xăng. Ánh đèn xe soi loang loáng dãy hàng rào dây thép gai ken kín mít phía bên phải đường. Vài chiếc ô tô chạy ngược chiều pha đèn chói mắt. Một chiếc máy bay bật đèn hiệu cả ở bụng và hai đầu cánh sà thấp xuống sau dãy hàng rào thép gai. À, trong kia là sân bay, hèn gì chúng rào kỹ quá!

Trước mặt tôi hiện lên những bóng điện đường vàng tù mù trong sương, rồi những dãy phố đầu tiên thấp thoáng ánh đèn nhông. Đường phố đông dần. Xích lô, xe máy, xe đạp, xe jeep quân sự, biển hiệu xanh đỏ và chớp đèn quảng cáo nhấp nháy. Trong những người đi bộ có cả lính ngụy và lính Mỹ. Nơi đây về đêm vẫn ồn ào tấp nập, khác hẳn một trời một vực với vùng rừng tôi vừa từ biệt.

Sau khi qua mấy ngã tư, xe chúng tôi chạy vào những đường phố ngắn yên tĩnh, hai bên đường có những cây cổ thụ nghiêng cành đan thành vòm trên cao. Ông Tùng vẫn bình thản sau tay lái. Chẳng ai, dù cảnh sát hay quân cảnh, lại dám chặn xe một đại tá để kiểm tra.

Đang chạy nhanh, ông bỗng phanh xe đột ngột. Tiếng bánh xe miết cháy mặt đường rít chói tai. Vài người qua đường giật mình ngoái cổ nhìn lại. Những người trong quán ăn ở góc phố đồi diện cũng hoảng hốt ngó ra. Ông nhấn ba tiếng còi rồi bảo tôi:

- Anh xuống mở cổng đi!

Bài bản phải thế, chứ chả lẽ quan lại xuống mở cổng cho lính? Nhưng sao ông ta làm ồn ào quá vậy? Tôi nhìn nhanh về chiếc cổng sắt sơn xanh, phía trên có giàn dây leo loáng thoáng vài cánh hoa màu tím. Bên trong là ngôi nhà nhỏ một tầng, khá kín đáo và tách biệt với những nhà khác bởi xung quanh có khoảng đất trống trồng cây. Trong nhà sáng đèn nhưng im ắng. Có gì trong đó?

Tôi xuống xe, giữ vẻ tự nhiên tiến lại phía cổng. Chưa kịp đưa tay mở thì bóng điện trên cổng bật sáng, cánh cổng hé ra. Tôi đứng tránh sang một bên để ánh đèn không rọi vào mặt, vừa nhìn thấy ông Thành bước ra. Ông nhìn tôi khẽ gật đầu chào, hờ hững nói: "Anh vào đi", rồi bước nhanh về phía ông Tùng chào hỏi vồn vã.

"Vậy là sao?" Tôi điếng người trước thái độ lạnh nhạt của ông, nhưng tự nhủ phải bình tĩnh. Đã trót đâm lao rồi!

Lách người qua cổng, tôi đi ngang mảnh sân nhỏ và bước lên bậc tam cấp trước nhà. Cánh cửa chỉ khép hờ, để lọt ra vệt sáng xanh của ánh điện. Bên trong là gian phòng khách bày biện đơn giản. Không có ai ở trong đó. Hai ông vẫn đứng nói chuyện trước cổng.

Đang đứng ngơ ngác giữa phòng, tôi bỗng giật mình khi thấy cánh cửa dẫn vào phòng trong mở ra và một tên lính mặc quần áo rằn ri xuất hiện. Tim tôi thót lại, người cứng đờ, mọi phản xạ hầu như bị tê liệt.

Tên lính nhào tới, đưa cả hai tay chụp lấy tay tôi lắc lắc nói như reo lên:

- Anh Hai! Anh Hai mạnh giỏi không?

Tôi ngỡ ngàng nhìn anh ta, bộ óc chậm chạp hoạt động trở lại. Trông anh ta quen quen, hình như đã gặp ở đâu rồi... Cả giọng nói nữa.

- Anh là... - Tôi phân vân hỏi.

- Trời? Anh Hai quên em rồi sao? Em gặp anh hôm lên bốc mộ...

Nhớ ra rồi đây là một trong hai người lính nói giọng Nam Bộ hôm đó. Nhưng anh ta làm gì ở đây?

- Em chờ anh Hai suốt ngày nay. - Anh ta nói tiếp, giọng vẫn mừng rỡ - đại tá biểu em lẻn vô đây từ sáng, chờ anh Hai về để ra thế chỗ ngoài xe. Anh Hai ngồi xuống cho đỡ mệt!

Anh ta kéo tôi ngồi xuống ghế rồi đứng nhìn tôi, nét mặt hớn hở. Nhìn vóc dáng người lính và bộ quần áo anh ta mặc trên người, tôi chợt hiểu: đây là sự sắp xếp của ông Tùng. Lát nữa khi ông ra về vẫn đủ hai người trên xe. Không ngờ ông đại tá không lực mà kinh nghiệm hoạt động bí mật đầy người.

Nén tiếng thở phào, tôi hỏi:

- Anh làm như vậy, không sợ sao?

- Dạ thưa, đại tá biểu thì em phải làm. Với lại em chịu ơn anh Hai nhiều lắm...

- Ơn tôi? - Tôi ngạc nhiên.

- Dạ! Vừa rồi em nhận được thư đứa em, nó báo tin má em đã khỏi bịnh... - "Liên quan gì đến mình?", tôi thắc mắc - Má em bịnh hơn năm nay, không có tiền mua thuốc. Bữa trước anh hai cho miếng kỳ nam, em về bán được ít tiền gởi vô cho má uống thuốc. Nghe tin bà mạnh trở lại, em mừng lắm! Nhà em nghèo, bà con lối xóm cũng nghèo, không ai giúp được. Vậy mà anh Hai ở tận trên rừng, xa xôi như vầy, lại chẳng quen biết gì mà anh Hai giúp được... Em... không bao giờ quên ơn anh Hai... - Anh ta rơm rớm nước mắt.

Tôi cũng cảm động trước sự chân tình của người lính. Thực ra tôi đâu có chủ ý giúp anh ta! Mới hay mọi việc cốt ở cái tâm của con người. Thằng trung sĩ Hưng đấy thôi, nó cũng có phần như vậy...

Ông Tùng bước vào nhà, hất hàm nói với người lính:

- Ra xe ngồi trông chừng!

- Dạ! - Người lính cúi đầu, đưa mắt chào tôi rồi đi ra.

Ông Tùng quay sang nói với tôi:

- Anh yên tâm, thằng đó tin được. Hắn cùng quê với tôi đó!

Ông Thành khép cửa lại, hấp tấp bước tới ôm vai tôi:

- Vậy là anh đã về được. Cả ngày nay tôi nóng ruột quá trời! Anh có khỏe không?

- Dạ, cháu khỏe! Cám ơn bác!

- Thôi, giao lại cho anh với con Thủy, tôi hết trách nhiệm. - Ông Tùng nói với ông Thành rồi quay sang tôi - Chúc anh về tới đích. Chào! - Ông vỗ vai tôi và bước đi ngay, không để tôi kịp nói lời nào.

- Thấy anh bình yên, tôi mừng quá! - Ông Thành nói mà mắt ươn ướt - Sáng qua nghe ông Tùng nói chúng đánh yên chỗ anh, tôi lo muốn xỉu. Con Thủy thì cứ khóc lên khóc xuống. Lại đúng lúc vừa nhận được thư chú nó nhờ chuyển cho anh, thật rối cả ruột...

Tôi ôm chầm lấy ông, xúc động đến trào nước mắt. Thật may mắn khi cuộc sống đưa đẩy tôi gặp được những con người như thế này.

Ông Thành đưa tôi lên gác, dẫn vào một căn phòng nhỏ:

- Đêm nay anh ngủ ở phòng tôi. Đừng lo, tôi còn chỗ làm việc ở dưới nhà. Còn đây là quần áo để anh thay. Phòng tắm, phòng vệ sinh ở kia. Giờ anh đi tắm, tôi xuống chuẩn bị cơm nước. Con Thủy cũng sắp về rồi đó.

- Ông nói và vội vã đi xông nhà.

Lúc từ phòng tắm bước ra, tôi nghe có tiếng mở cổng, rồi tiếng ông Thành nói dưới nhà:

- Thủy đó con? Sao về muộn vậy?

- Dạ, con phải la cà một chút, nôn quá không tiện.

- Con ôm cái gì vậy?

- Ủa Ba coi nè! - Giọng cô hãnh diện.

- Con báo. Ở đâu ra vậy con?

- Ảnh làm cho con đó! Ba coi có đẹp không?

- Ừ, đẹp lắm! Chà, anh ấy biết con mê con báo lắm mà!

- Ảnh đâu ba?

- Ở trên phòng. Thôi, con đi tắm rửa. Cơm nước để ba lo.

Tiếng chân cô bước gấp gấp trên cầu thang, ngập ngừng trước phòng tôi mấy giây, lại đi tiếp. Rồi tiếng mở, đóng cửa căn phòng ở phía cuối.

Tôi ngồi xuống bên chiếc bàn nhỏ, cầm lên một cuốn sách, nhưng mãi chẳng đọc được một chở nào. Những gì vừa xảy ra trong ngày hôm nay đã lôi cuốn hết tâm trí, làm xáo trộn nếp suy nghĩ bình thường. Và sắp tới còn gì nữa? Nếu ở đây lâu sẽ nguy hiểm cho gia đình của ông Thành. Nhưng đường dây anh Hai Nguyên bố trí đang dừng lại ở đây, tôi lệ thuộc hoàn toàn, không tự quyết định gì được. Có lẽ vào đến chỗ già Lý mới gặp được người của mình. Muốn về tới đích, tôi phải đi con đường vòng khá xa. Có khi đường vòng lại là con đường gần nhất. Giờ tôi mới hiểu vì sao trước đây anh Hai Nguyên lại dặn: "Đường trở về không nhất thiết phải đi ngược lại con đường đã đi..." Anh không thể biết trước mọi chuyện, nhưng với kinh nghiệm của mình, anh đã lường tới những tình huống ngoài dự tính...

Mãi suy nghĩ, tôi giật mình khi nghe cô gái gọi khẽ ngoài cửa phòng:

- Anh Hải... - Tôi vội đứng dậy mở cửa - Em vô được không?

- Sao lại không? Cô Thủy vào đi!

Cô bước vào, tươi tắn trong bộ quần áo bà ba màu tím nhạt. Đưa mắt nhìn tôi từ đầu tới chân, cô kêu lên:

- Ôi! Anh...coi lạ hoắc à?

- Ừ, tự tôi cũng thấy lạ! - Tôi cười ngượng nghịu - Lâu nay toàn mặc quần áo lính, giờ mặc lại đồ thường, thấy nhẹ hẫng đi.

- Em tới bàn với anh coi có cần mời bác sĩ không?

- Đừng! Không nên!

- Nhưng chỗ chấn thương...

- Chẳng sao đâu! Thủy không thấy cả ngày nay tôi vẫn bình thường đấy thôi!

- Mai anh đi rồi, để vầy em sợ lỡ có chuyện chi... - Thủy đừng lo, nó sẽ tự lành thôi!

Có tiếng chuông réo ngoài cổng. Cô vội đứng dậy:

- Anh cứ ngồi đó, để em xuống coi ai. - Ra tới cửa cô còn ngoái lại lém lỉnh - Vậy là anh cũng có tiến bộ chút xíu rồi đó!

Tôi lắng nghe tiếng chân cô chạy xuống cầu thang và băn khoăn tự hỏi, không biết "chút xíu" lúc này là bao nhiêu? Chắc không giống với "chút xíu" lúc ở trên máy bay bay về quê cô.

Một lát sau, cô hấp tấp chạy lên, hé cửa nghiêng người vào nói:

- Anh có khách nghen!

Tôi yên tâm khi nhìn thấy nét mặt tươi rói của cô, nhưng vẫn hỏi:

- Ai vậy?

- Người đằng mình!

- Tức là "Việt Cộng phải không? Sao cô biết?

- Không giỡn đâu nghen! - Cô lườm, nói tiếp - Em gặp ảnh hai lần rồi. Hôm vô Tam Kỳ bàn công chuyện và bữa trước ảnh đưa thư "anh Hai" tới đó! Để em đưa ảnh lên.

Vài phút sau, cô dẫn vào phòng một người đàn ông lạ mặt, rồi ý tứ quay ra, khép cửa lại.

- Chào anh! - Tôi đứng dậy chào trước.

- Chào anh Hải! Anh Hai có gửi cho anh cái này. - Anh nói và đưa cho tôi một tờ giấy gấp nhỏ.

Tôi mở tờ giấy, lại nhìn thấy một trang sổ tay của mình. Trang này chép bài thơ "Núi đôi"1 (Bài thơ "Núi đôi" của nhà thơ Vũ Cao), nhưng chỉ có bốn khổ thơ đầu. Vậy là tin nhau được rồi. Tôi nắm chặt tay anh, cảm động hỏi:

- Anh là anh Nghĩa?

- Không! Anh Nghĩa bị lộ mặt ở Đà Nẵng, không ra được. Anh cứ gọi tôi là Tám. Tôi ở bên biệt động, được giao nhiệm vụ bảo vệ và đưa anh vào tới chỗ anh Nghĩa.

- Anh cho biết tôi phải làm gì?

- Đêm nay anh cứ yên tâm nghỉ lại đây. Chúng tôi đã bố trí bảo vệ vòng ngoài. Ta có cơ sở trong hàng ngũ địch, nếu có động sẽ được báo trước. Tôi đã dặn bác Thành và cô Thủy tín hiệu báo động và địa điểm liên lạc trong trường hợp đột xuất. Sáng mai bác Thành chở anh vào Tam Kỳ bằng Honđa. Đi bình thường như mọi người, có lực lượng bám theo đề phòng bất trắc. Khi có người cần gặp anh thì mật khẩu là... - Anh dặn tôi mật khẩu hỏi và đáp - Cũng phòng hờ vậy thôi chứ tôi tin mọi việc sẽ êm. Còn đây là giấy tờ của anh. - Anh đưa tôi tờ giấy hoãn dịch, nói tiếp - Việc gấp quá, chúng tôi không lo được thẻ căn cước. Khó nhất là không có ảnh của anh. Đây là giấy thật mượn của người khác, anh tự nghĩ cho mình một lý lịch phù hợp để khai cho khớp nếu bị hỏi.

Tôi lấy ra hai tờ giấy ông Tùng đưa:

- Tôi có giấy này, anh xem được không?

Anh chăm chú xem kỹ và ngạc nhiên hỏi:

- Làm sao anh có được giấy tờ này?

- Ông Tùng đưa tôi lúc chiều!

- Hay lắm! Thế là tôi hết lo rồi. Anh hỏi thêm cô Thủy về một số chi tiết như tên chỉ huy, nơi đóng quân... Để phòng khi bị kiểm tra.

Tôi do dự một lúc rồi hỏi:

- Các anh có biết gì về ông Tùng?

- Việc đó bộ phận khác theo dõi nên tôi cũng chưa biết gì nhiều ngoài nhưng điều mà bác Thành và cô Thủy nói. Nhưng cấp trên đã cân nhắc kỹ và quyết định sử dụng mối quan hệ cá nhân này để đưa anh về bằng con đường nhanh nhất. Thực ra công việc dựa hoàn toàn vào sự giúp đỡ của cha con bác Thành, chúng tôi chỉ hỗ trợ phần cuối. Anh cần hỏi gì thêm không?

Tôi nói:

- Tôi trú lại đây sợ nguy hiểm cho gia đình bác Thành.

- Anh yên tâm, việc này cũng được tính kỹ. Kế hoạch lúc đầu là đưa anh đến một địa điểm khác, nhưng bác ấy đề nghị để anh ở đây. Chúng tôi đồng ý vì thấy như vậy an toàn hơn. Gia đình bác ấy chưa hề bị địch chú ý. Ta cũng có kế hoạch bảo vệ cho bác ấy và cô Thủy về lâu dài.

Chúng tôi trao đổi thêm một số chi tiết, rồi anh đứng dậy:

- Ngày mai tôi sẽ bám theo anh, nhưng chúng ta không gặp nhau nữa nếu không cần thiết. Vậy xin chúng anh mạnh khỏe và thắng lợi.

Chúng tôi siết chặt tay nhau. Cảm giác tin cậy từ bàn tay đồng đội làm lòng tôi ấm lại. Thế là tôi đã thật sự trở về.

Đúng như đã hẹn, ông Tùng đến lúc chín giờ tối, vẫn trên chiếc xe Jeep lúc chiều. Nhìn ông trong bộ quần áo thường, tôi thấy gần gũi hơn.

Mới bước vào phòng, ông đã lôi ra chai rượu và thét gọi cô cháu gái lấy ly. Vừa rót rượu, ông vừa nói với tôi.

- Rất tiếc là không đãi anh được bữa cá lóc nướng, cũng chẳng mời anh về nhà tôi được. Thôi, đành vậy! Nào, ta cụng ly uống mừng cuộc gặp gỡ!

Bốn chúng tôi ngồi quanh chiếc bàn nhỏ trò chuyện vui vẻ. Theo yêu cầu "thính giả", tôi phải kể lại cuộc đụng độ vừa qua. Lúc đầu còn miễn cưỡng, nhưng rồi việc nhắc lại những sự việc tuy đã thành kỷ niệm nhưng vẫn còn nóng hổi đã khiến tôi xúc động thật sự. Tôi kể mà như đang nhìn thấy trước mắt bãi cỏ ướt sương đêm lòa nhòa ánh trăng, lối mòn quanh co trong dải rừng non, bóng thú vàng đen lốm đốm lao vút qua ánh đèn, và quầng lửa nổ tung giữa trời...

Lúc tôi kể xong chuyện, mọi người cùng im lặng hồi lâu. Mãi sau mới nghe ông Tùng nói, giọng trầm lại:

- Chà! Không ngờ con dã thú mà có nghĩa đến vậy! Tiếc là không thể đem nó về nuôi được.

- Vậy mà cháu đem về được đó!

- Mày con nít hoài! Bộ tưởng tao say hả? - Ông Tùng gắt.

- Bác muốn coi không? Để cháu dắt nó tới... - Cô nói rồi chạy vụt đi.

Lát sau cô quay lại, ôm con báo đá đặt trước mặt ông Tùng.

- Ủa? Mày lấy đâu ra vậy cháu?

- Bác đoán coi!

Ông Tùng nâng con báo đá lên xem:

- Thứ đá này... không phải đá Non Nước... - ông chợt ngẩng lên hỏi tôi - Anh làm trên đó phải không?

Tôi hơi ngượng:

- Mấy tháng mưa không biết làm gì, tôi ngồi đục chơi.

- Chà chà! Coi bộ anh không chỉ biết bắn súng? Mày sướng thiệt đó cháu ước cái gì được cái ấy?

- Đâu có bác! Cháu chở ảnh về nên được trả công đó!

Tôi sượng mặt, vội lảng nhanh sang đề tài khác:

- Trong toán lính hôm đó có người của không đoàn Sáu chắc đại tá có biết?

Ông Tùng nhìn tôi chằm chằm, lát sau mới trả lời:

- Tôi biết, nhưng sau đó. Anh còn nhớ người Mỹ mà có lần tôi nói chuyện với anh không? Hôm ở trên rừng ấy?

- Hary Cođy? - Tôi nói, dù đã đoán là ông sẽ nói một cái tên khác.

- Không! Thằng cha kia, John Smith. Tôi nhớ đã kể anh nghe rồi?

- Vâng, hình như vậy! Nhưng sao kia ạ!

- Sáng qua tôi được lệnh phải tổ chức một phi vụ tìm kiếm ở vùng rừng anh đang sống. Điều này chắc con Thủy đã kể. Ngay sau đó tay Smith trực tiếp gọi điện cho tôi về cuộc tìm kiếm. Lúc đó tôi mới hay thằng đại úy ban Hai lên đó - ông dừng lại, tư lự một lúc rồi nói tiếp - Tôi không cần biết anh làm gì ở trển, nhưng chắp nối các sự kiện từ trước tới giờ thì có thể nghĩ rằng cha người Mỹ kia biết. Những chuyến bay của Cođy và thằng Trà trước đây đều liên quan đến Smith. Chỉ có điều lạ là... việc chỉ dính tới cá nhân, chớ không phải của bên tình báo hay quân đội. Đích thân Smith yêu cầu tôi giữ kín chuyện này, nhất là không cho báo giới biết. Chả nói đây là công vụ đặc biệt. Tôi được một người bạn cho hay toán lính đó Smith thuê, trả tiền "đô" đàng hoàng. Tất nhiên phải móc với cấp cao hơn mới thuê được. Nếu là công vụ, trong trường hợp này tụi "xịa" hay dùng "Mũ nồi xanh". Còn dùng thám báo, sao không lấy ở đây?

Tôi nhớ tới lời thằng thượng sĩ lúc cãi nhau với tên kia: "...đại úy không phải là xếp của tụi này đâu nghen... Đừng tưởng vì mấy trăm đô mà tui lên đây..." Khớp lắm! Tôi hỏi thẳng:

- Vì sao đại tá lại đoán chắc là ngày hôm nay không có cuộc tập kích nào tiếp theo?

Ông Tùng nhìn cô gái càu nhàu:

- Cái con này! Mày có gì cũng đem khai hết với Việt Cộng!

- Cháu không sợ đâu! Nếu quy tội, tội bác còn nặng hơn.

Ông Tùng đành lắc đầu.

- Mày thiệt... hết biết! - Rồi quay sang tôi - Điều này cũng dễ nhận định thôi! Smith hành động cá nhân, nên có muốn làm tiếp cũng phải có thời gian. Vả lại chả còn lo việc bị vỡ lở. Không biết rồi làm thế nào để bưng bít vụ này. Nếu không vì tốp phi công lái chiếc trực thăng ấy là người Mỹ, thì Smith cũng bỏ mặc chứ đâu thèm tìm kiếm? Mà thôi! Nói để anh biết vậy, chớ không liên quan gì đến tôi. Nào, cụng riêng với anh một ly! Mà phải hết đó nghen. Đây là lần cuối. Sau này dù có muốn, tôi với anh cũng không còn gặp nhau nữa đâu.

- Sao thế? Tôi nghĩ là...,

Tôi chưa nói hết câu, ông đã ngắt lời:

- Hôm trước tôi nói với anh rồi. Cùng lắm tháng nữa là tôi giao việc ở đây, nghỉ chữa bịnh. Thủ tục sắp xong, tôi sẽ sang bển với mấy đứa cháu... - Giọng ông đã thấm hơi men.

Ông Thành nhìn tôi gật đầu và nói nhỏ:

- Anh Tùng sắp nghỉ hưu.

- Vậy là hên cho anh đó! Mà cũng hên cho tôi nữa. - Ông Tùng cao giọng - ít ra thì tôi cũng đã có dịp giúp anh. Nếu tôi đi rồi, con Thủy lấy đâu ra trực thăng để bay!

Tôi ấp úng:

- Tôi... biết ơn đại tá nhiều lắm...

Ông cười rộ:

- Hình như anh không quen nói lời khách sáo thì phải? Tôi cũng thích vậy! Con người phải biết đối xử với nhau bằng cái tình. Đến con thú ở rừng còn biết như thế nữa là!

- Quả thực... tôi thực lòng cảm ơn đại tá. Nhưng tại sao đại tá lại làm tất cả những việc ấy? Tôi là người của bên kia cơ mà?

Ông Tùng nhìn ly rượu, ánh mắt tối lại. Chợt ông bưng ly rượu ực cạn, rồi nói mà không nhìn ai cả:

- Nếu nói tôi giúp anh, cũng được! Nhưng đó là giúp theo cách một con người giúp một con người. Tôi không giúp cộng sản? - ông cầm chai rượu rót đều ra các ly, chậm rãi nói tiếp. Hồi trước, mỗi lần nhậu như thế này, ba tôi thường khề khà nói với hai anh em tôi: "Ba nghèo không có chi để lại chỉ dặn các con: làm thằng đàn ông sống ở đời phải biết trọng nghĩa khinh tài..." Lúc đó còn nhỏ, lại tưởng ông xỉn,nên anh em tôi chỉ vâng vâng dạ dạ cho có lệ. Anh biết không... - ông lại nâng ly rượu uống hết, mới nói tiếp - Lớn lên tôi vẫn nhớ lời ba tôi. Nhưng đó là nhớ, chớ hiểu thì không mấy hiểu. Học trung học ở Sài Gòn, dù đói quắt ruột, tôi cũng ráng học thật giỏi cho tụi nhà giàu lác mắt. Nó chê mình nghèo thì được, nhưng không thể để nó khinh mình dốt. Rồi lúc được lựa vô học phi công cũng vậy. Cùng nghề lính, nhưng là lính con cưng, chỉ con cái nhà giàu mới vô được. Tôi tự hào về điều đó và ráng vượt lên để giỏi nghề. Tôi không quên lời ba tôi dặn, chỉ tiếc là đến lúc bạc đầu mới hiểu ra, mỗi lúc một ít... - ông ngừng nói, tay xoay xoay ly rượu, ánh mắt trống trải.

Cô gái láu táu:

- Vậy chỉ cần nghĩa chớ không cần tài, phải không bác?

Ông Tùng nhường mắt nhìn cô vẻ coi thường:

- Mày... còn phải học nhiều cháu ạ! Đừng tưởng dễ như trong mấy tích cải lương đâu nghen! - Rồi ông khề khà - Sống ở đời phải làm người giỏi. Không giỏi tất cả thì cũng phải giỏi trong nghề của mình. Nhưng quan trọng nhứt là phải đặt cái nghĩa lên trên cái tài, phải biết sống tình nghĩa chớ đừng cậy giỏi. Ngày trước ba tôi làm ruộng sạ lúa cả vùng không ai bằng. Còn má tôi, bà làm món mắm khía ngon nức tiếng, mặc dù ở quê tôi ai cũng biết làm. Vậy cũng là người giỏi! Có điều ba má tôi sống nhân đức lắm! Đến giờ về quê, mấy ông bà già còn nhắc hoài. Chỉ tiếc ông bà đưa nhau đi sớm... Chà chà! "Trọng nghĩa khinh tài"... Hiểu được và sống được như vậy không phải dễ đâu nghen! ông cha ta ngày trước ít học mà thâm thúy lắm...

Câu chuyện cứ thế tiếp tục rỉ rả. Bên ngoài trời bắt đầu đổ mưa. Không phải nhưng cơn mưa trút sầm sập như trên rừng, mà từng giọt, từng giọt lác đác rơi rả rích nhanh dần. Văng vẳng từ xa tiếng rao đêm: "Ai mì...hô...ô...ông...". Gió thổi tiếng rao loang dọc phố vắng, nghe buồn như tiếng chim ăn đêm ở rừng. Giờ này trên kia, chắc con báo đang chạy đi tìm tôi...

Tới khuya ông Tùng mới ra về. Tiễn ông xuống tới phòng khách thì ông bảo tôi quay lui. Tôi bắt tay ông thật chặt:

- Bác cho cháu gửi lời thăm bác gái!

- Cảm ơn anh! - Ông cảm động - Nhưng để anh đi rồi tôi mới nói. Bả biết, lại đùng đùng đòi tới thăm. Lúc này đông người vô ra không tiện cho anh.

- Sau này... - Tôi ấp úng.

Ông hiểu ngay:

- Tôi không chắc có còn gặp lại anh nữa hay không. Nếu anh muốn biết tin tôi thì qua ông Thành. Tôi cũng vậy! - Ông thở dài, trầm ngâm một lúc, định nói gì đó nhưng lại thôi, chỉ bắt tay tôi lần nữa rồi bước đi.

Nhìn qua khe của, thấy xe ông chạy xa dần trên đường khuya vắng vẻ rồi nhòa đi sau những hạt mưa rồi xiên qua ánh điện đường vàng vọt.

Đêm đầu tiên ở đồng bằng, không hiểu vì xúc động hay lạ nhà lạ cảnh mà tôi thao thức mãi. Ngoài kia biển đang động. Tiếng sóng biển ầm ầm nghe vừa lạ vừa quen như vọng lại từ ký ức xa xăm

Chương XXIV

Theo kế hoạch, ông Thành sẽ chở "thằng cháu họ bị sốt rét lâu ngày không khỏi" vào Tam Kỳ tìm thấy thuốc nam. Chúng tôi sẽ đi chừng giữa buổi, lúc trên đường đã đông đúc người xe. Tôi đành tháo rời khẩu súng, dặn Thủy lúc nào thuận tiện đem đi vứt. Không thể mang nó theo, dù tôi rất tiếc bộ kính ngắm.

Ăn sáng xong, ông Thành bảo tôi ngồi đợi để ông đi mượn xe ở nhà người bạn. Cũng chẳng ai xa lạ, đấy là ông Hồng mà tôi đã gặp hôm lên bốc mộ. Thủy bảo nhà ông ở cạnh chợ Đà Nẵng, cách đây mấy dãy phố.

Thủy đang bận việc gì đó trên gác. Tôi ngồi một mình trong phòng làm việc của ông Thành ở tầng trệt. Căn phòng giản dị. Ngoài bộ bàn ghế và chiếc giường xếp tài sản đáng giá nhất là sách. Rất nhiều sách xếp đầy trên mấy chiếc giá che kín tường. Hòn đá hình chậu hoa cạn ông mang trên rừng về được bày trên một chiếc kệ có chạm trổ hoa văn và cẩn xạ cừ kê sát bàn viết. Ngoài cửa sổ, mưa vẫn rơi tí tách. Chốc chốc lại có tiếng xe xích lô lăn lọc cọc qua trước nhà.

Lát sau Thủy bước vào phòng, tay xách chiếc ba lô kiểu của lính ngụy. Cô nói:

- Em chuẩn bị cho anh mấy thứ mang theo, anh coi có hợp không?

Tôi lục ba lô: áo quần, màn, võng dù, chăn dù của lính loại thường gọi là chăn thám báo nhẹ và ấm, bàn chải, thuốc đánh răng, khăn mặt... cùng những thứ lặt vặt khác. Có cả mấy gói kẹo nữa! Chẳng biết cô chuẩn bị từ khi nào?

Giấu nỗi xúc động, tôi càu nhàu:

- Mua kẹo làm gì! Làm như tôi là trẻ con không bằng! Mà... - Tôi lưỡng lự - Toàn đồ mới cả. Giá có mấy thứ cũ thì hay hơn.

- Vậy mà em không nghĩ ra. Để coi... - Cô chọn ra mấy thứ - ... anh xài tạm mùng của em vậy. Cả khăn mặt nữa. Đổi luôn ống kem đánh đăng, cái bật lửa..? Anh cần thêm chi không?

Tôi cười:

- Với tôi thế này là giàu rồi!

Có tiếng xe máy chạy vào cổng. Tôi nhìn ra, thấy ông Thành vừa về tới trên chiếc Honđa nữ. Ông bước vào nhà, giục con gái:

- Coi chuẩn bị đồ cho anh, đến giờ đi rồi đó con? - Và ông bảo tôi - Tôi vừa gặp anh Tám, ảnh hẹn ra đi lúc tám giờ.

- Xong rồi đây ba? Anh Hải, anh mang thêm cái áo len, trời lạnh đó? - Cô đưa tôi chiếc áo len màu nâu dài tay, chắc của ông Thành, rồi ngoảnh sang nói với ông - ảnh đang đau, ba nhớ chạy chậm chậm...

- Ba nhớ rồi! Con lấy cho anh cái áo mưa.

Đúng tám giờ, ông Thành dắt xe ra cổng. Tôi xách ba lô bước lại gần cô:

- Tôi đi đây! Thủy ở lại... mạnh khỏe nghe!

Cô nhìn tôi, đôi mắt đọng nước:

- Anh Hải... anh... không nói chi với em nữa ư?

Như vừa có một đợt sóng cồn trong tim làm nghẹn máu đau nhói, tôi nói mà cảm thấy hai mắt cay buốt:

- Thủy... Tôi... muốn nói nhiều lắm, nhưng... để khi nào hòa bình...

- Hòa bình?... Vậy... từ đây tới đó, em không được biết tin anh?

- Tôi sẽ gửi thư cho Thủy... Có đường dây, chắc gửi được - Tôi móc túi áo lấy trang sổ tay có chép bài thơ "Núi đôi" đặt vào tay cô - Thủy cầm để nhớ nét chữ...

- Anh đi... mạnh giỏi, nhớ viết thư... cho em nghen... Cô nói như thổn thức, bàn tay nhỏ nhắn run rẩy trong tay tôi.

- Thủy đừng buồn... chúng ta sẽ gặp lại nhau mà! Tôi buông tay cô, bước vội ra đường.

Mưa lâm thâm ướt láng mặt đường nhựa. Gió lạnh thổi từ biển vào, cuộn những đám mây màu chì buồn bã lướt qua giàn ra đa trên đỉnh Sơn Trà.

Xe đã ra khỏi Đà Nẵng một quãng xa. Tôi vẫn thẫn thờ như người vừa tỉnh giấc mơ, lòng ngẩn ngơ num tiếc vì đã để lại trong mơ một điều gì đó vô cùng quý báu và đẹp đẽ mà lâu nay mình hằng khát khao. Tiếng máy xe nổ đều đều. Những cánh đồng, những xóm làng xa lạ nối nhau lùi về phía sau. Cảnh vật hiện ra mờ nhạt. Trước mắt tôi lúc này hầu như chỉ có đôi mắt đen ngân ngấn nước đăm đăm nhìn tôi như dò hỏi, như trách móc, như chờ đợi mong mỏi. Tôi biết là Thủy yêu tôi, và tới giờ tôi mới hiểu rằng mình đã ao ước được yêu Thủy như chưa bao giờ từng ao ước một điều gì trên đời như thế. Nhưng chiến tranh còn dài, liệu sau này có còn sống để đền đáp tấm lòng của Thủy? Tôi rưng rưng nước mắt, lòng cồn cào niềm thương nhớ lẫn day dứt. Mình ra đi như chạy trốn...

Một chiếc Suzuki lướt vèo qua làm tôi giật mình. Ông Thành vừa nói gì đó nhưng gió tạt đi nên không nghe được. Tôi ghé sát tới hỏi:

- Bác vừa bảo gì ạ?

- Trên chiếc "Su" vừa rồi là người của anh Tám đó!

- Sao bác biết?

- Lúc sáng anh ấy có dặn số xe. Anh thấy chiếc "sáu bảy" đằng sau kia không? Anh Tám đi chiếc này.

Tôi nhìn qua gương chiếu hậu, quả nhiên thấy chiếc Honđa nam đang bám theo lúc xa lúc gần. Mình vô ý quá! Nãy giờ nếu có địch theo dõi chắc cũng không biết. Cố nén mọi xốn xang, tôi hướng suy nghĩ vào hiện tại. Tam Kỳ? Tôi hình dung trong đầu khúc bản đồ miền Trung và nhớ nó nằm gần những căn cứ quân sự của Mỹ: Núi Thành, Vạn Tường, Chu Lai... Những địa danh dễ nhớ vì gắn liền với những trận đánh diệt Mỹ nổi tiếng. Không biết còn bao xa nữa? Mấy cột cây số vừa thấy chưa có chỉ Tam Kỳ.

Dọc hai bên đường ít thấy dấu vết bom đạn như ở ngoài quê tôi, nhưng hình ảnh chiến tranh vẫn hiện ra rõ nét ở những cứ điểm quân sự chằng chịt dây thép gai. Trên đường, mấy chiếc xe đò chở khách chạy khép nép khi gặp xe nhà binh. Xe jeep lao như tên bắn, xe GMC chở lính chạy rầm rầm, có cả một đoàn xe chở những nòng pháo "Vua chiến trường" dài thượt chạy rung mặt đường.

Suốt cả chặng dài, chúng tôi không gặp sự kiểm soát nào. Lúc vượt qua cột cây số có ghi "Tam Kỳ - 2km". Ông Thành cho xe chạy chậm lại rồi rẽ vào con đường đất phía bên phải.

Hơn mười một giờ trưa, chúng tôi tới một xóm nhỏ nhà cửa thưa thớt nằm ven mấy quả đồi thấp. Ở đây cách quốc lộ Một khoảng mười cây số.

Nhà già Lý ở rìa xóm cách xa các nhà khác. Đang loay hoay với giàn bí trước nhà, thấy chúng tôi đến, già chạy ra mừng rỡ:

- Trời đất! Tôi nóng ruột từ sáng tới giờ. Sao vô trưa quá vậy?

- Anh Hải đang đau nên tôi không dám chạy nhanh. - Ông Thành trả lời.

- Anh bị sao?... Vậy hả? Hèn chi ốm quá trời? Thôi vô, vô nhà nói chuyện. Để rồi tôi đi bốc cho anh mấy thang thuốc, sắc uống khỏi liền à! - Già Lý vồn vã nói, kéo tay tôi dẫn vào nhà và ghé miệng nói nhỏ: Thằng Nghĩa đang đợi anh trong buồng. - Ông mở cửa gian buồng phía trái căn nhà đẩy tôi vào, nói tiếp - Hai anh em ngồi nói chuyện, tôi ra trước trông chừng".

Một người đàn ông mặc bộ bà ba đen đang ngồi bên bàn, thấy tôi vào đứng dậy bắt tay tôi:

- Chào anh Hải. Tôi đợi anh từ sáng tới giờ...

Anh Nghĩa ngồi với tôi tháng mười phút. Anh cho biết vừa có tin địch đổ quân phục kích ở một điểm trên đường lên cứ, ta đang kiểm tra lại. Vì vậy tôi sẽ phải chờ đây tới chiều mai mới có người tới đón.

- Nơi đây gần địch nhưng yên, xung quanh toàn cơ sở của ta. Anh coi đó, tôi vẫn đi về được giữa ban ngày. - Anh khẽ cười, nói tiếp - Đúng ra có thể đưa anh đi từ Đà Nẵng, nhưng trên chọn đường dây này vì cha tôi quen biết gia đình bác Thành. Nếu bố trí cho Đà Nẵng móc nối sẽ mất nhiều thời gian kiểm tra thử thách để tin nhau. Mà việc đưa anh đi chủ yếu là nhờ bác ấy và cô Thủy...

Anh dặn tôi một số cách xử trí trong trường hợp bất trắc rồi quảy quả đi ngay.

Nhà của già Lý là một ngôi nhà nhỏ ba gian tường gạch mái lợp tranh. Trong nhà đồ đạc đơn sơ. Trên bộ bàn thờ kê ở gian giữa, có ảnh người con trai mặc quân phục lính ngụy, đeo lon hạ sĩ. Chính cái cậu mà hôm trước già lên bốc hài cốt. Thấy tôi chăm chú nhìn bức ảnh, già nói như thanh minh: "Thằng Nghĩa bảo tôi đặt bức này, linh tráng có vô soát nhà, chúng cũng nể..."

Sau mấy phút thăm hỏi, già Lý bảo:

- Thằng Nghĩa nó báo với tôi hơn tuần nay rồi, vậy là ngày nào tôi cũng mong anh. Anh cứ yên tâm nghỉ cho khỏe. Vô đây... - Ông dẫn tôi vào căn buồng nhỏ ở gian bên trái - Anh nghỉ trong này. Ở đây làng lính ít tới. Bà con rối xóm theo đằng mình cả. Nhưng anh cũng không nên đi ra ngoài. Nếu có ai hỏi thì nói là... - Ông bàn với tôi cách thức đói phó trong những trường hợp cần thiết.

Trưa đó già Lý tự tay làm thịt gà đãi tôi với ông Thành. Lúc ăn cơm, tôi mới biết trong nhà chỉ có già với đứa cháu gái chừng chín tuổi, là con của người con gái lấy chồng ở làng bên. Cháu tên là Linh, tuy còn nhỏ nhưng rất ngoan và linh lợi.

Khoảng hai giờ chiều ông Thành ra về. Trước khi đi, ông ôm lấy tôi, rơm rớm nước mắt:

- Anh đi mạnh khỏe! Nếu có dịp, nhớ nhắn tin cho tôi với con Thủy. Ra ngoài đó nếu gặp chú Nguyên, nhờ anh kể lại mọi chuyện về tôi, về thằng Trà con Thủy cho chú ấy biết. Tôi gởi thư không tiện. Mà thư cũng đâu nói hết được... Anh nói là gần ba chục năm nay, tôi trông tin chú ấy từng ngày từng giờ... Thôi tôi về. Anh cứ ngồi yên trong nhà, đừng ra...

Ông buông vai tôi, hấp tấp bước đi. Tôi lắng nghe tiếng xe nổ máy chạy xa dần, lòng bồi hồi khi nghĩ không biết đến bao giờ mới lại gặp ông.

Đến nửa chiều trời lắc rắc mưa. Gió se se lạnh. Cái lạnh ở đồng bằng thật dễ chịu chứ không như ở trên rừng. Tôi ngủ thiếp đi, tai nghe tiếng mưa rơi mà ngỡ tiếng nước rì rào ngoài suôn.

Tỉnh giấc khi có tiếng xe máy và tiếng người trước sân, tôi nhìn đồng hồ thấy gần sáu giờ chiều. Hình như già Lý đang nói chuyện với ai. Lát sau có người nào đẩy cửa bước vào nhà, áo mưa loạt soạt. Nhìn qua khe cửa, tôi bỗng sửng sốt: Thủy! Cô như vừa hiện ra giữa nhà, nước trên áo mưa đang rỏ tong tòng xuống nền đất. Tôi hé cửa buồng bước ra.

- Anh Hải... - Cô kêu khẽ, cặp mắt long lanh, mấy sợi tóc ướt dính bết vào má.

Tối hôm đó, tôi với cô ngồi bên chiếc bàn gỗ trong gian buồng nhỏ nói chuyện đến khuya. Ngoài mái hiên nước mưa rơi giọt ngắn giọt dài. Gió lùa từng cơn, rung lạc xạc những tàu lá chuôi. ánh đèn dầu soi bóng cô rung rinh trên vách nhà.

Mải mê câu chuyện, tôi kể cho cô nghe về quê mình, về những kỷ niệm thời thơ ấu, chuyện cô bạn học ngày nào cùng con đường đồi nở đầy hoa sim tím...

- Chuyện cũng... giông giống như trong bài thơ ấy, phải không anh?

- Thơ nào?

- Bài thơ anh đưa em hồi sáng đó! Đây nét - Cô chìa ra trang sổ tay của tôi.

- Làm gì có! - Tôi kêu lên - Làm sao được như trong thơ? Hơn nữa, tôi với Hường lúc đó chưa dám nói gì với nhau, còn trong thơ thì viết: "Mới ngỏ lời thôi đành lỡ hẹn..."

- Khúc sau còn dài không anh?

- Dài lắm!

- Anh chép hết cho em! - Cô hăm hở móc túi xách lấy ra cây bút và cuốn sổ.

Tôi bối rối. Nếu thư thả cũng nhẩn nha nhớ ra được, nhưng lúc này còn tâm trí đâu nữa! - Tôi... không nhớ hết. Để chép cho Thủy mấy câu cuối, còn lại sau này tôi chép nốt được không?

- Nhớ nghen! Em chờ đó.

Tôi chép cho cô khổ thơ cuối: "Anh đi bộ đội sao trên mũ..." Mấy câu này tôi rất thích nên nhớ như in trong đầu.

Cô cầm sổ lên đọc, tư lự một lúc mới nói:

- Mấy câu thơ thiệt hay, nhưng sao có cảm giác buồn buồn. Vậy là hai người không gặp nhau phải không anh?

- Ừ! Người con trai đi chiến đấu nơi xa. Còn ở quê, cô gái vào du kích và vẫn một lòng chờ đợi. Bảy năm sau, lúc hòa bình lập lại, anh bộ đội trở về thì cô gái đã hy sinh, chỉ còn tên trên tấm bia mộ liệt sĩ. Anh nhìn lên hai ngọn núi vẫn đứng bên nhau và khóc: "Núi vẫn đôi mà anh mất em..."

Cô chớp chớp mắt, nói như thì thầm:

- Tội ghê anh ha! Em không ngờ thơ viết về chiến tranh mà lại lãng mạn và xúc động đến vậy... Nhà thơ giỏi thiệt!

- Tất nhiên rồi! Phải giỏi mới làm được thơ hay. Nhưng xúc động nhất chính là vẫn có những mồi tình trong sáng đẹp đẽ như thế trong khói lửa đạn bom... - Tôi nói hào hứng như được gọi lên trong giờ giảng văn.

- Vậy đó! Còn anh thì lúc nào cũng "Chiến tranh còn dài, không biết sống chết thế nào..."

Tôi chưng hững:

- Tôi nói khi nào?

- Mới hồi đó! Lúc em hỏi, tại làm sao mà anh không viết thư cho chị Hường.

- À... ờ... thì...

- Cả lúc chiều nữa, anh nói với ba em!

Chẳng còn biết nói sao, tôi ngồi sững, mắt nhìn hút vào cô như bị thôi miên. Câu chuyện từ đầu tới giờ, chẳng qua chỉ để lấn át một điều gì đó cứ chực bùng lên trong lòng tôi. Nhưng lúc này trong tôi đang có sự biến đổi khác lạ, một sự biến chuyển mơ hồ nhưng mạnh mẽ, tựa như hạt cây tự tách lớp vỏ cứng để nhú mầm.

- Anh nhìn chi em mà nhìn dữ vậy? - Cô ngượng ngùng hỏi, đôi má ửng đỏ.

Hình như những lúc như thế này, người ta phải nói một câu gì đó văn hoa bóng bẫy, rất dài và rất hay, gọi là để "tỏ tình", nhưng tôi chịu chả nghĩ ra được câu nào như thế. Lí trí đã nép vào một góc cho tình cảm trào lên. Tôi nhìn thấy trong mắt cô đang ngời lên ánh lửa kỳ lạ, không biết rằng trong mắt mình cũng ngời ngời ánh lửa đó, ánh lửa trong mắt của những người đang ao ước yêu đương. Như bị hút, tay chúng tôi hồi hộp tìm nhau. Không còn là cái bắt tay như những lần trước, lúc này là sự đụng chạm của hai luồng điện trái dấu làm tóe ra tia lửa đốt cháy bùng lên ngọn lửa rừng rực khát khao. Một làn sóng nóng ấm tràn khắp người khiến tôi bồng bềnh trong cảm giác rạo rực êm dịu. Tâm hồn tôi đang quay theo vòng quay của vũ trụ và máu thịt rung động theo quy luật của tạo hóa. Ngoài kia mưa đã thôi rơi, gió cũng ngừng thổi, trong không gian im ắng tĩnh lặng chỉ còn nghe tiếng hai trái tim đập thình thịch. Rất gần trước mắt tôi là đôi hàng mi cong khép hờ, vành môi hơi hé mở chờ đợi, hơi thở dồn dập nóng rực và mùi hương con gái nồng nàn...

Đột ngột, có tiếng chó sủa dội màn đêm. Khoảng không gian trong căn buồng nhỏ như bị đóng băng, hai đứa tôi cứng người ngồi lặng. Những đợt sóng tiếng người tôi lắng nhanh xuống, các giác quan căng ra theo phản xạ.

Trước sân, con chó đã thôi sủa, chỉ còn rít ư ử. Có tiếng chân người và tiếng thì thào. Tiếp theo là tiếng cửa mở nhẹ. Gió lùa ngọn đèn dầu run rẩy. Thủy níu cứng lấy tay tôi.

- Anh Hải... - Tiếng già Lý gọi nhỏ.

- Dạ... - Tôi gỡ tay cô, đứng dậy.

Anh Nghĩa lách người qua cửa bước vào và nói ngay:

- Có chuyện rồi! Cơ sở báo địch đang tập trung quân dưới xã, sắp lùng lên xóm này. Anh phải di chuyển ngay.

Tôi vội vã xếp mọi thứ bỏ vào ba lô và soi đèn kiểm tra lại lần nữa quanh buồng. Lúc ngẩng lên, thấy Thủy đứng lặng nhìn tôi trân trân. Dưới ánh đèn chập chờn, trong mắt cô như có những giọt nước đang xao động.

Tôi nắm tay cô:

- Thủy nói với bác là tôi đã đi rồi. Nhớ ra sớm kẻo bác trông...

- Anh Hải...

Cô kêu lên, gục đầu vào vai tôi khóc rưng rức. Những giọt nước mắt thấm bên vai tôi nóng bỏng.

- Thủy đừng khóc... - Tôi nghẹn ngào quất mái tóc dày - Thế nào cũng có ngày tôi về chép hết bài thơ ấy cho Thủy...

Cô dụi mắt trên vai áo tôi, ngẩng đầu lên:

- Em... không khóc nữa đâu! Anh đi... mạnh giỏi, em chờ. Lâu mấy... em cũng chờ được mà...

Tôi bóp nhẹ bàn tay cô, khoác ba lô lên vai bước vội ra cửa. Già Lý và anh Nghĩa đứng đợi ở sân. Già nhét mấy gói giấy vào ba lô tôi và dặn:

- Có mấy thang thuốc, anh lên trên đó chịu khó sắc uống cho mau lành. Con Thủy nó cứng cỏi lắm, anh đừng lo!

Tôi xúc động chia tay già Lý rồi cùng anh Nghĩa ra đi. Ở cổng có mấy đồng chí bộ đội địa phương đang chờ.

Đêm ấy mưa bay lất phất, gió đông bắc lạnh lẽo hun hút lùa qua những dãy đồi hoang. Lần đầu tiên tôi đi qua vùng giáp ranh mà không có khẩu súng trong tay, và những giọt nước mắt cứ ấm mãi bên vai trên suốt quãng đường gập ghềnh lên chiến khu. Tôi hiểu rằng qua mỗi chặng đường đời ta không chỉ học được những điều khôn, biết thêm nhiều chuyện lạ, mà còn mang theo nặng trĩu trong lòng niềm thương nỗi nhớ những miền đất nơi mình từng sống chiến đấu những con người mình gắn bó yêu thương.

Hai ngày sau, chúng tôi lên tới một khu căn cứ ở miền tây Quảng Nam. Người đầu tiên tôi gặp là anh Hai Nguyên, anh ra đón tận ngoài cửa rừng.

"Các anh ấy không về nữa...", tôi chỉ nói được có vậy rồi ôm lấy anh, òa lên khóc như một đứa trẻ

Chương XXV

- ...Lúc đó mình đang ở Quảng Trị. Nhận được tin từ trong này báo ra có một chiến sĩ Giải phóng lạc trong rừng, đã sống hai năm ở vùng rừng ấy, mình nghĩ ngay đến TK1 nhưng không đoán được cậu nào còn sống. Mình điện ra Hà Nội xin phép và tức tốc vào đây. Đến nơi, vừa lúc cậu Nghĩa mang thư anh mình lên, rồi tiếp sau là thư của cậu. Cậu không thể tưởng tượng được mình đã mừng đến mức nào... Nghĩa kể cho mình nghe về anh mình, về con Thủy. Không ngờ việc liên lạc với TK1, công việc mà hai năm nay nhiều người đã đổ mồ hôi công sức và cả máu nữa, vẫn chưa làm nổi, thì người anh mình và đứa cháu lại giúp được một cách hết sức bất ngờ...

Anh Hai Nguyên nói đều đều, nhưng ánh mắt anh nhìn tôi đầy xúc động. Qua lời anh tôi được biết: Sau TK1, đã có ba toán TK nữa lên đường. TK2 xuất phát đầu năm 1970, nghĩa là sau gần chín tháng không có tin tức gì về tổ tôi. Họ đi theo đường tây Trường Sơn, tới ngang vĩ độ của vùng tìm kiếm mới ngoặt về hướng đông. Hai tháng lần mò trong rừng, họ không vượt qua được những dãy núi hiểm trở phía đất Lào, đành phải quay lại. Khi về tới một đơn vị bộ đội vận tải, một người đã chết vì sốt rét ác tính. Sau đó ít tháng, toán TK3 đi từ hướng đông lên, có một thanh niên người dân tộc dẫn đường. Toán này biệt tăm tích. (Về sau lần theo đường đi của họ đến một quả núi lở thì mất dấu vết. Có thể họ đã bị chôn vùi trong vụ lở núi. Năm đó mùa mưa tới sớm...) Toán TK4 lên đường đầu năm 1971, theo con đường TK1 đã đi. Ngoài mục đích chính, TK4 còn có nhiệm vụ tìm kiếm tung tích tổ tôi. Nhưng xe chở họ bị phục kích trên đường vào khe Trầm, hai đồng chí hy sinh và một bị thương. Lúc này các toán trinh sát của địch đang ráo riết hoạt động, chuẩn bị cho cuộc hành quân "Lam Sơn 719".

Anh Hai Nguyên cùng bộ phận chỉ đạo phải gấp rút thành lập tiếp TK5, dự định hết mùa mưa năm nay sẽ ra đi. Công việc đang tiến hành khẩn trương thì nhận được tin về tôi. Cùng với các đồng chí ở Quảng Nam, anh tôi chức một đường dây nóng để đưa tôi về. Đến lúc này tôi mới biết việc đón tôi xuống Đà Nẵng bằng trực thăng là do Thủy đề xuất...

- ...Khi TK2 thất bại trở về, - Anh Hai Nguyên nói tiếp - tức là một năm sau ngày tổ cậu ra đi, mình đã nghĩ các cậu hy sinh cả rồi. Cậu còn sống sót và trở về được là một điều kỳ diệu nằm ngoài mọi dự đoán và chờ đợi.

- Em còn sững là nhờ các anh ấy? - Tôi nói, không ngăn nổi những giọt nước mắt - Nếu không phải em mà anh Đằng hay anh Hùng còn sống, các anh ấy đã về được sớm hơn...

- Mình hiểu cậu muốn nói gì, - Anh Hai Nguyên chớp chớp mắt - nhưng cậu cũng đã làm hết khả năng của mình. Trong công việc này cũng như mọi công tác khác của Cách mạng, không chiến công nào là của riêng ai. Những thành viên trong các toán TK đều là những chiến sĩ ưu tú được lựa chọn từ nhiều đơn vị. Sự hy sinh của họ là tổn thất lớn, là cái giá quá đắt mà ta phải trả khi tiến hành kế hoạch tìm kiếm...

Trong suốt hai ngày, tôi báo cáo với anh Hai Nguyên về tất cả những gì mà TK1 đã làm từ khi ra đi cho đến nay. Nói báo cáo cũng được, mà nói kể lại cũng vậy. Ban ngày chúng tôi ngồi bên chiếc bàn nứa để anh có thể ghi chép, còn đêm đến thì mắc võng chụm đầu vào cây cột giữa lán nằm nói chuyện. Cũng như đêm nào ở Bãi Hà, nhưng lúc này chỉ còn hai cánh võng.

Đêm nay tôi kể với anh về bác Thành và hai người con. Suốt từ đầu tới giờ, anh chỉ nghe chứ chưa nói gì. Khi tôi nói hết những điều bác Thành dặn trước lúc chia tay thì đêm đã khuya. Bên ngoài trời vẫn mưa mãi. Thỉnh thoảng lại có ngọn gió rung tán cây làm những giọt nước rụng lộp độp xuống mái lán lợp bằng nứa. Đống lửa giữa lán cháy bập bùng hắt lên những mảng sáng tối chập chờn, khiến cho những nếp nhăn trên khuôn mặt anh lúc như giãn ra, lúc như hằn sâu thêm.

Nghe xong chuyện, anh vẫn nằm im lặng. Hồi lâu sau mới nghe anh thở dài và nói với tôi:

- Vậy đấy! Chỉ một cái gia đình nho nhỏ của mình mà đã xẩy ra bao chuyện, huống chi cả đất nước này! Chiến tranh làm cho nhiều nhà ly tán cả trong tư tưởng, tình cảm! Này... - Anh chợt nhỏm dậy, ngồi trên võng nhìn tôi chằm chằm - Tớ hỏi thật, cậu yêu con Thủy phải không?

- Em... nhưng sao anh biết?

- Hà! Cứ nghe cách cậu kể chuyện là biết!

- Em... em chưa nói gì với Thủy.

- Cần gì phải nói! Không nhất thiết cứ phải nói ra thành lời mới là yêu. Về con Thủy thì rõ rồi! Nếu không có tình yêu chắp cánh, chỉ bay bằng động cơ trực thăng, làm sao nó tới được với cậu giữa rừng sâu?

- Em cũng hiểu là Thủy yêu em, và Thủy chờ đợi em nói ra tình cảm của mình. Nhưng em không thể...

- Vì sao? Cậu ngại lý lịch phải không?

- Em không hề lo như vậy. Nếu nói yêu nhau mà còn so đo tính toán đến một điều gì khác, kể cả lý lịch đi nữa, thì chưa phải là yêu. Hơn nữa, Thủy là người tốt. Những việc cô ấy làm đã chứng minh điều đó. Dù lớn lên trong đó, nhưng Thủy vẫn trong sáng trong cách nhìn nhận. Và cô ấy đã đến với Cách mạng bằng tấm lòng trong sáng của mình.

- Đến với Cách mạng, hay chỉ đến với cậu? Hoặc để tìm tôi người chú của nó? Cậu không nghĩ rằng đấy là những tình cảm riêng tư sao?

Nhìn ánh mắt chăm chú của anh, tôi hiểu anh hỏi cốt để tôi nói ra những suy nghĩ của mình. Vì vậy tôi mạnh dạn nói:

- Những tình cảm lớn cũng bắt đầu từ những chuyện riêng tư như vậy. Đến với Cách mạng bằng con đường dó là sững thật với chính mình, và là sự gắn bó bền chắc. Chứ ngay từ đầu mà đã hô khẩu hiệu thì...

- Cậu khá lắm! Nhưng dù sao cũng phải xác minh thêm. Một cô gái có anh là trung úy phi công ngụy đã từng có chiến tích bắn giết Quân giải phóng và bị Quân giải phóng bắn chết; bản thân cô ta là phi công trực thăng, được một đại tá ngụy đỡ đầu, từng đi học sáu tháng ở Mỹ, học lái trực thăng hay còn học gì nữa? Chưa biết! Chỉ cần mấy nét lý lịch như vậy, liệu có tin được không? Cậu là lính an ninh cơ mà, còn lạ gì nữa!

- Anh không nghĩ tới những việc cô ấy đã làm ư?

- Sao lại không? Nhưng cũng phải nghĩ, liệu địch có âm mưu gì trong chuyện này? Biết cậu ở trên đó với một công tác đặc biệt, nhân việc cậu gặp gỡ với con Thủy mà bố trí cho nó tạo lòng tin với cậu, với tổ chức để tính kế về lâu dài... Rất lôgíc, phải không?

- Cách phân tích như vậy là đúng, nhưng đó chỉ là lối tư duy máy móc.

- Lối tư duy đó sai chỗ nào?

- Không phải sai! Nó vẫn rất cần thiết, nhất là để ta có cách nhìn nhận khái quát vấn đề. Nhưng đánh giá về một con người mà chỉ như thế thì chưa đủ...

- Cậu cứ nói tiếp đi!

- Em không biết phải... diễn đạt thế nào... Nhưng ví như lời nói của một người, nếu viết ra giấy, khi đọc lên có thể khác hẳn so với khi được nghe chính người đó nói. Lúc đó, ta không chỉ nghe mà còn cảm nhận được từ ánh mắt, nét mặt, giọng nói..., từ đó đánh giá đúng suy nghĩ và tình cảm của người nói. Cho nên về Thủy, nếu chỉ đọc trên những nét lý lịch tuy có thật nhưng khô khan ấy thì có thể nghĩ như vậy. Nhưng em đã tiếp xúc với cô ấy, em hiểu!

Anh Hai Nguyên nhìn tôi, ánh mắt lấp lánh:

- Mình cũng tin như cậu. Nhưng còn những người không có điều kiện tiếp xúc? Trong trường hợp đó vẫn phải suy nghĩ theo lôgíc, vẫn phải kiểm tra lại. Có thể thừa, nhưng không được bỏ qua.

- Để làm gì ạ? Dù sao em cũng đã về đến nơi, còn Thủy vẫn ở lại trong đó...

- Tất nhiên không phải xác minh cho cậu cưới vợ. Chưa tới lúc, đúng không? Còn để làm gì, sau cậu sẽ biết!

Tia mắt hóm hỉnh của anh làm mặt tôi nóng bừng.

Sáng nay anh Hai Nguyên đi công tác, dặn tôi ngồi nhà viết báo cáo. Tôi biết anh vẫn đang lo những việc có liên quan đến số vàng, vì hôm trước anh có nói thời gian này anh được lệnh chỉ tập trung vào chuyện đó.

Tôi viết bản báo cáo chỉ hơn hai trang giấy, thêm bản sơ đồ nữa vừa chẵn ba trang. Liệu ngắn gọn quá không? Nhìn mấy trang giấy vừa viết, tôi ngần ngừ hồi lâu. Không, như thế đủ rồi! Những việc chúng tôi làm được, những điều tôi phải chịu đựng trong hai năm rưỡi qua chỉ là ít ỏi và nhỏ bé so với những gì mà hàng triệu người khác đã làm trong cùng thời gian, chỉ là một công việc bình thường trong chiến tranh.

Tối đến, anh Hai Nguyên đọc bản báo cáo và đăm chiêu suy nghĩ. Mãi chẳng thấy anh nới gì, tôi lo quá! Hẳn có điều gì không ổn. Đắn đo mãi, tôi mới rụt rè nói:

- Anh... cho em viết lại phần kiểm điểm...

Anh ngẩng lên hỏi:

- Cậu định kiểm điểm thêm về chuyện gì?

- Em... thời gian ở trên ấy, em làm nhiều việc lộ bí mật nên địch nghi ngờ.

- Cái đó cũng có. Nhưng cậu nên nhớ rằng, chúng ta phải chấp nhận thực tế khách quan, việc gì phải đến thì sẽ đến. Và kiểm điểm khác với xưng tội. Không phải cứ nhận hết mọi lỗi về mình là thành khẩn, là dũng cảm. Nhưng thôi! Giờ cậu kể lại cho mình nghe lần nữa những chi tiết có liên quan đến John Smith...

Nghe xong, anh Hai Nguyên ngẫm nghĩ một lát rồi nói với tôi:

- Hồi giao nhiệm vụ cho TK1, mình đã đề cập tới một nhân viên CIA, chắc cậu còn nhớ? - Thấy tôi gật đầu, anh nói tiếp - Chính Smith đó! Ta đã có một số tài liệu về hắn. Smith là nhân viên tình báo Mỹ hoạt động nhiều năm ở Philippin, Hồng Công, Đài Loan, rồi đến Nhật Bản trước khi sang Việt Nam vào năm 1968. Hiện y đang phụ trách một mảng của kế hoạch hậu chiến, mà việc này hầu như không liên quan gì đến vùng rừng cậu ở. Nếu kết hợp những tài liệu tình báo ta nắm được và tin tức của cậu, thì có thể nghĩ rằng việc làm của Smith mang tính chất cá nhân. Có thể Smith biết về chiếc máy bay chở vàng từ một nguồn nào đó và lén lút tìm mọi cách để tìm kiếm nó. Nhưng muốn kết luận chính xác, đòi hỏi phải có thêm thông tin và cần có thời gian. Điều đáng lo nhất là y và kẻ địch nói chung, còn làm gì trên đó sau khi cậu đi rồi? Ta phải trở lại càng sớm càng tốt để thu hồi số vàng. Cách cậu giấu như thế là kín đáo, chúng khó phát hiện ra được. Nhưng nếu ta lên đến nơi, đào vàng lên và rơi vào ổ phục kích của địch, hậu quả sẽ không gì cứu vãn nổi. Chỉ cần chúng cài sẵn một cái máy gián điệp kiểu như "cây nhiệt đới", thì sau khi ta tới chưa đầy một giờ đồng hồ, địch đã có thể đổ quân xuống.

Tôi băn khoăn:

- Giá em ở lại trên đó, chỉ gửi tin về...

- Không được! Dù tin tưởng ở con Thủy, cũng không thể viết chi tiết để gửi về. Mà như vậy, ở nhà cũng không tính toán được kế hoạch cụ thể. Với chừng ấy vàng, đâu chỉ vài toán TK là mang vác về được? Mình đã đề nghị trên chỉ đạo bên tình báo bám sát John Smith. Còn cậu với mình ngày mai phải ra Quảng Bình. Ở ngoài đó mới có điều kiện chuẩn bị cho kế hoạch tiếp theo. Ta sẽ lên trên ấy bằng trực thăng.

- Trực thăng - Tôi kinh ngạc kêu lên.

- Chứ sao! Rất phức tạp để bay được đến nơi và bay về, nhưng chỉ có cách đó thôi. Cậu nghĩ gì mà thừ người ra vậy? Đang nhớ tới con Thủy phải không?

Tôi bẽn lẽn thú nhận:

- Anh tài thật! Em đang nghĩ nếu có Thủy, và nếu ông Tùng còn đương chức, ta có thể tổ chức một chuyến bay như vừa rồi, nhưng lần này sẽ bay thẳng ra Bắc. Trước đây ông Tùng có gợi ý là để Thủy chở em ra tới một vùng giáp ranh nào đó.

- Cũng là một kế hoạch hay nhưng muộn rồi. Giá ta nắm bắt được diễn biến tư tưởng của ông Tùng sớm hơn, sẽ tận dụng được nhiều cơ hội chứ không chỉ trong chuyện này đâu.

- Chuyện về ông Tùng, em thấy thật lạ!

- Nói như ông anh mình mà cậu đã kể thì đây là một trường hợp đặc biệt. Nhưng cũng có gì khó hiểu. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của chúng ta đã khá dài, đủ thời gian để thức tỉnh nhiều con người như ông Tùng. Dù trước đây có lầm lạc, nhưng nếu còn nhớ tới cội nguồn, còn gắn bó với quê hương, trước sau gì những con người như vậy cũng nhận biết được đâu là lẽ phải. Ngay cả một số lính Mỹ tham chiến ở Việt Nam cũng nhận ra điều đó, huống chi người Việt mình! Cho nên chuyện về ông Tùng không có gì đáng ngạc nhiên. Trong những chuyện cậu đã kể cho mình, cậu có biết lạ nhất là chuyện gì không?

- Anh muốn nói tới chuyện tổ em chạm súng với thằng Trà?

- Đó cũng là chuyện lạ, nhưng xẩy ra nhiều rồi! Nói đâu xa, ngay gia đình cậu Nghĩa đấy thôi! Hai anh em ở hai phía, đụng nhau là bắn nhau chí tử, cách chi đừng được?

- Thế việc gì ạ?

- Chuyện cậu sống một mình trong rừng mà tình yêu vẫn đến!

Tôi đỏ mặt:

- Nhưng em đâu cố tình...

Anh Hai Nguyên bật cười:

- Ai lại nói "cố tình yêu" hay "vô tình yêu" bao giờ! Thực ra, có những việc tưởng ngẫu nhiên nhưng lại là kết quả của một quá trình lôgíc. Trong chuyện này cũng vậy thôi! Nếu cậu không chôn cất tử tế thằng Trà cùng mấy đứa chết trên chiếc trực thăng ấy, nếu cậu không rộng lượng với toán lính con Thủy chở lên, và cả với nó nữa, thì nó đâu có đến với cậu? Chính lòng nhân ái đã kéo hai đứa lại bàn nhau, hiểu nhau, và sau này gì gì nữa thì tùy cậu với nó. Còn trước mắt, cậu lo cho mình kế hoạch đổ bộ. Không phải ngay lúc này đâu. Cứ suy nghĩ, ra tới Quảng Bình viết thành phương án cụ thể. Nhớ là phải tính toán mọi tình huống có thể gặp, và chi tiết tới từng động tác của mỗi người từ lúc máy bay hạ xuống, cho đến khi nó bay lên. Những phần khác có người khác lo, được chứ? Thôi, bây giờ ngủ đi? Mai ta lên đường sớm...

Ra tới Quảng Bình, anh Hai Nguyên đi tiếp ra Hà Nội, còn tôi phải vào bệnh viện. Chỗ bị đánh bên sườn tuy không còn đau, nhưng nó phồng lên tím ngắt. Phải mổ để lấy cục máu đông trong đó.

Một tuần sau tôi ra viện. Người đón tôi là đồng chí thiếu tá hôm nào đã đưa chúng tôi vào khe Trầm. Nhìn anh hồi lâu tôi mới nhận ra. Không phải vì hôm nay anh không đeo cấp hàm, mà vì trên mặt anh có một vết sẹo dài mới lên da non chạy từ má tới thái dương. Anh bị thương trên đường đưa TK4 vào khe Trầm.

Tôi làm phương án đổ bộ, vẽ sơ đồ và đắp sa bàn bằng đất sét. Mấy hôm sau thì anh Hai Nguyên vào tới, cho biết trên đồng ý với kế hoạch đổ bộ bằng trực thăng, gọi tắt là kế hoạch TK. Anh không giải thích, nhưng tôi nghĩ chữ TK lúc này có nghĩa là "Tổng kết việc tìm kiếm", tức là chỉ một lần nữa thôi, và không được phép thất bại.

Lực lượng đổ bộ cũng được đưa tới, đó là năm chiến sĩ trinh sát của bộ đội đặc công. Họ đều trẻ khỏe, người lớn tuổi nhất chỉ bằng tuổi tôi. Tất cả đều được huấn luyện cẩn thận để tác chiến ở địa bàn rừng núi và đã trải qua chiến đấu. Tôi là người dẫn đường khi đến địa điểm đổ bộ. Đồng chí thiếu tá làm trưởng đoàn. Lực lượng hơi ít, nhưng tải trọng máy bay có hạn. Chúng tôi phải mang theo số vũ khí đủ để chiến đấu trong tình huống đột xuất cùng với những trang bị cần thiết, và lúc về sẽ còn nặng hơn. Riêng hai phi công và máy bay chưa vào. Họ đang bay tập ở một vùng rừng núi nào đó có địa hình và điều kiện bay tương tự.

Cả tổ trú tại một khu nhà ở ngoại vi thị xã Đồng Hỡi, bốn bề có hàng dương liễu bao quanh. Nơi này trước là cơ sở sản xuất của một xí nghiệp cơ khí đã bị bom đánh sập gần hết, chỉ còn lại mấy gian phòng đầy vết mảnh bom. Ở đây cách xa khu dân cư. Chính quyền địa phương được thông báo có một tốp bộ đội công binh về trú ở đó để chuẩn bị cho công tác rà phá bom mìn.

Một trong những việc phức tạp là đưa máy bay vào đợi sẵn. Đưa vào đã khó, mà ngụy trang cất giấu một chiếc trực thăng ở cái vùng đã bị bom đạn san thành bình địa này lại càng khó hơn.

Cuối cùng cũng tìm ra địa điểm: đó là cái sân rộng trong khu nhà bảo tàng trước đây của tỉnh. Ở đấy có sẵn hàng chục xác máy bay Mỹ đủ loại được chở về để sau này trưng bày. Chiếc trực thăng được sơn lại như màu máy bay địch, nằm khuất sau những đống xác máy bay và ngụy trang bằng các mảnh vỡ của chúng. Lũ trẻ chăn trâu phàn nàn rằng mấy ông già gác bảo tàng mới đổi về khó tính quá, chẳng đứa nào được bén mảng lại gần leo trèo đùa nghịch như trước. Nghe nói trong đó vừa rồi bị mất trộm. Nhưng bảo tàng sơ tán lâu rồi, chỉ còn lại những hiện vật chiến tranh cồng kềnh, có gì đâu mà mất?

Khác hẳn với lũ trẻ, mấy tốp khách quốc tế đến tham quan đều vui vẻ đứng rất xa nhìn vào vì được thông báo trong một xác máy bay mới chở về có bom chưa nổ, đang tìm cách tháo gỡ.

Theo kế hoạch, lúc tới nơi máy bay sẽ lượn vòng quan sát trước khi đáp xuống bãi cỏ mà Thủy đã đỗ trực thăng hôm lên đón tôi. Sau đó hai chiến sĩ trinh sát mang theo súng máy phòng không lên chiếm lĩnh vị trí cảnh giới ở ụ đại liên. Tôi và ba người khác nhanh chóng lùng sục xung quanh để phát hiện địch phục kích cũng như các phương tiện máy móc chúng cài lại. Bốn người còn lại ngụy trang máy bay và cảnh giới tại chỗ. Khi nào thấy thật sự an toàn mới đào vàng lên chuyển về máy bay.

Để bảo đảm bí mật, tổ đổ bộ không thể luyện tập ngoài thực địa, trừ một số bài vận động chiến đấu chỉ thực hiện vào ban đêm, và cũng rất hạn chế. Vì thế, tôi phải thể hiện thật chi tiết địa hình địa vật nơi đổ bộ trên sa bàn cho mọi người hình dung được từng động tác cần làm. Dưới sự hướng dẫn của đồng chí thiếu tá, toàn tổ tuân theo một chế độ luyện tập hết sức khắt khe, nhất là các bài tập thể lực và vũ thuật mà tôi theo đuổi một cách chật vật. Ngoài ra, để tránh sự tò mò chú ý của người khác, chúng tôi sinh hoạt và làm việc như một đơn vị công binh thật sự, kể cả việc tiếp xúc với dân. Yếu tố bí mật phụ thuộc vào tính tự giác của từng thành viên trong tổ.

Nhưng muốn đổ bộ, trước hết phải bay đến đích. Đó chính là công việc khó khăn nhất. Đường bay dự tính là: Từ Đồng Hới, chúng tôi bay qua tây Trường Sơn rồi căn theo một trục đường của tuyến đường 559 bay về phía nam, tới ngang điểm có cùng vĩ độ với khu vực đổ bộ thì ngoặt sang hướng đông tìm vùng đồi cỏ. Chẳng dễ dàng chút nào khi bay trên một đường bay xa lạ mà không có dẫn đường từ mặt đất cũng không được liên lạc bằng vô tuyến. Hơn nữa, phải bay thật thấp để tránh sự phát hiện của ra đa từ các căn cứ của Mỹ đóng ở Thái Lan lúc bay bên tây Trường Sơn, và từ Đà Nẵng lúc qua đông Trường Sơn. Lại còn các máy bay trinh sát của địch hầu như thường trực trên các trọng điểm. Bay thấp trong điều kiện khí hậu và địa hình phức tạp là mối nguy hiểm không nhỏ. Sự thành công của kế hoạch táo bạo này phụ thuộc vào công tác chuẩn bị, tài nghệ của các phi công và yếu tố bất ngờ. Ngoài ra cần có một chút may mắn nữa. Phi công của ta kinh nghiệm bay trong điều kiện như vậy còn hạn chế. Tôi nhớ tới Thủy và nghĩ rằng nếu có cô lúc này chắc công việc sẽ thuận lợi hơn.

Để giúp phi công định hướng, tại một số điểm cao dọc theo đường bay ở tây Trường Sơn, sẽ có đốt lửa hoặc bắn pháo hiệu vào lúc cần thiết. Một số máy phát vô tuyến cũng được bố trí để phát những tín hiệu quy ước khi máy bay bay qua. Nhận được tín hiệu, phi công sẽ biết mình đang đến khu vực nào. Tuy nhiên vô tuyến trên máy bay chỉ được phát sóng trong trường hợp khẩn cấp và lúc đã về tới vùng trời Quảng Bình. Tại một địa điểm ở phía nam đường Chín có bố trí xe chở xăng chờ sẵn, nếu cần máy bay sẽ xuống tiếp nhiên liệu.

Chỉ sơ qua mấy nét chính cũng đã hình dung ra khói lượng công việc đồ sộ mà anh Hai Nguyên và các cán bộ có trách nhiệm phải lo. Sẽ có hàng trăm người tham gia thực hiện kế hoạch mà phần lớn trong số họ không biết được mục đích cuối cùng của công việc, chỉ biết mình phải hành động như vậy trong thời điểm như vậy và phải thật chính xác. Ấy là chưa kể làm thế nào để thông báo cho các đơn vị bộ đội trên dọc tuyến bay không bắn nhầm vào máy bay ta, nhưng lại phải bảo đảm bí mật ở mức cao nhất. Anh Hai Nguyên nói đùa rằng ta sử dụng phương tiện hiện đại theo kiểu du kích, vì thế mới vất vả...

Nhưng rồi mọi công tác chuẩn bị cũng hoàn tất. Trực thăng cùng các thợ máy và phi công đã sẵn sàng. Chỉ còn yếu tố cuối cùng là thời tiết. Đến bây giờ tôi mới hiểu tường tận thế nào là "thiên thời, địa lợi, nhân hòa". Gió mùa đông bắc liên tục tràn vào đợt này nối đợt khác. Nhiều lúc ở Đồng Hỡi trời quang mây tạnh nhưng bầu trời tây Trường Sơn thì dày đặc mây mù, và ngược lại. Chúng tôi sốt ruột chờ đợi. Càng kéo dài, sự căng thẳng càng tăng lên. Phức tạp nhất là việc giữ bí mật. Vì vậy ngoài thời gian luyện tập, tổ đổ bộ phải thay nhau mang máy móc trang bị đi rà phá bom mìn. Làm thật chứ không phải giả vờ. Cũng tìm bom, cắm tiêu, đào bới, phá nổ... Các chiến sĩ trinh sát đều là những người thành thạo trong nghề, tôi chỉ là anh lính mới đi theo học việc, nhưng nhờ đó cũng học hỏi được khối điều.

Công việc vất vả làm tôi nguôi nhớ Thủy. Nhưng đêm đến, lúc nằm trong chiếc màn của cô, tôi như cảm thấy Thủy đang ở rất gần bên mình... Tôi nhớ lại khoảnh khắc "hóa thạch" của hai đứa tôi và nghĩ: giá như hôm đó chúng tôi "bắt đầu" sớm hơn một chút, hay con chó sủa muộn một chút...

Một buổi chiều vào lúc sẩm tối, tôi cùng anh em trong tổ đang ngồi tán chuyện trước nhà. Đó là những giây phút nghỉ ngơi thật sự sau một ngày căng thẳng. Hôm nay có nắng hửng nên bầu trời trong và nhẹ hơn. Ngày sắp trôi qua, dãy cồn cát ven biển sẫm dần, in những nét cong mềm mại lên nền trời tím lịm hoàng hôn.

Một chiếc Uoát cắm đầy cành lá ngụy trang từ đằng xa tiến lại, lao nhanh qua cổng rồi phanh két ở giữa sân. Ai thế nhỉ? Ở đây không mấy khi có khách, mà lại đến vào giờ này? Chắc có nhân vật quan trọng nào đến thăm.

Cánh cửa xe mở ra. Từ trên xe, một người con gái nhảy xuống chạy ào về phía chúng tôi. Tôi bước lên mấy bước rồi đứng sững lại kinh ngạc. "Trời ôi, Thủy! - Tôi gần như nghẹn thở - Làm sao cô ra được đây?"...

"Anh Hải...!" Cô reo lanh lảnh và lao tới ôm lấy tôi chặt cứng. Tôi không thốt nổi lời nào, chỉ nghĩ rằng mình chưa bị hóa đá vì còn cảm nhận được những giọt nước mắt nóng ấm bên vai và những sợi tóc mềm mơn man trên mặt.

Mấy cậu lính trẻ nín thở chờ đến khi chúng tôi rời nhau ra mới vỗ tay hoan hô vang dậy. Cảnh nhìn thấy như trong phim. Tôi biết mặt mình đang đỏ lựng lên, còn Thủy thì luống cuống lau vội những giọt nước mắt.

- Nè, muốn ôm lính của tôi là phải xin phép đó nghen!

Anh Hai Nguyên xuống xe từ lúc nào, nheo nheo cặp mắt đứng nhìn hai đứa tôi và trêu bằng giọng Nam Bộ đặc sệt.

- Tại cháu mừng quá... - Thủy bối rối chống chế, đôi mắt ngời ngời trên khuôn mặt đỏ bừng.

- Sao cậu không dẫn khách vào nhà mà cứ dửng ngây người ra thế? - Anh Hai Nguyên giục.

Tôi sực tỉnh, vội đưa Thủy đến nơi anh em trong tổ đang đợi:

- Đây là Thủy mà mình đã kể chuyện...

Mọi người tranh nhau bắt tay cô, xôn xao chào hỏi. Sự có mặt của một cô gái trẻ nói giọng miền Nam dễ thương làm cho không khí trong gian phòng đầy vết bom đạn này tươi mát hẳn lên. Đồng đội của tôi đều tỏ ra quý mến và ngưỡng mộ cô. Còn tôi thì khỏi phải kể, đó là những giây phút sung sướng thật sự. Tôi hiểu sự xuất hiện của Thủy là có liên quan đến công việc của chúng tôi, điều mà anh Hai Nguyên đã nói "để sau sẽ biết..." Và như vậy, bằng cách nào đó cấp trên đã thẩm tra và Thủy được tin cậy hoàn toàn khi tham gia công tác đặc biệt này.

Tối hôm đó chúng tôi có cuộc họp nhỏ. Thành phần gồm anh Hai Nguyên, đồng chí trưởng đoàn, tổ lái và Thủy. Tôi được dự với tư cách dự thính vì nội dung cuộc họp chỉ bàn đến kỹ thuật bay. Trong lĩnh vực này, tôi là kẻ "ngoại đạo".

Thủy được thông báo về kế hoạch bay. Cô hỏi thêm những chi tiết về đường bay, về tính năng và các thông số kỹ thuật của trực thăng, và khiêm tốn bàn luận sôi nổi với các phi công của ta. Các anh ấy tỏ ra rất hào hứng và thán phục khi nghe cô trình bày kinh nghiệm bay thấp tránh ra đa, việc xử lý khi gặp điều kiện thời tiết xấu, việc định hướng bay trên địa hình rừng núi... Lúc này cô lại là "cô Thủy chị" như hôm nào bay trên rừng về Đà Nẵng. Tôi chẳng hiểu mô tê gì, nhưng vẫn hết sức hãnh diện khi thấy cô gái "của mình" được mọi người quý mến. Đâu phải riêng tôi, ngay cả anh Hai Nguyên cũng tỏ ra hết sức vui mừng. ánh mắt anh nhìn cô cháu gái đầy vẻ âu yếm và tự hào.

Lúc cuộc họp chấm dứt thì đêm đã khuya. Thủy được bố trí nghỉ cùng hai chị cấp dưỡng là người của bên Ty Công an cử sang. Vậy là hai đứa tôi chưa có dịp nói chuyện riêng với nhau. Nhưng không sao! Bây giờ không có gì ngăn cách chúng tôi được nữa.

Sáng hôm sau cô đi cùng các phi công lên chỗ máy bay. Trưa về ăn cơm xong, anh em trong tổ giục nhau ngủ trưa để "bảo đảm sức khỏe", thực ra là để chúng tôi có dịp ngồi riêng với nhau.

Chúng tôi ra ngồi dưới gốc cây dương liễu già bị bom chém gãy ngang giữa thân, cành lá reo trong gió biển. Thủy kể, sau khi tôi đi chừng một tháng thì có người của ta về gặp cô và ông Thành đưa thư của anh Hai Nguyên. Trong thư nói rõ anh đang rất cần sự có mặt của cô cháu gái, nhưng việc đi hay không là do cha con ông Thành quyết định. Cô nói:

- Hồi đó em cũng muốn theo anh ra gặp chú, nhưng nghĩ thương ba còn một mình nên không dám nói. Đến lúc nhận được thư chú, ba cứ giục em đi. Ông nói: "Đừng lo ba buồn! Anh con đã vậy rồi, giờ nếu con làm được việc gì có ích cho Cách mạng, cho chú con thì ba sẽ thanh thản hơn..."

Cô vào Tam Kỳ, theo con đường tôi đi lần trước để lên khu căn cứ rồi ra Bắc. Anh Hai Nguyên đón cô ở Vĩnh Linh.

- Thế Thủy có biết ra đây làm gì không?

- Chú nói với em rồi! Chúng ta sẽ trở lại vùng rừng đó, phải không anh? Ngay từ đầu em đã đoán anh đang làm một việc gì ở trên...

- Sao không hỏi thử?

- Ai dại mà hỏi? Để bị nghi làm gián điệp thì chết em à! Cô cười rồi nói tiếp - Mình sẽ gặp lại báo Aga, gặp con suối Tiên... Và chắc sau này em sẽ được bay. Trực thăng đằng mình trông hiền ghê!

- Hiền là sao?

- Thì... cái dáng nó hiền hơn, đường nét tròn trịa... Mà sao anh không nói chi, cứ hỏi hoài vậy?

- Hỏi cũng là nói! Thế Thủy lái được không?

- Không dễ đâu anh! Về lý thuyết giống nhau, nhưng phải có thời gian làm quen, rồi bay tập để chuyển loại... Nhưng em tin nếu mấy chú mấy anh cho bay, em sẽ bay được. Mà ngoài này bom đạn nhiều ghê anh ha! Chỗ nào cũng thấy hố bom.

- Thủy có biết ở đây dân họ gọi những phi công như Thủy là gì không?

- Là chi, anh?

- Gọi là "giặc lái"!

Cô cúi đầu nói nho nhỏ:

- Cũng phải thôi! Bom đạn trút xuống thế kia... Thế còn anh?

- Thì lúc đầu... cũng coi là "giặc lái"!

- Còn bây giờ?

- Là... đồng đội!

Cô ngước mắt nhìn tôi và bỗng bật cười:

- Anh chẳng bao giờ biết nói chuyện với con gái cả!

- Tôi nói gì sai ư?

- Không! Những điều anh nói đều đúng, lại còn hay nữa là khác! Nhưng có lẽ... cô nào nói chuyện với anh vài lần là lo tránh cho xa...

Tôi ngớ người nhìn cô và chợt hiểu ra. Đúng thế thật! Ai lại gặp... người yêu mà nói năng vô duyên như vậy. Cũng may cô không giận. Chắc là thế! Chẳng ai giận mà cười tươi được như cô lúc này. Lại còn đôi mắt nữa! Đôi mát cô đăm đắm nhìn tôi, sâu thăm thẳm như khoảng trời xanh vừa chợt ló ra giữa tầng mây trên cao kia. Và cũng như mọi khi, tôi chẳng nghĩ ra một câu gì hay ho để nói trong dịp này. Thật uổng cả công đọc sách. Tôi đành lấp lừng:

- Vậy mà cũng có người theo đấy...

Cô lườm, đôi mắt đen kéo hai cái đuôi dài trong một thoáng:

- Ai đó chớ không phải em đâu nghen! Em đi theo Cách mạng. Anh đừng tưởng!

Những ngày sau đó chúng tôi ít có dịp gặp nhau. Thủy ở lại trên chỗ tổ lái và bận túi bụi suốt ngày đêm. Cô được giao nhiệm vụ làm hoa tiêu cho chuyến bay nên phải lao vào nghiên cứu cả đống tài liệu về địa hình, về khí tượng, rồi những tập bản đồ, những xấp không ảnh... cùng những công việc kỹ thuật khác. Dù chẳng mấy am hiểu, nhưng tôi cũng biết rằng làm hoa tiêu trên một đường bay xa lạ trong điều kiện như vậy là nhiệm vụ hết sức nặng nề. Tôi lo thầm cho cô nhưng chẳng giúp gì được, và cũng không dám nới ra. Không ngờ chính Thủy lại là người an ủi tôi: "Anh đừng lo! Có các anh ấy, em tin là sẽ làm được. Phi công đằng mình còn ít giờ bay mà giỏi thiệt..."

Từ hôm Thủy ra, trời đẹp dần lên. Tất nhiên không phải vì có cô ra mà vì mùa xuân đang đến gần. Trên bầu trời tầng mây trắng mỏng hơn, dâng lên cao và chói nắng đến nhức mắt. Đôi chỗ nền trời chuyển sang màu xanh trứng sáo, báo hiệu những ngày nắng sẽ còn kéo dài. Cây dương liễu già nhú thêm mấy túm chồi xanh non. Trong đống đổ nát hoang tàn của thị xã Đồng Hỡi, mấy khóm hoa hồng còn sót lại đã nở những bông hoa đầu mùa. Lâu ngày không được tay người chăm sóc, cây hồng gần như hoang dại, những bông hoa không còn đẹp kiêu sa như trước nhưng lại dịu dàng đằm thắm hơn, và vẫn khẳng định được giá trị của mình qua mùi hương tinh khiết và rất nhẹ mà dường như ta cảm được chứ không phải người.

Rồi cũng có một ngày cả hai sườn đông và tây Trường Sơn đều không có mây mù. Chúng tôi xuất phát rất sớm, khi mặt đất còn tối om, lúc bay lên cao mới thấy chân trời đằng đông hơi rạng.

Chiếc trực thăng tìm tới được vùng đồi cỏ khi nắng đã lên, ánh vàng phủ khắp rừng. Dọc con suối vẫn còn vương một dải sương trắng mỏng. Một chút bồi hồi rung nhẹ trong tim. Tôi căng mắt quan sát lúc máy bay sà sát ngọn cây, lượn vòng trên vùng rừng quen thuộc. Cành lá lay động ào ào, chim chóc hốt hoảng vỗ cánh bay tán loạn. Tất cả vẫn yên tĩnh, không phát hiện thấy dấu hiệu nào khả nghi. Tôi nhìn đồng chí thiếu tá khẽ gật đầu. Anh nói vào micrô ra lệnh cho phi công. Chiếc trực thăng lượn thêm nửa vòng bay tới điểm đáp. Nó chững lại phía trên đám cỏ bên vũng suối, xuống thấp dần và nhẹ nhàng tiếp đất.

Phi công giảm tốc lực cánh quạt. Tổ đổ bộ bật dây an toàn nhanh nhẹn nhảy ra khỏi máy bay, lao tới những vị trí đã định ghìm súng cảnh giới.

Tôi đảo mắt nhìn quanh một vòng. Cỏ trên bãi mọc tốt um lấp kín lối mòn xuống suối. Bờ cát bên vũng suối phẳng lỳ. Cây cối dường như rậm rạp hơn. Căn nhà cũ giờ trông hoang tàn và lạnh lẽo, tấm nhựa lợp mái bị gió giật xuống treo lơ lủng bên vách, rách tả tơi. Chẳng thấy bóng lũ khỉ cùng con báo, cũng không nhìn thấy dấu vết gì chứng tỏ đã có người tới đây sau khi tôi đi rồi. Nhưng đó chỉ là nhìn qua. Tôi nán thêm một phút, cố tập trung tư tưởng để có thể cảm nhận được sự nguy hiểm nào đó... Hình như không có!

Đồng chí thiếu tá cắp khẩu AK lom khom chạy tới chỗ tôi:

- Thế nào Hải?

- Báo cáo anh, không thấy gì khác thường!

- Tốt! - Anh giơ tay ra hiệu tiến hành bước hai cuộc đổ bộ.

Phi công tắt máy. Bốn chiến sĩ trinh sát lao tới bên máy bay vác khẩu 12 ly 7 và xách những thùng đạn chạy đi chiếm lĩnh vị trí cảnh giới trên ụ đại liên. Sau đó hai người chốt lại, còn hai người khác sẽ sục sạo kiểm tra khu rừng quanh trảng cát.

Tổ lái xách súng nhảy xuống. Hai phi công rút dao chặt cành lá ngụy trang máy bay. Thủy khoác khẩu AK trên vai, tay cầm chiếc máy chuyên dụng rảo quanh để dò tìm các thiết bị máy móc địch cài lại. Đồng chí thiếu tá vẫy tay ra hiệu cho tổ tôi xuất phát.

Sau hơn một giờ đồng hồ, tôi cùng một chiến sĩ trinh sát lùng sục khắp khoảnh rừng có bán kính bốn trăm mét quanh nơi giấu vàng. Không có dấu vết của địch. Qua máy bộ đàm, tôi được thông báo ở các tổ khác mọi việc đều ổn.

Quay lại nơi máy bay đỗ, thấy tổ trinh sát phía dưới vừa về tới và máy bay đã được ngụy trang chu đáo. Nhưng sao Thủy lại đứng khóc? Có chuyện gì vậy?

Cô kêu lên khi nhìn thấy tôi:

- Anh Hải! Aga chết rồi!

- Sao? - Tôi sửng sốt.

- Kia kìa... - Cô mếu máo đưa tay chỉ về hướng căn nhà. Tôi tiến lại gần, chợt rùng mình bởi mùi xác chết thối rửa nồng nặc. Bước lên hai bậc cầu thang, tôi chửng lại khi nhìn thấy xác con báo. Nó nằm chết bên ngoài ngưỡng cửa, dòi bọ lúc nhúc trên đám lông vàng đen lốm đốm. Đứng lặng người nhìn những gì còn lại của con dã thú, tôi hiểu ra tất cả...

...Lúc trở về không nhìn thấy tôi, con báo đã chạy khắp rừng đến những nơi mà tôi với nó từng đến, để tìm. Mãi không tìm được, nó quay lại nhà nằm xuống đầu sàn chờ tôi trở lại. Nó nằm đó hết ngày này qua ngày khác, không chịu ăn uống gì, mắt đăm đăm ngóng ra đầu lối mòn nơi dải rừng non chờ một bóng người. Sự chờ đợi mỏi mòn làm sức nó kiệt đi... Cho đến một ngày kia, đốm sáng của sự sống trong đôi mắt nó mờ dần, mờ dần... rồi vụt tắt. Báo Aga đã chết trong buồn bã và tuyệt vọng. Nó chết vì trung thành và quyến luyến với con người mà nó gắn bó từ khi mới mồ côi mẹ. Trước lúc từ giã cõi đời, hẳn nó đã trách tôi là kẻ tệ bạc...

"Hãy hiểu cho tao, Aga!..." Tôi nén xúc động bước tới gốc cây trước nhà, lật tảng đá cạnh gốc lấy xẻng đào lên thỏi vàng giấu ở đó, trao nó cho đồng chí thiếu tá.

Xác con báo được gói trong vải nhựa chôn xương cái hố giấu vàng. Đã được nghe kể về Aga, các chiến sĩ trinh sát nói là để xong việc, họ sẽ giúp tôi làm sạch bộ xương con báo đem về. Ban đầu tôi cũng có ý định như vậy, nhưng sau lại thôi. Lúc con báo còn sống, tôi đã không nỡ bắt nó lìa rừng, thì lúc chết hãy để nó ở lại với rừng.

Những dấu vết trên bãi cỏ và cây đa đều chứng tỏ lũ khỉ không còn sống ở đây. Có lẽ lúc tôi ra đi, rồi con báo chết, chúng kéo nhau đi nơi khác sống. Nơi này giờ chỉ còn lại những kỷ niệm đau buồn chứ chẳng có gì hấp dẫn chúng.

Chúng tôi khẩn trương tiến hành bước ba của kế hoạch đổ bộ. Thủy và một phi công ở lại bảo vệ máy bay. Tôi dẫn những người khác mang vũ khí và những dụng cụ cần thiết lên chỗ giấu vàng.

Phải mất hơn một giờ đồng hồ, chúng tôi mới moi hết số đất đá lấp miệng hang. Những thỏi vàng được bỏ vào ba lô gùi về máy bay, xếp vào các thùng sắt và khóa lại. Đến quá trưa thì mọi việc hoàn tất. Chúng tôi ngụy trang lại cái hang, xóa hết dấu vết rồi kéo về nghỉ dưới bóng cây bên bờ suối. Cho đến lúc này mọi việc đều theo đúng kế hoạch, nhưng ai cũng căng thẳng. Dường như lúc ngồi bên những thùng vàng, sự căng thẳng càng tăng lên gấp bội.

Sau khi bố trí thêm các chốt cảnh giới, đồng chí thiếu tá giục mọi người ăn trưa. Lần đầu được ăn lương khô, Thủy khen là không ngờ nó ngon đến vậy, lại còn kháy tôi: "Hèn chi anh chê kẹo..." Tôi cười chịu nhịn. Chuyện đâu còn có đó...

Ăn xong bữa trưa, quyền chỉ huy được tạm giao cho đồng chí phi công trưởng. Tôi cùng đồng chí thiếu tá và Thủy luồn rừng đi về phía cây thủy tùng làm công việc cuối cùng của kế hoạch: thay mặt toàn đội đến viếng mộ hai anh.

Chúng tôi thắp hương trên mộ rồi bỏ mũ cúi đầu mặc rúệm. Chiều nghiêng nắng, bóng ngôi mộ đá đổ dài trên bãi cỏ. Mới gần ba năm mà mưa gió đã lấp đầy các hố đạn, mặt đất chỉ còn hơi lồi lõm đôi chỗ. Nhưng nếu ai tinh ý sẽ nhận thấy ở đây màu cỏ xanh hơn. Những ngọn cỏ non tơ mượt mà tỏa mùi ngòn ngọt dưới nắng chiều. Mấy tảng dá trên mộ cũng đã lên rêu xanh. ở đó có vết cào của con báo, nó tới cả đây để tìm tôi.

Tôi cùng đồng chí thiếu tá đào đất dưới mộ bỏ vào hai túi nhựa. Chúng tôi sẽ đem những hạt đất thấm máu này về chôn ở quê các anh. Đó là tất cả những gì chúng tôi có thể làm được, nhưng giờ đây hẳn các anh ấy đã yên lòng và thanh thản ở lại với rừng.

Không thể nấn ná lâu được, ba chúng tôi bùi ngùi rời ngôi mộ đá quay về nơi toàn đội đang đợi. Vào tới bìa rừng, tôi ngoái đầu nhìn lại lần cuối. Bát hương trên mộ vẫn đang cháy, những sợi khói trắng uốn lượn trong gió rồi tan vào khoảng không bao la. Nắng vàng bát ngát trên vùng đồi cỏ. Ngọn thủy tùng đung đưa giữa lưng trời lưu luyến hát lời từ biệt.

Gần đến giờ trở về, đồng chí thiếu tá lệnh cho toàn đội kiểm tra trang bị. Phải bỏ lại tất cả những thứ không thật cần thiết, kể cả số lương thực mang theo phòng bất trắc và khẩu 12 ly 7 cùng những thùng đạn. Máy bay đã chở quá nặng.

Tôi đưa tặng đồng chí thiếu tá và hai anh phi công mỗi người một cây dao găm chiến lợi phẩm, hơi bực mình khi thấy Thủy che miệng cười. Cười cái gì thế chẳng biết! Không nhớ là những cây dao này tôi thu của tốp lính cô ta chở lên đó sao? (Về sau hỏi lại, cô cười bảo: "Tại thấy anh lúc đó trịnh trọng như... trao kiếm giữa rừng").

Chúng tôi bay lên lúc năm giờ chiều, đó là giờ máy bay địch ít hoạt động và còn đủ ánh sáng cho phi công nhận biết địa hình để định hướng. Chiếc trực thăng nặng nề bay trong mê cung của những hẻm núi, nhiều lúc sà sát ngọn cây. Bóng núi vùn vụt lướt qua bên ngoài ô cửa tròn. Ánh chiều tà lọt vào khoang máy bay, soi mờ mờ nét mặt căng thẳng của các chiến sĩ trong tổ đổ bộ. Chúng tôi là những chiến binh mặt đất, chỉ có thể tung hoành khi chân đạp đất, còn lúc này đành phó mặc mọi việc vào sự cố gắng phi thường của những người linh bầu trời. Và cùng với họ, còn có sự đóng góp thầm lặng của những con người đã đốt lửa, bắn pháo hiệu hoặc phát đi các tín hiệu vô tuyến giúp phi công định hướng. Họ chờ đợi hàng tháng trời ròng rã trong mưa gió trên những đỉnh núi cao heo hút, để làm một công việc chỉ diễn ra trong vài phút.

Khi máy bay bay vào vùng trời Quảng Bình, bóng đêm đã bao trùm lên tất cả. Trên nền trời hiện ra những vì sao nhấp nháy. Phi công cho máy bay lên cao, phát sóng vô tuyến để liên lạc và nhận được dẫn đường từ mặt đất. Trong khoang máy bay tối mờ không nhìn rõ mặt nhau, nhưng tôi biết niềm vui đang rạng rỡ trên nét mặt mọi người.

Có thể nói rằng, nhiệm vụ đã kết thúc khi chúng tôi từ trên trực thăng bước xuống và ngay lập tức được ôm chặt trong vòng tay của anh Hai Nguyên cùng những người ra đón. Nhưng trong câu chuyện này sẽ là sơ sót nếu không kể về những sự việc có liên quan đến một nhân vật mà từ đầu tới giờ ta mới chỉ nghe tên chứ chưa hề biết mặt. Và chuyện về y lại liên quan đến một chuyện khác đã xây ra từ lâu rồi...

Một ngày đầu tháng 5 năm 1945, trên chiếc chiến hạm đậu ngoài khơi biển Đà Nẵng, đô đốc Yamashita, tư lệnh Thái Bình Dương của quân đội Nhật, đang sốt ruột đi đi lại lại trong phòng chỉ huy. Ông ta chờ đợi tin tức về chuyến bay có hộ tống của một chiếc phóng pháo cơ có nhiệm vụ chở số vàng quân Nhật vơ vét được, bay từ X về Đà Nẵng. Ở đó, vàng sẽ được đưa xuống thủy phi cơ để chuyển ra chiến hạm. Thế chiến hai đang đến hồi kết thúc. Số vàng này chẳng dùng gì được vào việc cứu vãn tình thế nguy ngập của đội quân phát xít ở châu Á, nhưng ít nhất cũng phải thu giấu nhằm tính kế lâu dài.

Chín giờ sáng. Đô đốc Yamashita được báo máy bay đã về tới phi trường Đà Nẵng, nhưng chỉ có một chiếc, lại là chiếc hộ tống.

Viên phi công báo cáo: Lúc sắp bay qua biên giới Lào Việt, y bay vượt lên trước để cảnh giới máy bay đồng minh. Ít phút sau, hoa tiêu của y báo là không còn nhìn thấy chiếc phóng pháo bay ở phía sau. Biết nó gặp sự cố y cho máy bay vòng lại tìm, hy vọng nó hạ cánh khẩn cấp xuống được vùng đồi cỏ mà y vừa bay qua. Nhưng viên phi công đã không tìm thấy gì. Chiếc máy bay chở vàng biến mất như chưa hề tồn tại. Nhiên liệu sắp cạn, y đành quay về.

Hai máy bay nhận lệnh cất cánh bay ngược chiều đường bay của chiếc chở vàng, tìm đến tọa độ nói trên và nhìn thấy vùng đồi cỏ. Chúng lượn nhiều vòng tìm kiếm nhưng không phát hiện ra dấu vết gì của chiếc phóng pháo. Rừng xanh đã nuốt chừng tất cả. Đó là cố gắng cuối cùng của đô đốc Yamashita. Tình hình sau đó không cho phép ông ta tìm lại số vàng...

Những điều kể trên là nội dung chính trong một bản viết tay bằng tiếng Nhật mà khi giải phóng Sài Gòn, ta thu được trong động giấy tờ ở phòng làm việc của John Smith. Theo các đồng chí phiên dịch thì khó có thể kết luận đấy là một bản báo cáo hay bản tự khai, chỉ biết người viết tự xưng y chính là viên phi công lái chiếc máy bay hộ tống. Cũng rất khó nhận định vì sao nó lọt vào tay Smith, nhưng chắc y kiếm được nó trong thời gian hoạt động ở Nhật.

Ngoài ra ta còn tìm thấy bản kế hoạch đổ bộ lực lượng "Mũ nồi xanh" xuống tọa độ có chiếc máy bay chở vàng rơi, nhưng với một lý do không liên quan gì đến nó. Bản kế hoạch do chính John Smith ký, và ký hiệu trên đó cho biết tài liệu này chỉ đánh máy một bản, như vậy nó chưa được gửi đi. Smith lập kế hoạch này vào tháng 7 năm 1969, nghĩa là sau vụ TK1 đụng độ với hai chiếc trực thăng trên vùng đồi cỏ có vài tháng. Tôi thấy không cần thiết phải kể chi tiết về nội dung bản kế hoạch, sợ dài dòng. Nhưng John Smith đã làm gì khi có thông tin về chiếc máy bay chở vàng?

...John Smith và Hay Cođy là đôi bạn tâm giao trong suốt mấy năm học ở trường sĩ quan hải quân Amnaponls. Ra trường Cođy chuyển về không lực, còn Smith sang ngành tình báo, nhưng tình bạn của họ không vì thế mà kém phần thân thiết.

Năm 1968, khi từ Nhật sang Việt Nam, Smith đã có trong tay một tài liệu rất thú vị mà y chưa biết nên xử lý như thế nào. Vàng? Theo y thì dù ở đâu và bao giờ, vàng vẫn cứ là thước đo giá trị đích thực của con người. Vì vậy khi có được những thông tin quý báu kia, bộ óc băng giá của y bỗng trở nên ấm áp hẳn lên và y cảm thấy xao xuyến như một chàng trai bất ngờ tìm thấy ý trung nhân của mình. "Báo cáo với cấp trên? Có mà ngu! Với những thông tin đơn sơ như vậy, làm to chuyện lên để làm gì? Đã có quá nhiều huyền thoại mơ hồ về những kho báu ở cái xứ sở nhiệt đới quái quỷ này. Chắc gì tin được lời khai của một tay phát xít già bị dồn vào thế kẹt, phải bán những thông tin ấy để đổi lấy thị thực nhập cảnh vào Mỹ? Còn... nếu là chuyện có thật, thì lại càng ngu hơn khi để một đống của như thế lọt vào tay kẻ khác, và rồi cùng lắm mình được cái bội tinh. Tốt nhất là..." Smith làm theo những gì mà y cho là tốt nhất.

Kế hoạch của y liên quan đến thằng bạn chí cốt ngày nào, nay làm cố vấn cho một đơn vị thuộc không lực Sài Gòn, lại đóng ngay Đà Nẵng. Với Hary, y tin như tin chính bản thân mình. Điều e ngại duy nhất là cái tính hung hăng mà có lẽ hắn ta thừa hưởng từ dòng máu dân cao bồi chăn bò vùng Texas. Nhưng nhiều khi như vậy lại hóa hay.

Y ra Đà Nẵng tìm gặp Cođy. Và đến lượt mình, Cođy tích cực lợi dụng mọi cơ hội thực hiện nhiều chuyến bay tìm kiếm ở vùng rừng có chiếc máy bay chở vàng rơi. Nhưng rồi chính Cođy đã làm hỏng việc khi để tay chuyên viên vũ khí của hạm đội Bảy trực tiếp tham gia vụ thử nghiệm rốc két và bị bắn chết ngay trên tọa độ tìm kiếm, nơi không hề có trong kế hoạch bay. Smith phải vất vả gỡ tội cho thằng bạn chưa được ăn đã phải trả giá.

Không chịu bỏ cuộc, John Smith bày keo khác.

Robert Rhelt, đại tá chỉ huy lực lượng "Mũ nồi xanh" ở Việt Nam cũng là chỗ quen biết với y. Tất nhiên tỉ lệ ăn chia phải khác, và cần có lý do để điều động lực lượng này một cách "danh chính ngôn thuận". Y nghĩ ra lý do, lập kế hoạch, nhưng chưa kịp gửi đi thì Rhelt bị cách chức và bị đưa ra tòa án binh vì vụ giết nhầm một nhân viên tình báo của chính phủ Sài Gòn. Rõ là "họa vô đơn chi', câu tục ngữ của dân bản xứ sao nghe như một lời nguyền.

Tưởng đã ngậm ngùi bó tay thì y nhận được tin tình báo về một người lính Vi xi sống đã hai năm trong rừng. Hai năm? Ở vùng rừng đó? Lẽ nào lại có sự trùng hợp ngẫu nhiên như vậy? Chỉ cần gặp thằng trung sĩ an ninh quân đội thẩm tra thêm vài chi tiết và phân tích các thông tin thu được từ trước tới giờ, chẳng khó khăn gì bộ óc sĩ quan tình báo của y cũng biết đây chính là câu thần chú "Vừng ơi, mở ra". Khỏe! Khỏi cần mất công tìm kiếm, chỉ việc bắt sống thằng Vixi đó về khai thác, sau đó lên chở vàng về.

Với vai vế của mình, John Smith dễ dàng móc nối để thuê một toán dù làm lực lượng xung kích. Tất nhiên phải thuê cả một kíp bay cùng trực thăng có thiết bị bay đêm đủ khả năng thực thi kế hoạch. Tốn kém khá bộn, nhưng có bỏ vốn ra mới mong thu lợi. Dầu sao cũng đỡ tốn hơn phải chia chác. Y phạm điều cấm ky nhất trong nghề nghiệp khi giao cho tay tình báo viên của y chỉ huy toán đổ bộ. Cũng đành liều thôi! Công việc đòi hỏi phải giao cho người tin cẩn, mà thằng này đã từng cộng tác với Hary trước đây, hắn lại có tên lính dưới quyền có thể dẫn đường.

Mọi sắp xếp tính toán của John Smith chính xác cho đến phút gần chót. Nhưng từ khi con dã thú của vùng rừng này nhảy xổ vào con chó trinh sát thì tất cả đều đảo lộn, để rồi tham vọng của y tan tành theo chiếc trực thăng biệt kích nổ tung giữa trời...

Sau giải phóng, đồng chí thiếu tá được giao nhiệm vụ tổng kết kế hoạch TK. Anh đã cung cấp cho tôi những tài liệu cần thiết để viết lại câu chuyện kể trên, nhưng cũng chỉ tình tiết chủ yếu. Phần còn lại tôi phải thêm vào bằng những suy đoán của mình, chứ ai mà biết được một người (Lại là người như Smith) nghĩ gì trong đầu vào thời điểm cách đây gần ba chục năm! Và như vậy vẫn còn nhiều điểm chưa rõ, hoặc không hoàn toàn chính xác.

Nhưng biết làm sao được? Muốn biết rõ, phải hỏi hai nhân vật chính trong chuyện là Smith và Cođy, nếu họ còn sống. Mà dù còn sống, có hỏi chắc gì họ đã nói? Hoặc có nói, chắc gì đã nói thật? Những người như vậy không mấy khi nói thật những chuyện đó!

Phần cuối

Chuyện về John Smith đã làm gián đoạn phần cuối của câu chuyện đang kể. Vì vậy tôi phải trở lại với những ngày ấy ở Đồng Hới...

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, chúng tôi có một cuộc liên hoan nhỏ để chia tay với hai đồng chí phi công, các thợ máy và các chiến sĩ trinh sát đặc công. Đó là những người lính mà tôi hết lòng khâm phục. Các anh ấy đều rất hiền, sống chân tình giản dị, và rất điêu luyện trong công việc của mình. Gần hai tháng trời gắn bó với nhau trong một công tác đặc biệt như vậy, chúng tôi đã thân thiết như anh em một nhà.

Thế mà đến lúc tạm biệt, hai đồng chí phi công nhất định không bắt tay Thủy. Các anh bảo: "Chúng ta sẽ gặp lại nhau trong những chuyến bay tiếp theo, cô bé đồng nghiệp! Vậy thì không việc gì phải vội từ biệt..." Các anh ấy nói đúng! Lúc đầu anh Hai Nguyên định đưa Thủy về công tác tại tỉnh nhà, nhưng bộ đội không quân đã xin cô ra ngoài đó, và tôi hiểu vì sao điều ấy lại khiến "cô bé" mừng rỡ đến như vậy.

Trước mắt, Thủy còn chờ anh Hai Nguyên làm xong công việc ở đây để cùng anh ra Hà Nội thăm gia đình chú. Sau đó cô sẽ tiếp xúc với công tác mới. Còn tôi và đồng chí thiếu tá đang đợi các anh ở đơn vị anh Đằng và anh Hùng để đưa nắm đất thấm máu hai anh về quê. Một nhiệm vụ thiêng liêng, nhưng dù có làm tốt đến đâu cũng không có được niềm vui.

Đã gần tết. Trên những thừa ruộng ven thị xã, màu xanh của mạ non mới cấy viền kín quanh những hố bom. Chúng tôi có những giờ phút thong thả để trò chuyện với nhau, nhưng Thủy lại buồn:

- Lúc mới ra lu bu công chuyện nên quên cả buồn. Giờ rảnh rỗi mới thấy nhớ ba. Em thương ba quá! Vậy là tết này em được ăn tết ở Hà Nội, còn ba chỉ thui thủi một mình...

Để Thủy khuây khỏa, tôi rủ cô ra biển chơi.

- Ra biển? - Cô tròn xoe đôi mắt nhìn tôi - Biển đang động mà?

Tôi cười:

- Mình chỉ ngồi trên bờ chứ có xuống biển đâu mà sợ? Biển động cũng có vẻ đẹp riêng của nó.

Cô khúc khích:

- Nghe anh nói... thiệt hay!

- Đâu có! Tôi vụng về lắm! Có những điều nghĩ mãi trong đầu mà không nói ra được...

- Chuyện chi vậy anh?

Cô hỏi lại. Tôi bối rối mất một lúc và biết rằng mình vừa để lỡ cơ hội. Nhưng hình như Thủy không để ý...

Từ nơi chúng tôi ở ra đến biển chừng ba cây số. Tôi cùng cô đi men bờ sông. Trời không mưa nhưng vừa có đợt gió mùa đông bắc nên khí trời trở lạnh. Có phải vì thế mà đôi má Thủy ửng hồng? Gió từ biển thổi vào lồng lộng. Con sông Nhật Lệ thường ngày vốn hiền hòa giờ cũng nổi sóng. Thủy bước sát bên tôi, mái tóc dài bay bay trong gió và tiếng cô cũng bay theo, hòa trong tiếng sóng nước ì oạp vỗ bờ:

- Vậy là em theo anh vào Nam ra Bắc, lên rừng xuống biển rồi đó nghẹn!

Tôi nói đùa:

- Lên rừng thì còn được, chứ vào Nam chỉ tới Tam Kỳ, ra Bắc mới ngang Đồng Hới. Và lát nữa chỉ ngồi trên bờ chứ đâu có lội xuống biển? Mà đấy là "người ta" đi theo cách mạng...

- Có vậy anh mới hết hỏi "Cô ra đây làm gì..."

Chúng tôi ngồi trên một cồn cát nhỏ có những bụi dương liễu mọc lúp xúp. Mấy túm cỏ lông chông và những dây muống biển cố níu rễ vào cát để khỏi bị gió cuốn đi. Trước mặt là cảnh biển động dữ dội và hùng vĩ. Mặt nước mênh mông lúc này đang cồn lên sôi sục. Từ ngoài khơi xa tít tắp sóng bạc đầu lớp lớp nối nhau dồn vô bờ. Lúc tới gần, những con sóng lừng lửng dâng lên cao rồi đổ xuống ầm ầm như thác, nước ào lên bãi cát hết đợt này đến đợt khác tung bọt trắng xóa, bụi nước bay tới tận chỗ chúng tôi ngồi.

Chiều hôm đó chúng tôi nói lời yêu nhau trong tiếng ầm ào của biển. Có lẽ đó là một kinh nghiệm hay cho những chàng trai trẻ nào vốn vụng về và nhút nhát như tôi. Tỏ tình bên bờ biển trong lúc biển động, ta chỉ phải nói bằng lời rất ít và không cần văn hoa cho lắm, còn ánh mắt sẽ nói những gì trong đầu ta nghĩ. Cả các cô gái cũng vậy, khỏi lo bị mê hoặc bởi những lời đường mật vì biển lúc này không cho phép ai nhiều lời. Mà chỉ những ai thực sự hiểu nhau và yêu nhau mới nói được với nhau bằng mắt.

Tình yêu khởi đầu từ trên rừng, lời thề nguyền nói trước biển, chúng tôi đã phải vượt qua một chặng dài không chỉ về không gian để đến được với nụ hôn đầu đời vụng về và say đắm.

Tôi và Thủy còn ở lại Đồng Hỡi ba ngày nữa. Đối với hai đứa tôi thì đó là những ngày rất đẹp và ấm áp, dù ngoài trời lâm thâm mưa phùn và nhiệt độ có lúc xuống dưới mười độ C.

Sau khi chia tay với Thủy, tôi cùng đồng chí thiếu tá và hai đồng chí cán bộ ở sư đoàn nơi anh Đằng và anh Hùng công tác về quê các anh.

Chúng tôi tìm tới nhà anh Đằng thì ông cụ thân sinh ra anh đã mất. Mộ của ông, người thương binh già thời chống Pháp, được đặt trong nghĩa trang liệt sĩ xã. Hôm ấy các em học sinh nghỉ học một buổi cùng với bà con trong xã đưa nắm đất thấm máu anh về chôn cạnh mộ người bố. Tôi rùng mình khi đọc trên tấm bia mộ thấy ngày mất của ông trùng với ngày anh Đằng hy sinh. Hai cha con, hai người lính của hai cuộc kháng chiến kế tiếp đã hy sinh xương máu cho độc lập tự do của dân tộc, họ ngã xuống cùng một lúc và giờ đây trong gia đình ấy không còn ai nữa.

Nghĩa trang nằm cạnh ga xép. Một đoàn tàu đang kéo còi chầm chậm vào ga, khói đầu máy trĩu nặng dưới làn mưa bụi. Từ chốn rừng già xa xôi ấy vong linh anh có về được tới đây không, mà tiếng còi tàu lúc này nghe nao lòng đến vậy...

Ở quê anh Hùng nghĩa trang liệt sĩ nằm giữa cánh đồng lúa bát ngát, những hàng dương liễu nghiêng bóng trên những ngôi mộ hát ru suốt ngày đêm. Lễ truy điệu anh được địa phương tổ chức rất chu đáo, nhưng chúng tôi vẫn ân hận vì vợ con anh ở xa không về kịp. Nỗi ân hận đó cứ dày vò tôi mãi đến ngày nay. Lúc đó, tôi tự hứa với mình là sẽ lên thăm chị và cháu để kể cho những người thân thiết nhất của anh nghe trong những ngày cuối đời, anh đã sống và hy sinh như thế nào... Bao bộn bề công việc cùng những lo toan trong cuộc sống đời thường là nguyên nhân khiến tôi lần lữa hết lần này đến lần khác, hết năm này qua năm khác. Tôi tự biện minh cho mình: "Tại đường sá xa xôi cách trở quá..."

Phải chăng khi năm tháng trôi qua, tình cảm cũng nhạt dần đi? Quên thì không, nhưng những việc nghĩa tình đáng phải làm dần dần trở thành thứ nghĩa vụ mà ta thực hiện một cách miễn cưỡng, và đôi lúc cảm thấy đó là nỗi ám ảnh phiền toái...

Năm 1996, tôi theo đoàn cán bộ lên tham quan công trình thủy điện Hòa Bình. Khi hỏi thăm cái bản dân tộc Thái hồi trước anh Hùng kể, mới biết giờ đây nó nằm dưới lòng hồ sông Đà. Tôi bỏ dở chuyến tham quan, tìm tới bản mới nơi chị ở thì chị đã mất. Ngồi trước nấm mộ còn tươi màu đất, tôi thầm kể cho chị nghe những điều mà đáng ra chỉ phải được nghe lúc còn sống. Vậy đó! Có những việc khi ta biết ân hận thì đã muộn. Có phải "nợ nghĩa tình" là như vậy chăng? Trước đây mỗi lần nghe người khác nói thế, tôi vẫn nghĩ: đã là nghĩa tình thì sao lại gọi là nợ? Ai vay ai mượn được mà nợ?

Tôi tới cơ quan nơi con trai anh Hùng công tác tìm cậu ta, nhưng không gặp. Cậu ấy giờ là kỹ sư lâm nghiệp, hiện đang mải mê trong một cánh rùng nào đó để nghiên cứu đề tài "Bảo vệ và phát triển rừng đầu nguồn sông Đà". Là một người yêu rừng đến độ mê say, hẳn giờ đây anh Hùng hết sức vui sướng và toại nguyện khi con trai mình đi theo tiếng gọi của rừng.

Ngày ấy từ quê anh Hùng, chúng tôi lên Hà Nội làm việc với cơ quan anh Sơn, và cùng với đại diện cơ quan về nhà anh. Tôi trao lại cho chị những kỷ vật của anh: cuốn Nhật ký, thư từ, ảnh..., những thứ anh để lại T2 trước chuyến đi. Chị dỗ khéo đứa con gái cho cháu ra ngoài sân chơi nhảy dây với bạn, để nghe tôi kể về những giờ phút cuối cùng của anh. Cháu mới sáu tuổi. Không nên để lại trong đầu óc trẻ thơ non nớt những hình ảnh kinh hoàng về cái chết của người bố. Sau này mỗi khi nhớ lại ngày hôm ấy, trước mắt tôi vẫn chập chờn hai đuôi khăn tang trắng bay bay như đôi cánh bướm trên đầu bé, tung tăng theo từng bước nhảy hồn nhiên...

Hai mươi lăm năm sau cô bé ngày đó trở thành phó tiến sĩ công tác trong một viện của ngành địa chất. Chị Sơn đã nghỉ hưu, vẫn sống trong ngôi nhà nhỏ dưới chân núi Gôi. Trong một lần tôi ghé thăm, chị nói: "Con bé cứ giục tôi ra Hà Nội sống với vợ chồng nó, nhưng tôi không muốn đi. Lúc nào tôi cũng nghĩ là anh ấy sắp trở về đây..." Mái tóc đã điểm bạc, thời gian và đau khổ đã hằn sâu thành nếp nhăn trên khuôn mặt, nhưng đôi mắt chị vẫn vời vợi nỗi ngóng chờ như trong tấm ảnh anh Sơn đưa tôi xem ở Bãi Hà ngày nào.

Sau chuyến đi đó, tôi vào Quảng Trị. Về lại đơn vị cũ, anh em bạn bè gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Gần ba năm rồi, ai cũng nghĩ là tôi đã chết. Nhưng bên cạnh niềm vui vẫn là nỗi buồn: Bằng và Dũng hy sinh trong một chuyến đi công tác bị địch phục kích, cũng trên vùng đồi sim Cam Lộ. "Vậy là Bàng chẳng bao giờ trở về với cái làng cá ven biển của cậu. Còn Dũng chết mà chưa một lần được nhìn thấy biển..." Tôi ngậm ngùi nhớ tiếc hai người bạn cùng tổ công tác. Những tưởng ngày ấy chia tay nhau, xa nhau vài bữa rồi gặp lại, ai ngờ...

Tháng sáu năm 1972. Khắp cả thị xã Đông Hà vừa mới giải phóng chỉ còn sót lại một cây phượng vĩ già nở hoa đỏ rực. Mùa hè Quảng Trị nắng đổ lửa. Gió Lào cuốn tung bụi trên những đường phố lỗ chỗ dấu bom đạn và ngập ngụa rác rưởi chiến tranh, thứ rác thường thấy sau những trận chiến đấu giành đất ác liệt.

Đơn vị tôi có cuộc họp. Mấy phút giải lao, cánh lính trẻ kéo nhau ra ngồi dưới gốc phượng vĩ, tán láo đủ chuyện. Chúng tôi đang vui cùng mảnh đất Quảng Trị vừa giải phóng. Tôi còn có niềm vui riêng vì mới nhận thư Thủy. Nét bút lần đầu nhìn thấy mà như thân quen tự bao giờ. "...Em mới được bay tập với trực thăng Mi - 8... Ra ngoài này còn được cưng hơn ở nhà nữa đó? Mấy chú mấy anh ai cũng hiền cũng tốt... Sắp tới em sẽ vô công tác trong đó, chắc lại được gặp anh..." Những dòng mực xanh trên giấy trắng mà như có âm sắc của giọng cô líu ríu niềm vui. Chúng tôi sẽ gặp lại nhau? Tất nhiên rồi...

Gần hết giờ giải lao. Đồng chí cơ yếu tay cầm cuốn sổ điện mật hớt hãi chạy ra gọi: "Hải ơi! Hải đâu rồi? Có điện này..." Một linh cảm nặng nề choáng ngợp trong đầu tôi. Điện mật chỉ dùng trong công tác, bình thường cấp lính như tôi không khi nào trực tiếp nhận.

Tay run run cầm cuốn sổ điện đồng chí cơ yếu vừa chìa ra, tôi đọc bức điện trên trang giấy mở sẵn. Chỉ có một dòng:

"Thủy hy sinh ở Quảng Bình trên đường đi công tác. Hai Nguyên."

"Không! Không đúng! Chắc có sự nhầm lẫn nào đó. Mình vừa mới nhận thư Thủy cách hai ngày..." Tôi đọc lại bức điện lần nữa, rồi lần nữa... Khoảng không gian trước mắt tối sầm lại. Xung quanh mọi người xôn xao. Có ai đó nói: "Thôi cứ để cậu ấy được một mình..." Tôi chết lặng xuôi người ngồi xuống gốc cây. Gió rung những cánh hoa phượng rụng tơi tả, đỏ lòm như những giọt máu...

Nếu không kể đợt máy bay B52 oanh kích Hà Nội và Hải Phòng, thì cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của giặc Mỹ không rầm rộ như lần trước, nhưng ác hiểm hơn.

Vào thời điểm đó, Thủy theo một đoàn cán bộ không quân đi công tác phía Nam để khảo sát những địa điểm có thể mở sân bay dã chiến dành cho máy bay vận tải hạng nhẹ và trực thăng. Chiến tranh đang đến hồi quyết định. Ta dự định mở "đường mòn Hồ Chí Minh trên không" để khi cần thiết. Có thể chi viện nhanh cho các chiến trường. Đoàn vào tới miền tây Quảng Bình thì bị máy bay địch chặn đánh. Một quả tên lừa nổ gần hất chiếc Uoát xuống vực. Thủy và bốn người cùng đi trên xe đều hi sinh...

Sau giải phóng năm 1975, tôi và anh Hai Nguyên ra Quảng Bình để đưa Thủy về quê. Thi thể cô và những người cùng hy sinh được chôn trên một quả đồi nằm lọt thỏm giữa vùng núi non lô xô. Những ngọn núi đá vôi đứng dầm chân giữa cánh đồng hay ven sông, đẹp như vịnh Hạ Long trên.

Năm ngôi mộ nằm bên nhau theo đội hình hàng ngang của những người lính. Trên mấy tấm bia mộ làm từ gỗ thùng đạn, những dòng chữ viết bằng sơn đỏ lâu ngày sậm màu trông như những giọt máu khô.

Kỷ niệm ùa về nhức nhối. Như nhìn thấy trong mờ mờ sương khói một cô gái xa lạ đứng cặp tóc bên chiếc trực thăng đỗ giữa tràng cát chói chang nắng... Rồi vóc dáng mềm mại nghiêng bên bờ suối; mái tóc dày mượt mà xõa che nụ cười láu lỉnh; đôi mắt đen tròn xoe khi nghe chuyện cổ tích; gương mặt tự tin và ánh mắt quyết đoán lúc ngồi trên ghế lái; những giọt nước mắt nóng ấm bên vai tôi và nụ hôn ngọt ngào trong cơn biển động... Văng vẳng từ xa xôi tiếng cô cười khúc khích và giọng cô hớn hở: "...Em theo anh vào Nam ra Bắc, lên rừng xuống biển..." Giờ đây tất cả đã trở thành hư vô, chỉ còn lại những hạt mùn đất nâu đen.

Người con gái suốt đời ham bay và từng mơ một lần được tắm suơl, giờ đây cô đã bay xa, rất xa...

Các đồng chí ở địa phương muốn đưa hài cất Thủy vào nghĩa trang liệt sĩ, nhưng ông Thành xin được đem cô về nằm bên má và người anh trai nơi cái xóm nhỏ ven sông Thu Bồn mà hôm từ trên rừng về, cô đã bay thêm "chút xíu" cho tôi được nhìn thấy.

Lúc sắp hạ huyệt, ông Thành đưa cho tôi một chiếc hộp nhỏ kiểu hộp các cô gái đựng kim chỉ, nghẹn ngào nói: "Hôm ra ngoài đó, em nó gửi vật này nhờ bác giữ gìn. Giờ bác trao lại cho con..."

Tôi mở nắp. Trong hộp có trang sổ tay mà tôi đưa cho Thủy lúc trước và một mớ tóc dài cháy nắng hoe vàng. Tôi bàng hoàng khi nhận ra đuôi tóc của mình hồi ở trên rừng. Hôm cắt tóc cho tôi, Thủy đã lén lấy đem về... Nhưng... nhưng tại sao tôi lại trao cho cô bài thơ "Núi đôi"? Sao anh Hai Nguyên lại xé đúng trang thơ ấy để làm mật hiệu mà không phải trang khác? Có phai đó là điềm báo trước sự chia ly đau đớn sau này? "Em không ngờ thơ viết về chiến tranh mà lãng mạn và xúc động đến vậy...". Ai ngờ ngày ấy nói thế để rồi em thành người trong thơ...

Tôi hé nắp chiếc tiểu sành đặt vào đó trang thơ và mớ tóc để một phần tâm hồn và thể xác tôi được theo cô.

Mất hai người con, ông Thành dồn tình thương yêu cho hai đứa cháu, con của anh Hai Nguyên, và để hết tâm trí vào việc nghiên cứu sử. Nhưng đau đớn và mất mát đã làm ông kiệt sức. Ông qua đời năm 1978, để lại những trang viết dở dang.

Từ khi ông Thành mất, tôi không còn được tin gi về ông Tùng nữa. Trước đó tôi được biết hai ông bà sống với gia đình người em ở Quibec, Canada. Dù vợ chồng người em hết mực thương yêu ông, dù mấy đứa cháu rất quý ông, nhưngđiều đó cũng không làm ông nguôi được nỗi nhớ quê nhà. Những đường phố sáng choang, trắng toát và lạnh lẽo trên đất nước xa lạ ấy khác xa cảnh cánh đồng sông nước đầy nắng đầy gió của vùng châu thổ sông Cửu Long. Thư nào viết cho ông Thành, ông cũng gửi lời thăm tôi. Ông nói không bao giờ ông quên được cánh rừng con suối nơi gặp tôi hồi trước.

Sau này tôi có viết thư cho ông mấy lần, nhưng chẳng hiểu sao không có hồi âm. Dầu gì đi nữa, tôi vẫn tin rằng con người đó không đến nỗi nhẫn tâm "chuyển lửa về quê nhà", thứ lửa từng thiêu rụi căn nhà xưa cùng hàng cau thời thơ ấu của ông.

Một ngày tháng 3 năm 1998, nhân có việc vào Đà Nẵng, tôi ghé về thăm anh Hai Nguyên. Anh chị đều đã nghỉ hưu, hiện sống trong ngôi nhà nhỏ ở quê. Nhà nước cấp nhà cho anh ở thành phố, nhưng anh không nhận. "Buôn bán gì đâu mà ở phố Mình về quê sống cho nó tĩnh!", anh nói vậy.

Gần hai năm nay không gặp nhau, giờ thấy tôi vào anh chị hết sức mừng rỡ. Anh kéo tôi ra vườn ngồi trên chiếc chõng tre kê cạnh gốc bưởi. Tháng ba hoa bưởi nở rộ, những cánh hoa trắng rụng lấm tấm trên nền đất pha cát sạch mịn. Cây mai già vừa qua vụ hoa giờ đang trổ lộc, lác đác vài cánh hoa còn sót lại vàng tươi trong đám lá xanh non.

Chúng tôi say sưa trò chuyện trong hương bưởi thơm ngát. Ông già vừa bước qua tuổi "thất thập" này vẫn sôi nổi như xưa. Lưng hơi còng và tóc đã bạc trắng, nhưng bước đi của anh vẫn nhanh nhẹn, đôi mắt vẫn nheo nheo hóm hỉnh như ngày nào...

Sớm mai nắng lên, anh Hai Nguyên rủ tôi xương sông. Con sông đang mùa cạn, bờ cát phía bên này nổi lên đến gần giữa dòng. Chúng tôi xách dép đi chân trần giẫm trên ìớp cát bồi mịn màng mát lạnh ra tới mép nước rồi thơ thẩn ngược lên. Ven bờ sông có mấy người dân đang cuốc đất bãi bồi để tranh thủ trồng vụ khoai trước mùa lũ. Thấy chúng tôi ngang qua, họ chống cuốc đứng nhìn theo như cố đoán xem hai người đàn ông, một đã già và một cũng không còn trẻ, đang đi tìm gì trên con sông này.

Anh Hai Nguyên nói, giọng thủ thỉ:

- Lúc mình còn nhỏ, bên bờ sông này có những guồng nước. Cái bánh xe khổng lồ làm bằng tre quay kẽo kẹt suốt ngày đêm, róc rách đổ nước lên đồng. Bao năm xa quê mình cứ nhớ mãi những âm thanh ấy. Vẫn biết bây giờ dùng máy bơm chạy điện tiện lợi hơn nhiều, mà sao cứ thấy nhớ thấy tiếc thế nào ấy, cậu ạ! Kể cho mấy đứa cháu nghe, chúng cười bảo: người già như ông thường hoài niệm...

... Quả có thế thậ!? - Tôi nghĩ - Dường như khi về già, những kỷ niệm trở nên da diết hơn đối với những ai từng có một thời đáng nhớ. Đến bây giờ mỗi khi nghe lại bài hát "Bước chân trên dãy Trường Sơn", người tôi vẫn rợn lên cảm giác gai gai da thịt: "...Núi vút thành vách đứng, nắng hè khét đá, rừng khuya mất lối. Ta đi theo ánh lửa từ trái tim mình... Máu thắm đường ta đi lẫn mồ hôi rơi tình quê tha thiết..." Những câu hát như truyền vào người một nguồn năng lượng làm phát ra làn sóng điện kỳ lạ đưa tâm trí tôi đến với cánh rừng con suối năm xưa, với những đêm khuya bên đống lửa giữa rừng, những tháng ngày gian khó đầy ắp kỷ niệm đã in vào máu thịt...

Bên cạnh, anh Hai Nguyên vẫn kể về mấy đứa cháu:

- ...Hai thằng cháu nội, một xong năm nay vào đại học, một lên lớp chín. Cả hai đứa đều học giỏi. Chúng nói tiếng Anh nhanh như gió, gõ vi tính như múa, nhớ mặt nhớ tên hầu hết các danh thủ bóng đá quốc tế, ham thích những khúc quân hành của hai cuộc kháng chiến lẫn những bản nhạc "tóp ten" của nước ngoài. Thế hệ chúng bây giờ sướng thật.

Tôi cười:

- Chẳng ai mong có lại một cuộc chiến tranh như vừa qua cho con cháu "được dịp" chứng tỏ bầu nhiệt huyết của mình. Những người đi trước hy sinh xương máu là để cho đời sau sung sướng hơn...

Anh nheo mắt nhìn tôi:

- Cậu lại triết lý rồi! Đúng là như vậy! Nhưng cậu có biết hai đứa cháu mình chúng hỏi gì không?

- Sao kia ạ?

- Chúng thắc mắc: "Sau năm năm tư, ta "đối thoái" với Mỹ có phải hay hơn không? Khỏi có một cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài cả mấy chục năm..." Cậu thấy đấy! Chúng nó giờ tiếp thu cái mới rất nhanh, nhưng hiểu biết lịch sử chẳng ra sao cả. Cũng may chúng dám hỏi! Còn bao nhiêu đứa không hỏi, cứ ấm ức trong đầu, rồi sau sẽ ra sao? Chiến tranh trôi qua chưa lâu... hăm ba năm, đúng không? Vậy mà... Giờ ta hay dùng cụm từ "khép lại quá khứ"... Dĩ nhiên không sai, nhưng chỉ đúng khi sử dụng trong một lĩnh vực nào đó, nói về một vấn đề cụ thể nào đó... Phải hiểu cho đúng nghĩa, đừng nghĩ như thế là đóng lại tất cả, quên đi tất cả. "Xóa bỏ hận thù trong quá khứ". Không bao giờ đồng nghĩa với "Xóa bỏ quá khứ". Không ai chỉ ôm quá khứ mà sống được và chiến tranh thì đâu có hay ho gì mà phải lưu luyến nó, nhưng phải nghĩ phải nhớ tới chiến tranh để bằng mọi cách không cho nó tái diễn, để bảo vệ cho bằng được những gì mà bao thế hệ đã hy sinh xương máu bảo vệ. Mình hơi "đại ngôn" phải không nhưng thực chất là thế đấy...

Lắng nghe anh nói, tôi cúi nhìn những dấu chân mình in trên lớp cát rịn nước và tự hỏi: trong triệu hạt phù sa kia, có hạt nào là một phần xương thịt của anh Sơn? Không chắc? Nếu có, lúc này nó cũng đã ra tới biển hay nằm sâu dưới những lớp phù sa đổ về mỗi năm... Nhìn lên phía nguồn chỉ thấy điệp trùng núi xanh, mịt mờ mây tràng. Góc rừng nơi ngày nào các anh ngã xuống giờ khuất sau lớp lớp núi xa.

Nhưng từ trên ấy dòng nước ngày ngày vẫn chảy về đây. Con sông từng chứng kiến mọi chuyện xây ra từ bao đời nay. Nếu nói được sông sẽ kể rằng, trong những năm tháng ấy có những người đã sống như thế, đã chết như thế.

Huế - tháng 3 năm 1999.

------------------------------------------

Hết

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: