Đội đặc nhiệm TK1 (part1/3)haley
Tác giả: Phan Văn Lợi
Nhà xuất bản: Công an Nhân dân
Năm xuất bản: 2002
Số hoá: ptlinh, chienvit
Chương I
Buổi chiều một ngày đầu tháng 4 năm 1969.
Đang chuẩn bị cho chuyến đột nhập về vùng ven thị xã Quảng Trị, tôi bỗng được lệnh lên gặp ông Thủy để nhận công tác gấp. Chia tay với Bằng và Dũng, hai người đồng đội cùng tổ trinh sát, tôi vội vã đi lên khu hầm chỉ huy, trong lòng thấp thỏm. Vẫn biết đi công tác đột xuất đối với lính an ninh là chuyện thường tình, nhưng đích thân đồng chí trưởng ty giao nhiệm vụ thì hẳn là công việc rất quan trọng...
Ông Thủy rút từ cặp hồ sơ ra tờ giấy ghi điện mật, nhưng không đưa cho tôi mà giơ lên trước đèn, vừa nhìn bức điện vừa nói:
- Tôi mới nhận được điện của Khu ủy, trên ấy điều cậu đi công tác gấp. Trong điện ghi đích danh nên không thể thay bằng người khác được. Chính vì thế mà tôi phải cho đồng chí Diễn xuống ngay, sợ các cậu đi rồi thì lỡ việc. Thế nào, đột xuất như vậy có ảnh hưởng gì tới công việc của tổ cậu không?
- Báo cáo, không sao ạ! Đồng chí Bằng đảm đương được, cậu Dũng cũng quen rồi. Nhưng có việc gì mà Khu ủy điều đến tôi ạ?
Ông Thủy nhìn tôi, mắt thoáng cười sau cặp kính loáng ánh đèn:
- Đừng sốt ruột? Cậu đã biết rồi, có những việc khi bắt tay vào làm mới rõ. - Ông ngừng lại như để cân nhắc điều gì, rồi nói tiếp - Riêng trong chuyện này, tôi cũng mới nắm những nét chung nhất thôi. Về phần cậu chỉ cần nhớ: Khu ủy điều cậu đi công tác gấp, trong chiều mai phải có mặt ở T.2. Đường xa lại khó đi, cậu phải lên đường ngay mới kịp.
Ông mở cặp hồ sơ trên bàn, lấy ra tờ giấy giới thiệu:
- Không có lệnh điều động đâu! Tôi đã viết sẵn giấy giới thiệu cho cậu. À, trong điện nói rõ: chỉ mang theo vũ khí và tư trang cần thiết. Những thứ cần dùng cho công tác sắp tới sẽ lĩnh ở T.2. Cậu cần bao lâu để chuẩn bị?
- Báo cáo, tôi đi ngay được ạ!
- Tốt! Đây là mật khẩu đêm nay trên đường giao liên, đọc xong nhớ kỹ rồi đưa lại cho tôi. - Ông đưa tôi mảnh giấy nhỏ - Tôi đã điện hỏi bên giao liên, đường đêm nay yên, đi được.
Tôi đọc mật khẩu rồi đưa trả mảnh giấy. Mật khẩu rất dễ nhớ. Còn tờ giấy giới thiệu tôi gấp lại, cẩn thận cho vào bao nilong, cất trong túi áo ngực. Nội dung giấy giới thiệu cũng như thường lệ, chỉ phần lý do công tác lại ghi: "Gặp anh Hai Nguyên", rất cụ thể nhưng khó hiểu.
Ông Thủy tháo kính, ngả người vào lưng ghế:
- Cậu còn hỏi gì nữa không?
Tôi chưa trả lời ngay, trong đầu thoáng nghĩ về chặng đường sắp tới. Chưa đến T.2 lần nào, nhưng tôi biết đó là trạm giao liên thuộc đường dây 559, chuyên đưa đến các đoàn cán bộ vào ra công tác ở Trị Thiên. Trạm nằm ở phía tây Vĩnh Linh, đâu như trong một cánh rừng thuộc Bãi Hà. Như vậy đêm nay tôi lại đi ra Bắc, ngược hướng với Bằng và Dũng. Sẽ vượt sông Bến Hải ở Bến Than. Sức trai hăm ba tuổi lại quen vất vả từ nhỏ, chặng đường này đối với tôi chẳng mùi mẽ gì.
Ngẩng đầu lên, thấy ông Thủy vẫn đang chờ trả lời, tôi vội đáp:
- Báo cáo, rõ cả rồi ạ! Chỉ có đoạn từ Bến Than đến T.2 tôi chưa đi lần nào...
- Qua Bến Than, cậu phải đi gần một ngày nữa. Tới đó đã là đất miền Bắc, cứ hỏi đường lên Bãi Hà, sẽ có người đến. Nhưng nhớ giữ kỹ giấy giới thiệu. Không có nó, cậu không đi được bước nào trên đất Vĩnh Linh đâu. À, cậu quê ngoài đó cơ mà, còn lạ gì nữa!
Ông đứng dậy tới bên chiếc ba lô treo ở vách hầm, lấy ra hai phong lương khô đưa cho tôi:
- Cầm lấy ăn dọc đường. Chỉ đi trong một ngày đêm, khỏi cần xuống hậu cần nhận gạo. Vả lại đi gấp cũng chẳng kịp nấu cơm. Mà ra quê cậu đâu có lo đói. Này, cậu biết anh Hai Nguyên rồi phải không?
- Dạ, đã gặp vài lần rồi ạ! Anh Hai Nguyên là cán bộ lãnh đạo của Khu ủy, tôi có gặp mấy lần khi anh về Ty an ninh làm việc. Đó là người lãnh đạo mà lính an ninh chúng tôi hết lòng kính phục. Anh có tác phong giản dị, cách nói chuyện rất hấp dẫn, vừa sâu sắc vừa dí dỏm. Cánh trinh sát bên Tỉnh đội kể mãi về chuyện trước Mậu Thân, anh cùng lính đặc công mặc đồ cụt ngụy trang cắp AK bò vào tận sân bay Ái Tử, thành thạo không kém bất cứ một chiến sĩ đặc công dày dạn nào. Về tuổi tác, đáng ra như tôi phải gọi anh bằng chú, nhưng anh dặn chúng tôi cứ gọi bằng anh cho dễ xưng hô và để anh được trẻ lâu...
Thấy ông Thủy nhìn đồng hồ, tôi vội nhìn xuống chiếc "Pônzốt" đeo ở cổ tay: đã bảy giờ tối.
- Thôi, cậu đi được rồi đấy?
Ông đứng dậy cầm chiếc ba lô nhẹ tênh giúp tôi khoác lên vai và đi cùng tôi ra tới cửa hầm ngoài cùng. Đặt cả hai tay lên vai tôi, ông thân mật nói:
- Mình chưa biết cụ thể công việc sắp tới của cậu, nhưng chuyến đi này có lẽ dài ngày. Vậy chúc cậu lên đường may mắn và mạnh khoẻ. Trước lúc cậu đi, mình chỉ dặn một điều: Khi trên đã điều động một người lính an ninh, thì có nghĩa công việc sắp tới không chỉ cần đến lòng dũng cảm trung thành, mà còn cần cả kinh nghiệm, sự hiểu biết và bản lĩnh của một chiến sĩ an ninh. Thôi, đi nhé!
Cảm động trước lời dặn dò chân tình của ông, tôi bối rối nên chỉ đáp ấp úng: "Chào thủ trưởng, tôi đi ạ"' ông bắt tay tôi lần cuối rồi quay vào hầm.
Xốc lại chiếc ba lô và khẩu súng trên vai, tôi bước ra mé đồi đưa mắt tìm lối đi. Lúc đó tôi đâu có ngờ rằng mình đang bước những bước đầu tiên của một chuyến đi dài ngày, một chuyến đi kỳ lạ chẳng hề giống bất cứ chuyến công tác nào trước đó.
Sau gần một đêm và một ngày cuốc bộ thật lực, tôi tới trạm khách của T.2 đúng giờ qui định nhưng không gặp anh Hai Nguyên, chỉ nhận được mẩu giấy của anh gửi lại với nội dung ngắn và rõ như một mệnh lệnh: "Nghỉ ngơi và chờ đợi".
Đêm ấy tôi mắc võng nằm một mình trong căn nhà vắng ở góc rừng, trằn trọc mãi bởi tâm trạng nôn nao trước công việc sắp tới, mà đến lúc này vẫn chưa biết được là việc gì.
Sáng hôm sau khi từ dưới suối lên, tôi nghe trong nhà có tiếng người, chắc có ai mới đến. Đang định phơi bộ quần áo vừa giặt, bỗng thấy một người mặc quân phục hiện ra trước cửa, nụ cười tươi rói trên khuôn mặt ngăm đen thân thiết. Tôi ngớ người rồi bật reo: "A, anh Đằng!" Ném bộ quần áo ướt lên chiếc sào tre, tôi nhào tới ôm chầm lấy anh. Anh cười khà khà:
- Chưa hết! Ai đây?
- Anh né sang một bên.
- Ôi! Cả anh Hùng nữa! Các anh đi đâu vậy? - Tôi hỏi một câu khá ngớ ngẩn.
- Đi với cậu chứ đi đâu? Vào đây? Vào đây nói chuyện.
Chúng tôi ngồi xuống bên bàn, ngắm nhìn nhau.
- Các anh vẫn thế, chẳng thay đổi gì cả? - Tôi nói.
- Thay đổi thế nào được, bọn mình vẫn khỏe như vâm. Tới trạm nghe ông Hai Nguyên bảo xuống đây sẽ gặp người quen. Gặng mãi ông ấy chẳng nói, chỉ tủm tỉm cười. Ai ngờ lại là cậu...
Nói chuyện một lúc, rồi tôi dẫn các anh ra suối. Hai anh xuống tắm, còn tôi ngồi giặt giúp mấy bộ quần áo. Câu chuyện vẫn sôi nổi không dứt.
Thì ra các anh vẫn chưa biết ra đây làm nhiệm vụ gì. Đang hoạt động ở phía bắc đường Chín bên đất Lào, nhận được điện là lên đường ngay. Đi suốt đêm ra tới đường Trường Sơn, vẫy một chiếc xe con, may gặp đồng chí cán bộ đoàn 559 là người quen của anh Đằng đi Hà Nội họp. Anh ấy cho xe chở tận Bãi Hà.
Anh Đằng và anh Hùng là trinh sát quân báo của một sư đoàn chủ lực chuyên hoạt động ở chiến trường Quảng Trị, Nam Lào. Tôi quen các anh trong một trường hợp khá đặc biệt mà có lẽ chẳng ai muốn có một dịp như vậy để làm quen với nhau. Hôm ấy tổ công tác của chúng tôi đang trên đường trở về hậu cứ sau một chuyến công tác. Thời gian này địch nống ra đánh phá ác liệt hòng đẩy bộ đội ta lên xa trên núi. Sau Mậu Thân lực lượng ta tổn thất khá nhiều. Các cơ sở nằm vùng phần bị bắt, phần bị lộ phải rút ra nên công tác của chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn. Hôm ấy có việc gấp nên chúng tôi đi từ trưa. Lúc ngang qua dãy đồi sim ở vùng tây Cam Lộ, chúng tôi gặp một đơn vị đang bị phục kích. Đó là tổ trinh sát của anh Đằng và anh Hùng. Chúng tôi đã cùng hợp sức diệt gọn toán thám báo địch. Rồi quen nhau từ đó.
Về sau, thỉnh thoảng có dịp công tác qua, các anh lại ghé vào hậu cứ Ty an ninh thăm chúng tôi. Có lần anh Đằng đưa cho tôi một tờ báo của Quân khu, trong đó có đăng bài viết về trận đánh nhỏ của chúng tôi. Bài báo biểu dương tổ trinh sát của tôi, nói đó là trận đánh phản phục kích, đánh phối hợp theo tiếng súng tuyệt đẹp...
Chẳng biết anh Đằng đã kể gì với nhà báo, chứ chúng tôi thì lại hết sức cảm phục các anh. Bị phục kích bất ngờ như thế, trước một khẩu trung liên và nửa tá nòng tiểu liên bắn như đổ đạn, nhưng vẫn đánh trả được và chỉ bị thương nhẹ có hai người, chứng tỏ các anh là những người lính trinh sát dạn dày bản lĩnh mà còn lâu cánh lính trẻ chúng tôi mới theo kịp...
Vì vậy tôi rất mừng khi được đi với hai anh trong chuyến công tác, dù chưa biết sẽ làm công việc gì.
Đợi hai anh tắm xong, chúng tôi cùng lên nhà. Vừa bước vào cửa đã thấy anh Hai Nguyên ngồi uống nước trà bên bàn, ung dung như một thầy giáo đang đợi trống đánh báo giờ vào lớp.
- Thế nào, đã kịp làm quen với nhau rồi phải không? - Anh nheo mắt hóm hỉnh.
Cả ba chúng tôi cùng bật cười. Anh Đằng trả lời:
- Thế mà hỏi mãi anh không nói. Ai chứ Hải với bọn em còn hơn cả ruột thịt...
- Biết thế nên mình mới để các cậu đi với nhau chuyến này. Nhưng việc đó nói sau, đang còn đợi một cậu nữa từ Hà Nội vào. Giờ các cậu cứ phải nghỉ ngơi thôi. Tuyệt đối không được sốt ruột đấy nhé. Mình đi đây? Nếu tối nay rảnh, sẽ xuống ngủ với các cậu một đêm.
Nói xong, anh đứng dậy, thân mật vỗ vai từng người rồi nhanh nhẹn bước ra cửa. Đã quen với tác phong của anh nên chúng tôi không ngạc nhiên.
Đến chiều, chúng tôi ra ngồi dưới gốc cây, lại hàn huyên mãi không thôi. Anh Hùng lấy trong ba lô ra gói lạc và kí đường, trổ tài nấu một mẻ kẹo. Kẹo lạc anh nấu rất ngon, nhưng vừa ăn vừa phải bóc giấy báo dính sau lớp kẹo vì không có bánh tráng để đổ.
Lúc sẩm tối, anh Hai Nguyên ôm võng xuống ngủ với chủng tôi. Bốn chiếc võng mắc chụm đầu vào cây cột giữa nhà. Chúng tôi rủ rỉ trò, chuyện đến nửa đêm. Khi nghe anh hỏi chuyện, tôi thấy anh biết khá rõ hoàn cảnh gia đình của mỗi chúng tôi. Đến lúc nghe anh kể về mình, mới biết anh quê Quảng Nam chứ không phải ở Nam Bộ như lâu nay tôi vẫn tưởng. Vì ít được tiếp xúc nên tôi không rành phân biệt giọng nói người miền trong. Hơn nữa, cái tên Hai Nguyên cùng với phong thái cởi mở sôi nổi làm anh có dáng dấp của một "anh Hai Nam Bộ" trong suy nghĩ của tôi.
Quê anh ở cạnh con sông Thu Bồn, một làng quê nghèo và hiền lành như bao làng quê miền Trung. Nhà anh chỉ có hai anh em. Cha mẹ anh mất sớm, lúc đó anh mười tuổi còn người anh trai mười lăm. Vốn xuất thân từ một gia đình có truyền thống hiếu học nên cả hai anh em đều sáng dạ, ham học. Bà con nội ngoại thấy vậy đã xúm lại giúp hai anh em theo việc đèn sách. Anh cùng anh trai vào Quy Nhơn ở nhờ nhà một người bà con xa làm nghề buôn bán, vừa đi học vừa phụ giúp bán hàng và tính toán sổ sách để có thêm chút ít thu nhập ngoài số tiền nhỏ mà bà con ở quê thỉnh thoảng gửi vào. Năm 1943 cả hai anh em cùng lúc thi đỗ diplome khiến họ hàng gần xa ai cũng tự hào và hả dạ. Ở quê, có những dòng họ giàu có sẵn sàng chu cấp cả trăm lần hơn thế cho con cháu ăn học, mà đâu có ai được như vậy. Anh trai anh vẫn tiếp tục học lên. Nhưng anh thấy số tiền ít ỏi mà bà con làng xóm gom góp chu cấp không kham nổi việc hai anh em cùng học, nên anh tự ý nghỉ, đi làm nghề dạy kèm để kiếm thêm, dù người anh hết sức can ngăn và la mắng.
Năm Tổng khởi nghĩa cướp chính quyền, anh trở ra quê hăng hái tham gia phong trào ở địa phương. Trong những ngày sôi nổi ấy, anh lăn vào tất cả mọi công việc mà chính quyền Cách mạng non trẻ ở quê cần đến, từ dựng cổng chào, cắt khẩu hiệu, dạy bình dân học vụ cho tới tập quân sự, tuần tra canh gác... Khi những chuyến tàu rầm rập ngày đêm chở thanh niên trai tráng "Nam tiến" chạy qua cái thị xã Đà Nẵng nồng mùi cá biển, thì anh không còn chịu được nữa. Anh nhảy lên một chuyến tàu như thế, bằng mọi cách năn nỉ với đồng chí chỉ huy cho đến lúc được nhận theo. Từ đó anh đã đi qua nhiều miền đất, nhiều chặng đường gian truân của cuộc kháng chiến chống Pháp. Năm 1954, anh là trung đoàn trưởng chỉ huy một trung đoàn tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Hòa bình, anh ở lại miền Bắc tham gia xây dựng quân đội. Vì vậy kể từ ngày bám theo đoàn tàu Nam tiến đến mãi sau này, anh không nhận được tin gì về anh trai mình. Anh không bao giờ quên được những ngày tháng gian nan khốn khó hai anh em mồ côi cha mẹ đùm bọc nương tựa vào nhau trong sự cưu mang của bà con họ hàng. Hình ảnh ngôi nhà tranh bé nhỏ có cây mai già mọc trước mảnh sân đầy rêu, nơi hài anh em anh sinh ra và lớn lên, luôn hiện ra trong tâm trí những lúc anh nhớ về quê nhà, về người anh trai của mình. Mỗi khi xuân đến, màu hoa mai nở vàng rực càng làm cháy lên trong anh nỗi khát khao trở về sững và chiến đấu trên mảnh đất quê hương.
Năm 1959, anh được điều sang đoàn cán bộ vào Nam tăng cường cho Khu ủy Trị Thiên. Hai năm sau, nhân gặp một người bạn ở Tỉnh ủy Quảng Nam ra Bắc công tác, anh mới biết anh trai mình hiện đang sống ở Sài Gòn, là giáo sư dạy sử ở một trường đại học. Anh ấy đã lập gia đình, có hai con, một trai một gái...
Anh kể tiếp:
- Trước sáu tám, mình được tin anh mình chuyển ra sống ở Đà Nẵng. Nghe nói ông đã bỏ nghề dạy học, giờ chỉ ở nhà viết sách. Còn đứa cháu trai thì đi lính ngụy, hình như làm "philốt". Không biết đã có khi nào nó ném bom xuống đầu chú nó chưa...,
Anh cười buồn, ngưng một lúc rồi mới nói tiếp:
- Dạo Mậu Thân, mình có nhờ bạn bè trong đó tìm kiếm. Sau này anh em báo ra là đã móc được với anh mình, nhưng chưa kịp nhận hồi âm vì tình hình lúc đó diễn ra ác liệt quá... Mình chỉ mong hai anh em còn sống đến ngày hòa bình để được ôm lấy nhau, để dắt nhau về lại ngôi nhà nhỏ có cây mai già ấy mà thắp cho ông bà cha mẹ mấy nén hương...
Trong đêm khuya thanh vắng, câu chuyện về gia đình qua giọng kể thủ thỉ buồn buồn của anh làm chúng tôi nao cả lòng. Tôi không ngờ người cán bộ lãnh đạo lúc nào cũng nhiệt tình sôi nổi và hóm hỉnh đó lại chứa chất trong lòng một tâm sự da diết đến như thế.
Sáng hôm sau tỉnh giấc, thấy anh Hai Nguyên đã dậy cuốn võng đi từ lúc nào. Anh Đằng cười:
- Ông này đúng là đặc công thứ thiệt. Đi lúc nào mà êm ru, mình chẳng hay biết gì cả!
Nhưng chỉ nửa giờ sau anh lại đến. Cùng đi với anh có một người trạc tuổi anh Hùng, dáng cao cao, nước da trắng, mặc bộ quân phục và đeo chiếc ba lô cóc mà tất cả đều còn mới tinh như vừa nhận từ trong kho ra.
Vừa bước qua cửa, anh Hai Nguyên nói ngay:
- Vậy là người thứ tư đã tới. Giới thiệu với các cậu, đây là đồng chí Sơn, kỹ sư địa chất, mới từ Hà Nội vào. Sáng nay các cậu nghỉ ngơi, làm quen với nhau. Chiều hai giờ ta làm việc nhé! - Anh cười, vẫy tay chào rồi quay người đi ngay.
Tôi bước tới, giúp anh Sơn cởi ba lô đặt trên bàn:
- Anh ngồi nghỉ, lát rồi em dẫn xuống suối tắm cho mát!
Anh Đằng róc nước ra chén, đưa mời:
- Đồng chí Sơn uống nước? Đồng chí quê ở đâu nhỉ?...
Cứ thế, chỉ lát sau là chúng tôi đã cởi mở trò chuyện thân tình. Riêng tôi vẫn phân vân không biết vì sao anh Sơn lại đi với chúng tôi. Trông anh đúng là dân trí thức chính cống, lại mới từ Hà Nội vào. Tôi thì chẳng đáng nói, chứ trên đã điều những người như anh Đằng và anh Hùng cho chuyến công tác này, hẳn công việc đâu có đơn giản... Sau này tôi phải tự xấu hổ với những suy nghĩ ban đầu của mình. Qua câu chuyện, chúng tôi được biết anh Sơn là kỹ sư địa chất, chuyên đi tìm kiếm khảo sát các mỏ kim loại màu và đá quí. Suốt sáu năm từ khi tốt nghiệp ra trường cho đến nay, hầu như anh lang thang trong rừng, đặt chân lên nhiều miền núi non của tổ quốc, từ Nghệ An, Thanh Hóa cho tới những dãy núi trùng điệp ở Đông Bắc, Tây Bắc. Chỉ những lúc phải về phân tích mẫu, lập đồ bản... anh mới làm việc ở Hà Nội. Đúng là người ta rất dễ nhầm lẫn nếu đánh giá một con người chỉ qua dáng vẻ bên ngoài.
Anh Đằng vô cùng mừng rỡ khi biết anh Sơn đồng hương với anh, mà lại là đồng hương tầm gần, có nghĩa cùng huyện, chứ không phải loại đồng hương pháo tầm xa cũng không với tới. Quê anh Sơn ở gần núi Gôi, còn nhà anh Đằng ở cạnh ga Cát Đằng (tỉnh Nam Định), chỉ cách nhau chừng mười cây số, gọi là ga trước ga sau của một chuyến tàu chợ. Anh Sơn đã lập gia đình, chị ấy dạy học ở trường cấp hai trong xã. Hai anh chị sinh được một cháu gái, năm nay cháu ba tuổi.
Tôi nhường cho anh Đằng quyền được dẫn đồng hương xuống suối tắm giặt để các anh có dịp tâm sự với nhau. Khi từ dưới suối lên, nhìn nét mặt rạng rỡ của anh, tôi hiểu điều gì đã làm anh vui đến vậy. Ở quê, gia đình anh chỉ còn mỗi mình ông cụ thân sinh. Mẹ anh mất cách đây hai năm, nhưng mãi sau này anh mới biết tin. Hai ông bà sinh được có mình anh... Năm 1956, theo ước nguyện của bố, anh Đằng làm đơn tình nguyện vào trường thiếu sinh quân và được chấp nhận, nhưng khi đến trường thì bị trả về với lý do quá tuổi quy định, kèm theo lời xin lỗi gia đình về sự sơ suất trong xét tuyển. Năm ấy anh mười tám tuổi. Anh không chịu về, mấy ngày liền bám theo các anh cán bộ quân lực nằng nặc xin vào một trường quân sự nào đó. Cuối cùng, anh được nhận vào trường bộ đội đặc công. Hơn hai năm sau, anh đã là thành viên trẻ nhất trong đoàn cán bộ đi mở đường Trường Sơn. Lăn lộn mải miết với các tuyến đường hết đông lại sang tây Trường Sơn, đến năm 1965 anh được điều về phòng quân báo của một sư đoàn chủ lực. Trong chừng ấy năm có dăm lần về phép, mỗi lần mươi ngày, anh chỉ kịp giúp bố mẹ lợp lại mái nhà hay làm cái chuồng lợn, chứ không đủ thời gian để có thể tìm hiểu một cô nào đó mà lấy làm vợ. Lần về phép gần đây nhất của anh cũng đã cách bốn năm...
Vì vậy việc bất ngờ gặp được người đồng hương ở nơi xa xôi này và biết được những tin tức tốt lành còn nóng hổi về quê nhà sau bao ngày xa cách, khiến anh vô cùng vui sướng.
Đúng như đã hẹn, anh Hai Nguyên đến lúc hai giờ chiều. Cùng đi có một đồng chí thiếu tá mà anh giới thiệu là cán bộ tham mưu của đoàn 559. Tôi có cảm giác chiếc quân hiệu lấp lánh trên mũ và đôi cấp hàm đỏ chót nơi ve áo anh làm cho không khí trang nghiêm hẳn lên.
Anh Hai Nguyên nói:
- Các đồng chí biết nhau cả rồi, nên ta vào việc luôn. Tôi được Trung ương giao nhiệm vụ thành lập và chỉ đạo một tổ công tác đặc biệt. Sau khi trao đổi bàn bạc với các đơn vị có trách nhiệm phối hợp, tôi quyết định chọn bốn đồng chí để thành lập tổ công tác này. Từ nay, các đồng chí là thành viên của tổ, đồng chí Đằng làm tổ trưởng. Nhiệm vụ của các đồng chí là tìm kiếm một vỉa quặng vàng được phát hiện qua vệ tinh của Liên Xô. Theo bạn, vỉa quặng này rất đáng chú ý vì những số liệu kỹ thuật đều cho thấy nó có hàm lượng vàng rất cao và chỉ phát hiện tập trung ở một nơi. Tọa độ của nó là...
Anh đọc tọa độ rồi cầm bút chì chỉ vào một điểm trên tấm bản đồ tỉ lệ 1:100.000 mà đồng chí thiếu tá vừa trải lên bàn. Điểm anh chỉ nằm ở phía tây tỉnh Quảng Nam, sát với biên giới Việt-Lào.
- Thế nào? - Nheo mắt nhìn chúng tôi, anh hỏi - Nhiệm vụ khá bất ngờ và lý thú phải không? Nhưng cứ nghe tiếp đã nhé? Trong cuộc họp vừa rồi ở Hà Nội, tôi được biết: Trung ương đã chỉ thị cho các cơ quan có trách nhiệm nghiên cứu thông tin này, và đã có nhiều ý kiến khác nhau. Một ý kiến cho rằng đây đúng là mạch quặng vàng lộ thiên, dấu hiệu của mỏ vàng nằm sâu trong lòng đất. Tọa độ được phát hiện ở phía trên mỏ vàng Bồng Miêu nhưng cách khá xa, liệu có liên quan gì về mặt địa chất? Điều này rất khó xác định do không đủ dữ liệu. Có ý kiến khác nêu ra nhận định: đây là một kho vàng tồn tại do nguyên nhân lịch sử nào đó. Khả năng này rất đáng chú ý. Trước đây nhân dân vùng núi Quảng Bình, Hà Tĩnh đã từng phát hiện một số vàng thỏi và tiền vàng nhưng số lượng không nhiều, xác định là vàng do vua Hàm Nghi mang theo khi ra vùng này lập căn cứ chống Pháp. Có người nói đây có thể là vàng mà quân Nhật vơ vét khi sang chiếm nước ta, rồi sau chúng đem thu giấu vì không chuyển về nước được... Tình tiết này có thật trong lịch sử, nhưng tọa độ phát hiện nằm giữa núi cao rừng thẳm, cách xa các đường giao thông và khu dân cư, kể cả các bản làng của đồng bào dân tộc, khó ai có thể vận chuyển lên cất giấu ở đó...
Cuối cùng cuộc họp quyết định phải tổ chức thăm dò tìm kiếm, giao trách nhiệm cho tôi trực tiếp chỉ đạo với sự phối hợp về mọi mặt của đoàn 559, quân khu Bốn và Tổng cục địa chất. Phía bạn có cung cấp cho ta một bức không ảnh... - Anh mở nắp chiếc xà cột da đeo bên người lấy ra một tấm ảnh màu to cỡ trang vở học sinh đặt lên bàn - ... tất nhiên không phải là ảnh gốc. Nó đã được phổ màu và chụp lại.
Chúng tôi cùng rướn người tới nhìn. Trên tấm ảnh chỉ thấy những mảng xanh đậm nhạt khác nhau bao quanh một đám màu vàng úa có hình dạng như chiếc lá cây. Bên lề tấm ảnh có ký hiệu chỉ hướng bắc nam.
Anh Hai Nguyên cười:
- Các đồng chí không phân biệt được gì bằng mắt thường đâu? Ngay cả khi có ảnh gốc, cũng phải có máy chuyên dụng và chuyên viên phân tích ảnh mới biết được. Lúc này tấm ảnh chỉ có ý nghĩa hướng dẫn. Bộ phận kỹ thuật cho biết bức không ảnh này được chụp từ độ cao khá lớn, chụp chính diện một khoảng mặt đất hình vuông cạnh từ mười đến mười hai kilomet. Qua phân tích, địa hình trong ảnh nếu mở rộng ra sẽ có dạng như một thung lũng. Xung quanh là rừng già nguyên sinh, - anh chỉ những mảng màu xanh - ở giữa là đồng cỏ dài chừng năm kilomet và rộng ba kilomet. Tọa độ vỉa quặng nằm ngay dải rừng phía bắc đồng cỏ. Theo thông tin của bạn, ở góc đông bắc đồng cỏ có một cây thủy tùng cổ thụ. - Nói đến đây, anh nhìn anh Hùng và hỏi - Thế nào? Chuyên gia về rừng có biết cây thủy tùng không?
Anh Hùng ngẫm nghĩ rồi đáp:
- Có phải loại tùng trên núi Yên Tử không ạ?
- Không phải! Theo một đồng chí phó tiến sĩ lâm sinh cho biết, loài cây này thuộc họ tùng bách, thân thẳng dáng cao vút, tán lá hình chóp, lá hình kim xanh quanh năm. Vỏ cây thủy tùng sần sùi, lâu năm có thể bong ra từng mảng. Một đặc điểm nữa là nhựa của nó rất độc... - Anh chợt cười - Nghe như bài giảng thực vật ấy nhỉ? Tôi cũng chỉ nói lại những điều hỏi được, biết đâu nó sẽ có ích cho các đồng chí! Thủy tùng là loài cây của xứ lạnh, phát triển nhiều vào thời trung cổ, không hiểu sao ở nước ta còn sót lại cây này? Nhưng chính vì hiếm như thế nên nó là dấu hiệu quan trọng để giúp các đồng chí xác định đúng khu vực phải tới.
Anh bưng chén nước nhấp một ngụm rồi nói tiếp:
- Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang đi vào giai đoạn ác liệt nhất, ta đang phải tập trung tất cả cho chiến đấu. Việc tìm kiếm thăm dò trong lúc này sẽ rất khó khăn, nhất là không thể tổ chức quy mô vì nhiều lý do khác nhau. Chắc các đồng chí cũng tự hỏi: Tài nguyên của ta, của cải của ta, ta lấy lúc nào mà chẳng được? "Cơm chưa nấu thì gạo còn đó..." Nhưng tình hình không cho phép như vậy. Theo tài liệu tình báo ta nắm được, một nhân viên CIA có cỡ vừa được điều tới phân vụ CIA ở Sài Gòn đang chú ý đặc biệt đến địa bàn này. Đây là vùng không cần thiết phải có cứ điểm quân sự, địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt và không có nhánh đường nào thuộc tuyến đường Trường Sơn chạy qua. Ta chưa biết địch có ý đồ gì, nhưng nguồn tin này rất đáng lưu ý bởi có sự trùng hợp là tọa độ mà ta quan tâm nằm trong khu vực này. Trung ương đã chỉ thị cho bên tình báo tiếp tục khai thác nguồn tin đó, đồng thời yêu cầu các cơ quan lưu trữ thu thập nghiên cứu các tài liệu lịch sử để tìm những thông tin có liên quan.
Tình hình là thế. Giờ chắc các đồng chí đã hiểu vì sao ta phải tổ chức tìm kiếm trong lúc nước sôi lửa bỏng này. Hơn nữa trong đó mùa mưa thường bắt đầu từ tháng sáu, mà bây giờ đã là đầu tháng tư, cần phải tiến hành gấp trước khi mưa tới...
Nói đến đây anh ngừng lại, mắt nhìn ra xa như đang nghĩ tới điều gì. Chúng tôi yên lặng chờ đợi. Lát sau anh mới chậm rãi nói tiếp:
- Tổ của các đồng chí được đặt tên là TK1. Như vậy, sẽ có những toán TK tiếp theo. TK1 vừa có nhiệm vụ mở đường, vừa tìm kiếm thăm dò, vừa phải chiến đấu khi cần thiết. Nhiệm vụ rất nặng nề. Các đồng chí phải xuyên rừng nhiều ngày trên một địa bàn xa lạ hiểm trở, không dân cư và có thể gặp địch. Trong suốt chuyến đi sẽ không có sự liên lạc nào với trên, với các đơn vị bạn. Mặt trận sẵn sàng cung cấp cho TK1 những phương tiện thông tin tốt nhất mà ta hiện có, nhưng với cự ly đó, những bộ máy thích hợp lại quá cồng kềnh. Do vậy, khi gặp trở ngại, các đồng chí phải hoàn toàn dựa vào sức mình chứ không có sự giúp đỡ hỗ trợ nào khác. Chúng ta không thể tính trước từng phương án cho mỗi tình huống, nhưng bất kỳ trường hợp nào các đồng chi cũng phải tỉnh táo vận dụng tất cả khả năng và kinh nghiệm của mình để hành động. Những gì các đồng chí đã học, đã rèn luyện được qua thực tế công tác chiến đấu, mọi kiến thức, mọi hiểu biết từng người tích lũy được tử trước đến nay đều có thể cần đến. Không có trở ngại nào là không thể vượt qua, nếu chúng ta vững vàng và biết suy nghĩ đúng hướng. Theo kế hoạch, đường về là đi ngược lại con đường đã đi, nhưng không phải lúc nào mọi việc cũng diễn ra đúng như dự kiến. Các đồng chí cần hết sức linh hoạt, tận dụng mọi cơ hội. Và tôi xin nói rằng trong kế hoạch này, yêu cầu cao nhất là sự trở về của TK1, cho dù không tìm ra vỉa quặng. Người ta bảo: khi giải một bài toán mà chứng minh được đề bài ra sai thì coi như hoàn thành phép giải. Còn trong trường hợp này, chỉ cần xác định cách giải hiện tại không đúng để tìm cách giải khác, đã là có kết quả. Tất nhiên khi trở về mà mang theo kết quả tìm kiếm mỹ mãn thì đó là một thắng lợi toàn diện rồi...
Nghe đến đây, bốn chúng tôi đưa mắt nhìn nhau. Ai cũng cảm động trước sự tin cậy của anh Hai Nguyên. Anh tin chúng tôi sẽ làm hết sức mình mới chịu quay về.
Sau đó, anh phổ biến cho chúng tôi mật hiệu liên lạc khi cần thiết. Mật hiệu rất ngắn gọn: nếu nhận được tin "Hoa mai đã nở", thì đấy là tín hiệu của tổ tôi báo về, bộ phận chỉ đạo sẽ có cách liên lạc trở lại. Còn nếu nhận "Hoa mai vàng đã nở" có nghĩa chúng tôi phát hiện được mục tiêu. Các tỉnh lân cận và các đơn vị bộ đội đóng trên những địa bàn có liên quan sẽ được thông báo và hướng dẫn cách xử li khi có người đưa ra tín hiệu này. Đây cũng là mật hiệu để nhận biết các toán TK tiếp theo.
Anh Hai Nguyên nhìn đồng hồ rồi nói:
- Như vậy tôi đã phổ biến xong. Chắc các đồng chí còn nhiều điều muốn hỏi, nhưng chưa vội. Giờ cứ nghe tiếp công tác chuẩn bị và bàn bạc suy nghĩ. Sáng mai ta sẽ cùng nhau trao đổi kỹ hơn.
Anh đưa mắt ra hiệu. Đồng chí thiếu tá đứng lên mỉm cười nhìn chúng tôi:
- Tôi được giao nhiệm vụ chuẩn bị và hỗ trợ cho TK1. Bây giờ tôi trình bày về tuyến đường mà các đồng chí sẽ đi, sau đó là phần hậu cần.
Theo dự kiến, sẽ có xe đưa các đồng chí ngược lên miền tây Quảng Bình sang Lào rồi theo đường Trường Sơn đi về phía nam. Đến khe Trầm, - Anh chỉ trên bản đồ - các đồng chí đổ bộ và từ đó đi thẳng tới tọa độ cần tìm. Trên bản đồ, đoạn này đo được một trăm mười bảy cây số, tính theo đường chim bay. Từ đây tới gần bắc đường Chín, có những chặng xe có thể chạy ban ngày. Từ đường Chín vào xe phải chạy đêm. Vùng này khá nguy hiểm vì thỉnh thoảng có thám báo địch hoạt động...
Chúng tôi nhìn bản đồ: địa điểm được gọi là khe Trầm nằm trên đất Lào, gần như đối diện với A Lưới (Thừa Thiên) qua đường biên giới. Từ đó, chúng tôi phải đi về hướng đông nam, vượt qua biên giới Lào - Việt vào phần đất nhô ra ngoài cùng của tỉnh Quảng Nam.
Đồng chí thiếu tá nói tiếp:
- Trên cũng đã cân nhắc khả năng đi từ hướng đông lên. Đi theo hướng này sẽ tranh thủ được sự giúp đỡ của đồng bào ở các bản dân tộc để tiếp cận mục tiêu gần hơn, nhưng hiện tại có nhiều trở ngại mà ta chưa thể khắc phục được. Vì thế, con đường tôi vừa trình bày vẫn là phương án tối ưu lúc này. Còn về hậu cần, đoàn 559 được lệnh cung cấp cho TK1 những thứ tốt nhất hiện có. Đây là danh mục các trang bị cần thiết cho chuyến đi. - Anh đưa cho chúng tôi tờ giấy đánh máy - Tuy nhiên, các đồng chí mới là người quyết định những gì cần mang theo...
Cuộc họp kết thúc lúc trời sắp tới. Sau khi tiễn anh Hai Nguyên và đồng chí thiếu tá ra cửa, chúng tôi quay vào ngồi xuống bên bàn. Chưa ai nói gì. Tất cả đều đang suy nghĩ về những điều vừa được nghe. Hơi lâu sau, anh Đằng lên tiếng:
- Chuyến đi này có vẻ như là một cuộc thám hiểm ấy nhỉ? Vào bộ đội mười mấy năm, làm đủ mọi thứ việc, nhưng chưa khi nào mình nghĩ tới chuyện có lúc sẽ đi tìm vàng.
Mọi người cùng cười. Anh Hùng hỏi:
- Này Sơn, chắc cậu đi tìm vàng nhiều rồi phải không - Nghề của tôi mà?
- Anh Sơn đáp - ở miền Bắc ta đã tìm được một số nơi có vàng, nhưng thường là vàng ở dạng sa khoáng, chưa bao giờ phát hiện ra quặng vàng có hàm lượng cao. Nghe nói tại các mỏ vàng ở châu Mỹ, tảng quặng vàng lớn nhất cũng chỉ nặng mấy chục ký là cùng. Cho nên tôi rất ngạc nhiên khi có vỉa quặng vàng được phát hiện qua vệ tinh... Tôi chợt nghĩ, biết đâu Liên Xô họ phát hiện vỉa quặng từ một nguồn khác, nhưng vì lý do tế nhị nào đó nên không thể nói thẳng ra được. Hiện nay Liên Xô, và cả Mỹ, đã có nhiều thành tựu trong sử dụng vệ tinh vào những lĩnh vực khác nhau, kể cả việc thăm dò tài nguyên khoáng sản, nhưng những kỹ thuật tiên tiến nhất chủ yếu vẫn tập trung cho lĩnh vực quân sự, tình báo...
Tôi háo hức hỏi:
- Theo anh, liệu ta có tìm được vỉa quặng vàng lớn không?
Anh Sơn tủm tỉm:
- Mọi điều đều có thể xẩy ra, nhưng phải tới nơi mới biết?
Anh Đằng cười:
- Cậu Hải yên trí? Thế nào cũng tìm ra, cậu chuẩn bị sức để mang, mà nhớ là chỉ được "may túi ba gang" thôi đấy...
Anh Đằng nói đúng. Chúng tôi phải tính toán, chỉ mang theo nhưng thứ thật cần thiết. Bàn mãi, cuối cùng cũng quyết định: Về vũ khí, ba chúng tôi mỗi người một AK báng gấp, riêng anh Sơn chỉ mang K54 vì còn phải đem theo một số dụng cụ cần cho việc thăm dò địa chất. Súng của chúng tôi còn tốt, không cần cấp mới. Lựu đạn, thuốc nổ cũng cần, nhưng nặng và sử dụng trong rừng không tiện nên không nhận. Riêng đạn cần nhiều hơn. Ngoài cơ số đạn chiến dấu, phải có đạn để săn bắn vì không thể mang đủ lương thực cho cả chuyến đi. Lương khô, gạo tươi, gạo sấy mỗi thứ năm ký cho một người. Thịt hộp chỉ mang đủ dùng cho mấy ngày đầu. Rồi màn, võng, tăng, đèn pin, bật lửa, túi phao bơi... Thuốc men thì chỉ mang thuốc chữa rắn cắn, thuốc phòng sốt rét, bông băng. Các loại khác khi cần sẽ lấy ở cây lá trong rừng. Anh Hùng bảo nên mang nhiều muối và xin thêm những viên thuốc lọc nước, vì đi rừng không phải lúc nào cũng đun được nước uống. Dây leo núi cũng không mang được. Thay vào đó, mỗi người sẽ mang hai chục mét dây dù, vừa làm dây võng vừa để sử dụng vào việc khác. Ngoài bản đồ, địa bàn, anh Đằng đề nghị cấp thêm một ống nhòm cỡ vừa. Anh Sơn yêu cầu xin một chiếc soong quân dụng mười lít, kiểu soong cạn miệng rộng. Anh nói: "Tuy cồng kềnh, nhưng để nấu ăn dọc đường và khi cần có thể dùng đãi vàng".
Mãi đến khi trăng lên cao, chúng tôi mới đi ngủ.
Sáng hôm sau, khi anh Hai Nguyên và đồng chí thiếu tá tới anh Đằng báo cáo ngắn gọn những gì chúng tôi bàn đêm qua. Đồng chí thiếu tá hỏi thêm một số chi tiết rồi cầm bản danh mục trang cấp đi ngay. Anh Hai Nguyên ngồi lại đến trưa, cùng chúng tôi bàn bạc về những việc cần thiết trong chuyến đi. Anh nói:
- Một chuyến đi rừng, cứ cho là trong vài ba tháng, đối với những người như các đồng chí không có gì phải lo nhiều. Nhưng sở dĩ tôi dặn kỹ như vậy vì điều đáng lo đến từ hướng khác. Theo tôi nếu CIA, và nói chung phía địch, cũng có những thông tin như chúng ta, sự việc sẽ phức tạp lên nhiều. Chúng hơn hẳn ta về phương tiện kỹ thuật, cũng lợi thế hơn trong tổ chức thăm dò tìm kiếm. Nếu trường hợp đó xảy ra, TK1 sẽ phải đối đầu với sự nguy hiểm cao độ và tất cả chỉ còn trông cậy vào bản lĩnh của các đồng chí. Trung ương đã tính tới tình huống này và cũng bàn bạc nhiều phương án khác như: Dùng máy bay đổ bộ lực lượng tìm kiếm; trang bị phương tiện thông tin liên lạc với hệ thống những đài hỗ trợ; tổ chức lực lượng ứng cứu khi cần thiết... Nhưng cuối cùng đành phải chấp nhận phương án hiện nay vì tình hình lúc này không cho phép ta áp dụng các biện pháp nói trên. Nếu tiến hành, nguy cơ thất bại là rất khó tránh khỏi. Khi đó, việc nắm được ý đồ của ta càng kích thích kẻ địch hành động. Cần nhắc thêm các đồng chí là phải hết sức giữ bí mật trong cả chuyến đi...
Lúc đồng chí phục vụ mang cơm nước tới thì cuộc bàn bạc cũng vừa chấm dứt. Anh Hai Nguyên ra về sau khi đã hẹn sẽ xuống ăn với chúng tôi bữa cơm chia tay. Đến chiều, đồng chí thiếu tá cùng hai người nữa mang những trang bị cần thiết tới.
Chúng tôi rất hài lòng với những thứ nhận được, duy chỉ có mấy con dao rừng là không được vừa ý. Loại dao này dùng cho bộ đội công binh, thường gọi là dao tông, vừa to vừa nặng.
Sáng hôm sau, trong khi chúng tôi sắp xếp đồ đạc thì anh Đằng xin phép anh Hai Nguyên rồi ôm cả bốn con dao đi. Gần trưa anh trở về, mang theo hai con dao mà anh đổi được trong một bản Vân Kiều gần đây. Loại dao này đồng bào dân tộc thường dùng, có cán gỗ chắc chắn, lưỡi dao hơi mỏng nhưng sắc ngọt, đầu lưỡi có mấu như rựa, dùng đi rừng rất tiện.
Trong ngày hôm đó, chúng tôi cố gắng hoàn tất mọi việc chuẩn bị. Giờ xuất phát ấn định vào sáng mai. Đồng chí thiếu tá giúp từng người kiểm tra trang bị cá nhân. Anh thu lại bức không ảnh và tấm bản đồ, cấp cho chúng tôi một tấm khác y hệt nhưng còn mới nguyên, đường đi được đánh dấu bằng những dấu kim châm, phải dùng kính lúp soi mới thấy. Bản đồ và địa bàn giao cho anh Sơn giữ. Mọi tư trang cá nhân, kể cả ảnh, thư từ, nhật ký... đều phải gửi lại. Trước khi gói các thứ đem gửi, anh Sơn đưa tôi xem ảnh vợ và con gái. Trong ảnh là một người phụ nữ còn trẻ có khuôn mặt trái xoan thùy mị và đôi mắt vời vợi như đang ngóng về phương xa xôi. Chị bồng một cháu gái chừng ba tuổi, trông bụ bẫm và rất dễ thương.
Chiều tối, anh Hai Nguyên xuống ăn cơm với chúng tôi như đã hẹn. Các đồng chí ở trạm tổ chức một bữa liên hoan nhỏ khá chu đáo, có cả một chai rượu chanh Hà Nội. Mọi người cùng nâng cốc chúc cho chuyến đi thắng lợi. Trong bữa ăn, chúng tôi chỉ nói chuyện tâm tình, không ai nhắc tới công việc.
Hôm sau, chúng tôi lên đường từ bốn giờ sáng. Anh Hai Nguyên đưa chúng tôi ra tận ngã ba Bãi Hà. Ở đó đã có một chiếc ô tô Bắc Kinh cùng với lái xe và đồng chí thiếu tá đợi sẵn. Anh là người dẫn đường từ đây vào tới khe Trầm. Anh Hai Nguyên bắt tay và ôm lấy từng người nói lời chúc may mắn. Xe chạy một quãng xa, ngoái lại vẫn thấy anh đứng giữa ngã ba giơ tay vẫy theo.
Chương II
Xe chúng tôi ngược lên miền tây Quảng Bình vượt biên giới sang đất Lào rồi hướng về phía nam. Vì có lệnh ưu tiên, lại đi đúng dịp đường đang khô nên xe chạy khá nhanh. Buổi chiều ngày thứ ba, chúng tôi đến được một trạm giao liên phía bắc đường Chín. Từ đây vào xe phải chạy đêm.
Đêm cuối cùng chúng tôi đi vào một con đường vắng, hai bên cây cối rậm rạp. Quầng sáng vàng nhạt của bóng đèn gầm lướt trên luống cỏ tốt bời bời giữa hai làn vết bánh xe. Đồng chí thiếu tá cho biết nhánh đường này ít xe qua vì ta đã mở một tuyến khác thuận lợi hơn. Hầu như suốt đêm xe hết bò lên dốc lại xuống dốc, lắc lư nghiêng ngả, lúc lúc lại nẩy chồm chồm trên những khúc đường xấu. Cành lá quật ràn rát trên mui vải bạt.
Đến bốn giờ sáng, xe chạy chậm lại. Đồng chí thiếu tá ngoái bảo: "Sắp đến nơi, các đồng chí chuẩn bị!" Khi xe dừng bên một con suối lớn, chúng tới mang ba lô xách súng nhanh nhẹn nhảy xuống. Đồng chí thiếu tá cũng đã xuống xe, đứng bên đường chỉ lối rẽ. Từng người một bắt tay anh, chạy tới vỗ nhẹ vào vai đồng chí lái xe thay lời chào, rồi nối nhau lủi nhanh vào rừng. Giờ mới thực sự là những bước đầu tiên của chuyến đi. Tôi bước chệnh choạng trên cỏ, người như vẫn còn lắc lư chao đảo theo nhịp xe lắc. Phía sau lưng, chiếc xe đang rồ máy quay đầu trở về.
Đi được hơn cây số, anh Đằng cho tổ nghỉ lại. Anh cầm súng đứng cảnh giới, bảo chúng tôi ngả lưng vào ba lô ngủ một lát, đợi sáng sẽ đi tiếp.
Khi mặt trời chiếu những tia nắng đầu tiên xuống dải sương trắng là là mặt suối, anh Đằng giục mọi người lấy nước vào bi đông, chuẩn bị lên đường. Xung quanh yên tĩnh, tiếng chim hót lảnh lót khắp nơi. Tôi có cảm giác là lạ, sau mới nghĩ ra là do nhìn thấy mặt trời nhô lên từ sau ngọn núi và dòng suồl chảy từ đông sang tây.
Chúng tôi xốc ba lô lên vai, khoác súng lội qua đoạn suối cạn rồi bước lên bờ dốc mọc đầy những cây lau bông trắng muốt đọng sương ướt sũng. Anh Đằng đi trước, khẩu AK nới dây dài mang thòng trước ngực, tay cầm dao phát nhánh cây lấy lối đi. Cả những ngày sau này, anh và anh Hùng thay nhau mở đường. Các anh tự nhận lấy công việc nặng nhọc nhất lúc đi rừng.
Suốt buổi sáng, chúng tôi đi mải miết trong khu rừng rậm, chỉ dừng lại khi cần xác định phương hướng. Đường không dốc lắm nhưng khó đi vì cây bụi và cây dây leo mọc chằng chịt. Có lúc phải từng người lần lượt nối nhau chui qua một vòm cây rậm rạp, tối om như lỗ cống.
Anh Hùng gỡ hộ tôi nhánh cây vướng nhùng nhằng sau ba lô và nói:
- Cố lên! Sắp hết quãng rậm rồi.
- Sao anh biết?
- Đây là cánh rừng ven con suối lúc nãy, đất thấp ẩm nên cây cối mọc rậm. Lên cao sẽ thoáng hơn.
Đến gần trưa thì đường đã dễ đi. Vẫn những khu rừng có nhiều tầng cây mọc chen chúc nhau, nhưng thưa hơn. Từng chùm tia nắng xuyên tán lá soi qua bóng râm làm rừng sáng lên.
Quá trưa, cả tổ dừng lại trên một triền dốc. Vì không gặp nước nên chúng tôi quyết định ăn lương khô, nghỉ khoảng một tiếng sẽ đi tiếp.
Ở mấy cánh rừng đi qua trong buổi chiều, thỉnh thoảng lại gặp dấu vết của con người: vài vết chém trên nhánh cây, một đống tro tàn bên mấy hòn đá ám khói..., chứng tỏ nơi đây vẫn có người đặt chân tới. Có thể là thợ săn, có thể bộ đội ta, cũng có khi thám báo địch.
Chừng bốn giờ chiều, chúng tôi tụt xuống một bờ dốc và may mắn gặp được con suối nhỏ, nước chỉ ngập ngang bắp chân nhưng trong vắt. Anh Đằng chọn vạt đất trống tương đối bằng phẳng để nghỉ đêm.
Vừa đặt ba lô xuống, anh Hùng xách súng nhao đi ngay. Anh Đằng vặn lưng cho đỡ mỏi rồi cùng anh Sơn nhặt cành khô nhóm lửa. Tôi lấy gạo vào hai chiếc gô đem xuống suối vo sạch, đổ nước vào và xách lên. Bếp đã làm xong: hai chiếc nạng đóng hai bên đống lửa, một nhánh cây tươi gác ngang bên trên. Tôi luồn quai gô vào nhánh cây, treo trên lửa để nấu cơm.
Anh Hùng trở về, tay cầm mấy nhánh lá xanh. Anh Đằng hỏi:
- Thế nào Hùng?
- Êm lắm! Xung quanh không thấy dấu vết gì, cũng không có dấu cọp.
Tôi biết anh vừa đi một vòng quanh chỗ trú đêm để xem xét, nhưng không hiểu anh bẻ mấy nhánh lá làm gì.
- Lá gì vậy, anh Hùng - Tôi hỏi.
- Cậu nếm xem - Anh nói và chìa nhánh lá ra.
Tôi vặt một chiếc lá đưa lên miệng nhấm, vị chua thấm vào đầu lưỡi làm nước bọt tiết ra. Tôi thốt lên:
- Lá bứa! Thế mà em không nhận ra.
- Vitamin C đấy! Tối nay ta sẽ nấu món canh chua.
Thay nhau tắm rửa xong, chúng tôi quây quần bên hai gô cơm bốc hơi nghi ngút và soong canh lá bứa nấu với thịt hộp do anh Hùng "đạo diễn". Bữa cơm còn có món thịt kho rim mà chiều qua đồng chí thiếu tá đã chu đáo dặn trạm giao liên gói cho chúng tôi mang theo. Mọi người đều ăn rất ngon miệng. Khi nghe tôi xuýt xoa khen món canh chua, anh Hùng cười hể hả:
- Rồi cậu còn được biết nhiều món ngon! Rừng không phụ lòng người bao giờ!
Cơm xong thì trời cũng chạng vạng tối. Những âm thanh náo nức sôi động của cuộc sống rừng già lúc ban ngày đã ắng lại, chỉ còn nghe tiếng lá rì rào, tiếng con suôn nhỏ róc rách chen lẫn tiếng vài con chim mải kiếm mồi giờ mới vội vã bay về tổ.
Chúng tôi mắc võng ngủ trên cành cao, sau khi đã dập tắt đống lửa. Ở đây chưa xa đường giao thông là mấy, cần đề phòng bọn thám báo phát hiện ra ánh lửa. Lúc chiều tôi có nghe tiếng máy bay L.19 lượn hướng con đường xe đi đêm trước.
Vừa đặt mình xuống võng, tôi đã ngủ say như chết. Có lẽ do hai đêm trước chỉ gà gật trên xe và cả ngày đi đường mệt nhọc.
Sáng hôm sau, tôi tỉnh giấc khi trời vừa rạng. Từ trên cành cây cao có thể nhìn thấy nền trời ửng hơn sau đỉnh núi. Anh Sơn gọi với lên:
- Cẩn thận, đừng tưởng là ngủ dưới đất đấy nhé!
Thì ra các anh ấy đã dậy cả. Anh Hùng đang ngồi bên bếp lửa, từ chiếc soong treo trên bếp vọng ra tiếng sôi ùng ục. Tôi tháo võng nhét vào ba lô ôm tụt xuống đất, ngượng nghịu:
- Sao các anh không gọi em?
- Còn sớm, vội gì? - Anh Hùng trả lời rồi đưa thìa lên miệng nếm, xuýt xoa vì nóng.
Tôi xuống suối rửa mặt, lấy nước vào bi đông và trở lên ngồi cạnh anh Sơn.
- Hôm qua mình đi được nhiều chưa anh? - Tôi hỏi.
- Đi nhiều nhưng được thì chưa bao nhiêu? - Anh Sơn cười nhét chiếc địa bàn vào túi áo ngực.
Sống với nhau mới mấy ngày mà tôi thấy tính anh rất dễ mến. Anh hiền lành ít nói, nhưng lại có cách nói chuyện rất có duyên. Mọi việc anh đều tỏ ra thành thạo không kém gì anh Đằng và anh Hùng. Trong tổ chỉ mình tôi là vụng. Không hiểu sao anh Hai Nguyên lại chọn tôi?
Bữa sáng có món cháo gạo nấu đặc ăn với đường. Sau khi ăn xong, chúng tôi sắp xếp ba lô chuẩn bị ra đi. Tôi cùng anh Hùng dập tắt đống lửa rồi xóa hết mọi dấu vết.
Mấy ngày sau đó, cảnh rừng chúng tôi đi qua vẫn như ngày đầu. Cũng những cây cổ thụ sừng sững, những lùm cây bụi cành lá lòa xòa quệt vào mặt, những cây dây leo đôi lúc níu chân người kéo giật trở lại. Đường đi hết lên dốc rồi xuống dốc, nhưng tôi biết mình đang đi lên cao. Thỉnh thoảng lại gặp một cái khe nhỏ len lỏi qua những tảng đá, nước trong vắt và mát lạnh.
Bây giờ đang cuối mùa xuân. Trong những cánh rừng nở đầy các loài hoa dại mà hầu hết tôi không biết tên. Có cây dây leo nở những đóa hoa dạng loa kèn to hơn miệng bát màu đỏ màu vàng sặc sỡ, làm thành từng chuỗi dài giăng từ cây này sang cây khác. Lại loài dây leo nọ hoa nở từng chùm rực rỡ, treo lủng lẳng như những chiếc đèn lồng. Trên tán của một cây thân gỗ cao to có những bông hoa li ti màu trắng nở dày đặc kết thành đám mây nhỏ, gặp cồn gió thổi, cánh hoa rụng tơi tả phủ đầy trên mũ. ở một bụi cây bên đường, mấy bông hoa đỏ chót như những ngọn lửa lấp ló trong đám lá. Lại còn loài cây gì trông từa tựa như cây khoai môn mọc trong góc tối ẩm ướt, phải xòe các chiếc lá to bằng miệng thúng cố hứng lấy chút ánh nắng, vậy mà cũng nở được những bông hoa kì dị giống bắp ngô to tướng đỏ rực, vươn cao đến vài ba mét như để chào mời. Đôi lúc ngẩng đầu lên, tôi lại bắt gặp trên cao một khóm lan rừng có những túm rễ ngoằn ngoèo bám chi chít vào thân cây cổ thụ đang trổ từng chuỗi bông dài đẹp lộng lẫy như những chuỗi ngọc. Ngay cả các loài cây cỏ mọc sát mặt đất cũng có những thứ hoa riêng của nó: những chùm hoa nhỏ xinh xinh như những chùm hạt cườm, hoặc những bông hoa bé tí giống chiếc cúc áo nhiều màu sắc.
Được trang điểm bởi muôn ngàn bông hoa dại đủ màu đủ vẻ núi rừng rực rỡ hẳn lên trong nắng mai. Đi trong rừng mùa này ngửi thấy nhiều mùi hương khác nhau, từ thơm ngát; thơm nồng, thơm dịu đến mùi ngai ngái, hăng hắc..., và rõ hơn cả là mùi mật ngòn ngọt của trái cây đang chín. Như say trong hường rừng, vô vàn ong bướm cùng đủ loại côn trùng cánh lụa cánh cứng bay lượn thỏa thuê từ bông hoa này sang bông hoa khác, tiếng vù vù vo vo vang suốt ngày.
Rừng thật đẹp, nhưng chúng tôi không có thời gian để thưởng thức. Tất cả tâm trí đều dồn cho công việc trước mắt. Vả lại với hơn ba mươi kí ba lô súng đạn trên người thì việc đi lại trong rừng rậm chẳng nhẹ nhàng chút nào. Có những đoạn dốc gần như dựng đứng, phải níu từng mẩu rễ, từng cành cây mà leo lên. Lại có những khe đá ẩm ướt tối om, phải dò dẫm bước trên những phiến đá phủ rêu trơn tuột. Đi dưới bóng râm của nhiều tầng lá che trên đầu không hẳn lúc nào cũng mát, nhất là về buổi chiều. Khi đó những cây lá bịt bùng xung quanh không cho một ngọn gió nào lùa tới, và lớp đất rừng phủ đầy lá mục bốc hơi nóng hầm hập làm ta phải ngợp thở, mồ hôi túa ra thấm vào những vết rách xước trên da thật rát buốt như bị xát muối. Rừng tuy đẹp, nhưng vẻ đẹp hoang dã luôn đi kèm với sự khắc nghiệt. Con người muốn sống được với rừng, phải vượt qua mọi thừ thách của nó.
Buổi sáng hôm đó, sau khi leo hết triền dốc dài, chúng tôi gặp một cánh rừng thưa. Đang đi, chợt anh Đằng dừng lại gọi khẽ:
- Hùng ơi, lên đây! - Anh Hùng vượt lên, đến bên anh - Cậu ngửi thấy mùi gì không?
Anh Hùng hít hít mấy cái:
- Mùi khét của cọp! Chắc nó vừa qua đây.
Bất giác, tay tôi nắm chặt khẩu súng. Anh Hùng cắp súng lom khom đi ngược hướng gió tìm dấu vết trên mặt đất. Chúng tôi bước chầm chậm theo sau. Xung quanh vắng lặng, chỉ có tiếng chân sột soạt trên cỏ. Chim chóc cũng bay đâu hết, không nghe tiếng hót. Một cành cây rơi xuống đất đánh "bịch" làm tôi giật nẩy người.
Lát sau anh Hùng quay lại:
- Cọp đàn anh ạ! Có ba con, chúng vừa qua đây khoảng dăm phút.
- Không sao đâu? Chúng ta đi thôi!
Tôi bước gấp mấy bước tới sát sau anh, vừa đi vừa thận trọng quan sát xung quanh. Một lúc sau không nén nổi, tôi cất tiếng hỏi:
- Liệu có gặp nó không anh Đằng?
Anh ngoái lại nhìn tôi bật cười:
- Có gặp cũng chẳng sao! Cọp rừng già không mấy khi bắt người.
Anh Sơn nói:
- Hồi bọn tôi đi ở miền tây Nghệ An, vẫn gặp cọp hàng ngày như người ta đi rừng gặp nhau. Lúc đầu cũng sợ, sau quen dần. Chỉ cần cảnh giác là được...
Chợt anh Hùng kêu khẽ:
- Kia kìa, chúng đấy?
Cả ba chúng tôi cùng đứng lại, ngoái đầu nhìn theo hướng anh chỉ. Tôi chưa thấy gì. Anh Đằng đưa ống nhòm lên mắt:
- Thấy rồi! Đúng ba con. - Anh trao ống nhòm cho tôi - Hải nhìn đi, ở đoạn dốc có cái cây đổ ấy!
Tôi rê ống nhòm đến chỗ anh chỉ. Kia rồi! Trong ống kính hiện rõ một nhà cọp: Có hai con còn nhỏ, chỉ nhinh hơn con chó một chút, đang lẽo đẽo theo sau cọp mẹ. Chúng nối nhau đi xuống đoạn dốc trống trải, dáng mềm mại, những vằn đen vằn vàng trên bộ lông thấp thoáng sau ngọn cỏ.
Tôi trả anh Đằng chái ống nhòm, hỏi:
- Nếu lúc nãy gặp nó, mình có bắn không anh?
- Nó không có ý tấn công mình thì bắn làm gì?
- Ngoài quê em các cụ kể hồi kháng chiến chống Pháp, ở chiến khu Thủy Ba cọp vẫn bắt người luôn. Có khi cả đoàn hàng chục người vừa đi vừa gõ mõ la hét, mà nó vẫn chồm ra cắp người đi cuối rồi chạy mất.
- Chuyện ấy cũng có đấy? - Anh Hùng nói - Suy cho cùng cọp dữ có lỗi của con người. Chiến tranh, săn bắn, chặt cây phá rừng... đã xua các loài thú khác trốn biệt lên núi xa. Con cọp đói mồi, và nó gặp người nhiều nên quen dần, không sợ nữa. Đói quá hóa liều, mà liều một lần rồi quen... Cũng có khi tình cờ nó gặp và ăn xác người chết vì bom đạn, "ăn quen bén mùi", từ đó nó thích ăn thịt người.
- Thế theo anh, vì sao cọp rừng già lại hiền hơn?
- Không phải hiền hơn, nó vẫn là loài thú dữ ăn thịt. Nhưng ở đây đâu thiếu con mồi, nó đâu có đói quá đến mức phải liều? Hơn nữa, con người trong mắt nó là loài vật lạ mà có khi nó chưa gặp lần nào. Chưa biết lành dữ ra sao thì động vào làm gì?
Anh Sơn cười, xen vào:
- Nghe anh Hùng nói chuyện cọp mà như nói về người ấy nhỉ?
- Cậu phản đồi à? - Ngược lại là khác! Tôi đã sống nhiều trong rừng, tôi biết. Con cọp chỉ bắt mồi khi đói, theo bản năng sinh tồn. Nó săn đuổi các loài thú khác, con nào yếu ớt chậm chân sẽ bị nó bắt, còn con khỏe mạnh khôn ngoan thì chạy thoát. Như vậy cọp cũng góp phần vào quá trình đào thải tự nhiên của cuộc sống. Chính con người mới là kẻ phá vỡ sự cân bằng vốn có của thiên nhiên khi săn bắt bừa bãi các loài thú, có lúc chỉ để giải trí.
Anh Đằng góp chuyện:
- Lại còn chiến tranh nữa! Các cậu đã đi qua những vùng rừng bị rải chất độc hóa học, chắc biết. Có lần mình gặp một con nai đẻ ra quái thai. Con nai mẹ cuống quít chạy quanh cái bọc thịt đỏ hỏn phập phồng, mắt nó ngơ ngác hoảng hốt trông tội lắm Hơn tuần sau mình quay lại nơi đó, thấy nai mẹ đã chết. Xác hai mẹ con nó đang rữa ra trên lớp lá rụng...
Mọi người lặng im. Tôi nói sang chuyện khác:
- Anh Hùng này, làm sao anh biết được mùi cọp?
- Con cọp có mùi riêng của nó chứ? Cũng như khi đi đêm, không nhìn thấy gì nhưng ta vẫn phát hiện ra tụi Mỹ phục kích nhờ ngửi được mùi của chúng. Trong rừng, cọp thường đái vào gốc cây để đánh dấu lãnh địa của nó, thợ săn thoáng ngửi qua là biết liền.
- Thế làm sao anh biết có ba con?
- À, phải nhìn dấu chân nó để lại. Việc này khó hơn. Có người đi săn cả đời mà vẫn bị lầm đấy! Người thợ săn giỏi là phải biết nhìn, nghe, suy nghĩ..., tích lũy từng chút hiểu biết, từng chút kinh nghiệm. Đến một lúc nào đó, tất cả thấm vào trong đầu óc anh, gần như thành bản năng, thành linh cảm. Lúc đó anh chỉ nhìn qua dấu chân, hoặc ngửi chút mùi vương lại trong không khí là đã biết nhiều điều về con vật thậm chí có thể biết nó no mồi hay còn đói..., có lẽ chỉ không biết được con đực hay con cái thôi. Để lúc nào rảnh rỗi mình bày thêm cho cậu. Cũng phải học dần mỗi lúc một ít, không thể biết ngay tất cả được đâu.
Anh Đằng đang đi phía trước nói với lại:
- Cậu Hải yên trí! Đi xong chuyến này cậu sẽ học được khối thứ, lúc đó trở thành... người rừng là cái chắc?
Mọi người cười vang. Một đàn chim thấy động vỗ cánh bay rào rào.
Tôi không nhớ mình đã mê rừng từ lúc nào, nhưng hồi còn nhỏ, những ngày đẹp trời, tôi thường leo lên cây ngóng lên phía Trường Sơn ngắm không chán mắt những dãy núi điệp trùng. Dưới nắng vàng, màu xanh cây lá cứ rực lên nơi dãy núi gần nhất, còn những dãy xa hơn có màu xanh dương, xanh lơ, xanh nhạt, và cuối cùng là lớp núi xanh mờ hòa vào trong mây trắng. Tôi ao ước được dặt chân tới những vùng rừng xa xôi và say sưa mơ mộng thả hồn trong những cánh rừng đẹp như mơ cùng những chuyến phiêu lưu kỳ thú nơi rừng xanh núi thẳm...
Chính niềm say mê đó đã khiến tôi hết sức thán phục và ngưỡng mộ anh Hùng trước những hiểu biết của anh về rừng. Vốn tính ít nói, không mấy khi anh kể về bản thân mình, nhưng lại rất say sưa sôi nổi khi kể chuyện rừng. Ở trong rừng, anh biết nhiều loại lá có thể nấu canh và những thứ cỏ cây dùng làm thuốc. Nhìn qua một thứ quả dại nào đó, anh có thể nói ngay là ăn được hay không. Khi nghe anh kể về cỏ cây hoa lá muông thú, không ai nghĩ anh là người trai của quê lúa Thái Bình.
Sống trong một làng quê nằm giữa cánh đồng cò bay thẳng cánh, nhưng nhà anh quanh năm thiếu ăn vì chỉ có vài sào ruộng xấu cấy một vụ. Vì thế từ những đời trước, gia đình anh đã phải làm thêm nghề sơn tràng. Hàng năm sau khi gieo cấy xong, những người đàn ông để ruộng đất nhà cửa lại cho phụ nữ trông nom rồi kéo nhau lên rừng đơn gỗ kết bè xuôi sông về bán ở đồng bằng. Nghe qua tưởng đơn giản, nhưng thực ra cuộc sống trên rừng dưới sông của những người thợ sơn tràng không phải dễ dàng. Đốn được cây gỗ đưa xuống tới sông để cốn bè đã là khó, nhưng chưa vất vả bằng lúc phải chống bè vượt qua những ghềnh đá, những con thác hung dữ ở miền thượng lưu. Nhiều khi qua thác bè vỡ hoặc lúc gặp cơn lũ cuốn bất ngờ thì lại tay không trở về làng, còn giữ được mạng sống đã là may mắn lắm.
Nhưng được cái cuộc sống gian nan trong núi rừng, trên sông nước dạy người ta khôn ra, hiểu biết nhiều hơn và dạn dày với mọi nỗi gian truân. Năm mười hai tuổi, anh Hùng được bố cho đi một chuyến như thế, và từ đó anh mê rừng đến không gì cưỡng lại được. Anh theo bố đi rừng không bỏ chuyến nào. Năm mười sáu tuổi, anh ở lại hẳn trong nhà một bà mế già mà gia đình anh đã từng quen biết thân thiết, và sau này lấy vợ là cháu gái bà.
Ở đó, cuộc sống của dân bản phụ thuộc vào rừng. Anh Hùng cũng đi rừng như mọi người. Anh gắn bó với rừng và rừng giúp anh thỏa mãn mọi khát khao mơ tưởng từ khi còn bé ngồi nghe ông cha kể chuyện rừng. Để sống được với rừng, anh còn phải học phải biết nhiều điều, và rừng dạy cho anh những bài học mà không nhà trường nào dạy được. Bà mế già là người thầy thuốc duy nhất của cả bản, bà dạy anh nhiều bài thuốc từ cây cỏ trong rừng.
Năm 1963 anh nhập ngũ, lúc vợ mới sinh con trai đầu lòng. Cuộc đời người lính của anh cũng lại gắn bó với rừng. Những hiểu biết về rừng cùng cuộc sống được rèn luyện trong rừng từ tuổi niên thiếu, đã giúp anh trở thành người chiến sĩ trinh sát đầy bản lĩnh của một sư đoàn mà từ khi thành lập đến nay, mọi chiến công đều gắn liền với những địa danh của núi rừng.
Đó là những điều về anh mà anh Đằng đã kể tôi nghe. Còn anh, chỉ một lần duy nhất anh kể về mình là lúc khoe chuyện vợ đã hai lần đưa con về thăm quê nội. Mỗi lần như vậy bà con nội ngoại đều hết sức mừng rỡ giữ hai mẹ con lại hàng tháng trời không muốn cho đi... Nhìn nét mặt rạng rỡ của anh, tôi hiểu rằng anh đã ao ước biết nhường nào được một lần đưa con trai về thăm quê, về với những cánh đồng rập rờn sóng lúa, với làng quê nho nhỏ khuất sau lũy tre xanh, nơi tuổi thơ của anh có bao kỷ niệm êm đềm...
Gần hết ngày hôm ấy, chúng tôi đi được quãng đường khá dài nhưng chưa gặp nguồn nước nào. Anh Đằng giục mọi người rảo bước mong gặp suối trước khi trời tối.
Lúc sắp bước ra một tráng cỏ, anh chợt lùi lại ngoắc tay gọi khẽ: "Hải, tới đây!" Tôi nhao tới bên anh thì thào hỏi: "Gì thế anh?", trong đầu thầm nghĩ "Lại cọp rồi..."
Anh Đằng không đáp, đưa tay chỉ về phía trước mặt. Tôi nhìn theo, thấy cuối tráng cỏ có đàn gà đang ăn. Biết anh dành cho tôi cơ hội kiếm thức ăn buổi tối, tôi nói ngay: "Để đấy cho em" và tuột ba lô đặt xuống đất. Tôi nhìn ngọn cây tìm hướng gió, nhanh nhẹn luồn qua những bụi cây ven tráng cỏ tới gần đàn gà. Khi chỉ còn cách chừng sáu chục mét, tôi quì xuống giương súng ngắm. Không thể tới gần hơn được nữa, sợ chúng nghe động bay hết thì ê mặt. Con gà trống có bộ lông màu nâu nhạt điểm những sắc đỏ sắc vàng và cái đuôi dài tha thướt, nom cũng ra dáng lắm. Những con mái thường hơn với màu lông đen xám lẫn lộn. Con trống vừa bới mồi vừa quanh quẩn bên mấy ả mái. Tôi đưa bộ lông sặc sỡ của nó vào đường ngắm, nhưng chưa bắn ngay mà rê nòng súng theo mục tiêu đang lăng xăng lui tới. Đến lúc một con nữa chập vào đường ngắm, tôi mới bóp cò. Phát súng nổ vang làm mấy con gà hất hoảng bay vút vào bụi rậm. Tôi chạy ra bãi cỏ nhặt hai con vừa trúng đạn rồi thong thả quay lại nơi ba anh đang đợi.
Thấy tôi, anh Đằng reo lên:
- Ái chà! Hai con một lúc cơ à?
- Gà nhỏ quá, phải hai con ăn mới đủ anh ạ! - Tôi đáp, cố làm ra vẻ dửng dưng.
Cả ba anh cùng cười ồ: "Khá lắm? Cậu này chơi được đấy!"
Chúng tôi vội vã đi tiếp, nhưng vừa qua hết trảng cỏ đã gặp ngay khe nước. Một sự bất ngờ thật dễ chịu.
Lúc chuẩn bị bữa tối, anh Hùng vừa quay hai con gà đang xèo xèo trên đống than đỏ rực, vừa nói:
- Để hôm khác có con thú nào ngon thịt, mình sẽ biểu diễn cho các cậu một cách nướng tuyệt diệu, bảo đảm khách sạn Phú Gia ở Hà Nội cũng khó làm ngon hơn được...
Trời nhá nhem tối. Chúng tôi ngồi bên đống lửa cháy rừng rực, khoan khoái thưởng thức món gà rừng nướng thơm lừng chấm với muối có rắc mấy hạt mì chính. Vờ cúi mặt làm như mải gặm đùi gà, nhưng thực ra trong lòng tôi đang nở từng khúc ruột khi nghe ba anh tấm tắc khen món gà rừng nướng, cứ như nhờ tôi bắn nên thịt gà mới ngon đến vậy. Biết thế nào được! Khi ta hai mươi ba tuổi, chưa hẳn mọi cái đều chín chắn, trong ta vẫn còn sót lại chút ngây thơ của thời trẻ nít, nhất là khi ở bên nhưng người từng trải hơn mình. Chính vì thế mà một thành công cỏn con như vậy cũng làm tôi sướng rơn, người cứ lâng lâng mãi.
Đến tối, chúng tôi kéo thêm mấy khúc gỗ chất vào đống lửa rồi dựng lều ngủ ngay bên khe nước. Tôi nằm cạnh anh Hùng, mê mải nghe anh kể chuyện rừng. Anh say sưa nói về cách bẫy chim săn thú, tìm rau quả đào củ mài, cách xác định phương hướng khi đi đêm trong rừng... Anh nói:
- Có người cho rằng những thứ quả nào có dấu chim ăn thì người ăn được, nhưng không hẳn như thế. Nhiều loại quả chim ăn được nhưng người ăn lại bị ngộ độc đấy! Muốn ăn, phải tìm những thứ mà bọn thú bốn chân như chồn, sóc, khỉ... vẫn ăn. Nhất là khỉ, chúng biết chọn thức ngon nhất để chén...
Anh còn kể cho tôi nghe những lần đi tìm trầm, phải lang thang trong rừng hàng tháng trời. Những chuyến đi săn lợn lòi, trai tráng trong bản kéo nhau đi đông vui như ngày hội. Người và chó xua lũ lợn vào một góc rừng nào đó đã giăng lưới và có thợ săn cầm nỏ cầm lao phục sẵn. Tiếng mõ, tiếng phèng la khua vang lừng hết cánh rừng này qua cánh rừng khác. Một chuyến săn như thế có khi kéo dài đến bốn, năm ngày...
Trăng lên lúc đêm đã khuya. Anh Đằng giục chúng tôi ngủ để lấy sức mai đi. Nãy giờ hai anh vẫn nằm nghe chuyện, thỉnh thoảng mới góp vào một câu.
Tôi vén mép tăng nhìn ra. Trăng sáng quá. ánh trăng rười rượi trên tráng cỏ đầy sương và tiếng côn trùng nỉ non làm cho đêm rừng càng trở nên huyền ảo. "Khuya rồi, ngủ đi Hải", anh Đằng khẽ nhắc. Tôi buông mép tăng, kéo tấm võng đôi dùng làm chăn trùm kín đầu, lát sau đã chìm sâu vào giấc ngủ.
Chương III
Sang ngày thứ sáu ở trong rừng. Theo tính toán của anh Sơn, chúng tôi vẫn đang đi trên đất Lào. Trước khi lên đường, anh Đằng nhắc từ hôm nay phải tranh thủ kiếm thêm thức ăn để hạn chế dùng số lương thực mang theo.
Hôm qua anh Hùng đã chỉ cho tôi biết cây củ mài. Theo anh, ở rừng củ mài là loại lương thực tốt nhất vì nó nhiều tinh bột lại lành, ăn thay cơm được mà không sợ say như ăn sắn. Có điều củ mài thường đâm sâu dưới đất, đào rất khó, chúng tôi đang còn gạo ăn nên chưa đào lần nào. Còn chim, thú trong rừng không thiếu. Ban ngày, xung quanh chúng tôi lúc nào cũng nghe tiếng chim. Riêng sóc thì ở đâu cũng gặp, chúng chuyền thoăn thoắt khi ẩn khi hiện trên cành cây.
Hôm đi qua cánh rừng thưa, chúng tôi gặp cả một đàn lợn rừng hơn chục con đang dũi đất kiếm ăn. Con lợn đầu đàn to gần bằng con bò, có hai răng nanh cong vút bên khóe miệng, những túm lông trên sống lưng dày rậm như bờm. Nghe động, nó choãi chân đứng thủ thế, cặp mắt gườm gườm, lông gáy dựng ngược lên. Lát sau nó hộc mấy tiếng rồi quay lại dẫn bầy đàn thong thả bước đi.
Hầu hết những đoạn suối chúng tôi qua đều có dấu chân của những con thú lớn xuống uống nước. Tôi đang mong có dịp bắn được một con nai, con mang nào đó. Thịt mang ngon lắm, mềm và ngọt hơn thịt bò. Nhưng lúc này chưa được, chúng tôi đang vội. Chặng đường phía trước còn rất dài.
Chừng giữa buổi, cả tổ đi vào một hẻm núi, hai bên là hai ngọn núi cao sừng sững. Những thân cây mọc trên vách núi nghiêng cành xòe tán lá rậm rạp che kín trên dầu. Hẻm núi tồi mờ. Mấy cây dây leo to tướng như đàn rắn kì dị ngoắc đuôi vào nhánh cây thòng xuống đong đưa.
Đang đi, bỗng nghe rào rào, rồi những vật gì rơi lộp độp xung quanh. Tôi vội ngước nhìn lên, suýt trượt chân trên tảng đá trơn tuột. Những cái bóng chuyền thoăn thoắt trên cành cây và tiếng lẹc khẹc vọng xuống. Thì ra là lũ khỉ. Chúng đang hái trái cây, bẻ cành khô ném xuống đầu chúng tôi có vẻ như không chấp nhận sự đột nhập của những kẻ lạ mặt. Chúng tôi vẫn cắm cúi bước, mong thoát nhanh ra khỏi cái hẻm núi tối tăm khó chịu này. Nhưng rồi không hiểu từ đâu, bọn khỉ kéo tới đàn đàn lũ lũ có đến hàng trăm con, chuyền cành ào ào như gió cuốn và ném xuống tất cả những gì chúng vớ được, làm chúng tôi tối tăm mặt mũi.
Tôi bực mình tuột súng cầm ở tay, nói với anh Đằng:
- Để em cho tụi nó mấy phát cho chừa đi?
- Ấy đừng, bắn làm gì! - Anh Đằng vội giơ tay ngăn lại - Chịu khó một lúc, ném chán là chúng thôi. Chẳng nguy hiểm gì đâu.
Anh Hùng nói thêm:
- Cậu mà bắn một con là chúng càng kéo tới đông hơn và đuổi mình đến cùng đấy?
- Chẳng lẽ mình chịu à? - Tôi vẫn chưa hết cáu.
- Không phải chịu, mà là không cần thiết phải khiêu khích chúng. Thực ra, lũ khỉ cũng chỉ hiểu lầm thôi. Đây là lãnh địa của chúng mà.
Quả nhiên sau một hồi ném chán tay, lũ khỉ chí choé gọi nhau tản đi.
Đến gần trưa, vách núi hai bên thấp dần. May quá, sắp ra khỏi hẻm núi rồi. Đi thêm một quãng qua khỏi khúc quanh, mắt chúng tôi bỗng lóa lên bởi ánh nắng vàng rực chan hòa khắp cánh rừng trước mặt. Đúng là như vừa chui ra khỏi lỗ cống, ai cũng thở phào nhẹ nhõm.
Mặt trời lên gần tới đỉnh đầu. Phía trước nghe có tiếng suối chảy. Mọi người bước hối hả để mau đến chỗ có thể nghỉ lại nấu cơm.
Đang đi vội, anh Đằng bỗng nhảy bật lùi một bước. Tôi tuột súng nhào tới nhưng anh gạt lui: "Đừng, rắn đấy!" Khi nhìn ra trước, tôi chợt thót tim, người sởn gai ốc: một con rắn hổ mang to tướng chắn ngang lối đi, chỉ cách năm mét. Nó đang ngóc cái đầu dẹp lép phồng mang phun phun phì phì, lưỡi thụt ra thụt vào như tia chớp. Tiếng anh Sơn nói nhanh sau lưng tôi:
- Đứng yên đừng cử động, để đó cho tôi?
Anh bước chệch sang một bên, đứng dạng chân nâng súng bằng cả hai tay bắn liền bốn phát không cần ngắm, tiếng nổ liền liền như loạt tiểu liên.
Con rắn như bị dao phạt ngang cổ, lăn lộn cuộn cái thân dài thượt đen mốc, kéo theo cả cái đầu toé máu chỉ còn dính với thân bằng một mẩu da. Phải đến mấy phút sau nó mới chịu nằm im. Hú vía! Mấy hôm trước chúng tôi vẫn gặp rắn, nhưng thường thấy động là chúng trườn đi ngay. Còn con này hình như đang định tấn công. Tôi kinh hãi nhìn con rắn: nó dài gần ba mét, to gần bằng cổ chân, vảy lởm chởm trên cái thân đen mốc, khúc đuôi dài ngoằng đến giờ vẫn còn giật giật.
Anh Hùng nói với anh Sơn lúc này vẫn đang cầm khẩu K54 nòng còn bốc khói:
- Cậu xử trí đúng đấy! Khi đó nếu mình di chuyển là nó lao tới mổ ngay.
Anh Đằng hể hả:
- Không ngờ đồng hương bắn giỏi đến vậy! Cứ như trong phim ấy!
Anh Sơn nhét khẩu súng vào bao, cười hiền lành:
- Ở ngoài kia đi rừng tôi cũng mang K54. Thỉnh thoảng xin được đạn bên bộ đội, vẫn vào rừng tập bắn. Lâu rồi quen tay thôi!
Tôi nhìn anh thán phục. Vốn là tay súng giỏi, tôi biết để bắn được như thế không chỉ cần quá trình tập luyện công phu, mà đòi hỏi có năng khiếu và thần kinh phải vững như thép.
Chúng tôi lại đi. Tôi thận trọng bước dài tránh xác con rắn, nó chết rồi mà trông vẫn thật đáng sợ. Con này đã cắn ai thì chẳng thuốc nào cứu được.
Đến chiều, khi vừa chui ra khỏi quãng rừng rậm, chúng tôi gặp một con đường của voi đi. Tôi dễ dàng nhận ra điều ấy bởi suốt dọc lối chi chít dấu chân voi. Có dấu đã cũ, có dấu trông còn mới, chắc chúng vừa đi qua đây không lâu. Có lẽ bầy voi thường qua lại trên lối này, vì chúng làm những cây con gãy rạp, tạo thành một làn đường rộng hơn chục mét.
Nãy giờ anh Hùng vẫn quan sát dấu chân voi nhưng chưa nói gì. Tôi tranh thủ nêu ra phán đoán theo kiểu anh đã dạy. Nghe xong, anh cười bảo:
- Cậu nói có phần đúng, như vậy là tiếp thu bài tốt đấy? Nhưng... - Anh xốc lại ba lô trên lưng, suy nghĩ một lúc rồi nói tiếp - Muốn phán đoán đúng phải kết hợp nhiều yếu tố khác nhau, nhất là phải biết đặc tính của con vật. Mình ví dụ thế này nhé: Con voi nặng nên dấu chân nó hằn rõ. Bây giờ đang mùa khô, vì vậy có khi đã vài tháng mà dấu chân trông vẫn còn như mới do cỏ không mọc lên được, cũng không có mưa nên không bị xói mòn hoặc đất cát tràn vào.
- Vậy làm sao để biết nó đi qua khi nào?
- Phải nhìn cây chứ! Con voi dùng vòi cuốn lá ăn. Nó lại giẫm chân lên những bụi cây thấp hoặc ngọn cỏ. Nhìn cây lá là xác định được. Đấy, cậu nhìn xem có dấu cây gãy nào còn mới không? Với những dấu vết này, bầy voi đi qua gần đây nhất cũng phải non một tháng rồi.
Tôi ngẩn người nghe anh nói. Đúng là không thể một lúc mà học hết mọi thứ được.
- Thế anh bảo bầy voi này có đông không? - Tôi hỏi.
Anh Hùng chưa kịp trả lời thì anh Sơn đã lên tiếng:
- Hải cứ nói trước đi, xem có đúng không?
Tôi cười:
- Em nghĩ là rất đông. Dấu chân chi chít thế kia, phải ba bơn chục con là ít.
Anh Đằng nghe tôi nói liền bật cười:
- Lần này cậu chỉ được hai điểm là cùng! Sao vậy anh!
- Cứ hỏi Hùng thì biết!
Anh Hùng không đợi tôi hỏi, nói ngay:
- Bầy voi đi qua lần vừa rồi chỉ bốn hoặc năm con. Muốn biết, phải tìm trong những dấu chân kia, chọn ra những dấu còn mới như nhau. Nhưng có điều... Anh chưa nói hết câu thì anh Đằng đưa tay ra hiệu im lặng. Theo hướng anh chỉ, chúng tôi nhìn thấy trên ngọn cây khô trước mặt có hai chấm đen: hai con chim đang đậu. Anh Hùng nói khẽ: "Các anh đứng lại đã nhé!", rồi cầm súng lủi qua những lùm cây. Ít phút sau, tiếng súng nổ vang lên, một con chim rơi xuống, con còn lại hốt hoảng bay mất. Chúng tôi bước nhanh tới. Anh Hùng đang đứng dưới gốc cây nhìn lên. Con chim trúng đạn rơi vướng trên nhánh cây, cao đến hai chục mét là ít. "Phí của! Thế là mất bữa thịt chim...", tôi tặc lưỡi tiếc rẻ. Anh Hùng giúi khẩu súng vào tay tôi, bỏ ba lô xuống đất bám thân cây thoăn thoắt leo lên, loáng cái đã đến nơi. Anh ôm nhánh cây bò ra một đoạn rồi dùng cả thân người nhún. Con chim bật khỏi đám lá rơi thẳng xuống. Tôi chạy đến nhặt lên. Không biết loài chim gì nhưng rất to, nặng đến ba kí là ít. Nó có bộ lông màu nâu nhạt, đầu cánh điểm những chấm trắng làm tôi nghĩ đến loài đại bàng, nhưng chắc không phải vì con này mỏ ngắn và thẳng, chân lại không có vuốt cong nhọn.
Anh Hùng vừa xuống đến nơi, tôi hỏi ngay:
- Chim gì vậy anh?
- Cậu làm như tớ biết hết mọi thứ không bằng! - Anh cười.
- Chim gì cũng được. Thịt chim chỉ có ngon hay dở chứ ăn không ngộ độc đâu mà sợ! - Anh Đằng nói vui.
Tối đó chúng tôi ăn cơm với thịt chim kho muối. Món thịt khá ngon nhưng có mùi hơi khét.
Lúc chui vào lều ngủ, tôi nhắc anh Hùng:
- Hồi chiều anh đang nói về đàn voi...
- À, mình cũng đang nghĩ. Theo mình thì bầy voi đã đi lại nhiều lần trên đường này, nhưng có lẽ không phải đi kiếm ăn. Vì nếu thế, chúng phải tản ra trong rừng, đằng này lại chỉ đi theo một lối nhất định. Đây có thể là con đường đi tới nghĩa địa voi.
- Nghĩa địa voi? - Tôi sủng sốt kêu lên.
- Đúng vậy? Mình chưa nhìn thấy lần nào, nhưng đã nghe kể. - Anh quay sang nói với anh Đằng - Này, anh Đằng có nhớ hồi ở bản Nầm không? Ở ngoài Thà Khẹt ấy?
- À, cái bản nuôi voi chứ gì?
- Ấy đấy! - Anh Hùng kể tiếp - Bọn mình đi công tác, trú lại bản đó có đến nửa tháng. Dân bản sống chủ yếu bằng nghề săn voi. Họ bẫy voi rừng về thuần dưỡng rồi đem bán sang Thái Lan. Mình đã xem cách họ dạy voi, hay lắm! Thế nhưng không phải ai cũng dạy được voi đâu nhé! Cả bản hơn trăm đàn ông, chỉ có mươi người chuyên nghề dạy, còn những người khác chỉ đi bẫy và làm các việc phụ giúp.
Ở đó mình được các cụ già kể nhiều chuyện về loài voi. Theo các cụ thì những đàn voi đông đúc thường có nghĩa địa riêng của chúng ở trên núi cao. Khi trong đàn có con nào già yếu gần đến ngày chết, nó liền được mấy con khác khỏe mạnh kèm đi đến nghĩa địa để chờ chết. Lúc voi già chưa chết, những con đưa đi vẫn kiếm ăn quanh quẩn gần đấy và đem thức ăn về cho nó. Đến khi voi già chết, bầy voi bẻ lá phủ kín xác bạn rồi mới quay về.
Biết đâu lối đi lúc chiều mình gặp là lối bầy voi đến nghĩa địa, nơi những con voi già đến để chờ chết...
Nằm lắng nghe câu chuyện lạ lùng về loài voi, tôi thầm mong được nhìn thấy nghĩa địa voi một lần cho biết. Trong rừng núi còn biết bao những chuyện kỳ lạ về các loài cỏ cây muông thú mà con người chưa thể hiểu hết được. Chính sự bí ẩn đó đã làm cho rừng già - cái nôi của sự sống từ ngàn xưa - trở nên hấp dẫn lạ thường.
Chúng tôi vẫn may mắn trong suốt buổi sáng hôm nay, khi con đường của voi vẫn trùng với hướng đi. Nói "may mắn" là vì, đi theo lối voi vẫn dễ hơn nhiều, và tôi còn hy vọng gặp được nghĩa địa voi.
Trưa hôm đó cả tổ nghỉ lại bên một con suối cạn. Đành phải ăn lương khô vì nước trong bi đông dành để uống, không thể nấu cơm được. Tôi ngồi tựa lưng vào gốc cây, tay bẻ từng mẩu lương khô cho vào miệng nhai, mắt nhìn theo đàn bướm đang bay dập dờn ở đoạn suối khô dưới chân vách đá. Không hiểu sao mùa này mà ở đây vẫn còn sót lại đàn bướm đông đến thế. Vô vàn con bướm trắng bướm màu kết thành đám dày đặc, trông xa như dải mây mỏng vướng dùng dằng nơi chân núi.
Mải nhìn đàn bướm, đến khi nghe tiếng động lục cục tôi mới ngoái đầu nhìn lại. Anh Hùng đã ăn xong, đang lấy dao đào đất ở chỗ lòng suối khô. Chắc anh tìm nước. "Đào làm gì nhỉ, lát nữa đã đi rồi? Mà làm sao có nước ở đây được?" Tôi chạy xuống chỗ anh, thắc mắc tự hỏi.
- Đào gì vậy anh Hùng? - Tôi hỏi.
- Cậu cứ lấy dao đào giúp đi, tí sẽ biết. - Anh cười trả lời.
Tôi rút dao hì hục cạy những tảng đất nứt nẻ. Lát sau, chúng tôi đào được một khoảng rộng bằng nửa chiếc chiếu. Anh Hùng lại đào tiếp lớp thứ hai. Khi cạy lên tảng đất to bằng cái mũ, anh bảo: "Cậu bóp vụn ra xem?" Tôi làm theo lời anh. Đang bóp cho đất vỡ ra, tôi chợt giật nẩy người khi chạm phải một vật gì trơn trơn lành lạnh. Nhìn xuống thấy một con vật đang trườn ra.
- Ôi lươn! Ở đây có lươn à? - Tôi reo lên.
- Không phải lươn đâu, chạch núi đấy. Nó cũng như cá chạch dưới ta thôi!
Đúng là con chạch thật! Cũng có đuôi, có vây, thân mình nhơn nhớt, chỉ khác ở cái đầu nhọn hơn.
- Ăn được không anh?
- Được chứ! Còn ngon nữa là khác!
Tôi đưa mắt nhìn dọc khe suối cạn:
- Thế đào ở đâu cũng có hả anh?
- Đừng tưởng bở! Phải chọn vũng suối nào nước đọng lâu nhất, và tất nhiên là lòng suối không có đá. Con chạch theo nước về đến đây thì nước khô, nó phải chui xuống đất ẩm chờ trời mưa. Mà những vũng suối đã khô lâu ngày thì đừng đào mất công.
- Nó chết hết phải không anh?
- Không hẳn thế! Con chạch rất khó chết. Nhưng khi ấy nó chui xuống sâu hơn. Mình đào bằng dao, biết bao giờ mới bắt được?
Một lúc sau, chúng tôi đào được hơn chục con cỡ ngón tay, con to nhất bằng ngón chân cái.
- Thôi đến lúc phải đi rồi - Anh Hùng bỏ những con chạch vào gô, đậy nắp lại - Cốt kiếm nồi canh chua thôi. Đến chiều cậu sẽ biết nó ngon như thế nào. - Anh nhìn tôi cười.
Con đường của voi vẫn kéo dài và ngày càng lên cao. Chúng tôi đạp lên những dấu chân voi, cắm cúi bước trong nắng chiều rát bỏng sau lưng.
Leo hết đoạn dốc cao, tôi dừng lại lấy mũ lau mồ hôi đầm đìa trên mặt, chợt ngửi thấy trong gió thoảng mùi thối khăn khẳn. Chắc có con vật nào chết quanh đây. Đi thêm một quãng nữa, mùi thối càng nặng hơn. Anh Đằng giục mọi người rảo bước, vượt nhanh ra khỏi vùng này. Gần tới đỉnh dốc, anh Sơn dừng lại lấy bản đồ trải trên đất, dùng địa bàn ngắm hướng rồi gọi:
- Anh Đằng ơi, đứng lại đã!
- Gì thế Sơn?
Anh Sơn chưa đáp mà xem lại bản đồ lần nữa, suy nghĩ một lát và ngẩng đầu lên nói với chúng tôi:
- Phải đi cắt rừng thôi! Con đường này bây giờ đang chệch với hướng của mình tới mười bảy độ.
Tôi ngoái đầu nhìn: đúng là lối voi đi đến đây thì quành lại, đâm thẳng lên đỉnh dốc.
- Thôi được, ta rẽ luôn. Gắng đến đoạn nào có nước để nghỉ.
Chúng tôi xốc ba lô, rẽ cây bước tới. Được mấy bước, anh Hùng chợt ngập ngừng:
- Hay là... - Chúng tôi cùng quay lại nhìn anh - Mình đi lên đoạn nữa. Theo tôi, mùi hôi thối lúc nãy là của một con voi chết. Có thể nghĩa địa voi ở gần đây. Ta tới thẳng đấy xem sao rồi đi tiếp. - Anh vội vã giải thích.
Anh Đằng đang ngần ngừ, tôi nói luôn:
- Phải đó anh ạ! Chắc không xa đâu, chỉ sau đỉnh dốc kia thôi. Lên tới đó nếu không có, ta nhắm hướng đi càng tiện.
Anh Đằng bật cười:
- Đúng lý quá, không ai cãi vào đâu được.
Chúng tôi quay lại đi tiếp theo dấu chân voi, mặc cho mùi thối vẫn theo ngọn gió tây nam phả tới. Đến đỉnh dốc, tôi hăm hở bươn lên dẫn đầu. Chẳng thấy gì cả, chỉ có dấu chân voi đi qua dưới những gốc cây cổ thụ sừng sững lúc này đang nhuốm nắng vàng hượm trên ngọn. Anh Đằng giục:
- Cứ đi nữa đi! Tớ cảm thấy như gần đâu đây thôi.
Thêm một quãng vài trăm mét, khi vòng qua hết mấy tảng đá lớn, chúng tôi cùng đứng sững lại bởi cảnh tượng trước mắt thật lạ lùng: trên một vùng đất rộng và tương đối bằng phẳng, vô số những bộ xương voi nằm la liệt xen với những tảng đá bạc trắng lô nhô. Thỉnh thoảng mới có một bóng cây mọc giữa đám cỏ, trên ngọn có mấy con chim đậu im lìm.
Anh Đằng kéo chúng tôi đi lên mé trên, tránh mùi hôi thối nồng nặc đang bốc lên từ xác con voi nằm gần đó. Tôi mượn anh chiếc ống nhòm đưa lên mắt nhìn. Nhiều bộ xương dầu dãi mưa nắng lâu ngày đã trắng hếu, giữa đống nổi lên tảng xương đầu to tướng và những cánh xương sườn cong cong. Có vài bộ xương lổn nhổn còn dính những mảnh da đen mốc rách tả tơi. Trên cái xác voi đang bốc mùi, mấy con chìm ăn thịt đủng đỉnh đi lại, chốc chốc lại chúi đầu dưới lớp da voi rúc thật thối. Con vật to lớn giờ đây trở thành một đống lùng nhùng, chỉ còn đôi ngà dài cong vút đang ánh lên dưới nắng chiều như muốn chứng minh rằng nó đã từng kiêu hãnh tồn tại trên cõi đời này.
Trong bóng chiều đã xế, cả vùng nghĩa địa tĩnh mịch vắng lặng. Cảnh vật trở nên thê lương, buồn bã. Những tảng đá trắng lô nhô trên cỏ như những tấm bia mộ xếp lớp lớp trải dài đến hút tầm nhìn.
Chúng tôi lặng lẽ quay lại tìm hướng băng rừng tiếp tục cuộc hành trình. Trong đầu tôi vẫn miên man suy nghĩ về nghĩa địa voi. Những con vật chung thủy từng sống bầy đàn quấn quít, đã tìm về trên đỉnh núi cao quanh năm tràn đầy nắng gió này để chết cùng một chỗ. Cả đến khi phải từ giã cuộc sống, chúng cũng không muốn xa nhau và không muốn rời xa rừng già. Lại còn những con voi dìu bạn mình đi suốt chặng đường dài giữa rừng hoang để đến nơi yên nghỉ cuối đời như ý muốn... Con vật chỉ hành động theo bản năng mà sống với nhau có tình có nghĩa như thế, huống chi con người.
Chương IV
Ngày thứ tám. Chúng tôi lên đường từ sáng sớm, khi sương còn giăng trắng rừng. Ánh mặt trời rọi qua sương tạo nên một bức màn màu hồng mờ mờ. Những cành lá đọng nước quệt vào người làm quần áo ướt sũng. Đôi dép cao su chốc chốc lại tụt khỏi chân. Chừng tám giờ sáng thì sương tan hết, nhưng đường đi ngày càng dốc hơn. Chúng tôi đang leo lên sườn của một ngọn núi nào dó. Chân người đi trước gần như ở trên đầu người đi sau. Anh Đằng thỉnh thoảng phải dừng lại, một tay níu cây, một tay kéo giúp từng người vượt qua chỗ dốc ngược. Anh nói:
- Cố lên các cậu! Chưa ăn thua gì đâu, sắp tới còn khó đi hơn đấy!
- Sao vậy anh? - Tôi hỏi.
- Mấy hôm nay ta đang leo lên sống lưng của dãy Trường Sơn. Đến lúc sang sườn đông cậu mới biết, hiểm trở hơn nhiều.
Tôi tặc lưỡi:
- Kệ, đi được tất! Em chỉ trông mau tới nơi thôi.
- Đừng tưởng đến đỉnh chỉ cần vắt chân một cái là sang sườn đông như lúc cưỡi trâu đâu nhá! Còn phải leo chán - Anh Sơn trêu.
Mặt trời dần lên cao, ánh nắng đốt nóng trên cổ, trên vai áo. Chúng tôi níu cây vất vả leo từng đoạn dốc. Lúc này chẳng ai còn sức để trò chuyện. Mũi và miệng bắt đầu đua nhau thở, hơi thở lùng bừng trong lỗ tai. Từ nãy mồ hôi đã đầm đìa cả người tôi, giờ nó chảy thành dòng vào mắt cay xè. Chiếc ba lô và khẩu súng càng nặng hơn, nhiều lúc như níu lấy vai kéo ngược trở lại.
- Nghỉ tí đã, các cậu? - Tiếng anh Đằng nói ngay trên đầu. Tôi xoay người ngồi phịch xông đất, một tay vẫn níu lấy cành cây. Đoạn này dốc quá, không cẩn thận là lăn lông lốc xuống sườn núi. Anh Hùng và anh Sơn cũng lên tới, vừa thở vừa nhìn tôi cười:
- Thế nào? Mệt không?
Tôi gật đầu thay cho lời đáp, miệng vẫn há ra làm thêm phần việc của mũi. Ngồi một lúc, khi hơi thở đã điều hòa trở lại, tôi mới lựa thế tỳ chân vào gốc cây để rảnh tay lấy bi đông nước mở nắp đưa lên miệng uống. Nước trong bi đông nóng hầm hập. Tôi quay sang phía anh Đằng:
- Từ đầu tới giờ, nay mới được bữa leo đã đời!
- Chưa hết đâu, đoạn sau còn dốc hơn đấy! Này, cậu đưa bao gạo lát mình mang cho.
- Anh đừng lo, em đi được. Hồi ở ngoài kia, mỗi lần đi lấy gạo là em mang bốn chục cân đi cả ngày đấy!
Tôi ngước nhìn lên. Vách núi cao tít, ở đây không nhìn thấy đỉnh vì bị cây che khuất. Những thân cây trắng mốc mọc chưa theo phương thẳng đứng tạo với vách núi thành một góc hẹp. Dưới gốc vẫn các loài cây thấp mọc um tùm.
Nghỉ được mươi phút, anh Đằng giục đi tiếp. Phải tranh thủ vì chưa biết con dốc này cao đến đâu. Nắng ngày càng gay gắt, đất rừng bốc hơi nóng ngột ngạt. Được nghỉ một lúc nên tôi bước nhanh hơn, mặc dù đôi vai mỏi nhừ.
Phía trên, anh Đằng thỉnh thoảng lại vung dao phạt những nhánh cây vướng lối đi. Hơn một giờ sau, đang chúi người leo lên, tôi bỗng vấp đầu vào chân anh.
- Có việc gì thế anh? - Tôi hỏi.
Anh không đáp, ngoái xuống gọi:
- Hùng ơi, lên đây? Anh Hùng vội bươn lên...
- Phải dùng dây Hùng ạ?
Anh Hùng gật đầu, mắt ngước nhìn vách núi sừng sững. Anh Đằng bảo chúng tôi:
- Các cậu rút dây võng ra, ta nối lại làm dây leo cho an toàn.
Chúng tôi lựa chỗ đặt ba lô, tháo dây võng nối lại với nhau. Anh Hùng kiểm tra các mối nối, chập lại làm bốn và gút hai đầu thành sợi dây dài hai chục mét, đủ chịu được sức nặng của người leo. Cuốn cuộn dây quanh thắt lưng, anh khoác chéo súng sau vai rồi bám vách núi thoăn thoắt leo lên. Khi leo hết chiều dài sợi dây, anh buộc một đầu vào gốc cây giật thử mấy cái và ngoái xuống bảo:
- Xong rồi, các vị lên đi? Anh Đằng ẩy vào vai tôi: "Xuất phát". Tôi nắm lấy sợi dây, bắt đầu leo. Dễ hơn lúc nãy nhiều vì hai tay có chỗ níu chắc chắn. Lúc gần đến nơi, mồ hôi túa ra lòng bàn tay làm tròn dây, mấy lần tôi suýt tuột tay, may nhờ kịp đạp chân giữ người lại. Lên tới chỗ anh Hùng đứng, tôi phải há mồm hớp lấy hớp để những ngụm không khí nhằm làm dịu quả tím đang đập rộn trong lồng ngực đòi thêm ôxy.
Đến lượt anh Sơn. Anh leo nhẹ nhàng hơn tôi nhiều, nhưng lên đến nơi cũng phải há hốc mồm ra thở. Anh Đằng thì khỏi nói! Anh túm dây bươn lên một cách thoải mái, dáng mềm mại như mèo.
Mặt trời gần tới đỉnh đầu, ánh nắng làm tôi lóa mắt khi nhìn lên. Những ngọn cây lay động trên cao nhưng dưới gốc chẳng có chút gió nào, cái nóng vẫn hầm hập trong đám lá vây quanh người. Anh Hùng đã lại leo lên buộc dây cho chặng thứ hai. Lúc này không thể dừng lại được. Vách núi gần như dựng đứng. Chúng tôi phải tựa lưng vào thân cây, tay níu cành cây trước mặt để chờ.
Cứ như thế, từng người thay nhau nắm lấy sợi dây dù trơn tuột, nóng ran trong lòng bàn tay mà leo lên dưới cái nắng thiêu đốt. Mồ hôi trên người tôi vã ra như tắm rồi nhanh chóng bốc hơi, chiếc mũ vải và bộ quần áo khô rộp lên.
Chặng thứ ba...
Chặng thứ tư! Vẫn vách núi dựng ngược nhưng cây mọc thưa thớt. Lác đác mấy tảng đá đen xám chênh vênh nóng đến khét nồng. Bây giờ hầu như không ai nói gì. Mọi người lặng lẽ thực hiện từng động tác lặp lại lần trước, cố gắng không có cử động nào thừa.
Chặng thứ năm!
Tôi ôm một thân cây, choãi người tựa hẳn vào nó thở gấp, ngẩng đầu nhìn. Anh Hùng đang dán người vào vách núi bám từng mẩu rễ leo lên, đất đá rào rào dưới chân. "Chỉ một cái tuột tay...", tôi rùng mình không dám nghĩ tiếp. Ở xung quanh cây cối đang nghiêng ngả, mấy thân cây gầy guộc vươn những chiếc rễ ngoằn ngoèo cố bám vào vách núi như để khỏi bị rơi xuống. Hình như gốc cây tôi ôm đang lung lay... "Mình bị chóng mặt..." Tôi cố không nhìn lại đoạn dốc vừa leo qua, nhưng càng cố gượng càng có cái gì đó bắt tôi phải nhìn lui... Tôi co cứng cánh tay ôm chặt thân cây. Ánh nắng chói chang. Những quầng xanh quầng đỏ vụt qua trước mặt loang loáng, loang loáng... Gió rít ù ù bên tai. Cảm nhận về cái vách núi sâu hun hút bên dưới làm người tôi rợn lên, sống lưng lạnh buốt...
Bất chợt, một cánh tay choàng qua vai tôi. Anh Đằng lần tới từ lúc nào, vòng tay ôm lấy cả tôi và gốc cây. "Cố lên Hải, sắp tới nơi rồi...", tiếng anh thoảng trong hơi thở. Một tay anh cầm bi đông nước kề vào miệng tôi: "Uống một ngụm, cậu sẽ thấy khỏe ngay..." Tôi hớp ngụm nước và hít mấy hơi thở sâu, thấy người tỉnh táo hơn. Lát sau tiếng mạch đập thình thịch trong đầu dịu đi, cảm giác rờn rợn dưới chân cũng tan dần, mắt không hoa nữa. Đúng lúc đó, một tiếng reo chợt vỡ òa bên trên: "Đến nơi rồi, các cậu ơi, đến đỉnh núi rồi...". Tôi nhìn lên. Anh Hùng đang đạp chân trên gốc cây mọc nghiêng, một tay níu vào bờ dốc rướn người nhìn về phía trước, tay còn lại vẫy rối rít. Tôi thở phào nhẹ nhõm.
Nghỉ một lúc, chúng tôi leo lên lần cuối. Chặng này ngắn hơn, đoạn dây còn lại dưới chân anh Đằng có đến năm mét. Lần này anh Sơn lên trước. Đến lượt, tôi bám dây định leo thì anh Đằng giữ lại: "Cậu bỏ ba lô ra, lát sẽ kéo lên" Tôi ngần ngừ nhưng rồi cũng tuột ba lô đặt xuống gốc cây. Anh nói đúng, tôi đã lừ cả người.
Không có chiếc ba lô trên vai nên người như nhẹ bổng, tôi leo khá nhanh. Lúc sắp tới đỉnh, anh Hùng vươn người túm tay tôi kéo tuột lên. "Đến nơi rồi...", tôi reo thầm, chùng người lăn ra bãi cỏ. Một làn gió thổi tới mát rượi. Mặt đất dưới lưng không nghiêng nữa và trời xanh lồng lộng trên cao. Nắng vẫn gay gắt nhưng có gió nên không nóng như lúc nãy. Tôi nhoài người nhìn xuống, thấy anh Đằng đang buộc dây vào ba lô để kéo lên.
Đợi anh lên đến nơi, chúng tôi tháo dây rồi xếch ba lô và súng chạy vào bóng cây gần đó. Tôi ngồi bệt xuống cỏ, vặn nắp bi đông dốc nốt ngựa nước cuối cùng vào miệng.
Đến lúc này tôi mới nhìn rõ cảnh vật xung quanh. Chúng tôi đã gặp may khi leo đúng vào chỗ trũng hình yên ngựa của một dãy núi, hai bên là hai mỏm núi cao cây phủ xanh rì . Nơi chúng tôi đang ngồi tương đối bằng phẳng, chỉ có vài bóng cây thưa thớt trên vạt cỏ ngả màu vàng úa.
Nghỉ một lúc đỡ mệt, tôi mượn anh Đằng chiếc ống nhòm, bước đến sát vách núi để nhìn phong cảnh bên dưới. Trước mắt tôi, một màu xanh mênh mông phủ lên những dãy núi uốn lượn mềm mại nhấp nhô như lớp lớp sóng dồn. Màu xanh của rừng Lào trải ra xa ngút ngàn cho đến lúc hòa lẫn vào vùng mây xám đen lô xô ở phía chân trời. Phía ấy đang mưa.
Từ trên cao nhìn xuống, rừng im hai như đang ngủ say dưới ánh nắng chói chang. Nhưng tôi biết dưới tấm thảm xanh được kết bởi triệu triệu tán lá cây rừng kia, cuộc sống vẫn diễn ra sôi động như vốn có từ thuở xa xưa. Tôi rê ống nhòm tìm mỏm núi có những bộ xương voi nhưng không thấy, chắc nó bị khuất sau ngọn núi nào đó. Cũng không nhìn ra lối rừng nào chúng tôi đã đi qua. Tất cả như đã chìm trong cõi mông lung vô tận.
Tôi trở về chỗ gốc cây, thấy anh Sơn đang trải bản đồ trên cỏ. Mọi người xúm lại. Anh lấy kính lúp ra soi rồi đặt thước đo. Loại bản đồ này dựng bằng kỹ thuật không ảnh, chắc ta thu được của địch vì lề bên dưới có dòng chữ "Quân lực Việt Nam cộng hòa".
Anh Sơn chỉ vào một điểm trên bản đồ, nói:
- Ta đang ở chỗ này! Như vậy đoạn đường đi trong mấy ngày qua là gần năm mươi cây số theo đường chim bay.
Điểm anh chỉ nằm giáp biên giới Lào - Việt , ở phía bắc phần đất nhô về hướng tây của tỉnh Quảng Nam. Trên bản đồ, vùng này chi chít những vệt nâu không đồng màu, thể hiện các dãy núi cao thấp khác nhau. Ngọn núi chúng tôi đang đứng có độ cao trên hai ngàn mét.
Anh Đằng vươn vai đứng dậy:
- Gần tám ngày đi được năm chục cây, thế cũng tốt rồi! Giờ ta tìm nơi nào có nước nghỉ hẳn buổi chiều hôm nay, lấy sức mai đi tiếp.
Nói xong, anh ngẩng đầu nhìn ngọn cây để ước lượng rồi khoác ống nhòm vào cổ bám thân cây leo lên. Tôi nhìn về hướng đông, nhưng tầm mắt bị chắn bởi dãy đồi mọc toàn cỏ tranh nên chẳng thấy được gì ngoài màu cỏ vàng sém trong nắng.
Lúc tụt xuống, anh Đằng nói:
- Dưới kia có vạt cây xanh, chắc có suối. Ta đến đó xem sao.
Chúng tôi khoác ba lô lên vai, xách súng đi về hướng anh chỉ. Cỏ dày quá, phải dùng chân giẫm rạp xuống mới đi được. Mọi người nối nhau lội trong cỏ rậm, thỉnh thoảng lại ngóng cổ nhìn qua ngọn cỏ để nhắm hướng.
Hơn nửa giờ sau, chúng tôi gặp một con suối khá lớn đổ xuống từ rặng núi phía bắc, nước trong veo chảy xiết cuộn ào ào qua những tảng đá chắn giữa dòng.
Không ngờ ở trên cao này lại có con suối tuyệt vời đến thế. Khi bước vào bóng râm của tán rừng rậm rạp, tôi cảm thấy mát rượi như không hề có mặt trời đang đổ lửa trên cao. Cái mát lạnh tỏa ra từ dòng nước, từ những tảng đá lô nhô hai bên bờ, từ bụi nước bắn tung trên ghềnh đá, tạo nên một ốc đảo khí hậu riêng biệt trái ngược với cái nóng gay gắt ngoài đồi cỏ. Tôi tụt ba lô, khoan khoái ngả người trên một thớt đá to như tấm phản. Mát lạnh đến rùng mình.
Sau khi nghỉ ráo mồ hôi, chúng tôi xuống suối tắm giặt. Tôi phát hiện ra ở khúc suối phía dưới có một vũng nước rộng sâu ngập đầu, được tạo bởi nước xói khi dòng suối uốn quanh. Mọi người dìm mình trong nước mát, gột sạch bụi bặm của chặng đường dài và vùng vẫy bơi lội thỏa thuê. Những hạt nước tung lên gặp nắng loé sáng như những hạt thủy tinh.
Lúc tôi phơi xong mớ đồ vừa giặt, quay vào đã thấy anh Hùng chặt về một bó cọc. Chúng tôi xúm lại đóng cọc căng mấy tấm tăng dựng lều. Anh Sơn ra mé đồi cắt mấy ôm cỏ tranh về rải trong lều để nằm cho êm.
Việc tiếp theo là chuẩn bị bữa ăn. Sau khi tắm xong, tôi đã thấy đói cồn cào vì lúc trưa chỉ ăn mỗi một miếng lương khô. Khi anh Đằng và anh Sơn đi lấy củi, anh Hùng rủ tôi:
- Này Hải, ta đi câu đi?
- Đi câu? Đi câu cá?
- Ở đây có cá à?
Anh Hùng cười:
- Sao lại không? Ở đâu có nước là có cá! Cứ đi theo tớ khắc biết!
Anh móc trong túi cóc ba lô ra cuộn dây cước có buộc lưỡi câu, kéo tôi đi xuống vũng suối.
Mặt trời đã xế ngọn cây, nắng chiều vàng rực ngoài đồi cỏ tranh. Vũng suối phẳng lặng. Những tia nắng xuyên qua tán lá lấp lánh trên mặt nước. Anh Hùng chặt một nhánh cây buộc sợi cước vào rồi cầm hai đầu dây tuốt qua đầu gối cho thẳng. Hai chúng tôi ngồi xuống tảng đá bên mép nước. Tôi hỏi:
- Thế mồi đâu anh?
- Mồi ở quanh đây chứ đâu? Anh đáp, đưa tay véo một cục đất mềm bên dưới tảng đá Khi anh xòe tay ra, đã có mấy chú giun con ngọ nguậy trên chỗ đất vừa bị bóp vỡ. Anh túm một con móc vào lưỡi câu rồi thòng xuống nước. "Lạ quá, câu cá mà chẳng có phao...", tôi thầm thắc mắc, mắt chăm chú nhìn đoạn dây cước rung rung gần mặt nước.
Gần mười phút trôi qua mà chưa thấy gì. Tôi bắt đầu sốt ruột nhưng anh Hùng vẫn ung dung như một người nhàn rỗi đi câu cốt để tiêu khiển. Có tiếng động trên vòm lá. Tôi ngước lên, bắt gặp hai chú sóc đang đuổi nhau trên cây. Chúng chuyền nhanh thoăn thoắt, đuôi xù lên như hai túm bông lau màu nâu.
Chợt anh Hùng vung tay, một con cá nhỏ đang vùng vẫy đầu sợi cước. Tôi tròn mắt nhìn anh gỡ cá ra khỏi lưỡi câu "Bẻ cái nhánh cây, xâu vào?", anh giúi con cá vào tay tôi, tay kia đã lại véo đất tìm con mồi khác. Tôi cắt đoạn dây leo xỏ vào mang cá. Nó chỉ to bằng ngón tay cái, thân tròn và có những chiếc vảy nhỏ lốm đốm đen.
- Cá bống phải không anh?
- Gọi cá bống cũng được. Muốn chắc ăn thì gọi là "bống núi". - Anh cười - Tên con vật là do con người đặt ra mà!
Lúc này cá cắn câu liên tiếp. Chỉ lát sau xâu cá đã được hơn chục con. Anh Hùng bảo:
- Cá này nấu canh chua ngon chẳng chê vào đâu được. Chừng này đủ rồi, ta chuyển sang món khác.
Anh lấy từ túi áo ngực ra một cục chì nhỏ, buộc vào sợi cước ở phía trên lưỡi câu, móc mồi thả xuống nước. Tôi hồi hộp dán mắt vào sợi dây chờ kết quả. Chưa biết anh định câu con gì, nhưng tôi không hỏi. Càng bất ngờ càng thú vị.
Bỗng sợi cước bị giật mạnh, rồi căng ra chạy xé nước. Anh Hùng đứng bật dậy, vung tay giật theo hướng chạy của sợi dây. Một chú cá đen trũi bật lên khỏi mặt nước vùng vẫy dữ dội. Anh kéo dây hất nó lên bờ. Tôi chồm tới giữ chặt con cá băng cả hai tay, mặc cho một vật gì sắc nhọn đảm vào tay đau nhói. Khi gỡ lưỡi câu ra, tôi mới nhìn rõ nó: con cá to gần bằng cổ tay, thân dài và trơn nhẫy, hàng vi trên lưng có những chiếc gai nhọn.
- Cá gì vậy anh? - Tôi lấy dây xỏ vào mang cá và hỏi.
- Cá lầu đấy? Ngoài mình gọi là "lầu gai" vì ví lưng nó có gai. Cũng họ hàng với cá chình, thật ngon lắm!
- Thế sao lúc nãy mình không câu được con nào?
- Con này chỉ ăn mồi sát đáy. Ở đây nước sâu, nếu không có chì, lưỡi câu không chìm tới được.
Sau khi giật thêm hai con nữa, anh đưa cần câu cho tôi:
- Cậu câu nhé! Mình chạy đi kiếm ít rau nấu canh.
Bước được mấy bước, anh ngoái lại dặn: "Chú ý lúc cá cắn câu, xem sợi cước rung là biết!"
Tôi hồi hộp móc mồi thả xuống nước. Sau hai lần giật hụt, tôi cũng vớ được một con to hơn hẳn mấy con trước. Níu đoạn dây câu giật giật nặng trĩu trên tay mà tôi sướng run người, y như hồi nhỏ đi câu ở ao làng lần đầu giật được con rô cụ to bằng bàn tay...
Chiều hôm ấy, anh Hùng làm món cá nướng theo cách riêng như đã hứa hôm trước. Anh lấy dao đào một cái hố vuông vắn, mỗi bề chừng bốn tấc và sâu cỡ gang tay, rồi chất củi lên nhóm lửa. Tôi được giao đi kiếm cái bẹ chuối và chặt mấy tàu lá. Ở đoạn bờ suối phía dưới mọc vô khối những cây chuối rừng cao ngồng.
Lúc về tới nơi, thấy mớ cá đã được làm sạch sẽ. Anh Hùng nhặt bốn con cá lầu đặt lên tấm lá chuối, dùng dao khía mấy đường ở hai bên lườn, bốc một nhúm muối xát đều lên rồi gói chúng lại trong nhiều lớp lá chuối, lấy bẹ chuối ốp bên ngoài như kiểu người ta ốp mo cơm. Lúc này đống củi đã cháy rừng rực bắn ra những tia lửa lách tách. Anh dỡ mấy thanh củi đang cháy, gạt tro nóng và than hồng gần đầy miệng hố, đặt gói cá xuống, lại phủ lên một lớp tro dày rồi xếp thêm củi cho lửa tiếp tục cháy. Tôi treo hai chiếc gô lên nấu cơm và bắc xoong nấu món canh cá với mớ lá anh hái về lúc nãy.
Khi cơm canh vừa chín tới, anh Hùng gạt lửa moi gói cá lên. Mới mở lớp lá chuối cháy sém bọc ngoài, mùi cá nướng đã bốc lên thơm lừng khiến ai cũng phải nuốt nước bọt. Bữa cơm tối được bày ra trên mấy tấm lá chuối. Món canh chua có thêm vị hơi đắng, rất ngon. Còn món cá nướng thì khỏi chê: thịt cá dai chứ không bở, và ngọt lừ trong miệng. Riêng lớp da cá dày cháy vàng lại béo ngậy và thơm phức.
Đã nhá nhem tối. Những tia nắng cuối cùng xòe nan quạt trên nền trời phía tây. Chúng tôi vừa ăn vừa trò chuyện vui vẻ câu chuyện xoay quanh các món ăn ở rừng. Anh Hùng nói:
- Không chỉ cá đâu nhé, mà các món thịt rừng nướng theo kiểu này đều ngon hết ý, ăn thơm và không bị mất nước ngọt trong thịt. Chỉ tiếc ở đây không có đủ gia vị. Này, Hải ăn thịt rắn bao giờ chưa?
- Chưa! Em chỉ đọc trong sách, thấy kể trong Nam Bộ người ta làm nhiều món thịt rắn ngon lắm. Em thì chỉ nhìn con rắn đã phát khiếp. - Tôi nhớ tới con rắn hổ mang hôm trước.
Anh Sơn nói:
- Ngoài Bắc, có những làng chuyên làm nghề bắt rắn. Họ chế biến thành những món đặc sản, bán rất đắt. Ai nhiều tiền mới ăn được.
- Đó là ăn kiểu vương giả, kể gì? - Anh Hùng nói - Đây mình làm theo cách ở rừng. Này nhé! Con rắn bắt được, mình lột da bỏ ruột bỏ đầu, dùng lá chuối khô lau sạch. Xong, anh lấy dao vằm nhỏ, bỏ vào soong. Đào lấy một củ chuối rừng gọt thành cái chày, rồi cứ thế mà giã. Cho đến khi xương rắn cắm hết vào củ chuối thì thịt nó cũng vừa nhuyễn. Anh cho tiêu, mì chính, hành khô xắt nhỏ vào; bỏ thêm tí muối, tí đường, tí ớt bột, vắt thêm chút nước củ riềng. Anh trộn đều tất cả, giã thêm một lúc nữa rồi viên lại thành viên, thả vào chảo mỡ sôi mà rán. Nhớ đừng rán cháy quá chỉ vàng cạnh là được. Còn nếu không thích rán thì cứ bọc lá chuối mà nướng hạ thổ như lúc nãy. Bảo đảm cứ là thơm phức, béo ngậy, giòn tan, mùi vị không món nào sánh được ăn một miếng nhớ cả đời.
- Nhưng... - Tôi ngần ngừ - ở đây lấy đâu ra từng ấy gia vị?
- Nếu thế thì thôi vậy nhé! Lúc nào có đủ, mình sẽ làm cho cậu ăn. - Anh Hùng nháy mắt với tôi.
Mọi người cùng cười phá lên. Đang ăn, nhìn anh Sơn nghiêng soong múc canh, tôi chợt nhớ ra điều mấy hôm nay vẫn thắc mắc trong đầu, liền hỏi:
- Anh Sơn này? Nếu có vỉa quặng thì mình cần gì đãi mà mang cái soong to vậy anh?
Anh cười:
- Cứ cho là có vỉa quặng, nhưng giữa rừng mênh mông, dù mình đến đúng tọa độ cũng dễ gì tìm thấy ngay được? Lúc đó tìm nó còn khó hơn tìm cái kim rơi trên bãi cỏ. Mình phải đãi đất cát ở các lòng khe, con suối, xác định hướng mà tìm chứ!
Tôi vẫn chưa hiểu, nên băn khoăn một lúc, lại hỏi:
- Thế anh xác định bằng cách nào? - Tính tôi vốn vậy! Việc gì cũng muốn biết tới cùng, nếu không cứ ấm ức mãi.
Chắc cũng thông cảm với sự tò mò của tôi, nên anh Sơn ngẫm nghĩ rồi trả lời:
- Mình giải thích sơ qua thôi nhé, chứ cặn kẽ thì nhiều việc lắm. Ở những nơi có quặng vàng nằm lộ thiên, mưa gió lâu ngày xói mòn làm trôi đi những hạt vàng cám nhỏ li ti, và tất nhiên nó trôi xuống chỗ thấp hơn. Nếu một bãi trũng hoặc đoạn suối nào đó ta đãi có những hạt vàng thì có thể lần theo hướng chảy của nó để tìm. Cách làm đó thô sơ nhưng đơn giản nên dễ áp dụng. Tuy vậy, cũng cần có những hiểu biết nhất định về địa chất, ví như các dạng cấu trúc địa tầng, lịch sử hình thành của vùng đất... Để lúc này bắt tay vào việc, mình sẽ nói thêm cho Hải biết.
Tôi chưa thỏa mãn lắm, nhưng hiểu rằng lúc này chưa thể hỏi để biết hết mọi việc được. Không lo! Còn đi với anh, còn được hỏi nhiều. Miễn là tìm đến đúng nơi, sau đó sẽ tha hồ vừa làm vừa học...
Tôi mường tượng trong đầu một vỉa đá khổng lồ có những mạch vàng sáng lấp lánh, như có lần được xem trong một bộ phim nào đó chiếu cảnh một người đi lạc vào hang đá có vàng. Hình như phim thần thoại thì phải...
Chương V
Chúng tôi thức dậy khi trời còn tối mờ. "Đã nghe chim hót báo sáng lâu rồi, sao lại tối thế này nhỉ?..." Tôi xách súng vén mép tăng bước ra. Cả khe suối âm u mù mịt. Mây! Tôi quờ tay, những hạt bụi nước li ti đọng ướt lòng bàn tay.
Đợi đến khi mây tản bớt có thể nhìn rõ đường, chúng tôi mới đi được. Chặng đường hôm nay bắt đầu bằng việc băng qua đồi cỏ tranh. Phải dùng cả hai tay để rẽ những đám cỏ sũng nước lấy lối đi. Nhiều lúc chân chúng tôi bước sụp trong lớp cỏ khô mục rụi xuống lâu ngày kết thành từng mảng dày bốc mùi ấm mốc.
Khi mặt trời nhô ra khỏi các đám mây, chúng tôi cũng vừa lên tới đỉnh đồi. Bên dưới là một biển mây màu trắng màu hồng trải mênh mông như vô cùng vô tận. Những đỉnh núi cao vượt trên mây lô nhô như những hòn đảo. Không nhìn rõ chặng đường trước mặt. Anh Sơn rút địa bàn nhắm hướng, chúng tôi rẽ cỏ tranh luồn trong đám bụi nước đi xuống.
Nắng càng lúc càng gay gắt. Mây tan dần, chỉ còn mấy dải trắng là là trong các khe núi. Trên trời lác đác vài vệt mây mỏng tang, trông giống những mảnh lụa ai xé gió thổi tít lên cao. Cảnh vật hiện ra rõ mồn một. Núi non nhấp nhô điệp trùng với những đường nét sắc nhọn, gãy góc.
Đang bước, anh Hùng nhìn trời tặc lưỡi:
- Trời này nắng phải biết! Ta không mang thêm nước là sai lầm.
- Mình cũng vừa nghĩ thế! - Anh Đằng nói - đúng là đi rừng già nửa đời rồi mà còn dại. Thôi lỡ rồi, đành tìm cách khắc phục sau vậy.
Đến quá trưa, chúng tôi vẫn lội trong đám cỏ tranh cao ngập đầu. Mỗi khi gió thổi, ngọn cỏ nối nhau rạp xuống rập rờn như sóng. Dưới ánh mặt trời chói chang, dùng đồi cỏ bạt ngàn càng vắng vẻ hoang vu. Không một cánh chim, không một bóng thú. Thảng hoặc mới có vài bóng cây xanh đứng im lìm trơ trọi như lạc lõng giữa màu cỏ vàng úa.
Tôi mệt nhọc bước đi trong cái nắng cháy bỏng da thịt. Nhưng vết lá cỏ tranh cứa trên cổ, trên mu bàn tay thấm mồ hôi rát buốt. Dù đã khát khô cổ họng nhưng tôi cố nhịn, chỉ thỉnh thoảng mới mở nắp bi đông nhấp một hớp nhỏ cho nước bọt khỏi khô đặc trong miệng. Tình thế này chưa biết khi nào mới gặp nguồn nước, vì vậy có tiếng nước óc ách trong bi đông vẫn yên lòng hơn. Mọi người đều mệt lử nhưng ai cũng gắng bước bởi nghỉ lại giữa đồi cỏ khô cháy này càng mau kiệt sức. Chiếc ba lô trên lưng anh Đằng chập chờn trước mặt lúc gần lúc xa, tất cả như mờ ảo trong mắt tôi...
Mãi xế chiều lúc bóng nắng đã ngả dài trước mặt, chúng tôi mới thoát khỏi vùng cỏ tranh. Mọi người ngồi phịch dưới một tán cây thấp, trút ba lô, mở phanh cúc áo cho hơi nóng trên người tản bớt đi.
Tôi cầm bi đông lắc lắc, nước còn ít lắm. Kề bi đông lên miệng, tôi hớp một hớp nhỏ, ngậm một lúc cho đỡ khô miệng rồi mới nuốt. Ngần ngừ một lát, tôi hớp thêm hớp nữa và kiên quyết vặn nắp lại.
Anh Đằng đưa tay nhìn đồng hồ, bảo:
- Ta nghỉ một lúc rồi tranh thủ đi tiếp may ra tìm thấy nước, chứ ở đây thì chịu chết.
Anh Hùng không nói gì, với tay gỡ chiếc ống nhòm trên cổ anh Đằng, níu cành cây trên đầu đu người lên. Chúng tôi im lặng chờ đợi. Lát sau, anh lẳng lặng tụt xuống. Tôi hỏi:
- Thấy gì không, anh Hùng?
- Chẳng nơi nào có vẻ có nước. Mà sao vùng này lạ quá - Anh quay sang anh Sơn, băn khoăn hỏi - Này Sơn, cậu nhìn kỹ xung quanh, xem có thấy nơi nào như thế này chưa?
Chúng tôi cùng đứng cả dậy, đưa mắt nhìn quanh. đúng là có cái gì khác lạ mà nãy giờ vì mệt nên không ai để ý. Tôi chăm chú nhìn, bỗng nhận ra rừng ở đây không giống như không nơi khác. Xung quanh toàn cây thấp cằn cỗi và mọc không theo một phương nào cả. Những thân cây gầy guộc dáng nghiêng ngả như đang vội vã chống đỡ lại một sức mạnh vô hình nào đó. Trên những nhánh cây cong queo, mấy chiếc lá nhỏ mọc thưa thớt, đầu lá sém nắng. Dưới gốc cây mặt đất khô bụi lác đác mấy búi cỏ thấp lè tè.
Tôi vớ cái ống nhòm từ tay anh Hùng, chọn một cây cao nhất trèo lên. Nhìn từ trên cao, cả cánh rừng rộng trong tầm mắt như đang quằn quại. Những ngọn cây ngã rạp, xoắn lại theo vòng xoáy trôn ốc. Bao phủ khắp rừng là một màu xanh khô khan cạn kiệt sức sống ánh nắng cuối chiều nhuốm lên rừng một màu vàng hiu hắt, làm cho nó càng có vẻ ma quái, ảm đạm. Tôi cảm thấy rờn rợn...
Tôi ôm thân cây tuột xuống, trong đầu cứ vương vướng điều gì đó. Đến khi đặt chân lên đất mới chợt nghĩ ra: ở đây không có tiếng chim hót, tiếng côn trùng rền ri quen thuộc như các nơi khác.
Nghe tôi nói lại những điều nhìn thấy anh Sơn suy nghĩ một lúc rồi thò tay vào túi áo ngực lấy địa bàn ra mở nắp nhìn: kim địa bàn quay loạn xạ. Anh nói ngay:
- Phải đi khỏi đây thôi, càng nhanh càng tốt. - Anh vớ ba lô khoác lên vai.
Mọi người vội vã làm theo. Không kịp hỏi, nhưng ai cũng đoán được là có mối nguy hiểm nào quanh đây. Anh Đằng ngoái hỏi tôi:
- Hải thấy vùng xoáy rộng bao nhiêu?
- Khoảng bốn, năm cây số - Tôi đáp.
Anh Hùng gật đầu: "Chỉ chừng đó thôi!" Anh Đằng nhìn anh Sơn:
- Ta băng qua chứ?
- Băng thôi! Rừng thưa, có thể đi nhanh được.
Không còn cách nào khác. Quay lại đồi cỏ tranh coi như thất bại. Đi vòng thì xa và chắc gì không nguy hiểm.
Chúng tôi hối hả đi nhanh. Lúc này trời vẫn sáng nhưng không có sắc vàng của nắng, khí trời ong ong nặng nề. Khu rừng này lạ lắm? Càng đi sâu vào càng thấy bồn chồn khó chịu. Mươi phút sau như có linh tính, mọi người cùng bứt lên chạy, mặc cho cành lá quật vào người rào rào. Những cành cây khẳng khiu tướt vùn vụt qua mặt. Tôi không ngờ mình còn chạy được nhanh đến thế.
Hơn nửa giờ sau, chúng tôi qua hết quãng rừng im lìm đáng sợ đó và bước xuống một bãi đất trống chỉ lơ thơ những ngọn cỏ mọc quanh mấy tảng đá màu xám đen.
Đang đi chậm lại, bỗng nghe sau lưng có ngọn gió thổi tới. Lúc đầu tôi không để ý, nhưng lát sau gió thổi mạnh hơn, lá cây bay ào ào. Tôi quay đầu lại nhìn và chợt ngớ ra vì kinh ngạc: một cơn lốc lớn đang cuộn thành vòi rồng ở trên cánh rừng chúng tôi vừa đi qua. Cây cột cát bụi khổng lồ cuồn cuộn dâng lên mỗi lúc một cao, cuốn theo tất cả những gì nó gặp và lừng lững tiến lại ngày càng gần. Tôi nhìn rõ những thân cây to và những vật gì đen đen quay tít mù trong vòng xoáy mờ mịt.
Tiếng anh Đằng thét giật giọng: "Chạy đi, nhanh lên?"
Chúng tôi chúi đầu chạy thục mạng về hướng khu rừng trước mặt. Tôi vấp chân vào một hòn đá suýt ngã giập xuống, may gượng lại được lảo đảo chạy tiếp, mặc cho ngón chân tóe máu đau nhói.
Trên trời mây đen kịt, không gian tối sầm lại. Gió càng lúc càng giật mạnh hơn, đất cát tung mù mịt, mấy hòn sỏi văng vào người đau rát. Cũng may khoang trống chỉ rộng hơn trăm mét, chúng tôi đâm vào rừng tiếp tục chạy. Tiếng gió hú ầm ầm trên đầu, tiếng cây gãy răng rác. Những cành cây quật lên quật xuống làm lấ rụng tơi tả. Đến một cái khe cạn, anh Đằng đứng lại thét bảo chúng tôi chạy theo lòng khe.
Phải mươi phút sau gió mới dịu lại. Tiếng rít của vòi rồng nghe xa dần, chắc nó đã cuộn sang hướng khác.
Chúng tôi nhìn nhau. Ai nấy đều phủ bụi cát đen nhẻrn, chỉ còn lại đôi lượt. Tôi mở nắp bi đông uống nốt những giọt nước cuối cùng. Anh Đằng lên tiếng:
- May mình vừa đi khỏi đám rừng ấy thì nó tới. Nếu gặp lúc đang qua, hẳn giờ này đã lên tới trời rồi.
- Tôi cũng nhiều lần gặp vòi rồng, nhưng chưa khi nào thấy dữ dội như vậy. - Anh Sơn nói - Lúc nãy mình ở ngoài vòng cuốn cua nó mà gió còn đẩy chúi người. Nếu gần hơn chắc không chạy nổi.
Mọi người lục tục kéo ra khỏi lòng khe, tìm chỗ nghỉ đêm. Mặt trời sắp lặn, nắng chỉ còn le lói trên ngọn cây. Những con chim sau cơn hốt hoảng nay mới kêu nháo nhác, hối hả bay về tổ.
Chúng tôi men theo cái khe cạn đi xuống phía thấp hơn, nhưng không tìm thấy giọt nước nào. Tất cả đã bốc hơi khô kiệt đi từ lâu. Trời sắp tối, anh Đằng quyết định dừng lại nghỉ. Mọi người đặt ba lô xuống, vội vã dựng lều rồi đi kéo củi. Khi ngọn lửa cháy lên bập bùng thì trời cũng tối hẳn.
Tôi ngồi tựa lưng vào gốc cây, duỗi chân ra. Mệt rã rời. Bụng đói cồn cào nhưng miệng đắng chát không muốn ăn, chỉ thấy khát. Cả một ngày như vậy mà chỉ đổ vào người có lít nước, mới đủ phần nhỏ lượng mồ hôi toát ra. Các bắp thịt như nhão đi, lớp da đọng muối từ mồ hôi và bụi bám khô quắt lại. Tôi nghĩ tới dòng suối đầy ắp nước trong veo, mới chiều qua chứ đâu! Giá lúc này mà được cúi xuống một dòng suối như thế để uống cho đã, rồi nhào xuống vùng vẫy cho nước tẩy hết lớp bụi đất rợp ráp trên người, cho từng giọt nước thấm vào lỗ chân lông làm da mềm lại...
Ngón chân cái bên trái giật giật đau nhức và nóng ran làm tôi nhớ đến chỗ vấp lúc chiều. Tôi co chân nhìn. Đầu ngón chân toé máu phủ bụi đen sạm, gần nửa cái móng bị bong ra. Tôi mở ba lô lấy cuộn băng cá nhân.
- Hải làm sao thế? - Anh Sơn nhìn thấy hỏi.
- Em bị vấp ở đầu ngón chân, không sao đâu!
Anh Hùng bước tới, nâng bàn chân tôi tới gần ngọn lửa:
- Bị tróc móng, không khéo là nhiễm trùng như chơi. Nhưng chưa cần băng vội, cậu đợi đấy!
Anh nói rồi cầm đèn pin lủi vào rừng, lát sau đã quay lại với mấy ngọn lá trên tay.
- Đưa chân đây. - Anh nói như ra lệnh. Tôi ngoan ngoãn chìa chân ra. Anh lấy lá cây lau sạch bụi rui bỏ mấy chiếc lá còn lại vào mồm nhai, lấy bã đắp lên đầu ngón chân bị đau.
- Cậu lấy đoạn băng buộc lại. Không sợ nhiễm trùng đâu, thuốc kháng sinh đấy. Một ngày sau sẽ lành.
Tôi làm theo lời anh, lát sau thấy đầu ngón chân dịu lại, không nhức nữa.
Bữa tối, chúng tôi phải ăn lương khô vì không có nước nấu cơm. Tôi nhai như nhai trấu, chẳng thấy ngon lành gì nhưng cũng cố nuốt vào bụng. Mẩu lương khô thấm hết nước bọt làm cổ họng nghẹn lại. Đang ăn, chợt anh Đằng bảo:
- Các cậu đem bi đông ra đây?
Tôi hơi ngạc nhiên nhưng cũng đưa bi đông cho anh. Anh mở nắp từng chiếc, nghiêng miệng thận trọng róc vào bidông của mình, cố dốc hết từng giọt nước. Xong anh cầm lên lắc lắc: "Còn đến nửa bi đông đấy, các cậu ạ!"
Với chừng ấy nước chia đều cho mỗi người, tôi ăn hết phong lương khô. Ít ra cũng bù đắp được phần lớn lượng calo tiêu tốn trong ngày. Cả ba anh đều còn nước để dành, chứ trong bi đông của tôi may ra chỉ có vài giọt, nhưng các anh không muốn tôi mặc cảm với sự "hoang phí" của mình.
Trước khi đi ngủ, chúng tôi đem mấy tấm nilon đi mưa buộc căng vào các nhánh cây, hy vọng sẽ hứng được những giọt sương đọng lại.
Anh Đằng kéo mấy khúc củi to chất thêm vào đống lửa để nó cháy được suốt đêm. Ngoài tê giác ra, các con thú ở rừng đều sợ lửa. Tê giác có tư chất của người bảo vệ rừng, nó ghét lửa như bò tót ghét màu đỏ vậy. Nhưng ở trên cao này khó có thể gặp được loài thú quý vốn đã rất hiếm ấy.
Chúng tôi khoan khoái duỗi tấm thân mỏi nhừ trên lớp lá lót trong lều. Lúc này anh Đáng mới hỏi:
- Sơn này, sao lúc chiều cậu biết là sắp có vòi rồng!
Anh Sơn cười trả lời:
- Em không biết chính xác, chỉ linh cảm thấy điều khác thường khi nhìn rừng cây. Lại nữa thấy xung quanh chim thú trốn biệt đâu cả. Các loài vật ở rừng thường biết trước mối nguy hiểm.
Anh Hùng nói:
- Đó không phải là linh cảm, mà là hiểu biết và kinh nghiệm tích lũy được trong đầu. Đến lúc cần thiết, bộ óc phản ứng, tự động ráp nối các sự kiện và bật ra lời giải.
- Đúng vậy! - Anh Sơn nói tiếp - Em chưa nhìn thấy bao giờ, nhưng đã có đọc về hiện tượng rừng cây nghiêng ngả khác thường. Người ta phán đoán nhiều nguyên nhân khác nhau như tác động của phóng xạ, từ trường hoặc một chất gì đó có trong nền đất hay ở xung quanh. Cũng có khi do đất trượt. Rừng mọc trên một thềm đất trượt theo chu kỳ đều đặn so với khối nền bên dưới nó. Cây lớn lên ở đó luôn hướng về nơi có nhiều ánh sáng. Lâu ngày cả rừng cây phát triển thành dáng quái lạ khó hiểu, nhưng thực ra nó không nằm ngoài những quy luật của thiên nhiên.
- Có phải vùng rừng lúc chiều luôn có vòi rồng phải không anh? - Tôi hỏi.
- Có thể nói từ rất lâu ở đây đã có những cơn lốc xoáy thành vòi rồng, nhưng không phải lúc nào cũng có, ngày nào cũng có. Nếu vậy cây cối làm sao sống nổi? Nó chỉ xây ra nhiều vào mùa nắng nóng.
Tôi vẫn thắc mắc:
- Nhưng tại sao chỉ có trên vùng rừng ấy? Ở xung quanh em thấy vẫn bình thường...
- Đó là điều mình đang suy nghĩ... - Anh ngập ngừng một lúc rồi nói tiếp - Trên miền núi cao nhiệt đới thường có các ổ không khí loãng. Trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt và tùy theo địa hình, vùng không khí đó có thể biến đổi thành áp thấp cục bộ. Máy bay bay qua những nơi này rất dễ gặp tai nạn. Có điều... ở đây vòi rồng chỉ xoáy quanh một vùng không rộng lắm... Có thể nơi đây là giao điểm của hai luồng gió: gió nóng tây nam và gió mát từ biển thổi vào, nên mùa này thường xây ra những luồng khí xoáy cực mạnh.
- Thế vì sao kim địa bàn không chỉ hướng được?
Anh Sơn cười:
- Đúng là chẳng có gì qua được mắt cậu. Mình cũng muốn làm rõ điều này mà chưa có dịp. Cố lẽ ở đây còn có một địa từ trường lạ được tạo bởi lý do nào đó. Lúc đi trong vùng rừng ấy mình cảm thấy rất căng thẳng... Hồi chiều qua bãi đá mình định bửa lấy mẫu, nhưng chưa kịp rút búa ra thì đã bị rồng đuổi chạy tơi bời rồi.
- Thiên nhiên chưa muốn cậu xâm phạm vào bí mật của nó. - Anh Hùng nói - Phải đợi dịp khác thôi! Cậu cứ chấm vào bản đồ đi, khi nào hòa bình anh em ta quay lại đây một lần nữa.
- Nhất trí ngay! Nhưng phải đủ cả bốn người tớ mới đi đấy nhé! Còn bây giờ ngủ thôi, các cậu!
Đêm đó còn có hai đợt gió nữa, chắc lại gió xoáy trên vùng rừng lúc chiều. Khi gió nổi lần thứ hai, tôi ngồi dậy rồi không sao ngủ lại được. Bên ngoài đống lửa vẫn cháy lép bép, thỉnh thoảng lại bùng lên rừng rực lúc gió thổi tới. Ánh lửa chập chờn trên những bụi cây tối om xung quanh, làm cho rừng càng trở nên bí ẩn.
Đến sáng, chúng tôi nhặt hết lá rụng trên mấy tấm nilon và gom được góc bi đông nước. Thế cũng tốt lắm rồi. Tôi thè lưỡi liếm những chiếc lá đọng sương cho đỡ khô miệng. Nước hứng được phải dành cho cả ngày.
Anh Đằng bắc soong lên đống lửa rang nửa bao gạo sấy. Chúng tôi chia nhau bỏ vào túi quần vừa đi vừa nhai. Đó là bữa sáng khá tiện lợi, tuy gạo sấy rang cũng khó nuốt vì khô quá. Ăn xong mỗi người được chia hai nắp bi đông nước. Ít ỏi, nhưng có còn hơn không.
Anh Đằng bàn với chúng tôi:
- Xem chừng cả ngày hôm nay cũng không có nước. Các cậu nghĩ xem có cách gì khắc phục không? Và nhớ để mắt tìm con thú nào vừa ăn bắn lấy một con. Phải đổi món, ăn lấy sức mà đi. Dành lương khô khi nào kẹt lắm mới dùng.
Chúng tôi đều gật đầu nhất trí. Gì chứ thú rừng không thiếu. Nước thì gay đấy! Xưa nay tôi chỉ biết là có thể vắt lấy nước trong nõn cây chuối rừng, hơi chát nhưng uống chút ít cũng đỡ khát. Hoặc tìm cây tre có lỗ sâu đục chặt lấy nước trong ống tre. Nhưng cả hai thứ ấy ở vùng khô cằn này đào đâu ra?
Đoạn đường hôm nay dễ đi vì cây thưa. Mùa này rừng khô, lá cây ngả màu héo hon. Những thân cây cổ thụ vần sừng sững như muốn thách thức với nắng gió khắc nghiệt. Trên mấy cây dây leo lủng lẳng những chùm quả vàng vàng đỏ đỏ, trông đẹp mắt chứ không ăn được, chỉ có mấy con ong vo ve quanh quẩn cố tìm chút mật ngọt trong lớp vỏ.
Chúng tôi đi qua nhiều cái khe, nhưng tất cả đều cạn khô. Đó chỉ là những chỗ trũng ven sườn đồi sườn núi, mùa mưa mới có nước. Lúc cả tổ dừng lại nghỉ, tôi men theo một cái khe trông còn ẩm ướt, đi mãi vẫn chỉ thấy lòng khe đầy đá tảng và đá cuội. Những giọt nước quý báu đã trôi hết về nơi thấp hơn, hoặc thấm xuống lòng đất, hoặc bốc hơi trong cái nóng hừng hực tỏa ra từ nguồn lửa khổng lồ vô tận của mặt trời.
Lúc quay lại, thấy anh Hùng kiếm đâu về một mớ dâu rừng bọc trong vạt áo. Những chùm dâu chi chít quả, mới trông đã ứa nước bọt. Dâu rừng hạt to và chua kinh khủng. Cả lớp vỏ màu trắng hơi phớt hồng cũng chứa đầy thứ nước chua mà khi vừa cắn ngập răng, bên hàm đã buốt lên vì nước bọt tứa ra không kịp. Chúng tôi nhấm nháp mấy quả dâu, thấy cũng dễ chịu.
Gần trưa, cả tổ bước vào một vạt rừng mọc toàn dẻ gai. Những cây dẻ to lớn có lớp vỏ sần sùi nứt nẻ, trên tán lá sum sê lấp ló những chùm qua mọc đầy gai như quả chôm chôm nhưng nhỏ hơn, gai cũng nhọn và cứng hơn. Loại dẻ gai này ăn được. Khi quả khô rụng xuống, lớp vỏ bên ngoài nứt ra còn lại hạt tròn to hơn hạt lạc được bọc một lớp vỏ cứng màu nâu nhạt. Hạt dẻ đem rang lên, tách vỏ cứng, ăn bùi và thơm. Nhưng lúc này chưa tới mùa quả rụng. Mặt đất phủ đầy lá khô và những mảnh vỏ gai của mùa dẻ năm trước. Trên cành cây, mấy con sóc đang chuyền tíu tít, chúng biết ở đâu có những quả dẻ đầu mùa đã nứt vỏ.
Đang đi, tôi chợt khựng lại khi gặp một bầy nai. Có ba con, hai con lớn và một con mới bằng con bê. Chúng bước đủng đỉnh, lúc lúc lại chúi mõm xuống đất như đang tìm gì đó. Khi thấy tôi, đàn nai đứng lại, mắt ngơ ngác nhìn nửa tò mò nửa sợ sệt, những cẳng chân thon dài ngập ngừng trên lớp ỉa khô như muốn bỏ chạy. Lát sau chúng rẽ sang lối khác, thong thả bước khuất dần sau những thân cây. Tiếng anh Đằng nói ngay sau lưng tôi:
- Sao không bắn mà cứ đứng ngây người ra thế!
- Đẹp quá anh ạ! Em không nỡ bắn? Cả nhà nai, mình bắn đi một con, thấy tồi tội thế nào ấy?
Anh Đằng cười:
- Ừ, bắn làm gì! Có hạ một con cũng không ăn hết. Để rồi kiếm con thú khác.
Mươi phút sau, khi vòng qua một gốc dẻ to, chúng tôi gặp con chồn đang chúi đầu dũi đất, chỉ cách dăm mét. Nghe động, nó quay vụt lại bám thân cây thoăn thoắt leo lên. Tôi chưa kịp tuột súng khỏi vai thì anh Đằng đã rút dao găm chùng chân xuống, rướn người vung tay phóng. Lưỡi dao cắm phập đúng cổ con vật, găm nó vào gốc cây. Tôi reo lên, chạy tới gỡ lưỡi dao cùng con thú.
Anh Sơn trầm trồ:
- Chịu tài anh đấy? Đúng là cánh đặc công các anh "danh bất hư truyền".
Anh Hùng tủm tỉm:
- Đi với anh Đằng rồi các cậu còn biết! Tài nghệ chưa thi thố hết đâu nhé!
Tôi nhìn con chồn nặng trĩu trên tay, thầm nghĩ: "Thế nào cũng nhờ anh ấy dạy cho ngón phóng dao. Còn hơn cả làm xiếc!" Bên cạnh các anh, tôi thấy mình nhỏ bé lại. Đúng là càng đi nhiều càng biết được nhiều điều, và càng biết nhiều càng thấy mình kém cỏi.
Trưa hôm đó chúng tôi ăn thịt nướng trừ bữa và tráng miệng bằng quả dâu rừng. Anh Đằng dốc hết số nước hứng được lúc sáng chia đều cho mọi người. Tôi bưng chỗ nước ít ỏi nhấp từng hớp nhỏ, trịnh trọng như các cụ uống rượu.
Ăn xong bữa, chúng tôi tiếp tục đi sau khi đã cẩn thận dập tắt đống lửa. Khô nóng thế này, chỉ cần một tia lửa cũng đủ gây cháy rừng.
Qua hết rừng dẻ gai thì tới một triền núi cây mọc lúp xúp chen với cỏ lau. Nắng chang chang trên đầu. Mọi người nói nhau băng qua rừng lau vàng cháy. Lá lau khô sắc như dao cứa vào những chỗ da thịt không có lớp vải che chở, những vết cứa không nhìn thấy ngay được, chỉ khi mồ hôi ngấm vào ta mới biết.
Lúc này cổ họng tôi đắng nghét, nước bọt dính dẻo trong miệng. ánh nắng nhảy múa trước mắt như những quầng lửa. Tôi thò tay vào túi quần lấy một quả dâu cho vào miệng cắn, chợt bật kêu lên vì cảm giác đau buốt hai bên má. Cố không nghĩ đến cơn khát, tôi loạng choạng đạp trên những thân lau khô giòn đuổi theo những người đi trước.
Quá nửa chiều mới xuống đến chân núi. Cả tổ dừng nghỉ dưới bóng một khóm lau. Mấy bông lau trắng khô xác phất phơ trong gió như muốn báo rằng không thể tìm thấy nước ở vùng này. Nghỉ được vài phút, anh Hùng lại cầm dao xách súng lủi đi. Lát sau nghe tiếng anh gọi vang, cách đấy chừng trăm mét: "Lên đây các cậu ơi! Có nước rồi!" Chúng tôi nhỏm dậy, xách theo chiếc ba lô của anh vội vã bươn tới. Leo qua đoạn dốc ngắn, thấy anh đang đứng bên một gốc cây to lá mọc thưa thớt, có những chạc dây leo bám lòng thòng vào nhánh cây. Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Nước đâu anh?
- Nước đây chứ đâu! - Anh Hùng mỉm cười, tay cầm dao chỉ vào mấy cây dây leo.
Đợi mọi người lên đủ, anh vung tay vung dao phạt ngang những thân dây leo, giúi vào tay mỗi người một gốc: "Uống đi, nước máy đây?" Tôi ngỡ ngàng đưa đầu thân cây vào miệng, cảm thấy nước rịn ra từ vết chém thấm mát đầu lưỡi. Nước không nhiều nhưng rất ngọt và cũng làm cơn khát dịu đi. Tôi nhìn đoạn dây leo xù xì, tự hỏi không biết rễ của loài cây này đâm sâu tận đâu trong lòng đất mới hút được nước lên nuôi những chiếc lá trên cao kia?
Khi đỡ khát, chúng tôi tiếp tục băng qua triền núi trọc. Mãi lúc trời chạng vạng tối mới tới được một cánh rừng có màu lá xanh đậm. Dựng xong lều và đốt lên đống lửa thì bóng đêm đã đen ngòm trên vòm cây. Mấy ngôi sao hiện ra nhấp nháy qua kẽ lá. Chúng tôi ngồi quanh đống lửa, ai nấy đều mỏi mệt. Thiếu nước nên sức người mau kiệt. Chút nước từ cây dây leo chỉ làm dịu cơn khát chứ không cung cấp đủ lượng nước cơ thể đòi hỏi. Tuy vậy tôi cũng gắng ăn hết nửa phong lương khô. Nếu không ăn, sẽ khó lòng đi tiếp được.
Anh Đằng lấy trong ba lô ra một lọ viên C mà không biết anh mang theo tự lúc nào, chia cho mỗi người mười viên. Tôi ngậm những viên thuốc trong miệng cho nó tan dần. Vị chua dìu dịu thấm trên đầu lưỡi làm người tỉnh táo hơn.
Trời tối mịt. Tôi cùng anh Hùng ra ngoài căng mấy tấm nilon để hứng sương, lúc quay vào thấy hai anh đang rọi đèn xem bản đồ. Anh Sơn nói:
- Ta vẫn đi đúng hướng, nhưng sắp tới địa hình khá phức tạp. Đây này, - Anh chỉ trên bản đồ - vùng này có nhiều ngọn núi san sát, nhiều khe sâu. Phải chú ý sao cho khỏi chệch hướng, nhất là khi đi vòng tránh những chỗ khó. Tôi hỏi:
- Còn xa không anh? - Theo đường thẳng chỉ bốn chục cây, nhưng sẽ phải đi quãng đường dài hơn nhiều lần đấy?
- Thế anh đi rừng có bị lạc khi nào không?
- Có chứ! Lạc rừng là chuyện cơm bữa. Kể cả khi có bản đồ, địa bàn trong tay mà phải băng rừng nhiều ngày, không cẩn thận cũng rất dễ chệch hướng. Sai một ly, đi nhiều dặm là chuyện thường.
Anh Hùng cười:
- Lạc đường là một khái niệm do con người đặt ra. Đúng ra phải nói: đi chưa đúng với dự tính lúc đầu. Nếu anh quen với rừng, sống được giữa rừng thì chuyện đó chẳng là cái gì cả chỉ cần đừng có hốt hoảng quá.
- Vậy theo anh, ở rừng sợ nhất chuyện gì?
Anh Hùng thoáng nhăn mặt:
- Một câu hỏi khó trả lời đấy! Bởi theo mình thì chẳng có gì đáng sợ cả, làm sao có "sợ nhất" được? Sống trong rừng đúng là có thể gặp nhiều rủi ro, ví như rắn độc, thú dữ, sốt rét, lũ cuốn..., nhưng khi anh sống giữa cuộc sống đời thường, những rủi ro cũng đâu có thiếu? Suy cho cùng, những nguy hiểm trong rừng ta có thể biết trước, và cũng có cách đề phòng, có cách vượt qua. Từ xa xưa loài người chẳng đã sống dựa vào thiên nhiên, chinh phục thiên nhiên là gì?
Anh Đằng cười:
- Cậu muốn con người quay lại rừng sống như thời tiền sử chắc?
Anh Hùng chẳng hề lúng túng:
- Hoàn toàn không phải như vậy. Ngay từ thời tiền sử rừng không chỉ nuôi sống con người mà còn dạy cho họ biết lao động để tồn tại và phát triển. Nhờ rừng mà con người biết chăn nuôi trồng trọt. Hạt lúa củ khoái, con gà con trâu... bây giờ cũng từ rừng mà có. Dòng suối dạy con người làm cối giã gạo, con sông ngọn thác dạy làm thủy điện. Nghe nói cái thác Bờ quê tôi, tức quê vợ tôi ấy mà, sau này làm thủy điện là nhất! Rừng có lúc khắc nghiệt thật, nhưng không ác độc bao giờ. Khi sống với rừng, con người trở nên nhân nghĩa hơn. Đời xưa, các cụ ẩn dật thường vào sống ở chốn non xanh núi thẳm, vui chơi nơi khe suối thác nước, tháng ngày bầu bạn với cỏ cây muông thú, cũng chính vì thế.
Anh Sơn chêm vào:
- Các cụ ẩn dật nhưng cơm nước có đệ tử lo, đi câu cá có tiểu đồng theo hầu rượu, gạt bỏ mọi vướng víu toan tính trong cuộc sống cho người khác lo hộ, chẳng lẽ như thế lại mẫu mực ư?
Anh Hùng ngẫm nghĩ một lát rồi trả lời:
- Tôi không nói đó là cách sống hoàn hảo. Người ẩn dật không màng danh lợi, kiềm chế được tham vọng là điều tốt, nhưng chỉ về mặt tu tâm dưỡng tính thôi, chứ quay lưng với đời thì chưa hẳn đã hay. Chuyện này bàn dài lắm. Ở đây tôi chỉ muốn nói đến tác động của thiên nhiên đối với con người. Rừng biết cách làm dịu nỗi đau khi con người gặp bất hạnh. Những lúc căng thẳng lo âu, anh hãy vào rừng nghe tiếng gió lùa trong lá, tiếng chim líu lo vô tư, tiếng suối róc rách triền miên... Anh ngả lưng lên đám cỏ xanh dưới gốc cây hay bước đi trên lớp lá khô xào xạc và ngửi mùi hoa dại... Lúc đó sẽ thấy lòng dịu lại, nhẹ nhõm và thanh thản hơn. Con người biết tìm đến với rừng như một bản năng trở về với cội nguồn của mình. Đứng trước vẻ đẹp hùng vĩ và sự giàu có vô tận của rừng cũng như những bí ẩn kỳ thú cùng những thử thách khắc nghiệt của nó, thì mọi suy tính nhỏ nhen ích kỷ, mọi bon chen vụn vặt trong cuộc sống thường ngày đều trở nên vô nghĩa...
Nghe đến đây, anh Đằng vỗ tay cười ha hả:
- Đấy? Các cậu biết lính trinh sát chưa? Triết lý không kém các bậc thâm nho uyên bác đâu nhé?
Lần này anh Hùng lúng túng thật sự. Anh gãi đầu ngượng nghịu:
- Triết lý gì đâu! Chẳng qua tôi nghĩ sao nói vậy thôi...
Tôi biết anh nói thực lòng. Những điều anh vừa tâm sự là những suy nghĩ, nghiền ngẫm qua nhiều năm tháng của cuộc đời. Nhưng phải là người yêu rừng đến độ say mê, gắn bó với rừng bằng cả tâm hồn và máu thịt mới nghĩ được, nói được như vậy.
Lúc trời sáng rõ, tôi mới nhận ra đêm qua mình nghỉ lại trong một rừng lim. Và suốt buổi sáng hôm ấy, chúng tôi vẫn đi dưới những tán lim. Những cây lim cổ thụ dễ phải đến hàng trăm năm tuổi xòe cành lá rườm rà xúm xuê che rợp khắp rừng. Rất ít loài cây khác mọc lẫn vào. Trên nền đất phủ dày lá khô, những quả lim rụng xuống nứt ra vô số hạt màu đỏ tròn nhỏ xinh xinh như những viên thuốc bổ. Anh Hùng đập tay vào lớp vỏ nứt nẻ của một gốc lim to cỡ bốn chúng tôi ôm không xuể trầm trồ:
- Cây lim xanh đấy! Loại này đứng đầu hàng thiết mộc. Các cụ có gỗ này làm đình thì sướng phải biết! Cứ gọi là hàng trăm năm không mục, không mối mọt.
Còn tôi nhìn màu xanh tươi mát của rừng lim mà hy vọng sẽ tìm thấy nước. Số nước hứng được hôm qua chỉ đủ mỗi người một ngụm nhỏ uống sau khi ăn lương khô buổi sáng. Đi trong rừng mát đỡ ra mồ hôi, nhưng cái khát không vì thế mà giảm đi.
Rừng lim mọc trên một triền dốc, càng đi càng xuống thấp. Đến gần trưa chúng tôi gặp được một con suối nhỏ, rộng chưa đầy hai mét, nhưng khá sâu. Tôi nhảy cẫng lên mừng rỡ. Dòng nước mới trong mát làm sao! Cứ như là trong mơ? Chưa chi tôi đã cảm thấy vị ngọt mát trôi qua cổ, thấm dần vào từng mạch máu, từng thớ thịt.
Mắt sáng lên, tôi bước gấp mấy bước đến bên bờ suối định nhảy ùm xuống. Chợt anh Hùng thét giật giọng:
- Khoan, đừng xuống! - Anh chạy tới túm tay tôi kéo giật trở lại.
Tôi ngơ ngác nhìn, chẳng hiểu gì cả. Anh Đằng lặng lẽ đứng quan sát dòng nước, lát sau mới bảo:
- Các cậu lên đây! Ta ngồi nghỉ một lúc.
Anh bước đến bên một gốc lim, cởi ba lô ngồi xuống. Chúng tôi làm theo.
- Nước ở đây không uống được - Anh nói chậm rãi.
Tôi sửng sốt kêu lên:
- Sao lại không uống được?
- Nước độc đấy? Con suối này chảy giữa rừng lim, mà cây lim rất độc. Nhựa cây ngấm ra từ rễ và từ lá rụng ngâm trong nước, uống nó rất nguy hiểm. Tôi ấm ức:
- Chẳng lẽ nơi nào có cây lim thì nước đều không dùng được à?
- Cũng không hẳn như vậy! - Anh Đằng giải thích - Khi nước chảy qua những nơi cây lim mọc chen với các loài cây khác, chắc không sao. Nhất là nếu con suối chảy xiết, cuốn lá cây trôi nhanh. Còn ở đây, cậu nhìn kỹ xem!
Quả thật dòng suối này chảy lờ đờ, dưới đáy đầy lá rụng và cành cây đã mục ải. Có lẽ vì thế mà nước suối có sắc đen, mặc dù vẫn trong veo. Không thấy những con vật sống dưới nước như thường có ở các con suối khác. Ngay cả những tảng đá dầm chân dưới suối cũng đọng màu xám đen chứ không có lớp rêu xanh. Con suối này đã ngâm lá lim hàng trăm năm nay rồi.
Chúng tôi bàn bạc, cuối cùng quyết định sẽ đi ngược dòng suối cho đến khi tìm ra một khe nước có thể uống được. Như vậy sẽ phải đi vòng khá xa, nhưng đành chấp nhận vì không thể liều mạng băng qua rừng lim trong tình trạng này.
Tôi khoác ba lô lên vai, tiếc rẻ nhìn dòng nước đầy ắp bên cạnh. Đã đến lúc ăn trưa, nhưng chẳng ai ăn nổi vì vừa khát vừa mệt. Cảm giác đó càng nặng nề thêm bởi sự thất vọng trước dòng suối mà tôi ngỡ sẽ được uống được tắm thỏa thích.
Hơn một giờ sau, chúng tôi vẫn đi trong rừng lim xanh âm u. Dòng suối bên cạnh lúc lúc lại reo róc rách trêu ngươi, mặt nước lóng lánh nắng như mời mọc khêu gợi. Tôi lê từng bước nặng nhọc, hơi thở lùng bùng trong tai, chân tay như muốn rời ra. Lưỡi phồng rộp, cổ họng đau rát, tôi cố nuốt nước bọt nhưng chỉ có cảm giác đau tức chạy từ họng xuống ngực rồi tràn ra hai lá phổi...
Phía trước có tiếng anh Đằng nói với lại: "Sắp hết rừng lim rồi..." Tôi ngẩng nhìn. Tán lá trên đầu thưa hơn và ánh mặt trời chói lòa qua các khoảng trống. Mắt sáng lên, tôi bước hối hả eho kịp anh Đằng. Những cây lim cổ thụ thưa dần, nhiều bụi cây mọc lúp xúp dọc bờ suối. Ra khỏi rừng lim nước sẽ uống được.
Nhưng đi thêm chừng nửa cây số thì sự hăm hở trong tôi cũng nguội dần. Phía bên kia suối, rừng lim vẫn xanh rì như chẳng bao giờ hết. Chắc hiểu rõ tâm trạng của tôi, anh Sơn nói bằng giọng khản đặc:
- Không sao đâu! Thế nào mình cũng gặp được khe nước ở phía bên này. Phải có khe mới hợp thành suối được chứ!
- Anh gặp rừng lim nào như thế này chưa? - Tôi hỏi, cốt để quên đi con suối độc ác đang chảy bên cạnh.
- Cũng có gặp, nhưng không như ở đây. Này, Hải đã dọc Tam Quốc chưa?
- Em đọc rồi! Sao không anh?
- Cậu còn nhớ đoạn Khổng Minh dẫn quân đi đánh Mạnh Hoạch không?
- Em nhớ Khổng Minh đánh bảy lần mới chinh phục được. Anh muốn nói là...
- Vậy cậu có nhớ lúc quân Khổng Minh lội qua suối nước độc chứ? Chỉ lội xuống thôi mà chết hàng ngàn người ngựa. Các cụ xưa viết thế không phải là bịa đâu nhé, có cơ sở cả đấy? Có thể con suối đó chảy qua rừng cây có nhựa độc nên mới như vậy. Trong rừng thiếu gì cây độc! Ngay ở dưới xuôi ta, cây xoan cũng rất độc. Chỗ nào có lá xoan rụng xuống lâu ngày hoặc rễ nó bò tới, đố trồng được cây gì nên hồn...
Đúng lúc đó, một tiếng thét lạc giọng vang lên từ phía sau. Tôi quay ngoắt lại. Điều trông thấy trước mắt thật khủng khiếp: một con trăn to tướng da đen mốc loang lổ đang quấn cả anh Hùng lẫn chiếc ba lô trong những vòng thân cuồn cuộn lởm chởm vảy. Cái đầu tam giác của nó đung đưa, miệng ngoác ra đỏ lòm. Anh Hùng giơ hai tay trước ngực, gồng người chống đỡ với những vòng cuốn như thép đang siết lại.
Tôi kinh hoàng ngã ngồi xuống đất, người run bắn. Như cái máy, tôi lập cập giương súng hướng nòng lên trời, ngón tay tự động bịt khóa an toàn và bóp cò. Loạt đạn nổ vang, nòng súng phụt khói trắng nẩy bần bật. Bên cạnh, anh Sơn cũng nâng súng lên nhưng chần chừ chưa dám bắn.
"Đừng bắn". Anh Đằng thét lớn và lao vụt đến như tia chớp, tay vung dao phạt ngang cái đầu con trăn đang phóng tới. Nó rụt lại tránh được. Anh thụp người sát đất tránh cú mổ tiếp theo rồi nhào ra phía sau, chém phập một nhát vào khúc đuôi đang ngoe nguẩy trên đầu anh Hùng.
Bị đòn chí tử, con trăn bung mạnh cả cái thân dài thòng quật anh Đằng ngã lăn xuống đất, lưỡi dao trên tay văng ra xa. Nhưng địch thủ của anh không còn làm gì được nữa, nó lao vút vào bụi rậm kéo lê theo cái chót đuôi bết máu.
Tôi chạy tới đỡ anh Hùng dậy. Người anh nhũn ra vì phải dùng hết sức trong những giây vừa qua. Chúng tôi dìu anh đến ngồi tựa vào gốc cây gần đó.
- Có sao không Hùng? - Anh Đằng hỏi trong hơi thở hổn hển.
- Không... không sao? May mà tôi... gồng tay đỡ được trước ngực, sau lưng... có cái ba lô... - Anh Hùng mỉm cười yếu ớt. Nhờ soạt súng Hải bắn nên con trăn giật mình không quấn tiếp được... Nó mà quấn vào cổ là nguy rồi...
Tôi sờ nắn khắp người anh. Chưa bị gãy chiếc xương nào, chỉ trên bắp tay trái chỗ bị trăn cắn máu đang nhỏ giọt.
- Nghe soạt một cái, mới quay lại nhìn đã thấy nó lao tới. Tôi vung tay đỡ, nó táp ngay vào tay. - Anh Hùng kể, co tay nhìn vết thương.
Tôi cùng anh Sơn cố nặn hết những giọt máu bầm. Con trăn không có nọc độc, nhưng hàm răng của nó chẳng sạch sẽ gì, vết cắn rất dễ nhiễm trùng. Chúng tôi lấy cồn lau sạch vết thương và băng lại. Anh Hùng bảo cứ băng tạm, để rồi anh kiếm lá đắp vào. Một lát sau, anh giục đi tiếp vì trời đã chiều.
Chúng tôi men theo con suối đi lên một sườn dốc thoai thoải. Không hiểu sao tôi thấy mình không còn mệt mỏi như lúc nãy. Sự việc vừa qua đã đẩy cơn khát xuống hàng thứ yếu.
Đi thêm nửa giờ thì gặp một cái khe nhỏ chảy từ trong sườn núi ra. Dòng nước chỉ lắp xắp bàn tay nhưng vẫn là cứu tinh của chúng tôi. Tôi để nguyên ba lô trên dưng nằm skế hoạch trên cỏ, vục mặt xuống nước uống đến căng bụng. Chưa bao giờ có thứ nước nào ngon ngọt đến thế. Nước mát lạnh, uống vào đến đâu biết đến đó. Từng thớ thịt trong người mềm ra, hơi thở nhẹ lại, đầu óc sáng láng tỉnh táo hẳn.
Uống xong nước, anh Đằng dặn chúng tôi nấu cơm rồi xách súng lủi đi. Mươi phút sau, một phát súng vang lên ở mé trên khe nước, tiếng nổ vọng vào vách núi rền như tiếng sấm. Lát sau anh quay về, tay xách con cheo nặng chửng bảy kí, trông giống lợn rừng nhưng chân thấp mõm ngắn và nhỏ con hơn nhiều.
Tôi dùng dao găm đào một cái hố bằng miệng thúng ngay giữa lòng khe. Nước chảy vào đầy hố cuốn đất bùn trôi đi tạo thành cái giếng nhỏ nước trong vắt.
Trời còn sớm nên chúng tôi thong thả đun nước làm thịt con cheo và thay nhau tắm giặt.
Một ngày nắng gắt trôi qua khi mặt trời khuất sau ngọn núi. Ráng chiều đỏ ửng cả góc trời phía tây. Chúng tôi ngồi bên đống lửa, ăn bữa cơm ngon lành sau ba ngày đói khát. Thực đơn khá thịnh soạn: thịt nướng, thịt luộc bóp muối, canh rau rừng nấu với lòng cheo, lại còn món thịt kho mặn để dành cho ngày mai.
Trong bữa ăn, câu chuyện vẫn xoay quanh vụ con trăn. Tôi nói với anh Hùng:
- Khi đó em cuống lên, chẳng còn biết mình bắn như thế nào nữa. May có anh Đằng chứ không thì... - Tôi bỏ lửng câu nói, không dám nghĩ tới cảnh chúng tôi cầm súng trong tay mà chịu đứng nhìn con vật bò sát kinh tởm đó quấn chết anh.
Anh Hùng bảo:
- Con trăn mạnh nhờ xương sống, nhưng chót đuôi là chỗ nhạy cảm nhất của nó. Đánh được vào đó coi như điểm trúng huyệt, nắm chắc phần thắng trong tay.
Tôi buột miệng:
- Đấy anh cứ khen mãi đi! Em thấy rừng chẳng hiền lành chút nào...
Anh Hùng ngắt lời tôi:
- Khi đã vào rừng, dù muốn hay không, anh cũng phải tham gia vào cuộc đấu tranh sinh tồn khốc liệt. Lúc sống trong thế giới hiện đại, con người cũng thường xuyên bị nguy hiểm rình rập đấy thôi! Có khi còn ở mức độ cao hơn ấy chứ! - Anh nháy mắt với tôi - Cậu cứ coi như vừa rồi mình đi trên đường phố bị tai nạn ô tô thôi...
Mọi người bật cười. Biết anh nói có lý, nhưng thực lòng tôi chẳng hề ưa "chiếc ô tô" của anh chút nào.
Chương VI
Ngày thứ mười hai. Chúng tôi qua khỏi rừng lim lúc cuối chiều và dừng lại nghỉ trên một mỏm núi nhỏ. Cũng như hôm qua, ráng chiều lại đỏ rực khi hoàng hôn xuống, nhuốm lên cánh rừng lim đại ngàn một màu lửa dữ dội. Anh Đằng chép miệng: "Kiểu này là sắp có mưa to? À này, các cậu nhớ uống thuốc phòng sốt rét, bắt buộc đấy! Không thể chủ quan được đâu?"
Tôi hiểu nỗi lo lắng của anh. Những trận mưa rừng dầm dề thường thổi bùng lên cơn sốt rét tiềm ẩn trong cơ thể của người sống nhiều ngày trong rừng. Chúng tôi đang lọt thỏm giữa núi cao rừng rậm, một người ốm lúc này sẽ là trở ngại rất lớn cho chuyến đi. Rất may từ đầu tới giờ chưa có sự cố nghiêm trọng nào xây ra. Cái móng chân của tôi sau vài lần đắp lá thuốc đã lành lẳn, còn vết trăn cắn trên tay anh Hùng cũng khô dần, không bị nhiễm trùng. Nhưng chặng đường sắp tới sẽ rất gian khổ, chỉ nhìn trên bản đồ cũng thấy địa hình phức tạp hơn nhiều.
Hôm nay không phải đi tìm nước vì lúc sáng mỗi người đã đem theo khoảng năm lít nước đựng trong túi phao bồi. Trong lúc mọi người dựng lều, anh Hùng xách súng đi vào rừng bắn được một con nhím khá lớn. Chúng tôi dốc hết số gạo còn lại, đủ nấu bữa cơm cuối cùng. Như vậy lương thực dự trữ chỉ còn lương khô, gạo sấy. Nhưng cái ăn không đáng ngại, điều lo nhất lúc này là làm sao đi cho đúng hướng. Càng đến gần tọa độ tìm kiếm, mọi người càng thấy sốt ruột và hồi hộp. Giữa mênh mông rừng núi, việc tìm ra cánh đồng cỏ chỉ rộng chừng ba, bốn cây số được nhận biết qua bức ảnh chụp từ rất cao, là điều không đơn giản chút nào. "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên", ở chốn hoang sơ biết bao điều rủi ro có thể xảy ra. Chúng tôi tin vào kinh nghiệm và bản lĩnh của chính mình, nhưng chẳng ai dám nói lường trước được mọi việc. Số phận của chúng tôi không chỉ là cuộc sống của từng cá nhân, nó gắn liền với nhiệm vụ được giao, với lòng tin của nhiều người. Nghĩ vậy nên ai cũng lo lắng đến nôn nao...
Tối đến, chúng tôi đốt hai đống lửa ở hai bên lều để có hơi ấm. Mấy hôm nay trời nửa đêm về sáng rất lạnh, cái lạnh trên miền núi cao buốt như kim châm làm tôi trăn trở mãi, dù bao giờ cũng được ưu tiên nằm giữa. Trong lúc này, giấc ngủ sau một ngày mệt nhọc cũng quan trọng chẳng kém gì thức ăn nước uống.
Đêm đó trên đỉnh dốc, tôi ngủ được một giấc thật say, chỉ tỉnh dậy khi nghe tiếng chim ríu rít hót vang rừng.
Chúng tôi ra khỏi lều. Trời hãy còn tối mờ, sương giăng khắp rừng và mây quấn bên sườn núi. Hai đống lửa đã gần tàn, chỉ còn lại vài sợi khói bay lên từ đống than hồng phủ lớp tro cháy trắng. Ở phương nam, nền trời màu xanh đen chuyển dần sang xanh nhạt rồi vàng cam. Đến lúc đó, mặt trời mới tử từ nhô lên, to như cái mâm lửa đỏ rực.
Anh Đằng vun những cục than đang cháy nướng chỗ thịt nhím hôm qua còn lại để ăn sáng. Khi nắng xua hết sương, chúng tôi mới khoác ba lô ra đi.
Chặng đường hôm nay là leo lên quả núi xanh đậm trước mặt. Sườn núi không dốc nhưng khó đi vì cây rậm quá. Dưới những tán cây cổ thụ là vô số loài cây thấp um tùm. Dương xỉ mọc chen với cỏ và dây leo phủ kín mọi khoảng đất trống. Dù đang mùa nắng, nhưng cây cối ở đây xanh tươi hơn nhiều so với những cánh rừng gần biên giới. Chúng tôi phải hai người thay phiên nhau đi trước vung dao mở lối, quá trưa mới đến đỉnh, lại thấy ngay quả núi khác sừng sững chắn ngang trước mặt.
Khoảng hai giờ chiều, lúc mới xuống lưng chừng sườn núi thì trời lặng gió hẳn. Cây cối đứng im phăng phắc. ánh nắng phả hơi nóng hầm hập làm không khí trở nên ngột ngạt, nặng nề.
Mươi phút sau gió bắt đầu nổi lên, thoạt đầu chỉ hơi rao rao mát, nhưng lát sau đã cuốn ào ào kéo theo từng đám mây đen đặc nhanh chóng phủ kín bầu trời. Cả khu rừng thoáng chốc tối sầm lại, cành cây vật vã rung lá rụng tơi tả. Mấy tia chớp loằng ngoằng sáng rực trên nền mây đen kèm theo tiếng sấm dội rền vách núi. Những hạt mưa bắt đầu rơi lộp độp trên lá.
Chúng tôi vừa nép dưới một vòm cây rậm kéo tấm tăng che lên đầu thì mưa đã dội xối xả. Vô vàn những giọt nước từ trên cao rồi chéo xuống dày đặc, tạo thành bức màn trắng mờ mịt phủ khắp núi rừng. Gió cuộn từng đợt, thổi những đám bụi mưa bay là là như khói.
Không còn thấm kịp vào đất, nước đọng lại thành vũng rồi tràn ra tạo nên vô số dòng chảy nhỏ len xách qua các gốc cây đổ về chỗ thấp. Tiếng mưa sầm sập như nước xối, tiếng gió rít ù ù và thỉnh thoảng chen vào là tiếng sét đinh tai kèm theo những ánh chớp chói lòa, làm cho cơn thịnh nộ của đất trời càng thêm dữ dội. Cây rừng run rẩy. Những dãy núi nhòa đi trong mưa. Mọi con vật trong rừng đều nép mình lẩn trốn.
Bốn chúng tôi đưa tay đỡ bốn góc tấm tăng, chốc chốc lại nghiêng xuống trút nước đọng nặng trìu. Thật chả bù cho mấy ngày trước phải hứng từng giọt sương để uống.
Gần hai giờ sau mưa nhẹ hạt dần, nhưng vẫn dai dẳng lác đác một lúc nữa mới tạnh hẳn. Chúng tôi thở phào, cuốn tấm tăng lại. Mây tan hết thành nước, một khoảng trời xanh hiện ra giữa hai vòm cây. Nắng chiều lấp loáng trên lá cây ướt sũng. Khi tiếng mưa dứt, núi rừng lặng đi trong chốc lát rồi lại bừng lên những âm thanh sôi nổi của mọi sinh vật trở về với cuộc sống thường ngày.
Một bầy bồ chao từ đâu bay đến đậu trên tán cây nơi chúng tôi đứng, hót vang rộn cả góc rừng. Những con bồ chao có bộ lông màu nâu nhạt điểm vệt trắng quanh hai mắt kéo dài xuống bụng trông rất ngộ nghĩnh. Chúng bay tới đâu là ở đó ồn ào như họp chợ. Một chú sóc thò đầu ra khỏi hốc cây, giương đôi mắt tò mò nhìn bầy bồ chao như cố đoán xem có chuyện gì mà lũ chim vui đến vậy. Cũng trên cái cây đó, một con tắc kè to gần bằng cổ tay đang rướn cổ kêu từng tiếng như dấm. Những con mối xõa cánh bay loạn xạ trên lớp lá mục. Cơn mưa tưởng như dừ dội nhưng thực ra đã đem sức sống mới cho muôn ngàn sinh linh của rừng. Cả mấy con vắt cũng vậy. Suốt mấy tháng nắng nóng, chúng như những cuộng lá khô lay lắt đâu đó trong bụi cây nay mềm lại nhờ hơi nước ẩm ướt, bắt đầu hồi sinh, ngoe nguẩy đánh hơi con mồi để bám theo.
Thấy đã muộn, anh Đằng giục chúng tôi tìm chỗ dựng lều nghỉ lại. Khi đến một vạt đất bằng phẳng, vừa đặt ba lô xuống, tôi thấy ngứa nơi bắp chân. Vén ống quần lên thấy hai con vắt to hơn đầu tăm đang bám hút máu. Nhìn tôi nhăn nhó gỡ vắt, anh Hùng cười:
- Đã ăn thua gì! Mưa vài ba ngày nữa, cậu sẽ thấy! Nó bám theo từng đàn như vãi trấu ấy chứ! Nhưng đừng lo, tớ sẽ có cách trị được.
Để anh Đằng và anh Sơn dựng lều, anh Hùng rủ tôi đi săn. Hai anh em xách súng luồn xuống mé rừng phía dưới. Cây cối rậm rạp lại ướt sũng nước nên dù chúng tôi cố đi thật êm, vẫn tạo ra những tiếng sột soạt đánh động những con thú quanh đó. Lúc vòng qua mấy tảng đá, tôi chợt nghe tiếng "soạt" ngay trong lùm cây trước mặt, rồi có con gì đó đâm đầu chạy ào đi, chỉ kịp trông thấy vạt lưng đen bóng. Tôi xuýt xoa tiếc rẻ nhưng anh Hùng vẫy tay ra hiệu đi tiếp.
Một lúc sau, chúng tôi lần tới quãng rùng thưa hơn. Đang đi rón rén, tôi nghe phía trước có tiếng động lạ, hình như có con thú nào bước trên lớp lá khô. Lát sau có cả tiếng cành cây lay động, lá khua lào xào. Tôi nhìn anh Hùng, anh ra hiệu là đã biết. Chúng tôi thận trọng tiến thêm mươi bước, nép sau gốc cây và từ từ ló đầu ra nhìn: một bầy lợn rừng đang chúi mõm liếm mối. Chúng không phát hiện ra chúng tôi vì mải mê theo những con mối cánh béo múp bay loạn xạ. Thứ mối này tuy nhỏ nhưng ngon, càng ăn càng say.
Anh Hùng nhìn sang và giơ ngón tay út, ý bảo bắn con nhỏ thôi. Tôi rê súng, lựa một con nhỏ nhất trong bầy, ước độ ba mươi kí. Con thịt đã ở trong tầm tay, có điều phải bắn gục tại chỗ, chứ để nó còn chạy được thì có mà tìm hết hơi. Đạn AK ở cự ly này dư sức hạ con vật nếu bắn trúng đầu, nhưng mãi tôi vẫn chưa tìm được điểm ngắm chắc ăn vì con lợn cứ chúi đầu sau gốc cây. Giờ chỉ còn cách bắn trúng tim. Tôi ngắm vào một điểm phía trên chân trước của con vật, hơi chếch vào bên trong một chút, rồi bóp cò. Tiếng súng nổ đột ngột làm cả đàn lợn co giò vụt chạy, tiếng chân rầm rập át cả tiếng cây gãy răng rắc. Thoáng một cái những sống lưng đen nhấp nhô đã mất hút trong bụi rậm.
Chúng tôi bước tới nơi con lợn bị trúng đạn. Anh Hùng cầm chân trước kéo lên xem vết đạn, gật gù khen:
- Bắn trúng tim. Khá lắm! Cậu có thể trở thành thợ săn được đấy!
- Dễ ợt mà anh! Cách có năm chục mét chứ mấy
- Nhưng chẳng phải ai cũng biết bắn vào tim đâu nhé! Mà săn lợn rừng không phải là không nguy hiểm, cậu biết vì sao không?
- Sao anh? - Tôi vác con lợn lên vai, hỏi lại.
- Khi săn lợn bầy, phải xem chừng con đầu đàn, đó là con dữ nhất. Nó sẵn sàng lao thẳng tới với sức mạnh của bò tót giết chết đối thủ bằng hai chiếc răng nanh sắc nhọn như dao để bảo vệ bầy đàn. Lợn độc lại càng đáng sợ. Có thợ săn lâu năm cũng mất mạng với nó vì thiếu cảnh giác đấy! Nhiều khi cầm súng trong tay nhưng không kịp bắn, hoặc bắn không trúng chỗ hiểm lại không kịp tránh, nó vẫn đâm tới húc anh rồi mới chịu chết. Đến cọp đánh nhau với nó còn chịu thua nữa là!
Chúng tôi đi nhanh về chỗ trú vì trời sắp tối. Thấy anh Hùng vừa đi vừa nghiêng ngó, tôi hỏi:
- Anh định tìm gì đấy?
- Mình tìm lá chống vắt. Kia rồi! - Anh nói, tay chỉ vào cây dây leo đang quấn quanh một thân cây nhỏ - Cây này ngoài mình gọi là ngải hôi. Vò lá xoa lên người thì đố con vắt nào dám đeo. Tốt nhất là giã rồi vắt lấy nước mà xoa, hiệu nghiệm còn hơn thuốc chống vắt của Trung Quốc. Cậu nhìn kỹ cho nhớ! - Anh chìa cho tôi mấy chiếc lá.
Tôi vò một lá đưa lên mũi ngửi. Nó có mùi hăng hắc pha lẫn mùi tỏi. Loại cây này cũng dễ nhận: lá gần giống lá trầu nhưng nhỏ và mềm hơn, mặt dưới lá có một lớp lông mởn màu trắng.
Tối đó cả tổ ăn thịt lợn rừng luộc chấm muối thay cơm. Số thịt còn lại chúng tôi thái thành từng tảng, đem nướng chín rồi sấy trên lửa, để dành cho ngày mai. Xong bữa tối, anh Hùng bắc soong lên bếp hầm mấy cái chân giò, lát nữa sẽ bỏ gạo sấy vào nấu nồi cháo ăn đêm.
Sau trận mưa, khí trời ẩm và mát. Ánh lửa cháy bập bùng soi những bóng cây xung quanh lúc ẩn lúc hiện như đang di động. Chúng tôi quây quanh đống lửa, dùng que trở những xâu thịt cho chín đều. Anh Đằng ngẩng đầu ngắm mấy vì sao đang nhấp nháy trên cao, nói:
- Trời trong lắm! Nhưng thể nào cũng còn đổ mưa vài ba buổi nữa. Không khéo mưa lụt tiểu mãn đấy, các cậu ạ! Đã đầu tháng năm rồi còn gì!
Bốn chúng tôi cùng trầm ngâm hồi lâu. Cơn mưa đầu mùa gợi lên trong tâm trí mỗi người bao kỷ niệm... Rừng khuya vắng lặng. Tiếng thú chạy sột soạt trong bụi cây lẫn trong tiếng mỡ chảy xèo xèo trên đống lửa. Có con chim ăn đêm nào đang kêu khắc khoải hết góc rừng này đến góc rừng khác, nghe cứ tưởng như nó bay lạc trong màn đêm đen kịt của rừng sâu.
Tôi lên tiếng, phá vỡ sự im lặng:
- Anh Đằng này! Sao trước đây có dịp về phép, anh không lập gia đình đi?
- Ờ, chuyện cũng... Anh ngập ngừng giây lát rồi kể - Hồi bà cụ mình còn sống, lần nào về cũng thấy cụ đã nhắm sẵn cho một cô nào đấy. Gia đình đôi bên đồng ý cả, nhưng mình không thể. Chưa yêu thì làm sao lấy nhau được? Mình biết bà cụ buồn lắm? Hai cụ chỉ sinh được mỗi mình nên các cụ trông có cháu để còn nối dõi...
Anh Sơn nói:
- Nhiều người lấy nhau rồi mới yêu. Các cụ ngày trước "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy", vậy mà cũng con đàn cháu đống gắn bó với nhau đến khi khuất núi đấy thôi?
- Đúng là có thế thật! Lấy nhau, ăn ở với nhau một thời gian cũng có thể vun đắp được tình cảm yêu thương. Nhưng mình có cưới vợ thì cũng sống với nhau vài ngày rồi lại biền biệt. Chả lẽ người phụ nữ lấy chồng chỉ để làm trách nhiệm, nghĩa vụ thôi ư? Biết là có người đỡ đần trong nhà ông bà cụ sẽ đỡ vất vả, nhưng mình đi biết sống chết thế nào, để người ta chờ đợi mỏi mòn thì lại không nỡ... - Anh chớp mắt, thở dài .
- Thế giờ cụ sống một mình hở anh? - Tôi hỏi.
- Ừ! Cụ sống một mình. Cũng có mấy người họ hàng gần đó. Hơn nữa bà con lối xóm qua lại giúp đỡ hàng ngày nên mình cũng bớt lo. Mà cụ nghị lực lắm! Cánh trẻ bọn mình còn lâu mới theo kịp. Năm năm hai, cụ đã là tiểu đoàn trưởng trong đại đoàn Quân Tiên phong đấy!
Anh Hùng nháy mắt nhìn tôi:
- Ê này! Cánh an ninh chỉ chuyên điều tra, cậu chả bao giờ kể về mình cả. Nghề nghiệp dạy cậu chỉ biết hỏi thôi phải không?
Biết anh trêu, tôi ngượng nghịu trả lời:
- Em thì có gì mà kể?
- Thế cậu đã có người yêu chưa?
- Em... chưa!
Tôi đáp ngập ngừng, trong đầu thoáng hiện một con đường đất đỏ đi ngang qua những đồi sim, tới mùa hoa nở tím ngát... Trên con đường đó, tôi và Hường, cô bạn học cùng lớp rất thân và rất xinh, đã bao lần đi với nhau trong những ngày lên huyện luyện thi học sinh giỏi năm lớp chín. Hai đứa tôi cùng trong đội tuyển, tôi thi văn còn Hường thi toán. Những ngày ấy chúng tôi sống hồn nhiên, trong sáng và đẹp đẽ biết bao! Người ta nói hoa sim là hoa của đất nghèo, nhưng chúng tôi không để ý đến điều dó, chỉ thấy màu hoa tím gợi bao nỗi xốn xang trong trái tim của những người đang độ tuổi ngập ngừng bước vào đời.
Sang năm lớp mười, cả hai đứa đều nhận thấy trong tình bạn đã có cái gì đó mới hơn, lạ hơn và rất khó nói. Gặp tôi Hường hay ngượng, và tôi cũng thế, nhưng ngày nào không gặp nhau lại bứt rứt nhớ... Thế rồi sang học kỳ hai được vài tháng thì tôi xung phong nhập ngũ. Lúc bấy giờ chiến tranh đã đi vào giai đoạn ác liệt chưa từng có.
Khi tôi vào chiến trường cũng là lúc Hường thi đỗ đại học và đi học ở Liên Xô. Từ đó tôi không liên lạc với cô nữa, phần bận bịu công việc, phần không có địa chỉ. Sau này mới biết Hường vẫn viết thư về nhà tôi rất đều đặn, thư nào cũng mong tin tôi...
Lúc kể tất cả những điều đó cho các anh nghe, tôi biết mình không giấu được nỗi tiếc nuồl trong từng câu nói. Anh Sơn đăm đăm nhìn ngọn lửa, hỏi mà không nhìn tôi:
- Thế sau đó Hải có biết được địa chỉ của cô ấy không?
- Có! Gia đình em có gửi vào, nhưng em không viết thư cho Hường nữa.
- Sao vậy? - Cả ba anh cùng thốt lên.
- Em nghĩ là... mình vào chiến trường không biết sống chết thế nào, ràng buộc cô ấy qua những lá thư để mà làm gì! - Biết mình đang lặp lại những điều anh Đằng vừa nói, nhưng thực lòng tôi đã nghĩ như thế.
Anh Hùng nói ngay:
- Mình thấy cách cậu xử sự như vậy không ổn?
- Sao anh?
- Có cái gì đó... Thôi, để mình nghĩ đã. Nhưng cậu đọc sách nhiều, thấy những trường hợp như vậy cấc nhà văn họ viết thế nào?
- Nhà văn thì nói làm gì, anh!
- Sao cậu lại nói thế - Anh Hùng tròn mắt nhìn tôi.
Biết mình lỡ lời, tôi lúng túng:
- Ấy chết? Không phải... ý em không phải như vậy... Em muốn nói là... trong truyện hay tiểu thuyết của ta, người ta thường điển hình hóa mọi việc, cả nhân vật lẫn sự kiện. Nhưng cuộc đời bên ngoài đâu giống thế.
- Thế Hải nghĩ mình là người thế nào? - Anh Sơn hỏi.
- Em chỉ là em thôi? Chắc là có hay có dở, đôi lúc cái dở nhiều hơn, nhưng em cố sống thật như bản chất mình.
- Vậy cậu chê tiểu thuyết à? - Anh Hùng vẫn "truy" tiếp.
- Ôi, em mê như điên ấy chứ? Trong tiểu thuyết ta học được, biết được đủ thứ...
- Này, về chuyện tình cảm ấy mà, hay là... cậu có cô nào trong này rồi? - Anh Đằng hỏi nửa thật nửa trêu.
Tôi giãy nảy:
- Làm gì có, anh! Vào chiến trường mấy năm, hết ở cứ lại vào vùng địch, hết chống càn tránh bom lại đào hầm vác gạo..., đâu có rảnh lúc nào mà tính chuyện yêu đương?
Anh Đằng vẫn chưa tha:
- Nghe nói con gái thị xã Quảng Trị đẹp lắm phải không?
- Chắc là đẹp! Vào đó ngày nằm hầm bí mật, đêm mới dậy mò đi, em cũng chẳng biết nữa!
- Chả lẽ cậu không đi phố ban ngày lúc nào à?
- Cũng có mấy lần. Những lúc đó em mặc đồ thủy quân lục chiến, tháp tùng mấy anh đóng vai sĩ quan ngụy, anh tính tâm tri đâu mà để ý tới mấy cô? Mà nếu có cô nào "cảm tình" với mình trong hoàn cảnh ấy thì chết dở rồi còn gì? Cả ba anh cùng oà lên cười.
Gần hết buổi sáng hôm sau, cả tổ xuống tới khe nước nhỏ chảy dưới chân núi. Theo hướng kim địa bàn, chúng tôi leo tiếp lên ngọn núi trước mặt, nhưng mới đi được hơn trăm mét thì phải dừng lại vì một rừng giang chắn lối. Vô số những cây giang dài lượt thượt mọc nghiêng ngả chằng chịt suốt từ đất lên quá tầm tay với, vươn nhánh loằng ngoằng đan thành tấm thảm xanh mềm mại trải kín sườn núi. Ở dưới gốc, mặt đất tối om phủ đầy lá rụng. Cây giang còn leo lên quấn gần tới ngọn những cây thân gỗ mọc trong lãnh địa của nó, trông xa giống như những đụn cỏ xanh. Chỉ có thú nhỏ hoặc loài bò sát mới mong luồn qua dải rừng bùng nhùng này.
Anh Hùng bỏ ba lô, tìm một cây cao gần đó leo lên. Lúc tuột xuống, anh bảo:
- Không qua nổi đâu, rộng lắm? Chỉ còn cách đi vòng thôi!
- Cậu thấy nên đi lên hay đi xuống? - Anh Đằng hỏi.
Anh Hùng suy nghĩ một lúc rồi trả lời:
- Ta nên đi lên. Ở phía dưới núi thoai thoải, trong tầm nhìn chỉ thấy màu lá giang. Còn mé trên có ngọn núi cao chắn ngang, rừng giang đến chân núi là hết.
- Thôi được? Ta trở lại khe đi ngược lên. - Anh Đằng quyết.
Cả tổ im lặng quay xuống. Khi tới khe, chúng tôi men theo dòng nước đi lên phía trên. Nước cạn, lòng khe đầy những hòn đá phủ lớp rêu màu rỉ sắt. Hai bên bờ có những cây chuồi rừng cao lỏng khỏng mọc chen với các loài cây bụi. Những con cua núi bé bằng móng chân cái bò lúc nhúc, thấy động chạy vào kẽ đá.
Tôi hỏi anh Hùng:
- Cua này ăn được không anh?
- Ăn được. Nhưng túng quá mới ăn, chứ nó chỉ toàn mai với còng, chẳng có mấy tí thịt. Cũng đôi nơi có loại
cua to hơn, như cua đồng ấy! Để hôm nào gặp, mình sẽ làm món cua rang muối cho cậu ăn. Cũng hấp dẫn lắm!
Đúng như anh Đằng nói, trời còn mưa liên tiếp hai buổi chiều nửa. Vẫn những cơn mưa dừ dội như trút nước và kéo dài mãi đến tối. Rừng trở nên ẩm ướt, cây cối được tắm mát trổ màu xanh mướt. Mưa cuốn sạch bụi bặm làm không gian trong veo, mọi vật sáng rõ hẳn lên. Chúng tôi rất sốt ruột vì phải đi vòng để tránh rừng giang, mà chỉ đi được từ sáng đến trưa, buổi chiều phải dừng lại dựng lều tránh mưa. Ba ngày sau, chúng tôi mới qua hết rừng giang về mé trên và biết là đã đi chệch hướng khá xa.
Chương VII
Ngày thứ mười sáu.
Từng người nối nhau leo lên một sườn núi cao. Tối qua anh Sơn đã trải bản đồ tính kỹ, để giữ đúng hướng phải vượt qua ngọn núi ấy.
Đường đi ngày càng dốc. Chúng tôi len lỏi qua những gốc cây, cố tránh các vòm dây leo cuốn lằng nhằng rậm rịt. Trong không khí có mùi trái cây chín ủng và mùi lá rụng mục ải. Những lúc lặng gió, nghe rõ tiếng đàn vắt đánh hơi thấy mùi máu nóng đang đuổi theo rào rào trên lá Cũng may sáng nay chúng tôi đã cẩn thận vò lá ngải hôi xoa khắp người.
Gần trưa thì leo hết sườn núi. Cả tổ dừng nghỉ bên một tảng đá to mà mưa gió lâu ngày đã bào mòn tạo nên những đường nét kì dị và đẹp mắt. Tôi ngạc nhiên khi thấy trên đỉnh núi này có rất nhiều tảng đá như vậy nhô lên như mọc từ đất. Anh Sơn bảo đấy là phún thạch vương vãi sau những đợt phun trào của núi lửa. Chúng tôi nướng lại mấy miếng thịt, ăn qua loa rồi hối hả đi tiếp. Đến chiều, cả tổ lọt vào một hẻm núi khá rộng, hai bên là hai vách đá sửng sững. Những thân cây cao vút mọc chen giữa các tảng đá xám đen. Chiều nay trời không mưa nứa, nhưng ở đâu xa tít trên kia vẫn có tiếng sấm ì ùng. Cơn mưa đang đổ xuống một vùng rừng khác. Nắng chiều từ phía sau rọi tới mọc theo hẻm núi nên cảnh vật cũng bớt phần u ám. Thỉnh thoảng lại gặp mấy con rắn nằm khoanh tròn trên đá phơi nắng. Thấy động, chúng chỉ hơi ngóc đầu lười nhác giương cặp mắt lờ đờ nhìn ra.
Chúng tôi đi mải miết, cố vượt qua hẻm núi trước khi trời tối. Lúc leo qua một tảng đá to chắn ngang lối đi, tôi nghe thoảng trong gió có tiếng nước chảy. Anh Đằng cũng bảo:
- Hình như phía trước có suối các cậu ạ? Ta gắng đến đó nghỉ lại.
Mọi người vội bước nhanh hơn. Ai cũng mong đến được suối để nghỉ ngơi tắm giặt cho bõ mấy ngày lội rừng ẩm ướt khó chịu.
Lúc gần tắt nắng thì nghe rõ tiếng nước chảy ồ ồ ở ngay trước mặt. Đang bước nhanh, anh Đằng bỗng đứng khựng lại. Ba chúng tôi từ phía sau dồn tới, cũng bất chợt sững lại như anh. Phía trước, ngay dưới chân chúng tôi là một cái vực sâu hun hút, tiếng nước réo từ dưới đó vọng lên. Lúc này đáy vực tối om!không nhìn rõ được dòng nước, chỉ thấy một dải trắng mờ mờ. Hai bờ vực là hai vách đá gần như dựng đứng. Từ rừng cây ven bờ, màn sương trắng mỏng bắt đầu loang ra như muốn ngăn bớt luồng khí lạnh lẽo đang dâng lên tử đáy vực âm u.
Chúng tôi phải quay lại tìm chỗ nghỉ đêm. Chọn một vạt đất trống, mọi người vội vã dựng lều và kiếm củi đốt. Anh Hùng cầm dao phát hết cây cỏ xung quanh để phòng rắn.
Ăn xong bữa tối, anh Sơn lấy bản đồ ra, dùng kính lúp xem kỹ khu vực chúng tôi đang đến. Hồi lâu sau chưa thấy anh nói gì, tôi sốt ruột hỏi: - Thế nào anh?
Anh trả lời, lẩm bẩm như nói với chính mình:
- Lạ quá! Cái vực này không thấy trên bản đồ. Đây này, - Anh đưa đầu bút chỉ một điểm - ta đang ở chỗ này. Phía dưới có một nhánh sông nhỏ thuộc lưu vực sông Thu Bồn. Có lẽ nước trong cái vực này đổ ra nhánh sông đó.
Anh Đằng hỏi:
- Còn bao xa nữa Sơn?
Anh Sơn lấy thước đo rồi trả lời:
- Gần hai mươi cây số anh ạ! Ngày mai vẫn phải đi tiếp về hướng đông nam. Mấy hôm nay ta đi chệch hướng nhiều quá, thành ra đoạn đường nhiều gấp mấy lần.
Anh Đằng trầm ngâm: "Hai chục cây! Ở đồng bằng là đã nhìn thấy..." Tôi nhìn anh, hỏi:
- Liệu có vượt qua được cái vực ấy không anh?
- Phải vượt thôi! Nếu quay lui sẽ mất nhiều ngày để vòng tránh rừng giang về mé dưới. Còn vượt bằng cách nào, mai xem cụ thể rồi mới tính được.
Anh Hùng vỗ vai tôi:
- Cậu không nhớ lời anh Hai Nguyên dặn à? "Nếu quyết tâm thì bất cứ khó khăn nào cũng có thể tìm được cách vượt qua..." Cứ yên trí ngủ, mai sẽ tùy cơ ứng biến.
Tôi lại quay sang anh Sơn:
- Anh Sơn này, sao giữa đỉnh núi lại có cái vực sâu vậy anh?
Anh Sơn cười cười:
- Có vậy mới trọn bộ. Một cuộc phiêu lưu mạo hiểm mà thiếu cái vực thẳm thì còn ra gì nữa?
Mọi người cùng cười.
Nhưng rồi anh Sơn cũng giải thích:
- Về cái vực này cũng dễ hiểu thôi. Cả vùng núi non miền Trung Bộ đều được tạo nên từ những đợt phun trào của núi lửa cách nhiều triệu năm về trước. Sau khi núi đã hình thành, một hay nhiều cồn địa chấn đã làm biến đổi khối nền của nó nên dãy núi đứt gãy tạo thành vực. Ngày mai nhìn kỹ hai bên vách đá, Hải sẽ thấy rõ vết gãy đó.
Anh Sơn giải thích rất dễ hiểu. Tôi nhớ mình đã học về động đất, núi lửa trong chương trình địa lý phổ thông. Nhưng hình ảnh cái vực sâu hun hút cứ lởn vởn trong đầu làm tôi thao thức mãi. Tôi linh cảm mơ hồ về một điều tồi tệ, một biến cố ghê gớm nào đó sắp xây ra, nhưng chịu không nghĩ được là chuyện gì. Suốt từ đầu chuyến đi tới giờ, chưa lúc nào tôi ở trong tâm trạng như vậy.
Trong đêm khuya thanh vắng nằm áp tai xuống đất, tiếng nước chảy dưới đáy vực nghe như dội lên từ chốn thăm thẳm trong lòng đất. Nỗi lo lắng ám ảnh trong từng ý nghĩ. Tôi chìm vào giấc ngủ một cách nặng nhoè, bên tai văng vẳng tiếng nước réo lúc gần lúc xa.
Chúng tôi đến bên bờ vực lúc mặt trời đã mọc, nhưng ở đây vẫn còn tối mờ. Vực sâu bị che lấp bởi từng đụn hơi nước trắng đục, không biết nên gọi là mây hay sương. Đến khi mặt trời lên cao, ánh nắng xuyên qua những tán cây đan thành vòm trên bờ, vực thẳm mới dần dần hiện ra. Miệng vực rộng độ ba đến bốn chục mét. Từ hai mép vực xuống tới đáy là vách đá lồi lõm gần như dựng đứng. Những thân cây mọc ở kẽ đá vươn lên thẳng tắp. Nhìn từ trên xuống, ngọn cây chĩa lên nhọn như chông. Phải một lúc nữa mới thấy rõ dòng nước đục ngầu cuồn cuộn dưới đáy. Những tảng đá lô nhô chặn giữa dòng làm nước tung bọt trắng xóa. Có lẽ lúc bình thường, đáy vực là một bãi đá chỉ len lỏi dòng nước nhỏ, nhưng mấy hôm trời mưa, nước từ các triền núi đổ xuống đã tạo nên cồn lũ cuốn hung tợn kia. Cứ nhìn những mảng rác rều trôi băng băng kia thì biết! Mà đằng nào cũng thế thôi, chúng tôi không phải băng qua dòng chảy đó vì chẳng thể tụt xuống vách đá được. Từ đây tới đáy ít ra cũng phải sáu chục mét.
Anh Đằng ngoái lại nhìn cả ba chúng tôi, và chắc nhận ra vẻ lo lắng trên mặt tôi, nên anh cười hỏi:
- Thế nào Hải? Cậu có phát kiến gì không?
Tôi cũng cười, lát sau mới nói:
- Theo em, ta nên đi men bờ vực, tìm chỗ thấp mà qua.
- Các cậu thấy thế nào?
Anh Sơn nói:
- Cái vực này cắt ngang dãy núi nên rất dài. Tất nhiên đi mãi rồi cũng đến chỗ thấp, vấn đề là đi theo hướng nào?
Cả tổ bàn bạc, cuối cùng quyết định sẽ đi về phía thượng lưu chọn chỗ nào thuận tiện để qua, hoặc tìm một cây gỗ hạ làm cầu, theo ý kiến của anh Hùng. Đi về hướng này là càng xa tọa độ cần đến, nhưng không còn cách nào khác. Phía hạ lưu, vách đá của hẻm núi dựng đứng không kém bờ vực, khó mà leo qua nổi.
Chúng tôi khoác ba lô lên vai, men theo bờ vực đi ngược hướng nước chảy. Đường rất khó đi vì một bên là vách núi cao, một bên là vực thẳm. Mấy ngày mưa làm rêu trên đá ngấm nước trơn trượt, chúng tôi phải níu cây vất vả lần từng bước một. Mọi người đều hết sức thận trọng vì chỉ sẩy tay một cái là rơi thẳng xuống đáy vực. Gần trưa thì vách núi thoải dần, nền đất phủ đầy lá khô nên dễ đi hơn.
Khi mặt trời tròn bóng, anh Hùng dừng lại bên một cây gỗ dầu thẳng tắp, gốc to cỡ vòng tay ôm. Anh đi quanh gốc cây, tay vỗ vỗ vào lớp vỏ sù sì, mắt ngước nhìn bên ngọn. Tôi hiểu anh muốn chọn cây làm cầu.
- Các vị thấy thế nào?
Anh Đằng nhìn sang bờ vực bên kia, trả lời:
- Được đấy? Nhưng phải hạ thật chính xác.
Tôi lùi lại mấy bước, đưa mắt ước lượng: cây dầu mọc cách mép vực hai mét và cao phải đến bốn chục mét là ít. Đoạn này miệng vực rộng chừng ba chục mét, phía bên kia khá bằng phẳng. Một địa điểm thuận lợi, mặc dù ở đây đáy vực vẫn sâu thăm thẳm.
Chúng tôi đặt ba lô xuống, bắt tay vào việc đốn cây bắc cầu. Hai cây dao lưỡi mỏng và nhẹ nên đốn được cây gỗ to này không phải dễ, nhưng khó nhất là làm sao hạ cái cây đổ xuống vuông góc với mép vực để bắc ngang sang được bên kia. Tất cả trông cậy vào tài nghệ của anh Hùng.
Anh chém những nhát dao đầu tiên, mở một miệng thấp về phía vực và miệng cao hơn về phía vách núi. Sau đó chúng tôi thay nhau chặt. Mảnh gỗ bắn tung toé rải trắng quanh gốc cây. Từ vết chém trên vỏ cây từng giọt nhựa ứa ra, lúc đầu trắng đục, sau dần thẫm lại đỏ như máu. Có lẽ vì thế mà người ta gọi cây này là cây dầu máu.
Hơn một giờ sau, lúc thân cây đã gần đứt, anh Hùng bảo mọi người lùi lại. Anh nhìn ngọn cây xung quanh để tính hướng gió, rồi thận trọng chém những nhát cuối cùng. Chúng tôi hồi hộp nhìn theo. "Sắp đổ rồi, cẩn thận nhé!", anh nói, tay vung dao chém thêm mấy nhát nữa. Thoạt đầu nghe có tiếng lắc rắc nho nhỏ, rồi tiếng gỗ nứt to dần, ngọn cây xao động như có gió thổi. Cây gỗ bắt đầu chao nghiêng và đổ xuống nhanh dần. "Rắc... rắc rắc... ào ào... rầm", ngọn cây đập xuống bờ vực bên kia, đè rạp cả một vạt cây con. Thân nó đứt lìa khỏi gốc, nẩy lên rồi nằm im.
Ba chúng tôi vỗ tay reo mừng. Cây gỗ bắc ngang miệng vực làm thành một cái cầu chắc chắn. Đầu bên kia hơi cao vì những cành cây chống bên dưới, nhưng không sao! Dốc một chút càng dễ đi. Nét mặt anh Hùng vẫn bình thản. Anh bảo chúng tôi ngồi đợi rồi tay dao tay súng leo lên vách núi đi vào rừng.
Chúng tôi lấy lương khô ra ăn. Mặt trời ngả về chiều. Dưới ánh nắng chói chang, cây rừng ắng lặng như còn lơ mơ trong giấc trưa. Tiếng ve kêu ra rả hòa với tiếng nước cuộn ào ào dưới đáy vực tạo nên những âm điệu đều đều buồn tẻ.
Gần một giờ sau, lúc tôi đã bắt đầu sốt ruột thì anh Hùng về, trên vai nặng trĩu hai cuộn dây mây to tướng, loại mây song sợi to bằng ngón chân cái. Anh ném hai cuộn mây xuống cạnh gốc cây cụt, vớ bi đông nước tu ừng ực. Anh Đằng giục chúng tôi rút dây võng ra nối lại với nhau, rồi anh trở sống dao đập dập đầu sợi mây, nối vào dây võng.
Ngồi nghỉ được dăm phút, anh Hùng đứng dậy khoác chéo súng sau lưng, nói với anh Đằng:
- Tôi sang trước, anh rải dây cho tôi nhét!
- Được rồi! Nhưng đi cẩn thận đấy!
- Yên trí! Chuyện vặt ấy mà!
Anh buộc một đầu sợi dây võng vào thắt lưng, bước lên cây gỗ dang hai tay giữ thăng bằng và đi nhanh thoăn thoắt. Sang quá nửa cầu, anh ngồi xuống khéo léo kẹp hai đùi vào cây gỗ, rút dao chặt nhưng nhánh cây vướng lối đi. Đến bờ bên kia, anh phát hết những cành lá um tùm ở ngọn cây, rồi nạm đầu dây võng kéo sang. Lúc sợi dây dù đã căng, chúng tôi xúm lại gỡ dần sợi mây để anh kéo sang. Công việc còn lại rất đơn giản: đợi anh Hùng buộc đầu dây vào một gốc cây, chúng tôi hè nhau kéo căng sợi mây buộc tiếp vào gốc cây phía bên này. Sợi mây căng dọc theo cây gỗ, cao ngang tầm tay vịn. Bây giờ việc đi qua cây cầu độc mộc đã trở nên đơn giản hơn nhiều. "Vậy mà mình cứ lo vớ lo vẩn...", tôi thấy nhẹ cả người.
Anh Hùng quay trở lại bờ bên này, khoác ba lô lên vai:
- Mình sang trước. Các cậu để ba lô đấy, lát mình mang sang cho!
Tôi và anh Sơn cùng cười:
- Anh cứ đi đi, chúng tôi tự mang được mà!
- Để các cậu ấy mang cũng được, - Anh Đằng nói - nhưng phải làm dây bảo hiểm. Cẩn tắc vô áy náy, các cậu ạ!
Chúng tôi lấy dây võng chập lại làm bốn, buộc một đầu quanh thắt lưng, đầu kia buộc vòng qua sợi mây thành một cái vòng để có thể vừa đi vừa đẩy theo.
Đợi anh Hùng sang đến bờ bên kia, anh Đằng bảo tôi đi tiếp. Tôi cởi dép nhét vào ba lô, bước lên cầu. Cây gỗ to, vỏ cây nứt nẻ nên dễ đi. Lúc ngang giữa cầu, tôi cảm thấy ngợp khi nhìn xuống đáy vực, nhưng rồi cũng tới nơi trót lọt. Tôi đặt ba lô xuống, nhìn sang. Anh Đằng đang giục anh Sơn đi tiếp.
- Anh qua trước đi, tôi chặn hậu cho! - Anh Sơn đang buộc lại cái song trên nắp ba lô, cười trả lời.
Anh Đằng qua cầu một cách nhẹ nhàng. Lúc này anh Sơn cũng bước lên cầu, vừa đi vừa đẩy dây bảo hiểm. Anh còn nhìn tôi cười, nụ cười thật hồn hậu trên khuôn mặt hiền lành dễ mến.
Anh Sơn qua được nửa cầu.Tôi cúi xuống định mang dép vào chân, bỗng giật mình bởi một tiếng "rắc" nhỏ. Ngay trước mặt tôi, một cành cây chống phía dưới cây gỗ bị gãy. Tôi lạnh toát người nhìn lên: trên cầu, anh Sơn đang chới với. Anh vung tay giữ thăng bằng theo phản xạ, nhưng không được! Thân cầu chao nghiêng làm anh rơi thẳng xuống. Dây bảo hiểm bật căng treo anh lơ lửng bên dưới cây gỗ kéo sợi mây chùng tới gần mặt cầu.
Tôi thét lên, chụp sợi mây cố kéo căng ra. Anh Đằng lao tới cùng kéo và gọi to: "Bình tĩnh, gắng bình tĩnh Sơn ơi..." Cùng lúc, anh Hùng rút dao găm cắn ngang miệng, cởi thắt lưng đạn vứt xuống đất, nhào đến ôm cây gỗ thoăn thoắt bò ra.
Dưới kia, anh Sơn đang lúng túng cố vươn người nắm lấy dây bảo hiểm, nhưng chiếc ba lô lúc này trở nên tai ác choàng qua nách kéo anh chúc ngược đầu xuống. Anh Đằng gọi với ra: "Bỏ ba lô, vứt ba lô đi..." Nếu trút được ba lô, anh Sơn có thể rướn người nắm lấy dây bảo hiểm leo lên cây gỗ. Tôi nín thở nhìn ra: anh chần chừ đặt tay lên quai ba lô, chắc nghĩ tới tấm bản đồ. Định thét bảo anh cứ vứt cả đi, nhưng tôi chợt khứng lại khi nhìn thấy điều đáng sợ nhất đã đến: cái nút buộc quanh sợi mây song đang tuột dần. Tôi gào lên: "Giữ yên đừng cử động, dây tuột đấy..." Anh Sơn thôi vùng vẫy, thân hình anh bị kéo gập lại từ thắt lưng. Sợi mây trên tay tôi hết bập bùng, nhưng ngoài kia đầu dây bảo hiểm vẫn tuột dần, phần dây còn thừa sau nút buộc có những sợi dù trắng xồ ra như một túm bông nhỏ đang tử từ ngắn lại. Tôi trợn mắt kinh hãi, người cứng đờ vì cảm giác bất lực đến tuyệt vọng.
Anh Hùng vẫn ôm thân cây bò nhanh ra. "Nhanh lên, anh Hùng ơi..." Tôi muốn gào lên. Còn ba mét... hai mét... một mét. Anh Hùng rướn người vươn tay trái định chụp lấy dây bảo hiểm... Đúng lúc đó nút buộc bung hẳn, sợi mây trong tay tôi bật lên, anh Sơn rơi thẳng xuống đáy vực. Một tiếng thét kinh hoàng dội vào hai bờ vách đá rồi tắt nghẹn trong dòng nước đục ngầu...
Cả người tôi run lẩy bẩy, mắt trừng trừng nhìn xuống: dòng nước nuốt chửng anh trong nháy mắt. Trên mặt nước cuồn cuộn không có một vết tích gì, dù chỉ một vòng xoáy. "Sao lại thế... tại sao lại thế...", tôi lắp bắp, không còn tin vào những gì nhìn thấy. Một bàn tay nào siết chặt tim tôi đau nhói, hơi thở nghẹt lại nơi cuống họng thành tiếng nấc nghẹn ngào. Như cái máy, tôi nhoài người ra mép vực cố căng mắt tìm, hai bàn tay ướt đẫm mồ hôi vẫn bám lấy sợi mây.
"Hải lùi lại". Anh Đằng kéo bật tôi khỏi mép vực. Tôi ngã nhào giữa đống cành lá ngơ ngác nhìn lên. Anh lập cập mở bao da lấy ống nhòm nhìn xuống đáy vực, tay run run. Giữa cầu, anh Hùng nam úp mặt trên cây gỗ, vai rung từng đợt thay mình nằm mơ? Hay mình gặp ác mộng Tôi cắn phập vào môi mình. Không phải mơ. Môi tôi đau nhói, vị máu thấm mặn đầu lưỡi.
Anh Đằng thất vọng buông ống nhòm xuống gọi với ra, giọng nghẹn nghẹn: "Vào đi, Hùng ơi..." Trên khuôn mặt hốc hác. những giọt nước mắt lăn tròn lẫn với mồ hôi.
Tôi chồm dậy giật chiếc ống nhòm trên tay anh đưa lên mắt. Không thấy gì cả. Tất cả nhòa đi trong màn sương. Mãi sau nhớ ra, tôi gạt nước mắt, cố nín cho nó khỏi trào, lại nhìn vào ống kính, ngón tay run rẩy chỉnh tiêu cự. Trong ống kính hiện ra những đám rác rều trôi băng băng, mấy mô đá đen trũi nhấp nhô tung bọt nước. Ven bờ, vài ngọn cây ngập nước rã rượi. Cố trấn tĩnh, tôi rê ống nhòm nhìn xuống phía dưới. Cũng vẫn thế! Tất cả chỉ có thêm con người thân thiết ấy như đã tan biến trong dòng nước đục ngầu. Không thể tin được mới mấy phút trước đó anh còn cười với tôi... Một xuồng lửa nóng bỏng ngùn ngụt trong đầu, mắt tôi hoa lên, chỉ nhìn thấy lòa nhòa bóng anh Đằng đang đưa tay kéo anh Hùng đứng dậy.
Chiều hôm đó, chúng tôi bỏ ba lô lại, khoác súng bám từng mô đá lần theo mép vực đi về phía dưới hơn hai cây số. Biết rằng anh Sơn không còn sống, chỉ mong xác anh dạt vào bờ đá hay gốc cây nào đó. Nếu vậy, bằng bất cứ giá nào chúng tôi cũng tìm cách xuống đưa anh lên chôn cất, đắp cho anh nấm mộ giữa rừng... Nhưng đi mãi mà vẫn không tìm được một dấu vết nào. Thấy chẳng còn hy vọng gì nữa, anh Đằng bảo quay lại.
Anh Hùng lấy dao đẽo một mảng trên gốc cây to ngay đầu cầu. Tôi dùng dao găm khắc lên đó họ tên anh cùng ngày anh hy sinh. Nhựa cây ứa ra trên từng vết khắc và tim chúng tôi ứa theo từng giọt máu.
Không có nén hương nào, anh Đằng nhặt cành khô đốt một đống lửa nhỏ. Chúng tôi chỉ làm được cho anh có thế thôi, anh Sơn ơi... Đột ngột quá! Đau đớn qúal Từ nay chẳng bao giờ được nghe anh nói, được thấy anh cười, được rúc vào người anh tìm hơi ấm trong những đêm rừng lạnh giá... Tôi miết ngón tay lên những dòng chừ, gục đầu vào thân cây khóc nức nở. Chẳng thà được ôm anh một lần trước khi đưa anh xuống mộ, đằng này... Trong đầu tôi hiện lên đôi mắt vời vợi của người phụ nữ trong tấm ảnh anh đưa tôi xem hôm nào. Sau này biết nói với chị và cháu thế nào đây...
Đã đến lúc phải đi. Chúng tôi khoác ba lô lên vai, xách súng bỏ mũ ngậm ngùi đứng nhìn lần cuối cùng nơi người đồng đội thân thiết vĩnh viễn ra đi. Nắng chiều vàng vọt trên vách đá. Đáy vực đang tối dần, dòng nước mờ trong sương khói. Một ngọn gió lướt tới làm ngàn cây lay động, muôn cành lá rì rào hát lên bản anh hùng ca bất tận của rừng già.
"Ta đi thôi!", anh Đằng nghẹn ngào nói. Chúng tôi lầm lũi cất bước. Lên đến đỉnh dốc, tôi ngoái nhìn lần nữa, mắt lại nhòa đi. Trên cây gỗ cô đồn bắc ngang hai bờ vực thẳm, như thấy anh đang đứng mỉm cười nhìn theo... Đưa tay gạt nhanh những giọt nước mắt, tôi xốc lại khẩu súng trên vai, rảo bước cho kịp người đi trước.
Chương VIII
Những ngày kế sau đó, chúng tôi hối hả đi về hướng đông nam, hướng mặt trời mọc. Mọi người đều nặng trĩu nỗi đau trong lòng. Ban ngày còn đỡ, những vất vả lúc đi đường làm chúng tôi bớt nghĩ tới sự việc vừa qua. Nhưng đêm đến, khi ngồi bên đống lửa bập bùng giữa rừng hay chui vào nằm trong căn lều mỏng manh, mới thấy trống trải đến tê tái cả ruột gan.
Ngày thứ ba kể từ khi rời bờ vực, lúc gặp tráng cỏ nhỏ trên một mỏm núi, chúng tôi dừng lại cắm lều dù mới nửa chiều. Cần nghỉ ngơi chút ít lấy lại sức sau mấy ngày vừa qua. Anh Hùng cũng muốn tìm khoảng trống để ngắm sao. Anh Sơn mất đi là một tổn thất nặng nề cho cả tổ, vì kiến thức và kinh nghiệm của anh hết sức cần thiết lúc đi đường và cho công việc sau này. Hiện giờ không có bản đồ và địa bàn, chúng tôi chỉ còn cách nhìn sao, nhìn mặt trời để định hướng.
Dựng xong lều, anh Đằng bảo hai chúng tôi cứ nghỉ, rồi xách súng đi vào rừng.
Tôi ngồi bên anh Hùng buồn rầu nhìn về dãy núi có cái vực thẳm. Với ít nắng đọng vàng trên đỉnh và rừng cây bên sườn đang sẫm lại trong bóng núi, lúc này trông nó cũng hiền lành như mọi dãy núi khác. Từ đây tới đó không xa lắm. Ba ngày qua chúng tôi đi nhiều nhưng phải leo lên tụt xuống, vòng vèo tránh những chỗ khó, thành ra quãng đường đi được chỉ trong tầm nhìn.
Anh Hùng vẫn im lặng như đang mải nghĩ điều gì. Chúng tôi cùng ngồi lặng lẽ như vậy hồi lâu. Nắng chiều nhạt dần trên ngọn cây. Mây trắng đùn lô xô ở phía chân trời. Một đàn chim đang vội vã bay về tổ, những cánh chim chấp chới trên nền mây, nhỏ dần thành những chấm đen li ti rồi mất hút sau dải rừng xa mờ.
Anh Đằng trở về xách theo một con chim to. Chúng tôi nướng thịt chim ăn bữa tối. Hoàng hôn đang xuống, bóng tối lan ra từ những hốc rừng âm u. ở góc trời phía tây, vài tia nắng cuối ngày thoáng chốc rạng lên trước khi chìm vào màn đêm. Những vì sao hiện ra, nhấp nháy trên nền trời xanh đen.
Anh Đằng ngắm chòm sao Bắc Đẩu hồi lâu rồi nói:
- Mình nghĩ tọa độ cần tìm đang ở gần đâu đây. Hôm bên kia bờ vực Sơn có nói phải đi về hướng đông nam hai chục cây. Mấy ngày qua ta đi được trên chục cây tính theo đường chim bay. Nếu Sơn tính toán đúng thì ta có thể tới nơi trong vài ngày nữa, nhưng phải làm sao đi cho đúng hướng. Các cậu nghĩ sao?
- Tôi thấy cần thận trọng. - Anh Hùng nói - Từ ngày mai phải thường xuyên leo lên cây cao dùng ống nhòm quan sát sục tìm. Cánh đồng cỏ tuy rộng nhưng giữa rừng rậm, nhiều khi đi qua ngay bên cạnh cũng không nhìn thấy.
- Theo em, ta nên đi theo kiểu dịch dắc. Thế này nhé, - tôi nói và dùng que vẽ trên đất - Lấy đường thẳng từ đây tới đồng cỏ làm trục, ta đi theo những đường gấp khúc qua lại, mỗi đoạn khoảng năm cây số. Góc ở chỗ ngoặt chừng sáu mươi độ. Tuy phải đi quãng đường dài hơn, nhưng ta sẽ rà được cả dải rừng rộng.
Anh Đằng gật gù:
- Có lý đấy? Hùng thấy thế nào?
Anh Hùng hơi mỉm cười:
- Đúng là nên đi theo kiểu dịch dắc. Có điều... tôi nghĩ khó mà có được cánh đồng cỏ bằng phẳng giữa vùng núi non này. Có khi đó là một vùng đồi, độ cao thấp chênh lệch không lớn lắm nên không phân biệt được trên bức không ảnh chụp chính diện từ trên cao.
- Có thể như vậy, nhưng ta sẽ xác định được nếu tìm thấy cây thủy tùng. Chà, nếu có Sơn ở đây thì... - Biết mình lỡ lời anh Đằng lúng túng dừng câu nói giữa chừng.
Mấy ngày vừa qua, không ai bảo ai nhưng chúng tôi đều cố tránh không nhắc đến sự việc đau đòng ấy, dù chẳng lúc nào nguôi nhớ anh Sơn. Nỗi đau đớn, thương xót lẫn ân hận luôn dày vò tâm trí mỗi người.
Anh Hùng ôm đầu, nói như nấc lên:
- Tại tôi, lỗi tại tôi tất cả? Giá như hôm ấy tôi chặt hết nhánh cây thì đâu đến nỗi...
- Không đúng, cậu không có lỗi gì hết! Người có lỗi là tôi - Anh Đằng nói, giọng hụt đi trong hơi thở nặng nhọc - Nếu hôm đó tôi qua sau cùng, kiểm tra kỹ từng nút buộc...
Tôi không dám nhìn lên, sợ phải trông thấy sự đau đớn tột cùng trên hai khuôn mặt dày dạn lửa đạn đó. Chúng tôi đã trải qua những ngày tháng chiến tranh ác liệt, đã chứng kiến bao nhiêu cái chết của anh em bạn bè... Nhưng chẳng thà chết trong trận đánh, chết vì đạn bom, đằng này anh Sơn hy sinh ngay trước mặt chúng tôi giữa lúc không ai ngờ tới, chúng tôi nhìn rõ cái chết đến với anh từng giây một mà đành bất lực tuyệt vọng... Chính vì thế nỗi đau càng giằng xé mãnh liệt trong lòng mọi người.
Tôi ngẩng đầu nhìn ngọn lửa, nói khe khẽ:
- Không ai có lỗi hết, các anh ạ? Đó chỉ là một tai nạn...
Anh Hùng thét lên:
- Cậu đừng an ủi! Lỗi ở tôi, tôi có tội với cậu ấy...
Anh quắc mắt giận dữ. Trong mắt anh là nỗi dằn vặt oán trách chính bản thân mình. Tôi nhìn anh, nói chậm rãi:
- Không ai có thể biết trước được mọi việc, chúng ta không phải là thần thánh. Mà trên đời này làm gì có thánh, có thần? Nếu có, những người như anh Sơn đã không phải chết oan uổng như vậy...
- Hải nói đúng? Chẳng ai là thánh, là siêu nhân cả. - Anh Đằng nói - Chúng ta là những con người. Mà đã là con người thì không ai hoàn hảo đến tuyệt đối được. Nhưng chỉ có con người mới biết yêu thương, căm giận, đau khổ... Chẳng thể nói rằng ai đau xót nhiều hơn ai, chỉ có điều ta không để cho sự hy sinh của Sơn trở nên vô ích. Phải đi tới đích và hoàn thành nhiệm vụ. Chúng ta sẽ làm thay phần việc của cậu ấy.
Khi nói câu cuối cùng, giọng anh trầm lại như nói với chính mình. Tôi hiểu đó cũng là lời thề của mỗi người.
Gió rung cành cây xào xạc, ngọn lửa bùng lên cháy rừng rực, ánh lửa soi chập chờn vòm lá trên cao làm trời đêm như cũng xao động. Chúng tôi trầm ngâm hồi lâu bên đống ìửa. Mỗi người đều cảm thấy nỗi khổ tâm vợi bớt đi khi nói ra những suy nghĩ của mình và có được sự đồng cảm sâu sắc.
Chúng tôi đi theo một đường gấp khúc trong mấy ngày liền. Đã bốn lần đổi hướng, như vậy chặng đường đi được khoảng hai mươi lăm cây số, còn đường thẳng tính theo trục đông nam trên mười cây. Dọc đường mọi người thay nhau leo lên cây dùng ống nhòm quan sát, nhưng chẳng thấy tăm hơi cánh đồng cỏ đâu cả. Hơn nữa tầm nhìn luôn bị hạn chế bởi những ngọn núi nối nhau san sát. Ai cũng lo là đã vượt qua mục tiêu mà không biết.
Trưa hôm ấy, chúng tôi nghỉ lại trong một rừng săng lẻ để tranh thủ kiếm thức ăn. Số lương thực mang theo không còn nhiều, tất cả có mười bao gạo sấy và mười hai phong lương khô.
Chúng tôi căng mấy tấm tăng dựng lều dưới tán một cây săng lẻ cổ thụ, ở gốc cây nổi lên những khía to tưởng trông như cánh của một chiếc tên lửa.
Dựng xong lều và kiếm đủ củi đốt qua đêm, anh Đằng xách súng đi săn. Anh Hùng rủ tôi đi đào củ mài, nhân tiện xuống suối xách nước một thể.
Tôi khoác súng lên vai, cuộn cái túi phao bồi dùng đựng nước nhét vào thắt lưng rồi bước theo anh. Phải đi ngược lại đoạn đường vừa qua đến một quả núi khác để tìm củ mài, chứ nơi đây hầu như chỉ độc một loài săng lẻ. Những cây săng lẻ thân thẳng tắp lớp vỏ mỏng bên ngoài phồng rộp bong loang lổ. Mùa này cây mới trổ lá xanh non, bóng râm che mát rượi. Dưới gốc cây, mặt đất thưa thoáng phủ đầy lớp lá rụng đã mềm ra sau mấy trận mưa.
Ra khỏi rừng săng lẻ, hai chúng tôi lội qua con suối nhỏ rồi leo lên một sườn núi thấp. Ở đây chim nhiều vô kể. Hầu như trên vòm cây nào cũng có lũ chim đang nhảy nhót. Tiếng chim hót hòa lẫn vào nhau thành một bản hợp xướng đủ lọi âm điệu, mọi cung bậc mà ta chỉ được nghe khi ở trong rừng già vào một ngày đẹp trời. Nhiều con chim có màu lông rất đẹp, nhưng tôi chỉ nhận ra các chú vẹt với bộ lông sặc sỡ và cái mỏ khoằm khoằm đang tíu tít trên một vòm cây có những chùm quả vàng vàng lấp ló trong tán lá. Chúng khéo léo dùng mỏ rứt từng quả, măm măm như người không có răng rồi lửa vào họng nuốt chửng không cần nhằn vỏ. Quả chi chít trên cây mà chúng vẫn tranh nhau choe choé, những vệt xanh vệt đỏ rối rít loạn xạ quanh mấy chùm quả chín vàng.
Tìm ra dây củ mài không khó nhưng đào nó lại chẳng dễ dàng chút nào khi trong tay chỉ có cây dao găm. Gần một giờ hì hục, chúng tôi mới đào được hai đoạn củ to bằng cánh tay. Phần còn lại không biết dài ngắn ra sao bởi nó sâu hút trong đất không moi lên được. Nhưng chỉ cần có vậy! Chẳng qua là để thêm món, khỏi ăn mãi thịt thú, chứ ở đây đâu có lo đói.
Anh Hùng giục quay về vì đã quá nửa chiều. Hai chúng tôi thong thả đi xuống. Bên dưới, tán rừng săng lẻ xanh nhấp nhô theo triền núi. Phía tây nam có một dãy núi cao vượt lên, chạy dài như bức trường thành. Nắng chiều phủ màu vàng xa vời trên những ngọn núi nối nhau chập chùng.
Sau khi tắm xong, tôi lấy nửa túi nước, dùng dây buộc nhặt miệng túi vác lên vai đi về chỗ nghỉ. Anh Đằng đang ngồi thái thịt trước lều, những tảng thịt đỏ hỏn xếp trên mấy tàu lá chuối. Anh nói:
- Mình đi mãi mà chỉ gặp toàn thú lớn. Cuối cùng đành bắn con mang, nhưng chỉ xẻ lấy một đùi vì nặng quá. Rõ phí của!
Tôi rút dao định giúp anh thái thịt, anh vội xua tay:
- Thôi để đấy! Cậu đi kiếm thêm củi, nhớ lấy những cành to ấy. Đêm nay phải nướng hết chỗ thịt này sấy khô mang theo.
Khi tôi vác củi về, thấy anh Hùng đang luộc củ mài. Từ đống lửa một làn khói trắng bay lên cao, nửa chừng đổi thành màu xanh lam rồi quấn quít trong vòm lá.
Lúc ăn tối, anh Đằng hỏi:
- Chiều nay đi, các cậu thấy thế nào?
Biết ý anh muốn hỏi gì, nhưng tôi im lặng chờ anh Hùng nói trước. Anh chưa trả lời ngay mà chầm chậm nhai miếng củ mài, ngẫm nghĩ hồi lâu mới đáp:
- Trên hướng ta đi, nhìn xa về phía dưới chỉ thấy núi. Theo tôi, phải qua hết rùng săng lẻ rồi mới tính được.
- Lúc chiều mình đi về hướng đông nhưng cũng chưa qua hết cánh rừng này. - Anh Đằng nói - Ba ngày nay ta đi được chừng mười lăm cây số theo đường thẳng. Như vậy, theo tính toán hôm trước là đã vượt quá khu vực đồng cỏ. Có lẽ bị chệch hướng ở một đoạn nào đó. Theo các cậu thì đoạn nào?
Tôi nói ngay:
- Theo em nghĩ chỉ trên đoạn từ bờ vực tới đây.
- Còn Hùng?
- Tôi cũng nghĩ thế! Nhưng không sao! Ta vượt hết rừng săng lẻ rồi sẽ quyết. Dù có phải quần nát cả vùng núi này, ta cũng không bỏ cuộc.
- Thì cũng phải tìm kiếm tí chút, chứ đâu dễ dàng đi thẳng tới đích được. - Anh Đằng cười, nói tiếp - Nhưng từ nay phải đánh dấu đường đi, phòng khi lặp lại nơi đã qua mà không biết.
Đến tối chúng tôi đốt thêm đống lửa trên chỗ ban chiều thái thịt, phòng thú dữ kéo tới. Rừng thưa là nơi sinh sống của nhiều loài thú lớn, nên thú ăn thịt không thiếu.
Chúng tôi dập tắt hai đống lửa rồi ra đi khi trời vừa hửng sáng, mặt trời còn chưa lên khỏi núi. Những giọt sương rơi lộp độp trên lá khô. Anh Hùng đi sau, thỉnh thoảng lại vung dao chém vào thân cây để đánh dấu lối đi. Những nhát dao được quy ước là chém cách quãng năm mươi mét, và chỉ chém ngang tầm nhìn vào những thân cây to dưới vòng tay ôm để dễ tìm khi cần.
Gần trưa, rừng săng lẻ thưa dần rồi nhường chỗ cho các loài cây khác. Cũng vẫn những cây cổ thụ cao to thân phủ đầy rêu và địa y, còn gần ngọn là lan rừng hoặc các loài tầm gửi đeo bám chi chít. Chốc chốc lại thấy thú rừng thấp thoáng sau các gốc cây hay chạy sột soạt trong bụi rậm, nhưng vội đi nên chả ai để ý.
Khi ra đến một sườn núi, anh Hùng leo lên cây dùng ống nhòm quan sát. Lát sau anh tụt xuống, lắc đầu:
- Chỉ thấy núi là núi Cây mọc xanh đều cả, không có khoảng trống nào.
- Thôi được! Ta nghỉ một lúc, tranh thủ ăn trưa luôn.
Anh Đằng nói rồi đặt ba lô xuống. Chúng tôi nhóm lửa nướng lại mấy miếng thịt. Tôi ngồi tựa lưng vào ba lô, vừa xé thịt bỏ vào miệng nhai, vừa nhìn lên ngọn cây. Có mấy con chim đang chuyền tít trên cao không nhìn rõ màu lông, chỉ thấy những chấm đen vụt qua vụt lại trong đám lá, nhưng tiếng hót líu lo của chúng vang xuống nghe rất hay. Cùng với tiếng chim là tiếng vo vo của mấy con ong, tiếng gió lao xao trong lá, tiếng cành khô gãy rơi trong bụi rậm, tiếng gà rừng gáy te te đâu ở cánh rừng trước mặt... Đệm cho khúc nhạc rừng trưa có bài ca mùa hè triền miên của ve. Những con ve kêu ra rả từ lúc hừng đông cho tới tận chiều xuống, người nghe quen tai đến nỗi chỉ nhận ra khi chúng đột ngột dừng tiếng. Trời trưa tròn bóng. Mắt tôi lóa lên khi một tia nắng lọt qua tán lá rọi trúng vào mặt. Những giọt nắng lốm đốm vàng trên nền lá rụng ẩm ướt.
Anh Hùng bảo:
- Ta bị chệch hướng, nhưng chắc không xa lắm đâu. Bây giờ là lúc phải sục sạo tìm kiếm. Theo tôi, trước mắt nên đi về hướng đông nam thêm vài chục cây số. Vẫn đi theo kiểu dịch dắc nhưng mở rộng khẩu độ, làm thế nào để rà được dải rừng rộng chừng mười cây số. Đến khi đó nếu không gặp, cũng khẳng định được đồng cỏ không có ở hướng này.
Anh Đằng nhìn sang tôi:
- Ý Hải thế nào?
- Em nhất trí!
- Được rồi? - Anh kết luận - Ta sẽ tìm theo hướng đông nam, khi biết chắc không có mới chuyển sang vùng khác. Điều cần nhất lúc này là không được cuống. Nếu không, cứ chạy nháo nhào giữa rừng đến lúc hoảng loạn là mất phương hướng hoàn toàn đấy! Dù vội nhưng ta chỉ đi vừa sức, lúc mệt là nghỉ, công việc còn dài. Nào, đi thôi!
Chiều đó, chúng tôi đi về hướng giữa đông và đông nam, được chừng sáu cây số thì ngoặt lại một góc khoảng bốn mươi lăm độ theo hướng giữa tây và tây nam. Cứ như thế, trong bốn ngày liền chúng tôi đan những đường chéo qua lại trong dải rừng rộng mười cây số.
Đó là những ngày vô cùng vất vả. Để giữ đúng hướng, chúng tôi phải đi theo đường thẳng, không vòng tránh bất kỳ chướng ngại nào. Áo quần mặc trên người rách bươm. Đôi dép cao su cũng lần lượt đứt hết quai này đến quai khác. May mà mỗi người đều mang theo mấy bộ quai dự trữ. Anh Đằng còn có hai cuộn chỉ và mấy cây kim. Lúc nghỉ, chúng tôi tranh thủ vá víu lại những chỗ rách để mặc đi đường. Ngoài hai bộ thay đổi, trong ba lô tôi còn một bộ mới nguyên, nhưng phải để dành cho ngày về.
Sau bốn lần đổi hướng, chúng tôi rà hết dải rừng như dự kiến và quan sát qua ống nhòm một vùng rộng hơn nhiều, nhưng vẫn không tìm ra đồng cỏ. Đã đến lúc phải dừng lại để chuyển sang hướng khác.
Chúng tôi dựng lều bên một thác nước nhỏ nhưng khá cao. Nó đổ xuống từ lưng chừng vách núi rồi chảy thành một con suối nhỏ len lách qua những tảng đá. Đứng dưới nhìn lên, thác nước như vọt ra tử vách đá.
Cũng vẫn những công việc phải làm ở mỗi chặng nghỉ: dựng lều, kiếm củi, chuẩn bị bữa ăn, nhưng hôm nay chúng tôi còn được tắm giặt thỏa thuê. Tôi lội dọc suối, lần theo mấy tảng đá ra đứng dưới thác, đưa người hứng dòng nước từ trên cao dội xuống. Thật thú vị khi toàn thân được đấm bóp bởi dòng nước mát lạnh. Mọi mệt nhọc trôi đi cùng ghét bẩn, bụi bặm. Cả những vết rách xước trên da thịt cũng dịu lại, không rát nữa.
Ngước nhìn lên, tôi chợt sững sờ khi bắt gặp một dải cầu vồng rực rỡ, đẹp lung linh trong bụi nước. Trên đỉnh vách đá có mấy bóng cây trụi lá đứng trầm tư, in những nét gầy guộc lên nền trời xanh. Mặt trời xuống thấp dần, bóng núi từ từ lan ra che mát khoảnh rừng ven suối.
Thấy đã muộn, tôi giặt vội bộ quần áo rồi bước lên bờ. Ra khỏi thác, tiếng ầm ầm trong tai lắng hẳn đi. Không gian trở nên tĩnh mịch, êm ả.
Về đến chỗ nghỉ, thấy anh Đằng đang lúi húi thái mấy cái hoa chuối chuẩn bị cho bữa tối. Lát sau anh Hùng cũng về tới, tay xách một xâu cá câu được ở khúc suối phía dưới. Thì ra trong khi tôi mải mê dưới thác nước, hai anh đã làm tất cả mọi công việc cần thiết. Tôi ngượng đỏ mặt vì sự vô tâm của mình, mặc dù biết hai anh muốn để tôi được nghỉ ngơi. Từ đầu chuyến đi tới giờ, tôi là người luôn được "cưng chiều" nhất.
Tôi đổ nước vào hai chiếc gô, treo trên đống lửa. Hoa chuối rừng phải luộc qua một lần rồi mới nấu. Tối đó, chúng tôi ăn thịt nướng cùng món canh hoa chuối nấu với cá. Canh hơi chát nhưng tôi thấy rất ngon, một phần vì mấy ngày qua chỉ ăn độc mỗi món thịt thú.
Chúng tôi nhằm hướng tây bắc, cắt ngang dải rừng vừa đi qua để tìm về lại chỗ tiếp giáp với cánh rừng săng lẻ. Phải giữ một điểm mốc trước khi mở hướng tìm kiếm mới, nếu không sẽ rối lên trong mê cung của những dãy núi, lúc đó chẳng còn biết là nên đi về phương nào.
Đi hơn hai ngày thì tìm đến được gốc cây nơi đã nghỉ trưa hôm ra khỏi rừng săng lẻ. Tôi thực sự kinh ngạc trước tài cắt rừng của anh Hùng. Dường như trong anh có thứ linh cảm kỳ lạ để định hướng một cách dễ dàng khi đi giữa rừng rậm mênh mông.
Không dừng chỗ gốc cây, chúng tôi xuống chân núi cắm lều trên vạt cỏ nhỏ gần bên khe nước. Anh Đằng quyết định nghỉ hết ngày hôm nay. Quả thực tôi đã rất mệt. Hơn nữa, sự lo lắng làm sức người giảm sút nhanh hơn. Nỗi lo cũng hiện rõ trong ánh mắt của anh Đằng. Riêng anh Hùng vẫn bình thản, nhưng trở nên lầm lì ít nói. Tôi rất thương anh vì biết anh vẫn cứ dằn vặt về cái chết của anh Sơn, mặc dù chẳng ai cho đó là lỗi của anh, ngay cả trong ý nghĩ.
Lần đầu tiên trong cả chuyến đi, tôi được ngủ một giấc thật thoải mái. Lúc tỉnh dậy thấy bóng cây đã nghiêng dài trên bãi cỏ. Anh Hùng đi đâu vắng, chỉ còn một mình anh Đằng đang ngồi lau súng dưới gốc cây. Tôi xuống khe rửa mặt rồi quay lên ngồi cạnh anh.
- Anh Hùng đi đâu anh? - Tôi hỏi.
- Hùng vào rừng.
- Sao cậu không ngủ nữa đi?
- Ngủ vừa rồi anh ạ! Suốt mấy giờ liền rồi còn gì! - Tôi cười trả lời.
Anh lắp băng đạn vào súng, nhỏm dậy:
- Hải ngồi đây nhé! Mình vào rừng kiếm cái gì ăn.
Anh vừa đi, tôi cũng rút dao đứng dậy đi lấy củi. Ngay mấy gốc cây quanh bãi cỏ, cành khô không thiếu. Chỉ lát sau, tôi đã kéo về một đống to tướng, đủ đốt suốt đêm.
Chẳng còn việc gì làm, tôi lại ngồi xuống gốc cây, lơ đãng nhìn cánh rừng đang mơ màng trong nắng chiều. Xung quanh im ắng quá! Gió lùa nhè nhẹ làm ngọn cỏ lao xao lay động. Bên dưới những lá cỏ vươn cao khô cháy có mấy đám màu xanh non mới nhú, chắc nhờ đợt mưa vừa rồi.
Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu, nhanh đến nỗi tôi chưa kịp hiểu là điều gì... Đầu tôi căng lên, cố nắm bắt lại ý nghĩ đó. "Mình vừa nghĩ về ngọn cỏ, những giọt mưa... Đúng rồi?" Dòng suy nghĩ lại lóe lên, lần này rõ nét hơn. Tôi sắp xếp những ý nghĩ thành sự suy luận và lướt nhanh trong đầu về chặng đường đã đi hơn nửa tháng nay: chỉ lúc vượt qua những đỉnh núi cao cháy nắng ở biên giới mới có vùng cỏ tranh, còn sau đó, cây rừng luôn phủ kín núi. Đôi lúc có gặp tráng cỏ như ở đây, nhưng thường rất nhỏ, chỉ nhinh hơn mảnh sân nhà là cùng. Vậy cánh đồng cỏ dài rộng như thế phải nằm ở đâu?
Tôi nhớ lại vài kiến thức địa lý đã học. Như vậy ở vùng này, đồng cỏ, hoặc đồi cỏ như anh Hùng nói, chỉ có ở nơi khí hậu khô nóng khắc nghiệt. "Hình như mình đã có sự liên tưởng về một dãy núi như bức trường thành... nhưng khi nào? Ở đâu? - Tôi cố nhớ lại - Phải rồi, hôm đi đào củ mài? Bên kia rừng săng lẻ..."
Tôi chạy vào lều lấy ống nhòm, leo lên cây nhìn về hướng tây. Trong ống kính hiện ra rõ nét một dãy núi cao vượt lên trên những ngọn núi khác và chạy dài xuống phía nam. Còn ở phía đông núi lô nhô xếp lớp lớp theo hình vòng cung và thấp dần về hướng biển. "Nhất định đồng cỏ phải nằm trên dãy núi cao đó. Dưới này mưa nhiều, cây cối tươi tốt thế kia..." Tôi bỗng thấy hăm hở, muốn có cách gì lên ngay trên ấy để nhìn cho biết.
Tụt xuống đến đất, tôi gặp anh Hùng vừa về tới, trên vai vác túi phao bồi căng phồng.
- Gì thế anh? - Tôi hỏi.
- Cậu đoán thử xem! - Anh đặt nhẹ túi xuống cỏ, đưa tay gạt mồ hôi.
Tôi chăm chú nhìn, nhưng mãi chẳng đoán ra. Không phải thú rừng! Nếu săn được thú thì cứ thế vác về, cần gì cho vào túi. Mà cái túi này có vẻ nhẹ, không phải đựng một thứ củ quả nào đó...
- Em chịu thôi! Anh nói đi?
- Mật ong đấy! Mình vớ được tổ ong, nhưng chỉ lấy non nửa vì không mang hết.
Tôi tháo dây buộc miệng túi, bên trong là những tầng sáp ong vàng óng, mùi mật thơm ngát.
Chúng tôi đang vắt mật vào bi đông thì anh Đằng về, tay ôm mớ củ mài.
- Mình đào bở hơi tai mà lấy được có mấy khúc. - Anh nói.
- Anh không bắn được con thú nào à? - Sợ các cậu ăn mãi thịt phát ngán nên hôm nay đổi món. Còn thú thì thiếu gì, lúc nào ăn hẵng bắn.
Vừa chuẩn bị bữa tối, tôi vừa kể lại những điều mình suy nghĩ về dãy núi phía tây. Nghe xong, anh Đằng liền lấy ống nhòm leo lên cây quan sát. Lúc trở xuống anh chưa nói gì chỉ bảo anh Hùng:
- Cậu nhìn đi! Rồi ta sẽ bàn. Anh Hùng chọn một cây cao nhất, leo tít lên đến ngọn, đưa ống nhòm nhìn khắp cả bốn phía. Lúc anh tụt xuống đất anh Đằng hỏi ngay:
- Thế nào?
- Phải lên tới nơi mới biết được, anh ạ! Ở đây chưa thể nói trước điều gì. Nhưng tôi tin là Hải đã nghĩ đúng.
Anh Đằng suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Từ đây tới chân núi không xa mấy, ta gắng đi trong một ngày. Còn leo lên núi thì đến nơi hẵng hay. Đằng nào cũng phải mở hướng mà tìm. Nhưng phải nhanh nhanh lên, các cậu ạ! Kéo dài đến lúc mưa dầm là gay đấy?
- Anh đừng lo, tôi tin mình sắp đến nơi rồi. - Anh Hùng đáp một cách tự tin và quay sang tôi - Hải này, cậu ăn chè mật ong khi nào chưa? - Thấy tôi lắc đầu, anh nói luôn - Thế thì cậu thái củ mài đi! Cạo sạch vỏ rồi thái kiểu quân cờ ấy! Mình sẽ cho cậu biết chè mật ong nấu với củ mài ngon như thế nào!
Tôi rất mừng vì trong nhiều ngày qua, giờ mới thấy anh thực sự vui vẻ như vậy. Và món chè nấu bằng mật ong, củ mài với ong non hôm ấy quả là tuyệt vời. Sau này tôi có bắt chước nấu mấy lần, nhưng không hiểu sao không được ngon như hôm ấy.
Chương IX
Chúng tôi leo lên tới đỉnh núi lúc trời đã tối mịt. Lát sau thì trăng lên.
Đêm ấy trăng rất sáng, trăng sáng đến nỗi màn sương dày đặc mọi hôm nay như mỏng và trong hơn, và ánh lửa cũng nhạt màu.
Không hiểu sao lúc đi ngủ tôi lại bắt gặp cảm giác lo âu thấp thỏm như đêm nào ở bên bờ vực, chỉ khác hôm nay không có tiếng nước réo ì ầm vọng lên từ đáy vực sâu. Tâm trạng bồn chồn cứ ám ảnh mãi trong đầu, ngay cả lúc tôi đã thiếp đi trong giấc ngủ nặng nhọc. Suốt đêm tôi toàn nằm mơ thấy ác mộng, nhưng sáng ra chẳng nhớ được gì, chỉ thấy người mệt nhừ.
... Mãi nhiều năm về sau tôi vẫn nghĩ, phải chăng đã có lúc linh tính báo cho tôi biết trước hiểm họa? Đấy có phải cái mà người ta thường gọi là giác quan thứ sáu, hay chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa trạng thái tâm lý với sự việc xây ra sau đó? Chịu! Không thể cắt nghĩa được! Nhưng nếu đoán chắc sắp có nguy hiểm thì nó đến khi nào? Từ đâu? Và diễn ra như thế nào? Quả thực trong tôi lúc đó chỉ có cảm giác lo lắng mơ hồ mà chẳng hiểu được vì sao...
Chúng tôi thức giấc từ khì nghe chim hót những tiếng đầu tiên. Bên ngoài sương mù đặc quánh tưởng như có thể xắn ra được từng tảng. Trăng đã lặn. Trời đang tối lại trước khi hửng sáng nên ba chúng tôi vẫn nằm trong lều khe khẽ nói chuyện với nhau, dù rất nôn nóng muốn nhìn rõ miền đất mới.
Lúc mặt trời lên, anh Hùng leo lên cây quan sát và báo trong tầm nhìn là một vùng rừng khá rộng. Chưa thấy được gì hơn vì trời mới sáng, trên rừng còn nhiều sương. Chúng tôi bàn bạc và quyết định cứ đi tiếp về hướng tây. Trước mắt, vẫn phải tìm kiếm trong khu vực có bán kính trên dưới hai mươi cây số, tính từ chỗ vượt ở bờ vực.
Rừng ở đây khá thưa và khô ráo, có lẽ từ nhiều tháng nay chưa có mưa. Những cơn mưa chúng tôi gặp ở miệt rừng phía dưới không đổ xuống nơi này. Chừng giữa buổi, anh Đằng bảo tôi leo lên cây xem tình hình thế nào. Tôi chọn một cây cao mọc ở đầu dốc, leo tuốt lên đến ngọn. Từ đây có thể nhìn thấy cả một vùng rừng rộng, nhấp nhô như những ngọn đồi. Xa hơn về phía tây có những ngọn núi chập chùng hút tầm mắt. Hướng tây bắc núi thấp dần rồi hòa lẫn vào với rừng. Miền đất này có vẻ như là một vùng sơn nguyên, không rộng lắm nhưng tương đối bằng phẳng.
Chợt có cái gì đó khang khác khiến tôi dừng mắt lại, hình như một tán cây cao vượt lên trên cánh rừng. Tôi vội đưa ống nhòm lên: đúng là một ngọn cây, trông xa như cái tháp nhọn có màu xanh đậm hơn so với màu rừng xung quanh. Tôi run lên, trong người rần rần như có luồng điện chừng vài chục vôn chạy qua. Hình dạng và màu sắc khác lạ của ngọn cây làm tôi nghĩ rằng đó là cây thủy tùng mà chúng tôi đang mỏi mắt tìm kiếm. Đang định kêu to mừng rỡ, tôi kịp kìm lại. Biết đâu chỉ là một sự nhầm lẫn...
Tôi tuột nhanh xuống đất, cố nén hồi hộp kể lại những điều vừa trông thấy...
Chúng tôi nhằm hướng ngọn cây lạ, hăm hở cắt rừng băng tới. Nắng đổ lửa. Mọi con vật đều chui vào bụi rậm tìm chỗ mát. Những bóng cây cũng thu nhỏ lại như muốn tránh nắng. Rừng trở nên vắng vẻ lạ thường. Trong không khí oi bức của ngày hè, chỉ còn nghe tiếng lá khô giòn vỡ rào rạo dưới chân và tiếng ve sầu rền rĩ đều đều ru vạn vật vào giấc ngủ trưa nồng. Thỉnh thoảng mới có ngọn gió từ hướng tây nam thổi tới, nhưng chỉ đủ lay động mấy cành lá trên cao.
Đi trong rừng mới biết nó không bằng phẳng như khi nhìn từ trên cao xuống. Mồ hôi trên người tôi vã ra như tắm nhưng ngay lập tức biến thành lớp muối rin rít. Cái nóng ngấm vào từng thớ thịt làm người cứ hừng hực lên.
Khoảng hai giờ chiều thì rừng thưa dần. Chen vào giữa những gốc cây là mấy vạt đất trống phủ lớp cỏ héo rũ. Phía trước đã thấy nền trời xanh thấp thoáng sau các thân cây Mọi người hối hả bước nhanh.
Ra đến bìa rừng, cả ba chúng tôi cùng đứng sững lại. Trước mắt là một cây cổ thụ khổng lồ mọc giữa bãi trống, tán lá xanh thẫm đang đung đưa trên nền trời. Chỉ nhìn phần ngọn chót vót của cái cây này cũng đủ biết nó có sức sống mãnh liệt đến nhường nào. Từ bìa rừng ra tới gốc cây là một khoảng đất rộng chừng bốn trăm mét, thưa thớt dăm bụi cây cằn cỗi mọc lúp xúp trên nền đất sỏi. Phía sau gốc cây có một triền đồi thoai thoải lơ thơ những ngọn cỏ xác xơ.
Mấy phút sau như sực tỉnh, chúng tôi rảo bước đi về phía cái cây đó. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là cây thủy tùng cần tìm. Cây mọc hơi nghiêng về hướng đông bắc, gốc to cỡ ba chúng tôi nối tay nhau cũng chưa ôm hết nửa vòng. Trên lớp vỏ màu nâu đen nứt rạn có những đám địa y bám trắng xóa. Từ lưng chừng thân cây, những nhánh cây to tướng đâm ngang vươn cành lá rườm rà che mát cả một vùng rộng. Mặt đất quanh gốc cây không mọc một ngọn cỏ nào, chỉ có vô số những chiếc lá hình kim rụng xuống lâu ngày làm thành một lớp dày êm như nệm tỏa mùi thơm hăng hắc, thứ mùi chi có ở loài tùng bách.
Anh Hùng đi quanh gốc cây, tay rờ rẫm lớp vỏ sần sùi, miệng tấm tắc: - Tôi chưa bao giờ nhìn thấy cái cây nào đẹp như thế này. Đúng là ở rừng cả đời cũng chẳng ai dám nói đã biết hết về rừng.
Còn anh Đằng thì ngửa mặt nhìn những cành lá đang rì rào trên cao, hồ hởi nói:
- Thế là yên tâm đồi, các cậu ạt Chúng ta đã đến được nơi cần đến. Chà, Sơn nó mừng phải biết... - Anh rơm rớm nước mắt.
Tôi bồi hồi lắng nghe tiếng lá reo vi vu trong gió, mắt ngóng lên đồi cỏ nhuốm nắng hoe vàng mà thấy lòng lâng lâng, người như nhẹ bổng hẳn ra. Mọi vất vả nhọc nhằn, mọi thấp thỏm lo âu biến đâu hết, chỉ còn lại niềm vui phơi phới...
Anh Đằng tuyên bố.
- Tối nay ta ngủ lại đây? Còn bây giờ phải lên trên kia xem thế nào. - Anh khoát tay, chỉ lên hướng đồi cỏ trước mặt.
Chúng tôi trút ba lô lại dưới gốc cây, xách súng háo hức đi nhanh như chạy. Từ chỗ cây thủy tùng lên tới đỉnh đồi chùng nứa cây số. Sườn đồi thoai thoải, những búi cỏ mọc lưa thưa trên nền đất mưa xói lâu ngày còn trơ lớp sỏi màu gan gà.
Đi được hơn trăm mét, tôi bỗng trượt chân khuy xuống vì giẫm phải hòn đá tròn to hơn nắm tay. Không bị trẹo chân, nhưng chiếc dép bên trái tuột hai quai cùng một lúc. Tôi đặt súng xuống đất, loay hoay xỏ quai dép. Khi mang lại nó vào chân, ngẩng đầu lên thấy hai anh đã đi trước một quãng xa.
Đang định đứng dậy chợt nghe có tiếng ù ù là lạ. Tôi tưởng có con bọ cánh cứng nào bay gần đó nên đưa mắt nhìn quanh, nhưng không thấy. Cúi xuống nhặt súng để đi tiếp, lại nghe tiếng ù rõ hơn. Một ý nghĩ lóe trong đầu làm người lạnh toát, tôi vội nghiêng người áp một bên tai xuống đất: tiếng ù dội thành tiếng phành phạch. Chết rồi, trực thăng! Chắc nó nổ máy đỗ phía bên kia đồi hoặc bay thấp sát mặt đất nên tiếng động cơ mới dội lên như vậy. Hai anh đi trước nhưng không nghe được vì gió thổi bạt tiếng động theo triền đồi lên cao. Tôi vùng dậy gào thất thanh: "Máy bay anh Đằng ơi? Quay lại, trực thăng đấy..." Đang bước nhanh, nghe tiếng tôi gào, cả hai anh dừng lại quay đầu nhìn tôi ngạc nhiên. Tôi lại thét: "Trực thăng, chạy mau..." Chưa dứt lời, tiếng động cơ đã rộ lên rõ mồn một.
Hai anh tuột súng cầm tay, quay ngoắt người chạy xuống. "Chậm mất rồi...", tôi tuyệt vọng kêu thầm. Phía trên đỉnh đồi, chiếc cánh quạt quay tít đang nhô cao dần, hằn đậm nét trên nền trời xanh lơ lửng mấy cụm mây trắng. Chỉ loáng sau, cái đầu máy bay nhô khỏi đỉnh đồi và to lên rất nhanh: một chiếc HU.1A. Nó lao thẳng lại phía tôi, mặt kính buồng lái phản chiếu ánh nắng loang loáng.
Mặt đất trống trải, không một bụi cỏ, một tảng đá nào cao quá đầu gối. Cả ba chúng tôi lồ lộ trên sườn đồi, chàng nấp vào đâu được. Tôi quỳ một chân xuống đất, giương súng nghiến răng xiết cò, bắn xả cả băng đạn vào con quái vật màu xanh xám đang lao tới. Chiếc trực thăng lạng nhanh qua trái và bốc lên cao, sức gió cánh quạt cuộn tung những lá cỏ khô. Trượt rồi! Nó đã phát hiện ra tôi ngay từ những phát đạn đầu tiên.
Tôi bật dậy, quay ngoắt người vừa lao xuống đồi vừa thay băng đạn. Phía sau, các anh đang tách ra hai hướng chạy xuống.
Chiếc trực thăng bay về phía mặt trời rồi quành lại. Tên phi công định lợi dụng ánh nắng làm lóa mắt chúng tôi, đồng thời chặn luôn hướng chạy vào rừng. Nó lao tới gần. Tôi đứng thẳng người nâng súng lên, nhưng vừa bắn một loạt ngắn đã thấy những sợi khói phụt phụt tử bên cửa hông máy bay, rồi luồng đạn đại liên cắm phầm phập ngay trước mặt. Tôi ôm súng cuộn người lăn tròn. Luồng đạn cày qua chỗ tôi vừa đứng, những cụm bụi nhỏ tung liên tiếp thành một đường thẳng lướt nhanh như lằn chớp. Chiếc trực thăng vụt qua, cái mũ màu cỏ của tên phi công ngọ nguậy trong buồng lái. Hai bên thân máy bay có gắn hai thùng hình trụ lạ mắt giống như cái đõ ong.
Tiếng AK rộ lên ở phía sau. Tôi nhỏm dậy nhìn: hai anh vừa chạy vừa bắn, chốc chốc lại lăn nhào tránh đạn. Tôi nâng súng đón chiếc máy bay đang vòng lại. Lần này nó bay cao hơn trăm mét, không dám sà xuống như trước. Tôi nhắm vào buồng lái siết từng loạt đạn dài. Biết là khó trúng nhưng không còn cách nào khác. Phải bắn rát buộc nó liên tục chao đảo tránh đạn, tạo cơ hội cho hai anh chạy. Cả ba chúng tôi cùng bắn, ba luồng đạn vụt lên vây lấy chiếc trực thăng. Nó hoảng hốt bốc lên cao và bay về hướng đỉnh đồi. Chúng tôi lợi dụng lúc ấy cùng bật dậy chạy. Chỉ cần đến được chỗ gốc cây là thoát. Tôi còn cách chừng năm chục mét, nhưng hai anh đang khá xa.
Tiếng động cơ lại rộ lên. Tôi quay người ghìm súng đợi nó đến gần hơn. Chiếc trực thăng lừ lừ bay đến, còn cao hơn cả lần trước. "À, mày sợ rồi phải không?..." Mới nghĩ thế, đã thấy hai luồng khói phụt ra từ hai chiếc "dõ ong", rồi hai cục lửa đỏ lừ vụt tới. Chết rồi! Nó phóng rốc két. Loại này lạ, tôi mới nhìn thấy lần đầu. Tôi nhào xuống ép người sát đất, một cánh tay co lên đỡ trước ngực. "Oàng...oàng", hai quả đạn nổ cách tôi vài chục mét, ánh chớp sáng lòa. Mặt đất rung lên, mảnh đạn và đá sỏi bay rào rào, khói cuộn mù mịt.
Đang lắc đầu rũ bớt đất cát thì nghe tiếng động cơ rồ tới rồi từng tràng đại liên tông tốc tóe khói xung quanh. "Thằng đểu! Nó bắn rốc két từ xa để thừa cơ áp sát..." Tôi lật người nằm ngửa trên đất, tỳ báng súng vào vai nhắm thẳng cái bóng xanh xám đang lướt tới trong làn khói, bắn từng loạt. Trong tiếng đại liên nổ chát chúa và tiếng động cơ rú đinh tai, vẫn nghe hai khẩu AK nổ giòn. Hai anh còn sống.
Tôi chỉ còn cách cây thủy tùng một đoạn ngắn, nhưng chiếc trực thăng vẫn quần riết trên đầu. Tên phi công quyết chặn không cho chúng tôi chạy tới gốc cây. Chúng tôi cũng không để nó yên. Những loạt đạn bắn rát buộc nó phải lạng lách, ngoi lên ngụp xuống liên tục, làm tên bắn đại liên không chỉnh được đường đạn. Nhiều lúc nó đang bắn, chiếc trực thăng chợt quay ngoắt làm luồng đạn vọt lên, cách xa cả trăm mét.
Lại thêm một loạt đạn cày tung đất tiến thẳng tới khiến tôi phải lăn tròn theo triền dốc. Khi tiếng động cơ vụt qua đầu, tôi bật dậy chạy thẳng tới cây thủy tùng. Một loạt đạn nữa xía ngược lại, nhưng tôi đã nép được vào gốc cây. "Mày không làm gì nổi tao đâu...", tôi nghĩ thầm, tay thay nhanh băng đạn mới.
Ngoài sườn đồi, hai anh vẫn vừa bắn vừa lăn, vừa vọt lên chạy từng đoạn ngắn. Chiếc trực thăng lại phóng thêm hai quả rốc két. Hai cột khói bụi cuộn lên như lốc xoáy. Kéo dài nữa là hai anh nguy mất! Nó có lợi thế hơn vì từ trên cao bắn xuống, hỏa lực mạnh, hai thùng rốc két mới bắn có bốn quả. Trong lúc đó tôi chỉ còn băng đạn cuối cùng. Phải dứt điểm chính xác mới mong đảo ngược được tình thế. Tôi nép vào gốc cây, rê súng theo chiếc trực thăng. Nó lại sà xuống, nghiêng sườn về phía tôi. Một tên Mỹ đen to lớn đang nhoài gần nửa người ra cửa máy bay, xoay nòng đại liên bắn như đổ đạn, lửa chớp liên tiếp đầu nòng súng. Tôi nheo mắt đưa nhanh tấm bia thật đen thui vào đường ngắm. "Chết mày này...", tôi bóp cò bình tĩnh như lúc bắn tập, chỉ điểm xạ hai viên. Tên Mỹ đen giật nảy người khuy xuống, kéo nòng đại liên chổng ngược bắn đạn lên trời. Cũng lúc đó chiếc trực thăng ngoặt lên hướng đỉnh đồi hất thằng Mỹ văng ra, xác nó lủng lẳng trên đầu dây bảo hiểm ngay bên cửa máy bay.
Từ trong đám khói bụi đang lắng xuống, hai bóng người chạy thẳng về phía tôi. Tôi mừng rỡ thét to: "Nhanh lên, các anh ơi...". Hai anh nhào tới như ngọn gió, vừa thở dồn dập vừa nhìn tôi cười. Tôi ôm chầm cả hai, hỏi nhanh:
- Các anh có sao không?
- Không sao! - Anh Đằng trả lời, đập tay vào vai tôi - Cậu bắn giỏi lắm! Chơi cú ấy được đấy.
Chưa kịp đáp, tôi chợt nhìn thấy một vệt máu đang loang ra trên vai anh, bèn kêu lên:
- Anh bị thương rồi, đưa em xem nào...
Mọi việc sau đó ập tới nhanh như cơn lốc, tôi hoàn toàn bị cuốn vào nó không cách gì cưỡng lại được. Anh Hùng đang băng lại vết thương cho anh Đằng. Viên đạn sượt qua vai nhưng ở phần mềm và không trúng mạch máu, giữ khỏi nhiễm trùng là ổn.
Phía đỉnh đồi, chiếc trực thăng đang treo lơ lửng, bọn trên máy bay vừa kéo xác tên Mỹ vào trong. Giờ nó có quay lại cũng chẳng đáng sợ. Chỉ cần khéo léo di chuyển quanh gốc cây, ba tay súng chúng tôi dư sức bắn hạ nó. "Biết điều thì quay về cho sớm kẻo hết xăng. - Tôi nghĩ - Phải công nhận tên phi công là thằng giỏi. Giữa ba nòng AK bắn rát như thế mà nó vẫn tránh được..." Khi say chiến thắng người ta thường rộng rãi, ngay cả với địch thủ của mình.
Tôi mở ba lô để lấy túi nước uống, nhưng mới rút dây buộc thì nghe tiếng phành phạch rộ lên. "Sao nhanh thế nhỉ? Mình vừa nhìn thấy nó trên kia..." Chiếc trực thăng vũ trang ào tới Tôi liếc mắt lên đỉnh đồi, thấy chiếc lúc trước giờ mới bay lại. Thôi chết? Thêm một chiếc nữa. Chiếc này bay từ hướng khác tới, ngược gió nên đến gần chúng tôi mới biết. Chắc được đồng bọn báo trước nên không cần lượn quanh dòm ngó, nó bay về hướng mặt trời, lấy độ cao và quành lại. "Cẩn thận, nó phóng rốc két đấy?", anh Đằng thét, kéo tôi nấp sau gốc cây.
"Oang...oang", phát rốc két vụt qua, nổ cách chúng tôi chừng ba chục mét. Một bưng khói đen dựng lên cùng ánh chớp. Chúng tôi nhào xuống đất, vừa kịp tránh mảnh đạn. Chiếc máy bay sạt qua, cành thủy tùng lay chuyển ào ào như trong cơn bão.
Vừa mới nhỏm dậy đã nghe tiếng đại liên nổ rền, chiếc trực thăng lúc nãy đang nhào tới. Chúng tôi vọt qua bên kia gốc cây, một loạt đạn đuổi theo bén gót. Tình thế bây giờ cực kì nguy hiểm. Chỉ cần hai chiếc kẹp hai bên bắn xuống là chẳng còn nấp vào đâu được.
Tiếng động cơ vẫn ầm ầm trên đầu. Chúng lượn quanh và bắn xối xả, đạn cắm phầm phập vào thân cây. Tôi không còn phân biệt được chiếc nào là chiếc tới trước, cũng không kịp bắn. Chúng tôi căng mắt theo dõi từng động tác của hai con quái vật trên cao và nhào hết góc này sang góc khác, khi vọt lên, khi lăn tròn trên đất tránh đạn.
Lúc này, một chiếc treo lơ lửng phía bên kia bắn xuống từng loạt ngắn, chiếc còn lại lảng ra xa và bay lên cao. Ba chúng tôi túm vào một chỗ nhìn lên. Nguy rồi! Thằng bắn đại liên đang cố dồn chúng tôi sang một phía để chiếc bên này bàn rốc két. Nó bay lên đến độ cao cần thiết rồi ngoặt lại, chúi đầu lao xuống. Một vệt lửa vút tới kéo theo làn khói thẳng băng. Chúng tôi ép người sát đất. "Oang... Oang". Quả đạn nổ trúng nhánh cây trên cao, thân cây vụt rung dữ dội. Mảnh gỗ cùng mảnh đạn văng tóe trong đám khói. Một loạt cành cây gãy răng rắc rơi ào xuống. Anh Hùng chụp tay tôi kéo mạnh, một nhánh cây to hơn cột nhà đập xuống đúng chỗ tôi vừa nhỏm dậy.
Tình thế mỗi lúc một nguy ngập hơn. Cứ thế này, tính mạng ba chúng tôi chỉ còn tính trong từng giây, cùng lắm là từng phút. Cành lá rơi um tùm quanh gốc cây, không sao xoay trở nhanh được. Tiếng anh Đằng gấp gấp:
- Phải tính cách khác, chứ không thể chết chùm với nhau ở đây...
- Để em chạy ra, kéo chúng nó theo - Tôi nói trong hơi thở hổn hển.
- Không được Cậu phải ở lại! - Anh Hùng quát.
- Hai anh ở lại. Khi chúng đuổi theo em thì chạy vào rừng.
Tôi nói cương quyết và bật người dậy, nhưng anh Đằng đã chụp tay kéo giật lại và xô tôi ngã chúi trong đám lá:
- Một người chạy ra cũng không được gì đâu. Cậu phải sống. Nấp đi? - Mắt anh long lên, sáng quác như có lửa ở bên trong.
- Hải nấp nhanh! Nó quay lại đấy! - Anh Hùng thét, mắt vẫn dõi theo vòng lượn của hai chiếc trực thăng.
Anh Đằng đẩy tôi chúi sâu vào đám lá, nói nhanh: "Cứ nằm yên may ra đánh lừa được tụi nó. Cố sống mà trở về Hải ạ? Nhớ nhé?" Dứt lời, anh xách súng vọt ra, chạy về bìa rừng phía nam.
Anh Hùng quay sang, kéo nhanh một nhánh cây phủ thêm trên người tôi, nói như dặn dò: "Cố lên Hải, đừng lo gì cho bọn mình!" Nói xong, anh nhảy qua đống lá chạy theo anh Đằng. Từ lúc quả rốc két nổ trên nhánh cây cho tới lúc anh Hùng chạy đi, chỉ trong mấy chục giây. Nhưng điều đó mãi sau này tôi mới nghĩ tới khi hình dung lại sự việc, chứ lúc ấy đầu óc tôi như bị đông cứng, tôi sững sờ không đáp lại được lời nào.
Tiếng AK nổ giòn rồi tiếng đại liên ré dằng dặc. Tôi lật bật xoay người trườn một đoạn dưới những cành tùng, tay run run vạch lá nhìn ra. Ngoài kia anh Đằng đang lao nhanh vùn vụt và liên tục đảo người đổi hướng, bỏ lại những loạt đạn cày tung bụi phía sau lưng. Mé dưới cách chừng ba chục mét, anh Hùng cũng đang chạy. Nghe tiếng súng nổ trên cao, tôi biết mới chỉ có một chiếc trực thăng bám theo. "Còn chiếc nữa đâu, hay là..." Chợt anh Hùng quay ngoắt lại, cặp súng vào nách ngửa người bắn một loạt dài. Gần như cùng lúc, một chùm đạn cắm xuống phía sau anh. Anh Hùng lộn người lăn tròn, đạn đại liên chớp nhằng nhằng xung quanh.
Tôi bật rên, chụp súng định chồm dậy, bỗng nghe anh Đằng thét lớn: "Hải nằm xuống... Phải có người sống..." Tôi cắn môi đến bật máu, cố ghìm người lại. Anh Đằng quỳ một chân trên bãi cỏ, chĩa súng bắn xả vào chiếc trực thăng vừa lao tới. Tiếng đại liên ngừng bặt, anh Hùng vùng dậy xách súng chạy tiếp. Cứ như thế, hai anh thay nhau bắn và chạy thêm được đoạn nửa, lúc này đã cách tôi khoảng trăm mét. Hai chiếc trực thăng vẫn bám theo như đỉa đói, đại liên nổ từng tràng không dứt. Vùng đồi cỏ như sôi lên trong tiếng động cơ, tiếng súng. Cát bụi, cỏ khô bay mù mịt. Tôi dõi theo hai bóng người nhỏ nhoi mờ mờ trong khói bụi, cố níu lấy một chút hy vọng dù biết là rất mong manh. Bìa rừng còn cách vài trăm mét, tài nghệ đến mấy cũng khó thoát khỏi hai khẩu đại liên bắn như phun lửa. Bọn trên máy bay đang tức giận đến điên cuồng.
Chợt tim tôi thắt lại: ngoài kia anh Đằng đang chạy bỗng đổ ập xuống, hình như một loạt đạn đã bắn trúng chân anh. Tôi run bắn người, hai tay bíu chặt xuống cỏ, cố nén những giọt nước mắt để nhìn ra. Anh Đằng vừa lật ngửa người nâng súng định bắn tiếp, nhưng những cụm khói vẫn phụt liên tiếp quanh anh. Ngay trước mắt tôi, anh giật nẩy người, khẩu súng rơi xuống ngực...
Thấy anh Đằng ngã, anh Hùng thét lên chạy nhào tới. Không được rồi! Anh chưa kịp đến nơi thì một loạt đạn găm trúng người. Khẩu súng rời khỏi tay, anh lảo đao chạy thêm mấy bước rồi gục xuống người anh Đằng... "Thế là hết..." Tôi nức nở dập đầu xuống đất, run lẩy bẩy...
Nỗi đau đớn bàng hoàng làm đầu. óc tê dại đi. Những sự việc sau đó diễn ra như một cơn ác mộng khủng khiếp. Tôi chỉ thấy trước mắt một ánh lửa chói lòa, hai thân người tung lên cùng cát bụi. Rồi những bưng khói bùng lên liên tiếp, hai chiếc trực thăng thay nhau phóng rốckét xuống chỗ hai anh vừa ngã. Người tôi nẩy theo từng chùm tiếng nổ dội đất. Khói đạn đen kịt, đất đá bay rào rào không ngớt, mùi thuốc súng nồng nặc nghẹt thở. Hai con ác thú vẫn lạnh lùng ngóc lên nhào xuống, tàn nhẫn phóng từng loạt rốc két hai quả, bốn quả... Những cục lửa đỏ lừ kéo chiếc đuôi khói trắng kèm tiếng rít sắc rợn vùn vụt lao xuống nổ cùng một chỗ.
Liên hồi những tiếng nổ lộng óc cùng sự đau đớn tột độ dìm tôi vào trạng thái gần như mê man, không còn biết những chiếc trực thăng đã bắn những quả đạn cuối cùng như thế nào, chỉ nhớ mang máng có một chiếc còn lượn vè vè quanh cây thủy tùng một vòng trước khi bay đi.
Lát sau, sự im ắng đột ngột trở lại làm tôi sực tỉnh. Tôi hất tung những cành lá trên người, chồm dậy quờ tay tìm súng rồi lao ra chỗ hai anh ngã xuống. Đến nơi, tôi khứng lại ngơ ngác nhìn quanh: tất cả chỉ còn là một bãi hố đạn nham nhở chồng chéo lên nhau, đất sỏi tơi vụn và nạm đen. Tôi rụng rời thả rơi khẩu súng, rồi như điên dại thụp xuống dùng tay cào bới lia ha hết mô đất này đến mô đất khác, đến lúc mấy đầu ngón tay tóe máu đau nhói mới sực nhớ rút dao găm đào tiếp. Mắt tôi nhòa đi từng lúc. Tất cả như mờ ảo, như không thực. Ngoài những mẩu đá, những hòn sỏi, những mảnh kim loại, trong đất không còn gì nữa...
Tôi buông dao, ngã vật xuống một hố đạn ôm mặt khóc tức tưởi. Chẳng lẽ hai con người bằng xương bằng thịt mới đó mà đã tan thành tro bụi rồi ư? Chẳng lẽ không còn một chút xương thịt nào? Cố trấn tĩnh, tôi bò lên khỏi hố đạn. Trên bãi cỏ, lổn nhổn những tảng đất đen sạm nằm im lìm dưới nắng chiều đìu hiu...
Hai tay ôm cái gói nilon nhẹ tênh, tôi ngửa mặt nhìn trời uất ức. Trong gói là những gì tìm thấy trên bãi cỏ: mấy mảnh thịt nát bấy, bầm máu và đen kịt thuốc súng, nửa chiếc dép cao su cháy sủi, một đoạn nòng AK cong queo. Tôi muốn gào thét, muốn chụp súng bắn, muốn đập phá, muốn làm một việc gì đó cho uất hận vơi bớt đi, trào bớt đi... Nhưng bắn vào cái gì? Đập phá cái gì? Đầu óc quay cuồng như sắp nổ tung, cánh rừng trước mặt nghiêng ngả, những cụm mây trắng xoay tít quanh mảng trời xanh, muôn ánh chớp lóe lên biến thành những mũi kim đâm buốt nhói trong óc. Cái gói trên tay rung bần bật...
Một tia nhỏ lý trí len lỏi trong những ý nghĩ cuồng loạn báo cho tôi biết mình đang mấp mé bờ vực của trạng thái suy sụp tâm thần. Tôi cố hít những hơi thở sâu nhưng không khí chỉ lọt vào phổi từng ngụm sau mỗi tiếng nấc...
Mặt trời sắp lặn, bóng cây thủy tùng ngả dài trên bãi cỏ Tôi loạng choạng bước xuống hố đạn sâu nhất rút dao vào đào mãi, cho đến khi không dùng tay móc đất lên được mới thôi. Ôm cái gói gượng đặt nhẹ xuống đáy hố, nước mắt tôi rơi lã chã trên những mảnh thi thể của hai người anh, hai người đồng đội.
Hoàng hôn nhuộm bầu trời tím sẫm. Bóng tối lấp ló sau những gốc cây nơi bìa rừng. Ngọn gió từ hướng tây nam thổi nhẹ tới, xua bớt mùi thuốc súng trên bãi đất chết chóc. Tôi tựa súng vào vai ngồi im hai bên nấm mộ đơn sơ, không còn biết đêm xuống từ lúc nào, mãi đến khi sương thấm ướt lạnh cả người mới nhận ra ánh trăng đang soi bóng mình đổ dài qua hòn đá đặt trên mộ.
Đờ đẫn như người mất hồn, tôi chống súng đứng dậy thất thểu đi tới cây thủy tùng. Màn sương trắng đục làm ánh trăng mờ đi nhưng cũng đủ sáng để giúp tôi mò mẫm tìm mấy chiếc ba lô trong đám cành lá. Tôi vun một đứng lá khô rồi nằm xuống, kéo tấm võng đắp lên người, ôm vào lòng mấy chiếc ba lô còn vương mùi mồ hôi quen thuộc và lịm đi...
Đến gần sáng, chợt thức dậy vì thấy lạnh buốt, tôi quờ tay xung quanh nhưng chỉ sờ thấy những chiếc ba lô lúc này cũng lạnh giá. Ngơ ngác hồi lâu mới nhớ lại những sự việc xây ra trước đó, nỗi đau đớn lại ập tới cùng với sự trống vắng đến tàn nhẫn làm tôi nghẹn thở. Giờ chỉ còn lại mình tôi giữa rừng... Trăng đã lặn. Mọi vật chìm trong sương mờ mớ ảo ảo. Tôi quấn tấm võng ướt lên người, co ro ôm súng ngồi chờ trời sáng.
Chương X
Chim vẫn vô tư hót ríu ran trong rừng và nắng chan hòa trên đồi cỏ. Vùng đất hoang sơ, nơi từ ngàn xưa đến nay chưa từng có dấu chân người, vẫn thanh bình êm ả như không hề đếm xỉa gì đến việc bàn tay tử thần của chiến tranh vừa vươn tới, mà dấu vết của nó còn hằn rõ trên những hố đạn cày đất nham nhở.
Tôi tìm những hòn đá rải rác trên bãi cỏ vác về xếp thành hình tháp trên mộ. Nếu bọn giặc tới chúng sẽ biết có người còn sống, người chết không thể tự đắp mộ cho mình. Nhưng có sao đâu! Phải có dấu tích ghi nhớ nơi các anh ngã xuống. Kẻ thù tàn nhẫn muốn các anh tan thành tro bụi, nhưng tại đây cái chết gắn liền với sự bất tử.
Tôi đang gắng bình tâm trở lại. Sáng nay ra ngồi bên mộ từ lúc trời mới rạng, tôi nghĩ tới những lời cuối cùng của hai anh: "...Phải sống mà trở về Hải ạ!... Đừng lo gì cho bọn mình..." Lời anh Đằng như dỗ dành, giọng anh Hùng bình thản. Không! Không thể để cho sự hy sinh của các anh trở nên vô ích! Câu anh Đằng nói như một lời thề sau cái chết của anh Sơn tôi còn nhớ mãi! Những đau đớn xót xa cùng hoàn cảnh hiện tại rất dễ đẩy tôi chìm trong bi quan tuyệt vọng. Phải nghĩ đến công việc, phải làm bằng được những gì mà các anh ấy tin cậy.
Tôi khoác súng đứng hồi lâu bên mộ. Mặt trời lên cao, nắng hun nóng dần lưng áo. Trên thân cây thủy tùng chỗ quả rốc két bắn trúng, đứng từ đây cũng nhìn rõ những thớ gỗ toác ra xơ trắng, nhưng cây vẫn vươn cao sừng sừng và tán lá xanh mướt đang rì rào gọi gió. Những vết thương trên mình không ngăn nổi sức sống mãnh liệt của loài cây đã bám rễ vững chắc trong đất.
Ngày tháng trôi đi, mưa gió sẽ lấp đầy những hố đạn cho cỏ mọc lên, cây thủy tùng sẽ ứa nhựa để liền sẹo những vết thương trên mình nó. Còn tôi, tôi biết rằng ký ức về những ngày vừa qua sẽ không bao giờ phai... Hai anh đã giành lấy cái chết về mình để cho tôi được sống. Chẳng bao giờ các anh còn trở lại với những cánh đồng lúa mênh mông, với thác ghềnh con sông Đà hùng vĩ, với xóm nhỏ bên ga xép, nơi mà tiếng còi tàu đêm đêm vẫn luôn là nỗi nhớ khôn nguôi trong lòng người đi xa... Hai người lính can trường và nhân hậu đã từng gắn bó những năm tháng đẹp nhất của đời mình với núi rừng, giừ đây các anh mãi mãi nằm lại giữa lòng rừng già.
Không thể nấn ná mãi được. Trực thăng có thể xồ tới bất cứ lúc nào, mà tôi đang cần phải sống hơn bao giờ hết. Tôi cúi nhặt một mảnh đạn đặt lên mộ rồi lặng lẽ bước đi. Trên cao, ngọn thủy tùng vẫn vi vút trong gió, tựa như cây bút lông khổng lồ đang viết lên trời xanh những dòng sử bi thương và hùng tráng.
Tôi tỉnh dậy, người nóng hầm hập, mồ hôi toát ra đầm đìa. Thì ra một giấc mơ. Bàn tay lạnh giá của cô bạn gái trong giấc mơ lúc này chỉ là mảnh võng ướt đẫm sương đêm dính bết vào trán. Tôi đang sốt. Hồi chiều, lúc định leo lên cây để quan sát khu đồi cỏ, tôi đã thấy người nóng ran, chân tay rã rời. Tôi vội mắc võng trên một thân cây có tán lá rậm rồi thả người nằm xuống và thiếp đi mê man...
Không biết bây giờ là mấy giờ? Chắc khuya lắm rồi vì trăng đã xế. Ánh trăng rọi loang lổ trên võng. Người tôi vẫn nóng hâm hấp, đầu nhức buốt. Mong sao không phải sốt rét. Mùa này ít bị sốt rét và lâu nay tôi uống thuốc phòng đều đặn. Chắc chỉ là cảm sốt hoặc do cơ thể phản ứng với những mệt nhọc căng thẳng quá mức chịu đựng. Chúng tôi không mang theo thuốc cảm. Khi có anh Hùng thì đó chỉ là chuyện vặt Còn bây giờ... Mà giấc mơ vừa rồi lạ lùng quá, nó làm tôi nhớ tới bạn bè. Chẳng ai ngờ được giờ này tôi đang nằm một mình giữa rừng hoang... Những ý nghĩ cứ lộn xộn trong đầu một lúc nữa, rồi tôi lại thiếp đi.
Sáng dậy, cơn sốt đã dứt nhưng đầu nặng trịch. Để nguyên võng và ba lô trên cây, tôi gắng gượng khoác súng ôm thân cây tuột xuống. Lần được tới khe, tôi vốc nước rửa mặt. Nước khe ban mai lạnh buốt làm người tỉnh táo hơn. Thấy đỡ chóng mặt, tôi đứng dậy nhặt một ôm cành khô và nhằm hướng ngôi mộ đá đi tới.
Mặt trời đã lên nhưng bãi cỏ vẫn mờ trong sương, vắng lặng đến rợn người. Tôi đến bên mộ xếp củi đốt đống lửa nhỏ rồi bó gối ngồi lặng lẽ, mắt đăm đăm nhìn những hạt sương đọng trên đá chảy thành dòng như nước mắt.
Khi nắng xua hết sương, tôi đi lên sườn đồi nơi hôm trước bắn nhau với trực thăng tìm nhặt những băng đạn nằm rải rác trên cỏ, mong kiếm được vài viên sót lại khi thay băng vội giữa hai loạt bắn. Nhưng tôi đã thất vọng. Hơn chục hộp băng tìm thấy đều rỗng khỏng. Tôi tần ngần xếp chúng lên trên mộ, lòng nặng trĩu lo âu. Hôm qua kiểm tra lại súng thấy chỉ còn mười hai viên đạn, mà tôi cứ ngỡ băng đạn còn gần đầy vì mới bắn có hai viên vào thằng Mỹ đen. Mãi sau mới nhớ đây là băng đạn đã bắn hôm anh Hùng bị trăn quấn, lại còn dùng mấy lần khi đi săn. Một mình với mười hai viên đạn giữa rừng núi hoang sơ này? Có thể gặp địch? Có thể gặp thú dữ? Lấy gì săn bắn kiếm ăn? Nỗi lo lắng làm tôi bải hoải cả người...
Tôi chất thêm củi cho lửa cháy tiếp rồi đi vào rừng. Khi ngang qua gốc thủy tùng, chợt trông thấy vật gì sáng lấp lóa dưới đống cành lá héo rũ, tôi gạt nhánh cây ra, nhặt lên được chiếc ống nhòm. Mừng cuống quít, tôi hồi hả bươi đống lá, tìm thêm được cây dao rừng. Cầm cả hai thứ trên tay, tôi rưng rưng nước mắt. Những vật này từng gần gũi với chúng tôi suốt chặng đường dài, lúc này lại càng quý giá hơn.
Về đến chỗ mắc võng, tôi đem hành lý ra sắp xếp lại. Tay tôi run run khi lần mở hai chiếc ba lô quen thuộc. Đồ đạc của các anh cũng giống như tôi: võng, màn, tăng, túi phao bồi, quần áo, bộ quai dép... Trong ba lô anh Đằng có một chiếc lọ thủy tinh nhỏ đựng chừng vài chục viên đá lửa, hai cuộn chỉ, mấy cây kim. Còn trong ba lô anh Hùng có mấy lưỡi câu cùng cuộn dây cước. Tôi mừng rơn khi tìm thấy dưới đáy ba lô bao muối hầm loại một kí còn nguyên chưa bóc. Những tài sản các anh để lại thật vô giá, là nguồn sống giúp tôi bước đầu tự lập nơi hoang dã. Tôi nhẩm tính thấy mình có tất cả bốn bao gạo sấy, mười phong lương khô, hai bi đông mật ong và hơn hai kí muối. Chừng đó thứ đủ để sống nhiều ngày trong rừng.
Nhìn qua ống nhòm, vùng đồi cỏ hiện ra rõ mồn một. Chiếc lá màu vàng trên bức không ảnh hôm nào, giờ là những nếp đồi thoai thoải lượn sóng chạy dài khoảng năm cây số, nơi rộng nhất chừng ba cây. Bao quanh vùng đồi là rừng. Phía đông và phía nam không nhìn thấy ngọn núi nào nhô lên, chứng tỏ thềm đất này cao vượt hẳn so với vùng núi non bên dưới. Phía tây có những đỉnh núi nhấp nhô, ngọn núi gần nhất cũng cách chừng bảy cây số. Còn phía tây bắc và phía bắc có một dãy núi không cao lắm uốn hình vòng cung ôm lấy dải rừng rộng khoảng bốn cây số giáp với vùng đồi cỏ. Như vậy vùng này không phải có dạng thung lũng như nhận định của các chuyên viên.
Tôi ngồi trầm ngâm suy nghĩ, chưa biết nên làm gì. Đúng ra phải đi tìm ngay một nơi thuận lợi để ở lại nhiều ngày, nhưng những chiếc trực thăng cứ ám ảnh trong đầu tôi. Cuộc đọ súng hôm trước có phải là sự sắp đặt tính toán trước của kẻ địch? Không chắc! Ngay cả chúng tôi cũng không biết mình sẽ đặt chân đến đây lúc nào. Vậy không phải một ổ phục kích mà chỉ là cuộc chạm trán ngẫu nhiên. Nhưng đâu là nguyên nhân của sự ngẫu nhiên ấy? Trực thăng bay tới vùng đất này để làm gì? Có phải chúng cùng mục đích như chúng tôi, một tình huống mà lúc giao nhiệm vụ, anh Hai Nguyên đã nói tới? Còn chiếc thứ hai chỉ kịp đến sau mấy phút? Nó đang bay gần đó được đồng bọn gọi tới chứ không phải xuất phát từ căn cứ. Liệu chúng còn trở lại? Có thể như vậy? Hay chúng đã đổ xuống một toán thám báo? Cũng không loại trừ. Cần phải cảnh giác hơn bao giờ hết... Suy nghĩ mãi rồi tôi cũng quyết định: mấy ngày tới sẽ lùng sục trong khu rừng phía bắc, nơi có tọa độ tìm kiếm. Trước hết là xem xét địa hình và tìm xem có dấu vết gì của một cuộc đổ bộ, rồi mới tính tới chuyện khác. Còn làm như thế nào để tìm ra vỉa quặng, sau hẵng hay...
Ba ngày sau, tôi lần tới góc tây bắc vùng đồi cỏ lúc gần tắt nắng. Đứng ở đây có thể nhìn rõ cây thủy tùng bằng mắt thường, còn qua ống nhòm thấy được cả những hòn đá xếp trên mộ. Tôi bùi ngùi nhìn ngôi mộ cô đơn đang sẫm lại trong hoàng hôn, cảm thấy sự lạnh lẽo nơi lòng đất dưới mộ thấm vào cả lòng mình.
Sắp tối rồi, phải tìm nơi nghỉ lại Ngoài bãi trống cách bìa rừng gần trăm mét, có một cây cổ thụ trông giống cây đa đầu làng thường thấy ở những vùng quê dưới xuôi. Chắc vì mọc ở chỗ trống trải nên cây không cao lắm nhưng tán lá xòe rất rộng, có dễ đủ cho cả đại đội ngồi nghỉ dưới bóng râm của nó. Cái dáng cây gần gũi gợi nhớ đến nỗi tôi quyết định đi ra đó tìln chỗ mạc võng.
Băng qua bãi đất trơ trọi, tôi đến bên gốc cây. Không dễ gì leo lên được vì thân cây to quá. Nhưng ngay bên cạnh chỉ cách năm mét, có một cây khác to chưa đầy vòng ôm mọc thẳng tắp cao vọt lên khỏi tán cây cổ thụ, thân nó đầy những mấu cành gãy rất dễ leo. Cây này đã chết khô, phần ngọn cụt bong vỏ trắng mốc. Chắc nó bị sét đánh vì tôi thấy vết gãy nạm đen. Tôi ôm thân cây khô leo lên dễ dàng, rồi chuyền sang cành cây cổ thụ để mắc võng. Mới sẩm tối mà sương đã mờ mờ trên vòm lá. Đêm nay sẽ lạnh lắm đây! Từ hôm còn lại một mình, tôi chưa dám đốt lửa lần nào ở nơi nghỉ. Đống lửa giữa rừng có thể xua đuổi thú dữ, chống lại cái lạnh buốt da thịt lúc nửa đêm về sáng, nhưng dễ bị bọn thám báo phát hiện nếu chúng đang có mặt ở vùng này.
Gần ba ngày qua tôi lần mò trong khu rừng phía bắc, vào đến tận chân núi. Những gì trông thấy đều khẳng định tôi là người đầu tiên đặt chân đến đây. Đang mùa nắng nóng, lại ở trên độ cao này nên rừng ở đây khô ráo và có vẻ thưa hơn các nơi khác. Những lùm cây bụi, cây dây leo đều rũ lá, còn cỏ và dương xỉ thì úa đi bởi hơi nóng từ đất bốc lên. Nền rừng phủ đầy lá khô, đôi nơi có vài tảng đá nhô lên, đều là loại đá bazan trắng xám và rất cứng mà thời gian và mưa gió đã làm chúng gần như nhẵn nhụi. Tất nhiên tôi chẳng nhìn thấy mạch vàng nào. Đi qua một vùng rừng rậm dài bốn cây số và rộng cũng gần chừng ấy trong chưa đầy ba ngày, thì còn hơn cả "cưỡi ngựa xem hoa".
Điều băn khoăn lớn nhất bây giờ vẫn là: kẻ địch hiện đang có mặt ở đây hay không? Phải trả lời được câu hỏi đó mới có thể làm những việc khác. Không thể chỉ ăn mãi lương khô, mà cũng đâu còn nhiều! và mưa nắng cùng cái lạnh buốt ban đêm của núi rừng ở độ cao gần hai ngàn mét sẽ nhanh chóng làm tôi kiệt sức. Mùa mưa không còn xa nữa, cần phải có một mái che, một bếp nửa, phải tìm kiếm thức ăn trong rừng... Những ý nghĩ rối bời làm tôi thao thức mãi. Đêm cô độc giữa rừng dài như vô tận.
Tôi treo ba lô lên cây rồi xách súng đi vào rừng để khảo sát khu vực quanh đây tìm chỗ thuận lợi dựng lều, đồng thời kiếm ít thức ăn. Loanh quanh đến nửa buổi vẫn không tìm được nơi nào vừa ý, trước hết là do không có nguồn nước. Tôi cũng kiếm được mấy dây củ mài và dùng dao để đào. Gặp mùa khô nóng đất cứng như đá, đào đến bong da tay mà chỉ moi được một hố nhỏ. Còn cái giống củ rừng quý báu có thể nuôi sống người thì như đã chui xuống tầng đất sâu để tránh nắng. Thất vọng, tôi đành tay không trở về.
Đứng dưới gốc cây, tôi do dự hồi lâu, nửa muốn đi tìm chỗ trú, nửa định đi quanh vùng đồi cỏ xem có dấu vết của bọn thám báo hay không.
Lúc này đã gần trưa. Nắng bắt đầu đốt nóng lớp đất sỏi làm những lá cỏ vốn đã héo úa nay càng quắt lại. Trước mặt tôi hơn trăm mét về hướng đồi cỏ có một quả đồi chắn ngang tầm nhìn, sườn đồi lác đác những tảng đá đen sạm trông như đàn lợn rừng nằm phơi nắng. Dưới chân đồi là cái khe cạn, lòng khe trơ toàn đá sỏi, nhưng khúc phía dưới hình như vẫn còn nước vì cây hai bên bờ xanh um. Tôi cầm túi phao bơi băng qua bãi trông đi xuống, hy vọng sẽ kiếm được nước ở đó. Sáng nay toàn gặp những điều không may! Đúng là đoạn khe đó có vũng nước nhưng nó vừa cạn, chỉ còn lại lớp bùn sền sệt bên dưới mấy tảng đá.
Tôi chán nản quay lên. Mới đi được mươi bước thì đột ngột, tiếng động cơ phành phạch rộ lên ngay phía sau. Tôi kinh hoàng ngoái lại, thấy một chiếc HU. 1A lừng lững vọt qua đỉnh đồi, bóng nó lướt vùn vụt trên những tảng đá nơi sườn dốc. Không kíp nghĩ ngợi gì nữa, tôi co chân chạy như tên bắn. Chiếc trực thăng vụt qua. Và chừng như phát hiện ra, nó chững lại rồi lượn nửa vòng, đắc thắng bay về phía tôi. Bên hông máy bay, nòng đại liên nhăm nhăm chúc xuống.
Tôi vừa ngoắt người chạy sang phải thì tiếng súng đã nổ toang toác, loạt đạn chụp xuống phía sau. Chỉ cần chậm một tích tắc là đạn găm trúng người. Vừa lao nhanh vùn vụt tôi vừa quay người đảo hướng liên tục. Luồng đạn lúc đuổi theo bén gót, lúc cày tung bụi bên phải, bên trái. "Trúng này... trúng...", tôi căng người đón cảm giác nhói đau khi bị đạn găm, trong lúc chân vẫn guồng nhanh như máy. Chưa bao giờ tôi chạy nhanh được đến thế. Như một con nai lúc bị con cọp đuổi theo, nỗi kinh hãi đến tột độ đã huy động tất cả sức lực tất cả lý trí tất cả giác quan, giúp tôi phản xạ chính xác lúc luồng đạn đuổi tới. Đích là gốc cây cổ thụ, nơi gần nhất và duy nhất có thể nấp tránh đạn. Tiếng động cơ rú như điên dại ngay trên đầu, cái bóng trực thăng đen ngòm lướt đè qua người tôi. Đại liên vẫn ré dằng dặc, đạn cắm tóe bụi thành đường ngoằn ngoèo trên đất sỏi, nghe có cả tiếng chiu chíu bên tai. Thoáng trước mắt vệt bóng râm của cây. Sắp thoát rồi! Đang chạy, tôi đảo người lao thẳng đến gốc cây. Luồng đạn đuổi theo chém rào rào trên vòm lá. Chiếc trực thăng sạt qua thốc gió cuộn cành lá nghiêng ngả. Tôi nép vào gốc cây há mồm thở dồn dập, chân khuy xuống lẩy bẩy, phần vì mệt, phần vì mừng rỡ.
Con quái vật đã quành lại. Nó vè vè lượn quanh, bắt đầu bắn xuống từng loạt ngắn như muốn thúc con mồi chạy ra. Cái khối xanh xám lừ lừ lướt qua kẽ lá. Nó sẽ không bỏ cuộc. Nó đang tức điên lên vì vuột mất con mồi tưởng đã mười mươi trong tay. Tôi cố gắng điều hòa hơi thở, mắt không rời khỏi vòng lượn của nó, chân tự động men quanh gốc cây tránh đạn. Không như cây thủy tùng, cây này thấp và tán rộng, che kín hơn.
Chiếc trực thăng lảng ra xa: nó sắp phóng rốc két. Cảnh giác buôn buốt rợn lên chạy dọc cột sống, tôi co cứng người nép mình vào gốc cây chờ tiếng đạn rít, y như hôm trước bên gốc thủy tùng.
"Như hôm trước?", người tôi vụt nóng rực, trong đầu ngùn ngụt lửa giận.
"Oang... oang", hai phát rốc két nổ chát chúa làm bùng lên hai cột khói lửa cùng cát bụi và mảnh đạn. Tôi nghe và nhìn thấy tất cả, nhưng không mảy may bận tâm. Đầu óc bừng bừng mà tôi tỉnh táo hơn bao giờ hết. Những tiếng rào rào vừa dứt, tôi nhỏm dậy khoác chéo súng sau lưng, nhảy ba bước tới bám thân cây khô thoăn thoắt trèo lên. Chiếc trực thăng lướt qua ngọn cây, động cơ rồ đinh tai. Lúc gần chui ra khỏi vòm lá, tôi ngồi lại bình tĩnh hít một hơi dài, tuột súng cầm ở tay. Đưa mắt dõi theo đối thủ, tôi biết nó sẽ lượn tới để xem kết quả loạt rốc két. Nhánh cây khô ngay trên đầu, chỉ một cú nhún là tôi bật người lên đó không mấy khó khăn, nhưng phải tính vòng lượn của nó thật chính xác.
Tiếng phành phạch lại dội tới, cành lá xung quanh vật vã tơi bời. Đã đến lúc! Hoặc bây giờ, hoặc không bao giờ cả! Tôi bật dậy, trong chớp mắt đã đứng vững hai chân trên nhánh cây khô, lưng dựa vào đoạn thân cây tróc vỏ cụt ngọn. Luồng gió cánh quạt thốc tới ép người tôi vào thân cây nên càng vững. Chiếc trực thăng đang nghiêng sườn về phía tôi, gần như đối diện qua vòm lá. Tôi lạnh lùng nâng súng lên, cùng lúc tên phi công ngoảnh sang và nhìn thấy. Mặt nó nghệt ra, vì kinh ngạc chứ không phải hoảng sợ, nó chưa kịp sợ. Không ngờ tới việc đối thủ dám leo lên cao để đối mặt, nó đã quá chủ quan khi sà xuống thấp và bây giờ phải trả giá, không phải cho sự chủ quan mà cho tất cả những gì nó và đồng bọn đã gây ra cho tôi, cho đồng đội tôi. Qua đường ngắm, tôi thấy tên phi công quờ tay định làm động tác gì đó, nhưng muộn rồi! Tôi nhẹ nhàng siết cò, xả hết tất cả những viên đạn còn lại vào nó, vào bóng người phía sau nó, và biết chắc chắn trúng đích. Khi dồn hết tinh lực vào đường đạn, người xạ thủ cảm nhận được viên đạn trúng đích ngay lúc bóp cò.
Mọi việc còn lại diễn ra như trong một đoạn phim hoạt họa: tên phi công ngất đầu trên ghế lái; chiếc trực thăng theo đà bay tới, chòng chành chao đảo, nhưng lần này không phải trổ tài tránh đạn mà là để chúc đầu lao thẳng xuống mé rừng. Nó va vào hết cây này đến cây khác rồi đâm sầm xuống đất, cánh quạt chém lá bay tơi tả, một vạt cây rừng rung chuyển dữ dội, động cơ còn gắng lạch phạch vài tiếng nữa rồi mới câm hẳn.
Tôi nín thở chờ một ánh lửa bùng lên kèm theo tiếng nổ, nhưng... Không có gì cả! Cây cối trở lại yên tĩnh như không hề biết đến một cuộc đọ súng quyết liệt vừa xây ra, không hề có những tiếng nổ, tiếng gẩm rú phát ra từ những sản phẩm của nền văn minh cơ khí vốn xa lạ với bản chất hoang dã của rừng.
Chợt thấy toàn thân bủn rủn, tôi phải vòng tay ôm cứng lấy thân cây khô mới khỏi ngã. Mệt nhọc và căng thẳng của trận quyết đấu đã vắt kiệt những giọt năng lượng cuối cùng trong người. Chật vật mãi tôi mới xuống được mặt đất.
Nằm vật bên gốc cây, tôi mở nắp bi đông đưa lên liệng uống một ngụm mật ong. Không thể uống nhiều được, lúc này mà say đứ đừ ra đây là chết.
Lát sau thấy người đỡ run, tôi nhỏm dậy tay súng tay ba lô xách chạy vào rừng.
Giờ đến lúc phải kiểm tra lại chiếc máy bay vừa rơi. Tôi rút dao găm cũng là lưỡi lê AK cắm lên đầu súng, đi men mé rừng tới chỗ nó. Con quái vật đã từng săn đuổi tôi một cách hả hê nay nằm chết gục, câm lặng. Trước khi đâm xuống đất, nó còn để lại những vết thương toác ra trên những thân cây, chém gãy một loạt cành lá và đè nát đám dương xỉ. Đầu máy bay móp méo, mặt kính buồng lái nứt rạn, một đoạn cánh quạt văng xa đến hơn chục mét, đuôi đứt rời chỉ còn dính với thân bằng những thứ dây dơ bằng nhằng. Một bên càng của nó cong vênh lên và gãy làm mấy khúc. Nó không bốc cháy là chuyện lạ và cũng là may mắn cho rừng.
Tôi đứng lặng người bởi trạng thái xúc cảm đột ngột chuyển từ đối cực này sang đối cực khác. Sau những choáng ngợp vì căng thẳng, niềm vui chiến thắng bây giờ mới nở bừng. "Các anh ơi, em đã trả được mối thù..." Nước mắt tôi trào ra...
Trong máy bay có ba xác chết. Xác tên phi công còn ngồi trên ghế lái nhờ có dây an toàn giữ lại. Người nó lỗ chỗ vết đạn, máu đọng thành vũng bên dưới ghế lái, chiếc mũ phi công màu cỏ vẫn đội trên đầu. Bên cạnh, một tên khác chết gục xuống ghế, tay ôm khẩu ARI5. Chỉ nhìn qua, tôi biết hắn cũng dính đạn AK. Còn thằng bắn đại liên lưng đeo khẩu M.4 đang nằm vắt nửa người ngoài cửa máy bay, một dòng máu ứa ra bên mép chảy nhỏ giọt xuống cỏ. Trên người tên này không có dấu đạn, hắn chết do bị va đập. Bên cạnh hắn, khẩu đại liên chổng nòng lên trời, thùng đạn bắn dở còn gắn trên súng.
Tôi nâng xác tên bắn đại liên, gỡ khẩu M.4 ra khỏi người nó và gỡ luôn thắt lưng đạn đeo vào người. Kiểm tra lại súng thấy băng đạn còn đầy nguyên, tôi giật khóa nòng vài lần cho quen tay rồi lắp lại băng, khoác súng lên vai thở phào nhẹ nhõm. Giờ khỏi lo thiếu vũ khí. Loại súng này chẳng xa lạ gì với tôi, nó lại gọn nhẹ, rất thích hợp khi sử dụng trong rừng.
Tôi kéo cả ba cái xác xuống đặt ngay ngắn trên cỏ. Khẩu AR15 có kính ngắm làm tôi vô cùng thích thú, thứ kính ngắm này là ước mơ của mọi xạ thủ. Hai khẩu tiểu liên lại bắn cùng loại đạn, rất tiện. Khi mở xem băng đạn thấy đã vơi quá nửa, tôi ngửi nòng súng: có mùi khét. Thì ra nó là kẻ đã tạo ra tiếng "chiu chíu" bên tai khi tôi bị săn đuổi giữa bãi trống.
Dù đang phấn chấn với chiến thắng và nôn nóng muốn biết xem mình còn thu được những chiến lợi phẩm gì, nhưng tôi không quên rằng kẻ thù có thể ập tới bất cứ lúc nào. Bài học bên cây thủy tùng còn nóng hổi. Tôi gỡ bao súng ru lo của tên phi công đeo vào thắt lưng, bỏ mấy băng đạn vào ba lô, rồi ôm khẩu AK và khẩu AR15 đem đi giấu. Mọi việc đều sẵn sàng để nếu có động sẽ chạy luôn vào rừng.
Những thứ tìm thấy sau đó khiến tôi hết sức ngạc nhiên và mừng rỡ: trong khoang máy bay có hai thùng đạn đại liên còn đầy nguyên, và một thùng cỡ nhỏ hơn đựng những hộp đạn AR15 vàng chóe, loại hộp giấy cứng có ghi số lượng năm mươi viên bằng tiếng Anh. Lại một thùng hai mươi quả lựu đạn; hai thùng giấy đựng những gói khẩu phần ăn dã chiến; một thùng gỗ đựng vài chục hộp thịt loại nửa kí. Trong góc sàn máy bay có một bó quần áo rằn ri còn mới, khoảng chục đôi giày lính cao cổ đế cao su màu đen. Tôi còn tìm thấy một cuộn vải nhựa màu ngụy trang loang lổ dùng để căng lều và một bó pôngxô, thứ áo mưa rất tiện lợi của lính ngụy.
Ngẩn người nhìn đống chiến lợi phẩm ngổn ngang, tôi lúng túng chưa biết phải làm gì. Đúng là của trên trời rơi xuống", theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Có nằm mơ tôi cũng không dám mơ được như thế. Lát sau, tôi quyết định bỏ thêm vào ba lô mấy hộp thịt cùng một số túi khẩu phần ăn, vác thùng lựu đạn và thùng đạn tiểu liên đi giấu nơi khác. Những thứ còn lại... thôi thì cứ tạm để tại chỗ. Chiếc máy bay nằm khuất dưới tán cây, chỉ cần ngụy trang chút ít là ổn. Tôi kéo mấy nhánh cây gãy đem giấu trong bụi rậm. Đám cành lá này lúc héo dễ gây sự chú ý cho bọn trực thăng nếu chúng đi tìm. Cẩn thận hơn, tôi dùng dây rừng níu cành cây xung quanh xuống che trên xác máy bay. Giờ chỉ có đi dưới đất, mà phải tới gần, mới phát hiện ra.
Nắng đã xế. Những công việc trên làm mất khá nhiều thời gian. Chợt nhớ tới chiếc đồng hồ trên cổ tay viên phi công, tôi tới gỡ ra, thấy đã hai giờ. Ngần ngừ một lúc, tôi đeo luôn nó vào tay. Đồng hồ bây giờ rất cần. Chiếc "pônzốt" của tôi bị hỏng lúc ngồi trên xe đi từ Bãi Hà.
Đói đến muốn xỉu. Tôi xách súng và ba lô đi tránh sang nơi khác để khỏi nhìn thấy những xác chết, rồi mở một hộp thịt. Vừa ăn, tôi vừa nghĩ tới việc khó xử nhất: đó là mấy cái xác kia. Chôn hay không chôn? Nhớ lại cảnh hai chiếc trực thăng ngoi lên nhào xuống, những quả rốc két đỏ lừ, hai xác người tung lên, những chùm tiếng nổ... Cổ họng nghẹn lại, tôi bỏ hộp thịt ăn dở xuống đất, chợt lợm giọng như ngửi thấy mùi tanh của máu, mùi khét lẹt của thuốc súng... Đúng! Tôi có quyền không chôn mấy cái xác kia vì những gì chúng đã làm khi anh Đằng và anh Hùng ngã xuống. "Ừ, cứ cho rằng chúng là lính, đánh nhau thì phải có người chết, chiến tranh là thế! Nhưng hành hạ những người đã chết, bắn vào họ hàng chục quả đạn đến tan xương nát thịt, thử hỏi chúng có còn là con người nữa không?..."
Tôi uể oải chống súng đứng dậy, đi ra chỗ máy bay rơi. Ba cái xác nằm trên cỏ. Viên phi công trạc tuổi tôi, ve áo có hai bông mai, vết máu trên chiếc áo pilốt giờ đã đen sẫm lại. Kẻ bên cạnh trông già hơn, đeo hàm thượng sĩ, thằng này đã nhắm bắn tôi bằng khẩu AR15. Tên bắn đại liên là hạ sĩ, mặt còn non choẹt, ruồi nhặng đang bu đầy trên dòng máu rỉ ra bên mép. Lúc này chúng chỉ là ba cái xác không hồn. Không biết khi xả súng vào tôi, vào một con người nhỏ bé đang chạy cuống cuồng trên bãi trống, chúng có nghĩ gì không? Có phải đây là một trong hai chiếc đã tấn công chúng tôi hôm trước? Ở hai thùng rốc két mới có hai lỗ trống, nhưng cái đó không nói lên được điều gì? Trên khúc đuôi máy bay gãy rời có dấu đạn sượt qua. Dấu đạn chứ không phai vết va đập vì nó cày xước lớp vỏ đuyara của máy bay. Sáng nay tôi chỉ bắn vào buồng lái? Lại còn cái cách vòng lượn, săn đuổi của nó? Thế là rõ rồi!
Tôi bước tới lục trong người ba cái xác lấy ra một mớ giấy tờ và xem qua mấy tấm thẻ quân nhân. Viên phi công tên Trà, Nguyễn Tiến Trà, hai mươi lăm tuổi. Viên thượng sĩ tên Lộc, còn tên lính trẻ là Tình. Mỗi tên đều đeo trên cổ tấm lắc bằng inoc có ghi tên tuổi, số lính... Những cái tên cũng bình thường, vẫn gặp đâu đó trên đất nước này.
Nhìn lũ ruồi nhặng đang vo ve quanh mấy cái xác, tôi chợt chạnh lòng. Dù là kẻ thù, nhưng giờ đây khi đã chết, họ lại là những con người, những trai tráng cùng thế hệ với tôi, chỉ hơn kém nhau vài tuổi... Họ cũng có một gia đình ở đâu đó có một mái nhà nơi làng quê hay góc phố, có những người thân đang chờ họ. Chỉ đêm nay thôi, những con thú ăn thịt sẽ mò tới... Tôi sẽ như thế nào nếu sau này qua lại nơi này thấy những đốt xương người vương vãi?
Tôi đào đất bằng một chiếc xẻng tìm thấy trên máy bay. Loại xẻng này thường được trang bị cho lính thám báo, có thể gấp lại đeo ở thắt lưng, lúc dùng vặn ra thành xẻng hoặc cuốc. Đến bốn giờ chiều mới đào xong cái huyệt đủ sâu để sau khi chôn thú rừng không bới lên được. Mất khá nhiều thời gian và sức lực, vì chiếc xẻng tuy tiện nhưng nhỏ quá. Lần lượt đặt từng cái xác lên tấm pôngxô, tôi nắn người họ cho thẳng; cuốn lại cẩn thận rồi dùng sợi dây võng đưa xuống huyệt. Phải xếp nghiêng vì huyệt hơi hẹp, nhưng họ không đến nỗi chất chồng lên nhau.
Vun hết chỗ đất đào lên thành nấm mộ, tôi đặt một hòn đá đánh dấu hướng đầu và cắt mảnh nilon gói kỹ những giấy tờ tìm thấy chôn bên dưới hòn đá. Hy vọng có lúc nào đó họ được người thân đưa về, nhưng điều này hết sức xa vời. Dầu sao tôi cũng không muốn họ nằm mãi ở đây, không phải vì họ mà vì những người thân của họ. (Và tuy không có những suy nghĩ rõ nét, tôi vẫn thầm biết ơn những kẻ đã mang đến cho mình các thứ cần thiết đúng vào lúc gay go nhất, cho dù chúng chẳng hề có ý tốt đó).
Xong mọi việc, tôi vội vã leo lên cây dùng ống nhòm tìm xem nơi nào có thể có nước. Sắp tối rồi, không khéo đêm nay phải nhịn khát.
Sực nhớ tới cái khe cạn lúc sáng, tôi hướng ống nhòm về phía ấy. Nước trong khe phải đổ xuống một dòng chảy khác, một con suối chẳng hạn! Nếu nơi đó còn nước và nó nằm trong tầm ống nhòm, sẽ thấy cây ven bờ có màu xanh tươi hơn các nơi khác, nhất là lúc về chiều. Sau một hồi sục sạo, tôi bắt gặp vệt cây xanh ở phía tây vùng đồi: nơi tiếp giáp với rừng. Kiên nhẫn rà theo dải cây đó, tôi nhìn thấy điều mình cần: một khúc suối ẩn hiện sau rặng cây, mặt nước đang chói nắng chiều lấp loáng. Từ đây xuống đó chừng hai cây số.
Choàng ba lô lên vai, tôi xách súng khấp khởi nhằm hướng con suối đi tới. "Hôm nay quả là một ngày may mắn!", tôi tự nhủ, chợt nhớ ra mình vừa nghĩ ngược với điều suy nghĩ lúc sáng. Hăm hở rẽ nhánh cây lấy lối đi, cả người tôi lâng lâng trong tâm trạng khó tả. Mình đã làm được những điều kỳ diệu biết bao: thoát chết trong một hoàn cảnh mà sự sống chỉ còn ngàn cân treo sợi tóc. Việc bắn hạ chiếc trực thăng làm vợi nỗi đau của những ngày trước đó. Tôi cũng thấy thanh thản hơn khi chôn cất tử tế mấy xác chết. Hơn nữa giờ đây tôi lại có đủ súng đạn, có những vật dụng cần thiết vượt trên mọi mong ước, sau này có kể lại cũng ít ai tin. Nhưng... Choáng váng bởi một ý nghĩ vừa thoáng qua, tôi ngồi thụp xuống chĩa súng ra phía trước, căng mắt soi mói nhìn quanh. "Chẳng lẽ chiếc trực thăng chở từng ấy quân trang quân dụng chỉ để tới đây tìm bắn nhau với mình? Cuộc chạm súng rõ ràng bất ngờ và hoàn toàn tình cờ. Những thứ trên máy bay... Chừng ấy đạn dược, lương ăn, chục bộ quần áo, chục đôi giày... Số đó đủ trang bị bổ sung cho một tiểu đội? Chiếc trực thăng đang làm nhiệm vụ tiếp tế cho một toán thám báo đang chốt ở một nơi nào đó..." Kết quả suy luận lôgic làm tôi lạnh toát người.
Ở xung quanh, rừng vẫn êm ả trong bóng chiều tà. Đây đó thấp thoáng vài con chim bay tử chòm cây này sang chòm cây khác, chúng đang vội vã kiếm mồi trước khi về tổ. Nắng chiều nhạt dần, khí trời dịu xuống, trong không gian thoảng thơm mùi cỏ héo. Cảnh rừng tĩnh lặng làm dịu đi sự căng thẳng, nhịp tim đập bình thường trở lại. Không loại trừ trường hợp bọn thám báo đang có mặt ở vùng này, nhưng giờ đây tôi có đủ vũ khí, lại chỉ một mình dễ ẩn nấp, dễ lẩn tránh trong rừng. Kinh nghiệm chiến đấu và những thử thách vừa qua giúp tôi có đủ bản lĩnh để đối đầu với chúng. Khi cần thiết tôi sẽ đánh trả bằng sức mạnh của bốn người...
Tôi vững tâm đi về hướng con suối, biết rằng cuốn sách đời mình giờ đã lật sang trang mới.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top