DLVH
Lợi thế từ sự đa dạng về loại hình văn hóa:
Chúng ta dùng văn hóa để giúp cho sản phẩm du lịch Việt Nam vốn đã phong phú về chủng loại thêm hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước, ta có thể phân ra các loại hình du lịch văn hóa tiêu biểu như sau:
Thứ nhất: Du lịch văn hóa - lịch sử, gồm tất cả những chuyến du lịch thăm lại những khu di tích lịch sử của vùng, thăm những ngôi nhà của các anh hùng lịch sử dân tộc, tham quan nơi làm việc của các vĩ nhân... Theo thống kê năm 2004, chỉ tính riêng về các di tích, trong số khoảng 40.000 di tích là các đình chùa, lăng, miếu trong đó có 2741 di tích, thắng cảnh được xếp hạng quốc gia gồm có 1322 di tích lịch sử, 1263 di tích kiến trúc nghệ thuật, 54 di tích khảo cổ và 102 di tích thắng cảnh. Du khách còn có thể thăm viếng 117 bảo tàng lịch sử văn hóa, trong đó có những bảo tàng quan trọng như: Bảo tàng Dân tộc học, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Bảo tàng văn hóa Chăm ở Đà Nẵng… Mỗi di tích có một lý lịch riêng với biết bao nhiêu câu chuyện liên quan cùng các nhân chứng, kỷ vật. Tất cả những cái đó nếu được khai thác tốt sẽ trở thành những sản phẩm du lịch đáng kể. Trên khắp đất nước từ Bắc chí Nam không thiếu những địa danh có thể làm du lịch lịch sử văn hóa. Ở loại hình du lịch này ta còn thấy việc tham quan tìm hiểu các di tích danh nhân có khá nhiều trên khắp ba miền Bắc, Trung và Nam bộ. Những Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Nguyễn Du, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân, Võ Trường Toản, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thị Định… đều có các di tích và kèm theo đó là lịch sử phong phú của các di tích đó. Nếu so với các nước trong khu vực và thế giới, thì chừng ấy về chủng loại sản phẩm du lịch và các giá trị đang có thì phải được xếp là loại “giàu có”. Vấn đề, chúng ta phải làm gì để khai thác hiệu quả “gia tài” đó thật bài bản và chuyên nghiệp.
Thứ hai: Du lịch văn hóa di sản, là sản phẩm lấy những giá trị văn hóa, lịch sử có trong di sản để cho khách thưởng thức. Một đất nước được vinh danh nhiều di sản, nó là “tấm giấy thông hành” về trình độ và bề dày văn hóa – văn minh của dân tộc đó. Đến nay, Việt Nam đã có 7 di tích được UNESCO công nhận là Di sản thế giới gồm: Hai Di sản thiên nhiên thế giới: Vịnh Hạ Long, Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng; Năm Di sản văn hóa thế giới gồm: Quần thể di tích Cố đô Huế, Phố Cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long, Thành nhà Hồ. Các danh hiệu khác cũng được công nhận là di sản thế giới như: Sáu di sản văn hóa kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể gồm: Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên, Dân ca quan họ Bắc Giang và Bắc Ninh, Ca Trù, hát Xoan. Ba Di sản tư liệu thế giới gồm: Mộc bản triều Nguyễn, 82 Bia tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long, Kho mộc bản kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang). Hội Gióng ở Phù Đổng và đền Sóc, được công nhận là Di sản phi vật thể đại diện của nhân loại. Cao nguyên Đá Đồng Văn được công nhận là Công viên địa chất toàn cầu. Tương lai, danh sách các di sản thế giới của Việt Nam sẽ còn tiếp tục được bổ sung. Các danh hiệu di sản thế giới bảo đảm là một thương hiệu tốt quảng bá cho du lịch văn hóa Việt Nam phát triển. Và trong thực tế những năm gần đây, Việt Nam đã trở thành điểm đến của nhiều du khách nước ngoài. Có nhiều lý do để Việt Nam thu hút được nhiều du khách, trong đó phải kể đến sự đóng góp lớn của những di sản thiên nhiên và văn hóa thế giới tại Việt Nam.
Thứ ba: về loại hình du lịch văn hóa cảm xúc, là những sản phẩm khai thác các đặc tính thẩm mỹ phi vật thể thông qua các giác quan như: màu sắc, âm thanh, ánh sáng, hương vị, tiếng động những thành tố tạo thành cái cội nguồn văn hóa của vùng, dân tộc hay quốc gia. Những thành tố này sẽ tạo nên một vùng cảm xúc mạnh mẽ đối với du khách và để lại cho họ những kí ức đẹp về chuyến đi. Về loại hình du lịch văn hóa này chúng ta có Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên, Dân ca quan họ Bắc Giang và Bắc Ninh, Ca trù, Hát Xoan, được UNESCO ghi danh vào Danh sách di sản văn hóa kiệt tác truyền khẩu phi vật thể. Ngoài ra, nghệ thuật múa Rối nước Việt Nam đã có được thương hiệu du lịch của mình.
Thứ tư: Du lịch văn hóa sự kiện và lễ hội, là những sản phẩm du lịch tận dụng sự kiện và lễ hội để xây dựng chương trình tour sao cho khách du lịch có thể trải nghiệm và hòa mình vào không khí của lễ hội một cách hợp lý nhất. Ở Việt Nam, lễ hội đã trở thành truyền thống và từ lâu là một phần không thể thiếu trong đời sống nhân dân. Theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thì nước ta hiện có hơn 8.000 lễ hội trong năm. Với gần 8.000 lễ hội lớn nhỏ, Việt Nam được ví như đất nước của lễ hội. Đây không chỉ là một kho tàng di sản văn hóa quý giá đối với mỗi người dân Việt Nam mà còn có sức hút rất lớn đối với tất cả những ai muốn tìm hiểu về văn hóa, phong tục, tập quán của người Việt. Vấn đề là kèm theo các lễ hội là những nghi thức tín ngưỡng, các đám rước nhiều màu sắc, nhiều phong tục khác nhau và đặc biệt là các sinh hoạt văn hoá nghệ thuật xung quanh nó như múa bóng rỗi, hát bội và các loại hình diễn xướng khác. Bên cạnh đó là những vui chơi phong tục, trò chơi, ca cải lương, hò, đờn ca tài tử… Một giá trị to lớn khác và cũng là những sản phẩm du lịch hết sức thú vị, đó là các sản phẩm của văn hoá ẩm thực mang sắc thái địa phương, hàng hóa, quà đặc sản của các vùng.
Thứ năm: Du lịch văn hóa nghệ thuật ẩm thực, là sản phẩm được xây dựng trên cơ sở khai thác những nét tinh hoa ẩm thực truyền thống của vùng hoặc quốc gia tạo cho khách cơ hội nghiên cứu, thưởng thức những món ăn đặc sản truyền thống. Văn hóa ẩm thực đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển du lịch. Trong hội thảo Marketing tại Thành phố Hồ Chí Minh, ông Philp Kotler, người được coi là một trong những nhà sáng lập trường phái marketing hiện đại của thế giới đã gợi ý: “Việt Nam nên trở thành bếp ăn của thế giới”. Điều này có lẽ xuất phát từ việc các món ăn Việt Nam được rất nhiều người nước ngoài yêu thích. Theo lời BS. Nguyễn Khắc Viện có ba nghệ thuật ẩm thực được ưa chuộng trên thế giới: Hoa – Pháp – Việt. Một giáo sư Mỹ nhận định: “Văn hóa ẩm thực Việt Nam có cái gì đó phảng phất Hoa, có cái gì đó phảng phất Pháp song Nó vẫn khác Hoa, Pháp và đứng vào quãng giữa với nhiều món ăn, món quà dân tộc, dân gian” [4, tr404]. Thực vậy, món ăn của Việt Nam ít dầu, mỡ hơn món ăn Trung Quốc, ít cay hơn món ăn của Thái Lan và Hàn Quốc, ít thịt hơn các món ăn của châu Âu vừa ngon vừa lành, vừa ít mỡ, ít thịt, nhiều rau củ quả, vừa cân bằng các chất, các vị sao có lợi cho sức khỏe: ví như món có hơi nhiều thịt, mỡ thì ăn nhiều hành tiêu mỡ, ăn cùng với rau đỡ ngán; món ăn ướp tỏi hay ăn thêm tỏi để trừ khuẩn, lợi tim mạch, ngừa ung thư; món ăn có loại thịt trắng như gà, thịt thỏ hay có khoai, bí ngô, bí đao thì không sợ bệnh gút; món ăn có khế, chuối chát, nhiều loại húng thì ngừa dị ứng... Nguyên liệu và thực phẩm chế biến các món ăn rất phong phú, đa dạng và đều là sản vật của thiên nhiên. Ngoài ra, mỗi miền, mỗi vùng quê có những món ăn đặc sản do quy trình chế biến và kết hợp gia vị để tạo ra món ăn độc đáo, hấp dẫn. Ẩm thực Việt Nam có đầy đủ thế mạnh để tạo nên những thương hiệu nổi tiếng trên thế giới, nhưng chúng ta chưa khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên này để thành công như các nước châu Âu hay Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan…Vì vậy, một lần nữa cần khẳng định: có một nền ẩm thực Việt Nam cần giới thiệu với thế giới.
Thứ sáu: Du lịch văn hóa làng nghề truyền thống, là sản phẩm du lịch khai thác các giá trị của làng nghề truyền thống, tạo cho khách cơ hội giao lưu học hỏi cách làm và mua những sản phẩm ấy. Theo thống kê chưa đầy đủ, cả nước ta hiện có 2.900 làng nghề. Và đây được xem là một đặc sản của du lịch Việt. Ngoài những lợi thế như cảnh quan thiên nhiên, vị trí địa lý, nét văn hoá đặc sắc, các làng nghề truyền thống còn có sức hút đặc biệt bởi mỗi làng lại gắn với một vùng văn hoá hay một hệ thống di tích. PGS.TS Phạm Trung Lương, Viện Nghiên cứu phát triển du lịch làng nghề nhận định: “Làng nghề truyền thống được xem như một dạng tài nguyên du lịch nhân văn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi các sản phẩm du lịch làng nghề luôn bao hàm trong nó cả những giá trị vật thể và phi vật thể”. Và “Du lịch làng nghề là loại hình du lịch văn hoá tổng hợp đưa du khách tới tham quan, thẩm nhận các giá trị văn hoá và mua sắm những hàng hoá đặc trưng của các làng nghề truyền thống trên khắp miền đất nước”. Phát triển du lịch qua các làng nghề là một hướng đi đúng, bởi không chỉ tạo nên sự đa dạng cho các tour du lịch; quảng bá văn hóa Việt, mà còn là cách thức giới thiệu, tạo lập thị trường tiêu thụ sản phẩm làng nghề.
Thứ bảy: Du lịch văn hóa biển đảo Việt Nam, là sản phẩm du lịch dựa vào tài nguyên biển như bãi biển, vịnh và các đảo ven bờ để du khách thư giản, nghỉ dưỡng, giải trí biển... Việt Nam là đất nước bán đảo với 3.200 km bờ biển và trên 4000 hòn đảo ven bờ và hệ thống quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngoài tiềm năng tự nhiên, biển đảo Việt Nam còn gắn liền với các trung tâm văn hóa của vùng tại các đô thị ven biển, các lễ hội truyền thống như lễ hội Tháp Bà Ponaga, lễ hội Nghinh Ông, lễ hội cầu ngư, lễ hội Katê… Gắn với làng nghề truyền thống và các di sản vật thể và phi vật thể khác tạo nên quần thể tài nguyên du lịch tự nhiên - nhân văn vô cùng phong phú, hấp dẫn, đặc sắc riêng có của vùng có sức hấp dẫn và thu hút khách du lịch. Hơn thế, biển đảo Việt Nam còn gắn liền với lịch sử phát triển của dân tộc, những dấu ấn thương mại biển Đông có từ thế kỷ XVI – XVIII, những trận đánh hào hùng từ các cửa biển, con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển Đông trong thế kỷ XX, Côn đảo đang được đề cử là di sản văn hóa thế giới… Các giá trị lịch sử - văn hóa gắn liền với những đặc trưng tự nhiên nổi bật như: Các bãi biển nơi đây có nước biển trong, xanh, sạch và ấm quanh năm; bãi biển dài, cát trắng, mịn và đẹp như Non Nước, Cửa Đại, Mỹ Khê, Sa Huỳnh, Quy Nhơn, Đại Lãnh, Vân Phong, Nha Trang, Ninh Chữ, Cà Ná, Mũi Né; Khí hậu nhiệt đới, ôn hòa, nhiệt độ ấm áp quanh năm, bãi biển thoải, nền chắc và nước trong; Hệ thống đảo gần bờ với cảnh quan thiên nhiên hoang sơ, không khí trong lành, các bãi biển trên đảo đặc biệt giữ được vẻ nguyên sơ vì vậy có giá trị đặc biệt đối với du lịch nghỉ dưỡng, giải trí và thể thao biển; Các đảo ven bờ có diện tích đủ lớn và điều kiện có thể phát triển du lịch như bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), Cù Lao chàm (Quảng Nam), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Hòn Tre, Hòn Tằm (Khánh Hòa), Phú Quý (Bình Thuận)... Hệ thống vũng vịnh như vịnh Quy Nhơn, Xuân Đài, Nha Trang, Vân Phong là nơi hội tụ không gian biển giao thoa với đời sống văn hóa ven biển tạo nên sức hấp dẫn đặc trưng của mỗi điểm du lịch. Đó là những lợi thế bất tận. Như vậy, Việt Nam là một nước có điều kiện và tiềm năng phát triển du lịch văn hóa với nhữngưu thế về các giá trị văn hóa “đồ sộ”: sự đa dạng về lịch sử, đa tôn giáo, đa dân tộc, một môi trường an ninh – chính trị ổn định. Tuy nhiên, để đảm bảo sự phát triển bền vững của du lịch nói riêng và công cuộc phát triển kinh tế xã hội của nước ta nói chung, du lịch văn hóa là loại hình cần được đẩy mạnh phát triển trên cơ sở khai thác hợp lý các thế mạnh tiềm năng của tài nguyên du lịch Việt Nam.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top