DLTMTK (9-18)

Đề 1

Câu 1: Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam ?

            Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới, là vị lãnh tụ của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam. Quá trình hoạt động của Người trong suốt những năm đầu của thế kỷ XX đã đóng vai trò quyết định đối với sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam ( 3/2/1930).

4.1). Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc ( 1911 – 1920).

 - Sau những thất bại liên tiếp của các phong trào yêu nước Việt Nam những năm đầu của thế kỷ XX, trước sự bế tắc của các sĩ phu yêu nước Việt Nam, Người thanh niên trẻ tuổi Nguyễn Tất Thành rất trăn trở về cong đường cứư nước giải phóng dân tộc Việt Nam.

 - Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành với tên là Nguyễn Văn Ba đã rời bên cảng Nhà Rồng ra đi tìm con đường cứu nước mới để giải phóng cho dân tộc. Người đã không đi sang phương Đông như con đường của các sĩ phu yêu nước trước đây, mà Người quyết định đi sang phương Tây để tìm con đường cứu nước mới giải phóng cho dân tộc. Sở dĩ người quyết định đi sang phương Tây là vì: như sau này Người nói lại: “Muốn đánh đuổi được kẻ thù thì phỉa có sự hiểu biết về kẻ thù đó”, và người cũng muốn tìm hiểu xem cái khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác ái, của cách mạng Pháp nó được thực hiện như thế nào ở nước Pháp.

 - Sau nhiều năm bô ba khắp năm châu bốn biển, Người đã tìm hiểu và khảo sát các cuộc cách mạng điểm hình trên thế giới như: Cách mạng tư sản Mỹ ( 1776), cách mạng Pháp ( 1789), Ngươid đánh giá các tư tưởng tự do, bình đẳng bác ái, của các cuộc cách mạng này, nhưng người cũng nhận thức rõ những hạn chế của các cuộc cách mạng này là “chưa đến nơi” vì quần chúng nhân dân vẫn đói khổ. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng tư sản không thể mang lại độc lập và hạnh phúc thực sự cho nhân dân các nước nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng.

 - Năm 1917 cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng 10 – Nga nổ ra và thành công vơi sự nhạy cảm chính trị đặc biệt, Nguyễn Ái Quốc hướng đến ánh sáng của cuộc cách mạng này và chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của cuộc cách mạng vĩ đại đó.

 - Năm 1919 Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội Nghị Vecxay của các nước đế quốc thắng trận sau thế chiến thứ nhất, Bản yêu sách 8 điểm đòi các quyền tự do dân chủ và bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách đó đã không được các nước đế quốc chú ý đến nhưng nó đã gây được tiếng vang lớn đối với công luận Pháp. Qua sự kiện này Người đã rút ra cho mình một kết luận quan trọng: muôn giải phóng được dân tộc mình thì phải dựa vào sức mình là chính.

 - Tháng 7/1920 Nguyễn Ái Quốc đã được đọc bản sơ thảo lần thư nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê nin đăng trên báp Nhân đạo. Người đã tìm thấy trong Luận cương của Lê nin lời giải đáp về con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam.

 - Tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp họp ở ( Tua – 12/1920), Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp. Sự kiện này đã đánh dấu một bước ngoặt vô cùng quan trong trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, Người đã chuyển từ lập trường của chủ nghĩa yêu nước sang lập trường của chủ nghĩa cộng sản và tìm thấy con đường cứu nuớc đúng đắn, đó là con đường giải phóng dân tộc theo cách mạng vô sản.

4.2). Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam ( 1920 – 1930).

 - Sau khi tìm được con đường cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc Nguyễn Ái Quốc đã ra sức hoạt động để dần dần truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê nin và nhứng tư tương của cách mạng tháng 10 – nga  về nước.

 + Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp, thành lập : Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa ở Pari, Hội xuất bản từ báo Người cùng khổ do Nguyễn Ái Quốc làm chủ nhiệm và chủ bút. Trong thời gian này người còn viết nhiều bài đăng trên các báo: Nhân đạo ( của Đảng cộng sản Pháp), Đời sống công nhân ( của Tông liên đoàn Lao đông Pháp), đặc biệt là tác phẩm Bản án chế độ thực dân pháp… Những sách báo này đã đuợc bí mật truyền về nước để những người yêu nước Việt Nam đọc và qua đó họ bản chất của chủ nghĩa đế quốc nói chung và của Thực dân Pháp nói riêng, hiểu được những tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lê nin và cách mạng tháng  - 10 Nga. Góp phần giác ngộ các tầng lớp nhân dân yêu nước.

 + Tháng 6/1923 Nguyễn Ái Quốc đã rời Pháp đến Liên Xô để tham dự Hội nghị Quốc tế nông dân ( 10/1923). Sau đó, Người đã ở lại Liên Xô một thời gian để vừa nghiên cứu học tập, làm việc ở Quốc tế cộng sản, viết bài cho báo Sự thật ( của Đảng cộng sản Liên Xô), tạp chí Thư tin quốc tế.

 - Ngày 11/11/1924 Nguyễn Ái Quốc về Quảng Chấu ( Trung Quốc) để hoạt động chuẩn bị về chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.

 + Tháng 6/1925 tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên với hạt nhân là Cộng sản đoàn, Hội xuất bản tuần báo Thanh niên làm cơ quan ngôn luận . Đây là một bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.

 + Từ năm 1925 – 1927 Nguyễn Ái Quốc đã mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu để đào tạo đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam, Người vừa là người tổ chức lớp vừa là giảng viên, kiêm phiên dịch của lớp. Sau các khoá học một số học viên được tuyển chon và gửi đi học ở trường ĐH Phương Đông (Liên Xô), một số được gửi đi học ở ĐH Hoàng Phố ( TQ), còn phần lớn được đưa về nuớc để truyền bá lý luận giải phóng dân tộc và tuyên truyền chuẩn bị thành lập Đảng.

 + Đầu năm 1927 các bài giảng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ở các lớp huấn luyện đào tạo cán bộ tại Quảng Chấu đã được xuất bản thành cuốn sách Đường kách mệnh. Trong cuốn sách này Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra những phương hướng cơ bản về chiến lược, sách luợc của cách mạng giải phóng dâ tộc Việt Nam. Như vậy “Đường kách mệnh” chính là sự chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam của Nguyến Ái Quốc.

4.3). Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam và soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ( 3/2/1930).

 - Nhờ những hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong những năm 20 của thế kỷ XX mà phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam phát triển mạnh mẽ từ tự phát sang tự giác, nhất là vào nhứng năm 1929 – 1930. Sau một thời gian hoạt động hiệu quả tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên dần dần mất vai trò lịch sử. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Việt Nam những năm 1929 – 1930 đòi hỏi phải có một Đảng tiên phong lãnh đạo cách mạng mới phù hợp. Để đáp ứng yêu cầu đó. Từ giữa đến cuối năm 1929 ở nước ta đã ra đời 3 tổ chức cộng sản:

 + Đông Dương cộng sản Đảng ( 17/6/1929) ở Bắc kỳ.

 + An Nam cộng sản Đảng ( 7/1929) ở Nam kỳ.

 + Đông Dương cộng sản liên đoàn ( 9/1929) Trung kỳ.

 Sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản nói trên đánh dấu sự phát triển vượt bậc của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động 3 tổ chức Đảng này lại có sự phân tán, chia rẽ, tranh giành quần chúng lẫn nhau, gây ảnh hưởng xấu đến phong trào cách mạng.

 - Trước tình hình đó Quốc tế công sản đã gửi thư cho những người cách mạng ở Đông Dương kêu gọi thành lập một Đảng cộng sản duy nhất. Quốc tế công sản đã uỷ nhiệm cho Nguyến Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế cộng sản tiến hành triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Đông Dương thành một Đảng duy nhất.

 + Ngày 23/12/1929 Nguyễn Ái Quốc đã từ Thái Lan đến Thượng Hải (TQ), Người đã gửi thư về nuớc mời các đại biểu của các tổ chức cộng sản tới Huơng Cảng (TQ) để họp hội nghị hợp nhất Đảng. Từ ngày 3 – 7/2/1930 Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long – Hương Cảng ( Trung Quôc) do Nguyến Ái Quốc chủ trì, Sau 5 ngày làm việc khẩn trương các Đại biểu đã thảo luận và hoàn toàn nhất trí hợp nhất thành một Đảng lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam (3/2/1930).

 + Nguyễn Ái Quốc đã soạn thảo Chính cương văn tắt – Sách lược văn tắt và điều lệ tóm tắt của Đảng. Những văn kiện này đã chính thức được thông qua tại Đại hội thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (3/2/1930) và trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta. Với sự ra đời của Đảng và Cương lĩnh chính trị đứng đắn của riêng mình. Đảng cộng sản Việt Nam đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Mịnh đã lành đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, mà tiêu biểu là thắng lợi của cách mạng tháng 8/1945, lập ra nuớc Việt Nam dân chủ cộng hoà ( 2/9/1945).

→ Như vậy, với sụ trình bày nói trên đã cho chúng ta thấy đuợc vai trò quyết định của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam ( 3/2/1930), đặc biệt là những sự chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ chức của Người trong những năm 20 của thế kỷ XX cho sự ra đời của Đảng. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là vị anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới, người là lãnh tụ của Đảng, của phong trào công nhân và của cả dân tộc Việt Nam.

Đề 9 :

Câu1: Phân tích nội dung Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp giai đoạn 1945- 1950. Ý nghĩa của Đường lối đó.

          Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành từng bước qua thực tiễn đối phó với âm mưu, thủ đoạn xâm lược của thực dân Pháp. Ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, trong chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, Đảng đã xác định kẻ thù chính, nguy hiểm nhất của dân tộc ta là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng. Trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch đã chỉ đạo kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao để làm thất bại âm mưu của Pháp định tách Nam bộ ra khỏi Việt Nam.

Ngày  19/10/1946,  Thường  vụ  Trung  ương  Đảng  mở  hội  nghị  quân  sự  toàn quốc  lần  thứ  nhất  do  Tổng  bí  thư  Trường  Chinh  chủ  trì.  Xuất  phát  từ  nhận  định “không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”, hội nghị đề ra chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức để  quân dân cả nước sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Trong chỉ thị Công việc khẩn cấp bây giờ (5/11/1946), Hồ Chủ tịch đã nêu lên những việc có tầm chiến lược, toàn cục khi bước vào cuộc kháng chiến và khẳng định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng.

Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được hoàn chỉnh và thể hiện tập trung trong 3  văn kiện lớn được soạn thảo và công bố sát trước  và sau ngày cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Đó là văn kiện Toàn quốc kháng chiến của Trung ương  Đảng  (12/12/1946),  Lời  kêu  gọi  toàn  quốc  kháng  chiến  của  Hồ  Chí  Minh (19/12/1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh.

Nội dung đường lối:

-         Mục  đích  kháng  chiến: Kế  tục  và  phát  triển sự nghiệp  Cách  mạng tháng Tám, “đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”.

-         Tính  chất  kháng  chiến:  “Cuộc  kháng  chiến  của  dân  tộc  ta  là  một  cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính chất toàn dân, toàn diện, lâu dài”. “Là cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình”. Đó là cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.

-         Chính  sách  kháng  chiến: “Liên hiệp  với dân tộc  Pháp,  chống phản động thực dân Pháp. Đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình. Đoàn kết chặt chẽ toàn dân. Thực hiện toàn dân kháng chiến… Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”.

-         Chương  trình  và  nhiệm  vụ  kháng  chiến:  “Đoàn  kết  toàn  dân,  thực  hiện quân, chính, dân nhất trí… Động viên nhân lực, vật lực, tài lực, thực hiện toàn  dân  kháng  chiến,  toàn  diện  kháng  chiến,  trường  kỳ  kháng  chiến. Giành  quyền  độc  lập,  bảo  tòan  lãnh  thổ,  thống  nhất  Trung,  Nam,  Bắc. Củng cố chế độ cộng hòa dân chủ… Tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc…”.

-         Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực  hiện kháng chiến  toàn dân,  toàn diện,  lâu dài,  dựa  vào  sức  mình  là chính.

-         Kháng chiến toàn dân: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người V.n phải đứng lên đánh thực dân Pháp”, thực  hiện mỗi người dân là  một chiến sĩ,  mỗi làng xóm là một pháo đài.

 -        Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Trong đó:  

+Về  chính  trị:  thực  hiện  đoàn  kết  toàn  dân,  tăng  cường  xây  dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào

và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình.

+Về  quân  sự:  Thực  hiện  vũ  trang  toàn  dân,  xây  dựng  lực  lượng  vũ trang nhân dân, tiêu diệt địch giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến. Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài… Vừa đánh vừa võ trang thêm; vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ.

+  Về kinh tế: Tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cung tự túc, tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công  nghiệp quốc phòng.

+ Về  văn  hóa: Xóa  bỏ  văn  hóa  thực  dân,  phong  kiến,  xây dựng  nền văn  hóa  dân chủ  mới theo  3  nguyên tắc:  dân tộc,  khoa  học  và  đại chúng.

+ Về  ngoại  giao: Thực  hiện  thêm bạn bớt  thù,  biểu  dương  thực  lực. “Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập.

+ Kháng chiến lâu dài: là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”  của  ta,  chuyển  hóa  tương  quan  lực  lượng  từ  chỗ  ta  yếu  hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.

+ Dựa vào sức mình là chính: “Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt” vì ta bị bao vây 4 phía, chưa được nước nào  giúp  đỡ nên phải tự lực cánh sinh. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước song lúc đó cũng không được ỷ lại.

+ Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài,  gian khổ, khó khăn song nhất định thắng lợi.

Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, vừa phù hợp với thực tế đất nước lúc bấy giờ. Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm có tác dụng đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng đi vào ổn định và phát triển đúng hướng, từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang.

Thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng, từ năm 1947 – 1950, Đảng đã tập trung chỉ đạo cuộc chiến đấu giam chân địch trong các đô thị, củng cố các vùng tự do lớn, đánh bại cuộc hành quân lớn của địch lên Việt Bắc; lãnh đạo đẩy mạnh xây dựng hậu phương, tìm cách chống phá thủ đoạn “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp. Thắng lợi của chiến dịch Biên Giới cuối năm 1950 đã giáng một đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của địch, quân ta giành được quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ.

Câu2: Nêu sự thay đổi cơ cấu công nghiệp,nông nghiệp, dịch vụ trong thời kỳ CNH, HDH hiện nay ở VN. Đẩy mạnh ngành Thương Mại có tác dụng gì đến CNH, HDH.

Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là một vấn đề lớn cùa quá trình công nghiệp hóa đối với tất cả các nước tiến hành công nghiệp hóa trên thế giới, bởi vì công nghiệp hóa là quá trình thu hẹp khu vực nông nghiệp, nông thôn, gia tang khu  vực  công  nghiệp,  xây  dựng,  dịch  vụ  và  đô  thị.  Nông  nghiệp  là  nơi  cung  cấp lương thực, nguyên liệu, lao động cho công nghiệp và thành thị, là thị trường rộng lớn cho công nghiệp và dịch vụ. Nông thôn chiếm đa số dân cư ở thời điểm ki bắt đầu công nghiệp hóa. Vì vậy, quan tâm đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa. Trong thời kỳ CNH-HDH, nước ta định hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ  giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp.

-        Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ:

Tính quy luật của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tỳ trọng của nông nghiệp giảm còn công nghiệp, dịch vụ thì tăng lên. Vì vậy,  nước ta chủ trương phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.

+ Đối với công nghiệp và xây dựng.

Khuyến  khích  phát  triển  công  nghiệp  công  nghệ  cao,  công  nghiệp  chế  tác, công nghiệp phần mềm và công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu  kinh  tế,  nâng  cao  hiệu  quả  của  các  khu  công  nghiệp,  khu  chế  xuất.  Khuyến khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển các ngành công nghiệp sản xuất  hàng tiêu dùng và  hàng xuất khẩu; sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng theo hướng hiện đại; ưu tiên thu hút đầu tư của các tập đoàn kinh tế lớn của nước ngoài và các công ty lớn xuyên quốc gia.

Tích cực thu hút vốn trong và ngoài nước để đầu tư thực hiện các dự án quan trọng về khai thác dầu khí, lọc dầu và hóa dầu, luyện kim, cơ khí chế tạo, hóa chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng. Có chính sách hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô. Thu hút chuyên gia giỏi, cao cấp của nước ngoài và trong cộng đồng người Việt định cư ở nước ngoài.

 Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kỹ thuật kinh tế - xã hội nhất là các sân bay quốc tế, cảng biển, đường cao tốc, đường ven biển, đường đông tây, mạng lưới cung

cấp điện, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ở các đô thị lớn, hệ thống thủy lợi, cấp thoát  nước.  Phát  triển  công  nghiệp  năng  lượng  gắn  với  công  nghệ  tiết  kiệm  năng lượng. Tăng nhanh năng lực và hiện đại hóa bưu chính – viễn thông.

+        Đối với dịch vụ.

Tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất là những ngành có chất lượng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh, đưa tốc độ phát triển của ngành dịch vụ cao hơn với tốc độ tăng GDP. Tận dụng tốt thời cơ hội nhập kinh tế quốc tế để tạo bước phát triển ngành ‘công nghiệp không có khói’ này. Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống như vận tải, thương mại, ngân hàng, bưu chính viễn thông, du lịch. Phát triển mạnh các dịch vụ phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, phục vụ đời sống ở khu vực nông thôn.

Đổi mới căn bản cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng. Nhà nước kiểm soát chặt chẽ độc quyền và tạo hàng lang pháp lý, môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia và cạnh trạnh bình đẳng trên thị trường dịch vụ.

Đề 10 :

Câu1: Phân tích phương châm kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính ? Ý nghĩa của phương châm

Ngày  19/10/1946,  Thường  vụ  Trung  ương  Đảng  mở  hội  nghị  quân  sự  toàn quốc  lần  thứ  nhất  do  Tổng  bí  thư  Trường  Chinh  chủ  trì.  Xuất  phát  từ  nhận  định “không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”, hội nghị đề ra chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức để quân dân cả nước sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Trong chỉ thị Công việc khẩn cấp bây giờ (5/11/1946), Hồ Chủ tịch đã nêu lên những việc có tầm chiến lược, toàn cục khi bước vào cuộc kháng chiến và khẳng định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng.

Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được hoàn chỉnh và thể hiện tập trung trong 3  văn kiện lớn được soạn thảo và công bố sát trước  và sau ngày cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Đó là văn kiện Toàn quốc kháng chiến của Trung ương  Đảng  (12/12/1946),  Lời  kêu  gọi  toàn  quốc  kháng  chiến  của  Hồ  Chí  Minh (19/12/1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh.

Nội dung đường lối:

-         Mục  đích  kháng  chiến: Kế  tục  và  phát  triển sự nghiệp  Cách  mạng tháng Tám, “đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”.

-         Tính  chất  kháng  chiến:  “Cuộc  kháng  chiến  của  dân  tộc  ta  là  một  cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính chất toàn dân, toàn diện, lâu dài”. “Là cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình”. Đó là cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.

-         Chính  sách  kháng  chiến: “Liên hiệp  với dân tộc  Pháp,  chống phản động thực dân Pháp. Đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình. Đoàn kết chặt chẽ toàn dân. Thực hiện toàn dân kháng chiến… Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”.

-         Chương  trình  và  nhiệm  vụ  kháng  chiến:  “Đoàn  kết  toàn  dân,  thực  hiện quân, chính, dân nhất trí… Động viên nhân lực, vật lực, tài lực, thực hiện toàn  dân  kháng  chiến,  toàn  diện  kháng  chiến,  trường  kỳ  kháng  chiến. Giành  quyền  độc  lập,  bảo  tòan  lãnh  thổ,  thống  nhất  Trung,  Nam,  Bắc. Củng cố chế độ cộng hòa dân chủ… Tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc…”.

-         Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực  hiện kháng chiến  toàn dân,  toàn diện,  lâu dài,  dựa  vào  sức  mình  là chính.

-         Kháng chiến toàn dân: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người V.n phải đứng lên đánh thực dân  Pháp”, thực  hiện mỗi người dân là  một chiến sĩ,  mỗi làng xóm là một pháo đài.

 -        Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế,

văn hóa, ngoại giao. Trong đó:

o Về  chính  trị:  thực  hiện  đoàn  kết  toàn  dân,  tăng  cường  xây  dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình.

o Về  quân  sự:  Thực  hiện  vũ  trang  toàn  dân,  xây  dựng  lực  lượng  vũ trang nhân dân, tiêu diệt địch giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến. Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài… Vừa đánh vừa võ trang thêm; vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ.

o Về kinh tế: Tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cung tự túc, tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công  nghiệp quốc phòng.

o Về  văn  hóa: Xóa  bỏ  văn  hóa  thực  dân,  phong  kiến,  xây dựng  nền văn  hóa  dân chủ  mới theo  3  nguyên tắc:  dân tộc,  khoa  học  và  đại chúng.

o Về  ngoại  giao: Thực  hiện  thêm bạn bớt  thù,  biểu  dương  thực  lực. “Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập.

o Kháng chiến lâu dài: là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”  của  ta,  chuyển  hóa  tương  quan  lực  lượng  từ  chỗ  ta  yếu  hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.

o Dựa vào sức mình là chính: “Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt” vì ta bị bao vây 4 phía, chưa được nước nào  giúp  đỡ nên phải tự lực cánh sinh. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước song lúc đó cũng không được ỷ lại.

o Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài,  gian khổ, khó khăn song nhất định thắng lợi.

Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, vừa phù hợp với thực tế đất nước lúc bấy giờ. Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm có tác dụng đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng đi vào ổn định và phát triển đúng hướng, từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang.

Câu2: Phân tích cơ sở hình thành hệ thống chính trị ở Việt Nam. Liên hệ ở VN

          Cơ sở hình thành chủ trương:

Một là, lý luận Mác – Lênin về thời kỳ quá độ và về chuyên chính vô sản. Các Mác đã chỉ ra rằng: giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ đến xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. V.I.Lênin nhấn mạnh: muốn chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội thì phải chịu đựng lâu dài nỗi đau đớn của thời kỳ sinh đẻ, phải có một thời kỳ chuyên chính vô sản lâu dài. Bản chất của chuyên chính vô sản là sự tiếp tục đấu tranh giai cấp dưới hình thức mới. Chuyên chính vô sản là một tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa xã hội. Nhưng việc vận dụng tư tưởng này cần xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia.

          Việc vận dụng chuyên chính vô sản vào tình hình cụ thể nước ta đã được thể hiện trong việc ra đời Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và hệ thống chính trị dân chủ nhân dân sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Hai là, đường lối chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Trong Báo cáo chính trị của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (1976) về đường  lối chung  của  cách  mạng  xã  hội chủ  nghĩa  trong  giai đoạn  mới ở  nước  ta,viết: nắm vững chuyên chính vô sản, pháy huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học – kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt.

Ngày 18/12/1980, Quốc hội khóa VI thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội  chủ  nghĩa  Việt  Nam,  trong  đó  khẳng  định:  “Nhà  nước  Cộng  hòa  xã  hội  chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước chuyên chính vô sản”. Đại  hội đại biểu  toàn quốc  lần thứ V  (1982) tiếp  tục  khẳng định  đường  lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa do Đại hội IV đề ra.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) khi đánh giá về thực hiện chuyên chính vô sản, Đảng đã phê phán: Tình trạng buông lỏng chuyên chính vô sản thể hiện ở nhiều mặt trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, quản lý kinh tế, xã hội, đấu tranh tư tưởng, văn hóa  và trong việc  chống lại những âm mưu, thủ đoạn phá hoại của kẻ thù.

Như vậy, về thực chất, kể từ Đại hội III của Đảng (9/1960) cho đến khi Đảng đề ra đường lối đổi mới đất nước, hệ thống chính trị nước ta được tổ chức và hoạt động theo các yêu cầu, mục tiêu, nhiệm vụ của chuyên chính vô sản và do vậy, tên gọi chính thức của hệ thống này được xác định là hệ thống chuyên chính vô sản.

          Ba là, cơ sở chính trị của hệ thống chuyên chính vô sản ở nước ta được hình thành từ năm 1930 và bắt rễ vững chắc trong lòng dân tộc và xã hội. Cơ sở chính trị đó là sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng. Mặc dù ở miền  Bắc,  Đảng cộng sản không phải  là  đảng chính trị độc  nhất  mà  còn có  Đảng Dân chủ, Đảng xã hội nhưng những Đảng chính trị này thừa nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối và duy nhất của Đảng cộng sản Việt Nam và là thành viên trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Bốn  là,  cơ  sở  kinh  tế  của  hệ  thống  chuyên  chính  vô  sản  là  nền  kinh  tế  kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Đó là một nền kinh tế hướng tới mục tiêu xóa bỏ hoàn toàn chế độ tư hữu đối với tư liệu sản xuất với ý nghĩa là nguồn gốc và cơ sở của chế độ người bóc lột người, thiết lập chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất dưới 2 hình thức: sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể; loại bỏ triệt để cơ chế thị trường, thiết lập mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Nhà nước trở thành một tổ chức kinh tế bao trùm. Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chuyên chính vô sản đều được quy định bởi tính chất và cơ chế vận hành của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp.

 Năm là, cơ sở xã hội của hệ thống chuyên chính vô sản là liên minh giai cấp của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp “ai thắng ai” trong lĩnh vực chính trị và kinh tế và kết quả cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, đã tạo nên một kết cấu xã hội bao gồm chủ yếu là 2 giai cấp và 1 tầng lớp: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.

Sáu  là,  cơ  sở  lịch  sử  cho  sự  ra  đời  của hệ  thống  chuyên  chính  vô  sản  giai đoạn 1975 – 1986. Ở nước ta, khi giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ thực hiện nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản. Bước ngoặt lịch sử   này diễn ra trên miền Bắc cách đây hơn 50 năm và từ sau ngày 30/04/1975 diễn ra trong phạm vi cả nước.

Đề 11:

Câu 1: Về nghị quyết 15. Ý nghĩa. Tại sao Đảng ta xác định con đường giải phong trong thời kì này là bạo động vũ trang theo hình thức tổng khởi nghĩa như CM T8.

          Tháng 1/1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 họp bàn về cách mạng miền Nam. Sau nhiều lần họp và thảo luận, Ban chấp hành Trung ương đã ra nghị quyết về cách mạng miền Nam. Trung ương Đảng nhận định: “Hiện nay cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo bao gồm 2 nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến  lược  đó  tuy  có  tính  chất  khác  nhau,  nhưng  quan  hệ  hữu  cơ  với  nhau… nhằm phương hướng chung là giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội”.

          - Nv chung: tăng cường ĐK toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, đẩy mạnh CMXHCN ở miền B, đồng thời đẩy mạnh CMDTDC ở miền N, thực hiện thống nhất ĐN trên cơ sở ĐL và DC, xd 1 nước VN hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe XHCN, bvệ hoà bình ở ĐNA và TG.

-Nvụ chiến lược: 2 nvụ chiến lược là tiến hành CMXHCN ở miền B, gp miền N khỏi ách thống trị ĐQM và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.

-Mục tiêu chiến lược: nvụ Cm ở miền B và N thuộc 2 chiến lược khác nhau, mỗi nvụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia cắt. 2 nvụ đó lại nhằm giải quyết mâu thuẫn chung giữa nd ta với ĐQM và tay sai, thực hiện mục tiêu chung là hoà bình và thống nhất TQ.

-Mối qhệ của CM 2 miền: do cùng thực hiện mục tiêu chung nên 2 nvụ chiến lược ấy có qhệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau.

-Vai trò, nvụ của CM mỗi miền đối với CM cả nước: CMXHCN ở miền B xd tiềm lực, bvệ căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho CMMN, chuẩn bị cho cả nước đi lên CNXH về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà, CMDTDCND ở miền N giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp GPMN khỏi ách thống trị của ĐQM và bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, hoàn thành CMDTDCND trong cả nước.

-Con đường thống nhất đn: trong khi tiến hành đồng thời 2 chiến lược CM, Đ luôn kiên trì con đường hoà bình, thống nhất theo tinh thần hiệp nghị Geneve, sẵn sàng hiệp thương tổng tuyển cử hoà bình thống nhất VN, nhưng luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó với mọi tình thế.

-Triển vọng của CMVN: cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là 1 quá trình đấu tranh CM gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống ĐQM và bè lũ tay sai của chúng ở miền N nhưng thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về ND ta.

Nghị quyết hội nghị lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã mở đường cho cách mạng miền Nam đi lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng.

** Trong 5 năm (54-59) đấu tranh chính trị gay go và quyết liệt, đồng bào miền nam đã chịu đựng biết bao đau thương và tổn thất, hàng ngàn xóm làng bị địch đốt phá, hàng chục vạn cán bộ, đảng viên bị giam cầm, tra tấn và bắt giết1. Nhưng lòng yêu nước và ý chiến chiến đấu của đồng bào ta không hề bị giám sút, phong trào phát triển  ngày càng mạnh. Năm 1957, có hai triệu lượt người tham gia đấu tranh chính trị, đến năm 1958 có 3,7 triệu và sáng năm 1959, đã lên tới gần 5 triệu. Trong khi đó, cuộc đấu tranh vũ tranh tự vệ, trừ gian, diệt ác cũng được đảy mạnh và nhiều đơn vị vũ trang cách mạng đã ra đời. Trải quan đấu tranh, cácn cán bộ, đảng viên và đồng bào ta được tô luyện ngày càng già dặn, ngày càng thấy rỗ bản chất phản động cũng như những chỗ yếu cơ bản của đế quốc Mỹ và bọn tay sai để chĩa mũi nhọn đấu tranh, khiến chúng ngày càng bị cô lập về chính trị. Còn phong trào cách mạng, tuy phải trải qua những thử thách cực kỳ nghiêm trọng, vẫn giữ được và phát triển. Lúc này, chế độ thống trị của địch lâm vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc. Đông đảo nhân dân ta ở miền nam ngày càng thấy rỗ không thể nào kéo dài cuộc sôngs dưới chế độ Mỹ - Diệm được nữa, đã quyết tâm vùng lên đấu tranh một còn, một mất với chúng. Điều kiện đã chín muồi để chuyển cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.

          Muốn vậy, con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền nam là con đường cách mạng bạo lực. Căn cứ vào tình hình cụ thể  lúc này, ta chủ chương lấy sức mạnh của quần chúng, dựa và lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng để đánh đổ ách thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng nhân dân. Hội nghị còn dự kiến: đế quốc Mỹ là nước đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên trong những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc chiến tranh cách mạng lâu dài, nhưng thắng lợi cuối  cùng nhất định về ta.

Trước tình hình đó, trong nghị quyết 15, Đảng khẳng định, con đường giải phóng miền Nam là con đường cách mạng bạo lực, trước nhất "lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang hoặc nhiều hoặc ít tuỳ tình hình, đánh đổ quyền thống trị của đế quốc, phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân" là dựa trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm thực tiễn của đồng bào, chiến sĩ miền Nam trong hơn bốn năm đấu tranh đầy gian khổ, hy sinh; cũng như những kiến nghị của cán bộ, đảng viên, các cấp ủy đảng và quần chúng nhân dân miền Nam; cùng với khí thế sục sôi cách mạng ở miền Nam. Nội dung “cốt yếu” ấy như một luồng sinh khí mới, thổi bùng ngọn lửa đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng và lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam, mặc dù chỉ ít người nắm được một cách thấu đáo là Đảng chủ trương lấy đấu tranh chính trị hay đấu tranh vũ trang là chủ yếu, hoặc kết hợp cả hai hình thức đó.

Câu 2: Phân tích định nghĩa CNH-HDH của đại hội VII. Hội nhập quôc tế sâu rộng có ý nghĩa gì tới quá trình CNH-HDH ở Việt Nam

          Hội nghị Trung ương 7  khóa  VII (1/1994) có  bước  đột  phá  mới trong nhận thức về công nghiệp hóa. Bước đột phá này thể hiện trước hết ở nhận thức về khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa. “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.

          Chủ  trương  của  Việt  Nam  là:  “Đẩy  mạnh  công  nghiệp  hoá,  hiện  đại  hoá  (CNH, HĐH), xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp”. Có thể nói đây là tư tưởng chiến lược quan trọng, bởi vì muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) từ một nước nông nghiệp, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, chúng ta phải tiến hành CNH để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH.

          Nhưng CNH ở nước ta lại được tiến hành trong bối cảnh một số nước phát triển trên thế giới đã kết thúc giai đoạn phát triển đại công nghiệp và bước sang phát triển kinh tế tri thức, do đó đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn bước đi thật thích hợp, có bước tuần tự, có bước nhảy vọt, tranh thủ đi tắt đón đầu để hiện đại hoá những ngành, những khâu, những lĩnh vực cần thiết khi có điều kiện cho phép.

Công cuộc CNH, HĐH nền kinh tế nước ta đang diễn ra trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế, các quốc gia đều mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại. Thực chất đó là một nấc thang phát triển cao của lực lượng sản xuất, mà cụ thể là của quá trình phân công lao động quốc tế, và chính nó đang làm cho sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế tăng lên. Mặc dầu từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng (khoá VII) cũng đã đưa ra tư tưởng “giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại”, Đại hội VIII tiếp tục khẳng định quan điểm chỉ đạo ấy, và Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương khoá VIII nêu quan điểm “…kiên trì đường lối kinh tế đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở…”, nhưng tại Đại hội IX, lần đầu tiên Đảng ta chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình tiến hành đổi mới, hội nhập, mở rộng quan hệ đối ngoại. Độc lập tự chủ không có nghĩa là đóng cửa, khép kín, bài ngoại mà là chủ động hội nhập vào kinh tế khu vực và quốc tế, không phụ thuộc vào sức ép từ bên ngoài. Đại hội khẳng định : “… trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh; có mức tích luỹ ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh tranh; kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và có một số ngành công nghiệp nặng then chốt; có năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ; giữ vững ổn định kinh tế – tài  chính  vĩ  mô  ;  bảo  đảm  an  ninh  lương  thực,  an  toàn  năng  lượng,  tài  chính,  môi trường…”3. Để có được quan điểm như vậy Đảng đã xuất phát từ kinh nghiệm thực tế của chúng ta và của nhiều quốc gia khác, từ nhận thức sâu sắc về nhiều mặt của quá trình toàn cầu hoá kinh tế hiện nay. Quan niệm đó vừa đúng về mặt nguyên tắc, quan điểm, đường lối, vừa xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn, không chỉ để bảo đảm có một nền chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh độc lập tự chủ vững chắc, giữ vững định hướng XHCN, mà còn là cơ sở bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước, làm cho việc mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.

Thực tế cho thấy, mở cửa, hội nhập và toàn cầu hóa chứa đựng cả thời cơ và thách thức. Thời cơ là ở chỗ chỉ bằng con đường hội nhập mới có thể tiếp cận được với những thành tựu mới nhất về khoa học, công nghệ, và chỉ có thể bằng cách đó thì các nước nghèo và chậm phát triển mới có cơ hội để vươn lên, tránh được tụt hậu xa hơn, mà phần lớn các thành tựu ấy, cũng như một lực lượng vật chất khổng lồ của nhân loại, nằm trong số các nước giàu. Thách thức là ở chỗ, hàng hóa rẻ từ những quốc gia có nền kinh tế phát triển hơn, có năng suất lao động cao hơn, cạnh tranh bóp chết các ngành sản xuất non trẻ và lạc hậu trong nước... Nhưng tựu chung, không hội nhập hoặc đứng ngoài quá trình toàn cầu hóa thì sự thua thiệt còn lớn hơn những khó khăn nảy sinh trong quá trình hội nhập. Không còn sự lựa chọn nào khác, các nước nghèo và đang phát triển phải vừa hợp tác, vừa đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của mình.

Đành rằng, toàn cầu hóa kinh tế là xu thế tất yếu, nhưng đặc thù của toàn cầu hóa kinh tế trong giai đoạn trước mắt là các thế lực tư bản chủ nghĩa đang lợi dụng xu thế phát triển khách quan này và bằng những ưu thế về vốn, công nghệ ráo riết thực hiện ý đồ biến quá trình toàn cầu hóa kinh tế thành quá trình thôn tính kinh tế và đô hộ kinh tế tiến tới đô hộ về chính trị của chủ nghĩa tư bản trên toàn thế giới. Bởi vậy, Nhà nước Việt Nam đã sáng suốt xác định chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ gắn liền với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

Đề 12

Câu 1: Phân tích nội dung cơ bản của nghị quyết 12 khoá 3(12/1965) . Tại sao tại nghị quyết Đảng ta xác định mặc dù đế quốc Mĩ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh nhưng tương quan lực lượng giữa ta và địch không có gì lớn. Ý nghĩa thực tiễn của nhận định trên.

          Quá trình hình thành và nội dung cơ bản đường lối:

Khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, các hội nghị của Bộ Chính trị đầu năm 1961  và đầu năm 1962 đã  nêu chủ trương giữ vững  và  phát  triển  thế  tiến  công  mà  ta  đã  giành  được  sau  cuộc  “đồng  khởi”  năm 1960,  đưa  cách  mạng  miền  Nam  từ  khởi  nghĩa  từng  phần  phát  triển  thành  chiến tranh cách mạng trên quy mô toàn miền. Bộ Chính trị chủ trương kết hợp khởi nghĩa vũ  trang  của  quần  chúng  với  chiến  tranh  cách  mạng,  giữ  vững  và  đẩy  mạnh  đấu tranh  chính  trị  đồng  thời  phát  triển  đấu  tranh  vũ  trang  nhanh  lên  một  bước  mới, ngang  tầm  với  đấu  tranh  chính  trị.  Thực  hiện  kết  hợp  đấu  tranh  quân  sự  với  đấu tranh chính trị song song, đẩy mạnh đánh địch bằng 3 mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh vận). Vận dụng phương châm đấu tranh phù hợp với đặc điểm từng vùng chiến lược (rừng núi, đồng bằng, thành thị).

Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 9 (11/1963) ngoài việc xác định đúng đắn quan điểm quốc tế, hướng hoạt động đối ngoại vào việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để đánh Mỹ và thắng Mỹ, hội nghị còn quyết định nhiều vấn đề  quan  trọng  về  cách  mạng  miền  Nam.  Hội  nghị  tiếp  tục  khẳng  định  đấu  tranh chính trị, đấu tranh vũ trang đi đôi, cả hai đều có vai trò quyết định cơ bản đồng thời nhấn mạnh yêu cầu mới của đấu tranh vũ trang. Đối với miền Bắc, hội nghị tiếp tục xác định trách nhiệm là căn cứ địa, hậu phương đối với cách mạng miền Nam, đồng thời nâng cao cảnh giác, triển khai mọi mặt sẵn sàng đối phó với âm mưu đánh phá của địch.

Trước hành động gây “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, tiến hành chiến tranh phá hoại ra miền Bắc của đế quốc Mỹ, hội nghị Trung ương lần thứ 12 (12/1965) đã tập trung đánh giá tình hình và đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên cả nước và đưa ra nghị quyết có nội dung cơ bản như sau:

-         Về nhận định tình hình và chủ trương chiến lược: Trung ương Đảng cho rằng cuộc “chiến tranh cục bộ” mà Mỹ đang tiến hành ở miền Nam vẫn là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, buộc phải thực thi trong thế thua, thế thất bại và bị động cho nên nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược.Từ sự phân tích và nhận định đó, Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trong cả nước, coi chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam chí Bắc.

-         Quyết  tâm  và  mục  tiêu  chiến  lược: Nêu cao  khẩu  hiệu “Quyết  tâm  đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của  đế  quốc  Mỹ  trong  bất  kỳ  tình  huống  nào,  để  bảo  vệ  miền  Bắc,  giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”.

 -        Phương châm chỉ đạo chiến lược: tiếp tục và đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh cục bộ của  Mỹ ở  miền Nam, đồng thời phát động chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Thực hiện kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh, cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả 2 miền để mở những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.

-         Tư  tưởng  chỉ  đạo  và  phương  châm  đấu  tranh  ở  miền  Nam:  giữ vững  và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến công. “Tiếp tục kiên trì phương châm đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị,  triệt  để  vận  dụng  3  mũi  giáp  công”, đánh  địch  trên  cả  3  vùng  chiến lược. Trong giai đoạn hiện nay, đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí ngày càng quan trọng.

-         Tư  tưởng  chiến  lược đối  với miền  Bắc: chuyển  hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức  người sức của ở  mức cao nhất để chi  viện cho cuộc  chiến  tranh  giải  phóng  miền  Nam,  đồng  thời  tích  cực  chuẩn  bị  đề phòng để đánh thắng địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng “chiến tranh cục bộ” ra cả nước.

-         Nhiệm  vụ  và  mối  quan  hệ  giữa  cuộc  chiến  đấu  ở  hai  miền:  trong  cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước vì miền  Bắc  xã  hội  chủ  nghĩa  là  hậu  phương  vững  chắc  trong  cuộc  chiến tranh chống Mỹ. Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở  miền Bắc  và  ra sức tăng cường lực  lượng  miền Bắc  về  mọi  mặt  nhằm đảm bảo chi viện đắc lực cho miền Nam càng đánh càng mạnh. Hai nhiệm vụ trên đây không tách rời nhau mà mật thiết gắn bó với nhau. Khẩu hiệu chung của  nhân dân cả  nước  lúc  này là: “Tất  cả  để  đánh  thắng  giặc  Mỹ xâm lược”.

Ý nghĩa của đường lối:

Đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng được đề ra tại các hội nghị Trung ương lần thứ 11 và 12 có ý nghĩa hết sức quan trọng:

-         Thể hiện quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, tinh thần cách mạng tiến công, tinh thần độc lập tự chủ, sự kiên trì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, phản ánh đúng đắn ý chí, nguyện vọng chung của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.

-         Thể hiện tư tưởng nắm vững, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ 2 chiến lược cách mạng trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh ở mức độ khác nhau, phù hợp với thực tế đất nước và bối cảnh quốc tế.

-         Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính được phát triển trong hoàn cảnh mới, tạo nên sức mạnh mới để dân tộc ta đủ sức đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

          Mặc dù đế quốc Mĩ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh nhưng tương quan lực lượng giữa ta và địch không có gì lớn bởi vì:

          - CM miền Nam VN có sự phát triển về thế & lực đặc biệt là trong chống chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ thế trận chiến tranh nhân dân đã hình thành.

          - Mỹ đưa quân vào miền Nam hòng cứu vãn sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn.

          - Đưa quân vào miền Nam thì phải rải rác trên toàn miền Nam để đối phó với từng địa phương ở nước ta.

-        CM miền Nam giữ và phát triển thế tiến công để đánh bại chiến tranh cục

bộ trong thời gian ngắn nhất.

+ Với CM miền Bắc: Đảng chủ trương chuyển hướng xây dựng kinh tế, đảm bảo tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bảo vệ vững chắc miền Bắc CNXH, động viên sức người, sức của ở mức cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị đề phòng đánh bại địch nếu chúng liều lĩnh mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước. 

VD: Thắng lợi mùa khô 1966, 1967

=> Mỹ thừa nhận thất bại của chiến lược chiến tranh cục bộ, rút quân viễn chinh ra khỏi MN, ngồi vào bàn đàm phán Pari về việc chấm dứt chiến tranh ở VN.

* Mặc dù chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ gây ra nhưng sự nghiệp xây dựng CNXH vẫn có thể phát triển được vì miền Bắc vẫn trong tình trạng sx nhỏ, manh mún, phân tán.

* Miền Bắc vẫn là hậu phương lớn vẫn giữ vai trò quyết định đối với TL của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

* Miền Bắc tăng cường chi viện cho CM miền Nam, giúp đỡ CM Lào và Campuchia để đánh bại chiến tranh cục bộ trong thời gian nhanh nhất.

Câu 2: Phân tích chủ trương của đảng về xây dựng nhà nước trong hệ thống chính trị thời kì đổi mới ? Để tăng cường vai trò của nhà nước trong hệ thống chính trị cần có những giải pháp cơ bản gì ?

Xây dựng nhà nước trong hệ thống chính trị:

Đại hội X của Đảng chỉ rõ:

Xây dựng cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực  nhà  nước đều thuộc  về  nhân dân; quyền lực  nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp  luật.  Xây dụng,  hoàn thiện cơ  chế  kiểm tra,  giám sát  tính hợp  pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan nhà nước công quyền.

Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử, nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội. Đổi mới hơn quy trình xây dựng luật,  giảm mạnh việc ban hành pháp  lệnh.  Thực hiện tốt  hơn nhiệm vụ quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao.

Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại. Xây dựng hệ  thống  cơ  quan  tư  pháp  trong  sạch,  vững  mạnh,  dân  chủ,  nghiêm  minh,  bảo  vệ công lý, quyền con người. Xây dựng cơ chế phán quyết những vi phạm hiến pháp trong hoạt động lập pháp và tư pháp.

Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, bảo  đảm quyền  tự  chủ  và  tự  chịu  trách  nhiệm của  chính  quyền  địa  phương  trong phạm vi được phân cấp.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được xây dựng theo 5 đặc điểm sau đây:

- Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp

- Nhà nước được tổ chức và hoạt đọng trên cơ sở hiến pháp và pháp luật và đảm bảo cho hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.

- Nhà nước tôn trọng và bảo đả quyền con người, quyền công dân

- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do một đảng duy nhất lãnh đạo, có sự giám sát của nhân dân và sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viện của Mặt trận.

*Để xây dựng được nhà nước pháp quyền cần thực hiện một số biện pháp sau đây:

+ Hoàn thiện hệ thống pháp luật

+ Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của quốc hội.

+ Đầy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của chính phủ theo hướng xây dựng cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại.

+ Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,,nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người.

+ Nâng cao hoạt động của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp

Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân:

Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta đã có nhiều đổi mới góp phần xây dựng và từng bước hoàn thiện về dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị được sắp xếp theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Hoạt động của hệ thống chính trị ngày càng hướng về

cơ sở. Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp trong các khóa đã có nhiều đổi mới theo hướng phát huy dân chủ, cải cách hành chính, công khai các hoạt động của chính quyền, tăng cường đối thoại, tôn trọng và lắng nghe ý  

kiến của nhân dân. Dân chủ trong xã hội có bước phát triển. Trình độ và năng lực làm chủ của nhân dân từng bước được nâng lên.

Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước được phân định rõ hơn, phân biệt quản lý nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh. Nhà nước từng bước được kiện toàn, từ cơ cấu tổ chức đến cơ chế hoạt động trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Những quan điểm của Đảng về nhà nước đã được thể chế hóa trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) và trong các đạo luật cụ thể. Quản lý nhà nước bằng pháp luật được tăng cường.

Hạn chế và nguyên nhân:

Trong thực tế, hệ thống chính trị của nước ta còn nhiều nhược điểm. Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của nhà nước, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội chưa ngang tầm với đòi hỏi của tình hình.

Việc đổi  mới nền hành chính quốc  gia còn rất  hạn chế. Bộ  máy hành chính còn  nhiều  tầng  nấc  làm cho  việc  quản  lý  các  quá  trình  kinh  tế  -  xã  hội  chưa  thật nhanh, nhạy và có hiệu quả cao. Tình trạng quan liêu, hách dịch, nhũng nhiễu của một  bộ  phận  công  chức  nhà  nước  chưa  được  khắc  phục;  kỷ  cương,  phép  nước  bị xem thường ở nhiều nơi.

Đề 13:

Câu 1:Phân tích nội dung đổi mới tư duy của Đảng về CNH từ đại hội VI đến đại hội VII. Ý nghĩa của việc thay đổi tư duy đối với công cuộc CNH- HDH đất nước hiện nay.

          Đại  hội  VI  của  Đảng  phê  phán  sai  lầm  trong  nhận  thức  và  chủ trương công nghiệp hóa thời kỳ 1960 – 1985:

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI cùa Đảng (12/1986) với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” đã nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kỳ 1960 – 1985, mà trực tiếp là 10 năm từ 1975 – 1985. Đó là:

-         Chúng ta đạ phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, v.v… Do tư tưởng chỉ đạo chủ quan,  nóng vội,  muốn bỏ qua những  bước  đi  cần  thiết  nên  chúng  ta  đã  chủ  trương  đẩy  mạnh  công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.

-         Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư, thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý,

thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, không  tập  trung  sức  giải  quyết  về  căn  bản  vấn  đề  lương  thực,  thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.

-         Không thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết của Đại hội lần thứ V, như: vẫn  chưa  thật  sự  coi  nông  nghiệp  là  mặt  trận  hàng  đầu,  công  nghiệp nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.

Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa từ Đại hội VI đến Đại hội VI:

Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, Đại hội VI đã cụ thể hóa nội dung chính  của  công  nghiệp  hóa  xã  hội  chủ  nghĩa  trong  những  năm còn  lại  của  chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ là thực hiện cho bằng được 3 chương trình mục tiêu: lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.

Hội  nghị Trung ương 7  khóa  VII (1/1994) có  bước  đột  phá  mới trong nhận thức về công nghiệp hóa. Bước đột phá này thể hiện trước hết ở nhận thức về khái niệm công nghiệp hóa,  hiện đại hóa. “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.

Câu 2:  Phân tích hoàn cảnh lịch sử và nội dung đường lối đối ngoại của Đảng trong giai đoạn 1975 - 1985.

Hoàn cảnh lịch sử

a. Tình hình thế giới

Từ thập kỷ 70, thế kỷ XX, sự tiến bộ nhanh chóng của các cuộc khoa học và công nghệ đã thúc đẩy lưc lượng sản xuất thế giới phát triển mạnh; Nhật Bản và Tây Âu vươn lên trở thành hai trung tâm lớn của kinh tế thế giới; xu thế chạy đua phát triển kinh tế đã dãn đến cục diện hoà hoãn giữa các nước lớn.

Với thắng lợi của Việt Nam (năm 1975) và các nước Đông Dương, hệ thống xã  hội  chủ  nghĩa  đã  mở  rộng  phạm  vi,  phong  trào  cách  mạng  thế  giới  phát  triển  mạnh. Đảng ta nhận định: Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã và đang lớn mạnh không ngừng; phong trào độc lập dân tộc và phong trào cách mạng của giai cấp công nhân đang trên đà  mãnh liệt. Tuy nhiên, từ giữa thập kỷ 70, thế kỷ XX, tình hình kinh tế - xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện sự trì trệ và mất ổn định.

Tình hình khu vực Đông Nam Á cũng có  những chuyển biến mới. Sau năm 1975, Mỹ rút quân khỏi Đông Nam Á, khối quân sự SEATO tan rã; tháng 2-1976, các  nước  ASEAN  ký  Hiệp  ước  thân  thiện  và  hợp  tác  ở  Đông  Nam  Á  ( Hiệp ước Bali), mở ra cục diện hoà bình, hợp tác trong khu vực.

b. Tình hình trong nước

Thuận lợi: Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc hoà bình thống  nhất,  cả  nước  xây  dựng  chủ  nghĩa  xã  hội  với  khí  thế  của  một  dân  tộc  vừa giành được thắng lợi vĩ đại. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được một số thành tựu quan trọng. Đây là những thắng lợi rất cơ bản của cách mạng nước ta.

Khó khăn: Trong khi cả nước phải tập trung khắc phục hậu quả nặng nề của ba  mươi năm chiíen tranh,  lại phải đối phó với chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. bên cạnh đó, các thế lực thù đíchử dụng những thủ đoạn thâm độc  chống  phá  cách  mạng  Việt  Nam.  Đại  hội  lần  thứ  V  của  Đảng  (3-1982)  nhận định: “nước ta đang ở trong tình trạng vừa có hoà bình vừa phải đương đầu với một kiểu  chiến  tranh  phá  hoại  nhiều  mặt”.  Ngoài ra,  do  tư tưởng chủ quan,  nóng  vội, muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn, đã dẫn đến những khó khăn về kinh tế - xã hội.

Những thuận lợi, khó khăn từ tình hình thế giới và trong nước ở giai đoạn này đã ảnh hưởng to lớn đến công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và tác động đến việc hoạch định đường lối đối ngoại của Đảng.

Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng

Đại hội lần thứ VI của Đảng (12-1976) xác định nhiệm vụ đối ngoại là “Ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.

Trong quan hệ  với các nước, Đại hội VI chủ trương củng cố  và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa; bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào – Campuchia; sẵn sàng thiết lập, phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực; thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa Việt Nam với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.

Từ  giữa  năm  1978,  Đảng  đã  điều  chỉnh  một  số  chủ  trương,  chính  sách  đối ngoại  như: chú trọng củng cố,  tăng cường  hợp  tác  về  mọi  mặt  với  Liên Xô  –  coi quan hệ với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; nhấn mạnh yêu cầu ra sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt – Lào trong bối cảnh vấn đề Campuchia đang diễn biến phức tạp; chủ trương góp phần xây dựng khu vực Đông Nam Á hoà bình, tự do, trung lập và ổn định; đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.

Đại hội lần thứ V của Đảng xác định: công tác đối ngoại phải trở thành một mặ trận chủ động, tích cực trong đấu tranh nhằm làm thất bại chính sách của các thế lực hiếu chiến mưu toan chống phá cách mạng nước ta.

          Về  quan  hệ  với các  nước,  Đảng ta  tiếp  tục  nhấn  mạnh đoàn kết  và  hợp  tác toàn diện với Liên Xô là nguyên tắc, là chiến lược và luôn luôn là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam;  xác  định quan hệ đặc biệt Việt Nam –  Lào  – Campuchia có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của ba dân tộc; kêu gọi các nước ASEAN  hãy cùng các nước Đông Dương đối thoại và thương lượng để giải quyết các trở ngại, nhằm xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình và ổn định; chủ trương khôi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình; chủ trương thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường về mặt nhà  nước, về kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật  với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị.

Thực tế cho thấy, ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn (1975-1986) là xây dựng quan hệ hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; củng cố và tăng cường đoàn kết hợp tác với Lào và Campuchia; mở rộng quan hệ hữu nghị với các nước không liên kết và các nước đang phát triển; đấu tranh với sự bao vây, cám vận của các thế lực thù địch.

Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân

a. Kết quả và ý nghĩa

Trong 10 năm trước đổi mới, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa được tăng cường, trong đó đặc biệt là với Liên Xô. Ngày 29-6-1978, Việt Nam ra nhập Hội đồng Tương trợ kinh tế (khối SEV). Viện trợ hàng năm và kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam với Liện Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác trong khối SEV đều tăng. Ngày 31-11-1978, Việt Nam ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô.

Từ năm 1975 đến năm1977, nước ta đã thiết lập them quan hệ ngoại giao với 23 nước; ngày 15-9-1976, Việt Nam tiếp nhận ghế thành viên chính thức Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF); ngày 21-9-1976, tiếp nhận ghế thành viên chính thức Ngân hàng Thế giới (WB); ngày 23-9-1976, gia nhập Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB); ngày 20-9-1977, tiếp nhận ghế thành viên tại Liên hợp quốc; tham gia tích cực các hoạt động trong phong trào Không lien kết…Kể từ năm 1977, một số nước mở quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam.

Với các nước khác thuộc khu vực Đông Nam Á: Cuối năm 1976, Philíppin và Thái Lan là nước cuối cùng trong tổ chức ASEAN thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.

Những kết quả đối ngoại trên đây có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách mạng Việt Nam. Sự tăng cường hợp tác toàn diện với các nước xã  hội chủ nghĩa  và  mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với cả các nước ngoài hệ thống xã  hội chủ nghĩa đã tranh  thủ  được  nguồn  viện  trợ  đáng  kể,  góp  phần  khôi  phục  đất  nước  sau  chiến tranh; việc trở thành thành viên chính thức Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng phát triển châu Á và việc trở thành thành viên chính thức của Liên hợp quốc, tham gia tích cực vào các hoạt động của Phong trào không liên kết, đã tranh thủ được sự ủng hộ, hợp tác của các nước, các tổ chức quốc tế, đồng thời phát huy được vai trò của nước ta trên trường quốc tế. Việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước còn lại trong tổ chức ASEAN đã tạo thuận lợi để triển khai các hoạt động đối ngoại trong giai đoạn sau, nhằm xây dựng Đông Nam Á trở thành khu vưch hoà bình, hữu nghị và hợp tác .

b., Hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh những kết quả nêu trên, nhìn tổng quát, từ năm 1975 đến năm 1986, quan hệ quốc tế của Việt Nam gặp những khó khăn, trở ngại lớn. Nước ta bị bao vậy, cô  lập,  trong  đó  đặc  biệt  là  từ  cuối  thập  kỷ  70  thế  kỷ  XX,  lấy  cớ  “Sự  kiện Campuchia”  các  nước  ASEAN  và  một  số  nước  khác  thực  hiện  bao  vây,  cấm vận Việt Nam…

Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn trên, là do trong quan hệ đối ngoại giai đoạn này chúng ta chưa nắm bắt được xu thế chuyển từ đối đầu sang hoà hoãn và chay đua kinh tế trên thế  giới. Do đó, đã không tranh thủ được các nhân tố  thuận lởitong quan hệ quốc tế phục vụ cho công cuộc khôi phục và phát triển khinh tế sau chiến tranh; không kịp thời đổi mới quan hệ đối ngoại cho phù hợp với tình hình.

Những hạn chế  về đối ngoại của Việt Nam giai đoạn (1975-1986)b suy cho cùng đều xuất phát từ nguyên nhân căn bản đã được Đại hội lần thứ VI của Đảng chỉ ra là “bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan”

Đề 14:

Câu 1:Tại sao nói phát triển khoa học công nghệ là nền tảng và động lực của CNH, HDH ở Việt Nam.Việt nam cần làm gì để phát triển khoa học công nghệ ?

Câu 2: Quan điểm của đảng về nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Là sinh viên chúng ta cần làm gì ?

          Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc:

Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con người. Tiên tiến không chỉ về nội dung, tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung.

Bản sắc dân tộc bao  gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc. Đó  là  lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý,  là đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống… Bản sắc dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.

Có thể nói, bản sắc của một dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính cách, khuynh hướng cơ bản thuộc về sức mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo giúp cho dân tộc đó  giữ  vững  được  tính  duy  nhất,  tính  thống  nhất,  tính  nhất  quán  so  với  bản  thân mình trong quá trình phát triển. Sức mạnh và sức sáng tạo này có mối liên hệ gốc rễ, lâu dài và bền vững với môi trường xã hội – tự nhiên và với quá trình lịch sử mà dân tộc đó đã tồn tại.

Nói chung, bản sắc dân tộc là sức sống bên trong của dân tộc, là quá trình dân tộc thường xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự vượt qua chính bản thân mình, biết cạnh tranh và hợp tác để tồn tại và phát triển. Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: cách tư duy, cách sống, cách dựng nước, giữ nước, cách s   áng tạo trong văn hóa, khoa học, văn học, nghệ thuật… nhưng được thể hiện sâu sắc nhất là trong hệ giá trị của dân tộc, nó là cốt lõi của một nền văn hóa. Hệ giá trị là những gì nhân dân quan tâm, là niềm tin mà nhân dân cho là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Khi được chuyển thành các chuẩn mực xã hội, nó định hướng cho sự chọn lựa trong hành động của cá nhân và cộng đồng. Vì vậy, nó là cơ sở tinh thần cho sự ổn định xã hội và sự vững vàng của chế độ. Hệ giá trị có tính ổn định rất lớn và có tính bền vững tương đối, có sức mạnh gắn bó mọi thành viên trong cộng đồng. Trong sự tiến bộ và phát triển của xã hội, các giá trị này thường không biến mất mà hóa thân vào các giá trị của thời sau, theo quy luật kế thừa và tái tạo.

Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của thể chế kinh tế, thể chế xã hội và  thể  chế  chính trị của  các  quốc  gia.  Nó  cũng phát  triển theo  quá  trình  hội nhập kinh tế thế giới, quá trình giao  lưu văn hóa với các quốc gia khác và sự tiếp  nhận tích cực văn hóa, văn minh nhân loại. Vì vậy, chúng ta chủ trương xây dựng và hoàn thiện các giá trị và nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải được thấm đượm trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo…, sao cho trong mọi lĩnh vực hoạt động chúng ta có cách tư duy độc lập, có cách làm vừa hiện đại vửa mang sắc thái Việt Nam. Đi vào kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải tiếp thu những tinh hoa của nhân loại song phải luôn luôn phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc.

Để  xây  dựng  nền  văn  hóa  tiên  tiến,  đậm  đà  bản  sắc  dân  tộc  chúng  ta  chủ trương vừa bảo vệ bản sắc dân tộc vừa mở rộng giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác để bắt kịp sự phát triển của thời đại. Chủ động tham gia hội nhập, giao lưu văn hóa với các quốc gia để xây dựng những giá trị mới của văn hóa Việt Nam đương đại. Xây dựng Việt Nam thành một địa chỉ giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế.

Giữ  gìn  bản  sắc  dân  tộc  phải  đi  liền  với  chống  những  cái  lạc  hậu,  lỗi  thời trong phong tục, tập quán và lề thói cũ.

Đề 15:

Câu 1: Vì sao xóa bỏ cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp trong chính sách của đảng tại Đại hội 6 là yếu tố cần thiết và cấp bách ? Hiện nay cơ chế đó đã được xóa bỏ triệt để chưa, vì sao?

Xóa bỏ cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp trong chính sách của đảng tại Đại hội 6 là yếu tố cần thiết và cấp bách:

          - Sau hơn 10 năm tiến hành CNH trong điều kiện đất nước thống nhất, nền kinh tế Việt Nam vẫn nằm trong trạng thái trì trệ: sản xuất nông nghiệp thấp kém không đáp ứng được nhu cầu trong nước; công nghiệp nặng đầu tư lớn nhưng hiệu quả thấp; nhiều mặt hành tiêu dùng thiếu trầm trọng, dấu hiệu của suy thoái và khủng hoảng kinh tế- xã hội đã dần dần xuất hiện và bộc lộ rõ nét vào cuối những năm 1970 và suốt những năm tiếp theo.

- Xuất phát từ những hạn chế của cơ chế quản lý kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp:

+Thủ tiêu cạnh tranh nên kìm hãm sự phát triển của các đơn vị sản xuấtkinh doanh, kìm hãm sự tiến bộ khoa học – kỹ thuật. Mô hình kinh tế này không phản ánh đúng yêu cầu khách quan của các quy luật của KTTT, giá cả gần như không có quan hệ gì với giá trị hàng hóa cũng như tương quan cung cầu, nên mọi sự tính toán đều mang tính chủ quan, duy ý chí làm mất đi động lực của sự phát triển kinh tế, làm mất đi tính năng động sang tạo của các đơn vị kinh tế, tạo nên một cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội.

+ Chế độ công hữu được thiết lập một cách nóng vội không những không tạo được động lực mà còn kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Sở hữu tư nhân không được thừa nhận đã làm cho mặt tích cực của các thành phần kinh tế gắn với sở hữu tư nhân không được phát huy trong quá trình xây dựng CNXH. Điều này đồng nghĩa với việc lãng phí nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội.

+ Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp duy trì quá lâu đã tạo ra nhiều lực cản đối với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Các cơ quan quản lý hành chính nhà nước can thiệp sâu vào phạm vi vi mô đã đẩy các đơn vị kinh tế vào tình trạng thụ động, mất quyền tự chủ. Cơ chế đó không ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp đối với hiệu quả sử dụng vốn, tài sản, vật tư, lao động. Điều đó gây nên tình trạng lãng phí, thất thoát tài sản của Nhà nước, tạo tư tưởng ỷ lại, dựa dẫm, lười

biếng, triệt tiêu động lực sáng tạo của người lao động.

+ Chế độ phân phối bình quân và bao cấp đã không gắn được kết quả sản xuất với năng suất và hiệu quả lao động, triệt tiêu động lực của người lao động. Mục tiêu của việc phân phối bình quân qua bao cấp là đảm bảo công bằng trong khâu phân phối kết quả sản xuất, nhưng việc tạo nên một hệ thống thương nghiệp nhà nước độc quyền mua và bán, đã tạo nên những đặc quyền đặc lợi gắn liền với những người nắm giữ hệ thống “thị trường có tổ chức” gây bất bình đẳng ngay trong khâu phân phối. Phân phối hiện vật và bao cấp cũng tạo nên những nghịch lý trong xã hội: Người có nhu cầu chưa hẳn được phân phối, còn người được phân phối lại chưa hẳn có nhu cầu.

+ Không coi trọng quan hệ hàng hóa – tiền tệ đã đẩy nền kinh tế rơi vào tình trạng hiện vật hóa, không khai thác được vai trò, sức mạnh của quan hệ hàng hóa – tiền tệ để phát triển đất nước. Những chức năng của tiền tệ (thước đo giá trị, phương tiện thanh toán, phương tiện lưu thông, phương tiện tích trữ, tiền tệ thế giới) vốn được khai thác để phát triển kinh tế toàn cầu hiện nay thì khi đó nó gần như không được thể hiện trong cả điều hành vĩ mô và thực tiễn cuộc sống.

Tình hình xóa bỏ cơ chế kinh tế tập trng quan lieu bao cấp  tính đến nay:

Trong khu vực kinh tế tư nhân, cuộc đấu tranh xoá bỏ tập trung quan liêu - bao cấp của nhà nước đã đạt thắng lợi rất cơ bản; cơ chế quản lý mới đã được tạo lập trên nền tảng kinh tế thị trường nhiều thành phần, hợp hiến hợp pháp. ến sau Đại hội VI (1986) với chính sách mới và cuộc đột phá thành công trên thực tế từ 1989 về mở thông thị trường, thật sự từ bỏ chính sách thống nhất quản lý thu mua phân phối, thì kinh tế tư nhân mới thật sự được giải phóng. Cuộc đấu tranh chống quan liêu ở khu vực này đã sang trang mới: người dân có quyền tự do kinh doanh; nhưng cơ quan, công chức nhà nước vẫn có thể lộng quyền hành dân, hành doanh nghiệp; Cuộc đấu tranh chống quan liêu vẫn là việc thường xuyên lâu dài để bảo đảm quyền tự do kinh doanh.

Khu vực kinh tế nhà nước trong 10 năm gần đây thực tế đã trở lại cơ chế cũ tập trung quan liêu - bao cấp (xin, cho); chỉ khác là từ bao cấp hiện vật của thời kỳ mà vốn trong tay Nhà nước cạn kiệt sang bao cấp về tài chính, với ông chủ - Nhà nước ngày càng “hào phóng” với những nguồn lực to lớn gấp bội có được chủ yếu từ tài nguyên, vốn vay trong nước và nước ngoài.

Cần khẳng định rằng chính sự trở lại cơ chế cũ, tập trung quan liêu - bao cấp trong khoảng hơn 10 năm vừa qua đã tạo miếng đất mầu mỡ cho nạn tham nhũng, lãng phí lộng hành ngày càng nghiêm trọng trong khu vực kinh tế nhà nước, kể từ đơn vị kinh doanh đến các cấp trong hệ thống lãnh đạo quản lý.

Câu 2: Hoàn cảnh lịch sử và nội dung đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới?

          Hoàn cảnh lịch sử:

          Tình hình TG 198x:

- C/m KHCN (đặc biệt CNTT) phát triển mạnh mẽ -> tác động sâu sắc đến mọi mặt của đời sống của các quốc gia dân tộc.

- Các nước XHCN lâm vào khủng hoảng sâu xắc. Đầu 1990, chế độ XHCN LX sụp đ. Trật tự thế giới 2 cực -> trật tự thế giới mới.

- Xu thế chung của TG: hòa bình hợp tác và phát triển. Các QG, tổ chức, lực lượng chính trị điều chỉnh đối nội, đối ngoại cho phù hợp xu thế.

- Chạy đua kinh tế -> đổi mới tư duy đối ngoại (đbiet các nc dang pt) -> đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; tang cường lien kết => tranh thủ vốn, kỹ thuật, CN, mở rộng thị trường, học tập kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh.

- Đổi mới tư duy về sức mạnh, vị thế quốc gia. (Quân sự -> kinh tế)

Xu thế toàn cầu hóa và tác động của nó:

- Toàn cầu hóa: LLSX + Quan hệ KT QT vượt rào cản biên giới => toàn cầu trong lĩnh vực  (hàng hóa, vốn, tiền tệ, thong tin, ….) .=> phân công lao động QT => mạng lươics quan hệ đa chiều.

- Tác động: tích cực: thị trường mở rộng -> trao đổi tang mạng => thúc đẩy sản xuất; KHCN, vốn, kinh nghiệm => lợi ích đôi bên.; tang tính tùy thuộc lẫn nhau => môi trường hòa bình, hữu nghị, hợp tác.

Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

- nhiều bất ổn (hạt nhân, tranh chấp lãnh hải biển Đông, tang cương vũ trang, ..), tuy nhiên tiềm lực lớn và năng động về phát triển kinh tế => xu hướng hội nhập pt mạnh.

Yêu cầu và nhiệm vụ C/m VN

-Bao vây, chống phá của thế lực thù địch (nửa cuối thập kỷ 1970) => căng thẳng, mất ổn định khu vực => cản trở phát triển, khủng hoảng KT-XH; mở rộng quan hệ, phá thế bị bao vậy, giải tỏa đối đầu, hợp tác là cấp thiêt, cấp bách. 

Hậu quả chiến tranh => kinh tế khủng hoảng => nguồn lực trong nước + nguồn lực quốc tế

Nội dung:

Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo

Trong các văn kiện liên quan đến lĩnh vực đối ngoại, Đảng ta đều chỉ rõ cơ hội và thách thức của việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, tren cơ sở đó Đảng xác định mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ dạo công tác đối ngoại.

-         Cơ hội và thách thức

Về cơ hội:  Xu thế hoà bình, hợp tác phát triển và xu thế toàn cầu hóa kinh tế tạo thuận lợi cho nước ta mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác phát triển kinh tế. Mặt khác, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đã nâng cao thế và lực của nước ta trên trường quốc tế, tạo tiền đề mới cho quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế.

Về thách thức: Những vấn đề toàn cầu như phân hoá giàu nghèo, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia…gây tác động bất lợi đối với nước ta. Nền kinh tế Việt Nam phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt trên cả ba cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia; những biến động trên thị trường quốc tế sẽ tác động nhanh và mạnh hơn đến thị trường trong nước, tiềm ẩn nguy cơ gây rối loạn, thậm chí khủng hoảng kinh tế - tài chính.

Ngoài ra, lợi dụng toàn cầu hoá, các thế lực thù địch sử dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá chế độ chính trị và sự ổn định, phát triển của nước ta.

Những cơ hội và thách thức nêu trên có mối quan hệ, tác động qua lại, có thể chuyển hoá lẫn nhau. Cơ hội không tự phát huy tác dụng mà tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội. Tận dụng tốt cơ hội sẽ tạo thế và lực mới để vượt qua thách thức, tạo ra cơ hội lớn hơn. Ngược lại, nếu không nắm bắt, tận dụng thì cơ hội có thể bị bỏ lỡ, thách thức sẽ tăng lên, lấn át cơ hội, cản trở sự phát triển. Thách thức tuy là sức ép  trực  tiếp,  nhưng  tác  động  đến  đâu  còn  tuỳ  thuộc  vào  khả  năng  và  nỗ  lực  của chúng  ta.  Nếu  tích  cực  chuẩn  bị,  có  biện  pháp  đối  phó  hiệu  quả,  vươn  lên  nhanh trước sức ép của các thách thức thì không những sẽ vượt qua được thách thức, mà còn có thể biến thách thức thành động lực phát triển.

-         Mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại

Lấy việc  giữ  vững  môi trường hoà  bình,  ổn định;  tạo  các  điều kiện quốc  tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc. Mở rộng đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế là để tạo them nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước; kết hợp nội lực với các nguồn lực từ bên ngoài  tạo  thành  nguồn  lực  tổng  hợp  đẻ  đẩy  mạnh  công  nghiệp  hoá,  hiện  đại  hoá, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; phát huy vai trò và nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới và hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

-         Tư tưởng chỉ đạo

Trong quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế phải quán triệt đầy đủ, sâu sắc các quan điểm: Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của Việt Nam. Giữ vững độc  lập tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; cố gắng thúc đẩy mặt hợp tác, nhưng vẫn phải đấu tranh dưới hình thức và mức độ thích hợp với từng đối tác; đấu tranh để hợp tác; tránh trực diện đối đầu, tránh để bị đẩy vào thế cô lập.

Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị xã hội. Coi trọng quan hệ hoà bình, hợp tác với khu vực; chủ động tham gia các tổ chức đa phương, khu vực và toàn cầu.

Kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Xác định hội nhập kinh tês quốc tế là công việc của toàn dân. 

Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội; giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc; bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; xây dựng nền kinh tếđộc lập tự chủ; tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế so sánh của đất nưởctong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Trên cơ sở thực hiện các cam kết gia nhập WTO, đẩy nhanh nhịp độ cải cách thể chế, cơ chế, chính sách kinh tế phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước.

Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tanưg cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Một số chủ trương, chính sách lớn về mở  rộng quan hệ  đối  ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế

Trong các văn kiện của Đảng liên quan đến đối ngoại, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá X (2-2007) đã đề ra một số chủ trương, chính sách lớn như:

- Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững: Hội nhập sâu sắc và đầy đủ vào nền kinh tế thế giới, nước ta sẽ có địa vị bình đẳng với các thành viên khác khi tham gia vào việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, thiết lập một trât tự kinh tế mới công bằng hơn; có điều kiện thuận lợi để  đấu  tranh  bảo  vệ  quyền  lợi  dianh  nghiệp  Việt  Nam  tranh  các  cuộc  tranh  chấp thương mại với các nước khác, hạn chế được những thiệt hại trong hội nhập kinh tế quốc tế.

- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp: Chủ động và tichá cực xác định lộ hội nhập hợp lý, trong đó cần tận dụng những ưu đãi mà WTO dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển; chủ động và tích cực nhưng phải hội nhập từng bước, dần dând mở cửa thị trường theo một lộ trình hợp lý.

- Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các nguyên tắc, quy định của WTO: bảo đảm tính đồng bộ của hệ thông spháp luật; đa dnạg hoá các hình thức sở hữu, phát triển kinh tế nhiều thành phần; thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường; xây dựng các sắc thuế công bằng, thống nhất, đơn giản, thuận tiện cho mọi chủ thể kinh doanh.

- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước:  Kiên  quyết  loại  bỏ  nhanh  các  thủ  tục  hành  chính  không  còn  phù  hợp;  đẩy mạnh  phân  cấp  gắn  với  tăng  cường  trách  nhiệm  và  kiểm  tra,  giám  sát;  thực  hiện công khai, minh bạch mọi chính sách, cơ chế quản lý.

- Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm tronghội nhập kinh tế quốc tế: Nâng cao năng lực điều hành của Chính phủ; tích cực thu hút đầu tư nước ngoài để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; các doanh nghiệp điều chỉnh quy mô và cơ cấu sản xuất trên cơ sở xác định đúng dắn chiến lược sản phẩm và thị trường; điều chỉnh quy hoạch phát triển, nhanh chóng có biện pháp nâng cao sức cạnh tranh của một số sản phẩm.

- Giải quyết tốt các vấn đề văn hoá, xã hội và môi trường trong quá trình hội nhập: Bảo vệ và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc trong quá trình hội nhập; xây dựng cơ chế kiểm soát và chế tài xử lý sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ văn hoá không lành mạnh, gây phương hại đến đến sự phát triển đất nước, văn hoá và con người Việt Nam; kết hợp hài hoà giữa giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống với tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hoá tiên tiến trong quá trình giao lưu với các nền văn hoá bên ngoài.

- Xây dựng và vận hành có hiệu quả mạng lưới an sinh xã hội như giáo dục, bảo hiểm, y tế; đẩy mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo; có các biện pháp cấm, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng có hại cho môi trường; tăng cường hợp tác quốc tế trên lĩnh vực bảo vệ môi trường.

- Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh; có các phương án chống lại âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.

- Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước và đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoai: Tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân nhằm tăng cường hiệu quả của  hoạt động đối ngoại. Các  hoạt động đối ngoại song phương và đa phương cần hướng mạnh vào việc phục vụ đắc lực nhiệm vụ mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực tham gia đấu tranh vì một hệ thống quan hệ kinh tế quốc tế bình đẳng, công bằng, cùng có lợi.

- Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tập trung xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, trọng tâm là cải cách hành chính.

Đề 16

Câu 1:Sự thay đổi tư duy của đảng về kinh tế thị trường trong đại hội 9 đến đại hội 10 có những nội dung cơ bản nào?

          Đại hội IX của Đảng (3/2001) xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường,có  sự  quản  lý  của  nhà  nước  và  theo  định  hướng  xã  hội  chủ  nghĩa.  Đây  là  bướcchuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý sang coi kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Vậy thế nào là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa? Đại hội IX xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”. Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của “thị trường” được sử dụng để “phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế, để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”, còn tính “định hướng xã hội chủ nghĩa” được thể hiện trên cả 3 mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối, nhằm mục đích cuối cùng là “dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội do nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương, xóa bỏ áp bức và bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”.

Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nói đến kinh tế không phải  là  kinh tế  tự nhiên,  tự cấp  tự túc,  cũng không  phải kinh tế  kế  hoạch  hóa  tập trung,  cũng không phải là  kinh tế  thị trường tư bản chủ  nghĩa  và  cũng chưa  hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa vì chưa có đầy đủ các yếu tố xã hội chủ nghĩa. Tính “định hướng xã  hội chủ nghĩa” làm cho  mô  hình kinh tế thị trường ở nước ta khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.

Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện ở 4 tiêu chí:

-         Về mục đích phát triển: Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao  đời  sống  nhân  dân;  đẩy  mạnh  xóa  đói  giảm  nghèo,  khuyến  khích  mọi  người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn” Mục  tiêu  trên  thể  hiện  rõ  mục  đích  phát  triển  kinh  tế  vì  con  người,  giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để nâng cao đời sống cho  mọi người, mọi người đều được hưởng những thành quả phát triển. Ở đây thể hiện sự khác biệt với mục đích tất cả vì lợi nhuận phục vụ lợi ích của các nhà tư bản, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa tư bản.

-         Về phương hướng phát triển: phát triển các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế là nhằm giải phóng mọi tiềm năng để phát triển trong mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá  nhân và  mọi vùng  miền… phát  huy tối đa  nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu để nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để giữ vai trò chủ đạo kinh tế nhà nước phải nắm được các vị trí then chốt của nền kinh tế bằng trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao chứ không phải dựa vào bao cấp, cơ chế xin – cho hay độc quyền kinh doanh. Mặc khác, tiến lên chủ nghĩa xã hội đặc ra yêu cầu nền kinh tế phải được dựa trên nền tảng của sở hữu toàn dân các tư liệu sản xuất chủ yếu.

-         Về định hướng xã hội và phân phối: thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết  chặt  chẽ  và  đồng  bộ  với  phát  triển  xã  hội,  văn  hóa,  giáo  dục  và  đào  tạo,  giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội vừa bảo đảm sự phát triển bền vững vừa thể hiện rõ định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, thực hiện mục tiêu phát triển con người. Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội. Đồng thời để huy động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát triển còn thực hiện phân phối theo định mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác.

-        Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vai trò quản lý điều tiết nền kinh tế của nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng là sự thể hiện rõ rệt định hướng xã hội chủ nghĩa và cũng là sự khác biệt cơ bản giữa kinh  tế  thị trường tư bản chủ  nghĩa  với kinh  tế  thị trường định  hướng  xã  hội chủ nghĩa. Sự quản lý, điều tiết của nhà nước xã hội chủ nghĩa bằng pháp luật đảm bảo mục  đích  của  nền  kinh  tế,  sự  vận  động  của  chế  độ  sở  hữu,  phân  phối  theo  định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, đảm bảo quyền lợi chính đáng của mọi con người.

Những tiêu chí trên vửa  thể  hiện tính định hướng xã  hội chủ nghĩa của  nền kinh tế thị trường ở nước ta, vừa thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.

Câu 2:Các quan điểm giải quyết vấn đề xã hội trong công cuộc đổi mới tư duy của Đảng hiện nay. Thực hiện giải quyết quan điểm kết hợp mục tiêu chính trị với mục tiêu xã hội ở Việt Nam như thế nào?

          Một là, kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội

-         Kế hoạch phát triển kinh tế phải tính đến mục tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội có liên quan trực tiếp.

-         Mục tiêu phát triển kinh tế phải tính đến các tác động và hậu quả xã hội có thể xảy ra để chủ động xử lý.

-         Phải tạo được sự thống nhất, đồng bộ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội.

-         Sự kết hợp giữa 2 loại mục tiêu này phải được quán triệt ở tất cả các cấp, các ngành, các địa phương, ở từng đơn vị kinh tế cơ sở

Hai là, xây dựng và hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển.

Trong từng bước và từng chính sách phát triển cần đặt rõ và xử lý hợp lý việc gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.

Nhiệm vụ gắn kết này không dừng lại như một khẩu hiệu, một lời khuyến nghị mà phải được pháp chế hóa thành các thể chế có tính cưỡng chế, buộc các chủ thể phải thi hành.

Các cơ quan, các nhà hoạch định chính sách phát triển quốc gia phải thấu triệt quan điểm phát triển bền vững, phát triển “sạch”, phát triển hài hòa, không chạy theo số lượng tăng trưởng bằng mọi giá.

Ba là, chính sách xã hội được thực hiện trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn bó hữu cơ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ. Chính sách xã  hội có  vị trí,  vai trò độc  lập tương đối so  với kinh tế, nhưng không thể tách rời trình độ phát triển kinh tế cũng không thể dựa vào viện trợ như thời bao cấp.

Trong chính sách xã  hội phải gắn bó giữa  quyền lợi và  nghĩa  vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ. Đó là một yêu cầu của công bằng xã hội và tiến bộ xã hội; xóa bỏ quan điểm bao cấp, cào bằng; chấm dứt cơ chế xin – cho trong chính sách xã hội.

Bốn  là,  coi  trọng  chỉ  tiêu  GDP bình  quân  đầu  người  gắn  với  chỉ  tiêu  phát triển con người (HDI) và chỉ tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội.

Quan điểm này khẳng định mục tiêu cuối cùng và cao nhất của sự phát triển phải là vì con người, vì một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Phát triển phải bền vững, không chạy theo số lượng tăng trưởng.

Đề 17

Câu 1: Trong luận cương chính trị 10/1930 có nói thổ địa cách mạng là cái cốt của tư sản dân quyền cách mạng vậy nó có phù hợp với thực tiễn Việt Nam hay không ?

Câu 2:Mục tiêu và quan điểm của Đảng về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

          Mục tiêu cơ bản của hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa ở nước ta là làm cho nó phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của kinh tế

thị trường, thúc đẩy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hướng xã

hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu này yêu cầu cần phải hoàn thành cơ bản vào năm 2020.

* Đến năm 2010, cần đạt các mục tiêu:

-         Từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, đảm bảo cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển thuận lợi. Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đi đôi với phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế  và các loại hình doanh nghiệp. Hình thành một số tập đoàn kinh tế, các tổng công ty đa sở hữu, áp dụng mô hình quản trị hiệu đại, có năng lực cạnh tranh quốc tế.

-         Đổi mới cơ bản mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công.

-         Phát triển đồng bộ, đa dạng các loại thị trường cơ bản thống nhất trong cả nước, từng bước liên thông với thị trường khu vực và thế giới.

-         Giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.

-         Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò của Mặt trận Tồ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội cà nhân dân trong quản lý, phát triển kinh tế - xã hội.

          Quan điểm  về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:

-         Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế phù hợp với điều kiện của Việt Nam, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.

-         Đảm bảo tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế, giữa các yếu tố thị trường và các loại thị trường,  giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội, giữa nhà nước, thị trường và xã hội. Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiển bộ  và công bằng xã hội, phát triển văn hóa và bảo vệ môi trường.

-         Kế  thừa  có  chọn  lọc  thành tựu phát  triển  kinh  tế  thị trường của  nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta, chủ động và tích cực  hội nhập kinh tế quốc tế đồng thời giữ vững độc  lập, chủ quyền quốc gia, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

-         Chủ động, tích cực giải quyết các vấn đề lực lượng và thực tiễn quan trọng, bức xúc đồng thời phải có bước đi vững chắc, vừa làm vửa tổng kết rút kinh nghiệm.

-         Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đề 18

Câu 1: Vai trò, vị trí của Đảng trong hệ thống chính trị ? Yêu cầu của việc xây dựng Đảng trong đổi mới hệ thống chính trị ?

Hệ thống chính trị được vận hành theo cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Đảng vừa là một bộ phận của hệ thống chính trị, vừa là “hạt nhân” lãnh đạo của hệ thống ấy, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật.

Đảng Cộng sản cầm quyền là Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không làm thay Nhà nước. Đảng quan tâm xây dựng củng cố Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, phát huy vai trò của các thành tố này trong quản lý, điều hành xã hội. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế.

Vai trò:

- Cương lĩnh 1991: “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lien hệ mật thiết với nhân dân, chịu cự giám sát của nhân dân, hành động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

- Điều 4 Hiến pháp (1992, sửa đổi): “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.”

- Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, những quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng.

- Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các đoàn thể quần chúng. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể chế hoá cụ thể bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương trình cụ thể. Vì vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước và bộ máy của Nhà nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các Nghị quyết của Đảng.

- Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc xác định đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính trị - xã hội.

- Ngoài ra, Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục và nêu gương, làm công tác vận động quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ...

Câu 2: Những vấn đề xã hội bức xúc được nêu ra trong Đại Hội X ? Thực trạng của vấn đề giải quyết lao động việc làm hiện nay ?

          Những vấn đề xã hội bức xúc theo quan điểm đại hội 10 của Đảng: - Việc xây dựng nếp sống văn hoá chưa được coi trọng đúng mức. Tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ. Quản lý nhà nước về văn hoá còn nhiều sơ hở, yếu kém. Đấu tranh ngăn ngừa văn hoá phẩm độc hại chưa được chú ý đầy đủ, còn nhiều yếu điểm, bất cập.

- Thành tựu xoá đói, giảm nghèo chưa thật vững chắc. Số hộ nghèo và tái nghèo ở một số vùng còn lớn, tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới còn cao. Đời sống nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng thường bị thiên tai còn nhiều khó khăn; nhiều vùng dân tộc thiểu số có tỉ lệ hộ nghèo cao hơn so với bình quân cả nước. Một số chính sách trợ giúp người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo chưa được tổ chức thực hiện tốt.

- Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân còn nhiều bất cập. Hệ thống y tế chậm đổi mới, chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của nhân dân; điều kiện chăm sóc y tế cho người nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn nhiều hạn chế. Bệnh dịch HIV/AIDS tiếp tục gia tăng. Đầu tư của Nhà nước và huy động nguồn lực xã hội cho phát triển y tế chưa đáp ứng yêu cầu và hiệu quả chưa cao. Quản lý hoạt động khám, chữa bệnh và hành nghề y, dược tư nhân kém hiệu quả. Năng lực sản xuất và cung ứng thuốc còn yếu; quản lý thị trường thuốc chữa bệnh có nhiều thiếu sót. Vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ. Chính sách đào tạo và sử dụng cán bộ y tế còn nhiều bất cập; đội ngũ cán bộ y tế thiếu và yếu, cơ cấu bất hợp lý; những việc làm vi phạm đạo đức nghề nghiệp chậm được khắc phục.

- Một số tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Cuộc đấu tranh chống các thói hư tật xấu thiếu các biện pháp đồng bộ và chưa tạo được chuyển biến rõ nét; tệ ma tuý, mại dâm còn diễn biến phức tạp.

- Tội phạm có tổ chức và tội phạm liên quan đến ma tuý có chiều hướng gia tăng.

Việc bảo đảm trật tự, an toàn giao thông chưa tốt, thiếu đồng bộ, tai nạn giao thông vẫn còn nghiêm trọng, ý thức chấp hành pháp luật giao thông trong xã hội rất kém, quản lý nhà nước còn nhiều bất cập.

- Chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp, nhiều vấn đề hạn chế, yếu kém chậm được khắc phục.

+ Chất lượng giáo dục còn nhiều yếu kém; khả năng chủ động, sáng tạo của học sinh, sinh viên ít được bồi dưỡng, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên còn yếu. Chương trình, phương pháp dạy và học còn lạc hậu, nặng nề, chưa thật phù hợp.

Phát triển giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học chưa cân đối với giáo dục trung học phổ thông. Đào tạo nghề còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng.

+ Việc xã hội hoá giáo dục được thực hiện chậm, thiếu đồng bộ. Công tác giáo dục và đào tạo ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, chất lượng thấp. Chưa quan tâm đúng mức phát triển giáo dục và đào tạo ở đồng bằng sông Cửu Long, để giáo dục và đào tạo của vùng này tụt hậu kéo dài so với các vùng trong cả nước.

+ Công tác quản lý giáo dục, đào tạo chậm đổi mới và còn nhiều bất cập. Thanh tra giáo dục còn nhiều yếu kém; những hiện tượng tiêu cực, như bệnh thành tích, thiếu trung thực trong đánh giá kết quả giáo dục, trong học tập, tuyển sinh, thi cử, cấp bằng và tình trạng học thêm, dạy thêm tràn lan kéo dài, chậm được khắc phục.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: