DLTK 5

Đề 5

Câu 1: Phân tích nhận thức mới của Đảng về mỗi liên hệ giữa 2 nhiệm vụ dân tộc và dân chủ ( phản đế và điền địa). Ý nghĩa của nhận thức đó

*Hoàn cảnh:

- Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã làm cho mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản thêm gay gắt và phong trào cách mạng của quần chúng dâng cao.

- Một số nước đi vào con đường phát xít hoá: dùng bạo lực để đàn áp phong trào đấu tranh trong nước và ráo riết chạy đua vũ trang phát động chiến tranh thế giới mới. Chủ nghĩa phát xít thắng thế ở Đức, Ý, Nhật, chúng liên kết với nhau lập ra phe “Trục”, tuyên bố chống Quốc tế Cộng sản và phát động chiến tranh chia lại thế giới. Nguy cơ phát xít và chiến tranh thế giới đe doạ nghiêm trọng nền hoà bình và an ninh quốc tế.

- Đại hội VII Quốc tế Cộng sản họp tại Matxcơva (7-1935) xác định:

+ Kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới chưa phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phát xít.

+ Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới chưa phải là đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản, giành chính quyền mà là chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, hoà bình và cải thiện đời sống.

+ Đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, vấn đề lập Mặt trận thống nhất chống đế quốc có tầm quan trọng đặc biệt.

Tình hình trong nước:

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới có nhiều biến động ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống của mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Trong khi đó, bọn cầm quyền phản động ở Đông Dương ra sức vơ vét, bóc lột và khủng bố phong trào đấu tranh của nhân dân làm cho bầu không khí chính trị trở nên ngột ngạt, yêu cầu có những cải cách dân chủ.

* Nhận  thức mới của Đảng về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân  tộc và dân chủ:

  Trước những biến chuyển của tình hình  trong nước và thế giới, đặc biệt dưới ánh sáng của chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đại hội lần thứ VII của Quốc tế cộng sản, trong những năm 1936 –1939, Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương đã họp hội nghị  lần thứ hai (7/1936), lần thứ 3 (3/1937), lần thứ 4 (9/1937) và lần thứ 5 (3/1938)… đề ra những chủ trương mới về chính trị, tổ chức và hình thức đấu tranh mới phù hợp với tình hình cách mạng nước ta.

   Trong khi đề ra chủ trương mới để lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh nhằm thực hiện  các quyền dân  chủ dân  sinh, Ban  chấp hành Trung ương Đảng đã đặt  vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, phản đế và điền địa rong cách mạng Đông Dương. Trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới công bố tháng 10.1936, Đảng đã nêu một quan điểm mới: “Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa thì cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng”. Vì ằng, tùy hoàn cảnh hiện thực bắt buộc, nếu nhiệm vụ chống đế quốc là cần kíp cho úc  hiện  thời,  còn  vấn đề giải quyết điền  địa  tuy quan  trọng  nhưng  chưa phải  trực iếp bắt buộc, thì có thể trước tập trung đánh đổ đế quốc rồi sau mới giải quyết vấn đề điền địa.

      Nhưng cũng có khi vấn đề điền địa và phản đế phải liên tiếp giải quyết, vấn đề này giúp cho vấn đề kia làm xong mục đích của cuộc vận động. Nghĩa là, cuộc phản đế phát triển tới trình độ võ trang tranh đấu kịch  liệt, đồng thời, vì muốn tăng  thêm ực  lượng  tranh  đấu  chống  đế  quốc,  cần  phải  phát  triển  cuộc  cách mạng  điền  địa. “Nói  tóm  lại, nếu phát  triển  cuộc  tranh đấu  chia đất mà ngăn  trở  cuộc  tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để  tập  trung  lực  lượng của một dân  tộc mà đánh cho được toàn thắng”.

    Đây  là  nhận  thức mới  của Ban  chấp  hành Trung ương, nó phù  hợp với  tinh thần trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và bước đầu khắc phục những hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10/1930. Tuy nhiên trong hoàn cảnh thời kì này nêu lên nv giải phóng dân tộc chưa có thể đặt ra 1 cách trực tiếp

Câu 2: Phân tích quan điểm " Hoàn thiện thể chế đảm bảo đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường " trong thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam. Nêu thực trạng thực hiện quan điểm trên

Hoàn  thiện  thể  chế  về  giá,  cạnh  tranh  và  kiểm  soát  độc  quyền  trong kinh  doanh.  Hoàn  thiện  khung  pháp  lý  cho  ký  kết  và  thực  hiện  hợp đồng. Đồng thời hoàn thiện cơ chế giám sát, điều tiết thị trường và xúc tiến thương mại, đầu tư và giải quyết tranh chấp phù hợp với kinh tế thị trường và cam kết quốc tế. Đa dạng hóa các loại thị trường hàng hóa và dịch vụ theo hướng hiện đại, chú trọng phát triển thị trường dịch vụ. Tự do  hóa  thương mại  và  đầu  tư  phù  hợp  cam  kết  quốc  tế. Xây  dựng  hệ thống  tiêu chuẩn chất  lượng hàng hóa vệ sinh an  toàn  thực phẩm, môi

trường và tăng cường kiểm tra chất lượng hàng hóa, dịch vụ và xử lý sai phạm. Phát  huy  tốt  vai  trò điều hành  thị  trường  tiền  tệ  của ngân  hàng nhà nước vừa  thúc đẩy  tăng  trưởng kinh  tế vừa kiểm soát  lạm phát và   từng bước mở rộng thị trường tín dụng, các dịch vụ ngân hàng cho phù hợp với cam kết quốc tế.

-  Hoàn  thiện  hệ  thống  luật  pháp,  cơ  chế,  chính  sách  cho  hoạt  động  và phát triển  lành mạnh của thị  trường chứng khoán, tăng tính minh bạch, chống  các  giao  dịch  phi  pháp,  các  hành  vi  rửa  tiền,  nhiễu  loạn  thị trường. Tạo điều kiện phát  triển các doanh nghiệp bảo hiểm  thuộc các thành phần kinh  tế, đa dạng hóa và nâng cao chất  lượng các sản phẩm bảo hiểm,  thực hiện  lộ  trình mở cửa  thị  trường bảo hiểm  theo cam kết hội nhập quốc tế; hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách để các quyền tự  về  đất  đai  và  bất  động  sản  vận  động  theo  cơ  chế  thị  trường;  hoàn thiện luật pháp, chính sách về tiền lương, tiền công trong đó tiền lương phải được  coi  là  giá  cả  của  sức  lao động  hình  thành  theo quy  luật  thị trường, dựa trên cung cầu về sức lao động.

-  Xây dựng đồng bộ  luật pháp, cơ chế, chính sách quản  lý, hỗ  trợ các  tổ chức  nghiên  cứu,  ứng  dụng,  chuyển  giao  công  nghệ. Đổi mới  cơ  chế quản lý khoa học và công nghệ phù hợp với cơ chế thị trường, nâng cao hiệu  quả  hoạt  động  của  cơ  quan  quản  lý  thị  trường  công    nghệ. Nhà nước tăng đầu tư và đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa cho các ngành giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao. Nhà nước ban hành tiêu chuẩn, tiêu chí về các hoạt động dịch vụ này, tăng cường quản  lý nhà nước để hạn chế các mặt trái của cơ chế thị trường đối với các hoạt động dịch vụ.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: