2 DLCM

Câu hỏi 1: ý nghĩa sự ra đời của Đảng cộng sản VN?

-Sự ra đời của Đảng với hệ thống tổ chức chặt chẽ và cương lĩnh CM đúng đắn đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo CM kéo dài mấy chục năm đầu thế kỷ XX. Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử CM VN ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo CM. Đảng ra đời làm cho CM VN trở thành một bộ phận khăng khít của CM thế giới. Từ đây giai cấp công nhân và nhân dân lao động VN tham gia một cách tự giác vào sự nghiệp đấu tranh CM của nhân dân thế giới.     - Đảng ra đời với cương lĩnh chính trị đúng đắn đã khẳng định vai trò thống trị của hệ tư tưởng vô sản, khẳng định rõ vai trò lãnh đạo và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân VN. Đảng Cộng sản VN ra đời đầu năm 1930 là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở VN trong thời đại mới, HCM viết: Đảng Cộng sản VN là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước VN. Đảng Cộng sản VN được lịch sử giao cho sứ mệnh nắm quyền lãnh đạo duy nhất đối với CM VN.

- Khẳng định phương hướng phát triển tất yếu khách quan của XH VN, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa XH là trung tâm quy tụ mọi lực lượng, mọi tầng lớp XH. Ngay từ ngày mới thành lập; Đảng ta liền giương cao ngọn cờ CM, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân ta tiến lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Màu cờ đỏ của Đảng chói lọi như mặt trời mới mọc, xé tan cái màn đen tối, soi đường dẫn lối cho nhân dân ta vững bước tiến lên con đường thắng lợi trong cuộc CM phản đế, phản phong.

- Góp phần quan trọng vào công cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới giành độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ XH. Sự ra đời của Đảng là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử tiến hoá của dân tộc VN, được mở đầu bằng thắng lợi của CM Tháng Tám 1945 và sự ra đời của nước VN Dân chủ Cộng hoà.

               - Đảng ra đời gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của HCM. Nguyễn ái Quốc - HCM, người VN yêu nước tiên tiến đã tìm được con đường giải phóng dân tộc đúng đắn, phù hợp với nhu cầu phát triển của dân tộc VN và xu thế của thời đại. Người đã tiếp thu và phát triển học thuyết Mác - Lênin về CM thuộc địa, xây dựng hệ thống lý luận về CM giải phóng dân tộc và tổ chức truyền bá lý luận đó vào VN, ra sức chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ chức, sáng lập Đảng Cộng sản VN, vạch ra cương lĩnh chính trị đúng đắn nhằm dẫn đường cho dân tộc ta tiến lên trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do.

Câu hỏi 2: Kết quả, ý nghĩa và nguyên nhân của quá trình thực hiện chủ trương CNH-HĐH đất nước của Đảng trong thời kỳ đổi mới.

1-Kết quả:

* Thành tựu:

- Cơ sở vật chất, kỹ thuật của đất nước được tăng cường, khả năng độc lập, tự do của nền kinh tế được nâng cao.

So với năm 1955, số xí nghiệp tăng lên 16,5 lần. Nhiều khu công nghiệp lớn đã hình thành, đã có nhiều cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng như điện, than, cơ khí, luyện kim, hoá chất được xây dựng.

- Cơ cấu kinh tế đã có những chuyển biến căn bản theo hướng CNH-HĐH.

Đã có hàng chục trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề đào tạo được đội ngũ cán bộ khoa học - kĩ thuật xấp xỉ 43 vạn người, tăng 19 lần so với năm 1960 là thời điểm bắt đầu công nghiệp hoá.

- CNH-HĐH đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, XH.

* Hạn chế:

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế còn thấp so với khả năng của đất nước và so với các nước trong khu vực.

- Cơ sở vật chất kĩ thuật còn hết sức lạc hậu, những ngành công nghiệp then chốt còn nhỏ bé và chưa được xây dựng đồng bộ, chưa đủ sức làm nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân.

- Chưa sử dụng tốt nguồn lực của đất nước cho CNH-HĐH. Lực lượng sản xuất trong nông nghiệp mới chỉ bước đầu phát triển, nông nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho XH. Đất nước vẫn trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển, rơi vào khủng hoảng kinh tế – XH.

- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, chưa coi trọng phát huy tiềm năng của các vùng kinh tế trọng điểm.

- Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, kết cấu hạ tầng kỹ thuật cho CNH-HĐH còn nhiều bất cập.

2- Nguyên nhân:

- Về khách quan, chúng ta tiến hành CNH-HĐH từ một nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn và trong điều kiện chiến tranh kéo dài, vừa bị tàn phá nặng nề, vừa không thể tập trung sức người, sức của cho CNH-HĐH.

- Về chủ quan, chúng ta đã mắc sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định mục tiêu, bước đi về cơ sở vật chất, kĩ thuật, bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư. Đó là những sai lầm xuất phát từ chủ quan duy ý chí trong nhận thức và chủ trương CNH-HĐH.

- Hệ thống thể chế, chính sách còn nhiều bất cập.

- Chỉ đạo triển khai thực hiện còn nhiều hạn chế.

- Cải cách hành chính chưa tương xứng với yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH-HĐH.

Câu hỏi 3: Kết quả, ý nghĩa và nguyên nhân cơ bản trong công tác đối ngoại của Đảng thời kỳ trước đổi mới(1975-1985)?

* Thành tựu và ý nghĩa:

- Quan hệ với các nước XHCN, đặc biệt là Liên Xô được tăng cường. Trong 10 năm trước đổi mới, quan hệ đối ngoại của VN với các nước XH chủ nghĩa được tăng cường, trong đó đặc biệt là với Liên Xô. Ngày 29-6-1978, VN gia nhập hội đồng tương trợ kinh tế (khối SEV). Viện trợ hàng năm và kim ngạch buôn bán giữa VN với Liên Xô và các nước XH chủ nghĩa khác trong khối SEV đều tăng (riêng ngoại thương chiếm 70 đến 80% kim ngạch buôn bán của VN). Ngày 31-11-1978, VN ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô.

- Thiết lập và đặt quan hệ ngoại giao với nhiều nước, nhiều tổ chức quốc tế. Thực hiện chủ trương mở rộng quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, từ năm 1975 đến năm 1977, nước ta đã thiết lập quan hệ ngoâi giao với 23 nước; ngày 15-9-1976, VN tiếp nhận ghế thành viên chính thức quỹ tiền tệ quốc tế (IMF); ngày 21-9-1976 tiếp nhận ghế thành viên chính thức ngân hàng thế giới (WB) ); ngày 23-9-1976 gia nhập ngân hàng châu Á (ADB) ); ngày 20-9-1977 tiếp nhận ghế thành viên Liên hợp quốc; tham gia tích cực các hoạt động phong trào không liên kết… kể từ năm 1977, một số nước tư bản mở quan hệ hợp tác kinh tế với VN. Với các nước khác thuộc khu vực Đông Nam Á, cuối năm 1976, Philppin và Thái Lan là nước cuối cùng trong tổ chức ASEAN thiết lập quan hệ ngoại giao với VN (tuy nhên, từ năm 1979, lấy cớ sự kiện Campuchia, các nước ASEAn tham gia liên minh thực hiện bao vây cô lập VN). Những kết quả Đối ngoại trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với CM VN.

-Tranh thủ được nguồn viện trợ đáng kể góp phần khôi phục đất nước sau chiến tranh. Tranh thủ được sự ủng hộ của nhiều nước, nhiều tổ chức quốc tế, tạo nhiều thuận lợi cho triển khai các hoạt động đối ngoại sau này. Sự tăng cường hợp tác toàn diện với các nước XH chủ nghĩa và mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế kể cả với các nước ngoài hệ thống XH chủ nghĩa, VN đã tranh thủ được nguồn viện trợ đáng kể góp phần vào việc khôi phục đất nước sau chiến tranh; Việc trở thành thành viên chính thức của quỹ tiền tệ quốc tế, ngân hàng thế giới, ngân hàng phát triển Châu Á và trở thành thành viên chính thức của Liên Hợp Quốc, tham gia tích cực vào các hoạt động của phong trào không liên kết, đã tranh thủ được sự ủng hộ, hợp tác của các nước, các tổ chức quốc tế, đồng thời phát huy được vai trò của nước ta trên trường quốc tế.Về việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước còn lại trong tổ chức ASEAN đã tạo thuân lợi cho việc triển khai các hoạt động đối ngoại trong giai đoạn sau nhằm xây dựng Đông Nam Á trở thành khu vực hòa bình hữu nghị và hợp tác.

* Hạn chế và nguyên nhân

- Bên cạnh những kết quả đạt được ở trên, nhìn tổng quát, từ năm 1975 đến năm 1986, quan hệ quốc tế của VN cũng gặo những trở ngại lớn. Quan hệ quốc tế gặp những trở ngại lớn: uy tin của VN trên trường quốc tế bị giảm sút.

-  Từ những năm cuối của thập kỉ 70, nước ta bị bao vây, cấm vận vế kinh tế, cô lập về chính trị, vừa phải đương đầu với “một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt” của các thế lực thù địch.

- Nguyên nhân dẫn đến hạn chế trên là do trong quan hệ đối ngoại giai đoạn này, chúng ta chưa nắm bắt được xu thế quốc tế chuyển từ đối đầu sang hòa hoãn và chạy đua kinh tế. Do đó đã không tranh thủ được các nhân tố thuận lợi trong quan hệ quốc tế phục vụ cho công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh; không kịp thời đổi mới quan hệ đối ngoại cho phù hợp với tình hình. Những hạn chế của đối ngoại VN giai đoạn này suy cho cùng đều xuất phát từ nguyên nhân cơ bản được Đại hội Đảng lần thứ VI chỉ ra “là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản; nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan”.

Câu hỏi 4: Phân tích chủ trương đổi mới của đại hội Đảng VI về kinh tế?

- Chủ trương sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý, tập trung vào thực hiện 3 chương trình: lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Chương trình lương thực thực phẩm phát triển theo hướng đẩy mạnh thâm canh tăng vụ và mở rộng diện tích cây lúa ở những nơi có điều kiện, phấn đấu tăng diện tích ruộng đất sử dụng của cả nước. Ở những nơi có điều kiện phải thực hiện khai hoang, mở rộng thêm diện tích trồng trọt; phải coi trọng cả lúa và màu; đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, tăng đàn gia súc, gia cầm, áp dụng rộng rãi mô hình VAC để nâng cao hiệu quả sản xuất… Chương trình hàng tiêu dùng thì chú trọng tăng cường sản xuất hàng tiêu dùng về số lượng, chủng loại để đáp ứng nhu cầu đa dạng của XH; tập trung giải quyết vấn đề nguyên liệu, tận lực khai thác các nguồn nguyên liệu trong nước, đồng thời ưu tiên dành ngoại tệ để nhập khẩu những nguyên liệu cần thiết. Phải đổi mới cơ chế và chính sách để thu hút lực lượng tiểu, thủ công nghiệp và các lực lượng khác tham gia làm hàng tiêu dùng. Về chương trình hàng xuất khẩu “tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực; đạt kim ngạch xuất khẩu đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư, máy móc, phụ tùng và những hàng hóa cần thiết”.

- Chủ trương sử dụng, cải tạo các thành phần kinh tế, chấp nhận nền kinh tế có nhiều thành phần. Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XH chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế. Với các thành phần kinh tế XH chủ nghĩa, Đại hội chỉ rõ, quan trọng nhất là củng cố và phát triển kinh tế XHCN, trước hết là làm cho kinh tế quốc doanh thật sự giữ vai trò chủ đạo, chi phối được các thành phần kinh tế khác. Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo XH chủ nghĩa dựa trên 3 nguyên tắc: Nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp. Phải xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong công cuộc cải tạo XH chủ nghĩa phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả 3 mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối XH chủ nghĩa.

- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thiết lập cơ chế mới: kế hoạch hoá theo phương thức hoạch toán kinh doanh XHCN. Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XH chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế XH chủ nghĩa; thành phần kinh tế phi XH chủ nghĩa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chính sách XH, kế hoạch hoá dân số và giải quyết việc làm cho người lao động. Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hoá, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của nhân dân. Trên lĩnh vực đối ngoại nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta là ra sức kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng XH chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa XH và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa XH.

- Giải quyết các vấn đề cấp bách và lưu thông, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động vừa là mục tiêu, vừa là động lực của CM XH chủ nghĩa ở nước ta. Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý đã được Đại hội lần thứ VI xác định là “cơ chế chung trong quản lý toàn bộ XH”. Phương thức vận động quần chúng phải được đổi mới theo khẩu hiệu: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Đó là nền nếp hàng ngày của XH mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của mình.

Câu hỏi 5: Kết quả, ý nghĩa và nguyên nhân của việc thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng hệ thống chính trị trong thời kỳ đổi mới nước ta.

* Kết quả

+ Thành tựu

- Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị có nhiều đổi mới, góp phần xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ XHCN VN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã tiếp thu được những tinh hoa của văn minh nhân loại – các chế định pháp lý được thừa nhận chung của cộng đồng quốc tế như: tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, sự tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con người như là những giá trị XH cao quý nhất, sự ngự trị của pháp luật trong các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và trong điều chỉnh các quan hệ XH.

- Tổ chức bộ máy, xây dựng tinh gọn, hiệu quả. Ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, dưới sự lãnh đạo của một chính đảng duy nhất - Đảng Cộng sản VN

- Từng bước giải quyết tốt mối quan hệ và đổi mới nội dung, phương thức hoạt động giữa các thành tố cấu thành hệ thống chính trị.

- Đảng thường xuyên coi trọng đổi mới, chỉnh đốn Đảng ngang tầm với Đảng cầm quyền: Nhà nước được cải cách, xây dựng theo hướng nhà nước pháp quyền XHCN; mặt trận tổ quốc, các đoàn thể chính trị, XH có nhiều đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động hướng mạnh về cơ sở.

+ Hạn chế

- Năng lực: Hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước, hoạt động của mặt trận tổ quốc, các tổ chức chính trị, XH đưa ngang tầm với yêu cầu của tình hình mới.

- Cải cách hành chính chậm, bộ máy cồng kềnh, còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên, công chức quan liêu, thoái hoá.

- Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, mặt trận tổ quốc, các đoàn thể XH còn chậm, lúng túng.

* Nguyên nhân hạn chế

- Chưa thông nhất cao trong hệ thống chính trị về đổi mới, xây dựng hệ thống chính trị trong thời kỳ mới.

- Đổi mới hệ thống chính trị còn biểu hiện chậm so với đổi mới kinh tế và hội nhập quốc tế.

- Nhiều vấn đề lý luận về hệ thống chính trị còn đang phải làm rõ.

Câu hỏi 6: Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân hạn chế trong quá trình thực hiện chủ trương xây dựng, phát triển văn hoá trong thời kỳ đổi mới?

* Kết quả, ý nghĩa:

+ Thành tựu

- Có bước đổi mới tư duy về văn hoá, xây dựng, phát triển văn hoá.

- Đã tích cực trong đào tạo, xây dựng con người mới XHCN, xây dựng môi trường văn hoá, văn minh lành manh.

- Xây dựng phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

- Giáo dục đào tạo có những bước phát triển mới.

- Khoa học công nhgệ gắn bó hơn với yêu cầu phát triển kinh tế- XH.

+ Hạn chế

- Kết quả đạt được chưa tương xứng với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, chưa tương xứng, đồng bộ với phát triển kinh tế.

- Đạo đức lối sống XH còn nhiều diễn biến phức tạp.

- Một bộ phận cán bộ Đảng viên, công chức thoái hoá về phẩm chất đạo đức, đạo đức công vụ kém, không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.

- Xây dựng thể chế, chính sách về văn hoá còn chậm, thiếu đồng bộ, tính khả thi chưa cao.

- Tình trạng lạc hậu về văn hoá ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số chưa được giải quyết tốt.

* Nguyên nhân hạn chế

- Các cấp, ngành và nhân dân chưa quán triệt và thực hiện tốt quan điểm, chủ trưởng của Đảng về văn hoá

- Chưa xây dựng đồng bộ các thể chế, chính sách phát triển văn hoá trong co chế thị trường và hội nhập quốc tế đang gia tăng.

- Một bộ phận văn hoá hoạt động theo thị hiếu, chạy theo thương trường.

Câu hỏi 7: Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân của quá trình thực hiện chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề XH trong thời kỳ đổi mới đất nước?

* Kết quả

+ Thành tựu

- Tính năng động, chủ động, tự lực tự cườngcủa các giai tầng XH được phát huy.

- ý thức XH, cộng đồng XH của nhân dân được đề cao, tính tích cực, sáng tạo được phát huy.

- Thực hiện công bằng XH được coi trọng, nhất là trong phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.

- Gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế, XH với giải quyết các vấn đề XH, bảo về môi trường sinh thái.

- Phát huy mạnh tính năng động trong kién tạo việc làm, thu nhập của nhân dân. Mọi người được tự do làm giàu hợp pháp, bình đẳng theo phát luật.

- Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu XH theo hướng da dạng.

+ Hạn chế

- Dân số vẫn tăng nhanh, chất lượng dân số thấp, nhất là những vùng sâu, xa và khó khăn.

- Phân hoá giàu – nghèo, bất công XH đáng báo động.

- Vấn đề việc làm, bức xúc XH là sức ép lớn.

- Tệ nạn XH gia tăng, diễn biến phức tạp.

- Ô nhiễm môi trường sinh thái.

- Hệ thống giáo dục lạc hậu, nhiều bất công.

* ý nghĩa

- Một bộ phận không nhỏ nhân dân còn chạy theo lợi ích kinh tế đơn thuần.

- Quản lý nhà nước đối với XH còn nhiều hạn chế.

Câu hỏi 8: Phân tích cơ hội và thách thức trong thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế của Đảng hiện nay?

* Cơ hội

- Xu thế chung của thế giới là hoà bình, hợp tác và phát triển.

- Xu thế toàn cầu hoá kinh tế mang lại nhiều nhân tố tích cực.

- CM khoa hoạc công nghệ trên thế giới phát triển mạnh

- Thành tựu của sự nghiệp đổi mới đất nước.

* Thách thức

- Nền kinh tế đang trong quá trình phát triển,hoàn thiện, còn bộc lộ nhiều bất cập.

- Tác động mặt trái của quá trình toàn cầu hoá.

- Năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế với thế giới còn yếu.

Câu hỏi 9: Phân tích nhiệm vụ, mục tiêu và phương châm đối ngoại của Đảng, nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới.

-Nhiệm vụ:

  +Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định: tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới phát triển kinh tê-XH là lợi ích cao nhất của tổ quốc.

  +Mở rộng đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế. Kết hợp nội lực và ngoại lực tạo thành nguồn lực tổng hợp để đẩy mạnh quá trình CNH-HĐH.

-Mục tiêu:

  +Thực hiện dân giàu nước mạnh, XH công bằng dân chủ văn minh, phát huy và nâng cao vị thế của VN trong quan hệ quốc tế, góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ XH.

* Phương châm

- VN là bạn, là đối tác tin cạy của các nước.

- Tham gia tích cực vào hợp tác quốc tế, khu vực.

- Phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.

- Chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả.

Ðể đạt được mục tiêu chủ yếu trong đường lối đối ngoại, điều có ý nghĩa rất quan trọng và xác định chuẩn xác tư tưởng chỉ đạo. Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII) đã nhấn mạnh tư tưởng "giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa XH, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với vị trí và hoàn cảnh của nước ta cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng ta có thể quan hệ".

Cách đặt vấn đề như vậy vừa phản ánh một đặc điểm nổi bật của "trường phái ngoại giao VN" từ ngàn xưa theo tinh thần "lạt mềm buộc chặt" được phát triển lên thành nghệ thuật trong thời đại HCM với phương châm "dĩ bất biến, ứng vạn biến", vừa phản ánh thực tế rất đa dạng, đầy biến động trong thế giới ngày nay. Thực tiễn mấy chục năm qua chứng tỏ rõ rệt rằng, ngoại giao VN chỉ giành thắng lợi một khi quán triệt hai mặt gắn quyện chặt chẽ với nhau: giữ vững nguyên tắc đi đôi với vận dụng sách lược linh hoạt.

Phù hợp với cách đề cập trên, tiếp nối tư tưởng "thêm bạn bớt thù", tính đến thực tế khách quan hết sức đa dạng trong thế giới ngày nay, Ðảng ta đã xác định một phương châm nay trở nên rất quen thuộc là "đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế". Ða dạng hóa, đa phương hóa ở đây được hiểu là trên cả ba mặt: đối tượng, hình thức quan hệ và chủ thể tham gia.

Về đối tượng quan hệ, Ðại hội VII đã đưa ra khẩu hiệu "VN muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển" và Ðại hội IX bổ sung thêm ý VN không chỉ sẵn sàng là bạn mà còn sẵn sàng là "đối tác tin cậy" của các nước trong cộng đồng quốc tế. Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) đã đưa ra một khái niệm rất mới về đối tượng và đối tác, phân tích một cách biện chứng rằng, trong mỗi đối tượng vẫn có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác vẫn có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta. Trên tinh thần đó chúng ta đã ra sức thiết lập và phát triển quan hệ với mọi quốc gia có chế độ chính trị - XH khác nhau trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp công việc nội bộ của nhau. Cũng với tinh thần ấy về đường Ðảng và đoàn thể quần chúng, chúng ta đã thiết lập quan hệ ở mức độ khác nhau với nhiều đảng phái, tổ chức, lực lượng khác nhau.

Ði đôi với cách tiếp cận trên chúng ta theo đuổi một phương châm khác là: Trong quan hệ quốc tế luôn luôn có hai mặt hợp tác và đấu tranh. Về phần mình chúng ta luôn luôn mong muốn và ra sức thúc đẩy mặt hợp tác bình đẳng cùng có lợi song cũng không chấp nhận và kiên quyết đấu tranh với những hành vi xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích của nước ta. Chúng ta tiến hành cuộc đấu tranh này không để phá vỡ sự hợp tác mà nhằm làm cho sự hợp tác lành mạnh hơn.

Ðiều đó không có nghĩa là chúng ta theo chủ nghĩa trung dung, thái độ ba phải, không phân biệt trắng đen. Chúng ta vẫn phải lấy thước đo giai cấp và dân tộc để phân biệt phải trái, song trong hành xử thì tình hình thực tế và lợi ích của đất nước đòi hỏi phải có cách tiếp cận hết sức biện chứng và linh hoạt, lấy lợi ích cao nhất của dân tộc làm thước đo.

Câu hỏi 10: Phân tích quan điểm chỉ đạo của Đảng trong thực hiện đường lối đối ngoại trong thời kỳ mới?

- Giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.

- Giải quyết hài hoà các lợi ích, vừa bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc vừa thực hiện nghĩa vụ quốc tế.

- Đẩy mạnh quan hệ đối ngoại đa dạng hoá, đa phương hoá, “ thêm bạn, bớt thù” tranh thủ ngoại lực, phát huy nội lực.

- Thực hiện đường lối đối ngoại là sự nghiệp của toàn Đảng, nhà nước, toàn dân.

- Gắn chặt chẽ hoạt động đối ngoại với tăng cường quốc phòng- an ninh, bảo vệ tổ quốc, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, vì lợi ích quốc gia dân tộc.

-Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc tổ quốc XH chủ nghĩa, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của VN.

-Giữ vững độc lập tự chủ tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.

-Nắm vững hai mặt Hợp tácđấu tranh trong quan hệ quốc tế; cố gắng thúc đẩy mặt hợp tác, nhưng vẫn phải đấu tranh dưới hình thức và mức độ thích hợp với từng đối tác; đấu tranh để hợp tác; tránh thực diện đối đầu, tránh để bị đẩy vào thế cô lập.

-Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị XH. Coi trọng quan hệ hòa bình, hợp tác với khu vực; chủ động tham gia các tổ chức đa phương, khu vực và toàn cầu.

-Kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Xác định hội nhập kinh tế quốc tế là công việc của toàn dân.

-Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế-XH; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

-Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế so sánh của đất nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

-Trên cơ sở thực hiện các cam kết gia nhập WTO, đẩy nhanh nhịp độ cải cách thể chế, cơ chế, chính sách kinh tế phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước.

-Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Câu hỏi 11: Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của quá trình thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi mới?

* Thành tựu

- Phá thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch. Tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Từng bước mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế hiệu quả theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá. VN đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc(10/11/1991). 11/1991, Nhật Bản quyết định nối lại Viện trợ ODA; bình thường hóa quan hệ với Hoa Kì(11/7/1995). 7/1995, VN gia nhập ASEAN.

- Giải quyết hoà bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước liên quan. Đàm phán với Malaysia về giải pháp “gác tranh chấp, cùng khai thác”. Kí với với Trung Quốc hiệp ước về phân định biên giới trên bộ, Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp đinh về nghề đánh cá.

-Mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa. Kí hiệp định khung về hợp tác EU(1995); năm 1999 ký thỏa thuận với Trung Quốc khung khổ quan hệ”láng giềng hữu nghị hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”;......

-Tham gia cá tổ chức kinh tế quốc tế như: IMF(Quỹ tiền tệ quốc tế), WB(Ngân hàng thế giới), ADB(Ngân hàng phát triển Châu Á),.....

-Thu Hút đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học công nghệ và kỹ năng quản lí. Ta đã tạo dựng được quan hệ kinh tế thương mại với trên 180 quốc gia; kí kết hiệp định thương mại 2 chiều với gần 90 nước và vùng lãnh thổ... Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để nước ta tiếp cận những thành tựu của cuộc CM khoa học và công nghệ trên thế giới.

-Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh. Trong quá trình hội nhập nhiều doanh nghiệp đã đổi mới công nghệ, đổi mới quản lí, nâng cao năng suất và chất lượng, không ngừng vươn lên trong cạnh tranh để tồn tại và phát triển.

* Hạn chế

-Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn, chúng ta còn lúng túng, bị động; chưa xây dựng được quan hệ lợi ích đan xen, tùy thuộc lẫn nhau với các nước.

-Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới gây khó khăn trong việc thực hiện các cam kết của các tổ chức kinh tế quốc tế.

-Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh tế quốc tế và một lộ trình hợp lí cho việc thực hiện các cam kết.

-Doanh nghiệp nước ta hầu hết quy mô nhỏ, yếu kém cả về quản lí và công nghệ; trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trình độ trang thiết bị lạc hậu; kết cấu hạ tầng và các ngành dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất kinh doanh đều kém phát triển và có chi phí cao hơn các nước khác trong khu vực.

-Đội ngũ cán bộ lĩnh vực đối ngoại nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số lượng và chất lượng; cán bộ doanh nghiệp ít hiểu biết về pháp luật quốc tế, về kĩ thuật kinh doanh.

*Nguyên nhân:

-Chưa có sự phối hợp tốt giữa các cấp, các ngành.

-Thể chế, năng lực quản lí hoạt động đối ngoại còn hạn chế.

-Cơ chế quản lí kinh tế đối ngoại chậm đổi mới.

Câu hỏi 12: Phân tích bài học kinh nghiệm của CM tháng Tám 1945

-Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, giải quyết đúng dắn mối quan hệ giữa đánh đế quốc và phong kiến.

-Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, nền tảng là liên minh công nông, đôngj viên toàn dân nổi dậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

-Biết lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù để cô lập chúng, tập trung lực lượng chiến đấu vào kẻ thù chính.

-Kiên quyết sử dụng bạo lực CM, biết cách sử dụng bạo lực CM phù hợp, các hình thức đấu tranh thích hợp ở tùng giai đoạn CM cụ thể.

-Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang, chuẩn bị và chọn đúng thời cơ, phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

-Tăng cường xây dựng Đảng, hoạch định đường lối CM đúng đắn.

CM tháng Tám cho ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, nhưng có thể nói những bài học kinh nghiệm lớn nhất, sâu sắc nhất đó là:

-Thứ nhất, có một đảng tiên phong thật sự CM tiếp thu được chủ nghĩa Mác – Lênin - đỉnh cao trí tuệ của thời đại được tư tưởng HCM soi sáng đã nắm vững hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn CM của đất nước, đề ra được đường lối CM đúng đắn, có phương pháp, hình thức đấu tranh phong phú, linh hoạt, biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng đúng lúc, phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng tiến lên giành và giữ chính quyền. CM tháng Tám khẳng định rằng: nếu không có một Đảng CM, có một lãnh tụ kiệt xuất, một bộ tham mưu tài giỏi, có lý luận tiên tiến, có tư tưởng thống nhất, có tổ chức chặt chẽ, có đường lối đúng đắn và hợp lòng dân thì khó tập hợp được sức mạnh của toàn dân tộc để làm nên cuộc CM long trời lở đất, chỉ trong vòng nửa tháng đã giành thắng lợi và xác lập được chính quyền dân chủ nhân dân trong phạm vi toàn quốc. Muốn tiến hành một cuộc CM XH sâu sắc và triệt để không thể thiếu vai trò lãnh đạo của một đảng Mácxit – Lênin và một đảng muốn giữ được vai trò lãnh đạo CM cần phải giải quyết tốt mấy vấn đề cơ bản của CM trong cuộc CM dân tộc dân chủ nhân dân như:

+Quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, giữa mục tiêu dân tộc và mục tiêu dân chủ, giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp.

+Quan hệ giữa mục tiêu chiến lược lâu dài và mục tiêu cụ thể trước mắt, giành thắng lợi từng bước, khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn.

+Quan hệ giữa chiến lược và sách lược, phương pháp CM, sử dụng đứng đắn các phương pháp đấu tranh phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể.

+Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, giữa xây dựng Đảng và phát triển lực lượng CM của quần chúng được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất.

+Quan hệ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giữa xây dựng lực lượng CM, phát huy sức mạnh bên trong, nêu cao ý chí tự lực tự cường, độc lập tự chủ và sáng tạo với tranh thủ những điều kiện và thời cơ thuận lợi do tình hình thế giới đem lại.

+Quan hệ giữa chủ động chớp thời cơ và đẩy lùi nguy cơ…

-Thứ hai, vấn đề giành và giữ chính quyền, đó là mục tiêu của bất cứ một cuộc CM nào. Nhưng cái độc đáo của CM tháng Tám, mang bản sắc VN, một sự sáng tạo của Đảng ta là không phải đợi đến khi phát động tổng khởi nghĩa toàn quốc mới đặt vấn đề giành chính quyền về tay nhân dân. Tin tưởng mạnh mẽ ở lực lượng CM của nhân dân, ngay từ tháng 6-1941, tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8, Đảng ta đã chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang với các hình thức và quy mô thích hợp, giành chính quyền từng bộ phận, thành lập và mở rộng các căn cứ địa CM và sẵn sàng chuyển sang hình thức tổng khởi nghĩa khi có điều kiện. Ngay từ đầu chúng ta đã xác định việc giành chính quyền về tay nhân dân, xây dựng chính quyền của dân và phục vụ nhân dân, chính vì thế Đảng đã tập hợp và phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh công nhân – nông dân – trí thức, khai thác và phát huy triệt để động lực tinh thần, nêu cao “ý chí VN”, tinh thần dũng cảm, sáng tạo, sẵn sàng xông lên cứu nước cứu nhà, tạo thành nguồn động lực to lớn để đưa CM tháng Tám đến thắng lợi hoàn toàn. Chính quyền lợi sống còn của cả dân tộc gắn với lợi ích của từng tầng lớp, từng người, quyền lợi cơ bản gắn liền với quyền lợi trước mắt và động viên, thúc đẩy được đông đảo quần chúng kiên trung, bất khuất, anh dũng xông lên đương đầu với những lực lượng thù địch hung bạo nhất. Bài học lớn của việc giành và giữ chính quyền chính là Đảng ta đã biết chăm lo xây dựng lực lượng CM, làm cho lực lượng CM đủ mạnh, thu hút được đông đảo quần chúng tham gia, từ đó làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo ra thời cơ CM để đưa cuộc CM đến thành công. Lực lượng CM có được chính là nhờ Đảng nắm bắt đúng nguyện vọng của quần chúng, biết gắn lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc với nhau, có mục tiêu chính trị rõ ràng, phương pháp CM đúng đắn. Đảng ta đã kiên quyết dùng bạo lực CM và đã biết sử dụng bạo lực CM một cách thích hợp và đúng lúc để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước mới của dân, do dân và vì dân. Bạo lực CM được sử dụng ở CM tháng Tám chính là sử dụng lực lượng chính trị và lực lượng quân sự, gắn kết hai hình thức đấu tranh là đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, tạo nên sức mạnh tổng hợp của CM để tiến lên giành chính quyền. Giành chính quyền đã khó nhưng việc củng cố chính quyền, bảo vệ và xây dựng chính quyền còn khó hơn nhiều. Để giữ vững chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã dựa chắc vào nhân dân, tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần để đấu tranh thắng lợi với thù trong giặc ngoài. Đảng và Chủ tịch HCM đã vận động nhân dân thực hiện tốt 3 nhiệm vụ CM: chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Chính quyền CM đã kịp thời ban hành các chính sách bồi dưỡng sức dân, thi đua tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, thi đua học chữ quốc ngữ, củng cố và mở rộng khối đoàn kết toàn dân tộc, lãnh đạo cuộc tổng tuyển cử đầu tiên vào ngày 6 – 1 – 1946, tổ chức đánh bại mọi âm mưu phản CM, tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh với kẻ thù và tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Việc ta ký với Pháp Hiệp định sơ bộ ngày 6 – 3 – 1946 và Tạm ước ngày 14 – 9 – 1946 cũng là một việc làm sáng suốt để hoà hoãn với Pháp, phá tan âm mưu của bọn Tưởng va tay sai đẩy ta vào thế cô lập, đồng thời tranh thủ thời gian chuẩn bị cuộc chiến đấu bảo vệ chính quyền CM.

-Thứ ba, vấn đề nắm bắt thời cơ ngàn năm có một, đề ra được những quyết định chính xác và kịp thời. Chọn đúng thời cơ là một khoa học và một nghệ thuật. Điều này đã được thể hiện rất rõ trong cuộc Tổng khởi nghĩa CM tháng Tám 1945. Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch HCM trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng tháng 3-1945 “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân lệnh số 1 của Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi lúc 23 giờ 30 ngày 13-8-1945 hiệu triệu toàn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Chọn thời điểm 13-8 để phát động Tổng khởi nghĩa là vô cùng sáng suốt. Bởi vì vào thời điểm đó, CM đã lên tới cao trào, lực lượng CM đã lôi kéo được cả những tầng lớp trung gian, lưng chừng. Lúc đó, quân Nhật bại trận, mất tinh thần cao độ, chỉ ngồi chờ quân đồng minh đến tước vũ khí, nguỵ quyền tay sai tan rã và đã tỏ thái độ đầu hàng lực lượng CM. Thời cơ khởi nghĩa ngàn năm có một đã được chọn một cách chính xác trong khoảng 15 ngày trước khi quân Tưởng và quân Anh đổ bộ vào Đông Dương. Nếu phát động Tổng khởi nghĩa sớm hơn, nhân dân ta sẽ tổn hại nhiều xương máu. Nếu phát động tổng khởi nghĩa muộn hơn, khi quân đồng minh đã vào Đông Dương thì CM VN sẽ mất đi thế chủ động của mình và sẽ gặp nhiều khó khăn khác. Bài học lớn nữa là, vấn đề xây dựng và sử dụng sức mạnh của một cuộc CM. Vận dụng những tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng ta đã đề ra đường lối CM đúng đắn, thể hiện trong khẩu hiệu đấu tranh từng thời kỳ như: độc lập dân tộc, người cày có ruộng, 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh, chủ trương phá kho thóc của Nhật cứu đói cho dân và hàng loạt hình thức vận động, tập hợp lực lượng, khơi dậy tiềm năng sáng tạo của quần chúng khác. Chính vì thế, Đảng ta đã tập hợp và phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân dựa trên nền tảng liên minh công nhân – nông dân và vị trí, tạo nên một nguồn động lực mạnh mẽ đưa CM tiến lên. Có thể nói, sau CM tháng Mười Nga, CM tháng Tám là một cuộc CM - cuộc tổng khởi nghĩa điển hình dựa vào sức mạnh toàn dân, chủ yếu là sức mạnh đấu tranh chính trị của nhân dân để giành quyền một cách nhanh chóng trong cả nước. Dưới ánh sáng của đường lối và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Bác Hồ, lòng yêu nước và sức mạnh của toàn dân thổi bùng lên trong CM tháng Tám đã tiếp tục được phát huy cao độ trong hai cuộc kháng chiến thần thánh chống đế quốc xâm lược và trong công cuộc đổi mới đất nước ngày nay.

Câu hỏi 13: Phân tích nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược?

-Do sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch HCM, với đường lối chính trị, quân sự và đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo.

-Toàn dân, toàn quân ta đoàn kết dũng cảm trong chiến đấu, lao động, sản xuất .

-Có hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân trong cả nước, có mặt trận dân tộc thống nhất, có lực lượng vũ trang sớm xây dựng và không ngừng lớn mạnh.

-Có hậu phương rộng lớn, vững chắc về mọi mặt. Xây dựng, củng cố chính quyền dân chủ nhân dân.

-Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, xây dựng lực lượng hậu phương vững mạnh.

-Xây dựng được tinh thần đoàn kết liên minh chiến đấu 3 nước Đông Dương, được sự giúp đỡ của quốc tế. VN, Lào và Cam-pu-chia liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung. Sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân khác, của nhân dân Pháp và loài người tiến bộ.

-Nếu không có Đảng lãnh đạo tạo nên sức mạnh tổng hợp  của dân tộc và của thời đại. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của CM VN.

Câu hỏi 14: phân tích ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược

*Đối với dân tộc:

-Bảo vệ, phát triển thành quả của CM tháng Tám. Chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược và ách thống trị thực dân của Pháp trong gần một thế kỷ trên đất nước ta.

-Đập tan ách thống trị tàn bạo của Thực Dân Pháp ở Đông Dương. Miền Bắc được giải phóng, chuyển sang CM XH chủ nghĩa, tạo cơ sở để nhân dân ta giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Miền Nam tiếp tục đấu trang chống Mỹ,hoàn thành CM dân tộc dân chủ nhân dân , thống nhất đất nước.

-Mở ra cho CM VN một thời kì phát triển mới.

-Khẳng định sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

*Đối với thế giới:

-Cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới, chứng minh cho chân lí thời đại… Giáng đòn nặng nề vào tham vọng xâm lược, nô dịch của chủ nghĩa đế quốc sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

-Đóng góp những kinh nghiệm quý về đấu tranh giải phóng dân tộc. Góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới ở Á, Phi, Mỹ La- tinh.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top