# 18

Sáng hôm sau, vết thương đỡ dần, Đăng Dung mượn tạm một cái nạng để đi lại. Việc đầu tiên của chàng là đi tìm Ngọc Tuyền. Nàng là cháu ruột của thầy Bảo, được thầy giao cho trông coi vườn thuốc ở cách nhà một quãng. Trong vườn có hoa cỏ thơm ngào ngạt, cảnh vật hiền hòa, đẹp tựa một bức tranh đầy màu sắc. Đăng Dung nghe thấy trong gian nhà tranh ở góc vườn có tiếng giã thuốc, đoán là Ngọc Tuyền ở đó, liền đi tới. Chàng dừng trước cửa gian nhà tranh, không mở cửa bước vào mà đứng ngoài gọi to:

- Ngọc Tuyền bà bà có ở trong đó không? Có kẻ liều mạng đến thăm đây.

Tiếng giã thuốc trong nhà dừng lại, không gian chìm vào im ắng. Đợi hồi lâu không có tiếng trả lời, Đăng Dung giả vờ nói:

- Chà. Hôm nay mình đến là muốn chào từ biệt trước lúc đi xa. Ngọc Tuyền bà bà không có ở đây, vậy là không có duyên được gặp nữa rồi.

Rồi chàng vờ cất bước ra đi. Đi được đến nửa vườn thì cánh cửa nhà tranh bỗng bật mở, Ngọc Tuyền đi ra, gọi:

- Đến đây rồi mà không vào nhà, cứ phải làm bộ làm tịch. Thật là đáng ghét quá đi.

Đăng Dung cười bảo:

- Nhỡ đâu người ta không muốn gặp mình thì sao.

Rồi chàng đi vào trong nhà. Gian nhà đơn sơ chỉ có một cái giường, còn lại đều là đồ để chế thuốc. Hương thuốc nồng đượm khiến Đăng Dung cứ hít hà mãi. Ngọc Tuyền xua tay:

- Không cho. Anh hít hết hơi thuốc quý của em. Thà để cho mấy chú ong thưởng thức còn hơn là vào phổi của kẻ háo sắc

- Nếu vậy thì kẻ háo sắc này đành bịt mũi, nín thở tự tử vậy.

Đăng Dung dí dỏm trả lời, rồi cả hai cùng nhìn nhau cười. Ngọc Tuyền mới bẽn lẽn ngồi xuống bên cạnh chàng:

- Anh phải đi thật ư? Không thể ở lại được sao? Con chim bay còn biết mỏi nữa là... Anh ở lại đây đi. Anh ở lại đây đi mà.

Giọng của Ngọc Tuyền rất ngọt ngào. Khi nói như thế, má nàng có chút ửng hồng, như một trái đào chín mọng. Nàng nhìn chàng, ánh mắt tha thiết chờ đợi. Đăng Dung thoáng chút sững sờ. Ánh mắt trìu mến của cô thôn nữ xinh đẹp quả thật có thể khiến người ta say. Tâm trí của Đăng Dung bị hút vào đó không bay lên nổi. Trước khi đến gặp Ngọc Tuyền, Đăng Dung vẫn luôn phân vân giữa đi và ở. Tâm tư của chàng là một cơn bão, với bao nhiêu suy nghĩ phức tạp luôn đối chọi nhau. Ấy thế, mà khi nhìn vào đôi mắt của Ngọc Tuyền, cơn bão đó bỗng nhiên lắng dịu, trở thành những cơn gió nhẹ hiền hòa. Chàng cảm thấy mình không thể từ chối được đôi mắt tha thiết đó, liền đáp lại:

- Thôi được... Anh sẽ ở lại .... Anh ở lại làm học trò của thầy Bảo. Những dự định khác tạm để sau cũng được.

Ngọc Tuyền reo lên vui sướng. Ngoài trời, sợi tơ hồng theo gió từ đâu bay tới quấn quít trên cành đào. Trong nhà, hai người nhìn nhau đắm đuối, nơi khóe mắt đã ngập men say.

***

Chiều hôm đó, Đăng Dung đến gặp thầy Bảo để xin được theo học võ. Thầy vui sướng tựa như đi giữa đường nhặt được vàng vậy. Thầy dẫn Đăng Dung sang võ đường, chỉ vào bàn thờ và nói:

- Thầy chia đệ tử làm hai hạng là đệ tử chân truyền và đệ tử ký danh. Những võ sinh bình thường học ở võ đường này đều là đệ tử ký danh. Còn về đệ tử chân truyền, thầy mới chỉ nhận có bốn người, một người là Trần Cảo hôm nọ con nhìn thấy, ba người khác đều đã thành võ quan đi nhận chức ở phương xa. Nay thầy muốn nhận con là đệ tử chân truyền thứ năm. Nếu con đồng ý, hãy lạy thầy ba lạy, rồi lạy trước bàn thờ này ba lạy.

Trên bàn thờ chẳng có bài vị hay có tượng chi hết mà chỉ có một cái hộp dài, sơn màu đỏ. Đăng Dung tò mò hỏi:

- Đó là vật gì ạ?

- Con cứ lạy đi rồi thầy mới nói.

Đăng Dung nghe theo, quỳ xuống lạy thầy rồi lạy bàn thờ, mỗi bên lần lượt ba lạy. Chàng lạy xong, thầy Bảo đi đến bàn thờ, mở hộp báu ra, bên trong lộ ra một thanh bảo đao. Khi nhìn thấy thanh bảo đao đó, trái tim Đăng Dung bất giác đập mạnh, trí óc nảy sinh một cảm giác vừa ngưỡng mộ lại vừa khao khát. Đao dài sáu thước bốn tấc (1), nặng đến năm mươi cân (2), người thường không thể nâng nổi. Trên thân đao khắc những hoa văn kỳ lạ. Nơi giữa thân đao là một hình đầu rồng đúc bằng đồng thau, đang ngậm chặt lấy lưỡi đao, vừa uy nghiêm lại vừa tà nghịch. Lưỡi đao cong vút như mặt trăng lưỡi liềm chọc vào ngàn mây, sắc bén vô cùng. Thầy Bảo vuốt ve thân đao sắc lạnh, trầm mặc kể:

- Đây là một thứ thần khí hiếm có ở đời, mà lai lịch của nó cũng rất thần bí. Chẳng hay con đã nghe đến chuyện chuyện vua Lê Lợi đổi tên hồ Tả Vọng thành hồ Hoàn Kiếm chưa?

Đăng Dung xưa nay bươn trải trên chốn giang hồ nên hiểu rộng biết nhiều. Chàng gật đầu thuật lại những gì mình từng được nghe:

- Dạ. Bẩm thầy. Con đã từng nghe nói. Cách đây gần tám chục năm, Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa ở núi Lam Sơn, Thanh Hóa để chống lại nhà Minh(3). Buổi đầu, binh ít, tướng mỏng, lương thực binh khí thiếu thốn nên nghĩa quân gặp muôn vàn khó khăn. Lê Lợi có người bạn tên là Lê Thận, làm nghề đánh cá. Một đêm, Lê Thận đi thả lưới, thấy đáy nước sáng như bó đuốc soi, liền quăng chài nhưng không thấy cá, chỉ vớt lên được một thanh kiếm, liền đem về treo ở trong nhà. Một hôm, Lê Lợi đến nhà Lê Thận chơi, thấy thanh kiếm sáng bừng trong bóng tối, mới thử rút kiếm ra xem, thấy ở trên thanh kiếm khắc hai chữ "Thuận Thiên", liền cho rằng đây là vật báu trời cho, xin được mang về. Lê Thận đồng ý cho ngay. Từ sau khi có được Thuận Thiên kiếm, nghĩa quân của Lê Lợi bắt đầu khởi sắc hơn hẳn, đánh đâu được đây, gần mười năm sau thì thống nhất giang sơn, đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi. Sau này, khi đất nước thái bình, một hôm, Lê Lợi cùng quần thần bơi thuyền ra hồ Tả Vọng vãn cảnh. Nhận lệnh Lạc Long Quân, rùa vàng nổi lên mặt nước, tiến về phía vua, nói: "Xin bệ hạ hoàn lại kiếm cho Long Quân". Vua hiểu ý, tháo Thuận Thiên kiếm, dâng đến cho rùa vàng. Nhanh như cắt, rùa vàng đớp lấy kiếm báu và lặn xuống nước. Kể từ ngày đó, vua Lê Lợi đổi tên hồ Tả Vọng thành hồ Hoàn Kiếm.

Thầy Bảo gật đầu, đáp lại:

- Câu chuyện do dân gian thêu dệt, tuy có nhiều nét huyền bí nhưng có đến chín phần là sự thật. Tuy nhiên, có một việc mà dân gian không hề biết tới. Ngày ấy, báu vật mà Lê Thận vớt được ở dưới nước thực ra có hai thứ. Một là Thuận Thiên Kiếm. Vật thứ hai chính là thanh long đao này, tên là Định Nam Đao(4).

Thầy Bảo ngừng một chút, vuốt ve thanh đao như một người bạn tâm giao, rồi mới nói tiếp:

- Sở dĩ thanh đao này không nổi danh thiên hạ là bởi đao không có duyên với vua Lê Lợi và cũng bởi nhà vua xử sự có phần hơi cố chấp. Ngày ấy, khi ở Lam Sơn, vua cùng với quần thần đến chơi nhà Lê Thận, được Lê Thận dâng lên cả hai vật báu này. Vua Lê Lợi cầm lấy kiếm Thuận Thiên trước. Vua nâng kiếm lên, múa một vòng, các quần thần xung quanh đều vỗ tay khen ngợi. Sau khi nhà vua múa kiếm Thuận Thiên xong, Lê Thận mới dâng Định Nam Đao lên cho vua. Ngờ đâu, khi Lê Thận nâng đao, chẳng may để lưỡi đao cứa vào bả vai nhà vua, làm chảy rất nhiều máu. Vua Lê Lợi giận quá, cho rằng thanh đao là thứ tà nghịch, không hợp với mình, nên quăng thanh đao xuống đất, không thèm nhận. Nhà vua lại sợ thần khí này rơi vào tay kẻ thù, bèn sai Lê Thận buộc vào đá tảng rồi đem quẳng trả xuống giữa sông sâu. ... Thuận Thiên, Định Nam cùng là hai thanh thần khí trời ban, được vớt lên cùng lúc, nhưng mỗi thứ lại có số phận khác nhau. Trong khi Thuận Thiên kiếm theo vua Lê nam chinh bắc chiến, lập bao chiến công hiển hách, tạo nên sự tích ly kỳ thì thanh Định Nam đao lại ngậm hờn, chịu số phận bị chôn lấp nơi bến sông, bi thảm lắm thay.

Thầy Bảo kể đến đây, giọng nói bất giác trùng xuống. Đăng Dung cũng thấy thương cảm, tưởng như đang nghe kể về số phận của một đấu sĩ chí khí ngút trời nhưng lại không gặp thời vận, bị vua đày đọa, phải sống trong tủi nhục vậy. Chàng hỏi tiếp:

- Sau đó thì sao ạ? Sao thầy lại có được thanh đao này ạ?

- Ông nội của thầy tên là Nguyễn Công Duẩn, khi đó là tướng hộ vệ của Lê Lợi nên được chứng kiến hết tất cả. Lúc Lê Thận vất thanh đao này xuống sông, ông nội tưởng mọi chuyện đến thế là xong. Nhưng ai ngờ, mười năm sau, khi đất nước thái bình, ông về thăm lại quê cũ, vô tình nhìn thấy thanh đao trôi dạt vào một cồn cát ven sông. Phải nói rằng thanh đao này rất nặng, nếu đã buộc đá tảng ném xuống sông thì chắc chắn phải chìm sâu xuống đáy, chẳng có lý gì lại dạt vào bờ cát. Ông nội đoán ý trời chưa muốn thanh đao này phải chịu nhơ nhuốc chốn bùn lầy nên đành lén đem về. Hồi đó, vua Lê Lợi lên ngôi cao nhưng lại nảy sinh tính đa nghi, giết hại công thần, hiềm khích người tài. Ông nội vì sợ có kẻ dèm pha về việc chứa chấp thanh đao quý nên phải giấu kín thanh đao trong nhà, đồng thời nung chảy sắt, bịt vào chữ Định Nam khắc trên thanh đao. Về sau ông nội mất, vật báu này truyền cho con cháu. Đến đời thầy, vì các anh đều đi theo đường quan lộ, coi thanh đao như tà vật, không muốn dính vào, nên thầy nhận việc trông giữ.

Đăng Dung nghe xong, không khỏi cảm thán:

- Không ngờ thanh đao này lại có lai lịch ly kỳ như thế. Chẳng trách tên Trần Cảo kia có ý đồ chiếm đoạt.

Thầy Bảo gật đầu:

- Trần Cảo là một trong những đứa đệ tử mà thầy từng rất yêu quý. Y cực kỳ có năng khiếu. Nhưng càng lớn, y lại càng ngang ngược, thậm chí còn tính chuyện phản nghịch. Một lần, y vì chút xích mích cỏn con mà đang tâm giết chết hai cha con lý trưởng. Thầy buộc lòng phải từ mặt y. Ngờ đâu, qua ba năm, tâm tính của y càng lúc càng ngang ngược không coi ai ra cái gì.

Thầy Bảo kể xong, toan đậy nắp hộp để cất thanh đao đi thì Đăng Dung quỳ xuống, lễ phép thưa:

- Bẩm thầy. Chẳng mấy khi được chiêm ngưỡng thanh đao quý. Xin thầy cho con được thử cầm một chút.


--------------------

Chú giải:

Đao dài sáu thước bốn tấc: tương đương khoảng 2,55 mét theo hệ đo lường hiện nay. Một thước ngày xưa = 40 cm. Một tấc ngày xưa = 4 cm.

Đao nặng hơn năm mươi cân: tương đương khoảng 30 kg ngày nay. Một cân ngày xưa = 0,6kg.

Lê Lợi khởi nghĩa tại Lam Sơn, Thanh Hóa từ năm 1418. Mười năm sau thì đánh đuổi quân Minh, giành được độc lập. Vua lên ngôi, lấy niên hiệu là Thuận Thiên. Về sau vua băng hà được truy phong thụy hiệu là Thái Tổ. Sử sách hay gọi là vua Lê Thái Tổ.

Định Nam Đao: là một trong hai thanh long đao của quân vương tại châu Á vẫn còn giữ được đến ngày nay. Đao được lưu giữ tại di tích đền nhà Mạc tại Kiến Thụy, Hải Phòng. 

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top