P2 - Chương 3 - Quy tắc hiếu khách (1)

Guelb er Richât (1)

Quy tắc hiếu khách

Người mở đường

John đi xuống vòm đá bị xói mòn.

Nó có chiều ngang hơn bốn mươi dặm, được hình thành từ các vòng tròn đồng tâm khác nhau của đá trầm tích và đá thạch anh. Nhìn từ trên không, nó trông giống như một xoáy nước với những dải đá ryolit, thảm thực vật và cát bao quanh. Ông biết điều đó bởi vì ông đã bay phía trên nó nhiều lần, từ rất nhiều năm về trước.

Nhiều năm về trước. Lúc đó nơi này là trại của bà ấy, nơi ẩn náu của bà ấy. Bây giờ, rõ ràng nó đã trở thành ngôi nhà vĩnh viễn của bà ấy.

Một số người nói nó trông giống như một con mắt. Một con mắt nhìn lên bầu trời. Nó đã tồn tại trong một thời gian dài, kể từ thời kỳ nguyên thuỷ được gọi là kỷ Phấn Trắng. Con mắt đã mở ra từ lâu trước khi loài người xuất hiện. Nó đã nhìn lên bầu trời khi loài người bước những bước chân đầu tiên. Nó đã che chở cho những người đứng thẳng Homo erectus trong các thung lũng của nó, và những người đứng thẳng của thời đại Acheulean (2) đã để lại xương và rìu cầm tay của họ trong lớp bụi của nó.

Nó đã nhìn chằm chằm không chớp mắt qua thời gian, qua các thời kỳ thảm thực vật ẩm ướt và băng giá leo thang. Vùng đất này được gọi là Mauritania. Đó ít nhất là cái tên mà John nhớ được. Tên của nó bị thay đổi, xói mòn theo thời gian. Hậu duệ của người Sheba (3)Thamud (4) cổ đại đã đặt tên cho con mắt này là Guelb er Richât.

Trong rất nhiều cuộc đời, nó đã chỉ nhìn lên bầu trời và các vì sao. Điều gì đã nhìn lại nó lúc này? John thắc mắc.

Bầu trời đang chìm dần về chiều, đã chuyển sang màu xanh của nước rạn san hô. Bụi trắng tung lên quanh ủng của ông như bột mì. Ông đã vượt qua điểm đánh dấu đầu tiên bên ngoài. Tượng đá đặt trên đá tảng. Những bà mẹ Trái đất lắc lư với cái bụng phệ, và những thần tượng được che chắn bằng xương, cành cây và rơm rạ. John khá chắc chắn rằng chúng là những dấu hiệu cảnh báo và không có sức mạnh hay phép thuật nào trong đó. Nhưng rất có thể chúng sẽ được nối dây với hệ thống ngắt cảm biến hoặc được đặt để che giấu các nhóm cảm biến auspex.

Ông rút khẩu súng lục của mình ra. Sau đó, ông lại đút nó vào bao. Ông muốn được chú ý. Ông muốn được nhìn thấy và chào đón. Một vũ khí được rút ra sẽ chỉ gây ra bạo lực.

Phía trước trong lòng một con suối cạn khô, ông nhìn thấy một cụm nhà ở. Một số khu vực sinh sống bị rỉ sét, được che chắn một nửa bằng bạt che và những chiếc lều Berber lớn được tập trung xung quanh một công trình kiến trúc trung tâm. Một vài chiếc lều nhỏ, cũ kỹ và vá víu nằm rải rác trên địa điểm. Chúng, những ngôi nhà ở này và những cột vox bị gỉ sét nhô lên phía trên những cây gai và cây mastic (5) lởm chởm, là những manh mối duy nhất cho thấy nơi này không còn giống như xưa khi con người lần đầu tiên đến với con suối chảy qua xung quanh đây.

Ông có thể nghe thấy tiếng suối róc rách trong bể chứa nước cũ bằng đá, tiếng chuông buộc cổ buồn tẻ của những con dê đang gặm cỏ trên bãi muối.

Cấu trúc trung tâm là một tàn tích bằng đá, một nhà nghỉ bằng đất được người Berber (6) cổ đại bảo vệ và xây dựng bằng đá chạm khắc. Không, đã lâu rồi họ không được gọi như vậy. Berber là một từ lóng được rút ra từ ngôn ngữ đã chết của người Eleniki, man rợ, một từ để chỉ những người ngoại tộc man rợ. Bây giờ họ được gọi là gì nhỉ? Amizigh... "những người tự do". Không, cái tên đó có lẽ đã chết từ lâu rồi. Hay là Numid (7)? Bất cứ cái tên gì cũng được. Người Berber có lẽ cũng đã tuyệt diệt từ lâu rồi. Đây không còn là nơi ở của họ nữa. Đây không phải là nơi của ai cả.

Ngoại trừ bà ấy.

Nhà nghỉ bằng đất đã bị chôn vùi một nửa trong đất. Những bức tường đá trên mặt đất đã bị sụp đổ và được xây dựng lại nhiều lần. Những đoạn còn thiếu, những mái nhà bị mất đã được che bằng vải căng, nhuộm màu chàm rực rỡ như bầu trời chiều.

Nơi đây thật tĩnh lặng. Bà ấy có còn ở đây nữa không?

Mọi người đã đi hết rồi à? Có phải ông đã lãng phí thời gian của mình hay không?

"Xin chào?" John gọi lớn. Giọng nói của ông dường như đang xúc phạm sự yên tĩnh nơi đây.

"Xin chào," một giọng nói đáp lại ngay bên tai ông. Giọng nói đó không phải là điều khiến John Grammaticus lo lắng, mặc dù nó không biết từ đâu vang lên.

Điều khiến ông lo lắng là sức nặng đè lên phía sau hộp sọ.

Nòng súng lạnh ngắt. Một loại vũ khí cỡ nòng lớn.

John giơ tay hơi cao lên, một cử chỉ bình thường để thể hiện sự phục tùng của mình.

"Tôi có vũ khí, nhưng tôi không nguy hiểm," ông nói, cố tỏ ra hài hước. "Anh có thể tước súng của tôi."

"Tôi đã làm rồi."

John liếc nhìn xuống. Khẩu súng lục đã bị lấy ra khỏi bao súng của ông. Chết tiệt thật.

"Làm gọn gàng lắm," ông nói.

"Tất nhiên rồi."

"Ồ, bây giờ tôi không có vũ khí hay nguy hiểm gì nữa" ông nói.

"Ông không được trang bị vũ khí," giọng nói đó lên tiếng. "Nhưng ông chắc chắn rất nguy hiểm."

"Ôi, thôi nào..."

"Tôi đã đánh giá ông khi ông bước vào đây. Nhận diện khuôn mặt. Bản in gien. Tôi biết chính xác ông là ai hoặc ông đang giả vờ là ai."

"Thật thế à?" John hỏi.

"John Grammaticus."

"À."

"John Grammaticus. Lính đánh thuê. Kẻ bị ruồng bỏ. Kẻ lừa đảo. Pariah. Kẻ gây loạn. Đặc vụ của bọn xenos. Perpetual ở một mức độ nào đó. Bằng mọi phép đo lường nào cũng đều cho thấy độ nguy hiểm từ ông. Ông có muốn dành một chút thời gian để phủ nhận tất cả điều này không? Hay ông muốn nhân cơ hội này để tháo mặt nạ và thừa nhận danh tính thật của mình hơn?"

John nói: "Tôi không có mặt nạ. Tôi không phải là một xenos bị biến đổi, tôi cũng không cải trang bằng psykana. Tôi là những gì anh nhìn thấy. John Grammaticus. Chỉ thế thôi. Tôi sẽ ngụy biện với những mô tả khác của anh. Đã lâu lắm rồi tôi không làm những việc đó, mặc dù tôi phải thú nhận rằng tôi đã làm hầu hết những việc đó, một kỷ lục khiến tôi xấu hổ."

"Điều đó cũng có làm quỷ dữ phải xấu hổ," giọng nói đó lên tiếng.

"À, à, tôi đang nỗ lực tìm kiếm nguồn gốc của sự xấu hổ của chính mình. Tôi có thể hạ tay xuống được không? Và quay lại?"

Áp lực của họng súng đã rút khỏi đầu ông. John chậm rãi quay lại.

Ông đang nhìn thấy một nòng súng ngắn. Nó trông giống như mẫu Phobos, mẫu cổ xưa nhất, và món vũ khí này là đồ cổ thứ thiệt.

Dù được chăm sóc cẩn thận nhưng nó vẫn bị mài mòn và đánh bóng trong quá trình sử dụng. Nó có một lớp gỉ lâu năm không thể làm giả được. Và không còn ai chế tạo hàng loạt chúng với báng súng bằng vàng và ống ngắm bên hông nữa.

Nó đang được nhắm vào ông ta bởi một người mặc áo giáp. Giáp của Legiones Astartes, và người mặc nó là Astartes to lớn và rất giống với một Astartes. Nhưng bộ giáp không màu và không có biểu tượng, thậm chí không có màu xám trần trụi của hội Hiệp sĩ Errant. Nó có màu nhạt, sáng bóng như một thỏi chì.

Người chiến binh không đội mũ trụ và không có lấy một nụ cười. Khuôn mặt anh ta được cạo râu sạch sẽ, cứng cáp, hoa râm, như thể anh ta có một lớp gỉ cũ giống như khẩu súng lục mà anh ta đang nhắm bắn. Mái tóc màu rơm rạ của anh ta được cắt ngắn. Đôi mắt có màu xanh chàm.

"Vậy bây giờ ông là cái gì?" Người chiến binh hỏi.

"Chỉ là tôi thôi," John trả lời. "Một người bạn của Hoàng đế."

"Chà," người chiến binh nói, "đó chẳng phải là điều nguy hiểm nhất hay sao?"

"Trong những ngày này à?" John hỏi. Ông cười khúc khích. "Tôi cho là vậy."

"Bất cứ ngày nào cũng vậy," người chiến binh trả lời, không có chút hài hước nào cả.

"Nhưng anh là một trong những chiến binh của Người à," John nói.

Người chiến binh nhẹ nhàng lắc đầu.

John cảm thấy ruột gan mình quặn thắt lên. Tất nhiên rồi. Ông đã đến quá muộn. Kẻ thù không đội trời chung đã ở đây. Ông đang bị một tên Astartes phản bội dồn vào chân tường. Phe nào? Quân đoàn nào? Điều đó hầu như không quan trọng, nhưng ông sẽ tìm kiếm manh mối.

"Tôi không phải là chiến binh của Người," người chiến binh nói.

"Vậy thì... là của Warmaster?"

"Cũng không phải hắn ta."

"Tôi không hiểu," John nói.

"Có vẻ như ông chưa bao giờ hiểu được điều đó. Như bà ấy thường hay nói vậy."

"Anh phục vụ cho bà ấy à?"

"Cho đến ngày tôi chết."

John đã nhận thấy điều gì đó. Một dải tem nhỏ, giống như một dấu ấn, được khắc vào tấm bảng không màu của quân đoàn ngay dưới đường ngực. LE 2. Điều đó biểu thị cho điều gì nhỉ?

"Tôi đến đây để gặp bà ấy. Để nói chuyện với bà ấy," John nói.

"Không," Space Marine nói. "Bà ấy sẽ không gặp ông. Bà ấy biết ông là ai. Những gì ông đã làm. Ông may mắn là bà ấy không phái tôi ra ngoài để trừng phạt ông. Tôi cho đó chỉ là một cử chỉ vì lòng hiếu khách có từ thời xa xưa."

"Thứ lỗi cho tôi, anh bạn," John nói. "Tôi cần gặp bà ấy. Tôi đã đi một chặng đường dài để gặp bà ấy. Một thời gian dài. Tôi biết tôi không có tiếng tăm gì ở đây. Tôi hiểu bà ấy khinh thường tôi."

"Cứ đi đi, John Grammaticus," Space Marine nói. "Bây giờ hãy đi bộ trở lại sa mạc. Trở lại bất cứ nơi nào ông đến. Tôi sẽ cho ông cơ hội đó vì bà ấy muốn tôi làm vậy. Hãy đi ngay bây giờ. Lời đề nghị mang tính thương xót này sẽ hết hạn sau vài giây nữa."

"Tôi cần gặp bà ấy," John nói, không cử động.

"Ông quá nguy hiểm," người chiến binh nói.

"Vì Chúa," John mệt mỏi nói. "Anh phải hiểu chuyện gì đang xảy ra. Bà ấy phải được biết. Địa ngục đang giáng xuống Trái đất. Địa ngục tràn ngập Himalazia và phá hủy mọi thứ níu giữ nền văn minh của chúng ta. Horus Lupercal chỉ còn vài ngày nữa là có thể tiêu diệt giống loài của chúng ta. Và giờ anh lại nghĩ tôi là kẻ nguy hiểm hay sao?"

"Vậy tại sao ông lại đến đây?"

"Để ngăn chặn tất cả," John nói.

"Horus? Ông không thể."

"Tất nhiên là tôi không thể," John ngắt lời. "Hắn ta là Horus, chết tiệt thật. Không ai có thể ngăn cản. Tôi ở đây để ngăn chặn Ngài. Bởi vì Người là người duy nhất có thể chấm dứt sự ghê tởm này."

"Đó là điều ngu ngốc nhất mà tôi từng nghe", Space Marine nói. "Thậm chí đến từ một người đàn ông đã dành cả cuộc đời để đưa ra những quyết định ngu ngốc. Ông đề nghị ngăn chặn Người như thế nào?"

"Chính là lý do đó," John nói, "đó là lý do tại sao tôi cần sự giúp đỡ của bà ấy."


Chú thích:

(1) Guelb er Richât: Con mắt của sa mạc, dịch theo nghĩa đen là "Cấu trúc Richat", còn được gọi là "Con mắt châu Phi" ​​và "Con mắt sa mạc Sahara", nằm ở phía tây nam sa mạc Sahara, thuộc Mauritania. Nơi này là một cấu trúc trông giống như một con mắt khổng lồ khi nhìn từ trên không, với đường kính khoảng 40 kilomet. Nguyên nhân cụ thể vẫn chưa được xác định. Nó từng được cho là do tác động của thiên thạch. Trong những năm gần đây, nghiên cứu có xu hướng tin rằng nó được hình thành do tác động đồng thời của quá trình nâng cao địa chất và xói mòn.

(2) Thời đại Acheulean: Thời đại Acheulean. Văn hóa Acheulean là một giai đoạn của văn hóa Đá cũ, có niên đại khoảng 1,7 triệu đến 200.000 năm trước. Nó được đặt tên theo những công cụ bằng đá được phát hiện lần đầu tiên ở Saint-Acher, ngoại ô Amiens, Pháp. Homo erectus ở giai đoạn này đã phát triển các kỹ thuật chế tạo công cụ bằng đá tiên tiến, trong đó rìu cầm tay là tiêu biểu nhất

(3) Sheba: Sheba là một vương quốc cổ xưa được nhắc đến trong Kinh thánh và kinh Koran, nằm gần Ethiopia ở miền đông châu Phi.

(4) Thamud: Người Thamud là một bộ tộc cổ xưa được nhắc đến trong Kinh Qur'an và sống ở Ả Rập.

(5) Cây mastic: Cây trầm hương là một loại cây nhỏ thuộc họ ô liu, sống chủ yếu dọc theo bờ Biển Đỏ và Ả Rập. Nhựa cây này được gọi là trầm hương sau khi ngưng tụ, nó tỏa ra mùi thơm khi đốt và cũng có thể được sử dụng làm thuốc. Truyền thuyết kể rằng trầm hương là một trong những món quà được ba vị thánh tặng để kỷ niệm ngày sinh của Chúa Kitô.

(6) "Berbers" xuất phát từ tiếng Latin có nghĩa là "man rợ". Trên thực tế, người Berber không phải là một dân tộc đơn lẻ mà là tên gọi chung của hàng loạt dân tộc ở châu Phi có ngôn ngữ và phong tục tương tự nhau. Người Berber thường tự gọi mình là người Amazigh.

(7) Numid:, có thể đề cập đến Numidia, là một quốc gia được thành lập bởi người Berber trong lịch sử. Nó nằm ở phía đông của Algeria ngày nay, gần Tunisia và Libya. Nó đã bị Cộng hòa La Mã hủy diệt vào năm 46 trước Công nguyên và bị sáp nhập vào tỉnh Châu Phi.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top