Chương 2
Nhóm những kẻ cuồng phim LUMIÈRE – Tin nhắn riêng
Alex: Tối nay cậu có bận gì không?
Mink: Chỉ làm bài tập về nhà thôi.
Alex: Muốn xem bộ The Big Lebowski cùng nhau không? Cậu có thể phát nó.
Mink: *chớp chớp mắt* Ai đây? Đứa bạn nào ăn trộm mất tài khoản của cậu à?
Alex: Phim đó hay tuyệt. Một bộ phim cổ điển của anh em nhà Coen, cậu thích bộ O Brother, Where Art Thou phải không? Nào nào... vui lắm. Đừng có tỏ vẻ là một movie snob* nữa mà.
Mink: Tớ không phải một movie snob*. Tớ là một FILM snob* nhé.
(*Movie snob và film snob đều có nghĩa là những kẻ cuồng phim, mê phim, mê kiểu xem xong là phê bình, nhận xét này nọ ấy. Movie và film ngày nay dùng như 2 từ đồng nghĩa nhưng có nhiều người định nghĩa film thì nghệ thuật hơn, học thuật hơn, nhiều trải nghiệm hơn so với movie chỉ mang tính giải trí í.)
Alex: Ngay cả vậy thì tớ vẫn thích cậu... Đừng bỏ mặc tớ buồn chán và cô đơn ở đây một mình mà. Trong khi tớ vẫn đang mòn mỏi đợi chờ cậu lấy hết dũng khí xin bố mẹ chiếc vé máy bay đến California để xem North by Northwest cùng người bạn cuồng phim này trên bãi biển đây. Tớ đang nhìn cậu bằng đôi mắt cún con đấy.
Mink: Gee, cậu đang ngầm dụ tớ đó hả?
Alex: Cậu nhận ra rồi hả? *toe toét* Thôi nào, xem với tớ đi. Đêm nay tớ phải làm việc khuya đấy.
Mink: Cậu xem phim lúc đang làm việc à?
Alex: Chỉ khi rảnh rỗi thôi. Tin tớ đi, tớ làm việc còn giỏi hơn tên đồng nghiệp a.k.a tên đần độn của tớ đấy. Tớ không nghĩ anh ta được việc lắm đâu.
Mink: Ôi cậu đúng là một tên California không bình thường mà *lắc đầu*
Alex: Thế chúng ta triển nhé? Cậu có thể vừa làm bài vừa xem mà. Tớ sẽ giúp cậu nữa. Cậu còn biện cớ gì nữa không? Để tớ bác bỏ hết luôn một lượt nào: cậu có thể gội đầu trong lúc chiếu đoạn mở đầu phim, và chúng ta sẽ xem khi cậu đã ăn tối xong, và nếu bạn trai cậu không thích ý tưởng cậu xem phim cùng một người bạn trên mạng thì anh ta hẳn là một tên ngốc vì thế đừng ngại ngần chia tay với hắn ngay đi, làm liền đi nào. Sao hả?
Mink: Được rồi, cậu may mắn đấy, may là cậu không chọn một bộ phim khác. Tóc tớ còn sạch và tớ thường ăn tối vào khoảng 8h lận, và tớ còn độc thân. Không thành vấn đề.
Alex: Ừ, tớ cũng thế. Không thành vấn đề...
------------------------------------
"I shut everybody out. Don't take it personally."
Anna Kendrick, phim Pitch Perfect (2012)
Tôi từng nhìn thấy nhà mới của bố trong những cuộc gọi video nhưng khi thực sự trải nghiệm nó ngoài đời thì thật xa lạ. Nằm khuất bóng trên một con đường yên tĩnh rợp bóng cây bao quanh bởi rừng phong lá đỏ, nó trông giống một cái cabin hơn là nhà với một cái lò sưởi bằng đá dưới tầng trệt và 2 phòng ngủ nhỏ trên lầu. Ngôi nhà từng được dùng để cho thuê trong các kì nghỉ, và thật may là tôi có phòng tắm riêng.
Phần hay ho nhất của căn nhà là hiên sau có mái che, ở đó không chỉ có một cái võng mà còn được xây vòng quanh một cây tùng bách vươn cành lá xuyên qua mái nhà thẳng lên trời. Tuy nhiên, chính thứ nằm ở ngoài mái hiên mới là thứ làm tôi lo lắng trên đường vào nhà mỗi khi liếc qua: một con xe Vespa cổ điển màu xanh turquoise với yên xe in hình da báo.
Một con xe Vespa.
Của tôi.
Tôi lái một con Vespa.
Thật đấy à?
Cái động cơ nhỏ với mấy cái lốp xe viền trắng tí hon chỉ có thể lên đến 40 dặm một giờ, nhưng cái khung xe thập niên 60 đó rõ ràng đã được phục chế lại đầy đủ.
"Xe của con đó." Bố nói một cách đầy tự hào khi giới thiệu nó cho tôi lần đầu tiên. "Bố biết con cần phương tiện để đi làm thêm mùa hè này mà. Con cũng có thể dùng nó để đi học vào mùa thu sắp tới. Con không cần có bằng lái luôn."
"Thật điên rồ", tôi nói. Thật tuyệt vời nhưng cũng thật điên rồ. Tôi lo là mình sẽ gây chú ý mất.
"Ở đây có hàng trăm chiếc xe như thế này mà." Bố tiếp tục thuyết phục. "Dù là xe này hay xe tải, miễn là con không cần lướt trên một cái ván lướt sóng là bố thấy ổn rồi."
"Thật là Artful Dodger", tôi thừa nhận.
"Con có thể giả vờ như mình là Audrey Hepburn trong phim Roman Holiday".
Chúa ơi, bố thật biết cách thuyết phục tôi. Tôi đã xem phim đó hàng tá lần, ông biết điều đó. "Con thích cái yên da báo hoài cổ đó lắm."
Và cả cái mũ bảo hiểm cũng đồng dạng hợp với con xe. Do đó tôi đã đặt tên cho con xe ga là Baby, như một cách tưởng nhớ đến bộ phim yêu thích nhất mọi thời đại của tôi, Bringing Up Baby – một bộ phim siêu hài hước của thập niên 30. Phim này có sự tham gia của Cary Grant và Katharine Hepburn trong vai một cặp đôi đũa lệch bị vướng vào những tình huống dở khóc dở cười bởi một con thú kiểng – chú báo tên Baby. Một khi đã đặt tên thì tôi cũng đã lập cam kết với chính mình. Không còn đường lui nữa. Nó sẽ là của tôi. Bố dạy tôi đi xe, rồi tôi tự lái lên lái xuống con đường trước nhà một triệu lần sau bữa tối. Rốt cuộc thì tôi cũng tìm được dũng khí để lái nó vòng quanh thị trấn, đi xuống địa ngục, vượt mấy con nước cao hay thậm chí là đi qua mấy tên lướt sóng say thuốc băng ẩu qua đường.
Bố xin lỗi tôi vì hôm sau ông phải đi làm, nhưng tôi nói không sao. Dù gì tôi cũng dành cả ngày để sắp xếp đồ đạc và lái con xe đi vòng quanh kèm đó là những lúc chợp mắt trên chiếc võng sau chuyến bay dài mệt mỏi. Tôi nhắn cho Alex vài lần, tuy nhiên tôi vẫn tiếp tục với những ảo tưởng rằng những việc tôi làm trong kì nghỉ hè này đây khó khăn hơn nhiều so với những gì tôi nghĩ. Có lẽ mọi thứ sẽ dễ dàng hơn nếu mà tôi có năng lực không bị say tàu.
Sau một ngày nghỉ ngơi và một buổi tối chơi trò board game yêu thích của bố con tôi, trò The Settlers of Catan, đã đến lúc tôi buộc mình đưa khả năng tự lập mới được khám phá của mình vào thử nghiệm. Tìm một công việc làm thêm mùa hè là một trong nhiều mối lo của tôi khi đến đây, tuy nhiên bố có giúp tôi bằng quan hệ chút xíu. Hồi còn ở Washington thì tôi thấy ổn lắm. Nhưng khi đến đây rồi, tôi có hơi hối hận. Dù sao cũng quá trễ rồi. "Mùa khách du lịch mùa hè chẳng chờ đợi ai cả." Bố phấn khởi nói với tôi khi tôi hơi kêu ca.
Bố gọi tôi dậy thật sớm khi ông đi làm, nhưng rồi tôi lại ngủ tiếp. Khi thức dậy lần nữa, tôi sắp trễ giờ nên lại cuống cuồng thay quần áo lao ra khỏi cửa. Nhưng có thứ mà tôi không ngờ tới khi chuyển đến đây đó là sương mù bờ biển vào buổi sáng. Sương mù tràn ngập trong rừng phong giống như một cái chăn bằng ren xám xịt khiến cho không khí lạnh lẽo cho đến trước giữa buổi sáng, khi ánh mắt trời thiêu đốt làm tan sương. Màn sương sớm này chắc chắn cũng có nét đẹp riêng của nó, nhưng khi tôi phải lái con xe ga xuyên qua rừng cây bao quanh nhà, nơi mà thỉnh thoảng có những cành cây thấp chệch và chìa ra nhưng mấy ngón tay thì hẳn không phải là việc tôi yêu thích mấy.
Cầm trên tay tấm bảng đồ cùng với nỗi bồn chồn to bằng kích thước nước Nga trong dạ dày, tôi lao vào màn sương và lái Baby vào thị trấn. Bố đã chỉ đường cho khi ngồi trên xe hơi nhưng tôi vẫn tự nhắc đi nhắc lại hướng dẫn trong đầu tại mỗi một điểm dừng. Còn chưa tới 9 giờ sáng nên trên đường còn rất vắng vẻ cho đến khi tôi đến con đường Gold Avenue khủng khiếp. Nơi tôi phải đến chỉ còn cách vài tòa nhà sau khúc quẹo này thôi, nhưng tôi phải lái xe đi trên lối lót ván dọc theo bờ biển (nào là vòng đu quay, nhạc nhẽo ầm ĩ, sân golf cỡ nhỏ), cẩn thận tránh mấy du khách băng qua đường sau khi đánh chén bữa sáng tại nhà hàng Pancake Shack – mùi thức ăn thật tuyệt vời, nhân tiện, OMG, cái lũ trượt ván này ở đâu chui ra vậy?
Ngay lúc tôi gần như sắp tắt thở bởi những áp lực làm não căng như dây đàn, tôi bỗng nhìn thấy những vách đá dựng đứng dọc bờ biển ở cuối lối đi lót ván và một cái biển hiệu đề: lâu đài THE CAVERN.
Công việc làm thêm mùa hè của tôi.
Tôi giảm tốc độ Baby bằng một cái bóp phanh tay và quẹo vào lối đi cho nhân viên. Bên phải là lối đi chính dẫn thẳng lên vách đá tới bãi để xe cho khách, hôm nay trống trơn. "The Cave", bố đã bảo tôi rằng dân bản xứ gọi nơi này như thế, đang đóng cửa để tập huấn và phun thuốc khử trùng, cái thứ mùi mà ở đây tôi cũng ngửi được vì nó đang bốc lên tận trời. Ngày mai mới là ngày khai trương chính thức cho mùa du lịch hè vì thế hôm nay chính là buổi tập huấn cho những nhân viên mới. Gồm cả tôi.
Bố đã làm một số nghiệp vụ kế toán cho The Cave và ông quen biết với giám đốc. Nhờ đó tôi có được công việc này. Mặt khác, tôi ngờ rằng có thể họ bị ấn tượng bởi cái đơn xin việc nghèo nàn của tôi, bao gồm duy nhất một công việc giữ trẻ mùa hè và vài tháng sắp xếp giấy tờ pháp luật sau giờ học ở New Jersey.
Nhưng tất cả đã là quá khứ. Bởi vì giờ đây, khi tôi lo lắng đến mức có thể ói mửa lên cái đồng hồ tốc độ thập niên 60 duyên dáng của Baby, tôi vẫn thực sự hơi háo hức được làm việc ở đây. Tôi thích mấy cái viện bảo tàng. Rất thích.
Đây là những gì tôi tra được trên mạng về The Cave: Ông bà Vivian và Jay Davenport, những người đã trở nên giàu có trong thế chiến thứ nhất khi chuyển từ San Francisco xuống đây, họ mua nơi này như một chỗ để nghỉ mát cạnh biển và tìm thấy 13 triệu đô la tiền vàng được giấu trong một hang động trong mấy vách đá. Cặp vợ chồng kì quặc sử dụng số tiền này để xây một khu biệt thự ngổn ngang hàng trăm phòng trên bờ biển, ngay bên kia lối vào hang động, và lấp đầy chúng với những vật ngoại lai, đồ cổ và cả những thứ kì cục họ sưu tầm được trên những chuyến đi vòng quanh thế giới. Họ chìm đắm trong những bữa tiệc điên cuồng say sưa vào những năm 20 và 30, mời những người giàu có từ San Francisco cùng những ngôi sao đang lên ở Hollywood. Vào đầu những năm 50, mọi thứ kết thúc như một tấn thảm kịch khi Vivian bị Jay bắn chết, sau đó ông ấy cũng tự sát luôn. Sau khi bị bỏ không 20 năm, các con của họ quyết định sử dụng ngôi nhà vào một mục đích tốt đẹp hơn đó là mở cửa cho công chúng vào thăm như một điểm thu hút khách du lịch.
Được rồi, phải thừa nhận rằng ngôi nhà này rõ ràng có hơi gàn dở và kì quặc, và một nửa cái gọi là bộ sưu tập kia là không có thật, nhưng chắc là vẫn có những cột mốc đáng ghi nhớ gợi nhắc về thời hoàng kim của Hollywood trong kia chứ. Thêm nữa, làm việc ở đây thế nào cũng tốt hơn so với sắp xếp giấy tờ ở tòa án phải không.
Một hàng rào che khuất khu vực dành cho nhân viên nằm đằng sau mấy chái nhà. Tôi thành công đỗ Baby vào khoảng trống cạnh một chiếc tay ga khác mà không làm đổ vỡ bất cứ thứ gì – siêu giỏi tôi ơi!. Sau đó tôi đứng dậy và móc một cái ổ khóa vào bánh sau xe để đảm bảo an toàn. Mũ bảo hiểm thì được tôi nhét vào trong cốp xe khóa kín. Tôi đã sẵn sàng đi rồi.
Tôi không rõ một bộ trang phục tiêu chuẩn cho một buổi giới thiệu công việc là thế nào, thế nên tôi mặc một cái đầm vintage của thập niên 50 với một cái áo cardigan màu sáng khoác ngoài. Cái đầu kẹp xoăn kiểu Lana Turner của tôi vẫn còn sống sót trên đường đi và lớp makeup trông vẫn ổn. Tuy nhiên, khi nhìn thấy có vài người đi bộ qua cửa bên với dép xỏ ngón và quần đùi, tôi hoàn toàn cảm thấy mình quá lố. Nhưng đã quá trễ rồi nên tôi đành đi theo họ vào trong.
Nơi đây có vẻ là mặt sau của tiền sảnh với nhiều phòng làm việc và một phòng nghỉ. Một người phụ nữ chán chường ngồi sau một cái bục bên trong cửa ra vào. Mấy người đi trước tôi giờ chẳng thấy đâu cả, chỉ có một cô gái khác dừng lại chỗ cái bục.
"Tên gì?" – người phụ nữ chán chường hỏi.
Cô gái trông nhỏ nhắn, tầm tuổi tôi với làn da nâu sẫm và mái tóc đen cắt ngắn. Cô ấy ăn mặc cũng khá lố giống tôi, điều đó khiến tôi thấy khá hơn một chút. "Grace Achebe" – cô trả lời bằng cái giọng bé nhất và the thé nhất mà tôi từng được nghe trong đời. Cô ấy có giọng Anh khá nặng. Giọng cô khá nhẹ nhàng, người phụ nữ đã phải bảo cô lặp lại tên mình. Những hai lần.
Cuối cùng cô ấy cũng được đánh dấu vào danh sách và và được đưa cho một tập tài liệu gồm những giấy tờ dành cho người mới trước khi được hướng dẫn đi vô phòng nghỉ. Đến lượt tôi cũng y chang vậy. Có lẽ có khoảng 20 người hoặc hơn đã điền xong giấy tờ của họ. Bởi không còn bàn trống nên tôi ngồi cùng chỗ với Grace.
Cô ấy thì thầm hỏi: "Cậu cũng chưa làm ở đây bao giờ hả?"
"Chưa. Tớ là người mới", tôi trả lời, rồi vội bổ sung, "mới chuyển đến đây luôn."
Cô ấy liếc qua tài liệu của tôi. "Ồ, chúng ta bằng tuổi này. Brightsea hay Oakdale? Hay trường tư?"
Mất một giây tôi mới nhận ra ý cô bạn là gì. "Tớ bắt đầu học ở Brightsea mùa thu này."
"Y chang tớ", cô ấy nở một nụ cười toe toét, chỉ vào dòng trình độ giáo dục trên tờ đơn. Sau khi một nhân viên mới khác đi ngang qua, cô ấy chia sẻ vài thông tin về chỗ này cho tôi. "Họ thuê, ừm, hình như 25 người mỗi mùa hè. Tớ nghe nói công việc chán nhưng mà dễ lắm. Dù sao cũng tốt hơn đi dọn đống kẹo bông màu hồng bị ói ra trên mấy lối đi lót ván."
Rõ là khỏi cần bàn cãi rồi. Tôi đã điền đơn xin việc trực tuyến rồi, nhưng họ vẫn phát một quyển sách cầm tay và một cộc giấy tờ kì quặc khác để kí vào. Những thỏa thuận bảo mật. Thỏa thuận cho phép kiểm tra sử dụng chất gây nghiện một cách ngẫu nhiên. Cam kết không sử dụng wi-fi của bảo tàng để xem phim khiêu dâm. Cảnh báo về việc mất cắp đồng phục.
Grace trông cũng bối rối chẳng kém tôi là mấy.
"Cạnh tranh kinh doanh?" Cô ấy lẩm bẩm, nhìn vào mấy thứ chúng tôi phải kí, cam kết không được nhận một công việc tương tự trong vòng 60 dặm quanh Coronado Cove khoảng 3 tháng sau khi kết thúc công việc ở đây. "Ý họ một công việc tương tự là như nào? Điều này hợp pháp hả?"
"Có lẽ không đâu", tôi thì thầm, nghĩ về dượng Nate LLC cứ lải nhải mấy lời khuyên pháp lý cho mẹ tôi, làm như bà không phải là luật sư ấy.
"Được thôi, vậy đây cũng không phải chữ kí hợp pháp của tớ." Cô ấy nói bằng cái giọng Anh duyên dáng, làm một đường nguệch ngoạc lờ mờ trên tờ đơn và nhướng nhướng mày với tôi. "Và nếu mà họ không cho tớ làm đủ giờ, tớ sẽ đi thẳng đến cái biệt thự hang động gần đây nhất trong vòng 60 dặm."
Tôi không hề có ý định cười phá lên như vậy. Khi tất cả mọi người nhìn lên, tôi lập tức nín lại mấy tiếng khúc khích rồi cả hai chúng tôi hoàn thành hết đống giấy tờ. Sau khi nộp, mỗi người chúng tôi được phân cho một ngăn tủ khóa và một cái áo ghi-lê xấu xí nhất mà tôi từng nhìn thấy trong đời. Nó có màu của mấy cái đèn bí ngô bị thúi. Chúng tôi không cần mặc mấy cái áo đó trong ngày đầu tiên nhưng thay vào đó là mấy tấm nhãn dán HELLO, MY NAME IS....Sau khi mọi người dán mấy tấm nhãn lên ngực, chúng tôi bị lùa ra khỏi phòng lớn cho nhân viên, qua một cánh cổng thép (trên đó treo một cái biển nhắc nhở chúng tôi nhớ mỉm cười) vào trong sảnh chính.
Nơi này thật rộng, tiếng bước chân của chúng tôi dội lại trên mấy bức tường đá khi cả lũ nghểnh cổ lên nhìn ngó xung quanh. Lối vào hang động nằm ở cuối sảnh này, tất cả mấy cái tượng và măng đá đều được thắp sáng bằng đèn cam, điều này chỉ làm chúng tăng thêm yếu tố ghê rợn mà thôi. Chúng tôi được dẫn xuyên qua tiền sảnh rộng rãi ngang qua một cái bàn thông tin hình tròn, một cửa hàng quà tặng trông giống như được chuyển đến đây từ London những năm 90 và một sảnh tiếp khách hơi trũng xuống đầy những chiếc ghế dài có vẻ như lấy ý tưởng từ bộ phim The Brady Bunch... Tất cả chúng đều có màu y chang cái áo xấu xí ngu ngốc của chúng tôi. Tôi hiểu đây là chủ đề của họ.
"Chào buổi sáng, các nhân viên thời vụ mới." , một người đàn ông trung niên cất tiếng chào. Ông ta cũng mặc bộ vest màu bí ngô với một cái cà vạt có hoa văn là hình logo lâu đài Cavern in chằng chịt trên đó. Tôi tự hỏi đó là quy định dành cho nhân viên nam hay ông ấy đa tự mua cái cà vạt đó từ cửa hàng quà tặng trên kia bằng chiết khấu cho nhân viên. "Tôi là Cavadini, tổng giám sát của bảo tàng. Mặc dù các bạn sẽ được phân vào nhóm của các giám sát khác, nhưng họ sẽ báo cáo lại cho tôi. Tôi là người sẽ lên lịch làm việc và phê duyệt thẻ điểm danh cho các bạn. Thế nên các bạn có thể nghĩ rằng tôi là người mà các bạn muốn gây ấn tượng nhất trong 3 tháng tới đây."
Ông ta nói tất cả những điều này bằng sự hào hứng của một người đang tổ chức tang lễ và luôn giữ cái cau mày trong suốt lúc phát biểu, nhưng cũng có thể là do cái đường chân tóc trên trán của ông ấy thấp một cách không tự nhiên, khiến cho cái trán ổng nhỏ hơn một nửa so với bình thường.
"Thiệt là mẹ nó ngu ngốc hết sức" Grace thì thầm nhỏ tiếng bên vai tôi.
Ồ, Grace bé nhỏ xinh xắn ăn nói thiệt là thô tục. Nhưng cô ấy nói cấm có sai. Và khi ngài Cavadini bắt đầu giảng giải cho chúng tôi lịch sử của The Cave cũng như tại sao nó có thể thu hút nửa triệu du khách ghé thăm hàng năm, tôi tự mình nhìn quanh tiền sảnh và xem xét những chỗ mình có thể được phân vào làm – bàn thông tin, hướng dẫn du khách, quầy giữ đồ thất lạc, cửa hàng quà tặng,... Tôi tự hỏi chỗ nào thì mình ít gặp phải mấy vị khách cáu kỉnh nhất có thể. Trên đơn xin việc, tôi đã đánh vào ô "phía sau hậu trường" và "làm việc một mình" trong phần mấy yếu tố ưu tiên.
Vài chiếc bàn café được đặt quanh một ban công mở trên lầu hai, tôi thực sự hi vọng mình không bị phân vào khu dịch vụ ăn uống. Một lần nữa, nếu làm việc tại quầy cà phê, tôi không những phải nhìn chằm chằm bản sao một con tàu cướp biển to như thật treo lơ lửng từ trần nhà mà còn có bộ xương một con quái vật biển đang tấn công con tàu đó. Tôi xếp chúng vào phần "Không chân thật" trong bộ sưu tập những thứ kì dị của nhà Davenport.
Một chuyển động thu hút sự chú ý của tôi. Trên dãy cầu thang lót đá phiến uốn quanh con tàu hải tặc, có 2 nhân viên bảo vệ bảo tàng trong bộ đồng phục đen tiêu chuẩn đang đi xuống. Tôi chớp chớp mắt, không tin vào mắt mình. Dù sao thì cái thị trấn này nhỏ đến mức nào chứ? Bởi vì một trong hai người đó chính là anh chàng tóc sẫm đã cố gắng kéo tên bạn say thuốc của mình ra khỏi đường mà tôi gặp hôm qua. Vâng, chắc chắn là anh ta: anh chàng lướt sóng nóng bỏng với vết sẹo Frankenstein trên cánh tay.
Đồng hồ căng thẳng của tôi đập điên cuồng.
"Bây giờ", ngài Cavadini tiếp tục "các bạn sẽ chia thành hai nhóm và cùng tham quan bảo tàng với một nhân viên an ninh của chúng tôi. Những người bên này, cảm phiền đi theo nhân viên bảo vệ lão làng, ông Jerry Pangborn, người đã làm việc cho Lâu đài Cavern kể từ khi nó mở cửa cách đây 40 năm."
Nói rồi ông chỉ cho nhóm người bên trái về phía một ông già ốm yếu có mái tóc trắng nhô lên như thể ông ấy vừa mới làm phát nổ một ống hóa chất trong phòng thí nghiệm. Ông cụ siêu thân thiện và đáng yêu, mặc dù trông ông có vẻ không cản nổi một đứa côn đồ 10 tuổi ăn cắp một miếng kẹo từ cửa hàng quà tặng, ông vẫn rất hăm hở dẫn theo nhóm tân binh đi về bên trái sảnh, thẳng về hướng một mái vòm lớn đề tên: MẠN VIVIAN.
Ngài Cavadini ra hiệu cho chàng trai lướt sóng tiến về phía nhóm của tôi. "Và đây là Porter Roth. Cậu ấy làm việc cho chúng tôi khoảng đâu được một năm qua. Vài người trong các bạn hẳn là có nghe qua về gia đình cậu ấy.", ông ta nói bằng một giọng khô khốc, không cảm xúc khiến tôi có cảm nghĩ ông không mấy coi trọng họ."Ông cậu ấy chính là huyền thoại lướt sóng Bill 'Pennywise' Roth".
Một đợt ồ à xôn xao vang lên khiến ngài Cavadini phải giơ tay ra hiệu chúng tôi im lặng và gắt gỏng thông báo chúng tôi trở lại gặp ông sau hai tiếng nữa để phân công thời gian biểu làm việc. Một bên não tôi đang gào thét lên. Hai tiếng? Bên còn lại thì đang cố nhớ lại những những gì mình mới được nghe về người đàn ông tên Pennywise Roth kia. Ông ấy thực sự là người nổi tiếng ư? Hay chỉ là một người đàn ông địa phương nào đó từng được nổi tiếng chỉ trong vòng 15 phút? Bởi cái biển hiệu của nhà hàng Pancake Shack dưới đường kia cũng tuyên bố rằng món bánh kếp hạnh nhân của họ nổi tiếng thế giới đấy, nhưng thôi nào.
Ngài Cavadini quay trở lại văn phòng, để lại lũ chúng tôi cùng anh chàng Porter, người đang sử dụng thời gian tùy thích của mình để dạo quanh xem xét chúng tôi. Anh ta cuộn một chồng giấy in thành một cái ống và dùng nó đập đập vào chân mình khi bước đi. Hôm qua tôi đã không nhận ra, anh ta có một cái vết nhỏ màu nâu nhạt trên mặt – cái kiểu để tỏ ra mình là trai xấu, quyến rũ và nổi loạn ấy, nhưng anh ta lại trông có hơi chải chuốt quá so với kiểu đó. Anh ta còn có những lộn tóc quăn lộn xộn hoang dại màu nâu với những đường sọc vàng, kiểu đầu này chỉ thích hợp với một anh chàng lướt sóng thôi chứ có hơi bất đồng với hình ảnh một nhân viên an ninh.
Anh ta tiến lại gần, và cái phần ưa lảng tránh trong tôi không vui vẻ lắm với tình huống này. Tôi cố gắng tỏ ra bình tĩnh và trốn vào đằng sau Grace. Nhưng cô ấy thấp hơn tôi ít nhất đến nửa foot, mà tôi cũng chỉ cao 5 feet 5 inch, thế nên giờ tôi thấy mình đang nhìn chằm chằm vào cái đầu tóc ngắn của cô bạn thay vì nhìn thẳng vào mặt Porter.
Anh ta dừng lại ngay đằng trước chúng tôi và lập tức cầm cuộn giấy đưa lên mắt như một cái kính viễn vọng.
"Ồ, Được lắm". Anh nói bằng cái California lười biếng lè nhè và từ từ nở nụ cười toe toét. "Chắc tôi hên lắm mới trúng được nhóm toàn người đẹp như này. Chào, Gracie."
"Chào, Porter". Grace đáp lại với một nụ cười bẽn lẽn.
Được rồi, vậy là họ quen nhau hả. Tôi tự hỏi không biết Porter có phải cái người đã nói với cô bạn đây là công việc "chán nhưng mà dễ òm" kia không. Tôi cũng không biết tại sao mình lại đi quan tâm cái này nữa. Tôi đoán mình chủ yếu muốn biết anh ta có nhớ đến tôi bởi việc hôm qua không. Mong rằng anh ta không nghe thấy cái tiếng hét hèn nhát mà tôi đã trót thốt lên.
"Ai đã sẵn sàng cho một chuyến đi dạo riêng tư nào?" Anh hỏi.
Không một ai lên tiếng.
"Mọi người đừng đồng thanh lớn tiếng như vậy chứ." Anh ta lột một tờ giấy khỏi cái cuộn giấy của mình – tôi thấy tiêu đề BẢN ĐỒ NHÂN VIÊN phía trên mảnh giấy – rồi phát nó cho tôi trong khi liếc xuống chân tôi. Anh ta đang đánh giá tôi ư? Tôi không chắc mình cảm thấy thế nào nữa. Hiện tại tôi chỉ ước mình đang mặc quần thôi.
Khi tôi đang cố nhận tấm bản đồ, anh ta lại giữ chặt nó làm tôi buộc phải giật nó ra khỏi mấy ngón tay anh ta. Góc giấy bật ra. Đúng là trẻ con. Tôi trao cho anh ta một cái nhìn hằn học, nhưng anh chỉ mỉm cười và nghiêng người lại gần hơn. "Nào nào," anh ta nói "em không định hét lên giống hôm qua chứ?"
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top