Tai nguyen nhan van

Chương 4

Tài nguyên nhân văn

I. Những vấn đề lý luận về phát triển, phân bố dân cư và sử dụng nguồn lao động

1.1. Mối quan hệ giữa dân cư, lao động và hoạt động sản xuất xã hội

Một trong những nguồn tài nguyên quý giá của đất nước đó là tài nguyên nhân văn. Có thể hiểu tài nguyên nhân văn bao gồm sức lao động của con người và những giá trị vật chất, văn hoá, tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử. Khai thác đầy đủ và có hiệu quả lợi thế tiềm năng nguồn tài nguyên này để tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội là các định hướng cơ bản, xu thế tất yếu của thời đại.

Lịch sử đã chứng minh rằng: Dân cư - nguồn lao động xã hội và hoạt động kinh tế là hai mặt của quá trình tạo ra của cải xã hội. Hai mặt đó tác động qua lại rất phức tạp, quy định và chi phối lẫn nhau. Sự phát triển kinh tế xã hội xác định những đặc điểm chủ yếu của sự phân bố dân cư và nguồn lao động xã hội. Ngược lại, sự phân bố dân cư và nguồn lao động xã hội lại là tiền đề, là động lực quan trọng của sự hình thành và phát triển các quá trình kinh tế xã hội trong một nước, một vùng.

Dân cư và nguồn lao động không chỉ là lực lượng sản xuất trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội mà còn là lực lượng tiêu thụ các sản phẩm của xã hội, kích thích quá trình tái sản xuất mở rộng của xã hội, thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội.

Trong mọi quá trình sản xuất dù giản đơn hay phức tạp đều không thể thiếu nguồn lao động. Để tăng doanh thu lợi nhuận trong quá trình sản xuất thì các doanh nghiệp không thể không quan tâm tới các vấn đề: giá cả sức lao động, tiền lương, thất nghiệp…

Rõ ràng trong hệ thống tự nhiên - dân cư - kinh tế, chính dân cư là thành phần năng động nhất, gắn bó giữa tự nhiên và kinh tế nhờ những thuộc tính sẵn có của mình. Toàn bộ những giá trị vật chất tinh thần cần thiết cho xã hội đều do lao động của con người tạo ra.

34

1.2. Những vấn đề cần quan tâm khi nghiên cứu về dân cư lao động

1.2.1. Dân số và mật độ dân số

Dân số là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế xã hội. Dân số đông cũng đồng nghĩa với nguồn lao động dồi dào và còn là thị trường tiêu thụ rộng lớn.

Mật độ dân số: là số lượng người trên một đơn vị diện tích (1km2). Mật độ dân số phản ánh mức độ tập trung dân cư trên lãnh thổ. Trong thực tế, dân số và mật độ dân số ở các nước, các vùng có sự khác nhau. Điều đó ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước, mỗi vùng. Tuy nhiên, dân số và mật độ dân số không phải là một chỉ tiêu hoàn hảo về nguồn lao động.

1.2.2. Lứa tuổi, giới tính

Kết cấu dân số theo tuổi và giới là vấn đề cần quan tâm khi nghiên cứu về dân cư, lao động.

Kết cấu độ tuổi của dân cư có ảnh hưởng trực tiếp tới số lượng và chất lượng lao động. Tỷ lệ người có khả năng lao động trong độ tuổi lao động cao hay thấp có ảnh hưởng tới việc hình thành các ngành nghề thu hút nhiều hay ít lao động. ở mỗi độ tuổi, dân cư có khả năng làm việc khác nhau đồng thời nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng cũng khác nhau. Điều đó ảnh hưởng rất lớn tới khả năng sản xuất và nhu cầu tiêu dùng chung của xã hội.

Nam và nữ đều có nhu cầu về giới khác nhau. Giới tính của người lao động ảnh hưởng tới sự sắp xếp ngành nghề cho người lao động, đảm bảo sự hợp lý giữa sức khoẻ người lao động và mức độ đòi hỏi của công việc được giao.

1.2.3. Nghề nghiệp, trình độ học vấn, khoa học, kỹ thuật, truyền thống sản xuất

Nghiên cứu nghề nghiệp, trình độ học vấn, khoa học kỹ thuật và truyền thống sản xuất của người lao động có tác động lớn tới sự hình thành các ngành sản xuất của dân cư, nhất là những ngành sản xuất chuyên môn hoá.

Truyền thống sản xuất với tập quán tiêu dùng cũng ảnh hưởng tới việc tổ chức các ngành sản xuất và dịch vụ trong vùng.

1.2.4. Tỷ suất gia tăng dân số tự nhiên

Tỷ lệ sinh là số lượng trẻ em sinh ra trung bình của 1000 dân vào thời điểm giữa năm (30/6), tính theo công thức:

Utx1000

Lt

WUt =

35

Trong đó : WUt: Tỷ lệ sinh của năm t

Ut : Số trẻ em sinh ra của năm t

Lt: Số dân giữa năm (30/6) của năm t

Tỷ lệ tử là số người chết trung bình của 1000 dân ở thời điểm giữa năm (30/6), tính theo công thức :

Zt x 1000

Lt

WZt =

Trong đó : WZt: Tỷ lệ tử của năm t

Zt : Số người chết trong năm t

Lt: Số dân giữa năm (30/6) của năm t

Tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên chính là hiệu số giữa tỷ suất sinh và tỷ suất tử của dân số trong năm. Nó cho biết trung bình 1000 dân của dân số ở một lãnh thổ nào đó trong một năm có thêm (hoặc bớt đi) bao nhiêu người. Đơn vị tính của tỷ suất gia tăng dân số tự nhiên là ‰ (hoặc đổi ra %). Về cơ bản, gia tăng dân số tự nhiên cũng chính là quá trình tái sản xuất dân cư.

Tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên:

PNt = = WUt -WZt

(Ut - Zt) x 1000

Lt

1.2.5. Sự biến động cơ học của dân số

Di dân cùng với sự sinh và tử là ba quá trình cơ bản của dân số. Sự di chuyển dân cư (hoặc nhập cư) làm thay đổi số lượng, chất lượng dân cư của các vùng trong nước hoặc giữa các nước khác nhau trên thế giới. Chính vì vậy, ở các nước hàng năm tính dân số hay các cuộc tổng điều tra dân số bao giờ cũng phải quan tâm tới vấn đề di dân giữa các vùng và di dân quốc tế. Đó chính là một trong những cơ sở để xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội.

II. Dân cư

2.1. Dân cư

Dân cư là tập hợp người sống trên lãnh thổ, được đặc trưng bởi kết cấu, mối quan hệ qua lại với nhau về mặt kinh tế, bởi tính chất của việc phân công lao động và cư trú theo lãnh thổ.

36

Việt Nam là một nước đông dân. Theo số liệu tổng điều tra dân số toàn quốc ngày 1/4/1999 cả nước có 76.327.953 người (tăng 11,9 triệu người so với tổng điều tra dân số ngày 1/4/1989).

Với dân số này, Việt Nam đứng thứ 13 trong tổng số hơn 220 quốc gia trên thế giới sau Trung Quốc, ấn Độ, Hoa Kỳ, Indonesia, Braxin, Liên bang Nga, Pakistan, Nhật Bản, Banglades, Nigiêria, Mêhico, Cộng hoà liên bang Đức. Nếu tính trong khu vực Đông Nam á, dân số nước ta đứng thứ hai sau Indonesia.

So với dân số thế giới theo thống kê của Liên Hợp Quốc (12/10/1999) đạt 6 tỷ người, dân số Việt Nam chiếm gần 1,3%.

Đối với từng đơn vị hành chính (tỉnh, thành phố) dân số cũng có sự khác nhau. Theo niên giám thống kê năm 2001 (Nhà xuất bản Thống kê Hà Nội), thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị có số dân lớn nhất: 5.378.100 người, Thanh Hoá là đơn vị có số dân đứng thứ hai trong cả nước: 3.509.600 người.

Các tỉnh có dân số từ hai đến ba triệu người gồm Nghệ An (2.913.800 người), Hà Nội (2.841.700 người), Hà Tây (2.432.000 người), An giang (2.099.400 người) và Đồng Nai (2.067.200 người).

Có 29 tỉnh, thành phố với số dân từ 1 đến 2 triệu người đó là: Thành phố Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hoà, Gia Lai, Đắc Lắc, Lâm Đồng, Bình Thuận, Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Kiên Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng và Cà Mau.

Có 23 tỉnh, thành phố còn lại, dân số từ 0,5 đến 1 triệu người: Bắc Ninh, Hà Nam, Ninh Bình, Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình, Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng, Phú Yên, Ninh Thuận, Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Trà Vinh, Bạc Liêu.

Có 2 tỉnh, dân số dưới 0,5 triệu người là Bắc Cạn (283.000 người) và Kon Tum (330.700 người).

Dân số là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế. Với dân số đông, nước ta có nguồn lao động dồi dào và còn là thị trường tiêu thụ rộng lớn. Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, dân số đông cũng là một trở ngại lớn cho việc phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất cho nhân dân.

Sự thay đổi dân số ở Việt Nam từ những năm đầu của thế kỷ 19 cho đến năm 2001 được thể hiện qua biểu 4.1.

37

Biểu 4.1. Dân số Việt Nam qua các năm

Đơn vị tính: triệu người

Năm

Số dân

Năm

Số dân

1802 – 1819

4,3

1970

41,0

1820 – 1840

5,0

1977

50,0

1841 – 1883

7,2

1979

52,5

1921

15,6

1985

60,0

1931

17,7

1989

64,4

1939

19,6

1995

73,9

1943

22,1

1999

76,3

1945

20,1

2000

77,6

1955

25,0

2001

78,6

1960

30,0

Nguồn: Niên giám thống kê 2001

Số liệu trên chứng tỏ tốc độ tăng dân số không giống nhau giữa các thời kỳ. Trong suốt thế kỷ XIX tỷ suất tăng bình quân hàng năm khoảng 0,4 %. Vào đầu thế kỷ XX tỷ suất tăng hàng năm đạt 1,3%, đặc biệt ở thời kỳ 1943 - 1951. Số dân có xu hướng giảm do ảnh hưởng của chiến tranh và nạn đói. Từ những năm 50 trở lại đây, số dân nước ta đã tăng nhanh, trong đó có nhiều thời kỳ mức tăng trung bình năm vượt quá 3% (1954 - 1960 : 3,9%; 1960 - 1970 : 3,24%; 1970 - 1977 : 3%).

Do kết quả của việc thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, tốc độ tăng dân số hàng năm có xu hướng giảm dần tuy còn chậm. Thời kỳ giữa hai cuộc tổng điều tra dân số (1979 -1989) mức tăng bình quân hàng năm là 2,1%. Thời kỳ 1989 -1993 mức tăng dân số bình quân có nhích lên (2,2%), từ năm 1994 lại tiếp tục giảm còn 1,7%.

Mức tăng tự nhiên của dân số ở Việt Nam có sự phân hoá giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng kinh tế và các tỉnh.

Thông thường ở thành thị, mức gia tăng tự nhiên thấp (từ 1,4 - 1,5%), ở nông thôn mức gia tăng tự nhiên cao hơn (trên 2%).

Dân số tăng nhanh đã tạo nên sức ép rất lớn đối với việc phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, đối với tài nguyên môi trường và việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho từng thành viên trong xã hội.

Tốc độ tăng dân số và tốc độ phát triển kinh tế thường có quan hệ với nhau và được phản ánh trong mức sống của dân cư cũng như khả năng sản xuất của nền kinh tế và được thể hiện qua các chỉ tiêu: GDP/người/năm; các loại sản phẩm chủ yếu của nền sản xuất xã hội/người/năm.

38

Hơn nữa dân số tăng nhanh cùng với quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá làm tăng các chất phế thải vào môi trường, làm ô nhiễm đất, nước, không khí. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn tới tuổi thọ của con người.

Từ năm 1990, Liên Hợp Quốc đã dùng chỉ số phát triển con người HDI (Human Development Index) để đánh giá mức độ phát triển con người ở các nước và các vùng lãnh thổ.

Chỉ số phát triển con người là thước đo tổng hợp về sự phát triển của con người. Nó đo thành tựu trung bình của một quốc gia trên ba phương diện của sự phát triển con người:

- Một cuộc sống dài lâu và khoẻ mạnh được đo bằng tuổi thọ trung bình.

- Kiến thức được đo bằng tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ nhập học các cấp giáo dục tiểu học, trung học và đại học.

- Mức sống tử tế được đo bằng GDP (PPP) đầu người. (PPP: ngang bằng sức mua)

áp dụng công thức tính chung sau:

Chỉ số thước đo =

Giá trị thực -Giá trị tối thiểu

Giá trị tối đa - Giá trị tối thiểu

Biểu 4.2. Các giá trị biên để tính HDI

Chỉ tiêu

Giá trị tối đa

Giá trị tối thiểu

Tuổi thọ (năm)

85

25

Tỷ lệ người lớn biết chữ (%)

100

0

Tỷ lệ các cấp giáo dục (%)

100

0

GDP (PPP) đầu người

40 000

100

Dựa vào các giá trị ở biểu và công thức trên ta tính được các chỉ số thước đo tuổi thọ, chỉ số tiếp thu giáo dục (= 2/3 chỉ số nhập học các cấp + 1/3 chỉ số người trưởng thành biết chữ) và chỉ số GDP (PPP)/đầu người. Sau đó chỉ số phát triển con người HDI được tính theo công thức sau:

HDI =

Chỉ số tuổi thọ BQ + Chỉ số tiếp thu giáo dục + Chỉ số GDP (PPP)/người

3

Theo cách tính toán như trên, chỉ số HDI của một số nước và một số vùng lãnh thổ như ở biểu 4.3.

39

Biểu 4.3. Chỉ số phát triển con người của các nước

Xếp hạng

Các nước

(xếp hạng theo HDI)

Chỉ số

tuổi thọ

Chỉ số giáo dục

Chỉ số GDP(PPP)/người

Chỉ số HDI

1

Na Uy

0,89

0,98

0,94

0,939

2

Ôxtrâylia

0,90

0,99

0,92

0,936

3

Canađa

0,89

0,98

0,93

0,936

4

Thụy Điển

0,91

0,99

0,90

0,936

5

Bỉ

0,89

0,99

0,92

0,935

6

Mỹ

0,86

0,98

0,96

0,934

7

Aixơlen

0,90

0,96

0,94

0,932

8

Hà Lan

0,88

0,99

0,92

0,931

9

Nhật Bản

0,93

0,93

0,92

0,928

10

Phần Lan

0,87

0,99

0,91

0,925

50

Latvia

0,75

0,93

0,69

0,791

51

Mêhicô

0,79

0,84

0,74

0,790

52

Panama

0,81

0,86

0,68

0,784

53

Bêlarut

0,73

0,92

0,71

0,782

54

Bêlixê

0,81

0,86

0,65

0,776

55

Nga

0,69

0,92

0,72

0,775

56

Malaixia

0,79

0,80

0,74

0,774

57

Bungari

0,76

0,90

0,66

0,772

58

Rumani

0,75

0,88

0,68

0,772

101

Việt Nam

0,71

0,84

0,49

0,682

127

Pakixtan

0,58

0,43

0,49

0,489

128

Tôgô

0,44

0,58

0,44

0,480

129

Nêpan

0,55

0,47

0,42

0,477

130

Butan

0,61

0,39

0,43

0,476

131

Lào

0,47

0,51

0,45

0,321

158

Êtiopia

0,32

0,34

0,31

0,320

159

Buốckinaphaxô

0,35

0,23

0,38

0,309

160

Burundi

0,26

0,37

0,29

0,274

161

Nigiê

0,33

0,15

0,34

0,258

162

Xiêralêon

0,22

0,30

0,25

Nguồn:Báo cáo phát triển con người 2001 Công nghệ mới vì sự phát triển con người. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Hà Nội 2001

40

Như vậy về mặt toán học chỉ số HDI nằm trong khoảng: 0 < HDI < 1

Các quốc gia có hệ số càng gần 1 thì mức độ phát triển con người của họ càng cao. Ngược lại các quốc gia có hệ số HDI càng gần 0 thì mức độ phát triển con người càng thấp.

2.2. Kết cấu dân số

2.2.1 Kết cấu dân tộc:

Khái niệm “các dân tộc” ở Việt Nam vẫn sử dụng, thực chất là để chỉ các tộc người. Viện Dân tộc học sau nhiều lần trao đổi qua các hội thảo khoa học, giới chuyên môn đã thống nhất về các tiêu chí để xác định thành phần tộc người ở Việt Nam là:

- Sự cộng đồng về mặt ngôn ngữ.

- Có các đặc điểm chung về sinh hoạt - văn hoá.

- Có ý thức tự giác tộc người.

Căn cứ vào 3 tiêu chí này chúng ta có được bảng danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam (Công bố của Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê nước CHXHCN Việt Nam ngày 2/3/1979). Số lượng các tộc người trong toàn quốc là 54, sắp xếp thứ tự theo số lượng cư dân như sau:

1. Kinh (Việt)

17. Chăm (Chàm)

2. Tày

18. Sán dìu

3. Thái

19. Hrê

4. Hoa (Hán)

20. Mnông

5. Khơme

21. Raglai

6. Mường

22. Xtiêng

7. Nùng

23. Bru (Vân kiều)

8. H’mông (Mèo)

24. Thổ

9. Dao

25. Giáy

10. Gia rai

26. Cơ tu

11. Ngái

27. Gié - Triêng

12. Êđê

28. Mạ

13. Bana

29. Khơ mú

14. Xơđăng

30. Co

15. Sán chay (Cao lan - Sán chỉ)

31. Tà ôi

16. Cơ ho

32. Chơ ro 41

33. Kháng

44. Chứt

34. Xinh mun

45. Mảng

35. Hà nhì

46. Pà thèn

36. Churu

47. Cơ lao

37. Lào

48. Cống

38. La chỉ

49. Bố y

39. Laha

50. Si la

40. Phù lá

51. Pu péo

41. La hủ

52. Brâu

42. Lự

53. Ơ đu

43. Lô lô

54. Rơ măm

Các tộc người trong cộng đồng dân tộc Việt Nam có những đặc điểm, phong tục tập quán, truyền thống sản xuất, tổ chức xã hội, địa bàn cư trú rất khác nhau. Những đặc điểm đó ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi tộc người nói riêng và cả cộng đồng Việt Nam nói chung.

a) Người Kinh:

Đây là tộc người chiếm 88% dân số của cả nước, thuộc ngữ hệ Nam á, nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, phân bố khắp 64 tỉnh, thành phố của cả nước nhưng tập trung nhiều nhất ở đồng bằng. Từ xưa đến nay, người Việt vẫn luôn giữ vai trò chủ đạo trong quá trình phát triển của đất nước ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, quân sự, văn hoá, ngoại giao.

Người Việt cổ đã sáng tạo ra nền văn minh rực rỡ với nền nông nghiệp lúa nước là chủ đạo, chinh phục châu thổ sông Hồng. Bên cạnh đó, người Việt còn phát triển hàng loạt nghề thủ công truyền thống sản xuất nhiều hàng hoá cần thiết cho cuộc sống như cái ăn, cái mặc, nhà ở và các phương tiện sống khác.

Về tổ chức xã hội, người Việt lấy làng xã làm đơn vị cư trú. Làng xã là đặc trưng nổi bật về văn hoá, cư trú và tiêu biểu cho thiết chế làng xã Việt Nam.

b) Các tộc người thiểu số ở phía Bắc:

Phía Bắc Việt Nam là địa bàn cư trú của 32/54 tộc người ở Việt Nam với khoảng trên 50% số dân của các tộc người thiểu số trong toàn quốc. ở đây có nhiều tộc người với ngữ hệ khác nhau, từ Nam á (nhóm Việt - Mường, H’mông - Dao), Thái đến ngữ hệ Hán - Tạng. Số dân của mỗi tộc người dao động từ vài trăm, vài nghìn đến vài triệu người.

- Người Tày:

Người Tày thuộc ngữ hệ Tày - Thái với khoảng 1,2 triệu người. Người Tày sinh sống ở vùng núi thấp thuộc miền núi và trung du Bắc Bộ nhưng tập trung nhiều ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Quảng Ninh.

42

Kinh tế nông nghiệp của người Tày chủ yếu là lúa nước với trình độ kỹ thuật tiến bộ, giỏi chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng cây công nghiệp (chè, hồi), có truyền thống sản xuất tiểu thủ công nghiệp như dệt thổ cẩm, đan lát, làm bàn ghế bằng trúc…

Cư trú tập trung thành bản ở chân núi, người Tày nổi tiếng với hát lượn, hát then, đàn tính độc đáo.

- Người Thái:

Có khoảng 1 triệu người, thuộc ngữ hệ Tày - Thái. Người Thái sống ở trong các thung lũng và cánh đồng miền núi ở các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình, Nghệ An. Họ thường sống bằng nông nghiệp: làm ruộng giỏi, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Ngoài ra còn có nghề thủ công đan lát, làm đệm cỏ, dệt vải, làm gốm, dệt thổ cẩm. Người Thái thích hát, đàn và múa. Múa xoè, múa sạp, ném còn là những điệu múa, trò chơi tiêu biểu của người Thái.

- Người Mường:

Người Mường có khoảng trên 90 vạn, thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường. Người Mường cư trú thành một dải từ Nghĩa Lộ về Hoà Bình, Tây Thanh Hoá, Tây Nghệ An.

Kinh tế của người Mường chủ yếu trồng lúa nước, chăn nuôi, đặc biệt người Mường có nghề rèn, chế tạo công cụ có tiếng từ lâu đời. Họ thường quần tụ trong các bản mường. Người Mường sống trong nhà sàn và bếp lửa được coi là trung tâm sinh hoạt gia đình.

Người Mường có nền văn hoá dân gian phong phú với nhiều truyện cổ nổi tiếng. Nét văn hoá đặc sắc của người Mường là nhạc cụ cồng chiêng với hát xoè.

- Người Nùng:

Hiện người Nùng có hơn 70 vạn, thuộc ngữ hệ Thái. Người Nùng cư trú tại các tỉnh Bắc Giang, Bắc Cạn, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang. Kinh tế chủ yếu dựa vào lúa nước và lúa nương, trồng ngô, cây công nghiệp, đặc biệt là cây hồi. Người Nùng có một số nghề thủ công: dệt, mộc, đan lát, rèn sắt, gốm sứ. Họ tập trung thành từng bản nằm trên sườn đồi, phía trước là ruộng nước, phía sau là ruộng nương và vườn. Nét đặc sắc của người Nùng là hát Sli giao duyên của nam nữ vùng Lạng Sơn và hát then.

- Người H’mông (còn gọi là người Mèo):

Người H’mông có khoảng 60 vạn thuộc nhóm ngôn ngữ H’mông - Dao. Họ thường tập trung ở vùng núi cao thuộc các tỉnh Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Tuyên Quang, Yên Bái, Thanh Hoá, Nghệ An. Kinh tế chủ yếu của họ là nương rẫy, làm ruộng bậc thang, có kỹ thuật dẫn nước tưới cho ruộng bậc thang để trồng lúa nước. Ngoài ra còn trồng ngô, lúa mạch, trồng lanh lấy sợi dệt

43

vải, trồng cây dược liệu. Nghề thủ công truyền thống của người H’mông là dệt vải, may mặc, thêu thùa, rèn sắt. Nhạc cụ nổi tiếng của họ là khèn và đàn môi.

- Người Dao:

Người Dao có gần 50 vạn thuộc nhóm ngôn ngữ H’mông - Dao. Người Dao sống xen kẽ với một số dân tộc khác ở các tỉnh biên giới Việt - Trung, Việt - Lào cho tới các tỉnh trung du và ven biển Bắc Bộ. Địa bàn cư trú của họ là ở cả vùng cao và vùng thấp. Kinh tế chủ yếu là trồng lúa nương, làm ruộng nước, trồng hoa màu, chăn nuôi gia súc, tìm kiếm lâm sản… Người Dao nổi tiếng với nghề thủ công: dệt vải, rèn, mộc, làm giấy, ép dầu… Phụ nữ Dao có trang phục đặc trưng để gọi tên: Dao đỏ (có khăn đội đầu màu đỏ), Dao quần chẹt (mặc quần bó), Dao sơn đầu (tóc cắt ngắn chải sáp ong).

c) Các tộc người thiểu số ở Trường Sơn - Tây Nguyên:

Địa bàn Trường Sơn - Tây Nguyên là nơi cư trú của nhiều tộc người: Các tộc người thuộc ngữ hệ Nam á với nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (người Chứt), nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ me (Ba na, Xơ đăng, Bru, Cơ tu…) và ngữ hệ Nam đảo với các nhóm ngôn ngữ Gia rai, Ê đê… Trong số các tộc người này, người Gia rai, Ê đê, Ba na là đông nhất.

- Người Gia rai:

Người Gia Rai hiện có 25 vạn thuộc ngữ hệ Nam đảo, tập trung ở các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và phía Bắc Đắc Lắc. Cuộc sống của họ chủ yếu dựa vào rừng, làm rẫy trồng lúa, ngô với kỹ thuật đơn giản: xới đất bằng cuốc, chọc lỗ, tra hạt, nuôi gia súc, gia cầm, đặc biệt là voi. Buôn của người Gia rai (plây hay bon) ở rải rác ven suối, lưng chừng núi hoặc thung lũng. Người Gia rai theo chế độ mẫu hệ, vợ chồng lấy nhau ở bên nhà vợ, con cái lấy họ mẹ.

Người Gia rai nổi tiếng với bản trường ca Đam San, cồng chiêng, đàn Tơ rưng, Tưng nung, Klôngpút.

- Người Ê đê:

Người Ê đê thuộc ngữ hệ Nam đảo với khoảng 20 vạn người, tập trung ở các tỉnh Đắc Lắc, nam Gia Lai, Tây Phú Yên, Khánh Hoà. Người Ê đê lấy nương rẫy, chăn nuôi làm kinh tế chính. Người Ê đê ở trong những ngôi nhà dài trên những quả đồi hay cạnh đường giao thông, kề sông suối. Trong nhà chia thành nhiều ngăn, ngăn tiếp khách có bếp lửa, ngăn để chiêng, ngăn để rượu và ngăn để ở. Người Ê đê cũng theo chế độ mẫu hệ như người Gia rai. Trước đây người Êđê có tục cà răng căng tai và quy định mọi người phải cắt cụt 6 chiếc răng của hàm trên.

44

- Người Ba na:

Với khoảng 14 vạn, người Ba na thuộc ngữ hệ Nam á, nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ me. Họ tập trung ở Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, miền núi của tỉnh Bình Định, Phú Yên.

Kinh tế chủ yếu của người Ba na là làm nương rẫy và ruộng khô, trồng ngô, lúa, hoa màu. Nghề thủ công là dệt vải, rèn, gốm và đan lát. Văn hoá dân gian phong phú, nhạc cụ nổi tiếng là đàn Tơ rưng, klôngpút, kơni, lễ hội

Kiến trúc đặc trưng là nhà Rông và tượng nhà mồ bằng gỗ.

- Người Bru (Vân Kiều):

Người Bru hiện có 4 vạn thuộc ngữ hệ Nam á trong nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme. Địa bàn cư trú của họ tập trung ở miền núi các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế. Kinh tế chủ yếu của người Bru là nương rẫy, một số ít biết làm ruộng nước, chăn nuôi gia súc. Người Bru cũng giống như các tộc người khác ở Tây Nguyên, coi nhà Rông là trung tâm văn hoá của mỗi bản.

d) Các tộc người thiểu số ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ:

- Người Hoa:

Người Hoa có gần 1 triệu, thuộc ngữ hệ Hán - Tạng. Người Hoa cư trú ở khắp các tỉnh cả nông thôn và thành phố nhưng đông nhất tại Chợ Lớn (thành phố Hồ Chí Minh). Một số người Hoa đã Việt hoá hay lai với người Việt. Người Hoa sinh sống bằng đủ mọi nghề nhưng thành đạt nhất vẫn là thương mại và dịch vụ.

- Người Khơ me:

Với khoảng 1 triệu, người Khơ me thuộc ngữ hệ Nam á, nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ me, sống tập trung ở một số tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long: An Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Kiên Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long.

Người Khơ me chủ yếu trồng lúa nước với trình độ thâm canh và làm thuỷ lợi khá cao. Họ sống trong các phum, sóc (giống như thôn của người Việt). Người Khơ me có nhiều lễ hội, điển hình là Chôn Chơ Nam Thơ Mây (Tết năm mới).

- Người Chăm:

Người Chăm hiện có khoảng 10 vạn, thuộc ngữ hệ Nam Đảo, sinh sống chủ yếu ở vùng đồng bằng duyên hải cực Nam Trung Bộ (Ninh Thuận, Bình Thuận). Một số bộ phận sống ở An Giang, Long Xuyên, Đồng Nai, Phú Yên, Bình Định và thành phố Hồ Chí Minh.

45

Kinh tế chủ yếu của người Chăm là nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại. Họ thành thạo kỹ thuật làm ruộng nước, đắp đập chứa dẫn nước vào ruộng.

Người Chăm sống tập trung theo từng ấp gọi là puk (với 50 - 100 nóc nhà), nhiều puk hợp lại thành plây (làng). Người Chăm còn thể hiện đậm nét chế độ mẫu hệ. Nhiều kho tàng kiến trúc nghệ thuật Chăm kiệt xuất như: Thánh địa Mỹ Sơn, tháp Pônaga, tháp Poklong… Tộc người Chăm có nhiều lễ hội truyền thống, tiêu biểu là lễ hội Mbăngkatê, Pơh Mbangyang (lễ cúng đầu năm).

Cộng đồng dân tộc Việt Nam là một cộng đồng thống nhất với một nền văn hoá chung nhưng đa dạng và hình thái biểu hiện do từ nhiều nguồn sinh thái nhân văn tập hợp lại. Trong sự thống nhất này nổi lên vai trò đặc biệt của người Việt với tư cách là hạt nhân tập hợp các tộc người khác.

2.2.2. Kết cấu sinh học:

a) Kết cấu theo giới:

Kết cấu theo giới là tập hợp những người được sắp xếp theo giới (nam, nữ). Thông thường kết cấu dân số theo giới được biểu thị bằng số nam trên 100 nữ. Nghiên cứu kết cấu dân số theo giới có ý nghĩa to lớn trong sự phân công lao động xã hội và hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia và của từng vùng.

Tỷ số giới tính không cân bằng và thường thay đổi theo các nhóm tuổi, theo thời gian và theo không gian. Tỷ số giới tính trên toàn cầu hiện nay là 98,6 (nghĩa là cứ 98,6 nam thì có 100 nữ). Tuy nhiên lúc mới sinh, số trẻ sơ sinh nam luôn cao hơn nữ (trung bình từ 103 - 106 nam trên 100 nữ). Đến tuổi trưởng thành, tỷ số này gần ngang nhau. Tới lứa tuổi già, số nữ cao hơn số nam.

ở Việt Nam theo số liệu tổng điều tra dân số lần thứ nhất (1/4/1979), tỷ số giới là 94,2 (nghĩa là có 94,2 nam trên 100 nữ). Tới thời điểm tổng điều tra dân số lần 2 (1/4/1989), tỷ số giới là 94,7 và kết quả điều tra dân số toàn quốc lần thứ 3 (1/4/1999), tỷ số giới là 96,7.

Theo thời gian và không gian, tỷ số giới ở nước ta cũng có sự thay đổi. Theo các số liệu thống kê, tỷ số giới tính của nước ta đã liên tục tăng lên và đạt được mức 96,7 vào năm 1999.

Nếu phân theo vùng, tỷ số giới có sự khác nhau rõ rệt. Tây Nguyên là vùng có tỷ số giới cao nhất trong cả nước: 102,69, duyên hải Nam Trung Bộ và đồng bằng sông Hồng tỷ số này là 95,2.

Sở dĩ có sự khác biệt về tỷ số giới ở Việt Nam là do hậu quả của các cuộc chiến tranh, do nam giới phải lao động nhiều hơn, làm những công việc nặng nhọc hơn

46

nên tuổi thọ thường thấp hơn so với nữ. Mặt khác, việc chuyển cư cũng ảnh hưởng tới tỷ số giới giữa các vùng.

Những tỉnh có tỷ số nhập cư cao đều có tỷ số giới tính cao. Những tỉnh có tỷ số giới tính cao như Đắc Lắc (103,31), Gia Lai (101,69), Kon Tum (101,31), Lai Châu (101,10), Sơn La (100,67), Hà Nội (100,10).

Quảng Ninh tuy không có tỷ lệ nhập cư cao nhưng là vùng khai thác than và công nghiệp nặng nên có tỷ số giới cao nhất cả nước (104,20).

Thành phố Hồ Chí Minh với số nhập cư khá lớn nhưng tỷ số giới lại thấp nhất (92,79) vì thành phố này có khả năng cung cấp nhiều việc làm cho nữ ở các ngành công nghiệp nhẹ và dịch vụ.

Sự chênh lệch về giới còn thể hiện rõ theo nhóm tuổi:

- Độ tuổi < 15 có tỷ số giới là 105/100.

- Từ độ tuổi 15 đến 65 số nữ vượt quá số nam. Tuổi càng cao khoảng cách giữa số nam và số nữ càng rõ.

b) Kết cấu theo độ tuổi:

Nghiên cứu dân số theo giới và tuổi trên phạm vi cả nước và trong từng vùng có ý nghĩa quan trọng vì nó thể hiện tổng hợp tình hình sinh tử, tuổi thọ, khả năng phát triển dân số và nguồn lao động.

Kết cấu dân số theo tuổi và giới tính được biểu hiện qua tháp dân số hay tháp tuổi. Hình dạng của tháp tuổi cho thấy Việt Nam là nước có dân số trẻ.

Nghiên cứu dân cư lao động không thể không quan tâm tới mối tương quan giữa tổng số người dưới tuổi và trên tuổi lao động so với số người ở tuổi lao động đó chính là tỷ số phụ thuộc. ở Việt Nam, tỷ số phụ thuộc còn khá cao so với các nước phát triển trên thế giới và khu vực. Năm 1999 tỷ số này là 68,6 (cứ 100 người trong độ tuổi lao động phải nuôi 68,6 người ở hai nhóm tuổi kia).

III. Phân bố dân cư và sử dụng nguồn lao động

3.1. Phân bố dân cư

3.1.1. Tình hình chung:

Sự phân bố dân cư phụ thuộc vào các nhân tố tự nhiên, kinh tế - xã hội, lịch sử… Song chúng tác động khác nhau tuỳ theo thời gian và không gian cụ thể để tạo nên bức tranh dân cư.

47

Theo số liệu tổng điều tra dân số ngày 1/4/1999, với dân số 76,3 triệu người sống trên diện tích 330.000 km2, mật độ dân số trung bình toàn quốc là 231 người/km2. Mật độ dân số nước ta cao hơn mật độ dân số thế giới cùng năm 1999 là 5,7 lần và vượt xa các nước láng giềng trong khu vực (Lào 23 người/km2; Campuchia 61,2 người/km2; Malaixia 67,6 người/km2; Thái Lan 120 người/km2).

Tính chất không hợp lý trong sự phân bố dân cư giữa các vùng

(số liệu năm 1999)

Sự chênh lệch về mật độ

Các vùng

Mật độ

So với cả nước (người/km2)

Giữa tỉnh có mật độ cao nhất và tỉnh có mật độ thấp nhất (người/km2)

130

Tây Bắc

62

- 169

Hoà Bình

Lai Châu

164

34

333

Đông Bắc

162

- 69

Bắc Giang

Bắc Cạn

390

57

2246

Đồng bằng sông Hồng

1180

+ 949

Hà Nội

Ninh Bình

2883

637

211

Bắc Trung Bộ

196

- 35

Thanh Hoá

Quảng Bình

310

99

416

Duyên hải Nam Trung Bộ

195

- 36

Đà Nẵng

Quảng Nam

548

132

58

Tây Nguyên

67

- 164

Đắc Lắc

Kon Tum

90

32

2315

Đông Nam Bộ

285

+ 54

Tp. HCM

Bình Phước

2410

95

471

ĐBSCL

408

+ 177

Tiền Giang

Cà Mau

686

215

48

3.1.2. Sự phân bố dân cư ở đồng bằng:

Đồng bằng là nơi dân cư tập trung đông nhất, với chưa đầy 1/4 diện tích tự nhiên đã tập trung hơn 3/ 4 dân số của cả nước.

Đồng bằng sông Hồng với diện tích 14685,5 km2 (từ năm 1999 về mặt hành chính bao gồm cả Vĩnh Phúc và Bắc Ninh) là địa bàn cư trú của 16.334.434 người. Dân tập trung đông nhất ở khu vực trung tâm (Hà Nội 2883 người/ km2; Hưng Yên 1201 người/km2; Thái Bình 1183 người/km2; Hải Phòng 1113 người/km2).

Mật độ dân số cao có quan hệ trực tiếp với nền nông nghiệp thâm canh lúa nước và cơ cấu ngành nghề đa dạng. Sự hiện diện của các thành phố, trung tâm công nghiệp, dịch vụ lớn cũng góp phần làm tăng mật độ dân số của đồng bằng.

Vựa lúa lớn nhất của cả nước - Đồng bằng sông Cửu Long với diện tích 39.569,9 km2 là nơi cư trú của 16.132.024 người. Những tỉnh có mật độ cao là Tiền Giang (686 người/km2); Vĩnh Long (680 người/km2); Cần Thơ (611 người /km2).

Hệ thống đồng bằng duyên hải miền Trung nhỏ hẹp, tiềm năng nông nghiệp không lớn nên mật độ dân số thấp hơn so với Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long.

ở các đồng bằng của Việt Nam đất đai có hạn, mật độ dân số cao đã gây rất nhiều khó khăn trong việc tạo đủ công ăn việc làm, đảm bảo các nhu cầu đời sống và phúc lợi xã hội của người dân.

3.1.3. Sự phân bố dân cư ở trung du và miền núi:

Việt Nam với 3/4 diện tích là đồi núi, nơi đây dân cư còn thưa thớt. Đây là địa bàn cư trú của các tộc người thiểu số với trình độ phát triển kinh tế còn thấp so với vùng đồng bằng đất chật người đông. ở trung du miền núi, gần như địa hình càng lên cao thì dân số càng thấp.

ở Đông Bắc, dân cư tương đối đông đúc như Bắc Giang (390 người/km2); Phú Thọ (361 người/km2). Trong khi đó các tỉnh vùng cao dân thưa hơn như Bắc Cạn (57 người/km2); Cao Bằng (73 người/km2); Hà Giang (77 người/km2); Lai Châu (34 người/km2). Tây Nguyên với tài nguyên đất bazan nhưng dân cư quá thưa thớt, là nơi có mật độ dân số thấp nhất Việt Nam (Kon Tum 32 người/km2).

3.1.4. Sự phân bố dân cư ở thành thị và nông thôn:

Việt Nam là một nước nông nghiệp hình thành từ lâu đời nhưng bị chế độ thực dân phong kiến thống trị lâu dài, kìm hãm sự phát triển kinh tế, mặt khác phải chịu

49

chiến tranh liên miên nên hệ thống thành phố của Việt Nam vừa ít lại vừa chậm phát triển.

Trước năm 1975, mục đích và sự hình thành đô thị ở các tỉnh phía Bắc và phía Nam hoàn toàn khác nhau. Phía Bắc, quá trình công nghiệp hoá đã thúc đẩy sự phát triển của một số đô thị. ở phía Nam dân cư dồn về khu vực đô thị để lánh nạn và làm ăn sinh sống. Vì vậy vào thời điểm trước năm 1975, tỷ lệ dân số đô thị ở miền Bắc là 21,3%, miền Nam là 31,3%.

Sau ngày thống nhất đất nước, số dân thành thị giảm nhanh do việc hồi hương

của dân cư các thành phố lớn ở miền Nam, do điều động lao động và di cư đi xây dựng các vùng kinh tế mới.

Vào đầu những năm 1980 thế kỷ XX, cùng với đường lối đổi mới, nền kinh tế thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước làm cho dân số thành thị tăng dần. Tới thời điểm 1/4/1999, dân số sống ở thành thị là 23,5 %. Dân số ở nông thôn quá lớn phản ánh trình độ thấp của quá trình công nghiệp hoá và phát triển chậm của nhóm ngành kinh tế dịch vụ.

Sự phân bố dân cư nông thôn và thành thị cũng khác nhau giữa các vùng. Đông Nam Bộ là vùng có số dân thành thị cao nhất (49,98%) và Bắc Trung Bộ là vùng có số dân thành thị thấp nhất (12,31%).

Một số tỉnh thành phố có số dân tập trung đông ở thành thị đó là: Thành phố Hồ Chí Minh (83,47%), Đà Nẵng (78,63%), Hà Nội (57,56%), Bà Rịa - Vũng Tàu (41,56%), Quảng Ninh (44,14%). Ngược lại một số tỉnh thành có tỷ lệ dân thành thị quá thấp so với dân ở nông thôn: Thái Bình (5,78%), Hà Nam (6,09%), Hà Tây (7,99%)…

Công nghiệp hóa trong tương lai sẽ tạo điều kiện giảm dần sự chênh lệch về phân bố dân cư giữa thành thị và nông thôn.

3.2. Nguồn lao động

3.2.1. Số lượng nguồn lao động:

Do tỷ suất gia tăng tự nhiên của dân số qua các thời kỳ ở Việt Nam cao nên nguồn lao động tăng lên nhanh. Thời kỳ 1960 - 1975 tỷ lệ tăng nguồn lao động là 3,2 %, thời kỳ 1975 - 1980 (3,37%), thời kỳ 1980 - 1985 (3,36%), thời kỳ 1986 đến nay (3,55%).

50

Nguồn lao động tăng nhanh đã gây nhiều khó khăn cho vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Điều đó đòi hỏi phải có những giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lao động nước ta hiện nay cũng như trong tương lai.

3.2.2. Chất lượng nguồn lao động:

Sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước, của từng vùng phụ thuộc vào quy mô dân số hoạt động kinh tế, chất lượng, tính ổn định và sự thường xuyên của việc làm. Đó là cơ sở cho việc hoạch định chiến lược phát triển và các chính sách của mỗi quốc gia.

Dân số hoạt động kinh tế (lực lượng lao động) ở Việt Nam, nữ chiếm 50% (tính trong cả nước) trong đó khu vực thành thị là 48,6%, khu vực nông thôn là 50,37%. Dân số hoạt động kinh tế nếu chia theo nhóm tuổi thì nhóm trung niên ngày một tăng nhanh, nhóm lao động trẻ và cao tuổi ngày càng giảm.

Về trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động trong cả nước ngày càng được nâng cao. Tỷ lệ người chưa biết chữ, chưa tốt nghiệp cấp I giảm nhanh, số người tốt nghiệp cấp II, III tăng lên liên tục. Những chuyển biến tích cực về trình độ học vấn sẽ tạo nhiều thuận lợi cho việc đẩy mạnh các hoạt động đào tạo nghề, giải quyết việc làm, tạo thêm việc làm mới cho lực lượng lao động.

Tuy nhiên trình độ học vấn còn có sự phân hoá giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng.

Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động ở Việt Nam còn thấp (số người có trình độ từ sơ cấp trở lên tới tiến sĩ chiếm 13,11% trong lực lượng lao động). ở khu vực thành thị, quy mô và tốc độ tăng số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao hơn hẳn khu vực nông thôn (chiếm 33,7% trong lực lượng lao động, còn ở nông thôn chỉ chiếm 8,06%).

Mặc dù chất lượng nguồn lao động của nước ta ngày càng được nâng cao, lực lượng lao động có kỹ thuật ngày càng tăng song trước yêu cầu của công cuộc đổi mới kinh tế xã hội thì lực lượng lao động trong các ngành kinh tế quốc dân còn ít và còn yếu, nhiều ngành sản xuất chủ yếu lao động kỹ thuật còn chiếm tỷ trọng thấp.

3.2.3. Phân bố và sử dụng lao động:

a) Phân bố và sử dụng nguồn lao động theo các ngành kinh tế:

Năm 2001, số lao động làm việc trong các ngành kinh tế là 36.701.800 người (năm 2000), thì 63,6% làm việc trong khu vực nông lâm ngư nghiệp; 12,5% trong công nghiệp và xây dựng; 24,1% trong các ngành dịch vụ. Như vậy công cuộc đổi 51

mới đang từng bước làm thay đổi việc sử dụng lao động xã hội, nhưng sự phân công lao động theo ngành ở nước ta còn chậm chuyển biến.

Việc sử dụng lao động phân theo các thành phần kinh tế đã có chuyển biến rõ rệt. Việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các hình thức tổ chức sản xuất tạo ra các điều kiện cần thiết cho sự hình thành, tồn tại và phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần. Lao động trong thành phần kinh tế quốc doanh giảm, chuyển sang khu vực kinh tế tập thể và tư nhân, cá thể. Sự chuyển dịch lao động giữa các thành phần kinh tế diễn ra rõ nét trong công nghiệp và thương nghiệp. Trong nông nghiệp, với “khoán 10”, giao quyền sử dụng đất lâu dài cho các hộ nông dân, đấu thầu, khoán ruộng đất… đã xuất hiện các nông trại sản xuất nông sản hàng hoá. Những chuyển biến đó đã cho phép tạo ra sự phân công lao động mới ở nông thôn, tạo ra những thay đổi xã hội sâu sắc trong nông thôn Việt Nam .

b) Phân bố dân cư và sử dụng nguồn lao động theo vùng:

Từ sau năm 1954, nhất là từ sau ngày thống nhất đất nước, chúng ta đã từng bước cải tạo sự phân bố dân cư và nguồn lao động không hợp lý giữa các vùng trong nước bằng cách phát triển kinh tế xã hội ở những vùng ít dân, thiếu lao động song còn nhiều tiềm năng (miền núi, trung du, cao nguyên), tạo sức thu hút dân cư và nguồn lao động từ các vùng đông dân, ít tiềm năng (các tỉnh đồng bằng, các thành phố đông dân). Cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội chung ta đã thực hiện các định hướng di chuyển dân cư chủ yếu sau:

- Hướng di chuyển dân cư từ đồng bằng lên miền núi và cao nguyên.

Nhiều khu công nghiệp mới, nhiều xí nghiệp công nghiệp hiện đại, nhiều nông trường, lâm trường và các khu kinh tế mới được xây dựng cùng với việc phát triển giao thông vận tải, thương mại… ở miền núi trung du đã thu hút hàng triệu lao động từ các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, các thành phố lên Tây Bắc, Việt Bắc đã làm cho mật độ dân số ở nhiều tỉnh trung du, miền núi tăng rõ rệt.

- Hướng di chuyển dân cư từ Đông sang Tây. Đây là hướng phổ biến trên phạm vi cả nước, ở các tỉnh phía Bắc luồng di chuyển này trùng với luồng chuyển dân từ đồng bằng lên miền núi. ở miền Nam từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, luồng di chuyển này nhằm phát triển kinh tế Tây Nguyên và các tỉnh miền Tây Nam Bộ.

- Hướng di chuyển dân cư từ Bắc vào Nam đã hình thành từ lâu đời. Từ sau năm 1975, luồng di chuyển này đã được xúc tiến mạnh hơn để khai thác các nguồn lực và phát triển kinh tế các tỉnh phía Nam.

52

Ngoài ba hướng chủ yếu trên còn có các hướng di chuyển dân khác:

+ Di chuyển dân từ nông thôn ra thành thị do phát triển của ngành công nghiệp và dịch vụ.

+ Di chuyển dân cư từ vùng núi cao xuống vùng núi thấp do thực hiện phong trào định canh định cư đối với đồng bào các tộc người thiểu số.

+ Di chuyển dân cư từ nội địa ra vùng ven biển và hải đảo để khai thác các tiềm năng của biển.

c) Phương hướng phân bố dân cư và sử dụng nguồn lao động:

Trong thời gian tới (năm 2010), việc phân bố dân cư và sử dụng nguồn lao động nhằm điều hoà sức lao động giữa các vùng trong nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam . Di chuyển dân cư nội vùng gắn liền với quá trình phân bổ lại lực lượng sản xuất trong cả nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các vùng lãnh thổ.

- Hướng phân bổ và sử dụng lao động ở nước ta như sau:

+ Xuất phát từ nhiệm vụ và tiềm năng của sản xuất nông nghiệp cần sử dụng lao động theo hai hướng: Một là thâm canh trên cơ sở đầu tư thêm lao động trên một đơn vị diện tích, hai là tăng vụ trên những diện tích có thể tăng được đồng thời tận dụng tối đa diện tích đất có khả năng sản xuất nông nghiệp để tạo thêm việc làm và phân bố lại lao động và dân cư.

+ Riêng ngành lâm nghiệp, lao động còn chiếm tỷ trọng rất thấp vì vậy cần tăng cường, bổ sung lực lượng lao động cho lâm nghiệp (dự kiến lao động lâm nghiệp phải chiếm tới 15% lực lượng lao động xã hội). Tăng lực lượng lao động trong lâm nghiệp có ý nghĩa to lớn để phát triển nghề rừng, định canh định cư có hiệu quả đối với đồng bào các tộc người thiểu số.

+ Phát triển toàn diện kinh tế biển nhằm khai thác các tiềm năng to lớn của biển đồng thời góp phần giải quyết việc làm cho số lượng lao động chưa có việc làm hiện nay.

+ Lao động trong ngành công nghiệp dự kiến chiếm khoảng 17% lao động toàn xã hội. Việc tăng cường lực lượng lao động trong công nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, khối kinh tế dịch vụ cần được đầu tư lao động đúng mức bởi lẽ đây là ngành thu hút nhiều lao động, là ngành có nhiều ưu thế và hoàn toàn có điều kiện phát triển ở Việt Nam hiện nay cũng như sau này.

53

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: