Dia chi Tien Giang

Danh sách các sở ngành

Tên Cơ Quan Địa chỉ Điện Thoại Thủ trưởng đơn vị

VP. Đoàn Đại biểu Quốc hội 6A, Rạch Gầm Phạm Văn Hai

VP Hội đồng ND tỉnh 6A, Rạch Gầm 873160 Dương Thị Lệ

VP. Tỉnh Ủy 2, đường 30/4 873678 Trần Long Thôn

Văn phòng UBND tỉnh 23, đường 30/4 873153 Nguyễn Huỳnh Tịnh

Đảng Uỷ Dân Chính Đảng 2, đường 30/4 873279 Huỳnh Văn Luận

Đảng Ủy khối doanh nghiệp 25, đường 30/4 870374 Nguyễn Tấn Hùng

Ban Dân vận tỉnh Ủy 2, đường 30/4 873239 Trần Kim Mai

Ban Tổ chức Tỉnh Ủy 2, đường 30/4 873107 Nguyễn Văn Danh

Ban Tuyên giáo Tỉnh Ủy 2, đường 30/4 873108 Trần Hoàng Diệu

Sở Bưu Chính Viễn thông 2, Lê Văn Duyệt 888880 Nguyễn Văn Yên

Sở Công nghiệp 17, Nam Kỳ Khởi Nghĩa 871638 Đặng Thanh Liêm

Sở Giáo dục - Đào tạo 5, Hùng Vương 872603 Đồng Thị Bạch Tuyết

Sở Giao thông Vận tải 19A Nam Kỳ Khởi Nghĩa 873345 Nguyễn Văn Hùng

Sở Kế hoạch Đầu tư 38, Nam Kỳ Khởi Nghĩa 873381 Võ Văn Năm

Sở Khoa học Công nghệ 39, Hùng Vương 872728 Nguyễn Văn Châu

Sở Lao động-TB&XH 85, Nam Kỳ Khởi Nghĩa 874397 Nguyễn Mạnh Cường

Sở Nông nghiệp Khu phố Trung Lương 855346 Nguyễn Văn Khang

Sở Nội vụ 23, đường 30/4 873110 Lê Văn Hùng

Sở Tài chính 38, Hùng Vương 872400 Hồ Kinh Kha

Sở Thương mại - Du lịch 85 đường 30/4 872101 Lê Văn Hưởng

Sở Tài nguyên và Môi trường 11 Lê lợi 872475 Phan Thanh Hiền

Sở Tư Pháp 43, Hùng Vương, F7 874351 Nguyễn Văn Vĩnh

Sở Thủy Sản 80, Ấp Bắc, F4 870425 Nguyễn Thanh Cẩn

Sở Thể dục - Thể thao 170/11 Lý Thường Kiệt 873511 Nguyễn Nam Hùng

Sở Văn hoá thông tin 3, Lê Lợi 872222 Nguyễn Ngọc Minh

Sở Xây dựng 4, Lê Lợi 873390 Nguyễn Ngọc Điệp

Sở Y tế 4, Hùng Vương 872350 Nguyễn Tấn Tranh

TT. Ban CH Bộ đội biên phòng Thủ Khoa Huân, TXGC 842060 Nguyễn Trọng Lâm

TT. Ban Cải cách hành chính 23, 30/4, TP Mỹ Tho 887289 Nguyễn Văn Cường

Bộ Chỉ huy Quân sự Hùng Vương 874347 Nguyễn Xuân Tỷ

Công an tỉnh Tân Mỹ Chánh 872948 Nguyễn Chí Phi

Ban Thi đua Khen Thưởng 23, đường 30/4 ,TPMT 873174 Phan Thanh Bình

Toà án tỉnh 30, Lê Lợi 872332 Nguyễn Thị Lạc

Thanh tra tỉnh 6, Lê lợi 873172 Nguyễn Thị Nhãn

Viện Kiểm sát tỉnh 32, Lê Lợi 874420 Huỳnh Dũng Tiến

Ban Chỉ huy PC lụt bão Nguyễn Thiên Pháp

Ban Quản lý các khu CN 29, Nam Kỳ Khởi Nghĩa 879916 Phan Văn Khải

Ban Tôn giáo tỉnh 2 Lê Văn Duyệt 873564 Thân Văn Thất

Ủy Ban DS-GĐ và Trẻ em 3, Lê Lợi 872313 Lê Văn Vững

Báo Ấp Bắc 80, Ấp Bắc, TPMT 873119 Nguyễn Thị Bạch Vân

Cục Thống kê 21 đường 30/4, TPMT 872582 Trương Văn Dinh

Cục Thuế tỉnh 900, Lý Thường Kiệt 872798 Phan Minh Thanh

Đài Phát thanh Truyền hình 125, Lê Thị Hồng Gấm 873456 Nguyễn Anh Tuấn

Chi nhánh Ngân hàng Phát triển 19 Nam Kỳ Khởi Nghĩa 875719 Lê Thanh Phong

Bảo Hiểm Xã Hội tỉnh Lý Thường Kiệt 872122 Nguyễn Trường Thanh

Kho bạc Nhà nước tỉnh 208, Nam Kỳ Khởi Nghĩa 879478 Nguyễn Thị Phượng

CN Ngân hàng Công thương 15B, Nam Kỳ Khởi Nghĩa 872456 Trần Văn Cửu

CN Ngân hàng Đầu tư tỉnh 208A, Nam Kỳ Khởi Nghĩa 879235 Nguyễn Hữu Đức

Ngân hàng Nhà nước tỉnh 37, đường 30/4 872251 Nguyễn Thanh Nhã

CN Ngân hàng Nông nghiệp 31, Lê Lợi 872331 Kiều Mạnh Minh

Quỹ Đầu tư Phát triển 40 Hùng Vương 883375 Nguyễn Văn Chánh

Địa lý hành chính

Tiền Giang là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, ở vào tọa độ 10o11'43''và 10o35'19'' vĩ tuyến Bắc, 105o49'12'' và 106o48'32'' kinh tuyến Đông (1), có diện tích 2.366,600 Km2 (chiếm 0,71% diện tích cả nước, 5,88% diện tích đồng bằng sông Cửu Long); dân số 1.681.558 người, mật độ 711 người/km2 (2). Phía bắc giáp tỉnh Long An; phía nam giáp 2 tỉnh Bến Tre, Vĩnh Long, lấy sông Tiền làm ranh giới tự nhiên; phía đông giáp biển Đông với 32 km bờ biển; phía tây giáp tỉnh Đồng Tháp. Tỉnh Tiền Giang nằm dọc theo bờ bắc sông Tiền, hướng đông-tây theo đường chim bay dài khoảng 120km. Chiều rộng theo hướng Nam-Bắc, nơi rộng nhất khoảng 40km, nơi hẹp nhất khoảng 10km.

Tỉnh Tiền Giang ở vào vị trí rất quan trọng, là cửa ngõ của miền Tây, nối liền thành phố Hồ Chí Minh - trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, giao lưu quốc tế của Nam bộ - với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long bằng 2 trục giao thông thủy bộ. Về đường bộ là Quốc lộ 1 A. Về đường thủy là kinh Bưu Điện, sông Kỳ Hôn, kinh Chợ Gạo và sông Tiền.

Để có được diện mạo như ngày nay, địa bàn tỉnh Tiền Giang đã phải trải qua một quá trình phát triển lâu dài.

Do nạn chiến tranh giành ảnh hưởng giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh Nguyễn, vào khoảng thế kỷ 16 đến thế kỷ 17 đã có nhiều đoàn người từ vùng Ngũ Quảng hàng loạt vượt biển vào Nam khai khẩn đất hoang, lập làng, mở ruộng. Vào năm 1623, người Việt lập nghiệp khá đông nên chúa Nguyễn đã cho lập tại Sài Côn một đồn thu thuế. Năm 1679, có 3.000 người Hoa đến tỵ nạn, chúa Nguyễn cho Xá sai Văn Chiêu và Tướng Thần lại (hai quan chức phụ trách hình luật là thuế khoá) cùng nhiều người Việt đến đưa họ vào Nam tiếp tục khai hoang lập ấp.

Năm Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược vùng đất mới. Ông chia đất Đông Phố, lấy đất Đồng Nai đặt huyện Phước Long, lập dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn đặt huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh chúa Nguyễn đều đặt chức Lưu Thủ, Cai Bạ và Ký Lục cai trị.

Lúc bấy giờ đất Gia Định có hơn nghìn dặm, với 4 vạn hộ dân. Chúa Nguyễn sai chiêu mộ thêm dân từ Bố Chính trở vào tiếp tục khai hoang thiết lập xã, thôn, ấp, trại, chia ranh giới, khai khẩn ruộng đất, đánh thuế tô, thuế dung, lập bộ đinh, bộ điền. Người Hoa cũng khá đông, nên lập xã Thanh Hà cho những người châu Liêm, Lôi, Cao nhập tịch. Lại lập xã Minh Hương cho những người gốc Long Môn nhập tịch. Từ đó họ trở thành dân bộ của ta.

Đất Mỹ Tho lúc bấy giờ nằm ngoài đất Gia Định. Trịnh Hoài Đức cho biết: "khi mới bắt đầu khai thác, đất Định Tường do nhiều đầu mối thống thuộc và ở ngoài Phiên An và Phiên Trấn xa xăm hiểm trở. Họ được tự do làm ăn, muốn ở đâu thì ở, muốn khai khẩn chỗ nào tùy ý, không thể lấy luật pháp ràng buộc. Cũng theo Gia Định Thành thông chí, những người ở dựa theo núi non gò đống để khai thác lâm sản, ở dựa theo bờ biển để đánh cá, hoặc ở nơi hẻo lánh...thì chẳng thuộc đơn vị chính quyền nào cả...Dần dần những người di dân mới xin lập thôn ấp, mạn, nậu, trang trại...Cử các chức Cai ấp, Cai lân, Cai trại, Mạn trưởng (Vạn trưởng), Trùm nậu...để phân xử, hòa giải các vụ khiếu kiện...Còn thuế vụ thì người làm ruộng phải nộp thóc, người đánh cá nộp cá, người thợ rừng nộp gỗ, dân nậu nộp mật ong...Trong các đơn vị hành chính sơ đẳng nầy cũng đặt một vài chức vụ lo việc an ninh và đốc thúc thuế vụ.

Việc giao thuế, ở cấp phủ, cấp huyện, lúc đầu chúa Nguyễn đã đặt các chức: Đề đốc, Chánh và Phó Đề lĩnh, Cai phủ, Cai tri, Ký phủ, Thư ký. Cấp tổng hoặc cấp thuộc (một loại tổng) có Cai tổng, Cai thuộc, Ký tổng hoặc Ký thuộc...Ở cấp xã thôn có Xã trưởng, Thôn trưởng và Tướng Thần lại đốc thúc phu dịch. Quan chức và viên chức thu thuế bấy giờ không thuộc quan lại địa phương mà thuộc Nội Các(3).

Thời bấy giờ nông dân phải nộp thuế bằng thóc nhưng đất Gia Định chỉ có kho Tân Định (tại Bến Nghé) cho Phiên Trấn và Trấn Biên trong khi nông dân thì ở xa xôi, rải rác, nên vào năm Tân Dậu (1741), chúa Nguyễn đã cho lập 9 kho biệt nạp, dân ở gần kho nào thì nộp thuế vào kho ấy, rồi sai phu dịch dùng thuyền chở về các kho chính ở vùng Thuận Hóa. Chín kho biệt nạp nầy là Hoàng Lạp và Tân Thạnh ở Trấn Biên, kho Giản Thảo ở Bến Nghé. Hai kho Thiên Mụ và Cảnh Dương ở Cần Giuộc, Cần Đước, lúc đó cũng thuộc Trấn Biên. Chỉ có kho Tam Lạch ở đất Ba Giồng và kho Bả Canh, Qui An, Qui Hóa ở xứ Mỹ Tho. Ba kho Bả Canh, Qui An, Qui Hóa do Trịnh Khánh (cha Trịnh Hoài Đức) làm Cai thâu tất phải ở gần nhau. Kho Bả Canh được xác định cụ thể ở rạch Cá Chốt (nay thuộc xã Thạnh Nhựt -Gò Công Tây).

Chín trường biệt nạp chỉ quản lý người khai hoang ở góc độ kinh tế, chưa thật sự là một đơn vị hành chánh.

Mãi đến năm Nhâm Tý (1732) số lượng xã thôn, ấp, trại đã đều khắp, chúa Nguyễn thành lập dinh thứ ba tại miền Nam là dinh Long Hồ. Dinh Long Hồ là vùng đất rộng nằm hai bên bờ sông Tiền, nhưng vì mới khai phá nên chỉ lập một châu, chưa lập phủ huyện. Lỵ sở dinh Long Hồ và châu Định Viễn đặt tại thôn An Bình Đông, xứ Cái Bè nên còn gọi là dinh Cái Bè. Hơn hai chục năm sau, Ký lục dinh Long Hồ là Nguyễn Cư Trinh và Thống suất Trương Phước Du thấy tình hình biên giới ổn định nên đề nghị dời lỵ sở dinh Long Hồ và châu Định Viễn về xứ Tầm Bào (tức thị xã Vĩnh Long ngày nay). Để bảo vệ địa phương mới, chúa Nguyễn cho lập thêm ba đạo Đông Khẩu (Sa Đéc), Tân Châu và Châu Đốc (Tiền Giang và Hậu Giang). Các chức vụ đầu dinh có Lưu Thủ, Cai Bạ và Ký Lục; đầu đạo có quan võ cấp Cai cơ (hoặc Cai đội) và Thư ký.

(1) Theo Bản đồ Bộ tài nguyên Môi trường Việt nam - VN 2000, xuất bản 2005, do Sở tài nguyên Môi trường tỉnh Tiền Giang cung cấp.

(2) Niên giám thống kê năm 2004 của Cục thống kê tỉnh Tiền Giang, XB 2004, tr: 21.

(3) Hệ thống thuế vụ thơì chúa Nguyễn trực thuộc Nội Các (trung ương), nằm ngoài hệ thống hành chính địa phương.

Hành chính thời Nguyễn

1. Xây dựng đơn vị hành chánh cơ sở địa phương:

Giữa thế kỷ 18, công việc khai hoang hoàn chỉnh, các đơn vị trang, trại, ấp, nậu...có khuynh hướng kết hợp hoặc nâng lên thành đơn vị hành chánh cơ sở theo đúng nghĩa.

Thời bấy giờ qui định có ba loại làng:

- Làng lớn (đại thôn) gọi là xã.

- Làng vừa (trung thôn) gọi là thôn.

- Làng nhỏ (tiểu thôn) gọi là ấp, lân, phường, giáp, mạn, nậu.

Làng lớn (xã) chia ra hai hoặc ba làng vừa (thôn). Làng vừa (thôn) chia ra nhiều làng nhỏ (lân hoặc ấp). Tuy nhiên thực tế cũng có loại làng nhỏ (gọi là lân hoặc ấp, mạn, nậu, phường...) chỉ lệ thuộc lỏng lẻo vào xã hoặc thôn. Ngoài ra cũng có những vạn, nậu, phường...lệ thuộc vào xã hoặc thôn. Cũng có những ấp (làng nhỏ của dòng họ khai khẩn) còn đứng độc lập. Đây là trường hợp cá biệt, không đáng kể.

Tiêu chuẩn để phân định làng lớn và làng nhỏ là lúc mới thành lập được miễn thuế ba năm, nhưng sau đó phải đảm bảo đóng đủ thuế đinh và thuế điền theo qui định. Thời bấy giờ những người đi khai hoang thích lập thôn (thường gọi là làng) vì gọn nhẹ, dể quản lý. Tuy nhiên vào khoảng cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, ở Mỹ Tho vẫn còn những đơn vị hành chánh đặc biệt như: phường Toàn Phước (làng làm nghề đan lưới, sau đổi thành thôn Kiểng Phước - Gò Công), ấp Thiên Thủy (ở Chợ Gạo), ấp An Phước lệ thuộc thôn Dương Phước, ở Gò Công, xã Minh Hương ở Mỹ Tho, ấp Hữu Hòa trực thuộc thôn Thanh Sơn ở Cai Lậy...Những làng thành lập sớm nhất thường ở vùng Gò Công, Chợ Gạo và một số làng dọc theo sông Tiền, vùng Rạch Gầm, Ba Rài, Cái Bè...

Khi lập làng phải làm đơn. Trong đơn khai rõ diện tích đất đai, dân số và đề nghị tên làng dự kiến. Chính quyền cấp tỉnh kiểm tra, trình tấu lên triều đình chờ phê duyệt. Ngay sau khi lập làng thì phải xây dựng một ngôi đình để thờ thần Thành Hoàng, làm nơi tổ chức Kỳ Yên, nơi hội họp dân làng, yến ẩm vui chơi, đồng thời cũng là trụ sở hành chánh Hội tề sở tại.

Tên làng là ước vọng của dân nên thường được chọn có nội dung tốt đẹp, với các chữ Long (thịnh vượng), Vĩnh (lâu dài), An (bình yên), Mỹ (tốt đẹp), Tân (mới), Phú (giàu có)...Khi bị thiên tai địch họa, nếu có xiêu tán, người sau tái lập vẫn có gắng giữ gìn dấu vết tên làng cũ. Khi nhập hai làng làm một, hoặc chia một làng thành hai, ba vẫn phải theo nguyên tắc giữ các chữ đặc biệt trong những tên hiệu cũ.

2. Bộ máy hành chánh cơ sở đầu tiên:

Hội đồng Kỳ mục đầu tiên tại Mỹ Tho gọi là "Bàn Hội tề" rất đơn giản, mang tính tự trị, tự quản, vì lúc bấy giờ diện tích đất đai khai khẩn chưa nhiều, dân cư chưa đông, lại có quan hệ thân tộc huyết thống.

Trong làng có các chức vụ:

1.Trùm Cả: chức vụ đứng đầu Hội đồng Kỳ mục.

2.Trùm Chủ: chức vụ đứng thứ nhì trong Hội đồng Kỳ mục.

3.Trùm Nghị: Cố vấn Hội đồng.

4.Thôn trưởng (hay Xã trưởng): Hương chức làm nhiệm vụ trung gian giữa Hội tề địa phương và chính quyền cấp trên. Vị nầy được giữ con dấu, được phép giải quyết các vụ việc trong phạm vi cho phép.

5.Thủ Khoán: chức việc quản lý các tài sản công.

6.Câu Đương: chức việc phụ trách việc chấp hành luật lệ, được phép tham gia giải quyết các vụ khiếu kiện.

7.Cai Đình: chức việc quản lý bảo vệ ngôi đình, trần thiết ngôi đình khi có lễ Kỳ Yên.

8.Quản Trị: chức việc phụ trách an ninh trật tự.

9.Trùm Thâu, Cai Thâu, Tri Thâu: những chức việc phụ trách thuế vụ.

10.Trùm Việc, Cai Việc: các chức việc sai phái (hiểu là tạp vụ).

Hội đồng Kỳ mục nầy được qui định vào khoảng cuối thế kỷ 18, hoàn chỉnh thời chúa Nguyễn Phúc Ánh ở Gia Định. Các địa phương được tùy tiện công cử, nên nơi nầy nơi khác không thống nhất.

Thành lập dinh Trường Đồn:

Năm Nhâm Tý (1772), chúa Nguyễn Phước Thuần quyết định thành lập tại Mỹ Tho một đơn vị hành chánh mang tính quân quản là đạo Trường Đồn. Đứng đầu đạo Trường Đồn có một quan võ cấp Cai cơ ( hoặc Cai đội), một quan văn cấp Thư ký và lực lượng tinh binh, thuộc binh. Lỵ sở đạo Trường Đồn đặt tại giồng Kiến Định (nay là khu vực thị trấn Tân Hiệp, huyện Châu Thành)

Nhưng sau đó Tây Sơn vào Nam, chính quyền của chúa Nguyễn tan rã. Theo một tấm bia khắc đời Cảnh Thịnh hiện còn tại Hà Nội và quyển Lê Quí ký sử thì vùng Mỹ Tho - Gò Công được nhà Tây Sơn lập huyện Vĩnh Định, phủ Tây Định. (Rất tiếc tư liệu nầy không có chi tiết nào rõ hơn nữa).

Năm Kỷ Hợi (1779), Nguyễn Phúc Ánh làm Nhiếp Quốc chính, cắt bớt địa giới các dinh Phiên Trấn, Trấn Biên và Long Hồ, kết hợp với đạo Trường Đồn để lập dinh Trường Đồn. Đặt các chức Lưu thủ, Ký lục, Cai bạ (toàn các quan văn) cai trị. Lỵ sở dinh Trường Đồn cũng đặt tại giồng Kiến Định như cũ.

Dinh Trường Đồn được thành lập trên cơ sở là một "đạo" nên không có "phủ" mà chỉ có một "huyện", đó là huyện Kiến Khương (Kiến Khang), có ba thuộc(1). Đứng đầu thuộc có chức Cai thuộc và các Thuộc lại, Ký thuộc chuyên trách việc thuế khóa, từ tụng. Nhà Nguyễn qui định, Cai thuộc ở ban võ, làm việc ở ban văn, thường hầu việc thỉnh ý quan trên, không có trụ sở hành chánh như cấp thôn, xã.

Năm Kỷ Hợi (1779), huyện Kiến Khương chia ra ba thuộc:

1.Thuộc Kiến Hưng: gồm vùng đất khai phá sớm, dọc theo Ba giồng (từ vùng đất từ thị xã Tân An đến thị trấn Tân Hiệp và qua vùng rạch Gầm).

2.Thuộc Kiến Hòa: gồm vùng đất từ chợ Cũ (Mỹ Tho) đến Tân An, Chợ Gạo, Gò Công...và cả hai huyện Châu Thành và Bình Đại của tỉnh Bến Tre ngày nay.

3.Thuộc Kiến Đăng: gồm khu vực vùng Cai Lậy, Cái Bè (Tiền Giang), Cao Lãnh đến Hồng Ngự (Đồng Tháp), Chợ Mới (An Giang ) ngày nay.

Thuộc Kiến Đăng đến giữa thế kỷ 19 vẫn còn là vùng biên địa, việc khai hoang vẫn tiếp diễn.

Sau khi dinh Trường Đồn thành lập, 9 trường biệt nạp bị bãi bỏ.

Trấn Định Tường:

Tháng giêng năm Canh Tý (1780), tại Sài Côn, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi chúa. Năm sau, Nguyễn Phúc Ánh đổi tên dinh Trường Đồn thành dinh Trấn Định, dời lỵ sở về thôn Mỹ Chánh (Mỹ Tho). Từ đó, Mỹ Tho trở thành trung tâm chính trị, hành chánh, quan sự, văn hóa và kinh tế của một vùng.

Năm Nhâm Tý (1792), Nguyễn Phúc Ánh cho xây thành Trấn Định theo bản vẽ của Trần Văn Học, tiếp theo là huy động dân binh đắp đường Thiên lý từ Phiên Trấn (Bến Nghé) về phía nam, qua giồng Kiến Định đến giồng Thủ Triệu (Cái Bè). Từ đó, đền đài, phố xá tiếp tục được xây dựng. Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí mô tả Mỹ Tho đại phố nhà ngói cột chạm, đình cao, chùa rộng....ghe thuyền sông biển ở các ngả đến đậu đông đúc, làm một đại đô hội, phồn hoa huyên náo...

Đời Gia Long (1802), đơn vị dinh được đổi thành trấn. Lúc bấy giờ ở Nam kỳ có 5 trấn: Biên Hòa, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Long và Hà Tiên; lại đặt thêm thành Gia Định thống lĩnh 5 trấn nầy.

Đứng đầu thành Gia Định có các chức Tổng trấn, Phó Tổng trấn và Hiệp trấn.

Đứng đầu trấn Định Tường có các chức Lưu thủ và Trấn thủ. Dưới có các chức vụ Thư ký, Cai án, Tri bạ, hai ty Xá sai (phụ trách việc văn án từ tụng) và Tướng Thần lại (phụ trách lương thực, thuế khóa).

Năm 1804, đổi hai ty Xá sai và Tướng Thần lại thành hai ty Tả Hữu thừa, có 6 phòng và các chức vụ sau:

+ Ty Tả thừa, đứng đầu có chức Câu Kê và 2 Cai Hợp, cơ cấu:

- Phòng Lại: có 2 Thủ hợp và 10 Bản ty.

- Phòng Binh: có 2 Thủ hợp và 10 bản ty.

- Phòng Hình: có 2 Thủ hợp và 10 Bản ty.

+ Ty Hữu thừa: đứng đầu cũng có chức Câu kê và 2 Cai hợp, cơ cấu:

- Phòng Hộ có 2 Thủ hợp và 30 bản ty.

- Phòng Lễ có 2 Thủ hợp và 30 bản ty.

- Phòng Công có 2 Thủ hợp và 20 bản ty.

Triều Gia Long thường cử quan văn làm Hiệp trấn và Tham hiệp, để cùng nhau bàn bạc công việc tại địa phương, vì Lưu thủ hay Trấn thủ đều là quan võ.

Năm 1804, triều Gia Long còn đặt tại Trấn Định 10 lễ sinh chăm sóc và phụ giúp việc tế tự tại miếu Hội đồng và miếu Thành hoàng.

Cũng trong đời Gia Long, tại Trấn Định có 1 Tri phủ và 2 Tri huyện. Tại Phủ nha có 2 Đề lại và 10 Thông lại. Tại Huyện nha có 2 Đề lại và 8 Thông lại (Riêng phủ Kiến An kiêm nhiếp huyện Kiến Hưng)

Triều Gia Long cũng qui định hễ khai khẩn khoảng 1000 mẫu, có 5000 dân đinh, công việc nhiều, địa giới quá rộng thì được lập 1 tổng, đặt 1 chức Cai tổng (năm 1828, Minh Mạng đặt thêm chức Phó tổng phụ giúp). Nếu địa phương nào chưa đủ tiêu chuẩn thì theo lệ thời chúa Nguyễn đặt một "thuộc", đặt Cai thuộc, Ký thuộc và Tướng Thần lại (giúp việc thuế khóa).

Theo thống kê tháng giêng năm Mậu Thìn, niên hiệu Gia Long thứ 7 (1808) trấn Định Tường có: 1 phủ, 3 huyện, 6 tổng, 313 thôn và 1 ấp.

Phủ Kiến An

Phủ Kiến An có 3 huyện:

1.Huyện Kiến Hưng: có 2 tổng (bỏ thuộc). Lỵ sở đóng tại thôn Tân Lý Tây (nay thuộc huyện Châu Thành). Hai tổng(2) gồm:

+ Tổng Kiến Thuận (nay thuộc vùng thành phố Mỹ Tho) và vùng nam huyện Châu Thành, có 39 thôn.

+ Tổng Hưng Xương (nay thuộc vùng bắc huyện Châu Thành đến bờ sông Vàm Cỏ - Long An) có 37 thôn.

2. Huyện Kiến Hòa: có 2 tổng (bỏ thuộc). Lỵ sở đóng tại thôn Mỹ Hóa (nay thuộc Mỹ Phong - thành phố Mỹ Tho). Hai tổng(3) gồm:

+ Tổng Kiến Thạnh (nay thuộc vùng đất từ Mỹ Tho, Chợ Gạo đến huyện Vàm Cỏ - Long An) có 65 thôn.

+ Tổng Hòa Bình (nay là vùng đất Gò Công (Tiền Giang) và hai huyện Bình Đại, Châu Thành (Bến Tre).

3.Huyện Kiến Đăng: có 2 tổng (bỏ thuộc), lỵ sở đóng tại thôn Mỹ Đức Đông (vàm Cái Thia -nay thuộc huyện Cái Bè). Hai tổng gồm:

+ Tổng Kiến Lợi: (nay là vùng Cai Lậy) có 44 thôn.

+ Tổng Kiến Phong (nay là vùng Cái Bè, Cao Lãnh và Chợ Mới -An Giang) có tất cả 43 thôn.

Tỉnh Định Tường và huyện Tân Hòa năm 1836:

Đến năm Bính Tuất (1826), thành Định Tường được dời từ thôn Mỹ Chánh (huyện Kiến Hòa) về ranh thôn Điều Hòa và Bình Tạo (huyện Kiến Hưng) các xa nhau khoảng 3.000 thước. Đến năm Đinh Mão (1831), Minh Mạng đổi đơn vị "trấn" thành đơn vị "tỉnh" và bắt đầu xây dựng chế độ phong kiến theo mô hình trung ương tập quyền, xóa bỏ cấp "thành", đặt ba tỉnh kiêm nhiếp, ba tỉnh phân hạt:

+Tỉnh Gia Định kiêm nhiếp tỉnh Biên Hòa (phân hạt).

+Tỉnh Vĩnh Long kiêm nhiếp tỉnh Định Tường (phân hạt).

+Tỉnh An Giang kiêm nhiếp tỉnh Hà Tiên (phân hạt).

Thống nhiếp hai tỉnh Vĩnh Long và Định Tường có Tổng Đốc Long Tường, thường kiêm hàm Binh Bộ Thượng thư hoặc Đô Sát viện hữu Đô Ngự sử. Công đồng quan tỉnh Định Tường có Tuần phủ, Bố chánh, Án sát, Lãnh binh.

Tuần phủ là một quan văn nhưng có hàm Đô Đốc. Bố Chánh sứ quan là một quan văn làm nhiệm vụ hành chánh. Án Sát sứ là một quan văn riêng coi việc luật pháp, chấn hưng phong hóa. Lãnh binh là một quan võ, riêng coi việc quân sự. Do Định Tường là một tỉnh nhỏ, nên đứng đầu là Thự lý Tuần phủ, kiêm nhiệm chức Bố Chánh sứ. Năm 1832, hai chức quan Hiệp trấn và Tham hiệp chuyển thành Bố Chánh sứ và Án Sát sứ.

Do theo chế độ trung ương tập quyền nên việc cai trị trong tỉnh Định Tường do Tổng Đốc và Tuần Phủ thống nhiếp. Các Bố chánh, Án Sát sứ hoặc Lãnh binh đều phải thừa hành.

Việc cai trị có hai ty chuyên trách:

+Ty Bố chánh (Ty Phiên) phụ trách hành chánh có các chức vụ: 1 Thông phán, 1 Kinh lịch, 2 Thư lại Bát phẩm, 5 Thư lại Cửu phẩm và 25 Thư lại vị nhập lưu.

+ Ty Án Sát (Ty Niết) phụ trách việc hình án từ tụng, chấn hưng phong hóa, có các chức vụ: 1 Thông phán, 1 Kinh lịch, 2 Chánh Bát phẩm Thư lại, 3 Chánh Cửu phẩm Thư lại và 20 Thư lại vị nhập lưu.

Ngoài ra, tại tỉnh còn 3 ty khác:

+ Ty Lễ Sinh: gồm 1 Tự thừa và 12 lễ sinh riêng làm nhiệm vụ quản lý và phụ tế các đền miếu Trung tự.

+ Ty Chiêm Hậu: gồm 1 Linh Đài lang và 5 Thư Lại chuyên việc xem thiên tượng và làm lịch.

+ Ty Lương Y: gồm 1 chính Lương y và các Y thuộc, chuyên việc chữa trị bệnh tật trong nội bộ.

Thời Minh Mạng đặt mỗi phủ một chức Tri phủ, mỗi huyện một chức Tri huyện. Tại Định Tường có Tri huyện Kiến Hòa, Tri huyện Kiến Đăng. Nhưng Tri phủ Kiến An kiêm lý huyện Kiến Hưng. Tri phủ Kiến Tường kiêm lý Kiến Phong. Phủ nha Kiến An và Kiến Tường đều chỉ có 1 Lại Mục và 5 hoặc 6 Thông lại. Các Huyện nha Kiến Hòa và Kiến Đăng đều có 1 Lại Mục và 5 Thông lại.

Riêng về giáo dục, theo truyền thống của nước ta từ xưa, các việc giảng dạy đều do tư nhân đảm trách. Ở cấp tỉnh, nhà Nguyễn chỉ lập nhà Tỉnh học, cử một Đốc học; Cấp phủ lập nhà Phủ học, cử một Giáo thọ; Cấp huyện lập nhà Huyện học, cử một Huấn đạo. Các chức quan nầy vừa làm nhiệm vụ giảng dạy, vừa kiểm tra chất lượng giáo dục tư nhân, giới thiệu học trò đi thi.

Do địa bàn quá rộng, giao thông bất tiện nên vào năm Nhâm Thìn (1832) thì vùng Gò Công bị tách rời khỏi Định Tường và nhập vào Gia Định.

Bước đầu nhà Nguyễn cắt tổng Hòa Bình, huyện Kiến Hòa tỉnh Định Tường và một phần tổng Thuận Đạo, tỉnh Gia Định để lập huyện Tân Hòa, trực thuộc phủ Tân An, tỉnh Gia Định. Lỵ sở huyện Tân Hòa đầu tiên đặt tại thôn Thanh Xuân Đông, tổng Thạnh Mục (nay thuộc huyện Vàm Cỏ, giáp với xã Đồng Sơn huyện Gò Công Tây).

Năm 1836, huyện Tân Hòa có 4 tổng:

+ Tổng Hòa Đồng có 16 thôn.

+ Tổng Hòa Lạc có 17 thôn và 1 phường.

+ Tổng Thạnh Hội có 16 thôn.

+ Tổng Thạnh Mục có 16 thôn.

(Trong 4 tổng, chỉ có 2 tổng Hòa Đồng và Hòa Lạc thuộc địa phận Gò Công Tây và Gò Công Đông. Còn hai tổng Thạnh Hội và Thạnh Mục thuộc tỉnh Long An ngày nay).

Năm 1841, Thiệu Trị nguyên niên, huyện Tân Hòa lại bị chia thành hai huyện: vùng Vàm Cỏ lập huyện Tân Thạnh, vùng Gò Công lập huyện Tân Hòa. Hai huyện nầy lại chia ra thành 8 tổng gồm: Thạnh Hội Thượng, Thạnh Hội Hạ, Thạnh Mục Thượng, Thạnh Mục Hạ, Hòa Đồng Thượng, Hòa Đồng Hạ, Hòa Lạc Thượng và Hòa Lạc Hạ.

Lỵ sở huyện Tân Thạnh đặt tại thôn Thuận Lễ (cạnh thôn Thanh Xuân Đông), tổng Thạnh Mục.

Đến năm Thiệu Trị thứ năm (1852) bỏ phủ Hòa Thạnh (phủ nhiếp hai huyện Tân Hòa và Tân Thạnh), nhập Tân Thạnh vào Tân Hòa, đưa huyện lỵ Tân Hòa về thôn Thuận Tắc, tổng Hòa Lạc Hạ (nay là thị xã Gò Công).

Sau khi khôi phục Gia Định (1834) (sau biến cố Lê Văn Khôi), Minh Mạng sai Trương Đăng Quế và Trương Minh Giảng lập địa bạ để tính thuế khóa tài chánh cho công bằng. Đây là công trình qui mô đầu tiên ở vùng đất mới. Toàn bộ Địa bạ Định Tường hoàn tất ngày mồng 3 tháng 6 năm Minh Mạng thứ 17 (1836). Lúc bấy giờ tỉnh Định Tường có 1 phủ, 2 huyện và 15 tổng.

Phủ Kiến An:

Phủ Kiến An có 3 huyện:

+ Huyện Kiến Hưng: Huyện Kiến Hưng do phủ Kiến An kiêm nhiếp, từ năm 1833 lỵ sở dời từ thôn Tân Lý Tây về thôn Tân Hiệp (nay là thị trấn Tân Hiệp). Năm 1836, huyện Kiến Hưng có 5 tổng, 75 thôn, gồm:

- Tổng Thuận Trị có 19 thôn.

- Tổng Thuận Bình có 16 thôn.

- Tổng Hưng Nhơn có 12 thôn.

- Tổng Hưng Nhượng có 13 thôn.

- Tổng Hưng Long có 15 thôn.

+ Huyện Kiến Hòa: Từ năm 1833, lỵ sở huyện lỵ Kiến Hòa dời từ thôn Mỹ Hóa về thôn Tân Hóa (nay thuộc xã Tân Thuận Bình, huyện Chợ Gạo). Năm 1836, huyện Kiến Hòa có 5 tổng, 76 thôn, gồm:

-Tổng Hòa Hảo có 13 thôn.

-Tổng Hòa Hằng có 20 thôn.

-Tổng Hòa Thinh (Hòa Thanh) có 17 thôn.

-Tổng Thạnh Phong có 14 thôn.

-Tổng Thạnh Quơn (Thạnh Quang) có 15 thôn.

+Huyện Kiến Đăng: Từ năm 1808, lỵ sở huyện Kiến Đăng đóng tại thôn Mỹ Đức Đông (Cái Bè). Năm 1836 có 5 tổng:

-Tổng Lợi Trinh có 19 thôn.

-Tổng Lợi Trường có 22 thôn.

-Tổng Phong Hòa có 11 thôn.

-Tổng Phong Phú có 17 thôn.

-Tổng Phong Thạnh có 11 thôn.

Từ năm 1833, ba tổng Phong Hòa, Phong Phú và Phong Thạnh được đưa về Kiến Đăng phân huyện. Đến năm 1838 thì nhập cắt hai tổng Phong Phú và Phong Thạnh thành ba tổng: Phong Phú, Phong Nẫm và Phong Thạnh. Kiến Đăng phân huyện được đổi tên là huyện Kiến Phong, trực thuộc phủ Kiến Tường. Phủ Kiến Tường đóng tại thôn Mỹ Trà (Cao Lãnh) kiêm lý huyện Kiến Phong có 4 tổng, 36 thôn.

Cũng trong năm 1836, huyện lỵ Kiến Đăng được dời từ thôn Mỹ Đức Đông về thôn Mỹ Trang (nay thuộc khu vực khu 3, thị trấn Cai Lậy).

Tỉnh Định Tường và huyện Tân Hòa đời Thiệu Trị và Tự Đức:

Đến đời Thiệu Trị và Tự Đức, việc khai hoang lập làng vẫn tiếp tục. Cụ thể:

Huyện Tân Hòa:

Năm 1836, hai tổng Hòa Đồng và Hòa Lạc của huyện Tân Hòa (tỉnh Gia Định) có 33 thôn và 1 phường (Sau đó phường Toàn Phước đổi thành thôn Kiểng Phước, thôn Bình Hưng đổi thành Bình Lạc...) Theo Đại Nam nhất thống chí (lục tỉnh) và Phương Đình Dư địa chí (của Nguyễn Siêu) bốn tổng Hòa Đồng Thượng Hạ, Hòa Lạc Thượng Hạ tăng lên 35 thôn. Đến năm 1863, theo báo cáo của đoàn quân viễn chinh Pháp, bốn tổng nầy chỉ còn 33 thôn, gồm:

- Tổng Hòa Đồng Thượng có 7 thôn.

- Tổng Hòa Đồng Hạ có 10 thôn

- Tổng Hòa Lạc Thượng có 8 thôn.

- Tổng Hòa Lạc Hạ có 8 thôn.

Trong đó có một làng mà quân viễn chinh Pháp không kiểm soát được là Gia Thuận, căn cứ của nghĩa quân Trương Định.

Huyện Kiến Hưng:

Theo Địa bạ năm 1836, huyện Kiến Hưng có 5 tổng, 75 thôn. Theo hai tài liệu vừa nêu(4) thì đến đời Thiệu Trị và Tự Đức vẫn không thay đổi. Tuy nhiên đến năm 1863, báo cáo của thực dân Pháp cho biết huyện Kiến Hưng có 5 tổng, 78 thôn, gồm:

- Tổng Hưng Trị có 19 thôn.

- Tổng Hưng Bình có 16 thôn (tăng 1).

- Tổng Hưng Nhượng có 14 thôn (tăng 1).

- Tổng Hưng Long có 16 thôn (tăng 1).

Tài liệu của quân viễn chinh Pháp đã gọi nhầm tên hai tổng Hưng Trị và Hưng Bình, vì theo Đại Nam Hội Điển sự lệ, đời Thiệu Trị và Tự Đức vẫn còn gọi là Thuận Trị và Thuận Bình. Sự nhầm lẫn nầy, về sau chính quyền thực dân đã đính chính lại.

Ba làng lập thêm đời Thiệu Trị - Tự Đức là làng Tân Hòa, tổng Hưng Nhơn (nay nằm trong địa giới xã Tân Hòa Thành, huyện Tân Phước), làng Bình Lợi, tổng Hưng Nhượng (nay gần thị xã Tân An -Long An) và một làng thuộc tổng Hưng Long (nay cũng gần thị xã Tân An) nhưng chưa xác định được.

Đời Thiệu Trị -Tự Đức do kinh Bảo Định cắt ngang nên làng Lợi Thạnh tổng Hưng Nhượng chia thành hai làng Tịnh Hà (ghép vào tổng Thạnh Quơn) và Tịnh Giang (vẫn thuộc tổng Hưng Nhượng).

Huyện Kiến Hòa:

Theo Địa bạ năm 1836, huyện Kiến Hòa có 5 tổng, 79 thôn. Đến đời Thiệu Trị tăng lên 82 thôn và đến năm 1863 thì tăng lên 84 thôn.

- Năm 1836, tổng Hòa Hằng có 20 thôn. Năm 1848 vì kiêng húy Từ Dũ Thái hậu - Phạm Thị Hằng nên đổi lại là Hòa Quới. Năm 1863, tổng Hòa Quới có 20 làng, không thay đổi.

- Năm 1836 tổng Hòa Thinh (Hòa Thanh) có 17 thôn đến năm 1863 có 19 thôn. Thời Minh Mạng ở tổng Hòa Thinh có hàng chục làng xiêu tán. Sau đó tái lập, sau năm 1863 lại lập thêm rất nhiều làng khác nên rất phức tạp, không xác minh được.

- Năm 1836, tổng Hòa Hảo có 13 thôn đến năm 1863 cũng còn 13 thôn, không thay đổi.

- Năm 1836 tổng Thạnh Phong có 14 thôn, đến năm 1863 có 17 thôn, tăng 3 thôn. Ba làng lập Thiệu Trị - Tự Đức là Tân Xuân (nay là địa phận xã Xuân Đông, Chợ Gạo), Long Thạnh (địa phận xã Long Bình Điền, Chợ Gạo) và một thôn chưa xác định được.

- Năm 1836 tổng Thạnh Quơn có 15 thôn, đến năm 1863 không thay đổi.

Huyện Kiến Đăng:

Huyện Kiến Đăng có 5 tổng:

-Tổng Lợi Trường vào năm 1836 có 13 thôn, đến năm 1863 không thay đổi. Tất cả đều là thôn cổ, trừ thôn Mỹ An Tây lập vào đời Thiệu Trị(5).

-Tổng Lợi Mỹ có 11 thôn, đến năm 1863 không thay đổi.

-Tổng Lợi Trinh vào năm 1836 có 19 thôn, đến đời Thiệu Trị chia ra thành hai tổng:

+ Tổng Lợi Triêm (tên tổng Lợi Trinh đời Thiệu Trị) có 11 thôn, không thay đổi đến năm 1863.

+ Tổng Lợi Thuận lập năm 1841 có 4 làng cổ và 4 làng đồn điền (Long An, Phú An, Long Mỹ Đông và Long Mỹ Tây). Năm 1863, 4 làng đồn điền tan rã, nhưng có nhiều làng mới ghép vào nên có 13 làng.

+Tổng Lợi Thạnh: Nguyên từ năm 1832, khi Tả quân Lê Văn Duyệt mất. Do nhiều mâu thuẫn từ trước, con nuôi ông là Lê Văn Khôi lợi dụng danh nghĩa, chiêu mộ quân Hồi Lương và bọn tù phạm nổi lên chống nhà Nguyễn. Cuộc nổi dậy bộc phát ra 6 tỉnh. Triều đình cử Trương Minh Giảng đem quân vào dẹp loạn. Lúc bấy giờ có Cai đội Phạm Văn Huy không phục tùng Lê Văn Khôi, dẫn quân kéo vào khai phá vùng đất hoang phía bắc huyện Kiến Đăng (phía bắc huyện Cai Lậy và Cái Bè ngày nay) lập hàng chục làng đồn điền.

Năm 1841 đưa thôn Lương Điền vào tổng Phong Hòa (vùng Hậu Mỹ ngày nay), đưa 4 thôn Long An, Phú An, Long Mỹ Đông, Long Mỹ Tây vào tổng Lợi Thuận. Vào ngày 29 tháng 10 năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) lại lập bộ, thành lập tổng Lợi Thạnh ( khoảng từ 8 đến 10 thôn) gồm các làng của quân đồn điền là Giai Thạnh, Giai Thành, Phú Đa, Phú Lợi, Long Phước (nay thuộc khu vực các xã Mỹ Thành Bắc, Thạnh Lộc, Phú Cường, Mỹ Phước Tây, Phú Nhuận...huyện Cai Lậy).

Tổng Lợi Trinh bị cắt một số làng gồm An Mỹ, Giai Mỹ, Lợi An, Phú Nhuận, Phú Thuận Đông, Bình Phú...đưa về tổng Lợi Thuận mới lập, vì vậy từ năm 1841 bị đổi tên là Lợi Triêm. Mãi đến đời Tự Đức, lúc thực dân Pháp chuẩn bị xâm chiếm nước ta mới đổi lại tên cũ là Lợi Trinh.

Năm 1863, khi quân Pháp xâm lược thì toàn bộ các thôn đồn điền bị tan rã, quân đồn điền tham gia phong trào kháng Pháp do Thiên Hộ Dương lãnh đạo. Hai tập Địa bạ tổng Lợi Thuận và Lợi Thạnh bị thất lạc. Ngày nay chỉ còn địa danh ấp Phú Lợi, (xã Phú Nhuận) và làng Long Phước. Năm 1913 làng Long Phước nhập với làng Mỹ Hạnh Tây thành làng Mỹ Phước Tây (tức xã Mỹ Phước Tây, huyện Cai Lậy ngày nay).

Huyện Kiến Phong:

Năm 1836 huyện Kiến Phong có tất cả 39 thôn, phân bố các tổng: Phòng Hòa có 11 thôn, Phong Phú có 17 thôn, tổng Phong Thạnh có 11 thôn. Đến đời Thiệu Trị -Tự Đức(6), huyện Kiến Phong có 4 tổng, 36 thôn và đến năm 1863 có 4 tổng. 38 thôn, gồm:

-Tổng Phong Hòa có 9 thôn.

-Tổng Phong Phú có 9 thôn.

-Tổng Phong Nẫm có 8 thôn.

-Tổng Phong Thạnh có 12 thôn.

Thời Thiệu Trị cắt bớt một số thôn của tổng Phong Phú để lập tổng Phong Nẫm.

Ngày 9.8.1870, chính quyền thực dân Pháp giải thể hạt Tham Biện Cần Lố, lập hạt Tham Biện Sa Đéc. Hai tổng Phong Hòa và Phong Phú đưa về hạt Tham Biện Cái Bè (tức vùng đất huyện Cái Bè ngày nay).

(1) Thuộc tương đương với tổng, là cấp trung gian giữa huyện và thôn. Hiện tại, ở Tiền Giang còn các địa danh Thuộc Đẹp, Thuộc Nhiêu...là chứcdanh các nhân vật thời đó.

(2) Hai tổng Kiến Thuận và Hưng Xương thành lập trên cơ sở thuộc Kiến Hưng, mỗi tổng giữ 1 chữ.

(3) Hai tổng Kiến Thạnh và Hòa Bình thành lập trên cơ sở thuộc Kiến Hòa, mỗi tổng giữ 1 chữ.

(4) Tức Đại Nam nhất thống chí (lục tỉnh) và Phương Đình Dư địa chí của Nguyễn Siêu.

(5) Ngày 12.7.1877, Thực dân Pháp đổi Mỹ An Tây thành Mỹ Phú. Ngày 13.12.1913, nhập Mỹ Phú và Mỹ Quí Tây thành Phú Quí (nay là xã Phú Quí, huyện Cai Lậy)

(6) Theo Đại Nam nhất thống chí (lục tỉnh) và Phương Đình Dư địa chí của Nguyễn Siêu

3. Bàn Hội tề thời Nguyễn:

Hội đồng Kỳ mục xã thôn (còn gọi là bàn Hội tề) ban hành thời Minh Mạng và được chấn chỉnh nhiều lần. Nguyễn Tri Phương lúc vào nam lập đồn điền đã đặt ra chức Hương Thân (một nhân sĩ làm nhiệm vụ giáo hóa thuần phong mỹ tục) và Hương Hào (làm nhiệm vụ tuần phòng, kiểm tra an ninh trật tự) bên cạnh Thôn trưởng (hương chức trụ cột đương nhiệm).

Hội đồng Kỳ mục thời Nguyễn hoàn chỉnh ban hành năm 1852, sau nhiều lần chấn chỉnh. Theo Minh Điều Hương ước(1), các làng tùy theo lớn nhỏ được tùy nghi công cử các chức vụ như sau:

1.Trưởng Mục (có nơi gọi là Cả trưởng, Hương trưởng, Hương chủ...và phổ biến là Hương cả) là Hương chức đứng đầu Hội đồng Kỳ mục, được quyền đề cử nhân sự vào hội đồng.

2.Hương Chủ: Phó Trưởng mục, là Hương chức chịu trách nhiệm luật lệ, được quyền phân xử các vụ việc khiếu kiện.

3.Hương Sư: Hương chức làm nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra. Tiêu chí phải là người mẫu mực, mô phạm.

4. Hương Chánh: làm nhiệm vụ thu thuế, chi xuất, phân công sai phái. Tiêu chí phải là người công bình ngay thẳng.

5.Hương Quản: chức vụ chuyên trách giữ gìn an ninh trật tự, kiểm tra nhân khẩu.

6.Hương Thân: làm nhiệm vụ giáo hóa thuần phong mỹ tục. Tiêu chí phải là trí thức, nhân sĩ hoặc quan lại hồi hưu.

7.Hương Hào: làm nhiệm vụ tuần phòng, kiểm tra an ninh trật tự. Tiêu chí phải là người hào hiệp, hay giúp đỡ người hoạn nạn.

8.Thôn trưởng: (có Phó thôn hoặc Lý trưởng giúp việc) là Hương chức trung gian giữa địa phương và chính quyền cấp trên. Người thừa hành công vụ thu các loại thuế, chi xuất nhu phí, giữ mộc triện.

9.Phó thôn: (tùy nơi, có khi gọi là Phó xã, Phó ấp, Phó phường hoặc Lý trưởng) là chức việc phụ tá Thôn trưởng, giữ gìn sổ bộ của xóm ấp.

10. Lý trưởng: là chức vụ trưởng một lý (một xóm) theo Thôn trưởng sai phái, chỉ huy đội dân canh, thúc giục dân đóng thuế.

11.Cai lân: Thừa sai của Lý trưởng, phân xử các việc trong lân.

12.Trưởng ấp: tương tự như Cai lân, thừa sai của Lý trưởng.

13.Cai tuần: Đội trưởng dân tuần phòng.

14.Biện đình: nang hàng với Lý trưởng, là thư ký giúp việc khi làng tổ chức lễ hội Kỳ yên, nhưng có thể giúp Thư lại khi tu chỉnh sổ bộ.

15. Thư lại: thư ký.

Bên cạnh bàn Hội tề còn có các dịch mục chuyên trách gồm:

1.Kế hiền: là người có đạo đức, uy tín, dòng dõi các vị Tiền hiền hoặc Hậu hiền, thay mặt dân làng dâng hương cầu nguyện trong ngày Kỳ Yên.

2.Hương quan: một nhân sĩ cố vấn việc lễ nghi.

3.Chánh bái: Người kế tục Kế hiền, giữ gìn truyền thống văn hóa địa phương.

4.Tham trưởng: người đã kinh qua chức Thôn trưởng, làm cố vấn cho Thôn trưởng.

5.Hương lễ, Hương văn và Tri văn: ba nhân sĩ phụ trách việc quan, hôn, tang, tế tại địa phương.

6.Cai đình và Tri đình: hai chức việc có nhiệm vụ giữ gìn, tu tạo ngôi đình làng hoặc trang trí, trần thiết khi có Kỳ yên, lễ hội.

7. Hương ẩm: chức việc phụ trách việc khen thưởng nội bộ và tổ chức yến ẩm khi có lễ hội.

8.Hương sư và Tri khách: hai chức việc sai phái khi có quan trên về làng, phục dịch trà nước khi có lễ hội. Ngoài ra còn làm thêm nhiệm vụ phòng gian, ngừa hỏa hoạn.

9.Hương giáo: người trong coi việc giáo dục tại làng, cũng có thể giúp Thôn trưởng thu thuế.

10.Cai binh: chức việc thúc giục dân binh trình diện đúng lệ.

11.Hương điền: chức việc đôn đốc nông nghiệp và quản lý nghĩa địa công cộng.

12.Thủ khoán và Thủ bổn: chức việc chuyên trách giữ gìn địa bạ, làm thủ quỹ hoặc giữ gìn tài sản công cộng. Có nơi đặt chức Thủ sắc phụng giữ sắc thần Thành hoàng Bổn cảnh.

Nhà Nguyễn chọn quan lại theo tiêu chuẩn học vị khoa bảng, nhưng chọn hương chức Hội tề có ba tiêu chuẩn :

-Một nhóm Hương chức phải dựa vào lý lịch, đạo đức để làm nhiệm vụ giữ gìn truyền thống văn hóa.

-Một nhóm Hương chức phải dựa vào học lực, đạo đức để làm nhiệm vụ thu xuất, sổ sách, công văn hành chánh.

-Một nhóm Hương chức phải dựa vào sự siêng năng để sai phái phục dịch. Theo Minh Điều Hương ước ban hành năm 1852, một Hương chức phải đảm bảo ít nhất hai trong ba tiêu chuẩn.

(1) Minh Điêù Hương ước: tập hương ước ban hành năm Tự Đức thứ V, bản chữ Han. Hiện nay chỉ còn một vài bản cổ, loại viết tay.

B. Hành chánh giai đoạn 1863 - 1945:

Sau khi đánh chiếm Gia Định và Định Tường, đầu tiên vào ngày 25.2.1862, Thiếu tướng Hải quân Bonard ký Nghị định thiết lập bộ máy hành chánh, sắp xếp Nam kỳ trực thuộc bộ Hải quân và Thuộc địa, chính phủ Pháp. Theo Nghị định nầy thì Thực dân Pháp vẫn tiếp tục sử dụng bộ máy chính quyền của nhà Nguyễn từ cấp tổng trở xuống, chỉ sắp xếp lại bộ máy cấp tỉnh và cấp phủ, huyện và chỉ bổ nhiệm các sĩ quan Pháp hoặc quan lại người Việt theo chúng vào bộ máy hành chánh thống trị. Ý đồ của thực dân là dần dần sẽ cải tổ bộ máy hành chánh cơ sở sau. Thực tế ở vùng Gò Công - Mỹ Tho lúc bấy giờ có nhiều cuộc khởi nghĩa do Trương Định, Thiên Hộ Dương, Thủ Khoa Huân khởi xướng, gây khó khăn cho địch. Quân ngoại xâm chưa thật sự làm chủ vì nhiều địa phương còn "chính quyền hai mặt".

Theo báo cáo của quân viễn chinh Pháp(1) vào năm 1863 có 2 phủ, 4 huyện:

Phủ Kiến An có 2 huyện:

+Huyện Kiến Hưng đặt tại thôn Tân Hiệp có 5 tổng:

-Tổng Hưng Trị (sau lấy lại tên Thuận Trị như cũ) có 19 thôn.

-Tổng Hưng Bình (sau lấy lại tên Thuận Bình) có 16 thôn.

-Tổng Hưng Nhơn có 13 thôn.

-Tổng Hưng Nhượng có 14 thôn.

+Huyện Kiến Hòa đặt tại thôn Tân Hoá (Chợ Gạo) có 5 tổng:

-Tổng Thạnh Phong có 17 thôn.

-Tổng Thạnh Quơn có 15 thôn.

-Tổng Hòa Hảo có 13 thôn.

-Tổng Hòa Quới có 20 thôn.

-Tổng Hòa Thinh có 19 thôn.

Phủ Kiến Tường có 2 huyện:

+Huyện Kiến Phong đặt tại thôn Mỹ Trà (Cao Lãnh) nhưng còn đặt tạm ở Mỹ Luông (nay ở An Giang) có 4 tổng:

-Tổng Phong Hòa có 9 thôn.

-Tổng Phong Phú có 9 thôn.

-Tổng Phong Thạnh có 12 thôn.

-Tổng Phong Nẫm có 8 thôn.

+Huyện Kiến Đăng đặt tại Cai Lậy nhưng tạm đặt tại Cái Bè có 5 tổng:

-Tổng Lợi Trinh có 11 thôn.

-Tổng Lợi Trường có 11 thôn.

-Tổng Lợi Mỹ có 11 thôn.

-Tổng Lợi Thuận có 13 thôn.

-Tổng Lợi Thạnh (tổng Lợi Thạnh gồm các làng đồn điền tan rã, theo kháng chiến)

Riêng vùng Gò Công lúc đó thuộc huyện Tân Hòa, phủ Tân An, tỉnh Gia Định, có 4 tổng:

-Tổng Hòa Đồng Thượng có 6 thôn.

-Tổng Hòa Đồng Hạ có 8 thôn.

-Tổng Hòa Lạc Thượng có 7 thôn.

-Tổng Hòa Lạc Hạ có 10 thôn.

Năm 1867, Thực dân chiếm nốt ba tỉnh còn lại ở miền tây Nam Kỳ, xóa bỏ Nam kỳ lục tỉnh của nhà Nguyễn. Sau đó, Thực dân chia Nam kỳ ra nhiều hạt Thanh Tra (Inspeetion), đứng đầu mỗi hạt Thanh Tra là một viên Thanh tra Công việc Nội chính Bổn xứ (Inspecteur des affaires Indigènes) gọi tắt là Tham biện Bổn xứ (Inspecteur) do các sĩ quan bộ Hải quân đảm nhiệm. Địa bàn các hạt Thanh tra tính theo đơn vị phủ huyện cũ.

.Tỉnh Gia Định chia 7 hạt Thanh tra.

.Tỉnh Biên Hòa chia 3 hạt Thanh tra.

.Tỉnh Vĩnh Long chia 3 hạt Thanh tra.

.Tỉnh Định Tường chia 4 hạt Thanh tra.

.Tỉnh An Giang chia 7 hạt Thanh tra.

.Tỉnh Hà Tiên chia 3 hạt Thanh tra.

Phủ Kiến An kiêm lý huyện Kiến Hưng nên gọi là hạt Thanh tra Kiến An hay Kiến Hưng. Khi hạt Thanh tra nầy dời về Mỹ Tho thì gọi là hạt Thanh tra Mỹ Tho. Địa bàn huyện Kiến Hòa trở thành hạt Thanh tra Kiến Hòa. Ngày 16.7.1867, dời về Chợ Gạo nên gọi là hạt Thanh tra Chợ Gạo.

Địa bàn huyện Kiến Đăng trở thành hạt Thanh tra Kiến Đăng, vì đóng tại Cai Lậy nên ngày 16.8.1867, hạt Thanh tra Cai Lậy trở thành tên chính thức. Địa bàn phủ Kiến Tường kiêm lý huyện Kiến Phong trở thành hạt Thanh Tra Kiến Tường, nhưng vì đóng tại Cần Lố nên trở thành tên chính thức vào ngày 16.8.1867.

Theo Nghị định ngày 13.6.1865, tổng Hưng Long và 9 thôn của tổng Hưng Nhơn (huyện Kiến Hưng) nằm dọc theo bờ sông Vàm Cỏ và rạch Bưu Chính (đến cầu Bà Lý) tách rời khỏi Kiến An và để thành lập hạt Thanh tra Tân An.

Ngày 5.12.1868, giải thể hạt Thanh tra Cai Lậy nhập vào hạt Thanh tra Mỹ Tho, kể từ ngày 15.12.1868. Tiếp theo, ngày 23.12.1868, giải thể hạt Thanh Tra Chợ Gạo nhập vào hạt Thanh Tra Mỹ Tho. Nhưng đến ngày 20.10.1869 hạt Thanh Tra Cai Lậy được lập lại theo địa bàn cũ và đến ngày 8.9.1870 dời trụ sở về Cái Bè, nên gọi là hạt Thanh tra Cái Bè. Ngày 20.9.1870, giải thể hạt Thanh tra Cần Lố, đưa hai tổng Phong Hòa và Phong Phú vào hạt Thanh Tra Cái Bè, đồng thời đưa hai tổng Phong Nẫm và Phong Thạnh qua hạt Thanh tra Sa Đéc. Ngày 5.6.1871, giải thể hạt Thanh tra Cái Bè nhập vào địa bàn hạt Thanh tra Mỹ Tho.

Song song với đất Định Tường, tại Gia Định, thực dân Pháp cũng lập các hạt Thanh tra. Hạt Thanh tra Tân An bao gồm địa bàn Tân Hòa (tức Gò Công). Năm 1865 phần đất Tân Hòa tách khỏi hạt Thanh tra Tân An để lập Thanh tra Tân Hòa, trụ sở đặt tại Gò Công. Ngày 16.8.1867, đổi tên là hạt Thanh tra Gò Công. Hạt Thanh tra Gò Công có 4 tổng, 38 thôn.

(1) Bulletin officiel de l' Expédition de Cochinchine année 1863.

Hành chánh giai đoạn 1863 - 1945

1. Mỹ Tho và Gò Công từ năm 1876 đến 1900:

Ngày 5.7.1867, Thống đốc Nam kỳ ban hành Nghị định thực hiện cuộc sửa đổi toàn xứ, thực hiện chính sách trực trị, bỏ cấp phủ huyện, chỉ giữ cấp trung gian là tổng và cấp cơ sở là xã thôn, nhưng thống nhất gọi là làng. Các hạt Thanh tra (Inspeetion) đổi thành hạt Tham biện (Arrondissement), dân ta thường gọi là tòa Bố, trực tiếp điều khiển các địa phương.

Xứ Nam Kỳ đuợc chia thành 4 khu vực hành chánh (Circonscription administratives), trong đó khu vực Mỹ Tho có 4 Tiểu khu Hành chánh (thường gọi là 4 hạt Tham biện): Chợ Lớn, Tân An, Gò Công và Mỹ Tho.

.Hạt Tham biện Gò Công (còn gọi là Tiểu khu Hành chánh Gò Công):

Hạt Tham biện Gò Công không rộng nên nay từ lúc đầu chia ra 4 tổng theo Nghị định năm 1876:

-Tổng Hòa Đồng Thượng có 8 làng.

-Tổng Hòa Đồng Hạ có 10 làng.

-Tổng Hòa Lạc Thuợng có 10 làng.

-Tổng Hòa Lạc Hạ có 12 làng.

Hạt Tham biện Mỹ Tho (còn gọi là Tiểu khu Hành chánh Mỹ Tho):

Địa bàn Tiểu khu hành chánh Mỹ Tho quá rộng nên tuy đã xóa bỏ cấp phủ huyện, nhưng vẫn phải dựa vào cơ sở cũ để lập các Trung tâm hành chánh.

Hạt Tham biện Mỹ Tho có 3 Trung tâm hành chánh:

+Trung tâm hành chánh Mỹ Tho có 4 tổng:

-Tổng Thuận Trị có 10 làng.

-Tổng Thuận bình có 16 làng.

-Tổng Hưng Nhơn có 13 làng.

-Tổng Hưng Nhượng có 6 làng (sau năm 1870)

+Trung tâm hành chánh Chợ Gạo có 5 tổng:

-Tổng Thạnh Phong có 15 làng.

-Tổng Thạnh Quơn có 16 làng.

-Tổng Hòa Hảo có 12 làng.

-Tổng Hòa Quới có 12 làng.

-Tổng Hòa Thinh có 18 làng.

+Trung tâm Hành chánh Cai Lậy có 6 tổng:

-Tổng Lợi Trinh có 14 làng.

-Tổng Lợi Trường có 12 làng.

-Tổng Lợi Mỹ có 11 làng.

-Tổng Lợi Thuận có 14 làng.

-Tổng Phong Hòa có 9 làng.

-Tổng Phong Phú có 9 làng.

Khoảng giữa thế kỷ 19, vùng ven sông Soài Rạp, ven rạch Già, rạch Lá, ven biển và ven Đồng Tháp Mười là những vùng còn nhiều đất hoang. Từ đời Thiệu Trị và Tự Đức đã có một số nông dân lập nên những làng mới. Lúc thực dân Pháp xâm chiếm, do các cuộc hành quân ruồng bố, nhiều làng xiêu tán bỏ đi, nhưng cũng có những cộng đồng dân cư bắt buộc phải đến xứ nầy khai hoang lập nghiệp. Nhìn chung, đợt khai hoang nầy muộn màng, khó khăn hơn những đợt trước. Thí vụ như làng Trường Cóc (Truông Cóc) lập năm 1869, do cắt bớt đất hoang của làng Mỹ Xuân. Ngày 8.6.1872 đổi tên là Tân Xuân và đến ngày 31.3.1885 thì cùng với làng Mỹ Xuân nhập vào Tân Niên Trung (Gò Công). Hoặc cắt đất Bình Ân và Tăng Hòa lập làng Tân Thành ngày 13.13.1873 (tại Gò Công). Làng Tân Lập lập khoảng năm 1869-1873 ở vùng nhiễm phèn nặng, gần Trấn Định.Làng Mỹ Phú Đông (nay là địa bàn Phú Cường - Cai Lậy) lập muộn nhất, ngày 21.8.1901, cắt từ đất làng Mỹ Thạnh. Đây cũng là vùng đất nhiễm phèn, khai khẩn được nhờ hệ thống thủy lợi mới.

Nhiều làng dân số giảm nên có hiện tượng nhập hai ba làng thành một, hoặc nhiều hơn như Ngũ Hiệp ở Cai Lậy. Đầu tiên trên cù lao Năm thôn có 5 làng. Ngày 6.8.1872, 4 làng An Thủy, Hòa An, Long Phú và Tân Sơn bị nhập vào An Thủy Đông. Nhưng đến ngày 4.10.1872 lại đem làng An Thủy Đông nhập vào làng Trà Tân. Dân Năm Thôn không bằng lòng nên ngày 20.1.1875, làng An Thuỷ Đông (mới) tách khỏi làng Trà Tân, lập một làng riêng, lấy tên là Ngũ Hiệp. Đến năm Nhâm Ngọ (1882), làng Trà Tân lại bị chia hai là : Trà Tân và Tân Thới.

Khoảng 30 năm đầu dưới chế độ thực dân Pháp, tại Mỹ Tho - Gò Công có khoảng 20 làng mới lập. Nhưng trên thực tế việc lập làng diễn biến khá phức tạp.

Hành chánh giai đoạn 1863 - 1945

2.Tỉnh Mỹ Tho và Gò Công từ năm 1900 đến 1945:

Ngày 20.12.1899, Toàn quyền Đông dương ban hành Nghị định đổi các hạt Tham biện (Arrondissement) thành tỉnh (Province), kể từ ngày 1.1.1900. Theo đó, Nam kỳ có 21 tỉnh. Gò Công và Mỹ Tho là hai tỉnh riêng biệt.

+Tỉnh Gò Công: có 4 tổng:

-Tổng Hòa Đồng Thượng có 8 làng.

-Tổng Hòa Đồng Hạ có 10 làng.

-Tổng Hòa Lạc Thượng có 10 làng

-Tổng Hòa Lạc Hạ có 12 làng.

+Tỉnh Mỹ Tho có 3 Trung tâm Hành chánh và 15 tổng:

.Trung tâm Hành chánh Châu Thành có 4 tổng:

-Tổng Thuận Trị có 10 làng.

-Tổng Thuận Bình có 16 làng.

-Tổng Hưng Nhơn có 13 làng.

-Tổng Hưng Nhượng có 6 làng.

.Trung tâm Hành chánh Chợ Gạo có 5 tổng:

-Tổng Thạnh Phong có 15 làng.

-Tổng Thạnh Quơn có có 16 làng.

-Tổng Hòa Hảo có 12 làng.

-Tổng Hòa Quới có 12 làng.

Tổng Hòa Thinh có 18 làng.

. Trung tâm Hành chánh Cai Lậy có 6 tổng:

-Tổng Lợi Trinh có 9 làng.

-Tổng Lợi Thuận có 8 làng.

-Tổng Lợi Mỹ có 8 làng.

-Tổng Lợi Trường có 12 làng.

-Tổng Phong Hòa có 8 làng.

-Tổng Phong Phú có 9 làng.

Sau thời gian thực hiện chính sách trực trị không thành công, Thực dân Pháp bắt buộc phải lập cấp quận làm trung gian giữa tỉnh và tổng, làng.

Quận Cai Lậy:

Quận Cai Lậy thành lập năm 1904, đầu tiên có 6 tổng: Lợi Trinh (9 làng), Lợi Thuận (8 làng), Lợi Mỹ (8 làng), Lợi Trường (12 làng), Phong Hòa (8 làng), Phong Phú (9 làng).

Năm 1912, cắt tổng Lợi Trường ba làng gồm Bàn Long, Phú Phong và Kim Sơn đưa về lập quận Châu Thành. Năm 1913 cắt ba tổng Phong Hòa (8 làng), Phong Phú (9 làng) và Lợi Thuận (8 làng) đưa về lập quận Cái Bè. Nhưng đến năm 1928, quận Cái Bè trả tổng Lợi Thuận về Cai Lậy.

Năm 1934 do sáp nhập nhiều làng nên số làng trong hai tổng Lợi Trường và Lợi Mỹ còn quá ít, vì vậy phải nhập lại thành tổng Lợi Mỹ (8 làng), trong đó tổng Lợi Trường (cũ) chỉ còn 4 làng, Lợi Mỹ (cũ) còn 4 làng.

Quận Cai Lậy còn 3 tổng: Lợi Trinh, Lợi Hòa và Lợi Thuận với 25 làng (thống kê năm 1926)

Quận An Hóa:

Quận An Hóa thành lập ngày 12.3.1912 có 2 tổng Hòa Quới (24 làng) và Hòa Thinh (11 làng). (Từ năm 1893, chia cù lao theo chiều ngang, đầu trên là tổng Hòa Quới, đầu dưới là tổng Hòa Thinh, lấy kinh Giao Hòa làm ranh).

Quận Cái Bè:

Quận Cái Bè thành lập ngày 12.3.1912, đầu tiên có 3 tổng: Phong Hòa (8 làng), Phong Phú ( 9 làng) và Lợi Thuận (8 làng).

Ngày 1.1.1928, tổng Lợi Thuận được trả về Cai Lậy. Đến năm 1936, quận Cái Bè có 2 tổng Phong Hòa và Phong Phú với 17 làng.

Quận Bến Tranh:

Quận Bến Tranh lập ngày 9.2.1913, đầu tiên có 3 tổng Thạnh Quơn (13 làng), Hưng Nhơn ( 12 làng) và Hưng Nhượng ( 6 làng).

Ngày 1.1.1928 giải thể quận Bến Tranh. Tổng Thạnh Quơn (6 làng) chuyển qua quận Chợ Gạo. Tổng Hưng Nhơn (còn 7 làng) chuyển qua quận Châu Thành. Tổng Hưng Nhượng (còn 3 làng) do quá ít nên nhập vào tổng Hưng Nhơn.

Quận Châu Thành:

Quận Châu Thành lập ngày 22.3.1912, đầu tiên có 3 tổng: Thuận Bình (15 làng). Thuận Trị (16 làng) và Lợi Trường ( 3 làng): Bàn Long, Phú Phong và Kim Sơn).

Năm 1925, do nhập nhiều làng lại, nên Thuận Bình còn 13 làng, Thuận Trị còn 10 làng. Đến ngày 19.11.1927 xóa hẳn tổng Lợi Trường, nhập 3 làng vào tổng Thuận Bình. Đến năm 1936, quận Châu Thành có 2 tổng và 23 làng.

Ngày 8.11.1960, chính quyền Sài Gòn lập quận Long Định (huyện lỵ tại xã Long Định). Ngày 23.5.1964, chia quận Long Định thành quận Châu Thành và Long Định. Quận lỵ Châu Thành đặt tại Trung Lương, quận lỵ Long Định đặt tại xã Long Định. Đến năm 1969, đổi quận Long Định thành quận Sầm Giang, dời quận lỵ về xã Vĩnh Kim. Từ năm 1964, quận lỵ Châu Thành (mới) có 2 tổng: Thuận Trị (6 xã) và Thuận Hòa (6 xã). Tổng Thuận Hòa lập ngày 23.5.1946 tồn tại đến năm 1965 gồm các xã xung quanh Mỹ Tho là : Điều Hòa, Trung An, Đạo Thạnh, Tân Long, Tân Mỹ Chánh (gốc Chợ Gạo) và Mỹ Phong (gốc Chợ Gạo).

Quận Chợ Gạo

Quận Chợ Gạo thành lập ngày 22.3.1912. Đầu tiên có 2 tổng: Hòa Hảo (7 làng), Thạnh Phong (6 làng). Ngày 1.1.1928, nhập thêm tổng Thạnh Quơn (7 làng). Do đó đến năm 1936, quận Chợ Gạo có 3 tổng, 20 làng.

Đến năm 1956, chính quyền Sài Gòn lại cắt bớt tổng Thạnh Quơn và tổng Hưng Nhơn (của quận Châu Thành) để lập quận Bến Tranh. Quận Chợ Gạo trở lại còn 2 tổng Hòa Hảo và Thạnh Phong, giống như giai đoạn 1913 - 1928.

Quận Gò Công

Quận Gò Công lập ngày 9.2.1913 khi giải thể tỉnh Gò Công. Đầu tiên có 3 tổng: Hòa Đồng Thượng (5 làng), Hòa Đồng Hạ (16 làng), Hòa Lạc Thượng (7 làng) và Hòa Lạc hạ (10 làng). Cuối năm đó, ngày 13.12.1913, tách 7 làng gồm: Bình Công, Long Chánh, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Trị, Vĩnh Lợi, Yên Luông Đông và Yên Luông Tây của tổng Hòa Đồng Hạ lập tổng Hòa Đồng Trung.

Đến ngày 9.12.1924, Gò Công trở thành một tỉnh trở lại như cũ, có 5 tổng không có đơn vị hành chánh cấp quận:

-Hòa Đồng Thượng: 5 làng.

-Hòa Đồng Trung: 5 làng.

-Hòa Đồng Hạ: 9 làng.

-Hòa Lạc Thượng: 7 làng.

-Hòa Lạc Hạ: 10 làng.

Thực dân Pháp chủ trương tiết kiệm ngân sách nên từ năm 1905 đến năm 1933 đã có nhiều lần sáp nhập các đơn vị hành chánh cơ sở, do vậy, vào năm 1945, nếu so sánh với giai đoạn trước thì tổng số làng trong hai tỉnh Mỹ Tho và Gò Công đã giảm. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ chủ trương bỏ cấp tổng, bỏ đơn vị làng, thống nhất gọi là xã, đưa quận An Hóa về tỉnh Bến Tre cho tiện quản lý. Chính quyền Sài Gòn đến năm 1956 cũng thống nhất dùng danh xưng là xã. Tiếp theo, Nghị định 143 NV ngày 22.10.19956 của chính quyền Sài Gòn cũng đổi tên quận An Hóa thành quận Bình Đại và đưa về tỉnh Kiến Hòa (tức Bến Tre). Đến năm 1963, chính quyền Sài Gòn bỏ cấp tổng.

Hành chánh giai đoạn 1863 - 1945

3.Hệ thống chính quyền thống trị và bộ máy Hội tề thời Pháp thuộc:

Từ năm 1876, đứng đầu các hạt Tham biện Mỹ Tho và Gò Công đều có một Chánh Tham biện (Administrateur) và các Phó Tham biện thứ nhì và thứ ba. Chánh Tham biện phụ trách chung, (riêng phụ trách hành chánh). Phó Tham biện thứ nhì và thứ ba riêng phụ trách tài chánh, thuế khóa và hình sự, hình án. Giai đoạn nầy tuy không còn là "thời kỳ của các Đô Đốc", nhưng các quan chức nầy đều là các sĩ quan trong quân đội viễn chinh, được đào tạo tại trường Hậu Bổ (Sài Gòn) và được chuyển qua ngạch hành chánh. Dinh Tham biện (dân gian thường gọi là tòa Bố - dinh Bố chánh) có 2 viên Ký Lục phụ trách hành chánh và lương bổng. Bên cạnh còn có các Thông phán Kinh lịch (chuyên viên dịch các văn bản chữ Hán, chữ Pháp và chữ quốc ngữ), Thông ngôn và Thư ký.

Ngày 20.12.1899, đổi hạt Tham biện thành tỉnh. Mặc dù mô hình tổ chức hai tỉnh Gò Công và Mỹ Tho giống nhau, nhưng Mỹ Tho là tỉnh lớn nên bộ máy cai trị đầy đủ hơn.

Đứng đầu mỗi tỉnh là Tham biện Chủ tỉnh (Chef province) và Phó Tham biện Chủ tỉnh, đều là người Pháp. Dưới quyền là một thư ký của Chủ tỉnh và Phó Chủ tỉnh (thực tế là một quan lại cao cấp, ngạch Đốc Phủ sứ).

Những viên chức giúp việc tại dinh Tham biện Chủ tỉnh (Tòa Bố) gồm có một Tham tá (Commis) và khoảng 10 Thư ký, Thông ngôn, Thông phán. Tỉnh có 2 Nghị viên Hội đồng Quản hạt (đều là người Pháp hoặc người Việt quốc tịch Pháp).

Mỗi tỉnh có các cơ quan:

1.Sở Thương Chánh: độc quyền bán thuốc phiện, rượu công ty và muối.

2.Sở Bưu Điện và Điện Tín.

3.Sở Trường Tiền (Sở Xây dựng cầu đường)

4.Sở Dưỡng đường và nhà Bảo sản (nhà Bảo sanh).

5.Sở Ngân khố.

6.Sở Thú y.

7.Sở Giáo dục.

8.Sở Tuần thành (Sở Cảnh sát).

9. Sở Mã tà (doanh trại quân đội).

10.Sở Đề lao (ngục, khám),

11.Sở Thú y.

12. Sở Cầm đồ.

13. Tòa Hình sự (Mỹ Tho)

14. Tòa Sơ thẩm.

Ngay từ đầu, Mỹ Tho được xếp vào Trung tâm Đô thị loại I (centre urbain) chia thành 3 vùng để đánh thuế điền thổ. Vùng một - tức vùng trung tâm đô thị được chỉnh trang khoảng 1887 -1885(1). Ngày 16.2.1938, Toàn quyền Đông dương ký Nghị định cải biến Trung tâm đô thị Mỹ Tho thành một Hiệp xã (Commune mixte) tức Thị xã gồm nhiều xã, dưới quyền của một viên Thị trưởng là Chủ tỉnh Mỹ Tho kiêm nhiệm.

Bên cạnh có Hội đồng Thị xã.

Tỉnh Mỹ Tho có 5 quận. Đứng đầu mỗi quận có Chủ quận người Pháp hoặc người Việt quốc tịch Pháp. Viên quan nầy thường ở bậc Tri phủ, khoảng năm 1935 -1945 có Chủ quận ở bậc Đốc Phủ sứ. Bên cạnh Chủ quận có một Tham tá, một Thông phán, Thu ký phục trách việc hành chánh.

Ở các quận có một trạm xá y tế, một vài trường học, một chi nhánh Sở Thương chánh, chi nhánh sở Bưu Điện và Điện tín.

Trước năm 1900, vì Mỹ Tho là một tỉnh rộng nên được chia ra ba trung tâm hành chánh. Ở Mỹ Tho, Cai Lậy (có khi Cái Bè) và Chợ Gạo thường cử các viên Tri huyện và một vài nhân viên, Thư ký phục trách việc hành chánh. Vì vậy, thực dân Pháp tuy không có chủ trương lập cấp quận, nhưng trong thực tế các Trung tâm Hành chánh nầy vẫn là một quận.

Đứng đầu mỗi tổng có Cai tổng, Phó tổng, Ban biện Phó tổng và 1 thư ký (thường gọi là Biện tổng), không có Sung biện Phó tổng như các nơi khác.

Tiêu chí của chức vụ Cai tổng hoặc Phó tổng là phải biết chữ Hán và chữ quốc ngữ, phải kinh qua chức vụ Hội tề, được đề cử và được Hương chức bầu chọn, cuối cùng được Tham biện Chủ tỉnh duyệt y. Đặc biệt, tổng là cấp hành chánh trung gian, không có trụ sở làm việc. Những người làm nhiệm vụ chỉ có trợ cấp, vì vậy bắt buộc phải là người giàu có, nhà cửa khang trang rộng rãi, có chỗ hội họp các Hương chức Hội tề địa phương.

Tỉnh Gò Công không có quận, chỉ có tổng. Các Cai tổng làm việc trực tiếp với Tham biện Chủ tỉnh. Họ thường được hàm Tri phủ hoặc Tri huyện, quyền hành thế lực hống hách hơn các địa phương khác.

Ngày 2.5.1882, Thống đốc Nam kỳ ban hành Nghị định thành lập Hội đồng Địa hạt. Theo đó, mỗi tổng có một Nghị viên Hội đồng Địa hạt, niệm kỳ 3 năm. các Nghị viên trong Hội đồng nầy không được dưới 10 người. Theo nguyên tắc các Hương chức Hội tề có 2 năm làm việc đều được ứng cử và bầu cử. Nhưng thực tế trong giai đoạn đầu các Nghị viên Hội đồng Địa hạt đều được chỉ định. Giai đoạn sau chỉ có những người đã làm Cai tổng mới được đề cử. Dần dần chức danh Hội đồng trở thành danh hảo, để mua bán.

Mô hình Hương chức Hội tề của nhà Nguyễn tuy mang tính tự trị, tự quản, nhưng có nhiều ưu điểm thích hợp với chế độ Thực dân. Do vậy, thực dân Pháp đã tìm cách loại trừ các điểm bất lợi đối với họ, đặc biệt là ngăn cắt hai lĩnh vực văn hoá truyền thống và lĩnh vực hành chánh, Do đó, Hương chức Hội tề ở Mỹ Tho và Gò Công có trụ sở riêng, không còn làm việc ở đình, không được chính thức tham gia tổ chức các lễ hội truyền thống như ở miền Bắc, miền Trung.

Hội đồng Hương chức Hội tề ở Mỹ Tho và Gò Công vào khoảng cuối thế kỷ 19 rất gần với Hội đồng Hương chức Hội tề thời nhà Nguyễn, có các chức vụ như sau:

1.Hương Cả: chủ tịch Hội đồng Hương chức

2.Hương Chủ: Phó chủ tịch Hội đồng, cố vấn các mặt văn hóa, chính trị.

3.Hương sư: Hương chức làm trung gian giữa chính quyền và địa phương.

4.Hương lão: Hương chức lớn tuổi, cố vấn.

5.Hương trưởng: Cố vấn việc thực hiện các chỉ thị cấp trên.

6.Hương Chánh: cố vấn chánh thức.

7. Câu đương: Hương chức làm nhiệm vụ hòa giải và phân xử các việc khiếu kiện.

8. Thủ Chỉ: Chức việc lưu trữ văn khố.

9. Hương Quản; Trưởng ban cảnh sát tuần phòng.

10. Thủ Bộ: thủ quỹ.

11.Hương Thân, Thôn trưởng, Hương Hào: Ba hương chức thường trực, chuyên lo việc hành chánh, thuế khóa. Thôn trưởng là người đại diện làm trung gian giữa địa phương và chính quyền cấp trên, đồng thời là người giữ con dấu.

12. Hương Bộ: Hương chức giữ bộ thuế.

Đến năm 1904, thực dân Pháp mới ban hành Nghị định thành lập Hội đồng Hương chức (gọi là Bàn Hội tề), gồm 12 chức vụ:

1. Hương Cả: Chủ tịch Hội đồng, kiêm nhiệm vụ lưu trữ văn khố.

2. Hương Chủ: Phó Chủ tịch Hội đồng kiêm nhiệm vụ Thanh tra.

3. Hương Sư: Cố vấn luật lệ.

4. Hương Trưởng: Thủ quỹ, cố vấn giáo dục.

5. Hương Chánh: Hương chức hòa giải và phân xử các vụ tranh chấp khiếu kiện tại địa phương.

6. Hương Giáo: Thư ký Hội đồng, cố vấn cho các hương chức trẻ tuổi.

7. Hương Quản: Trưởng ban Cảnh sát nông thôn, kiểm tra sông rạch, đường sá trong làng.

8. Hương Bộ: giữ bộ thuế và các loại sổ thu chi, kiêm nhiệm vụ bảo vệ công sở và các loại tài sản công cộng.

9. Hương Thân, Thôn Trưởng và Hương Hào: giữ nhiệm vụ trung gian giữa địa phương, chính quyền và tòa án cấp trên. Thôn trưởng là người giữ con dấu và được quyền xử lý các vụ việc thông thường.

12. Chánh Lục bộ: nhân viên chuyên môn coi hộ tịch và thông báo khi có dịch bệnh, nhưng không được xếp vào Hội đồng Hương chức.

Trong giai đoạn này, chủ trương của thực dân Pháp là đặt nặng vai trò của Thôn trưởng, Hương Thân và Hương Hào - là ba chức vụ thường trực và chịu trách nhiệm giữ gìn an ninh trật tự và liên hệ tòa án cấp trên.

Giai đoạn nầy những người muốn làm hương chức phải có ruộng đất, tài sản, phải biết chữ quốc ngữ và chữ Hán. Thôn trưởng làm nhiệm vụ thu thuế nên phải có ít nhất 4 ha ruộng đất thế chân. Người muốn ra làm Hương chức Hội tề đầu tiên phải là người trên 24 tuổi, phải qua chức Hương Hào (chức vụ thấp nhất), sau đó cứ hai năm một lần, được đề nghị vào các chức vụ cao hơn.

Với mô hình tổ chức Hội đồng Hương chức Hội tề năm 1904, thực dân Pháp đào tạo được một lớp cường hào ở nông thôn, nhưng quyền tuyển chọn nhân sự trên thực tế vẫn còn trong tay người địa phương. Các lệ làng truyền thống vẫn tồn tại mặc dù có sự giám sát của chính quyền thuộc địa. Sau năm 1906 - 1907 do ảnh hưởng của phong trào Minh Tân, có một số thanh niên tuổi trẻ tân học về làm Hương chức ở một số địa phương. Họ dùng kiến thức của mình chống lại lực lượng bảo thủ, kể cả quan chức cấp trên. Vì vậy một lần nữa chính quyền thực dân bắt buộc phải cải cách bộ máy Hội đồng Hương chức.

Nghị định ngày 30.10.1927 của Toàn quyền Đông dương qui định Hội đồng Hương chức Hội tề (gọi là bàn Hội tề) gồm có 12 chức vụ:

1. Hương Cả: quyền hạn Hương Cả vẫn như trước, nay thêm nhiệm vụ quản lý cơ sở vật chất công cộng, đồng thời chuyển giao công việc lưu trữ văn khố cho Hương Bộ.

2. Hương Chủ: giữ thêm nhiệm vụ thủ quỹ, nhưng giao nhiệm vụ thanh tra cho Hương Sư.

3. Hương Sư: làm Phó chủ tịch Hội đồng, kiêm nhiệm vụ thanh tra.

4. Hương Trưởng: chỉ giữ nhiệm vụ trông nom công việc giáo dục và văn hóa tại địa phương.

5. Hương Chánh: thêm nhiệm vụ cố vấn các chức việc thi hành.

6. Hương Giáo: nhiệm vụ y như trước.

7. Hương Quản: thêm nhiệm vụ phụ tá quan Biện lý ở địa phương.

8. Hương Bộ: giữ bộ thuế, sổ sách thu chi, thêm nhiệm vụ lưu trữ và giữ gìn công quỹ.

9. Hương Thân, Xã Trưởng và Hương Hào: nhiệm vụ như cũ. Riêng Hương Hào thêm nhiệm vụ trưởng ban Cảnh sát tại địa phương, giám sát việc thi hành luật lệ, bảo trì đường bộ, đường sông và nhiệm vụ tống đạt công văn tòa án.

10.Chánh lục bộ: như cũ.

Qui định mới khác qui định cũ là tập trung quyền lực tại địa phương vào ba chức vụ Hương Cả, Hương Chủ và Hương Sư. Riêng Hương Cả được chuyên biệt chỉ huy các ngành. Trước đây ba vị nầy chỉ làm nhiệm vụ cố vấn hoặc thanh tra. Khác với qui định cũ, qui định mới nầy còn xếp Chánh lục bộ vào trong 12 chức vụ Hội tề.

Qui định mới cũng buộc những người làm Thôn trưởng phải có ruộng đất tài sản đảm bảo. Nhưng trong thực tế cũng có những người có đủ điều kiện vật chất đảm bảo nhưng không hợp tác. Vì thế vào khoảng năm 1936 - 1939, các qui định này được nới rộng. Thí dụ người có đủ điều kiện đảm bảo thì có thể mượn giấy chủ quyền ruộng đất của người khác, hoặc nhờ các Hương chức trong Hội đồng ký tên bảo lãnh. Cho nên trong giai đoạn nầy một số nhân sĩ tiến bộ đã vào hoạt động trong bộ máy Hội tề. Thực dân Pháp phát hiện ra nhược điểm đó nên vào năm 1944 bổ sung các qui định, cho các quân nhân giải ngũ hoặc cựu công chức được ưu tiên ứng cử vào Hội đồng Hương chức; Hoặc khi bầu cử xong, các Hương chức Hội tề phải được Chánh Tham biện Chủ tỉnh duyệt y. Nhưng kế hoạch nầy không thực hiện được. Cách mạng tháng Tám năm 1945 bùng nổ, bộ máy Hội tề tan rã.

(1) Theo bức ảnh được bác sĩ Baujac công bố trong quyển La Conchinchne et ses Habitants, thì vào năm 1885 đường Dừa (nay là đường Lê Lợi-TP.Mỹ Tho) đã trải đá, hai bên tấn đá xanh. Đây là con đường chính của Mỹ Tho lúc bấy giờ. Riêng đại lộ Bourdais (nay là Đại lộ Hùng Vương-TP.Mỹ Tho) có từ năm 1885.

Giai đoạn từ 1945 - 1975

1. Từ 1945-1954:

Ngày 23-9-1945, quân Pháp nấp bóng quân đội Đồng minh Anh Ấn, gây hấn tại Sài Gòn, rồi đánh lấn ra các tỉnh ở Nam bộ. Tháng 10 chúng tới tỉnh Mỹ Tho và tỉnh Gò Công. Toàn dân cùng đứng lên dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Ngày 9-10-1945, Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra quyết nghị: Các kỳ, các thành phố, các tỉnh và các phủ huyện trong khắp nước Việt Nam vẫn giữ tên cũ. Tiền Giang bấy giờ có hai tỉnh: Mỹ Tho và Gò Công.

Từ đó cho đến năm 1954, trên địa bàn tỉnh Mỹ Tho cũng như tỉnh Gò Công, vùng tự do thuộc chính quyền cách mạng. Năm 1945 gọi là Ủy Ban nhân dân (hoặc Ủy ban Cách mạng), đến năm 1946, gọi là Ủy ban hành chánh, năm 1947 đổi thành Ủy ban Kháng chiến Hành chánh, lo tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp và cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí. Vì yêu cầu chỉ huy kháng chiến, huyện An Hóa được tách khỏi tỉnh Mỹ Tho nhập về tỉnh Bến Tre. Năm 1951 Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ ra Quyết định sáp nhập 3 tỉnh: Mỹ Tho, Tân An, Gò Công thành tỉnh Mỹ Tho, trong nhân dân có nơi gọi là Tân Mỹ Gò. Sau 1954 trả về như cũ.

Vùng tạm chiếm thuộc chính quyền tay sai của quân đội Pháp mang tên là "Chính phủ lâm thời Cộng hòa Nam kỳ", lúc đầu chỉ kiểm soát được 2 tỉnh lỵ và một số làng hai bên các trục giao thông thủy bộ. Sau những trận càn đẫm máu của quân đội Pháp mới lần tới được các quận lỵ và các làng xung quanh. Để thắt chặt sự kìm kẹp dân chúng, ngày 4-2-1947 chúng cho thành lập quận Tân Hiệp gồm 2 tổng Hưng Nhơn và Thạnh Quơn. Sau năm 1954 giải thể.

Ngày 30-8-1946, chính quyền bù nhìn ban hành Nghị định cải tổ nền hành chính xã ấp, theo đó Hội đồng Hương chức gồm có các chức danh sau đây: Hương Cả hay Đại Hương Cả, Hương Chủ, Hương Chánh, Hương Quản, Hương Thân, Xã trưởng, Hương hào, Chánh Lục Bộ. Mỗi ấp có một Chủ ấp. Ban Hội tề tùy nghi có thể thêm một số chức danh như Hương Kiểm Điền, Hương Kiểm Thổ, Phó Hương Quản, Hương Tuần, Cai Tuần, Cai Thị v.v...

Ngày 19-10-1946, Nghị định số 1746-MI/Ag ấn định qui chế Cai, Phó tổng như sau: Mỗi tổng có một Cai tổng, tùy theo nhu cầu các tổng lớn có một hay nhiều Phó tổng phụ tá đều do bầu cử. Nhiệm kỳ Cai, Phó tổng là 5 năm, có thể tái cử liên tục đến 60 tuổi. Cai tổng, Phó tổng không được kiêm nhiệm Ban Hội tề hay Hội đồng hàng tỉnh, hay công chức có lãnh lương.

Năm 1948, "Cộng hòa Nam kỳ tự trị" sụp đổ, người Pháp cho thành lập "Chính phủ lâm thời Quốc gia Việt Nam", sau đó là "Chính phủ Bảo Đại". Ngày 19-3-1953, Chính phủ Bảo Đại ban hành Sắc lệnh số 34-NV cải tổ nền hành chính xã ấp. Từ đây mỗi xã sẽ do một Hội đồng hương chính quản lý, do dân trực tiếp bầu theo lối phổ thông đầu phiếu. Hội đồng hương chính gồm một Chủ tịch, một Phó Chủ tịch, một Tổng Thư ký và một số ủy viên. Nhưng sắc lệnh nầy cũng không thực hiện được vì đa số đất đai trong tỉnh Mỹ Tho và Gò Công do Việt Minh kiểm soát. Tiếp theo Sắc lệnh số 57-NV ngày 22-5-1953 thiết lập tại mỗi tỉnh một Hội đồng hàng tỉnh do các Hội đồng hương chính bầu lên làm tư vấn cho Tỉnh trưởng, nhiệm kỳ 3 năm.

Nói thêm, thời Pháp thuộc, mỗi làng chia ra nhiều ấp. Ấp là đơn vị trung gian giữa chính quyền làng xã và dân làng. Mỗi ấp chỉ có Chủ ấp và Phó Chủ ấp, họ là những người thừa hành.

Ngày 20-7-1954, hiệp định Genève được ký kết, tạm thời chia nước ta thành 2 miền: miền Bắc thuộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, miền Nam do quân đội Pháp kiểm soát. Nhân dân miền Nam bước vào cuộc chiến đấu chống kẻ thù mới: đế quốc Mỹ.

2. Thời kỳ chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975)

a. Chính quyền Cách mạng

Thi hành hiệp định Genève ngày 20-7-1954, các cấp chính quyền của ta trên địa bàn tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho đều giải thể, tập kết ra miền Bắc, chỉ để lại một số cán bộ nòng cốt ở các đơn vị hành chính cũ để vận động quần chúng đòi đối phương phải thi hành hiệp định. Từ năm 1957, để tiện đấu tranh với địch, ta cũng nhập 2 tỉnh Gò Công và Mỹ Tho làm một đơn vị và gọi là tỉnh Mỹ Tho với các huyện: Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Chợ Gạo, Gò Công. Sau phong trào Đồng khởi, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời (20-12-1960).

Lúc nầy, bộ máy lãnh đạo ở cấp cơ sở có Chi bộ với các ban của khối Đảng như Tổ chức-Tuyên huấn, Dân vận, Kiểm tra. Chính quyền và các ban ngành, đoàn thể gồm: Quân sự, An ninh, Binh vận, Tài chính, Tự tạo vũ khí, Nông dân, Phụ nữ, Thanh niên, Thông tin, Giáo dục, Y tế, Thương binh xã hội, Giao liên...

Ngày 6-6-1969 Chính phủ Cách mạng Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập. Tỉnh Mỹ Tho là một đơn vị trực thuộc của hai tổ chức trên. UBND Cách mạng tỉnh Mỹ Tho thành lập tháng 11 năm 1969 tại Gò Lũy, xã Nhị Bình, huyện Châu Thành. Sau đó lần lượt thành lập Ủy ban Cách mạng các cấp để tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước tại địa phương. Bộ máy lãnh đạo ở cơ sở nhìn chung không thay đổi.

Cuối năm 1967, thị xã Mỹ Tho được nâng lên thành thành phố Mỹ Tho, trực thuộc Khu 8. Đến tháng 8 năm 1968, quận Gò Công được tách khỏi tỉnh Mỹ Tho để lập lại tỉnh Gò Công, trở lại 3 đơn vị tương đương nhau như trước là tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho. Ba đơn vị này tồn tại đến ngày 30-4-1975 thì hợp nhất lại thành tỉnh Tiền Giang.

b. Chính quyền Việt nam Cộng hòa:

Sau khi nắm trọn quyền hành do người Pháp trao lại và được sự ủng hộ của Mỹ, Chính quyền VNCH do Ngô Đình Diệm làm Tổng thống, tiến hành cải cách nền hành chính trên toàn miền Nam. Ngày 28-6-1956, quận An Hóa đã được đổi tên thành quận Bình Đại, tách khỏi tỉnh Mỹ Tho để nhập về tỉnh Bến Tre. Bằng Sắc lệnh số 143-NV ngày 22-10-1956, Chính quyền VNCH chia địa phận Nam Việt thành 23 đơn vị hành chính trực thuộc Chính quyền Trung ương, trong đó có tỉnh Định Tường gồm địa bàn tỉnh Mỹ Tho và tỉnh Gò Công cũ, giải thể thị xã Mỹ Tho, nhập địa bàn vào xã Điều Hòa và giải thể tổng Hòa Đồng Trung, nhập địa bàn vào 2 tổng Hòa Đồng Thượng và Hòa Đồng Hạ.

Ngày 8-11-1960, quận Châu Thành đổi tên thành quận Long Định, dời quận lỵ tới xã Long Định. Ngày 9-8-1961, tách đất quận Cái Bè lập quận mới Giáo Đức, quận lỵ tại xã An Hữu, gồm 2 tổng: Phong Phú với 5 xã; An Phú (mới lập) với 5 xã. Quận Cái Bè đổi tên thành quận Sùng Hiếu. Quận Cai Lậy đổi tên thành quận Khiêm Ích. Ngày 20-12-1963, tái lập tỉnh Gò Công, gồm 2 quận Châu Thành (đổi tên từ quận Gò Công) và Hòa Đồng với 4 tổng 31 xã. Ngày 23-5-1964, chia quận Long Định thành 2 quận: Châu Thành, quận lỵ tại xã Trung An, gồm 2 tổng Thuận Trị với 6 xã, Thuận Hòa (mới lập) với 6 xã; Long Định, quận lỵ tại xã Vĩnh Kim còn 2 tổng Thuận Bình với 7 xã, Lợi Trường (lập lại) với 7 xã. Ngày 10-11-1964, đổi lại tên quận Cái Bè và quận Cai Lậy như cũ. Ngày 6-4-1965, chia quận Châu Thành tỉnh Gò Công thành 2 quận: Hòa Tân, quận lỵ tại xã Tân Niên Tây với 9 xã; Hòa Lạc, quận lỵ tại xã Tăng Hòa với 9 xã; quận Hòa Đồng thành 2 quận: Hòa Đồng, quận lỵ tại xã Vĩnh Bình với 8 xã; Hòa Bình, quận lỵ tại xã Bình Luông Đông với 5 xã. Từ thời điểm này trở đi, tổng nào khuyết chức Cai tổng thì mặc nhiên giải thể, không còn nhắc tới nữa.

Ngày 24-3-1969, đổi tên quận Long Định (tỉnh Định Tường) thành quận Sầm Giang. Ngày 30-9-1970, cải biến xã Điều Hòa thành thị xã Mỹ Tho, đến ngày 10-6-1971, chia địa bàn thành 6 khu phố. Ngày 12-7-1974, lập quận mới Hậu Mỹ thuộc tỉnh Định Tường, quận lỵ tại xã Hậu Mỹ, do tách một phần đất của các quận Cái Bè, Giáo Đức, Cai Lậy cùng tỉnh và của quận Kiến Bình (tỉnh Kiến Tường) và của quận Mỹ An (tỉnh Kiến Phong). Các đơn vị hành chính của quận Hậu Mỹ chưa sắp xếp xong thì miền Nam được giải phóng.

Về tổ chức quản lý hành chính các cấp cũng có nhiều thay đổi. Dụ số 57-a ngày 24-10-1956 qui định hệ thống hành chính các cấp, theo đó tỉnh có tư cách pháp nhân, ngân sách và tài sản riêng. Tại các xã, Tỉnh trưởng thi hành nhiệm vụ với sự phụ tá của Cai, Phó tổng và Quận trưởng. Các chức danh này sẽ nhân danh Tỉnh trưởng trong lúc thi hành nhiệm vụ. Cấp quận và cấp tổng là những cấp trung gian, không có tư cách pháp nhân. Cai tổng đảm nhiệm việc liên lạc giữa xã và các cơ quan hành chính quận và tỉnh. Cai tổng trợ lực Quận trưởng trong việc áp dụng các biện pháp do cấp trên ấn định. Mỗi khi có thể, Cai tổng sẽ hòa giải các vụ tranh chấp, để dung hòa quyền lợi của các xã hoặc quyền lợi của các cá nhân. Cai, Phó tổng do Tỉnh trưởng bổ nhiệm, chiểu theo đề nghị của các Đại diện xã.

Tại mỗi xã có một Hội đồng hương chính, mà người đứng đầu gọi là Đại diện xã.

Sau cuộc đảo chánh lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm, các tướng lãnh thay phiên nhau lên nắm chính quyền, lại cải tổ nền quản lý hành chính ở xã ấp. Sắc lệnh số 203d/NV ngày 31-5-1964 qui định các xã đặt dưới quyền quản trị của một Hội đồng nhân dân do phổ thông đầu phiếu, nhiệm kỳ 2 năm và một Ủy ban hành chính. Hội Đồng Nhân dân có một ban thường vụ gồm 1 Chủ tịch, 1 Phó Chủ tịch và 1 thư ký. Ủy ban hành chánh xã gồm có 1 Chủ tịch xã kiêm hộ tịch, 1 Phó Chủ tịch và 1 số ủy viên. Ủy ban hành chánh do Tỉnh trưởng bổ nhiệm bằng Quyết định. Mỗi ấp có 1 trưởng ấp do phổ thông đầu phiếu. Xã ấp nào không tổ chức bầu cử được, tạm thời Tỉnh trưởng sẽ thành lập tại xã một Ban bình định xã, có nhiệm vụ và quyền hạn như Hội Đồng Nhân dân và Ủy ban hành chánh xã, tại ấp có một ban Bình định ấp.

Tại cấp tỉnh, Tỉnh trưởng đại diện cho cơ quan hành chính, bên cạnh có một Hội đồng nhân dân tỉnh do phổ thông đầu phiếu là cơ quan tư vấn. HĐND tỉnh có Văn phòng thường trực gồm 1 Chủ tịch, 1 Phó Chủ tịch và 1 Thư ký.

Đến năm 1974, có sự cải cách quản lý hành chính cấp xã. Do sắc lệnh ngày 10-7-1974, các cơ quan hành chính chấp hành, chuyên môn, quân sự, bán quân sự tại xã được kết hợp vào một hệ thống chung gọi là "Cơ quan hành chính xã", gồm có: Xã trưởng, Phó Xã trưởng an ninh, Phó Xã trưởng hành chính, Phân chi khu trưởng, Trung tâm trưởng Trung tâm điều hợp, Xã đoàn trưởng cán bộ nông thôn, Trưởng Cục cảnh sát Quốc gia, các ủy viên, Chánh thư ký và Thư ký. Chức Phó Xã trưởng an ninh do Phân chi khu trưởng kiêm nhiệm.

Tại những xã không bầu cử được, Tỉnh trưởng sẽ chỉ định Xã trưởng, Phó Xã trưởng an ninh, Phó Xã trưởng hành chính và Trung tâm trưởng Trung tâm điều hợp, kết hợp lại gọi là "Cơ quan quyết nghị xã".

Mỗi ấp đặt dưới quyền quản trị của một ban trị sự gồm có: Trưởng ấp, Phó Trưởng ấp an ninh, Phó Trưởng ấp hành chính.

D. Từ 1975 đến nay:

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi vào ngày 30-4-1975, giải phóng hòan toàn miền Nam, trong đó có tỉnh Định Tường (Mỹ Tho) và tỉnh Gò Công, thống nhất đất nước.

Ngày 20-9-1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TƯ về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc "nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước". Theo Nghị quyết này, 4 tỉnh Mỹ Tho, Gò Công, Long An, Bến Tre sẽ hợp lại thành một tỉnh, tên gọi sẽ do địa phương đề nghị lên. Nhưng ngày 20-12-1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp tỉnh ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó 2 tỉnh Mỹ Tho và Gò Công hợp lại thành một tỉnh. Ngày 24-2-1976, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành Nghị quyết số 03-NQ/1976 về việc giải thể khu, hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam. Theo Nghị quyết này tại miền Nam có 21 đơn vị trực thuộc Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, trong đó có tỉnh Tiền Giang do nhập 2 tỉnh Mỹ Tho và Gò Công.

Tỉnh Tiền Giang bấy giờ có 6 đơn vị hành chính trực thuộc là các huyện: Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Chợ Gạo, Gò Công và thành phố Mỹ Tho. Từ đó đến nay (2005) trên địa bàn tỉnh Tiền Giang có những sự điều chỉnh như sau: Ngày 26-3-1977, hạ thị xã Gò Công xuống thành thị trấn Gò Công. Ngày 12-4-1979, trên địa bàn huyện Cai Lậy, xã Thạnh Phú chia thành 2 xã mới Thạnh Lộc và Phú Cường, hợp nhất 2 xã Hội Sơn, Xuân Sơn thành xã Hội Xuân. Trên địa bàn huyện Cái Bè, chia xã Hậu Mỹ Nam thành 2 xã Hậu Mỹ Phú, Hậu Mỹ Trinh; chia xã Hậu Mỹ Bắc thành 2 xã Hậu Mỹ Bắc A, Hậu Mỹ Bắc B; chia xã Mỹ Thiện thành 2 xã Thiện Trí, Thiện Trung; chia xã Thạnh Hưng thành 2 xã Tân Thạnh, Tân Hưng; chia xã Mỹ Lợi thành 2 xã Mỹ Lợi A, Mỹ Lợi B. Ngày 13-4-1979, chia huyện Gò Công thành 2 huyện Gò Công Đông, Gò Công Tây. Ngày 13-2-1987, giải thể xã Tăng Hòa để thành lập thị trấn Tân Hòa là thị trấn huyện lỵ Gò Công Đông. Ngày 16-2-1987, thành lập lại thị xã Gò Công trên cơ sở thị trấn Gò Công cũ và 1 phần diện tích và dân số của 2 huyện Gò Công Đông, Gò Công Tây. Ngày 23-11-1990, lập xã mới Mỹ Tân thuộc huyện Cái Bè trên cơ sở các phần đất và dân số tách từ các xã Mỹ Trung, Mỹ Lợi B, Đức Tây và của Nông trường Ngô Văn Nhạc. Ngày 9-3-1992, trích 1 phần diện tích và dân số xã Phú Đông, huyện Gò Công Đông để thành lập xã Phú Tân. Ngày 11-7-1994, thành lập huyện mới Tân Phước trên cơ sở phần đất và dân số trích từ 2 huyện Cái Bè và Châu Thành. Ngày 14-1-2002, lập xã mới Tân Thạnh thuộc huyện Gò Công Tây trên cơ sở các phần đất tách từ các xã Tân Phú, Tân Thới và Phú Thạnh; tái lập xã Tăng Hòa thuộc huyện Gò Công Đông trên cơ sở phần đất và dân số tách từ thị trấn Tân Hòa. Ngày 9-12-2003, lập phường Tân Long thuộc thành phố Mỹ Tho do cải biến xã Tân Long; lập phường 9 do tách đất và dân số từ xã Mỹ Chánh, phường 10 do tách đất và dân số từ 2 xã Đạo Thạnh và Trung An; lập phường 5 thuộc thị xã Gò Công do tách đất và dân số từ xã Long Hòa; chia xã Hội Cư của huyện Cái Bè thành 2 xã An Cư và Mỹ Hội.

Về tổ chức quản lý hành chính, sau ngày 30-4-1975, giải thể tất cả các cơ cấu tổ chức của hệ thống hành chính của chính quyền Sài Gòn từ xã ấp lên đến tỉnh, thay vào đó lúc đầu là Ủy ban Quân quản các cấp, rồi đổi thành Ủy ban Nhân dân Cách mạng. Đến ngày 15-5-1977, cùng với đồng bào cả nước, nhân dân tỉnh Tiền Giang tham gia cuộc bầu cử ba cấp, chọn những người thực lòng vì dân vì nước vào Hội đồng Nhân dân tỉnh, Hội đồng Nhân dân các huyện, thành phố Mỹ Tho, các thị trấn, Hội đồng Nhân dân các xã. Sau đó Hội đồng Nhân dân cấp nào bầu ra Ủy ban Nhân dân cấp đó là cơ quan chấp hành thay cho Ủy ban Nhân dân Cách mạng chấm dứt nhiệm vụ.

Hội đồng Nhân dân các cấp có 1 Chủ tịch, 1 hay 2 Phó chủ tịch, 1 ủy viên thường trực và các ủy viên phụ trách các ngành chuyên môn. Ủy ban Nhân dân cũng gồm các thành viên tương tự. Nhưng về quyền hạn và nhiệm vụ thì 2 cơ quan này khác nhau. Hội đồng Nhân dân là cơ quan cao nhất đại diện cho nhân dân địa phương, thảo luận và biểu quyết những vấn đề liên quan đến quyền lợi của địa phương, phù hợp với đường lối chính sách chung của Đảng và Chính phủ. Còn Ủy ban Nhân dân là cơ quan chấp hành các nghị quyết của Hội đồng Nhân dân, thi hành các chủ trương chính sách và mệnh lệnh của cấp trên, đồng thời giữ mối liên hệ giữa cấp trên và nhân dân địa phương.

Từ ngày 30-4-1975 đến nay, tuy luật tổ chức Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân có nhiều lần tu chỉnh, nhưng trên căn bản danh xưng và cơ cấu tổ chức vẫn không thay đổi, vẫn là 2 cơ quan quản lý các cấp của Chính quyền cách mạng theo hướng xã hội chủ nghĩa.

Chính quyền Cách mạng Việt Nam từ ngày thành lập đến nay có đặc điểm là do Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất lãnh đạo. Do đó tại tỉnh Tiền Giang, ở cấp tỉnh, thành phố Mỹ Tho, thị xã Gò Công, các huyện, các thị trấn, các phường và các xã đều có Ban Chấp hành Đảng bộ là cơ quan chỉ đạo cao nhất về mọi hoạt động của địa phương theo đúng đường lối lãnh đạo của Trung ương Đảng.

Hiện nay, tỉnh Tiền Giang hiện có thành phố Mỹ Tho, thị xã Gò Công; 7 huyện: Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Tân Phước, Chợ Gạo, Gò Công Đông, Gò Công Tây, 7 thị trấn: Tân Hiệp, Cai Lậy, Cái Bè, Mỹ Phước, Chợ Gạo, Tân Hòa, Vĩnh Bình; 16 phường, 146 xã.

Các đơn vị hành chính tỉnh Tiền Giang hiện nay

1. THÀNH PHỐ MỸ THO:

Thành phố Mỹ Tho là tỉnh lỵ của tỉnh Tiền Giang, nằm chếch về phía đông nam bờ sông Tiền, có diện tích tự nhiên 48,3 km2, phía đông và phía bắc giáp huyện Chợ Gạo; phía nam giáp sông Tiền và tỉnh Bến Tre, phía tây giáp huyện Châu thành (ranh giới là Quốc lộ I).Thành phố Mỹ Tho có 8 phường nội ô được xếp theo thứ tự 1 đến 8 và 5 xã; các phường ngoại thành là: Trung An, Đạo Thạnh, Mỹ Phong, Tân Mỹ Chánh và Tân Long (cù lao trên sông Tiền ở phía nam thành phố).

Thành phố Mỹ Tho có sông Tiền và quốc lộ 1 A chạy qua, có Tỉnh lộ 24 đi về thị xã Gò Công và tỉnh lộ 28 chạy dọc sông Tiền lên Cai Lậy - Cái Bè, có phà rạch Miễu nối thành phố Mỹ Tho với thị xã Bến Tre (cách 12 km). Từ thành phố Mỹ Tho có thể đi dễ dàng bằng đường thủy hay đường bộ lên thành phố Hồ Chí Minh hoặc xuống các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long ra biển, hay sang thủ đô PhnôngPênh (Campuchia).

Trong thành phố, có các con kinh rạch quan trọng là Bảo Định chia Mỹ Tho thành hai khu vực tả ngạn và hữu ngạn, rạch Tra Sập. Đặc điểm nổi bật trong cảnh quan địa lý là vườn ở các xã ven. Vườn đã tạo vành đai thành phố, bao bọc khu nội ô, tạo nên dạng địa hình khá đặc biệt. Trong nội ô có hồ nước Mỹ Tho đào năm 1927, hiện là công viên, nơi điều hòa nhiệt độ và là lá phổi của thành phố. Cảnh quan thành phố càng nên thơ hơn với sự tiếp nối, đan xen giữa phố phường, vườn cây, đồng ruộng ....Với những ưu thế trên, ngay từ những năm đầu mới hình thành cũng như hiện nay thành phố Mỹ Tho luôn là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của toàn tỉnh, đồng thời là trung tâm giao lưu quan trọng của miền Trung Nam bộ và là cầu nối giữa các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Cửu Long với thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Đông Nam bộ.

Về dân số và tộc người: thành phố Mỹ Tho có 4 nhóm tộc người chính: Kinh - Hoa - Ấn và Khơ me. Trước năm 1975, có 6.500 người Hoa và hơn 100 người Khơ me.

Hiện nay thành phố có 167. 514 người, trong đó:

80.926 nam

86.588 nữ

Mật độ 3.468 người/km2

Phân bố địa bàn cư trú:

Khu vực thị trấn, thị tứ: 134.011 người

Nông thôn: 33.503 người

Trong đó:

Người Kinh chiếm 98% dân số

Người Hoa chiếm 1,89% dân số

Về tôn giáo, thành phố có 4 tôn giáo chính: đạo Thiên Chúa- Tin Lành - đạo Phật và đạo Cao Đài. Tín đồ của các tôn giáo có khoảng 27.896 người, chiếm 16,24% dân số.

Vào năm 1679, một nhóm khoảng ba ngàn người Minh Hương được chúa Nguyễn cho định cư vùng đất mới này. Trong nhóm có Dương Ngạn Địch đứng ra lập Mỹ Tho đại phố ở làng Mỹ Chánh, huyện Kiến Hòa. Khu đại phố này kéo dài đến Cầu Vĩ, Gò Cát, tức khu vực xã Mỹ Phong hiện nay. Sau mấy đợt di dân, người Việt đã lập rất nhiều làng xã xung quanh khu vực Mỹ Tho: Thái Trấn lập làng An Hoà (sau đổi là Thạnh Trị), Nguyễn Văn Trước lập làng Điều Hòa. Làng Điều Hòa diện tích nhỏ hẹp, thiếu đất canh tác nên dân làng phải làm nghề đánh cá, đưa đò, đi trạm nên có tên là Giang Trạm Điều Hoà thôn. Còn làng Minh Hương của người Hoa tuy được xếp vào loại xã, nhưng thực tế cũng ở nhờ trên đất làng Mỹ Chánh.

Năm 1772, Mỹ Tho thuộc đạo Trường Đồn, đến năm 1779 Nguyễn Ánh nâng đạo Trường Đồn thành dinh Trường Đồn. Năm 1781, dinh Trường đồn lại đổi tên thành dinh Trấn Định, trụ sở đóng tại giồng Kiến Định (Tân Hiệp - Châu Thành ngày nay),. Mỹ Tho lúc này là trung tâm buôn bán. Đến năm Nhâm Tý (1792 ) Mỹ Tho trở thành trung tâm kinh tế thương mại sầm uất, chúa Nguyễn cho dời lỵ sở dinh Trấn Định về chợ Mỹ Tho thuộc thôn Mỹ Chánh (khu vực Chợ Cũ thuộc phường 2, 3 và 8 ngày nay) và cũng tại đây chúa Nguyễn đã cho xây dựng thành Trấn Định. Thành được xây theo đồ họa kiến trúc của ông Trần Văn Học.

Năm 1826, vua Minh Mạng lại cho dời lỵ sở trấn Định Tường sang phía tây sông Bảo Định thuộc hai thôn Điều Hòa và Bình Tạo của huyện Kiến Hưng (nay thuộc các phường 1, 4 và 7). Cũng trong năm này, ông Dương Tấn Tuyên lập một ngôi chợ bên cạnh thành mới tại khu vực chợ Mỹ Tho ngày nay.

Về nơi lỵ sở mới, ngoài việc xây thành, chính quyền phong kiến còn tiến hành xây dựng hàng loạt các công trình khác nhằm phục vụ cho nhu cầu kinh tế - văn hoá - giáo dục - tín ngưỡng tôn giáo như: cất chợ, xây cửa ải (1835), trường học (1826), đàn Xã tắc, đàn Thần nông (1832), miếu Thành hoàng (1848) v.v...Năm 1861 thực dân Pháp xâm lược, sau khi đánh chiếm thành Định Tường chúng san bằng thành lũy và cho xây dựng các công sở, chợ búa, trường học, trại giam và các công trình khác tại làng Điều Hoà (phường 1, 7 ngày nay) và nơi đây trở thành khu vực trung tâm thành phố cho đến ngày nay.

Dưới thời thuộc Pháp 1861 - 1954) và dưới thời chính quyền Sài Gòn (1954) - 1975), mặc dù trải qua nhiều lần thay đổi lộ giới hành chính và tên gọi của tỉnh như: tỉnh Định Tường (1861-1869), Mỹ Tho (1869-1972), hạt Mỹ Tho (1872- 1889), rồi lại tỉnh Mỹ Tho (1889-1954), tỉnh Định Tường (1954-1975), nhưng Mỹ Tho vẫn là tỉnh lỵ. Năm 1912, chính quyền thực dân Pháp chia tỉnh lỵ Mỹ Tho ra hai vùng : vùng 1-thị tứ có 2 đại lý (délégation), vùng 2 có 2 làng Điều Hòa và Bình Tạo. Ngày 1.1.1933, mở rộng ranh giới tỉnh lỵ Mỹ Tho về phía Tây, lấy thêm phần đất làng Thạnh Trị, Đạo Ngạn, Bình Tạo. Ngày 16.12.1938,Mỹ Tho là một thị xã hỗn hợp, gọi là Hiệp xã, đến ngày 29.7.1942, chia Hiệp xã Mỹ Tho thành 4 khu phố. Giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, chính quyền Sài Gòn bãi bỏ chế độ Thị xã, nhưng đến ngày 31.7.1970, họ cải biến xã Điều Hòa thành Thị xã Mỹ Tho với 6 khu phố; Hai năm sau, ngày 3.1.1972, đổi đơn vị ấp thành khóm.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, từ năm 1976 đến 2005, Mỹ Tho được công nhận là thành phố cấp 3. Ngày 7.10.2005, bằng quyết định số 248/2005.QĐ.Ttg, Chính phủ công nhận thành phố Mỹ Tho là đô thị loại 2.

Với vai trò là trung tâm của toàn tỉnh, trong hơn một thế kỷ qua, các phong trào yêu nước và cách mạng của nhân dân thành phố Mỹ Tho chống đế quốc xâm lược, liên tục nối tiếp nhau kết lại thành dòng chảy xuyên suốt chiều dài lịch sử đấu tranh của địa phương. Cuộc khởi nghĩa của Thủ Khoa Huân và các phong trào Cần Vương, Hội kín, Minh Tân đều bắt đầu từ Mỹ Tho rồi lan tỏa đến các vùng nông thôn trong tỉnh.

Vào những năm 1930, Mỹ Tho vẫn là trung tâm của phong trào yêu nước và cách mạng trong toàn tỉnh. Khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930) thì chỉ sau đó 2 tháng (tháng 4/1930) tại Thành phố, một số chi bộ Đảng cũng được ra đời như: chi bộ Hãng Xáng, chi bộ trường Collége MyTho (Trường Nguyễn Đình Chiểu hiện nay), chi bộ Xóm Dầu (phường 3), chi bộ Hóc Đùn (Đạo Thạnh)...

Do vị trí và địa thế thuận lợi về đường sông cũng như đường bộ, Mỹ Tho trở thành trạm dừng chân đi về của nhiều cán bộ cách mạng trong tỉnh. Đồng thời đây còn là trạm trung chuyển thư từ, tài liệu, báo chí bí mật của Xứ ủy và Trung ương từ Sài Gòn, liên tỉnh miền Đông về các tỉnh miền Trung và Tây Nam bộ. Đặc biệt là trong cuộc Nam kỳ khởi nghĩa (1940), Mỹ Tho lại được chọn là nơi là đặt các trạm liên lạc của Xứ uỷ (ở ấp 8, xã Trung An), Tỉnh ủy (ấp 3, xã Trung An) và của Liên Tỉnh ủy (tại chùa Vĩnh Tràng, phường 8).

Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, địch cũng chọn Mỹ Tho để đặt các cơ quan đầu não, bố trí lực lượng canh phòng cẩn mật và thành lập hệ thống kìm kẹp nghiêm ngặt. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa đồng bào nội thị với kháng chiến vẫn được duy trì và giữ vững. Nhân dân vẫn một lòng theo Đảng, ủng hộ cách mạng. Các cuộc mít tinh, biểu tình của đông đảo quần chúng nhân dân, công nhân các hãng, xưởng và các tổ chức xã hội khác liên tục nổ ra giữa lòng thành phố, trung tâm đầu não của địch. Các cơ sở Đảng trong nội ô thành phố vẫn được củng cố, duy trì và giữ vững, trực tiếp lãnh đạo nhân dân đấu tranh trực diện với kẻ thù cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.

Về văn hóa nghệ thuật, Mỹ Tho có những công trình kiến trúc tôn giáo như: chùa Bửu Lâm ở thôn Phú Hội (nay thuộc phường 3), chùa Thiên Phước ở thôn Mỹ Hoà (nay thuộc xã Mỹ Phong), Hội quán Toàn Bửu ở thôn Mỹ Chánh (nay là chùa Ông phường, 8), chùa Vĩnh Tràng.... Vùng đất này còn được xem là một trong những nơi nghệ thuật cải lương ra đời sớm nhất, như ban nhạc "ca ra bộ" của ông Nguyễn Tống Triều (Tư Triều), gánh hát thầy Năm Tú, gánh hát Nam Đồng Ban, gánh hát Tái Đồng Ban và gánh Đồng Bào Nam..v..v. là nơi đã sản sinh ra nhiều danh tài cải lương tiền bối như nghệ sĩ nhân dân Năm Châu (Nguyễn Thành Châu), Năm Phỉ (Lê Thị Phỉ), Bảy Nam (Lê Thị Nam), Phùng Há (Trương Phụng Hảo)... Đồng thời Mỹ Tho cũng là quê hương của họa sĩ tài danh Nguyễn Sáng.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Đảng bộ, nhân dân thành phố Mỹ Tho ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, từng bước khôi phục xây dựng và phát triển thành phố về mọi mặt. Đời sống của người dân ngày càng được nâng lên; bộ mặt thành phố không ngừng được đổi mới, các công trình xây dựng như: trụ sở, nhà thương, trường học, nhà nghỉ, thư viện, công viên, khu vui chơi giải trí được xây dựng khang trang, sạch đẹp. Hệ thống đường sá, điện, nước, thông tin liên lạc đều được đầu tư xây dựng rộng khắp từng nông thôn đến thành thị. Các mặt văn hoá, thể thao hoạt động sôi nổi, lành mạnh đáp ứng nhu cầu đời sống của người dân trong toàn thành phố.

CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH THUỘC THÀNH PHỐ MỸ THO

PHƯỜNG 1

Vào năm 1808, đời Gia Long, khu vực nầy là Giang Trạm Điều Hòa thôn, thuộc tổng Kiến Thuận, vì hầu hết dân ở thôn nầy đều làm nghề đi trạm. Tiền hiền lập thôn nầy là Nguyễn Văn Trước, đội trưởng trạm Định Hòa.

Đời Minh Mạng, đổi lại thành thôn Điều Hòa thuộc tổng Thuận Trị.

Trước Cách mạng tháng Tám là làng Điều Hòa, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Định Tường; trong kháng chiến chống Pháp ta gọi là khu I, Thị xã Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân gọi là Khu I, Hiệp xã Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho; trong kháng chiến chống Mỹ ta gọi là Quận I, thành phố Mỹ Tho; chính quyền VNCH gọi là Khu 1 (gồm các ấp: Lạc Hồng, Võ Tánh, Ngô Quyền, Nguyễn Huệ, Trương Vĩnh Ký, Thái Lập Thành, Nguyễn Trãi và ấp Dân Chủ); thị xã Mỹ Tho, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía nam thành phố, đi theo đường Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Hùng Vương khoảng 1 km; đông giáp phường 2 và 3, tây giáp phường 4, nam giáp phường Tân Long, bắc giáp phường 7, thành phố Mỹ Tho.

Diện tích tự nhiên 77,115 ha: thổ cư: 11,7562 ha.

Dân số: 7580 nhân khẩu (1680 hộ); nam 3694, nữ 3886; người Kinh 7.010 người, người Hoa 570; Tôn giáo: đạo Phật 976 người, Công giáo: 533, Tin Lành: 36, Cao Đài: 71.

Tỷ lệ sinh năm 2004: 1,35%, tử 0.36%; số người di cư năm 2004 là 239, nhập cư 297.

Ngành nghề chính là thương mại, dịch vụ sinh hoạt. Ở khu vực trung tâm, thu nhập bình quân đầu người khoảng 9 triệu đồng/năm. Năm 1998, phường có 26 hộ nghèo, hiện còn 4 hộ cận nghèo, đạt tỷ lệ hộ cận nghèo 0,24%, hộ trung bình và giàu đạt tỷ lệ 99,76%.

Đường phố quan trọng có: đường Thủ Khoa Huân 784m; đường Nam kỳ Khởi nghĩa 1.321m, Hùng Vương 1.010m; đường Lê Lợi 1.175m, Trưng Trắc 1.140m, Nguyễn Huệ 680m, Ngô Quyền 710m. Sông, rạch, cầu, cống: sông Tiền 784m, kinh Bảo Định 972 m; cầu Quay và cầu Nguyễn Trãi; bến đò Ngô Quyền, Tân Long. Chợ Mỹ Tho, Trung tâm thương mại Mỹ Tho là chợ đầu mối trung tâm của tỉnh, chợ Hàng Bông tại bến đò Ngô Quyền, mua bán hàng kim khí, điện máy, mỹ phẩm, may mặc,...

Phường có trường mẫu giáo Sơn Ca rộng 452,7m2 với 9 lớp, 326 cháu; Sao Sáng rộng 3.598,7m2, 15 lớp, 720 cháu; Mầm Non tỉnh với 2 cơ sở: cơ sở 1 rộng 4.089,2m2, 11 lớp, 460 cháu, cơ sở 2 rộng 1.441,9m2, 10 lớp, 440 cháu; Trường Tiểu học Thủ Khoa Huân có 66 lớp, 2.820 học sinh; Trường Trung học cơ sở Lê Ngọc Hân có 77 lớp, 3.631 học sinh; trường Xuân Diệu với 73 lớp, 3.176 học sinh; Trung học phổ thông Nguyễn Đình Chiểu có 64 lớp, 2.860 học sinh.

Tháng 4.1930 chi bộ trường "Collège de Mỹ Tho" (nay là Trường PTTH Nguyễn Đình Chiểu) được thành lập do đ/c Phạm Hùng làm Bí thư. Tháng 7.1975, Đảng bộ phường I được thành lập, có 10 đảng viên, đến nay có 150 đảng viên.

Phường có 7 liệt sĩ, 28 thương binh, 6 lão thành cách mạng, 22 gia đình có công với nước, 418 huân chương của tập thể và cá nhân.

PHƯỜNG 2

Gồm các khu phố: 1, 2, 3, 4, 5; Trước Cách mạng tháng Tám, cũng thuộc xã Điều Hòa.

Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là khu II thuộc thị xã Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân gọi là Khu 2, Hiệp xã Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, là phường 2, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt phường 2 ( gồm các ấp Phan Văn Trị, Trịnh Hoài Đức, Đinh Bộ Lĩnh và ấp Mỹ Chánh) thuộc thành phố Mỹ Tho, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía đông huyện, về phường đi theo đường Đinh Bộ Lĩnh nối với ngã tư đường Hùng Vương khoảng 2 km; đông giáp xã Tân Mỹ Chánh, thành phố Mỹ Tho; tây giáp sông Bảo Định và phường 1, thành phố Mỹ Tho; nam giáp sông Tiền, thành phố Mỹ Tho; bắc giáp đường Đinh Bộ Lĩnh, phường 3 và phường 8 thành phố Mỹ Tho.

Diện tích tự nhiên 708.085ha: thổ cư 36.255ha, vườn 32.774ha, nuôi trồng thủy sản 0.0551ha.

Dân số: 14.817 nhân khẩu (2.689 hộ); trong đó, nam 6.797, nữ 8.020; người Kinh 2.383, người Hoa 137, người Chăm 1. Tôn giáo: Phật giáo 40 người, Công giáo 58, Tin Lành 10, Cao Đài 53, Hồi giáo 7; Tỉ lệ sinh năm 2004 là 15,1%, tử 0,60%; số di cư năm 2004 là 221 người, nhập cư 162 người.

Ngành nghề chính là buôn bán và đánh bắt thủy hải sản xa bờ. Số hộ giàu chiếm 50%, hộ khá chiếm 40%, hộ nghèo và cận nghèo dưới 10%.

Đường phố, sông rạch, cầu, cống: đường Đinh Bộ Lĩnh dài trên 1,5 km; sông Tiền dài 1,2km, kinh Bảo Định 200m; cầu Quay nối phường 1. Chợ ngã ba đường Phan Văn Trị và Phan Thanh Giản buôn bán nhỏ, họp cả ngày.

Nhà y tế kiên cố có dụng cụ sơ cấp cứu, 1 bác sĩ và 2 y sĩ.

Hiện nay, phường có 116 liệt sĩ, 38 thương binh, 4 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 1 lão thành cách mạng, 183 gia đình có công với nước; 82 huân chương của tập thể và cá nhân.

Đảng bộ phường được thành lập từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ với 94 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã (thành lập năm 1975) là các tổ chức khác như Đoàn TNCSHCM (thành lập tháng 6 năm 1975), Hội LHTN, Hội LHPNVN (thành lập tháng 3 năm 1975)...

PHƯỜNG 3

Trước Cách mạng tháng Tám, một phần thuộc làng Điều Hòa, tổng Thuận Trị, một phần thuộc làng Phú Hội, thuộc tổng Thạnh Phong.

Trong kháng chiến chống Pháp, chính quyền Thực dân gọi là Khu 3 thuộc Hiệp xã Mỹ Tho, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta gọi là quận 3, thị xã Mỹ Tho, đến năm 1967 là thành phố Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt phường 3 ( gồm các ấp Phan Thanh Giản, Học Lạc, Đốc Binh Kiều, Nguyễn Huỳnh Đức, Mỹ Phúc và Xóm Dầu) thuộc thị xã Mỹ Tho, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía đông thành phố Mỹ Tho, đông giáp phường 8 và xã Mỹ Phong; tây giáp phường 1 và phường 7; nam giáp phường 2; bắc giáp xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho.

Diện tích tự nhiên 54.1126m2: thổ cư 24.4029m2, vườn 11.8670m2, nuôi trồng thủy sản 6.603,3m2, chưa khai thác 720m2.

Dân số: 11.896 nhân khẩu (2.234 hộ); nam 5.715, nữ 6.181; người Kinh 8.826, người Hoa 216, người Khơme 1; Tôn giáo: Phật giáo 316 người, Thiên chúa: 2.126, Tin Lành: 79, Cao Đài: 38. Tỉ lệ sinh năm 2004 là 1,23%, tử 0,34%.

Ngành nghề chính là tiểu thủ công nghiệp; nghề phụ: lao động phổ thông, thương mại, dịch vụ; hộ giàu chiếm 50%, hộ khá trên 40%, hộ nghèo và hộ cận nghèo dưới 10%.

Qua phường có đường Đinh Bộ Lĩnh dài khoảng 800km, đường Nguyễn Văn Giác và Nguyễn Huỳnh Đức dài khoảng 1,5km...; kinh Bảo Định dài khoảng 1.200 m, rạch Gò Cát dài khoảng 400m, cầu Quay và cầu Nguyễn Trãi...

Hiện nay, phường có 90 liệt sĩ, 40 thương binh, 1 lão thành cách mạng, 12 gia đình có công với nước, 29 huân chương của cá nhân, 3 bà mẹ Việt Nam Anh hùng: Lê Thị Mười, Nguyễn Thị Anh, Lê Thị Keo (đã mất). Số người tốt nghiệp trung học về phường làm việc là 13; 5 người tốt nghiệp đại học. Hàng năm chi hội người cao tuổi tổ chức lễ hội giỗ tổ Hùng Vương, tổ chức lễ sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5).

Phường một trong những nơi diễn ra hội nghị thành lập chi bộ đầu tiên tại thành phố Mỹ Tho tháng 4-1930. Đảng bộ phường được thành lập năm 1977, hiện nay có 118 đảng viên. HĐND phường thành lập tháng 11/1977, UBND thành lập tháng 12/1977, MTTQVN thành lập năm 1977, Hội PNVN thành lập năm 1979...

PHƯỜNG 4

Gồm 11 khu phố.

Đây là một phần đất của làng An Hòa (Thạnh trị) và một phần của làng Bình tạo, tổng Thuận Trị.

Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là khu phố 3 thuộc thị xã Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân đặt là Khu 3 thuộc Hiệp xã Mỹ Tho, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta gọi là quận 3, thuộc thành phố Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VCNH gọi là khu phố 4 ( gồm các ấp Công Hòa, Quyết Tiến, Cộng Đồng, Đồng Tiến, Dân chủ) thuộc thị xã Mỹ Tho, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía nam thành phố; đông giáp phường 1 và phường 7; tây giáp phường 5 và phường 6; nam giáp xã Thới Sơn, huyện Châu Thành; bắc giáp xã Đạo Thạnh, thành phố Mỹ Tho.

Diện tích tự nhiên 80,58 ha; thổ cư 29,43ha, chưa khai thác 51,15ha.

Dân số: 19.908 nhân khẩu (3.683 hộ); nam 9.490, nữ 10.418; người Kinh 1.961, người Hoa 290, người Chăm 3. Tôn giáo: Phật giáo 384 người, Công giáo: 560, Tin Lành: 120, Cao Đài: 42. Tỷ lệ sinh năm 2004: 1.30%, tử 0,37%.

Ngành nghề chính: tiểu thủ công nghiệp, thương mại; nghề phụ: các dịch vụ sinh hoạt. Hiện kinh tế phường tăng trưởng trên 10% hàng năm; tỷ lệ hộ nghèo 7,7%; trung bình 72,3%; hộ giàu 20%.

Qua phường có đường ấp Bắc dài khoảng 250m; đường liên phường Lý Thường Kiệt dài khoảng 2.000m...; kinh Bảo Định dài 270m...

Chợ Thạnh Trị khu phố 1, họp hàng ngày, chợ Hàng Còng khu phố 10 và chợ Phú De họp buổi sáng.

Từ năm 1932 - 1945 dưới sự lãnh đạo của Thị ủy Mỹ Tho, công nhân phường nhiều lần đình công đòi tăng lương, làm việc 8 giờ/ngày, thực hiện bảo hiểm lao động, chống đánh đập, xa thải công nhân. Trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, tiểu đoàn 261A, 261B và đại đội 2 Thành đội vượt sông Bảo Định chia làm 3 mũi từ bến xe chiếm bờ tây giếng nước sân bay trực thăng; cánh thứ hai - tiểu đoàn 263 đánh từ Trung An xuống đường Pasteur (nay là Trần Hưng Đạo) và đường Ngô Tùng Châu (nay là Lê Thị Hồng Gấm) làm chủ khu vực bến xe bờ tây giếng nước khu vực chợ Thạnh Trị.

Hiện toàn phường có 63 liệt sĩ, 69 thương binh, 1 lão thành cách mạng, 8 gia đình có công với nước; 40 huân chương của tập thể và cá nhân.

Phường thành lập chi bộ Đảng từ tháng 4/1930, đến năm 1983 thành lập Đảng bộ, hiện có 153 đảng viên. MTTQVN phường (thành lập năm 1975, Đoàn TNCSHCM thành lập năm 1975, HộiLHPNVN thành lập năm 1976, Hội CCB thành lập chính thức tháng 3/1990, HĐND đến nay đã trải qua 9 nhiệm kỳ...

PHƯỜNG 5

Gồm 8 khu phố: 1, 2, 3, 5, 6, 7, 8 và 9;

Trước Cách mạng tháng Tám, đây là phần đất của làng An Hoà (Thạnh Trị), sau năm 1939, giao về làng Điều Hòa, tổng Thuận Trị. Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Điều Hoà, thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân đặt xã Điều Hoà thuộc tổng Thuận Trị, huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta gọi là khóm Chiến Thắng, khóm Nguyễn Tri Phương, xóm Tre, thuộc thị xã Mỹ Tho, tỉnh Định Tường; chính quyền VNCH đặt khóm Chiến Thắng, khóm Nguyễn Tri Phương, khóm Tre thuộc thị xã Mỹ Tho, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây thành phố, về phường đi theo đường ấp Bắc khoảng 1.500m; bắc giáp rạch sông Bảo Định; tây giáp xã Trung An, phường 10; nam giáp phường 6; đông giáp phường 10, thành phố Mỹ Tho.

Diện tích tự nhiên 271,7 ha: vườn cây ăn trái 145ha, nuôi trồng thủy sản 0,65ha.

Dân số: 15.281 nhân khẩu (3.435 hộ); người Kinh 15.203, người Hoa 78, người theo Phật giáo 956, theo Công giáo 234, theo Tin Lành 56, theo Cao Đài 27; tỷ lệ sinh năm 2004 là 0,96%, tử 0,29%.

Nghề chính là sản xuất, buôn bán vừa và nhỏ; nghề phụ: làm bún, hủ tiếu, làm các loại bánh mứt. Toàn phường có 565 hộ khá, 1.913 hộ trung bình, 957 hộ khó khăn và 33 hộ nghèo được trợ cấp.

Đường Trần Hưng Đạo dài khoảng 3 km, đường Hoàng Việt dài 3 km; đường liên phường Lý Thường Kiệt dài 2,5km, đường ấp Bắc dài 2,5km; Kinh Bảo Định dài khoảng 1km; Cầu Đạo Ngạn, Lý Thường Kiệt đều bằng bê tông.

Trường mẫu giáo kiên cố, đạt chuẩn Quốc gia, hiện có 4 lớp, 288 cháu; trường tiểu học kiên cố, đạt chuẩn Quốc gia, có 33 lớp, 1.429 học sinh, 6 lớp bán trú. Trường phổ thông trung học chuyên ban của tỉnh đặt ở phường, có 26 lớp, 850 học sinh.

Trạm y tế phường được trang thiết bị đầy đủ, đạt chuẩn Quốc gia có 1 bác sĩ, 2 y sĩ, 1 hộ lý, 1 lương y.

Phường có 6 bà mẹ Việt Nam Anh hùng (trong đó 5 mẹ đã mất) chỉ còn lại mẹ Nguyễn Thị Hoa, 136 liệt sĩ, 76 thương binh, 2 lão thành cách mạng, 20 gia đình có công với nước, 182 huân chương cá nhân.

Chi bộ Đảng đầu tiên được thành lập ở phường vào năm 1973 với 5 đảng viên, hiện nay Đảng bộ có 12 chi bộ, 205 đảng viên, MTTQVN phường thành lập sau năm 1975, Đoàn TNCSHCM, Hội LHTN, Hội LHPNVN, Hội NDVN đều thành lập sau năm 1975. Hội CCB thành lập năm 1996, hiện có 127 hội viên, sinh hoạt ở 8 chi hội khu phố. HĐND nhiệm kỳ 2004-2009 có 27 đại biểu...

PHƯỜNG 6

Gồm 2 khu phố. Trước Cách mạng tháng Tám, đầy là phần đất thuộc làng Bình Tạo, tổng Thuận Trị, quận Châu Thành, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là ấp Bình Tạo, xã Bình Đức thuộc tổng Thuận Trị, huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân gọi là ấp Bình Tạo, xã Bình Đức, tổng Thuận Trị, huyện Châu Thành, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta gọi là xã Bình Đức, huyện Châu Thành, tỉnh Định Tường; chính quyền VNCH gọi là Khu phố 6, thị xã Mỹ Tho, tỉnh Định Tường.

Phường 6 nằm ở đông nam thành phố Mỹ Tho; đông giáp phường 4; tây giáp xã Trung An, thành phố Mỹ Tho; nam giáp sông Tiền; bắc giáp phường 5.

Diện tích tự nhiên 3.113000m2: thổ cư 493212m2, vườn cây 220.000m2, nuôi trồng thủy sản 17.000m2, chưa khai thác 2.280.788m2.

Dân số: 20.420 nhân khẩu (4452 hộ); trong đó, nam 9.719, nữ 10.701; người Kinh 20.300, người Hoa 104, người Khơme 16. Tôn giáo: Phật giáo 479 người, Công giáo: 967, Tin Lành: 73, Cao Đài: 116. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,28%, tử 0,16 %; di cư 539 người, nhập cư 813 người.

Ngành nghề chính là tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ; nghề phụ là chăn nuôi và trồng trọt, đan cói xuất khẩu,... Phường hiện có 30% hộ giàu, trên 60 % hộ khá và trung bình, 8,07% hộ nghèo và cận nghèo.

Qua phường có Quốc lộ 60 dài 2,3km, tỉnh lộ 864 dài 0,8km, đường Lê Thị Hồng Gấm dài 1km, đường Trần Hưng Đạo dài 1,2km, đường Lý Thường Kiệt B dài 1,8km. Sông, rạch, cầu, cống... có kinh Xáng dài 1,5km, cầu Bình Đức nối phường 6 với xã Bình Đức, huyện Châu Thành và cầu K120 nằm trên Quốc lộ 60, 1 bến phà qua tỉnh Bến Tre.

Chợ Vòng Nhỏ ở khu phố 4 và chợ Lò Gạch ở khu phố 2 đều họp suốt ngày, quanh năm, mặt hàng đa dạng).

Phường có 2 trường mẫu giáo, cơ sở vật chất tốt, 247 cháu; 2 trường tiểu học Kim Đồng và Nguyễn Huệ gồm 42 lớp và 1.491 học sinh; Trường Trung học cơ sở Trần Hưng Đạo có 38 lớp và 1.700 học sinh. Số người tốt nghiệp trung học về phường làm việc là 14; 2 người tốt nghiệp đại học. Phường có 1 trạm y tế rộng 120m2, 4 y sĩ và 1 dược sĩ trung cấp.

Hiện tại, phường có 10 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, trong đó chỉ còn 2 mẹ là Trần Thị Mến và Lê Thị Đầm; 123 liệt sĩ, 173 thương binh, 2 lão thành cách mạng, 5 gia đình có công với nước, 287 huân chương của cá nhân, 3 cán bộ tiền khởi nghĩa.

Đảng bộ phường 6 được thành lập năm 1976, hiện có 21 chi bộ, 349 đảng viên, MTTQVN phường thành lập năm 1977, Đoàn TNCSHCM và Hội LHTN thành lập tháng 8-1975, Hội LHPN thành lập năm 1976, Hội CCB thành lập năm 1990, Hội NDVN thành lập năm 1978, HĐND thành lập tháng 11-1977, UBND thành lập tháng 12-1977...

PHƯỜNG 7

Gồm 7 khu phố: 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 7.

Trước Cách mạng tháng Tám, địa bàn nầy thuộc làng Điều Hòa.

Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là khu I thuộc thị xã Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân gọi là Khu 1 thuộc Hiệp xã Mỹ Tho, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta gọi là quận I,Thị xã Mỹ Tho; Chính quyền VNCH gọi là phường 1 thuộc thị xã Mỹ Tho, tỉnh Định Tường.

Phường 7 nằm ở phía đông thành phố; đông và bắc phường giáp sông Bảo Định; tây giáp phường 4; nam giáp phường 1.

Diện tích tự nhiên 385.262m2: thổ cư 180.680m2.

Dân số: 10.887 nhân khẩu (2.145 hộ); trong đó, nam 5.098, nữ 5.789; người Kinh 10.230, người Hoa 657; Tôn giáo: Phật giáo 1.105 người, Công giáo: 1.280, Tin Lành: 78, Cao Đài: 45. Tỷ lệ sinh trên các năm 2004 là 0,99%; tử: 0,46%.

Ngành nghề chính là thương mại, dịch vụ, làm thuê; nghề phụ: sửa chữa cơ khí, buôn bán nhỏ... Do phần đông dân làm dịch vụ buôn bán, nên ở phường không còn hộ đói; hộ nghèo giảm còn 0,96%, hộ giàu khoảng 25%.

Qua phường có 3 tỉnh lộ là Hùng Vương dài 800m, Lê Lợi 800m, Nguyễn Trãi nối phường 7 với phường 1 dài 500m...; sông Bảo Định; cầu Hùng Vương nối phường 7 với xã Đạo Thạnh và cầu Nguyễn Trãi nối phường 7 với phường 3.

Chợ trái cây ở bến đò đường Nguyễn Tri Phương và Ngô Quyền, họp hàng ngày, có khoảng 300 người đến chợ.

Bảo tàng Tiền Giang đóng trên địa bàn phường. Phường có 2 trường mẫu giáo: 1 công lập có 5 lớp, 240 cháu, và 1 dân lập có 50 cháu; trường tiểu học Nguyễn Trãi xây dựng kiên cố đã trên 40 năm với 30 lớp, 1.147 học sinh (2004 - 2005); 2 trường dạy nghề do tỉnh quản lý, có 35 lớp, 1.535 học sinh; ngoài ra còn có trung tâm hướng nghiệp dạy nghề Tiền Giang và trường Công nhân Kỹ thuật tiền Giang.

Phường có 4 bà mẹ Việt Nam Anh hùng (một mẹ còn sống là Phạm Thị Giàu), 32 liệt sĩ, 29 thương binh, 35 lão thành cách mạng, 6 gia đình có công với nước, 130 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ Đảng đầu tiên được tách ra vào tháng 9/1976 từ chi bộ phường 1, hiện nay Đảng bộ có 10 chi bộ, 98 đảng viên.

PHƯỜNG 8

Gồm 8 khu phố: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 và 8.

Trong kháng chiến chống Pháp, ta đặt phường nầy thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền thực dân tính phường gồm ấp Đốc Binh Kiều thuộc xã Điều Hòa, quận Châu Thành, tỉnh Định Tường và ấp Mỹ Phúc thuộc xã Tân Mỹ Chánh, tổng Thạnh Phong, quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta đặt khu 4 thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH tính gồm ấp Đốc Binh Kiều thuộc xã Điều Hòa, quận Châu Thành, tỉnh Định Tường và ấp Mỹ Phúc thuộc Khu phố 3, thị xã Mỹ Tho, tỉnh Định Tường.

Phường ở phía đông thành phố Mỹ Tho; đông giáp phường 9; tây giáp phường 3; nam giáp phường 2; bắc giáp xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho.

Diện tích tự nhiên 69,703ha: thổ cư 25,7077ha, đất vườn cây 25,1076ha, nuôi trồng thủy sản 0,1059ha.

Dân số: 11.831 nhân khẩu (2.184 hộ); người Kinh 11.722, người Khơme 98, người Chăm 11. Tỉ lệ sinh năm 2004 là 2,07%, tử 0,54%; số người di cư 117, nhập cư 136.

Ngành nghề chính của phường trước 30.4.1975 là làm hủ tiếu rất nổi tiếng sau đó bị đình trệ đến năm 1990; nghề phụ: bánh kẹo, đồ gỗ gia dụng, chằm lá, may mặc,... Tỉ lệ hộ giàu và khá là 68,21%, hộ nghèo 1,37%.

Qua phường có Quốc lộ 50 (tuyến đường Đinh Bộ Lĩnh chạy xuống Chợ Gạo); đường Học Lạc dài 1,5km, đường Lộ Ma 1,5km, Nguyễn Huỳnh Đức 1km, đường Gò Cát 1km; đường Nguyễn Văn Nguyễn (Tạ Thu Thâu) 6km, đường Đốc Binh Kiều 6km...; Mạng lưới cầu cống có cầu Lò Vôi (tuyến đường Gò Cát) nay đã bị lấp, các cống đều chảy ra sông Tiền.

Chợ cũ được xây dựng trước năm 1945, chủ yếu buôn bán nông sản do nhà vườn mang đến.

Phường 8 có 2 trường mẫu giáo: Trường mẫu giáo công lập Sao Mai đạt chuẩn Quốc gia, với 7 lớp, 290 cháu và Trường mẫu giáo dân lập Nguyễn Huỳnh Đức với 4 lớp, 125 cháu; Trường Tiểu học Đinh Bộ Lĩnh với 19 lớp, 561 học sinh, đạt chuẩn Quốc gia; Trường Trung học cơ sở Học Lạc (trước ở đường Học Lạc) có 21 lớp, 844 học sinh, sau đó giao lại cho trường dạy nghề của tỉnh Tiền Giang.

Trạm y tế đạt chuẩn Quốc gia, có 1 bác sĩ, 2 y sĩ; có các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Ngoài ra trong phường còn có 8/8 y tế khu phố cùng cộng tác viên chương trình sốt xuất huyết.

Hiện tại, phường có 1 bà mẹ Việt Nam Anh hùng Lê Thị Phương ngụ khu phố 4, đường Nguyễn Văn Nguyễn phường 8; 89 liệt sĩ, 38 thương binh, 10 gia đình có công với nước, 2 huân chương tập thể, 202 huân chương cá nhân.

Năm 1977, Chi bộ phường 8 được thành lập với 11 đảng viên, năm 1990 thành lập Đảng bộ phường với 7 chi bộ, 78 đảng viên. MTTQVN phường thành lập năm 1977, Đoàn TNCSHCM, Hội LHTNVN, Hội PNVN thành lập năm 1977...

PHƯỜNG 9

Gồm 6 khu phố: 1, 2, 3, 4, 5 và 6.

Là phần đất thuộc làng Tân Hội Mỹ, tổng Thạnh Phong, huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho trước kia. Nguyên vào năm 1808, đời Gia Long có 3 thôn Phú Hội, Mỹ Chánh và Bình Phong thuộc tổng Kiến Thạnh, đến đời Minh Mạng có thêm thôn Phong Thuận, thuộc tổng Thạnh Phong. Ngày 29.11.1923, nhập Phú Hội và Mỹ Chánh lấy tên là Hội Mỹ, đồng thời nhập Bình Phong và Phong Thuận lấy tên là Tân Phong. Năm 1936, Hội Mỹ và Tân Phong nhập lại lấy tên là Tân Hội Mỹ.

Trong kháng chiến chống Mỹ, Tân Hội Mỹ được đổi thành Tân Mỹ Chánh (1956). Ta đặt xã Tân Mỹ Chánh thuộc thành phố Mỹ Tho, tỉnh Định Tường; chính quyền VNCH đặt xã Tân Mỹ Chánh thuộc thành phố Mỹ Tho, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía đông thành phố; đông giáp xã Tân Mỹ Chánh; tây giáp phường 2 và phường 8, nam giáp phường Tân Long, bắc giáp xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho.

Diện tích tự nhiên 273,5 ha: thổ cư 14,51ha, trồng lúa 55.7ha, vườn 157.8ha, nuôi trồng thủy sản 0.5ha.

Dân số: 4.672 nhân khẩu (1.127 hộ); trong đó, nam 2.257, nữ 2.415; người Kinh 4.645, người Hoa 16, người Miên và người Thái 11, Tôn giáo: Phật giáo 419 người, Công giáo: 147, Tin Lành: 55, Cao Đài: 45. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,54%, tử 0,49%.

Ngành nghề chính là nông nghiệp; nghề phụ là cho thuê nhà trọ; tỷ lệ hộ giàu 30%, hộ nghèo 0,5%, còn lại là hộ đủ sống.

Qua phường có Quốc lộ 50 cũ và Quốc lộ 50 mới dài 2,5km; tỉnh lộ 879B dài 1km; đường Lộ Ma 1km; đường Lộ Làng 1,5km; cầu Bình Phong; cống Hộp, cống Số 3.

Phường hiện có 44 liệt sĩ, 23 thương binh, 2 gia đình có công với nước, 56 huân chương của tập thể và cá nhân.

Đảng bộ phường được thành lập ngày 9/1/2004 với 63 đảng viên. MTTQVN phường thành lập ngày 19/01/2004, Đoàn TNCSHCM (tách ra từ xã Tân Mỹ Chánh ngày 15/1/2004), Hội LHTNVN, Hội PNVN, Hội NDVN...

PHƯỜNG 10

Gồm các khu phố: 1, 2, 3, 4, 5 và khu phố Trung Lương.

Gốc là phần đất của 2 làng Trung Lương và Đạo Ngạn.

Phường 10 được thành lập năm 2004, do chia tách từ 2 ấp của xã Đạo Thạnh (ấp 6 và ấp 7) và 4 ấp của xã Trung An. Trong kháng chiến chống Pháp, một phần phường thuộc xã Trung An và xã Đạo Thạnh thuộc tổng Thuận Trị, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, một phần phường thuộc xã Trung An và một phần thuộc xã Đạo Thạnh, quận Châu Thành, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía bắc thành phố; đông giáp sông Bảo Định, tây giáp xã Trung An, thành phố Mỹ Tho; nam giáp phường 5; bắc giáp xã Long An, huyện Châu Thành.

Diện tích tự nhiên 228,30ha gồm: thổ cư 38,4996 ha, vườn 204,812ha, nuôi trồng thủy sản 0,1806ha, chưa khai thác 14,8048ha.

Dân số: 9.474 nhân khẩu (2.274 hộ); trong đó, nam 4.499, nữ 4.975; người Kinh 9.436, người Hoa 17, người Khơme 21; Tôn giáo: Phật giáo 1.370 người, Công giáo: 117, Tin Lành 3, Cao Đài: 90, Hòa Hảo: 3. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1%, tử 0,16%.

Ngành nghề chính là thương mại, dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp; nghề phụ: làm mứt. Tỷ lệ hộ nghèo là 16,84 %, khá 52,60% và giàu là 30,56 %

Qua xã có Quốc lộ 1A dài 3km, Quốc lộ 60 dài 3km, đường ấp Bắc dài 2km, đường kinh Kháng Chiến dài 3km; kinh Bảo Định dài 5km, cầu Công Dân... Bến xe khách Tiền Giang... Chợ Bà Đò (nay là chợ Trung Lương) ở khu phố Trung Lương, chợ Cầu Cống nay là chợ Đạo Thạnh ở khu phố 3, họp hàng ngày có khoảng vài trăm người mua bán phục vụ nhu cầu sinh hoạt.

Hiện tại, phường có 2 bà mẹ Việt Nam Anh hùng là mẹ Đặng Thị Thêm và mẹ Bùi Thị Ngàn, 155 liệt sĩ, 38 thương binh, 24 lão thành cách mạng, 24 gia đình có công với nước. Đình Trung An ở khu phố 2 và đình Đạo Ngạn ở khu phố 3 đều được Bảo tàng Tỉnh công nhận (có sắc phong của vua Tự Đức năm 1786).

Đảng bộ phường 10 được thành lập ngày 9-1-2004, hiện có 117 đảng viên. Cùng với MTTQVN phường (thành lập ngày 20/1/2004) là các tổ chức như Đoàn TNCSHCM (thành lập ngày 16/1/2005), Hội LHTN thành lập ngày 20/12/2004, Hội PNVN thành lập ngày 27/1/2004, Hội CCB thành lập ngày 2/2/2004,Hội NDVN thành lập ngày 29/1/2005, UBND thành lập ngày 6/1/2004...

PHƯỜNG TÂN LONG

Gồm khu phố: Tân Thuận, Tân Hà, Tân Hòa, Tân Bình.

Trước Cách mạng tháng Tám, phường có tên là Cồn Rồng. Trong kháng chiến chống Pháp, gọi là cù lao Rồng thuộc ấp Bình Tạo, xã Bình Đức. Ngày 31.1.1958 lập xã Tân Long. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta đặt xã Tân Long thuộc thành phố Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho. Chính quyền VNCH đặt xã Tân Long thuộc quận Châu Thành, tỉnh Định Tường.

Địa giới: đông giáp xã Tân Mỹ Chánh, thành phố Mỹ Tho và huyện Chợ Gạo; tây giáp xã Thới Sơn, huyện Châu Thành và phường 4, thành phố Mỹ Tho; nam giáp sông Tiền, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre; bắc giáp phường 1, phường 2, phường 9, thành phố Mỹ Tho.

Diện tích tự nhiên 272,7691ha: thổ cư 7,7505ha, vườn cây 51,3637ha, nuôi trồng thủy sản 0,2945ha, chưa khai thác 213,3604 ha (sông).

Dân số: 3.678 nhân khẩu (718 hộ); nam 1.772, nữ 1906; hộ người Kinh 718, người Chăm 3; hộ theo Phật giáo 9, theo Công giáo 36, theo Tin Lành 4, theo Cao Đài 16. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 15.10%; tử là 2,74%.

Ngành nghề chính là nông nghiệp, đánh bắt hải sản, đóng sửa ghe tàu; nghề phụ: dịch vụ du lịch, vận chuyển hàng hóa,... Hiện kinh tế phường khá ổn định với nhiều cơ sở sản xuất và dịch vụ; hộ giàu chiếm 6,26%, hộ khá 63,23%, hộ trung bình 27,85%, hộ nghèo 2,64%.

Cùng với Sông Tiền chạy dọc theo phường, dài 3,6 km với bến đò Tân Long,...

Chợ phường nằm ở khu phố Tân Hà cách trụ sở UBND phường 50m về hướng đông.

Hiện trên địa bàn phường có Anh hùng lao động Nguyễn Thị Hồng, 9 liệt sĩ, 11 thương binh, 1 lão thành cách mạng, 8 gia đình có công với nước, 12 huân chương cá nhân.

Chi bộ Đảng xã thành lập năm 1976 với 6 đảng viên; đến năm 2001 nâng lên Đảng bộ xã, năm 2004 Đảng bộ có 48 đảng viên. Thành lập cùng năm 1976 có các tổ chức như MTTQ phường, Đoàn TNCSHCM, hội LHTNVN, Hội PNVN...; Hội Nông dân thành lập năm 1976, HĐND thành lập từ 1977.

XÃ ĐẠO THẠNH

Gồm có các ấp: ấp 1, ấp 2 , ấp 3A, ấp 3B, ấp 4, ấp 5.

Vào năm 1808, đời Gia Long có 2 làng Đạo Ngạn và An Hòa thuộc tổng Kiến Thuận, năm 1836 thuộc tổng Thuận Trị. Ngày 7.7.1877, làng An Hòa đổi thành Thạnh Trị, thuộc tổng Hưng Trị. Đến nàgy 24.11.1932, làng Đạo Ngạn và Thạnh Trị nhập lại lấy tên là Đạo Thạnh, thuộc tổng Thuận Trị. Một phần đất phường 4 ngày nay là đất làng Đạo Ngạn và Thạnh trị.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc tổng Thuận Trị, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, thuộc Thị xã Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã thuộc quận Châu Thành, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía đông huyện, về xã theo Quốc lộ 50 khoảng 5,5km; đông giáp xã Mỹ Phong; tây giáp xã Long An (huyện Châu Thành); nam giáp phường 10; bắc giáp xã Lương Hòa Lạc, (huyện Chợ Gạo).

Diện tích tự nhiên 529 ha: thổ cư 314.300,00 ha; đất vườn 439,63 ha; nuôi trồng thủy sản 0,815 ha.

Dân số: 11.744 nhân khẩu (2.518 hộ); trong đó, nam 5.726, nữ 6.016; người Kinh 11.379, người Hoa 364, người Khơme 1; Tôn giáo: Phật giáo 99 người, Công giáo: 17, Tin Lành 36, Cao Đài; 93. Tỉ lệ sinh năm 2004 là 1,45%, tử 0,4%. Số người di cư năm 2004: 94; nhập cư: 247.

Nghề chính là nông nghiệp, làm vườn; nghề phụ: tiểu thủ công nghiệp, chăn nuôi và thương mại dịch vụ. Tỉ lệ hộ nghèo năm 2004 là 4%, trong đó có 16 hộ nghèo loại A (0,8 %).

Qua xã có Quốc lộ 50 dài 2km; đường liên xã Đạo Thạnh - Mỹ Phong, phường 7 dài 4km, Đạo Thạnh - phường 10 dài 3km, Đạo Thạnh - Lương Hòa Lạc dài 3km. Hệ thống cầu, cống, sông, rạch.... có kinh Bảo Định qua xã dài 3,2 km, rạch Cầu Bần 2km, rạch Bà Đắt 1,7 km, rạch Dự Bị 1,6 km; Cầu Hùng Vương, Thạnh Trị, Đạo Thạnh bán kiên cố, Cầu Bần, Công Dân; cầu cống ngăn mặn Bảo Định (công trình Quốc gia), cống Quốc lộ 50, cống rạch Bà Đắt. Xã có bến đò Trần Minh Kỳ.

Xã đã được tặng thưởng 6 huân chương gồm 3 hạng Nhất, 1 hạng Nhì và 2 hạng Ba, 50 bằng khen và giấy khen; Đội du kích xã được tuyên dương đơn vị Anh hùng năm 1976. Toàn xã có 12 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 261 liệt sĩ, 42 thương binh, 14 gia đình có công với nước.

XÃ MỸ PHONG

Gồm 8 ấp: Mỹ Lương, Mỹ Phú, Mỹ Hòa, Mỹ Hưng, Mỹ An, Hội Gia, Mỹ Lợi, Mỹ Thạnh.

Mỹ Phong nguyên là thôn Mỹ Hóa thuộc tổng Kiến Thạnh vào đời Gia Long. Đời Minh Mạng, thôn nầy thuộc tổng Thạnh Phong. Ngày 8.9.1867 đổi thành Mỹ Phong.

Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tg Thanh Phong, quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc h. Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; địch đặt xã Mỹ Phong, quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã thuộc thị xã Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho (từ 1967 - 1975 là thành phố trực thuộc khu 8) còn địch đặt xã Mỹ Phong, quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía bắc thành phố Mỹ Tho từ đó về đi theo đường Hùng Vương theo hướng bắc rồi rẽ phải xuống cầu Bần khoảng 1,5 km; đông giáp xã Song Bình, h. Chợ Gạo; tây giáp xã Lương Hòa Lạc, h. Chợ Gạo; nam giáp phường 8, thành phố Mỹ Tho; bắc giáp xã Thanh Bình, h. Chợ Gạo.

Diện tích tự nhiên 1074,2720ha: thổ cư 41ha3173,86, trồng lúa 389ha9543, vườn 515ha5401, nuôi trồng thuỷ sản 3ha1500, chưa khai thác 11ha9127 (chủ yếu là mặt nước sông rạch).

Dân số: 13.006 nhân khẩu (2546 hộ); trong đó, nam 6.201, nữ 6.805; người Kinh 12.987, người Hoa: 18, người Khơme 1; người theo Phật giáo là 217, theo Công giáo 12, theo Tin Lành 03, theo Cao Đài 57, Hòa Hảo 6.

Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,37%, tử 0,24%. Số người nhập cư năm 2004 là 402.

Ngành nghề chính là nông nghiệp, làm vườn và chăn nuôi heo, bò; nghề phụ: làm bún, hủ tíu, dịch vụ, sữa chữa cơ khí,... Hiện hộ giàu chiếm 25%, hộ khá chiếm 73,84% và hộ nghèo 1,16%, xã không còn hộ có nhà dột nát.

Qua xã có Quốc lộ 50 dài 2 km, tỉnh lộ 2 tuyến dài 3,9km...; mạng lưới kênh, rạch... có rạch Gò Cát dài 2,8 km, kinh lộ ngang 879 dài 2,5km...

Là một trong những vùng đất được khai phá sớm của thành phố Mỹ Tho, nếu tính từ ngày hình thành địa danh hành chính đến nay là 212 năm. Trong kháng chiến chống Pháp, năm 1948 lực lượng xã phối hợp cùng bộ đội địa phương Chợ Gạo đánh tiêu diệt 1 đại đội lính Pháp tại ngã tư Chà Sáu thuộc ấp Mỹ Hoà và đánh tiêu diệt 1 tiểu đoàn lính Com-măng-đô, trong đó có 2 tên quan hai (Pháp); tại nhà ông Nguyễn Tử Vân đã diễn ra hội nghị vạch 5 kế hoạch chống Pháp tái chiếm Mỹ Tho và Nam Bộ, tham dự có đồng chí Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Hoàng Quốc Việt.

Hiện toàn xã có 321 liệt sĩ, 60 thương binh, 2 lão thành cách mạng, 669 gia đình có công với nước, 16 huân chương tập thể hạng I, 12 huân chương hạng II, 1 huân chương hạng III; 153 cá nhân nhận huân huy chương các loại.

Chi bộ Đảng xã được thành lập vào ngày 16/6/1945 với 6 đảng viên, đến nay Đảng bộ có 163 đảng viên sinh hoạt ở 14 chi bộ. Thành lập cùng năm 1960 với MTTQVN xã là Đoàn TNCSHCM, Hội NDVN, Hội LHTNVN. Hội CCB xã thành lập năm 1990. HDND xã thành lập năm 1977.

XÃ TÂN MỸ CHÁNH

Gồm 4 ấp: Phong Thuận, Tân Tỉnh A, Tân Tỉnh B, Bình Phong.

Vào đời Gia Long có 3 thôn Phú Hội, Mỹ Chánh và Bình Phong thuộc tổng Kiến Thạnh, đến đời Minh Mạng có thêm thôn Phong Thuận, thuộc tổng Thạnh Phong. Ngày 29.11.1923, nhập Phú Hội và Mỹ Chánh lấy tên là Hội Mỹ, đồng thời nhập Bình Phong và Phong Thuận lấy tên là Tân Phong. Năm 1936, Hội Mỹ và Tân Phong nhập lại lấy tên là Tân Hội Mỹ. Năm 1956, Tân Hội Mỹ đổi tên lại là Tân Mỹ Chánh.

Trước Cách mạng tháng Tám, thuộc xã Làng Tân Mỹ Chánh, tg Thạnh Phong, quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, cả ta và Pháp đều gọi là ấp Làng Tân Hội Mỹ, tg Thạnh Phong, quận Chợ Gạo. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Tân Mỹ Chánh thuộc quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; địch đặt xã Tân Mỹ Chánh thuộc quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường.

Nằm phía đông huyện, về xã đi theo đường Quốc lộ 50 khoảng 5,5 km; đông giáp xã Song Bình; tây giáp phường 9; nam giáp xã Xuân Đông, quận Chợ Gạo; bắc giáp xã Mỹ Phong.

Diện tích tự nhiên 724,411 ha: thổ cư 16,525 ha, trồng lúa 267,427ha, vườn 295,244ha, chưa khai thác 59,186 ha.

Dân số: 11.741 nhân khẩu (2.518 hộ); trong đó, nam 5.726, nữ 6.015; người Kinh 11.379, người Hoa 1, người Khơme 1; người theo Phật giáo 99, theo Công giáo 17, theo Tin Lành 36, Cao Đài 93, tôn giáo khác 10. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,45%, tử 0,4%; số người di cư năm 2004 là 94, nhập cư 247.

Ngành nghề chính là làm ruộng, vườn, chăn nuôi; nghề phụ: dịch vụ, buôn bán nhỏ.

Qua xã có Quốc lộ 50 dài khoảng 2,5 km; đường Làng Bình Phong dài khoảng 2,4km nối liền phường 9 - xã Tân Mỹ Chánh - xã Song Bình (Chợ Gạo); lộ Vàm ấp Tân Tỉnh dài khoảng 1,5km nối liền xã Tân Mỹ Chánh - Xuân Đông (Chợ Gạo); sông Tiền dài khoảng 2,7 km.

Trạm y tế rộng 250m2, có phòng khám Đông - Tây y, phòng nha, phòng châm cứu, phòng hộ sản, 1 bác sĩ, 2 y sĩ, 1 nữ hộ sinh,...

Xã có 12 bà mẹ Việt Nam Anh hùng (2 mẹ còn sống); 146 liệt sĩ, 58 thương binh, 1 lão thành cách mạng, 8 gia đình có công với nước, 70 huân chương của tập thể và cá nhân.

Sau năm 1975, xã có một chi bộ Đảng trực thuộc thành ủy Mỹ Tho. Từ năm 1986 đến nay Đảng bộ Tân Mỹ Chánh đã trải qua 5 kỳ Đại hội. MTTQVN xã thành lập năm 1975, Đoàn TNCSHCM, Hội PNVN, Hội CCB thành lập ngày 19/5/1990, Hội Nông dân thành lập ngày 19/01/1976...

XÃ TRUNG AN

Gồm các ấp: ấp 1, ấp 2, ấp 3, ấp 4, ấp 5 và ấp Bình Tạo.

Nguyên là 2 thôn Trung Lương và An Đức Đông thuộc tổng Kiến Thuận, đời Gia Long. Đời Minh Mạng thuộc tổng Thuận Trị. Ngày 24.10.1925, hai làng nầy nhập lại lấy tên là Trung An, thuộc tổng Thuận Trị, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân đặt xã Trung An thuộc tổng Thuận Trị, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Trung An thuộc quận 4, thành phố Mỹ Tho; Ch1nh quyền VNCH đặt xã Trung An thuộc quận Châu Thành, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây thành phố; đông giáp phường 5 và phường 10; tây giáp xã: Phước Thạnh, xã Thạnh Phú và xã Bình Đức, (huyện Châu Thành); nam giáp sông Tiền; bắc giáp xã Long An, (huyện Châu Thành) và phường 10, thành phố Mỹ Tho.

Diện tích tự nhiên 710,9ha: thổ cư 36,05 ha, trồng lúa 3 ha, vườn cây 464,42 ha, nuôi trồng thủy sản 5,26 ha, chưa khai thác 25,075ha, diện tích káhc 177,1 ha.

Dân số: 8,521 nhân khẩu (1.824 hộ); trong đó, nam 4.094, nữ 65; người Kinh 8.432, người Hoa 4, người Khơme 20, dân tộc khác 65; Tôn giáo: Phật giáo 112 người, Công giáo: 126, Tin Lành: 11, Cao Đài: 5. Tỉ lệ sinh năm 2004 là 1,27%, tử 0,4%.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp; nghề phụ: tiểu thủ công nghiệp. Trong những năm qua, kinh tế xã Trung An phát triển theo hướng nông nghiệp kết hợp tiểu thủ công nghiệp và thương mại, dịch vụ, cùng quá trình đô thị hóa nên cơ cấu kinh tế chuyển biến rõ rệt, hiện xã có 285 hộ giàu, 1.432 hộ khá và trung bình, 107 hộ nghèo.

Qua xã có Quốc lộ 1A dài 1km, Quốc lộ 60 1km...; Mạng lưới sông, ngòi, cầu cống... có cầu Chùa dài 1,5km, rạch Cái Ngang 1,5km, sông Tiền dài 1,5km, cầu Trung An 1 và 2 (bê tông), cống qua Quốc lộ 1A,...

Hiện toàn xã có 12 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 257 liệt sĩ, 86 thương binh, 2 lão thành cách mạng, 201 gia đình có công với nước, 321 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ xã Trung An được thành lập ngày 19-9-1946 với 3 đảng viên, hiện nay Đảng bộ có 158 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã cùng thành lập tháng 4 năm 1946 là các tổ chức như Đoàn TNCSHCM, Hội PNVN, Hội Nông dân; Hội Cựu chiến binh thành lập tháng 8-1990, HĐND thành lập năm 1946, UBND...

2. THỊ XÃ GÒ CÔNG :

Thị xã Gò Công ở trung tâm phía đông của tỉnh Tiền Giang. Phía đông, phía nam và phía đông bắc giáp Huyện Gò Công Đông. Phía tây và phía tây bắc giáp Huyện Gò Công Tây. Diện tích tự nhiên 32,1 km2. Dân số: 53.699 người. Trong đó:

25.995 nam

27.704 nữ

Mật độ 1.673 người/km2

Phân bố địa bàn cư trú:

Khu vực thị trấn, thị tứ: 34.114 người

Nông thôn: 19.585 người(1).

Thị xã được chia thành 4 phường (1, 2, 3 và 4) và 4 xã (Long Chánh, Long Hoà, Long Hưng và Long Thuận).

Thị xã có đường Quốc lộ 50 đi qua, nối với thành phố Hồ Chí Minh cách 60 km về phía bắc, nối với thành phố Mỹ Tho cách 35 km về phía tây và có các đường tỉnh lộ đi về các thị trấn ven biển cách 15 km về phía đông. Rạch Gò Công bắt nhánh từ sông Vàm Cỏ, bao quanh phía bắc thị xã và chảy qua nội thị theo hướng bắc-nam nối với các kênh rạch khác đi ra sông Tiền. Với vị trí địa lý và hệ thống giao thông thuỷ bộ thuận tiện, thị xã Gò Công ngày càng phát huy vị trí đô thị trung tâm phía đông của tỉnh Tiền Giang.

Địa bàn thị xã cũng trải qua nhiều t hay đổi về địa lý hành chính. Tại trung tâm thị xã ngày nay, trước kia là hai làng Bình Thuận Đông và Bình Thuận Tây. Năm 1836, đổi tên là làng Thuận Tắc và Thuận Ngãi, thuộc tổng Hòa Lạc. Thời Pháp thuộc, hai làng Thuận Tắc là Thuận Ngãi nhập lại gọi là làng Thành Phố.

Năm 1840, dưới triều vua Minh Mạng vùng đất này là huyện lỵ của huyện Tân Hoà, thuộc phủ Hoà Thạnh, tỉnh Gia Định; năm 1852 lại nhập vào phủ Tân An vẫn thuộc tỉnh Gia Định. Sau hiệp ước Nhâm Tuất 1862, thực dân Pháp vẫn giữ Gò Công là huyện lỵ của huyện Tân Hoà. Từ năm 1867 là Châu thành Gò Công của khu T ham biện Tân Hoà thuộc tỉnh Sài Gòn. Từ năm 1924, tỉnh lỵ của tỉnh Gò Công đặt tại làng Thành Phố. Khi Pháp tái chiếm Gò Công (10/1954) đây vẫn là tỉnh lỵ. Sau hiệp định Genève, từ 1958 đến 1963 là quận lỵ của quận Gò Công thuộc tỉnh Định Tường. Từ năm 1964 đến 30-4-1975 là tỉnh lỵ của tỉnh Gò Công.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, chính quyền cách mạng vẫn đặt thị xã Gò Công là tỉnh tỵ của tỉnh Gò Công. Sau ngày 30-4-1975, thị xã Gò Công được tổ chức đầy đủ các cơ quan hành chính, tổ chức và đoàn thể cách mạng. Từ năm 1976, khi Gò công và Mỹ Tho hợp nhất thành tỉnh Tiền Giang, tên gọi thị xã Gò Công chỉ tồn tại một thời gian ngắn, sau đó được gọi là thị trấn của huyện Gò Công, rồi là thị trấn của huyện Gò Công Đông.

Ngày 16/2/1987,theo quyết định số 37/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thành lập thị xã Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang.

Trong những năm đầu thế kỷ XX, Gò Công vẫn là một tỉnh lỵ nhỏ, nhiều nét cổ xưa, đường phố hẹp, ngắn, những dãy phố với mái ngói âm dương, những tiệm buôn bán có biển hiệu chữ Hoa, chữ Việt liền kề, bến xe ngựa, bến xe ca, bến xe tải, bến đò còn vắng khách, nhà lồng chợ thoáng đãng, buổi tối đường phố vẫn còn thắp đèn dầu. Năm 1936, xây dựng nhà máy nước, năm 1937 mới xây dựng nhà máy điện công suất nhỏ. Một vài cơ sở tiểu thủ công nghiệp nhỏ như xay xát lúa gạo, sửa chữa xe nhỏ. Chợ Gò Công thành lập năm 1917, chủ yếu buôn bán lúa gạo và các sản vật địa phương.

Trên mảnh đất này đã từng diễn ra nhiều sự kiện lịch sử. Năm 1861-1862 những đội quân chống Pháp của ba tỉnh miền Đông về tụ nghĩa dưới ngọn cờ của Bình tây Đại Nguyên soái Trương Định. Tháng 3-1963, nghĩa quân Trương Định đã anh dũng chống lại cuộc tấn công qui mô của liên quân Pháp-Tây Ban N ha. Tháng 8-1964, mảnh đất này là nơi an nghỉ cuối cùng của người anh hùng dân tộc Trương Định. Người dân địa phương còn ghi nhận công lao của bà Trần Thị Sanh, người vợ thứ của Trương Định, là một người giàu tinh thần yêu nước, bà từng là nguồn hậu cần lớn của cuộc khởi nghĩa chống Pháp của Trương Định.

Những năm đầu thế kỷ XX, P han Bội Châu, P han Châu Trinh đã từng đến Gò Công khơi dậy tinh thần yêu nước của nhân sĩ trí thức ở đây. Nhân sĩ Huỳnh Đình Điển cùng một số người quê Gò Công đã tích cực t ham gia phong trào Minh Tân. Ông là người ủng hộ P han Chu Trinh trên nhiều lĩnh vực. Năm 1927, đây cũng là nơi tỉnh hội Việt Nam t hanh niên Cách mạng đồng chí hội tỉnh Gò Công lập trụ sở, mở cơ sở kinh tế và hoạt động. Năm 1930, tại đây đã xuất hiện cờ đỏ, truyền đơn báo hiệu Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời. Tháng 8-1945, nơi đây chứng kiến cuộc mít tinh chào mừng Cách mạng thành công và sự ra mắt của Chính quyền Cách mạng tỉnh Gò Công. Tháng 8-1954, tại đây đã diễn ra cuộc mít tinh chào mừng Hiệp định Genève của hơn 20.000 nhân dân Gò Công tạo nên tiếng vang lớn trong vùng. Tết Mậu Thân năm 1968, lực lượng vũ trang cách mạng đã tiến công vào trung tâm tỉnh lỵ đánh dấu một mốc son trong lịch sử đấu tranh của quân dân Gò Công.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thị xã Gò Công đẩy mạnh công việc phục hồi sau chiến tranh, chuyển dần những cơ sở dịch vụ hậu cần của quân đội ngụy trước đây sang những tổ sản xuất nông nghiệp, tổ sản xuất thủ công nghiệp, phục vụ đời sống. Cùng với sự phục hồi chung của đất nước, đời sống kinh tế - xã hội của thị xã cũng từng bước đi vào ổn định.

Từ năm 1987, thị xã Gò Công đã được xác định cơ cấu kinh tế "thương mại-dịch vụ-công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp-nông nghiệp"phát triển theo hướng công nghiệp nhỏ. Việc chỉnh trang đô thị đã tạo nên những nét đổi mới ở nội thị, hoạt động thương mại, dịch vụ được thuận lợi hơn. Các ngành công nghiệp được chú trọng, ngành điện tập trung ưu tiên cho sản xuất và phục vụ sinh hoạt. Các hợp tác xã thủ công nghiệp được khuyến khích, đã thu hút hàng trăm lao động. Sản xuất nông nghiệp đã phát huy hiệu quả chương trình "ngọt hoá Gò Công", đưa đời sống kinh tế ở nông thôn ngày càng được cải thiện. Đến cuối năm 2000, kinh tế thị xã luôn ở mức tăng trưởng khá và ổn định, tạo tiền đề cho việc chuyển dịch theo hướng công nghiệp, hoá hiện đại hoá.

Địa bàn thị xã Gò Công vốn là trung tâm văn hoá của vùng Gò Công. Nơi đây có truyền thống học hành, nhiều người đỗ đạt cao trong các kỳ thi xưa rồi làm quan dưới các triều vua nhà Nguyễn. Ông Phạm Đăng Hưng đã từng làm quan Thượng thư dưới 3 triều vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị. Con gái ông là bà Phạm Thị Hằng là vợ vua Thiệu Trị, là mẹ vua Tự Đức tức Thái hậu Từ Dũ nổi tiếng trong lịch sử. Đây cũng là quê hương của nhà văn Hồ Biểu Chánh, nhà văn Sơn Vương... Trong những năm 1925-1930, tại đây đã có Nhà xuất bản Nữ lưu thơ quán của P han Thị Bạch Vân nổi tiếng toàn quốc, tập hợp nhiều cây bút tiến bộ đương thời cổ động cho nữ giới mở mang học vấn và bảo vệ luân lý đạo đức. Đây cũng là quê hương của nữ thi sĩ Lê Thị Kim (nữ sĩ Manh Manh), của bà Cao Thị K hanh, chủ bút tờ Phụ nữ tân văn... Những sản phẩm độc đáo của vùng Gò Công như: điệu lý con sáo Gò Công, tủ thờ Gò Công hiện vẫn còn được lưu giữ. Ngoài ra, Gò Công còn có những di tích quan trọng như lăng Hoàng Gia, đền thờ anh hùng Trương Định, đình Trung, miếu thờ Võ Tánh...

Định hướng phát triển tới năm 2010 là: xây dựng thị xã Gò Công thành một trung tâm thương mại - dịch vụ và phát triển công nghiệp chế biến, trung tâm văn hoá, giáo dục-đào tạo vùng phía đông của tỉnh Tiền Giang. Để đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, sẽ hình thành cụm công nghiệp Long Hưng, phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật công trình phía Nam và bắc-đông bắc thị xã; hoàn chỉnh mạng lưới giao thông nội, ngoại thị, giao thông đối ngoại; hoàn chỉnh mạng lưới điện, thông tin liên lạc cấp thoát nước ... đảm bảo cho thị xã Gò Công phát triển n hanh và bền vững theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, văn minh tiến bộ vì mục tiêu "Dân giàu , nước mạnh, xã hội công bằng , dân chủ, văn minh".

(1) Số liệu thống kê 2004.

CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH THUỘC THỊ XÃ GÒ CÔNG

PHƯỜNG 1

Gồm 4 khu phố: 1, 2, 3 và 4. Trước Cách mạng tháng Tám, đây thuộc thôn Thuận Tắc, tổng Hòa Lạc, huyện Tân Hòa, phủ Tân An, tỉnh Gia Định.

Nguyên thuỷ thôn Thuận, thôn Thuận Ngãi vào đầu đời Gia Long, thuộc tổng Hòa Bình. Đời Minh mạng đổi lại là Thuận Tắc (Bình Thuận Tây), Thuận Ngãi (Bình Thuận Đông) thuộc tổng Hòa Lạc. Ngày 31.3.1885, hai làng nầy nhập lại lấy tên là Thành Phố.

Trong kháng chiến chống Pháp, Thành Phố thuộc tổng Hòa Lạc Hạ, tỉnh Gò Công; Chính quyền thực dân Pháp đặt làng Thành Phố thuộc tổng Hòa Lạc Hạ, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Mỹ, năm 1956, chính quyền VNCH đổi lại là xã Long Thuận thuộc quận Hòa Lạc, tỉnh Gò Công. Ta đặt xã Long Thuận thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công.

Nằm ở trung tâm của thị xã; đông giáp phường 2; tây giáp phường 4; nam giáp phường 5; bắc giáp phường 3.

Diện tích tự nhiên 49,0053 ha: thổ cư 25,6651 ha, trồng lúa 0,8758 ha, vườn cây 3,5952 ha, chưa k hai thác 7,0104 ha, đất chuyên dùng 11,8588 ha.

Dân số: 6.527 nhân khẩu (1.342 hộ); trong đó, nam 3.096, nữ 3.431; người Kinh 5.901, người Hoa 626; người theo Phật giáo 123, theo Công giáo 31, Tin Lành 6, Cao Đài 119 người. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,3%, tử: 0,49%.

Ngành nghề sản xuất chính là thương mại, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp; nghề phụ: TTCN làm bánh, làm cần câu và lưỡi câu, và dịch vụ sửa chữa điện tử, xe máy, máy nổ, điện cơ, điện lạnh... Là khu vực đầu mối của các địa phương lân cận trong và ngoài thị xã, mức sống của người dân tương đối, hộ khá và giàu chiếm 96,29%, hộ nghèo 3,71%.

Qua phường có tỉnh lộ 862 từ phường 4 qua phường 1 đến phường 2 về huyện Gò Công Đông dài 700m, đường Trần Hưng Đạo dài 600m... mạng lưới sông, rạch, cầu cống.. có sông Gò Công dài 1km, cầu Long Chánh trọng tải 25 tấn, bến Bạch Đằng.

Chợ cũ nằm tại phía bắc khu phố 1, buôn bán các loại hàng hóa nông sản, thủy sản, thực phẩm, tạp hóa; hàng ngày có khoảng trên 2.000. Chợ Thị xã mới xây dựng năm 2004 trên nền khu bệnh viện Gò Công cũ nằm ở phía tây khu phố 1, chuyên kinh doanh các mặt hàng cao cấp, trang trí nội thất, may mặc, giầy dép... hàng ngày có 1.000 - 1.500 người.

Trường mẫu giáo có 2 điểm trường, cơ sở vật chất, đầy đủ đáp ứng được việc dạy và học: trường mẫu giáo Hướng Dương tại khu phố 2 và khu phố 4 gồm 8 lớp 240 cháu và trường mẫu giáo tư thục Hoa Lan tại khu phố 3 với 3 lớp 90 cháu. Trường tiểu học đạt chuẩn Quốc gia, có 29 lớp, niên khóa 2004 - 2005 có 1.204 học sinh, hai lần được Nhà nước tặng Huân chương lao động hạng 2 và 3. Trường trung học cơ sở đạt chuẩn Quốc gia có 29 lớp, khoảng 1.240 học sinh, năm 2004 được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen trường tiên tiến.

Phường có mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị Tuồng, 21 liệt sĩ, 21 thương binh, 43 gia đình có công với nước, 16 lão thành cách mạng, 1 Huân chương Chiến công hạng 3 của tập thể cán bộ, nhân dân; 39 huân, huy chương kháng chiến chống Pháp và Mỹ của cá nhân.

PHƯỜNG 2

Gồm 5 khu phố: 1, 2, 3, 4 và 5. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta gọi địa bàn này là xã Long Thuận thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công; Chính quyền VNCH đặt xã Long Thuận thuộc quận Hoà Lạc, tỉnh Gò Công.

Nằm ở phía nam thị xã; đông giáp xã Long Thuận; tây giáp phường 1; nam giáp phường 5; bắc giáp phường 3.

Diên tích tự nhiên 71,34 ha: thổ cư 16,22 ha, trồng lúa 1,35 ha, vườn cây 16,85 ha.

Dân số: 7.669 nhân khẩu (1.563 hộ); trong đó, nam 4.608, nữ 3.061; người Kinh 1.532 hộ, người Hoa 31 hộ; Tôn giáo có: Phật giáo 577 người, Công giáo: 152, Tin Lành: 14, Cao Đài: 61.

Ngành nghề chính là tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ; nghề phụ: lao động phổ thông, Phường 2 có 303 hộ giàu chiếm 19,38%, 76 hộ nghèo chiếm 4,86%.

Qua phường có tỉnh lộ 871 dài 300m, tỉnh lộ 862 dài 800m; Sông, rạch... có kinh Salisetti 1,5km, kinh Cầu H.

Trường mẫu giáo bán kiên cố hiện có 2 lớp, 2 phòng, 53 cháu; trường trung học cơ sở đạt chuẩn Quốc gia với 28 lớp, 1.200 học sinh.

Toàn phường có 39 liệt sĩ, 37 thương binh, 1 lão thành cách mạng, 1 gia đình có công với nước, 36 huân chương của tập thể và cá nhân.

Đảng bộ phường 5 thành lập năm 1988, hiện có 112 đảng viên. Cùng với MTTQVN phường (thành lập năm 1987) là các tổ chức như Đoàn TNCSHCM (thành lập năm 1987), Hội TNVN (thành lập năm 1987), Hội PNVN (thành lập năm 1987), Hội Cựu chiến binh (thành lập năm 1992), Hội Nông dân (thành lập năm 1987), HĐND (thành lập năm 1989), UBND (thành lập năm 1987).

PHƯỜNG 3

Gồm 4 khu phố: 1, 2, 3 và 4. Nằm ở phía đông bắc thị xã, về phường theo đường Nguyễn Trọng Dân, khoảng 500m: đông giáp xã Long Hưng; tây giáp phường 2 và sông Gò Công; nam giáp phường 2 và xã Long Thuận; bắc giáp xã Long Hưng.

Diện tích tự nhiên 1.097,072 ha: thổ cư 29,537 ha, trồng lúa 9,5056 ha, vườn cây 63,457 ha, nuôi trồng thủy sản 7,2076 ha.

Dân số: 6.350 nhân khẩu (1.260 hộ); trong đó nam 2.999, nữ 3.351; người Kinh 6.334, người Hoa 15, người Khơme 1; Tôn giáo có: Phật giáo 170 người, Công giáo: 180, Tin Lành: 1, Cao Đài: 66. Số người di cư năm 2000 là 19, 2001: 29, 2002: 25, 2003: 22, 2004: 28; số người nhập cư năm 2000: 35, 2001: 29, 2002: 26, 2003: 31, 2004: 28.

Ngành nghề sản xuất chính là thương mại và dịch vụ. Những năm gần đây, kinh tế của phường tăng trưởng khá, xây dựng kết cấu hạ tầng có đầu tư để nâng cấp đường hẻm, xây dựng mới trụ sở khu phố, kinh doanh cá thể phát triển và có hiệu quả.

Qua phường có đường Nguyễn Trọng Dân dài 4km, đường Trần Hưng Đạo dài 3km...

Hiện toàn phường có 29 liệt sĩ, 12 thương binh, 24 lão thành cách mạng, 20 gia đình có công với nước, 35 huân chương cá nhân.

Đảng ủy phường 3 thành lập ngày 27-7-1994. Thành lập cùng ngày với MTTQVN phường (15-8-1994) là các tổ chức Đoàn TNCSHCM, Hội LHTNVN, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân...

PHƯỜNG 4

Gồm 5 khu phố: 1, 2, 3, 4 và 5. Trước Cách mạng tháng Tám, đây là thôn Thuận Tắc thuộc tổng Hoà Lạc Thượng, quận Tân Hoà, tỉnh Định Tường. Thôn Thuận Tắc sau khi nhập với Thuận Ngãi (ngày 31.3.1885) đổi tên lại là Thành Phố. Năm 1956, xã Thành Phố đổi lại là Long Thuận.

Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Long Thuận thuộc huyện Gò Công; chính quyền thực dân Pháp gọi là xã Long Chánh và đặt thuộc tổng Hoà Lạc Thượng, quận Tân Hoà, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Long Thuận thuộc thị xã Gò Công, tỉnh Gò Công; Chính quyền VNCH đặt xã Long Thuận thuộc quận Hoà Lạc, tỉnh Gò Công.

Nằm ở phía tây thị xã; đông giáp phường 3; tây giáp xã Long Chánh; nam giáp phường 5; bắc giáp xã Long Chánh.

Diện tích tự nhiên 151,0856 ha: thổ cư 10,5941 ha, trồng lúa 49,1419 ha, vườn cây 31,1883 ha, nuôi trồng thủy sản 2,8297 ha, chưa k hai thác 37,2517 ha.

Dân số: 7.638 nhân khẩu (1.433 hộ); trong đó, nam 3.434, nữ 4.204; người Kinh 7.620, người Hoa 12, người Khơme 2, người Chăm 1; Tôn giái có: Phật giáo 99 người, Công giáo: 25, Tin Lành: 4, Cao Đài: 1.813. Tỷ lệ sinh năm 2004: 1,548 %; tử năm 2004: 0,351%.

Ngành nghề chính là tiểu thủ công nghiệp. Tổng giá trị sản lượng công nghiệp và dịch vụ năm 2004 đạt 6,8 tỷ đồng. Về nông nghiệp, với việc áp dụng chương trình ngọt hóa Gò Công để cải tạo đất, thâm canh tăng vụ, từ 1 vụ lúa lên 3 vụ và trồng màu xen canh, cải tạo vườn tạp, trồng cây ăn trái đạt sản lượng và chất lượng cao. Hiện phường có 38 hộ nông dân đạt danh hiệu sản xuất kinh doanh giỏi, tỷ lệ hộ nghèo còn 0,45%, tỷ lệ hộ giàu đạt 13,93%.

Hiện phường 4 có 2 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 28 liệt sĩ, 10 thương binh, 2 lão thành cách mạng, 3 huân chương cá nhân và tập thể. Năm 2000, phường đạt danh hiệu phường văn hóa đầu tiên của tỉnh Tiền Giang.

PHƯỜNG 5

Gồm 4 khu phố: 1, 2, 3 và 4. Phường 5 được thành lập từ tháng 1/2004 trên cơ sở chia cắt một phần từ xã Long Hòa, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang.

Nằm ở phía đông thị xã Gò Công; đông giáp xã Long Thuận; tây và nam giáp xã Long Hòa; bắc giáp phường 1 và phường 2.

Diện tích tự nhiên 160 ha: thổ cư 11,4 ha, trồng lúa 40 ha, trồng cây và hoa màu 91,45 ha, chưa k hai thác 17,15 ha.

Dân số: 4.050 nhân khẩu; trong đó, người Kinh 4.030, người Hoa 20; Tôn giáo có: Phật giáo 279 người, Cao Đài: 27.

Ngành nghề chính là dịch vụ thương mại, tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp; nghề phụ: chăn nuôi gia súc, và các dịch vụ khác... Toàn phường hiện có 85 hộ kinh doanh, trong đó có 14 hộ kinh doanh thực phẩm chế biến, 32 hộ kinh doanh hàng công nghiệp, 39 hộ kinh doanh dịch vụ khách sạn và dịch vụ sữa chữa. Phường hiện có 292 hộ giàu đạt 30,96%, 300 hộ khá đạt 31,81%, 333 hộ trung bình đạt 35,31%, 13 hộ nghèo chiếm 1,57%.

Qua phường có tỉnh lộ 862 dài khoảng 1,5km và đường vành đai phía nam thị xã đến ấp Việt Hùng xã Long Hòa dài khoảng 2,8 km có tuyến sông Gò Công chạy dọc giáp ranh địa giới phường 1, phường 2 và xã Long Thuận dài 3,5km kênh cấp thoát nước dài 1km. Phường 5 có một chợ họp từ 5 giờ đến 8 giờ sáng với 30 hộ kinh doanh nhỏ.

Trường mẫu giáo có cơ sở vật chất đầy đủ đáp ứng được nhu cầu dạy và học của 32 cháu. Trường tiểu học đã chuyển giao về xã Long Hòa và hiện nay ở phường 5 không có trường tiểu học. Trường trung học cơ sở có 12 lớp, 148 học sinh.

Trạm y tế phường có 1 bác sĩ, 4 y sĩ, trang thiết bị đáp ứng được yêu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân Ngoài ra, địa bàn phường 5 có Bệnh viện Đa khoa khu vực Gò Công, các khu phố đều có tổ y tế, cộng tác viên phong trào y tế Quốc gia.

Đảng bộ phường 5 thành lập từ tháng 1/2004, hiện có 8 chi bộ trực thuộc, 47 đảng viên. Cùng với MTTQVN phường là các tổ chức khác như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn T hanh niên, Hội Cựu chiến binh, HĐND, UBND.

XÃ LONG CHÁNH

Gồm 4 ấp: Long Mỹ, Long Phước, Long Hưng, Long Bình.

Thôn Long Chánh đời Minh mạng (1836) thuộc tổng Hòa Đồng, đời Thiệu Trị thuộc tổng Hòa Đồng Hạ. Trước Cách mạng tháng Tám, Long Chánh thuộc tổng Hòa Đồng Trung, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Long Thuận, tỉnh Gò Công; chính quyền thực dân Pháp đặt xã Long Thuận thuộc tổng Trung, quận Hoà Lạc, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Long Thuận thuộc tỉnh Gò Công; chính quyền VNCH đặt xã Long Thuận thuộc quận Hoà Lạc, tỉnh Gò Công.

Nằm ở phía đông thị xã; đông giáp phường 4, xã Long Hưng và xã Tân Trung, huyện Gò Công Đông; tây giáp xã Thành Công và xã Yên Luông, huyện Gò Công Tây; nam giáp xã Long Hoà; bắc giáp xã Thành Công, huyện Gò Công Tây.

Diện tích tự nhiên 768,26 ha: thổ cư 16,37 ha, trồng lúa 513,7 ha, trồng rau, màu 37,59 ha, vườn cây 75,39 ha, nuôi trồng thủy sản 15,05 ha, chưa khai thác 5,03 ha, đất phi nông nghiệp 121,49 ha.

Dân số: 5.100 nhân khẩu (với 1.068 hộ); trong đó, nam 2.109, nữ 2.991; người Kinh 1.066, người Hoa 1, người Chăm 1. Tôn giáo hộ theo Phật giáo 15. Tỷ lệ sinh các năm - 2000: 1,9%, 2001: 1,8%, 2002: 1,7%, 2003: 1,7%, 2004: 1,7%.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp; nghề phụ: mua bán nhỏ, tiểu thủ công nghiệp, sửa chữa ôtô. Hiện có khoảng 2,5% hộ giàu, 19,7% hộ nghèo.

Qua xã có Quốc lộ 50 mới mở dài 300m, tỉnh lộ 873B dài 3100m.... Sông, rạch, cầu cống... có sông Gò Công dài 3100m, rạch Gò Gừa dài 2.200m, rạch Rô dài 1600m, rạch Thị Nguyệt dài 800m, cầu Bảy Lượm bằng bêtông, cống đập Gò Công, trạm cấp nước Tham Thu...

Hiện xã có 2 mẹ Việt Nam Anh hùng là Nguyễn Thị Công và Võ Thị Sẵng, 92 liệt sĩ, 9 thương binh, 45 lão thành cách mạng 103 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ xã thành lập tháng 4/ 1987 với 11 đảng viên, đến năm 1991 thành lập Đảng bộ xã với 33 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã (thành lập tháng 4/1987) là các tổ chức khác thành lập cùng thời điểm đó như Đoàn TNCSHCM, Hội LHTN, Hội Nông dân, UBND; Hội Cựu chiến binh (thành lập 6/12/1989), HĐND (thành lập tháng 7/1987), UBND (thành lập tháng 4/1987).

XÃ LONG HÒA

Gồm 5 ấp: Chợ Mới, Giồng Cát, Kim Liên, Tân Xã, Việt Hùng.

Xã Long Hòa được thành lập từ ngày 30.04.1987, do tách ra từ xã Yên Luông, huyện Gò Công Tây (bao gồm 2/3 diện tích thuộc xã Yên Luông và 1/3 diện tích thuộc xã Bình Nghị và khóm 8, thị trấn Gò Công).

Nằm ở phía nam thị xã; đông giáp xã Long Thuận; tây giáp xã Yên Luông, huyện Gò Công Tây; nam giáp xã Bình Tân, huyện Gò Công Tây và xã Bình Nghị, huyện Gò Công Đông; bắc giáp xã Long Chánh và phường 5.

Diện tích tự nhiên 642,6 ha, trong đó: thổ cư 28 ha, trồng lúa 379, 769 ha, vườn cây 84 ha, trồng màu 90, 625 ha, nuôi trồng thủy sản 15 ha.

Dân số: 6.343 nhân khẩu 1.384 hộ; trong đó, nam 2973, nữ 3.370; người Kinh 6.341, người Hoa 2. Tôn giáo có: Phật giáo 45 người, Công giáo: 9, Tin Lành: 4, Cao Đài: 5, Hòa Hảo: 1. Tỷ lệ sinh 2004: 1%, tử: 0,23%.

Ngành nghề sản xuất chính là sản xuất nông nghiệp; nghề phụ: mộc, hồ, buôn bán nhỏ, nhà trọ, kinh doanh ăn uống. Hiện tỉ lệ hộ giàu chiếm 3%, hộ khá 15%, hộ trung bình 71,07%, hộ nghèo 12,92%.

Qua xã có đường 862 độ dài 1.030m, đường 877 dài 1650m, hương lộ 7 dài 1.300m, đường Võ Duy Linh dài 1350m... Sông, rạch, cầu cống... có rạch Gò Công dài 1400m, kinh Salisetti dài 1050m, kinh 14 dài 4475m, kinh 12 dài 700m; cầu Thầy Năm; cống kinh Kháng Chiến...

Trạm y tế với trang thiết bị đầy đủ có 1 bác sĩ, 2 y sĩ.

Hiện toàn xã có 6 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 13 thương binh, 69 liệt sĩ, 3 lão thành cách mạng, 68 gia đình có công với nước, 37 huân chương của tập thể và cá nhân.

Đảng bộ xã Long Hòa thành lập ngày 30/04/1987 với 32 đảng viên. Hiện nay Đảng bộ có 8 chi bộ, 52 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã (thành lập ngày 30/04/1987) là các tổ chức Đoàn TNCSHCM (thành lập ngày 30/04/1987), Hội LHTNVN, Hội phụ nữ (thành lập ngày 30/04/1987), Hội Cựu chiến binh (thành lập ngày 1/1/1990), Hội Nông dân (thành lập ngày 30/4/1987), HĐND, UBND (thành lập ngày 30/04/1987).

XÃ LONG HƯNG

Thành lập năm 1987 trên cơ sở chia tách từ một phần ấp Bờ Kinh, một phần ấp cầu Bà Trà thuộc xã Tân Đông, một phần khóm 11 và một phần khóm 12 thị trấn Gò Công.

Nằm ở phía bắc thị xã, về xã theo Quốc lộ 50 dài khoảng 3km, theo tỉnh lộ 871 dài 2.5km; đông giáp xã Long Thuận; tây giáp xã Long Chánh; nam giáp phường 3 và phường 4; bắc giáp xã Tân Đông và xã Tân Trung, huyện Gò Công Đông.

Diện tích tự nhiên 657.2203 ha: thổ cư 16.3255 ha, trồng lúa 403.3294 ha, vườn cây 85.4516 ha, nuôi trồng thủy sản 9.5391 ha, trồng màu 52.8739 ha, đất chuyên dùng 47.3875 ha.

Dân số: 4.620 nhân khẩu (1.072 hộ); trong đó, nam 2.309, nữ 2.311, đều là người Kinh; hộ theo Phật giáo 84, theo Công Giáo 22, Cao Đài 112, Tin Lành 19. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,45%, tử 0,34%.

Ngành nghề chính là trồng lúa nước; nghề phụ: chăn nuôi, trồng hoa màu, buôn bán tạp hóa, vận tải hành khách.

Qua xã có Quốc lộ 50 dài 3 km, tỉnh lộ 871 dài 2,5km, đường Trần Hưng Đạo nối dài tỉnh lộ 871 dài 5km; mạng lưới sông, ngòi...: có sông Gò Công dài 4km, sông Sơn Qui dài 1,3km, kênh Rạch Lá dài 750m, kênh Hòa Thạnh 1,2km; cầu Sơn Qui, cầu kênh 3/2 Hưng Hòa; cống kênh 7 Dân (Quốc lộ 50); bến xe khách nằm trên địa bàn ấp Hưng Hòa...

Xã Long Hưng không có trường mẫu giáo, các cháu chủ yếu học ở các trường mẫu giáo của thị xã. Xã cũng không có trường tiểu học, chỉ có 2 điểm phụ ở ấp Hưng Phú và ấp Hưng Thạnh với 5 phòng học cấp 4. Riêng điểm chính đặt tạm tại trường trung học cơ sở phường 3, 22 lớp, 634 học sinh.

Trạm y tế có tổng diện tích 120m2 gồm 5 phòng với trang thiết bị chưa đủ có 1 bác sĩ, 3 y sĩ, 1 y tá, 1 dược sĩ trung cấp, 1 cán bộ điều dưỡng, 2 lương y.

Hiện toàn xã có 27 liệt sĩ, 9 thương binh, 2 lão thành cách mạng, 45 gia đình có công với nước, 33 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ xã Long Hưng thành lập tháng 3-1987 với 12 đảng viên. Hiện nay, Đảng bộ xã có 66 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã (thành lập vào ngày 24-3-1987) là các tổ chức khác như Hội Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến xinh, Đoàn TNCSHCM, Hội LHTNVN, HĐND, UBND.

XÃ LONG THUẬN

Gồm 4 ấp: Gò Tre, Thuận Hoà, Xóm Dinh, Thuận An.

Nguyên là làng Thành Phố đổi tên vào năm 1956.

Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Long Thuận thuộc huyện Hoà Lạc, tỉnh Gò Công; chính quyền VNCH đặt xã Long Thuận thuộc quận Hoà Lạc, tỉnh Gò Công.

Nằm ở phía đông thị trấn; giáp xã Bình Ân, huyện Gò Công Đông; tây giáp phường 3; nam giáp xã Bình Nghị, huyện Gò Công Đông; bắc giáp xã Long Hưng.

Diện tích tự nhiên 615,3266 ha: thổ cư 34, 8263 ha, trồng lúa 315,7315 ha, vườn cây 183, 8807 ha, nuôi trồng thuỷ sản 56,189 ha.

Dân số: 6.707 người; trong đó, nam 2.950, nữ 3.757; hộ người Khơme 2; Tôn giáo có: Phật giáo 1.379 người, Tin Lành: 4, Cao Đài 62.

Ngành nghề chính là nông nghiệp; nghề phụ: tiểu thủ công nghiệp, buôn bán nhỏ. Hiện nay, nhiều gia đình mở rộng kinh doanh, thu nhập cao hơn trước. Lao động không có việc làm phải đi làm thuê ở nơi khác chiếm gần 20%, số hộ nghèo đã giảm dần: còn 100 hộ loại B và 9 hộ loại A đã thoát nghèo, thất nghiệp 40 người.

Qua xã là Quốc lộ 50, tỉnh lộ 871 dài 12km, huyện lộ 3,3km, đường liên xã Nguyễn Văn Côn - Nguyễn Huệ; Sông, rạch, cầu cống... có kinh Trần Văn Dõng, kinh cống lớn, cầu đúc Xóm Sọc, cầu Xóm Dinh...

Chợ xã đặt ở ấp Thuận An, họp từ 4 giờ sáng đến 6 giờ chiều.

Trường mẫu giáo với cơ sở vật chất đầy đủ, có 4 lớp, 926; trường tiểu học mới được xây dựng và đạt chuẩn Quốc gia, có 1.404 học sinh.

Trạm y tế xã với trang thiết bị đầy đủ, có 1 bác sĩ, 3 y sĩ.

Hiện toàn xã có 7 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 87 liệt sĩ, 10 thương binh, 19 lão thành cách mạng, 19 gia đình có công với cách mạng, 120 gia đình có công với nước.

Chi bộ Đảng xã thành lập năm 1987. Trong xã còn có các tổ chức như MTTQVN, Đoàn TNCSHCM, Hội LHTNVN, Hội phụ nữ, Hội CCB, Hội nông dân, HĐND, UBND.

3. HUYỆN CAI LẬY

Có 1 thị trấn và 27 xã. Trên bản đồ tỉnh Tiền Giang, địa bàn huyện Cai Lậy có hình chữ nhật, chiều dài từ bắc xuống nam khoảng 37 km, chiều rộng từ tây sang đông khoảng 17 km, diện tích tự nhiên 411, 3 km2, phía bắc giáp với tỉnh Long An, phía đông giáp hai huyện Tân Phước, Châu Thành (tỉnh Tiền Giang), phía nam giáp hai tỉnh Bến Tre và Vĩnh Long, phía tây giáp với huyện Cái Bè (tỉnh Tiền Giang), trung tâm huyện cách thành phố Mỹ Tho 30 km về hướng tây-tây bắc.

Lấy quốc lộ 1 A làm ranh giới, hầu hết diện tích phía nam huyện là đất phù sa, quanh năm có nước ngọt từ sông Tiền tươi mát. Phần còn lại ở phía bắc là vùng đất trũng, thấp, hàng năm có nhiều tháng bị nước phèn. Ngoài ra còn có vùng đất giồng cao ráo chạy theo hướng đông bắc-tây nam. Địa hình Cai Lậy tương đối bằng phẳng, độ cao trung bình từ 0,5m đến 1,2m so với mực nước biển. Phía nam cao dần từ bờ sông Tiền đến Quốc lộ 1A, phía bắc lại thấp dần từ Quốc lộ 1 A đến vùng ven Đồng Tháp Mười.

Mạng lưới sông rạch, kinh đào dày đặc, chằng chịt. Ngoài sông Tiền, tuyến đường thủy giao thông quốc tế, các kinh rạch quan trọng trong huyện gồm các rạch Ba Rài, Cái Bè, Trà Tân, Mù u, Cái Lá. Phía bắc có kinh Chà Là, kinh 10, kinh 12, kinh Nguyễn Văn Tiếp, kinh Cũ... hệ thống sông rạch này vừa giúp tháo chua rửa phèn, chuyển tải phù sa bồi đắp ruộng vườn vừa là những tuyến giao thông quan trọng.

Sau hơn 300 năm khai phá và xây dựng, vùng đất này đã nhiều lần thay đổi về tên gọi và tổ chức hành chính. Cuối thế kỷ XVII, khi bắt đầu khai phá, Cai Lậy thuộc châu Định Viễn, dinh Long Hồ. Sau đó, thuộc dinh Trấn Định, rồi trấn Định Tường và tỉnh Định Tường về sau. Năm 1808, vùng đất này được đặt tên là tổng Kiến Lợi. Năm 1836, tổng Kiến Lợi được đổi thành huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường. Toàn huyện Kiến Đăng lúc đó có 3 tổng: Lợi Mỹ, Lợi Trinh, Lợi Trường. Sau lập thêm 2 tổng Lợi Thuận và Lợi Thạnh.

Năm 1867, thực dân Pháp chiếm Nam kỳ, đổi lên huyện Kiến Đăng thành quận Cai Lậy, đặt dinh quận tại chợ Thanh Sơn (nay là chợ Cai Lậy). Thời chính quyền Sài Gòn, Cai Lậy đổi thành quận Khiêm Ích.

Từ đó cho đến nay, tên gọi Cai Lậy và địa giới hành chính của huyện Cai Lậy thay đổi không đáng kể. Hiện nay đơn vị hành chính huyện chia thành 27 xã và 1 thị trấn gồm: thị trấn Cai Lậy, xã Tân Bình, Mỹ Hạnh Trung, Mỹ Hạnh Đông, Mỹ Phước Tây, Phú Cường, Thạnh Lộc, Mỹ Thành Bắc, Mỹ Thành Nam, Phú Nhuận, Bình Phú, Phú An, Hiệp Đức, Cẩm Sơn, Hội Xuân, Thanh Hòa, Long Khánh, Long Tiên, Long Trung, Ngũ Hiệp,Tân Phong, Tam Bình, Phú Quí, Nhị Quí, Tân Hội, Tân Phú, Mỹ Long, Nhị Mỹ. Có hai xã nằm trên cù lao là Ngũ Hiệp và Tân Phong. Tổng số ấp trong toàn huyện là 192.

Dân số của huyện tính đến thời điểm 2005 có: 321.517 người, đa số là người Việt, kế đến là người Hoa, người Khơme. Mật độ dân số 782 người/km2. Phân bố địa bàn cư trú: khu vực thị trấn, thị tứ có 26.374 người, nông thôn 295.143 người.

Về truyền thống lịch sử, Cai Lậy là nơi diễn ra các cuộc khởi nghĩa trong giai đoạn đầu tiên chống Pháp xâm lược, như cuộc khởi nghĩa của Trần Xuân Hòa ở Nhị Quí, của Thiên Hộ Dương ở vùng ven Đồng Tháp Mười, của Tứ Kiệt ở Cai Lậy, của Lê Văn Ong, Võ Văn Khả ở Tân Phú, Mỹ Hạnh Đông... Đầu thế kỷ XX, hàng loạt phong trào yêu nước như Thiên Địa hội, Minh Tân, hội kín Nguyễn An Ninh... được đông đảo nhân dân hưởng ứng.

Trong cao trào cách mạng 1930- 1931, tháng 5- 1931 tại chùa Khánh Sơn (nay thuộc khu 4, thị trấn Cai Lậy) Đảng bộ huyện Cai Lậy được thành lập. Sự ra đời của Đảng bộ huyện Cai Lậy là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của phong trào cách mạng ở địa phương.

Khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11-1940 là một chấm son chói lọi trong lịch sử đấu tranh cách mạng ở Cai Lậy. Lần đầu tiên sau 80 năm dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nhân dân ta đã vùng dậy làm chủ được 20/25 xã và nhiều nơi đã làm chủ được 23 ngày. Ngày 23/8/1945, Đảng bộ đã lãnh đạo Cách mạng tháng Tám thành công ở địa phương. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, các địa danh như Cái Gáo, Ban Dầy, Láng Biển, Cặp Rằn Núi, xóm Vuông, vườn cò Long Khánh, Cẩm Sơn, Long Tiên... đều gắn liền với những sự kiện lịch sử và những chiến công vang dội, góp phần đáng kể vào thắng lợi chung của nhân dân cả nước vào năm 1954.

Phát huy truyền thống đó, trong kháng chiến chống Mỹ, nhân dân Cai Lậy đã liên tiếp lập nên những chiến công chói lọi. Năm 1961, nhân dân đồng loạt vùng dậy diệt ác, phá kìm giải phóng nông thôn. Vùng giải phóng ra đời và ngày càng mở rộng đã đóng vai trò rất quan trọng cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta; nổi bật có vùng giải phóng Tân Phú - Mỹ Hạnh Đông ở phía bắc, vùng giải phóng "20 tháng 7" ở phía nam. Các trận đánh nổi tiếng làm rạng danh Cai Lậy là chiến thắng Ấp Bắc ngày 2/1/1963, trận Ba Rài (Cẩm Sơn) ngày 15.9.1967... Trừ Văn Thố, Đoàn Thị Nghiệp, Thái Thị Kiểu... là những tấm gương sáng ngời trong lịch sử kháng chiến cứu nước của huyện.

Với tinh thần cần cù lao động, sáng tạo, có kinh nghiệm trồng lúa nước lâu đời cùng với điều kiện thiên nhiên thuận lợi, Cai Lậy đã trở thành nơi sản xuất lúa nổi tiếng. Diện tích lúa mở dần vào tận vùng ven Đồng Tháp Mười chua phèn. Từ rất sớm, người nông dân Cai Lậy đã biết sản xuất hai vụ lúa, vì vậy sản lượng ngày càng cao. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, Cai Lậy cũng là nơi cung cấp lương thực cho tỉnh Mỹ Tho và cả Khu 8. Sau năm 1975, Cai Lậy lại là vùng lúa cao sản. Những năm 80, năng suất lúa ở Cai Lậy đạt trung bình 13 - 15 tấn/ha/năm. Hiện nay diện tích trồng lúa của huyện là 51.471 ha với sản lượng 291.002 tấn.

Ngoài cây lúa, Cai Lậy còn có nhiều loại cây trái ở miệt vườn. Được sông Tiền bồi đắp và hệ thống kinh rạch tưới tiêu, nước ngọt dồi dào, đất đai trở nên mầu mỡ, nên vườn cây trái ở đây nối tiếp nhau thành một dải trải dài một vùng rộng lớn phía nam với các loại cây ăn trái nổi tiếng như sầu riêng ở cù lao Ngũ Hiệp, cam, quít, chôm chôm, nhãn... đặc biệt là giống nhãn giồng Nhị Quí nổi tiếng trên thương trường từ hơn nửa thế kỷ qua. Miệt vườn còn là nơi tổ chức khai thác các hoạt động du lịch. Cù lao Ngũ Hiệp; cù lao Tân Phong luôn là điểm hẹn cho khách ưa thích du lịch xanh.

Ngoài ra, Cai Lậy còn nổi tiếng với các di tích lịch sử cấp quốc gia như: lăng Tứ Kiệt, đình Long Trung và khu di tích Ấp Bắc... Đó vừa là những nơi tham quan du lịch vừa là nơi giáo dục truyền thống cho lớp trẻ. Trong huyện còn có nhiều di tích kiến trúc cổ như nhà ở, đình, chùa, miếu, mộ cổ... Đặc biệt, dinh Cô Nguyễn Thị Liệu ở xã Long Tiên là một trong những cơ sở tín ngưỡng xưa nhất trên địa bàn huyện.

Trong gần 30 năm qua, nhân dân Cai Lậy đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội. Bộ mặt nông thôn thay đổi sâu sắc: 27/27 xã có đường ô tô đến tận trụ sở, 100% có điện với hơn 90% số hộ sử dụng điện sinh hoạt và sản xuất. Trường học, trạm xá và nhiều công trình công cộng được xây dựng kiên cố, khang trang. Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục - thể thao, thông tin tuyên truyền mở mang đến tận vùng nông thôn, đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí, hưởng thụ văn hóa của người dân. Công tác đền ơn đáp nghĩa đối với những người có công với đất nước được Đảng bộ, chính quyền và toàn dân quan tâm. An ninh chính trị, trật tự xã hội luôn đảm bảo ổn định để làm cơ sở cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH THUỘC HUYỆN CAI LẬY

Gồm 7 khu phố: 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 7. Trước Cách mạng tháng Tám, thị trấn là một phần của xã Thanh Hòa và xã Nhị Mỹ thuộc tổng Lợi Trinh, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, năm 1948, ủy ban Hành chính huyện Cai Lậy thành lập thị trấn, thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân đặt xã Thanh Hòa thuộc tổng Lợi Trinh, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, thị trấn Cai Lậy thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; địa bàn hiện này được Chính quyền VNCH đặt là xã Thanh Hòa, thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía nam huyện; đông giáp xã Nhị Mỹ; tây giáp sông Ba Rài và xã Thanh Hòa; nam giáp xã Long Khánh; bắc giáp xã Tân Bình.

Diện tích tự nhiên 606ha: thổ cư 70,4ha, trồng lúa 202,9ha, vườn tạp 163,2ha, vườn cây chuyên canh 110ha, chưa khai thác 33,5ha.

Dân số: 24.618 nhân khẩu (5.233 hộ); Tôn giáo có Phật giáo 565 người, Công giáo: 960, Tin Lành: 122, Cao Đài: 1.095.

Ngành nghề chính là kinh doanh vừa và nhỏ; nghề phụ: làm bún, thợ hồ, thợ bạc, bốc xếp hàng hóa. Trong những năm gần đây, kinh tế đang từng bước ổn định và phát triển, hộ khá và giàu gia tăng, hộ nghèo giảm dần, năm 2004, toàn xã có 60/304 hộ thoát nghèo.

Qua thị trấn có Quốc lộ 1A dài hơn 1km, tỉnh lộ 868 dài 1,5km...; Sông, rạch, cầu, cống... có rạch Ba Rài dài khoảng 3 km; rạch Sa Rài dài khoảng 3,5 km; cầu Cai Lậy nằm trên Quốc lộ 1A; bến Cai Lậy - Chợ Lớn - Mỹ Tho...

Chợ Cai Lậy thuộc khu phố 2, là trung tâm thương mại của huyện, hoạt động mua bán nhộn nhịp.

Trường mẫu giáo 3/2 ở khu phố 1, có 18 lớp, 800 cháu; nhà trẻ 8/3 ở khu phố 1, khoảng 100 cháu. Trường tiểu học Trừ Văn Thố I có 23 lớp, 700 học sinh và trường tiểu học Trừ Văn Thố II có 45 lớp, 1.496 học sinh. Trường Trung học cơ sở Võ Việt Tân có 20 lớp, 825 học sinh và Trường Trung học cơ sở Trừ Văn Thố có 40 lớp, 1.571 học sinh.

Trạm y tế mới xây dựng năm 2005, trang thiết bị tương đối tốt, có 1 bác sĩ, 2 y tá, 1 dược sĩ trung cấp, 1 nữ hộ sinh, 1 cán bộ Đông y.

Tháng 12/1960, tại Cai Lậy đã diễn ra cuộc đấu tranh chính trị hưởng ứng phong trào nổi dậy của các xã trong huyện.

Hiện toàn thị trấn có 8 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, anh hùng LLVTND Trừ Văn Thố, 218 liệt sĩ, 85 thương binh, 3 lão thành cách mạng, 125 gia đình có công với nước, 23 huân chương cá nhân, 33 huân chương liệt sĩ.

Đảng bộ thị trấn thành lập ngày 4/5/1948 với 10 đảng viên; đến nay, có 15 chi bộ trực thuộc, 192 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã thành lập năm 1948 là các tổ chức Đoàn TNCSHCM và Hội LHTNVN (thành lập năm 1948), Hội Phụ nữ (thành lập năm 1948), Hội CCB (thành lập tháng 9/1989), Hội Nông dân (thành lập năm 1948), HĐND (thành lập năm 1976), UBND (thành lập năm 1948).

XÃ BÌNH PHÚ

Gồm 11 ấp: Bình Ninh, Bình Hưng, Bình Thạnh, Bình Đức, Bình Thới, Bình Sơn, Bình Long, Bình Phong, Bình Trị, Bình Quới, Bình Tịnh.

Bình Phú là một làng cổ không thay đổi tên và địa giới hành chánh kể từ lúc thành lập đến nay. Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tổng Lợi Thuận, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân Pháp đặt xã Bình Phú thuộc tổng Lợi Thuận, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Bình Phú thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Bình Phú thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây huyện; đông giáp xã Tân Bình; tây giáp xã Phú An; nam giáp xã Cẩm Sơn; bắc giáp xã Phú Nhuận.

Diện tích tự nhiên 1.876 ha: thổ cư 115,8 ha, trồng lúa 1236,4 ha, vườn cây 5153,4 ha, nuôi trồng thủy sản 8 ha.

Dân số: 17.616 nhân khẩu (3.862 hộ); trong đó, nam 8.687, nữ 8.929.

Ngành nghề chính là làm ruộng; nghề phụ: chăn nuôi, xay xát, vật tư nông nghiệp, dịch vụ. Hiện toàn xã có 890 hộ giàu chiếm 22,83%, 1.526 hộ khá chiếm 40,07%, 1.004 hộ trung bình chiếm 25,75%, 337 hộ nghèo loại B chiếm 8,64%, 105 hộ nghèo loại A chiếm 2,69%.

Qua xã có Quốc lộ 1A với độ dài 7 km; đường liên xã Cẩm Sơn - Hiệp Đức - Tân Phong... Sông, rạch, cầu, cống có: rạch Tràm, rạch Ban Dầy, cầu Bình Phú, cầu Phú Nhuận, bến đò Bình Phú - Phú Cường - Thạnh Lộc...

Chợ nằm ở trung tâm xã, thành lập từ năm 1939, họp vào buổi sáng, có khoảng 500 người.

Toàn xã có 16 bà mẹ Việt Nam Anh hùng; Anh hùng lực lượng vũ trang liệt sĩ Đoàn Thị Nghiệp; Anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Văn On và Võ Văn Lành, 315 liệt sĩ, 103 thương binh, 42 lão thành cách mạng, 150 gia đình có công với nước, 1.055 huân chương của tập thể và cá nhân.

Năm 1936, chi bộ Đảng Bình Phú được thành lập với 4 đảng viên. Đảng bộ hiện có 153 đảng viên, 16 chi bộ. Cùng với MTTQVN xã (thành lập ngày 23/8/1945) là các tổ chức Đoàn TNCSHCM (thành lập ngày 26/3/1970), Hội LHTNVN (thành lập năm 1994), Hội CCB (thành lập 14/5/1990), Hội NDVN (thành lập tháng 6/1969), HĐND (thành lập tháng 11/1982), UBND (thành lập ngày 23/8/1945)...

XÃ CẨM SƠN

Gồm các ấp: ấp 1, ấp 2, ấp 3, ấp 4.

Cẩm Sơn là một làng cổ, đời Gia Long thuộc tổng Kiến Lợi, năm 1836 thuộc tổng Lợi Trinh, xã không thay đổi tên và địa giới hành chánh kể từ khi lập làng đến nay.

Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tổng Lợi Trinh, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, xã Cẩm Sơn thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân Pháp đặt xã Cẩm Sơn thuộc tổng Lợi Trinh, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, tên ấp được thay đổi: ấp 1 (Cẩm Hóa), ấp 2 (Cẩm Thạch), ấp 3 (Cẩm Phong) và ấp 4 (Cẩm Hòa). Giai đoạn nầy, xã Cẩm Sơn thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Cẩm Sơn thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường (từ 1969 đến 1975 thuộc huyện Cái Bè).

Nằm ở phía tây nam huyện; đông giáp xã Long Khánh; tây giáp xã Hiệp Đức và xã Phú An; nam giáp xã Hội Xuân; bắc giáp xã Thanh Hòa.

Diện tích tự nhiên 1.241 ha: thổ cư 55 ha, trồng lúa 413 ha, vườn cây 649 ha, nuôi trồng thủy sản 1 ha, chưa khai thác 123 ha.

Dân số: 8.566 nhân khẩu với 2.034 hộ; trong đó nam 4.109, nữ 4.457; người theo Phật giáo 60, theo Cao Đài 242.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp; nghề phụ: buôn bán nhỏ. Hiện xã có 37 hộ nghèo chiếm 1,81%, 415 hộ giàu chiếm 20,40%.

Qua xã có lộ Thanh Niên dài 7 km, lộ Giồng Tre 3,5 km, lộ Thầy Thanh 6 km...; rạch Ba Rài 4 km; cầu Cẩm Sơn, cầu Thầy Thanh...

Toàn xã có 24 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 348 liệt sĩ, 90 thương binh, 34 lão thành cách mạng, 861 gia đình có công với nước, 430 huân chương của tập thể và cá nhân.

XÃ HỘI XUÂN

Gồm các ấp: Hội Nhơn, Hội Nghĩa, Hội Lễ, Hội Trí, Hội Tín, Xuân Quang, Xuân Sắc, Xuân Kiểng, Xuân Hòa, Xuân Điền. Trước Cách mạng tháng Tám, địa bàn này gồm hai xã là Hội Sơn và Xuân Sơn, thuộc tổng Lợi Thuận, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân Pháp đặt xã thuộc tổng Lợi Thuận, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã thuộc quận Cái Bè, tỉnh Định Tường. Ngày 12.4.1979, nhập hai xã Hội Sơn và Xuân Sơn thành xã Hội Xuân.

Nằm ở phía nam huyện; đông giáp xã Long Trung; tây giáp xã Hiệp Đức; nam giáp nhánh sông Tiền; bắc giáp xã Cẩm Sơn.

Diện tích tự nhiên 1.168,68 ha: thổ cư 51,93 ha, trồng lúa 48,44 ha, vườn cây 905, 1 ha, nuôi trồng thủy sản 0, 25 ha.

Dân số: 9.255 nhân khẩu (1.973 hộ); trong đó, nam 4.470, nữ 4.785; người Kinh 9.225, người Hoa 27, người Khơme 3.Tôn giáo Phật giáo 415 người, Công giáo 20, Cao Đài 215, Hòa Hảo 2. Tỷ lệ sinh các trong các năm - 2000: 1,46%, 2001: 1,86%, 2002: 1,68%, 2003: 1,68%, 2004: 1,59%; tử các năm 2000: 0,20%, 2001: 0,33%, 2002: 0,3%, 2003: 0,39%, 2004: 0,33%.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp; nghề phụ: sản xuất gạch ngói, lò sấy nhãn xuất khẩu. Trong chiến tranh, xã bị tàn phá nặng nề, toàn bộ cơ sở vật chất bị hủy diệtỉnh Sau chiến tranh, nhân dân từng bước khôi phục sản xuất, phát triển kinh tế. Đến nay, hộ giàu chiếm khoảng 15%, hộ khá và trung bình chiếm 65%, hộ nghèo chiếm khoảng 20%.

Qua xã có tỉnh lộ 864 dài 4 km; bên cạnh đó là rạch Ba Rài dài 0,8km, cầu Rạch Chùa, cống Hội Trí, bến đò Hội Lễ...

Chợ Ba Rài ở ấp Hội Nhơn, chợ Hội Xuân ở ấp Xuân Điền và chợ Bà Gòn ở ấp Xuân Kiểng đều họp từ 6 giờ đến 9 giờ.

Trường mẫu giáo xã thuộc loại kiên cố, có 6 lớp, 172 cháu; trường tiểu học, gồm 24 lớp, 652 học sinh; trường trung học cơ sở với 16 lớp, 662 học sinh.

Trạm y tế kiên cố nhưng trang thiết bị chưa đầy đủ, có 1 bác sĩ, 3 y sĩ, 3 y tá; các tổ chức chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

Xã có bà mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị Tư ở ấp Xuân Quang, toàn xã có 195 liệt sĩ, 26 thương binh, 4 lão thành cách mạng, 4 gia đình có công với nước, 174 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ Đảng xã thành lập năm năm 1947, hiện có 66 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã thành lập năm 1947 là các tổ chức Đoàn TNCSHCM, Hội LHTNVN, Hội PNVN xã , Hội CCB, Hội Nông dân, HĐND, UBND.

XÃ HIỆP ĐỨC

Gồm 6 ấp: Hiệp Phú, Hiệp Quới, Hiệp Nhơn, Hiệp Ngãi, Hiệp Ninh, Hiệp Thạnh.

Nguyên thủy là 2 làng Hiệp Hòa và Tân Đức. Ngày 24.10.1925, nhập 2 làng nầy lại lấy tên là Hiệp Đức thuộc tổng Lợi Thuận, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã Hiệp Đức thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền thực dân Pháp đặt xã Hiệp Đức thuộc tổng Lợi Thuận, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Hiệp Đức thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Chính quyền VNCH đặt xã Hiệp Đức thuộc quận Cái Bè, tỉnh Định Tường từ 1969 đến 1975 thuộc huyện Cái Bè.

Nằm ở phía bắc huyện; đông giáp xã Hội Xuân; tây giáp xã Đông Hòa Hiệp, huyện Cái Bè và xã Phú An, huyện Cai Lậy; nam giáp xã Tân Phong; bắc giáp xã Cẩm Sơn.

Diện tích tự nhiên 921 ha: thổ cư 39,4 ha, trồng lúa 131 ha, vườn cây 658,85 ha, nuôi trồng thủy sản 0,19 ha.

Dân số: 6.000 nhân khẩu (1.368 hộ); trong đó, nam 2.907, nữ 3.093; người Kinh chiếm 100% dân số; Tôn giáo: Phật giáo: 7 người, Cao Đài: 11.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp; nghề phụ: chăn nuôi, buôn bán nhỏ. Xã có 1.102 hộ khá và giàu, 266 hộ nghèo.

Qua xã có tỉnh lộ 864 dài 1,5km, lộ Giồng Tre dài 7km...; Kinh, rạch, cầu cống...có kinh Giồng Tre 7 km, rạch Cái Lá 6,5km; cầu Ông Quý, cống kinh Chiến Lược ấp Hiệp Quới; bến phà Hiệp Đức - Tân Phong...

Chợ ở trung tâm ấp Hiệp Nhơn, họp vào buổi sáng, có khoảng 120 người.

Xã có 3 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 74 liệt sĩ, 28 thương binh, 15 lão thành cách mạng, 179 gia đình có công với nước, 62 huân chương của tập thể và cá nhân.

Tổ chức Đảng ở xã thành lập năm 1945 với 7 đảng viên; năm 1987, nâng thành Đảng bộ, hiện có 9 chi bộ và 75 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã là các tổ chức Đoàn TNCSHCM, Hội LHTNVN, Hội Phụ nữ,Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, HĐND, UBND... đều thành lập năm 1976.

XÃ LONG KHÁNH

Gồm các ấp, Hòa Trí, Hòa Nghĩa, Hòa Nhơn, Mỹ Vĩnh, Phú Thuận, Phú Hiệp, Phú Hòa, Mỹ Phú, Phú Hưng.

Nguyên thủy là hai làng Mỹ Hòa và Phú Long, thuộc tổng Kiến Lợi, đời Gia Long; Đời Minh Mạng thuộc tổng Lợi Trường. Ngày 12.7.1877, làng Mỹ Hòa đổi thành Mỹ Khánh, đến ngày 24.10.1925 làng Mỹ Khánh nhập với làng Hòa Thuận (tổng Lợi Trinh), lấy tên là Thuận Khánh. Ngày 24.11.1932, nhập Phú Long và Thuận Khánh lấy tên là Long Khánh, thuộc tổng Lợi Mỹ, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân đặt xã Long Khánh thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Long Khánh thuộc huyện Cai Lậy Nam, tỉnh Mỹ Tho. Chính quyền VNCH đặt xã Long Khánh thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía nam huyện; đông giáp xã Phú Quý; tây giáp xã Cẩm Sơn; nam giáp xã Long Trung và xã Long Tiên; bắc giáp xã Thanh Hòa.

Diện tích tự nhiên 2.035,5 ha: thổ cư 127,1 ha, trồng lúa 1.233,2ha, vườn cây 661,3ha, nuôi trồng thủy sản 10,7ha.

Dân số: 13.009 nhân khẩu (3.081 hộ); trong đó, nam 6.326, nữ 6.683; người Kinh 12.978, người Hoa 26, người Khơme 5; người theo Phật giáo 10.843, theo Công giáo 42, Cao Đài 1.007. Tỷ lệ sinh các năm - 2000: 1,32%, 2001: 1,28%, 2002: 1,21%, 2003: 1,18%, 2004: 1,14%; tử các năm 2000: 0,16%, 2001: 0,14%, 2002: 0,17%, 2003: 0,13%, 2004: 0,15%.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp; nghề phụ: thợ mộc, thợ hồ, làm bún, buôn bán nhỏ... Những năm gần đây, đã từng bước chuyển đổi cơ cấu sản xuất, kết hợp dịch vụ, phát triển tiểu thủ công nghiệp nên đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, kinh tế ổn định. Hiện hộ giàu chiếm 10,84%, hộ khá chiếm 69%, hộ trung bình chiếm 16,68%, hộ nghèo chiếm 3,47%.

Qua xã có tỉnh lộ 868 dài 6 km, lộ Thanh Niên dài 4km, đường Cây Trâm dài 6 km; rạch Ba Muồng dài 5 km, rạch Trà Tân dài 4km, cầu Long Khánh, cầu Thanh Niên trên đường 868, 129 cầu bê tông... Chợ xã ở ấp Phú Thuận, dọc theo lộ 868.

Trường mẫu giáo có 7 điểm trường với 8 lớp, 181 cháu; trường tiểu học gồm 5 điểm trường, 22 lớp, 1.084 học sinh; trường trung học cơ sở với 1 điểm trường, 19 lớp, 840 học sinh.

Trạm y tế với trang thiết bị đáp ứng yêu cầu tuyến xã , có 1 bác sĩ, 4 y sĩ, 2 y tá và các tổ chức và các hoạt động chăm sóc sức khỏe cộng đồng: 9 ấp đều có tổ y tế, 22 nhân viên sức khỏe cộng đồng.

Xã có anh hùng LLVTND Thái Thị Kim Hồng nguyên Hội trưởng Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Tiền Giang, 23 bà mẹ Việt Nam Anh hùng (hiện 7 mẹ còn sống), 398 liệt sĩ, 109 thương binh, 42 lão thành cách mạng, 1.013 gia đình có công với nước, 589 huân chương của tập thể và cá nhân.

Tổ chức chi bộ Đảng xã thành lập năm 1930 với 3 đảng viên do bà Kim Chi làm tổ trưởng. Hiện Đảng bộ có 168 đảng viên sinh hoạt ở 14 chi bộ. Cùng với MTTQVN xã là các tổ chức Đoàn TNCSHCM, Hội LHTNVN, Hội PNVN, HĐND, UBND.

XÃ LONG TIÊN

Gồm các ấp: Mỹ Lương, ấp 9(1) , Mỹ Thạnh A, Mỹ Lợi A, Mỹ Chánh, Mỹ Hưng, Mỹ Thạnh B, Mỹ Lợi B, Mỹ Thuận. Nguyên thủy gồm có 2 làng Mỹ Đông và Mỹ Đông Thượng, thuộc tổng Kiến Lợi, đời Gia Long. Năm 1836 thuộc tổng Lợi Trường. Năm 1902 thuộc tổng Lợi Mỹ. Ngày 24.11.1932 nhập Mỹ Đông và Mỹ Đông Thượng lấy tên là Long Tiên thuộc tổng Lợi Hòa, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân Pháp đặt xã Long Tiên thuộc tổng Lợi Hòa, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Long Tiên thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Long Tiên, thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía nam huyện; đông giáp xã Mỹ Long; tây giáp xã Long Trung; nam giáp xã Tam Bình; bắc giáp xã Phú Quý và xã Long Khánh.

Diện tích tự nhiên 1.644 ha: thổ cư 777 ha, trồng lúa 518 ha, vườn cây 908 ha, nuôi trồng thủy sản 169 ha, chưa khai thác 101ha.

Dân số: 11.786 (2.834 hộ); trong đó, nam 5.585, nữ 6.201, đều là người Kinh; Tôn giáo có: Phật giáo 3.685 người, Tin Lành: 1.314, Cao Đài: 1.123. Số người di cư năm 2000 là 78, 2001: 56, 2002: 44, 2003: 61, 2004: 69; nhập cư năm 2000: 56, 2001: 42, 2002: 33, 2003: 49, 2004: 42 người.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp, làm vườn. Hiện số hộ nghèo loại A chỉ còn 262, hộ nghèo loại B còn 494.

Qua xã có tỉnh lộ 868 dài 3km, lộ đất dài 3 km; còn mạng lưới sông, rạch... có rạch Bang Lợi 3 km, rạch Ba Muồng 4 km, cầu ngã ba Long Tiên, cống Năm Mạnh...

Trường mẫu giáo có 6 lớp, 172 học sinh. Trường tiểu học có 26 lớp, 896 học sinh. Trường trung học cơ sở có 15 lớp, 575 học sinh.

Trạm y tế có 2 bác sĩ, 4 y sĩ, 10 y tá.

Toàn xã hiện có 15 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 161 liệt sĩ, 96 thương binh, 42 lão thành cách mạng, 47 gia đình có công với nước.

Chi bộ Đảng xã thành lập ngày 13/7/1954, do đồng chí Huỳnh Hữu Hạnh làm Bí thư. Cùng với MTTQVN xã (thành lập năm 1957) là các tổ chức cùng thành lập năm 1960 như Đoàn TNCSHCM, Hội LHTN, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân Việt Nam. UBND thành lập từ ngày 30/4/1975. Hiện HĐND có 29 đại biểu.

XÃ LONG TRUNG

Gồm 14 ấp: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 11, 12, 14, 15, 16, 17.

Nguyên thủy, đời Gia Long có 2 làng Trà Tân và Mỹ Đông Trung thuộc tổng Kiến Lợi. Năm Nhâm Ngọ (1882), làng Trà Tân bị cắt ra để lập làng Tân Thới, tổng Lợi Mỹ. Ngày 24.10.1925, nhập Trà Tân và Tân Thới lấy tên là Hưng Long thuộc tổng Lợi Hòa. Ngày 24.11.1932, nhập Hưng Long và Mỹ Đông Trung lấy tên là Long Trung thuộc tổng Lợi Hòa, quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường.

Trong kháng chiến chống Pháp, thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân đặt xã Long Trung thuộc tổng Lợi Hòa, quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Long Trung thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Long Trung thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía nam huyện; đông giáp xã Long Tiên và xã Tam Bình; tây giáp xã Hội Xuân và xã Cẩm Sơn; nam giáp xã Ngũ Hiệp; bắc giáp xã Long Khánh.

Diện tích tự nhiên 1.410 ha: thổ cư 94,5 ha, vườn cây 1.215 ha.

Dân số: 12.376 nhân khẩu (2.930 hộ); trong đó, nam 5.570, nữ 6.806. Tôn giáo có Phật giáo 80 người, Công giáo: 44, Tin Lành: 3, Cao Đài: 8. Tỷ lệ sinh trong các năm - 2000: 1,3%, 2001: 1,33%, 2002: 1,32%, 2003: 1,36, 2004: 1,322%; tử năm 2000: 0,41%, 2001: 0,39%, 2002: 0,375%, 2003: 0,355%, 2004: 0,360%.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp; nghề phụ: chăn nuôi, dịch vụ. Những năm gần đây, người dân đã chuyển toàn bộ diện tích lúa lên vườn 1.215 ha, thu nhập bình quân 32,6 triệu/ha/năm. Hiện tỷ lệ giàu là 20%, hộ nghèo 10%, còn lại là các hộ khá và trung bình.

Qua xã có tỉnh lộ 864 dài 2km, tỉnh lộ 868 dài 3km. Sông, rạch, cầu cống... có kinh lộ thầy Thanh, rạch Ông Bảo, rạch Bầu Điền, rạch Trà Tân ; cầu Hưng Long, phà Hưng Long; phà Ngũ Hiệp.

Chợ Ba Dừa ở trung tâm xã, có khoảng 200 người.

Trường mẫu giáo có 10 lớp với 316 cháu; trường tiểu học với 2 điểm ấp bán kiên cố, có 27 lớp với 790 học sinh.

Trạm y tế có 3 bác sĩ, 3 y sĩ, 3 hộ sinh, 1 hộ lý, 2 y tá.

Toàn xã hiện có 13 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 318 liệt sĩ, 80 thương binh, 215 lão thành cách mạng, 760 gia đình có công với nước, 10 huân chương, 450 huân chương cá nhân.

Chi bộ Đảng xã đầu tiên thành lập tháng 8/1945 với 3 đảng viên. Ngày 1/5/1975, chi bộ xã nâng lên thành Đảng bộ với 65 đảng viên. Đến tháng 5/2005, Đảng bộ có 127 đảng viên, 18 chi bộ. Cùng với MTTQVN xã (thành lập năm 1976) là các tổ chức Đoàn TNCSHCM (thành lập năm 1960), Hội LHTNVN, Hội Phụ nữ (thành lập năm 1960), Hội Cựu chiến binh (thành lập ngày 6/12/1989), Hội Nông dân, HĐND (thành lập năm 1976), UBND (thành lập năm 1946).

XÃ MỸ PHƯỚC TÂY

Gồm các ấp: Bà Bèo, Cầu Dừa, Kinh 12, Long Phước, Láng Biển và Rạch Trắc.

Nguyên là thôn Mỹ Hạnh Tây thuộc tổng Kiến Lợi (1808), đến năm 1836, thuộc tỉnh Lợi Trinh. Ngày 13.12.1913, thôn Mỹ Hạnh Tây nhập với thôn Long Phước (của tổng Lợi Thạnh đã tan rã sau năm 1863) thành Mỹ Phước Tây, thuộc tổng Lợi Trinh, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân đặt Mỹ Phước Tây thuộc tổng Lợi Trinh, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, (giai đoạn chia huyện năm 1971) xã Mỹ Phước Tây thuộc huyện Cai Lậy Bắc, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Mỹ Phước Tây thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía bắc huyện; đông giáp xã Mỹ Hạnh Đông; tây giáp xã Phú Cường và xã Tân Bình; nam giáp xã Tân Bình và xã Mỹ Hạnh Trung; bắc giáp xã Phú Cường.

Diện tích tự nhiên 1.990 ha: thổ cư 85 ha, trồng lúa 1.326 ha, vườn cây 354 ha, nuôi trồng thủy sản 5 ha.

Dân số: 13.017 nhân khẩu (2.834 hộ); trong đó, nam 6.215, nữ 6.802, người Kinh 13.003, người Hoa 5, người Khơme 9; người theo Phật giáo 1, theo Cao Đài 190, tôn giáo khác 15. Tỷ lệ sinh các trong năm 2000 là 2,4%, 2001: 1,8%, 2002: 1,69%, 2003: 1,8%, 2004: 1,6%; tử các năm 2000: 0,2%, 2001: 0,32%, 2002: 0,23%, 2003: 0,57%, 2004: 0,26%.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp; nghề phụ: buôn bán nhỏ. Hiện toàn xã có 730 hộ giàu và khá, 1.692 hộ trung bình, 231 hộ cận nghèo, 230 hộ nghèo.

Qua xã có tỉnh lộ 868 dài 6 km, tỉnh lộ 865 dài 8 km, huyện lộ Mỹ Hạnh Trung - Mỹ Phước Tây dài 4,2 km, đường liên xã Nam Nguyễn Văn Tiếp dài 10 km...; Kinh, rạch, cầu cống...có: kinh Nguyễn Văn Tiếp dài 8 km, kinh 12 dài 8 km, rạch Trắc dài 3 km, rạch Cầu Dừa dài 3,8 km, cầu Quản Oai, cầu kinh Kháng Chiến, bến đò ngang La Cua...

Trường mẫu giáo xã hiện phải chung với trường tiểu học và trung học cơ sở ở từng điểm trường, có 9 lớp, 282 cháu; trường tiểu học có 46 lớp, 1.379 học sinh; trường trung học cơ sở có 1.475 học sinh; trường trung học phổ thông có 18 phòng học cũ bán kiên cố, 16 phòng mới kiên cố, tổng số 41 lớp, 1.673 học sinh.

Trạm y tế có cơ sở vật chất tốt, có 1 bác sĩ, 4 y sĩ, 1 dược sĩ, 1 lương y, 1 nha tá; bên cạnh đó là các tổ chức và các hoạt động chăm sóc sức khỏe cộng đồng: 6 tổ y tế, 18 cộng tác viên, 5 cộng tác viên chống suy dinh dưỡng, 6 cộng tác viên tuyên truyền phòng bệnh.

Toàn xã có 2 anh hùng LLVTND là Đại tá Lê Quang Công và Đại úy Mai Thị út, 426 liệt sĩ, 105 thương binh, 2 lão thành cách mạng, 30 gia đình có công với nước, 118 huân chương cá nhân, 31 bà mẹ Việt Nam Anh hùng.

Đảng bộ xã thành lập ngày 29/12/1931 do đồng chí Lâm Văn Hó làm bí thư. Hiện nay Đảng bộ có 166 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã ra đời vào năm 1936 là các tổ chức như Hội CCB (thành lập tháng 7 - 1990), Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, HĐND (thành lập năm 1946), UBND (thành lập năm 1947).

(1) Ấp 9 nguyên là ấp của xã Long Trung, tách ra trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cho tiện quản lý.

CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH THUỘC HUYỆN CAI LẬY (tiếp theo)

XÃ MỸ HẠNH ĐÔNG

Gồm các ấp: Mỹ Phú, Mỹ Hội, Mỹ Lương, Mỹ Bìnhuyện

Năm 1808, thôn Mỹ Hạnh Đông thuộc tổng Kiến Lợi, đến năm 1836 thuộc tổng Lợi Trinh. Trước Cách mạng tháng Tám, Mỹ Hạnh Đông thuộc tổng Lợi Trinh, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân là đặt xã Mỹ Hạnh Đông thuộc tổng Lợi Trinh, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Mỹ Hạnh Đông thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Sài Gòn đặt xã Mỹ Hạnh Đông thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía đông bắc huyện; giáp xã Phước Lập, huyện Tân Phước; tây giáp xã Mỹ Hạnh Trung và xã Mỹ Phước Tây; nam giáp xã Tân Hội; bắc giáp xã Tân Hòa Tây, huyện Tân Phước.

Diện tích tự nhiên 1.609,86 ha: thổ cư 51ha, trồng lúa 1.209 ha, vườn tạp 234 ha, nuôi trồng thủy sản 42 ha, chưa khai thác 2 ha.

Dân số: 9.499 nhân khẩu (2.159 hộ); trong đó, nam 4.534, nữ: 4.965, người Kinh 9.499; Tôn giáo có: Phật giáo 15 người, Tin Lành: 1. Số người di cư năm - 2000: 58, 2001: 99, 2002: 139, 2003: 108, 2004: 41; nhập cư năm 2000: 145 người, 2001: 147, 2002: 294, 2003: 194, 2004: 388.

Xã có hai điểm chợ ở ấp Mỹ Phú và ấp Mỹ Hạnh Đông, họp vào sáng sớm, có khoảng vài trăm người.

Ngành nghề chính là nông nghiệp: trồng lúa và chăn nuôi chiếm 85% thu nhập; tỷ lệ hộ nghèo 6,16%, hộ giàu 15%. Những năm gần đây đời sống kinh tế của nhân dân có bước phát triển, nâng dần mức sống.

Trường mẫu giáo có 2 phòng, 5 lớp, 143 cháu; trường tiểu học có 19 phòng, 23 lớp, 635 học sinh; trường trung học cơ sở có 13 phòng, 15 lớp, 610 học sinh.

Trạm y tế xã có 1 bác sĩ, 3 y sĩ, cùng với 4 tổ y tế ấp.

Hiện toàn xã có 398 liệt sĩ, 165 thương binh, 11 lão thành cách mạng, 578 gia đình có công với nước, 1.444 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ xã Mỹ Hạnh Đông thành lập 10/1931 với 7 đảng viên, đến năm 1969 nâng lên Đảng bộ, hiện nay có 155 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã (thành lập ngày 8/11/1943) là các tổ chức Đoàn TNCSHCM, Hội LHTNVN, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, HĐND, UBND.

XÃ MỸ HẠNH TRUNG

Gồm các ấp: Mỹ Đa, Mỹ Hòa, Mỹ Luận, Mỹ Lợi, Mỹ Thạnhuyện

Thôn Mỹ Hạnh Trung năm 1808 thuộc tổng Kiến Lợi, đến năm 1836 thuộc tổng Lợi Trinh. Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tổng Lợi Trinh, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân Pháp đặt xã Mỹ Hạnh Trung thuộc tổng Lợi Trinh, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Mỹ Hạnh Trung thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH là đặt xã Mỹ Hạnh Trung thuộc tổng Lợi Trinh, quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía bắc của huyện; đông giáp xã Mỹ Hạnh Đông; tây giáp xã Tân Bình; nam giáp xã Nhị Mỹ; bắc giáp xã Mỹ Phước Tây.

Diện tích tự nhiên 996 ha: thổ cư 44 ha, trồng lúa 696 ha, vườn cây 158 ha, nuôi trồng thủy sản 9ha.

Dân số: 7.918 nhân khẩu (1.742 hộ); trong đó, nam 3.771, nữ 4.147; Tôn giáo có: Phật giáo 397 người, Tin Lành: 11, Cao Đài: 51. Tỷ lệ sinh các năm - 2000: 1,82%, 2001: 1,76%, 2002: 1,87%, 2003: 1,54%, 2004: 1,46%, tử năm 2000: 0,38%, 2001: 0,25%, 2002: 0,35%, 2003: 1,24%, 2004: 0,2%.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp (trồng lúa); nghề phụ: chăn nuôi.

Qua xã có tỉnh lộ 868 dài 0,7km, lộ kinh Cũ dài 3,1km, lộ Ban Chón dài 2 km, lộ Cà Mau dài 1,8km; Sông, rạch, cầu cống... có kinh Ban Chón dài 3 km, kinh Cũ dài 2,5 km, rạch Nàng Chưng dài 2,6 km, rạch Mù U dài 1 km, kinh Xóm Chòi 2,4 km, kinh Cà Mau; cầu Nàng Chưng; đò ngang Tân Phong-Hiệp Đức, Tân Phong-Cái Bè, Ngũ Hiệp-Tân Phong...

Chợ xã ở ấp Mỹ Hòa, họp hàng ngày, có khoảng 300 người.

Trường mẫu giáo có 4 điểm trường, 5 lớp, 144 cháu; trường tiểu học có 3 trường, 22 lớp, 546 học sinh; trường trung học cơ sở có 17 lớp, 647 học sinh.

Trạm y tế xã được xây dựng kiên cố, có 7 giường bệnh, 1 bác sĩ, 3 y sĩ, 1 y tá, 4 quầy thuốc cùng 5 tổ y tế ấp.

Toàn xã có 29 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, anh hùng LLVTND Nguyễn Văn Điện, 348 liệt sĩ, 116 thương binh, 71 gia đình có công với nước, 195 huân chương của cá nhân.

Năm 1931, chi bộ đầu tiên của xã được thành lập với 9 đảng viên. Hiện nay, Đảng bộ xã có 9 chi bộ, 175 đảng viên, trình độ văn hóa từ cấp I đến cấp III. Cùng với MTTQVN xã (thành lập năm 1962) là các tổ chức Đoàn TNCSHCM và Hội LH.TNVN (thành lập năm 1962), Hội Phụ nữ (thành lập năm 1962), Hội Cựu chiến binh (thành lập ngày 30-08-1990), Hội Nông dân (thành lập năm 1962), HĐND (thành lập năm 1976), UBND (thành lập năm 1968).

XÃ MỸ LONG

Gồm các ấp : Mỹ Phú, Mỹ Điền, Mỹ Hội, Mỹ Hưng, Mỹ Thạnh, Mỹ Lợi, Mỹ Hòa, Mỹ Chánh.

Nguyên thủy là thôn Mỹ An và Long Điền thuộc tổng Kiến Lợi. Năm 1836 thuộc tổng Lợi Trường. Ngày 12.7.1877, làng Mỹ An đổi thành Mỹ Hậu. Ngày 25.10.1925, nhập Mỹ Hậu và Long Điền lấy tên Mỹ Long, thuộc tổng Lợi Hòa, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân Pháp đặt xã Mỹ Long, thuộc tổng Lợi Hòa, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Mỹ Long, thuộc huyện Cai Lậy (Cai Lậy Nam kể từ năm 1971), tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Mỹ Long, thuộc tổng Lợi Hoà, quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía đông nam huyện; đông giáp xã Bàn Long, huyện Châu Thành; tây giáp xã Long Tiên; nam giáp xã Phú Phong, huyện Châu Thành; bắc giáp xã Nhị Quý.

Diện tích tự nhiên 1.238, 21ha: thổ cư 37, 2ha, trồng lúa 201ha, vườn cây 831ha, nuôi trồng thủy sản 103ha.

Dân số: 9.302 nhân khẩu (2.087 hộ); trong đó, nam 4.522, nữ 4.790, đều là người Kinh. Tỷ lệ sinh các năm - 2000: 0,66%, 2001: 1,42%, 2002: 0,77%, 2003: 1,07%, 2004: 1,31%; tỷ lệ tử các năm 2000: 0,01%, 2001: 0,018%, 2002: 0,02%, 2003:0,29%, 2004: 0,12%.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp, trồng cây ăn trái; nghề phụ: chăn nuôi, đan giỏ xách nilon, rổ tre, buôn bán nhỏ. Hiện toàn xã số hộ giàu chiếm 15%, hộ nghèo 4,6%, còn lại là hộ khá.

Qua xã có tỉnh lộ 868B, lộ đất, lộ rạch Ban Lợi; bên cạnh đó là mạng lưới sông, rạch... như rạch Ban Lợi, rạch Gầm, rạch Long Điền; cầu Long Điền; cống Mỹ Chánh.

Trường tiểu học có 25 phòng, 877 học sinh; trường trung học cơ sở có 11 phòng, 640 học sinh.

Trạm y tế có cơ sở vật chất tốt, hiện có 1 bác sĩ, 3 y sĩ, 1 y tá, 1 hộ lý.

Toàn xã có 9 bà mẹ Việt Nam Anh hùng (2 mẹ còn sống), 403 liệt sĩ, 108 thương binh, 19 lão thành cách mạng, 26 gia đình có công với nước, 146 huân huy chương của tập thể và cá nhân.

Từ ngày thành lập cho đến nay Đảng bộ xã Mỹ Long có 12 chi bộ, 103 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã là các tổ chức Đoàn TNCSHCM, Hội LHTNVN, Hội Phụ nữ, Hội CCB, Hội Nông dân, HĐND.

XÃ PHÚ QUÝ

Gồm các ấp: Phú Mỹ, Phú Hưng, Phú An, Phú Hòa.

Nguyên thủy có làng Mỹ Ân thuộc tổng Kiến Lợi. Năm 1836, thôn Mỹ Ân thuộc tổng Lợi Trường. Đời Thiệu Trị, làng Mỹ Ân đổi thành Mỹ An Tây, đến ngày 12.7.1877, Mỹ An Tây đổi thành Mỹ Phú thuộc tổng Lợi Trường. Ngày 13.12.1913, nhập Mỹ Phú và Mỹ Quí Tây thành Phú Quí thuộc tổng Lợi Hòa, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân Pháp đặt là xã Phú Quý thuộc tổng Lợi Hòa, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Phú Quý thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Phú Quý thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía đông nam huyện; đông và bắc giáp xã Nhị Quý; tây giáp xã Long Khánh; nam giáp xã Mỹ Long.

Diện tích tự nhiên 787ha: thổ cư 38,6ha, trồng lúa 413,3ha, vườn cây 237,4ha, nuôi trồng thủy sản 1,7ha, đất chuyên dùng 96 ha.

Dân số: 6.224 nhân khẩu (1.618 hộ); trong đó, nam 3.094, nữ 3.130; người theo Phật giáo 145.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp; nghề phụ: buôn bán nhỏ. Trong những năm qua, đời sống người dân trong xã ngày một nâng cao, ổn định, tỷ lệ hộ giàu ngày càng tăng, hiện có 511 hộ giàu chiếm 31,58%; tỷ lệ hộ nghèo giảm. Hiện toàn xã có 72 hộ nghèo, chiếm 4,48%.

Qua xã có huyện lộ Phú Quý - Nhị Quý dài 2,3 km, đường Thanh Niên 2,8 km. Sông, rạch, cầu cống có: kinh Ông Mười dài 2,8 km, kinh Mỹ Long - Bà Kỳ dài 1,8 km, kinh Trà Lượt 2,7 km; cầu Bùi Văn Lợi (cầu Kinh) xây năm 1998, cống Trà Lượt xây kiên cố năm 2003. Xã có chợ Phú Hưng ở ấp Phú Hưng, chợ Phú Quý ở ấp Phú An.

Trường mẫu giáo có 3 điểm trường ở các ấp: Phú Hưng, Phú An, Phú Mỹ, với 4 lớp, 112 cháu; trường tiểu học với 3 điểm trường ở các ấp Phú Hưng, Phú An, Phú Mỹ, có 19 lớp, 490 học sinh; trường trung học cơ sở ở ấp Phú Hòa, có 15 lớp, 580 học sinh.

Trạm y tế có 5 phòng kiên cố, trang thiết bị đầy đủ, có 1 bác sĩ, 5 y sĩ, 2 y tá, 2 dược tá.

Toàn xã có anh hùng LLVTND Nguyễn Văn Tòng, 14 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 230 liệt sĩ, 62 thương binh, 30 lão thành cách mạng, 662 gia đình có công với nước, 245 huân chương của tập thể và cá nhân.

Đảng bộ xã thành lập năm 1976 với 37 đảng viên, hiện nay Đảng bộ có 115 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã là các Đoàn TNCSHCM, Hội LHTNVN (thành lập năm 1961), Hội Phụ nữ (thành lập tháng 2/1961), Hội Cựu chiến binh (thành lập ngày 31/7/1990), Hội Nông dân Việt Nam (thành lập năm 1961), HĐND (thành lập năm 1976, đến nay đã trải qua 10 kỳ đại hội), UBND.

XÃ NGŨ HIỆP

Gồm các ấp: Hòa An, Hòa Hảo, Hòa Thinh, Long Quới, Tân Đông, Thủy Tây, Tân Sơn, Tân Hòa.

Nguyên thủy cù lao nầy có 5 thôn An Thủy Đông, An Thủy, Long Phú, Hòa An và Tân Sơn thuộc tổng Kiến Lợi. Ngày 6.8.1872, nhập 4 thôn An Thủy, Hòa An, Long Phú và Tân Sơn vào An Thủy Đông. Đến ngày 4.10.1872, nhập làng An Thủy Đông vào Tân Thới, nhưng dân trên cù lao không đồng ý nên ngày 20.1.1875, lập làng mới trên cơ sở 5 thôn cũ, lấy tên là Ngũ Hiệp thuộc tổng Lợi Mỹ.

Trước Cách mạng tháng Tám, Ngũ Hiệp thuộc tổng Lợi Hòa, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân Pháp đặt xã Ngũ Hiệp, thuộc tổng Lợi Hòa, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Ngũ Hiệp thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Ngũ Hiệp thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía nam huyện; đông giáp xã Phú Phong, huyện Châu Thành; tây giáp xã Tân Phong; nam giáp sông Tiền; bắc giáp sông 5 thôn.

Diện tích tự nhiên 2.780ha: thổ cư 108ha, vườn cây 1.657ha, nuôi trồng thủy sản 4,5ha.

Dân số: 15.125 nhân khẩu (3.275 hộ); trong đó, nam 6.955, nữ 8.170, đều là người Kinh; người theo Phật giáo 120, theo Công giáo 2.009, Cao Đài 172, Hòa Hảo 42. Tỷ lệ sinh năm 2004: 1,37%, tử 0,27%. Số người di cư năm 2004: 62, nhập cư 126.

Ngành nghề chính là làm vườn; nghề phụ: chăn nuôi, sấy nhãn, buôn bán nhỏ. Hiện xã có 1428 hộ giàu và khá chiếm tỷ lệ 43,6%, hộ trung bình khá 17301 chiếm tỷ lệ 52,94%, hộ nghèo còn 113 chiếm tỷ lệ 3,45%.

Qua xã có tỉnh lộ 868 dài 2,2 km; mạng lưới sông, ngòi, rạch... có rạch Ông Dú, rạch Thủ Cẩm, cầu Ông Dú, cầu Đập Lầu... cùng 1 bến phà và 8 bến đò.

Chợ trung tâm của xã ở ấp Hòa Hảo, bán đặc sản là sầu riêng, họp từ 4 đến 17 giờ, có khoảng 800 đến 1000.

Trường mẫu giáo có cơ sở vật chất đủ dạy và học cho 8 lớp với 287 học sinh. Có 3 trường tiểu học và 7 điểm ấp được xây dựng kiên cố, có 46 lớp, 1.527 học sinh. Trường trung học cơ sở với 25 lớp, 875 học sinh.

Trạm y tế có 1 bác sĩ, 4 y sĩ, 1 dược sĩ và 1 nữ hộ sinh.

Hiện toàn xã có 238 liệt sĩ, 36 thương binh, 746 gia đình có công với nước, 746 huân chương của tập thể và cá nhân.

Tổ chức Đảng đầu tiên của xã thành lập tháng 5/1961 với 3 đảng viên, đến nay đã có 107 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã (thành lập năm 1962) là các tổ chức Đoàn TNCSHCM (thành lập năm 1960), Hội LHTNVN, Hội Phụ nữ (thành lập năm 1990), Hội Cựu chiến binh (thành lập năm 1990), Hội Nông dân (thành lập năm 1960), HĐND, UBND.

XÃ NHỊ MỸ

Gồm các ấp: Mỹ Cần, Mỹ Lợi, Mỹ An, Mỹ Thuận, Mỹ Định.

Nguyên thủy có 2 làng Mỹ Tường và Mỹ Trang thuộc tổng Kiến Lợi, năm 1836 thuộc tổng Lợi Trinh. Ngày 1.1.1933 hai làng nầy nhập lại lấy tên là Nhị Mỹ thuộc tổng Lợi Trinh, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã Nhị Mỹ thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền thực dân Pháp đặt xã Nhị Mỹ thuộc tổng Lợi Trinh, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Nhị Mỹ thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Nhị Mỹ thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía đông huyện, tây giáp thị trấn Cai Lậy; nam giáp xã Long Khánh; bắc giáp xã Mỹ Hạnh Trung.

Diện tích tự nhiên 7.694,634ha: thổ cư 370.510m2, trồng lúa 436,696 ha, vườn cây: 193,458 ha, nuôi trồng thủy sản 13,699 ha.

Dân số: 6.739 nhân khẩu (1.626 hộ); trong đó, nam 2.635, nữ 4.104; người Kinh 6.739; người theo Phật giáo 55.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp. Xã không có hộ đói, hàng năm tỷ lệ hộ nghèo giảm, còn 11,3%, tỷ lệ hộ khá giàu đạt 88,6%.

Qua xã có Quốc lộ 1A dài 3km, lộ đất (dây thép) 1,8 km, lộ Thanh Niên 1km, lộ Mỹ Định 1 km...; Kinh lộ đất 1,8 km, cầu Nhị Mỹ, cầu Năm Trinh...

Hiện toàn xã có 5 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 210 liệt sĩ, 70 thương binh, 17 lão thành cách mạng, 319 gia đình có công với nước, 302 huân chương của tập thể và cá nhân.

Đầu tháng 5/1930, tại ấp Mỹ Cần, xã Nhị Mỹ, chi bộ Đảng của xã được thành lập với 5 đảng viên. Đến nay (2005), Đảng bộ xã Nhị Mỹ có 114 đảng viên được chia thành 10 chi bộ. Cùng với MTTQVN xã (thành lập tháng 3/1961) là các tổ chức Đoàn TNCSHCM, Hội CCB (thành lập năm 1990), HĐND (thành lập 4/1976), UBND (thành lập năm 1940)...

XÃ MỸ THÀNH NAM

Gồm các ấp: ấp 5, ấp 6, ấp 7, ấp 8, ấp 9A, ấp 9B, ấp 10 và ấp 11.

Đời Tự Đức có 2 làng Lợi An và Giai Mỹ thuộc tổng Lợi Thuận. Năm 1858, lập làng Lợi Thành. Năm 1866 lập làng Giai Phú. Ngày 24.10.1925 nhập Lợi An và Lợi Thành lấy tên là An Thành, làng Giai Mỹ và Giai Phú lấy tên là Mỹ Phú. Đến ngày 29.10.1932 nhập Mỹ Phú và An Thành lấy tên là Mỹ Thành thuộc tổng Lợi Thuận, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân Pháp đặt xã Mỹ Thành thuộc tổng Lợi Thuận, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Mỹ Thành thuộc tổng Lợi Thuận, quận Cái Bè (1969-1975), tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía đông huyện; đông giáp xã Phú Nhuận; tây giáp xã Mỹ Thành Bắc; nam giáp xã Mỹ Hội, huyện Cái Bè; bắc giáp xã Thạnh Lộc.

Diện tích tự nhiên 1.909 ha: trồng lúa 1.460 ha, vườn cây 415 ha, nuôi trồng thủy sản 4 ha.

Dân số: 12.910 nhân khẩu (2.909 hộ); trong đó, nam 5.729, nữ 7.181, người Kinh 12.904, người Hoa 6; người theo Phật giáo 7, theo Công giáo 91, theo Tin Lành 9, Cao Đài 78, Hòa Hảo 2.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp; nghề phụ: chăn nuôi gia cầm, buôn bán, xay xát lúa gạo. Số hộ giàu chiếm 31,1%, hộ khá 43%, hộ nghèo 15,9%.

Qua xã có Quốc lộ 1A dài 4 km, tỉnh lộ qua kinh 10 dài 5km, huyện lộ. Cả Gáo dài 4,5km; Sông, ngòi, kinh, rạch, cầu cống... có kinh 10, Một Thước, Cả Gáo, Đường Nước với tổng chiều dài 20km; cầu Bà Tồn trọng tải 25 tấn; cống kinh Đất Làng và cống kinh 10...

Chợ xã Bà Tồn họp hàng ngày, có khoảng 200 người.

Trường mẫu giáo có 2 điểm trường, 9 lớp, 310 cháu; 2 trường tiểu học gồm, 54 lớp, 1.429 học sinh; 2 trường trung học cơ sở gồm, 41 lớp, 1.726 học sinh.

Trạm y tế có 5 y sĩ, 1 y tá, 2 nữ hộ sinh,... cùng các tổ chức chăm sóc sức khỏe cộng đồng như 8 tổ y tế.

Xã có 8 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 154 liệt sĩ, 80 thương binh, 14 lão thành cách mạng, 386 gia đình có công với nước, 146 huân huy chương của tập thể và cá nhân.

Tháng 11-1946, chi bộ xã được thành lập trên cơ sở ghép 3 xã Mỹ Thành, Phú Nhuận, Thạnh Phú. Tháng 3-1947, tách thành 3 chi bộ độc lập. Đến nay, Đảng bộ xã có 13 chi bộ, 138 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã là các tổ chức Đoàn TNCSHCM và Hội LH.TNVN, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh (thành lập năm 1989), Hội Nông dân (thành lập năm 1990), HĐND (thành lập năm 1977).

XÃ MỸ THÀNH BẮC

Gồm các ấp: ấp 1, ấp 2, ấp 3, ấp 4, ấp 5.

Nguyên từ xã Mỹ Thành tách ra trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ.

Nằm ở phía tây huyện; đông giáp xã Thạnh Lộc; tây giáp xã Hậu Mỹ, huyện Cái Bè; nam giáp xã Mỹ Thành Nam; bắc giáp xã Tân Hòa, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An.

Diện tích tự nhiên 1.748ha: thổ cư 34ha, trồng lúa 1.296ha, vườn cây 239ha, nuôi trồng thủy sản 2ha.

Dân số: 7.870 nhân khẩu (1.755 hộ); trong đó, nam 3.924, nữ 3.946; đều là người Kinh; người theo Phật giáo 152, theo Cao Đài 11.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp (chủ yếu là trồng lúa); nghề phụ như chăn nuôi. Ngoài 446 hộ gia đình chính sách, có 616 hộ khá, 705 hộ trung bình, 434 hộ nghèo và cận nghèo. Nhìn chung đời sống nhân dân trong xã ngày càng ổn định, tỷ lệ phát triển kinh tế năm sau cao hơn năm trước.

Qua xã có tỉnh lộ 865 dài 1,8km, huyện lộ kinh 10 dài 3,9 km...; kinh Nguyễn Văn Tiếp dài 1,8km, kinh 9 dài 8km, cầu kinh Một Thước, rạch Cả Gáo...

Xã có 15 bà mẹ Việt Nam Anh hùng (còn sống 3 mẹ), 199 liệt sĩ, 89 thương binh, 20 vị lão thành cách mạng, 109 gia đình có công với nước, 254 huân chương của tập thể và cá nhân.

XÃ PHÚ CƯỜNG

Gồm các ấp: ấp 1, ấp 2, ấp 3, ấp 4, ấp 5A, ấp 5B và ấp 6.

Từ xã Thạnh Phú tách ra ngày 12.4.1979.

Nằm ở phía bắc huyện; đông giáp xã Mỹ Phước Tây; tây giáp xã Thạnh Lộc; nam giáp xã Phú Nhuận; bắc giáp xã Tân Hòa, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An.

Diện tích tự nhiên 3.260ha: thổ cư 59 ha, trồng lúa 2.489 ha, vườn cây 322 ha, chưa khai thác 2ha.

Dân số: 13.078 nhân khẩu (2.928 hộ); trong đó, nam 6.413, nữ 6.665; người Kinh 13.065, người Hoa 13; người theo Phật giáo 4, theo Công giáo 10, theo Cao Đài 179.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp; nghề phụ: chăn nuôi gia súc, gia cầm. Hiện xã có 892 hộ giàu chiếm 30,47%, 1.311 hộ trung bình - khá chiếm 44,77%, 725 hộ nghèo được trợ cấp chiếm 24,76%.

Qua xã có tỉnh lộ 865 và 868 dài 8km, đường huyện Bình Phú - Phú Cường 2,5km...; Kinh, rạch, cầu cống... có kinh Nguyễn Văn Tiếp, Ban Dầy, kinh 12, kinh Hai Hạt dài 18 km; cầu Cống Chùa, cầu Cống Kho...

Xã hiện có 14 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 248 liệt sĩ, 45 thương binh, 1.008 gia đình có công với nước, 1 huân chương của tập thể và 182 huân chương cá nhân.

Năm 1979, xã Phú Cường thành lập tổ chức Đảng với 34 đảng viên. Hiện nay, Đảng bộ có 10 chi bộ trực thuộc, 113 đảng viên.

XÃ PHÚ AN

Gồm các ấp: 1, 2, 3, 4, 5, 6.

Nguyên thủy là 2 làng Phú Sơn và An Mỹ thuộc tổng Lợi Thuận. Ngày 24.10.1925, nhập 2 làng nầy lại lấy tên là Phú An.Trước Cách mạng tháng Tám, xã Phú An thuộc tổng Lợi Thuận, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho.

Trong kháng chiến chống Pháp, Phú An thuộc tổng Lợi Thuận huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Phú An thuộc huyện Cai Lậy Nam (giai đoạn chia huyện năm 1971), tỉnh Mỹ Tho. Chính quyền VNCH đặt xã Phú An thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường.

Địa giới xã: đông giáp xã Hiệp Đức; tây giáp xã Hội Cư, huyện Cái Bè; nam giáp khu 3 của huyện Cái Bè; bắc giáp xã Bình Phú.

Diện tích tự nhiên 1.480 ha: thổ cư 41 ha, trồng lúa 355 ha, vườn cây 854 ha, nuôi trồng thủy sản 39 ha.

Dân số: 15.187 nhân khẩu (3.278 hộ); trong đó, nam 6.144, nữ 9.043; người Kinh chiếm 100%; Tôn giáo có: Phật giáo 1.500 người, Công giáo: 615, Cao Đài: 101. Tỷ lệ sinh các năm - 2000: 1,6%, 2001: 1,5%, 2002: 1,4%, 2003: 1,3%, 2004: 1,2%; Tử các năm - 2000: 0,5%, 2001: 0,4%, 2002: 0,6%, 2003: 0,5%, 2004: 0,6%.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp; nghề phụ: buôn bán nhỏ, làm thuê, sấy nhãn... Hiện toàn xã có 4,6% hộ nghèo, 45% hộ giàu.

Qua xã có Quốc lộ 1A dài 6km, tỉnh lộ 875 dài 2km...; rạch Phú An (Cái Bè lớn) đi qua các xã Bình Phú, Mỹ Thành Nam. Cầu Phú An, cầu rạch Giồng ấp 1...

Xã có 1 Anh hùng quân đội (đã mất), 22 bà mẹ Việt Nam Anh hùng (còn sống 3 mẹ), 306 liệt sĩ, 79 thương binh, 34 lão thành cách mạng, 960 gia đình có công với nước.

Tổ chức Đảng ở xã thành lập năm 1932 với 6 đảng viên; hiện nay, Đảng bộ có 102 đảng viên.

CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH THUỘC HUYỆN CAI LẬY (tiếp theo)

XÃ NHỊ QUÍ

Gồm 5 ấp: Quý Chánh, Quý Thành, Quý Lợi, Quý Phước, Quý Trinh.

Nguyên thủy là 2 làng Mỹ Quí và Mỹ Trinh thuộc tổng Kiến Lợi, đời Gia Long. Đời Thiệu Trị có thêm làng Mỹ Quí Đông thuộc tổng Lợi Trường. Ngày 24.10.1925, nhập hai làng Mỹ Quí và Mỹ Quí Đông thành Nhị Quí.

Trong kháng chiến chống Pháp xã Nhị Quí thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân Pháp đặt xã Nhị Quý thuộc tổng Lợi Hòa, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Nhị Quý thuộc huyện Cai Lậy Nam, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Nhị Quý thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía đông huyện; đông giáp xã Hữu Đạo, huyện Châu Thành; tây giáp xã Long Khánh; nam giáp xã Mỹ Long; bắc giáp xã Tân Hội và Quốc lộ 1A.

Diện tích tự nhiên 787,7ha: thổ cư 59,93ha, trồng lúa 152,7ha, vườn cây 492,63ha, nuôi trồng thủy sản 3,4ha.

Dân số: 11.070 nhân khẩu (2.529 hộ); trong đó, nam 5.310, nữ 5.760; người Kinh 11.045, người Hoa 18, người Khơme 7. Tôn giáo: Phật giáo 61 người, Công giáo: 183, Cao Đài: 235. Tỷ lệ sinh các năm - 2000: 1,69%, 2001: 1,45%, 2002: 1,44%, 2003: 1,05%, 2004: 1,39%; tử các năm - 2000: 0,42%, 2001: 0,40%, 2002: 0,33%, 2003: 0,35%, 2004: 0,29%.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp (làm ruộng, làm vườn); nghề phụ: tiểu thủ công nghiệp, buôn bán. Sau khi chuyển đổi diện tích trồng lúa sang trồng các loại cây có hiệu quả kinh tế cao, đời sống nhân dân ngày càng nâng lên; hiện nay số hộ giàu chiếm 26,6%, hộ trung bình - khá 53,5%, hộ nghèo chiếm 19,9%.

Qua xã có Quốc lộ 1A dài 5km, tỉnh lộ 86B dài 3km...; sông Bà Kỳ Gò Me dài 1,5km, cầu Tà Lượt,...

Chợ xã ở ấp Quý Chánh, họp vào buổi sáng, có khoảng 1.000 người.

Toàn xã có 261 liệt sĩ, 82 thương binh, 458 gia đình có công với nước, 961 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ Đảng xã thành lập năm 1948, cùng năm có các tổ chức MTTQVN xã , Đoàn thanh niên, Hội LHTN, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân...; Hội Cựu chiến binh (thành lập năm 1990), HĐND (thành lập năm 1976)...

XÃ PHÚ NHUẬN

Gồm 6 ấp: Phú Thuận, Phú Bình, Phú Lợi, Phú Hòa, Chà Là, Phú Tiểu.

Nguyên thủy, 2 làng Phú Nhuận (do ông Nguyễn văn Ngợi và Bùi Văn Tàng lập năm Gia Long thứ 18) và Phú Thuận Đông thuộc tổng Lợi Thuận. Năm 1879, ông Phạm Ngọc Bạch lập thêm làng Phú Hưng. Ngày 13.12.1913 làng Phú Hưng nhập vào Phú Nhuận. Ngày 24.10.1925, nhập Phú Nhuận Đông vào Phú Thuận Đông.

Trước Cách mạng tháng Tám, xã có tên là Phú Nhuận Đông thuộc tổng Lợi Thuận, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, xã Phú Nhuận Đông thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân Pháp đặt xã Phú Nhuận Đông thuộc tổng Lợi Thuận, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Phú Nhuận Đông thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Phú Nhuận Đông thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây huyện; đông giáp xã Bình Phú; tây giáp xã Mỹ Thành Nam; nam giáp xã Bình Phú; bắc giáp xã Phú Cường.

Diện tích tự nhiên 1.260ha: thổ cư 53,1ha, trồng lúa 887,72ha, vườn cây 232,98ha, nuôi trồng thủy sản 1,03ha.

Dân số: 9.647 nhân khẩu (1.963 hộ); trong đó, nam 4.671, nữ 4.976.

Ngành nghề chính là trồng lúa; nghề phụ: chăn nuôi, buôn bán. Xã có 1.334 hộ khá chiếm 67,95%, 306 hộ trung bình chiếm 15,58%, 323 hộ nghèo chiếm 16,45%.

Qua xã có Quốc lộ 1A dài 1,5 km, lộ Chùa dài 3,5 km...; Cầu Chà Là qua Mỹ Thành Nam, cầu Phú Nhuận qua Bình Phú, cầu Phú Nhuận qua Thạnh Lộc...

Toàn xã có 8 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 110 liệt sĩ, 96 thương binh, 15 lão thành cách mạng, 323 gia đình có công với nước, 323 huân chương của tập thể và cá nhân.

Tháng 4/1947, chi bộ xã Phú Nhuận Đông được thành lập với 3 đảng viên, hiện nay Đảng bộ có 102 đảng viên. Mặt trận dân tộc giải phóng xã Phú Nhuận thành lập năm 1961. Cùng thành lập năm 1961 có Đoàn TNCSHCM xã , Hội LHTN, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân...

XÃ TAM BÌNH

Gồm các ấp: Đông Hòa, Tây Hòa, Bình Chánh Đông, Bình Thuận, Bình Chánh Tây, Bình Thanh, Bình Thạnh, Bình Đức, Bình Hòa A, Hòa B, Bình Ninhuyện

Đời Gia Long có 3 làng Bình Chánh, Bình Chánh Đông và Bình Chánh Tây thuộc tổng Kiến Lợi, đến năm 1836 thuộc tổng Lợi Trường. Ngày 24.11.1932, ba làng nầy nhập lại lấy tên là Tam Bình thuộc tổng Lợi Hòa, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã Tam Bình thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân Pháp đặt xã Tam Bình thuộc tổng Lợi Hòa, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Tam Bình thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Tam Bình, thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía nam huyện; đông giáp xã Phú Phong, huyện Châu Thành; tây giáp xã Long Trung; nam giáp sông Năm Thôn; bắc giáp xã Long Tiên.

Diện tích tự nhiên 2.081,7478 ha: thổ cư 116,0400 ha, vườn cây 1.644,4400 ha, nuôi trồng thủy sản 2,8733 ha.

Dân số: 15.622 nhân khẩu (3.739 hộ); trong đó, nam 7.523, nữ 8.099; người Kinh 15.599, Hoa 23; người theo Phật giáo 208, theo Công giáo 40, theo Cao Đài 485. Tỷ lệ sinh trong các năm - 2000: 1,68%, 2001: 1,51%, 2002: 1,42%, 2003: 1,36%, 2004: 1,34%; tử năm 2000: 0,2%, 2001: 0,323%, 2002: 0,25%, 2003: 0,26%, 2004: 0,29%.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp; nghề phụ: chăn nuôi, dệt chiếu, kinh doanh, tạp hóa. Hiện xã không có hộ đói, hộ giàu - khá chiếm 75%, hộ nghèo chiếm 3,5%.

Qua xã có tỉnh lộ 864 dài 10 km và tỉnh lộ 868 dài 3,5 km, đường Kiểm Thưởng dài 2 km, đường Thanh Niên; Sông, rạch, cầu cống ... có rạch Cây Bàng dài 5 km, rạch Mù U 3,5 km, rạch Hai Tân dài 3 km, rạch Cây Cồng dài 2,5km; cầu Hai Tân; 8 cống ngang qua tỉnh lộ 864; phà bến cảng Hưng Long - Ngũ Hiệp, phà chợ Tam Bình - Ngũ Hiệp; bến đò ngang Tây Hòa - Ngũ Hiệp.

Chợ xã Tam Bình tại ấp Bình Thuận họp vào buổi sáng, có khoảng 1.200 người.

Trường mẫu giáo bán kiên cố, có 9 lớp, 256 cháu. Trường tiểu học với một điểm đang xây dựng hướng chuẩn Quốc gia, còn lại 8 điểm bán kiên cố có 40 lớp, 1.187 học sinh.Trường trung học cơ sở được xây dựng đạt chuẩn Quốc gia, có 32 lớp, 1.327 học sinh.Trường trung học phổ thông, có 46 lớp, 1.981 học sinh riêng xã Tam Bình có 441 học sinh.

Trạm y tế xã có 1 bác sĩ, 5 y sĩ, 1 dược sĩ và 2 nha sĩ; ngoài ra còn có Ban Dân số, gia đình và trẻ em, Hội chữ thập đỏ.

Toàn xã có 9 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 288 liệt sĩ, 69 thương binh, 25 lão thành cách mạng, 1.332 gia đình có công với nước, 673 huân chương của tập thể và cá nhân.

Năm 1945, xã Tam Bình đã có chi bộ Đảng do đồng chí Nguyễn Văn Hiếu (bí danh Cau Khô) ở Huyện ủy Cai Lậy trực tiếp chỉ đạo. Ngày 10.7.1954, chi bộ Đảng xã chính thức thành lập, có 5 đảng viên do đồng chí Lê Văn Đây làm Bí thư. Đến nay, Đảng bộ xã Tam Bình có 16 chi bộ 124 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã (thành lập năm 1962) là Đoàn TNCSHCM (thành lập năm 1962), Hội LHTNVN, Hội Phụ nữ (thành lập năm 1962), Hội Cựu chiến binh (thành lập ngày 27/6/1990), Hội Nông dân (thành lập tháng 12/1960), HĐND (thành lập năm 1976), UBND (thành lập năm 1970).

XÃ TÂN BÌNH

Gồm các ấp: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7.

Đời Gia Long là 2 làng Tân Hòa và Bình Chánh Tây, thuộc tổng Kiến Lợi. Ngày 12.7.1877, làng Tân Hòa đổi thành Tân Long. Ông Cai tổng Lê Văn Thu cắt đất Tân Long ra lập làng Tân An. Ngày 24.10.1925, nhập 3 làng Tân Long, Tân An và Bình Chánh Đông thành Tân Bình thuộc tổng Lợi Trinh, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền thực dân Pháp đặt xã Tân Bình thuộc tổng Lợi Trinh, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Tân Bình thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã Tân Bình thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía bắc huyện; đông giáp xã Nhị Mỹ; tây giáp xã Bình Phú; nam giáp Ttr. Cai Lậy; bắc giáp xã Mỹ Hạnh Trung.

Diện tích tự nhiên 1.362 ha: thổ cư 47,6 ha, trồng lúa 857 ha, vườn cây 240 ha, chưa khai thác 28 ha mặt nước.

Dân số: 11.736 nhân khẩu (2.493 hộ); trong đó, nam 5.290, nữ 6.446; người Khơme 2. Tôn giáo: Tin Lành 30 người, Cao Đài: 35, Hòa Hảo: 14. Tỷ lệ sinh năm 2004: 1,1%; tử 0,33%.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp; nghề phụ: xay xát lúa gạo, đan, may, buôn bán vật liệu xây dựng, vật tư nông nghiệp, xăng dầu, hàng tiêu dùng.

Qua xã có tỉnh lộ 868 dài 5km, đường ngã ba cây trí 3,5 km...; sông Ba Rài 5km. Cầu Cà Mau, cầu Ban Chón, cầu Tân Bình,...

Hiện xã có 12 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 259 liệt sĩ, 76 thương binh, 27 lão thành cách mạng, 106 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ Đảng xã thành lập năm 1945 với 4 đảng viên, đến năm 1963 nâng lên Đảng bộ, hiện có 128 đảng viên.

XÃ TÂN PHONG

Gồm các ấp: Tân Thái, Tân Thiện, Tân Luông A, Tân Luông B, Tân Bường A, Tân Bường B, Tân An. Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tổng Bình Hưng, quận Chợ Lách, tỉnh Vĩnh Long. Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Chợ Lách, tỉnh Vĩnh Long; Chính quyền Thực dân Pháp đặt xã Tân Phong, thuộc tổng Bình Hưng, quận Chợ Lách, tỉnh Vĩnh Long. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Tân Phong thuộc huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre (năm 1967 giao về Cai Lậy); Chính quyền VNCH đặt xã Tân Phong thuộc quận Chợ Lách, tỉnh Vĩnh Long.

Nằm ở phía nam huyện; đông giáp xã Ngũ Hiệp; tây giáp xã Đồng Phú, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long; nam giáp xã Phú Phong, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre; bắc giáp xã Hội Xuân.

Diện tích tự nhiên 24.300.039m2: thổ cư 866.100m2, vườn cây 11.951.515m2.

Dân số: 14.858 nhân khẩu (2.887 hộ); trong đó, nam 6.801, nữ 8.057, người Hoa 30; Tôn giáo: Thiên chúa: 158 người, Cao Đài: 700, Hòa Hảo: 266.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp, trồng cây ăn trái; nghề phụ: chăn nuôi, buôn bán nhỏ. Số hộ giàu chiếm 30%, hộ khá 62%, hộ nghèo 8%.

Qua xã có sông Tiền dài 11km, đò ngang qua Tân Phong - Hiệp Đức, Tân Phong-Cái Bè, Ngũ Hiệp - Tân Phong.

Trường mẫu giáo có 13 phòng, 292 cháu. Trường Tiểu học Tân Phong 1 có 16 phòng kiên cố, 20 lớp, 539 học sinh và Tiểu học Tân Phong 2 với 17 phòng, 23 lớp, 610 học sinh.Trường trung học cơ sở có 12 phòng kiên cố, 6 phòng bán kiên cố, 20 lớp, 855 học sinh.

Trạm y tế có 3 y sĩ, 1 y tá; 7 tổ y tế ở 7 ấp.

Toàn xã có 49 liệt sĩ, 20 thương binh, 145 gia đình có công với nước, 127 huân chương của cá nhân.

Năm 1958, chi bộ Đảng xã Tân Phong được thành lập với 3 đảng viên. Hiện nay, Đảng bộ xã có 10 chi bộ, 85 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã (thành lập năm 1977) là các tổ chức Đoàn TNCSHCM, Hội LHTNVN (thành lập năm 1961), Hội Phụ nữ (thành lập năm 1961), Hội Cựu chiến binh (thành lập năm 1990), Hội Nông dân (thành lập năm 1961), HĐND (thành lập năm 1976).

XÃ TÂN PHÚ

Gồm 5 ấp: Tân Hòa, Tân Hiệp, Tân An, Tân Thới và ấp Bắc.

Nguyên là làng Tân Phú Đông do ông Trần văn Giá tái lập năm 1830 thuộc tổng Thuận Bình. Ngày 12.8.1879, làng Tân Phú Đông chuyển về tổng Lợi Trinh.

Trước Cách mạng tháng Tám, xã Tân Phú Đông thuộc tổng Lợi Trinh, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, xã Tân Phú Đông thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân Pháp đặt xã Tân Phú Đông thuộc tổng Lợi Trinh, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Tân Phú thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Tân Phú thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía đông huyện; đông giáp xã Điềm Hy, huyện Châu Thành; tây giáp xã Tân Hội; nam giáp xã Tân Hội; bắc giáp xã Phước Lập, huyện Tân Phước.

Diện tích tự nhiên 814 ha: thổ cư 166 ha, trồng lúa 530 ha, nuôi trồng thủy sản 14 ha.

Dân số: 6.521 nhân khẩu (1.188 hộ); trong đó, nam 2.270, nữ 3.251; đều là người Kinhuyện

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp; nghề phụ: dệt thảm, đan mây tre, mua bán nhỏ. Toàn xã có 308 hộ giàu chiếm 25,9%, 507 hộ khá chiếm 41%, 302 hộ trung bình chiếm 25,4%, 71 hộ nghèo chiếm 5,9%.

Qua xã có tỉnh lộ 874 dài 4,5km (đoạn từ Tân Hòa đến Tân Thới), lộ đất ấp Tân Hòa nối liền Tân Hội, Tân Phú, Điềm Hy...; kinh Mỹ Long Bà Kỳ, kinh Ban Chón; cầu Nguyễn Văn Đừng, cầu kinh Kháng Chiến...

Chợ Ấp Bắc hàng ngày họp khoảng 3 tiếng từ 5 giờ sáng với khoảng 70 người mua và bán.

Xã hiện có Anh hùng quân đội Nguyễn Văn Tròn, 270 liệt sĩ, 102 thương binh, 91 lão thành cách mạng, 479 gia đình có công với nước, 450 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ Đảng thành lập tháng 5/1933 với 5 đảng viên. Đến tháng 6/2005, Đảng bộ có 128 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã là các tổ chức khác cùng thành lập năm 1961 như Đoàn TNCSHCM, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân...; Hội Cựu chiến binh, HĐND (cùng thành lập năm 1987); UBND (thành lập năm 1976).

XÃ TÂN HỘI

Gồm các ấp: Tân Phong, Tân Thạnh, Tân Hòa, Tân Hiệp, Quý Thạnhuyện

Đời Gia Long (1808), thôn Tân Hội thuộc tổng Kiến Lợi, đến năm 1836 thuộc tổng Lợi Trinh.

Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tổng Lợi Trinh, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân Pháp đặt xã Tân Hội thuộc tổng Lợi Trinh, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Tân Hội thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Tân Hội thuộc tổng Lợi Trinh, quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía đông huyện; đông giáp xã Điềm Hy, huyện Châu Thành và xã Tân Phú, huyện Cai Lậy; tây giáp xã Nhị Mỹ và xã Mỹ Hạnh Trung; nam giáp Quốc lộ IA; bắc giáp xã Mỹ Hạnh Đông và xã Tân Phú.

Diện tích tự nhiên 1.353,4572 ha: thổ cư 60,5981 ha, trồng lúa 940,6149 ha, vườn cây 212,7874 ha, nuôi trồng thủy sản 18,0456 ha.

Dân số: 12.011 nhân khẩu (2.593 hộ); trong đó, nam 6.271, nữ 5.740; người Kinh 11.981, người Hoa 29, người Khơme 1; người theo Phật giáo 17, theo Cao Đài 63.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp; nghề phụ: chăn nuôi, buôn bán nhỏ. Sản xuất nông nghiệp chiếm 80%, tỷ lệ hộ giàu chiếm 40%, hộ nghèo dưới 4%.

Qua xã có đường lộ Dây Thép, lộ Thanh Niên.... Sông, rạch, cầu, cống... có kinh Mỹ Long, cầu Năm Truyền, cống Ba Quỳnh...

Chợ Tân Hội ở ấp Tân Thạnh và chợ Bưng Môn ở ấp Quý Thạnh, có khoảng 700 người.

Xã hiện có Anh hùng LLVTND Nguyễn Văn Lo, 20 bà mẹ Việt Nam Anh hùng (hiện 2 mẹ còn sống), 393 liệt sĩ, 167 thương binh, 1 lão thành cách mạng, 1.032 gia đình có công với nước, 501 huân chương của tập thể và cá nhân.

Năm 1932, chi bộ ghép Tân Hội - Mỹ Hạnh Đông được thành lập với 6 đảng viên. Đầu năm 1934, chi bộ xã Tân Hội được thành lập với 5 đảng viên và đến năm 1942 chi bộ xã được tái lập với 4 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã là các tổ chức Đoàn TNCSHCM, Hội PNVN, Hội CCB (thành lập tháng 5/1990), Hội NDVN (thành lập 8/1945)...

XÃ THANH HÒA

Gồm các ấp: Thanh Bình, Thanh Hưng, Thanh Sơn, Thanh Hiệp.

Nguyên thủy, đời Gia Long gồm Thanh Sơn thôn và Hữu Hòa ấp thuộc tổng Kiến Lợi, thôn Hòa Sơn (đời Minh Mạng) thuộc tổng Lợi Trinh. Ngày 24.11.1932, nhập hai làng Hòa Sơn và Thanh Sơn lấy tên là Thanh Hòa thuộc tổng Lợi Trinh, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân Pháp đặt xã Thanh Hòa, thuộc tổng Lợi Trinh, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Thanh Hòa thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Thanh Hòa thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía nam huyện; đông giáp xã Long Khánh; tây giáp xã Bình Phú; nam giáp xã Cẩm Sơn; bắc giáp Ttr. Cai Lậy.

Diện tích tự nhiên 672,5 ha: thổ cư 35,3 ha, trồng lúa 285,7ha, vườn cây 284,5ha, nuôi trồng thủy sản 2,1ha.

Dân số: 5.892 nhân khẩu (1272 hộ) trong đó, nam 2.878, nữ: 3.014.

Ngành nghề chính là trồng lúa, cây ăn trái. Hiện nay có 91 hộ nghèo loại A và 138 hộ nghèo loại B.

Qua xã có Quốc lộ 1A dài 800m, lộ Cũ dài 4 km, đường Đông Ba Rài dài 5 km, đường Tây Ba Rài dài 5 km. Sông, rạch, cầu, cống... có kinh Mới dài 0,4km, cầu Ông Án, cầu Kinh Mới, cầu Cả Nứa, cống Cả Sơn, cống Bà Xá...

Trường mẫu giáo có 4 lớp với 105 cháu, trường tiểu học có 15 phòng với 11 lớp, 259 học sinh; trường trung học cơ sở có 7 phòng, 9 lớp, 296 học sinh.

Trạm y tế có 5 giường bệnh, 4 y sĩ, 1 dược sĩ.

Hiện toàn xã có 257 liệt sĩ, 95 thương binh, 23 vị lão thành cách mạng, 582 gia đình có công với nước, 281 huân chương và 301 huy chương của cá nhân và tập thể.

Chi bộ xã thành lập ngày 29/12/1959 với 5 đảng viên, hiện Đảng bộ xã có 115 đảng viên. Bên cạng MTTQVN xã (thành lập năm 1962) là các tổ chức Đoàn TNCSHCM và Hội LHTNVN (thành lập ngày 26/12/1961), Hội Phụ nữ và Hội Nông dân (cùng thành lập tháng 12/1961), Hội Cựu chiến binh (thành lập ngày 22/12/1990), HĐND (thành lập năm 1976)...

XÃ THẠNH LỘC

Gồm các ấp: 1, 2, 3, 4, 5 và 6.

Nguyên là làng Mỹ Thạnh lập năm 1857, đến ngày 21.8.1901, cắt làng nầy ra lập làng Mỹ Thạnh và Mỹ Phú Đông. Ngày 24.10.1925, nhập Mỹ Thạnh và Mỹ Phú Đông lấy tên là Thạnh Phú thuộc tổng Lợi Thuận, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho.

Trong kháng chiến chống Pháp, có tên là xã Thạnh Phú thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân Pháp đặt xã Thạnh Phú thuộc tổng Lợi Thuận, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Thạnh Phú thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Thạnh Phú thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây bắc huyện; đông giáp xã Phú Cường, tây giáp xã Mỹ Thành Bắc; nam giáp xã Phú Nhuận và xã Mỹ Thành Nam; bắc giáp xã Tân Hòa, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An.

Diện tích tự nhiên 2.389 ha: thổ cư 46 ha, trồng lúa 1.842 ha, vườn cây 292 ha, nuôi trồng thủy sản 0,8496 ha.

Dân số: 12.053 nhân khẩu (2.515 hộ); trong đó, nam 5.881, nữ 6.172; người Kinh: 12.052; người theo Phật giáo 56, theo Công giáo 664.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp; nghề phụ: chăn nuôi và buôn bán. Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế của xã có những chuyển biến đáng kể, hiệu quả trong sản xuất khá cao, mở ra nhiều mô hình và hướng đi mới trong sản xuất, góp phần cải thiện đời sống nhân dân. Hiện xã có 82 hộ giàu chiếm 3,8%, 2287 hộ khá và trung bình chiếm 90,9% và 146 hộ nghèo chiếm 5,8%.

Qua xã có tỉnh lộ 865 dài 3,3 km...; Sông, rạch, cầu cống...có rạch Mương Lộ 3 km, cầu Thầy Cai, Bà Trần, cống Tám Bì,...

Chợ ở ấp 3 họp hàng ngày, có khoảng 350 người.

Xã có Anh hùng LLVTND Võ Văn Bảy, 18 bà mẹ Việt Nam Anh hùng 332 liệt sĩ, 90 thương binh, 17 lão thành cách mạng, 56 huân chương tập thể, 843 huân chương cá nhân.

Năm 1976, chi bộ xã được thành lập với 17 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã là các tổ chức khác đều thành lập năm 1961 như Đoàn TNCSHCM, Hội PNVN, Hội CCB, Hội NDVN. HĐND xã thành lập ngày 21/4/1979 (khóa I), đến nay là khóa IX, hiện có 28 đại biểu. UBND thành lập tháng 5/1979, nay là khóa IX...

4. HUYỆN CÁI BÈ :

Có 1 thị trấn và 24 xã. Cái Bè là huyện nông nghiệp, nằm về phía tây, cách trung tâm thành phố Mỹ Tho 50 km, cách thành phố Hồ Chí Minh 113 km. Phía bắc giáp tỉnh Long An, phía nam giáp tỉnh Vĩnh Long, phía tây giáp tỉnh Đồng Tháp và phía đông giáp huyện Cai Lậy. Diện tích tự nhiên là 420, 9km2, chiếm 17,23% diện tích toàn tỉnh,

Dân số theo thống kê năm 2004 có 287.481 người, trong đó: 139.171 nam, 147.766 nữ. Mật độ 683 người/km2

Phân bố địa bàn định cư: Khu vực thị trấn, thị tứ 16.087 người; nông thôn 217.394 người.

Mật độ dân số cao nhất là thị trấn Cái Bè: 3.696 người / km2 và thấp nhất là xã Mỹ Tân (xã mới thành lập năm 1990): 252 người / km2.

Huyện được chia thành 24 đơn vị hành chính với 1 thị trấn và 24 xã gồm: thị trấn Cái Bè, Đông Hoà Hiệp, Hoà Khánh, Mỹ Lương, An Hữu, Hoà Hưng, Hội Cư, Hậu Thành, Thiện Trí, An Thái Trung, Mỹ Đức Đông, Mỹ Đức Tây, An Thái Đông, Tân Thanh, Tân Hưng, Mỹ Lợi A, Mỹ Lợi B, Mỹ Trung, Thiện Trung, Hậu Mỹ Phú, Hậu Mỹ Trinh, Hậu Mỹ Bắc A, Hậu Mỹ Bắc B và Mỹ Tân.

Huyện Cái Bè có đường Quốc lộ 1A chạy dọc từ đông sang tây dài 27 km, Quốc lộ 30 dài 9 km từ ngã ba xã An Thái Trung đi Đồng Tháp, đây là hai tuyến đường bộ huyết mạch. Ngoài ra còn có nhiều tỉnh lộ như các đường 861, 863, 865, 869, 875 với tổng chiều dài gần 60 km.

Ngoài đường bộ, ở Cái Bè còn có các kinh rạch quan trọng gồm: rạch Cái Bè, rạch Cái Cối, rạch Bằng Lăng, kênh Nguyễn Văn Tiếp, rạch Cổ Cò, rạch Trà Lọt, kênh 28, rạch Ruộng và hàng chục kinh, rạch lớn nhỏ khác, chằng chịt đan xen với tổng chiều dài trên 500 km. Cái Bè là địa phương được thiên nhiên ưu đãi với hệ thống thủy lợi tự nhiên tốt nhất trong tỉnh.

Là huyện có nền kinh tế nông nghiệp phát triển mạnh, diện tích trồng lúa 3 vụ là 59.983 ha, nhưng cao nhất là diện tích trồng cây ăn trái với 140.600 ha. Huyện có 3 xã có diện tích đất nông nghiệp tương đối rộng, đó là xã Hậu Mỹ Trinh: 29.600 ha, Hậu Mỹ Bắc A: 25.260 ha và Hội Cư: 24.120 ha. Ngoài 3 xã nói trên còn có 3 vùng đất bãi bồi có diện tích tương đối rộng như: đất bãi bồi Cổ Lịch (còn gọi là cồn Cổ Lịch) với diện tích trồng cây ăn trái là 70 ha, cồn Hoà Khánh với diện tích hơn 40 ha và cồn Qui với diện tích hơn 80 ha, hiện trở thành một ấp thuộc xã Tân Thanh.

Cái Bè xưa vốn là lỵ sở của dinh Long Hồ. Chợ Cái Bè lập năm 1732, lúc đó gọi là chợ Long Hồ,nay là thị trấn Cái Bè. Dưới chế độ cũ, Cái Bè là đơn vị cấp quận thuộc tỉnh Mỹ Tho; từ năm 1955, chính quyền Sài Gòn cắt bớt các xã Tân Mỹ, Đốc Binh Kiều, Mỹ An, Mỹ Hoà và một phần đất xã Mỹ Trung của Cái Bè để sáp nhập vào quận Mỹ An thuộc tỉnh Kiến Phong (nay là tỉnh Đồng Tháp).

Ngày 9.8.1961, chính quyền Sài Gòn ra nghị định 760-NV thành lập quận Giáo Đức, quận lỵ đặt tại xã An Hữu; quận Cái Bè đổi tên thành quận Sùng Hiếu. Theo thống kê năm 1970, quận Sùng Hiếu và Giáo Đức có diện tích 504,9 km2 (lớn hơn diện tích huyện Cái Bè ngày nay 100 km2). Quận Sùng Hiếu kéo dài đến xã Mỹ Thành, Phú An (thuộc huyện Cai Lậy hiện nay). Dân số hai quận cộng lại có 127.915 người. Quận Sùng Hiếu có 11 xã và quận Giáo Đức có 10 xã.

Về phía chính quyền cách mạng, thời điểm này vẫn giữ nguyên là huyện Cái Bè với có 16 xã và một thị trấn.

Trong hai cuộc kháng chiến giành độc lập, địa bàn huyện là căn cứ địa cách mạng của Tỉnh ủy Tiền Giang, Khu ủy Khu 8, Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam bộ...Các trận đánh quan trọng: trận chiến thắng Cổ Cò tháng 2/1947 - đây là trận quyết chiến chặn đánh giao thông của bộ đội Nam bộ thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp; trận tập kích đoàn tàu Pháp ở Thiên Hộ năm 1952; trận Kinh Bùi năm 1953... Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, các chiến công được ghi nhận là: trận đánh đoàn tàu Mỹ trên sông rạch Ruộng vào năm 1967; trận diệt gọn tiểu đoàn Mỹ ở đập Ông Tải; trận đánh bắn cháy máy bay ở Á Rặc, thuộc xã Thiện Trí, huyện Cái Bè....Đó là những chiến công tiêu biểu cho hàng ngàn chiến công của quân và dân trong huyện.

Qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Cái Bè đã có hơn 4.000 thương binh, liệt sĩ, gần 100.000 người có công với cách mạng được tặng thưởng huân, huy chương các loại. Nhà nước đã phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho quân dân huyện Cái Bè, 10 xã được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang, 216 bà mẹ Việt Nam Anh hùng và các Anh hùng lực lượng vũ trang như: Ngô Văn Nhạc, Nguyễn Văn Mười, Đỗ Hoài Nam, Đoàn Thị Nghiệp, Phạm Thị Thao, Trần Văn Thế...

Sau ngày thống nhất đất nước, Đảng bộ và nhân dân Cái Bè đã đoàn kết xây dựng, khôi phục kinh tế. Thành tựu lớn nhất là đã tập trung cải tạo đất nông nghiệp từ một vụ thành đất trồng lúa 3 vụ, cải tạo vườn tạp để trở thành vườn chuyên canh. Mạng lưới thương nghiệp, dịch vụ phát triển rất mạnh, hầu như xã nào cũng có 1 - 2 chợ, huyện lỵ có chợ tập trung hàng hoá dồi dào, trái cây cũng nhiều chủng loại, các bến bãi tập kết xe, trái cây, lúa gạo, cá được khai thác mạnh mẽ. Cây ăn trái ở Cái Bè gồm có cam mật, quít đường, bưởi long, ổi, mận, xoài... Đặc biệt, xoài cát Hoà Lộc ( Hoà Hưng), bưởi lông Cổ Cò (Mỹ Lương) là hai đặc sản nổi tiếng trên thương trường.

Sau 1975, có hơn 100 công trình thủy lợi lớn và vừa được xây dựng, trong đó có hàng chục công trình do Nhà nước và nhân dân cùng đầu tư với kinh phí hàng trăm tỷ đồng. Hơn 20 triệu ngày công lao động để làm mới và khôi phục đường giao thông nông thôn để ngày nay cả 24 xã đều có đường xe chạy đến tận xóm ấp, trong đó có 22 xã xe ô tô đến tận trung tâm xã. Giao thông đường thủy rất thuận lợi, lòng kênh rạch hàng năm luôn được nạo vét, chính vì thế mà chợ búa, trường học, trạm, trại được xây dựng rất nhanh, các ngành nghề thủ công như bánh phồng, báng tráng rế... phát triển. Các dịch vụ, mua bán trao đổi hàng hoá ở Cái Bè hoạt động rất mạnh, bảo đảm đời sống nhân dân, thuận tiện trong giao lưu mua bán và tiêu dùng sinh hoạt.

Kinh tế phát triển, đời sống tinh thần và phúc lợi xã hội cũng từng bước được cải thiện. Với truyền thống hiếu học, hàng năm ở Cái Bè có hơn 50.000 học sinh ở tất cả các cấp học, trên 95% trẻ em đến trường, trẻ 6 tuổi đều được vào lớp 1. Đội ngũ giáo viên trên 2000 người trong đó có hơn 600 người có trình độ cao đẳng, đại học. Bên cạnh đó, ngành y tế huyện cũng không ngừng phát triển, Cái Bè đã có hơn 300 y bác sĩ, một bệnh viện huyện , hai bệnh viện khu vực. Tất cả các xã đều có trạm xá với hơn 41% xã có bác sĩ, 100% xã có y sĩ và y tá hộ lý. Phong trào thể dục - thể thao, văn hoá - văn nghệ phát triển rộng khắp. Trong huyện có 3 rạp hát lớn và nhiều sân khấu nhỏ với 16 câu lạc bộ hát cho nhau nghe...

Về mặt văn hoá, khu vực rạch Cái Cối có thể xem như là vùng miệt vườn tiêu biểu của Nam bộ. Ở đây có nhóm họ Lê -Lê Văn Thoại, ông nội của tướng Lê Văn Duyệt, là người từ Mộ Đức, Quảng Ngãi đến đây khai phá đầu tiên. Họ Đoàn- Đoàn Cảnh Cư, tướng thuộc triều Gia Long...Đây cũng là vùng đất sản sinh nhiều nhân tài làm văn hoá nghệ thuật như Nguyễn Tống Triều, một trong những người sáng lập nghệ thuật cải lương, nhạc sĩ Hoàng Việt, nhà thơ Bảo Định Giang... Các di tích quan trọng trong huyện gồm có phủ thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh (xã Tân Hưng), miếu Hà Dương Thủy thần ở xã Hòa Khánh, đình Mỹ Lương, các di tích chiến thắng Á Rặc (xã Thiện Trí), chiến thắng đập Ông Tải (Hậu Mỹ Trinh ), chiến thắng Thẻ 23 (xã Hội Cư).... Cái Bè còn là nơi có tiềm năng du lịch đáng kể. Khu du lịch Cái bè gồm các tuyến tham quan chợ nổi Cái Bè, nhà cổ ở Đông Hòa Hiệp, cồn Cổ Lịch, cầu Mỹ Thuận...

CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH THUỘC HUYỆN CÁI BÈ

THỊ TRẤN CÁI BÈ

Gồm các khu I, II, III, IV.

Là phần đất thuộc làng Đông Hòa Hiệp. Vào năm 1808, đời Gia Long có 3 thôn An Bình Đông, An Bình Tân và An Thành thuộc tổng Kiến Phong, đời Thiệu Trị thuộc tổng Phong Hòa. Ngày 12.7.1877, An Bình Tây đổi thành Phú Hòa, làng An Thành đổi thành An Hiệp. Đến nàgy 13.12.1913, nhập Phú Hòa vào làng An Bình Đông lấy tên là An Bình Đông, tiếp theo ngày 24.10.1925, nhập làng An Bình Đông và An Hiệp lấy tên là Đông Hòa Hiệp, thuộc tổng Phong Hòa.

Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Đông Hòa Hiệp thuộc huyện Cái Bè. Chính quyền Thực dân đặt xã Đông Hòa Hiệp thuộc tổng Phong Hòa, quận Cái Bè, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta gọi là thị trấn Cái Bè thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VCNH vẫn gọi là xã Đông Hòa Hiệp thuộc quận Cái Bè, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây nam huyện; đông giáp xã Phú An, huyện Cai Lậy; tây giáp xã Hòa Khánh; nam giáp xã Đông Hoà Hiệp; bắc giáp xã Phú An, huyện Cai Lậy. Từ huyện về thị trấn theo đường Thiên Hộ Dương và tỉnh lộ 875, khoảng 0,2km.

Diện tích tự nhiên 4.262,599m2: thổ cư 447.005m2, trồng lúa 24.475m2, vườn cây 2.471.919m2, nuôi trồng thủy sản 4.273m2, chưa khai thác 10.342m2.

Dân số: 15.795 nhân khẩu (3.280 hộ); trong đó, nam 7.739, nữ 8.096; người Kinh 14.812, người Hoa 979, người Khơme 2, dân tộc khác 2; Tôn giáo: Phật giáo 1.199 người, Công giáo: 1.028, Tin Lành: 137, Cao Đài: 1.174. Tỉ lệ sinh năm 2004: 1,32%, tử 0,30%.

Ngành nghề sản xuất chính: chế biến thực phẩm, buôn bán nhỏ; nghề phụ: dịch vụ.

Qua thị trấn có đường tỉnh 875 dài 2,5km. Mạng lưới sông, cầu, cống, rạch... có rạch Cái Bè dài 2,5km, rạch Cây Cam 1,5km; cầu Bà Họp; cống tổ 2 khu IV; 2 bến đò ngang (đò qua ấp An Ninh xã Đông Hoà Hiệp và đò qua xã Tân Phong - huyện Cai Lậy). Chợ Cái Bè là chợ huyện nằm tại khu I, họp hàng ngày có khoảng 18.000 người.

Có 2 điểm trường mẫu giáo với 13 lớp, 562 cháu; 4 điểm trường tiểu học với 48 lớp 1.669 học sinh; 2 điểm trường trung học cơ sở với 49 lớp, 2062 học sinh 2062; trường Trung học Phổ thông Cái Bè với 42 lớp, 1.751 học sinh và Trung học Phổ thông bán công Huỳnh Văn Sâm với 30 lớp, 1.284 học sinh; 2 điểm trường giáo dục thường xuyên với 11 lớp, 457 học sinh; trường dạy nghề với 100 lớp, 2363 học sinh (chủ yếu là học sinh cấp 3 và cấp 2). Số người đã tốt nghiệp trung học về làm việc tại thị trấn là 37.

Trạm y tế 1 bác sĩ, 2 y sĩ, 1 y tá, 2 dược tá; các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng gồm 1 hộ lý, 2 nha tá, 1 lương y.

Hiện tại toàn thị trấn có 5 bà mẹ Việt Nam Anh hùng: Nguyễn Thị Ép, Nguyễn Thị Tư, Huỳnh Thị Giác, Nguyễn Thị Nén, Trần Thị Muôn; 96 liệt sĩ, 38 thương binh, 1 lão thành cách mạng, 4 gia đình có công với nước, 1 huân chương của tập thể và 112 huân chương cá nhân.

Từ năm 1937, tiền thân của chi bộ Đảng thị trấn được thành lập với 6 đảng viên tại ấp An Nhơn, nay là khu IB. Hiện nay, Đảng bộ thị trấn Cái Bè có 131 đảng viên. MTTQVN thành lập ngày 20/7/1960; Đoàn TNCSHCM thành lập ngày 20/7/1960 hiện có 221 đoàn viên; Hội LHTN có 597 hội viên; Hội PNVN thành lập ngày 20/7/1960 hiện có 1.54 hội viên; Hội CCB thành lập ngày 10/10/1990 hiện có 119 hội viên; Hội NDVN thành lập ngày 20/7/1960 hiện có 717 hội viên.

XÃ AN CƯ

Gồm các ấp: An Thái, An Hoà, An Bình, Mỹ Hoà.

Nguyên vào đời Gia Long có thôn Mỹ Hòa thuộc tổng Kiến Phong. Đời Minh Mạng có thêm thôn An Cư thuộc tổng Phong Hòa. Ngày 12.7.1877 Mỹ Hòa đổi thành Mỹ Hội. Đến ngày 24.10.1925 nhập An Cư và Mỹ Hội lấy tên là Hội Cư, thuộc tổng Phong Hòa, quận Cái Bè, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Hội Cư thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân đặt xã Hội Cư thuộc tổng Phong Hòa quận Cái Bè, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Hội Cư thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã Hội Cư thuộc quận Sùng Hiếu, tỉnh Định Tường.

Xã An Cư tách ra từ Hội Cư vào tháng 1 năm 2005.

Nằm ở phía đông bắc huyện: Đông giáp xã Phú An, huyện Cai Lậy; tây giáp xã Hậu Thành; nam giáp xã Đông Hòa Hiệp; bắc giáp xã Mỹ Hội. Về xã đi theo đường tỉnh lộ 873 khoảng 4km.

Diện tích tự nhiên 1142,82ha: thổ cư 91,92ha, trồng lúa 356,33ha, vườn cây 570,23ha, nuôi trồng thủy sản 21,71ha.

Dân số: 13.892 nhân khẩu (3.064 hộ); trong đó, nam 6.803, nữ 7.089; người Kinh 1.359, người Hoa 9, dân tộc khác 5; Tôn giáo: Phật giáo 675 người, Công giáo: 13, Tin Lành: 40, Cao Đài: 176, Hoà Hảo: 27. Tỉ lệ sinh năm 2004 là 1% (do xã mới được chia tách); tử là 0,3%. Số người di cư năm 2004 là 119, nhập cư 372.

Ngành nghề chủ yếu là sản xuất nông nghiệp; nghề phụ: chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp, mua bán nhỏ,...

Qua xã có Quốc lộ 1A dài 9km, tỉnh lộ 869 dài 1,5km, đường 863 dài 300m, huyện lộ qua xã 23 dài 3km. Mạng lưới sông, ngòi, kinh rạch... có sông Kinh 8 dài 7km, cầu Bà Đắc, rạch Bà Hậu, rạch Cây Đa, 8 cống qua lộ 1A để thoát lũ...

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp; hiện có 38% hộ giàu, 59% hộ khá, trung bình, 30% hộ nghèo.

Toàn xã có 3 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 143 liệt sĩ, 35 thương binh, 36 lão thành cách mạng, 4 gia đình có công với nước, 89 huân chương của tập thể và cá nhân. Đặc biệt, xã đã vinh dự được phong tặng danh hiệu anh hùng LLVTND.

Năm 1947, chi bộ Đảng xã An Cư đã được thành lập với 4 đảng viên do đồng chí Phan Tấn Thịnh làm Bí thư. Hiện nay, Đảng bộ xã có 9 chi bộ, 91 đảng viên.

XÃ AN HỮU

Gồm các ấp: 1,2,3,4,5.

Nguyên là làng An Hòa, được lập đời Thiệu Trị, trên cơ sở cắt đất làng An Thái Tây. Ngày 12.7.1877 An Hòa đổi tên thành An Hữu thuộc tổng Phong Phú. Giai đoạn Pháp thuộc, ngày 18.9. 1904, làng Mỹ An Đông từ tổng Phong Nẫm đưa về tổng Phong Phú và nhập vào làng An Hữu.

Trong kháng chiến chống Pháp, ta đặt xã An Hữu thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân đặt xã An Hữu thuộc tổng Phong Phú, quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã An Hữu thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã An Hữu thuộc quận Giáo Đức, tỉnh Định Tường. An Hữu trở thành quận lỵ của quận Giáo Đức.

Nằm ở phía tây huyện; đông giáp xã An Thái Đông; tây giáp xã Tân Thanh; nam giáp xã Hòa Hưng; bắc giáp xã An Thái Trung. Về xã đi theo đường Quốc lộ 1 khoảng 20km.

Diện tích tự nhiên 1.411,364ha: thổ cư 726,637m2, vườn cây 1021,9ha, nuôi trồng thủy sản 57ha, chưa khai thác 259,80ha.

Dân số: 16.719 nhân khẩu (3.296 hộ); trong đó, nam 8.111, nữ 8.608; người Kinh 16.533, người Hoa 164, người Khơme 22; Tôn giáo: Phật giáo 324 người, Công giáo: 71, Tin Lành 212, Cao Đài: 357, Hòa Hảo: 66. Tỉ lệ sinh năm 2004 là 1,27%, tử 0,28%. Số người di cư của xã năm 2001: 148, 2002: 172, 2003: 191, 2004: 210; Nhập cư: năm 2000: 520, 2001: 613, 2002: 351, 2003: 268, 2004: 204.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp, thương mại dịch vụ; nghề phụ: tiểu thủ công nghiệp. Hiện tại, toàn xã có 550 hộ giàu, chiếm 16,68%; 76 hộ nghèo, chiếm 2,30%.

Qua xã có Quốc lộ 1A dài 2km, Sông rạch, cầu, cống...có rạch Cái Cối dài 7km, cầu An Hữu, cầu Rạch Giồng. Chợ An Hữu nằm ở ấp 4.

Xã có 1 trường mẫu giáo đạt chuẩn Quốc gia, có 20 lớp, 778 cháu; 1 trường tiểu học A đạt chuẩn Quốc gia với 53 lớp, 2.377 học sinh; 1 trường trung học cơ sở với 33 lớp, 1220 học sinh; 1 trường PTTH bán công Lê Thanh Hiền với 39 lớp 1689 học sinh.

Trạm y tế xã đạt chuẩn Quốc gia với 1 bác sĩ, 5 y sĩ, 1 dược sĩ trung cấp, cùng 5 tổ y tế ấp và 1 tổ thuốc nam.

Hiện xã có 1 Anh hùng LLVTND là bà Phạm Thị Nhung, 20 bà mẹ Việt Nam Anh hùng; 286 liệt sĩ, 61 thương binh, 9 lão thành cách mạng, 793 gia đình có công với nước, 345 huân chương của tập thể và cá nhân, 1 Huân chương Chiến công của UBND xã, 1 Huân chương Lao động hạng Ba của trường mẫu giáo.

Tháng 10/1945, chi bộ xã An Hữu được thành lập với 4 đảng viên; hiện nay, Đảng bộ xã có 126 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã là các tổ chức: Đoàn TNCSHCM (thành lập tháng 6/1945), Hội PNVN (thành lập ngày 20/10/1930), Hội CCB (thành lập tháng 3/1990)...

XÃ AN THÁI ĐÔNG

Gồm các ấp: Thái Hoà, ấp Chợ, ấp An Lạc, ấp Đông Thạnh.

Đời Gia Long, thôn An Thái Đông thuộc tổng Kiến Phong, năm 1836 thuộc tổng Phong Phú.

Trước Cách mạng tháng Tám, An Thái Đông thuộc tổng Phong Phú quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho.Trong kháng chiến chống Pháp, xã An Thái Trung thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã An Thái Đông thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã An Thái Đông thuộc quận Giáo Đức, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây huyện; đông giáp xã Mỹ Đức Tây; tây giáp xã An Thái Trung; nam giáp xã Mỹ Lương; bắc giáp xã Mỹ Lợi A. Về xã đi ngang qua xã Phú An (Cai Lậy) ra Quốc lộ 1A khoảng 17 km.

Diện tích tự nhiên 128,228ha: thổ cư 49,4886ha, vườn cây 570,70748ha.

Dân số: 9.159 nhân khẩu (2.112 hộ); trong đó, nam 4.418, nữ 4.731; người Kinh 1.958, người Hoa 1.Tôn giáo: Phật giáo: 23 người, Tin Lành: 356, Cao Đài: 149, Hoà Hảo: 16. Tỉ lệ sinh của xã lần lượt trong các năm - 2000: 1,92%, 2001:1,87%, 2002: 1,50%, 2003: 1,55%; 2004: 1,30%; tỉ lệ tử trong các năm - 2000: 0,42%, 2001: 0,44%, 2002: 0,45%, 2003: 0,54%, 2004: 0,44%.

Về kinh tế: nông nghiệp chiếm 75%, thương mại dịch vụ 25%; tỷ lệ hộ khá, giàu 83,14%, hộ nghèo chỉ còn 16,8%.

Qua xã có đường Mỹ Đức Tây, An Thái Trung dài khoảng 3,7km; tỉnh lộ 861 dài 1,5km; mạng lưới sông ngòi, cầu cống... có kinh Cổ Cò dài 3,2km, cầu Ông An, Bà Đuân, Rạch Gỗ, rạch Sơn Cổ Cò nhỏ, rạch 8 Đa, Bàu Giai Cạn; đò ngang về các ấp An lạc, Đông Thạnh và ấp Chợ.

Trạm y tế xã có 1 bác sĩ, 2 y sĩ, 2 hộ lý, 3 lương y, 2 nha y; 4 tổ y tế ấp, 14 nhân viên sức khoẻ cộng đồng.

Xã có 7 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 142 liệt sĩ, 35 thương binh, 11 lão thành cách mạng, 7 gia đình có công với nước, 174 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ Đảng xã thành lập tháng 4/1946, với 4 đảng viên, hiện nay Đảng bộ có 79 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã (thành lập tháng 1/1946) là các tổ chức Đoàn TNCSHCM, Hội LHTNVN, Hội PNVN, Hội CCB...

XÃ AN THÁI TRUNG

Gồm các ấp: 1,2,3,4.

Đời Gia Long có 2 thôn An Thái Trung và An Thái tây thuộc tổng Kiến Phong, năm 1836 thuộc tổng Phong Phú. Đầu giai đoạn Pháp thuộc, sau kh cắt đất An Thái Tây ra lập làng An Hòa thì phần còn lại nhập vào An Thái Trung, lấy tên là An Thái Trung thuộc tổng Phong Phú.

Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tổng Phong Phú, quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân đặt xã An Thái Trung thuộc tổng Phong Phú, quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã An Thái Trung thuộc huyện Giáo Đức, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã An Thái Trung thuộc quận Giáo Đức, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây huyện; đông giáp xã An Thái Đông; tây giáp xã Tân Hưng; nam giáp xã An Hữu; bắc giáp xã Mỹ Lợi A. Về xã đi theo đường Quốc lộ 1A khoảng 22km.

Diện tích tự nhiên 1.911,8ha: thổ cư 233,3ha, trồng lúa 730ha, vườn cây 920ha, nuôi trồng thuỷ sản 28,3ha.

Dân số: 14.645 nhân khẩu (3.210 hộ); trong đó, nam 7.030, nữ 7.615; người Kinh 14.460, người Hoa 156, người Khơme 30; người theo Phật giáo 160, theo Công giáo 156, Tin Lành 32, Cao Đài 179, Hoà Hảo 42. Tỉ lệ sinh của xã lần lượt trong các năm - 2000: 1,85%, 2001: 1,57% ; 2002: 1,8% , 2003: 1,84%, 2004: 1,78%; tỉ lệ tử trong các năm - 2000: 0,19%, 2001: 0,12%, 2002: 0,23%, 2003: 0,42%, 2004: 0,18%.

Ngành nghề chủ yếu là sản xuất nông nghiệp (chiếm đến 85%); nghề phụ: thợ mộc, thợ hồ, dịch vụ... Trong những năm gần đây, xã đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển dịch vụ thương mại và giáo dục đào tạo nên tỷ lệ hộ giàu đã chiếm 47%, chỉ còn 14,1% hộ nghèo.

Qua xã có Quốc lộ 1A dài 2,2km, quốc lộ 30 dài 4km; đường liên xã dài 1,5km nối với xã An Thái Đông; sông Rạch Chanh qua xã dài 5km, sông Bá Tứ dài 7km, cầu Bà Lâm, cầu Bà Tứ, cầu Rạch Chanh, đều bằng bêtông cốt thép; chợ ở ngã 3 An Thái Trung, họp từ sáng đến chiều, hơn 200 người.

Trường mẫu giáo có 5 lớp, 2 lớp đủ đồ dùng dạy học theo tiêu chuẩn Quốc gia, 149 cháu; trường tiểu học A có 28 lớp, 21 phòng học, 880 học sinh và tiểu học B có 22 lớp, 18 phòng học, 551 học sinh; trường trung học cơ sở có 25 lớp, 12 phòng học, 999 học sinh; trường trung học Phổ thông có 22 phòng, 42 lớp 1.700 học sinh.

Trạm y tế xã có 1 bác sĩ, 2 y sĩ, 1 y tá, 1 hộ lý, 10 tổ y tế ấp, 1 trạm dân số - KHHGĐ.

Xã có 6 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 76 liệt sĩ, 56 thương binh, 26 lão thành cách mạng, 539 gia đình có công với nước, 183 huân chương của tập thể và cá nhân...

Ngày 20/9/1946 chi bộ Đảng đầu tiên ở xã được thành lập với 8 đảng viên, đến năm 2005 Đảng bộ có 85 đảng viên. MTTQVN xã thành lập tháng 11/1947, ngoài ra còn có các tổ chức khác như Hội PNVN, Hội Nông dân, Hội CCB...

XÃ ĐÔNG HÒA HIỆP

Gồm các ấp: An Hoà, An Ninh, An Hiệp, An Thạnh, An Lợi, Bình Đông, Phú Hoà.

Vào năm 1808 có 3 thôn An Bình Đông, An Bình Tân và An Thành thuộc tổng Kiến Phong, đời Thiệu Trị thuộc tổng Phong Hòa. Ngày 12.7.1877, An Bình Tây đổi thành Phú Hòa, làng An Thành đổi thành An Hiệp. Đến nàgy 13.12.1913, nhập Phú Hòa vào làng An Bình Đông lấy tên là An Bình Đông, tiếp theo ngày 24.10.1925, nhập làng An Bình Đông và An Hiệp lấy tên là Đông Hòa Hiệp, thuộc tổng Phong Hòa.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân đặt xã Đông Hoà Hiệp thuộc quận Cái Bè, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Đông Hoà Hiệp thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Đông Hoà Hiệp thuộc quận Sùng Hiếu, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây của huyện; đông giáp thị trấn Cái Bè; tây giáp xã Hoà Khánh; nam giáp xã Hoà Khánh; bắc giáp xã Hậu Thành. Về xã đi theo đường men sông Cái Bè dài khoảng 1km.

Diện tích tự nhiên 1.177,8540ha: thổ cư 81,2ha, trồng lúa 292,8944ha, vườn cây 853,8533ha, diện tích nuôi trồng thuỷ sản gần 1ha.

Dân số 13.554 nhân khẩu (2.708 hộ), trong đó, nam 6.624, nữ 6.931; người Kinh 2.100, người Hoa 47, người Khơme 3; Tôn giáo: Phật giáo 23.501 người, Công giáo: 10, Cao Đài: 13. Tỉ lệ sinh năm 2004 là 1,35%, tử 0,19%, nhập cư 87 người.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp; nghề phụ: sản xuất bánh kẹo, dịch vụ du lịch sinh thái.

Qua xã có Quốc lộ 1A dài 4km; tỉnh lộ 864 dài 1,8km; đường liên xã Trà Lọt, Cái Bè dài 8km. Mạng lưới sông, rạch,cầu, cống... có sông Cái Bè dài 4km; cống hở Bà Thiêm, cống hở Cây Da, cống đập Bà Nhì, cống đập Cầu Khỉ, cống đập 2 banh, cống đập kinh Kháng Chiến; bến đò An Ninh qua thị trấn Cái Bè. Hiện xã có 3% hộ nghèo, còn lại là khá, trung bình.

Trường mẫu giáo có 8 lớp, 264 cháu (cơ sở vật chất còn chung với trường tiểu học); Trường Tiểu học Đông Hoà Hiệp có 41 lớp, 1257 học sinh.

Trạm y tế xã có 6 phòng, trang thiết bị cấp cơ sở, có 1 bác sĩ, 2 y sĩ, 3 y tá; các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng: hệ thống dân số kế hoạch hoá ở 7 ấp, và 7 tổ y tế ấp, có 1 y tá phụ trách.

Xã có 8 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 319 liệt sĩ, 52 thương binh, 17 lão thành cách mạng, 144 gia đình có công với nước, 472 huân chương các loại.

Chi bộ xã đầu tiên thành lập năm 1940, với 5 đảng viên, hiện nay Đảng bộ có 83 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã (nhiệm kỳ 2003-2008 có 31 thành viên) là các tổ chức khác như Đoàn TNCSHCM, Hội LHTNVN, Hội PNVN, Hội CCB (thành lập tháng 12/1989), Hội Nông dân...

CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH THUỘC HUYỆN CÁI BÈ (tiếp theo)

XÃ HẬU MỸ BẮC A

Gồm các ấp: Hậu Phú 1, Hậu Phú 2, Hậu Phú 3, Mỹ Chánh 4 và Mỹ Chánh 5.

Nguyên là làng đồn điền Lương Điền lập năm 1841. Khi thực dân Pháp xâm lược, làng Lương Điền bị hoang hóa, sau đó nhập vào làng Hậu Thành. Ngày 15.5.1885, tách làng Hậu Thành ra lập làng Hậu Mỹ, thuộc tổng Phong Hòa.

Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tổng Phong Hòa, quận Kiến Đăng, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Thiên Hộ, thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân gọi là xã Hậu Mỹ thuộc tổng Phong Hoà, quận Cái Bè, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta gọi là xã Hậu Mỹ Bắc thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Hậu Mỹ, thuộc quận Sùng Hiếu, tỉnh Mỹ Tho.

Ngày 12.4.1979, chia xã Hậu Mỹ Bắc ra thành 2 xã Hậu Mỹ Bắc A và Hậu Mỹ Bắc B.

Nằm ở phía bắc huyện; đông giáp xã Mỹ Thành Bắc, huyện Cai Lậy; tây giáp xã Mỹ Trung, Thiện Trung, huyện Cái Bè; nam giáp xã Hậu Mỹ Trinh, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang; bắc giáp xã Hậu Mỹ Bắc B, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang, về xã đi theo đường lộ 863, Quốc lộ 1A và tỉnh lộ 869 khoảng 25km.

Diện tích tự nhiên là 2.626,0391ha; thổ cư 53,2992 ha, trồng lúa 2.115,1288 ha; trồng cây 349,3712ha, nuôi trồng thuỷ sản 9,8938 ha, chưa khai thác: 2,3469 ha.

Dân số: 13.678 nhân khẩu (2.839 hộ), trong đó, nam 6.753, nữ 6.925; người Kinh 13.678; Tôn giáo: Phật giáo 179 người, Công giáo: 1.788. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,34%, tử 0,2%.

Ngành nghề chính: nông nghiệp (trồng lúa), nghề phụ: dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp... Là một xã vùng sâu, kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, một bộ phận buôn bán nhỏ tại khu vực chợ Thiên Hộ Dương. Xã hiện có trên 30% hộ giàu, 4,13% hộ nghèo loại A, 12,23% hộ nghèo loại B.

Qua xã có đường tỉnh lộ 869 dài 5km, huyện lộ dài 2km, đường liên xã Nguyễn Văn Tiếp A, B dài 7km; hệ thống cầu cống, sông, kinh rạch có kinh số 7 dài 5km, kinh số 6 (Bằng Lăng) dài 3,7km, kinh số 8 dài 2km, kinh số 9 dài 3km, kinh Nguyễn Văn Tiếp A, B dài 7km; Cầu Một Thước, Quan Cư, Bảy Thước; cống: Kinh Chuối, Kinh Kho.

Chợ Thiên Hộ Dương ở ấp Hậu Phú 1, hàng ngày họp từ 4 giờ sáng đến 5 giờ chiều mỗi ngày, mua bán vật tư nông nghiệp; nhiều quầy thuốc tây, nhiều tiệm vàng...

Trường mẫu giáo với trang thiết bị đầy đủ, gồm 4 lớp với 158 cháu; 1 trường tiểu học với 44 lớp, 1.149 học sinh; 1 trường giáo dục thường xuyên với 26 phòng, 52 lớp và 2.011 học sinh. Số người tốt nghiệp đại học về làm việc là , trung học là 66.

Trạm y tế được xây dựng kiên cố, trang bị đầy đủ có 7 bác sĩ, 4 y sĩ và 2 y tá.

Hiện toàn xã có 12 bà mẹ bà Việt Nam Anh hùng, 315 liệt sĩ, 57 thương binh, 18

lão thành cách mạng; 850 gia đình có công với nước, 640 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ Đảng xã thành lập khoảng tháng 10-1937; hiện nay, Đảng bộ có 104

đảng viên.

XÃ HẬU MỸ BẮC B

Gồm các ấp: ấp Hậu Quới, ấp Mỹ Trung và ấp Mỹ Thuận.

Từ xã Hậu Mỹ Bắc, ngày 12.4.1979, chia ra thành 2 xã Hậu Mỹ Bắc A và Hậu Mỹ Bắc B.

Nằm ở phía tây bắc huyện; đông giáp xã Mỹ Thành Bắc (huyện Cai Lậy); tây giáp xã Đốc Binh Kiều (huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp); nam giáp xã Hậu Mỹ Bắc A và xã Mỹ Trung; bắc giáp xã Tân Ninh và xã Nhơn Ninh (huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An).

Diện tích tự nhiên 1.977,1ha: thổ cư 38 ha, trồng lúa 1.403,9 ha, vườn cây 316,2 ha.

Dân số: 10.012 nhân khẩu (1.936 hộ); trong đó, nam 4.716, nữ 5.296; người Kinh 10.002, người Hoa 10; người theo Công giáo 290, theo Tin Lành 28, theo Cao Đài 131. Tỉ lệ sinh năm 2004: 1,20%, tử 0,14%.

Hậu Mỹ Bắc B là xã vùng sâu của huyện Cái Bè, ngành nghề chủ yếu là sản xuất nông nghiệp; nghề phụ: buôn bán nhỏ, dịch vụ sinh hoạt. Hiện số hộ giàu và khá chiếm trên 40%, hộ nghèo loại A-B chiếm 14,82%.

Qua xã có tỉnh lộ 865 dài 6,8km và tỉnh lộ 869 dài 200m; huyện lộ 200 - Bằng Lăng dài 2,5km. Mạng lưới sông, rạch, cầu, cống... có kinh Nguyễn Văn Tiếp B dài 3km, cầu Kinh Chính, bến đò ngang Mỹ Trung, Mỹ Thuận, bến đò ngã tư Hai Hạt - Bằng Lăng...

Chợ Hai Hạt ở ngã tư Bằng Lăng - Hai Hạt, chủ yếu là mua bán hàng nông sản và nhu yếu phẩm.

Trạm y tế xã có 6 phòng nhưng đã xuống cấp, không đạt chuẩn y tế Quốc gia, trang thiết bị còn thiếu, có 1 bác sĩ, 7 y sĩ, 1 y tá, 1 hộ sinh; các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng: 3 tổ y tế ấp với 7 nhân viên.

Hiện toàn xã có 6 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 215 liệt sĩ, 57 thương binh, 6 lão thành cách mạng, 596 gia đình có công với nước, 468 huân chương của tập thể và cá nhân. Xã đã vinh dự được Đảng và nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND.

Tổ chức Đảng đầu tiên ở xã thành lập tháng 11-1937 do đồng chí Ba Vạn làm bí thư có 9 đảng viên. Hiện nay MTTQVN xã được thành lập khoảng năm 1935, ngoài ra còn có các tổ chức khác như Đoàn TNCSHCM, Hội PN, Hội CCB, Hội Nông dân...

HẬU MỸ PHÚ

Gồm các ấp: Mỹ Phú A, Mỹ Phú B, Mỹ Quới.

Gốc cũng là làng Hậu Mỹ. Trước Cách mạng tháng Tám thuộc tổng Phong Hòa, quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Hậu Mỹ thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân gọi là xã Hậu Mỹ thuộc tổng Phong Hòa, quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta đặt xã Hậu Mỹ Nam thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Hậu Mỹ thuộc quận Sùng Hiếu, tỉnh Định Tường.

Ngày 12.4.1979, chia xã hậu Mỹ nam thành 2 xã: Hậu Mỹ Phú và Hậu Mỹ Trinh.

Nằm ở phía bắc huyện: đông giáp xã Mỹ Hội; tây giáp xã Hoà Khánh; nam giáp xã Hậu Thành; bắc giáp xã Hậu Mỹ Trinh. Về xã đi theo tỉnh lộ 869 khoảng 4km.

Diện tích tự nhiên 1.120,4387ha: thổ cư 32,6190ha, trồng lúa 725,6512ha, vườn cây 255,9139ha, nuôi trồng thủy sản 1,9634ha.

Dân số: 8.136 nhân khẩu (1.618 hộ); trong đó, nam 3.881, nữ 4255; người Kinh 8.132, người Hoa 4; Tôn giáo: Công giáo 2 người, Cao Đài: 18, Hoà Hảo: 1. Tỉ lệ sinh của xã lần lượt trong các năm - 2000: 1,88%, 2001: 1,55%, 2002: 2,05, 2003: 1,67, 2004: 1,49%; tỉ lệ tử trong các năm - 2000: 0,26%, 2001: 0,11%, 2002: 0,48%, 2003: 0,11%, 2004: 0,58%.

Ngành nghề chính là trồng lúa nước; nghề phụ: chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ,... Trong những năm gần đây, tăng trưởng kinh tế của xã là 6%; 27% hộ giàu, 60% hộ khá, 13,2% hộ nghèo.

Qua xã có tỉnh lộ 869 dài 4km; mạng lưới sông, rạch,... có kinh 7 dài khoảng 4km; cầu Đập Ông Thạnh, cầu Cà Dăm, cầu Đập Ông Tải; chợ Cà Dăm có khoảng 250 người.

Trường mẫu giáo có 5 lớp, 152 cháu; trường tiểu học có 24 lớp, 692 học sinh; trường trung học cơ sở có 15 lớp, 601 học sinh.

Toàn xã có 10 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 255 liệt sĩ, 50 thương binh, 536 gia đình có công với nước, đặc biệt xã đã vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng LLVTND.

Vào những năm 1939 - 1940, tổ Đảng được thành lập ở xã; hiện nay Đảng bộ xã có 116 đảng viên sinh hoạt ở 8 chi bộ. Ngoài ra còn có các tổ chức như MTTQVN, Hội NDVN, HĐND, UBND...

XÃ HẬU MỸ TRINH

Gồm các ấp: Mỹ Tường A, Mỹ Tường B, Mỹ Trinh A, Mỹ Trinh B.

Xã Hậu Mỹ Trinh được thành lập trên cơ sở chia tách từ xã Hậu Mỹ Nam vào ngày 12.4.1979.

Nằm ở phía bắc huyện; đông giáp xã Mỹ Thành Bắc; tây giáp xã Thiện Trung; nam giáp xã Hậu Mỹ Phú; bắc giáp xã Hậu Mỹ Bắc A. Về xã đi theo đường Quốc lộ 1A và tỉnh lộ 869 khoảng 15km.

Diện tích tự nhiên 31.680.430m2: thổ cư 644.100m2, trồng lúa 24.798.373m2, vườn cây 3.304.115m2, nuôi trồng thủy sản 52484m2, chưa khai thác 2.881.358m2.

Dân số: 10.257 nhân khẩu (2.057 hộ); trong đó, nam 5.073, nữ 5184; người Kinh chiếm tuyệt đại đa số, người Hoa 15. Tỉ lệ sinh của xã lần lượt trong các năm - 2000: 3%, 2001: 2,8%, 2002: 2,5%, 2003: 2%, 2004: 2%; tỉ lệ tử trong các năm - 2000: 0,19%, 2001: 0,19%, 2002: 0,14%, 2003: 0,13%, 2004: 0,19%.

Ngành nghề chủ yếu: trồng lúa nước; nghề phụ: chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi trồng thuỷ sản. Xã có 1.201 hộ giàu khá, 389 hộ nghèo loại A và loại B.

Qua xã có đường 869 dài 5km, đường liên xã Cây Dừng dài 3,5km, Tây Kinh 7 dài 5,6km, Tây Kinh 8 dài 5km, Tây Kinh 9 dài 4km. Mạng lưới sông, rạch, cầu, cống... có kinh 8 dài 5km, kinh 9 dài 4,7km; các cầu Ông Tải, ông Tỉnh, cầu Dòng, cầu chợ Mỹ Trinh,...

Trạm y tế có 2 bác sĩ, 3 y sĩ, 1 y tá.

Toàn xã có 15 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 110 liệt sĩ, 88 thương binh, 377 gia đình có công với nước, 131 huân chương của tập thể và cá nhân; Anh hùng Lao động Trần Văn Dược, xã vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng.

Từ tháng 12/1979, tổ chức Đảng xã được thành lập với 55 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã (thành lập tháng 12/1979) còn có Hội CCB, Hội PNVN, HĐND, UBND...

HẬU THÀNH

Gồm các ấp: Hậu Vinh, Hậu Hoa, Hậu Hoà, Hậu Thuận và ấp khu phố Cầu Xéo.

Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tổng Phong Hòa, huyện Kiến Đăng, phủ Kiến An, trấn Định Tường. Trong kháng chiến chống Pháp, Hậu Thành thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân đặt Hậu Thành thuộc tổng Phong Hoà, quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Hậu Thành thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Hậu Thành thuộc quận Sùng Hiếu, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây bắc huyện: Đông giáp xã An Cư, tây giáp xã Hoà Khánh, nam giáp xã Đông Hòa Hiệp, bắc giáp xã Mỹ Hội. Về xã đi theo đường bộ khoảng 10km.

Diện tích tự nhiên 1.163,09ha: thổ cư 62,6ha, trồng lúa 553 ha, vườn cây 422,6ha, nuôi trồng thủy sản 0,47ha.

Dân số: 13.717 nhân khẩu (2.937 hộ, trong đó nam, 5.212, nữ 8.505; người Kinh 13.714. Tôn giáo: Phật giáo 542 người, Công giáo: 18, Tin Lành: 21, Cao Đài: 19, Hoà Hảo: 6. Tỉ lệ sinh của xã trong các năm - 2000: 1,78%, 2001: 1,73%, 2002: 1,69%, 2003: 1,62%, 2004: 1,57%; tỉ lệ tử các năm - 2000: 0,61%, 2001: 0,57%, 2002: 0,27%, 2003: 0,22%, 2004: 0,56%. Số người di cư năm 2001: 161, 2002: 136, 2003: 65, 2004: 71; nhập cư năm 2001: 44, 2002: 40, 2003: 88, 2004: 66.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp, trồng cây ăn trái, chăn nuôi; nghề phụ: làm bánh tráng, chằm lá, thợ mộc, thợ hồ, dịch vụ. Mức sống đa số ở mức trung bình, 24% hộ giàu và 3,2% hộ nghèo.

Qua xã có Quốc lộ 1A dài hơn 1km; tỉnh lộ 869 dài 3,5km; tỉnh lộ 863 dài khoảng 3km; Mạng lưới sông, rạch... có kinh số 7 dài 5km, rạch Trà Lọt, kinh 28...

Trạm y tế xã đúng tiêu chuẩn, có 1 bác sĩ, 3 y sĩ, 1 y tá; các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng và tổ y học dân tộc.

Xã có 4 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 206 liệt sĩ, 91 thương binh, 241 huân chương của tập thể và cá nhân, 113 huy chương.

Chi bộ Đảng đầu tiên ở xã thành lập cuối 1937, đến cuối năm 2004, Đảng bộ xã Hậu Thành có 10 chi bộ trực thuộc, 88 đảng viên.

XÃ HÒA HƯNG

Gồm các ấp: ấp Hoà, ấp Bình, ấp Thống, ấp Nhất, ấp khu phố.

Gồm hai xã Hòa Lộc và Hưng Thuận. Đời Gia Long, năm 1808 có 3 làng Hòa Lộc, Mỹ Hưng và Mỹ Thuận thuộc tổng Kiến Phong, đời Minh Mịang thuộc tổng Phong Phú. Ngày 24.10.1925, nhập hai làng Mỹ Hưng và Mỹ Thuận lấy tên là Hưng Thuận thuộc tổng Phong Phú.

Trước Cách mạng tháng Tám, xã Hòa Hưng thuộc tổng Phong Phú, quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Hưng Thuận - Hoà Lộc thuộc huyện Cái Bè tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân đặt là xã Hưng Thuận- Hoà Lộc thuộc tổng Phong Phú, quận Cái Bè tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Hoà Hưng thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH gọi vẫn gọi là xã Hưng Thuận - Hoà Lộc thuộc quận Giáo Đức, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây huyện; đông giáp xã Mỹ Lương; tây giáp xã An Hữu; nam giáp sông Tiền; bắc giáp xã Mỹ Lương và xã An Hữu. Về xã đi theo Quốc lộ 1A khoảng 24km.

Diện tích tự nhiên 676,29ha: trồng lúa 154,20ha, vườn cây 522,09ha, nuôi trồng thuỷ sản 19ha.

Dân số 17.039 nhân khẩu (3.077 hộ); trong đó, nam 7.716, nữ 9.323; người Kinh 17.014, người Hoa 25; người theo Phật giáo 390, theo Công giáo 348, Cao Đài 915, Hòa Hảo 24. Tỉ lệ sinh năm 2004 là 1,25%, tử 0,52%.

Ngành nghề chính là trồng cây ăn trái, nổi tiếng với thương hiệu Xoài cát Hòa Lộc; Nghề phụ: đan lục bình, mộc.

Mạng lưới sông, rạch, cầu cống... có rạch Mỹ Lương, rạch Cổ Lịch; cầu Rạch Giồng, cầu Chéo, cầu Mỹ Thuận; bến phà Mỹ Thuận (đã ngưng hoạt động). Chợ Hòa Hưng, chợ ấp Bình, chợ ấp Hoà có khoảng 140 người mỗi ngày. Hiện số hộ giàu trong xã chiếm 10%, hộ nghèo chiếm 5,2%.

Xã có 2 trường tiểu học với 64 phòng kiên cố, 34 lớp, 1174 học sinh; trường trung học cơ sở có 13 phòng kiên cố, 24 lớp, 874 học sinh.

Trạm y tế xã hiện có ở 5 ấp, với 13 phòng, 1 phòng bệnh nhân, 1 bác sĩ, 3 y sĩ, 1 y tá; ngoài ra còn có các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, phòng ngừa dịch bệnh.

Toàn xã có 9 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 170 liệt sĩ, 41 thương binh, 32 lão thành cách mạng, 15 gia đình có công với nước, 370 huân chương của tập thể và cá nhân.

Tổ chức Đảng ở xã thành lập từ năm 1945, hiện nay Đảng bộ xã có 11 chi bộ trực thuộc. Cùng với MTTQVN xã là các tổ chức Đoàn TNCSHCM, Hội liên hiệp thanh niên, Hội PNVN, Hội CCB, Hội Nông dân, HĐND, UBND.

XÃ HÒA KHÁNH

Gồm các ấp: Hòa Quý, Hoà Hảo, Hoà Điền, Hoà Lược, Hoà Phúc, Hoà Phú, ấp Khu Phố.

Trước Cách mạng tháng Tám, làng Hòa Khánh thuộc tổng Phong Hòa, quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân đặt Hòa Khánh thuộc tổng Phong Hoà, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Hoà Khánh thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Hòa Khánh thuộc quận Sùng Hiếu, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía nam huyện: Đông giáp xã Đông Hoà Hiệp, thị trấn Cái Bè; tây giáp xã Thiện Trí và xã Mỹ Đức Đông; nam giáp sông Cửu Long, tỉnh Vĩnh Long; bắc giáp xã Hậu Thành và xã Thiện Trí. Về xã đi theo Quốc lộ 1A khoảng 9km.

Diện tích tự nhiên 2.253ha: thổ cư 58,3ha, trồng lúa 567,078ha, vườn cây 1.086ha, nuôi trồng thuỷ sản 20ha.

Dân số: 20.109 nhân khẩu (4.109 hộ); trong đó, nam 8.611, nữ 12.180; người Kinh 4.087, người Hoa 17, người Khơme 5; Tôn giáo: Phật giáo 326 người, Công giáo: 172, Tin Lành 13, Cao Đài: 179, Hòa Hảo: 17. Tỷ lệ sinh của xã trong các năm - 2000: 1,18%, 2001: 1,48%, 2002: 1,46%, 2003: 1,52%, 2004: 1,46%; tỉ lệ tử các năm - 2000: 0,20%, 2001: 0,21%, 2002: 0,11%, 2003: 0,25%, 2004: 0,24%. Số người di cư năm 2000: 134, 2001: 216, 2002: 278, 2003: 141, 2004: 76; nhập cư năm 2000: 112, 2001: 207, 2002: 234, 2003: 129, 2004: 179.

Ngành nghề chính là trồng lúa, làm vườn, chăn nuôi; nghề phụ: làm bánh, bún, nước dừa, các dịch vụ. Thu nhập bình quân đầu người 5,2 triệu/năm, 99% hộ sử dụng điện. Xã có 4.119 hộ giàu đạt 50,05%, khá 2858, trung bình 715, hộ cận nghèo và nghèo 537 đạt 6,52%.

Qua xã có Quốc lộ 1A dài 2,5km, đường qua ấp Hoà Phúc dài 3km, đường 23B dài 1,8km, đường liên xã dài 7,5km. Mạng lưới sông, rạch, cầu cống... có rạch Trà Lọt dài 11km, cầu Trà Lọt dài 100m, cống Ông Khánh dài 40m, bến phà vàm Trà Lọt đi qua Vĩnh Long...

Chợ Hoà Khánh ở trung tâm xã, họp từ sáng đến tối, có khoảng 400 người.

Trường mẫu giáo hiện có 8 lớp, 260 cháu; trường tiểu học có 43 phòng, 48 lớp, 1.831 học sinh; trường trung học cơ sở có 32 phòng, 1.750 học sinh. Số người tốt nghiệp trung học về làm việc tại xã là 10, đại học: 2.

Trạm y tế xã đầy đủ trang thiết bị, có 3 bác sĩ, 7 y sĩ, 12 y tá, 1 điều dưỡng, 1 dược sĩ; các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng: các ấp đều có y học cổ truyền.

Xã có 13 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 208 liệt sĩ, 58 thương binh, 1.325 gia đình có công với nước, 2 huân chương Thành đồng hạng Nhất, 8 huân chương giải phóng hạng Nhất, 3 huân chương Giải phóng hạng Nhì, 1 huân chương Giải phóng hạng Nhì.

XÃ MỸ ĐỨC ĐÔNG

Gồm các ấp: Mỹ Phú, Mỹ Quới, Mỹ Hưng A, Mỹ Hưng B.

Thôn Mỹ Đức Đông đời Gia Long thuộc tổng Kiến Phong, năm 1836 thuộc tổng Phong Hòa.

Trước Cách mạng tháng Tám thuộc tổng Phong Hoà, quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân đặt xã Mỹ Đức Đông thuộc tổng Phong Hòa, quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Mỹ Đức Đông thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Mỹ Đức Đông thuộc quận Giáo Đức, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây huyện: Đông giáp xã Thiện Trí; tây giáp xã Mỹ Đức Tây; nam giáp xã Mỹ Lương; bắc giáp xã Mỹ Tân và xã Thiện Trí. Về xã đi theo đường Quốc lộ 1A khoảng 12km.

Diện tích tự nhiên 10.379,637m2.

Dân số: 10.039 nhân khẩu (2.026 hộ); trong đó, nam 5.092, nữ 4.947; người Kinh 10.004, người Hoa 35; người theo Phật giáo 21, theo Công giáo 21, Tin Lành 20, Cao Đài 64, Hoà Hảo 58. Tỉ lệ sinh của xã lần lượt trong các năm - 2000: 1,95%, 2001: 2,45%, 2002: 3,42%, 2003: 1,36%, 2004: 2,21%; tỉ lệ tử trong các năm 2000: 0,35%, 2001: 0,42%, 2002: 0,36%, 2003: 0,25%, 2004: 0,36%.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp. Số hộ giàu tăng dần, số hộ nghèo giảm dần, hiện còn 86 hộ nghèo loại A, 228 hộ nghèo loại B, tỷ lệ hộ nghèo là 4,24%.

Qua xã có Quốc lộ 1A dài hơn 2km. Mạng lưới sông, cầu, cống, chợ,... có rạch Cái Thia từ sông Tiền vào 100m và ngã ba rạch Cái Cối chạy vô sông Ông Vẽ khoảng 5,5km nối liền rạch Bằng Lăng dài 4,3km; cầu kinh Cứu Khổ, cầu Ông Lữ...

Trường mẫu giáo có 6 lớp, 193 cháu; trường tiểu học có 4 điểm trường đạt chuẩn, 30 lớp, 934 học sinh; trường trung học cơ sở với 2 điểm trường đạt chuẩn, 23 lớp, 846 học sinh.

Trạm y tế có 6 phòng với 3 y sĩ, 4 tổ y tế.

Toàn xã có 14 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 258 liệt sĩ, 62 thương binh, 38 lão thành cách mạng, 13 gia đình có công với nước, 226 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ xã Mỹ Đức Đông thành lập năm 1959 với 9 đảng viên, đến năm 1979 có 48 đảng viên và đến nay Đảng bộ có 130 đảng viên.

XÃ MỸ ĐỨC TÂY

Gồm các ấp: Mỹ Thạnh, Mỹ Tường, Mỹ An, Mỹ Nghĩa 1, Mỹ Nghĩa 2.

Thôn Mỹ Đức Tây đời Gia Long thuộc tổng Kiến Phong, sau đó thuộc tổng Phong Phú. Giai đoạn đầu Pháp thuộc đưa về tổng Phong Hòa.

Trước Cách mạng tháng Tám, Mỹ Đức Tây thuộc tổng Phong Hoà, quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Cái Bè tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân đặt xã Mỹ Đức Tây thuộc quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Mỹ Đức Tây thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Mỹ Đức Tây thuộc quận Giáo Đức, tỉnh Định Tường.

Diện tích tự nhiên 1.975ha: thổ cư 57ha, trồng lúa 876ha, vườn cây 904ha, chưa khai thác 138ha.

Dân số: 16.036 nhân khẩu (3.177 hộ); trong đó, nam 7.601, nữ 8.435; người Kinh 16.011, người Khơme 1, người Hoa 24; người theo Phật giáo 2.000, theo Công giáo 95, theo Tin Lành 47, theo Cao Đài 620, theo Hoà Hảo 185. Tỉ lệ sinh của xã lần lượt trong các năm - 2000: 1,4%, 2001: 1,44%, 2002: 1,41%, 2003; 1,32%, 2004: 1,02%; tỉ lệ tử trong các năm - 2000: 0,3%, 2001: 0,35%, 2002: 0,33%, 2003: 0,36%, 2004: 0,4%.

Ngành nghề sản xuất chủ yếu là trồng cây ăn trái và trồng lúa; nghề phụ có chăn nuôi heo, gia cầm, xay lúa, sấy nhãn, dịch vụ,... Hiện tại xã có 40% hộ giàu, 42% hộ khá, 18% hộ nghèo.

Qua xã có Quốc lộ 1A dài 2km. Mạng lưới sông, rạch, cầu, cống,... có rạch từ Cái Thia vào Ngã Sáu dài 9km, cầu Mỹ Đức Tây...

Xã có trường mẫu giáo gồm 6 lớp, 199 cháu; trường tiểu học với 25 phòng học, 38 lớp, 1083 học sinh; trường trung học cơ sở có 15 phòng. Số người tốt nghiệp trung học về làm việc tại xã là 10; tốt nghiệp đại học về làm việc tại xã là 1. Xã có 2 người có học vị tiến sĩ.

Trạm y tế xã có trang thiết bị đủ dùng với 6 y sĩ, 1 hộ lý; 5 tổ y tế ấp, 21 cộng tác viên.

Toàn xã có 14 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 307 liệt sĩ, 58 thương binh, 734 gia đình có công với nước.

Ngày 23 tháng 9 năm 1946 chi bộ Đảng ở xã được thành lập với 4 đảng viên, hiện nay Đảng bộ xã có 132 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã là các tổ chức Đoàn TNCSHCM, Hội LHTNVN, Hội PNVN...

XÃ MỸ HỘI

Gồm các ấp: Mỹ Trung, Mỹ Thuận, Mỹ Chánh A, Mỹ Chánh B.

Nguyên vào đời Gia Long có thôn Mỹ Hòa thuộc tổng Kiến Phong. Đời Minh Mạng có thêm thôn An Cư thuộc tổng Phong Hòa. Ngày 12.7.1877 Mỹ Hòa đổi thành Mỹ Hội. Đến ngày 24.10.1925 nhập An Cư và Mỹ Hội lấy tên là Hội Cư, thuộc tổng Phong Hòa, quận Cái Bè, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Hội Cư thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân đặt xã Hội Cư thuộc tổng Phong Hòa quận Cái Bè, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Hội Cư thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã Hội Cư thuộc quận Sùng Hiếu, tỉnh Định Tường.

Xã Mỹ Hội thành lập tháng 1 năm 2005, tách ra từ xã Hội Cư .

Nằm ở phía đông bắc huyện; đông giáp xã Mỹ Thành Nam, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang; tây giáp xã Hậu Mỹ Phú; nam giáp xã An Cư; bắc giáp xã Hậu Mỹ Trinh. Về xã đi theo đường Quốc lộ 1A và lộ Chợ Giồng khoảng 10km.

Diện tích tự nhiên 1.377,2289ha: thổ cư 44,9875ha, trồng lúa 928,7973ha, vườn cây 325,4100ha, nuôi trồng thủy sản 42,6923ha, vườn tạp 35,03430ha.

Dân số 8.560 nhân khẩu (1.672 hộ); trong đó, nam 3.957, nữ 4.585; người Kinh chiếm 100% dân trong xã; Tôn giáo Phật giáo: 19 người, Công giáo: 4, Tin Lành: 2, Cao Đài: 8. Tỉ lệ sinh năm 2004 là 1,73%, tử 0,17%. Số người di cư năm 2004 là 53 người, nhập cư 164 người.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp; nghề phụ: mua bán nhỏ; số hộ khá giàu đạt 25%, hộ nghèo chiếm 13,5%.

Qua xã có Quốc lộ 1A dài 300m; đường huyện lộ 23 dài khoảng 4km; đường liên xã 23 dài 300m, liên xã kinh 8 dài 7km. Mạng lưới sông, rạch, cầu, cống... có: Kinh 8 dài 7km, rạch Thầy Sầm dài 500m, rạch Bà Xã, rạch Cầu Cháy, đường Nước Làng;, rạch Bà Gằn dài 5km, rạch Bà Phụng qua ống bọng 23 (500m) rạch Thủ Ngữ, đường Nước Giữa, kinh 9; cầu Rạch Chùa, cầu Năm Cọp - Tám Chỉnh,...

Chợ Giồng họp vào buổi sáng, khoảng 200 người, chợ Kinh Xéo mới thành lập.

Trường tiểu học với 4 điểm trường, 27 phòng, 27 lớp; trường trung học cơ sở khá kiên cố có 15 phòng, 10 phòng học, 1 thư viện, 1 phòng thiết bị, phòng giáo viên, có 20 lớp, 810 học sinh.

Trạm y tế có 7 phòng với 1 bác sĩ, 1 y sĩ, 1 y tá, 1 hộ sinh, 1 dược sĩ; các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng: 4 tổ y tế của 4 ấp.

Toàn xã có 8 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 1 anh hùng lực lược vũ trang nhân dân là bà Đoàn Thị Nghiệp, 185 liệt sĩ, 37 thương binh, 10 lão thành cách mạng, 135 huân chương của tập thể và cá nhân; xã đã vinh dự được nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND.

Ban chấp hành lâm thời Đảng bộ xã thành lập tháng 1 năm 2004 với 97 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã (thành lập tháng 1/2004) là các tổ chức: Hội PNVN, Đoàn TNCSHCM, Hội Nông dân, HĐND...

CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH THUỘC HUYỆN CÁI BÈ (tiếp theo)

XÃ MỸ LỢI A

Gồm các ấp: Lợi Tường, Lợi Trinh, Lợi Nhơn, Mỹ An.

Trước Cách mạng tháng Tám, làng Mỹ Lợi thuộc tổng Phong Phú, quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân đặt xã Mỹ Lợi thuộc tổng Phong Phú, quận Cái Bè, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Mỹ Lợi thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Mỹ Lợi thuộc quận Giáo Đức, tỉnh Định Tường.

Ngày 12.4.1979, tách xã Mỹ Lợi thành 2 xã : Mỹ Lợi An và Mỹ Lợi A.

Nằm ở phía bắc huyện: đông giáp xã Mỹ Đức Tây; tây giáp xã An Thái Trung; nam giáp xã An Thái Đông; bắc giáp xã Mỹ Lợi B. Về xã đi theo đường bộ khoảng 18km.

Diện tích tự nhiên 1.747,5960ha: thổ cư 67,6ha, trồng lúa 864,41ha, vườn cây 622,2916ha, nuôi trồng thuỷ sản 1,149ha, chưa khai thác 2,8431ha.

Dân số: 10.253 nhân khẩu (2.235 hộ); trong đó, nam 5.075, nữ 5.178; người Kinh 10.250, người Hoa 2; Tôn giáo: Phật giáo 17 người,Công giáo: 25, Tin Lành: 7, Cao Đài: 25, Hòa Hảo: 31. Tỉ lệ sinh của xã trong các năm - 2000: 1,24%, 2001: 1,29%, 2002: 1,43%, 2003: 1,35%, 2004: 1,65%; tỉ lệ tử các năm - 2000: 0,15%, 2001: 0,1%, 2002: 0,07%, 2003: 0,39%, 2004: 0,11%.

Ngành nghề chính là nông nghiệp; nghề phụ: chăm nuôi và buôn bán nhỏ. Hiện tại đời sống kinh tế của nhân dân tương đối ổn định, tỉ lệ 20,4% hộ giàu, 3,48% hộ nghèo.

Qua xã có tỉnh lộ 861 dài 5km, huyện lộ Bà Phó dài 4,5km, đường liên xã dài 6km. Mạng lưới sông, rạch, cầu, bến... có rạch Cổ Cò dài 6km và 1 kinh dài 4,5km; có 25 cây cầu trong đó 8 cầu bêtông, 7 cầu sắt; cống ông Bảy Đèo, cống Rạch Rẫy, cống Bà Láng; bến đò Bà Hương, Bà Thơ, Ban Mậu, bến đò khu vực ấp Lợi Tường.

Trạm y tế có 1 bác sĩ, 1 y sĩ, 2 y tá; các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng: tiêm ngừa, phòng dịch.

Hiện toàn xã có 11 bà mẹ Việt Nam Anh hùng và anh hùng Ngô Văn Nhạc, 226 liệt sĩ, 115 thương binh, 16 lão thành cách mạng, 179 gia đình có công với nước, anh hùng Ngô Văn Nhạc và đặc biệt xã đã vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng LLVTND.

Chi bộ Đảng đầu tiên thành lập năm 1961 với 15 đảng viên; và đến nay Đảng bộ có 7 chi bộ, 78 đảng viên.

XÃ MỸ LỢI B

Gồm 4 ấp: Mỹ Thạnh, Lợi Thuận, Hưng Lợi, Lợi Nhơn.

Từ xã Mỹ Lợi tách ra ngày 12.4.1979, theo quyết định số 152 của Hội đồng Chính phủ.

Nằm ở phía tây nam huyện; đông giáp xã Mỹ Tân; tây giáp xã Thanh Mỹ, (huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp); nam giáp xã Mỹ Lợi A; bắc giáp xã Mỹ Trung, về xã theo tỉnh lộ 861 ra Quốc lộ 1A.

Diện tích tự nhiên 1.912ha: thổ cư 242,409m2, trồng lúa 135,6628ha, vườn cây 332ha.

Dân số 70.005 nhân khẩu (1.490 hộ); trong đó, nam 3.497, nữ 3.508; Tôn giáo: Công giáo: 225 người, Tin Lành: 2, Cao Đài: 125, Hoà Hảo: 8, tôn giáo khác 20. Tỉ lệ sinh năm 2004: 1,87%, tử 0,3%.

Ngành nghề sản xuất chủ yếu là nông nghiệp (trồng lúa); nghề phụ: chăn nuôi gia súc, gia cầm, mua bán vật tư nông nghiệp... Do nâng lên từ 2 đến 3 vụ lúa nên hiện nay đời sống kinh tế có nâng lên khá rõ, chỉ còn 20% nhà tre lá và 30,01% hộ nghèo.

Qua xã có huyện lộ dài 6km; mạng lưới sông, rạch,... có 3 con sông, kinh Cổ Cò dài 3km; bến đò ngang qua Thanh Mỹ, Đồng Tháp.

Chợ ở ấp Lợi Thuận chủ yếu là bán tạp hoá và hàng nông sản địa phương sản xuất, có khoảng 100-150 người.

Trường mẫu giáo có khoảng 99 cháu; trường tiểu học 4 điểm, 5 lớp có 398 học sinh; trường trung học cơ sở có 395 học sinh; trường trung học Phổ thông có 77 học sinh.

Trạm y tế có 2 y sĩ, 1 nữ hộ sinh trung cấp, 1 dược sĩ trung cấp; các tổ chức và các hoạt động chăm sóc sức khoẻ cộng đồng: có 4 tổ y tế ấp.

Xã có có 4 bà mẹ Việt Nam Anh hùng (đã mất), 131 liệt sĩ, 57 thương binh, 10 lão thành cách mạng, 5 gia đình có công với nước, 408 huân chương của tập thể và cá nhân.

Đảng bộ xã Mỹ Lợi Thành thành lập từ năm 1945 do đồng chí Phan Ba cán bộ Tỉnh ủy Mỹ Tho tổ chức, đến năm 1975 có 67 đảng viên, năm 1979 chia xã thành Mỹ Lợi B; đến nay có 97 đảng viên. MTTQVN thành lập năm 1944; ngoài ra còn có các tổ chức khác như Đoàn TNCSHCM, Hội PNVN...

XÃ MỸ LƯƠNG

Gồm 5 ấp: Lương Nhơn, Lương Ngãi, Lương Lễ, Lương Tín, Lương Trí.

Thôn Mỹ Lương đời Gia Long thuộc tổng Kiến Phong, năm 1836 thuộc tổng Phong Phú. Trước Cách mạng tháng Tám, làng Mỹ Lương thuộc tổng Phong Phú, quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân đặt xã Mỹ Lương thuộc tổng Phong Phú, huyện Cái Bè, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Mỹ Lương thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Mỹ Lương thuộc quận Giáo Đức, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây huyện; đông giáp rạch Cái Cối của huyện Cái Bè; tây giáp xã An Hữu; nam giáp xã Hoà Hưng; bắc giáp xã Mỹ Đức Tây. Về xã theo đường bộ dài 24km.

Diện tích tự nhiên 1608,9703 ha: thổ cư 570.785m2; vườn cây: 1623,5767ha.

Dân số 12.690 người (2.702 hộ); trong đó, nam 6.178, nữ: 6.512; người Kinh 12.847, người Hoa 43; Tôn giáo: Phật giáo: 188 người, Công giáo: 400, Cao Đài: 112, Hoà Hảo: 13. Tỉ lệ sinh năm 2004 là 2,2%, tử 0,5%.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp: trồng lúa, cây ăn trái,... Thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp và phát triển kinh tế xã, nhân dân có mức sống thu nhập hàng năm tăng dần, số hộ nghèo và cận nghèo là 749, số hộ trung bình - khá - giàu là 1.953 hộ.

Có 1 trường mẫu giáo 6 lớp, 189 cháu; 1 trường tiểu học kiên cố, đạt chuẩn Quốc gia có 23 lớp, 731 học sinh; 1 trường trung học cơ sở 16 lớp, 667 học sinh.

Trạm y tế xã có 1 bác sĩ.

Toàn xã có 14 bà mẹ Việt Nam Anh hùng (4 mẹ còn sống), 263 liệt sĩ, 49 thương binh, 9 lão thành cách mạng, 297 gia đình có công với nước. Năm 1998, xã vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng LLVTND.

Chi bộ xã thành lập tháng 5-1945 với 6 đảng viên, đến nay Đảng bộ có 104 đảng viên.

XÃ MỸ TÂN

Gồm các ấp: 1, 2, 3, 4.

Xã Mỹ Tân được thành lập ngày 23.11.1990, theo quyết định số 521/TCCP của Ban Tổ chức-Cán bộ của Chính phủ, trên cơ sở tách diện tích và nhân khẩu của xã Mỹ Trung, Mỹ Lợi B, Mỹ Đức Tây và nông trường Ngô Văn Nhạc.

Nằm ở phía bắc huyện: đông giáp xã Thiện Trung; tây giáp xã Mỹ Lợi B và xã Mỹ Trung; nam giáp xã Mỹ Lợi A và xã Mỹ Đức Tây; bắc giáp xã Mỹ Trung và xã Mỹ Đức Tây. Về xã đi theo tỉnh lộ 861 khoảng 30km.

Diện tích tự nhiên 1.735,645ha: thổ cư 25,29ha, trồng lúa 1.352,56ha, vườn cây 209,434ha.

Dân số: 4.729 nhân khẩu (953 hộ); trong đó, nam 2.149, nữ 2.580; người Kinh 4.711, người Hoa 18; dân tộc khác 3; Tôn giáo: Phật giáo 270 người, Công giáo 143, Tin Lành 19, Cao Đài 32. Tỉ lệ sinh của xã trong các năm - 2000: 1,39%, 2001: 1,99%, 2002: 1,22%, 2003: 1,2%, 2004: 1,88%. Tỉ lệ tử trong các năm - 2000: 0,34%, 2001: 0,36%, 2002: 0,13%, 2003: 0,1%, 2004: 0,2%.

Ngành nghề sản xuất chủ yếu là nông nghiệp (trồng lúa nước); nghề phụ: trồng cây ăn trái, nuôi gia súc, gia cầm, nuôi thuỷ sản, xay xát lúa gạo, mua bán phế liệu, đồ nhựa,... Tỷ lệ hộ giàu, khá chỉ chiếm 6-7%, hộ nghèo chiếm 10,5%.

Qua xã có huyện lộ dài 2,3km, đường liên xã kinh 5 dài 5,4km. Mạng lưới sông, cầu, thủy lộ... có kinh 5 dài 5,4km, kinh 20 dài 5km, kinh 6 dài 1,8km; cầu Mỹ Tân, cầu kinh 20.

Trạm y tế có 4 phòng, trang thiết bị còn thiếu, có 1 bác sĩ, 3 y sĩ, 1 y tá; các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng: có 4 tổ y tế ấp.

Xã có 44 liệt sĩ, 25 thương binh, 2 lão thành cách mạng, 11 gia đình có công với nước, 5 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ Đảng xã thành lập ngày 23/11/1990, cùng ngày thành lập với các tổ chức MTTQVN, Đoàn TNCSHCM, Hội PNVN, Hội CCB, Hội NDVN. HĐND xã thành lập ngày 20/12/1990.

XÃ MỸ TRUNG

Gồm các ấp: Mỹ Thị A, Mỹ Thị B, Mỹ Hòa, Mỹ Hiệp.

Trước Cách mạng tháng Tám, vùng này thuộc làng Mỹ Đức Tây.

Nằm ở phía tây huyện: đông giáp xã Thiện Trung; tây giáp xã Phú Điền, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp; nam giáp xã Mỹ Tân; bắc giáp xã Hậu Mỹ Bắc B. Về xã đi theo Quốc lộ 1A và tỉnh lộ 863 khoảng 26km.

Diện tích tự nhiên 2416,4690ha: thổ cư 306,6ha, trồng lúa 1.874,8513ha, đất vườn cây 294,2613ha, nuôi trồng thuỷ sản 1,95ha, chưa khai thác 7,7133ha.

Dân số: 8.200 nhân khẩu (1.781 hộ); trong đó, nam 3593, nữ 4607; người Kinh 8.200. Tỉ lệ sinh của các năm - 2000: 2,98%, 2001: 2.55%, 2002: 2,12%, 2003: 1,68%, 2004: 1,25%; tỉ lệ tử các năm - 2000: 0,45%, 2001: 0,41%, 2002: 0,43%, 2003: 0,46%, 2004; 0,42%.

Ngành nghề sản xuất chủ yếu là trồng lúa; nghề phụ: chăn nuôi gia súc, gia cầm và dịch vụ khác. Là xã vùng sâu chuyên sản xuất lúa và chăn nuôi, trong những năm gần đây đời sống vật chất tinh thần từng bước phát triển, giảm dần số hộ nghèo.

Qua xã có tỉnh lộ 863 dài 16km; kinh 28 qua xã dài 8km; cầu Bằng Lăng giữa, Bằng Lăng cụt; bến đò ngã sáu- Phú Điền.

Hiện toàn xã có 10 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 195 liệt sĩ, 55 thương binh, 6 gia đình có công với nước, 262 huân chương của tập thể và cá nhân.

Đảng bộ xã được thành lập năm 1945, hiện có 101 đảng viên.

XÃ TÂN HƯNG

Gồm các ấp: 1, 2, 3, 4.

Nguyên là làng Thanh Hưng tổng Kiến Phong vào năm 1808. Đời Minh Mạng thuộc tổng Phong Phú.

Trước cách mạng tháng Tám, làng Thanh Hưng thuộc tổng Phong Phú. Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Thanh Hưng thuộc huyện Cái Bè tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân gọi là xã Thanh Hưng thuộc tổng Phong Phú quận Cái Bè tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta gọi là xã Thanh Hưng thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Thanh Hưng thuộc quận Giáo Đức, tỉnh Định Tường.

Ngày 12.4.1979, xã Thanh Hưng tách ra thành lập 2 xã: Tân Hưng và Tân Thanh.

Nằm ở phía tây huyện; đông giáp xã An Thái Trung; tây giáp xã Mỹ Hiệp, huyện Cao Lãnh; nam giáp xã Tân Thanh; bắc giáp xã Mỹ Lợi B và xã Thanh Mỹ, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Thá. Về xã đi theo đường Quốc lộ 1A khoảng 27km.

Diện tích tự nhiên 1.888,6ha: thổ cư 68,37ha, trồng lúa 670,31ha, vườn cây 977,7ha, nuôi trồng thủy sản 25ha.

Dân số: 11.976 nhân khẩu (2.428 hộ); trong đó, nam 5.832, nữ 6.144; đều là người Kinh.

Ngành nghề sản xuất chính các loại cây ăn trái; nghề phụ: chăn nuôi. Là một xã có tốc độ tăng tăng trưởng GDP khá cao, bình quân 9% năm, hộ giàu chiếm 26%, hộ nghèo chiếm 2,2%, còn lại là hộ khá.

Qua xã có Quốc lộ 30 dài khoảng 5km; huyện lộ dài 1,4km; đường liên xã dài 22,5km. Mạng lưới sông, cầu, cống... có kinh Nguyễn Văn Tiếp B 10,3km (đoạn qua xã là 5km), rạch Đào 12km (đoạn qua xã là 5km), Cái Lân 15km (đoạn qua xã là 6km)...

Trường mẫu giáo có lớp, 151 cháu; 1 trường tiểu học với 5 điểm, 18 phòng, 26 lớp, 796 học sinh; trường trung học cơ sở với 19 phòng, 36 lớp, 1.511 học sinh (trong đó có học sinh các xã lân cận ).

Trạm y tế xã với trang thiết bị đạt chuẩn Quốc gia và 4 điểm y tế ấp, có 1 bác sĩ, 4 y sĩ, 8 y tá, 9 hộ lý và các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng,...

Toàn xã có 5 bà mẹ Việt Nam Anh hùng: Đặng Thị Khả, Phan Thị Tám, Mai Thị Thảo, Trương Thị Huy và Trần Thị Mười, 207 liệt sĩ, 74 thương binh, 7 lão thành cách mạng, 832 gia đình có công với nước, 832 huân chương cá nhân.

Ngày 10/10/1946 Chi bộ Đảng chung (Thanh Hưng) được thành lập với 5 đảng viên. Đến tháng 4/1979, xã Tân Hưng tách khỏi xã Thanh Hưng và thành lập Đảng bộ xã Tân Hưng với 22 đảng viên, hiện nay có 110 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã (thành lập tháng 4/1979) là các tổ chức: Đoàn TNCSHCM (thành lập tháng 4/1979), Hội LHTNVN (thành lập ngày 15/10/1993), Hội PNVN (thành lập tháng 4/1970), Hội CCB (thành lập năm 1993), Hội NDVN (thành lập tháng 4/1979)...

XÃ TÂN THANH

Gồm các ấp: 1, 2, 3 và 4. Nguyên là làng Thanh Hưng tổng Kiến Phong vào năm 1808. Đời Minh Mạng thuộc tổng Phong Phú.

Trước cách mạng tháng Tám, làng Thanh Hưng thuộc tổng Phong Phú. Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Thanh Hưng thuộc huyện Cái Bè tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân gọi là xã Thanh Hưng thuộc tổng Phong Phú quận Cái Bè tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta gọi là xã Thanh Hưng thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Thanh Hưng thuộc quận Giáo Đức, tỉnh Định Tường.

Ngày 12.4.1979, xã Thanh Hưng tách ra thành lập 2 xã: Tân Hưng và Tân Thanh.

Nằm ở phía tây huyện: phía đông giáp xã An Hữu: Tây giáp xã Mỹ Hiệp, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp; nam giáp xã An Nhơn, An Hiệp huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp; bắc giáp xã Tân Hưng. Về xã đi theo Quốc lộ 1A và Quốc lộ 30 khoảng 22km.

Diện tích tự nhiên 1.634ha: thổ cư 40ha, vườn cây 969,2ha, chưa khai thác 614,2ha.

Dân số: 10.207 nhân khẩu (2.197 hộ); trong đó, nam 4.226, nữ 5981; người Kinh 10.191, người Hoa 7, dân tộc khác 9; người theo Phật giáo 380, theo Tin Lành 2, Cao Đài 22, Hoà Hảo 9. Tỉ lệ sinh trong các năm - 2000: 1,85%, 2001: 1,83%, 2002: 1,67%, 2003: 1,36%, 2004: 1,68%; tỉ lệ tử các năm - 2000: 0,25%, 2001: 0,31%, 2002: 0,29%, 2003: 0,33%, 2004: 0,37%.

Ngành nghề chính: làm ruộng; nghề phụ: chăn nuôi gia súc, heo, gia cầm, buôn bán nhỏ. Trước đây thu nhập chủ yếu của người dân là kinh tế vườn, ruộng nên rất thấp. Hiện nay thu nhập bình quân đầu người là 5-5,5 triệu đồng / năm, có ấp không còn hộ nghèo như ấp 3 Cồn Qui; hộ khá giàu chiếm 70,1%, hộ trung bình 24,5%, hộ nghèo và cận nghèo 5,4%.

Qua xã có Quốc lộ 30 dài khoảng 7km. Mạng lưới sông, rạch, cống... có rạch Cái Nhỏ dài khoảng 5km, sông Cái Cối dài khoảng 8km, trên Quốc lộ 30 có các cầu Rạch Giồng, Rạch Dào, Rạch Ruộng, Cai Lân; 2 bến đò ngang sông Cái Cối, 1 bến đò dọc đi liên xã.

Trạm y tế xã được xây dựng kiên cố với diện tích sử dụng 90m2, 10 phòng, trang thiết bị đầy đủ; hiện có 1 bác sĩ, 3 y sĩ đa khoa, 1 y sĩ, 1 hộ sinh, 4 y tá, 1 dược sĩ trung học và 2 lương y; các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng...

Toàn xã có 9 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 208 liệt sĩ, 45 thương binh, 164 gia đình có công với nước, 238 huân chương của tập thể và cá nhân...

Ngày 10/10/1946 tổ chức Đảng đầu tiên thành lập tại xã do đồng chí Nguyễn Hữu Nghiệp phó Bí thư Huyện uỷ làm Bí thư, hiện Đảng bộ của xã có 8 chi bộ trực thuộc, 98 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã là các tổ chức khác như Đoàn TNCSHCM (thành lập tháng 6 năm 1969), Hội LHPNVN, Hội CCB (thành lập tháng 12/1989)....

XÃ THIỆN TRÍ

Gồm các ấp: Mỹ Phú, Mỹ Quới, Mỹ Hưng, Mỹ Long, Mỹ Phước.

Nguyên là xã Mỹ Thiện chia tách từ ngày 12.4.1979. Làng Mỹ Thiện vào đời Gia Long thuộc tổng Kiến Phong, năm 1836 thuộc tổng Phong Hòa.

Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tổng Phong Hoà. Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Mỹ Thiện thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân đặt xã Mỹ Thiện thuộc tổng Phong Hoà, huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Mỹ Thiện thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Mỹ Thiện thuộc quận Sùng Hiếu, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây huyện: đông và bắc giáp xã Hoà Khánh; tây giáp xã Thiện Trung; nam giáp xã Mỹ Đức Tây. Về xã đi theo Quốc lộ 1A, khoảng 12km.

Diện tích tự nhiên 1314,590ha: trồng lúa 676ha, vườn cây 504ha.

Dân số: 10.776 nhân khẩu (2.067 hộ); trong đó, nam 3.567, nữ 7.209; người Kinh 10.776; Tôn giáo: Phật giáo 123 người, Công giáo: 2, Tin Lành 2, Cao Đài: 46, Hoà Hảo: 14. Tỉ lệ sinh năm 2004 là 1,09%, tử 0,39%. Số người di cư năm 2004: 55, nhập cư: 69.

Ngành nghề chính là nông nghiệp; nghề phụ: dịch vụ, buôn bán nhỏ, tiểu thủ công nghiệp truyền thống ( rèn, đan lát, làm nhang...). Hiện xã có 1.409 hộ khá, giàu đạt tỷ lệ 55,1%, 620 hộ trung bình chiếm 30%, 308 hộ nghèo chiếm 14,9%.

Qua xã có Quốc lộ 1A dài khoảng 1,5km; đường liên xã Thiện Trí - xã Thiện Trung 8km; rạch Mỹ Thiện dài 5km; rạch Chùa dài khoảng 1,8km, rạch Xẻo Tre dài 2km, rạch Cái Sơn 2km...

Chợ Mỹ Thiện ở trung tâm xã, cặp theo Quốc lộ 1A, họp thường xuyên vào buổi sáng, có khoảng 100 người.

Trạm y tế xã xây dựng kiên cố gồm 6 phòng, đầy đủ trang thiết bị với 2 y sĩ, 1 y sĩ sản nhi, 1 hộ sinh, 1 y tá, 1 dược sĩ, 1 lương y,... các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng: có 5 tổ y tế và một số cộng tác viên 7.

Xã có 12 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 268 liệt sĩ, 80 thương binh, 21 lão thành cách mạng, 86 gia đình có công với nước, 242 huân chương của tập thể và cá nhân; đặc biệt xã đã vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng LLVTND.

Chi bộ Đảng xã Mỹ Thiện thành lập tháng 1-1947, đảng bộ xã Thiện Trí hiện nay Đảng bộ có 10 chi bộ trực thuộc, 130 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã (thành lập tháng 5/1947) là các tổ chức Đoàn TNCSHCM, Hội CCB (thành lập vào tháng 2/1990)...

XÃ THIỆN TRUNG

Gồm các ấp: Mỹ Trinh, Mỹ Lược, Mỹ Tường.

Nguyên là xã Mỹ Thiện chia tách từ ngày 12.4.1979, thành lập hai xã Thiện Trí và Thiện Trung.

Nằm ở phía bắc huyện; đông giáp xã Hòa Khánh; tây giáp xã Mỹ Tân; nam giáp xã Thiện Trí; bắc giáp xã Hậu Mỹ Bắc A. Về xã đi theo tỉnh lộ 863 khoảng 4km.

Diện tích tự nhiên: 1981.9570m2, thổ cư 302.500m2, trồng lúa 1466ha, vườn cây 316ha, nuôi trồng thủy sản 5ha.

Dân số: 9.346 nhân khẩu (1.738 hộ); trong đó, nam 4.199, nữ 5.147; người theo đạo Cao Đài 12, theo Hoà Hảo 6. Tỉ lệ sinh của xã trong các năm - 2000: 1,8%, 2001: 1,56%, 2002: 1,79%, 2003: 1,63%, 2004: 1,5%; tỉ lệ tử các năm - 2000: 0,17% 2001: 0,15%, 2002:0,47%, 2003: 0,05%, 2004: 0,25%.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp (trồng lúa), nghề phụ: chăn nuôi, sửa chữa máy. Hiện xã có 789 hộ giàu, 597 hộ khá, 352 hộ nghèo.

Qua xã có tỉnh lộ 863 dài 4km, đường liên xã Mỹ Thiện dài 3,8km. Mạng lưới sông, rạch, cầu, cống... có kinh 28 dài 4km; các cầu Vàm Chùa, Bằng Lăng, ngã tư Mỹ Thiện, Hào Bá, Ông Tà; cống Bảy Hiền, Ba Khanh; đò ngang sông 28. Chợ ngã tư Mỹ Thiện nhóm vào sáng, buôn bán tạp hoá, nông sản, thực phẩm, có 150 người.

Trường tiểu học xã có 27 lớp, 867 học sinh; trường trung học cơ sở có 36 lớp, 1.135 học sinh. Trạm y tế xã có 1 bác sĩ, 2 y sĩ; các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng như tổ y dược dân tộc.

Toàn xã có 3 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 214 liệt sĩ, 78 thương binh, 18 lão thành cách mạng, 20 gia đình có công với nước, 317 huân chương của tập thể và cá nhân; đặc biệt xã đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng LLVTND.

Chi bộ Đảng đầu tiên của xã Mỹ Thiện thành lập vào tháng 1-1947. Hiện nay, Đảng bộ xã Thiện Trung có 108 đảng viên.

5. HUYỆN CHÂU THÀNH

Có 1 thị trấn và 24 xã. Trên bản đồ, huyện Châu Thành trông giống hình chữ nhật, nằm ở vị trí trung tâm của tỉnh Tiền Giang, phía đông giáp thành phố Mỹ Tho và huyện Chợ Gạo, phía tây giáp huyện Cai Lậy, phía bắc giáp huyện Tân Phước và tỉnh Long An, phía nam giáp Bến Tre ngăn cách bởi sông Cửu Long. Diện tích tự nhiên là 225,7 km2.

Đặc điểm tự nhiên của huyện Châu Thành là được chia thành 2 vùng rõ rệt: vùng nam Quốc lộ 1A giáp với sông Tiền, nước ngọt quanh năm, đất phù sa màu mỡ, sông ngòi chằng chịt, thích hợp cho việc tưới tiêu, nuôi trồng. Vườn cây ăn trái xen kẽ với ruộng đồng tạo thành miệt vườn trù phú. Vùng này cũng là nơi tập trung dân cư đông đúc. Vùng bắc Quốc lộ 1A là vùng lúa, về phía cực bắc đất hoang hoá, chua phèn, đường giao thông đi lại khó khăn, dân cư thưa thớt hơn. Huyện có địa hình tương đối phức tạp, thấp dần từ nam đến bắc, từ đông sang tây xen kẽ những giồng cát gò cao và những vùng trũng, gồm có 3 dạng chính như sau:

- Địa hình cao: có độ cao từ 1,1 - 1 ,7 m, diện tích 6.756 ha, phân bố dọc theo quốc lộ 1 và khu vực Đông Nam của huyện.

- Địa hình trung bình: có độ cao từ 0,8 - 1,2 m, chiếm hầu hết diện tích toàn huyện (12.060 ha), phân bố chủ yếu phía nam Quốc lộ 1.

- Địa hình thấp: có độ cao từ 0,5 - 0,8 diện tích 6.029 ha, phân bố phía bắc quốc lộ 1 gồm các xã Điềm Hy, một phần Nhị Bình, Long Định, Tam Hiệp.

Đất đai được phân thành các nhóm:

- Nhóm đất phù sa phát triển trên trầm tích sông biển và trầm tích sông đầm lầy phân bố chủ yếu ở phía nam và một phần ở phía đông. Đây là nhóm đất có lịch sử canh tác ổn định lâu dài, nhóm đất này đã phân hoá thành nhiều loại và đã có những biến đổi sâu sắc do tập quán độc canh cây lúa và phần lớn là do đất phù sa không được bồi lắng hàng năm.

- Nhóm đất phèn: gồm phèn tiềm tàng và phèn hoạt động phát triển trên trầm tích đầm lầy biển, phân bố dọc bắc Quốc lộ 1, đường 870 và 866, đây là vùng thường bị ngập lũ, hoang hoá lâu đời nên đất có độ phì nhiêu tiềm tàng cao, giàu đạm, phần lớn tập trung ở tầng mặt. Đây cũng là vùng đất chứa phèn, lượng độc tố cao.

- Nhóm đất giồng và đất dốc tụ: là nhóm đất nhỏ, phân bố thành một hành lang hẹp nằm giữa 2 vùng trên, thường được sử dụng trồng rau màu, cây thực phẩm và đang hình thành vùng chuyên canh rau.

Sông Tiền đoạn chảy ngang huyện có nhiều dài 17, 5 km từ xã Phú Phong đến xã cù lao Thới Sơn có bề rộng mặt nước thay đổi từ 400 - 1500m, biên độ triều lớn, độ dốc bình quân 0,07%, lưu lượng lớn nhất vào khoảng tháng 8 - 9 là 16.000 m3/s, lưu lượng nhỏ nhất vào tháng 4 là 270 m3/s, chất lượng nước tốt, là nguồn nước tưới cho cây trồng và sinh hoạt trong huyện thông qua hệ thống kinh rạch như rạch Gầm, rạch Xoài Mút, rạch Rau Răm, kinh Nguyễn Tấn Thành, kinh Bảo Định...

Những năm gần đây, do ảnh hưởng của thuỷ triều, nước mặn xâm nhập sâu các xã trong huyện, gây ảnh hưởng đến cây trồng và sinh hoạt của nhân dân.

Sông Vàm Cỏ Tây ảnh hưởng đến một phần diện tích thuộc khu vực bắc Quốc lộ 1 tuy có mặt cắt ngang lớn nhưng năng lực thoát lũ hạn chế do hệ số nhám lòng sông lớn, Rmax = 653 m3/s. Sông được nối liền bởi kinh Nguyễn Văn Tiếp và vào sâu địa bàn huyện theo rạch Gốc, kinh Quản Thọ, kinh Chợ Bưng, kinh Nguyễn Tấn Thành. Huyện cũng bị ảnh hưởng lũ lụt lớn, đặc biệt là các xã phía bắc Quốc lộ 1. Từ cuối tháng 8, mực nước sông Tiền bắt đầu dâng cao do nước lũ từ thượng nguồn đổ về. Đỉnh lũ thường xuất hiện vào cuối tháng 9 hàng năm, có năm vào cuối tháng 10, đầu tháng 11; đỉnh lũ cao nhất vào cuối tháng 9. Thời gian ngập hơn 1 tháng, sau đó rút dần.

Đất đai huyện Châu Thành được khai phá và ổn định dân cư sớm nhất ở đồng bằng Sông Cửu Long. Vào khoảng đầu thế kỷ thứ XVII, vùng giồng cát huyện Châu Thành đã có người vào khai hoang lập nghiệp. Năm 1772, một đơn vị hành chính nhỏ, có tính quân sự được đặt riêng tại Tiền Giang là đạo Trường Đồn. Đạo Trường Đồn được đặt tại giồng Kiến Định tức là vùng thị trấn Tân Hiệp ngày nay. Năm 1779, đạo Trường Đồn được nâng lên dinh (tương đương với tỉnh sau này). Năm 1781, dinh Trường Đồn được đổi tên lại là dinh Trấn Định. Lỵ sở dinh Trấn Định đóng tại gò đất cao (chỗ khu vực Văn phòng Huyện ủy huyện Châu Thành ngày nay). Giồng Kiến Định là trung tâm hành chính của vùng Tiền Giang trong khoảng 20 năm. Mãi đến năm 1792, lỵ sở Trấn Định mới dời về thôn Mỹ Chánh (Mỹ Tho). Năm 1808, vùng Tân Hiệp lại trở thành vùng thị tứ như cũ. Lỵ sở phủ Kiến An kiêm nhiếp huyện Kiến Hưng đến đóng tại thôn Tân Lý Tây. Đến năm 1833 thì dời về Tân Hiệp.

Thời Pháp thuộc, Châu Thành là một quận với các tổng: Thuận Trị, 19 làng; tổng Thuận Bình, 14 làng; Hưng Nhượng, 6 làng. Năm 1964, theo Nghị định số 1013-NV của chính quyền Sài Gòn, quận Châu Thành được chia làm 2 quận: Châu Thành và Long Định.

- Quận Châu Thành gồm có 2 tổng, 12 xã, quận lỵ đặt tại xã Trung An.

- Quận Long Định gồm có 2 tổng, 14 xã, quận lỵ đặt tại Vĩnh Kim.

Ngày 24.3.1969, quận Long Định, đổi tên là quận Sầm Giang theo Nghị định số 339-ND-NV của chính quyền Sài Gòn.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, từ năm 1994, theo Nghị định 68/CP của Chính phủ, toàn bộ diện tích và cư dân của các xã: Tân Lập, Mỹ Phước, Hưng Thạnh, Tân Hoà Thành, Phú Mỹ, Tân Hoà Đông, và một phần các xã Tân Lý Đông, Nhị Bình chuyển sang huyện Tân Phước.

Hiện nay, huyện có 25 đơn vị hành chính gồm 24 xã và 1 thị trấn: thị trấn Tân Hiệp, và các xã Nhị Bình, Điềm Hy, Dưỡng Điềm, Hữu Đạo, Bàn Long, Phú Phong, Kim Sơn,Vĩnh Kim, Bình Trưng, Đông Hòa, Song Thuận, Long Hưng, Bình Đức, Thạnh Phú, Thới Sơn (xã cù lao), Phước Thạnh, Long An, Thân Cửu Nghĩa, Tân Lý Tây, Tân Hương, Tân Lý Đông, Tân Hội Đông, Tam Hiệp, Long Định. Toàn huyện có 164 ấp.

Cũng từ tháng 7/1994, huyện Châu Thành có biến động: dân thuộc 6 xã phía bắc của huyện được chuyển sang huyện Tân Phước nên dân số của huyện còn lại là 253.593 người (thống kê tính đến 2005). Trong đó: 122.739 nam, 130.854 nữ. Mật độ 992 người/km2.

Phân bố địa bàn cư trú: Khu vực thị trấn, thị tứ 6.004 người; nông thôn 247.589 người.

Tỉ lệ lao động trong độ tuổi/ dân số gia tăng với tốc độ phát triển bình quân 3,55% năm.

Giao thông trong huyện rất thuận lợi: đường thuỷ có sông Tiền và các kinh lớn như kinh Nguyễn Tấn Thành, nối liền sông Cửu Long với vùng phía bắc Quốc lộ I, kinh Nguyễn Văn Tiếp. Đường bộ, đường giao thông quan trọng chạy dọc trên đất Châu Thành là Quốc lộ 1A trên 30km. Trước 1954, tỉnh lộ 24 có đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho chạy qua đất Châu Thành dài 18 km,... Ngoài ra còn có các lộ sườn tạo nên mạng lưới giao thông thuận lợi từ huyện đi các xã. Trong gần 30 năm qua, giao thông nông thôn được phát triển mạnh, hầu hết các xã trong huyện đều có đường ôtô đến được trung tâm hành chính xã.

Trong hai cuộc kháng chiến giành độc lập, Đảng bộ Châu Thành đã lãnh đạo nhân dân giành những thắng lợi hết sức vang dội, tiêu biểu nhất là: trận đánh đồn cầu Đúc - Long Định, mặt trận Kinh Xáng, chiến thắng Giồng Dứa...trong kháng chiến chống Pháp; cuộc đấu tranh chính trị tại ngã ba Chim Chim, vành đai diệt Mỹ ở Bình Đức...trong kháng chiến chống Mỹ. Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp chống Mỹ, huyện Châu Thành có 6.245 liệt sĩ, 1996 thương bệnh binh, 8570 gia đình có công với cách mạng, có 300 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, có 7 cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang. Nhân dân huyện Châu Thành và 11 xã: Long Hưng, Kim Sơn, Bình Đức, Tam Hiệp, Song Thuận, Điềm Hy, Bình Trưng, Nhị Bình, Long Định, Thới Sơn, Bàn Long được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Châu Thành còn là một trong những nơi có truyền thống văn hoá lâu đời được phát huy qua nhiều thế hệ. Chính nơi đây đã sản sinh và thu hút nhiều nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ nổi tiếng như: Học Lạc, Mai Bạch Ngọc, gia đình nội ngoại của giáo sư Trần Văn Khê... mà trung tâm là vùng Chợ Giữa - Vĩnh Kim; đây cũng là nơi ra đời nghệ thuật cải lương Nam bộ với những nghệ sĩ nổi tiếng.

Các di tích quan trọng trong huyện gồm: di tích gò Tân Hiệp (thị trấn Tân Hiệp), di tích gò Gạch (xã Tân Lý Tây), di tích Gò Sao (ấp Tân Phú, xã Tân Lý Tây), Rạch Gầm - Xoài Mút, Chợ Giữa - Vĩnh Kim, đình Tân Lý Tây, Tân Hiệp, Tân Hương, Long Hội Tây, An Đức. Địa điểm du lịch: cù lao Thới Sơn, khu tượng đài và di tích Rạch Gầm - Xoài Mút, vườn cây ăn trái Vĩnh Kim, trại rắn Đồng Tâm...

CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH THUỘC HUYỆN CHÂU THÀNH

THỊ TRẤN TÂN HIỆP

Gồm 4 ấp: ấp Cá, ấp Ga, ấp Me, ấp Rẩy.

Nguyên là làng Tân Hiệp thuộc tổng Hưng Xương, là một làng mới lập đầu Gia Long, trên giồng Trấn Định. Năm 1836, Tân Hương thuộc tổng Hưng Nhượng. Ngày 1.1.1928, giải thể tổng Hưng Nhượng đưa làng Tân Hiệp về tổng Hưng Nhơn. Trước Cách mạng tháng Tám, địa bàn thuộc tổng Hưng Nhơn, quận Bến Tranh, tỉnh Mỹ Tho.

Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Hiệp Lý, thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; địch gọi là xã Tân Hiệp thuộc tổng Hưng Nhơn, quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta gọi là xã Tân Hiệp thuộc huyện Châu Thành Bắc, tỉnh Mỹ Tho; địch đặt xã Tân Hiệp quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía bắc của huyện; đông giáp xã Hoà Tịnh, huyện Chợ Gạo; tây giáp xã Tân Lý Đông, huyện Tân Phước; nam giáp xã Thân Cửu Nghĩa; bắc giáp xã Tân Lý Đông và xã Tân Lý Tây.

Diện tích tự nhiên 74,49 ha: thổ cư 12,45ha, trồng lúa 1,05ha, vườn cây 29,66ha, nuôi trồng thuỷ sản 0,62ha.

Dân số: 5.818 nhân khẩu (1.171 hộ); trong đó, nam 2.726, nữ 3.092; người Kinh 5.693; người theo Phật giáo 85, Công giáo: 178, Tin Lành 18, Cao Đài 21. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,32%, tử 0,52%.

Ngành nghề sản xuất chính là thương mại và dịch vụ; nghề phụ: đường, mộc, hồ, làm rẫy, vườn.

Qua xã có Quốc lộ 1A 1km; Sông, rạch, cầu cống... có rạch Trấn Định, cống Tân Hiệp, cống Ba Lòng; chợ liên ấp (ấp Cá và ấp Ga) họp thường xuyên có khoảng 500 - 600 người. Số hộ giàu 253, hộ nghèo 90 hộ.

Trường mẫu giáo bán kiên cố có 16 lớp, 593 cháu; trường tiểu học kiên cố, 30 lớp, 1.190 học sinh; trường trung học cơ sở kiên cố với 18 lớp, 860 học sinh; trường trung học phổ thông có 30 lớp, 1.300 học sinh; trường dạy nghề có 45 lớp, 918 học sinh.

Trạm y tế xã hiện có 3 y sĩ.

Toàn xã có 65 liệt sĩ, 28 thương binh, 1 lão thành cách mạng, 24 gia đình có công với nước, 49 huân chương cá nhân.

Chi bộ Đảng đầu tiên của xã thành lập ngày 30/4/1975, với 51 đảng viên BCH MTTQVN xã có 26 người, số hội viên 1.626. Đoàn TNCSHCM có 282 đoàn viên, Hội LHTNVN có 266 hội viên, Hội LHPNVN có 631 hội viên, Hội CCB thành lập ngày 22/12/1998, Hội NDVN có 391 hội viên.

XÃ BÀN LONG

Gồm các ấp: Long Hoà A, Long Hoà B, Long Thành A, Long Thành B, Long Thạnh, Long Trị.

Đời Gia Long, thôn Bàn Long thuộc tổng Kiến Lợi, năm 1836 đưa qua tổng Lợi Trường. Ngày 22.3.1912 đưa Bàn Long về tổng Thuận Bình.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã Bàn Long thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân đặt Bàn Long thuộc tổng Thuận Bình, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Bàn Long thuộc huyện Châu Thành Nam, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã Bàn Long, quận Sầm Giang, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây nam huyện, về xã đi theo Quốc lộ 1A hướng tây, rẽ Đông Hoà đến Vĩnh Kim khoảng 30km; đông giáp xã Vĩnh Kim; tây giáp xã Mỹ Long, huyện Cai Lậy; nam giáp xã Phú Phong; bắc giáp xã Bình Trưng.

Diện tích tự nhiên 925,6400ha: thổ cư 56,3700 ha, vườn cây 807,6092,2ha.

Dân số: 8.470 nhân khẩu (với 1.723 hộ); trong đó, nam 4.206, nữ 4.264; người Kinh 8.469, người Khơme 1; Tôn giáo: Phật giáo 332 người, Công giáo: 68, Cao Đài: 83, Hoà Hảo: 25.

Ngành nghề sản xuất chủ yếu là nông nghiệp; nghề phụ: chăn nuôi, buôn bán nhỏ, đan thảm lục bình...

Qua xã có đường đất dài 3,8 km, đường liên xã với đường ven rạch Gầm chảy qua xã dài 5km. Mạng lưới sông, ngòi, cầu, cống... có sông Rạch Rầm; cầu Chùa; năm 1997 đóng phà chạy máy chở 20 người; đò ngang xã trước đây đưa bằng xuồng ba lá, năm 1997 đóng phà chạy máy chở khoảng 20 người.

Trường mẫu giáo còn chung với trường tiểu học, có 4 lớp, 100 cháu; trường tiểu học, có 30 lớp với 752 học sinh. Số người tốt nghiệp trung học về làm việc tại xã là 16, 1 người tốt nghiệp đại học. Trạm y tế xã được trang bị đầy đủ, có 1 bác sĩ, 3 y sĩ, 1 y tá và các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng: 6 tổ y tế ấp.

Toàn xã có 8 bà mẹ Việt Nam Anh hùng (chỉ có mẹ Nguyễn Thị Phải còn sống), 234 liệt sĩ, 128 thương binh, 23 lão thành cách mạng, 109 gia đình có công với nước, 471 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ Đảng đầu tiên được thành lập năm 1940, đến năm 1978 thành lập Đảng bộ có 35 đảng viên. MTTQVN xã thành lập năm 1961, Đoàn TNCSHCM thành lập năm 1961, Hội CCB thành lập năm 1990...

XÃ BÌNH ĐỨC

Gồm 4 ấp: Bình Tạo, Tân Thuận, Đồng, Chợ, Lộ Ngang.

Đời Gia Long có 2 làng An Đức và Bình Tạo thuộc tổng Kiến Thuận. Đời Minh mạng lập thêm làng Tân Thuận. Ngày 24.10.1925, nhập làng Tân Thuận và An Đức lấy tên là Thuận Đức thuộc tổng Thuận Trị. Ngày 24.11.1933, làng Thuận Đức nhập với làng Bình Tạo lấy tên là Bình Đức thuộc tổng Thuận Trị.

Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tổng Thuận Trị, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; thực dân Pháp đặt xã Bình Đức thuộc tổng Thuận Trị, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã thuộc huyện Châu Thành, từ năm 1969 thuộc huyện Châu Thành Nam, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH gọi là xã Bình Đức, quận Châu Thành, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía nam huyện, về xã đi theo Quốc lộ 1A rẽ trái, tỉnh lộ 870 và 870B giáp tỉnh lộ 864 rẽ phải khoảng 15 km; đông giáp xã Trung An, thành phố Mỹ Tho; tây giáp xã Song Thuận; nam giáp xã Thới Sơn; bắc giáp xã Long Hưng, xã Thạnh Phú.

Diện tích tự nhiên 1.111,823 ha: thổ cư 81,394 ha, trồng lúa 1,976 ha, vườn cây 539,926 ha, nuôi trồng thuỷ sản 48,366 ha, chưa khai thác 440,161 ha.

Dân số: 13.759 nhân khẩu (2.980 hộ); trong đó, nam 6.334, nữ 7.425; người Kinh 13.725, người Hoa 34; Tôn giáo: Phật giáo 10.118 người , Công giáo 3.053, Hòa Hảo: 588.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; nghề phụ: làm vườn, dệt chiếu, chế biến, buôn bán nhỏ, lao động phổ thông.

Qua xã có tỉnh lộ 864 dài 4 km, tỉnh lộ 870 dài 2 km; xã có bến đò Bình Đức - Thới Sơn; chợ ở ấp Chợ khu 1, họp vào buổi sáng.

Trường mẫu giáo với 4 điểm trường, 9 lớp, 303 cháu; trường tiểu học có 4 điểm với 23 phòng học, 32 lớp, 982 học sinh; trường trung học cơ sở có 17 phòng, 24 lớp, 942 học sinh.

Trạm y tế xã với cơ sở vật chất tốt, có 1 bác sĩ, 2 y sĩ, 1 hộ lý, 3 hộ sinh, 1 y tá và 1 lương y cùng các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng: có 6 tổ y tế trên 5 ấp.

Hiện toàn xã có 10 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 162 liệt sĩ, 63 thương binh, 1 lão thành cách mạng, 14 gia đình có công với nước, 12 huân huy chương của tập thể và cá nhân; đặc biệt, xã đã được Đảng và nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng LLVTND.

Đảng bộ xã được thành lập năm 1940; hiện nay, Đảng bộ có 201 đảng viên, tổ chức thành 13 chi bộ.

XÃ DƯỠNG ĐIỀM

Gồm 6 ấp: Hoà, Bình, Nam, Trung, Tây, Thuận. Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tổng Thuận Bình, quận Châu Thành, tỉnh Định Tường.

Đời Gia Long có 2 làng Tân Đức Tây và Tân Đức Đông thuộc tổng Kiến Thuận, năm 1826 thuộc tổng Thuận Bình. Những năm đầu Pháp thuộc, nhập 2 làng Tân Đức Tây và Tân Đức Đông lấy tên là Tân Đức. Ngày 12.8.1876, chia ra 2 làng: Tân Đức Tây lấy tên là Điềm Hy và Tân Đức Đông lấy tên là Dưỡng Điềm .

Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Định Tường; chính quyền Thực dân đặt xã Dưỡng Điềm thuộc tổng Thuận Bình, quận Châu Thành, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Dưỡng Điềm thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã Dưỡng Điềm thuộc quận Châu Thành, quận Sầm Giang, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây của huyện, về xã đi theo Quốc lộ 1A khoảng 22km, vào lộ Đông Hoà 7km; đông giáp xã Nhị Bình; tây giáp xã Nhị Quý, huyện Cai Lậy; nam giáp xã Bình Trưng; bắc giáp với Quốc lộ 1A của xã Điềm Hy, huyện Châu Thành.

Diện tích tự nhiên 313,7871ha: thổ cư 25,3455ha, vườn cây 288,4416ha.

Dân số: 6.340 nhân khẩu (với 1.331 hộ); trong đó nam 3.024, nữ 3.316; người Kinh 3.640; người theo Phật giáo 99, theo Công giáo: 24, theo Cao Đài 3. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,5%, tử 0,13%.

Ngành nghề sản xuất chủ yếu là nông nghiệp, nghề phụ: buôn bán nhỏ. Xã có 30,31% hộ giàu, 11,84% hộ nghèo.

Qua xã có Quốc lộ 1A dài 2,1 km; đường liên xã Bình Trưng - Dưỡng Điềm - Hữu Đạo dài 4,2 km; ngoài ra còn có kinh 26/3 dài 1,9 km, cầu Sao (bê tông), cống Bờ Cái 9.

Trường mẫu giáo có 2 lớp, 68 học sinh; trường tiểu học có 13 lớp, 908 học sinh; trường trung học cơ sở có 12 lớp, 524 học sinh; trường trung học phổ thông có 21 lớp, 1.803 học sinh.

Xã có mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị Diệu, 52 thương binh, 167 liệt sĩ, 28 gia đình có công với nước, 95 huân chương của tập thể và cá nhân.

Tổ chức Đảng xã thành lập năm 1945, với 3 đồng chí, hiện có 100 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã là các tổ chức khác được thành lập năm 1960 như Đoàn TNCSHCM, Hội LHPNVN, Hội NDVN; HĐND, UBND (thành lập cùng năm 1976).

XÃ ĐIỀM HY

Gồm các ấp: ấp Thới, ấp Bắc A, ấp Bắc B và ấp Hưng.

Nguyên vào năm 1808, đời Gia Long có 2 làng Tân Đức Tây và Tân Đức Đông thuộc tổng Kiến Thuận, năm 1826 thuộc tổng Thuận Bình. Những năm đầu Pháp thuộc, nhập 2 làng Tân Đức Tây và Tân Đức Đông lấy tên là Tân Đức. Ngày 12.8.1876, chia ra 2 làng: Tân Đức Tây lấy tên là Điềm Hy và Tân Đức Đông lấy tên là Dưỡng Điềm .

Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tổng Thuận Bình, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền thực dân Pháp đặt xã Điềm Hy thuộc tổng Thuận Bình, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Điềm Hy thuộc huyện Châu Thành Nam (1970-1975), tỉnh Mỹ Tho; địch đặt xã Điềm Hy, quận Sầm Giang, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây nam của huyện, về xã đi theo Quốc lộ 1A, khoảng 25 km; đông giáp xã Nhị Bình; tây giáp xã Tân Hội và xã Tân Phú; nam giáp xã Dưỡng Điềm; bắc giáp xã Phước Lập, huyện Tân Phước.

Diện tích tự nhiên 1,349,85 ha: thổ cư 185,00 ha, trồng lúa 999,0 ha, vườn cây 58,70 ha, nuôi trồng thuỷ sản 17,20 ha, chưa khai thác 90,05ha.

Dân số: 9.507 nhân khẩu (2.062 hộ); trong đó, nam 4.653, nữ 4.854. Tỷ lệ sinh 2004 là 1,35%, tử 0,525%. Số người di cư năm 2004 là 174, nhập cư 142.

Ngành nghề sản xuất chính là trồng lúa (3 vụ lúa/năm) và trồng cây ăn trái; nghề phụ: chăn nuôi gia súc, gia cầm; trồng rau, màu; xay lúa gạo xuất khẩu, mua bán vật tư nông nghiệp, vật liệu xây dựng,... Toàn xã có 124 hộ giàu, đạt 6 % và 1.408 hộ khá, đạt 68,3%, còn 350 hộ nghèo chiếm 25,7%.

Qua xã có Quốc lộ 1A dài 4km; tỉnh lộ 874 dài 1,8 km; đường huyện qua xã đi Quản Thọ dài 7 km, đường liên xã ấp Bắc Điềm Hy - Tân Phú (Cai Lậy) dài 5,5 km và lộ cầu Sao - Phước Lập (Tân Phước) dài 7 km. Mạng lưới sông, rạch,c ầu, cống... có kinh vành đai ấp Bắc dài 0,6 km, kinh lộ cầu Sao từ Quốc lộ 1A đến huyện Tân Phước dài 7,5 km; Cầu kinh Kháng Chiến và cầu kinh Bưng Môn (cầu bến đò). Chợ ấp Thới tại cầu Bến Đò họp buổi sáng, thường có 50 - 70 người.

Có 5 trường mẫu giáo với 131 cháu, cơ sở vật chất chưa đầy đủ; trường tiểu học với 5 điểm trường, 16 phòng học từ lớp 1 đến lớp 5, 621 học sinh; trường trung học cơ sở học ở các trường ngoài xã với 824 học sinh; trường trung học phổ thông, tại các trường ngoài xã, 678 học sinh. Số người tốt nghiệp trung học về làm việc tại xã là 49, 2 người tốt nghiệp đại học.

Toàn xã có 17 bà mẹ Việt Nam Anh hùng (2 mẹ là Võ Thị Ba và Võ Thị Phò còn sống), 267 liệt sĩ, 119 thương binh, 9 lão thành cách mạng, 37 gia đình có công với nước; đặc biệt, xã đã vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ kháng chiến cùng 432 huân huy chương cho người có công với cách mạng.

XÃ ĐÔNG HÒA

Gồm các ấp: Tân Trung, Trung, Đông A, Đông B, Ngươn A, Tây B, Dầu, Thới.

Đời Gia Long có 2 làng Bình Đông và Bình Thuyên Đông, thuộc tổng Kiến Thuận. Đời Thiệu trị và Tự Dức9 là Bình Đông và Bình Hòa Đông thuộc tổng Thuận Trị. Ngày 24.10.1925, nhập Bình Đông và Bình Hòa Đông lấy tên là Đông Hòa thuộc tổng Thuận Bình, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, xã Đông Hoà thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; địch gọi xã Đông Hoà, thuộc tổng Thuận Bình, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta gọi là xã Đông Hoà thuộc huyện Châu Thành Nam, tỉnh Mỹ Tho; địch gọi là xã Đông Hoà, quận Sầm Giang, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía Tây Nam huyện lỵ, từ huyện lỵ về xã đi theo Quốc lộ 1A dài khoảng 17 km; đông giáp xã Long Hưng; tây giáp xã Nhị Bình; nam giáp xã Vĩnh Kim; bắc giáp xã Long Định.

Xã có diện tích tự nhiên 761,96 ha: thổ cư 53,4 ha, trồng lúa 50,63 ha, vườn cây 603,56 ha, nuôi trồng thủy sản 4,6 ha, chưa khai thác 49,77 ha.

Dân số: 9.243 nhân khẩu (2.156 hộ); trong đó, nam 4517, nữ 4726; người Kinh 9241, người Hoa 2; Tôn giáo: Phật giáo 9.213 người, Công giáo: : 212, Cao Đài: 30.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp; nghề phụ: sửa chữa ô tô, may mặc, buôn bán nhỏ, dịch vụ. Hiện xã có 243 hộ giàu, 1836 hộ khá, 77 hộ nghèo.

Qua xã có Quốc lộ 1A dài 1.650 m; tỉnh lộ 876 dài 4600; huyện lộ dài 1200 m; hệ thống đường liên xã; mạng lưới sông, rạch, cầu, như kinh Kháng Chiến dài 2005m, kinh Cầu Đập 2.550 m; cầu Vàm ấp Ngươn, cầu ấp Trung, cầu Dầu, cầu Tây B...

Chợ Đông Hoà họp vào buổi sáng, buôn bán hàng nông sản, thực phẩm, có khoảng vài trăm người.

Trường mẫu giáo có 7 phòng với 7 lớp, 171 cháu; trường tiểu học với 25 phòng 25 lớp, 753 học sinh; trường trung học cơ sở với 17 phòng 17 lớp 630, học sinh; trường trung học phổ thông có 20 phòng, 36 lớp, 1.566 học sinh.

Trạm y tế xã với cơ sở vật chất bán kiên cố có 1 bác sĩ, 1 y tá, 1 hộ lý và các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.

Hiện toàn xã có 210 liệt sĩ, 48 thương binh, 62 gia đình có công với nước, 62 huân chương của tập thể và cá nhân.

XÃ HỮU ĐẠO

Gồm 4 ấp: Hữu Hoà, Hữu Bình, Hữu Thuận, Hữu Lợi.

Vào năm 1808, đời Gia Long, thôn Hữu Đạo thuộc tổng Kiến Thuận, năm 1836 thuộc tổng Thuận Bình. Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tổng Thuận Bình, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền thực dân Pháp đặt xã Hữu Đạo thuộc quận Châu Thành, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta đặt xã Hữu Đạo thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã Hữu Đạo quận Long Định, quận Sầm Giang, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây huyện, về xã đi theo Quốc lộ 1A khoảng 27 km; đông và bắc giáp xã Dưỡng Điềm; tây giáp xã Nhị Quý, huyện Cai Lậy; nam giáp xã Bàn Long.

Diện tích tự nhiên 451,7 ha: thổ cư 25,1 ha, trồng lúa 23,2 ha, vườn cây 403 ha.

Dân số: 4079, nhân khẩu (836 hộ); trong đó, nam 1974, nữ 2105.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp; nghề phụ: cây màu và dịch vụ. Hiện nay, số hộ giàu chiếm 19,5%, hộ trung bình khá 68,1%, hộ nghèo 12,4%.

Qua xã có đường chính thuộc xã Dưỡng Điềm đến xã Hữu Đạo dài 1,5 km; huyện lộ từ Châu Thành đến xã Hữu Đạo dài 27 km.

Xã có trường mẫu giáo với cơ sở vật chất ổn định gồm 3 lớp, 89 cháu; trường tiểu học có 15 lớp, 392 học sinh. Số người tốt nghiệp trung học về làm việc tại xã là 38 (đạt 85%), 3 người tốt nghiệp đại học.

Trạm y tế có 1 bác sĩ, 2 y tá và 1 hộ lý cùng các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng khác.

Hiện toàn xã có 166 liệt sĩ, 96 thương binh, 34 gia đình có công với nước, 171 huân chương của tập thể và cá nhân.

XÃ PHƯỚC THẠNH

Gồm 3 ấp: Thạnh Hưng, Phước Thuận, Phước Hòa.

Nguyên thủy đời Gia Long có 2 làng An Phước và An Thạnh thuộc tổng Kiến Thuận, năm 1836 thuộc tổng Thuận Bình. Ngày 24.10.1925, hai làng nầy nhập lại lấy tên là Phước Thạnh thuộc tổng Thuận Bình

Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tổng Thuận Bình, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; địch đặt xã Phước Thạnh thuộc tổng Thuận Bình, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm đưa Phước Thạnh qua trực thuộc tổng Thuận Trị. Từ 1969 thuộc huyện Châu Thành Nam, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã Phước Thạnh thuộc quận 4, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía nam huyện; về xã đi theo Quốc lộ 1A và tỉnh lộ 870 A khoảng 15 km; đông giáp xã Trung An; tây giáp xã Thạnh Phú - Long Hưng; nam giáp xã Thạnh Phú; bắc giáp xã Long An - Tam Hiệp.

Diện tích tự nhiên 873 ha: thổ cư 52,4 ha, trồng lúa 280,4 ha, vườn cây 443,4 ha, nuôi trồng thuỷ sản 0,3 ha.

Dân số: 9.269 nhân khẩu (2.305 hộ); trong đó, nam 4.615, nữ 4.654, người Kinh 9.629; Tôn giáo: Phật giáo 15 người, Tin Lành: 9, Cao Đài: 87. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,86%, tử 0,51%.

Hiện xã có 15% hộ giàu, 52% hộ khá, 30% hộ trung bình, 3% hộ nghèo.

Qua xã có Quốc lộ 1A dài 5 km, tỉnh lộ 870 A dài 2 km, đường liên xã Phước Thạnh - Thạnh Phú - Trung An.

Trường mẫu giáo với 1 điểm trường, 180 cháu; trường tiểu học với 3 điểm trường, 25 phòng học, 682 học sinh; trường trung học cơ sở với 2 điểm trường, 25 phòng học, 1.135 học sinh.

Trạm y tế xã có 6 phòng, 1 bác sĩ, 2 y sĩ, 1 lương y, 1 nha sĩ, 1 dược sĩ, 1 điều dưỡng và 1 hộ sinh; các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng: Tổ chức chăm sóc sức khoẻ ban đầu và sinh sản.

Toàn xã có 19 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 1 anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Trần Thị Điểu, 239 liệt sĩ, 61 thương binh, 22 lão thành cách mạng, 37 gia đình có công với nước, 215 huân chương của tập thể và cá nhân.

CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH THUỘC HUYỆN CHÂU THÀNH (tiếp theo)

XÃ NHỊ BÌNH

Gồm 8 ấp: Nam, Tây, Hoà, Hưng, Trung A, Trung B, Đông A, Đông B.

Nguyên vào đời Gia Long có 2 làng Bình Yên và Bình Thuyên Đông thuộc tổng Kiến Thuận. Đến năm 1836 là thôn Nhị Bình thuộc tổng Hưng Nhơn. Năm 1942, đưa Nhị Bình sang tổng Thuận Bình, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho.

Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Nhị Bình thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân gọi là xã Nhị Bình thuộc tổng Thuận Bình, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta gọi là xã Nhị Bình thuộc huyện Châu Thành, từ 1969 thuộc huyện Châu Thành Bắc, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH gọi là xã Nhị Bình quận Châu Thành, tỉnh Định Tường.

Địa giới xã: đông giáp xã Long Định, xã Đông Hoà; tây giáp xã Dưỡng Điềm, xã Điềm Hy; nam giáp xã Bình Trưng; bắc giáp xã Phước Lập, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang.

Diện tích tự nhiên 1889,6 ha: thổ cư 910,01ha, trồng lúa 980,79 ha, vườn cây 645,79 ha, chưa khai thác 1,43 ha.

Dân số: 18.209 nhân khẩu (3.895 hộ); trong đó, nam 8.433, nữ 9.776; người Kinh 18.209; người theo Phật giáo 323, Tin Lành 315, Hoà Hảo 309. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,3%, tử 0,2 %. Số người di cư năm 2004 là 103, nhập cư 108.

Ngành nghề sản xuất chính của xã là nông nghiệp.

Qua xã có Quốc lộ 1A, dài khoảng 3,5 km; đường Bà Bếp từ Trung A Nhị Bình - Bình Trưng dài 3,6 km; Mạng lưới sông, rạch, cầu, cống... như kinh Kháng Chiến 3,5 km, kinh Thuộc Nhiêu 1,5 km, kinh Nghĩa Trang dài khoảng 4 km, kinh I, II, III dài 3,5 km; cầu Sao, cầu kinh Kháng Chiến, cầu Bến Hải, cầu Mắt Kiếng, cầu Kinh III.

Trạm y tế xã đạt chuẩn Quốc gia, hiện có 1 bác sĩ, 4 y sĩ, 2 dược sĩ, 1 điều dưỡng viên cùng các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.

Hiện toàn xã có 280 liệt sĩ, 176 thương binh, 34 lão thành cách mạng, 96 gia đình có công với nước, 625 huân chương của tập thể và cá nhân.

XÃ BÌNH TRƯNG

Gồm các ấp: Bình Hoà A, Bình Hoà B, Bình Thới A, Bình Thới B, Bình Thuận, Bình Trung A, Bình Trưng B, Bình Thạnh, Bình Phú.

Đời Gia Long có làng Bình Sơn thuộc tổng Kiến Thuận, năm 1836 thuộc tổng Thuận Bình. Đầu giai đoạn Pháp thuộc lập thêm làng Phong Trưng. Ngày 25.10.1925 nhập 2 làng Bình Sơn và Phong Trưng lấy tên là Bình Trưng, tổng Thuận Bình, quận Châu Thành, tỉnh Định Tường.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân đặt xã Bình Trưng thuộc tổng Thuận Bình, huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Bình Trưng thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã Bình Trưng thuộc quận Châu Thành, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây nam huyện, về xã đi theo Quốc lộ 1A khoảng 30 km; đông giáp xã Đông Hoà; tây giáp xã Hữu Đạo; nam giáp xã Bàn Long; bắc giáp xã Nhị Bình.

Diện tích tự nhiên 893,7065 ha: thổ cư 57,7848 ha, trồng lúa 4,450 ha, vườn cây 766,9448 ha, nuôi trồng thủy sản 11,226m2, chưa khai thác 21,4130 ha.

Dân số: 8.968 nhân khẩu (2.125 hộ); trong đó, nam 4.430, nữ 4.538; Tôn giáo: Phật giáo 49 người, Công giáo: 479, Cao Đài: 499.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp; nghề phụ: đan giỏ, may mặc, buôn bán, tạp hóa. Hộ khá, giàu chiếm 82,54%, hộ nghèo 17,45%.

Qua xã có tỉnh lộ 876 dài 5,7 km, đường liên xã Bình Trưng - Hữu Đạo dài 540 m.

Trường mẫu giáo được xây dựng khang trang có 5 lớp, 160 cháu; trường tiểu học được xây dựng theo hướng chuẩn Quốc gia có 21 lớp, 579 học sinh.

Toàn xã có 274 liệt sĩ, 97 thương binh, 987 gia đình có công với nước, 95 huân chương của tập thể và cá nhân.

XÃ KIM SƠN

Gồm các ấp: ấp Đông, ấp Tây, ấp Hội, ấp Mỹ.

Thôn Kim Sơn đời Gia Long thuộc tổng Kiến Lợi, năm 1836 thuộc tổng Lợi Trường. Ngày 23.3.1912, đưa qua tổng Thuận Bình.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân đặt xã Kim Sơn thuộc quận Châu Thành, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Kim Sơn thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã Kim Sơn quận Long Định, tỉnh Định Tường.

Địa giới xã: đông giáp xã Song Thuận; tây giáp xã Phú Phong; nam giáp xã sông Cửu Long; bắc giáp xã Bàn Long.

Diện tích tự nhiên 1.169,088ha: thổ cư 205,4 ha, vườn cây 951,166ha.

Dân số: 10.066 nhân khẩu (2.425 hộ); trong đó nam 4.964, nữ 5.082; người Kinh 10.043, người Hoa 3; tôn giáo: Phật giáo 4 người, Công giáo: 246.

Ngành nghề sản xuất chính là chăn nuôi, trồng trọt. Trong những năm qua, đa số hộ dân đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi nên thu nhập tương đối ổn định, 60% hộ khá, 30% hộ giàu, 9,4% hộ ổn định, hộ nghèo 0,6 còn 12%.

Qua xã có tỉnh lộ 864 dài 3,7km, tỉnh lộ 876 dài 2 km; đường liên xã 26/3 dài 2,5 km, đường lộ mới dài 1,8 km; cầu Rạch Gầm; cống 26/3, 30/4; bến đò ngang, cùng mạng lưới sông, rạch... như rạch Gầm dài 2,6 km;

Trường mẫu giáo có 3 điểm trường; trường tiểu học đạt chuẩn Quốc gia, 17 lớp, 519 học sinh; cơ sở vật chất trung bình, 12 lớp, 476 học sinh.

Trạm y tế xã hiện có 1 bác sĩ, 2 y tá và 1 hộ lý.

Toàn xã có 13 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 368 liệt sĩ, 98 thương binh, 1 lão thành cách mạng, 15 gia đình có công với nước, 452 huân chương của tập thể và cá nhân.

XÃ LONG AN

Gồm các ấp: Long Mỹ, Long Hưng, Long Thới, Long Tường, Long Bình, Long Thạnh.

Nguyên vào đời Gia Long có 2 làng Long Hội và An Vĩnh thuộc tổng Kiến Thuận, năm 1836 thuộc tổng Thuận Trị. Ngày 24.11.1932, nhập 2 làng nầy lại lấy tên là Long An thuộc tổng Thuận Trị, quận Châu Thành, tỉnh Định Tường.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân đặt xã thuộc tổng Thuận Trị, quận Châu Thành, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta gọi là xã Long An thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH gọi là xã Long An, quận Châu Thành, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía nam huyện, về xã đi theo Quốc lộ 1A theo hướng nam khoảng 7 km; đông giáp xã Lương Hoà Lạc, huyện Chợ Gạo; tây giáp xã Tam Hiệp; nam giáp xã Phước Thạnh; bắc giáp xã Thân Cửu Nghĩa.

Diện tích tự nhiên 9.217.500m2: thổ cư 1.037.938m2, trồng lúa 202147m2, vườn cây 7546265m2; nuôi trồng thủy sản 11.985 m2, chưa khai thác 419.165m2.

Dân số: 12.362 nhân khẩu (2.852 hộ); trong đó, nam 5.630, nữ 6.732, người Kinh 12.350, người Khơme 12; Tôn giáo: Phật giáo 105 người, Công giáo: 2, Tin Lành: 19, Cao Đài: 180.

Ngành nghề sản xuất chính là làm rẫy, vườn; nghề phụ: tiểu thủ công nghiệp, buôn bán nhỏ. Hiện toàn xã chỉ còn 8% hộ nghèo.

Đường bộ và mạng lưới sông, ngòi, cầu... qua xã có đường liên ấp Long Tường - Long Thới dài 4 km; rạch Bến Chùa dài 4 km; cầu Bến Chùa nằm trên Quốc lộ 1A.

Trường mẫu giáo có 9 phòng học, 10 lớp, 369 cháu; trường tiểu học có 27 phòng 26 lớp, 1.135 học sinh; trường trung học cơ sở có 14 phòng. Số người tốt nghiệp trung học về làm việc tại xã là 20, 3 tốt nghiệp đại học.

Hiện toàn xã có 12 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, Anh hùng quân đội Lê Quang Công, 208 liệt sĩ, 100 thương binh, 2 lão thành cách mạng, 20 gia đình có công với nước, 139 huân chương của tập thể và cá nhân.

Đại hội Đảng bộ xã lần thứ I năm 1977 có 24 đảng viên. Đảng bộ xã đã tổ chức Đại hội lần thứ IX, có 158 đảng viên. MTTQVN xã thành lập năm 1975, hiện có 35 thành viên; Đoàn TNCSHCM xã có 262 đoàn viên; Hội LHTN có 258 hội viên; Hội LHPNVN xã thành lập năm 1976, hiện có 1.089 hội viên; Hội CCB thành lập năm 1990 với 17 hội viên, hiện có 218 hội viên; Hội Nông dân xã có 1.452 hội viên.

XÃ LONG ĐỊNH

Gồm các ấp: ấp Trung, ấp Keo, ấp Đông, ấp Long Hoà B, ấp Kinh II A, ấp Mới, ấp Tây I, ấp Tây II và khu phố Lương Minh Chánh.

Nguyên thuỷ đời Gia Long thôn Long Định thuộc tổng Hưng Xương. Năm 1836 2 làng Long Định và Định Hòa thuộc tổng Hương Nhơn. Đến ngày 2.9.1905, nhập thôn Định Hòa vào Long Định. Ngày 1.10.1942, làng Long Định đưa qua tổng Thuận Bình.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã Long Định thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân đặt xã Long Định thuộc tổng Thuận Bình, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã thuộc huyện Châu Thành, từ 1969 thuộc huyện Châu Thành Bắc, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã Long Định quận Châu Thành, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía nam huyện, về xã đi theo Quốc lộ 1A khoảng 17 km; đông giáp xã Tam Hiệp; tây giáp xã Nhị Bình; nam giáp xã Long Hưng; bắc giáp xã Tân Lập, huyện Tân Phước.

Diện tích tự nhiên 1.779 ha: thổ cư 50,07 ha, trồng lúa 947,01 ha, vườn cây 268,25 ha, nuôi trồng thuỷ sản 1, 91 ha.

Dân số: 14.846 nhân khẩu (3.386 hộ); trong đó, nam 7.267, nữ 7.579; Tôn giáo: Phật giáo : 51 người, Công giáo: 1.084, Tin Lành: 11, Cao Đài: 98, Hoà Hảo: 25. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,836%, tử 0,24%.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp; nghề phụ: dệt chiếu.

Qua xã có Quốc lộ 1A dài khoảng 5 km; tỉnh lộ 867 dài khoảng 6 km; mạng lưới sông, rạch, cầu cống... có kinh Xáng (Nguyễn Tấn Thành) dài 6 km; cầu Ba Râu, cầu Kinh Năng, cầu Kinh Xáng; cống Bể; Chợ Long Định ở ấp Mới, chợ Đầu Giồng Dứa ở ấp Đông.

Trường mẫu giáo kiên cố có 7 lớp, 171 cháu; trường tiểu học có 28 lớp, 794 học sinh; trường trung học cơ sở có 32 lớp, 1057 học sinh.

Trạm y tế xã có cơ sở vật chất tốt, trang thiết bị đầy đủ với 1 bác sĩ, 4 y sĩ, 4 y tá, 1 hộ lý.

Hiện toàn xã có 136 liệt sĩ, 85 thương binh, 1 lão thành cách mạng, 62 gia đình có công với nước, 16 huân chương tập thể, 302 huân chương cá nhân, 74 huy chương cá nhân.

Đảng bộ xã hiện có 184 đảng viên. MTTQVN xã thành lập ngày 18/11/1930, hiện có 35 thành viên; Đoàn TNCSHCM xã thành lập ngày 326/3/1931, hiện có 251 đoàn viên; Hội LHTN thành lập ngày 15/10/1956, hiện có 361 hội viên; Hội LHPNVN xã thành lập ngày 20/10/1930 hiện có 817 hội viên; Hội CCB, thành lập ngày 8/8/1990, hiện có 35 hội viên; Hội NDVN xã thành lậpngày 14/10/1930 hiện có 1238 hội viên.

XÃ PHÚ PHONG

Gồm các ấp Phú Hòa, Phú Ninh, Phú Thuận, Phú Thạnh, Phú Quới, Phú Long.

Thôn Phú Phong đời Gia Long thuộc tổng Kiến Lợi, năm 1836 thuộc tổng Lợi Trường. Ngày 23.3.1912, đưa qua tổng Thuận Bình.

Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tổng Thuận Bình, quận Châu Thành, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho.Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Phú Phong thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền gọi là xã Phú Phong, quận Châu Thành, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây nam huyện, về xã đi theo tỉnh lộ 864 khoảng 2 km; đông giáp xã Kim Sơn; tây giáp xã Tam Bình, huyện Cai Lậy; nam giáp với sông Tiền; bắc giáp với Bàn Long.

Diện tích tự nhiên 900,038 ha: thổ cư 49,0936 ha, vườn cây 771,5463 ha, nuôi trồng thuỷ sản 1,885 ha, chưa khai thác 56,62 ha.

Dân số: 6.959 nhân khẩu (1.453 hộ); trong đó, nam 2.334, nữ 4.625; người Kinh 6.957; Tôn giáo: Phật giáo 250 người, Công giáo: 125, Cao Đài: 156.

Ngành nghề sản xuất chính là chăn nuôi, trồng trọt. Do đa số hộ dân chuyển đổi từ trồng lúa nước trồng cây ăn quả nên thu nhập của dân khá cao; hộ giàu chiếm 40%, hộ khá 50%, hộ nghèo 10%.

Qua xã có tỉnh lộ 864 dài 2 km; đường liên xã Thạnh Quới Long dài 3 km, Hòa Ninh Thuận dài 2,5 km. Mạng lưới sông, rạch, cầu cống gồm sông Tiền chảy qua xã, rạch Rau Răm dài 4 km; cầu Phú Phong dài 120m; cống Ranh nằm trên tỉnh lộ 864 giáp xã Tam Bình (huyện Cai Lậy).

Về giáo dục: có 2 trường mẫu giáo với 2 lớp, 86 cháu; trường trung học cơ sở có 13 lớp, 505 học sinh.

Trạm y tế hiện có 1 bác sĩ, 3 y sĩ và 1 y tá; các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng: có 6 tổ y tế ấp.

Chi bộ Đảng xã được thành lập năm 1930, với 14 đồng chí, trong đó có 2 nữ. MTTQVN xã hiện có 24 thành viên; Đoàn TNCSHCM xã thành lập năm 1946, hiện có 126 đoàn viên; Hội CCB thành lập năm 1994, hiện có 107 hội viên; Hội NDVN xã thành lập năm 1946, hiện có 456 hội viên.

XÃ TAM HIỆP

Gồm các ấp: ấp 1, ấp 2, ấp 3, ấp 4, ấp 5, ấp 6, ấp 7 và ấp khu phố.

Đời Gia Long, 3 làng Nhơn Hòa, An Thành và Long Hội Tây thuộc tổng Kiến Thuận, năm 1836 thuộc tổng Thuận Trị. Ngày 24.10.1925 nhập Nhơn Hòa và An Hội lấy tên là Nhơn Hội. Đến ngày 24.11.1933, tiếp tục nhập Nhơn Hội và Long Hội Tây lấy tên là Tam Hiệp tổng Thuận Trị, quận Châu Thành, Mỹ Tho.

Trong kháng chiến chống Pháp, thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân đặt xã Tam Hiệp thuộc tổng Thuận Trị, quận Châu Thành, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Tam Hiệp thuộc huyện Châu Thành, từ 1969 thuộc huyện Châu Thành Bắc, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã Tam Hiệp thuộc quận Châu Thành, tỉnh Định Tường.

Địa giới xã: đông giáp xã Long An; tây giáp xã Long Định; nam giáp xã Phước Thạnh; bắc giáp xã Tân Lý Đông và xã Tân Lập.

Diện tích tự nhiên 1.169,088 ha: thổ cư 205,4 ha, vườn cây 951,166 ha.

Dân số: 13.676 nhân khẩu (3.254 hộ); trong đó, nam 6.682, nữ 6.994; người Kinh 3.246, người Hoa 8; Tôn giáo: Phật giáo 80 người, Công giáo: 256, Cao Đài 129. Tỷ lệ sinh các năm - 2000: 2,129%, 2001: 2,088%, 2002: 1,949%, 2003: 1,912%, 2004: 1,854%; tỷ lệ tử các năm - 2000: 0,319%, 2001: 0,301%, 2002: 0,297%, 2003: 0,237%, 2004: 0,226%.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp (trồng lúa, hoa màu); nghề phụ: dệt thảm, chăn nuôi, buôn bán tạp hoá, rau màu thực phẩm. Hiện xã có 981 hộ giàu (30,15%), 1.858 hộ khá (57,10%), 415 hộ nghèo (12,75%).

Qua xã có Quốc lộ 1A dài 1,5km, tỉnh lộ 878...; bên cạnh là kinh Chợ Bưng, kinh Quảng Thọ, cầu Nhơn Huề 1, cầu Cây Da ấp 2... Chợ Bưng ở ấp Khu Phố - trung tâm xã, họp vào buổi sáng, khoảng 200 người, chủ yếu bán hàng nông sản, thực phẩm.

Xã có 1 trường mẫu giáo, trường tiểu học Tam Hiệp A và Tam Hiệp B, trường trung học cơ sở.

Toàn xã có Anh hùng LLVTND Dương Thị Lệ, 24 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 451 liệt sĩ, 134 thương binh, 15 lão thành cách mạng, 69 gia đình có công với nước, 29 huân chương của tập thể và cá nhân.

XÃ TÂN LÝ ĐÔNG

Gồm 7 ấp: Tân Lập, Tân Lược 1, Tân Lược 2, Tân Qưới, Tân Phú 1, Tân Phú 2, Tân Thạnh.

Đời Gia Long, thôn Tân Lý Đông thuộc tổng Hưng Xương; Năm 1836 thuộc tổng Hưng Nhơn. Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tổng Hưng Nhơn, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; thực dân Pháp đặt xã Tân Lý Đông thuộc tổng Hưng Nhơn, quận Châu Thành, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã thuộc huyện Châu Thành Bắc, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã Tân Lý Đông thuộc quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía bắc huyện, về xã đi theo Quốc lộ 1A dài khoảng 800m rẽ ngã ba vào tỉnh lộ 866 khoảng 2,5 km; đông giáp xã Tân Hương; tây giáp xã Tân Lập, huyện Tân Phước; nam giáp với thị trấn Tân Hiệp; bắc giáp xã Tân Hội Đông.

Diện tích tự nhiên 1555, 239 ha: thổ cư 75, 2 ha, trồng lúa 938,47 ha, vườn cây 253,54 ha, nuôi trồng thuỷ sản 9,73 ha, chưa khai thác 11, 69 ha.

Dân số: 12.727 nhân khẩu (với 2.893 hộ); trong đó, nam 5.600, nữ 7127; Tôn giáo: Công giáo: 1.116 người, Tin Lành: 2, Cao Đài: 264. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,79%, tử 0,35%.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp với 4.702 lao động nông nghiệp, 4 lao động trong thủy sản; nghề phụ: tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp. Hiện toàn xã có hộ nghèo loại A chiếm 9,6%, loại B 18,83%, hộ khá giàu 17%, còn lại là hộ trung bình.

Qua xã có tỉnh lộ 866 dài 5 km, đường liên xã kinh Năm Hiệu - xã Thân Cửu Nghĩa dài 2,8km. Mạng lưới sông, rạch, cầu, cống... có rạch ông Đạo dài 2 km; cầu Vĩ, cầu Thanh Niên, cầu Tân Lập, cầu kinh Mười Biếu; cống Trấn Định; chợ ở ấp Tân Qưới họp hàng ngày, có khoảng 600 người.

Trường mẫu giáo có điểm chính và 5 điểm ở các ấp gồm 7 lớp, 228 cháu; trường tiểu học có 32 lớp, 1.004 học sinh.

Trạm y tế có 5 y sĩ, 5 y tá cùng các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng khác.

Hiện toàn xã có 9 bà mẹ Việt Nam Anh hùng (3 mẹ còn sống), 200 liệt sĩ, 43 thương binh, 108 gia đình có công với cách mạng, 6 cá nhân được tặng thưởng huân chương.

Hiện tại xã có 98 đảng viên sinh hoạt ở 10 chi bộ.

XÃ TÂN LÝ TÂY

Gồm 3 ấp: Tân Thạnh, Tân Phong, Tân Phú.

Đời Gia Long thôn Tân Lý Tây thuộc tổng Hưng Xương; Năm 1836 thuộc tổng Hưng Nhơn. Những năm đầu thuộc Pháp, năm 1863, Tân Lý Tây được đưa qua tổng Hưng Nhượng. Ngày 1.1.1928, giải thể tổng Hưng Nhượng, trả làng Tân Lý Tây về tổng Hưng Nhơn.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã Tân Lý Tây thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền thực dân Pháp đặt xã Tân Lý Tây thuộc tổng Hưng Nhơn, quận Châu Thành, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Tân Lý Tây thuộc huyện Châu Thành Nam, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã Tân Lý Tây thuộc quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường.

Địa giới xã: đông giáp xã Mỹ Tịnh An, huyện Chợ Gạo; tây giáp xã Tân Lý Đông; nam giáp Ttr. Tân Hiệp; bắc giáp xã Tân Hương, Tân Lý Đông.

Diện tích tự nhiên 509 ha: thổ cư 52 ha, trồng lúa 244 ha, vườn cây 148 ha, nuôi trồng thủy sản 5 ha, vườn tạp 27 ha.

Dân số 11.274 nhân khẩu. Tỷ lệ sinh của xã trong các năm - 2000: 1,92%, 2001: 1,86%, 2002: 1,94%, 2003: 2,07%, 2004: 1,92%.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp; nghề phụ: tiểu thủ công nghiệp, mộc, hồ, buôn bán nhỏ. Hiện tại, số hộ nghèo của xã là 241, chiếm 5,20%.

Qua xã có tỉnh lộ 866 dài 2 km, huyện lộ 30 dài 1,5km.

Trường mẫu giáo có 2 điểm với 18 lớp, 394 cháu; 2 trường tiểu học với 31 lớp, 1350 học sinh, không có trường cấp II và III.

Trạm y tế hiện có 5 y tá, 1 bác sĩ cùng các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng: có 5/5 tổ y tế ấp.

Toàn xã có 12 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 183 liệt sĩ, 29 thương binh, 2 lão thành cách mạng, 540 gia đình có công với nước, 115 huân chương của tập thể và cá nhân.

CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH THUỘC HUYỆN CHÂU THÀNH (tiếp theo)

XÃ TÂN HƯƠNG

Gồm 4 ấp: Tân Hoà, Tân Thuận, Tân Phú và Tân Thạnh.

Đời Gia Long có 3 thôn Tân Hương, Tân Hương Tây và Tân Hương Trung thuộc tổng Hưng Xương; Năm 1836 còn lại 2 làng Tân Hương và Tân Hương Tây thuộc tổng Hưng Nhơn. Những năm đầu thuộc Pháp, năm 1863, được đưa qua tổng Hưng Nhượng. Đến ngày 24.10.1925 nhập Tân Hương và Tân Hương Tây lấy tên là Tân Hương. Ngày 1.1.1928, giải thể tổng Hưng Nhượng, trả làng Tân Hương về tổng Hưng Nhơn.

Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tổng Hương Nhơn, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Tân Hương thuộc tổng Hương Nhơn, huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền thực dân Pháp đặt xã Tân Hương thuộc tổng Hương Nhơn, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Tân Hương thuộc huyện Châu Thành, từ 1969 thuộc huyện Châu Thành Bắc, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã nầy thuộc quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía bắc của huyện; đông giáp xã Trung Hòa, huyện Chợ Gạo; tây giáp xã Tân Hội Đông, xã Tân Lý Đông; nam giáp xã Hòa Tịnh (Chợ Gạo) và xã Tân Lý Tây; bắc giáp xã Khánh Hậu, thị xã Tân An, tỉnh Long An.

Diện tích tự nhiên 1103,2792 ha: thổ cư 79,138 ha, trồng lúa 681,918 ha, vườn cây 206,6246 ha, nuôi trồng thuỷ sản 6,214 ha.

Dân số: 15.579 nhân khẩu (3.419 hộ); trong đó nam 7.296, nữ 8.283; người Kinh 15.548, người Hoa 25, người Khơme 6; Tôn giáo: Phật giáo 13.971 người, Công giáo: : 100, Tin Lành: 23, Cao Đài: 1.453. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,17%, tử 0,62%. Số người di cư năm 2004 là 215, nhập cư 468.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp; nghề phụ: đan đệm, mộc, hồ, vàng bạc.

Qua xã có Quốc lộ 1A dài 4 km; tỉnh lộ 30 dài 1,5 km; hương lộ 18 dài 03 km; đường liên xã Liên Tân dài 2 km. Mạng lưới sông, ngòi, cầu, cống... có rạch ông Đạo dài 3,5 km; cầu Chùa, cầu Thạnh Hòa...; cống Đình Cháy, Chín Sọ...; bến đò Tân Hương.

Xã có chợ Tân Hương ở ấp Tân Hoà, chợ Ngã Tư, chợ Bình Yên. Toàn xã có trên 75 % hộ nông nghiệp, 15 % hộ phi nông nghiệp, 5 % hộ kinh doanh dịch vụ. Hiện có 1.149 hộ giầu (33.61%), 1.690 hộ khá (49.43%), 204 hộ trung bình (5.97%), 376 hộ nghèo (11%).

Trạm y tế xã được xây bán kiên cố năm 2000 tại ấp Tân Phú với 6 phòng, 6 giường bệnh, 1 bác sĩ, 1 y sĩ, 1 dược sĩ trung cấp, 1 y tá, 1 nữ hộ sinh. Hội Đông y xã có 3 điểm khám, bốc thuốc điều trị.

Toàn xã có 9 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 167 liệt sĩ, 27 thương binh, 16 lão thành cách mạng, 320 gia đình có công với nước, 449 huân huy chương của tập thể và cá nhân.

Đảng bộ Tân Hương (Đảng bộ 2 cấp) thành lập năm 1986, đến nay có 10 chi bộ, 79 đảng viên MTTQVN xã thành lập năm 1945, Đoàn TNCSHCM thành lập tháng 3 năm 1945, Hội LHTNVN thành lập tháng 3 năm 1991, Hội LHPNVN thành lập tháng 3 năm 1945, Hội CCB thành lập năm 1990, Hội Nông dân thành lập năm 1938...

XÃ TÂN HỘI ĐÔNG

Gồm Khu Phố, Tân Xuân, Tân Thuận, Tân Thới, Tân Hoà.

Đời Gia Long, thôn Tân Hội Đông thuộc tổng Hương Xương, năm 1836 thuợc tổng Hưng Nhơn. Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tổng Hưng Nhơn, quận Bến Tranh, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền thực dân đặt xã Tân Hội Đông thuộc tổng Hưng Nhơn, quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Tân Hội Đông thuộc huyện Châu Thành, từ 1969 thuộc huyện Châu Thành Bắc, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã Tân Hội Đông, quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía bắc của huyện, về xã đi theo tỉnh lộ 866 dài khoảng 7 km; đông giáp xã Tân Hương; tây và bắc giáp xã Tân Hoà Thành, huyện Tân Phước; nam giáp xã Tân Lý Đông.

Diện tích tự nhiên 914,1124 ha: thổ cư 49,0609 ha, trồng lúa 652,0064 ha, vườn cây 211,7984 ha.

Dân số: 8.050 nhân khẩu (1.424 hộ); trong đó, nam 3.997, nữ 4.053; người Kinh 8.023, người Hoa 25, người Khơme 2; Tôn giáo: Phật giáo 350 người, Công giáo: 21, Cao Đài 410. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,574%; tử 0,325%.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp (trồng lúa, rau, quả); nghề phụ: xay xát lúa gạo, mua bán tạp hoá, vật tư nông nghiệp...

Qua xã có tỉnh lộ 866 dài 2 km; hương lộ 16 dài 2 km; mạng lưới sông, cầu, cống... như rạch ông Đạo khoảng 3 km, cầu Cổ Chi, cống kinh Sáu Tòng qua tỉnh lộ 866.

Chợ Cổ Chi ở trung tâm xã, họp từ 5 giờ sáng đến trưa.

Trường mẫu giáo có 6 lớp với 173 cháu; trường tiểu học có 27 phòng bán kiên cố, 29 lớp, 821 học sinh, 39 giáo viên; trường trung học cơ sở có 45 phòng bán kiên cố, 26 lớp, 984 học sinh (năm học 2004- 2005).

Trạm y tế xã được xây dựng năm 1998, trang thiết bị tương đối đầy đủ; có 3 y sĩ, 1 dược sĩ.

Xã có mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Bửu, 35 liệt sĩ, 16 thương binh, 4 lão thành cách mạng, 161 gia đình có công với nước.

Ngày 30/4/1975, Chi bộ xã được thành lập với 7 đảng viên có 1 nữ. Năm 1994, nâng lên Đảng bộ 2 cấp với 35 đảng viên và 5 chi bộ trực thuộc. Đến nay, Đảng bộ có 11 chi bộ trực thuộc, 77 đảng viên.

XÃ THẠNH PHÚ

Gồm 6 ấp: ấp Chợ, ấp Bờ Xe, ấp Cây Xanh, ấp Miễu Hội, ấp Xóm Vông và ấp Giáp Nước.

Đời Gia Long là thôn Tân Thạnh Trung thuộc tổng Kiến Thuận. Năm 1836 thuộc tổng Thuận Bình. Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền thực dân Pháp đặt xã Thạnh Phú thuộc tổng Thuận Bình, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Đến năm 1956, xã Thạnh Phú được đưa qua tổng Thuận Trị.

Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Thạnh Phú thuộc huyện Châu Thành; từ 1969 thuộc huyện Châu Thành Nam, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã Thạnh Phú, quận Châu Thành, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía nam của huyện, về xã đi theo đường Quốc lộ 1A và tỉnh lộ 870 dài khoảng 8 km; đông giáp xã Trung An, tp Mỹ Tho; tây giáp xã Long Hưng; nam giáp xã Bình Đức; bắc giáp xã Phước Thạnh.

Diện tích tự nhiên 588, 352 ha: thổ cư 47,5781 ha, trồng lúa 98,7629 ha, vườn cây 423,8054 ha, nuôi trồng thuỷ sản: 1.130 m2

Dân số: 8.077 nhân khẩu (1.731 hộ); trong đó, nam 3.566, nữ 4.511; người Kinh 8.046, người Hoa 28, người Khơme 3.Tôn Giáo: Phật giáo 211 người, Công giáo: : 97, Tin Lành: 6, Cao Đài 17, Hoà Hảo 2. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 2,06%, tử 0, 60%

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp; nghề phụ: kinh doanh nhỏ. Hiện nay, tỷ lệ hộ giàu chiếm 17%, hộ khá 27,5%, trung bình 42,5% và hộ nghèo 13% (trong đó hộ cận nghèo: 10% và hộ nghèo loại A 2,95%), tổng thu nhập đến năm 2005 là 4,6 triệu đồng/người/năm.

Qua xã có tỉnh lộ 870 dài 2 km; đường liên xã dài 1,5 km. Mạng lưới sông, rạch, cầu, cống, ... qua xã có rạch Xoài Hột dài 2 km, kinh Thầy Tùng 1,5 km, kinh Giáp Nước 1 km, kinh Xáng Cụt 1,2 km; có 3 cầu lớn là cầu Quan, cầu Mới, cầu Chùa được xây dựng kiên cố.

Trường mẫu giáo có 3 lớp với 105 cháu; trường tiểu học với 22 lớp, 558 học sinh, cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học tương đối đầy đủ.

Trạm y tế kiên cố và trang bị đầy đủ với 4 y sĩ cùng các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng: có 5/5 tổ y tế ấp.

Hiện toàn xã có 12 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 252 liệt sĩ, 68 thương binh, 2 lão thành cách mạng, 167 gia đình có công với nước.

XÃ THÂN CỬU NGHĨA

Gồm 7 ấp: Thân Bình, Thân Hòa, Thân Đạo, Thân Đức, Cửu Nghĩa, Ngãi Lợi, Ngãi Thuận.

Nguyên vào năm 1808, đời Gia Long có 3 làng Cửu Viễn, Ngãi Hữu và Thân Nhơn (làng cựu gọi là Thân Phụ) thuộc tổng Kiến Thuận, đến năm 1836 thuộc tổng Thuận Trị. Giai đoạn Pháp thuộc, khu vực nầy có khi Vĩnh Tường, gốc là đất thôn Lương Phú, tổng Thạnh Quơn. Làng Ngãi Hữu bấy giờ gọi là Nghĩa Hữu. Ngày 24.10.1925 nhập Nghĩa Hữu và Cửu Viễn lấy tên là Cửu Nghĩa. Đến ngày 24.11.1932, nhập làng Thân Nhơn và Cửu Nghĩa lấy tên là Thân Cửu Nghĩa thuộc tổng Thuận Trị, quận Kiến Hưng, tỉnh Định Tường.

Trong kháng chiến chống Mỹ, năm 1956 nhập khu Vĩnh Tường vào xã Thân Cửu Nghĩa và đưa xã nầy qua tổng Hưng Nhơn. Chính quyền cách mạng đặt xã nầy thuộc huyện Châu Thành Bắc năm 1970, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VCNH đặt xã Thân Cửu Nghĩa thuộc quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây nam huyện; đông giáp xã Phú Kiết, Lương Hòa Lạc; tây giáp xã Tân Lý Đông; nam giáp xã Long An, Tam Hiệp; bắc giáp thị trấn Tân Hiệp.

Diện tích tự nhiên 1.244,81 ha: thổ cư 124,09 ha, trồng lúa (màu) 445, 32 ha, vườn cây 538,28 ha, nuôi trồng thuỷ sản 2, 27 ha.

Dân số: 17.975 nhân khẩu (4.127 hộ); trong đó, nam 8.039, nữ 9.936, người Kinh 17.926, người Khơme 9; Tôn giáo: Phật giáo 482 người, theo Công giáo: 43, Tin Lành: 24, Cao Đài: 598. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,40%, tử 0,25%.

Ngành nghề sản xuất chính là sản xuất nông nghiệp (làm ruộng, trồng cây ăn trái); nghề phụ: đan lát, chăn nuôi, mua bán hàng nông sản, kinh doanh tạp hóa và dịch vụ vận tải.

Qua xã có Quốc lộ 1A dài 3 km; tỉnh lộ 878 dài 2,5km; mạng lưới sông, rạch, cầu, cống... có sông Bảo Định Giang qua xã 1,2km, kinh Xáng Quảng Thọ giáp ranh xã Tam Hiệp, Tân Lý Đông dài 3,5 km...

Chợ ngã ba mới xây dựng năm 2004 ở khu vực 2 ấp Thân Bình - Thân Đạo, họp vào buổi sáng.

Trường mẫu giáo có 9 điểm ở ấp với 13 lớp, 400 cháu; trường tiểu học, 43 lớp, 130 học sinh; trường trung học cơ sở có 17 lớp với 665 học sinh.

Trạm y tế xã bán kiên cố có 9 phòng, 1 bác sĩ, 5 y sĩ, 1 y tá; các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng khác: 2 phòng khám, 4 tổ chẩn trị y học cổ truyền với 10 lương y,...

Xã có Anh hùng LLVTND Đăng Quang Đổi, 8 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 232 liệt sĩ, 43 thương binh, 2 lão thành cách mạng, 441 gia đình có công với nước, nhiều huân, huy chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ Đảng xã được thành lập tháng 4/1930 với 13 đảng viên. Hiện nay, Đảng bộ có 142 đảng viên, với 14 chi bộ trực thuộc. MTTQVN xã thành lập tháng 4/1976 là các Đoàn TNCSHCM thành lập ngày 1/5/1975, Hội LHPNVN thành lập tháng 4/1975, Hội CCB thành lập 5/6/1990.

XÃ THỚI SƠN

Gồm 4 ấp: Thới Hòa, Thới Bình, Thới Thuận, Thới Thạnh.

Đời Gia long, cù lao Thới Sơn thuộc tổng Kiến Thuận đến năm 1836 thuộc tổng Thuận Trị cho đến giai đoạn Pháp thuộc.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền thực dân Pháp đặt xã Thới Sơn thuộc tổng Thuận Trị, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Thới Sơn thuộc huyện Châu Thành Nam, tỉnh Mỹ Tho; ch1nh quyền VNCH đặt xã Thới Sơn thuộc quận Châu Thành, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía nam của huyện; đông giáp xã Tân Long, thành phố Mỹ Tho; tây giáp xã Phú Túc, xã An Khánh; nam giáp xã Phú Túc - An Khánh; bắc giáp xã Bình Đức, huyện Châu Thành.

Diện tích tự nhiên 1211,639 ha: thổ cư 35,1279 ha, vườn cây 55, 92293 ha, nuôi trồng thuỷ sản 5,3 ha, chưa khai thác 65,24097 ha.

Dân số: 5.746 nhân khẩu đều là người Kinh (1.413 hộ); trong đó nam 2725, nữ 3021; người theo Phật giáo 77, theo Công giáo: 212. Số người di cư năm 2004: 91; nhập cư: 58.

Ngành sản xuất chính là trồng cây ăn trái; nghề phụ: chăn nuôi, dệt chiếu, đan thảm vải, du lịch, buôn bán nhỏ. Hiện xã có 19 hộ nghèo loại A và 71 hộ nghèo loại B; còn lại là trung bình, khá, giàu.

Sông, rạch, cấu cống... qua xã có sông Tiền; cầu Rạch Miễu (đang xây dựng); 3 bến đò ngang.

Trường mẫu giáo có 2 lớp, 46 cháu và 3 điểm ấp với 3 lớp, 60 cháu; trường tiểu học với 2 điểm ấp gồm 16 lớp, 452 học sinh, cơ sở vật chất tương đối ổn định; trường trung học cơ sở với 9 lớp, 347 học sinh. Trạm y tế hiện có 4 y sĩ, 2 y tá, 1 hộ lý cùng các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Hiện toàn xã có 9 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 134 liệt sĩ, 42 thương binh, 23 gia đình có công với nước, 167 huân chương của tập thể và cá nhân.

XÃ SONG THUẬN

Gồm các ấp: Đông Hòa, Tây Hòa, Mỹ Thạnh, Mỹ Hoà, Mỹ Phú.

Đời Gia Long là 2 làng Mỹ Thuận Đông, Mỹ Thuận Tây thuộc tổng Kiến Thuận, đến năm 1863 thuộc tổng Thuận Bình. Ngày 24.10.1925, hai làng nầy nhập lại lấy tên là Song Thuận, thuộc tổng Thuận Bình, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân đặt xã Song Thuận thuộc tổng Thuận Bình, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, thuộc huyện Châu Thành; từ 1970 thuộc huyện Châu Thành Nam, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã Song Thuận quận Long Định, quận Sầm Giang, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía nam huyện, về xã đi theo Quốc lộ 1A, Quốc lộ 60, tỉnh lộ 864 khoảng 21 km; đông giáp xã Bình Đức; tây giáp xã Vĩnh Kim; nam giáp xã Kim Sơn; bắc giáp xã Long Hưng.

Diện tích tự nhiên 783,9290 ha: thổ cư 35,4247 ha, vườn cây 595,1905 ha, nuôi trồng thủy sản 0,2370ha, chưa khai thác 11,6398 ha.

Dân số: 5.969 nhân khẩu (1440 hộ); trong đó, nam 2.954, nữ 3.015; đều là người Kinh. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,43% tử 0,4%.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp; nghề phụ: chăn nuôi. Hiện xã có 33,02% hộ giàu, 31,92% hộ nghèo.

Qua xã có tỉnh lộ 864 dài 3,9 km, tỉnh lộ 876 dài 2,1km; đường huyện từ lộ Me ấp Mỹ Thạnh đến ấp Mỹ Phú dài 1,8km. Hệ thống sông, rạch, cầu cống: sông Cửu Long đi qua xã 3,8 km , kinh Nguyễn Tấn Thành dài 1,2 km, rạch Cầu Cống 2.200 m, kinh Cầu Lấp 2.200m; cầu Lấp, cầu Cống, cầu Vĩ; cống Sáu Sinh, cống Chín Thui, cống Năm Bền, cống Tây Hoà, cống Ba Diệp, cống Tư Giàu; bến đò ngang đi Phú Túc - Bến Tre.

Chợ tại ngã ba Song Thuận thuộc ấp Tây Hòa họp vào buổi sáng hàng ngày có khoảng vài trăm người.

Trường mẫu giáo bán kiên cố có 4 lớp với 125 cháu, trường tiểu học bán kiên cố gồm 9 lớp, 465 học sinh, trường trung học cơ sở bán kiên cố gồm 9 lớp, 360 học sinh.

Trạm y tế xã trang thiết bị đủ để hoạt động ở tuyến cơ sở, có 3 y sĩ, 1 điều dưỡng, 1 dược tá, 1 lương y, 1 nha khoa; các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng: thường xuyên khám, điều trị, tuyên truyền phòng chống các loại dịch bệnh.

Hiện toàn xã có 75 liệt sĩ, 32 thương binh, 22 gia đình có công với nước, 320 huân chương của tập thể và cá nhân.

Tháng 8/1961, chi bộ Đảng xã được thành lập với 9 đảng viên. Hiện nay, Đảng bộ xã có 100 đảng viên. MTTQVN xã thành lập năm 1975 là các tổ chức khác như Đoàn TNCSHCM thành lập năm 1975, Hội LHPNVN thành lập năm 1975, UBND thành lập năm 1975, HĐND thành lập năm 1982.

XÃ VĨNH KIM

Gồm 6 ấp: ấp Vĩnh Thới, ấp Vĩnh Bình, ấp Vĩnh Quý, ấp Vĩnh Hoà, ấp Vĩnh Thạnh, ấp Vĩnh Phú.

Đời Gia Long có 2 làng Vĩnh Kim Đông và Vĩnh Kim Tây thuộc tổng Kiến Thuận đến năm 1836 thuộc tổng Thuận Bình. Ngày 24.10.1925 hai làng nầy nhập lại lấy tên là Vĩnh Kim, thuộc tổng Thuận Bình, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Vĩnh Kim thuộc huyện Châu Thành, từ 1969 thuộc huyện Châu Thành Nam, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Sài Gòn đặt xã Vĩnh Kim, quận Sầm Giang, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía nam của huyện; đông giáp xã Song Thuận; tây giáp xã Bàn Long; nam giáp xã Kim Sơn; bắc giáp xã Bình Trưng.

Diện tích tự nhiên 435ha: thổ cư 23ha, vườn cây 412ha.

Dân số: 10.356 nhân khẩu (2.379 hộ); trong đó, nam 5.066, nữ 5.290; người Hoa 36, người Khơme 8; Tôn giáo: Phật giáo 200 người, Công giáo: 17, Cao Đài: 790. Tỷ lệ sinh của xã năm 2004 là 0,96%, tỉ lệ tử 0,44%.

Ngành nghề chủ yếu là trồng cây ăn trái với đặc sản vú sữa lò rèn. Hiện toàn xã có 12% hộ nghèo 67% hộ khá và 20% hộ giàu.

Qua xã có tỉnh lộ 876 dài 1,3 km, đường huyện dài 3km; cùng mạng lưới sông, ngòi, rạch... như rạch Gầm dài khoảng 4 km, rạch Ông Hổ dài khoảng 2 km, kinh Dưỡng Điềm 1,5 km; cầu bê tông tỉnh lộ 876 nối 2 ấp Vĩnh Thạnh, Vĩnh Hoà.

Xã có chợ Giữa. Ở trung tâm ấp Vĩnh Thạnh còn có chợ trái cây, thu hút các nơi khác đến mua bán.

Trường mẫu giáo xã có cơ sở vật chất bán kiên cố, 419 cháu; trường tiểu học có 1.197 học sinh; trường trung học cơ sở bán kiên cố với 1.499 học sinh.

Trạm y tế xã hiện có 1 bác sĩ, 1 y sĩ.

Năm 1940, trong cuộc Nam kỳ khởi nghĩa, tại đây máy bay Pháp bỏ bom ngay giữa lúc chợ đang họp, giết hại hàng trăm người. Năm 1945 nhân dân hưởng ứng khởi nghĩa giành chính quyền, thành lập chính quyền cách mạng do ông Trần Văn Giàu chỉ định. Cuối năm 1963, Vĩnh Kim được giải phóng, sau đó giặc tái chiếm.

Hiện toàn xã có 12 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 210 liệt sĩ, 62 thương binh, 82 gia đình có công với nước, 359 huân chương của tập thể và cá nhân.

6. HUYỆN CHỢ GẠO

Có 1 thị trấn và 18 xã. Nằm về hướng đông nam thành phố Mỹ Tho. Phía đông giáp huyện Gò Công Tây. Phía tây giáp với huyện Châu Thành và thành phố Mỹ Tho. Phía nam nằm trên bờ sông Tiền. Bên kia sông Tiền là huyện Châu Thành, huyện Bình Đại của Bến Tre. Phía bắc giáp với huyện Châu Thành của Long An.

Huyện có 3 con đường giao thông huyết mạch. Đường bộ là liên tỉnh lộ 24 (nay là Quốc lộ 50), nối với Quốc lộ 1A từ thành phố Mỹ Tho, đi qua huyện xuống Gò Công. Đường thủy, nằm cuối hướng tây của huyện, có kinh Bảo Định chảy theo hướng nam-bắc nối với sông Tiền tại thành phố Mỹ Tho, qua sông Vàm Cỏ Đông thuộc Long An; kinh Chợ Gạo, nối với sông Tiền tại vàm rạch Kỳ Hôn, chảy theo hướng nam - bắc qua Long An về Sài Gòn.

Diện tích đất tự nhiên của huyện là 235 km2, trong đó đất sản xuất nông nghiệp chiếm gần 75%. Dân số vào thời điểm năm 2004 là: 186.366 người. Trong đó: 90.261 nam, 96.075 nữ . Mật độ 793 người/km2.

Phân bố địa bàn cư trú: Khu vực thị trấn, thị tứ 8.535 người; nông thôn 177.798 người.

Chợ Gạo xưa là tên một ngôi chợ. Ngôi chợ xưa đóng ở làng Bình Phang, do ông Trần Văn Nguyệt thành lập vào thời Cảnh Hưng. Vào cuối thế kỷ XVIII, Chợ Gạo là một trung tâm mua bán gạo.

Thời Nguyễn, khu vực Chợ Gạo thuộc huyện Kiến Hòa, huyện lỵ đóng ở thôn Tân Hóa (nay thuộc xã Tân Thuận Bình). Thời Pháp thuộc, lập quận Chợ Gạo, quận lỵ đóng tại Chợ Gạo.

Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, huyện chia làm 21 đơn vị hành chính xã với 3 tổng; tổng Thạnh Quơn gồm 8 xã: Trung Hòa, Phú Kiết, Mỹ Tịnh An, Tân Bình Thạnh, Lương Hòa Lạc, Đạo Thạnh, Hòa Tịnh và Thanh Bình, về sau thuộc quận Bến Tranh; tổng Thạnh Phong gồm 6 xã: Mỹ Phong, Tân Mỹ Chánh, Đăng Hưng Phước, Song Bình, Long Bình Điền và Xuân Đông; tổng Hoà Hảo gồm 7 xã: Bình Ninh, An Thạnh Thủy, Hòa Định, Bình Phan, Bình Phục Nhứt, Tân Thuận Bình, và Quơn Long. Hai tổng Thạnh Phong, Hoà Hảo thuộc quận Chợ Gạo.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 và trong kháng chiến chống Mỹ, đến năm 1967, lần lượt các xã Đạo Thạnh, Mỹ Phong và Tân Mỹ Chánh được cắt về thành phố Mỹ Tho.

Hiện nay, đơn vị hành chính của huyện gồm 18 xã và 1 thị trấn: các xã Quơn Long, Bình Phục Nhứt, Bình Phan, An Thạnh Thủy, Bình Ninh, Hòa Định, Xuân Đông, Long Bình Điền, Song Bình, Đăng Hưng Phước, Tân Thuận Bình, Thanh Bình, Lương Hòa Lạc, Phú Kiết, Mỹ Tịnh An, Tân Bình Thạnh, Trung Hòa, Hòa Tịnh; thị trấn Chợ Gạo nằm giữa các xã Bình Phan, Tân Thuận Bình, Long Bình Điền.

Phát huy truyền thống yêu nước của Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, đồng bào Chợ Gạo đã vùng dậy đấu tranh: ngày 23/11/1940 hơn 5.000 nông dân của 18/21 xã trong huyện đã nổi dậy cùng với cả Nam kỳ khởi nghĩa cướp chính quyền. Cờ đỏ sao vàng phất phới bay trên cột cờ của trạm dân binh tại xã Lương Hòa Lạc, trước công sở xã Tân Thuận Bình, trên ngọn cây me Thiên cổ xã An Thạnh Thủy và trên ngọn cây dương Miễu Điền xã Mỹ Tịnh An.

Với truyền thống cách mạng vẻ vang ấy, hàng chục ngàn nông dân đã nổi dậy cướp chính quyền trong Cách mạng Tháng 8 năm 1945.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Chợ Gạo bị địch bao vây tứ phía. Để đứng vững lãnh đạo kháng chiến, cán bộ và chiến sĩ của Chợ Gạo đã kiên cường, mưu trí, sáng tạo chiến đấu với kẻ thù. Qua 2 cuộc kháng chiến trường kỳ, Chợ Gạo đã có 2.943 liệt sĩ và 1.015 gia đình được tặng thưởng huân, huy chương kháng chiến, 265 mẹ được phong tặng danh hiệu Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng, 6 cá nhân và 7 đơn vị được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.Vào cuối thế kỷ XX, một đơn vị vinh dự được nhận danh hiệu Anh hùng lao động.

Do hậu quả của chiến tranh , sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, huyện có gần 50% gia đình nông dân bị thiếu đói. Thiên nhiên vẫn khắc nghiệt. Lúa vẫn làm 1 vụ vào mùa mưa, năng suất vẫn ở mức trên dưới 100 giạ/1 hecta. Hơn 50% diện tích để sản xuất của huyện, mỗi năm còn chịu 4 -5 tháng nước mặn tràn về...

Mũi đột phá để tăng vụ lúa là khâu làm thủy lợi. Có nước, lúa làm được 2 vụ rồi 3 vụ một năm. Năng suất lúa từ sau năm 1990 đến nay đạt 11- 12 tấn 1 hecta/1 năm. Hiện nay, diện tích trồng lúa của huyện là: 30.766 ha. Sản lượng năm 2004 là 175.202 tấn. Vườn cây ăn trái cũng dần được phục hồi và phát triển gấp bội. Đặc biệt, nói đến Chợ Gạo là nói đến đặc sản: trái thanh long. Thanh Long được trồng nhiều ở xã Mỹ Tịnh An, hiện nay loại trái cây này được xuất khẩu sang nhiều nước dưới dạng trái tươi.

Nông dân thoát đói nghèo, cuộc sống vật chất và tinh thần của nông dân dần được nâng lên. Có được đồng vốn, nông dân đóng góp cả ngày công lao động công ích, cả tiền mặt theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm". Kinh rạch và hệ thống thuỷ lợi được mở rộng. Đến nay huyện đã có một hệ thống thủy lợi hoàn chỉnh với tổng chiều dài hơn 400 km. Xây kiên cố 47 cống ngăn mặn. Nông dân chủ động ngăn mặn, trữ nước ngọt phục vụ sản xuất, chăn nuôi.

Trên những bờ kinh, đường giao thông nông thôn đạt tiêu chuẩn đường cấp 4 cũng được hình thành, gần 600 km đường được xây dựng, 95% số ấp trong huyện có đường cho xe ô tô tải trọng nhẹ về đến nơi, cả hai mùa mưa nắng; riêng vùng đất xã Xuân Đông bị sông rạch tự nhiên chia cắt không thể nào khắc phục được. Từ những năm 1986 - 1987 điện cũng bắt đầu được kéo về đến vùng trước đây là căn cứ cách mạng. Cho đến nay lưới điện của huyện đã có hơn 159 km đường dây trung thế, hơn 237 km đường hạ thế, phục vụ sinh hoạt và sản xuất cho hơn 97% số hộ gia đình.

Thành tích của huyện trong xây dựng cơ sở hạ tầng là nền tảng cho các lĩnh vực văn hoá - xã hội phát triển. Sau ngày giải phóng, toàn huyện mới chỉ 1 trường cấp 3 với hơn 10 phòng học. Trường tiểu học đếm trên đấu ngón tay. Đến nay mạng lưới giáo dục từ mẫu giáo, nhà trẻ cho đến trường trung học đã đáp ứng được 30.000 học sinh mỗi năm học. Chất lượng dạy và học luôn được nâng cao. Gần 10 năm, ngành giáo dục đã phát triển và được xếp hạng dẫn đầu trong tỉnh. Mạng lưới y tế, bưu chính viễn thông về đến tận xóm ấp. Hàng trăm giếng khoan tầng sâu đã phục vụ hơn 84% hộ nông dân có nước sạch sinh hoạt hàng ngày.....

Toàn huyện có 98% số hộ đăng ký xây dựng gia đình văn hoá thì có hơn 78% được công nhận gia đình đạt 4 tiêu chuẩn. Gần 1/3 số ấp trong huyện được công nhận ấp văn hoá, hơn 50% số ấp đạt an toàn về an ninh trật tự. Nhiều xóm ấp được công nhận cộng đồng dân cư tiên tiến. Các di tích quan trọng, đồng thời cũng là địa điểm thu hút khách du lịch gồm: di tích Óc Eo - Gò Thành, xã Tân Thuận Bình, giồng Bà Phúc ở xã Song Bình, chùa Bà Kết ở xã Bình Phan, di tích Trường Sơn A ở xã Lương Hòa Lạc, đền thờ Thủ Khoa Huân ở xã Hòa Tịnh, và các ngôi đình như Bình Đăng, Phú Kiết, An Lạc...

Với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Đảng bộ và nhân dân trong những thập niên đầu thế kỷ XXI này, nhất định huyện Chợ Gạo sẽ sánh vai với mọi miền quê hương của Tổ quốc.

CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH THUỘC HUYỆN CHỢ GẠO

THỊ TRẤN CHỢ GẠO

Có 3 khu phố : 1, 2, 3. Trước Cách mạng tháng Tám, địa bàn này thuộc địa phận hành chính các xã An Thạnh Thủy, Bình Phan, Hòa Định, Tân Thuận Bình. Trong kháng chiến chống Pháp, ta chưa có đơn vị hành chính; địch gọi là xã Bình Phan, Hòa Định, Tân Thuận Bình thuộc tổng Hòa Hảo quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường; trong kháng chiến chống Mỹ, thị trấn Chợ Gạo thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; địch gọi là xã Bình Phan, Hòa Định, Tân Thuận Bình thuộc quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường.

Nằm ở trung tâm huyện; đông giáp xã An Thạnh Thuỷ; tây giáp xã Long Bình Điền; nam giáp kênh Chợ Gạo và xã Hòa Định; bắc giáp xã Tân Thuận Bình, Bình Phan.

Diện tích tự nhiên 307,67 ha: thổ cư 40,2 ha, trồng lúa 75,1 ha, vườn cây 135,34 ha, nuôi trồng thủy sản 0,36 ha.

Dân số: 8.537 nhân khẩu (1.836 hộ); trong đó, nam 3.871, nữ 4.666; người Kinh 8.522, người Hoa 15; người theo Phật giáo 216, Công giáo: 125, Tin Lành 34, Cao Đài: 64. Tỉ lệ sinh năm 2004 là 1,08%, tử 0,42%; di cư 53 người, nhập cư 17 người.

Ngành nghề chính là kinh doanh mua bán, tiểu thủ công nghiệp sản xuất hủ tiếu, bánh mì,..., nghề phụ: chăn nuôi, làm thuê, các loại dịch vụ,... Thị trấn hiện có 352 hộ giàu chiếm 19%, 842 hộ khá (46%), 629 hộ trung bình (34,26%).

Qua thị trấn có Quốc lộ 50 dài 3km, đường huyện 29 (tỉnh lộ 24 cũ) 800 m, đường liên xã Tân Thuận Bình 350 m, Hòa Định 270 m, Bình Phan 430 m. Mạng lưới sông, rạch .. có kênh Chợ Gạo 1 dài 800 m. Cầu Chợ Gạo 630 m, cầu sắt 120 m; 3 cống trên Quốc lộ 50, 2 cống trên tỉnh lộ 24 cũ.

Trạm y tế có 6 phòng, 1 bác sĩ, 1 y sỹ và 2 y tá; các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng: 3 tổ y tế khu, 5 tổ thuốc Nam, 6 phòng khám chữa bệnh tư nhân, 2 cơ sở dịch vụ nha khoa, 2 nhà bảo sanh tư.

Thị trấn có các liệt sĩ Dương Khuy, Trần Văn Hiển; 44 thương binh, 16 lão thành cách mạng, 1 gia đình có công với nước, 10 huân chương của tập thể và cá nhân.

XÃ AN THẠNH THỦY

Gồm các ấp: An Khương, An Thọ, An Quới, An Phú, Bình Thủy, Thạnh Hiệp, Thạnh Hòa, Thạnh An, Thạnh Kiết.

Đời Gia Long có thôn Bình Thủy (gốc là Thiện Thủy ấp), thôn Toàn Thạnh và thôn Vĩnh An (gốc là Bả canh trại) thuộc tổng Hòa Bình. Đến đời Thiệu Trị và Tự đức thay đổi, gồm các làng Mỹ Thạnh, Bình Thủy, Vĩnh An, Mỹ Hảo thuộc tổng Hòa Hảo. Sau năm 1862, Mỹ Hòa và Vĩnh An nhập lại lấy tên là Mỹ An đến ngày 16.2.1867 lại tách ra. Đếnnăm 1902 có 3 làng Hòa An, Mỹ Thạnh và Bình Thủy.. Ngày 29.11.1923, nhập 2 làng Mỹ Thạnh và Bình Thủy lấy tên là Thạnh Thủy. Đến ngày 24.11.1932, nhập Hòa An và Thạnh Thủy lấy tên là An Thạnh Thủy, thuộc tổng Hòa Hảo, quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Pháp, là xã An Thạnh Thủy thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền thực dân Pháp đặt xã An Thạnh Thủy thuộc tổng Hòa Hảo, quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã An Thạnh Thủy thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã An Thạnh Thủy tổng Hòa Hảo, quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía đông huyện; đông giáp xã Thạnh Nhựt, huyện Gò Công Tây; tây giáp xã Hòa Định; nam giáp xã Bình Ninh; bắc giáp xã Bình Phan.

Diện tích tự nhiên 1.573,5 ha: trồng lúa 740 ha, vườn cây 540 ha, nuôi trồng thủy sản 1,24 ha.

Dân số:13.354 nhân khẩu (2.962 hộ); trong đó, nam 6.088, nữ 7.266; hộ người Kinh 2.960, người Khơme 2 hộ; hộ theo Phật giáo 283, theo Công giáo 45, Tin Lành 17, Cao Đài 58. Tỉ lệ sinh năm 2004 là 1,59%, tử 0,38%; di cư 100 người, nhập cư 156.

Ngành nghề chính là nông nghiệp, dịch vụ, chăn nuôi, mua bán nhỏ; nghề phụ: tiểu thủ công nghiệp, làm bánh, bún, đương lác, bó chổi, buôn bán vật tư nông nghiệp,... Hiện toàn xã có 1.263 hộ khá và giàu, 1.549 hộ trung bình, 160 hộ nghèo.

Qua xã có Quốc lộ 50 dài 5 km, tỉnh lộ 877 dài 3,5km, lộ Me Giáp Hạt dài 3,6 km; rạch Tham Thu phía tây dài 3,5 km, sông phía nam 5,5 km, 5 cống ngăn triều; chợ Giáp Hạt nằm phía đông của xã.

Trạm y tế có 1 bác sĩ, 2 y sĩ, 2 y tá; các tổ chức chăm sóc sức khỏe cộng đồng như 10 tổ y tế ở 10 ấp, 1 tổ y học dân tộc, 1 trạm truyền thông dân số.

Hiện toàn xã có 26 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 282 liệt sĩ, 64 thương binh, 1 lão thành cách mạng, 664 gia đình chính sách, 902 huân chương của tập thể và cá nhân.

Từ 2 đảng viên năm 1936, đến nay Đảng bộ xã đã có 106 đảng viên, 16 chi bộ trực thuộc. Cùng với MTTQVN (thành lập năm 1945) là các tổ chức như Đoàn TTCSHCM (thành lập năm 1946), Hội PNVN (thành lập từ năm 1945), Hội CCB (thành lập tháng 11/1989), Hội NDVN (thành lập năm 1948), HĐND (Đại hội IX có 29 đại biểu)...

XÃ BÌNH NINH

Gồm 12 ấp: Hoà Thạnh, Bình Phú, Bình Quới Hạ, Hoà Mỹ, Bình Quới Thượng, Hoà Phú, Bình Long, Bình Hưng Hạ, Hoà Quới, Hoà Lạc, Hoà Lợi Tiểu, Bình Hưng Thượng.

Nguyên là 2 làng Hòa Bình và Hòa Ninh nhập lại ngày 29.11.1923.

Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tổng Hoà Hảo, quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, tên là xã Hoà Bình thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền thực dân Pháp đặt xã Hoà Bình thuộc quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Bình Ninh thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Định Tường; Chính quyền VNCH gọi là xã Bình Ninh, quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía đông nam huyện; đông giáp xã Vĩnh Hựu, huyện Gò Công Tây; tây giáp xã Hoà Định; bắc giáp xã An Thạnh Thuỷ; nam giáp Tân Thới, huyện Gò Công Tây.

Diện tích tự nhiên 1.880, 89 ha: thổ cư 26, 21 ha, trồng lúa 825,46 ha, vườn cây 653,20 ha, chưa khai thác 374,96 ha.

Dân số: 11.823 nhân khẩu (2.697 hộ); trong đó, nam 5.454, nữ 6.369. Tỉ lệ sinh năm 2004 là 1,56%, tử 0,21%.

Xã Bình Ninh chủ yếu sống bằng sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, buôn bán nhỏ. Cơ sở hạ tầng, điện, nước sạch, giao thông đảm bảo 95%; tỉ lệ hộ nghèo A+B là 0,82%, hộ giàu chiếm 22%.

Qua xã có tỉnh lộ 877 dài 7, 2 km; đường đê liên xã Bình Ninh - Hoà Định dài 2,7 km; Mạng lưới sông, ngòi... có sông Tiền 7,8 km, rạch Cầu Ngang khoảng 7,2 km; rạch Vàm Giồng 3,1 km...; bến đò Bình Long, bến đò Hoà Phú; chợ Bình Ninh.

Hiện toàn xã có 30 bà mẹ Việt Nam Anh hùng; 485 liệt sĩ, 107 thương binh, 87 lão thành cách mạng, 491 gia đình có công với nước.

Chi bộ xã thành lập ngày 6/3/1941, với 4 đảng viên do đồng chí Hoàng khước làm Bí thư chi bộ. Cùng với MTTQVN xã (thành lập năm 1946) là các tổ chức khác như Đoàn TNCSHCM, Hội PNVN, Hội CCB (thành lập tháng 1/1990), HĐND (khoá IX có 28 đại biểu)...

XÃ BÌNH PHAN

Gồm các ấp: Bình Thọ Đông, Bình Thọ Trung, Bình Thọ Thượng, Bình Ninh, Bình Hưng, Tân Thạnh.

Nguyên là thôn Bình Phương thuộc tổng Hòa Bình đời Gia Long. Năm 1836 đổi là Bình Phan thuộc tổng Hòa Hảo. Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tổng Hoà Hảo, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân đặt xã Bình Phan thuộc tổng Hoà Hảo, huyện Chợ Gạo, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Bình Phan thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Bình Phan, thuộc quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía bắc huyện, về xã đi theo Quốc lộ 50 khoảng 4 km; đông giáp xã Bình Phục Nhứt; tây giáp xã Tân Thuận Bình; nam giáp xã An Thạnh Thủy; bắc giáp xã Bình Phục Nhứt.

Diện tích tự nhiên 1.058,999 ha: thổ cư 30 ha, trồng lúa 472 ha, vườn cây 105.65 ha, nuôi trồng thủy sản 0,5ha.

Dân số: 7.952 nhân khẩu (1.786 hộ); trong đó, nam 3.008, nữ 4.944; Tôn giáo có Phật giáo: 43 người, Công giáo: 32, Tin Lành: 4, Cao Đài: 23. Di cư năm 2004 là 51 người, nhập cư 93.

Ngành nghề chính là nông nhiệp; nghề phụ: buôn bán, đan lát. Đa số hộ dân trong xã có đời sống ổn định có công ăn việc làm, hiện còn khoảng 1.753 hộ nghèo.

Qua xã có Quốc lộ 50 dài 1km, đường liên xã thị trấn - Bình Phục I...; kinh Chợ Gạo dài 5km, cầu Bình Phan,...

Chợ Bình Phan ở ấp Bình Thọ Đông họp vào buổi sáng các ngày có khoảng 500 người.

Toàn xã có 6 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 115 liệt sĩ, 12 thương binh, 104 gia đình có công với nước, 127 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ xã thành lập tháng 1 năm 1946. Cùng với MTTQVN xã là các tổ chức khác như Đoàn TNCSHCM (thành lập ngày 26/3/1931), Hội TNVN, Hội PNVN (thành lập ngày 20/10/1930), Hội NDVN (thành lập ngày 14/10/1930), HĐND, UBND (thành lập năm 1975)...

XÃ BÌNH PHỤC NHỨT

Gồm 7 ấp: Bình Khương 1, Bình Khương 2, Bình Ninh, Bình Phú, Bình Quới, Bình Thọ 1, Bình Thọ 2.

Thôn Bình Phục Nhứt lập năm 1743, đời Gia Long thuộc tổng Hòa Bình, năm 1836 thuộc tổng Hòa Hảo. Năm 1865, làng Bình Phục Nhứt bị cắt ra để lập làng Bình Trị và Bình Long. Ngày 29.11.1923, nhập làng Bình Phục Tây vào Bình Phục Nhứt.

Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tổng Hòa Hảo, quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Pháp, thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân đặt xã Bình Phục Nhứt thuộc tổng Hòa Hảo, quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Bình Phục Nhứt thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Bình Phục Nhứt thuộc quận Chợ Gạo, tỉnhĐịnh Tường.

Nằm ở phía đông huyện, về xã theo Quốc lộ 50 đến ngã ba Giáp Hạt rẽ về xã khoảng 10km; đông giáp xã Đồng Sơn; tây giáp xã Bình Phan; nam giáp xã Bình Nhì, huyện Gò Công Tây, Bắc giáp xã Quơn Long.

Diện tích tự nhiên 1.702,25 ha: thổ cư 89,2 ha, trồng lúa 1.153 ha, vườn cây 57 ha.

Dân số: 13.194 nhân khẩu (2.978 hộ); trong đó, nam 5.543, nữ 7.651; người Kinh 13.194, Phật giáo có 445 người, Cao Đài 341. Số người di cư năm 2004 là 25 người, nhập cư 31.

Toàn xã có khoảng 55% hộ khá và giàu, còn lại khoảng 4% hộ nghèo do thiếu đất sản xuất, thiếu vốn, thiếu việc làm...

Qua xã có lộ Giáp Hạt dài 4,2 km, lộ dọc theo kênh Chợ Gạo dài 06 km; lộ Nghĩa Trang dài 4,3 km, lộ 3/2 dài 4,2 km; Mạng lưới sông, ngòi, rạch có kinh Chợ Gạo dài 6 km, rạch Kiến và rạch Đào dài 3,5km; cầu Giáp Hạt bằng bê tông, cầu 3/2, cống số 1, bến phà và bến đò ngang.

Chợ nằm dọc theo kênh Chợ Gạo (có khu phố chợ), họp vào buổi sáng.

Trong kháng chiến chống Pháp, cùng với nhân dân các xã trong huyện, ngày 22/8/1945, chi bộ Đảng lãnh đạo nhân dân bao vây chiếm công sở tề giành chính quyền. Trong kháng chiến chống Mỹ, tháng 10/1963 chi bộ Bình Phục Nhứt lãnh đạo các lực lượng đấu tranh bao vây phá ấp chiến lược Bình Khương, suốt 12 ngày liền. Tháng 12/1971, tiểu đoàn thuộc sư 9, sư 25 của chính quyền Sài Gòn và lực lượng bảo an của Long An, Gò Công, Định Tường càn quét và bình định trắng xã.

Toàn xã có 14 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 216 liệt sĩ, 45 thương binh, 1 lão thành cách mạng, 317 gia đình có công với nước, 3 huân chương giải phóng hạng III, 1 huân chương giải phóng hạng I. Năm 2000, xã Bình Phục Nhứt đã vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng xã Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới; năm 2004 được công nhận là xã văn hóa đầu tiên của huyện Chợ Gạo.

Chi bộ xã đầu tiên thành lập năm 1936, năm 1993 thành lập Đảng bộ xã. Cùng với MTTQVN xã là các tổ chức khác đều thành lập vào cuối năm 1944 như Đoàn TNCSHCM, Hội PNVN, Hội NDVN; Hội CCB (thành lập năm 1988), HĐND (họp khóa đầu tiên vào năm 1977, đến nay là khóa thứ IX), UBND (thành lập vào năm 1977)...

XÃ ĐĂNG HƯNG PHƯỚC

Gồm các ấp: Đăng Nẵm, Đăng Phong trên, Đăng Phong dưới, Hưng Ngãi, Vĩnh Phước, Bình Ninh, Bình Phú Quới, Bình An, Bình Thành.

Nguyên thủy là làng Bình Đăng, đời Gia Long, thuộc tổng Kiến Thạnh, sau thuộc tổng Thạnh Phong. Giai đoạn đầu Pháp thuộc, 2 làng Hưng Ngãi và Vĩnh Phước từ tổng Thạnh Quơn đưa qua Thạnh Phong. Ngày 29.11.1929, ba làng Hưng Ngãi, Vĩnh Phước và Bình đăng nhập lại lấy tên là Đăng Hưng Phước, thuộc tổng Thạnh Phong, huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền thực dân Pháp đặt xã thuộc tổng Thạnh Phong, quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Đăng Hưng Phước thuộc quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường; Chính quyền VNCH đặt xã Đăng Hưng Phước thuộc quận Chợ Gạo tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía bắc huyện; đông giáp xã Tân Thuận Bình; tây giáp xã Thanh Bình, Song Bình; bắc giáp xã Long Trì; nam giáp xã Long Bình Điền.

Diện tích tự nhiên 1.424,65 ha: thổ cư 26,83 ha, trồng lúa 861,97 ha, vườn cây 442,41 ha, nuôi trồng thủy sản 1,72 ha, chưa khai thác 12,77 ha, xây dựng 78,95 ha.

Dân số: 12.227 nhân khẩu (2.786 hộ); trong đó, nam 5.486, nữ 6.741.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp, trồng màu; nghề phụ: hồ, đan thảm, dệt chiếu, bán nhỏ. Trong những năm qua, nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật và chuyển đổi vật nuôi, cây trồng, làm thêm ngành nghề tiểu thủ công nghiệp nên đời sống nhân dân ngày càng nâng cao; giao thông liên xóm ấp thuận tiện, hộ sử dụng điện nước sạch trên 98%, hộ khá và giàu 1625, hộ trung bình 603, hộ nghèo 540.

Qua xã có tỉnh lộ 879C dài 6,5 km, huyện số 6 dài 3,8 km; Mạng lưới sông, rạch, cầu cống có ... như rạch Hóc Lựu - Ông Văn dài 4,5 km, cầu Ông Văn xây dựng kiên cố...

Hiện toàn xã có 15 bà mẹ Việt Nam Anh hùng (còn sống 3 mẹ), 123 liệt sĩ, 37 thương binh, 11 lão thành cách mạng, 560 gia đình có công với nước, 560 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ xã Đăng Hưng Phước thành lập năm 1936. Cùng với MTTQVN xã là các tổ chức như Đoàn TNCSHCM, Hội LHTN, Hội PNVN, Hội CCB, HĐND xã (nhiệm kỳ mới có 28 đại biểu)...

XÃ HÒA ĐỊNH

Gồm các ấp: An Cư, Hoà Thành, Hoà Lạc Trung, Mỹ Thạnh, Long Định, Hoà Thới.

Nguyên gồm gồm hai làng An Định và Hòa Thạnh thuộc tổng Hòa Bình - đời Gia Long và tổng Hòa Hảo- đời Minh Mạng, quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho. Ngày 29.11.1923, hai làng sáp nhập, lấy tên là Hoà Định.

Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Hoà Định thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt là xã Hoà Định thuộc tổng Hoà Hảo, quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Hoà Định thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt là xã Hoà Định thuộc quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía đông - nam huyện: đông giáp xã Bình Ninh, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang; tây giáp xã Xuân Đông, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang; nam giáp sông Tiền, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre; bắc giáp thị trấn Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.

Diện tích tự nhiên 1.359,4ha: thổ cư 18,1ha, trồng lúa 305,3ha, vườn cây 711,3ha, nuôi trồng thủy sản 0,05ha, chưa khai thác 0,9ha.

Dân cư: 8883 nhân khẩu (2087 hộ); trong đó, nam 4184, nữ 4699; đều là người Kinh; . Tôn giáo: Phật giáo 75 người, Công giáo: 331, Tin Lành: 57, Cao Đài: 295. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 2,2%, tử 0,58%.

Ngành nghề chính: sản xuất nông nghiệp (làm ruộng, chăn nuôi); nghề phụ: tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ,... xã có 29,99% hộ giàu, 40% hộ khá, 14,85% hộ trung bình, 15,14% hộ nghèo.

Trường mẫu giáo có 4 lớp với 7 phòng, 140 chai; 1 trường tiểu học có 17 phòng, 501 học sinh, 1 trường trung học cơ sở có 36 phòng, 1431 học sinh. Số người tốt nghiệp trung học về làm việc tại xã là 8.

Trạm y tế kiên cố, trang bị đầy đủ, có 1 bác sĩ, 4 y sĩ, 1 hộ lý, 1 dược tá; các tổ chức chăm sóc sức khỏe cộng đồng,...

Toàn xã có 7 bà mẹ Việt Nam anh hùng, 198 liệt sĩ, 27 thương binh, 5 lão thành cách mạng, 184 gia đình có công với nước, 10 huân chương tập thể, 155 huân huy chương cá nhân.

Chi bộ Đảng xã Hòa Định thành lập ngày 6-1-1947, có 3 đảng viên, sinh hoạt ghép với chi bộ xã Bình Ninh; đến nay xã có Đảng bộ 2 cấp với 78 đảng viên; ngoài ra còn có các tổ chức MTTQ, Đoàn TNCSHCM, Hội LHTN, Hội CCB, Hội NDVN, HĐND, UBND.

XÃ HÒA TỊNH

Gồm 4 ấp: Hoà Ninh, Hoà Bình, Hoà Phú, Hoà Quới.

Nguyên vào năm 1808 có thôn Hòa Mỹ thuộc tổng Kiến Thuận. Đời Minh Mạng thêm thôn Lợi Thạnh, sau đó vào thời Thiệu Trị lấy phí đông thôn Lợi thạnh lập ra thôn Tịnh Giang, thuộc tổng Hưng Nhượng. Ngày 24.10.1928, nhập 2 làng Hòa Mỹ và Tịnh Giang, lấy tên là Hòa Tịnh, sau đó, ngày 1.1.1928, tổng Hưng Nhượng bị giải thể, làn Hòa Tịnh được đưa về tổng Thạnh Quơn.

Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Hoà Tịnh thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân đặt xã Hoà Tịnh thuộc tổng Thạnh Quơn, quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Hoà Tịnh thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt là xã Hoà Tịnh thuộc quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây huyện: đông giáp xã Mỹ Tịnh An, huyện Chợ Gạo; tây giáp xã Tân Lý Tây, huyện Châu Thành; nam giáp xã Phú Kiết, huyện Chợ Gạo; bắc giáp xã Tân Hương, huyện Châu Thành.

Diện tích tự nhiên 704,65 ha: thổ cư 17,51ha, trồng lúa 408,87 ha, vườn cây 277,43 ha, nuôi trồng thủy sản 0,42 ha.

Dân số: 6.066 nhân khẩu, 1349 hộ; trong đó, nam 2.987, nữ 3079.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi; nghề phụ: đan, gia công váng bạc, xay sát, mộc.

Trạm y tế xã có 6 phòng trang thiết bị tương đối đầy đủ và 4 y sĩ.

Xã có Anh hùng dân tộc Thủ Khoa Huân, 98 liệt sĩ, 21 thương binh, 129 huân chương của tập thể và cá nhân.

Tổ chức chi bộ Đảng đầu tiên được thành lập trên địa bàn xã vào năm 1947 với 5 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã (thành lập năm 1961) là các tổ chức khác như Hội PNVN (thành lập năm 1946), Hội Cựu chiến binh (thành lập năm 1990), UBND xã (thành lập tháng 9 năm 1945)...

XÃ LONG BÌNH ĐIỀN

Gồm 9 ấp: Điền Thạnh, Điền Lợi, Tân Long, Tân Bình, Bình Hạnh, Long Thạnh, Thạnh Lợi, Bình Hoà, Điền Mỹ.

Nguyên là 2 thôn Bình Hạnh và Điền Trang thuộc tổng Kiến Thạnh vào đời Gia Long, Đời Minh Mạng có thêm thôn Long Hựu. Cả 3 thôn đều thuộc tổng Thạnh Phong. Ngày 29.11.1923, nhập 3 làng nầy lại lấy tên là Long Bình Điền thuộc tổng Thạnh Phong, quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân đặt xã thuộc tổng Thạnh Phong, quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã Long Bình Điền thuộc quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường.

Địa giới xã: đông giáp thị trấn Chợ Gạo; tây giáp xã Song Bình; nam giáp xã Xuân Đông và xã Hoà Định; bắc giáp xã Đăng Hưng Phước, huyện Chợ Gạo.

Diện tích tự nhiên 1237,151 ha: thổ cư 22,333 ha, trồng lúa 683,4043 ha, vườn cây 418,6846 ha, nuôi trồng thuỷ sản 5,7615 ha.

Dân số: 12.389 nhân khẩu (2.819 hộ), trong đó, nam 7.011, nữ 5.378; người Kinh 12.387, người Khơme 2; Tôn giáo: Phật giáo 10.372 người, Công giáo: 1.201, Tin Lành: 44, Cao Đài: 693, Hoà Hảo: 79.

Ngành nghề chủ yếu là sản xuất nông nghiệp; nghề phụ: buôn bán nhỏ, đan lát, dịch vụ đời sống. Hộ nghèo chiếm 5,2 %, hộ trung bình chiếm 29,6%, hộ khá chiếm 37,3% , hộ giàu chiếm 27,9 %.

Qua xã có Quốc lộ 50 dài 3,7 km, tỉnh lộ 879 C dài 2 km...; Sông rạch, cầu cống...có kinh Chợ Gạo và rạch Hóc Lựu dài 6,2 km; cầu Thạnh Lợi, cầu Hóc Lựu; cống số 7,...

Xã có 14 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 2 mẹ còn sống, 159 liệt sĩ, 48 thương binh, 10 lãnh đạo cách mạng, 508 gia đình có công với nước, 155 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ xã Long Bình Điền thành lập năm 1947 với 8 đảng viên, đến nay Đảng bộ có 90 đảng viên. Cùng với MTTQ xã (thành lập ngày 18/11/1930) là các tổ chức khác như Hội PNVN (thành lập ngày 20/10/1937), Hội CCB (thành lập ngày 6/12/1989), HĐND (thành lập tháng 4/1976), UBND (thành lập tháng 5/1975)...

XÃ LƯƠNG HOÀ LẠC

Gồm các ấp: Lương Phú A, Lương Phú B, Lương Phú C, Long Hòa A, Long Hòa B, An Lạc A, An Lạc B.

Thời Gia Long có 3 làng Lương Phú, Long Hòa và An Lạc thuộc tổng Kiến Thạnh, năm 1836 thuộc tổng Thạnh Quang. Ngày 24.11.1932, ba làng nầy nhập lại lấy tên là Lương Hòa Lạc thuộc tổng Thạnh Quơn, quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân đặt xã Lương Hòa Lạc thuộc tổng Thanh Quơn, quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Lương Hòa Lạc thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã Lương Hòa Lạc thuộc quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía bắc huyện, về xã đi theo Quốc lộ 50 và rẽ vào tỉnh lộ 879 khoảng 15km; đông giáp xã Thanh Bình; tây giáp xã Long An, huyện Châu Thành; nam giáp xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho; bắc giáp xã Phú Kiết.

Diện tích tự nhiên 1.346,34 ha: thổ cư 126,07 ha, trồng lúa 250,20 ha, vườn cây 922,09 ha, nuôi trồng thủy sản 36,35 ha, chưa khai thác 11,63 ha.

Dân số: 14.879 nhân khẩu (3.720 hộ); trong đó, nam 7.083, nữ 7.796; người Kinh 1.485, người Hoa 18; người theo Phật giáo 400, theo Công giáo 70, Tin Lành 36, Cao Đài 816. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,00%, tử 0,36%; di cư 168 người, nhập cư 233.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp (trồng lúa, cây ăn trái) chiếm 85%; nghề phụ: chăn nuôi (chiếm 14%), mua bán nhỏ, tiểu thủ công nghiệp (dệt thảm, mộc, hồ).

Qua xã có Quốc lộ 50 dài 1,6 km; tỉnh lộ 879 dài 6,8 km; huyện lộ 31 (đường lộ tổng) dài 2,9 km...; Mạng lưới sông, rạch, cầu cống gồm kinh Bảo Định dài 2,9 km, kinh nhỏ dài 2,5 km, kinh Hóc Đùn - Bà Ngọt dài 6,5 km. Cầu Bến Tranh, cầu Long Hòa, cầu Ông Thêm...; cống Bay (ấp Lương Phú B); chợ Bến Tranh (nay là chợ Lương Hòa Lạc) ở ấp Lương Phú A.

Trước đây trung tâm xã là quận lỵ của quận Bến Tranh bao gồm 6 xã phía bắc huyện Chợ Gạo và một phần các xã dọc sông Bảo Định thuộc huyện Châu Thành; là đầu mối giao lưu hàng hóa nông sản của cả vùng. Nguồn thu nhập chính của địa phương căn bản vẫn là sản xuất nông nghiệp, trong đó cây ăn trái chiếm tỷ trọng cao nhất.

Hiện toàn xã có anh hùng LLVTND Hồ Văn Bé, 22 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 370 liệt sĩ, 438 gia đình có công với nước, 689 huân chương của tập thể và cá nhân; đặc biệt xã đã đạt 2 danh hiệu xã Quyết thắng và vinh dự được nhận danh hiệu anh hùng LLVTND.

Năm 1995, chi bộ xã nâng lên là Đảng bộ, đến nay có 113 đảng viên và 12 chi bộ trực thuộc; bên cạnh đó là các tổ chức Đoàn TNCSHCM (thành lập năm 1961), Hội CCB (thành lập năm 1993), HĐND (thành lập năm 1976, đến nay đã qua 9 nhiệm kỳ).

CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH THUỘC HUYỆN CHỢ GẠO (tiếp theo)

XÃ MỸ TỊNH AN

Gồm các ấp: Mỹ An A, Mỹ An B, Mỹ Khương, Mỹ Thọ, Tịnh Mỹ, Mỹ Trường, An Thị, An Khương.

Đời Gia Long có 2 làng Mỹ Trung và An Khương thuộc tổng Kiến Thạnh, năm 8136 thuộc tổng Thạnh Quang (đời Thiệu Trị-Tự Đức gọi là Thạnh Quơn). Ngày 24.10.1925 nhập Mỹ Trung, An Khương và Tịnh Hà lấy tên là Mỹ Tịnh An thuộc tổng Thạnh Quơn, quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường.

Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Tịnh Hà, huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân Pháp đặt xã Mỹ Tịnh An thuộc tổng Thạnh Quơn, quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Mỹ Tịnh An thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt là xã Mỹ Tịnh An, quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây huyện; đông giáp xã Tân Bình Thạnh; tây giáp xã Hoà Tịnh; bắc giáp xã Trung Hoà; nam giáp xã Phú Kiết.

Diện tích tự nhiên 1.052,78 ha : thổ cư 22 ha , trồng lúa 614,59 ha, vườn cây 400,80 ha , nuôi trồng thuỷ sản 0, 35 ha, chưa khai thác 14, 50 ha.

Dân số: 9.214 nhân khẩu (2.061 hộ); trong đó, nam 4.397, nữ 4.817; người Kinh 9.190, người Hoa 24; Số người theo Phật giáo 243, Công giáo: 9, Tin Lành: 6, Cao Đài: 351; di cư 29 người, nhập cư 62 người.

Ngành nghề chủ yếu là sản xuất nông nghiệp; nghề phụ: tiểu thủ công nghiệp, mua bán nhỏ. Toàn xã có 2.061 hộ giàu, 1.801 hộ khá - giàu, 92 hộ nghèo loại A, 168 hộ nghèo loại B.

Qua xã có tỉnh lộ 879 dài 3,2 km; huyện lộ 30 dài 3 km; đường liên xã lộ Bà Thẻ đến xã Long trì, huyện Châu Thành...; Kinh Bảo Định dài 3,1 km; rạch Ông Đăng dài 3,3km; Cầu đúc Tịnh Hà, cầu sắt Tịnh Hà xây dựng năm 1929; cống Ông Cửu, ...

Chợ Tịnh Hà, chợ An Khương họp vào 4 giờ sáng có khoảng 3.500 người.

Hiện toàn xã có 12 bà mẹ Việt Nam Anh hùng (chỉ một mẹ còn sống), 220 liệt sĩ, 23 thương binh, 6 lão thành cách mạng, 22 gia đình có công với nước, 160 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ Đảng đầu tiên của xã thành lập năm 1936, với 8 đảng viên, hiện nay Đảng bộ xã có 74 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã (thành lập năm 1940) là Đoàn TNCSHCM, Hội CCB, HĐND (khoá IX có 27 đại biểu)....

XÃ PHÚ KIẾT

Gồm các ấp: Phú Thạnh A, Phú Thạnh B, Phú Thạnh C, Phú Lợi A, Phú Lợi B, Phú Lợi C, Phú Khương A, Phú Khương B, Phú Khương C.

Đời Gia long là thôn Phú An thuộc tổng Kiến Thạnh. Đời Thiệu Trị thuộc tổng Thạnh Quơn. Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tổng Thạnh Quơn quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền thực dân Pháp đặt xã Phú Kiết thuộc tổng Thạnh Qươn, quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Phú Kiết thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Định Tường; chính quyền VNCH đặt xã Phú Kiết thuộc quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây huyện; giáp xã Mỹ Tịnh An, xã Thanh Bình; tây giáp xã Thân Cửu Nghĩa, huyện Châu Thành; nam giáp xã Lương Hoà Lạc; bắc giáp xã Hoà Tịnh, xã Mỹ Tịnh An.

Diện tích tự nhiên 11.544,627m2: thổ cư 313.358m2, trồng lúa 466.6305m2, vườn cây 462.4813m2, nuôi trồng thuỷ sản 2.876m2.

Dân số: 10.664 nhân khẩu (2.564 hộ); trong đó, nam 5.101, nữ 5.563; đều là người Kinh 10.664; người theo Phật giáo 10.004, theo Cao Đài 660; di cư năm 2004 là 126, nhập cư 121.

Ngành nghề chính là làm ruộng, chăn nuôi, trồng hoa màu; nghề phụ: tiểu thủ công nghiệp, mua bán nhỏ lẻ. Là một xã thuần nông, độc canh cây lúa, đời sống nhân dân trước đây rất khó khăn. Từ khi chuyển đổi cơ cấu sản xuất, kinh tế của xã phát triển hơn, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Hiện trên địa bàn xã có 70,60% hộ từ trung bình khá trở lên; có 29,40% hộ nghèo (có 9% hộ nghèo được trợ cấp).

Qua xã có tỉnh lộ 879 dài 3km, đường kinh Nhỏ dài 3,5km...; kinh Bảo Định 3,5 km, rạch Trấn Định 3 km, cầu sắt Phú Lợi A, cống Ba Hùng,...

Chợ Phú Kiết (còn gọi là chợ Than Trông) nằm dọc theo sông Bảo Định và lộ 879 thuộc khu vực ấp Phú Khương A, họp vào buổi sáng hàng ngày có khoảng 100 người.

Trạm y tế có 4 y sĩ; các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng: có 8/9 ấp có tổ y tế ấp được tập huấn nghiệp vụ, phối hợp tuyên truyền, vận động vệ sinh phòng bệnhuyện

Toàn xã có 22 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 261 liệt sĩ, 46 thương binh, 19 lão thành cách mạng, 242 gia đình có công với nước, 379 huân chương của tập thể và cá nhân.

XÃ QUƠN LONG

Gồm các ấp: Quang Thọ, Quang Phú, Quang Ninh, Quang Khương, Long Thạnh, Long Hoà, Long Hiệp, Long An.

Đời Gia Long có làng Bình Quang thuộc tổng Hòa Bình. Đời Minh Mạng đổi thành Bình Quơn thuộc tổng Hòa Hảo. Giai đoạn đầu thuộc Pháp, ngày 8.3.1878, cắt làng Bình phục Nhứt ra lập thêm làng Bình Long. Đến ngày 29.11.1923, nhập Bình Quơn và Bình Long lấy tên là Quơn Long, thuộc tổng Hoà Hảo, quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân đặt xã Quơn Long, tổng Hoà Hảo, quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Quơn Long thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã Quơn Long, quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía đông huyện, đường về xã đi theo lộ kinh Chợ Gạo khoảng 7 km; Đông giáp xã Đồng Sơn, huyện Gò Công Tây; tây giáp xã Tân Thuận Bình; bắc giáp xã Bình Phục Nhứt; nam giáp xã An Lục Long, Tân Phú Long, huyện Châu Thành, tỉnhLong An.

Diện tích tự nhiên 10.416,585m2.

Dân số: 10.013 nhân khẩu (2.390 hộ); trong đó, nam 4.781, nữ 5232; 100% hộ người Kinhuyện Tỉ lệ sinh năm 2004 là 1,59%, tử 0,31%.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp; nghề phụ: đan lát, làm thuê, mua bán nhỏ. Do chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, nên những năm qua, đời sống nhân dân đã được cải thiện, kinh tế phát triển, hộ trung bình khá chiếm 67,75%, hộ nghèo loại A chiếm 4,01%, hộ nghèo loại B chiếm 8,21%.

Hệ thống đường bộ có lộ kênh Chợ Gạo dài 6 km, lộ kênh 20/6 dài 3km; đường liên xã với lộ Ba Cà, Cầu Đôi dài 3 km. Mạng lưới sông, cầu... qua xã có kinh Chợ Gạo dài 6 km, rạch Quán Cạn dài 7 km; cầu Long Hoà, cầu Lộ Me, cầu Ngã Tư; cống Long Hoà, cống Long Hiệp, cống Nghị Tĩnh; bến Quơn Long, bến Bình Phục Nhứt.

Trạm y tế đầy đủ thiết bị theo cấp xã, có 6 phòng, 1 bác sĩ, 1 hộ lý, 7 y sĩ, 3 y tá; các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.

Hiện toàn xã có anh hùng LLVNND Trương Thành Chơi, 22 bà mẹ Việt Nam Anh hùng (chỉ còn mẹ Nguyễn Thị Sáu, ở ấp Quang Khương, 272 liệt sĩ, 46 thương binh, 49 lão thành cách mạng, 323 gia đình có công với nước, 323 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ Đảng xã thành lập ngày 3-2-1930, chỉ có 1 đảng viên là đồng chí Nguyễn Đăng Duy, năm 1931 phát triển 2 đảng viên, đến nay toàn xã có 105 đảng viên. MTTQVN xã thành lập ngày 18/11/1930, Đoàn TNCSHCM thành lập ngày 26/03/1930, Hội PNVN thành lập ngày 20/10/1930, Hội CCB thành lập ngày 6/12/1989, Hội NDVN thành lập ngày 14/10/1930, HĐND khoá I năm 1976, hiện khóa X có 27 đại biểu...

XÃ SONG BÌNH

Gồm 9 ấp.

Nguyên thủy, đời Gia Long là 2 làng Bình Hài và Bình Thời thuộc tổng Kiến Thạnh. Đời Tư Đức do kiêng húy nên đổi Bình Thời thành Bình Thạnh, thuộc tổng Thạnh Phong. Ngày 19.11.1923, nhập hai làng nầy lại lấy tên là Song Bình thuộc tổng Thạnh Phong, quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Song Bình, huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền thực dân Pháp đặt xã Song Bình thuộc tổng Thạnh Phong quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, là xã Song Bình, huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã Song Bình thuộc quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây huyện; đông giáp xã Long Bình Điền; tây giáp xã Tân Mỹ Chánh, thành phố Mỹ Tho; bắc giáp xã Long Bình Điền; nam giáp Xuân Đông.

Diện tích tự nhiên 1.139 ha: thổ cư 54,6 ha, trồng lúa 565, 3035 ha, vườn cây 483,266 ha, nuôi trồng thuỷ sản 5 ha.

Dân số: 9.890 nhân khẩu (2.278 hộ); trong đó, nam 4.656, nữ 5.234. Tỉ lệ sinh 2004 là 15,15%, tỉ lệ tử 4,53%, di cư 130 người, nhập cư 125 người.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp (làm vườn, trồng màu và chăn nuôi); ngoài ra còn có nghề đan len, vệt thảm, may gia công, dệt chiếu. Toàn xã có 239 hộ nghèo (năm 2004): nghèo loại A 107 hộ, loại B 132 hộ.

Qua xã có Quốc lộ 50 dài 1km; đường liên xã gồm đường kinh ngang 1,7km...; Hệ thống kênh rạch, cầu cống có: kinh Hóc Lựu (6km), kinh Lộ Xoài (4km), cầu Bình An qua kinh Hóc Lựu, cống lộ Xoài , cống Ba Khanh, cống Ba Tui; bến đò ngang lộ Láng qua kênh Chợ Gạo đi xã Xuân Đông...

Chợ Bình Long thuộc ấp Bình Long hàng ngày họp vào 5 giờ sáng có khoảng trên dưới 200 người.

Trạm y tế xã đứng đầu huyện về công tác chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, được tỉnh công nhận đạt chuẩn Quốc gia về y tế; có 1 bác sĩ, 4 y sĩ (1 trung cấp dược và 1 trung cấp hộ sinh). Ngoài ra hầu hết các ấp đều có tổ y tế ấp và nhiều tổ, đội cộng tác viên y tế.

Xã có anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Văn Phùng, 13 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 234 liệt sĩ, 59 thương binh, 228 gia đình có công với nước.

Trước năm 1940, chi bộ xã Song Bình thuộc liên chi bộ ba xã Song Bình, Mỹ Phong và Thanh Bình; sau tháng 5-1940, Song Bình tách ra thành 1 chi bộ với 6 đảng viên. Đến năm 1995, Đảng bộ xã có 7 chi bộ trực thuộc. Hiện nay, Đảng bộ xã có 13 chi bộ trực thuộc, 70 đảng viên.

XÃ TÂN BÌNH THẠNH

Gồm 4 ấp: Nhựt Tân, Bình Cách, Song Thạnh, Tân Mỹ.

Nguyên vào năm 1808 có 4 thôn Tân Thạnh, Bình Cách, Thạnh Mỹ và Nhựt Tân. Đến đời Minh Mạng (1836), nhập Tân Thạnh và Thạnh Mỹ lấy tên là Song Thạnh. Đến ngày 4.10.1925 nhập hai làng Bình Cách và Song Thạnh lấy tên là Bình Thạnh. Tiếp theo, ngày 24.11.1932, nhập làng Nhựt Tân và Bình Thạnh lấy tên xã Tân Bình Thạnh thuộc tổng Thạnh Quơn, quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho.

Trong kháng chiến chống Pháp, ta là xã Tân Bình Thạnh thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân đặt xã Tân Bình Thạnh thuộc quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta là xã Tân Bình Thạnh, huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã Tân Bình Thạnh, quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây bắc huyện: đông giáp xã Dương Xuân Hội, huyện Châu Thành, tỉnh Long An; bắc giáp xã Trung Hoà Phú, huyện Chợ Gạo; tây giáp xã Mỹ Tịnh An, huyện Chợ Gạo; nam giáp xã Thanh Bình và xã Mỹ Tịnh An, huyện Chợ Gạo.

Diện tích tự nhiên 1.126,8532 ha: thổ cư 43,6 ha, trồng lúa 782,4545 ha, vườn cây 229 ha, nuôi trồng thủy sản 50 ha.

Dân số: 7.750 nhân khẩu (1796 hộ), trong đó, nam 3.343, nữ 4.407.

Tỷ lệ sinh các năm - 2000: 1,28%, 2001: 1,2%, 2002: 1,5%, 2003: 1,5%, 2004: 1,1%; tỷ lệ tử các năm - 2000: 0,5%, 2001: 0,2%, 2002: 0,4%, 2003: 0,3%, 2004: 0,3%.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp; nghề phụ: làm mộc, thợ hồ (nề), dịch vụ. Những năm qua, đời sống nhân dân dần ổn định, giao thông thuận tiện, nước sạch đầy đủ, thuỷ lợi nội đồng thông suốt; có 93 hộ giàu, 751 hộ khá, 157 hộ trung bình, 95 hộ nghèo.

Qua xã có tỉnh lộ 879B dài 6km, huyện lộ 30 dài 3km...; kinh Lò Vôi (rạch ông Đăng) dài 6 km, cầu Nhựt Tiên bắc qua rạch Lò Vôi, cầu Bình Cách bắc qua rạch Bà Lý...

Trạm y tế xã hiện có 1 bác sĩ, 4 y sĩ, 1 điều dưỡng; 5 tổ y tế ấp.

Xã có 3 mẹ Việt Nam Anh hùng; 1 Huân chương Giải phóng hạng Nhì về thành tích toàn diện; 1 Huân chương Giải phóng hạng Nhất về phong trào du kích chiến tranh; 8 Huân chương Giải phóng hạng Nhì về thành tích các mặt chính trị, quân sự, binh vận, giáo dục, y tế, thông tin-văn hoá, đóng góp tài chính, bám đất sản xuất, dân công hỏa tuyến, dân công tải đạn, tải thương; 1 Huân chương giải phóng hạng Ba về thành tích phòng gian, bảo mật, diệt ác phá kềm, 3 Huy chương Giải phóng hạng Nhất về phong trào y tế, giáo dục và phong trào toàn diện 2 đợt A+B Xuân Mậu Thân 1968; 4 Huy chương Giải phóng hạng Nhì về phong trào du kích chiến tranh toàn diện; 650 huân huy chương cá nhân,... Đặc biệt, ngày 23 tháng 5 năm 2005, Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND cho lực lượng vũ trang và nhân dân xã Tân Bình Thạnh.

Tổ chức Đảng thành lập năm 1938 trên địa bàn xã với 5 đảng viên; năm 1993, được nâng lên thành Đảng bộ 2 cấp, hiện nay có 8 chi bộ với 71 đảng viên.

XÃ TÂN THUẬN BÌNH

Gồm 10 ấp: Tân Hưng, Tân Thắng, Tân Đông, Tân Thành, Tân Hoà, Tân Phú 1, Tân Phú 2, Tân Bình 1, Tân Bình 2A , Tân Bình 2B.

Đời Gia Long có 2 làng Tân Hóa và Thuận Hòa thuộc tổng Hòa Bình. Đời Thiệu Trị và Tự Đức có 3 làng Tân Hóa, Thuận Hòa và Bình Phục Đông, thuộc tổng Hòa hảo. Ngày 29.11.1923, ba làng nầy nhập lại lấy tên là Tân Thuận Bình, thuộc tổng Hoà Hảo, quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền thực dân Pháp đặt xã Tân Thuận Bình thuộc tổng Hoà Hảo quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Tân Thuận Bình thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Tân Thuận Bình thuộc quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường.

Diện tích tự nhiên 1.186,3 ha: thổ cư 23,5 ha, trồng lúa 751,1ha, vườn cây 392,9 ha, nuôi trồng thuỷ sản 4,5 ha, chưa khai thác 14,3 ha.

Dân số: 10.175 nhân khẩu (2.446 hộ); trong đó, nam 4.847, nữ 5.328.

Ngành nghề chính của xã là trồng lúa, chăn nuôi; nghề phụ: dịch vụ, buôn bán nhỏ.

Qua xã có lộ 26/3 dài 3,5 km; đường liên xã dài 3 km; kinh Chợ Gạo dài 11,5 km, cầu Óc Eo - cầu Sập - cầu Tân Hoà, cống Ngã Tư Kinh - Lộ Chùa - Cây Trôm

Chợ Tân Thuận Bình ở ấp Tân Hòa...

Trong kháng chiến chống Mỹ, liên tiếp các năm 1969 - 1970 - 1971, lực lượng Bảo an Định Tường, Bảo an Long An, Gò Công Sư đoàn Anh cả đỏ (Mỹ), Sư 25 nguỵ tập trung đánh phà Tân Thuận Bình .. Hiện toàn xã có 17 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 157 liệt sĩ, 31 thương binh, 257 gia đình chính sách, 389 gia đình có công với nước; đặc biệt năm 1999 xã đã được tặng danh hiệu anh hùng LLVTND.

Năm 1931, đồng chí Cộng (Chín Ngữ) thay mặt tỉnh ủy Mỹ Tho xuống Chợ Gạo thành lập cơ sở đảng đầu tiên của xã Tân Thuận Bình, đồng thời là chi bộ đầu tiên của huyện Chợ Gạo. Đến năm 1934, cơ sở Đảng xã Tân Thuận Bình được khôi phục; hiện nay toàn xã có 78 đảng viên.

XÃ THANH BÌNH

Gồm các ấp: Trường Xuân A, Bình Phú, Bình Long, Trường Xuân B, Đăng Phong, Thanh Đăng.

Nguyên vào đời Gia Long là 2 thôn Thanh Xuân Xuân và Binh Dương thuộc tổng Kiến Thạnh, năm 1836 thuộc tổng Thạnh Quang (sau đổi lại là Thạnh Quơn). Ngày 1.1.1928, Bình Xuân Và Bình Dương nhập lại lấy tên là Thanh Bình thuộc tổng Thạnh Quơn, quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường.

Trong kháng chiến chống Pháp, ta đặt xã Thanh Bình, thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân đặt xã Thanh Bình thuộc tổng Thanh Quơn, quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, là xã Thanh Bình, thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã Thanh Bình, thuộc quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây huyện: đông giáp xã Đăng Hưng Phước, huyện Chợ Gạo; tây giáp xã Lương Hòa Lạc, huyện Chợ Gạo; nam giáp xã Mỹ Phong (thành phố Mỹ Tho); bắc giáp xã Long Trì (huyện Châu Thành, tỉnh Long An).

Diện tích tự nhiên 1399,59 ha: thổ cư 48,99 ha, trồng lúa 861,98 ha, nuôi trồng thủy sản 5,69 ha.

Dân số: 9.013 nhân khẩu (2.255 hộ), trong đó, nam 4.242, nữ 4.771; người Kinh 9012, người Hoa 1;Tôn giáo: đạo Phật 12 người, đạo Cao Đài: 52. Tỷ lệ sinh các năm - 2000: 1,7%, 2001: 1,7%, 2002: 1,4%, 2003: 1,4%, 2004: 1,4%; tỷ lệ tử các năm - 2000: 0,1%, 2001: 0,1%, 2002: 0,2%, 2003: 0,2%, 2004: 0,2%.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp; nghề phụ: buôn bán nhỏ. Hiện hộ giàu chiếm 31,3%, hộ nghèo chiếm 3,1%.

Qua xã có tỉnh lộ 879 B dài 3,4km, huyện lộ 6 dài 1km, lộ kinh nhỏ dài 2,7km,...

Chợ Thanh Bình ở trung tâm xã, họp vào buổi sáng, có khoảng 500 người .

Trường mẫu giáo có 9 lớp học, 139 cháu; trường tiểu học có 24 lớp, 666 học sinh; trường trung học cơ sở có 18 lớp, 576 học sinh.

Trạm y tế xã có 12 phòng kiên cố, xây dựng năm 2004; có 1 bác sĩ, 4 y sĩ, 3 y tá, 1 hộ lý.

Xã có Anh hùng LLVTND Nguyễn Việt Thành và Trần Văn Trọng (Hai Trọng ); 27 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 245 liệt sĩ, 65 thương binh, 13 lão thành cách mạng, 291 gia đình có công với nước; 1 Huân chương Chiến công, 4 Huân chương Giải phóng hạng Nhất, 8 hạng Nhì, 3 hạng Ba, 2 huy chương Giải phóng hạng Nhất, 2 hạng Nhì; cùng 321 huân huy chương cá nhân.

Tổ chức đảng đầu tiên thành lập trên địa bàn từ năm 1936, đến nay Đảng bộ xã có 128 đảng viên.

XÃ TRUNG HÒA

Gồm 5 ấp: Trung Hoà, Phú Hoà, Trung Thạnh, Trung Chánh, Trung Lợi.

Nguyên vào đời Gia Long là 2 thôn Bình Trung và Phú Hòa thuộc tổng Kiến Thạnh. Đến đời Minh Mạng, thôn Bình Trung đổi thành Trung Lộc, thuộc tổng Thạnh Quang. Đời Thiệu Trị - Tư Đức nhập Trung Lộc và Phú Hòa lấy tên là Trung Hòa thuộc tổng Thạnh Quơn.

Trước Cách mạng tháng Tám, xã Trung Hoà, tổng Thạnh Quơn, quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Trung Hòa thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân đặt xã Trung Hòa thuộc tổng Thạnh Quơn, quận Chợ Gạo. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta đặt xã Trung Hoà, huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã Trung Hoà thuộc quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường.

Địa giới xã: đông giáp xã Tân Bình Thạnh, huyện Chợ Gạo; tây giáp xã Hoà Tịnh, huyện Chợ Gạo; nam giáp xã Tân Bình Thạnh và xã Mỹ Tịnh An, huyện Chợ Gạo; bắc giáp xã Hoà Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Long An và xã An Vĩnh Ngãi, Txã Tân An, tỉnh Long An.

Diện tích tự nhiên 1.077.5 ha: thổ cư 306 ha.

Dân số 6.284 nhân khẩu (1412 hộ), trong đó, nam 3.159, nữ 3,124; người Kinh 6.283; Tôn giáo: Phật giáo 320 người, Cao Đài: 1.

Ngành nghề chính là làm ruộng, chăn nuôi; nghề phụ: dịch vụ đời sống. Trong những năm gần đây, đời sống người dân được cải thiện và từng bước ổn định, giao thông thuận tiện, nước sạch đầy đủ, thuỷ lợi nội đồng thông suốt; tỷ lệ hộ khá, giàu chiếm 85.5%.

Trạm y tế xã có 1 bác sĩ, 3 y sĩ, 1 điều dưỡng; 5 tổ y tế ấp.

Toàn xã có 3 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 183 liệt sĩ, 45 thương binh, 13 lão thành cách mạng, 10 gia đình có công với nước, 193 huân chương của tập thể và cá nhân.

XÃ XUÂN ĐÔNG

Gồm 6 ấp: Tân Ninh, Tân thuận, Tân Thạnh, Tân Hoà, An Lạc Trung, An Lạc Thượng. Trước

Nguyên là 2 thôn Tân Tĩnh Đông và Tân Tĩnh thuộc tổng Kiến Thạnh, đời Gia Long. Đời Thiệu Trị có thêm thôn Tân Xuân, thuộc tổng Thạnh Phong. Ngày 29.11.1923, nhập 3 làng Tân Tĩnh, Tân Tĩnh Đông và Tân Xuân, lấy tên là Xuân Đông, thuộc tổng Thạnh Phong, quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho.

Trong kháng chiến chống Pháp, ta đặt xã Xuân Đông thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân đặt xã Xuân Đông thuộc tổng Thạnh Phong, quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Xuân Đông thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Định Tường; chính quyền VNCH đặt xã Xuân Đông thuộc quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây nam huyện: đông giáp xã Hoà Định, huyện Chợ Gạo; tây giáp xã Tân Mỹ Chánh, tp. Mỹ Tho; bắc giáp xã Long Bình Điền, huyện Chợ Gạo; nam giáp sông Tiền, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Diện tích tự nhiên 1.381ha: thổ cư 24 ha, trồng lúa 242 ha, vườn cây 576 ha.

Dân số: 9.037 nhân khẩu (2.158 hộ), trong đó, nam 4.093, nữ 4.9440; người Kinh chiếm 100%; Tôn giáo: Phật giáo:75 người, Công giáo: 5.436, Cao Đài: 45.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp (trồng lúa và cây ăn trái); nghề phụ: đan lát, làm thuê, mua bán nhỏ. Xã thuộc diện nghèo nhất huyện, hộ giàu chiếm 1,42%.

Cùng với đường bộ, qua xã còn có sông Tiền, Vàm Kỳ Hôn dài khoảng 8 km, cầu Bà Lọ, cầu rạch Chợ, cầu Thủ Ngữ, cống Xuân Hoà, cống Thợ Tiện...

Chợ Cầu Đúc ở ấp Tân Ninh, họp hàng ngày, có khoảng 200 người.

Trạm y tế xã hiện có 1 bác sĩ, 1 hộ sinh, 1 y sĩ; 6 trạm y tế ấp chăm sóc sức khoẻ cộng đồng ở 6 ấp.

Toàn xã có 4 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 105 liệt sĩ, 21 thương binh, 5 lão thành cách mạng, 17 gia đình có công với nước, 227 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ Đảng xã thành lập năm 1945 với 5 đồng chí, hiện nay Đảng bộ xã có 51 đảng viên. Cùng với MTTQVN xã (thành lập năm 1945) là các tổ chức khác như Hội CCB (thành lập tháng 12/1989), Hội Nông dân (thành lập năm 1945), HĐND được bầu từ năm 1977 (khoá I), hiện nay có 27 đại biểu (khoá X), UBND (thành lập năm 1945)...

7. HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG

Gò Công Đông có 1 thị trấn và 17 xã, là vùng đất nằm giữa 3 cửa sông lớn: cửa Tiểu, cửa Đại (thuộc sông Tiền) và cửa sông Vàm Cỏ; phía đông có bờ biển bằng phẳng dài 32km tiếp giáp biển Đông nên các cửa sông có mực nước điều hòa, thuận lợi cho giao thông đường thủy. Hệ thống kinh rạch quan trọng trong vùng là rạch Già và rạch Long Uông chảy qua nhiều xã, đổ ra cửa Tiểu; rạch Cần Lộc chảy ra Vàm Láng, rạch Gò Công nối với rạch Tra đổ ra cửa Soài Rạp.

Gò Công Đông trước năm 1975 thuộc tỉnh Gò Công, đến cuối năm 1976 tỉnh Gò Công được sáp nhập với tỉnh Mỹ Tho và thành phố Mỹ Tho thành tỉnh Tiền Giang. Gò Công lúc này là huyện Gò Công.

Huyện Gò Công Đông được tách ra từ huyện Gò Công cùng với huyện Gò Công Tây theo quyết định số 155/HĐBT, ngày 13 tháng 4 năm 1979 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Đến năm 1987, một phần diện tích của huyện được tách ra để thành lập thị xã Gò Công Gò. Công Đông là huyện ven biển, nằm về phía đông tỉnh Tiền Giang, cách trung tâm tỉnh 42km, phía đông tiếp giáp biển Đông; phía tây giáp thị xã Gò Công; phía bắc giáp huyện Cần Đước - tỉnh Long An, phía nam giáp huyện Bình Đại - tỉnh Bến Tre. Toàn huyện có diện tích tự nhiên 357,8 km2. Dân số: 190.177 người. Trong đó: 92.207 nam, 97.910 nữ. Mật độ 531 người/km2 (thuộc huyện đông dân của tỉnh).

Phân bố địa bàn cư trú: Khu vực thị trấn, thị tứ 7.641 người, nông thôn: 182.476 người.

Huyện được chia làm 17 xã, 1 thị trấn, trong đó có 6 xã ven biển: Tân Phước, Gia Thuận, Vàm Láng, Kiểng Phước, Tân Thành, Tân Điền, 2 xã cù lao: Phú Đông, Phú Tân và 9 xã nội địa: Bình Đông, Bình Xuân, Bình Nghị, Bình Ân, Tân Trung, Tân Tây, Tân Đông, Phước Trung, Tăng Hòa và thị trấn Tân Hòa. Toàn huyện có 120 ấp, trong đó 55 ấp ven biển. Huyện lỵ đặt tại thị trấn Tân Hòa.

Lịch sử hình thành vùng đất Gò Công có từ lâu đời; cuối thế kỷ XVII, lần lượt nhiều nhóm di dân miền Trung đến khai phá rồi hình thành các cụm dân cư trên các giồng đất cát: giồng Nâu, giồng Chùa, giồng Lãnh, giồng Bà Lẫy, giồng Đình, giồng Tháp, giồng Bà Canh, giồng Lức... chuyên sống bằng nghề trồng trọt và chăn nuôi. Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh tổ chức đơn vị hành chính, vùng đất này thuộc quận Tân Bình, dinh Phiên Trấn (Gia Định). Năm 1808, vùng này thuộc tổng Hòa Bình, trấn Định Tường.

Năm 1831, vùng Gò Công thuộc huyện Tân Hòa, phủ Tân An, tỉnh Gai Định, lỵ sở đóng ở Đồng Sơn. Vùng Gò Công Đông bấy giờ chỉ có hai tổng: tổng Hòa Lạc Thượng, có 7 làng và tổng Hòa Lạc Hạ, có 10 làng. Sau đó, hưởng ứng chính sách đồn điền của Nguyễn Tri Phương, dân địa phương lập rất nhiều làng. Đến năm 1862, tổng Hòa Lạc Thượng có 10 làng và Hòa Lạc Hạ có 12 làng.

Đến đầu thế kỷ XX, Pháp đặt tỉnh Gò Công thì tổng Hòa Lạc Thượng còn 7 làng, tổng Hòa Lạc Hạ còn 10 làng. Lúc bấy giờ chưa có thị xã Gò Công và đặc biệt là không có đơn vị hành chính quận.

Khoảng năm 1913 -1914, vùng Gò Công là một quận của tỉnh Mỹ Tho. Năm 1924, Pháp thiết lập bộ máy chính quyền, thành lập tỉnh Gò Công, thì huyện Gò Công Đông thuộc 2 tổng Hòa Lạc Hạ, Hòa Lạc Thượng trong 5 tổng, 40 làng toàn tỉnh. Năm 1965, chính quyền Sài Gòn chia vùng đất này làm 2 quận: quận Hoà Lạc, huyện lỵ đóng tại Tăng Hòa với 9 xã; quận Hòa Tân, huyện lỵ đóng tại xã Tân Niên Tây, có 10 xã. Sau ngày nước nhà thống nhất, tỉnh Mỹ Tho và Gò Công sáp nhập thành tỉnh Tiền Giang, vùng đất này là một phần của huyện Gò Công cho đến ngày chia tách, thành lập huyện Gò Công Đông đặt huyện lỵ tại thị trấn Tân Hòa cho đến ngày nay.

Nhân dân Gò Công có lòng yêu nước nồng nàn, ngay từ ngày đầu, khi giặc Pháp xâm lược, nhân dân đã hưởng ứng cuộc kháng chiến của anh hùng Trương Định, tổ chức đánh Pháp từ chiến lũy pháo đài đại bản doanh Kiểng Phước - Gia Thuận; cuộc kháng chiến đã lan khắp 3 tỉnh miền Tây gây cho thực dân Pháp nhiều khó khăn. Người dân địa phương còn ghi nhớ công lao các tướng sĩ, nghĩa quân dưới quyền Trương Định như Đốc binh Trương Công Luận, Đốc binh Chấn, Đốc binh Chung, Tú tài Trần Văn Hội....

Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, nhân dân Gò Công đã có nhiều đóng góp quan trọng.

Sau khi huyện được thành lập, năm 1986 được Trung ương phê duyệt dự án ngọt hóa Gò Công, đưa vùng đất bị nhiễm mặn lâu đời này thành vùng sản xuất lúa ổn định, thì hệ thống đê bao được nâng cấp, hoàn chỉnh trên 32km, các tuyến kinh lớn như Sallisette, Champeaux, Trần Văn Dõng được nạo vét mở rộng, hệ thống kinh mương nội đồng hình thành hoàn chỉnh, cung cấp đủ nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt. Từ quy hoạch ngọt hóa, cho đến nay, diện tích trồng lúa của huyện tăng lên đến 40.488ha. Sản lượng lúa theo thống kê năm 2004 là 181.218 tấn. Có nguồn nước ngọt, diện tích vườn chuyên canh hình thành ổn định với 1.443 ha, trong đó có hơn 560 ha cây sơ ri là đặc sản của vùng đất này. Chương trình ngọt hóa được khai thác triệt để, bộ mặt nông thôn thay đổi nhanh chóng, mạng lưới điện phủ khắp toàn huyện với 95% hộ dân sử dụng, 50,1% dân cư được sử dụng nước sinh hoạt.

Rừng ngập mặn ven biển là yếu tố quan trọng của huyện, với 2065 ha rừng phòng hộ là tuyến bảo vệ sản xuất và dân cư, là nguồn dự trữ sinh quyển cũng như là nơi trú ẩn, sinh sôi của hơn 300 giống loài thủy sản. Vì thế, Ủy ban Nhân dân tỉnh Tiền Giang đã quyết định giữ nguyên hiện trạng 300 ha rừng ven biển cù lao Phú Tân để phục hồi rừng nguyên sinh.

Bên cạnh đó, mũi nhọn kinh tế của huyện là khai thác, nuôi trồng thủy sản, phát huy thế mạnh ven biển, các "làng cá" từ xưa hình thành như Vàm Láng, Tân Phước... tiếp tục phát triển với trên 3000 ngư dân. Toàn huyện có 735 phương tiện đánh bắt, trong đó có 350 phương tiện khai thác xa bờ, hàng năm sản lượng đạt trên 22.000 tấn. Cảng cá Vàm Láng được nâng cấp cải tạo.

Song song với đánh bắt, nghề nuôi thủy hải sản cũng tăng trưởng đáng kể. Hai dự án nuôi tôm sú "Nam, Bắc Gò Công" đã đưa trên 70 ha vào nuôi công nghiệp, bán công nghiệp hàng năm, 1.550 ha nuôi quảng canh. Tôm sú Gò Công thịt ngọt, thơm, hàm lượng dinh dưỡng cao là sản phẩm được ưa chuộng của nhiều thị trường trong và ngoài nước. Nghề nuôi nghêu được hình thành trên địa bàn huyện với diện tích 1.600 ha nuôi ven biển, hàng năm đạt trên 31.000 tấn, mang lại hàng trăm tỷ đồng cho nhân dân Gò Công.

Đi đôi với tăng trưởng kinh tế, các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa - xã hội không ngừng phát triển, an ninh quốc phòng được giữ vững. Hai lễ hội truyền thống của địa phương là lễ hội Nghinh Ông được tổ chức tại Vàm Láng hàng năm vào ngày mùng 10/03 âm lịch, và lễ giỗ anh hùng dân tộc Trương Định được tổ chức trọng thể tại ấp 4, xã Tân Phước, ngày 20.8 dương lịch, thu hút rất đông người dân trong khu vực đến tham dự.

Gò Công Đông còn bảo tồn các di tích quan trọng như đình Gia Thuận nơi thờ anh hùng dân tộc Trương Định, miếu thờ Đốc binh Trương Công Luận ở Tăng Hòa, ngôi miếu thờ Nam Hải tướng quân (còn gọi Lăng Ông) ở Vàm Láng, đình Bình Ân...

Với ưu thế bãi biển, huyện đã hình thành khu du lịch sinh thái biển Tân Thành, hàng năm đón tiếp đông đảo du khách khắp nơi. Với sự đầu tư và nâng cấp của Nhà nước, Gò Công Đông hứa hẹn sẽ mở ra điểm du lịch lý tưởng cho nhân dân toàn khu vực.

Với những thành tựu và thế mạnh kinh tế, Gò Công Đông có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần giữ vững an ninh vùng biển, tạo tiền đề và điều kiện cơ bản tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, công nghiệp và nông thôn.

CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH THUỘC HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG

THỊ TRẤN TÂN HÒA

Gồm 8 xóm, ấp, khu phố: Lò Gạch 1, Lò Gạch 2, Dương Phú, Hòa Thơm 1, Hòa Thơm 2, Hòa Thơm 3, Gò 1, Gò 2.

Nguyên thủy là Tăng Huy và An Hòa thôn vào đầu đời Gia Long, thuộc tổng Hoà Bình. Từ 1836-1902: làng Tăng Hoà, tổng Hoà Lạc, huyện Tân Hoà, Phủ Tân An, tỉnh Gia Định. Từ năm 1913-1924: làng Tăng Hoà, tổng Hoà Lạc Hạ, quận Gò Công, tỉnh Định Tường. Từ năm 1924-1945, chính quyền thực dân Pháp đặt Tăng Hòa thuộc tổng Hoà Lạc Hạ, tỉnh Gò Công;

Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Tăng Hoà thuộc quận Gò Công, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân đặt xã Tăng Hoà thuộc tổng Hòa Lạc Hạ, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Mỹ, giữa năm 1957 - 10.1967, ta gọi là xã Tăng Hòa, thuộc huyện Gò Công, tỉnh Mỹ Tho. Từ 1.3.1957 - 12.1964, chính quyền VNCH gọi là xã Tăng Hòa, thuộc quận Hoà Lạc, đặc khu Gò Công sau đó đổi thành tỉnh Gò Công. Từ 7.1967 - 1.3.1976, ta gọi là xã Tăng Hòa, thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công. Từ 1965-1975, chính quyền VNCH đặt xã Tăng Hòa, thuộc quận Hoà Lạc, tỉnh Gò Công. Từ 1.3.1976 tên gọi chính thức của xã là Tăng Hòa, thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang. Năm 1979 tách một phần xã Tăng Hòa lập thị trấn Tân Hòa.

Nằm ở phía trung tâm của huyện; đông giáp xã Tăng Hòa; tây giáp xã Phước Trung; nam giáp xã Tăng Hòa; bắc giáp xã Bình Nghị.

Diện tích tự nhiên 322,74 ha: thổ cư 38,52 ha, trồng lúa 157,52 ha, vườn cây 19,80 ha, nuôi trồng thủy sản 5, 93ha.

Dân số: 6.309 nhân khẩu (1.367 hộ); trong đó nam 3.096, nữ 3.213; người Kinh 6.307, người Hoa 2; Số hộ theo Phật giáo: 105, Công giáo: 204, Cao Đài: 107. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,68%, tỉ lệ tử 0,32%.

Ngành nghề sản xuất chính của xã là thương mại, dịch vụ; nghề phụ: mộc, hồ, rèn, đan thảm, chăn nuôi, sản xuất lúa, kim khí, điện máy, tạp hóa. Qua xã có tỉnh lộ 862 dài 2 km; đường huyện 710 m, Nguyễn Trãi 750 m, đường 30/4 dài 1.100 m. Xã có 241 hộ giàu chiếm 17,63%; 529 hộ khá, chiếm 38,70%; 561 hộ trung bình, chiếm 41%; 36 hộ nghèo, chiếm 2,66%.

Về giáo dục: có 2 trường mẫu giáo, 1 nhà trẻ gồm 6 phòng, 172 em; 2 trường tiểu học là Tân Hòa 1 và 2 có 28 phòng học, 954 học sinh; trường trung học cơ sở có 27 phòng học, 1.593 học sinh; trường trung học phổ thông có 27 phòng, 1.489 học sinh.

Trạm y tế xã có 1 y sĩ, 3 nhân viên, 1 trung tâm y tế huyện, 11 thầy thuốc.

Xã có bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 62 liệt sĩ, 14 thương binh, 11 lão thành cách mạng, 9 gia đình có công với nước, 19 huân chương của tập thể và cá nhân.

Năm 1987 từ chi ủy chi bộ nâng lên đảng bộ 2 cấp, đến nay có 75 đảng viên sinh hoạt ở 13 chi bộ trực thuộc.

XÃ BÌNH ÂN

Gồm 5 ấp: ấp Xóm Đen, ấp Gò Me, ấp Kinh Trên, ấp Kinh Dưới, ấp Chợ Bến.

Từ đầu thế kỷ XIX đến nay xã đã thay đổi các tên gọi khác nhau: từ năm 1802-1913, làng Bình Ân, thuộc tổng Hoà Bình, huyện Kiến Hòa, Định Tường. Từ 1913-1924, Bình Ân, thuộc tổng Hoà Lạc Hạ, quận Gò Công, tỉnh Định Tường.

Giai đoạn kháng chiến chống Pháp, từ năm 1945-1951: ta đặt xã Bình Ân thuộc tổng Hoà Lạc Hạ, tỉnh Gò Công. Từ 1951-1954, xã Bình Ân thuộc quận Đông, tỉnh Mỹ Tho; Từ 10.1954 đến giữa 1957: xã Bình Ân thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công. Từ giữa 1957 đến 10.1967, xã Bình Ân thuộc huyện Đông, tỉnh Mỹ Tho. Từ 1967 đến 1.3.1976 xã Bình Ân thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công. Chính quyền VNCH đặt xã Bình Ân thuộc tổng Hòa Lạc Hạ đến năm 1963. Từ 1964-1975, xã Bình Ân thuộc quận Hoà Lạc, tỉnh Gò Công.

Nằm ở phía bắc của huyện; phía đông giáp xã Tân Điền; tây giáp xã Long Thuận (thị xã Gò Công); nam giáp xã Bình Nghị; bắc giáp xã Tân Đông và Kiểng Phước.

Diện tích tự nhiên 1.337,5 ha: thổ cư 55,49 ha, trồng lúa 894 ha, vườn cây 280 ha, nuôi trồng thủy sản 38 ha, chưa khai thác 70,19 ha.

Dân số có 10.033 người; trong đó nam 4.905, nữ 5.128. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,44%, tỉ lệ tử 0,26%.

Ngành nghề sản xuất chính nông nghiệp trồng lúa, cây ăn trái (sơri); nghề phụ: ăn uống, giải khát. Hiện số hộ giàu chiếm 15%, hộ khá 25%, trung bình 49%, nghèo 11%.

Qua xã có hương lộ 2, hương lộ 3. Mạng lưới sông, rạch, cầu cống... có: kinh Trần Văn Dõng; cầu Xóm Sọc; cống Xóm Đen; Bến xe Bình Ân; Chợ Bình Ân đặt tại ấp Gò Me. Trường mẫu giáo xã có 9 lớp, 256 học sinh; trường tiểu học với 18 lớp, 974 học sinh.

Trạm y tế xã có 1 bác sĩ, 2 y sĩ, 2 y tá; các tổ chức và các hoạt động chăm sóc sức khoẻ cộng đồng: 5 tổ y tế ấp

Toàn xã có 4 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 83 liệt sĩ, 16 thương binh, 16 lão thành cách mạng, 2 gia đình có công với nước, nhiều huân chương của tập thể và cá nhân, trong đó có 138 huân chương hạng nhất.

MTTQVN xã thành lập năm 1977, hiện có 28 thành viên. Đoàn TNCSHCM thành lập năm 1977, hiện có 208 đoàn viên, Hội liên hiệp thanh niên hiện có 378 hội viên. Hội LHPNVN thành lập năm 1977, hiện có 1847 hội viên. Hội CCB thành lập năm 1977, hiện có 74 hội viên. Hội NDVN thành lập năm 1977, hiện có 1.287 hội viên. HĐND xã khoá IX có 28 đại biểu. UBND xã thành lập năm 1977.

XÃ BÌNH ĐÔNG

Gồm 7 ấp: ấp Cộng Lạc, ấp Hòa Thân, ấp Muôn Nghiệp, ấp Năm Châu, ấp Hồng Rạng, ấp Lạc Hòa, ấp Trí Đồ.

Nguyên thủy đời Gia Long có 2 làng Bình Thạnh Đông và Bình Thạnh thuộc tổng Hòa Bình. Đời Thiệu Trị và Tự Đức có 5 làng Bình Thạnh Đông, Bình Thạnh Tây, Mỹ Lợi và Mỹ Xuân. Giai đoạn đầu Pháp thuộc, Bình Thạnh Tây nhập vào làng Bình Thạnh Đông, lấy tên là Bình Thạnh Đông thuộc tổng Hòa Lạc Thượng.

Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Bình Thạnh Đông; thực dân Pháp đặt xã Bình Thạnh Đông thuộc tổng Hòa Lạc Thượng, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta đặt xã Bình Thạnh Đông thuộc huyện Gò Công, tỉnh Định Tường; Chính quyền VNCH đặt xã Bình Thạnh Đông, thuộc quận Hoà Tân, tỉnh Gò Công.

Nằm ở phía bắc của huyện, từ huyện lỵ về xã đi theo tỉnh lộ 862 và Quốc lộ 50 khoảng 20km; phía đông giáp xã Long Hựu, huyện Cần Đước, tỉnh Long An; tây giáp xã Bình Xuân, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang; nam giáp xã Tân Trung, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang; bắc giáp xã Phước Đông, huyện Cần Đước, tỉnh Long An.

Diện tích tự nhiên 2.245 ha: thổ cư 76,29 ha, trồng lúa 1.099,31 ha, vườn cây 2,96 ha, nuôi trồng thủy sản 90,55 ha, chưa khai thác 471,15 ha (chủ yếu là đất sông, rạch).

Xã có 2.622 hộ với 13.626 nhân khẩu; trong đó nam 6.661, nữ 6.965; người Kinh 13.615, Hoa 11; số hộ theo Phật giáo 485, Công giáo: 13, Cao đài 244.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp (trồng lúa nước); nghề phụ: chăn nuôi gia cầm, heo, dê, mua bán tạp hóa, dịch vụ ăn uống. Toàn xã có 99 hộ nghèo loại A, 312 hộ nghèo loại B, 1.788 hộ trung bình khá trở lên.

Qua xã có Quốc lộ 50 dài 5,7 km; huyện lộ 15 dài 1,8 km; đê bao dài 11,9 km. Mạng lưới sông, rạch, cầu cống... có sông Xoài Rạp (giáp phía đông và phía bắc của xã), cầu Móng Sắt, cống Rạch Băng, cống Rạch Giá và cống Bình Đông; bến phà Mỹ Lợi; Xã có chợ Mỹ Lợi đặt ở ấp Trí Đồ, chợ Năm Châu và chợ Cộng Lạc - Hòa Thân.

Trường mẫu giáo có 8 lớp, 8 giáo viên và 278 học sinh; Trường Tiểu học Bình Đông I có 25 lớp, 16 phòng, 34 giáo viên, 731 học sinh và Trường Tiểu học Bình Đông II với 21 lớp, 19 phòng, 30 giáo viên, 649 học sinh; Trường Trung học cơ sở có 27 lớp, 49 giáo viên, 1.054 học sinh; Trường Trung học phổ thông có 14 lớp, 23 giáo viên, 521 học sinh. Trạm y tế xã có 6 y tá, 1 dược tá, 2 y sĩ, 1 nữ hộ sinh; các tổ chức và các hoạt động chăm sóc sức khoẻ cộng đồng: có 7 tổ y tế ấp.

Toàn xã có 348 liệt sĩ, 30 thương binh, 15 lão thành cách mạng, 252 gia đình có công với nước.

Hiện Đảng bộ xã có 73 đảng viên sinh hoạt ở 11 chi bộ (7 chi bộ ấp, 2 chi bộ giáo dục, 1 chi bộ công an, 1 chi bộ quân sự).

XÃ BÌNH NGHỊ

Gồm các ấp: ấp Hòa Bình, ấp Thạnh Hoà, ấp Vạn Thành, ấp Hiệp Trị và ấp Ruộng Cạn.

Đời Gia Long có 2 làng Bình Nghị và Tân Duân Đông thuộc tổng Hòa Bình, đến năm 1836 thuộc tổng Hòa Lạc; Đời Thiệu Trị và Tự Đức gọi là Hòa Nghị và Tân Duân Đông thuộc tổng Hòa Lạc Hạ và tồn tại đến hết giai đoạn Pháp thuộc.

Trong kháng chiến chống Pháp, ta đặt xã Bình Nghị, huyện Đông tỉnh Gò Công; sau năm 1951 thuộc tỉnh Mỹ Tho. Đến năm 1956, Chính quyền VNCH nhập lại hai xã Hòa Nghị và Tân Duân Đông gọi là An Hòa. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta đặt xã An Hoà, thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công; Chính quyền VNCH đặt xã An Hoà, thuộc quận Hòa Lạc, tỉnh Gò Công.

Nằm ở phía tây của huyện, đường về xã đi theo tỉnh lộ 862, khoảng 3 km; phía đông giáp xã Bình Ân; tây giáp xã Long Hoà; nam giáp xã Phước Trung; bắc giáp xã Long Thuận, thị xã Gò Công.

Diện tích tự nhiên 1.319,05 ha: thổ cư 62,50 ha, trồng lúa 857,6 ha, vườn cây 43,30 ha, nuôi trồng thủy sản 44,34 ha, chưa khai thác 14,69 ha.

Dân số: 13.087 nhân khẩu; trong đó nam 6.266, nữ 6.821; người Kinh 13.087; tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,53%; tỉ lệ tử 0,23%.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp; nghề phụ: chăn nuôi gia đình, tiểu thủ công nghiệp, buôn bán nhỏ. Trong những năm gần đây, đời sống của nhân dân đã được ổn định và nâng cao, tỷ lệ hộ nghèo chiếm 5,95%, tỷ lệ hộ giàu chiếm 19,8%.

Qua xã có tỉnh lộ 862 dài 3 km, huyện lộ 2 dài 2 km, huyện lộ 5 dài 3 km; đường liên xã Hoà Bình- Việt Hùng dài 3.500 m. Sông, rạch, cầu, cống... có kinh Salisetti dài 3500 m, kinh Trần Văn Dõng dài 3km; Xã có chợ Bình Nghị ấp Hòa Bình họp vào buổi sáng và chợ Vạn Thành ấp Vạn Thành. Trường mẫu giáo có 8 lớp, 159 cháu; 2 trường tiểu học với 32 lớp và 701 học sinh; trường trung học cơ sở có 12 lớp với 510 học sinh.

Hiện toàn xã có 102 liệt sĩ, 28 thương binh, 15 lão thành cách mạng, 21 gia đình có công với nước. Chi bộ Đảng xã hiện có 77 đảng viên.

XÃ BÌNH XUÂN

Gồm 7 ấp: ấp 1, ấp 2, ấp 3, ấp 4, ấp 5, ấp 6 và ấp 7.

Thôn Bình Xuân mới lập đầu đời Gia Long, thuộc tổng Hòa Bình. Năm 1836 thuộc tổng Hòa Lạc, đến đời Thiệu Trị, Tự Đức thì thuộc tổng Hòa Lạc Thượng.

Trước Cách mạng tháng Tám, Bình Xuân thuộc tổng Hoà Lạc Thượng, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Pháp, ta đặt xã Bình Xuân, tỉnh Gò Công; sau năm 1951 thuộc tỉnh Mỹ Tho. Chính quyền Thực dân đặt xã Bình Xuân thuộc tổng Hòa Lạc Thượng, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta đặt xã Bình Xuân, thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công. Chính quyền VNCH đặt xã Bình Xuân, thuộc quận Hoà Tân, tỉnh Gò Công.

Nằm ở phía bắc của huyện, đường về xã đi theo Quốc lộ 50 khoảng 20 km; phía đông giáp xã Bình Đông; tây giáp xã Bình Phú, huyện Gò Công Tây; nam giáp xã Thành Công, huyện Gò Công Tây; bắc giáp xã Tân Chánh, (huyện Cần Đước-Long An).

Diện tích tự nhiên 2.205,69 ha: thổ cư 174,76 ha, trồng lúa 1.010,67 ha, vườn cây 36,79 ha, nuôi trồng thuỷ sản 83,52 ha, chưa khai thác 496,69 ha.

Xã có 2.406 hộ với 13.662 nhân khẩu, đều là người Kinh; trong đó nam 6.438, nữ 7.224. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,61%; tỉ lệ tử 0,41%.

Ngành nghề sản xuất chính là trồng lúa; nghề phụ: ghe tải, chăn nuôi, trồng mía. Trước kia là xã nghèo, lại bị chiến tranh tàn phá, nên đời sống nhân dân gặp khó khăn trong những năm sau giải phóng. Đến nay, hộ nghèo giảm dần; hộ khá, giàu có tăng lên.

Sông, rạch, cầu, cống... có sông Gò Công dài 4 km; cầu 620, cầu Bình Xuân 2, cầu Ao Dông, cầu Ba Kiểm...; cống Rầm Vé, cống Rạch Đung...; bến đò ngang tại trụ sở xã qua ấp 2 và bến đò ngang từ ấp 5 qua ấp 3 trong xã; xã có chợ tại ấp 2, thường họp vào sáng sớm.

Trường mẫu giáo có 8 lớp với 193 cháu; trường tiểu học gồm 8 điểm trường có 49 lớp và 1.395 học sinh; có 1 cơ sở trường trung học nhưng còn thiếu trang thiết bị phục vụ dạy và học có 14 lớp với 547 học sinh. Trạm y tế xã còn thiếu trang thiết bị, hiện có 1 bác sĩ, y sĩ, 1 trung cấp hộ sản; có 6/7 ấp có tổ y tế dự phòng.

Hiện toàn xã có 288 liệt sĩ, 20 thương binh, 4 lão thành cách mạng, 820 gia đình có công với nước, 23 huân chương của tập thể và cá nhân.

Đảng ủy xã hiện có 90 đảng viên (nam 74, nữ 16) chia thành 13 chi bộ.

XÃ GIA THUẬN

Gồm các ấp: ấp 1, ấp 2, ấp 3, ấp 4, ấp 5, và ấp 6.

Nguyên thuỷ là đồn điền, năm 1853 làng Gia Thuận được lập. Ngày 31.3.1885, nhập vào làng Tân Phước, lại cắt ra và tái lập sau đó.

Trong kháng chiến chống Pháp, ta đặt xã Gia Thuận thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công; sau năm 1951 thuộc tỉnh Mỹ Tho. Chính quyền thực dân Pháp đặt xã Gia Thuận, thuộc tổng Hoà Lạc Thượng, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Mỹ, chính quyền cách mạng xã đặt Gia Thuận thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công. Chính quyền VNCH đặt xã Gia Thuận thuộc quận Hoà Tân, tỉnh Gò Công.

Nằm ở phía bắc của huyện; phía đông giáp xã Lý Nhơn, huyện Cần Giờ (TP. Hồ Chí Minh); tây giáp xã Tân Phước; nam giáp xã Tân Tây; bắc giáp xã Tân Phước.

Diện tích tự nhiên 1.119 ha: thổ cư 189 ha, trồng lúa 607 ha, vườn cây 697 ha, nuôi trồng thủy sản 58 ha, chưa khai thác 360ha.

Dân số: 6.453 nhân khẩu (1.385 hộ); trong đó nam 2.997, nữ 3.474; người Kinh 6.453. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,84%, tỉ lệ tử 0,41%.

Ngành nghề sản xuất chính của xã là nông nghiệp; nghề phụ: chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Từ năm 2001 đến nay do tỉnh đã quy hoạch vùng nuôi trồng thủy hải sản, nên kinh tế ổn định, có những hộ giàu lên từ nuôi thủy sản, tỷ lệ hộ giàu 83%, hộ nghèo 17%.

Qua xã có sông Soài Rạp dài 3 km; cầu xóm Giồng 9 và 10; cống Công Gia Thuận; bến đò Gia Thuận đi Lý Nhơn. Xã có chợ tại ấp 3, được thành lập năm 1999.

Trường mẫu giáo xã có 8 phòng học, 120 cháu; trường tiểu học có 16 phòng học, 689 học sinh.

Toàn xã có 200 liệt sĩ, 19 thương binh, 4 gia đình có công với nước, 430 huân chương của tập thể và cá nhân.

Hiện nay chi bộ xã Gia Thuận gồm 14 đảng viên độ tuổi từ 35 đến 45 tuổi. Cùng với MTTQVN xã (thành lập ngày 30.4.1979) là các tổ chức khác như Đoàn TNCSHCM (thành lập năm 1979), Hội LHPNVN (thành lập ngày 30/4/1979)...

XÃ KIỂNG PHƯỚC

Gồm các ấp: Bồ Đề, ấp Xóm Đình, ấp Giá Trên, ấp Giá Dưới, ấp Xóm Mới, ấp Chợ, ấp Cầu Xây, ấp Xóm Lưới, ấp Xóm Tựu, ấp Xóm Chủ, ấp Xóm Rẫy.

Đời Gia Long có Toàn Phước phường thuộc tổng Hòa Bình, đến năm 1836 thuộc tổng Hòa Lạc. Đời Thiệu Trị lập thôn Kiểng Phước (Cảnh Phước) thuộc tổng Hòa Lạc Hạ.

Trước Cách mạng tháng Tám, Kiểng Phước thuộc tổng Hoà Lạc Hạ, quận Gò Công, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, xã Kiểng Phước thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công; sau năm 1951 thuộc tỉnh Mỹ Tho. Chính quyền thực dân Pháp đặt xã Kiểng Phước thuộc tổng Hòa Lạc Hạ, quận Gò Công, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Kiểng Phước, thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công; chính quyền VNCH đặt xã Kiểng Phước, thuộc quận Hoà Tân, tỉnh Gò Công.

Nằm ở phía bắc của huyện, về xã theo đường huyện 802 khoảng 8 km; đông giáp biển Đông; tây giáp xã Tân Đông, xã Tân Tây; nam giáp xã Bình Ân; bắc giáp xã Vàm Láng, xã Gia Thuận.

Diện tích tự nhiên 2.755,90 ha: thổ cư 28,90 ha, trồng lúa 1.112,09 ha, vườn cây 30,12 ha, nuôi trồng thuỷ sản 202,53 ha, chưa khai thác 5,96ha.

Dân số: 14.257 nhân khẩu (2.556 hộ); trong đó nam 6.914, nữ 7.343; người Kinh 14.240, người Hoa 17. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,65%, tỉ lệ tử 0,36%. Số người di cư năm 2004 là 345, nhập cư 147.

Ngành nghề sản xuất chính của xã là nông nghiệp, nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản; nghề phụ: chăn nuôi gia súc, gia cầm... Hiện nay, xã đang trên đà phát triển kinh tế với khu vực 1 đạt 79,96%; khu vực 2: 4,96%; khu vực 3: 15,079%; tỷ lệ hộ giàu 28,1%, tỷ lệ hộ nghèo 2,77%.

Xã có tỉnh lộ 871 dài 2.500 m; huyện lộ 2 qua xã dài 2.500 m; đường liên xã Kiểng Phước (Giá Trên) - xã Tân Phước 4 km, Kiểng Phước- Tân Điền 3.400m; Cầu ông Gồng 2,4,6,7 (8 tấn), cống Cần Lộc...

Trường mẫu giáo có 12 lớp, 355 cháu; Trường Tiểu học Kiểng Phước 1 và Kiểng Phước 2 có 30 lớp với 1.415 học sinh; trường trung học cơ sở với 714 học sinh; trường trung học phổ thông với 425 học sinh.

Trạm y tế có 8 phòng, máy cấp nước và trang thiết bị phục vụ y tế, với 2 y sĩ, 1 điều dưỡng, 1 dược sĩ, 1 hộ sinh.

Toàn xã có 25 mẹ Việt Nam Anh hùng, 334 liệt sĩ, 35 thương binh, 11 lão thành cách mạng, 7 gia đình có công, 444 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ xã thành lập tháng 9.1975, hiện có 100 đảng viên. MTTQVN xã thành lập ngày 18.11.1930. Đoàn TNCSHCM thành lập ngày 26.3.1931, có 428 đoàn viên; Hội LHTNVN có 670 hội viên; Hội LHPNVN thành lập 20.10.1930, có 2.601 hội viên; Hội CCB thành lập ngày 6.12.1989, hiện có 179 hội viên; Hội NDVN thành lập ngày 14.10.1930, hiện có 1.234 hội viên.

XÃ PHÚ ĐÔNG

Gồm các ấp: ấp Bà Tiên I, ấp Bà Tiên II, ấp Lý Quàn I, ấp Lý Quàn II, ấp Gảnh.

Nguyên đời Gia Long là làng Phú Thạnh Đông thuộc tổng Hòa Bình. Đời Minh Mạng (1863) thuộc tổng Hòa Hằng, sau đổi lại là Hòa Quới (vì kiêng huý Từ Dũ Thái hậu Phạm Thị Hằng) huyện Kiến Hòa. Ngày 16.2.1867, Phú Thạnh Đông từ huyện Kiến Hòa được đưa về huyện Tân Hòa, Gò Công

Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Phú Thạnh Đông thuộc Gò Công, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Phú Thạnh Đông thuộc huyện Gò Công, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã Phú Thạnh Đông, quận Hòa Bình, tỉnh Gò Công.

Ngày 9.3.1992, chia xã Phú Đông làm hai, thành lập xã Phú Tân.

Nằm ở phía bắc của huyện, về xã đi theo đường 887B qua hương lộ 7, khoảng 11km; đông giáp xã Phú Tân; tây giáp xã Phú Thạnh, huyện Gò Công Tây; nam giáp sông Cửa Đại, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre; bắc giáp xã Phước Trung.

Diện tích tự nhiên 2.949,30ha: thổ cư 28,81 ha, trồng lúa 1.067,65 ha, vườn cây 373,37 ha, nuôi trồng thuỷ sản 260,26ha.

Toàn xã có 1.290 hộ với 6.657 nhân khẩu; trong đó nam 3.302, nữ 3.355; người Kinh 6.462, Hoa 1, Khơme 2. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,47%, tỉ lệ tử 2004 là 1,47%.

Ngành nghề sản xuất chính của xã là nông nghiệp - nuôi trồng sú; nghề phụ: chăn nuôi heo, trâu, bò, dê, mua bán nhỏ lẻ. Toàn xã có 41 hộ nghèo (3,18%), 276 hộ cận nghèo (21,4%), 232 hộ trung bình khá (18%), 741 hộ khá giàu (57%), 19,4% hộ giàu.

Qua xã có tỉnh lộ 887B dài 10km, huyện lộ dài 10km; cùng mạng lưới sông, ngòi cầu cống... như rạch Bà Lắm, sông Lý Quàn, sông Cửa Tiểu, sông Cửa Đại; cầu tre, cầu Lý Quàn, cầu Gảnh; cống Bà Lắm, Lý Nhơn, Bà Từ; bến đò ngang Phú Đông - Phước Trung; xã có chợ Phú Đông khoảng 200 người họp chợ mỗi ngày.

Trường mẫu giáo có 2 lớp, 55 cháu; trường tiểu học có 21 lớp, 586 học sinh; 1 trường trung học cơ sở có 14 lớp, 464 học sinh.

Trạm y tế có 1 bác sĩ, 1 y sĩ, 2 y tá, 1 hộ lý.

Toàn xã có 9 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 112 liệt sĩ, 19 thương binh,.

XÃ PHÚ TÂN

Gồm các ấp: Pháo Đài, Bà Từ, Phú Hữu, Cồn Cống. Trước Cách mạng tháng Tám, là xã Phú Thạnh Đông, quận Hoà Bình, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Phú Thạnh Đông, tỉnh Gò Công.

Ngày 9.3.1992, chia xã Phú Đông làm hai, thành lập xã Phú Tân.

Nằm ở phía nam huyện, về xã đi theo đường 887B khoảng 10 km: phía đông giáp xã Biển Đông; tây giáp xã Phú Đông; nam giáp sông Cửa Đại, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre; bắc giáp sông Cửa Tiểu.

Diện tích tự nhiên 8.626,13ha: thổ cư 12,38 ha, trồng lúa 12,69 ha, vườn cây 39,5 ha, nuôi trồng thủy sản 2.439,25 ha, chưa khai thác 4.798,17 ha.

Dân số: 3.379 nhân khẩu (836 hộ); trong đó nam 1.752, nữ 1.627.

Ngành nghề sản xuất chính của xã là nuôi trồng thuỷ sản; nghề phụ: trồng hoa màu, cây ăn quả, tạp hoá... Toàn xã có 53 hộ giàu, 306 hộ khá, 350 hộ đủ ăn, 127 hộ nghèo. Hàng năm có 90% gia đình văn hoá.

Qua xã có tỉnh lộ 877B dài 7km; cùng mạng lưới sông, cầu... như cầu Bà Từ dài 30m, cầu Vàm Khém dài 30m, cầu Kinh Tế Mới dài 40m, cầu Lăng 30m, cầu sắt 50m; các bến Đò Ngang, Pháo Đài và Đèn; xã có chợ Bà Từ họp buổi sáng khoảng 60 người.

Trường mẫu giáo có 2 điểm Bà Từ và Phú Hữu với 2 phòng, 2 lớp, 38 cháu; trường tiểu học có 4 điểm, 17 phòng, 13 lớp với 323 học sinh

Trạm y tế có 4 phòng, 1 bác sĩ, 1 y sĩ, 2 y tá.

Hiện toàn xã có 10 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 97 liệt sĩ, 19 thương binh, 7 lão thành cách mạng, 69 gia đình có công với nước, 22 huân, huy chương các loại.

Chi bộ Đảng xã thành lập tháng 6 năm 1992 hiện có 56 đảng viên. MTTQVN xã thành lập tháng 6.1992 hiện có 25 thành viên. Đoàn TNCSHCM thành lập tháng 6.1992 hiện có 289 đoàn viên. Hội LHPNVN thành lập tháng 6.1992 hiện có 459 hội viên với 4 chi hội. Hội CCB thành lập tháng 6.1992 hiện có 97 hội viên. Hội NDVN thành lập tháng 6.1992 có 740 hội viên với 4 chi hội, 23 tổ hội. HĐND thành lập tháng 6.1992.

CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH THUỘC HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG (tiếp theo)

XÃ PHƯỚC TRUNG

Gồm các ấp: Nghĩa Chí, Tân Xuân, Dương Hoà, Thanh Nhung, Hiệp Trị.

Nguyên thuỷ đời Gia Long có thôn Tân Duân Trung thuộc tổng Hòa Bình. Năm 1836 có ấp An Phước thuộc thôn Dương Phước, thôn Tân Duân Trung thuộc tổng Hòa Lạc. Đời Thiệu Trị, Tự Đức có 3 thôn Dương Phược, Dương Hòa và Tân Duân Trung thuộc tổng Hòa Lạc Hạ. Nàgy 31.3.1885, Dương Hòa nhập vào Dương Phước nên giai đoạn Pháp thuộc chỉ có 2 làng Dương Phước và Tân Duân Trung thuộc tổng Hòa Lạc Hạ. Đến năm 1956, Dương Phước và Tân Duân Trung nhập lại lấy tên là Phước Trung, thuộc tổng Hòa Lạc Hạ.

Trong kháng chiến chống Mỹ, ta gọi là xã Hòa Trung, thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công; chính quyền VNCH đặt xã Phước Trung, thuộc quận Hòa Lạc, tỉnh Gò Công.

Địa giới xã: đông giáp thị trấn Tân Hoà và xã Tăng Hoà; tây giáp xã Bình Tân, huyện Gò Công Tây và sông Cửa Tiểu; nam giáp xã Tăng Hoà và sông Cửa Tiểu; bắc giáp xã Bình Nghị và xã Bình Tân, huyện Gò Công Tây.

Diện tích tự nhiên 2.103,03 ha: thổ cư 47,87 ha, trồng lúa 1.143 ha, vườn cây 270 ha, nuôi trồng thủy sản 135 ha, chưa khai thác 206,23ha.

Dân số: 9.835 nhân khẩu (2.074 hộ); trong đó nam 3.935, nữ 5.901.

Ngành nghề sản xuất chính của xã là trồng lúa; nghề phụ: nuôi trồng đánh bắt thủy sản, đan lát...

Qua xã có tỉnh lộ 862 dài 2 km; huyện lộ 4 dài 4 km. Mạng lưới sông, ngòi, kinh rạch cầu cống có: sông Cửa Tiểu, rạch Long Uông, rạch Giá; Cầu Long Uông, cầu Kinh Ranh, cầu Đê Bao; cống Long Uông, Rạch Giá, Ngọc Thuận, Rạch Lá, Cầu Kiều, Chủ Khá Dương Hòa; đò ngang Nghĩa Chí.... Xã có chợ giồng Tân ấp Tân Xuân, họp hàng ngày vào sáng sớm.

Trường mẫu giáo có 1 lớp; trường tiểu học có 7 điểm trường ở 7 ấp gồm 32 lớp với 963 học sinh.

Toàn xã có 5 bà mẹ Việt Nam Anh hùng (chỉ hai mẹ còn sống), 193 liệt sĩ, 22 thương binh, 8 lão thành cách mạng, 6 gia đình có công với nước.

Chi bộ Đảng được thành lập ăm 1979; MTTQVN xã có 68 thành viên; Đoàn TNCSHCM có 170 đoàn viên, Hội LHTN có 780 hội viên; Hội LHPNVN có 664 hội viên (gồm 7 chi hội); Hội CCB có có 172 hội viên; Hội NDVN có 1538 hội viên (43 tổ hội). HĐND xã khoá IX gồm có 27 đại biểu trong đó có 5 nữ.

XÃ TĂNG HÒA

Gồm 9 ấp : ấp Bà Lẫy 1, ấp Bà Lẫy 2, ấp Giồng Đình, ấp Giống Lãnh 1, ấp Giống Lãnh 2, ấp Xóm Gò, ấp Trại Ngang, ấp Giồng Tân, ấp Trại Cá.

Nguyên thủy là Tăng Huy và An Hòa thôn vào đầu đời Gia Long, thuộc tổng Hoà Bình. Từ 1836-1902: làng Tăng Hoà, tổng Hoà Lạc, huyện Tân Hoà, Phủ Tân An, tỉnh Gia Định. Từ năm 1924-1945, chính quyền thực dân Pháp đặt Tăng Hòa thuộc tổng Hoà Lạc Hạ, tỉnh Gò Công.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã Tăng Hoà thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công; Chính quyền thực dân Pháp đặt xã Tăng Hoà thuộc tổng Hòa Lạc Hạ, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Tăng Hoà thuộc quận Hoà Lạc, tỉnh Gò Công; xã Tăng Hoà thuộc quận Hoà Lạc, tỉnh Gò Công. Năm 1979 tách một phần xã Tăng Hòa lập thị trấn Tân Hòa.

Nằm ở phía đông của huyện: phía đông giáp xã Tân Thành; tây giáp huyện Gò Công Đông; nam giáp sông Cửa Tiểu của huyện Gò Công Đông; bắc giáp xã Bình Nghị.

Diện tích tự nhiên 1.745,67 ha: thổ cư 44,35 ha, trồng lúa 1.130 ha, vườn cây 199,12 ha, nuôi trồng thủy sản 19,36ha.

Dân số: 10.199 nhân khẩu với 2.220 hộ; trong đó nam 4.942, nữ 5.257; người Kinh 10.197, người Khơme 2; người theo Phật giáo 577, theo Tin lành 2, theo Cao Đài 63. Tỷ lệ sinh các năm - 2003: 0,45%, 2004: 0,45%; tỷ lệ tử các năm - 2002: 0,24%, 2003: 0,27%, 2004: 0,4%.

Nghề phụ như chăn nuôi, dịch vụ: ăn uống, giải khát, làm đẹp phụ nữ... Là một xã thuần nông với 95%, hộ nông dân luôn bám đất giữ làng sản xuất cây lúa, cây màu và chăn nuôi mới được chia tách từ năm 2002 định hình quy hoạch chưa hoàn chỉnh nên chuyển dịch cơ cấu còn chậm có 30% hộ giàu, 46% hộ khá tạm đủ sống, 19,68% hộ nghèo (loại A+B).

Qua xã có tỉnh lộ 862 dài 3 km, hương lộ 4 khoảng 1 km...Hệ thống kinh rạch, cầu cống có: kinh Champaux, cầu bêtông chợ Tân Thành, cống bêtông cộng đồng lộ 862...

Hiện toàn xã có Anh hùng LLVTND Võ Văn Dánh, Võ Thị Lớ; 8 bà mẹ Việt Nam Anh hùng còn sống, 37 thương binh, 219 liệt sĩ, 8 lão thành cách mạng, 168 gia đình có công với nước, 35 huân chương của tập thể và cá nhân.

Cho đến tháng 8.2003, Đảng bộ xã có 12 chi bộ, 70 đảng viên.

XÃ TÂN ĐÔNG

Gồm 8 ấp: Bờ Kinh, Xóm Dinh, Chùa Đất Đỏ, Cầu Bà Trà, Gò Lức, Gò Táo, Bà Lãnh, Ông Gồng.

Nguyên thủy đầu đời Gia Long có thôn Tân Niên Đông thuộc tổng Hòa Bình, đời Minh Mạng thuộc tổng Hòa Lạc. Đến đời Tự Đức thuộc tổng Hòa Lạc Thượng, bên cạnh có 100 mẫu đất Văn Xá (chưa phải là 1 làng). Đến đầu giai đoạn Pháp thuộc, khu đất Văn Xá nầy nhập vào làng Tân Niên Đông.

Trước Cách mạng tháng Tám, Tân Niên Đông thuộc tổng Hòa Lạc Thượng tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Pháp, xã Tân Niên Đông thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công; chính quyền Thực dân gọi là xã Tân Niên Đông thuộc tổng Hòa Lạc Thượng, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Tân Niên Đông, thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công; Chính quyền VNCH đặt xã Tân Niên Đông thuộc quận Hoà Tân, tỉnh Gò Công. Sau năm 1975, ta thống nhất đổi tên lại là xã Tân Đông.

Nằm ở phía bắc của huyện: phía đông giáp xã Kiểng Phước; tây giáp xã Long Hưng, Txã Gò Công; nam giáp xã Long Thuận, thị xã Gò Công; bắc giáp xã Tân Tây.

Diện tích tự nhiên 1137,91 ha: thổ cư 52,20 ha, trồng lúa 672,87 ha, vườn cây 195,46 ha, nuôi trồng thủy sản 33,36 ha, chưa khai thác 29,17ha.

Dân số: 11.403 nhân khẩu với 2.212 hộ; trong đó nam 5.603, nữ 5.800; người Kinh chiếm 100%; người theo Phật giáo 118, theo Tin lành 41, theo Cao Đài 298. Tỷ lệ sinh các năm - 2000: 19,42%, 2001: 18,73%, 2002: 18,32%, 2003: 17,91%, 2004: 17,55%; tỷ lệ tử các năm - 2000: 4,95%, 2001: 4,73%, 2002: 4,8%, 2003: 4,61%, 2004: 4,85%.

Ngành nghề chính là nông nghiệp trồng trọt; nghề phụ như chăn nuôi, ăn uống, giải khát. Những năm gần đây, đời sống nhân dân phát triển, với 75 hộ khá giàu chiếm 67,7%, hộ nghèo chiếm 0,91%.

Qua xã có tỉnh lộ 871 dài 7 km, liên xã Tân Đông- Long Hưng dài 4 km...; Sông rạch, cầu cống có rạch Tổng Châu dài 6km, cầu Bà Trà...

Hiện toàn xã có 3 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 26 thương binh, 177 liệt sĩ, 14 lão thành cách mạng, 134 huân chương của tập thể và cá nhân.

Đảng bộ xã Tân Đông thành lập năm 1985; cùng với MTTQVN xã là các tổ chức khác thàn lập năm 1979 như Đoàn TNCSHCM, Hội LHPNVN, Hội NDVN...; Hội CCB (thành lập năm 1991)...

XÃ TÂN ĐIỀN

Gồm 6 ấp: Hộ, Nam, Bắc, Trung, Bắc 2, Rạch Bàu. Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tổng Hoà Lạc Hạ, tỉnh Gò Công.

Đời Thiệu trị và Tự Đức có 2 làng Bình Điền và An Điền thuộc tổng Hòa Lạc Hạ. Ngày 31.3.1885, hai làng nầy nhập lại lấy tên là Tân Bình Điền thuộc tổng Hòa Lạc Hạ.

Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Tân Bình Điền thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công; chính quyền Thực dân đặt xã Tân Bình Điền thuộc tổng Hòa Lạc Hạ, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta gọi là xã Tân Bình Điền, thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công; Chính quyền VNCH đặt xã Tân Bình Điền, thuộc quận Hoà Lạc, tỉnh Gò Công.

Nằm ở phía đông của huyện; phía đông giáp biển Đông; tây giáp xã Bình Ân; nam giáp xã Tân Thành; bắc giáp xã Kiểng Phước.

Diện tích tự nhiên 1.186,19 ha: thổ cư 47 ha, đất trồng lúa 1.344 ha, vườn cây 85 ha, nuôi trồng thủy sản 50 ha, chưa khai thác 19ha.

Dân số: 7.392 nhân khẩu (1.567 hộ); trong đó, nam 3.574, nữ 3.818; người Kinh chiếm 100% dân số.

Ngành nghề sản xuất chính của xã là nông nghiệp, chiếm 85% tổng số hộ trong xã; nghề phụ: chăn nuôi chiếm 2%, dịch vụ chiếm 3% số hộ trong xã. Đời sống nhân dân ổn định, kinh tế- xã hội phát triển, hiện toàn xã có 1.500 hộ từ khá trở lên, 67 hộ nghèo.

Qua xã có huyện lộ dài 800 m; đường liên xã Tân Điền dài 5.300 m; mạng lưới sông, ngòi, cầu cống có: rạch Trần Văn Dõng dài 3.200 m; cầu Tam Bản; cống Rạch Bùn. Xã có chợ Tân Điền, hàng ngày họp vào buổi sáng với khoảng trên dưới một trăm người. Trường mẫu giáo có 4 phòng 4 lớp với 177 cháu; trường tiểu học có 16 phòng học, 5 khối lớp với 1.733 học sinh.

Trạm y tế xã có 1 y sĩ, 3 y tá và 1 hộ lý; xã có 5.6 ấp có tổ y tế chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

Hiện toàn xã có Anh hùng lực lượng vũ trang Võ Văn Kiết (Mười Quốc), 17 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 281 liệt sĩ, 24 thương binh, 8 lão thành cách mạng, 345 gia đình có công với nước.

Chi bộ xã thành lập năm 1960, hiện có 9 chi bộ trực thuộc Đảng ủy xã, đảng bộ có 67 đảng viên, thành phần giai cấp nông dân. MTTQVN xã thành lập ngày 30.4.1975, hiện có 27 thành viên. Đoàn TNCSHCM thành lập ngày 30.4.1975, hiện có 112 đoàn viên; 412 hội viên liên hiệp thanh niên. Hội PNVN hiện có 802 hội viên; Hội CCB hiện có 70 hội viên; Hội NDVN có 1.321 hội viên.

XÃ TÂN PHƯỚC

Gồm các ấp: 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 và 9.

Thôn Tân Phước có từ thời Minh Mạng, năm 1836 thuộc tổng Hòa Lạc. Đời Thiệu Trị và Tự Đức thuộc tổng Hòa Lạc Thượng.

Trước Cách mạng tháng Tám, làng Tân Phước thuộc tổng Hoà Lạc Thượng. Trong kháng chiến chống Pháp, xã Tân Phước, thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công; Chính quyền thực dân Pháp đặt xã Tân Phước thuộc tổng Hoà Lạc Thượng, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Tân Phước thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công; chính quyền VNCH đặt xã Tân Phước thuộc quận Hoà Tân, tỉnh Gò Công.

Nằm ở phía bắc của huyện, đường về xã đi theo tỉnh lộ dài khoảng 17 km; phía đông giáp xã Gia Thuận; tây giáp sông Vàm Cỏ, huyện Cần Đước, tỉnh Long An; nam giáp xã Tân Tây; bắc giáp xã sông Soài Rạp, huyện Cần Giờ (TP. HCM).

Diện tích tự nhiên 2.194,76 ha: thổ cư 77,47 ha, trồng lúa 1.094,45 ha, vườn cây 11,67 ha, nuôi trồng thủy sản 74,88ha.

Dân số: 14.955 nhân khẩu (2.829 hộ); trong đó, nam 6.730, nữ 8.225; người Kinh 14.943, người Hoa 12; Số hộ theo phật giáo 339, Công giáo: : 643, Cao Đài: 663. Số người di cư năm 2004 là 165, nhập cư 399.

Ngành nghề sản xuất chủ yếu của xã là nông nghiệp; nghề phụ: đánh bắt, nuôi trồng thuỷ hải sản, kinh doanh vật tư nông nghiệp, vật liệu xây dựng, hàn tiện, xay xát, sản xuất đồ mộc. Tình hình kinh tế- xã hội ngày càng được nâng cao và ổn định, tỷ lệ hộ giàu 42%, hộ nghèo 5%.

Qua xã có hương lộ 871, 862 dài 3 km; đường liên xã Tân Phước - Tân Trung dài 4,6 km; Mạng lưới sông, rạch, cầu cống: sông Xoài Rạp, sông Vàm Cỏ dài 3 km, rạch Xã Sách; cầu Móng, cầu Rạch Giá,... cống Vàm Tháp, cống Xã Sách, cống Xóm Gồng; bến đò Tân Phước-Lý Nhơn; bến xe Tân Phước - TP. Hồ Chí Minh.

Chợ Tân Phước ở ấp 7, họp từ 2 giờ đêm, có khoảng 700 người. Chợ Rạch Già ở ấp 2, họp 4 giờ sáng đến 10 giờ, có khoảng 300 người.

Trường mẫu giáo có 13 lớp với 400 cháu; trường tiểu học với 7 điểm trường, 38 lớp và 1.473 học sinh; trường trung học cơ sở ở ấp 8, có 32 lớp và 1086 học sinh.

Xã có 14 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 285 liệt sĩ, 28 thương binh, 14 lão thành cách mạng.

Đảng bộ xã thành lập tháng 5.1997, có 69 đảng viên. MTTQVN xã thành lập ngày 20.05.1976; Đoàn TNCSHCM thành lập 9.1975, Hội LHTNVN thành lập năm 1987, Hội LHPNVN thành lập năm 1975, Hội CCB thành lập năm 1992, Hội NDVN thành lập 6.1975, HĐND xã thành lập năm 1976), UBND thành lập 30.4.1975.

XÃ TÂN TÂY

Gồm các ấp: ấp 1, ấp 2, ấp 3, ấp 4, ấp 5, ấp 6 và ấp 7.

Đời Gia Long là thôn Tân Niên Tây thuộc tổng Hòa Bình, năm 1836 thuộc tổng Hòa Lạc và đến đời Tự Đức thì thuộc tổng Hòa Lạc Thượng.

Trước Cách mạng tháng Tám, Tân Niên Tây thuộc tổng Hòa Lạc Thượng, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Tân Niên Tây thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công; Chính quyền thực dân Pháp đặt xã Tân Niên Tây thuộc tổng Hòa Lạc Thượng, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta gọi là xã Tân Niên Tây thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công; Chính quyền VNCH gọi là xã Tân Niên Tây thuộc quận Hòa Tân, tỉnh Gò Công.

Nằm ở phía bắc của huyện; phía đông giáp xã Kiểng Phước; tây giáp xã Tân Trung; nam giáp xã Tân Đông; bắc giáp xã Tân Phước, Gia Thuận.

Diện tích tự nhiên 1433,27 ha: thổ cư 85,95 ha, trồng lúa 912,27 ha, vườn cây 67,36 ha, nuôi trồng thủy sản 8,5 ha.

Dân số: 15.100 nhân khẩu; trong đó nam 6.042, nữ 9058; người Kinh 15.057, Hoa: 41, Khơme: 1; Người theo Phật giáo 2.108, Công giáo: : 81, Tin Lành: 48, Cao Đài: 812, Hòa Hảo: 60 người. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,76%, tỉ lệ tử 0,49%; Số người di cư năm 2004 là 257, nhập cư là 191.

Ngành nghề sản xuất chính của xã là nông nghiệp; nghề phụ: buôn bán, tiểu thủ công nghiệp, may đo, uốn tóc. Đời sống kinh tế của nhân dân trong xã đa số ở mức độ trung bình khá với 512 hộ giàu, 812 hộ khá, 1.277 hộ trung bình, 381 hộ cận nghèo và 142 hộ nghèo.

Qua xã có tỉnh lộ 871 dài 3 km; huyện lộ 1 qua xã dài 4 km, huyện lộ 13 dài 2,5 km; đường liên xã dài 1,8 km (nối ấp 6 xã Tân Phước); đường Đội Sai dài 1,7km (nối ấp Gò Xoài -Tân Trung), đường quốc phòng dài 2,5 km. Sông, rạch, cầu cống... có rạch Tổng Châu 2,2km, rạch Trích 1km, rạch Vàm Tháp 4,5km; cầu Giáo Hộ, cống Thợ Tiện... Chợ có chợ ấp 1, chợ Tân Phú, ấp 4.

Trường mẫu giáo có 1 điểm trung tâm tại xã và 6 điểm ấp, đa số là phòng học kiên cố, tổng cộng có 14 phòng học với 14 lớp và 429 cháu; có 2 trường tiểu học và 6 điểm trường ở 6 ấp còn lại, các phòng học đều kiên cố, với 46 lớp và 1.523 học sinh; trường trung học cơ sở xã là trường cụm của nhiều xã lân cận có cơ sở vật chất và trang thiết bị tương đối hoàn chỉnh, gồm 40 lớp với 1.674 học sinh; trường dạy nghề bán kiên cố với 50 lớp và 1.385 học sinh

Trạm y tế xã có 4 bác sĩ, 12 y sĩ, 3 y tá, 1 hộ lý.

Hiện xã có 8 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 233 liệt sĩ, 28 thương binh, 1 lão thành cách mạng, 606 gia đình có công với nước, 215 huân chương của tập thể và cá nhân.

Sau cách mạng Tháng 8.1945, chi bộ Đảng xã có 3 đảng viên được phân công giữ chức Bí thư và phó Bí thư. Hiện nay, Đảng bộ xã là 2 cấp, gồm có 72 đảng viên (21 nữ) với 13 chi bộ trực thuộc.

XÃ TÂN THÀNH

Gồm các ấp: ấp Chợ, ấp Hộ, ấp Láng, ấp Kinh Ngang, ấp Bà Canh, ấp Tân Phú, ấp Cầu Muống, ấp Cây Bàng, ấp Đèn Đỏ, ấp Vàm Kinh, ấp Kinh Giữa.

Làng Tân Thành lập ngày 13.12.1873 trên cơ sở cắt một phần đất làng Bình Ân và làng Tân Hòa, thuộc tổng Hòa Lạc Hạ.

Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tổng Hòa Lạc Hạ, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Pháp, xã Tân Thành thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công; chính quyền thực dân Pháp đặt xã Tân Thành thuộc Hòa Lạc Hạ, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Tân Thành, thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công; địch đặt xã Tân Thành, thuộc quận Hoà Lạc, tỉnh Gò Công.

Nằm ở phía đông nam của huyện, đường về xã đi theo tỉnh lộ 862; phía đông giáp biển Đông; tây giáp xã Tăng Hòa; nam giáp xã Phú Tân; bắc giáp xã Tân Điền.

Diện tích tự nhiên 2.514 ha: thổ cư 87,43 ha, trồng lúa 1.283,84 ha, đất vườn cây 183,56 ha, nuôi trồng thủy sản 132,25 ha, chưa khai thác 848 ha.

Dân số: 13.902 nhân khẩu (2.713 hộ); trong đó, nam 6.109, nữ 7.793; người Kinh 13.978, người Hoa 102, người Khơme 2; hộ theo phật giáo 105, theo Công giáo: 204, theo Cao Đài 107. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,39%, tỉ lệ tử 0,22%.

Ngành nghề sản xuất chính của xã là nông, ngư nghiệp, nghề phụ: vật nuôi, cây trồng, dịch vụ du lịch. Là xã ven biển trước đây bị nước mặn xâm nhập nên chỉ trồng được 1 vụ lúa, đời sống dân cư gặp rất nhiều khó khăn. Đến năm 1994, do thực hiện chương trình ngọt hóa Gò Công, Tân Thành trở thành một xã phát triển với cơ cấu kinh tế đa dạng: nông, ngư, dịch vụ. Riêng ngư nghiệp phát triển với phong trào nuôi nghêu, tôm sú. Hiện nay xã có gần 60% hộ khá giàu, 30% hộ trung bình và 10% hộ nghèo.

Qua xã có tỉnh lộ 862 dài 5 km, huyện lộ dài 2 km, đường đê biển dài 9 km; Mạng lưới sông, rạch, cầu cống: sông Cửa Tiểu 2 km, các cầu Tân Thành, Bảy Dư, Tư Voi, Kinh Mới đều bằng bê tông; cống Rạch Gốc, cống Vàm Kinh...

Trường mẫu giáo có 11 lớp, 341 cháu; trường tiểu học với 50 lớp, 1.473 học sinh; trường trung học cơ sở đạt chuẩn quốc gia với 18 lớp 742 học sinh.

Trạm y tế xã có 1 bác sĩ, 3 y sĩ, 1 nữ hộ sinh, 1 dược tá.

Hiện toàn xã có 9 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, hiện nay còn sống 2 người, 231 liệt sĩ, 35 thương binh, 9 lão thành cách mạng, 134 gia đình có công với nước, 7 huân chương của tập thể và cá nhân.

Tổ chức Đảng được thành lập 1978 với 18 đảng viên; hiện nay có 112 đảng viên. Hội CCB thành lập 1989, đến nay 11 ấp đều có chi hội cựu chiến binh với 158 hội viên.

XÃ TÂN TRUNG

Gồm 7 ấp: ấp Sơn Qui A, ấp Sơn Qui B, ấp Ông Non, ấp Ông Cai, ấp Gò Xoài, ấp Xã Lới, ấp Mỹ Xuân.

Nguyên thủy thôn Tân Niên Trung thuộc tổng Hòa Bình (1808). Đến đời Minh Mạng (1836) thuộc tổng Hòa Lạc. Đầu giai đoạn Pháp thuộc, sau năm 1862 cắt làng Mỹ Xuân ra lập làng Truông Cóc. Ngày 8.6.1872, làng Trương Cóc đổi tên là Tân Xuân. Ngày 31.3.1885, hai làng Tân Xuân và Mỹ Xuân nhập vào Tân Niên Trung.

Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi là xã Tân Niên Trung, tỉnh Gò Công; chính quyền thực dân Pháp gọi là xã Tân Niên Trung thuộc tổng Hòa Lạc Thượng, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Tân Niên Trung thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công; chính quyền VNCH đặt xã Tân Niên Trung thuộc quận Hòa Tân, tỉnh Gò Công. Sau năm 1975, ta thống nhất đổi tên lại là xã Tân Trung.

Nằm ở bắc của huyện, đường về xã đi theo Quốc lộ, dài 50 khoảng 11km; phía đông giáp xã Tân Tây; tây giáp xã Thành Công (Gò Công Tây); nam giáp xã Long Hưng (thị xã Gò Công); bắc giáp xã Bình Đông.

Diện tích tự nhiên 1.959,72 ha: thổ cư 39,0811 ha, đất trồng lúa 1187,28 ha, vườn cây 28,9008 ha, nuôi trồng thuỷ sản 31,56 ha, chưa khai thác 29,17ha.

Dân số: 13.492 nhân khẩu (2.289 hộ); trong đó, nam 6.341, nữ 7.141; người Kinh 12.288, người Chăm 1; người theo đạo Phật 577, theo đạo Tin Lành 6, theo đạo Cao Đài 121.

Ngành nghề sản xuất chủ yếu là trồng lúa; nghề phụ: đóng tủ thờ, đan lát, trồng hoa màu, sửa chữa điện tử, may mặc. Đến nay, tỷ lệ hộ nghèo giảm dần; hộ khá, giàu tăng lên; tỷ lệ hộ giàu trong xã 7,41%, hộ khá 30,96%, hộ trung bình 55,81%, hộ nghèo 5,82%.

Qua xã có Quốc lộ 50 dài 4 km; đường huyện qua xã Tân Tây, cống Đập dài 15km; đường liên xã Tân Trung- Tân Phước dài 7km; Mạng lưới sông, rạch, cầu cống có: rạch Sơn Qui dài 5 km, cầu Sơn Qui; cống Cây Sọp, cống Sơ Kỷ; bến đò Mỹ Xuân- kinh Nước Mặn.

Chợ Xã Lới họp buổi sáng, có khoảng 150 người, mua bán đặc sản tôm sú, cua biển.

Có 1 trường mẫu giáo đạt chuẩn Quốc gia, 8 lớp học có trong 7 ấp, 231 cháu; trường tiểu học đạt tiêu chuẩn, có 39 lớp học, 1.303 học sinh; trường trung học cơ sở có 25 lớp, 697 học sinh Số người tốt nghiệp trung học về làm tại xã là 38, 1 người tốt nghiệp đại học. Trạm y tế có trang thiết bị đạt chuẩn, 1 bác sĩ, 2 y tá, 1 hộ lý.

Hiện toàn xã có có 12 bà mẹ Việt Nam Anh hùng (3 mẹ hiện còn sống), 114 liệt sĩ, 22 thương binh, 12 lão thành cách mạng, 134 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ Đảng xã thành lập năm 1990 đến nay có 101 đảng viên xuất thân từ nông dân, 80% tốt nghiệp trung học, 20% tiểu học.

XÃ VÀM LÁNG

Gồm, 4 ấp: ấp Lăng, ấp Chợ, ấp Đôi Ma 1, ấp Đôi Ma 2.

Nguyên thủy đời Gia Long có phường Toàn Phước thuộc tổng Hòa Bình, năm 1836, phường Toàn Phước thuộc tổng Hòa Lạc. Đời Tự Đức đã đổi thành thôn Kiểng Phước thuộc tổng Hòa Lạc Hạ.

Trong kháng chiến chống Pháp, Vàm Láng cũng còn là một ấp thuộc xã Kiểng Phước (bến Vựa Ngoài) thuộc tổng Hòa Lạc Hạ, tỉnh Mỹ Tho, cũng có thời gian là tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Mỹ, đến năm 1967, Vàm Láng được tách ra từ Kiểng Phước và thành lập xã Vàm Láng, quận Hòa Tân, tỉnh Gò Công.

Nằm ở phía đông của huyện; phía đông giáp sông Xoài Rạp; tây giáp xã Kiểng Phước; nam giáp xã Kiểng Phước; bắc giáp xã Gia Thuận.

Diện tích tự nhiên 1.959,4 ha; thổ cư 76,64 ha, trồng lúa 363,21 ha, vườn cây 1,55 ha, nuôi trồng thủy sản 167,29 ha, chưa khai thác 9,5 ha.

Dân số: 14.370 nhân khẩu (2.811 hộ); trong đó nam 6.609, nữ 7761; số hộ người Kinh 14.051, người Hoa 203, Khơme: 7, người Chăm: 9; Số hộ theo Phật giáo 794, Công giáo: 53, Tin Lành: 6, Cao Đài: 362.

Ngành nghề sản xuất chính của xã là khai thác đánh bắt thủy hải sản; nghề phụ: nông nghiệp, chế biến thuỷ sản, cơ khí, đóng tàu. Những năm gần đây kinh tế có bước phát triển đáng kể, bên cạnh ngành đánh bắt thuỷ hải sản, các ngành nghề và dịch vụ cũng phát triển tạo công ăn việc làm, từ đó đời sống người dân ngày càng ổn định và đi lên, hiện có từ 5-8% hộ giàu, tỷ lệ hộ nghèo 2,43%.

Qua xã có tỉnh lộ 871, dài 3,2km; Kinh rạch, cầu cống có: sông Xoài Rạp dài 4,55 km, rạch Cần Lộc dài 3,1 km; cống số 1, cống Cần Lộc ngăn mặn và xả lũ; rạch Xẻo...

Giáo dục có 1 trường mẫu giáo, gồm 8 phòng, 14 lớp, 498 trẻ; trường tiểu học có 19 phòng, 28 lớp, 914 học sinh; trường trung học cơ sở với 16 phòng, 34 lớp, 1.473 học sinh.

Trạm y tế xã có 8 phòng, 5 giường, 1 bác sĩ, 4 y sĩ, 1 dược tá, 1 nha tá; các tổ chức và các hoạt động chăm sóc sức khoẻ cộng đồng: 10 tổ có nhân viên y tế (85 nhân viên y tế cộng đồng), 1 phòng mạch và 2 hiệu thuốc Tây.

Toàn xã có bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 139 liệt sĩ, 16 thương binh, 2 lão thành cách mạng, 37 gia đình có công với nước, 63 huân chương của tập thể và cá nhân.

8. HUYỆN GÒ CÔNG TÂY

Huyện Gò Công Tây có 1 thị trấn và 16 xã, diện tích tự nhiên là 272 km2 ; phía bắc giáp tỉnh Long An, phía đông giáp huyện Gò Công Đông và thị xã Gò Công, phía nam giáp Tỉnh Bến Tre, phía tây giáp huyện Chợ Gạo.

Đất đai của huyện nằm giữa hệ thống sông rạch lớn: rạch Tra ở phía bắc chảy ra cửa biển Soài Rạp, rạch Vàm Giồng đổ vào cửa Tiểu rồi ra biển Đông. Đây là hai tuyến giao thông huyết mạch từ Sài Gòn và các địa phương ven biển Đông đi các tỉnh miền Tây Nam bộ, Campuchia.

Địa hình tương đối bằng phẳng: giồng cát xen lẫn bàu, truông nhưng độ cao chênh lệch không đáng kể. Do ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều mạnh, nên phần lớn đất đai nơi đây bị nhiễm phèn, mặn nặng. Vị trí và điều kiện tự nhiên của huyện đã tạo nên sự giao lưu kinh tế - văn hóa giữa địa phương với Nam kỳ lục tỉnh, đồng thời trở thành vị trí quân sự trọng yếu của khu vực.

Huyện Gò Công Tây được tách ra từ huyện Gò Công cùng với huyện Gò Công Đông theo Quyết định số 155/HĐBT, ngày 13 tháng 4 năm 1979 của Hội đồng Bộ Trưởng (nay là Chính phủ). Đơn vị hành chính gồm 16 xã, 1 thị trấn, trong đó có 3 xã nằm trên cù lao Lợi Quan là Phú Thạnh, Tân Phú, Tân Thới; các xã có còn lại: xã Bình Phú, Thành Công, Yên Luông, Bình Tân, Long Bình, Long Vĩnh, Vĩnh Hựu, Thạnh Trị, Thạnh Nhựt, Bình Nhì, Đồng Thạnh, Đồng Sơn và thị trấn Vĩnh Bình.

Dân số tính đến thời điểm 2004 là: 167.761 người. Trong đó: 81.264 nam, 86.497 nữ. Mật độ 616 người/km2.

Phân bố địa bàn cư trú: Khu vực thị trấn, thị tứ 13.432 người, nông thôn: 154.392 người.

Lịch sử của huyện gắn liền với vùng đất Gò Công, từ lúc khai khẩn đến đầu thế kỷ XIX, vùng Gò Công và cù lao An Hóa thuộc tổng Hòa Bình, trấn Định Tường. Năm 1831, nhà Nguyễn tách một phần tổng Hòa Bình để lập huyện Tân Hòa, thuộc phủ Tân An, tỉnh Gia Định. Huyện Tân Hoà bao gồm cả hai huyện Gò Công Tây và Gò Công Đông ngày nay, huyện lỵ đóng tại Đồng Sơn (Gò Công Tây). Trong giai đoạn này, vùng Gò Công Tây chỉ có hai tổng: Hòa Đồng Thượng có 8 làng Hòa Đồng Hạ có 16 làng. Năm 1836, huyện Tân Hòa tách thành hai: huyện Tân Thạnh (Gò Công Tây ngày nay) và huyện Tân Hoà (Gò Công Đông). Một phủ mới được thành lập để quản lý hai huyện này được lấy tên là phủ Hòa Thạnh, thuộc tỉnh Gia Định. Huyện lỵ Tân Thạnh và phủ lỵ Hòa Thạnh đóng tại vùng Đồng Sơn.

Năm Nhâm Tý (1852), vua Tự Đức giảm biên chế hành chính, cho nhập hai huyện ấy và lấy lại tên cũ là Tân Hoà. Phủ Hoà Thạnh được bãi bỏ nên huyện Tân Hoà được nhập vào phủ Tân An, tỉnh Gia Định. Huyện lỵ đóng tại Gò Công.

Đầu thế kỷ XX, khi Pháp đặt tỉnh Gò Công thì vùng này chia làm ba tổng: tổng Hòa Đồng Thượng có 5 làng, tổng Hoà Đồng Trung có 9 làng và tổng Hòa Đồng Hạ có 8 làng. Ba tổng này trực thuộc tỉnh, không có đơn vị cấp quận.

Năm 1965, vùng Gò Công Tây có hai quận, thuộc tỉnh Gò Công gồm: quận Hòa Bình có 5 xã, quận lỵ đóng tại xã Bình long; quận Hòa Đồng có 8 xã, quận lỵ đóng tại Vĩnh Bình.

Khi Pháp nổ súng xâm lược, vùng Gò Công Tây có những tấm gương trung kiên bất khuất góp phần làm rạng danh truyền thống quê hương như: Đỗ Trình Thoại, Đặng Khánh Tình, Lớn Hiền, Nguyễn Thành Chung, Đặng Công Khả, Đặng Vương Tá... Chi bộ An nam Cộng sản Đảng đầu tiên của tỉnh Gò Công cũ được thành lập ngày 16 tháng 8 năm 1929 tại chùa Ông Vạn Bửu Phật đường, làng Vĩnh Lợi (nay là thị trấn Vĩnh Bình, Gò Công Tây).

Trong sự nghiệp cách mạng từ 1930 - 1975, Đảng bộ và quân dân huyện Gò Công Tây đã dũng cảm chiến đấu, hy sinh trước mọi thử thách. Do địa bàn huyện là nơi kẻ thù chọn làm trọng điểm bình định, bộ máy chính quyền của địch kìm kẹp rất hà khắc; địa hình trống trải lại bị ngăn cách với các địa phương bởi hệ thống sông và kinh rạch lớn, xa quân khu..., nên mỗi lần địch tập trung lực lượng chà xát ác liệt, nhiều tổ chức Đảng và đảng viên, cơ sở cách mạng bị tổn thất nặng. Tuy vậy, phong trào cách mạng của Đảng bộ và quân dân trong huyện lúc nào cũng được duy trì, khi có thời cơ là bừng dậy quật khởi mãnh liệt. Tiêu biểu là cuộc nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền từ ngày 21 đến 24 tháng 8 năm 1945; chiến thắng Long Thạnh (18-2-1947); chiến thắng Đông Xuân 1953 - 1954, chỉ trong một đêm, quân và dân trong huyện đã bức rút, bức hàng 23 đồn bót dịch; cuộc đồng khởi nổi dậy (1960 - 1961); chiến thắng Đồng Sơn (1972)...

Qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, huyện đã được Nhà nước phong tặng 124 bà mẹ Việt Nam Anh hùng; toàn huyện có 2.533 liệt sĩ, 337 thương bệnh binh; gần 1500 gia đình có công với nước, 3850 huân - huy chương các loại, có 4 xã được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Bên cạnh đó, còn có sự đóng góp quý báu về sức người sức của của hàng chục ngàn quần chúng cách mạng. Nhiều liệt sĩ tiêu biểu góp phần làm nên thắng lợi vĩ đại của dân tộc, sống mãi trong tâm trí nhân dân như Cao Văn Kỳ, Nguyễn Thị Bờ, Võ Văn Ry, Nguyễn Thị Thậm, Đặng Thị Tịnh...

Gần 30 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc kể từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Đảng bộ và quân dân huyện Gò Công Tây đã phát huy truyền thống cách mạng xây dựng xã hội mới. Nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, độc canh cây lúa một vụ một năm, năng suất thấp tồn tại hàng trăm năm trước, đã được chuyển đổi sang phương thức thâm canh, xen canh 2-3 vụ lúa, một vụ màu. Chương trình "ngọt hóa Gò Công" đã nâng diện tích gieo trồng tăng gấp 3 lần so với ngày đầu giải phóng, sản lượng lương thực tăng gấp 4 lần so với ngày tái thành lập huyện (30/4/1975). Chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi và khai thác thủy - hải sản phát triển mạnh, chiếm trên 25% giá trị sản xuất nông nghiệp. Các ngành công nghiệp - tiểu thủ công, thương mại, dịch vụ tiến bộ vượt bậc. Phúc lợi xã hội được đầu tư đúng mức, đến nay đã có 100 % xã, thị trấn có điện lưới quốc gia với gần 90 % hộ nhân dân sử dụng điện. Mạng điện thoại phủ khắp các địa bàn dân cư với một bưu điện trung tâm và 4 bưu cục, lắp đặt hơn 1.500 máy. Các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, quốc phòng, an ninh phát triển mạnh cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Huyện không còn hộ đói, số nghèo giảm từ 60% (1975) xuống dưới 10% trong năm 2000; số hộ đủ ăn, khá và giàu ngày một tăng, đời sống vật chất - tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt.

Chính sách đền ơn đáp nghĩa, chủ trương"xóa đói giảm nghèo; phong trào xây dựng ấp văn hóa, xã văn hóa; chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa... đã và đang trở thành động lực to lớn của Đảng bộ và quân dân Gò Công Tây. Cùng với thành tựu kinh tế - xã hội, hệ thống chính trị các cấp không ngừng được củng cố và trưởng thành, phục vụ ngày công tốt hơn các quyền lợi của nhân dân.

Về văn hoá và du lịch, Gò Công Tây có những di tích quan trọng như: khu gia mộ họ Huỳnh, quần thể kiến trúc mộ khá độc đáo, thuộc ấp Lợi An, xã Đồng Thạnh; miếu thờ Chưởng cơ Mai Tấn Huệ tại xã Bình Tân; Đồng Sơn đình trung, Đồng Sơn đình thị,... Điểm tham quan du lịch có cù lao Tân Thới, nơi có đặc sản mắm còng, chợ Giồng với món bánh vá nổi tiếng.

Môi trường sinh thái đa dạng (vùng ngọt hóa và vùng ngoài ngọt hóa), nguồn nhân lực dồi dào có trình độ học vấn và những truyền thống quý báu, đó là tiềm năng thế mạnh quan trọng của huyện Gò Công Tây để vươn tới mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh ".

CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH THUỘC HUYỆN GÒ CÔNG TÂY

THỊ TRẤN VĨNH BÌNH

Gồm các ấp: Đông, Tây, Thượng, Hạ, Bắc, Bình Hưng.

Thôn Vĩnh Lợi vào đời Gia Long thuộc tổng Hòa Bình, đến năm 1836 thuộc tổng Hòa Đồng và đến đời Tự Đức thuộc tổng Hòa Đồng Hạ.

Trước Cách mạng tháng Tám, Vĩnh Lợi thuộc tổng Hòa Đồng Trung, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Pháp là xã Vĩnh Lợi, huyện Hòa Đồng, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta đặt là xã Vĩnh Bình, huyện Hòa Đồng; chính quyền VNCH đặt xã Vĩnh Bình, quận Hòa Đồng, tỉnh Gò Công.

Là trung tâm của huyện, có tỉnh lộ 872 đi qua, dài khoảng 2 km; đông giáp xã Thạnh Trị; tây giáp xã Thạnh Nhựt; nam giáp xã Long Vĩnh và xã Vĩnh Hựu; bắc giáp xã Đồng Thạnh, Bình Nhì.

Diện tích tự nhiên 763 ha: thổ cư 74 ha, trồng lúa 570 ha, vườn cây ăn trái 167 ha, nuôi trồng thủy sản 34 ha.

Dân số: 13.443 nhân khẩu (2.751 hộ); trong đó, nam 6.654, nữ 6.789, người Kinh 13.267, người Hoa 174, người Khơme 2; người theo Phật giáo 334, Công giáo: 203, Cao Đài: 671. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,26%, tử 0,24%; số người di cư 119, nhập cư 84.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp; nghề phụ: tiểu thủ công, dịch vụ và buôn bán nhỏ. Trong những năm qua, kinh tế của xã khá ổn định, số hộ giàu, khá, trung bình là 2.101, cận nghèo 480, nghèo 170.

Qua xã có Quốc lộ 50 dài hơn 4 km, tỉnh lộ 872 chiều dài khoảng 2 km; hương lộ 7 dài 1 km, hương lộ 12 khoảng 2 km; mạng lưới sông, rạch, cầu cống... có kênh Vàm Giồng dài hơn 4 km; cầu Trung tâm thị trấn Vĩnh Bình; kênh An Thạnh Thủy; chợ thị trấn Vĩnh Bình họp hàng ngày từ sáng đến chiều có khoảng 3.000 người.

Hiện tại, trường mẫu giáo Măng Non nằm ở thị trấn do huyện quản lý có 15 phòng, 307 cháu; trường mẫu giáo thị trấn có 13 phòng, 430 học sinh; trường tiểu học gồm 2 trường Vĩnh Bình 1 có 15 phòng học, 6 phòng chức năng với 467 học sinh, Vĩnh Bình 3 có 19 phòng học và 826 học sinh; trường trung học cơ sở Vĩnh Bình 2 có 19 phòng học và 9 phòng chức năng, 1.650 học sinh; trường THPT Vĩnh Bình có 34 phòng học, 2.040 học sinh. Thị trấn còn có 1 trung tâm giáo dục thường xuyên gồm 6 phòng học và 249 học sinh.

Trạm y tế có 1 bác sĩ và 5 nhân viên.

Toàn xã có mẹ Việt Nam Anh hùng Huỳnh Thị T hanh, 116 liệt sĩ, 40 thương binh, 3 gia đình có công với nước, 27 huân chương của tập thể và cá nhân; đặc biệt thị trấn được Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương Lao động hạng III thời kỳ đổi mới.

Chi bộ thị trấn Vĩnh Bình thành lập năm 1978 với 10 đảng viên, hiện nay có 102 đảng viên. Cùng thành lập năm 1975 là các tổ chức: MTTQVN thị trấn, Đoàn TNCSHCM, Hội Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân, UBND; Hội Cựu chiến binh được thành lập năm 1991.

XÃ BÌNH NHÌ

Gồm các ấp: Bình Hòa Long, Bình Đông Trung, Bình Hòa Đông.

Thôn Bình Phục Nhì đời Gia Long thuộc tổng Hòa Bình. Đến đời Thiệu Trị lập thêm làng Bình Phước. Ngày 31.3.1885, Bình Phước nhập vào Bình Phục Nhì, thuộc tổng Hòa Đồng Thượng.

Trong kháng chiến chống Pháp, ta đặt Bình Phục Nhì thuộc huyện Tân Hòa, tỉnh Định Tường; chính quyền thực dân Pháp đặt Bình Phục Nhì thuộc huyện Tân Hòa, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, Bình Phục Nhì, huyện Tân Hoà, tỉnh Định Tường; chính quyền VNCH đặt Bình Phục Nhì thuộc quận Tân Hoà, tỉnh Định Tường.

Nằm ở phía tây huyện; đông giáp xã Đồng Thạnh; tây giáp xã Bình Phục Nhứt, huyện Chợ Gạo; nam giáp thị trấn Vĩnh Bình; bắc giáp xã Đồng Sơn. Diện tích tự nhiên 1.344, 3639 ha.

Dân số: 12.219 nhân khẩu (2497 hộ); trong đó, nam 5.887, nữ 6.332; Tôn giáo: Phật giáo 226 người, Tin Lành 66, Cao Đài 238. Tỉ lệ sinh năm 2004 là 1,44%, tử 0.34%; số người di cư 25, nhập cư 77.

Ngành nghề sản xuất chính: nông nghiệp; nghề phụ: tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, buôn bán... Trong những năm qua, đời sống vật chất của nhân dân được cải thiện, tỉ lệ hộ giàu, khá ngày càng tăng, tỉ lệ hộ nghèo giảm đáng kể, hiện chỉ còn 65 hộ nghèo.

Qua xã có Quốc lộ 50, dài 5 km; tỉnh độ dài 5 km..; Hệ thống cầu, cống,... có cầu Giếng Nước, cầu lộ số 7, cầu lộ số 6, cầu Ao Dâu, cầu lộ số 4, cầu lộ Đình; cống kinh N5, cống kinh T4, cống kinh T5, cống kinh N4...

Trường mẫu giáo với cơ sở vật chất thiếu thốn, phòng học còn vách lá, có 16 lớp, 386 cháu; trường tiểu học k hang trang, 31 lớp, 896 học sinh; trường Trung học phổ thông bán công Vĩnh Bình có cơ sở vật chất đáp ứng cơ bản nhu cầu dạy và học, 6 lớp, 703 học sinh.

Trạm y tế xã có 1 bác sĩ, 3 y sĩ, 1 y tá, 1 hộ lý.

Xã có mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị Châu ở ấp Bình Hoà Long, 141 liệt sĩ, 16 thương binh, 54 gia đình có công với nước.

Chi bộ xã thành lập năm 1954; MTTQVN xã thành lập vào năm 1961; Đoàn TNCSHCM xã thành lập năm 1971; Hội PNVN thành lập năm 1970, có 41 hội viên. Hội CCB được thành lập vào tháng 3-1990, có 62 hội viên. Hội nông dân xã thành lập năm 1967, có 38 hội viên. HĐND xã được thành lập vào tháng 4-1975, hiện có 25 đại biểu. UBND xã thành lập tháng 4-1979.

XÃ BÌNH PHÚ

Gồm các ấp: Bình Phú, Bình Khánh, Thọ Khương.

Nguyên đời Gia Long có 2 làng Bình Phú Đông và Bình Hưng thuộc tổng Hòa Bình. Đến đời Tự Đức, Bình Hưng đổi thành Bình Lạc thuộc tổng Hòa Đông Thượng. Ngày 24.2.1886, làng Bình Lạc nhập vào Bình Phú Đông. Làng Phú Xuân lập ngày 5.12.1873 đến ngày 31.12.1885 cũng nhập vào Bình Phú Đông.

Trước Cách mạng tháng Tám, Bình Phú Đông thuộc tổng Hoà Đồng Thượng tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Pháp, ta đặt xã Bình Phú Đông, huyện Tây; chính quyền thực dân Pháp đặt xã Bình Phú Đông thuộc tổng Hòa Đồng Thượng tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta đặt xã Bình Phú Đông, huyện Hòa Đồng; Chính quyền VNCH đặt xã Bình Phú Đông, quận Hòa Đồng.

Nằm ở phía bắc huyện, về xã đi theo hương lộ 13 khoảng 10 km; đông giáp xã Bình Xuân, huyện Gò Công Đông; tây giáp xã Đồng Thạnh và xã Đồng Sơn; nam giáp xã Đồng Thạnh và xã Thành Công; bắc giáp sông Tra và tỉnh Long An.

Diện tích tự nhiên 1.303,2 ha: thổ cư 153,61 ha, trồng lúa 1.121 ha, nuôi thủy sản 24,12 ha.

Dân số: 8.021 nhân khẩu (1.168 hộ); trong đó, nam 3.823, nữ 4.198. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,38%, tử 0,14%; người di cư 106, nhập cư 163.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp; nghề phụ: tiểu thủ công nghiệp, chăn nuôi, xây dựng, may mặc. Bình Phú là 1 xã vùng sâu nhưng kinh tế khá ổn định, toàn xã hiện chỉ còn 98 hộ nghèo, chiếm 2,53%.

Qua xã có hương lộ 13 dài 3 km; Sông, rạch, cầu cống có sông Tra dài khoảng 3,5 km; 9 cầu bê tông cốt thép; 6 cống kiên cố; Chợ ở trung tâm xã họp vào buổi sáng mỗi ngày.

Xã có 1 trường mẫu giáo 8 phòng học, 6 lớp được xây dựng kiên cố, 176 cháu; trường tiểu học có 15 phòng học, 26 lớp được xây dựng kiên cố, 752 học sinh.

Trạm y tế xã đạt chuẩn Quốc gia; hiện có 1 bác sĩ, 2 y sĩ và 2 nhân viên.

Xã Bình Phú có 8 bà mẹ Việt Nam Anh hùng: Dương Thị Giỏi, Ngô Thị Chẩn, Nguyễn Thị Gần, Ngô Thị Báo, Nguyễn Thị Nỡ, Nguyễn Thị Nguyệt, Trần Thị Tư, Đỗ Thị Liên; 166 liệt sĩ, 13 thương binh, 4 lão thành cách mạng, 61 gia đình có công với nước.

Chi bộ xã được thành lập tháng 4-1979, hiện có 94 đảng viên.

XÃ BÌNH TÂN

Gồm các ấp: Thuận Trị, Thạnh Lợi, Lợi An, Xóm Thủ, Hòa Thạnh. Trước Cách mạng tháng Tám, đây là l. Tân Cương thuộc tổng Hòa Đồng Hạ, tỉnh Gò Công.

Nguyên thủy đời Gia Long có 3 làng Vĩnh Thạnh, Tân Long và Tân Cương thuộc tổng Hòa Bình, đến đời Thiệu Trị thuộc tổng Hòa Đồng Hạ. Ngày 31.10.1873, cắt đất của hai làng Bình Luông Tây và Bình Luông Đông ra lập làng Bình Luông Trung.Tiếp theo, ngày 31.3.1885, làng Tân Long nhập vào Bình Luông Trung. Năm 1936, hai làng Tân Cương và Bình Luông Trung thuộc tổng Hòa Đồng Hạ. Đến năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm nhập hai làng nầy lại lấy tên là Bình Tân, thuộc tổng Hòa Đồng Hạ.

Nằm ở phía đông huyện; đông giáp xã Bình Nghị, huyện Gò Công Đông; tây giáp xã Long Bình; nam giáp sông Cửa Tiểu; bắc giáp xã Long Hòa, thị xã Gò Công. Diện tích tự nhiên 1.379, 52 ha: thổ cư 41,58 ha, trồng lúa 1065,14 ha, vườn cây 273,05 ha.

Dân số: 10.823 nhân khẩu (2.379 hộ); trong đó, nam 5.274, nữ 5.549; người Kinh 10.807, người Hoa 15, người Khơme 1; Tôn giáo: Phật giáo 115 người, Công giáo 3, Tin Lành 24, Cao Đài 222. Tỷ lệ sinh năm 2004: 1,56; tỷ lệ chết năm 2004: 0,23%.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp; nghề phụ chăn nuôi, thủ công.

Qua xã có tỉnh lộ 877 dài 6 km, hương lộ 11 dài 5 km...sông Cửa Tiểu dài 5 km; Cầu cống có cầu Bình Tân và cầu Xóm Thủ...

Hiện toàn xã có 6 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 168 liệt sĩ, 18 thương binh, 60 gia đình có công với nước.

Chi bộ xã thành lập tháng 4/1979; năm 1993 nâng lên thành Đảng bộ 2 cấp, hiện có 83 đảng viên.

XÃ ĐỒNG THẠNH

Gồm các ấp: Lợi An, Thạnh Phú, Thạnh Hưng, Hòa Bình, Hòa Thạnh, Thạnh Lạc.

Xã mới được thành lập từ tháng 4-1979.

Nằm ở phía bắc của huyện, về xã đi theo tỉnh lộ 872 và tỉnh lộ 21 khoảng 4 km; đông giáp xã Thành Công, Thạnh Trị; tây giáp xã Bình Nhì; nam giáp thị trấn Vĩnh Bình; bắc giáp xã Đồng Sơn.

Diện tích tự nhiên 1.546 ha: thổ cư 61,62 ha, trồng lúa 1.138,83 ha, nuôi thủy sản 6,92 ha.

Dân số: 11.590 nhân khẩu (2.273 hộ); trong đó, nam 5.580, nữ 6.010; người Kinh 11.569, người Hoa 21; người theo Phật giáo: 2.655, Công giáo: 81,Tin Lành: 48, Hoà Hảo: 3. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,39 %, tử 0,11 %; số người di cư 71, nhập cư 60.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp; nghề phụ: xay xát, chăn nuôi. Qua 20 năm đổi mới, đời sống kinh tế của xã ngày càng nâng cao, số hộ khá giàu ngày một tăng, số hộ nghèo chỉ còn 109 hộ.

Qua xã có Quốc lộ 50 dài 2,5 km; tỉnh lộ 21 dài 4 km; huyện lộ 13 dài 3 km. Sông, rạch, cầu, cống có rạch Hưu dài 1,7 km; 9 cầu được xây dựng kiên cố và bán kiên cố; 3 cống được xây dựng bằng bê tông cốt thép; 2 chợ ở ấp Lợi An và Thạnh Phú họp vào buổi sáng mỗi ngày.

Trường mẫu giáo có 8 phòng học, 272 cháu; có 2 trường tiểu học, gồm 37 lớp, 1.032 học sinh; trường THCS được xây dựng kiên cố, có 35 lớp, 1.442 học sinh.

Trạm y tế xã có 1 phòng khám đa khoa, 1 bác sĩ, 2 y sĩ và 3 nhân viên y tế.

Hiện toàn xã có 64 liệt sĩ, 19 thương binh, 6 lão thành cách mạng, 1 gia đình có công với nước.

Chi bộ Đảng xã Đồng Thạnh được thành lập tháng 4-1979. Đảng bộ xã Đồng Thạnh hiện có 11 chi bộ trực thuộc, 104 đảng viên.

XÃ ĐỒNG SƠN

Gồm các ấp: Thạnh Thới, Bình Trinh, Khương Thọ, Ninh Đồng.

Đời Thiệu Trị và Tự Đức có hai làng Đồng Sơn và Trường Xuân thuộc tổng Hòa Đồng Thượng. Ngày 31.3.1885, làng Trường Xuân nhập vào Đồng Sơn.

Trước Cách mạng tháng Tám, Đồng Sơn, thuộc tổng Hòa Đồng Thượng, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Pháp, xã Đồng Sơn thuộc huyện Tây, tỉnh Gò Công; chính quyền thực dân Pháp đặt xã Đồng Sơn thuộc tổng Hoà Đồng Thượng, quận Hoà Đông, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Đồng Sơn thuộc huyện Tây, tỉnh Gò Công; chính quyền VNCH đặt xã Đồng Sơn thuộc quận Hoà Đồng, tỉnh Gò Công.

Nằm ở phía bắc huyện; đông giáp xã Bình Phú; tây giáp xã Quơn Long, huyện Chợ Gạo; nam giáp xã Bình Nhì; bắc giáp xã T hanh Vĩnh Đông, huyện Châu Thành, tỉnh Long An.

Diện tích tự nhiên 1.448 ha: thổ cư 66 ha, trồng lúa 929 ha, vườn cây 160 ha, nuôi trồng thuỷ sản 59 ha, chưa k hai thác 234 ha.

Dân số: 10.820 nhân khẩu (2.144 hộ); trong đó, nam 5.231, nữ 5.589; người Kinh 10.649, người Hoa 168, người Khơme 3. Tôn giáo có: Phật giáo 147 người, Cao Đài: 745. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,85%, tử 0,43%. Số người di cư 119, nhập cư 102.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp; nghề phụ: đan lưới, dệt thảm, dịch vụ, thương mại... Trong những năm gần đây, kinh tế của xã phát triển ổn định, nhất là sau 20 năm đổi mới, hiện còn 119 hộ nghèo (chiếm 5,5%), 714 hộ giàu (chiếm 30%), hộ trung bình khá là 1.311 hộ

Qua xã có tỉnh lộ 21 dài 850 m; đường liên xã có lộ bia chiến thắng dài 2,2 km và lộ đê sông Tra dài 5,8 km, lộ Ninh Đồng B dài 1,2 km. Sông, rạch, cầu cống... có kinh Chợ Gạo dài 6,7 km, rạch Tràm dài 2,8 km, rạch Hưu dài 3 km; cầu Chùa, cầu rạch Bà Trung, cầu Ông Nhàn; cống số 2; bến đò chợ Dinh qua Thanh Vĩnh Đông, bến đò Ninh Đồng ngang qua kinh Chợ Gạo.

Chợ Dinh ở ấp Thạnh Thới, ngày họp chợ vào sáng, hàng hoá phong phú, đặc biệt là những món ăn hải sản.

Trường mẫu giáo có cơ sở vật chất đảm bảo với 9 lớp, 208 cháu; trường Tiểu học với 31 lớp, 886 học sinh; trường Trung học cơ sở có 561 học sinh; trường trung học phổ thông có 280 học sinh; trường dạy nghề có 57 học sinh.

Trạm y tế có 1 bác sĩ, 3 y sĩ, 1 y tá, 1 hộ lý.

Toàn xã có 7 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 323 liệt sĩ, 14 thương binh, 31 lão thành cách mạng, 223 gia đình có công với nước, 479 huân chương của tập thể và cá nhân.

Năm 1962, Chi bộ xã được thành lập với 46 Đảng viên, đến năm 1986 thành lập Đảng bộ 2 cấp có 42 đảng viên, đến nay có 101 đảng viên.

XÃ LONG BÌNH

Gồm 8 ấp: Quới An, Long Hải, Hoà Phú, Khương Ninh, Thới Hoà, Long Thới, Ninh Quới, Phú Trung.

Trước Cách mạng tháng Tám, làng Bình Luông Đông thuộc tổng Hoà Đồng Hạ, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Pháp, xã Bình Luông Đông thuộc quận Hòa Đồng, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Bình Luông Đông thuộc quận Hoà Đồng, tỉnh Gò Công.

Nằm ở phía đông nam huyện; giáp xã Bình Tân; tây giáp xã Long Vĩnh; nam giáp sông Cửa Tiểu; bắc giáp xã Thạnh Trị.

Diện tích tự nhiên 15.099.880m2: thổ cư 542.414m2, trồng lúa 12.294.219m2, nuôi trồng thuỷ sản 35.549m2, chưa khai thác 145.024m2.

Dân số: 14.539 nhân khẩu (3.011 hộ); trong đó, nam 6.476, nữ 8.063; người Kinh 13.097, người Hoa 60, người Khơme 1, dân tộc khác 1. Hộ theo Phật giáo 44, Công giáo: 500, Tin Lành: 11, Cao Đài: 825. Năm 2004 số người di cư 158, nhập cư 214.

Ngành nghề chính là trồng trọt và chăn nuôi; nghề phụ: sửa chữa điện tử, dịch vụ... Hiện nay, 80% dân số sống bằng nghề nông, thu nhập bình quân đầu người từ 3 đến 5 triệu đồng/năm, tốc độ tăng trưởng bình quân 6,64%, cơ cấu trồng trọt chiếm tỉ trọng 73,73%, chăn nuôi 16,3% và thủy sản chiếm 9,94%. Toàn xã có 85 hộ nghèo loại A, 375 hộ nghèo loại B chiếm tỉ lệ 12,27%, 1.363 hộ khá trở lên chiếm 44,9%.

Qua xã có tỉnh lộ 877 dài 5 km, huyện lộ 9 ,10,11 dài 10 km, đường liên xã giáp Long Vĩnh dài 10 km. Sông rạch, cầu cống... có sông Cửu Tiểu, rạch sáu Thoàn, cầu kinh 14; bến phà Tân Long...Chợ Long Bình ở trung tâm xã thuộc ấp Hòa Phú, họp hàng ngày từ sáng đến chiều, đủ các loại hàng hoá; Chợ ở ấp Long Thới và chợ ngã ba ấp Quới An, họp từ sáng sớm đến 10 giờ.

Các ấp đều có trường mẫu giáo. Trường tiểu học Long Bình 3 đạt chuẩn Quốc gia và Long Bình 2 (đang xây dựng kiên cố); Trường Trung học cơ sở Long Bình đạt chuẩn Quốc gia; Trường Trung học phổ thông Long Bình đạt chuẩn Quốc gia.

Hiện toàn xã có 3 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 76 liệt sĩ, 26 thương binh, 6 lão thành cách mạng, 291 gia đình có công với nước.

XÃ LONG VĨNH

Gồm các ấp: Hưng Hòa, Thới An B, Thới An A, Vĩnh Quới và ấp Phú Quới.

Trước Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ, cả đều gọi là xã Vĩnh Viễn. Sau năm 1975, ta đổi lại là Long Vĩnh.

Nằm ở phía nam huyện, về xã đi theo tỉnh lộ 872 khoảng 7 km: đông giáp xã Long Bình; tây giáp xã Vĩnh Hựu; nam giáp xã Tân Phú; bắc giáp thị trấn Vĩnh Bình.

Diện tích tự nhiên 1.221 ha: thổ cư 43,99 ha, trồng lúa 850,36 ha, vườn cây 184,65 ha, nuôi thủy sản 2,61 ha, chưa khai thác 40,39 ha.

Dân số: 9.054 nhân khẩu (1855 hộ); trong đó, nam 4.301, nữ 4.753, người Kinh 9.049, người Hoa 5; người theo Phật giáo 163, Công giáo: 3, Tin Lành: 3, Cao Đài: 127. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,37 %, tử 0,12 %; người di cư 77, nhập cư 57.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp, nghề phụ: buôn bán nhỏ, hồ, mộc. Công nghiệp, thương mại, dịch vụ có bước phát triển nhưng chiếm tỷ trọng còn thấp, hộ nghèo còn 4,6%, còn lại là hộ trung bình trở lên.

Qua xã có tỉnh lộ 872 dài khoảng 8 km; đường liên xã dài 10 km; Mạng lưới sông, rạch, cầu cống... có sông Cửa Tiểu dài 2 km; cầu Kênh 14; 3 cống kiên cố; bến đò ngang Lồ ồ ở ấp Phú Quới.

Trường mẫu giáo có 7 phòng học, 7 lớp, 178 cháu; trường tiểu học có 17 phòng 21 lớp, 616 học sinh.

Trạm y tế xã đạt chuẩn Quốc gia, có 1 bác sĩ, 1 y sĩ, 2 nhân viên; các tổ chức chăm sóc sức khỏe cộng đồng có hội chữ thập đỏ, ban dân số - gia đình - trẻ em.

Xã có 8 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 171 liệt sĩ, 14 thương binh, 1 lão thành cách mạng, 53 gia đình có công với nước, 143 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ Đảng xã Long Vĩnh thành lập ngày 30/4/1979, hiện có 73 đảng viên. MTTQVN xã thành lập ngày 30/7/1979. Đoàn TNCSHCM xã có 91 đoàn viên và Hội LHTN Việt Nam có 192 hội viên; Hội PNVN có 1.035 hội viên; Hội CCB có 65 hội viên. Hội NDVN có 1.154 hội viên. HĐND xã có 27 đại biểu. UBND xã có 5 thành viên và 13 công chức.

CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH THUỘC HUYỆN GÒ CÔNG TÂY (tiếp theo)

XÃ PHÚ THẠNH

Gồm 7 ấp: Cả Thu 1, Cả Thu 2, ấp Giồng Keo, Kênh Nhiếm, Tân Phú, Bà Lắm, Bãi Bùn. Trước Cách mạng tháng Tám, đây là xã Phú Thạnh Đông thuộc tổng Hòa Đồng Hạ, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cả ta và địch đều gọi là xã Phú Thạnh Đông.

Nằm ở phía đông nam huyện, về xã đi theo tỉnh lộ 872 khoảng 15 km; đông giáp xã Phú Đông, h. Gò Công Đông; tây giáp xã Tân Phú; nam giáp sông Cửa Trung; bắc giáp sông Cửa Tiểu.

Diện tích tự nhiên 1.741 ha: thổ cư 307,2 ha, trồng lúa 997 ha, vườn cây 67,3 ha, nuôi trồng thủy sản 67,4 ha.

Dân số: 7.449 nhân khẩu (1.447 hộ); trong đó, nam 3.685, nữ 3.764; người theo Phật giáo 195, theo Tin Lành 2, theo Cao Đài 359; tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,32%, tử 0,24%; người di cư 46, nhập cư 41.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp; nghề phụ: chăn nuôi, mua bán vật liệu xây dựng, sửa chữa máy. Đời sống nhân dân trong xã còn nhiều khó khăn do đất nhiễm phèn mặn, Cơ sở hạ tầng chưa hoàn thiện. Tỉ lệ hộ nghèo còn chiếm hơn 20%.

Qua xã có tỉnh lộ 877b dài 3 km, huyện lộ 10 dài 1 km; mạng lưới sông, rạch, cầu cống... có sông Cửa Tiểu dài 5,5 km, sông Cửa Trung dài hơn 6 km, cống Rạch Mương, cống Bà Tài, cống Bà Lắm; bến phà Tân Long; Xã có 2 chợ: chợ Cả Thu, chợ Kinh Nhiếm.

Toàn xã có 2 bà mẹ Việt Nam Anh hùng là Lê Thị Thuyền và Nguyễn Thị Đê, 126 liệt sĩ, 20 thương binh.

Chi bộ Đảng xã Phú Thạnh thành lập ngày 30/4/1979, nay là Đảng bộ 2 cấp, có 74 đảng viên. MTTQVN xã thành lập tháng 4 năm 1979, hiện có 19 thành viên.

XÃ TÂN THẠNH

Gồm các ấp: Tân Hòa, Tân Lập, Tân Thành 1, Tân Thành 2, Tân Bình, và ấp Tân Đông. Xã được thành lập năm 2002.

Nằm ở phía nam huyện, về xã theo tỉnh lộ 872 khoảng 15 km; đông và nam giáp sông Cửa Đại, h. Bình Đại; tây giáp xã Tam Hiệp, h. Bình Đại, tỉnh Bến Tre; bắc giáp sông Cửa Trung và xã Tân Thới và xã Tân Phú.

Diện tích 2.237 ha tự nhiên: thổ cư 22,5 ha, trồng lúa 314 ha, vườn cây 603 ha, nuôi trồng thủy sản 115 ha, chưa khai thác 1.194 ha.

Dân số: 4.648 nhân khẩu (1.030 hộ); trong đó, nam 2.251, nữ 2.397; người Kinh 4.646, người Khơme 2; người theo Phật giáo 180, theo Công giáo 997; tỷ lệ sinh 2004 là 1,32%, tử 0,05%; người di cư 57, nhập cư 99.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp, nuôi thủy sản; nghề phụ: chăn nuôi. Tình hình kinh tế của xã trong những năm qua còn nhiều khó khăn do kết cấu hạ tầng xây dựng chưa hoàn thiện, sản xuất phát triển chậm, cả xã hiện nay còn 170 hộ nghèo.

Qua xã có tỉnh lộ 877B dài 18 km; huyện lộ 872B dài 2 km; đường liên xã dài 17 km; Sông, rạch, cầu, cống có sông Cửa Trung dài 18 km, sông Cửa Đại 20 km; 2 bến đò ngang từ xã Tân Phú, Tân Thới qua.

Xã có 2 lớp mẫu giáo, 1 trường tiểu học.

Trạm y tế có 1 y sĩ và 3 nhân viên.

Toàn xã có 24 liệt sĩ, 13 thương binh, 4 lão thành cách mạng, 2 gia đình có công với nước, 136 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ Đảng thành lập ngày 21-2-2002 với 38 đảng viên. Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam xã thành lập ngày 21/2/2002 gồm 21 thành viên và 6 tổ Mặt trận ấp. Đoàn TNCSHCM có 104 đoàn viên; 110 hội viên Hội Thanh niên, sinh hoạt trong 8 chi đoàn và 4 chi hội. Hội PNVN có 707 hội viên và 6 chi hội. Hội CCB có 56 hội viên và 6 chi hội. Hội nông dân có 6 chi hội ở 6 ấp và 742 hội viên. HĐND xã gồm 25 đại biểu chia thành 6 tổ ở 6 ấp. UBND có 5 thành viên và 12 cán bộ, công chức.

XÃ TÂN PHÚ

Gồm các ấp: Tân Ninh, Tân Thạnh, Tân Xuân, Tân An, Tân Thành. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cả ta và địch đều gọi là xã Tân Thới, nằm trên cù lao Phú Thạnh Đông.

Ngày 30.4.1979, xã Tân Thới được tách thành xã Tân Thới và xã Tân Phú.

Nằm ở phía nam huyện, về xã đi theo tỉnh lộ 877A khoảng 9 km; đông giáp xã Phú Thạnh; tây giáp xã Tân Thới; nam giáp sông Cửa Trung, xã Tân Thạnh; bắc giáp sông Cửa Tiểu, qua xã Long Bình.

Diện tích tự nhiên 1.813 ha: thổ cư 87,15 ha, trồng lúa 645 ha, vườn cây 579 ha, chưa k hai thác 32 ha.

Dân số: 8.791 nhân khẩu (1.905 hộ); trong đó, nam 4.216, nữ 4.675; người theo Phật giáo 204, theo Công giáo 70, theo Tin Lành 42, theo Cao Đài 167. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,32%, tử 0,35%.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp; nghề phụ: chăn nuôi.

Qua xã có tỉnh lộ 877B dài 8 km. Sông, rạch, cầu cống... có sông Cửa Tiểu, sông Cửa Trung đoạn qua xã dài gần 10 km; cầu Kinh Nhiếm, cầu Hai Sanh, cầu Cây Me; bến đò Rạch Vách. Chợ Rạch Vách và chợ Tân Xuân họp vào buổi sáng mỗi ngày, có khoảng 300 đến 400 người...

Trạm y tế xã có 1 phòng khám đa khoa khu vực, với 1 bác sĩ, 5 y sĩ, 3 y tá, 1 hộ lý.

Toàn xã có 7 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 184 liệt sĩ, 15 thương binh, 13 lão thành cách mạng, 79 gia đình có công với nước, 212 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ xã Tân Phú thành lập năm 1979, năm 1995 trở thành Đảng bộ 2 cấp với 10 chi bộ trực thuộc, hiện có 82 đảng viên. MTTQVN xã thành lập năm 1979, có 879 hội viên.

XÃ TÂN THỚI

Gồm các ấp: Tân Phú, Tân Quí, Tân Hưng, Tân Lợi, Tân Hiệp, Tân Bình, Tân Hương, Tân Định.

Trước khi thực dân Pháp chiếm đóng, thôn Hòa Thới thuộc quận Kiến Hòa, tỉnh Định Tường. Ngày 16.2.1867 đưa về huyện Tân Hòa, Gò Công. Trong kháng chiến chống Mỹ, cả ta và địch đều gọi là xã Tân Thới thuộc huyện Hòa Đồng.

Nằm ở phía nam của huyện; đông giáp xã Tân Phú, tây giáp sông Cửa Trung, nam giáp xã Tân Thạnh, bắc giáp xã Vĩnh Hựu.

Diện tích tự nhiên 2.138 ha: thổ cư 70,4 ha, trồng lúa 230 ha, vườn cây 1.441,4 ha, nuôi thủy sản 2,6 ha.

Dân số: 12.423 (2.801 hộ); trong đó, nam 6.145, nữ 6.278; người Kinh 12.421, người Hoa 2; Tôn giáo có: Phật giáo 394 người, Công giáo; 3.455, Tin Lành 11, Cao Đài 135. Tỷ lệ sinh các năm - 2000: 2,5%, 2001: 2,4%, 2002: 2,4%, 2003: 2%, 2004: 2,1%.

Ngành nghề chính là nông nghiệp; nghề phụ: tiểu thủ công nghiệp, chăn nuôi. Đời sống kinh tế của nhân dân trong xã được cải thiện rõ rệt sau là 20 năm đổi mới, chỉ còn 3,7% hộ nghèo.

Qua xã có tỉnh lộ 877B dài 17 km; sông Cửa Tiểu dài 20 km, sông Cửa Trung dài 18 km; Cầu Tân Hương, cầu Rạch Cầu, cầu Tân Bình thuộc loại kiên cố; bến phà Vàm Giồng.

Trạm y tế tương đối đủ trang thiết bị, có 8 phòng, 1 phòng lưu bệnh, 1 bác sĩ, 1 y sĩ và 3 nhân viên; 8 tổ y tế ở 8 ấp.

Hiện xã có Anh hùng LLVTND Võ Văn Hoài, 362 liệt sĩ, 27 thương binh, 27 lão thành cách mạng, 116 gia đình có công với nước, 152 huân chương của tập thể và cá nhân; đặc biệt, ông Ngô Thạch Hùng được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập.

Chi bộ Đảng của xã thành lập năm 1947, đến tháng 2/1994 được nâng lên thành Đảng bộ 2 cấp, có 6 chi bộ trực thuộc; hiện nay Đảng bộ xã có 13 chi bộ, 93 đảng viên.

XÃ THÀNH CÔNG

Gồm các ấp: ấp Thành Nhì, ấp Bình Hưng, ấp Thành Nhứt, ấp Bình Lạc, ấp Bình Nhựt.

Nguyên thủy đời Gia Long có 2 làng Vĩnh Lợi và Bình Công thuộc tổng Hòa Bình. Đời Tự Đức có 3 làng Vĩnh Lợi Bình Công và Bình Hòa. Ngày 31.3.1885, Bình Hòa nhập vào Bình Công. Ngày 6.11.1933, làng Bình Thành được đưa từ tổng Hòa Lạc Thượng về Hòa Đồng Trung. Đến năm 1957, Bình Công và Bình Thành nhập lại lấy tên là Thành Công.

Trong kháng chiến chống Pháp, cả ta và chính quyền Thực dân đều gọi đây là 2 xã Bình Thành và Bình Công thuộc tổng Hòa Đồng Trung, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta và chính quyền VNCH đều gọi là 2 xã Bình Thành và Bình Công thuộc quận Hòa Đồng.

Nằm ở phía đông bắc của huyện, về xã đi theo Quốc lộ 50 khoảng 9 km; đông giáp xã Long Chánh, thị xã Gò Công; tây giáp xã Thạnh Trị; nam giáp xã Yên Luông; bắc giáp xã Bình Xuân, huyện Gò Công Đông.

Diện tích tự nhiên 1.391,37 ha: thổ cư 40,092 ha, trồng lúa 835,63 ha, vườn cây 49,21 ha, nuôi trồng thủy sản 59,7 ha, chưa khai thác 153,20 ha.

Dân số: 6.812 nhân khẩu (1592 hộ); trong đó, nam 3.312, nữ 3500. Tôn giáo: đạo Cao Đài 102 người. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,60%, tử 0,25%. Di cư 45 người, nhập cư 83.

Ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp, nuôi tôm sú; nghề phụ: chăn nuôi.

Qua xã có Quốc lộ 50 dài 1,5 km; đường 873 dài 2,5 km; hương lộ 13 dài 2,5 km, hương lộ 14 dài 4,2 km; đường liên xã Cầu Đình dài 3,5 km. Sông, rạch, cầu, cống... có rạch Gò Gừa dài 4 km; cầu Tham Thu và cầu Gòn; cống Gò Gừa, Rầm Vé, Rạch Nâu, Rạch Tắc. Chợ Gò Gừa họp hàng ngày vào buổi sáng, có từ 200 đến 300 người.

Trường mẫu giáo có 8 phòng học kiên cố với 203 cháu; trường tiểu học có 18 phòng, 26 lớp, 700 học sinh; trường trung học cơ sở có 12 phòng, 20 lớp, 731 học sinh.

Toàn xã có 2 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 77 liệt sĩ, 14 thương binh, 10 gia đình có công với nước, 52 huân chương của tập thể và cá nhân.

Chi bộ Đảng xã thành lập ngày 30/4/1979, năm 1995 được nâng lên thành Đảng bộ 2 cấp gồm 9 chi bộ trực thuộc, 73 đảng viên. MTTQVN xã thành lập năm 1979, hiện có 21 thành viên. Đoàn TNCSHCM xã có 7 chi đoàn, 192 đoàn viên; Hội LHTNVN có 24 chi hội, 590 hội viên. Hội PNVN có 682 hội viên. Hội CCB hiện có 100 hội viên. Hội NDVN có 5 chi hội, 1.242 hội viên. HĐND xã có 26 đại biểu. UBND xã có 24 cán bộ công chức và 4 thành viên uỷ ban.

XÃ THẠNH NHỰT

Gồm 5 ấp: Bình Tây, Tân Thạnh, Thạnh Lạc Đông, Bình Đông, Bình Trung. Trước Cách mạng tháng Tám, đây là l. Thạnh Nhựt thuộc tổng Hòa Đồng Thượng, tỉnh Gò Công.

Nguyên thủy đời Minh Mạng là thôn Tân Nhựt thuộc tổng Hòa Đồng, đời Tự Đức thuộc tổng Hòa Đồng Thượng.

Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đều gọi là xã Thạnh Nhựt.

Nằm ở phía tây của huyện, từ huyện về xã đi theo tỉnh lộ 12B khoảng 4 km; đông giáp thị trấn Vĩnh Bình; tây giáp xã Bình Phục Nhứt, An Thạnh Thủy, huyện Chợ Gạo; nam giáp xã Bình Ninh, huyện Chợ Gạo; bắc giáp xã Bình Nhì.

Diện tích tự nhiên 1.742 ha: thổ cư 74,3 ha, trồng lúa 1.057 ha, vườn cây 450 ha, nuôi thủy sản 23 ha.

Dân số: 13.779 nhân khẩu (2.528 hộ); trong đó, nam 6.691, nữ 7.088; đều là người Kinh. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,95%, tử 0,11%; số người di cư 95, nhập cư 128.

Ngành nghề sản xuất chính của xã là nông nghiệp; nghề phụ: thủ công đan lát.

Qua xã có Quốc lộ 50, dài 6 km; đường huyện 12A, 12B dài 9 km; đường liên xã với 6 tuyến: đường Trâu, đường Cầu Ván, đường Bình Đông, An Phú, lộ 12B, 12B; mạng lưới sông, rạch, cầu cống... có sông Cầu Ngang; các cầu: Thạnh Nhựt, cầu Ngang, cầu Ván...

Xã có các chợ Bình Đông, Bình Tây, Thạnh Lạc Đông.

Số hộ giàu 2.196, nghèo loại A là 112, nghèo loại B là 220.

Xã có 13 lớp mẫu giáo với 372 em, có 1 nhà trẻ có 30 cháu; có 5 trường tiểu học với 963 học sinh; trường THCS có 31 lớp có 1.225 học sinh.

Trạm y tế có 2 bác sĩ, 2 y sĩ, 1 hộ sinh.

Toàn xã có 195 liệt sĩ 28 thương binh, 13 gia đình có công với nước, 293 huân chương và 32 bằng khen của tập thể, cá nhân.

Chi bộ Đảng đầu tiên của xã thành lập ngày 8-7-1946, với 5 đảng viên. Mặt trận Tổ quốc xã có 40 hội viên; Đoàn TNCSHCM có 245 đoàn viên; Hội PNVN có 1.033 hội viên; Hội NDVN có 1.016 hội viên; Hội CCB có 133 hội viên; HĐND xã có 21 đại biểu.

XÃ THẠNH TRỊ

Gồm các ấp: Thạnh Bình , Thạnh An, Thạnh Hoà Tây, Thạnh Hoà Đông, Thạnh Hiệp, Thạnh Phú, Thạnh Hưng, Thạnh Yên. Trước Cách mạng tháng Tám, đây gồm làng Vĩnh Trị và Vĩnh Thạnh, thuộc tổng Hoà Đồng Trung, quận Hoà Đồng, tỉnh Gò Công. Làng Vĩnh Trị được lập ngày 1.10.1883 trên cơ sở cắt bớt đất làng Vĩnh Hựu.

Trong kháng chiến chống Pháp, ta coi đây là 2 xã Vĩnh Yên, Vĩnh Công, thuộc huyện Tây, tỉnh Gò Công; chính quyền Thực dân đặt 2 làng Vĩnh Trị, Vĩnh Thạnh, thuộc tổng Hoà Đồng Trung, tỉnh Gò Công. Năm 1956, chính quyền VNCH nhập hai làng nầy lại lấy tên là Thạnh Trị và đặt xã nầy thuộc quận Hoà Đồng, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Mỹ, chính quyền cách mạng đặt xã Thạnh Trị thuộc huyện Tây, tỉnh Gò Công;

Nằm ở phía đông huyện, về xã đi theo huyện lộ 9 và Quốc lộ 50 khoảng 2 km; đông giáp xã Yên Luông; tây giáp thị trấn Vĩnh Bình; nam giáp xã Long Bình; bắc giáp xã Đồng Thạnh.

Diện tích tự nhiên 1.404,9 ha: thổ cư 449,41 ha, trồng lúa 1.197 ha, vườn cây 80,56 ha, nuôi trồng thủy sản 10 ha.

Dân số: 10.503 nhân khẩu (2.349 hộ); trong đó, nam 5.087, nữ 5.416. Số người di cư năm 2004 là 91, nhập cư 86.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp và chăn nuôi; nghề phụ: buôn bán nhỏ, dịch vụ sinh hoạt Bình quân lương thực đầu người trong xã là 1.550 kg lúa/ năm, còn 2,2% hộ nghèo.

Qua xã có Quốc lộ dài 3,2 km từ thị trấn Vĩnh Bình đến Yên Luông; hương lộ 7 dài 3 km, hương lộ 9 dài 3,2 km; đường liên xã Cầu Đình 2,2 km. Mạng lưới sông, rạch, cầu cống... có sông Vàm Giồng dài 3,2 km; kênh Tham Thu dài 3,2 km; kênh N8 dài 3,8 km; cầu Thạnh Trị, cầu Thạnh Hiệp; cống Bộ Bảng, cống N8; chợ Thạnh An...

Trường mẫu giáo xã đạt chuẩn Quốc gia có 11 lớp, 281 cháu; trường Tiểu học Thạnh Trị 1 với 13 lớp, 413 học sinh và Tiểu học Thạnh Trị 2 với 10 phòng, 5 phòng chức năng, 13 lớp, 399 học sinh; trường Trung học cơ sở Thạnh Trị có 850 học sinh.

Trạm y tế xã có 5 phòng, 4 giường, 1 bác sĩ, 4 y sĩ, 1 lương y; các tổ chức chăm sóc sức khoẻ cộng đồng: 8 tổ y tế ấp, 6 cộng tác viên.

Xã hiện có 3 bà mẹ Việt Nam Anh hùng Mai Thị Tiếng, Nguyễn Thị Ba và Võ Thị Sáu; 117 liệt sĩ, 17 thương binh, 5 lão thành cách mạng, 64 huân chương tập thể và cá nhân.

Tháng 5/1975, Chi bộ xã được thành lập và đến tháng 7/1993, thành lập Đảng bộ với 44 đảng viên. Hiện nay, Đảng bộ xã có 14 chi bộ, 95 đảng viên. MTTQVN xã thành lập năm 1975. Đoàn TNCSHCM hiện có 179 đoàn viên, 9 chi đoàn cơ sở; Hội LHTNVN có 317 hội viên; Hội PNVN có 729 hội viên; Hội CCB thành lập năm 1991, 102 hội viên; Hội NDVN có 1.996 hội viên HĐND xã thành lập năm 1977, hiện có 28 đại biểu.

XÃ VĨNH HỰU

Gồm các ấp: Hòa Bình, An Ninh, Thạnh Thới, Bình An, Phú Qúi.

Thôn Vĩnh Hựu đời Gia Long thuộc tổng Hòa Bình, năm 1836 thuộc tổng Hòa Đồng và đến đời Thiệu Trị, Tự Đức thuộc tổng Hòa Đồng Hạ.

Trước Cách mạng tháng Tám, xã thuộc tổng Hòa Đồng Trung, quận Hòa Đồng, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, xã thuộc huyện Tây, tỉnh Gò Công; chính quyền thực dân Pháp và chính quyền VNCH đặt xã Vĩnh Hựu, quận Hòa Đồng, tỉnh Gò Công.

Nằm ở phía nam huyện, về xã theo đường tỉnh lộ 872 và huyện lộ 7; đông giáp xã Long Vĩnh; tây giáp xã Bình Ninh, huyện Chợ Gạo; nam giáp sông Cửa Tiểu; bắc giáp thị trấn Vĩnh Bình.

Diện tích tự nhiên 1.885,295 ha: thổ cư 71,613 ha, trồng lúa 874,490 ha, vườn tạp 3,214 ha, vườn cây lâu năm 618,26 ha, nuôi trồng thủy sản 2,460 ha.

Dân số: 11.958 nhân khẩu (2.898 hộ); trong đó, nam 5.714, nữ 6.217; người Hoa 41; người theo Phật giáo 450, theo Công giáo 325, theo Tin Lành 35, theo Cao Đài 60. Số người di cư năm 2004 là 61, nhập cư 51.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp; nghề phụ: đan thảm, dệt chiếu, buôn bán nhỏ, thợ mộc, thợ hồ.

Qua xã có đường 872 dài 5 km, lộ 877A dài 4,5 km, lộ 7 dài 7,3 km, đường liên xã Ba Nò dài 2,7 km. Sông, rạch, cầu cống... có sông Cửa Tiểu dài 1,5 km; kinh 14 dài 3,1 km, kinh Vàm Giồng 4,5 km; cầu kinh 14, cầu Chợ Mới, cầu Cây Bưởi, cầu Ba Nò bằng xi măng cốt thép; cống Vàm Giồng; bến đò Vàm Giồng, Cá Chốt, Vạch Vách. Có hai ngôi chợ: Chợ kênh 14 và chợ Cá Chốt.

Hiện toàn xã có 57 hộ nghèo loại A, 241 loại B, 2.549 hộ khá, giàu.

Trường mẫu giáo có 7 lớp, 305 cháu; trường tiểu học với 3 điểm trường, 842 học sinh; trường THCS có 720 học sinh.

Trạm y tế có 1 bác sĩ, 2 y sĩ, 1 dược sĩ, 2 lương y.

Hiện xã có 19 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 323 liệt sĩ, 36 thương binh, 11 lão thành cách mạng, 4 gia đình có công với nước, 450 huân chương cá nhân, 28 huân chương tập thể; đặc biệt xã đã vinh dự được phong tặng danh hiệu anh hùng LLVTND năm 1976.

Tổ chức Đảng được thành lập trên địa bàn xã ngày 16-8-1929, là chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh Gò Công (tái lập năm 1944). Hiện nay, Đảng bộ xã có 11 chi bộ, 96 đảng viên.

XÃ YÊN LUÔNG

Gồm 4 ấp: Long Bình , Phú Quới, Thạnh Phong, Bình Cách.

Đời Tự Đức, làng Yên Luông Tây và Yên Luông Đông thuộc tổng Hòa Lạc Hạ. Ngày 31.10.1873, nhập vào tổng Hòa Đồng Thượng. Trước Cách mạng tháng Tám, Yên Luông Tây thuộc tổng Hòa Đồng Thượng, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Pháp, chính quyền thực dân Pháp đặt xã Yên Luông Tây, tổng Hòa Đồng Hạ; Ta đặt là xã Yên Luông Tây, huyện Tây, tỉnh Gò Công. Trong kháng chiến chống Mỹ, cả ta và địch đều gọi là xã Yên Luông Tây, huyện Hòa Đồng.

Nằm ở phía đông huyện; đông giáp xã Long Hòa, thị xã Gò Công; tây giáp xã Thạnh Trị; nam giáp xã Bình Tân; bắc giáp xã Thành Công.

Diện tích tự nhiên 1.038,80 ha: thổ cư 35,50 ha, trồng lúa 726,30 ha, vườn cây 105,40 ha, nuôi trồng thủy sản 10,20 ha, chưa k hai thác 18,85 ha.

Dân số: 6.855 nhân khẩu (1.477 hộ); trong đó, nam 2.397, nữ 3.458; người Kinh 1.471, người Hoa 6; người theo Phật giáo 397, theo Cao Đài 16, theo Tin Lành 6. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,25%, tử 0,29; số người di cư 97, nhập cư 76.

Ngành nghề chính là nông nghiệp; nghề phụ: thương mại, dịch vụ.

Qua xã có Quốc lộ 50 dài 4 km, hương lộ 7 dài 3,5 km; đường liên ranh xã Thạnh Trị dài 0,7 km; mạng lưới sông, ngòi... có sông Vàm Giồng dài 3,8 km; cầu Móng, cầu kinh số 2, số 3, và 4 cây cầu qua kênh T ham Thu; cống số 2 và cống Kênh Cùng.

Trạm y tế xã được trang thiết bị cơ bản, có 1 bác sĩ, 3 y sĩ, 1 hộ lý.

Toàn xã có 3 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 73 liệt sĩ, 4 thương binh, 5 lão thành cách mạng.

Chi bộ xã thành lập năm 1944; đồng chí Đỗ Thành Cẩn làm Bí thư, có 7 đảng viên. Đến tháng 7-1995, chi bộ nâng lên thành Đảng bộ 2 cấp gồm 9 chi bộ trực thuộc, 66 đảng viên.

9. HUYỆN TÂN PHƯỚC

Huyện Tân Phước có 1 thị trấn và 12 xã, nằm về phía bắc tỉnh Tiền Giang, cách trung tâm thành phố Mỹ Tho khoảng 25 km, ở sâu trong Đồng Tháp Mười, có diện tích tự nhiên là 333, 2 km2; đông giáp huyện Châu Thành - tỉnh Long An, tây giáp huyện Cai Lậy và tỉnh Long An, nam giáp Cai Lậy và Châu Thành, bắc giáp tỉnh Long An.

Ngày 11/7/1994 Thủ tướng Chính phủ ký Nghị định số 68/CP quyết định thành lập huyện Tân Phước có 13 đơn vị hành chính xã, thị trấn: xã Tân Hoà Thành, Tân Lập I, Tân Lập II, Phú Mỹ, Hưng Thạnh, Mỹ Phước, Phước Lập,Tân Hoà Đông, Tân Hoà Tây,Thạnh Hoà, Thạnh Tân, Thạnh Mỹ và thị trấn Mỹ Phước. Đất đai và dân số của huyện hầu hết là của các huyện lân cận tách ra gồm các xã Tân Lập, Mỹ Phước, Hưng Thạnh, Tân Hoà Thành, Phú Mỹ, Tân Hoà Đông, và một phần các xã Tân Lý Đông, Nhị Bình (huyện Châu Thành), xã Tân Hòa Tây, một phần của xã Mỹ Hạnh Đông và Nông trường Ấp Bắc... của huyện Cai Lậy chuyển sang.

Dân số tính đến thời điểm năm 2005 có: 53.540 người. Trong đó: 25.913 nam, 27.637 nữ. Mật độ 161 người/km2.

Phân bố địa bàn cư trú: Khu vực thị trấn, thị tứ 2.637 người, nông thôn 50.903 người.

Do phần lớn diện tích nằm trên phần trũng của vùng Đồng Tháp Mười nên đất đai bị nhiễm phèn rất nặng, hàng năm có 6 tháng khô và 6 tháng nước. Vào mùa khô thì không tìm đâu ra nước (nếu có cũng đặc quánh phèn), chỉ có một kinh lớn chạy suốt chiều dài phân chia 2 vùng nam-bắc của huyện là kênh Nguyễn Văn Tiếp và một đoạn kênh xáng Nguyễn Tấn Thành nối liền kinh Nguyễn Văn Tiếp với sông Tiền. Còn đến mùa nước nổi thì chìm ngập mênh mông, chỉ di chuyển được bằng xuồng, ghe. Vì vậy, toàn vùng chỉ có cây tràm, cà na, bình bát, năn, bàng. Tuy nhiên nơi đây rất giàu thuỷ sản và chim chóc, các loại cá đồng, rắn, rùa, trăn nhiều vô kể. Đến nay vẫn còn những địa danh gắn liền với chim, cá như Tràm Cá Sặc, Tràm Cá Bông, Tràm Quạ, Láng Cò ... Cùng với chim, cá là những loại thảo mộc đặc trưng của vùng nước phèn Tân Phước:

Về mặt lịch sử hình thành, một số xã vùng Tân Phước ngày nay định hình phần lớn là nhờ kinh Bà Bèo, kinh do Đô đốc Đặng Trấn của Tây Sơn đào năm Ất Tỵ (1785). Dân gian gọi là Bà Bèo vì khu vực này có ba cái bàu to là Bàu Sọ, Bàu Sấu và Bàu Bèo. Lâu ngày từ Bàu bèo nói trại ra thành Bà Bèo. Kinh Bà Bèo sau này giúp dân khai phá vùng đồng phèn, lập làng Mỹ Hạnh Đông (huyện Cai lậy) và các làng Mỹ Điền, Phước Lập, Hưng Thạnh, Phú Mỹ... thuộc huyện Tân Phước ngày nay.

Vùng đất Tân Phước từng là căn cứ địa vững chắc của Tỉnh uỷ, nơi ra đời tiểu đoàn 261 và căn cứ của nhiều đơn vị quân, dân chính, Đảng. Song Tân Phước cũng là vùng oanh kích tự do, là nơi hứng chịu những thủ đoạn chiến tranh tàn ác của quân thù. Chợ bán thịt người ở bến đò Phú Mỹ dưới thời Pháp thuộc đã gây nên bao nỗi kinh hoàng.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, chủ trương thực hiện chương trình khai hoang Đồng Tháp Mười của Tỉnh ủy đã được nhân dân đồng tình hưởng ứng. Sau 15 năm, từ một vùng đất hoang vu, phèn chua nắng cháy; lúa, khóm, khoai mỡ và các loại cây trồng khác đã đơm hoa kết trái, dân cư ngày thêm đông đúc. Đến nay, diện tích trồng lúa của Tân Phước lên đến 12.508 ha. Sản lượng đạt được trong năm 2004 là 64.841 tấn. Còn lại hầu hết là diện tích trồng khóm, khoai mỡ, đất lâm nghiệp....Trong đó, diện tích khóm chiếm khoảng 7.000ha. Giống khóm Cayene trái to, cho năng suất cao nên được nhà nông ưa chuộng. Một hecta khóm trong một vụ có thể cho lợi nhuận đến 10 triệu đồng, cao hơn lúa nhiều, nên khả năng mở rộng diện tích chuyên canh rất lớn. Hiện nay, diện tích cây khóm đang tăng dần.

Sau 10 năm xây dựng, tuy lũ lụt liên tiếp và còn nhiều khó khăn, nhưng Tân Phước không ngừng đổi mới. Đến nay, toàn huyện đã có: 12/13 xã có điện và đường ô tô từ huyện đến trung tâm xã, trong đó 1 tuyến đã trải nhựa, 11 tuyến trải đá. Về phúc lợi xã hội, huyện đã xây dựng được 14 cơ sở y tế, trong đó có 1 phòng khám và hộ sinh khu vực, 13 trạm y tế xã. Đội ngũ y bác sĩ có 115 người, trong đó có 30 bác sĩ, 51 y sĩ và kỹ thuật viên, 9 hộ lý... Hệ thống giáo dục phổ thông có 22 trường học từ bậc tiểu học đến trung học cơ sở.

Về di tích lịch sử và văn hóa, ngoài bến đò Phú Mỹ, Tân Phước có chùa Linh Phước bên cạnh kinh Bà Bèo, tại Hưng Thạnh Mỹ. Đó là một ngôi chùa cổ nổi tiếng, được xây dựng vào năm Giáp Thìn (1784), dân gian gọi là chùa Phật Đá. Trước kia trong chùa có thờ một tượng thần Vishnu (đạo Bà la môn của người Phù Nam) bằng đá sa thạch. Tượng rất đẹp và được trường Viễn Đông Bác Cổ xếp hạng. Chùa Phật Đá nằm bên kinh Bà Bèo, con đường huyết mạch thuở xưa nên được Thoại Ngọc hầu (lúc còn làm Trấn thủ hải khẩu Cửa Lấp) ghé qua và chủ trương trùng tu vào năm 1789.

Về du lịch, Tân Phước có khu bảo tồn sinh thái ở xã Thạnh Tân với diện tích hơn 100 ha rừng tràm cùng hệ động thực vật phong phú, đặc trưng cho hệ sinh thái Đồng Tháp Mười.

Các đơn vị hành chính thuộc huyện Tân Phước

THỊ TRẤN MỸ PHƯỚC

Có 4 khu phố: I, II, III và IV.

Nguyên là thôn Phước An thuộc tổng Kiến Thuận, đời Gia Long, đến năm 1836 thuộc tổng Hưng Nhơn. Năm 1863, Phước An đổi thành Phước Lộc. Năm 1913, nhập hai làng Mỹ Điền và Phước Lộc lấy tên là Mỹ Phước, thuộc tổng Hưng Nhơn. Ngày 25.10.1925, hai làng Hưng Thạnh và Mỹ Phước nhập lại lấy tên là Hưng Thạnh Mỹ.

Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi ấp Bà Bèo, xã Mỹ Phước, huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền thực dân Pháp đặt xã Hưng Thạnh Mỹ thuộc tổng Hưng Nhơn, quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta gọi ấp Bà Bèo, xã Mỹ Phước, huyện Châu Thành Bắc, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Hưng Thạnh Mỹ thuộc quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường. Sau 30-4-1975, thị trấn thuộc một phần của ấp Mỹ Đức xã Mỹ Phước, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang; từ 11/7/1994, là 1 trong 13 đơn vị hành chính cấp cơ sở trực thuộc huyện Tân Phước.

Nằm ở phía đông của huyện, về thị trấn đi theo tỉnh lộ 867, 865, khoảng 2km, đường 874 khoảng 1km; phía đông giáp xã Phước Lập; tây giáp xã Phước Lập và xã Mỹ Phước; nam giáp xã Phước Lập; bắc giáp xã Mỹ Phước.

Diện tích tự nhiên 279,39 ha: đất nông nghiệp 127,86 ha, đất lâm nghiệp 72,96 ha, đất chuyên dùng 28,29 ha, thổ cư 30,33 ha.

Dân số: 2.030 nhân khẩu (528 hộ); trong đó, nam 972, nữ 1.058; dân tộc Kinh khoảng 98%; Tôn giáo có: 11 người theo đạo Phật, 9 người theo đạo Cao Đài và 5 người theo đạo Thiên Chúa. Tỉ lệ tăng dân số năm 2004 là 3,1%, tỉ lệ tử 0,0019%.

Qua thị trấn có tỉnh lộ 867 chạy từ Quốc lộ 1A (ngã ba Long Định) vào thị trấn, dài 2 km; tỉnh lộ 865; tỉnh lộ 874; đường Kinh 5 (khu 4) liên xã Mỹ Phước - ấp Mỹ Thành - Mỹ Phước dài 2,5 km; đường Cà Dăm và kinh Cà Dăm (khu I); Kinh, rạch, cầu cống có: kinh Nguyễn Văn Tiếp, kinh Nguyễn Tấn Thành; cầu Bàu Bèo bắc qua kinh Nguyễn Văn Tiếp, cầu Lộ mới nằm trên tỉnh lộ 865 bắc qua kinh Lộ Mới.

Có 1 trường mẫu giáo với 4 lớp; 170 cháu, trường tiểu học đạt chuẩn Quốc gia có 14 lớp với 404 học sinh; Trường THPT Tân Phước, có 46 phòng học, năm 2002 có 1.052 học sinh, đến 2004 có 2.039 học sinhuyện

Trạm y tế có 1 y sĩ, 1 cán bộ y tế và 4 tổ y tế ở khu phố.

Trong kháng chiến chống Pháp, Mỹ đây là nơi đóng quân của Trung đoàn các 105, 307, 309 và Uỷ ban Hành chính Kháng chiến, nên thường xuyên bị địch càn quét...

Hiện nay, thị trấn có bà mẹ Việt Nam Anh hùng Đỗ Thị Tuất và một lão thành cách mạng tiền khởi nghĩa là ông Lê Văn Hy.

Tổ chức Đảng lúc mới thành lập có 16 đảng viên, đến năm 1996 có 31 đảng viên, hiện nay có 72 đảng viên trong 8 chi bộ trực thuộc. Cùng với MTTQVN thị trấn (thành lập tháng 8/1994) là các tổ chức Đoàn TNCSHCM, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binhuyện .. được thành lập cùng ngày.

XÃ HƯNG THẠNH

Gồm 3 ấp: Hưng Phú, Hưng Quới, Hưng Điền. Trước Cách mạng tháng Tám, địa bàn hiện nay được gọi là xã Hưng Thạnh Mỹ thuộc tổng Hưng Nhơn, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Trong kháng chiến chống Pháp, xã Hưng Thạnh thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền Thực dân đặt xã Hưng Thạnh Mỹ thuộc tổng Hưng Nhơn, quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Hưng Thạnh thuộc huyện Châu Thành Bắc, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền VNCH đặt xã Hưng Thạnh Mỹ thuộc quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường.

Nằm về phía đông của huyện, đường về xã theo tỉnh lộ 865 dài khoảng 11 Kỷ mùi; phía đông giáp xã Phú Mỹ; tây giáp xã Mỹ Phước; nam giáp xã Tân Lập II; bắc giáp xã Tân Hoà Đông.

Diện tích tự nhiên 3.348,75 ha: thổ cư 35,02 ha, đất trồng lúa 175ha, vườn cây 1.855 ha, nuôi trồng thuỷ sản 4 ha.

Dân số: 6.089 nhân khẩu (1.335 hộ); trong đó nam 3.006, nữ 3.083. Tôn giáo có đạo Phật 16 người, Tin Lành: 5, Cao Đài: 151. Tỉ lệ sinh năm 2004 là 1,45%, tử 0,45%; số người di cư năm 2004 là 34, nhập cư 62.

Ngành nghề sản xuất chính là nông nghiệp (trong đó cây khóm là cây chủ lực và mang lại hiệu quả kinh tế cao) nghề phụ: dịch vụ, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản. Mức sống tăng lên đáng kể từ cuối năm 2002; hiện nay, đa số là hộ khá và hộ giàu chỉ còn 20% hộ nghèo loại B, 10% loại A.

Qua xã có tỉnh lộ 865 dài khoảng 7 km và 3 tuyến đường giao thông huyện như: tuyến kinh Năng - Chín Hấn dài khoảng 6 km...; ngoài ra còn hơn 25 cầu. Hệ thống kinh mương đủ tưới tiêu và vận chuyển hàng hoá, như: kinh Nguyễn Văn Tiếp dài khoảng 7 km, kinh cống Bọng dài 3,5 km... 3 bến đò ngang qua kinh Nguyễn Văn Tiếp trong đó ấp Hưng Điền 2 bến, ấp Hưng Phú 01 bến.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, xã Hưng Thạnh là vùng căn cứ kháng chiến, nhiều đơn vị đóng quân như Tỉnh uỷ Mỹ Tho, Huyện ủy Châu Thành, các đơn vị bộ đội chủ lực và địa phương... Hiện toàn xã có 5 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 128 liệt sĩ, 26 thương binh, 6 vị lão thành cách mạng, 146 gia đình có công với nước.

XÃ MỸ PHƯỚC

Gồm 3 ấp: Mỹ Thành, Mỹ Đức, Mỹ Trường.

Nguyên là thôn Phước An thuộc tổng Kiến Thuận, đời Gia Long, đến năm 1836 thuộc tổng Hưng Nhơn. Năm 1863, Phước An đổi thành Phước Lộc. Năm 1913, nhập hai làng Mỹ Điền và Phước Lộc lấy tên là Mỹ Phước, thuộc tổng Hưng Nhơn. Ngày 25.10.1925, hai làng Hưng Thạnh và Mỹ Phước nhập lại lấy tên là Hưng Thạnh Mỹ.

Trong kháng chiến chống Pháp, ta gọi xã Mỹ Phước, huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền thực dân Pháp đặt xã Hưng Thạnh Mỹ thuộc tổng Hưng Nhơn, quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta gọi xã Mỹ Phước, huyện Châu Thành Bắc, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Hưng Thạnh Mỹ thuộc quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường. Từ 11.7.1994, tách một phần của ấp Mỹ Đức lập thị trấn Mỹ Phước.

Nằm ở phía đông bắc của huyện; đông giáp ấp Hưng Thạnh, xã Hưng Thạnh; tây giáp xã Tân Hoà Tây và thị trấn Mỹ Phước; nam giáp xã Phước Lập và Tân Lập II; bắc giáp xã Thạnh Tân (phía tây bắc), xã Thạnh Mỹ và xã Tân Hoà Đông.

Diện tích tự nhiên 3.896 ha: thổ cư 22 ha, trồng lúa 72 ha, vườn cây 50 ha, nuôi trồng thủy sản 4,8 ha, trồng tràm 1.315 ha, khóm 1757 ha, bạch đàn 299 ha.

Dân số: 2.702 nhân khẩu (657 hộ); trong đó, nam 1.362, nữ 1.340; hầu hết là người Kinh, người Hoa 1; Tôn giáo có: đạo Phật 5 người, Cao Đài: 30, Công giáo: 8, Tin Lành: 5.

Ngành sản xuất chính là nông nghiệp: trồng lúa, chăn nuôi gia súc, gia cầm; nghề đan đệm, đan giỏ, dịch vụ và mua bán... Hiện xã chỉ còn 18.08 % hộ nghèo, khoảng 10 % hộ giàu, còn lại là hộ trung bình khá.

Qua xã có tỉnh lộ 865 dài 6,8 km và tỉnh lộ 867 dài 4,7 km; huyện lộ Trương Văn Sanh dài 6,9 km, Rạch Đào dài 4,9 km. Ngoài ra còn có rất nhiều kinh nối liền với kinh Nguyễn Văn Tiếp như các kinh 10, 13, 17, 21,...

Có 3 điểm trường tiểu học ở 3 ấp với 14 lớp và 323 học sinh, 2 lớp mẫu giáo. Số người tốt nghiệp trung học về làm việc tại xã là 29 người, 2 người tốt nghiệp đại học.

Trạm y tế có 1 bác sĩ tăng cường, 2 y sĩ, 1 dược tá, 1 lương y; ngoài ra còn có 3 tổ y tế ấp, 1 tổ hội chữ thập đỏ.

Xã có mẹ Việt Nam Anh hùng Phạm Thị Hai, 27 thương binh liệt sĩ, 26 hộ gia đình có công với cách mạng.

Hiện Đảng bộ xã Mỹ Phước có 6 chi bộ trực thuộc với 41 đảng viên.

XÃ PHƯỚC LẬP

Gồm 9 ấp: Mỹ Lợi, Mỹ Đức, Long Hoà B, Mỹ Trường, Kinh 2A, Kinh 2B, Mỹ Bình, Mỹ Thành, ấp 2.

Nguyên là đất của xã Long Định tách ra khi thành lập huyện Tân Phước.

Nằm ở phía đông nam của huyện Tân Phước, về xã đi theo tỉnh lộ dài 867 khoảng 3 Kỷ mùi; phía đông giáp xã Tân Lập I, Tân Lập II; tây giáp xã Nhị Bình và xã Tân Phú, xã Mỹ Hạnh Đông, huyện Cai Lậy; nam giáp xã Long Định; bắc giáp xã Mỹ Phước và Ttr. Mỹ Phước.

Diện tích tự nhiên 3.475,55ha: thổ cư 55,49ha, trồng lúa 1.590,20ha, vườn cây 529,90ha, nuôi trồng thuỷ sản 6,80ha.

Dân số: 9.632 nhân khẩu (với 2.025 hộ); trong đó, nam 5.361, nữ 4.271; tất cả đều là người Kinh; người theo Phật giáo 12, theo Công giáo 48, Tin Lành 38, Cao Đài 59. Số người di cư của xã năm 2004 là 99, nhập cư 90 người.

Nhân dân sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa, một số hộ dân trồng khóm, 90% hộ dân có điện, 50% hộ có nước sạch sinh hoạt. Đường đi lại chính trong xã đều được trải đá đỏ. Toàn xã có 490 hộ nghèo, còn lại là những hộ có kinh tế ổn địnhuyện

Qua xã có tỉnh lộ 867 nối Quốc lộ 1 về thị trấn Mỹ Phước, dài 7 km; huyện lộ Kinh 3, dài 3km, lộ kinh 2 dài 3,5km. Kinh, rạch, cầu cống có: kinh Nguyễn Tấn Thành chạy dọc theo tỉnh lộ 867 dài 7km; kinh 3 dài 3km; kinh 2 dài 3,5km cùng với hệ thống kinh rạch chằng chịt, khoảng cách từ 250 - 500 m/con kinh. Cầu Kinh 2 bắc qua tỉnh lộ 867; cầu Kinh 3 bắc ngang kinh Nguyễn Tấn Thành. Ngoài ra còn nhiều cầu bắc qua sông trên các tuyến đường huyện và xã.

Có 1 trường mẫu giáo với 3 lớp, 78 cháu; 2 trường tiểu học Phước Lập A và Phước Lập B có 35 lớp, 682 học sinh (năm học 2004-2005) với hai điểm trường. Số người đã tốt nghiệp trung học về làm việc tại xã là 18, 3 người tốt nghiệp đại học. Trạm y tế xã được xây dựng kiên cố, có 1 bác sĩ, 1 hộ lý và 9 tổ y tế ấp; có nhà truyền thông dân số.

Hiện toàn xã có 3 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 203 liệt sĩ, 99 thương binh, 1 lão thành cách mạng.

Trước đây đảng viên của xã sinh hoạt trong các tổ chức cơ sở Đảng của xã Tân Lập và Mỹ Phước. Đến nay, Đảng bộ xã có 123 đảng viên, sinh hoạt ở 12 chi bộ trực thuộc.

XÃ PHÚ MỸ

Gồm 4 ấp: Phú Hữu, Phú Thạnh, Phú Xuân, Phú Nhuận.

Thôn Phú Mỹ thuộc tổng Hưng Xương, quận Kiến Hưng, tỉnh Định Tường (vào năm 1808). Đến năm 1836 thuộc tổng Hưng Nhơn.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã Phú Mỹ thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân đặt xã Phú Mỹ thuộc tổng Hưng Nhơn, quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta gọi là xã Phú Mỹ, huyện Châu Thành Bắc, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Phú Mỹ, quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường. Sau 30.4.1975, xã Phú Mỹ thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang; từ sau 11.7.1994, xã Phú Mỹ thuộc Tân Phước, tỉnh Tiền Giang.

Nằm ở phía đông của huyện, về xã đi theo tỉnh lộ 865 thì khoảng 18km; đông giáp xã Mỹ Phú - Mỹ An, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An; tây giáp xã Hưng Thạnh; nam giáp xã Tân Hòa Thành; bắc giáp xã Tân Hòa Đông.

Diện tích tự nhiên 1.340ha: thổ cư 128ha, trồng lúa 450ha, vườn cây 111 ha, nuôi thủy sản 15ha, diện tích chưa khai thác nhưng đã phục hóa trồng khóm, bạch đàn, khoai mỡ 636 ha.

Dân số: 8.034 nhân khẩu (1.665 hộ); trong đó, nam 3.044, nữ 4.990; người Kinh 8.034. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 2,4%, tỉ lệ tử 0,43%. Số người di cư năm 2004 là 13, nhập cư 47.

Ngành nghề chính là nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; nghề phụ: đóng ghe thuyền, xay xát lúa gạo, các dịch vụ thương mại và sinh hoạt tiêu dùng. Xã có nguồn thu ngân sách dồi dào, nhân dân có nguồn thu nhập cao, số hộ giàu 20%, hộ nghèo 3,6%, còn lại là hộ khá, trung bình.

Qua xã có tỉnh lộ 865 dài 0,8 km, tỉnh lộ 866 dài 2 km; lộ liên xã Phú Mỹ - Tân Hòa Đông - ấp Phú Xuân dài 3 km, đê 19/5 qua xã khoảng 2 km. Kinh, rạch cầu cống... có kinh Nguyễn Văn Tiếp dài 2 km, rạch sông Cũ 2 km...; cầu Mới, cầu Quán; cống đập Bà Minh, cống Rạch Chùa. Xã có bến xe đi chợ Lớn và Mỹ Tho, bến đò ghe máy đi xã Tân Hòa Đông. Chợ Phú Mỹ ở ấp Phú Hữu, hàng ngày họp từ sáng đến chiều.

Trường mẫu giáo có 4 lớp với 181 cháu; trường tiểu học A đạt chuẩn Quốc gia có 18 lớp, 499 học sinh và trường tiểu học B có 11 lớp, 255 học sinh; trường trung học cơ sở đạt chuẩn Quốc gia có 19 lớp, 738 học sinh.

Trạm y tế có 3 phòng, 10 giường bệnh, 1 bác sĩ, 3 y sĩ, 1 y tá, 1 hộ lý, 4 tổ y tế ấp.

Xã có anh hùng LLVT nhân dân Đặng Thị Mãnh, 6 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 138 liệt sĩ, 20 thương binh, 8 lão thành cách mạng, 217 gia đình có công với nước, 41 huân chương tập thể, cá nhân.

Hiện nay, Đảng bộ xã có 10 chi bộ trực thuộc, 71 đảng viên, liên tục 10 năm liền (1995 - 2004) Đảng bộ luôn đạt trong sạch, vững mạnh.

XÃ TÂN HÒA ĐÔNG

Gồm 4 ấp: Tân Thuận, Tân Phát, Tân Long, Tân Thành.

Trước Cách mạng tháng Tám, là vùng đất hoang hoá. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, xã Tân Hoà Đông là vùng căn cứ địa cách mạng. Sau ngày 30.4.1975, xã Tân Hoà Đông được thành lập thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Đến tháng 7.1994, xã Tân Hoà Đông được chuyển giao về huyện Tân Phước.

Nằm ở phía bắc của huyện, đường về xã đi theo kinh Lộ Mới dài khoảng 14 km; đông giáp xã Mỹ An, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An; tây giáp xã Thạnh Mỹ; nam giáp xã Hưng Thạnh; bắc giáp xã Thuỷ Đông và xã Tân Tây, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An.

Diện tích tự nhiên 2.678,6923 ha: thổ cư 19,92 ha, đất trồng lúa 40,5 ha, số còn lại là đất trồng tràm, khoai.....

Dân số: 1.877 nhân khẩu; trong đó, nam 1.065, nữ 812; người Kinh 1.875, Khơme 2. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,71%, tỉ lệ tử 0,13%.

Ngành nghề sản xuất chính là trồng khoai mỡ, trồng bàng; nghề phụ: đan đệm, nón bàng. Hiện toàn xã có 10% hộ khá, 70% hộ trung bình, 20% hộ nghèo.

Qua xã có đường Bắc Đông dài 6 km, đường kinh Chín Hấn 4 km, đường Láng Cát 3,5 km. Kinh, rạch, cầu, cống... có kinh 82 (5km), kinh 84 (5 km)...; cầu kinh 500, cầu Tràm Mù, cầu Trương Văn Sanh, cầu Chín Hấn, cầu 500, Tràm Mù...

Trường mẫu giáo có 1 phòng, 1 lớp, 29 cháu; trường tiểu học có 11 phòng, 15 lớp, 264 học sinh; trường trung học cơ sở có 2 phòng, 2 lớp với 67 học sinh.Trạm y tế xã có 9 phòng 1 bác sĩ, 1 y sĩ, 1 hộ lý, 1 dược tá.

Hiện toàn xã có 11 thương binh, 10 gia đình liệt sĩ, 13 gia đình có công với nước, 10 huy chương, 21 huân chương cá nhân, 1 huân chương hạng III cho tập thể.

Chi bộ xã thành lập tháng 7 năm 1975; hiện nay được công nhận là Đảng bộ, có 30 đảng viên.

XÃ TÂN HOÀ TÂY

Gồm 4 ấp: Tân Hưng Phú, Tân Hưng Đông, Tân Hưng Tây và Tân Hưng Phước.

Trước Cách mạng tháng Tám, và trong kháng chiến chống Pháp. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta coi vùng đất này thuộc xã Mỹ Hạnh Đông và xã Mỹ Phước Tây thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Từ sau 30.4.1975, xã Tân Hoà Tây được thành lập thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, là xã vùng sâu, đất đai được bổ sung một phần của xã Tân Hoà Tây và xã Mỹ Hạnh Đông. Sau khi huyện mới Tân Phước được thành lập xã Tân Hoà Tây được chuyển giao về cho huyện Tân Phước.

Nằm ở phía tây của huyện: phía đông giáp xã Mỹ Phước; tây giáp xã Phú Cường, huyện Cai Lậy; nam giáp xã Mỹ Hạnh Đông và xã Mỹ Phước Tây, huyện Cai Lậy; bắc giáp xã Thạnh Tân và xã Thạnh Hòa, huyện Tân Phước.

Diện tích tự nhiên 3.352,21ha: thổ cư 33,54ha, trồng lúa 1.950 ha, vườn cây 343 ha, nuôi trồng thủy sản 14,4 ha, chưa khai thác 75,54 ha.

Dân số: 4.146 nhân khẩu; trong đó, nam 2.233, nữ 1.913; người Kinh 4.145, người Hoa 1; người theo Phật giáo 68, Công giáo: 23, Tin Lành 20, Cao Đài 17.

Ngành nghề sản xuất chính: trồng lúa, trồng khóm; nghề phụ: trồng hoa màu, mua bán nhỏ, xay xát lúa gạo. Hiện toàn xã có 267 hộ giàu, 448 hộ khá và 163 hộ nghèo.

Qua xã có tỉnh lộ 865 dài khoảng 5 km; đường huyện gần lộ Đông kinh Tây Tây dài 5 km và đường Cặp Rằn Núi dài 4 km, đường kinh Mới dài 4,5 km; đường liên xã kinh 1 dài khoảng 3,5 km.

Trường mẫu giáo có 2 lớp, 21 cháu, xây dựng bán kiên cố; trường tiểu học xây dựng bán kiên cố, có 11 phòng, 15 lớp học, 212 học sinhuyện Số người đã tốt nghiệp trung học về làm tại xã là 11, 4 người tốt nghiệp đại học.

Trạm y tế có 1 bác sĩ, 2 y sĩ, 1 dược tá cùng các tổ chức và các hoạt động chăm sóc sức khỏe cộng đồng gồm 13 thành viên, 4 ấp đều có 4 cán bộ y tế ấp .

Hiện toàn xã có 43 thương binh, 43 gia đình liệt sĩ, 83 gia đình có công với nước, 17 huân chương cá nhân.

Từ 20-3-2000 tổ chức Đảng ở xã Tân Hoà Tây được công nhận là Đảng bộ 2 cấp; có 8 chi bộ trực thuộc.

XÃ TÂN HÒA THÀNH

Gồm 8 ấp: 1,2, 3, 4, Tân Quới, Tân Phú, Tân Vinh, Tân Lợi.

Đời Gia Long có 2 làng Tân Hội Tây và Dương Hòa thuộc tổng Kiến Thuận. Đến đời Tự Đức lập thêm làng Tân Hòa và ngày 12.7.1877 đổi lại là Tân Thành. Những năm đầu giai đoạn Pháp thuộc có 3 làng Tân Hội Tây, Dương Hòa và Tân Thành thuộc tổng Hưng Nhơn. Đến ngày 24.10.1925, ba làng nầy nhập lại lấy tên là Tân Hòa Thành thuộc tổng Hưng Nhơn, tỉnh Mỹ Tho.

Trong kháng chiến chống Pháp, xã Tân Hoà Thành thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; chính quyền Thực dân Pháp đặt xã Tân Hoà Thành thuộc tổng Hưng Nhơn, quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Tân Hoà Thành thuộc huyện Châu Thành Bắc, tỉnh Mỹ Tho; Chính quyền VNCH đặt xã Tân Hoà Thành thuộc quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường.

Nằm phía đông của huyện, về xã theo tỉnh lộ 865 đến cầu Phú Mỹ theo hướng tỉnh lộ 866 đông giáp xã Lợi Bình Nhơn, (tỉnh Long An); tây giáp xã Tân Lập I, Tân Lập II; nam giáp xã Tân Hội Đông, xã Tân Lý Đông, huyện Châu Thành; bắc giáp xã Phú Mỹ, xã Hưng Thạnh.

Diện tích tự nhiên 1.747,22 ha: thổ cư 153,6 ha, trồng lúa 651 ha, vườn cây 141 ha, nuôi trồng thủy sản 15 ha.

Dân số: 9.436 nhân khẩu (2.050 hộ); trong đó, nam 4.479, nữ 4.957; hấu hết là người Kinh. Tôn giáo có: Phật giáo 827 người, Công giáo: 11, Tin Lành: 18, Cao Đài: 431. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 1,2, tỉ lệ tử 0,3%; số người di cư 98, nhập cư 284.

Ngành nghề sản xuất chủ yếu là nông nghiệp (làm ruộng 3 vụ/ năm, trồng khóm); nghề phụ: đan đệm, xay xát gạo, ép bàng. Toàn xã có 237 hộ giàu (tỷ lệ 11,56%), 633 hộ khá (30,87%), 919 hộ trung bình (44,82%), 261 hộ nghèo (12,75%).

Qua xã có tỉnh lộ 866 dài 3 km; đường liên xã Thầy Gần từ tỉnh lộ 866 đến Tân Lập II dài 7 km; đường đê 19 tháng 5 từ tỉnh Lộ 866 đến cảng Rạch Gốc dài 2,2 km. Kinh, rạch, cầu cống có rạch Gốc dài 3 km; cầu Lớn trên tỉnh lộ 866; cống Rạch Gốc. Chợ ở ấp Tân Quới họp buổi sáng hàng ngày, mua bán nông sản, thực phẩm và hàng tiêu dùng.

Trường mẫu giáo xã có 6 phòng bán kiên cố với 6 lớp, 178 cháu; Trường Tiểu học Tân Hoà Thành A và B có 20 phòng bán kiên cố với 34 lớp, 939 học sinh; trường trung học cơ sở nằm chung với Trường Trung học phổ thông Nguyễn Văn Tiếp có 17 lớp, 722 học sinh; trường Trung học phổ thông có 23 phòng học, 942 học sinh.

Trạm y tế có 1 bác sĩ, 1 y sĩ, 1 y tá, 1 hộ lý, 1 dược tá.

Hiện toàn xã có 10 bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 195 liệt sĩ, 42 thương binh, 4 lão thành cách mạng, 8 gia đình có công với nước, nhiều người được tặng thưởng huân chương chiến công, huân chương giải phóng, huân - huy chương kháng chiến.

Chi bộ Đảng xã Tân Hoà Thành thành lập ngày 1/5/1937 tại đình Dương Hoà, gồm 9 đồng chí, đều là nông dân. Hiện nay, Đảng bộ có 84 đảng viên, có 10 nữ và 14 cho bộ trực thuộc.

XÃ TÂN LẬP I

Gồm 5 ấp: ấp 1, ấp 2, ấp 3, ấp 4 và ấp 5.

Nằm ở phía đông của huyện, về xã đi theo kinh II khoảng 11 km; đông giáp xã Tân Lý Đông, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang; tây giáp xã Phước Lập; nam giáp xã Tam Hiệp và xã Long Định, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang; bắc giáp xã Tân Lập II, huyện Tân Phước.

Diện tích tự nhiên 2.870,99 ha: thổ cư 21,42 ha, trồng lúa 61 ha, rừng và đất khác 2.325,9294 ha, nuôi trồng thủy sản 3,3 ha.

Dân số: 4.619 nhân khẩu (với 1.163 hộ); trong đó, nam 2.256, nữ 2.363; người Kinh 4.617, người Hoa 2; Tôn giáo: Phật giáo 533 người, Công giáo: 25, Tin Lành: 1, Cao Đài 1. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 2,74%, tử 0,12%.

Ngành nghề sản xuất chủ yếu là nông nghiệp (trồng khóm, trồng lúa); nghề phụ: đan nón, đan đệm, dệt thảm, dệt chiếu. Hiện nay, xã có 1.138 hộ thu nhập từ trung bình đến khá, 25 hộ nghèo.

Kinh, rạch, cầu, cống.... có kinh I dài khoảng 7 km, kinh II dài 7 km, kinh Năn dài khoảng 6 km và kinh Xáng Đồn dài 1 km.

Trường mẫu giáo xã có 2 lớp, 88 cháu cơ sở vật chất chưa đầy đủ; trường tiểu học với cơ sở vật chất tạm ổn định, có 20 lớp, 703 học sinh; trường trung học cơ sở hiện có 18 lớp, 700 học sinh. Trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia, có 1 bác sĩ, 2 y sĩ; ngoài ra còn có 5 điểm y tế ấp.

Hiện nay, Tân Lập I có 1 Đảng bộ với 11 chi bộ và 84 đảng viên.

XÃ TÂN LẬP II

Gồm 4 ấp: Tân Bình, Tân Hoà, Tân Phong, Tân Vinh.

Xã được thành lập tháng 8 -1994 từ một phần đất của xã Hưng Thạnh Mỹ.

Nằm ở phía đông của huyện; phía đông giáp xã Tân Hoà Thành; tây giáp xã Phước Lập; nam giáp xã Tân Lập I; bắc giáp xã Hưng Thạnh, xã Mỹ Phước.

Diện tích tự nhiên 1647,54 ha: thổ cư 14,7 ha, trồng lúa 40 ha, vườn cây tràm 627 ha, khóm 903 ha, đất chuyên dùng 67 ha.

Dân số: 1.983 nhân khẩu (491 hộ); trong đó, nam 937, nữ 1056; người Kinh chiếm 10%; hộ. Tôn giáo có: Phật giáo: 7 người, Tin Lành: 4, Cao Đài: 12. Tỷ lệ sinh năm 2004 là 7%, tỉ lệ tử 0,36%.

Ngành nghề sản xuất chính là sản xuất nông nghiệp (chủ yếu trồng khóm); nghề phụ: vận tải hàng hoá; buôn bán nhỏ.

Qua xã có tỉnh lộ ở bờ Tây kinh Năng dài khoảng 4,5 km; đường huyện (chưa đặt tên) dọc theo kinh 3 dài khoảng 6 km; đường liên xã 4 km. Sông, rạch, cầu, cống... có kinh Năng dài 5 km, kinh 3 dài 6 km, kinh Xáng Đồn dài 2.700m, kinh Nguyễn văn Tiếp dài 6 km, kinh Sáu Âu dài 3km; và vài cầu cống chưa đặt tên.

Trạm y tế xã có: 1 phòng điều trị với, 3 giường, 1 phòng dược, 1 phòng khám bệnh, 1 bác sĩ, 2 y sĩ, 1 y tá, 1 dược tá.

Xã Tân Lập II trước kia là vùng hoang hoá, hầu như không có dân cư. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhân dân mới về định cư lúc đó thuộc xã Hưng Thạnh, Mỹ Phước, Tân Lập. Đến tháng 8-1994, thành lập xã Tân Lập II thuộc huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang.

Hiện toàn xã có 18 liệt sĩ, 14 thương binh, 1 lão thành cách mạng, 2 gia đình có công với nước, 48 huân chương của tập thể và cá nhân.

Tổ chức Đảng thành lập ngày 03/8/1994 với 4 đảng viên, nay là Đảng bộ 2 cấp có 7 chi bộ trực thuộc với 41 đảng viên. MTTQVN xã thành lập tháng 8/1994, đến nay có 26 thành viên, 4 ban công tác mặt trận ấp có 20 thành viên.

XÃ THẠNH HÒA

Gồm 3 ấp: Hòa Đông, Hòa Xuân, Hòa Thuận. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đây nằm trong vùng Đồng Tháp Mười hoang vu không có người định cư. Đến tháng 8 năm 1994 xã mới được thành lập.

Nằm ở phía tây bắc của huyện; đông giáp xã Thạnh Tân, huyện Tân Phước; tây giáp xã Tân Hoà, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An; nam giáp xã Tân Hoà Tây; bắc giáp xã Thạnh An, huyện Thạnh Hoá, tỉnh Long An.

Diện tích hiện tự nhiên 2.533,6 ha: thổ cư 65,4 ha, trồng lúa 401,7 ha.

Dân số: 793 nhân khẩu (218 hộ); trong đó, nam 452, nữ 341; người Kinh 793; Tôn giáo: Công giáo: 2 , Cao Đài: 2 .

Ngành nghề chủ yếu là sản xuất nông nghiệp (trồng lúa và cây tràm); nghề phụ: chăn nuôi, trồng các loại rau màu.

Qua xã có huyện lộ Tràm Mù dài 4 km; liên xã có đường kinh I dài 5,8 km; các kinh Trương Văn Sanh 4 km, Tràm Mù 4 km, Bắc Đông 4 km, kinh I 5,8 km, kinh II 5,9 km, kinh III 6 km, kinh IV 6,4 km, kinh lâm nghiệp 6,2 km; các cầu kinh I, kinh II, kinh III, kinh IV, cầu Lâm Nghiệp.

Xã có 2 điểm trường với 4 phòng học và 6 lớp học gồm: lớp mẫu giáo, các lớp 1, 2, 3, 4, 5; số lượng học sinh trung bình hàng năm từ 74 đến 78. Xã có 1 trạm y tế xây dựng kiên cố, trang thiết bị còn hạn chế với 3 y sĩ đa khoa.

Hiện xã có 7 chi bộ với 39 đảng viên.

XÃ THẠNH MỸ

Gồm 4 ấp: Mỹ Thiện, Mỹ Lộc, Mỹ Thuận và Mỹ Hoà. Trước Cách mạng tháng Tám, xã ngày nay nằm giữa địa phận của tỉnh Mỹ Tho và tỉnh Long An. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nơi đây là vùng căn cứ kháng chiến, không có dân cư sinh sống. Sau 30.4.1975 vùng này được khai phá và chính thức là một xã thuộc huyện Tân Phước sau tháng 7 năm 1994.

Nằm ở phía bắc huyện Tân Phước; đông giáp xã Tân Hoà Đông; tây xã Thạnh Tân; nam giáp xã Mỹ Phước; bắc giáp 3 xã Thủy Đông, Thủy Tây, Thạnh An của huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An.

Diên tích tự nhiên 2612,1 ha: thổ cư 139,8ha, đất vườn 843 ha, trồng màu 213 ha, còn lại là diện tích cây tràm và bạch đàn.

Dân số: 1.889 nhân khẩu (466 hộ); trong đó, nam 989, nữ 900; người Kinh 1.884, Khơme 5; đa số dân theo đạo Phật, 43 hộ theo đạo Tin Lành.

Ngành nghề sản xuất chủ yếu là nông nghiệp

Qua xã có tỉnh lộ 867B dài 6 km; đường huyện Bắc Đông nằm dọc kinh Bắc Đông; mạng lưới kinh, cầu, cống... có kinh lộ Mới, kinh Trương Văn Sanh, kinh Tràm Mù, kinh Bắc Đông... Nhìn chung hệ thống kinh gắn liền với cầu và đường giao thông nông thôn, khoảng cách khoảng 250m, 500m có kinh kèm theo là đường giao thông và cũng là đê bao ngăn lũ.

Chợ Bắc Đông nằm ở ấp Mỹ Lộc họp hàng ngày, hàng ngày có khoảng 50 - 100 người mua bán.

Xã có trường mẫu giáo với 1 phòng, 32 cháu; cơ sở vật chất tốt; trường tiểu học có 3 điểm trường, với 10 phòng học, 220 học sinh; trường trung học cơ sở với 11 phòng học, 303 học sinh.

Trạm y tế xã có cơ sở vật chất ổn định, có 1 bác sĩ và 4 y sĩ; tổ chức y tế ấp hoạt động tốt.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, đây là nơi trú ẩn của lực lượng cách mạng. Hiện toàn xã có 19 thương, 4 gia đình liệt sĩ, 1 cách mạng lão thành, 27 gia đình có công với nước.

Tổ chức Đảng xã được hình thành vào năm 1994 với 5 đảng viên. Hiện nay, Đảng bộ có 38 đảng viên, 7 chi bộ.

XÃ THẠNH TÂN

Xã được chia làm 5 ấp từ ấp 1 đến ấp 5.

Nằm phía bắc huyện với chiều dài 13,5 km theo hướng tỉnh lộ 867 và huyện lộ Tràm Mù, là vùng trũng của Đồng Tháp Mười bị nhiễm phèn nặng; đông giáp xã Thạnh Mỹ; tây giáp ranh xã Thạnh Hoà và trại giam Phước Hoà; phía nam giáp xã Tân Hoà Tây và xã Mỹ Phước; phía bắc giáp xã Thạnh An, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An.

Diện tích tự nhiên 3.319,8 ha: thổ cư 10,2 ha, trồng lúa 1266 ha (1 vụ/năm), trồng khóm 424 ha, trồng trà 1389 ha, trong đó 106 ha đất tràm xây dựng Khu bảo tồn sinh thái Đồng Tháp Mười do Sở Nông nghiệp Tài nguyên và Môi trường quản lý.

Dân số: 1.526 nhân khẩu (với 350 hộ); trong đó, nam 747, nữ 779.

Ngành nghề chính là nông nghiệp.

Hệ thống cầu đi đôi với việc nâng cấp đường, có 5 cầu kiên cố và 20 cầu bán kiên cố. Toàn xã có 146/337 hộ, đạt 43,3% hộ sử dụng điện.

Hiện xã có 3 điểm trường tiểu học, 5 lớp học với 147 học sinh.

Trạm y tế có 5 giường bệnh; công tác tiêm chủng mở rộng ngăn ngừa dịch bệnh cho trẻ em hàng năm đạt kết quả cao.

Xã có 28 hộ gia đình chính sách, 7 nhà tình nghĩa và 6 căn nhà đại đoàn kết nhân dân trong xã. Hiện nay toàn xã có 337 hộ định cư, 320 hộ đăng ký gia đình văn hoá, đạt 51%.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top