ĐI TÌM ĐIỀU HUYỀN BÍ - Tập 2
OSHO
ĐI TÌM ĐIỀU HUYỀN BÍ
IN SEARCH OF THE MIRACULOUS
Tập 2
Mục lục
Giới thiệu .................................................................................
1. Giúp đỡ bên ngoài cho sự tăng trưởng năng lượng kundalini
2 Chín muồi của thiền nhân trên con đường ..................
3 Con đường kundalini: chân thực và tự do ...................
4 Bí ẩn của bẩy thể và bẩy luân xa ................................
5 Bí ẩn huyền nhiệm của tôn giáo ..................................
6 Shaktipat: bí ẩn của điện thân thể...............................
7 Kundalini: kỉ luật siêu việt .............................................
8 Chiều hướng bí truyền của mật tông ..........................
9 Chiều sâu huyền bí của kundalini và tâm linh ...........
Về Osho ...............................................................................
**************************************************************************************************************
Giới thiệu
"Có, không và ối chao là những từ duy nhất mà chúng
ta thực sự cần..." Viên ngọc này được truyền lại cho tôi
nhiều năm trước đây như một người bạn khi tôi đã lặn lội
một cách kinh hoàng qua dãy núi Colorado Rockies, và
tôi thường nhớ tới nó trong tuần cuối khi tôi vật lộn để
viết lời giới thiệu cho cuốn sách này.
Cho nên... ỐI CHAO! Bây giờ tôi cảm thấy khá hơn
và có thể đảm đương được việc kể một câu chuyện nhỏ.
Quãng hai năm trước đây, khi tôi đi tìm những dẫn chứng
từ Osho nói về rèn luyện thân thể trong Thư viện Nghiên
cứu, tay tôi cảm thấy tựa như có từ lực hút về một bản
thảo huyền bí gọi là Kinh nghiệm Huyền bí mà trong đó
Osho giới thiệu về Thiền Động và thảo luận về việc
chuyển năng lượng Kundalini trong thân thể theo một
cách chính xác và chi tiết như nhà khoa học có thể mô tả
về chuyển động của điện tử trong vụ nổ nguyên tử.
Tôi ngồi mê mải hết cả ngày còn lại, khi Osho trút ra
hết sáng suốt này đến sáng suốt khác về các luật của "sự
bùng nổ bên trong". Thế rồi tôi chạy đến những người
trong Bộ phận Xuất bản để hỏi tại sao một tài liệu quí giá
như thế lại không có sẵn trong hiệu sách của Công xã.
"Có đấy, có đấy," nhân viên Xuất bản nói, chín chương
đầu đã được xuất bản dưới tên Đi tìm điều huyền bí, Tập
Một và phần còn lại đã được lên lịch xuất bản...
Và thế là chúng tôi đi tới khoảnh khắc hiện tại, và
phát hiện ra Osho đang nói về những chủ đề "bí truyền"
nhất theo một cách thức hoàn toàn thực tiễn và trần tục...
"Kundalini của bạn là năng lượng đang ngủ. Biên
giới của nó trải rộng từ trung tâm dục tới não...
"Điều đáng quan tâm nhất là sự kiện rằng giữa hai
cực đoan này bạn không thể nghỉ ở bất kì đâu được, bạn
không thể tạm dừng ở bất kì đâu được...
"Nấn ná lại giữa chừng là không đúng, không tự
nhiên không có nghĩa. Điều ấy tựa như một người trèo lên
thang rồi dừng lại lưng chừng. Với người đó chúng ta sẽ
nói, "Làm một trong hai điều này: trèo lên hoặc tụt xuống
đi, vì thang không phải là nhà, dừng ở giữa là vô nghĩa."
Không thể nào có người vô dụng hơn là người đang dừng
ở lưng chừng thang. Bất kì điều gì người đó phải làm,
người đó cũng chỉ có thể làm ở trên đỉnh thang hay dưới
chân thang mà thôi.
"Cho nên cột sống là chiếc thang, cứ nói như vậy đi.
Trong chiếc thang này, mỗi đốt sống là một bậc thang.
Kundalini bắt đầu từ trung tâm thấp nhất và đạt tới chính
đỉnh. Nếu nó đạt tới trung tâm cao nhất, bùng nổ là điều
không thể tránh khỏi. Nếu nó vẫn còn tại trung tâm thấp
nhất, chắc chắn là nó lấy dạng phát tiết dục. Bùng nổ là
không tránh khỏi trong trường hợp thứ nhất và phát tiết ra
là trong trường hợp thứ hai. Hai điều này nên được hiểu
rõ."
Làm sao trèo lên thang được? Cuốn sách này là bản
lộ trình, sách hướng dẫn tới khoa học về giả kim thuật
bên trong.
Việc nhận shaktipat từ thầy ngụ ý nghĩa gì? Ân huệ là
gì? Làm sao năng lượng kundalini khác biệt trong đàn
ông và đàn bà? Nó biểu lộ ra như thế nào khi nó đi qua
bẩy luân xa? Việc nói tới sự hội nhập với người đàn ông
bên trong, người đàn bà bên trong thực sự ngụ ý gì? Ý
nghĩa của Mật tông là gì, và làm sao những người yêu
nhau có thể giúp lẫn nhau để đi từ trung tâm thấp nhất tới
trung tâm cao nhất?
Và tất cả qua điều đó, lặp đi lặp lại, Osho nhắc nhở
chúng ta rằng đi tìm điều huyền bí là việc tìm kiếm bên
trong, và không trở nên bị lạc trong người khác, dù đó là
người yêu hay thầy.
"Hãy mang lời hướng dẫn này từ bất kì chỗ nào bạn
nhận được nó: nhiều lần nó sẽ mất. Nó không thể vĩnh
hằng được, vì nó đến từ người khác... Do đó, hãy im lặng
mang điều bạn nhận được, biết ơn và đi tiếp. Và nếu bạn
cảm thấy rằng cái gì đó tới nhưng rồi lại mất đi, thế thì
tìm đến ngọn nguồn bên trong mà tại đó nó không bao giờ
mất đi cả. Thế thì không có cách nào mất đi, vì kho báu
của riêng bạn là vô hạn. Cái được người khác ban tặng
cho bạn đều đứng trước khả năng trở nên bị mất đi. Đừng
là kẻ ăn xin, người cứ hỏi xin từ người khác. Cái bạn
nhận được từ người khác nên khiến bạn bắt đầu việc tìm
kiếm riêng của mình."
Vâng, thưa Osho, vâng.
Ma Deva Nirvesha
************************************************************************************************************
#1 Giúp đỡ bên ngoài cho sự tăng trưởng năng lượng kundalini
Thầy đã nói tại trại thiền Nargol rằng nghĩa của
shaktipat - việc truyền năng lượng thiêng liêng - là ở
chỗ năng lượng của điều thiêng liêng giáng xuống
thiền nhân. Sau đó Thầy lại nói rằng có khác biệt
giữa shaktipat và ân huệ. Hai phát biểu này dường
như mâu thuẫn nhau. Xin thầy giải thích.
Có hơi khác biệt giữa hai điều này và cũng có chút ít
tương tự giữa hai điều này nữa. Thực tại trường của điều
này lấn sang điều kia. Shaktipat là năng lượng của điều
thiêng liêng. Thực tế, không có năng lượng nào khác
ngoại trừ năng lượng của điều thiêng liêng. Tuy nhiên,
trong shaktipat, con người vận hành như một trung gian.
Mặc dầu chung cuộc, người này cũng là một phần của
điều thiêng liêng, nhưng trong giai đoạn đầu, cá nhân vận
hành như một trung gian.
Cũng hệt như sét loé ngang bầu trời và ánh sáng điện
làm sáng nhà: chúng là như nhau nhưng ánh sáng chiếu
trong nhà được đem tới qua trung gian và bàn tay con
người hiển nhiên có đằng sau nó.
Sét loé lên trong cơn mưa cũng là cùng năng lượng
của điều thiêng liêng nhưng nó không do con người mang
tới. Nếu con người trở nên tuyệt chủng, sét vẫn cứ tiếp
tục loé sáng ngang bầu trời, nhưng bóng đèn điện sẽ
không làm việc nữa. Shaktipat giống như bóng đèn điện
trong đó con người là trung gian; ân huệ là sét trên bầu
trời xảy ra không cần sự trợ giúp của trung gian.
Người đạt tới mức độ năng lượng này, người có tiếp
xúc với điều thiêng liêng, có thể vận hành như trung gian
vì người đó là phương tiện tốt hơn bạn cho điều này xảy
ra. Người đó quen với năng lượng này và cách làm việc
của nó. Năng lượng này có thể đi vào bạn nhanh chóng
hơn khi qua người đó. Bạn còn hoàn toàn chưa quen biết,
chưa chín muồi; người này là phương tiện đã chín muồi.
Nếu năng lượng đi vào bạn qua người đó, nó tới dễ dàng
vì người đó là một trung gian có hiệu quả.
Điều thứ hai, người đó là một kênh hẹp qua đó bạn sẽ
nhận năng lượng, nhưng chỉ theo khả năng của bạn thôi.
Bạn có thể ngồi dưới ánh sáng điện trong nhà và đọc vì
nó là ánh sáng đều đặn; bạn không thể đọc dưới tia sét
trong bầu trời vì nó không theo cách đều đặn.
Nếu bỗng nhiên, bởi may mắn, một người ở vào trạng
thái mà ân huệ có thể giáng xuống người đó hay một tình
huống bất thần được tạo ra mà shaktipat xảy ra cho người
đó không qua trung gian, thế thì có mọi khả năng người
đó hoảng sợ hay trở thành mất trí. Năng lượng đã giáng
xuống người đó có thể quá nhiều mà khả năng giữ lại của
người đó quá nhỏ; do đó người đó có thể bị tan tành hoàn
toàn. Thế thì những kinh nghiệm chưa biết, không quen
thuộc của vui vẻ sẽ trở thành đau đớn và không thể chịu
đựng nổi.
Điều này cũng tựa như một người đang ở trong bóng
tối trong nhiều năm bỗng nhiên được đem ra ánh sáng
ban ngày: đen tối sẽ còn sâu sắc hơn bao giờ hết và người
đó sẽ không thể nào thấy được ánh sáng mặt trời. Mắt
người đó đã quen nhìn trong bóng tối, cho nên chúng
không thể chịu được ánh sáng chói loà và sẽ phải nhắm
lại.
Cho nên đôi khi sự việc xảy ra là một tình huống như
thế có thể xuất hiện bên trong bạn, trong đó năng lượng
vô hạn của ân huệ vô tình giáng xuống bạn; nhưng tác
động của nó có thể là tai hoạ, huỷ diệt, nếu bạn chưa sẵn
sàng. Bạn đã bị mắc trong vô ý thức cho nên biến cố có
thể trở thành thảm hoạ. Vâng, ân huệ cũng có thể trở
thành có hại và mang tính huỷ diệt.
Trong trường hợp của shaktipat, những cơ hội cho tai
nạn là rất ít, gần như không, vì có người vận hành như
trung gian, như phương tiện. Truyền qua trung gian, năng
lượng trở thành nhẹ nhàng và ôn hoà, và người trung gian
cũng có thể điều chỉnh cường độ của năng lượng. Người
đó có thể cho phép chỉ một lượng năng lượng nào đó
được chảy vào bạn mà bạn có thể giữ lại được. Nhưng
nhớ lấy, người trung gian chỉ là phương tiện và không
phải là cội nguồn của năng lượng này.
Cho nên nếu một người nói rằng người đó đang làm
shaktipat, rằng người đó đang làm việc truyền năng
lượng, thế thì người đó sai. Điều ấy cũng hệt như là bóng
đèn tuyên bố rằng nó là người đem cho ánh sáng. Vì ánh
sáng bao giờ cũng được phát ra qua bóng đèn, bóng đèn
có thể bị ảo tưởng rằng nó là đấng sáng tạo ra ánh sáng.
Điều này không phải là như vậy. Nó không phải là nguồn
sáng chủ chốt mà chỉ đơn thuần là trung gian để biểu lộ
ánh sáng. Cho nên một người tuyên bố rằng mình có thể
thực hiện shaktipat là đang trong cùng ảo tưởng như bóng
đèn vậy.
Năng lượng được truyền qua bao giờ cũng là năng
lượng của điều thiêng liêng. Nhưng nếu một người trở
thành trung gian, thế thì chúng ta có thể gọi điều đó là
shaktipat. Nếu không có trung gian và năng lượng này
giáng xuống bất thần, nó có thể có hại. Nhưng nếu một
người đã chờ đợi đủ lâu, nếu một người đã thiền với sự
kiên nhẫn vô hạn, thế thì shaktipat nữa cũng có thể xảy ra
dưới dạng ân huệ. Thế thì sẽ không có trung gian, nhưng
thế thì sẽ không có tai nạn. Chờ đợi vô hạn của người đó,
kiên nhẫn vô hạn của người đó, thành tâm không dao
động của người đó, quyết tâm vô tận của người đó, đã
làm phát triển khả năng của người đó để cho phép điều vô
hạn. Thế thì sẽ không có tai nạn. Và biến cố có thể xảy ra
theo cả hai cách - có hay không có trung gian. Nhưng khi
thiếu trung gian người đó sẽ không cảm thấy nó như
shaktipat mà như ân huệ từ cõi bên kia.
Cho nên có những điểm tương đồng cũng như những
điểm khác biệt giữa hai điều này. Tôi thiên về ân huệ mỗi
khi điều ấy là có thể; mỗi khi có thể, không nên qua trung
gian. Nhưng trong một số trường hợp điều này là có thể
và trong một số trường hợp khác điều này là không thể.
Cho nên đáng lẽ với loại người đang lang thang vô hạn
kiếp, một người nào đó có thể được làm thành trung gian
để đem năng lượng thiêng liêng xuống cho họ. Chỉ người
đó mới có thể là người trung gian, tuy nhiên, người đó
phải không còn là một bản ngã cá thể nữa. Thế thì mối
nguy hiểm là gần như không, vì một người như thế trong
khi trở thành người trung gian, không trở thành guru:
không có người nào còn lại để trở thành guru. Hiểu khác
biệt này cho rõ.
Khi một người trở thành guru, người đó trở thành
guru trong qui chiếu với bạn; khi một người trở thành
trung gian, người đó trở thành như thế trong quan hệ với
bản thể vũ trụ; thế thì người đó chẳng có liên quan gì tới
bạn cả. Bạn có hiểu khác biệt này không?
Bản ngã không thể tồn tại trong bất kì trạng thái nào
được sinh ra trong mối quan hệ với bạn. Cho nên guru
thực là người không trở thành guru. Định nghĩa về
sadguru, thầy hoàn hảo, là người không trở thành guru.
Điều này có nghĩa là tất cả những ai tự gọi mình là guru
đều không đủ phẩm cách là guru. Không có gì mất tư
cách lớn hơn việc tuyên bố về mình là guru; điều đó chỉ
ra sự hiện diện của bản ngã trong người như thế, và điều
đó là nguy hiểm.
Nếu một người bỗng nhiên đạt tới trạng thái hư
không, trạng thái bản ngã đã biến mất hoàn toàn, người
đó có thể trở thành trung gian. Thế thì shaktipat có thể
xảy ra gần người đó, trong sự hiện diện của người đó, và
không có khả năng nguy hiểm. Không có nguy hiểm gì
cho bạn hay cho người trung gian mà qua đó năng lượng
tuôn chảy.
Và vậy mà về cơ bản tôi thiên về ân huệ. Khi bản ngã
đã chết và người đó không còn là một cá nhân nữa, khi
những điều kiện này được đáp ứng, shaktipat gần như trở
thành ân huệ.
Nếu cá nhân đó không tự ý thức về trạng thái này, thế
thì shaktipat là rất gần với ân huệ. Thế thì chỉ ở gần người
đó cũng có thể đem lại biến cố. Người này xuất hiện với
bạn như một người nhưng thực tế người đó đã trở thành
một với điều thiêng liêng. Tốt hơn là nên nói rằng người
đó đã trở thành bàn tay của điều thiêng liêng chìa ra cho
bạn. Người đó gần bạn. Bây giờ một người như thế hoàn
toàn là công cụ. Nếu người đó nói theo ngôi thứ nhất
trong trạng thái ý thức như thế, chúng ta có khuynh
hướng hiểu lầm người đó. Khi một người như vậy nói
‘tôi’ người đó ngụ ý cái ta tối cao - nhưng thật khó cho
chúng ta hiểu ngôn ngữ của người đó.
Đó là lí do tại sao Krishna có thể nói với Arjuna, "Bỏ
tất cả các cái khác và buông xuôi nơi ta." Trong hàng
nghìn năm chúng ta sẽ đắn đo về đây là loại người nào
mà nói, "Buông xuôi nơi ta." Phát biểu của ông ấy dường
như xác nhận sự hiện diện của bản ngã. Nhưng người này
có thể nói điều đó theo cách này đơn giản vì người đó
không còn là bản ngã nữa. Bây giờ cái ‘ta’ của người đó
là bàn tay của ai đó được chìa ra, và chính ai đó đang ở
đằng sau người đó nói, "Buông xuôi nơi ta - cái một duy
nhất." Những lời này, cái một duy nhất là vô giá. Krishna
nói, "Buông xuôi nơi ta, cái một duy nhất." Cái ‘ta’ không
bao giờ là cái một duy nhất - nó là nhiều. Krishna đang
nói từ nơi mà cái ‘ta’ là cái một duy nhất, và điều này
không phải là ngôn ngữ của bản ngã.
Nhưng chúng ta chỉ hiểu ngôn ngữ của bản ngã; do
đó, chúng ta cảm thấy rằng Krishna đã đưa ra một tuyên
bố đầy bản ngã bằng việc bảo Arjuna phải buông xuôi nơi
ông ấy. Nhưng đây là sai lầm. Chúng ta bao giờ cũng có
hai cách nhìn vào mọi vật: một là qua quan điểm riêng
của chúng ta, từ nơi chúng ta thường xuyên bị lừa dối; và
cách kia là từ quan điểm của điều thiêng liêng, từ nơi
không có vấn đề về lừa dối. Cho nên biến cố có thể xảy ra
thông qua một người như Krishna, người mà bản ngã cá
nhân không còn đóng vai trò gì nữa.
Cả hai biến cố, shaktipat và ân huệ, là rất mâu thuẫn ở
ngoại vi; cả hai là rất gần nhau tại trung tâm. Tôi thiên về
không gian đó nơi khó phân biệt được giữa shaktipat và
ân huệ. Một mình điều đó là hữu dụng; một mình điều đó
là có giá trị.
Một sư ở Trung quốc thường kỉ niệm ngày sinh của
guru của mình bằng lễ hội lớn. Mọi người hỏi ông ấy
đang mở hội cho ngày sinh của ai, vì ông ấy bao giờ cũng
nói rằng ông ấy không có guru và rằng không cần guru.
Thế thì tất cả những điều này là về gì vậy? Ông ấy cầu
xin họ đừng hỏi về ông ấy, nhưng họ cứ nài nỉ, "Hôm nay
là ngày của guru - thầy có guru không?"
Sư nói, "Đừng làm khó cho ta. Tốt hơn cả là ta im
vậy."
Nhưng ông ấy càng im lặng người ta lại càng nài nỉ
nhiều, "Vấn đề là gì vậy? Có gì mà thầy phải mở hội? - vì
đây là ngày mở hội thầy. Thầy có thầy không?"
Sư nói, "Nếu các ông cứ nài nỉ thế thì ta phải nói đôi
điều về việc đó. Hôm nay ta nhớ tới một người đã từ chối
làm guru của ta, vì nếu người đó đã chấp nhận ta như đệ
tử, ta sẽ đi lạc lối. Ngày đó khi ông ấy từ chối ta, ta đã rất
giận ông ấy, nhưng hôm nay ta muốn cúi mình trước ông
ấy với lòng biết ơn lớn lao. Nếu mà ông ấy muốn, ông ấy
đã có thể là guru của ta rồi, vì chính ta đã cầu xin ông ấy
chấp nhận ta, nhưng ông ấy đã không đồng ý."
Thế là mọi người hỏi, "Thế thì thầy việc gì phải cám
ơn ông ấy khi ông ấy đã từ chối thầy?"
Sư nói, "Phải nói rằng bằng việc không trở thành guru
của ta mà con người này đã làm cho ta điều mà không
guru nào có thể làm được. Do đó, nghĩa vụ của ta gấp đôi.
Nếu như ông ấy đã là guru của ta, sẽ có cái gì đó cho và
nhận từ cả hai phía. Ta sẽ chạm vào chân ông ấy, cúng
dường tôn kính và kính trọng của mình, và vấn đề đã
được chấm dứt. Nhưng con người này đã không yêu cầu
phải kính trọng và ông ấy đã không trở thành guru ta. Do
đó nghĩa vụ của ta đối với ông ấy gấp đôi lên. Điều này
hoàn toàn là một phía: ông ấy cho và ta thậm chí không
thể cám ơn ông ấy được, bởi vì ông ấy đã không để lại
chỗ nào cho điều đó cả."
Bây giờ trong tình huống như thế này sẽ không còn
bất kì khác biệt nào giữa shaktipat và ân huệ cả. Khác biệt
càng lớn bạn càng phải tránh xa nó; càng ít khác biệt càng
tốt hơn. Do đó, tôi nhấn mạnh vào ân huệ. Cái ngày
shaktipat tới rất gần với ân huệ, gần đến mức bạn không
thể phân biệt được giữa shaktipat và ân huệ, biết rằng
biến cố đúng đắn đã xảy ra. Khi điện trong nhà bạn trở
thành tựa như tia chớp tự nhiên và không cản trở trên bầu
trời và trở thành một phần của năng lượng vô hạn, khoảnh
khắc đó bạn nên biết rằng nếu shaktipat xảy ra, nó cũng
tương đương với ân huệ. Nhớ điều tôi vừa nói.
#1Tại trại thiền Nargol Thầy đã nói rằng hoặc năng
lượng dâng lên từ bên trong và đạt tới điều thiêng
liêng, hoặc năng lượng của điều thiêng liêng hạ
xuống và hội nhập vào bên trong. Thầy đã nói rằng
trường hợp thứ nhất là việc dâng lên của kundalini;
còn trường hợp thứ hai là ân huệ của điều thiêng
liêng. Thế rồi về sau Thầy lại nói rằng khi năng
lượng ngủ bên trong gặp gỡ với năng lượng khổng lồ
của cái vô hạn, việc bùng nổ xảy ra, mà đó chính là
samadhi. Liệu sự hợp nhất của kundalini được thức
tỉnh và của ân huệ phải chăng là tuyệt đối cần thiết
cho việc đạt tới samadhi? Hay liệu tiến hoá của
kundalini cho tới sahasrar có tương tự như việc xảy
ra của ân huệ thiêng liêng không?
Bùng nổ chẳng bao giờ xảy chỉ với một năng lượng.
Bùng nổ là việc hợp nhất của hai năng lượng. Nếu bùng
nổ có thể có với một năng lượng, thế thì nó đã xảy ra từ
lâu rồi.
Hệt như là nếu bạn có hộp diêm và bạn đặt một que
diêm gần nó: chúng có thể nằm như vậy vô hạn định và
chẳng có ngọn lửa nào phát sinh cả. Dù khoảng cách giữa
hai vật này nhỏ đến đâu - nửa xăng ti mét hay một phần
tư xăng ti mét cũng chẳng khác biệt gì - vẫn chẳng có kết
quả nào. Để có được bùng nổ, việc cọ xát giữa hai vật này
là cần thiết; chỉ thế thì bạn mới có lửa. Lửa bị dấu kín
trong cả hai nhưng không có cách nào tạo ra nó với chỉ
một trong hai vật này.
Bùng nổ xảy ra khi hai năng lượng này gặp nhau.
Vậy, lực đang ngủ bên trong một cá nhân phải dâng lên
tới sahasrar và chỉ thế thì hợp nhất, bùng nổ, mới có thể.
Không thể có hợp nhất ngoại trừ tại điểm sahasrar. Điều
này giống như cửa nhà bạn vẫn đóng và mặt trời đang
chiếu sáng bên ngoài. Ánh sáng ở bên ngoài cửa nhà bạn.
Bạn đi bên trong nhà cho tới cửa, nhưng bạn sẽ không
gặp ánh sáng mặt trời. Chỉ khi cửa mở ra bạn mới đi vào
tiếp xúc với ánh mặt trời.
Cho nên điểm tối thượng của kundalini là sahasrar.
Đó là cánh cửa nơi ân huệ đang đợi chúng ta. Điều thiêng
liêng bao giờ cũng đợi tại cánh cửa này. Chính bạn không
ở cửa: bạn bao giờ cũng ở đâu đó bên trong. Bạn phải đi
đến cánh cửa ấy. Tại đó hợp nhất sẽ xảy ra, và hợp nhất
đó sẽ có dạng bùng nổ. Nó được gọi là bùng nổ bởi vì thế
thì bạn sẽ lập tức biến mất; bạn sẽ không còn nữa. Que
diêm đã cháy trong bùng nổ nhưng hộp diêm vẫn còn đó.
Que diêm chính là bạn, biến thành tro và hội nhập vào cái
vô hình.
Trong biến cố đó bạn sẽ không còn nữa. Bạn sẽ mất
đi; bạn sẽ vỡ ra và tan tành; bạn sẽ không còn đó nữa.
Bạn sẽ không còn là cái bạn đã từng là đằng sau cánh cửa
đóng lại. Tất cả những cái đã từng là, bạn sẽ mất đi. Chỉ
cái một đang đợi bên ngoài cánh cửa là còn lại, và bạn sẽ
trở thành một phần của nó. Điều này không thể xảy ra cho
một mình bạn được, bởi bản thân bạn được. Để có được
bùng nổ này bạn cần phải đạt tới năng lượng vũ trụ vô
hạn. Năng lượng đang ngủ bên trong phải được thức tỉnh
và làm cho dâng lên tới sahasrar nơi năng lượng vũ trụ
chờ đợi mãi mãi. Cuộc hành trình của kundalini bắt đầu
từ trung tâm đang ngủ của bạn và kết thúc ở chỗ, ở biên
giới, nơi bạn biến mất.
Cho nên có một biên giới thuộc về tầng vật lí, điều
chúng ta coi là đương nhiên đã có. Nhưng đây không phải
là biên giới lớn hơn. Nếu tay tôi bị chặt đi cũng chẳng có
mấy khác biệt đối với tôi. Nếu chân tôi bị chặt đi, thân thể
sẽ không chịu đau nhiều, vì tôi vẫn còn. Nói cách khác,
tôi vẫn còn mặc những thay đổi bên trong các giới hạn
này. Thậm chí cả mắt và tai mà không có, tôi vẫn còn.
Cho nên biên giới thực tại của bạn không phải là biên giới
của thân thể; biên giới thực tại của bạn là trung tâm
sahasrar, sau nơi đó bạn không còn nữa. Ngay khi bạn lấn
sang biên giới này, bạn đã mất rồi; bạn không thể còn lại
được.
Kundalini của bạn là năng lượng đang ngủ của bạn.
Biên giới của nó trải rộng từ trung tâm dục tới đỉnh đầu.
Đó là lí do tại sao chúng ta liên tục nhận biết rằng chúng
ta có thể không đồng nhất mình với các bộ phận khác của
thân thể, nhưng chúng ta không thể phá vỡ được sự đồng
nhất mình với khuôn mặt, với cái đầu. Dễ dàng nhận ra
rằng "tôi có thể không phải là cái tay", nhưng nhìn vào
mặt mình trong gương mà quan niệm rằng "tôi không
phải là khuôn mặt này", là rất khó khăn. Khuôn mặt và
cái đầu là giới hạn. Do đó, con người sẵn sàng để mất mọi
thứ trừ trí tuệ mình.
Có lần Socrates nói về mãn nguyện, ông ấy nói rằng
đó là kho báu vĩ đại. Ai đó hỏi ông ấy liệu ông ấy thích là
một Socrates không hài lòng hay là con lợn thoả mãn.
Socrates đáp, "Tôi thích là một Socrates không hài lòng
hơn là con lợn thoả mãn, bởi vì con lợn thoả mãn không
có tri thức gì về sự mãn nguyện của nó cả. Một Socrates
không thoả mãn ít nhất cũng có ý thức về cái không thoả
mãn của mình." Con người này, Socrates, đang nói rằng
con người sẵn sàng mất tất cả, trừ trí tuệ của mình - cho
dù nó là trí tuệ không được thoả mãn.
Trí tuệ cũng rất gần với trung tâm sahasrar, luân xa
thứ bẩy và cuối cùng. Nói đại thể chúng ta có hai biên
giới. Một là trung tâm dục; dưới trung tâm này thế giới
của tự nhiên bắt đầu. Tại trung tâm dục không có khác
biệt giữa cây cối, chim chóc, muông thú và bản thân
chúng ta. Trung tâm này là giới hạn tối hậu cho chúng,
trong khi đối với con người nó là điểm đầu tiên, tuyến
xuất phát. Khi chúng ta dựa vào trung tâm dục, chúng ta
nữa cũng là con vật. Giới hạn kia của chúng ta là trí tuệ.
Nó ở gần đường biên thứ hai của chúng ta mà vượt ra
ngoài nữa là điều thiêng liêng. Bên ngoài điểm này chúng
ta không còn là bản thân mình; thế thì chúng ta là điều
thiêng liêng. Đây là hai đường biên của chúng ta, và giữa
hai đường biên này năng lượng chúng ta chuyển động
Bây giờ, kho dự trữ nơi tất cả các năng lượng của
chúng ta đang nằm ngủ là ở gần trung tâm dục. Đó là lí
do tại sao chín mươi chín phần trăm ý nghĩ, mơ mộng và
hoạt động của con người đều dành cho xung quanh kho
dự trữ này. Dù chúng ta có biểu lộ mức độ văn hoá như
thế nào, cũng chẳng thành vấn đề, dù cho xã hội có thể
viện ra những cớ giả tạo thế nào, con người vẫn sống và ở
đấy một mình: người đó sống quanh trung tâm dục. Nếu
người đó kiếm tiền, đấy là vì dục; nếu người đó xây nhà,
đấy là vì dục; nếu người đó kiếm danh vọng, người đó
cũng làm như vậy vì dục. Tại gốc rễ của nó tất cả chúng
ta sẽ thấy dục.
Những người đã hiểu đều nói về hai mục đích - dục
và giải thoát. Hai mục đích khác, của cải và tôn giáo, chỉ
là phương tiện. Của cải là nguồn tài nguyên của dục; do
đó, thời đại càng nhiều dục, nó lại càng hướng của cải.
Thời đại càng nhiều tìm kiếm giải thoát, nó lại càng khát
khao tôn giáo. Tôn giáo chỉ là phương tiện như của cải là
phương tiện. Nếu bạn khao khát giải thoát, tôn giáo trở
thành phương tiện. Nếu bạn muốn có thoả mãn dục, của
cải là phương tiện. Cho nên có hai mục tiêu và hai
phương tiện - vì chúng ta có hai biên giới.
Điều thú vị là giữa hai cực điểm này bạn không thể
nghỉ được ở bất kì đâu, bạn không thể dừng ở bất kì chỗ
nào. Nhiều người thấy mình gặp khó khăn lớn vì họ
không có ham muốn về giải thoát, và nếu bởi lí do nào đó
họ trở nên đối kháng với dục, họ thấy mình trong tình thế
khó chịu khủng khiếp. Họ bắt đầu ra xa khỏi trung tâm
dục, nhưng họ lại chẳng đi đâu tới gần trung tâm giải
thoát. Họ rơi vào hoài nghi và bất định, và điều đó rất khó
khăn, rất đau đớn, và thực sự là địa ngục. Cuộc sống của
họ đầy những rối loạn bên trong.
Nấn ná ở lưng chừng là không đúng không tự nhiên
mà cũng vô nghĩa. Cứ dường như một người trèo lên
thang rồi dừng lại nửa chừng. Với người đó chúng ta sẽ
nói, "Làm một trong hai điều này: hoặc trèo lên hoặc tụt
xuống, vì thang không phải là nhà, dừng ở giữa là vô
nghĩa." Không thể nào có người vô ích hơn là người đang
dừng ở lưng chừng thang. Bất kì điều gì người đó phải
làm, người đó có thể làm nó hoặc ở trên đỉnh thang hay
dưới chân thang.
Cho nên cột sống là chiếc thang, cứ nói như vậy. Trên
chiếc thang này, mỗi đốt sống là một bậc thang.
Kundalini bắt đầu từ trung tâm thấp nhất và đạt tới chính
đỉnh. Nếu nó đạt tới trung tâm cao nhất, bùng nổ là không
thể tránh khỏi. Nếu nó vẫn còn tại trung tâm thấp nhất, nó
chắc chắn lấy dạng phát tiết dục, xuất tinh. Hai điều này
phải được hiểu rõ.
Nếu kundalini ở tại trung tâm thấp nhất, việc phát tiết
của năng lượng dục là không tránh khỏi. Nếu nó đạt tới
trung tâm cao nhất bùng nổ là chắc chắn. Cả hai đều là
bùng nổ và cả hai đều yêu cầu sự tham gia của người
khác. Trong phát tiết dục người khác là cần có, cho dù
đấy là người khác tưởng tượng. Nhưng tất cả năng lượng
của bạn không nên bị rải rác tại đây, vì đây chỉ là điểm
bắt đầu của bản thể bạn. Bạn còn hơn thế nhiều, và bạn đã
tiến bộ nhiều từ đấy. Con vật tràn đầy thoả mãn tại điểm
này và do đó không tìm kiếm giải thoát.
Nếu con vật có thể viết kinh sách, kinh sách được viết
cho chúng chỉ nổi bật với hai mục đích: của cải và dục.
Của cải sẽ là dạng thích hợp cho thế giới loài vật. Con vật
béo tốt hơn, mạnh khoẻ hơn, sẽ là kẻ giàu có hơn. Nó sẽ
chiến thắng các con vật khác trong việc đua tranh dục; nó
sẽ quần tụ được hàng chục con cái quanh nó. Và đây cũng
là một dạng của cải. Lớp mỡ phụ bên trong thân thể nó là
của cải của nó.
Con người cũng có giàu sang mà có thể được chuyển
thành "mỡ" bất kì lúc nào. Một ông vua có thể có hàng
nghìn mĩ nữ phi tần. Đã có thời của cải của người ta được
đo bằng số vợ người đó có. Nếu một người là nghèo, làm
sao người đó đảm đương được bốn vợ? Tiêu chuẩn ngày
nay về giáo dục và số dư tài khoản là sự phát triển mới
hơn nhiều. Ngày xưa số vợ là tiêu chuẩn duy nhất về của
cải. Đây là lí do tại sao trong khi ca tụng về giàu có của
các anh hùng cổ đại chúng ta đã thổi phồng số đàn bà của
họ, và điều này nhiều lần là giả.
Chẳng hạn, mười sáu nghìn vợ của Krishna. Vào thời
của Krishna, không có cách nào khác để diễn tả sự vĩ đại
của ông ấy: "Nếu Krishna là người vĩ đại, thế thì ông ta
có bao nhiêu vợ?" Cho nên chúng ta phải gợi lên con số
khổng lồ mười sáu nghìn - thế thì đấy là con số ấn tượng,
mặc dầu ngày nay nó dường như không được ấn tượng
đến thế do bùng nổ dân số. Vào những ngày đó không có
nhiều người thế. Ở châu Phi thậm chí cho đến giờ còn có
những cộng đồng chỉ có ba người. Cho nên nếu họ được
nghe kể rằng một người có bốn vợ, đấy sẽ là con số
không thể được vì họ không biết gì bên ngoài số ba.
Trong cõi dục, hiện diện của người khác là cần thiết.
Nếu người khác không hiện diện, ngay cả việc tưởng
tượng về người khác cũng tạo ra hiệu quả cần thiết. Đó là
lí do tại sao người ta tin rằng nếu Thượng đế hiện diện
ngay cả trong tưởng tượng, bùng nổ có thể xảy ra. Do đó,
một truyền thống lâu dài về bhakti, con đường của sùng
kính, đã phát triển mà trong đó tưởng tượng được dùng
như phương tiện cho bùng nổ. Nếu việc xuất tinh là có thể
xảy ra qua tưởng tượng, tại sao bùng nổ năng lượng
không thể xảy ra theo cùng cách tại sahasrar? Điều này
làm nảy sinh khả năng gặp gỡ Thượng đế trong đầu thông
qua việc dùng tưởng tượng. Nhưng điều này không thực
sự có thể có. Xuất tinh là có thể trong tưởng tượng vì nó
thực tế đã được kinh nghiệm; do đó nó có thể được tưởng
tượng. Nhưng chúng ta chưa từng gặp Thượng đế; do đó
không thể tưởng tượng được ngài. Chúng ta chỉ tưởng
tượng được điều mà mình đã kinh qua.
Nếu một người đã kinh nghiệm một loại vui thú nào
đó, người đó bao giờ cũng có thể ngồi lại, nhớ lại kinh
nghiệm đó và tận hưởng nó lần nữa. Người điếc không
thể nghe được trong giấc mơ dù người đó có cố gắng đến
đâu đi chăng nữa; người đó thậm chí không thể nào tưởng
tượng được âm thanh. Tương tự, người mù không thể
nhìn thấy ánh sáng được. Nhưng nếu một người bị mất
mắt, người đó bao giờ cũng có thể mơ được về ánh sáng.
Hơn thế, bây giờ người đó chỉ thấy ánh sáng trong giấc
mơ của mình, vì người đó không còn mắt để thấy nữa.
Cho nên chúng ta có thể nhìn vào kinh nghiệm của mình,
nhưng không có cách nào để tưởng tượng điều chưa bao
giờ được kinh nghiệm cả.
Bùng nổ không phải là kinh nghiệm của chúng ta, do
đó tưởng tượng không có tác dụng ở đây. Chúng ta thực
tế phải đi vào trong, và thế thì biến cố thực tại có thể xảy
ra. Cho nên luân xa sahasrar là biên giới tối thượng của
bạn, nơi bạn kết thúc.
Như tôi đã nói trước đây, con người là chiếc thang.
Lời của Nietzsche trong hoàn cảnh này là rất quí giá. Ông
ấy nói, "Con người là chiếc cầu bắc qua hai sự vĩnh
hằng." Có một vĩnh hằng - đó là tự nhiên, cái không có
kết thúc - và có một vĩnh hằng khác, về điều thiêng liêng,
cũng vô hạn, vô giới hạn. Con người là cây cầu bắc giữa
hai điều này. Do đó con người không phải là chỗ nghỉ.
Người ta hoặc tiến lên hoặc lùi lại. Không có chỗ để xây
nhà trên chiếc cầu này. Bất kì ai cố định cư trên nó đều
phải hối hận, vì cầu không phải là nơi để xây nhà; nó chỉ
có nghĩa để đi qua từ đầu này sang đầu kia.
Tại Fatehpur Sikri, Akbar đã cố gắng dựng nên một
ngôi đền dành cho mọi tôn giáo. Ông ấy đã mơ về một
tôn giáo, mà ông ấy gọi là Deen-e Ilahe - tinh hoa của
mọi tôn giáo. Thế là ông ấy cho khắc một câu trên cửa lối
vào, chính là lời của Jesus Christ. Nó nói là: Thế giới này
chỉ là chỗ nghỉ và không phải là nhà vĩnh viễn. Bạn có thể
dừng lại ở đây một khoảng thời gian nào đó, nhưng bạn
không thể dừng lại mãi mãi. Đây chỉ là nơi nghỉ trên cuộc
hành trình của bạn. Nó là mảnh đất cắm trại, nhà gỗ dựng
tạm của lữ khách, nơi người ta có thể ở qua đêm và lại lên
đường đi tiếp vào buổi sáng. Chúng ta dừng ở đây chỉ để
cho chúng ta có thể nghỉ lại đêm và bắt đầu vào ngày
mới. Không có mục đích gì khác. Chúng ta không dừng ở
đây mãi mãi.
Con người là chiếc thang phải được trèo qua; do đó
người đó bao giờ cũng căng thẳng. Nói rằng con người
căng thẳng là không đúng: thay vì thế thì con người là sự
căng thẳng. Cây cầu bao giờ cũng căng thẳng; nó là cây
cầu bởi vì nó là căng thẳng. Nó là cái nằm giữa hai cực
đoan. Con người là sự căng thẳng không tránh khỏi; do
đó con người chẳng bao giờ an bình, chẳng bao giờ an
bình cả. Chỉ khi người đó trở thành giống như con vật
người đó mới kinh nghiệm được một chút an bình, hay
ngược lại người đó đạt được an bình hoàn hảo khi người
đó trở thành điều thiêng liêng. Căng thẳng lỏng dần khi
người đó trở thành con vật; thế thì người đó đã bước
xuống chiếc thang để đứng trên đất nền, chỗ người đó đã
từng quen thuộc trong hàng nghìn kiếp. Người đó đã làm
giảm nhẹ cho mình bớt lo âu về căng thẳng. Cho nên con
người tìm kiếm tự do khỏi căng thẳng trong dục, hay
trong những kinh nghiệm khác có liên quan tới dục như
rượu, ma tuý, vân vân, cái có thể đem người đó vào vô ý
thức tạm thời. Nhưng bạn có thể ở đó chỉ trong một
khoảng ngắn ngủi; cho dù bạn muốn, bạn cũng không thể
ở lại trong trạng thái con vật mãi mãi được. Ngay cả một
người với phẩm chất tồi tệ nhất cũng chỉ có thể ở trong
trạng thái con vật trong một khoảng ngắn ngủi mà thôi.
Người phạm tội giết người làm điều đó trong khoảnh
khắc khi người đó trở thành con vật. Nếu như người đó
chờ đợi một khoảnh khắc lâu hơn, có lẽ người đó có thể
không làm được việc đó. Việc trở thành giống con vật của
chúng ta là điều gì đó tựa như việc con người nhảy: trong
một khoảnh khắc người đó trong không trung; thế rồi
người đó rơi trở lại mặt đất. Cho nên người tồi tệ nhất
trong con người không phải là tồi mãi mãi; người đó
không thể thế được. Người đó chỉ như thế trong các
khoảnh khắc; ngoài ra, người đó bình thường giống như
bất kì người nào khác. Trong một khoảnh khắc người đó
thấy thoải mái, vì người đó rơi trở lại vào cái nền đã biết
nơi không có căng thẳng. Đây là lí do tại sao chúng ta
thấy không có căng thẳng trong con vật.
Nhìn vào trong mắt chúng: không có căng thẳng. Con
vật chẳng bao giờ phát điên hay tự tử; nó chẳng bị đau
tim. Nhưng tất cả những điều này trở thành có thể đối với
con vật đang bị con người cầm tù - khi nó phải kéo xe cho
con người hay trở thành con vật nuôi trong nhà của người
đó. Khi con người cố gắng kéo con vật qua chiếc cầu đó,
sự phức tạp bắt đầu.
Bây giờ nếu một con chó lạc đi vào căn phòng này,
nó sẽ đi lung tung theo ý thích, nhưng nếu một con chó
nuôi đi vào, nó sẽ đi và ngồi tại nơi nó được ra lệnh. Bây
giờ con chó nuôi này đã đi vào thế giới loài người và bỏ
lại thế giới loài vật của nó đằng sau. Nó chắc chắn đưa nó
vào rắc rối rồi. Nó là con vật bị bắt trải qua sự căng thẳng
của con người. Vậy, nó mãi mãi trong lo âu. Nó năng nổ
chờ đợi mệnh lệnh để chạy ra khỏi phòng này.
Con người có thể rơi lại vào trạng thái con vật chỉ
trong thoáng chốc. Đây là lí do tại sao chúng ta nói rằng
tất cả những niềm vui của mình đều ngắn ngủi. Niềm vui
cũng có thể vĩnh hằng, nhưng nơi chúng ta tìm nó, đấy
chỉ là trạng thái nhất thời. Chúng ta cố tìm ra hạnh phúc
trong trạng thái con vật, và điều này có thể chỉ có trong
thoáng chốc rất ngắn. Chúng ta không thể vẫn còn trong
trạng thái con vật lâu được. Khó mà quay lại trạng thái
tồn tại trước đây của chúng ta. Nếu bạn muốn quay lại
ngày hôm qua, bạn có thể nhắm mắt và quán tưởng -
nhưng được bao lâu? Khi bạn mở mắt ra bạn sẽ thấy bản
thân mình ở nơi bạn vẫn đang ở đấy.
Bạn không thể đi ngược lại. Bạn có thể bó buộc làm
điều đó trong khoảnh khắc, nhưng rồi bạn bao giờ cũng
ăn năn. Do đó, mọi vui thú nhất thời đều đem tới ăn năn
trong quá trình của nó. Bạn bị bỏ lại với cảm giác là
những cố gắng của bạn đều phù phiếm, nhưng sau vài
ngày bạn quên mất và lại rơi vào cũng sai lầm đó. Niềm
vui nhất thời có thể đạt tới ở mức độ con vật, nhưng niềm
vui vĩnh hằng, chỉ đạt tới khi hội nhập với điều thiêng
liêng. Cuộc hành trình này phải được hoàn tất bên trong
bản thể riêng của bạn. Bạn phải đi qua từ đầu cầu này
sang đầu cầu kia; chỉ thế thì biến cố thứ hai mới xảy ra.
Do đó, tôi coi dục và samadhi là tương đương. Có lí
do cho điều này. Thực tế, đây chỉ là hai biến cố tương
đương nhau. Trong dục chúng ta ở tại một đầu cầu, bậc
thang thấp nhất của chiếc thang, nơi chúng ta là một với
tự nhiên; trong samadhi chúng ta ở đầu kia của cây cầu,
bậc thang cao nhất của chiếc thang, nơi chúng ta là một
với điều thiêng liêng. Cả hai đều là việc hợp nhất; cả hai
đều là bùng nổ theo một cách nào đó. Trong cả hai trường
hợp bạn đều làm mất bản thân mình theo một nghĩa đặc
biệt: trong dục bạn mất bản thân mình trong thoáng chốc,
còn trong samadhi, mất mãi mãi. Trong cả hai trường hợp
bạn đều dừng tồn tại. Trường hợp trước là bùng nổ rất
nhất thời, và sau đó bạn kết tinh lại, vì nơi bạn đã qua là
trạng thái thấp hơn mà bạn không thể trở lại được. Nhưng
một khi bạn hội nhập với điều thiêng liêng, bạn không thể
kết tinh lại được nữa.
Việc đảo ngược này là không thể được để cho cái một
đi vào trạng thái con vật. Điều đó tuyệt đối không thể
được. Nó cũng hệt như việc trông đợi người lớn chui
được vào trong bộ quần áo trẻ sơ sinh. Bạn đã trở thành
một với cái tuyệt đối, cho nên bạn không thể trở lại với
cái cá thể. Bây giờ cái ngã cá thể đã trở thành nơi chật
hẹp và ít ý nghĩa đến độ bạn không thể đi vào đó được
nữa. Bây giờ bạn thậm chí không thể nào hình dung được
làm sao bạn có thể vào trong nó. Vấn đề của cá thể kết
thúc ở đây.
Để cho bùng nổ xảy ra, phải cần tới hai điều: cuộc
hành trình bên trong của bạn phải đạt tới điểm của
sahasrar và gặp gỡ với ân huệ ở đó...
Tại sao chúng ta gọi trung tâm này là sahasrar cần
phải được giải thích. Cái tên này không phải là điều trùng
hợp, mặc dầu ngôn ngữ bao giờ cũng phát triển một cách
ngẫu nhiên và bởi việc sử dụng thường xuyên. Chúng ta
dùng từ cái cửa: bất kì cái tên nào khác đều cũng có thể
dễ dàng được dùng để kí hiệu cho cùng một thứ. Có hàng
nghìn ngôn ngữ trên thế giới và phải có hàng nghìn từ có
nghĩa cái cửa và có thể truyền đạt cùng ý nghĩa đó.
Nhưng khi một thứ không ngẫu nhiên thì có xuất hiện sự
tương tự trong mọi ngôn ngữ. Cho nên nghĩa của cái cửa,
hay dwar, truyền đạt ý nghĩa của cái mà qua đó chúng ta
đi vào và đi ra. Cho nên trong mọi ngôn ngữ từ được
dùng cho cái cửa sẽ chuyển vận ý nghĩa này, vì đây là
một phần của kinh nghiệm và không phải là sự bố trí
trùng hợp. Ý tưởng về không gian mà qua đó lối vào và
lối ra là có thể được đều được truyền đạt qua từ cái cửa
này.
Vậy từ sahasrar đã được đặt ra như kết quả của các
kinh nghiệm, và nó không phải là ngẫu nhiên. Ngay khi
bạn đạt tới kinh nghiệm này, bạn cảm thấy dường như
hàng nghìn nụ hoa nở rộ bên trong bạn một cách bất thần.
Chúng ta nói một nghìn, nhưng ngụ ý vô hạn, và chúng ta
ví nó với hoa vì kinh nghiệm này tựa như việc nở hoa.
Cái gì đó bên trong đã từng khép lại như nụ chồi đã mở
ra. Từ hoa được dùng trong ngữ cảnh của việc nở hoa. Và
không chỉ một hay hai thứ nở ra - vô hạn thứ cùng nở ra.
Cho nên việc gọi chứng nghiệm này là "nở ra của hoa
sen một nghìn cánh" là tự nhiên. Bạn đã từng thấy hoa
sen nở ra dưới tia sáng mặt trời buổi sáng chưa? Quan sát
cẩn thận vào. Lại gần ao hoa sen và im lặng quan sát khi
nụ hoa sen từ từ mở cánh ra. Thế thì bạn có thể quán
tưởng điều cảm nhận sẽ là thế nào nếu hoa sen một nghìn
cánh nở ra theo cách này trong đầu. Thế thì bạn sẽ có thể
tưởng tượng về kinh nghiệm này theo cách nào đó.
Còn có một kinh nghiệm tuyệt vời khác: đó là dục.
Những người đi sâu vào trong kinh nghiệm dục cũng cảm
thấy việc nở hoa này, nhưng nó là kinh nghiệm lướt qua
rất nhanh. Cái gì đó bên trong mở ra, nhưng nó khép lại
gần như ngay tức khắc.
Nhưng có khác biệt giữa hai kinh nghiệm này. Trong
kinh nghiệm dục hoa được cảm thấy treo xuống, trong khi
trong samadhi cánh hoa nở được cảm thấy nở lên. Khác
biệt này chỉ có thể thấy được bằng cách trải qua cả hai
kinh nghiệm đó. Điều tự nhiên là hoa nở xuống nối bạn
với thực tại thấp hơn, trong khi hoa nở lên nối bạn với
thực tại cao hơn. Thực tế, việc nở hoa này là việc mở ra
làm cho bạn thành mong manh với thực tại khác. Nó là
cánh cửa mở ra - cánh cửa qua đó cái gì đó đi vào bên
trong bạn để cho sự bùng nổ xảy ra.
Vậy, cả hai điều này đều cần tới. Bạn sẽ du hành lên
trên cho tới sahasrar và có ai đó bao giờ cũng đợi bạn.
Nói ai đó sẽ đến đó khi bạn tới là không đúng; phải nói là
ai đó đã có ở đấy rồi đang đợi cho biến cố xảy ra trong
bạn.
#1Liệu biểu lộ kundalini hướng về sahasrar chỉ có được
bằng cách thông qua shaktipat không? Chỉ thế thì
bùng nổ mới xảy ra chăng?
Nếu là như vậy, thế thì điều đó có nghĩa là có thể đạt
tới samadhi qua ai đó khác không?
Điều này cần phải được hiểu cho đúng. Trong sự tồn
tại, trong cuộc sống, không có biến cố nào đơn giản đến
mức bạn có thể hiểu nó chỉ bởi một khía cạnh về nó; nó
phải được xem xét theo nhiều chiều. Bây giờ nếu tôi đập
cánh cửa bằng búa và cửa mở ra, tôi có thể nói rằng cửa
được mở ra bởi cú đập búa của tôi. Theo một nghĩa nào
đó điều này đúng: nếu tôi không đập cửa, cửa sẽ không
mở ra. Bây giờ cũng với cái búa đó tôi đập vào cánh cửa
khác, nhưng búa có thể bị gẫy mà cửa lại không mở - thế
thì, ... Thế thì một nhân tố nữa bước vào tri thức của
chúng ta: khi tôi đập cánh cửa thứ nhất và nó mở ra, đấy
không phải hoàn toàn do chiếc búa. Cánh cửa đã sẵn sàng
mở rồi. Nó có thể đã cũ kĩ, nó có thể đã suy yếu, nhưng
dù bất kì điều gì, nó đã sẵn sàng mở. Cho nên cánh cửa
cùng là một nhân tố như chiếc búa cho điều này xảy ra.
Trong trường hợp này chiếc búa đập vào và cửa mở ra;
trong trường hợp kia, búa gẫy mà cửa, không mở.
Cho nên khi biến cố xảy ra trong shaktipat, đấy không
hoàn toàn là do shaktipat. Tại đầu kia, thiền nhân phải
trong hoàn cảnh đã có chuẩn bị bên trong và với sự sẵn
sàng, vậy một cú xô khẽ cũng trở nên có hiệu quả. Nếu cú
xô này không do shaktipat gây ra, thiền nhân có thể mất
thời gian lâu hơn để đạt tới sahasrar. Cho nên kundalini
không đạt tới sahasrar chỉ bởi vì shaktipat; chính yếu tố
thời gian bị giảm đi - không gì nhiều hơn. Thiền nhân
đằng nào cũng sẽ đạt tới.
Giả sử tôi không đập búa đập cửa, nhưng cánh cửa
này cũ quá và sắp sập: thế thì nó có thể sập xuống bởi
một cơn gió mạnh. Mà dù cho không có gió, trong quá
trình thời gian nó cũng sẽ sập đổ theo cách của nó. Thế
thì sẽ khó giải thích được tại sao và bằng cách nào nó đổ
xuống, vì nó đã chuẩn bị cho sự sụp đổ vào mọi lúc. Cho
nên nhiều nhất, khác biệt cũng chỉ là khoảng thời gian.
Chẳng hạn, thoáng nhìn về điều thiêng liêng đã xảy ra
cho Swami Vivekananda khi ở gần Ramakrishna. Nếu
Ramakrishna một mình chịu trách nhiệm biến cố trong
Vivekananda, thế thì điều ấy cũng có thể đã xảy ra cho
những người khác tới với ông. Ông ấy có hàng trăm đệ
tử. Nếu Vivekananda một mình chịu trách nhiệm, điều đó
đáng phải xảy ra cho ông ta từ trước đó lâu rồi. Ông ta đã
tới nhiều bậc thầy khác trước khi tới Ramakrishna, mà
biến cố đã không xảy ra. Cho nên Vivekandanda đã sẵn
sàng theo cách của mình và Ramakrishna có khả năng
theo cách của ông ấy.
Khi sự sẵn sàng và khả năng này gặp gỡ nhau vào
một điểm đặc biệt, lỗ hổng thời gian cho biến cố được rút
ngắn lại. Có thể là nếu Vivekananda không gặp
Ramakrishna vào khoảnh khắc đặc biệt đó, biến cố cũng
có thể xảy ra chậm hơn một năm, hai năm, hay có thể ở
lần sinh tiếp của ông ta, hay có thể sau mười kiếp nữa.
Thời gian là không quan trọng. Nếu một người đã sẵn
sàng thế thì biến cố sẽ xảy ra chẳng chóng thì chầy.
Lỗ hổng thời gian có thể được rút ngắn. Và điều quan
trọng cần hiểu rằng thời gian là hư huyễn, tựa giấc mơ; do
đó nó chẳng có giá trị gì mấy. Thực tế thời gian là hiện
tượng tựa như giấc mơ tới mức nó chẳng có giá trị gì
mấy. Bạn có thể chợp mắt và một vài phút trôi qua,
nhưng trong quãng thời gian ngắn ngủi đó bạn có thể thấy
một giấc mơ suốt từ thời thơ ấu của mình cho tới tuổi già
của bạn, với đủ mọi biến cố, sự kiện. Nhưng trong trạng
thái thức thật khó mà tin được rằng giấc mơ dài thế lại
kéo dài không quá một phút. Thực tại, chiều thời gian
trong trạng thái mơ là rất khác biệt. Thời gian mơ có khả
năng bao lấy nhiều, nhiều sự kiện trong một khoảng rất
ngắn; do đó đấy là ảo tưởng.
Bây giờ, có những loài côn trùng sinh ra vào buổi
sáng và chết đi lúc tối. Chúng ta nói "Loài vật này thật
đáng thương!" - nhưng ta đâu có biết rằng trong khoảng
thời gian đó loài côn trùng đó đã sống cuộc sống của nó
trong sự toàn bộ của nó, và nó kinh nghiệm tất cả những
điều chúng ta kinh nghiệm trong bẩy mươi năm. Không
có gì khác biệt cả: loài côn trùng như thế xây nhà, tìm vợ,
có con, đánh nhau với kẻ khác, và thậm chí còn đạt tới
trạng thái sannyas - tất cả trong vỏn vẹn có mười hai tiếng
đồng hồ. Nhưng cảm nhận của chúng về thời gian có
khác. Chúng ta thương hại chúng vì chúng được ban cho
cuộc sống quá ngắn ngủi, còn chúng thương hại chúng ta
vì chúng ta phải mất đến bẩy mươi năm để làm tất cả
những cái mà chúng có thể làm trong thời kì mười hai
tiếng đồng hồ. Theo chúng, chúng ta phải đần độn làm
sao!
Thời gian phụ thuộc vào tâm trí; nó là thực thể tâm
trí. Chiều dài thời gian thăng giáng theo trạng thái tâm trí
chúng ta. Khi bạn hạnh phúc, thời gian thành ngắn ngủi.
Khi bạn lo âu hay đau khổ, thời gian thành đằng đẵng.
Khi bạn ngồi cạnh giường chết của người thân, đêm
dường như chẳng bao giờ chấm dứt; dường như mặt trời
chẳng bao giờ mọc. Cứ dường như là đấy là đêm cuối
cùng của thế gian và nó sẽ chẳng bao giờ kết thúc, mặt
trời sẽ chẳng bao giờ mọc.
Nỗi buồn kéo dài thời gian. Trong buồn bạn muốn
thời gian trôi qua nhanh chóng. Bạn càng trông đợi thời
gian qua mau, dường như nó lại bò hơn, chậm hơn, bởi vì
đây là kinh nghiệm tương đối, mặc dầu thời gian thực tế
cứ trôi qua với tốc độ bình thường của nó. Khi một người
đợi người yêu mình tới, người đó cảm thấy cô ấy mất quá
nhiều thời gian để tới trong khi thực sự cô ấy vẫn bước
theo nhịp thông thường của cô ấy. Người đó muốn cô ấy
có tốc độ máy bay.
Cho nên thời gian dường như chậm chạp trong nỗi
buồn. Khi bạn hạnh phúc, khi bạn gặp bạn mình hay
người yêu mình, bạn để cả đêm nói chuyện rồi đến sáng
bạn tự hỏi sao đêm trôi qua chóng thế. Cảm nhận thời
gian thật khác biệt trong những khoảnh khắc hạnh phúc
hay buồn bã.
Thời gian phụ thuộc vào tâm trí; do đó, có thể đem
đến thay đổi về thời gian bằng cách tác động vào tâm trí
bởi tác nhân bên ngoài. Nếu tôi lấy gậy đập vào đầu bạn,
tự nhiên đầu bạn đau. Thân thể bạn có thể bị đánh từ bên
ngoài, tâm trí bạn cũng vậy. Nhưng bạn không thể nào bị
đánh bởi lực bên ngoài nào đó, vì bạn không là thân thể
mà cũng không là tâm trí. Nhưng ngay bây giờ bạn đang
nghĩ rằng bạn là thân thể và tâm trí, cho nên thân thể và
tâm trí có thể bị ảnh hưởng. Và bằng việc tác động vào
thân-tâm bạn, tỉ lệ thời gian có thể đuợc thay đổi theo
những cách khác nhau; hàng thế kỉ có thể được thu lại
trong vài khoảnh khắc, và ngược lại.
Khoảnh khắc thức tỉnh xảy ra cho bạn, bạn sẽ rất
ngạc nhiên. Tới giờ đã hai nghìn năm kể từ khi Jesus
chết, năm nghìn năm từ Krishna, và rất nhiều thời gian đã
trôi qua kể từ khi Zarathushtra và Moise. Nhưng bạn sẽ
ngạc nhiên rằng khoảnh khắc bạn thức tỉnh, bạn sẽ nói:
"Trời, họ cũng vừa mới thức tỉnh!" Lỗ hổng thời gian
dừng lại hoàn toàn. Bây giờ nhiều nghìn năm này trở
thành tựa như thời gian mơ.
Cho nên khi người ta thức tỉnh, tất cả đều thức tỉnh.
Thậm chí không có khác biệt tới một khoảnh khắc. Điều
này khó hiểu. Khoảnh khắc bạn thức tỉnh, bạn trở thành
đương đại với Phật, Christ, Mahavira và Krishna. Họ sẽ ở
quanh bạn dường như họ cũng vừa mới thức tỉnh với bạn.
Không có khác biệt một khoảnh khắc - không thể thế
được.
Bây giờ nếu chúng ta vẽ ra một hình tròn và nhiều
đường nối từ tâm ra chu vi, ta sẽ thấy rằng tại chu vi
khoảng cách giữa bất kì hai đường nào cũng là lớn nhất.
Thế rồi, khi bạn đi theo các đường này vào tâm, khoảng
cách giữa hai đường trở nên ngày càng nhỏ đi, đến tại
điểm tâm không còn khoảng cách nữa. Tất cả các đường
trở thành một tại điểm đó. Cho nên khi một người đạt tới
tâm của kinh nghiệm sâu sắc đó, khoảng cách đã từng
hiện diện ở chu vi - về hai nghìn năm, năm nghìn năm -
tan biến. Nhưng thật khó cho người như vậy để giải thích
kinh nghiệm của mình, vì người nghe của người đó vẫn
còn ở phần ngoại vi và ngôn ngữ của họ cũng là ngôn ngữ
của phần ngoại vi. Đó là lí do tại sao có khả năng bị hiểu
sai sâu xa.
Một người tới tôi. Người đó là người tôn sùng Jesus.
Người đó hỏi tôi: "Thầy nghĩ gì về Jesus?"
Tôi đáp, "Nói ra ý kiến về chính mình là không thích
hợp"
Người đó nhìn tôi ngạc nhiên. "Có lẽ thầy không hiểu
tôi," người đó nói. "Tôi hỏi ý kiến của thầy về Jesus cơ."
Tôi nói, "Tôi cũng cảm thấy rằng bạn đã không nghe
tôi. Tôi đã nói rồi, 'Đưa ra ý kiến về chính mình là không
thích hợp.' Người đó trông hoang mang. Thế rồi tôi giải
thích cho người đó, 'Bạn có thể lí thuyết hoá về Jesus
chừng nào bạn chưa biết về ông ấy. Khoảnh khắc bạn
biết, sẽ không khác biệt gì giữa bạn và ông ấy cả. Làm
sao bạn còn có ý kiến được?'"
Một hôm, một nghệ sĩ đem tới cho Ramakrishna xem
bức tranh người đó đã vẽ về Ramakrishna. Ông ấy hỏi
Ramakrishna có thích bức tranh ấy không, nhưng ông ấy
thấy rằng Ramakrishna cúi rạp mình trước tấm tranh và
chạm trán vào chân người trong tranh. Người có mặt ở đó
nghĩ rằng chắc có nhần lẫn, lẫn lộn gì đó. Có lẽ
Ramakrishna không nhận ra rằng đấy là chân dung mình.
Cho nên hoạ sĩ đã nhắc ông ấy rằng ông ấy đang cúi lạy
trước bức chân dung của chính mình.
"Tôi quên mất điều ấy," Ramakrishna trả lời. Bức
tranh này thật là sâu lắng trong samadhi - làm sao đấy lại
có thể là tranh của tôi được? Nếu samadhi có đấy, không
có ‘tôi’ mà cũng chẳng có ‘anh’. Cho nên tôi cúi mình
trước samadhi. Cũng tốt là ông đã nhắc tôi nếu không
người ta sẽ cười." Nhưng mọi người đều đã cười rồi.
Ngôn ngữ của chu vi không phải là ngôn ngữ của
trung tâm. Cho nên khi Krishna nói: "Chính ta là Rama",
và khi Jesus nói: "Ta đã tới trước và đã nói với ông", và
khi Phật tuyên bố: "Ta sẽ trở lại nữa", họ đều nói ngôn
ngữ của trung tâm, và điều này thật khó cho chúng ta
hiểu. Phật tử vẫn chờ đợi sự quay trở lại của Phật lần nữa
trên thế gian. Sự thật là ở chỗ ông ấy đã trở tới nhiều lần
rồi. Cho dù ông ấy tới, ông ấy cũng chẳng được thừa
nhận, vì không có cách nào tới trong cùng dạng lần nữa.
Khuôn mặt đó là một hiện tượng tựa giấc mơ, và nó đã
mất đi mãi mãi.
Cho nên tại trung tâm không có lỗ hổng thời gian. Do
đó, thời gian được ngụ ý cho việc xảy ra chứng ngộ có thể
được tăng tốc lên hay làm chậm đi; nó có thể được tăng
tốc lên rất nhiều. Điều đó có thể được thực hiện bởi
shaktipat.
Và trong phần cuối câu hỏi của bạn, bạn đang hỏi về
người khác tham gia vào việc xảy ra samadhi.
Người khác dường như là người khác bởi níu bám dai
dẳng của bạn vào biên giới của bản ngã riêng mình. Do
vậy Vivekananda sẽ nghĩ rằng chứng ngộ xảy ra là do
Ramakrishna. Nếu Ramakrishna nghĩ theo cách đó thì sẽ
là xuẩn ngốc. Với Ramakrishna điều đó xảy ra theo cách
khác. Cũng tựa như là tay phải đau và tay trái đặt thuốc
lên. Bây giờ, tay phải có thể nghĩ rằng ai đó khác đang
chữa chạy cho nó và có thể cám ơn hay từ chối việc chữa
chạy ấy. Tay phải có thể nói, "Tôi không nhận sự giúp đỡ
từ người khác; tôi độc lập." Nhưng thế thì nó không biết
rằng cùng năng lượng ấy đang làm việc thông qua tay
trái, cũng làm việc thông qua tay phải. Cho nên khi một
người được người khác giúp đỡ, đấy không thực là người
khác đâu; đấy chính là sự sẵn sàng của riêng bạn đã kêu
gọi sự giúp đỡ này từ phần khác của chính cái ta riêng của
bạn.
Có một cuốn sách cổ đại ở Ai cập trong đó có nói,
"Đừng bao giờ đi tìm thầy. Thầy sẽ xuất hiện tại cửa nhà
bạn vào khoảnh khắc bạn đã sẵn sàng." Nó cũng nói:
"Cho dù bạn có lên đường đi tìm thầy, làm sao bạn tìm
được? Làm sao bạn nhận ra được thầy? Nếu bạn đã có đủ
phẩm chất để nhận ra thầy, thế thì chẳng cái gì thiếu trong
bạn."
Do đó, bao giờ cũng là thầy nhận ra đệ tử. Đệ tử
không bao giờ có thể nhận ra được thầy. Không có khả
năng nào, không có cách nào. Vì bạn vẫn không thể nào
nhận ra được bản thể bên trong riêng của mình, làm sao
bạn nhận ra thầy được? Cái ngày mà bạn sẵn sàng, một
bàn tay nào đó, mà thực sự là bàn tay của riêng bạn, sẽ
hiện diện như người hướng dẫn của bạn để giúp bạn. Bàn
tay đó là bàn tay của người khác chừng nào bạn vẫn còn
chưa biết. Cái ngày bạn biết, bạn thậm chí sẽ không chờ
đợi đưa ra lời cám ơn nữa.
Có một lệ trong các thiền viện ở Nhật bản. Khi thiền
nhân tới thiền viện để học thiền, người đó đem theo chiếc
chiếu của mình, trải nó ra trên đất và ngồi lên nó. Hàng
ngày người đó thiền trên chiếc chiếu và rồi để nó ở đấy.
Cái ngày việc thiền của người đó hoàn tất, người đó sẽ
cuộn chiếu và ra đi. Thế thì thầy hiểu rằng việc thiền của
người đó đã hoàn thành. Thầy không trông đợi lời cám
ơn, vì nhu cầu ở đâu? Mà ai cám ơn ai? Thiền nhân không
nói một lời. Thầy thấy thiền nhân cuộn chiếu và ông ấy
hiểu. Thời điểm đã tới để cuộn chiếu. Thế là tốt. Chẳng
cần gì mà giữ hình thức cám ơn cả. Ai được cám ơn? Và
nếu thiền nhân phạm phải sai lầm này, thầy có thể lấy
thiền trượng đánh người đó khi ra lệnh cởi chiếu ra vì
việc thiền vẫn còn chưa xảy ra.
Cho nên ý tưởng về người khác chỉ là do dốt nát của
chúng ta; nếu không, lấy đâu ra người khác? Chỉ có một
mình bản thân mình trong vô số hình dạng; chỉ có bản
thân mình trên vô số cuộc hành trình; chỉ có bản thân
mình trong vô hạn tấm gương. Dứt khoát chỉ có một mình
bản thân mình đang trong gương, mặc dầu điều người ta
thấy là khác với bản thân mình.
Có một câu chuyện Sufi. Một con chó lạc lối trong
một lâu đài. Tường và trần của lâu đài này đều làm bằng
gương, cho nên con chó gặp khó khăn lớn. Bất kì chỗ nào
nó nhìn cũng toàn chó là chó. Nó trở nên rất phân vân:
nhiều chó khắp xung quanh thế! Nó có mỗi mình vậy mà
bị bao quanh bởi lắm chó thế. Không có cách nào thoát ra
được, vì cửa cũng bằng gương cho nên nó thấy chó cả ở
đấy nữa. Thế rồi nó bắt đầu sủa, nhưng tất cả các con chó
trong gương cũng bắt đầu sủa với nó. Và khi tiếng sủa
của nó tràn ngập trong phòng, nó chắc chắn nỗi sợ của nó
không phải là không có căn cứ và rằng cuộc sống nó đang
lâm nguy. Nó cứ tiếp tục sủa và tất cả các con chó khác
cũng sủa còn to hơn. Nó chạy lăng xăng để đánh nhau với
chúng; chó trong gương cũng làm hệt như vậy. Cả đêm
nó kiệt sức vì sủa và đánh nhau với những con chó trong
gương, mặc dầu nó chỉ có mỗi mình ở đó! Đến sáng lính
gác thấy nó chết bên trong lâu đài. Con chó chết vì chạy,
sủa và đánh nhau với hình phản xạ, mặc dầu chỉ có mình
nó ở đấy. Khi nó chết, mọi tiếng động cũng lắng xuống;
các tấm gương trở nên im lặng.
Có nhiều tấm gương, và khi chúng ta nhìn người
khác, đấy chỉ là sự phản chiếu của riêng chúng ta trong
các tấm gương khác nhau; do đó, người khác là ảo tưởng.
Ý niệm rằng chúng ta đang giúp người khác là ảo tưởng,
và ý niệm rằng chúng ta đang nhận sự giúp đỡ từ người
khác cũng là ảo tưởng nốt. Thực tại, người khác, như họ
vậy, là ảo tưởng.
Một khi điều này được nhận ra, cuộc sống trở thành
đơn giản. Thế thì bạn không làm cái gì đó cho người
khác, mà coi người đó là người khác, bạn cũng không để
người khác làm điều gì đó cho bạn mà cảm thấy người đó
là người khác. Thế thì đấy chính là bản thân bạn được mở
rộng ra cả hai đầu. Thế thì nếu bạn đưa tay giúp đỡ ai đó
trên đường tức là bạn đã giúp cho chính mình rồi. Nếu ai
đó khác đưa tay giúp bạn, thế thì người đó cũng chỉ giúp
chính họ thôi. Nhưng điều này đến trong hiểu biết của
chúng ta chỉ sau kinh nghiệm tối thượng. Trước lúc đó,
người khác dứt khoát là người khác.
#1Có lần thầy đã ngụ ý rằng shaktipat tỏ ra là có hại
cho Vivekananda.
Không phải shaktipat là có hại cho Vivekananda mà
điều xảy ra sau đó. Nhưng ý tưởng về được và mất cũng
đi đôi với trạng thái mơ; nó không phải là vượt ra ngoài
mơ.
Với giúp đỡ của Ramakrishna, Vivekananda có một
thoáng thấy samadhi mà lẽ ra ông ta sẽ có trên cơ sở sức
mạnh của riêng mình, nhưng muộn hơn nhiều. Bây giờ,
điều ấy tựa thế này: Tôi đập cửa bằng búa và cửa đổ ra,
nhưng tôi có thể dựng cửa dậy lần nữa bằng cách đóng
đinh vào nó cũng cùng với cái búa ấy. Búa có thể đánh đổ
cửa mà cũng có thể chữa lại nó - nhưng chính là cùng một
chiếc búa có tác dụng trong cả hai trường hợp.
Ramakrishna có khó khăn nên ông ấy cần dùng
Vivekananda để giải quyết chúng. Ramakrishna là con
người hoàn toàn mộc mạc, vô học, vô giáo dục. Kinh
nghiệm của ông ấy sâu sắc nhưng ông ấy không có
phương tiện để diễn đạt nó, truyền đạt nó. Ông ấy cần
phải sử dụng người khác như phương tiện, như trung gian
để làm cho thế giới biết tới kinh nghiệm của ông ấy. Nếu
điều này không phải là như vậy, bạn sẽ chẳng bao giờ biết
tới Ramakrishna. Chính là từ lòng từ bi của ông ấy mà
ông ấy mới cố gắng truyền đạt cho bạn về kinh nghiệm
của mình thông qua người khác.
Nếu tôi phát hiện ra kho báu nào đó trong nhà tôi và
nếu tôi là người què, và tôi trèo lên vai người khác để
giao kho báu đó sang nhà bạn, tôi sẽ phải dùng đôi vai
của người này. Người đó sẽ phải chịu đôi chút bất tiện và
khó nhọc bởi việc cõng tôi, nhưng ý định của tôi chỉ là để
trao kho báu cho bạn. Nhưng bởi vì tôi bị què, còn kho
báu, có thể chưa bao giờ được yêu cầu tới, tôi thậm chí
không thể đi ra và trao tin đó được.
Vấn đề này có đấy đối với Ramakrishna; vấn đề
không phải như vậy đối với Phật. Trong cá tính của Phật
cả Ramakrishna lẫn Vivekananda đều cùng hiện diện.
Phật có thể diễn đạt điều ông ấy biết; Ramakrishna không
thể diễn đạt điều ông ấy biết. Ông ấy cần người khác,
người có thể là phương tiện cho việc diễn đạt của ông.
Cho nên ông ấy để lộ cho Vivekananda thoáng thấy kho
báu bên trong, nhưng ngay lập tức bảo Vivekananda rằng
ông ấy giữ chìa khoá bên mình và ông ấy sẽ trao chìa
khoá đó lại cho Vivekananda ba ngày trước cái chết của
ông ấy.
Vivekananda bắt đầu khóc lóc và van xin
Ramakrishna đừng tước đi những cái ông ấy cho mình.
Ramakrishna bảo ông ấy: "Ông có công việc khác phải
làm. Nếu ông đi vào samadhi ông sẽ mất hút mãi mãi và
công việc của ta sẽ bị ảnh hưởng. Điều tốt là ông không
kinh nghiệm samadhi trước khi công việc của ta kết thúc,
vì ông chỉ có thể làm được việc đó trước khi đạt tới
samadhi." Ramakrishna không biết rằng người ta làm
được việc đó cả sau samadhi. Ông ấy có thể không biết
tới điều đó, vì bản thân ông ấy không thể nào làm được
bất kì điều gì sau samadhi.
Thông thường chúng ta được hướng dẫn bởi kinh
nghiệm của riêng mình. Sau kinh nghiệm của mình về
samadhi, Ramakrishna không thể làm được việc gì. Ông
ấy không thể nói lâu được - việc nói là rất khó cho ông
ấy. Ngay cả nếu ai đó nói ra từ Ram, ông ấy sẽ đi vào
ngay trong cơn mê. Ai đó tới chào ông ấy, "Jai Ramji" và
thế là ông ấy sẽ bị lạc khỏi thế giới. Đối với ông ấy, rất
khó để vẫn còn có ý thức dù chỉ nhắc tới danh xưng của
Thượng đế, như Ram. Nó ngay lập tức nhắc nhở ông ấy
về thế giới khác. Ai đó nói "Allah!" và ông ấy sẽ biến
mất. Nếu ông ấy thấy ngôi đền hồi giáo, ông ấy sẽ mất
hút vào samadhi; ông ấy không thể ra khỏi chỗ đó được.
Ông ấy mà nghe thấy bài ca sùng kính khi đang bước trên
đường, ông ấy sẽ đổ sập vào cơn mê, ngay tại chỗ ấy lúc
ấy.
Cho nên theo kinh nghiệm riêng của mình, ông ấy là
đúng khi nghĩ rằng cùng điều đó thể xảy ra cho
Vivekananda. Do đó, ông ấy đã bảo Vivekananda, "Ông
còn nhiệm vụ rất lớn lao cần phải thực hiện, và sau đó,
ông có thể đi vào samadhi." Toàn bộ cuộc sống của
Vivekananda đã trôi qua mà không đạt tới samadhi, và
điều này gây ra cho ông ấy nỗi đau lớn.
Nhưng nhớ lấy, đau là thuộc về thế giới mơ. Cũng tựa
như một người mơ giấc mơ xấu. Ba ngày trước khi chết
ông ấy được trao cho chìa khoá, nhưng mãi cho đến lúc
đó vẫn cứ là một nỗi đau lớn lao. Những bức thư mà ông
ấy viết cho đến quãng năm đến bẩy ngày trước khi ông
chết đều đầy những đau đớn và khổ não, và lại ngày một
tăng thêm với khao khát khắc khoải về điều mà ông ấy
mới chỉ có được thoáng nhìn.
Khát khao của bạn chưa đến mức mãnh liệt thế bởi vì
bạn chẳng có ý tưởng nó là gì cả. Thoáng nhìn trong
khoảnh khắc và thế là khao khát sẽ bắt đầu. Bạn có thể
hiểu điều đó theo cách này: bạn đang đứng trong bóng tối
với những viên đá cuội trong tay, cứ đinh ninh chúng là
kho báu đá quí. Bạn rất hạnh phúc. Rồi một tia chớp loé
lên và bạn thấy rằng có các mỏ kim cương ở phía trước
trong khi bạn đang cầm đá cuội trong tay. Rồi tia chớp tắt
đi, nhưng nó để lại một thông báo đằng sau rằng bạn phải
báo cho những người khác cũng đang đứng đấy cầm đá
cuội trong tay họ, rằng một kho báu vô giá đang đợi họ.
Rồi ánh chớp không loé lên cho bạn nữa, và bạn phải thực
hiện nhiệm vụ kể cho mọi người về kho báu đang nằm
phía trước mặt. Vậy Vivekananda bị buộc phải thực hiện
một nhiệm vụ đặc biệt, là bổ sung thêm cho Ramakrishna
và cũng là điều cần thiết cho ông ấy; điều bị thiếu trong
Ramakrishna ông ấy phải bù thêm thông qua một người
khác.
Điều như thế này vẫn xảy ra nhiều lần. Nếu một
người không thể thực hiện được một nhiệm vụ đặc biệt,
thì sẽ phải cần tới ba hay bốn người khác. Đôi khi thậm
chí cần có năm đến mười người để giúp lan truyền thông
điệp của một người. Cho nên Ramakrishna đã làm điều
đó do lòng từ bi, nhưng việc ấy tạo ra khó khăn nào đó
cho Vivekananda.
Cho nên tôi nói tránh shaktipat nhiều nhất có thể
được. Nhiều nhất có thể được, cố gắng vì ân huệ. Chỉ
shaktipat đó mới có ích, cũng tốt như ân huệ, không có
sợi dây nào được gắn vào, không có điều kiện nào cùng
nó, tuyệt đối vô điều kiện, với điều đó không ai có thể
nói, "Tôi đang giữ chìa khoá trong một thời kì nào đó."
Shaktipat phải xảy ra không có người trung gian ngay
cả để truy vấn điều đã xảy ra. Nếu bạn muốn cám ơn
người đó, thậm chí bạn cũng sẽ không biết chỗ tìm người
đó; thế thì sẽ dễ dàng cho bạn. Nhưng nhiều lúc, khi một
người như Ramakrishna cần giúp đỡ của người khác,
không có cách nào khác để thu được điều đó như cách
này; nếu không, kinh nghiệm của Ramakrishna sẽ bị mất,
không được diễn đạt. Ông ấy cần người trung gian để
diễn đạt điều đó và Vivekananda đã hoàn thành việc đó.
Đây là lí do tại sao Vivekananda bao giờ cũng nói
rằng bất kì cái gì ông ấy đang nói, đều không thuộc về
ông ấy. Khi ông ấy được tôn vinh ở Mĩ ông ấy nói rằng
ông rất đau đớn bởi vì vinh dự thuộc về một người mà
mọi người khác chẳng ai biết đến cả. Và khi ai đó gọi ông
ấy là người vĩ đại, ông nói, "Tôi thậm chí không xứng
đáng được là hạt bụi dưới chân của con người vĩ đại
chính là thầy tôi." Nhưng sự kiện vẫn còn là giá mà
Ramakrishna qua Mĩ, ông sẽ bị nhốt vào nhà thương điên
cho người mất trí; ông ấy sẽ bị đưa vào điều trị tâm thần.
Chẳng ai sẽ nghe nói về ông nữa; thay vì thế thì ông ấy
dứt khoát bị công bố là điên.
Chúng ta chưa thể nào thấy được khác biệt giữa điên
thường và điên thiêng liêng, cho nên ở Mĩ cả hai kiểu
điên này đều bị tống vào nhà thương điên. Ramakrishna
sẽ bị giam giữ để chữa trị trong khi Vivekananda nhận
được mọi tôn vinh - vì điều Vivekananda nói có thể hiểu
được bằng lí trí. Bản thân ông ấy không trong trạng thái
điên thiêng liêng. Ông ấy chỉ đơn thuần là sứ giả, bưu tá
mang bức thư của Ramakrishna và đọc nó cho người ở
nước ngoài. Nhưng ông ấy có thể đọc hay.
Mulla Nasrudin là người có học duy nhất trong làng -
và bạn có thể tưởng tượng anh ấy là người có học thức
thế nào trong trường hợp đó - cho nên mọi người trong
làng phải nhờ tới anh ta viết thư của họ. Một người tới
ông ấy để nhờ viết thư. Nasruddin nói anh ta không viết
vì chân anh ta bị đau. Người này nói, "Chân anh thì liên
quan gì tới việc viết thư? Anh không viết bằng tay à?"
Nasruddin nói, "Ông không biết đấy thôi. Khi tôi viết
thư, chỉ mỗi tôi mới có thể đọc thư. Cho nên tôi phải đi
sang làng khác để đọc nó. Tôi sẽ viết lá thư đó nhưng ai
sẽ đọc nó? Chân tôi lại đau quá. Chừng nào mà tôi còn
chưa thể bước đi được, tôi sẽ không viết bức thư nào
đâu."
Cho nên nếu một người như Ramakrishna viết một
bức thư, một mình người đó có thể đọc được nó, vì người
đó đã quên mất ngôn ngữ của bạn và ngôn ngữ người đó
nói ra là vô nghĩa đối với bạn. Chúng ta gọi những người
như thế là điên. Cho nên những người như thế phải tìm
kiếm và chọn lấy một sứ giả trong chúng ta, người có thể
viết theo ngôn ngữ chúng ta. Người như vậy không hơn gì
một bưu tá. Do đó, thận trọng về Vivekananda. Ông ấy
không có kinh nghiệm của riêng mình. Điều ông ấy nói là
kinh nghiệm của người khác. Ông ấy thành thạo trong
nghệ thuật của mình, ông ấy là chuyên gia trong việc
dùng từ, nhưng đấy không phải là kinh nghiệm của ông
ấy.
Chính bởi lí do này mà chúng ta thấy sự cả tin trong
các bài nói của Vivekananda. Ông ấy nhấn mạnh vào
quan điểm của mình quá mức cần thiết, và điều này lại
tạo nên khiếm khuyết. Bản thân ông ấy cũng nhận biết
được sự kiện là điều ông đang nói không xuất phát từ
kinh nghiệm riêng của ông ấy. Tuy nhiên người trí huệ
bao giờ cũng ngại ngùng: người đó sợ; người đó có thể
không nêu ra được kinh nghiệm của mình rõ ràng như
người đó cảm thấy nó. Người đó sẽ suy ngẫm hàng nghìn
cách trong đầu trước khi nói ra, ấy thế mà người đó vẫn
còn băn khoăn rằng điều mình nói có thể không hoàn toàn
là điều mình muốn diễn đạt. Người không biết cứ xông
bừa lên và nói điều người đó phải nói. Người đó không
cảm thấy ngại ngùng gì, vì người đó biết đích xác tất cả
những điều người đó phải nói.
Nhưng điều này rất khó cho người đã chứng ngộ như
Phật. Ông ấy không đưa ra câu trả lời cho một số câu hỏi.
Ông ấy hay nói, "Khó trả lời được những câu hỏi này."
Cho nên mọi người hay nói, "Có những người giỏi hơn
trong làng ta, họ trả lời được mọi câu hỏi của chúng ta.
Họ còn khôn ngoan hơn Phật. Chúng ta hỏi họ liệu có
Thượng đế hay không, và họ trả lời một cách tự tin hoặc
có hoặc không. Phật không trả lời vì ông ấy không biết."
Nhưng với Phật, rất khó trả lời có hay không, cho nên
ông ấy ngần ngại và nói, "Hỏi câu hỏi khác đi, không phải
câu hỏi này." Điều đó tự nhiên làm cho mọi người nói
rằng ông ấy không biết và rằng ông ấy nên thừa nhận về
dốt nát của mình. Nhưng điều này Phật cũng không thể
không nói được, vì ông ấy biết. Thực tế Phật nói ngôn
ngữ hoàn toàn khác với chúng ta và đây là điều gây ra
khó khăn.
Cho nên điều đã xảy đi xảy lại nhiều lần là việc nhiều
người như Ramakrishana rời khỏi thế giới này không để
lại thông điệp của họ. Họ không thể làm được điều đó.
Rất hiếm người tổ hợp được cả hiểu biết và khả năng
truyền đạt. Khi việc tổ hợp hãn hữu này xảy ra, chúng ta
gọi người như thế là tirthankara, avatar, nhà tiên tri, vân
vân. Cho nên số người đã chứng ngộ không hạn chế chỉ
vào những người đã nói ra. Còn nhiều người khác không
thể chuyển giao thông điệp của họ.
Ai đó hỏi Phật, "Thầy có mười nghìn khất sĩ bhikkus
ở đây, và trong suốt bốn mươi năm qua thầy đã thuyết
giảng cho mọi người. Bao nhiêu người đã đạt được cùng
mức độ tâm thức như thầy đang vậy?
Phật nói: "Nhiều người đã đạt tới."
Người này hỏi, "Thế thì tại sao chúng tôi không thể
nhận ra được họ như chúng tôi có thể nhận ra thầy?
Phật nói, "Ông không thể nhận ra được họ do khác
biệt ở chỗ ta có thể nói còn họ không thể nói. Nếu ta cũng
giữ im lặng, ông sẽ không biết ta. Ông chỉ nhận biết lời
nói; ông không thể nhận ra chứng ngộ. Ngẫu nhiên mà ta
biết và cũng có thể nói về nó."
Cho nên có khó khăn với Vivekananda mà ông ấy
phải chỉnh lại các kiếp sống sắp tới. Nhưng khó khăn này
là không tránh khỏi. Do đó Ramakrishna, vì rất cần, đã
đem điều đó tới cho ông. Vivekananda cảm thấy mất mát
nhưng cái mất của ông ấy thuộc về thế giới mơ. Nhưng
dù cho là thế thì tại sao người ta phải trải qua mất mát
ngay cả trong cõi tựa giấc mơ? Nếu chúng ta cần giấc mơ
thế thì tại sao lại không có giấc mơ hay?
Có một câu chuyện ngụ ngôn của Aesop:
Ngày xưa một con mèo đang ngủ mơ dưới bóng cây.
Một con chó đi qua đó và cũng nằm dài ra dưới cây. Con
mèo dường như đang mơ một giấc mơ rất thích thú, và
con chó tò mò muốn biết nó đang mơ gì.
Khi mèo tỉnh dậy, chó bèn hỏi mèo mơ gì. Mèo ta
nói, "Ôi, thật là một giấc mơ đáng yêu làm sao, trời đổ
chuột xuống."
Con chó khinh khỉnh nhìn và nói, "Ngốc ơi là ngốc!
Làm gì có chuyện trời mưa ra chuột. Chúng tớ cũng mơ
đấy, mà bao giờ chúng tớ cũng chỉ thấy xương rơi xuống
- và kinh sách của chúng tớ cũng nói rằng trời toàn mưa
ra xương thôi. Chuột không rơi xuống như mưa đâu, đồ
mèo ngốc ạ! Nếu cậu phải mơ, mơ về xương ấy."
Với chó, xương mới có nghĩa. Tại sao nó phải mơ về
chuột? Nhưng với mèo, xương là vô dụng.
Cho nên tôi nói với bạn: Nếu bạn phải mơ, sao lại mơ
giấc mơ xấu? Và nếu bạn định thức tỉnh, thế thì dùng tối
đa khả năng của bạn, sức mạnh riêng của bạn, quyết tâm
riêng của bạn - và đừng đợi người khác đến giúp bạn.
Giúp đỡ sẽ tới, nhưng đấy là vấn đề khác. Bạn không nên
chờ đợi và mong đợi giúp đỡ, vì bạn càng trông đợi,
quyết tâm của bạn sẽ càng trở nên yếu hơn. Chấm dứt suy
nghĩ theo đường hướng đó. Trông đợi chẳng ích gì và nỗ
lực toàn bộ, luôn nhớ rằng bạn chỉ có một mình. Giúp đỡ
sẽ tới từ nhiều nguồn khác nhau - nhưng đấy lại là vấn đề
khác rồi.
Do đó, nhấn mạnh của tôi là vào sức mạnh ý chí của
riêng bạn, để cho không cản trở nào được tạo ra cho bạn.
Và khi bạn nhận được cái gì đó từ ai đó, nó bao giờ cũng
phải không do bạn đã yêu cầu hay trông đợi. Nó nên đến
tựa cơn gió, và thế thì nó có thể ra đi tựa cơn gió.
Đây chính là lí do tại sao tôi nói rằng Vivekananda
phải chịu mất mát, và chừng nào ông ấy còn sống, ông ấy
còn phải nhận biết sâu sắc về điều đó. Thính giả của
Vivekananda ngồi nghe mê mẩn; họ nhận được thoáng
nhìn từ điều ông ấy nói. Nhưng Vivekananda tự mình biết
rõ là điều ấy đã không xảy ra cho mình. Sẽ là điều khủng
khiếp đối với tôi nếu phải đem đến cho bạn tin tức về
hương vị của cái gì đó và bản thân tôi chẳng có kinh
nghiệm gì về hương vị của nó cả. Tôi có thể có một lần
đã nếm trải nó, nhưng trong mơ mà nay đã tan vỡ. Tưởng
tượng nếu sau đó tôi được bảo, "Bây giờ ông sẽ chẳng
còn mơ gì về nó nữa đâu, nhưng cứ đi và nói cho mọi
người về nó đi." Cho nên đấy là trường hợp đối với
Vivekananda. Ông ấy có thử thách gay go riêng. Nhưng
ông ấy là một người mạnh mẽ; ông ấy có khả năng chịu
đựng được thử thách này. Đây là một phần của lòng từ bi,
nhưng điều này không có nghĩa là bạn nữa cũng phải chịu
đựng những thử thách như vậy.
#1Vivekananda đã có kinh nghiệm về samadhi qua tiếp
xúc với Ramakrishna. Liệu nó có phải là kinh nghiệm
đích thực không?
Đúng hơn nên gọi nó là kinh nghiệm sơ bộ. Vấn đề
chân thực không quan trọng ở đây. Đấy hoàn toàn là kinh
nghiệm sơ bộ mà trong đó người ta chỉ có được thoáng
nhìn. Thoáng nhìn này không thể rất sâu sắc hay tâm linh.
Biến cố này xảy ra tại đường biên nơi tâm trí kết thúc và
linh hồn bắt đầu. Tại chiều sâu này nó chỉ là kinh nghiệm
tâm lí; do đó thoáng nhìn đã bị mất đi. Nhưng trong
trường hợp của Vivekananda, chẳng ích gì mà đi quá sâu
vì Ramakrishna sợ. Ông ấy đã không cho phép điều đó
được đi quá sâu; bằng không, con người này sẽ chẳng còn
tác dụng gì cho ông ấy nữa. Ramakrishna quan tâm sâu
sắc về linh ảnh của mình đến mức chẳng bao giờ ông ấy
nghĩ quan niệm của ông ấy về kinh nghiệm này làm cho
một người thành vô dụng vì thế giới này không phải là
một trăm phần trăm đúng đắn.
Phật đã nói trong bốn mươi năm sau chứng ngộ của
ông ấy; tình huống cũng tương tự với Jesus và Mahavira.
Họ không có khó khăn gì. Nhưng với Ramakrishna, vấn
đề lại khác. Ông ấy có khó khăn này; khó khăn bao giờ
cũng trong tâm trí riêng của ông ấy. Do đó, ông ấy đã cho
Vivekananda chỉ thoáng nhìn lướt nhanh. Nó là chân thực
khi xảy ra, nhưng nó cũng sơ cấp. Nó không đi đủ sâu;
bằng không, Vivekananda có lẽ đã thấy khó mà quay lại
được.
#1Liệu có thể có kinh nghiệm bộ phận về samadhi
không?
Không phải bộ phận mà là sơ bộ. Có khác biệt giữa
hai điều này. Kinh nghiệm về samadhi không thể mang
tính bộ phận được, nhưng có thể có thoáng nhìn tâm trí về
samadhi. Kinh nghiệm này mang tính tâm linh, thoáng
nhìn mang tính tâm trí. Nếu tôi đứng trên đỉnh núi và nhìn
ra biển, tôi nhất định sẽ thấy biển, nhưng từ khoảng cách
xa. Tôi sẽ không đứng trên bờ cát; tôi sẽ không chạm vào
hay nếm nước biển; tôi sẽ không chìm đắm vào hay tắm
trong nó. Tôi đã thấy biển từ đỉnh núi. Bạn có gọi kinh
nghiệm này là bộ phận được không?
Không. Và mặc cho sự kiện là tôi không chạm tới
một giọt nước đại dương, bạn cũng không thể gọi kinh
nghiệm của tôi là không chân thực được. Tôi đã thấy đại
dương từ trên đỉnh núi cho dù tôi không trở thành một với
nó. Theo cùng cách này bạn có thể thấy được linh hồn từ
đỉnh cao nhất của thân thể bạn.
Thân thể cũng có đỉnh của nó - các kinh nghiệm đỉnh
của nó. Nếu bạn có kinh nghiệm rất sâu sắc về thân thể,
bạn cũng có thể có được thoáng nhìn về linh hồn trong
nó. Nếu bạn hoàn toàn mạnh khoẻ và kinh nghiệm cái
cảm nhận khoẻ mạnh ấy, nếu thân thể tràn ngập với sức
khoẻ tốt, bạn có thể đạt tới chiều cao của thân thể mà từ
đó bạn có thể có thoáng nhìn về linh hồn. Bạn sẽ kinh
nghiệm rằng bạn không phải là thân thể và rằng bạn là cái
gì đó khác. Bạn sẽ không biết linh hồn là gì nhưng bạn sẽ
đạt tới chiều cao tối thượng của thân thể.
Tâm trí cũng có chiều cao của nó. Chẳng hạn, khi bạn
ở sâu trong tình yêu - không trong dục, vì dục là khả năng
duy nhất của thân thể. Nhưng ngay cả trong dục, nếu bạn
đạt tới đỉnh của kinh nghiệm dục, bạn sẽ có thoáng nhìn
về linh hồn. Tuy nhiên, nó sẽ là thoáng nhìn xa xôi -
thoáng nhìn từ điểm cuối xa nhất. Nhưng nếu bạn có kinh
nghiệm sâu sắc về tình yêu, nếu bạn ngồi cạnh người
mình yêu trong một khoảnh khắc mà không thốt ra một
lời phá vỡ im lặng, chỉ với tình yêu chuyển qua lại giữa
hai bạn, không làm hay ham muốn gì mà chỉ có sóng tình
yêu đi từ người nọ sang người kia, trong khoảnh khắc tình
yêu đó bạn sẽ đạt tới chiều cao mà từ đó bạn sẽ có thoáng
nhìn về linh hồn. Cho nên những người yêu nhau cũng có
được thoáng nhìn về linh hồn.
Nghệ sĩ vẽ bức tranh. Người đó bị cuốn hút trong việc
vẽ đến mức trong khoảnh khắc đó người đó trở thành
Thượng đế, đấng sáng tạo, vì người đó kinh nghiệm cùng
trạng thái mà Thượng đế phải đã cảm thấy khi ngài tạo ra
thế giới. Nhưng chiều cao này là của tâm trí. Trong
khoảnh khắc của thoáng nhìn ấy, người này cảm thấy
giống đấng sáng tạo. Nhiều lần người đó phạm phải sai
lầm nghĩ rằng kinh nghiệm này là đủ. Kinh nghiệm này
có thể có từ âm nhạc, từ thơ ca, từ cái đẹp tự nhiên và từ
những vật khác như vậy. Nhưng tất cả những cái đó đều
là các đỉnh xa xôi. Khi bạn đã hoàn toàn tan biến trong
samadhi, việc nhận biết xảy ra. Từ bên ngoài có nhiều
đỉnh mà từ đó bạn có thể có thoáng nhìn về linh hồn.
Cho nên kinh nghiệm này của Vivekananda đã xảy ra
tại mức độ của tâm trí, vì như tôi đã bảo với bạn, người
khác có thể đi vào trong bạn tới đỉnh của tâm trí và có thể
nâng bạn lên đỉnh đó
Nhìn điều đó theo cách này: tôi đặt một đứa bé lên
vai mình và nó nhìn khắp xung quanh. Rồi tôi hạ nó
xuống - vì vai tôi không thể là vai riêng của nó. Chân nó
vẫn còn nhỏ và nó sẽ phải cần một khoảng thời gian dài
để lớn lên đến chiều cao như tôi. Nhưng được nâng lên
trên vai tôi nó đã thấy, và bây giờ nó có thể đi tới người
khác và nói rằng nó đã thấy điều gì đó. Mọi người có thể
không tin vào nó; họ có thể nói rằng với chiều cao của nó,
điều ấy là không thể được. Nhưng nó có thể trèo lên vai
của người khác và có cái nhìn. Tất cả những điều này đều
là khả năng của tâm trí; do đó, nó không phải là tâm linh.
Tất cả đều như nhau, nó không phải là không chân
thực; nó là sơ cấp. Kinh nghiệm sơ cấp có thể xảy ra hoặc
trong thân thể hoặc trong tâm trí. Và nó không phải là bộ
phận; nó là đầy đủ, nhưng nó bị giới hạn vào cõi của tâm
trí. Nó không phải là của linh hồn, vì trong kinh nghiệm
này về linh hồn, không có quay lại. Tại mức độ đó không
ai có thể giữ được chìa khoá của bạn; không ai có thể nói
rằng khi người đó đưa lại chìa khoá, chỉ lúc ấy điều đó
mới xảy ra. Không ai khác có bất kì lời nào ở đó được.
Nếu nhiệm vụ nào đó còn đang được trông đợi cần được
hoàn thành bởi người trung gian, thế thì người đó phải bị
chặn lại trước điểm siêu việt; bằng không, khó khăn sẽ
nảy sinh.
#1Chúng tôi có thể nói rằng Ramakrishna đã khai thác
Vivekananda được không?
Có thể nói thế nhưng mà lại không nên nói thế thì vì
từ này truyền đạt ý tưởng kết án đằng sau nó.
Ramakrishna đã không lợi dụng Vivekananda để thu
được cái gì đó ích kỉ cho bản thân mình; ý tưởng của ông
ấy là ở chỗ qua Vivekananda người khác sẽ được lợi. Ông
ấy khai thác ông này chỉ theo nghĩa ông ấy sử dụng ông
này. Có khác biệt lớn giữa khai thác và sử dụng. Khi tôi
giải quyết cái gì đó hay dùng cái gì đó với mục đích của
bản ngã tôi, thế thì điều đó trở thành khai thác. Nhưng khi
tôi làm điều gì đó cho thế giới, cho vũ trụ, cho mọi người,
không có vấn đề khai thác.
Bên cạnh đó, liệu có chắc chắn rằng nếu Ramakrishna
không chỉ cho ông này thoáng nhìn ấy, Vivekananda tự
mình có được nó trong cuộc đời không? Điều này có thể
được quyết định chỉ bởi những người đã chứng ngộ. Tôi
cảm thấy đấy chắc là trường hợp này, nhưng chúng ta
không thể đưa ra bất kì bằng chứng nào cho sự việc như
thế. Khi Ramakrishna bảo Vivekananda rằng ba ngày
trước cái chết của mình, ông này sẽ có được chìa khoá,
điều đó chỉ có thể có nghĩa là theo Ramakrishna,
Vivekananda sẽ đạt tới samadhi ba ngày trước khi chết
như kết quả của nỗ lực riêng của mình. Bây giờ, khi có
liên quan tới việc đưa lại chìa khoá, Ramakrishna đã chết,
nhưng chìa khoá đã được trao lại đích xác như đã được
nói.
Điều này là có thể vì bạn không biết cá tính riêng của
mình như người đã đi sâu vào bên trong cái ta. Từ chiều
sâu của riêng mình người này có thể biết được tiềm năng
của bạn. Người này thậm chí còn có thể nói được khi nào
bạn sẽ đạt tới chứng ngộ nếu bạn có thể bước theo nhịp
của riêng mình.
Chúng ta lấy thí dụ, bạn đã bắt đầu trên cuộc hành
trình và có một trái núi trên con đường của bạn. Bây giờ
tôi biết con đường và các bước đi qua núi, phải mất bao
lâu để đi qua nó và những khó khăn gì bạn sẽ gặp phải.
Tôi thấy bạn đang trèo lên núi, và tôi có thể nói rằng bạn
sẽ mất, chẳng hạn, ba tháng để vượt qua nó. Tôi có thể
biết được từ tốc độ bước đi của bạn và cách thức bạn du
hành mà bạn phải mất ngần ấy thời gian. Nếu tôi định đón
bạn trên đường và cho cho bạn thoáng nhìn về đỉnh núi,
rồi bỏ bạn lại nơi bạn đang ở đó, hứa với bạn rằng trong
vòng ba tháng bạn sẽ tìm thấy mục đích, điều này về căn
bản không thể được coi như việc tôi dùng bạn được. Mọi
thứ bên trong, tinh tế và phức tạp đến mức bạn không thể
biết được nó từ bên ngoài.
Chẳng hạn, hôm qua Nirmala về nhà và ai đó bảo cô
ấy rằng cô ấy sẽ chết vào độ tuổi năm mươi ba. Bây giờ,
tôi đưa ra lời đảm bảo rằng cô ấy sẽ không chết vào tuổi
năm ba. Không phải là tôi sẽ thực hiện lời đảm bảo này:
tự nó sẽ hoàn thành theo cách riêng của nó. Cho nên bây
giờ nếu cô ấy không chết ở độ tuổi năm ba, cô ấy sẽ cho
là điều đó là do tôi.
Vivekananda nói rằng chiều khoá đã được trao ba
ngày trước cái chết của ông ấy - nhưng ai có đó để mà
trao lại chìa khoá?
#1Có thể là Ramakrishna biết rằng Vivekananda phải
trải qua một thời kì gian khổ trong nỗ lực tâm linh
với những thất bại và đau đớn, và do vậy, từ lòng từ
bi, ông ấy đã cho ông này thoáng nhìn để nuôi dưỡng
hi vọng của ông này chăng?
Đừng bao giờ nghĩ dưới dạng ngôn ngữ này, rằng "Có
thể là..." vì điều này không có mục đích và không có
nghĩa trong đó. Theo cách này bạn sẽ cứ nghĩ ngợi chẳng
liên quan gì. Chỉ cần nghĩ dưới dạng điều gì đích xác là
có thể và không nhiều hơn, vì bằng không đó là những
con đường vô nghĩa có thể dẫn bạn đi lạc lối. Trong hình
mẫu suy nghĩ này bạn sẽ bị hại nhiều lắm, vì bạn sẽ cứ bỏ
lỡ cái đang đó. Cho nên bao giờ cũng thấy sự kiện như nó
đang đó, và nếu bạn muốn biết một vật như nó đang đó,
cắt bỏ tất cả những cái có thể đã là. Nếu bạn không biết
đích xác sự kiện, thế thì biết rằng bạn quả là không biết,
nhưng đừng cố che đậy dốt nát của bạn với giả thiết khôn
ngoan về "Nó có thể là." Đây là cách chúng ta che đậy
nhiều thiếu sót của mình. Tốt hơn cả là phanh lại từ đây.
***********************************************************************************************************
#2 Chín muồi của thiền nhân trên con đường
Trong một bài nói trước đây, Thầy đã nói rằng việc
giáng xuống đột nhiên và trực tiếp của ân huệ đôi khi
có thể trở thành thảm hoạ. Người này có thể bị hại
hay bị điên hay thậm chí chết. Câu hỏi tự nhiên nảy
sinh: Liệu ân huệ có phải bao giờ cũng có lợi không?
Ân huệ không giữ cân bằng của nó sao? Rủi to cũng
có thể do sự kiện là người nhận chưa đủ khả năng.
Trong trường hợp đó, làm sao ân huệ có thể giáng
xuống một người chưa đủ phẩm chất?
Thượng đế không phải là người mà là năng lượng.
Điều này ngụ ý rằng năng lượng không xét tới người; bất
kì cái gì xảy ra cho từng người, cũng đều xảy ra một cách
không thiên vị.
Chẳng hạn, cây cối bên bờ sông nhận được nuôi
dưỡng từ dòng nước chảy qua; nó sẽ đâm hoa kết quả và
trở nên cao lớn và mạnh mẽ. Nhưng cây rơi vào trong
cùng dòng nước đó, sẽ bị cuốn đi xa cùng dòng nước trôi
nhanh. Bây giờ sông chẳng có liên can gì tới những cây
này. Nó không quan tâm tới việc nuôi dưỡng cây trước
mà cũng chẳng quan tâm tới việc phá huỷ cây sau. Sông
chỉ chảy thôi. Sông là năng lượng chảy, nó không phải là
người.
Chúng ta bao giờ cũng phạm phải sai lầm về việc coi
Thượng đế là người. Do đó, mọi suy nghĩ của chúng ta về
Thượng đế đều dường như là ngài là một người. Chúng ta
nói ngài rất tốt; chúng ta nói ngài đầy khoan dung; chúng
ta nói ngài ban phúc cho chúng ta. Đây chỉ là mong đợi
và ham muốn chúng ta áp đặt lên Thượng đế. Mặc dầu
chúng ta có thể áp đặt mong đợi của mình lên một người
và nếu mong đợi không được đáp ứng, chúng ta đổ cho
người đó trách nhiệm về việc ấy, chúng ta không thể làm
điều này cho năng lượng được. Cho nên bất kì khi nào
chúng ta coi năng lượng như là người, chúng ta nhất định
đi lạc lối, vì thế thì chúng ta bị lạc trong mơ. Nếu chúng
ta giải quyết với năng lượng, kết quả sẽ hoàn toàn khác.
Chẳng hạn, lực hấp dẫn: bạn có thể bước trên đất bởi
vì lực này, nhưng lực này không chỉ ngụ ý làm cho bạn
bước được. Đừng tưởng lầm rằng nếu bạn không bước,
lực hấp dẫn sẽ không tồn tại. Nó đã có đấy khi bạn còn
chưa có trên trái đất và nó vẫn còn đấy ngay cả sau khi
bạn không còn nữa. Nếu bạn bước theo cách thức sai, bạn
có thể bị ngã và gẫy chân. Điều này cũng là do lực hấp
dẫn; nhưng với điều này bạn sẽ không thể nào đi kiện bất
kì ai vì không có ai để trách cả. Hấp dẫn là luồng năng
lượng. Bạn phải cẩn thận với luật vận hành của nó nếu
bạn muốn đối phó với nó. Nhưng nó chẳng nghĩ chút nào
về cách đối phó với bạn.
Năng lượng của Thượng đế không vận hành cho riêng
bất kì ai. Thực tế, nói rằng "năng lượng của Thượng đế",
cũng không đúng, thay vì thế ta nên nói "Thượng đế là
năng lượng." Thượng đế không nghĩ về cách hành xử với
bạn; nó có luật vĩnh hằng của riêng nó và luật vĩnh hằng
này là tôn giáo. Tôn giáo có nghĩa là luật của hành vi của
năng lượng, cái là Thượng đế.
Nếu bạn ứng xử một cách sáng suốt, hiểu biết và tuân
theo năng lượng này, nó trở thành ân huệ cho bạn - không
phải ân huệ của riêng nó mà là vì bạn đấy thôi. Nếu bạn
làm điều ngược lại, nếu bạn đi ngược lại các luật của
năng lượng, nó trở thành cái ban phát điều không ân huệ
cho bạn. Trong trường hợp này, Thượng đế không phải là
không cho ân huệ; nó là vậy bởi vì bạn.
Cho nên sẽ là sai lầm nếu coi Thượng đế như người.
Thượng đế không phải là người mà là năng lượng; do đó,
cầu nguyện và tôn thờ chẳng mang nghĩa nào. Trông đợi
từ Thượng đế là vô nghĩa. Nếu bạn muốn rằng năng
lượng thiêng liêng này trở thành phúc lành, ân huệ cho
bạn, thế thì bạn phải làm điều gì đó cho cái ta của riêng
bạn; do đó thực hành tâm linh có nghĩa, cầu nguyện
không có nghĩa. Thiền có nghĩa, tôn thờ không có nghĩa.
Hiểu khác biệt này cho rõ ràng.
Trong lời cầu nguyện, bạn đang làm điều gì đó với
Thượng đế: bạn cầu xin, bạn nài nỉ, bạn trông đợi, bạn đòi
hỏi. Trong thiền bạn đang làm việc cho cái ta riêng của
mình. Trong tôn thờ bạn đang làm điều gì đó với Thượng
đế; trong nỗ lực tâm linh bạn đang làm điều gì đó cho bản
thân bạn. Nỗ lực cho trưởng thành tâm linh nghĩa là bạn
đang làm biến đổi bản thân mình theo cách mà bạn không
còn trong bất hoà với sự tồn tại, với tôn giáo. Khi dòng
sông chảy bạn không bị dòng nước cuốn đi. Thay vì vậy,
bạn ở trên bờ, nơi nước sông làm mạnh thêm gốc rễ của
bạn chứ không cuốn nó đi. Khoảnh khắc chúng ta thấy
Thượng đế như năng lượng, toàn bộ cấu trúc tôn giáo
thay đổi.
Chính với lí do này mà tôi đã nói rằng nếu ân huệ bất
thần và trực tiếp giáng xuống, đôi khi nó trở thành thảm
hoạ.
Điều khác bạn đã hỏi là: "Người không đủ năng lực
liệu có thể nhận được ân huệ không?
Không, ân huệ không bao giờ giáng xuống cho người
không đủ phẩm chất với nó. Nó bao giờ cũng giáng
xuống cho người đã được chuẩn bị về nó. Nhưng đôi khi
một người không đủ năng lực bỗng nhiên phát triển các
phẩm chất cần thiết, và bản thân người đó lại không biết
về điều này. Điều xảy ra bao giờ cũng xảy ra dưới những
điều kiện đúng, hệt như ánh sáng là thấy được chỉ với
những người có mắt và là không thấy được với người nù.
Nhưng nếu người mù đã được điều trị thuốc thang để cho
người đó có thể thấy được, rồi người đó ra khỏi bệnh viện
và nhìn trực tiếp vào mặt trời, người đó sẽ bị tai hại trầm
trọng. Người đó phải đeo kính râm trong một hay hai
tháng và chờ đợi.
Nếu người không nhạy cảm bỗng nhiên trở thành
nhạy cảm, nhất định sẽ có rủi ro. Trong trường hợp người
mù, mặt trời đâu đáng trách. Người đó phải phát triển sức
mạnh của mắt để chịu đựng được ánh sáng mặt trời nếu
không sẽ có nguy hiểm là người đó trở thành mù hoàn
toàn. Cái mù lần đầu là có thể chữa được, nhưng bây giờ
sẽ khó mà chữa cho cái mù lần thứ hai của người đó.
Hiểu điều này cho kĩ: kinh nghiệm chỉ tới cho những
người xứng đáng. Nhưng đôi khi có khả năng một người
không xứng đáng bỗng nhiên phát triển các phẩm chất
cần thiết do hoàn cảnh mà bản thân người đó lại chẳng
biết gì về điều đó cả. Thế thì bao giờ cũng có nỗi sợ về
thảm hoạ, vì năng lượng giáng xuống bất thần và bạn, lại
không trong điều kiện chịu đựng được nó.
Chẳng hạn: một người bỗng nhiên có được món tiền
lớn. Thông thường, điều ấy chẳng hại gì, nhưng nếu nó
tới một cách đột ngột nó có thể nguy hiểm. Hạnh phúc
đột ngột cũng có thể tạo ra tai nạn, vì chúng ta cần một
khả năng nào đó để chịu đựng nó. Chúng ta trở nên có
khả năng chịu đựng nó nếu nó tới dần dần. Nếu phúc lạc
tới dần dần, chỉ có thế chúng ta mới trở nên được chuẩn
bị cho nó.
Việc được chuẩn bị này, khả năng chịu đựng này, tuỳ
thuộc vào biết bao nhiêu nhân tố. Thần kinh trong bộ não,
tình trạng sung sức về thể chất, khả năng tinh thần - tất cả
đều có những giới hạn của chúng, và năng lượng chúng ta
đang nói tới là vô giới hạn. Nó cũng tựa như cả đại dương
rơi vào trong một giọt nước: nếu giọt nước không được
chuẩn bị theo cách nào đó để đón nhận đại dương, nó đơn
thuần sẽ chết; nó sẽ bị phá huỷ và nó sẽ chẳng đạt tới cái
gì cả.
Nói cho chính xác, có một loạt hành động kép cần
cho sự phát triển tâm linh. Chúng ta phải đưa bản thân
mình lên con đường và trở thành hài hoà với nó. Nhưng
trước khi đó chúng ta phải phát triển khả năng của mình
để hấp thu nó. Đây là hai nhiệm vụ cần phải được người
tìm kiếm thực hiện. Một mặt chúng ta phải mở cửa và cải
thiện thị lực của mình, và mặt khác chúng ta phải đợi
thậm chí đến sau khi thị lực đã được cải thiện để cho mắt
có thể chịu đựng được sự rực rỡ của ánh sáng; bằng
không quá nhiều ánh sáng sẽ đem tới bóng tối còn tối
hơn. Đây là giải quyết một chiều - ánh sáng chẳng liên
quan gì tới nó cả. Trách nhiệm hoàn toàn ở phía chúng ta
và chúng ta không thể trách bất kì ai về điều đó được.
Cuộc hành trình của cuộc đời người trải rộng qua
nhiều kiếp, và người đó làm nhiều thứ trong mỗi kiếp
sống. Nhiều lần điều xảy ra là người đó chết ngay khi
người đó sắp có thể nhận được ân huệ. Với cái chết này
người đó mất đi tất cả kí ức về cuộc đời này. Làm việc
với bản thân mình qua nhiều kiếp bạn có thể đạt tới chín
mươi chín bậc trưởng thành; chết đi bạn sẽ quên mất tất
cả thành tựu của mình - nhưng những yếu tố tồn tại của
sự trưởng thành bên trong sẽ được mang sang kiếp sống
tiếp.
Có người khác, ngồi cạnh bạn, mới chỉ hoàn thành
một bậc phát triển trong kiếp sống quá khứ của mình.
Người đó cũng quên tất cả về nó. Cả hai bạn đều thiền: cả
hai bạn đều thuộc về mức độ phát triển hoàn toàn khác
nhau. Bây giờ, nếu một mức độ phát triển xảy ra, người
kia sẽ đạt tới chỉ mức độ thứ hai của sự phát triển và ân
huệ không giáng xuống người đó. Nhưng với thêm một
mức độ trưởng thành nữa bạn sẽ đạt tới điểm một trăm
bậc và ân huệ đột nhiên sẽ giáng xuống bạn. Điều này sẽ
là đột nhiên cho bạn vì bạn chẳng có ý tưởng gì là bạn đã
ở bậc thứ chín mươi chín. Và do vậy cõi trời có thể rơi
vào bạn, tất cả mọi sự chuẩn bị đúng đắn và đột nhiên cần
phải được tiến hành cho điều này.
Khi tôi nói rủi ro, tôi chỉ nói tới việc xảy ra mà với nó
chúng ta không được chuẩn bị. Rủi ro không nhất thiết có
nghĩa là biến cố xấu hay đau đớn; nó chỉ có nghĩa là sự
xuất hiện của biến cố đó mà chúng ta chưa sẵn sàng. Bây
giờ nếu một người trúng xổ số một triệu đô la, đây không
phải là biến cố xấu. Nhưng người đó có thể chết. Một
triệu đô la! - tim người đó có thể ngừng đập. Cho nên rủi
ro nghĩa là sự xuất hiện của một biến cố mà chúng ta
chưa được chuẩn bị.
Điều đối lập cũng có thể xảy ra. Nếu một người được
chuẩn bị cho cái chết của mình và nó tới, không nhất thiết
cái chết của người đó là biến cố xấu. Nếu một người như
Socrates được chuẩn bị để gặp gỡ cái chết và đón mừng
nó với vòng tay rộng mở, thế thì với người như vậy cái
chết trở thành samadhi. Người đó chấp nhận cái chết với
tình yêu và niềm vui đến mức người đó sẽ thấy rằng thực
tại chẳng bao giờ chết.
Chúng ta tiếp cận tới cái chết với nhiều buồn khổ đến
mức chúng ta trở nên vô ý thức trước cái chết. Chúng ta
không kinh nghiệm cái chết một cách có ý thức. Đây là lí
do tại sao, cho dù ta đã chết đi nhiều lần rồi, chúng ta vẫn
không biết về quá trình chết. Một khi bạn biết cái chết là
gì, thế thì chính ý tưởng là bạn có thể chết sẽ chẳng bao
giờ nảy sinh nữa. Thế thì biến cố chết sẽ xảy ra và bạn sẽ
đứng sang bên quan sát nó. Nhưng điều này phải xảy ra
với ý thức hoàn toàn.
Cho nên cái chết có thể là vận may tốt cho người này
và ân huệ có thể là tai hoạ cho người khác. Do đó sự
trưởng thành tâm linh cũng có hai mặt: chúng ta phải kêu
gọi, cầu khẩn, tìm kiếm và đi, và đồng thời chúng ta phải
chuẩn bị bản mình cho biến cố này để cho khi ánh sáng
lan tới cánh cửa mình, chúng ta không bị loá vì nó. Nếu
bạn ghi nhớ những điều tôi đã nói với bạn ngay từ đầu, sẽ
không có khó khăn nào cả. Nếu bạn coi Thượng đế là
người, bạn sẽ thấy bản thân mình gặp khó khăn lớn; nếu
bạn coi ông ấy như năng lượng, sẽ chẳng có khó khăn gì.
Khái niệm này về Thượng đế như người đã gây ra rất
nhiều khó khăn. Tâm trí ham muốn ngài là người để cho
chúng ta có thể truyền mọi trách nhiệm cho ông ấy, và
làm cho ngài chịu trách nhiệm, chúng ta bắt đầu đặt gánh
nặng của mọi thứ nhỏ nhoi lên ngài. Nếu một người tìm
được việc, người đó cám ơn Thượng đế; nếu người đó
mất việc, người đó trở nên giận Thượng đế. Nếu một
người bị vết phỏng rộp, người đó nghi ngờ điều đó là việc
làm của Thượng đế; nếu vết phỏng lành, người đó cám ơn
Thượng đế. Chúng ta chẳng bao giờ xem xét cách chúng
ta sử dụng Thượng đế; chúng ta thậm chí còn chưa nghĩ
đến thái độ này ích kỉ làm sao, mà với nó ta cứ giả sử
rằng Thượng đế phải lo lắng đến cả vết phỏng rộp mình.
Nếu chúng ta đánh mất một đồng xu và rồi ngẫu
nhiên tìm thấy nó, ta nói, "Nhờ ơn trời mình tìm thấy nó
rồi." Chúng ta muốn Thượng đế trông giữ tài khoản cho
chúng ta tới từng đồng ru pi cuối cùng. Ý tưởng này thoả
mãn cho tâm trí chúng ta vì thế thì chúng ta có thể đứng ở
trung tâm thế giới. Thế thì cách giải quyết của chúng ta
với Thượng đế cũng tương tự như cách đối xử của người
hầu trước ông chủ. Chúng ta trông đợi ông ấy đứng gác
trước cửa nhà ta và chăm nom của cải của ta cho tới đồng
xu cuối cùng. Ưu điểm của việc coi Thượng đế như người
là ở chỗ trách nhiệm có thể dễ dàng đẩy sang cho ngài.
Nhưng người tìm kiếm nhận trách nhiệm về bản thân
mình. Thực tế, là người tìm kiếm nghĩa là không coi ai
khác ngoài bản thân mình chịu trách nhiệm cho mọi thứ.
Nếu có nỗi buồn trong đời tôi, tôi chịu trách nhiệm, và
nếu có hạnh phúc trong đời tôi, tôi cũng chịu trách nhiệm.
Nếu tôi yên bình, chính tôi chịu trách nhiệm; nếu tôi bất
ổn, đấy là việc làm của riêng tôi thôi. Không có ai ngoài
bản thân tôi chịu trách nhiệm cho bất kì trạng thái nào tôi
đang trong đó. Nếu tôi ngã và gẫy chân, đấy là lỗi của tôi
và tôi không thể trách lực hấp dẫn được. Nếu đây là thái
độ của tâm trí, thế thì bạn đã hiểu đúng rồi đấy. Thế thì ý
nghĩa của rủi ro sẽ khác đi.
Bởi lí do này, tôi nói rằng ân huệ là có ích lợi và là
phúc lành cho người đã chuẩn bị chu đáo cho điều đó.
Thực tế mọi thứ đều có thời của nó cả. Có một khoảnh
khắc đặc biệt cho từng việc xảy ra, và bỏ lỡ khoảnh khắc
này là thảm kịch lớn.
#2Trong một trong những bài nói của Thầy, Thầy đã nói
rằng tác động của shaktipat giảm đi dần dần; vậy
người tìm kiếm phải duy trì tiếp xúc đều đặn với
người trung gian. Điều này chẳng có nghĩa là sự phụ
thuộc vào một người nào đó dưới dạng một guru hay
sao?
Điều này có thể trở thành phụ thuộc. Nếu ai đó nôn
nóng là guru và nếu ai đó nôn nóng có được guru, trạng
thái phụ thuộc này có thể xảy ra. Cho nên đừng phạm sai
lầm mà trở thành đệ tử hay làm cho ai đó thành guru của
bạn. Nhưng nếu không có vấn đề về guru hay đệ tử,
chẳng phải lo sợ gì về phụ thuộc cả. Thế thì người mà bạn
nhận sự giúp đỡ đơn giản là một phần của chính cái ta
riêng của bạn, người đã đi trước trên con đường này. Thế
thì ai là guru và ai là đệ tử?
Tôi thường kể câu chuyện rằng Phật đã kể về một
trong những kiếp trước của ông ấy. Ông ấy nói, "Ta là kẻ
dốt nát trong kiếp trước của mình. Một người trí huệ đã
đạt tới chứng ngộ, cho nên ta đến gặp người đó. Ta cúi
đầu chạm chân người đó trong sùng kính. Nhưng ngay
khi ta vừa ngửng dậy, ta rất đỗi ngạc nhiên là ông già đã
cúi người chạm chân ta.
"‘Thầy làm cái gì thế này!’ Ta buột kêu lên. ‘Tôi phải
chạn vào chân thầy là phải và đúng, nhưng thầy chạm
chân tôi thì không hợp chút nào!’
"Ông già nói, ‘Nếu anh chạm chân ta mà ta lại không
chạm chân anh, đó sẽ là sai lầm lớn, vì ta chẳng là gì
ngoài một phần của anh, bước vài bước trước anh thôi.
Và khi ta cúi đầu chạm chân anh là ta nhắc anh rằng anh
đã làm đúng khi chạm chân ta. Nhưng chớ hiểu lầm rằng
anh và ta là hai. Cũng vậy, đừng sai lầm nghĩ rằng ta trí
huệ còn anh dốt nát. Đấy chỉ là vấn đề thời gian thôi. Chỉ
cần thêm chút thời gian nữa và anh cũng sẽ được chứng
ngộ. Cũng hệt như khi chân phải của ta tiến lên, chân trái
còn lại phía sau: thực tại, chân trái còn lại phía sau để cho
chân phải có thể tiến lên."
Mối quan hệ của guru và đệ tử là có hại. Tuy nhiên,
việc đặt mối quan hệ vô quan hệ giữa guru và đệ tử, lại
rất ích lợi. Vô quan hệ nghĩa là không có hai; quan hệ là
nơi có hai. Chúng ta có thể hiểu nếu đệ tử cảm thấy guru
là thực thể phân tách khỏi người đó, vì đệ tử là dốt nát.
Nhưng nếu guru cũng cảm thấy cùng điều đó, thế thì quá
lắm. Thế thì điều đó nghĩa là kẻ mù đang dẫn lối cho kẻ
mù - và người mù dẫn đường còn nguy hiểm hơn, vì
người mù thứ hai hoàn toàn tin cậy vào người đó.
Chẳng có ý nghĩa tâm linh nào đối với mối quan hệ
guru-đệ tử cả. Thực tại, mọi mối quan hệ đều là mối quan
hệ quyền lực. Tất cả chúng đều là mối quan hệ về chính
trị quyền lực. Ai đó là bố, ai đó là con; nếu đây là mối
quan hệ tình yêu, nó sẽ là vấn đề khác. Thế thì người bố
sẽ không ý thức về việc mình là bố, mà người con cũng
không ý thức mình là con. Thế thì con sẽ là dạng có trước
của bố và bố sẽ là dạng tiếp sau của con - và điều này là
chân lí của vấn đề.
Chúng ta gieo hạt mầm và cây mọc lên. Thế rồi cây
này sinh ra hàng nghìn hạt. Đâu là mối quan hệ giữa
những hạt này và chiếc hạt đầu tiên? Hạt này đến trước
rồi các hạt khác theo sau. Chính cuộc hành trình của cùng
một hạt, rơi xuống đất, đâm chồi và tan biến trong đất.
Người bố là mối nối đầu tiên và đứa con là mối nối thứ
hai trong cùng một dây chuyền. Nhưng thế thì có dây
chuyền, không phải là những con người cá thể. Thế thì
nếu con chạm vào chân bố nó tức là nó biểu hiện sự kính
trọng của mình đối với mối nối trước đó. Nó đang biểu lộ
sự thành tâm của mình với cái đang diễn ra, vì không có
bố, nó không thể tới thế giới này được. Nó đã đi vào sự
tồn tại thông qua người bố.
Và nếu người bố nuôi dưỡng con mình, cho nó ăn và
mặc, người đó không bỏ công sức cho ai đó khác; chính
mở rộng của riêng người đó mà người đó đang nuôi
dưỡng. Nếu ta nói rằng người bố trở thành thanh niên lần
nữa trong đứa con mình, chúng ta cũng không sai. Thế thì
vấn đề không phải là vấn đề về quan hệ nữa; đấy là một
việc hoàn toàn khác. Đấy là tình yêu, không phải là quan
hệ.
Nói chung chúng ta thấy mối quan hệ giữa bố và con
là mối quan hệ chính trị. Bố mạnh và con yếu, cho nên bố
chi phối con. Bố cố gắng làm cho con cảm thấy, "Mày
chẳng là gì cả, tao là mọi thứ." Nhưng ông ấy không nhận
ra rằng chẳng mấy chốc thời gian sẽ tới khi đứa con thành
người mạnh mẽ. Thế thì nó sẽ chi phối người bố theo hệt
như vậy.
Mối quan hệ giữa thầy và đệ tử, giữa vợ và chồng đều
bị bóp méo... Nếu không, tại sao phải có bất kì mối quan
hệ nào giữa chồng và vợ? Hai người đã cảm thấy cái một
giữa họ, cho nên họ cùng nhau. Nhưng không, điều này
không như vậy. Chồng chi phối vợ theo cách riêng của
mình; vợ chi phối chồng theo cách riêng của mình. Cả hai
đều chơi với sức mạnh riêng của mình như trò chính trị
quyền lực với nhau.
Điều hệt như vậy cũng là trường hợp với guru và đệ
tử. Guru áp bức đệ tử, còn đệ tử, đợi đến khi thầy chết để
cho mình có thể trở thành guru. Nếu guru chậm chết, sẽ
có âm mưu và mưu đồ chống lại ông ta. Cho nên khó mà
tìm được guru có đệ tử không nổi loạn chống lại ông ta
hay trở thành kẻ thù của ông ta. Đại đệ tử chắc chắn là kẻ
thù của thầy. Cho nên người ta phải cẩn thận trong việc
chọn đại đệ tử. Điều này gần như không tránh khỏi, vì sức
ép quyền lực bao giờ cũng gặp với nổi loạn. Tâm linh
chẳng liên quan gì với nó cả.
Tôi có thể hiểu người bố đang gây sức ép lên đứa
con: đấy là trường hợp của hai người dốt nát, và họ có thể
được tha thứ. Điều ấy không tốt nhưng có thể lượng thứ
được. Chồng áp bức vợ và ngược lại là điều thông thường
- không tốt nhưng rất thông thường. Nhưng khi guru đàn
áp đệ tử của mình, điều ấy trở thành khó khăn. Lĩnh vực
này ít nhất cũng không nên có mọi lời tuyên bố rằng "Ta
biết còn anh không biết."
Mối quan hệ này giữa guru và đệ tử là gì vậy? Một
người là người yêu sách: người này nói, "Ta biết, anh
không biết. Anh dốt nát, ta trí huệ. Kẻ dốt nát phải cúi lạy
người trí huệ." Nhưng loại người trí huệ nào nói ra "Anh
phải cúi lạy trong tôn kính"? Người đó là người dốt nát
nhất. Người đó biết vài bí mật được kế thừa, người đó đã
nghiên cứu một số kinh sách và người đó có thể lặp lại
chúng từ kí ức. Người đó chẳng có gì nhiều hơn điều này.
Có lẽ bạn còn chưa được nghe câu chuyện này:
Có một con mèo đã trở thành kẻ biết tất. Nó trở nên
nổi tiếng trong các con mèo - nổi tiếng đến mức nó sắp
được coi như một tirthankara. Lí do cho việc trở thành kẻ
biết tất là ở chỗ nó đã tìm ra cách rúc vào trong thư viện.
Nó biết mọi điều về thư viện này. Với mọi điều là tôi
muốn ngụ ý cách vào và ra khỏi thư viện, chồng sách nào
là dễ chịu nhất để rúc vào, cuốn sách nào ấm áp nhất
trong mùa đông và cuốn nào, mát mẻ nhất trong mùa hè,
vân vân.
Cho nên lời đồn đại trong các con mèo là nếu ai muốn
có hiểu biết gì về thư viện, con mèo biết tất đó có thể đưa
ra câu trả lời. Một cách tự nhiên, chẳng có hoài nghi gì về
một kẻ như thế biết mọi điều về thư viện, phải là đấng
toàn năng. Con mèo này thậm chí phải có tín đồ nữa.
Nhưng sự kiện còn lại là ở chỗ nó chẳng biết gì. Tất cả
những cái nó biết về sách chỉ là liệu nó có thể nằm sau
sách đó một cách thoải mái, sách nào có đóng bằng vải,
ấm, còn sách nào không. Nhiều hơn nữa, nó không biết.
Nó chẳng có ý tưởng nào về cái gì bên trong sách. Mà
làm sao mèo có thể biết cái gì bên trong sách?
Có những con mèo biết tất như thế trong loài người
nữa đấy, những người biết che chắn cho mình bằng sách
vở. Bạn tấn công họ còn họ, lập tức trú ngụ trong
Ramayana và cố gắng kìm hãm bạn với lời kinh trong đó.
Hay họ sẽ nói, "Gita nói như thế đấy."
Bây giờ ai dám cãi với Gita đây? Nếu tôi định nói,
"Đây là điều tôi nói,", bạn có thể tranh luận với tôi.
Nhưng nếu tôi đem Gita ra, tôi an toàn rồi. Tôi lẩn đằng
sau Gita. Gita toả hơi ấm trong giá lạnh; nó cho tôi nghề
nghiệp và trở thành lá chắn bảo vệ chống lại kẻ thù. Nó
thậm chí còn trở thành đồ trang trí và có thể nô đùa,
nhưng một người làm điều này, chỉ biết nhiều nhất là Gita
cũng như mèo trong thư viện; người đó cũng chẳng biết
nhiều hơn con mèo biết.
Có thể là bởi kết giao lâu dài mà con mèo có khả
năng đi tới biết điều bên trong cuốn sách, nhưng các guru
thông thái này sẽ chẳng biết gì cả. Họ càng học thuộc
lòng nhiều, họ càng ít cần phải biết. Thế thì họ sẽ bị ảo
tưởng rằng họ biết tất cả những cái phải biết.
Bất kì khi nào một người công bố thẩm quyền về việc
biết, biết rằng đấy chỉ là cái dốt nát đã trở nên được nói
ra, vì việc khẳng định là dốt nát rồi. Nhưng khi một người
ngần ngại thậm chí nhắc đến rằng mình biết, thế thì biết
rằng người đó đã bắt đầu nhận được thoáng nhìn, tia sáng
của trí huệ. Tuy nhiên một người như vậy sẽ không trở
thành guru đâu, người đó thậm chí cũng chẳng mơ thành
guru, vì với việc trở thành guru, thẩm quyền về tri thức sẽ
tới. Ý nghĩa của guru là người biết: người đó chắc chắn
rằng mình biết, và bây giờ bạn không cần biết nữa; người
đó có thể truyền đạt lại tri thức của mình cho bạn.
Cho nên công bố và thẩm quyền này giết chết ý nghĩa
của việc truy tìm và truy vấn trong người khác. Thẩm
quyền không thể tồn tại mà không có đàn áp, vì người sử
dụng thẩm quyền, bao giờ cũng sợ phát kiến của bạn về
chân lí. Thế thì quyền lực của người đó sẽ trở thành thế
nào? Cho nên người đó sẽ chặn bạn không cho phát hiện
ra. Người đó sẽ thu thập tín đồ và đệ tử quanh mình, và
bên trong các đệ tử cũng sẽ có phân cấp các đại đệ tử và
các đệ tử thường. Điều này lần nữa lại là cái mạng nhện
chính trị và nó chẳng liên quan gì tới tâm linh cả.
Khi tôi nói rằng điều xảy ra tựa như shaktipat - sự
giáng xuống của năng lượng của điều thiêng liêng - xảy
ra dễ dàng trong sự hiện diện của một người đặc biệt, tôi
không có ý rằng bạn nên níu bám và gắn chặt với người
này; mà tôi cũng không nói rằng bạn nên phụ thuộc vào
người đó hay làm cho người đó thành guru. Tôi cũng
không nói rằng bạn nên dừng việc tìm kiếm của mình.
Ngược lại, bất kì khi nào biến cố này xảy ra qua một
người trung gian, bạn sẽ cảm thấy rằng nếu kinh nghiệm
này qua một nguồn gián tiếp mà có thể đem tới vui sướng
đến thế thì, việc kinh nghiệm sự giáng xuống trực tiếp
của năng lượng thiêng liêng sẽ phải sung sướng đến
dường nào! Sau rốt, khi một điều tới qua ai đó, nó quả có
mất đi một chút tươi mát; nó trở thành cũ đi một chút.
Tôi ra vườn và tôi tràn ngập với hương thơm của hoa,
và rồi bạn tới gặp tôi và bạn cảm thấy hương thơm của
hoa qua tôi. Bạn sẽ thấy rằng hương thơm ấy sẽ còn trộn
lẫn cả với mùi của tôi nữa, và bởi thế nó cũng sẽ trở nên
mờ nhạt.
Cho nên khi tôi nói shaktipat ban đầu rất có ích, điều
tôi ngụ ý là ở chỗ trước hết bạn nên nhận lấy tin tức là có
một khu vườn và có hoa để cho bạn có thể được động
viên khởi hành cuộc hành trình. Nhưng nếu bạn kiếm
được một guru bạn sẽ trì trệ, cho nên đừng dừng lại tại
cột cây số. Cột cây số nói cho ta còn nhiều điều hơn
người mà ta gọi là guru. Chúng cho ta biết ta còn bao xa
so với đích. Không guru nào có thể cho được thông tin
chính xác như thế. Vậy mà chúng ta cũng chẳng tôn thờ
cột cây số hay ngồi gần chúng. Nếu chúng ta làm như
vậy, chúng ta sẽ tự chứng tỏ mình còn kém hơn cả hòn
đá, vì hòn đá có đó để chỉ ra cuộc hành trình còn bao xa
nữa. Nó không đứng đó để chặn bạn lại.
Nếu cột cây số biết nói, nó nữa cũng sẽ cất tiếng gọi,
"Anh đi đâu đấy? Ta đã trao cho anh thông tin cần thiết.
Anh đã đi được mười dặm đường và anh còn phải đi thêm
hai mươi dặm nữa. Bây giờ anh biết rồi, vậy anh chẳng
cần phải đi thêm nữa. Làm đệ tử của ta; theo ta." Nhưng
hòn đá lại không nói được, cho nên nó không thể trở
thành guru.
Con người nói được; do đó ông ta trở thành guru.
Ông ta nói, "Ta đã chỉ cho anh bao nhiêu thứ; phải biết ơn
ta chứ. Anh phải biểu lộ lòng biết ơn của mình, hàm ơn
của mình đối với ta." Nhớ lấy, ông ta người yêu cầu sự
biết ơn ấy, chẳng có gì cho bạn cả. Ông ta đơn thuần cho
bạn một mẩu tin hệt như cột cây số. Cột cây số chẳng biết
gì về cuộc hành trình. Chỉ có một mẩu thông tin khắc trên
nó mà nó đem trao cho mọi người đi ngang qua thế thôi.
Giống vậy, nếu lòng biết ơn được trông đợi và đòi
hỏi, hãy đề phòng. Đừng bị dính mắc vào cá thể. Vượt ra
ngoài tính cá thể hướng về cái vô hình, cái vĩnh cửu, cái
vô hạn. Tuy nhiên, thoáng nhìn là có thể có được thông
qua một người, vốn chỉ là một phương tiện, vì cuối cùng
cá nhân cũng thuộc vào điều thiêng liêng. Giống như đại
dương có thể được biết tới thông qua chiếc giếng, cho nên
cái vô hạn có thể được biết thông qua cá nhân. Nếu
thoáng nhìn có thể xảy ra cho bạn, thế thì việc nhận ra
cũng có thể xảy ra. Nhưng đừng phụ thuộc vào bất kì ai
hay bị nô lệ vào bất kì cái gì.
Mọi quan hệ đều là gắn dính, dù đấy là chồng và vợ,
bố và con, hay guru và đệ tử. Nơi nào có quan hệ, nơi đó
có cảnh nô lệ. Cho nên người tìm kiếm tâm linh phải
không tạo ra quan hệ. Nếu người đó giữ mối quan hệ
chồng và vợ, không có hại gì; đấy không phải là cản trở
vì quan hệ này là không liên quan. Nhưng điều trớ trêu
nằm ở sự kiện là người đó từ bỏ và vứt bỏ các mối quan
hệ chồng-vợ, bố-con để tạo ra quan hệ guru-đệ tử mới.
Điều này là rất nguy hiểm.
Ý tưởng về mối quan hệ tâm linh chẳng có ý nghĩa gì
cả. Tất cả các mối quan hệ đều thuộc về thế gian trần tục.
Quan hệ như thế là trần tục. Nếu nói rằng mối quan hệ là
thế gian này, điều ấy cũng không sai. Bạn một mình,
không kết giao. Đây không phải là phát biểu ích kỉ vì
người khác cũng một mình và không kết giao. Ai đó bước
trước bạn hai bước; nếu bạn nghe thấy tiếng bước chân,
thế thì bạn đã biết về hướng của cuộc hành trình xa của
bạn. Có một số người đang bước hai bước sau bạn, có
một số người khác đi cùng với bạn. Cho nên vô số linh
hồn đang du hành trên con đường. Trong cuộc hành trình
này tất cả chúng ta đều là bạn đồng hành; khác biệt duy
nhất là ở chỗ ai đó đi trước một chút hay đi sau một chút.
Tận dụng tối đa ưu điểm của những người đi trước bạn,
nhưng đừng biến điều đó thành một loại cảnh nô lệ nào
đó.
Tránh xa khỏi phụ thuộc và các mối quan hệ, và đặc
biệt xa khỏi mối quan hệ "tâm linh" - bao giờ cũng vậy.
Mối quan hệ trần tục không nguy hiểm, vì thế gian như
nó thế đã là mối quan hệ rồi. Nó không phải là vấn đề.
Đón nhận thông điệp và chỉ dẫn bất kì chỗ nào chúng có
sẵn. Tôi không ngụ ý bạn không nên cám ơn chúng.
Điều này không nên tạo ra bất kì phức tạp nào trong
tâm trí bạn. Điều tôi đang nói là ở chỗ nếu lòng biết ơn
được yêu cầu, nó là sai, nhưng nếu bạn không biết ơn,
đấy lại cũng là sai tương đương. Chúng ta nên cám ơn cột
cây số vì cho ta thông tin, dù nó có nghe thấy hay không.
Khi chúng ta nói rằng guru không nên yêu cầu hay
trông đợi vào biết ơn, điều đó đánh lừa người nghe và
nuôi dưỡng cho bản ngã của người đó. Người đó nghĩ,
"Điều này tuyệt đối đúng. Thậm chí chẳng cần cám ơn
ông ấy!" Thế là chúng ta phạm phải sai lầm, vì thế thì
chúng ta lại hiểu lời phát biểu từ cực đối lập. Tôi không
nói rằng bạn thậm chí không cần phải tỏ ra biết ơn. Điều
tôi ngụ ý là ở chỗ guru không nên đòi hỏi lòng biết ơn.
Cho nên nếu bạn không biết ơn, điều đó cũng sai tương
đương về phần bạn. Bạn phải biết ơn, nhưng lòng biết ơn
này sẽ không gắn dính bạn, vì cái gì chưa bao giờ được
yêu cầu, sẽ chẳng bao giờ gắn dính. Nếu tôi cám ơn bạn
mà không có việc yêu cầu từ bạn, điều đó chẳng gắn dính
gì. Nhưng nếu bạn yêu cầu có cám ơn, dù tôi có cám ơn
bạn hay không, điều ấy sẽ gắn dính bạn và tạo ra rắc rối.
Nhận lấy hướng dẫn hay thoáng nhìn từ bất kì đâu
bạn có được nó. Nó sẽ biến mất qua lần này lần nọ. Nó
không thể thường hằng vì nó đến từ người khác. Chỉ cái
là của bạn mới kéo dài mãi.
Cho nên bạn sẽ phải trải qua việc xảy ra của spaktipat
lặp đi lặp lại. Nếu bạn sợ mất tự do của mình, tìm kiếm
kinh nghiệm của riêng mình đi. Không ích gì mà phải sợ
cảnh tù túng, vì nếu tôi dính tôi với bạn, đấy là tù túng,
còn nếu tôi trốn chạy khỏi bạn với nỗi sợ bị bám dính, thế
thì tôi cũng bị móc nối vào và do đó bị dính vào bạn.
Cho nên nhận những gì bạn được một cách im lặng;
biết ơn và đi tiếp. Và nếu bạn cảm thấy điều gì đó đã từng
tới nhưng đã từng mất nhiều lần, thế thì tìm kiếm cội
nguồn bên trong, từ nơi nó không bao giờ bị mất. Không
có cách nào làm mất đi được, vì kho báu của riêng chúng
ta là vô tận. Với những cái có nguồn gốc từ người khác,
có cơ là nó sẽ bị mất.
Đừng là kẻ ăn xin cứ hỏi xin từ người khác mãi. Cái
bạn nhận được từ người khác phải làm cho bạn bắt đầu
việc tìm kiếm riêng của mình. Và điều này trở thành có
thể chỉ khi bạn không bị mắc kẹt trong việc có mối quan
hệ. Cảm nhận, đưa ra lời cám ơn, và đi tiếp.
#2Thầy đã nói rằng Thượng đế là năng lượng không
thiên vị và thuần khiết. Thượng đế không quan tâm
đặc biệt tới cuộc sống con người mà cũng chẳng có
nghĩa vụ với cuộc sống con người. Trong Kath
Upanishad có một lời kinh hàm nghĩa, "Thượng đế
tới gặp người mà Thượng đế yêu mến." Đâu là cơ sở
và lí do cho ưa thích này?
Thực tại, tôi không nói rằng Thượng đế không quan
tâm tới bạn: nếu như ngài không quan tâm, bạn đã chẳng
có rồi. Mà tôi cũng không nói ngài dửng dưng với bạn:
ngài không thể thế được vì bạn không xa rời khỏi ngài.
Bạn là mở rộng của ngài. Điều tôi nói là ở chỗ ngài không
có bất kì mối quan tâm đặc biệt nào tới bạn. Có khác biệt
giữa những phát biểu này.
Năng lượng, mà là Thượng đế, không có mối quan
tâm đặc biệt nào tới bạn theo nghĩa nó sẽ không vi phạm
luật lệ của mình vì bạn. Nếu bạn đập đầu vào đá, bạn nhất
định bị thương; tự nhiên sẽ chẳng quan tâm đặc biệt gì tới
bạn - mặc dầu khi bạn đập đầu và máu bắt đầu chảy ra,
máu cứ chảy vì Thượng đế có tham dự vào việc xảy ra.
Khi bạn chết đuối trong dòng sông, thế nữa tự nhiên cũng
đang chơi phần của nó - phần làm bạn chết đuối. Nhưng
không có mối quan tâm đặc biệt nào theo nghĩa là nó sẽ
cứu bạn khi các luật lệ của nó là làm bạn chết đuối. Luật
là ở chỗ nếu bạn ngã từ trên mái, bạn sẽ gẫy xương; tự
nhiên chẳng quan tâm đặc biệt gì tới việc bạn phải không
bị gẫy xương.
Những người tin Thượng đế là người đã thêu dệt ra
nhiều câu chuyện mang hương vị thiêng liêng - chẳng hạn
như Pralad không bao giờ bị bỏng bởi lửa hay bị thương
khi ông ấy bị ném từ trên núi xuống. Những câu chuyện
này là suy nghĩ mong ước của chúng ta; chúng ta muốn
rằng sự việc phải như vậy. Chúng ta ước rằng Thượng đế
có quan tâm đặc biệt tới chúng ta, rằng chúng ta phải là
trung tâm sự chú ý của ông ấy.
Vận hành của năng lượng bao giờ cũng tuân theo luật.
Mối quan tâm của con người có thể là đặc biệt; con người
có thể thiên vị. Nhưng năng lượng, bao giờ cũng vô tư, vô
tư là mối quan tâm duy nhất của nó; do đó nó sẽ làm
những điều bên trong luật của nó và không bao giờ ra
khỏi luật đó. Không có phép màu nào về phần của
Thượng đế.
Bây giờ về Kath Upanishad - ý nghĩa của nó là rất
khác. Nó nói, "Ngài chỉ gặp những người trong chọn lựa
của ngài, gặp những ai mà ngài thấy hạnh phúc và những
ai mà ngài thích." Một cách tự nhiên bạn sẽ nói điều này
nghĩa là ngài có mối quan tâm đặc biệt tới một số người.
Điều này không phải như vậy. Thực tại, rất khó giải thích
những việc như thế thì vì khi chân lí được đem ra giải
thích, người ta phải giải quyết với rất nhiều khía cạnh.
Những người đã đạt tới Thượng đế luôn luôn nói,
"Chúng ta là ai và nỗ lực của chúng ta có giá trị nào cơ
chứ? Chúng ta không là ai cả và giá trị của chúng ta, thậm
chí cũng chẳng bằng một hạt bụi; vậy mà chúng ta đã đạt
tới ngài. Và nếu chúng ta thiền một chốc, giá trị lớn lao
nào so sánh được với kho báu vô giá này mà chúng ta đã
đạt được? Chẳng có gì so sánh được giữa nỗ lực của
chúng ta và cái thu được của chúng ta." Cho nên những
người đã đạt tới chứng ngộ đều xác nhận rằng nó không
phải là kết quả của nỗ lực của họ. "Đấy là ân huệ của
ngài, đấy là mong ước của ngài để ban phúc cho chúng ta;
bằng không, liệu chúng ta có thể tìm thấy ngài được
không?" họ bao giờ cũng hỏi.
Đây là phát biểu của người vô ngã, người đã hiểu vẻ
nguy nga và vĩ đại trong việc đạt tới này của mình. Tuy
nhiên, nếu điều này trở thành cách nghĩ của những người
còn chưa chứng ngộ, nó sẽ rất nguy hiểm. Khi điều này
tới từ những người đã chứng ngộ, phát biểu này là khớp
và chuyển tải một dấu hiệu phân biệt về cái tinh xảo của
cảm giác.
Những người như vậy xác nhận, "Chúng ta là ai mà
chúng ta đã đạt tới ngàiy? Sức mạnh của chúng ta, khả
năng của chúng ta là gì? Quyền của chúng ta là gì? Chúng
ta đã thỉnh cầu gì về ngài? Thế mà do từ bi của ngài, ngài
đã ban phúc cho chúng ta gặp ngài." Với những người đã
đạt tới, phát biểu này là đúng. Điều họ ngụ ý là ở chỗ họ
không coi việc đạt tới của mình là kết quả trực tiếp của nỗ
lực của họ. Điều đó không là thành tựu của bản ngã; nó là
món quà, ân huệ.
Điều họ nói là đúng, nhưng đọc Kath Upanishad, bạn
sẽ gặp khó khăn. Đọc bất kì kinh sách nào con người
cũng trong khó khăn lớn, vì kinh sách là phát biểu của
những người biết và được đọc bởi những người không
biết. Họ nhận nó tương ứng theo việc hiểu của mình và
nói, "Được. Nếu Thượng đế chỉ gặp người ngài muốn
gặp, theo cái thích riêng của ngài, sao chúng ta phải bận
tâm? Tại sao chúng ta phải làm cái gì?" Thế thì tuyên bố
của người vô ngã trở thành việc bảo vệ cho trạng thái lờ
phờ của chúng ta.
Có khác biệt bao la giữa hai loại người này - giống
như giữa trời và đất. Các phát biểu khiêm tốn và vô ngã
của người đã chứng ngộ trở thành việc bảo vệ cho cái đờ
đẫn và lười nhác của chúng ta. Thế thì chúng ta nói,
"Được, Thượng đế chỉ gặp những ai mà ngài muốn gặp
và ngài không gặp những ai mà ngài không muốn gặp."
Có một phát biểu tương tự của thánh Augustine nói
tới cái gì đó tựa thế này: "Những người mà Thượng đế
muốn, ngài làm cho họ điều lành; những người mà ngài
muốn, ông ấy làm cho họ điều xấu." Đây dường như là
một phát biểu rất nguy hiểm. Nếu điều này là như vậy -
rằng Thượng đế làm cho một số người xấu và làm cho
một số người tốt theo tính đồng bóng của mình - thế thì
mọi sự phát rồ! Thế thì ngài phải là Thượng đế mất trí!
Khi bạn đọc điều này bạn có thể gán một ý nghĩa rất
tiêu cực cho nó. Nhưng điều Augustine ngụ ý hoàn toàn
khác. Ông nói với người tốt, "Chớ có kiêu ngạo rằng ông
là tốt, vì những người mà Thượng đế muốn, ông ấy làm
cho họ tốt." Còn với người xấu ông nói, "Chớ có nản chí,
đừng lo âu. Những người mà Thượng đế muốn, ông ấy
làm cho họ xấu."
Ông ấy đang dứt ra cái kiêu căng trong bản ngã của
người tốt và ông đang dứt bỏ cái chua cay trong điều hối
tiếc của người xấu. Phát biểu này đến từ người biết.
Nhưng người xấu nghe điều này và người đó nói, "Nếu sự
việc là như vậy, tôi chẳng có quyền hành gì trong đó - vì
những người mà Thượng đế muốn là xấu, là xấu." Cuộc
hành trình của người tốt cũng bị chểnh mảng đi, người
này nói, "Còn gì phải làm nữa nào? Những người Thượng
đế chọn làm tốt, ông ấy làm tốt, còn những người ông ấy
chọn không làm tốt, ông ấy không làm tốt." Cuộc sống
người đó trở nên vô nghĩa và trì trệ.
Đây là điều các kinh sách đã làm cho toàn thế giới.
Kinh sách là lời của những người đã chứng ngộ. Tuy
nhiên, những người biết không cần đọc kinh sách, còn
những người không biết lại đọc chúng; thế thì khác biệt
trong việc hiểu biết là các cực xa nhau. Ý nghĩa mà chúng
ta trao cho lời của họ chính là của riêng chúng ta và
không phải là ý nghĩa thực tại.
Tôi đã đi tới cảm giác rằng nên có hai loại kinh sách -
lời của những người đã chứng ngộ nên được giữ tách biệt,
và nên có những kinh sách tách biệt đặc biệt được chuẩn
bị cho những người chưa chứng ngộ. Kinh sách chứa lời
của người đã chứng ngộ nên hoàn toàn bị dấu kín với
người dốt nát, bởi vì người này nhất định sẽ suy diễn ý
nghĩa riêng của mình và thế thì mọi thứ trở thành xoắn
xuýt và méo mó. Cứ theo cách này, mọi trí huệ của chúng
ta đều bị méo mó hết. Bạn có hiểu điều tôi đang nói
không?
#2Thầy đã nói rằng shaktipat, việc truyền năng lượng
sống, xảy ra qua trung gian của người vô ngã và rằng
người nói, "Ta có thể làm shaktipat,", chắc chắn là
giả và shaktipat sẽ không xảy ra qua người đó.
Nhưng tôi biết nhiều người vẫn thực hành shaktipat
và năng lượng kundalini bắt đầu đi lên và phát triển
như vẫn được viết trong các kinh sách. Đây có phải
là các quá trình giả không? Nếu có, nó là thế nào và
tại sao?
Đây cũng là một điểm quan trọng cần phải hiểu. Thực
tế không có gì trong thế giới này không có phần đối xứng
giả của nó. Tiền giả tồn tại trong mọi chiều hướng của
cuộc sống. Và bao giờ tiền giả cũng có vẻ sáng loáng hơn
tiền thật. Nó phải là như vậy, bởi vì chính sự sáng loáng
ấy làm cho nó hấp dẫn; nó là vô dụng trong thực tại của
nó. Đồng tiền thực có tác dụng cho dù nó không sáng
loáng. Tiền giả tạo ra lời tuyên bố hùng hồn vì nó phải bù
lại, và bởi vì cái vô giá trị của nó, nó dễ dàng có sẵn.
Tất cả thành tựu tâm linh đều có phần giả tương ứng
của chúng và không một kinh nghiệm nào không có thành
phần giả. Nếu có kundalini thực, cũng có kundalini giả.
Nếu có các luân xa thật, cũng có các luân xa giả. Nếu có
phương pháp đúng của yoga, cũng có các phương pháp
giả nữa. Khác nhau giữa hai điều này là ở chỗ kinh
nghiệm thật xuất hiện trên bình diện tâm linh, trong khi
cái giả xuất hiện trên bình diện tâm lí, tâm trí.
Chẳng hạn, nếu một người đi vào thiền sâu và tới gần
hơn bản thể mình, người đó sẽ bắt đầu kinh nghiệm nhiều
điều. Người đó có thể kinh nghiệm hương thơm mà mình
chưa bao giờ biết trước đây; người đó có thể nghe thấy
âm nhạc bên ngoài thế giới này; người đó có thể thấy
những mầu sắc mà không thấy có trên thế gian. Nhưng tất
cả những kinh nghiệm này cũng có thể được tạo ra bởi
thôi miên, nhanh chóng và chẳng khó khăn gì. Mầu sắc có
thể được tạo ra; giai điệu có thể được tạo ra; hương và vị
có thể được tạo ra. Và với tất cả những điều này chẳng
cần phải trải qua thiền sâu và biến đổi bên trong gì cả. Tất
cả điều bạn cần là trở thành vô ý thức qua thôi miên; thế
thì bất kì cái gì được gợi ý từ bên ngoài cũng có thể xảy
ra bên trong. Những kinh nghiệm này là đồng tiền giả cả.
Bất kì cái gì xảy ra trong thiền cũng đều có thể xảy ra
qua thôi miên nhưng nó sẽ không phải là tâm linh. Đấy là
trạng thái được gây ra; nó giống như giấc mơ. Nếu bạn
yêu người đàn bà trong trạng thái tỉnh, bạn cũng có thể
yêu cô ấy trong mơ nữa - và người đàn bà trong mơ sẽ
đẹp hơn. Nếu người đàn ông không tỉnh thức và giữ việc
mơ của mình, người này sẽ chẳng bao giờ biết cô gái
trong mơ là thực hay ảo tưởng. Làm sao mà người đó biết
được? Chỉ khi mơ bị phá vỡ, người đó mới biết rằng đó là
mơ.
Cho nên có những phương pháp mà qua đó mọi loại
mơ đều có thể được tạo ra bên trong bạn. Mơ về
kundalini có thể được tạo ra; mơ về luân xa có thể được
tạo ra; nhiều kinh nghiệm có thể được tạo ra. Bạn sẽ ham
mê thích thú trong những mơ này; chúng dễ chịu đến mức
bạn sẽ không muốn chúng biến mất đi. Chúng là những
mơ mà thật khó để gọi chúng là mơ được, bởi vì chúng
xảy ra trong khi bạn đang thức, trong khi bạn đang hoạt
động. Chúng là mơ ngày. Chúng có thể được thực hành
và bạn có thể trải qua cả đời trong chúng, nhưng đến cuối
cùng bạn sẽ thấy bạn chẳng đạt tới đâu cả; bạn đã thấy
một giấc mơ dài. Có những phương tiện và phương pháp
để tạo ra những giấc mơ này. Người khác có thể đưa
chúng vào trong bạn và bạn sẽ không bao giờ có khả năng
phân biệt nổi giữa giả và thật, bởi vì bạn không có ý
tưởng nào về kinh nghiệm thật cả.
Nếu một người chưa bao giờ thấy tiền thực và bao giờ
cũng chỉ dùng tiền giả, làm sao người đó sẽ biết rằng
đồng tiền của mình là giả? Để biết cái giả, cái thật phải
được biết. Cho nên chỉ khoảnh khắc mà kundalini biểu lộ
chính nó, người ta mới có thể thấy hai kinh nghiệm này
cách nhau bao xa. Kundalini thực là một kinh nghiệm
khác hẳn.
Nhớ lấy, nhiều mô tả về kundalini trong kinh sách là
giả, và có lí do cho điều này. Bây giờ tôi sẽ nói cho bạn
về một bí mật của kinh sách. Tất cả các hiền nhân và nhà
tiên tri đã từng sống trên trái đất này đều để lại một cách
có chủ ý một số lỗi lầm cơ bản trong từng kinh sách với
mục đích để đánh giá sự tiến bộ và độ chân thực của đệ
tử. Bây giờ, chẳng hạn, tôi có thể bảo bạn từ bên ngoài
ngôi nhà này rằng có năm buồng bên trong, nhưng tôi biết
có sáu. Một hôm bạn có thể tới và nói, "Tôi đã thấy ngôi
nhà từ bên trong và chỉ có năm buồng như thầy nói." Thế
thì tôi sẽ biết rằng bạn đã đến thăm lâu đài nào khác - lâu
đài ảo tưởng - chứ không phải là ngôi nhà tôi đã nói tới.
Theo cách này một phòng đã bị bỏ bớt; điều này cho
thông tin liệu bạn có thực sự kinh nghiệm hay không, liệu
kinh nghiệm của bạn là thật hay không. Nếu kinh nghiệm
của bạn hoàn toàn tương ứng với kinh sách, đấy là đồng
tiền giả, bởi vì cái gì đó bao giờ cũng đã bị bỏ đi trong
kinh sách; rất cần phải làm như vậy.
Nếu kinh nghiệm của bạn phù hợp với sách vở, biết
rằng tri thức sách vở ấy là được phóng chiếu. Khoảnh
khắc kinh nghiệm của bạn tới theo cách thức khác, cách
thức mà trong đó chúng có thể trùng với kinh sách ở chỗ
này và không trùng ở chỗ khác, thế thì biết rằng bạn đang
trên con đường đúng - những điều đang xảy ra là chân
thực và rằng bạn không đơn thuần phóng chiếu những mô
tả mà bạn đã đọc trong kinh sách.
Cho nên khi kundalini thức tỉnh một cách chân thực,
bạn sẽ biết chỗ nào trong kinh sách mọi thứ đã được phát
minh ra để đánh giá độ chân thực của kinh nghiệm của
thiền nhân. Nhưng trước điều này bạn không thể biết
được nó. Mọi kinh sách đều cần phải bỏ đi thông tin nào
đó; bằng không, sẽ khó mà đánh giá được độ chân thực
của chứng nghiệm.
Có một thầy giáo của tôi. Ông ấy là một giáo sư đại
học. Bất kì sách nào tôi nói tới ông ấy đều nói là ông ấy
đã đọc nó. Một hôm tôi nhắc tới một cuốn sách hư cấu và
tên tác giả của nó. Tôi nói, "Thầy đã đọc cuốn sách vậy
chưa? Một cuốn sách tuyệt vời."
Ông ta nói, "Có, tôi đọc rồi."
"Bây giờ, hoặc thầy tạo ra sách đó hoặc tất cả những
lời tuyên bố trước đây của thầy về việc đọc sách đều phải
bị huỷ bỏ," tôi bảo ông ta, "Chẳng có cuốn sách như thế
mà cũng chẳng có tác giả như thế!"
Ông ta ngạc nhiên, "Anh định nói gì vậy? Không có
cuốn sách như thế à?" ông ấy nói.
"Không!" tôi nói, "Không có cách nào khác để đánh
giá độ chân thực lời thầy nói."
Những người biết sẽ lập tức tìm ra. Nếu kinh nghiệm
của bạn là đúng đắn như đã được đặt trong kinh sách, bạn
sẽ bị bắt, bởi vì có những lỗ hổng bị bỏ lại trong kinh
sách; đôi khi cái giả đã được thêm vào, đôi khi cái thật bị
bỏ ra, và tất cả những điều này là tuyệt đối cần thiết vì
nếu không sẽ khó mà nói được cái gì xảy ra cho ai.
Những kinh nghiệm được mô tả trong kinh sách có
thể được bịa ra; mọi thứ đều có thể được bịa ra, bởi vì khả
năng của tâm trí con người nhiều thế. Và trước khi người
ta đi vào cốt lõi bên trong nhất của bản thể, tâm trí lừa dối
người ta theo cả nghìn cách. Và nếu bạn muốn tự lừa
mình thế thì điều ấy rất là dễ dàng.
Cho nên tôi nói vấn đề về các mô tả trong kinh sách
hay ai đó tự xưng là làm shaktipat hay các kĩ thuật tạo ra
kinh nghiệm giả, không phải là điều thật có ý nghĩa. Cốt
lõi bản chất của vấn đề là cái gì đó khác. Có nhiều cách
khác để tìm ra tính chân thực của kinh nghiệm của bạn.
Một người đang uống nước ban ngày và cơn khát của
người đó được dịu đi; người đó uống nước trong mơ
nhưng cơn khát của người đó không dịu đi. Buổi sáng
người đó thấy cổ họng khô rang và đôi môi khô ráo, bởi
vì việc uống nước trong mơ không thể làm dịu cơn khát.
Chỉ nước thực mới làm dịu cơn khát. Liệu nước là thực
hay không thực có thể được tìm ra từ cơn khát của bạn -
liệu cơn khát có được dịu đi hay là không.
Cho nên với những người mà bạn đang nói tới, những
người cứ tuyên bố đánh thức kundalini của mọi người hay
người nói ít nhất kundalini của họ đã trở nên được đánh
thức cũng vẫn là đang tìm kiếm thôi. Họ nói họ đã kinh
nghiệm nhiều điều, vậy mà việc tìm kiếm của họ vẫn tiếp
tục. Họ xác nhận họ đã tìm thấy nước, ấy vậy mà họ
chẳng có ý tưởng về cái hồ!
Mới hôm kia thôi một người bạn tới và nói anh ta đã
đạt tới trạng thái vô ý nghĩ, và anh ta đã tới để hỏi về
phương pháp thiền. Bây giờ phải nói gì cho người như thế
đây! Một người nói kundalini của mình đã thức tỉnh
nhưng tâm trí anh ta vẫn bất ổn; người khác, nói rằng
kundalini đã thức tỉnh nhưng anh ta vẫn còn bị hành hạ
bởi dục! Có những phương sách trung gian để phát hiện
ra tính chân thực của kinh nghiệm của bạn.
Nếu kinh nghiệm là thực, việc tìm kiếm chấm dứt.
Thế thì cho dù Thượng đế tới và mời chào an bình hay
phúc lạc, người này sẽ từ chối một cách lễ phép và yêu
cầu Thượng đế cứ giữ lấy nó cho mình; người này không
cần nó. Cho nên để tìm ra cái chân thực của kinh nghiệm
nhìn sâu vào nhân cách của người này về một số triệu
chứng khác của biến đổi.
Một người nói rằng người đó đi vào samadhi, vào
siêu tâm thức. Người đó chôn mình dưới đất trong sáu
ngày rồi chui ra vẫn sống. Nhưng nếu bạn để tiền trong
ngôi nhà, người này sẽ ăn cắp; nếu người này thấy có cơ
hội, người đó sẽ say sưa trong việc uống rượu. Nếu bạn
không biết về lời tuyên bố của người đó về samadhi, bạn
sẽ chẳng thấy cái gì có giá trị trong người đó cả. Không
hương thơm, không toả sáng, không ân huệ nào trong
nhân cách người đó cả; người đó chỉ là người thường.
Không, người đó không đi vào samadhi: người đó đã
học thủ đoạn về samadhi giả. Người đó đã làm chủ thủ
đoạn ở dưới đất trong sáu ngày bằng pranayam; người đó
đã học cách kiểm soát hơi thở để cho bên trong vùng đã
định của chỗ nghỉ ngơi của mình, người đó có thể dùng
một lượng ô xi tối thiểu. Do vậy người đó có thể ở dưới
đất trong sáu ngày. Người đó gần như ở trong trạng thái
con gấu Siberi ngủ đông dưới tuyết trong sáu tháng.
Người đó không ở trong bất kì loại samadhi nào cả. Đến
cuối mùa mưa, ếch vẫn nằm chôn vùi dưới đất trong tám
tháng: chúng không trong samadhi. Người này đã học
cùng kĩ thuật, không gì hơn.
Bây giờ, nếu bạn chôn một người dưới đất, người đã
đạt tới trạng thái samadhi chân thực, người này rất có thể
chết, vì samadhi chẳng liên quan gì tới việc bị chôn vùi
dưới đất. Nếu Mahavira hay Phật bị cho nằm xuống dưới
đất theo cách này, hầu như không có khả năng họ ra mà
vẫn sống. Nhưng người này sẽ ra vẫn sống, bởi vì thành
tựu này chẳng liên quan gì tới samadhi. Samadhi là
chuyện khác hẳn. Nhưng người này sẽ hấp dẫn quần
chúng. Nếu Mahavira thất bại mà người này thành công,
người này sẽ dường như là một tirthankara thực còn
Mahavira sẽ dường như là giả.
Cho nên những đồng tiền tâm lí giả này có lời tuyên
bố giả dối của riêng chúng, và nhiều phương pháp đã
được tiến triển để làm cho chúng thành thuyết phục. Do
vậy một thế giới tách biệt đã được tạo ra quanh họ chẳng
liên quan gì tới thực tại. Những người như vậy, người
đang tham dự vào việc buôn bán các đồng tiền giả, đã lạc
mất con đường chân chính nơi biến đổi thực sự xảy ra. Ở
sáu ngày hay sáu tháng dưới đất chẳng liên quan gì tới
việc tự nhận ra. Nhưng cái gì là phẩm chất bên trong của
người như thế? Người này có được bao nhiêu an bình và
im lặng bên trong? Người này có phúc lạc bên trong
không? Nếu người này mất một đồng tiền, người đó sẽ
không ngủ đêm được nhưng người đó lại có thể ở thoải
mái dưới đất trong sáu ngày. Tất cả những điều này phải
được xem xét và ý nghĩa thực đằng sau nó cần phải được
tìm ra.
Cho nên những người tuyên bố có khả năng làm
shaktipat, có thể làm như vậy, nhưng đấy không phải là
shaktipat chân thực. Về bản chất, đấy là một loại thôi
miên. Sâu phía dưới bằng cách nào đó họ đã học được
những kĩ năng đùa với từ lực. Cũng không chắc là họ biết
toàn bộ khoa học về chủ đề này. Họ chẳng biết về khoa
học của quá trình này mà họ cũng không nhận biết về cái
giả trong tuyên bố của mình. Họ là đống lộn xộn lớn.
Bạn thấy một nhà ảo thuật đường phố ở Ấn Độ đang
trình diễn các thủ đoạn của mình. Ông ta trải tấm vải và
bảo một đứa trẻ nằm vào trong đó. Ông ta để một món nữ
trang rẻ tiền vào ngực đứa bé. Rồi ông ấy hỏi đứa bé số
tiền trong ví một người xem. Đứa bé sẽ nói ra con số.
"Đồng hồ của người đang đứng kia chỉ mấy giờ rồi?" Đứa
bé lại trả lời đích xác thời gian. "Tên người này là gì?"
Đứa trẻ sẽ nói cho ông ta cái tên. Mọi người đang xem
đều bị thuyết phục bởi ảo thuật của món nữ trang này.
Thế rồi ông ta bỏ món nữ trang khỏi ngực đứa bé và
lặp lại câu hỏi. Đứa bé nằm im: nó không thể nào trả lời
được. Bây giờ nhà ảo thuật làm việc kinh doanh thuận lợi
với đồ nữ trang này - mỗi món đồ nữ trang bán một đồng
ru pi! Bạn đem nó về nhà: bạn có thể để nó lên ngực mình
trong cả đời mình mà chẳng có gì sẽ xảy ra. Không phải
là đứa bé kia đã được nhà ảo thuật dạy để nói khi món đồ
nữ trang này đang trên ngực nó và phải im lặng khi nó bị
lấy đi, cũng không phải có phẩm chất gì đặc biệt trong
bản thân món đồ nữ trang này. Thủ đoạn này tinh vi hơn
và bạn có lẽ sẽ ngạc nhiên mà biết điều đó.
Quá trình này được gọi là gợi ý hậu thôi miên. Một
người được thôi miên thành vô ý thức, và trong trạng thái
mê thôi miên này người đó được bảo phải nhìn kĩ vào
món nữ trang. Người đó cũng được bảo rằng ngay khi
món nữ trang này được đặt lên ngực mình, người đó phải
trở thành vô ý thức.. Thế rồi, trong trạng thái vô ý thức
ấy, người đó có thể được làm cho đọc được số các tờ tiền
hay nói về thời gian trên đồng hồ. Không có gì giả trong
đó cả. Ngay khi đứa trẻ được cho nằm trên tấm chăn
trong trạng thái thôi miên và đồ nữ trang được đặt lên
ngực nó, nó đi vào cơn mê thôi miên. Bây giờ nó có thể
nói về số tờ bạc nếu được nhà ảo thuật hỏi. Cả đứa trẻ lẫn
nhà ảo thuật đều chẳng biết rõ cái gì đang được xảy ra
bên trong.
Nhà ảo thuật đã học được một thủ thuật: một người
được đặt vào trong cơn mê thôi miên và thế rồi khi được
chỉ cho thấy một thứ người này sẽ được bảo, "Bất kì khi
nào vật này được đặt trước anh, anh sẽ lập tức trở thành
vô ý thức, rơi vào trong cơn thôi miên lần nữa." Phương
pháp này làm việc hoàn hảo - nhà ảo thuật chỉ biết đến thế
này thôi. Cả hai chẳng ai biết cơ chế bên trong, tính năng
động của hiện tượng năng lượng. Nếu như họ có biết, họ
sẽ không thực hiện thủ đoạn này bên lề đường. Việc biết
tính năng động của quá trình này là một chủ đề sâu sắc
cho dù nó chỉ là hiện tượng tâm lí. Ngay cả Freud hay
Jung cũng chẳng biết nó. Ngay cả ngày nay các nhà tâm lí
vĩ đại nhất của thế giới cũng không biết đến tính năng
động của của năng lượng thân thể trong tính toàn bộ của
nó. Nhưng nhà ảo thuật này bằng cách nào đó đã vớ được
thủ đoạn này mà ông ta dùng để kiếm sống.
Bật công tắc điện lên, điều đó không cần bạn phải
biết điện là gì, nó được tạo ra như thế nào, hay kĩ nghệ
điện tất cả là gì. Bạn đơn giản nhấn nút và điện bắt đầu
chạy. Bất kì ai cũng đều có thể nhấn nút được.
Nhà ảo thuật trên phố đã học được nghệ thuật gợi ý
hậu thôi miên và ông ta dùng nó để bán đồ nữ trang rẻ
tiền. Bạn mua món đồ trang sức rẻ tiền, đem nó về nhà,
nhưng nó sẽ vô dụng cho bạn. Đồ nữ trang có tác dụng
với một quá trình nào đó về gợi ý hậu thôi miên. Bạn đặt
nó lên ngực mình và chẳng cái gì xảy ra cả. Thế thì bạn
cảm thấy rằng bạn bị sai sót ở đâu đó, bởi vì bạn đã thấy
đồ nữ trang này có tác dụng.
Cho nên nhiều kinh nghiệm giả và giả mạo có thể
được tạo ra. Giả và giả mạo không theo nghĩa là chúng
không tồn tại mà theo nghĩa là chúng không tâm linh;
chúng chỉ là các quá trình tinh thần. Mọi kinh nghiệm tâm
linh đều có cái song song về tinh thần. Do đó, các tương
xứng tinh thần có thể được tạo ra bởi những người chưa
tâm linh, người đưa ra tuyên bố về khả năng tinh thần của
họ. Nhưng chẳng có gì so sánh được với kinh nghiệm tâm
linh xác thực.
Người tâm linh đích thực không tuyên bố về điều gì
cả. Người đó không nói, "Tôi đang làm shaktipat; tôi
đang làm cái này cái nọ. Và khi điều ấy xảy ra, bạn sẽ trở
nên tham dự và gắn bó với tôi." Người đó đã trở thành
không ai cả, cái không. Chỉ bởi ở gần người đó mà cái gì
đó bắt đầu xảy ra cho bạn. Nhưng người đó tuyệt đối
không có ý làm nó.
Có một câu chuyện cổ La mã về một hiền nhân vĩ đại.
Hương thơm của bản thể ông ấy và tia sáng từ trí huệ của
ông ấy lan toả nhiều đến mức chúng đạt tới các vị thần
trên trời. Họ tới gặp ông và nói, "Ông cầu xin ân huệ đi.
Chúng ta đã được chuẩn bị để ban cho ông bất kì cái gì
ông muốn."
Thánh nhân đáp, "Cái phải xảy ra, đã xảy ra rồi;
chẳng còn gì nữa để ham muốn. Xin đừng đẩy tôi vào khó
khăn bởi việc hỏi tôi ham muốn gì. Đừng làm tôi bối rối
với đề nghị của các ông. Sẽ là cách cư xử không hay nếu
tôi không hỏi, nhưng sự kiện là ở chỗ chẳng còn lại gì để
tôi hỏi cả. Mọi thứ đã xảy ra cho tôi, ngay cả cái mà tôi
chưa bao giờ nghĩ tới."
Các thần thậm chí còn bị ấn tượng hơn bởi lời của
ông ấy, bởi vì hương thơm của ông trở nên mạnh hơn với
sự kiện là ông ấy đã vượt ra ngoài ham muốn. "Ông phải
yêu cầu điều gì đó," các thần nài nỉ. "Chúng tôi sẽ không
đi mà không ban ân huệ cho ông."
Thánh nhân bị lâm vào tình thế khó khăn. "Tôi sẽ yêu
cầu cái gì đây? Tôi không thể nghĩ được cái gì cả," ông ấy
nói với các vị thần. "Các ông cho tôi bất kì cái gì các ông
thích; tôi sẽ lấy nó."
"Chúng ta sẽ cho ông quyền năng. Chỉ cái chạm của
ông sẽ đem người chết về cuộc sống và người ốm thành
khoẻ mạnh," họ bảo ông ấy.
"Điều này thật tốt, sự giúp đỡ lớn lao," ông ấy nói,
"nhưng về tôi thì sao? Tôi sẽ bị rắc rối lớn, vì tôi có thể
có ý tưởng rằng tôi đang chữa lành người ốm, rằng tôi
đưa người chết về với sự sống. Nếu bản ngã tôi quay lại
từ cửa sau, thế thì tôi bị kết thúc rồi, thế thì tôi bị lạc
trong bóng tối. Xin cứu tôi với; từ bi với tôi; làm điều gì
đó để cho tôi không biết đến những phép màu này."
Thế là các thần đồng ý. Họ nói, "Bất kì chỗ nào bóng
ông phủ tới, nó sẽ đem người chết về với cuộc sống."
"Điều ấy thật tốt," hiền nhân nói. "Bây giờ xin cho
tôi ân huệ cuối cùng. Xin ban cho cổ tôi trở thành cứng
nhắc để cho tôi không thể nào quay lại sau để thấy tác
động của cái bóng của tôi."
Ân huệ được ban ra. Cổ của hiền nhân bị cứng ngắc.
Ông ấy đi từ thị trấn nọ sang thị trấn kia. Khi cái bóng
ông ấy phủ lên hoa héo, chúng bắt đầu nở hoa, nhưng rồi
ông ấy lại đi lên trước; cổ ông ấy không cho phép ông ấy
ngoái nhìn lại. Ông ấy chẳng bao giờ đi tới biết. Khi ông
ấy chết ông ấy hỏi các thần liệu món quà của họ có kết
quả không, bởi vì ông ấy chẳng bao giờ biết về điều đó.
Tôi cảm thấy câu chuyện này rất đáng yêu.
Khi shaktipat xảy ra, nó xảy ra hệt như thế này. Nó
xảy ra với cái bóng và cái cổ cứng ngắc. Người trung
gian, qua người đó năng lượng tuôn chảy, phải là hư
không hoàn toàn bằng không đầu của người đó có thể
quay lại. Nếu có dù chỉ một dấu vết của bản ngã, sẽ có
thôi thúc nhìn lại và xem liệu việc xảy ra có tới hay
không. Nếu nó tới, thế thì cảm giác về "Ta đã làm nó," sẽ
tới. Sẽ khó tránh cảm giác này.
Cho nên bất kì khi nào một người trở thành trống
rỗng và im lặng, shaktipat sẽ xảy ra với thoải mái lớn
quanh người đó, hệt như mặt trời lên và hoa nở, hay như
sông chảy và cây được nuôi dưỡng. Sông chưa bao giờ
tuyên bố rằng nó đã tưới nước cho biết bao nhiêu cây cối
và biết bao nhiêu cây cối đang nở hoa vì nó. Sông thậm
chí không biết tất cả những điều này. Vào lúc hoa nở,
nước nuôi dưỡng cây đó đã ra tới đại dương. Thời gian
đâu để nó đợi mà thấy được? Không có cách nào nhìn lại
cả. Khi sự kiện xảy ra trong những điều kiện như thế thì
nó có một giá trị tâm linh. Nhưng nơi có bản ngã, có
người làm, khi ai đó nói rằng "Ta là người làm đây," thế
thì đấy là hiện tượng tâm trí và nó chẳng gì nhiều hơn
việc thôi miên.
#2Không có khả năng của thôi miên và ảo tưởng trong
phương pháp Thiền động mới của thầy chứ? Với
nhiều người tham dự mà chẳng có gì xảy ra cả; họ có
trên đường đúng không? Có những người khác trong
nhiều quá trình đang xảy ra; họ có trên đường đúng
không? Liệu một số trong những người này có khoe
mẽ không?
Có hai hay ba điều cần phải hiểu cho đúng. Thôi miên
là một khoa học và nó có thể dễ dàng được dùng để tạo ra
lừa dối. Tuy nhiên, thôi miên cũng có thể có ích để giúp
bạn. Khoa học bao giờ cũng là lưỡi kiếm hai cạnh.
Năng lượng nguyên tử có thể tạo ra lúa mì trên các
cánh đồng; nó cũng có thể xoá đi toàn bộ loài người chỉ
trong một cú. Cả hai khả năng đều có đó. Dòng điện làm
quay quạt máy trong nhà bạn cũng có thể giết chết bạn,
nhưng bạn sẽ không coi điện chịu trách nhiệm về điều đó.
Nếu một kẻ bản ngã dùng thôi miên, người đó sẽ làm như
vậy ấy để đàn áp, phá huỷ và lừa dối người khác. Nhưng
việc đối lập của điều này cũng là có thể.
Thôi miên là năng lượng trung tính; nó là một khoa
học. Nó có thể được dùng để phá vỡ giấc mơ cứ diễn ra
bên trong bạn, và những ảo tưởng bắt rễ sâu xa của bạn
cũng có thể bị nó nhổ bật đi.
Phương pháp tôi đang dùng là thôi miên ở pha khởi
đầu, nhưng điều này được gắn với một yếu tố nền tảng sẽ
bảo vệ bạn khỏi việc bị thôi miên - và đó là chứng kiến.
Đây là khác biệt duy nhất giữa thôi miên và thiền, nhưng
đây là khác biệt rất lớn. Khi bạn bị thôi miên, bạn bị làm
trở thành vô ý thức. Chỉ thế thì bạn mới có thể bị làm cho
làm việc. Tuy nhiên, tôi nói rằng thôi miên thiền là có ích,
nhưng chỉ khi bạn trở thành người quan sát. Thế thì bạn
tỉnh thức và tỉnh táo, và bạn biết điều đang xảy ra vào
mọi lúc. Thế thì chẳng điều gì có thể được làm chống lại
ý chí bạn; bạn bao giờ cũng hiện diện. Trong thôi miên
những lời gợi ý có thể được dùng để làm cho bạn thành
vô ý thức và những lời gợi ý có thể được dùng để phá vỡ
vô ý thức của bạn.
Cho nên các bước khởi đầu của điều tôi gọi là thiền
động toàn là thôi miên, và chúng nhất định là như thế bởi
vì bất kì cuộc hành trình nào hướng về cái ta đều chỉ bắt
đầu từ tâm trí. Điều này là vì bạn sống trong tâm trí; đó là
chỗ bạn đang ở, cho nên cuộc hành trình bắt đầu từ đó.
Nhưng cuộc hành trình này có thể thuộc hai loại: hoặc nó
có thể đưa bạn trên con đường tròn bên trong tâm trí nơi
bạn sẽ cứ đi lòng vòng mãi như con bò kéo cối xay, chẳng
bao giờ có khả năng đi ra, hoặc nó có thể đưa bạn tới bờ
của tâm trí mà từ đó bạn có thể nhảy ra. Trong cả hai
trường hợp, những bước khởi đầu sẽ phải được lấy từ bên
trong tâm trí.
Cho nên dạng khởi đầu của thôi miên là giống hệt
như dạng khởi đầu của thiền, nhưng dạng cuối cùng là
khác nhau và mục tiêu cũng khác nhau. Và trong cả hai
quá trình này một phần tử cơ bản là khác nhau. Thôi miên
lập tức đòi hỏi vô ý thức, ngủ; do đó, tất cả các gợi ý của
nó đều bắt đầu với ngủ, ngủ lơ mơ, và thế rồi phần còn lại
theo sau. Trong thiền, lời gợi ý bắt đầu với sự tỉnh thức,
và sau đó nhấn mạnh là vào trạng thái chứng kiến. Nhân
chứng trong bạn là việc thức tỉnh, cho nên không tác nhân
bên ngoài nào có thể ảnh hưởng tới bạn. Và bạn cũng nhớ
rằng bất kì cái gì xảy ra bên trong bạn, bạn tràn đầy ý
thức về nó.
Bây giờ, cái gì là khác biệt giữa những người mà mọi
thứ đang xảy ra và những người mà mọi thứ không xảy
ra? Những người mà với họ chẳng có gì xảy ra, đều có
sức mạnh ý chí yếu hơn. Họ sợ hãi, hoảng hốt. Họ thậm
chí còn sợ rằng điều đó có thể xảy ra! Con người kì lạ
làm sao! Họ đã tới để thiền; họ đã tới để cho việc thiền
xảy ra, nhưng bây giờ họ lại sợ rằng điều đó có thể thực
sự xảy ra. Và khi họ thấy mọi sự xảy ra cho người khác,
họ lại tự hỏi liệu đấy có phải là làm ra bộ hay không. Đây
là cách thức đề phòng của họ. Họ nói, "Chúng ta không
yếu đuối đến mức trở thành bị ảnh hưởng đâu. Những
người này là những người yếu đuối." Theo cách này họ
thoả mãn bản ngã của mình, không biết rằng quá trình
này không thể nào xảy ra cho người yếu đuối được. Họ
cũng không biết rằng điều này xảy ra chỉ cho người thông
minh và không cho người không thông minh.
Người ngốc, không thể bị thôi miên mà cũng chẳng
thể nào được đưa vào trong thiền. Cả hai đều không thể
được. Tương tự, người khùng không thể nào bị bắt làm
việc được. Người càng thiên tài, càng nhanh chóng bị thôi
miên. Người càng kém thiên tài, càng cần thời gian dài
hơn để thôi miên người đó.
Làm sao mọi người có thể hợp lí hoá về việc thiếu
thông minh, ý chí và thiên tài? Họ sẽ nói theo đề phòng
của mình, "Dường như là những người này đơn thuần
biểu diễn. Họ mang tâm trí yếu đuối và bị ảnh hưởng từ
bên ngoài."
Gần đây tại Amritsar một người tới gặp tôi. Người đó
là một ông già có học - một tiến sĩ về hưu. Ông ấy tới vào
ngày thực nghiệm thiền thứ ba. Ông ấy nói, "Tôi đã tới để
xin thầy tha thứ cho ý nghĩ tội lỗi đã tới trong tâm trí tôi."
"Có chuyện gì vậy?" tôi hỏi ông ta.
Ông ta đáp, "Ngày thứ nhất khi tôi tới thiền, tôi cảm
thấy thầy đã tổ chức mọi người của thầy ăn mặc và đóng
vai trong việc trình diễn này, và có một số người với tâm
trí yếu đuối theo đuôi họ một cách mù quáng. Thế là tôi
nói, ‘Để mình xem lần thứ hai.’ Ngày thứ hai tôi thấy hai
hay ba người bạn mình, cũng là tiến sĩ đang tham dự hoàn
toàn vào thực nghiệm thiền. Tôi tới nhà họ để hỏi. Tôi
bảo họ, ‘Không thể nào có việc anh đã được chuẩn bị cho
điều này. Điều đó phải chẳng đã thực sự xảy ra cho anh
hay là anh giả vờ?’
"Họ đáp lại, ‘Cần gì phải giả vờ để làm cái gì? Mãi
cho tới hôm qua tôi cũng nghĩ giống thế đấy, nhưng hôm
nay việc ấy đã xảy ra cho chúng tôi."
Thế rồi đến ngày thứ ba, khi điều đó xảy ra cho ông
ta, ông ấy tới xin lỗi. Ông ấy nói, "Hôm nay điều ấy đã
xảy ra cho tôi, và bây giờ ảo tưởng của tôi tất cả đã biến
mất; bằng không, tôi đã không tin vào nó. Tôi cũng đã
nghi ngờ các bạn tiến sĩ của tôi. Thầy chẳng bao giờ có
thể nói những ngày này người ta sẽ làm gì. Có thể họ đã
có một hợp đồng biểu diễn với thầy! Tôi biết họ, nhưng ai
nói được? - họ có thể tới dưới quyến rũ thôi miên của
thầy. Nhưng hôm nay điều đó đã xảy ra cho tôi. Hôm nay
khi tôi về nhà, cậu em tôi, người cũng là tiến sĩ, đã hỏi,
‘Cuộc trình diễn thế nào? Điều gì đó đã xảy ra cho anh
chưa?’, tôi bảo nó, ‘Này em, tha lỗi cho anh, anh không
thể gọi điều đó là trình diễn nữa. Trong hai ngày anh đã
chế giễu toàn bộ thực nghiệm, nhưng hôm nay điều đó đã
xảy ra cho anh. Và anh không giận gì em, vì mới hôm qua
thôi bản thân anh còn chỉ trích hệt như em.’"
Con người này lần nữa lại xin tôi tha thứ cho những ý
nghĩ tiêu cực của mình.
Đây là các biện pháp đề phòng của chúng ta. Những
người không thấy gì xảy ra cho mình sẽ tìm ra cách thức
và phương tiện để bảo vệ bản ngã họ. Nhưng chỉ có một
khoảng cách rất nhỏ giữa người mà điều đó xảy ra và
người mà điều đó không xảy ra. Chỉ thiếu một chút ít
cương quyết nữa. Nếu người ta thu được lòng dũng cảm,
cương quyết hơn và vứt bỏ tất cả các cấm đoán, sự kiện
sẽ xảy ra.
Hôm nay một người đàn bà tới tôi và bảo tôi rằng bạn
cô ấy gọi điện cho cô ấy và bảo cô ấy rằng "Trong những
thực nghiệm này một số người cởi trần ra, một số người
làm những điều kì lạ. Làm sao các quí bà của các gia đình
tử tế tham gia vào những điều đó được?"
Một số người có ảo tưởng thuộc về gia đình "tử tế",
còn số khác, thuộc về các gia đình "không đức hạnh".
Đây tất cả đều là các biện pháp đề phòng. Người đàn bà
nghĩ mình thuộc về gia đình tử tế bây giờ sẽ bỏ lỡ thực
nghiệm này và tự hạn chế mình vào ngôi nhà mình. Nếu
cô ấy bị rắc rối bởi người khác trở nên ở trần, thế thì cô
ấy không thuộc vào gia đình tử tế. Cô ấy phải làm gì với
người đó?
Cho nên tâm trí chúng ta tạo ra những cái cớ kì lạ. Nó
nói, "Đây tất cả đều là tình trạng lộn xộn và một đống hỗn
độn, và điều đó không thể xảy ra cho tôi được. Tôi không
phải là người yếu đuối - tôi có tâm trí mạnh mẽ." Nếu
điều này quả là như vậy, nếu bạn quả thực là người mạnh
mẽ và thông minh, thế thì sự việc sẽ phải xảy ra.
Dấu hiệu của người thông minh là ở chỗ người đó
không ra quyết định gì trước khi thử một việc. Người đó
thậm chí sẽ không nói rằng điều người khác làm là sai.
Người đó sẽ nói, "Tôi là ai để mà bình luận về người đó?
Chụp mũ người khác sai là không tốt. Bạn là ai mà quyết
định rằng ai đó khác là sai?" Những quyết định sai như
vậy đã gây ra rất nhiều khó khăn.
Mọi người không tin rằng cái gì đã xảy ra cho Jesus;
bằng không, họ đã không treo ông ấy lên cây thánh giá.
Họ nói, "Con người này dở hơi và nguy hiểm; hắn ta nói
toàn điều ngớ ngẩn!" Mọi người sẽ không ném đá vào
Mahavira nếu họ không nghĩ rằng ông ấy đã gây ra rối
loạn bởi việc ở trần. Họ nói rằng chẳng cái gì đã xảy ra
cho Mahavira.
Dựa trên thẩm quyền nào mà chúng ta có thể quyết
định điều gì đang xảy ra bên trong cho người khác? Đây
là triệu chứng của người thông minh - rằng người đó
không diễn đạt ý kiến chừng nào người đó còn chưa tự
mình thử sự việc. Nếu không cái gì xảy ra cho tôi, tôi
phải tìm xem liệu tôi có tiến hành các hướng dẫn về thực
nghiệm ấy đầy đủ chưa. Nếu tôi chưa làm được nó đầy
đủ, làm sao cái gì có thể xảy ra được?
Gần đây ở trại thiền Porbander tôi đã nói rằng nếu
một người còn chưa tự mình cố gắng một trăm phần trăm,
cho dù nỗ lực của người đó đã lên tới chín mươi chín
phần trăm, người đó vẫn thất bại.
Một người bạn tới và nói, "Tôi cứ ung dung nghĩ rằng
việc ấy sẽ cần thời gian lâu thêm chút ít để xảy ra. Nhưng
hôm nay tôi nhận ra rằng nó sẽ chẳng bao giờ xảy ra theo
cách này. Cho nên tôi sẽ tự mình cố gắng hôm nay hoàn
toàn, và nó đã xảy ra."
Nếu bạn có thái độ này để làm thực nghiệm chậm
chạp, thế thì tại sao làm nó? Theo cách này chúng ta
muốn giương buồm trong hai thuyền một lúc, nhưng
người đặt từng chân lên từng thuyền khác nhau thấy mình
gặp khó khăn lớn. Một thuyền thì tốt; thế thì cho dù nó có
đi xuống địa ngục ít nhất bạn cũng trong một con thuyền.
Nhưng chúng ta là những người kì lạ; chúng ta đặt một
chân lên thuyền đi tới cõi trời còn chân kia, lên thuyền
xuống địa ngục!
Thực tế, tâm trí bị lẫn lộn về nơi đi tới. Nó sợ hãi và
không quyết định được liệu nó sẽ hạnh phúc trên cõi trời
hay trong địa ngục. Đặt một chân lên hai thuyền bạn sẽ
chẳng đạt tới đâu cả; bạn sẽ chết vẫn trên sông. Đấy là
công việc của tâm trí vào mọi thời điểm. Đấy là tinh thần
phân liệt. Chúng ta sẽ nỗ lực để đi rồi dừng mình lại nữa.
Điều này rất có hại.
Tiến hành thực nghiệm này với toàn bộ sự mãnh liệt
của mình, và đừng hình thành ý kiến nào về người khác.
Nếu người ta trải qua thực nghiệm đầy đủ, mọi thứ chắc
chắn sẽ xảy ra. Tôi đang nói về những điều rất khoa học,
không phải là cái gì đấy thuộc vào mê tín tôn giáo.
Chính sự kiện khoa học là ở chỗ với toàn bộ nỗ lực,
kết quả nhất định xảy ra. Không có cách khác, bởi vì
Thượng đế là năng lượng và năng lượng này là vô tư. Tại
đây, cầu nguyện hay tôn thờ, hay sự kiện được sinh ra
trong gia đình đẳng cấp cao hay trên mảnh đất Ấn Độ,
đều không có tác dụng. Đây là vấn đề khoa học thuần tuý.
Nếu một người trải qua điều này một cách chân thành,
ngay cả Thượng đế cũng chẳng thể nào ngăn cản anh ta
thành công. Và cho dù không có Thượng đế cũng chẳng
thành vấn đề. Thấy rằng bạn đang đặt toàn bộ năng lượng
của mình vào trong thực nghiệm thiền. Và bao giờ cũng
ra quyết định theo kinh nghiệm bên trong của mình,
không phải là từ dáng vẻ bên ngoài của biến cố; bằng
không, bạn sẽ đi sai đường.
**************************************************************************************************************
#3 Con đường kundalini: chân thực và tự do
Trong bài nói hôm qua, Thầy đã nói rằng kinh
nghiệm giả về kundalini có thể được phóng chiếu
điều Thầy coi không phải là tâm linh mà là tâm trí.
Tuy nhiên, trong bài nói ban đầu, Thầy đã nói rằng
kundalini chỉ là tâm trí. Điều này có nghĩa là, theo
Thầy, có hai trạng thái kundalini - tâm trí và tâm
linh. Xin thầy giải thích điều này.
Để cho bạn hiểu điều này, cần phải nói thêm chi tiết
về cấu trúc của các thể tinh tế đa dạng.
Cá nhân có thể được chia thành bẩy thể. Thể thứ nhất
là thể vật lí mà tất cả chúng ta đều biết. Thể thứ hai là thể
ê te, và thể thứ ba - bên ngoài thể thứ hai này - là thể vía.
Thể thứ tư - bên ngoài thể này - là thể trí hay hồn; còn thể
thứ năm - lại ở ngoài thể này - là thể tâm linh. Thể thứ
sáu ở ngoài thể thứ năm, và nó được gọi là thể vũ trụ. Thế
rồi thể thứ bẩy và là thể cuối cùng là nirvana sharir, hay
thể niết bàn, thể vô thể. Một chút ít thông tin thêm về bẩy
thể này sẽ làm cho bạn có thể hiểu được kundalini đầy đủ.
Trong bẩy năm đầu của cuộc sống, sthul sharir - thể
vật lí một mình được hình thành. Các thể khác còn đang ở
dạng hạt mầm. Chúng có tiềm năng cho sự trưởng thành
nhưng chúng nằm ngủ trong lúc bắt đầu cuộc sống. Cho
nên bẩy năm đầu là những năm của giới hạn. Không có
trưởng thành trí tuệ, xúc cảm hay ham muốn trong những
năm này. Chỉ thể vật lí phát triển trong thời kì này. Một
số người chưa bao giờ trưởng thành vượt ra ngoài bẩy
năm này; họ trì trệ tại giai đoạn này và không hơn con
vật. Con vật chỉ phát triển trong thể vật lí; các thể khác
vẫn còn không được động chạm tới bên trong chúng.
Trong bẩy năm tiếp sau - tức là từ bẩy cho tới mười bốn
tuổi - bhawa sharir, thể ê te, phát triển. Bẩy năm này là
những năm trưởng thành về xúc cảm của cá nhân. Đây là
lí do tại sao sự chín muồi dục, vốn là dạng mạnh mẽ nhất
của xúc cảm, được đạt tới vào độ tuổi mười bốn. Bây giờ
một số người còn trì trệ ở giai đoạn này. Thể vật lí của họ
phát triển nhưng họ bị mắc kẹt với hai thể đầu.
Trong thời kì bẩy năm thứ ba, giữa độ tuổi mười bốn
và hai mươi mốt, shukshma sharir, thể vía, phát triển.
Trong thể thứ hai xúc cảm được phát triển; trong thể thứ
ba lập luận, tư duy và trí tuệ được phát triển. Đây là lí do
tại sao không toà án luật pháp nào buộc trẻ con phải chịu
trách nhiệm về hành động của của nó cho đến bẩy tuổi,
bởi vì trẻ con chỉ có thể vật lí. Chúng ta đối xử với trẻ con
giống như cách ta đối xử với con vật; chúng ta không thể
buộc nó có trách nhiệm được. Cho dù trẻ con có phạm
phải tội ác, điều đó vẫn được coi rằng nó phạm tội dưới
hướng dẫn của ai đó - rằng tội phạm thực là ai đó khác.
Sau khi phát triển thể thứ hai, người ta đạt tới tuổi
trưởng thành. Nhưng đây là tuổi trưởng thành về dục.
Công trình của tự nhiên được hoàn chỉnh với sự phát triển
này, và đây là lí do tại sao tự nhiên trao cộng tác hoàn
toàn cho tới giai đoạn này. Nhưng tại giai đoạn này con
người không phải là con người theo nghĩa hoàn toàn của
từ này. Thể thứ ba, nơi năng lực lập luận, trí tuệ và tư duy
phát triển, là kết quả của giáo dục, văn minh và văn hoá.
Đây là lí do tại sao quyền bỏ phiếu được cấp cho một
người khi người đó hai mươi mốt tuổi. Mặc dầu điều này
là phổ biến trên khắp thế giới, một số nước đang tranh cãi
xem liệu có cho phép người mười tám tuổi có quyền đi
bầu hay không. Điều này là tự nhiên, bởi vì con người
đang trở nên ngày càng tiến hoá hơn, khoảng thời gian
bẩy năm cho việc trưởng thành của mỗi thể đang trở nên
ngày một ngắn hơn.
Trên khắp thế giới con gái đạt tới tuổi dậy, vào độ
tuổi mười ba hay mười bốn. Từ ba mươi năm qua độ tuổi
cho điều này đang ngày một trở nên thấp dần. Thậm chí
con gái mười một tuổi cũng đạt tới dậy thì. Việc hạ thấp
độ tuổi đi bầu xuống mười tám là một chỉ dẫn rằng con
người bây giờ hoàn tất công việc của hai mươi mốt năm
trong mười tám năm. Tuy nhiên, thông thường hai mươi
mốt năm là cần thiết cho trưởng thành của thể thứ ba, và
đại đa số mọi người đều không phát triển hơn điều này.
Trưởng thành của họ dừng lại ngay với phát triển của thể
thứ ba, và không có phát triển thêm nữa cho phần còn lại
cuộc sống của họ.
Điều tôi có thể gọi là hồn là ở thể thứ tư - manas
sharir. Thể này có những kinh nghiệm kì diệu riêng của
nó. Bây giờ một người có trí tuệ không phát triển thì
không thể có khả năng quan tâm tới hay thích thú toán
học, chẳng hạn. Toán học có cái đẹp của riêng nó, và chỉ
Einstein mới có thể bị cuốn hút vào nó như nhạc sĩ trong
âm nhạc hay hoạ sĩ trong mầu sắc. Với Einstein toán học
không phải là công việc mà là trò chơi, nhưng trí tuệ phải
đạt tới đỉnh phát triển này để biến toán học thành trò chơi
được.
Với mỗi thể đã phát triển đều có vô hạn khả năng mở
ra trước chúng ta. Người có thể ê te không phát triển,
người trì trệ sau bẩy năm phát triển đầu tiên, không có
mối quan tâm gì trong cuộc sống ngoài ăn và uống. Cho
nên văn hoá của những nền văn minh mà tại đó đại đa số
mọi người phát triển chỉ tới thể đầu tiên, vẫn xoay vòng
quanh những chồi nụ ăn uống của họ. Nền văn minh mà
đại đa số mọi người bị mắc kẹt ở thể thứ hai sẽ đọng vào
dục. Nhân cách của họ, văn chương của họ, âm nhạc,
phim ảnh, sách vở của họ, thơ ca và hội hoạ của họ, thậm
chí nhà cửa và xe cộ của họ, đều sẽ đặt trọng tâm vào
dục, vào dâm dục: tất cả những điều này sẽ được rót đầy
bằng dục, bằng dâm dục.
Trong nền văn minh mà trong đó thể thứ ba phát triển
đầy đủ, mọi người sẽ mang tính trí tuệ và suy tư. Bất kì
khi nào việc phát triển thể thứ ba trở thành rất quan trọng
trong xã hội hay trong quốc gia, nhiều cuộc cách mạng trí
tuệ xảy ra. Tại Bihar, đại đa số mọi người mang phẩm
chất này vào thời của Phật và Mahavira. Đây là lí do tại
sao tám người có tầm vóc của Phật và Mahavira đã được
sinh ra trong tỉnh Bihar nhỏ bé này. Bên cạnh đó, có hàng
nghìn người khác vào thời đó, những người được trời phú
thiên tài. Đó cũng là hoàn cảnh ở Hi lạp vào thời Socrates
và Plato; đó cũng là hoàn cảnh ở Trung quốc vào thời Lão
Tử và Khổng tử. Điều thậm chí còn kì diệu hơn và cần
lưu ý là sự kiện rằng tất cả những con người chói sáng
này đều tồn tại trong thời kì năm trăm năm. Trong năm
trăm đó sự phát triển của thể thứ ba trong con người đã
đạt tới đỉnh của nó. Nói chung con người dừng lại tại thể
thứ ba. Đại đa số mọi người không phát triển sau hai
mươi mốt tuổi.
Có những kinh nghiệm bất thường về thể thứ tư. Thôi
miên, viễn cảm, thiên nhãn tất cả đều là tiềm năng của thể
thứ tư. Người này có thể có liên hệ với người khác mà
không bị cản trở bởi thời gian hay nơi chốn; họ có thể đọc
được ý nghĩ của người khác mà không phải hỏi hay họ có
thể phóng chiếu ý nghĩ lên người khác. Không có bất kì
sự giúp đỡ bên ngoài nào người ta vẫn có thể truyền dẫn
hạt mầm ý nghĩ vào người khác. Người ta có thể du hành
bên ngoài thân thể mình; người đó có thể phóng chiếu thể
vía và tự biết mình bên ngoài thể vật lí.
Có những khả năng lớn trong thể thứ tư, nhưng chúng
ta thông thường không phát triển thể này vì có nhiều mạo
hiểm cũng như lừa dối. Khi mọi thứ bắt đầu trở nên ngày
một tinh tế, khả năng lừa dối cũng tăng thêm. Bây giờ
khó mà tìm ra liệu một người có thực bước ra khỏi thân
thể mình hay không. Người đó có thể mơ rằng mình bước
ra khỏi thân thể mà người đó cũng có thể thực tại đã làm
như vậy nữa, và trong cả hai trường hợp không có nhân
chứng nào khác hơn bản thân người đó. Cho nên có mọi
khả năng lừa dối.
Thế giới bắt đầu từ thể thứ tư mang tính chủ quan,
trong khi thế giới trước đó mang tính khách quan. Nếu tôi
có đồng ru pi trong tay, tôi có thể thấy nó, bạn có thể thấy
nó, năm mươi người khác cũng có thể thấy nó. Đây là
thực tại chung mà trong đó tất cả chúng ta có thể dự phần,
và người ta có thể nghiên cứu liệu đồng ru pi có đó hay
không. Nhưng trong địa hạt suy nghĩ của tôi, bạn không
thể là đối tác, mà tôi cũng không thể là đối tác trong địa
hạt suy nghĩ của bạn. Từ đây thế giới cá nhân bắt đầu với
tất cả những may rủi của nó; không qui tắc bên ngoài nào
về tính hợp thức của chúng ta có thể dùng được ở đây.
Cho nên thế giới thực của sự lừa dối bắt đầu từ thể thứ tư.
Tất cả mọi lừa dối của ba thể đầu đều có thể thấy được.
Nguy hiểm lớn nhất là ở chỗ không nhất thiết kẻ lừa
dối nhận biết được sự kiện rằng mình đang lừa dối. Người
đó có thể lừa dối một cách không chủ ý - cả bản thân
mình cũng như người khác. Mọi việc đều tinh tế, hiếm
hoi và cá nhân trên bình diện này đến mức người ta chẳng
có phương tiện nào để kiểm tra tính hợp thức của kinh
nghiệm của người đó. Cho nên người đó không thể nói
được liệu mình đang tưởng tượng mọi thứ hay liệu chúng
thực sự xảy ra cho người đó.
Cho nên chúng ta bao giờ cũng cố gắng cứu loài
người khỏi thể thứ tư này, và những người đã dùng thể
thứ tư này, bao giờ cũng bị kết án và vu cáo. Hàng trăm
đàn bà đã bị đóng dấu sắt nung là phù thuỷ và bị thiêu
sống ở châu Âu bởi vì họ đã dùng các khả năng của thể
thứ tư. Hàng trăm người thực hành mật tông đã bị giết ở
Ấn Độ bởi thể thứ tư. Họ biết một số bí mật dường như là
nguy hiểm cho con người. Họ biết điều xảy ra trong tâm
trí bạn; họ biết nơi các thứ được cất giấu trong nhà bạn
mà chẳng cần phải bước tới đó. Cho nên địa hạt thể thứ tư
bị xem như nghệ thuật "đen" trên toàn thế giới, vì người
ta chẳng bao giờ biết cái gì có thể xảy ra. Chúng ta bao
giờ cũng cố gắng hết sức để chặn tiến bộ không cho đi xa
hơn nữa từ thể thứ ba, bởi vì thể thứ tư bao giờ cũng
dường như là rất nguy hiểm.
Có những may rủi, nhưng cùng với những điều này
cũng có những cái lợi kì diệu. Cho nên thay vì dừng lại,
nghiên cứu là cần thiết. Thế thì chúng ta có thể tìm ra
cách thức để kiểm tra tính hợp lệ của kinh nghiệm của
mình. Bây giờ có những công cụ khoa học, và quyền
năng hiểu biết của con người cũng tăng lên. Cho nên có
thể tìm ra những cách thức hệt như trong trường hợp của
nhiều khám phá khác đã được thực hiện trong khoa học.
Người ta không biết liệu con vật có mơ hay không.
Làm sao điều này có thể chắc chắn được khi mà con vật
không nói? Chúng ta biết điều ta mơ bởi vì ta dậy vào
buổi sáng và nói rằng chúng ta đã mơ. Sau những nỗ lực
và kiên nhẫn lớn, bây giờ người ta đã tìm ra cách thức.
Một người đã làm việc nhiều năm với khỉ để tìm ra về
điều này, và cách thức người này tiến hành thực nghiệm
này cũng đáng để hiểu. Người này bắt đầu bằng việc
chiếu phim cho khỉ xem. Ngay khi phim được bắt đầu,
con khỉ được đem vào thực nghiệm sẽ bị gây một cú sốc
điện. Một nút được đặt trên ghế của con khỉ và nó được
dạy để nhấn nút này khi nó cảm thấy sốc. Cho nên hàng
ngày nó được đặt ngồi trên ghế, và khi phim bắt đầu, nó
cảm thấy sốc. Thế là nó ấn nút để tắt đi.
Điều này tiếp diễn trong vài ngày; thế rồi nó được
gây ngủ trong ghế. Bây giờ khi nó bắt đầu mơ, nó sẽ bắt
đầu cảm thấy không thoải mái, bởi vì với nó phim trên
màn ảnh và phim trong giấc mơ của nó là một và như
nhau. Nó lập tức ấn nút. Nhiều lần lặp đi lặp lại nó ấn
phím, và điều này chứng tỏ rằng nó đang mơ. Theo cách
này, con người bây giờ có thể thâm nhập vào thế giới mơ
bên trong của các con vật câm. Các thiền nhân cũng đã
tìm ra cách thức để kiểm tra kinh nghiệm về thể thứ tư từ
bên ngoài, và bây giờ người ta có thể chứng minh liệu
điều xảy ra là đúng hay sai. Kinh nghiệm về kundalini
trên thể thứ tư có thể là về hồn, nhưng điều đó không làm
cho chúng thành giả. Có những trạng thái hồn chân thực
và trạng thái hồn giả. Khi tôi nói rằng kundalini có thể chỉ
là kinh nghiệm tâm trí, điều đó không nhất thiết có nghĩa
là đấy là kinh nghiệm giả. Kinh nghiệm tâm trí có thể là
giả cũng như chân thực.
Bạn thấy một giấc mơ ban đêm. Bây giờ giấc mơ này
là sự kiện bởi vì nó đã xảy ra. Nhưng khi tỉnh dậy vào
buổi sáng, bạn có thể nhớ ra một giấc mơ nào đó mà bạn
không thực đã mơ; thế nhưng bạn vẫn cứ khăng khăng
rằng đấy là điều bạn đã mơ. Thế thì đây là giả. Một người
có thể dậy vào buổi sáng và nói mình chẳng hề mơ. Nhiều
người tin họ không mơ. Họ có mơ: cả đêm dài họ mơ, và
điều này đã được chứng minh một cách khoa học. Nhưng
vào buổi sáng họ khẳng định họ chưa hề mơ. Cho nên
điều họ nói là tuyệt đối sai, mặc dầu họ không biết về nó.
Thực tế, họ không nhớ các giấc mơ. Điều hoàn toàn đối
lập cũng xảy ra: bạn nhớ những giấc mơ mà bạn chưa hề
mơ. Điều này cũng sẽ là giả.
Mơ là không giả; chúng có thực tại của riêng chúng.
Nhưng mơ có thể là thực cũng như không thực. Mơ thực
là những giấc mơ thực tế đã được mơ. Điều rắc rối cũng
là ở chỗ bạn không thể nào kể lại giấc mơ của mình một
cách chính xác khi tỉnh dậy. Bởi lí do này, ngày xưa bất
kì ai có thể kể lại giấc mơ của mình một cách rõ ràng và
chính xác đều được quí trọng cao. Rất, rất khó để báo cáo
lại một giấc mơ cho đúng. Trình tự giấc mơ là một điều
khi bạn mơ nó và là điều đối lập lại khi bạn nhớ nó. Nó
cũng tựa như cuốn phim. Khi chúng ta xem phim, câu
chuyện trải ra từ đầu phim. Tương tự, cuộn phim về vở
kịch mơ cuốn theo một chiều trong giấc ngủ và bắt đầu
tháo ra theo chiều ngược lại trong trạng thái tỉnh, cho nên
chúng ta nhớ phần cuối của giấc mơ trước hết rồi đi
ngược để nhớ lại. Điều ta mơ đầu tiên trở thành điều cuối
cùng được nhớ lại. Điều này cũng giống hệt như ai đó cố
gắng đọc một cuốn sách từ cuối ngược lên; từ đảo ngược
sẽ gây ra những lộn xộn như vậy. Cho nên nhớ lại giấc
mơ và đưa ra cách biểu diễn đúng cho nó là một nghệ
thuật lớn. Nói chung, khi chúng ta nhớ lại giấc mơ, chúng
ta hồi tưởng những sự kiện mà chúng ta chưa hề mơ tới.
Chúng ta bỏ phần lớn của mơ thực và sau đó bỏ phần lớn
phần còn lại.
Mơ xảy ra cho thể thứ tư, và thể thứ tư có tiềm năng
lớn. Bất kì cái gì siddhis được nói tới trong yoga cũng
đều đạt được trong thể này. Yoga không ngừng cảnh báo
cho thiền nhân đừng đi vào trong chúng. Nguy hiểm lớn
nhất là việc đi lạc lối. Cho dù bạn đi vào trạng thái hồn,
nó cũng chẳng có giá trị tâm linh nào.
Cho nên khi tôi nói kundalini là hồn, điều tôi muốn
nói là ở chỗ nó thực tại là điều xảy ra cho thể thứ tư. Đây
là lí do tại sao các nhà sinh lí học không thể nào phát hiện
ra kundalini bên trong thân thể con người. Cho nên cũng
là điều tự nhiên mà họ từ chối sự tồn tại của kundalini và
luân xa và gọi chúng là tưởng tượng. Chúng là những sự
kiện của thể thứ tư. Thể thứ tư tồn tại, nhưng nó rất tinh
tế; nó không thể tới bên trong việc hiểu thấu của chúng ta.
Chỉ thể vật lí mới có thể được hiểu thấu. Nhưng có những
điểm tương ứng giữa thể thứ nhất và thể thứ tư.
Nếu chúng ta đặt bẩy tờ giấy chồng lên nhau, xuyên
một lỗ qua chúng bằng chiếc đinh ghim để cho tất cả các
tờ giấy đều bị xuyên thủng, thế thì cho dù lỗ hổng biến
mất trong tờ đầu, nó vẫn mang một dấu hiệu tương ứng
với lỗ hổng trong các tờ giấy còn lại. Thế thì mặc dầu tờ
giấy đầu tiên không có lỗ hổng, nó vẫn có một điểm
tương ứng trực tiếp với các lỗ hổng trên các tờ giấy khác
khi nó được đặt lên chúng. Cho nên luân xa, kundalini,
vân vân không thuộc vào thể thứ nhất nhưng có những
điểm tương ứng trong thể thứ nhất. Cho nên nhà sinh lí
học cũng không sai nếu ông ta phủ định chúng. Luân xa
và kundalini là trong các thể khác, nhưng các điểm tương
ứng với chúng có thể thấy trên thể vật lí.
Vậy kundalini là việc xảy ra ở thể thứ tư và đó là
phần hồn. Và khi tôi nói rằng phần hồn này có hai loại -
một thật và một giả - thế thì bạn sẽ hiểu điều tôi muốn
nói. Nó sẽ là giả khi nó là sản phẩm của trí tưởng tượng
của bạn, bởi vì tưởng tượng cũng là một đặc trưng của thể
thứ tư. Con vật không có quyền năng tưởng tượng, cho
nên chúng có rất ít kí ức về quá khứ và không có ý tưởng
nào về tương lai. Con vật được tự do khỏi lo âu vì lo âu
bao giờ cũng là về tương lai. Con vật thấy nhiều cái chết
xảy ra, nhưng chúng chưa bao giờ tưởng tượng rằng
chúng cũng có thể chết; do đó, chúng không sợ chết.
Trong con người cũng có nhiều người không bị bận tâm
bởi việc sợ chết. Người như vậy bao giờ cũng liên kết cái
chết với người khác chứ không với chính mình. Lí do là ở
chỗ quyền năng tưởng tượng trong thể thứ tư còn chưa
phát triển đầy đủ để nhìn vào tương lai.
Điều này có nghĩa là tưởng tượng cũng có thể thật
hoặc giả. Tưởng tượng thật nghĩa là chúng ta có khả năng
thấy trước tương lai, nghĩa là chúng ta có thể quán tưởng
cái còn chưa tới. Nhưng tưởng tượng điều gì đó sẽ xảy ra
mà không thể nào xảy ra được, cái không tồn tại, lại là
tưởng tượng giả. Khi tưởng tượng được dùng theo đúng
hoàn cảnh của nó, nó trở thành khoa học; khoa học chủ
yếu chỉ là tưởng tượng.
Từ hàng nghìn năm con người đã mơ bay lượn.
Những người đã mơ theo cách này đều phải rất giàu trí
tưởng tượng. Nếu con người chưa bao giờ mơ về việc
bay, sẽ không thể nào có chuyện anh em nhà Wright làm
máy bay đầu tiên. Họ đã làm cho ham muốn bay của con
người thành cái gì đó cụ thể. Ham muốn này cần thời gian
để thành hình; thế rồi thực nghiệm đã được tiến hành, và
cuối cùng con người đã thành công trong việc bay.
Cũng thế từ hàng nghìn năm nay con người đã muốn
lên tới mặt trăng. Trước hết đấy chỉ là tưởng tượng của
con người; dần dần nó thu được mảnh đất, và bây giờ nó
được hoàn thành. Bây giờ, những tưởng tượng này là
chân thực: tức là, chúng không phải trên con đường giả.
Những tưởng tượng này đang trên con đường hiện thực
mà có thể được khám phá vào thời gian sau. Cho nên các
nhà khoa học cũng tưởng tượng, và người điên cũng làm
như vậy.
Nếu tôi nói rằng khoa học là việc tưởng tượng và điên
khùng cũng là tưởng tượng, chớ nghĩ rằng chúng là một
và cùng một thứ. Người điên tưởng tượng những thứ
không tồn tại và không có quan hệ gì với thế giới vật lí.
Nhà khoa học cũng tưởng tượng: ông ta tưởng tượng
những thứ có quan hệ trực tiếp với thế giới vật lí. Và nếu
điều ấy ban đầu không dường như là vậy thì vẫn có khả
năng đầy đủ cho sự hiện hữu của chúng trong tương lai.
Trong số những khả năng của thể thứ tư bao giờ cũng
có cơ hội đi sai. Thế thì thế giới giả bắt đầu. Đây là lí do
tại sao tốt nhất chúng ta đừng nuôi dưỡng bất kì trông đợi
nào trước khi đi vào thể này. Thể thứ tư này là thể hồn.
Bây giờ, chẳng hạn, nếu tôi muốn đi xuống tầng đất của
ngôi nhà này, tôi sẽ phải tìm thang máy hoặc cầu thang để
đi xuống. Nhưng nếu tôi muốn đi xuống trong ý nghĩ của
mình, chẳng cần thang máy hay cầu thang. Tôi có thể
ngồi ngay đây và đi xuống.
Mối nguy của tưởng tượng và ý nghĩ là ở chỗ người
ta chẳng phải làm gì ngoại trừ việc tưởng tượng hay suy
nghĩ, và do vậy bất kì ai cũng đều có thể làm điều đó.
Hơn nữa, nếu bất kì ai đi vào cõi này với những ý tưởng
và trông đợi định trước, thế thì người đó lập tức đi vào
những điều này, bởi vì thế thì tâm trí cũng sẽ sẵn lòng
hợp tác với điều đó. Nó sẽ nói, "Mình muốn thức tỉnh
kundalini ư? Được thôi! Nó đang lên đấy... nó đã lên rồi."
Thế thì bạn sẽ bắt đầu tưởng tượng kundalini đang lên, và
tâm trí sẽ động viên bạn trong cái cảm giác giả tạo này
cho tới cuối cùng bạn sẽ cảm thấy rằng nó hoàn toàn
được thức tỉnh và rằng các luân xa đều đã được kích hoạt
hết. Nhưng có một cách để kiểm tra tính hợp lệ của nó, và
đó là ở chỗ với việc mở từng luân xa sẽ có sự thay đổi rõ
rệt trong nhân cách của bạn. Sự thay đổi này bạn không
thể tưởng tượng hay nghĩ trước, bởi vì sự thay đổi này
xảy ra trong thế giới vật chất.
Cho nên, chẳng hạn, khi kundalini thức tỉnh, bạn
không thể uống chất say được; điều ấy là không thể được.
Thể trí bị ảnh hưởng bởi rượu cồn rất nhanh chóng vì nó
rất tinh tế. Đây là lí do tại sao - và bạn sẽ ngạc nhiên mà
biết điều này - khi đàn bà uống rượu, cô ấy trở nên còn
nguy hiểm hơn đàn ông làm việc đó. Điều này là vì thể trí
của cô ấy còn tinh tế hơn, và nó bị ảnh hưởng nhanh
chóng đến mức mọi thứ tuột ra ngoài sự kiểm soát của cô
ấy. Đây là lí do tại sao đàn bà đã được bảo vệ khỏi nguy
cơ này bởi một số luật lệ trong xã hội. Đây là một chỗ mà
đàn bà không tìm kiếm sự bình đẳng với đàn ông, mặc
dầu không may là về sau, cô ấy lại cố gắng làm điều đó.
Cái ngày cô ấy khẳng định sự bình đẳng của mình trong
lĩnh vực này và cố gắng vượt trội hơn đàn ông trong điều
đó, cô ấy sẽ gây ra tác hại cho bản thân mình mà chưa
bao giờ hành động của đàn ông gây ra lại gây tác hại
được đến thế.
Trong thể thứ tư việc thức tỉnh của kundalini không
thể được chứng minh bởi việc bạn nói về kinh nghiệm
này, bởi vì, như tôi đã nói trước đây, bạn có thể tưởng
tượng giả về việc thức tỉnh và kinh nghiệm kundalini nữa.
Nó chỉ có thể được đánh giá qua những nét vật lí của bạn:
liệu có biến đổi triệt để nào đã xảy ra trong nhân cách của
bạn hay không. Ngay khi năng lượng này được thức tỉnh,
lập tức sẽ có những dấu hiệu về thay đổi trong bạn. Đây
là lí do tại sao tôi bao giờ cũng nói rằng hành vi là tiêu
chuẩn bên ngoài và không phải là nguyên nhân bên trong.
Nó là tiêu chí cho điều đã xảy ra bên trong. Với từng nỗ
lực, một số điều bắt đầu xảy ra không tránh khỏi. Khi
năng lượng thức tỉnh, thiền nhân trở nên không thể nào
uống được bất kì chất say nào. Nếu người đó vẫn còn say
mê ma tuý và rượu cồn, thế thì biết rằng kinh nghiệm của
người đó tất cả là tưởng tượng, bởi vì điều ấy là tuyệt đối
không thể được.
Sau khi thức tỉnh kundalini, khuynh hướng bạo hành
biến mất hoàn toàn. Thiền nhân không chỉ không bạo
hành, mà người này còn không cảm thấy bạo hành bên
trong mình nữa. Thôi thúc để bạo hành, thôi thúc làm hại
người khác, chỉ có thể tồn tại khi sinh lực đang ngủ.
Khoảnh khắc nó thức tỉnh, người khác dừng là người
khác và do vậy bạn không thể muốn làm hại người đó.
Thế thì bạn sẽ không phải kìm nén bạo hành bên trong
bản thân mình bởi vì thế thì bạn không thể là bạo hành
được.
Nếu bạn thấy rằng bạn phải kìm nén cảm giác bạo
hành, thế thì biết rằng kundalini còn chưa thức tỉnh đâu.
Nếu sau khi mắt mở ra bạn vẫn phải dò đường bằng gậy,
thế thì biết rằng mắt vẫn chưa thể thấy được, dù bạn có
nói gì khác cũng chẳng thành vấn đề - bởi vì bạn vẫn
chưa vứt được cây gậy đi. Việc người ngoài có thấy liệu
bạn có thể thấy được hay không là tuỳ ở hành động của
bạn. Gậy của bạn, dò dẫm của bạn và bước đi loạng
choạng của bạn chứng tỏ rằng mắt bạn vẫn còn chưa mở.
Cho nên sẽ có thay đổi triệt để trong hành vi của bạn
với việc thức tỉnh, và tất cả các lời thề tôn giáo đều giống
như lời thề của mahavrata - không bạo hành, không ăn
cắp, không sở hữu, vô dục và đầy nhận biết - sẽ trở thành
tự nhiên và dễ dàng cho bạn. Thế thì biết rằng kinh
nghiệm của bạn là chân thực. Tuy nó là phần hồn, nhưng
tất cả đều là chân thực như nhau. Bây giờ bạn có thể tiến
thêm nữa. Bạn có thể tiến lên nếu con đường của bạn là
chân thực nhưng không có điều ngược lại. Bạn không thể
ở yên mãi mãi trong thể thứ tư vì đấy không phải là mục
đích. Còn có các thể khác cần phải đi qua.
Như tôi đã nói, chúng ta thấy rằng rất ít người có khả
năng phát triển thể thứ tư. Đó là lí do tại sao có những
người thực hiện phép màu trong thế giới ngày nay. Nếu
thể thứ tư trong mọi người đều được phát triển, phép màu
sẽ tan biến ngay khỏi trái đất này. Nếu như có xã hội của
những người mà sự phát triển của họ đã bị đình trệ sau độ
tuổi mười bốn, thế thì người đã phát triển thêm một chút
nữa, người có thể cộng hay trừ, sẽ được coi như thực hiện
được phép màu.
Hàng nghìn năm trước đây, khi một người tuyên bố
về ngày tháng của nhật thực, điều đó được coi như một
phép màu mà chỉ những người rất thông thái mới có thể
thực hiện nổi. Ngày nay chúng ta biết rằng thậm chí máy
cũng có thể cho chúng ta thông tin này. Đấy là vấn đề
tính toán và chẳng cần đến một nhà thiên văn hay nhà tiên
tri hay người có học nào cả. Một máy tính có thể cho
thông tin không chỉ về một nhật thực mà còn hàng triệu
nhật thực. Nó thậm chí còn có thể dự đoán ngày mà mặt
trời sẽ lạnh đi - vì có tất cả các tính toán. Máy có thể tính
ngày tháng từ số lượng năng lượng mà mặt trời phát ra
hàng ngày, chia cho tổng số năng lượng của mặt trời để
thu được số năm mặt trời sẽ kéo dài.
Nhưng tất cả những điều này bây giờ đối với chúng ta
không giống như phép màu nữa vì bây giờ tất cả chúng ta
đều đã phát triển tới thể thứ ba. Một nghìn năm trước đây,
nó đã là phép màu lớn nếu một người tiên đoán được rằng
năm tới, trong tháng này, trong đêm này, sẽ có nguyệt
thực. Người đó sẽ được coi là siêu nhân. ‘Phép màu’ đó
bây giờ xảy ra thường xuyên - bùa mê ảo thuật, tro thả từ
khung tranh - tất cả đều là sự kiện thông thường của thể
thứ tư. Nhưng vì chúng ta không biết nên nó thành phép
màu với chúng ta.
Cũng hệt như bạn đứng dưới gốc cây còn tôi đang
ngồi trên cây, và chúng ta hai người cùng nói. Bây giờ tôi
thấy một chiếc xe đang chạy từ xa và tôi bảo bạn rằng
trong một giờ nữa xe sẽ tới và dừng dưới cây. Bạn sẽ nói,
"Thầy có là nhà tiên tri không đấy? Thầy nói điều bí ẩn
thế. Chẳng có xe nào ở đâu quanh đây cả. Tôi không tin
vào điều thầy nói." Nhưng sau một giờ, chiếc xe lăn bánh
tới cái cây, và tất yếu bạn phải chạm chân tôi và nói,
"Thưa thầy kính yêu, tôi kính trọng thầy. Thầy đúng là
nhà tiên tri." Khác biệt chỉ là thế này thôi, đó là tôi ngồi
cao hơn bạn một chút - trên cây - từ đó có thể thấy được
chiếc xe một giờ trước khi bạn cũng thấy được. Tôi
không nói về tương lai, tôi đang nói chính về hiện tại.
Nhưng có khoảng cách một giờ giữa thời hiện tại của bạn
và của tôi bởi vì tôi ở mức cao hơn. Với bạn, nó sẽ thành
hiện tại sau một giờ, nhưng với tôi nó là hiện tại bây giờ.
Người càng đứng sâu hơn bên trong bản thể mình,
người đó càng trở thành phép màu lớn hơn đối vối những
người vẫn ở tầng bề mặt. Thế thì tất cả những việc làm
của người đó sẽ trở thành phép màu với chúng ta bởi vì
chúng ta không có cách nào phán đoán những điều xảy ra
này vì chúng ta không biết luật của thể thứ tư. Đây là
cách thức ảo thuật và phép màu xảy ra: chúng là sự
trưởng thành hơn của thể thứ tư. Cho nên nếu chúng ta
muốn phép màu chấm dứt trong thế giới này, nó sẽ không
xảy ra bởi việc thuyết giảng cho quần chúng. Cũng hệt
như việc chúng ta trao dạy dỗ cho một người về thể thứ
ba và làm cho người đó hiểu được ngôn ngữ và toán học,
bây giờ chúng ta phải trao cho người đó việc huấn luyện
về thể thứ tư. Mỗi người đều phải có đủ khả năng tương
ứng, bởi vì chỉ thế thì phép màu mới dừng lại; bằng
không, ai đó hay người khác bao giờ cũng sẽ lợi dụng
điều này. Thể thứ tư phát triển cho tới hai tám tuổi - tức
là, cho bẩy năm nữa. Nhưng rất ít người có thể phát triển
được nó.
Atma sharir - thể thứ năm, còn được gọi là thể tâm
linh - có giá trị lớn. Nếu trưởng thành trong cuộc sống
còn tiếp tục theo cách thức đúng đắn, đến độ tuổi ba mươi
nhăm thể này phải được phát triển hoàn toàn. Nhưng đây
là ý tưởng xa xôi bởi vì thậm chí thể thứ tư cũng chỉ được
phát triển ở rất ít người. Đây là lí do tại sao linh hồn và
những điều như vậy là chủ đề thảo luận duy nhất cho
chúng ta; không có nội dung đằng sau từ này. Khi chúng
ta nói atman, đấy đơn thuần chỉ là từ; chẳng có gì đằng
sau nó cả. Khi chúng ta nói bức tường, không chỉ có từ
mà còn có cả chất liệu đằng sau từ này; chúng ta biết
"tường" nghĩa là gì. Nhưng không có ý nghĩa đằng sau từ
atman, vì chúng ta không có tri thức, không có kinh
nghiệm về atman. Đây là thể thứ năm của chúng ta, và chỉ
nếu kundalini thức tỉnh trong thể thứ tư, lối vào thể thứ
năm mới thành có thể; bằng không, chúng ta không thể
vào được. Chúng ta không nhận biết về thể thứ tư cho nên
thể thứ năm cũng vẫn còn là điều không được biết tới.
Rất ít người phát hiện ra thể thứ năm; họ là những
người mà chúng ta gọi là người tâm linh. Những người
này coi điều này là chỗ kết thúc cuộc hành trình và tuyên
bố, "Đạt tới atman là đạt tới tất cả." Nhưng cuộc hành
trình vẫn chưa kết thúc. Tuy nhiên, những người dừng lại
ở thể thứ năm đều phủ nhận Thượng đế. Họ nói, "Không
có brahman; không có paramatman," cũng hệt như người
trì trệ ở thể thứ nhất sẽ phủ nhận sự tồn tại của atman.
Cũng hệt như người duy vật nói, "Thân thể là mọi thứ;
khi thân thể chết, mọi thứ đều chết," cho nên người tâm
linh tuyên bố, "Không có gì bên ngoài atman: atman là
mọi thứ; nó là trạng thái cao nhất của hiện hữu." Nhưng
đây chỉ là thể thứ năm.
Thể thứ sáu là brahman sharir - thể vũ trụ. Khi một
người tiến hoá ra ngoài atman của mình, khi người đó sẵn
lòng mất nó đi, người đó đi vào thể thứ sáu. Nếu loài
người phát triển một cách khoa học, sự phát triển tự nhiên
của thể thứ sáu sẽ xảy ra vào độ tuổi bốn mươi hai, và sự
phát triển của nirvana sharir - thể thứ bẩy - vào độ tuổi
bốn mươi chín. Thể thứ bẩy là thể niết bàn, thể vô thể -
trạng thái vô thể. Đây là trạng thái tối thượng nơi chỉ cái
hư không còn lại - thậm chí không có cả brahman, thực
tại vũ trụ, mà chỉ có cái trống rỗng. Cái không còn lại;
mọi thứ đã biến mất.
Cho nên khi bất kì ai hỏi Phật, "Cái gì xảy ra ở đó?",
ông ấy đáp, "Ngọn lửa mất rồi." "Thế thì cái gì xảy ra?"
người ta sẽ lại hỏi ông ấy. "Khi ngọn lửa mất đi, ông
không hỏi, ‘Nó đã đi đâu? Ngọn lửa bây giờ đâu rồi?’ Nó
mất đi, có vậy thôi." Từ niết bàn hàm ý sự tiêu tan của
ngọn lửa. Do đó, Phật nói, niết bàn xảy ra.
Trạng thái của moska được kinh nghiệm trong thể thứ
năm. Giới hạn của bốn thể đầu bị siêu việt lên và linh hồn
trở thành hoàn toàn tự do. Cho nên giải thoát là kinh
nghiệm của thể thứ năm. Cõi trời và địa ngục đi đôi với
thể thứ tư, và người dừng lại đây sẽ kinh nghiệm chúng.
Với những người dừng lại các thể thứ nhất, thứ hai và thứ
ba, cuộc sống giữa sinh và tử trở thành mọi thứ; không có
cuộc sống bên ngoài cái chết cho họ. Nếu một người vượt
ra ngoài đi vào thể thứ tư, sau cuộc đời này người đó kinh
nghiệm cõi trời và địa ngục, nơi có những khả năng vô
hạn của hạnh phúc và khổ.
Nếu người đó đạt tới thể thứ năm, có cánh cửa của
giải thoát, và nếu người đó đạt tới thể thứ sáu, có khả
năng của trạng thái nhận ra Thượng đế. Thế thì không có
vấn đề về giải thoát hay không giải thoát; người đó trở
thành một với cái đang đấy. Lời tuyên bố về "Aham
Brahmasmi" - Ta là Thượng đế - là của bình diện này.
Nhưng có một bước nữa, là bước nhảy cuối cùng - nơi
không có aham và không có Brahman, nơi cái ta và người
là hoàn toàn không tồn tại, nơi đơn thuần không có gì -
nơi chỉ có cái hư không toàn bộ và tuyệt đối. Đó là niết
bàn.
Đây là bẩy thể được phát triển trong thời kì bốn mươi
chín năm. Đây là lí do tại sao điểm giữa của năm mươi
năm đã được biết tới như điểm cách mạng. Trong hai
mươi nhăm năm đầu có một hệ thống cuộc sống. Trong
thời kì này nỗ lực được tiến hành để phát triển bốn thể
đầu; thế rồi việc giáo dục của người đó được coi như
hoàn thành. Thế rồi người đó được coi như sẽ đi tìm các
thể năm, sáu bẩy của mình trong phần còn lại của cuộc
sống mình, và trong phần hai mươi nhăm năm còn lại
người đó được trông đợi đạt tới thể thứ bẩy. Do đó, độ
tuổi năm mươi được xem như tuổi trọng yếu. Vào lúc này
con người trở thành wanaprasth, điều chỉ có nghĩa là bây
giờ người đó nên quay cái nhìn về rừng rậm - rằng bây
giờ người đó nên quay mắt ra khỏi mọi người, xã hội và
phố thị.
Độ tuổi bẩy mươi nhăm lại là một điểm cách mạng
nữa - khi con người đã trở nên được điểm đạo có tính
sannyas. Quay hướng về rừng rậm có nghĩa là loại bỏ bản
thân mình khỏi đám đông và mọi người; sannyas nghĩa là
bây giờ thời điểm đã đến để nhìn ra ngoài bản ngã, siêu
việt lên trên bản ngã. Trong rừng rậm cái ‘tôi’ sẽ cần phải
đi cùng với người đó mặc dầu người đó đã từ bỏ tất cả
những điều khác, nhưng tại độ tuổi bẩy mươi nhăm, cái
‘tôi’ này nữa cũng phải bị từ bỏ.
Tuy nhiên, điều kiện là ở chỗ trong cuộc đời người ta
như một người quản gia, người ta phải trải qua và phát
triển tất cả bẩy thể để cho phần còn lại của cuộc hành
trình trở thành tự phát và vui vẻ. Nếu điều này không
được tiến hành, sẽ rất khó khăn, bởi vì với mọi chu kì bẩy
năm đều được gắn với một trạng thái phát triển đặc biệt.
Nếu thể vật lí của đứa trẻ không trưởng thành đầy đủ
trong bẩy năm đầu cuộc sống của nó, nó bao giờ cũng ốm
yếu. Nhiều nhất chúng ta có thể thấy trong đó là nó không
còn ốm - nhưng nó sẽ không bao giờ khoẻ bởi vì nền tảng
mạnh khoẻ cơ sở của nó mà đáng phải hình thành trong
bẩy năm đầu đã bị lung lay. Cái mà đáng phải trở nên
mạnh mẽ và vững chắc, đã bị rối loạn, và đó là thời gian
cho việc phát triển nó.
Cũng giống hệt như việc làm móng cho ngôi nhà: nếu
nền móng yếu, sẽ khó - không, phải nói là không thể được
- để sửa chữa nó một khi đã lên tới mái. Tại giai đoạn nền
móng này chỉ có thể làm việc đặt nền móng cho vững.
Cho nên trong bẩy năm đầu này, nếu có sẵn những điều
kiện đúng đắn cho thể thứ nhất, thân thể sẽ phát triển
đúng đắn. Bây giờ nếu thể thứ hai và các xúc cảm không
phát triển đầy đủ trong bẩy năm tiếp, một số hư hỏng dục
sẽ phát sinh. Thế thì sẽ rất khó để sửa chữa những điều
này về sau. Cho nên thời kì phát triển cho một thể đặc
biệt là chủ chốt nhất.
Tại mỗi bước của cuộc sống, mỗi thể đều có thời kì
phát triển định sẵn của nó. Có thể có hơi khác biệt đây đó,
nhưng đấy là vấn đề phụ. Nếu một đứa trẻ không phát
triển về mặt dục trong mười bốn năm, toàn bộ cuộc sống
của nó trở thành cuộc thử thách lâu dài. Nếu trí tuệ không
phát triển vào lúc nó hai mươi mốt tuổi, rất ít có cơ hội
cho việc phát triển của nó vào thời kì về sau. Nhưng cho
đến nay chúng ta đều đồng ý: chúng ta chăm sóc cho thể
thứ nhất, thế rồi chúng ta chăm nom gửi trẻ con tới
trường để phát triển trí tuệ của chúng nữa. Nhưng chúng
ta quên mất rằng phần các thể còn lại cũng có thời gian
được chia phần của chúng mà nếu bị mất đi, sẽ đẩy chúng
ta vào khó khăn.
Con người phải mất năm mươi năm để phát triển thân
thể mà người đó đáng phải phát triển trong hai mươi mốt
năm. Hiển nhiên là người đó không có nhiều sức mạnh
vào độ tuổi năm mươi như khi người đó ở độ tuổi hai
mươi mốt, cho nên người đó phải đổ ra rất nhiều cố gắng.
Thế thì điều đáng ra dễ dàng hơn để hoàn thành vào độ
tuổi hai mươi mốt sẽ trở thành dài và gay go.
Còn có khó khăn khác mà người đó gặp phải: tại độ
tuổi hai mươi mốt người đó ở đúng cánh cửa nhưng người
đó đã bỏ lỡ nó. Bây giờ, ba mươi năm qua, người đó đã ở
biết bao nhiêu chỗ đến mức người đó mất cái nhìn về lối
mở đúng. Sự lang thang của người đó bây giờ làm cho
người đó không thể nào định vị được nơi mà người đó đã
đứng ở tuổi hai mươi mốt tuổi và cái được cần để hơi đẩy
là mở ra.
Do đó, cần có hoàn cảnh được tổ chức tốt cho trẻ con
chừng nào chúng còn chưa đạt tới độ tuổi hai mươi nhăm.
Điều đó nên được lập kế hoạch chu đáo để đưa chúng tới
mức thể thứ tư. Sau thể thứ tư phần còn lại là dễ dàng.
Thế thì nền tảng sẽ được đặt chu đáo; bây giờ chỉ quả là
còn phải phát triển. Cây đã được hình thành cho tới thể
thứ tư; thế rồi quả bắt đầu xuất hiện từ thể thứ năm và lên
tới cao trào ở thể thứ bẩy. Chúng ta có thể phải cho phép
một chút xíu chỗ này chỗ nọ, nhưng chúng ta phải rất để
tâm tới những nền tảng.
Theo khía cạnh này một vài điều nữa cũng nên được
lưu tâm. Có khác biệt giữa đàn ông và đàn bà qua bốn thể
đầu. Chẳng hạn, nếu một cá nhân là đàn ông, thể vật lí
của anh ta là thể nam tính. Nhưng thể thứ hai của anh ta -
thể ê te, nằm sau thể vật lí - lại là nữ tính, bởi vì không
cực âm hay cực dương nào có thể tự mình tồn tại cả. Một
thể nam tính và một thể nữ tính, dưới dạng điện, là các
thể dương và âm.
Thể vật lí của đàn bà là âm tính; do đó, cô ấy không
bao giờ năng nổ trong vấn đề dục. Cô ấy có thể chịu đựng
bạo hành của đàn ông trong phương diện này, nhưng tự
mình không thể bạo hành. Cô ấy không thể làm gì với
người đàn ông mà không có sự bằng lòng của người này.
Thể đầu tiên của đàn ông là dương tính - năng nổ. Anh ta
có thể, do đó, làm điều gì đó năng nổ với đàn bà mà
chẳng cần sự bằng lòng của cô ấy; anh ta có thể thứ nhất
là năng nổ. Nhưng bởi vì âm tính không có nghĩa là số
không hay thiếu vắng. Dưới dạng điện, âm tính có nghĩa
là tiếp nhận, dự trữ. Trong thân thể đàn bà, năng lượng
nằm dưới dạng dự trữ; nhiều năng lượng nằm trong dự
trữ. Nhưng nó không hoạt động; nó bất hoạt.
Đây là lí do tại sao đàn bà không sáng tạo ra cái gì.
Cô ấy không làm thơ, không tạo ra bức hoạ lớn, không ấp
ủ nghiên cứu khoa học. Điều này là bởi vì cần phải có
năng nổ cho nghiên cứu hay công việc sáng tạo nào đó.
Cô ấy chỉ có thể đợi; đó là lí do tại sao cô ấy chỉ có thể
tạo ra trẻ con.
Đàn ông có thể dương tính, nhưng bất kì ở đâu có thể
dương tính, cũng đều phải có thể âm tính đằng sau nó
bằng không nó không thể kéo dài được. Cả hai phải cùng
hiện diện; thế thì vòng tròn là đầy đủ. Cho nên thể thứ hai
của đàn ông là nữ tính, trong khi thể thứ hai của đàn bà là
nam tính. Đây là lí do tại sao - và đây cũng là sự kiện thú
vị - đàn ông trông và là rất mạnh, khi thể vật lí bắt đầu.
Nhưng đằng sau sức mạnh bề ngoài đó là thể nữ tính yếu
đuối thường trực. Đây là lí do tại sao anh ta xoay xở bày
tỏ sức mạnh chỉ cho vài khoảnh khắc mỗi lúc. Trong hoạt
động dài anh ta thua bàn tay đàn bà, bởi vì thể đằng sau
thể nữ tính yếu đuối của cô ấy là thể nam tính mạnh.
Đây là lí do tại sao sức mạnh chịu đựng của đàn bà,
khả năng của cô ấy về chịu đựng, lại lớn hơn khả năng
của đàn ông. Nếu đàn ông và đàn bà cùng chịu đựng một
bệnh tật, đàn bà có thể chịu đựng được lâu hơn đàn ông.
Đàn bà tạo ra trẻ con. Nếu đàn ông phải tạo ra trẻ con, họ
sẽ hiểu cực nhọc phải bị trải qua. Thế thì có lẽ sẽ không
cần phải có kế hoạch hoá gia đình nữa - bởi vì đàn ông
không thể nào chịu đựng được biết bao đau đớn trong thời
gian lâu như thế. Trong một hay hai lúc anh ta có thể
phiêu diêu trong giận dữ, có thể đánh gối, nhưng anh ta
không thể mang một đứa trẻ trong bụng suốt trong chín
tháng, cũng chẳng thể kiên nhẫn ôm bế nó trong nhiều
năm sau. Nếu nó khóc cả đêm, anh ta có thể bóp chết nó.
Anh ta sẽ không thể nào tha thứ cho sự quấy nhiễu. Anh
ta có sức mạnh phi thường, nhưng đằng sau anh ta là thể ê
te tinh tế, ẻo lả. Bởi vì điều này anh ta không thể chịu
được đau đớn hay không thoải mái.
Đây là lí do tại sao đàn bà lại ít ốm đau hơn đàn ông,
khoảng sống của họ dài hơn của đàn ông. Bởi lí do này
mà chúng ta nên giữ khác biệt năm năm giữa con trai và
con gái vào lúc hôn nhân, bằng không, thế giới sẽ đầy
những bà goá. Nếu con trai hai mươi tuổi, chúng ta nên
chọn con gái hai mươi bốn hay hai mươi nhăm cho anh
ta. Khoảng sống của đàn ông ít hơn đàn bà bốn hay năm
năm, cho nên khác biệt này sẽ làm quân bình mọi thứ và
cả hai sẽ đồng bộ với nhau.
Một trăm mười sáu con trai được sinh ra để ứng với
một trăm con gái được sinh ra. Khác biệt về số lượng khi
sinh là mười sáu, nhưng về sau con số này bằng nhau.
Mười sáu đứa con trai chết đi trước lúc chúng đạt tới tuổi
mười bốn và do vậy con số thành bằng nhau. Nhiều con
trai chết đi dễ dàng hơn con gái. Điều này là bởi vì con
gái có sức mạnh chịu đựng lớn hơn qua thể nam tính thứ
hai.
Bây giờ thể thứ ba của con trai - tức là thể vía - sẽ lại
là nam tính, và thể thứ tư hay thể hồn sẽ lại là nữ tính.
Đảo ngược lại sẽ là trường hợp của con gái. Phân chia
nam tính và nữ tính này chỉ tồn tại tới thể thứ tư; thể thứ
năm vượt ra ngoài giới tính. Do đó, ngay khi đạt tới
atman, không còn con trai con gái nữa - nhưng chưa đạt
tới lúc đó thì vẫn còn.
Có một điều nữa cần tính tới trong mối liên quan này.
Vì mọi nam đều có thể nữ tính bên trong mình và mọi nữ
đều có thể nam tính bên trong mình, cho nên nếu ngẫu
nhiên một người đàn bà lấy được người chồng đồng nhất
với thể nam tính bên trong của mình, hay nếu người đàn
ông lấy người đàn bà có thể nữ tính đồng nhất với thể nữ
tính bên trong của mình, chỉ thế thì hôn nhân mới thành
công; ngoài ra thì không.
Đây là lí do tại sao chín mươi chín phần trăm hôn
nhân thất bại: bởi vì qui tắc bản chất cho thành công là
chưa được biết tới. Chừng nào chúng ta không thể chắc
chắn được liên minh đúng giữa các thể năng lượng tương
ứng của hai người, hôn nhân nhất định thất bại dù ta có
tiến theo hướng nào đi chăng nữa. Hôn nhân thành công
chỉ có thể có nếu các chi tiết khoa học tuyệt đối rõ ràng
có liên quan tới các thể bên trong khác nhau này được đạt
tới. Con trai hay con gái đã đạt tới điểm thức tỉnh
kundalini sẽ thấy rất dễ dàng chọn đúng bạn tình trong
cuộc sống. Với tri thức đầy đủ về tất cả thể của mình bên
trong, người ta có thể chọn đúng ở bên ngoài. Trước điều
này là rất khó khăn.
Do đó, những người biết đều nhấn mạnh rằng trẻ con
nên để cho phát triển bốn thể đầu trước trong hai mươi
nhăm năm đầu bởi việc duy trì brahmacharya- vô dục, và
chỉ thế thì nó mới có thể xây dựng gia đình - bởi vì nó sẽ
lấy ai? Nó sẽ sẽ muốn dành cả phần còn lại cuộc sống với
ai? Nó sẽ tìm kiếm ai? Người đàn bà tìm người đàn ông
nào? Cô ấy tìm người đàn ông bên trong mình. Nếu ngẫu
nhiên mà các ghép nối đúng được tạo ra, thế thì cả hai
đàn ông và đàn bà đều được thoả mãn; bằng không, sự
không thoả mãn vẫn cứ còn và hàng nghìn hư hỏng nảy
sinh từ điều này. Thế thì đàn ông đi tới nhà thổ hay tìm
kiếm đàn bà hàng xóm. Thất vọng của anh ta lớn lên hàng
ngày, và khổ sở này nhất định tăng lên với sự tăng lên của
trí tuệ con người.
Nếu sự trưởng thành của một người dừng lại tại tuổi
mười bốn, người đó sẽ không phải chịu đựng nỗi khổ này,
bởi vì tất cả mọi đau khổ đều bắt nguồn từ sự trưởng
thành của thể thứ ba. Nếu chỉ có hai thể đầu là phát triển,
con người sẽ được thoả mãn bởi dục. Cho nên có hai
cách: hoặc trong hai mươi nhăm năm đầu, trong thời kì
brahmacharya - vô dục, chúng ta nên phát triển trẻ con
cho tới thể thứ tư, hoặc bằng không, khuyến khích chúng
xây dựng gia đình. Tảo hôn có nghĩa là hôn nhân trước
khi phát triển trí tuệ để cho người ta trì trệ tại dục; thế thì
không có rắc rối gì khi mối quan hệ vẫn hoàn toàn trên
bình diện con vật. Mối quan hệ của tảo hôn là mối quan
hệ dục thuần tuý; không có khả năng của tình yêu trong
nó.
Bây giờ những nơi như Mĩ, nơi mà giáo dục đã có
tiến bộ lớn và nơi mà thể thứ ba đã phát triển hoàn toàn,
hôn nhân tan vỡ. Chúng nhất định phải tan vỡ, bởi vì thể
thứ ba nổi loạn ở mối quan hệ bạn tình sai. Cho nên li dị
xảy ra như kết quả, bởi vì không thể nào kéo lê hôn nhân
như vậy lâu được.
Hình thức đúng đắn của giáo dục là ở chỗ phát triển
bốn thể đầu. Giáo dục đúng đắn là ở chỗ nó đem bạn tới
thể thứ tư. Tại đó công việc giáo dục là hoàn chỉnh.
Không giáo dục nào có thể giúp bạn đi vào thể thứ năm;
bạn phải tự mình đi tới đó. Giáo dục đúng có thể dễ dàng
đưa bạn tới thể thứ tư. Sau điều này sự trưởng thành của
thể thứ năm bắt đầu, điều rất có giá trị và mang tính cá
nhân. Kundalini là tiềm năng của thể thứ tư; đây là lí do
tại sao kundalini là hiện tượng hồn. Tôi hi vọng điều này
bây giờ rõ ràng cho bạn.
#3Liệu có khả năng gắn bó hồn giữa thiền nhân và
người trung gian trong shaktipat không? Liệu nó có
thể bất lợi cho thiền nhân hay nó có ích cho người
này?
Mối liên hệ gắn bó không bao giờ có thể ích lợi, bởi
vì gắn bó bản thân nó là xấu. Càng gắn bó sâu sắc, lại
càng tồi tệ hơn. Gắn bó hồn là một điều rất xấu. Nếu ai đó
trói buộc tôi bằng xích, chỉ có thể vật lí của tôi là bị ảnh
hưởng, nhưng nếu ai đó trói buộc tôi bằng dây xích tình
yêu, nó thấm sâu hơn và khó phá vỡ hơn. Nếu ai đó gắn
bó tôi bằng dây xích shraddha, niềm tin, nó còn đi sâu
hơn nữa. Thế thì việc phá vỡ dây xích này sẽ là "tội lỗi."
Cho nên tất cả xiềng xích đều xấu, và xiềng xích hồn
thậm chí còn xấu hơn thế.
Người hành động như người trung gian trong
shaktipat, đáng phải không bao giờ ràng buộc với bạn.
Nếu người đó làm như vậy, người đó không đáng là
người trung gian. Nhưng rất có thể là bạn bị gắn chặt với
người đó. Bạn có thể ôm lấy chân người đó và thề không
bao giờ rời bỏ người đó bởi vì ân huệ rất lớn đã được
dành cho bạn. Cần phải rất tỉnh táo vào khoảnh khắc đó.
Thiền nhân nên tự bảo vệ mình khỏi gắn bó. Tuy nhiên,
nếu vấn đề trở nên rõ ràng với thiền nhân rằng tất cả
những gắn bó đều tỏ ra là gánh nặng trong cuộc hành
trình tâm linh, thế thì cảm giác biết ơn sẽ không phải là
lực ràng buộc mà là lực giải thoát. Nếu tôi cám ơn bạn về
điều gì đó, vấn đề gắn bó là ở đâu? Thực tế, nếu tôi không
bầy tỏ lòng biết ơn của mình, sự kiện này sẽ vẫn còn như
sự tù túng bên trong: rằng thậm chí tôi đã không bầy tỏ
lòng biết ơn của mình. Nhưng việc cám ơn này hoàn
chỉnh vấn đề.
Biết ơn không phải là lệ thuộc. Ngược lại, nó là việc
bầy tỏ tự do tối hậu. Nhưng khuynh hướng trở nên bị lệ
thuộc bao giờ cũng ở bên trong chúng ta bởi vì có nỗi sợ
bên trong. Chúng ta chưa bao giờ chắc chắn liệu chúng ta
sẽ có khả năng tự đứng một mình hay không; do đó mới
có thôi thúc níu bám vào ai đó. Nói gì tới việc níu bám
vào ai đó - khi một người đi qua phố tối trong đêm, người
này hát to bởi vì âm thanh của chính người đó làm khuây
khoả đi nỗi sợ. Nếu đấy là tiếng nói của người khác, thế
nữa nó cũng sẽ là cái gì đó để níu bám vào, nhưng về cơ
bản người đó tập trung sức mạnh và lòng can đảm từ
tiếng nói của riêng mình. Con người hoảng sợ cho nên
người đó nắm giữ vào bất kì cái gì; đó là lí do tại sao nếu
người chết đuối vớ phải cọng rơm, người đó sẽ giữ chặt
nó cho dù điều này chẳng bảo vệ được người đó khỏi chết
chìm. Thay vì thế cọng rơm cũng chìm cùng với người
đó. Cho nên từ nỗi sợ mà tâm trí có khuynh hướng ôm
giữ ai đó, cái gì đó, dù đó là guru hay bất kì ai hay bất kì
cái gì khác. Bằng việc làm như vậy chúng ta muốn bảo vệ
lấy chính mình. Nỗi sợ là gốc rễ của mọi loại níu bám.
Thiền nhân bao giờ cũng phải thận trọng về an ninh.
An ninh là mạng nhện gắn bó lớn nhất cho thiền nhân.
Nếu người này tìm kiếm an ninh dù chỉ một khoảnh khắc
thôi, nếu người này cảm thấy rằng mình có sự hỗ trợ của
ai đó mà với bảo vệ của người đó anh ta chẳng có gì phải
sợ và do vậy anh ta bây giờ sẽ không đi lạc lối, nếu anh ta
đang nghĩ rằng mình sẽ chẳng đi đâu cả và đang ở dưới
đôi cánh của thầy mãi mãi, thế thì anh ta đã lạc đường rồi.
Với người tìm kiếm không có an ninh; không an ninh là
phúc lành cho người tìm kiếm. Không an ninh càng lớn,
cơ hội cũng càng lớn cho linh hồn người đó mở rộng và
trở nên bạo dạn và không sợ hãi. Càng được bảo vệ,
người đó càng trở nên yếu đuối theo cùng tỉ lệ. Nhận sự
trợ giúp là một điều, nhưng cứ giữ bị phụ thuộc lại là điều
hoàn toàn khác.
Bạn được trao cho sự hỗ trợ để cho bạn có thể đứng
vững mà không cần hỗ trợ. Nó được trao cho với chủ định
rằng chẳng mấy chốc bạn sẽ không cần nó nữa. Bạn có để
ý rằng khi người bố đang giúp đứa con mình tập bước,
người đó giữ tay con chứ không phải là đứa trẻ giữ tay
không? Trong thời gian vài ngày nó học bước đi, và rồi
người bố bỏ tay mình ra. Nhưng ban đầu đứa trẻ nắm lấy
tay bố vì tin cậy. Cho nên nếu đứa trẻ cứ nắm lấy tay bố
nó, điều đó có nghĩa là mặc dầu nó đã học bước đi nhưng
nó sẽ không bỏ việc nắm tay đó. Nếu người bố giữ tay
đứa trẻ, thế thì biết rằng đứa trẻ vẫn còn chưa biết đi và sẽ
nguy hiểm để cho nó đi theo kiểu của nó. Người bố muốn
tay mình được thả ra sớm; đó là lí do tại sao người đó dạy
cho đứa trẻ bước đi. Nếu người bố nào đó cho phép con
mình cứ nắm giữ tay mình do niềm sung sướng lớn lao
mà người đó có được từ điều đó, người đó là kẻ thù của
con mình.
Nhiều bậc cha mẹ, nhiều guru đã làm điều này, nhưng
đây là sai lầm. Lí do vì nó mà sự trợ giúp được trao cho
đã bị thất bại. Thay vì việc làm phát sinh một con người
lành mạnh khoẻ mạnh, người có thể bước trên đôi chân
riêng của mình, người đó đã làm phát sinh ra người què
quặt, người sẽ phụ thuộc vào đôi nạng cả đời. Tuy nhiên
điều này lại là niềm vui đem lại sự thoả mãn cho ông bố
hay guru - rằng bạn không thể đi được trên con đường của
mình mà không có sự trợ giúp của họ. Theo cách này bản
ngã của họ được thoả mãn.
Nhưng guru như thế thì không phải là guru. Cho nên
chính guru phải là buông tay thiền nhân ra và bảo người
đó hãy quả quyết bước đi trên đôi chân của riêng mình.
Và chẳng hại gì nếu người đó bị ngã một đôi lần; người
đó có thể đứng dậy được. Sau rốt, người ta phải ngã để
vươn lên, và cần phải ngã vài lần để vượt qua nỗi sợ ngã.
Tâm trí cố gắng nắm bắt sự hỗ trợ nào đó và do vậy
việc trói buộc bắt đầu. Điều này không nên xảy ra. Thiền
nhân bao giờ cũng nên nhớ trong tâm sự kiện là mình
không tìm kiếm an ninh. Người đó đang tìm kiếm chân lí,
không an ninh. Nếu người đó chân thành trong việc truy
tìm chân lí của mình, người đó phải từ bỏ tất cả các ý
tưởng về an toàn và an ninh. Sự giả dối tạo ra rất nhiều
bảo vệ - và rất nhanh chóng nữa, cho nên người đang tìm
kiếm an toàn, nhanh chóng bị hấp dẫn về phía nó. Người
tìm kiếm sự thuận tiện chưa bao giờ cân được sức nặng
của chân lí, bởi vì cuộc hành trình là dài. Thế thì người đó
sẽ rập khuôn cái sai lầm từ những ý tưởng đồng bóng và
bắt đầu tin rằng mình đã đạt tới trong khi người đó vẫn
còn ngồi lại nơi người đó đang vậy.
Do đó, bất kì kiểu gắn bó nào cũng là nguy hiểm - và
thậm chí gắn bó với guru còn nguy hiểm hơn, bởi vì đây
là gắn bó tâm linh. Chính thuật ngữ gắn bó tâm linh là
mâu thuẫn. Tự do tâm linh có nghĩa, nhưng nô lệ tâm linh
là vô nghĩa. Nhưng trong thế giới này, các kiểu nô lệ khác
kém tính nô lệ hơn nhiều so với nô lệ về tâm linh. Có lí
do cho điều này. Thể thứ tư, từ đó tinh thần tự do nảy
sinh, vẫn còn chưa phát triển. Đại đa số mọi người đã
phát triển chỉ tới thể thứ ba.
Điều rất thường được thấy là viên quan toà thượng
thẩm hay vị phó giám đốc đại học đang ngồi dưới chân
một kẻ tuyệt đối ngốc. Thấy điều này, những người khác
theo cách nghĩ phù hợp rằng nếu một người nổi tiếng như
thế mà còn ngồi dưới chân con người này..., chúng ta
chẳng là gì trong so sánh. Họ không biết rằng mặc dầu
viên quan toà này, vị phó giám đốc đại học này, đã phát
triển thể thứ ba của mình đến mức đầy đủ, rằng mặc dầu
người đó đã phát triển trí tuệ mình tới một mức rất cao,
người đó vẫn còn dốt nát khi có liên quan tới thể thứ tư
của mình. Người đó tương đương với kẻ dốt nát khi đó là
những vấn đề của thể thứ tư. Và thể thứ ba của người đó -
cái đã phát triển về mặt trí tuệ và lập luận - đã bị vét hết
bởi việc suy nghĩ và tranh luận thường xuyên và bây giờ
phải nghỉ.
Bây giờ khi trí tuệ mệt mỏi và thảnh thơi, nó mê đắm
vào những theo đuổi rất không thông minh. Bất kì cái gì
thảnh thơi sau hoạt động cực đoan đều trở thành đối lập
với bản tính của nó. Điều này là nguy hiểm, và đây là lí
do tại sao bạn sẽ thường thấy các quan toà thượng thẩm ở
các đạo tràng. Họ kiệt sức và họ lo âu bởi trí tuệ của
mình, cho nên họ muốn loại bỏ chúng. Trong hoàn cảnh
như vậy họ sẽ làm bất kì cái gì bất hợp lí; họ sẽ chỉ nhắm
mắt lại và đặt niềm tin của mình vào bất kì cái gì. Luận
điểm của họ là ở chỗ tất cả những học hỏi và lập luận của
họ cùng những thảo luận đều chẳng dẫn họ đến đâu cả,
cho nên họ vứt bỏ chúng. Và để cắt đứt tất cả mọi mối nối
với chúng, họ thường nắm giữ cái gì đó hoàn toàn trái
ngược. Thế rồi phần còn lại của đám đông, những người
tin vào trí tuệ của những người địa vị cao như thế, bắt đầu
bắt chước họ. Những người này có thể rất trí thức, nhưng
trong vấn đề về thể thứ tư, họ chẳng là gì cả. Do đó, một
hơi chút phát triển của thể thứ tư trong bất kì cá nhân nào
sẽ đủ để đem những nhà trí thức vĩ đại nhất xuống dưới
chân người này, bởi vì người này có điều gì đó mà nhà trí
thức thiếu hoàn toàn.
Loại trói buộc này xuất hiện khi thể thứ tư còn chưa
được phát triển. Thế thì tâm trí muốn bám vào ai đó có
thể thứ tư đã phát triển, nhưng điều này sẽ không giúp ích
gì cho bạn phát triển thể thứ tư của mình. Chỉ bằng việc
hiểu người như thế mới có thể làm cho thể thứ tư của bạn
phát triển. Tuy nhiên, để tránh rắc rối của việc hiểu người
đó bạn nắm giữ lấy người đó. Thế thì bạn sẽ nói, "Cần gì
phải hiểu? Chúng tôi sẽ bám chân thầy để khi thầy đi qua
dòng sông địa ngục, chúng tôi cũng sẽ đi qua cùng thầy;
chúng tôi sẽ níu bám lấy con thuyền của thầy để qua dòng
sông cõi trời."
Người ta phải đau khổ để trưởng thành trong hiểu
biết. Biến đổi là cần thiết cho việc hiểu biết xảy ra. Hiểu
biết là nỗ lực, là sadhana. Hiểu biết cần gắng sức, hiểu
biết là cách mạng. Trong hiểu biết biến đổi xảy ra, mọi
thứ thay đổi. Cái cũ phải bị đổi thành cái mới. Tại sao
phải trải qua tất cả những cái khó chịu này? Tốt hơn cả là
cứ ôm lấy người đã biết. Nhưng sự kiện là ở chỗ chẳng ai
đạt tới chân lí bởi việc đi theo ai đó khác cả. Người ta
phải đi một mình. Đó là con đường hoàn toàn đơn độc.
Do đó bất kì loại gắn bó nào cũng đều là cản trở.
Học, hiểu, đón chào cái thoáng nhìn bất kì ở đâu bạn
bắt gặp nó. Nhưng chớ dừng lại ở đâu cả; đừng làm ra nơi
ở tại bất kì chỗ nghỉ nào; đừng nắm giữ bàn tay chìa ra
cho bạn và coi nó như đích. Tuy nhiên bạn sẽ thấy nhiều
người nói, "Đừng đi thêm nữa. Dừng lại đây; đây là bờ
bên kia rồi." Như tôi đã nói trước đây, một số người sợ
hãi ham muốn được trói buộc và còn có những người
khác sợ hãi muốn trói họ lại để tự mình thấy không sợ.
Khi một người thấy một nghìn người theo mình người đó
nhất định cảm thấy rằng mình trí huệ - vì ngược lại tại sao
những người này phải theo mình? Người này tự nhủ,
"Chắc chắn mình biết điều gì đó, bằng không tại sao
những người này tin vào mình?"
Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng nhiều lần hiện tượng
về guru được gây ra bởi phức cảm tự ti đi tìm kiếm thu
thập đám đông quanh mình. Cho nên guru trở nên bận rộn
để tăng số tín đồ - một nghìn, mười nghìn, hai mươi nghìn
người. Con số càng lớn, ông ta càng được đảm bảo về tri
thức của mình - vì ngược lại tại sao những người này phải
theo ông ấy? Cách lập luận này giúp làm tăng tinh thần
ông ta. Nếu những tín đồ này mất đi, mọi thứ đều mất đi.
Thế thì người đó sẽ cảm thấy rằng tất cả bị mất đi và rằng
người đó không biết.
Nhiều trò chơi tâm trí tiếp diễn và tốt hơn cả là nhận
biết về chúng. Và trò chơi này có thể được chơi từ cả hai
phía. Đệ tử bị trói buộc với guru, và người bị trói buộc
hôm nay sẽ trói buộc ai đó khác ngày mai bởi vì tất cả
điều này là phản ứng dây chuyền. Người là đệ tử hôm nay
sẽ là guru ngày mai. Người đó có thể vẫn còn là đệ tử
được bao lâu? Nếu người đó ôm giữ ai đó hôm nay, người
đó sẽ thấy rằng ai đó sẽ ôm giữ mình ngày mai. Cảnh nô
lệ cứ chạy theo chuỗi, và lí do thực chất cho tất cả những
điều này là ở việc không phát triển thể thứ tư. Nếu bạn
bắt đầu phát triển thể này, bạn có thể độc lập. Thế thì
không có lệ thuộc.
Điều này không có nghĩa là bạn trở thành vô nhân
tính, rằng bạn sẽ không có liên hệ nào với mọi người.
Thay vì thế thì điều đối lập sẽ là hoàn cảnh: nơi có lệ
thuộc, không có quan hệ. Giữa chồng và vợ có lệ thuộc.
Chúng ta chẳng dùng cách diễn đạt "trói buộc trong đời
sống vợ chồng thiêng liêng" đó sao? Chúng ta gửi giấy
mời nói rằng "Con trai tôi hay con gái tôi được gắn bó bởi
sợi dây thương mến..." Nơi có phục vụ, không có quan
hệ. Làm sao có thể có đó được? Có lẽ trong một tương lai
xa nào đó người bố có thể gửi một giấy mời nói rằng
"Con gái tôi trở nên tự do trong tình yêu của ai đó." Và
điều đó cho cảm giác về thông minh rằng tình yêu của ai
đó làm cho cô ấy tự do trong cuộc sống; bây giờ sẽ không
có lệ thuộc; cô ấy đang trở thành tự do trong tình yêu. Và
tình yêu nên cho sinh thành tự do. Nếu tình yêu bắt làm
nô lệ thế thì cái gì khác trong thế giới này sẽ giải thoát?
Nơi có lệ thuộc, có khổ, có địa ngục. Vẻ ngoài là lừa
dối; bên trong mọi thứ mục nát. Đều là như thế cả, sự lệ
thuộc của guru-đệ tử, bố-con, chồng-vợ hay thậm chí hai
người bạn: nơi có lệ thuộc, không thể có quan hệ. Nếu
quan hệ có đó thế thì lệ thuộc là không thể có. Và qua bề
ngoài điều dường như đúng là nơi có lệ thuộc, phải có
quan hệ, thực tế là điều chúng ta có thể có quan hệ chỉ với
người mà chúng ta không bị ràng buộc với họ theo bất kì
cách nào. Đây là lí do tại sao nhiều lần điều xảy ra là bạn
nói được cho người lạ những điều mà bạn sẽ chẳng bao
giờ nói với con bạn.
Tôi ngạc nhiên biết rằng một người đàn bà thường
hay nói chuyện cởi mở với người lạ mà bà ấy mới chỉ gặp
một giờ trước đó và thậm chí còn kể những điều mà bà ấy
sẽ không mơ đến việc kể chúng cho chồng mình. Chính
sự kiện là ở chỗ khi không có lệ thuộc, mối quan hệ trở
nên dễ dàng hơn. Đây là lí do tại sao chúng ta bao giờ
cũng tốt bụng với người lạ và không tốt được như thế với
những người chúng ta biết. Với người lạ, không có lệ
thuộc, và do đó không có quan hệ; bằng không, có mối
ràng buộc, và do đó không có quan hệ. Thế thì cho dù bạn
muốn chúc ai đó buổi sáng tốt lành, điều ấy dường như
giống nhiệm vụ.
Tuy nhiên có thể có mối quan hệ giữa guru và đệ tử,
và tất cả các mối quan hệ đều có thể đẹp. Nhưng lệ thuộc
không thể đẹp được. Mối quan hệ có nghĩa là cái giải
thoát.
Có một tục lệ hay trong các thiền sư. Khi một đệ tử
kết thúc việc học hỏi, thầy ra lệnh cho anh ta ra nhập
trường của đối thủ của mình và học hành ở đó. Ông ấy sẽ
nói, "Ông đã thu được tri thức từ một phía, bây giờ biết
nó từ phía bên kia." Thế rồi thiền nhân sẽ đi từ thiền viện
này sang thiền viện khác trong nhiều năm và ngồi học
dưới chân của đối thủ của thầy mình. Thầy anh ta sẽ nói,
"Có thể là điều mà kẻ đối lập ta nói lại đúng. Tới và nghe
tất cả những điều người đó phải nói; thế rồi ông hãy tự
mình quyết định cho mình. Rất có thể là ông sẽ có khả
năng quyết định mọi điều tốt hơn sau khi nghe cả hai
chúng ta. Hay có lẽ cái còn lại sau khi vứt bỏ cả hai
chúng ta có thể biến thành chân lí. Do đó, đi và tìm kiếm
đi." Điều này chỉ xảy ra khi thiên tài tâm linh đạt tới
trưởng thành tối hậu. Thế thì chẳng cái gì có thể trói buộc
được cả.
Cảm giác của tôi là ở chỗ khi hoàn cảnh của đất nước
này trở thành hoàn cảnh mà thầy sẽ phái đệ tử của mình
vào trong thế giới mà không trói buộc họ, thế thì sẽ có kết
quả kì diệu. Và ai biết được kết quả cuối cùng sẽ là cái gì!
Bây giờ một người như vậy, người phái bạn tới học và
nghe người khác, không thể sai được, cho dù tất cả những
cái mà bản thân người đó dạy bạn có thể biến thành sai.
Khi một người như vậy nói với bạn, "Ông hãy đi, tìm
kiếm chỗ khác; có lẽ ta có thể sai," thế thì cho dù nếu tất
cả giáo huấn của người đó chứng tỏ là giả, bạn cũng vẫn
sẽ biết ơn ông ấy. Ông ấy chẳng bao giờ có thể sai, bởi vì
chính ông là người đã phái bạn đi.
Ngày nay điều đang xảy ra là ở chỗ mọi người đều
trói buộc thiền nhân và không cho người đó ra đi. Guru
này cấm đệ tử mình không được nghe guru khác. Kinh
sách nói, "Đừng bao giờ tới ngôi đền khác. Thà bị voi
điên dày xéo còn hơn là trú ẩn trong đền của ai đó khác."
Nỗi sợ bao giờ cũng có đó rằng cái gì đó có thể lọt vào tai
của thiền nhân. Cho nên cho dù giáo huấn của một guru,
người trói bạn, là đúng đắn, người này vẫn sai và bạn
không bao giờ có thể biết ơn ông ấy được. Người như vậy
chỉ làm bạn thành nô lệ. Ông ấy nghiền nát tâm hồn bạn
và giết chết linh hồn bạn. Nếu điều này được hiểu, sẽ
không có vấn đề lệ thuộc.
#3Thầy đã nói rằng nếu shaktipat là chân thực và thuần
khiết, không có lệ thuộc. Điều đó có đúng không?
Đúng.
Sẽ không có trói buộc gì.
Việc khai thác hồn liệu có thể có nhân danh shaktipat
không? Làm sao điều đó là có thể và làm sao thiền
nhân đề phòng được điều đó?
Điều đó là có thể. Nhiều việc khai thác tâm linh là có
thể nhân danh shaktipat. Thực tế, nơi có yêu cầu, có tuyên
bố, bao giờ cũng có khai thác. Khi một người tuyên bố
rằng mình sẽ cho, người đó cũng sẽ lấy cái gì đó để đáp
lại, bởi vì cho và nhận đi đôi với nhau. Thế thì dù nó ở
dưới bất kì dạng gì - dưới dạng của cải, dưới dạng kính
trọng, dưới dạng tin cậy - người đó cũng sẽ nhận. Nơi có
việc khăng khăng cho, thế thì chắc chắn có việc nhận. Và
người tuyên bố cho nhất định sẽ nhận cái đáp lại nhiều
hơn, bằng không người đó chẳng cần phải hô trong bãi
chợ.
Người câu cá móc giun vào lưỡi câu trên cần câu bởi
vì cá không ăn lưỡi câu. Có lẽ một ngày nào đó cá có thể
bị dỗ ngon ngọt mà nuốt lưỡi câu trực tiếp, nhưng chính
giun hấp dẫn cá đến cần câu và nó nuốt lưỡi câu với ý
định ăn giun. Chỉ sau khi nuốt giun nó mới nhận ra rằng
lưỡi câu là cái chính và giun là con mồi. Nhưng đến lúc
đó, nó đã bị bắt rồi.
Cho nên bất kì khi nào bắt gặp bất kì ai rêu rao thực
hiện shaktipat, người rêu rao là cho bạn trí huệ và đưa bạn
tới samadhi, người đưa ra cả nghìn lời tuyên bố khác, hãy
cẩn thận. Thận trọng, bởi vì người thuộc vào cõi bên kia
không tuyên bố gì về bản thân mình cả. Nếu bạn bảo một
người như vậy, "Nhờ có anh mà tôi kinh nghiệm ân huệ,"
người đó sẽ nói, "Làm sao điều ấy có thể được? Thậm chí
tôi cũng chẳng biết. Chắc anh lầm rồi. Điều đó phải xảy
ra bởi ân huệ của Thượng đế." Cho nên lời cám ơn của
bạn sẽ không được người như vậy thừa nhận; người đó sẽ
thậm chí sẽ không thừa nhận rằng mình là trung gian cho
việc xảy ra. Người đó sẽ khăng khăng rằng ân huệ giáng
xuống bởi vì bạn xứng đáng với điều đó - đó là từ bi của
Thượng đế rơi xuống bạn. Người đó là ai? Người đó đứng
ở đâu? Giá trị của người đó là gì? Người đó không tới
chút nào: đó là điều người đó sẽ nói.
Jesus đi qua một thị trấn. Một người ốm được đưa tới
ông ấy. Jesus ôm lấy người này và người đó được chữa
khỏi tất cả mọi bệnh tật. Người này nói với Jesus, "Làm
sao tôi có thể cám ơn được ông đây? Ông đã giải cho tôi
mọi bất hạnh của mình."
Jesu đáp, "Chớ nói như thế. Đưa ra lời cám ơn cho
đúng chỗ đi. Ta là ai và ta bước vào đâu?"
Người này nói, "Nhưng chẳng có ai khác ngoài ông ở
đây."
Jesus nói, "Ông và ta đều không có. Ông không thể
thấy được ngài, người đang có đấy - và tất cả mọi sự đều
xảy ra qua ngài. Ngài đã chữa lành cho ông."
Bây giờ, làm sao một người như vậy có thể khai thác
được? Lưỡi câu phải bị bao phủ bởi giun để mà khai thác.
Người đó thậm chí không sẵn sàng để có giun, để mỗi
lưỡi câu thôi. Cho nên bất kì khi nào một người tuyên bố
đạt kết quả, đề phòng đi. Khi người đó nói làm việc này
cho bạn việc nọ cho bạn, người đó chỉ che phủ lưỡi câu
bằng giun. Người đó đang làm bốc lên trông đợi của bạn;
người đó đang kích thích hi vọng và ham muốn của bạn.
Và khi bạn bị chiếm lĩnh bởi ham muốn và bạn nói, "Ôi,
thầy kính yêu, xin cho...!", người đó bắt đầu đòi hỏi của
mình. Bạn sẽ nhận ngay ra rằng con giun chỉ ở trên chóp
và lưỡi câu ở bên trong.
Cho nên theo dõi bước đi của mình ở bất kì đâu có
những lời tuyên bố phép màu. Đấy là lãnh thổ nguy hiểm.
Tránh con đường nơi ai đó đang đợi là guru của bạn. Có
nỗi sợ vướng mắc ở đó. Cho nên làm sao người tìm kiếm
bảo vệ được mình? Người đó phải tự bảo vệ mình với
những người đưa ra lời tuyên bố đao to búa lớn, và do
vậy người đó sẽ tự cứu mình khỏi mọi điều xấu. Người đó
không nên tìm kiếm những người chuyên rêu rao về
những kết quả kì diệu; bằng không, người đó sẽ gặp khó
khăn, vì những người như thế cũng đang tìm kiếm. Họ
đang tìm những người sẽ rơi vào bẫy của họ. Có những
người như thế đang đi khắp mọi nơi. Đừng hỏi bất kì lợi
lộc tâm linh nào và đừng chấp nhận bất kì tuyên bố tâm
linh nào.
Điều bạn phải làm là vấn đề hoàn toàn khác. Bạn phải
chuẩn bị bản thân mình từ bên trong. Và cái ngày bạn sẵn
sàng, việc xảy ra nhất định sẽ xảy ra. Thế thì nó sẽ xảy ra
qua bất kì trung gian nào. Người trung gian chỉ là thứ
yếu; người đó cũng giống như cái móc. Cái ngày bạn có
được áo choàng, cái móc sẵn sàng để treo nó lên. Thế thì
cái móc cũng chẳng quan trọng lắm. Nếu không có móc,
bạn vẫn có thể treo áo choàng lên cửa. Nếu không có cửa,
bạn có thể treo nó lên cành cây. Bất kì móc nào cũng có
tác dụng; vấn đề chính là cái áo. Nhưng chúng ta không
có áo choàng, trong khi móc gọi: "Lại đây! Ta là móc
đây." Bạn sẽ bị bắt nếu bạn tới. Bạn không có áo choàng
cho nên bạn sẽ làm gì khi đi tới cái móc? Có mọi điều
nguy hiểm là bạn tự treo mình lên móc. Bạn phải tìm
kiếm giá trị riêng của mình, khả năng của riêng mình.
Bạn phải làm cho bản thân mình sẵn sàng để có khả năng
nhận ân huệ khi nó tới.
Bạn không phải lo nghĩ về guru chút nào; đấy không
phải là mối bận tâm của bạn. Đó là lí do tại sao điều
Krishana nói với Arjuna là đúng. Ông ấy nói, "Thực hiện
hành động của anh và để kết quả cho điều thiêng liêng."
Bạn không phải lo nghĩ về kết quả hành động của mình;
điều đó sẽ trở thành cản trở. Thế thì tất cả các loại phức
tạp sẽ nảy sinh: bận tâm về hành động nào của bạn sẽ đưa
ra, về kết quả sẽ là gì. Và trong lo âu của bạn về kết quả,
hiệu năng của bạn sẽ bị mất. Đó là lí do tại sao bản thân
hành động nên là mối bận tâm chính của chúng ta.
Chúng ta nên bận tâm tới giá trị và sự tiếp nhận riêng
của mình. Khoảnh khắc nỗ lực của chúng ta được hoàn tất
- cũng như khi hạt mầm đạt tới điểm nhú ra của nó -
chính khoảnh khắc đó tất cả đều đạt được. Khoảnh khắc
cái chồi sẵn sàng nhú ra và việc nở thành hoa, mặt trời
bao giờ cũng sẵn sàng, nhưng chúng ta không có nụ mà
nở ra thành hoa. Thế thì cho dù mặt trời có chiếu sáng
trên bầu trời điều đó cũng vô dụng. Cho nên bạn đừng đi
tìm kiếm mặt trời; tham dự vào việc phát triển nụ của
mình. Mặt trời có đó mãi mãi và bao giờ cũng có sẵn.
Không chiếc bình nào còn chưa được rót đầy cho dù
một khoảnh khắc trong thế giới này. Bất kì loại chấp nhận
nào cũng đều trở thành được rót đầy ngay lập tức. Thực
tế, mang tính chấp nhận và được rót đầy không phải là hai
sự kiện; chúng là hai mặt của cùng một sự việc xảy ra.
Nếu chúng ta bỏ đi tất cả không khí trong phòng này,
không khí trong lành từ bên ngoài sẽ lập tức rót đầy chân
không. Đây không phải là hai điều xảy ra, bởi vì khi
chúng ta loại bỏ không khí trong phòng, không khí bên
ngoài xô vào. Điều như thế cũng là luật của thế giới bên
trong. Chúng ta thậm chí khó sẵn sàng về phần mình khi
việc đáp ứng cho nỗ lực của chúng ta bắt đầu giáng
xuống. Tuy nhiên, khó khăn của chúng ta là ở chỗ yêu
cầu của chúng ta bắt đầu từ lâu trước sự sẵn sàng của
chúng ta. Thế thì bao giờ cũng có việc cung cấp sai cho
yêu cầu sai.
Một số người thực sự làm tôi sửng sốt. Một người tới
và nói, "Tâm trí tôi rất bất ổn; tôi muốn an bình." Ông ấy
nói với tôi tới nửa giờ, và trong quá trình nói, ông ấy thú
nhận rằng nguyên nhân bất ổn của ông ấy là ở chỗ con
ông ấy thất nghiệp. Nếu con ông ấy có việc, tâm trí ông
ấy sẽ yên ổn. Bây giờ người này tới với cái cớ rằng ông
ấy muốn an bình tâm trí, nhưng yêu cầu thực tại của ông
ấy lại tuyệt đối khác; nó chẳng liên quan gì với việc an
bình tâm trí cả. Ông ấy chỉ muốn có việc cho con mình.
Vậy, ông ấy tới sai người.
Bây giờ, người đi vào kinh doanh tôn giáo sẽ nói,
"Anh cần việc sao? Lại đây. Ta sẽ kiếm việc cho anh và
ta sẽ cho anh an bình tâm trí nữa. Bất kì ai tới đây đều
kiếm được việc; bất kì ai tới đây, của cải người đó sẽ tăng
lên và công việc của người đó chạy tốt."
Bây giờ vài người sẽ tụ tập xung quanh "cửa tiệm"
của người bảo bạn, "Con tôi vừa kiếm được việc." Người
khác sẽ nói, "Vợ tôi vừa mới được cứu sống." Người thứ
ba nói, "Tôi mới thắng kiện." Người thứ tư nói, "Của cải
cứ đổ về tôi." Không phải là những người này đang nói
dối hay họ đang đi làm thuê; mà họ cũng chẳng phải là
đại lí cho doanh nghiệp này. Không cái gì như thế cả. Khi
một nghìn người tới để hỏi việc, mười trong số họ nhất
định sẽ kiếm được việc trong quá trình thông thường. Bây
giờ mười người này vẫn còn đấy trong khi chín trăm chín
mươi người còn lại bỏ đi.
Thế thì mười người này dần dần lan truyền từ ‘phép
màu’, và đám đông xung quanh tăng lên. Đây là lí do tại
sao mọi cửa tiệm như vậy đều có người bán hàng và
người quảng cáo. Những người nói con họ kiếm được
việc không phải là nói ra điều không thật; mà họ cũng
không bị ông chủ tiệm mua. Người như vậy cũng đã tới
để tìm kiếm, và điều xảy ra là con của người đó kiếm
được việc. Những người có con không kiếm được việc đã
bỏ đi từ lâu để kiếm guru khác, người đáp ứng cho ham
muốn của họ. Những người có ham muốn được đáp ứng
bắt đầu thường lui tới cửa tiệm; họ tới từng cuộc liên
hoan hàng năm. Đám đông tăng lên hàng ngày, và một
nhóm hình thành quanh cái gọi là guru như thế. Thế rồi
điều họ nói trở thành bằng chứng không thể cãi được.
Nếu ao ước của bao nhiêu người như vậy được đáp ứng,
tại sao ao ước của bạn lại không? Bây giờ đây là con
giun; lưỡi câu bẫy người này là ở bên trong.
Đừng bao giờ yêu cầu, bằng không bạn chắc chắn bị
mắc câu. Chuẩn bị cho bản thân mình và bỏ lại tất cả các
điều khác để làm chứng. Để cho ân huệ xảy ra khi khoảnh
khắc chín muồi cho nó xảy ra. Nếu nó không xảy ra,
chúng ta sẽ biết chúng ta còn chưa sẵn sàng đón nhận.
Sự kiện là ở chỗ bạn sẽ cảm thấy nhu cầu shaktipat
lặp đi lặp lại chỉ khi sự kiện còn chưa xảy ra. Và bạn sẽ
thấy nhu cầu để lấy từ người khác chỉ khi kinh nghiệm
của bạn với nhu cầu shaktipat đầu tiên là vô ích. Nếu
shaktipat đầu tiên thành công, vấn đề chấm dứt ở đó.
Cũng giống như việc thử tới nhiều bác sĩ vì bệnh vẫn còn
chưa được chữa lành. Một cách tự nhiên, phải thay bác sĩ.
Nhưng bệnh nhân người được chữa, chẳng bao giờ nêu ra
vấn đề về việc thay đổi bác sĩ.
Kinh nghiệm nhỏ nhất về thoáng nhìn do shaktipat
đem lại làm cho vấn đề này thành không liên quan. Bên
cạnh đó, một khi thoáng nhìn này được đạt tới từ ai đó,
cũng chẳng khác biệt gì nếu nó được đạt tới từ người
khác. Cũng chính cùng năng lượng đó tới từ cùng nguồn
gốc, chỉ người trung gian là khác - nhưng điều này không
làm phát sinh bất kì khác biệt nào. Dù tới từ mặt trời hay
bóng điện hay đèn dầu, ánh sáng vẫn là một.
Không có gì khác biệt và cũng chẳng hại gì nếu việc
xảy ra phải xảy ra. Nhưng chúng ta không đi tìm kiếm
điều xảy ra. Nếu nó tới với bạn trên đường, chấp nhận nó
và đi thêm nữa - nhưng đừng tìm kiếm nó. Nếu bạn tìm
kiếm, có nguy cơ, bởi vì thế thì chỉ kẻ lừa đảo mới tới
trên con đường của bạn và chứ không phải là người có thể
thực sự cho. Người đó sẽ xuất hiện chỉ khi bạn không tìm
kiếm, khi bạn đã tự chuẩn bị mình. Cho nên việc tìm
kiếm người đó là sai, việc hỏi là sai. Cứ để việc xảy ra có
thời gian riêng của nó và để cho ánh sáng tới từ hàng
nghìn con đường. Tất cả các con đường đều sẽ chứng tỏ
là chân thực của cùng một nguồn cội. Nó là cùng một
nguồn cội; nó chỉ có vẻ từ mọi phía.
Ai đó hôm nọ mới nói rằng người đó đã tới gặp một
sadhu, một người tôn giáo, và nói rằng trí huệ phải là của
riêng người ta. Vị sadhu này bắt bẻ lại rằng không thể thế
được - rằng trí huệ "bao giờ cũng thuộc về người khác, và
rằng sư như thế như thế đã trao nó cho người như thế như
thế, thế rồi ông này lại truyền nó cho người khác."
Thế rồi tôi giải thích cho người bạn này rằng kinh
nghiệm của Krishna là của riêng ông ấy. Khi ông ấy nói
rằng "điều như thế và như thế đã nhận được nó từ điều
như thế và như thế", ông ấy ngụ ý rằng trí huệ này, đã tự
nó khải lộ cho ông ấy, không được khải lộ cho riêng một
mình ông ấy, nó cũng được khải lộ như thế và như thế thì
trước ông ấy. Thế thì người này có chung điều xảy ra với
những người khác, và việc xảy ra này cũng xảy ra trong
ông ấy nữa. Nhưng điều cần lưu ý ở đây là ở chỗ khải lộ
không xảy ra bởi việc nói đơn thuần; nó được nói ra sau
khi việc xảy ra. Cho nên Krishna nói với Arjuna, "Trí huệ
này ta đang truyền đạt cho ông là cũng điều đã tới với ta.
Nhưng việc ta nói lại nó sẽ không đem nó vào trong ông.
Khi nó xảy ra cho ông, ông sẽ có khả năng nói cho người
khác rằng nó giống như thế này."
Chớ cầu xin về nó, vì nó không được đạt tới từ bất kì
ai. Chuẩn bị bản thân mình cho nó và nó sẽ bắt đầu tới từ
mọi hướng. Thế thì một hôm khi sự việc xảy ra bạn sẽ
nói, "Tôi mù làm sao mà không thể thấy được cái đang
tới tôi từ mọi phía."
Người mù có thể đi qua một ngọn đèn hay một đèn
điện hay đi ra mặt trời, nhưng người đó chẳng bao giờ
thấy ánh sáng. Thế rồi một hôm nếu thị lực của người đó
được khôi phục, người đó sẽ bị sốc khi thấy rằng mình
bao giờ cũng được bao bọc bởi ánh sáng. Cho nên vào
ngày việc xảy ra, bạn sẽ thấy nó tất cả bao quanh bạn. Và
chừng nào thời gian còn chưa tới cho nó xảy ra, cúng
dường tôn kính của mình ở bất kì đâu bạn thoáng thấy
chân lí. Nhận nó từ bất kì đâu bạn có thể được nó, nhưng
xin đừng cầu xin nó như kẻ ăn xin - bởi vì chân lí không
bao giờ được trao cho kẻ ăn xin. Đừng cầu xin chân lí
bằng không việc kinh doanh nào đó có thể quyến rũ bạn
với những gợi ý có lợi. Thế thì sự khai thác tâm linh sẽ
bắt đầu.
Đi con đường của mình và bao giờ cũng chuẩn bị cho
mình, chuẩn bị cho bản thân mình, và bất kì khi nào bạn
ngẫu nhiên thấy nó, chấp nhận nó. Cúng dường lòng biết
ơn của mình và đi tiếp; thế thì vào khoảnh khắc đạt tới
hoàn toàn bạn sẽ không thể nào nói rằng bạn nhận nó từ
như thế và như thế. Khoảnh khắc đó bạn sẽ nói, "Tôi có
được phép màu từ sự tồn tại. Dù tôi tới bất kì ai, tôi đều
đón nhận từ người đó." Thế thì tạ ơn cuối cùng sẽ là cho
sự tồn tại và không phải cho bất kì ai nói riêng.
#3Câu hỏi này đã nảy sinh bởi vì sự kiện là tác động
của shaktipat cứ yếu dần đi.
Đúng, nó sẽ yếu dần đi. Thực tế, cái thu được từ
người khác nhất định sẽ giảm đi. Bên cạnh đó nó chỉ là
thoáng nhìn và bạn không phụ thuộc vào nó. Bạn phải
đánh thức nó bên trong bản thân mình: chỉ thế thì nó mới
là vĩnh viễn. Tất cả các ảnh hưởng đều ngoại lai; chúng
thuộc về bên ngoài. Tôi nhặt một hòn đá và tôi ném nó
vào không khí: nó sẽ rơi xuống theo lực do tay tôi tác
động. Hòn đá không có sức mạnh của riêng nó, nhưng nó
có thể nghĩ, khi nó bay qua không khí, rằng nó có sức
mạnh cắt qua không khí và rằng không ai dừng được nó.
Nhưng thế thì nó không biết ảnh hưởng nào đã gây nên
điều này; nó không biết lực của tay đằng sau nó. Nó sẽ rơi
xuống - nếu không sau mười mét thì hai mươi mét, nhưng
nó sẽ rơi xuống. Thực tại, bất kì tác động nào tới từ người
khác bao giờ cũng bị giới hạn và nhất định suy giảm đi.
Ưu điểm duy nhất của ảnh hưởng bên ngoài là ở chỗ
trong thoáng nhìn tạm thời mà bạn kinh nghiệm, bạn có
thể có khả năng thấy cội nguồn nguyên thuỷ của mình.
Thế thì nó sẽ có ích. Nó cũng tựa như tôi bật que diêm:
nó sẽ cháy sáng được bao lâu? Bây giờ bạn có thể làm hai
điều: thứ nhất, bạn vẫn còn trong bóng tối và tuỳ thuộc
vào ánh sáng của que diêm tôi. Trong khoảnh khắc ánh
sáng sẽ tắt đi và trời lại tối đen như hắc ín. Thứ hai, trong
ánh sáng của que diêm bạn có thể định vị được cửa và
bạn chạy ra; bạn không còn phụ thuộc vào que diêm của
tôi. Bạn ra ngoài; bây giờ chẳng có gì khác biệt với bạn
dù que diêm có cháy hay không. Bây giờ bạn đã đạt tới
nơi có mặt trời. Bây giờ điều gì đó đã trở thành kéo dài và
ổn định.
Và tất cả những điều xảy ra này chỉ có một cái dụng:
rằng với sự giúp đỡ bên ngoài bạn làm điều gì đó bên
trong cho bản thân mình. Nhưng đừng đợi những điều
xảy ra này, bởi vì que diêm sẽ cháy và tắt lặp đi lặp lại và
bạn, sẽ trở nên bị ước định theo chúng. Thế thì bạn sẽ trở
nên phụ thuộc vào que diêm và bạn sẽ chờ đợi trong bóng
tối để que diêm sáng lên, và khi nó sáng lên bạn sẽ cứ
kinh hãi khoảnh khắc nó tắt đi, khi nó tắt đi lần nữa bạn
sẽ nhào vào trong bóng tối. Cho nên điều này sẽ trở thành
cái vòng luẩn quẩn. Không, bạn đừng dừng lại lúc que
diêm sáng lên. Nó sáng lên là để trong ánh sáng đó bạn
thấy con đường và chạy ra khỏi bóng tối nhanh nhất có
thể được.
Đây là tất cả ưu thế mà chúng ta có thể lợi dụng từ
người khác. Nó không bao giờ có thể là điều lợi vĩnh
viễn; mặc dầu nó là điều lợi và không nên bị bỏ qua. Điều
đáng kinh ngạc là chúng ta có thể nhận được nhiều thế từ
người khác. Nếu người khác là trí huệ và hiểu biết, người
đó sẽ chẳng bao giờ bảo bạn ở lại đó. Người đó sẽ nói,
"Diêm đã cháy sáng, bây giờ chạy đi - vì chẳng mấy chốc
mà diêm sẽ cháy hết." Nhưng nếu người trung gian bảo
bạn ở lại, trên mảnh đất mà người đó và không ai khác đã
đốt sáng diêm, nếu người đó bảo bạn rằng bạn nên được
người đó điểm đạo cho và thề trung thành với người đó,
thế thì mối quan hệ này sẽ còn lại. Nếu người đó khẳng
định quyền của mình với bạn và cấm bạn đi chỗ khác hay
nghe bất kì ai khác, thế thì điều này là rất nguy hiểm.
Sẽ tốt hơn rất nhiều nếu một người như thế không bật
sáng que diêm chút nào, bởi vì người đó đã làm điều hại
lắm. Trong bóng tối bạn sẽ cảm thấy cách ra một ngày
nào đó và đạt tới ánh sáng. Bây giờ bạn đã tự mình tiếp
đất trong khó khăn bởi việc ôm giữ lấy que diêm của
người đó. Bây giờ bạn sẽ đi đâu? Và một điều là chắc
chắn: người này đã đánh cắp que diêm từ đâu đó. Nó
không phải là của riêng người đó; bằng không, người đó
đã biết cách dùng nó. Người đó sẽ phải biết rằng nó chỉ
có nghĩa giúp cho người ta thoát ra khỏi bóng tối và rằng
nó không có nghĩa là chặn lại bất kì ai hay dừng tiến bộ
của người ta.
Do đó, đây là que diêm bị đánh cắp mà người này
đang kinh doanh. Bây giờ người này tuyên bố rằng tất cả
những ai có được thoáng nhìn từ que diêm của người đó
đều phải ở lại với người đó và phải hết lòng với người đó:
đây là sự kết thúc! Bóng tối đầu tiên chặn con đường; bây
giờ đấy là guru này. Và bóng tối còn tốt hơn là một guru
đòi hỏi, bởi vì nó không trải rộng bàn tay ra để chặn bạn
lại. Cản trở của bóng tối là thụ động, nó yên tĩnh, nhưng
guru này cản trở một cách tích cực. Ông ấy sẽ tóm lấy tay
bạn và chắn đường bạn bằng việc nói, "Đây là bội bạc,
đây là lừa dối."
Mới ngày hôm nọ một cô gái tới và bảo tôi rằng guru
của cô ấy phản đối cô ấy tới gặp tôi. Guru này nói,
"Giống như chồng hay vợ là thuộc về nhau và không
thuộc vào ai khác cả, cũng vậy nếu đệ tử bỏ guru đó là tội
lỗi lớn." Ông ấy phải đấy - nhưng cái phải của ông ấy là
que diêm ăn cắp. Chẳng khó khăn gì trong việc đánh cắp
diêm; có nhiều cái sẵn có trong kinh sách lắm.
#3Diêm ăn cắp có thể cháy được không?
Sự việc là ở chỗ người chưa thấy ánh sáng, không thể
nói được cái gì bị đốt cháy để chỉ ra cho người đó ánh
sáng. Khi người đó thấy ánh sáng thực tại, chỉ thế thì
người đó mới biết cái gì là cái gì. Người đó không chỉ
biết cái gì đã được sáng mà người đó thậm chí còn sẽ biết
liệu cái gì thực sự sáng được hay liệu người đó chỉ được
làm cho tưởng tượng nó là thế thôi.
Khoảnh khắc bạn thấy được ánh sáng, chín mươi chín
phần trăm các guru sẽ bị chứng tỏ là bạn bè của bóng tối
và là kẻ thù của ánh sáng. Chỉ thế thì chúng ta mới biết họ
là kẻ thù nguy hiểm đến mức nào: họ là tay sai của bóng
tối.
************************************************************************************************************
#4 Bí ẩn của bẩy thể và bẩy luân xa
Trong bài nói hôm qua, Thầy đã nói rằng người tìm
kiếm trước hết phải lo nghĩ về sự tiếp nhận riêng của
mình và không nên ăn xin hết cửa nhà nọ đến cửa nhà
kia. Thế nhưng chính ý nghĩa của sadhak là ở chỗ có
chướng ngại trên con đường trưởng thành tâm linh
của người đó. Người đó không biết cách mang tính
tiếp nhận. Liệu có khó thế để gặp người hướng dẫn
đúng không?
Tìm kiếm và yêu cầu là hai điều khác nhau. Thực tế,
chỉ người không muốn tìm kiếm mới yêu cầu. Tìm kiếm
và yêu cầu không phải là một và không như nhau; thay vì
thế chúng mâu thuẫn nhau. Người muốn tránh việc tìm
kiếm thì yêu cầu. Quá trình tìm kiếm và quá trình xin xỏ
là rất khác nhau. Trong yêu cầu, chú ý được đặt trọng tâm
vào người khác - vào người cho; trong tìm kiếm, trọng
tâm được đặt vào bản thân người ta - vào người nhận. Nói
rằng có chướng ngại trong con đường trưởng thành tâm
linh có nghĩa là có chướng ngại bên trong bản thân người
tìm kiếm. Con đường nữa cũng nằm bên trong và không
phải là khó lắm để hiểu cản trở riêng của người ta. Sẽ
phải giải thích rất dài về chướng ngại là gì và làm sao
chúng có thể được loại bỏ. Hôm qua tôi đã nói cho các
bạn về bẩy thể. Chúng ta sẽ nói chi tiết nhiều hơn nữa về
những thể này và nó sẽ trở nên rõ ràng cho bạn.
Vì có bẩy thể, nên cũng có bẩy luân xa, các trung tâm
năng lượng, và mỗi luân xa đều được nối theo cách đặc
biệt với thể tương ứng của nó. Luân xa của thể vật lí là
muladhar. Đây là luân xa đầu tiên và nó có việc nối toàn
diện với thể vật lí. Luân xa muladhar có hai khả năng.
Tiềm năng thứ nhất của nó là tiềm năng tự nhiên được
trao cho chúng ta với việc sinh thành; khả năng kia của nó
là thu được qua thiền.
Khả năng tự nhiên cơ sở của luân xa này là thôi thúc
dục của thể vật lí. Chính vấn đề đầu tiên nảy sinh trong
tâm trí của người tìm kiếm là phải làm gì đối với nguyên
lí trung tâm này. Bây giờ có khả năng khác của luân xa
này, và đó là brahmacharya, vô dục, điều đạt tới được
thông qua thiền. Dục là khả năng tự nhiên còn
brahmacharya là biến đổi của nó. Tâm trí càng hội tụ vào
và bị ham muốn dục nắm giữ, sẽ càng khó để đạt tới tiềm
năng tối thượng của brahmacharya.
Bây giờ điều này có nghĩa là chúng ta có thể sử dụng
tình huống được tự nhiên trao cho chúng ta theo hai cách.
Chúng ta có thể sống trong điều kiện mà tự nhiên đã đặt
chúng ta vào - nhưng thế thì quá trình trưởng thành tâm
linh không thể bắt đầu được - hoặc là chúng ta biến đổi
trạng thái này. Nguy hiểm duy nhất trên con đường biến
đổi là ở chỗ có khả năng là chúng ta có thể bắt đầu tranh
đấu với trung tâm tự nhiên của mình. Cái gì là nguy hiểm
thực sự trên con đường của người tìm kiếm? Chướng ngại
đầu tiên là ở chỗ nếu thiền nhân chỉ mê đắm vào trật tự
mọi việc của tự nhiên, người đó không thể nào vươn lên
khả năng tối thượng của thể vật lí của mình và người đó
trì trệ tại điểm bắt đầu. Một mặt có nhu cầu; mặt khác có
kìm nén gây cho thiền nhân phải tranh đấu với thôi thúc
dục. Kìm nén là chướng ngại trên con đường thiền. Đây
là chướng ngại của luân xa thứ nhất. Biến đổi không thể
nào tới cùng kìm nén.
Nếu kìm nén là chướng ngại, giải pháp là gì? Thế thì
hiểu biết sẽ giải quyết vấn đề này. Biến đổi xảy ra bên
trong khi bạn bắt đầu hiểu dục. Có lí do cho điều này. Tất
cả các yếu tố của tự nhiên nằm mù quáng và vô ý thức
bên trong chúng ta. Nếu chúng ta trở nên có ý thức về
chúng, biến đổi bắt đầu. Nhận biết là giả kim thuật; nhận
biết là giả kim thuật của việc thay đổi chúng, của việc
biến đổi chúng. Nếu một người trở nên nhận biết về ham
muốn dục của mình với toàn bộ cảm giác của mình và
toàn bộ hiểu biết của mình, thế thì brahmacharya sẽ bắt
đầu sinh thành bên trong người đó ở vị trí của dục. Chừng
nào mà một người còn chưa đạt tới brahmacharya trong
thể thứ nhất của mình, vẫn còn khó khăn để làm việc với
tiềm năng của các trung tâm khác.
Thể thứ hai, như tôi đã nói, là thể xúc động hay thể ê
te. Thể thứ hai được nối với luân xa thứ hai, luân xa
svadhisthan. Luân xa này nữa cũng có hai khả năng. Về
cơ bản, tiềm năng tự nhiên của nó là sợ hãi, căm ghét,
giận dữ và bạo hành. Tất cả những điều này đều là những
điều kiện thu được từ tiềm năng tự nhiên của luân xa
svadhisthan. Nếu một người trì trệ tại thể thứ hai, thế thì
những điều kiện đối lập trực tiếp của biến đổi - tình yêu,
từ bi, dũng cảm, thân thiện - không xảy ra. Chướng ngại
trên con đường của thiền nhân trong luân xa thứ hai là
căm ghét, giận dữ và bạo hành, và vấn đề là việc biến đổi
chúng.
Ở đây nữa cùng sai lầm bị phạm phải. Một người có
thể trút giận dữ của mình ra; người khác có thể kìm nén
giận dữ của mình. Một người có thể chỉ sợ hãi; người
khác có thể kìm nén sợ hãi của mình và phô bầy dũng
cảm. Nhưng cả hai đều không dẫn tới biến đổi. Khi có sợ
nó phải được chấp nhận; chẳng hữu dụng gì mà che giấu
hay kìm nén nó. Nếu có bạo hành bên trong chẳng hữu
dụng gì trong việc che đậy nó bằng khăn choàng bất bạo
hành. Hô khẩu hiệu bất bạo hành sẽ không đem tới thay
đổi trong trạng thái bạo hành bên trong. Nó vẫn còn bạo
hành. Nó là điều kiện được tự nhiên trao cho chúng ta
trong thể thứ hai. Nó có cái dụng của nó cũng như có
nghĩa cho dục. Qua một mình dục các thể vậy lí khác có
thể cho việc sinh thành. Trước khi thể vật lí này sụp đổ,
tự nhiên đã tạo ra thứ dự trữ cho việc sinh thành ra thể vật
lí khác.
Sợ hãi, bạo hành, giận dữ, tất cả đều cần thiết trên
bình diện thứ hai; bằng không, con người có thể không
tồn tại được, không thể bảo vệ được bản thân mình. Sợ
hãi bảo vệ người đó, giận dữ đưa người đó vào trong cuộc
vật lộn chống lại người khác và bạo hành giúp cho người
đó cứu bản thân mình khỏi bạo hành của người khác. Tất
cả những điều này đều là phẩm chất của thể thứ hai và là
cần thiết cho sự sống còn, nhưng nói chung chúng ta
dừng lại ở đây và không đi xa thêm. Nếu một người hiểu
được bản chất của sợ hãi, người đó đạt tới vô sợ hãi, và
nếu người đó hiểu bản chất của bạo hành, người đó đạt tới
bất bạo hành. Tương tự, bằng hiểu biết giận dữ chúng ta
phát triển phẩm chất bao dung.
Thực tế, giận dữ là một mặt của đồng tiền, bao dung
là mặt kia. Chúng mặt nọ lẩn sau mặt kia - nhưng đồng
tiền phải được lật lại. Nếu chúng ta đi tới biết hoàn toàn
mặt này của đồng tiền, tự nhiên chúng ta trở nên tò mò
muốn biết mặt bên kia là gì - và do vậy đồng tiền lật lại.
Nếu chúng ta giấu đồng tiền và giả vờ chúng ta không sợ
hãi, không bạo hành bên trong, chúng ta sẽ chẳng bao giờ
có thể biết được bạo dạn và bất bạo hành. Người chấp
nhận sự hiện diện của sợ hãi bên trong bản thân mình và
người đã nghiên cứu nó tường tận sẽ sớm đạt tới chỗ
người đó sẽ muốn tìm ra cái gì nằm đằng sau nỗi sợ. Tò
mò của người đó sẽ động viên người đó nhìn sang phía
bên kia của đồng tiền.
Khoảnh khắc người đó lật nó lên, người đó trở thành
không sợ hãi. Tương tự, bạo hành sẽ biến thành từ bi.
Đây là những tiềm năng của thể thứ hai. Do vậy, thiền
nhân phải đem biến đổi vào trong những phẩm chất mà tự
nhiên trao cho anh ta. Và với điều này không cần phải đi
vòng hỏi người khác; người ta phải giữ việc tìm kiếm và
hỏi bên trong bản thân mình. Tất cả chúng ta đều biết
rằng giận dữ và sợ hãi là trở ngại - bởi vì làm sao kẻ hèn
nhát có thể tìm kiếm được chân lí? Kẻ đó sẽ cầu xin chân
lí; kẻ đó sẽ muốn rằng ai đó sẽ đem nó cho mình mà mình
không phải đi vào mảnh đất chưa biết.
Thể thứ ba là thể vía. Thể này cũng có hai chiều. Về
căn bản, thể thứ ba xoay quanh hoài nghi và suy nghĩ.
Nếu những điều này được biến đổi, hoài nghi trở thành tin
cậy và suy nghĩ trở thành vivek, nhận biết. Nếu hoài nghi
bị kìm nén bạn chẳng bao giờ đạt tới shraddha, tin cậy,
mặc dầu chúng ta được khuyên hãy kìm nén hoài nghi và
tin vào điều ta nghe. Người kìm nén hoài nghi của mình
chẳng bao giờ đạt tới tin cậy, bởi vì hoài nghi vẫn còn
hiện diện bên trong mặc dầu bị kìm nén. Nó sẽ lẻn bên
trong tựa như ổ ung thư và gặm nhấm sinh lực của bạn.
Niềm tin được cấy vào vì nỗi sợ hoài nghi. Chúng ta sẽ
phải hiểu phẩm chất của nghi ngờ, chúng ta sẽ phải sống
nó và đi cùng nó. Thế thì rồi một ngày nào đó chúng ta sẽ
đạt tới điểm mà tại đó chúng ta sẽ bắt đầu có hoài nghi về
chính bản thân việc hoài nghi. Khoảnh khắc chúng ta bắt
đầu hoài nghi bản thân việc hoài nghi, tin cậy bắt đầu.
Chúng ta không thể nào đạt tới sự sáng tỏ phân biệt
mà không đi qua quá trình suy nghĩ. Có những người
không nghĩ và những người cổ vũ họ không nghĩ. Họ nói,
"Đừng nghĩ; vứt bỏ mọi ý nghĩ." Người chấm dứt việc
suy nghĩ tự mình tiếp đất vào dốt nát và niềm tin mù
quáng. Đây không phải là sáng tỏ. Quyền năng của việc
phân biệt chỉ có được sau khi đã trải qua phần lớn các quá
trình suy nghĩ tinh tế nhất. Đâu là ý nghĩa của vivek, phân
biệt? Hoài nghi bao giờ cũng hiện diện trong ý nghĩ. Nó
bao giờ cũng lưỡng lự. Do đó, những người nghĩ rất nhiều
chẳng bao giờ đi tới quyết định. Chỉ khi họ bước ra khỏi
bánh xe của ý nghĩ họ mới có thể quyết định. Quyết định
tới từ trạng thái sáng tỏ ở bên ngoài ý nghĩ.
Ý nghĩ không có mối nối nào với quyết định. Người
bao giờ cũng mê mải trong ý nghĩ chẳng bao giờ đạt tới
quyết định. Đó là lí do tại sao điều thường xảy ra là
những người có cuộc sống ít bị ý nghĩ chi phối rất quyết
đoán, trong khi những người nghĩ rất nhiều lại thiếu quyết
tâm. Có nguy hiểm trong cả hai loại người này. Những
người không nghĩ cứ xông lên và làm bất kì cái gì họ
quyết tâm làm, bởi lí do đơn giản là họ không có quá
trình suy nghĩ để tạo ra hoài nghi bên trong.
Người giáo điều và người cuồng tín trên thế giới là
những người rất tích cực và hăng hái; với họ không có
vấn đề về hoài nghi - họ chẳng bao giờ suy nghĩ! Nếu họ
cảm thấy rằng cõi trời được đạt tới bằng việc giết một
nghìn người, họ sẽ dừng lại chỉ sau khi đã giết một nghìn
người và không dừng lại trước lúc đó. Họ chưa bao giờ
dừng để suy nghĩ về điều họ đang làm cho nên chẳng bao
giờ có lưỡng lự về phần họ. Một người hay nghĩ, ngược
lại, sẽ cứ suy nghĩ mãi thay vì ra bất kì quyết định nào.
Nếu chúng ta đóng cánh cửa của mình đối với nỗi sợ
ý nghĩ, chúng ta sẽ bị bỏ lại chỉ với những niềm tin mù
quáng. Điều này là rất nguy hiểm và là chướng ngại lớn
trên con đường của thiền nhân. Điều được cần tới là có
suy xét khôn ngoan với đôi mắt mở to và các ý nghĩ rõ
ràng, quả quyết, và điều đó cho phép chúng ta ra quyết
định. Đây là ý nghĩa của vivek: sáng tỏ, nhận biết. Nó có
nghĩa là sức mạnh suy nghĩ là hoàn chỉnh. Nó có nghĩa
chúng ta đã trải qua các ý nghĩ chi tiết đến mức tất cả các
hoài nghi đều bị xoá sạch. Bây giờ chỉ còn lại quyết định
thuần khiết trong bản chất của nó.
Luân xa liên quan tới thể thứ ba là manipur. Hoài
nghi và tin cậy là hai dạng của nó. Khi hoài nghi được
biến đổi tin cậy là kết quả. Nhưng nhớ lấy, tin cậy không
phải là đối lập hay mâu thuẫn với hoài nghi. Tin cậy là sự
phát triển thuần khiết nhất và tối thượng nhất của nó. Nó
là cực điểm tối thượng của hoài nghi, nơi mà ngay cả hoài
nghi cũng trở nên bị mất đi bởi vì ở đây hoài nghi bắt đầu
hoài nghi bản thân nó và theo cách này nó tự tử. Thế thì
tin cậy được sinh ra.
Bình diện thứ tư là thể trí hay hồn và luân xa thứ tư,
anahat, được nối với thể thứ tư. Phẩm chất tự nhiên của
bình diện này là tưởng tượng và mơ. Đây là điều mà tâm
trí bao giờ cũng làm: tưởng tượng và mơ. Nó mơ trong
đêm và ban ngày nó mơ ngày. Nếu tưởng tượng được
phát triển đầy đủ, tức là nói nếu nó được phát triển tới hết
cỡ của nó, theo một cách đầy đủ, nó trở thành quyết tâm,
ý chí. Nếu mơ phát triển đầy đủ, nó được biến đổi thành
linh ảnh - linh ảnh hồn. Nếu khả năng mơ của con người
được phát triển đầy đủ, người đó chỉ cần nhắm mắt và
người đó có thể thấy mọi thứ. Thế thì người đó thấy được
thậm chí xuyên qua tường. Ban đầu người đó chỉ mơ thấy
bên ngoài bức tường; về sau người đó thực tế thấy bên
ngoài nó. Bây giờ người đó chỉ có thể đoán điều bạn đang
nghĩ, nhưng sau biến đổi người đó thấy điều bạn nghĩ.
Linh ảnh nghĩa là thấy và nghe những cái mà không dùng
giác quan thông thường. Các giới hạn về thời gian và
không gian không còn nữa đối với người phát triển linh
ảnh.
Trong mơ bạn du hành nơi xa. Nếu bạn đang ở
Bombay, bạn tới Calcutta. Trong linh ảnh bạn cũng có thể
du hành khoảng cách xa, nhưng sẽ có khác biệt: trong mơ
bạn tưởng tượng bạn đã đi, trong khi trong linh ảnh bạn
thực đi. Thể hồn, thứ tư thực tại có thể hiện diện ở đó. Vì
chúng ta không có ý tưởng nào về khả năng tối thượng
của thể thứ tư này, chúng ta đã bỏ qua khái niệm cổ đại
về mơ trong thế giới ngày nay. Kinh nghiệm cổ đại là ở
chỗ trong mơ một trong các thể của con người thoát ra
khỏi người đó và tiến hành cuộc hành trình.
Có một người, Swedenborg, được mọi người coi là
một tay mơ. Ông ấy hay nói về cõi trời và địa ngục và
rằng chúng chỉ có thể tồn tại trong mơ. Nhưng một buổi
chiều, khi ông ấy thiếp đi, ông ấy bắt đầu kêu to: "Cháy!
Cháy! Nhà tôi cháy rồi." Mọi người xô đến, nhưng không
có đám cháy nào ở đó. Mọi người đánh thức ông ấy dậy
để đảm bảo cho ông ấy là đấy chỉ là mơ và không có nguy
hiểm gì về cháy cả. Tuy nhiên ông ấy cứ khăng khăng
rằng nhà ông ấy bị cháy. Nhà ông ấy ở cách xa gần năm
trăm ki lô mét và nó bị bốc cháy vào thời điểm đó. Vào
ngày thứ hai hay thứ ba, tin về thảm hoạ này mới tới. Nhà
ông bị cháy thành tro, và nó thực cháy khi ông ấy kêu lên
trong giấc ngủ. Bây giờ điều này không còn là mơ nữa mà
là linh ảnh. Khoảng cách năm trăm ki lô mét không còn
đó nữa. Con người này đã chứng kiến điều đã xảy ra cách
xa năm trăm ki lô mét.
Bây giờ các nhà khoa học cũng thừa nhận rằng những
khả năng hồn lớn lao của thể thứ tư. Bởi vì con người bây
giờ đã bước ra không gian, cho nên nghiên cứu theo
hướng này đã trở thành quan trọng hơn. Sự kiện vẫn còn
lại là cho dù các máy móc con người đang dùng có tin
cậy đến đâu đi chăng nữa, vẫn không thể nào dựa cậy vào
chúng hoàn toàn được. Nếu liên lạc radio trong con tầu
không gian bị dừng hoạt động, các nhà du hành vũ trụ sẽ
mất tiếp xúc với thế giới vào mọi lúc. Họ sẽ không thể
nào báo cho chúng ta họ đang ở đâu hay điều gì đã xảy ra
với họ. Cho nên các nhà khoa học ngày nay rất sính phát
triển viễn cảm và linh ảnh của thể hồn để vượt qua rủi ro
này. Nếu nhà du hành vũ trụ có khả năng liên lạc trực tiếp
bằng quyền năng của viễn cảm, đó sẽ là một phần của
việc phát triển thể thứ tư. Thế thì việc du hành không gian
có thể an toàn. Rất nhiều công trình đã được tiến hành
theo hướng này.
Ba mươi năm trước đây một người khởi hành thám
hiểm Bắc cực. Ông ấy được trang bị với tất cả những gì
cần thiết cho liên lạc không dây. Một sự thu xếp thêm
cũng đã được thực hiện mà cho tới nay vẫn còn chưa
được biết tới. Một người lên đồng có khả năng thể thứ tư
đang vận hành cũng đã được làm thành người nhận để
nhận việc truyền tin từ người thám hiểm. Điều đáng ngạc
nhiên nhất là ở chỗ khi thời tiết xấu, các thiết bị không
dây không làm việc, nhưng người lên đồng này vẫn nhận
được tin tức mà không khó khăn gì. Khi so sánh các nhật
kí về sau người ta mới thấy rằng tám mươi đến chín mươi
phần trăm thời gian tín hiệu được nhận bởi người lên
đồng này là đúng, trong khi các tin tức truyền qua ra dio,
không sẵn có trong hơn bẩy mươi hai phần trăm thời gian,
bởi vì có nhiều lần bị đứt đoạn. Bây giờ Nga và Mĩ cả hai
nước này đều rất hăng hái, và rất nhiều công việc đang
được tiến hành trong lĩnh vực viễn cảm, thiên nhãn, qua
việc phóng chiếu và qua việc đọc. Tất cả những điều này
đều là khả năng của thể thứ tư. Mơ là phẩm chất tự nhiên
của nó; thấy chân lí, thấy cái thực, là khả năng tối thượng
của nó. Anahat là luân xa của thể thứ tư này.
Luân xa thứ năm là vishuddhi. Nó nằm ở cổ họng.
Thể thứ năm là thể tâm linh. Luân xa vishuddhi được nối
với thể tâm linh. Bốn thể đầu và luân xa của chúng đều
được chia làm đôi. Nhị nguyên chấm dứt với thể thứ năm.
Như tôi đã nói trước đây, khác biệt giữa nam và nữ
kéo dài cho tới thể thứ tư; sau đó nó chấm dứt. Nếu ta
quan sát thật kĩ, tất cả các nhị nguyên đều thuộc về nam
hay nữ. Khi khoảng cách giữa nam và nữ không còn nữa,
tại đúng điểm đó tất cả nhị nguyên đều dừng lại. Thể thứ
năm là bất nhị. Nó không có hai khả năng mà chỉ có một.
Đây là lí do tại sao không có nhiều nỗ lực cho thiền
nhân để thực hiện: bởi vì tại đây không có gì mâu thuẫn
để phát triển; tại đây người ta chỉ phải đi vào. Vào lúc
chúng ta đạt tới thể thứ tư, chúng ta phát triển nhiều khả
năng và sức mạnh đến mức rất dễ dàng đi vào thể thứ
năm. Trong trường hợp đó làm sao chúng ta có thể biết
được sự phân biệt giữa người đã đi vào thể thứ năm và
người chưa đi vào? Khác biệt sẽ là ở chỗ người đã đi vào
thể thứ năm, hoàn toàn loại bỏ mọi vô ý thức. Người đó
thực tế sẽ không ngủ ban đêm. Tức là, người đó ngủ
nhưng chỉ một mình thân thể người đó ngủ thôi; ai đó bên
trong tỉnh thức mãi mãi. Nếu người đó trở mình trong
giấc ngủ, người đó biết điều đó; nếu người đó không trở
mình trong giấc ngủ, người đó cũng biết điều đó. Nếu
người đó đắp chăn, người đó biết điều đó; nếu người đó
không đắp chăn thế thì người đó cũng biết điều đó. Nhận
biết của người đó không bị giảm bớt trong giấc ngủ;
người đó tỉnh thức cả hai mươi bốn giờ. Với người còn
chưa đi vào thể thứ năm, trạng thái của người đó lại là đối
lập lại. Trong giấc ngủ người đó ngủ, và trong những giờ
tỉnh vẫn còn một tầng của người đó sẽ ngủ.
Mọi người dường như là làm việc. Khi bạn về nhà
vào mọi tối, chiếc xe ô tô rẽ trái vào cổng nhà bạn; bạn
đạp phanh khi bạn tiến tới hành lang. Bạn đừng ảo tưởng
rằng bạn đang làm tất cả những điều này một cách có ý
thức. Nó xảy ra một cách vô ý thức bởi một lực hoàn toàn
thói quen. Chỉ trong những khoảnh khắc nào đó, những
khoảnh khắc nguy hiểm lớn, chúng ta mới thực sự đi vào
tỉnh táo. Khi nguy hiểm lớn đến mức không thể thiếu
được tỉnh táo, chúng ta thức tỉnh. Chẳng hạn, nếu một
người chĩa dao vào ngực bạn, bạn sẽ nhảy vào ý thức. Cái
điểm dao chĩa trong khoảnh khắc đó đưa bạn thẳng vào
thể thứ năm. Với ngoại lệ của những khoảnh khắc này
trong cuộc sống của mình, chúng ta sống giống như người
mộng du.
Vợ không thấy đúng khuôn mặt của chồng mà chồng
cũng chẳng thấy khuôn mặt vợ. Nếu chồng cố gắng quán
tưởng khuôn mặt vợ, anh ta sẽ không thể nào làm được
như vậy. Các đường nét khuôn mặt cô ấy sẽ bắt đầu lẩn đi
và sẽ khó nói liệu đấy là cùng khuôn mặt mà anh ta đã
thấy trong ba mươi năm qua hay không. Bạn chưa bao giờ
thấy được, bởi vì phải có người thức tỉnh bên trong bạn
để thấy.
Người đang "thức tỉnh" dường như là thấy đấy nhưng
thực tế người đó không thấy - bởi vì người đó đang ngủ
bên trong, đang mơ, và mọi thứ cứ tiếp diễn trong trạng
thái mơ này. Bạn giận dữ, thế rồi bạn nói, "Tôi không biết
làm sao tôi phát cáu; tôi đâu có muốn thế." Bạn nói, "Tôi
xin lỗi! Tôi không muốn thô lỗ, điều ấy buột ra khỏi
mồm." Bạn hay dùng lời lẽ tục tĩu và chính bạn lại từ chối
ý định dùng nó. Tội nhân bao giờ cũng nói, "Tôi không
muốn giết người. Việc ấy xảy ra bất chấp tôi." Điều ấy
chứng tỏ chúng ta như cái máy tự động. Chúng ta nói
điều ta không muốn nói; chúng ta làm điều ta không
muốn làm.
Mọi tối chúng ta nguyện sẽ dậy vào bốn giờ sáng.
Nhưng khi bốn giờ sáng và chuông báo thức reo, chúng ta
lại chuyển ý nói chẳng cần phải dậy sớm thế. Thế rồi bạn
dậy vào lúc sáu giờ và tràn đầy hối hận vì đã ngủ quá.
Thế rồi bạn lại thề giữ cùng lời nguyện như ngày hôm
qua. Thật kì lại rằng người quyết định một điều vào buổi
tối và không giữ lời hứa vào buổi sáng! Thế thì điều
người đó quyết định vào lúc bốn giờ sáng lại bị thay đổi
so với trước vào lúc sáu giờ, và điều người đó quyết định
lúc sáu giờ lại thay đổi rất lâu trước buổi tối, và ở khoảng
giữa người đó thay đổi hàng nghìn lần. Những quyết định
này, ý nghĩ này, tới chúng ta trong trạng thái ngủ. Chúng
cũng tựa như giấc mơ vậy: chúng mở rộng và nổ tựa như
bong bóng. Không có người tỉnh thức đằng sau chúng -
không ai tỉnh táo và có ý thức.
Cho nên ngủ là điều kiện bẩm sinh trước khi bắt đầu
bình diện tâm linh. Con người là kẻ mộng du trước khi
người đó đi vào thể thứ năm, và tại đó phẩm chất là thức
tỉnh. Do đó, sau khi trưởng thành từ thể thứ tư chúng ta
có thể gọi một cá nhân là phật, người thức tỉnh. Bây giờ
một người như thế là thức tỉnh. Phật không phải là tên của
Gautam Siddharth mà là cái tên được đặt cho ông ấy sau
khi ông ấy đạt tới bình diện thứ năm. Phật Gautama có
nghĩa là Gautam người đã thức tỉnh. Tên ông ấy vẫn còn
là Gautam, nhưng đấy chỉ là cái tên của người ngủ cho
nên dần dần nó bị bỏ đi và chỉ còn lại Phật.
Khác biệt này tới với việc đạt tới thể thứ năm. Trước
khi chúng ta đi vào trong nó, bất kì điều gì chúng ta làm
đều là hành động vô ý thức không thể tin cậy được.
Khoảnh khắc này một người nguyện sẽ yêu đương và trìu
mến người yêu mình cả đời rồi đến khoảnh khắc tiếp
người đó hoàn toàn có khả năng bóp chết cô ấy. Mối
thông gia mà người đó hứa cho cả đời không kéo dài cho
lắm. Con người đáng thương này không nên bị trách cứ.
Đâu là giá trị của lời hứa được đưa ra trong giấc ngủ?
Trong mơ tôi có thể hứa, "Đây là mối quan hệ cả đời."
Lời hứa này có giá trị gì? Vào buổi sáng tôi sẽ phủ nhận
nó bởi vì đấy chỉ là mơ.
Không thể tin cậy vào người đang ngủ được. Thế giới
này của chúng ta hoàn toàn là thế giới của người ngủ; do
đó, biết bao nhiêu là lẫn lộn, biết bao nhiêu là xung đột,
biết bao nhiêu là tranh cãi, biết bao nhiêu là hỗn loạn. Tất
cả nó đều là việc làm của những người đang ngủ.
Có một khác biệt quan trọng khác giữa người ngủ và
người đã thức tỉnh mà chúng ta nên nhớ trong tâm. Người
ngủ không biết mình là ai, cho nên người đó bao giờ cũng
cố gắng chứng tỏ cho người khác rằng mình là thế này
hay mình là thế nọ. Đây là nỗ lực cả đời của người đó.
Người đó cố gắng theo cả nghìn cách để chứng tỏ bản
thân mình. Đôi khi người đó leo lên chiếc thang chính trị
và tuyên bố, "Tôi là như thế và như thế." Đôi khi người
đó xây nhà và trưng bày của cải của mình, hay người đó
trèo lên núi và thể hiện sức mạnh của mình. Người đó cố
gắng theo đủ mọi cách để chứng tỏ bản thân mình. Và
trong tất cả những nỗ lực đó thực tế người đó không chủ
ý cố gắng tìm ra cho bản thân mình xem mình là ai.
Người đó chẳng biết mình là ai cả.
Trước khi đi qua bình diện thứ tư chúng ta không thể
nào tìm được câu trả lời. Thể thứ năm được gọi là thể tâm
linh bởi vì tại đó bạn thu được câu trả lời cho việc truy
tìm "Tôi là ai?" Việc nhắc tới cái ‘tôi’ dừng lại một lần
cho mọi lần trên bình diện này; tuyên bố là ai đó đặc biệt
tan biến ngay lập tức. Nếu bạn nói với người như vậy,
"Anh là như vậy và như vậy,", người đó sẽ cười. Tất cả
mọi lời tuyên bố từ phía người đó bây giờ sẽ dừng lại, bởi
vì bây giờ người đó biết. Không còn bất kì nhu cầu nào
để chứng tỏ bản thân mình, bởi vì mình là ai bây giờ là sự
kiện đã được chứng minh.
Những xung đột và vấn đề của cá nhân chấm dứt ở
bình diện thứ năm. Nhưng bình diện này có những hiểm
nguy của riêng nó. Bạn đã đi tới biết về bản thân mình, và
việc biết này phúc lạc và mãn nguyện đến mức bạn có thể
muốn kết thúc cuộc hành trình của mình tại đây. Bạn có
thể không cảm thấy cần phải tiếp tục nữa. Mối hiểm nguy
mà đã có cho tới nay tất cả đều là đau đớn và đau khổ;
bây giờ hiểm nguy bắt đầu là phúc lạc. Bình diện thứ năm
phúc lạc đến độ bạn sẽ không còn đành lòng rời bỏ nó và
đi thêm nữa. Do đó, những cá nhân đi vào bình diện này
phải rất tỉnh táo về việc níu bám vào phúc lạc để cho nó
không cản trở người đó đi thêm nữa. Tại đây phúc lạc là
tối cao và tại đỉnh vinh quang của nó; nó là trong chiều
sâu sâu lắng nhất. Một biến đổi lớn tới bên trong cho
người đã biết tới bản thân mình. Nhưng điều này không
phải là tất cả; còn phải đi thêm nữa.
Sự kiện là ở chỗ thất vọng và đau khổ không cản trở
con đường chúng ta nhiều như niềm vui. Phúc lạc là rất
cản trở. Việc rời bỏ đám đông và sự lẫn lộn của bãi chợ
đã khó, nhưng còn một nghìn lần khó hơn nữa để rời bỏ
âm nhạc dịu dàng của đàn veena trong đền. Đây là lí do
tại sao nhiều thiền nhân dừng lại tại atma gyan, việc nhận
ra cái ta, và không tiến lên Brahma gyan, kinh nghiệm về
Brahman - thực tại vũ trụ.
Chúng ta sẽ phải tỉnh táo về phúc lạc này. Nỗ lực của
chúng ta ở đây phải là không bị mất hút trong phúc lạc
này. Phúc lạc kéo chúng ta về bản thân nó; nó nhấn chìm
chúng ta; chúng ta hội nhập vào nó hoàn toàn. Đừng trở
nên bị hội nhập vào trong phúc lạc. Biết rằng điều này
nữa cũng là một kinh nghiệm. Sướng là một kinh nghiệm,
khổ là một kinh nghiệm; phúc lạc nữa cũng là một kinh
nghiệm. Đứng ngoài nó, là nhân chứng. Chừng nào còn
kinh nghiệm thì vẫn còn chướng ngại: điểm cuối tối
thượng vẫn còn chưa đạt tới. Tại trạng thái tối thượng tất
cả các kinh nghiệm chấm dứt. Niềm vui và nỗi buồn đi
tới kết thúc, cả phúc lạc cũng vậy. Tuy nhiên ngôn ngữ
của chúng ta không vượt được ra ngoài điểm này. Đây là
lí do tại sao chúng ta đã mô tả Thượng đế là sat-chitananda
- chân lí-tâm thức-phúc lạc. Đây không phải là
dạng của cái ta tối thượng, nhưng đây là điều tối thượng
mà lời có thể diễn tả được. Phúc lạc là cách biểu diễn tối
thượng của con người. Thực tế, lời không thể vượt ra
ngoài bình diện thứ năm. Nhưng về bình diện thứ năm
chúng ta có thể nói, "Phúc lạc có đấy; có thức tỉnh hoàn
hảo; có việc nhận ra cái ta ở đó." Tất cả điều này có thể
được mô tả.
Do đó, sẽ không có bí ẩn về những người dừng lại tại
bình diện thứ năm. Việc nói của họ sẽ có vẻ rất khoa học
bởi vì thực tại của bí ẩn nằm bên ngoài bình diện này.
Mọi thứ đều rất rõ ràng cho tới bình diện thứ năm. Tôi tin
rằng khoa học chẳng chóng thì chầy sẽ hấp thu những tôn
giáo lên tới thể thứ năm, bởi vì khoa học có khả năng đạt
tới atman.
Khi người tìm kiếm lên đường, trên con đường này
việc tìm kiếm của người đó chủ yếu là về phúc lạc và
không phải là chân lí. Bị thất vọng bởi đau khổ và bất ổn
người này lên đường tìm kiếm phúc lạc. Cho nên người
tìm kiếm phúc lạc, nhất định sẽ dừng lại tại bình diện thứ
năm; do đó, tôi phải bảo bạn tìm kiếm không phải phúc
lạc mà là chân lí. Thế thì bạn sẽ không còn lại lâu ở đó.
Thế thì một câu hỏi nảy sinh: "Có ananda: điều này là
tốt và tốt lành. Mình biết bản thân mình: điều này nữa
cũng là tốt và tốt lành. Nhưng những điều này chỉ là lá và
hoa. Gốc rễ ở đâu? Mình biết bản thân mình, mình là
phúc lạc - điều đó là tốt, nhưng mình phát sinh từ đâu?
Gốc rễ mình ở đâu? Từ đâu mình tới đây? Đâu là chiều
sâu của sự tồn tại của mình? Từ đại dương nào có con
sóng này mà mình nảy sinh ra?"
Nếu cuộc truy tìm của bạn là về chân lí bạn sẽ tiến tới
thể thứ năm. Do đó ngay từ ban đầu, cuộc truy tìm của
bạn nên là về chân lí chứ không phải là phúc lạc; bằng
không, cuộc hành trình của bạn tới bình diện thứ năm sẽ
dễ dàng nhưng bạn sẽ dừng lại ở đó. Nếu việc truy tìm là
về chân lí, không có vấn đề dừng lại ở đó.
Cho nên chướng ngại lớn nhất trên bình diện thứ năm
là niềm vui vô song mà chúng ta kinh nghiệm - và còn
nhiều hơn thế bởi vì chúng ta tới từ một thế giới không có
gì ngoài đau đớn, đau khổ, lo âu và căng thẳng. Thế thì,
khi chúng ta đạt tới ngôi đền này của phúc lạc, có ham
muốn tràn ngập để nhảy múa với cực lạc, được nhấn
chìm, được mất hút trong phúc lạc này. Đây không phải
là chỗ để mất hút. Chỗ đó rồi sẽ tới, và thế thì bạn sẽ
không phải làm mất bản thân mình; bạn sẽ đơn giản mất
đi. Có khác biệt lớn lao giữa đánh mất bản thân mình và
bị mất hút. Nói cách khác, bạn sẽ đạt tới chỗ mà cho dù
bạn muốn bạn cũng không thể cứu được bản thân mình.
Bạn sẽ thấy bản thân mình trở nên bị mất đi; không
phương cứu chữa. Vậy mà ở đây tại thể thứ năm bạn cũng
có thể làm mất bản thân mình. Nỗ lực của bạn, cố gắng
của bạn, vẫn có tác dụng ở đây - và cho dù bản ngã đã
chết thực sự ở bình diện thứ năm, nhưng cái-tôi-đây vẫn
còn dai dẳng. Do đó cần phải hiểu khác biệt giữa bản ngã
và cái-tôi-đây.
Bản ngã, cảm giác về ‘tôi’, sẽ chết, nhưng cảm giác
về ‘đây’ vẫn chưa chết. Có hai điều trong "tôi đây," cái
‘tôi’ là bản ngã còn cái ‘đây’ là asmita - cảm giác về sự
hiện hữu. Cho nên cái ‘tôi’ sẽ chết trên bình diện thứ
năm, nhưng sự hiện hữu, cái ‘đây’, sẽ còn lại: tôi-đây sẽ
còn lại. Đứng trên bình diện này, thiền nhân sẽ tuyên bố,
"Có vô hạn linh hồn và từng linh hồn đều khác lẫn nhau
và tách biệt nhau." Trên bình diện này thiền nhân sẽ kinh
nghiệm sự tồn tại của vô hạn linh hồn, bởi vì người đó
vẫn còn cảm thấy cái đây, cảm thấy sự hiện hữu mà làm
cho người đó cảm thấy tách rời người khác. Nếu việc truy
tìm chân lí hiểu thấu tâm trí, chướng ngại của phúc lạc có
thể bị vượt qua - bởi vì phúc lạc không dừng trở thành
chán ngắt. Một giai điệu đơn độc có thể trở thành tẻ nhạt.
Bertrand Russel có lần đã nói đùa: "Tôi không bị hấp
dẫn với giải thoát, bởi vì tôi nghe nói chẳng có gì ngoài
phúc lạc ở đó. Một mình phúc lạc sẽ rất đơn điệu - phúc
lạc và phúc lạc mà chẳng có gì khác cả. Nếu không có
một dấu hiệu về bất hạnh - không lo âu, không căng thẳng
trong nó - làm sao người ta có thể chịu đựng được phúc
lạc như vậy?"
Bị mất hút trong phúc lạc là nguy hiểm của bình diện
thứ năm. Nó rất khó vượt qua. Đôi khi phải mất nhiều lần
sinh thành để làm như vậy. Bốn bước đầu không khó lắm
để vượt qua, nhưng bước thứ năm là rất khó. Nhiều lần
sinh thành có thể cần phải có để cho chán phúc lạc, để
cho chán cái ta, để cho chán atman.
Cho nên truy tìm cho tới thể thứ năm vẫn là để gạt bỏ
đau đớn, hận thù, bạo hành và ham muốn. Sau thể thứ
năm việc tìm kiếm là để gạt bỏ cái ta. Cho nên có hai
điều: thứ nhất là tự do khỏi cái gì đó; đây là một điều và
nó được hoàn tất tại bình diện thứ năm. Điều thứ hai là tự
do khỏi cái ta, và do vậy một thế giới hoàn toàn mới bắt
đầu từ đây.
Thể thứ sáu là Brahma sharira, thể vũ trụ, và luân xa
thứ sáu là luân xa agya. Tại đây không có nghị nguyên.
Kinh nghiệm về phúc lạc trở nên mạnh mẽ ở bình diện
thứ năm và kinh nghiệm về sự tồn tại, về hiện hữu, là ở
bình diện thứ sáu. Asmita bây giờ sẽ bị mất - tôi đây. Cái
tôi trong điều này bị mất tại bình diện thứ năm và cái đây
sẽ ra đi ngay khi bạn siêu việt lên trên bình diện thứ năm.
Cái có đây sẽ được cảm thấy; tathata, cái như thế sẽ được
cảm thấy. Không đâu còn cái cảm giác về tôi hay đây; chỉ
cái đang đó còn lại. Cho nên ở đây sẽ là sự cảm nhận về
thực tại, về hiện hữu - cảm nhận về tâm thức. Nhưng ở
đây tâm thức tự do với tôi; nó không còn là tâm thức của
tôi. Nó chỉ là tâm thức - không còn là sự tồn tại của tôi,
mà chỉ là sự tồn tại.
Một số thiền nhân dừng lại sau khi đạt tới Brahma
sharira, thể vũ trụ, bởi vì trạng thái của "Tôi là Brahman"
đã tới - trạng thái của "Aham Brahmasmi," khi tôi không
có đó mà chỉ có Brahman. Bây giờ cái gì có đấy nữa để
mà tìm kiếm? Cái gì phải được tìm? Chẳng gì còn lại để
mà tìm kiếm cả. Bây giờ mọi thứ đều đã đạt tới. Brahman
nghĩa là toàn bộ. Người đứng tại điểm này nói, "Brahman
là chân lí tối thượng, Brahman là thực tại vũ trụ. Chẳng
có gì vượt ra ngoài nữa."
Có thể dừng lại ở đây, và người tìm kiếm quả có
dừng lại tại giai đoạn này hàng triệu lần sinh thành, bởi vì
dường như là chẳng còn gì phía trước nữa. Cho nên
Brahma gyani, người đã đạt tới việc nhận ra Brahman, sẽ
bị mắc kẹt ở đây; người đó sẽ không đi thêm nữa. Điều
này khó khăn thế để vượt qua vì chẳng có gì để vượt qua
cả. Mọi thứ đều đã được bao quát. Người ta không cần
một không gian để đi vào sao? Nếu tôi muốn đi ra ngoài
căn phòng này phải có chỗ nào đó khác để đi chứ. Nhưng
căn phòng bây giờ đã trở nên khổng lồ, vô thuỷ vô chung,
vô hạn, vô biên tới mức chẳng có đâu mà đi cả. Cho nên
chúng ta sẽ đi tìm kiếm ở đâu? Chẳng cái gì còn lại để
được tìm kiếm; mọi thứ đều đã được bao quát cả rồi. Cho
nên cuộc hành trình có thể dừng lại tại giai đoạn này cho
vô hạn lần sinh thành.
Cho nên Brahman là chướng ngại tối thượng - rào
chắn cuối cùng trong cuộc truy tìm tối thượng của người
tìm kiếm. Bây giờ chỉ hiện hữu là còn lại, nhưng vô hiện
hữu, vẫn còn phải được hiểu. Hiện hữu, cái đây, đã được
biết tới, nhưng vô hiện hữu vẫn còn cần được nhận ra -
cái không có vẫn còn phải được biết. Do đó, bình diện thứ
bảy là nirvana kaya, thể niết bàn, và luân xa của nó là
sahasrar. Chẳng điều gì có thể nói được liên quan tới
luân xa này. Chúng ta chỉ có thể tiếp tục nói nhiều nhất
cho tới bình diện thứ sáu - và điều đó nữa cũng là rất khó
khăn rồi. Phần lớn trong đó đều sẽ trở thành sai.
Cho tới thể thứ năm, việc tìm kiếm diễn ra bên trong
phương pháp rất khoa học; mọi thứ đều có thể được giải
thích. Tại bình diện thứ sáu chân trời bắt đầu mờ nhạt đi;
mọi thứ dường như vô nghĩa. Hướng dẫn vẫn có thể được
cho nhưng chung cuộc ngón tay chỉ cũng mất và hướng
dẫn cũng không còn nữa bởi vì sự hiện hữu riêng của
người ta bị xoá bỏ. Cho nên Brahman, hiện hữu tuyệt đối,
được biết tới từ thể thứ sáu và luân xa thứ sáu.
Do đó những người tìm kiếm Brahman sẽ thiền về
luân xa agya nằm ở giữa hai con mắt. Luân xa này được
nối với thể vũ trụ. Những người làm việc hoàn toàn trên
luân xa này sẽ bắt đầu nhớ tới sự mở rộng vô hạn bao la
mà họ chứng kiến con mắt thứ ba. Đây là con mắt thứ ba
mà từ đó bây giờ họ có thể xem vũ trụ, cái vô hạn.
Một cuộc hành trình nữa vẫn còn lại - cuộc hành trình
vào vô hiện hữu, vô tồn tại. Sự tồn tại chỉ mới là một nửa
câu chuyện: còn có cả vô tồn tại. Ánh sáng có, nhưng
phía bên kia có bóng tối. Cuộc sống là một phần, nhưng
cũng có cái chết. Do đó, cũng cần biết cái vô tồn tại còn
lại, cái hư không, vì chân lí tối thượng chỉ có thể được
biết khi đã biết cả hai được biết - sự tồn tại và sự vô tồn
tại. Hiện hữu được biết trong tính toàn bộ của nó và vô
hiện hữu cũng được biết trong tính toàn bộ của nó: thế thì
việc biết là đầy đủ. Sự tồn tại được biết trong tính toàn bộ
và sự vô tồn tại cũng được biết trong tính toàn bộ của nó:
thế thì chúng ta biết cái toàn thể; bằng không kinh nghiệm
của chúng ta là không đầy đủ. Có bất hoàn hảo trong
brahma gyan, mà đó là việc không thể nào biết được cái
vô hiện hữu. Do đó, brahma gyani phủ nhận rằng có
những điều như vô tồn tại và gọi nó là ảo tưởng. Người
đó nói rằng nó không tồn tại. Người đó nói rằng hiện hữu
là chân lí còn không hiện hữu là giả dối. Đơn giản không
có điều như vậy, cho nên vấn đề biết nó không nảy sinh.
Nirvana kaya, thể niết bàn, có nghĩa là shunya kaya,
cái hư không mà từ đó chúng ta nhảy từ hiện hữu vào vô
hiện hữu. Trong thể vũ trụ cái gì đó vẫn còn chưa được
biết tới. Cái đó nữa cũng phải được biết - không hiện hữu
là gì, cái gì còn phải bị xoá sạch. Do đó, bình diện thứ
bẩy theo một nghĩa nào đó là cái chết tối hậu. Niết bàn,
như tôi đã nói với các bạn trước đây, nghĩa là sự tắt ngấm
của ngọn lửa. Cái mà đã là tôi tắt ngấm rồi; cái đã là đây
tắt ngấm rồi. Nhưng bây giờ chúng ta lại đi vào hiện hữu
bởi việc là một với tất cả. Bây giờ chúng ta là Brahman,
và điều này nữa sẽ phải bỏ đi. Người mà sẵn sàng lấy cú
nhảy cuối cùng, biết cả sự tồn tại và cả sự vô tồn tại.
Cho nên có bẩy thể và bẩy luân xa, và bên trong
chúng có tất cả các phương tiện cũng như rào chắn.
Không có rào chắn nào ở bên ngoài. Do đó, không có
nhiều lí do để mà tìm kiếm ở bên ngoài. Nếu bạn đã đi
hỏi ai đó hay hiểu từ ai đó, thế thì đừng xin xỏ. Hiểu là
một chuyện, xin xỏ là chuyện khác. Tìm kiếm của bạn
bao giờ cũng nên tiếp tục. Bất kì cái gì bạn đã nghe và
hiểu cũng nên được làm thành việc tìm kiếm của bạn.
Đừng làm nó thành niềm tin bằng không nó sẽ thành xin
xỏ.
Bạn hỏi tôi điều gì đó; tôi trao cho bạn câu trả lời.
Nếu bạn tới xin của bố thí, bạn sẽ đặt câu trả lời này vào
túi và cất nó đi như kho báu của mình. Thế thì bạn không
phải là thiền nhân mà là kẻ ăn xin. Không, điều tôi nói
với bạn nên trở thành cuộc truy tìm của bạn. Nó nên làm
tăng tốc việc tìm kiếm của bạn; nó nên kích thích và động
viên tính tò mò của bạn. Nó nên đẩy bạn vào khó khăn
lớn, làm cho bạn bất ổn hơn và nêu ra những câu hỏi mới
trong bạn, những chiều hướng mới, để cho bạn sẽ khởi
hành một con đường khám phá mới. Thế thì bạn đã không
lấy của bố thí từ tôi, thế thì bạn đã hiểu điều tôi nói. Và
nếu điều này giúp cho bạn hiểu bản thân mình, thế thì đây
không phải là xin xỏ.
Cho nên đi để biết và hiểu; đi để tìm kiếm. Bạn không
phải là người tìm kiếm duy nhất; nhiều người khác cũng
đang tìm kiếm. Nhiều người đã tìm kiếm, nhiều người đã
đạt tới. Cố gắng để biết, để hiểu thấu, điều đã xảy ra cho
những người như thế và cả những điều còn chưa xảy ra;
cố gắng và hiểu tất cả những điều này. Nhưng trong khi
hiểu điều này, đừng dừng việc cố gắng hiểu về cái ta
riêng của bạn. Đừng nghĩ rằng việc hiểu người khác đã
trở thành việc nhận ra của bạn. Đừng đặt niềm tin vào
kinh nghiệm của họ; đừng tin mù quáng vào họ. Thay vì
thế chuyển mọi thứ thành đặt câu hỏi. Biến chúng thành
câu hỏi chứ không phải là câu trả lời; thế thì cuộc hành
trình của bạn sẽ tiếp tục. Thế thì nó sẽ không phải là việc
xin xỏ: nó sẽ là cuộc truy tìm của bạn.
Chính việc tìm kiếm của bạn sẽ đưa bạn đến cái cuối
cùng. Khi bạn thấm vào bên trong bản thân mình, bạn sẽ
thấy hai phía của từng luân xa. Như tôi đã nói với các
bạn, một phía do tự nhiên trao cho bạn và một phía bạn
phải khám phá ra. Giận dữ được trao cho bạn; bao dung
bạn phải tìm ra. Dục được trao cho bạn; vô dục
(brahmacharya) bạn phải phát triển lấy. Giấc mơ bạn có;
linh ảnh phải tiến triển ra.
Việc tìm kiếm của bạn về cái đối lập sẽ tiếp tục cho
tới luân xa thứ tư. Từ luân xa thứ năm việc tìm kiếm của
bạn sẽ bắt đầu cho cái không phân chia được, cho cái bất
nhị. Cố gắng liên tục tìm kiếm cái khác với cái đã đến với
bạn trong thể thứ năm. Khi bạn đạt tới phúc lạc, cố gắng
tìm ra cái nằm bên ngoài phúc lạc. Tại bình diện thứ sáu
bạn đạt tới Brahman, nhưng vẫn giữ việc tìm kiếm, "Cái
gì có đó bên ngoài Brahman?" Thế thì một ngày nào đó
bạn sẽ bước vào thể thứ bẩy, nơi hiện hữu và vô hiện hữu,
ánh sáng và bóng tối, sống và chết, đều cùng xuất hiện.
Đó là đạt tới điều tối thượng... và không có phương tiện
trao đổi gì trong trạng thái này.
Đây là lí do tại sao các kinh sách của chúng ta chấm
dứt với thể thứ năm, hay nhiều nhất, cũng chỉ lên tới thể
thứ sáu. Những người với thiên hướng tâm trí khoa học
hoàn toàn không nói về cái gì ở sau thể thứ năm. Thực tại
vũ trụ, vô biên và vô giới hạn, bắt đầu từ đây, nhưng các
nhà huyền môn như người Sufi nói về những bình diện
bên ngoài bình diện thứ năm. Rất khó để nói về những
bình diện này bởi vì người ta phải tự mâu thuẫn với chính
mình lặp đi lặp lại. Nếu bạn đọc qua văn bản của tất cả
những điều mà một thầy Sufi nói, bạn sẽ nói con người
này là điên. Đôi khi ông ấy nói điều này đôi khi nói điều
gì đó khác. Ông ấy nói, "Có Thượng đế" và ông ấy cũng
nói luôn, "Không có Thượng đế." Ông ấy nói, "Ta đã thấy
ngài" và trong cùng nhịp thở đó ông ấy nói luôn, "Làm
sao ông thấy ngài được? Ngài không phải là một vật mà
mắt có thể thấy!" Những nhà huyền môn này hay đưa ra
những câu hỏi mà bạn sẽ phải tự hỏi liệu ông ta có đang
tự hỏi chính mình hay hỏi người khác.
Huyền môn bắt đầu với bình diện thứ sáu. Do đó, nơi
không có huyền môn trong tôn giáo, biết rằng nó đã kết
thúc ở thể thứ năm. Nhưng huyền môn cũng không phải
là giai đoạn cuối cùng. Cái tối thượng là hư không - cái
không. Tôn giáo kết thúc với huyền môn sẽ kết thúc ở thể
thứ sáu. Hư không là điều tối thượng, hư vô là điều tối
thượng, bởi vì sau nó chẳng còn gì nữa để mà nói.
Cho nên việc tìm kiếm advaita, bất nhị, bắt đầu với
thể thứ năm. Tất cả việc tìm kiếm về cái đối lập đều chấm
dứt với thể thứ tư. Tất cả các rào chắn đều bên trong
chúng ta và chúng là hữu dụng, bởi vì chính những
chướng ngại này khi được biến đổi đều trở thành phương
tiện của bạn để tiến tới.
Tảng đá nằm trên đường. Chừng nào bạn còn không
hiểu, nó sẽ vẫn là chướng ngại cho bạn. Cái ngày bạn
hiểu ra, nó sẽ trở thành chiếc thang cho bạn. Tảng đá nằm
trên đường: chừng nào bạn chưa hiểu, bạn sẽ kêu to,
"Tảng đá đang ngáng đường tôi. Làm sao tôi có thể đi lên
được?" Khi bạn đã hiểu, bạn sẽ trèo qua tảng đá và tiến
tới, cám ơn tảng đá bằng những lời, "Bạn đã ban ân huệ
cho tôi nhiều lắm vì sau khi trèo qua bạn tôi đã tìm thấy
bản thân mình ở bình diện cao hơn. Bây giờ tôi đang tiến
tới trên mức cao hơn. Bạn là phương tiện và tôi đã coi
bạn như rào chắn," bạn sẽ nói thế. Con đường bị chắn bởi
tảng đá cuội này. Điều gì sẽ xảy ra? Cứ trèo qua nó và sẽ
biết. Theo cách này, vượt qua giận dữ đi; xuyên qua nó và
đạt tới bao dung, cái ở mức độ khác. Xuyên qua dục và
đạt tới brahmacharya cái ở bình diện hoàn toàn khác. Thế
thì bạn sẽ cám ơn dục và giận dữ vì là những hòn đá bước
lên.
Mọi tảng đá trên con đường đều có thể là rào chắn
cũng như người trung gian. Điều đó tuỳ thuộc hoàn toàn
vào điều bạn làm với nó. Một điều là chắc chắn: Đừng
tranh đấu với tảng đá, bởi vì thế thì bạn sẽ chỉ làm vỡ đầu
mình và tảng đá sẽ không giúp ích gì. Nếu bạn tranh đấu
với tảng đá, tảng đá sẽ chắn đường bạn, vì bất kì nơi đâu
chúng ta tranh đấu chúng ta dừng lại. Chúng ta phải dừng
lại gần người hay vật mà chúng ta tranh đấu; chúng ta
không thể nào tranh đấu từ một khoảng cách. Đó là lí do
tại sao nếu ai đó tranh đấu với dục, người đó phải bị dính
líu vào dục cũng nhiều như người khác mê say trong nó.
Thực tế, nhiều lần người này đến gần dục hơn, bởi vì
người say mê trong nó cũng có thể rút ra khỏi nó một
ngày nào đó, có thể siêu việt lên trên nó. Nhưng người
tranh đấu không thể rút ra khỏi nó được; người đó cứ đi
lòng vòng mãi.
Nếu bạn tranh đấu với giận dữ, bạn sẽ trở nên giận dữ
với bản thân mình. Toàn bộ nhân cách của bạn sẽ chất
đầy với giận dữ và từng thớ thịt trong thân thể bạn sẽ
rung động với nó. Bạn sẽ phát ra giận dữ tất cả xung
quanh bạn. Những câu chuyện chúng ta đọc về các hiền
nhân và thầy tu khổ hạnh như Durwasa rất giận dữ là có
bởi vì họ đã tranh đấu với giận dữ; do vậy, họ chẳng thể
nghĩ gì ngoài nguyền rủa. Nhân cách của người như thế
biến thành lửa. Đây là những người đã tranh đấu với tảng
đá và bây giờ đang trong khó khăn. Họ đã trở thành cái
mà họ tranh đấu chống nó.
Bạn sẽ đọc về các tu sĩ khác mà các tiên nữ tinh tú
trên trời giáng xuống và làm hư hỏng họ trong khoảnh
khắc. Thật là kì lạ! Điều này chỉ có thể nếu một người đã
tranh đấu với dục; không thể khác. Người đó đã tranh đấu
và tranh đấu và do vậy làm yếu dần bản thân mình. Thế
thì dục là an toàn trong chỗ riêng của nó; nó chỉ đợi cho
người này bị suy sụp. Dục này bây giờ có thể bùng ra bất
kì đâu. Hầu như không có khả năng một apsara thực tế từ
trên trời xuống - chẳng lẽ những tiên nữ như thế lại hợp
đồng để quấy nhiễu các tu sĩ và munis? Khi dục bị kìm
nén bằng bàn tay nặng nề, người đàn bà thông thường
cũng trở thành tiên nữ tinh tú. Tâm trí phóng chiếu các
mơ mộng vào ban đêm và ý nghĩ vào ban ngày và nó trở
thành chất đầy với những ý nghĩ này. Thế thì một thứ mà
không hấp dẫn chút nào lại trở thành quyến rũ.
Cho nên người tìm kiếm phải nhận biết về khuynh
hướng tranh đấu. Người đó nên cố gắng tột bực để hiểu,
và việc cố gắng để hiểu có ngụ ý là hiểu cái được tự nhiên
trao cho người đó. Qua cái đã được trao cho bạn, bạn sẽ
đạt tới cái còn cần đạt tới. Đây là điểm bắt đầu. Nếu bạn
chạy khỏi cái chính là chỗ bắt đầu thì không thể nào đạt
tới đích được. Nếu bạn chạy khỏi dục trong hoảng loạn,
làm sao bạn đạt tới brahmacharya? Dục là lối mở do tự
nhiên trao cho còn vô dục brahmacharya là việc truy tìm
cần phải được tiến hành qua chính lối mở này. Nếu bạn
thấy trong viễn cảnh này, không cần phải xin xỏ từ đâu
cả; hiểu biết chính là cái được cần tới. Tất cả sự tồn tại
đều có đó với mục đích cho hiểu biết. Học từ bất kì ai,
nghe mọi người, và cuối cùng, hiểu cái ta riêng của mình
từ bên trong.
#4Thầy đã làm sáng tỏ cho chúng tôi về bẩy thể. Thầy
có thể nói cho chúng tôi tên một số cá nhân - cổ đại
hay hiện đại - người đã đạt tới thể niết bàn, thể vũ trụ
hay thể tâm linh không?
Đừng bận tâm về điều này. Nó không phục vụ cho
mục đích gì cả; nó là vô nghĩa. Cho dù tôi nói cho bạn,
bạn cũng chẳng có phương tiện kiểm chứng nó. Nhiều
nhất có thể được, tránh so sánh và đánh giá các cá nhân vì
nó chẳng phục vụ cho mục đích gì; nó không có nghĩa.
Vứt mối bận tâm đó đi.
Người đã đạt tới thể thứ năm và các thể sau đó có lấy
lại các thể vật lí sau khi chết không?
Có, điều đó đúng. Người đạt tới thể thứ năm hay thứ
sáu trước khi chết, được tái sinh ở cõi trời cao nhất, và tại
đó người đó sống ở bình diện của các deva (thần). Người
đó có thể ở lại cõi này lâu tuỳ ý, nhưng để đạt tới niết
bàn, người đó phải quay trở lại hình hài con người. Sau
khi đạt tới thể thứ năm, không có việc sinh thành trong
thể vật lí, những vẫn có các thể khác. Thực tế, điều chúng
ta gọi là deva hay thần có nghĩa là một loại thân đang tồn
tại. Kiểu thân này tồn tại sau khi đạt tới thể thứ năm. Sau
thể thứ sáu, ngay cả những thân này cũng sẽ không có.
Thế thì chúng ta sẽ thu được dạng của cái ta gọi là
Ishwar, sinh linh tối cao.
Nhưng tất cả những điều này vẫn là các thể. Kiểu nào
là vấn đề phụ. Sau thể thứ bẩy, không có thể nào nữa. Từ
thể thứ năm trở đi các thể ngày càng trở nên tinh tế hơn
cho tới khi chúng đạt tới trạng thái vô thể sau thể thứ bẩy.
#4Trong một bài nói trước, Thầy đã nói Thầy thích
shaktipat gần nhất với ân huệ - nếu nó được như thế
là tốt hơn cả. Điều này có nghĩa là có khả năng tiến
triển và phát triển dần dần trong quá trình shaktipat
không? Nói cách khác liệu có thể có quá trình lượng
đổi trong shaktipat không?
Rất có thể có. Nhiều điều là có thể. Thực tế, khác biệt
giữa shaktipat và ân huệ là lớn. Về nền tảng, chỉ ân huệ
mới hữu dụng và không qua trung gian chính là sự thuần
khiết nhất của nó, bởi vì sẽ không có ai ở giữa để làm cho
nó thành không thuần khiết. Cũng hệt như là khi tôi nhìn
bạn trực tiếp bằng đôi mắt riêng của mình: hình ảnh của
bạn sẽ rõ nét nhất. Thế rồi tôi đeo đôi kính vào: cái nhìn
sẽ không còn thuần khiết nữa, bởi vì bây giờ vật trung
gian đã len vào giữa. Bây giờ có thể có nhiều đa dạng về
vật trung gian - thuần khiết, không thuần khiết. Đôi kính
có thể có mầu, đôi khác trong suốt, và chất lượng của bản
thân thấu kính cũng sẽ thay đổi.
Cho nên khi chúng ta thu được ân huệ qua trung gian,
nhất định có không thuần khiết và chúng là do người
trung gian. Do đó, ân huệ thuần khiết nhất là ở chỗ nó
được nhận trực tiếp khi không có trung gian. Bây giờ,
chẳng hạn, nếu chúng ta có thể thấy mà không cần mắt,
đấy sẽ có nghĩa là cái nhìn thuần khiết hơn, bởi vì ngay cả
mắt cũng là trung gian và nhất định gây ra cản trở nào đó.
Ai đó có thể có mắt lác, ai đó có thể có thị lực yếu, ai đó
có thể có trục trặc khác về mắt - cho nên đây là những
khó khăn. Người có thị lực yếu sẽ thấy một cặp kính đặc
biệt làm trung gian là rất có ích. Có lẽ nó có thể cho
người đó cái nhìn rõ ràng hơn mắt nhìn không đeo kính,
và do vậy kính sẽ trở thành một trung gian nữa. Bây giờ
có hai trung gian, nhưng trung gian thứ hai bù thêm cho
cái yếu của trung gian thứ nhất.
Theo đích xác cùng cách thức này ân huệ đạt tới một
người thông qua người khác thu thập những thứ không
thuần khiết trên con đường. Bây giờ nếu những cái không
thuần khiết này làm cho chúng có hiệu quả đảo ngược lại
những cái không thuần khiết bên trong người tìm kiếm, cả
hai sẽ bù trừ cho nhau. Thế thì điều sẽ xảy ra sẽ gần với
ân huệ nhất. Nhưng điều này sẽ phải được quyết định tách
biệt trong từng trường hợp.
Do đó, ưa thích của tôi là dành cho ân huệ trực tiếp.
Đừng bận tâm về trung gian. Nếu đôi khi trong quá trình
cuộc sống, thoáng nhìn có thể tới từ người trung gian nữa,
nhưng người tìm kiếm không nên lo nghĩ hay lo âu về
điều này. Đừng đi xin xỏ, bởi vì như tôi đã nói, thế thì
người cho nhất định sẽ kéo đến. Thế thì trung gian càng
đậm đặc, pha trộn càng có hiệu quả. Người cho phải là
người không có ý thức về việc cho; thế thì shaktipat có
thể là thuần khiết. Cho dù thế nó vẫn không phải là ân
huệ. Bạn sẽ vẫn cần nhận được ân huệ trực tiếp không
qua trung gian. Phải không có ai giữa bạn và và Thượng
đế; phải không có ai giữa điều thiêng liêng và bạn. Và
điều này bao giờ cũng nên có trong tâm trí bạn. Điều này
nên là khao khát của bạn và điều này nên là việc tìm kiếm
của bạn. Nhiều sự kiện sẽ xảy ra trên con đường, nhưng
bạn không dừng lại ở đâu cả; đó là tất cả những điều được
đòi hỏi ở bạn. Và bạn sẽ cảm thấy khác biệt. Nhất định có
khác biệt về định tính cũng như định lượng, và lí do sẽ có
nhiều.
Shaktipat có thể xảy ra qua người trung gian, người
đã đạt tới thể thứ năm, nhưng nó sẽ không thuần khiết
như nó có thể tới từ người ở thể thứ sáu, bởi vì asmita của
người đó, cái có-đây của người đó vẫn còn không bị động
tới. Cái tôi, đã chết, nhưng cái đây vẫn còn. Bây giờ cái
đây này vẫn sẽ cảm thấy tự hài lòng. Trong người của thể
thứ sáu cái đây cũng đã biến mất; chỉ còn lại Brahman.
Thế thì shaktipat sẽ là thuần khiết. Vậy mà một số ảo
tưởng vẫn còn, bởi vì trạng thái vô hiện hữu vẫn còn chưa
được đạt tới dù rằng trạng thái hiện hữu đã có. Việc hiện
hữu này cũng là màn che rất tinh tế - rất mảnh mai, rất
trong suốt; tất cả là như nhau, nó có đấy.
Cho nên shaktipat qua người ở thể thứ sáu sẽ tốt hơn
cái đến qua người ở thể thứ năm, và sẽ rất gần với ân huệ
trực tiếp. Tuy nhiên dù nó có thể gần, một hơi chút
khoảng cách, dẫu sao, cũng vẫn là khoảng cách. Và một
thứ càng vô giá, khoảng cách dù nhỏ nhất cũng trở thành
khoảng cách lớn. Cho nên điều vô giá là địa hạt của ân
huệ mà ngay cả tấm màn che tinh tế nhất của hiện hữu
cũng tỏ ra là rào chắn.
Bây giờ shaktipat thu được từ người đã đạt tới bình
diện thứ bẩy sẽ là thuần khiết nhất - nhưng dầu vậy nó
vẫn không là ân huệ. Dạng thuần khiết nhất của shaktipat
giáng xuống qua thể thứ bẩy - thuần khiết nhất. Tại đây
shaktipat sẽ đạt tới trạng thái tối thượng, bởi vì không có
tấm màn chắn chừng nào có liên quan tới người trung
gian: người đó là một với cái hư không. Nhưng chừng
nào bạn còn có liên quan, còn có rào chắn. Bạn sẽ coi
người đó như một người trong toàn bộ cuộc sống của
mình; tấm màn của bạn sẽ gây ra rào chắn tối thượng.
Người đó là một với cái hư không; người đó không có bất
kì rào chắn nào - nhưng bạn sẽ nhìn người đó như một cá
nhân.
Bây giờ giả sử tôi đạt tới bình diện thứ bẩy: tôi sẽ biết
rằng tôi đã đạt tới cái hư không, nhưng bạn thì sao? Bạn
sẽ nhìn tôi như một người, và khái niệm này về một cá
nhân sẽ trở thành tấm màn che cuối cùng. Bạn chỉ có thể
gạt bỏ khái niệm này khi biến cố xuất hiện qua cái vô
hình. Nói cách khác, thế thì bạn không thể nào chỉ ra
được biến cố xảy ra từ đâu và như thế nào. Khi bạn không
thể nào tìm được cội nguồn, khái niệm này sẽ bị loại bỏ.
Biến cố này phải là vô nguồn. Nếu tia nắng mặt trời tới,
bạn sẽ nghĩ rằng mặt trời là người. Nhưng khi tia sáng tới
từ không đâu cả, khi mưa rơi mà chẳng có đám mây nào,
thế thì tấm màn che cuối cùng được tạo nên bởi việc nhân
cách hoá sẽ sụp đổ.
Khi bạn tiếp tục khoảng cách sẽ trở nên ngày càng
tinh tế, và biến cố cuối cùng của ân huệ sẽ xảy ra khi
không có ai ở giữa. Chính ý nghĩ của bạn rằng có ai đó ở
giữa là đủ thành rào chắn. Chừng nào có hai, còn có nhiều
cản trở: bạn có đó và người khác có đó. Ngay cả khi
người khác không còn nữa, bạn vẫn còn, và bởi vì bạn có
đấy nên sự hiện hiện của người khác cũng được cảm thấy.
Ân huệ sẽ giáng xuống không có nguồn gốc nào, không
có bất kì gốc gác ở đâu cả, sẽ là tốt nhất. Cá nhân bên
trong bạn sẽ tuôn chảy đi trong ân huệ này, cái tới từ hư
không. Nếu người khác hiện diện, người đó phục vụ cho
mục đích cứu lấy tính cá nhân của bạn mặc cho sự kiện
rằng người đó đang làm việc vì bạn.
Nếu bạn đi ra bãi biển, bạn sẽ kinh nghiệm an bình
lớn hơn, nếu bạn đi vào rừng sâu, bạn sẽ kinh nghiệm an
bình lớn hơn, bởi vì người khác không hiện diện ở đó và
do vậy bạn vẫn còn vững chắc và mạnh mẽ. Nếu hai
người ngồi trong một căn phòng, có sóng và phản sóng
căng thẳng ở đó cho dù hai người có thể không đánh nhau
hay không cãi nhau hay thậm chí không nói. Cho nên
ngay cả khi họ im lặng, cái tôi của mỗi người vẫn thường
xuyên hoạt động. Xâm lấn và đề phòng có đó trong độ
hoạt động lớn nhất. Những điều này có thể tiếp tục một
cách im lặng và chẳng cần đụng độ trực tiếp. Chỉ sự hiện
diện của hai người và căn phòng tràn đầy căng thẳng.
Nếu bạn thu được tri thức đầy đủ về tất cả những
luồng chảy phát xuất từ bạn, bạn sẽ thấy rõ ràng rằng căn
phòng chứa hai người đã bị phân chia thành hai và mỗi cá
nhân đã trở thành một trung tâm. Các rung động năng
lượng từ cả hai đối diện nhau giống như hai đội quân trên
chiến trường. Sự hiện diện của người khác làm mạnh
thêm cho cái tôi của bạn. Khi người khác bỏ đi, căn
phòng sẽ trở thành một chỗ khác. Bạn thảnh thơi. Cái tôi
đã cáu kỉnh sẽ tự buông bỏ mình. Nó bây giờ dựa lên nệm
và nghỉ ngơi, nó bây giờ thở tự do vì người khác không
có đó. Do đó, ý nghĩa của đơn độc là thảnh thơi cho bản
ngã bạn và giúp nó buông bỏ. Chính bởi lí do này mà bạn
thấy dễ chịu khi ở gần cây cối hơn là trong một toán
người khác.
Đây là lí do tại sao, trong các nước mà căng thẳng
giữa người và người đang trở nên ngày một sâu sắc hơn,
người ta có khuynh hướng sống với con vật nuôi. Sống
với vật nuôi dễ dàng hơn với con người, bởi vì chúng
không có cái tôi. Bạn thắt vòng cổ cho con chó, và nó đi
lăng xăng hạnh phúc. Chúng ta không thể thắt vòng cổ
cho người theo cách này, mặc dầu chúng ta cố gắng lắm.
Vợ thắt vòng cổ cho chồng, chồng thắt vòng cổ cho vợ,
và cả hai cố gắng hạnh phúc - nhưng vòng cổ này là tinh
tế và không thể nào thấy được một cách công khai. Vậy
mà mỗi người đều cố gắng giũ vòng cổ ra và được tự do -
nhưng con chó, bước đi hạnh phúc vẫy đuôi. Cho nên
niềm vui mà con chó đem lại, không người nào có thể
đem lại được, bởi vì người khác lập tức đem bản ngã của
bạn vào sự chú ý của bạn, và thế là rắc rối bắt đầu.
Dần dần con người cố gắng phá vỡ mối quan hệ của
mình với người khác và thiết lập mối quan hệ với đồ vật
bởi vì chúng dễ giải quyết hơn. Cho nên số các đồ vật cứ
tăng lên hàng ngày. Có nhiều đồ trong nhà hơn là người.
Mọi người đem tới mất trật tự và lẫn lộn; đồ đạc không
làm bận tâm. Cái ghế vẫn còn ở chỗ tôi đặt nó. Nếu tôi
ngồi lên nó, nó không gây rắc rối gì. Sự hiện diện của cây
cối, dòng sông, núi non, không gây rắc rối; do đó chúng
ta cảm thấy thoải mái ở gần chúng. Lí do chỉ là thế này:
cái tôi không đứng với sức mạnh đầy đủ trước chúng ta;
do đó, chúng ta cũng cảm thấy được thảnh thơi. Khi
người khác không có đó, cần gì có cái tôi? Thế thì cái tôi
nữa cũng không có. Nhưng hơi chút ý niệm mơ hồ về
người khác thôi, và cái tôi nhảy vào chú ý. Nó lo nghĩ về
an ninh của nó, về việc thiếu thông tin của nó như khoảnh
khắc tiếp có thể đem tới cái gì; do đó, nó phải sẵn sàng
mọi lúc.
Bản ngã bao giờ cũng còn tỉnh táo cho tới khoảnh
khắc cuối cùng. Ngay cả khi bạn gặp một người ở bình
diện thứ bẩy, bản ngã cũng tỉnh táo. Đôi khi nó trở nên
tỉnh táo quá mức trước một người như vậy. Bạn không sợ
người thường mấy đâu, bởi vì cho dù người đó làm bạn
tổn thương, vết thương cũng không sâu lắm. Nhưng
người đã đạt tới thể thứ năm hay bên ngoài thể thứ năm,
có thể gây ra cuộc phẫu thuật sâu trong thể của bạn ở mức
người đó đã đạt tới. Do vậy sợ của bạn trở nên nhiều hơn,
bởi vì "Trời biết ông ấy có thể làm gì." Bạn bắt đầu cảm
thấy cái gì đó chưa biết dường như các lực không quen
thuộc đang quan sát bạn qua người đó, cho nên bạn trở
nên thận trọng. Bạn thấy vực thẳm khắp quanh người đó.
Bạn trở nên tỉnh táo và cảnh giác. Bạn bắt đầu cảm thấy
kinh nghiệm về thung lũng sâu, và bạn bị nỗi sợ bắt giữ
rằng nếu bạn đi vào trong người đó, bạn sẽ rơi vào trong
vực thẳm này.
Đó là lí do tại sao khi những người như Jesus,
Krishna và Socrates được sinh ra, chúng ta giết họ: chính
sự hiện diện của họ gây ra lẫn lộn lớn trong chúng ta. Đi
gần họ là đi có chủ tâm gần nguy hiểm. Thế rồi khi họ
chết chúng ta tôn thờ họ bởi vì bây giờ không có sợ nữa.
Bây giờ chúng ta có thể đúc ảnh họ bằng vàng và đứng
chắp tay trước họ, gọi họ là sư phụ kính yêu của chúng ta.
Nhưng trong thời họ còn sống, chúng ta đối xử với họ
khác. Thế thì chúng ta rất sợ họ và sợ này là về điều
chúng ta cũng chẳng biết: bạn không biết chắc vấn đề là
gì. Người càng đi sâu vào bên trong bản thân mình, người
đó càng trở thành giống như vực thẳm với chúng ta. Thế
thì điều đó cũng giống hệt như ai đó sợ nhìn xuống thung
lũng bởi vì nó làm cho người đó chóng mặt. Tương tự
vậy, nhìn vào mắt người như thế cũng sẽ tạo ra sợ hãi:
chúng ta chắc chắn chóng mặt.
Có một câu chuyện hay về Moses. Sau khi Hazrat
Moses có linh ảnh về Thượng đế, ông ấy chẳng bao giờ
để khuôn mặt mình lộ trần ra nữa. Cả đời mình, ông ấy
đều đi với tấm mạng che mặt, bởi vì nhìn vào khuôn mặt
ông ấy trở thành nguy hiểm. Bất kì ai làm như vậy đều
phải chạy trốn. Có vực thẳm vô hạn trong mắt ông ấy.
Cho nên Moses đi lại đều với mặt được che kín bởi vì
mọi người sợ đôi mắt ông. Mắt ông dường như kéo họ lại
như nam châm tới vực thẳm chưa biết đó ở bên trong. Họ
trở nên sợ hãi bởi vì họ không biết đôi mắt ông ấy sẽ lôi
họ đi đâu và điều gì sẽ xảy ra với họ.
Người đã đạt tới bình diện thứ bẩy và bình diện cuối
cũng vẫn tồn tại chừng nào còn liên quan tới bạn, nhưng
bạn, sẽ cố gắng để bảo vệ bản thân mình khỏi người đó và
rào chắn sẽ còn lại ở giữa. Do đó, shaktipat trong trường
hợp này cũng không thể là thuần khiết. Nó có thể thuần
khiết nếu bạn vứt bỏ ý nghĩ về một sinh linh như vậy là
người - nhưng điều này chỉ có thể xảy ra khi cái tôi của
bạn mất đi. Khi bạn đạt tới trạng thái mà bạn hoàn toàn
không biết gì về bản ngã, bạn sẽ có thể thu được shaktipat
từ bất kì đâu, bởi vì thế thì không có vấn đề về việc nó tới
từ bất kì ai; nó sẽ trở thành vô nguồn gốc, nó sẽ trở thành
ân huệ.
Đám đông càng lớn, bản ngã của bạn càng cô đặc và
cứng rắn hơn. Do đó, từ lâu đã có việc thực hành thoát
khỏi đám đông và cố gắng vứt bỏ bản ngã trong đơn độc.
Nhưng con người thật kì lạ: nếu người đó ngồi dưới gốc
cây lâu, người đó sẽ bắt đầu nói về điều đó và đề cập tới
điều đó như ‘bạn’. Nếu người đó ngồi gần đại dương,
người đó cũng làm hệt như thế. Cái ‘tôi’ trong chúng ta sẽ
làm bất kì cái gì có thể để giữ cho nó còn sống. Nó sẽ tạo
ra người khác không thành vấn đề bạn đi đến đâu, và nó
sẽ thiết lập mối quan hệ tình cảm ngay cả với những vật
vô tri và sẽ bắt đầu nhìn chúng như các cá nhân.
Khi một người tiến tới giai đoạn cuối, người đó làm
Thượng đế thành người khác để cho người đó có thể cứu
cái ‘tôi’ của mình. Do đó, người sùng kính bao giờ cũng
nói, "Làm sao chúng tôi có thể là một với Thượng đế
được? Ngài là ngài và chúng tôi là chúng tôi. Chúng tôi ở
dưới chân ngài, và ngài là Thượng đế." Người sùng kính
chẳng nói gì khác hơn điều này, rằng nếu bạn muốn là
một với ngài, bạn sẽ phải làm mất bản ngã của mình. Cho
nên người đó giữ Thượng đế ở một khoảng cách và người
đó bắt đầu hợp lí hoá. Người đó nói, "Làm sao chúng ta
có thể là một với ngài được? Ngài vĩ đại, ngài là tuyệt
đối. Chúng ta là những kẻ bị ruồng bỏ bất hạnh cho nên
làm sao chúng ta có thể là một với ngài được?" Người
sùng kính đang cứu cái ‘ngươi’ để cứu cái ‘tôi’ của mình.
Do đó, bhakta, người sùng kính, chưa bao giờ vươn lên
trên bình diện thứ tư. Người đó thậm chí không lên tới
bình diện thứ năm: người đó mắc kẹt tại bình diện thứ tư.
Thay vì tưởng tượng, trên bình diện thứ tư linh ảnh tới
với người đó. Người đó phát hiện ra tất cả những khả
năng tốt nhất của thể thứ tư. Biết bao nhiêu biến cố xảy ra
trong cuộc đời người sùng kính, mà là điều huyền bí,
nhưng bhakta vẫn cứ còn ở bình diện thứ tư như cũ.
Atma sadhak - người đi tìm cái ta - hatha yogi - nhà
yoga theo khổ hạnh - và nhiều người trải qua các thực
hành tương tự, đạt tới bình diện thứ năm là nhiều nhất.
Ham muốn bản chất của sadhak là đạt tới phúc lạc, đạt tới
giải thoát và tự do khỏi đau khổ. Đằng sau tất cả những
ham muốn này có cái ‘tôi’: người đó nói, "Tôi muốn giải
thoát" - không phải là giải thoát khỏi cái tôi, mà là giải
thoát của cái tôi. Người đó nói, "Tôi muốn được tự do, tôi
muốn phúc lớn." Cái tôi của người đó vẫn cô đặc, cho nên
người đó chỉ đạt tới bình diện thứ năm.
Raja yogi có thể đạt tới bình diện thứ sáu. Người này
nói, "Có gì trong cái ‘tôi’? Tôi là cái không; một mình
ngài hiện hữu - không phải tôi, nhưng ngài, Brahman, là
mọi thứ." Người đó sẵn sàng đánh mất bản ngã nhưng
người đó không được chuẩn bị để mất sự hiện hữu của
mình. Người đó nói, "Tôi sẽ còn là một phần của
Brahman; tôi là một với ngài. Tôi là Brahman. Tôi sẽ
buông bỏ bản thân mình, nhưng bản thể bên trong của tôi
sẽ còn được hội nhập trong ngài." Người tìm kiếm như
vậy có thể đi lên tới thể thứ sáu.
Một thiền nhân như Phật, đạt tới bình diện thứ bẩy
bởi vì người đó sẵn sàng vứt bỏ tất cả - ngay cả Brahman.
Người đó sẵn sàng đánh mất bản thân mình và đánh mất
mọi thứ. Người đó nói, "Cứ để cái hiện hữu còn lại. Về
phần mình, tôi không ham muốn cái gì còn lại cả: tôi sẵn
sàng đánh mất tất cả mọi cái của tôi." Người đã chuẩn bị
mất mọi thứ có quyền thu được tất cả.
Thể niết bàn chỉ được đạt tới khi chúng ta được chuẩn
bị trở thành cái không. Thế thì có sự sẵn sàng để biết
ngay cả cái chết. Để biết cuộc sống, nhiều người đã sẵn
sàng. Do đó, người muốn biết về cuộc sống sẽ dừng tại
bình diện thứ sáu. Nhưng người sẵn sàng tìm hiểu về cái
chết cũng sẽ có thể biết tới tầng thứ bẩy.
#4Tại sao thiền nhân đã thu được khả năng linh ảnh và
cái nhìn tinh tế ở bình diện thứ tư - và nhiều người đã
đạt tới giai đoạn này - vẫn không thể tiết lộ tri thức
về mặt trăng, mặt trời, trái đất và chuyển động của
chúng, như các nhà khoa học đã làm?
Có bốn điều cần phải hiểu liên quan tới điều này.
Điều thứ nhất là ở chỗ nhiều trong số những sự kiện này
đã được tiết lộ bởi những người như thế, người tại bình
diện thứ tư. Chẳng hạn, có rất ít khác biệt giữa tuổi trái
đất như được những người này chỉ ra và như các nhà
khoa học chỉ ra, và ấy vậy mà người ta vẫn không thể nói
được rằng khoa học là đúng đắn. Các nhà khoa học bản
thân họ không tuyên bố mình là tuyệt đối đúng đắn.
Thứ hai, thậm chí còn có ít khác biệt về thông tin do
hai loại người này đưa ra về hình dạng và kích thước của
trái đất. Bên cạnh đó, ngay cả trong liên hệ với vấn đề
này cũng không nhất thiết những người đã đạt tới bình
diện thứ tư là sai trong ước lượng của họ. Hình dạng trái
đất thay đổi mãi mãi. Khoảng cách giữa trái đất và mặt
trời không phải là một như trong thời cổ đại, và cùng tình
huống đó cũng xảy ra giữa mặt trăng và trái đất. Châu Phi
không phải ở ở cùng chỗ nó như bây giờ; đã có thời nó
gắn với Ấn Độ. Hàng nghìn thay đổi đã xuất hiện và vẫn
còn đang xuất hiện, và nhiều thay đổi xảy ra thường
xuyên. Tính tới những thay đổi thường xuyên này bạn sẽ
ngạc nhiên mà biết rằng người ở bình diện thứ tư từ lâu
đã tiết lộ nhiều khám phá mà khoa học ngày nay mới tìm
ra.
Cũng nên hiểu rằng có khác biệt nền tảng giữa ngôn
ngữ diễn đạt của người ở bình diện thứ tư và nhà khoa
học. Đây là khó khăn rất lớn. Người ở bình diện thứ tư
không có ngôn ngữ toán học. Người đó có ngôn ngữ của
linh ảnh, hình ảnh và kí hiệu. Người đó có ngôn ngữ của
dấu hiệu. Như không có ngôn ngữ trong giấc mơ, trong
linh ảnh nữa cũng không có ngôn ngữ. Nếu chúng ta hiểu
thấu đáo, chúng ta sẽ biết rằng nếu chúng ta mơ trong
đêm điều chúng ta làm trong cả ngày, chúng ta sẽ chọn
phương tiện kí hiệu và dấu hiệu, bởi vì không có ngôn
ngữ ở đó. Nếu tôi là người tham vọng, người muốn ở trên
mọi người khác, tôi sẽ mơ tôi là con chim bay cao trên
trời trên các con chim khác. Trong giấc mơ tôi sẽ không
thể nào diễn tả bằng lời rằng tôi tham vọng, cho nên toàn
thể ngôn ngữ thay đổi trong giấc mơ. Theo cùng cách đó,
ngôn ngữ của linh ảnh không phải là lời nói mà là hình
ảnh.
Việc diễn giải giấc mơ bắt đầu phát triển sau Freud,
Jung và Adler. Bây giờ chúng ta có thể tìm ra ý nghĩa của
giấc mơ. Theo cùng cách thức đó, bất kì điều gì người ở
bình diện thứ tư đã nói đều phải đợi diễn giải. Vậy mà
thậm chí chúng ta vẫn không có khả năng giải thích hiện
tượng mơ một cách thấu đáo; việc giải thích linh ảnh hồn
cũng là vấn đề khó khăn. Chúng ta phải biết ý nghĩa của
điều đã được thấy trong linh ảnh và của điều mà người ở
bình diện thứ tư đang nói.
Chẳng hạn, khi Darwin nói rằng con người đã tiến
hoá từ con vật, ông ấy nói theo ngôn ngữ khoa học.
Nhưng nếu chúng ta đã đọc câu chuyện về các hoá thân
Hindu, chúng ta sẽ thấy rằng điều này không là gì ngoài
cùng câu chuyện đã được kể hàng nghìn năm trước đây
dưới dạng biểu tượng. Hoá thân thứ nhất không phải là
người, ông ấy là cá. Darwin cũng nói rằng dạng đầu tiên
của người là hình dạng cá. Bây giờ, khi chúng ta nói rằng
hoá thân đầu tiên là matsya avatar - cá, đây là biểu tượng.
Đây không phải là ngôn ngữ của khoa học: một hoá thân
và con cá! Chúng ta phủ nhận phát biểu này. Nhưng khi
Darwin nói rằng phần tử sống đầu tiên tới dưới dạng cá
và rồi các dạng khác theo sau, chúng ta sẵn sàng đồng ý
vì nó dường như hợp lí với chúng ta. Phương pháp và
việc tìm kiếm của Darwin là khoa học.
Bây giờ những người thấy linh ảnh đều thấy điều
thiêng liêng lấy dạng sinh đầu tiên là cá. Người viễn kiến
nói theo ngôn ngữ của ngụ ngôn. Thế rồi hoá thân thứ hai
là con rùa. Sinh vật này thuộc về cả đất và nước. Hiển
nhiên, việc chuyển cuộc sống từ nước lên đất không thể
đột nhiên được. Phải có trạng thái trung gian. Cho nên bất
kì sinh vật nào đã tiến hoá, cũng đều phải thuộc vào cả
đất và nước. Thế rồi dần dần con cháu của rùa bắt đầu
sống trên đất, và rồi phải có tách biệt rõ rệt với cuộc sống
trong nước.
Nếu bạn đọc qua câu chuyện này về các hoá thân
Hindu, bạn sẽ ngạc nhiên mà để ý rằng chúng ta đã phát
hiện ra từ rất lâu điều mà Darwin đã phát hiện mãi hàng
nghìn năm sau, và theo thứ tự niên đại đúng. Thế thì,
trước biến hình cuối cùng, phải có hoá thân nửa người,
nửa vật - narsinh avatar. Sau rốt, con vật không trở thành
con người trong một bước chuyển; chúng nữa cũng phải
trải qua giai đoạn trung gian có dạng nửa người nửa vật.
Không thể nào một con vật cho sinh ra một con người
được. Có mối móc nối bị thiếu giữa con vật và con người
mà có thể là narsinh - nửa người nửa vật.
Nếu chúng ta hiểu tất cả những câu chuyện này,
chúng ta sẽ biết rằng điều Darwin nói dưới dạng khoa
học, những người ở bình diện thứ tư đã nói từ trước đó
lâu theo ngôn ngữ của Puranas. Nhưng mãi cho tới giờ
những kinh sách huyền thoại Hin du này vẫn còn chưa
được giải thích đúng đắn. Lí do cho điều này là ở chỗ
Puranas đã rơi vào tay những người dốt nát, vô học.
Chúng không ở trong tay các nhà khoa học.
Một khó khăn khác là ở chỗ chúng ta đã đánh mất
chìa khoá để giải mật mã của Puranas. Chúng ta không có
mã giải; do đó, khó khăn. Bây giờ khoa học nói rằng con
người có thể tồn tại trên trái đất nhiều nhất là bốn nghìn
năm nữa. Tiên đoán trong nhiều Puranas là ở chỗ thế giới
này không thể kéo dài hơn năm nghìn năm. Khoa học nói
ngôn ngữ khác. Nó nói mặt trời sẽ lạnh dần đi, các tia
sáng của nó sẽ giảm đi, nhiệt của nó sẽ khuếch tán, và
trong bốn nghìn năm nữa nó sẽ lạnh đi. Thế thì cuộc sống
trên trái đất sẽ dừng lại cùng với nó.
Puranas nói theo ngôn ngữ khác. Và nếu Puranas đưa
ra thời gian năm nghìn năm chứ không phải là bốn nghìn
năm như các nhà khoa học nói, phải nhớ trong trí rằng
vẫn chưa quyết định được liệu khoa học có tuyệt đối đúng
không. Có thể là năm nghìn năm - và tôi tin rằng sẽ như
thế, bởi vì có thể có sai lầm trong tính toán của khoa học
nhưng không bao giờ có sai lầm trong linh ảnh. Do đó
khoa học cứ tự cải tiến nó hàng ngày. Nó nói một điều
ngày hôm nay rồi lại điều khác vào ngày mai và điều
khác nữa vào ngày kia. Nó phải thay đổi hàng ngày.
Newton nói điều này, Einstein nói điều gì đó khác.
Cứ năm năm khoa học lại thay đổi lí thuyết của nó
bởi vì nó đi tới các giải pháp tốt hơn. Không thể quyết
định được liệu điều chung cuộc trong khoa học có khác
biệt với linh ảnh của bình diện thứ tư không. Và nếu
những điều này không trùng nhau, cũng không nhất thiết
phải ra quyết định hấp tấp trên nền tảng của điều ta biết
bây giờ qua khoa học và qua điều những người viễn kiến
đã nói. Cuộc sống là sâu sắc đến mức chỉ tâm trí không
khoa học mới đưa ra quyết định hấp tấp. Nếu chúng ta
xem xét những khám phá của khoa học trong vòng một
trăm năm qua chúng ta sẽ thấy rằng tất cả các khám phá
một trăm năm qua đọc giống như chuyện cổ Puranas:
không ai sẵn sàng tin vào chúng thêm nữa bởi vì những
điều khác và tốt hơn được khám phá theo quá trình thời
gian.
Mã để lộ ra chân lí trong Puranas đã bị mất. Bây giờ,
chẳng hạn, nếu có thế chiến thứ ba, tác động đầu tiên của
nó sẽ là ở chỗ tất cả tầng lớp người văn minh, có giáo dục
sẽ bị tiêu diệt. Cũng kì lạ là chỉ những người vô văn hoá,
vô giáo dục là còn lại. Một số bộ lạc nguyên thuỷ ở Ấn
Độ sống trên vùng núi non và rừng rậm xa xôi sẽ vô sự.
Không ai sẽ được miễn thứ ở Bombay hay New York. Bất
kì khi nào có cuộc thế chiến, bao giờ những cộng đồng tốt
nhất cũng bị tiêu diệt, bởi vì chính họ bị tấn công. Thổ
dân nào đó ở Bastar, Ấn Độ có thể sống sót. Người này
có thể kể cho con cháu mình về máy bay trên trời mặc
dầu người đó sẽ không có khả năng giải thích cho chúng.
Người đó đã thấy chúng bay và điều đó là thật, nhưng
người đó không thể nào giải thích thế nào và tại sao về nó
vì người đó không có mã. Mã có cùng những người sống
ở Bombay, nhưng bây giờ họ đã chết.
Với một hay hai thế hệ, trẻ con có thể tin vào các bậc
huynh trưởng, nhưng về sau chúng sẽ hỏi trong hoài nghi,
"Bác đã thấy chúng chưa?" Và các bận huynh trưởng sẽ
đáp, "Chúng ta cũng chỉ nghe nói như vậy, ông cha chúng
ta nói như vậy - và đến lượt họ, cũng được ông cha họ nói
như vậy - rằng máy bay bay trên trời. Thế rồi xảy ra một
cuộc chiến tranh lớn và mọi thứ đều bị tiêu huỷ." Dần dần
trẻ con sẽ hỏi, "Máy bay ở đâu? Cho chúng cháu chỉ dẫn
nào đó, dấu hiệu nào đó." Sau hai nghìn năm trẻ con sẽ
nói, "Tất cả những điều này chỉ là tưởng tượng của tổ tiên
chúng ta. Chẳng ai bay trên trời cả."
Những sự kiện như thế đã từng xảy ra. Trên đất nước
này tri thức đã thu được bởi tâm trí lên đồng đã bị tiêu
huỷ trong trận chiến Mahatharata. Bây giờ nó chỉ là một
câu chuyện. Bây giờ chúng ta nghi ngờ liệu Rama có thể
bay được trong máy bay từ Sri Lanka không. Tất cả đều
là vấn đề nghi ngờ bởi vì khi mà thậm chí không có đến
một chiếc xe đạp còn lại từ thời đó, thế thì máy bay
dường như là điều không thể có được. Và điều đó cũng
chẳng được nhắc gì tới trong bất kì sách vở nào. Thực tế,
toàn bộ tri thức đã tồn tại trước Mahatharata đều bị tiêu
huỷ trong cuộc chiến này. Cái mà có thể còn được giữ lại
trong kí ức là tất cả những gì có thể được giữ. Do đó tên
của các nhánh tri thức cổ đại là smriti - được ghi nhớ theo
truyền thống và được viết ra về sau; và shruti - được nghe
kể theo truyền thống và rồi được viết ra. Đấy là những
tuyển tập tri thức đã được ghi nhớ và đã được kể lại;
chúng không phải là khối lượng sự kiện đã được kiểm
nghiệm và minh chứng. Ai đó bảo ai đó, thế rồi người đó
nói cái gì đó khác, và tất cả những điều này chúng ta đã
thu thập và gìn giữ dưới dạng kinh sách. Nhưng bây giờ
chúng ta không thể nói là chứng minh được điều gì từ
chúng.
Nhớ rằng giới trí thức của thế giới chỉ là một nhúm
nhỏ người. Nếu Einstein chết, sẽ khó khăn để tìm ra
người khác giải thích về thuyết tương đối. Bản thân ông
cũng đã nói rằng không quá mười đến mười hai người
hiểu được lí thuyết này. Nếu mười hai người này chết đi,
chúng ta sẽ có sách về tương đối nhưng chẳng ai hiểu
được nó. Tương tự, Mahabharata đã tiêu diệt tất cả những
người tài giỏi của thời đó. Thế thì cái còn lại trở thành
chuyện kể. Tuy nhiên bây giờ các cuộc điều tra vẫn đang
tiếp diễn để kiểm chứng lại chúng, nhưng chúng ta ở Ấn
Độ lại không may vì bản thân chúng ta chẳng làm gì theo
hướng này cả.
Gần đây, người ta đã phát hiện ra một nơi mà quãng
bốn đến năm nghìn năm trước dường như là sân bay.
Không có lí do có thể nào khác cho một nơi như thế. Việc
xây dựng này đã được tìm thấy mà không thể nào khả dĩ
nếu không có máy móc. Thực tế, đá đã được nâng lên các
kim tự tháp đều vượt ra ngoài khả năng của những máy
nâng lớn nhất của chúng ta. Những tảng đá này đã được
đặt ở đó - điều đó thật rõ ràng - và chúng đã được con
người nâng lên. Hoặc là những người này có máy móc
phức tạp để dùng hoặc là họ đã dùng thể thứ tư.
Chẳng hạn, tôi sẽ kể cho bạn một thực nghiệm mà
bạn có thể thử được. Để một người nằm dài trên đất. Bây
giờ bốn người khác đứng quanh người đó. Hai người đặt
ngón tay lên đầu gối người nằm ở mỗi bên, còn hai người
kia đặt ngón tay vào dưới vai người nằm. Mỗi người chỉ
đặt một ngón tay thôi. Rồi mỗi người nên hạ quyết tâm
chắc chắn nâng người nằm lên chỉ bằng một ngón tay
mình. Họ nên thở mạnh trong năm phút, rồi ngừng thở và
nâng người nằm lên. Họ có thể thành công trong việc
nâng người này chỉ bằng ngón tay của mình. Cho nên
những tảng đá của kim tự tháp hoặc là được nâng lên
bằng những máy nâng khổng lồ hoặc bởi lực hồn nào đó.
Người Ai cập cổ đại có thể đã dùng phương pháp nào đó
như vậy; không có cách khác. Đá còn đó và chúng đã
được đặt đúng chỗ đó: điều này không thể phủ nhận được.
Điều nữa cần lưu ý là ở chỗ lực hồn có chiều hướng
vô hạn. Không nhất thiết là người đã đạt tới bình diện thứ
tư phải biết đến mặt trăng. Có thể người đó chẳng quan
tâm tới việc biết đó; người đó có thể coi là chẳng đáng để
biết. Những người như thế quan tâm tới việc biết những
thứ khác - những thứ còn có giá trị hơn theo họ - và họ đã
hoàn thành việc tìm kiếm của mình theo những chiều
hướng này. Chẳng hạn, họ háo hức biết liệu linh hồn có là
một thực tại hay không - và họ đã biết. Bây giờ khoa học
đã khám phá ra rằng linh hồn là có. Những người đã đạt
tới thể thứ tư đều háo hức muốn biết người ta đi đâu sau
khi chết và như thế nào.
Những người đã đạt tới bình diện thứ tư gần như
không quan tâm gì mấy đến thế giới vật chất. Họ không
bận tâm về đường kính trái đất. Trông đợi họ quan tâm
tới những vấn đề như vậy cũng giống như trẻ con kể cho
người đã trưởng thành, "Chúng cháu không coi bác là
người khôn ngoan vì bác không thể nói cho chúng cháu
con búp bê được làm như thế nào. Thằng bé nhà bên cạnh
biết tất cả về điều đó. Nó là người biết tất." Chúng là
đúng theo cách riêng của chúng, bởi vì chúng quan tâm
tới việc biết cái gì bên trong con búp bê, trong khi người
lớn, không thể quan tâm tới điều đó được.
Nghiên cứu của người ở bình diện thứ tư thay đổi
chiều hướng. Người đó muốn biết những điều khác.
Người đó muốn biết về cuộc hành trình của linh hồn sau
cái chết: con người đi đâu sau khi chết, người đó du hành
theo con đường nào, nguyên tắc của cuộc hành trình này
là gì, làm sao người đó lại được sinh ra, và liệu có thể nói
trước về việc sinh và nơi sinh của người đó không. Người
đó không quan tâm tới việc con người lên mặt trăng: điều
đó chẳng liên quan gì với người đó cả. Người đó háo hức
muốn tìm ra cách chứng ngộ của con người, bởi vì chỉ
mỗi điều này là có nghĩa cho người đó. Một người như
thế bao giờ cũng khát khao biết cách atman đi vào bụng
mẹ khi đứa trẻ được thụ thai, liệu atman có được giúp đỡ
để chọn đúng bụng mẹ hay không, và phải mất bao lâu để
atman đi vào bào thai.
Có một cuốn sách Tây Tạng tên là Sách Tây Tạng về
người chết. Mọi người ở Tây Tạng mà đã đạt tới thể thứ
tư đều làm việc trên một dự án: làm sao có thể trợ giúp tốt
nhất cho một người sau cái chết. Giả sử bạn chết: tôi yêu
bạn, nhưng tôi chẳng thể giúp gì cho bạn sau cái chết.
Nhưng ở Tây Tạng có thu xếp đầy đủ để hướng dẫn và trợ
giúp cho một người và động viên người đó chọn việc sinh
thành đặc biệt và đi vào bụng mẹ đặc biệt. Khoa học sẽ
vẫn còn phải tốn thời gian để khám phá ra điều này,
nhưng nó sẽ phát hiện ra điều đó, chẳng có gì khó khăn.
Và người Tây Tạng đã tìm thấy những cách thức và
phương tiện để kiểm tra lại tính hợp lệ của những biến cố
này.
Tại Tây Tạng, khi Đạt lai Lạt ma chết, ông ấy nói
trước nơi ông ấy sẽ sinh ra tiếp đó và cách thức người
khác nhận ra ông ấy. Ông ấy để lại những dấu hiệu về sau
để nhận ra ông ấy. Thế rồi sau khi ông ấy chết, việc tìm
kiếm bắt đầu trên khắp cả nước. Đứa trẻ nói được bí mật
của dấu hiệu, sẽ được coi là hoá thân của vị Lạt ma đã
chết, bởi vì chỉ mình nó biết bí mật này. Đạt lai Lạt ma
hiện tại đã được phát hiện theo cách này. Đạt lai Lạt ma
trước ông ấy đã để lại một dấu hiệu. Một châm ngôn đặc
biệt được truyền đi mọi thôn làng, và đứa trẻ nào có thể
giải thích điều đó đều được hiểu là người mà linh hồn của
vị Đạt lai Lạt ma kia đã đi vào. Việc tìm kiếm cũng khá
lâu, nhưng cuối cùng người ta cũng tìm ra đứa trẻ có thể
giải thích điều mã hoá. Đó là một công thức rất bí mật, và
chỉ Đạt lai Lạt ma chân thực mới biết ý nghĩa của nó.
Cho nên tò mò của người ở bình diện thứ tư là hoàn
toàn khác. Vũ trụ là vô hạn và bí ẩn và bí mật của nó
cũng vô hạn. Đừng nghĩ rằng chúng ta đã khám phá ra tất
cả những điều cần khám phá bởi nghiên cứu khoa học
ngày nay. Hàng nghìn khoa học mới sẽ đi ra ánh sáng bởi
vì có hàng nghìn chiều hướng và tầm hướng khác nhau.
Và khi khoa học mới phát triển, người ta sẽ gọi chúng ta
là người không khoa học, bởi vì chúng ta sẽ không biết
tới điều họ sẽ biết. Nhưng chúng ta không nên gọi người
cổ đại là không khoa học; đấy chỉ là tò mò của họ mang
bản chất khác. Các chiều hướng có thể cho việc nghiên
cứu là đa dạng và nhiều lắm.
Chúng ta rất có thể hỏi rằng vì chúng ta đã tìm ra
cách chữa cho nhiều bệnh tật, tại sao những người ở bình
diện thứ tư không tìm ra chúng? Bạn sẽ sửng sốt mà biết
đến số dược thảo đã được mô tả trong nhánh y học
Ayurvedic và Yunanic. Làm sao mà những người này,
chẳng có giúp đỡ gì của nghiên cứu trong phòng thí
nghiệm, đã phát hiện ra đúng cách chữa cho mọi bệnh
tật? Có mọi khả năng là điều này đã được đưa lại bởi việc
dùng thể thứ tư.
Có câu chuyện nổi tiếng về Vaidya Lukman, chuyện
kể rằng ông trồng từng cây và hỏi công dụng của nó là gì.
Bây giờ, câu chuyện này đã trở thành vô nghĩa trong thế
giới ngày nay. Trông đợi cây cỏ nói dường như là thất bại
của logic. Đây cũng là một sự kiện mà cho đến năm mươi
năm qua người ta không cho là cây cối có cuộc sống.
Nhưng bây giờ khoa học thừa nhận có cuộc sống trong
cây cỏ. Ba mươi năm trước đây chúng ta đã không tin
rằng cây cỏ cũng thở; bây giờ chúng ta thừa nhận rằng
chúng có thở. Mười lăm năm trước đây chúng ta đã
không tin rằng cây cỏ có thể cảm được, nhưng trong mười
lăm năm qua chúng ta đã phải thừa nhận rằng chúng có
cảm giác. Khi bạn tiến tới cây cỏ trong giận dữ, trạng thái
hồn của nó thay đổi, và khi bạn tiến tới nó trong yêu
thương, lần nữa trạng thái nó thay đổi. Cho nên cũng sẽ
chẳng sai chỗ nếu chúng ta phát hiện ra trong năm mươi
năm tới là chúng ta có thể nói chuyện với cây cỏ nữa -
nhưng điều này sẽ là sự phát triển dần dần.
Tuy nhiên, Lukman đã chứng minh điều đó từ lâu
trước đây. Nhưng cách đối thoại này không thể như cách
đối thoại của chúng ta. Trở thành một với cây cỏ là phẩm
chất của thể thứ tư. Thế thì cây cỏ cũng có thể được hỏi
han. Tôi tin vào câu chuyện này, bởi vì không có nhắc gì
đến phòng thí nghiệm đủ khổng lồ trong những ngày đó
nơi Lukman có thể tiến hành nghiên cứu của ông ấy về
hàng triệu loại cỏ mà ông ấy đã đưa vào sử dụng. Điều đó
là không thể được, bởi vì mỗi cây cỏ sẽ đòi hỏi một thời
gian sống để tiết lộ ra bí mật của nó nếu được làm một
cách khoa học, trong khi người này nói về cây cỏ vô giới
hạn. Bây giờ khoa học thừa nhận hiệu quả của những
dược thảo này trong chữa bệnh và chúng vẫn còn được
dùng. Tất cả những nghiên cứu trong quá khứ đều là
nghiên cứu của người ở bình diện thứ tư.
Bây giờ chúng ta điều trị hàng nghìn bệnh, mà rất
không khoa học. Người của bình diện thứ tư sẽ nói,
"Chẳng có bệnh tật gì hết cả. Tại sao các ông chữa cho
họ?" Bây giờ khoa học hiểu điều này và phép chữa đối
chứng đang dùng những phương pháp trị liệu mới. Trong
một số bệnh viện ở Mĩ người ta đang làm việc về các
phương pháp mới. Giả sử có mười bệnh nhân đang bị
cùng chứng bệnh. Năm người được tiêm nước còn năm
người kia được cho cách trị liệu thuốc thang thông
thường. Thế rồi phát hiện chỉ ra rằng các bệnh nhân của
mỗi nhóm đáp ứng với cách chữa trị của họ là như nhau.
Điều này chứng tỏ rằng những người được điều trị với
nước, không thực sự ốm đau nhưng có ảo tưởng là bệnh
tật. Nếu những người này được được chữa trị thông
thường cho bệnh tật, điều ấy sẽ đầu độc hệ thống của họ
và đem lại kết quả trái ngược. Họ chẳng cần chữa trị.
Nhiều tật bệnh được sinh ra do việc chữa trị không
cần thiết và thế thì chúng lại thành khó chữa chạy. Nếu
bạn không có bệnh thật - chỉ bệnh hão huyền - thuốc cho
bệnh đó sẽ phải tác động theo cách nào đó cho dù các
điều kiện cần thiết của bệnh này không có trong bạn. Nó
sẽ tạo ra chất độc bên trong mà bạn sẽ phải trải qua việc
điều trị mới. Bệnh hão huyền sẽ cứ dọn đường cho bệnh
thật nào đó. Theo khoa học, chín mươi phần trăm bệnh tật
đều là do căng thẳng thần kinh. Năm mươi năm trước đây
khoa học hiện đại từ chối tin vào điều này, nhưng bây giờ
cách trị liệu đối chứng thừa nhận nó là năm mươi phần
trăm. Tôi nói họ sẽ phải thừa nhận thêm bốn mươi phần
trăm nữa, bởi vì đó là thực tại.
Bây giờ không ai xác định được điều người ở bình
diện thứ tư đã biết; không ai cố gắng diễn giải người đó.
Không người nào có thể đặt tri thức của người đó vào
đúng cảnh quan theo thuật ngữ khoa học ngày nay; đây là
khó khăn duy nhất. Một khi điều này có thể được thực
hiện, sẽ không có vấn đề gì. Nhưng ngôn ngữ ngụ ngôn
lại rất khác.
Khoa học ngày nay nói rằng tia sáng mặt trời đi qua
lăng kính và chia thành bẩy phần; và theo cách này chúng
trở nên được phân phối thành bẩy mầu. Các nhà thơ tu sĩ
(rishi) của Veda nói, "Thần mặt trời có bẩy con ngựa với
bẩy mầu." Bây giờ đây là ngôn ngữ của ngụ ngôn. "Mặt
trời có bẩy con ngựa với mầu khác nhau và ông ấy cưỡi
lên chúng" có nghĩa là các tia sáng mặt trời chia thành
bẩy phần. Phần trước là ngụ ngôn còn phần sau là dạng
khoa học. Chúng ta sẽ phải hiểu ngôn ngữ của ngụ ngôn
hệt như chúng ta hiểu ngôn ngữ của khoa học ngày nay.
Không nên có bất kì khó khăn nào.
Những người với khả năng cận hồn tiên đoán mọi
điều sớm hơn nhiều còn khoa học hiểu chúng muộn hơn
nhiều. Nhưng thế thì tiên đoán tất cả đều theo ngôn ngữ
biểu tượng. Chỉ khi khoa học chứng minh cùng sự kiện,
chúng mới được đưa vào ngôn ngữ hàng ngày. Trước lúc
đó, không có ngôn ngữ. Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết, nếu
bạn nghiên cứu theo mọi chiều hướng, rằng khoa học chỉ
là kẻ mới đến còn ngôn ngữ và toán học, đến sớm hơn
nhiều. Những người đã phát hiện ra ngôn ngữ và toán
học, họ có thể đã dùng việc thống kê nào? Họ có thể đã
có phương tiện nào - biện pháp nào? Làm sao họ đi tới
biết rằng trái đất quay xung quanh mặt trời một lần trong
một năm? Chính đây là một tiến hoá của trái đất quanh
mặt trời mà phải mất một năm. Bây giờ, đây là một khám
phá rất cổ - rất xa trước khoa học; cùng điều này cũng là
trường hợp của sự kiện có ba trăm sáu mươi lăm ngày
trong một năm. Nhưng dường như không có bất kì
phương tiện khoa học nào đằng sau nhà tiên tri cổ đại. Do
đó, linh ảnh hồn là câu trả lời thay thế duy nhất.
Một sự kiện rất kì lạ đã đưa ra ánh sáng. Một người ở
Arabia có trong tài sản của mình một tấm bản đồ thế giới
bẩy trăm năm trước. Đây là cái nhìn từ trên không mà
không thể nào quan niệm nổi khi đứng trên đất. Chỉ có
hai giải pháp: hoặc đã có máy bay từ bẩy trăm năm trước
đây - và điều này, dường như không thể có được - hoặc
người nào đó đã tự nâng mình lên cao trong thể thứ tư của
mình và thế rồi vẽ ra bản đồ này. Một điều là chắc chắn:
lúc đó không có máy bay. Nhưng bản đồ trên không này
về thế giới đã được làm ra từ bẩy trăm năm trước. Điều
này có nghĩa gì?
Nếu chúng ta nghiên cứu Charak và Sushrut, hai bậc
thầy cổ đại về khoa học thảo mộc, chúng ta sẽ sửng sốt
mà biết rằng họ đã mô tả mọi thứ về thân thể con người
mà các nhà khoa học mới đi tới biết bằng giải phẫu. Có
thể chỉ có hai phương pháp để biết. Một khả năng là ở
chỗ việc giải phẫu đã trở nên tinh tế đến mức không thể
có bằng chứng về việc giải phẫu đã được tiến hành - bởi
vì không có công cụ giải phẫu nào hay sách vở nào về
giải phẫu đã được phát hiện ra. Nhưng có những mô tả về
từng phần rất kĩ lưỡng của thân thể con người - những bộ
phận tỉ mỉ đến mức khoa học chỉ mãi về sau mới phát
hiện ra, các bộ phận mà chỉ hai mươi nhăm năm trước
đây các nhà khoa học còn từ chối chấp nhận như hiện tại.
Nhưng những điều này đã được các thầy chữa cổ đại này
mô tả. Có một cách thức có thể thứ hai mà qua đó người
ta cũng có thể biết: người trong trạng thái linh ảnh có thể
đi vào thân thể con người và thấy những điều này.
Ngày nay chúng ta biết rằng tia X có thể đi vào thân
thể con người. Nếu một người nói rằng người đó có thể
chụp ảnh bộ xương chúng ta một trăm năm trước đây,
chúng ta không tin anh ta. Ngày nay chúng ta phải tin bởi
vì nó là như vậy. Nhưng bạn có biết: mắt của người ở thể
thứ tư có thể thấy thậm chí còn sâu hơn là tia X, và rằng
bức tranh về thân thể bạn có thể được tạo ra mà còn đầy
đủ hơn bức tranh được tạo ra như kết quả của việc giải
phẫu. Giải phẫu đã được phát triển ở phương Tây bởi vì ở
đó người ta chôn người chết. Tại một nơi như Ấn Độ, nơi
mà cái xác bị đem thiêu, điều này là không thể có được.
Và bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng nghiên cứu này đến
với sự giúp đỡ của kẻ cắp, cho nên họ sẽ đánh cắp xác
chết và bán chúng cho các bác sĩ để nghiên cứu và tìm
hiểu.
Tục lệ hoả thiêu cũng là một ý tưởng của những
người hồn, bởi vì họ tin rằng linh hồn gặp khó khăn khi
lấy lần sinh thành mới nếu thân thể của kiếp sống trước
vẫn còn lại. Thế thì nó cứ lởn vởn quanh cái xác cũ. Nếu
cái xác này bị thiêu thành tro, linh hồn sẽ gạt bỏ trở ngại
này - bởi vì một khi nó thấy thân thể biến thành tro, trong
thân thể tiếp có lẽ nó sẽ hiểu rằng cái được coi là của
riêng nó, sau cùng chỉ là thứ có thể bị tiêu huỷ.
Cho nên có việc hoả táng ở Ấn Độ, và do đó không
có cách nào để giải phẫu thân thể con người. Tại phương
Tây kẻ cắp đã đánh cắp xác chết từ nghĩa trang và bán
chúng cho các nhà khoa học dùng trong nghiên cứu của
họ. Có những trường hợp đưa ra toà và nhiều khó khăn
khác cho những người này, bởi vì đánh cắp xác chết và
giải phẫu nó cả hai đều bị coi là tội ác.
Cho nên điều chúng ta đi tới biết được qua vô số việc
giải phẫu, sách vở ba nghìn năm trước đã tiết lộ mà chẳng
cần giải phẫu. Điều này chỉ chứng tỏ rằng có phương
pháp khác mà qua đó mọi thứ có thể được biết bên cạnh
thực nghiệm khoa học. Thỉnh thoảng tôi sẽ nói chi tiết về
chủ đề này để cho bạn có thể hiểu rõ hơn.
************************************************************************************************************
#5 Bí ẩn huyền nhiệm của tôn giáo
Trong bài nói hôm qua Thầy đã nói rằng có thể khoa
học đi vào thể thứ năm hay tâm linh. Rồi Thầy nói về
khả năng của khoa học trong thể thứ tư. Xin Thầy nói
cho chúng tôi về những khả năng của khoa học trong
thể thứ năm.
Điều chúng ta gọi là thể vật lí và điều chúng ta gọi là
linh hồn, không phải là hai thứ khác nhau và tách rời.
Không có đứt quãng giữa chúng; có mối nối. Chúng ta
bao giờ cũng nghĩ rằng thân thể là tách biệt và linh hồn là
tách biệt, và rằng chẳng có gì nối chúng lại. Cũng vậy,
chúng ta đã từng nghĩ không chỉ chúng là tách biệt mà
chúng còn đối lập lẫn nhau. Ý tưởng này đã tách bạch tôn
giáo với khoa học. Tôn giáo được giả định tìm kiếm
những cái khác thân thể, trong khi khoa học được giả
định phát hiện mọi thứ về thân thể - tất cả ngoại trừ
atman, linh hồn. Cho nên cũng là tự nhiên mà bên này
phải phủ nhận bên kia.
Khoa học bị thu hút vào thân thể vật lí và do vậy nó
hỏi, "Thân thể là thực, nhưng linh hồn ở đâu?" Tôn giáo
đã tìm kiếm cái bên trong và gọi nó là linh hồn. Nó nói,
"Linh hồn là thực nhưng thân thể là ảo tưởng." Do đó, khi
tôn giáo đã đạt tới đỉnh của nó, nó mô tả thân thể như ảo
tưởng, giả tưởng, maya, và nói rằng thực tế nó không tồn
tại. Nó tuyên bố atman là chân lí và thân thể là ảo tưởng.
Khi khoa học đạt tới đỉnh cao của nó, nó phủ nhận atman.
Nó nói, "Khái niệm về linh hồn là sai; đấy là nói dối.
Thân thể là mọi thứ." Lỗi này có nguyên nhân đằng sau
quan niệm rằng thân thể và atman là hai điều đối lập.
Tôi đã nói về bẩy thể. Nếu thể thứ nhất là vật lí và thể
cuối cùng là tâm linh, thế thì nếu chúng ta không xem xét
năm thể ở giữa, sẽ không có cầu nối giữa hai thể này. Nó
sẽ hệt như bạn định trèo lên một chiếc thang và rồi vứt đi
tất cả những bậc ở giữa bậc đầu và bậc cuối. Thế thì
chẳng có mối nối nào giữa bước đầu tiên và bước cuối
cùng cả.
Nếu bạn thấy chiếc thang đầy đủ bạn sẽ thấy rằng bậc
đầu tiên được nối với bậc cuối cùng. Và nếu bạn xem xét
nó kĩ càng hơn, bạn sẽ thấy rằng bậc cuối cùng là phần
cuối cùng của bậc đầu tiên, và bậc đầu tiên là phần đầu
tiên của bậc cuối cùng. Tương tự, nếu chúng ta lấy tất cả
bẩy thể, chúng ta sẽ thấy mối nối giữa các thể thứ nhất và
thứ hai. Thể thứ nhất là thể vật lí; thể thứ hai là thể ê te -
thể xúc cảm. Nó chỉ là dạng tinh tế của thể vật lí và không
phải là phi vật chất. Nó chỉ là cái tinh tế đến mức nó vẫn
chưa được các phương tiện vật lí nắm bắt hoàn toàn.
Nhưng bây giờ các nhà vật lí cũng không phủ nhận sự
kiện là vật chất vật lí trở thành ngày càng loãng hơn và
phi vật lí hơn trong dạng tinh tế của nó.
Chẳng hạn, khoa học hiện đại nói rằng vật chất khi bị
phân tích ra, chung cuộc thu lại thành điện tử, không phải
là vật chất mà là hạt điện. Chẳng cái gì giống như chất
liệu là còn lại đến cuối cùng cả - chỉ có năng lượng. Cho
nên khoa học đã tìm ra một khám phá kì diệu trong ba
mươi năm qua. Mặc dầu nó vẫn coi vật chất là một thực
tại, nó bây giờ đi tới kết luận rằng vật chất không tồn tại
trong khi năng lượng là sự kiện. Khoa học bây giờ nói
rằng vật chất là ảo tưởng được gây ra bởi việc chuyển
động của năng lượng với tốc độ cao.
Khi cái quạt được làm cho quay với tốc độ cao, chúng
ta không thể thấy ba cánh của nó một cách tách biệt. Điều
ta thấy là một vòng tròn quay mãi. Cũng thế, không gian
giữa các cánh quạt dường như bị lấp đầy. Thực tại, cánh
quạt chuyển động nhanh đến mức trước khi phản chiếu
của một cánh đi qua mắt chúng ta, cánh thứ hai đã có đó.
Thế rồi cánh thứ ba tới mau lẹ, với kết quả là chúng theo
sau lẫn nhau để cho chúng ta không thể thấy không gian
trống giữa chúng. Cái quạt này có thể làm cho quay với
tốc độ mà bạn có thể ngồi lên nó và chẳng bao giờ biết
được rằng cái gì đang chuyển động dưới bạn. Khoảng
cách giữa hai cánh có thể bị chất đầy mau lẹ đến mức sau
khi một cánh lướt qua dưới bạn, cánh thứ hai lập tức thay
thế nó; thế thì bạn sẽ không cảm thấy khoảng cách trống
rỗng chút nào. Đấy hoàn toàn là vấn đề tốc độ.
Khi năng lượng quay ở tốc độ cao, nó giống như vật
chất. Năng lượng nguyên tử, mà toàn bộ nghiên cứu khoa
học hiện đại của chúng ta dựa trên đó, chưa bao giờ được
cảm nhận một cách trực quan; chỉ các tác động của nó là
thấy được. Năng lượng nền tảng là vô hình và vấn đề thấy
nó không nảy sinh, nhưng chúng ta có thể quan sát tác
động của nó.
Cho nên nếu chúng ta nhìn vào thể ê te như thể
nguyên tử, sẽ không sai - bởi vì trong trường hợp này nữa
chúng ta chỉ thấy tác động mà không thấy bản thân thể ê
te. Do tác động này chúng ta phải thừa nhận sự tồn tại của
nó. Thể thứ hai này là dạng tinh tế của thể thứ nhất; do đó
không có khó khăn trong việc nối hai thể này. Theo một
cách nào đó chúng được nối với nhau. Một thể là thô và
do đó có thể thấy nó được; thể kia, tinh tế và do đó không
thể thấy được.
Bên ngoài thể ê te là thể vía. Nó là dạng tinh tế hơn
hai thể kia. Khoa học còn chưa đạt tới đây, nhưng nó đã
đạt tới một kết luận rằng nếu chúng ta phân tích vật chất,
cái cuối cùng còn lại là năng lượng. Năng lượng này có
thể được gọi là ê te. Nếu ê te còn bị chia thêm nữa thành
những thành phần tinh tế hơn, cái còn lại là vía - và điều
này là tinh tế hơn cái tinh tế.
Khoa học còn chưa đạt tới thể vía nhưng nó sẽ đạt tới.
Mãi cho tới gần đây khoa học chỉ chấp nhận vật chất và
phủ nhận sự tồn tại của nguyên tử. Cho đến hôm qua, gần
như vậy, nó còn nói rằng vật chất là cứng rắn. Hôm nay
nó nói rằng chẳng có gì là chất liệu cứng rắn và mọi thứ
đều không cứng rắn. Bây giờ người ta đã chứng minh
rằng ngay cả bức tường, dường như cứng rắn, cũng không
cứng rắn như vậy. Nó là xốp và các thứ có thể xuyên ra
sau ra trước qua các lỗ hổng của nó. Chúng ta có thể có
khuynh hướng nói rằng ít nhất cái bao quanh lỗ hổng phải
là cứng rắn, nhưng cái này nữa cũng không cứng rắn: mỗi
nguyên tử đều xốp.
Nếu chúng ta khuếch đại nguyên tử tới cùng kích
thước như trái đất, chúng ta sẽ thấy rằng có nhiều khoảng
cách giữa hai thành phần của nguyên tử như có giữa trái
đất và mặt trăng hay mặt trời và các vì sao. Thế thì chúng
ta có thể nói rằng ít nhất hai thành phần tại hai đầu là
cứng rắn - nhưng khoa học nói rằng cả hai đầu này nữa
cũng không cứng rắn nốt; chúng là các hạt điện. Bây giờ
khoa học thậm chí không sẵn sàng chấp nhận từ hạt, bởi
vì với từ đó có gắn liền với khái niệm vật chất. Hạt có
nghĩa là một phần vật chất - nhưng các thành phần của
nguyên tử không phải là vật chất, bởi vì vật chất cứng rắn
và giữ hình dáng của nó trong khi những thành phần này
liên tục thay đổi hình dạng. Chúng giống như sóng,
không phải hạt. Khi một con sóng phát sinh trong nước,
trước khi bạn thậm chí nói với mình, "Đây là con sóng",
nó đã thay đổi, bởi vì sóng là cái tới và đi liên tục.
Nhưng sóng cũng là biến cố vật chất, cho nên khoa
học đã phát minh ra một từ mới mà trước đây ba mươi
năm còn chưa có. Từ đó là lượng tử quanta. Khó mà tìm
ra một từ Hindu tương đương cũng như nhiều từ Hindu
không có từ tương đương trong tiếng Anh: chẳng hạn từ
Brahman - thực tại vũ trụ. Các từ được tạo ra bởi vì có sự
cần thiết diễn đạt về phần những người đã kinh nghiệm
qua. Khi Brahman được kinh nghiệm, những người đã
kinh nghiệm nó cần phát minh ra một từ để diễn đạt nó,
cho nên từ brahman đã được phát minh ra ở phương
Đông. Phương Tây còn chưa đạt tới giai đoạn này; do vậy
họ không có bất kì từ tương đương nào, bởi vì họ đã
không yêu cầu về nó.
Đây là lí do tại sao nhiều thuật ngữ tôn giáo không có
từ tương đương trong tiếng Anh. Chẳng hạn, từ aum - từ
này không thể được dịch sang bất kì ngôn ngữ nào trên
thế giới. Nó là cách diễn đạt về kinh nghiệm tâm linh sâu
sắc. Phương Tây không có từ tương đương mà qua đó có
thể diễn tả được. Theo cùng cách thức đó, lượng tử là một
từ được phát minh ra để diễn tả đỉnh cao khoa học và nó
cũng không có từ tương đương trong bất kì ngôn ngữ nào.
Nếu chúng ta cố gắng hiểu ý nghĩa của lượng tử, nó có
nghĩa là hạt và sóng cùng nhau. Tuy nhiên rất khó để
quan niệm về nó. Nó là cái gì đó đôi khi hành xử như hạt,
đôi khi hành xử như sóng, và có hành vi không thể nào dự
đoán trước được.
Cho đến bây giờ vật chất là tin cậy nhất; có chắc chắn
về vật chất. Nhưng phần tối hậu của vật chất, năng lượng
nguyên tử mà đã được phát hiện ra, lại rất bất định. Hành
vi của nó không thể nào đoán trước được. Ban đầu khoa
học đứng vững chãi bởi sự chắc chắn của vật chất. Nó nói
rằng mọi thứ đều chính xác và xác định. Bây giờ nhà
khoa học không nhấn mạnh vào lời tuyên bố này nữa, vì
ông ta biết rằng từ chỗ ông ta đã đạt tới trong nghiên cứu
hôm nay, cái chắc chắn này là rất nông cạn. Có bất định
sâu sắc bên trong, và sẽ đáng quan tâm để biết cái bất
định này nghĩa là gì.
Nơi có cái bất định, nhất định có ý thức; bằng không,
không thể có bất định được. Bất định là một phần của ý
thức, chắc chắn là một phần của vật chất. Nếu chúng ta để
chiếc ghế ở một chỗ nào đó trong phòng, chúng ta sẽ thấy
nó đích xác vẫn ở đấy khi chúng ta quay lại, nhưng nếu
chúng ta bỏ lại trong phòng một đứa bé, chúng ta sẽ
không bao giờ tìm thấy nó ở chỗ chúng ta đã bỏ lại. Bao
giờ cũng có hoài nghi, bất định, nó sẽ ở đâu và nó sẽ làm
gì. Chúng ta có thể chắc chắn về vật chất, nhưng chẳng
bao giờ chắc chắn về ý thức. Do đó, khi khoa học chấp
nhận tính bất định trong hành vi của phần tối hậu của
nguyên tử, nó cũng chấp nhận khả năng của ý thức trong
phần tối hậu của vật chất.
Bất định là phẩm chất của ý thức, nhưng vật chất
không thể là không dự đoán được. Không phải là lửa có
thể cháy khi nó lựa chọn và không cháy khi nó không lựa
chọn việc cháy, cũng không phải là nước có thể chảy theo
bất kì hướng nào nó thích hay sôi ở bất kì nhiệt độ nào nó
muốn. Sự vận hành của nước là tất định, nhưng khi chúng
ta đi vào bên trong vật chất chúng ta thấy rằng chung
cuộc nó là không xác định.
Bạn có thể hiểu nó theo cách này: nếu chúng ta muốn
tìm ra bao nhiêu người chết ở Bombay, điều này là có thể.
Nếu có mười triệu người chúng ta có thể lấy con số chết
trong một năm và tìm ra xấp xỉ bao nhiêu người chết
trong một ngày, và điều này sẽ gần như là đúng đắn. Nếu
chúng ta tính tỉ lệ chết cho toàn bộ đất nước chín trăm
triệu người theo cùng cách, con số sẽ gần với số đúng
hơn. Nếu chúng ta tính tỉ lệ chết cho toàn thế giới, tính
chắc chắn của con số thậm chí sẽ còn lớn hơn. Nhưng nếu
chúng ta muốn tìm ra khi nào một người sẽ chết, tính toán
của chúng ta sẽ là bất định nhất.
Đám đông càng lớn, mọi thứ càng trở nên nhiều vật
chất hơn. Hiện tượng càng cá nhân, chúng ta càng tìm
thấy nhiều ý thức hơn. Thực tế, chỉ một mẩu vật chất
cũng là đám đông của hàng triệu nguyên tử; do đó, chúng
ta có thể dự đoán về nó. Nhưng nếu chúng ta xuyên thấu
vào bên trong nguyên tử và bắt giữ lấy điện tử, chúng ta
thấy rằng nó là cá nhân: chúng ta không thể xác định tiến
trình của nó và dường như là nó quyết định điều đó theo ý
riêng của nó. Cho nên về một tảng đá cứng chúng ta có
thể chắc chắn: chúng ta sẽ tìm thấy nó ở một chỗ đặc biệt.
Nhưng cấu trúc của từng nguyên tử bên trong sẽ không
hệt như thế. Vào lúc chúng ta trở lại tảng đá, tất cả các
nguyên tử bên trong sẽ thay đổi vị trí của chúng và đã du
hành từ chỗ này sang chỗ khác.
Bất định bắt đầu bằng việc đi sâu vào bên trong vật
chất. Đây là lí do tại sao khoa học đã thay đổi ngôn ngữ
của nó từ chắc chắn sang xác suất. Nó không còn nói,
"Đây là cách mà cái này hay cái kia sẽ là." Thay vì thế,
nó nói, "Có thể cách này hơn cách kia." Nó không còn nói
nhấn mạnh, "Nó là thế này." Trong quá khứ tất cả những
tuyên bố của khoa học đều theo ngôn ngữ của chắc chắn:
bất kì cái gì nó nói cũng đều nhất định là vậy. Nhưng khi
việc tìm kiếm của khoa học đi sâu hơn, tất cả những khái
niệm trước đó của nó bắt đầu bị phá vỡ. Lí do là ở chỗ
khoa học đã tiến bước không chủ định từ cõi vật lí vào ê
te, mà về điều đó nó không có hiểu biết. Chừng nào mà
nó còn chưa chấp nhận sự kiện về việc bước từ bình diện
vật lí sang bình diện ê te, nó không thể nào có bất kì hiểu
biết nào được. Nó đã đạt tới chiều thứ hai của vật chất,
chiều ê te, và điều này có những khả năng riêng của nó.
Không có lỗ hổng giữa thể thứ nhất và thể thứ hai.
Thể thứ ba hay thể vía thậm chí còn tinh tế hơn nữa.
Nó là tinh tế nhất của cái tinh tế. Nếu chúng ta đập vỡ ê te
thành nguyên tử - mà điều này vẫn dường như là không
có thể, bởi vì chúng ta đã mở trần trụi nguyên tử vật lí,
cho nên việc thực nghiệm với ê te sẽ mất thời gian dài.
Khi nguyên tử ê te đã được biết, chúng ta sẽ thấy rằng
chúng là các hạt của thể tiếp sau - có nghĩa là, thể vía.
Khi chúng ta đập vỡ nguyên tử vật lí, các hạt tinh tế nhất
của nó được tìm thấy là ê te. Tương tự, nếu chúng ta đập
vỡ nguyên tử ê te, các hạt tinh tế nhất sẽ là hạt của thể
vía. Cho nên chúng ta sẽ thấy mối nối giữa chúng. Ba thể
này được nối rõ ràng với nhau và chính bởi lí do này mà
ảnh ma đã được chụp.
Ma không có thể vật lí. Việc che giấu của nó bắt đầu
với thể ê te. Có thể chụp ảnh ma, bởi vì khi thể ê te cô đặc
lại, máy ảnh nhậy có thể bắt được sự phản xạ của nó. Một
điều nữa về ê te là ở chỗ nó tinh tế đến mức nó dễ dàng bị
ảnh hưởng bởi hồn. Nếu linh hồn người chết muốn xuất
hiện, nó có thể cô đặc hình dạng của nó để cho các
nguyên tử đang trải rộng bên ngoài dồn lại gần nhau hơn
và tạo ra hình nét mờ ảo. Điều này có thể được máy ảnh
bắt giữ.
Vậy, thể thứ hai của chúng ta, thể ê te, bị ảnh hưởng
bởi tâm trí hơn thể vật lí nhiều. Thể vật lí nữa cũng tới
dưới ảnh hưởng của tâm trí, nhưng không đến được mức
độ đó. Thể càng tinh tế, càng bị ảnh hưởng bởi tâm trí và
nó sẽ gần tâm trí hơn. Thể vía thậm chí bị ảnh hưởng bởi
tâm trí nhiều hơn. Đây là lí do tại sao việc du hành vía là
có thể. Một người có thể ngủ trong phòng này nhưng
người đó có thể đi tới bất kì đâu trên thế giới bằng thể vía
của mình. Bạn phải đã nghe những câu chuyện về người
được thấy ở hai ba nơi một lúc. Điều này là có thể. Thể
vật lí của người đó sẽ ở một chỗ còn thể vía của người đó
ở chỗ khác. Đấy chỉ là vấn đề có chút ít thực hành và điều
này có thể xảy ra.
Quyền năng của tâm trí phát triển ngày càng nhiều
khi chúng ta đi vào trong và chúng tiêu tan khi chúng ta
đi ra ngoài. Đi ra ngoài cũng hệt như thắp một ngọn đèn
rồi chụp bóng thuỷ tinh che lên ngọn lửa. Sau khi chụp
bóng lên, ngọn lửa sẽ không còn rất sáng nữa. Thế rồi
chúng ta lại chụp bóng nữa rồi bóng nữa. Theo cách này
chúng ta đặt bẩy bóng bao phủ nó. Sau bẩy lần bao phủ,
ánh sáng của ngọn lửa sẽ cực kì mờ và xỉn bởi vì nó phải
đi qua bẩy tầng.
Theo cách này năng lượng sống của chúng ta trở nên
rất mờ vào lúc nó đạt tới thể vật lí. Đây là lí do tại sao
chúng ta dường như không có mấy kiểm soát lên thân thể
vật lí. Nhưng nếu ai đó bắt đầu du hành vào bên trong,
việc kiểm soát của người đó trên thể vật lí của mình trở
nên ngày càng nhiều hơn, đích xác tỉ lệ với chiều sâu
cuộc hành trình bên trong của người đó. Dạng tinh tế của
thể vật lí là thể ê te và phần còn tinh tế hơn nữa của thể ê
te là thể vía. Thế rồi tới thể thứ tư - thể trí.
Cho tới giờ chúng ta vẫn có ấn tượng là tâm trí là một
thứ và vật chất là một thứ khác. Tâm trí và vật chất đã bị
coi như hai điều tách biệt. Thực tế, không có cách nào xác
định chúng. Nếu chúng ta định hỏi, "Tâm trí là gì?" chúng
ta sẽ được cho biết, "Cái không phải là vật chất," và
ngược lại. Nếu chúng ta định hỏi, "Vật chất là gì?" không
có định nghĩa nữa. Và đây là cách thức mà chúng ta bao
giờ cũng nghĩ về chúng - là khác biệt và tách biệt. Tuy
nhiên bây giờ chúng ta biết rằng tâm trí cũng là một dạng
tinh tế hơn của vật chất. Đảo lại, chúng ta có thể nói rằng
vật chất là dạng cô đặc của tâm trí.
Khi các nguyên tử của thể vía bị phá vỡ, chúng trở
thành sóng ý nghĩ. Có một sự xấp xỉ gần gũi giữa lượng
tử và sóng ý nghĩ; điều đó còn chưa được xem xét tới.
Cho tới nay, ý nghĩ vẫn chưa được coi là có sự tồn tại vật
lí, nhưng sự kiện là ở chỗ khi bạn nghĩ về một loại ý nghĩ
đặc biệt, rung động quanh bạn thay đổi tương ứng. Điều
thú vị cần lưu ý là không chỉ ý nghĩ mà ngay cả lời nói
cũng có rung động của riêng nó. Nếu bạn rải các hạt cát
lên tấm kính và tụng Aum thật to, dưới kính hình mẫu
gây ra bởi rung động của âm thanh sẽ khác với hình mẫu
gây ra bởi việc tụng Rama. Nếu bạn thốt ra lời chửi rủa,
hình mẫu sẽ lại thay đổi.
Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng lời nói càng thô lỗ và
chửi rủa, hình mẫu được tạo nên càng xấu, và lời nói càng
hay, hình mẫu rung động càng đẹp. Lời chửi rủa sẽ tạo
nên một hình mẫu hỗn loạn, trong khi các đường của lời
hay sẽ được tạo nên rất đẹp và cân đối.
Do đó, trong hàng nghìn năm nghiên cứu đã được tiến
hành để tìm ra lời tạo ra những rung động đẹp, và người
ta đã xem xét liệu cường độ của chúng có đủ ảnh hưởng
tới trái tim hay không. Lời nói là ý nghĩ được biểu lộ. Tuy
nhiên, những lời không biểu lộ cũng mang sự vang động
và chúng ta gọi chúng là ý nghĩ. Khi bạn nghĩ về điều gì
đó, một loại vang động đặc biệt được tạo ra quanh bạn,
một loại rung động đặc biệt bao quanh bạn. Đây là lí do
tại sao đôi khi bạn thấy rằng khi bạn tới gần một người
đặc biệt bạn cảm thấy buồn chẳng nguyên cớ nào cả. Có
thể là người này cũng chẳng thốt ra lời tiêu cực nào, và có
khi người đó còn cười to và hạnh phúc gặp bạn. Vậy mà
nỗi buồn cứ bám riết lấy bạn từ bên trong. Mặt khác,
trong toán người khác bạn có thể bỗng nhiên cảm thấy
vui vẻ.
Bạn đi vào phòng và bạn có thể cảm thấy thay đổi bất
thần bên trong bản thân mình. Cái gì đó thiêng liêng hay
không thiêng liêng chiếm giữ bạn. Trong vài khoảnh khắc
bạn được bao bọc bởi an bình và tĩnh lặng, và trong
khoảnh khắc khác lại bị bao bọc bởi bất ổn. Bạn không
thể hiểu tại sao và bạn tự hỏi, "Mình cảm thấy rất an bình.
Tại sao cái bất ổn này lại bỗng nhiên nảy sinh trong tâm
trí mình?" Tất cả xung quanh bạn đều có sóng ý nghĩ, và
chúng cứ đi vào trong bạn cả hai mươi bốn giờ.
Gần đây một nhà khoa học người Pháp đã làm ra một
dụng cụ thành công trong việc bắt sóng ý nghĩ. Ngay khi
một người tiến lại gần dụng cụ này, nó bắt đầu chỉ ra ý
nghĩ gì đang bên trong người đó. Dụng cụ này bắt đầu bắt
sóng ý nghĩ. Nếu một kẻ ngốc được đưa tới đứng trước
nó, sẽ rất ít sóng được báo ra, bởi vì người như thế gần
như chẳng nghĩ gì. Nếu một nhà trí thức được đưa tới
đứng trước nó, máy sẽ tiếp quản tất cả những rung động
của ý nghĩ của người đó.
Cho nên điều chúng ta biết về tâm trí là dạng tinh tế
của thể vía. Khi chúng ta ngày càng đi vào bên trong, các
tầng lại ngày càng tinh tế hơn. Khoa học đã đạt tới thể ê
te nhưng thậm chí bây giờ nó vẫn khăng khăng gọi đó là
bình diện nguyên tử hay bình diện năng lượng nguyên tử.
Nhưng khoa học đã đạt tới thể thứ hai của vật chất. Cũng
sẽ chẳng lâu lắm để đạt tới bình diện thứ ba, bởi vì bây
giờ đã trở nên cần phải làm như vậy.
Công việc cũng đang được tiến hành trên bình diện
thứ tư nhưng theo chiều hướng khác. Vì tâm trí được coi
như một phần từ thể này, một số nhà khoa học đang làm
việc chỉ về tâm trí; họ đã bỏ thân thể ra ngoài hoàn toàn.
Họ đã kinh nghiệm rất nhiều điều về thể thứ tư. Chẳng
hạn, tất cả chúng ta, theo một cách nào đó, đều là nguồn
phát. Ý nghĩ của chúng ta lan toả khắp quanh ta. Ngay cả
khi tôi không nói với bạn, ý nghĩ của tôi vẫn cứ tới bạn.
Nhiều công trình đang tiến triển ở Nga trong lĩnh vực
viễn cảm. Một nhà khoa học, Fayadev, đã thành công
trong việc truyền ý nghĩ cho một người ở khoảng cách xa
hàng nghìn dặm hệt như được làm trong việc phát sóng
radio. Nếu chúng ta tập trung sự chú ý với toàn bộ sức
mạnh ý chí vào một hướng đặc biệt và truyền một ý nghĩ,
nó sẽ tới đích đặc biệt đó. Nếu tâm trí ở tại đầu kia cũng
cởi mở tương đương và sẵn sàng tiếp nhận vào khoảnh
khắc đó và được tập trung theo cùng hướng, ý nghĩ sẽ
được nhận.
Bạn có thể thử một thực nghiệm đơn giản tại nhà. Trẻ
nhỏ bắt sóng ý nghĩ rất nhanh bởi vì tính tiếp nhận của
chúng rất sắc bén. Bảo một đứa trẻ ngồi trong góc buồng
tối và bảo nó tập trung vào bạn trong năm phút. Bảo nó
rằng bạn sẽ nói cho nó điều gì đó trong im lặng và nó
phải cố gắng và lắng nghe. Nếu nó nghe thấy, nó lặp lại
điều nó nghe thấy. Thế rồi bạn chọn một từ, Rama chẳng
hạn. Bây giờ tập trung vào đứa trẻ và lặp lại từ này bên
trong bạn cho tới khi nó vang dội trong bạn. Đừng nói to
từ đó. Trong thời gian hai hay ba ngày, bạn sẽ thấy rằng
đứa trẻ đã bắt được từ đó.
Điều ngược lại cũng có thể xảy ra. Một khi thực
nghiệm này thành công, sẽ dễ dàng tiến hành thêm các
thử nghiệm. Bây giờ bạn có thể bảo đứa trẻ tập trung vào
bạn. Nó nên nghĩ về một từ và ném từ đó vào hướng của
bạn theo cùng cách. Với phần đầu của thực nghiệm, hoài
nghi của bạn đã được xoá sạch khi đứa trẻ bắt được từ của
bạn. Cho nên bây giờ bạn sẽ tiếp nhận và bắt lấy từ của
đứa trẻ. Khi thực nghiệm này thành công, bạn sẽ chấm
dứt việc hoài nghi, và tính tiếp nhận của bạn sẽ tăng lên
tương ứng.
Giữa bạn và đứa trẻ có thế giới vật lí. Ý nghĩ này về
bản chất nên mang tính vật lí trong nội dung của nó bằng
không nó sẽ không thể xuyên qua môi giới vật lí. Bạn sẽ
ngạc nhiên mà biết rằng Mahavira thậm chí đã định nghĩa
nghiệp như vật chất. Nếu bạn giận dữ và bạn giết ai đó,
đấy là hành động của sự giận dữ và của kẻ giết người.
Mahavira nói rằng các nguyên tử tinh tế của những hành
động này bám vào bạn như lớp váng nghiệp và hành
động. Cho nên hành động nữa cũng là vật lí, và chúng
cũng bám chặt vào bạn như vật chất.
Mahavira gọi việc trở nên tự do với sự lệ thuộc tích
luỹ này của nghiệp là nirjara - giải lệ thuộc. Tất cả các
nguyên tử của nghiệp này mà đã tụ tập quanh bạn phải bị
rũ bỏ hết. Cái ngày mà bạn gạt bỏ tất cả chúng, cái còn lại
của bạn sẽ là sự thuần khiết tuyệt đối. Nirjara nghĩa là rũ
bỏ các nguyên tử của hành động. Khi bạn giận dữ, đấy là
hành động, thế thì giận dữ này vẫn còn với bạn bao giờ
cũng trong dạng nguyên tử của nó. Đó là lí do tại sao khi
thể vật lí suy sụp, những nguyên tử này không bị tan rã -
bởi vì chúng rất tinh tế. Chúng đi cùng bạn tới lần sinh
thành tiếp.
Cho nên thể trí là dạng tinh tế của thể vía. Vậy, như
bạn có thể thấy, không có lỗ hổng giữa bốn thể này. Mỗi
thể lại là dạng tinh tế của thể trước đó. Nhiều công trình
đang được tiến hành về thể trí. Các nhà khoa học đang
làm việc trong lĩnh vực tâm lí và đặc biệt cận tâm lí, và
những qui tắc kì lạ và kì diệu của năng lượng tinh thần
đang từ từ tới bên trong hiểu thấu của họ. Tôn giáo đã
hiểu thấu chúng từ lâu, nhưng bây giờ nhiều thứ đã trở
nên rõ ràng cả cho khoa học nữa.
Có nhiều người ở Monte Carlo không bao giờ bị thua
trong trò chơi xúc sắc. Bất kì con xúc sắc nào họ gieo
cũng đều đưa lại số họ muốn. Ban đầu người ta cứ ngỡ là
có lẽ xúc sắc đã được thiết kế đặc biệt để gieo số mà họ
muốn. Thế rồi con xúc sắc được thay đổi, nhưng kết quả
vẫn như cũ: con xúc sắc vẫn cứ rơi đích xác chỗ những
người này muốn chúng rơi. Nhiều thay đổi xúc sắc đều
cho cùng kết quả. Thậm chí khi bị bịt mắt những người
này vẫn xoay xở để gieo đúng số. Điều này làm cho
những người khác ngôi cạnh phải để ý. Các cuộc điều tra
đã bắt đầu để tìm ra nguyên nhân. Thực tại, chính quyết
tâm của ý nghĩ của họ đã ảnh hưởng tới con xúc sắc. Họ
gieo con xúc sắc với quyết tâm để được số họ muốn.
Sóng ý nghĩ của họ đem con xúc sắc về đúng số đó. Điều
này có nghĩa là gì? Nếu sóng ý nghĩ có khả năng thay đổi
hướng của con xúc sắc, chúng cũng phải là vật chất bằng
không điều này không thể có được.
Tiến hành một thực nghiệm nhỏ và bạn sẽ hiểu. Vì
bạn nói về khoa học, tôi nói về thực nghiệm. Lấy một cái
cốc đổ đầy nước. Bỏ thêm vào cốc một ít glycerine hay
bất kì chất béo nào khác để tạo nên một màng mỏng trên
bề mặt nước. Đặt một chiếc đinh ghim thẳng nhẹ nhàng
trên màng này để cho nó nổi trên bề mặt. Đóng cửa phòng
mọi phía. Để bàn tay áp sát xuống đất, tập trung sự chú ý
của bạn hoàn toàn vào chiếc kim. Trong năm phút nhìn
thẳng vào chiếc kim. Rồi bảo chiếc kim quay sang trái và
nó sẽ quay sang trái. Rồi bảo nó quay sang phải và nó sẽ
quay sang phải. Bảo nó dừng lại và nó sẽ dừng; bảo nó di
chuyển và nó sẽ di chuyển. Nếu ý nghĩ của bạn có thể làm
chuyển động chiếc kim, nó cũng có thể làm chuyển động
cả quả núi nữa; đấy chỉ là vấn đề tỉ lệ. Về nền tảng,
nguyên tắc là như nhau. Nếu bạn có khả năng làm chuyển
động chiếc kim thì điều nền tảng đã được chứng minh.
Đấy là vấn đề khác nếu núi có thể là một cấu trúc quá
khổng lồ không di chuyển được - nhưng nó có thể di
chuyển.
Sóng ý nghĩ của chúng ta chạm vào vật chất và làm
biến đổi nó. Có những người khi được trao cho chiếc
khăn tay của bạn, sẽ có thể nói nhiều điều về bạn gần như
thấy bạn. Điều này là bởi vì khăn tay của bạn hấp thu
sóng ý nghĩ của bạn. Những sóng này cũng tinh tế đến
mức một chiếc khăn thuộc về Alexander Đại Đế vẫn sẽ
còn mang những sự kiện về nhân cách ông ta. Những
sóng này cũng tinh tế đến mức phải mất hàng triệu năm
nó mới ra khỏi vật mang. Đây là lí do tại sao các nấm mồ
và samadhi lại được xây dựng.
Hôm qua tôi đã nói với các bạn rằng ở Ấn Độ chúng
ta có tục lệ hoả thiêu người chết, nhưng không hoả thiêu
sannyasin chết. Thân thể của người thường được đem đi
thiêu để cho linh hồn người đó không tiếp tục lởn vởn
quanh nó. Nhưng sannyasin không bị đem đi thiêu bởi vì
linh hồn người đó đã dừng lởn vởn quanh thân thể mình
ngay từ khi người này vẫn còn sống. Bây giờ không phải
sợ linh hồn người đó còn có gắn bó với thân thể người đó.
Chúng ta muốn gìn giữ thân thể người đó, bởi vì thân thể
của người đã trải qua nhiều năm trong kinh nghiệm điều
thiêng liêng sẽ khuếch tán cùng những sóng ý nghĩ đó
trong hàng nghìn năm. Chỗ chôn cất người đó sẽ là có
nghĩa; nó sẽ cho kết quả. Thân thể đã chết, nhưng thân
thể này đã gần gũi với linh hồn này đến mức nó hấp thu
phần lớn những rung động đã phát ra từ nó.
Các ý nghĩ có những khả năng vô hạn, nhưng dẫu sao
chúng cũng là vật lí. Do đó, phải rất cẩn thận về điều bạn
nghĩ, bởi vì các sóng ý nghĩ tinh tế sẽ còn lại với bạn
ngay cả sau khi thân thể suy sụp. Tuổi vật lí của bạn rất
ngắn ngủi nếu so với tuổi của những sóng tinh tế này. Các
nhà khoa học bây giờ đi đến kết luận rằng nếu đã có
những người như Jesus và Krishna, trong tương lai gần họ
cũng sẽ có thể bắt được sóng ý nghĩ của những người
này. Thế thì chúng ta sẽ có khả năng biết liệu Krishna có
thực đã nói Gita hay không - bởi vì sóng ý nghĩ đã được
phát ra từ Krishna vẫn còn hiện diện trong vũ trụ, bật lại
từ hành tinh nào đó, tinh tú nào đó.
Cũng hệt như khi chúng ta ném một hòn đá vào biển:
khi nó rơi xuống nó tạo nên các vòng tròn nhỏ. Đá sẽ
chìm vì nó không thể nào ở lâu trên mặt nước được; nó
bắt đầu chìm ngay khi nó chạm vào nước. Các gợn sóng
do tác động của nó lên nước bắt đầu tăng lên. Chúng trở
nên càng ngày càng rộng và việc mở rộng của chúng là vô
tận. Chúng có thể đi vượt ra ngoài đường chân trời tầm
nhìn của bạn, và ai biết chúng đạt tới bến bờ xa xôi nào.
Cho nên ý nghĩ, dù được sinh ra như thế nào - không
chỉ những ý nghĩ được nói ra mà còn cả những ý nghĩ ở
trong tâm trí - cũng lan rộng trong vũ trụ, và chúng cứ lan
rộng mãi. Và chúng có thể bị bắt giữ lại. Một ngày nào
đó, khi đà của khoa học tăng lên và con người tiến bộ hơn
nữa, chúng ta sẽ có thể nghe thấy chúng lần nữa. Bây giờ
tin tức radio truyền từ Delhi tới Bombay phải mất một
chút thời gian để tới Bombay vì âm thanh mất thời gian
để du hành. Vào lúc nó tới Bombay, nó không còn ở
Delhi nữa: sóng đã rời khỏi Delhi qua một khoảng cách
chỉ trong vài khoảnh khắc. Có lỗ hổng thời gian.
Bây giờ giả sử ở Ấn Độ chúng ta thấy một người ở
New York trên ti vi. Khi hình ảnh người này được tạo ra
ở New York, chúng ta không thấy được ngay lập tức; có
lỗ hổng giữa việc hình thành nó và thời gian khi nó tới
chúng ta. Có thể trong khoảng thời gian đó người này đã
chết, nhưng người đó vẫn dường như sống với chúng ta.
Cây cối, con vật và con người phản ứng mạnh mẽ lại
với môi trường âm thanh. Thế mà ê te do các ý nghĩ tạo
ra, lại còn thấm tràn hơn nhiều so với sóng âm thanh.
Dạng rất mịn này của năng lượng vật lí sẽ được các nhà
khoa học nghiên cứu, đó là điều không hoài nghi gì nữa.
Sóng ý nghĩ từ trái đất, cũng như các gợn sóng của
những biến cố khác, đi ra tới vô số các hành tinh. Nếu
như chúng ta tiến lên trước chúng và bắt lấy chúng, chúng
sẽ vẫn là sống theo một nghĩa nào đó. Con người chết
nhưng ý nghĩ của người đó không chết nhanh thế. Cuộc
sống của con người rất ngắn; cuộc sống của ý nghĩ rất
dài. Nhớ cả điều này nữa, ý nghĩ chúng ta không diễn đạt
còn sống lâu hơn ý nghĩ chúng ta diễn đạt bởi vì chúng
tinh tế hơn. Vật càng tinh tế hơn, cuộc sống của nó càng
dài hơn; vật càng thô hơn, cuộc sống càng ngắn hơn.
Ý nghĩ ảnh hưởng tới thế giới vật lí theo nhiều cách.
Chúng ta chẳng có ý tưởng gì về hiệu quả của nó. Các
nhà sinh học bây giờ đã kinh nghiệm rằng nếu một bản
nhạc tình được chơi bên cạnh một cây, nó bắt đầu nở hoa
sớm - thậm chí trái vụ. Nếu nhạc giậm giật, ầm ĩ được
chơi gần nó thế thì nó không nở hoa - không nở hoa thậm
chí dù đúng mùa vụ. Rung động của âm nhạc chạm tới
cây cối. Bò cho nhiều sữa hơn dưới ảnh hưởng của các
kiểu âm nhạc khác nhau. Ý nghĩ tạo ra ê te tinh tế hơn mà
ê te lại tạo ra hào quang gợn sóng. Mỗi người đều mang
quanh mình thế giới riêng các ý nghĩ của mình mà từ đó
gợn sóng cứ lan toả liên tục mãi.
Những sóng ý nghĩ này cũng là vật lí. Điều ta biết về
tâm trí là một dạng rất tinh tế của năng lượng vật lí. Do
đó, không khó khăn cho khoa học đạt tới chúng, bởi vì
những sóng này có thể bị bắt lại và được nghiên cứu.
Chẳng hạn, mãi đến gần đây chúng ta vẫn không biết con
người ngủ say thế nào - tâm trí người đó đi vào độ sâu
nào. Bây giờ chúng ta biết; chúng ta có dụng cụ để tìm ra.
Khi chúng ta có dụng cụ để đo tỉ lệ xung, chúng ta cũng
có dụng cụ để đo giấc ngủ. Một thiết bị được gắn vào đầu
suốt cả đêm, và từ đồ thị được tạo nên từ nó chúng ta có
thể biết đích xác khi nào giấc ngủ của người này trở nên
sâu, người đó ngủ được bao lâu, người đó mơ bao lâu, lúc
nào là mơ tốt, lúc nào là mơ xấu, các giấc mơ kéo dài bao
lâu, và liệu chúng có mang tính dục hay không dục. Tất
cả những điều này đều được đồ thị chỉ ra. Có khoảng
mười phòng thí nghiệm ở Mĩ nơi hàng nghìn người được
trả tiền để tới và ngủ và giấc ngủ của họ được kiểm tra
chặt chẽ. Vấn đề có sự quan tâm lớn là chúng ta vẫn còn
chưa quen biết với giấc ngủ.
Một phần ba đời người trôi qua trong giấc ngủ. Ngủ
không phải là vấn đề nhỏ. Nếu một người sống sáu mươi
năm, người đó ngủ hai mươi năm trong số đó. Nếu thời kì
hai mươi năm này vẫn còn không được biết, một phần ba
đời người đó sẽ còn không được biết với người đó. Bây
giờ sự kiện đáng quan tâm là ở chỗ nếu người đó không
ngủ trong hai mươi năm này, người đó sẽ không sống
được cho bốn mươi năm. Do đó, giấc ngủ là nhu cầu cơ
bản. Một người có thể ngủ mà không tỉnh trong sáu mươi
năm, nhưng người đó không thể sống mà không ngủ.
Vậy, giấc ngủ là một yêu cầu cơ bản.
Trong giấc ngủ chúng ta ở đâu đó khác; tâm trí ở đâu
đó khác. Nhưng tâm trí này có thể được đo. Bây giờ
người ta có thể biết một người đi vào giấc ngủ say thế
nào. Có nhiều người cứ khăng khăng là mình không mơ.
Đây là ý nghĩ tuyệt đối sai lầm, và họ nói điều này bởi vì
họ không biết. Rất khó tìm ra người không mơ. Rất khó
đấy! Mơ xuất hiện suốt đêm trường. Bạn nghĩ rằng bạn
chỉ có một giấc mơ hay hai, nhưng điều đó là sai. Máy
móc nói rằng giấc mơ xuất hiện cả đêm nhưng chúng ta
không nhớ chúng. Bạn ngủ nên việc nhớ bị thiếu vắng.
Giấc mơ bạn nhớ chính là giấc mơ cuối cùng xảy ra khi
giấc ngủ gần kết thúc. Khi bạn trở lại từ giấc ngủ, giấc
mơ cuối cùng còn lại trong ý nghĩ của bạn. Tiếng vọng
mờ nhạt của nó vẫn còn nấn ná bên trong khi bạn tỉnh
dậy. Nhưng bạn không nhớ chút nào tất cả những giấc mơ
của giấc ngủ say.
Bây giờ vấn đề đã trở thành cần thiết để nghiên cứu
giấc mơ nào xuất hiện trong giấc ngủ say, bởi vì cái mà
người ta mơ trong chiều sâu của giấc ngủ, để lộ ra nhân
cách xác thực của người đó. Thực sự chúng ta trở nên
không xác thực khi thức tỉnh. Thông thường ta nói, "Cái
gì có đó trong mơ?" Nhưng mơ để lộ ra nhiều chân lí về
bản thân chúng ta hơn là trạng thái tỉnh của chúng ta.
Trong thời kì có ý thức của mình, chúng ta che đậy bản
thân mình bằng áo giả. Nếu một ngày nào đó chúng ta
thành công trong việc tạo ra một cửa sổ trong đầu con
người để từ đó chúng ta có thể quan sát tất cả các giấc mơ
của người đó, tự do cuối cùng của người đó sẽ bị mất.
Thế thì người đó sẽ không được tự do ngay cả với việc
mơ. Người đó sẽ sợ mơ, bởi vì cũng có giá trị đạo đức với
các luật lệ và qui tắc của nó sẽ tạo nên cảnh sát của nó.
Nó sẽ nói, "Giấc mơ này là không đúng; anh đang không
mơ đúng." Tuy nhiên hiện tại chúng ta không có tự do
này. Con người được tự do trong giấc ngủ - nhưng tự do
của con người sẽ không kéo dài, bởi vì sự xâm lấn vào
giấc ngủ đã bắt đầu. Chẳng hạn, bây giờ Nga đã bắt đầu
giáo dục trong giấc ngủ.
Nhiều công trình đang tiếp tục về việc dạy học trong
khi ngủ. Trong những giờ thức tỉnh, người ta phải tốn
nhiều nỗ lực hơn bởi vì trẻ con cưỡng lại. Khó mà dạy
một đứa trẻ điều gì đó, bởi vì về cơ bản nó từ chối bị dạy.
Thực tế, mọi người đều từ chối việc học, bởi vì mỗi người
đều bắt đầu với ý nghĩ cơ bản rằng mình đã biết. Trẻ con
cũng từ chối bằng việc nói, "Thầy dạy gì vậy?" Chẳng có
cách nào để cho nó sẵn sàng học. Thế thì chúng ta phải
hối lộ nó bằng việc trao giải thưởng sau kì thi, huân
chương vàng, vân vân. Chúng ta phải khơi dậy tinh thần
tham vọng bên trong nó; chúng ta phải tiếp tục thúc đẩy
nó để giáo dục nó. Xung đột này chiếm một thời gian quá
dài. Điều mà đứa trẻ có thể học trong hai giờ, chúng ta
nhồi vào nó trong hai tháng.
Cho nên phương pháp dạy trong khi ngủ đã được làm
tiến hoá, và vấn đề đã trở thành rõ như ban ngày là đứa
trẻ có thể được dạy rất tốt trong giấc ngủ. Lí do là giản dị:
không có sự cưỡng lại trong giấc ngủ. Một băng ghi âm
được bật lên gần đứa trẻ đang ngủ truyền đạt bất kì cái gì
cần phải nhồi vào cho đứa trẻ. "Hai cộng hai là bốn; hai
cộng hai là bốn," băng cứ lặp đi lặp lại. Hỏi đứa trẻ vào
buổi sáng và nó sẽ nói, "Hai cộng hai là bốn."
Bây giờ ý nghĩ này đã được truyền đạt trong giấc ngủ
cũng có thể được làm thấm nhuần vào tâm trí bằng
phương tiện sóng ý nghĩ, bởi vì bây giờ chúng ta biết về
sóng ý nghĩ. Trong quá khứ chúng ta không biết, nhưng
bây giờ chúng ta biết rằng bản thân lời không được khắc
ghi vào đĩa hát. Thay vì thế thì vết khắc ghi của sóng âm
thanh được ghi lại trên đĩa. Khi kim chạm vào đường rãnh
mà đã được tạo ra, nó lặp lại cùng sóng vốn gây ra cho
đường rãnh được ghi lại.
Như tôi đã nói trước đây, nếu bạn tụng Aum một hình
mẫu sẽ được tạo thành trên cát. Bản thân hình mẫu này,
không phải là aum - nhưng nếu bạn biết rằng hình mẫu
đặc biệt này được tạo nên bởi aum, thế thì một ngày nào
đó bạn sẽ có khả năng chuyển đổi hình mẫu này trở lại
aum. Tuỳ theo việc hình thành hình mẫu này mà âm
thanh của aum sẽ xuất hiện. Hình mẫu và aum có thể
được xem như cùng một vật. Trong việc ghi đĩa hát
không lời - chỉ có đường rãnh được tạo ra bởi tác động
của âm thanh của lời. Khi những đường rãnh này đi vào
tiếp xúc với kim, chúng được chuyển đổi thành âm thanh
tương ứng.
Trong tương lai rất gần chúng ta sẽ có khả năng tạo ra
bản ghi ý nghĩ. Vì tác động của ý nghĩ đã được nhận ra
nên con người sẽ không mất thời gian lâu để có khả năng
ghi lại nó. Thế thì một điều kì diệu sẽ xảy ra. Sẽ có thể là
mặc dầu Einstein đã chết nhưng quá trình suy nghĩ đầy đủ
của ông ấy sẽ được ghi lại. Thế thì điều Einstein sẽ nghĩ
trong tương lai, nếu như ông ấy vẫn còn sống, cũng sẽ
được máy móc cung cấp, bởi vì máy này sẽ bắt giữ tác
động của toàn bộ sóng ý nghĩ của ông ấy.
Ngủ, mơ và vô ý thức đã được nghiên cứu đầy đủ.
Vậy, tất cả khả năng khoa học của tâm trí bây giờ đều
được biết cho con người. Do đó, cũng tốt là hiểu chúng.
Chẳng hạn, lấy một người đang giận dữ. Theo tính toán
cũ của chúng ta, chúng ta sẽ khuyên anh ta, "Đừng lao
vào giận dữ; anh sẽ xuống địa ngục đấy." Chúng ta không
có cách nào khác. Nhưng nếu người này nói anh ta sẵn
sàng xuống địa ngục, thế thì chúng ta bất lực; chúng ta
không thể làm gì cho anh ta được. Và nếu người này còn
tuyên bố thêm nữa rằng anh ta nóng lòng muốn xuống địa
ngục, tất cả đạo đức của chúng ta thành vô dụng. Chúng
ta có thể kiểm soát một người chỉ nếu người đó sợ địa
ngục. Đây là lí do tại sao ngay khi nỗi sợ địa ngục rời bỏ
thế giới này, nền đạo đức của chúng ta cũng ra đi cùng
nó. Bây giờ chẳng ai sợ địa ngục cả. "Địa ngục ở đâu?" ai
cũng muốn biết.
Cho nên đạo đức bị kết thúc hoàn toàn, bởi vì nỗi sợ
mà nó dựa trên đó đã mất. Nhưng khoa học nói không cần
đạo đức vì nó đã xây dựng một công thức khác dựa trên
việc chấm dứt những bí mật thân thể nào đó. Khi chúng ta
đang giận dữ, một quá trình hoá học đặc biệt xảy ra bên
trong thân thể, bởi vì giận dữ là biến cố vật lí. Khi có giận
dữ bên trong, tuyệt đối cần hoá chất nào đó được giữ kín
trong thân thể. Vậy, công thức của khoa học là thế này:
những chất được giữ kín này có thể bị ngăn lại không cho
hình thành và thế thì sẽ không có giận dữ. Thế thì chẳng
cần phải chấm dứt giận dữ một cách trực tiếp. Nếu chất
lỏng này bị dừng lại con người sẽ thấy không thể nào giận
dữ được. Nếu chúng ta cố gắng khuyên nam nữ thanh
niên tiết chế dục, thực hành vô dục, họ chẳng bao giờ
nghe. Khoa học nói, "Chấm dứt tất cả những điều này đi!
Nếu chúng ta hạn chế phát triển của tuyến nào đó, chín
muồi dục sẽ không tới trước tuổi hai mươi nhăm."
Điều này rất nguy hiểm. Khoảnh khắc tâm trí tới đầy
đủ bên trong việc hiểu của khoa học, con người sẽ bắt đầu
dùng sai tri thức của mình. Khoa học nói rằng thành phần
hoá chất của một người có tâm trí nổi dậy khác với thành
phần hoá chất của người với tâm trí chính thống. Phát
kiến này chứa những khả năng nguy hiểm. Nếu thành
phần của những hoá chất này được con người biết tới,
chúng ta có thể làm cho người nổi dậy thành thụ động và
người chính thống thành người nổi dậy. Một khi các
thành phần hoá chất đem tới thôi thúc ăn cắp hay giết
người là được biết tới, sẽ không còn cần gì tới giam cầm
và xử tử nữa. Tất cả những điều cần thiết vậy là cần phẫu
thuật hay trị liệu để loại bỏ chất này khỏi người đó. Hoá
chất đang xét có thể bị loại bỏ hay hoá chất khác có thể
được đưa vào để trung hoà chúng hay có thể cho thuốc
giải độc. Tất cả công trình này hiện đang được nghiên
cứu.
Tất cả những điều này chỉ ra rằng không còn nhiều
khó khăn trên con đường của khoa học để đạt tới thể thứ
tư. Vấn đề duy nhất là ở chỗ một phần rất lớn của khoa
học đang tham gia vào nghiên cứu vì mục đích chiến
tranh. Đó là lí do tại sao loại nghiên cứu này lại không
được coi là chủ yếu; nó vẫn còn là vấn đề thứ yếu. Vậy
mà đã có tiến bộ lớn và thu được các kết quả bất thường.
Aldous Huxley đã tuyên bố rằng điều đã xảy ra cho
Meera hay Kabir có thể đem lại bởi việc tiêm. Đấy là một
tuyên bố rất hung hăng, mặc dầu đúng ở mức độ nào đó.
Mahavira sẽ nhịn ăn một tháng và tâm trí của ông ấy sẽ
trở nên yên tĩnh. Nhịn ăn là hành động vật lí, và nếu tâm
trí có thể trở nên an bình bằng hành động vật lí thế thì tâm
trí nữa cũng là vật lí. Với việc nhịn ăn một tháng toàn bộ
thành phần hoá học của thân thể thay đổi; đó là tất cả
những cái có đó cho nó. Chất dinh dưỡng mà thân thể
đáng phải có bị phủ nhận cho nó và tất cả chất dự trữ của
thân thể đều được dùng hết. Chất béo tan đi và những
phần tử không thiết yếu trải qua việc tiêu huỷ trong khi
những phần tử thiết yếu được gìn giữ. Theo cách này toàn
bộ việc thu xếp hoá học của thân thể trải qua sự thay đổi
hoàn toàn.
Khoa học nói, "Cần gì phải trải qua vất vả thế trong
một tháng dài? Tỉ lệ hoá chất có thể được thay đổi theo
những mô tả ở đây và bây giờ." Nếu thay đổi hoá chất
này được khoa học đem tới, bạn sẽ kinh nghiệm cùng an
bình mà Mahavira đã kinh qua sau khi nhịn ăn một tháng
dài mà chẳng mất thời gian gì cả; nhịn ăn một tháng sẽ là
không cần thiết.
Cho nên tôi bảo các bạn trong khi thiền, thở thật
mạnh và nhanh. Nhưng cái gì sẽ xảy ra sau một nửa giờ
thở mạnh? Đấy chỉ là tỉ lệ các bô níc và ô xi bên trong
bạn sẽ thay đổi - nhưng điều này có thể được đem lại
bằng các phương tiện bên ngoài nữa. Chẳng cần phải làm
cho bạn lao động trong nửa giờ. Tỉ lệ ô xi và các bô níc
trong phòng này có thể được thay đổi và tất cả những
người ngồi đây sẽ kinh nghiệm an bình và bình thản và sẽ
cảm thấy vui vẻ. Vậy, khoa học đã đi vào thể thứ tư từ
mọi hướng, và nó vẫn đang thấm vào đó hơn nữa.
Trong thiền những kinh nghiệm khác nhau xảy ra cho
bạn. Bạn ngửi thấy tất cả các loại hương thơm, bạn thấy
mầu sắc. Tất cả những điều này bây giờ có thể được đem
tới mà chẳng cần thiền, bởi vì khoa học đã tìm ra phần
nào của bộ não bạn trở nên tích cực trong những kinh
nghiệm này. Nếu phần sau của bộ não tôi được kích thích
khi tôi thấy mầu đẹp, các cuộc điều tra khoa học sẽ chỉ ra
đích xác phần trở nên kích hoạt và chiều dài sóng được
tạo ra. Bạn không cần đi vào thiền. Cùng rung động đó có
thể được đem lại bên trong bạn với sự trợ giúp của điện
và bạn sẽ bắt đầu thấy mầu sắc. Đây là những biến cố
song song, bởi vì chúng ta giữ cực nào đi chăng nữa, đầu
bên kia cũng lập tức trở nên được kích hoạt ngay.
Tuy nhiên có nguy hiểm trong điều này. Càng nhiều
nghiên cứu mới của con người tràn vào bên trong, nguy
hiểm của nó càng tăng lên. Chẳng hạn, bây giờ chúng ta
có thể tăng tuổi của con người lên theo ý muốn. Điều đó
không còn trong tay của tự nhiên nữa; nó là trong tay của
khoa học. Cho nên ở châu Âu và Mĩ có hàng nghìn người
già kêu la về quyền được chết theo ý chí tự do của riêng
mình, nhưng họ bị giữ sống lay lắt trên giường chết. Họ
được cấp cho ô xi và có thể được làm cho sống trong một
thời gian lâu. Một ông già chín mươi tuổi cầu xin được
chết, nhưng bác sĩ nói, "Chúng tôi không thể ủng hộ điều
đó được; điều đó là chống lại luật pháp." Thậm chí đứa
con của ông già cũng cảm thấy rằng bố mình đang phải
chịu đựng quá nhiều và ông ấy bây giờ nên được phép
chết, người đó không thể nói một cách cởi mở như vậy
được. Có những máy móc để giữ cho một người hấp hối
vẫn còn sống và người sắp chết được làm cho sống tiếp.
Bây giờ điều này, theo cách này, là nguy hiểm.
Luật cũ của chúng ta đã được làm ra khi chưa có
phương tiện để giữ cho con người sống và khi chúng ta
cũng có thể giết chết một người. Bây giờ luật cần phải
được xem xét lại, bởi vì chúng ta có thể giữ một người
hấp hối vẫn sống và kéo dài đủ lâu để người đó cảm thấy,
"Điều này là bạo hành, điều này là tàn ác! Tôi không
muốn sống thêm nữa. Các ông đang làm gì tôi vậy?" Đã
có thời khi chúng ta trừng phạt một người bởi tội ác của
người đó bằng cách treo cổ người đó. Sẽ không có gì phải
ngạc nhiên nếu năm mươi năm sau chúng ta trừng phạt
một người bằng việc không cho phép người đó chết. Và
việc trừng phạt này sẽ còn tồi tệ hơn là việc trừng phạt
đầu, bởi vì chết là vấn đề của vài giây trong khi sống có
thể đến hàng thập kỉ.
Cho nên bất kì khi nào có khám phá mới trong thế
giới bên trong của con người đều có hai kết quả: hoặc loài
người có thể đau khổ bởi nó, hoặc nó có thể có ích. Bất kì
khi nào quyền năng tới, nó bao giờ cũng có hai mặt cả.
Khoa học đã đạt tới bình diện thứ tư bên trong con
người. Trong vòng năm mươi năm nữa - đúng hơn, trong
vòng ba mươi năm nữa - nó sẽ thâm nhập sâu hơn vào
trong thể thứ tư. Có lẽ bạn có thể không biết rằng bất kì
cái gì đã được thực hiện trong một thế kỉ đặc biệt đều đạt
tới cực đỉnh của nó vào cuối thế kỉ. Mọi thế kỉ đều hoàn
thành công việc của nó vào lúc nó đi tới kết thúc. Thế kỉ
này đã tiến hành rất nhiều công việc mà sẽ được hoàn tất
trong thời gian ba mươi năm. Nhiệm vụ lớn nhất của nó
là đi vào trong hồn con người, và điều này sẽ được hoàn
tất.
Thể thứ năm - thể tâm linh - thậm chí còn tinh tế hơn
thể thứ tư. Tại đây không chỉ có rung động của ý nghĩ mà
còn rung động của bản thể. Nếu tôi ngồi hoàn toàn im
lặng không một ý nghĩ bên trong, dù thế bản thể của tôi
vẫn tạo ra rung động. Nếu bạn tới gần tôi và không có ý
nghĩ trong tôi, bạn sẽ vẫn ở bên trong trường rung động
của tôi. Và điều thú vị nhất là ở chỗ các rung động của ý
nghĩ của tôi, không mạnh hay không thấm sâu như rung
động của bản thể của tôi. Do đó, người đạt tới trạng thái
vô trí trở nên rất mạnh. Khó mà đánh giá được tác động
của sức mạnh của người này bởi vì rung động của sự tồn
tại bắt đầu nảy sinh bên trong người này. Rung động năng
lượng của thể thứ năm là dạng tinh tế nhất của năng
lượng trong toàn bộ tri thức của con người.
Cho nên điều đó đã xảy ra trong nhiều trường hợp,
như trong trường hợp của Mahavira, là ông ấy không nói.
Tức là, ông ấy hoặc nói rất ít hoặc ông ấy không nói chút
nào; ông ấy chỉ ngồi. Mọi người tới, ngồi trước ông ấy,
hiểu ông ấy và quay về. Điều này là có thể vào thời ông
ấy, nhưng bây giờ không có như thế nữa. Điều ấy bây giờ
rất khó bởi vì bạn sẽ chỉ kinh nghiệm sóng sâu của thể
tâm linh nếu bản thân bạn sẵn sàng ở trạng thái vô ý nghĩ,
và không có điều ngược lại. Nếu bạn đầy tiếng ồn của các
ý nghĩ riêng của mình bạn sẽ lỡ những rung động tinh tế
này. Chúng sẽ chỉ đi qua bạn và bạn sẽ không thể nào
hiểu thấu được chúng.
Nếu những rung động của sự tồn tại tới bên trong sự
hiểu thấu của người ta, nếu có trạng thái vô ý nghĩ về cả
hai phía, thế thì không cần nói. Thế thì việc trao đổi xảy
ra ở mức độ rất thân thiết, và việc trao đổi này đi thẳng
vào tim. Thế thì không có giải thích bởi vì không có cách
giải thích. Thế thì bạn cũng sẽ không lưỡng lự về liệu
điều này hay điều kia sẽ có hay sẽ không có. Bản thể của
bạn sẽ biết trực tiếp điều đã xảy ra.
Cũng không nhất thiết chỉ có trường hợp con người bị
những rung động của thể thứ năm động chạm tới. Có một
hiện tượng kì diệu trong cuộc sống của Mahavira: tương
truyền rằng ngay cả con vật cũng cũng tới dự cuộc tụ họp
của ông ấy. Các sư Jaina đã không thể nào giải thích được
hiện tượng này và họ chẳng bao giờ giải thích nổi. Bây
giờ con vật không hiểu ngôn ngữ con người nhưng nó
hiểu ngôn ngữ của bản thể rất rõ. Nếu tôi ngồi trong điều
kiện vô ý nghĩ gần con mèo, con mèo đã trong trạng thái
vô ý nghĩ. Tuy nhiên với bạn, tôi sẽ phải nói. Việc đưa
bạn tới trạng thái vô ý nghĩ của con mèo là một cuộc hành
trình rất dài. Con vật, cây cối và thậm chí tảng đá cũng
hiểu các rung động bắt nguồn từ thể tâm linh; không có
khó khăn gì trong đó cả. Cho nên thể này cũng là thâm
nhập được, nhưng chỉ sau thể thứ tư. Thể thứ tư đã bị tràn
vào từ nhiều mặt trận, và khoa học sẽ sẵn lòng chấp nhận
trạng thái tâm linh. Nhưng sau điều này, có một số khó
khăn.
Cho nên khi tôi nói rằng mọi thứ có thể rất rõ ràng
theo khoa học cho thể thứ năm nhưng sau thể thứ năm
khó khăn bắt đầu, có lí do cho điều này. Nếu chúng ta
hiểu rõ khoa học, nó là việc đặc thù hoá theo một hướng
đặc biệt; nó là chọn lựa đặc biệt. Cho nên khoa học chỉ có
thể đi sâu hơn khi nó hạn chế việc tìm kiếm của nó vào ít
điều nhất có thể và cố gắng biết nhiều nhất có thể chỉ về
chúng. Mục đích của khoa học là biết ngày càng nhiều
hơn về ngày càng ít thứ. Công việc của nó có hai phần: nó
cố gắng biết nhiều hơn về một vật nhỏ nhất có thể được.
Nó làm cho chủ thể của việc tìm hiểu thành nhỏ nhất có
thể được và tăng tri thức của nó về điều ấy.
Các thầy lang ngày xưa đều thông thái về toàn thân
thể, nhưng bác sĩ ngày nay không thế. Kiểu nhà thực hành
tổng quát cũ bây giờ khó mà thấy được. Trong thế giới
ngày nay người đó đã trở thành di tích; người đó không
còn được tin cậy nữa. Người đó biết về quá nhiều thứ; do
đó người đó không thể biết về bất kì một cái gì thật rõ đủ
để tin cậy được. Bây giờ có các nhà chuyên môn về mắt
và các nhà chuyên môn về tai, và họ có thể tin cậy được
vì họ đã thu được tri thức tối đa trong một lĩnh vực đặc
biệt.
Chẳng hạn, tất cả sách báo có sẵn về mắt mênh mông
đến mức một đời người cũng không đủ để xem hết chúng.
Hoàn toàn có thể là trong tương lai gần sẽ có một nhà
chuyên môn về mắt phải và một nhà chuyên môn khác về
mắt trái, hay có lẽ một nhà chuyên môn về con ngươi và
một nhà chuyên môn về võng mạc. Khi tri thức tăng lên,
mắt sẽ được phân chia thành nhiều phần cho nghiên cứu
đặc biệt, bởi vì mỗi phần bản thân nó cũng là một trường
hợp quan trọng rồi. Mục đích của khoa học là tập trung sự
hội tụ chú ý của nó vào một đầu ghim nhỏ sao cho nó có
thể thấm tràn vào chiều sâu lớn nhất. Đây là cách khoa
học có thể đi tới biết rất nhiều.
Cho nên, như tôi đã nói trước đây, khoa học sẽ đạt tới
thể thứ năm, bởi vì cho tới thể thứ năm, cá nhân vẫn còn
tồn tại; do đó người đó có thể đi vào trong sự hội tụ của
nó. Từ thể thứ sáu vũ trụ bắt đầu, và điều này nằm ngoài
sự hội tụ của khoa học. Thể vũ trụ có nghĩa là toàn bộ:
khoa học không thể vào đó, bởi vì khoa học đi từ cái nhỏ
đến cái nhỏ nhất. Cho nên nó chỉ có thể hiểu thấu cá
nhân; nó sẽ thấy rất khó khăn để hiểu thấu vũ trụ. Một
mình tôn giáo có thể hiểu thấu vũ trụ. Do đó, cho tới
atman, cái ta, khoa học sẽ không có rắc rối gì. Khó khăn
bắt đầu với Brahman - cái ta vũ trụ. Tôi không nghĩ khoa
học sẽ có thể hiểu thấu được Brahman, bởi vì thế thì nó sẽ
phải rời bỏ cái đặc thù của nó. Và khoảnh khắc mà nó rời
bỏ cái đặt thù của nó, nó không còn là khoa học nữa. Thế
thì nó sẽ được tổng quát và mông lung như tôn giáo. Cho
nên với sự giúp đỡ của khoa học chúng ta có thể du hành
vào thể thứ năm. Tại thể thứ sáu khoa học sẽ bị lạc, và thể
thứ bẩy là không thể được cho nó vì tất cả tìm kiếm của
nó đều hội tụ chỉ vào cuộc sống.
Thực tại, trung tâm của sự tồn tại của chúng ta là
cuộc sống. Chúng ta muốn ít ốm và nhiều mạnh khoẻ;
chúng ta muốn sống lâu hơn, hạnh phúc hơn, thoải mái
hơn. Mục tiêu của khoa học là làm cho cuộc sống được
hạnh phúc sâu sắc hơn, thoả mãn hơn, mạnh khoẻ hơn và
vui sướng hơn. Nhưng thể thứ bẩy là việc chấp nhận cái
chết: nó là cái chết tối thượng. Tại đây, thiền nhân vượt ra
ngoài việc tìm kiếm cuộc sống. Người đó nói, "Tôi cũng
muốn biết cả cái chết nữa. Tôi đã biết sự tồn tại và bí ẩn
của hiện hữu; bây giờ tôi muốn biết cái không tồn tại, cái
không hiện hữu."
Khoa học chẳng có nghĩa gì trong miền này. Các nhà
khoa học như Freud sẽ gọi điều này là ước muốn chết và
nói rằng đây không phải là trạng thái lành mạnh của tâm
trí - rằng đấy là tự tử. Theo Freud, giải thoát và niết bàn
chẳng ích lợi gì cho cuộc sống cả và những khái niệm này
là bằng chứng về ước muốn của bạn được chết. Ông ta
nói rằng bạn muốn chết, đấy là lí do tại sao bạn ốm yếu.
Nhà khoa học chống lại ham muốn chết, vì khoa học dựa
trên ý chí muốn sống và trên việc mở rộng cuộc sống.
Người muốn sống là người lành mạnh, nhưng khoảnh
khắc sẽ tới khi ước muốn chết cũng là lành mạnh tương
đương. Nếu ai đó muốn chết trước khi khoảnh khắc này
tới, đấy dứt khoát là điều không lành mạnh. Tuy nhiên,
một khoảnh khắc sẽ tới trong cuộc sống khi một người
muốn chết với mục đích chết.
Người ta có thể nói tỉnh thức là lành mạnh và ngủ là
không lành mạnh, và dần dần chúng ta ngày càng dành
nhiều chỗ cho ngày hơn đêm. Ban đầu đêm bắt đầu lúc
sáu giờ, bây giờ nó bắt đầu lúc hai giờ sáng. Chúng ta đã
đem thời gian đêm cho ngày. Có một số nhà tư tưởng
hiện đại còn đi xa đến mức cảm thấy rằng nếu như người
ta có thể loại hẳn đêm khỏi cuộc sống con người, một
phần đáng kể của cuộc sống mình có thể được cứu cho
khỏi bị phí hoài. Cần quái gì ngủ? Phải vứt bỏ việc ngủ
đi, họ biện minh. Nhưng khi có vui trong tỉnh thức, cũng
có cả vui trong ngủ nữa. Cũng hệt như ham muốn tỉnh
thức là tự nhiên và lành mạnh, ham muốn ngủ cũng vậy.
Nếu một người vẫn giữ cái hăm hở sống cho tới hơi thở
cuối cùng, người đó không phải là lành mạnh, và nếu một
người cứ nuôi dưỡng ham muốn chết từ ngay lúc sinh ra,
thế nữa cũng là phi tự nhiên và không lành mạnh. Nếu
một đứa trẻ khao khát chết nó ốm yếu, bất thường, và nó
nên được điều trị. Nếu một người già còn khao khát sống,
người đó nữa cũng nên được điều trị bởi vì người đó cũng
ốm yếu.
Sống và chết là hai chi của sự tồn tại. Nếu bạn chấp
nhận chỉ một điều, bạn nhất định là què quặt. Chừng nào
thời điểm chưa tới để bạn chấp nhận điều kia, tàn tật vẫn
cứ còn đấy. Cả hai chi là quan trọng - hiện hữu và vô hiện
hữu. Người ôm choàng và chấp nhận cả hiện hữu và vô
hiện hữu như nhau có thể được gọi là hoàn toàn lành
mạnh. Người nói, "Tôi đã biết hiện hữu là gì; bây giờ tôi
muốn biết vô hiện hữu là gì," không sợ cái vô hiện hữu.
Bình diện thứ bẩy chỉ dành cho những người dũng
cảm - người đã biết cuộc sống và hăm hở biết cái chết,
người hăng say thám hiểm cái chết, trạng thái tuyệt diệt.
Họ hăng say biết vô hiện hữu là gì, tuyệt diệt giống cái gì,
vô hiện hữu là gì. Họ đã nếm trải cuộc sống; bây giờ họ
muốn nếm trải cái chết.
Tại điểm này bạn nên biết rằng cái chết giáng xuống
từ bình diện thứ bẩy. Điều chúng ta thường biết như cái
chết tới từ bình diện thứ bẩy và điều chúng ta biết như
cuộc sống tới từ bình diện thứ nhất. Sinh bắt đầu với thể
vật lí; sinh có nghĩa là việc bắt đầu của thể vật lí. Đây là lí
do tại sao thể vật lí vào hiện hữu trước nhất trong bụng
mẹ và rồi các thể khác theo sau. Cho nên thể thứ nhất là
việc bắt đầu của cuộc sống và thể cuối cùng, thể niết bàn,
là từ nơi cái chết tới. Cho nên người níu bám vào thể vật
lí rất sợ chết, và người sợ chết, sẽ chẳng bao giờ biết tới
thể thứ bẩy.
Vậy, khi chúng ta ngày càng dần tách ra khỏi thể vật
lí, một thời điểm sẽ tới khi chúng ta cũng chấp nhận cái
chết. Chỉ thế thì chúng ta mới biết. Và người biết tới cái
chết được giải thoát theo nghĩa thực của từ này, bởi vì thế
thì cuộc sống và cái chết trở thành hai phần của cùng một
điều và người ta vượt ra ngoài cả hai. Cho nên không có
hi vọng nào để cho khoa học đạt tới thể thứ bẩy, mặc dầu
có khả năng cho nó đi lên tới bình diện thứ sáu.
Cánh cửa của bình diện thứ tư đã mở ra cho khoa học,
và bây giờ thực tế không khó khăn gì cho nó đi lên tới thể
thứ năm. Nhưng cần có những người như vậy với tâm trí
khoa học và trái tim tôn giáo. Một khi họ xuất hiện, đi
vào thể thứ năm sẽ không khó khăn. Tuy nhiên việc tổ
hợp này là rất khó, bởi vì việc huấn luyện nhà khoa học
ngăn cản người đó không trở nên mang tính tôn giáo theo
nhiều hướng. Cũng vậy, theo cùng một cách, việc huấn
luyện tôn giáo ngăn cản người ta không trở nên có tính
khoa học. Chẳng có ở đâu mà hai nhánh huấn luyện này
lại trùng lên nhau, và điều này là khó khăn lớn.
Đôi khi điều này cũng xảy ra, và bất kì khi nào điều
này xảy ra trên thế giới, một đỉnh cao mới của tri thức đi
vào hiện hữu. Chẳng hạn, lấy Pantajali: ông ấy là một
người có tâm trí khoa học, nhưng ông ấy đã đi vào tôn
giáo. Ông ấy đã mang yoga tới một đỉnh cao mà mãi cho
tới nay còn khó vượt qua được. Bây giờ một thời gian dài
từ khi Pantajali chết và rất nhiều công trình nữa đã được
tiến hành trong lĩnh vực này, nhưng người ta vẫn chưa
tìm ra ai có trí thông minh của nhà khoa học và thế giới
bên trong của thực hành tâm linh. Chưa có một ai leo lên
đỉnh cao hơn của yoga. Sri Aurobindo đã thử nhưng ông
ấy đã không thành công.
Sri Aurobino có tâm trí khoa học - có lẽ còn khoa học
hơn Pantajali, bởi vì ông đã được huấn luyện ở phương
Tây. Việc huấn luyện của ông ấy thật tuyệt vời. Khi ông
ấy mới sáu tuổi, bố ông ấy đã gửi ông ấy đi học bên ngoài
Ấn Độ và cấm ông ấy không được trở về chừng nào ông
ấy còn chưa hoàn toàn chín chắn. Ngay cả trên giường
chết, khi những người khác trong gia đình nói tới việc gọi
Aurobindo về, bố ông ấy cũng không cho phép điều đó.
Ông ấy nói, "Cũng được thôi nếu tôi không gặp lại nó
trước khi chết. Nó phải thấm đẫm văn hoá phương Tây
đầy đủ. Đừng để cái bóng của phương Đông trùm lên nó.
Thậm chí đừng để nó biết rằng tôi chết." Ông ấy phải là
một người cha rất dũng cảm. Vậy, Aurobindo đã hấp thu
sâu sắc văn hoá phương tây. Nếu như có một người mang
tính chất Tây phương theo nghĩa thực sự của từ này đó là
Aurobindo. Ông ấy đã phải học lại tiếng mẹ đẻ sau khi trở
về Ấn Độ.
Cho nên tri thức khoa học là đầy đủ trong ông ấy,
nhưng tôn giáo là việc khắc ghi về sau và do đó nó không
thể được diễn đạt sâu sắc; bằng không, con người này sẽ
đạt tới tầm cao lớn hơn là Pantajali. Nhưng điều này đã
không như vậy. Theo một cách thức sâu sắc, cách đào tạo
của phương Tây đã trở thành rào chắn, bởi vì cách suy
nghĩ của ông ấy hoàn toàn giống như cách suy nghĩ của
nhà khoa học. Ông ấy đã đem toàn bộ lí thuyết tiến hoá
của Darwin vào trong tôn giáo. Ông ấy đã đưa vào trong
tôn giáo những tư tưởng mà ông ấy đã đem về từ phương
Tây. Nhưng ông ấy không có cái nhìn sáng suốt vào trong
tôn giáo, cái mà ông ấy có thể đưa vào trong khoa học.
Kết quả là, ông ấy đã tạo ra một khối lượng tài liệu khoa
học đồ sộ mà trong đó, tôn giáo lại rất hời hợt, bởi vì bất
kì nỗ lực nào để giải thích về những bí ẩn của bình diện
thứ sáu và thứ bẩy nhất định là thất bại vì điều đó không
thể nào được diễn đạt theo thuật ngữ của khoa học và
logic.
Bất kì khi nào cân bằng được đạt tới giữa trí tuệ khoa
học và tâm trí tôn giáo, những đỉnh cao vĩ đại cũng được
đạt tới. Nhưng có rất ít khả năng cho điều này xảy ra ở
phương Đông, bởi vì phương Đông đã đánh mất tôn giáo
của mình và khoa học nó chưa bao giờ có. Có nhiều khả
năng hơn ở phương Tây, bởi vì ở đó khoa học đã trở
thành quá nhiều.
Bất kì khi nào có thái quá, con lắc lại có khuynh
hướng đung đưa sang cực điểm kia. Đó là lí do tại sao các
siêu trí thức ở phương Tây đọc Gita với hứng thú không
thấy có ở đâu trong Ấn Độ.
Lần đầu tiên Schopenhauer đọc Gita ông ấy đã đội
cuốn sách này lên đầu và nhảy múa vui sướng. Khi mọi
người hỏi ông có việc gì vậy, cái gì gây ra hành vi điên
khùng này, ông ấy nói, "Cuốn sách này không chỉ đáng
đọc mà còn đáng đội lên đầu và nhảy múa! Tôi chưa bao
giờ biết rằng đã có thời người trên trái đất này lại nói theo
cách này. Điều mà tôi nghĩ là chẳng bao giờ có thể nói
được thành lời, đã được diễn đạt trong cuốn sách này."
Bây giờ chúng ta sẽ không tìm ra một người ở đây tại Ấn
Độ này, người đặt cuốn Gita lên đầu và nhảy múa. Chúng
ta sẽ chỉ tìm thấy những người sẽ đặt Gita vào ghế tầu hoả
và ngồi lên nó - nhưng điều này là vô nghĩa.
Đến cuối thế kỉ này một đỉnh cao mới sẽ được chạm
tới, bởi vì khi nhu cầu nảy sinh, nhiều lực được kích hoạt
trên thế giới. Einstein trở thành người tôn giáo trước khi
ông ấy chết. Trong cuộc đời mình ông ấy vẫn còn là nhà
khoa học, nhưng khi cuộc sống của ông ấy trôi đến đoạn
cuối, ông ấy trở thành người tôn giáo. Đó là lí do tại sao
những người về bản chất là khoa học lại nói, "Chúng ta
không nên coi lời tuyên bố cuối cùng của Einstein là
nghiêm chỉnh. Ông ấy đã mất trí."
Những lời cuối cùng của Einstein là có nghĩa. Ông ấy
nói, "Tôi tưởng tôi biết mọi thứ có đó là biết về thế giới
này, nhưng khi tôi biết càng ngày càng nhiều, tôi lại thấy
rằng điều này là không thể được, bởi vì có cái vô hạn bao
la vẫn còn lại để được biết. Tôi tưởng rằng một ngày nào
đó tôi sẽ giải quyết được bí ẩn của thế giới khoa học và
qui nó về thành phương trình toán học và rằng thế thì nó
sẽ không còn là bí ẩn nữa. Nhưng vấn đề toán học lại
ngày càng trở nên lớn hơn, và thay vì giải bí ẩn của thế
giới, bản thân nó lại trở thành bí ẩn. Bây giờ, không thể
nào giải quyết được vấn đề này."
Một vài nhà bác học tiếng tăm nhất của thời hiện đại
cũng đang quanh quẩn ở ngoại vi tôn giáo. Những khả
năng như thế bây giờ xuất hiện trong khoa học bởi vì
khoa học đã đi qua thể thứ hai và đang tiến tới thể thứ ba,
và khi nó tiến tới gần thể thứ ba, tiếng vọng của tôn giáo
trở thành không tránh khỏi. Chính ý muốn riêng của khoa
học là đi vào trong thế giới chưa biết của bất định và xác
suất. Đôi khi, ở đâu đó, nó sẽ phải thừa nhận cái không
biết. Nó sẽ phải đồng ý rằng còn có nhiều điều nữa bên
cạnh cái có thể thấy được bằng mắt trần. Cái không thể
thấy được vẫn tồn tại; cái không thể nghe thấy được cũng
vẫn tồn tại. Một trăm năm trước đây chúng ta đã nói rằng
cái không thể nghe thấy được hay nhìn thấy được hay sờ
được là không tồn tại. Bây giờ khoa học nói khác. Nó nói
rằng phạm vi sờ thấy được là rất nhỏ nhưng phạm vi
không sờ thấy được là rất bao la. Phạm vi âm thanh là rất
nhỏ nhưng cái mà không thể nghe được là vô giới hạn.
Cái thấy được có đấy nhưng vô cùng nhỏ nếu so với tính
vô hạn của cái không thấy được.
Thực tại, cái mà mắt chúng ta nhìn thấy là một phần
rất nhỏ của cái đang đấy. Mắt chúng ta bắt được một
bước sóng đặc biệt, tai chúng ta nghe được một bước
sóng đặc biệt. Trên và dưới những bước sóng này còn vô
hạn các bước sóng khác. Đôi khi, bởi ngẫu nhiên, các
giác quan chúng ta cũng có thể bắt được những bước
sóng này.
Có lần một người bị ngã từ trên núi xuống và tai bị
thương. Bây giờ tai anh ta bắt đầu nghe thấy các sóng
radio của đài phát thanh thành phố. Khi anh ta vào bệnh
viện, anh ta gặp rất nhiều khó khăn; ban đầu anh ta không
hiểu điều gì đã xảy ra. Anh ta nghĩ, "Hoặc là mình phát
điên hoặc là mình không thể nào hiểu được ý nghĩa của
điều đang xảy ra."
Thế rồi mọi thứ bắt đầu dường như rõ ràng và anh ta
phàn nàn với bác sĩ. Anh ta hỏi bác sĩ, "Đài phát thanh để
ở đâu trong bệnh viện thế?"
Bác sĩ nói, "Anh nghe thấy cái gì sao? Chẳng có đài
phát nào cả."
Anh ta vẫn cứ khăng khăng rằng mình đang nghe
thấy tin tức và anh ta kể lại điều mình nghe thấy. Viên
bác sĩ chạy về văn phòng và bật đài lên. Ông ta ngạc
nhiên, ông ta nghe thấy đích xác cũng tin tức đã được
thuật lại. Thế rồi mọi sự trở nên rõ ràng. Người ta phát
hiện ra rằng tai anh ta đã trở nên quen với các bước sóng
mới; chúng đã thay đổi khi anh ta bị ngã từ trên núi.
Rất có thể là trong tương lai gần chúng ta sẽ có thể
bắt được trực tiếp các bước sóng bằng việc gắn một vật
vào tai. Những âm thanh vô hạn vẫn đang đi qua và bao
quanh chúng ta, nhưng chúng ta không thể nào nghe thấy
chúng bởi vì trường nghe thấy của chúng ta rất hạn chế.
Thậm chí nhiều âm thanh lớn chúng ta cũng không thể
nghe thấy được. Chúng ta không thể nghe thấy âm thanh
trên hay dưới khả năng nghe của tai ta. Khi một ngôi sao
sụp đổ, âm thanh cực kì lớn của việc sụp đổ của nó lan
rộng khắp quanh ta nhưng chúng ta không thể nghe thấy
nó được. Nếu tình huống là ngược lại, chúng ta sẽ trở nên
bị điếc. Tương tự, phạm vi thân nhiệt của chúng ta là xấp
xỉ giữa chín mươi tám và một trăm mười độ Farenheit (ba
mươi sáu và bốn mươi ba độ Celcius). Nếu nó xuống thấp
dưới chín mươi tám độ hay nó lên quá một trăm mười độ,
chúng ta chết. Cuộc sống chúng ta đung đưa giữa mười
tới mười hai độ. Nhiệt lại có phạm vi mênh mông. Nó có
thể thấp hơn phạm vi mười hai độ này, nhưng chúng ta
không có liên quan với điều này.
Theo cùng cách này chúng ta có những giới hạn của
mình về mọi thứ. Nhưng chúng ta có thể biết về những
thứ bên ngoài các giới hạn này bởi vì chúng cũng tồn tại.
Khoa học đã bắt đầu chấp nhận sự tồn tại của chúng. Một
khi có chấp nhận, việc truy tìm những thứ này ở đâu và là
cái gì được bắt đầu. Tất cả những điều này đều có thể
được biết tới, tất cả những điều này đều có thể được nhận
ra, và chính với lí do này tôi đã nói khoa học có thể đạt
tới thể thứ năm.
#5Ai biết được cái không hiện hữu và dựa trên cơ sở
nào mà người ta có thể biết được?
Câu hỏi này bản thân nó là sai.
Câu hỏi này không thể nêu ra được và không thể nào
được hình thành, bởi vì khi chúng ta hỏi, "Ai biết cái
không hiện hữu?", chúng ta coi điều đó là ai đó vẫn còn ở
đằng sau. Thế thì đấy không phải là không hiện hữu.
Làm sao tri thức về nó được báo cáo lại?
Không có việc báo cáo lại. Chẳng hạn, khi bạn ngủ
ban đêm... Bạn ý thức chỉ về cái xuất hiện trong những
giờ tỉnh thức của mình. Một khi ngủ rồi, bạn quên mất
những thứ xung quanh mình. Cho nên bạn chỉ có thể báo
cáo về những giờ tỉnh thức của mình - về tình huống tồn
tại cho tới điểm bạn ngủ. Nhưng như một qui tắc bạn làm
điều đối lập lại. Bạn nói, "Tôi đã ngủ tới tám giờ." Điều
này là sai. Bạn đáng phải nói, "Tôi không tỉnh cho tới tám
giờ tối." Bạn không thể báo cáo lại giấc ngủ, bởi vì khi
bạn ngủ, ai báo cáo? Việc báo cáo chỉ có thể từ phía bên
kia: "Tôi không tỉnh cho tới tám giờ, hay mãi đến tám giờ
tôi mới biết là mình tỉnh, nhưng tôi không biết gì trước
tám giờ. Thế rồi tôi biết về việc tỉnh lúc sáu giờ. Có một
lỗ hổng giữa tám và sáu giờ mà trong thời gian đó tôi đã
ngủ."
Nói điều này để nêu làm thí dụ. Bạn sẽ biết mọi điều
cho tới thể thứ sáu. Khi bạn nhào vào thể thứ bẩy và đi ra
lần nữa để vào thể thứ sáu, bạn sẽ có thể nói "A ha! Ta đã
ở đâu đó. Ta đã kinh nghiệm cái không hiện hữu." Việc
miêu tả này chỉ được đưa ra ở thể thứ sáu, và biết bao
nhiêu người đã không nói sau khi đạt tới bình diện thứ
bẩy. Có lí do: tại sao nói ra cái mà không thể nào nói ra
được?
Gần đây có một người tên là Witgenstein, và ông ấy
đã đưa ra một số phát biểu hiếm hoi. Một trong chúng là:
"Cái mà không thể nói ra được, phải không được nói ra."
Nhiều người đã nói điều không thể được nói ra và do vậy
đẩy chúng ta vào khó khăn bởi vì họ cũng đã bảo chúng
ta rằng điều đó không thể nào nói ra được. Cho nên điều
này trở thành việc báo cáo phủ định. Đây là tin tức chớp
loé lên từ biên giới cuối cùng nơi nó được nói ra, "Tôi đã
tới điểm đó, nhưng sau đó, tôi không có nữa. Sau điểm
này, chẳng còn gì để biết và không ai có đó để biết.
Không có báo cáo và không có người báo cáo. Nhưng
điều này đã xảy ra sau một biên giới đặc biệt mà trước đó,
tôi có." Đường biên giới đó là biên giới của thể thứ sáu.
Veda, Kinh Thánh, Upanishad, Gita đều đi lên tới thể
thứ sáu. Thể thứ bẩy là cái mà không thể diễn tả nổi và
thực tế cũng không thể nào diễn tả được. Cho tới thể thứ
sáu, cũng không có nhiều khó khăn lắm và tới thể thứ
năm, rất dễ diễn đạt. Nhưng tại bình diện thứ bẩy, người
biết không còn mà tri thức cũng chẳng còn. Thực tế, cái
mà chúng ta ngụ ý là cái còn lại, cũng không còn lại. Nếu
chúng ta nói về lỗ hổng trống rỗng này, chúng ta sẽ phải
dùng ngôn ngữ phủ định. Do đó, Veda và Upanishad phải
nói, "Chẳng cái này cũng chẳng cái kia". Chúng nói,
"Đừng có hỏi cái gì có đó. Chúng ta chỉ có thể bảo cho
ông cái không có đó; chúng ta chỉ có thể nói rằng cái
đang có đó là không có đó. Không có bố ở đó, không vợ,
không vật chất, không kinh nghiệm, không tri thức. Và
cái ‘tôi’ cũng không có nốt: bản ngã không có. Không có
thế giới lẫn người sáng tạo ra nó. Không có gì ở đó cả."
Đây là đường biên giới của thể thứ sáu. Cái gì có đó? Bạn
sẽ phải im lặng, bởi vì điều ấy không thể diễn đạt nổi.
Tin tức về Brahman đã được báo cáo lại, nhưng điều
được truyền đạt vượt ra ngoài nó, nhất định phải là phủ
định - như điều đã được Phật nói lại. Phật đã cố gắng cực
kì vất vả để diễn đạt bình diện thứ bẩy. Do đó, tất cả
những gì ông ấy truyền đạt đều là phủ định, và do vậy
điều này không đi vào hiểu biết của mọi người nước ông
ấy. Kinh nghiệm về Brahman, kinh nghiệm tích cực, đã
được mọi người hiểu rõ. Brahman được gọi là sat-chitananda
- chân lí, tâm thức, phúc lạc - và những khẳng
định này đã được hiểu rõ. Người ta có thể nói về nó là thế
này, thế nọ, nhưng Phật nói về cái không có đó. Có lẽ ông
ấy là người duy nhất đã làm việc vất vả để làm cho mọi
người biết tới bình diện thứ bẩy.
Phật đã không được chấp nhận ở đất nước này bởi vì
chỗ mà ông ấy nói tới, chẳng có gốc rễ mà cũng không
hình dạng. Mọi người nghe và nghĩ điều ấy là vô ích.
"Chúng ta sẽ làm gì ở chỗ chẳng có gì cả thế?" họ nói. "Ít
nhất, chỉ ra cho chúng tôi nơi mà chúng tôi sẽ có đó chứ."
Nhưng Phật nói, "Cả ông cũng sẽ không có." Cho nên
mọi người trên đất nước này xa lánh khỏi ông ấy, bởi vì
họ muốn cứu mình ở chính chỗ cuối cùng.
Phật và Mahavira là người đồng đại, nhưng mọi
người hiểu Mahavira rõ hơn bởi vì Mahavira nói về
những hiện tượng cho tới bình diện thứ năm. Mà ông ấy
thậm chí cũng chẳng đề cập tới bình diện thứ sáu. Điều
này là bởi vì Mahavira có tâm trí khoa học, và bất kì khi
nào ông ấy cố gắng giải thích về bình diện thứ sáu, ông
ấy đều cảm thấy rằng lời nói dường như trở thành nhập
nhằng, mơ hồ và phi logic. Cho tới bình diện thứ năm,
mọi thứ đều ổn định và có thể đưa ra lời mô tả rằng điều
này là như vậy hay điều kia là như vậy, bởi vì cho tới
bình diện thứ năm, chúng ta thấy mọi thứ tương tự như
kinh nghiệm của mình.
Giả sử có một hòn đảo rất nhỏ ở giữa đại dương và
chỉ một loài hoa mọc trên đảo này. Có vài người sống
trên đảo và họ chưa bao giờ bước ra khỏi đảo. Thế rồi
một hôm một con tầu đi qua và mang một trong những
người này ra nước ngoài rồi lại đưa anh ta trở về đảo. Tại
nước ngoài người này thấy nhiều loài hoa khác nhau. Với
anh ta "hoa" có nghĩa là một kiểu hoa đặc biệt mọc trên
đảo của mình. Bây giờ, lần đầu tiên, ý nghĩa của hoa đã
được mở rộng, và anh ta hiểu rằng từ hoa không chỉ nói
tới một loài hoa mà còn tới hàng nghìn loài hoa. Anh ta
thấy ở đó có hoa hồng, hoa loa kèn, hoa sen và hoa nhài.
Bây giờ anh ta lo nghĩ. Làm sao anh ta sẽ về và giải thích
cho đồng bào mình rằng hoa không chỉ là một loài hoa?
Làm sao anh ta sẽ giải thích rằng hoa có tên, bởi vì trên
đảo của mình, hoa chỉ có một loài và không có tên: nó
đơn thuần là ‘hoa." Bây giờ anh ta tự hỏi làm sao mình sẽ
nói cho những người khác về hoa loa kèn và hoa nhài
đây.
Anh ta trở về đảo, và mặc cho những khó khăn của
mình, vẫn có một lối thoát cho anh ta. Có ít nhất một loài
hoa để xem xét. Bây giờ anh ta có thể nói thêm chi tiết về
loài hoa này và cố gắng giải thích tính đa dạng về mầu
sắc, hình dáng và hương thơm của các hoa khác để truyền
đạt ý tưởng nào đó trong khám phá của mình. Anh ta có
thể nói, "Giống như loài hoa này mầu trắng, cũng còn có
những loài hoa khác mầu đỏ, mầu hồng, mầu vàng và
nhiều mầu khác. Giống như loài hoa này nhỏ bé, cũng
còn có những hoa to như hoa sen." Theo cách này anh ta
có thể trao đổi, bởi vì một loài hoa đã có đó để chỉ ra điều
gì đó về loài hoa khác.
Nhưng giả sử rằng người này không tới nước khác mà
thay vì thế anh ta lên mặt trăng nơi không có hoa, không
cây cỏ, nơi bầu không khí là bất thường với anh ta và sức
ép khí quyển cũng khác. Khi anh ta quay về hòn đảo của
mình và người ta hỏi anh ấy thấy gì trên mặt trăng, thế thì
sẽ rất khó giải thích, bởi vì chẳng có gì tương đương với
kinh nghiệm của anh ta để giải thích cả. Không có từ ngữ
hay kí hiệu nào trong ngôn ngữ của anh ta để truyền đạt
lại báo cáo.
Đây đích xác là tình huống đang xét. Cho tới bình
diện thứ năm chúng ta còn tìm ra lời để diễn đạt, nhưng
nó cũng hệt như là cố gắng giải thích khác biệt giữa một
hoa và một nghìn hoa. Từ bình diện thứ sáu ngôn ngữ trở
thành lẫn lộn. Tại đó chúng ta đạt tới điểm mà ngay cả sự
khác nhau giữa một và một nghìn cũng không đủ để giải
thích. Điều ấy là rất khó. Cho dù thế thì, với việc khéo
dùng phủ định, tính toàn bộ vẫn có thể truyền đạt được ý
tưởng nào đó. Chúng ta có thể nói không có giới hạn; nó
là vô biên. Chúng ta quen thuộc với các biên giới, cho
nên với sự giúp đỡ của tri thức này chúng ta có thể truyền
đạt rằng không có biên giới nào ở đó. Điều này sẽ cho
một ý tưởng nào đó, và mặc dầu nó vẫn còn mông lung
chúng ta vẫn có thể giả thiết rằng chúng ta hiểu. Nhưng
vấn đề lại không phải là thế.
Cho nên có nhiều lẫn lộn. Chúng ta cảm thấy chúng
ta đã theo được cái được nói - rằng không có biên giới ở
đó. Nhưng "không biên giới" có nghĩa là gì? Kinh nghiệm
của chúng ta là về các biên giới. Nó cũng hệt như những
người ở hòn đảo ấy sẽ nói, "Vâng, chúng tôi đã hiểu. Nó
là hoa mà anh đang nói tới." Thế thì anh bạn của chúng ta
sẽ nói, "Không, không phải đâu! Chớ có xem xét hoa đó.
Hoa đấy chẳng liên quan gì đến hoa này cả; hoa như thế
không tìm thấy được ở đây đâu." Thế thì mọi người sẽ
nói, "Tại sao anh lại gọi chúng là hoa nếu như chúng
không giống hoa này? Một mình hoa này mới là hoa
thôi."
Chúng ta nữa cũng đang dưới ảo tưởng rằng chúng ta
hiểu. Khi chúng ta được bảo, "Thượng đế là vô hạn, vô
giới hạn,", chúng ta nói, "Vâng, chúng tôi hiểu." Nhưng
kinh nghiệm của chúng ta chỉ là về các biên giới. Chúng
ta thêm từ "không" vào nó và chúng ta cảm thấy rằng
mình hiểu là không có biên giới ở đó và chúng ta chắc
chắn rằng chúng ta đã hiểu. Nhưng một khi bạn bắt đầu
quan niệm về cái mà không có giới hạn, thế thì điều đó
thành đáng sợ. Dù bạn có quán tưởng đến đâu đi chăng
nữa, biên giới vẫn cứ còn lại. Bạn đi xa hơn, xa hơn nữa -
thậm chí hàng triệu và hàng tỉ dặm vượt ra ngoài nơi năm
ánh sáng chấm dứt - nhưng bất kì khi nào bạn dừng lại,
biên giới sẽ xuất hiện.
Ý nghĩa của vô biên trong tâm trí chúng ta nhiều nhất,
cũng chỉ có thể là biên giới mà ở rất rất xa xôi; nó xa đến
mức vượt ra ngoài sự lĩnh hội của chúng ta, nhưng nó vẫn
cứ tồn tại. Thế thì lần nữa chúng ta sẽ lại bị lỡ. Cho nên
có thể nói điều gì đó về bình diện thứ sáu và chúng ta có
thể nghĩ chúng ta đã hiểu, nhưng kì thực chúng ta không
hiểu.
Bây giờ với bình diện thứ bẩy chúng ta sẽ thậm chí
không làm đến cả việc nói ra là chúng ta hiểu nữa. Bình
diện thứ bẩy thậm chí không thể nào được nói tới nữa.
Nếu ai đó cố gắng nói, chúng ta sẽ lập tức nói, "Anh đang
nói cái điều vớ vẩn gì vậy?" Do đó, một từ ngớ ngẩn đã
được dùng để chỉ ra bình diện thứ bẩy - một từ mà không
có ý nghĩa nào, không ngụ ý cái gì.
Chẳng hạn, lấy thí dụ, từ aum: nó chẳng có nghĩa gì
cả; nó là từ vô nghĩa, và chúng ta đã dùng nó trong mối
quan hệ với thể thứ bẩy. Cho tới thể thứ năm chúng ta còn
có thể nói được, nhưng khi ai đó cứ khăng khăng nói về
thể thứ bẩy, chúng ta nói, "Aum." Do đó, khi một bản
kinh được hoàn tất, từ Aum shanti được viết ra. Bạn có
biết nó có nghĩa gì không? Nó có nghĩa là thể thứ bẩy đã
tới; chẳng còn gì thêm nữa mà nói. Các kinh sách kết thúc
ngay khi bình diện thứ bẩy xuất hiện; việc bắt đầu của
bình diện thứ bẩy là việc chấm dứt của kinh sách. Do đó,
vào cuối mỗi kinh sách chúng ta không viết "Hết"; chúng
ta viết "Aum Shanti." Aum là biểu tượng về bình diện thứ
bẩy và nó ngụ ý để truyền đạt rằng không thể có bất kì
thảo luận gì nữa. Nó thôi thúc chúng ta tĩnh lặng và an
bình từ đó trở đi.
Chúng ta đã tạo ra một lời ngớ ngẩn không có ý nghĩa
gì, không có động cơ đằng sau nó. Và nếu có bất kì động
cơ nào sau nó, nó trở thành vô dụng bởi vì chúng ta đã tạo
ra lời này cho cái thế giới mà tại đó tất cả các động cơ
đều chấm dứt. Nó là lời vô động cơ và do đó nó không
tồn tại trong bất kì ngôn ngữ nào khác của thế giới. Nhiều
thực nghiệm đã được tiến hành nhưng không có ý nghĩa
cho aum. Người Ki tô giáo cầu nguyện và cuối lời cầu
nguyện của mình người đó sẽ nói "Amen." Người đó
đang nói "Thế là đủ! Kết thúc rồi! An bình từ đây trở đi.
Không thêm lời nào nữa." Nhưng điều này không tương
đương với aum. Aum không thể nào dịch được. Nó là
biểu tượng mà chúng ta đã chọn cho bình diện thứ bẩy.
Nó đã được khắc vào trong các đền để nhắc nhở
chúng ta đừng dừng lại ở bình diện thứ sáu bởi vì còn có
bình diện thứ bẩy nữa. Nó được đặt vào giữa hình ảnh của
Rama và Krishna để gợi ý rằng aum còn lớn lao hơn họ.
Krishna nhìn vào nó - nhưng aum còn lớn lao hơn nhiều,
aum là rất bao la. Mọi thứ đều xuất hiện ra từ nó, mọi thứ
đều hội nhập vào trong nó. Do đó, chúng ta không định
giá aum với bất kì cái gì khác trên thế giới. Nó là cái linh
thiêng nhất của sự linh thiêng theo nghĩa là nó là cái tối
thượng, cái vượt ra ngoài, nơi mọi thứ đều mất đi cá tính
của mình.
Cho nên không có gì có thể được báo cáo lại từ bình
diện thứ bẩy. Nó chỉ có thể được mô tả theo ngôn ngữ
phủ định: "Nó không phải là thế này; nó không thể là thế
nọ, vân vân.." Nhưng điều này cũng chỉ mang nghĩa cho
tới bình diện thứ sáu. Do đó, nhiều người thấy vẫn còn im
lặng về bình diện thứ bẩy. Những người cố gắng nói về
nó, đều tạo ra nhiều khó khăn cho bản thân mình, bởi vì
thậm chí trong khi nói về nó, họ cũng phải lặp đi lặp lại
rằng điều đó là không thể nào diễn tả nổi. Họ cứ luôn
luôn cảnh tỉnh người nghe: "Chúng tôi đang nói về điều
đó, nhưng quả thực điều đó không thể nào nói ra được."
Thế thì chúng ta bị thách đố. Tại sao họ nói về những
điều mà không thể nào nói ra được? Họ không nên nói về
nó chứ. Nhưng họ nói, "Bình diện thứ bẩy, dứt khoát là
có, nhưng chúng tôi không có lời nào xứng đáng để mô tả
cho nó."
Không có gì trong thế giới này so sánh được với nó;
nó là không diễn đạt nổi. Có rất nhiều điều có thể được
nói về nó, nhiều điều có thể được diễn tả, nhưng khó khăn
là ở chỗ không có phương tiện nào để truyền đạt nó thành
lời. Nó chỉ có thể được biết nhưng nó không thể nào được
diễn tả ra.
Đó là lí do tại sao những người đã có thời rất mau
miệng, những người là diễn giả lớn, những người có thể
giải thích được mọi thứ dưới mặt trời, lại bỗng nhiên trở
thành câm lặng khi họ trở về từ bình diện thứ bẩy. Khi họ
đột nhiên thành im hơi lặng tiếng theo cách này, việc im
hơi lặng tiếng của họ truyền đạt một thông điệp: đôi mắt
im lặng của họ nói lên cái không nói được. Chẳng hạn,
liên quan tới điều bạn đang hỏi đây, Phật đã nêu ra một
qui tắc là những câu hỏi nào đó không nên nêu ra cho ông
ấy. Ông ấy nói, "Đừng hỏi những câu hỏi này. Không
thích hợp để hỏi về chúng; không thích hợp để biết về
chúng." Ông ấy sẽ nói rằng một chủ đề nào đó là không
thể nào xác định nổi và do đó không nên được thảo luận.
Việc thảo luận về nó sẽ là không thích hợp.
Lão tử nói, "Đừng yêu cầu ta viết ra, bởi vì bất kì
điều gì ta viết ra rồi sẽ trở thành sai. Ta sẽ chẳng bao giờ
có thể truyền đạt được điều ta muốn truyền đạt; ta chỉ có
thể viết ra cái mà ta không muốn truyền đạt. Nhưng dùng
điều đó để làm gì?" Cho nên ông ấy đã không viết cho
đến lúc cuối cùng. Khi dân quê ép buộc ông ấy, ông ấy đã
viết một cuốn sách nhỏ. Chính câu đầu ông ấy đã viết là
"Đạo khả đạo phi thường đạo" - Ngay khi chân lí được
diễn đạt ra, nó trở thành sai. Nhưng đây là chân lí của
bình diện thứ bẩy. Tại bình diện thứ sáu nó trở thành
không sai, nhưng mơ hồ. Tại bình diện thứ năm, chân lí
được diễn đạt không thể tranh cãi nổi. Tại bình diện thứ
bẩy, duy nhất việc diễn đạt của nó là không thể được. Nơi
mà chúng ta không còn nữa, làm sao lời nói và ngôn ngữ
còn lại được? Chúng nữa cũng chấm dứt với chúng ta.
#5Đâu là những đặc trưng rõ ràng của aum mà từ đó nó
đã được chọn để biểu thị cho bình diện thứ bẩy?
Có hai lí do cho việc chọn aum. Một là ở chỗ lời được
tìm phải không có ý nghĩa, không thể được cho bất kì
nghĩa nào - bởi vì nếu nó truyền đạt bất kì nghĩa nào, nó
sẽ bị thu về bình diện thứ năm. Cho nên một lời được cần
tới, theo một nghĩa nào đó, phải là vô nghĩa. Tất cả các
lời của chúng ta đều có nghĩa; chúng ta tạo ra lời để
chúng truyền đạt ý nghĩa. Nếu chúng không truyền đạt bất
kì ý nghĩa nào, tại sao phải dùng chúng? Chúng ta sử
dụng chúng, và mục đích của việc nói là để truyền đạt
một ý nghĩ nào đó.
Khi tôi thốt ra một lời, nó phải gợi ra một ý nghĩa nào
đó bên trong bạn. Cho nên khi người ta trở về từ bình
diện thứ bẩy, họ cảm thấy rằng nếu họ tạo ra bất kì lời
nào để diễn tả bình diện thứ bẩy mà truyền đạt một ý
nghĩa, họ lập tức bị đẩy trở lại bình diện thứ năm. Thế thì
những lời đó sẽ được thêm vào từ điển, chỗ mà mọi người
sẽ đọc chúng và nghĩ rằng họ đã hiểu. Nhưng bình diện
thứ bẩy lại không có ý nghĩa. Bạn có thể nói rằng nó là vô
nghĩa hay nói rằng nó là vượt ra ngoài ý nghĩa - cả hai
điều này đều mang cùng một nghĩa.
Cho nên trong hoàn cảnh mà tất cả ý nghĩa đều bị
mất, không ý nghĩa nào còn lại, ta có thể tìm ra được loại
lời nào cho điều này và làm sao nó có thể hình thành
được? Lời này đã được tạo ra với sự giúp đỡ của của tầm
nhìn và dự phóng vĩ đại, và theo cách thức rất khoa học.
Một lời gốc, lời cơ sở, đã được xây dựng, lời này được
làm thành nền tảng. Do vậy làm sao mà lời này, lời phải
truyền đạt cái không có nghĩa, lại có thể được tìm ra? Nó
được hình thành theo cách nào? Theo cách thức sâu sắc
nó sẽ trở thành biểu tượng cho nguồn gốc nguyên thuỷ.
Ba âm cơ bản của lời nói chúng ta là a-u-m. Tất cả
việc xây dựng lời của chúng ta đều là sự mở rộng của ba
âm này. Chúng là các âm gốc. Bây giờ bản thân các âm au-
m đều không có nghĩa, bởi vì chính mối quan hệ của
chúng mới quyết định ra ý nghĩa. Khi ‘a’ trở thành một
lời, nó mang một nghĩa; khi ‘m’ trở thành một lời nó lại
mang một nghĩa. Nhưng bản thân chúng, vô nghĩa. Thế
mà chúng vẫn là gốc rễ, và tất cả việc xây dựng lời nói
của chúng ta đều là việc mở rộng và tổ hợp của ba âm
này.
Cho nên ba âm gốc này đã được lấy ra và gắn lại để
tạo nên lời aum. Bây giờ aum có thể được viết ra, nhưng
bằng việc viết ra nó, người ta có thể bắt đầu nghĩ rằng nó
có thể có ý nghĩa giống như bất kì các lời nào được viết ra
khác. Người ta sẽ nghĩ rằng aum nghĩa là cái trong bình
diện thứ bẩy. Cho nên không lời nào đã được phát minh
ra nhưng bức tranh về aum, lại được tạo ra: không chữ
nào được dùng cho nó. Ba chữ a-u-m chỉ là âm và không
có chữ nào hay từ nào. Cho nên aum đi vào sự hiện hữu
dưới dạng hình ảnh để cho nó không bị bỏ xó trong từ
điển và thay vào đó sẽ đập vào mắt và trở thành một dấu
hỏi. Nó đi vào sự hiện hữu theo cách này để cho người ta
sẽ trở nên háo hức tìm ra nó có nghĩa gì.
Bất kì khi nào một người đọc tiếng Phạn hay tới
nghiên cứu sách cổ, lời này cũng trở thành khó giải thích.
Lời tới trong việc hiểu thấu về chúng bởi vì chúng có ý
nghĩa - nhưng , lại vượt ra ngoài việc hiểu. Người ta
bao giờ cũng hỏi, "Aum ngụ ý gì? Đâu là ý nghĩa của nó?
Nó có nghĩa gì và tại sao nó lại không được viết ra theo
chữ giống như a-u-m? Tại sao lại là dạng bức tranh này?"
Nếu bạn nhìn kĩ vào bức tranh này, bạn sẽ thấy rằng nó
được tạo nên từ ba phần gồm kí hiệu cho a, u và m.
Bức tranh này đòi hỏi nghiên cứu sâu sắc; nó không
phải là bức tranh thông thường. Việc nghiên cứu về nó đã
được tiến hành từ thể thứ tư chứ không từ bình diện vật lí.
Thực tại, khi một người đi vào thể thứ tư và trong trạng
thái vô suy nghĩ, âm điệu của a-u-m bắt đầu vang vọng
bên trong người đó và tổ hợp của chúng tạo thành lời
aum. Khi có tĩnh lặng hoàn hảo bên trong, khi ý nghĩ
hoàn toàn vắng bặt, thế thì tiếng rì rầm của aum bắt đầu
vọng vang bên trong. Âm thanh này đã được nghe thấy từ
bình diện thứ tư nơi ý nghĩ không còn nữa và ngôn ngữ
cũng không còn nữa. Thế thì cái còn lại là âm thanh của
aum. Cho nên theo cách này âm thanh đó được nghe thấy.
Bây giờ như tôi đã nói trước đây, mỗi lời đều có hình
mẫu của riêng nó. Khi chúng ta dùng một lời nào đó, một
hình mẫu đặc biệt sẽ hình thành trong tâm trí. Nếu ai đó
thiền về aum, khi nó vang vọng ở bình diện thứ tư, hình
ảnh tương ứng sẽ bắt đầu biểu hiện bên trong. Đây là cách
thức tất cả các câu mật chú mầm đã được phát hiện ra.
Khi tiếng vang vọng của một luân xa đặc biệt được thiền
nhân bắt lấy trong khi thiền, câu mật chú mầm của luân
xa đó được biển hiện ra. Đây là cách thức tất cả các câu
mật chú mầm này đã được hình thành, và aum là hạt mầm
tối thượng. Nó không phải là hạt mầm của bất kì luân xa
đặc biệt nào; thay vì thế thì nó là biểu tượng của bình
diện thứ bẩy mà là vô hạn và vĩnh hằng.
Cho nên theo cách này lời aum đã được tìm ra. Và khi
nó ăn khớp với kinh nghiệm của hàng nghìn người tìm
kiếm, người nêu ra sự chấp thuận về nó, lời này được
chấp nhận. Nó không đi vào sự tồn tại với sự chấp thuận
của một người hay của một nhóm người. Khi cùng lời này
được dội lên trong nhiều thiền nhân, khi hàng triệu người
trong số họ chứng nhận về tính chân thực của nó, chỉ thế
thì nó mới được chọn. Do đó, lời aum không phải là tài
sản của tổ tiên truyền lại của bất kì tôn giáo hay tổ chức
nào. Vậy, Phật giáo và Jaina giáo tự do dùng nó mà
không sợ hãi gì. Nó không phải là tài sản riêng của Hindu
giáo. Lí do là ở chỗ nó đã được đạt tới bởi đủ loại thiền
nhân từ nhiều con đường khác nhau. Bất kì cái gì tương
đương mà chúng ta tìm ra ở các nước khác, theo một cách
nào đó đều là sự phân mảnh của chính từ này.
Bây giờ nếu chúng ta xem xét lại những phát kiến của
người tìm kiếm La Mã hay A Rập, chúng ta sẽ thấy rằng
âm "m" thường được nhắc tới. Một số phát kiến gắn ‘a’
cùng với ‘m’, nhưng ‘m’, chắc chắn có. Điều này là bởi vì
‘a’ và ‘u’ là rất tinh tế, và do vậy khó mà bắt được chúng.
Cho nên phần thứ nhất của từ này tuột ra khỏi sự chú ý
của chúng ta và chỉ phần sau mới được nghe thấy. Do đó,
khi âm thanh của aum bắt đầu vang vọng bên trong, ‘m’
trong nó là dễ dàng nghe thấy được. Nếu bạn ngồi trong
một căn phòng kín và tụng aum, âm thanh trước sẽ
nhường đường cho âm thanh của ‘m’. Vậy, ‘a’ và ‘u’ trở
thành hoàn toàn không nghe thấy nữa, còn chính âm ‘m’,
vang vọng khắp nơi. Cho nên thiền nhân sẽ đi tới kết luận
rằng âm ‘m’ là chắc chắn, trong khi những âm đi trước,
không hoàn toàn rõ ràng. Khác biệt chỉ là ở việc nghe
thấy, nhưng bất kì khi nào việc tìm kiếm đã được tiến
hành theo cách này, cái gì đó này khác về từ này lại được
thiền nhân hiểu thấu. Khi một nghiên cứu ráo riết được
tiến hành - chẳng hạn, nếu một nghìn nhà khoa học tiến
hành cùng một thực nghiệm và thu được cùng kết quả, thế
thì tính hợp lệ của nó được chứng minh.
Đất nước này thật may mắn theo nghĩa hàng nghìn
năm đã được dành ra ở đây trên cuộc hành trình hướng tới
cái ta. Không đâu khác trên thế giới này mà mọi người ở
bất kì nước nào lại tiến hành thực nghiệm này trên qui mô
lớn đến thế và bao gồm nhiều người đến thế. Mười nghìn
thiền nhân ngồi quanh Phật; bốn mươi nghìn người, cả
nam lẫn nữ, ngồi quanh Mahavira và họ tiến hành việc
thực nghiệm quần chúng. Trong một chỗ nhỏ bé như
Bihar bốn mươi nghìn đệ tử của Mahavira đã thực
nghiệm. Không đâu khác trên thế giới này xảy ra sự kiện
như vậy. Jesus, ông bạn tội nghiệp, chỉ có mỗi mình, còn
Mohammed, đã phải dành thời gian để vật lộn vô vọng
với những người dốt nát.
Trên đất nước này tình huống đặc biệt đã phát triển
trong đó mọi người đều nhận biết về sự kiện là đây không
phải là vấn đề tranh đấu. Tại đây mọi thứ đều rõ ràng.
Mahavira ngồi đấy và bốn mươi nghìn người thực hành
thiền ngay trước ông ấy. Điều này đem lại cơ hội lớn cho
việc quan sát và kiểm chứng lại những kinh nghiệm của
các thiền nhân khác nhau trên những bình diện khác nhau.
Có thể sẽ có sai sót nào đó khi chỉ có một hay hai người
thực hành, nhưng khi có đến bốn mươi nghìn người,
không thể có sai sót được. Bốn mươi nghìn người bận rộn
với nhiều kĩ thuật thiền khác nhau. Mọi thứ đều được suy
nghĩ đúng, mọi thứ đều được kiểm chứng, mọi thứ đều
được hiểu thấu đúng đắn.
Do đó, đất nước này đã thực hiện nhiều khám phá
trong lĩnh vực tâm linh hơn là các nước khác, bởi vì tại
các nước khác, người tìm kiếm chỉ có một mình. Cũng
giống như phương Tây ngày nay đang tiến hành các thực
nghiệm khoa học trên qui mô lớn về việc sử dụng các nhà
khoa học, theo cùng cách đó đất nước này đã có thời sử
dụng hàng nghìn thiên tài, trí thức của mình vào khoa học
về linh hồn. Những khám phá mà họ đem lại từ các cuộc
hành trình của mình vào linh hồn là rất có ích, nhưng trên
cuộc hành trình của chúng tới mảnh đất khác, tri thức này
cũng bị phân mảnh và biến dạng.
Chẳng hạn, cây thánh giá của Jesus: nó là phần còn
lại của chữ thập ngoặc. Trong cuộc hành trình lâu dài của
nó tới những miền đất xa xôi, đây là cái còn lại của chữ
thập ngoặc. Chữ thập ngoặc đã từng là biểu tượng giống
như aum. Aum là biểu tượng cho bình diện thứ bẩy, chữ
thập ngoặc là biểu tượng cho bình diện thứ nhất. Do đó,
hình ảnh của chữ thập ngoặc là động. Các nhánh của nó
trải ra và cho ấn tượng về chuyển động; nó quay mọi lúc.
Thế giới thông thường có nghĩa là cái chuyển vận vào
mọi lúc. Cho nên chữ thập ngoặc đã được tạo nên làm
biểu tượng cho thể thứ nhất, còn aum là biểu tượng cho
thể cuối cùng. Không có chuyển động gì trong aum cả.
Nó tuyệt đối tĩnh lặng; có im lặng hoàn toàn; mọi thứ đều
ở điểm dừng. Với chữ thập ngoặc, có chuyển động.
Trong cuộc hành trình của mình chữ thập ngoặc đã
trở thành cây thập tự vào lúc nó đạt tới Ki tô giáo. Có mọi
khả năng là Jesus đã tới Ai cập cũng như Ấn Độ. Ông ấy
đã ở Nalanda, trường đại học Phật giáo cổ đại, cũng như
ở Ai cập, và do vậy ông ấy đã thu hoạch được rất nhiều tri
thức. Một điều là tri thức về chữ thập ngoặc. Nhưng tri
thức này bị biến dạng đi giống như tin tức được đem lại
do những người đã thấy nhiều hoa kể cho nơi chỉ có một
loài hoa tồn tại. Thông điệp của Jesus đã bị phá huỷ và
chỉ cây thập tự là còn lại.
Phần phía trên của dấu hiệu aum, đã tới đạo Hồi. Nửa
vầng trăng mà họ đảo ngược chính là mảnh phía trên của
aum mà đã bị tách rời khỏi phần chính trong cuộc du
hành của nó sang A rập. Các từ và kí hiệu bị biến dạng tồi
tệ trong cuộc hành trình của chúng, và sau hàng nghìn
năm chúng bị mòn mỏi tới mức khó mà nhận ra dạng
nguyên thuỷ của chúng nữa. Âm thanh mới, lời mới, được
thêm vào chúng khi chúng du hành từ chỗ nọ sang chỗ
kia, và những người khác nhau với văn hoá khác nhau sử
dụng chúng. Tất cả các loại thay đổi đều xảy ra, và thế thì
khi cái gì đó tách ra khỏi nguồn gốc nguyên thuỷ của nó,
khó mà phân biệt được vị trí nguyên thuỷ của nó, cách
thức nó đi vào sự hiện hữu và điều gì đã xảy ra cho nó.
Luồng tâm linh của toàn thế giới có liên hệ thực sự
với đất nước này, bởi vì ngọn nguồn nguyên thuỷ, cơ bản
của tâm linh đã được sinh ra tại đây và cũng từ đây mà tin
tức về nó lan truyền đi xa và rộng. Nhưng người truyền
thông điệp, người mang thông điệp này tới những miền
đất khác và những người nhận thông điệp ấy lại nói theo
ngôn ngữ khác. Do đó, sự sáng tỏ bị thiếu trong việc giao
và nhận thông điệp này. Bây giờ không người Ki tô giáo
nào đeo cây thập tự quanh cổ có thể nghĩ được rằng đấy
là một phần của chữ thập ngoặc; không người hồi giáo
nào có thể mơ được rằng một nửa vầng trăng người đó
đảo ngược lại chính là một đoạn của aum.
Theo một số học giả Ki tô giáo, amen chỉ là một dạng
biến thể xa của aum. Vào cuối tất cả những lời cầu
nguyện của người Ki tô giáo lời amen được dùng để biểu
thị việc tuân phục điều thiêng liêng. Chính niềm tin của
người nghiên cứu là ở chỗ trong Kinh thánh, cứ chỗ nào
nói, "Lúc đầu đã có lời và lời chính là cùng với Thượng
đế,", aum là từ được ngụ ý. Amen là nói tới cả alpha lẫn
omega - cái bắt đầu và cái kết thúc. Người ta cũng nói
rằng Jesus đã nói với tông đồ John, "Ta là Amen." Ở chỗ
khác amen đã được dùng để ngụ ý chân lí tuyệt đối hay
"Nó là như vậy."
Nhiều từ Latin được sử dụng trong cách thức tôn kính
của người Ki tô giáo, và trong tất cả chúng, một dạng
biến thể của aum đều hiện diện. Chẳng hạn, Per omni
secula seculorum, vân vân. Nó cũng hiện hữu trong các từ
tiếng Anh omnipresent - toàn diện, omniscient - toàn trí,
omnipotent - toàn năng.
Ngày nay nhiều nhà thờ ở Ấn Độ, đã bắt đầu dùng từ
aum trong việc cầu nguyện của họ, và họ cũng đã khảm
từ này vào cửa ra vào chính. Chẳng hạn, nhà thờ St.
Mary’s College tại Darjeeling có kí hiệu được khắc
khảm lên lối ra vào ban thờ chính của ngôi đền thờ cúng.
*************************************************************************************************************
#6 Shaktipat: bí ẩn của điện thân thể
Trong hoàn cảnh của thể thứ bẩy, Thầy đã nói về
aum hôm qua. Vẫn còn có một câu hỏi nhỏ về cùng
chủ đề này. Luân xa nào tạo ra ảnh hưởng a, u, và m
và làm sao điều này lại có ích cho thiền nhân?
Hôm qua tôi đã nói với các bạn đôi điều về aum. Còn
vài điều nữa cũng đáng biết trong cùng hoàn cảnh này.
Trước hết, aum là biểu tượng cho thể thứ bẩy, chỉ dẫn về
bình diện thứ bẩy. Đó là một biểu tượng của trạng thái
thứ bẩy mà không thể nào diễn đạt được bằng bất kì lời
nào. Không từ nào có thể được gắn hay được sử dụng
trong mối liên hệ với nó. Vậy, một lời vô nghĩa đã được
tìm ra - một lời mà không có nghĩa gì cả. Điều này tôi đã
nói với các bạn hôm qua. Việc tìm kiếm cho lời này đã
được tiến hành qua việc kinh nghiệm về thể thứ tư.
Điều này không phải là tìm kiếm bình thường. Thực
tại, khi tâm trí đã hoàn toàn trống rỗng, không còn bất kì
tiếng hò hét của từ ngữ, thậm chí không còn đến một gợn
sóng ý nghĩ nữa, chỉ thế thì âm thanh của hư không mới
còn lại. Hư không cũng nói đấy; hư không có âm thanh
riêng của nó. Đi và đứng ở một chỗ rất hẻo lánh, nơi mà
không có đến một âm thanh và bạn sẽ thấy rằng cái trống
rỗng có âm nhạc của riêng nó. Hẻo lánh có loại âm thanh
riêng của nó, và trong cái im lặng này chỉ các âm là còn
lại - a-u-m. Tất cả các giai điệu và hoà âm đều được phát
triển bằng việc hoán đổi và tổ hợp của ba âm cơ bản này.
Khi tất cả các lời, tất cả các âm thanh đều vắng lặng, ba
âm cơ bản này còn lại.
Cho nên aum là biểu tượng cho trạng thái thứ bẩy, thể
thứ bẩy, nhưng âm thanh này đã được hiểu thấu ở bình
diện thứ tư. Trong trống rỗng của thể trí, tiếng vang vọng
của aum sẽ được bắt lại. Nếu thiền nhân dùng aum này,
có thể có hai kết quả. Như tôi đã nói với bạn trước đây,
tất cả các bình diện đều có hai khả năng. Việc lặp lại aum
có thể đưa tới trạng thái ngủ, trạng thái ngủ mê, và trạng
thái này có thể được đưa tới bằng việc lặp lại bất kì lời
nào. Việc lặp lại ngân nga về bất kì lời nào đều tác động
vào tâm trí như việc vuốt nhẹ lên đầu, điều tạo ra lơ mơ
và buồn ngủ.
Cách dùng aum này thường hay xảy ra lắm, bởi vì
điều này là dễ dàng. Việc tạo ra âm thanh to của aum và
bị mất đi trong nó là rất dễ dàng và thích thú giống như
giấc mơ dễ chịu. Phẩm chất của bình diện trí, như được tự
nhiên trao cho, là phẩm chất của tưởng tượng và mơ
mộng. Nếu tâm trí muốn mơ, nó có thể mơ; việc hưởng
thú này là có thể cho nó. Khả năng khác là khả năng của
sức mạnh ý chí và tầm nhìn về điều thiêng liêng.
Nếu aum được dùng chỉ như việc lặp lại với tâm trí,
tác động của nó sẽ đem lại giấc ngủ thôi miên. Cái được
gọi là yoga tandra vốn được đưa lại bởi việc lẩm nhẩm
aum. Nhưng nếu aum được phát âm ra với sự chứng kiến
đã được thiết lập chắc chắn bên trong; nếu bạn hoàn toàn
tỉnh thức và đang lắng nghe âm thanh mà không bị chìm
nghỉm vào trong nó, không bị mất đi trong nó; nếu âm
thanh này là trên một bình diện và bạn đang đứng trên
một bình diện khác như một thính giả, một người quan
sát, một nhân chứng; nếu bạn tràn đầy tỉnh thức với âm
thanh này - chỉ thế thì khả năng thứ hai mới của bình diện
thứ tư có thể bắt đầu làm việc. Thế thì bạn sẽ không đi
vào yoga tandra, mà đi vào yoga jagriti, tỉnh thức.
Tôi thường xuyên cố gắng giữ cho bạn tránh xa việc
dùng mật chú. Tôi bao giờ cũng khuyên bạn đừng dùng
bất kì mật chú nào hay bất kì lời nào, bởi vì có đến chín
mươi chín trong số một trăm cơ hội là bạn sẽ đi vào cơn
mê tưởng tượng. Có những lí do cho điều này. Bình diện
thứ tư là mong manh với giấc ngủ; nó chỉ biết có giấc
ngủ. Các rãnh mơ của nó đã có đấy. Nó mơ mọi ngày. Cứ
dường như là chúng ta đã đổ nước vào trong phòng này.
Sau một chốc nước sẽ chảy khô đi, nhưng nó sẽ để lại dấu
vết trên sàn. Thế rồi nếu chúng ta lại đổ nước lên sàn,
nước này sẽ lại chảy theo cùng rãnh như trước đây.
Khả năng lớn nhất với việc tụng niệm và mật chú là ở
chỗ tâm trí bạn với khuynh hướng mơ mộng sẽ ngay lập
tức, bởi chính cái quá trình rất máy móc đó, rơi vào trong
việc mơ. Nhưng nếu bạn tràn đầy tỉnh thức và chứng kiến
bên trong, quan sát âm thanh aum này mà không hội nhập
vào trong nó, không làm mất bản thân mình vào trong nó,
thế thì bạn có thể làm cùng công việc đó khi lẩm nhẩm
"Tôi là ai?" - điều tôi chủ trương. Bây giờ nếu bạn hỏi
"Tôi là ai?" trong trạng thái buồn ngủ và không phải là
nhân chứng, cùng lỗi lầm đó vẫn có thể xảy ra tại đây và
bạn sẽ đơn thuần mơ mộng. Nhưng khả năng cho điều
này xảy ra với "Tôi là ai?" ít hơn với việc lặp lại aum, và
có lí cho cho điều đó.
Với aum, không có câu hỏi nào được hỏi cả; nó chỉ là
sự đụng chạm nhẹ nhàng. Với "Tôi là ai", có một câu hỏi,
không phải đơn thuần là cái vỗ nhẹ. Có một dấu hỏi đi
sau "Tôi là ai?" và điều này sẽ giữ cho bạn tỉnh thức. Sự
kiện thú vị là khi có câu hỏi trong tâm trí, người ta không
thể nào ngủ được. Nếu câu hỏi khó cứ xoáy mãi trong tâm
trí bạn suốt cả ngày, nó sẽ làm hỏng cả giấc ngủ đêm của
bạn nữa. Câu hỏi sẽ không để cho bạn ngủ. Dấu chấm hỏi
là bạn đồng hành của việc không ngủ. Nếu có bất kì câu
hỏi nào, bất kì lo âu nào, bất kì tò mò nào trong tâm trí,
cũng đều khó ngủ cả.
Tôi gợi ý dùng "Tôi là ai?" thay cho aum bởi vì về cơ
bản nó là một câu hỏi, và vì nó là một câu hỏi nên nó là
việc tìm kiếm thực sự cho câu trả lời. Trong aum không
có câu hỏi; nó không có cạnh góc sắc bén và do đó nó
không đập vào bạn. Nó hoàn toàn tròn trịa và không có
câu hỏi. Những cái vuốt ve nhẹ nhàng liên tục của nó nói
chung chỉ đưa tới giấc mơ tưởng tượng.
Bên cạnh đó, không có giai điệu trong "Tôi là ai?"
trong khi aum lại đầy giai điệu. Giai điệu càng lớn, nó sẽ
lại càng thúc bách bạn ngủ. "Tôi là ai?", thiếu cân đối như
dạng nam tính; aum rất cân xứng như dạng nữ tính:
những cái vuốt ve nhẹ nhàng của nó nhanh chóng làm bạn
ngủ. Các lời đều có hình dạng và tác động của chúng là
khác nhau, sự vang vọng của chúng là khác nhau. "Tôi là
ai?" không có giai điệu; khó mà ngủ được với nó. Nếu
chúng ta lặp lại "Tôi là ai? Tôi là ai?" gần một người đang
ngủ, người đó sẽ tỉnh dậy. Tuy nhiên nếu chúng ta lặp lại
"Aum, aum" bên cạnh một người đang buồn ngủ, giấc
ngủ của người đó sẽ trở nên sâu hơn bởi vì tác động là
khác. Điều này không có nghĩa là aum không có tác dụng.
Khả năng vẫn có đấy cho người nào đang đứng sau việc
lặp lại như người quan sát, nhân chứng. Nhưng tôi không
chủ trương dùng aum cho việc thiền. Có nhiều lí do cho
điều này.
Nếu bạn dùng aum cho thiền, thế thì điều không tránh
khỏi là nó sẽ trở thành được gắn với thể thứ tư. Aum là
biểu tượng cho bình diện thứ bẩy nhưng tiếng vang vọng
của nó được kinh nghiệm thấy ở bình diện thứ tư. Một khi
bạn bắt đầu thiền về aum, mối quan hệ không tránh khỏi
của aum với bình diện thứ tư sẽ tới mà điều đó, sẽ tỏ ra là
rào chắn cho tiến bộ hơn nữa. Cho nên có khó khăn này
với lời đó. Nó được kinh nghiệm ở bình diện thứ tư
nhưng nó được dùng ở bình diện thứ bẩy. Chúng ta không
có lời khác cho thể thứ bẩy. Kinh nghiệm của chúng ta về
các lời chấm dứt sau bình diện thứ tư.
Chúng ta dùng lời cuối cùng của bình diện thứ tư như
biểu tượng cho bình diện thứ bẩy. Không có phương
thuốc nào khác, bởi vì từ bình diện thứ năm, bắt đầu trạng
thái vô lời; thế rồi bình diện thứ sáu lại hoàn toàn vô lời
và bình diện thứ bẩy, là cái hư không tối thượng. Trên
đường biên cuối cùng của từ ngữ tại trạng thái thứ tư, nơi
chúng ta bỏ lại tất cả từ ngữ, lời cuối cùng nghe thấy
được sẽ là aum. Cho nên aum là lời cuối cùng trong cõi
lời nói và là lời chủ yếu trong cõi vô lời. Nó ở đường biên
nằm giữa cõi lời và trạng thái vô lời. Lời này là chủ chốt
cho bình diện thứ tư, nhưng chúng ta không có lời khác
gần hơn với bình diện thứ bẩy; tất cả các lời khác đều ở
xa đằng sau. Do đó, lời này được dùng cho bình diện thứ
bẩy.
Cho nên tôi ưa việc bạn không gắn nó với thể thứ tư.
Nó sẽ được kinh nghiệm ở thể thứ tư, nhưng nó nên được
giữ như biểu tượng cho bình diện thứ bẩy. Do đó, không
cần dùng nó cho việc thiền. Với việc thiền chúng ta nên
dùng những phương thức khác sẽ đi xa bình diện thứ tư.
Chẳng hạn, "Tôi là ai?" - điều này có thể được dùng trong
bình diện thứ tư và cũng có thể bị loại bỏ đi.
Ý nghĩa của aum nên vẫn còn là biểu tượng. Còn có lí
do khác cho việc không dùng nó như một phương thức.
Cái mà là biểu tượng cho điều tối thượng, không nên bị
làm thành phương tiện: nó nên vẫn liên tục là mục đích.
Biểu tượng cho điều tuyệt đối nên vẫn là mục đích cho
việc đạt tới. Aum là cái mà chúng ta phải đạt tới, cho nên
tôi chống lại việc dùng nó theo bất kì cách nào như một
phương tiện cho thiền. Nó đã được dùng trong quá khứ
với những kết quả bất lợi.
Thiền nhân người thực hành với âm aum coi bình
diện thứ tư là bình diện thứ bẩy, bởi vì biểu tượng của
bình diện thứ bẩy được kinh nghiệm thấy ở bình diện thứ
tư. Khi nó được kinh nghiệm ở bình diện thứ tư, thiền
nhân trở nên tin rằng mình đã đạt tới bình diện thứ bẩy.
Người đó coi điều này như đích của cuộc hành trình; do
vậy, gây ra tai hại lớn cho bình diện tâm lí. Thế thì thiền
nhân dừng lại ở đây.
Có nhiều thiền nhân coi linh ảnh, mầu sắc và âm
thanh bên trong là việc đã đạt tới đích. Điều này là tự
nhiên, bởi vì biểu tượng của điều tối thượng được cảm
thấy trên biên giới của bình diện này. Thế thì họ cảm thấy
rằng họ đã đạt tới đích. Cho nên tôi không thiên về việc
bắt phải thực hành aum cho những người ở thể thứ tư, vì
kĩ thuật này sẽ không có tác dụng lên các thể thứ nhất, thứ
hai và thứ ba. Tác động của nó sẽ được cảm thấy chỉ ở thể
thứ tư. Đây là lí do tại sao các lời khác được dùng lại gây
ra tác động cần thiết lên các thể thứ nhất, thứ hai và thứ
ba.
Cần phải xem xét thêm một điểm nữa liên quan tới
các âm cơ bản a-u-m. Lấy một thí dụ, Kinh Thánh không
nói rằng Thượng đế tạo ra thế giới; ngài không tiến hành
hành động sáng tạo. Nó nói, "Thượng đế đã nói, ‘ánh
sáng có đấy,’ và đã có ánh sáng." Thượng đế đã phát âm
ra lời. Kinh thánh cũng nói, "Lúc ban đầu đã có lời" - và
nhiều kinh sách cổ đã xác nhận cùng điều này. Chính
ngay lúc ban đầu đã có lời và tất cả những cái khác đều
theo sau đó. Bây giờ thậm chí ngay ở Ấn Độ chúng ta
cũng nói, "Lời là Brahman," mặc dầu điều này gây ra rất
nhiều hiểu lầm. Nhiều người có khuynh hướng tin rằng
lời là đủ cho việc đạt tới Brahman. Brahman chỉ được đạt
tới trong trạng thái vô lời. "Lời là Brahman" có nghĩa là
chỉ lời này, cái lời mà từ đó phát sinh ra tất cả các âm
thanh chúng ta biết, dạng tinh tế nhất của các âm thanh, là
lời về .
Nếu chúng ta đi ngược lại, ngược nữa, ngược mãi trở
về ngọn nguồn của vũ trụ cho tới khi chúng ta về tới cái
hư không mà từ đó thế giới phải đã bắt đầu, ở đấy nữa
chúng ta cũng sẽ nghe thấy tiếng vang vọng của aum. Khi
chúng ta tiến tới gần hơn cái hư không bằng việc đi vào
bình diện thứ tư, chúng ta sẽ nghe thấy âm thanh của
aum. Từ đây chúng ta bắt đầu rơi vào trong thế giới mà
phải vẫn đã có đó từ lúc bắt đầu. Từ bình diện thứ tư
chúng ta đi tới thể tâm linh; từ đó tới thể vũ trụ, và cuối
cùng tới thể niết bàn. Tiếng vang vọng cuối cùng, đươc
nghe thấy giữa hai thể cuối, cũng là tiếng vang vọng của
aum.
Một mặt là tính cá nhân của chúng ta về bốn thể mà ta
vẫn gọi là thế giới vật chất, và mặt khác là tính không cá
nhân của chúng ta mà ta có thể gọi là Brahman. Tiếng
vang vọng làm rung động trên đường biên của hai thế giới
này là aum. Từ kinh nghiệm này chúng ta đi tới hiểu ra
rằng khi thế giới vật chất đã thành hình dạng từ Brahman,
tiếng vang vọng của aum phải đã rung lên liên tục. Do
vậy, mới có lời. Cho nên mới có niềm tin là mọi điều đều
đi vào sự hiện hữu qua lời. Nếu lời bị chia thành các
thành phần cơ bản, chúng ta thấy ba âm cơ bản a-u-m
trong nó. Tổ hợp này là aum.
Cho nên bởi lí do này mà người ta nói rằng đã có aum
ngay từ đầu và sẽ có aum vào lúc kết thúc. Cái kết thúc có
nghĩa là chuyển trở về cái bắt đầu, và do vậy vòng tròn
được hoàn chỉnh. Vậy mà tôi bao giờ cũng cảm thấy rằng
aum chỉ nên được dùng như biểu tượng chứ không như kĩ
thuật thiền. Những điều khác, có thể được dùng như các
phương thức. Âm thanh thuần khiết như aum, không nên
bị làm thành mất thuần khiết bởi việc dùng nó như một kĩ
thuật.
Nhiều người không hiểu tôi. Họ tới tôi và nói, "Sao
thầy cấm việc nhẩm aum?" Có lẽ họ nghĩ rằng tôi là kẻ
thù của aum, nhưng sự kiện là ở chỗ bản thân họ là kẻ thù
của aum. Một lời thuần khiết như thế không nên bị dùng
như một phương tiện cho việc phát triển tâm linh. Thực
tế, lưỡi chúng ta không đáng để phát âm ra nó; nó quá
thuần khiết không nên để thốt ra từ thể vật lí. Nó là một
lời mà bắt đầu tại nơi lưỡi trở thành vô nghĩa, nơi thân thể
trở thành vô dụng. Tại đấy trở đi có tiếng vang vọng của
nó và tiếng vang vọng này rung động theo ý riêng của nó.
Nó có thể được kinh nghiệm; nó không thể được tạo ra.
Do đó, aum phải được kinh nghiệm chứ không phát âm
ra.
Có một nguy hiểm khác. Nếu bạn dùng aum như một
kĩ thuật, bạn sẽ chẳng bao giờ biết tới âm thanh cơ bản
của lời này khi nó phát sinh từ sự tồn tại, bởi vì việc phát
âm của riêng bạn sẽ bị áp đặt lên nó. Cho nên bạn sẽ
chẳng bao giờ chứng kiến biểu lộ thuần khiết nhất của nó.
Bất kì ai dùng âm thanh của aum như một kĩ thuật, cũng
chẳng bao giờ kinh nghiệm được aum trong thực tại.
Bằng việc thực hành liên tục họ sẽ đặt chồng chất sắc thái
của riêng mình lên tiếng vang vọng thực tại khi nó tới.
Thế thì họ sẽ không thể nào nghe thấy tiếng vang dội
thuần khiết của aum. Họ không nghe thấy tiếng vang
vọng trực tiếp của hư không bởi vì họ tràn đầy với âm
thanh riêng của mình. Điều này là tự nhiên, bởi vì cái mà
chúng ta quen thuộc, trở thành được khắc ghi vào chúng
ta. Do đó, tôi nói rằng tốt hơn cả là đừng quen thuộc với
aum; tốt hơn cả là đừng dùng aum. Một ngày nào đó nó
sẽ xuất hiện ở thể thứ tư và thế thì nó sẽ có ý nghĩa nào
đó.
Sự xuất hiện của nó ở thể thứ tư sẽ có nghĩa là bạn đã
đạt tới những giới hạn của thể thứ tư. Bây giờ bạn sắp
bước ra ngoài thể tâm lí, ra ngoài cõi lời nói. Lời cuối
cùng đã tới và bây giờ bạn đứng ở nơi lời bắt đầu; bạn
đứng ở nơi toàn bộ thế giới đã đứng ở lúc bắt đầu; bạn
đứng ở ngưỡng cửa của sáng tạo. Và thế thì, khi giai điệu
của riêng nó bắt đầu tuôn chảy, cái duyên dáng của nó
không thể nào diễn tả nổi. Không có cách nào để mô tả
nó. Âm nhạc hay nhất của chúng ta cũng không thể nào
so sánh được với tiếng vọng nhỏ bé nhất của nó. Dù
chúng ta cố gắng vất vả đến đâu đi chăng nữa, chúng ta
cũng chẳng thể nào nghe thấy âm nhạc này của im lặng
với tai hướng ra ngoài. Do đó, tốt hơn cả là chúng ta
không có bất kì ý tưởng định sẵn gì về nó. Chúng ta đừng
gắn cho nó bất kì hình dạng hay mầu sắc nào bằng không,
chúng ta sẽ bị trí tưởng tượng của mình bắt lại và điều
này sẽ là chướng ngại.
#6Khác biệt về điện sinh học giữa đàn ông và đàn bà
vẫn còn cho tới thể thứ tư. Liệu điều này có nghĩa là
tác động của người trung gian nam hay người trung
gian nữ là khác nhau đối với thiền nhân nam hay nữ
không? Nếu vậy, xin Thầy giải thích tại sao.
Nhiều điều sẽ phải làm sáng tỏ trong hoàn cảnh này.
Như tôi đã nói trước đây, khác biệt giữa nam và nữ tồn tại
cho tới thể thứ tư. Sau thể thứ tư, không có khác biệt. Thể
thứ năm vượt ra ngoài bất kì khác biệt nào về giới tính.
Nhưng khác biệt là rất cơ bản cho tới thể thứ tư, và khác
biệt cơ bản này sẽ đem tới nhiều loại kết quả. Trước hết
chúng ta hiểu về thể nam rồi chúng ta sẽ chuyển sang thể
nữ.
Thể đầu tiên của đàn ông là nam tính, thể thứ hai là
nữ tính, thể thứ ba lại là nam tính, và thể thứ tư là nữ tính.
Với đàn bà, vấn đề ngược lại: thể đầu tiên của cô ấy là nữ
tính, thể thứ hai là nam tính, thể thứ ba lại là nữ tính và
thể thứ tư là nam tính. Có khác biệt căn bản bởi vì điều
này. Chính những khác biệt này đã ảnh hưởng sâu sắc lên
toàn bộ lịch sử và tôn giáo của loài người và đã đem lại
cho văn hoá của con người một kiểu trật tự đặc biệt.
Có một số đặc trưng duy nhất cho thể nam và một số
đặc trưng và đặc thù cho thể nữ. Những đặc trưng này bù
trừ lẫn cho nhau. Thực tế, thể nữ là không đầy đủ và thể
nam cũng không đầy đủ; do đó, trong hành động sáng tạo
họ phải hợp nhất. Việc hợp nhất này có hai loại. Nếu nam
A hợp nhất với nữ B ở bên ngoài, việc sáng tạo con cái sẽ
xảy ra. Nếu nam A hợp nhất với nữ B bên trong bản thân
mình, việc sáng tạo xảy ra hướng về Brahman. Đây là
cuộc hành trình hướng tới Thượng đế, trong khi việc hợp
nhất bên ngoài là cuộc hành trình hướng tới tự nhiên. Tuy
nhiên, dục đều được bao hàm trong cả hai: nếu thể nam
hợp nhất bên ngoài với thể nữ, bào thai xuất hiện; nếu thể
nam hợp nhất với thể nữ bên trong của riêng nó, thế thì
cũng có dục xảy ra. Trong trường hợp thứ nhất năng
lượng được phát ra ngoài; trong khi ở trường hợp thứ hai,
năng lượng bắt đầu chuyển vào bên trong. Đây là điều
vẫn được biết tới như việc dâng lên của năng lượng dục:
nó là sự hợp nhất với người đàn bà bên trong.
Năng lượng bao giờ cũng chảy từ nam sang nữ bất kể
liệu nó xảy ra bên ngoài thân thể hay bên trong thân thể.
Nếu năng lượng dục của thể vật lí của nam chảy sang thể
ê te nữ bên trong người đó, nó không bị phát tán đi. Thế
thì xảy ra điều vẫn được biết tới là brahmacharya - vô
dục. Thế thì năng lượng chảy lên liên tục; nó đạt tới thể
thứ tư. Sau thể thứ tư brahmacharya không có ý nghĩa,
bởi vì chẳng có gì giống như nam và nữ ở đó cả.
Đó là lí do tại sao đi qua bình diện thứ tư, thiền nhân
không là nam cũng chẳng là nữ. Khái niệm về
ardhanarishwar - thần Shiva nửa đàn ông nửa đàn bà - đi
vào hiện hữu với thể thứ nhất và thứ hai trong tâm trí.
Nhưng điều này đơn thuần vẫn còn là biểu tượng và
chúng ta chẳng bao giờ hiểu nó. Shiva là không đầy đủ và
Parvati cũng vậy. Cùng nhau họ trở thành một. Cho nên
chúng ta đã vẽ ra bức tranh về Shiva nửa đàn ông, nửa
đàn bà, nhưng trong cuộc sống đời thường, nửa kia là
không thấy được ở bên ngoài. Nó bị che khuất đằng sau
mỗi chúng ta. Bên ngoài của bạn là nam và nửa kia là nữ,
và đây là lí do tại sao những sự kiện rất khôi hài đôi khi
lại xảy ra.
Đàn ông trong thế giới bên ngoài dù bạo dạn và mạnh
mẽ như thế nào, dù có ảnh hưởng tới đâu - dù người đó có
là Alexandre Đại đế hay Napoleon hay Hitler, dù là trong
văn phòng, trong cửa hiệu hay trong chợ, người đó sống
như con sư tử cả ngày, nhưng buổi tối, tất cả vẻ vênh
vang của người đó đều mất đi trước người đàn bà đơn
giản trong nhà mình. Điều này là rất kì lạ. Đâu là lí do
nằm sau điều này? Sự kiện là ở chỗ người đó sử dụng thể
nam của mình mười hai hay mười bốn giờ và sau thời
gian đó, thể thứ nhất của anh ta trở nên mệt mỏi. Khi anh
ta về tới nhà, thể thứ nhất yêu cầu nghỉ ngơi. Thế thì thể
thứ hai là nữ lại tiến lên trước và thể nam, lùi lại thứ yếu.
Bây giờ người vợ đã dùng thể thứ nhất của mình cả
ngày dài, cho nên vào buổi tối thể nam đằng sau cô ấy lại
nổi lên. Thế thì người đàn bà bắt đầu hành xử như đàn
ông còn người đàn ông, hành xử như đàn bà.
Cần phải ghi nhớ rằng giao hợp với thể nữ bên trong
của riêng mình là phương pháp cho phép luồng năng
lượng sống đi lên. Quá trình này có nhiều chi tiết bên
trong hơn, nhưng chúng ta sẽ không nói về điều đó bây
giờ.
Một điều nữa: năng lượng bao giờ chảy từ nam sang
nữ. Phẩm chất quan trọng nhất của thể nam là ở chỗ nó
không tiếp nhận; nó bao giờ cũng năng nổ. Nam có thể
cho nhưng anh ta không thể nhận. Không có luồng chảy
từ nữ sang nam; nó bao giờ cũng chảy từ nam sang nữ.
Nữ là tiếp nhận. Cô ấy có thể nhận nhưng cô ấy không thể
cho.
Có hai kết quả của điều này và và cả hai đều đáng
biết. Kết quả thứ nhất là ở chỗ vì đàn bà có tính tiếp nhận
cho nên cô ấy chẳng bao giờ có thể trở thành người cho
shaktipat; shaktipat không thể xảy ra qua cô ấy. Đây là lí
do tại sao có ít bậc thầy nữ trên thế giới đến thế, cũng
không có bậc thầy nữ nào ngang tầm Phật và Mahavira.
Lí do là ở chỗ không năng lượng nào có thể được truyền
cho bất kì ai qua cô ấy. Chính sự kiện là đàn bà tụ tập với
số lượng rất lớn quanh Phật, Mahavira và Krishna, nhưng
không người đàn bà nào với tầm vóc như Krishna lại đã
được sinh ra mà quanh người này hàng triệu đàn ông tụ
tập lại. Lí do cho điều này nằm ở chỗ đàn bà chỉ có thể là
người nhận.
Một sự kiện thú vị là quanh một người như Krishna
có rất ít đàn ông nhưng rất nhiều đàn bà. Cũng điều ấy
xảy ra với Mahavira: có mười nghìn sư nam và bốn mươi
nghìn sư nữ. Tỉ lệ bao giờ cũng là bốn trên một. Nếu có
một đàn ông, bao giờ cũng có bốn đàn bà quanh ông ấy.
Đàn ông không thể nào ưa thích Mahavira như đàn bà,
bởi vì cả họ và Mahavira đều là đàn ông. Điều mà
Mahavira phát ra, đàn bà có thể hấp thu được. Nhưng đàn
ông là người không hấp thu; tính tiếp nhận của họ rất giới
hạn. Do đó, mặc dầu chính đàn ông là người cầm đầu tôn
giáo nhưng chính đàn bà là người bao giờ cũng bảo vệ và
gìn giữ nó; chính đàn bà mới là người gìn giữ tôn giáo
trên trái đất. Đàn ông chỉ là người tiên phong trong tôn
giáo.
Đàn bà có tính tiếp nhận; phẩm chất của thân thể cô
ấy là tiếp nhận. Cô ấy có phẩm chất này về mặt sinh học
nữa. Cô ấy mang thai đứa trẻ trong chín tháng, rồi sau đó
cô ấy cũng phải nuôi dưỡng nó lớn lên; vậy, cô ấy phải có
tính tiếp nhận. Tự nhiên không trao công việc như vậy
cho đàn ông. Anh ta trở thành bố chỉ trong khoảnh khắc
và thế rồi anh ta bước ra khỏi bức tranh. Đàn bà nhận lấy
tinh trùng và rồi giữ nó lại. Sự kiện này cũng xảy ra trong
shaktipat nữa. Do đó, trong shaktipat đàn ông không thể
nào nhận được từ đàn bà. Đây là nói chung như vậy; có
thể có những ngoại lệ. Về những trường hợp hiếm hoi này
tôi sẽ nói về sau. Đôi khi điều này có thể xảy ra, nhưng
với các lí do khác nhau.
Thông thường, shaktipat không xảy ra qua thể nữ.
Bạn có thể gọi đây là nhược điểm của thể nữ. Nhưng cô
ấy có phẩm chất khác bù lại - sức mạnh và năng lực để
nhận shaktipat nhanh chóng. Đàn ông có thể truyền dẫn
shaktipat nhưng anh ta không thể nào nhận được nó. Do
đó, shaktipat cũng khó khăn để truyền từ đàn ông sang
đàn ông bởi vì thiền nhân nam không mang tính tiếp
nhận; đấy là cá tính của anh ta. Tại chính bước đầu tiên,
nơi đó anh ta phải bắt đầu, nam tính đứng trong anh ta
không mang tính tiếp nhận. Có những giáo phái trong đó
người đàn ông thực hiện công phu tâm linh bằng việc tự
coi mình là đàn bà. Đây là một phương pháp làm cho anh
ta thành có tính tiếp nhận. Thậm chí như vậy, đàn ông
vẫn không trở nên mang tính tiếp nhận. Đàn bà trở nên
mang tính tiếp nhận không khó khăn gì vì cô ấy về bản
chất là tiếp nhận rồi. Do đó, trong shaktipat đàn bà bao
giờ cũng cần người trung gian. Tại sao cô ấy không thể
nào nhận được ân huệ trực tiếp, xin hiểu cho rõ.
Shaktipat xảy ra từ thể thứ nhất. Nếu tôi truyền dẫn
shaktipat, nó xảy ra cho thể thứ nhất của bạn. Năng lượng
sẽ nổi lên từ thể thứ nhất của tôi và đập vào thể thứ nhất
của bạn. Nếu bạn là đàn bà, điều này sẽ xảy ra nhanh
chóng. Nếu bạn là đàn ông, thế thì điều đó sẽ cần thêm nỗ
lực; điều đó sẽ khó khăn. Sâu đâu đó bên trong, bạn sẽ
phải thu được trạng thái buông xuôi hoàn toàn. Chỉ thế thì
mới có thể; bằng không, không thể được. Đàn ông không
buông xuôi; dù anh ta có cố gắng vất vả đến đâu, anh ta
cũng vẫn không thể nào buông xuôi được. Cho dù anh ta
nói "Tôi buông xuôi,", điều ấy vẫn cứ là theo cách hùng
hổ. Nói cách khác, chính bản ngã đang tuyên bố về hành
động buông xuôi. Nó nói, "Nhìn đây! Tôi buông xuôi
đấy." Cái ‘tôi’ đứng đằng sau vẫn không rời bỏ anh ta.
Đàn bà không phải buông xuôi: cô ấy đã buông xuôi
rồi; đấy là bản tính của cô ấy. Buông xuôi là phẩm chất
của thể thứ nhất của cô ấy. Cô ấy rất tiếp nhận. Do đó,
shaktipat xuất phát từ đàn ông xảy ra dễ dàng bên trong
cô ấy. Từ đàn ông sang đàn ông điều ấy là rất khó khăn
và từ đàn bà sang đàn ông, gần như là không thể được. Từ
đàn ông sang đàn ông, dù là khó khăn những vẫn còn có
thể được. Nếu có một người đàn ông với uy quyền lớn,
người đó có thể đưa người khác về điều kiện gần như đàn
bà. Shaktipat qua đàn bà về mặt thực tế là không thể có
được, bởi vì trong khoảnh khắc xảy ra đó, cô ấy có
khuynh hướng hấp thu luôn năng lượng sống vào mình.
Thể thứ nhất của cô ấy giống như bọt biển và hút mọi thứ
vào đó.
Cho tới giờ chúng ta đã nói về shaktipat. Trong
trường hợp của ân huệ, điều kiện cũng giống hệt. Ân huệ
tới từ thể thứ tư. Thể thứ tư của nam là nữ tính cho nên
anh ta nhận ân huệ rất dễ dàng. Vì thể thứ tư của đàn bà là
nam tính cho nên cô ấy kinh nghiệm cùng khó khăn đối
với ân huệ: cô ấy không thể nào nhận được ân huệ một
cách trực tiếp. Thể thứ tư của đàn ông là nữ tính; do đó
Mohammed, Moise, Jesus đều ngay lập tức thiết lập được
quan hệ với Thượng đế. Vì thể thứ tư là nữ tính trong họ,
cho nên họ có khả năng hấp thu ân huệ ngay khi nó giáng
xuống họ.
Nữ có thể thứ tư là nam tính. Thể nam của cô ấy là ở
cực điểm này, và điều này làm cho cô ấy không thể nào
nhận được ân huệ. Do đó, nữ không có thông điệp trực
tiếp; tức là không người đàn bà nào có thể tuyên bố rằng
mình đã biết tới Brahman. Thể thứ tư của cô ấy là nam
tính nên gây ra cản trở. Cô ấy không thể nào nhận được từ
đầu đó.
Đàn ông nhận ân huệ trực tiếp. Thật khó cho anh ta
nhận nó từ ai đó, như trong shaktipat, bởi vì bản thân anh
ta là rào chắn ở đó. Nhưng điều ấy không đúng cho đàn
bà. Cô ấy có thể nhận shaktipat từ bất kì người trung gian
nào. Ngay cả một người rất yếu cũng có khả năng thực
hiện shaktipat cho đàn bà. Đây là lí do tại sao ngay cả
những người trung gian rất tầm thường cũng thành công
trong việc này. Shaktipat ít phụ thuộc vào bản thân người
trung gian và phụ thuộc nhiều vào tính tiếp nhận của
người nhận. Nhưng đàn bà bao giờ cũng đòi hỏi có trung
gian. Rất khó cho họ đạt tới mà không có trung gian, bởi
vì thế thì không biến có nào có thể xảy ra.
Chúng ta đã nói về trạng thái thông thường của những
điều này. Những điều kiện phi thường cũng có thể được
tạo ra. Chính vì quá trình thông thường của những điều
này mà có ít thiền nhân nữ hơn. Điều này không có nghĩa
là đàn bà không kinh nghiệm Thượng đế; họ đã kinh
nghiệm Thượng đế nhưng bao giờ cũng có người trung
gian ở giữa. Mặc dầu không đáng kể, người trung gian
bao giờ cũng phải hiện diện; họ có kinh nghiệm của mình
qua người trung gian. Một điều khác: có thể có những
khác biệt được gây ra bởi những điều kiện bất thường.
Chẳng hạn, ân huệ xảy ra trong đàn bà trẻ thì khó khăn
hơn; nó dễ dàng hơn chút ít trong đàn bà già.
Một sự kiện thú vị là ở chỗ trong toàn bộ cuộc đời,
giới tính của chúng ta luôn linh động; chúng ta không có
cùng tỉ lệ nam-nữ trong suốt cuộc đời. Có thay đổi liên
tục; tỉ lệ này luôn thay đổi. Cho nên có việc là đàn bà mọc
râu mép và cằm vào những năm sau. Thậm chí giọng nói
của người đó cũng thay đổi vào quãng năm mươi tuổi và
việc ấy trở thành sâu sắc hơn, giống với đàn ông nhiều
hơn. Giọng nữ sẽ mất đi. Tỉ lệ của cô ấy thay đổi; nhân tố
nam nổi lên và nhân tố nữ giảm đi. Thực tại, công việc
mang tính đàn bà của cô ấy đã kết thúc. Sự gắn bó sinh
học cho tới độ tuổi bốn mươi nhăm nay không còn nữa.
Cô ấy không còn gắn với nữ tính trong mình, cho nên khả
năng của ân huệ nhiều hơn ở người đàn bà lớn tuổi. Điều
này là như vậy bởi vì yếu tố nam tính tăng lên trong thể
thứ nhất của cô ấy còn yếu tố nữ tính giảm đi trong thể
thứ hai của ấy. Cũng vậy, yếu tố nam tính trong thể thứ tư
của cô ấy giảm đi và yếu tố nam tính trong thể thứ ba của
cô ấy tăng lên. Cho nên ân huệ là có thể trong đàn bà già.
Đàn bà rất già, trong những điều kiện nào đó có thể
hành động như người trung gian cho đàn bà trẻ. Người
đàn bà rất già, gần một trăm tuổi, không còn dấu vết gì
trong tâm trí rằng mình là đàn bà, có thể hành động như
trung gian cho cả đàn ông nữa. Nhưng điều này sẽ là việc
khác. Điều tương tự cũng hệt cho đàn ông: khi đàn ông
già đi, những nét nữ tính của người đó tăng lên. Ông già
nói chung hành xử như đàn bà. Nhiều nét nam tính mất đi
trong cá tính của họ và những nét nữ tính phát triển.
Trong mối liên quan này cần biết rằng nhân cách của
bất kì ai nhận ân huệ trong thể thứ tư, đều phát triển
những nét nữ tính. Chẳng hạn, nếu như chúng ta xem xét
thân thể hay nhân cách của Mahavira hay của Phật, họ có
vẻ mang nhiều nét nữ tính hơn là nam tính. Những nét
mềm mại và đẹp đẽ của đàn bà được tổ hợp với tính tiếp
nhận nữ tính được tăng lên trong họ. Tính cách hùng hổ
đã rời bỏ họ, và do vậy họ trở thành tràn đầy không bạo
hành, từ bi và tình yêu; bạo hành và giận dữ bị xua đuổi
đi vĩnh viễn.
Nietzsche đã buộc tội Phật và Jesus là lại gái và ông
ta nói rằng bởi lí do đó họ phải không được tính là đàn
ông. Họ không có phẩm chất đàn ông và họ đã thành công
trong việc làm cho toàn bộ thế giới thành nữ tính. Có đôi
điều chân lí trong lời phàn nàn của ông ta. Bạn sẽ ngạc
nhiên mà biết rằng chúng ta đã vẽ Phật, Mahavira,
Krishna và Rama không ria mép hay râu. Không phải là
họ đã không có râu ria, nhưng vào lúc chúng ta vẽ tranh
họ, nhân cách của họ đã trở thành tràn đầy phẩm chất nữ
tính; vậy, râu và ria sẽ bị gạt đi. Chúng ta vứt bỏ râu ria
bởi vì chúng không còn thích hợp cho cách thức nữ tính
của họ.
Một sự vụ như thế đã xảy ra trong trường hợp của
Ramakrishna. Hoàn cảnh của ông có thể trở thành trường
hợp duy nhất cho các nhà khoa học. Một điều rất kì lạ đã
xảy ra. Về sau đệ tử ông đã cố gắng che giấu những sự
kiện này - bởi vì làm sao họ có thể nói được về nó? Vú
của Ramakrishna nở to và ông ấy thấy kinh. Điều này là
biến cố rất kì lạ - chúng ta có thể nói đấy là phép màu.
Tính cá nhân ông trở thành nữ tính đến mức ông ấy bước
đi như đàn bà và nói như đàn bà, và trong một trường hợp
ngoại lệ như thế thì nhiều điều khác cũng có thể xảy ra.
Chẳng hạn, trong hoàn cảnh như thế người ta không thể
nào thực hiện shaktipat lên bất kì ai. Nhân cách của ông
ấy đã trở thành hoàn toàn nữ tính.
Với sự giúp đỡ của các kĩ thuật thiền của Phật và
Mahavira, hàng trăm nghìn người đã đạt tới thể thứ tư.
Ngay khi họ đạt tới bình diện thứ tư, nhân cách của họ trở
thành nữ tính. Với điều này tôi muốn nói rằng khía cạnh
thụ động của bản tính họ đã phát triển. Bạo hành và giận
dữ tan biến khi hùng hổ rời bỏ họ; trìu mến, tình yêu, từ
bi và không bạo hành tăng lên. Nữ tính đã thành bản tính
cố hữu của toàn bộ đất nước này, và cảm giác của tôi là ở
chỗ đó chính là nguyên nhân cho rất nhiều cuộc xâm lăng
đã xuất hiện ở đây. Tất cả các quốc gia nam tính láng
giềng đều thành công trong việc chinh phục nhân cách nữ
tính của Ấn Độ.
Theo một cách, một điều rất giá trị đã xảy ra - đó là
chúng ta đã kinh nghiệm những điều tuyệt diệu trên bình
diện thứ tư. Nhưng trên bình diện của thể thứ nhất, chúng
ta thấy mình gặp khó khăn. Mọi thứ đều phải có cái bù
trừ. Những người đã được chuẩn bị để bỏ lại các kho báu
của bình diện thứ tư, đạt tới của cải và vương quốc của
bình diện thứ nhất. Những người không được chuẩn bị để
từ bỏ niềm vui của bình diện thứ tư, phải từ bỏ nhiều thứ
trên bình diện thứ nhất.
Theo Phật và Mahavira, Ấn Độ mất đi bản chất hùng
hổ và trở thành tiếp nhận. Cho nên với bất kì ai tới, chúng
ta cũng ở điểm trở thành tiếp nhận; bất kì ai tới, chúng ta
đều hấp thu họ vào trong chúng ta. Vấn đề phân biệt
chủng tộc với họ không bao giờ xuất hiện trong chúng ta,
cứ để cho một mình họ tấn công. Vấn đề đó đã mất đi mãi
mãi bởi vì nhân cách chúng ta đã trở thành nữ tính. Ấn
Độ đã trở thành một tấm lòng mênh mông chứa chấp tất
cả những ai tới với nó. Chúng ta không chối từ ai cả;
chúng ta chưa bao giờ cố gắng loại bỏ bất kì kẻ xâm lược
nào khỏi chúng ta, bởi vì phẩm cách hiếu chiến cần cho
đánh nhau, không còn trong chúng ta nữa. Với những
người vĩ đại điều đó đã trở nên bị mất đi, và quảng đại
quần chúng, đi theo những người vĩ đại. Và quần chúng
phải vẫn bị chi phối bởi họ. Thường dân nghe người vĩ
đại nói về không bạo hành, từ bi, và thấy họ sống theo
điều đó, cho nên người đó chấp nhận thế giới của họ và
vẫn còn im lặng. Người đó có thể chiến đấu nhưng người
đó không có người lãnh đạo.
Nếu như lịch sử thế giới được viết lại theo quan điểm
tâm linh - khi chúng ta không còn coi các biến cố vật lí là
lịch sử mà thay vào đó sẽ bắt đầu coi biến cố trên bình
diện tâm thức là lịch sử, đó là lịch sử thật - thế thì chúng
ta sẽ hiểu rằng bất kì khi nào một quốc gia chuyển sang
tâm linh, nó đều trở thành nữ tính. Và bất kì khi nào nó
trở thành nữ tính, các nền văn hoá kém hơn, các nền văn
hoá tầm thường hơn, sẽ đánh bại nó. Một sự kiện đáng
ngạc nhiên là những người đã xâm chiếm Ấn Độ đều
thuộc về những nền văn hoá rất lạc hậu. Theo nhiều cách
thức, họ vẫn còn là những kẻ man rợ hoang sơ, dù họ có
là người Thổ nhĩ kì hay người Mông cổ hay Mogul. Họ
không có văn hoá, nhưng theo một nghĩa nào đó, họ là
đàn ông - mặc dầu man rợ - và chúng ta là đàn bà, thụ
động. Chúng ta không có cách nào khác hơn việc hấp thu
họ vào trong chúng ta.
Cho nên thể nữ tính có thể hấp thu. Do đó, đàn bà cần
người trung gian trong khi thể nam tính có thể truyền
năng lượng cũng như nhận ân huệ. Đó là lí do tại sao
những người như Mahavira đã phải nói rằng đàn bà sẽ
phải được tái sinh làm đàn ông để đạt tới chứng ngộ. Đây
là một lí do trong số nhiều lí do. Cô ấy không thể nhận
được ân huệ trực tiếp. Không nhất thiết là cô ây cứ phải
chết đi để trở thành đàn ông. Có những phương pháp mà
theo đó việc biến đổi nhân cách có thể được thực hiện.
Thể thứ hai có thể trở thành thể thứ nhất của bạn và thể
thứ nhất có thể được làm cho lấy vị trí của thể thứ hai.
Với điều này có những kĩ thuật về sức mạnh ý chí sâu sắc
mà qua đó việc biến đổi vật lí được thực hiện ngay trong
chính cuộc đời này.
Có một câu chuyện hay về một trong những
tirthankara của người Jaina. Một trong những tirthankara
Jaina là một đàn bà có tên là Mallibai. Giáo phái
Swetamber gọi bà là Mallibai, trong khi giáo phái
Digamber gọi là bà là Mallinath; họ coi bà là đàn ông bởi
vì người Jaina thuộc Digamber cảm thấy rằng đàn bà
không được mang danh hiệu moksha, giải thoát. Do đó
một tirthankara, không thể nào là đàn bà được, và do vậy
họ gọi Mallibai là Mallinath. Bây giờ, không nơi đâu
khác trong lịch sử loài người lại có tranh luận sôi nổi đến
thế về một người. Đã có đủ mọi loại tranh luận khác: về
một người cao một mét bẩy hay mét tám, về khi nào
người đó được sinh ra, về khi nào người đó chết, nhưng
chưa bao giờ có tranh luận sôi nổi về giới tính của người
đã trở thành bậc thầy của tranh luận. Giáo phái này tin
Mallibai là đàn ông còn giáo phái kia, tin là đàn bà.
Điều tôi cảm thấy là ở chỗ khi Mallibai bắt đầu việc
tìm kiếm tâm linh, bà ấy phải là một đàn bà. Nhưng có
những phương pháp mà nhờ đó thể thứ nhất có thể được
thay đổi thành thể nam, và chỉ sau khi điều này xảy ra, bà
ấy mới trở thành tirthankara. Cho nên giáo phái thứ nhất,
người coi bà là đàn bà, tôn kính trạng thái thứ nhất của bà
ấy; còn giáo phái thứ hai, người coi bà là đàn ông, tôn thờ
trạng thái thứ hai của bà ấy. Cả hai đều đúng. Bà ấy là
một đàn bà nhưng bà ấy phải đã biến thành đàn ông. Con
đường của Mahavira là con đường mà bất kì người đàn bà
nào đi qua, cô ấy nhất định phải trở thành đàn ông. Con
đường của ông ấy không phải là của sùng kính mà là của
tri thức, và do vậy nó hoàn toàn năng nổ. Con đường của
ông ấy không phải là con đường của tiếp nhận.
Nếu bất kì người đàn ông nào nhảy múa và ca hát
trong suốt cả năm trời như Meera, đi ngủ cũng vẫn mang
hình ảnh của Krishna trên ngực và coi bản thân mình là
người yêu của mình, người đó chỉ còn là đàn ông trên
danh nghĩa. Tâm thức người đó sẽ trải qua biến đổi hoàn
toàn. Thể thứ nhất sẽ thay đổi và trở thành nữ tính, còn
thể thứ hai sẽ thay đổi và trở thành nam tính. Nếu việc
biến đổi này là rất sâu sắc, sẽ có những thay đổi về thể
chất trong thân thể anh ta nữa; bằng không, thân thể sẽ
vẫn còn như cũ. Nhưng tâm trí sẽ không còn như cũ nữa:
anh ta sẽ phát triển tâm thức nữ tính. Cho nên trong
những trường hợp đặc biệt nhiều điều có thể xảy ra: biến
cố của shaktipat có thể xảy ra; không có khó khăn gì.
Nhưng điều này không thể là một qui tắc tổng quát.
Shaktipat có thể xảy ra qua người đàn ông và người
này có thể nhận ân huệ trực tiếp nữa, nhưng sẽ khó cho
đàn bà để đạt tới ân huệ trực tiếp. Cánh cửa ân huệ chỉ
mở cho cô ấy thông qua shaktipat. Đây là sự kiện chứ
không phải là đánh giá. Không có vấn đề về cao thấp, trên
dưới: như thế là sự kiện. Nó cũng giống như là sự kiện
đàn ông phóng tinh còn đàn bà nhận tinh. Nếu ai đó hỏi
liệu đàn bà có phóng tinh vào đàn ông hay không, chúng
ta sẽ phải nói không, bởi vì không có luật tự nhiên cho
điều này. Không có vấn đề về liệu một người là ở trên
hay ở dưới. Nhưng tất cả các cách thức đánh giá đều nảy
sinh từ sự kiện này. Đàn bà bị coi như thấp kém bởi vì cô
ấy là người nhận. Thế thì giá trị của người cho mới được
tôn lên.
Khác biệt về địa vị giữa đàn ông và đàn bà trên khắp
thế giới đều nảy sinh từ sự kiện là đàn ông coi mình là
người cho, người cung cấp, trong khi đàn bà coi mình là
người nhận. Nhưng ai nói rằng người nhận cứ phải là thấp
kém? Và nếu không có ai là người nhận, người cho sẽ còn
có ích gì nữa? Và ngược lại: nếu không có người cho,
người nhận phỏng còn có ích gì? Chẳng có gì cao thượng
hay thấp kém trong đó cả. Thực tế, cả hai đều là phần bổ
sung cho nhau và cả hai đều không thể độc lập với nhau.
Họ là phụ thuộc lẫn nhau; họ bị gắn vào nhau. Những
người này không phải là các thực thể tách biệt, nhưng
thay vì thế là hai mặt của cùng một đồng tiền mà trong đó
một người cho và người kia nhận.
Tuy nhiên thông thường, chính khái niệm về người
cho làm nảy sinh bức tranh về cao thấp trong tâm trí
chúng ta. Không có lí do gì tại sao người nhận lại phải
thấp kém. Nhiều điều được gắn với điều này, tuy nhiên,
địa vị của người đàn bà đã được chấp nhận là thứ hai so
với đàn ông. Không chỉ đàn ông mà ngay cả đàn bà cũng
đã chấp nhận địa vị này. Thực tế, cả hai đều đứng đầu
trong vị trí tương ứng của mình - anh ấy là đàn ông và cô
ấy là đàn bà. Không có vị trí thứ hai; cả hai là phần bù
của nhau.
Bây giờ khái niệm này đã có những hậu quả rộng rãi
trong nhiều lĩnh vực và nó đã xâm nhập vào toàn bộ nền
văn minh và văn hoá của chúng ta. Đó là lí do tại sao mà
đàn ông đi săn - bởi vì anh ta hùng hổ. Còn đàn bà, ngồi ở
nhà chờ đợi anh ta; cô ấy chấp nhận anh ta một cách tự
nhiên. Anh ta đi ra cánh đồng, anh ta gặt hái mùa màng,
anh ta làm việc trong cửa hiệu, anh ta bay trên máy bay,
anh ta lên mặt trăng, anh ta đi ra làm đủ mọi thứ đó bởi vì
anh ta năng nổ. Đàn ngồi ở nhà chờ đợi anh ta. Cô ấy
cũng làm rất nhiều điều nhưng không hùng hổ; nó là tiếp
nhận. Cô ấy tạo dựng ngôi nhà cho anh ấy, cô ấy thu nhặt
mọi thứ lại, cô ất giữ mọi thứ ngăn nắp đúng chỗ. Trong
tất cả các nền văn hoá, nguyên tắc ổn định là thuộc về đàn
bà.
Nếu đàn bà không có đó, đàn ông sẽ là kẻ lang thang,
gã lêu lổng; anh ta có thể chẳng bao giờ dựng nên được
ngôi nhà. Đàn bà hành động như cái cọc. Đàn ông lang
thang đây đó nhưng đều phải trở về với cái cọc. Nếu tình
huống này mà khác đi, đàn ông sẽ chẳng bao giờ định cư
nổi. Thế thì sẽ không có thành phố và thị trấn. Văn hoá
thành phố đi vào hiện hữu bởi vì đàn bà muốn ổn định
cuộc sống của mình ở một chỗ. Cô ấy bao giờ cũng nài
xin đàn ông, "Thôi đủ rồi! Chúng ta dừng lại đi; chúng ta
đỗ lại đi. Một chút ít khó khăn có thể tới, nhưng chúng ta
đừng đi thêm nữa." Cô ấy chiếm lấy mảnh đất và bắt rễ
vào đó. Thế rồi đàn ông phải tạo ra thế giới quanh cô ấy.
Đấy là cách thức mà thành phố và thị trấn đi vào hiện
hữu. Đây là cách thức tất cả nền văn hoá, văn minh và gia
đình, mà người đàn bà tô điểm và làm cho thiêng liêng
lên, đã được tạo ra. Cái gì người đàn ông kiếm được hay
thu thập được từ bên ngoài cũng chẳng quan trọng, cô ấy
lưu giữ lại tất.
Đàn ông chẳng bao giờ quan tâm tới việc để dành.
Anh ta kiếm sống, và tại đó vấn đề kết thúc; anh ta không
còn quan tâm nữa. Anh ta háo hức và lo âu chừng nào anh
ta còn đang tranh đấu với thế giới, thách thức thế giới;
chú ý của anh ta bao giờ cũng hướng về chỗ khác để
chinh phục. Bất kì cái gì anh ta đem về, có ai đó khác
chăm nom nó tất cả, cất giữ nó tất cả, và từng thứ này đều
có chỗ riêng của nó, giá trị riêng của nó. Cô ấy là phần bổ
sung cho toàn bộ tình huống, nhưng khi cô ấy không đi
kiếm sống, khi cô ấy không tích luỹ, khi cô ấy không
sáng tạo, với cô ấy dường như là bị tụt lại sau. Cảm giác
này đi vào thậm chí từng điều rất nhỏ bé, và ở mọi nơi cô
ấy bắt đầu cảm thấy cảm giác thấp kém mà hoàn toàn vô
căn cứ.
Sự thấp kém này đưa lại kết quả tai hại. Chừng nào
mà người đàn bà còn chưa được giáo dục, cô ấy còn chịu
đựng sự thấp kém này, nhưng bây giờ, cô ấy không. Để
phá vỡ cảm giác thấp kém này cô ấy đã đi làm đích xác
những điều đàn ông làm. Điều này sẽ chứng tỏ điều rất
bất lợi cho cô ấy. Cô ấy có thể vi phạm vào nhân cách cơ
bản của mình, và điều này có thể có kết quả phá huỷ sâu
bên trong tâm lí cô ấy. Bây giờ cô ấy muốn ở cùng cấp
bậc với đàn ông, nhưng cô ấy không thể nào giống như
đàn ông hoàn toàn được. Cô ấy sẽ chỉ thành công trong
việc làm cho bản thân mình thành đàn ông hạng hai; cô
ấy không thể nào là đàn ông hạng một được. Cô ấy có
thể, nếu cô ấy chọn, làm cho bản thân mình thành hạng
nhất trong giới đàn bà của mình.
Không có đánh giá nào trong việc này cả, nhưng đây
là những sự kiện về bốn thể này; đó là điều tôi muốn nói.
#6Trong trường hợp đó, phải có khác biệt trong thực
hành tâm linh cho đàn ông và đàn bà.
Sẽ có khác biệt, và điều đó sẽ không phải là trong
thực hành tâm linh nhiều như trong trạng thái của tâm trí.
Chẳng hạn, khi phương pháp là một và duy nhất, ngay cả
thế thì người đàn ông cũng vẫn hăng hái đi vào nó, trong
khi đàn bà sẽ đi vào nó theo cách thụ động. Đàn ông sẽ
tấn công, đàn bà sẽ buông xuôi. Phương pháp sẽ là một
nhưng thái độ sẽ khác. Khi người đàn ông đi vào thực
hành tâm linh, anh ta nắm lấy cổ nó, nói đại thể như vậy,
nhưng khi đàn bà bắt đầu thực hành tâm linh, cô ấy sẽ gục
đầu vào chân nó.
Khác biệt này về thái độ là tự nhiên và không có khác
biệt nào nữa giữa hai người hơn điều này. Thái độ của
đàn bà sẽ là thái độ của buông xuôi: khi cô ấy đạt tới, cô
ấy sẽ không nói rằng cô ấy đã đạt tới Thượng đế; thay vì
thế thì cô ấy sẽ nói rằng cô ấy có may là Thượng đế đã
đưa cô ấy vào trong ngài. Khi đàn ông đạt tới điều tối
thượng, anh ta sẽ không nói rằng Thượng đế đã đưa anh
ta vào; anh ta cảm thấy rằng anh ta đã đạt tới Thượng đế.
Khác biệt là ở trong cách hiểu của họ. Khác biệt này nhất
định là như vậy, nhưng chỉ cho tới thể thứ tư. Sau đó,
không có vấn đề về nam và nữ nữa.
#6Thầy đã nói rằng việc thực hành tụng aum cũng đem
lại nada, âm thanh bên trong. Liệu điều đó có tới một
cách tự phát hay không? Đâu là nada đúng đắn?
Nếu nó tới một cách tự phát thì có giá trị hơn nhiều.
Nếu nó tới với việc lẩm nhẩm aum, nó có thể là tưởng
tượng. Cái tới theo ý riêng của nó mới là chân thực, có
giá trị. Nếu nada bắt đầu, bạn nên trở thành nhân chứng.
Đừng bị hội nhập vào trong nó, bởi vì đó là trạng thái của
bình diện thứ bẩy. Nếu bạn định mất đi trong nada trước
khi đạt tới bình diện thứ bẩy, bạn sẽ dừng lại ở đó; nó sẽ
hành động như cái phanh.
Khi những âm thanh bên trong này trở thành ngày
càng tinh tế hơn, việc chứng kiến của chúng ta nữa cũng
sẽ phải trở thành ngày càng tinh tế hơn. Chúng ta sẽ phải
tiếp tục quan sát tới cùng, khi âm thanh hoàn toàn mất đi.
#6Tại bình diện nào shaktipat xảy ra cho thiền nhân và
tại bình diện nào ân huệ xảy ra? Nếu các thể thứ
nhất, thứ hai và thứ ba của thiền nhân còn chưa phát
triển đầy đủ, shaktipat và sự thức tỉnh của kundalini
sẽ có tác động gì?
Tôi đã nói với bạn rằng shaktipat xảy ra trong thể thứ
nhất và ân huệ, ở thể thứ tư. Nếu shaktipat xảy ra trong
thể thứ nhất và kundalini chưa thức tỉnh, nó sẽ thức tỉnh -
và với tốc độ rất lớn. Thế thì chúng ta sẽ phải rất cẩn
thận, bởi vì với shaktipat điều thường xảy ra trong quá
trình nhiều tháng sẽ xảy ra trong vài giây. Do đó, trước
shaktipat nên có chuẩn bị sâu sắc cho ba thể đầu.
Shaktipat bất thần trên một người không được chuẩn bị gì
cả, trên bất kì Tom, Dick hay Harry, đều có thể có hại. Do
đó, chút ít chuẩn bị là cần thiết trước shaktipat. Không
cần phải chuẩn bị phức tạp; chỉ đem ba thể vào hội tụ là
đủ. Đó là điều thứ nhất.
Điều tiếp là ở chỗ phải có đường nối giữa ba thể này
để cho năng lượng không bị cản trở tại bất kì đâu cả. Nếu
shaktipat bị mắc ở bình diện thứ nhất, có thể sẽ nguy
hiểm. Nếu nó dàn trải khắp ba bình diện, sẽ không có hại.
Nếu nó dừng lại tại bình diện thứ nhất, sẽ rất hại.
Cũng giống như bạn bị giật điện khi đang đứng trên
đất: thế thì điều này là có hại. Nhưng nếu bạn đang đứng
trên một khung gỗ, sẽ hoàn toàn an toàn: thế thì dòng điện
đi qua thân thể bạn và tạo thành một mạch. Nếu mạch này
được tạo thành, không có nguy hiểm. Nó chỉ nguy hiểm
nếu mạch này bị ngắt. Tất cả năng lượng đều chảy theo
cùng một qui tắc: chúng đi theo vòng tròn. Nếu mạch bị
ngắt ở giữa, bạn sẽ bị giật. Cho nên nếu bạn đứng trên gỗ,
bạn không thể bị giật được.
Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng việc dùng nền gỗ cho
thiền không có mục đích nào khác hơn sự kiện là chúng là
vật cách điện. Da hươu và da báo đã được sử dụng với
cùng lí do: để cho năng lượng được thoát ra bởi việc thiền
sẽ không gây ra sốc. Cho nên những chất không dẫn điện
này đã được dùng làm chỗ ngồi. Người ta có thể bị chết
bởi sốc điện này. Do đó, thiền nhân đi guốc gỗ và ngủ
trên tấm phản gỗ. Người đó có thể không biết tại sao
mình đã làm tất cả những điều này; người đó đơn thuần
tuân theo các qui tắc đã được kinh sách đặt ra. Có lẽ thiền
nhân thực hành điều này nghĩ rằng mình đang hành hạ
thân thể để cho thân thể không được có bất kì thoải mái
nào. Đây không phải là lí do. Mối nguy hiểm là hoàn toàn
khác. Vào bất kì lúc nào biến cố cũng có thể xảy ra bên
trong thiền nhân từ bất kì nguồn nào không được biết tới.
Người này phải được chuẩn bị chu đáo.
Nếu việc chuẩn bị của người đó cho ba thể đầu được
hoàn tất, năng lượng người đó nhận được sẽ tạo thành
một mạch bên trong người đó. Nếu người đó không sẵn
sàng và năng lượng bị cản trở tại ngay chính thể thứ nhất,
điều đó là có hại. Do đó, việc chuẩn bị tối thiểu này là cần
thiết để cho thiền nhân có khả năng tạo nên một mạch.
Việc chuẩn bị này là dễ dàng và không lâu. Nó không khó
khăn chút nào.
Cho nên shaktipat có thể được dùng với mức độ nào
đó để có thoáng nhìn về điều thiêng liêng; nhưng việc
chuẩn bị sơ bộ là cần thiết, bằng không, sẽ có hại cho
người thường không được chuẩn bị.
Kundalini dâng lên với cường độ lớn qua shaktipat,
nhưng nó chỉ có thể đi lên tới thể thứ tư. Tuy nhiên,
thoáng nhìn như vậy cũng đã quá đủ. Cuộc hành trình sau
đó, hoàn toàn là cá nhân. Nếu một tia chớp sáng trong
đêm tối hé lộ ra một chút ít về con đường cho bạn, nó
cũng là quá đủ. Một khi con đường đã được thấy, mọi thứ
đều thay đổi. Thế thì bạn sẽ không còn là con người cũ
như bạn trước đây nữa. Vậy, shaktipat có thể được dùng
để thấy một chút ít về khoảng cách nằm phía trước mặt.
Tuy nhiên việc chuẩn bị ban đầu là cần thiết. Nếu trao
trực tiếp nó cho quần chúng, nó có thể có hại.
Và điều đáng ngạc nhiên nhất là ở chỗ chính quần
chúng là người bao giờ cũng tìm kiếm shaktipat và những
điều như vậy. Người bình thường muốn được cái gì đó
không mất công sức - nhưng chẳng cái gì thu được mà
không mất công sức cả. Nhiều lần chúng ta đi tới nhận ra
về sau là món quà cho không đắt làm sao. Bạn chớ bao
giờ cố gắng để có được cái gì cho không. Chúng ta bao
giờ cũng nên sẵn sàng trả đúng giá. Thực tế, chúng ta
càng biểu lộ sự sẵn sàng của mình để trả giá, chúng ta
càng trở nên đáng giá hơn. Chúng ta trả giá lớn nhất là
bởi nỗ lực của mình cho sự trưởng thành tâm linh.
Hai hôm trước đây một bà tới gặp tôi và nói, "Tôi đã
tiến bộ nhiều trong những năm qua và tôi sắp chết. Khi
nào tôi đạt tới chứng ngộ? Xin thầy khẩn trương và làm
điều gì đó bằng không, tôi chết mất." Tôi bảo bà ấy tới
thiền trong vài ngày; thế rồi chúng tôi sẽ xem cần phải
làm gì.
Bà ấy nói, "Tôi không muốn bị phiền hà với thiền.
Xin thầy làm điều gì đó để cho tôi có thể đạt tới chứng
ngộ."
Bây giờ bà này đang tìm kiếm để được cái gì đó mà
không phải trả giá cho nó. Tìm kiếm như thế là nguy
hiểm. Bạn chẳng thu được cái gì về nó cả; ngược lại bạn
lại còn bị mất. Thiền nhân không nên nuôi dưỡng những
mong đợi như thế. Người ta nhận cái mà người ta sẵn
sàng vì nó. Bạn nên tin rằng điều này là như vậy.
Thực tế, người ta chưa bao giờ nhận được ít hơn cái
mà mình xứng đáng. Đây là luật của sự tồn tại, nó là luật
vũ trụ. Bạn nhận được những cái mà bạn đã chuẩn bị cho
nó, và nếu bạn không nhận được thế thì biết rằng đấy
không phải là bất công đâu; thay vì thế thì bạn còn thiếu
sự chuẩn bị đấy. Nhưng tâm trí chúng ta bao giờ cũng ru
ngủ chúng ta trong niềm tin rằng bất công đang dồn vào
ta. Chúng ta bao giờ cũng rất chắc chắn về giá trị của
riêng mình và phàn nàn chê bai sự tồn tại.
Chúng ta bao giờ cũng nhận được cái tương xứng với
sự xứng đáng của riêng ta. Sự xứng đáng và việc đạt tới là
hai tên cho cùng một điều. Nhưng tâm trí trông đợi rất
nhiều và cố gắng rất ít. Có lỗ hổng lớn giữa trông đợi của
chúng ta và nỗ lực của chúng ta. Lỗ hổng này là rất thất
sách. Nó có thể rất tai hại. Bởi vì điều này mà chúng ta cứ
lang thang đây đó trong hi vọng có được cái gì đó ở đâu
đó. Thế thì khi số người như vậy tăng lên, điều chắc chắn
là một người láu cá nào đó sẽ tiến tới khai thác họ. Người
đó sẽ đưa ra cho họ cái mà họ đang tìm kiếm mà chẳng
phải mất công. Một người như vậy khó mà biết được cái
gì. Người đó đem đến công thức nào đó từ đâu đó mà với
công thức đó người đó có thể làm việc trên họ, và mặc dù
hiệu quả của nó không sâu sắc cho lắm, nó vẫn cứ có thể
có hại.
Chẳng hạn, ta hãy lấy một người chẳng có tri thức gì
về shaktipat: người này nữa cũng có thể thực hành một
chút ít shaktipat với sự trợ giúp của từ trường thân thể.
Nhưng người này không có tri thức gì về sáu thể khác bên
trong. Thân thể có lực từ trường riêng của nó. Nếu việc
thu xếp được tiến hành qua tình huống nào đó, người đó
có thể làm cho bạn nhận những cú sốc qua từ trường đó.
Đây là lí do tại sao thiền nhân trong thời cổ đại lại cẩn
thận về hướng của đầu khi ngủ. Người đó sẽ không để
đầu theo một hướng nào đó hay để chân theo một hướng
nào đó.
Trái đất có lực từ trường của riêng nó và thiền nhân,
bao giờ cũng được nhắc nhở nên sắp thẳng đúng với từ
trường này để cho người đó thường xuyên được thấm từ
trường. Nếu bạn ngủ làm thành góc với lực này, từ trường
thân thể bạn sẽ trở nên ít đi. Nếu bạn nằm theo hướng
luồng từ trường, lực mà trái đất tạo ra từ trường của nó và
lực tạo nên trục của trái đất cũng sẽ làm nhiễm từ thân thể
bạn thành thỏi nam châm. Nó rót đầy thân thể bạn với lực
từ trường theo cùng cách như một mẩu sắt bị nhiễm từ
bởi việc đặt nó phía trước thanh nan châm. Sau khi trở
nên được nhiễm từ, nó sẽ bắt đầu hút những vật nhỏ như
đinh ghim và kim.
Cho nên thân thể có lực từ trường riêng của nó. Nếu
nó có thể được sắp thẳng đúng với lực từ trường của trái
đất, sẽ rất có ích lợi. Các ngôi sao nữa cũng có lực từ
trường. Vào những cơ hội đặc biệt nào đó mà một số ngôi
sao có từ trường đặc biệt. Điều này có thể được kiểm
chứng; chúng ta có tất cả những thông tin cần thiết. Cho
nên nếu bạn đang ở một trạng thái đặc biệt, ngồi trong
một tư thế đặc biệt vào một khoảnh khắc đặc biệt, một
ngôi sao đặc biệt sẽ làm cho thân thể bạn trở thành được
đặc biệt nhiễm từ. Thế thì bạn có thể gây sốc từ cho bất kì
ai và họ có thể coi đó là shaktipat. Nhưng đấy không phải
là shaktipat. Thân thể có điện của riêng nó. Nếu điện này
được tạo ra theo cách đúng đắn, bạn có thể thắp sáng
bóng đèn năm tới mười oát chỉ đơn thuần bằng cách nắm
nó trong tay bạn. Những thực nghiệm này đã thành công.
Có những người chỉ nắm bóng điện trong lòng bàn tay và
nó sáng lên. Nhưng năng lượng bên trong thân thể còn
nhiều vô hạn.
Hai mươi năm trước đây một đàn bà ở Bỉ trở nên
được nạp điện một cách bất ngờ. Không ai dám chạm vào
bà ấy; bất kì ai chạm vào đều bị giật. Chồng bà ấy xin li
dị, và lí do được nêu ra là ở chỗ ông ấy bị giật điện bất kì
khi nào ông ấy chạm vào bà ấy. Việc li dị đã tạo ra xúc
động trên khắp thế giới. Sau nhiều lần thử nghiệm người
ta mới phát hiện ra là thân thể bà ấy đã bắt đầu tạo ra điện
dư thừa. Thân thể có nhiều pin. Nếu chúng làm việc theo
trật tự, chúng ta không cảm thấy gì. Nếu trật tự này bị rối
loạn, rất nhiều năng lượng được tạo ra - thoát ra.
Bạn lấy năng lượng từ thức ăn bạn ăn và năng lượng
này nạp điện cho pin trong thân thể bạn. Do đó, nhiều lần
bạn cảm thấy cần nạp điện lại cho pin. Con người mệt
mỏi và kiệt sức vào buổi tối. Việc nghỉ ngơi ban đêm
ngon lành nạp điện lại cho người đó. Tuy nhiên người đó
không biết cái gì nạp điện lại cho mình trong giấc ngủ.
Trong giấc ngủ một số lực nào đó làm việc trên người đó.
Nhiều nghiên cứu tâm lí đã được tiến hành và chúng ta
biết loại lực nào làm việc trên người đó vào lúc ngủ. Nếu
một người muốn, người đó có thể tận dụng ưu thế của
những thế lực này trong trạng thái tỉnh thức. Thế thì
người đó có khả năng gây cho bạn cú sốc năng lượng mà
thậm chí không phải là từ trường mà chỉ là điện thân thể.
Bạn có thể lầm lẫn điều này là shaktipat.
Có nhiều cách thức khác của shaktipat giả mà cũng là
sai lầm tương đương. Chúng chẳng có cách nào để nối
với việc truyền thực tại năng lượng thiêng liêng. Nếu một
người không có tri thức gì về từ trường thân thể, về điện
thân thể, nhưng người đó biết bí mật của việc phá vỡ
mạch điện trong thân thể bạn, thế thì người đó cũng có
thể gây sốc năng lượng cho bạn nữa. Có nhiều cách để
phá vỡ mạch điện của thân thể bạn, và khi điều này bị rối
loạn, bạn nhận thấy cơn sốc. Chẳng có gì từ người khác
tới bạn nhưng bạn vẫn cảm thấy cái sốc. Đấy là cái sốc
của điện thân thể riêng bạn bị rối loạn đấy thôi.
Tôi không thể nói cho bạn mọi điều thật chi tiết vì
làm như vậy là không đúng. Tất cả những gì tôi nói đều
không đầy đủ. Thậm chí những phương pháp sai mà tôi
nói tới, cũng không được mô tả đầy đủ, bởi vì việc nói
đầy đủ và mở rộng về chúng là rất nguy hiểm vì thế thì sẽ
có ý định thử chúng xem sao. Tính tò mò của chúng ta rất
nông cạn. Một nhà huyền môn đã nói tới tính tò mò như
tội lỗi: chỉ có một tội lỗi trong con người - tội lỗi về tò
mò. Con người không có tội lỗi nào khác. Con người
phạm biết bao nhiêu tội lỗi toàn là vì tính tò mò. Chúng ta
không nhận biết về điều này, nhưng chính tính tò mò làm
cho con người phạm vào nhiều tội ác.
Có một câu chuyện trong Kinh thánh nói rằng
Thượng đế bảo Adam được ăn tất cả quả trên mọi cây chỉ
trừ mỗi một quả. Sự tò mò vể quả này đẩy Adam vào khó
khăn. Tội lỗi nguyên thuỷ là tội lỗi tò mò - và Adam thấy
mình lâm vào cảnh rắc rối. Bí mật là gì thế nhỉ? Trong
khu rừng rộng lớn thế với bao nhiêu quả cây ngon lành,
có gì đặc biệt với quả của cái cây trông bình thường thế
kia. Nhưng cây này bắt đầu có ý nghĩa với Adam, tất cả
các cây còn lại trở thành vô nghĩa. Tâm trí Adam vơ vẩn
quanh cây này chừng nào còn chưa được nếm quả cấm.
Tò mò gợi ý cái tốt hơn cho Adam, và Ki tô giáo nói rằng
đây là tội lỗi nguyên thuỷ mà loài người phạm phải. Bây
giờ, tội lỗi gì có thể có đấy trong việc nếm thử một quả
nào đó? Tội lỗi nguyên thuỷ là tính tò mò của Adam.
Tâm trí chúng ta bị chất đầy với tò mò - nhưng hiếm
khi nó điều tra về điều đó. Việc điều tra xảy ra trong
người đã trưởng thành vượt ra ngoài tính tò mò. Nhớ lấy,
có khác biệt cơ bản giữa tò mò và điều tra. Người tò mò
không bao giờ điều tra; người đó chỉ tràn đầy với tò mò
về mọi thứ và không thấy một thứ trong cái toàn bộ của
nó. Người đó khó mà nhìn qua một thứ khi mười thứ khác
thu hút sự chú ý của người đó. Thế thì người đó chẳng
bao giờ có thể điều tra được.
Những phương pháp sai lầm mà tôi đã nói tới đều
không đầy đủ. Một số phần quan trọng của những phương
pháp này đã bị lược bỏ có chủ ý. Cần phải làm như vậy
bởi vì tâm trí chúng ta dỗ ngon ngọt chúng ta với tính tò
mò để thử chúng xem sao. Chẳng khó khăn gì trong việc
thực hiện những thực nghiệm này. Khi người tìm kiếm sai
đi vào việc tìm kiếm quyền năng, vào việc tìm kiếm
Thượng đế, họ gặp những người ban phát quyền năng giả
nữa. Thế thì cũng giống như kẻ đui dẫn người mù. Người
lãnh đạo mù, nhất định ngã và thế là cả đoàn dài những
người mù đi sau người đó cũng ngã theo. Thế thì cái hại
được thực hiện không chỉ cho kiếp này mà nhiều kiếp
khác. Phá một vật thì dễ nhưng rất khó để đặt nó đúng lại.
Cho nên bạn đừng thử theo khía cạnh này để nghiên
cứu từ tính tò mò. Tự chuẩn bị bản thân mình theo hướng
đúng. Thế thì cái cần cho bạn sẽ tới trên con đường của
bạn; nó chắc chắn sẽ tới.
************************************************************************************************************
#7 Kundalini: kỉ luật siêu việt
Hôm qua Thầy đã nói cho chúng tôi về tác động của
shaktipat và sự thức tỉnh kundalini trên người có ba
thể đầu còn chưa được chuẩn bị cho nó. Xin Thầy
giải thích thêm về loại tác động nào sẽ xảy ra nếu các
thể thứ hai và thứ ba còn chưa được chuẩn bị. Cũng
vậy, làm sao thiền nhân phải chuẩn bị các thể vật lí, ê
te và vía cho sự kiện đó?
Chính điều đầu tiên cần phải hiểu trong mối liên hệ
này là ở chỗ việc hài hoà hoàn toàn trong các thể thứ
nhất, thứ hai và thứ ba là điều tuyệt đối bản chất. Nếu
không có mối nối hài hoà giữa ba thể này, việc thức tỉnh
kundalini có thể tỏ ra là có hại. Có vài điều rất cần thiết
để đưa tới sự hài hoà này, mối quan hệ này.
Trước hết, chừng nào mà chúng ta còn chưa nhận biết
và không nhạy cảm với thể vật lí, thể này không thể nào
thiết lập được sự hài hoà với các thể khác. Với không
nhạy cảm tôi muốn nói chúng ta không nhận biết hoàn
toàn về thân thể. Khi chúng ta bước đi, chúng ta hầu như
không ý thức về sự kiện ta đang bước đi. Khi chúng ta
đứng, chúng ta hầu như không ý thức tới sự kiện ta đang
đứng. Khi chúng ta ăn, chúng ta hầu như không ý thức tới
sự kiện ta đang ăn. Bất kì hoạt động nào chúng ta làm với
thân thể, chúng ta đều làm trong vô nhận biết, giống như
người mộng du. Nếu chúng ta không nhận biết về thân thể
này, chúng ta cũng phải không nhận biết gấp đôi về các
thể bên trong khác, bởi vì chúng còn tinh tế hơn. Nếu
chúng ta không nhận biết về thể thô này, cái thấy được
dưới con mắt thường, vấn đề nhận biết về các thể tinh tế
vô hình cũng không nảy sinh. Không thể nào biết được về
chúng. Hài hoà không thể có mà thiếu nhận biết. Hài hoà
chỉ có thể có trong trạng thái nhận biết. Trong trạng thái
không nhận biết, tất cả mọi hài hoà đều bị phá vỡ.
Cho nên điều đầu tiên là phải nhận biết về thân thể.
Với bất kì hành động nhỏ bé nào thân thể thực hiện, việc
ghi nhớ cũng là tuyệt đối cần thiết. Phải để ý tới tất cả
những điều chúng ta làm. Như Phật thường nói, "Khi ông
bước trên đường nhận biết rằng ông đang bước. Khi ông
đưa chân phải lên, tâm trí ông phải ý thức tới sự kiện là
chân phải đã đưa lên. Khi ông ngủ trong đêm ông nên biết
lúc nào ông trở mình."
Có một sự kiện trong cuộc đời của Phật từ lúc ông ấy
mới chỉ là một người tìm kiếm. Ông ấy đi qua một thôn
làng cùng một người đồng hành. Cả hai đang nói chuyện,
một con ruồi đậu lên cổ Phật. Ông ấy đang thảo luận dở,
đưa tay lên xua ruồi. Nó bay đi - nhưng Phật bỗng nhiên
dừng lại. "Tôi đã phạm phải một sai sót nghiêm trọng,"
Phật nói với người đồng hành. Thế rồi ông ấy lại đưa tay
lên trong hành động xua ruồi đi.
Anh bạn đi cùng thốt lên trong sự ngạc nhiên, "Anh
đang làm cái gì thế này? Con ruồi có đâu nữa mà xua."
Phật đáp, "Bây giờ tôi đang xua con ruồi đi như tôi
phải làm thế. Bây giờ tôi tràn đầy nhận biết về điều tôi
đang làm. Bây giờ khi tay đưa lên, tôi tràn đầy nhận biết
rằng nó đang đưa lên và rằng nó đang đi theo hướng cổ để
xua con ruồi bay đi. Lần trước tôi đang nói với anh; do đó
hành động của tôi là máy móc. Tôi đã phạm lỗi với thân
thể."
Nếu chúng ta bắt đầu làm tất cả những hành động vật
lí với nhận biết đầy đủ, thế thì việc đồng nhất với vật lí
trở nên bị phá vỡ. Nếu bạn đưa một tay lên với tràn đầy
chăm chú, bạn sẽ cảm thấy mình tách ra khỏi cái tay - bởi
vì người đưa tay lên là khác với cái được đưa lên. Cảm
giác tách ra khỏi thể vật lí là sự mở đầu cho việc nhận
biết về thể ê te. Thế thì, như tôi đã nói trước đây, bạn nên
nhận biết đầy đủ về thể thứ hai này nữa.
Giả sử có một dàn nhạc đang chơi. Nhiều kiểu nhạc
cụ được chơi trong dàn nhạc. Nếu có một người trong số
khán giả mà chưa bao giờ được nghe nhạc, người đó sẽ
chỉ nghe thấy tiếng trống bởi vì đây là nhạc cụ tạo nên âm
thanh to nhất; người đó sẽ không thể nào bắt được những
nốt êm đềm của các nhạc cụ khác. Nhưng nếu người đó
bắt đầu trở nên nhận biết về âm nhạc, người đó dần dần
sẽ nắm bắt được những nốt tinh tế nhạy cảm. Thế thì khi
nhận biết của người đó tăng lên thêm nữa, người đó sẽ
không chỉ bắt được các nốt nhạc mà người đó sẽ trở nên
nhận biết về lỗ hổng giữa hai nốt - im lặng giữa hai nốt.
Thế thì người đó sẽ hiểu thấu âm nhạc hoàn toàn. Khoảng
trống, lỗ hổng, là điều cuối cùng cần hiểu thấu. Thế thì có
thể nói rằng việc hiểu thấu về âm nhạc của người đó là
đầy đủ.
Khoảng trống, im lặng giữa hai nốt, có ý nghĩa riêng
của nó. Thực tế, các nốt nhạc chỉ có nghĩa để làm nổi bật
im lặng này. Điều thực trong âm nhạc chính là đưa bao
nhiêu im lặng này vào vận hành.
Nếu bạn đã từng xem những bức hoạ Trung quốc và
Nhật bản, bạn phải ngạc nhiên mà để ý rằng việc vẽ bao
giờ cũng vào một góc; phần còn lại của tấm vải được bỏ
trống. Không đâu khác trên thế giới này chúng ta tìm
được phương pháp vẽ tranh này, bởi vì không ở đâu khác
người nghệ sĩ vẽ tranh với trạng thái thiền như thế. Thực
tế, không có đâu ngoại trừ Trung quốc và Nhật bản mới
có những thiền nhân vẽ tranh. Nếu bạn hỏi người nghệ sĩ
này tại sao người đó lại để lãng phí tấm vải lớn thế để vẽ
phần nhỏ thế khi người đó có thể dễ dàng dùng một phần
tám kích cỡ tấm vải, người đó sẽ đáp rằng để đem lại
không gian trống rỗng chiếm bẩy phần tám tấm vải vẽ,
người đó chỉ làm việc riêng trên phần còn lại. Thực tế,
đây là tỉ số.
Thông thường khi cây đứng giữa không gian rộng mở
mà được vẽ, toàn bộ tấm vải vẽ sẽ bị choán hết. Thực tại
cái cây chỉ nên trong một góc nhỏ, vì trong so sánh với
bầu trời bao la, cây là rất ít ý nghĩa. Đây là tỉ số thực tại.
Khi cây đứng đúng tỉ lệ không gian của nó trên tấm vải,
chỉ thế thì nó mới sống động. Vậy, tất cả các bức vẽ của
bạn đều sai tỉ lệ. Nếu một thiền nhân làm ra nhạc, sẽ có ít
âm thanh và nhiều im lặng trong đó - bởi vì các nốt là rất
nhỏ nếu so với cái im lặng nối chúng lại. Âm thanh chỉ có
một tác dụng - để cho hướng dẫn về cái trống rỗng, cái im
lặng, và thế rồi ra đi. Bạn càng đi sâu vào trong âm nhạc,
bạn càng trở nên cảm thấy im lặng sâu hơn.
Mục đích của thể vật lí của chúng ta chỉ ở chỗ nó cho
chúng ta một cảm nhận về các thể tinh tế hơn của chúng
ta, nhưng chúng ta chẳng bao giờ dùng nó đến cùng cả.
Chúng ta vẫn còn bị dính chặt vào thể vật lí bởi vì sự
đồng nhất ngủ say với nó. Chúng ta đang ngủ; và do vậy
chúng ta sống trong thân thể theo một cách thức rất không
có ý thức. Nếu bạn trở nên nhận biết về từng và mỗi hành
động của thân thể mình, bạn sẽ bắt đầu cảm thấy sự hiện
diện của thể thứ hai. Thể thứ hai nữa cũng có hoạt động
riêng của nó, nhưng bạn sẽ không biết đến thể ê te chừng
nào bạn chưa trở nên nhận biết đầy đủ về những hoạt
động của thể vật lí, vì thể ê te tinh tế hơn. Nếu bạn nhận
biết hoàn toàn về những hoạt động của thể vật lí của
mình, bạn sẽ bắt đầu cảm thấy chuyển động của thể thứ
hai. Thế thì bạn sẽ ngạc nhiên rằng có những rung động ê
te bên trong bạn mà vẫn kích hoạt vào mọi lúc.
Một người trở nên giận dữ. Giận dữ được sinh ra
trong thể ê te nhưng nó biểu lộ trong thể thứ nhất. Về cơ
bản, giận dữ là hoạt động của thể thứ hai; thể thứ nhất
được dùng như trung gian để diễn đạt. Do đó, bạn có thể
dừng giận dữ để không cho nó đạt tới thể thứ nhất nếu
bạn muốn. Đây là điều được thực hiện trong kìm nén. Giả
sử rằng tôi đang tràn đầy giận dữ: tôi cảm thấy muốn
dùng gậy đánh bạn nhưng tôi có thể dừng mình lại. Đánh
là một hoạt động của bình diện thứ nhất. Về cơ bản, có
giận dữ nhưng bây giờ, không có biểu lộ của giận dữ. Tôi
có thể kìm mình khỏi hành động đánh; tôi có thể thậm chí
còn mỉm cười với bạn nếu tôi muốn. Nhưng bên trong,
giận dữ lan rộng khắp thể thứ hai của tôi. Cho nên trong
kìm nén, điều xảy ra là ở chỗ chúng ta kìm lại trên bình
diện biểu lộ, nhưng nó vẫn cứ hiện diện tại ngọn nguồn
nguyên thuỷ.
Khi bạn bắt đầu nhận biết về các quá trình của thân
thể vật lí, bạn sẽ bắt đầu hiểu chuyển vận của tình yêu,
giận dữ và căm ghét bên trong bạn; bạn sẽ trở nên nhận
biết về hiện diện của chúng. Chừng nào bạn còn chưa
hiểu thấu những chuyển vận của những xúc động nảy sinh
từ thể thứ hai này, tất cả những điều bạn có thể làm chỉ là
kìm nén chúng. Bạn không thể nào được tự do khỏi chúng
bởi vì bạn chỉ trở nên nhận biết chúng khi chúng đã đạt
tới thể thứ nhất - và thậm chí cũng không nhận biết được
điều này nhiều lần: thường bạn chỉ trở nên nhận biết về
chúng khi chúng đã đạt tới thân thể người khác. Chúng ta
không nhạy cảm đến mức mà chừng nào cái tát của bạn
còn chưa đập vào má ai đó, bạn vẫn còn chưa hiểu được
bạn đã làm gì. Sau cái tát bạn mới đi tới nhận ra rằng cái
gì đó đã xảy ra.
Tất cả các xúc động đều nảy sinh từ thể ê te. Do đó,
tôi cũng gọi thể thứ hai, thể ê te là thể xúc động. Nó có đà
riêng của mình; nó có chuyển vận riêng của nó cho giận
dữ, yêu thương, căm ghét, bất ổn. Bạn sẽ đi tới nhận ra
những rung động này.
Trong sợ hãi, thể ê te co lại. Quá trình co lại mà
chúng ta cảm thấy trong sợ hãi không thuộc về thể thứ
nhất. Thể thứ nhất vẫn còn như cũ; không có thay đổi
trong nó về bất kì cái gì. Nhưng tác động của việc thu nhỏ
lại này của thể ê te trở thành hiển nhiên trong bước đi của
người ta, trong cách người ta ngồi. Người đó trông có vẻ
khẽ khàng vào mọi lúc. Người đó sẽ không đứng thẳng.
Khi nói người đó sẽ lắp bắp. Chân người đó sẽ run rẩy khi
bước; tay người đó sẽ rung rung khi viết.
Bây giờ bất kì ai cũng đều có thể nhận ra khác biệt
giữa chữ viết tay của đàn ông và đàn bà; chẳng khó khăn
chút nào. Chữ viết tay của đàn bà không bao giờ thẳng.
Dù có đối xứng và viết đẹp đến đâu, cũng chẳng thành
vấn đề, chúng bao giờ cũng có dấu hiệu của sự run rẩy
trong đó. Đây là một đặc trưng rất nữ tính và nó tới từ
thân thể đàn bà. Đàn bà lúc nào cũng sợ hãi; nhân cách
của cô ấy đã trở thành bị tác động mạnh bởi cái sợ. Cho
nên không khó khăn gì người ta có thể nhận ra chữ viết
tay của đàn bà từ những chữ viết tay của đàn ông. Cũng
vậy, chúng ta có thể tìm ra một người đàn ông sợ hãi thế
nào từ nét chữ viết của anh ta. Không có gì khác biệt giữa
ngón tay của đàn ông hay của đàn bà, cũng chẳng có gì
khác biệt trong cách họ cầm bút. Khi mà có liên quan tới
thể thứ nhất, chẳng có gì khác biệt giữa hai giới, nhưng
trên bình diện của thể thứ hai, đàn bà luôn sợ hãi.
Ngay cả đàn bà hiện đại cũng vẫn không thể nào
không sợ hãi bên trong. Cả xã hội chúng ta, văn hoá
chúng ta và trạng thái suy nghĩ của chúng ta đang ở mức
độ mà chúng ta không thể nào làm cho đàn bà không sợ
hãi được. Cô ấy sợ hãi vào mọi lúc và những rung động
của nỗi sợ của cô ấy lan toả ra khắp nhân cách cô ấy.
Mức độ không sợ hãi hay không hoảng hốt trong đàn ông
cũng có thể được đánh giá từ nét chữ viết tay của họ.
Trạng thái sợ hãi là trên bình diện ê te.
Tôi đã nói với các bạn là phải nhận biết về từng việc
xảy ra trong thể thô, nhưng bạn cũng nên nhận biết về các
quá trình của thể ê te nữa. Khi bạn đang trong tình yêu,
bạn cảm thấy dường như bạn đã mở rộng ra. Tự do được
kinh nghiệm trong tình yêu là bởi vì sự mở rộng này. Bây
giờ có ai đó đứng trước người đó, bạn chẳng cần phải sợ
hãi. Không có lí do gì để sợ khi ở gần người bạn yêu. Nói
thực, yêu có nghĩa là tự do khỏi cái sợ trong sự hiện diện
của một người mà trước người đó, người ta có thể nở hoa
tới độ đầy đủ, dù người đó là gì. Do đó, cảm giác mở
rộng được kinh nghiệm vào những khoảnh khắc yêu
đương. Thể vật lí, vẫn như cũ, nhưng thể ê te bên trong,
nở hoa và mở rộng.
Trong thiền bao giờ cũng có kinh nghiệm về thể ê te.
Thiền nhân có thể cảm thấy rằng thân thể mình đang mở
rộng - nhiều đến mức nó choán đầy cả căn phòng. Tuy
nhiên, thể vật lí của người đó vẫn còn như cũ. Khi người
đó mở mắt ra, người đó bị sốc: thân thể vẫn còn như cũ.
Nhưng cảm giác của kinh nghiệm này vẫn cứ theo sát
người đó và làm cho người đó hiểu rằng điều mình đã
cảm thấy là không sai. Kinh nghiệm này là rõ ràng - rằng
người đó đã choán đầy cả căn phòng. Đây là một biến cố
của thể ê te; các khả năng bành trướng của nó là vô giới
hạn. Nó có thể mở rộng ra và cũng có thể thu nhỏ lại tuỳ
theo xúc động. Nó có thể mở rộng đến mức choán đầy cả
trái đất; nó có thể thu nhỏ lại đến mức đủ chỗ cho nó
trong một nguyên tử.
Cho nên bạn sẽ bắt đầu chú ý vào những chuyển động
của thể ê te - việc mở rộng và thu nhỏ của nó, trong tình
huống nào, nó thu nhỏ lại và trong tình huống nào nó mở
rộng. Nếu thiền nhân bắt đầu sống trong những quá trình
mà trong đó nó mở rộng, hài hoà sẽ được tạo ra. Nếu
người đó bắt đầu sống trong điều kiện làm cho nó co lại,
hài hoà sẽ không được thiết lập giữa hai thể. Việc mở
rộng là bản tính bẩm sinh của nó. Khi nó mở rộng tới hết
mức của mình, khi nó nở hoa đầy đủ, nó được nối với thể
thứ nhất qua một chiếc cầu. Khi nó trở nên sợ hãi và co
lại, tất cả mọi tiếp xúc của nó với thể thứ nhất đều bị gián
đoạn và nó nằm tách biệt trong một xó.
Có những quá trình khác của thể thứ hai mà có thể
được biết tới qua các phương pháp khác. Chẳng hạn, bạn
thấy một người hoàn toàn mạnh khoẻ, hoàn toàn bình
thường. Bây giờ nếu ai đó bảo người đó là người đó bị kết
án tử hình, người đó sẽ tái xanh ngay lập tức. Không có gì
thay đổi xảy ra trong thể thứ nhất của người đó nhưng có
thay đổi tức khắc trong thể ê te. Thể ê te của người đó sẵn
sàng rời bỏ thể vật lí. Nếu người chủ nhận ra rằng mình
phải rời bỏ ngôi nhà, lập tức mọi niềm vui và sự nhẹ
nhõm sẽ biến mất; mọi thứ sẽ bị rối loạn. Thể thứ hai đã
làm gián đoạn mọi mối nối với thể thứ nhất, theo một
nghĩa nào đó. Việc hành hình sắp sửa xảy ra sau một thời
gian nào đó hoặc có thể không xảy ra chút nào, nhưng
mối nối của anh ta với thể thứ nhất đã bị phá vỡ.
Một người tấn công bạn bằng súng hay một con sư tử
tấn công bạn trong rừng: mặc dầu chưa có gì xảy ra cho
thể vật lí, nhưng thể ê te nhanh chóng thu xếp để rời bỏ
nó và một khoảng cách lớn được tạo ra giữa cả hai. Cho
nên bạn có thể quan sát cách vận hành của thể thứ hai
theo một cách tinh tế, và điều này có thể được thực hiện
không khó khăn gì. Khó khăn nằm ở chỗ này, rằng chúng
ta không quan sát những quá trình của thể vật lí nữa. Nếu
chúng ta làm như thế thì chúng ta sẽ bắt đầu cảm thấy
chuyển vận của thể thứ hai. Khi bạn có tri thức rõ ràng về
cách vận hành của cả hai thể, chính sự kiện này sẽ tạo ra
hài hoà giữa hai thể.
Thế rồi còn có thể thứ ba - thể vía. Sự chuyển vận của
nó dứt khoát là tinh tế hơn - tinh tế hơn cả sợ hãi, giận dữ,
yêu thương và căm ghét. Khó mà hiểu thấu được chuyển
vận của nó chừng nào mà tri thức về thể thứ hai vẫn còn
chưa được đầy đủ. Thậm chí còn khó hiểu thể thứ ba từ
thể thứ nhất bởi vì lỗ hổng bây giờ còn lớn hơn; chúng ta
không ý thức tới bình diện thứ nhất. Thể thứ hai gần với
thể thứ nhất hơn cho nên chúng ta có thể hiểu đôi điều về
nó. Cũng hệt như là thể thứ hai là hàng xóm của chúng ta
vậy: đôi khi ta nghe thấy tiếng xoong chậu loảng xoảng
hay tiếng trẻ con la khóc ở nhà bên. Nhưng thể thứ ba là
hàng xóm của hàng xóm mà chúng ta chẳng nghe thấy âm
thanh nào từ nhà người đó cả.
Hiện tượng của thể thứ ba còn tinh tế hơn. Nó chỉ có
thể được hiểu thấu nếu chúng ta bắt đầu hiểu thấu đầy đủ
các xúc động.
Bạn có thể gọi thể vía là một tuyển tập những rung
động. Bạn sẽ có thể hiểu những điều kiện khác nhau của
thể này rõ hơn thông qua một thí dụ. Chúng ta có thể thấy
nước và chúng ta có thể thấy hidro cùng ô xi tách biệt:
không có dấu hiệu của nước trong ô xi; không có dấu hiệu
của ô xi trong nước. Cả ô xi lẫn hidro đều không có bất kì
tính chất nào của nước, nhưng hai chất này tổ hợp lại, tạo
thành nước: từng chất đều có phẩm chất giấu kín mà chỉ
biểu lộ khi chúng tổ hợp lại. Giận dữ và yêu thương,
không thấy được trong thể vía; cả căm ghét hay sợ hãi
cũng vậy. Nhưng chúng có những rung động mà trở nên
được biểu hiện khi được tổ hợp với thể thứ hai. Cho nên
khi bạn hoàn toàn nhận biết về thể thứ hai, khi bạn hoàn
toàn tỉnh táo về giận dữ của mình, thế thì bạn sẽ biết rằng
một số phản ứng đã xảy ra trước khi việc giận dữ tới. Nói
cách khác, giận dữ không phải là cái bắt đầu. Nó là phần
sau của biến cố mà đã xảy ra đâu đó rồi.
Một bong bóng nổi lên từ đáy hồ và bắt đầu du hành
đi lên. Khi nó nổi lên từ cát dưới đáy hồ, chúng ta không
thể nào thấy được nó. Khi nó lên tới nửa chiều sâu hồ, nó
vẫn còn không thấy được. Khi nó còn một quãng ngắn
với bề mặt nước, nó bắt đầu thấy được mặc dầu còn rất
nhỏ. Thế rồi nó bắt đầu to dần lên khi nó đạt tới bề mặt,
bởi vì trọng lượng và sức ép của nước giảm đi khi nó đi
lên. Vậy nó trở nên ngày càng rõ hơn với cái nhìn của
chúng ta. Tại chiều sâu thấp nhất, sức ép của nước giữ
cho nó thật nhỏ, nhưng khi nó đi lên, sức ép trở nên bé
dần đi cho tới khi nó đạt tới kích cỡ đầy đủ trên bề mặt.
Nhưng khi nó đạt tới kích thước đầy đủ của mình, nó vỡ
tung ra.
Cho nên nó đã đi qua một con đường dài. Có những
chỗ mà chúng ta không thể nào thấy được nó, nhưng nó
vẫn có đấy tất cả như cũ ẩn dưới cát. Thế rồi nó phát sinh
từ đó, nhưng nó vẫn còn không thấy được bởi vì nước ép
nó xuống. Thế rồi nó tới gần bề mặt hơn mà từ đó chúng
ta có thể thấy nó mặc dầu nó vẫn còn rất nhỏ. Thế rồi nó
nổi lên bề mặt nơi chúng ta có thể thấy toàn bộ về nó -
nhưng thế thì nó vỡ tung.
Cho nên bong bóng của giận dữ cũng phát triển đầy
đủ và vỡ tung vào lúc nó đạt tới thể thứ nhất. Khi nó tới
bề mặt, nó để lộ bản thân nó ra. Bạn có thể dừng nó lại tại
thể thứ hai nếu bạn muốn nhưng điều đó sẽ là kìm nén.
Nếu bạn nhìn vào thể ê te của mình, bạn sẽ ngạc nhiên mà
thấy rằng nó đã đi qua một khoảng cách nào đó. Nhưng ở
chỗ bắt nguồn của nó, nó có dạng rung động năng lượng.
Như tôi đã nói với các bạn trước đây không có các
kiểu vật chất khác nhau; thay vì thế có những tổ hợp khác
nhau của cùng hạt năng lượng. Than chì và kim cương là
như nhau: khác biệt chỉ là ở cách tổ hợp các hạt năng
lượng. Nếu bạn đập bất kì vật chất nào thành các thành
phần, chung cuộc cái còn lại là năng lượng điện. Các tổ
hợp khác nhau của những rung động năng lượng này đem
tới việc hình thành ra các chất khác nhau. Tất cả những
chất này là khác nhau trên bề mặt; sâu bên trong chúng là
một.
Nếu bạn đánh thức thể ê te và lần theo các xúc động
về ngọn nguồn của chúng, bạn sẽ bất thình lình thấy bản
thân mình đang ở trong thể vía. Tại đó bạn sẽ thấy rằng
giận dữ không phải là giận dữ, mà tha thứ cũng chẳng
phải là tha thứ; cùng năng lượng rung động trong cả hai.
Năng lượng trong rung động của yêu và ghét là một.
Khác biệt chỉ là trong bản chất của các rung động.
Khi yêu đổi thành ghét và ghét đổi thành yêu, chúng
ta tự hỏi làm sao mà hai cảm giác đối lập trực tiếp lại đổi
lẫn cho nhau được. Chẳng hạn, một người mà mới hôm
qua thôi tôi vẫn gọi là bạn mình, hôm nay đã trở thành kẻ
thù của tôi. Thế thì tôi tự an ủi mình rằng có lẽ tôi đã lầm
- rằng người đó chưa bao giờ là bạn tôi cả, bởi vì làm sao
mà một người bạn lại có thể biến thành kẻ thù được?
Năng lượng đang rung động trong tình bạn và trong tình
trạng kẻ thù là một; khác biệt chỉ ở bản chất của rung
động. Khác biệt là trong cấu trúc của sóng. Điều chúng ta
gọi là yêu, là yêu trong buổi sáng và ghét trong buổi tối.
Vào buổi trưa nó là yêu, và điều này thay đổi thành ghét
vào buổi tối. Đấy là tình thế khó khăn. Người mà chúng
ta yêu vào buổi sáng, chúng ta ghét vào buổi tối.
Freud đã có ấn tượng là chúng ta yêu những người ta
ghét và ta ghét những người ta yêu. Lí do mà ông ấy đưa
ra, đúng tới một chừng mực nào đó, nhưng vì ông ấy
không có tri thức gì về các thể khác của con người nên
ông ấy không thể nào đi xa hơn với việc điều tra của
mình. Lí do ông ấy đưa ra là rất nông cạn. Ông ấy nói
rằng mối quan hệ với mẹ là mối quan hệ đầu tiên mà đứa
trẻ kinh nghiệm: người mẹ là đối tượng đầu tiên mà nó
yêu. Khi người mẹ cho nó tất cả chăm nom và chú ý, nó
yêu mẹ, và nó ghét cũng chính người mẹ ấy khi người mẹ
quở trách hay trừng phạt nó. Cho nên hai cảm giác này
tràn ngập trong tâm trí nó hướng về cùng một đối tượng -
người mẹ: nó ghét mẹ cũng như yêu mẹ. Đôi khi nó cảm
thấy thích giết mẹ và lúc khác nó lại cảm thấy rằng nó
không thể nào sống được nếu không có mẹ - rằng mẹ là
mọi hơi thở của nó. Cách suy nghĩ nhị nguyên này làm
cho người mẹ thành đối tượng đầu tiên của nó về yêu và
ghét. Vậy, về sau trong cuộc đời, bởi vì mối liên hệ này
trong tâm trí nó, bất kì ai mà nó yêu, nó cũng sẽ ghét.
Đây là một phát kiến rất nông cạn. Bong bóng đã bị
bắt lấy trên bề mặt nơi nó sắp vỡ tung. Nếu đứa trẻ có thể
yêu và ghét mẹ nó nữa, điều đó có nghĩa là khác biệt giữa
yêu và ghét là về định lượng chứ không phải định tính.
Yêu và giận cùng biểu lộ ra đồng thời. Nếu cả hai đền
hiện diện, điều này chỉ có thể trong một điều kiện - rằng
chúng là chuyển đổi cho nhau được: sóng của chúng có
thể dao động từ bên nọ sang bên kia. Cho nên thiền nhân
chỉ nhận ra tại sao tâm trí chất đầy với những xúc động
xung đột trong thể thứ ba. Một người tới và chạm vào
chân tôi sáng nay và hoan nghênh tôi như một người đầy
ân huệ - thầy kính yêu. Cũng người đó tới vào buổi tối,
lăng mạ tôi và nói, "Con người này chính là quỉ dữ." Sang
hôm sau anh ta lại tới và ca tụng tôi là bậc thầy kính yêu
và chạm vào chân tôi. Thế rồi người khác tới và khuyên
tôi đừng chú ý tới lời anh ta vì lúc anh ta gọi tôi là
Thượng đế và lúc là quỉ.
Tôi nói rằng anh ta là người duy nhất thích hợp để mà
tin được. Người nói thì không đáng trách. Người đó
không tạo ra những phát biểu xung đột; thay vì thế thì
phát biểu của người đó thuộc vào cùng một phổ. Chúng là
những chiếc bậc của cùng một cái thang, khác biệt chỉ là
định lượng. Thực tế, ngay khi người đó nói "Thầy kính
yêu", người đó mới nắm giữ một phần.
Tâm trí được tạo nên từ các cặp đối lập, cho nên phần
thứ hai sẽ đi đâu? Nó sẽ nằm dưới phần thứ nhất chờ đợi
để cho phần thứ nhất kiệt quệ hết. Sau rốt, phần thứ nhất
cũng phải mệt mỏi, bởi vì làm sao người này có thể cứ
nói "Thầy kính yêu" lâu mãi được? Khi người đó mệt
mỏi, phần thứ hai bước tới nhắc người đó phải nói, "Con
người này chính là quỉ dữ." Bây giờ chúng không phải là
hai điều; chúng là một.
Chừng nào mà chưa tới thời điểm chúng ta có thể
hiểu rằng tất cả những xúc động xung đột của mình đều là
những hình thái của cùng một năng lượng, chúng ta sẽ
không thể nào giải quyết được vấn đề của con người. Vấn
đề lớn nhất mà chúng ta phải đương đầu là ở chỗ khi
chúng ta yêu, chúng ta cũng ghét nữa. Chúng ta sẵn sàng
giết người mà không có người đó, chúng ta không thể
sống được. Người mà là bạn bè của ta, cũng là kẻ thù của
ta ở sâu bên trong. Đây là vấn đề lớn nhất của chúng ta,
và bất kì khi nào có mối quan hệ, điều này lại đặt ra một
câu hỏi lớn. Một điều phải được hiểu rõ là ở chỗ năng
lượng nền tảng trong các xúc động khác nhau là một;
không có khác biệt dù chúng là gì.
Thông thường chúng ta coi ánh sáng và bóng tối như
hai điều đối lập, điều này là sai. Theo thuật ngữ khoa học,
bóng tối là trạng thái ánh sáng tối thiểu. Nếu chúng ta cố
gắng chúng ta sẽ thấy ánh sáng trong bóng tối nữa.
Không có bóng tối nơi ánh sáng không có. Vấn đề khác đi
nếu công cụ nghiên cứu của chúng ta không nhận ra nó.
Mắt chúng ta có thể không có khả năng nhận ra ánh sáng
trong bóng tối, nhưng ánh sáng và bóng tối là trên cùng
một bình diện, chúng là các hình thái và rung động khác
nhau của cùng một năng lượng.
Sẽ dễ hiểu điều này hơn nếu xét theo cách khác:
chúng ta tin ánh sáng và bóng tối là hoàn toàn đối lập lẫn
nhau, nhưng chúng ta không tin nóng và lạnh là đối lập
lẫn nhau theo mức độ đó. Cũng thú vị mà tiến hành một
thực nghiệm sau. Đưa một tay hơ lên bếp lò còn tay kia,
cầm nước đá. Bây giờ nhúng cả hai tay vào một chậu
nước ở nhiệt độ trong phòng. Bạn sẽ thấy khó mà quyết
định được liệu nước là nóng hay lạnh. Một tay sẽ nói
nước nóng còn tay kia nói nước lạnh. Bạn sẽ lúng túng
không quyết định được bởi vì cả hai tay đều là của bạn.
Thực tế, lạnh và nóng không phải là hai điều khác nhau;
chúng là những kinh nghiệm tương đối.
Nếu chúng ta gọi một vật nào đó là lạnh, điều đó chỉ
có nghĩa là chúng ta ấm hơn. Điều mà chúng ta gọi nó là
ấm chỉ có nghĩa là chúng ta lạnh hơn: chúng ta chỉ diễn
đạt về khác biệt định lượng về nhiệt độ giữa đối tượng đó
và bản thân chúng ta - không gì khác. Chẳng có gì nóng
mà cũng chẳng có gì lạnh - hay, bạn có thể nói rằng cái là
nóng, cũng là lạnh nữa. Thực tế, nóng và lạnh là các thuật
ngữ lầm lạc. Chúng ta nên nói dưới dạng nhiệt độ; đó là
cách diễn đạt đúng đắn. Nhà khoa học cũng không dùng
từ nóng và lạnh. Ông ấy nói rằng nhiệt của một vật có
nhiều độ lắm. Nóng và lạnh là những từ ngữ thi ca.
Chúng là nguy hiểm cho khoa học bởi vì chúng chẳng
truyền đạt điều gì.
Nếu một người đi vào phòng và nói nó lạnh, chúng ta
không thể nào biết được người đó ngụ ý gì. Có thể là
người này đang sốt và cảm thấy căn phòng lạnh mặc dầu
nó chẳng lạnh chút nào. Do đó, chừng nào người này còn
chưa biết về điều kiện thân nhiệt mình, việc đánh giá về
nhiệt độ của phòng là vô nghĩa. Cho nên chúng ta có thể
nói, "Chớ có bình luận về liệu phòng là nóng hay lạnh.
Nói nhiệt độ của phòng là gì đi." Độ không cho chỉ dẫn
nào về nóng hay lạnh; nó chỉ thông báo cho bạn nhiệt độ
là gì. Nếu nhiệt độ ít hơn thân nhiệt bạn, bạn sẽ cảm thấy
lạnh; nếu nó nhiều hơn, bạn sẽ cảm thấy nóng. Cũng điều
ấy đúng cho ánh sáng và bóng tối: nó phụ thuộc vào khả
năng thấy của bạn.
Đêm dường như tối với chúng ta nhưng không tối cho
cú. Cú thấy ngày rất tối. Nó phải tự hỏi, "Con người kì lạ
làm sao! Nó cứ tỉnh trong đêm." Nói chung con người coi
cú là đần độn, nhưng con người không biết ý kiến của cú
về mình là gì. Với cú ngày là đêm và trời là đêm khi nó là
ngày. Cú phải tự nhủ con người mới đần làm sao! Nó
nghĩ, "Có biết bao nhiêu người trí huệ trong loài người,
ấy thế mà họ vẫn cứ còn tỉnh vào ban đêm và khi trời là
ban ngày, họ đi ngủ. Khi đấy là lúc thực sự để dậy và hoạt
động, sinh vật đáng thương này đi ngủ." Mắt cú có khả
năng thấy vào ban đêm. Bởi vì nó có thể thấy vào ban
đêm nên đêm không tối với nó.
Những rung động của yêu và ghét giống như những
rung động của ánh sáng và bóng tối: chúng có tỉ lệ riêng
của mình. Cho nên khi bạn bắt đầu nhận biết về bình diện
thứ ba, bạn sẽ ở vào một điều kiện kì lạ: sẽ không còn là
vấn đề chọn lựa riêng của bạn để yêu hay ghét nữa. Bây
giờ bạn sẽ biết rằng đấy là hai tên của cùng một điều.
Nếu bạn chọn một thứ, bạn sẽ tự động chọn luôn thứ
kia; bạn không thể nào thoát khỏi việc chọn lựa thứ hai.
Cho nên nếu bạn yêu cầu yêu từ một người ở bình diện
thứ ba, người đó sẽ hỏi liệu bạn có chuẩn bị cho cả ghét
nữa không. Tất nhiên bạn sẽ nói, "Không, tôi chỉ muốn
yêu thôi. Xin cho tôi tình yêu!" Người đó sẽ trả lời rằng
điều ấy là không thể được bởi vì yêu là một hình thái rung
động của ghét. Thực tế, yêu là hình thái làm hài lòng bạn,
trong khi ghét là hình thái có cùng rung động nhưng làm
bạn khó chịu.
Cho nên người thức tỉnh tại bình diện thứ ba, bắt đầu
được giải thoát khỏi các cặp đối lập. Người đó sẽ nhận ra
lần đầu tiên rằng điều người đó đã coi là hai điều đối lập,
chỉ là một và như nhau. Hai nhánh đối lập trở thành một
phần của cùng một thân cây. Thế thì người đó sẽ cười phá
lên vì ngu đần của mình khi cố gắng phá huỷ cái này để
giữ lấy cái kia. Nhưng thế thì người đó đã không biết rằng
điều này là không thể được và rằng sâu phía dưới, cây là
một. Nhưng chỉ sau khi thức tỉnh với bình diện thứ hai,
người ta mới biết được bình diện thứ ba, bởi vì thể thứ ba
có rung động rất tinh tế. Tại đó không có xúc động - chỉ
có rung động.
Nếu bạn đi tới hiểu ra những rung động của thể thứ
ba, bạn sẽ bắt đầu có một kinh nghiệm duy nhất. Thế thì
khi thấy một người bạn sẽ có thể biết trực tiếp những
rung động nào bao quanh người đó. Bởi vì bạn không biết
về những rung động của riêng mình nên bạn cũng không
thể nào nhận ra những rung động của người khác; ngoài
ra, những rung động phát ra từ thể thứ ba thường tụ tập
quanh đầu của mọi người. Vầng hào quang được vẽ trong
tranh về Phật, Mahavira, Rama và Krishna chính là hào
quang được thấy quanh đầu họ. Những hào quang này có
mầu đặc biệt đã được phát hiện ra. Nếu bạn có kinh
nghiệm đúng đắn về thể thứ ba, bạn sẽ bắt đầu thấy
những hào quang này. Khi bạn bắt đầu thấy những mầu
sắc này, bạn sẽ thấy không chỉ mầu của mình mà mầu của
người khác nữa.
Thực tế, chúng ta càng bắt đầu thấy sâu hơn vào bản
thân mình, chúng ta càng bắt đầu thấy sâu hơn vào trong
người khác nữa - với cùng mức độ. Vì chúng ta chỉ biết
có thể vật lí của mình nên chúng ta cũng chỉ biết có thể
vật lí của người khác. Cái ngày mà chúng ta đi tới biết về
thể ê te của riêng mình, chúng ta sẽ bắt đầu nhận biết về
thể ê te trong người khác.
Trước khi bạn trở nên giận dữ bạn có thể biết rõ từ
trước rằng bạn đang sắp giận dữ. Trước khi bạn bầy tỏ
tình yêu, có thể dễ dàng dự đoán rằng bạn đang chuẩn bị
cho tình yêu. Cho nên điều chúng ta gọi là sắp biết cảm
giác của người khác, cũng chẳng phải là điều gì lớn lao
cho lắm. Bằng việc trở nên nhận biết về thể xúc động của
riêng mình, sẽ trở nên dễ dàng hiểu thấu cảm giác của
người khác, bởi vì chúng ta bắt đầu thấy tất cả những biến
thể của nó. Bằng việc tỉnh thức trong thể thứ ba mọi thứ
trở nên rất rõ ràng, bởi vì thế thì chúng ta có thể thấy mầu
sắc của nhân cách nữa.
Mầu sắc trang phục của các sadhu và các sannyasin
đã được chọn lựa theo mầu sắc được thấy qua thể thứ ba.
Việc chọn lựa là khác nhau trong mỗi trường hợp tương
ứng với thể nào được nhấn mạnh. Chẳng hạn, Phật đã
chọn mầu vàng bởi vì ông ấy nhấn mạnh vào thể thứ bẩy.
Hào quang quanh người chứng ngộ ở bình diện thứ bẩy
có mầu vàng; do đó, Phật đã chọn mầu vàng cho các khất
sĩ bhikkhus. Chính bởi mầu này mà các sư phật giáo
bhikkhus đã gặp khó khăn để còn ở lại tại Ấn Độ. Mầu
vàng được đồng nhất với cái chết. Và thực tế, nó là mầu
của cái chết, bởi vì bình diện thứ bẩy là bình diện của cái
chết tối hậu. Cho nên mầu vàng được gắn với cái chết ở
sâu trong chúng ta.
Mầu da cam cho cảm giác về cuộc sống. Do đó, áo
choàng da cam của các sannyasin trông hấp dẫn hơn áo
vàng; chúng có vẻ sống động. Đó là mầu của máu, và
mầu của hào quang của thể thứ sáu: nó là mầu của mặt
trời lên.
Người Jaina đã chọn mầu trắng, mầu của thể thứ năm
- thể tâm linh. Người Jaina nhất định gạt Thượng đế ra -
gạt Thượng đế ra khỏi việc thảo luận và gạt niết bàn ra
khỏi thảo luận - bởi vì những thảo luận khoa học chỉ có
thể có tới thể thứ năm. Mahavira là một người mang tâm
trí khoa học. Do đó ông ấy nói về những vấn đề mà có thể
giải quyết được về mặt toán học; vượt ra ngoài điều đó,
ông ấy từ chối nói. Ông ấy không muốn nói liệu lời của
mình có khả năng sai hay không cho nên ông ấy từ chối
nói chi tiết về huyền học. Mahavira nói rằng chúng ta sẽ
không nói về nó; chúng ta đi vào kinh nghiệm nó. Cho
nên ông ấy không nói về các bình diện sau bình diện thứ
năm. Đây là lí do tại sao Mahavira chọn mầu trắng; nó là
mầu của bình diện thứ năm.
Từ bình diện thứ ba bạn sẽ bắt đầu thấy mầu sắc do
hiệu ứng của những rung động tinh tế bên trong. Trong
tương lai rất gần người ta có thể chụp ảnh được chúng.
Nếu chúng có thể được thấy bằng mắt trần, tiếp theo điều
đó chúng cũng không thể thoát khỏi con mắt của máy
chụp ảnh trong không lâu nữa. Thế thì chúng ta sẽ phát
triển khả năng kì diệu để đánh giá mọi người và tính cách
của họ.
Có một nhà tư tưởng người Đức mang tên Luschev,
người đã nghiên cứu tác động của mầu sắc lên hàng triệu
người. Nhiều bệnh viện ở châu Âu và Mĩ đang dùng thực
nghiệm của ông ấy. Mầu sắc bạn chọn cho biết khá rõ về
nhân cách của bạn. Một người có bệnh đặc biệt, ưa thích
một mầu đặc biệt; người mạnh khoẻ chọn mầu hoàn toàn
khác; người trầm tĩnh, ưa thích mầu khác nữa; người
tham vọng thích mầu hoàn toàn khác với người không
tham vọng. Với chọn lựa của mình bạn đưa ra hướng dẫn
về điều đang xảy ra bên trong thể thứ ba của bạn. Bây giờ
sự kiện thú vị là nếu bạn hiểu thấu về mầu được toả ra từ
thể thứ ba của mình, và nếu ưa thích về mầu sắc của bạn
được kiểm nghiệm, hoá ra nó là cùng một mầu: bạn sẽ
chọn mầu tương tự với mầu phát ra từ thể thứ ba của
mình.
Mầu sắc có ý nghĩa và ích lợi kì lạ. Trước đây người
ta không biết rằng mầu sắc có thể có ý nghĩa đến mức
chúng thậm chí còn có thể truyền đạt ra ngoài về nhân
cách của bạn. Cũng vậy người ta đã không biết rằng tác
động của mầu sắc có thể động chạm tới nhân cách bên
trong của bạn. Bạn không thể nào thoát được chúng.
Chẳng hạn mầu đỏ: nó bao giờ cũng được gắn với cách
mạng. Nó là mầu của giận dữ và khó mà thoát khỏi nó.
Do đó, các cuộc cách mạng đều mang lá cờ đỏ. Có hào
quang đỏ quanh tâm trí phẫn nộ. Nó là mầu của máu, mầu
của chém giết, mầu của giận dữ và của huỷ diệt.
Điều rất thú vị là nếu mọi thứ trong phòng đều mang
mầu đỏ, huyết áp của tất cả các bạn ngồi đây sẽ tăng lên.
Nếu một người liên tục sống với mầu đỏ, huyết áp của
anh ta chẳng bao giờ bình thường cả. Mầu lam gây cho
huyết áp tụt xuống: nó là mầu của bầu trời và sự tĩnh lặng
tối thượng. Nếu có mầu lam quanh bạn, huyết áp của bạn
sẽ tụt xuống.
Gạt con người sang bên: nếu chúng ta rót đầy nước
vào một cái chai mầu lam và để nó dưới ánh mặt trời,
thành phần hoá học của nước sẽ thay đổi. Nước hấp thu
mầu lam mà mầu này làm thay đổi thành phần của nó.
Nước này có tác động tới huyết áp con người. Tương tự,
nếu chúng ta rót nước vào chai mầu vàng rồi đặt nó dưới
ánh mặt trời, các đặc trưng của nước sẽ khác. Nước trong
chai lam sẽ vẫn còn tươi tắn trong vài ngày trong khi
nước trong chai vàng, hôi thối ngay lập tức. Mầu vàng là
mầu của cái chết và nó làm tan rã mọi thứ.
Bạn sẽ bắt đầu thấy các vòng tròn đủ mọi mầu sắc
này quanh bạn. Điều này sẽ là ở bình diện thứ ba. Khi bạn
nhận biết về ba thể này, chính nhận biết đó sẽ đem đến
hài hoà giữa chúng. Thế thì shaktipat thuộc bất kì loại nào
cũng sẽ không thể nào gây ra kết quả có hại. Năng lượng
của shaktipat sẽ đi vào thể thứ tư của bạn qua các tầng hài
hoà của ba thể đầu; đây sẽ là đường cái nó đi qua. Nếu
con đường này không sẵn sàng, có thể có nhiều nguy
hiểm. Bởi lí do này tôi đã nói rằng ba thể đầu nên mạnh
mẽ và ăn khớp; chỉ thế thì trưởng thành mới xảy ra một
cách trôi chảy.
#7Nếu những người đã vào các luân xa thứ tư, thứ năm,
thứ sáu hay thứ bảy mà chết đi, trong lần sinh thành
tiếp, trạng thái luân xa của họ sẽ là gì? Những người
thuộc bình diện nào vẫn còn trong cõi sinh linh vô
thân cao hơn sau cái chết của họ? Liệu những sinh
linh vô thân cao hơn ấy có phải tái sinh dưới dạng
người để đi tới chứng ngộ cuối cùng không?
Chúng ta sẽ phải hiểu đôi điều từ xa đã. Tôi đã nói
với các bạn về bẩy thể. Khi ghi nhớ điều này trong tâm
trí, chúng ta cũng có thể phân chia sự tồn tại ra thành bẩy
tầm hướng. Trong toàn bộ sự tồn tại, tất cả bẩy thể đều
hiện diện mãi mãi. Dù tỉnh hay ngủ, tích cực hay trơ ì,
xấu hay đẹp, chúng bao giờ cũng có đấy. Lấy một mẩu
kim loại - chẳng hạn một mẩu sắt: tất cả bẩy thể đều hiện
diện trong nó nhưng tất cả bẩy thể này đều ngủ; tất cả bẩy
thể đều trơ ì, không tích cực. Do đó, mẩu sắt trông có vẻ
chết. Lấy cây: thể thứ nhất của nó đã trở nên tích cực, thể
vật lí; do đó, chúng ta có thoáng nhìn về cuộc sống trong
cây cối.
Thế rồi đến con vật: thể thứ hai của nó đã trở nên
được kích hoạt. Chuyển động, vốn không tồn tại trong
cây cỏ, bắt đầu có ở con vật. Cây cỏ cắm gốc rễ xuống đất
và bao giờ cũng ở yên một chỗ. Nó không di động bởi vì
để di động được, thể thứ hai phải được kích hoạt - thể ê te
là nơi phát xuất mọi sự chuyển động. Nếu chỉ có thể thứ
nhất được thức tỉnh, nó sẽ bất động, cố định. Cây cối là
con vật cố định. Có một số cây cối có lay động chút ít: đó
là trạng thái giữa cây cối và con vật. Trong nhiều vùng
lầy lội ở châu Phi có một số loài cây trườn đi được một
khoảng cách chừng sáu mươi cho tới bẩy nhăm phân một
năm. Nhờ có rễ của mình, chúng có thể giữ chặt lấy đất
và rồi thả đi và do vậy thực hiện việc chuyển động. Đây
là móc nối cách mạng giữa cây cối và con vật.
Thể thứ hai cũng bắt đầu hoạt động trong con vật.
Điều này không có nghĩa rằng thể thứ hai đã đạt tới nhận
biết; nó chỉ có nghĩa là nó đã trở nên được kích hoạt. Con
vật không có tri thức gì về điều đó. Bởi vì thể thứ hai mới
được kích hoạt nên nó kinh nghiệm giận dữ; nó có thể
bầy tỏ thương yêu, nó có thể chạy, tự bảo vệ mình, kinh
nghiệm cái sợ, nó có thể tấn công hay trốn tránh và nó có
thể di chuyển.
Trong con người thể thứ ba được kích hoạt. Do đó,
con người không chỉ có thể di chuyển thân thể mà còn có
tâm trí: người đó có thể du hành với tâm trí. Người đó du
hành trong quá khứ cũng như trong tương lai. Không có
tương lai cho con vật, và bởi lí do này mà nó chẳng bao
giờ lo nghĩ, chẳng bao giờ căng thẳng, bởi vì mọi lo âu
đều là vì tương lai. Điều gì sẽ xảy ra ngày mai là lo nghĩ
lớn nhất của chúng ta. Nhưng với con vật, chẳng có tương
lai; hôm nay là mọi điều với nó. Thậm chí cả đến hôm
nay cũng không tồn tại cho chúng theo một nghĩa nào đó,
bởi vì hôm nay có nghĩa gì với người ta nếu ngày mai
không có nghĩa? Cái có đấy thì có đấy.
Trong con người chuyển động tinh tế hơn đã phát
sinh - chuyển động của tâm trí. Nó đến từ thể thứ ba, thể
vía. Bây giờ con người có thể nghĩ về tương lai với sự trợ
giúp của tâm trí. Con người cũng có thể lo nghĩ về cái sẽ
có sau cái chết - người đó sẽ đi đâu, người đó sẽ không đi
đâu. Người đó cũng ngẫm nghĩ về nơi mình đã ở trước
khi sinh ra.
Thể thứ tư hoạt động ở một số người, không phải cho
tất cả mọi người. Nếu một người chết sau khi thể thứ tư
đã được kích hoạt, người đó sẽ được sinh ra ở bình diện
deva, các thần, nơi có nhiều khả năng để kích hoạt thể thứ
tư. Nếu thể thứ ba vẫn còn tích cực, chỉ thế thì con người
mới vẫn còn là con người. Từ thể thứ tư, việc sinh trên
bình diện cao hơn mới bắt đầu.
Với thể thứ tư sẽ vẫn có khác biệt cần phải hiểu. Nếu
thể thứ tư được kích hoạt, ít có khả năng thu được một thể
vật lí nữa và nhiều khả năng thu được sinh linh vô thể.
Nhưng như tôi đã nói, nhớ tới khác biệt giữa việc kích
hoạt và tâm thức. Nếu thể thứ tư đơn thuần được kích
hoạt mà người ta lại không có ý thức, chúng ta gọi nó là
bình diện của preta, linh hồn ác; nếu nó được kích hoạt
mà có ý thức hoàn toàn, chúng ta gọi nó là bình diện của
deva, linh hồn thiện. Đây là khác biệt duy nhất giữa preta
và deva. Linh hồn ác, không nhận biết rằng thể thứ tư của
nó đang được kích hoạt trong khi vị thần thì nhận biết. Do
đó, preta có thể gây ra rất nhiều điều có hại cả cho chính
nó và cho người khác với những hành động của thể thứ tư
của nó, bởi vì vô ý thức chỉ có thể đem lại tai hại. Deva sẽ
là nguyên nhân cho nhiều hành vi tốt cả cho chính nó và
cho người khác, bởi vì nhận biết chỉ đem lại ích lợi.
Người có thể thứ năm trở nên tích cực, vượt ra ngoài
sự tồn tại của deva. Thể thứ năm là thể tâm linh. Trên
bình diện thứ năm việc kích hoạt và nhận biết là một và
như nhau. Không ai có thể đạt tới bình diện thứ năm mà
lại không có nhận biết; do đó, kích hoạt và nhận biết xảy
ra đồng thời ở đây. Bạn có thể đạt tới bình diện thứ tư mà
không cần nhận biết. Nếu bạn thức tỉnh, cuộc hành trình
sẽ bước sang một bước ngoặt: nó sẽ hướng tới bình diện
deva, bình diện của các thần. Nếu bạn không nhận biết,
cuộc hành trình của bạn sẽ đi vào trong cõi giới của các
linh hồn ác.
Tại bình diện thứ năm việc kích hoạt và nhận biết có
đó đồng thời, bởi vì đây là thể tâm linh và vô nhận biết là
vô nghĩa chừng nào còn có liên quan tới cái ta. Atman có
nghĩa là tâm thức; do đó, tên khác của atman là tâm thức.
Tại đây vô ý thức không có nghĩa.
Cho nên từ thể thứ năm, kích hoạt và nhận biết là một
và cùng một điều, nhưng trước lúc đó, hai điều này là
tách biệt. Khác biệt giữa đàn ông và đàn bà còn có đó cho
tới thể thứ tư; khác biệt giữa ngủ và tỉnh còn có đó cho tới
thể thứ tư. Vấn đề là nhị nguyên và xung đột vẫn còn có
đó cho tới thể thứ tư. Từ thể thứ năm, bất nhị bắt đầu - cái
không phân chia. Sự thống nhất bắt đầu từ thể thứ năm.
Trước điều này, còn đa dạng, còn khác biệt. Tiềm năng
của thể thứ năm không tới từ bình diện của preta mà cũng
chẳng tới từ bình diện của deva. Điều này nên được hiểu.
Thể thứ năm không thể có được đối với preta bởi vì
thể của chúng là sự tồn tại vô ý thức. Chúng không có
thân thể vốn là cần thiết để nhận biết, và chúng không có
thể thứ nhất mà chính là bước đầu tiên để đi tới nhận biết.
Bởi lí do này mà preta phải quay trở lại hình dạng người.
Do đó, sự tồn tại con người theo một nghĩa nào đó là ngã
ba đường. Bình diện của deva, ở trên nhưng không vượt
ra ngoài nó, bởi vì để vượt ra ngoài, cần phải quay lại sự
tồn tại con người. Preta phải quay lại để phá vỡ vô nhận
biết của nó, bởi vì để đạt được điều này, hình dạng người
là tuyệt đối cần thiết. Deva cũng phải quay trở lại, bởi vì
trong sự tồn tại của họ không có đau khổ theo bất kì điều
gì. Thực tại nó là sự tồn tại đã thức tỉnh. Tuy nhiên, trong
sự tồn tại như thế thì không thể nào có đau đớn và đau
khổ cái làm sinh thành cho niềm khát khao thiền. Nơi mà
không có đau khổ, không có ý nghĩ về việc biến đổi hay
đạt tới.
Cho nên cõi giới của deva là sự tồn tại tĩnh tại, nơi
không có tiến bộ. Đây là một đặc thù của hạnh phúc: nó
phong toả mọi tiến bộ thêm nữa. Trong đau đớn và đau
khổ, có khao khát để trưởng thành. Đau khổ kích thích
chúng ta tìm con đường và phương tiện để thoát khỏi đau
đớn và buồn rầu. Trong hạnh phúc tất cả mọi việc tìm
kiếm đều dừng lại. Cho nên đây quả thực là trạng thái vấn
đề rất kì lạ, và mọi người thường không hiểu điều này.
Trong các kiếp sống của Mahavira và Phật đều có
những truyền thuyết về các thần deva tới họ để xin giáo
huấn, nhưng đây là những biến cố rất ngoại lệ. Liệu có kì
lạ không mà thần phải tới con người bởi vì đấy là sự tồn
tại cao hơn sự tồn tại con người. Điều ấy dường như kì lạ
nhưng lại không phải thế thì bởi vì sự tồn tại trên cõi trời
là sự tồn tại tĩnh tại mà từ đó, không có trưởng thành. Nếu
bạn muốn tiến lên trước, cũng giống như bạn lùi lại một
bước trước khi nhảy, bạn phải bước lùi lại sự tồn tại con
người và thế rồi mới nhảy.
Hạnh phúc thì khác, thường theo nghĩa là không có
chuyển động thêm nữa. Một điều nữa: hạnh phúc trở
thành chán. Không có nhân tố nào khác có thể gây ra
buồn chán đến thế như hạnh phúc. Bất hạnh, không chán;
tâm trí bất hạnh chẳng bao giờ chán cả. Do đó, người bất
hạnh chẳng bao giờ bất mãn, mà bất mãn cũng chẳng có
trong xã hội đầy rẫy những đau khổ và khốn cùng. Chỉ có
người hạnh phúc hay cộng đồng hạnh phúc mới bất mãn.
Ấn Độ không bất mãn như Mĩ. Lí do chỉ là thế này, rằng
họ thừa mứa và hạnh phúc trong khi chúng ta nghèo nàn
và khổ. Chẳng có gì để trông đợi ở Mĩ và không có đau
khổ dằn vặt họ để trưởng thành thêm nữa. Bên cạnh đó,
hạnh phúc, cứ lặp lại mãi: cùng những hình thức giải trí
và tận hưởng cứ lặp đi lặp lại mãi thành ra vô nghĩa.
Cho nên cõi giới của các thần deva là đỉnh cao của
chán. Không có chỗ nào còn đáng chán hơn nữa trong vũ
trụ này, và có quá nhiều cái chán ở đấy. Nhưng cũng phải
có thời gian để cho cái chán phát triển. Bên cạnh đó, điều
ấy còn phụ thuộc vào nhạy cảm của từng cá nhân. Một
người càng nhạy cảm, người đó sẽ càng sớm thấy chán;
người càng ít nhạy cảm, sẽ mất thời gian lâu hơn. Cũng
có thể là người đó không thấy chán chút nào. Con trâu ăn
cùng loại cỏ hàng ngày mà nó chẳng chán bao giờ.
Nhạy cảm là rất hiếm hoi. Chán tỉ lệ với nhạy cảm
của con người. Nhạy cảm bao giờ cũng tìm cái mới: nó
tìm kiếm ngày càng nhiều cái mới hàng ngày. Nhạy cảm
là một loại bất ổn, và điều này đến lượt nó lại là một loại
sinh động. Cho nên cõi giới của các thần deva là một loại
tồn tại chết, cũng như là cõi giới của quỉ preta. Nhưng cõi
giới của thần, mang tính chết nhiều hơn, bởi vì trong thế
giới của quỉ preta có nhiều đau khổ và cách thức để gây
đau khổ cũng như sự thích thú làm cho người ta và người
khác đau khổ. Có đủ những điều gây bất ổn ở đó, cho nên
không có chán chút nào.
Cõi thần, rất an bình: không có rối loạn thuộc bất kì
kiểu gì. Cho nên chung cuộc việc trở về từ cõi giới thần
chỉ có thể là việc thoát ra khỏi cái chán. Nhớ lấy, nó ở
trên kiếp người; tính nhạy cảm tăng lên ở đó. Thích thú
mà không trở thành chán với chúng ta qua nhiều năm
trong cuộc sống có thân thể, lại trở thành tẻ nhạt và chán
ngán một khi nó được tận hưởng trong cõi giới thần.
Đó là lí do tại sao trong Purana nói rằng thần khao
khát được sinh ra làm con người. Bây giờ điều này dường
như rất đáng ngạc nhiên bởi vì tại đây trên trái đất này
chúng ta khát khao đi tới cõi giới thần. Thậm chí còn có
những câu chuyện thần nào đó xuống trái đất để yêu một
người đàn bà. Những câu chuyện này là chỉ dẫn về trạng
thái của tâm trí. Chúng chỉ ra rằng trong cõi giới đó có
hạnh phúc, nhưng nó thành chán bởi vì chỉ có hài lòng và
thích thú mà không có dấu vết nào của đau khổ hay buồn
rầu. Thế thì nó trở thành chán. Nếu người ta được cho
phép chọn lựa giữa hạnh phúc vô hạn không lúc nào buồn
rầu và chọn buồn rầu và đau khổ vô hạn, người khôn
ngoan sẽ chọn phương án sau. Chúng ta phải quay về từ
cõi giới của thần; chúng ta cũng phải quay về từ cõi giới
của quỉ.
Sự tồn tại con người là tại ngã ba đường: tất cả các
cuộc hành trình đều có thể từ đó. Tuy nhiên, người đạt tới
thể thứ năm, không phải đi đâu nữa. Người đó đi vào một
trạng thái mà trong đó không còn bất kì sinh thành nào
qua bụng mẹ; người đó không được tái sinh qua bụng mẹ
của bất kì bà mẹ nào.
Người đã đạt tới cái ta thì chấm dứt cuộc hành trình
của mình theo một nghĩa nào đó. Trạng thái trong thể thứ
năm là trạng thái của giải thoát. Nhưng nếu người đó cảm
thấy được thoả mãn bên trong mình, người đó có thể
dừng lại tại bình diện này trong vô hạn thời đại, bởi vì tại
đây không có đau đớn mà cũng chẳng thích thú, không nô
lệ cũng chẳng đau khổ. Chỉ có sự hiện hữu riêng của
người ta - không phải là sự hiện hữu vũ trụ, cái tất cả.
Cho nên một người có thể cứ sống trong trạng thái này
trong vô hạn thời đại cho tới khi một thời điểm tới mà
người đó phát triển tính tò mò để biết tất cả.
Hạt mầm của việc tìm kiếm là ở bên trong chúng ta;
do đó, nó phát sinh. Nếu thiền nhân nuôi dưỡng tính tò
mò để biết tất cả mọi điều từ ngay ban đầu, người đó có
thể thoát khỏi nguy cơ của việc bị mắc vào thể thứ năm.
Cho nên nếu bạn biết khoa học đầy đủ về bẩy thể, bạn
sẽ biết rằng việc tìm kiếm nên đầy đủ và tối thượng từ
ngay chính ban đầu. Nếu bạn bắt đầu với mục tiêu dừng
lại giữa đường, thế thì khi bạn đạt tới thể thứ năm bạn sẽ
cảm thấy bạn đã tới đích, tới địa điểm dự định của mình,
và bạn sẽ lỡ vấn đề.
Cho nên người ở thể thứ năm phải không nhận sự
sinh thành nhưng người đó phải cột chặt bên trong mình:
người đó phải thoát khỏi mọi người nhưng vẫn còn gắn
vào chính mình. Người đó vứt bỏ bản ngã nhưng không
vứt bỏ cảm giác "tôi đây." Bản ngã là lời tuyên bố chống
lại người khác.
Hiểu điều này cho rõ: Khi tôi nói ‘tôi’, đấy là để chi
phối cái ‘bạn’ nào đó. Do đó, khi tôi thành công trong
việc chi phối bạn, bản ngã cảm thấy thắng lợi. Khi nó bị
cái tôi của người khác chi phối, nó khổ. Cái tôi bao giờ
cũng cố gắng để làm mạnh cho bạn. Cái tôi bao giờ cũng
tồn tại trong tương phản với người khác.
Tại đây ở mức độ tâm thức thứ năm người khác
không còn nữa và cũng không còn bất kì cạnh tranh nào
với nó. Đây là trạng thái của tính chất tôi, asmita, tự tại.
Đây là khác biệt duy nhất giữa bản ngã và asmita. Bây
giờ tôi chẳng có gì để làm với bạn cả; không còn tuyên bố
về cái tôi, nhưng vẫn còn sự hiện hữu của tôi. Tôi không
còn cần đứng ra chống lại người khác, nhưng "tôi đây"
vẫn có mặc dầu không có bạn để mà so sánh.
Bởi lí do này mà tôi đã nói bản ngã sẽ nói ‘tôi’ còn sự
hiện hữu, nói ‘đây’. Đây sẽ là khác biệt. Trong "tôi đây"
có hai khái niệm: cái tôi là bản ngã và cái đây, sự hiện
hữu.
Cảm giác về tính chất tôi không chống lại ai cả; nó là
hương vị của chính nó. Cảm giác này là một với "tôi
đây," cho nên để nó đấy mà không có ai khác trên thế giới
này. Cứ để cho có thế chiến thứ ba và để cho tất cả chết
hết nhưng tôi, nên còn lại. Cho nên mặc dầu sẽ không có
bản ngã trong tôi nhưng cảm giác về tính chất tôi vẫn cứ
có đấy: tôi biết rằng tôi đây, cho dù tôi sẽ không nói tôi
với người khác, bởi vì với tôi không có bạn còn lại để mà
tôi có thể nói về điều đó. Cho nên khi bạn hoàn toàn đơn
độc và không có người khác, thế nữa bạn vẫn có - theo
nghĩa sự hiện hữu tồn tại.
Bản ngã tan biến trong thể thứ năm và do vậy móc
nối mạnh mẽ trong xiềng xích nô lệ sụp đổ. Những cảm
giác về tính chất tôi vẫn còn lại - tự do, độc lập, vô giới
hạn và không có gắn bó nào. Nhưng cái tôi có những giới
hạn riêng của nó. Tất cả các biên giới khác mờ đi ngoại
trừ biên giới của tính chất tôi. Tại thể thứ sáu điều này
nữa bị loại bỏ và bị siêu việt lên. Thế thứ sáu là thể vũ
trụ.
Câu hỏi về việc được sinh ra trong bụng mẹ chấm dứt
với thể thứ năm, nhưng việc sinh thành vẫn phải được
tiến hành. Khác biệt này nên được hiểu cho đúng. Một lần
sinh thành là từ bên trong bụng mẹ và một lần sinh thành
là từ bên trong chính mình. Đây là lí do tại sao trên đất
nước này chúng ta gọi người brahmin là dwij - hai lần
sinh thành. Thuật ngữ này thực tế được dùng cho
Brahman gyani, người biết tới Brahman - thực tại vũ trụ.
Gọi một người chưa chứng ngộ là brahmin là không cần
thiết. Khi một người trải qua lần sinh thành thứ hai thuộc
loại hoàn toàn khác, người đó được gọi là dwij - hai lần
sinh thành; người đã chứng ngộ được gọi là brahmin.
Vậy một lần sinh là từ bụng người khác và một lần là
từ chính cái ta của riêng mình. Một khi đạt tới thể thứ
năm, bạn không thể nào được sinh ra từ người khác nữa.
Bây giờ bạn sẽ phải được sinh ra qua thể thứ năm để vào
thể thứ sáu. Cuộc hành trình này là của bạn, việc thai
nghén bên trong riêng của bạn, sự sinh thành bên trong
riêng của bạn. Bây giờ không có liên hệ nào với bụng mẹ
bên ngoài hay với bất kì phương tiện sáng tạo bên ngoài
nào. Bây giờ bạn không có bố hay mẹ; bạn là bố, bạn là
mẹ, và bạn là con. Đây hoàn toàn là cuộc hành trình cá
nhân. Cho nên khi một người đi vào thể thứ sáu qua thể
thứ năm, người đó có thể được gọi là sinh ra hai lần và
không như trước đó. Người đó được sinh ra không nhờ
các phương tiện sáng tạo bên ngoài, không có sự trợ giúp
của bụng mẹ bên ngoài.
Một rishi của Upanishad cầu nguyện, "Lạy trời, xin
mở tấm màn vàng của bụng mẹ bên trong này mà trong
đó thực tại đang ẩn náu." Tấm màn này dứt khoát là bằng
vàng. Chúng bằng vàng đến mức chúng ta không muốn
gạt chúng sang bên; chúng đẹp đến mức chúng ta náo nức
giữ lấy chúng. Tính chất tôi là tấm màn vô giá che phủ
lên chúng ta. Bản thân chúng ta sẽ không muốn chia tay
với nó và không có chướng ngại bên ngoài nào dừng
chúng ta lại. Bản thân tấm màn cũng đáng yêu đến mức
chúng ta không thể nào rời khỏi nó. Do đó rishi nói, "Xin
gạt bỏ tấm màn vàng và mở bụng mẹ tạo ra người được
sinh lần thứ hai."
Cho nên Brahma gyani là từ gọi cho người được sinh
ra lần thứ hai, và Brahma gyani có nghĩa là người đã đạt
tới thể thứ sáu. Từ thể thứ năm sang thể thứ sáu cuộc
hành trình là của người được sinh ra lần thứ hai. Bụng mẹ
khác đi, cách sinh ra cũng khác. Bây giờ mọi thứ đều
không có bụng mẹ: bụng mẹ là của riêng người ta, và
chúng ta bây giờ tự sinh ra.
Từ thể thứ năm sang thể thứ sáu có sinh thành còn từ
thể thứ sáu sang thể thứ bẩy thì có cái chết. Do đó, người
đã trải qua bước chuyển sau, không còn được gọi là được
sinh ra hai lần nữa; không có nghĩa trong nó. Bạn có hiểu
không? Bây giờ thì dễ theo dõi.
Từ thể thứ năm sang thể thứ sáu là sinh qua bản thân
mình; từ thể thứ sáu sang thể thứ bẩy là chết qua bản thân
mình. Chúng ta đã được sinh ra qua người khác - qua thân
thể người khác - và cái chết theo sau cũng là của người
khác. Điều này tôi sẽ giải thích.
Nếu sinh của bạn là từ người khác, làm sao cái chết
của bạn là của riêng bạn được? Làm sao điều này lại có
thể được? Hai đầu sẽ không có liên hệ. Nếu người khác
cho tôi sự sinh, thế thì cái chết không thể nào là của tôi
được. Khi sinh tới từ người khác, chết nữa cũng tới từ kẻ
khác. Khác biệt là thế này, rằng đầu tiên tôi xuất hiện qua
một bụng mẹ và lần thứ hai tôi đi vào trong một bụng mẹ
khác - nhưng tôi đâu có nhận biết. Khi tôi tới trong lần
sinh thành này, nó là rõ ràng, nhưng bây giờ việc ra đi
của tôi lại không rõ ràng. Chết đi trước sinh: bạn đã chết
ở đâu đó trước khi bạn được sinh ra ở đâu đó. Sinh là rõ
ràng, nhưng về chết, bạn không nhận biết.
Bây giờ bạn được sinh ra qua một người mẹ và một
người bố: bạn kiếm được một thân thể, một công cụ sẽ
chạy trong bẩy mươi cho tới một trăm năm. Sau một trăm
năm, khí cụ này sẽ không làm việc. Cái ngày nó sẽ dừng
làm việc đã được định trước từ khoảnh khắc sinh ra. Khi
nào nó sụp đổ chẳng quan trọng lắm; điều quan trọng là ở
chỗ nó sẽ sụp đổ. Với sinh, đã có quyết định rằng bạn sẽ
chết. Bụng mẹ đem bạn tới sinh của bạn, cũng đem tới
chết của bạn nữa. Bạn đã đem cả hai chúng cùng nhau.
Thực tế, chết nằm ẩn bên trong bụng mẹ cho sự ra đời;
chỉ có khoảng một trăm năm thôi.
Trong một trăm năm này bạn sẽ hoàn tất cuộc hành
trình của mình từ đầu này đến đầu kia và quay lại đích
xác chỗ mà từ đó bạn tới. Cái chết của thân thể bạn là
được nhận từ người khác vào lúc sinh của bạn; do đó, cái
chết cũng là từ người khác. Cho nên bạn, không sinh mà
bạn cũng chẳng chết. Trong sinh có một trung gian và
trong chết nữa cũng có một trung gian. Khi bạn đi vào thể
thứ sáu, thể vũ trụ, từ thể thứ năm, thể tâm linh, bạn sẽ
được sinh ra lần đầu tiên. Thế thì bạn sẽ là tự sinh ra: việc
sinh của bạn sẽ không qua bụng mẹ. Nhưng thế thì việc tự
chết sẽ đồng thời chờ đợi bạn - cái chết không bụng mẹ
cũng chờ đợi bạn. Bất kì khi nào sinh này đón lấy bạn, từ
đó chết sẽ dẫn bạn tiến lên hơn nữa. Sinh đưa bạn tới
Brahman còn chết đưa bạn tới niết bàn.
Sinh này có thể kéo dài rất lâu; nó có thể là vô tận.
Một người như vậy, nếu người đó vẫn còn, sẽ trở thành
Thượng đế. Một tâm thức như vậy nếu nó du hành lâu, sẽ
được hàng triệu người tôn thờ; lời cầu nguyện sẽ được
đưa lên người đó. Những người mà chúng ta gọi là avatar,
Ishvara, con của Thượng đế, tirthankara, đều là những
người đã đi vào thể thứ sáu từ thể thứ năm. Họ có thể vẫn
còn ở bình diện đó lâu tuỳ ý và họ có thể có ích rất lớn.
Không có vấn đề về bất kì cái hại nào tới từ họ và họ có
thể là người chỉ đường vĩ đại. Những người như thế cố
gắng phấn đấu mãi mãi và làm việc để những người khác
cũng đi qua con đường có trước. Tâm thức của những
người ở bình diện thứ sáu cũng có thể chuyển tiếp những
thông điệp theo nhiều cách khác nhau, và những người có
thoáng cảm giác về những người như vậy, không thể nào
xếp họ ở bất kì chỗ nào thấp hơn Bhagwan, người được
ban phúc. Họ là Bhagwan: không có gì thiếu trong sự
hiện hữu Bhagwan của họ, bởi vì họ đã đạt tới thể thứ
sáu, thể vũ trụ.
Trong chính cuộc đời này người ta có thể đi vào bình
diện thứ sáu qua bình diện thứ năm. Bất kì khi nào bất kì
ai đi vào bình diện thứ sáu trong cuộc đời này, chúng ta
đều gọi người đó là Phật hay Mahavira hay Rama hay
Christ. Và những người cảm nhận họ như vậy đều coi họ
như Thượng đế. Với những người không thể thấy được,
vấn đề này không nảy sinh.
Một người trong làng nhận ra Phật là Ishwara; với
người khác, ông ấy chẳng là gì cả - hoàn toàn bình
thường. Ông ấy cũng cảm lạnh như chúng ta; ông ấy ngã
bệnh hệt như chúng ta; ông ấy ăn, ngủ, bước đi và nói
giống chúng ta; ông ấy thậm chí chết cũng như chúng ta.
"Thế thì đâu là khác biệt giữa ông ấy và chúng ta?" người
ta hay biện luận thế. Số những người không thấy được
khác biệt còn lớn vô hạn so với số người thấy được, cho
nên những người thấy được, dường như là điên khùng,
dối trá, bởi vì họ chẳng có bằng chứng nào về bất kì cái gì
để đưa ra chứng minh cả.
Thực tại, không có bằng chứng nào cả. Chẳng hạn,
chiếc microphone này ở trước tôi. Nếu bạn, người đang
hiện diện mà không thể thấy được nó, làm sao tôi chứng
minh cho bạn rằng nó có đó? Nếu tôi nói nó có đó còn
bạn không thể nào thấy được nó, tôi sẽ bị coi là điên.
Việc thấy trong khi người khác không thể thấy được là
một bằng chứng rằng bạn không có tâm trí lành mạnh.
Chúng ta đo chứng ngộ cũng theo đa số phiếu bầu; ở
đây nữa chúng ta cũng có hệ thống bỏ phiếu! Cho nên với
một số người, họ cảm thấy Phật là Thượng đế còn số
khác, lại không. Những người không thể thấy ông ấy là
Thượng đế sẽ nói, "Cái loại điên khùng gì thế nhỉ? Ông ta
là con vua Shuddhodana và người nọ là mẹ ông ta người
kia là vợ ông ta. Ông ta chính là Gautama, không là ai
khác cả." Ngay cả bố của ông cũng không thể nào thấy
rằng Gautama đã trở thành một người hoàn toàn khác.
Ông bố vẫn coi ông ấy như đứa con mình, và nói, "Con
đã rơi vào điên khùng gì vậy? Trở về cung điện đi. Con
đang làm gì vậy? Vương quốc đang điêu tàn và ta đang
già đi. Con trở về và coi sóc mọi sự." Người bố đáng
thương này đã không nhận ra rằng Phật đã trở thành bậc
thầy của vô hạn vương quốc. Nhưng người đã có đôi mắt
để thấy, đều coi những người như vậy là tirthankara,
Bhagwan, hay con của Thượng đế. Họ sẽ dùng lời như
vậy để diễn tả cho người ở thể thứ sáu.
Thể thứ bẩy không bao giờ đạt tới được trong thân thể
này. Trong thân thể này chúng ta có thể nhiều nhất là
đứng ở đường biên của thể thứ sáu từ đó chúng ta có thể
thấy thể thứ bẩy. Cái nhảy đó, hư không đó, vực thẳm đó,
vĩnh hằng đó, là thấy được từ đó, và tại đó chúng ta có thể
đứng. Do đó, trong cuộc đời của Phật đã có nhắc tới hai
niết bàn. Một niết bàn ông ấy đạt tới dưới gốc cây bồ đề
trên bờ dòng sông Niranjana: đó là bốn mươi năm trước
cái chết của ông ấy. Điều này được gọi là niết bàn. Ngày
đó ông ấy đứng trên phần ngoại vi của thể thứ sáu - và
ông ấy vẫn còn ở đó trong bốn mươi năm đằng đẵng.
Ngày ông ấy chết được gọi là mahaparinirvana; ngày đó
ông ấy đi vào bình diện thứ bẩy. Do đó, khi bất kì ai hỏi
ông ấy, "Điều gì sẽ xảy ra cho Như Lai (Tathagata) sau
cái chết?", Phật sẽ đáp lại, "Sẽ không còn Như Lai nữa."
Nhưng điều này không thoả mãn tâm trí. Người ta cứ
hỏi đi hỏi lại mãi, "Cái gì sẽ xảy ra cho Phật trong
Mahaparinirvana?" Với điều này Phật đáp, "Nơi mà tất cả
các hoạt động dừng lại, nơi mà tất cả các biến cố dừng lại,
chỗ đó được gọi là mahaparinirvana." Khi mà cái gì đó
vẫn còn giữ lại để xảy ra trong thể thứ sáu, đó là sự tồn
tại; vượt ra ngoài điều này là cái không tồn tại. Cho nên
khi Phật không có đó, chẳng cái gì còn lại. Theo một
nghĩa nào đó, bạn có thể nói ông ấy chẳng bao giờ có.
Ông ấy sẽ mờ dần đi như mơ, như đường vẽ trên cát, như
đường vẽ trên nước tan biến hình dạng của nó. Ông ấy sẽ
mất đi và chẳng cái gì còn lại. Nhưng điều này không
thoả mãn cho tâm trí chúng ta. Chúng ta nói rằng ở đâu
đó, ở mức độ nào đó, trong một góc nào đó dù xa xôi đến
đâu cũng chẳng thành vấn đề, ông ấy vẫn nên tồn tại.
Nhưng trong bình diện thứ bẩy, ông ấy trở thành chỉ là hư
không, vô hình.
Không có cách nào mang một hình hài mới bên ngoài
bình diện thứ bẩy. Có những người đứng ở trên đường
biên và thấy bình diện thứ bẩy, người thấy cái vực thẳm
đó; do đó, tất cả những cái đã được biết về bình diện thứ
bẩy là cái được báo cáo lại bởi những người đứng tại
đường biên. Không có báo cáo nào từ người đã đi qua đó,
bởi vì không có cách nào để đưa ra bất kì báo cáo nào.
Chỉ dường như là một người đứng trên đường biên của
Pakistan nhìn và báo cáo rằng có nhà, cửa hàng, đường
phố, vài người dân, và người đó có thể thấy phố xá và
mặt trời ló ra. Nhưng người này đang đứng trên biên giới
Ấn Độ.
Đi vào bình diện thứ bẩy từ bình diện thứ sáu là cái
chết tối hậu. Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng ý nghĩa của
acharya thời ngày xưa là người dạy về cái chết cuối cùng.
Có câu cách ngôn nói, "Acharya là cái chết." Cho nên khi
Nachiketa đạt tới thần chết, ông ấy cũng đạt tới acharya.
Thần chết chỉ có thể dạy về cái chết chứ không cái gì
khác. Acharya là đích mà từ đó chỉ có tan biến, tan rã và
tắt ngấm là có thể được dạy.
Nhưng trước cái chết này, bạn cần phải được sinh ra
đã. Ngay bây giờ bạn không tồn tại. Cái mà bạn vẫn coi là
bản thân mình chỉ là đồ vay mượn; nó không phải là hiện
hữu thực của bạn. Cho dù bạn có mất nó, bạn cũng chẳng
bao giờ là người sở hữu cả. Chỉ dường như là tôi mới
đánh cắp cái gì đó và thế rồi tôi đem nó đi làm từ thiện: vì
cái mà không thuộc vào tôi, làm sao nó lại là quà tặng của
tôi được? Cái mà không phải là của tôi, tôi không thể cho
được. Cho nên người mà chúng ta vẫn gọi là người từ bỏ
thế giới này, không phải là từ bỏ chút nào bởi vì người đó
từ bỏ cái không phải của mình. Và làm sao bạn có thể là
người từ bỏ cái không phải của bạn được? Công bố bỏ đi
cái không phải là của bạn thì thật điên khùng.
Việc từ bỏ xảy ra khi bạn đi vào thể thứ bẩy từ thể
thứ sáu. Tại đó bạn gạt sang bên cái là bạn - vì bạn chẳng
còn gì khác. Bạn bỏ lại chính hiện hữu của mình.
Việc từ bỏ duy nhất có nghĩa là việc đi từ bình diện
thứ sáu sang bình diện thứ bẩy. Trước đó tất cả những
chuyện nói về từ bỏ đều là trò trẻ con. Người nói, "Cái
này của tôi" là ngu. Người nói "Tôi bỏ tất cả cái đã là của
tôi" cũng ngu nốt, bởi vì người đó vẫn cứ đòi là kẻ sở
hữu. Chỉ chúng ta mới là của chúng ta - nhưng chúng ta
chẳng có hiểu biết gì về điều này cả.
Do đó, từ thể thứ năm sang thể thứ sáu bạn sẽ biết
bạn là ai và từ thể thứ sáu sang thể thứ bẩy bạn sẽ có thể
từ bỏ cái bạn đang là. Khoảnh khắc ai đó từ bỏ cái người
đó đang là thì chẳng còn gì để được đạt tới, chẳng còn gì
để được từ bỏ. Thế thì không có câu hỏi nào còn lại. Thế
thì có cái tĩnh lặng vô hạn, cái im lặng vĩnh hằng. Sau đó
người ta không thể nói rằng có phúc lạc hay yên bình;
người ta không thể nói rằng có chân lí hay giả dối, ánh
sáng hay bóng tối. Chẳng có gì có thể được nói nữa. Đây
là trạng thái của thể thứ bẩy.
#7Nếu đạt tới bình diện thứ năm trong thể vật lí, người
này sẽ được tái sinh dưới dạng nào sau khi chết?
Đạt tới thể thứ năm và thành thức tỉnh là một và cùng
một điều. Thế thì bạn sẽ không còn cần các thể ban đầu
nữa. Bây giờ bạn có thể làm việc từ bình diện thứ năm;
bây giờ bạn là người thức tỉnh. Do đó, không có khó khăn
nào. Các thể ban đầu chỉ cần cho tới thể thứ tư. Nếu thể
thứ tư được kích hoạt và thức tỉnh, người ta trở thành
thần, deva - một linh hồn trên trời. Nếu thể thứ tư nằm
yên và ngủ, người đó đi vào cõi giới của quỉ, preta - linh
hồn quỉ. Bạn sẽ phải trở lại dạng người từ cả hai trạng
thái này, bởi vì bạn chẳng có ý tưởng nào về căn cước của
mình cả. Và để biết căn cước của mình, bạn vẫn phải cần
đến người khác. Chỉ với sự giúp đỡ của người khác mà
bạn mới có khả năng biết tới chính mình.
Ngay bây giờ để biết mình, bạn cần tới người khác;
không có người khác bạn sẽ không thể nào nhận ra bản
thân mình. Người khác sẽ tạo nên biên giới từ đó bạn sẽ
biết chính mình. Do đó, cho tới bình diện thứ tư bạn sẽ
phải nhận lấy sinh thành vào bất kì hoàn cảnh nào. Sau
bình diện thứ năm người khác sẽ không còn cần nữa; điều
đó không có nghĩa. Trong bình diện thứ năm bạn sẽ có
thể không cần bốn thể đầu nữa. Nhưng với thể thứ năm,
một quá trình sinh thành thuộc loại hoàn toàn mới bắt đầu
diễn ra, và đó là lối vào trong bình diện thứ sáu. Đây là
vấn đề khác và không bao gồm bốn thể đầu.
Khi một người đi vào bình diện thứ năm từ bình diện
thứ tư, người đó sẽ không cần một thể vật lí nữa sau
khi chết chứ?
Không.
Nếu một tirthankara mong muốn được sinh ra, liệu
ông ấy có thể lấy một thể vật lí không?
Bây giờ đây lại là một vấn đề khác hẳn. Nếu một
tirthankara mong muốn được tái sinh, một biến cố rất thú
vị xảy ra: tức là, trước khi chết ông ấy không được vứt bỏ
thể thứ tư của mình. Có cách thức và phương pháp để làm
điều này, và đó là bằng cách phải ham muốn là một
tirthankara. Cho nên khi thể thứ tư đang rời bỏ đi, người
ta ham muốn được giữ còn sống để cho thể thứ tư không
bị vứt đi. Nếu thể thứ tư bị vứt bỏ đi, việc sinh thành dưới
hình hài vật lí là không thể được.
Thế thì cây cầu, mối nối qua đó bạn tới, sẽ không còn
nữa. Cho nên ham muốn là một tirthankara phải được giữ
sống động qua thể thứ tư. Không phải tất cả mọi người
đều xứng đáng trở thành tirthankara; họ đi thẳng theo
đường của mình mà không cần điều này. Chỉ có ít người
mới trở thành những bậc thầy như thế và số này cũng
được cố định từ trước. Có lí do tại sao số này lại được
tiền định. Nó được tiền định sao cho với một thời đại đặc
biệt, chừng ấy tirthankara là đủ cho ngần ấy người.
Cho nên ham muốn trở thành một tirthankara phải rất
mạnh mẽ. Nó là ham muốn cuối cùng, và nếu nó tuột qua,
bậc thầy cũng qua luôn. Cho nên hạt mầm của ham muốn
là "Tôi muốn truyền giảng cho người khác" phải rất
mạnh. Người ta phải cảm thấy, "Tôi sẽ chỉ cho người
khác con đường; tôi sẽ giải thích cho người khác, tôi phải
quay lại vì người khác." Thế thì tirthankara có thể giáng
xuống trong thể vật lí. Nhưng điều này có nghĩa là thể thứ
tư phải chưa bị bỏ đi. Cái móc này có thể nhanh chóng
bắt rễ; do đó, việc duy trì nó ở đó là nhiệm vụ rất khó
khăn.
Có một quá trình tạo ra tirthankara: họ được tạo ra
trong các trường phái bí ẩn, đấy không phải là biến cố cá
nhân. Theo cùng cách thức này mà một trường phái vận
hành, một nhóm những người tìm kiếm cùng thiền. Thế
rồi trong số họ, họ tìm ra một người biểu lộ đầy hứa hẹn
trở thành tirthankara; người đó có thể diễn đạt điều mình
biết, người đó có thể truyền đạt điều người đó biết, và
người đó có thể trao đổi điều đó với người khác. Cho nên
toàn bộ trường phái bắt đầu làm việc trên thể thứ tư của
người đó. Người đó được bảo phải tập trung vào thể thứ
tư của mình để cho nó không tan rã vì nó sẽ có ích cho
tương lai. Vậy, người này sẽ được dạy cách thức và
phương tiện gìn giữ thể thứ tư của mình. Và nhiều lao
động cùng công việc vất vả phải được tiến hành để gìn
giữ thể này hơn là trong việc vứt bỏ nó.
Buông bỏ và cứ để cho thể thứ tư tan biến dễ dàng
làm sao. Khi tất cả các neo đã nhổ lên rồi, khi tất cả các
cánh buồm đã được giương lên và căng phồng gió, khi đại
dương mênh mông vẫy gọi và có phúc lạc và phúc lạc tại
mọi nơi, bạn có thể tưởng tượng phải khó khăn thế nào để
bảo vệ cho một cái móc nhỏ bé. Chính bởi lí do này mà
khi nói tới một tirthankara chúng ta nói: "Thầy thật là
người từ bi nhất."
Đây là lí do duy nhất tại sao một tirthankara lại được
gọi như vậy. Phần vĩ đại nhất của từ bi của ông ấy là ở
chỗ khi mọi thứ đã sẵn sàng cho việc ra đi của ông ấy,
ông ấy ở lại vì những người vẫn còn ở trên bờ và thuyền
của họ chưa sẵn sàng giương buồm. Thuyền của ông ấy
đã hoàn toàn sẵn sàng; vậy mà ông ấy mang đau khổ của
bờ này, ông ấy chịu đựng những viên đá ném và lời chửi
rủa. Ông ấy có thể rời đi vào bất kì lúc nào; con thuyền
của ông ấy đã sẵn sàng giương buồm. Vậy mà không phải
bởi lí do của riêng mình, ông ấy ưa thích ở lại giữa những
người có khả năng gây phiền nhiễu và thậm chí còn giết
ông ấy nữa. Cho nên từ bi của ông ấy thật là không giới
hạn. Nhưng ham muốn về từ bi này được dạy trong các
trường phái bí mật. Do đó, các thiền nhân làm việc riêng
lẻ không thể nào trở thành tirthankara được, bởi vì khi cái
móc bị mất đi, họ sẽ không biết gì về nó. Chỉ khi con
thuyền đã giương buồm, họ mới nhận ra rằng bến bờ bị
bỏ lại xa đằng sau.
Ngay cả những người đã đạt tới bình diện thứ sáu -
những người mà chúng ta gọi là Ishvara - đôi khi cũng
giúp vào việc giáng sinh ra một tirthankara. Khi họ tìm
thấy một người đủ xứng đáng để không bị biến mất khỏi
bờ bên này, họ cố gắng theo cả ngàn cách để giữ người
này lại. Thậm chí các thần người, như tôi đã nói, cũng có
ích trong việc làm tốt, cũng tham dự vào việc này. Họ
tiếp tục gây ảnh hưởng lên người như vậy để giữ lấy một
cái móc. Họ bảo người đó, "Chúng tôi có thể thấy cái
móc; bạn thì không thấy. Nhưng bạn phải giữ lấy nó."
Cho nên thế giới này không phải là hỗn loạn, vô trật
tự. Có những thu xếp sâu sắc; có trật tự bên trong trật tự.
Những nỗ lực thuộc đủ mọi loại vẫn thường xuyên được
tiến hành - nhưng nhiều khi những kế hoạch đó cũng bị
hỏng, như trong trường hợp của Krishnamurti. Những nỗ
lực lớn đã được tiến hành với ông ấy để cố định một cái
móc, nhưng họ đã thất bại. Toàn bộ trường phái những
người tìm kiếm đã tiến hành những nỗ lực cực kì to lớn
để gìn giữ một cái móc trong thể thứ tư của ông, nhưng
tất cả những nỗ lực đó đều thất bại. Những người khác đã
giúp tay vào nỗ lực này. Cũng có cả bàn tay của các linh
hồn cao hơn đứng đằng sau điều này - của những người ở
bình diện thứ sáu và thứ năm, và những người đã thức
tỉnh ở bình diện thứ tư. Hàng nghìn người đã tham gia
vào đó.
Krishnamurti đã được chọn cùng với vài đứa trẻ khác,
những đứa đã biểu lộ hứa hẹn trở thành tirthankara,
nhưng cơ hội đã trượt qua mà không đem lại kết quả. Cái
móc không thể nào được cố định, và do vậy thế giới đã
mất đi ích lợi của một tirthankara mà có thể đã có qua
Krishnamurti. Nhưng đó lại là câu chuyện khác...
*************************************************************************************************************
#8 Chiều hướng bí truyền của mật tông
Thầy đã nói rằng khác biệt giữa nam và nữ chấm dứt
với thể thứ năm. Làm sao các cực điện dương và âm
của bốn thể đầu lại trở nên được điều chỉnh để đem
lại biến cố này? Xin thầy giải thích chi tiết điều này.
Trong hoàn cảnh của các thể nam và nữ, bạn đã được
nghe rằng thể thứ nhất của nữ là thể nữ tính trong khi thể
thứ hai lại là nam tính, và đích xác điều ngược lại là trong
trường hợp cho nam giới. Thế thì thể thứ ba của đàn bà
lại là nữ tính và thể thứ tư là nam tính. Tôi đã nói với các
bạn trước đây rằng thể nữ tính là không đầy đủ; thể nam
tính cũng vậy. Hai thể này đi đôi với nhau tạo nên một thể
trọn vẹn. Sự hợp nhất này là có thể theo hai cách. Nếu
đàn ông bên ngoài tổ hợp với đàn bà bên ngoài, cùng
nhau họ tạo ra một đơn vị. Với đơn vị này công việc của
sinh sản, của tự nhiên được tiếp diễn. Nếu đàn ông hay
đàn bà quay vào trong và hợp nhất với nữ hay nam bên
trong, một cuộc hành trình khác bắt đầu mà chính là con
đường hướng tới điều thiêng liêng. Tuy nhiên hợp nhất
bên ngoài là cuộc hành trình hướng tới tự nhiên.
Khi thể thứ nhất của nam gặp thể thứ hai của anh ấy,
thể ê te vốn là nữ tính, hai thể này tạo thành một đơn vị.
Khi thể thứ nhất của nữ gặp gỡ với thể thứ hai của cô ấy,
thể ê te mà vốn là yếu tố nam, chúng cũng tạo ra một đơn
vị. Đây là hợp nhất kì diệu. Hợp nhất bên ngoài chỉ có thể
là nhất thời. Nó cho một thời kì hoan lạc rất ngắn ngủi,
thế rồi nỗi buồn của sự phân tách lớn hơn vô hạn. Và nỗi
buồn này đem tới khao khát mới mẻ cho cùng một hoan
lạc mà lại tỏ ra nhất thời; thế rồi lại có chia li lâu dài và
đau khổ. Cho nên hoan lạc bên ngoài chỉ có thể là tạm
thời trong khi hợp nhất bên trong kéo dài mãi mãi. Một
khi nó xảy ra, nó chẳng bao giờ ngắt quãng.
Do đó, chừng nào mà hợp nhất bên trong còn chưa
xảy ra, vẫn còn nỗi buồn và nỗi đau. Luồng hạnh phúc bắt
đầu tuôn chảy bên trong ngay khi hợp nhất bên trong xảy
ra. Hoan lạc này cũng tương tự như điều được kinh
nghiệm một cách nhất thời trong hợp nhất bên ngoài xảy
ra trong khi làm tình - hợp nhất quá nhỏ bé ngắn ngủi đến
mức nó gần như bị trôi qua trước khi nó bắt đầu. Nhiều
lần nó thậm chí còn không được kinh nghiệm qua; nó xảy
ra mau lẹ đến mức là nó chẳng được kinh nghiệm chút
nào.
Theo quan điểm của yoga, khi giao hợp bên trong trở
thành có thể, bản năng về giao hợp bên ngoài lập tức biến
mất. Lí do là ở chỗ hợp nhất bên trong này hoàn toàn thoả
mãn và mãn nguyện. Những hình ảnh về giao cấu được
vẽ trên tường các đền là những chỉ dẫn theo hướng này.
Giao hợp bên trong là quá trình thiền. Do đó, đối lập
nảy sinh giữa khái niệm về giao hợp bên trong và bên
ngoài. Điều này là do sự kiện là một khi người ta đi vào
giao hợp bên trong, sẽ mất tất cả mối quan tâm tới giao
hợp bên ngoài.
Điều này cũng nên nhớ: khi người nữ hợp nhất với
thể ê te nam tính của mình, đơn vị kết quả sẽ là nữ tính;
khi người nam kết hợp với thể ê te nữ tính của mình, đơn
vị kết quả là nam tính. Điều này là bởi vì thể thứ nhất hấp
thu thể thứ hai: thể thứ hai gộp vào trong thể thứ nhất.
Nhưng bây giờ các thể này là nam tính và nữ tính theo
nghĩa rất khác. Đấy không phải là đàn ông bên ngoài và
đàn bà bên ngoài mà chúng ta vẫn thấy: đàn ông bên
ngoài là không đầy đủ, và do đó không thoải mái, không
thoả mãn. Đàn bà bên ngoài cũng không đầy đủ, và do đó
bất ổn, không mãn nguyện.
Nếu chúng ta xem xét lại sự phát triển của cuộc sống
trên trái đất, chúng ta sẽ thấy rằng trong những tổ chức
nguyên thuỷ, cả hai tính đực và cái đều hiện diện. Chẳng
hạn, con amip: con amip nửa đực nửa cái. Do đó, không
có sinh vật nào khác còn được thoả mãn hơn trên thế giới
này. Không có những điều như không hài lòng nảy sinh
trong con amip. Đây cũng là lí do tại sao nó lại không
phát triển được: nó bao giờ cũng cứ còn là con amip. Cho
nên chính những tổ chức sơ cấp trong sự phát triển sinh
học không có các thể tách rời cho từng giới. Cả đực và cái
cùng được chứa trong một thân thể.
Khi thể thứ nhất của đàn bà hợp nhất với thể ê te,
nam tính của cô ấy, một người đàn bà mới đi vào hiện
hữu, một người đàn bà trọn vẹn. Chúng ta không có ý
tưởng nào về nhân cách của người đàn bà trọn vẹn bởi vì
tất cả các đàn bà chúng ta biết đều không trọn vẹn. Chúng
ta chẳng có ước lượng nào về người đàn ông trọn vẹn bởi
vì tất cả những người đàn ông chúng ta biết đều không
trọn vẹn; tất cả họ chỉ là một nửa. Ngay khi đơn vị này
được hoàn tất, thoả mãn tối cao tràn ngập - thoả mãn mà
trong đó tất cả những không bằng lòng đều giảm đi và
cuối cùng biến mất. Bây giờ sẽ khó cho người đàn ông
trọn vẹn và người đàn bà trọn vẹn này thiết lập bất kì mối
quan hệ bên ngoài nào, bởi vì ở bên ngoài chỉ có nửa đàn
ông và nửa đàn bà mà với những người này, nhân cách
của họ không cảm thấy hài hoà. Tuy nhiên, lại có thể cho
người đàn ông hoàn hảo - người có hai thể đầu đã hợp
nhất bên trong - tạo nên mối quan hệ với người đàn bà
hoàn hảo, người có hai thể đầu cũng đã hợp nhất.
Mật tông đã thử nhiều thực nghiệm cho mối quan hệ
này. Do đó, mật tông đã phải đi qua rất nhiều phiền nhiễu
và hiểu lầm. Chúng ta không thể nào hiểu được người
theo mật tông làm gì - một cách tự nhiên điều ấy vượt ra
ngoài hiểu biết của chúng ta. Khi người đàn bà và người
đàn ông được hợp nhất với thể bổ sung bên trong mà làm
tình dưới hoàn cảnh mật tông, chẳng có gì khác hơn việc
giao hợp bình thường đối với chúng ta cả. Chúng ta chẳng
bao giờ đánh giá được điều gì đã xảy ra.
Nhưng đây là một loại biến cố rất khác thường, và
điều này là giúp đỡ rất lớn lao cho người tìm kiếm. Nó có
ý nghĩa trọng đại với người đó. Việc hợp nhất bên ngoài
của người đàn ông trọn vẹn và người đàn bà trọn vẹn là
việc bắt đầu cho gặp gỡ mới; nó là cuộc hành trình hướng
về hợp nhất mới. Một loại hành trình đã qua đi: người đàn
bà không đầy đủ và người đàn ông không đầy đủ đã được
làm thành đầy đủ. Sự bình ổn mãn nguyện đặc biệt đã
được đạt tới, bởi vì bây giờ không còn ý nghĩ về ham
muốn.
Khi người đàn ông trọn vẹn và người đàn bà trọn vẹn
gặp nhau theo cách này, lần đầu tiên họ kinh nghiệm phúc
lạc của việc hợp nhất của hai sự hiện hữu. Thế thì họ bắt
đầu hiểu rằng nếu một sự hợp nhất hoàn hảo như thế có
thể xảy ra bên trong họ, sẽ có dòng thác phúc lạc vô biên.
Người nửa đàn ông hưởng thú việc hợp nhất với nửa đàn
bà; thế rồi người đó hợp nhất với nửa đàn bà bên trong
mình và người đó kinh nghiệm niềm phúc lạc vô hạn. Thế
rồi người đàn ông trọn vẹn hợp nhất với người đàn bà
trọn vẹn. Thế thì điều logic là người đó nên lên đường đạt
tới người đàn bà trọn vẹn bên trong mình, cho nên người
đó lên đường tìm kiếm người đàn bà trọn vẹn bên trong
nơi sự gặp gỡ của các thể thú ba và thứ tư xảy ra.
Thể thứ ba của đàn ông lại là nam tính và thể thứ tư là
nữ tính; thể thứ ba của đàn bà là nữ tính và thể thứ tư là
nam tính. Mật tông đã chú ý thấy rằng đàn ông không trì
trệ lại sau khi đạt tới hoàn thiện thứ nhất. Có nhiều loại
hoàn thiện bên trong chúng ta. Hoàn thiện không bao giờ
là cản trở, nhưng có nhiều loại hoàn thiện mà lại là không
hoàn thiện nếu so với những hoàn thiện tiếp sau còn nằm
ở phía trước. Tuy nhiên, chúng là hoàn thiện trong mối
quan hệ với những cái chưa hoàn thiện trước đó. Những
cái chưa hoàn thiện trước đó có thể biến mất, nhưng
chúng ta vẫn không có ý tưởng gì về những hoàn thiện
lớn hơn còn nằm ở phía trước. Điều này có thể tạo ra trở
ngại.
Do đó, nhiều phương pháp đáng ngạc nhiên đã được
phát triển trong mật tông mà không thể nào hiểu ngay
được. Chẳng hạn, khi có giao hợp giữa người đàn ông
trọn vẹn và người đàn bà trọn vẹn, sẽ không có việc mất
năng lượng: không thể mất được, bởi vì từng người đã
hình thành nên một mạch trọn vẹn bên trong bản thân
mình. Sẽ không có việc tiết ra năng lượng từ các tình
nhân; lần đầu tiên họ sẽ kinh nghiệm niềm hoan lạc mà
không mất năng lượng.
Hoan lạc được kinh nghiệm trong giao hợp vật lí vào
lúc cực thích, bao giờ cũng có theo sau là kinh nghiệm
nhọc mệt. Cái tối tăm, cái khổ não, mệt mỏi, ăn năn theo
sau với việc mất năng lượng là điều không tránh khỏi.
Cực thích trôi qua trong thoáng chốc nhưng việc mất
năng lượng lại xảy ra mà phải hai mươi bốn đến bốn
mươi tám tiếng hay hơn nữa mới hồi phục lại được.
Chừng nào mà năng lượng còn chưa được phục hồi lại,
tâm trí vẫn còn tràn đầy bi thảm.
Mật tông đã rút ra những phương pháp kì lạ và phi
thường cho việc giao hợp không phóng tinh, và nó đã làm
việc rất dũng cảm theo hướng đó. Chúng ta sẽ phải nói
riêng về chủ đề này vào một lúc khác nào đó vì thực hành
mật tông tạo nên một mạng lưới đầy đủ trong bản thân
nó. Và vì mạng lưới này đã bị phá vỡ nên toàn bộ khoa
học này dần trở thành bí truyền. Cũng vậy, khó mà nói về
thực hành mật tông một cách cởi mở và trực tiếp, bởi vì
niềm tin đạo đức của chúng ta đã làm cho điều này thành
rất khó khăn. Hơn nữa, những người "khôn ngoan" ngu
đần của chúng ta, những người chẳng biết gì nhưng lại có
khả năng nói về bất kì cái gì đã làm cho việc gìn giữ sống
động bất kì trí huệ quí giá nào thành không thể được.
Việc thực hành của mật tông do vậy đã phải bị từ bỏ hoặc
bằng không, nó phải được che giấu và những thực nghiệm
mật tông phải đi ngầm. Bởi lí do này mà dòng chảy của
tri thức mật tông không còn tuôn chảy rõ ràng trong cuộc
sống chúng ta.
Việc giao hợp giữa người đàn ông trọn vẹn và người
đàn bà trọn vẹn là một loại rất khác biệt hoàn toàn. Đấy là
việc giao hợp mà trong đó không có việc mất năng lượng.
Một biến cố hoàn toàn mới xảy ra mà chỉ có thể được
hướng dẫn tới. Khi người đàn ông không đầy đủ và người
đàn bà không đầy đủ gặp nhau, cả hai cùng trải qua việc
mất năng lượng. Phần năng lượng sau việc giao hợp của
họ ít hơn rất nhiều so với trước lúc đó.
Hoàn toàn ngược lại là trường hợp hợp nhất của
người đàn ông trọn vẹn và người đàn bà trọn vẹn. Phần
năng lượng sau khi giao hợp của họ sẽ còn nhiều hơn
trước đó. Năng lượng của cả hai đều tăng lên. Năng lượng
này nằm bên trong họ, và nó trở nên được thức tỉnh và
kích hoạt bởi việc ở gần bạn tình kia. Trong hành động
dục thông thường, việc phóng tinh xảy ra bởi việc tới với
nhau của đàn ông và đàn bà. Trong cuộc gặp gỡ thứ hai
của người đàn ông trọn vẹn và người đàn bà trọn vẹn,
năng lượng cá nhân của riêng họ trở nên thức tỉnh và kích
hoạt trong sự hiện diện của người khác; bất kì cái gì còn
nằm ẩn bên trong cái ta của riêng từng người đều biểu lộ
đầy đủ. Từ biến cố này có hướng dẫn về sự hợp nhất của
người đàn ông trọn vẹn và người đàn bà trọn vẹn có thể
xảy ra ở bên trong. Sự hợp nhất thứ nhất là hợp nhất của
hai con người không hoàn chỉnh. Bây giờ giai đoạn thứ
hai của công trình bắt đầu đem tới việc gắn các thể thứ ba
và thứ tư.
Thể thứ ba của đàn ông là nam tính và thể thứ tư là
nữ tính, thể thứ ba của của đàn bà là nữ tính và thể thứ tư
là nam tính. Bây giờ trong việc hợp nhất của thể thứ ba và
thứ tư, chỉ nam tính sẽ còn lại bên trong nam; thể thứ ba
của anh ta sẽ trở thành nổi bật. Bên trong nữ, nữ tính sẽ
thành nổi bật. Thế thì hai nữ trọn vẹn sẽ gộp thành một,
bởi vì bây giờ sẽ không có biên giới giữa hai và phân chia
chúng. Thể nam là cần để giữ chúng cách ra. Tương tự,
giữa hai thể nam, thể nữ là cần có để giữ một khoảng
cách giữa chúng.
Khi nữ tính của các thể thứ nhất và thứ hai gặp nữ
tính của các thể thứ ba và thứ tư, tại chính khoảnh khắc
gặp gỡ chúng sẽ gộp lại làm một. Thế thì người đàn bà
đạt tới nữ tính hoàn hảo gấp đôi. Không một nữ tính nào
lớn hơn còn có thể có nữa, bởi vì sau điều này, không còn
trưởng thành thêm nữa của nữ tính. Đây sẽ là trạng thái
nữ hoàn hảo. Đây là người đàn bà hoàn hảo, người không
có ham muốn nào cho dù là để gặp người đàn ông hoàn
hảo.
Trong tính trọn vẹn đầu tiên có ca tụng về việc gặp gỡ
của người trọn vẹn thứ hai, và gặp gỡ này đã tạo ra nhiều
năng lượng hơn. Bây giờ điều đó nữa cũng trôi qua. Bây
giờ thậm chí đến việc gặp gỡ với Thượng đế cũng sẽ
thành vô nghĩa theo một nghĩa nào đó. Bên trong người
đàn ông cả hai nam tính sẽ gộp lại thành một. Khi bốn thể
hợp nhất lại, cái còn lại trong nam là nam và cái còn lại
trong nữ là nữ. Từ thể thứ năm trở đi, không có nam và
không có nữ nữa.
Do đó, biến cố xảy ra trong người đàn ông và người
đàn bà sau bình diện thứ tư sẽ khác nhau; nó nhất định là
như thế. Biến cố thì là một nhưng thái độ của họ đối với
nó là khác nhau. Đàn ông vẫn sẽ năng nổ và đàn bà vẫn sẽ
buông xuôi. Sau khi đạt tới thể thứ tư, đàn bà buông bỏ
hoàn toàn; thậm chí không có đến một li được giữ lại
trong buông xuôi của cô ấy. Buông xuôi này, buông bỏ
này, sẽ đưa cô ấy tới cuộc hành trình của bình diện thứ
năm nơi đàn bà không còn là đàn bà nữa bởi vì để còn là
đàn bà, cần phải giữ lại cái gì đó.
Thực tế, chúng ta là cái chúng ta đang là bởi vì chúng
ta giữ lại một chút ít của chính mình. Nếu như chúng ta
buông bỏ mình hoàn toàn, chúng ta sẽ trở thành cái gì đó
mà chúng ta chưa bao giờ là như thế trước đây. Nhưng có
việc giữ lại trong sự hiện hữu của người ta vào mọi lúc.
Nếu người đàn bà chịu nhượng bộ hoàn toàn ngay cả đối
với một người đàn ông bình thường, sẽ có kết tinh bên
trong cô ấy và cô ấy sẽ vượt ra ngoài thể thứ tư. Đây là lí
do tại sao đàn bà có nhiều lần đi qua thể thứ tư với tình
yêu của mình với những người đàn ông rất bình thường.
Từ sati không có ý nghĩa bí truyền nào khác. Sati
không có nghĩa là người đàn bà mà mắt không nhìn vào
người đàn ông khác; sati có nghĩa là người đàn bà mà
không còn nhân tố đàn bà bên trong mình để nhìn vào
người đàn ông khác.
Nếu người đàn bà trở thành buông xuôi hoàn toàn
trong tình yêu thậm chí với người đàn ông bình thường,
cô ấy chẳng phải đi qua cuộc hành trình dài này. Tất cả
bốn thể của cô ấy sẽ tổ hợp lại và đứng ngay ở ngưỡng
cửa của bình diện thứ năm. Do đó, chính những đàn bà
trải qua kinh nghiệm này sẽ nói, "Chồng là Thượng đế."
Điều này không có nghĩa là họ thực tại nghĩ rằng chồng là
Thượng đế; điều đó có nghĩa là cánh cửa của bình diện
thứ năm đã mở ra đối với họ qua trung gian người chồng.
Không có sai lầm nào trong điều họ nói; điều họ nói tuyệt
đối đúng đắn. Điều mà thiền nhân khác thu được qua nỗ
lực lớn lao, cô ấy thu được dễ dàng bằng tình yêu của
mình. Tình yêu với một người đưa cô ấy tới trạng thái đó.
Ta hãy lấy trường hợp của Sita: cô ấy thuộc về loại
những đàn bà mà chúng ta có thể gọi là sati. Bây giờ việc
buông xuôi của Sita là duy nhất. Từ quan điểm của việc
buông xuôi, cô ấy là hoàn hảo; việc buông xuôi của cô ấy
là toàn bộ. Ravana là người đàn ông không đầy đủ trong
khi Sita là người đàn bà trọn vẹn. Sự toả sáng của người
đàn bà trọn vẹn là ở chỗ người đàn ông không đầy đủ
không dám động tới cô ấy. Người đó thậm chí không thể
nhìn thẳng vào cô ấy, và người đó chỉ có thể nhìn người
đàn bà không đầy đủ theo con mắt dục tính.
Khi người đàn ông tới người đàn bà về mặt dục,
người đàn ông không phải chịu trách nhiệm hoàn toàn.
Cái không đầy đủ này của người đàn bà cũng là trách
nhiệm không tránh khỏi. Khi người đàn ông chạm có tính
dâm dục vào người đàn bà trong đám đông, anh ta cũng
chỉ có trách nhiệm một nửa. Người đàn bà mời chào, điều
đó cũng có trách nhiệm tương đương. Cô ấy gợi ra điều
đó, mời chào điều đó, và bởi vì cô ấy thụ động nên hăm
hở của cô ấy chẳng ai để ý tới. Vì người đàn ông là chủ
động nên hiển nhiên là anh ta chạm vào cô ấy. Nhưng
chúng ta không thể thấy lời mời của phía bên kia cho điều
đó.
Ravana thậm chí không thể ngước mắt lên nhìn Sita
và Ramana chẳng hiểu ý nghĩa gì về Sita. Vậy mà sau
chiến tranh Rama cứ khăng khăng đòi thử lửa đối với Sita
để xác minh sự thuần khiết của cô. Sita không chống lại.
Nếu như cô ấy từ chối trải qua phép thử, cô ấy sẽ mất tư
thế là sati. Cô ấy cũng có thể đòi hỏi rằng cả hai người
đều phải đi qua phép thử lửa, bởi vì nếu cô ấy có một
mình với người đàn ông khác, Rama nữa cũng lang thang
trong rừng một mình - và ai biết được anh ta có thể gặp
đàn bà nào!
Nhưng câu hỏi này chưa bao giờ nảy sinh trong tâm
trí Sita. Cô ấy sẵn sàng đi qua phép thử lửa. Nếu như cô
ấy hỏi về uy quyền của Rama dù chỉ một lần, cô ấy đã rơi
khỏi vị thế của mình - bởi vì thế thì việc buông xuôi sẽ
không còn là toàn bộ nữa; sẽ có cái gì đó hơi thiếu đi
trong nó. Và nếu mà cô ấy đưa ra câu hỏi dù chỉ một lần
và rồi đi qua lửa, cô ấy sẽ bị thiêu cháy; cô ấy sẽ bị tổn
thương. Nhưng buông xuôi của cô ấy là toàn bộ. Với cô
ấy không có người đàn ông khác. Tuy nhiên chúng ta
nghĩ đấy là phép màu nên cô ấy đi qua lửa mà không hề
hấn gì.
Nếu người bình thường cũng đi qua lửa trong khi ở
một trạng thái bên trong đặc biệt, người đó sẽ không bị
cháy. Nếu trong trạng thái thôi miên một người được bảo
rằng lửa sẽ không thiêu cháy anh ta, anh ta có thể bước
vào lửa và không bị cháy.
Một thầy tu khổ hạnh bước trên lửa trong một trạng
thái tâm trí đặc biệt khi mạch năng lượng là hoàn toàn ở
bên trong người đó. Mạch năng lượng này bị ngắt ra bởi
hoài nghi. Nếu một ý nghĩ hoài nghi thoáng qua tâm trí
ông ta dù chỉ một lần, nếu ông ấy hoài nghi rằng có thể
ông ấy sẽ bị cháy, thế thì mạch bị ngắt và ông ấy nhất
định sẽ cháy. Nếu hai thầy tu khổ hạnh nhảy vào trong
đống lửa và thấy họ bạn có cảm giác, "Nếu hai người này
có thể nhảy vào và không hề hấn gì, làm sao mình có thể
cháy được?" thế thì nếu bạn cũng nhảy vào đống lửa đó,
bạn cũng sẽ không bị làm sao cả. Một đoàn người vậy có
thể đi qua lửa và không bị cháy. Người mà hoài nghi thì
sẽ không dám đi vào trong lửa; người đó sẽ đứng ngoài.
"Nếu biết bao nhiêu người chẳng làm sao cả, sao lửa lại
làm hại mình được?" Cho nên bởi lí do này mà người đó
có thể đi qua đống lửa và lửa không hề chạm tới anh ta.
Nếu mạch bên trong chúng ta là trọn vẹn, thậm chí
lửa cũng chẳng có cách nào chạm vào chúng ta được. Cho
nên nếu lửa không ảnh hưởng tới Sita, điều đó hoàn toàn
quan niệm được. Sau phép thử lửa, khi Rama đuổi cô ấy
ra khỏi vương quốc, ngay cả thế thì cô ấy cũng chẳng hỏi
lại Rama. Cô ấy đã đi qua phép thử lửa để chứng minh sự
trong sạch của mình. Nhưng buông xuôi của Sita là toàn
bộ, là trọn vẹn đến độ với cô ấy không có lí do gì để hỏi
cả.
Nếu người đàn bà trọn vẹn đạt tới sự hoàn thiện của
tình yêu với một người, cô ấy sẽ nhảy qua bốn bước đầu
của thực hành tâm linh. Với người đàn ông, rất khó bởi vì
anh ta không có tâm trí buông xuôi. Nhưng điều thú vị
cần biết là ở chỗ ngay cả tính năng nổ cũng có thể là hoàn
hảo. Tuy nhiên, với tính năng nổ là hoàn hảo, nhiều điều
khác vẫn phải tham gia vào chứ không phải chỉ có một
mình bạn. Tuy nhiên trong buông xuôi, bạn một mình
chịu trách nhiệm cho sự hoàn hảo của nó và những điều
khác chẳng thành vấn đề chút nào. Nếu tôi muốn buông
xuôi với ai đó, tôi có thể làm như vậy hoàn toàn mà chẳng
cần nói với người đó. Nhưng nếu tôi phải năng nổ hướng
tới ai đó, ai đó cũng sẽ phải tham dự vào trong kết quả
cuối cùng.
Do đó, trong bài nói của tôi về shaktipat, bạn có thể
cảm thấy rằng có điều gì đó hơi thiêu thiếu trong đàn bà,
rằng có điều gì đó hơi khó khăn khi có liên quan tới đàn
bà. Tôi đã nói với các bạn rằng có những qui tắc bù trừ
trong cuộc sống. Trong trường hợp của đàn bà, cái thiếu
sót của cô ấy được đền bù bởi khả năng của cô ấy trong
buông xuôi. Đàn ông chẳng bao giờ có thể yêu một cách
trọn vẹn dù cho người đó yêu ai đó đến đâu. Lí do là ở
chỗ anh ta năng nổ và ít có khả năng buông xuôi. Cho nên
nếu bốn thể đầu của đàn bà trở nên trọn vẹn và gộp lại
trong một đơn vị, cô ấy có thể buông xuôi rất dễ dàng ở
bình diện thứ năm. Và khi người đàn bà trong trạng thái
thứ tư trải qua hai bước giao hợp bên trong và trở thành
hoàn hảo, không sức mạnh nào trên trái đất này có thể
ngăn trở con đường của cô ấy. Thế thì không ai ngoại trừ
Thượng đế là tồn tại cho cô ấy. Thực tại, người mà cô ấy
yêu trong bốn thể đầu của mình cũng đã trở thành
Thượng đế cho cô ấy, nhưng bây giờ, dù bất kì cái gì,
cũng là Thượng đế cả.
Có một sự kiện đẹp trong cuộc đời của Meera. Một
lần cô ấy tới Vrindavan. Tại đó sư coi ngôi đền lớn không
nhìn nhận đàn bà, cho nên đàn bà không được phép vào
bên trong đền. Chuông trong tay, chìm ngập trong
Krishna của mình, thế là Meera đi thẳng vào bên trong.
Những người khác trong đền vội vã bảo cô ấy rằng ngôi
đền là đóng với đàn bà vì sư không nhìn nhận đàn bà. Với
điều này Meera nói, "Điều ấy thật rất kì lạ. Tôi đang có
ấn tượng là chỉ có một người đàn ông trên thế giới này -
Krishna. Ai là người đàn ông khác người này? Còn có
người đàn ông khác sao? Tôi muốn thấy ông ta."
Người ta chạy xô tới sư và kể cho ông ấy về Meera.
Khi ông ấy nghe thấy tất cả những điều họ đã nói, ông ấy
chạy lại chỗ Meera, quì xuống dưới chân cô, và nói, "Thật
là vô nghĩa để gọi cô là đàn bà, người chỉ có một người
đàn ông duy nhất. Vấn đề đàn ông và đàn bà đã chấm dứt
cho cô. Tôi xin chạm chân cô và xin được tha thứ. Nhìn
người đàn bà bình thường tôi cứ coi mình là đàn ông.
Nhưng với người đàn bà có phẩm chất như cô, việc là đàn
ông của tôi chẳng có nghĩa gì cả."
Khi đàn ông đạt tới thể thứ tư, người đó trở thành
người hoàn chỉnh. Người đó sẽ phải trải qua hai bước đi
tới để đạt đến hoàn chỉnh này. Từ đó trở đi, không còn
đàn bà cho người đó nữa; từ đàn bà chẳng còn mang ý
nghĩa gì cho người đó. Bây giờ người đó chỉ còn là một
lực năng nổ, cũng giống như đàn bà đã đạt tới tính đàn bà
hoàn chỉnh trong thể thứ tư, trở thành năng lượng buông
xuôi duy nhất. Bây giờ họ chỉ còn là năng lượng của năng
nổ và năng lượng của buông xuôi tương ứng. Bây giờ họ
không còn ôm giữ cái tên của đàn ông hay đàn bà; họ chỉ
còn là năng lượng.
Tính năng nổ của đàn ông đã phát triển trong nhiều
công phu yoga khác nhau và buông xuôi của đàn bà nở
hoa trong nhiều con đường khác nhau của bhakti, sùng
kính. Buông xuôi trở thành bhakti, năng nổ trở thành
yoga. Cả nam và nữ đều là như nhau; không có khác biệt
giữa họ bây giờ nữa. Khác biệt giữa đàn ông và đàn bà
bây giờ đơn thuần là ở bên ngoài và chỉ áp dụng cho thể
vật lí. Bây giờ, dù giọt nước rơi vào trong đại dương hay
đại dương rơi vào trong giọt nước, kết quả cuối cùng là
một. Giọt của đàn ông sẽ nhảy vào đại dương và hội nhập
với nó. Cái giọt của đàn bà sẽ trở thành vực thẳm và gọi
toàn bộ đại dương đổ vào cô ấy. Cô ấy sẽ buông xuôi và
toàn bộ đại dương sẽ dồn vào trong cô ấy.
Ngay cả bây giờ cô ấy cũng mang tính âm, cô ấy là
hoàn toàn âm. Cô ấy là bụng mẹ ôm giữ toàn bộ đại
dương bên trong nó. Toàn bộ năng lượng của vũ trụ sẽ đi
vào trong cô ấy. Đàn ông, cho dù ở giai đoạn này, cũng
không thể nào tiếp nhận được. Người đó vẫn duy trì phẩm
chất sức mạnh, cho nên người đó sẽ nhảy và chìm đắm
trong đại dương. Trong chiều sâu riêng tư của bản thể
mình nhân cách của họ sẽ mang khác biệt nam-nữ - cho
đến ngay chính điểm cuối của thể thứ tư.
Tuy nhiên thực tại của bình diện thứ năm hoàn toàn
khác biệt. Chỉ linh hồn là còn lại. Không còn bất kì phân
biệt gì dựa trên giới tính nữa, và từ đó trở đi cuộc hành
trình là như nhau với tất cả mọi người. Cho đến bình diện
thứ tư, vẫn còn khác biệt, và điều đó nữa cũng chỉ là vấn
đề liệu giọt nước rơi vào trong đại dương hay đại dương
rơi vào trong giọt nước. Nhưng kết quả cuối cùng là như
nhau. Không có gì khác biệt liệu giọt nước rơi vào trong
đại dương hay đại dương rơi vào trong giọt nước. Tuy
nhiên cho tới giới hạn cuối cùng của thể thứ tư, khác biệt
là rất rõ ràng. Tại đó nếu người đàn bà muốn nhảy vào
trong đại dương, cô ấy sẽ tạo ra khó khăn cho chính mình,
và nếu người đàn ông muốn buông xuôi, anh ta sẽ tự
mình tiếp đất xuống rắc rối. Cho nên bạn nên nhận biết về
khả năng của những lỗi lầm như thế.
#8Trong một bài nói của Thầy, Thầy đã nói rằng giao
hợp được kéo dài dẫn tới việc hình thành một mạch
điện giữa đàn ông và đàn bà. Mạch này là gì, làm sao
nó được hình thành và ích lợi của nó là gì trong mối
quan hệ với bốn thể đầu? Cũng vậy, chừng nào còn
có liên quan tới đơn độc của thiền nhân, hình thái
của biến cố nói trên là gì?
Như tôi đã nói trước đây, đàn bà là một nửa và đàn
ông là một nửa. Cả hai đều là năng lượng, cả hai đều là
điện. Đàn bà là cực âm, đàn ông là cực dương. Bất kì khi
nào cực âm và cực dương của điện gặp gỡ nhau và tạo
nên mạch điện, ánh sáng được tạo ra. Ánh sáng này có
nhiều loại khác nhau: nó có thể không thấy được chút
nào, nó có thể đôi khi mới thấy được, hay nó cũng có thể
là thấy được đối với ai đó và không thấy được với người
khác. Nhưng mạch điện được tạo thành là như nhau.
Nhưng hợp nhất đàn ông và đàn bà nhất thời đến độ ngay
khi mạch này được tạo ra, nó bị ngắt ngay. Do đó có
những phương pháp và hệ thống kéo dài việc giao hợp.
Nếu việc giao hợp vượt quá một giờ rưỡi, có thể thấy
mạch điện chạy vòng quanh đôi này. Nhiều bức tranh về
điều này đã được chụp ảnh. Có nhiều bộ lạc nguyên thuỷ
mà việc hợp nhất dục kéo dài; do đó mạch điện được hình
thành.
Thông thường rất khó tìm ra mạch năng lượng này
trong thế giới văn minh. Tâm trí càng căng thẳng, giao
hợp càng chóng vánh. Xuất tinh xảy ra nhanh hơn khi mà
tâm trí căng thẳng. Căng thẳng càng lớn, xuất tinh càng
nhanh, bởi vì tâm trí căng thẳng, không tìm kiếm việc
giao hợp mà chỉ để tiết xuất. Tại phương Tây dục không
có mục đích nào lớn hơn việc hắt hơi. Căng thẳng bị ném
đi, tải trọng được dỡ bỏ. Khi năng lượng được tống đi, tải
trọng được dỡ bỏ. Khi năng lượng được tống đi, bạn cảm
thấy được tiêu tan. Thảnh thơi là một điều, cảm thấy được
tiêu tan là điều hoàn toàn khác. Thảnh thơi nghĩa là năng
lượng ở bên trong và bạn đang nghỉ ngơi, còn cảm thấy
tiêu tan có nghĩa là năng lượng được ném đi và bạn nằm
đấy cạn kiệt. Bạn yếu đi với việc mất năng lượng và bạn
nghĩ bạn đang thảnh thơi.
Cho nên khi căng thẳng tăng lên ở phương Tây, dục
trở thành sự tiết xuất khỏi căng thẳng, việc thoát khỏi sức
ép của năng lượng bên trong. Có những nhà tư tưởng ở
phương Tây không sẵn sàng coi dục có giá trị gì nhiều
hơn hắt hơi. Mũi ngứa, bạn hắt hơi, và do vậy tâm trí
được làm nhẹ bớt. Tại phương Tây người ta không sẵn
sàng dành cho dục cái gì nhiều hơn điều này. Họ cũng là
đúng, bởi vì điều họ đang làm với dục, cũng chẳng nhiều
hơn điều này.
Tại phương Đông người ta cũng đang dần đi tới điểm
này... bởi vì phương Đông cũng đang trở nên căng thẳng.
Đâu đó, trong hang động núi non xa xôi, chúng ta có thể
bắt gặp một người không căng thẳng. Người đó sống
trong thế giới núi non và suối ngàn, cây cối và rừng rú, cứ
như là chưa từng bị nền văn minh động chạm tới. Tại đó,
thậm chí bây giờ, mạch năng lượng cũng được hình thành
trong giao hợp.
Có những phương pháp mật tông mà với nó bất kì ai
cũng có thể tạo ra mạch năng lượng như thế. Kinh
nghiệm về mạch này là tuyệt diệu bởi vì chỉ khi mạch
năng lượng được hình thành, bạn có được cảm giác về cái
một. Cái một này chưa bao giờ được kinh nghiệm tới
trước khi hình thành ra mạch này. Ngay khi mạch này
được hình thành, đôi lứa tham gia vào giao hợp không
còn là hai thực thể tách biệt nữa. Họ trở thành luồng của
một năng lượng, một sức mạnh. Cái gì đó được kinh
nghiệm khi nó tới rồi đi và xoay vòng; hai thực thể tách
biệt biến mất.
Tuỳ theo sự mạnh mẽ của mạch này, ham muốn giao
hợp sẽ kém dần và khoảng cách của nó sẽ tăng lên. Có thể
xảy ra là một khi mạch này được hình thành, trong một
năm tròn người ta có thể không muốn lặp lại giao hợp
nữa, bởi vì mãn nguyện đã xảy ra.
Hoặc ta hãy xem xét nó theo cách này: một người ăn
thịt rồi nôn ra. Thế thì người này sẽ không có tí gì thoả
mãn với bữa ăn cả. Thoả mãn xảy ra không phải bởi ăn
thức ăn mà bởi tiêu hoá nó. Nói chung chúng ta cảm thấy
rằng hành động ăn đem tới thoả mãn. Nó không phải như
vậy; thoả mãn chỉ tới khi thức ăn được tiêu hoá.
Giao hợp có hai kiểu: một kiểu đơn thuần là ăn và
kiểu kia là tiêu hoá. Điều nói chung chúng ta vẫn biết như
giao hợp, đơn thuần chỉ là ăn và nôn, chẳng có gì được
tiêu hoá cả. Nếu cái gì đó được tiêu hoá, thoả mãn của nó
sẽ dài và sâu. Tuy nhiên hấp thu xảy ra chỉ khi mạch năng
lượng được tạo thành. Mạch năng lượng chỉ ra rằng tâm
trí của cả hai bạn tình đã hợp nhất lại và trở nên bị hấp
thu vào lẫn nhau. Bây giờ không có hai; họ trở thành một.
Có hai thân thể nhưng năng lượng bên trong mỗi người
đã trở thành một; năng lượng đã nhảy qua nhảy lại và trộn
lẫn vào nhau.
Điều kiện hấp thu dục này để lại trạng thái thoả mãn
sâu sắc: đây là điều tôi muốn nói. Nó là rất có ích cho
yoga và cho thiền nhân. Nếu giao hợp bên trong đó là có
thể cho thiền nhân, nhu cầu về giao hợp trở nên được
giảm đi rất nhiều. Thế thì thời kì xen giữa sẽ để cho người
đó tự do đi vào cuộc hành trình bên trong. Một khi cuộc
hành trình bên trong bắt đầu và giao hợp bên trong xảy ra
với người đàn bà hay đàn ông bên trong, người đàn bà
bên ngoài trở thành vô dụng, người đàn ông bên ngoài trở
thành vô dụng.
Với người đã có gia đình thuật ngữ brachmacharya,
vô dục, có nghĩa là hành động giao hợp phải đã mãn
nguyện đến mức nó để lại nhiều năm ròng với
brachmacharya ở giữa. Một khi thời kì brachmacharya
này đã được đạt tới, người tìm kiếm bắt đầu cuộc hành
trình bên trong, người ngoài cần cho việc giao hợp phai
mờ dần đi.
Tôi đang nói rằng đây là trường hợp cho người có gia
đình. Đối với những người đã được điểm đạo thành
sannyas, loại sannyas truyền thống, đối với những người
không chấp nhận cuộc sống gia đình, ý nghĩa của
brachmacharya là antarmaithun, sự hợp nhất dục giữa
nam và nữ bên trong. Với họ có nhu cầu về giao hợp bên
trong. Một người như vậy sẽ phải trực tiếp bắt đầu tìm
phương tiện cho việc giao hợp bên trong, hoặc nếu
không, người đó sẽ tránh xa người đàn bà bên ngoài chỉ
trên danh nghĩa trong khi tâm trí người đó vẫn cứ đuổi
theo đàn bà, và người đó sẽ mất nhiều năng lượng trong
nỗ lực tránh né người đàn bà bên ngoài hơn là người đó bị
mất bởi việc giao hợp.
Cho nên con đường có chút khác biệt đối với
sannyasin truyền thống. Khác biệt chỉ là thế này: việc hợp
nhất dục với người đàn bà bên ngoài là bước khởi đầu cho
người có gia đình; thế rồi người đó gặp người đàn bà bên
trong ở bước thứ hai, trong khi sannyasin truyền thống lại
hợp nhất trực tiếp với người đàn bà bên trong bản thân
mình. Bước thứ nhất không dành cho người đó.
Do đó, khái niệm truyền thống về sannyas làm cho
bất kì ai và mọi người đều thành sannyasin là điều xuẩn
ngốc. Thực tại, việc điểm đạo trong sannyas truyền thống
chỉ có thể khi chúng ta có thể nhìn vào bên trong một
người để xem liệu thể thứ nhất của người đó có trong
trạng thái sẵn sàng gặp gỡ với người đàn bà của thể thứ
hai của người đó hay không. Nếu quả là như vậy, chỉ thế
thì việc điểm đạo thành brachmacharya mới được ban
cho; ngoài ra, điều này sẽ chỉ đem tới điên khùng mà
không cái gì khác cả.
Nhưng có những người cứ đi điểm đạo một cách bừa
bãi. Vị thầy này có một nghìn sannyasin, vị thầy kia có
hai nghìn người, và họ chẳng biết họ đang làm gì. Liệu
những người họ điểm đạo có sẵn sàng và thích hợp cho
việc giao hợp bên trong khi ở các trạng thái thiền không ?
Chẳng sẵn sàng chút nào cả - họ thậm chí còn không biết
rằng có cái gì giống như giao hợp bên trong nữa. Đây là lí
do tại sao, bất kì khi nào một sannyasin truyền thống tới
tôi, điều rắc rối sâu sắc và sâu kín nhất của người đó là về
dục. Những người có gia đình tôi gặp cũng có rắc rối
khác, nhưng tôi chưa bắt gặp một sannyasin truyền thống
nào mà điều rắc rối của người đó là ngoài dục.
Dục là một trong nhiều nỗi lo nghĩ của người có gia
đình, nhưng nó là một và và chỉ một nỗi ưu phiền của
sannyasin truyền thống. Do đó, toàn bộ tâm trí của người
đó đều tập trung vào xung quanh điểm này. Thầy của
người đó chỉ ra cho người đó nhiều phương thuốc để tự
cứu bản thân mình khỏi người đàn bà bên ngoài, nhưng
ông ấy cũng chẳng có ý tưởng nào về cách thiền nhân có
thể gặp gỡ người đàn bà bên trong. Do đó, vấn đề trở
thành không thể nào loại bỏ được người đàn bà bên ngoài.
Người đó chỉ có thể tạo ra những lí do để lảng tránh cô ấy
- và điều đó là rất rất khó.
Năng lượng sinh học phải di chuyển đi đâu đó. Nếu
nó có thể đi vào trong, chỉ thế thì nó mới có thể được
ngăn cản khỏi chảy ra ngoài. Nếu nó không đi vào trong,
nó nhất định sẽ chảy ra ngoài. Cũng chẳng có gì khác biệt
dù người đàn bà là bằng xương bằng thịt hay trong tưởng
tượng; nó có thể chảy ra với sự giúp đỡ của người đàn bà
tưởng tượng nữa. Điều tương tự cũng xảy ra cho đàn bà,
nhưng ở đây lại có chút ít khác biệt giữa hai loại người
mà cần phải ghi nhớ trong tâm.
Dục không phải là vấn đề lớn lắm với người tìm kiếm
nữ so với người tìm kiếm nam. Tôi có quen biết nhiều ni
cô đạo Jaina, và với họ, dục không đặt ra vấn đề lớn. Lí
do là ở chỗ dục của đàn bà là thụ động. Một khi nó được
thức tỉnh, nó trở thành vấn đề; nếu nó không được thức
tỉnh, cô ấy có thể đi qua suốt cuộc đời mà chẳng bao giờ
cảm thấy rằng có vấn đề gì.
Đàn bà đòi hỏi được khởi đầu - ngay cả trong dục.
Một khi người đàn ông đưa một người đàn bà vào trong
dục, năng lượng dâng lên đột ngột bên trong cô ấy.
Nhưng nếu điều này không xảy ra, cô ấy có thể vẫn còn là
đồng trinh cả đời. Điều này rất dễ dàng với cô ấy bởi vì
bản tính thụ động của cô ấy. Tâm trí riêng của cô ấy
không năng nổ; cô ấy có thể chờ đợi và chờ đợi vô hạn
định. Bởi lí do này mà tôi cảm thấy rằng thật nguy hiểm
khi điểm đạo cho đàn bà đã có chồng chừng nào mà cô ấy
còn chưa được dạy để hợp nhất với người đàn ông bên
trong mình.
Một cô gái trinh, có thể được điểm đạo. Cô ấy ở vị trí
tốt hơn là cậu thanh niên. Cô ấy có thể chờ đợi vô hạn
định cho tới khi cô ấy được đưa vào dục, bởi vì cô ấy
không năng nổ. Và bằng không có sự năng nổ từ bên
ngoài, dần dần người đàn ông bên trong sẽ bắt đầu hợp
nhất với người đàn bà bên ngoài. Thể thứ hai của cô ấy là
thể nam vốn mang tính năng nổ.
Cho nên việc giao hợp bên trong, dễ dàng đối với đàn
bà hơn rất nhiều so với đàn ông. Bạn có hiểu điều tôi
muốn nói gì không? Thể thứ hai của đàn bà là nam tính
và thể này là năng nổ. Do đó, cho dù nếu người đàn bà
không tìm được người đàn ông bên ngoài, cũng chẳng
thành vấn đề gì với cô ấy cả. Và nếu cô ấy không kinh
nghiệm về dục từ nguồn bên ngoài, người đàn ông bên
trong sẽ bắt đầu thành năng nổ. Thể ê te của cô ấy sẽ bắt
đầu choán lấy cô ấy; thế thì cô ấy sẽ quay vào trong và trở
nên chìm vào trong việc giao hợp bên trong.
Với người đàn ông việc giao hợp bên trong là khó
khăn, bởi vì thể năng nổ của người đó là thể thứ nhất
trong khi thể thứ hai của người đó lại là nữ tính. Thể này
không thể nào tự khẳng định mình đối với thể thứ nhất.
Chỉ khi thể thứ nhất đi với nó, nó mới đón nhận.
Đấy là tất cả những khác biệt, và một khi chúng được
hiểu rõ, chúng ta sẽ phải thay đổi tất cả những thu xếp
của mình. Nếu người có gia đình thành công trong việc
tạo ra mạch điện trong giao hợp, điều đó sẽ rất có ích cho
người đó. Cùng mạch năng lượng này sẽ được hình thành
trong trường hợp giao hợp bên trong nữa. Mạch năng
lượng này bao quanh một người bình thường chỉ vào lúc
giao hợp bình thường. Cùng năng lượng đó sẽ bao quanh
người đã hợp nhất với thể thứ hai của mình trong hai
mươi bốn giờ một ngày. Vòng năng lượng này sẽ trở nên
ngày một rộng hơn tại mọi bình diện.
Không một hình ảnh nào được tạo ra về Phật trong
suốt năm trăm năm sau cái chết của ông ấy, và loại hiện
tượng này đã xảy ra nhiều lần trong suốt lịch sử. Thay
vào đó là tấm ảnh về cây bồ đề đã được khắc và được tôn
thờ trong các đền, nhưng chỗ dưới gốc cây nơi người ta
cho rằng Phật đã ngồi, bị bỏ trống. Bây giờ những người
nghiên cứu lịch sử và huyền học đều rất phải suy nghĩ về
việc tại sao ảnh Phật lại không được khắc hoạ: tại sao
Phật được tượng trưng bằng một cây? Và tại sao hình ảnh
của ông ấy mãi năm trăm năm sau mới được lập nên? Tại
sao chỗ dưới gốc cây lại được để trống vào thời đó? Đây
là bí ẩn mà cả các nhà lịch sử và các nhà huyền môn
chẳng thể giải quyết nổi.
Thực tế, những người đã quan sát Phật rất kĩ lưỡng
đều nhận xét rằng khi quan sát ông ấy với sự chú ý tập
trung vào một điểm, không thể thấy được Phật: chỉ có cây
và hào quang của năng lượng là còn lại. Thể vật lí của
ông ấy biến mất. Bây giờ, chẳng hạn, nếu bạn quan sát tôi
thật tinh tường, tôi nữa cũng sẽ biến mất và chỉ còn lại cái
ghế. Cho nên những người thấy ông ấy một cách sâu sắc
đều nói rằng không thể thấy được Phật, nhưng những
người không thấy, lại nói rằng có thể thấy được ông ấy.
Tuy nhiên, phát biểu của người trước thì xác thực hơn.
Trong năm trăm năm lời của những người nói rằng Phật
không bao giờ thấy được, và rằng chỉ có cái cây và chỗ
trống dưới gốc cây, vẫn được tôn trọng. Nhưng khái niệm
này chỉ có tác dụng chừng nào mà có những người có thể
thấy được sâu sắc. Khi phẩm chất của những người này
bắt đầu giảm đi, người ta sẽ khó mà tôn thờ một mình cái
cây mà không có Phật. Năm trăm năm sau Phật thần
tượng của ông ấy đã được thiết lập. Đây là một sự kiện rất
thú vị.
Những người đã nhìn sâu sắc vào Jesus cũng đều
không thể thấy được ông ấy; họ chỉ có thể thấy ánh sáng.
Những người thấy Mahavira sâu sắc cũng chỉ thấy ánh
sáng, sự việc cũng tương tự cho Krishna nữa. Nếu người
ta quan sát người có phẩm chất này với sự tỉnh táo hoàn
toàn, chỉ ánh sáng của năng lượng là thấy được; không
người nào như thế lại thấy được ở đó.
Cứ sau mỗi hai thể, năng lượng sống lại tăng lên. Sau
thể thứ tư nó đạt tới độ đầy đủ. Tại thể thứ năm, chỉ có
năng lượng. Tại thể thứ sáu năng lượng này sẽ xuất hiện
không tách biệt mà là một với các ngôi sao và bầu trời.
Tại bình diện thứ bẩy ngay cả điều này cũng biến mất.
Ban đầu vật chất biến mất, rồi đến năng lượng biến mất.
#8Tại bình diện nào thiền nhân đạt tới trạng thái vô suy
nghĩ? Liệu ý nghĩ có thể không đồng nhất tâm thức
với các vật hay việc đồng nhất là bản chất của ý
nghĩ?
Trạng thái vô suy nghĩ hoàn hảo được đạt tới ở thể
thứ năm nhưng những thoáng nhìn nhỏ bắt đầu từ thể thứ
tư. Suy nghĩ tiếp tục trong thể thứ tư nhưng người ta bắt
đầu quan sát thấy lỗ hổng giữa hai ý nghĩ. Trước thể thứ
tư có toàn những ý nghĩ và chỉ có ý nghĩ; chúng ta không
thấy lỗ hổng giữa các ý nghĩ. Trong thể thứ tư các khoảng
hở bắt đầu xuất hiện và sự nhấn mạnh đã thay đổi. Nếu
bạn quan sát những hình ảnh động thái, bạn sẽ có thể hiểu
được sự thay đổi này. Giả sử có một bức tranh các bậc
thang, nó có thể được vẽ sao cho nếu bạn nhìn chăm chú
bạn sẽ thấy bậc thang đi lên; thế rồi nếu bạn nhìn lại bạn
sẽ thấy bậc thang đi xuống. Nhưng phần thú vị nhất là ở
chỗ bạn không thể nào quan sát bậc thang đi lên và đi
xuống đồng thời. Bạn chỉ có thể thấy một trong hai loại
bậc thang này. Khi bạn quan sát bức ảnh thứ hai, bức ảnh
thứ nhất sẽ tan biến.
Chúng ta có thể làm một bức ảnh mà trong đó hai
khuôn mặt nhìn vào nhau, đối xứng mắt, mũi và râu. Lần
đầu tiên nó sẽ có vẻ như hai người đàn ông đang đối mặt
với nhau. Bây giờ tô các khuôn mặt đen lại để khoảng
trắng chen vào giữa. Bây giờ bạn sẽ thấy rằng có một
bình hoa trong khoảng trống ở giữa này, và mũi, mắt trở
thành đường viền của bình. Bạn sẽ không thể nào thấy
được cái bình và hai khuôn mặt đồng thời. Khi bạn thấy
hai khuôn mặt, không thấy cái bình; khi bạn thấy cái bình,
các khuôn mặt tan biến. Dù bạn có cố gắng đến đâu để
thấy chúng, động thái sẽ thay đổi việc nhấn mạnh của nó.
Khi nhấn mạnh của bạn dịch chuyển về phía các khuôn
mặt, cái bình sẽ tan biến; khi nhấn mạnh dồn vào cái
bình, các khuôn mặt sẽ tan biến.
Cho tới thể thứ ba, động thái của tâm trí chúng ta vẫn
còn nhấn mạnh vào ý nghĩ. Rama tới, cho nên Rama là
thấy được và việc tới của ông ấy là thấy được. Không
gian trống rỗng giữa Rama và việc tới của ông ấy, hay
không gian trống rỗng trước việc tới của Rama và sau
việc đi của Rama, là không thấy được đối với chúng ta.
Sự nhấn mạnh là vào việc tới của Rama; khoảng trống
chen giữa không được quan sát. Sự thay đổi bắt đầu từ thể
thứ tư. Bất thình lình sự việc đập vào bạn là việc tới của
Rama không còn rất quan trọng nữa. Khi Rama không tới,
vẫn có không gian trống rỗng; khi Rama đã đi, vẫn có
không gian trống rỗng. Không gian trống rỗng bắt đầu đi
vào bên trong hội tụ của tâm trí bạn: khuôn mặt biến mất;
cái bình trở thành thấy được. Và khi sự chú ý của bạn dồn
vào không gian trống rỗng, bạn không thể nghĩ được.
Bạn chỉ có thể làm một trong hai việc sau: khi mà bạn
còn thấy ý nghĩ, bạn sẽ nghĩ, nhưng khi bạn thấy không
gian trống rỗng, bạn sẽ là sự trống rỗng bên trong. Tuy
nhiên, điều này sẽ thường đan xen trong thể thứ tư. Đôi
khi bạn sẽ thấy hai khuôn mặt và đôi khi bạn thấy cái
bình: tức là đôi khi bạn sẽ thấy ý nghĩ và đôi khi thấy lỗ
hổng. Im lặng sẽ tới và ý nghĩ cũng sẽ tới như thế.
Khác biệt giữa im lặng và trống rỗng chỉ là thế này:
im lặng có nghĩa là ý nghĩ còn chưa kết thúc, nhưng nhấn
mạnh đã thay đổi. Tâm thức đã dịch chuyển khỏi ý nghĩ
và lấy thích thú trong im lặng, nhưng ý nghĩ vẫn còn. Đấy
chỉ là tâm thức đã dịch chuyển: chú ý đã dịch chuyển
khỏi ý nghĩ. Thế thì chú ý là dồn vào im lặng. Nhưng ý
nghĩ đôi khi trở lại - và khi nó xoay xở để lôi kéo chú ý
của bạn, lần nữa im lặng lại bị mất và ý nghĩ bắt đầu.
Trong những khoảnh khắc cuối của thể thứ tư tâm trí
sẽ thay phiên chuyển giữa cả hai điều này. Trên bình diện
thứ năm tất cả các ý nghĩ đều sẽ mất và chỉ im lặng là còn
lại. Đây không phải là im lặng tối hậu, bởi vì im lặng này
là trong so sánh với ý nghĩ và lời nói. Im lặng có nghĩa là
không nói; trống rỗng có nghĩa là trạng thái không có im
lặng lẫn lời nói. Không có khuôn mặt nào còn lại mà cũng
chẳng có bình hoa; chỉ có giấy trắng. Bây giờ nếu bạn
được hỏi liệu các khuôn mặt có đó hay bình hoa có đó,
bạn sẽ chẳng nói gì cả.
Trạng thái vô ý nghĩ xuất hiện trong tính toàn bộ của
nó ở thể thứ năm. Tại thể thứ tư chúng ta có thoáng nhìn
về trạng thái này; nó sẽ được quan sát thấy có rồi mất
giữa hai ý nghĩ. Tại thể thứ năm, trạng thái vô ý nghĩ sẽ
trở thành hiển nhiên và ý nghĩ sẽ biến mất.
Bây giờ đến phần thứ hai của câu hỏi của bạn là,
"Liệu việc đồng nhất có cần thiết cho việc hình thành các
ý nghĩ không, hay các ý nghĩ có thể xuất hiện mà không
có bất kì sự đồng nhất nào?" Cho tới thể thứ ba, việc đồng
nhất và ý nghĩ là cùng đến. Có sự đồng nhất của bạn và
có việc ý nghĩ tới: không có khoảng hở giữa cả hai. Ý
nghĩ của bạn và bạn là một - không phải hai. Bây giờ khi
bạn giận dữ, nói rằng bạn giận dữ là sai. Đúng hơn phải
nói là bạn đã trở nên giận dữ, bởi vì để giận dữ, bạn cũng
phải có thể không giận dữ. Chẳng hạn, tôi nói, "Tôi đang
di chuyển tay." Thế rồi giả sử bạn nói, "Bây giờ dừng tay
lại," còn tôi nói, "Điều đó là không thể được; tay vẫn
đang di chuyển" - thế thì bạn có thể nghi vấn điều tôi ngụ
ý khi tôi nói, "Tôi đang di chuyển tay." Tôi phải nói, "Tay
đang di chuyển," bởi vì nếu tôi đang di chuyển tay, tôi
phải có khả năng dừng nó lại. Nếu tôi không thể nào dừng
tay tôi lại, tôi không thể nào công bố mình là chủ của nó
được. Điều đó không có nghĩa. Bởi vì bạn không thể
dừng ý nghĩ của mình nên việc đồng nhất của bạn với
chúng là trọn vẹn cho tới thể thứ ba. Cho tới đó bạn là ý
nghĩ.
Cho nên tới thể thứ ba, bằng việc huých vào ý nghĩ
của ai đó là chúng ta huých vào chính bản thân người đó.
Nếu tôi bảo một người "Điều anh nói là sai," thì anh ta sẽ
chẳng bao giờ cảm thấy rằng điều mình nói là sai; anh ta
sẽ cảm thấy anh ta sai. Cãi nhau và đánh nhau xảy ra
không phải bởi vì câu nói mà bởi vì cái tôi - bởi vì có sự
đồng nhất hoàn toàn. Công kích vào ý nghĩ của bạn tức là
công kích vào bạn. Ngay cả nếu bạn nói, "Thôi cũng được
nếu bạn không đồng ý với cách nghĩ của tôi,", bên trong
bạn sẽ cảm thấy rằng bạn đã bị phản đối. Nhiều lần việc
xảy ra là ý tưởng đang tranh luận bị gạt sang bên và
chúng ta bắt đầu đánh nhau vì đơn thuần chúng ta đưa ra
quan điểm chứ chẳng bởi lí do gì khác. Bạn ủng hộ nó
đơn thuần bởi vì bạn đã đưa nó ra như quan điểm của
mình - bởi vì bạn đã tuyên bố nó là kinh sách của mình,
nguyên tắc của mình, luận cứ của mình.
Cho tới thể thứ ba không có khoảng cách nào giữa
bạn và ý nghĩ của mình. Bạn là ý nghĩ. Trong thể thứ tư
sự nghiêng ngả bắt đầu. Bạn sẽ bắt đầu thoáng thấy sự
kiện là bạn là cái gì đó riêng và ý nghĩ của bạn là cái gì
đó riêng. Nhưng cho đến lúc này bạn còn chưa thể dừng
lại ý nghĩ của mình, bởi vì sâu bên trong gốc rễ mối liên
kết vẫn còn tồn tại. Trên các cành bạn cảm thấy khác biệt.
Bạn ngồi trên một cành và ý nghĩ trên cành khác và bạn
thấy chúng không phải là bạn. Nhưng sâu bên trong bạn
và ý nghĩ vẫn là một. Do đó, dường như ý nghĩ là tách
biệt, và cũng dường như là nếu mối liên kết của tôi với
chúng mà bị phá vỡ, ý nghĩ sẽ dừng. Nhưng chúng lại cứ
không dừng. Tại chiều sâu nào đó mối liên kết với ý nghĩ
vẫn tiếp tục.
Thay đổi bắt đầu xảy ra trên bình diện thứ tư. Bạn bắt
đầu có được khái niệm mơ hồ về ý nghĩ là khác và bạn là
khác. Tuy nhiên, bạn vẫn chưa thể nào tuyên bố ra được
điều này, và quá trình suy nghĩ vẫn là máy móc. Bạn
không thể nào dừng lại ý nghĩ, mà bạn cũng chẳng đem
chúng tới được. Nếu tôi có thể nói với bạn, "Dừng giận
dữ lại và chứng tỏ bạn là người chủ," thì người ta cũng có
thể nói, "Đem giận dữ tới và chứng tỏ rằng bạn là người
chủ." Bạn sẽ hỏi, "Làm sao làm được điều này? Chúng tôi
không thể đem giận dữ tới được." Khoảnh khắc bạn có
thể làm được điều đó, bạn là người chủ của nó. Thế thì
bạn có thể dừng nó lại vào bất kì khoảnh khắc nào. Khi
bạn là người chủ, quá trình đem giận dữ tới và chấm dứt
nó cả hai đều trong tay bạn. Nếu bạn có thể đem giận dữ
tới, bạn cũng có thể dừng nó lại nữa.
Một điều thú vị là để ý rằng việc dừng nó có chút ít
khó khăn, nhưng việc đem nó tới lại dễ dàng hơn. Cho
nên nếu bạn muốn là người chủ, trước hết bắt đầu với
việc đem giận dữ tới, bởi vì điều này dễ dàng hơn. Trong
tình huống đem nó tới, bạn đang tĩnh lặng, nhưng trong
tình huống phải dừng nó lại, bạn đã giận dữ rồi và do vậy
bạn thậm chí không biết đến bản thân mình. Thế thì làm
sao bạn dừng nó được? Do đó, bao giờ cũng dễ hơn cả là
bắt đầu thực nghiệm này bằng việc đem giận dữ tới thay
vì bởi việc dừng nó lại. Chẳng hạn, bạn bắt đầu cười
nhưng rồi bạn thấy rằng bạn không thể nào chấm dứt việc
cười được; điều ấy là khó. Nhưng nếu bạn đang không
cười và bạn muốn đem lại tiếng cười, bạn có thể làm việc
đó trong một hoặc hai phút. Thế thì bạn sẽ biết đến bí mật
của cái cười - từ đâu nó tới và tới như thế nào - và thế thì
bạn sẽ biết cái bí mật của việc dừng nó lại nữa, và nó có
thể được dừng lại thật.
Tại bình diện thứ tư bạn sẽ bắt đầu thấy rằng bạn là
tách biệt và các ý nghĩ là tách biệt; rằng bạn không phải là
ý nghĩ của mình. Do đó, bất kì khi nào trạng thái vô ý
nghĩ xuất hiện - như tôi đã nói trước đây - việc chứng
kiến cũng tới, và bất kì khi nào có ý nghĩ, việc chứng kiến
sẽ mất. Trong khoảng giữa các ý nghĩ - tức là trong lỗ
hổng giữa các ý nghĩ - bạn sẽ hiểu việc đồng nhất tách
biệt của mình với ý nghĩ. Thế thì không có liên hệ nào
giữa bạn và và ý nghĩ. Nhưng ngay cả thế thì bạn cũng
vẫn là người quan sát vô dụng. Bạn sẽ không thể nào làm
được gì nhiều nhặn cho lắm, mặc cho tất cả những nỗ lực
đã được tiến hành chỉ trong thể thứ tư.
Cho nên tôi đã định nghĩa hai khả năng của thể thứ tư
- một là khả năng tự nhiên và hai là khả năng thu được
qua thiền. Bạn sẽ luân phiên giữa hai khả năng này. Khả
năng thứ nhất là ý nghĩ và khả năng thứ hai là hiểu biết.
Khoảnh khắc bạn đạt tới tiềm năng thứ hai của thể thứ tư
- vivek, hay hiểu biết - thì thể thứ tư sẽ rũ sạch việc đồng
nhất tâm thức với tâm trí. Khi bạn đạt tới thể thứ năm, hai
điều sẽ bị gạt bỏ: thể thứ tư và sự đồng nhất này.
Trong thể thứ năm bạn có thể đem ý nghĩ tới hay
không đem chúng tới, tuỳ ý bạn. Lần đầu tiên ý nghĩ sẽ là
phương tiện và sẽ không phụ thuộc vào sự đồng nhất nữa.
Nếu bạn muốn đem giận tới, bạn có thể đem giận tới; nếu
bạn muốn đem yêu tới bạn có thể làn điều đó. Nếu bạn
không muốn đem bất kì cái gì, bạn được tự do không làm
như vậy. Nếu bạn muốn dừng giận mà mới thành hình
một nửa, bạn có thể ra lệnh cho nó dừng lại. Bất kì ý nghĩ
nào bạn muốn đem tới, sẽ tới với bạn, và cái mà bạn
không muốn đem tới sẽ không có bất kì sức mạnh gì để
choán ngập tâm trí bạn.
Có nhiều hoàn cảnh như thế trong cuộc đời của
Gurdjieff. Người ta coi ông ấy như một người lập dị. Nếu
hai người ngồi trước ông ấy, ông ấy sẽ nhìn vào một
người với giận dữ nhất và nhìn vào người kia với thương
mến nhất. Ông ấy thay đổi cách bầy tỏ tình cảm nhanh
chóng đến nỗi hai người mang hai báo cáo khác nhau về
ông. Mặc dầu cả hai người cùng gặp ông ấy, một người sẽ
nói, "Ông ấy trông như một người nguy hiểm," trong khi
người kia, nói, "Ông ấy đáng yêu làm sao." Điều này rất
dễ dàng ở bình diện thứ năm. Gurdjieff đã vượt ra ngoài
cách hiểu biết của mọi người quanh ông. Ông ấy có thể
ngay lập tức đem lại bất kì cách diễn đạt thái độ nào trên
vẻ mặt. Chẳng có khó khăn gì đối với ông ấy trong việc
này, nhưng lại là khó khăn với người khác.
Lí do nằm sau điều này là ở chỗ trong thể thứ năm,
bạn là người chủ của chính mình; bạn có thể đem lại bất
kì cảm giác nào bạn thích. Thế thì giận dữ, yêu thương,
hận thù, tha thứ, tất cả những ý nghĩ của bạn, đều đơn
thuần trở thành trò chơi; do đó, bạn có thể thảnh thơi khi
bạn thích. Thảnh thơi sau trò chơi là rất dễ dàng nhưng
thảnh thơi trong cuộc sống là khó khăn. Nếu tôi chỉ chơi
đùa với giận dữ, tôi sẽ không ở trong giận dữ sau khi bạn
đã rời khỏi phòng. Nếu tôi đang chơi trò chơi nói chuyện,
tôi sẽ không nói nữa khi bạn đi. Nhưng nếu việc nói là
hơi thở cuộc đời của tôi, thế thì tôi sẽ cứ nói ngay cả khi
bạn đã bỏ đi. Thậm chí không có ai nghe cả, tôi sẽ nghe.
Tôi sẽ cứ nói bởi vì đó là chính cuộc đời tôi; nó không
phải là trò chơi mà sau đó tôi có thể thảnh thơi. Nó chính
là cuộc đời tôi, nó choán trong tôi. Cho nên một người
như vậy sẽ nói thậm chí cả vào ban đêm. Trong giấc mơ
người đó cũng tụ tập đám đông và nói. Trong giấc mơ
người đó cũng cãi nhau, người đó sẽ đánh nhau và làm tất
cả những gì người đó đã làm lúc ban ngày. Người đó sẽ
cứ làm điều này cả hai mươi bốn giờ, bởi vì đấy là cuộc
sống của người đó, đấy là chính sự tồn tại của người đó.
Sự đồng nhất của bạn bị phá vỡ ở thể thứ năm. Thế
thì lần đầu tiên bạn được an bình, bạn là trống rỗng, bởi ý
chí tự do riêng của bạn. Nhưng khi nhu cầu nảy sinh, bạn
cũng nghĩ. Cho nên trong thể thứ năm, lần đầu tiên, bạn
sẽ đem năng lực suy nghĩ của mình ra dùng. Đúng hơn,
nên nói rằng trước thể thứ năm ý nghĩ sử dụng bạn; sau
thể thứ năm bạn dùng ý nghĩ. Trước đó nói "tôi nghĩ" là
không đúng. Trong thể thứ năm bạn cũng đi tới nhận ra
rằng ý nghĩ của bạn, không phải là của bạn: ý nghĩ của
mọi người quanh bạn đi vào tâm trí bạn. Tuy nhiên, bạn
thậm chí không biết rằng ý nghĩ mà bạn nghĩ là của riêng
mình, có thể là của ai đó khác.
Một Hitler được sinh ra và toàn bộ nước Đức bị thấm
đẫm ý nghĩ của ông ta - nhưng từng người Đức lại cảm
thấy rằng đấy là ý nghĩ của riêng mình. Một người rất
năng động, lan truyền ý nghĩ của mình vào tâm trí của
những người khác và họ trở thành tiếng vọng của cùng
một điều. Thuyết động lực học là nghiêm chỉnh vì nó sâu
sắc. Chẳng hạn, đã hai nghìn năm trôi qua kể từ khi Jesus
chết. Sóng ý nghĩ mà ông ấy đã để lại trên thế giới này
vẫn còn ăn sâu vào tâm trí những người Ki tô giáo, người
nghĩ rằng đấy là ý nghĩ của riêng mình. Điều tương tự
cũng là trường hợp của Mahavira, Phật, Krishna và những
người khác. Bất kì loại ý nghĩ nào của người năng động,
dù họ là người thiện hay người ác, cũng đều ảnh hưởng
vào tâm trí con người. Ảnh hưởng của Tamerlane và
Genghis Khan lên tâm trí chúng ta không bớt đi mà ảnh
hưởng của Krishna và Rama cũng chẳng kém đi. Sóng ý
nghĩ của họ chuyển động mãi mãi quanh chúng ta, và bạn
có thể bắt được những sóng ý nghĩ này, cái đưa đến trạng
thái tâm trí đặc biệt của chúng ta.
Điều bao giờ cũng xảy ra là một người rất hiền vào
buổi sáng lại trở thành ác vào buổi trưa. Vào buổi sáng
người đó đi trong sóng của Rama; đến trưa người đó có
thể bị sóng của Genghis Khan chụp lấy. Tính tiếp nhận và
thời gian tạo ra khác biệt. Những người ăn xin bao giờ
cũng đi ăn xin vào buổi sáng, bởi vì tác động của những
rung động ác là tối thiểu vào lúc mặt trời lên. Khi ngày
qua đi và khi mặt trời mệt mỏi bởi cuộc hành trình dài
trên bầu trời, ảnh hưởng của những rung động đó lại thu
được sức mạnh, cho nên người ăn xin chẳng hi vọng vào
lòng từ thiện của người khác vào buổi tối. Nếu người ăn
xin hỏi xin hai ru pi của một người vào buổi sáng sớm,
người đó sẽ không thể từ chối thẳng cánh được; khi ngày
qua đi, khó mà nói có cho người ăn xin. Đến tối người
này mệt mỏi với cả ngày làm việc cho nên bây giờ người
đó được chuẩn bị hoàn toàn để từ chối. Điều kiện tâm trí
của người này bây giờ hoàn toàn khác; cho nên đấy cũng
là do toàn bộ bầu không khí bao quanh người này. Cho
nên ý nghĩ mà chúng ta cảm thấy là của chúng ta, cũng
chẳng thuộc vào chúng ta.
Điều này bạn sẽ kinh nghiệm thấy chỉ trong thể thứ
năm và bạn sẽ ngạc nhiên mà thấy cách thức các ý nghĩ
đến và đi. Ý nghĩ đến, rồi lại đi; nó ảnh hưởng lên bạn,
rồi nó bỏ lại bạn một mình. Có hàng nghìn loại ý nghĩ -
và rất mâu thuẫn với nhau nữa; do đó, có lẫn lộn trong
tâm trí chúng ta. Từng người đều lẫn lộn. Nếu ý nghĩ của
bạn thuộc về bạn hoàn toàn, không có vấn đề về lẫn lộn.
Một tay bạn bị ảnh hưởng bởi Genghis Khan và tay kia,
bị ảnh hưởng bởi Krishna, cho nên nhất định là có lẫn
lộn. Cả hai luồng ý nghĩ này đều nằm chờ bạn, và ngay
khi bạn bộc lộ sự sẵn sàng của mình, chúng sẽ đi vào.
Chúng hiện diện khắp xung quanh bạn.
Tất cả những điều này bạn sẽ nhận ra khi sự đồng
nhất của bạn với các ý nghĩ bị phá vỡ hoàn toàn. Thay đổi
lớn nhất sẽ là ở chỗ từ trước đó cho đến lúc này bạn
không có ý nghĩ, nhưng bây giờ bạn sẽ có việc suy nghĩ.
Có khác biệt giữa hai điều này. Ý nghĩ là các nguyên tử:
chúng tới và đi và chúng bao giờ cũng là xa lạ. Nói rằng ý
nghĩ bao giờ cũng xa lạ là hoàn toàn đúng đắn. Việc suy
nghĩ là của chúng ta, nhưng ý nghĩ là xa lạ. Việc suy nghĩ
này sẽ bắt đầu bên trong bạn sau thể thứ năm. Thế thì bạn
sẽ có khả năng suy nghĩ; bạn sẽ không còn đơn thuần là
việc tích tụ ý nghĩ của người khác. Do đó, việc suy nghĩ ở
thể thứ năm không bao giờ là gánh nặng lên bạn, bởi vì
nó là của riêng bạn. Việc suy nghĩ này được sinh ra trong
thể thứ năm có thể được gọi là trí huệ hay hiểu biết hay
bất kì cái gì bạn thích gọi nó.
Tại bình diện thứ năm bạn có trực giác riêng của
mình, hiểu biết riêng của mình, thông minh riêng của
mình. Tại bình diện thứ năm ảnh hưởng của tất cả các ý
nghĩ bên ngoài sẽ chấm dứt, và theo nghĩa này bạn sẽ là
người chủ của chính mình; bạn sẽ đạt tới bản thể của
mình; bạn sẽ trở thành cái ta của mình. Bây giờ bạn sẽ có
ý nghĩ riêng của mình, quyền năng suy nghĩ riêng của
mình, con mắt riêng của mình và tầm nhìn riêng của
mình. Sau điều này, chỉ cái bạn muốn mới tới với bạn; cái
bạn không muốn sẽ không bao giờ tới gần bạn. Bạn có thể
nghĩ chỉ điều bạn muốn nghĩ; các ý nghĩ khác không thể
choán ngập bạn. Bây giờ bạn sẽ là người chủ. Tại đây vấn
đề về sự đồng nhất không nảy sinh.
Trong thể thứ sáu việc suy nghĩ cũng là không cần
nữa. Ý nghĩ chỉ cần tới thể thứ tư; suy nghĩ và trí huệ là
cần trong thể thứ năm. Trên bình diện thứ sáu thậm chí
những điều này cũng đã chấm dứt, bởi vì tại đó chúng
chẳng cần tới chút nào. Bạn trở thành vũ trụ; bạn trở
thành một với Brahman. Bây giờ không có gì khác.
Thực tế, mọi ý nghĩ bao giờ cũng có quan hệ tới
người khác. Các ý nghĩ trước thể thứ tư là móc nối vô ý
thức với người khác. Các ý nghĩ của thể thứ năm là móc
nối có ý thức nhưng chúng vẫn có liên hệ với người khác.
Sau rốt, tại sao các ý nghĩ lại là cần thiết? Chúng là cần
chỉ để thiết lập mối quan hệ với người khác. Cho tới thể
thứ tư chúng là các móc nối vô ý thức; tại thể thứ năm
chúng là các móc nối có ý thức. Nhưng tại thể thứ sáu,
không còn có "người khác" để thiết lập móc nối nữa. Tất
cả các mối quan hệ đã kết thúc; chỉ còn lại vũ trụ. Tôi và
bạn bây giờ là một. Bây giờ không có chỗ nào, không có
lí do nào cho ý nghĩ tồn tại.
Thể thứ sáu là Brahman - thực tại vũ trụ, nơi không
còn ý nghĩ. Trong Brahman không có ý nghĩ; do đó, có
thể nói rằng trong Brahman có việc biết. Thực tại, ý nghĩ
mà tồn tại cho tới thể thứ tư là ý nghĩ vô ý thức; chúng
chứa dốt nát sâu sắc. Nó biểu lộ rằng chúng ta cần ý nghĩ
để đánh nhau với cái tự dốt nát này. Tại thể thứ năm có
việc biết tới cái ta bên trong, nhưng chúng ta vẫn còn dốt
nát về cái khác với ta; người khác vẫn có đó đối với
chúng ta. Do đó, có nhu cầu suy nghĩ trong thể thứ năm.
Tại thể thứ sáu, không có bên trong hay bên ngoài nữa,
không có tôi hay bạn, không có cái này hay cái kia. Bây
giờ không có khoảng cách để biện minh cho ý nghĩ. Bây
giờ cái gì có đấy thì có đấy. Do đó, tại thể thứ sáu chỉ có
việc biết, không có ý nghĩ.
Tại bình diện thứ bẩy, việc biết cũng không tồn tại,
bởi vì người biết không còn nữa và cái mà có thể được
biết cũng không còn nữa. Cho nên ngay cả việc biết cũng
không có trên bình diện thứ bẩy. Bình diện thứ bẩy không
phải là không có việc biết, mà là vượt ra ngoài việc biết.
Nếu bạn thích bạn có thể gọi nó là trạng thái của dốt nát
nữa. Đó là lí do tại sao bao giờ cũng có trường hợp một
người với tâm thức tối thượng và một người hoàn toàn
dốt nát dường như là giống hệt nhau - bởi vì hành vi của
họ thường là tương tự. Đây là lí do tại sao bao giờ cũng
có tương tự lớn giữa trẻ nhỏ và người già người đã đạt tới
chứng ngộ: họ thực tế không là một nhưng vẻ bề ngoài,
họ dường như giống nhau. Đôi khi một hiền nhân chứng
ngộ hành động theo cách thức trẻ thơ; đôi khi trong hành
vi của đứa trẻ chúng ta thoáng thấy tính thánh thiện. Đôi
khi người chứng ngộ trông như người dốt nát hoàn toàn,
đần độn hoàn toàn, và dường như không ai có thể đần độn
như ông ta. Nhưng hiền nhân đã vượt ra ngoài tri thức và
trẻ nhỏ vẫn còn ở dưới mức tri thức. Tương tự nằm ở sự
kiện rằng họ cả hai đều ở ngoài tri thức.
#8Tại thể nào, người ta đạt được cái mà Thầy vẫn nói là
samadhi?
Thực tại có nhiều kiểu samadhi. Một samadhi sẽ xảy
ra giữa thể thứ tư và thứ năm. Nhớ lấy, samadhi không
phải là biến cố của một bình diện; nó bao giờ cũng xảy ra
giữa hai bình diện, nó là thời kì chuyển tiếp, thời kì tranh
tối tranh sáng. Người ta rất có thể hỏi liệu lúc tranh tối
tranh sáng là thuộc vào ngày hay đêm. Tranh tối tranh
sáng chẳng thuộc vào ngày mà cũng chẳng thuộc vào
đêm, nó là biến cố giữa ngày và đêm. Cho nên samadhi
cũng vậy.
Samadhi thứ nhất xuất hiện giữa bình diện thứ tư và
thứ năm. Samadhi này dẫn tới tự hiểu biết, atma gyan.
Một samadhi xuất hiện giữa bình diện thứ năm và thứ
sáu; lần này dẫn đến brahma gyan - hiểu biết vũ trụ.
Samadhi xuất hiện giữa bình diện thứ sáu và thứ bẩy là
samadhi dẫn tới niết bàn. Cho nên nói chung có ba
samadhi này xuất hiện giữa ba sharira cuối, ba thể cuối.
Có một samadhi giả mà cũng phải nhận ra. Nó xuất
hiện trong thể thứ tư, nhưng nó không phải là samadhi
mặc dầu nó dường như giống samadhi. Tại Nhật thuật
ngữ của thiền phật giáo cho nó là satori tỏ ngộ. Nó là
samadhi giả. Nó là trạng thái mà hoạ sĩ hay nhà điêu khắc
hay nhạc sĩ đạt tới khi người đó hoàn toàn ngập chìm
trong tác phẩm của mình; người đó kinh nghiệm phúc lạc
lớn. Đây là một biến cố trên bình diện thứ tư - bình diện
hồn. Nếu khi ngắm nhìn vào mặt trời buổi sáng hay lắng
nghe giai điệu hay ngắm điệu vũ, hay quan sát việc nở
hoa, mà tâm trí đắm chìm hoàn toàn trong biến cố đó, một
samadhi giả xảy ra. Samadhi giả đó có thể được đem tới
bằng rượu và ma tuý như thuốc phiện, heroin.
Cho nên có bốn kiểu samadhi. Thực tại có ba samadhi
chân thực và chúng xảy ra tuần tự. Samadhi thứ tư hoàn
toàn là kinh nghiệm giả xuất hiện tựa như samadhi. Trong
samadhi này không có kinh nghiệm thực tại - chỉ có cảm
giác của samadhi bị hiểu lầm. Nhiều người bị lầm bởi
satori. Samadhi giả này xuất hiện ở thể thứ tư - bình diện
hồn. Nó không phải là quá trình chuyển biến giữa bình
diện thứ tư và thứ năm; nó xảy ra ngay bên trong thể thứ
tư. Ba samadhi chân thực xuất hiện bên ngoài các thể
trong thời kì chuyển tiếp khi chúng ta đi từ bình diện này
sang bình diện khác. Một samadhi là cánh cửa, một bước
chuyển.
Giữa các thể thứ tư và thứ năm xảy ra samadhi chân
thực thứ nhất. Người ta đạt tới việc tự thảnh thơi. Chúng
ta có thể bị mắc kẹt ở đây. Thông thường mọi người dừng
tại samadhi giả trong thể thứ tư bởi vì nó dễ dàng lắm.
Chúng ta hầu như chẳng tốn nỗ lực, chẳng phải cố gắng
gì cả, và nó thu được hệt như thế. Do đó đại đa số thiền
nhân bị trì trệ ở đây. Samadhi thực sự đầu tiên, xảy ra trên
cuộc hành trình từ thể thứ tư sang thể thứ năm, là rất khó;
và samadhi thứ ba, từ thể thứ sáu sang thể thứ bẩy, là khó
hơn cả. Tên được chọn cho samadhi thứ ba là vajrabhed -
xuyên thấu như cú sét. Nó là samadhi khó nhất bởi vì nó
là bước chuyển từ hiện hữu sang không hiện hữu; nó là
cái nhảy từ sự sống vào cái chết; nó là việc nhào từ sự tồn
tại vào trong cái không tồn tại.
Cho nên thực tại có ba samadhi. Samadhi thứ nhất
bạn có thể gọi là atma samadhi, samadhi thứ hai gọi là
brahma samadhi, còn samadhi cuối được gọi là samadhi
niết bàn. Chính samadhi đầu tiên và giả, bạn có thể gọi là
satori. Đây là samadhi mà bạn nên cảnh giác chống lại,
bởi vì nó rất dễ đạt tới.
Một phương pháp khác để kiểm tra tính hợp lệ của
samadhi là ở chỗ nếu nó xảy ra bên trong một bình diện
thì nó là giả; nó phải xảy ra giữa các bình diện. Nó là
cánh cửa; nó chẳng liên quan gì tới bên trong căn phòng.
Nó phải ở bên ngoài căn phòng, kề với phòng tiếp.
#8Tại sao rắn được chọn làm biểu tượng cho kundalini?
Xin thầy giải thích tất cả các lí do. Trong một biểu
tượng mà Hội thông thiên học đã dùng, con rắn cuộn
xoắn cắn đuôi nó được đưa ra. Trong biểu tượng Sứ
mệnh của Ramakrishna, đuôi rắn chạm tới chỏm đầu
rắn. Xin Thầy giải thích ý nghĩa của những điều này.
Biểu tượng rắn cho kundalini là rất thích hợp và có
nghĩa. Có lẽ không có biểu tượng nào tốt hơn biểu tượng
này. Do đó, không chỉ kundalini mà cả rắn cũng đã trải
qua nhiều cuộc du hành lớn trong hình dạng biểu tượng
này. Không ở đâu trên thế giới này có một tôn giáo mà
trong đó không có mô tả về rắn ở đâu đó. Điều này là bởi
vì rắn có nhiều phẩm chất phù hợp với kundalini.
Chính điều đầu tiên xuất hiện trong tâm trí nói tới rắn
là việc chuyển động trườn đi - bò đi. Chính kinh nghiệm
đầu tiên về kundalini là ở chỗ cái gì đó chuyển động ở
bên trong. Bạn cảm thấy dường như cái gì đó đã chuyển
động bên trong - giống như rắn bò. Một điều khác cũng
tới trong tâm trí với chính việc chuyển động này của rắn
là ở chỗ nó không có chân, thế mà nó vẫn di chuyển
được. Nó không có phương tiện để chuyển động - nó là
năng lượng hoàn toàn - thế mà nó vẫn đi. Điều thứ ba tới
trong tâm trí là ở chỗ khi rắn dừng, nó cuộn mình lại. Khi
kundalini nằm ngủ bên trong chúng ta, nó nữa cũng nghỉ
theo cùng cách thức này.
Khi một vật dài phải dọn chỗ cho nó trong một chỗ
nhỏ hẹp, nó phải cuộn lại; không có cách nào khác cho nó
cả. Sức mạnh rất lớn ngụ tại một trung tâm rất nhỏ, nó chỉ
có thể tự cuộn mình lại. Bây giờ khi rắn tỉnh dậy nó tháo
dần từng vòng cuộn ra; nó vươn lên, vòng cuộn cũng tháo
ra. Theo cùng cách này chúng ta cảm thấy kundalini đã
tháo ra bên trong khi năng lượng kundalini dâng lên trong
chúng ta.
Rắn đôi khi cũng chơi đùa bằng việc ngậm đuôi
mình. Việc ngậm đuôi này cũng là biểu tượng có ý nghĩa.
Đây là biểu tượng có giá trị và nhiều người nhận ra nó
như thế. Nó có giá trị bởi vì nó gợi ý rằng khi kundalini
đã thức tỉnh hoàn toàn, nó sẽ trở thành tuần hoàn và bắt
đầu tạo nên mạch riêng của nó ở bên trong. Bây giờ khi
biểu tượng được tạo ra để mô tả sadhana nam, việc thực
hành tâm linh nam, sẽ là việc ngậm đuôi; đấy sẽ là năng
nổ. Nếu biểu tượng này được đạt tới bởi sadhana nữ, việc
thực hành tâm linh nữ, cái đuôi sẽ chỉ chạm lên chỏm
đầu. Đây là cái đuôi buông xuôi - cái đuôi không bị ngậm
trong mồm. Đây là khác biệt duy nhất và không gì hơn
nữa.
Chỏm đầu của rắn cũng trở thành có mục đích. Đuôi
rất hẹp trong khi chỏm đầu lại rất rộng. Khi kundalini
thức tỉnh hoàn toàn, nó đạt tới sahasrar. Nó mở ra và trải
dài giống như chỏm đầu của rắn; nó mở rộng ra vô cùng.
Dường như nhiều hoa nở ra trong nó. Thế thì đuôi của nó
trở thành rất nhỏ.
Khi rắn đứng thẳng lên, đấy là một cảnh tượng kì
diệu; nó đứng thẳng trên chỏm đuôi. Điều đó gần như
phép màu. Rắn là loại không xương sống, sinh vật không
xương, ấy vậy mà thực hiện được hành động này. Điều ấy
chỉ có thể được với sự hỗ trợ của năng lượng sống trong
nó, bởi vì không có phương tiện chủ chốt nào khác cho nó
để đứng thẳng. Nó đứng lên bởi sức mạnh của ý chí riêng
của nó; nó không có sức mạnh vật chất nào để dựa vào.
Sự việc cũng là như thế khi kundalini thức tỉnh: nó không
có sự hỗ trợ vật lí; nó là năng lượng phi vật chất.
Đấy là những lí do tại sao rắn lại được chọn như một
biểu tượng. Cũng còn nhiều lí do khác nữa. Chẳng hạn,
nó là một sinh vật vô tư; do đó, thần Shiva của Hindu -
người cũng được gọi là "Shiva vô tư" - đội nó trên đầu.
Theo ý riêng của nó, rắn chẳng gây rắc rồi cho bất kì ai,
nhưng nếu nếu nó bị quấy rối, nó có thể rất nguy hiểm.
Cùng điều đó cũng áp dụng cho kundalini. Nó là một
năng lượng rất vô tư; nó không gây rắc rối cho bạn theo ý
riêng của nó. Nhưng nếu bạn quấy rối nó theo cách sai
lầm, bạn sẽ thấy mình bị rắc rối. Nó có thể tỏ ra rất nguy
hiểm. Cho nên biểu tượng của rắn nhắc nhở chúng ta rằng
việc quấy rối kundalini theo cách sai lầm là nguy hiểm.
Khi nhớ tất cả những điều này trong trí, không có biểu
tượng nào thích hợp hơn là rắn.
Trên khắp thế giới rắn đều được lấy làm biểu tượng
cho trí huệ. Jesus đã nói, "Nhanh trí và thông minh như
rắn và vô tư như bồ câu." Rắn là sinh vật rất thông minh -
rất tỉnh táo, rất quan sát và rất nhanh nhẹn, sắc sảo. Đó là
tất cả phẩm chất của nó. Kundalini cũng giống như thế.
Bạn đạt tới đỉnh tối thượng của trí huệ qua nó; nó rất mau
lẹ, và cũng rất mạnh mẽ.
Ngày xưa, khi biểu tượng này được chọn cho
kundalini, có lẽ chẳng có gì tốt hơn rắn. Ngay cả bây giờ
cũng chẳng có gì tốt hơn. Có lẽ trong tương lai có thể có
một biểu tượng mới - như tên lửa. Một khái niệm tương
lai nào đó có thể thâu tóm kundalini như quả tên lửa.
Cuộc hành trình là như nhau; nó đi từ bầu trời này sang
bầu trời khác, từ hành tinh này sang hành tinh khác, và có
hư không ở giữa. Nó có thể trở thành biểu tượng. Thời đại
quyết định ra biểu tượng.
Biểu tượng này đã được chọn khi con người còn rất
gần với vương quốc loài vật. Tất cả các biểu tượng của
chúng ta của những thời này đều lấy từ loài vật, bởi vì đó
là tất cả những gì mà tri thức chúng ta có được cho nên
chúng ta đã cố gắng tìm ra biểu tượng trong chúng. Rắn
vậy đã là biểu tượng thích hợp nhất để định nghĩa
kundalini.
Trong những ngày ấy chúng ta không thể nói rằng
kundalini giống như điện; khi chúng ta nói tới ngày nay,
chúng ta có thể nói như vậy. Năm nghìn năm trước không
thể nói về kundalini dưới dạng điện bởi vì không có khái
niệm về điện. Nhưng rắn có phẩm chất của điện. Điều này
thật khó cho chúng ta tin bởi vì nhiều người trong chúng
ta chẳng có kinh nghiệm gì về rắn cả. Chúng ta có thể
không có kinh nghiệm về kundalini so với bất kì cái gì,
nhưng chúng ta khó mà có kinh nghiệm về rắn nữa. Rắn
là huyền thoại đối với chúng ta.
Gần đây người ta đã tiến hành một cuộc điều tra ở
London và người ta thấy rằng bẩy trăm nghìn trẻ con
chưa bao giờ thấy con bò. Bây giờ những đứa trẻ này,
chưa từng thấy con bò, không thể nào có ý tưởng về rắn
được. Cho nên toàn bộ cách nghĩ của chúng - và biểu
tượng của chúng - sẽ hoàn toàn khác.
Bây giờ rắn đã quá lỗi thời: nó không còn là phần
quan trọng trong cuộc sống chúng ta nữa. Ngày xưa nó rất
gần gũi chúng ta; nó đã là hàng xóm của chúng ta và cùng
chúng ta cả hai mươi bốn giờ một ngày. Thế thì chính con
người đã để ý đến nhanh nhẹn của nó, thông minh của nó,
chuyển động của nó, và thoải mái mà nó luôn mang theo
mình. Chính là con người đã hiểu con vật này nguy hiểm
như thế nào. Có những câu chuyện về rắn canh gác cho
trẻ con, và nó vô tư làm sao... Có những trường hợp khi
nó cắn những người hung dữ nhất và giết chết người đó,
cho nên nó có thể nguy hiểm lắm. Cho nên cả hai khả
năng này đều có trong nó.
Khi một người ở rất gần với rắn, người đó phải quan
sát nó thật chăm chú. Chủ đề về kundalini cũng bắt đầu
vào cùng lúc, và cả rắn lẫn kundalini đều tương tự nhau
trong phẩm chất của chúng. Nhưng tất cả các biểu tượng
đều có nghĩa, và nếu chúng tới với chúng ta qua các thời
đại, cũng có phù hợp, nhịp điệu trong chúng. Nhưng bây
giờ điều đó nhất định bị phá vỡ. Biểu tượng về rắn không
còn kéo dài lâu. Chúng ta sẽ không thể nào gọi là sức
mạnh rắn kundalini, bởi vì bây giờ con rắn tội nghiệp ở
đâu? Nó không còn là hàng xóm của chúng ta nữa; chúng
ta không còn mối liên quan nào với nó. Chúng ta thậm chí
không thấy nó trên đường. Cho nên khi chúng ta không
còn liên quan gì tới nó về bất kì cái gì, câu hỏi này nảy
sinh. Trước đây nó không thể nảy sinh ra khi nó là biểu
tượng duy nhất.
#8Người ta nói rằng khi kundalini thức tỉnh, nó ăn thịt
và uống máu. Điều này có nghĩa là gì?
Có ý nghĩa cho điều này. Mô tả này gần đúng theo
từng từ. Thực tại, khi kundalini dâng lên, nhiều biến đổi
xảy ra bên trong thân thể. Bất kì khi nào năng lượng mới
nảy sinh trong thân thể, những thành phần cũ của nó lại
trải qua thay đổi hoàn toàn. Điều đó nhất định thay đổi;
thân thể vận hành theo biết bao nhiêu cách thức mà chúng
ta không ý thức tới chúng. Chẳng hạn, lấy trường hợp
người keo kiệt. Keo kiệt là phẩm chất của tâm trí, nhưng
thân thể người keo kiệt cũng trở thành kẻ keo kiệt. Thân
thể người đó sẽ bắt đầu thu thập những chất mà có thể nó
cần tới trong tương lai. Nó sẽ cứ tích luỹ mà chẳng có lí
do gì cho tới khi nó đạt tới một điểm mà tại đó nó trở
thành quấy rối và bất tiện.
Bây giờ xét người khác, kẻ hèn nhát. Thân thể người
đó sẽ thu thập tất cả các phần tử dẫn tới sợ hãi. Giả sử
thân thể muốn run rẩy trong sợ hãi và nó không có những
yêu cầu cần thiết - nó sẽ làm gì? Bạn yêu cầu sợ hãi từ
thân thể và nó không có các tuyến và hóc môn cần thiết:
nó sẽ làm gì? Cho nên thân thể giữ một cái kho sẵn sàng
vì nó biết yêu cầu của bạn. Thân thể của người sợ hãi thu
thập các tuyến sợ để làm thuận tiện cho việc chiều theo
nỗi sợ của bạn. Người toát mồ hôi khi sợ sẽ có tuyến mồ
hôi rất mạnh; người đó có khả năng toát mồ hôi vô khối.
Sự thu xếp này là tuyệt đối cần thiết bởi vì yêu cầu của
người này có thể là nhiều trong quá trình một ngày. Cho
nên thân thể trữ sẵn những thứ tương ứng với yêu cầu của
tâm trí - và còn nữa.
Khi tâm trí thay đổi, thân thể cũng thay đổi. Khi
kundalini dâng lên, sẽ có thay đổi hoàn toàn trong thân
thể bạn. Trong biến đổi đó da thịt bạn có thể giảm đi và
máu bạn cũng vậy, nhưng nó sẽ giảm đúng theo yêu cầu
của bạn. Cho nên thân thể sẽ hoàn toàn được biến đổi.
Chỉ những da thịt và máu cần thiết cho thân thể mới còn
lại; phần thừa sẽ bị thiêu đốt đi. Chỉ thế thì bạn mới cảm
thấy nhẹ nhàng; chỉ thế thì bạn mới có thể bay vào bầu
trời bên trong. Điều này sẽ là khác biệt.
Điều vừa nói là đúng đắn. Thiền nhân phải có một
chế độ ăn uống đặc biệt và sự thu xếp đặc biệt cho việc
sống, bằng không, người đó sẽ thấy mình gặp khó khăn.
Khi kundalini dâng lên, rất nhiều nhiệt sẽ được tạo ra bên
trong bởi vì đấy là lực điện; đấy là năng lượng có điện thế
rất cao. Cũng hệt như tôi đã nói cho các bạn rằng rắn là
biểu tượng của kundalini, lửa cũng là biểu tượng của
kundalini ở một số nơi. Đây nữa cũng là biểu tượng rất
sát.
Cho nên kundalini sẽ thiêu đốt giống như lửa bên
trong bạn và ngọn lửa sẽ dâng lên cao. Rất nhiều thứ sẽ
cháy trong ngọn lửa này. Khô khan nào đó có thể nảy
sinh từ việc thức tỉnh của kundalini. Do đó, nhân cách
phải rất hài hoà và một số kênh chất lỏng cần phải phát
triển. Chẳng hạn, lấy một người hay giận dữ: nếu
kundalini của người này thức tỉnh, người đó sẽ thấy mình
gặp khó khăn. Người đó là người khô khan và thô lỗ, cho
nên nếu ngọn lửa thiêu đốt bên trong, người đó sẽ gặp rắc
rối. Người đáng yêu có hài hoà hoá học sâu sắc. Có hanh
thông về hài hoà hoá chất bên trong người đó. Người đó
sẽ không bị ảnh hưởng bất lợi bởi việc thức tỉnh của
kundalini.
Bất kì điều gì đã được nói, cũng đều đã được nói với
tất cả những chi tiết này. Mọi thứ đã được đưa ra khá đại
khái bởi vì nghệ thuật diễn đạt của thời xưa còn chưa
được phát triển cho lắm và cách tiếp cận cũng còn thô sơ.
Cho nên điều đã được nói là rất đúng: da thịt sẽ cháy và
cả máu và tuỷ cũng vậy, bởi vì bạn sẽ thay đổi hoàn toàn;
bạn đang sắp là một người mới hoàn toàn. Tất cả những
mẫu hình của bạn, thành phần của bạn, đều phải trải qua
thay đổi. Thiền nhân phải ghi sâu điều này trong trí và
chuẩn bị tương ứng cho mình.
***********************************************************************************************************
#9 Chiều sâu huyền bí của kundalini và tâm linh
Ở trại thiền Nargol, Thầy đã nói rằng những thực
hành yoga - asanas, pranayamas, mudras và bandhas -
đã được phát hiện ra trong trạng thái thiền. Trong
những trạng thái khác của thiền, những tư thế khác
được thân thể hình thành để từ đó thiền nhân có thể
đạt tới chiều sâu của thiền. Đảo lại, liệu cùng trạng
thái bên trong đó có thể được đem lại bởi việc hình
thành các tư thế cần thiết hay không? Trong trường
hợp đó, liệu việc thiền có thể đạt tới được bằng việc
dùng các asanas, pranayamas, mudras và bandhas
không? Đâu là ích lợi và ý nghĩa của chúng?
Điều đầu tiên tới từ kinh nghiệm của thiền. Với kinh
nghiệm của thiền người ta đã thấy rằng thân thể lấy nhiều
tư thế. Thực tại, bất kì khi nào tâm trí đang ở một trạng
thái đặc biệt, thân thể lấy một tư thế tương ứng thích hợp.
Chẳng hạn, khi bạn tràn ngập tình yêu, khuôn mặt bạn,
cách bầy tỏ của bạn đi theo một cách nào đó, còn khi bạn
giận dữ, cách bầy tỏ của bạn trở thành khác hoàn toàn.
Trong giận dữ bạn nghiến răng và siết chặt nắm đấm và
thân thể sẵn sàng để đánh nhau hay bỏ chạy. Khi bạn
đang trong tâm trạng khoan dung, đôi mắt mềm dịu và
bàn tay để mở. Khi một người tràn đầy khoan dung, nắm
tay người đó không bao giờ siết lại. Giống như siết chặt
nắm tay là việc chuẩn bị để đánh nhau, việc mở nắm tay
và trải rộng bàn tay là chỉ dẫn về việc thoát khỏi thôi thúc
đánh nhau; nó là sự đảm bảo cho việc bảo vệ. Siết chặt
nắm tay là để đe doạ người khác.
Bản chất của thân thể là ở chỗ nó vận hành tương ứng
theo trạng thái của tâm trí. Thân thể tuân theo tâm trí: nó
bao giờ cũng đi sau. Cho nên thông thường chúng ta biết
một người sẽ làm gì trong giận và người đó sẽ làm gì
trong yêu - cả việc người đó sẽ làm gì trong trạng thái tin
cậy. Nhưng chúng ta không biết cách thức người đó phản
ứng lại với những trạng thái sâu sắc hơn của tâm trí.
Khi những trạng thái sâu sắc được tạo ra trong tâm
trí, rất nhiều điều cũng xảy ra trong thân thể nữa. Nhiều
điệu bộ, cử chỉ, và nhiều tư thế asana xảy ra nói về những
thay đổi bên trong. Thực tế, các động thái được hình
thành vào lúc chuẩn bị cho những trạng thái bên trong đặc
biệt. Các điệu bộ được hình thành về sau và chúng cho
thông tin về trạng thái bên trong của người ta.
Khi thay đổi xuất hiện bên trong, thân thể phải tìm
một sự điều chỉnh tương đương với những thay đổi bên
trong đó. Khi kundalini thức tỉnh bên trong, thân thể sẽ
lấy tất cả các tư thế bất thường để tạo đường cho năng
lượng. Xương sống tự nó sẽ uốn theo nhiều cách để cho
phép năng lượng đi lên. Đầu cũng lấy những vị trí khác
nhau khi kundalini thức tỉnh. Thân thể lấy những tư thế
mà chúng ta chưa bao giờ có trước đây. Cũng hệt như khi
ta tỉnh dậy thân thể lấy vị trí đứng thẳng và khi chúng ta
ngủ, thân thể phải nằm ra - nó không thể đứng hay ngồi.
Bây giờ giả sử có một người không biết đến ngủ là gì
từ khi sinh: người đó sẽ chẳng bao giờ nằm cả. Nếu sau
ba mươi năm người đó muốn ngủ, người đó sẽ nằm
xuống lần đầu tiên. Lần đầu tiên điều kiện tâm trí người
đó sẽ thay đổi theo khía cạnh này và người đó sẽ đi ngủ.
Tuy nhiên, người đó sẽ rất suy nghĩ bởi tư thế mới, vì
thân thể người đó chưa bao giờ lấy tư thế đó trước đây.
Cho tới nay người đó vẫn quen ngồi, đứng, bước, nhưng
chưa bao giờ nằm xuống cả. Bây giờ người đó phải nằm
xuống để cho điều kiện cần thiết cho giấc ngủ xảy ra bên
trong mình. Khi thân thể nằm dài ra, tâm trí thấy dễ trượt
vào điều kiện đặc biệt hơn. Nhưng những người khác
nhau có những cách khác nhau để nằm ra bởi vì trạng thái
tâm trí của mỗi người mỗi khác.
Chẳng hạn, người ở vùng bộ lạc không dùng gối khi
ngủ, nhưng người văn minh lại không thể nào ngủ được
nếu thiếu gối. Người bộ lạc ít nghĩ đến mức dòng máu
chảy lên đầu cũng ít hơn nhiều. Để ngủ, điều cơ bản là
dòng máu lên đầu phải ít nhất có thể được. Nếu quá nhiều
máu, bạn sẽ không thể nào ngủ được. Nếu thần kinh trong
bộ não không thảnh thơi, sẽ khó cho bạn thảnh thơi; máu
sẽ cứ chảy lên não. Thế thì bạn phải thêm một cái gối nữa
rồi gối nữa. Người ta càng văn minh và có giáo dục,
người đó càng được mở mang, người đó lại càng cần
nhiều gối dưới đầu hơn. Cổ phải gần như thẳng đứng để
ngăn cản dòng máu lên đầu.
Tư thế của thân thể tương ứng với trạng thái tâm trí
của người ta. Cho nên với thức tỉnh của năng lượng bên
trong, những chuyển vận của nó theo nhiều cách bắt đầu
hình thành. Các luân xa khác nhau cũng đưa thân thể tới
các tư thế asana khác nhau. Vậy, nhiều tư thế được hình
thành. Khi một trạng thái đặt biệt bắt đầu hình thành bên
trong, cách biểu hiện của tay bạn, mặt bạn và mắt bạn
cũng thay đổi. Điều này xảy ra trong thiền. Xem như kết
quả, điều ngược lại cũng xuất hiện trong sự chú ý của con
người: tức là, khi thực hiện những động tác này, có thể đi
vào trong thiền được không? Cần phải hiểu điều này.
Trong thiền những quá trình này xảy ra; ấy thế mà
chúng không phải là không tránh khỏi. Nói cách khác, tất
cả các thiền nhân không trải qua cùng các quá trình thân
thể. Một điều kiện phải được sinh ra trong tâm trí: trạng
thái thân tâm của mọi thiền nhân là khác với trạng thái
thân tâm của người khác - do đó, tất cả sẽ không trải qua
cùng các động tác. Chẳng hạn, nếu dòng máu ít đi lên đầu
của một thiền nhân và nếu lại cần dòng máu lớn hơn để
thức tỉnh kundalini, người này, mặc dầu không biết, sẽ đi
vào tư thế trồng cây chuối, shirshasana. Tất cả các thiền
nhân sẽ không đi vào tư thế này bởi vì tỉ lệ dòng máu là
khác nhau cho từng người; mỗi người có những yêu cầu
khác nhau. Cho nên các động tác sẽ hình thành tương ứng
theo nhu cầu của từng thiền nhân.
Khi bản thân chúng ta chọn một động tác và thực
hành chúng, thế thì chúng ta không biết động tác đặc biệt
nào là có ích hay cần thiết cho chúng ta. Các động tác có
thể có hại cũng như có lợi. Nếu không được cần tới trong
trường hợp của một thiền nhân đặc biệt, chúng có thể tỏ
ra có hại - nếu chúng là cần thiết, chúng sẽ có ích. Một
khó khăn là ở chỗ đây là điều bất định. Khó khăn nữa là ở
chỗ khi cái gì đó xảy ra bên trong và đồng thời cái gì đó
bắt đầu xảy ra bên ngoài nữa, thế thì năng lượng sẽ
chuyển ra ngoài. Khi chúng ta thực hiện một hành động
từ bên ngoài, nó có thể vẫn không khác gì việc biểu diễn
vật lí.
Bây giờ như tôi đã nói, trong giận dữ, nắm tay siết lại
một cách tự động. Nhưng đấy không nhất thiết là trường
hợp bạn trở nên giận dữ bằng việc nắm tay lại. Chúng ta
có thể diễn lại một hành động giận dữ trong khi không có
bất kì giận dữ nào bên trong. Vậy mà nếu chúng ta muốn
gợi lên cơn giận dữ bên trong, việc siết chặt nắm tay có
thể có ích, nhưng chúng ta không thể nói chắc rằng giận
dữ sẽ sinh ra. Nếu chúng ta phải chọn giữa siết chặt và
không siết chặt nắm đấm, khả năng đem lại giận dữ nhất
định sẽ nhiều hơn với việc siết chặt nắm đấm. Chút ít trợ
giúp này là có thể.
Khi một người trong trạng thái an bình, tay người đó
sẽ ở một điệu bộ cần thiết. Nhưng nếu một người luyện
tập hình thành điệu bộ ấy của tay, không thể nói chắc
rằng tâm trí người đó có đạt tới an bình không. Vậy mà
những trạng thái đặc biệt của thân thể lại giúp cho tâm trí
được an bình. Thân thể sẽ biểu lộ tính sẵn sàng của nó để
hợp tác; thế thì để cho tâm trí làn điều cần thiết. Nhưng
thay đổi thân thể không có nghĩa là tâm trí sẽ thay đổi, và
lí do là ở chỗ trạng thái của tâm trí đi trước trạng thái của
thân thể. Đó là lí do tại sao khi tâm trí thay đổi, thân thể
thay đổi theo, nhưng việc thay đổi ban đầu trong thân thể
nhiều nhất chỉ tạo ra một khả năng cho thay đổi trong tâm
trí thôi. Điều đó không phải là điều chắc chắn.
Cho nên bao giờ cũng có nguy cơ lừa dối. Một người
có thể thường xuyên thực hiện các động tác và điệu bộ và
cho rằng mình đã làm mọi việc; những trường hợp như
thế vẫn xảy ra. Trong hàng nghìn năm người ta đã tập các
động tác và điệu bộ trong khi nghĩ rằng mình thực hành
yoga. Thế rồi dần dần khái niệm về thiền bị mất đi trong
yoga. Với từ yoga sadhana, điều đến trong tâm trí là
asanas, pranayamas, vân vân. Nếu bạn hỏi ai đó yoga là
gì, người đó sẽ nghĩ về asanas, pranayamas, và cứ như thế
mà tiếp. Do đó, tôi bao giờ cũng nhấn mạnh rằng nếu các
yêu cầu của một thiền nhân được hiểu đúng, những vị trí
thân thể nào đó có thể tỏ ra có ích cho người đó. Nhưng
kết quả là bất định. Đó là lí do tại sao tôi bao giờ cũng
thiên về làm việc từ bên trong chứ không phải từ bên
ngoài.
Nếu cái gì đó bắt đầu từ bên trong, chúng ta có thể
hiểu ý nghĩa của nó. Giả sử một thiền nhân ngồi thiền và
tôi cảm thấy rằng bên trong người đó muốn bật khóc
nhưng người đó phải kìm nó lại. Tôi có thể thấy rằng nếu
người đó khóc trong mười phút, người đó sẽ bắt đầu
chuyển biến và việc thanh tâm sẽ xảy ra. Tuy nhiên,
người đó sợ rằng mình buột khóc cho nên người đó tự
chặn mình lại. Bây giờ nếu người đó được phép không tự
chặn mình lại mà cứ khóc, người đó ban đầu sẽ giả khóc.
Nhưng trong hai hay ba phút, việc khóc đó sẽ trở thành
chân thật khi xung động khóc đã vỡ bờ tràn ra từ bên
trong. Quá trình khóc sẽ phá vỡ rào chắn và cái phải chảy
ra sẽ ào ạt tuôn ra.
Thiền nhân khác cảm thấy muốn nhảy múa nhưng
người đó phải kìm mình lại. Nếu chúng ta bảo người đó
nhảy múa, ban đầu người đó sẽ chỉ đóng kịch: vì việc
nhảy múa sẽ không đến từ bên trong. Một khi người đó
bắt đầu nhảy múa, điều đó sẽ đem lại cho việc nhảy múa
cơ hội để phá ra. Chẳng mấy chốc điều này sẽ bắt đầu và
điệu vũ bên trong sẽ hội nhập vào với điệu vũ bên ngoài.
Nhưng nếu không có lí do gì cho việc nhảy múa bên
trong người đó và chúng ta bảo thiền nhân nhảy múa,
người đó sẽ cứ nhảy múa mà chẳng có gì xảy ra cả.
Cho nên nhiều điều cần phải xem xét tới. Có nhiều,
nhiều điều kiện cho tất cả mọi người mà tôi đã nói với các
bạn. Nếu bạn nhớ những điều này trong tâm trí, bạn sẽ
hiểu. Nếu bạn không muốn bị nặng gánh với tất cả những
điều này, cách tốt nhất là bắt đầu từ bên trong và để cho
mọi thứ xảy ra một cách tự phát. Đừng chặn biến cố bên
ngoài, đừng đánh nhau với nó. Thế thì mọi việc sẽ tự nó
xảy ra.
#9Trong những thực nghiệm thiền mà Thầy hiện đang
hướng dẫn, đâu là khác biệt về vật lí và tâm lí đưa lại
bởi việc ngồi hay đứng cho thực nghiệm đó?
Điều ấy tạo ra khác biệt lớn đấy. Như tôi đã nói với
các bạn trước đây, sâu bên trong, mọi trạng thái thân thể
đều có gắn với một trạng thái đặc biệt của tâm trí tương
ứng với nó. Nếu chúng ta bảo một người thức khi người
đó đang nằm, rất khó cho người đó làm như vậy; nếu
chúng ta bảo người đó tỉnh táo khi người đó đang đứng,
điều này sẽ dễ dàng. Nếu chúng ta bảo người đó ngủ khi
người đó đang đứng, điều đó sẽ khó khăn; nếu chúng ta
bảo người đó ngủ khi người đó nằm, điều đó sẽ dễ dàng.
Cho nên có quá trình kép trong đó có sợ là thiền nhân
có thể rơi vào giấc ngủ hay mê đi. Nếu người đó đứng,
việc này sẽ giúp xua đuổi sợ này. Nếu người đó đứng, khả
năng mê sẽ kém đi.
Phần thứ hai của thực nghiệm này là thái độ chứng
kiến - nhận biết. Ban đầu khó mà duy trì nhận biết khi
nằm ra. Về sau điều đó sẽ dễ dàng. Bao giờ cũng dễ dàng
duy trì việc chứng kiến khi bạn đứng. Quá trình khởi đầu
thôi miên, mà thay vì thế sẽ đưa bạn vào giấc mê, sẽ bị
thu hẹp lại rất nhiều bởi việc đứng.
Có hai hay ba điều nữa. Khi bạn đứng, chuyển động
của thân thể là tự do; khi bạn nằm chuyển động của bạn
sẽ không được tự do như thế. Khi bạn ngồi, nửa thân thể
sẽ không thể nào tham gia vào hoạt động. Giả sử chân
bạn muốn nhảy múa còn bạn đang ngồi: thế thì chân
không thể nhảy múa được. Bạn thậm chí sẽ không biết
chúng cần gì bởi vì chân không có cách nào tự bầy tỏ
được. Có những hướng dẫn tinh tế mà chúng ta không
nắm được. Nếu bạn đang đứng, chân sẽ bắt đầu đưa lên
và bạn sẽ biết chúng muốn nhảy. Nhưng nếu bạn đang
ngồi, hướng dẫn này không thể nào được truyền đạt ra.
Thực tại, truyền thống về ngồi thiền đặc biệt có nghĩa
để kìm nén tất cả những chuyển động nảy sinh của thân
thể. Siddhanasana, padmasana và sukhasana phải được
thực hành mở rộng trước khi việc thiền được dạy để cho
chuyển động của thân thể có thể được dừng lại. Cho nên
khả năng của việc năng lượng dâng lên bên trong vẫn có
đó từ ban đầu. Rất nhiều điều xảy ra như kết quả. Bạn
cảm thấy muốn nhảy múa, ca hát, nhảy nhót, chạy.
Những hành động xúc động này bao giờ cũng bị coi như
là điên khùng. Người điên kêu khóc, cười nói, nhảy múa,
nhảy nhót. Khi thiền nhân làm cùng điều đó, do vậy
người đó sẽ bị coi dường như là điên.
Không phải dường như điên khùng trong xã hội,
siddhasana, padmasana và những tư thế ngồi khác đã
được công phu rất nhiều để cho thân thể được trong kiểm
soát hoàn toàn. Thế thì thiền nhân sẽ không trông như
điên khùng đối với thế giới. Bây giờ các tư thế ngồi
padmasana, sukhasana và siddhasana là để cho chúng làm
cho chân bạn thành cứng nhắc. Trọng lượng của bạn lớn
hơn khi gần đất, khi xa đất, nó trở thành nhẹ bớt đi. Phần
mông bạn trở nên nặng nề tựa như ngôi đền hay kim tự
tháp: rộng đáy, hẹp trên đỉnh. Thế thì khả năng chuyển
động là rất tối thiểu - gần bằng không.
Việc chuyển động tối đa là có thể khi bạn đứng - khi
không có gì giữ bạn cố định. Khi bạn xếp chéo chân và
ngồi, bạn tạo thành một chân đế không thể di động nổi.
Phần lớn thân thể bạn được cố định bởi trọng lực, cái vẫn
luôn nắm giữ nó. Thế rồi bạn để tay theo cách mà khả
năng chuyển động bị giảm tối thiểu. Xương sống nữa
cũng được dựng thẳng và cố định. Trước khi bạn sẽ được
phép đi vào trong thiền, kiểu động tác này phải được làm
hoàn hảo trước hết qua một thời kì tập luyện dài.
Theo cách tiếp cận của tôi, vấn đề là đối lập lại. Theo
quan điểm của tôi, chẳng có mấy khác biệt cơ bản giữa
chúng ta và những người điên. Tất cả chúng ta đều là
người điên bị kìm ném; cái điên của chúng ta là cái điên
bị kìm nén. Bạn có thể nói rằng chúng ta là điên theo cách
bình thường hay chúng ta là "điên thông thường." Có
nhiều điểm chung giữa chúng ta và điên khùng... Nhưng
người tiến thêm chút nữa trong điên khùng của mình, thấy
mình gặp rắc rối, nhưng điên khùng vẫn nằm quanh
chúng ta và nó cố gắng tìm lối ra của mình.
Khi bạn giận dữ, bạn tạm thời hoá điên. Vào những
lúc như thế bạn làm những điều mà bạn sẽ không bao giờ
mơ tới việc làm đó khi bạn có ý thức. Bạn sẽ chửi rủa,
ném đá, đập phá đồ đạc. Bạn thậm chí còn có thể nhảy từ
mái nhà; bạn có thể làm bất cứ điều gì. Nếu một người
điên làm những việc này, chúng ta có thể hiểu được,
nhưng khi một người "bình thường" làm điều này, chúng
ta đơn thuần nói rằng người đó giận dữ. Bây giờ đây
chính là cùng người "bình thường" đó, và nếu những điều
này không phải là ở bên trong người đó, chúng phải
không ló ra. Tất cả những điều này là ở bên trong chúng
ta và tất cả chúng ta đều canh giữ nó. Việc hiểu của tôi là
ở chỗ trước khi đi vào thiền, điều cần thiết là tất cả những
điều này phải được tống ra hết từ bên trong. Bạn càng xả
bớt cái điên khùng này đi bao nhiêu, tâm trí bạn sẽ càng
được nhẹ thêm đi bấy nhiêu.
Do đó, trong khi phương pháp siddhasana cổ phải mất
nhiều năm mới cho kết quả, phương pháp mới này thực
hiện cùng nhiệm vụ đó chỉ trong trong vài tháng. Phương
pháp cổ phải tốn nhiều lần sinh thành để hoàn thành nó;
phương pháp mới này có thể chỉ tốn vài tháng. Cái điên
khùng bên trong phải được xả ra, nhưng trong phương
pháp cổ, thanh tâm được tiến hành trong thể ê te thay vì
trong thể vật lí. Bây giờ điều này là cái gì đó khác hẳn,
bởi vì cười, khóc, múa, vân vân tất cả đều bên trong bạn,
và điều tuyệt đối cần thiết là phải cho chúng ra.
Nếu bạn đã huấn luyện thể vật lí của mình một cách
rộng rãi để hoàn toàn tĩnh lặng trong hàng giờ cho đến
cuối, thế thì bạn sẽ thực hiện thanh tâm qua thể ê te của
mình. Thế thì điều đó sẽ không thấy được đối với người
khác ngoài bạn. Bạn bây giờ tự bảo vệ mình đối với xã
hội; bây giờ không ai biết khi nào bạn nhảy múa hay ca
hát vì bạn sẽ chỉ làm như vậy ở bên trong. Việc nhảy múa
và ca hát này sẽ dường như trong mơ. Bạn sẽ nhảy múa
bên trong, kêu khóc bên trong, cười bên trong, nhưng thể
vật lí của bạn, chẳng lộ ra bằng chứng nào về điều đang
xảy ra bên trong bạn. Nó sẽ vẫn ngồi tĩnh lặng mà không
có dấu vết nào về việc xảy ra bên trong.
Quan điểm của tôi là ở chỗ không đáng phải trải qua
quá nhiều rắc rối để được điều nhỏ bé như thế. Chẳng có
gì quan trọng trong việc làm cho người tìm kiếm mất
nhiều năm để rèn luyện thể chất trước khi đưa người đó
vào thiền. Cũng còn có những khả năng khác nữa. Nếu
một người trở nên rất thành thạo trong việc kiểm soát
thân thể mình và thành công trong việc kìm nén hoàn toàn
thân thể vật lí của mình, có khả năng là không có rung
động nào sẽ nảy sinh trong thể ê te và nó có thể trở thành
hoàn toàn trơ ì. Dưới những điều kiện như thế thì có thể
là những quá trình không sâu sắc sẽ xảy ra bên trong bạn
nhưng bạn sẽ thành công đơn thuần trong việc ngồi im
như bức tượng. Bây giờ dưới những điều kiện như thế thì
khi tất cả các quá trình đều bị kìm nén bên trong, có nỗi
sợ của người này trở thành điên khùng.
Trong quá khứ người ta đã thấy các thiền nhân bị phát
điên. Tuy nhiên phương pháp mà tôi đề ra ở đây, nếu
được thực hành, ngay cả người điên trong vòng một hay
hai tháng, cũng sẽ thoát khỏi điên khùng của mình.
Không thể nào có chuyện một người bình thường lại trở
thành điên khi thực hành phương pháp này, bởi vì trong
phương pháp của tôi, chúng ta không kìm nén cái điên
khùng bên trong chúng ta, chúng ta khơi nó ra. Các
phương pháp thiền cũ đã biến nhiều người thành điên
khùng, và sự kiện này đã bị che đậy bởi những từ ngữ hoa
mĩ. Chúng ta sẽ nói về một người như thế là "Ông ấy
sướng điên; ông ấy say về Thượng đế; ông ấy đã trở
thành thánh." Nhưng sự kiện còn lại là ông ấy đã hoàn
toàn phát điên. Ông ấy đã kìm nén đôi điều bên trong
mình tồi tệ đến mức chúng trở thành hoàn toàn vượt ra
ngoài kiểm soát của ông ấy.
Phương pháp này làm hai việc. Nhiệm vụ thứ nhất nó
thực hiện là ném đi tất cả những rác rưởi vẫn có bên trong
bạn bằng cách thanh tâm. Trước hết bạn phải trở thành vô
trọng lượng - vô trọng lượng đến mức không một dấu vết
nhỏ nhặt nào của cái điên khùng là còn lại bên trong; thế
rồi bạn du hành bên trong. Cho nên điều dường như rõ
ràng giống như điên khùng trong phương pháp này, về
bản chất là quá trình làm cho bạn thoát khỏi tất cả các cái
điên khùng. Tôi ưa thích rằng cái ở bên trong bạn sẽ đi ra,
và với nó, gánh nặng, căng thẳng, lo âu cũng đi ra.
Sự kiện thú vị nhất là ở chỗ khi điên khùng tới với
bạn, bạn không kiểm soát được nó. Nhưng bạn là người
chủ của cái điên khùng mà bạn vẫn thường đem bên
mình. Một khi bạn nhận biết về sự kiện này, cái điên
khùng sẽ chẳng bao giờ chiếm giữ được bạn.
Xét một người đang nhảy múa, ca hát hay cười nói,
hò hét theo ý riêng của mình: người đó đang làm tất cả
những cái mà người điên làm. Chỉ có khác biệt này: với
người điên, mọi sự tự chúng xảy ra trong khi thiền nhân
đem chúng tới. Không có hợp tác hoàn toàn của thiền
nhân, cái điên khùng này không thể kéo dài được một
khoảnh khắc. Người đó có thể dừng lại vào khoảnh khắc
người đó muốn. Bây giờ người đó chẳng bao giờ có thể
phát điên, bởi vì người đó đã sống cái điên khùng, thấy
cái điên khùng, trở nên quen thuộc với cái điên khùng.
Bây giờ điều này đã trở thành một biến cố tự nguyện cho
người đó; cái điên khùng bây giờ ở trong phạm vi kiểm
soát của người đó.
Nền văn hoá của chúng ta đã đào tạo chúng ta theo
cách mà cái điên khùng nằm ngoài sự kiểm soát của ta;
nó đã trở thành không tự nguyện. Vậy, khi nó xảy ra cho
chúng ta, chúng ta không thể nào làm bất kì cái gì về nó.
Tôi coi phương pháp này là rất có giá trị cho nhân
loại tương lai, bởi vì toàn bộ nền văn minh hàng ngày đều
phải đương đầu với cái điên khùng toàn bộ. Mọi người sẽ
cần kĩ thuật này để loại bỏ cái điên khùng của mình;
không có cách nào khác.
Nếu người ta tống khứ đi cái điên khùng của mình
theo cách này trong một giờ thiền, mọi người sẽ dần dần
quen với phương thức thiền này. Mọi người sẽ biết rằng
con người này đang thiền. Tuy nhiên, nếu người ta thực
hiện hành động tương tự bên hè đường, người ta sẽ bị
tống vào nhà giam. Nếu người đó xả ra sự giận dữ của
mình giữa mọi người, tất cả các mối quan hệ của người
đó sẽ trở nên xấu và tan vỡ.
Cái điên khùng này phải ra đi theo cách này hay cách
khác, nếu không người đó sẽ gặp khó khăn. Nếu người đó
không cho phép nó được xả ra một cách tự nguyện, cái
điên khùng này sẽ tìm hàng trăm cách để nổ bùng ra. Đôi
khi người ta trở thành say khướt để cho cái điên khùng đi
ra khỏi mình; đôi khi người đó bộc lộ điên khùng của
mình trong nhảy múa điên cuồng. Nhưng tại sao phải đi
qua tất cả những rối loạn này? Bây giờ những cách nhảy
múa mới, như nhảy múa quay tít, vân vân, không phải là
biến cố ngẫu nhiên nữa. Bên trong thân thể muốn chuyển
động và chúng ta không dành chỗ nào cho việc chuyển
động. Vậy nó sẽ tự thu xếp cho chính nó và thế thì nó lại
dệt thêm mạng nhện bên trong những thu xếp này.
Thiền đang ném đi cái điên khùng mà không cần
những thu xếp thay thế này. Trong thiền chúng ta đơn
thuần ném đi cái mà ta biết là ở bên trong chúng ta và cái
mà chúng ta biết cần phải vứt đi. Nếu chúng ta dạy
phương pháp thanh tâm này cho trẻ nhỏ cùng với việc
giáo dục, sẽ có sụt giảm hẳn số người điên. Cái điên có
thể bị loại bỏ vĩnh viễn. Nhưng thay vì thế chúng ta thấy
nó tăng lên hàng ngày. Khi xã hội chúng ta tiến bộ thêm
nữa, nó ngày càng quá khích hơn.
Nền văn hoá dạy chúng ta kìm nén. Qui ước thông
thường không cho phép chúng ta khóc to hay cười to; nó
không cho phép chúng ta nhảy múa hay gào thét như ta
muốn. Nó dồn sức ép lên chúng ta từ mọi phía với kết quả
là tất cả những cái cần phải xảy ra bên trong chúng ta đều
bị kìm nén lại. Thế rồi một hôm nào đó sức ép bị tích luỹ
của những xúc động này bùng nổ và tình huống này vượt
ra ngoài kiểm soát của chúng ta. Vậy, thanh tâm là bước
đầu tiên trong phương pháp thiền của chúng ta, và qua nó
chúng ta xả ra tất cả những xúc động bị dồn nén bên
trong.
Chính bởi lí do này mà tôi khuyên nên đứng trong khi
thực nghiệm, bởi vì thế thì bạn sẽ nhận biết về chuyển
động nhỏ bé nhất bên trong và bạn sẽ có khả năng di
chuyển tự do. Thiền nhân nên ở trong một phòng đóng
kín. Người đó không chỉ nên đứng, mà người đó nên hoàn
toàn ở trần để cho không một mảnh quần áo nào có thể
gây ra cản trở cho người đó. Người đó nên hoàn toàn
được tự do để cho tất cả mọi chuyển động xảy ra. Không
nên có chướng ngại dù là nhỏ nhặt nhất trong bất kì phần
nào của tính cách người đó mà cản trở chuyển động. Thế
thì người đó sẽ thu được tiến bộ nhanh chóng và cái mà
phải mất nhiều năm hay thậm chí nhiều kiếp để đạt được
qua hatha yoga và các yoga khác, sẽ xảy ra trong quá
trình vài ngày theo phương pháp này.
Những công phu yoga kéo dài sẽ không có tác dụng
cho thế giới; bây giờ người ta không có ngày hay thậm
chí giờ rảnh nữa. Chúng ta cần các phương pháp cho kết
quả nhanh chóng. Nếu một người cam kết luyện tập trong
bẩy ngày, đến cuối thời kì đó người đó nên cảm thấy rằng
cái gì đó đã xảy ra cho mình. Người đó nên trở thành con
người khác trong thời gian bẩy ngày. Nếu một thực
nghiệm cho kết quả chỉ sau bẩy lần sinh, chẳng ai sẽ tới
gần thực nghiệm ấy nữa. Các phương pháp cũ nói kết quả
tới sau nhiều lần sinh. Họ quen nói, "Tiến hành thực
nghiệm này trong kiếp này và kết quả nhất định sẽ tới
trong kiếp khác." Đấy là những người rất kiên nhẫn và
bền bỉ. Họ tiến hành thiền cho dù kết quả được hứa hẹn ở
những kiếp sau. Bây giờ bạn sẽ không tìm được người
như thế. Nếu kết quả không đạt được ngay chính hôm
nay, chẳng ai sẵn lòng chờ đợi dù là đến mai.
Và ai có thể tin vào ngày mai được? Kể từ khi bom
nguyên tử rơi xuống Hirosima và Nagasaki, ngày mai của
chúng ta đã tan biến rồi. Hàng nghìn thanh niên nam nữ
Mĩ từ chối đến trường đại học. Họ nói, "Liệu thế giới có
còn nguyên vào lúc chúng ta kết thúc việc học tập không?
Người ta chẳng bao giờ biết điều gì có thể xảy ra vào
ngày mai cả." Họ cảm thấy đấy là lãng phí thời gian. Họ
trốn khỏi trường học và trường đại học. Họ biện minh với
bố mẹ: "Trong sáu năm chúng con vào đại học, liệu thế
giới có tồn tại nữa hay không? Bố mẹ có đảm bảo điều đó
không? Tại sao chúng ta không dùng tất cả sáu năm quí
giá này trong cuộc sống của mình?"
Khi ngày mai đã trở thành bất định thế, thật là vô
nghĩa để nói theo kiểu nhiều lần sinh thành. Không ai sẵn
sàng lắng nghe, không ai nghe nữa. Cho nên tôi nói công
phu hôm nay và cảm thấy kết quả ngay lập tức. Nếu một
người sẵn lòng trao cho tôi một giờ làm thực nghiệm này,
người đó nên thu được cảm giác về kết quả sau chính giờ
này. Chỉ thế thì người đó mới có thể trao cho tôi một giờ
của thời gian ngày mai của người đó; bằng không, chẳng
chắc là người đó sẽ thực hiện nó vào ngày mai. Cho nên
yêu cầu đã thay đổi cho thời đại này. Trong thế giới của
xe bò kéo mọi thứ đều chuyển động chậm chạp, cho nên
thiền cũng chuyển động với nhịp độ rất chậm chạp. Bây
giờ là thời đại phản lực; bây giờ thiền không thể nào chịu
đựng được chậm trễ. Nó phải tăng tốc lên.
#9Xin thầy giải thích ý nghĩa và nghĩa của điều sau đây
đối với năng lượng của kundalini: nằm phủ phục trên
đất trong kính trọng một người linh thiêng, chạm vào
chân người đó bằng đầu hay tay, cúng dường tại các
chỗ thiêng liêng, ân huệ của một người thiêng liêng
được trao bằng việc chạm vào đầu hay lưng người
tìm kiếm, người Sikh và người hồi giáo quấn đầu khi
đi vào trong đền thờ hay gurudwara.
Có nhiều lí do cho những điều này. Như tôi đã nói
trước đây, khi chúng ta tràn đầy giận dữ, chúng ta cảm
thấy muốn đánh ai đó; chúng ta cảm thấy muốn dẫm lên
đầu người đó. Vì điều này quá ư không thực tế nên chúng
ta làm điều tiếp sau tốt nhất: ta ném giầy vào người đó.
Rất khó làm cho người cao mét bẩy phải nằm dưới chân
ta, cho nên chúng ta ném giầy vào đầu người đó như một
biểu tượng cho thôi thúc của giận dữ bên trong ta. Nhưng
chẳng ai hỏi đâu là lí do nằm sau việc ném giầy này. Và
đây không phải là hành động do một giáo phái hay một
nước ham muốn; nó là phổ quát. Chính sự kiện là bất kì
khi nào một người giận dữ với người khác, ham muốn
tràn ngập của người đó là dẫm lên đầu của người kia dưới
chân mình.
Khi con người vẫn còn nguyên thuỷ, có lẽ con người
chỉ nghỉ sau khi đã dẫm chân lên đầu địch thủ vì con
người còn chưa có giầy. Cho nên khi bạn đang trong
trạng thái giận dữ, bạn cảm thấy muốn dẫm chân lên đầu
ai đó. Tuy nhiên, điều đối lập lại cũng đúng: khi bạn tràn
ngập tin cậy và tôn kính, bạn cảm thấy phải đặt đầu dưới
chân ai đó. Có nhiều lí do cho điều này cũng như là đã có
nhiều lí do cho tình huống trước đây.
Có những khoảnh khắc bạn cảm thấy phải phủ phục
xuống, và đấy chính là những khoảnh khắc khi bạn cảm
thấy năng lượng sống tuôn chảy từ ai đó vào bạn. Thực
tế, bất kì khi nào bạn muốn nhận bất kì luồng năng lượng
nào bạn đều phải cúi mình xuống. Nếu bạn muốn trút đầy
nước sông vào cái bình của mình, bạn phải cúi người
xuống. Người ta phải cúi mình để nhận được bất kì luồng
nước nào bởi vì tất cả các luồng nước đều chảy xuống.
Cho nên nếu bạn cảm thấy rằng cái gì đó đang chảy
xuống từ ai đó, đầu bạn càng cúi thấp xuống và khoảnh
khắc đó, bạn càng nhận được nó nhiều hơn.
Thứ hai là năng lượng chảy từ các cực điểm của
người ta: chẳng hạn, từ các ngón tay, ngón chân. Năng
lượng không chảy ra từ mọi chỗ. Năng lượng sinh học,
hay năng lượng của shaktipat, hay với vấn đề đó bất kì
năng lượng nào chảy ra từ thân thể, đều chảy ra từ đầu
ngón tay hay ngón chân. Nó không chảy từ toàn bộ thân
thể mà chỉ từ các cực điểm. Cho nên người phải nhận
năng lượng sẽ đặt đầu mình xuống dưới chân thầy và
người muốn trao năng lượng sẽ đặt tay lên đầu của người
nhận.
Những điều này là vấn đề rất huyền bí và khoa học.
Cũng tự nhiên mà nhiều người sẽ bắt chước hành động
này. Hàng nghìn người đặt đầu dưới chân người khác mà
chẳng có mục đích nào cả, và có hàng nghìn người đặt tay
lên đầu người khác cũng chẳng có nghĩa lí gì. Vậy một
nguyên lí rất sâu sắc đã dần trở thành một lễ nghi đơn
thuần. Khi lễ nghi tiếp tục trong một thời gian dài, người
ta nhất định nổi dậy chống lại nó. Họ sẽ nói, "Cái điều vô
nghĩa gì thế này? Cái gì tới từ việc đặt đầu dưới chân
người khác? Và điều gì xảy ra đơn thuần bởi việc chạm
vào đầu?" Chín mươi chín phần trăm số lần điều ấy chỉ là
vô nghĩa; tuy nhiên, một phần trăm vẫn còn có nghĩa.
Đã có thời một trăm phần trăm lần đều có nghĩa bởi
vì nó là tự phát. Bạn không chạm vào chân ai đó bởi vì
bạn nghĩ bạn phải làm như thế. Đôi khi, khi bạn cảm thấy
bạn phải sụp xuống dưới chân ai đó, đừng kìm mình lại:
cứ sụp xuống! Và đấy không phải là người khác phải đặt
tay lên đầu người nhận. Việc xảy ra là trong khoảnh khắc
nào đó là bàn tay trở nên rất nặng và cái gì đó sẵn sàng
chảy ra từ nó. Nếu người khác đã sẵn sàng nhận, chỉ thế
thì tay mới được đặt lên đầu. Nhưng qua một thời kì dài
mọi thứ biến thành một nghi lễ đơn thuần mà điều này,
trở thành vô nghĩa. Và khi nó trở thành vô nghĩa, nó bị
phê phán. Những phê phán này mang sức lôi cuốn rất lớn
vì khoa học đứng sau truyền thống này đã bị mất. Cho
nên điều này là một cử chỉ rất có ý nghĩa, nhưng nó chỉ có
nghĩa khi có một bậc thầy sống và một đệ tử tiếp nhận.
Một người sụp mình dưới chân một Phật, một
Mahavira, và kinh nghiệm thấy sự say mê duy nhất;
người đó cảm thấy ân huệ đổ xuống từ ông ấy. Không ai
sẽ có thể thấy điều này từ bên ngoài bởi vì đây là toàn bộ
biến cố ở bên trong. Nó là thực tại cho người đã kinh
nghiệm nó. Nếu người khác yêu cầu bằng chứng về nó,
người này chẳng có gì để đưa ra cả. Thực tế, đây là khó
khăn cho mọi hiện tượng huyền bí: cá nhân có kinh
nghiệm nhưng người đó không có bằng chứng về nó để
đưa ra trước người khác. Thế thì người này dường như là
người tin tưởng mù quáng. Người này nói, "Tôi không thể
diễn tả được nó, nhưng cái gì đó đã xảy ra." Những người
còn chưa kinh nghiệm, từ chối tin điều này vì họ chẳng
cảm thấy gì cả. Thế thì họ cảm thấy rằng con người đáng
thương này đang trong ảo tưởng.
Nếu một người như thế sụp mình xuống dưới chân
Jesus, chẳng có gì sẽ xảy ra cho người đó và người đó sẽ
bắt đầu tuyên bố to rằng tất cả những điều này là vô
nghĩa: người đó đã đặt đầu xuống dưới chân Jesus mà
chẳng có gì xảy ra cả. Cũng hệt như bình nước với miệng
bình mở được nhấn xuống nước. Khi được lấy lên nó nói,
"Tôi đã được nhấn xuống nước và đã tràn đầy." Bây giờ
một cái bình khác có miệng bình đóng kín có thể bắt đầu
tự mình thử việc ấy. Nó có thể đi sâu vào trong dòng sông
những sẽ trở ra trống rỗng. Thế rồi nó sẽ xác nhận rằng
tất cả đều là sai và chẳng ai được múc đầy bởi việc nhúng
sâu vào trong dòng sông. Nó sẽ tuyên bố, "Tôi đã cúi
mình xuống, tôi đã nhúng mình vào, nhưng tôi trở lại
trống rỗng."
Đấy là một biến cố hai mặt. Năng lượng chảy từ một
người vẫn chưa đủ; điều quan trọng tương đương là bạn
phải trống rỗng và cởi mở. Nhiều lần luồng chảy của
năng lượng từ ai đó không quan trọng như việc chuẩn bị
của bạn, sự cởi mở của bạn để đón nhận nó. Nếu bạn đủ
cởi mở, thế thì thậm chí nếu năng lượng không có trong
người đứng trước bạn, những nguồn năng lượng cao hơn
ở trên người đó sẽ bắt đầu chảy về phía bạn và đạt tới
bạn. Cho nên điều đáng ngạc nhiên nhất là ở chỗ nếu bạn
để cho bản thân mình sống toàn tâm toàn ý thậm chí ngay
trước một người mà chẳng có gì cho bạn, bạn sẽ vẫn cứ
nhận được năng lượng từ người đó. Nhưng năng lượng
không đến từ người đó; người đó chỉ là trung gian và
người đó hoàn toàn không hay biết gì về biến cố đã xảy
ra.
Bây giờ đến phần thứ hai trong câu hỏi của bạn về
việc đi vào đền thờ hay gurudwara với cái đầu được quấn
khăn. Nhiều thầy tu khổ hạnh ưa thích quấn đầu và thế rồi
thực hành thiền. Việc đó có ích của nó. Khi năng lượng
thức tỉnh, có khả năng đầu trở thành rất nặng. Nếu bạn
quấn đầu bằng một tấm vải, năng lượng này không thể
chảy đi được. Thế thì năng lượng này sẽ tạo ra một mạch
bên trong bạn và do vậy làm mạnh thêm việc thiền của
bạn. Cho nên kiểu quấn đầu này tỏ ra rất có ích. Nếu bạn
thiền với đầu được quấn khăn, bạn sẽ cảm thấy khác ngay
lập tức. Thế thì điều có thể được hoàn thành trong mười
lăm ngày cũng có thể được hoàn thành trong năm ngày.
Khi năng lượng đạt tới đầu, cũng có các cơ hội nó trở
nên bị phân tán và rải rác đi. Nếu nó có thể bị buộc lại và
nếu một mạch như vậy được hình thành, kinh nghiệm của
bạn sẽ sâu sắc hơn nhiều. Nhưng hiện tại việc quấn đầu
này trong các đền thờ hồi giáo và gurudwara chỉ là nghi lễ
đơn thuần; bây giờ nó chẳng có nghĩa gì. Tuy thế thì sự
kiện vẫn còn đấy là có nhiều ý nghĩa đằng sau tục lệ này.
Bây giờ có thể hiểu được rằng một năng lượng nào đó
có thể nhận được bằng việc chạm vào chân ai đó hay qua
tay người đó đưa lên ban ân huệ. Nhưng một người cúi
mình trước một nấm mồ hay trước hình ảnh trong đền,
người đó có thể thu được gì? Có nhiều điều trong việc
này cũng cần phải được hiểu. Đằng sau việc tạo ra hình
ảnh và thần tượng có thu xếp rất khoa học.
Giả sử rằng tôi sắp chết và có vài người quanh tôi,
những người yêu mến tôi, người đã thấy cái gì đó trong
tôi, người đã tìm kiếm và đã thấy điều gì đó ở tôi. Bây giờ
những người này có thể hỏi tôi họ nên tưởng nhớ tới tôi
theo cách nào. Cho nên trước khi tôi chết có thể thiết lập
biểu tượng giữa chúng tôi. Nó có thể là bất kì cái gì - thần
tượng, hòn đá, cây, thậm chí cái bục, hay nấm mồ của tôi,
samadhi của tôi, hay một mẩu quần áo của tôi, hay đôi
dép của tôi - bất kì cái gì. Nhưng vật này phải được quyết
định trước giữa chúng tôi; nó là hiểu biết giữa chúng tôi.
Nó không thể được quyết định chỉ bởi riêng bất kì một
bên nào; tôi phải là một nhân chứng. Sự chấp nhận của
tôi, sự chuẩn y của tôi là cần thiết đối với biểu tượng này.
Thế thì tôi có thể nói rằng nếu họ ra trước biểu tượng đó
và nghĩ về tôi, tôi sẽ hiện diện trong trạng thái vô thân
thể. Lời hứa mà tôi đã đưa ra, và tất cả những công việc
đều tiến hành tương ứng với lời hứa này. Và điều này là
hoàn toàn đúng.
Do đó, có những ngôi đền là ngôi đền sống và những
ngôi đền là đền chết. Đền chết là những đền đã được tạo
ra chỉ bởi một phía; không có sự đảm bảo từ phía bên kia.
Đấy là mong ước của chúng ta để làm ra ngôi đền về Phật
- nhưng đây sẽ là một ngôi đền chết bởi vì Phật chẳng đưa
ra bất kì lời hứa nào đối với nó. Có những ngôi đền sống
mà có sự đảm bảo từ phía bên kia nữa, và tại nền tảng của
nó có tuyên bố của một người thần thánh nào đó.
Có một nơi ở Tây Tạng mà lời đảm bảo của Phật đã
được thực hiện từ hai nghìn năm trăm năm qua. Tuy
nhiên, nơi này bây giờ đang trong khó khăn. Có một
nhóm, một uỷ ban năm trăm lạt ma, và khi một trong năm
trăm người này chết, sẽ rất khó để thay thế người đó. Số
năm trăm này là hằng số; không thể nhiều hơn hay ít hơn
được. Khi một trong số họ chết, một người nữa sẽ được
chọn, nhưng chỉ với sự chấp thuận của bốn trăm chín
mươi chín người. Và nếu dù chỉ một người trong số bốn
trăm chín mươi chín người từ chối chấp nhận người đó,
người đó cũng không thể được chọn. Uỷ ban năm trăm lạt
ma này họp lại trên một vùng núi đặc biệt vào đêm Phật
Poornima - đêm trăng tròn tháng năm để kỉ niệm ngày
sinh Phật - và vào đúng giờ đã xác định, người ta nghe
thấy tiếng nói của Phật. Biến cố này không thể xảy ra tại
bất kì chỗ nào khác và với bất kì người nào khác. Nó xảy
ra đích xác theo sắp xếp đã hứa hẹn.
Cũng hệt như nếu bạn quyết tâm trước khi ngủ đêm
rằng bạn sẽ dậy buổi sáng vào lúc năm giờ: thế thì bạn
không cần chuông báo thức để đánh thức mình. Vào đúng
năm giờ bạn sẽ đột nhiên tỉnh dậy. Đây là một điều gì đó
khá ngạc nhiên - và bạn có thể kiểm tra điều đó theo đồng
hồ. Đồng hồ có thể sai nhưng bạn thì không. Nếu quyết
tâm của bạn là vững chắc, bạn sẽ chắc chắn dậy lúc năm
giờ.
Nếu bạn kiên quyết nhất định chết vào một ngày nào
đó trong năm nào đó, chẳng có sức mạnh nào trên thế giới
này có thể dừng được bạn: bạn sẽ chết vào khoảnh khắc
đã quyết định đó. Nếu quyết tâm của bạn rất sâu sắc và
mạnh mẽ, bạn cũng có thể hoàn thành lời hứa của mình
thậm chí sau khi chết. Chẳng hạn, sự xuất hiện của Jesus
sau cái chết: đó là một lời hứa được thực hiện. Điều này
gây ra nhiều khó khăn cho người Ki tô giáo, bởi vì họ
không biết điều đã xảy ra về trước và do vậy họ không
chắc liệu Christ có phục sinh hay không. Tuy nhiên, đây
là một lời ông ấy đã hứa với một số tông đồ, điều này đã
được thực hiện sau cái chết.
Thực tế, những nơi mà lời hứa sống động nào đó vẫn
được thực hiện qua hàng nghìn năm đã dần dần biến
thành tirths, nơi thần thánh cho việc hành hương. Thế rồi
dần dần những lời hứa cũng bị lãng quên. Chỉ một điều
còn lại trong kí ức mọi người - rằng họ phải tới và viếng
thăm những nơi này; có vậy thôi.
Có những lời hứa mà Mohammed đã đưa ra; có
những lời hứa mà Shankara đã đưa ra. Rồi cũng những lời
hứa đã được Phật, Mahavira và Krishna đưa ra, và những
lời hứa đó gắn với những nơi đặc biệt, những khoảnh
khắc đặc biệt và với những thời gian đặc biệt. Nhưng
chúng ta vẫn có thể thiết lập mối quan hệ với họ. Cho nên
bạn sẽ phải cúi mình tại những nơi này và buông xuôi bản
thân mình hoàn toàn; chỉ thế thì bạn mới có thể thiết lập
được mối nối này.
Những nơi thần thánh, các đền, samadhi, tất cả đều có
ích lợi của chúng, nhưng cũng như với các vật khác,
những nơi có ích này chung cuộc đều trở thành tín
ngưỡng, và thế thì chúng trở thành chết và vô dụng. Thế
thì chúng phải bị giật đổ để cho những lời hứa mới có thể
được đưa ra mà sẽ làm phát sinh ra các chỗ hành hương
mới, những thần tượng mới, những đền mới. Cái cũ phải
bị phá đổ bởi vì nó đã trở thành chết. Chúng ta chẳng có ý
tưởng gì về những quá trình vẫn đang vận hành qua
chúng.
Có một nhà yoga ở miền Nam Ấn Độ. Một lữ hành
người Anh đã tới gặp ông. Vào lúc ra đi, người này nói
với nhà yoga, "Tôi sắp đi bây giờ và có lẽ tôi sẽ chẳng
bao giờ quay lại Ấn Độ nữa. Nhưng nếu tôi muốn gặp
ông, tôi sẽ phải làm gì?
Nhà yoga lấy tấm ảnh của mình và trao nó cho ông ta
nói, "Bất kì khi nào ông tự nhốt mình vào trong một căn
phòng và tập trung trong năm phút vào bức ảnh này
không chớp mắt, tôi sẽ ở đó."
Bây giờ người đáng thương này không thể nào kìm
mình được trong cuộc hành trình. Ông ta bị ám ảnh bởi ý
nghĩ: thử thực nghiệm này ngay lập tức. Ông ấy không tin
điều như vậy có thể xảy ra - nhưng điều đó đã xảy ra. Lời
hứa được nêu ra đã được hoàn thành theo thể vía. Chẳng
khó khăn gì trong việc này. Người đã thức tỉnh có thể
hoàn thành lời hứa của mình ngay cả khi người đó đã
chết. Do đó, những bức ảnh trở thành có ý nghĩa và cả các
bức tượng nữa. Lí do cho ý nghĩa của chúng là ở chỗ qua
chúng một số lời hứa có thể được thực hiện. Cho nên có
khoa học phức tạp đằng sau việc tạo ra các hình ảnh và
thần tượng.
Thần tượng không thể nào được làm ra theo bất kì
cách nào; có phương pháp đầy đủ đằng sau nó. Bây giờ
nếu bạn định quan sát hai mươi bốn tirthankara của người
Jaina, bạn sẽ gặp khó khăn bởi vì tất cả họ đều giống
nhau; chỉ các biểu tượng của họ là khác nhau. Mahavira
có một dấu hiệu, Parshwanath một dấu hiệu khác,
Neminath lại một dấu hiệu khác, và cứ thế mãi. Nếu
những biểu tượng này bị bỏ đi, không thể nào nói được
tirthankara nào là ai từ những người khác. Tuy nhiên,
không thể nào có chuyện tất cả họ đều giống nhau được.
Do đó, có thể là các tượng tirthankara đã được làm ra
tuân theo việc dùng hình ảnh của tirthankara đầu tiên xem
như bản mẫu cho họ. Cho nên không cần phải làm ra các
hình ảnh khác nhau; chỉ một hình ảnh của tirthankara
được dùng cho tất cả.
Nhưng điều này không thoả mãn cho những người
sùng kính, người sùng kính với các tirthankara khác, cho
nên họ đã gọi tirthankara đặc biệt của mình với ít nhất
một dấu hiệu, một hiệu bài để phân biệt ông ấy với những
người khác. Vậy, các biểu tượng khác nhau đã được tạo
ra cho các tirthankara khác nhau nhưng hình ảnh vẫn còn
là một. Người này có con sư tử, người kia có cái gì đó
khác, và cứ thế. Cho nên có khác biệt này trong các dấu
hiệu của họ - và điều này nữa cũng là một phần của lời
hứa đã đưa ra. Chỉ tirthakara đặc biệt có gắn với một biểu
tượng mới có thể được tiếp xúc.
Cho nên những điều này đã được thoả thuận về
những biểu tượng và chúng vận hành. Chẳng hạn dấu
hiệu của Jesus là chữ thập; điều này sẽ vận hành. Nhưng
Mohammed đã từ chối làm thần tượng của mình. Thực tế,
người ta đã tạo ra nhiều thần tượng trong thời
Mohammed đến mức ông ấy muốn cho đồ đệ của mình
một loại biểu tượng hoàn toàn khác. Ông ấy bảo họ,
"Đừng làm tượng về ta. Ta sẽ thiết lập mối quan hệ với
ông không cần tượng. Đừng làm tượng về ta; đừng làm
ảnh về ta. Ta sẽ có liên hệ với ông mà không cần ảnh hay
tượng." Đây là một phương pháp rất sâu sắc và dũng cảm,
nhưng người thường thấy rất khó thiết lập tiếp xúc với
Mohammed.
Do đó, sau Mohammed người Mô ha mét giáo đã bắt
đầu xây dựng lăng tẩm và mồ cho hàng nghìn vị thánh
của họ. Họ không biết cách thiết lập mối nối với
Mohammed một cách trực tiếp cho nên họ đã làm điều đó
bằng cách làm ra các nấm mồ cho vị thánh Mô ha mét
giáo. Không nơi đâu trên thế giới này mà lăng tẩm và mồ
mả lại được sùng kính đến thế như ở người Mô ha mét
giáo. Lí do duy nhất là ở chỗ họ chẳng giữ lại điều gì về
Mohammed để thiết lập tiếp xúc trực tiếp với ông ấy. Họ
không thể nào làm ra hình ảnh của ông ấy cho nên họ
phải tạo ra hình ảnh khác và họ bắt đầu thiết lập mối quan
hệ qua các hình ảnh đó.
Tất cả điều này là một quá trình khoa học hoàn toàn.
Nếu điều này được hiểu một cách khoa học, những kết
quả có thể là kì diệu, nhưng nếu nó được tuân theo một
cách mù quáng, đó lại là tự tử.
#9Đâu là ý nghĩa huyền bí của quá trình được thực hiện
trong prana pratishtha, việc thiết lập thần tượng?
Nó có ý nghĩa lớn. Chính thuật ngữ prana pratishtha
- hay việc thiết lập huyền bí cho một thần tượng - có
nghĩa là chúng ta đã tạo ra hình ảnh mới dựa trên lời hứa
cổ. Bây giờ chúng ta phải phát hiện ra qua những chỉ dẫn
liệu lời hứa cũ có được thực hiện đúng đắn không. Về
phần mình chúng ta phải tuân theo thu xếp cũ một cách
trung thành; chúng ta không nên coi thần tượng là thần
tượng đơn thuần mà phải là một thực thể sống. Chúng ta
nên thực hiện tất cả những thu xếp cho nó như là chúng ta
thu xếp cho người sống, và thế thì chúng ta sẽ bắt đầu
nhận được hướng dẫn và dấu hiệu mà qua đó chúng ta có
thể biết rằng việc thiết lập huyền bí cho thần tượng đã
được chấp nhận. Nhưng khía cạnh thứ hai này đã tan biến
hoàn toàn khỏi tri thức của chúng ta. Nếu những dấu hiệu
như thế không hiện diện, thế thì dù chúng ta đã làm việc
thiết lập thần tượng, việc ấy vẫn không thành công. Phải
có bằng chứng rằng việc thiết lập thần tượng đã thành
công. Cho nên bởi lí do này, một số chỉ dẫn huyền bí đặc
biệt đã được ấn định. Nếu những dấu hiệu này được tìm
thấy, người ta hiểu rằng việc thiết lập thần tượng đã được
chấp nhận bởi các lực huyền bí và rằng bây giờ nó sống
và hoạt động.
Bây giờ giả sử rằng bạn đem về nhà một chiếc radio
mới... Điều đầu tiên là ở chỗ nó phải trong điều kiện tốt;
tất cả các thành phần của nó phải ở đúng chỗ. Thế rồi bạn
nối điện vào nó, và thế mà bạn chẳng bắt được đài phát
nào cả. Điều đó có nghĩa là nó không làm việc. Nó là một
công cụ chết và nó sẽ hoặc phải đem đi sửa hay được thay
thế. Thần tượng nữa cũng là một loại vị trí nhận mà qua
đó một người chứng ngộ đã chấm dứt về mặt vật lí hoàn
thành lời hứa mà người đó đã đưa ra cho những người
khác. Nhưng nếu bạn giữ một hình ảnh và bạn không biết
về những chỉ dẫn xác nhận cho việc thiết lập, thế thì bạn
sẽ chẳng bao giờ biết liệu hình ảnh ấy là sống hay chết.
Quá trình thiết lập một thần tượng có hai phần. Phần
thứ nhất được các tu sĩ thực hiện. Họ biết bao nhiêu mật
chú cần phải niệm, bao nhiêu dây cần phải buộc vào, kiểu
lễ nào cần phải tiến hành cho việc tôn thờ nó, kiểu tôn thờ
nào cần phải được thực hiện, vân vân. Đây mới là một
nửa công việc. Phần thứ hai của buổi lễ này chỉ có thể
được tiến hành bởi người ở bình diện thứ năm. Khi người
này thông báo rằng hình ảnh là sống, chỉ thế thì nó mới
trở thành sống. Điều này đã trở nên gần như không thể
nào có được trong thời hiện đại; do đó, các đền của chúng
ta không phải là các ngôi đền sống mà là những chỗ chết.
Những đền mới ngày nay chắc chắn là những chỗ chết.
Không thể nào phá huỷ một ngôi đền sống bởi vì đấy
không phải là sự kiện bình thường. Nếu nó bị phá huỷ,
điều đó chỉ nghĩa là cái bạn cho rằng sống, không còn
sống, như trường hợp ngôi đền Somanath. Câu chuyện về
việc phá huỷ nó là một chuyện rất kì lạ và đấy là một chỉ
dẫn về khoa học về tất cả các đền. Có năm trăm pujari - tu
sĩ - phục vụ cho ngôi đền, và họ đã chắc chắn rằng hình
ảnh bên trong là hình ảnh sống, cho nên họ đã chắc chắn
nó không thể nào bị phá huỷ. Các tu sĩ thực thi phần phận
sự của mình, nhưng điều này là một phía, bởi vì không có
ai có thể thực tế tìm ra liệu hình ảnh này là chết hay sống.
Một hôm, vua và các nhà quí tộc của vùng đó gửi chỉ
dụ cho ngôi đền cảnh báo họ về việc bọn xâm lăng hồi
giáo Gajanawi sẽ tới và muốn bảo vệ họ, nhưng các tu sĩ
khước từ sự giúp đỡ, nói rằng thần tượng đã bảo vệ tất cả
mọi người cho nên không cần việc bảo vệ của họ. Các quí
tộc tạ lỗi và rút đi - nhưng đó là sai lầm: thần tượng này
đã là một thần tượng chết. Các tu sĩ vẫn dưới ảo tưởng
rằng một sức mạnh vĩ đại đang đứng sau bức ảnh, và khi
họ coi nó là sống, thật sai lầm mà nghĩ tới việc bảo vệ nó.
Gajanawi đã tới với một nhát kiếm đập vỡ thần tượng ra
làm bốn mảnh. Ngay cả thế các tu sĩ vẫn không nghĩ là
thần tượng là một vật chết. Điều này không thể xảy ra cho
một thần tượng sống; không một viên gạch nào có thể rơi
khỏi hình ảnh bên trong mà vẫn còn sống. Nếu ngôi đền
vẫn còn là ngôi đền sống, nó không thể bị động chạm tới
được.
Nhưng thông thường, đền không phải là đền sống bởi
vì có rất nhiều khó khăn trong việc giữ cho nó sống. Một
ngôi đền trở nên sống là phép màu vĩ đại. Nó là một phần
của một khoa học rất sâu sắc. Tuy nhiên ngày nay chẳng
còn người nào sống mà biết tới khoa học này, người có
thể tiến hành các yêu cầu khác nhau của nó. Ngày nay
tầng lớp người cai quản các đền như cửa hàng đã trở nên
lớn đến mức nếu có người nào đó biết được khoa học này,
người đó sẽ không được phép ở trong ngôi đền. Đền bây
giờ được cai quản theo đường lối kinh doanh, và chính
mối quan tâm của các tu sĩ là đền hãy cứ còn chết đấy.
Đền sống, không có lợi cho purohit, tu sĩ. Ông ta muốn có
vị thần chết trong ngôi đền mà ông ta có thể khoá lại, và
thế rồi ông tự mình ấy giữ lấy chìa khoá. Nếu đền được
nối với những quyền năng cao hơn, tu sĩ không thể nào
còn lại ở đó. Cho nên tu sĩ là công cụ trong việc tạo ra
những đền chết này vì điều này đem lại cho họ việc nở
hoa kinh doanh. Thực tế, đền sống còn rất ít.
Nỗ lực lớn đã được tiến hành để giữ cho đền còn
sống, nhưng số các tu sĩ và học giả trong mọi tôn giáo,
trong mọi đền, lại lớn đến mức làm cho khó mà thực hiện
được nỗ lực này. Đây là điều bao giờ cuối cùng cũng xảy
ra. Đây là lí do tại sao có nhiều đền thế; bằng không, sẽ
chẳng cần nhiều đến thế. Nếu những ngôi đền và những
nơi hành hương của thời Upanishad vẫn còn sống cho tới
thời đại của Mahavira, đã chẳng cần Mahavira phải xây
dựng ra những đền mới. Nhưng đền và nơi thiêng liêng đã
hoàn toàn chết bởi đã có một mạng lưới các tu sĩ bao
quanh chúng mà không thể nào phá vỡ nổi. Những ngôi
đền này đã không thể nào được vào nổi cho nên không
còn cách nào khác ngoại trừ việc làm đền mới. Ngày nay
ngay cả đền của Mahavira cũng đã chết và cùng loại
mạng lưới tu sĩ bao quanh chúng.
Nếu những nguyên lí sống của tôn giáo còn được gìn
giữ, biết bao nhiêu tôn giáo như thế đã không đi vào hiện
hữu trong thế giới này. Nhưng những nguyên lí này
không thể nào được gìn giữ, bởi vì tất cả các loại rối loạn
đều tụ hội xung quanh và cuối cùng làm cho chúng mất đi
tất cả các tiềm năng. Thế thì, khi các ước định của một
phía đã bị phá bỏ, lời hứa của phía bên kia cũng sẽ huỷ
bỏ. Chính hiểu biết lẫn nhau đã được đạt tới bởi cả hai
phía. Chúng ta phải giữ thoả thuận về phần mình; chỉ thế
thì phía bên kia mới đáp ứng lại; bằng không, lời hứa sẽ
không được thực hiện và vấn đề chấm dứt ở đấy.
Chẳng hạn, nếu trong khi rời khỏi thân thể mình tôi
nói với các bạn, "Nhớ đến tôi và tôi sẽ có đấy" - nhưng
nếu bạn chẳng bao giờ nghĩ đến tôi hay nếu bạn vứt ảnh
tôi vào thùng rác và quên hết về nó, thoả thuận của chúng
ta kéo dài được bao lâu? Và nếu thoả thuận này bị phá vỡ
về phần bạn, cũng chẳng cần để tôi giữ nó làm gì. Cho
nên những thoả thuận như vậy bao giờ cũng bị phá vỡ.
Cho nên các quá trình huyền bí của việc thiết lập một
thần tượng mang một ý nghĩa, nhưng ý nghĩa của nó lại
dựa trên nhiều phép kiểm tra khác nhau và những chỉ dẫn
xác định xem liệu việc thiết lập thần tượng có thành công
hay không.
#9Trong một số đền, những giọt nước rơi xuống một
cách tự nhiên trên các hình ảnh. Liệu đấy có phải là
dấu hiệu rằng ngôi đền như thế là ngôi đền còn sống
không?
Không. Tính hợp lệ của ngôi đền sống chẳng có quan
hệ gì với điều này cả. Nước vẫn rơi xuống dù dưới nó có
ảnh hay không. Đây là những bằng chứng sai, và bởi vì
chúng nên chúng ta giả sử rằng đền này là ngôi đền sống.
Nơi không có một giọt nước rơi, vẫn có những đền mà có
thể và đang là đền sống.
Trong truy tìm tâm linh, deeksha, điểm đạo, chiếm vị
trí rất quan trọng. Những nghi lễ đặc biệt được tiến
hành trong những trạng thái đặc biệt. Phật và
Mahavira thường cho điểm đạo. Có bao nhiêu kiểu
điểm đạo? Đâu là ý nghĩa và cách dùng và tại sao
chúng lại cần tới?
Một chút ít nói về điểm đạo sẽ có ích. Điều đầu tiên,
deeksha, điểm đạo, không bao giờ được cho; điểm đạo
xảy ra, nó là sự xảy ra. Chẳng hạn, một người ở với
Mahavira và phải mất nhiều năm để cho việc điểm đạo
của người đó xảy ra. Mahavira bảo người đó ở lại, ở cùng
ông ấy, bước đi cùng ông ấy, đứng theo cùng cách như
thế, ngồi theo cùng cách như thế, thiền cùng cách như thế.
Thế rồi một thời điểm tới khi người này đã được chuẩn bị
đầy đủ. Thế thì Mahavira chỉ là trung gian. Có lẽ thậm chí
nói rằng ông ấy là trung gian cũng không hoàn toàn đúng
- thay vì thế trong một cảm giác rất sâu sắc ông ấy chỉ là
nhân chứng và việc điểm đạo xảy ra trước ông ấy.
Điểm đạo bao giờ cũng là từ điều thiêng liêng, nhưng
nó có thể xảy ra trong sự hiện diện của Mahavira. Bây giờ
người được điểm đạo thấy Mahavira ngay trước mình,
nhưng người đó không thể thấy điều thiêng liêng. Điều đó
xảy ra cho người đó ngay trước Mahavira một cách tự
nhiên đến mức người đó trở nên biết ơn Mahavira - và
điều này đúng là vậy. Nhưng Mahavira không chấp nhận
lòng biết ơn của người đó. Ông ấy có thể chỉ chấp nhận
lòng biết ơn của người đó nếu ông ấy thừa nhận rằng ông
ấy đã điểm đạo cho người đó.
Do vậy có hai kiểu điểm đạo. Một là ở chỗ nó xảy ra
và cái đó tôi gọi là điểm đạo "thật", bởi vì trong điều này
bạn thiết lập mối quan hệ với điều thiêng liêng. Thế thì
cuộc hành trình của bạn qua cuộc sống lấy bước ngoặt
mới: bây giờ bạn trở thành ai đó khác; bạn không còn là
cùng con người bạn trước đây; mọi thứ bên trong bạn đều
được biến đổi. Bạn đã thấy điều gì đó mới. Điều gì đó
mới đã xảy ra cho bạn, một tia sáng đã đi vào bạn, và bây
giờ mọi thứ bên trong bạn đều khác.
Trong điểm đạo thật, thầy đứng cạnh giống như nhân
chứng và thầy có thể xác nhận rằng việc điểm đạo đã xảy
ra. Người đó có thể thấy đầy đủ quá trình nhưng bạn chỉ
thấy một nửa. Bạn chỉ có thể thấy điều đang xảy ra cho
bạn; người đó thấy cái mà từ đó việc điểm đạo xảy ra.
Nhưng liệu việc điểm đạo có xảy ra hay không, liệu bạn
có được chấp nhận hay không, điều đó bạn không thể nói
chắc được. Ngay cả sau khi bạn được điểm đạo, bạn vẫn
sẽ tự hỏi, "Mình đã được chấp nhận chưa? Mình đã được
chọn chưa? Mình đã được điều thiêng liêng chọn chưa?
Bây giờ mình có thể coi là mình là của nó chưa? Về phần
mình, mình đã buông xuôi, nhưng ngài đã coi mình là
ngài chưa?" Điều này bạn không thể biết ngay được. Bạn
sẽ đi tới nhận ra sau một chốc, nhưng khoảng chờ đợi này
có thể dài đấy. Cho nên người thứ hai, người mà chúng ta
gọi là thầy, có thể biết điều này bởi vì người đó đã quan
sát sự việc xảy ra từ cả hai phía.
Điểm đạo thật không thể được cho, mà cũng chẳng
thể được lấy. Nó tới từ điều thiêng liêng; bạn đơn thuần là
người nhận.
Bây giờ tới kiểu điểm đạo khác, mà chúng ta có thể
gọi là điểm đạo giả, có thể được cho mà cũng có thể được
nhận. Điều thiêng liêng hoàn toàn vắng bóng ở đây; chỉ
có thầy và đệ tử. Thầy cho, đệ tử nhận, nhưng cái thứ ba,
nhân tố thực, vắng bóng.
Nơi chỉ có hai hiện diện - thầy và đệ tử - việc điểm
đạo là giả. Nơi có ba hiện diện - thầy, đệ tử và ngài từ nơi
điều đó xảy ra - mọi thứ đều thay đổi. Việc cho điểm đạo
không chỉ là không thật mà còn nguy hiểm nữa, tai hoạ
nữa, bởi vì trong ảo tưởng của điểm đạo, việc điểm đạo
thật không thể xảy ra. Bạn sẽ đơn thuần sống dưới ảo
tưởng rằng việc điểm đạo đã xảy ra.
Một người tìm kiếm tới tôi, người đã được ai đó điểm
đạo. Người đó nói, "Tôi đã được điểm đạo bởi thầy này
nọ và tôi phải tới thầy để học thiền."
Tôi hỏi người đó, "Thế thì tại sao bạn nhận điểm đạo?
Và nếu bạn không đạt tới thiền, bạn thu được cái gì từ
việc điểm đạo của mình? Tất cả những cái bạn nhận được
là quần áo và tên tuổi. Nếu bạn vẫn còn đi tìm thiền, thế
thì việc điểm đạo của bạn có ý nghĩa gì?"
Chân lí là ở chỗ điểm đạo chỉ có thể xảy ra sau thiền.
Thiền sau điểm đạo chẳng có ý nghĩa gì cả. Điều ấy cũng
giống như một người tuyên bố rằng mình mạnh khoẻ và
người đó vẫn đến gõ cửa nhà bác sĩ và hỏi xin thuốc.
Điểm đạo là việc chấp nhận thu được sau thiền. Nó là sự
phê chuẩn được trao cho sự chấp nhận của bạn - sự đồng
ý. Điều thiêng liêng đã được hỏi ý kiến về bạn và lối vào
của bạn trong cảnh giới của ngài đã xảy ra. Điểm đạo chỉ
là xác nhận cho sự kiện này.
Việc điểm đạo như vậy bây giờ đã mất, và tôi cảm
thấy nó nên được làm sống lại: điểm đạo là nơi thầy
không phải là người cho và đệ tử không phải là người
nhận - còn người cho là Thượng đế. Điều này có thể có;
điều này nên có. Nếu tôi là nhân chứng cho việc điểm đạo
của ai đó, tôi không trở thành thầy của người đó. Thế thì
thầy của người đó là điều thiêng liêng. Nếu người đó biết
ơn, đấy là việc của người đó. Nhưng yêu cầu lòng biết ơn
là điên rồ còn chấp nhận nó là vô nghĩa.
Gurudom, mạng lưới cái gọi là thầy, đã được tạo ra
bằng việc ban phát dạng thức mới cho điểm đạo. Lời nói
được thì thầm vào tai, mật chú được trao, và chẳng có ai
điểm đạo cho bất kì ai. Liệu bản thân người đó có được
điểm đạo hay không cũng không chắc chắn; liệu điều
thiêng liêng có chấp nhận người đó hay không cũng
chẳng được biết. Có lẽ ông thầy ấy nữa cũng đã được
điểm đạo theo cùng cách ấy. Ai đó đã thì thào vào tai ông
ta, ông ta lại thì thào vào tai ai đó, và người này đến lượt
mình lại sẽ thì thào vào tai ai đó khác nữa.
Con người tạo ra điều dối trá và lừa dối trong mọi thứ
- và một biến cố càng bí ẩn, càng có nhiều lừa dối, bởi vì
chẳng có gì thực chất để nêu ra như bằng chứng.
Tôi có ý định tiến hành phương pháp này ở đây nữa.
Khoảng mười hay hai mươi người đang chuẩn bị cho nó.
Họ sẽ nhận việc điểm đạo từ điều thiêng liêng. Những
người khác đang hiện diện sẽ là nhân chứng, và công việc
của họ sẽ là xác nhận liệu việc điểm đạo có được chấp
nhận bởi điều thiêng liêng hay không; có vậy thôi. Bạn sẽ
kinh nghiệm nhưng bạn sẽ không thể nào nhận ra ngay
điều gì đã xảy ra. Nó quá không quen thuộc với bạn, làm
sao bạn nhận ra rằng sự việc đã xảy ra? Việc xác nhận có
thể được tiến hành bởi sự hiện diện của người đã chứng
ngộ. Một mình người này này là cơ sở cho việc đánh giá
về nó.
Cho nên người thầy tối cao là paramatman - Thượng
đế duy nhất. Nếu thầy đứng giữa bước lùi lại, việc điểm
đạo sẽ dễ dàng hơn, nhưng ông thầy trung gian lại hay
đứng ì ở đấy. Bản ngã của ông ta đắc chí khi làm mình
thành thượng đế và thể hiện bản thân mình. Nhiều loại
điểm đạo đã được trao quanh cái bản ngã này. Tuy nhiên
chúng chẳng có giá trị gì; theo ngôn ngữ tâm linh, tất cả
những việc đó là tội ác. Những người điểm đạo giả sẽ kết
thúc việc đi tìm kiếm chân lí, cứ tin rằng đã tới nơi. Nếu
một ngày nào đó những dối trá tâm linh bị xét xử, những
ông thầy này phải bị trừng phạt.
Người tìm kiếm không hoài nghi coi điều đó là được
công nhận rằng mình đã được điểm đạo. Thế rồi người đó
đi đâu cũng tự hào rằng mình đã nhận được điểm đạo,
rằng mình đã có mật chú, và rằng tất cả những gì phải xảy
ra, đã xảy ra cho mình. Cho nên tất cả việc tìm kiếm của
người đó cho biến cố đúng đắn đều dừng lại.
Khi bất kì ai tới Phật ông ấy cũng không bao giờ
điểm đạo cho ngay; đôi khi phải mất nhiều năm trời. Phật
sẽ cứ trì hoãn bằng việc bảo người đó thực hiện công phu
này công phu khác. Thế rồi, khi thời điểm tới, ông ấy sẽ
bảo người đó sang phía điểm đạo.
Có ba phần trong việc điểm đạo của Phật. Người tới
để xin điểm đạo phải trải qua ba kiểu buông xuôi. Đầu
tiên người đó nói, "Tôi buông xuôi theo Phật - Buddham
sharanam gachchhami." Bằng việc này người đó không
nói tới Phật Gautam; điều này có nghĩa là buông xuôi bản
thân mình theo người đã thức tỉnh.
Có một lần, một người tìm kiếm tới Phật và nói, "Tôi
buông xuôi theo vị phật." Phật nghe và vẫn cứ lặng thinh.
Thế rồi ai đó hỏi ông ấy, "Người này nói, ‘Tôi buông
xuôi theo vị phật,’ mà thầy chỉ nghe người đó thôi ư?"
Phật đáp, "Người này không buông xuôi theo ta,
người này buông xuôi theo người đã thức tỉnh. Ta chỉ đơn
thuần là cái cớ. Đã có rất nhiều vị phật trước ta, và sẽ còn
rất nhiều vị phật sau ta. Ta chỉ là cái cớ. Ta chỉ là lí do.
Người này đang buông xuôi bản thân mình theo người đã
thức tỉnh, cho nên ta là ai mà dừng anh ta lại? Nếu anh ta
buông xuôi theo ta, ta chắc chắn sẽ dừng anh ta lại, nhưng
anh ta đã nói ba lần rằng anh ta đang buông xuôi bản thân
mình theo người đã thức tỉnh."
Thế rồi có việc buông xuôi thứ hai mà còn tuyệt diệu
hơn. Trong việc này người ta nói, "Tôi buông xuôi theo
tập thể những người đã thức tỉnh - Sangham sharanam
gachchhami." Bây giờ tập thể này có nghĩa là gì? Nói
chung, những người theo Phật đều coi điều đó nghĩa là
nhóm người của Phật, nhưng điều này không phải là ý
nghĩa. Tập thể này là tập hợp tất cả những người đã thức
tỉnh. Không chỉ có một Phật là người đã trở nên thức tỉnh;
còn có nhiều vị phật trước đó và sẽ có nhiều vị phật sau
này, người sẽ thức tỉnh. Họ tất cả đều thuộc vào một công
xã, một tập thể. Bây giờ các phật tử cứ nghĩ từ này có
nghĩa là hội các phật tử, nhưng điều này là sai.
Chính lời khẩn cầu thứ nhất, trong đó Phật giải thích
rằng người tìm kiếm buông xuôi bản thân mình theo
người đã thức tỉnh chứ không phải theo ông ấy như một
con người, làm cho mọi việc thành rõ ràng. Lời khẩn cầu
thứ hai làm cho tất cả điều đó còn rõ ràng hơn. Trong lời
này người đó dâng bản thân mình cho công xã những
người đã thức tỉnh.
Ban đầu người đó cúi mình trước một người đã thức
tỉnh, người đang ở ngay đó ngay trước mình. Vì người đó
đang ở ngay đấy nên dễ dàng tiếp cận tới người đó, nói
với người đó. Thế rồi người đó buông xuôi bản thân mình
theo nhóm người đã thức tỉnh mà đã thức tỉnh từ lâu và là
những người mà người đó không biết, và những người sẽ
thức tỉnh trong tương lai và cũng là những người mà
người này không biết. Người này buông xuôi theo tất cả
họ và người này tiến thêm một bước tới điều tinh tế.
Việc buông xuôi thứ ba là cho dhamma - tôn giáo.
Lần thứ ba người tìm kiếm nói, "Tôi buông xuôi theo
pháp - Dhammam sharanam gachchhami." Việc buông
xuôi đầu tiên là theo một người đã thức tỉnh, việc buông
xuôi thứ hai là theo nhóm những người đã thức tỉnh, và
bây giờ việc buông xuôi thứ ba là theo cái chính là trạng
thái tối thượng của việc thức tỉnh - theo pháp. Tức là,
theo bản tính của chúng ta, nơi không có cá nhân, không
có cộng đồng; nơi chỉ có pháp, có luật. Người này nói,
"Tôi buông xuôi theo pháp đó."
Khi ba việc buông xuôi này đã được hoàn tất chỉ thế
thì việc điểm đạo mới được thừa nhận. Phật chỉ là nhân
chứng cho biến cố này. Điều này không phải là vấn đề lặp
lại đơn thuần. Khi ba việc này đã được hoàn tất - và Phật
có thể thấy liệu chúng đã được hoàn tất hay chưa - chỉ thế
thì cá nhân này mới được điểm đạo. Phật vẫn còn là nhân
chứng cho sự kiện này.
Cho nên về sau Phật cũng sẽ nói với người tìm kiếm,
"Chớ có tin những gì ta nói chỉ bởi vì ta là một người đã
thức tỉnh; đừng tin vào điều ta nói chỉ bởi vì ta nổi tiếng
hay bởi vì ta có nhiều đệ tử hay bởi vì kinh sách xác nhận
điều đó. Bây giờ hãy chỉ tin vào cái mà hiểu biết bên
trong ông mách bảo ông."
Phật chưa bao giờ trở thành thầy. Vào lúc chết của
ông ấy, khi được hỏi về thông điệp cuối cùng của mình,
ông ấy đã nói, "Là ánh sáng lên bản thân mình đi. Đừng
đi theo người khác; đừng theo đuôi kẻ khác. Là ánh sáng
lên bản thân mình. Đây là thông điệp cuối cùng của ta."
Một người như Phật không thể là thầy. Một người
như vậy là một nhân chứng. Jesus nhiều lần đã nói, "Đến
ngày phán xử cuối cùng, ta sẽ là nhân chứng của ông."
Nói cách khác, vào ngày cuối cùng Jesus sẽ làm chứng,
"Đúng, người này là người đã cố gắng trở thành người
thức tỉnh. Người này muốn buông xuôi theo điều thiêng
liêng." Đây là việc nói theo biểu tượng. Điều Christ muốn
nói cũng là thế này: "Ta là nhân chứng của ông, không
phải là thầy ông."
Không có thầy; do đó, nhận biết về việc điểm đạo nơi
ai đó trở thành thầy bạn. Việc điểm đạo mà bạn lập tức
trở thành và trực tiếp được nối với điều thiêng liêng là
việc điểm đạo duy nhất. Nhớ lấy, trong việc điểm đạo này
bạn không phải rời bỏ nhà cửa và ra đi, bạn không phải
trở thành người Hindu hay người Mô ha mét giáo hay
người Ki tô giáo, mà bạn cũng không cần phải bị gắn với
ai đó. Bạn vẫn còn ở nơi bạn đang ở trong tự do đầy đủ
của mình; việc thay đổi sẽ xảy ra chỉ từ bên trong. Theo
kiểu điểm đạo giả bạn sẽ bị cột vào một tôn giáo: bạn sẽ
là người Hindu hay Mô ha mét giáo hay Ki tô giáo. Bạn
sẽ là một phần của một tổ chức. Một niềm tin nào đó, một
phẩm cấp tôn giáo nào đó, học thuyết nào đó, người nào
đó, thầy nào đó, sẽ ảnh hưởng lên bạn và họ sẽ giết tự do
của bạn.
Điểm đạo không đem đến tự do, không phải là điểm
đạo. Điểm đạo đem cho bạn tự do tuyệt đối, duy nhất là
việc điểm đạo thật.
#9Thầy đã nói rằng Phật đã đạt tới mahaparinirvana -
niết bàn tối hậu, nhưng thầy cũng nói rằng Phật còn
quay lại dạng người và sẽ được biết tới là Di lặc.
Liệu có thể lấy lại dạng người sau khi đã đạt tới niết
bàn không? Xin Thầy giải thích.
Điều này có đôi chút khó khăn; do đó, tôi đã không
nói về nó hôm qua. Nó đòi hỏi giải thích chi tiết; vậy bây
giờ tôi sẽ nêu cho các bạn một giải thích ngắn gọn.
Không thể nào quay trở lại sau khi đạt tới bình diện
thứ bẩy. Không có việc tái sinh sau thể thứ bẩy. Đấy là
điểm không có quay lại; bạn không thể về lại từ nơi đó.
Nhưng cũng đúng là Phật đã nói ông ấy sẽ quay trở lại
dưới dạng của Di lặc. Bây giờ cả hai điều này dường như
mâu thuẫn: Tôi nói bạn không thể quay lại sau thể thứ
bẩy còn Phật lại hứa quay lại. Phật đã đạt tới thể thứ bẩy
và nhập vào trong niết bàn - thế thì làm sao điều này lại
có thể được? Còn có cách khác. Bây giờ bạn phải biết và
hiểu đôi điều.
Khi chúng ta chết, chỉ thể vật lí bị loại bỏ đi; phần
còn lại của sáu thể vẫn còn với chúng ta. Khi một người
đạt tới bình diện thứ năm, bốn thể đầu bị loại bỏ đi và chỉ
còn lại ba thể - thứ năm, thứ sáu và thứ bẩy. Trong thể
thứ năm người ta có thể quyết tâm giữ các thể thứ hai, ba
và bốn, và điều này có thể xảy ra nếu quyết tâm đó là rất
mạnh mẽ và sâu sắc. Và với một người như Phật, điều
này là việc dễ dàng: ông ấy có thể để lại sau vĩnh viễn các
thể thứ hai, ba và bốn của mình. Giống như khối lượng
năng lượng, những thể này của Phật vẫn di chuyển trong
không gian.
Tất cả các tình cảm mà Phật đã tiếp nhận trong suốt
vô lượng kiếp sống đều là tính chất của thể thứ hai - thể ê
te. Và những dấu ấn của tất cả các nghiệp mà Phật đã có
trong các kiếp trước đều được tích luỹ trong thể thứ ba -
thể vía. Thể thứ tư mang tất cả những thành tựu của tâm
trí Phật. Tất cả những thành tựu của ông ấy vượt ra ngoài
tâm trí đều đã được ông ấy diễn đạt qua tâm trí như tất cả
các cách diễn đạt được cho qua tâm trí. Bất kì khi nào
một người muốn nêu ra những thành tựu của mình ở thể
thứ năm hay thậm chí thể thứ bẩy, người đó phải sử dụng
thể thứ tư của mình - bởi vì phương tiện diễn đạt là thể
thứ tư. Cho nên người đã nghe Phật nhiều hơn bất kì ai
hay bất kì điều gì khác chính là thể thứ tư của riêng ông
ấy. Bất kì điều gì ông ấy đã nghĩ, đã sống và đã biết đều
được thu thập trong thể thứ tư của ông ấy.
Ba thể đầu này tan rã rất dễ dàng. Khi một người đi
vào thể thứ năm, ba thể này bị phá huỷ. Khi một người đi
vào thể thứ bẩy, tất cả sáu thể trước đều bị phá huỷ.
Nhưng nếu một người ở bình diện thứ năm ham muốn
lắm, người đó có thể để lại tất cả những rung động của ba
thể này trong không gian. Cũng giống như bây giờ chúng
ta đang làm các trạm không gian: tuyển tập các thể thứ
hai, thứ ba và thứ tư của Phật sẽ cứ di chuyển trong
không gian cho tới khi chúng tự biểu lộ trong một cá nhân
với tên Di lặc.
Cho nên khi một người có trạng thái cần thiết cho Di
lặc được sinh ra, ba thể này của Phật sẽ đi vào người đó.
Cho tới giờ người ta vẫn chờ đợi việc tới của ông ấy. Khi
ba thể này đi vào trong người đó, người đó sẽ đạt tới
phẩm chất của Phật, bởi vì chúng là sự tích luỹ của tất cả
những kinh nghiệm, tất cả những xúc động, ham muốn và
hoạt động của Phật.
Bây giờ, chẳng hạn, giả sử tôi bỏ lại thân thể mình ở
đây và nó được gìn giữ thật kĩ lưỡng...
Tại Mĩ một người đã chết quãng ba hay bốn năm
trước đây. Ông ta đã để lại việc uỷ thác nhiều triệu đô la
và ông ta viết di chúc rằng số tiền này được dùng để gìn
giữ thân thể mình cho đến lúc khoa học khám phá ra bí
mật của việc đưa một cái xác chết trở về với cuộc sống.
Hàng triệu đô la đã được tiêu để gìn giữ thân thể người đó
sao cho nó không bị huỷ hoại. Thân thể người đó được
gìn giữ bằng quá trình khoa học. Nếu đến cuối thế kỉ này
mà chúng ta thành công trong việc làm sống lại người
chết, cái xác này sẽ được đem lại cuộc sống. Nhưng linh
hồn sẽ khác; nó không thể là linh hồn cũ được.
Thân thể sẽ vẫn như cũ: mắt, mầu da, nét mặt, cách
đi, tất cả các thói quen vật lí của người đó, sẽ vẫn như cũ.
Theo một nghĩa nào đó, người đã chết sẽ được biểu thị
trong cái xác này. Nếu người này được tập trung quanh
thân thể vật lí của mình - mà người đó phải ở đấy vì bằng
không, ham muốn sắc bén ấy để gìn giữ thân thể sẽ không
có đó - mà chẳng có ý tưởng gì về các thể khác, một linh
hồn khác cũng có thể hành động như người đó. Nó sẽ
hành động đích xác hệt theo cùng cách như người chết, và
các nhà khoa học vậy sẽ nói rằng đấy vẫn là cũng con
người cũ đã quay lại cuộc sống. Tất cả kí ức và hồi ức của
người đó mà được cất giữ trong bộ não vật lí sẽ thức tỉnh
lại một lần nữa: người đó sẽ có thể nhận ra ảnh của mẹ
mình và con mình, những người đã chết từ lâu; người đó
sẽ nhận ra thành phố nơi mình sinh ra; người đó sẽ chỉ ra
nơi mình chết; người đó cũng sẽ gọi tên những người hiện
diện khi mình chết. Linh hồn sẽ khác mặc dầu nội dung
bộ não vẫn như cũ.
Bây giờ khoa học nói rằng trong ngày gần đây họ sẽ
có thể cấy được kí ức. Điều này là có thể. Nếu tôi chết,
toàn bộ hồi ức và kí ức của tôi cũng mất đi cùng tôi.
Nhưng bây giờ có thể cất giữ toàn bộ cơ chế kí ức của tôi
vào lúc tôi chết cũng như chúng ta gìn giữ mắt để cấy
ghép. Ngày mai ai đó sẽ có thể thấy bằng mắt tôi. Và
không phải là một mình tôi có thể yêu bằng trái tim mình
- ngày mai ai đó khác cũng có thể yêu bằng trái tim tôi
nữa. Bây giờ không thể nào hứa hẹn rằng "Trái tim anh
mãi mãi là của em." Bởi vì chính trái tim này có thể được
thề dành cho người khác trong tương lai xa.
Theo cùng cách đó, kí ức cũng sẽ được cấy ghép. Sẽ
phải mất thời gian để làm điều này bởi vì nó rất tinh vi và
rất tinh tế. Nhưng trong tương lai, như chúng ta đem mắt
cho ngân hàng mắt, sẽ có ngân hàng kí ức nữa. Thế thì kí
ức của tôi sẽ được cấy vào một đứa bé nhỏ và nó vậy sẽ
biết tất cả những điều tôi đã phải học. Nó sẽ trưởng thành
mà đã biết bao nhiêu điều vì kí ức của tôi sẽ là một phần
tạo nên bộ não nó. Thế thì ý nghĩ của tôi sẽ là của nó, hồi
ức của tôi sẽ là của nó, và trong một số vấn đề nó sẽ nghĩ
theo cùng cách như tôi nghĩ, vì nó sẽ có bộ não của tôi.
Bây giờ Phật đã kinh nghiệm theo một hướng khác -
một hướng không phải là khoa học mà là huyền bí. Bằng
một số phương pháp, các nỗ lực đã được tiến hành để gìn
giữ các thể thứ hai, thứ ba và thứ tư của ông ấy. Phật
không tồn tại chút nào nữa; linh hồn đã sống bên trong
cũng đã mất tại bình diện thứ bẩy. Nhưng trước khi linh
hồn nhập vào bình diện thứ bẩy, những thu xếp đã được
tiến hành để lo liệu rằng ba thể này - thể thứ hai, thứ ba
và thứ tư - không chết. Cái đà của quyết tâm và hứa hẹn
của Phật vẫn còn thấm đẫm trong chúng. Cũng hệt như
nếu tôi ném một hòn đá với lực đủ, nó sẽ đi được tám
mươi cây số; thế rồi tôi chết ngay sau khi ném hòn đá đi.
Nhưng cái chết của tôi không thể gây nhiễu lên chuyển
động của hòn đá. Nó có lực mà tôi đã trao cho nó để đi
được tám mươi cây số, và nó sẽ đi dù tôi còn hay không
còn. Sức mạnh mà tôi đã sử dụng sẽ giữ cho hòn đá đi
tiếp.
Phật đã trao đà cho ba thể này và chúng sẽ sống. Ông
ấy cũng đã nói chúng có thể tồn tại được bao lâu. Bây giờ
thời gian đã chín muồi cho Di lặc sinh thành. Chính thực
nghiệm này đã được tiến hành với J. Krishnamurti để cho
ông ấy sẽ đạt tới ba thể của Phật. Đầu tiên thực nghiệm
này được tiến hành trên Nityananda, anh của Krisnamurti,
nhưng ông này đã chết trong quá trình đó. Đây là một quá
trình duy nhất - một quá trình khó khăn để trải qua.
Một nỗ lực đã được tiến hành để tách các thể thứ hai,
thứ ba và thứ tư của Nityananda và thay chúng bằng các
thể của Di lặc. Thế rồi Nityananda chết. Thế rồi cùng
thực nghiệm đó lại được thử lên Krishnamurti, việc này
cũng không thể thành công được. Thế rồi điều đó lại được
thử lên một hay hai người nữa: George Arundale là một
trong những người mà thực nghiệm này đã được thử bởi
những người biết về bí mật này. Trong số những người
biết về bí mật này, bà Blavatsky là người đàn bà sâu sắc
nhất của thế kỉ chúng ta với tri thức liên quan tới khoa
học huyền bí. Annie Besant là người khác; Leadbeater
cũng có nhiều hiểu biết trong vấn đề huyền bí. Rất ít
người có hiểu biết này.
Những người này biết rằng bây giờ sức mạnh đằng
sau ba thể của Phật đang sắp giảm đi. Nếu Di lặc không
sinh ra, những thể này sẽ không thể nào giữ được lâu hơn
nữa; chúng sẽ phân tán. Bây giờ đà của chúng đang sắp
hết. Ai đó bây giờ phải sẵn sàng để hấp thu ba thể này.
Bất kì ai hấp thu ba thể này sẽ thành nguyên nhân cho
việc tái sinh của Phật. Linh hồn của Phật sẽ không quay
lại, nhưng linh hồn của cá nhân đó sẽ lấy ba thể của Phật
và hành động tương ứng. Người đó lập tức sẽ đích thâm
tham gia vào sứ mệnh của Phật.
Không phải mọi người đều có thể ở vào trạng thái
này. Dù người đó là ai, người đó cũng phải ít nhất ở mức
độ tâm thức cao như mức độ của Phật. Chỉ người như thế
mới có khả năng hấp thu ba thân này; bằng không, người
đó sẽ chết. Cho nên thực nghiệm này đã không thành
công, bởi vì có nhiều khó khăn trong quá trình này. Cố
gắng vẫn còn tiếp tục. Thậm chí ngày nay vẫn còn các
nhóm bí truyền nhỏ đang cố gắng đem xuống ba thể này
của Phật. Nhưng bây giờ không có tuyên truyền rầm rĩ về
nó, vì điều đó tỏ ra có hại.
Đã có khả năng ba thể này giáng xuống Krishnamurti.
Ông ấy xứng đáng với điều đó và điều này đã được thông
báo rộng rãi. Việc tuyên truyền này đã được tiến hành với
niềm tin chân thành. Nó đã được tiến hành bởi lí do là khi
việc giáng sinh của Phật xảy ra, ông ấy sẽ nhanh chóng
được thừa nhận. Điều đó cũng được tiến hành để làm
sống lại các kí ức kiếp quá khứ của những người đang
sống bây giờ mà đã sống vào thời Phật, để cho họ có thể
nhận ra rằng đây là cùng một con người. Nhưng việc
tuyên truyền này lại thành bất lợi cho quá trình này. Nó
đã tạo ra phản ứng trong tâm trí của Krishnamurti, người
có một nhân cách giản dị, kín đáo và nhạy cảm. Thật khó
cho ông ấy ở trong đám đông. Nếu thực nghiệm này được
tiến hành trong im lặng tại một chỗ hẻo lánh, bằng không
ai biết gì về nó cho tới khi biến cố xảy ra, rất có thể là
biến cố đó đã xảy ra thật.
Nhưng việc đó đã không xảy ra. Krishnamurti đã từ
chối việc buông bỏ các thể thứ hai, thứ ba và thứ tư của
mình để được thay thế bằng ba thể của Phật. Đây là một
cú khủng khiếp đối với khoa học huyền bí của thời đại
chúng ta. Chưa bao giờ một thực nghiệm rộng lớn và
phức tạp như thế được thực hiện trên thế giới này ở bất kì
đâu ngoại trừ tại Tây Tạng. Quá trình này đã được tiến
hành ở Tây Tạng trong thời gian lâu dài, và nhiều linh
hồn làm việc thông qua trung gian của các thể khác.
Tôi hi vọng rằng bạn đã hiểu điều tôi nói. Không có
mâu thuẫn trong nó cho dù đôi khi bạn có thể cảm thấy
rằng có. Có thể là bạn cảm thấy cái gì đó là mâu thuẫn
bởi vì tôi đã nói từ một góc độ khác, nhưng nó không
phải là như thế.
END
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top