Đề Cương Mác-Lenin C3
CHƯƠNG III:
Câu 1:quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất?
Qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống
nhất biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản
xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất.
+ Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình sản
xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan hệ
sản xuất là hình thức kinh tế xã hội của quá trình đó. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất với nhau, tạo thành qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá trình sản xuất hiện thực của xã hội.
+ Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát
triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất. Sự
phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất.
+ Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ
sản xuất cho phù hợp với nó. Hay nói cách khác, mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo nguyên tắc khách quan: quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định. Bởi vì, quan hệ sản xuất chỉ là hình thức kinh tế - xã hội của quá trình sản xuất, còn lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó.
Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Ở trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó. Tính ổn định, phù hợp của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất càng cao thì lực lượng sản xuất càng có khả năng phát triển, nhưng chính sự phát triển của lực lượng sản xuất lại luôn luôn tạo khả năng phá vỡ sự thống nhất của nó với quan hệ sản xuất.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản
xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sảnxuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển.
+ Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có
tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất qui định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ, v.v. Quan hệ sản xuất hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không phải giản đơn. Chính nhờ các cuộc cách mạng xã hội mà những quan hệ sản xuất cũ của xã hội được thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới, phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất hiện thực, tiếp tục phát huy tác dụng tích cực thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong một hình thức quan hệ sản xuất mới.
Như vậy, mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ
mâu thuẫn biện chứng giữa nội dung vật chất, kỹ thuật với hình thức kinh tế - xã hội của quá trình sản xuất. Sự vận động của mâu thuẫn này là một quá trình đi từ sự thống nhất đến những khác biệt và đối lập, xung đột, từ đó làm xuất hiện nhu cầu khách quan phải được giải quyết theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Trong phạm vi phân tích sự phát triển xã hội, mâu thuẫn và sự vận động của mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chính là nội dung cơ bản của “quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Sự tác động của
quy luật này tạo ra nguồn gốc và động lực cơ bản nhất đối với sự vận động, phát triển của
nền sản xuất vật chất và do đó là sự vận động, phát triển của toàn bộ đời sống xã hội; sự vận động, phát triển của lịch sử nhân loại từ phương thức sản xuất thấp lên phương thức sản xuất cao hơn; nó cũng là cơ sở để giải thích một cách khoa học về nguồn gốc sâu xa của toàn bộ các hiện tượng xã hội và các sự biến trong đời sống chính trị, văn hóa của các cộng đồng người trong lịch sử.
Câu 2: Kết cấu , hình thái KT-XH và sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội?
I. Khái niệm và cấu trúc của hình thái kinh tế - xã hội
1. Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và với một kiến trúc thượng tầng được xây dựng lên trên những quan hệ sản xuất đó.
2. Kết cấu của hình thái kinh tế - xã hội.
Hình thái kinh tế - xã hội là một xã hội cụ thể có kết cấu phức tạp, gồm những yếu tố cơ bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng trong sự liên hệ tác động qua lại.
- Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội xét đến cùng là do lực lượng sản xuất quyết định.
- Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản, quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt chế độ xã hội này với chế độ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất tương ứng với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất.
- Những quan hệ sản xuất của một xã hội cụ thể hợp thành cơ sở hạ tầng, trên đó hình thành nên kiến trúc thượng tầng xã hội, mà chức năng xã hội của nó là bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Ngoài những yếu tố cơ bản của xã hội trên còn có những quan hệ khác như quan hệ dân tộc, quan hệ gia đình v.v..
II. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên
1. Sự vận động, phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử do sự tác động của các quy luật khách quan chi phối Các yếu tố cơ bản hợp thành một hình thái kinh tế - xã hội có quan hệ biện chứng với nhau hình thành nên những quy luật phổ biến của xã hội: quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng v.v.. Chính do sự tác động của các quy luật đó, mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động phát triển và thay thế nhau từ thấp lên cao như một quá trình lịch
sử tự nhiên.
2. Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội thì quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất có vai trò quyết định nhất. Nó vừa bảo đảm tính kế thừa trong sự phát triển tiến lên của xá hội, vừa biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch sử.
3. Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên được quy định bởi những quy luật chung cho chúng ta nhìn thấy lôgíc của lịch sử thế giới. Nhưng quá trình lịch sử cụ thể vô cùng phong phú, có hàng loạt những yếu tố làm cho quá trình lịch sử đa dạng và thường xuyên biến đổi.
III. Ý nghĩa của học thuyết Mác - Lênin về hình thái kính tế - xã hội
1. Việc vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự phát triển xã hội, những nguyên nhân và cơ sở của sự xuất hiện và biến đổi của các hiện tượng xã hội đã biến xã hội học thành một khoa
học thật sự, khắc phục mọi quan điểm duy tâm về lịch sử.
2. Là công cụ lý luận giúp chúng ta nhận thức những quy luật phổ biến đang tác động và chi phối sự vận động của xã hội. Vũ trang cho chúng ta phương pháp khoa học để nghiên cứu xã hội.
3. Là cơ sở lý luận của việc hoạch định các đường lối cách mạng của các đảng cộng sản.
Câu 3: Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về con người và sang tạo của ls của quần chúng nhân dân.
1. Con người và bản chất của con người
Vấn đề con người luôn là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu trong các học
thuyết triết học. Song, vì hiểu về con người, bản chất của con người, vị trí vai trò của con
người, v.v. khác nhau nên khi trả lời cho các câu hỏi về giải phóng con người cũng có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Trên cơ sở khái quát những quan điểm lớn về con người trong lịch sử, chương “Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người” đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất về con người.
a) Con người một thực thể tự nhiên(sinh học) – xã hội
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất biện
chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
- Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ sau đây:
Thứ nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ sở
khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa
duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài.
Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng
“là thân thể vô cơ của con người”. Tuy nhiên, con người không đồng nhất với các tồn tại
khác của giới tự nhiên, nó mang đặc tính xã hội bởi vì mỗi con người với tư cách là “người” chính là xét trong mối quan hệ của các cộng đồng xã hội, đó là các cộng đồng: gia đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại, … Vì vậy, bản tính xã hội nhất định phải là một phương diện khác của bản tính con người, hơn nữa đây là bản tính đặc thù của con người.
- Bản tính xã hội của con người được phân tích từ các giác độ sau đây:
Một là, nó.xét từ giác độ nguồn gốc hình thành con người, loài người thì không phải
chỉ có nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà còn có nguồn gốc xã hội của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người.
Hai là, xét từ giác độ tồn tại và phát triển của con người, loài người thì sự tồn tại của
nó luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì
mỗi con người cũng do đó mà cũng có sự thay đổi tương ứng và ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã hội.
Như vậy con người không phải là một động vật thuần túy mà là một “ động vật xã
hội”, một thực thể sinh vật (tự nhiên) – xã hội. Thực thể tự nhiên và thực thể xã hội ở con
người không tách khỏi nhau, trong đó thực thể tự nhiên là tiền đề mà trên cái tiền đề đó thực thể xã hội tôn tại và phát triển.
b) Con người là chủ thể của lịch sử
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất của
nó, quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng
hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính nó. Vì thế, nếu lý giải bản tính sáng tạo của con người đơn thuần chỉ từ giác độ bản tính tự nhiên hoặc chỉ từ bản tính xã hội của nó thì đều là phiến diện, không triệt để và nhất định cuối cùng sẽ dẫn đến những kết luận sai lầm trong nhận thức và thực tiễn.
Hoạt động của con người làm ra lịch sử nên để có lịch sử trước hết phải có con
người. Tiền đề đầu tiên của lịch sử là sự tồn tại của những con người sống, vì vậy, hành
động lịch sử đầu tiên, khách quan, tất yếu là hành động lao động sản xuất để con người tách khỏi động vật.
Con người làm ra lịch sử nhưng không phải là lảm theo ý muốn tùy tiện của mình,
mà là trong những điều kiện có sẵn, do quá khứ để lại. Với những điều kiện ấy, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục các hoạt động cũ của thế hệ trước trong hoàn cảnh mới, mặt khác tiếp tục các hoạt động mới của mình để biến đổi hoàn cảnh cũ. Như vậy, con người vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể của lịch sử.
c) Bản chất của con người
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất, “bản
tính người” của con người, nhưng về cơ bản những quan niệm đó thường là những quan
niệm phiến diện, trừu tượng và duy tâm, thần bí. Trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc,
C.Mác đã phê phán vắn tắt những quan niệm đó và xác lập quan niệm mới của mình: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”
Quan niệm duy vật biện chứng về con người trong khi thừa nhận bản tính tự nhiên
của con người còn lý giải con người từ giác độ các quan hệ lịch sử xã hội, từ đó phát hiện
bản tính xã hội của nó. Hơn nữa, chính bản tính xã hội của con người là phương diện bản
chất nhất của con người với tư cách “người”, phân biệt con người với các tồn tại khác của
giới tự nhiên. Vậy, bản chất của con người, xét trên phương diện tính hiện thực của nó,
chính là “tổng hòa của các quan hệ xã hội”, bởi xã hội chính là xã hội của con người, được tạo nên từ toàn bộ các quan hệ giữa người với người trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,
Quan điểm của C. Mác cho thấy:
- Bản chất con người không phải là cái trừu tượng, cố hữu. Bản chất con người
hình thành và thể hiện ở những con người hiện thực. Đấy là những con người cụ
thể, sống trong những hoàn cảnh cụ thể mà ở đó bản chất con người được bộc lộ ở
những mức độ cụ thể.
- Tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành nên bản chất của con người.
Các quan hệ này có vị trí, vai trò khác nhau nhưng chúng xâm nhập vào nhau,
tràn lan vào nhau, phát huy hoặc kìm hãm tác dụng của nhau.
- Khi các quan hệ xã hội (nhất là quan hệ kinh tế) thay đổi thì sớm hay muộn bản
chất của con người cũng có sự thay đổi. Như vậy, bản chất của con người không
phải được sinh ra mà được sinh thành.
Từ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người có thể rút ra ý nghĩa
phương pháp luận quan trọng sau đây:
Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì không thể chỉ
đơn thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn, có tính quyết địnhphải là từ phương diện bản tính xã hội của nó, từ những quan hệ kinh tế - xã hội của nó.Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã hội chính là năng lực sáng
tạo lịch sử của con người. Vì vậy phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người, vì con
người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Ba là, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của
nó phải là hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế - xã hội. Trên ý nghĩa
phương pháp luận đó có thể thấy một trong những giá trị căn bản nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chính là ở mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế - xã hội áp bức và bóc lột, ràng buộc khả năng sáng tạo lịch sử của của con người.
b) Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân.
Về căn bản, tất cả các nhà tư tưởng trong lịch sử trước Mác đều không nhận thức
đúng vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân. Về nguồn gốc lý luận, điều đó có
nguyên nhân từ quan điểm duy tâm, tôn giáo và phương pháp siêu hình trong phân tích các vấn đề xã hội.
Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân
chính ra lịch sử, lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử. Do đó, lịch sử trước hết và căn bản là lịch sử hoạt động của quần chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Vai trò chủ thể sáng tạo ra lịch sử, quyết định tiến trình phát triển lịch sử của quần
chúng nhân dân được phân tích từ ba giác độ sau đây:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội, trực tiếp sản
xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người, của xã hội – đây là nhu cầu quan trọng bậc nhất của mọi xã hội ở mọi thời đại, mọi giai đoạn lịch sử.
Thứ hai, cùng với quá trình sáng tạo ra của cải vật chất, quần chúng nhân dân đồng thời
cũng là lực lượng trực tiếp hay gián tiếp sáng tạo ra các giá trị tinh thần của xã hội.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là lực lượng và động lực cơ bản của mọi cuộc cách
mạng và các cuộc cải cách trong lịch sử.
Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân không bao giờ có thể tách rời vai
trò cụ thể của mỗi cá nhân mà đặc biệt là vai trò của các cá nhân ở vị trí thủ lĩnh, lãnh tụ hay ở tầm vĩ nhân của cộng đồng nhân dân. Theo V.I.Lênin: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” .
Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân
dân và vai trò của các cá nhân đối với tiến trình lịch sử đã cung cấp một phương pháp luận khoa học quan trọng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn:
Thứ nhất, việc lý giải một cách khoa học về vai trò quyết định lịch sử của quần
chúng nhân dân đã xóa bỏ được sai lầm của chủ nghĩa duy tâm đã từng thống trị lâu dài
trong lịch sử nhận thức về động lực và lực lượng sáng tạo ra lịch sử xã hội loài người. Đồng thời, đem lại một phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu và nhận định lịch sử cũng như việc nghiên cứu và đánh giá vai trò của mỗi cá nhân, thủ lĩnh, vĩ nhân, lãnh tụ trong cộng đồng xã hội.
Thứ hai, lý luận về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân đã cung cấp một
phương pháp luận khoa học để các đảng cộng sản phân tích các lực lượng xã hội, tổ chức xây dựng lực lượng quần chúng nhân dân trong công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là sự liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, trên cơ sở đó tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp nhằm tạo ra động lực to lớn trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đi tới thắng lợi cuối cùng.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top