de cuong

CÂU 1:VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC?

Triết học là bộ môn chung nhất, nghiên cứu về các sự vật và hiện tượng của tự nhiên và xã hội, nhằm tìm ra các quy luật của các đối tượng nghiên cứu. Mục đích của triết học là giải quyết các vấn đề cơ bản của bản thể luận và nhận thức luận.

Theo Mác- Ăngghen: Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học,đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại.

Vấn đề này gồm 2 mặt:

- Mặt thứ nhất: ( mặt bản thể luận) trả lời câu hỏi: trong mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào sinh ra cái nào, cái nào quyết định cái nào?

- Mặt thứ 2: (mặt nhận thức luận) trả lời câu hỏi: tư duy con người có khả năng nhận thức thế giới chung quanh hay không?

Thực chất vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức ,vì:

+ Vật chất và ý thức là 2 hiện tượng rộng lớn nhất của đời sống con người.

+ Đây là vấn đề xuyên suốt trong mọi hệ thống triết học.

+ Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức nó là cơ sở để phân định lập trường triết học của các trường phái, các khuynh hướng, các hình thức của triết học. Có 2 trường phái lớn: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
● Chủ nghĩa duy vật: vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức.
●Chủ  nghĩa  duy     tâm:   ngượclại.

CÂU 2:VẬT CHẤT?

Vật chất (triết học Marx-Lenin) theo định nghĩa của Lê Nin : Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,chụp lại, phản ánh và không lệ thuộc vào cảm giác.

Cả Mác và Ăngghen cũng cho rằng: Vật chất là cái tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Thế giới vật chất luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng , ở đâu có vật chất là có vận động và vận động không ngừng.

CÂU 3: Ý THỨC ?

Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác - Lênin là một phạm trù song song với phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người một cách năng động và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất.

- Ý thức cũng là " hiện thực" trong tư tưởng, là sự thống nhất giữa vật chất và ý thức. Vật chất là cái được phản ánh, ý thức là cái phản ánh.

- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: vì ý thức mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu thực tiễn.

- Phản ánh ý thức là sự phản ánh sáng tạo: tính sáng tạo của ý thức rất da dạng, phong phú , tuy nhiên đó là sự sáng tạo dựa tren sự phản ánh

***Mối         quan   hệ      VC-YT:
>> VC là nguồn gốc quyết định YT (bộ óc con người là nguồn gốc YT)
>> VC quyết định nội dung YT tư tưởng (vui buồn đều có nd từ VC)
>> VC quyết định sự VĐ, sự biến đổi YT (suy nghĩ con người thay đổi)
>> VC là đk khách quan để thực hiện hoá YT tư tưởng con người.
>> YT có tính độc lập tương đối tác động trở lại VC.

CÂU 4: CÁC HÌNH THỨC CHỦ NGHĨA DUY VẬT , CHỦ NGHĨA DUY TÂM?

- CNDV: Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau; thế giới vật chất tồn tại một cách khách quan, độc lập với ý thức con người và không do ai sáng tạo ra; còn ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc con ng¬ười; không thể có tinh thần, ý thức nếu không có vật chất.
Chủ nghĩa duy vật đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại và cho đến nay, lịch sử phát triển của nó luôn gắn liền với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, tồn tại dưới       nhiều  hình   thức   khác   nhau.
+ Chủ nghĩa duy vật cổ đại mang tính chất phác, ngây thơ, xuất phát từ giới tự nhiên để giải thích thế giới. Hạn chế của nó là còn mang tính trực quan, trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất đã đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể. Ví dụ như quan niệm của Talét, Hêraclit, Đêmôcrit...
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII - XVIII: Do ảnh hưởng của Cơ học cổ điển nên chủ nghĩa duy vật thời kỳ này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc - phương pháp nhìn nhận thế giới trong trạng thái biệt lập, tĩnh tại. Tuy không phản ánh đúng hiện thực, nhưng CNDV siêu hình vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo. Ví dụ như quan niệm của Niutơn, Bêcơn và các nhà duy vật Pháp    thế     kỷ      XVIII.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được V.I. Lênin tiếp tục phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và vận dụng các thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước đó, thể hiện là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Nó không chỉ phản ánh đúng đắn hiện thực mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp các lực lượng tiến bộ trong xã hội     cải      tạo     hiện    thực   ấy.

- Chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học cho rằng: bản chất của thế giới là tinh thần; ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức có trước và quyết định vật chất.

Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản:

1.       Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định mọi sự vật hiện tượng chỉ là “phức hợp các cảm giác” của cá nhân.

2.       Chủ nghĩa duy tâm khách quan: cũng thừa nhận tính thứ nhất của tinh thần, ý thức nhưng tinh thần, ý thức ấy được quan niệm là tinh thần khách quan, ý thức khách quan có trước và tồn tại độc lập với giới tự nhiên của con người. Theo các nhà duy tâm khách quan, thực thể tinh thần, ý thức ấy chính là: “ý niệm tuyệt đối” (*), “tinh thần tuyệt đối”…

CÂU 5:NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN?

* Khái niệm: Mối liên hệ phổ biến là khái niệm để chỉ sự:

- Tác động

- ràng buộc

- Qui định

- Chuyễn hóa

Của sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Sự liên hệ biểu hiện ở 3 mặt:

- Giữa các mặt trong cùng một sự vật hiện tượng

- Giữa các sự vật khác với nhau

- Giữa các sự vật với môi trường.

*Biểu hiện

Nguyên lý này biểu hiện rõ thông qua sáu cặp phạm trù gồm:

·                     Cái chung và cái riêng

·                     Bản chất và hiện tượng

·                     Nội dung và hình thức

·                     Nguyên nhân và kết quả

·                     Khả năng và hiện thực

·                     Tất nhiên và ngẫu nhiên

*Các tinh chất của mối liên hệ:

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có ba tính chất cơ bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.

·                     Tính khách quan của mối liên hệ biểu hiện: các mối liên hệ là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, không phụ thuộc vào ý thức của con người.

·                     Tính phổ biến của mối liên hệ biểu hiện: bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào, ở bất kỳ không gian nào và ở bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên hệ với những sự vật, hiện tượng khác. Ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ một thành phần nào, một yếu tố nào cũng có mối liên hệ với những thành phần, những yếu tố khác.

·                     Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ biểu hiện: sự vật khác nhau, hiện tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối liên hệ biểu hiện khác nhau. Có thể chia các mối liên hệ thành nhiều loại:

* Liên hệ trong không gian ( cùng 1 thời điểm diễn ra nhiều sự kiện)

* Liên hệ trong thời gian ( là sự liên hệ kế tiếp nhau của các sự kiện )

* Liên hệ bên trong ( là mối liên hệ xảy ra bên trong sự vật hiện tượng.)

* Liên hệ bên ngoài (là mối liên hệ giữa sự vật này với sự vật khác)

* Liên hệ cơ bản

* Liên hệ không cơ bản.

Mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu, v.v.. Các mối liên hệ này có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng.

* Ý nghĩa, phương pháp luận

a. Ý nghĩa:

* Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải có quan điểm toàn diện, phải xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ và khâu trung gian.

Mác nói: “ Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội.”

* Phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét 1 sự vật hiện tượng nào đó, 1 con người nào đó, phải gắn với những hoàn cảnh điều kiện cụ thể.

* Chống lại cách xem xét cào bằng, phiến diện ngụy biện.

CÂU6: CÁC CẶP PHẠM TRÙ,BẢN CHẤT VÀ HIỆN TƯỢNG,NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ?

a. Khái niệm:

- Bản chất là phạm trù dùng để chỉ tổng hợp tất cả các mặt các mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong sự vật quy định, sự vận động và phát triển của sự vật đó.

- Hiện tượng là những mối liên hệ biểu hiện ra bên ngoài của một bản chất nhất định.

b. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng.

- Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng. Bản chất và hiện tượng về căn bản phù hợp với nhau thể hiện:

+ Bất kỳ bản chất nào cũng được bộc lộ ra qua những hiện tượng tương tự và bất cứ hiện tượng nào cũng là sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó hoặc ít hoặc nhiều.+ Bản chất nào thì hiện tượng ấy và ngược lại, bản chất là khác nhau sẽ biểu hiện ở nưững hiện tượng khác nhau. Bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo sớm hay muộn.- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất mang tính mâu thuẫn.

+ Bản chất phản ánh cái chung tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt, hiện tượng phong phú hơn bản chất ngược lại bản chất sâu sắc hơn hiện tượng. Vì vậy cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ngoài bằng vô số hiện tượng khác nhau tùy theo sự biến đổi của điều kiện và hoàn cảnh.

+ Bản chất bao giờ cũng là mặt bên trong ẩn dấu sâu xa của sự vật, còn sự vật là sự biểu hiện của bản chất đó ra bên ngoài nhưng biểu hiện dưới hình thức đã cải biến nhiều khi xuyên tạc bản chất. Hiện tượng là sự biểu hiện của bản chất cơ bản phù hợp với bản chất nhưng không bao giờ phù hợp hoàn toàn. Chúng biểu hiện bản chất không phải đăng nguyên như bản chất vốn có, mà dưới hình thức cải biến nhiều khi xuyên tạc nội dung thực sự của bản chất.

+ Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm, còn hiện tượng không ổn định nó biến đổi nhanh hơn so với bản chất.

C. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả

Nguyên nhân và kết quả là một cặp phạm trù trong phép biện chứng duy vật và là một trong những nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ mối quan hệ biện chứng hai phạm trù giữa cái Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó với Kết quả là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra, qua đó phản ánh mối quan hệ hình thành của các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan. Theo định nghĩa của B.Ratxen: Định luật nhân quả… là bât kỳ định luật nào có thể cho chúng ta khả năng dựa tên một biến cố để đưa ra một kết luận nào đó về một biến cố khác.nguyên nhân và kết quả có quan hệ sản sinh ra nhau.

- Nguyên nhân sinh ra kết quả vì vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân, khi nguyên nhân đã xuất hiện, đã bắt đầu tác động. Tuy nhiên không phải mọi sự nối tiếp nhau về mặt thời gian của các sự vật hiện tượng cũng là biểu hiện của mối liên hệ nhân quả. Cái để phân biệt quan hệ nhân quả với quan hệ nối tiếp nhau về mặt thời gian là ở chỗ quan hệ nhân quả bao giờ cũng là quan hệ sản sinh, trong đó nguyên nhân phải sản sinh ra kết quả. - Trong hiện thực, mối quan hệ nhân quả biểu hiện hết sức phức tạp. Một kết quả thường không phải do một nguyên nhân mà do nhiều nguyên nhân gây ra; đồng thời một nguyên nhân cũng có thể sản sinh ra nhiều kết quả. Vì sự phối hợp tác động của nhiều nguyên nhân đòi hỏi phải phân tích tính chất, vai trò của mỗi loại nguyên nhân đối với kết quả cũng như sự liên hệ ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nguyên nhân và phân loại các nguyên nhân. + Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì có xu hướng dẫn đến kết quả nhanh hơn. Nếu các nguyên nhân tác động ngược chiều thì làm cho tiến trình hình thành kết quả chậm lại. Thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau.  

CÂU 7:HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI?

là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử (hay còn gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội) dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. Nó chính là các xã hội cụ thể được tạo thành từ sự thống nhất biện chứng giữa các mặt trong đời sống xã hội và tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.

Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.

Cấu trúc cơ bản của hình thái kinh tế xã hội bao gồm:

+Lực lượng sản xuất: là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội.

+Quan hệ sản xuất: Tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác.[3] Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội.

+Kiến trúc thượng tầng được hình thành và phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng nó lại là công cụ để bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.

+Các yếu tố khác: Ngoài ra, hình thái kinh tế-xã hội các hình thái kinh tế - xã hội còn có quan hệ về gia đình, dân tộc và các quan hệ xã hội khác. Nó còn bao gồm các lĩnh vực chính trị, lĩnh vực tư tưởng và lĩnh vực xã hội. Mỗi lĩnh vực của hình thái kinh tế-xã hội vừa tồn tại độc lập với nhau, vừa tác động qua lại, thống nhất với nhau gắn bó với quan hệ sản xuất và cùng biến đổi với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.

_Lịch sử xã hội do con người làm ra, con người tạo ra các quan hệ xã hội của mình và đó là xã hội. Nhưng sự vận động của xã hội lại tuân theo quy luật khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn của con người mà nguồn gốc sâu xa của sự thay thế nhau giữa các hình thái kinh tế-xã hội nằm ở chỗ:

Sự phát triển của lực lượng sản xuất, gây nên sự thay đổi của quan hệ sản xuất.

Và rồi đến lượt mình, sự thay đổi của quan hệ sản xuất (với tư cách là cơ sở hạ tầng) sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi.

Do vậy, từ những yếu tố cấu trúc của mỗi một hình thái kinh tế xã hội thay đổi dẫn đến hình thái kinh tế-xã hội này được thay thế bằng hình thái kinh tế-xã hội khác cao hơn, tiến bộ hơn. C.Mác đã viết về một trường hợp cụ thê: "Sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hoá lao động đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa... nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình tự nhiên"

Sự thay thế nhau như vậy giữa các hình thái kinh tế-xã hội là con đường phát triển chung của nhân loại. Quá trình đó diễn ra một cách khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Sự biến đổi đó của hình thái kinh tế-xã hội không chịu sự tác động của con người mà tuân theo các quy luật xã hội khách quan.

CÂU 8:BẢN CHẤT CON NGƯỜI?

Một số trào lưu triết học giải thích bản chất con người từ góc độ những điểm chung của mọi sinh vật trên trái đất. Bản chất đó là bản tính tự nhiên, là những nhu cầu thuộc về sự duy trì thể xác và dục vọng để phát triển giống nòi; hoặc tìm kiếm bản chất con người trong khuôn khổ cá nhân riêng lẻ, nghĩa là con người bị tách khỏi mối quan hệ xã hội hiện thực của nó. Tính chất siêu hình của các quan điểm này về bản chất của con người biểu hiện ở chỗ, con bản chất là cái vốn có trừu tượng và quy nó về bản tính tự nhiên, tách khỏi xã hội và trở nên bất biến.

Với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tạo ra một bước ngoặt trong việc nhận thức bản chất con người. Các ông xuất phát từ con người thực tiễn, con người hiện thực, con người cải tạo thế giới và thông qua hoạt động vật chất con người. Đó là một động vật có tính xã hội với tất cả những nội dung văn hoá - lịch sử của nó. Như vậy, các ông không xem xét bản chất con người một cách cô lập và phiến diện mà đặt nó trong mối quan hệ với tự nhiên, xã hội và con người. Con người sống dựa vào tự nhiên như hết thẩy mọi sinh vật khác. Nhưng con người sở dĩ trở thành con người chính là ở chỗ nó khonog chỉ sống dựa vào tự nhiên, Ph.Ăngghen là người đầu tiên đã chỉ ra được bước chuyển biến từ vượn thành người là nhờ có lao động. Quá trình con người cải tạo tự nhiên cũng là quá trình con người trở thành con người. Ph.Ăngghen nói "lao động sáng tạo ra con người là theo ý nghĩa ấy".

Khi nói bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội, cũng có nghĩa là tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành bản chất con người, nhưng có ý nghĩa quyết định nhất là quan hệ sản xuất. Bởi vì, các quan hệ khác đều trực tiếp hoặc gián tiếp chịu sự quy định của quan hệ này. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất nhất định giữ vai trò chi phối, và chính kiểu quan hệ sản xuất đó là cái xét đến cùng, tạo nên bản chất của con người trong giai đoạn lịch sử đó.

Ở đây, cái phổ biến (cái chung của nhân loại) tồn tại và thể hiện qua cái đặc thù (hình thái xã hội, giai cấp) và cái đơn nhất(cá nhân từng con người). Do đó, khi bàn đến bản chát chung  của con người không thể gạt bỏ bản chất giai cấp của các tầng lớp khác nhau; và ngược lại khi nói bản chất giai cấp của các tầng lớp khác nhau không được quên bản chất chung của con người. Nhưng từ đó quy bản chất con người chỉ còn là bản chất giai cấp và tất cả mọi hoạt động của con người đều được giải thích trực tiếp từ đây lại là xuyên tạc thực chất quan điểm macxít về bản chất con người. Đây là một quan hệ không thể tách biệt của các thứ bậc về bản chất trong con người.

Cái bản chất không phải là cái duy nhất, mà là bộ phận chi phối trong chỉnh thể cụ thể phong phú đa dạng. Bản chất và thể hiện bản chất của con người có khác biệt. Không hiểu bản chất chung của con người hay quy tất cả những gì của con người để chỉ vào bản chất là sai lầm. Bản chất  một con người cụ thể là tổng hoà các quan hệ xã hội "vốn có" của con người đó và quy định những đặc điểm cơ bản chi phối mọi hành vi của người đó. Còn tất cả những hành vi của người  đó bộc lộ ra bên ngoài là những hiện tượng biểu hiện bản chất của họ. Sự thể hiện bản chất của con người không phải theo con đường thẳng, trực tiếp, mà thường là gián tiếp, quanh co qua hàng loạt mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội, giữa kinh nghiệm và nhận thức khoa học, giữa lợi ích trước mắt và lâu dài; giữa bản năng sinh vật và hoạt động có ý thức giữa di truyền tự nhiên và văn hoá xã hội… Trong diễn biến đầy mâu thaũan đó, bản chất thể hiện ra như một xu hướng chung, xét đến cùng mới thấy sự chi phối của xu hướng đó.

Con người là một thực thể sinh vật - xã hội. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm biến động đời sống xã hội đồng thời cũng biến đổi chính bản thân mình. Điều đó cũng có nghĩa là con người tiếp nhận bản chất xã hội của mình thông qua hoạt động thực tiễn.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: