đề 3

Bài ca ngắn đi trên cát dựng lên hình tượng một con người đi giữa một bãi cát mênh mông, mỗi bước chân đều bị lún xuống cát, cho nên hễ tiến lên một bước lại phải lùi lại một bước. Ngay từ đầu, bài thơ đã sử dụng điệp âm, và điệp âm đặt trong cách ngắt nhịp 2/3 liên tiếp trong hai câu thơ năm chữ đã gợi lên cái cảm giác của bước chân người đi luôn luôn bị kéo giật lại :

Trường sa / phục trường sa,

Nhất bộ / nhất hồi khước.

(Cát dài / bãi cát dài,

Mỗi bước / lùi một bước)3

Con người đi trong trạng thái bất thường như thế tất nhiên là đi liên miên suốt đời mà không bao giờ thấy đích. Anh ta không còn chút ấn tượng nào về thời gian, về sáng tối. Chỉ có nỗi phiền muộn cứ chất mãi lên trái tim anh :

Nhật nhập hành vị dĩ,

Khách tử lệ giao lạc.

(Mặt trời đã lặn đi chưa nghỉ,

Bộ hành nước mắt lã chã rơi).

Bài thơ cho thấy, chỉ mới ở tuổi trong ngoài ba mươi, Cao Bá Quát đã cảm nhận được sự bế tắc cùng cực của một loại hình nhà nho không hợp khuôn với chế độ hiện hành. Nhà thơ tự đặt ra một lối thoát là trong cuộc đi vô tận đó, nếu người ta có thể ngủ đi được theo phép “thụy du” của những ông tiên thì may ra mọi nỗi thống khổ mới chấm dứt. Tiếc thay phép thụy du đối với những người vốn đã quá tỉnh lại chẳng có chút gì hiệu lực. Vì thế, càng đi trong sự tỉnh táo thì mọi nỗi oán hận trong lòng người đi chỉ càng thêm chất chồng :

Quân bất học tiên gia mỹ thụy ông,

Đăng sơn thiệp thủy oán hà cùng ?

(Không học được tiên ông phép ngủ,

Trèo non lội suối giận sao nguôi ?)

Và nhà thơ lại thử làm một phép so sánh giữa loại “hành nhân” đáng gọi là tỉnh kia với vô số những người ngược xuôi vì danh lợi, thì hóa ra số người tỉnh rất ít, còn tất cả bọn họ đều là người say :

Cổ lai danh lợi nhân,

Bôn tẩu lộ đồ trung;

Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu,

Tỉnh giả thường thiểu, túy giả đồng.

(Xưa nay phường danh lợi,

Bôn tẩu trên đường đời;

Gió thoảng hơi men trong quán rượu,

Say cả hỏi tỉnh được mấy người ?)

Sự đối lập thức / ngủ và tỉnh / say thực ra chỉ là những biện pháp loại trừ nhằm giới hạn dần và soi tỏ từng bước đặc trưng loại biệt của đối tượng. Và đến đây, cảm hứng về một con người lầm lũi đi không biết tháng biết năm, đi mà không bao giờ tới đích, đi nhưng vẫn cứ như dẫm chân tại chỗ… ở đầu bài thơ được tiếp thêm bởi cái cảm hứng về sự cô đơn tuyệt đối của chính người bộ hành ấy, đã nâng hình tượng trữ tình của bài thơ lên mức một ẩn dụ có sức ám ảnh ghê gớm : người hành nhân ấy vẫn cứ đang mải miết đi, nhưng nhìn lên phía Bắc thì muôn ngọn núi lớp lớp đã sừng sững chắn mất lối; ngoảnh về Nam, núi và sóng hàng muôn đợt cũng đã vây phủ lấy mình. Và nhìn khắp bốn phía, thì nào có còn ai, chỉ còn độc một mình mình đứng trơ trên bãi cát. Bài thơ mở đầu bằng một câu vần bằng và ba câu vần trắc, đều là câu năm chữ, như muốn ném ra giữa cuộc đời một nhận xét chua chát về sự cố gắng tìm đường vô ích. Kế tiếp là hai cặp câu vần bằng dài - ngắn và hai cặp câu vần bằng xen trắc, cùng dài nhưng khác vần, biểu hiện những quặn khúc trong quá trình cọ xát với thực tiễn của chủ thể trữ tình / con người lặn lội tìm đường một cách hoài công :

Quân bất học tiên gia mỹ thụy ông,

Đăng sơn thiệp thủy oán hà cùng/

Cổ lai danh lợi nhân,

Bôn tẩu lộ đồ trung/

Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu,

Tỉnh giả thường thiểu túy giả đồng/

Trường sa trường sa nại cừ hà !

Thản lộ mang mang úy lộ đa/

Thế rồi ở phần cuối, bài thơ kết thúc bằng một câu vần bằng và ba câu vần trắc bảy chữ, báo hiệu một cái gì đang thắt lại trong tư tưởng, là cái tuyên ngôn “cùng đường” của nhà thơ. Phép điệp âm ở đây lại được sử dụng tiếp, cài vào nhau, đan chéo nhau, đẩy cảm giác nhức nhối đến cùng tột :

Thính ngã nhất xướng “cùng đồ” ca :

Bắc sơn chi Bắc / sơn vạn điệp,

Nam sơn chi Nam / ba vạn cấp;

Quân hồ vi hồ sa thượng lập ?

(Nghe ta ca “cùng đường” một khúc :

Phía Bắc núi Bắc / núi muôn lớp,

Phía Nam núi Nam / sóng muôn đợt;

Sao mình anh trơ trên bãi cát ?)

Hình ảnh kết đọng cao nhất là một con người đã mất hết ý niệm về thời gian vì những cuộc đi, lại mất luôn cả ý niệm về phương hướng vì không còn có không gian xoay trở. Đấy là con người mất ý thức về lẽ tồn tại. Nhưng câu cuối cùng của bài thơ là một câu hỏi, cho nên cần hiểu : trong cảnh ngộ tuyệt vọng, con người này vẫn luôn luôn băn khoăn thắc mắc mà không giải đáp nổi vì sao và do đâu mình lại tự đánh mất lý do tồn tại của mình.

hoặc

Bãi cát lại bãi cát dài => Ẩn dụ về con đường duy nhất để "lên đời" trong xã hội pk thối nát.

Đi 1 bước như lùi 1 bước. => Bế tắc.

Mặt trời đã lặn chưa dừng được.

Lữ khách trên đường nước mắt rơi. => không có lối thoát.

Không học được tiên ông phép ngủ , => Điển tích ( SGK có )

Trèo non , lội suối , giận khôn vơi ! => Giận bản thân vì đã trót bước chân vào đây.

Xưa nay phường danh lợi ,

Tất tả trên đường đời . => Danh lợi làm người ta thêm khổ - Tóc bạc rồi túi vẫn đầy tham!

Đầu gió hơi men thơm quán rượu ,

Người say vô số , tỉnh bao người ? => Số người biết tự chủ trước danh & lợi là rất ít. Phần lớn đều bị xoay theo lòng tham + danh lợi.

Bãi cát dài , bãi cát dài ơi !

Tính sao đây ? Đường bằng mờ mịt , => Cảm thấy không còn chốn dung thân. Chán nản + mệt mỏi.

Đường ghê sợ còn nhiều , đâu ít ?

Hãy nghe ta hát khúc " đường cùng " ,

Phía bắc núi Bắc , núi muôn trùng ,

Phái nam núi Nam , sóng dào dạt . => Phía trước... phía sau... mù mịt... xa xôi... đây là "bước đường cùng" của kẻ hám cầu danh lợi.

Anh đứng làm chi trên bãi cát ? => Hình ảnh kết đọng cao nhất là một con người đã mất hết ý niệm về thời gian vì những cuộc đi, lại mất luôn cả ý niệm về phương hướng vì không còn có không gian xoay trở. Đấy là con người mất ý thức về lẽ tồn tại. Nhưng câu cuối cùng của bài thơ là một câu hỏi, cho nên cần hiểu : trong cảnh ngộ tuyệt vọng, con người này vẫn luôn luôn băn khoăn thắc mắc mà không giải đáp nổi vì sao và do đâu mình lại tự đánh mất lý do tồn tại của mình.

__________________

Phải nói rằng có những nhà thơ, nhà văn mà bóng dáng của họ giờ chỉ là niềm hoài cổ, dĩ vãng xa xưa. Nhưng ngược dòng thời gian, vẻ đẹp tâm hồn của những con người ấy vẫn mãi toả sáng, vĩnh hằng. Chúng ta càng thấm thía hơn điều đó khi đến với”bài ca ngắn đi trên bãi cát” của Cao Bá Quát và “bài ca ngất ngưỡng” cuă Nguyễn Công Trứ- hai tác phẩm thấm đẫm vẻ đẹp nhân cách của nhà nho chân chính.

Trước hết, vẻ đẹp nhân cách nhà nho chân chính qua hai tác phẩm đều là sự thể hiện quan điểm của mình về con đường danh lợi. Tuy nhiên mỗi người lại có một cách bộc lộ khác nhau về ước mơ thời đại ấy. Cao Bá quát chán ghét thốt lên rằng:

“Bãi cát dài bãi cát dài ơi

Đi một bước như lùi một bước

Mặt trời đã lặn chưa dừng được

Lữ khấch trên đường nước mắt rơi”

Phẳi chăng do quá lận đạn với dường danh lợi nên ông đx không mấy khất khao khi nhắc đến nó? Với ông dường như sự nghiệp đậu đạt làm quan là quá gập ghềnh, trắc trở. Nói diều ấy không có nghĩa Cao Bá Quát không có tài mà ngược lại, ông là một người có học vấn uyên thâm. Nguyên ngân chủ yếu làm mất đi một nhân tài đất nước như ông cũng là vì sự suy thoái cử xã hội, sự khủng hoảng của thời đại. Với cách sử dụng hình tượng bãi cát đầy tính gợi hình, và hình ảnh người đi trên bãi cát vô cùng tinh tế, Cao Bá Quát đã miêu tả rất thành công sự mệt nhọc, vất vả của người đi trên con dường danh lợi. Con dường ấy dài lắm, khó đi lắm đến nỗi giọt nước mắt của những người trí thức phải tuôn rơi. Giọt nước mắt đó là tiếng khóc cho sự vất vả, mệt mỏi, giọt nước mắt khóc thương cho biết bao năm đèn sách không là gì cả mà hơn nữa, đó là tiếng khóc của thời đại, tiếng lòng bi thương cho một xã hội suy đồi. Còn đến với Nguyễn Công Trứ, ta lại cảm nhận một suy nghĩ khác:

“Vũ trụ nội mạc phi phận sự

Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”

May mắn hưon Cao Bá Quat, Nguyễn Công Trứ rất thành công trong sự nghiệp của mình, nhưng không vì thế mà ông đề cao con đường làm quan. Dường như có một sự tương đồng nho nhỏ trong suy nghĩ của hai nhà nho lớn khi Nguyễn Công Trứ cũng camt thấy bị gò bó, ép buộc chốn quan trường. Điều ấy được thể hiện sâu sắc qua từ “vào lồng”. Có lẽ rằng sống trong thời đại đó thì cái đíh phấn đấu cuối cùng của nhà nho là một chức quan. Với họ, học là để thi cử, dèn sách là để được vinh danh. Nhưng chúng ta không nên quá phê phán lối suy nghĩ ấy bởi đó là mục đích sống của cả một thế hệ. Nếu nhue không đi theo con đường ấy, họ sẽ chẳng có một lối rẽ nào khác cả.

Không dừng lại ở đó, cả Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ đều để lại một dáu ấn riêng qua Tác phẩm của mình để khẳng định phong cách . Với Cao Bá Quát, phong cách nhà nho chân chính thật sự toả sáng kho ông có quan niệm sống vô cùng tiến bộ.

Con đường danh lợi gập ghềnh đến thế thì bạn hãy tự thoát ra. Một bước đi để đường đời thay đổi, để không còn phải vất vả bon chen, hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn. Đâu phải chỉ có làm quan mới là con đường duy nhất đi tới thành công, hãy chọn cho mình một lối rẽ riêng, không xô bồ, chen lấn.Đừng để vòng xoáy danh lợi nhấn chìm những con người tài giỏi vào hố sâu, dũng cảm bước ra khỏi vòng xoáy ấy mới là quyết định sáng suốt nhất. Cao Bá Quát đã có một quan niệm rất đúng đắn, vượt qua thời đại để hướng con người tới một cuộc sống hạnh phúc hơn. Đó cũng là bước đi đầu tiên để làm thay đổi xã hội, thoát khỏi sự lũng đoàn, suy đồi. Từ đó, Cao Bá Quát đã trở thành một biểu tượng của nhà nho chân chính, rất khác biệt so với các thế hệ trước. Cũng là một nhà nho chan chính, vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Công Trứ thể hiện qua phong cách, bản lĩnh cá nhân của mình.

... “Đô môn giải tổ chi niên

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng

Kìa núi nọ phau phau mây trắng

Tay kiếm cung mà nen dạng tằ bi

Gót tiên đủng đỉnh một đôi gì

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.”

Nguyễn Công Trứ đã thể hiện mình vô cùng “ngất ngưởng”. Ông luôn làm những điều khác thường, không giống người trong khi mình là một vị quan trên muôn dân. Không những thế, ông còn khoe khoang tự đại về thành tích, công lao của mình, rồi coi mình cao hơn người khác. Hơn thế nữa, Nguyễn công trứ còn có một cuộc sống vô cùng tự do,phóng khoáng. Vượt lên cả những lời đồn thổi tầm thường, ông sống mà không để ý đến xung quanh. Một cuộc sông đúng với cho\ính mìn, sống thật với bản thân. Nhưng ông mãi sống trong lòng nhân dân với một hình ảnh vô cùng tốt đẹp, rất đáng kham phục. Cũng bởi vì ông đã công hién rất nhiều cho công cuộc xây dựng đất nước, có những tháng ngày sống hết mình vì nhân dân. Cành đáng trân trọng hơn nữa đó là ông đã dám thể hiện cái “tôi” cá mhân của mình. Một cái tôi bản ngã – vượt lên thời đại. Một nhà nho chân chính là người dám nói, dám thể hiện bản lĩnh của mình trước thiên hạ. Và ông đã làm được điều đó, xứng đáng với vị trí của mình trong đất nước.

Đúng vậy, vẻ đẹp nhân cách nhà nho chân chính qua 2 tác phẩm “ Bài ca ngăn đi trên bãi cát” và “ Bài ca ngất ngưỡng” được thể hiện rất thành công. Tuy mỗi người có một phong cách riêng nhưng nó đều đã trỏ thành một nốt nhấn thời đại, trở thành điểm sáng thẩm mĩ trong lòng người đọc bởi ấy là vẻ đẹp biểu tượng của con người Việt Nam trong thời đại dĩ vãng, xa xưa. 

Bài Làm 1

Như chúng ta đều biết, Cao Bá Quát là một trong những nhân vật độc đáo trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam, một người xuất thân từ Cửa Khổng sân Trình, lãnh hội nền giáo dục và tư tưởng Nho giáo và cũng đã từng lựa chọn con đường học hành, khoa cử để ra thực hiện lí tưởng của mình nhưng đã vượt ra ngoài phạm vi khuôn khổ tư tưởng Nho giáo (trong chừng mực nào đó) khi quyết định tham gia cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến nhà Nguyễn. Để giải thích hiện tượng đó, cần có cái nhìn đa chiều, lí giải nguyên nhân không chỉ từ những tác động của bối cảnh xã hội Việt Nam đương thời, mà còn từ phía những đặc điểm cá nhân, những động lực, thúc bách và lựa chọn của cá nhân Cao Bá Quát. Bài thơ Sa hành đoản ca (được làm khi CBQ vẫn còn trên con đường khoa cử, mong có được công danh để ra giúp dân giúp nước, thực hiện lí tưởng, hoài bão của mình) thể hiện thái độ của tác giả với xã hội đương thời và phần nào hé lộ những nguyên nhân, những động lực thúc đẩy ông đến quyết định phản kháng mãnh liệt triều đình phong kiến.

1. Thái độ của Cao Bá Quát đối với công danh và xã hội đương thời.

- Trước hết phải nói, công danh đối với nhà Nho có một ý nghĩa quan trọng. Nó đã từng là lí tưởng sống, và với nhiều người, nó còn trở thành ý thức thường trực như một nghĩa vụ, một "món nợ" cần phải trả của kẻ nam nhi, là yếu tố khẳng định sự hiện tồn của cá nhân trong cuộc đời ("không công danh thà nát với cỏ cây"). Đó là nói về lí tưởng công danh với những con người có nhân cách cao khiết, có ước vọng muốn làm nên sự nghiệp lớn để giúp dân, giúp nước, để lưu danh cùng thiên cổ. Nhưng trong thời đại mà Cao Bá Quát sống (xã hội phong kiến nhà Nguyễn đầu thế kỉ XIX), nhiều giềng mối của của xã hội bị lung lay, nhiều kẻ cơ hội bon chen trên đường công danh chỉ vì mục đích tự lợi thấp hèn. Vả chăng, con đường khoa cử, kiếm tìm công danh cũng không còn được ý nghĩa tiến bộ của nó.

- Trong bài thơ Sa hành đoản ca, Cao Bá Quát cũng rất sớm nhận ra được tình trạng đó và trong lòng người trí thức ấy không khỏi băn khoăn, trăn trở. Qua hình tượng Bãi cát dài và Người đi trên bãi cát, nhà thơ đã thể hiện tâm trạng bi phẫn, sự băn khoăn, trăn trở khôn nguôi về con đường mà mình đang đi.

+ Con đường công danh, đường đời là một con đường đầy gian khó, mờ mịt, vô định (qua hình ảnh bãi cát dài nối tiếp nhau và nỗi khó khăn của người đi trên cát)

+ Trên con đường theo đuổi công danh đó, nhà thơ nhận ra có biết bao kẻ ti tiện chỉ coi công danh là miếng mồi ngon cần giành giật mà quên đi mục đích, lí tưởng cao đẹp của cuộc sống. Sức cuốn hút của công danh có thể làm mê muội, tha hóa con người (như quán rượu nơi đầu gió làm bao kẻ lữ hành khao khát, mê muội).

+ Nhận thức rõ tình trạng đó, nhà thơ băn khoăn, tự vấn quyết liệt về con đường đang đi, con đường sẽ đi. Đường bằng (Thản lộ) thì ít, lại mờ mịt mà Đường ghê sợ (con đường tha hóa, đeo đuổi công danh mà bao kẻ đang theo đuổi) thì nhiều. Cuộc đấu tranh tư tưởng dữ dội ấy nhiều lúc tưởng đã bế tắc, không tìm ra lối thoát (cùng đồ). Kết thúc bài thơ là một câu hỏi tu từ "Anh đứng làm chi trên bãi cát". Nó như một mối băn khoăn day dứt khôn nguôi đồng thời cũng là lời thúc giục, động viên, lời tác giả tự khuyến khích mình hãy dũng cảm dứt bỏ, bước ra khỏi "úy lộ" (con đường ghê sợ) để thực hiện lí tưởng, lẽ sống của mình.

2. Lí giải nguyên nhân CBQ tham gia cuộc nổi dậy chống triều đình phong kiến nhà Nguyễn

Từ toàn bộ bài thơ thấy toát lên hình ảnh một người trí thức tự nhiệm, trung thực, đầy tinh thần trách nhiệm với đất nước, với cuộc đời mình, luôn băn khoăn, day dứt về con đường đang đi. Một con người đầy bản lĩnh, quyết không chịu say, không chịu "học phép ngủ" để cùng say ngủ với biết bao kẻ dung tục trong đời. Sự băn khoăn trăn trở còn được đẩy lên mức độ căng thẳng với những lời tự tra vấn quyết liệt về lẽ sống, về con đường phải đi thể hiện một nhân cách cao cả, không chịu thỏa hiệp với dục vọng bản thân và với thực trạng xã hội đang tiềm chứa nhiều suy thoái. 

Và ta thấy, ngay từ rất sớm, trong ông đã tiềm chứa ước muốn đổi thay thực trạng xã hội, quyết không chấp nhận thực tại. Khi gặp những hoàn cảnh cụ thể (khi đã chứng kiến hết cảnh thối nát chốn quan trường, thấy rõ hiện trạng xã hội, lại bị dập vùi không thương tiếc), ước muốn đó sẽ chuyển thành hành động phản kháng mãnh liệt. Và đó là một phần nguyên nhân giải thích lí do khiến CBQ đã tham gia cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến nhà Nguyễn năm 1854

=============================================

Bài Làm 2

Bài ca ngắn đi trên cát dựng lên hình tượng một con người đi giữa một bãi cát mênh mông, mỗi bước chân đều bị lún xuống cát, cho nên hễ tiến lên một bước lại phải lùi lại một bước. Ngay từ đầu, bài thơ đã sử dụng điệp âm, và điệp âm đặt trong cách ngắt nhịp 2/3 liên tiếp trong hai câu thơ năm chữ đã gợi lên cái cảm giác của bước chân người đi luôn luôn bị kéo giật lại :

Trường sa / phục trường sa,

Nhất bộ / nhất hồi khước.

(Cát dài / bãi cát dài,

Mỗi bước / lùi một bước)

Con người đi trong trạng thái bất thường như thế tất nhiên là đi liên miên suốt đời mà không bao giờ thấy đích. Anh ta không còn chút ấn tượng nào về thời gian, về sáng tối. Chỉ có nỗi phiền muộn cứ chất mãi lên trái tim anh :

Nhật nhập hành vị dĩ,

Khách tử lệ giao lạc.

(Mặt trời đã lặn đi chưa nghỉ,

Bộ hành nước mắt lã chã rơi).

Bài thơ cho thấy, chỉ mới ở tuổi trong ngoài ba mươi, Cao Bá Quát đã cảm nhận được sự bế tắc cùng cực của một loại hình nhà nho không hợp khuôn với chế độ hiện hành. Nhà thơ tự đặt ra một lối thoát là trong cuộc đi vô tận đó, nếu người ta có thể ngủ đi được theo phép “thụy du” của những ông tiên thì may ra mọi nỗi thống khổ mới chấm dứt. Tiếc thay phép thụy du đối với những người vốn đã quá tỉnh lại chẳng có chút gì hiệu lực. Vì thế, càng đi trong sự tỉnh táo thì mọi nỗi oán hận trong lòng người đi chỉ càng thêm chất chồng :

Quân bất học tiên gia mỹ thụy ông,

Đăng sơn thiệp thủy oán hà cùng ?

(Không học được tiên ông phép ngủ,

Trèo non lội suối giận sao nguôi ?)

Và nhà thơ lại thử làm một phép so sánh giữa loại “hành nhân” đáng gọi là tỉnh kia với vô số những người ngược xuôi vì danh lợi, thì hóa ra số người tỉnh rất ít, còn tất cả bọn họ đều là người say :

Cổ lai danh lợi nhân,

Bôn tẩu lộ đồ trung;

Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu,

Tỉnh giả thường thiểu, túy giả đồng.

(Xưa nay phường danh lợi,

Bôn tẩu trên đường đời;

Gió thoảng hơi men trong quán rượu,

Say cả hỏi tỉnh được mấy người ?)

Sự đối lập thức / ngủ và tỉnh / say thực ra chỉ là những biện pháp loại trừ nhằm giới hạn dần và soi tỏ từng bước đặc trưng loại biệt của đối tượng. Và đến đây, cảm hứng về một con người lầm lũi đi không biết tháng biết năm, đi mà không bao giờ tới đích, đi nhưng vẫn cứ như dẫm chân tại chỗ… ở đầu bài thơ được tiếp thêm bởi cái cảm hứng về sự cô đơn tuyệt đối của chính người bộ hành ấy, đã nâng hình tượng trữ tình của bài thơ lên mức một ẩn dụ có sức ám ảnh ghê gớm : người hành nhân ấy vẫn cứ đang mải miết đi, nhưng nhìn lên phía Bắc thì muôn ngọn núi lớp lớp đã sừng sững chắn mất lối; ngoảnh về Nam, núi và sóng hàng muôn đợt cũng đã vây phủ lấy mình. Và nhìn khắp bốn phía, thì nào có còn ai, chỉ còn độc một mình mình đứng trơ trên bãi cát. Bài thơ mở đầu bằng một câu vần bằng và ba câu vần trắc, đều là câu năm chữ, như muốn ném ra giữa cuộc đời một nhận xét chua chát về sự cố gắng tìm đường vô ích. Kế tiếp là hai cặp câu vần bằng dài - ngắn và hai cặp câu vần bằng xen trắc, cùng dài nhưng khác vần, biểu hiện những quặn khúc trong quá trình cọ xát với thực tiễn của chủ thể trữ tình / con người lặn lội tìm đường một cách hoài công :

Quân bất học tiên gia mỹ thụy ông,

Đăng sơn thiệp thủy oán hà cùng/

Cổ lai danh lợi nhân,

Bôn tẩu lộ đồ trung/

Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu,

Tỉnh giả thường thiểu túy giả đồng/

Trường sa trường sa nại cừ hà !

Thản lộ mang mang úy lộ đa/

Thế rồi ở phần cuối, bài thơ kết thúc bằng một câu vần bằng và ba câu vần trắc bảy chữ, báo hiệu một cái gì đang thắt lại trong tư tưởng, là cái tuyên ngôn “cùng đường” của nhà thơ. Phép điệp âm ở đây lại được sử dụng tiếp, cài vào nhau, đan chéo nhau, đẩy cảm giác nhức nhối đến cùng tột :

Thính ngã nhất xướng “cùng đồ” ca :

Bắc sơn chi Bắc / sơn vạn điệp,

Nam sơn chi Nam / ba vạn cấp;

Quân hồ vi hồ sa thượng lập ?

(Nghe ta ca “cùng đường” một khúc :

Phía Bắc núi Bắc / núi muôn lớp,

Phía Nam núi Nam / sóng muôn đợt;

Sao mình anh trơ trên bãi cát ?)

Hình ảnh kết đọng cao nhất là một con người đã mất hết ý niệm về thời gian vì những cuộc đi, lại mất luôn cả ý niệm về phương hướng vì không còn có không gian xoay trở. Đấy là con người mất ý thức về lẽ tồn tại. Nhưng câu cuối cùng của bài thơ là một câu hỏi, cho nên cần hiểu : trong cảnh ngộ tuyệt vọng, con người này vẫn luôn luôn băn khoăn thắc mắc mà không giải đáp nổi vì sao và do đâu mình lại tự đánh mất lý do tồn tại của mình.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: