ddddddddddddddd
Hồi 1
Đường đời gian hiểm, dân chúng đồ thán
Mặt trời sắp lặn, đàn quạ đang bay về tổ. Trên con đường cái quan nối liền Thiểm Tây với Tân Lĩnh có một thiếu niên thư sinh đang cưỡi con ngựa trắng, vừa đi vừa ngắm phong cảnh vẻ mặt rất hớn hở. Thư sinh có tuổi chưa đầy hai mươi, tay cầm roi ngựa và lẩm bẩm ngâm nga : " Cảnh mặt trời lặn đẹp biết bao, tiếc thay không còn tồn tại được lâu" .
Theo sau chàng có một tiểu đồng tuổi chừng mười ba mười bốn cỡi một con ngựa
gầy còm. Trên con ngựa của y có cột một bọc sách lớn và một bó hành lý. Thằng nhỏ
thấy trời sắp tối đến nơi mà công tử vẫn đi thủng thẳng, nó bèn lên tiếng thúc giục :
- Thưa công tử, nghe nói đường này không được yên lắm, nếu tối hôm nay chúng
ta không đi kịp tới thị trấn ngủ trọ, lỡ gặp phải đạo tặc thì nguy to lắm đấy. Thư sinh nọ
nghe tiếng tiểu đồng nói xong tum tỉm cười, giơ roi lên quất vào mông ngựa một cái.
Con ngựa của chàng cất vó phi chạy ngay.
Công tử họ Hầu tên là Triều Tôn biệt tự là Phương Vực, người huyện Thương
Khán tỉnh Hà Nam. Năm đó là năm Sùng Tỉnh ngu niên. Hầu công tử xin phép cha mẹ
ra ngoài du học. Hồi bấy giờ quan thái giám Ngụy Trung Hiền đã bị xử trảm nhưng
thiên hạ loạn lạc, đường đi không được bình yên đạo tặc nổi lên như kiến co Cha mẹ
của chàng không cho phép chàng đi, nhưng chàng cứ khăng đòi đi và thưa rằng :
- Đại trượng phu phải đọc sách muôn cuốn, đi vạn dặm đường, thì đầu óc mới học
hỏi nhiều và hiểu nhiều được chứ.
Thế là cha mẹ chàng đành phải cho chàng đi. Hầu công tử là người có tài và rất
can đảm chàng liền đem theo Hầu Khang, một tiểu đồng vẫn hầu hạ mình. Chàng với
tiểu đồng hai người cỡi hai con ngựa đi thẳng về phía tây. Ngày hôm nay chàng vừa đi
tới chân núi Chung Nam, suốt dọc đường chàng chỉ gặp những nông dân mặt vàng khè
người ốm yếu và thỉnh thoảng lại còn thấy những xác của những người chết đói nằm
ngổn ngang bên dọc đường nữa. Chàng còn thấy có xác chết mồm ngậm đầy cỏ xanh
và đất khô. Thoạt tiên chàng còn bố thí tiền bạc cho những người nghèo đó. Nhưng sau
thấy nạn nhân nhiều như vậy nên thôi. Khi tới gần chân núi, thấy cảnh sắc tuyệt đẹp
chàng quên thảm trạng của lũ dân nghèo rồi cứ thế phóng ngựa vừa đi vừa thưởng thức.
Chàng thúc ngựa đi được một quãng đường, thấy sắc trí càng ngày càng tối đen
trong lòng lo vô cùng chàng thúc ngựa chạy nhanh thêm. Chạy thêm được mười mấy
dặm đường nữa chàng với tiểu đồng tới một thị trấn nhỏ, hai thầy trò mừng rỡ vô cùng,
vội tìm khách sạn để trọ. Ngờ đâu phố xá vắng tanh. Hai thầy trò không thấy một bóng
người nào hết. Đi tới trước một khách sạn thấy có tấm bảng đề:"Trung Nam Khách Sạn
". Hầu Khang xuống ngựa lên tiếng hỏi :
- Này, Phổ ky đâu ? Chưởng quầy đâu ?
Y đứng chờ giây lát cũng không thấy bên trong có động tĩnh gì hết. Đang lúc ấy một
luồng gió bắc thổi tới có tiếng kêu " rào rào " . Hai thầy trò Triệu tôn đều rùng mình
rợn tóc gáy. Chàng vội rút thanh kiếm đeo ở trên vai xuống xông thẳng vào trong
khách sạn đó liền thấy trong nhà có hai cái xác nằm ngổn ngang trên vũng máu bầm và
có rất nhiều ruồi đang bay quanh hai cái xác đó mùi hôi thúi xông lên. Chàng đoán
chắc hai cái xác này chết đã lâu rồi. Hầu Khanh thấy vậy la lớn một tiếng rồi chạy luôn
ra ngoài cửa thềm. Triều Tôn đưa mắt nhìn bốn phía xung quanh, thấy đồ đạc bừa bãi
trên mặt đất, cửa ngõ cũng đổ nát, hình như đã bị giặc vào càn quét. Hầu Khanh thấy
chủ nhân mãi không ra, y lại quay trở vào tìm kiếm. Triều Tôn thấy tiểu đồng vào liền
nói :
- Chúng ta đi nơi khác xem thử nào.
Ngờ đâu hai người đi khắp thị trấn thấy nhà nào cũng đều như thế cả.
Hai người còn thấy xác của những thiếu nữ loã lồ, chứng tỏ nạn nhân đã bị cường
bạo hãm hiếp xong rồi lại giết luôn. Cả thị trấn đồ sộ như thế mà đâu đâu cũng chỉ có
gió lạnh thổi rùng mình, mùi hôi thối nức mũi cả hai chịu không nổi cứ buồn nôn oẹ
luôn. Lúc này dù Triều Tôn có can đảm đến đâu cũng không dám ở lại đó nữa và vội
lên ngựa chạy thẳng về phía tây ngay.
Hai thầy trò không nói nửa lời chạy luôn một mạch mười mấy dặm đường vừa đói
vừa sợ. Đang kinh hoàng và lo âu thì Hầu Khang bỗng lên tiếng nói :
- Công tử xem kìa ?
Triều Tôn nhìn theo về phía tay chỉ của tiểu đồng thì từ đằng xa có ánh sáng lưa,
cả mừng và nói ngay :
- Chúng ta đến đó nghỉ ngơi đi.
Hai liền rời khỏi ngỏ cái quan đi thẳng về phía có ánh lưa. Hai người càng đi càng
thấy đường gồ ghề khó đi. Triều Tôn bỗng nói :
- Nếu nơi đó là ổ cướp thì thầy trò chúng ta lại dấn thân vào chỗ chết mất.
Hầu Khanh giật mình và nói :
- Nếu vậy chúng ta đừng đến nữa.Triều Tôn thấy mây đen đã bao phủ đầy trời cơn
mưa sắp tới nơi nên chàng nói tiếp :
- Chúng ta cứ lẳng lặng tới đó xem sao.
Thế rồi chàng xuống ngựa, cột ngựa vào gốc cây ở bên cạnh đường, rón rén đi tới
phía có ánh sáng lửa. Khi chàng tới mới hay nơi đó là hai căn nhà lá, cả hai mới yên
tâm được phần nào. Chàng đang định đi tới chỗ cửa sổ để ngó vào bên trong xem sao,
ngờ đâu chàng chưa tới gần đã có một con chó to nhảy sổ tới sủa vang. Chàng vội múa
lộng thanh kiếm nên con chó ấy mới không dám tới gần cứ dừng ở đó sủa.
Bỗng cánh cửa mở toang bà cụ ở bên trong bước ra, tay cầm một ngọn đèn ra, với
giọng run run hỏi chàng là ai.
Triều tôn liền đáp :
- Chúng tôi là khách qua đường định vào quí phủ xin ngủ nhờ một đêm.
Bà cụ lại tiếp :
- Vậy mời quí khách hãy vào trong nhà.Triều Tôn đi vào trong nhà lá ấy thấy đồ đạc rất giản dị, ngoài mấy cái sập bằng đất ra thì không còn cái gì nữa. Trong nhà có một ông cụ đang ho luôn mồm, Triều Tôn bảo Hầu Khang đi dắt ngựa tới. Tiểu đồng nghỉ tới những tình cảnh thảm khốc hồi nãy sợ sệt không dám đi. Ông già liền xuống dẫn y ra bên ngoài để dắt con ngựa vào.
Bà cụ lấy một cái bánh khô ra và pha một bình nước cho hai thầy trò uống. Triều Tôn
ăn sao nổi những thứ đó chàng chỉ cắn một miếng đành phải bỏ giở, lại hỏi :
- Thị trấn ở đằng kia bị bọn giặc nào đến càn quét và giết chóc thảm thiết thế lão
trượng ?
Ông già thở dài một hồi rồi đáp :
- Có phải là giặc cỏ gì đâu, vì giặc cướp làm gì có ác độc như thế ? đó là bọn quan
binh tạo ra đấy.
Triều tôn nghe nói giật mình kinh hãi hỏi tiếp :
- Quan binh à ? sao quan binh lại lộng hành đến thế ? chúng đang tâm chém giết
như vậy mà quan trên của chúng cứ để chúng làm càn như thế hay sao ?
Ông già cười nhạt một tiếng rồi đáp :
- Có lẽ Triều tướng công mới đi ra bên ngoài lần đầu chắc ? Cho nên tướng công
mới không hiểu một tí gì như tướng quân tưởng.
- Quan binh là người biết giữ luật pháp.
Triều Tôn lại hỏi tiếp :
- Sao dân chúng không lên quan trên mà kiện chúng?
Ông già đáp :
- Kiện chúng có ích lợi gì đâu ? Không kiện thì còn may ra thoát thân, bằng
không cứ tự tiện nộp đơn đi kiện lại còn bị chúng cướp phá đánh đập tàn nhẫn hơn.
- Sao lại có chuyện lạ lùng như thế ?
- Không những thế, người nào kiện chúng chưa thấy quan phủ phạt chúng mà
mình đã ăn một trận đòn, rồi còn bị giam vào trong nhà tù nữa. Nếu mình không có
tiền hối lộ thì đừng có tưởng còn sống về với vợ con.
Triều Tôn nghe ông già nói vậy lắc đầu hoài và lẩm bẩm tự nói.
Chợt cánh cửa lớn đã bị người bên ngoài đẩy gãy đổ vào và có một người lớn
tiếng quát mắng :
- Sao gọi mãi không mở cửa thế ?
Không đợi ông già trả lời người đó đã tát cho ông già một cái kêu đến bộp một
tiếng, bà cụ liền lên tiếng :
- Thưa quan lớn... vợ chồng.. chúng tôi... già nua lẩm cẩm nên... không nghe thấy các
ngài gọi cửa... ngờ đâu bà già lại bị đánh.
Bà cụ bị đánh một cái tát, người nọ lại quát mắng chưởi :
- Không nghe thấy mới đáng bị đánh như vậy !Mau giết gà làm cơm cho bốn
người ăn đi.Ông già vội đáp :
- Chúng tôi sắp chết đói tới nơi làm gì có gà mà giết làm cơm cho quí vị.
Hai thầy trò Triều Tôn lại nghe thấy tiếng kêu "'bùm " hình như ông già lại bị đẩy ngã
vậy và tiếng bà cụ khóc lóc kêu ca.
Sau lại nghe thấy một tên nữa quát bảo :
- Thôi, Lão vương buông tha cho vợ chồng chúng, ngày hôm nay chúng ta xui
thật đi cả ngày mới thâu được có hai mươi mấy lạng bạc ngân thuế. Ai nấy cũng đâm
bực mình hết chừng còn đem ông bà già ấy ra đánh đập làm chi ?
Tên nọ nói rằng :
- Những hạng người này chúng ta không cứng rắn một chút chúng không kiêng nể
đâu. Ngay như mấy mươi lượng bạc thu được đó nếu không phải đệ đánh gãy chân anh
chàng nhà quê ấy thì khi nào y chịu ngoan ngoãn nộp tiền thuế cho chúng ta.
Lại một người nói với giọng khàn khàn đỡ lời :
- Nhưng người nhà quê nghèo nàn thực, con gái mươi mấy tuổi mà không có quần
mặc. Như vậy họ lấy tiền đâu mà nộp thuế chứ. Nhưng chúng ta không thâu được lại bị
quan mắng chửi bảo chúng ta vô dụng...
Người đó đứng nói tới đây thì bỗng nghe tiếng ngựa của Triều Tôn kêu, mấy tên
công sai giựt mình kinh hãi vội ra cửa điều tra xem, chúng thấy con ngựa liền bàn tán
xôn xao, có tên nói :
- Người cưỡi ngựa thế nào cũng ở trong nhà này như vậy chúng ta lại kiếm được
một món hời rồi, nên tên nào tên nấy mừng rỡ và cùng tiếng vào trong nhà khám xét.
Triều Tôn cả kinh liền kéo tay Hầu Khang lén ra cửa sau đi miết, hai thầy trò
chân cao chân thấp cứ cắm đầu mà chạy, mãi không thấy người đuổi theo hai thầy trò
mới yên trí và cũng may tiền bạc đều cột cả ở trên lưng Hầu Khang. Hai người ở trong
bụi cây ẩn nấp một đêm chờ trời sáng rõ mới đi ra ngoài tới đường cái quan. Hai thầy
trò cứ lần theo đường cái mà đi hơn mười dặm rồi quyết định tới thị trấn đằng trước
hãy mua ngựa cưỡi sau, Hầu Khang vừa đi vừa mắng chửi bọn công sai hoài. Trong khi
đang chửi đổng luôn mồm thì bỗng có bốn tên công sai ở bên đương ngách bước ra tay
cầm xích sắt và thước sắt, phía sau lại có hai người tay giắt một con ngựa.
Hai thầy trò Triều Tôn đã nhận ra ngay đó chính là con ngựa của mình nên hai
thầy trò cũng ngẩn người ra. Lúc ấy hai thầy trò muốn tránh cũng không kịp nữa, đành
làm như không có việc gì xảy ra và cứ đi thẳng về phía trước. Bốn tên công sai cứ
ngắm nghía hai người hoài rồi một tên mặt vàng khè liếc mắt nhìn Triều Tôn hỏi :
- Nè, hai người kia làm nghề gì thế ?
Triều Tôn nghe lời nói của người đó biết ngay người này chính là lão Vương mà tối
hôm qua đánh ông bà già, Hầu Khang liền tiến lên một bước đáp :
- Vị này là công tử của chúng tôi định lên núi Chung Nam du ngoạn.
Lão Vương túm ngay lấy ngực Hầu Khang và nhanh tay cướp luôn bọc đồ cột trên
vai rồi mở luôn ra xem ngay. Chúng thấy bên trong có rất nhiều vàng bạc liền động
lòng tham và quát hỏi :- Cái gì công tử với công tôn, chắc ngươi thế nào cũng là đồng bọn với lũ cường
hào nên mới tới chốn này. Ngươi phải khai thật có đúng như vậy không ?
Hầu Khang tái mặt nhưng cố lấy sự bình tĩnh :
- Bẩm đại quan không phải thế.
Lão Vương quát :
- Chứ thế nào hãy khai mau ?
Hầu Khang đáp :
- Bẩm đại quan công tử của tôi là con nhà giàu sang quyền quí, nhân những ngày
nghỉ học nhàn rỗi đi du ngoạn đến đây chứ không phải đồng bọn với bọn cường san,
xin đại quan xét lại.
Lão Vương hầm hừ :
- Như thế các ngươi lên núi tiếp tế cho bọn cường san phải không ?
Hầu Khang sợ hãi :
- Bẩm đại quan không phải vậy.
Lão Vương giận dữ quát :
- Thế tại sao các ngươi mang vàng bạc nhiều thế này, không phải tiếp tế cho bọn
cường san ?
Hầu Khang càng thêm kinh hãi :
- Bẩm đại quan mấy ngày trước Công tử tôi tới thị trấn trước kia thăm một người,
khi về người sư thúc tặng số vàng bạc này cho Công tử tôi làm lộ phí.
- Ngươi nói láo.
- Bẩm đại quan tôi nói thật, tôi nói dối Vương đại quan đất trời tru lục cả gia đình
tôi.
Lão Vương đưa cặp mắt cú vọ nhìn Triều Tôn rồi nhìn lại Hầu Khang như để dò
xét sự thật Sau đó lão gật đầu.
- Bây giờ ta cũng tạm tin theo lời nói của ngươi, nhưng số vàng bạc này ta mang
về sở tại xét lại coi có đúng như lời của ngươi vừa khai không, nếu đúng ta sẽ trả lại.
Hầu Khang cũng là một tay có bản lĩnh hiểu rõ lão công sai họ Vương muốn chiếm
đoạt số vàng bạc kiếm cớ nói ra như thế chứ có đời nào bọn công sai nầy buông bỏ
miếng mồi béo bở.
Nhưng gã vẫn cúi đầu :
- Vâng ? Bọn tại hạ xin đa tạ đại quan.
Lão Vương cho tay vào mặt Hầu Khang dọa :
- Nếu sau này ta tìm ra manh mối hai ngươi có thông đồng với bọn cường san thì
đừng trách ta sao độc ác.
Nói rồi lão Vương cùng ba tên công sai đi qua một ngõ, Hầu Khang biết bọn
chúng tìm chỗ chia vàng bạc.Dù đã bị mất hết số vàng bạc mang theo nhưng vẫn còn sinh mạng, Hầu Khang
nói mau :
- Công tử chạy mau kẻo bọn chúng đổi ý thì khốn mất.
Chưa dứt câu gã đã chạy đi, Triều Tôn cũng gấp rút chạy theo. Hai người rẽ sang một
con đường mòn vào trong núi để tìm đường ra quan lộ trở về gia trang.
Chỉ vì trong vùng này bọn công sai được bố trí khắp nơi không thể nào qua lọt
được. Hầu Khang hướng dẫn Triều Tôn chạy được một lúc, thình lình nghe ở phía sau
có tiếng vó ngựa đuổi theo. Tiếng vó ngựa mỗi lúc một gần chứng tỏ đang đuổi theo
thầy trò Hầu Khang và Triều Tôn. Triều Tôn hốt hoảng :
- Hầu Khang, bọn công sai đuổi theo chúng ta kìa.
Hầu Khang giục :
- Công tử chạy mau, bọn chúng sắp tới nơi rồi.
Triều Tôn vì quá sợ hãi luống cuống, cả hai chân như không còn có thể chạy.
Hầu Khang quay trở lại nắm lấy tay Triều Tôn chạy đi mau.
Tới một chỗ kia, gã hấp tấp bảo :
- Công tử! Bọn chúng sắp tới nơi rồi không thể nào chạy kịp nữa.
Triều Tôn run run :
- Chúng ta làm sao bây giờ ?
Hầu Khang trỏ tay về phía trái vách núi :
- Chúng ta hãy trốn trong cái hốc đá đó.
Gã kéo tay Triều Tôn vào nách, chạy nhanh hơn trước trong khi vó ngựa đã tới
gần. Đến hốc đá khá rộng. Hầu Khang thúc hối :
- Công tử vào nhanh đi.
Gã lôi tuột Triều Tôn vào trong hốc đá. Hốc đá này chỉ vừa chừng người thôi rong
rêu lâu ngày nghe mùi ẩm mốc.
Hầu Khang và Triều Tôn quay mắt ra nhìn nín thở đợi chờ.
Người kþ mã chạy tới phía sau có dắt một con ngựa dừng lại sau hang cốc.
Hầu Khang và Triều Tôn nín thở nhìn ra ngoài thấy người cưỡi ngựa không phải
là bọn công sai và hắn đi một mình. Nhưng người lạ này không biết hắn thuộc hạng
người nào có phải là cường đạo hay không. Vừa thoát khỏi bọn công sai giờ nếu rơi
vào tay cường đạo hoạ đâu phải là nhỏ.
Người ky mã này trên tay cầm cây đao sáng ngời đưa mắt nhìn quanh một lượt.
Hắn lẩm bẩm :
- , hai người chạy đi ngã nào, ta định trả ngựa lại sao không thấy.
Nhưng hắn đã reo lên :
- , hai ông bạn hãy ra đây còn ở chi trong đó.
Biết không thể nào trốn được Hầu Khang và Triều Tôn bước ra ngoài.Người đàn ông trỏ hai con ngựa :
- Ngựa này có phải của hai vị không ?
Hầu Khang gật đầu. Người này bảo :
- Tốt hơn hết công tử nên mau trở về đi ? Rồi thương lượng với lệnh tôn liễu- kết
vụ án này. Vì bọn công sai âm độc lắm. Nếu không nghĩ cách đối phó chúng trước đến
khi bị chúng ngăn trở thì phiền hà lắm ?
- Còn chúng không biết tên của tại hạ ra sao, rồi tất cả mọi công việc chúng sẽ đổ
hết lỗi vào cho công tử đấy ?
Triều Tôn nghĩ cũng phải và chàng cũng hết du hứng rồi, liền đáp :
- Dương huynh chỉ giáo như vậy rất phải, vậy Dương huynh cho phép tiểu đệ đi
cùng với Dương huynh về phía đông nhé ? Bàng Cử gật đầu nhận lời. Hai ngày liền
Hầu Khang bị hoảng sợ đến mất hết hồn vía, bây giờ y được một tiêu khách đi cùng
cho nên khoái chí và yên tâm khôn tả.
Ba người đi được hơn ba mươi dặm, tìm không thấy chỗ trọ Bàng Cử liền lấy
lương khô ra cho thầy trò Triều Tôn ăn.
Hầu Tôn đi kiếm một cái nồi vỡ, nhặt ít củi khô định đun ít nước uống, thì bỗng
nghe thấy phía sau lưng có tiếng quát tháo :
- Cường đạo ở đây rồi ?
Hầu Khang giật mình đến thót một cái, tay run lẩy bẩy nước trong nồi đổ hết cả
vào đống củi. Bàng Cử quay đầu lại nhìn thấy một tên công sai hồi nãy phóng ngựa đi
trước, y dẫn mười mấy quân binh đều cưỡi ngựa đuổi theo tới. Chàng liền bảo thầy trò
Triều Tôn rằng :
- Mau lên ngựa ?
Thế rồi cả ba đều nhảy lên mình ngựa phóng đi luôn. Bàng Cử nhường cho thầy trò
phóng đi trước, còn chàng thì rút thanh đơn đao ra, đi sau yểm hộ. Bọn quan binh liền
la lớn :
- Bắt lấy cường đạo ?
Chúng vừa quát tháo vừa phóng ngựa đuổi theo. Bàng Cử thấy quan binh càng
đuổi càng gần, và chúng lại còn bắn tên theo, chàng vội múa đao gạt hết những mũi tên
đó.
Đang khi ấy chàng thấy ở phía trước bỗng có một con đường nhỏ, liền bảo thầy
trò Triều Tôn rằng :
- Mau chạy sang đường nhỏ.
Thầy trò Triều Tôn liền ré sang con đường nhỏ đó mà chạy, bọn quan vẫn đuổi
theo riết, tên công sai nọ còn quát tháo tiếp :
- Đuổi đi ? Bắt được chúng sẽ có tiền bạc chia nhau ngay ?
Bàng Cử thấy bọn quan binh săn đuổi tới gần liền dừng ngựa quay đầu lại quát
lớn một tiếng rồi múa đao chém luôn.Tên công sai họ Vương hoảng sọ vội lui về phía sau còn những quan binh khác thì
múa thương xông lại đâm liều.
Bàng cử không dại gì lại đối địch với nhiều người như thế, nên chàng vừa đánh
vừa rút lui. Ngờ đâu trong lúc hỗn chiến chân chàng bị một mũi thương đâm trúng.
Tuy vết thương không nặng lắm, nhưng nhuệ khí đã mất nhiều, chàng liền kẹp chặt lấy
bụng ngựa, giật cương một cái, con ngựa của chàng nhảy xổ về phía trước, thuận tay
chàng chém một tên quân binh gãy luôn một cánh tay trái. Các tên quan binh khác
thấy vậy hoảng sợ liền lui ngay về phía sau, nhờ vậy chàng mới có dịp may phi ngựa
chạy luôn.
Thấy chàng bỏ chạy bọn quan binh lại đuổi tiếp. Một lát sau chàng đã đuổi kịp
thầy trò của Triều Tôn. Lúc ấy con đường càng ngày càng chật hẹp, các quan binh ai
cũng sợ Bàng Cử dũng mãnh nên không ai dám đuổi tới gần. Ba người liền thúc ngựa
chạy một hồi. Đường núi càng ngày càng khúc khuỷu khó đi, ba người chỉ còn văng
vẳng nghe tiếng hò hét của bọn quan thôi, chứ không thấy hình bóng của chúng đâu cả
. Đang lúc ấy, ba người thấy trước mặt hiện ra ba con đường nhỏ Bàng Cử liền khẽ bảo:
- Mau xuống ngựa ?
Ba người chui vào trong bụi ẩn núp. Vừa núp xong, ba người đã thấy bọn quan
binh đuổi tới. Lão Vương đang phân vân thì tên quân binh dẫn đầu đã rẽ sang một con
đường khác tìm kiếm. Bàng Cử vội nói :
- Chúng đuổi một lúc thế nào cũng quay trở lại chúng ta hãy chạy mau lên ?
Nói xong chàng xé một mảnh áo buột chỗ vết thương ở đùi rồi cả ba đều chạy
sang một con đường nhánh khác.
Một lát sau, phía sau lại có tiếng quan binh đuổi theo tới. Bàng Cử lo âu vô cùng
bỗng thấy phía đằng trước có ba căn nhà ngói, ở phía trước cửa có một nông dân đang
làm lụng, chàng vội xuống ngựa đi tới trước mặt người nông dân đó và nói :
- Đại ca ? phía sau có quan binh định giết hại chúng tôi, xin đại ca kiếm một chỗ kín
đáo giúp chúng tôi ẩn núp.
Nông dân đó cứ thủng thẳng cuốc đất, hình như không nghe chàng nói gì cả vậy.
Triều Tôn cũng xuống ngựa van lơn. Nông dân ấy đột nhiên ngửng mặt lên nhìn, hai
mắt tia ra hai luồng ánh sáng như hai tia điện, ngắm nhìn Bàng Cử với Triều Tôn một
hồi, cùng lúc ấy ở trong bụi cây ở phía đằng trước có tiếng sáo du dương vọng tới và có
một mục đồng cưỡi trên lưng bò đang thẳng đi ra. Mục đồng ấy tuổi chừng tám, chín
đầu cột một cái đuôi sam nhỏ, mặt mũi rất thanh tú khiến cho ai thấy cũng phải động
lòng thương, người nông dân liền nói với mục đồng rằng :
- Thừa Chí ? dắt ba con ngựa này vào trong núi cho chúng ăn cỏ thật no, chờ trời
tối hãy cho chúng trở về.
Tiểu đồng đưa mắt nhìn Triều Tôn ba người một cái rồi đáp :
- Vâng.
Thằng nhỏ liền dắt ba con ngựa của ba người đi luôn.
Bàng Cử không hiểu người nông dân làm như thế có ý nghĩa gì nhưng chàng chỉ
thấy lời nói của người ấy rất có oai thế khiến ai cũng không dám chống cự và làm tráilại. Lúc ấy tiếng vó ngựa của quan binh đuổi theo càng ngày càng gần Triều Tôn thấy
vậy lo âu vô cùng vội hỏi :
- Biết làm thế nào đây ? Biết làm sao đây ?
Người nông dân lên liền đáp :
- Ba vị hãy đi theo tôi lại đây.
Nói xong, y liền dẫn ba người vào trong nhà. Triều Tôn thấy trong nhà tuy có để
rất nhiều nông cụ, nhưng quét dọn sạch sẽ lắm, đủ thấy nhà này không phải là một nhà
nông tầm thường.
Nông dân đó đi thẳng vào bên trong đến bên phòng ngủ ba người chỉ thấy nông
dân vén màn lên để lộ bức vách, rồi thấy người ấy giơ tay lên ấn vào hai nơi trên tấm
vách đó một cái, liền có tiếng kêu " kèn kẹt " vang lên, trên tường hiện ra một cái lỗ
hổng mọi người thấy vậy đều ngẩn người ra, nông dân liền nói :
- Đi vào đi ?
Ba người nghe lời theo vào bên trong, mới hay đó là một cái hang động rất lớn,
căn nhà lá được xây dựng ngay trước hang động, nếu không dời căn nhà này ra thì
không ai biết đằng sau nhà là một cái hang động to rộng như thế.
Ba người vào trong đó ẩn núp xong thì người nông dân lại ấn tay lên vách tường
một cái, cánh cửa kín đó tự động khít lại. Nông dân vội quay ra cuốc đất như thường.
Một lát sau tên công sai đã dẫn một bọn quan binh đến, tên công sai họ Vương liền lớn
tiếng quát hỏi người nông dân nọ rằng :
- Này ? vừa rồi có ba người vừa cưỡi ngựa qua đây phải không ?
Nông dân liền chỉ con đường nhỏ gần đó và đáp :
- Có, họ vừa mới đi qua đây và đi vào con đường ấy đấy.
Bọn quan binh liền theo con đường nhỏ ấy đuổi theo, nhưng chúng đi được bảy tám
dặm, không thấy tung tích gì cả liền trở lại hỏi người nông dân, nhưng người nông dân
giả bộ như câm như điếc, ăn nói ấm ớ không sao nghe rõ được. Một tên binh sĩ lớn
tiếng mắng chửi :
- Đ.m hỏi tên ngu xuẩn này chỉ tốn mất thì giờ, chúng ta đi thôi !!!
Thế rồi bọn quan binh ấy đi sang con đường khác để đuổi theo tiếp, Triều Tôn,
Hầu Khang, Bàng Cử ba người nấp trong hang động văng vẳng nghe tiếng vó ngựa
chạy đã xa mới an lòng.
Một lát sau, ba người không nghe thấy tiếng động gì nữa, thế mà mãi không thấy
nông dân mở cửa cho ba người ra. Bàng Cử nóng lòng sốt ruột vô cùng vội giơ tay đấm
vào cửa nhưng tấm cửa đó rất dầy, đấm hằng nửa ngày mà không thấy suy chuyển chút
nào., ở trong hang động tối om, không biết giờ giấc gì cả, ba người đành phải ngồi
xuống đất ngủ gật để nghỉ ngơi.
Bàng Cử thấy vết thương đau nhức cứ luôn mồm chửi bọn công sai và bọn quan
binh. Không biết trải qua bao nhiêu tiếng đồng hồ, cánh cửa đá bỗng xịch mở và có
ánh sáng vàng lé vào.
Nông dân nọ tay cầm một ngọn nến vừa bước vào vừa nói :- Mời ba vị vào xơi cơm ?
Bàng Cử đứng dậy đi ra ngoài, thầy trò Triều Tôn theo sau cùng đi ra ngoài khách
sảnh. Ba người thấy trên bàn gỗ để ở giữa nhà bày sẵn một bát canh rau một đĩa đậu
phụng rang, ngoài ra lại còn có ba con gà nóng hổi nữa. Ba người thấy ngoài người
nông dân và mục đồng ra lại còn có ba người nữa cũng ăn mặc theo lối nhà nông. Năm
người đang đứng đợi chờ cả ở khách sảnh, Triệu Tôn với Bàng Cử ba người vội chấp
tay cảm tạ và tự nói tên họ của mình cho mấy người đó nghe.
Nghe thấy cái tên Kim Xí Dương Bàng Cử hình như mấy người nông dân đó
không có vẻ ngạc nhiên gì cả nhưng khi họ nghe Triều Tôn kể lại chuyện Bàng Cử cứu
giúp thầy trò mình như thế nào và còn khen ngợi Bàng Cử một hồi. Bàng Cử có vẻ đắc
chí vội đỡ lời :
- Câu chuyện vừa rồi có nghĩa gì đâu, thiết nghĩ năm xưa ở Sơn Tây một mình tôi
bắn chết Tấn Bắc Tam Hung, lại còn khủng khiếp hơn chuyện vừa xảy ra hồi nãy
nhiều.
Thế rồi, y liền kể lại lúc ấy tình thế nguy cấp như thế nào, y anh dũng ra sao, sắp
bị đánh bại đến nơi mà lại còn thắng được đối phương giết chết luôn ba tên đạo
tặc.v.v... càng kể y càng khoái chí và còn kể lại những chuyện của mình ở trên giang
hồ trên mười năm nay lừng lẫy ra sao,... hết sức khoe khoang và tự cho mình là anh
hùng cái thế. Y lại còn nói những cường đạo hễ thấy mặt y là không dám tới, y đang
nói thao thao bất tuyệt thì bỗng thấy mục đồng ngồi cạnh đó cười khúc khích một
tiếng...
Bàng Cử liếc nhìn thằng nhỏ một cái, nhưng y không có vẻ tức giận gì hết. Y lại
tiếp tục nói những sự tích trên giang hồ. Triều Tôn nghe y nói có vẻ thích thú lắm. Hầu
Khang hãy còn ít tuổi tính tre con vừa nghe vừa khen ngợi và thỉnh thoảng lại hỏi một
vài câu. Sau cùng Bàng Cử nói đến võ nghệ, giơ tay giơ chân vừa nói vừa thí dụ. Mấy
người nông dân có vẻ không thích nghe, nhất là người béo lùn họ La cứ ngập ngừng
hoài và nói :
- Khuya rồi, chúng ta đi ngủ thôi.
Mục đồng nghe nói liền chạy ra đóng cửa luôn, người họ Chu xách một tảng đá
lớn để ở xó tối ra chặn cửa. Bàng cử thấy tảng đá lớn như vậy bèn thở phào một cái và
nghĩ thầm :
- " Người này khoẻ thật, tảng đá ít nhất cũng nặng tới bốn năm trăm cân mà y
xách đi một cách nhẹ nhàng như vậy ...".
Họ Ung thấy y mặt biên sắc liền nói :
- Nghiệt súc lại tới lại tới quấy rối đấy.
Người họ Nghê bèn đứng dậy nấp ở phía sau cánh cửa lấy cây đinh ba ra rung
động một cái có tiếng kêu cong cong vang lên rồi lên tiếng nói :
- Hôm nay nhất định không để nó đào tẩu được nữa. Thừa Chí, cháu cùng đi theo
chú đi.
Mục đồng nhận lời ngay chạy luôn vào trong nhà lấy một cái thương sắt thu nhỏ
ra. Người họ Chu liền xách tảng đá lớn sang bên, cánh cửa bị luồng gió thổi mở toang
ra. Gió ở bên ngoài thổi vào đem cả mùi tanh hôi và những lá rụng, những ngọn nến ởtrong phòng cũng bị tắt luôn. Hầu Khang kinh hoảng thất thanh la lớn, người họ Nghê
với mục đồng đã nhanh nhẹn nhảy ra ngoài cửa. Bàng Cử cầm thanh đơn đao cũng lên
tiếng nói :
- Cho tôi đi với.
Y vừa bước chân ra ngoài cửa thì cổ tay trái y bị người ta nắm chặt lấy, y định
dùng sức giật ra nhưng y thấy năm ngón tay của người đó cứng như sắt đang nắm chặt
lấy tay y, khiến y không sao cử động được. Trong bóng tối liền có giọng nói khàn khàn
khe bảo y rằng :
- Đừng đi ra, con hùm đó lợi hại lắm.
Bàng Cử còn định giằng co nữa nhưng người nọ cứ nắm chặt lấy y không kéo vào
mà cũng không cho y đi ra. Bàng Cử bất đắc dĩ đành phải ngồi xuống đất người nọ mới
chịu buông tay y ra.
Lúc ấy mọi người chỉ nghe thấy người họ Nghê quát tháo và tiếng hổ gầm.Tiếng
cồng đồng ở trên cây đinh ba kêu loong cong cùng tiếng lá, tiếng cành cây rơi xuống
đất rào rào cùng nổi lên ồn ào vô cùng, thỉnh thoảng lại xen tiếng quát tháo của mục
đồng. Mọi người đoán chắc hai người một hổ đang kịch chiến ở bên ngoài, một lát sau
tiếng ồn ào đó càng ngày càng xa có lẽ con hổ đó đã bị thương và đào tẩu và hai người
đã đuổi theo rồi.
Người họ La liền lấy đá lửa ra để châm nến chỉ thấy trong nhà đầy những lá và cành
cây nhiều vô cùng. Mọi người đang im lặng bỗng nghe thấy đằng xa có tiếng chân
người đi tới, thoắt cái mục đồng đã chạy vào trong nhà vẻ mặt hớn hở mồm thì la lớn :
- ¡n thịt hổ, ăn thịt hổ.
Triều Tôn thấy cây đoản thương của y dính đầy máu tươi liền nghĩ thầm :
- "Y bé nhỏ như thế mà dũng mãnh như vậy. Mình thì tay không không trói nổi
một con gà thật là hổ thẹn quá " .
Chàng đang suy nghĩ, đã thấy người họ Nghê bước vào, tay trái cầm đinh ba, tay
phải xách con cọp rằn rất lớn. Vừa vào tới nơi y đã ném ngay con cọp rằn xuống đất.
Triều Tôn giật mình đến thót một cái, vội chạy ngay vào bên trong. Sau chàng thấy con
vật không cử động gì hết mới hay nó đã chết rồi. Người họ Nghê vênh mặt lên bảo mục
đồng rằng :
- Thừa Chí, lúc nãy cháu đã đánh lầm rồi cháu có biết không ? Mục đồng cúi đầu
xuống đáp :
- Dạ, cháu không nên đứng trước mặt mà ném phi tiêu.
Người họ Nghê mới dịu nét mặt và nói tiếp :
- Đứng phía trước ném phi tiêu không phải là không được, nhưng cháu hãy ném
hai phi tiêu cùng một lúc. Đồng thời phải ném trúng hai mắt của nó và sau khi ném
xong thì nhảy sang bên ngay. Bây giờ cháu ném có một phi tiêu, đả thương có một mắt
nó thôi. Con cọp đã bị thương rồi, thế nào sức vồ của nó cũng mạnh hơn trước, nếu
không dùng cây đinh ba chống đỡ thì cháu đã toi mạng rồi.
Mục đồng không nói năng gì hết, cứ đứng yên mà nghe thôi. Người họ Nghê liền
khen y vài câu :- Cháu ném phi tiêu khá lắm, nhưng sức ném còn hơi yếu một chút. Nhưng điều
này không thể trách cháu được, sau này cháu lớn lên sức lực ở cổ tay sẽ tự nhiên mạnh
hơn bây giờ liền.
Nói xong, y xách con cọp lớn lên. Chỉ thấy chỗ hậu môn bị bắn trúng một mũi phi
tiêu. Y lại nói tiếp :
- Mũi tiêu đủ sức mạnh, nên đã xuyên vào tận trong bụng nó, vì vậy con súc sinh
này mới chết ngay.
Mục đồng đáp :
- Ngày mai cháu sẽ dụng tâm luyện lại.
Người nọ nghe gật đầu, liền lôi con hổ vào trong hậu đường. Bàng Cử thấy hai
người giết một con cọp lớn một cách dễ dàng như vậy, trong lòng sợ hãi không yên.
Thoạt tiên y tưởng những người này không phải là nông dân thường.Bây giờ y biết
những người này có lẽ là giặc cướp giả dạng. Nếu họ mà ra tay đối phó mình thì mình
địch sao lại họ.
Nhưng Triều Tôn không có ý nghĩ ấy, chàng cứ hết sức khen ngợi mục đồng anh dũng,
rồi chàng còn chạy lại vuốt tay thằng nhỏ hỏi tên họ là chi nữa nhưng mục đồng không
chịu cho chàng hay.
Đêm hôm đó, Triều Tôn, Bàng Cử và Hầu Khang ba người cùng ngủ một giường.
Vừa nằm xuống, Hầu Khang đã ngủ say liền. Triều Tôn nằm trằn trọc mãi không sao
ngủ được. Một lát sau, chàng nghe có tiếng người đọc sách, liền lắng tai nghe, mới hay
mục đồng đang đọc sách bằng tiếng Quảng Đông, chứ không phải là tiếng Trung Châu
chàng lại càng ngạc nhiên thêm. Chàng nghe mãi không hiểu thằng nhỏ ấy đọc sách gì
sau mãi mới nghe được một vài câu, mới hay mục đồng đang đọc viện binh trận, chiến
đấu gì đấy. Lòng hiếu kỳ thúc đẩy, chàng vội khoác áo ngoài vào, đi ra ngoài sảnh thấy
trên bàn có thắp một ngọn nến cực lớn, mục đồng đang chăm chỉ đọc và người họ Ung
ngồi bên cạnh dạy bảo. Trông thấy Triều Tôn ra chỉ khe gật đầu chào một cái thôi.
Triều Tôn tới cạnh bàn, thấy trên mặt bàn còn có thêm một cuốn sách nữa, chàng bèn
cầm một cuốn lên xem thấy ngoài bìa đề : " Kỳ Hiệu Tân Thư " , mới hay cuốn sách ấy
là cuốn binh thư.
Triều Tôn liền lên tiếng với họ Ung ấy rằng :
- Xem cử chỉ và hành động tôi nhận thấy quí vị ắt không phải là người thường.
Vậy không hiểu tại sao quí vị ẩn cư ở nơi đây ? Chẳng hay tiểu sinh có thể cho tại hạ
nghe rõ nguyên nhân ấy không.
Người họ Ung đáp :
- Chúng tôi chỉ là những người dân rất thường thôi. Chúng tôi quanh năm sinh
sống bằng nghề cày cấy săn bắn, còn học sách tập viết là việc rất thường thôi, chứ có
gì khác lạ đâu mà công tử lại hỏi như vậy ? chẳng lẽ chỉ có con cháu quan hay người
giàu có mới được học hành hay sao ?
Triều Tôn biết đối phương không chịu nói cho mình hay, có hỏi thêm chỉ vô ích
mà thôi, nên chàng cáo lỗi, rồi trở về phòng ngay.
Chàng đang mơ mơ màng màng thì thấy có người đẩy mình một cái liền thức giấc
và tỉnh lại liền. Chàng nghe thấy Bàng Cử khe nói :- Nơi đây là ổ giặc đấy, chúng ta mau chạy đi thôi.
Triều Tôn giật mình kinh hãi khe hỏi lại :
- Sao Tổng tiêu đầu lại biết rõ như thế ?
Bàng Cử liền lấy đá lửa ra đánh thắp một bó đuốc nhỏ, rồi tới cạnh một cái rương
lớn rồi mở nắp ra và nói :
- Công tử xem này.
Triều Tôn thấy trong gương chứa toàn vàng bạc châu báu, giật mình kinh hãi
đứng ngẩn người ra liền.
Bàng Cử đưa bó đuốc cho Triều Tôn cầm, để khuân cái gương ấy xuống, bên dưới
lại còn một cái nữa, y định be khóa để mở ra xem Triều Tôn vội khuyên bảo :
- Ta không nên xem những gì bí ẩn của người khác như thế, nhỡ gây tai hoạ thì
sao ?
Bàng Cử đáp :
- Tôi nhận thấy trong rương có mùi khó ngửi xông ra.
Triều Tôn vội hỏi lại:
- Mùi gì thế ?
- Mùi tanh của máu.
Triều Tôn không nói gì nữa. Bàng Cử liền bẻ luôn cái khóa rồi lắng tai nghe thấy
bên ngoài không có tiếng gì cả, y liền khẽ mở nắp rương lên, và giơ bó đuốc lên soi.
Không hiểu hai người trông thấy vật gì ở trong rương mà đều ngẩn người ra liền.
Thì ra trong rương có hai cái thủ cấp một cái đã bị chém lâu, nên máu đã khô và
thâm cả rồi, cái thứ hai thì mới chém không lâu. Họ tẩm vôi bột và thuốc để cho khỏi
hư, nên râu và lông mày của hai cái thu cấp ấy vẫn còn toàn vẹn cả. Bàng Cử là người
lão luyện giang hồ đến thế mà cũng biến sắc mặt, chân tay run lẩy bẩy liền. Triều Tôn
cũng kinh hãi đến đứng đờ người ra.
Bàng Cử khẽ đóng nắp rương lại và nói:
- Chúng ta phải chạy cho thực mau mới được.
Nói xong, y liền gọi Hầu Khang dậy rồi cả ba lần mò ra ngoài sảnh, nhưng khi tới
nơi canh cửa, vừa rờ tới tảng đá lớn chặn cửa thì Bàng Cử kêu khổ thầm liền. Y dở hết
sức bình sinh ra mà cũng không sao lay chuyển nổi tảng đá ấy.
Bỗng có ánh sáng đèn chiếu ra, ba người vội quay lại nhìn, mới hay người họ Chu
đã cầm nến bước ra. Bàng Cử vội cầm lấy thanh đơn đao để phòng bị, nếu có sao thì
đành thí mạng với đối phương ngay. Nhưng người nọ không thèm đếm xỉa tới y, chỉ
hỏi:
- Muốn đi phải không ?
Nói xong, y liền đi tới cạnh cửa, khẽ đẩy tảng đá sang bên, rồi mở luôn cánh cửa
lớn ra.Không biết là hên hay xui, Bàng Cử với Triều Tôn cứ cúi đầu đi ra ngoài cửa, dắt
ngựa tới, rồi lên ngựa phóng nhanh về phía Đông tức thì.
Ba người đi được mười mấy dặm, trong lòng đang yên trí thì bỗng nghe thấy phía
sau tiếng gió ngựa nhộn nhịp và có người kêu gọi :
- Này, đứng lại, đứng lại.
Ba người không dám ngừng lại cứ thúc ngựa phóng tiếp. Đột nhiên có cái bóng
đen thấp thoáng, một người lướt qua cạnh ba người và phóng lên phía trước, giơ tay ra
một cái. Ngựa của Bàng Cử kinh hãi hí lên một tiếng cực lớn rồi đứng chồm lên luôn.
Bàng Cử vội giơ đao, nhắm đầu người ấy chém luôn một nhát. Người nọ giở thế
võ tay không cướp khí giới ra đấu với Tổng tiêu đầu. Nhưng chỉ đấu được vài hiệp,
người đó đã tung mình nhảy lên giơ tả quyền ra đấm luôn vào thái dương huyệt của
Bàng Cử. Không chịu cho đối phương đấm trúng Bàng Cử múa đao lên nhắm cánh tay
của người ấy chém luôn. Ngờ đâu thế công của người nọ chỉ là thế hư, tay đưa ra lưng
chừng chàng đã biến quyền thành chưởng, người chàng ta chưa rơi xuống mặt đất đã
dùng chưởng móc luôn vào cổ tay của Bàng Cử mồm thì quát lớn :
- Xuống ngựa.
Thế là người ấy đã lôi được B áng Cử té xuống đất tức thì. Không hiểu y đã dùng
thủ pháp gì mà chỉ giơ tay ra một cái đã cướp luôn được thanh đơn đao của đối phương
ngay.
Người ấy cướp được thanh đơn đao xong liền buông tay Bàng Cử ra ngay và hai
tay cầm thanh đơn đao bẻ " cách "một tiếng thanh đao ấy đã gầy làm hai, và vứt xuống
đất luôn.
Dưới ánh sáng mặt trời mới mọc ba người nhận ra người đó là người họ Chu.
Người nông dân họ Chu nói :
- Ba người hãy theo tôi trở về đã.
Nói xong y liền nhảy lên mình ngựa dẫn đường đi trước, không lo ngại ba người
Bàng Cử và Triều Tôn đào tẩu gì cả. Bàng Cử biết có chạy cũng không thể nào chạy
thoát và phản kháng cũng không nổi, nên đành phải ngoan ngoan theo người nọ đi
luôn.
Ba người theo người họ Chu lại quay trở về căn nhà ngôi ở trọ đêm hôm trước.
Vừa vào đến cửa đã thấy bên trong đèn thắp sáng choang, mục đồng ngồi ngay chính
giữa, còn ba người kia ngồi ở hai bên, ai nấy vẻ mặt đều nghiêm nghị vô cùng và
không nói nửa lời.
Bàng Cử yên trí phen này thế nào cũng chết chứ không sai, nên y đánh liều làm ra
vẻ nghênh ngang kiêu ngạo nói :
- Ngày nay Dương đại ca đã lọt vào tay các ngươi, muốn chém thì chém, muốn
giết thì giết khỏi cần phải nói nhiều.
Họ Chu liền nói :
- Ung đại ca nên đối xử với y ra sao ?Người họ Ung ngẫm nghĩ một hồi chưa kịp lên tiếng thì người họ Nghê đã xen lời
tiếp:
- Buông tha cho thầy trò Hầu công tử.
Họ Ung đáp :
- Tên họ Dương này chuyên môn bảo tiêu làm chó săn cho người có tiền, tội của y
đáng chết rồi, nhưng ngày hôm nay y có lòng nghĩa hiệp cứu thầy trò Hầu công tử thì
hãy tha chết cho y một phen. Chú em họ La chú hãy phế đôi nhãn hiệu của y đi.
Người họ La đứng dậy, Bàng Cử thấy vậy mặt biến sắc. Triều Tôn không hiểu
tiếng lóng của giang hồ, nên không biết phế đôi nhãn hiệu là khoét đôi mắt đi.
Nhưng chàng thấy thái độ của mọi người đoán chắc thế nào cũng giết hại Bàng
Cử chứ không sai. Chàng đang định lên tiếng van lơn họ thì bỗng thấy mục đồng nói :
- Ung thúc thúc, cháu thấy y cũng tội nghiệp lắm, thôi tha cho y đi.
Người họ Ung đưa mắt nhìn nhau một cái, ngừng giây lát, y lớn tiếng nói với Bàng Cử
rằng :
- Bây giờ đã có người xin cho ngươi, vậy ngươi phải thề độc là không được tiết lộ
một tí gì về những việc mà hôm nay ngươi đã trông thấy.Bàng Cử đáp :
- Quả thật tôi không có ý định dòm ngó gì hết, nhưng tôi đã trót thấy rồi, có điều
chỉ trách Dương mỗ là người mù quáng không biết quí vị là anh hùng hảo hán. Từ đây
trở đi tôi xin thề không bước chân vào Thiểm Tây này nửa bước và việc của quí vị tôi
xin giữ kín. Nếu tôi nuốt lời thì trời đất tiêu diệt tôi.
Họ Ung lai nói :
- Được, chúng ta tin ngươi là người hảo hán, thôi ngươi đi đi.
Bàng Cử chấp tay chào định đi thì người họ Nghê đột nhiên đứng dậy quát tháo :
- Ngươi đi ngay như thế này ư ?
Bàng Cử ngẩn người ra một cái nhưng y liền hiểu ý ngay, gượng cười một tiếng và
đáp :
- Thôi được xin cho tôi mượn thanh đao.
Bàng Cử giơ tay ra bắt và đi mấy bước để tay phải lên mặt bàn, rồi múa đao chém
đến phập một cái, đứt luôn bốn ngón tay.
Chém xong, y liền vừa cười vừa nói tiếp :
- Con đồ này một thân một mình chịu không liên can gì đến bọn kia hết. Mọi
người thấy tay y máu chảy ra như suối mà vẫn cố gắng chịu đựng được nên ai nấy đều
cảm phục khí khái của y. Người họ Nghệ giơ ngón tay cái lên nói tiếp :
- Được lắm, câu chuyện hôm nay coi như đã kết liễu rồi.
Nói xong y liền đi vào bên trong, lấy thuốc cứu thương và vải trắng ra băng bó
cho Bàng Cử. Không muốn ở lại đó chút nào Bàng Cử để người họ Nghê băng bó vết
thương cho mình xong quay lại nói với người họ Nghệ rằng :
- Chúng ta đi thôi.Triều Tôn thấy sắc mặt y nhợt nhạt như vậy chắc là y đau đớn lắm định mời y ở
lại thêm một đôi ngày nữa nhưng chàng nghĩ lại không dám lên tiếng nói. Người họ
Ung thấy vậy vội đỡ lời :
- Hầu công tử nói ra thì chúng tôi với công tử cũng có đôi chút liên can với nhau.
Người khách họ Dương này cũng hảo hán lắm. Thôi để tôi biếu cho hai người vật này.
Nói xong, y móc túi lấy ra một vật đưa cho Triều Tôn, Triều Tôn thấy vật đó là
một the trúc, nho nhỏ, đầu có đục lỗ thành hai chữ " Sơn Tôn ". Phía sau lưng có vẽ
một bông hoa gì đó, nhưng chàng không hiểu vật này dùng để làm gì ? Đang ngơ ngác
nhìn thì người họ Ung lại tiếp :
- Hiện thời thiên hạ đại loạn, công tử là một thư sinh yếu ớt, không nên đi lại bên ngoài
như vậy. Tôi khuyên công tử nên trở về nhà ngay. Nếu đi đường có gặp sự gì nguy nan
thì công tử cứ việc đưa cái thẻ trúc này ra là bình yên ngay.
Triều Tôn lại xem cái the trúc đó, thấy không có cái gì là lạ hết, nên chàng vẫn
chưa tin nó có pháp lực thần bí gì chàng đoán chắc vật này chỉ là một vật để trong
người thôi cho nên chàng liền cám ơn một tiếng rồi giao cho Hầu Khang bỏ vào trong
bọc áo.
Thế rồi ba người từ biệt mọi người ra đi, cưỡi ngựa thung thẳng theo lối cũ quay
lại. Cả ba trong lòng đều rầu rĩ vô cùng. Đi đến khi trời sáng tỏ mới đến một thị trấn
nhỏ. Triều Tôn liền kiếm một khách sạn để cho Bàng Cử nghỉ ngơi.
Sáng ngày hôm sau ba người lại lên đường đi luôn. Không muốn trông lại thảm
trạng thị trấn bị quan binh càn quét Triều Tôn đề nghị đi vòng đường chứ không chịu
đi xuyên qua thị trấn đó. Ba người đi đến giờ ngọ mới có chỗ nghỉ chân, nghỉ ngơi
xong, lại lên đường, đi được hơn hai chục dặm nữa, bỗng nghe thấy có tiếng vó ngựa
nhộn nhịp, rồi thấy một người cưỡi ngựa ở đằng trước phi tới. Khi đi qua cạnh ba
người, có đưa mắt ngắm nhìn Triều Tôn và Bàng Cử một cái rồi phóng ngựa đi luôn.
Ba người đi được năm sáu dặm đường, lại nghe thấy phía sau có tiếng vó ngựa
nhộn nhịp. Và thấy người cưỡi ngựa hồi nãy đuổi theo tới. Lần này y ngắm nhìn Bàng
Cử và Triều Tôn kü lưỡng hơn, người ấy đầu bọc vải xanh mặt mũi có vẻ rất anh tuấn.
Y đi qua cạnh ba người rồi phóng đi luôn.
Triều tôn liền lên tiếng nói :
- Hình dáng của người này kỳ lạ thật, sao y đi rồi lại quay trở lại thế ?
Bàng Cử đáp :
- Chờ lát nữa có việc gì xảy ra Hầu Công tử chỉ việc đào tẩu trước, cứ để mặc cho
tôi đối phó.
Triều Tôn kinh hãi hỏi lại :
- Dương huynh nói gì thế ? Lại có cường đạo hay sao ?
- Có lẽ chúng ta đi không đầy năm dặm nữa thế nào cũng có việc xảy ra, nhưng
bây giờ chúng ta muốn lui cũng không được nữa đành phải xông pha lên một phen vậy.
Liền có ba người cỡi ngựa chạy ra cản đường. Bàng Cử... thúc ngựa chạy lên chắp
tay chào nói :- Tại hạ là người họ Dương người của tiêu cục Võ Hội đi qua quí địa nhưng không
phải là bảo tiêu gì cả, cho nên mới không gửi thiếp chào quí Vương gia, còn vị Hầu
công tử đây là đi du lịch. Hầu công tử là học trò mong quí vị nể nang nhường lối đi
cho.
Bàng Cử ở trên giang hồ cũng có chút tên tuổi xưa nay, đơn đao của y cũng học
được chân truyền, nhưng vừa rồi y bị chặt gãy mấy ngón tay và y lại nghĩ mấy người
quanh đây chắc đa số có liên quan đến người họ Ung. Cho nên y mới dùng lời lẽ khiêm
tốn như thế để thỉnh cầu. Người đi giữa ba người kia tay không cầm khí giới cười đáp :
- Chúng ta thiếu tiền lộ phí định mượn các hạ một ít rồi y phi ngựa tới, giơ tay ra chộp
luôn cái bọc áo sắp rơi xuống đất.
Y vừa cầm bọc áo lên vừa thử xem nặng bao nhiêu rồi vừa cười vừa nói :
- Cám ơn nhé.
Giây phút sau ba người đó đã đi mất dạng liền. Bàng Cử liên tiếp bị thất bại chán
nản vô cùng. Hầu Khang lo âu vội hỏi :
- Tất cả tiền lộ phí của chúng ta ở trong cái bọc đó hết, bây giờ biết lấy gì mà đi
về đây?
Bàng Cử đáp :
- Chú được sống sót như vậy cũng đã là mừng lắm rồi, thôi chúng ta cứ đi đến đâu
lo đến đấy vậy.
Ba người nản chí cúi đầu thủng thẳng đi luôn. Nửa giờ sau, bỗng nghe thấy phía
sau lại có tiếng vó ngựa nhộn nhịp ba người vội quay đầu nhìn lại mới hay ba người lúc
nãy lại quay ngựa đuổi theo. Bàng Cử và Triều Tôn đều hoảng sợ vô cùng, không biết
họ đuổi theo như thế để làm chi.
Ba người đó vừa phóng ngựa tới trước mặt bỗng xuống ngựa liền, người đi trước
chắp tay chào và nói :
- Ra là người nhà cả, chúng tôi thất lễ mà cũng không hay, xin hai vị đừng trách
cứ nhé.
Một người nữa hai tay bưng bọc áo trả lại cho Hầu Khang, lễ phép :
- Xin giao hoàn món vật này lại cho huynh đài, vừa rồi chúng tôi đã hiểu lầm xin
thứ lỗi cho.
Hầu Khang trố mắt nhìn gã kia chưa biết phải phản ứng ra sao cho đúng vì trong
lòng hắn rất nghi ngại bởi vì bọn người này vừa mới cướp cái bọc của thầy trò hắn
chạy đi, bây giờ trở lại trao trả với ý định gì.
Từ trước bọn cường can tính tình hung bạo tráo trở lạ thường làm sao có thể tin
được. Chúng bảo chúng ta người nhà cả. Câu nói này có ý nghĩa gì. Hầu Khang đứng
ngơ người ra chưa đáp.
Tên kia tươi cười :
- Huynh đài hoài nghi tôi nói đùa đấy à ?
Hầu Khang gật đầu :- Vâng... tôi... tôi... tôi.
Tên kia ngắt lời :
- Chúng tôi trả lại thật, huynh đài nhận đi. Hắn ném cái bọc sang phía Hầu
Khang, Hầu Khang chộp bắt cái bọc cầm nơi tay chưa biết phải nói lời gì. Trong trí óc
Hầu Khang nghĩ ra một chuyện, hắn nghĩ thầm :
- Hay bọn này là cường đạo, hắn hiểu lầm ta và công tử là đồng môn nên mới
nói :" chúng ta là người nhà cả ".
Hắn còn đang suy nghĩ thì chợt thấy tứ phía có một số đông người từ trong những
kẹt đá chạy tới. Hình như bọn người kia ẩn nấp trong sơn cốc giờ trở ra ngoài. Bọn này
đứng chào. Số người kia chạy tới ngưng lại. Họ đều là những người nông dân thôn dã
thân hình to lớn khoe mạnh. Bọn người kia nhìn gặp mấy người này mừng vui như vừa
trải qua một tai nạn rồi lại gặp nhau.
Triều Tôn và Hầu Khang chú ý quan sát để xem đây là chuyện gì, tại sao hôm nay
họ lại hội đông đảo như thế.
Bọn người chào hỏi nhau đu giọng của các tỉnh. Và cứ xem phục trang của họ
cũng đủ biết đa số là ở xa tới. Hai người không hiểu những người đó lặn lội xa xôi đến
đây làm chi nên trong lòng thắc mắc vô cùng.
Tối hôm đó Triều Tôn và các người ở trọ trong khách điếm tại chân núi Lão nhai
định sáng sớm mai là lên núi liền. Mọi người đang ăn cơm tối bỗng có người chạy vào
nói:
- Tổ tướng công đã tới.
Chín phần mươi ngươi trong khách điếm đều đứng cả dậy và chạy luôn ra khỏi
khách điếm. Bàng Cử kéo tay Triều Tôn và nói :
- Chúng ta cùng đi ra xem sao đi.
Hai người đi ra ngoài cửa khách điếm thấy những người đó đều đứng sang cả hai
bên đường buông xuôi tay xuống. Hình như đang đợi chờ một nhân vật quan trọng vậy.
Một lát sau trên đường núi ở phía tây có tiếng vó ngựa nhộn nhịp vọng tới, mọi
người đều quay mặt lại nhìn cả về phía đó giây phút sau liền thấy một thư sinh chạc độ
hai bảy hai tám tuổi cỡi ngựa thủng thẳng đi tới. Người đó thấy mọi người đứng cả hai
bên đường nghênh đón, người đó liền thúc ngựa lại gần rồi nhảy xuống dưới đất. Trong
những người đi theo đã thấy một đại hán tiến lên đỡ lấy cương ngựa. Thư sinh ấy đi
bước một tới cúi đầu vái chào và hỏi thăm từng người một.
Thư sinh ấy đi tới trước mặt Triều Tôn thấy chàng ăn mặc theo lối thư sinh vội
tiến tới gần chắp tay chào và hỏi :
- Vị này là ai thế ?
Triều Tôn đáp :
- Tại hạ họ Hầu xin hỏi quí tính danh là gì ?
Thư sinh nọ đáp :
- Tại hạ họ Tổ tên là Trọng Thọ.Triều Tôn chắp tay chào và hỏi tiếp :
- Tai hạ ngưỡng mộ đã lâu...
Trọng Thọ mỉm cười và đi vào trong khách điếm luôn. Bàng Cử lôi Triều Tôn sang bên
và nói :
- Hình như thư sinh họ Tổ này rất có quyền thế. Hầu công tử nên nói với y bảo y
tha cho chúng ta đi. Công tử với y cùng là người học hành với nhau chắc dễ nói chuyện
hơn.
Triều Tôn nghĩ cũng phải liền đi tới trước cửa phòng của Trọng Thọ ho một tiếng
đánh tiếng trước rồi mới giơ tay lên gõ cửa. Lúc ấy chàng nghe thấy trong phòng có
tiếng đọc sách vọng ra. Chàng gõ được mấy cái tiếng đọc sách trong phòng liền ngưng
ngay, cửa phòng vừa hé mở Trọng Thọ đã ra nghênh đón và nói :
- ở khách điếm tĩnh mịch này mời Hầu huynh vào đây trò chuyện với đệ một
phen.
Triều Tôn vái chàng nọ một cái rồi đi thẳng vào trong liền. Chàng thấy trên bàn
có để một quyển sách bên trên có viết chữ : Binh Liêu, Minh Điêu Thần Hoàng
Thượng. Chàng đoán chắc đó là một bản tấu chương nên chàng không dám ngó nữa vì
sợ đối phương nghi kþ, rồi mới ngồi xuống.
Trọng Thọ hỏi gia thế của chàng ra sao ? Chàng theo đúng thứ tự mà trả lời. Thấy
chàng là con trai Hộ bộ thượng thư liền kêu " ủa " một tiếng nói tiếp:
- Lệnh tôn đại nhân là một người quần tư thanh lục, chúng tôi rất kính phục.
Triều Tôn vội đáp lời. Tiếp theo đó chàng liền kể lại chuyện cho Trọng Thọ nghe
mình vì trốn tránh quan sai rồi được Bàng Cử ra tay cứu giúp như thế nào, sau lại được
người họ Ung tặng cho cái thẻ bài trúc v.v.. riêng có chuyện thấy ở trong hòm có đầu
lâu người thì chàng không dám nói ra cho đối phương nghe thôi.
Trọng Thọ vừa cười vừa nói tiếp :
- Chúng ta gặp gỡ ở nơi đây kể ra cũng có duyên phận đấy, ngày mai huynh hãy
theo tiểu đệ lên núi để quen biết một ít anh hùng hào kiệt. Đây cũng là một việc rất
khoái chí của một đời người, quí hồ Hầu huynh đừng tiết lộ những gì mắt thấy tai nghe
của chuyến đi này thì tiểu đệ cam đoan Hầu huynh không bị hại gì cả.
Triều Tôn thấy chàng ta ăn nói nhanh nhạy như vậy trong lòng mới yên tâm. Thế
rồi hai người lại nói đến chuyện văn thơ. Mới hay Trọng Thọ học rất ít, nên khi chàng
ta thấy Triều Tôn ăn nói trang nhã như vậy lại càng kính nể vô cùng.
Hai người đàm đạo cho đến canh hai, Triều Tôn mới cáo từ về phòng. Bàng Cử
đợi chờ hoài không thấy Triều Tôn quay trở về phòng nóng lòng sốt ruột vô cùng,
không biết hên sui ra sao, đang đi đi lại lại thì bỗng thấy Triều Tôn vẻ mặt hớn hở về
tới. Y mới yên lòng.
Hồi 2
Tám phương hội anh tuấn
Ngày hôm sau là ngày Tết Trung thu, nên hôm đó Triều Tôn với Bàng Cử theo mọi người lên núi thật sớm. Khi đi tới lưng núi thì vừa đúng giờ ngọ đã có mười mấy người khiêng sẳn cơm nước ở đó chờ đợi rồi, nhưng các món ăn đều là món chay hết. Mọi người ăn uống xong, nghỉ ngơi một lát rồi lại tiếp tục đi luôn.
Từ chỗ nghỉ chân lên tới đỉnh núi, suốt dọc đường đều có trạm canh và khám xét rất nghiêm ngặt. Khi bị khám xét tới bọn Triều Tôn ba người, thì Trọng Thọ tiến lên gật đầu một cái, người canh gác để cho đi qua. Triều Tôn nghĩ thầm: nguy nan thật, nếu tối hôm qua không trò chuyện với Trọng Thọ thì ngày hôm nay chưa biết số phận mình sống chết ra sao?
Đến lúc chiều tà mới lên tới đỉnh núi. Mấy trăm hảo hán, cao có, thấp có, đã xếp hàng đứng nghênh tiếp mọi người. Có một người vừa cao vừa mập, vạm vỡ khác thường, hình như là thủ lãnh của nhóm người ra đón, thấy Tô Trọng Thọ, vội tiến tới đó chào. Rồi, hai người dắt tay nhau cùng đi vào trong nhà.
Triều Tôn thấy trên núi thưa thớt có mấy chục nóc nhà. Căn lớn nhất hình như là một ngôi chùa hoặc miếu. Những căn nhà đó không phải là nhà thường dân, mà cũng không giống sơn trại nào của giặc cướp. Vì không có một căn nào xây lầu canh pháo lũy cả.
ở dưới núi, Bàng Cử đã thấy kiểu cách của các người ấy khác những đám giặc cỏ mọi nơi, thì chắc trên sơn trại thế nào cũng hùng vĩ lạ thường, nhưng có ngờ đâu lại sơ sài nghèo nàn đến thế! Chàng phân vân không hiểu những người này là hạng người gì?
Chàng nghĩ thầm: mình lăn lộn trong đám giang hồ chẳng gì cũng đã được mấy năm trường. Việc gì chẳng mục kích qua? Trường hợp nào chẳng có mình dự qua? Nhưng lần này có điều lạ nhất là những người này phần nhiều ở nơi xa xôi hàng nghìn vạn dặm tới. Khi gặp nhau, thái độ của họ thân mật như anh em ruột thịt, mà sắc mặt thì buồn bực phẫn uất, không thấy một người nào tươi cười vui mừng cả?
Triều Tôn và ba người được dẫn vào nghỉ một căn phòng nhỏ. Một lát sau, có người bưng cơm nước tới. Có bốn món chay và hơn 20 cái bánh mì hấp. (Người phía Bắc Trung Hoa ăn bánh mì hấp thay cơm.) Đêm hôm đó, Triều Tôn cùng Bàng Cử bàn tán thầm thì. Cả hai đều không hiểu những người kia quy tụ trên núi này làm gì? Ngày hôm sau là ngày 16 tháng 6, hai người vừa ăn điểm tâm xong, ra ngoài dạo chơi quanh núi thấy đâu đâu cũng có những đại hán lạ mặt, có kẻ mặt đầy những sẹo vết thương, có người què chân cụt tay, đều là chiến trường trải, phong sương lịch duyệt cả. Hai chàng sợ người ta nghi kỵ lại sinh tai bay vạ gió thì nguy, nên vội trở về phòng ngay, cả ngày không dám ra khỏi phòng.
Hôm đó bốn bữa ăn đều toàn những món chay cả. Bàng Cử rủa thầm: "Chúng làm chay cúng cha cúng tổ, mặc chúng! Tại sao lại bắt buộc cả tụi mình phải ăn nhạt theo chúng thế này?"
Tới lúc hoàng hôn, bỗng tiếng chuông vang tai inh ỏi, có một người vào mời.
- Tổ Tướng công mời quí vị lên trên điện xem làm lễ.
Triều Tôn và Bàng Cử theo người đi liền. Hầu Khang cũng định đi theo, người kia vội xua tay:
- Cậu em ở lại. Đi ngủ sớm còn hơn.
Triều Tôn và Bàng Cử theo người kia đi vòng qua mấy căn nhà ngói, đến một ngôi miếu.
Triều Tôn ngửng đầu thấy trên cửa có treo một tấm hoành phi đề ba chữ "Trung Liệt Từ" chàng nghĩ thầm:
- Đây là căn từ đường, không hiểu họ thờ những ai thế?
Xuyên qua gian ngoài và sân giữa thấy hai bên đều có để giá bày võ giới. Nào đao kiếm thương kích đủ thập bán ban, cái nào cái nấy đều lau chùi bóng lộn choáng mắt.
Vào tới đại điện, hai chàng thấy có ngót ba ngàn người, ngồi đông kín cả điện. Giựt mình hoảng sợ, hai chàng ngạc nhiên vì trên hoang sơn này sao lại tụ họp được nhiều người đến thể?
Triều Tôn nhìn lên bàn thờ thấy thờ một pho thần tượng, khôi giáp đàng hoàng ngoài phủ một cẩm bào, tay trái cầm bảo kiếm nhà vua, tay phải một cờ lệnh mặt xương xương, râu ba chòm, trông rất oai nghi, nhìn thẳng về phía trước có vẻ lo âu.
Hai bên có bầy hai hàng bài vị, vì đứng xa quá, nên chàng không trông thấy rõ những tên họ viết trên linh vị đó.
Mọi người đều phủ phục vái lạy. Một tiểu đội mặc áo đại tang tiến trước mặt mọi người, rồi phục xuống đất đáp lễ. Triều Tôn và Bàng Cử đều giựt mình vì thấy tiểu đồng ấy lại là tên mục đồng giết cọp đêm qua.
Mọi người vái lễ xong rồi đứng dậy, ai nấy nước mắt ràn rụa vẻ mặt đầy phẫn uất.
Trọng Thọ nói với Triều Tôn:
- Hầu huynh tài hoa xuất chúng xin sửa chữa dùm cho những câu văn viết sai trong văn tế mà đệ đã soạn thảo.
- Dạ, đệ không dám nhận những lời quá khen ấy.
Trọng Thọ sai người đem văn phòng tứ bảo ra và nói tiếp:
- Sở dĩ tiểu đệ mời Hầu huynh lên đây cũng vì muốn nhờ vả đến tài ba của Hầu huynh để làm cho công luân của Nguyên nhung chúng tôi được vẻ vang thêm.
Triều Tôn khó xử quá, vì biết Vua Sùng Chính đã bị trúng kế phản gián của quân Thanh mà đem Viên Sùng Hoán ra xử trảm, thiên hạ ai ai cũng biết ông này bị oan. Nhưng đó là Thánh chỉ của nhà Vua, nếu người nào đứng ra minh oan cho ông ta sẽ mang tội phạm thượng và bị xử tử ngay, biết rõ như thế nhưng nay Trọng Thọ nhờ vả tới, không lẽ chẳng chối từ.
Dù sao chàng cũng là một văn nhân, nên chỉ nghĩ ngợi giây phúc rồi cầm bút viết luôn: "Tiến quân sắp tới Hoàng Long, Nhạc Nguyên soái đã bị thác oan. Nhà Hán đang phục hưng, Gia Cát quân sư đã vội lánh trần. Ô hô! Ai tai! Thượng hương!" chàng lấy cố nhân ra vị văn tế này nếu có lỡ lọt vào tay nhà vua, thì cũng không thể khép tội cho chàng được.
Trọng Thọ thấy Triều Tôn hạ bút như rồng bay phượng múa mừng lắm. Và Tôn lại ví Viên Sùng Hoán như Gia Cát Khổng Minh và Nhạc Phi thật là ca ngợi hết bề nói.
Mà sự thực cảnh ngộ của Viên Đốc Phủ cũng hơi giống cảnh ngộ của Nhạc Nguyên Soái, chứ không phải chàng tâng bốc bậy. Trọng Thọ giải nghĩa mấy câu đó cho mọi người hiểu. Ai nấy đều đồng thanh cám ơn và tỏ vẻ có thiện cảm với Triều Tôn và Bàng Cử, không coi hai người như khách lạ nữa.
Trọng Thọ lại nói:
- Văn bút của Hầu huynh quả thật khác thường. Huynh dùng hai vị thánh hiền Gia Cát và Nhạc Vũ Mục để ví, khiến Nguyên Nhung chúng tôi ở dưới chín suối cũng được hân hạnh vô cùng. Lát nữa đệ sẽ cho người khắc mấy câu nói đó vào bia đá dựng trước cửa miếu.
Triều Tôn vội bái tạ.
Hành lễ xong, mọi người ngồi về chỗ cũ. Người xướng lễ lại lên tiếng hô:
- "Mỗ Dinh, X Tướng quân", hoặc là "Mỗ trấn, Y Tổng Binh".
Cứ mỗi lần hô xong một danh tánh chức vị nào lại có một người đứng lên trình diện và báo cáo. Nghe thấy chức hạ cũ của Viên Sùng Hoán. Sau khi Viên tướng quânbị hãm hại, các bộ hạ tản mát đi bốn phương. Rồi hàng năm đúng ngày, đúng giờ họ đến núi Lão Ô này tụ họp, để làm lễ tưởng niệm vị chủ tướng cũ.
Những lời báo cáo của họ, có tới tám chín mươi phần trăm chàng Triều Tôn không hiểu. Hình như họ còn mưu toan sự gì nữa. Khi người xướng lễ hô tới tên:
- "Kế Trấn Phó Tổng Bình Châu An Quốc".
Có một người đứng dậy, Triều Tôn và Bàng Cử đều giật mình, ngạc nhiên. Người đó chính là người nông dân đã đưa Tôn và Cử vào ẩn núp trong hang núi.
Bàng Cử nghĩ thầm: "Không ngờ y lại là một danh tướng đã đánh bại giặc Liêu Ninh. Như vậy mình thua ông xa.
Châu An Quốc nói:
- Còn nội một năm năy, tiểu chủ đã tiến bộ về võ nghệ, và cũng đã đọc được rất nhiều cuốn sách. Võ nghệ của tôi và của hai chú La, Ngụy đều truyền thụ hết cả cho Công tử rồi. Xin các vị đề cử danh sư khác cho.
Trọng Thọ nói tiếp:
- Trong nhóm anh em chúng ta, chẳng còn ai võ nghệ quật cường bằng ba vị!
Vậy Châu tướng quân đừng nên khiêm tốn mà chối từ nữa.
- Tiểu chủ thông minh lạ thường, mới chỉ bảo qua loa mà cậu ấy đã hiểu ngay. Tất cả tài nghệ của chúng tôi đều đã đem ra dạy cho cậu ấy hết cả rồi. Thật quả phải mời vị danh sư khác dạy bảo, để khỏi lỡ mất thời giờ quý báu của cậu ấy đi.
- Thôi được, việc này để lát nữa sẽ bàn định sau. Còn vụ tiêu diệt kẻ gian phi, có kết quả gì không?
Người họ Ngụy đã giết chết mãnh hổ, liền đứng dậy tường trình:
- Tháng trước, La tướng quân theo dõi tên gian tặc họ ôn, tới Triết Giang thì diệt được y. Còn tên gian tặc họ Sử thì 10 ngày trước đây đã bị tôi giết chết tại Tràng An. Hai thủ cấp của chúng đều có cả ở đây.
Nói đoạn, y mở cái túi vải để dưới đất, lấy hai cái đầu lâu ra. Mọi người đều phẫn nộ, hô lớn: hoan nghênh. Và cũng có một số người nghiến răng nguyền rủa hai cái thủ cấp đó.
Trọng Thọ đặt hai cái đầu gian tặc lên trên bàn thờ, rồi quỳ xuống khấn vái. Tới lúc này Triều Tôn mới biết hai cái đầu người mà đêm nọ mình trông thấy trong hòm áo là thủ cấp của kẻ thù nhà họ Viên. Chắc hai người này là kẻ gian đã liên can vào vụ hãm hại Viên Sùng Hoán. Lúc đó, lại có vài người đêm những thủ cấp khác ra trình.
Thế là trên bàn thờ bày la liệt mười mấy cái đầu người.
Nghe lời báo cáo của họ, trong những đầu lâu này có một cái là đầu của quan Ngự sử đương thời, họ Triều Tôn đã được cha kể truyền cho nghe, quan Ngự sử này đã tâu với vua, vu oan cho Viên Sùng Hoán là mãi quốc cầu vinh, tư thông với địch, nên y bị cho quan thanh liêm khinh miệt. Vì vậy, ngày nay y mới bị bộ hạ của Viên Sùng Hoán giết chết. Mọi người báo cáo xong, Trọng lại lên tiếng:- Thù lớn của chúng ta chưa báo xong, vua thái của Sát Từ (Mãn Thanh) và vua Sùng Chính vẫn còn tồn tại. Vậy các vị có cao kiến gì để trả thù cho Đại Soái của chúng ta không?
Một người lùn đứng dậy nói:
- Tổ tướng công!
Tiếng nói của y lớn như tiếng sấm. Triều Tôn và Bàng Cử không ngờ người y bé nhỏ như vậy mà tiếng nói lại lớn đến thế đều phải giựt mình kinh ngạc.
Tổ Trọng Thọ trả lời:
- Chẳng hay Triệu Tống Bình có ý kiến gì? Xin cứ phát biểu.
Người lùn đó nói:
- Theo ý tôi...
Chưa dứt lời, bỗng có một người từ ngoài cửa hấp tấp chạy vào bẩm rằng:
- Bẩm, Lý Tự Thành tướng quân có sứ giả vào hầu kiến.
Mọi người thấy nói đến ngạc nhiên bàn tán ầm ỹ.
Trọng Thọ nói:
- Triệu Tổng Bình hãy khoan phát biểu. Chúng ta ra đón sứ giả của Lý Tướng Quân trước đã.
Triệu Tổng Bình:
- Xin tuân lệnh.
Nói đoạn, y đảo chân đi ba bước. Mọi người đều đứng dậy. Cánh cửa lớn mở rộng và một bàn tay cầm bó đuốc đứng sang hai bên, rồi có ba người bước vào. Bàng Cử ở Thiểm Tây đã nghe danh Lý Tự Thành từ lâu. Biết y làm phản, giết quan quân, oai thế rất lớn nên chàng muốn coi xem bộ hạ của y là những hạng anh hùng hảo hán nào?
Chàng thấy một người đi trước thời ngoài 60 tuổi, mặt rỗ tóc rối bù, mặc quần áo bóng cũ rách cả khuỷu tay và dưới đầu gối, chân đi đôi giày cỏ, không khác gì một tên công dân thường ở tỉnh Thiểm Tây.
Hai người đi theo sau, một người ngoài 30 tuổi, mặt trẳng trẻo trông nho nhã tuấn tú, ăn mặc gọn ghẽ, tỏ vẽ văn nhân và một người nữa, ngoài 20 tuổi, thân hình vạm vỡ, da mặt ngăm đen, ăn mặc theo lối nông dân. Người đi đầu tiên thẳng tới trước bàn thờ rồi đứng yên. Người mặt trắng lấy hương nến trong bọc áo ra, thắp lên và cắm vào bát hương. Rồi cả ba cùng quỳ xuống vái. Tiểu mục đồng quỳ cạnh bàn thờ đáp lễ. Ba người lễ xong. Người mặt rỗ lớn tiếng nói:
- Lý Tự Thành tướng quân chúng tôi được biết Viên Đại nguyên soái ở Liêu Đông đã đánh lui quân Sài Tứ, lập công lớn, nên Tướng quân chúng tôi rất thán phục. Sau lại hay tin Viên Đại Nguyên soái bị nhà Vua nghe lời vu oan, giết chết. Thiên hạ bá tánh ai ai cũng đều căm hận. Bấy giờ quan buộc dân làm loạn, chúng tôi đói rét quá, đành phải kháng cự, không chịu nộp lương và giết quan quân. Cầu anh linh của Viên Đại Nguyên soái phù hộ chúng tôi đánh lên Bắc Kinh. Bắt tất cả nhà Vua và bè lũ gian tham, đem ra giết hết, để trả thù cho Viên Đại Nguyên Soái và dân chung của thiên hạ.Nói xong, y lại vái mấy cái.
Mọi người thấy sứ giả của Lý Tự Thành tôn trọng Đại Nguyên Soái của mình đến thế, ai nấy đều có thiện cảm với người ấy. Tổ Trọng Thọ tiến lại gần, chấp tay chào và nói:
- Chúng tôi rất cảm ơn quý thịnh tình. Xin ngài cho biết cao tính danh là gì?
- Tôi là Lưu Nhất Hổ, Lý Tướng quân chúng tôi hay ngày hôm nay là ngày giỗ kỵ của Viên Đại Nguyên Soái, thế nào quí vị cũng tới sùng lễ, nên sai tôi đến đây đại diện dự lễ và để cùng quý vị tương kiến.
- Dạ, tôi là Tổ Trọng Thọ.
- Thế là tướng quân là lệnh đệ của Tổ Đại thọ tướng quân đấy! Anh danh của Tổ Đại tướng quân lừng lẫy bốn phương, chúng tôi rất bái phục!
Hai người đang trò chuyện, người tùy tùng mặt đen của Nhất Hổ bỗng thấy đứng chặn ngay cửa giữa.
Xuất kỳ bất ý, mọi người cùng ngơ ngác không hiểu có chuyện gì đã xảy ra, ai nấy đều đứng dậy.
Lúc ấy người thiếu niên mặt đen chỉ thẳng vào mặt hai người đứng lẫn trong đám người tới dự lễ mà quát rằng:
- Hai ngươi là bộ hạ của Tào thái Giám, đến đây để làm gì?
Lời của y vừa dứt, mọi người đều kinh ngạc. Thì ra sau khi Vua Sùng Chính xử trảm Ngụy Trung Hiền và Khách Thị rồi, trong Triều Đình nghịch đảng đã bị quét sạch. Nhưng tính vua hay đa nghi, không tín nhiệm một vị đại thần nào cả, mà chỉ tin dùng có tên Thái giám theo hầu từ hồi nhà vua còn là Thái Tử. Thái giám ấy tên là Tào Hóa Thuần. Y là thủ lãnh đội vệ sĩ của nhà Vua, chuyên môn phụ trách mặt điều tra các quan văn võ trong triều hoặc ở khắp nơi.
Tên tuổi của Tào Thái Giám không ai không biết tới. Cho nên người thanh niên mặt đen vừa quát hỏi xong, mọi người đều giựt mình sợ hãi.
Hai người kia, một người cằm tua tủa mọc râu vàng, tuổi ngót 40. Còn người nọ, mặt trắng, không râu, nhưng béo mập và lùn. Người béo lùn biết sắc mặt, nhưng y trấn tỉnh lại ngay, rồi vừa cười vừa nói:
- Ông hỏi tôi đấy ư? Xin ông đừng nói bông, nói đùa như vậy!
Người thanh niên mặt đen lại quát:
- Hừ; Ta thèm nói bông nói đùa à! Hai người ở lại điếm lén lút bàn tán, định vào trong núi này nằm vùng, rồi sai người đi báo cáo cho Tào Thái Giám hay, để đem quân đến vây bắt tất cả. Ta đã nghe rõ hết những lời bàn bạc của hai ngươi.
Tên râu vàng rút luôn đơn đao ra, định xông lại thí mạng với người thanh niên mặt đen. Nhưng tên mặt trắng béo mập kia vội cản lại, rồi nói:
- Lý Tự Thành định dụ dỗ anh em trên núi nhập bọn với y. Điều này ai cũng biết cả. Bây giờ các ngươi muốn đến đây làm ly gián anh em chúng ta không được đâu!Tiếng nói của y nhỏ bé, giống hệt giọng nói của các vị Thái giám. Tuy vậy, lời nói của y cũng làm cho ý chí một số người bị lunh lay; họ hoài nghi ba người sứ giả của Lý Tự Thành không phải thật tâm đến để dự lễ cúng kỵ Viên Tướng quân.
Lưu Nhất Hổ tuy xuất thân ở nông dân nhưng dầu dự rất nhiều trận chiến, trở nên điêu luyện thành con người gan thép, nên rất tinh khôn và minh mẫn. Chàng thấy sắc mặt biến đổi của nhiều người, biết ngay lời nói của tên mặt trắng đã có hiệu lực liền đứng dậy thét hỏi:
- Ngài là ai? Có phải là bạn hữu của Sơn Tôn này không?
Hỏi trúng chỗ yếu, người kia không trả lời được.
Tổ Trọng Thọ cũng thét hỏi:
- Bạn có phải là bộ hạ cũ của Viên Đại Soái không? Tại sao tôi chưa hề gặp bạn bao giờ? Bạn là thủ hạ của vị Tổng Binh nào?
Người mặt trắng biết việc đã bại lộ, liền đưa mắt ra hiệu với tên râu vàng. Cả hai cùng nhẩy tới phía cửa giữa. Tên râu vàng dùng thế "cực lịch Hoa Sơn" chém thẳng một đao vào mặt thanh niên mặt đen. Tên mặt trắng nọ, trông như nam bán nữ, nhưng hành động của y cũng nhanh nhẹn lạ lùng. Y rút luôn đôi bút Phán Quan ở trong tay áo ra, nhắm ngay giữa ngực thanh niên mặt đen điểm tới. Vì tỏ thái độ tôn sùng, đến đây chỉ có mục đích dự lễ tế Viên Sùng Hoán, chàng thanh niên mặt đen không đem theo khí giới. Mọi người thấy chàng tay không tình thế có vẻ nguy ngập, liền có bảy, tám
người võ giỏi vô địch xông tới cứu chàng.
Ngờ đâu võ nghệ của chàng cũng cừ khôi lắm, tay trái nhanh như gió giở miếng "cầm nã thủ" nắm luôn cổ tay tên râu vàng. Đồng thời, tay phải của chàng duỗi thẳng hai ngón tay trỏ và giữa đâm thẳng vào hai mắt của tên mặt trắng. Hai tác động của chàng tuy phát động sau, nhưng lại tới trước. Tên râu vàng và tên mặt trắng đều hoảng sợ, phải lùi lại thủ thế ngay. Mọi người thấy chàng thanh niên chỉ một miếng võ đã chuyển từ thủ ra công ngay.
Ai nấy đều dừng bước, khen ngợi thầm. Hai tên kia thấy không thể xông ra nổi bên ngoài, biết mình ở trong hang hổ, tình thế nguy ngập vô cùng, nên vừa lui một bước, cả hai nhất loạt tiến lên. Thanh niên mặt đen chỉ dùng song chưởng, tả xông hữu đụt, ra vào trong đơn đao và song bút.
Chàng tấn công nhiều hơn thủ thế. Hai tên kia mấy lần định tiến tới ngưỡng cửa, nhưng lại đều bị chàng nọ dồn lui trở lại.
Tên mặt trắng nóng ruột thay đổi luôn luôn bút pháp. Cặp bút của y đâm ngang, điểm dọc. Miếng nào cũng nhằm những yếu huyệt của chàng thanh niên mà tấn công.
Còn khách râu vàng thì áp dụng đao pháp của Võ Thắng Môn Sơn Tây. Đứng theo lối trung bình tấn, đao nào của y cũng nhằm hạ thổ địch mà trảm. Thấy tình thế của thanh niên nọ nguy cấp, mọi người định xông lại giải cứu. Nhưng ai nấy thấy Lưu Nhất Hổ có vẻ trấn tĩnh lạ thường, nên cũng yên trí ngồi xuống xem họ tiếp tục tranh đấu. Mọi người nghĩ thầm: "người cùng đi với họ mà không lo ngại thì tất nhiên họ phải như thế
nào mới bình tĩnh như thế được. Ta hãy ngồi xem kết quả ra sao."
Ba người tiến lên, lùi xuống, tung hoành trong điện. Thấy lúc đang hăng hái chiến đấu, khách râu vàng bỗng kêu tiếng với giọng bi đát, đơn đao của y tuột tay bay vàođám đông người. Châu An Quốc nhảy lên bắt lấy chiếc đơn đao ấy. Ngay lúc đó người thanh niên mặt đen tiến lên một bước, giơ chân trái đá tên râu vàng ngã xuống. Trong lúc chân trái của chàng chưa thâu về, chân phải lại thừa thế đá luôn tên mặt trắng. Tên này võ nghệ khá hơn, nên y khòm lưng, thót bụng lại tránh miếng đá đó và đồng thời song bút của y phản điểm lại giữa ngực của địch. Nhưng tay phải của thanh niên mặt đen nhanh như chớp nhoáng, đột nhiên nắm lấy ngọn bút bên trái của tên mặt trắng. Rồi vặn mạnh một cái, chàng đã cướp được cây bút sắt của kẻ địch. Lúc ấy, cây bút bên phải của tên mặt trắng đã điểm tới, nhưng nhanh như cắt, chàng thanh niên liền dùng cây bút vừa giựt được gạt ngang luôn. Hai bút va chạm nhau "keng" một tiếng, bật đom đóm lửa lên. Tên mặt trắng bỗng cảm thấy hổ khẩu tay đau đớn lạ lùng, và cây bút cũng rời khỏi tay. Chàng thanh niên mặt đen cười khoái trá, tay phải túm luôn
ngực kẻ địch và nhắc bổng lên, tay trái của chàng kéo luôn quấn của tên mặt trắng ra.
Đang khi mọi người đều ngạc nhiên, thanh niên mặc đen vừa cười vừa nói:
- Đây, xin quí vị lại gần chứng kiến xem y có phải là Thái giám không?
Lúc này mọi người mới hiểu tại sao người thanh niên mặt đen lại có cử chỉ lạ lùng như thế. Ai nấy cùng nhìn thẳng vào người tên mặt trắng. Quả thật y đã bị hoạn tất.
Mọi người đều cười ồ và xúm đông lại xem. Thấy chàng thanh niên mặt đen giải quyết rất nhanh chóng chứng tỏ võ nghệ chàng rất cao cường, ai nấy đều kính phục.
Lúc ấy bây giờ đã có người đến đè đầu hai tên gian tiếp xuống. Tổ Trọng Thọ quát hỏi:
- Tào Thái giám phái hai người đến đây làm gì? Có bao nhiêu đồng đảng? Và trà trộn vào đây bằng cách nào?
Hai tên nọ làm thinh không trả lời. Trọng Thọ đưa mắt ra hiệu, La Tham Tướng giơ đơn đao lên, chỉ trong nháy mắt đã hạ luôn thủ cấp của hai tên gian phi và đặt lên trên bàn thờ. Trọng Thọ chắp tay vái chào Lưu Ninh Hổ và nói rằng:
- Nếu ba vị không lột mặt nạ của bọn gian tặc kia giúp cho thì họa lớn đến nơi chúng tôi cũng không hay.
Lưu Nhất Hổ vội đáp lời:
- Việc này chỉ là một sự ngẫu nhiên. Chúng tôi gặp bọn chúng ở dọc đường. Thấy
chúng nó có nhiều điểm khả nghi nên chúng tôi để ý theo dõi. Đêm hôm qua, theo
chúng vào một khách sạn, chúng tôi mới khám phá được tung tích của chúng.
Trọng Thọ nói với hai người tùy tòng của Nhất Hổ rằng:
- Hai vị quí danh là gì?
Người mặt mũi tuấn tú tự xưng họ Điền và người thanh niên mặt đen là họ Thôi.
Châu An Quốc tới gần nắm tay thanh niên mặt đen tỏ tình thân thiện và khen ngợi luôn miệng.
Nhất Hổ, Trọng Thọ và mấy vị thủ lãnh dắt nhau vào nhà trong đàm thoại bí mật.
Nhất Hổ phát biểu rằng:
- Lý Tự Thành tướng quân mong được liên minh với quí vị để đánh đổ nhà Minh.
Các bộ hạ của Viên Sùng Hoán trù trừ chưa dám quyết định. Sau cùng Trọng Thọ nói:- Hành động của chúng ta đã bị Tào Thái giám biết rồi. Nếu không liên minh với Lý tướng quân đề cử đại sự thì làm sao mà trả thù cho Viên Nguyên soái và giết vua Sùng Chính được. Lỡ Tào Thái Giám phái quân đi khắp nơi đón giết chúng ta thì sao?
Mọi người nghĩ lại cũng phải, nên cuộc liên minh với Lý Tự Thành được giải quyết xong ngay.
Bên trong mọi người thương lượng liên minh đại kế.
Ngoài điện Châu An Quốc và Đả hổ anh hùng Ngụy Hạo kéo thanh niên mặt đen Thôi Sơn ra một nơi tĩnh mịch trò chuyện.
Châu An Quốc nói:
- Thôi đại ca, hôm nay chúng ta tuy mới gặp nhau lần đầu nhưng nhất kiến vị của đại ca đừng coi chúng ta như người ngoài.
Thôi Thu Sơn trả lời:
- Hai vị đại ca trước kai đánh quân Thanh bảo vệ dân chúng, đệ xưa nay khâm phục lắm. Hiện nay đệ lại được hân hạnh gặp quý bạn anh hùng trên Sơn Tôn này, đệ rất lấy làm sung sướng.
Ngụy Hạo nói:
- Tôi nói câu này hơi đường đột xin đại ca thứ lỗi cho. Chẳng hay đại ca học vị danh sư nào?
Thôi Thu Sơn, hai mắt bỗng đỏ ngầu, trả lời:
- Gia sư là Nhất Thạnh Lôi Trương Bạch Đế qua đời đã từ lâu năm rồi!
Châu An Quốc và Ngụy Hạo đưa mắt lên nhìn nhau trong lòng tỏ vẻ hoài nghi. Song Ngụy Hạo tính tình thẳng thắn, không nhịn được, nói liền:
- Nhất Thanh Lôi Trương Lão tiền bối, chúng tôi ngưỡng mộ đã lâu, nhưng có một câu này xin Thôi đại ca chớ khiển trách, võ nghệ của Trương lão tiền bối tuy cao cường thật nhưng hình như còn kém Thôi đại ca xa.
Thôi Thu Sơn lẳng lặng không nói nửa lời. Thấy vậy, Châu An Quốc lại nói:
- Trò giỏi hơn thầy, đó cũng là lẽ thường. Nhưng vừa rồi, tôi thấy thân pháp và thủ pháp của Thôi đại ca trong lúc triệt hạ hai tên gian tế thì hình như đại ca còn được sự chân truyền khác.
Thôi Thu Sơn nghĩ ngợi giây phút mới trả lời:
- Hai vị là bạn quen, tôi không dám dấu diếm. Sau khi sư phụ tôi tạ thế, trong một trường hợp ngẫu nhiên, tôi may mắn gặp một vị cao nhân ngoài đời thương hại tôi mà đã chỉ bảo cho tôi chút ít võ nghệ. Nhưng ông ta bắt tôi thề không được nói tên tuổi của ông cho ai biết. Vì lẽ đó, xin hai vị đại ca lượng thứ cho.
Thấy chàng thành thật như vậy, sở dĩ chúng tôi muốn hỏi Thôi đại ca là vì có một việc muốn hỏi.
- Hai vị có việc gì, nếu tiểu đệ có thể làm được, tiểu đệ xin giúp ngay. Cùng là người nhà với nhau cả, hai vị hà tất phải khách khứa như vậy.
Châu An Quốc nói:- Xin đại ca hãy chờ một tí để tôi đi kiếm thêm hai người bạn nữa đến đây trò chuyện.
Thôi Thu Sơn thấy thái độ của Châu An Quốc rất thận trọng, nhưng không biết định nhờ vả mình vào việc gì. Châu An Quốc và Ngụy Hạo cho gọi họ ứng và họ La đến.
Người họ ứng hỏi:
- Có việc gì thế?
Châu An Quốc trả lời:
- Người kia võ nghệ giỏi lắm. Anh em chúng ta đây không ai địch nổi hắn. Nghe hắn nói chuyện, tôi nhận thấy hắn là người chánh trực và hào phóng lắm.
Ngụy Hạo nói:
- Nhưng hỏi đến sư phụ hắn thì hắn dấu diếm không chịu nói.
Rồi y kể lại câu chuyện nói với Thu Sơn cho họ ứng và họ La nghe.
Người họ ứng tên Tòng, là mưu sĩ dưới Tướng của Viên Sùng Hoán. Vụ vây thành Ninh Viên năm nọ, y cũng có rất nhiều công lao trong đó. Người họ La tên Đại Can, là một pháo thủ trứ danh. Trong trận đánh ở Ninh Viên, y châm ngòi thuốc hồng y đại bác bắn chết vô số quân Thanh. Nhờ công đó, y mới được thăng lên chức Tham Tướng.
Sau khi Viên Sùng Hoán bị xử tử oan, bộ hạ hắn tản mác, ai nấy trở về quê hương làm ruộng. ứng Tòng nói:
- Chúng ta cứ nói thật, yêu cầu hắn giúp xem hắn trả lời ra sao.
Châu An Quốc nói:
- Tôi thiết tưởng việc này nên hỏi qua ý kiến của Tổ tướng công đã.
ứng Tòng đáp:
- Phải đấy.
Nói đoạn y quay vào gian trong, thấy Trọng Thọ và Thất Hổ đang chuyện trò tương đắc. Nhưng y cũng mời Trọng Thọ ra bên ngoài bàn bạc mấy câu. Trọng Thọ nói:
- ứng sư gia, việc này quan hệ đến đời sống của tiểu chủ nhân. Trước hết, sư gia phải hỏi xem người họ Thôi có bằng lòng hay không đã.
ứng Tòng gật đầu nghe lời, rồi cùng Châu An Quốc, Ngụy Hạo, La Đại Can ba người đến gặp Thôi Thu Sơn, ứng Tòng nói:
- Chúng tôi có một việc, chỉ có Thôi đại ca mới giúp được thôi. Cho nên...
Thôi Thu Sơn thấy ứng Tòng muốn nói lại ngừng, vẻ mặt sượng sùng. Chàng sốt ruột hỏi luôn:
- Đệ là người thô lỗ. Các vị định chỉ bảo điều gì, xin cứ nói. Nếu việc gì có thể làm được, quyết không chối từ.
ứng Tòng nói tiếp:- Thôi huynh sảng khoái như vậy chúng tôi xin nói thật để huynh rõ. Viên Đại Soái chúng tôi bị hãm hại, còn lại một người con trai. Lúc bấy giờ cậu ta mới lên bảy. Chúng tôi cố gắng mãi mới cứu được cậu ta thoát nạn. Trước sau đã ác chiến với bọn Cẩm Y vệ 3 lần. Anh em chúng tôi có 2 người tử nạn. Nay mới bảo toàn được một chút cốt nhục đó cho Viên Đại Soái chúng tôi. Vị tiểu chủ chúng tôi là Thừa Chí. Và bốn anh em chúng tôi đảm nhiệm dạy cậu ta cả văn lẫn võ. Cậy ấy thông minh lắm chỉ bảo qua vài lần là hiểu ngay. Mấy năm nay bản lĩnh của chúng tôi đã truyền hết cả cho cậu ta rồi. Cậu ấy tuổi hãy còn nhỏ, tuy có một vài môn võ vẫn chưa lĩnh hội hết, nhưng nếu còn theo học chúng tôi nữa, thế nào cậy ấy cũng tiến bộ rất nhanh. Và sẽ có một tương lai rất lớn.
Thôi Thu Sơn đã hiểu ý nghĩ lời nói của ứng Tòng liền trả lời:
- Các vị tính cho cậu ấy theo tôi học võ phải không?
Châu An Quốc trả lời:
- Vừa rồi chúng tôi thấy đại huynh ra tay đánh bại hai tên gian tặc. Chúng tôi công nhận võ nghệ của đại huynh giỏi hơn chúng tôi nhiều. Nếu Thôi đại ca chịu thâu nhận cậu ấy làm đồ đệ, dạy dỗ thành tài. Không riêng gì anh em chúng tôi, cả linh hồn của Viên Đại Soái chúng tôi nơi cửu tuyền cũng cám ơn đại ca vô cùng.
Nói đoạn bốn người cùng chắp tay vái lạy. Thôi Thu Sơn vội đáp lễ rồi ngẫm nghĩ giây phút mới trả lời:
- Được các vị coi trọng như vậy, tôi đâu dám từ chối. Nhưng hiện giờ tôi đang phục vụ trong quân đội Lý tướng quân, nay đây mai đó, không một lúc nào được ở một chỗ. Và chiến đấu với quan quân luôn luôn, chưa biết sống chết lúc nào. Nếu Viên công tử có theo tôi ở trong hàng ngũ, một là tôi e không có thì giờ dạy cậu ấy hai là nguy hiểm vô cùng.
Bốn anh em ứng Tòng ngẫm nghĩ lời nói của Thu Sơn cũng phải. Ai nấy đều thất vọng, Thu Sơn bỗng nói lớn:
- Có một người võ nghệ giỏi gấp tôi trăm lần. Nếu ông ta bằng lòng thâu nhận thì thật may mắn cho công tử lắm.
Nói đoạn, chàng chợt nghĩ ra điều gì lắc đầu lẩm bẩm nói thầm:
- Không xong, không xong.
Lưu Nhất Hổ đã điều đình xong công việc liên minh với Tổ Trọng Thọ. Ngày hôm sau, mọi người tuyên thệ trước bàn thờ Viên Sùng Hoán. Thề quyết cùng nhau sanh tử, không ai được phụ lòng ai. Sau đó, Tổ Trọng Thọ thu xếp cho Triều Tôn, Bàng Cử và Hầu Khang, ba người lên đường về nhà. Khi chia tay, chàng nói với Triều Tôn và Bàng Cử rằng:
- Chúng ta gặp nhau đây, cũng do số phận xuôi nên hạnh ngộ này. Tất cả những sự gì xảy ra trên Sơn Tôn này xin hai vị đừng tiết lộ ra ngoài nửa câu. Nếu không nghe lời tôi, hậu quả ra sao, tôi không dám nói trước.
Hầu Triều Tôn và Dương Bàng Cử dạ dạ luôn miệng. Trọng Thọ tặng cho mỗi người 50 lạng làm tiến lộ phí, và còn phái hai người đàn em tiễn bọn Triều Tôn ba người xuống núi. Trải qua bao cuộc hiểm nguy, Triều Tôn và Bàng Cử đều chán nản cực độ. Một người đóng cửa ở nhà đọc sách, sau trở nên một nhà văn tên tuổi về cuối đời nhà Minh. Còn một người thấy trên giang hồ có biết bao nhiêu người tài giỏi xét ra "ngọn núi này đã cao lại còn núi khác cao hơn, ngoài vòm trời này lại còn vũ trụ khác", nên chàng đóng cửa cục tiêu lại, xoay sang nghề nông, suốt đời không nhắc nhở đến chuyện võ. Sau chàng bị quân Thanh giết chết.
Thương thuyết cuộc Liên minh xong, Lưu Nhất Hổ cùng người họ Điền hạ sơn trở về đơn vị trong đội Lý Tự Thành. Các bộ hạ Viên Sùng Hoán có một số người tham gia nghĩa quân Lý Tự Thành, còn một sối thì về nguyên quán sửa soạn cuộc khởi nghĩa.
Tổ Trọng Thọ, Châu An Quốc, Ngụy Hạo và ứng Tòng, thì ở lại núi để bàn tán về việc xuất sư sau này của Viên Thừa Chí.
Được tin Thôi Thu Sơn nhận lời dạy cho mình Phục Hổ Chưởng, Thừa Chí mừng đến nỗi suốt đêm hôm đó không ngủ được. Sáng hôm sau, vì ai nấy đều bận việc nên không có thì giờ nhắc nhở tới việc dạy võ. Chiều, mọi người lũ lượt xuống núi. Trước khi ra về, họ đều vào từ biệt tiểu chủ nhân, như vậy lại bận rộn thêm nửa ngày. Tối hôm ấy, Tổ Trọng Thọ vào trong thắp một đôi nến đỏ, đặt chiếc ghế bành ở giữa mời Thôi Thu Sơn ngồi lên trên ghế đó để Viên Thừa Chí làm lễ bái sư, Thôi Thu Sơn nói:
- Thật quả mới trông thấy chú em họ Viên, tôi đã cảm tình liền. Nay chú ấy thích học võ Phục Hổ Chưởng, tôi xin vui lòng ở lại đây vài ngày để truyền thụ cho chú ấy.
Nhưng liệu trong mấy ngày trời, có thể học thành tài không? Và thành tài rồi có thể sử dụng được không? Những điều đó cần phải xem sự học tập với nhau thôi, chớ tôi không dám nhận thầy trò đâu!
Ung Tòng nói:
- Quí hồ đại ca dạy cho năm ba miếng, một vài hiệp suốt đời cũng là sư phụ rồi.
Hà tất đại ca phải khiêm tốn như thế?
Thôi Thu Sơn nhất định không nhận. Mọi người không sao cưỡng ép nổi, đành phải thôi, không nói tới nữa.
Mọi người cũng biết luật lệ của võ lâm. Thôi Thu Sơn ngồi trên ghế nghiêm nghị hỏi:
- Thừa Chí, thế Phục Hổ Chưởng pháp này do một vị cao nhân tiền bối truyền cho. Tôi tuy chưa lãnh hội hết sự tinh vi huyền ảo của nó, nhưng ở chốn giang hồ, với kẻ địch hạng bình thường thì cũng dư sức để đối phó. Lúc ông ta truyền thụ cho tôi thế Chưởng pháp này có bắt tôi thề độc rằng: Sau khi học thành tài môn võ này, quyết không được giết hại người vô tội, đè nén kẻ lương dân.
Thừa Chí là người rất thông minh, nghe Thu Sơn nói như vậy vội quỳ ngay xuống và nói rằng:
- Đệ tử Viên Thừa Chí, sau khi học xong Phục Hổ Chưởng Pháp, quyết không đè nén lương thiện, giết hại kẻ vô tội. Bằng không, bằng không...
Vì không biết phải nói như thế nào, nên Thừa Chí nói tiếp:
- Bằng không sẽ bị sư phụ đánh chết.
Thu Sơn cười nói:
- Tốt lắm!Bỗng thoáng một cái, người đã biến mất. Thừa Chí vội quay mình lại, thấy Thu Sơn đã ở đằng sau, và vỗ vai y vừa cười vừa nói:
- Chú bắt lấy tôi nhé.
Nhờ được danh sư Châu An Quốc và Ngụy Hạo chỉ bảo, nên võ nghệ của Thừa Chí có chút căn bản. Y đột nhiên hạ tấn xuống, tay trái đánh dứ một miếng, tay phải quàng về phía sau, nhưng y không quay mình lại, chỉ cần nghe hơi gió để phân biệt thân hình đối phương, rồi nhắm đùi Thu Sơn nắm lấy.
Thu Sơn mừng thầm:
- Biết sử dụng miếng này kể cũng khá lắm đấy!
Vừa nói dứt lời, tay chàng khẽ vỗ vào vai Thừa Chí, rồi thoắt một cái, chàng lại biến mất.
áp dụng theo sự chỉ dẫn của Ngụy Hạo, Thừa Chí định thần nhìn, hơi dang hai tay ra, nhờ vậy cũng yểm hộ được các chỗ hiểm yếu của toàn thân. Y thấy thân pháp của Thu Sơn nhanh nhẹn lạ lùng, bắt thế nào cũng không nổi. Y không chạy vòng quanh như bịt mắt bắt dê nữa. Y lùi từng bước một, lui về phía chân tường. Rồi nhảy một cái, đứng sát lưng vào tường, y vừa cười vừa nói:
- Thôi thúc thúc, cháu đã trông thấy thúc thúc rồi!
Lúc ấy Thu Sơn không thể vòng ra sau lưng y được, liền ngừng bước, cả cười nói:
- Giỏi lắm! Giỏi lắm! Cháu không những khôn ngoan mà căn bản võ nghệ cũng khá. Thế Phục Hổ Chưởng này học thế nào cũng đạt.
Thế rồi, bắt đầu từng miếng từng hiệp một, chàng dạy Thừa Chí cho hết thế võ đó.
Thế "Phục Hổ Chưởng" này có tất cả 108 miếng, mỗi miếng lại có 3 đường biến hóa "kỳ chính tương sinh tương khắc" cộng tất cả là 324 đường, Viên Thừa Chí đều nhớ hết cả. Thôi Thu Sơn lại dạy thêm 3 lần nữa. Thừa Chí đã học thuộc hoàn toàn thế võ đó. Thu Sơn vừa dạy vừa giảng, đem mỗi miếng mỗi biến hóa như thế nào để truyền thụ cho Thừa Chí một cách rất tỉ mỉ. Thừa Chí có căn bản sẵn, lại thêm thông minh có thừa, nên cả những chỗ tinh vi nhứt, y cũng lãnh hội hết, chỉ vì chưa tập được thành thục cho lắm, nên chưa có thể sử dụng được ngay thôi. Một người càng dạy càng thấy hứng thú, một người rất chăm chỉ học hỏi, nên cả hai tập luyện cho tới đêm khuya.
Sáng hôm sau, Thôi Thu Sơn ra ngoài bách bộ, trông thấy Thừa Chí một mình ở bãi đất hoang tập luyện võ nghệ. Y đem 108 miếng "Phục Hổ Chưởng" hóa đi biến lại mà còn quán xuyến cả tám yếu quyết tinh vi. Thấy vậy, Thôi Thu Sơn bỗng nhảy vào nhằm giữa lưng đá một cái. Thừa Chí nghe thấy sau lưng có tiếng gió, vội né mình quài tay nắm luôn chân của kẻ địch. Đến khi nhận kĩ ra, y mới biết người tấn công mình là Thôi Thu Sơn, y liền rút tay lại và la lớn:
- Kìa, Thôi thúc thúc!
Thôi Thu Sơn vừa cười vừa nói:
- Đừng ngừng tay, cứ tiếp tục đánh đi.
Nói đoạn, chàng bổ luôn vào mặt Thừa Chí. Y không tránh mà lại thêm một bước đấm luôn một quyền vào hạ mạng Thôi Thu Sơn. Miếng võ này là miếng thứ 89 củathế võ "Phục Hổ Chưởng" gọi là "Thâm Nhập Hổ Huyệt", Thôi Thu Sơn tấm tắc khen ngợi:
- Đúng lắm, đánh như thế được lắm.
Chàng miệng nói, tay vẫn không ngừng tiếp tục tấn công Thừa Chí. Có miếng nào Thừa Chí sai lầm, chàng lại chỉ bảo ngay, hai người, kẻ đi người lại, đem 324 đường biến hóa không cùng, càng vận dụng càng thấy kỳ lạ. Thừa Chí còn sung sướng hơn nhặt được của báu. Tập cho tới khi Thừa Chí mồ hôi nhễ nhại, Thôi Thu Sơn mới cho phép ngừng tay. Trong khi nghỉ ngơi, chàng giảng giải những miếng hóc hiểm cho Thừa Chí biết. Giảng giải xong, hai người lại đứng dậy tiếp tục luyện tập.
Từ sáng sớm cho đến khuya, ngoài hai bữa ăn ra, Thừa Chí không chịu bỏ phí một giờ phút nào cả.
Luyện tập trong bảy ngày liền, sáng ngày thứ tám, Thôi Thu Sơn lại nói:
- Tất cả võ nghệ của tôi đã truyền cho chú hết rồi. Còn sự thành công hay không, phải xem sau này chú có chịu khó luyện tập luôn không đã... Khi giao đấu với địch, dù áp dụng thế võ nào cũng vậy, ta chỉ có thể tin cậy vào tài nghệ bảy phần mười thôi, còn ba phần kia cậy nhờ vào trí khôn mới được, chớ nhắm mắt nhắm mũi đánh bừa thì khó lòng thắng lắm.
Viên Thừa Chí xin vâng lời... Thu Sơn lại nói tiếp:
- Ngày mai tôi phải trở về với Lý Tướng quân. Sau này chú phải chăm chỉ tập luyện lấy.
Thừa Chí mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ. Thôi Thu Sơn tuy ở với Thừa Chí có mười ngày, nhưng chàng đã dạy cho y tất cả bí quyền của thế võ "Phục Hổ Chưởng". Như vậy đủ thấy chàng thương mến Thừa Chí không cầm nổi cảm xúc, mếu máo khóc muốn bật ra tiếng. Thôi Thu Sơn sống trong hàng ngũ lâu năm, tuy giết người không hề chớp mắt nhưng thấy tình quyến luyến chân thật chủa Thừa Chí, chàng cũng phải cảm động.
Thôi vuốt ve vỗ về Thừa Chí giây lát rồi nói:
- Người thông minh như chú trong võ lâm này ít có lắm. Chỉ tiếc rằng chúng ta hông có dịp đoàn tụ lâu ngày.
- Thôi thúc thúc, cháu xin thúc thúc đến trại Lý Tướng quân cũng được chớ sao?
- Chú con nhỏ tuổi, đến chỗ ấy ở sao được!
Vừa nói tới đấy, bỗng nghe tiếng kêu của nó không giống cọp mà cũng chẳng giống sài lang!
- Nó là báo đấy!...
Chàng đang nói, sực nghĩ ra điều gì, rồi lại nói tiếp:
- Chúng ta ra ngoài bắt sống con Báo ấy đi. Tôi cần dùng loại thú này...
Tính tò mò xúi giục, Thừa Chí vội cướp lời:
- Chú muốn dùng nó để làm gì?Thôi Thu Sơn chỉ cười mà không nói, Thừa Chí đi theo ra, thấy chàng không cầm
khí giới bèn hỏi:
- Thôi thúc thúc định dùng khí giới gì bắt con báo ấy thế?
Ngờ đâu Thu Sơn không ra thẳng ngoài cửa lại bước vào gian trong, chỗ ở của Tổ Trọng Thọ, rồi lên tiếng gọi:
- Châu đại ca, Ngụy đại ca, hai vị có ở trong đó không?
Nhờ các vị giúp hộ một tay, ra ngoài kia dồn hộ con báo vào trong này. Tôi đang cần dùng tới nó.
Ngụy Hạo là tay thiện nghệ giết hổ, thấy Thu Sơn nhờ mình một việc đúng sở thích, như gãi đúng chỗ ngứa liền trả lời:
- Được, để tôi dồn cho!
Nói đoạn, chàng cầm luôn chiếc đinh ba vẫn săn hổ, xông ra ngoài cửa. Thu Sơn vội gọi:
- Ngụy đại ca! Xin đại ca đừng đả thương nó nhé!
Ngụy Hạo ở đằng xa đáp vọng lại, vâng lời. Tiếp theo đó tiếng hò hét của chàng vang động trên đỉnh núi.
Thu Sơn, An Quốc và La Đại Can hai người cũng nhảy theo ra ngoài cửa. Thừa Chí cầm đoản thương định theo ra, Tổ Trọng Thọ vội gọi lại:
- Thừa Chí, cháu đừng ra nữa. Chúng ta ở lại trong này mà xem.
Bất đắc dĩ Thừa Chí phải ngừng bước, rồi cùng Trọng Thọ và ứng Tòng ba người đứng tựa cửa sổ, nhìn ra phía ngoài xem. Thấy ba người ta cầm bó đuốc, chia nhau đứng Đông, Tây, Bắc ba ngã. Ngụy Hạo tay cầm đinh ba, chiến đấu với một con báo thật lớn ở bên sườn núi. Chàng chỉ dùng đinh ba cản không cho con báo vồ tới, chớ không đả thương nó. Báo thấy ánh sáng lửa hoảng sợ, muốn chạy, nhưng bị Thu Sơn, An Quốc và Đại Can ba người chận lại. Con báo cũng tinh khôn lắm, thấy Thu Sơn tay không, liền gào một tiếng thật lớn, nhảy tới định vồ. Thu Sơn né mình tránh khỏi đôi chân đầy móng sắc bén của con thú, rồi tay phải cứng như sắt, tạt luôn một cái vào trán cao báo. Con thú ngã lộn một vòng, quay mình chạy về phía Nam. Thấy cửa phòng phía này mở rộng, con báo tinh khôn lắm, nó nhất định không chịu chạy vào. Nó định quay sang phía khác, nhưng các người đã ập lại. Trong lúc nó đang ngơ ngác nhìn ngược, nhìn xuôi, thì Thu Sơn đã nhảy tới đá mạnh vào mông nó một cái. Con thú bị đau, rú lên một tiếng, chạy thẳng vào trong nhà. Lúc ấy ứng Tòng đã đóng kín các cửa
ngõ lại, chỉ để một cánh bên phía Tây. Thấy các người cầm đuốc đi tới, con báo vừa gầm gừ vừa đi thẳng vào phía trong cửa ngõ đó. Đại Can theo sau, rồi đóng nốt cánh cửa ấy lại. Thế là con báo bị nhốt ở trong điện.
Mọi người thấy bắt được con báo rồi, ai nấy vẻ mặt hân hoan, nhìn thẳng vào phía Thu Sơn như muốn hỏi chàng định bắt con báo ấy làm gì. Thu Sơn mỉm cười nói:
- Thừa Chí, chú vào đánh con báo ấy đi!
Chàng vừa dứt lời, mọi người đều giật mình sợ hãi, Trọng Thọ nói:
- Tôi e cháu Chí đánh không nổi con thú ấy đâu.Thu Sơn vội trả lời:
- Không sao, đã có tôi ở cạnh trông nom; con báo ấy không làm gì nổi chú ấy được.
Thừa Chí nhanh nhẩu:
- Cháu xin vào ngay!
Tay cầm đoản thương, y đẩy cửa định bước vào, Thu Sơn vội cản lại:
- Hãy khoan, chú để cây thương xuống, vào đánh bằng tay không!
Thừa Chí ngẩn người trong giây phút nhưng y hiểu ngay ý định của Thu Sơn là muốn y dùng "Phục Hổ Chưởng" mới học được để đối phó với con báo kia. Tuy vậy, y vẫn rụt rè chưa dám vào. Thu Sơn lại thúc giục:
- Cháu sợ phải không?
Thừa Chí không ngần ngại nữa, đẩy mạnh cánh cửa, ung dung tiến thẳng vào. Chỉ nghe thấy một tiếng "gầm" thật lớn, rồi một bóng đen nhảy tới vồ vào đầu Thừa Chí. Chàng né mình tránh sang một bên, rồi thuận tay tạt một cái vào mang tai con báo. Tuy bị đánh trúng, nhưng tay chàng bé nhỏ yếu ớt, nên con báo không thấy đau đớn chút nào, nó quay đầu lại giơ chân cào Thừa Chí, chàng nhảy tới phía sau con thú, hai tay nắm lấy đuôi kéo. Lúc ấy Thu Sơn đã đứng cạnh đó để bảo vệ, vì sợ con báo phát cáu nổi khùng, Thừa Chí sẽ không chế ngự nổi. Y tuy ít tuổi nhưng thế võ Phục Hổ Chưởng y đã biết sử dụng thuần thục, nên tuy con báo vồ ba lần, cào ba lần, rốt cuộc vẫn không đụng chạm nổi vạt áo của chàng. Trái lại, nó còn bị chàng đánh cho một cái tát và tiếp luôn một cái đá.
Tổ Trọng Thọ, Châu An Quốc, Ngụy Hạo, ba người thấy Thừa Chí tay không đấu với báo, mặc dù đã có Thu Sơn đứng cạnh bảo vệ, nhưng vẫn còn lo ngại thay cho y.
Trong khi An Quốc và Ngụy Hạo đều cầm sẵn ám khí để đề phòng lúc nguy cấp giết báo cứu người.
Dưới ánh sáng của mấy bó đuốc thắp chung quanh, Thừa Chí nhảy nhót né tránh nhanh nhẹn vô cùng. Lúc đầu cậu ta không dám tới gần con báo. Nhưng sau đến khi sử dụng mới thấy "Chưởng pháp Phục Hổ" ảo diệu vô cùng. Càng đánh, càng thấy phấn khởi tinh thần. Vì bàn tay quá nhỏ và sức lực còn yếu ớt thấy đánh vào con thú không ăn thua gì, cậu liền xoay ra cách lôi kéo. Mỗi lần lôi là mỗi lần cậu vặt được một nắm lông của con báo. Con thú bị đau, rống lên ầm ĩ. Và nó cũng bắt đầu sợ đôi bàn tay bé nhỏ của Thừa Chí. Nó vừa nhe răng, vừa lui để trốn tránh kịp. Chỉ trong chốc lát, hầu khắp căn điện đầy lông báo bay tứ tung. Con báo bị vặt trụi lông, trông thật kỳ lạ, mọi người đứng xem đều cười ồ cả lên.
Thấy đánh mãi vẫn chưa phục nổi con báo, Thừa Chí đột nhiên đổi sang miếng "Bồ tát đê mi" (Bồ tát lim dim đôi mắt). Cậu cúi thấp xuống, xông thẳng trước mặt con báo. Con thú ngơ ngác, rồi nhảy lên vồ Thừa Chí. Thấy cậu ta đã ở dưới bụng con thú nọ, Ngụy Hạo sợ quá, phi ngay song tiêu. Con báo tinh khôn lắm, giơ chân phải gạt song tiêu.
Lúc ấy không thấy hình bóng Thừa Chí đâu cả. Mọi người nhìn kỹ thì cậu đang núp dưới bụng báo, hai chân quặp lấy bụng nó, còn đầu thì đỡ cằm con thú lên, khiếncon vật muốn cắn không được, muốn cào không tới. Nó cứ nhảy đi nhảy lại, rồi lại lăn lộn dưới đất mấy vòng mà Thừa Chí vẫn ôm chặt không buông.
Một người, một thú cứ cầm cự nhau mãi. Nhưng Thừa Chí tự biết sức mình, nếu cứ kéo dài như thế mãi, cậu sẽ bị đuối sức. Hễ buông tay ra là cậu bị con báo vồ ngay, càng nghĩ càng sợ, cậu vội gọi:
- Thôi thúc thúc giúp cháu với!
Thu Sơn trả lời:
- Chú lấy đôi mắt của nó trước đi.
Nghe lời chỉ bảo, Thừa Chí vươn tay phải ra móc mắt trái của con báo. Con vật đau quá lồng lộn nhảy nhót dữ dội.
Thu Sơn tiến lên một bước. Chỉ nghe "bốp bốp" hai tiếng, chàng đã dùng thế liên hoàn hai tay đánh trúng đầu con báo. Con thú lắc lư đầu mấy cái, rồi nằm ngửa tênh hênh ra đất hết thở. Chàng liền ẵm Thừa Chí lên, cả cười nói:
- Giỏi lắm! Giỏi lắm!
Nói đoạn, Thu Sơn quay lại nhìn mọi người. Chàng thấy bọn Tổ Trọng Thọ, ai nấy đều kinh hãi đến nỗi mồ hôi toát ra ướt áo. Chàng mở cửa điện, rồi đá vào mông con báo một cái, vừa cười vừa nói:
- Tha cho mi!
Chiếc đá ấy mạnh đến nỗi con thú bị bắn thẳng ra khỏi cửa. Bỗng bên ngoài có tiếng người sợ hãi rú lên.
Mọi người tưởng con báo chưa chết ra tới ngoài lại vồ người liền đổ xô ra xem. Ai nấy đều thất kinh vì thấy xung quanh núi đầy những ánh lửa đuốc sáng tỏa một vùng, thành rừng đao thương lấp loáng phản chiếu bởi những ánh sáng của các ngọn đuốc ấy.
Thì ra quân Minh đã ùn ùn kéo tới vây đánh núi Lão ô.
Cũng may các đảng viên nhóm "Sơn Tôn" đã giải tán từ hồi trưa. Tổ Trọng Thọ xét tình hình thấy khó lòng tẩu thoát khỏi tay kẻ địch. Nhưng có người ngạc nhiên, tự hỏi: Phải chăng những đàn em canh gác dưới núi đều đã bị quân Minh sát hại hết chăng? Nên quân địch mới lên tới đỉnh núi, mà tuyệt nhiên không nghe thấy một tiếng báo động nào!
Những người còn lại trên núi đều là những người từng đánh trăm trận cả. Tuy trong lòng họ hơi e ngại, nhưng không một người nào tỏ vẽ nao núng cả. Trọng Thọ là người có địa vị cao hơn cả nên chàng phải lịnh chỉ huy:
- La tướng quân dẫn tất cả đàn em phụ trách nấu bếp, quét dọn và canh gác miếu ra đầu núi phía Đông phóng hỏa rồi hò hét làm nghi binh.
La Đại Can vâng lời đi luôn. Trọng Thọ nói tiếp:
- Châu tướng quân, Ngụy tướng quân, hai vị tới trước núi, mỗi người bắn 10 phát tên cho quân địch khỏi tiến đến gần. Bắn xong trở lại đây tức thì!
Chờ Châu, Ngụy hai người đi rồi, chàng lại nói tiếp:
- Thôi đại ca! Đệ nhờ đại ca giúp cho một việc rất quan trọng.Thôi Thu Sơn tiến ra:
- Đại ca muốn tôi bảo vệ Thừa Chí phải không?
- Vâng.
Nói đoạn, Trọng Thọ và ứng Tòng đều quỳ xuống vái Thu Sơn. Chàng giựt mình vội đáp lễ!
Lúc ấy tiếng hò reo, tiếng trống, tiếng thanh la nổi dậy, phát từ trên núi xuống. Mọi người đoán chắc những tiếng đó, do La Đại Can phát động, mục đích làm cho quân địch bối rối. Trọng Thọ chỉ vào Thừa Chí vội nói với Thu Sơn rằng:
- Viên đại soái chúng tôi chỉ có một người con này thôi. Bây giờ trăm sự nhờ đại ca hộ tống tiểu chủ xuống núi giúp.
Thu Sơn trả lời:
- Tôi xin tận tâm bảo vệ chú Thừa Chí!
Bấy giờ Châu An Quốc và Ngụy Hạo bắn tên xong, trở về. Trọng Thọ lại ra lệnh:
- Tôi và Châu tướng quân cùng đi một đường. Khi gặp La tướng quân ba người chúng tôi sẽ xông xuống núi bên phía Đông. ứng tiên sinh và Ngụy tướng quân xuống bên phía Tây. Bọn chúng ta xông xuống trước để dụ địch tập trung lực lượng về phía chúng ta. Thừa dịp đó, nhờ Thôi đại ca hộ tống giúp Thừa Chí xuống núi ở phía sau.
Rồi tất cả sẽ gặp nhau ở trại Lý tướng quân.
Trong lúc nguy cấp mà Tổ Trọng Thọ vẫn bình tĩnh chỉ huy, mọi người đều phục chàng can đảm. Được ứng Tòng và mọi người dạy bảo mấy năm, nhứt đáp chia ly, lòng Thừa Chí bùi ngùi khôn tả. Cậu ta liền quỳ xuống vái mọi người mấy cái và thưa rằng:
- Tổ thúc thúc, ứng thúc thúc, Châu thúc thúc, Ngụy thúc thúc, cháu... cháu...
Cổ họng tắc nghẽn, y không sao nói tiếp được. Tổ Trọng Thọ liền đỡ lời:
- Cháu đi theo Thôi thúc thúc, phải nên ngoan ngoãn nghe lời.
Thừa Chí gật đầu xin vâng.
Lúc đó, quân Minh sắp đánh lên tới đỉnh núi, ứng Tòng nói:
- Chúng ta đi thôi! Thôi đại ca chờ một lát hãy lên đường nhé!
Mọi người tay cầm khí giới, chia đường xông xuống.
Thấy Thu Sơn tay không, Ngụy Hạo liền giao cây đinh ba cho Thu Sơn và nói:
- Thôi đại ca đỡ lấy.
Thu Sơn trả lời:
- Tôi không cần tới.
Nói đoạn, chàng định giao trả. Nhưng Ngụy Hạo đã đi xa rồi. Chàng đành phải tay trái dắt Thừa Chí, tay phải cầm đinh ba đi về phía sau núi.
Trên sườn núi phía sau cũng có rất nhiều bó đuốc chiếu rọi. Quân Minh đông như đàn kiến vừa hò reo vừa xông lên. Thấy tên và đá bắn như mưa, Thôi Sơn đành phải lùi vào trong Miếu. Chàng xuống bếp lấy hai cái vung chảo; mình cầm cái to, còn cái nhỏ đưa cho Thừa Chí và bảo rằng:- Chúng ta lấy cái vung này làm tạm cái mộc để đỡ tên đá. Thôi, đi đi!
Hai chú cháu dùng khinh công, nhằm xó tối mà tiến thẳng vào, nhưng hai người bị quân Minh phát giác tung tích. Chúng hò reo, đuổi và bắn theo mấy chục mũi tên.
Thôi Sơn để Thừa Chí chạy trước, còn chàng đi đoạn hậu, tay trái múa vung chảo cản đỡ các mũi tên phía trước, tay phải múa đinh ba gạt mũi tên phía sau. Cả hai cùng theo đường chân núi xông xuống. Bỗng có một nhóm quan quân khá đông, chạy đi ngăn cản nhưng chỉ trong chốc lát đã có mười mấy tên quân bị đinh ba của Thôi Sơn đâm chết. Cây đoản thương của Thừa Chí tuy không giết nổi người nhưng cũng có thể hộ thân cho cậu. Chạy xuống tới lưng chừng núi, hai người định dừng lại nghỉ ngơi
chốc lát, bỗng có tiếng hò hét vọng lại, rồi thấy một đội quân Minh khác ở ngang hông núi xông tới. Đi đầu là một viên Thiên Hộ, tay y cầm đại đao bổ thẳng vào đầu Thôi Sơn. Giơ đinh ba lên đỡ, Thôi Sơn thấy chĩu tay, biết tên Thiên Hộ sức lực khá mạnh.
Chàng liền dùng miếng "Độc Long xuất động" (rồng độc ra ngoài hang) đâm thẳng sang. Tên Thiên Hộ giơ đao gạt sang một bên và hô lên:
- Các anh em tiến!
Thôi Sơn không dám tiếp tục chiến đấu liền giơ cái vung chảo úp vào mặt kẻ địch.
Tên Thiên Hộ vội tránh sang bên phải, Thôi Sơn cả thét lên một tiếng, đinh ba của chàng đâm thẳng vào mạng mỡ kẻ địch. Tới khi rút được cây đinh ba ra, chàng quay lại, không thấy bóng Thừa Chí đâu cả. Chàng thất kinh, bỏ đi tìm. Thấy bên trái có một đám đông đang hò hét, chàng hùng hổ phóng tới. Quân Minh sợ hãi, phải gạt sang hai bên để cho chàng đi. Khi tới gần tới nơi, quả nhiên chàng thấy Thừa Chí đang bị bao vây. Cây đoản thương đã rơi xuống đất, cậu ta chỉ dùng hai bàn tay nhỏ đỡ, thế "Phục
Hổ Chưởng" mới học được ra đối địch với bọn quân Minh. Vì người nhỏ sức yếu, Thừa Chí càng đánh càng kém thế. Sắp bị nguy hiểm đến nơi, thì may thay, Thôi Sơn đã tới cứu ứng. "Soảng soảng" hai mũi đinh ba đánh ngã hai tên địch, chàng vội kéo luôn Thừa Chí chạy. Bọn quân lính hò hét đuổi theo. Chàng bỗng đứng lại, dùng miếng "Hồi mã thương" đâm ngã hai tên địch đuổi tới gần.
Tiếp theo đó, chàng tiến lên một bước dùng chuôi cán đinh ba hất tung một tên lính lên rơi xuống mỏm đá. Tên lính nọ kêu lên một tiếng thảm khốc, rồi chết ngất.
Bọn quan binh thấy Thôi Sơn thần dũng quá, đều ngưng bước không dám đuổi theo nữa. Thôi Sơn cặp Thừa Chí vào nách, dở "khinh công đề tung thuật" (thuật nhẹ mình nhảy nhót) nhảy như bay, tiến thẳng vào trong bóng tối như vào chỗ không người. Không bao lâu đã rời bọn quân binh khá xa, Thôi Sơn mới đặt Thừa Chí xuống và hỏi rằng:
- Chú có bị thương không?
Thừa Chí thấy hỏi, vội dơ tay lau mồ hôi trên mặt thấy dính nhơm nhớm, vội ra chỗ có ánh trăng xem. Thấy tay dính đầy máu, cậu ta sợ quá. Quay lại nhìn mặt Thôi Sơn, cậu cũng thấy dính máu, liền hỏi:
- Thôi thúc thúc, máu... máu...
- Không sao. Đó là máu của địch quân. Người chú có chỗ nào thấy đau không?
- Không ạ.
- Hay lắm. Chúng ta đi thôi!Cả hai cùng bò vào trong bụi cây mà đi. Một tiếng đồng hồ sau, sắp ra khỏi bụi rậm, Thôi Sơn ló đầu ra ngoài xem. Dưới núi, lửa đuốc sáng choang, mấy trăm quân lính đang canh gác ở đó. Chàng dỉ tai Thừa Chí:
- Chỗ này không xuống được. Phải rút lui.
Hai người quay trở lại, đi bộ mấy trăm thước, trông thấy một cái hang rất rộng. Trước cửa hang, cây cỏ um tùm, khó lòng phát giác, cả hai cùng chui vào trong đó ẩn núp, Thừa Chí trẻ người non dạ, đang ở chỗ nguy hiểm mà vẫn ngây thơ, không biết sợ hãi gì cả. Vì mỏi mệt quá, chỉ trong chốc lát, Thừa Chí ngủ lăn ra đất, Thôi Sơn khẽ ẵm cậu lên, ôm vào trong lòng. Lát lâu, tiếng hò reo của quân trên núi ánh sáng tỏ bừng, chắc quân Minh đang phóng hỏa đốt ngôi miếu. Lát lâu nữa, lại nghe thấy tiếng thâu binh của quân Minh, rồi đại đội người ngựa đi qua. Thôi Sơn kêu khổ thân, vì chỗ hang núi chàng ẩn núp ở ngay bên cạnh con đường xuống núi.
Hồi 3
Nạn nọ chưa qua nạn kia đã tới
Trải qua một thời gian khá lâu bổng Thôi Sơn nghe thấy phía ngoài bụi cây có
tiếng động, hình như có người ngồi xuống. Chàng vội cầm cây đinh ba lên và
lắng tay nghe. Có tiếng một người quát lớn:
- Tên nghịch tặc họ Viên có một đứa con còn sống. Hiện giờ ở đâu?
Tiếng nói to quá, làm Thừa Chí giật mình tỉnh giấc, Thôi Sơn ra hiệu bảo cậu giữ
im lặng.
Lại nghe thấy người nọ quát hỏi:
- Mầy có nói không? Nếu không, tao phải chặt gãy chân mày trước!
Một tiếng khác chửi lại:
- Mầy muốn chặt, cứ việc chặt đi, chứ tao ở biên giới đánh nhau với quân Mãn
Thanh hung ác như thế còn không sợ, há gì bè lũ gian tặc chúng bây!
Nghe giọng nói đúng như ứng Tòng, Thừa Chí khẽ kêu lên:
- ứng thúc thúc!
Người nọ quát hỏi:
- Mầy không chịu nói phải không?
ứng Tòng không thèm trả lời, nhổ nguyên đống nước miếng vào mặt tên nọ. Tiếp
theo đó, chỉ nghe một tiếng la thét thê thảm. Có lẽ ứng Tòng đã bị quân địch chém một
nhát rồi cũng nên? Thừa Chí không thể nhịn được nữa, vùng mình thoát khỏi tay Thôi
Sơn, vừa gọi, vừa phóng thẳng ra:
- ứng thúc thúc!
Dưới ánh sáng, Thừa Chí thấy một người dơ đao định chém một người nằm ngã
dưới đất. Cậu ta xông ngay vào, dùng miếng "tả kích hữu cầm" trong thế "Phục Hổ
Chưởng" đấm vào mắt tên nọ. Mắt y bị đấm đau, nổ đom đóm lửa. Cổ tay phải của y
cũng bị đau, vì giơ tay định đỡ, và con dao trong tay bị văng đi mất. Thừa Chí thuận
tay chém luôn một đao vào vai tên nọ. Tuy người nhỏ sức yếu, không chém đứt nổi
cánh tay của địch nhưng cũng khiến cho tên nọ đau đến mất hồn bạt vía. Bị đánh bất
ngờ, các quan binh đều giật mình hoảng sợ. Nhưng nhìn kỹ lại chỉ thấy một thằng bé
con thôi, cả bọn đều cầm đao thương xông lại chém lia lịa, tưởng như sắp chém thằng
bé thành mảnh vụn.
Đột nhiên, từ trong bụi cây, một cây đinh ba lao ra, một số lớn binh sĩ bị toạt hổ
khẩu tay, đau đớn lạ thường, quăng cả khí giới xuống đất. Thừa dịp nhốn nháo, Thôi
Sơn nhảy vọt vào cặp chặt Thừa Chí, rồi thoắt một cái, đã nhảy ra khỏi đám đông. Đến
lúc quan quân hoàn hồn, phóng tên theo thì hai người đã chạy đi mất rồi.
Sau khi Thôi Sơn đã cứu Thừa Chí khỏi nơi ấy, viên tướng thừa lệnh Tào Thái giám
đến đây chỉ huy cuộc vây bắt, liền ra lệnh cho bốn tên hảo thủ lập tức theo dõi. Chúng
thấy Thôi Sơn dưới nách vẫn cặp Thừa Chí, mà vẫn chạy nhảy như bay. Một tên lấy ra
ba cái thủ tiễn (tên phóng bằng tay) dùng hết sức bình sinh lao theo. Nghe thấy hơi gió
lướt qua đầu chàng, vì tránh ba mũi tên, chàng phải ngừng bước. Lợi dụng phút đó,
một tên khác vội vã phóng liên tiếp ba chiếc phi tiêu theo. Thôi Sơn bèn đặt Thừa Chí
xuống đất, tay trái quơ luôn được hai mũi phi tiêu. Đang định phóng trả đũa lại thì
những ám khí khác của địch đã liên tiếp bay tới. Chàng một tay bắt, một tay dùng đinh
ba gạt những ám khí đó, rồi vừa chạy xuống núi.
Lúc ấy, tuy cách đại đội quân Minh đã xa, nhưng bốn tên kia vẫn còn theo sau
đuổi riết.
Trong bốn người kia có một tên nói với theo:
- Này anh bạn kia, muốn sống thì khôn liền bỏ khí giới xuống, ngoan ngoãn nghe
lời chúng ông thì ngươi sẽ ít chịu đau khổ!
Thấy lời nói của tên nọ quá vô lễ, Thôi Sơn giận lắm, lẳng lặng lấy ngầm phi tiêu
ra. Chờ y đuổi tới gần, chàng liền phóng luôn. Cái trên cái dưới, hai phi tiêu đi nhanh
như chớp. Tên nọ kêu "Trời ơi!" một tiếng, đùi y đã bị trúng ngay một phi tiêu, ngã lăn
ra đất. Còn ba tên kia, thây kệ bạn bị thương, vẫn cắm đầu đuổi theo. Thu Sơn thấy kẻ
địch sắp tới gần, liền nói với Thừa Chí rằng:
- Đôi đao của tên kia sắc lắm, để tôi cướp lấy cho chú nhé!
Nói đoạn, chàng cầm đinh ba xuống đất rồi đột nhiên quay lại. Nhưng tên xử
dụng song đao đã dùng thế "Vân Long tam hiện" (rồng mây hiện ba lần) chém liên
hoàn ba nhát, nên Thu Sơn không cướp nổi song đao của y. Còn tên dùng thiết tiêu đã
xông tới cạnh Thừa Chí. Thu Sơn chưa cướp được song đao thấy Thừa Chí sắp bị nguy
hiểm đến nơi, chàng liền quay lại quay tít một vòng đá tới phía sau tên cầm thiết tiêu,
chàng dùng miếng "Kim long thần trảo" (rồng vàng múa vuốt) giơ tay túm lấy vai áo
tên kia.
Tên cầm thiết tiêu đang quất ngang ngọn roi vào lưng Thừa Chí bỗng thấy phía
sau có kẻ địch, y vội ngừng roi quay mình trở lại, Thu Sơn đánh nhanh quá, tên kia chỉ
có cách vừa đỡ vừa lui. Thuận chân, Thừa Chí đá luôn vào mông đít tên nọ, y nổi giận,
thét to một tiếng, dở roi đánh trở lại. Nhưng đã quá chậm vì thiết tiêu của y đã bị Thu
Sơn nắm lấy rồi. Lúc đó tên xử dụng song đao và tên dùng quỷ đầu đao đều nhứt loạt
chém vào lưng Thu Sơn, còn tên bị trúng phi tiêu cũng đã bò dậy, cầm thương đâm vào
cạnh sườn trái của Thừa Chí.
Lúc ấy, nguy cơ tứ phía, Thôi Thu Sơn quả thật anh dũng. Trong lúc tối khẩn cấp
đó mà chàng vẫn ung dung không hề nao núng. Chàng thét lên một tiếng thật lớn, tay
phải dùng miếng "Hàng Long phục hổ" đánh ngay vào ngực tên cầm thiết tiêu. Miếng
đó là một trong ba miếng tuyệt diệu của ba thế võ "Phục Hổ Chưởng". Tên quân Minh
kia làm sao đỡ nổi? Y bị hất tung người lên và rơi nhằm trúng ngọn thương của tên bị
phi tiêu ngã xuống, cũng may tên nọ đã rút nhanh cây thương lại, nên y mới thoát chết.
Thu Sơn, cướp đượt cây thiết tiêu, liền quất trở lại, hất ba mũi đao của hai tên nọ phóng
ra. Rồi chàng kéo tay Thừa Chí chạy thẳng xuống núi.
Bốn tên quân Minh thấy Thu Sơn chỉ trong chớp nhoáng đã dùng tay không cướp
roi sắt, đồng thời lại giải vây được thế tấn công của bốn người. Võ nghệ của chàng đã
tới mức tuyệt đỉnh, nên bọn người này sợ quá không dám đuổi theo nữa, chỉ lấy ám khí
phóng theo. Trong bóng tối, Thu Sơn nghe tiếng gió "vù vù" lia lịa, vói Thừa Chí vàolòng rồi vượt cao, nhảy thấp, để tránh những ám khí của địch. Dù sao phải ẵm thêm
một người, chàng nhảy nhót cũng không nhanh nhẹn cho lắm. Vì vậy, tránh được ba
viên "thiết bồ đề" ở phía phải tới, thì chân trái chàng đã thấy đau, chàng biết mình đã
bị trúng ám khí rồi. Vết thương thấy đau rồi lại thấy ngứa, chàng sợ quá, biết mình đã
trúng phải mũi tên độc rồi. Không dám dừng bước, chàng phải ngiến răng chịu đựng để
chạy xa thêm một quãng nữa. Như vậy chất độc lại càng phát nhanh hơn.
Một lát sau, chân bị tê liệt, chàng loạng choạng rồi ngã lăn ra đất. Thừa Chí sợ
quá vội gọi:
- Thôi thúc thúc!
Bốn người đang đuổi theo phía đàng sau, nhìn thấy Thu Sơn đã ngã nằm trong
bóng tối, liền hò reo chạy tới.
Thu Sơn bảo với Thừa Chí:
- Thừa Chí, chú em chạy mau lên! Để mặc tôi cản chúng lại cho!
Tuổi tuy còn nhỏ, nhưng Thừa Chí là người rất có nghĩa khí. Cậu dương hai tay
nhảy tới phía sau lưng Thu Sơn để sửa soạn nghinh địch... Thu Sơn nghĩ thầm: "võ
nghệ của y còn non nớt quá, bảo vệ ta sao nổi". Tuy vậy, lòng chàng vẫn thấy cảm
động vì cử chỉ đẹp đẽ ấy. Chỉ trong nháy mắt, kẻ địch đã đuổi tới noi. Tên sử dụng
song đao và tên dùng quỷ đầu đao, lấy sống đao chém thẳng vào mắt cá chân Thừa
Chí. Cậu bé nhảy cao tránh khỏi nhát đao đó. Thu Sơn gượng quỳ dậy, phóng cây tiêu
vào người cầm song đao. Tên kia muốn tránh cũng không kịp, trán y bị cây tiêu đâm
trúng chết liền. Trong lúc tên cầm quỷ đầu đao vì hoảng sợ ngẩn người ra, Thu Sơn
nhanh như chớp đã lao mình tới bóp chặt cổ họng y. Tên nọ đau quá, tiện tay chém
luôn một đao vào cánh tay chàng. Tuy bị thương chàng vẫn thừa sức bóp cổ kẻ địch
cho tới khi hắn tắt thở mới thôi. Còn hai tên kia, vốn bị thương sẳn, thấy Thu Sơn hùng
dũng quá đều quay đầu ù té chạy.
Cánh tay của Thu Sơn máu chảy không ngớt và đùi bên phải đã bị tê liệt thành vô
tri giác, nhưng chàng vẫn nghiến răng chịu đựng. Rồi chàng nhặt thanh đao, dùng tay
trái chống lên, cố gượng đứng dậy. Lúc ấy tuy kẻ địch đã chạy xa rồi, nhưng chàng còn
sợ chúng dẫn viện binh tới. Không quản ngại đau đớn nguy hiểm gì cả, chàng đi lò cò
một chân và lấy thanh đao làm gậy chống, rồi cứ nửa đi nửa nhảy, tiến thẳng xuống
chân núi.
Trong khi đó, Thừa Chí đi cạnh để chàng vịn vai đi cho dễ dàng. Đi được một lúc,
nọc độc từ dưới chân trái ngấm dần lên, khiến tay trái chàng cũng bị đuối sức. Vì vậy,
tay phải đang vịn vào vai Thừa Chí càng phải dùng sức thêm lên. Càng đi, Thừa Chí
càng thấy nặng chĩu, nhưng cậu vẫn cố sức chịu đựng, không dám hé miệng kêu ca nửa
lời. Đi thêm một quãng đường nữa, cả hai người đều mỏi mệt, kiệt sức. Thừa Chí bỗng
nói:
- Thôi thúc thúc nè, đằng trước kia có một ngôi nhà! Chúng ta đến đó để tạm tránh đi.
Chỉ có một tí nữa là tới nơi ngay!
Thu Sơn gật đầu, rồi miễn cưỡng lết chân đi. Vừa tới trước cửa nhà đó, chàng đã
chịu không nổi, ngã lăn ra đất, chết ngất.
Thừa Chí sợ quá, vội cúi xuống gọi:- Thôi thúc thúc!
Lúc đó cánh cửa nhà nọ "kẹt" một tiếng hé mở. Một người đàng bà tuổi trung
niên bước ra.
Thừa Chí nói:
- Thưa Đại nương, chúng cháu gặp quan binh. Chú cháu bị thương. Bà làm ơn cho
chúng cháu vào ở nhờ một đêm.
Người đàn bà nông dân đó vốn tâm địa rất nhân từ, thấy Thừa Chí nói đoạn, liền
gọi một thanh niên trạc độ 18, 19 tuổi đỡ lấy. Thu Sơn có võ công khá cao, thần khí
nội liêm, nên tâm trí vẫn chưa mê mẩn. Vừa nằm lên giường giây lát, chàng đã gọi
Thừa Chí cầm đèn đến xem vết thương. Thấy bên chân bị trúng độc đã sưng lên gấp
đôi, cả hai cùng giật mình sợ hãi. Thu Sơn nhờ người thanh niên nọ băng bó vết thương
trên cánh tay và lấy giẻ cột chặt phía dưới đùi để cho hơi độc khỏi nhiễm tới tim. Sau
đó chàng mới rút mũi tên ra. Vết thương chảy máu đen. Chàng định cúi xuống để hút
máu độc ra, nhưng chân bị sưng to quá, nên miệng chàng không sao đụng tới chỗ đau
được. Thừa Chí lẳng lặng ngồi xuống, để miệng vào vết thương hút luôn. Nút tới bốn
chục lần, y nhổ ra toàn những máu đen. Mãi đến lần thứ 40 mới thấy máu đỏ chảy ra.
Thu Sơn bảo rằng:
- May quá! Chất độc trong mũi tên không phải là thứ lợi hại cho lắm. Thừa Chí
chú mau ra súc miệng đi!
Trong khi đó, người đàn bà nông dân đứng cạnh vẫn niệm Phật cầu cho nạn nhân
chóng qua khỏi.
Đến chiều ngày hôm sau, người thanh niên, về cho hay, bọn quan binh đã rút lui
hết rồi. Tuy chân của Thu Sơn đã bớt sưng dần, nhưng chàng lại lên cơn sốt, nói mê
sảng.
Vì Thừa Chí nhỏ tuổi nên chẳng hiểu bệnh tình Thu Sơn nặng nhẹ như thế nào.
Người đàn bà nông dân nói:
- Cậu ấm này! Tôi chắc độc khí trong chân thúc thúc cậu chưa hết đâu. Thế nào
cũng phải xuống dưới trấn mời thầy lang về chữa mới được.
Thừa Chí công nhận lời nói đó là phải. Người đàn bà đó tốt bụng quá, đã cho
mượn chiếc xe bò lại còn sai chàng thanh niên kia đưa hai chú cháu xuống dưới thị
trấn. Tội nghiệp thay! Cả hai chú cháu đều không có đồng xu dính túi. Người thanh
niên kia hỏi hai người muốn ăn gì cho biết để làm. Thừa Chí không biết trả lời ra sao,
chỉ thoái thác là còn no thôi. Cậu đang ngồi khóc thút thít bỗng Thu Sơn chợt tỉnh giấc.
Thừa Chí hỏi chàng có cách gì ra tiền không? Chàng hỏi lại:
- Hiện giờ trong người chú em có vật gì đáng tiền không?
Thừa Chí mừng quá reo lên:
- Thế chiếc vòng này có được không?
Nói đoạn, cởi cái vòng đeo ở cổ ra. Thu Sơn thấy chiếc vòng đó là vàng điệp, trên
có đính 8 hột trân châu, và khắc 4 chữ "Phú Quý Vinh Hoa" phía dưới khắc hai hàng
chữ nhỏ "Tổ Đại Thọ kính trọng" "Viên công tử ni nguyệt chi khánh". Chàng mới biết
cái vòng này của Tổ Đại Thọ mừng Thừa Chí lúc đầy tháng.Tổ Đại Thọ nguyên là viên đại tướng rất đắc lực của Viên Sùng Hoán. Lúc tuổi
trẻ, Đại Thọ rất nghĩa hiệp tính tình phóng đãng. Kế Liêu Phủ Tôn Thừa Tôn bắt được,
sắp bị trảm huyết, nhưng may mắn được Viên Sùng Hoán xin miễn cho. Vì vậy chàng
rất trung thành với Viên Đại Soái. Sau khi Đại Soái bị chết oan uổng, chàng nổi giận
đem bộ hạ rời khỏi kinh đô. Chàng định nổi loạn để trả thù cho ân nhân nhưng sau mẹ
và vợ con chàng khuyên can mãi mới thôi. Chàng là một viên dũng tướng đối mặt
Minh, ai ai cũng biết tiếng. Lúc đó Thu Sơn nửa mê nửa tỉnh, không còn tính toán hơn
thiệt, liền hỏi:
- Chú bảo phổ ky dẫn chú đi cầm. Sau này có tiền ta lại chuộc về.
- Vâng cháu xin đi ngay.
Nói đoạn, cậu ta nhờ người dẫn đi cầm.
Người làm việc ở tiệm cầm đồ trông thấy cái vòng, giựt mình rồi nói:
- Cậu bé hãy đứng chờ một lát nhé!
Người ấy cầm chiếc vòng đó vào nhà trong khá lâu. Thừa Chí và người phổ ky
chờ lâu quá, nóng ruột. Nhưng một lát sau, người làm ở tiệm cầm đồ mới đi ra, hỏi
rằng:
- Hai chục lạng bạc có cầm không?
Thừa Chí không biết trả lời ra sao cả. Cũng may, được người phổ ky có lòng tốt,
nài thêm cho cậu thêm 5 lạng nữa. Cầm lấy số bạc và giấy cầm đồ, Thừa Chí cùng tên
phổ ky tiện đường, mời thầy lang đến thăm bịnh cho Thu Sơn.
Nhưng cậu không ngờ, mình đang bị hai tên Công sai theo dõi. Khi về tới phòng,
thấy Thu Sơn nằm ngủ li bì, trán nóng như lửa thì sốt ruột quá. Thầy lang chưa tới mà
đã thấy bảy, tám tên Công sai, tay cầm day xích và thước sắt xông vào. Một tên trong
bọn la lớn:
- Chính thằng nhỏ này đây!
Tên cầm đầu bọn Công sai hỏi Thừa Chí:
- Này, cậu bé kia! Cậu họ Viên phải không?
Thừa Chí sợ hãi, không biết trả lời ra sao, chỉ nói:
- Không phải.
Tên Công sai cả cười, móc túi lấy chiếc vòng vàng ra rồi hỏi:
- Thế cái vòng này cậu lấy trộm ở đâu ra thế?
Thừa Chí tức mình trả lời:
- Cái vòng này của tôi, không lấy trộm của ai hết!
Tên công sai lại cười:
- Viên Sùng Hoán là thân phụ của cậu phải không?
Thừa Chí không dám trả lời, quay trở vào gọi Thu Sơn. Mấy tên Công sai đứng
ngoài cửa phòng vội quát tháo bảo nhau:
- Bọn gian đảng núi Lão Ô đang trốn trong này. Ta đừng để cho chúng tẩu thoát!Thu Sơn bỗng ngồi dậy, muốn gượng đứng lên. Nhưng vừa đặt chân xuống đất,
chàng đã ngã quþ xuống. Thấy bọn Công sai xông vào trong khi chưa kịp đỡ Thu Sơn
dậy, Thừa Chí đã phải nhảy ra ngăn cản. Khách ở trọ và các phổ ky nghe thấy tiếng
kêu bắt tội phạm, đều đứng xúm đầy sân xem. Họ trông thấy bảy, tám tên Công sai
đang hoành hành với một đứa bé trạc độ 10 tuổi. Ai nấy đều ngạc nhiên. Một tên công
sai định quàng cái xích sắt vào đầu Thừa Chí.
Thừa Chí lùi lại một bước để tránh nhưng cậu vẫn giữ thế, không để cho Công sai
đột nhập trong phòng. Tên Công sai thấy không xích nổi Thừa Chí cũng ngạc nhiên vô
cùng. Y sống trong nghề nha lại đã mấy chục năm, và lần nào xích người cũng rất dễ
dàng. Thế mà với thằng nhỏ này, y lại xích không nổi. Y giận quá, đưa tay đành nắm
lấy cái đuôi sam nhỏ của Thừa Chí. Thấy bọn Công sai hùng hổ ào ào, Thừa Chí sợ hãi
đến nỗi suýt khóc. Nhưng thấy tên Công sai ra tay định xâm phạm vào người mình, cậu
liền né đầu tránh và xử dụng ngay miếng "Hoàng hổ đơn tiên" (phất ngang cây roi)
trong thế võ Phục Hổ Chưởng. Cậu nắm cổ tay tên Công sai kéo ngang một cái. Tên nọ
loạng choạng suýt ngã. Y càng giận thêm, liền dơ chân vừa đá vừa chửi:
- Thằng nhãi con kia, hôm nay ông phải cho mầy biết tay.
Thừa Chí vừa né tránh chiếc đá vừa nắm lấy đùi và mông tên Công sai nhắc bổng
y lên, rồi thuận tay hất y ra ngoài. Tên Công sai vừa to vừa mập, bị hất tung ra ngoài
sân, ngã chổng bốn vó lên trời. Bé nhỏ như Thừa Chí làm gì có sức mạnh đến thế? Đó
là nương lấy sức đá của tên Công sai, cậu mượn lấy sức ấy để đánh lại "Tả lực đả lực"
và hất ngã nổi tên công sai. Các người đứng xem đều vỗ tay khen ngợi. Nhìn thấy
người lớn bắt nạt người trẻ con, họ tức giận sẵn rồi, nay lại thấy tên người lớn kia bị
thằng bé con đánh ngã, họ mới hò reo khen ngợi như vậy.
Các tên công sai khách cũng đều ngạc nhiên. Chúng nghĩ thầm: "Thằng nhỏ này
có phép lạ chắc?"
Rồi chúng đưa mắt ra hiệu, tay cầm thước sắt xông cả lại. Bọn người đứng xem
thấy bọn Công sai rút võ khí ra, sợ bị vạ lây đều tránh ra xa. Thừa Chí tuy đã học được
mấy năm võ nghệ, nhưng dù sao cậu vẫn còn nhỏ tuổi, thì địch sao nổi nhiều người lớn
như thể? Đang lúc nguy cấp, bỗng thấy phòng bên có một đại hán bước ra. Chỉ thấy
khẽ nhún mình, người ấy đã nhảy tới trước mặt rồi. Chàng dơ hai tay nắm và vỗ loạn
xạ. Không hiểu tại sao, tất cả vũ khí của bọn Công sai đều bị chàng cướp giựt hết cả.
Có mấy tên Công sai rút lui hơi chậm bị đánh đến nỗi mắt quầng, mồm sưng vênh cả
lên. Chàng nọ cả cười rồi rú lên thứ tiếng lạ lùng. Một tên Công sai thét lớn:
- Chúng ta đến đây tróc nã phạm nhân, nhà người là ai? Có mau tránh ra không?
Người kia tựa như không nghe thấy, chỉ thoáng một cái đã tới mặt tên Công sai vừa la
thét, và tay phải cứng như sắt, chàng túm ngực tên Công sai vứt ra ngoài. Tên Công sai
tựa như diều đứt giây, là là bay ra ngoài đường, và "ầm" một tiếng, y đã bị ngã chết
ngất dưới đất. Còn những tên Công sai khác không dám ở lại, chạy ngoài đường.
Đại hán nọ đi tới trước mặt Thừa Chí hai tay chỉ ra hiệu miệng ú ớ. Thì ra người đó là
người câm, và hình như hỏi lai lịch của Thừa Chí. Không biết trả lời sao cho phải, Thừa
Chí nóng ruột quá. Bỗng chàng câm dỡ một bàn tay lên và úp một bàn tay xuống. Bắt
đầu đánh theo thế Phục Hổ Chưởng, từ miếng thứ nhất, chàng đánh tới một miếng thứ
10 mới thôi. Thừa Chí biết ý liền từ miếng 11 đánh tới miếng 24. Chàng Câm vừa cườivừa gật đầu, rồi chạy lại ẵm Thừa Chí lên tỏ vẻ thân mật. Thừa Chí chỉ vào trong
phòng, ra hiệu có người nằm trong đó. Chàng Câm liền ẵm cậu vào. Trông thấy Thu
Sơn đang ngồi dưới đất, mặt nhợt nhạt như sắp chết, chàng Câm giựt mình đặt Thừa
Chí xuống. Chàng vừa tiến đến gần, Thu Sơn đã nhận ra người quen, liền ra hiệu chỉ
xuống đùi mình. Chàng Câm gật đầu, rồi tay trái dắt Thừa Chí, tay phải ẵm Thu Sơn, đi
bước đại ra khỏi khách điếm. Thấy chàng Câm hung hăng như vậy, bọn phổ ky cũng
không dám cản trở. Hai tên Công sai núp ở hai bên, chờ chàng Câm đi một quãng mới
dám theo dõi. Chúng muốn biết chàng và hai phạm nhân trú chân ở đâu, rồi chúng về
triệu thêm người tới nã bắt. Lúc ấy, Thu Sơn mơ mơ màng màng không biết gì cả.
Chàng Câm vì không nghe thấy tiếng người đuổi theo, nên cũng không nghi ngờ gì cả.
Duy có Thừa Chí nhỏ người mà khôn ngoan lạ lùng. Cậu thấy phía đằng xa xa có bóng
người thấp thoáng, biết ngay là bọn Công sai theo dõi. Cậu liền ra hiệu cho chàng Câm
hay. Quay đầu ngó lại phía sau, chàng chỉ thấy có hai tên Công sai theo sau nên chàng
không sợ, cứ thủng thẳng tiến về phía Tây. Đi độ hai ba dặm đường, càng đi càng thấy
vắng vẻ, chàng Câm đặt Thu Sơn xuống đất, rồi quay phắt lại, chỉ nhảy hai, ba cái
chàng đã tới trước mặt hai tên Công sai nọ. Chúng định quay đầu chạy, nhưng kịp sao
được, chàng đã mỗi tay túm ngay một đứa, quăng ngay xuống dưới thung lũng. Chỉ
nghe thấy hai tiếng kêu thảm thiết, hai tên Công sai đã vỡ sọ chết tươi.
Giết xong hai tên Công sai, chàng Câm lại ôm Thu Sơn lên, rảo bước đi như bay,
dù cố sức chạy theo mà Thừa Chí vẫn không đuổi kịp. Chạy được hơn dặm đường,
Thừa Chí mệt thở hổn hển không đi được nữa. Chàng Câm mỉm cười cúi xuống ẵm cả
Thừa Chí lên. Như vậy, chàng khỏi phải lo nghĩ, đi còn mau lẹ hơn trước. Được một
quãng, chàng quay sang trái, hướng thẳng phía núi mà tiến. Qua hai ngọn núi, chàng
tới trước cửa ba căn nhà lá dựng ở lưng chừng núi. Một người đứng trước cửa nhà lá
chạy lại nghinh đón, người đó là một thiếu phụ trạc ngoài 20 tuổi. Nàng và chàng Câm
cùng gật đầu chào ngay. Trông thấy Thu Sơn và Thừa Chí, nàng có vẻ ngạc nhiên
nhưng nàng dẫn mọi người vào trong nhà, rồi lên tiếng gọi:
- Tiểu Tuệ, con cầm ấm trà ra đây mau.
Một em nhỏ ở phòng bên lên tiếng vâng lời, rồi xách một ấm nước trà và mấy cái
bát ra. Trông thấy Thu Sơn và Thừa Chí, em nhỏ trợn tròn đôi mắt nhìn.
Người thiếu phụ tuy ăn mặc mộc mạc, nhưng da trắng trẻo, mặt xinh đẹp, và cả
em nhỏ cũng xinh xắn vô cùng. Thiếu phụ nọ hỏi Thừa Chí:
- Cậu bé tên gì? Tại sao lại gặp được chàng Câm này?
Thấy nàng hỏi như vậy, Thừa Chì biết rõ ràng là người quen của chàng Câm, nên
không dấu diếm, cậu kể hết sự thể đầu đuôi cho nàng nghe. Thấy Thu Sơn bị thương,
nàng vào trong lấy một hộp đựng thuốc ra. Mở ra ít thuốc bột màu trắng và ít thuốc bột
màu đỏ, hoà lẫn với nước, nàng cho Thu Sơn uống. Rồi nàng lại lấy một con dao nhỏ
thật sắc bén khoét những chỗ thịt thúi trên đùi Thu Sơn bỏ đi, rồi rắc ít thuốc bột màu
vàng vào chỗ vết thương. Một lát sau, nàng lại lấy nước thật trong rửa sạch vết thương,
và rắc thêm thuốc bột màu vàng vào. Rửa và rắc thuốc 2 lần xong, nàng mới thấy Thu
Sơn cất tiếng rên. Nàng nhìn Thừa Chí rồi cười nói:
- Khỏi nguy hiểm rồi!Nói đoạn, nàng chỉ chỏ ra hiệu cho chàng Câm bồng Thu Sơn vào phòng trong
nghỉ ngơi.
Thiếu phụ vừa thu dọn hòm thuốc, vừa nói với Thừa Chí:
- Tôi họ An, cháu cứ gọi tôi là Thím An. Con nhỏ này là cháu gái tôi, tên nó là
Tiểu Tuệ. Cháu cứ việc ở lại đây.
Thừa Chí gật đầu. An Đại nương xuống bếp làm cơm giết gà để thết khách. Mệt
nhọc suốt ngày, ăn uống xong Thừa Chí không thể gượng được nữa, đành phải gục đầu
xuống mặt bàn ngủ thiếp đi.
Sáng ngày hôm sau, cậu vừa tỉnh dậy, Tiểu Tuệ liền kéo tay cậu đi rửa mặt. Thừa
Chí nói:
- Để tôi đi thăm Thôi thúc thúc xem vết thương khỏi chưa đi.
- Bác Câm đã cõng ông ta đi rồi.
Thừa Chí giựt mình hỏi:
- Có thật không?
Tiểu Tuệ gật đầu. Thừa Chí chạy vào trong, quả nhiên không thấy Thu Sơn đâu
cả. Cậu òa lên khóc. Tiểu Tuệ vội khuyên:
- Anh đừng khóc, đừng khóc nữa!
Thừa Chí không chịu nghe, cứ khóc hoài.
Tiểu Tuệ liền gọi:
- Má ơi! Má ơi! Mau ra đây!
An Đại nương nghe thấy tiếng con gọi, vội chạy ra. Tiểu Tuệ nói với mẹ rằng:
- Má này! Anh ấy thấy bác Câm và Thôi thúc thúc đi rồi, anh ấy khóc liền.
An Đại nương vội an ủi Thừa Chí:
- Cháu nín đi! Có phải Thôi thúc thúc của cháu bị thương nặng lắm đó không?
Thừa Chí gật đầu. Đại nương nói tiếp:
- Thím chỉ có thể chữa cho chú ấy khỏi tạm thôi. Muốn cho chú ấy mau lành,
thím phải bảo bác Câm cõng chú ấy đi nhờ thầy lang chữa cho. Chờ chữa xong, chú ấy
sẽ trở lại đây với cháu.
Thừa Chí hiểu rõ mới nín dần. An Đại nương lại nói:
- Chú ấy sắp khỏi rồi. Cháu mau vào rửa mặt đi, rồi vào đây ăn cơm với thím và
em nó.
Dùng cơm sáng xong, An Đại nương bảo Thừa Chí kể lại thật rõ ràng câu chuyện
đã xảy ra một lần nữa. Nghe xong, nàng cứ thở dài hoài. Thế là Thừa Chí được yên tâm
ở lại nhà đó.
Cậu mồ côi từ thuở nhỏ, nay bỗng nhiên được Đại nương trông nom săn sóc như
người mẹ hiền, lại có thêm Tiểu Tuệ làm bạn nên trong mấy ngày ở tại đó, cậu cảm
thấy sự ấm cúng nhất trong đời. An Đại nương lại bảo cậu ôn luyện lại những võ nghệ
mà đã học hỏi được. Xem xong, nàng gật đầu khen ngợi và nói rằng:- Cháu thông minh giỏi gian lắm!
Như vậy cũng đủ rõ nàng cũng hiểu biết những tinh túy của các thế võ đó vậy.
Cứ như thế qua được mười mấy ngày, và ngày nào An Đại nương cũng bắt Thừa
Chí luyện võ. Nhưng luyện hay hay dở, nàng không bao giờ chỉ bảo khen chê cả, và
nàng săn sóc cho chàng từng li từng tí, coi chàng chẳng khác nào con ruột của mình
vậy.
o0o
Tiểu Tuệ xuống lưng chừng núi đi tìm Thừa Chí vì không biết chàng vừa đi đâu
mà không có ở trong nhà.
Cô gái dừng lại cất tiếng gọi:
- Anh Thừa Chí! Anh đâu rồi?
Gọi mãi không nghe tiếng Thừa Chí đáp lời, Tiểu Tuệ xuống núi để tìm chàng.
Tới một lùm cây chợt nghe có tiếng nói:
- Cô bé kia đứng lại.
Một ngưòi từ trong bụi rậm bước ra. Coi lại đó là một viên Công sai tay cầm đại
đao sáng ngời.
Tiểu Tuệ giật mình lui mấy bước mở to đôi mắt đen huyền nhìn người khách lạ
mặt.
Cô gái sợ sệt hỏi:
- Ông là ai?
Viên Công sai không đáp mà chỉ hỏi:
- Nhà An Đại nương ở đâu?
Tiểu Tuệ lại lui thêm hai bước:
- Ông là ai, sao hỏi nhà An Đại Nương?
Viên Công sai nghiêm sắc mặt:
- Ta muốn gặp An Đại Nương có chuyện gấp lắm. Nhà An Đại Nương đâu?
Tiểu Tuệ tuổi hãy còn ngây thơ đâu hiểu chuyện gì, trỏ tay lên ngọn núi:
- Nhà ở trên kia.
Viên Công sai nhìn kỹ Tiểu Tuệ rồi hỏi:
- Tiểu cô nương tên gọi là gì?
- Tiểu Tuệ!
Cặp mắt của viên Công sai chớp lên:
- Tiểu cô nương hãy theo tôi.Tiểu Tuệ kinh hãi trố mắt:
- Tôi theo ông để làm gì?
- Có người bảo tiểu cô nương theo tôi.
Tiểu Tuệ càng kinh dị hơn:
- Người đó là ai?
- Tiểu cô nương gặp ngườ đó rồi sẽ rõ.
Tiểu Tuệ lắc đầu:
- Tôi không đi.
Vị Công sai cười gằn:
- Tiểu cô nương không đi thì bắt buộc tôi phải đưa tiểu cô nương đi.
Hắn bước tới chụp nắm lấy Tiểu Tuệ.
Bật... bật...
Tiểu Tuệ kinh hãi vỗ hai chưởng, vừa hét:
- Mẹ ơi! Cứu con...
Nhưng viên Công sai đã lấy chiếc khăn lớn trùm lấy Tiểu Tuệ cuốn lại cho cô gái
hết la.
Hắn quay mình đi xuống núi. Thình lình có tiếng hét:
- Trả em gái lại cho ta!
Người vừa hét chính là Thừa Chí. Chàng vỗ một chưởng vào lưng viên Công sai.
Viên Công sai nghe luồng gió day trở lại khoa cây đại đao chống đỡ.
Hắn nhìn Thừa Chí rồi quát:
- Thằng bé này muốn chết sao! Lui mau.
Viên Công sai hấp tấp bước đi, nhưng Thừa Chí đã dùng khinhp pháp vượt ngang
qua đầu hắn chận lại.
Chàng hét:
- Trả em gái ta, tại sao ngươi bắt cóc em ta?
Viên Công sai trợn mắt:
- Thằng tiểu quỷ, ngươi có lui ra không?
Thừa Chí không nói vỗ một chưởng ngay tâm huyệt viên Công sai.
Hắn quát:
- Ta giết ngươi!
Cây đao trong tay viên Công sai chớp lên, Thừa Chí rú lên một tiếng nhào lộn ra
ngoài.
Chàng trúng nhằm hai nhát đao của viên Công sai máu tuôn lênh láng.Tuy đã bị thương nhưng Thừa Chí đã phóng người dậy cản ngang trước mặt viên
công sai.
Viên Công sai giận dữ quát:
- Thằng quỷ nhỏ có chịu dang ra chưa?
Thừa Chí trợn mắt:
- Ngươi không buông em gái ta ra, bằng không ta liều sống chết với ngươi.
Viên Công sai cười lớn:
- Vậy là người phải chết!
Hắn khoa đao định chém thêm mấy nhát kết liễu sinh mạng Thừa Chí. Bỗng có
tiếng thét lanh lảnh:
- Buông con ta xuống. Ai bảo ngươi tới đây bắt cóc con gái ta.
Trong tiếng thét kèm theo một loạt chỉ sắc bén bắn vùn vụt vào mình viên Công
sai.
Hắn hốt hoảng lui lại tránh rồi nói mau:
- Có người bảo tôi tới đây đưa tiểu cô nương về dinh.
- Người nào?
- Đại nhân!
An Đại nương sửng sốt lên rồi thét:
- Buông con ta ra...
Nàng vỗ hai tay vào nhau, một viên ám khí liền bắn xẹt vào người viên Công sai làm hắn buông tuột cái khăn, Tiểu Tuệ ngã xuống đất.
Y cảm thấy giữa lưng đau ngấm ngầm, và trong lúc y hơi chậm tay một chút, đơn
đao của y đã bị chiếc côn vải cuốn chặt và bị giựt rời khỏi tay y. Hắn nhảy lui về phía
sau hai bước, miệng cười xã giao:
- Chồng chị nhờ tôi, tôi phải làm cho được. Thế nào cũng có ngày tôi trở lại đây
kiếm chị.
Đại nương lại quật ngang miếng vải vào lưng y, nhưng lần này y đề phòng trước, nên
vừa dứt lời, y đã quay mình chạy thẳng xuống núi. Đại nương không đuổi theo, quay
lại phía Thừa Chí và Tiểu Tuệ. Thấy con gái mình không việc gì, nàng mới yên tâm,
Tiểu Tuệ ngã vào lòng mẹ, khóc lóc. Thấy người và mặt Thừa Chí ướt đẫm những máu,
Đại nương vội đưa về rửa và băng bó vết thương cho cậu trai. Cũng may hai vết chém
chỉ phớt qua, làm chảy máu nhiều thôi chớ không nặng cho lắm. Sau khi nàng đặt Thừa
Chí lên giường ngủ, Tiểu Tuệ mới kể hết đầu đuôi câu chuyện cho nàng nghe. Nàng
nhìn Thừa Chí rồi nghĩ thầm: "Không ngờ nó tuổi nhỏ bé người mà cũng có lòng
nghĩa hiệp như vậy! Hiện giờ ta không thể ở lại chốn này được. Thế nào ta cũng phải
gây dựng cho nó thành tài mới trả được ơn này. Nghĩ đoạn, nàng nói với Tiểu Tuệ:
- Con cũng đi ngủ đi, đêm nay còn phải lên đường. Chúng ta dọn đi nơi khác đấy!Tiểu Tuệ vẫn thường theo mẹ dọn nhà đây đó luôn luôn, nên khi nghe mẹ nói như
vậy cũng không ngạc nhiên gì cả, An Đại nương thu xếp quần áo, gói làm hai bọc.
Sau khi ba người ăn cơm tối xong, Đại nương thắp nến ngồi chầu một bên hình
như nàng có ý chờ đợi người nào đó, nên cửa vẫn thấy để ngỏ.
Tới canh hai, ngoài cửa đó có tiếng chân người đi rất nhẹ. Thoáng một cái, chàng
Câm đã tới cửa rồi. Tuy vóc người cao lớn vạm vỡ, nhưng chàng Câm đi rất nhẹ nhàng,
không một tiếng động. Như vậy đủ thấy thuật khinh công của chàng tới mức cao siêu.
An Đại nương đứng dậy chỉ chỏ ra hiệu, trò chuyện với chàng Câm lúc lâu. Chàng gật
đầu tỏ vẽ bằng lòng, Thừa Chí liền hỏi:
- Thôi thúc thúc đã khỏi chưa?
An Đại nương trả lời:
- Thôi thúc thúc vô sự rồi, cháu cứ yên tâm. Từ khi cháu tới đây, thím rất thương
cháu, coi cháu như con đẻ vậy. Hôm nay cháu lại hăng hái cứu em Tiểu Tuệ nó. Thím
không bao giờ quên ơn cháu. Tối hôm nay thím phải đi nơi xa, còn cháu thì theo chú
Câm đi.
- Không, cháu đi theo thím cơ!
An Đại nương mỉm cười:
- Thím cũng không nỡ xa cháu. Nhưng thím đã nhờ chú Câm đưa cháu đến chỗ sư
phụ ký danh của Thôi thúc thúc. Cháu xem, Thôi thúc thúc chỉ học với cụ ấy mấy
tháng mà võ nghệ đã xuất sắc đến thế rồi. Cụ ấy võ công thiên hạ vô song, thím muốn
cháu theo cụ ấy học võ. Từ xưa tới giờ, cụ ta mới nhận có hai người đồ đệ thôi. Có thể
bây giờ cụ ta không muốn nhận đồ đệ nữa, nhưng thấy cháu thông minh và tính nết
lương thiện, thím chắc thế nào cụ ấy cũng thương cháu. Chú Câm là người hầu của cụ
ta, cho nên thím mới nhờ chú ấy đưa cháu đi và nói giúp hộ cháu. Nếu cụ ta không
nhận thì chú Câm sẽ đưa cháu về ở với thím.
Thừa Chí gật đầu bằng lòng. Nàng lại dặn dò thêm:
- Tánh cụ ta lạ lắm. Nếu cháu không nghe lời, tất nhiên cụ ta không nhận, nhưng nếu
cháu ngoan ngoãn quá cụ ta sẽ bảo cháu không có cốt khí và cũng không nhận nốt.
Vậy phải chờ xem cháu sẽ được may mắn hay không?
Nói đoạn nàng tháo chiếc vòng vàng ở cổ tay ra đeo vào cánh tay Thừa Chí. Cái
vòng nọ hơi to, nàng phải bóp nhỏ lại mới đeo vừa. Rồi nàng vừa cười vừa nói:
- Chờ đến khi học thành tài, trở nên người lớn, cháu đừng có quên thím và em nó
nhé!
Nếu trường hợp cháu được lão tiền bối chịu dạy bảo thì khi nào thím được rảnh,
đưa em Tuệ đến thăm cháu nhé!
An Đại nương tuy cố gắng giữ cho giọt lệ khỏi rơi, nhưng mắt nàng cũng đã đỏ
ngầu rồi. Nàng gượng nói:
- Được rồi! Lúc nào thím cũng nhớ đến cháu, thương cháu!
Nói đoạn, nàng viết thơ cho chàng Câm, rồi một tay sách hai bọc áo một tay dắt
Tiểu Tuệ ra đi. Chàng Câm và Thừa Chí theo sau. Ra tới ngoài cửa, mẹ con Tiểu Tuệ đimột ngả, còn chàng Câm và Thừa Chí đi một ngả. Trước khi chia tay mẹ con Tiểu Tuệ
và Thừa Chí đều quyến luyến không muốn từ biệt.
Thấy Thừa Chí bị thương và mất máu khá nhiều chắc không thể đi nhanh được,
nên chàng Câm cõng cậu lên, thẳng tiến trên con đường núi. Ngày đi tối nghỉ, hai
người đi ròng rã mười mấy hôm. Đêm nào cũng không dám vào khách điếm ngủ trọ,
chàng Câm và Thừa Chí chỉ vào đền, miếu đổ nát hoặc các hang động nghỉ ngơi thôi.
Ngày nào Thừa Chí cũng ra hiệu hỏi chàng Câm đã tới đích chưa, thì chàng kia lại chỉ
về phía trước. Lại đi ba ngày nữa, đường đi bắt đầu đã thấy hiểm trở. Tới một núi nọ,
chàng Câm phải dùng cẳng chân để bò lên leo trên đỉnh núi cao chót vót. Vết thương
của Thừa Chí đã khỏi hẳn, duy có lông mày bên trái thành một vết sẹo thâm quầng.
Cậu phải ôm chặt cổ chàng Câm. Vì đường núi giốc quá làm một trong hai người trượt
chân hoặc buông tay ra là té xuống hố sâu, tan xương nát thịt, chết ngay tức thì, nên
hai người càng phải hết sức cẩn thận. Khi bò tới đỉnh núi cao nhất, Thừa Chí trông thấy
một miếng đấy rộng và bằng phẳng. Xung quanh có những cây thông cao bao phủ.
Xuyên qua rừng thông, cậu thấy có năm, sáu căn nhà bằng đá, chàng Câm có vẻ hân
hoan, tựa như chàng đi xa lâu ngày mới trở về nhà cũ vậy. Chàng dẫn Thừa Chí vào
trong Thạch ốc, lấy chổi quét dọn sạch sẽ đâu đấy rồi mới xuống bếp thổi cơm. ở tới
ngày thứ ba, Thừa Chí nóng lòng ra hiệu hỏi chàng Câm, sư phụ ở đâu? Thấy chàng
Câm chỉ tay xuống núi, Thừa Chí đòi xuống nhưng chàng Câm lại xua tay lắc đầu. Bất
đắc dĩ, cậu đành phải chịu nhẫn nại chờ đợi.
Không trò chuyện được với chàng Câm, cậu bực mình buồn bực vô cùng.
Một đêm nọ, Thừa Chí đang ngủ ngon giấc, bỗng thấy trước mắt sáng choang, vội
vàng ngồi dậy. Cậu thấy một ông cụ, tay cầm cây nến đứng cạnh giường, vẻ mặt tươi
cười. Thừa Chí, phúc chí tâm linh, vội nhảy xuống đất quỳ lạy ông cụ bốn lạy, và thưa
rằng:
- Bạch sư phụ mới về, đệ tử Viên Thừa Chí xin kính lạy ra mắt sư phụ.
Ông cụ nọ cả cười, nói:
- Thằng nhỏ này, ai đã nhận dạy mà mà dám gọi ta sư phụ? Tại sao mầy đoán được thế
nào tao cũng nhận mày làm đồ đệ?
Nghe giọng nói, Thừa Chí biết ông ta đã bằng lòng rồi, liền vui vẻ đáp:
- Dạ, bạch sư phụ, thím Anh chỉ bảo dùm con đấy ạ.
- Nàng chỉ hay làm phiền ta. Thôi được, ta nể người cha đã khuất của con, mà
nhận con làm đồ đệ vậy!
Thừa Chí định sụp xuống lạy, nhưng ông cụ vội cản lại:
- Thôi đủ rồi, ngày mai sẽ nói chuyện.
Sáng sớm ngày hôm sau, mặt trời chưa mọc, Thừa Chí đã dậy rồi. Chàng Câm
hình như đoán biết ông cụ đã chấp nhận Thừa Chí làm đồ đệ cho nên chàng mừng quá,
bồng Thừa Chí ném lên trên không rồi lại đỡ lấy vừa ném vừa đỡ như vậy đến bốn,
năm lần. Nghe thấy tiếng cười đùa của Thừa Chí, ông cụ ở trong nhà bước ra, vừa cười
vừa nói:
- Được lắm, con mới có bấy nhiêu tuổi đầu, mà đã biết hành hiệp trượng nghĩa,
cứu đàn bà trẻ con. Con có bản lĩnh gì, hãy dỡ ra cho ta coi nào.Thấy ông cụ nói như vậy, Thừa Chí xấu hổ, mặt mũi đỏ gay. Ông cụ nói tiếp:
- Con không trổ tài cho ta xem, thì ta biết thế nào mà dạy con bây giờ!
Thừa Chí biết sư phụ không nói đùa với mình, liền dỡ thế võ "Phục Hổ Chưởng"
của Thôi Thu Sơn truyền cho. Từng đường, tường miếng một đánh từ đầu tới cuối. Ông
cụ vừa xem vừa mĩm cười chờ cậu đánh xong, mới nói:
- Thu Sơn cứ khen con thông minh, lúc đầu ta còn chưa tin, nay mới thấy rõ, hẳn
chỉ dạy con có mấy ngày, mà đã thành tựu như vậy, quả thật là khá lắm!
Thấy nói đến Thôi Thu Sơn, Thừa Chí chờ ông cụ nói xong, liền tiếp lời hỏi ngay:
- Bẩm sư phụ, Thôi thúc thúc hiện giờ ở đâu? Và đã mạnh chưa ạ?
- Hắn đã hoàn toàn vô sự. Và trở về nơi Lý tướng quân tiếp tục chiến đấu rồi.
Thừa Chí thấy thầy nói như vậy, hớn hở vô cùng. Lúc ấy, chàng Câm đã bày xong
hương án. Ông cụ lấy ra một bức tranh có vẽ hình một vị nho sinh rồi thắp hương nến
cung kính quỳ lạy, đoạn nói với Thừa Chí rằng:
- Đây là Từ tổ sư Khai Sơn của phái Hoa Sơn chúng ta, con lại đây quỳ lạy đi.
Thừa Chí nghe lời, sụp xuống quỳ lạy, nhưng cậu không biết lạy bao nhiêu cái
mới phải, trong lòng nghĩ thầm: "Chắc càng lạy nhiều càng hay" rồi cậu cứ lạy lia lịa.
Ông cụ phải phì cười bảo thôi. Ông cụ vừa dứt tiếng cười, đang định nói thì Thừa Chí
vội quay lại, lạy ông cụ mấy lạy, coi như đã là chánh thức bái sư. Ông cụ mĩm cười
nhận lễ:
- Từ nay con là đệ tử chính thức của phái Hoa Sơn chúng ta rồi. Từ trước tới giờ ta
mới thu nhận chỉ hai đồ đệ. Đã mười mấy năm nay, vì chưa gặp đứa trò nào thông
minh, chịu khó, nên ta chẳng nhận thêm ai cả. Con là đệ tử thứ ba của thầy và cũng là
đồ đệ chót, vậy con phải chăm chỉ học tập đừng để cho người ta chê cười mỉa mai.
Thừa Chí cúi đầu xin vâng. Ông cụ lại nói tiếp:
- Ta họ Mộc, các bạn giang hồ gọi ta là Bát Thủ Tiên Vượn (Vượn tiên tám tay). Con
phải ghi nhớ, kẻo có người ta hỏi đến tên thầy, con lại ú ớ không biết trả lời ra sao.
Thừa Chí không nhịn được phải phì cười. Cậu ta nghĩ thầm: "An Đại nương bảo
tánh nết ông ta rất kỳ lạ, mình cứ nơm nớp lo sợ mãi. Ngờ đâu thầy ta dễ dãi, ưa khôi
hài đến thế!"
Võ nghệ của Bát Thủ Tiên Vượn cao siêu vô cùng. Trong 20 năm nay, ông tung hoành trên chốn giang hồ và chưa hề gặp người địch thủ. Vì ông ta không hay can thiệp vào việc người nên ít người biết tới tên tuổi. Thật tình tánh nết ông ta rất kỳ lạ và khó khăn lắm. Lần này, chỉ vì thương hại Thừa Chí côi cút tội nghiệp và thêm điều tôn kính cha cậu là một vị trung thần hết lòng vì nước lại chết oan, nên ông ta mới đoái hoài tới, rồi thấy Thừa Chí là người thông minh hoạt bát nên ông ta mới trò chuyện vui vẻ như thế. Mục Nhân Thanh lại nói:
- Hai sư huynh của con hơn con những 20, 30 tuổi, ngay như đồ đệ của họ cũng còn lớn hơn con nữa là khác. Có lẽ họ sẽ trách móc ta tới giờ phút này còn nhận thêm đứa con nít làm đồ đệ. Hà! Hà! Nếu con không chịu khó luyện tập, sau này bị thua cả đồ đệ, đồ tôn của chúng, thì họ càng có lý do bảo thầy là già nua lẩm cẩm đấy!
- Con xin hết sức chăm chỉ luyện tập. à, thưa sư phụ, Thôi thúc thúc có phải là sư huynh của con không?
- Nó đi theo Lý Tướng quân luôn luôn bận việc binh đao không có thì giờ học tập nên ta chỉ dạy cho có một thế võ "Phục Hổ Chưởng" thôi chớ nó không phải là đồ đệ chính thức của ta.
Nói đoạn Mục Nhân Thanh chỉ vào chàng Câm đoạn nói tiếp:
- Như chàng Câm kia chẳng hạn, hằng ngày xem ta dạy võ, nó cũng võ vẽ vài miếng. Nhưng nếu đem so sánh với hai sư huynh con thì thật một trời một vực, nó còn kém lắm.
Thừa Chí nghĩ thầm: "Chàng Câm hai lần ra tay ném bọn công sai, thân thủ lanh lẹ vô cùng. Nhưng sư phụ bảo hai vị sư huynh còn giỏi hơn y không biết bao nhiêu lần.
Vậy nếu ta chịu khó học tập, dù không bằng 2 vị sư huynh, nhưng bằng được chàng Câm, ta cũng sung sướng và an ủi lắm rồi".
Mục Nhân Thanh lại nói:
- Phái Hoa Sơn chúng ta có rất nhiều giới điều chẳng hạn như: giới dâm, giới sĩ (ra làm quan), giới bảo tiêu, vân vân. Bây giờ dù có nói ra, con cũng không thể nào nhớ hết được. Ta chỉ cần dặn con hai câu này: 1) phải nghe lời sư phụ. 2) đừng có làm bậy. Con hiểu không?
- Con xin vâng lời thầy, không bao giờ dám làm bậy.
- Thôi được, bây giờ chúng ta bắt đầu luyện võ. Vì thời gian gấp rút, Thôi thúc thúc đã dạy con hết thế võ Phục Hổ Chưởng nhưng thế Chưởng pháp đó thần diệu khôn lường. Tuổi con còn nhỏ dù có học hiểu hết cũng không thể xử dụng như ý muốn được.
Nay ta hãy dạy con thế "Trường quyền Thập đoạn Cầm" trước đã.
- Thưa thầy, thế võ nầy Ngụy thúc thúc đã dạy con rồi ạ.
- Thế võ con học của Ngụy thúc thúc vừa múa cho thấy xem còn nhiều chỗ sai lầm lắm. Nếu con thật hiểu hết sự tinh vi của thế "Trường quyền thập Đoạn Cầm" thì trên chốn giang hồ sẽ ít có người địch nổi con.
Nghe lời sư phụ dạy bảo, Thừa Chí không dám cãi lại, chỉ vâng vâng dạ dạ thôi.
Mục Nhân Thanh đem thế võ "Thập đoạn Cầm" ra biểu diễn cho Thừa Chí xem.
Cậu thấy các đường quyền giống hệt Ngụy Hạo dạy hồi nọ. Cậu nghĩ thầm: "Thế này thì có gì đặc biệt đâu?" Cậu đang nghi ngờ thì Mục Nhân Thanh lại nói:
- Chắc con tưởng sư phụ nói dối phải không? Bây giờ con thử lại đây xem con có thể nắm được áo của ta không? Con chỉ cần đụn vào vạt áo của ta, ta cũng cho con là tài ba lắm rồi.
Thừa Chí tưởng phải đối địch với sư phụ nê không dám, cứ đứng yên, nhe răng cười. Mục Nhân Thanh liền thúc giục:
- Con cứ lại đi! Như thế cũng như ta dạy con luyện võ đấy mà!
Thấy nói là dạy võ, Thừa Chí liền xông ngay lại, giơ tay định nắm lấy tà áo của Nhân Thanh. Nhưng tay cậu vừa sắp trờ tới thì tà áo đó bỗng rụt lạ, chỉ cách xa đầu ngón tay Thừa Chí độ hai, ba tấc thôi. Thấy vậy, cậy tiến lên một bước đủ vừa nắm lấytà áo. Ngờ đâu, cậu chẳng thấy sư phụ đâu nữa, chỉ thấy có tay người vỗ sau gáy cậu một cái, và có tiếng gọi: "Ta ở đây mà!" Thừa Chí quay mình định hai tay ôm choàng lấy sư phụ ngờ đâu ông ta đã biến mất. Cậu vội quay lại thấy sư phụ đứng cách xa tới hai, ba trượng. Tính hiếu thắng của trẻ con thúc đẩy, cậu nghĩ thầm: "Thế nào ta
cũng phải bắt cho được mới thôi!" Nghĩ đoạn, cậu nhảy xổ lại nắm lấy tay áo của sư phụ. Mục Nhân Thanh chỉ phẩy ta áo một cái, ông ta nhẩy ra tận đằng xa rồi, Thừa Chí
vừa cười vừa đuổi theo. Đang lúc đó cậu thấy chàng Câm chỉ tay ra hiệu, bảo cậu nên
chú ý. Thừa Chí sực nghĩ: "Quả nhiên sư phụ dùng thân pháp trong thế võ Thập Đoạn
Cầm thôi, nhưng tại sao ông ta lại nhanh nhẹn đến thế?" Nghĩ đoạn, cậu vừa đuổi vừa
ghi nhớ lối sử dụng thân pháp của sư phụ. Cậu vốn dĩ đã thuần thục thế võ "Thập Đoạn
Cầm" nhưng vì Mục Nhân Thanh tiến thoái lẩn tránh nhanh nhẹnh quá và trong lúc
vận dụng thế võ, lại khôn khéo vô cùng. Thừa Chí thông minh lạ thường, một mặt đuổi
bắt, một mặt nhớ kỹ thân phá của sư phụ. Sau cùng, cậu vừa đuổi vừa vận dụng thân
pháp một cách khôn khéo, quả nhiên thấy nhanh nhẹn gấp trước mấy lần. Mục Nhân
Thanh thầm gật đầu khen thầm: "Thằng bé này thông minh đấy!" Lúc ấy Thừa Chí
đuổi càng nhanh bao nhiêu, Mục Nhân Thanh càng tránh lẹ bấy nhiêu. Hai người chạy
đuổi càng ngày càng nhanh, đến nỗi chỉ thấy có hai cái bóng người bay múa đó đây.
Bỗng thấy Mục Nhân Thanh cất tiếng cười ồ, rồi ôm lấy Thừa Chí, vừa cười vừa nói:
- Đồ đệ tài giỏi, đứa trẻ ngoan ngoãn đáng yêu của thầy!
Thừa Chí thấy trong "Thập đoạn Cầm" có nhiều miếng huyền ảo như vậy trong
lòng hớn hở vô cùng.
Mục Nhân Thanh lại nói:
- Thôi bấy nhiêu cũng đủ cho con tập luyện rồi.
Nói xong, ông ta đặt Thừa Chí xuống đất dặn tiểu đồ đệ hãy ở lại luyện tập thêm
vài lần nữa rồi đi vào gia trang.
Thừa Chí luyện tập từ đầu chí cuối, lại tập thêm hơn mười lần nữa. Ngoài những
thân pháp của sư phụ mà cậu học đươc, cậu còn biến chế thêm vài mánh lới riêng biệt
nữa.
Tối hôm đó, cậu sung sướng quá, chỉ gãi đầu gãi tai, trằn trọc suốt đêm không sao
ngủ được. Đến khi mệt quá thiếp đi cậu vẫn nghĩ tới sự luyện võ trong giấc mơ.
Vừa tảng sáng, sợ quên những miếng võ hôm qua đã học được cậu vội ra ngay sân
ôn luyện lại, càng tập càng thêm hăng hái. Bỗng nghe phía sau có tiếng ho, cậu quay
lại, trông thấy sư phụ miệng mỉm cười đang đứng tại đó. Cậu vội cúi đầu chào:
- Đệ tử kính chào sư phụ.
- Mấy miếng võ của con vừa chế biến ra kể cũng khá đấy. Ngay như miếng con
vừa đánh xong cũng đã nhanh lắm, nhưng hạ bộ vẫn còn nhiều chỗ sơ hở. Nếu kẻ địch
là người giỏi võ, họ chỉ dơ chân ra móc một cái là con bị nguy hiểm ngay. Cho nên con
phải đánh như thế này.
Nói đoạn, Mục Nhân Thanh liền đứng vào địa vị kẻ địch, vừa tấn công vừa chỉ
dẫn vào những yếu điểm. Chỉ dặn qua một lần, Thừa Chí đã hiểu ngay. Ngày hôm đó,
cậu lại học thêm được vài miếng võ tuyệt xảo.ở trên Hoa Sơn luyện tập, thấm thoát đã ba năm. Năm đó Thừa Chí được 12 tuổi.
Vì luyện võ từ thuở nhỏ nên thân thể cậu chóng nở nang hơn người. Thỉnh thoảng Mục
Nhân Thanh có việc phải xuống núi. Hễ đi cỡ hai, ba tháng ông ta mới về. Trước khi
đi, thế nào ông ta cũng dạy Thừa Chí một vài quyền pháp, để khi về, bảo cậu luyện lại
cho ông xem. Lần nào cậu cũng thành thạo những quyền pháp mới học được.
Tết Đoan Ngọ năm nọ, sau khi uống rượu Hồng Hoàng xong, bỗng nhiên Mục
Nhân Thanh đem bức hoạ của sư gia ra treo. Ông ta quỳ lạy xong, gọi Thừa Chí lạy, rồi
nói với cậu rằng:
- Con có biết tại sao hôm nay thầy bảo con lạy Tổ sư gia không?
- Thưa thầy con không biết ạ.
Mục Nhân Thanh vào gian trong bưng một hộp gỗ hình dài ra đặt hương án, rồi
mở nắp ra, chỉ thấy ánh sáng loè mắt, một bảo kiếm dài ba thước nằm trong đó. Thừa
Chí trống ngực đập thình thịch, miệng run run hỏi:
- Sư phụ dạy con học kiếm phải không?
Mục Nhân Thanh gật đầu, lấy thanh bảo kiếm ra, vẻ mặt nghiêm trang, bảo Thừa
Chí:
- Con quỳ xuống, nghe lời thầy dạy!
Thừa Chí vội vàng quỳ xuống. Ông ta nói tiếp:
- Kiếm là tổ của trăm thứ khí giới, rất khó học. Con thông minh lại hiểu biết chóng, thế
nào cũng học được thành tài. Nhưng kiếm pháp của phái Hoa Sơn chúng ta, từ các đời
tổ sư truyền xuống, ai nấy đều nhờ ở trí tuệ thông minh của mình mà sáng kiến thêm,
nên mỗi đời mỗi tinh xảo hơn. Các phái võ công khác, sư phụ họ thường hay giữ lại
một vài miếng bí quyết để hộ thân, không dạy hết cho đồ đệ, nên các phái đó một đời
một tàn lụinhư vậy, để tránh điều đó nên lúc chọn đồ đệ để truyền dạy võ nghệ rất là nghiêm ngặt. Khi đã tuyển chọn xong rồi là sư phụ phải dốc túi dạy hết. Vì vậy, môn kiếm pháp này, đời nào trò cũng giỏi hơn thầy. Kiếm pháp của ta khó học vô cùng và cũng ác hiểm hơn các kiếm pháp khác. Nếu con chịu khó luyện tập thành tài, sẽ trở nên một kiếm sĩ thiên hạ vô địch thủ ngay. Trước khi dạy con kiếm pháp, thầy buộc con phải thề độc không được tàn sát một người oan uổng cả.
Thừa Chí nhanh miệng thề luôn.
- Được rồi con đứng lên đi!
Thừa Chí đứng dậy, ông ta lại nói tiếp:
- Thầy biết con tâm địa nhân từ, chắc không bao giờ con giết bừa những người
hiền lành đâu. Nhưng giữa những thị phi, cũng có khi khó phân biệt phải trái. Quý hồ
con đặt lòng từ thiện trên hết, thì không bao giờ giết nhầm đâu. Điều này con nên nhớ
kỹ!
Thừa Chí gật đầu vâng lời. Mục Nhân Thanh tay trái nắm kiếm quyết, tay phải giơ
bảo kiếm lên. Thật là "Đường kiếm như Rồng bay Phụng múa, lóe hào quang tựa ánh
sáng mặt Trời".
Một kiếm pháp thiên hạ vô song bắt đầu phát động.
Hồi 4
Quanh năm luyện quyền kiếm
Dưới ánh mặt trời, trường kiếm lại càng lóng lánh chói lọi. Trong lúc múa
kiếm, chỉ thấy luồng bạch khí lăn đi lộn lại. Thừa Chí theo sư phụ học kiếm
trong ba năm liền tài ba đã khác xưa nhiều. Nhưng mỗi khi Mục Nhân Thanh múa kiếm tới lúc thật nhanh, cậu vẫn không sao nhận rõ bộ pháp và thân pháp của sư phụ như thế nào, chỉ thấy một luồng gió hoặc như một tòa núi vậy thôi.
Múa tới miếng sau cùng bỗng nghe thấy Nhân Thanh hét lên một tiếng thanh kiếm rời khỏi tay như một tia chớp đã cắm ngập hai phần ba vào thân một cây cổ thụ cách đó hơn trượng, thấy sức lực của sư phụ mạnh lạ lùng, Thừa Chí kinh ngạc, há hốc mồm và ngẩn người ra. Bỗng nhiên nghe thấy sau
lưng có tiếng người la lớn: "Giỏi lắm", cậu ngạc nhiên vì ở trên núi mấy năm nay, ngoài tiếng của sư phụ ra, không bao giờ họ nghe thấy tiếng nói của người thứ hai. Cậu quay đầu lại, thấy một đạo nhân đang vuốt râu, mỉm cười.
Đạo nhân đó mặc áo đạo bào màu vàng, sắc mặt hồng hào, tóc nhắm như sợi bạc.
- Mười mấy năm nay không thấy chú dùng kiếm, không ngờ bây giờ chú lại tiến bộ đến thế.
Nhân Thanh cả cười, trả lời:
- Kìa, Mộc Tang đạo huynh! Không hiểu cơn gió nào đã thổi đạo huynh tới nơi đây thế! Thừa Chí, con mau ra lạy chào đạo trưởng đi.
Nghe lời thầy, Thừa Chí chạy nhanh lại quỳ xuống lạy. Mộc Tăng đại nhân cười nói:
- Thôi không dám.
Rồi đưa tay đỡ thừa chí dậy. Phàm người học võ, hễ gặp ngoại lực áp bức, tự nhiên phản công lại ngay. Thấy Mộc Tang đạo nhân kéo mình mạnh quá, dĩ nhiên Thừa Chí phải dùng hai tay bị nắm kéo dằn lại. Chỉ có thế, Một Tang đạo nhân đã thử được tài nghệ cậu ta ra sao rồi. Thử xong, đạo nhân vừa cười vừa nói với Mục Nhân Thanh:
- Lão Mộc đã mấy năm nay không gặp chú, tưởng chú đi chu du tận đâu đâu, thì ra chú ẩn nấp ở đây lén lút dạy võ cho đồ đệ. Kể ra số của chú cũng may mắn lắm đấy!
Sắp chết đến nơi mà còn kiếm được một nhân tài như vậy!
Hai người vẫn thường nói bông đùa nhau quen rồi, nay thấy bạn khen đồ đệ mình, Mục Nhân Thanh có vẻ khoái chí, tự đắc lắm.
Mộc Tang đạo nhân lại nói:
- ố chà! Hôm nay bác không sẵn tiền để tặng "lầy xì" cho cháu. Nhưng bây giờ đã trót nhận mấy cái vái của cháu rồi, biết làm thế nào bây giờ?
Nghe thấy đạo nhân nói vậy, Mục Nhân Thanh xúc động linh cơ nghĩ thầm: "Lão quỷ đạo nhân này tài ba độc đáo, chốn giang hồ phải tặng anh ta biệt hiệu là "Quỷ ảnh Tử" (cái bóng ma). Nếu y bằng lòng dạy cho Thừa Chí một vài đường, kể cũng hân hạnh cho nó lắm rồi. Nhưng vốn dĩ y không chịu thâu nhận đồ đệ, ta phải nghĩ cách nói khích thì y mới chịu dạy. Nghĩ đoạn, Nhân Thanh nói liền:
- Thừa Chí, đạo trưởng đã nhận lời chỉ bảo cho con, vậy con mau mau quỳ lạy tạ ơn đi!
Thừa Chí thông minh vô cùng, thấy sư phụ vừa nói dứt lời liền quỳ xuống vái lạy.
Mộc Tang đạo nhân lớn tiếng cười ha hả:
- Thôi! Thôi! Thôi! Ta chịu thầy trò ngươi rồi. Thầy nào trò nấy có khác! Sư
phụ không biết xấu hổ, mà đồ đệ cũng chả ra cái quái gì! Này, bé con, cháu hãy nghe
ta nói, cháu nên làm người chân chánh thì hơn, đừng học cái trò mặt dày như sư phụ cháu. Chưa biết ta định cho cháu cái gì, sư phụ cháu đã đòi ta dạy võ cho cháu ngay!
Thôi được, ta đã nhận lời thì đây, ta cho cháu cái này vậy.
Nói xong, Mộc Tang đạo nhân móc túi vải đeo sau lưng, lấy ra một chiếc áo cánh đen thui thủi và nặng chình chịch đưa cho Thừa Chí. "áo đó không phải bằng tơ hay lụa, không hiểu làm bằng cái quái gì nhỉ?" Cậu đang ngẫm nghĩ thì Mục Nhân Thanh đã nói ngay:
- Đạo huynh đừng đùa giỡn trẻ con nữa! Vật quý báu như thế, cho nó sao được!
Thấy sư phụ nói như vậy, Thừa Chí mới biết cái áo cánh đó là một bảo vật kỳ lạ, liền trao trả cho Mộc Tang đạo nhân. Lão đạo sĩ xua tay nói:
- Ta có hạ tiện như sư phụ cháu đâu. Ta đã cho là cho, cháu cứ ngoan ngoãn nhận lấy mà dùng.
Thừa Chí chưa dám nhận, nhìn sư phụ như thầm hỏi ý kiến. Mục Nhân Thanh liền nghiêm trang nói:
- Nếu vậy con tạ ơn đạo trưởng đi!
Thừa Chí được lệnh của sư phụ, liền nói mấy lời cảm tạ lão sư. Mục Nhân Thanh lại nói tiếp:
- Cái áo này đạo trưởng đã tốn biết bao tâm huyết và phải thập tử nhất sinh mới lấy được báu vật ấy để hộ thân, vậy con mặc luôn áo vào đi.
Cậu nghe lời, mặc ngay cái áo cánh đó vào người. Mục Nhân Thanh nhảy tới cạnh cây cổ thụ, dùng hai ngón tay khẽ gắp thanh kiếm ngập sâu ở thân cây ra, rồi nói tiếp:
- Cái áo này đan bằng sợi bạch kim lẫn với tóc và lông của con vượn lông vàng.
Bất cứ khí giới nào, dù sắc bén đến đâu, cũng không thể đâm thủng nó được.
Vừa nói dứt lời, ông ta đâm ngay một mũi kiếm vào vai đồ đệ. Nhát kiếm đó
nhanh như chớp nhoáng, Thừa Chí không sao tránh kịp, vừa giật mình thì mũi kiếm đã trúng ngay vào vai cậu.
Nhưng nhờ có chiếc áo đó che chở, thanh kiếm bị bật trở lại và cậu không hề bị thương mảy may. Mừng quá, cậu quỳ ngay xuống vái lạy Mộc Tang đạo nhân.
Đạo nhân vừa cười vừa nói:
- Lúc đầu, nhìn thấy cái áo xấu xí, dù cháu có cảm ơn ta, nhưng trong lòng chắc không ưng tí nào cả. Đến bây giờ cháu mới bằng lòng thật sự phải không?
Thừa Chí xấu hổ, đến nỗi đỏ mặt tía tai. Mộc Tang đạo nhân lại nói:
- Cái áo này đã cứu bác mấy lần khỏi chết. Nhưng bây giờ, nếu sư phụ cháu không làm khó dễ bác, thì cũng không cần phải mặc cái của quý này làm gì nữa. Vì xét trong
thiên hạ hiện nay chưa thấy ai có thể đánh nổi bác bị thương được.
Nói xong, đạo nhân lớn tiếng cười ha hả, có vẻ tự phụ.Mục Nhân Thanh vừa cười vừa nói:
- Lão đạo sĩ, ở trước mặt tiểu bối đừng nên nói khoác nói lác nhé! Võ nghệ của tôi có được bằng lão huynh đâu? Vả lại đời này thiếu gì người giỏi! Phải biết, ngoài từng trời nầy lại có từng trời khác, mình giỏi có người giỏi hơn...
Mộc Tang mỉm cười trả lời:
- Lại đây! Lại đây! Anh em ta không tiện dở dao dở kiếm ra đối địch, chi bằng...
- Chi bằng phân thắng bại trên bàn cờ phải không?
- Đúng lắm! Đúng lắm! Chú là con sâu nằm trong bụng tôi có khác!
- Nếu lão huynh chưa phải lúc lên cơn nghiện đánh cờ chắc cũng chưa thèm đến nơi thâm sơn này kiếm đệ phải không. Thế cái trò cúng cơm ấy lão huynh có đem theo không?
Mộc Tang đạo nhân hớn hở, móc túi vải lấy đủ bộ, cả bàn lẫn quân cờ ra. Chàng Câm vội khiêng bàn ghế ra vườn. Hai đạo sĩ cùng ngồi dưới bóng cây phân tài cao hạ.
Vì Thừa Chí không hiểu chơi cờ ra sao cả, nên vừa đánh, Mộc Tang vừa dạy cậu, đồng thời, ông ta muốn khoe khoang nước cờ của mình cao hơn Mục Nhân Thanh. Mặc cho Mộc Tang nói dóc, Nhân Thanh cứ lẳng lặng nghĩ nước đi. Cờ hai vị đang chơi là cờ vây, dễ biết đi mà khó tinh xảo, chỉ xem một ván là Thừa Chí biết đi ngay. Quả nhiên, ván đầu Mộc Tang thắng 2 quân cờ. Hai người đánh cho tới mặt trời lặn mới xong 3 ván. Rút cuộc Mộc Tang thắng hai thua một mà vẫn đòi đánh nữa, nhưng Nhân Thanh
từ chối vì mỏi mệt, nên ông ta mới chịu thôi. Tuy vậy trong lòng ông ta vẫn còn luyến tiếc.
Trong ba ngày liền, Mộc Tang đạo nhân cứ níu lấy Nhân Thanh đòi đánh cờ. Sáng sớm ngày thứ tư, Mục Nhân Thanh phải nói trước rằng:
- Ngày hôm nay, xin tạm nghỉ đánh cờ, để đệ còn phải dạy kiếm pháp cho đồ đệ.
Thấy là công việc chánh đáng, nên Mộc Tang không tiện phản đối. Ngồi chờ mãi sốt ruột vừa mới thấy Nhân Thanh truyền kiếm pháp cho Thừa Chí xong, ông ta chạy ngay lại vừa kéo Nhân Thanh vừa nói:
- Nào, lại đây! Chúng ta đánh 3 ván.
Dạy kiếm ngót nửa ngày, Mục Nhân Thanh đã cảm thấy mỏi mệt rồi. Nhưng biết Mộc Tang nghiện cờ lắm, nếu ông ta không nhận lời đánh vài ván thì Mộc Tang ngủ không yên. Vì miễn cưỡng ngồi đánh, nước cờ của Nhân Thanh càng thấp kém vô cùng. Đi được mười nước, giàn trận chưa xong, quân cờ của ông ta đã bị bao vây tứ phía rồi. Nước cờ đã lâm và ngõ bí, ông ta phải miễn cưỡng đặt quân cờ của mình làm mắt để mong gỡ thoát, nhưng tứ phía yếu điểm đều sắp bị đối phưong chiếm cả. Ông ta
tay cầm quân cờ, ngẫm nghĩ mãi vẫn do dự, chưa dám đặt xuống. Thừa Chí đứng cạnh xem, nhịn không nổi liền mách nước:
- Sư phụ đặt quân cờ ấy xuống đây, thế nào sư bá cũng tìm nước gỡ rồi sư phụ lại đặt nốt quân kia ở chỗ này, phải sẽ thoát khỏi vòng vây không?
Nước cờ Thừa Chí vừa mách quả thật thần diệu vô cùng. Nhân Thanh vốn không có tánh tự phụ như Mộc Tang, thấy đồ đệ nói phải nghe liền. Quả nhiên bên quân đen xông ra khỏi vòng vây và trái lại còn hãm chết một số quân cờ trắng. Đáng lẽ ván cờđó Nhân Thanh phải đại bại, nhưng nhờ có Thừa Chí mách nước, kết cuộc có thua ba quân cờ thôi.
Mộc Tang khen ngợi Thừa Chí thông minh và khôn ngoan, rồi chấp sáu quân, ép cậu ta ngồi đánh một ván. Hình như Thừa Chí có thiên tài về đánh cờ vậy. Tánh cậu lại hiếu thắng chớ không nhường nhịn như Nhân Thanh. Vì vậy ván cờ đó, tuy Mộc Tang thắng nhưng không dễ dàng như đạo nhân tưởng. Ngày hôm sau mới tảng sáng, Mộc Tang đã bắt Thừa Chí đánh cờ, nhưng không ngờ cậu bé thắng hai ván liền. Thế rồi từ chấp 6 quân cờ rút xuống chấp 5 và chưa đầy 10 ngày, nước cờ của Thừa Chí đã cao lắm. Mộc Tang chỉ dám chấp một quân, hai bên mới có thắng bại.
Thừa Chí để tâm trí vào cờ dần dần xao lãng học tập võ nghệ. Vì nể Mộc Tang nên lúc đầu Nhân Thanh không nói gì cả. Sau thấy một già một trẻ, suốt ngày quên ăn quên ngủ cứ mải mê đánh cờ, nên ông phải dặn ngầm Thừa Chí mỗi ngày chỉ được phép đánh một ván cờ với Mộc Tang thôi, còn thời giờ phải dành cho việc luyện tập võ nghệ. Thấy sư phụ nhắc nhở, Thừa Chí cũng bỏ phí mất mười mấy ngày không tập tành gì cả, nên cậu cũng tự xấu hổ vô cùng. Sau đó hai ngày liền, hễ Mộc Tang gọi đánh cờ
thì Thừa Chí thoái thác còn bận việc tập luyện kiếm thuật, không có thời giờ rỗi rãi.
Mộc Tang nói:
- Cháu cứ đánh cờ với bác đi! Đánh xong, bác sẽ dạy cháu một thế võ này, thế nào sư phụ cháu cũng hài lòng.
- Vâng, xin phép bác cho cháu hỏi qua sư phụ cháu đã.
- Được, cháu cứ đi hỏi đi
Thừa Chí liền chạy ra hỏi ý kiến sư phụ, Nhân Thanh mừng lắm, vì hiểu rõ Mộc Tang đạo nhân, được mệnh danh là "Quỷ ảnh Tử", võ nghệ biệt lập một phái, nhưng tánh nết rất cổ quái, không chịu thu nhận đồ đệ, nay ông ta bằng lòng dạy võ cho Thừa Chí, chắc cũng vì sự nghiệp cờ quá mà nên, Nhân Thanh liền dẫn cậu tới trước mặt Mộc Tang, cúi chào và nói rằng:
- Đại huynh đã vui lòng đã giúp cho tiểu đồ thành tài, đệ xin cám ơn trước.
Nói đoạn, ông ta gọi Thừa Chí cúi lạy Mộc Tang, làm lễ bái sư. Thấy vậy, Mộc Tang nhảy lên hai tay xua lia lịa và nói rằng:
- Tôi không nhận đồ đệ đâu. Nếu cháu nó muốn tôi dạy nó thì phải thử tài xem nó có hạ tôi được không đã.
- Đại huynh nói nó hạ thì hạ về môn gì cơ chứ?
- Quyền pháp và kiếm pháp của chú trong thiên hạ đã khét tiếng là một không hai rồi, ngay như lão đây cũng xin bái phục. Thằng bé này tuy chỉ học được 2, 3 phần của chú, nhưng ở chốn giang hồ cũng khó gặp người địch thủ rồi, nhưng nói tới ám khí và khinh công thì phải nhường cho lão đạo này đôi chút.
- Vâng, ai mà chẳng biết bản lãnh xuất quỷ nhập thần của Quỷ ảnh Tư, cái đó không cần huynh phải tự khen nữa.
- Chú cứ tưởng đã là môn phái tôn sư thì cái gì cũng cần phải quang minh chính đại, còn khinh công và ám khí thì không cần để ý tới! Nếu vậy chú cứ để cho cháu nó mỗi ngày đánh với tôi hai ván cờ. Nếu tôi thắng nó thì thôi, nhược bằng nó thắng tôi một ván, tôi sẽ dạy nó một món khinh công. Nó được tôi liền hai ván, thì ngoài mónkhinh công, tôi còn dạy thêm nó một môn ám khí nữa. Chú xem như vậy có công bằng không?
Nhân Thanh nghĩ thầm: "Lão đạo sĩ này cũng ưa châm biếm hài hước thật!
Nhưng cứ biết, y đã nói thì không khi nào thay đổi". Nghĩ đoạn, Nhân Thanh nói:
- Được. Xin cứ theo những lời huynh mà thi hành. Chính ra tôi không sợ Thừa Chí mải đánh cờ mà lỡ hết sự tập luyện võ nghệ. Nhưng bây giờ đã có dịp như vậy thì mỗi ngày huynh muốn đánh mười ván hay tám ván cũng mặc.
Mộc Tang và Thừa Chí nghe nói đều hớn hở vô cùng. Tiếp theo đó, hai người lại ngồi vào đánh cờ. Ngày hôm đó Mộc Tang một thắng một bại. Đánh cờ xong, ông liền bảo Thừa Chí rằng:
- Hôm nay bác dạy cháu một kiểu khinh công. Tuy chỉ là một kiểu, nhưng nếu cháu chịu khó luyện tập, cũng đủ cho cháu dùng suốt đời. Đây cháu hãy nhìn kỹ xem!
Vừa nói xong, mới thấy ông ta nhún mình một cái đã ngồi vắt vẻo trên ngọn cây rồi và lộn ngược một vòng ông ta đã đứng trước mặt Thừa Chí. Cậu bé ngẩn người há hốc miệng vỗ tay khen giỏi. Mộc Tang đem kiểu khinh công "Phân vân thừa long" (vịn mây cỡi rồng" dạy cho cậu. Tuy chỉ là một kiểu nhưng sức mạnh của lưng và đùi bộ pháp và thân pháp, đều rất tinh xảo ủy diệu.
Ngày thứ hai, Thừa Chí thua liền hai ván, hôm đó cậu không được học một môn võ nào cả.
Ngày thứ ba, cậu phải xuất kỳ binh bố hết biên giới chiếm hết phúc địa ở trung ương quả nhiên thắng liền hai ván. Mộc Tang không chịu phục đòi đánh hai ván nữa, kết cuộc một thắng một bại, thế là hôm đó Mộc Tang phải dạy cho Thừa Chí ba miếng.
Sau đã dạy xong hai kiểu khinh công, Mộc Tang hỏi:
- Cháu có biết, khi đánh với kẻ địch, bác dùng binh khí gì không?
Thừa Chí lắc đầu, Mộc Tang vừa cười vừa cầm bàn cờ lên, nói rằng:
- Tức là cái này.
Thừa Chí cũng biết bàn cờ đó làm bằng thép, nhưng không ngờ lại là khí giới hộ thân của ông ta. Mộc Tang vốc một nắm quân cờ vừa cười vừa nói:
- Đây là ám khí của ta.
Thuận tay, ông ta tung lên một cái, mấy chục quân cờ đều bay lên trời.
Mộc Tang đạo nhân đưa bàn cờ ra hứng, chỉ nghe thấy "coong" một tiếng thật lớn,
mấy chục quân cờ đều rơi xuống giữa bàn cờ. Thừa Chí chịu phục, đều nổi lè lưỡi ra hồi lâu mà không sao nói được nửa lời. Thì ra mấy chục quân cờ ném lên trên không, lúc xuống thì nào cũng quân trước quân sau, và tiếng động phải là "kinh kinh coong coong" loạn xạ một hồi, chớ không như vừa rồi mấy chục quân cùng rơi xuống một lúc vào đúng giữa bàn cờ. Như vậy đủ thấy ném lên, sức quân bình của bàn tay phải cân đối lắm mới được, và như thế, làm gì Thừa Chí chẳng phục sát đất. Còn sự lạ hơn nữa là những quân cờ rơi xuống bàn cờ không thấy bắn tung ra, chỉ thấy Mộc Tang đạo
nhân khẽ hạ thấp cánh tay để dùng giảm sức giáng xuống của các quân cờ, thế là quân nào quân nấy như có bàn tay xếp xuống bàn cờ vậy. Mộc Tang cười nói:- Ném ám khí thì phải luyện sức trước đã rồi mới luyện trúng đích sau. Khi ném ra, ta có thể muốn nặng muốn nhẹ tùy ý, rồi sau mới luyện tới việc ngắm ném trúng đích.
Nói đoạn, ông ta đem tâm pháp dùng sức lấy gân ném quân cờ lại cho Thừa Chí luyện tập.
Mộc Tang đạo nhân ở chơi trên núi Hoa Sơn thắm thoát cả nửa năm, chiều chiều đánh cờ, sung sướng quá nên quên cả ngày về. Những môn khinh công và ném quân cờ, tuyệt kỹ, ông ta đều tận tâm dạy hết cho Thừa Chí không dấu diếm nửa miếng võ nào. Lúc đó đang là mùa hè nóng nực, buổi sáng Thừa Chí tập luyện kiếm và quyền thuật, buổi chiều đánh cờ với Mộc Tang đạo nhân ở dưới bóng cây. Cờ của cậu cao hơn sư bá một nước, nhưng Mộc Tang đạo nhân vốn tánh hiếu thắng, lần nào cũng lấy quân
trắng nhường cho Thừa Chí quân đen đi trước. Như vậy ông ta được càng ít, thua càng nhiều. Một hôm, Mộc Tang tiếp tục dạy Thừa Chí môn ném ám khí thủ pháp "Mãn thiên hoa vũ" (mưa, hoa đầy trời) một lúc ném ra mười mấy quân cờ, nhưng quân công thượng thặng này không phải một sớm một chiều có thể học nên. Với môn này, Thừa Chí đã khổ tâm luyện tập bốn tháng trời nay, nhưng một lúc ném ra 3, 4 quân cờ chỉ có thể trúng một, hai quân thôi. Mộc Tang đại nhân phải đóng một tấm bảng gỗ trên có vẽ một hình nhân, gọi chàng Câm cầm lấy tấm gỗ ấy chạy, rồi ông ta ra hiệu:
- Thiên Tôn, Kim Tinh, Ngọc Trẫm!
Thừa Chí liền ném luôn ba quân cờ vào hình nhân trên bảng gỗ. Cậu chỉ ném trúng Thiên Tôn và Ngọc Trẫm hai huyệt, còn huyệt Kim Tinh thì hơi chệch một ít.
Mộc Tang lại ra hiệu:
- Quan Nguyên, Thần Phong, Đại Hách!
Chàng Câm một mặt chạy, một mặt làm rung động tấm bảng gỗ, Thừa Chí dở khinh công ra đuổi theo, tay phẩy một cái, nhưng Mộc Tang đã la lớn:
- Huyệt Quan Nguyên không trúng.
Ông ta đang định la nữa bỗng thấy Thừa Chí thất kinh, thét lên một tiếng, và nhanh tay kéo chàng Câm trở lại. Chàng Câm không hiểu gì cả, ngơ ngác quay đầu nhìn phía trước, mới thấy một con đười ươi đang định vồ mình. Chàng vội dơ bảng gỗ lên nhắm trúng đầu con thú đập xuống, nhưng chàng Câm bỗng thấy một sức mạnh đỡ lấy tay mình, thì ra đã bị Mộc Tang kéo trở lại. Rồi đạo nhân lên tiếng bảo:
- Thừa Chí, cháu đối phó với con chó này đi!
Cậu hiểu sư bá muốn thử bản lãnh của mình, xem đã tiến bộ tới đâu. Cậu vâng lời, dơ hai tay, khẽ nhảy tới trước mặt con đười ươi, con thú thấy bóng người quay mình xuống chạy. Thừa Chí lấy sức tạt vào lưng con vật một cái thật mạnh. Con đười ươi đau quá kêu rống lên, đoạn quay trở lại vươn hai tay dài ra để cào. Thấy chỗ hở của con thú để đánh. Bỗng nghe sau lưng có tiếng gió hình như có kẻ địch đánh tập kích, cậu không kịp quay đầu lại xem, vội nhún chân trái nhảy lên không. Người chưa rơi xuống
đất, cậu đã thấy rõ kẻ đánh trộm phía sau mình là một con đười ươi khác lớn hơn. Lên núi Hoa Sơn học võ mấy năm trường, Thừa Chí chưa hề đối địch thực sự với ai cả. Hai con đười ươi tuy hung ác thật, nhưng cậu không thấy sợ hãi chúng tí nào. Cậu liền dơ ngay "Phục Hổ Chưởng" đấu hai con thú nọ.Nghe thấy tiếng hò hét, Mục Nhân Thanh ở trong nhà chạy ra thấy Thừa Chí đang ra sức đấu với hai con đười ươi. Hễ bàn tay cậu đụng tới mình con thú nào là con ấy bị đau, kêu la om sòm, thấy đồ đệ tiến nhanh như vậy, ông ta rất mừng, nghĩ thầm rằng:
"Nó được tiến bộ như thế cũng không uổng công trình đã dạy nó bấy lâu nay." Hai con đười ươi bị đánh nhiều quá không dám đến gần Thừa Chí như lúc đầu nữa. Nhân Thanh hiểu biết võ nghệ của Thừa chí cũng thừa sức thắng 2 con ác thứ nhưng hiềm một nổi cậu chưa đủ công lực nên một cái tát nào cũng vậy, chỉ có thể đánh chúng đau thôi, chớ không đánh chúng bị thương được, vì sức mạnh của bàn tay cần phải luyện tập lâu năm mới được.
Nghĩ đoạn, ông ta vào lấy kiếm ra, ném cho Thừa Chí và gọi:
- Tiếp nhanh thanh kiếm!
Thừa Chí nhảy lên, giơ tay phải ra bắt thanh kiếm. Kiếm đã vào tay cậu như hổ thêm cánh. Chưa xuống tới mặt đất, cậu đã sử dụng ngay miếng "Xuyên trẫm dẫn tuyết", đâm tránh. Thanh kiếm của cậu múa lên, hơi lạnh thấu người. Tức thời hai con thú bị bao vây trong vòng tỏa ánh sáng kiếm của cậu.
Mộc Tang đạo nhân nói:
- Thừa Chí vâng lời. Đường kiếm càng múa càng chặt chẽ, nếu lúc này cậu muốn giết chết cả hai con đười ươi rất dễ như trở bàn tay, thì trong nháy mắt, cánh tay, vai, ngực, chân và đầu của hai con thú đều bị trúng thương liền liền.
Nhưng Thừa Chí không muốn hạ độc thủ, chỉ đâm cho chúng bị thương nhẹ thôi.
Hai con ác thú cũng có chút linh tánh lúc đầu chúng còn định kiếm đường tẩu thoát, nhưng sau thấy hễ định nhảy ra khỏi vòng vây là luồng kiếm đã đâm tới, chúng đành phải ngừng bước và thấy đối phương không tấn công nữa. Biết rằng kẻ địch không định giết chết chúng, cả hai con đười ươi đồng thanh hét lên một tiếng, rồi cùng quỳ xuống đất, hai tay ôm đầu, đôi mắt long lanh nhìn vào Thừa Chí tỏ vẻ van lơn.
Chàng Câm thấy Thừa Chí thâu phục được hai con đười ươi mừng quá vỗ tay dậm chân rồi chạy vào bên trong lấy cuộn giây thừng ra trói lại. Lúc đầu, chúng còn kêu gào kháng cự, nhưng sức chàng Câm khỏe quá, chỉ bóp một cái, chúng đã bị đau thấu xương thấu cốt, không dám phản kháng nữa và ngoan ngoãn để yên cho chàng trói buộc. Mộc Tang và Nhân Thanh bước tới gần khen ngợi và khuyến khích Thừa Chí mấy lời. Cậu mừng lắm, đi hái luôn hoa quả đem về cho con đười ươi ăn.
Nuôi được bảy, tám hôm, hai con thú đã chịu thuần phục dần dần, dù có cởi giây thả lỏng, chúng cũng không dám bỏ chạy. Cậu hớn hở đặt tên cho con đực là Đại Oai và con cái là Tiểu Quái. Thấy cậu đặt tên tiểu xảo cho hai con thú to lớn và lông lá xù xì như vậy, Mộc Tang và Nhân Thanh không nhịn được cười. Càng nuôi lâu càng ngày thấy Đại Oai và Tiểu Quái rất khôn. Hễ Thừa Chí ra lịnh là chúng nghe lời làm ngay.
Một hôm, duyên may trời đem lại, hai con đười ươi bỗng cao hứng trèo lên đỉnh núi thật cao hái quả ăn. Trong khi leo lên vách đá dựng đứng như một bức tường, Tiểu Quái trượt tay từ trên cây ngã lăn xuống. Từ chỗ đó xuống tới khe núi cao chừng bốn chục trượng, nếu không may tất vị tan xương nát thịt.
Nhìn thấy Tiểu Quái ngã lăn xuống vực thẳm, Đại Oai mất cả hồn vía, yên trí con thú thế nào cũng chết chẳng chơi. Nhưng lúc nó leo xuống tới lưng chừng vách núi đá, thấy con Tiểu Quái đang vịn tay vào một cái hang đá, vì lâu ngày không có người tới,đã bị đất cát phủ lấp gần kín. Trong khi ngã, Tiểu Quái cứ cào lung tung vào vách đá, hòng vớ được vật gì để khỏi ngã chết. May mắn làm sao, nó quào trúng được miệng hang nên nó mới thoát chết. Nhưng ác hại thay, hang đó lại lưng chừng núi, lên không được mà xuống cũng không xong, nó ngơ ngơ, ngác ngác, không biết làm cách nào để thoát hiểm.
Đại Oai cũng vậy, không làm sao xuống được, tới cửa hang để cứu con nọ. Vô kế khả thi, nó liền chạy xuống núi tìm kiếm Thừa Chí. Lúc đó cậu đang luyện tập kiếm pháp thấy Đại Oai mình mẩy dính đầy gai góc, và máu tươi, vẻ mặt phờ phệch, miệng kêu chí cha chí chít, cậu đoán chắc con Tiểu Quái đang bị lâm nguy gì đây! Cậu vội chạy đi kiếm chàng Câm rồi cả hai cùng theo con Đại Oai đi dẫn lộ. Cách đó không xa, Đại Oai chỉ lên vách đá vừa nhảy vừa kêu. Thừa Chí và chàng Câm ngẩng đầu trông lên thấy con Tiểu Quái đang treo lơ lửng trên lưng chừng vách đá. Cậu nghĩ ngay
được một kế, vội chạy về thạch thất lấy cuộn dây thừng ra, rồi cùng chàng Câm và Đại Oai leo lối bên lên tận trên ngọn vách, thả thòng lòng sợi giây xuống. Lúc này Tiểu Quái đã mỏi mệt lắm rồi, bỗng thấy sợi giây thòng xuống cạnh tay, nó liền nắm chặt lấy. Chàng Câm và Thừa Chí liền kéo nó lên tới đỉnh vách đá.
Mình mẩy Tiểu Quái bị xây sát vài chỗ, may vết thương không nặng lắm, nhưng nó vẫn kêu la om sòm và giơ hai ám khí dị hình. Cậu muốn gỡ ám khí ấy ra nhưng rút mãi không được. Con Tiểu Quái đau quá vừa kêu vừa nhảy nhót, lúc ấy cậu mới biết đầu ám khí có gai ngược, liền giựt mình nghĩ thầm: "Có lẽ địch đã lẻn vào núi Hoa Sơn này chăng?"
Cậu ra hiệu hỏi Tiểu Quái, xem ám khí này ai ném tới chăng? Con thú chỉ trỏ ra hiệu, là kho thò tay vào miệng hang đã bị nó cắn phải. Cậu cảm thấy lạ quá, nghĩ thầm:
"Hang núi ở tận lưng chừng vách đá, xưa nay chưa hề lộ hình. Vả lại, hang đá cách xa mặt đất như thế, làm sao lại có ám khí dấu trong đó? Càng nghĩ, cậu càng không hiểu, vội đưa chàng Câm và hai con đười ươi trở về thưa với sư phụ và Mộc Tang đạo nhân.
Nghe thấy Thừa Chí kể lại câu chuyện xong, hai đạo sĩ cầm ám khí lên xem cũng phải lấy làm lạ. Mộc Tang nói:
- Tôi là người ưa dùng ám khí nhứt và mỗi ám khí của các họ môn phái trong chốn giang hồi, tôi đều thấy cả rồi. Nhưng ám khí hình con rắn này thì quả thật tôi chưa
từng trông thấy bao giờ. Lần này cả tôi cũng mơ hồ nốt.
Nhân Thanh áy náy vô cùng, liền nói với Mộc Tang:
- Đại huynh gỡ ám khí ra hộ nó đi.
Mộc Tang về phòng lấy con dao sắc bén trong túi thuốc ra, rồi phải rạch bàn tay
Tiểu Quái mới moi được ám khí đó ra. Đoạn ông ta lấy thuốc rắc vào vết thương và
băng bó cho con thú. Nhờ vậy, nó mới khỏi đau không kêu la nữa.
Hai chiếc ám khí đo dài hai tất tám phân, hình một con rắn ngẩng đầu lè lưỡi.
Đầu lưỡi con rắn đó lại có ba nhánh, mỗi nhánh có một cái gai ngược. Mình con rắn
đen thui thủi, bên ngoài dính đầy đất và rêu. Mộc Tang cầm ám khí lên xem, lấy dao
cạo hết rêu bẩn đi, càng cạo càng thấy mình con rắn sáng chói, sau cùng mới hay ám
khí đó bằng vàng. Ông ta nói:
- Thảo nào nó nặng chĩu như thế, thì ra nó làm bằng vàng. Người xử dụng ám khí
này sao lại hoang phí đến thế! Mỗi lần ra tay ném là mất toi mấy lượng vàng.Mục Nhân Thanh bỗng thất kinh nói:
- Người đó là Kim Sà Lang quân.
Mộc Tang hỏi:
- Kim Sà Lang quân nào?
Hỏi đoạn, ông ta ngẫm nghĩ giây lát, lại hỏi tiếp:
- Có phải chú muốn nói Hạ Tuyết Nghi đấy không? Nghe nói hắn đã chết hơn
mười năm nay rồi!
Vừa nói xong, ông ta lại giựt mình la lớn:
- Phải rồi, chính là hắn đấy!
Ông ta lật ngửa con rắn lên xem, quả nhiên dưới bụng nó có khắc chữ "Tuyết".
Lấy con thứ hai xem cũng có chữ như vậy. Thừa Chí liền hỏi:
- Thưa sư phụ, Kim Sà Lang quân là ai thế?
- Để lát nữa thầy nói cho con biết. Đạo trưởng thử đoán xem, tại sao ám khí của
hắn lại giấu ở trong hang núi thê?
Mộc Tang trầm ngâm không nói, ngẩn người ra nghĩ ngợi.
Thấy hai vị thầy trông thấy hai chiếc Kim Sà chủy, thái độc có vẻ nghiêm nghị nên Thừa Chí cũng không dám hỏi nhiều. Cơm chiều xong, Nhân Thanh và Mộc Tang thắp nến trò chuyện, có nhiều câu Thừa Chí không hiểu, chàng chỉ nghe những chuyện nói về "Thù sát" hay "Bảo phục" vân vân, và còn thêm những tiếng lóng vào nữa. Mộc Tang nói:
- Như vậy nghĩa la chú bảo Kim Sà Lang Quân ở nơi đây là tránh kẻ thù phải không?
Mục Nhân Thanh đáp:
- Cứ theo tài ba của ông ta thì chả cần phải từ Giang Nam chạy tới trốn hang cùng ngõ
hẻm mà làm gì.
- Có lẽ người ấy chưa chết cũng nên?
- Hành tung của người đó thật kỳ bí, mọi hành động đều thần xuất quỷ mật. Anh
em chúng mình lăn lộn trên chốn giang hồ bấy lâu năm chỉ nghe thấy nói đến tên hắn,
chớ chưa hề gặp mặt hắn bao giờ! Có tin đồn rằng hắn đã chết rồi, nhưng chẳng ai biết
rõ hắn chết hồi nào, ở đâu, và cách nào?
Mộc Tang thở dài một tiếng rồi nói:
- Người đó hành sự rất kỳ quái! Có lúc độc ác vô cùng, có khi lại hành hiệp
trượng nghĩa, hắn là người tốt hay là kẻ xấu, đố ai mà quyết đoán hẳn! Đã mấy lần rồi,
tôi đi kiếm hắn nhưng đều mất công chẳng thấy đâu cả!
- Nếu không biết rõ chúng ta chớ nên tán phỗng bâng quơ e có sự sai lầm, hại đến
thanh danh người ta chăng! Thôi, để sáng mai chúng ta thử trèo lên hang động xem
sao đã.Sáng sớm ngày hôm sau, Mục Nhân Thanh, Mộc Tang, Viên Thừa Chí và chàng
Câm, bốn người đem dây thừng và khí giới, leo lên trên đỉnh vách đá. Mộc Tang nói:
- Để tôi xuống cho.
Mục Nhân Thanh gật đầu, nói:
- Đạo trưởng nên cẩn thận một chút.
Nói đoạn, Nhân Thanh buộc giây thừng vào lưng Mộc Tang, rồi cùng chàng Câm
nắm chặt đầu dây từ từ thả Mộc Tang xuống.
Tới cửa động, Mộc Tang nhìn xuống phía dưới chân, chỉ thấy sương mù và một
vài đám mây lơ lửng bay qua, chớ không trông thấy đất. Xưa nay là người vẫn hay có
tánh bông đùa, mà lúc này Mộc Tang cũng phải sởn tóc gáy, lo ngại thầm ngó vào
trong động, đạo trưởng thấy tối đen như mực, sâu thăm thẳm. Vì cửa động quá nhỏ
hẹp, Mộc Tang không chui lọt, đành phải lấy vải bọc tay, rồi khẽ thò vào trong động
dò thử xem, bỗng đụng phải những vật gì hết sức bén nhọn, cắm xung quay cửa động.
Mộc Tang sờ soạng giây lát, biết ngay những cái đó là Kim Sà Chủy, liền nhẹ tay rút
ra, tất cả 14 chiếc mới hết. Đạo trưởng lại thò tay thật sâu nữa, tới khi mặt đã áp sát cửa
động, mà vẫn không thấy gì lạ. Sợ người cầm dây ở trên mỏi tay, đạo trưởng cất tiếng
gọi:
- Kéo bần đạo lên nhé.
Mục Nhân Thanh nghe thấy tiếng gọi, liền kéo dây lên. Khi lên tới cách đỉnh núi
còn hơn hai trượng, Mộc Tang chân phải đạp vào mỏm đá rồi chỉ nhún mình một cái
đã nhảy lên tới đỉnh núi ngay. Đạo trưởng đưa nắm Kim sà chủy cho Nhân Thanh xem,
rồi cười nói:
- Chú Mộc được bấy nhiêu vàng, anh em ta phát tài to.
Mặt Nhân Thanh càng nặng trĩu hơn trước, miệng lẩm bẩm nói:
- Không hiểu tên ma đầu đó để những thứ này ở đấy có dụng ý gì? Không biết trong
động còn những thứ gì nữa? Để tôi leo xuống thử xem.
- Chú leo xuống cũng vô ích, cửa động nhỏ lắm, chú vào làm sao được?
Mục Nhân Thanh vốn trong lòng có nhiều tâm sự, cúi đầu, không nói năng gì cả.
Thừa Chí bỗng nói:
- Thưa sư bá, cháu chui lọt không?
Mộc Tang mừng lắm, liền trả lời:
- Cháu chui lọt đấy. Nhưng cao như thế cháu có dám xuống không?
- Thưa sư bá cháu dám lắm ạ. Thưa sư phụ, con xuống nhé!
Mục Nhân Thanh nghĩ thầm trong bụng: "Người giang hồ dị nhân ấy để những
bảo vật phòng thân trong đó, tất phải có dụng ý gì? Nếu không do thám minh bạch, sợ
có gì nguy hiểm chăng? Nếu để cho mình thằng nhỏ xuống đó mạo hiểm, kể cũng
đáng lo ngại lắm đấy!"
Nghĩ đoạn, ông ta liền trả lời Thừa Chí:
- Thầy chỉ sợ trong động có sự gì nguy hiểm con ạ!- Thưa sư phụ, con xin hết sứ thận trọng, chắc sẽ không xảy ra việc gì đâu.
Thấy Thừa Chí hăng hái sốt sắng như vậy, Mục Nhân Thanh gật đầu:
- Thôi được, con đốt bó đuốc đưa vào trước, nếu thấy đuốc tắt thì đừng có vào nhé!
Thừa Chí tay phải cầm kiếm, tay trái cầm bó đuốc, buộc dây vào lưng rồi leo xuống . Chàng nghe lời sư phụ dặn, đưa bó đuốc vào trong động thử xem. Vì con Tiểu Quái quào làm lỡ những đất bùn niêm phong cửa động, gió thổi luà vào suốt một đêm trường bay sạch hết những uế khí trong động, nên bó đuốc không bị tắt. Thừa Chí từ từ bò ào, thấy một con đường hầm nhỏ hẹp. Bò được mười mấy trượng, thấy đường hầm cao dần, cao thêm hơn trượng, cậu đã có thể đứng dậy được. Thừa Chí tiếp tục bước
vào bên trong, đến chỗ rẽ ngang, cậu càng thận trọng hơn, cầm chắc thanh kiếm để đề phòng mọi sự bất trắc. Đi được hai ba trượng nữa, cậu thấy ở phía trước mặt có một cái thạch thất. Đưa đuốc vào soi, chàng hoảng sợ toát mồ hôi lạnh, vì thấy một bộ xương người ngồi xếp bằng tròn trên tảng đá. Bộ xương đó vẫn còn nguyên vẹn, hai tay đặt lên trên đầu người.
Thấy vậy, trống ngực Thừa Chí đập thật mạnh. Cậu đưa mắt nhìn xung quanh
phòng thấy không có gì đáng sợ nữa, mới cầm đuốc soi xét kỹ lưỡng. Trước mặt bộ
xương thấy để bừa bãi mười mấy chiếc Kim Sà chủy, và bên cạnh có cắm một thanh
kiếm. Cậu không dám đụng chạm một tý gì. Nhìn lên vách đá, cậu thấy trăm bức chạm
hình người khắc bằng dao. Mỗi hình người mỗi khác nhau, không kiểu nào giống kiểu
nào, hoặc giơ tay đấm, hoặc phóng chơn đá, hình như đang luyện tập võ nghệ. Thấy
nhiều bức hình quá, cậu ngơ ngác không hiểu ý định của tác giả đã khắc những hình đồ
ấy để làm gì? Theo dõi xét tới bức ảnh cuối cùng, cậu thấy có mấy hàng chữ, cũng
khắc bằng dao, cậu đứng sát gần để nhìn cho rõ, và thấy mấy hàng chữ ấy viết như sau:
"Trọng bảo bí thuật, phó dĩ hữu duyên, nhập ngã môn lai, ngộ họa mạc oán" nghĩa là:
"Tất cả những báu vật và môn võ bí truyền đều để tặng cho người có duyên phận,
nhưng khi vào cửa động của ta, lỡ gặp tai họa đừng có oán trách."
Đang định xem nữa, chợt nghe thấy Mộc Tang lớn tiếng kêu mình, Thừa Chí vội
vàng đáp lời, rồi bò ngay ra ngoài cửa động.
Thì ra Mộc Tang và Mục Nhân Thanh ở trên đỉnh núi, thấy dây thừng càng lôi
càng dài, chờ mãi không thấy đồ đệ ra, nóng lòng sốt ruột vô cùng, Mộc Tang định
xuống xem sao, thì Thừa Chí đã giựt dây gọi rồi. Mọi người vội vàng kéo Thừa Chí
lên, thấy mặt cậu dính đầy bụi với rêu và còn tỏ vẻ hoảng sợ, biết là cậu trông thấy sự
gì kỳ lạ rồi. Định thần một lát, Thừa Chí mới kể lại những gì đã thấy cho mọi người
nghe. Mục Nhân Thanh nói:
- Bộ xương đó nhứt định là của Hạ Tuyết Nghi rồi. Không ngờ một đời quái hiệp
mà lại chết ở chốn này! Tội nghiệp thật!
Mộc Tang hỏi:
- Những chữ hắn để lại có ý nghĩa gì?
Ngẫm nghĩ giây lát, Nhân Thanh mới trả lời:
- Theo nghĩa những chữ đó thì Kim Sà Lang quân có chôn bảo vật nào đó ở trong
động, cả võ công tuyệt thế của hắn, chắc cũng dùng cách gì để lưu truyền trong ấy, chờngười hữu duyên tới nhận. Nhưng tính hắn lạ lùng lắm, hình như ai muốn được tặng
những di vật đó, phải tự coi như là môn đồ của hắn. Và chưa biết chứng bị tai họa gì
nữa cũng nên!
Mộc Tang nói:
- Theo nghĩa những chữ đó thì phải thế thật. Như không biết quái nhân đó còn giở
trò gì kỳ lạ nữa không?
- Chúng ta cũng không ham muốn gì võ công và bảo vật của hắn. Thừa Chí, ngày
mai con lại leo xuống, chôn cất di hài của vị tiền bối đó, thắp vài nén hương quỳ lạy
một phen. Chúng ta đối xử như vậy chắc chắn cũng hài lòng lắm rồi!
Viên Thừa Chí xin vâng lời.
Sáng ngày hôm sau, Thừa Chí đem theo một cái cuốc, rồi cùng chàng Câm leo lên
trên đỉnh núi. Vì biết trong động không có gì nguy hiểm, nên lần này Nhân Thanh và
Mộc Tang không đi. Định ở lâu trong động, Thừa Chí đem ba bó đuốc đi. Bò vào trong
hang, cậu cuốc một cái hố nhỏ để cắm bó đuốc, cho hai tay được rảnh còn lại làm lụng
việc khác. Quay lại, trông thấy bộ xưong, cậu nghĩ thầm: "Nghiệp sư phụ nói, đống
xương trắng này nguyên trước kia là một vị quái hiệp, không hiểu tại sao lại mệnh một
trong núi hoang, hài cốt không người mai táng cho! Tội nghiệp thật!". Cậu quỳ xuống
trước bộ hài cốt, vái lạy một hồi, rồi lẩm nhẩm cầu khẩn:
- Đệ tử Viên Thừa Chí, không ngờ được gặp di thể của đại hiệp. Hôm nay đệ tử an
táng đại hiệp, xin đại hiệp an giấc nghìn năm dưới cửu trùng!
Vừa khấn xong, một luồng gió lạnh thổi vào, khiến cậu cảm thấy rờn rợn và hơi sờn
lòng đôi chút. Không dám ở lại lâu nữa, cậu vội vàng cuốc đất để chôn cất cho xong
rồi trở lên ngay. Nhưng ngờ đâu, đào được một ít đất xốp trên mặt, cuốc của cậu bỗng
chạm phải một vật gì rắn chắc, có lẽ một thứ kim khí thì phải, kêu đến "keng" một
tiếng. Cậu đem đuốc lại coi xem, thấy chỗ vừa mới đào co một tấm sắt, lấy cuốc bới
hết chỗ đất xung quanh lên, mới hay đó là một cái hộp sắt vuông, mỗi bề hai thước,
cao một thước, rất nhẹ nhàng, tựa hồ bên trong không có gì cả. Mở nắp ra, thấy hộp đó
trong lạ lùng, bề cao như vậy mà trong lòng chỉ có một tấc thôi, cậu cùng lấy làm ngạc
nhiên. Trong hộp chỉ có một lá thơ, trên viết mấy chữ lớn: "Ai được hộp này, bóc thơ
ra coi". Thừa Chí liền lấy thơ ra đọc: "Vật báu trong hộp, để tặng cho người hữu
duyên. Nhưng trước hết phải chôn hài cốt tôi thật tử tế đã." Trong bao thơ lại có hai
bao thơ khác nhỏ hơn, một cái đề: "Cách mở hộp", một cái nữa đề: "Cách chôn hài cốt
của tôi".
Lúc này Thừa Chí mới hay hộp đó có hai từng, giơ hộp lên lắc thử, quả nhiên
trong có đựng một vật gì. Cậu nghĩ thầm: "Ta thương hại hài cốt ông ta bị vứt bỏ nơi
hoang sơn mà xuống đây chôn cất hộ chớ ta có tham vọng hưởng những bảo vật của
ông ta đâu!" Nghĩ đoạn, cậu bóc phong bì nói về cách chôn cất hài cốt ra xem, thấy
một tờ giấy trắng trên đó có viết: "Nếu ông thành tâm chôn cất hài cốt của tôi, thì xin
đao sâu thêm ba thước hãy mai táng, để tôi nằm sâu dưới đất, khỏi bị mối kiến nó đục
hại." Thừa Chí tự bảo thầm: "Đã làm phước thì làm phước cho trót, ta cứ theo lời dặn
của ông ta mà theo đúng như vậy".
Cậu lại tiếp tục đào sâu, nhưng lần này đất cứng rắn hơn thỉnh thoảng lại có đá
cục, nên tốn nhiều hơi sức lắm. Lúc này mặc dầu đã hơn trước nhiều, nhưng cũng mệtđến đổ mồ hôi ướt đẫm cả, khi cậu đào sâu tới mức sâu ba thước, lại bới ra được một
hộp sắt nữa, nhưng hộp này nhỏ hơn, chỉ độ một thước bề ngang thôi. Thừa Chí lại
nghĩ thầm: "Vị quái hiệp này kỳ lạ thật! Không biết trong hộp này lại đựng cái gì
đây?" Cậu mở hộp ra xem, lại thấy có một lá thơ. Đọc xong, cậu sợ hãi đến toát mồ
hôi lạnh. Thì ra trong thơ có viết: "Ông thật là người nhân đức trung hậu đã chôn cất
hài cốt tôi xong, tất phải được hưởng vật báu để đền bù công khó nhọc. Hộp sắt lớn là
hộp giả, ai mở là bị trúng tên độc ở trong bắn ra, những sách vở và địa đồ trong đó đều
giả cả, trên sách giấy lại có chất độc rất mạnh để trừng trị những kẻ tham lam bất
lương. Còn những thứ thật thì ở trong hộp nhỏ này." Không dám xem nhiều, cậu để
hai cái hộp sang một bên, rồi đặt hài cốt của Kim Sà Lang quân xuống hố, lấp đất lên
vái mấy vái xong, liền ôm hộp ssát quay trở ra. Lúc này cậu mới nhận rõ cửa động xây
bằng đá, chắc khi còn sống, Kim Sà Lang quân vẫn thường lui tới động ấy nên mới cẩn
thận lấy đá phong tỏa như vậy. Cậu xếp dọn những hòn đá lớn sang một bên, mở rộng
cửa động, để mời sư phụ và Mộc Tang xuống xem xét.
Ra khỏi động, chàng Câm vội kéo Thừa Chí lên. Cậu bưng hộp sắt về để trình sư
phụ định đoạt.
Mục Nhân Thanh và Mộc Tang đang đánh cờ thấy Thừa Chí trở về, liền ngưng
ngay để nghe đồ đệ kể chuyện.
Đọc qua mấy lá thơ, Mộc Tang cũng phải kinh hãi. Khi đạo trưởng bóc lá thư đề:
"Cách mở hộp" ra, thấy trong thơ viết: "Hai bên hộp đều có chốt máy, hai tay bưng
hộp, đồng thời dùng sức kéo lên, là mở được nắp ngay."
Mộc Tang nhìn Nhân Thanh, lè lưỡi vài cái rồi mới nói:
- Bõ thật hú vía! Tánh mạnh của cháu Thừa Chí có thể nói là vừa mới nhặt được
đem về! Nếu nó có lòng tham một chút, không chôn cất di hài cho tử tế, cứ vội vã mở
ngay hộp để kiếm vật báu thì những mũi tên độc không tha thứ cho nó đâu!
Nói đoạn, Mộc Tang đạo nhân gọi chàng Câm đi kiếm một cái thùng gỗ tới, gần
đáy thùng cho đục hai cái lỗ, mở nắp hộp sắt ra, rồi để vào trong thùng gỗ, lấy tấm ván
đậy nắp thùng lại, thọc hai cái gậy vào hai cái lỗ rồi mới đục. Đạo nhân cầm một chiếc
gậy, còn chiếc kia bảo Thừa Chí cầm, rồi cả hai cùng thọt mạnh, hai chiếc gậy cùng
một lúc, bỗng nghe thấy "ket" một tiếng. Mọi người đoán cái nắp hộp bên trong đã
mở rồi, theo đó có tiếng "soẹt, soẹt", "tung, tung" liên tiếp, thùng gỗ hơi bị rung
chuyển. Nghe thấy tiếng tên độc bắn ra đã ngừng rồi, Thừa Chí định mở tấm ván đậy
nắp lên xem. Nhân Thanh vội cản lại quát lớn:
- Hãy chờ một lát đã!
Chưa dứt lời lại nghe thấy mấy tiếng "soẹt, soẹt". Chờ thêm một lát, không thấy
có tiếng động nữa, Mục Nhân Thanh mới cho mở tấm ván ra. Quả nhiên trong thùng và
cả tấm ván đậy nắp cũng đều có mấy chục mũi tên ngắn cắm sâu vào. Nhân Thanh
phải dùng kềm chớ không dám lấy tay nhổ những mũi tên đó. Mộc Tang than rằng:
- Người ấy cũng thâm độc đa kế thật, sợ xếp đặt một lần ám khí bắn không chết
kẻ mãnh tâm, mà phải đặt những hai lần như vậy!
Lấy hộp sắt ra, thấy nắp thứ hai đã mở, bên trong có những lò so đóng chằn chịt,
chắc đó là những máy móc đặt tên độc, Mộc Tang tháo hết những lò so đó ra và cầm
cuốn sách để bên dưới lên. Thấy trên bìa sách viết mấy chữ "Kim sà bí kíp" (kíp là vũsách làm bằng tre). Mộc Tang đạo nhân dùng kềm mở thử mấy trang, thấy viết bằng
những hàng chữ nhỏ li ty và có rất nhiều họa đồ, có trang thì vẽ hình địa đồ, có trang
vẽ các thế võ, và cũng có trang vẽ khí giới máy móc. Khi mở hộp nhỏ ra xem, bên
trong cũng có một cuốn sách cùng một khuôn khổ như cuốn trước và chữ viết, cách
đóng, chẳng khác một tý nào, riêng có nội dung là không giống thôi.
Mục Nhân Thanh nói:
- Để đối phó với những kẻ không chôn cất thi hài ông ta cho tử tế, Kim Sà Lang
quân đã không tiếc công, mất thời giờ, viết một cuốn sách giả, rồi đặt vô số tên độc.
Nhưng sự thật thì một người đã chết rồi, còn tính toán tới chuyện người ngoài đối xử
với mình tốt hay xấu làm gì!
Mộc Tang nói:
- Cũng chỉ vì hắn quá hẹp lượng, nên mới có kết quả bi đát như thế!
Mục Nhân Thanh gật đầu than thở, bảo Thừa Chí cất hai hộp sắt ấy đi rồi nói:
- Hành vi của Kim Sà Lang quân thật quái dị, dù có đọc sách của y cũng vô ích.
Thừa Chí vâng lời, sau vụ đó, cậu luyện võ càng thêm chăm chỉ.
Mộc Tang dạy tất cả các môn khinh công, ám khí cho cậu ta xong đâu đấy mới hạ sơn
đi nơi khác.
Thời gian trôi chảy rất chóng, thấm thoát đã mấy năm. Lúc ấy đã là năm thứ 16
của vua Sùng Chính, Viên Thừa Chí đã 10 tuổi.
Chàng đã được Mục Nhân Thanh, trưởng môn phái Hoa Sơn, quyền kiếm thiên hạ
vô song, dạy bảo mười mấy năm tất nhiên võ công phải tuyệt phi phàm. Chàng lại được
thêm Mộc Tang đạo nhân chỉ bảo khinh công tới mức tuyệt đỉnh. Chống ám khí độc
đáo, và cậu cũng có bản lãnh về đánh cờ. Một mình chàng học được võ công thượng
thặng của hai môn phái, đã là một nhân vật hiếm có trong giới võ lâm. Nhưng trong
mười mấy năm học tập, chàng chưa từng đặt chân xuống núi một bước, tất nhiên không
biết thế sự là gì cả. Và khắp chốn giang hồ cũng chưa một ai biết phái Hoa Sơn đã có
một tay vạn năng hảo thủ như vậy.
Hôm đó là ngày Xuân, Thừa Chí cùng Đại Oai và Tiểu Quái, hai con đười ươi
luyện võ. Chàng Câm ở trong nhà bước ra giơ tay ra hiệu. Thừa Chí biết là sư phụ cho
gọi, liền vào ngay trong nhà, thấy có hai đại hán đứng cạnh sư phụ. Chàng ngạc nhiên
vô cùng, vì ở trên núi Hoa Sơn này, trừ Mộc Tang ra, chưa có người khách thứ hai tới
thăm. Mục Nhân Thanh nói:
- Thừa Chí, con lại chào Vương đại ca và Cao đại ca đi.
Tưởng là bạnn của sư phụ, chàng vái chào và miệng gọi "sư thúc", hai người nọ
vội vàng quỳ xuống lạy và nói:
- Mời Viên sư thúc bình thân. Chúng cháu đâu dám nhận lễ của sư thúc.
Thấy gọi mình là sư thúc, chàng ngơ ngác không hiểu. Mục Nhân Thanh cả cười
một hồi rồi mới nói:
- Thôi! Đứng dậy cả đi!Thừa Chí vội đứng thẳng lên. Chàng thấy hai người nọ ăn mặc lối quê mùa, trông
cũng có vẻ nhanh nhẹn và oai hùng, Nhân Thanh cười nói:
- Con chưa theo thầy xuống núi bao giờ nên không biết vai vế của con ra sao?
Thôi đừng khách sáo nữa, và ai cũng đừng gọi ai là sư thúc gì cả. Cứ căn cứ vào tuổi
hơn kém mà gọi nhau là huynh đệ thì hơn.
Thì ra hai sư huynh đệ họ Vương và họ Cao kia, theo vai vế thì sư phụ của họ phải
gọi Mục Nhân Thanh là sư thúc. Họ tuy lớn tuổi, nhưng phải gọi Thừa Chí là sư thúc
mới phải. Mục Nhân Thanh lại nói:
- Hai vị sư huynh này thừa lịnh Lý Tự Thành tướng quân ở tỉnh Sơn Tây tới, muốn
mời thầy xuống bàn tán một việc quan trọng, vậy ngày mai thầy phải xuống núi.
Thừa Chí nói:
- Thưa sư phụ, lần này sư phụ cho phép con đi theo để thăm Thôi thúc thúc.
Chàng ở trên núi mãi cũng thấy buồn, mấy lần muốn theo sư phụ hạ sơn đều không
được phép. Lần này chàng lại xin thì Nhân Thanh mỉm cười. Hai người kia biết thầy
trò chàng có chuyện muốn bàn tán liền cáo lui ra bên ngoài.
o0o
Mục Nhân Thanh nói:
- Hiện giờ thân thế nghĩa quân đang bành trướng rất mạn. Hai tỉnh Tân, Tấn sắp
vào tay quân ta. Đây cũng là dịp may con báo thù cha. Bấy lâu nay con cứ xin thầy cho
phép con đi hành thích vua Sùng Chính, nhưng thầy nhất định không nghe, con có biết
tại sao không?
Thừa Chí trả lời:
- Thưa thầy, có phải vì con chưa học thành tài không?
- Điều đó cũng là một nguyên nhân, nhưng còn một điều nữa quan trọng hơn. Con
hãy ngồi xuống thầy nói cho con nghe.
Thừa Chí ngoan ngoãn ngồi xuống, Nhân Thanh nói tiếp:
- Mấy năm nay, tình thế ngoài quan ải khẩn trương lắm. Dã tâm của người Mãn
Châu không lường, ngày nào cũng muốn xâm lấn vào trong quan ải. Mặc dầu vua Sùng
Chính hay đa nghi và thiếu ý chí cương quyết, nhưng còn sáng suốt hơn các vua trước,
như vua Gia Tinh, vua Thiên Khải nhiều. Nếu cho phép con vào trong cung hành thích
Sùng Chính để trả tư thù sẽ có hại, vì thái tử còn nhỏ nếu lên nối ngôi, quyền hành thế
nào cũng lọt vào tay bọn gian thần quan hoạn. Thầy chỉ sợ chúng sẽ làm mất giang sơn
của người Hán mình ngay. Như vậy, có phải con là một người có tội với thiên hạ
không?
Thân phụ con suốt đời phản kháng quân Mãn, quyết chí thu phục đất Liêu Đông,
nay thấy con bất trung bất hiếu như vậy, thì ông ta dù ở thế giới bên kia cũng không
được yên tâm chút nào!
Thấy sư phụ nói như vậy, Thừa Chí toát mồ hôi.Mục Nhân Thanh lại nói:
- Quốc sự là một việc lớn, tư thù là việc nhỏ, dĩ thầy không cho con đi báo thù vì
lẽ đó. Nhưng tình hình bây giờ lại khác hẳn. Sấm Vương Lý Tự Thành đã chiếm Tân,
Tấn hai tỉnh, và chỉ trong một hai năm là có thể tiến tới Bắc Kinh. Lúc ấy đã có ông ta
chủ trì đại cuộc, toàn quốc trên dưới một lòng, thì còn sợ gì Liêu Đông, Mãn Châu vào
xâm chiếm nữa.
Càng nghe, Thừa Chí càng thấy phấn khởi. Nhân Thanh lại nói tiếp:
- Võ nghệ của con bây giờ đã có căn cơ. Tuy võ học không có bờ bến, nhưng tài
năng của ta đã truyền lại hết cả cho con. Sau này, con chỉ chăm chỉ học tập lấy đủ được
rồi, mai thầy xuống núi, con cứ ở lại chờ một tháng sau, con hãy hạ sơn, đến tỉnh Sơn
Tây vào trại quân đội Sấm Vương kiếm thầy.
Thấy thầy cho phép xuống núi, Thừa Chí hớn hở vô cùng. Lúc thường Mục Nhân
Thanh đã dạy cho chàng biết các điều cấm kỵ và các luật lệ của các môn phái trên
chốn giang hồ rồi. Lúc này, ông ta nhắc lại những điều quan trọng cho chàng nghe.
Sau cùng lại dặn rằng:
- Con là người cẩn thận chánh trực, ta yên trí lắm. Nhưng còn chữ "sắc", con đặc
biệt đề phòng. Có rất nhiều đại anh hùng, đại hào kiệt đã sa ngã bởi chữ sắc đó, đến rồi
tiêu tan sự nghiệp, trở nên thân tàn ma dại. Con phải nhớ kỹ lời nói đó của thầy.
Ngày hôm sau, trời chưa sáng tỏ, Thừa Chí đã thức dậy giúp chàng Câm đun
nước, thổi cơm, xong đâu đấy, mới vào phòng sư phụ thỉnh an. Không ngờ Mục Nhân
Thanh và hai người khách lạ kia đã hạ sơn từ lúc nửa đêm rồi. Ngẩn người giây lát,
Thừa Chí nghĩ tới việc mình sắp hạ sơn đến nơi rồi, liền chỉ chõ ra hiệu cho chàng Câm
hay. Chàng Câm có vẻ không vui, quay mình đi ra. Hai người ăn ở với nhau hơn mười
năm trời, tình thân hơn anh em ruột thịt, nên chàng biết chàng Câm không nỡ chia tay
với mình.
Thấm thoát đã qua được bảy tám ngày, Thừa Chí vẫn luyện tập như thường. Nghĩ
tới sắp phải rời khỏi nơi đây, chàng bắt đầu luyến tiếc từng cánh cây, cái cỏ. Hôm đó,
ăn cơm tối xong, chàng lấy sách sư phục ra đọc một thời gian khá lâu. Đang định tắt
đèn đi ngủ, bỗng thấy chàng Câm vào chỉ chỏ ra hiệu cho chàng ra để xem xét, nhưng
chàng Câm níu lại, và cho hay rằng, đã khám xét rồi, không thấy tung tích người nào
cả. Thừa Chí vẫn không yên tâm lắm, dắt hai con đười ươi đi khám xét lại phía trước
lẫn phía sau núi. Quả nhiên, không thấy có điều gì khả nghi cả, chàng mới trở về
phòng ngủ. Ngủ tới nửa đêm, chàng nghe thấy Đại Oai và Tiểu Quái ở phòng ngoài
kêu la ầm ĩ. Chàng ngồi dậy lắng tai nghe, bỗng có mùi thơm xông lên mũi, vội nín hơi
thở ra, ngờ đâu hai chân mềm nhũn, loạng choạng suýt ngã. Lúc ấy, cửa phòng bỗng
mở toang, một cái bóng đen nhảy vào, và giơ đao chém ngay vào đầu chàng. Tuy cảm
thấy đầu nặng chĩu, nhưng chàng rất tinh thông võ nghệ, có thể cố gượng được, vội né
sang bên trái, rồi tay phải, đánh ngược một chưởng.
Người nọ muốn chém vào tay Thừa Chí nhưng gặp phải cường địch, khi nào lại
chịu để cho đối phương có thể giơ tay. Trong bóng tối, chỉ có cách nghe hơi gió để
nhận đính mọi cử động của địch thủ, Thừa Chí tiến lên một bước, dùng bàn tay trái
chặt vào vai người đó. Chưởng đó chàng đã dùng cả mười phần sức lực. Người nọkhông ngờ chàng đã bị thuốc mê rồi mà còn có công lực như vậy. Vai bị đau, người nọ
bị đánh tung ra cửa. Bên ngoài, có một người bèn đỡ lấy người nọ và nói:
- Cái điểm móng cứng lắm! (đây là tiếng lóng của người giang hồ. Cái điểm là
tên kia, móng là tài nghệ, cứng lắm là giỏi lắm.)
Thừa Chí định nhảy ra, bỗng thấy đầu choáng váng rồi mê man bất tỉnh. Cách
không biết bao nhiêu lâu, chàng mới tỉnh dậy, thấy tay chơn và mình mẩy đều mỏi
mệt. Vừa cựa quậy tay chơn, chàng hoảng sợ vì thấy mình mẩy đã bị trói chặt bằng dây
thừng. Trong phòng đèn đuốc sáng choang, hai người lạ mặt đang lục lợi hòm siểng
khắp nơi.
Chàng đã biết bị người hãm phải, tự trách mình là kẻ vô dụng, sư phụ vừa hạ sơn
được vài ngày mà mình đã bị người ta lên tận núi bắt trói. Như vậy, còn mong mỏi gì
đặt chân vào chốn giang hồ và báo thù cho cha nữa. Chàng giả tảng chưa hồi tỉnh, hé
mắt nhìn trộm, thấy một người gầy gò, trạc độ ngoài 50, mặt khô khan. Còn một người
nữa là hòa thượng, vừa to vừa béo xem thân hình đúng là người vừa đánh nhau với
mình.
Chàng nghĩ thầm: "Lạ quá! Trên núi, có cái gì quý báu đâu mất công đến tận đây
trộm cướp? Tiền của thì chỉ độc có 50 lạng bạc sư phục để lại cho để làm lộ phí thôi!
Nhưng họ nhất định không phải là giặc cướp thường. Tên hòa thượng này võ công khá
lắm, và người gầy gò kia cũng không phải là tay xoàng xĩnh. Nếu bảo họ tới đây để
báo thù, tại sao lại không giết mình mà cứ đi lục lọi khám xét đồ đạc thế kia. Vừa nghĩ
ngợ, chàng vừa vận nội công để làm đứt giây thừng đang trói chặt người chàng.
Nào ngờ đâu kẻ địch lại là những tay lão luyện, biết chàng giỏi võ nên lúc trói họ
cắm một mẩu tre vào giữa hai tay, hễ chàng lấy sức là mẩu tre vỡ trước, và gây ra tiếng
động tức thì. Khi chàng vừa lấy sức định bứt sợi dây thì phát giác ngay mưu kế đó, nên
ngừng ngay lại và không cựa quậy nữa. Trong lúc chàng đang nghĩ kế thoát thân, thì
nghe thấy tên hòa thượng mừng rỡ kêu lên:
- Đây rồi!
Hòa thượng kéo chiếc hộp sắt dưới gầm giường ra, đó là cái hộp của Kim Sà Lang
quân.
Người gầy gò tỏ vẻ hân hoan, cùng hòa thượng ngồi cạnh bàn mở hộp sắt, lấy
cuốn Kim Sà bí kíp ra xem. Hòa thượng cả cười nói:
- Quả nhiên nó ở đây rồi. Sư huynh này, bây giờ mới bõ công tìm kiếm 15 năm
của anh em mình!
Mở cuốn bí kíp ra xem, thấy bên trong có vẽ rất nhiều họa đồ, và những hàng chữ
nhỏ, y khoái trí gãi đầu, xoa tay mừng rỡ vô cùng.
Người gầy gò bỗng nói:
- Kìa, tên kia đã tẩu thoát.
Vừa nói, y vừa chỉ về phía Thừa Chí. Hòa thượng quay đầu xem có thật không.
Nhanh như chớp, tên gầy gò đâm luôn một nhát dao găm vào giữa sống lưng hòa
thượng, sâu ngập tới cán rồi y nhảy cách xa vài thước, rút trường kiếm ra đề phòng sự
phản ứng. Hòa thượng ngạc nhiên, bỗng phá ra cười một cách chua chát rồi nói:- Anh em mình cố gắng tìm kiếm suốt 15 năm trời, ngày nay mới tìm thấy vật
báu. Không ngờ anh lại muốn chiếm lấy một mình mà hạ độc thủ như vậy...hà, hà!...
hà...hà...
Trong đêm khuya tĩnh mịch, tiếng cười của y lại càng bi đát rùng rợn thêm đến nỗi
Thừa Chí nghe thấy cũng phải sờn lòng. Y định đưa tay về phía sau rút thanh đao ra,
nhưng không được. Bỗng y thét lên một tiếng, ngã gục xuống, dãy dụa rồi tắt thở liền.
Người gầy gò sợ hòa thượng chưa chết, hắn liền tiến lên đâm bồi thêm mấy nhát
kiếm nữa. Thấy y tàn sát sư đệ như vậy, Thừa Chí cũng phải rùng mình ghê gớm. Tên
ấy "hừ" một tiếng rồi nói:
- Ta không giết ngươi thì ngươi cũng sẽ hại ta!
Nói xong, y còn đá vào xác hòa thượng mấy cái.
Hồi 5
Quái khách đến đỉnh núi
Phòng kín đọc kỳ văn
Người gầy gò, vì chưa được rõ Thừa Chí tỉnh dậy, khoái chí cười khinh vài
tiếng, búng tàn nến cho ngọn lửa sáng tỏ rồi giở cuốn bí kíp ra đọc. Càng
đọc, càng cao hứng, y đắc ý rung đùi, có vẻ sung sướng lắm. Đọc tới chỗ có mấy trang
dính chặt với nhau, y lấy ngón tay trỏ chấm nước miếng để cho dễ giở hơn. Mấy lần
gặp những trang dính chặt với nhau, nhờ thấm nước miếng, y đều giở được mà không
rách trang nào. Thừa Chí bỗng sực nghĩ tới cuốn sách có chất độc rất mạnh, nếu tên kia
cứ thấm nước bọt mãi như vậy thế nào cũng bị trúng độc. Như quên cả nguy hiểm,
bỗng khẽ kêu lên một tiếng.
Nghe thấy tiếng người kêu, người gầy gò quay đầu lại, trông thấy Thừa Chí hai
mắt trợn tròn xoe, đầy vẻ hãi hùng, đang nhìn thẳng vào mặt mình. Y từ từ đứng dậy,
rút con dao găm ở lưng hòa thượng ra, rồi tiến gần Thừa Chí và nói rằng:
- Ta với ngươi tuy không có thù oán gì cả, nhưng ngày hôm nay ta không thể để
cho ngươi sống được!
Nói xong, mắt y lộ đầy vẻ hung ác, giơ dao găm lên, cười gằn mấy tiếng, rồi lại
nói tiếp:
- Bây giờ ta có giết chết ngươi, thì ngươi xuống dưới âm ti cũng không hiểu sao
mà bị giết! Nói thật cho ngươi biết, ta là Trương Xuân Cửu trong phái Thạch Lương
tại phủ Cừ Châu, tỉnh Triết Giang. Phái Thạch Lương chúng ta là tử thù với Kim Sà
Lang Quân. Y gian dâm với sư muội chúng ta, rồi trốn nơi đây. Mười mấy năm nay
chúng ta đi tìm xem y trốn nơi đâu, nay bí kíp của y rơi vào tay ngươi. Nay ngươi có liên can với Kim Sà Lang Quân chắc ngươi cũng không phải là người lương thiện. Sau khi chết đi, trở thành một
con ma rồi, nếu muốn báo thù này, thì ngươi cứ tới Cừ Châu mà kiếm ta, Trương Xuân
Cửu đây...hà, hà, hà!
Cười chưa dứt tiếng, y bỗng loạng choạng suýt ngã. Thừa Chí liền vận hết sức lực
lên hai cánh tay, thét lớn một tiếng, dây thừng trói quanh người liền đứt ra từng khúc.
Rồi nhanh như chớp, chàng giáng luôn vào đầu người nọ một quả đấm thôi sơn.
Nhưng tay chàng chưa chạm tới người kẻ thù, Trương Xuân Cửu bỗng ngã người
nằm lăn ra đất. Thừa Chí sợ y có quỷ kế gì, liền cầm một đoạn dây thừng đứt quấn làm
võ khí xử dụng cấp thời. Nhưng thấy người gầy gò đó hai chân duỗi thẳng, không còn
cử động được nữa. Mắt, mũi, tai, mồm của y đều chảy máu đen, lúc ấy chàng mới hay
kẻ thù đã trúng độc chết. Cúi xuống cởi luôn quãng dây thừng đang trói dưới chân ra,
chàng vội chạy ra phòng ngoài. Thấy chàng Câm bị trói nằm ở đó, hai mắt y trợn tròn
xoe, lộ vẻ bực tức vì không cựa quậy được, Thừa Chí liền cởi trói cho y. Lại thấy Đại
Oai và Tiểu Quái như chết ngất ở dưới đất, sợ hai con đười ươi bị ngộ độc, chàng vội
lấy mấy gáo nước lã đổ vào đầu, vào mặt hai con vật nọ. Một lát thật lâu, hai con thú
mới hồi tỉnh dần. Thừa Chí dùng tay ra hiệu, kể lại đầu đuôi câu chuyện vừa xảy ra cho
chàng Câm hay. Chờ đến khi trời sáng tỏ, Thừa Chí và chàng Câm mới khiêng hai kẻ
thù ra đằng sau núi chôn cất. Thấy cái hộp sắt lớn có chất độc hại người như vậy, Thừa
Chí tiện tay quăng luôn xuống hố, chôn cùng với hai người kia.
Chôn cất xong đâu đấy, nghĩ tới chuyện hôm qua, trong lòng chàng còn bàng
hoàng lo ngại khôn cùng.
Chàng nghĩ thầm:
- "Năm 12 tuổi, vô hình chung mình đã tìm thấy cái hộp sắt nọ rồi tám năm qua,
ta đã quên hẳn câu chuyện đó. Nay thấy người gầy gò và ba vị hòa thượng đã giết lẫn
nhau vi tranh giành cuốn Kim Sà bí kíp, thì chắc hẳn cuốn sách đó phải chứa đựng sự
gì bí mật hoặc rất quan trọng! Nhưng không hiểu trong cuốn sách đó viết những gì?"
Nghĩ tới đó, chàng không thể nén nổi sự tò mò, liền chui vào gầm giường, lôi cái
hộp nhỏ phủ đầy mạng rêu ra. Chàng mở hộp sắt, lấy cuốn Kim Sà bí kíp thật để trên
bàn, rồi giở từng tờ ra đọc. Những trang đầu dạy về bí quyết luyện công và tâm pháp
ném ám khí, không khác gì mấy với những phương pháp của Mục Nhân Thanh và Mộc
Tang đạo nhân. Chàng nhận xét kỹ thì thấy thủ pháp của Kim Sà Lang Quân còn hiểm
độc gấp mấy lần thủ pháp của hai thầy mình. Chàng nghĩ thầm: "Hôm qua mình suýt
gặp quỷ kế đê tiện của kẻ địch. Sau này, dấn thân vào chốn giang hồ để hành hiệp, thế
nào chẳng gặp phải những đối thủ cũng xử dụng những thủ pháp đê hèn đó, nhưng dù
sao, biết người biết ta, và để phòng thân, thì ta cũng cần phải biết tới những mánh lới
đó."
Nghĩ đoạn, chàng bắt đầu nghiên cứu các thủ pháp trong cuốn Bí kíp.
Đọc tới ngày thứ ba, chàng mới nhận thấy các đường lối võ công ghi trong Bí kíp
khác hẳn những thế võ của phái Hoa Sơn và chàng cũng chưa hề nghe thấy sư phụ nói
qua bao giờ. Nhất nghệ thông thì bách nghệ cũng thông, võ công của Thừa Chí đã tới
mức cao siêu. Nên khi chàng học sang môn phái khác chỉ mấy chút thời giờ suy nghĩ
là hiểu ngay. Theo đúng trong Bí kíp, chàng tuần tự luyện tập, hết thế võ nay sang thế
võ khác. Nhưng luyện đến ngày thứ năm, chàng gặp phải những điều nan giải là trong
Bí kíp có viết tỉ mỉ những bí quyết, không vẻ họa đồ về các điệu, các kiểu, thì biết căn
cứ vào đâu mà phỏng theo? Vì vậy, chàng đành phải ngừng tập. Chàng lại giở sang
chương sau thấy đề mục là "Kim Sà kiếm pháp". Chàng nghĩ thầm: "Kiếm pháp này
do Kim Sà Lang Quân sáng tạo ra, thế nào cũng có nhiều miếng độc đáo!" Nghĩ đoạn,
chàng lấy kiếm múa thử, thoạt tiên còn dễ học, tới sau càng múa càng phức tạp, không
thuận tay. Luyện đi luyện lại mấy lần, chàng vẫn thấy ngượng ngịu chướng tay. Sực
nhớ tới, khi chôn cất di cốt Kim Sà Lang Quân, chàng đã trông thấy trên vách ở trong
động có khắc rất nhiều họa đồ, chắc những tranh đó có liên quan đến các thế võ và
kiếm pháp này.
Nghĩ tới đó, không sao nhẫn nại được nữa, Thừa Chí liền gọi chàng Câm đem dây
thừng, bó đuốc, lên đỉnh núi để thòng chàng xuống dưới động. Lúc ấy chàng trở nên
một thanh niên cao lớn, vạm vỡ, đáng lẽ không chui lọt cửa động, nhưng may thay hồi
nọ chàng đã phá rộng hai bên cửa nên bây giờ chàng mới chui vào được. Cầm bó đuốc
lên chiếu sáng các hình đồ trên vách, chàng nghiên cứu thật tỉ mỉ từng bức họa. Quả
nhiên, những bức họa đồ đó là những hình vẽ giải thích các yếu quyết trong cuốn bí
kíp, chàng vui mừng vô cùng. Theo đúng họa đồ để luyện tập, chỉ tốn mất độ hai tiếng
đồng hồ, chàng đã in sâu những hình đồ đó vào trong óc và thuộc lòng hết mọi miếng
võ trong cuốn Bí kíp. Chàng quỳ xuống trước mộ Kim Sà Lang Quân vái hai cái ngụ ý
cảm tạ ông ta đã để lại sách giáo thụ võ công cho mình. Khi sắp bước ra khỏi động,
chợt nhìn lên vách đá thấy treo thanh bảo kiếm, chàng không cần nghĩ ngợi nhấc luônkhí giới báu đó xuống coi. Hình thù thanh kiếm đó lạ lùng lắm, không khác gì con rắn
đang uốn mình, chỗ cán kiếm là đuôi rắn, còn chỗ mũi kiếm đó có hai cái rìa nhỏ.
Thừa Chí nhận thấy kiếm pháp rất lạ lùng cũng bởi thanh kiếm đó khác hẳn các thanh
kiếm khác. Ngoài công dụng để đâm hoặc chém như mọi thanh kiếm khác, hai rìa ở
đằng mũi kiếm còn dùng để móc và khóa khí giới của địch. Chợt nghĩ đến chàng Câm
đứng chờ mình trên đỉnh núi, nếu lâu quá thế nào cũng lo ngại cho chàng liền cầm
kiếm đi ra. Thấy gần cửa động có một viên đá lớn cản trở lối đi, chàng thuận tay múa
kiếm phạt ngang một nhát. Ngờ đâu đá vụn bay tứ tung, viên đá ấy đã đứt làm đôi.
Không dè lưỡi kiếm đâm thẳng một nhát, chàng đã cắm ngập thanh kiếm vào trong
tảng đá.
Thừa Chí mừng quá, vội bò ra. Vừa về tới nhà, đứng giữa một cái sân rộng, chàng
múa Kim Sà Kiếm, theo kiếm pháp Hoa Sơn. Múa một hồi, chàng thấy xử dụng thanh
kiếm đó thuận tay lắm, đến khi múa kiếm pháp Thanh Sà lại còn thuận tay hơn. Trong
một thời gian mười mấy ngày, Thừa Chí đã học hiểu nhiều miếng kiếm ghi lại trong Bí
kíp, nhứt là việc xử dụng ám khí Kim Sà Chủy lại càng tinh xảo vô cùng, chàng đã học
được hết mọi bí quyết thủ pháp của môn đó. Chàng so sánh và nhận thấy tâm pháp ám
khí của Mộc Tang đạo nhân và ám khí Kim Sà Chủy tinh xảo ngang nhau. Mặc dầu
Kim Sà Lang Quân không đi theo con đường chánh, nhưng vì ông ta có một bản lãnh
kinh người nên Thừa Chí cũng phải khâm phục vô cùng. Tới khi nghiên cứu đến ba
trang cuối cùng trong cuốn Bí kíp, chàng phải rùng mình kinh hãi. Ba trang đó viết chi
chít những khẩu quyết biến hóa thật kỳ ảo, xuất quỷ nhập thần, nhưng một phần khó
hiểu quá, chàng không sao lĩnh hội nổi. Nghiên cứu trong hai ngày liền, chàng vẫn
cảm thấy trong đó có nhiều chỗ mâu thuẫn, chắc thế nào cũng có sự bí ẩn gì đây.
Chàng xem kỹ lại lời dặn trong cuốn Bí kíp và mô tả lại các hình vẽ trên vách đá,
nhưng cũng vẫn không thấu hiểu được. Vì vậy, đêm ấy nằm trằn trọc chàng không thể
nào nhắm mắt. Thấy ánh sáng trăng rọi vào, chàng đếm đốt ngón tay tính nhẩm sư phụ
xuống núi tới nay đã 28 ngày rồi chỉ còn hai ngày nữa là tới ngày mình phải hạ sơn.
Chàng nghĩ thầm: "Sư phụ có nói là Kim Sà Lang Quân là người rất kỳ dị, 3 trang cuối này có thể là ý gì khác chăng, chứ không phải là võ công gì.
Nghĩ như vậy chàng bèn không nghiên cứu thêm nữa, rồi chàng lại nghĩ, những võ học trong quyển sách này ác độc lắm lỡ nhỡ đẻ lọt vào tay bọn tà ma tàn ác thì hậu quả không thể lường được, thôi thì mình đã học thuộc hết rồi thì huỷ nó đi, chàng bèn kéo ngọn nến lại gần châm vào cuốn sách, mấy tờ lụa mỏng bắt lửa cháy rất nhanh nhưng còng cái bìa không biết làm bằng thứ gì mà không chịu cháy, chàng bèn cầm lên định xé nhỏ nó ra rồi đốt luôn, nhưng mặc cho Chàng đã dùng hết sức tới mấy trăm cân lực mà mảnh bìa chỉ hơi giãn ra chứ không rách. Ngạc nhiên vô cùng, chàng bèn xem xét thật kỹ thì thấy nó được làm từ một thứ tơ gì đó rất mịn và hình như là gồm hai lớp dán vào nhau, chàng bèn tìm cách tách nó ra, loay hay một lúc bỗng hai mảnh bìa rời ra và từ trong đó rớt xuống hai mảnh giấy.
Chàng nhặt lên xem chợt mừng rú lên, thì ra trong một mảnh giấy có chi chít những chữ nhỏ ly ti chỉ dẫn những điều khó hiểu ở 3 trang cuối của cuốn bí kíp, còn tờ giấy kia là một bản đồ chằng chịt có ghi chú tỉ mỉ, xem kỹ thì ra một bản đồ bảo tàng gì đó, chàng thở phào tự nhủ
- may mà cuốn sách này lọt vào tay mình chứ lọt vô tay người bình thường không chịu bỏ công nghiên cứu tới cùng thì không sao được hướng bản đồ chôn giấu của báu ấy. Nghĩ đoạn, chàng cất hai tờ giấy đó vào trong túi áo.
Hai ngày hôm sau, Thừa Chí thu xếp hành trang từ biệt chàng Câm để xuống núi.
Chàng Câm dắt hai con đười ươi tiễn ra tận lưng chừng núi. Thừa Chí ăn ở trên núi hơn
mười năm trời, nay bỗng nhiên phải xa cách trong lòng rất áy náy khó chịu. Đại Oai và
Tiểu Quái là những con vật rất thông minh, linh tính sẽ phải xa cách Tiểu chủ, nên
chúng nắm tay chàng kêu chít chít, không chịu cho chàng lên đường. Thấy vậy, Thừa
Chí không nở chia tay với hai con vật có nghĩa, liền quyết định cho chúng đi theo, và
dùng tay ra hiệu cho chàng Câm biết rõ ý muốn của mình. Lần đầu tiên xuống núi,
Thừa Chí thấy cái gì cũng mới lạ cả. Vài hôm sau, đi tới tỉnh Sơn Tây, chàng thấy đâu
đâu cũng có binh mã điều động và các cửa ả khám xét rất nghiêm ngặt. Các nghĩa quân
nghe nói chàng tới kiếm Sấm Vương đều không dám cản trở và còn cho người đưa
đường dẫn chàng tới trung quân của Lý Tự Thành. Thấy người hầu cận vào báo tin có
đồ đệ của Mục Nhân Thanh xin vào ra mắt.
Sấm Vương dù đang bận việc quân cơ cũng phải thân hành ra đón tiếp. Cũng vì
Mục Nhân Thanh khen đồ đệ của mình tài giỏi trước mặt mọi người, nên Sấm Vươngmới trọng dụng Thừa Chí như vậy. Nghe giọng nói của Lý Tự Thành, có vẻ ông ta
muốn chiêu nạp Thừa Chí. Thấy Lý Tự Thành tuy ăn mặc mộc mạc, nhưng dáng điệu
oai nghi, vẻ mặt hào hùng, Thừa Chí cũng phải phục thầm. Chàng được Lý Tướng quân
cho biết hiện giờ sư phục của chàng không có mặt tại đây vì ông ta có việc phải xuống
Giang Nam. Chàng mồ côi cha mẹ từ hồi nhỏ, nhờ có sư phụ nuôi nấng dạy bảo cho tới
ngày nay, nên khi nghe thấy nói sư phụ vắng mặt, chàng có vẻ không vui. Chàng lại
hỏi đến người bạn chi giao là Thôi Thu Sơn hiện có ở đây không?
Sấm Vương cho hay Thu Sơn đã theo Mục Nhân Thanh xuống Giang Nam quyên
tiền để tiếp tế cho nghĩa quân rồi. Chàng trả lời là phải xuống miền Nam bẩm với sư
phục trước, rồi mới dám trở lên phụ lực được. Sấm Vương không nài ép nữa, sai Tể
tướng quân Lý Nham tiếp chàng dùng cơm.
Khi chàng lên đường xuống Giang Nam, Sấm Vương còn tặng cho mười lạng kim
làm lộ phí. Chàng từ chối không được, đành phải nhận lấy. Thấy chàng chưa có kinh
nghiệm sự đời, ăn mặc kỳ dị, lưng đeo quái kiếm, lại dắt hai con đười ươi theo, Lý
Nham mới khuyên chàng gởi lại hai con đười ươi và cây kiếm Kim Sà để người đời
khỏi dị nghị. Thấy Lý Nham có lòng tối khuyên bảo như vậy, chàng nghe lời, liền mặc
trang phục nho sinh, giả dạng một vị tú tài, rồi mới cáo từ ra đi.
Hôm đó, chàng đi tới Ngọc Sơn thuộc tỉnh Giang Tây. Cơm nước xong, chàng
mướn thuyền đi đường thủy. Ra tới bờ sông, thấy một chiếc thuyền lớn đậu tại đó,
chàng lại hỏi mướn. Chủ thuyền cho hay, phú ông nọ đã thuê bao cả thuyền để xuống
phủ Kim Hoa tỉnh Triết Giang chở hàng. Chàng xin đi nhờ và bằng lòng trả giá cao.
Chủ thuyền liền vào khoang hỏi ý kiến phú thương Long Đức Lân. Thấy Thừa Chí là tú
tài, ăn nói nho nhã, Long Đức Lân bằng lòng ngay. Chủ thuyền đang nhổ neo khởi
hành thì có một thiếu niên hấp tấp chạy tới, và lớn miệng kêu gọi:
- Ông chủ thuyền ơi! Tôi có việc gấp phải tới Cừ Châu, ông làm phúc cho tôi đi
nhờ với.
Nghe thấy giọng nói thánh thót êm tai, Thừa Chí ngẩng đầu lên nhìn mặt người nọ. Chàng phải ngạc nhiên mà nghĩ thầm: "Trên thế gian này, sao lại có người đẹp trai đến thế?"
Người đó trạc độ 19 tuổi, lưng đeo một thanh trường kiếm
Chủ thuyền liền đáp : thuyền này đã có người thuê bao rồi, để tôi hỏi qua xem họ có bằng lòng không, chưa nói xong đã thấy chàng thanh niên nhún chân nhảy xuống thuyền, nhẹ nhàng như không, long đức lân thấy chàng ta dễ thương và mặt mày vui tươi nên cũng vui lòng đồng ý ngay .
Thuyền tách bến đi được một lát thì mọi người làm quen với nhau, chàng trai giới thiệu mình vtên là Ôn Thanh , lúc đó mội người đang ngồi ở ngoài mui nói chuyện phiếm, bỗng dưng có bốn chiếc thuyền nhỏ xuôi dòng rất nhanh tản ra xung quanh thuyền rồi dừng lại và từ từ bám theo chiếc thuyền của mọi người,
Thừa chí lúc đó đang ngồi đối diện với chàng trai chợt thấy nét mặt chàng trai biến đi hiện lên một vẻ hung ác, tàn độc. Thừa chí giật mình nghĩ
Bộ mặt thanh tú thế kia, sao lại có nét mặt hung dữ đến thế?". Hình như Ôn Thanh đã nhận thấy vẻ mặt ngạc nhiên của Thừa Chí, liền đổi sắc mặt, miệng tủm tỉm cười, đầy vẻ nhu mì khả ái. Mới bước chân vào đời, Thừa Chí đâu đã hiểu biết mọi bí ẩn của giang hồ. Thấy thái độ của Ôn Thanh
và hành động của bốn chiếc thuyền nhỏ có vẻ khác thường, chàng tuy biết sắp có chuyện gì xảy ra nhưng không sao đoán nổi là chuyện gì!
Đến chiều tối, thuyền ngừng ở cạnh một thị trấn nọ, Thừa Chí muốn lên bờ dạo chơi, liền rủ hai người cùng đi cho vui. Vì bận trông coi hàng hóa, Đức Lân từ chối,
còn Ôn Thanh thì tỏ vẻ khinh miệt:
- Nơi hoang vu này, có thắng cảnh gì đâu mà dạo chơi?
Giọng nói có vẻ chế nhạo Thừa Chí hãy còn ngây thơ. Mặc dầu Ôn Thanh có thái
độ kiêu ngạo, khinh người quá mức, nhưng Thừa Chí vốn là người trung hậu thành cẩn,
không vì thế mà tức giận, chàng chỉ mỉm cười, rồi một mình lên bờ vào trong phố tiêukhiển. Uống vài ly rượu, mua chút quà bánh, trái cây, chàng lại trở về thuyền. Thấy
Đức Lân và Ôn Thanh ngủ rồi, chàng cởi áo đi nghỉ.
Khoảng nửa đêm, Thừa Chí bỗng nghe thấy tiếng còi ở đằng xa vọng lại. Chàng
rất thính tai, vừa nghe tiếng động là tỉnh dậy liền. Chàng vừa mặc áo xong, đã nghe
thấy tiếng bơi chèo từ miền hạ du tới. Lúc ấy Ôn Thanh đột nhiên ngồi dậy, thì ra hắn
ngủ vẫn mặc cả áo ngoài, rút thanh kiếm dài ở trong chăn ra rồi nhảy ra đằng mũi
thuyền. Thừa Chí giật mình, nghĩ thầm: "Chẳng lẽ người thiếu niên tuấn tú kia lại là
bọn tay sai của thủy tặc? Hắn lên thuyền làm nội ứng để cướp tiền bạc và hàng hóa
của nhà buôn nọ? Nay ta đã gặp không thể nào khoanh tay không cứu giúp."
Vì Kim Sà Kiếm hình thù quái dị mà chàng phải gởi lại trong quân trại của Sấm
Vương, nên hiện trong lưng chàng chỉ có một con dao găm và mấy chục quân cờ cây.
Cầm dao găm ngồi dậy, chàng nghe thấy tiếng bơi chèo của chiếc thuyền nhỏ ở phía
trước mặt càng ngày càng gần, rồi đột nhiên có tiếng nói thô lỗ phát ra từ đầu thuyền
nhỏ nọ:
- Tên họ Ôn kia, ngươi có biết thế nào là nghĩa khí giang hồ không?
Ôn Thanh hét lớn:
- Biết thì sao? Và không biết thì sao?
Tên nọ đáp:
- Chúng ta đã tốn bao nhiêu công khó nhọc, theo dõi từ đây! Còn ngươi thì khôn
ngoan lắm, giữa đường nhảy ra, định ăn cướp cơm chim phải không?
Lúc đó Long Đức Lân đã tỉnh dậy, nghe thấy tiếng nói ồn ào, vội ngó đầu ra coi.
Thấy bốn chiếc thuyền nhỏ, lửa đốt sáng choang, đầu thuyền chiếc nào cũng đứng đầy
người cầm võ khí, hắn hoảng sợ đến nổi run lẩy bẩy. Nghe hai bên đối đáp, Thừa Chí
đã hiểu rõ sự thế, liền an ủi Đức Lân rằng:
- Không việc gì đến ông, ông đừng sợ!
Giọng nói run run, Đức Lân khẽ hỏi:
- Họ... họ... có phải chúng định đến cướp hàng hóa của tôi không?
Lại nghe thấy Ôn Thanh quát tháo:
- Tiền tài của thiên hạ, ai cũng có quyền hưởng. Chẳng lẽ số vàng cũng của các
ngươi chắc?
Tên nọ trả lời:
- Ngươi đem hai nghìn lạng vàng đó ra đây, chúng ta chia đôi. Như vậy, chúng ta
đã nể ngươi lắm rồi.
- Thôi! Câm đi! Các ngươi đừng có mơ tưởng hão huyền.
Hai tên đại hán đứng trên hai chiếc thuyền nhỏ khác liền nổi giận:
- Sa đại ca, hà tất phải phí lời nói với quân ngang ngược ấy làm gì?
Nói đoạn, cả hai tay cầm khí giới, nhảy sang chiếc thuyền lớn.
Nghe họ cãi vã, Long Đức Lân đã run sợ mất mật rồi, nay lại thấy hai người nhảy
sang thuyền mình , Ông ta sợ quá lắp bắp, giọng run run:- Viên... Viên tướng công ơi! Quân cướp... chúng sang tới... tới đây cướp...
Thừa Chí kéo hắn ẩn núp sau lưng vừa an ủi:
- Có tôi đây ông khỏi sợ!
Lúc ấy chỉ thấy Ôn Thanh hơi né mình phi luôn chân trái lên "Bõm!" một tiếng,
chàng đã đá ngã người bên trái xuống sông. Chàng múa kiếm đỡ con dao của người
bên phải chém tới. Chỉ nghe thấy "keng!" "phật!" hai tiếng, dao và bả vai của tên nọ
đều bị chặt đứt. Rồi y ngã nằm chết ngất trên mũi thuyền. Ôn Thanh cười nhạt một
tiếng, rồi gọi vọng sang thuyền bên kia:
- Bớ Sa Lão Đại! Từ nay ngươi đừng để cho những đồ chuột lắt ấy ra đối chọi với
đời, toi mạng một cách vô ích nhé!
Tên đại hán phía trước mặt "hừ!" một tiếng, rồi dõng dạc bảo các bộ hạ:
- Chúng bay sang khiêng lão Lý về đây.
Hai tên ở thuyền nhỏ nhảy sang khiêng tên bị cụt tay về. Không bao lâu tên bị đá
ngã xuống sông cũng lóp ngóp bò lên thuyền nhỏ, mình mẩy ướt như chuột lột.
Sa Lão Đại lại lên tiếng:
- Bang "Long Du" ta với phái "Thạch Lương" nhà ngươi vốn xưa nay không có
thù hằn gì. Ông chủ chúng ta chỉ nể mặt ông Tổ thứ năm ngươi đó thôi, chớ ngươi
đừng có tưởng lầm ta hèn nhát đâu nhé.
Nghe thấy nói tới phái Thạch Lương, Thừa Chí giựt mình kinh ngạc, nghĩ thầm:
"Bữa nọ, tên Trương Xuân Cửu lẻn lên núi Hoa Sơn ăn trộm kiếm pháp, chả phải là
người của phái Thạch Lương là gì?" Chàng lại nghe thấy Ôn Thanh nói:
- Ngươi nói thế để lấy lòng ta, tại các ngươi không địch nổi ta chớ gì?
Sa Lão Đại nổi giận:
- Chẳng hay ngươi có chịu tuân theo luật lệ của giới giang hồ không?
- Ta muốn sao làm vậy, ngươi không được phép lý với ta.
- Này, ta "tiên lễ hậu binh" trước. Sau này Ngũ Tổ nhà ngươi không còn trách cứ
ta cậy nhiều người bắt nạt một người bé bỏng thế cô nữa nhé!
Nghe lời nói của Sa Lão Đại, Thừa Chí hiểu ngay tên tướng cướp này có vẻ kính
nể sợ oai Ngũ Tổ nào đó của Ôn Thanh. Cười nhạt một tiếng, Ôn Thanh trả lời:
- Cậy có miếng võ quèn của nhà ngươi, mà cũng đòi bắt nạt ta ư?
Thấy hai bên càng nói càng găng, Thừa Chí biết trận xung đột tất không sao tránh
khỏi. Chàng nghĩ thầm: "Nếu theo lời của chúng, thì có lẽ Bang "Long Du" muốn
cướp số vàng kết sù nào đó, nhưng Ôn Thanh bỗng giữa đường phỗng tay trên nên
Bang nọ không chịu phục liền đuổi theo và đòi chia đôi tang vật. Vì thế, lúc Ôn Thanh
xuống thuyền mang trong người hai nghìn lạng vàng, mới nặng trĩu như vậy. Xét ra cả
hai đều không phải chánh nhân quân tử, ta cứ giả dạng không biết võ nghệ chỉ khoanh
tay đứng xem chớ không giúp ai cả. Chàng đang nghĩ ngợi thì hai bên bắt đầu đánh
nhau.Sau một tiếng thét lớn, Sa Lão Đại và hơn mười tên đại hán ở bốn chiếc thuyền
lớn. Sa Lão Đại, tay cầm đại hoàn đao, đứng trước mặt mọi người, chắp tay vái chào,
rồi nói với Ôn Thanh:
- Ta biết bọn đàn em của ta không địch nổi nhà ngươi, nên Sa Lão Đại này muốn
tiếp vài hiệp kiếm thuật Ngũ Phượng phái Thạch Lương nhà ngươi, mà võ công đã từng
khét tiếng là có một không hai ở miền Giang Nam.
Ôn Thanh trả lời:
- Ngươi muốn một mình đối địch với ta hay là cả bọn cùng ùa vào đánh?
Sa Lão Đại ngửng đầu, cười ha hả:
- Nhà ngươi khinh người quá! Trong thuyền này còn có quý bạn nào xin ra làm chứng hộ cho, kẻo sau này các bạn giang hồ lại bảo rằng ta không biết xấu hổ là gì.
Lão quay vào trong thuyền rồi lớn tiếng gọi:
- Mời hai bạn ngồi trong kia ra đây!
Hai tên đại hán liền bước vào trong khoang nói với Thừa Chí và Long Đức Lân:
- Đại ca chúng tôi xin mời hai ông ra ngoài chứng kiến cuộc đấu.
Thấy Đức Lân run lẩy bẩy, không dám lên tiếng, Thừa Chí liền bảo:
- Họ chỉ mời chúng ta ra làm chứng thôi, chắc không có việc gì quan trọng đâu.
Thôi! Chúng ta ra ngay đi.
Nói đoạn, chàng kéo tay Đức Lân, cùng ra ngoài mũi thuyền.
Ôn Thanh có vẻ lo ngại, cười nhạt nói:
- Nếu nhà ngươi muốn có người coi để tự bêu xấu mình thì đừng có trách ta ra tay
quá mạnh nhé! Hãy coi chừng.
Sở Lão Đại chưa kịp nói năng gì, thì Ôn Thanh đã đâm luôn hai nhát kiếm vào bả
vai và mạng mỡ bên trái của hắn rồi. Mặc dầu thân hình lớn quá cỡ, Sa Lão Đại vẫn
lanh lẹ vô cùng. Hắn quay ngược sống đao đỡ hai nhát kiếm rồi dùng miếng "Thiết
ngưu đỉnh cảnh" bổ thẳng vào đầu Ôn Thanh.
Vừa tránh mấy miếng kiếm của địch, vừa múa đao tấn công luôn, Lão Đại quả tài
nghệ phi thường. Hắn có vị nể phần nào, mới dùng sống đao, chớ không tấn công bằng
lưỡi đao rất sắc bén.
Ôn Thanh quát lớn:
- Ngươi có tài ba gì cứ việc giở hết ra, chớ ta không thèm cám ơn tấm lòng tốt giả
dối ấy đâu!
Chàng vừa nói vừa tấn công rất ráo riết. Chỉ hớ hênh có một chút, Sa Lão Đại đã
bị đâm trúng một nhát kiếm vào vai. Nhưng cũng may mũi kiếm chỉ rách một mảnh áo
thôi chớ không gây thương tích nào cả. Tuy vậy, Lão Đại cũng hoảng hồn và phải cẩn
thận khi đánh chớ không dám chễnh mãn khinh thường như trước nữa. Tuy nhiên
võ công của Lão Đại cũng hiểm độc vô cùng, nhưng vẫn địch không nổi kiếm pháp lanh lẹ
của Ôn Thanh. Chẳng bao lâu, Lão Đại đã bị luồng ánh sáng kiếm bao vây kín mít dù
gió cũng không lọt nổi.Thừa Chí đã nhận thấy võ nghệ của Ôn Thanh trên Sa Lão Đại nhiều. Càng đánh,
Lão Đại càng thấy thở mạnh và mồ hôi ướt đầm áo ngoài. Bỗng nhiên Ôn Thanh thét
lên một tiếng, chàng đã đâm trúng một mũi kiếm vào đùi Lão Đại. Biến sắc mặt, lùi lại
một bước, Lão Đại vung tay ném luôn một lúc ba cái Thấu cốt đinh. Ôn Thanh dùng
kiếm gạt rơi hai cái, còn một cái thì chàng phải né mình mới tránh khỏi. Một trong hai
cái đinh bị chàng gạt ra bắn thẳng vào ngực Thừa Chí.
Thấy lỡ tay hại nhầm người khác, Ôn Thanh kinh hãi, rú lên một tiếng. Chàng
mục kích rõ rệt mũi đinh ấy phóng thẳng vào ngực Thừa Chí mà chàng ta vẫn đứng
yên, không biết né tránh hoặc đón đỡ gì cả. Như vậy ám khí đó thế nào chẳng xuyên
thủng ngực chàng ta rồi! Vừa rú xong, Ôn Thanh định nhảy lại cứu giúp, ngờ đâu mũi đinh ấy đã
chạm vào người Thừa Chí và rơi xuống dưới ván thuyền rồi. Bị trúng ám khí mà Thừa
Chí vẫn thản nhiên, hình như không hay biết gì cả. Mọi người đều ngơ ngác nhìn nhau
không hiểu tại sao một viên tú tài trông tầm thường như thế mà nội công lại cao siêu
đến mức đao thương chém không nổi? Nhưng bọn họ có biết đâu, sở dĩ mũi đinh
không xuyên qua được ngực Thừa Chí là vì chàng mặc chiếc áo cánh hộ thân do Mộc
Tang đạo nhân tặng cho.
Thấy Ôn Thanh đang ngơ ngác nhìn Thừa Chí, không chút đề phòng, Sa Lão Đại
liền phóng luôn ba cái Thấu cốt đinh nữa. Nghe thấy tiếng động Ôn Thanh quay lại,
trông thấy ám khí đã tới gần liền cúi đầu để tránh. Nhưng chỉ tránh được mũi đinh bắn
phía trên, còn hai mũi đinh phía dưới thì tránh không kịp. Chàng đã yên trí phen này bị
chết oan tại nơi đây, nhưng lạ thay, bỗng có một mũi đinh ở bên cạnh bắn tới, trúng
ngay mũi đinh thứ hai, rồi mũi thứ hai lại đụng phải mũi thứ ba, thế là ba mũi đinh
cùng rơi cả xuống, không mũi nào trúng vào người chàng cả.
Đưa mắt nhìn ngang, chàng biết ngay người ném mũi đinh để cứu mình chính là
Thừa Chí. Thì ra, Thừa Chí thấy Sa Lão Đại dùng thủ đoạn đê hèn chực hãm hại Ôn
Thanh, chàng mới nhặt mũi đinh rơi trước mặt và phóng ra cứu chàng thanh niên nọ
thoát chết. Ôn Thanh khẽ gật đầu tỏ vẻ cảm tạ rồi múa kiếm nhắm Lão Đại đâm tới.
Thấy Lão Đại đê hèn vô sỉ, phen nầy Ôn Thanh không chút nể nang, đánh miếng kiếm
nào cũng hiểm độc vô cùng. Mới được vài hiệp, Lão Đại đã bị đâm trúng một mũi
kiếm vào hông bên phải, rồi "keng" một tiếng, thanh đao đã rơi xuống ván thuyền.
Chàng tiến lên một bước, bồi thêm một nhát vào đùi bên phải kẻ địch. Sa Lão Đại thét
lên một tiếng ngã ra chết ngất. Mấy tên thủ hạ của hắn quên cả sợ hãi bảo nhau chạy
lại cứu chủ. Nhưng Ôn Thanh khi nào chịu để cho chúng thi hành theo ý muốn, chỉ vài
lần vung kiếm lên chàng đã giết chết tới bảy tám mạng rồi.
Thấy giết chết nhiều người quá, Thừa Chí không thể làm ngơ, liền lên tiếng
khuyên ngăn:
- Thôi! Ôn đại ca. Tha chết cho chúng!
Ôn Thanh không chịu ngừng tay, lại giết thêm hai tên nữa. Các đại hán khác thấy
chàng hung dữ quá liền nhảy xuống sông tẩu thoát. Thuận tay, chàng ném một nhát,
chặt đầu Sa Lão Đại, rồi dơ chân trái, đá luôn thi hài kẻ địch xuống sông. Thấy Ôn
Thanh tàn nhẫn quá, Thừa Chí trong dạ không vui, nghĩ thầm "Người đã đắc thắng, hà
tất phải tàn nhẫn đến thế!" Chàng quay lại nhìn Đức Lân, thấy hắn sợ hãi đến nỗi nằm
yên, không dám cựa quậy. Bọn thủ hạ của phái Long Du bơi thoát tới giữa sông, leo
lên thuyền nhỏ rồi chèo thuyền chạy như bay về miền hạ du.Thừa Chí thấy bọn chúng đã đi xa rồi, liền bảo với Ôn Thanh:
- Chúng định cướp vàng bạc của đại ca nhưng không cướp nổi thì thôi, tha cho
chúng hà tất đại ca phải tàn sát nhiều sanh mạng như thế?
Ôn Thanh trợn mắt lườm:
- Thế đại huynh không thấy chúng vừa giở thủ đoạn ác độc hay sao? Nếu tôi thua
chúng có lẽ còn bị thảm khốc hơn thến này nữa. Đừng tưởng có ơn cứu sống tôi mà
huynh đã vội lên mặt là thầy dạy đời ngay, tôi không thích nghe đâu nhé.
Thấy Ôn Thanh cãi bướng như vậy, Thừa Chí không dám nói nữa. Lau chùi máu
trên kiếm xong, Ôn Thanh tra kiếm vào bao rồi cúi chào Thừa Chí, miệng cười tươi
như đóa hoa:
- Viên đại ca, vừa rồi đại ca đã cứu tôi, tôi rất cám ơn.
Thừa Chí mặt đỏ bừng, cúi đầu đáp lễ nhưng không nói được nửa lời. Chàng chỉ
cảm thấy chàng thanh niên nọ, lúc thì nhu mì như một thiếu nữ, lúc lại hung ác hơn cả
sói lang và không sao hiểu thấu nổi cái tánh của y ra sao?
Ôn Thanh gọi lái đò rửa sạch những vết máu còn dính trên ván thuyền và cho nhổ
neo ngay. Tên lái đò không dám trái lời liền nhổ neo, dương buồm, cho thuyền đi ngay
lúc đêm khuya. Ôn Thanh gọi chủ thuyền dọn thức ăn và rượu ra đầu thuyền để cùng
Thừa Chí thưởng nguyệt ngắm cảnh. Chàng không nhắc nhở đến chuyện ác chiến vừa
rồi, và cũng không đàm luận võ công với Thừa Chí. Sau khi uống cạn vài chén, chàng
lên tiếng nói:
- Ngày mai kia bao giờ sẽ tới? Nâng ly này ta hỏi ông Xanh. Nhưng ông Xanh
chỉ làm thinh, chắc không thể nào giải đáp nổi!
Bỗng nhiên thấy Ôn Thanh giở văn chương ra, Thừa Chí chỉ ừ ừ à à để ứng đáp
thôi, vì hồi nhỏ, tuy chàng có theo học ứng Tòng vài năm, nhưng từ khi lên núi Hoa
Sơn theo Mục Nhân Thanh học võ đến giờ, đêm tối, thỉnh thoảng cũng có giở sách ra
coi lại, nhưng không phải là môn học chánh, cho nên sức học của chàng cũng thường
thường vậy thôi, Ôn Thanh lại hỏi:
- Viên huynh, trăng thanh gió mát, đêm đẹp thế này, anh em ta cùng nhau làm thơ
nhé?
- Quả thật, đệ không biết một tí gì về văn thơ cả.
Ôn Thanh mỉm cười không nói nữa. Hai người lại tiếp tục rót rượu ra uống bỗng
thấy phía trước mặt có một chiếc thuyền nhỏ đang rẽ sóng bơi tới. Tuy nước chảy
ngược mà thuyền đó vẫn đi nhanh vô cùng. Biến sắc mặt, cười nhạt vài tiếng, Ôn
Thanh lại tiếp tục rót rượu ra uống.
Thuyền của Thừa Chí thuận buồm xuôi gió, cũng đi nhanh vô cùng, chỉ trong
chớp mắt, đã tới cạnh thuyền nhỏ, Ôn Thanh vứt chén rượu xuống, bỗng nhảy phắt lên,
hai chân chỉ khẽ đụng mui thuyền một cái, đã nhảy tới phía đuôi thuyền rồi. Chàng
dằng lấy chiếc bơi chèo của tên lái đò, và chỉ chèo một cái, chiếc thuyền đã sang phía
trái, đâm thẳng vào chiếc thuyền nhỏ kia. Thuyền nhỏ muốn tránh nhưng đã muộn rồi
"sầm" một tiếng, chiếc thuyền nhỏ lật ngược, đáy thuyền chổng lên mặt nước. Thấy
vậy, Thừa Chí vội kêu lên:- Nguy to!
Ba người ngồi trên chiếc thuyền nhỏ đã nhảy sang mũi chiếc thuyền lớn trước khi
thuyền của họ bị đắm. Thân pháp nhanh nhẹn của họ đã chứng tỏ cả ba đều có võ công
thượng thặng. Trước khi chiếc thuyền nhỏ tới gần, Thừa Chí thấy trên thuyền có tất cả
năm người, nay chỉ thấy có ba người nhảy sang được bên nầy, còn người bơi chèo và
người cầm lái có lẽ võ nghệ kém hơn, nên học đã bị ngụp theo thuyền. Vì nước chảy
mạnh quá, cả hai chỉ nhô lên kêu được mấy tiếng: "Cứu tôi với!" rồi cùng bị chìm lỉm
xuống đáy sông ngay. Chắc hai người đó rủi nhiều hơn may nên đều bị sóng nước lôi
cuốn đi mất.
Thừa Chí đang rủa thầm Ôn Thanh quá ác độc nhưng trong lúc đó chàng lại thấy
hai nạn nhân nhô lên một lần nữa. Không để lỡ dịp, chàng giựt đứt giây thừng buộc
buồm, miệng ngậm đầu dây, hai chân nhún một cái, nhảy thẳng xuống sông chỗ hai
người đang lâm nạn. Chỉ trong nháy mắt, mỗi tay nắm tóc một người, chàng mượn sức
dây thừng cột buồm đang cắn chặt trong mồm, văng mạnh một cái, đã xách được hai
người kia trở về thuyền lớn. Thân pháp của chàng xảo diệu tuyệt luân khiến mọi người
phải vỗ tay khen ngợi. Lúc đó Ôn Thanh đã trở về mũi thuyền. Thừa Chí đặt hai người
ở ván thuyền rồi ung dung ngồi xuống ghế, người không bị ướt một tí nào. Dưới ánh
sáng trăng, chàng thấy ba người kia là một ông cụ già gầy gò tuổi ngoài năm mươi, để
râu xồm nhưng rất thưa, một người là đại hán tuổi trạc ngoài bốn mươi, thân hình vạm
vỡ, còn một người nữa là một đàn bà tuổi trạc ba mươi. Ông già nọ tủm tỉm cười và
hỏi:
- Tài ba của lão đệ cao siêu lắm, xin hỏi quí tánh đại danh là gì, tôn sư là vị nào?
Thừa Chí rất cung kính đứng dậy vái chào và đáp:
- Tiểu bối họ Viên, vì thấy hai vị này rớt xuống nước trông rất tội nghiệp nên tiểu bối
mới xuống lôi họ lên, chứ không dám biểu diễn võ công trước mặt lão Tiền bối. Xin
lão Tiền bối lượng thứ cho.
Ông già nọ thấy Thừa Chí lễ phép như vậy, ngạc nhiên vô cùng, cười nhạt một
tiếng, rồi quay lại nói Ôn Thanh rằng:
- Thảo nào thằng nhỏ này càng ngày càng táo gan, thì ra mi đã có người giúp sức,
y có phải là bồ của mi không?
Ôn Thanh mặt đỏ bừng, lớn tiếng đáp:
- Tôi đã tôn ông làm bền trên, mà ông lại ăn nói chả lễ phép tí nào.
Thừa Chí nghĩ thầm: "Bọn người này, chắc không phải là chính nhân quân tử đâu,
ta hà tất phải dây dưa vào làm chi?" Nghĩ đoạn, chàng liền lớn tiếng nói tiếp:
- Tại hạ với Ôn huynh đây mới quen biết nhau thôi, chưa thể nói là bạn chí thân
được. Tôi xin khuyên quí vị một câu, có việc gì cứ nói trắng ra để thương lượng với
nhau khỏi mất hòa khí.
Ông già chưa kịp đáp, Ôn Thanh đã trợn trừng mắt lên nhìn chàng giận dữ nói:
- Nếu bạn sợ, thì bạn cứ việc lên bờ mà đi đi, đừng có can thiệp vào việc của tôi
nữa.Thấy Ôn Thanh bướng bỉnh như vậy, Thừa Chí lại nghĩ thầm: "Sao thiên hạ lại có
người bướng bỉnh như thế này?" Nghĩ xong, chàng không nói năng gì hết, cứ đứng
yên ở đó. Nghe giọng nói của Thừa Chí, ông già mới hay chàng không phải là người
cùng bọn với Ôn Thanh, trong lòng mừng thầm, rồi nói tiếp:
- Bạn họ Viên không phải là người cùng phe với người họ Ôn đây thì hay lắm, chờ
việc của lão xong, lão sẽ cùng bạn chuyện trò và kết giao với nhau một phen.
Nghe giọng nói của ông ta thì hình như ông ta có ý muốn làm bạn với Thừa Chí.
Thừa Chí không trả lời, chỉ vái chào một cái, rồi lui bước, đứng ở phía sau Ôn
Thanh.
Ông già nọ quay lại hỏi Ôn Thanh rằng:
- Mi ít tuổi như vậy mà sao tâm địa lại ác độc đến thế? Sa Lão Đại đã bị mi đánh
bại rồi thì thôi chứ, sao mi lại còn muốn giết chết y?
Ôn Thanh đáp:
- Tôi chỉ có một thân một mình, bên các người có bấy nhiêu đại hán cùng xông
lên một lúc, tôi không ra tay ác độc như thế nào được. Thế mà ông còn nói, ông không
sợ người khác cười ông thị lớn bắt nạt nhỏ thị nhiều hà hiếp ít hay sao? Y tài ba gì mà
lại cướp số vàng của tôi đã lượm được. Thật không biết xấu hổ chút nào.
Thừa Chí nghe giọng chàng ta rất thanh thót và thao thao bất tuyệt, nói cho ông
già không còn cãi vào đâu được.
Người đàn bà trong bọn ba người đột nhiên trợn ngược đôi lông mày lên mắng
chửi:
- Thằng nhỏ kia, người được bề trên nuông chiều hóa vô lễ phép như vậy, để ta thử đi
hỏi ông ngươi và mẹ ngươi xem, ai đã dạy ngươi hỗn láo như vậy.
Ôn Thanh không chịu lép vế chút nào liền trả đũa ngay:
- Người bề trên phải biết làm bề trên thì người dưới mới tôn kính chứ cứ thị kẻ cả
mà cướp của người ta đã kiếm sẵn như vậy, thì người nào cũng không thể chịu nhịn
được.
Ông già cả giận giơ tay lên đập mạnh vào cái bàn ở trên mũi thuyền. Khi ông ta
rút tay lại, thì mặt bàn đó đã bị lõm vào một miếng. Và tay của ông ta đã cầm miếng
gỗ thủng trên mặt bàn rồi, đủ thấy tay của ông ta cứng rắn không kém gì gang sắt. Tiếp
theo đó, ông già bóp mạnh một cái, miếng gỗ ấy vụn như cám ngay.
Ôn Thanh lại nói tiếp:
- Võ công của huynh lão gia cao siêu như thế nào, tiểu bối được biết đã lâu, hà tất
phải biểu diễn lại ở trước mặt tiểu bối như thế, nếu lão gia muốn biểu diễn võ công, thì
biểu diễn cho các ông tôi xem có hơn không?
Ông già cả giận đáp:
- Mi đừng có đem mấy ông của mi ra dọa nạt người, các ông của mi thì làm gì
được ai, nếu các ông ấy có tài ba thật sự thì con gái đâu đến nỗi bị người ta dầy vò mà
đẻ ra mi, đứa con hoang như vậy.Ôn Thanh không sao nhịn được nữa, mặt biến sắc, đôi mắt như đổ lửa. Trái lại,
đại hán nọ với người đàn bà kia thì cười ha hả đắc chí vô cùng.
Thừa Chí thấy Ôn Thanh nước mắt nhỏ giọt xuống hai bên má, trông rất tội
nghiệp, chàng liền nghĩ thầm: "Người này hành sự lão luyện hơn ta, sao hở tí lạ khóc
lóc như thế. Lời nói của ông già kia vừa nói, thì hình như mẹ của chàng ta bị người
cưỡng dâm mới sinh ra chàng ta." Chàng thấy Ôn Thanh bị người hà hiếp lại nổi lòng
hào hiệp, chỉ muốn ra tay trợ giúp luôn.
Ông già âm thầm nói tiếp:
- Khóc làm gì, có mau đưa số vàng cho ta không? Không phải chúng ta thèm số
vàng ấy đâu, ta chỉ muốn đưa số vàng đó cho quả phụ họ Sa làm tiền tử tuất thôi.
Ôn Thanh tức giận đến chân tay mình mẩy run lẩy bẩy, vừa khóc vừa đáp:
- Các ngươi muốn giết ta thì giết đi, ta không đưa số vàng ấy đấy!
Đại hán nọ kêu hừ một tiếng, y thấy chiếc thuyền lớn tuy đã hạ buồm rồi mà vẫn
theo nước trôi xuống miền xuôi, liền cầm cái neo bằng sắt thật lớn để đằng mũi giơ lên
múa một vòng và ném luôn vào trong bờ. Cái neo bằng sắt cả xích nặng hơn hai trăm
cân, mà y cầm lên múa tít lại còn ném xa được như vậy đủ thấy y khoẻ biết bao. Cái
neo đó rớt xuống mặt đất liền cắm sâu vào, nhờ vậy chiếc thuyền ngừng ngay lại
không trôi nữa.
Đại hán nọ lại lớn tiếng hỏi tiếp:
- Thế nào mi có đưa số vàng đó ra không?
Ôn Thanh giơ tay trái lên lau chùi nước mắt và đáp:
- Được, ta đưa số vàng đó cho các ngươi.
Nói xong, chàng chạy vào trong khoang ôm một cái bọc áo ra, bọc ấy có vẽ nặng trĩu.
Đại hán nọ đang định giơ tay ra đỡ thì chàng quát bảo lại ngay:
- Hừ, làm gì có chuyện dễ thế.
Nói xong, chàng ném ngay bọc áo ấy xuống dưới lòng sông kêu đến bõm một
tiếng rồi chàng la lớn:
- Các ngươi có giỏi thì giết chết ta đi! Chứ muốn lấy số vàng đó thì đừng có
hòng.
Đại hán nọ tức giận vô cùng múa đao xông lại chém Ôn Thanh ngay.
Ôn Thanh vứt xong bọc áo đã rút kiếm ra cầm sẵn nơi tay và không đợc chờ đại
hán chém mình, đã múa kiếm đâm hai thế trước.
Ông già nọ liền lớn tiếng quát bảo:
- Hãy ngừng tay lại!
Đại hán nhảy sang bên hai bước để tránh né, ông già nọ đưa mắt liếc nhìn Ôn
Thanh rồi cười nhạt nói tiếp:
- Quả thật rồn đẻ ra rồng, phượng sinh ra phượng, có người cha như vậy mới có
người con như thế này, nếu ngày hôm nay lão để cho mi vô lễ như vậy, lão không còn
là họ Vinh nữa.Không thấy y nhún vai gì cả mà đã đột nhiên nhảy tới trước mặt Ôn Thanh liền.
Thấy Ôn Thanh múa kiếm đâm tới, ông già không sợ hãi chút nào, tay không xông vào
tấn công luôn. Chưởng lực của y khá lợi hại thật, tuy Ôn Thanh có kiếm ở trong tay
nhưng vẫn bị y đẩy lui mấy bước.
Thấy ông già vừa ra tay một cái, Thừa Chí đã biết Ôn Thanh địch không nổi rồi.
Quả nhiên hai người mới đấu được mười mấy hiệp, hổ khẩu tay phải của Ôn Thanh đã
bị ông già điểm trúng, nên chàng thấy tay mình xuội lơ và trường kiếm của chàng cũng bị rớt
ngay xuống kêu leng keng mấy tiếng!
Ông già vội dùng đầu ngón chân khẽ hất một cái, thanh kiếm Ôn Thanh lại bay
tung lên, rồi ông ta giơ tay trái ra chộp lấy cán kiếm và tay phải thì nắm mũi kiếm và
bẻ luôn thanh kiếm đó gãy làm đôi tức thì.
Ôn Thanh thấy vậy giật mình kinh hãi, ông già nọ lại quát lớn:
- Không ghi dấu hiệu ở trên người mi thì chắc mi lại quên tài ba của lão phu lợi
hại như thế nào.
Nói xong, ông ta cầm thanh kiếm gãy đưa vào mặt Ôn Thanh rạch luôn.
Ôn Thanh hoảng sợ la lớn một tiếng. Thừa Chí thấy vậy nghĩ thầm: "Nếu ta
không ra tay cứu giúp thì bộ mặt đẹp của chàng sẽ bị hủy ngay.".
Chàng vừa nghĩ vừa móc túi lấy ra một quân cờ ra nhằm cán kiếm của ông già
đang cầm ném luôn!
Ông già đang mừng thầm, yên chí phen này mình thế nào cũng rạch được mặt của
thằng nhỏ kia. Ngờ đâu, bỗng có tiếng kêu "coong" y thấy tay bị rung động rất mạnh
và cán kiếm y đang cầm đã bị một ám khí ném trúng. Tuy ám khí đó rất nhỏ nhưng sức
ném mạnh khôn tả, nên y không sao cầm vững được thanh kiếm nữa, và hổ khẩu tay
đau nhức vô cùng. Thế là thanh kiếm gãy đó liền rớt ngay xuống boong thuyền.
Ôn Thanh đang hãi sợ đến mất hết sắc mặt, thấy vậy đã mừng rỡ hô lớn lên được
và nhảy ngay tới phía sau Thừa Chí nắm cánh tay chàng, hình như muốn nhờ chàng
bảo vệ cho vậy.
Ông già nọ họ Vinh tên là Thái là bang chủ của Long Du bang, xưa nay vẫn xưng
hùng xưng bá ở vùng Triết Nam này (miền nam tỉnh Triết Giang) ngoài Ngũ tổ của
phái Thạch Lương ra, thì miền này không ai địch nổi y nữa.
Xưa nay y đấu với người không bao giờ dùng khí giới cả, vì y đã luyện thành
công môn Đại Lực ¦ng Chảo công, mười ngón tay của y còn lợi hại hơn cả dao kiếm.
Ngờ đâu bây giờ, Thừa Chí chỉ ném có mũi ám khí nhỏ nhỏ mà đã đánh rớt được thanh
kiếm của y đang cầm, nên y cho việc này là việc nhục nhã nhất trong đời. Lúc ấy y hổ
thẹn đến mặt đỏ bừng, đồng thời trong lòng cũng kinh hãi và nghĩ thầm: "Sao kình lực
của thằng nhỏ này lại mạnh đến thế."
Đại hán nọ với người đàn bà kia thấy Thừa Chí có bản lãnh kinh người như vậy
cũng nghĩ thầm: "Đằng nào thằng nhỏ nọ đã vứt số vàng xuống dưới sông rồi, hôm nay
có một tay tài ba như vậy đỡ đầu cho y thì dù sao chúng ta cũng không làm gì nổi y
đâu. Chi bằng nói vài câu lấy lại sĩ diện rồi rút lui ngay có hơn không?"
Nghĩ xong, người đàn bà liền lớn tiếng nói:- Lão gia chúng ta đi thôi, ngày hôm nay nể mặt bọn họ Viên kia, chúng ta tha
chết cho thằng nhãi một phen vậy.
Ôn Thanh vội đỡ lời:
- Thấy người ta tài giỏi thì muốn rút lui ngay, chuyên môn bắt nạt người yếu, sợ
người giỏi như vậy, thật không biết xấu hổ chút nào.
Thừa Chí nghe thấy chàng ta nói như vậy, cau mày lại nghĩ thầm: "Chàng này lẹ
thật, vừa mới thoát hiểm mà đã giở những lời mỉa mai như thế ra rồi, thật không còn
biết nể nang ai cả."
Người đàn bà nọ hổ thẹn vô cùng, ra tay đấu sợ địch không nổi Thừa Chí, mà
không ra tay đấu thì biết mất hết sĩ diện nhưng Vinh Thái một tay lão luyện nên y vừa
mỉm cười vừa hỏi Thừa Chí rằng:
- Lão đệ võ công cao siêu thật, lão này nhân lúc gió mát trăng thanh này cùng lão đệ đấu chơi vài hiệp quyền chưởng, chẳng hay lão đệ có vui lòng tiếp tay lão phu không?
Y yên chí dùng Đại Lực ¦ng Chảo công mà y đã tu luyện ngót hai mươi năm, dù Thừa Chí có giỏi đến đâu cũng không thắng nổi môn võ công ấy của y.
Thừa Chí thấy đối phưong thách đố như vậy, liền nghĩ thầm: "Ra tay đấu với y chưa chắc ta đã thua đâu, nhưng đấu như vậy tức là đi vào cùng phe với Ôn Thanh rồi, thanh niên này hẹp lượng, giảo hoạt và điêu ngoa như thế chưa chắc là bạn tốt, như vậy ta hà vì y mà kết thù kết oán với ông già họ Vinh kia làm chi."
Nghĩ đoạn, chàng liền chắp tay chào đáp:
- Tiểu bối mới bước chân vào giang hồ không biết trời cao đất rộng gì cả, mà cũng chỉ biết đôi chút võ công mọn thì đâu dám đối địch với lão tiền bối như thế.
Vinh Thái mỉm cười nghĩ thầm: "Thiếu niên này cũng biết điều đấy."
Nghĩ như vậy, y liền đáp:
- Lão đệ khiêm tốn quá!
Nói xong, y lườm Ôn Thanh một cái, rồi nói tiếp:
- Thế nào cũng có một ngày lão phu cho mi biết tài ba lợi hại của lão phu như thế
nào.
Y quay đầu lại bảo đại hán với thiếu phụ kia rằng:
- Chúng ta đi thôi!
Ôn Thanh vội nói với theo:
- Tài ba của ông lợi hại như thế nào, tôi đã biết rồi, thấy võ công của người ta giỏi
không dám ra tay đấu, lại còn giả bộ nói vài câu để sĩ diện nữa.
Chàng đáo để thật, cứ muốn khiêu khích đôi bên đấu với nhau, vì chàng đã nhận
thấy võ công của Thừa Chí cao siêu hơn, chắc thế nào cũng thắng nổi ông già. Vinh
Thái nghe thấy Ôn Thanh nói như vậy, hổ thẹn vô cùng và cả Thừa Chí cũng bực mình
nốt.
Vinh Thái giận dữ đáp:- Bạn họ Viên tuy hãy còn trẻ nhưng là người rất biết điều, thôi được bạn lại đây,
chúng ta đấu chơi vài hiệp với nhau bằng không kẻ vô tri lại bảo lão nhút nhát đấy.
Thừa Chí vội đỡ lời:
- Bạn ấy nói đùa đấy, lão tiền bối chấp nhất làm chi.
Vinh Thái nói tiếp:
- Lão đệ cứ yên tâm, lão phu không đánh thật đâu.
Ôn Thanh lạnh lùng xen lời nói:
- Còn nói là không sợ thế sao không ra tay đấu đi, chưa đấu mà đã vội lấy lòng
người trước, nếu vậy, đừng đấu nữa có hơn không. Thật tôi bấy nhiêu tuổi đầu mà chưa
hề thấy ai lại khéo ăn khéo nói như vậy...
Vinh Thái cả giận liền múa chưởng tấn công vào Thừa Chí luôn.
Nhưng tay y chưa đánh tới mặt đối phương đã vội thâu lại ngay, mồm thì nói lớn:
- Nào bạn họ Viên lại đây để lão thỉnh giáo những thế võ cao siêu của bạn nào.
Tới lúc này Thừa Chí không thể nào từ chối được nữa, chàng đành phải cở áo dài
ra, rồi nói:
- Lão tiền bối nương tay cho nhé!
Vinh Thái đáp:
- Lão đệ khéo ăn nói lắm, xin cứ tấn công đi.
Thừa Chí biết còn khiêm tốn nữa thì đối phương sẽ hiểu lầm mình khinh người
liền, nên chàng vội giở Ngũ hanh quyền ra nhằm ngực Vinh Thái tấn công luôn.
Bọn Vinh Thái ba người tưởng Thừa Chí thế nào cũng có những thế võ độc đáo
ngờ đâu vừa ra tay, chàng lại sử dụng Ngũ hành quyền một môn võ tầm thường trong võ lâm vì vậy mà
bọn Vinh Thái liền có vẻ khinh thường ngay. Cả Ôn Thanh cũng thất vọng vô cùng.
Vinh Thái mừng thầm, song chưởng tấn công như gió chỉ thoáng cái đã đánh luôn
ba thế liền. Y yên chí Đại Lực ¦ng Chảo công của mình độc bộ Giang Nam như vậy,
thì chỉ ba bốn thế là cùng sẽ đánh tan được Ngũ hành quyền của đối phương ngay. Ngờ
đâu, Thừa Chí rất ung dung sử dụng Ngũ hành quyền tầm thường như thế mà đều đỡ
được hết những thế công như vũ bão của đối phương.
Vinh Thái kinh hãi thầm vì y thấy đối phương tuy chỉ dùng quyền thuật rất tầm
thường thôi nhưng thế quyền nào của chàng ta cũng bao hàm một luồng sức mạnh,
đáng lẽ Ngũ hành quyền chuyên dùng để tấn công, trái lại Thừa Chí lại chỉ dùng nó để
bảo vệ bổn thân thôi, nên tha hồ Vinh Thái tấn công lợi hại thế nào cũng không sao tới
gần chàng được, càng đánh y càng nóng lòng sốt ruột và nghĩ thầm: "Đối phương không chịu tấn công
mình, như vậy đã thấy y đã nhường ta rồi, nếu để cho Ôn Thanh phát giác thì thế nào
thằng nhãi ấy cũng lên tiếng mỉa mai ngay."
Nghĩ đoạn, y liền đổi chưởng thành chảo, năm ngón tay của y như một cái dũa sắt
lợi hại vô cùng và thể thức của y càng tấn công càng nhanh hơn trước nhiều.Thấy vậy, Thừa Chí nghĩ thầm: "Người này luyện ¦ng Chảo công đến mức này,
không phải là chuyện dễ, ta phải nhường y để y khỏi mất sĩ diện mới được, nhưng nhỡ
Ôn Thanh biết lại nói mỉa thì sao?"
Lúc ấy, Vinh Thái vừa dùng tay phải tấn công tới, định chộp vai chàng, nhưng
chàng cố ý không né tránh. Vinh Thái thấy vậy cả mừng, nhưng trong lòng y cũng
không muốn đả thương Thừa Chí mà chỉ muốn cào rách áo của chàng ta là coi như đã
thắng một thế thôi. Ngờ đâu, tay của y vừa chộp trúng vai của Thừa Chí thì thấy vai
của chàng ta trơn tuột và người của chàng như thân của con cá lướt ngay đi liền nên y
không sao chộp trúng được vai của chàng nữa.
Thừa Chí đã nhảy sang bên hai bước rồi nói:
- Tôi thua rồi!
Vinh Thái cũng chắp tay chào và đáp:
- Cám ơn lão đệ đã nương tay cho.
Ôn Thanh xen lời nói:
- Phải chính chàng ta nhường cho, ông biết thì được rồi đừng có tự phụ nữa.
Vinh Thái vênh mặt lên đang định nổi khùng thì bỗng thấy trên bờ có ánh sáng lửa lấp
lóe. Tiếp theo đó có mấy chục người tay cầm đuốc đang chạy tới. Một người trong bọn
la lớn:
- Vinh lão gia đã bắt được thằng nhỏ ấy chưa, chúng ta phải mổ bụng nó để trả
thù cho Sa Lão Đại mới được.
Ôn Thanh thấy đối phương đến nhiều người như vậy, dù chàng táo gan đến đâu
cũng phải kinh hoàng.
Vinh Thái lớn tiếng đáp:
- Anh em họ Lưu đấy à? Hãy cho hai người xuống dưới thuyền này.
Trên bờ, liền có hai người vâng lời tiến lên.
Thấy thuyền đậu cách bờ rất xa, chúng không thể nào nhảy tới được, nên đã phải
nhảy xuống sông mà bơi đến cạnh thuyền rồi leo lên trên thuyền.
Vinh Thái lại nói với hai người đó tiếp:
- Gói đồ đó đã bị thằng nhỏ này ném xuống dưới sông rồi, hai vị lặn xuống mò đi.
Y vừa nói vừa chỉ vào chỗ lòng sông.
Anh em họ Lưu liền nhảy ngay xuống dưới sông để mò gói vàng kia.
Ôn Thanh khẽ kéo tay áo Thừa Chí và khẽ rỉ tai nói:
- Anh phải giúp tôi chống cự , chúng định giết tôi đấy.
Dưới ánh sáng trăng, Thừa Chí thấy mặt của Ôn Thanh trông rất đáng thương liền
gật đầu nhận lời ngay.
Ôn Thanh thấy chàng đã nhận lời, liền nắm tay chàng và nói tiếp:
- Bạn lôi cái neo sắt xuống thuyền, còn tôi thì đẩy y xuống sông.Thừa Chí chưa kịp trả lời, thấy tay của Ôn Thanh nắm vào tay mình vừa mềm vừa
nhũn như không có xương vậy. Lúc ấy, Vinh Thái đã chú ý đến hai người thì thầm nhỏ
to với nhau, liền quay đầu lại nhìn. Ôn Thanh vội bóp tay Thừa Chí một cái, rồi đột
nhiên cầm cái bàn giơ lên đẩy luôn vào bọn Vinh Thái ba người.
Đại hán nọ với Thiếu phụ đang mải xem anh em họ Lưu lặn xuống nước mò vàng
không để ý tới, liền bị Ôn Thanh đẩy rớt xuống dưới sông, chỉ kịp thất thanh la lớn
được một tiếng thôi.
Vinh Thái vội vung mình nhảy lên và dùng chưởng chộp luôn, năm ngón tay của
y cắm sâu vào chân bàn bị đối phương giật mạnh một cái, chân bàn liền gãy luôn.
Vinh Thái thấy đại hán với thiếu phụ ở dưới nước khua động lung tung, biết hai
người không biết bơi lội mà nơi đó lại là giữa dòng sông, nước chảy rất mạnh. Anh em
họ Lưu lại bơi ra đằng xa rồi, không kịp quay trở lại cứu viện, y vội vứt cái mặt bàn đó
xuống sông để cho hai người víu lấy khỏi bị chìm trước, rồi y quay người lại múa
chưởng tấn công Ôn Thanh luôn.
Ôn Thanh tay cầm hai cái chân bàn múa động để bảo vệ lấy mặt mũi, mồm thì quát
tháo Thừa Chí:
- Bạn mau lôi đi.
Thừa Chí cầm sợi xích sắt vận nội lực giơ lên và lôi mạnh một cái, cái neo sắt ở
trên bờ đã bay tung lên bắn thẳng tới mũi thuyền. Vinh Thái với Ôn Thanh thấy vậy cả
kinh, vội chạy sang hai bên tránh nó, rồi hai người cùng quay đầu lại nhìn, thấy Thừa
Chí rất ung dung giơ tay lên bắt cái neo sắt đó, từ từ để xuống mũit thuyền.
Lúc ấy chiếc thuyền không còn gì ràng buộc nữa, cứ theo nước mà trôi thẳng
xuống miền xuôi.
Vinh Thái thấy công lực của Thừa Chí lợi hại như vậy, không dám ở lại đối địch
nữa, vội nhún chân một cái nhảy ngay lên trên bờ.
Thừa Chí biết ông già ấy không đủ sức nhảy lên bờ đâu, nên chàng cầm miếng
ván cầu lên vứt theo. Chàng vứt miếng gỗ đó rất khéo, trúng ngay chỗ Vinh Thái rớt
xuống.
Vinh Thái nhảy lên trên cao chưa tới bờ đã hết đà y cúi đầu nhìn thấy bên dưới
nước chảy rất mạnh, hoảng sợ vô cùng, yên chí phen này thế nào cũng bị chết đuối,
ngờ đâu, chân của y sắp rơi xuống tới mặt nước, thì bỗng có một tấm ván phi tới, y cả
mừng dẫm chan vào tấm ván đó mượn sức nhún nhảy một cái nữa, liền lên tới bờ ngay.
Y biết tấm ván đó do Thừa Chí ném tới, nên y rất cảm động và đồng thời cũng
phục công lực của chàng.
Ôn Thanh thấy vậy kêu hừ một tiếng và nói:
- Ai khiến bạn giúp y như vậy, để cho y uống vài ngụm nước đã sao nào. Lòng
sông đây rất cạn, y không bị chết đuối đâu mà sợ, nhưng tôi hãy hỏi bạn định giúp tôi
hay là giúp y thế?
Thừa Chí biết người này tính nết kỳ lạ lắm, nên chàng làm thinh không trả lời mà
chỉ nghĩ thầm rằng: "Ta cứu y thoát chết y không cám ơn thì chớ, lại còn trách ta như
vậy."Nghĩ đoạn, chàng lẳng lặng đi vào trong khoang nằm ngủ luôn.
Trưa ngày hôm sau, thuyền đã tới Cừ Châu, Thừa Chí cám ơn Long Đức Lân và
lấy một lạng bạc tặng cho người lái đò, Đức Lân nhất định trả tiền đò. Thừa Chí từ chối
không được đành phải chắp tai vái để cảm tạ. Ôn Thanh nói với Đức Lân rằng:
- Tôi biết ông không chịu trả tiền đò hộ tôi đâu, cho dù ông có trả tôi cũng không
thèm.
Nói xong, chàng mở bọc áo lấy một nén nàng nặng mười lạng ra ném cho người
lái đò và nói rằng:
- Cho ngươi đấy!
Người lái đò trông thấy nén vàng đó, kinh hoảng đến ngẩn người ra rồi đáp:
- Tôi không có nhiều tiền bạc để thối lại cho công tử đâu.
Ôn Thanh nói tiếp:
- Ai khiến ngươi thối nào, cho cả ngươi đấy!
Người lái đò không dám tin, nói tiếp:
- Tiền đò đâu phải trả nhiều như thế.
Ôn Thanh lại mắng chửi:
- Nói lôi thôi làm gì, cầm lấy! Ta thích cho bao nhiêu thì cho bấy nhiêu, nếu
ngươi chọc tức ta, ta lại đục thủng mấy lỗ để cho thuyền ngươi chìm xuống đáy sông
bây giờ.
Người lái đò biết chàng độc ác lắm, nên không dám nói nữa và cũng không dám
cám ơn nốt, vội nhặt nén vàng đó lên bỏ vào túi.
Ôn Thanh để gói bọc áo lên trên mặt bàn mở ra để gói lại. Mọi người trông thấy
một đống vàng chói lọi làm lóe cả mắt mọi người, đống vàng ấy ít nhất có đến ba trăm
nén. Chàng dùng chưởng chia đống và đó ra làm hai gói, một đống vào trong bọc và
đeo lên trên vai, rồi hai tay bưng nửa đống kia đem đến trước mặt Thừa Chí và nói:
- Tặng cho bạn.
Thừa Chí ngạc nhiên vô cùng, vội nói lại:
- Làm gì thế!
Ôn Thanh vừa cười vừa đáp:
- Bạn tưởng tôi vứt bọc vàng xuống sông thật hay sao? Khi nào tôi lại ngu dại ến
thế? Bọc đó ném xuống dưới sông là bọc đá đấy, tha hồ để cho chúng mò.
Nói xong, chàng cười khanh khách và nằm phục lên trên bàn, mình mẩy run lẩy
bẩy.
Thừa Chí nhận thấy mình thật thà quá hóa ngu ngốc thật, và nghĩ thầm: "Người
này còn nhỏ hơn mình hai ba tuổi, thế mà cả Vinh Thái một tay lão giang hồ như vậy,
cũng bị y đánh lừa nốt."
Nghĩ đoạn, chàng trả lời Ôn Thanh rằng:- Tôi không lấy đâu, bạn gói cả vào trong bọc đi, tôi giúp bạn có phải vì vàng bạc
này đâu.
Ôn Thanh nói tiếp:
- Đây là của tôi tặng cho bạn chứ có phải là tự bạn đòi hỏi đâu, thôi đừng có làm
trò quân tử giả hiệu ấy nữa.
Đức Lân tuy là phú thương nhưng chưa bao giờ thấy một đống vàng kếch sù như
vậy, mà một người thì không lấy, một người thì cứ bắt đối phương lấy, nên y cũng phải
ngạc nhiên đến ngẩn người ra.
Ôn Thanh giận dữ nói tiếp:
- Bất cứ bạn lấy hay không, số vàng này tôi đã tặng cho bạn rồi.
Nói xong, chàng ta đột nhiên phi thân nhảy ngay lên trên bờ.
Thừa Chí không ngờ, nên ngẩn người ra không biết xử trí như thế nào cho phải, nhưng
chàng đã cảnh giác ngay, vội phi thân đuổi theo luôn.
Thân pháp của Thừa Chí nhanh hơn Ôn Thanh, khi chàng hạ chân xuống đất đã ở
phía đằng trước của Ôn Thanh rồi, chàng giơ hai tay ra ngăn cản và nói:
- Đừng đi vội! Bạn mau đem số vàng ấy đi, tôi không lấy đâu.
Ôn Thanh tránh sang trái, chàng lại nhảy sang trái ngăn cản. Ôn Thanh tránh sang
phải, chàng lại nhảy sang phải ngăn cản.
Thấy mình nhảy phía nào cũng không sao đi thoát được, Ôn Thanh nổi khùng
múa chưởng tấn công vào mặt Thừa Chí luôn.
Thừa Chí khẽ giơ tay lên chống đỡ một cái, Ôn Thanh đã chịu không nổi phải lui
về phía sau ba bước mới đứng vững được. Chàng biết không thể nào xông pha được
liền ngồi sụp xuống đất ôm mặt khóc hu hu ngay.
Thừa Chí ngạc nhiên hỏi:
- Có phải tôi giơ tay đỡ làm tay bạn đau đấy không?
Ôn Thanh kêu hừ một tiếng, đã nín liền và tung mình nhảy lên đi luôn.
Thừa Chí không dám đuổi theo nữa, đành đứng nhìn theo cho tới khi hút bóng của
chàng ta.
Hồi 6
Đem trả vàng Thừa Chí vào đất lạ
Thừa Chí thấy võ công của Ôn Thanh như vậy có thể liệt vào hạng nhất hào kiệt giang hồ, nhưng sao hành vi của chàng lại điêu đứng kỳ lạ đến thế, nên chàng vừa bực mình vừa tức cười lắc đầu mấy cái mới quay trở lại thuyền, gói số vàng đó lại rồi chắp tay chào Đức Lân mà lên đường.
Vào trong thành Từ Châu chàng đến phố lớn kiếm một khách sạn lớn rộng để ở.
Sau khi vào buồng rửa mặt xong, chàng nghĩ thầm: "Nếu không trả được nghìn lạng vàn này cho chàng nọ, lòng ta yên sao đành. Vì thấy chàng ta tội nghiệp như vậy ta mới ra tay trợ giúp chứ ta có định lấy thù lao gì đâu. Nếu ta nhận số tiền này sẽ mất tên tuổi của ta liền, cũng may y là người của phái Thạch Lương, phái đó lại ở ngay nơi đây ta đỡ phải đi đâu tìm kiếm nữa. Ta đem số vàng này đến tận nhà y trả dù y không nhận ta cũng bỏ đấy đi luôn. Như vậy có phải tiện không?"
Sáng ngày hôm sau chàng hỏi đường lối đi Thạch Lương rồi liền về khách điếm đem gói vàng đi trả.
Thạch Lương cách Từ Châu hơn hai mươi dặm, Thừa Chí đi tắt rất nhanh nửa tiếng đồng hồ sau đã tới liền. Thạch Lương là một thị trấn nho nhỏ ở gần núi Lan Kha, theo lời đồn thì núi đó xưa kia có một tiều phu lên hái củi. Khi người tiều phu ấy đi sâu vào trong núi liền gặp hai ông tiên ngồi đánh cờ với nhau, chàng tiều phu đứng cạnh đó xem. Xem xong ván cờ của hai ông tiên, chàng quay đầu lại nhìn thấy cán búa đã mục nát và khi chàng ta về đến nhà, người nhà và lối xóm đều khác hẳn, thì ra chàng ta vào núi xem có một ván cờ mà đã qua được mấy chục năm. Núi Lan Kha là hai ngọn núi liên kết thành hai bên đỉnh núi cách nhau mấy chục trượng, ở giữa có một cây cầu đá như là sà ngang của một căn nhà vậy. Cầu này tựa như mọc liền với đỉnh núi, sức người không thể nào mà xây được một cái cầu như vậy, cho nên các bô lão ở địa phương vẫn đồn đại cầu đó là do thần tiên dùng pháp thuật bắt lên, trông nó như một cái sà nhà nên mới có cái tên Thạch Lương như vậy. Thừa Chí đi tới đó thấy một nông phu ở đằng xa đi tới, chàng vội tiến lên hỏi thăm:
- Thưa đại ca, xin hỏi nhờ đại ca nhà họ Ôn ở đâu thế?
Nông phu đợi nghe chàng hỏi xong liền giật mình kinh hãi đáp:
- Tôi không biết, tôi không biết!
Vẻ mặt người ấy trông rất khó coi, hình như khinh bỉ Thừa Chí vậy rồi người đó quay người đi sang phía khác ngay.
Thừa Chí đi tới một tiệm bán chạp phô liền vào hỏi thăm người chưởng quầy, ngờ đầu người chưởng quầy đó lại lạnh lùng đáp:
- Lão huynh tìm nhà họ Ôn làm chi?
- Tôi muốn trao trả cho họ một vật này.
- Nếu vậy lão huynh là bạn của nhà họ Ôn rồi hà tất phải hỏi thăm mỗ làm chi.
Thừa Chí lại bị hắt hủi một lần nữa liền nghĩ thầm: "Sao dân chúng ở đây lại vô lễ đến như thế?"
Chàng lại thấy hai thằng nhỏ đang đùa giỡn ở giữa đường liền móc túi lấy mười mấy đồng tiền ra nhét vào tay một thằng nhỏ và hỏi:
- Cậu em đưa anh đến nhà họ Ôn đi.
Thằng nhỏ bỗng dưng được tiền mừng rỡ vô cùng, nhưng khi nó nghe thấy Thừa Chí nói xong liền trả lại tiền cho chàng và đáp:
- Thúc thúc muốn đến nhà họ Ôn ư? Căn nhà lớn đó chả lạ nhà của chúng là gì, chúng em không thích đi đến chỗ may quỷ ấy.
Tới lúc đó Thừa Chí mới vỡ lẽ thì ra họ Ôn rất thất nhân tâm nên người lối xóm không ai thèm liên lạc với gia đình họ cả, chứ không phải là dân ở đây vô lễ như chàng tưởng tượng đâu.
Chàng đi đến căn nhà đồ sộ mà thằng nhỏ vừa chỉ cho, xa xa đã nghe thấy tiếng người nói ồn ào, chàng vội ráo cẳng bước lên, khi tới gần thấy mấy trăm nông dân, người cầm bừa kẻ cầm thuổng, vây chặt chiếc cửa lớn tiếng quát tháo:
- Các người đánh chết ba mạng như vậy mà không thèm nói nửa lời hay giải quyết ra sao bỏ đi về luôn. Họ Ôn kia có mau ra thường mạng không?
Trong đám nông dân có bảy tám người đàn bà đầu tóc rũ rượi đang ngồi dưới đất khóc bù lu bù loa.
Thừa Chí tới gần hỏi thăm một người nông dân rằng:
- Đại ca, các vị ở đây làm gì thế?
Người nông dân ấy đáp:
- Chắc tướng công là người qua đường nên không biết chuyện, người nhà họ Ôn này hung ác bá đạo lắm, hôm qua người của chúng về làng thâu tiền tô, ông cụ nhà họ Trinh yêu cầu y cho thư thả vài ngày để thu xếp trả, thế là người nhà y đẩy mạnh ông cụ ấy té ngã, đầu đập vào tảng đá lớn chết ngay tại chỗ, con trai và cháu ông cụ ra bắt thường mạng đều bịn người của chúng đánh đến bị thương nặng. Đấy tướng công xem người nhà này thị giàu có và biết võ đánh chết người bỏ đi không thèm nói năng nửa lời, tướng công bảo chúng tôi nhịn sao nổi...
Trong khi hai người nói chuyện với nhau thì những người kia càng la rầm rộ thêm, có người lại đập cửa, có người ném đá vào bên trong như muốn phá cửa nhà họ Ôn vậy.
Đang lúc ấy cánh cửa lớn bỗng mở toang, một bóng người ở bên trong phi ra, mọi người chưa trông thấy rõ thì đã có bảy tám người nông dân bị người đó ném ra ngoài xa hai ba trượng vỡ đầu, sứt tai, máu chảy lai láng liền.
Thừa Chí thấy vậy nghĩ thầm: "Võ công của người này cũng khá cao siêu đấy."
Chàng vừa nghĩ vừa đưa mắt nhìn thấy người đó vừa gầy vừa cao, mặt vàng khè hai mắt xếch ngược, hai bên thái dương huyệt gồ cao, chỉ trông bề ngoài cũng đủ biết người đó là một tay có nội gia rất cao siêu rồi.
Người gầy gò ấy liền quát lớn:
- Các ngươi heo chó kia, còn đến đây ăn vạ phải không?
Bọn nông dân chưa kịp trả lời lại bị y tiến lên túm mấy người ném đi nữa.Thừa Chí thấy người đó túm người ném đi như vậy không khác gì ném người rơm hay người giấy vậy, không tốn một chút hơi sức nào hết, chàng lại nghĩ tiếp: "Không biết người này có liên can với Ôn Thanh không, nếu bữa nọ y đi cùng với Ôn Thanh thì bọn Vinh Thái đã chịu không nổi rồi, chả cần ta phải ra tay giúp sức nữa."
Bỗng có một người trung niên và một người thanh niên ở trong bọn nông dân vội tiến lên nói:
- Các ngươi đánh chết người rồi bỏ đi luôn, coi mạng người như mạng gà vậy, chúng ta tuy nghèo nhưng chúng ta cũng là người chứ có phải súc vật đâu.
Người gầy gò và cao kia nghe thấy người nông dân nói như thế liền cười
nhạt:
- Nếu không đánh cho mấy tên chết ngay tại chỗ thì các ngươi chưa biết thân.
Nói xong, y lại túm lưng người trung niên nọ thuận tay ném luôn vào góc tường ở bên kia Đông, hai thanh niên thấy vậy vừa kinh hãi vừa tức giận song song giơ cuốc lên nhắm đầu y chém luôn. Chỉ thấy y giơ tay trái lên gạt một cái, hai cái cuốc của hai thanh niên kia bị hất bắn ra xa đồng thời y lại chộp lưng của hai thanh niên đó mà ném luôn vào tảng đá lớn ở trước cửa để cắm cột cờ.
Thừa Chí thấy người nọ hà hiếp đám nông dân và đả thương người một cách vô lý như vậy trong lòng đã tức giận, nhưng chàng là người thận trọng không muốn can thiệp việc của người, chỉ muốn đợi cho việc của họ lo dàn xếp xong xuôi là mình tiến lên yêu cầu Ôn Thanh để trao trả số vàng rồi lên đường đi ngay. Ngờ đâu, người gầy gò và cao kia đã ra tay hạ sát thủ, muốn ném chết ba người nọ liền. Chàng động lòng công phẫn và hiệp nghĩa không còn suy nghĩ gì nữa liền phi thân tới giơ tay trái ra chộp vào
đùi phải của người nông dây trung niên lôi trở lại và thuận tay đặt người đó đứng xuống đất. Rồi chàng lại phi thân tới nhanh như điện chớp chộp luôn lưng của hai thanh niên nông dân và khẽ đặt họ xuống dưới đất, sở dĩ chàng nhảy tới kịp để cứu hai người thanh niên này là nhờ ở nhu môn khinh công Nhạc vương Thần Tiên của Mộc Tang đạo nhân truyền thụ cho, môn khinh công này có thể nói là nhanh nhất thiên hạ.
Đáng lẽ chàng không giở môn khinh công này ra để khoe khoang hay làm cho người khác kinh ngạc đâu, nhưng vì thấy tình thế cấp bách như vậy mới phải sử dụng tới môn khinh công này để cứu hai thanh niên kia thoát nạn. Chàng cũng biết ra tay cứu ba người này như vậy, người gầy gò và cao kia thế nào cũng hận mình nhưng chàng đã biết địa điểm của nhà họ Ôn rồi, nếu người gầy gò và cao này giận mình không cho gặp Ôn Thanh thì chàng sẽ chờ đến đêm khuya đem đến trả lại số vàng. Chàng đặt hai
thanh niên nọ đứng xuống xong liền quay mình định đi. Ba người nông dân thoát chết cứ đứng đờ người ra không nói được nửa lời vậy.
Người gầy gò và cao kia thấy võ công của Thừa Chí cao siêu như vậy kinh ngạc vô cùng liền nghĩ thầm: "Ta ném ba người kia thủ pháp rất nhanh và lại ném đi hai phương hướng khác nhau, người này ra tay sau mà lại tới trước nhất cứu được người nọ, không biết y là người của môn phái nào? Sao lại có võ công lợi hại đến thế?"
Nghĩ đoạn, y vội chạy tới gần giơ tay lên định vỗ vai Thừa Chí và nói:
- Bạn kia hãy khoan đã.
Y dùng Đại Lực Thiên Cân, một nội gia rất mạnh vỗ vào vài của Thừa Chí, ngờ đâu Thừa Chí không tránh né gì hết chỉ hơi trầm vai xuống thôi đã hóa giải được sứclực của đối phương liền. Nhưng chàng không vận sức phản công lại và làm như không hay biết gì hết. Người gầy gò và cao kia thấy vậy càng kinh hãi thêm vội hỏi tiếp:
- Có phải bọn người kia mời các hạ đến đây làm khó dễ chúng tôi phải không?
Thừa Chí chắp tay chào và đáp:
- Xin lỗi bạn bởi vì tôi không muốn có án mạng phiền phức lắm cho nên mới dám đường đột ra tay đỡ họ như thế, lão huynh tài như vậy, chấp nhất bọn người nhà quê để làm gì.
Người nọ thấy Thừa Chí ăn nói khiêm tốn như vậy và còn khen ngợi y ở trước mặt mọi người như thế, nên y nguôi cơn giận liền và hỏi tiếp:
- Các hạ quý tính danh là gì? Đến tệ xá có việc gì thế?
- Tại hạ họ Viên có một người bạn họ Ôn không biết có phải ở trong quý phủ không?
- Đệ cũng họ Ôn không biết các hạ kiếm ai thế?
- Người bạn của tại hạ tuổi chừng mười tám, mười chín, mặt rất đẹp trai, mặc áo thư sinh.
Người nọ gật đầu mấy cái rồi quay lại quát bảo mấy chục nông dân hãy còn đứng đó rằng:
- Các ngươi còn đứng đấy làm chi không mau cút đi
Bọn nông dân thấy Thừa Chí lại làm quen với kẻ thù mà võ công của hai người lại rất lợi hại, nên bọn chúng không dám ở lại nữa, liền giải tán ngay.
Chờ bọn nông dân đi khỏi, người nọ liền mời Thừa Chí vào trong nhà uống nước.
Thừa Chí theo y đi vào bên trong tới một đại sảnh rộng ba gian ở giữa có treo một tấm bảng lớn trên đề "Thế Trạch Niên Trưởng".
Đại sảnh này trưng bầy rất lịch sự trông như khách sảnh của một đại thân hào vậy.
Người gầy gò mời Thừa Chí ngồi và bảo người nhà bưng nước ra mời chàng uống.
Người đó hỏi thăm sự thế và xuất thân của Thừa Chí ra sao, thái độ của y tuy rất lễ phép nhưng Thừa Chí vẫn nhận thấy mặt y có vẻ hằn học, chàng vội nói sang chuyện khác và hỏi người nọ rằng:
- Lão huynh làm ơn mời hộ Ôn Thanh tướng công ra đây, đệ có một vật này cần
phải trao trả cho Ôn tướng công ngay.
- Ôn Thanh là xá đệ, đệ là Ôn Chính. Xá đệ vừa đi vắng, mời Viên huynh hãy ngồi
chơi trong chốc lát, y sắp về liền.
Thừa Chí không muốn kết giao với những kẻ có hành vi bất chính và hà hiếp
người làng này, nhưng vì đợi chờ Ôn Thanh về nên bắt buộc chàng phải ngồi ở lại.
Chờ đến giữa trưa vẫn chưa thấy Ôn Thanh về, Thừa Chí lại không muốn trao số
vàng lớn như thế này cho người khác, nên cứ phải ở lại chờ thêm.
Ôn Chính sai người nhà dọn cơm ra mời Thừa Chí ăn, thức ăn rất phong phú và
ngon miệng lắm.Chờ đến chiều mặt trời đã bắt đầu lặn, Thừa Chí nóng lòng sốt ruột nghĩ thầm:
"Đằng nào nơi đây cũng là nhà của Ôn Thanh rồi, ta cứ gửi lại số vàng này cho Ôn
Chính để chuyển giao hộ cũng được, việc gì mà phải đợi chờ Ôn Thanh nữa."
Nghĩ đoạn, chàng liền cởi bọc vàng đeo ở trên vai xuống để lên trên mặt bàn rồi
nói với Ôn Chính rằng:
- Bọc đồ này của lệnh đệ nhất phiền Ôn huynh trao trả hộ, muộn lắm rồi đệ phải
cáo từ đây.
Đang lúc ấy bên ngoài có tiếng cười khúc khích vọng tra, tiếng cười đó là tiếng
cười của mấy thiếu nữ. Tiếp theo đó cửa ngoài đã hé mở, Thừa Chí đã nghe thấy có
tiếng cười, tiếng nói của Ôn Thanh, trong lòng mừng thầm.
Ôn Chính liền nói:
- Xá đệ đã về đấy.
Nói xong, y liền đi ra luôn. Thừa Chí cũng vội theo ra, y cản chàng lại và nói tiếp:
- Mời Viên huynh ngồi đây đợi chờ giây lát.
Thấy hành động của Ôn Thanh có vẻ huyền bí, chàng đành phải ngừng bước, lạ
thật chàng chờ mãi không thấy Ôn Thanh vào mà chỉ thấy Ôn Chính quay trở vào nói:
- Các hạ ngồi chờ thêm một lát nữa, xá đệ thay áo xong ra liền.
Thừa Chí nghĩ thầm: "Ôn Thanh ỏn a ỏn ẻn, không khác gì một người đàn bà vậy,
tiếp khách thôi mà cũng phải thay áo."
Một lát sau, Ôn Thanh đã thủng thẳng bước ra, vẻ mặt tươi cười và nói:
- Viên huynh đại gia giáng lâm thực hân hạnh cho đệ vô cùng.
Thừa Chí đáp:
- Ôn huynh bỏ quên gói đồ đó, đệ đem đến hộ.
Ôn Thanh vẻ hờn giận hỏi lại:
- Có phải Viên huynh khinh thường không?
- Đệ đâu dám, thôi đệ xin cáo lui đây.
Thừa Chí nói xong, đứng dậy chào Ôn Chính và Ôn Thanh định đi. Ôn Thanh đã nắm
tay áo chàng và nói:
- Không cho anh đi.
Thừa Chí ngạc nhiên vô cùng, và mặt chàng hơi biến sắc, Ôn Thanh lại tiếp:
- Đệ có một việc rất cần muốn hỏi Viên đại ca hôm nay, mời đại ca ở lại đây nghỉ
ngơi một hôm đã.
Thừa Chí đáp:
- Đệ ở Từ Châu đang có việc đợi chờ đệ về ở đó giải quyết, cảm ơn Ôn huynh đã
có lòng tốt như vậy.
Ôn Thanh nhất định không nghe. Ôn Chính liền xen lời nói:
- Viên đại ca đã mắc bận, hiền đệ không nên giữ Viên đại ca ở lại như vậy.Ôn Thanh nói giọng hờn giận đáp:
- Được, Viên huynh muốn đi cứ việc đi đi nhưng gói đồ này Viên huynh cũng làm
ơn đem cả đi. Huynh không chịu ở lại nhà đệ thì đệ biết huynh khinh thường đệ.
Thừa Chí ngẫm nghĩ giây lát rồi đáp:
- Nếu Ôn huynh có hậu ý như vậy thì không dám từ chối nữa.
Ôn Thanh cả mừng liền bảo người nhà làm điểm tâm. Ôn Chính có vẻ không vui
nhưng vẫn ở đấy tiếp chứ không chịu rút lui. Thừa Chí không hợp chuyện với y, chàng
chỉ nói với Ôn Thanh thôi, vì thế y chỉ thỉnh thoảng đá gạ một câu thôi. Như vậy mà y
vẫn chưa chịu rút lui đi vào trong nhà.
Ôn Thanh nói đến thi thơ, với môn này Thừa Chí không thạo lắm, sau nói đến
binh pháp, chàng thuộc làu như cháo. Biết tánh chàng rồi, Ôn Thanh cứ đem những
trận đấu xưa kia ra để đàm luận hoài. Thừa Chí rất kính phục và nghĩ thầm: "Tính nết
của người này tuy kỳ lạ thực nhưng về học vấn y lại biết rộng lắm..."
Ôn Chính chỉ giỏi về võ công thôi, chứ văn học thì y không biết một tí gì nên
càng nghe tỏ vẻ chán nản, nhưng vẫn ngồi lì ra đó. Thừa Chí thấy vậy ngượng vô cùng,
lại phải đem võ học ra đàm luận với y vài câu. Ôn Chính đang định đáp thì Ôn Thanh
đã xen lời vào nói sang chuyện khác liền. Thừa Chí thấy vậy cũng lấy làm ngạc nhiên
vô cùng, Ôn Chính tuy là anh nhưng có vẻ kiêng nể Ôn Thanh lắm, thỉnh thoảng bị
người em trách mắng một vài câu, y chỉ cười thôi chứ không dám giận dữ gì cả, khi
nào y thấy Ôn Thanh tươi cười thì y lại tỏ vẻ khoái chí và cười theo.
Mâm rượu nhà họ Ôn khoản đãi Thừa Chí tối hôm đó rất thịnh soạn. Cơm nước
xong, Thừa Chí liền nói:
- Ngày hôm nay đi đường hơi mệt mỏi một chút, đệ muốn được nghỉ ngơi sớm.
Ôn Thanh đáp:
- Tệ xá ở chốn quê nay được Viên huynh đại gia giáng lâm đang muốn chuyện trò một
đêm với huynh để được học hỏi thêm, nếu huynh thấy mệt thì để ngày mai hãy nói vậy.
Thấy người em vừa nói dứt, Ôn Chính đã lên tiếng nói ngay:
- Đêm nay mời Viên huynh sang phòng để ngủ với đệ.
Ôn Thanh vội đỡ lời:
- Thôi không cần đại ca tiếp khách của đệ, tối nay Viên huynh ngủ phòng đệ thì hơn.
Ôn Chính bực mình không chào cáo từ gì hết hậm hực đứng dậy đi thẳng vào nội thất ngay. Ôn Thanh cũng nổi giận nói thêm:
- Hừ, chả biết lễ phép gì hết không sợ người ta chê cười.
Thừa Chí thấy hai anh em chàng ta cãi vã nhau như vậy trong lòng không yên liền nói:
- Đệ ở quen chốn thôn dã rồi, Ôn huynh khỏi phải bận tâm cho đệ vấn đề ăn nằm đó.
Ôn Thanh mỉm cười đáp:
- Thôi được, đệ không bận tâm nữa.Nói xong, chàng cầm cây nến đưa Thừa Chí đi vào nội thất, đi qua hai cái sân vào
tới lớp thứ ba liền lên lầu đến trước một căn phòng, Ôn Thanh vừa mở cửa phòng ra,
Thừa Chí đã ngửi thấy mùi thơm xông ra và chàng thấy trong phòng đang thắp một
ngọn nến dở, phòng này bày biện lịch sự lắm, màn the trướng gấm có thêu một con phượng hoàng. Trên vách có treo một bức tranh mỹ nữ đó, trên mặt bàn bày nghiên bút, ống bút có sáu bảy cây đủ các cỡ. Kỷ chè ở bên phía tây có bày một chậu thủy tiên. Trước cửa sổ có treo một cái giá, trên giá có đậu một con anh vũ trắng. Từ khi hạ sơn đến giờ,
Thừa Chí chưa hề thấy một căn phòng nào lịch sự như thế này, nên chàng cứ đứng đờ
người ra ngắm nghía, Ôn Thanh thấy vậy vừa cười vừa nói:
- Đây là phòng ngủ của tiểu đệ, chật hẹp và sơ sài lắm, mời huynh hãy khuất giá một đêm.
Không đợi chờ Thừa Chí có bằng lòng hay không, chàng đã quay người đi ra luôn.
Thừa Chí ở trong phòng nhìn bốn xung quanh một lượt thấy không có điều gì khác lạ mới yên tâm, chàng đang định cởi áo đi nghỉ thì bỗng nghe thấy tiếng gõ cửa rất khẽ, chàng liền hỏi:
- Ai đó?
Một con sen tuổi trạc mười năm, mười sáu mặt mũi thanh tú và khôn ngoan lanh
lợi, tay bưng một cái mâm bước vào nói:
- Mời Viên thiếu gia xơi một chút điểm tâm.
Nói xong, nàng ta để cái mâm xuống bàn. Thừa Chí thấy trong mâm để một bát
tần yến. Tuy chàng là con của một Đề đốc và Thống soái, nhưng chàng ở quê trưởng
thành, ở trong thôn quê chưa hề thấy bao giờ nên không biết là vật gì.
Đồng thời lần đầu tiên chàng nói chuyện với một thiếu nữa nên hổ thẹn vô cùng,
hai má đỏ bừng, con tiểu hoàn ấy thấy vậy vừa cười vừa nói tiếp:
- Tên cháu là Nguyệt Hoa, thiếu gia cháu bảo cháu đến đây hầu hạ Viên thiếu gia.
Viên thiếu gia có việc gì sai bảo cứ việc gọi tên cháu là được rồi.
Thừa Chí đáp:
- Không có việc gì hết.
Tiểu hoàn vái chào đi ra nhưng khi ra tới cửa nàng lại quay đầu nhìn Thừa Chí
tủm tỉm cười và nói tiếp:
- Chính tay thiếu gia tôi xuống bếp làm bát yến này để Viên thiếu gia xơi.
Thừa Chí ngạc nhiên vô cùng không biết trả lời như thế nào cho phải. Nguyệt Hoa
thấy vậy lại cười một tiếng nữa rồi mới đi hẳn. Thừa Chí cởi quần áo ngoài ra trèo lên
giường đi ngủ, thấy chăn màn thơm tho vô cùng khiến chàng như say như mê nên chỉ
trong giây lát, chàng đã ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
Ngủ đến giữa đêm, ngoài cửa sổ bỗng có tiếng cười khì, chàng giật mình thức
tỉnh, rồi chàng lại nghe thấy có người khẽ gõ vào cánh cửa sổ hai tiếng và có tiếng
người khẽ cười:- Gió mát trăng thanh như thế này, Viên huynh là người tao nhã không ra thưởng thức thì thực uổng một phong cảnh đẹp như tranh vẽ này.
Thừa Chí đã nhận ra đó là tiếng nói của Ôn Thanh , chàng thấy ánh sáng trăng sáng rực và ngoài cửa có một người đang đu ngược, đầu dưới, chân trên treo lơ lửng ở trước cửa sổ và ngó vào trong phòng, thấy vậy Thừa Chí vội nói:
- Vâng, để tôi mặc quần áo sẽ ra ngay.
Nói xong, chàng vội vàng mặc quần áo vào và giấu con dao găm ở trong người
phòng bị. Chàng vừa đẩy cánh cửa sổ ra thì có một luồng gió đưa mùi hoa thơm vào.
Bây giờ chàng mới hay bên ngoài là một cái vườn hoa.
Ôn Thanh khẽ nhảy xuống đất và rỉ tai chàng nói:
- Viên huynh theo tôi đến đằng này.
Thừa Chí thấy chàng ta tay cầm một cái rổ không hiểu chàng ta mang theo cái đó
để làm gì, nhưng không dám nói. Hai người cùng vượt tường đi ra bên ngoài cùng giở
khinh công tiếng thẳng về phía hậu sơn, khi sắp tới đỉnh núi lại vòng hai con đường
cong quẹo liền tới một chỗ bốn xung quanh trồng hoa đang long lanh dưới ánh sáng trăng, Thừa Chí thì trông
thấy rõ một bên trồng hoa mai quế màu trắng và một bên trồng hoa mai quế màu vàng,
liền khen ngợi rằng:
- Nơi đây là tiên cảnh chắc?
Ôn Thanh đáp:
- Những hoa này là do tay đệ trồng hết, nơi đây chỉ có má của tiểu đệ với con tiểu
hoàn là được lui tới thôi.
Nói xong, chàng cầm cái rổ từ từ đi đến gần những luống hoa. Thừa Chí đi theo
sau cũng cảm thấy thích thú vô cùng.
Ôn Thanh đưa Thừa Chí tới một cái đình nhỏ, chàng ta liền mời Thừa Chí ngồi ở trên
tảng đá rồi mở cái rổ ra lấy một ấm rượu và hai cái chén bầy lên trên mặt đá và rót đầy
hai chén rượu đó mới nói:
- Xin lỗi Viên huynh nơi đây không được ăn mặn.
Chàng lại lấy ba món ăn ở trong rổ ra rồi hai người uống rượu dưới trăng hoa.
Thừa Chí gắp những món ăn đó ăn thử mới hay ba món đó đều là món ăn chay thực, ăn
nhậu một hồi, Ôn Thanh lại lấy một ống tiêu ra và nói:
- Để đệ thổi tiêu cho Viên huynh nghe nhé!
Thừa Chí gật đầu, Ôn Thanh liền thổi tiêu cho chàng nghe, chàng không biết âm
luật gì cả nhưng chỉ cảm thấy mình đang sống trong cảnh tiên, chứ dưới trần tục làm gì
có tình cảnh này.
Ôn Thanh thổi xong khúc tiêu rồi mới cười và hỏi:
- Viên huynh thích nghe khúc nào xin cho hay để đệ thổi cho huynh nghe.
Thừa Chí thở dài một tiếng rồi đáp:
- Ôn huynh thông minh thực và cũng biết nhiều thứ quá.
Ôn Thanh khoái chí hỏi lại:- Có thực không?
Nói xong, chàng lại cầm ống tiêu lên thổi tiếp một khúc tiêu càng nhu mì và uyển
chuyển hơn khúc tiêu trước. Khi thổi xong, Ôn Thanh đặt ống tiêu xuống và khẽ hỏi:
- Thế nào, Viên huynh có nghe được không?
- Trên thế gian này không còn ai có thể thổi được khúc tiêu hay như vậy. Trước
kia đệ có nằm mơ và giấc mơ ấy cũng không thể nào bằng được cảnh thực này được.
Thấy Thừa Chí khen ngợi mình như vậy, Ôn Thanh càng khoái chí cười khúc
khích. Lúc ấy hai người ngồi gần nhau, Thừa Chí ngửi thấy ngoài mùi thơm của hoa ra
lại còn có cả mùi thơm của phấn son nữa, chàng liền nghĩ thầm: "Người này không có
ý chí đàn ông gì cả, cũng may ta không phải là con người lẳng lơ, bằng không có phải
là bị y chê cười rồi không?"
Ôn Thanh lại nói tiếp:
- Viên huynh có thích đệ thổi tiêu không?
Thừa Chí gật đầu, Ôn Thanh lại đưa tiêu lên thổi tiếp. Thừa Chí đang ngẩn
người ra nghe thì đột nhiên thấy thiếng tiêu ngưng hẳn rồi Ôn Thanh bẻ luôn ống tiêu
ra làm đôi. Thừa Chí ngạc nhiên vô cùng vội hỏi:
- Sao thế, huynh... đang thổi nhanh như vậy sao bỗng dưng lại bẻ ống tiêu đi?
Ôn Thanh cúi đầu xuống khẽ đáp:
- Từ xưa tới nay đệ không hề thổi tiêu cho ai nghe hết vì họ có biết nghe đâu,
họ chỉ thích múa đao múa kiếm thôi.
- Tôi không nói dối Ôn huynh đâu, tôi thích nghe khúc tiêu của Ôn huynh thổi thực
đấy mà.
- Ngày mai Viên huyh đã từ giả ra đi rồi, đệ chắc huynh đi khỏi không bao giờ
quay trở lại nữa. Thử hỏi tôi biết thổi cho ai nghe?...
Ngừng giây lát, chàng lại nói tiếp:
- Tính nết của đệ rất xấu, đệ tự biết lắm nhưng khốn nỗi đệ không sao tự kìm chế
nổi. Đệ biết huynh ghét đệ lắm và còn khinh khi đệ là khác.
Thừa Chí không biết trả lời như thế nào cho phải cứ ngẩn người ra nhìn chàng ta.
Một lát sau, Ôn Thanh lại nói tiếp:
- Vì vậy mà đệ chắc huynh không giờ quay trở lại nữa.
- Chắc huynh đã nhận định thấy rồi, sự thực đệ không biết gì cả, đệ là người mới
ra đời và cũng không biết nói dối ai hết. Huynh bảo đệ khinh huynh, ghét huynh, nói
thực lúc mới gặp đệ có cảm tưởng như thế đấy nhưng bây giờ thì khác hẳn.
- Huynh nói có thực không?
- Theo sự nhận xét của đệ thì hình như huynh có việc gì rất đau lòng cho nên mặt mày không vui mặc dù tư phong đặc biệt hơn người. Việc gì thế, huynh có thể nói cho đệ nghe không?
Ngẫm nghĩ giây lát, Ôn Thanh mới trả lời:
- Đệ có thể kể cho huynh nghe được nhưng chỉ sợ huynh khinh đệ thôi.- Không.
- Thôi được, đệ xin kể cho huynh nghe. Hồi má đệ còn làm con gái bị một người
xấu bụng hà hiếp mới sanh ra đệ, ông ngoại của đệ địch không nổi người xấu bụng đó,
sau đi rủ mấy tay hảo thủ đến mới đắc thắng và đuổi người xấu bụng ấy ra khỏi nhà
này. Cho nên đệ là một kẻ không cha cũng là một đứa con hoang...
Nói tới đó chàng ứa nước mắt ra. Thừa Chí vội an ủi:
- Việc này không thể trách cứ huynh và cũng không thể trách cứ bá mẫu được, chỉ
tại người xấu bụng nọ.
- Nhưng người khác lại không có ý nghĩ như huynh, trước nhất đệ họ không dám
nói gì nhưng cứ ở sau lưng chửi rủa với bà mẹ.
- Ai dám nói huynh như thế bảo cho đệ biết, đệ sẽ giúp huynh đánh cho tên đó
một trận. Bây giờ đệ không ghét huynh đâu, nếu huynh bằng lòng kết bạn với đệ thì đệ
sẽ tới đây thăm huynh luôn luôn.
Nghe thấy Thừa Chí nói như vậy, Ôn Thanh mừng rỡ nhảy bắn người lên. Thừa
Chí thấy chàng ta mừng như thế liền vừa cười vừa hỏi lại:
- Đệ đến thăm huynh luôn luôn như vậy huynh có bằng lòng không?
- Bằng lòng lắm, và huynh đã hứa tới thì thế nào cũng phải tới nhé?
- Tôi không nói dối huynh đâu.
Bỗng nghe thấy phía sau có tiếng động rất khẽ. Thừa Chí biết có người tới nơi, chàng
vội đứng dậy quay người lại liền nghe thấy người đó với giọng lạnh lùng hỏi:
- Đêm khuya canh vắng, hai người lén lút tới đây làm chi?
Người ấy vừa cao vừa gầy chính Ôn Chính, y vừa bước ra, mặt giận dữ hai tay
chống nạnh, hỏi một cách rất thiếu lễ phép.
Ôn Thanh giật mình kinh hãi nhưng khi chàng biết người đó là Ôn Chính rồi liền
nổi giận quát hỏi:
- Anh đến đây làm chi?
Ôn Chính đáp:
- Hiền đệ hãy tự hỏi mình trước.
Ôn Thanh ra vẻ rất oai nghi nói tiếp:
- Thì với Viên huynh ở đây thưởng nguyệt xem hoa, việc gì tới anh mà anh tới nào? Chốn này ngoài má tôi ra, không ai được tới cả. Ông hai đã tuyên bổ cho cả nhà rồi, chẳng lẽ đại ca đã quên lời rồi hay sao?
Ôn Chính chỉ thẳng vào mặt Thừa Chí và đáp:
- Thế sao y tới được?
- Tôi mời anh ấy tới, việc này không việc gì đến anh, anh không có quyền can thiệp vào.
Thừa Chí thấy hai anh em họ Ôn cãi nhau như vậy trong lòng không yên vội xen lời nói:- Cuộc thưởng nguyệt hôm nay của chúng ta đã đầy đủ lắm rồi, chúng ta sẽ quay trở ra về phòng nghỉ ngơi đi.
- Tôi cứ không đi, Viên huynh cứ ngồi xuống đây.
Bất đắc dĩ Thừa Chí lại ngồi xuống. Ôn Chính đứng ngẩn người ra không nói nửa lời. Ôn Thanh thấy vậy lại càng tức giận thêm và nói tiếp:
- Những hoa này do tôi trồng, tôi cấm anh ngắm nhìn nó.
Ôn Chính đáp:
- Tôi đã nhìn rồi, cấm sao nổi tôi, tôi còn muốn nó nữa.
Nói xong, y cúi đầu xuống dí mũi vào hít mấy cái, Ôn Thanh cả giận xông lại hai tay vừa nhổ vừa vò những khóm hoa đó, chỉ trong thoáng cái chàng đã nhổ hết hai mươi mấy cụm hoa hồng và vứt bừa bãi rồi khóc lớn nói tiếp:
- Được, anh bắt nạt tôi, tôi nhổ hết những khóm hoa này đi như vậy không ai được ngắm nữa, anh đã bằng lòng thích thú chưa?
Ôn Chính tức giận vô cùng không nói nửa lời liền hậm hực đi luôn, nhưng đi vài bước lại quay đầu lại đáp:
- Người ta đối đãi với mình như vậy, trái lại mình lại đối xử với người ta như thê? Đệ thử nghe xem đệ làm như thế thì còn có lương tâm hay không?
Ôn Thanh vừa khóc vừa trả lời:
- Ai khiến anh tử tế với tôi, nếu cho tôi là cái đại chướng mắt thì anh đi nói với
các ông đuổi tôi ra khỏi nơi đây đi, và anh mách cả ông tôi với Viên huynh ở đây
thưởng trăng đây. Tôi không sợ gì hết.
Ôn Chính thở dài một tiếng rầu rĩ quay mình đi luôn.
Ôn Thanh quay trở vào trong đình ngồi, Thừa Chí liền hỏi:
- Y không phải anh thực của tôi, mẹ tôi họ Ôn, đây là nhà ông ngoại tôi, y là con
trai người anh họ của mẹ tôi, sự thực y chỉ là người anh họ xa thôi, nếu tôi có cha và tôi
có nhà khỏi phải đi ở nhờ ai hết và cũng không phải bực mình như thế này.
Nói xong chàng lại ứa nước mắt ra. Thừa Chí liền đỡ lời:
- Tôi thấy y đối với huynh tử tế lắm! Trái lại huynh đối xử với y rất hung ác.
Ôn Thanh bỗng phì cười và nói tiếp:
- Nếu tôi đối xử với y không hung ác như vậy thì y còn hỏng hơn thế này nữa.
Thừa Chí thấy chàng ta vừa khóc vừa cười, trông rất tức cười và cũng ngây thơ vô
cùng. Chàng liền nghĩ đến thân thế của mình, bỗng động lòng đồng bệnh tương liên
mà nói tiếp:
- Cha tôi bị người ta giết chết, lúc ấy tôi lên bẩy, ông tôi cũng mất vào năm đó.
Ôn Thanh vội hỏi:
- Thế Viên huynh đã báo thù được chưa?
- Nói ra thì hổ thẹn vô cùng, tôi thật không may.- Khi nào Viên huynh báo thù, đệ thế nào cũng giúp huynh một tay. Bất cứ kẻ thù
lợi hại đến đâu đệ cũng không sợ.
Thừa Chí nghe thấy chàng ta nói như vậy cảm động vô cùng, liền nắm lấy tay Ôn
Thanh, Ôn Thanh vội rút tay lại nhưng không hiểu tại sao chàng lại để yên cho Thừa
Chí nắm như trước, rồi chàng khẽ nói:
- Bản lãnh của Viên huynh giỏi gấp đệ mười lần, nhưng về kinh nghiệm giang hồ
thì hình như huynh rất bỡ ngỡ nhưng huynh đừng lo vì sau này có đệ sẽ giúp huynh
những vấn đề đó.
- Ôn huynh tử tế thật, tôi chưa hề có một người bạn nào tuổi xấp xỉ như tôi, bây
giờ mới gặp huynh...
Ôn Thanh nghe thấy chàng ta nói như vậy, vội cúi đầu xuống đáp:
- Nhưng phải nói, tôi rất xấu tính, thế nào cũng có một ngày tôi làm cho huynh
bực mình.
- Tôi đã coi huynh là bạn, biết tính nết của bạnh ra sao rồi, thì dù bạn có làm mất lòng
tôi cũng không sao.
Ôn Thanh cả mừng thở dài một tiếng và nói tiếp:
- Đệ chỉ ngại có điều này thôi, bây giờ huynh đã thông cảm được như vậy, đệ thật
sung sướng lắm.
Thừa Chí thấy Ôn Thanh đổi hẳn tính nết, ôn nhu hòa nhã chứ không như lúc cãi
vã tranh chấp với Sa Lão Đại trên thuyền, nên chàng đáp:
- Đệ có câu này không biết Ôn huynh có nghe không?
- Trên đời này chỉ có lời nói của ba người mà đệ nghe thôi, một là ông ngoại tôi,
hai là mẹ tôi, ba là Viên huynh.
Thừa Chí nghe nói rùng mình một cái và đáp:
- Không ngờ huynh lại coi trọng đệ đến thế, sự thật thì lời nói của người khác quí
hồ hợp lý là chúng ta phải nghe hết.
- Hừ, tôi không như Viên huynh, tôi không chịu nghe lời của người khác, dù đối
với tôi tử tế, tôi... tôi sẽ ưa người đó và bất cứ người ấy nói như thế nào, tôi cũng nghe
hết, còn người mà đã bị tôi ghét thì dù người đó có nói phải lý đến đâu, tôi cũng không
thích nghe.
- Ôn huynh vẫn còn tính trẻ con thật, năm nay huynh mấy tuổi?
- Mười tám? Còn Viên huynh?
- Tôi lớn hơn huynh hai tuổi.
Ôn Thanh cúi đầu mặt đỏ bừng khẽ hỏi tiếp:
- Tôi không có anh ruột, chúng ta kết nghĩa làm anh em nhé? Chẳng hay huynh
có bằng lòng không?
Thừa Chí là người rất cẩn thận, chưa biết lai lịch của Ôn Thanh ra sau, tuy chàng
đã thấy Ôn Thanh rất hợp ý, nhưng nói đến kết nghĩa thì chàng không dám, nên chàng
chần chừ không dám trả lời ngay.Ôn Thanh thấy Thừa Chí không trả lời liền đứng dậy chạy thẳng về phía trước.
Thừa Chí giật mình kinh hãi vội đuổi theo ngay. Chàng thấy Ôn Thanh chạy thẳng lên
trên đỉnh núi liền nghĩ thầm: "Người nầy tính nết nóng nảy như thế, nếu ta không nhận
lời chàng ta, chưa biết chừng chàng ta cũng sẽ tự tử cũng nên."
Nghĩ đoạn, chàng liền giở khinh công của Mộc Tang đạo nhân truyền thụ cho
đuổi theo, chỉ trong nháy mắt đã qua mặt Ôn Thanh rồi chàng quay mặt lại hỏi:
- Ôn hiền đệ giận tôi đấy à?
Ôn Thanh nghe thấy Thừa Chí gọi mình là hiền đệ cả mừng, liền ngừng chân lại,
ngồi xuống đất và nói:
- Huynh đã khinh đệ, sao còn gọi đệ là hiền đệ như thế?
- Có bao giờ tôi dám khinh hiền đệ đâu, thôi lại đây, chúng ta cùng kết bạn đi!
Thế rồi hai người liền quỳ xuống vái trăng và thề rằng: "Có phúc cùng hưởng, bị nạn
cùng chịu..." Thề xong, cả hai cùng đứng dây.
Ôn Thanh vái chào Thừa Chí một cái:
- Đại ca!
Thừa Chí cũng đáp lễ và trả lời:
- Tôi gọi hiền đệ là nhị đệ nhé! Thôi muộn lắm rồi, chúng ta cùng xuống núi nghỉ
đi.
Hai người dắt tay nhau xuống núi trở về phòng.
Thừa Chí bảo Ôn Thanh rằng:
- Khuya lắm rồi, nhị đệ đừng về phòng của bá mẫu ngủ nữa, nếu nhị đệ về ngủ thì
bá mẫu cũng thức tỉnh, chi bằng hiền đệ ở lại đây ngủ chung giường với ngu huynh
nhé.
Ôn Thanh mặt đỏ bừng, giằng tay ra hờn giận đáp:
- Anh... anh...
Nhưng chàng lại cười ngay và chào rằng:
- Thôi ngày mai chúng ta gặp lại nhé.
Nói xong, chàng chạy ra cửa phòng luôn. Thừa Chí ngạc nhiên vô cùng.
Ngày hôm sau, Thừa Chí đang ngồi trên giường luyện công thì tiểu hoàn Nguyệt
Hoa đem điểm tâm tới. Thừa Chí nhảy xuống giường cám ơn Nguyệt Hoa rồi ngồi vào
bàn ăn điểm tâm.
Lúc ấy, Ôn Thanh cũng bước vào trong phòng vừa cười vừa nói:
- Đại ca, bên ngoài có một người đàn bà tới, đòi lấy số vàng đó, chúng ta ra bên
ngoài xem sao.
Thừa Chí đáp:
- Được lắm!
Hai người đi ra đại sảnh, đã thấy Ôn Chính đang đấu với một thiếu nữ.Hai ông già ngồi cạnh đó xem, một ông già tay cầm quảy trượng, một ông tay
không. Ôn Thanh đi đến cạnh ông cụ cầm quảy trượng, rỉ tai nói mấy câu.
Ông già ấy quay lại nhìn Thừa Chí một hồi, rồi gật đầu mấy cái. Thừa Chí trông
thấy thiếu nữ nọ tuổi trạc mười chín, hai má đỏ hồng, trông rất đẹp, võ công khá cao
siêu. Nàng đấu với Ôn Chính mười mấy hiệp mà vẫn chưa phân thắng bại. Chàng rùng
mình một cái vì càng xem chàng càng nghi.
Thiếu nữ nọ tiến lên một bước, múa kiếm nhắm vai của Ôn Chính đâm tới. Ôn
Chính đưa trái tay lại chém võ khí của đối phương. Y thấy đơn đao của y sắp chém
trúng bảo kiếm của thiếu nữ kia rồi. Ngờ đâu, Ôn Chính ra tay đã nhanh mà thiếu nữ
kia còn nhanh hơn, chỉ thấy nàng quay trường kiếm một vòng, rồi xoay mũi kiếm đâm
luôn vào cổ của Ôn Chính.
Ôn Chính kinh hãi vô cùng, vội nhảy lùi về phía sau ba bước tránh né. Thiếu nữ
lại thừa thế xông lên tấn công mấy kiếm nữa, thế kiếm nào của nàng cũng nhanh vô
cùng. Thừa Chí đã nhận ra võ công của nàng này quả thật là võ công của phái Hoa Sơn
rồi và chàng đoán chắc nàng ta còn được các anh của bổn môn chỉ điểm cho, bằng
không với công lực của nàng yếu hơn đối thủ nàng đã thua từ lâu rồi. Sở dĩ nàng đánh
ngang tay với Ôn Chính như vậy là nhờ ở Kiếm thuật tinh kỳ. Tuy thế công của nàng ta
vừa nhanh vừa lợi hạ, nhưng cũng chả sao bằng Ôn Chính. Ôn Thanh cũng nhận thấy
thiếu nữ kia địch không nổi Ôn Chính liền nói:
- Với tài ba non kém thế này mà cũng định đến cửa đòi lại đồ được.
Hai người lại đấu thêm mấy chục hiệp nữa, quả nhiên thế công thiếu nữ đã chậm
dần. Trái lại Ôn Chính càng đấu càng hăng, Thừa Chí thấy tình thế nguy cấp, vội nhảy
vào giữa hai người. Hai người đang đấu hăng như vậy, làm sao mà thâu khí giới được,
nên một đao một kiếm đều nhằm người Thừa Chí mà ném tới. Ôn Thanh thấy vậy, kinh
hãi thất thanh la lớn một tiếng và cả hai ông già cùng đứng dậy một lúc, vì Thừa Chí
nhảy ra một cách đột ngột, nên hai ông già với Ôn Thanh cũng không kịp ra tay cứu
viện nữa. Ngờ đâu, Thừa Chí giơ tay phải lên khẽ đẩy cổ tay của Ôn Chính một cái,
còn tay trái thì giơ ra phía sau gạt tay của thiếu nữ rồi.
Thế là khí giới của hai người đều bị chàng gạt bắn sang bên, nên chàng muốn
cướp khí giới của hai người đi thì thật là dễ như trở bàn tay, nhưng chàng không muốn
khoe khoang võ công của mình và lại sợ Ôn Chính xấu hổ. Cho nên, chàng chỉ đẩy tay
của hai người ra thôi, hai người đó đều biết võ công của chàng cao siêu hơn họ nhiều,
nên họ vừa tức giận, vừa nhảy ra phía sau.
Ôn Chính lại tưởng Thừa Chí lại nghĩ đến mối hận đêm hôm trước, nên mới ra tay
đẩy khí giới của mình như vậy. Còn thiếu nữ nọ thấy chàng đi cùng Ôn Thanh ra, tất
nhiên biết người của địch rồi, nàng thấy địch không nổi Thừa Chí định bỏ chạy. Thừa
Chí vội kêu gọi:
- Cô nương kia, hãy khoan đã, tôi có mấy lời muốn nói với cô.
Thiếu nữ nọ giận dữ đáp:
- Tôi địch không nổi các người, sẽ có người tài ba hơn tôi đến đây đòi số vàng này .
Thừa Chí tiến lên vái chào và nói tiếp:- Xin cô nương chớ trách cứ như vậy, xin hỏi cô nương quý tính danh là gì, lịnh sư là ai?
Thiếu nữ kia giận dữ đáp:
- Ai có thì giờ nói chuyện lôi thôi với ngươi.
Nói xong, nàng phi thân đi luôn.
Thừa Chí tung mình nhảy theo, khi hạ chân xuống đã ở phía trước thiếu nữ kia, đồng thời chàng khẽ bảo nàng nọ rằng:
- Đừng đi vội, để tôi giúp cô nương một tay.
Thiếu nữ nọ, ngạc nhiên vô cùng vội hỏi lại:
- Tướng công là ai?
Thừa Chí đáp:
- Tôi họ Viên.
Thiếu nữ nọ ngắm nhìn chàng một hồi, bỗng lên tiếng hỏi:
- Tướng công có biết An Đại Nương không?
Thừa Chí rùng mình vội hỏi lại:
- Tôi là Viên Thừa Chí, cô nương có phải là Tiểu Tuệ không?
Thiếu nữ nọ mừng rỡ vô cùng, quên cả lễ nghi, vội nắm hai tay chàng và nói tiếp:
- Phải rồi! Phải rồi, anh là Thừa Chí đại ca phải không?
Nhưng nàng nói xong, mới biết là mình đã thất lễ, hổ thẹn đến mặt đỏ bừng, vội buông tay Thừa Chí ra. Ôn Thanh đứng cạnh đó tỏ vẻ không vui, Ôn Chính lại lớn tiếng:
- Ta tưởng Viên huynh là ai, không ngờ là người của Lý Tự Thành sai tới đây làm gian tế.
Thừa Chí ngạc nhiên vô cùng, vội hỏi lại:
- Tôi với Sấm Vương có quen nhau một lần thật, nhưng bảo tôi là gian tế thì thật là vô lý, tôi với cô nương này là bạn với nhau từ nhỏ.
nói xong bèn quay qua tiểu tuệ hỏi khẽ:
Chuyện như thế nào vậy ?
tiểu tuệ hậm hực trả lời:
Em với thôi đại ca chịu trách nhiệm vận chuyển số vàng này cho sấm vương, ngày hôm qua đi ngang qua một tiểu trấn thì ngờ đâu người kia xấu bụng lắm, chận đường cướp luôn số vàng của chúng tôi.
Nàng vừa nói, vừa giơ tay chỉ mặt Ôn Thanh.
Thừa Chí mới vỡ lẽ, thì ra số vàng mà Ôn Thanh cướp được lại là quân phí của Sấm Vương, không những Sấm Vương đối với mình tử tế như vậy, cả sư phụ cũng vui lòng giúp Sấm Vương nữa, huống hồ, còn Thôi Thu Sơn, An Đại Nương, và Tiểu Tuệ ba người, chỉ riêng ba người này ta cũng nể mặt mà lấy lại cho họ rồi, huống hồ Sấm Vương không quản ngại ngàn dặm xa xôi gửi số vàng từ Thiểm Tây đến Giang Nam chắc thế nào số vàng này cũng quan trọng lắm, bộ đội của Sấm Vương là bộ đội nhân
nghĩa cứu dân cứu nước, ta không ra tay giúp sao được.
Chàng nghĩ như vậy, liền nói với Ôn Thanh rằng:- Nhị đệ nể mặt ngu huynh mà trả cho cô nương này số vàng đi!
Ôn Thanh cười nhạt đáp:
- Đại ca hãy lên gặp hai ông của tiểu đệ đã, rồi hãy nói chuyện đó sau.
Nghe nói hai ông già kia là ông ngoại của Ôn Thanh, Thừa Chí nghĩ thầm: "Ta đã kết nghĩa với Ôn Thanh, hai ông già nọ tức là trưởng bối của ta..."
Nghĩ đoạn, chàng liền tiến lên vái chào hai ông già nọ. Ông già cầm quải trượng vội nói:
- Úi chà, lão không dám, mời Viên huynh đứng dậy.
Nói xong, ông ta để quài trượng vào ghế, rồi hai tay đỡ khuỷu tay Thừa Chí lên.
Thừa Chí bỗng thấy có một luồng sức mạnh đỡ mình dậy, nếu chàng cứ để yên thì
thế nào cũng bị hất bắn lên trời nên chàng vội lấy sức trầm hai cánh tay xuống và vẫn
tiếp tục chào đủ bốn lạy mới đứng dậy.
Ông già nọ thấy vậy, kinh hãi thầm nghĩ: "Nội công của thiếu niên này thâm hậu
thật, ta đã luyện mấy chục năm nội công mà cũng không sao nâng y lên được."
Nghĩ đoạn, ông ta cười ha hả và nói tiếp:
- Nghe Thanh nhi nói, võ công của Viên huynh cao siêu lắm, bây giờ lão mới
được gặp, quả thật không sai.
Ôn Thanh vội giới thiệu:
- Đại ca đây là ông ba của đệ đấy.
Chàng lại chỉ ông già tay không giới thiệu tiếp:
- Còn ông này là ông năm của đệ.
Thừa Chí nghĩ thầm: "Có lẽ hai ông già này là người trong Ngũ Tổ của phái
Thạch Lương đây."
Nghĩ đoạn, chàng liền chào hỏi một câu:
- Gia gia.
Thừa Chí thấy hai ông già có vẻ không vui ngạc nhiên vô cùng và nghĩ thầm: "Cha ta là danh tướng kháng địch, làm Đốc soái ở Liêu Đông, ta kết nghĩa với cháu các ngươi như vậy chẳng lẽ các ngươi còn cho là nhục mặt hay sao?"
Nói tới đó, chàng quay đầu lại nhìn Ôn Thanh nói tiếp:
- Nhị đệ làm ơn trả số vàng cho cô bé này.
Ôn Thanh hờn giận đáp:
- Đại ca chỉ biết nói cô nương này cô nương nọ, chứ không thèm coi người ta ra gì hết.
- Nhị đệ, chúng ta con nhà võ phải nên trọng nghĩa khí trên hết, số bạc đó đã là tiền bạc của Sấm Vương rồi. Khi nhị đệ cướp không biết vàng đó là của ai nên mới taycướp như vậy, nhưng bây giờ đã biết là của ai rồi thì tiền đệ trả cho cô ta đi, còn lấy làm chi nữa.
Minh Sơn và Minh Nghĩa hai ông già đều không biết số vàng ấy liên can lớn như vậy,
chỉ tưởng là của một phú thương thôi. Bây giờ nghe thấy An Tiểu Tuệ nói vàng đó là
của Sấm Vương trong lòng không yên. Vì hai người biết thế lực của Sấm Vương rất
lớn, các hào kiệt trên giang hồ đều ngưỡng mộ và phò trợ ông ta là khác. Nếu bây giờ
không trả món vàng nầy cho Sấm Vương ngay thì người của ông ta sẽ đến tới tấp thì
làm sao mà đối phó được?
Cho nên Minh Sơn mỉm cười trả lời Thừa Chí rằng:
- Thôi được, nể mặt Viên huynh chúng tôi xin trả hết số vàng đó.
Ôn Thanh vội xen lời nói:
- Sao Tam gia gia lại nhận lời như thế?
Thừa Chí cũng đỡ lời ngay:
- Nửa số vàng mà hiền đệ đã chia chio tôi rồi thì hiền đệ hãy đưa cho tôi số vàng
đó để tôi trả cho cô nương kia trước.
- Nếu đại ca muốn lấy thì đệ xin tặng hết số vàng đó cho đại ca ngay, chứ đệ có
phải là những hạng người coi tiền bạc rất to đâu, nhưng còn đạ ca bảo tiểu đệ trả cho
cô kia thì đệ nhất định không chịu, dù chỉ đưa có nửa phần thôi.
Tiểu Tuệ tiến liên một bước giận dữ hỏi:
- Chẳng hay bạn muốn như thế nào mới chịu trả, xin cứ nói điều kiện ra đi.
Ôn Thanh lại hỏi Thừa Chí tiếp:
- Thế nào, đại ca định giúp nàng ta hay là giúp tiểu đệ đây?
Thừa Chí chần chừ giây lát rồi đáp:
- Tôi không giúp ai cả, tôi chỉ nghe lời dạy bảo của sư phụ tôi.
- Sư phụ của anh là ai?
- Sư phụ của tôi hiện ở trong bộ đội của Sấm Vương.
- Hừa, nói đi nói lại, rốt cuộc anh vẫn giúp người chứ không giúp đệ, thôi được tất
cả số vàng hiện đang ở nơi đây, tôi tốn rất nhiều mưu trí và khó nhọc mới lấy trộm
được, thì bây giờ cô ta cũng phải nghĩ cách mà lấy trộm lại, tôi hẹn cho trong ba ngày
nếu cô ta có đủ tài ba lấy trộm được thì cứ việc đem số vàng đó đi, nhược bằng trong
ba ngày mà không lấy nổi thì đừng có trách tôi. Lúc ấy tôi sẽ có cách khác để đối phó.
Thừa Chí giật tay áo chàng ta và khẽ nói:
- Nhị đệ, hãy theo tôi lại đàng này tôi có chuyện riêng muốn nói với hiền đệ.
Hai người liền đi ra chỗ góc tường, Thừa Chí liền nói với chàng ta tiếp:
- Tối hôm qua, hiền đệ còn nói chỉ nghe lời của ngu huynh thôi chứ không nghe
lời của ai cả, sao ngày hôm nay em lại giở giọng một cách đột nhiên như thế?
Ôn Thanh nói tiếp:
- Đại ca đối xử với đệ tử tế như thế tất nhiên đệ phải nghe lời của đại ca chứ?- Nhị đệ nói rất phải, nhưng nhị đệ có thấy tôi đối xử với nhị đệ như thế nào không?
Vả lại số vàng này có phải là tiền bạc cá nhân của cô ta đâu, như vậy nhị đệ còn giữ
làm chi nữa.
- Nhị huynh mới gặp người bạn cũ một cái đã khinh rẻ đệ ngay rồi, dù đệ có xài
hết số vàng của Sấm Vương rồi, nhiều lắm chỉ bị Sấm Vương cho người đến giết chết
cả nhà đệ là cùng. Nhưng đệ có sợ bị giết chết như thế đâu? Vì đệ không còn một
người nào thực lòng tử tể và thương mình nữa thì đệ cũng chả muốn sống ở trên thế
gian này làm chi.
Thấy Ôn Thanh cứ khăng khăng không chịu trả, Thừa Chí tỏ vẻ không vui hỏi
tiếp:
- Nhị đệ là người em kết nghĩa của ngu huynh, còn cô kia là con gái của ân nhân.
Tôi coi hai người cũng như một thôi chứ không ai khinh ai trọng cả.
- Đại ca đừng nói nhiều nữa, đại ca cứ việc giúp cô ta đến đây mà lấy trộm lại số
vàng đó đi, nếu đại ca lấy được đệ không còn dị nghị gì hết.
Thừa Chí còn muốn kéo tay chàng ta nói tiếp, nhưng chàng ta đã hất tay Thừa Chí
chạy luôn vào trong nội thất rồi.
Thừa Chí thấy Ôn Thanh bướng bỉnh như vậy đành phải cùng Tiểu Tuệ cáo lui đi
luông đến ở trọ nhà một người làm, sang đó để bàn tính với nhau.
Tiểu Tuệ hỏi:
- Đại ca tính thế nào về số vàng kia?
Thừa Chí đáp:
- Chúng ta đi lấy lại số vàng đó.
- Nhưng vị hiền đệ của đại ca không bằng lòng chúng ta phải làm thế nào đây?
Thừa Chí đáp:
- Tôi đã nhất định rồi, phải lấy số vàng kia trao trả lại cho hiền mụi, còn chuyện
nhị đệ sẽ tính sau.
- Chừng nào chúng ta hành động?
- Tối nay chúng ta sẽ tới đó thu số vàng kia...
Cơm dọn ra, Thừa Chí và Tiểu Tuệ ăn xong, mỗi người vào phòng nằm nghĩ
ngợi...
o0o
Trời tối hẳn, Thừa Chí trong phòng đã trông thấy Tiểu Tuệ đã mặt bộ võ phục gọn
gàng.
Giờ Tiểu Tuệ đã là một thiếu nữ xinh đẹp như đóa hoa xuân vừa hé nhụy, nhất là đôi
mắt nàng hút hồn.Thừa Chí chưa quan tâm tới điều đó vì chàng rất nóng nảy về chuyện số vàng của
Tiểu Tuệ mà Ôn Thanh không chịu trả.
Thấy Thừa Chí tới trước cửa phòng, Tiểu Tuệ đứng lên:
- Đại ca, chúng ta đi chứ?
Thừa Chí gật đầu:
- Vâng. Chúng ta đi mau hiền mụi.
Hai người cùng bước ra ngoài nhắm ngôi nhà thẳng tới.
Chẳng bao lâu Thừa Chí và Tiểu Tuệ đã đến nơi, dừng lại ở xa xa.
Thừa Chí trỏ tay qua phía ngôi nhà nóc ngói bảo:
- Ngôi nhà đấy hiền mụi.
Tiểu Tuệ nhìn theo ngón tay của Thừa Chí:
- Ngôi nhà không thấy có đèn anh ạ!
Giọng của Thừa Chí trầm hẳn xuống:
- Đương nhiên là họ đã có chuẩn bị sẵn sàng rồi nên họ không tắt đèn để dẫn dụ
một kẻ địch.
Chàng bảo:
- Chúng ta tới trước xem sao.
Hai người cùng bước tới gần ngôi nhà âm thầm dừng lại quan sát bốn phía.
Thừa Chí nhủ thầm: "Tình hình ngôi nhà như thế..."
Chàng liền khẽ dặn Tiểu Tuệ rằng:
- Thế nào họ cũng có cao thủ ẩn núp ở bóng tối, cô phải cẩn thận mới được.
Tiểu Tuệ gật đầu cau mặt lại suy nghĩ, chỉ thoáng cái nàng đã nghĩ ra được một
kế liền nhảy ngay xuống bên dưới, Thừa Chí thấy nàng nhảy một mình nguy hiểm
cũng vội xuống theo. Chàng thấy nàng bay chạy thẳng xuống dưới bếp lấy một ngọn
lửa đem đến căn phòng chứa rơm rạ đốt luôn, không bao lâu lửa bốc lên chọc trời.
Người nhà của họ Ôn thấy ngọn lửa bốc lên đều kêu la om sòm, các tráng đinh
vội lấy nước tới để dập tắt ngọn lửa. Thừa Chí với Tiểu Tuệ quay trở ra đại sảnh đèn
nến ở nơi đây vẫn sáng như thường, còn bốn người nọ thì mất tích. Tiểu Tuệ cả mừng
nói:
- Bọn họ đã đi cứu lửa rồi.
Nói xong, nàng chạy luôn vào trong khách sảnh. Thừa Chí cũng đi theo vào.
Hai người tới cạnh cái bàn đó đang định giơ tay ra lấy hai đống vàng thì bỗng
thấy dưới chân mềm nhũn. Thừa Chí biết là mắc hỡm rồi vội tung mình nhảy lên giơ
tay phải ra định túm lấy tay của Tiểu Tuệ nhưng túm không kịp. Thì ra tấm ván ở dưới
chân là cái nắp cạm bẫy, chàng tung mình nhảy lên tay trái ôm lấy cột đá của khách
sảnh ở đó rồi mối đang từ từ tuột chân xống biên dưới, chân chàng đứng ở trên nên đá
vào cột trụ kia, nhờ vậy mới thoát khỏi nguy hiểm, lúc ấy nắp hầm đã đậy liền. Tiểu
Tuệ bị giam ở bên dưới rồi, chàng cả kinh vội nhảy ra ngoài cửa sổ để tìm kiếm thenchốt của máy móc của cái hầm đó mong cứu Tiểu Tuệ thoát nạn. Nhưng chàng vừa ra
tới bên ngoài đã thấy có một luồng gió mạnh lấn át tới biết ngay đã có người tấn công
lén. Chàng vội giơ hữu chưởng lên phản công chưởng lực của người nọ, trong khi tay
của hai người va chạm nhau, chàng đã mượn sức của đối phương mà tung mình nhảy
lên trên mái nhà còn người nọ thì bị chàng đẩy xuống dưới đất, nhưng thân hình của
người đó rất nhanh, chân vừa đụng mặt đất y đã nhún vai một cái nhảy luôn lên trên
mái nhà theo.
Vừa lên tới mái nhà và đứng yên xong, Thừa Chí đưa mắt nhìn bốn xung quanh
liền toát mồ hôi lạnh tức thì. Thì ra lúc ấy bốn chung quanh lố nhố toàn là những người
cao có, lùn có, béo có, gầy có, bao vây chặt lấy chàng. Tất cả những người đó đang bao
chặt lấy mình, còn người mà chàng đẩy rớt xuống bên dưới lại nhảy lên chính là Ôn
Chính.
Thừa Chí biết mình đã sa chân vào chốn nguy hiểm vì không biết đối phương sẽ
đối xử mình ra sao, nhưng chàng vẫn đứng yên ở đó xem kẻ địch ra tay với mình như
thế nào trước rồi mới nghĩ cách đối xử lại sau, nên chàng chỉ đứng yên chẳng nói
chẳng rằng. Bỗng thấy trong đám đông, có năm ông già bước ra, chàng đã gặp mặt hai
người rồi, còn ba người tuy chưa được gặp bao giờ nhưng chàng cũng biết ba người kia
cũng là nhóm Ngũ Tổ của phái Thạch Lương. Hai người mà chàng đã được gặp là Tam
Tổ của Ôn Thanh, Ôn Minh Sơn và Ngũ tổ Ôn Minh Ngo, còn ba người kia người đứng
giữa rất cao lớn, cao hơn mọi người một cái đầu. Người đó bước ra cả cười ha hả, tiếng
cười kêu như tiếng chuông vậy, cười xong, y mới lên tiếng nói:
- Năm anh em lão là ở chống thôn quê hoang vu này mà cũng có cao nhân của
Sấm Vương giáng lâm, thật là nhà cửa rạng rỡ và tam sinh hữu hạnh, hà... hà...
Thừa Chí tiến lên vái chào và đáp:
- Tiểu bối tham kiến lão tiền bối.
Chàng thấy bốn xung quanh đều là kẻ địch chỉ sợ lúc mình cúi đầu vái chào sẽ bị
đối phương ném ám khí lén. Nhưng lễ phép vẫn không sao thiếu được, nên chàng vừa
bái chào vừa để ý bốn xung quanh. Ôn Thanh cũng vội tiến lên lớn tiếng giới thiệu:
- Đây là đại gia gia của tiểu đệ, còn hai vị nữa là nhị gia gia với tứ gia gia .
Thừa Chí liền chắp tay cúi đầu vái chào hai người kia.
Trong nhóm Ngũ tổ chỉ có đại ca Ôn Minh Đạt, nhị ca Ôn Minh Nghĩa và tứ ca
Ôn Minh Thi là chắp tay đáp lễ thôi. Đồng thời cả ba người ngắm nhìn Thừa Chí một
hồi. Minh Nghĩa là người nóng tính nhất trong bọn nên y vội lên tiếng nói trước:
- Ngươi tuổi nhỏ như thế này mà gan ngươi lại lớn đến thế dám phóng hỏa đốt
nhà chúng ta.
Thừa Chí đáp:
- Đó là bạn của tiểu bối nhất thời lỗ mãng, tiểu bối cũng biết ra tay như thế thực
không nên không phải nhưng cũng may chưa gây nên tai hại lớn. Ngày mai tiểu bối sẽ
trở lại nơi đây xin lỗi quý vị...
Lúc ấy ngọn lửa bốc cháy căn phòng đựng rơm rạ đã bị dập tắt chưa cháy lan qua
căn nhà khác. Minh Thi là người vừa gầy vừa cao và cũng chính là ông nội của ÔnChính mặt mũi của hai ông cháu giống hệt như nhau. Y thấy Thừa Chí nói xong vội đỡ
lời ngay:
- Chúng ta định cư ở nơi đây mấy chục năm chỉ có người khác tới đây vái lạy cầu
thân thôi chớ không hề thấy một đứa nhỏ nào dám đến quấy nhiễu cả, sư phụ của
ngươi là ai, sao ngươi lại vô lễ phép đến thế?
Thừa Chí đáp:
- Gia sư hiện ở trong quân đội của Sấm Vương, chỉ mong quý vị trao trả cho số
vàng của Sấm Vương thì tiểu bối thế nào cũng về thưa gia sư rõ thì thế nào gia sư cũng
sẽ viết thư tạ tội gởi tới.
Ôn Minh Đạt xen lời hỏi:
- Sư phụ của ngươi là ai?
Thừa Chí đáp:
- Sư phụ của tiểu bối không hay lộ diện ở trong giang hồ nên tiểu bối không dám
nhắc nhở đến tên tuổi của ông ta.
Ôn Minh Nghĩa dùng giọng mũi kêu lên một tiếng rồi cũng xen lời nói:
- Ngươi không nói chẳng lẽ chúng ta cũng không biết người là môn hạ của ai sao
Nói tới đó ông ta ra hiệu cho một người đứng gần đó
- Ngươi ra tiếp anh bạn này mấy hiệp.
Một người ở trong đám bước ra trông khôi vĩ oai nghi, y là đệ tử thứ hai của Minh Nghĩa, là hảo thủ số một trong bọn người đời thứ hai của phái Thạch Lương. Y liền nhảy ra múa quyền tấn công luôn. Thừa Chí
né đầu tránh và giơ tay trái ra phản công và bụng thì nghĩ thầm: "Kẻ địch nhiều người
như vậy đấu từng người một với chúng như thế dù mình có đắc thắng cũng chết mệt, ta
phải giải quyết cho thực nhanh chóng thì mới mong thoát thân được."
Nghĩ như vậy, chàng đợi quyền bên trái của đối phương đánh tới liền giơ hữu
chưởng lên chống đỡ chưởng đó và xoay tay nắm luôn quyền của địch thủ thuận thế lôi
luôn về phía sau một cái. Nam Dương không kịp đề phòng đâm bổ đầu về phía trước té
ngã, chân đã dậm vỡ mấy hòn ngói, nếu không được ngũ thúc của y là Minh Ngô ra tay
kéo lên lại thì y đã đâm bổ xuống dưới nhà té ngã.
Nam Dương hổ thẹn vô cùng mặt càng đỏ thêm quay người nhảy xô lại tấn
công tiếp. Thừa Chí vẫn đứng yên đợi chờ đối phương nhảy xô tới bỗng xoay người
một vòng nằm ngả người về phía sau giơ chân trái lên khẽ móc một cái, Nam Dương
lại bị đâm bổ về phía trước té ngã luôn.
Thừa Chí dùng chân trá móc đồng thời lại giơ hữu chưởng ra. Chàng cũng biết đối
phương thế nào cũng ngã sấp về phía trước nên mới giơ tay ra để chộp lưng địch thủ.
Nam Dương bị chân của đối phương móc làm cho ngã sấp, mũi sắp đụng vào mặt
ngói thì bỗng bị người xách bổng lên và để đứng thẳng người xuống. Hai lần bị đánh té
như vậy y đâu dám đấu với Thừa Chí nữa, nên chỉ hậm hực lườm chàng ta một cái rồi
rút lui ngay.
Ôn Minh Nghĩa thấy vậy quát lớn:- Tiểu tử này võ công cũng khá cao siêu đấy, để lão gia tiếp tay với để tử của cao nhân vài chiêu
Nói xong, y múa song chưởng và tiến lên. Ôn Thanh đột nhiên nhảy tới cạnh ông
già đó rỉ tai khẽ nói: "Nhị gia gia, y là anh em kết nghĩa với cháu, xin gia gia đừng đả
thương y nhé."
Minh Nghĩa quay đầu lại mắng chửi:
- Con nhãi này lắm chuyện thực.
Ôn Thanh lại kéo tay Nhị tổ và nói:
- Thế nào? Ông có nhận lời giúp cháu không?
Ôn Minh Nghĩa nói:
- Để ông xem đã!
Nói đoạn, ông cụ hất mạnh một cái, Ôn Thanh bị đẩy lui mấy bước. Minh Nghĩa
chững chạc tiến lên hai bước. rồi nói:
- Cậu kia, ra tay đi!
Thừa Chí chắp tay lạy:
- Cháu không dám, xin mời cụ ra tay trước!
- Cậu không chịu nói sư phục cậu là ai, thì cậu đánh luôn ba miếng, xem ta có
biết hay không?
Thấy ông cụ làm phách, Thừa Chí hơi bực mình liền nói:
- Nếu vậy, cháu xin thất lễ trước. Tài nghệ của cháu còn non nớt lắm xin cụ
thương cho đừng đánh quá mạnh.
Thừa Chí hất tay áo dài lên mái ngói, đánh mạnh vào đầu Minh Nghĩa. Minh
Nghĩa ngẩn người ra, cúi đầu giơ tay ra định bắt tay áo của Thừa Chí. Ngờ đâu, chưa
đánh tới đích, tay áo nọ đã phất phới bay lên, và tay áo trái của Thừa Chí đã đánh tới
mặt ông cụ rồi. Tay áo sau nhanh và mạnh quá, Minh Nghĩa tránh không nổi. Nhưng
dù sao ông ta cũng đã có mấy chục năm công lực và bao phen vào sanh ra tử giữa chốn
núi đao rừng kiếm, nên kinh nghiệm rất phong phú. Biết tránh không được, ông ta đành
phải ngửa người ra phía sau để tay áo của địch khỏi đánh trúng vào mình. Thấy đối
phương đã tránh được một miếng, Thừa Chí không để cho Minh Nghĩa có thì giờ trả
đũa, bỗng quay lưng lại trước mặt địch thủ. Ông cụ ngạc nhiên, tưởng Thừa Chí bỏ
chạy, định chìa tay phải ra bắt lại. Bỗng thấy một làn gióa mạnh đẩy tới, ông cụ không
ngờ hai tay của Thừa Chí đưa về phía sau, và đôi tay áo ở dưới hất lên, như hai con rắn
độc chui thẳng vào nách mình. Thấy kẻ địch đánh miếng võ lạ lùng như vậy, Minh
Nghĩa giơ hai tay nắm lấy tay áo của Thừa Chí nhưng đã quá muộn, lưng của ông cụ đã
bị đánh trúng. Đồng thời Thừa Chí đã nhân dịp đó nhảy ra xa rồi.
Vừa tức vừa xấu hổ, Minh Nghĩa vẫn không sao biết được môn võ tay áo của phái
nào. Thì ra miếng võ thứ nhất, Thừa Chí xử dụng thế "Phục Hổ Chưởng" của Mục
Nhân Thanh. Miếng thứ nhì chàng căn cứ ở môn khinh công của Mộc Tang mà biến
hóa ra. Miếng thứ ba "Song sư nhập động" là chàng tập luyện theo cuốn "Kim Sà BíKíp" của Kim Sà Lang quân. Sợ đối thủ nhận ra miếng sau cùng, chàng phải thay đổi
đôi chút, lại thêm song chưởng giấu trong tay áo, Ôn Minh Nghĩa làm sao biết được.
Bốn anh em Ôn Minh Đạt ngơ ngác nhìn nhau đều cảm thấy lạ lùng. Xấu hổ quá
mức, Minh Nghĩa mặt đỏ bừng, râu tóc dựng ngược đánh luôn một chưởng đến "vù"
một cái. Dưới ánh sáng trăng, Thừa Chí trông thấy đầu Minh Nghĩa bốc hơi nóng lên
chân đi chậm chạp và loạng choạng, tỏ ra nội công rất cao siêu, nên chàng không dám
đùa giỡn, vội né mình tránh luôn hai miếng. Vén tay áo lên, chàng giở hết những món
tuyệt kỹ trong "Phục Hổ Chưởng Pháp" để đối địch. Thấy một tay đánh phía mặt đưa
tới, Thừa Chí nhìn rõ gan bàn tay của đối thủ đỏ như máu, trong lòng chàng cũng hơi
chấn động. Dưới bóng trăng, thủ chưởng đó nom càng rùng rợn hơn nữa. Thừa Chí
nghĩ thầm: "Không ngờ ông già nầy đã luyện được "Chu Sa chưởng" hay "Hồng Sa
Chưởng", sư phụ ta có nói, chưởng lực đó lợi hại vô cùng, không nên để cho nó đánh
trúng vào người." Liền đoạn chàng liền áp dụng chưởng phong của mình một cách kín
đáo hơn, song chưởng cứ liên miên bất tuyệt đánh cổ tay phải hơi đen, vội nhảy ngay
ra. Cúi đầu xem kỹ, ông ta thấy cổ tay có một vết đỏ và hơi sưng lên. Thì ra ông cụ đã
bị Thừa Chí dùng ngón tay rạch một cái. Tuy tức giận thật nhưng Minh Nghĩa không
dám tiếp tục thử tài với Thừa Chí nữa.
Tiến lên một bước, Ôn Minh Sơn nói:
- Viên huynh đây tuổi tuy còn nhỏ nhưng chưởng pháp đã tới mức tinh diệu vô
cùng. Lão huynh đây muốn lãnh giáo thử xem công phu khí giới của huynh ra sao?
Thừa Chí trả lời:
- Tiểu bối không dám mang theo khí giới vào quý trang.
Minh Sơn cười kha khả nói:
- Viên huynh giữ lễ phép kể cũng chu toàn đấy. Đó cũng có thể nói là: Người tài
nghệ cao bao giờ cũng can đảm hơn người. Thôi được chúng ta tới Luyện Võ Sảnh vậy.
Vẫy tay một cái, Minh Sơn nhảy phắt xuống đất, mọi người lần lượt theo sau nhảy
xuống. Thừa Chí cũng đành phải theo họ vào trong nhà, Ôn Thanh vừa dịp đó lại gần
chàng và khẽ rỉ tai: "Trong chiếc gậy của ông em có ám khí đấy!"
Chàng định hỏi han vài lời, thì Ôn Thanh đã quay lại nói với Ôn Chính:
- Thế nào? Thấy bản lĩnh của người ta giỏi như thế, anh đã chịu phục chưa?
Ôn Chính trả lời:
- Ông Hai cưng em nên mới nhường cho nói một vài miếng như thế có gì là lạ?
Ôn Thanh cười nhạt, không thèm nói chuyện với Ôn Chính nữa.
Mọi người vào cả trong Luyện Võ Sảnh. ánh sáng chói lọi như ban ngày. Tất cả
người nhà họ Ôn, từ già chí trẻ, ai ai cũng đều biết võ cả. Lúc đó, họ nghe nói cụ Ba
định đấu võ với người khách, nên rủ nhau đến cả Võ Sảnh để xem, trong đó có cả đứa trẻ độ bảy, tám tuổi. Sau cùng, Thừa Chí lại trông thấy một ngườpi đàn bà rất đẹp, trạc độ bốn mươi tuổi cùng Nguyệt Hoa bước ra. Ôn Thanh chạy lại gọi: "Má!" Người đàn bà đẹp đó nét mặt ủ rũ, đưa mắt lườm Ôn Thanh có vẻ không vui.
Ôn Minh Sơn chỉ vào những giá cắm khí giới bày xung quanh rồi nói:- Viên huynh muốn xử dụng khí giới gì cứ việc ra mà chọn lấy!
Thừa Chí tính thầm trong bụng: "Câu chuyện ngày hôm nay không thể nào kết
thúc một cách êm thấm được. Tuy nhiên ta cũng không nên đánh ai bị thương để tránh
sự gây thù kết oán. Vừa mới ra đời mà ta đã gặp phải vấn đề nan giải này rồi. Bây giờ
không biết ứng phó thế nào cho phải đây?" Thấy Thừa Chí cau mày có vẻ tư lự và
không thấy chàng nói năng gì cả, Ôn Thanh tưởng chàng e ngại liền bảo:
- Ông ba em rất thương những người kẻ dưới. Anh cứ yên trí, ông Cụ không đánh
anh bị thương đâu!
Má Ôn Thanh bực mình mắng ngay:
- Ôn Thanh! Con không được nói nhiều.
Ôn Minh Sơn đưa mắt nhìn Ôn Thanh rồi nói:
- Điều đó còn phải chờ xem tài nghệ của người ấy ra sao. Viên huynh thích dùng
đao hay kiếm?
Thừa Chí đưa mắt nhìn xung quanh bỗng thấy Nguyệt Hoa dắt một đứa trẻ độ sáu,
bảy tuổi đứng cạnh đó. Chàng đoán có lẽ thằng nhỏ đó là cháu của Ôn Thanh. Thấy tay
nó đang cầm một thanh kiếm bằng gỗ, sơn màu lòe loẹt, loại đồ chơi trẻ con, Thừa Chí
liền đi tới cạnh thằng bé và bảo nó rằng:
- Cậu em, cho anh mượn thanh kiếm này nhé!
Thằng nhỏ nhoẻn miệng cười đưa ngay thanh kiếm gỗ cho chàng. Cầm thanh
kiếm lên, chàng nói với Minh Sơn:
- Tiểu bối không dám động tới đao kiếm thật với lão tiền bối, chỉ xin dùng tạm
thanh kiếm gỗ này để thọ giáo vài hiệp.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top