ĐCSVN
nguyên nhân thất bại của các giải pháp cứu nước trước khi ĐCSVN ra đời:
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theokhuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Những phong trào tiêu biểu trongthời kỳ này là:
+ Phong trào Cần Vương (1885-1896). Phong trào bắt đầu bằng sự kiện vua Hàm Nghi rachiếu Cần Vương 13-7-1885 và nhanh chóng phát triển ra nhiều địa phương ở Bắc-Trung-Nam Kỳ.
+ Khởi nghĩa Yên Thế (Bắc Giang) diễn ra từ năm 1884, đánh thắng nhiều trận, tạo tiếngvang lớn và gây cho pháp nhiều thiệt hại nhưng chỉ kéo dài đến năm 1913 thì bị dập tắt.
=> Trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-191), các cuộc khởi nghĩa vũ trang chốngPháp của nhân dân ta vẫn tiếp diễn nhưng đều không thành công. Thất bại của nhữngphong trào trên đã chứng tỏ giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong kiến không đủđiều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc ở Việt Nam.
+ Đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịuảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi theo hai xu hướng: một bộ phậnchủ trương đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập dân tộc, khôi phục chủ quyền quốcgia bằng biện pháp bạo động; một bộ phận khác lại coi cải cách là giải pháp tiến tới khôiphục độc lập.
Đại diện xu hướng bạo động là Phan Bội Châu với chủ trương dùng biện pháp bạo độngđể đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục nền độc lập cho dân tộc.
Đại biểu cho xu hướng cải cách là Phan Châu Trinh với chủ trương vận động, cải cách vănhóa, xã hội; động viên lòng yêu nước trong nhân dân; đả kích bọn vua quan phong kiếnthối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản; thực hiện khai dân trí, chấn dân khí, hậu dânsinh, mở mang dân quyền; phản đối đấu tranh vũ trang và cầu viện nước ngoài.
+ Ngoài ra, trong thời kỳ này ở Việt Nam còn có nhiều phong trào đấu tranh khác như:Phong trào Đông Kinh nghĩa thục (1907); Phong trào ‚tẩy chay Khách trú‛ (1919); Phongtrào chống độc quyền xuất nhập khẩu ở cảng Sài Gòn (1923); đấu tranh trong các hội đồngquản hạt, hội đồng thành phố< đòi cải cách tự do dân chủ<Từ trong phong trào đấu tranh, các tổ chức đảng phải ra đời: Đảng Lập hiến (1923), ĐảngThanh niên (3-1926); Đảng Thanh niên cao vọng (1926); Việt Nam nghĩa đoàn (1925), sauđổi tên thành Tân Việt cách mạng Đảng (7-1928); Việt Nam Quốc dân Đảng (12-1927). Các đảng phái chính trị và tiểu tư sản trên đây đã góp phần thúc đẩy phong trào yêu nướcchống Pháp, đặc biệt là Tân Việt Cách mạng Đảng và Việt Nam quốc dân Đảng.Tân Việt Cách mạng Đảng Việt Nam quốc dân Đảng là một đảng chính trị theo xu hướng dân chủ tư sản, chủ trươnglàm cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới, đánh đuổi giặc Pháp, đánh đổ ngôi vua,thiết lập nền dân quyền. Đầu năm 1929, đảng này bị thực dân Pháp khủng bố dữ dội, tổchức đảng bị vỡ ở nhiều nơi. Lãnh đạo Việt Nam Quốc dân Đảng đã phát động cuộc khởinghĩa đêm ngày 9-2-1930 ở nhiều tỉnh nhưng nhanh chóng bị thực dân Pháp dập tắt.
||=> Trước yêu cầu lịch sử của xã hội Việt Nam, các phong trào đấu tranh chống Phápdiễn ra sôi nổi, và đạt được kết quả ở những mức độ khác nhau.> Mục tiêu của các cuộc đấu tranh ở thời kỳ này đều hướng tới giành độc lập cho dân tộc,nhưng trên các lập trường giai cấp khác nhau. Các phong trào hướng tới hoặc khôi phụcchế độ phong kiến hoặc thiết lập chế độ quân chủ lập hiến, hoặc cao hơn là thiết lập chế độ cộng hòa tư sản.
> Phương thức và biện pháp tiến hành khác nhau: bạo động hoặc cải cách; quan điểm tậphợp lực lượng bên ngoài khác nhau: dựa vào Pháp để thực hiện cải cách, hoặc dựa vàongoại viện đánh Pháp< nhưng cuối cùng các cuộc đấu tranh đều thất bại.
> Một số tổ chức theo lập trường quốc gia tư sản ra đời đã thể hiện vai trò của mình trongcuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và dân chủ. Nhưng các phong trào và tổ chức trên,do những hạn chế về giai cấp, về đường lối chính trị; hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ;chưa tập hợp được rộng rãi lực lượng của dân tộc, nhất là chưa tập hợp được hai lựclượng xã hội cơ bản là công nhân và nông dân, nên cuối cùng đã không thành công. Sựthất bại của các phong trào yêu nước theo lập trường quốc gia tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX đã phản ánh địa vị kinh tế và chính trị yếu kém của giai cấp này trong tiến trìnhcách mạng dân tộc, phản ánh sự bất lực của họ trước những nhiệm vụ do lịch sử dân tộcViệt Nam đặt ra.
> Sự thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã chứng tỏ con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tưsản đã bế tắc. Cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối,về giai cấp lãnh đạo. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm một con đường cách mạng mới,một giai cấp đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, có đủ uy tín vànăng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công.> Mặc dù thất bại nhưng sự phát triểnmạnh mẽ của phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIXđầu thế kỷ XX có ý nghĩa rất quan trọng. Nó là sự tiếp nối truyền thống yêu nước kiêncường bất khuất vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Sự phát triển của phong trào yêunước là cơ sở xã hội thuận lợi cho sự tiếp biến con đường cách mạng vô sản ở Việt Nam vàlà một trong những nhân tố đưa tới sự ra đời của Đảng Cộng sản.
Trước năm 1930, phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ra diễn ra liên tục, sôi nổi và quyết liệt song đều bị thất bại vì khủng hoảng về đường lối. Đảng ra đời đã vạch ra đường lối chiến lược cho cách mạng. Đường lối đó là : Trước làm cách mạng dân tộc dân chủ rồi sau tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa. Từ nay cách mạng Việt Nam chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và có sự lãnh đạo đúng đắn để đi đến thắng lợi.
* Đảng ra đời, xây dựng được một lực lượng mới cho cách mạng mà chủ yếu là liên minh công nông. Trước 1930, các nhà cách mạng chỉ kêu gọi nhân dân ta chống Pháp, giành độc lập dân tộc, mà không kêu gọi chống phong kiến cho giao ruộn đất, dân cày, không chú ý đúng mức đến quyền lợi nông dân. Đảng ra đời đề ra hai nhiệm vụ chiến lược là: “Độc lập dân tộc” và “Ruộng đất dân cày”. Hai khẩu hiệu này đáp ứng được nguyện vọng của đa số nhân dân, nhất là nông dân. Do đó, lôi cuốn được động đảo nông dân đi theo cách mạng, xây dựng khối liên minh công nông, tạo ra được một nhân tố cơ bản nữa, đảm bảo thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.
* Đảng ra đời vạch ra được phương pháp cách mạng đúng đắn. Trước 1930, nhân dân ta chống Pháp rất anh dũng, nhưng sai lầm về phương pháp. Người thì dùng khởi nghĩa vũ trang (như các chiến sĩ Cần Vương), nhưng khởi nghĩa thường diễn ra lẻ tẻ từng nơi, dễ bị bao vây tiêu diệt. Người thì dùng vũ lực nhưng lại dựa vào sự cầu viện ở nước ngoài (như cụ Phan Bội Châu). Người thì dùng biện pháp cải lương “Cầu xin thực dân Pháp rủ lòng xin” (như cụ Phan Châu Trinh), không biết ai dựa vào sức mạnh của chính mình. Đảng ra đời đã vạch ra phương pháp đấu tranh mới. Đó là dùng phương pháp đấu tranh cách mạng bằng bạo lực của quần chúng theo quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin. Nhờ đó ta biết xây dựng và sử dụng hai lực lượng chính trị, vũ trang để tiến hành khởi nghĩa.
* Đảng ra đời xây dựng được bạn đồng minh mới. Trước năm 1930, nhiều nhà cách mạng Việt Nam ra nước ngoài, tìm lực lượng cứu nước nhưng chưa ai biết đoàn kết với lực lượng cách mạng thế giới. Đảng ra đời làm cho cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của thế giới. Nhờ vậy, từ đó đến nay ta đã tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ to lớn của các lực lượng cách mạng thế giới, tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến thắng mọi kẻ thù.
Cuối thế kỷ XIX, mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn ký các Hiệp ước ácmăng (Harmand) năm 1883 và Patơnốt (Patenôtre) năm 1884, đầu hàng thực dân Pháp, song phong trào chống thực dân Pháp xâm lược vẫn diễn ra. Phong trào Cần Vương (1885-1896), một phong trào đấu tranh vũ trang do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động, đã mở cuộc tiến công trại lính Pháp ở cạnh kinh thành Huế (1885). Việc không thành, Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị), hạ chiếu Cần Vương. Mặc dù sau đó Hàm Nghi bị bắt, nhưng phong trào Cần Vương vẫn phát triển, nhất là ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa: Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công Tráng (1881-1887), Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (1883-1892) và Hương Khê của Phan Đình Phùng (1885-1895). Cùng thời gian này còn nổ ra cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, kéo dài đến năm 1913.
Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt ra.
Đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu là Nhật Bản, để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà nước theo mô hình quân chủ lập hiến của Nhật. Ông lập ra Hội Duy tân (1904), tổ chức phong trào Đông Du (1906-1908).Chủ trương dựa vào đế quốc Nhật để chống đế quốc Pháp không thành, ông về Xiêm nằm chờ thời. Giữa lúc đó Cách mạng Tân Hợi bùng nổ và thắng lợi (1911). Ông về Trung Quốc lập ra Việt Nam Quang phục Hội (1912) với ý định tập hợp lực lượng rồi kéo quân về nước võ trang bạo động đánh Pháp, giải phóng dân tộc, nhưng rồi cũng không thành công.
Phan Châu Trinh chủ trương dùng những cải cách văn hóa, mở mang dân trí, nâng cao dân khí, phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa trong khuôn khổ hợp pháp, làm cho dân giàu, nước mạnh, buộc thực dân Pháp phải trao trả độc lập cho nước Việt Nam. ở Bắc Kỳ, có việc mở trường học, giảng dạy và học tập theo những nội dung và phương pháp mới, tiêu biểu là trường Đông Kinh nghĩa thục Hà Nội. ở Trung Kỳ, có cuộc vận động Duy tân, hô hào thay đổi phong tục, nếp sống, kết hợp với phong tràođấu tranh chống thuế (1908).
Do những hạn chế về lịch sử, về giai cấp, nên Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, cũng như các sĩ phu cấp tiến lãnh đạo phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX không thể tìm được một phương hướng giải quyết chính xác cho cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc, nên chỉ sau một thời kỳ phát triển đã bị kẻ thù dập tắt.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất mặc dù còn nhiều hạn chế về số lượng, về thế lực kinh tế và chính trị, nhưng với tinh thần dân tộc, dân chủ, giai cấp tư sản Việt Nam đã bắt đầu vươn lên vũ đài đấu tranh với thực dân Pháp bằng một số cuộc đấu tranh cụ thể với những hình thức khác nhau.
- Năm 1919-1923, Phong trào quốc gia cải lương của bộ phận tư sản và địa chủ lớp trên đã diễn ra bằng việc vận động chấn hưng nội hoá bài trừ ngoại hoá; chống độc quyền thương cảng Sài Gòn; chống độc quyền khai thác lúa gạo ở Nam Kỳ; đòi thực dân Pháp phải mở rộng các viện dân biểu cho tư sản Việt Nam tham gia.
Năm 1923 xuất hiện Đảng Lập hiến của Bùi Quang Chiêu ở Sài Gòn, tập hợp tư sản và địa chủ lớp trên. Họ cũng đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do dân chủ để lôi kéo quần chúng. Nhưng khi bị thực dân Pháp đàn áp hoặc nhân nhượng cho một số quyền lợi thì họ lại đi vào con đường thỏa hiệp.
- Năm 1925-1926 đã diễn ra Phong trào yêu nước dân chủ công khai của tiểu tư sản thành thị và tư sản lớp dưới. Họ lập ra nhiều tổ chức chính trị như: Việt Nam Nghĩa đoàn, Phục Việt (1925), Hưng Nam, Thanh niên cao vọng (1926); thành lập nhiều nhà xuất bản như Nam Đồng thư xã (Hà Nội), Cường học thư xã (Sài Gòn), Quan hải tùng thư (Huế); ra nhiều báo chí tiến bộ như Chuông rạn (La Cloche fêlée), Người nhà quê (Le Nhaque), An Nam trẻ (La jeune Annam)... Có nhiều phong trào đấu tranh chính trị gây tiếng vang khá lớn như đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu (1925), lễ truy điệu và để tang Phan Châu Trinh, đấu tranh đòi thả nhà yêu nước Nguyễn An Ninh (1926). Cùng với phong trào đấu tranh chính trị, tiểu tư sản Việt Nam còn tiến hành một cuộc vận động văn hóa tiến bộ, tuyên truyền rộng rãi những tư tưởng tự do dân chủ. Tuy nhiên, càng về sau, cùng sự thay đổi của điều kiện lịch sử, phong trào trên đây ngày càng bị phân hoá mạnh. Có bộ phận đi sâu hơn nữa vào khuynh hướng chính trị tư sản (như Nam Đồng thư xã), có bộ phận chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vô sản (tiêu biểu là Phục Việt, Hưng Nam).
- Năm 1927-1930 Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với sự ra đời và hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng (25-12-1927). Cội nguồn Đảng này là Nam Đồng thư xã, lãnh tụ là Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính. Đây là tổ chức chính trị tiêu biểu nhất của khuynh hướng tư sản ở Việt Nam, tập hợp các thành phần tư sản, tiểu tư sản, địa chủ và cả hạ sĩ quan Việt Nam trong quân đội Pháp.
Về tư tưởng, Việt Nam quốc dân Đảng mô phỏng theo chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Về chính trị, Việt Nam quốc dân Đảng chủ trương đánh đuổi đế quốc, xóa bỏ chế độ vua quan, thành lập dân quyền, nhưng chưa bao giờ có một đường lối chính trị cụ thể, rõ ràng. Về tổ chức, Việt Nam quốc dân Đảng chủ trương xây dựng các cấp từ Trung ương đến cơ sở, nhưng cũng chưa bao giờ có một hệ thống tổ chức thống nhất.
Ngày 9-2-1929, một số đảng viên của Việt Nam Quốc dân Đảng ám sát tên trùm mộ phu Badanh (Bazin) tại Hà Nội. Thực dân Pháp điên cuồng khủng bố phong trào yêu nước. Việt Nam Quốc dân Đảng bị tổn thất nặng nề nhất. Trong tình thế hết sức bị động, các lãnh tụ của Đảng quyết định dốc toàn bộ lực lượng vào một trận chiến đấu cuối cùng với tư tưởng “không thành công cũng thành nhân”.
Ngày 9-2-1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái bùng nổ, trung tâm là thị xã Yên Bái với cuộc tiến công trại lính Pháp của quân khởi nghĩa. ở một số địa phương như Thái Bình, Hải Dương... cũng có những hoạt động phối hợp.
Khởi nghĩa Yên Bái nổ ra khi chưa có thời cơ, vì thế nó nhanh chóng bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Các lãnh tụ của Việt Nam quốc dân Đảng cùng hàng ngàn chiến sĩ yêu nước bị bắt và bị kết án tử hình. Trước khi bước lên đoạn đầu đài họ hô vang khẩu hiệu "Việt Nam vạn tuế". Vai trò của Việt Nam Quốc dân Đảng trong phong trào dân tộc ở Việt Nam chấm dứt cùng với sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái.
Nhìn chung, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đã diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những hình thức đấu tranh phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh thần chống đế quốc của giai cấp tư sản Việt Nam, nhưng cuối cùng đều thất bại vì giai cấp tư sản Việt Nam rất nhỏ yếu cả về kinh tế và chính trị nên không đủ sức giương cao ngọn cờ lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Mặc dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta, bồi đắp thêm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đặc biệt góp phần thúc đẩy những nhà yêu nước, nhất là lớp thanh niên trí thức có khuynh hướng dân chủ tư sản chọn lựa một con đường mới, một giải pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại và nhu cầu mới của nhân dân Việt Nam.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top