ĐẤU TRƯỜNG SINH TỬ 2 - BẮT LỬA - PART 2/2 - Hanh_Moon
Chap 14 Tôi vẫn còn nán lại bên ô cửa sổ hồi lâu sau khi đám cây rừng nuốt trọn chút bóng dáng thấp thoáng sau cùng nơi tôi sinh sống. Lần này tôi thậm chí còn không có một tia hi vọng mong manh được quay trở về. Trước buổi đấu đầu tiên, tôi đã hứa Prim sẽ làm mọi thứ có thể để thắng cuộc và giờ tôi tự thề sẽ làm tất cả để giúp Peeta sống sót. Tôi sẽ chẳng thể đổi chiều chuyến đi này lần nữa. Tôi hiện tại đã biết được những lời nói sau cùng mà tôi muốn gửi tới những người tôi yêu thương là gì. Cách tốt nhất là đóng và khóa cửa lại, bỏ họ dù buồn khổ nhưng an toàn lại phía sau. Và giờ Capitol cũng cướp đi cả điều đó. “Chúng ta sẽ gửi thư về, Katniss” Peeta lên tiếng sau lưng tôi “Dù thế nào cũng sẽ tốt hơn nếu để một người trong chúng ta ở lại với họ. Ông Haymitch sẽ chuyển thư giúp chúng ta nếu…nó cần được gửi” Tôi gật đầu và đi thẳng về phòng. Ngồi trên giường, tôi biết rằng tôi sẽ không bao giờ viết những lá thư đó.Chúng sẽ giống như bài diễn thuyết mà tôi đã cố viết ra để tưởng nhớ Rue và Thresh ở quận 11. Mọi thứ có vẻ trở nên rõ ràng trong đầu tôi và thậm chí cả khi tôi phát biểu trước đám đông, nhưng những ngôn từ không bao giờ được viết ra tức thì. Hơn nữa,những lá thư ấy đi cùng với ý muốn ôm hôn và vuốt ve mái tóc Prim, muốn mơn trớn khuôn mặt Gale, muốn siết chặt đôi bàn tay Madge. Chúng không thể được gửi đi cùng với một chiếc thùng gỗ với thân thể lạnh ngắt, cứng đờ của tôi bên trong. Tôi quá chán nản để khóc lóc, tất cả những gì tôi muốn là cuộn mình trên giường và ngủ lì cho tới khi tới Capitol vào sáng mai. Nhưng tôi có một sứ mệnh. Không, nó còn hơn cả một sứ mệnh. Đó là nguyện vọng được chết. Để Peeta sống. Không giống với việc tôi hoàn thành nó trước bộ mặt giận dữ phía Capitol, mà quan trọng là tôi phải đứng đầu trận đấu của chính mình. Điều này sẽ không xảy ra nếu tôi tiếp tục than khóc với từng người tôi yêu mến đang ở phía sau. Hãy để họ đi, tôi tự nhủ với bản thân. Hãy nói lời tạm biệt và quên họ đi. Tôi cố gắng hết sức, nghĩ về từng người một, và giải thoát họ khỏi chiếc lồng bảo vệ trong tôi như những chú chim, sau đó khóa chặt cửa ngăn họ quay trở lại. Lúc bà Effie gõ cửa gọi tôi tới bữa tối là lúc tôi đang đói meo. Nhưng việc cử động nhẹ nhàng cũng không có gì khó chịu. Bữa tối thật lặng lẽ. Thực ra là quá mức lặng lẽ tới độ có những khoảng im lặng kéo dài chỉ được phá tan bởi việc dọn ra những món cũ và bày thêm món mới. Một món súp rau nguyên chất. Bánh hình cá với kem chanh. Những con chim nhỏ đằng kia còn được phủ xốt cam, cùng với gạo dại và cải xoong. Món sữa trứng sô cô la điểm bằng quả anh đào nữa. Peeta và bà Effie thỉnh thoảng nếm thử khi nói chuyện nên nhanh chóng hết sạch. “Cháu thích tóc mới của bà đấy” Peeta nói. “Cảm ơn. Ta đặc biệt tạo kiểu tóc này để hợp với chiếc ghim của Katniss. Ta đang suy nghĩ việc chúng ta có thể tặng cháu một dải băng buộc cổ tay màu vàng và tìm cho ông Haymitch một chiếc vòng tay vàng hay gì đó, thế thì tất cả chúng ta có lẽ sẽ trông như một đội vậy” bà Effie nói. Hiển nhiên bà ấy không biết rằng chiếc ghim hình con chim nhại của tôi giờ là một biểu tượng được sử dụng bởi đám dân nổi loạn. Ít nhất là tại quận 8. Ở Capitol, con chim nhại vẫn còn là một lời nhắc nhở dai dẳng về một đấu trường sinh tử đầy kích thích. Nó còn có thể là gì được chứ? Đám dân nổi loạn thực sự sẽ không gửi gắm một biểu tượng bí mật lên thứ gì đó lâu bền như kim cương. Họ sẽ đặt nó lên một chiếc bánh mì quế mà có thể ăn ngay nếu cần thiết. “Cháu nghĩ đó là ý kiến tuyệt vời đấy” Peeta đáp lại “Nó thế nào, bác Haymitch?” “Ờ, sao cũng được” ông Haymitch nói. Haymitch không uống rượu nhưng tôi có thể hiểu ông ấy muốn thế. Bà Effie đã nhờ người mang chỗ rượu của mình đi khi thấy ông Haymitch cố gắng thế nào, nhưng ông ấy vẫn ở trong tình trạng khổ sở. Nếu Haymitch là vật cống nạp, ông ấy sẽ không nợ Peeta điều gì và có thể say như ông ấy thích. Giờ nó sẽ lấy đi tất cả mọi thứ của ông nhằm giúp cho Peeta sống sót trong một trường đấu toàn những người bạn cũ và có thể ông ấy sẽ thất bại nữa. “Có lẽ chúng cháu cũng sẽ tặng bác một bộ tóc giả” tôi cố gắng nói chuyện giữa sự yên lặng. Nhưng ông ấy chỉ ném cho tôi một cái nhìn ám chỉ rằng hãy để ông ấy yên, rồi tất cả chúng tôi im lặng ăn bánh trứng sữa. “Chúng ta có xem bản tóm lược về các lễ tuyển chọn không?” bà Effie hỏi, lau ướt miệng với chiếc khăn ăn trắng bằng vải lanh. Peeta bỏ ra ngoài để tìm cuốn sổ tay về những kẻ chiến thắng hiện còn sống, rồi chúng tôi tập trung trong gian phòng có tivi và xem ai sẽ là đối thủ cạnh tranh của chúng tôi trong đấu trường. Khi bài quốc ca bắt đầu vang lên, tất cả chúng tôi đã vào chỗ ngồi và chương trình tóm tắt về lễ tuyển chọn hàng năm ở mười hai quận được khởi chiếu. Trong lịch sử trường đấu, có bảy mươi lăm nhà vô địch. Tôi nhận ra rất nhiều khuôn mặt trong đó, từ việc nhìn thấy họ như những vật tế hay người cố vấn ở cuộc đấu trước kia, hoặc từ việc xem băng ghi hình về những người thắng cuộc gần đây. Một vài người đã già nua hoặc trở nên gầy yếu do bệnh tật, thuốc phiện hay chất cồn đến nỗi tôi không thể nhận ra họ. Như mọi người nghĩ, những vật tế nhà nghề tới từ các quận 1,2 và 4 chiếm lớn nhất. Nhưng mỗi quận cố gắng chọn ra ít nhất một nữ và một nam. Các buổi tuyển người trôi qua nhanh chóng. Peeta chăm chỉ đánh dấu sao những cái tên được chọn vào cuốn sổ tay của cậu ấy. Ông Haymitch xem mà không bày tỏ cảm xúc gì khi những người bạn của ông bước lên sân khấu. Còn bà Effie thì có những nhận xét đau buồn và lặng lẽ kiểu “Ôi, đừng là Cecelia” hay “Chà, Chaff thì không bao giờ đứng ngoài cuộc đấu rồi” và thường xuyên thở dài. Về phần tôi, tôi cố ghi nhớ trong tâm trí những kẻ cống nạp còn lại, nhưng giống năm trước, chỉ có vài người thực sự được ghi nhớ trong đầu tôi. Có hai chị em với nét đẹp cổ điển tới từ quận 1 là nhà vô địch trong nhiều năm liên tiếp khi tôi còn ít tuổi. Brutus, tình nguyện viên của quận 2, người ít nhất phải bốn mươi tuổi và hình như cũng không thể đợi được để ở đấu trường lần nữa. Finnick, một gã đàn ông trông sáng sủa với mái tóc màu đồng tới từ quận 4 đã lên ngôi vô địch mười năm trước khi ở tuổi 14. Một phụ nữ trẻ trông cuồng loạn với mái tóc nâu mượt cũng được nêu tên từ quận 4, nhưng cô ta nhanh chóng được thay thế bởi một tình nguyện viên, một bà lão 80 tuổi cần tới gậy để lên được sân khấu. Sau đó là Johanna Mason, nhà vô địch nữ duy nhất còn sống từ quận 7, đã chiến thắng vài năm về trước bằng việc giả vờ ốm yếu. Còn người phụ nữ từ quận 8 mà bà Effie gọi là Cecelia, trông khoảng ba mươi, phải tách mình khỏi ba đứa trẻ đang đuổi theo để bám lấy cô ấy. Và Chaff, tới từ quận 11, người mà tôi biết là một trong những người bạn đặc biệt của ông Haymitch cũng tham gia. Tôi được gọi lên. Rồi tới ông Haymitch. Và Peeta lên tình nguyện. Thực ra một trong những người đưa tin đã khóc vì có vẻ như việc lẻ người không bao giờ là điều chúng tôi muốn, và vì chúng tôi là những kẻ được yêu mến đầy bất hạnh của quận 12. Sau đó cô ta tự trấn an mình để nói rằng cô ta cá chắc “Đây sẽ là cuộc đấu tuyệt vời nhất từng có” đến nỗi ông Haymitch rời gian phòng mà không nói lời nào, còn bà Effie, sau vài nhận xét không liên quan về kẻ cống nạp này nọ, đã ném cho chúng tôi lời chúc ngủ ngon. Tôi thì chỉ ngồi đó quan sát Peeta xé bỏ những trang mà người chiến thắng không được chọn. “Sao cậu không ngủ một chút đi?” cậu ấy đề nghị. Vì tớ không thể điều khiển những cơn ác mộng. Không phải vì không có cậu, tôi nghĩ thế. Đêm nay chắc chắn chúng sẽ rất đáng sợ. Nhưng tôi không thể yêu cầu Peeta đi ngủ cùng tôi được. Chúng tôi còn không chạm vào nhau kể từ khi Gale bị quất roi. “Cậu định sẽ làm gì?” tôi hỏi. “Chỉ xem lại ghi chú một chút thôi. Và hiểu cho rõ ràng vấn đề mà chúng ta đang vấp phải. Nhưng tớ sẽ xem xét kĩ lại với cậu vào sáng mai. Đi ngủ đi, Katniss” cậu ấy nói. Thế nên tôi đi ngủ và chắc chắn là trong vài giờ nữa, tôi sẽ choàng tỉnh từ trong cơn ác mộng, ở đó có một người đàn bà già nua từ quận 4 sẽ biến thành một loài gặm nhấm khổng lồ và gặm khuôn mặt tôi. Tôi biết tôi sẽ hét toáng lên, nhưng không ai tới cả. Không phải Peeta, thậm chí còn không có một người phục vụ nào của Capitol. Tôi với lấy chiếc áo choàng, cố làm bớt đi cơn sởn gai ốc đang tràn ra khắp người. Ở nguyên trong phòng là điều không thể, nên tôi quyết định đi tìm ai đó nhờ pha trà hoặc sô cô la nóng hay gì cũng được. Có lẽ ông Haymitch còn thức. Chắc chắn ông ấy chưa ngủ. Tôi gọi sữa ấm, thứ làm tôi bình tĩnh nhất mà tôi có thể nghĩ ra, từ một người phục vụ. Nghe được giọng nói từ phía phòng chiếu tivi, tôi bước vào và trông thấy Peeta. Bên cạnh cậu ấy, trên ghế bành, là chiếc hộp bà Effie đã gửi chứa đoạn phim về những cuộc đấu sinh tử trong quá khứ. Tôi nhận ra một tập mà trong đó Brutus là kẻ chiến thắng. Peeta ngồi dậy và đẩy đống băng ra khi cậu ấy trông thấy tôi. “Không ngủ được à?”. “Không hẳn”. Tôi kéo chiếc áo sát hơn quanh người khi nhớ tới cảnh người phụ nữ già biến thành loài gặm nhấm. “Muốn nói về nó không?” Peeta hỏi. Thỉnh thoảng nó có tác dụng, nhưng tôi chỉ lắc đầu, cảm giác lờ mờ rằng những người mà tôi chưa giao đấu đã ám ảnh tôi trước rồi. Khi Peeta mở rộng cánh tay, tôi tiến ngay vào giữa chúng. Đây là lần đầu tiên kể từ lúc họ đưa tin về Cuộc dẹp yên đường phố, cậu ấy bày ra với tôi chút tình cảm. Cậu ấy trông còn giống hơn một huấn luyện viên khắt khe, luôn thúc giục, luôn nài ông Haymitch và tôi chạy nhanh hơn, ăn nhiều lên và hiểu biết về đối thủ rõ hơn. Người yêu ư? Quên điều đó đi. Cậu ấy thậm chí còn từ chối việc giả vờ là bạn tôi. Tôi vòng cánh tay thật chặt quanh cổ cậu ấy trước khi cậu ấy yêu cầu tôi chống đẩy hay gì đó. Nhưng cậu ấy kéo tôi lại gần hơn và vùi mặt vào tóc tôi. Hơi ấm tỏa ra từ những chỗ mà môi cậu ấy chạm vào cổ tôi, dần dần lan toản khắp cơ thể. Cảm giác thật thoải mái, thoải mái đến không thể ngờ được, rằng tôi biết tôi sẽ không phải là người buông tay trước. Sao tôi lại nên như vậy? Vì tôi đã nói lời tạm biệt với Gale. Tôi sẽ không bao giờ gặp lại anh nữa, đó là điều chắc chắn. Giờ không việc gì mà tôi làm có thể làm tổn thương anh. Anh ấy sẽ không hiểu điều đó hoặc nghĩ tôi đang đóng kịch trước máy ghi hình. Ít nhất thì đó là một gánh nặng bớt khỏi đôi vai tôi. Sự xuất hiện của người phục vụ Capitol với cốc sữa ấm làm chúng tôi tách nhau ra. Anh ta đặt cái khay với chiếc bình gốm đang bốc hơi và hai chiếc cốc lên bàn. “Tôi đã mang thêm một cái cốc” anh ta nói. “Cảm ơn” tôi đáp. “Tôi cũng cho thêm ít mật ong vào sữa. Cho ngọt. Và chỉ thêm một nhúm muối”. Anh ta nhìn chúng tôi như muốn nói thêm gì đó, rồi gật nhẹ đầu và đi ra khỏi phòng. “Anh ta sao vậy?” tôi hỏi. “Tớ nghĩ anh ta cảm thấy bất an vì chúng ta”. “Phải rồi” tôi nói và rót sữa ra. “Ý tớ là. Tớ không nghĩ tất cả mọi người ở Capitol sẽ thấy hạnh phúc khi ta quay lại”. Peeta nói “Hay cả những nhà vô địch khác nữa. Họ đi liền với ngôi quán quân mà”. “Tớ đoán họ sẽ thay đổi điều đó một khi có máu đổ thôi” tôi đáp thẳng tưng. Thật sự là, nếu có một việc mà tôi không dành thời gian cho, thì đó là đi lo lắng về chuyện Cuộc dẹp loạn sẽ ảnh hưởng thế nào tới tâm trạng dân Capitol. “Thế cậu đang xem lại tất cả đoạn băng lần nữa à ?”. “Không hẳn. Chỉ là lướt qua xem kĩ thuật chiến đấu khác nhau của mọi người thôi” Peeta trả lời. “Ai tiếp theo vậy?” tôi hỏi. “Cậu chọn đi” Peeta nói và giơ ra chiếc hộp. Tất cả đống băng được đánh dấu năm và tên của người chiến thắng. Tôi tìm quanh và đột nhiên tìm được một cuộn mà chúng tôi chưa xem. Năm của cuộc chơi là năm 50. Năm đó là cuộc Dẹp loạn thứ hai. Còn tên của nhà vô địch là Haymitch Abernathy. “Chúng ta chưa xem cái này” tôi nói. Peeta lắc đầu “Không. Tớ biết bác Haymitch không muốn thế. Giống như chúng ta không muốn khơi lại cuộc đấu của chính mình.Nhưng từ khi chúng ta là một đội, tớ không nghĩ nó có vấn đề gì”. “Người chiến thắng năm 25 có ở đây không?” tôi hỏi. “Tớ không nghĩ thế. Dù là ai thì chắc giờ đã chết rồi. Bà Effie chỉ gửi tớ những người mà chúng ta có thể phải đối mặt” Peeta cầm cuộn băng về ông Haymitch trên tay “Sao? Cậu nghĩ chúng ta cần xem nó không?”. “Cuộn băng về cuộc Dẹp loạn duy nhất ta có. Chúng ta phải rút ra điều gì đáng giá về cách mà bọn họ tiến hành”, tôi nói. Nhưng cảm thấy kì quặc. Nó cứ như là xâm phạm sự riêng tư của ông Haymitch. Tôi không biết sao lại thế, vì toàn bộ sự việc là công khai. Nhưng nó lại vậy. Tôi phải thừa nhận là tôi rất tò mò. “Chúng ta không cần kể với ông Haymitch là đã xem nó mà”. “Được rồi” Peeta đồng ý. Cậu ấy đút cuộn băng vào và tôi cuộn tròn người cạnh Peeta trên ghế bành với cốc sữa thật ngon lành với mật ong và muối, đắm chìm với Đấu trường sinh tử lần thứ 50. Sau bài quốc ca, họ chiếu cảnh tổng thống Snow rút chiếc phong bì cho Cuộc dẹp loạn thứ hai. Ông ta trông trẻ hơn nhưng như đang có ý từ chối. Tổng thống đọc từ góc tờ giấy với giọng điệu nặng nề ý như lúc nói với chúng tôi, cho toàn Panem biết rằng để tưởng nhớ tới Cuộc dẹp loạn đường phố, sẽ tăng gấp đôi số vật tế. Những người biên tập cắt cảnh đúng lúc tới buổi tuyển người, nơi từng cái tên một sẽ được đọc lên. Lúc chúng tôi xem tới quận 12, tôi hoàn toàn bị choáng ngợp bởi số lượng những đứa trẻ sắp phải chết. Có một người phụ nữ, không phải bà Effie, gọi những cái tên ở quận 12, nhưng bà ta vẫn bắt đầu bằng “Nữ trước!” rồi đọc to tên một cô gái tới từ khu Seam, bạn có thể nhận ra qua hướng nhìn của bà ta, và rồi tôi nghe thấy cái tên “Maysilee Donner”. “Ôi!” tôi nói “Cô ấy là bạn mẹ tớ”. Máy quay tìm thấy cô gái đang ở trong đám đông, bám theo hai cô gái khác. Tất cả chắc chắn là những đứa trẻ con nhà buôn bán. “Tớ nghĩ đó là mẹ cậu, đang ôm cô ấy” Peeta nói nhẹ nhàng. Và cậu ấy đã đúng. Khi Maysilee Donner dũng cảm tự mình tách ra và đi về phía sân khấu, tôi bắt gặp cái nhìn lướt qua của mẹ đang ở tuổi tôi, và không ai nói quá lên vẻ đẹp của mẹ cả. Đang nắm tay mẹ và khóc lóc là một cô gái khác nhìn giống như cô Maysilee. Nhưng cũng giống một ai đó mà tôi biết nhiều hơn. “Là Magde” tôi nói. “Đó là mẹ của Madge. Cô ấy và Maysilee là sinh đôi hay là gì đó” Peeta đáp “Bố tớ đã nhắc tới nó một lần”. Tôi nghĩ tới mẹ của Madge. Phu nhân ngài thị trưởng Undersee. Người đã mất nửa cuộc đời trên giường mà không thể di chuyển với vết thương tồi tệ, thờ ơ với cả thế giới. Tôi nghĩ tới việc làm sao mà tôi lại không nhận ra cô ấy và mẹ tôi lại có chung mối quan hệ này. Vể cả việc Madge đã xuất hiện trong cơn mưa bão để mang tới thuốc giảm đau cho Gale. Về chiếc ghim cài con chim nhại và tại sao nó có ý nghĩa hoàn toàn khác vì giờ tôi đã biết chủ nhân trước đó của nó là dì của Madge, Maysilee Donner, một vật tế bị sát hại trong đấu trường. Tên ông Haymitch được gọi sau cùng. Thấy ông ấy còn sốc hơn khi thấy mẹ tôi. Trẻ trung. Khỏe mạnh. Dù khó thừa nhận, nhưng ông ấy có gì đó giống người xem hơn. Mái tóc tối màu và quăn, đôi mắt xám của dân Vỉa Than sáng rỡ và thậm chí còn nguy hiểm nữa. “Ờ, Peeta này, cậu có nghĩ bác Haymitch đã giết cô Maysilee không?” tôi thốt lên. Không biết tại sao, nhưng tôi không nén nổi ý nghĩ ấy. “Với bốn mươi tám người chơi khác? Tớ sẽ nói rằng lợi thế sẽ đánh bại điều đó” Peeta đáp. Những cỗ xe ngựa, trong đó có những đứa trẻ quận 12 với trang phục thợ than thật kinh khủng, và các bài phỏng vấn chớp nhoáng qua. Có rất ít thời gian để tập trung vào ai đó. Nhưng vì ông Haymitch sắp thành nhà vô địch nên chúng tôi chuyển sang theo dõi toàn bộ cuộc trao đổi giữa ông ấy và Caesar Flickerman, gã trông hệt như lúc thường trong bộ comple xanh lấp lánh giữa đêm tối. Chỉ có mái tóc xanh đậm, lông mi và môi là khác. “Vậy, ông Haymitch, ông nghĩ thế nào về một đấu trường có nhiều hơn một trăm phần trăm số người tham gia?” gã Caesar hỏi. Ông Haymitch nhún vai “Tôi không thấy nó khác biệt gì nhiều. Họ sẽ vẫn là một trăm phần trăm ngớ ngẩn như thường, nên tôi nhận thấy lợi thế của mình đại khái cũng giống vậy”. Khán giả bật cười và ông Haymitch trao cho họ cái cười nửa miệng. Đáng sợ. Kiêu ngạo. Thờ ơ. “Ông ấy không cần phải nói quá như vậy, đúng không?” tôi nói. Giờ trời đã sáng đúng lúc cuộc đấu bắt đầu. Chúng tôi quan sát từ điểm nhìn của một trong những vật tế khi cô ấy xuất hiện từ dưới ống nước của phòng giặt là và đi vào trường đấu. Tôi không nhịn được việc há hốc miệng. Vẻ không tin nổi hiện lên trên khuôn mặt của những người chơi. Thậm chí đôi lông mày của ông Haymitch còn nâng lên vẻ thích thú, dù chúng gần như đan lại ngay lập tức thành một cái cau mày. Đó là địa điểm hấp dẫn nhất có thể tưởng tượng được. Một chiếc sừng dê kết hoa bằng vàng đặt giữa đồng cỏ xanh với những mảng hoa đẹp lộng lẫy. Bầu trời xanh lam với những đám mây trắng lớn. Những con chim biết hót nhanh nhảu vỗ cánh trên đầu. Điều mà vài vật tế đánh hơi thấy hẳn phải có gì kì lạ. Một tiếng súng trên không cho biết cánh đồng cỏ kéo dài hàng dặm. Xa ra một khoảng, ở một phía, hình như có một cánh rừng và phía còn lại là một ngọn núi phủ đầy tuyết. Vẻ đẹp đẽ đã đánh lạc hướng nhiều người chơi, vì khi tiếng chiêng vang lên, hầu hết trong số họ như là đang cố tỉnh dậy sau cơn mê. Nhưng không phải là ông Haymitch. Ông ấy đang ở chỗ Sừng dê, được trang bị vũ khí và một ba lô đầy lương thực. Haymitch cắm đầu đi về phía khu rừng trước khi hầu hết những người khác mới vượt qua thanh xà ngang. Mười tám vật tế đã bị giết chết trong biển máu ngày đầu tiên đó. Những kẻ khác thì chết dần chết mòn và điều đó trở nên rõ ràng rằng hầu hết mọi thứ ở nơi xinh đẹp này – các loại quả ngọt lành đung đưa trên bụi cây, nước trong dòng suối như pha lê, thậm chí cả mùi hương của những bông hoa khi hít vào trực tiếp – đều độc hại chết người. Chỉ có nước mưa và thức ăn được cung cấp chỗ Sừng dê là an toàn. Cũng có một nhóm lớn, mang nhiều thức ăn dự trữ gồm 10 vật tế chuyên nghiệp lùng sục ngọn núi tìm các nạn nhân. Ông Haymitch cũng gặp phải rắc rối trong khu rừng, nơi những con sóc lông vàng mịn mượt hóa ra lại là loài ăn thịt và tấn công theo nhóm, và ngòi của những con bướm lại mang tới sự đau đớn dữ dội nếu không làm chết người. Nhưng ông ấy vẫn kiên gan đi về phía trước, luôn để ngọn núi phía xa lại sau lưng. Còn cô Maysilee Donner hóa ra lại khá nhiều tài vặt, một cô gái rời chỗ Sừng dê chỉ với một balo nhỏ. Trong ba lô, cô tìm thấy một chiếc bát tô, ít thịt bò sấy khô và một ống thổi với hai tá phi tiêu. Bằng cách sử dụng những chất độc có sẵn, cô ấy nhanh chóng biến chiếc ống thổi thành một loại vũ khí chết người bằng cách nhúng những chiếc phi tiêu vào các chất gây chết và thổi chúng vào thịt kẻ thù. Trong vòng bốn ngày, ngọn núi đẹp như tranh vẽ phun trào núi lửa đã xóa sổ một tá những người chơi khác, trừ năm người trong đội Chuyên nghiệp. Với ngọn núi phun ra chất lỏng nóng bỏng, và cánh đồng cỏ không có chỗ ẩn mình, mười ba vật tế còn lại – bao gồm cả ông Haymitch và cô Maysilee không còn lựa chọn nào khác là tự giấu mình trong khu rừng. Ông Haymitch dường như tiếp tục theo hướng cũ, tránh xa ngọn núi lửa, nhưng một mê cung bờ giậu đan chắc chắn đã buộc ông ấy vòng trở lại vào giữa khu rừng, nơi ông bắt gặp ba kẻ Chuyên nghiệp và lôi con dao của mình ra. Chúng có lẽ to lớn và khỏe hơn, nhưng ông Haymitch có một tốc độ kinh ngạc và đã giết chết hai tên trong khi tên thứ ba tước mất vũ khí của ông ấy. Tên đó gần như xé ngang họng ông khi có một chiếc phi tiêu đã đánh gục hắn xuống đất. Cô Maysilee Donner bước ra từ đám cây “Chúng ta sẽ sống lâu hơn với hai người”. “Tôi đoán là cô vừa chứng minh điều đó rồi” ông Haymitch nói, xoa bóp cổ “Phải không đồng minh?” cô Maysilee gật đầu. Và họ đã ở đó, rất nhanh vướng vào một trong những hiệp ước mà bạn sẽ bị truy sát vì vi phạm nếu từng mong trở về được quê hương và đối mặt với cả quận. Cũng giống như tôi và Peeta, họ làm tốt hơn cùng với nhau. Nghỉ ngơi nhiều hơn, lập ra một hệ thống hứng nước mưa, chiến đấu như một đội và chia sẻ thức ăn từ túi của những vật tế đã chết. Nhưng ông Haymitch vẫn quyết tâm tiến về phía trước. “Tại sao?” cô Maysilee hỏi, và ông Haymitch phớt lờ cô ấy cho tới khi cô từ chối đi thêm nếu không có câu trả lời. “Vì nó phải kết thúc ở đâu đó, phải không?” Ông Haymitch nói “Đấu trường không thể tiếp diễn mãi mãi”. “Cậu hi vọng tìm thấy cái gì?” cô Maysilee hỏi. “Tôi không biết. Nhưng có lẽ có thứ gì đó ta có thể dùng được” Ông Haymitch đáp. Cuối cùng khi họ đã vượt qua hàng giậu tưởng như không thể, bằng cách dùng cây đèn hàn trong túi của một tên Chuyên nghiệp đã chết, họ thấy chính mình đang ở trên một vùng đất bằng phẳng, khô ráo dẫn tới một vách đá. Ở tận dưới, bạn có thể nhìn thấy những dãy đá lởm chởm. “Đây là tất cả những gì đang có đấy Haymitch. Quay lại thôi”. “Không. Tôi sẽ ở đây” ông ấy đáp. “Được thôi. Chỉ có năm người chúng ta còn sống. Dù sao thì có lẽ giờ nên nói lời tạm biệt thôi” cô ấy nói. “Tôi không hề muốn nó xảy đến tới cậu và tôi”. “Được” Haymitch đồng ý. Hết. Ông không hề tỏ ý bắt tay cô ấy hay thậm chí nhìn cô. Rồi cô Maysilee bỏ đi. Haymitch đi dọc theo gờ của vách đá như thể đang cố tìm ra cái gì đó. Chân ông ấy đá văng một viên đá cuội và nó rơi xuống vực sâu, có vẻ như biến mất mãi mãi. Nhưng một phút sau đó, khi ông Haymitch ngồi nghỉ ngơi, viên đá cuội bật trở lại cạnh chỗ ông. Haymitch nhìn chăm chăm vào nó, bối rối, và rồi khuôn mặt ông có một xúc cảm kì lạ. Ông ấy ném một hòn đá to chừng nắm tay xuống vách đá và chờ đợi. Khi nó bay trở lại ra ngoài và đúng trên bàn tay, Haymitch bắt đầu cười lớn. Đó là lúc chúng tôi nghe thấy cô Maysilee la hét. Mối liên minh đã chấm dứt và cô ấy đã phá vỡ nó, thế nên không ai đổ lỗi cho ông Haymitch vì đã phớt lờ cô. Nhưng dù sao ông Haymitch cũng chạy tới chỗ cô ấy. Ông ấy tới vào đúng lúc nhìn thấy giây phút một đàn những con chim màu hồng, trang bị những chiếc mỏ dài, nhọn, đang xiên qua cổ cô. Ông nắm lấy tay Maysilee khi cô qua đời, và tất cả những gì tôi nghĩ tới là Rue và cả việc làm thế nào mà tôi lại tới trễ để kịp cứu em. Sau hôm đó, một vật tế khác bị giết trong trận đấu và một phần ba cơ thể đã bị ăn bởi một đám những con sóc lông mượt, để lại ông Haymitch và một cô gái từ quận 1 đấu tranh cho chiếc vương miện. Cô ấy to lớn hơn ông Haymitch và cũng nhanh nhẹn; rồi cuộc đấu không thể tránh khỏi cũng tới, nó đầy máu me, kinh hoàng và cả hai đều nhận được những vết thương chí mạng khi cuối cùng ông Haymitch bị tước mất vũ khí. Ông ấy loạng choạng đi xuyên qua khu rừng xinh đẹp, ôm chặt bụng, trong khi cô gái đi trầy trật sau lưng ông, mang theo chiếc rìu mà đáng lẽ đã giáng xuống đòn tử. Haymitch theo đường chim bay tới vách đá và vừa lúc tới được gờ đá khi cô ta ném chiếc rìu tới. Ông ấy đổ sụp người xuống nền đất và nó bay vào trong vực sâu. Giờ thì có vẻ như không có vũ khí, cô gái chỉ đứng đó, cố cầm vết máu đang túa ra từ hốc mắt trống rỗng. Cô ta nghĩ có thể sống lâu hơn ông Haymitch, người đã bắt đầu run rẩy trên mặt đất. Nhưng điều mà cô ta không biết, nhưng ông Haymitch biết, là chiếc rìu sẽ quay trở lại. Và khi nó bay trở lại qua dãy đá ngầm, nó găm sâu vào đầu cô ta. Tiếng súng vang lên, xác của cô gái được chuyển đi, và kèn trumpet được thổi để loan tin chiến thắng của ông Haymitch. Peeta tắt đoạn băng đi và chúng tôi ngồi đó một lúc trong im lặng. Cuối cùng cậu ấy lên tiếng: “Lực ném trở lại ở dưới vách đá đó, nó giống như một thứ trên mái nhà của trung tâm huấn luyện. Một thứ ném cậu trở lại nếu cậu cố nhảy lên và tự giết mình. Ông Haymitch đã tìm ra cách để biến nó thành một loại vũ khí”. “Không chỉ chống lại những vật tế khác, mà còn cả Capitol” tôi đáp “Cậu biết là chúng không mong nó xảy ra. Nó không định trở thành một phần của trường đấu. Chúng chưa từng lên kế hoạch cho bất cứ ai dùng nó như một loại vũ khí. Nó khiến chúng trông thật ngu xuẩn cho tới khi ông ấy khám phá ra. Tớ cá là chúng đã có khoảng thời gian tốt đẹp khi cố đảo lộn chỗ đó lên. Đó là lí do tại sao tớ không nhớ đã thấy nó trên tivi. Điều đó gần như xấu xa giống chúng ta và những quả dâu rừng vậy!” Tôi không nhịn được cười, cười thật sự, lần đầu tiên nhiều tháng nay. Peeta thì chỉ lắc đầu như kiểu tôi bị mất trí, và có lẽ tôi cũng mất trí thật, một chút. “Gần như, chứ không phải hoàn toàn” Haymitch nói từ sau lưng chúng tôi. Tôi giật mình, sợ rằng ông ấy sẽ tức giận với chúng tôi vì đã xem cuộn băng của ông, nhưng ông chỉ cười và uống một hơi từ chai rượu. Quá mức điềm tĩnh. Tôi nghĩ rằng đáng nhẽ nên buồn rầu vì ông ấy lại uống rượu, nhưng tôi lại bận rộn với một suy nghĩ khác. Tôi đã dành những tuần này để biết xem ai mới là đối thủ của tôi, mà không nghĩ tới việc ai sẽ là đồng đội. Giờ đây, một sự tin cậy mới mẻ đang nhen nhóm trong tôi, vì tôi nghĩ cuối cùng mình đã biết được ông Haymitch là ai. Và tôi cũng bắt đầu biết tôi là ai. Chắc chắn, hai kẻ đã gây cho Capitol nhiều rắc rối có thể nghĩ được cách khiến Peeta sống sót trở về nhà. Chap 15 Việc chuẩn bị với Flavius, Venia và Octavia quả là mất thời gian, đáng ra nó nên như những lần trước. Tôi đã không lường trước được thử thách tình cảm này đang chờ đợi tôi. Trong lúc chuẩn bị, mỗi người trong số họ đều bật khóc ít nhất là hai lần, Octavia đã thút thít suốt cả buổi sáng. Hóa ra trước tới giờ tôi đã thực sự gắn bó với họ, cái ý nghĩ tôi phải trở lại đấu trường vẫn khiến họ chưa thể chấp nhận nổi. Nhưng kết hợp với thực tế thì việc mất tôi cũng đồng nghĩa với việc họ mất tấm vé tới các sự kiện lớn, ví như lễ cưới của tôi chẳng hạn, và tất cả những điều đó trở nên không thể chịu đựng nổi. Cái ý nghĩ phải mạnh mẽ lên vì ai đó có lẽ chẳng bao giờ xuất hiện trong đầu họ, còn tôi thì đang tự thấy chính mình trong vai trò là người an ủi họ. Từ khi dấn thân vào cuộc tàn sát, đó cũng là một trong những việc thật phiền hà. Thú vị làm sao, khi nghĩ đến chuyện Peeta kể về các tiếp viên ở trên tàu không được vui vẻ mấy về người chiến thắng phải chiến đấu một lần nữa. Về phần người dân Capitol, họ cũng chẳng ưa gì điều này. Tôi đã từng nghĩ rằng tất cả rồi sẽ bị lãng quên sau tiếng chiêng chiến thắng, nhưng có điều gì đó tiết lộ rằng những người ở Capitol chả quan tâm gì tới chúng tôi cả. Tất nhiên họ chẳng lấy làm phiền lòng khi nhìn thấy những đứa trẻ chém giết nhau năm này qua năm khác. Cũng có thể họ biết quá nhiều về những người chiến thắng, đặc biệt là những kẻ nổi tiếng hằng năm trời, để khiến họ quên đi rằng chúng tôi cũng là con người. Hẳn rằng sẽ thích thú hơn khi nhìn bạn của mình bị chết đi. Hơn rằng những người dân của quận họ phải tham gia đấu trường đó. Cũng đến lúc Cinna xuất hiện, tôi đã kiệt sức vì phải an ủi đội chuẩn bị, đặc biệt là bởi vì những giọt nước mắt của họ liên tục nhắc tôi nhớ đến những người thân chắc rằng giờ cũng đang suy sụp ở nhà. Đứng đó trong tấm áo choàng mỏng với làn da và trái tim đầy nhức nhối, tôi biết tôi chẳng thể chịu đựng thêm một ánh nhìn tiếc nuối nào nữa. Thế nên ngay lúc anh ấy bước vào tôi đã thốt lên “Em thề sẽ giết anh ngay bây giờ nếu anh rơi bất kỳ một giọt nước mắt nào.” Cinna chỉ mỉm cười. “Một buổi sáng thật chán nản nhỉ?” (1) “Anh có thể nhượng bộ em đi mà” Tôi đáp lại. Anh ấy quàng tay qua vai tôi rồi dẫn tôi xuống bữa trưa. “Đừng lo. Anh luôn làm chủ được cảm xúc của mình trong công việc. Đó là cách anh không làm ai tổn thương trừ bản thân mình ra.” “Em không thể chịu nổi được nữa.” Tôi báo với anh. “Anh hiểu. Anh sẽ nói chuyện với họ.” Cinna nói. Bữa trưa khiến tôi có chút khá khẩm hơn. Thịt gà lôi với một ít thạch, một dĩa rau trộn ngập trong bơ cùng khoai tây nghiền nhỏ với ngò tây. Bữa tráng miệng là dĩa hoa quả được rưới lên bởi sô-cô-la thơm phức, sau đó Cinna phải gọi thêm một dĩa nữa bởi tôi bắt đầu cầm thìa và ăn bất cứ thứ gì có thể. “Thế chúng ta sẽ mặc gì cho buổi lễ khai mạc đây?” Tôi hỏi sau khi đã vét sạch cái dĩa thứ hai. “Đèn pha hay lửa?” Tôi chắc rằng với cỗ xe ngựa ấy hẳn họ sẽ yêu cầu Peeta và tôi phải diện thứ gì đó liên quan đến than. “Thứ gì đó tương tự thế.” Anh ấy trả lời. Đến lúc phải mặc trang phục cho lễ khai mạc, đội chuẩn bị của tôi lại xuất hiện nhưng Cinna đã đuổi khéo họ bằng cách nói với họ rằng những điều họ làm trong sáng nay quả là tuyệt vời và mọi thứ đã hoàn hảo, họ không có việc gì phải làm nữa. Họ đã rời khỏi để sửa soạn, cảm ơn vì đã để riêng mình tôi với Cinna. Anh ấy làm tóc cho tôi trước tiên, bện theo kiểu mà mẹ tôi đã chỉ cho anh trước đó, sau đó anh trang điểm cho tôi. Năm trước anh ấy cũng đã bện kiểu đó vậy nên có thể khán giả sẽ nhận ra tôi khi tôi tới đó. Nhưng giờ đây gương mặt tôi gần như bị lu mờ bởi những điểm nhấn màu sáng và tối. Lông mày thì cao vút, gò má cao nhô ra, đôi mắt rực lửa và cả đôi môi có màu tím đậm. Bộ trang phục tưởng như đơn giản như lúc trước, màu đen và vừa vặn với người tôi từ chân tới cổ. Anh ấy đặt lên đầu tôi 1 nửa chiếc vương miện như lúc tôi được trao nó khi là người chiến thắng, nhưng nó làm bằng thứ kim loại màu nặng màu đen chứ không phải vàng. Sau đó anh ấy chỉnh lại ánh sáng trong phòng như chập tối rồi ấn một chiếc nút dưới ống tay áo tôi. Tôi nhìn xuống, bị mê hoặc, bộ đồ như thể chầm chậm hòa với mình với cảnh sắc xung quanh, thoạt đầu là một màu vàng lấp lánh sau đó từ từ chuyển sang màu đỏ cam của than. Màu sắc của nó sáng lên rồi hạ xuống, thay nhau chuyển đổi, đó chính xác là cách những hòn than cháy rực. “Sao anh có thể làm được như thế?” Tôi thắc mắc. “Portia và anh đã dành hàng giờ liền để quan sát lửa cháy” Cinna đáp. “Giờ hãy nhìn em đi!” Anh ấy quay tôi lại trước gương để tôi có thể thấy hết được toàn bộ hiệu ứng. Tôi chẳng thấy một cô gái nào, cũng chẳng phải là một người phụ nữ, mà hẳn là cô ấy có thể tạo một ngôi nhà từ ngọn núi lửa đã phá hủy rất nhiều cố gắng dập tắt của Haymitch. Katniss, cô gái đang rực cháy, để lại đằng sau mình hình ảnh bập bùng của ngọn lửa, chiếc váy như đá quý cùng với tà váy mềm mại như ánh nến. . Cô trông đáng sợ như chính ngọn lửa ấy. “Em nghĩ… đây chính là điều em cần để đối mặt với những người ngoài ấy.” “Đúng thế, anh nghĩ thời của môi hồng và những chiếc nơ đã qua rồi.” Cinna đáp. Anh ấy chạm vào cái nút dưới ống tay áo một lần nữa, ánh sáng từ bộ đồ tắt lụi. “Phải giữ cho nó được đầy pin chứ. Khi ngồi trên xe ngựa, không được quay ngang ngửa, không mỉm cười. Anh chỉ cần em ngẩng cao đầu mà thôi, như thể toàn bộ khan giả phía dưới không đáng để em chú ý tới”. “Cuối cùng thì cũng có việc em có thể làm tốt.” Tôi nói. Cinna còn có vài việc khác để làm thế nên tôi quyết định đi xuống tầng trệt của Remake Center, nơi tụ hợp đông đảo các vật tế và xe ngựa của họ trước khi khai mạc buổi lễ. Tôi hy vọng có thể tìm thấy Peeta va Haymitch, nhưng họ vẫn chưa tới. Không giống như năm trước, khi tất cả các vật hiến tế đang tập dượt với cỗ xe của mình, một cảnh tượng rất thường được thấy. Năm nay, vật hiến tế và người huấn luyện của họ đều đứng thành những nhóm nhỏ và nói chuyện với nhau. Đương nhiên là họ biết mọi người có mặt ở đó, còn tôi thì chẳng biết ai cả, tôi không thuộc kiểu người đi đi lại lại rồi tự giới thiệu về bản thân. Thế nên tôi cố quay đầu ngựa lại và cố gắng để không bị chú ý tới. Nhưng chả ích gì cả. Tiếng nhai trệu trạo đập vào tai tôi trước khi tôi kịp biết là anh ta đang ngay cạnh tôi, và khi quay đầu lại, đôi mắt màu xanh biển của Finnick Odair chỉ còn cách tôi có vài inch. Anh ta thảy một viên đường vào miệng và nhai rồi đang tựa vào con ngựa của tôi. “Chào, Katniss.” Anh ta mở lời, như thể tôi với anh ta quen biết nhau hằng năm trời rồi, trong khi thực tế là chúng tôi chưa từng gặp nhau lần nào. “Chào, Finnick.” Tôi đáp, chỉ để xã giao, mặc dù tôi không ưa cái cự li gần như thế này, đặc biệt là anh ta còn ăn mặc rất thiếu vải. “Có muốn một viên đường không?” Anh ta hỏi, rồi đưa tay mình ra, chúng được xếp thành đống. “Chúng là để cho lũ ngựa, nhưng ai mà thèm quan tâm chứ? Họ ăn đường bao năm qua đến giờ, trong khi chúng ta… Chà, nếu thấy thứ gì ngon ngọt nên chộp ngay khi có thể.” Finnick Odair là một trong những huyền thoại sống ở Panem. Kể từ khi anh ta chiến thắng tại đấu trường lần thứ 60 dù mới chỉ 14 tuổi, anh ta vẫn là người chiến trẻ nhất từ trước tới giờ. Đến từ quận 4, cũng là dòng dõi nhà nghề, thế nên tỷ lệ thắng cuộc lại càng cao hơn, nhưng không có bất cứ một huấn luyện viên nào có thể mang lại cho anh ta một vẻ đẹp khác biệt đến thế. Cao lớn, lực lưỡng với nước da vàng, mái tóc bạch kim và cả đôi mắt đáng kinh ngạc ấy nữa. Trong khi những đối thủ khác khó khăn để có được ngũ cốc hay quà trợ giúp thì Finnick không yêu cầu bất cứ một thứ gì, không thức ăn, không thuốc hay vũ khí. Phải mất một tuần các đấu thủ mới nhận ra rằng anh ta là đối thủ đáng gờm, lúc đó đã là quá muộn. Anh ta là một kẻ lợi hại với giáo và dao găm kiếm được từ Cornucopia. Khi anh ta nhận được một chiếc dù bạc mang một cây đinh ba – có lẽ là vật phẩm trợ giúp đắt đỏ nhất từ trước tới giờ – thì mọi thứ đều kết thúc. Ngành công nghiệp của quận 4 là đánh bắt cá. Với cả cuộc đời sống trên những chiếc thuyền. Chiếc đinh ba dĩ nhiên trở thành thứ vũ khí đáng sợ trong tay của anh ta. Anh ta đan một chiếc lưới với những dây leo tìm được trong đấu trường, chúng cản trở đối phương và anh ta có thể dùng cây đinh ba của mình đâm chết họ, chỉ trong vài ngày còn lại chiếc vương miện đã thuộc về anh ta. Người dân Capitol thèm khát anh ta hơn bao giờ hết. Bởi vì anh ta còn trẻ, vậy nên họ không thể chạm tới anh trong mộ hay hai năm tiếp đó. Khi đủ 16 tuổi, anh ta dành thời gian ở đấu trường cho những người cứ dai dẳng bám theo anh ta với tình yêu vô vọng. Nhưng anh ta chẳng bao giờ bên ai thật lâu dài. Có thể anh ta sẽ viếng thăm họ bốn hay năm lần hàng năm. Già hay trẻ, đáng yêu hay khó tính, giàu hay rất giàu, anh ta có thể sẽ giữ họ lại hoặc những món quà xa xỉ của họ nhưng không bao giờ ở lại, một khi đã rời đi, anh ta chẳng bao giờ quay trở lại. Không thể tranh cãi gì thêm rằng anh ta là kẻ ấn tượng và gợi cảm nhất trên hành tinh này. Nhưng tôi có thể thành thật nói rằng anh ta chẳng bao giờ là kẻ có thể lôi cuốn tôi. Có thể anh ta không đủ thú vị hoặc có thể anh ta quá dễ gần hoặc cũng có thể là anh ta quá dễ dàng để đánh mất. “Không , cảm ơn!” Tôi nói với những viên đường. “Tôi sẽ vui lòng hơn nếu thi thoảng có thể mượn bộ cánh của anh.” Anh ta được bọc trong một lớp lưới vàng, điểm duy nhất khiến người ta không thể gọi đó là khỏa thân bởi nó được thắt từ vùng bẹn trở lên, nhưng anh ta đã gần như thế rồi. Tôi chắc rằng nhà tạo mẫu của anh ta nên nghĩ đến khán giả của anh ta hơn là Finnick. “Cô có thể dọa chết tôi trong cái bộ cánh ấy đấy. Chuyện gì xảy ra với cô gái trong chiếc váy xinh đẹp rồi vậy?” Anh ta đưa lưỡi quét lên chiếc môi thật nhẹ. Hẳn nhiên điều này khiến nhiều kẻ phải điên lên. Nhưng vì lý do nào đó mà tất cả những gì tôi có thể nghĩ đến là lão già Cray, sự đói khát của những người nghèo khổ và những phụ nữ trẻ. “Tôi đã quá tuổi so với chúng rồi” Tôi đáp. Finnick luồn 2 ngón tay vào ống tay áo rồi xoay tròn theo mép vải. “Cuộc dẹp loạn này thật tệ. Cô có thể lấy mọi thứ ở Capitol như kẻ cướp vậy. Đá quý, tiền bạc, hay bất cứ thứ gì cô muốn.” “Tôi chẳng thích đá quý, và tôi đã có nhiều tiền hơn tôi cần. Thế anh tiêu hết chúng vào đâu rồi hả Finnick?” Tôi hỏi. “Ồ, tôi chẳng động chạm gì vấn đề tiền bạc trong mấy năm nay rồi.” “Thế tại sao họ lại thích thú trả tiền cho anh vậy?” Tôi lại hỏi. “Đó là bí mật.” Anh ta như thì thầm. ”Thế còn cô thì sao, cô gái lửa? Cô có bí mật nào muốn chia sẻ với tôi không?” Vì lý do ngớ ngẩn nào đó, tôi đỏ ửng mặt. Nhưng tôi vẫn buộc mình phải cứng cỏi “Tôi là một quyển sách mở.” Tôi thì thầm lại với anh ta. “Dường như thiên hạ biết mọi bí mật của tôi trước khi tôi kịp biết đến nó.” Anh ta mỉm cười. “Thật không may, tôi biết đó là sự thật.” Anh ta nháy máy ra phía khác. “Peeta đang tới kìa. Xin lỗi đã làm gián đoạn lễ đính hôn của cô. Tôi biết nó đã phá hủy cô đến mức nào. ” Anh ta ném một viên đường khác vào mồm rồi lại bắt đầu thơ thẩn dạo nơi khác. Peeta đã ngồi cạnh tôi và diện một bộ cánh ý hệt như tôi. “Finnick Odair muốn cái gì vây?” Peeta hỏi. Tôi quay lại, đưa môi tôi tới thật gần lại Peeta rồi nhắm mắt mơ màng, bắt chước hệt Finnick. “Anh ta mời tớ mấy viên đường và muốn biết toàn bộ bí mật về tớ.” Tôi nói với giọng quyến rũ nhất có thể của mình. Peeta cười phá lên. “Không đùa đấy chứ.” “Thật mà.” Tôi đáp. “Tớ sẽ kể cho cậu rõ hơn khi tớ ngừng sởn da gà.” “Cậu có nghĩ rằng hai ta sẽ không đến nông nỗi này nếu chỉ một trong hai người thắng cuộc không?” Cậu ấy hỏi, trong khi liếc mắt ra ngoài nhìn các nhà vô địch khác. “Đó chỉ là một phần của buổi lễ quái gở này à?” “Tất nhiên rồi. Đặc biệt là cậu.” Tôi nói. Cậu ấy mỉm cười và hỏi lại “Sao lại là tớ?” “Bởi cậu mềm lòng trước cái đẹp còn tớ thì không.” Tôi nói ra vẻ tinh tướng. “Rồi họ sẽ lôi kéo cậu theo cách của họ và rồi cậu sẽ mất hẳn lý trí.” “ Có mắt thẫm mỹ không có nghĩa là yếu đuối”.Cậu ấy chỉ ra. “Có thể trừ khi điều đó xảy ra với cậu.” Nhạc bắt đầu vang lên và tôi thấy cánh cửa mở lớn cho cỗ xe đầu tiên, tiếng gào thét cũng vang vọng theo. “Ta đi chứ?” Cậu ấy đưa tay ra để giúp tôi lên xe. Tôi trèo lên và kéo cậu ấy lên theo. “Chờ đã.” Tôi nói và sửa thẳng lại cái vương miện của cậu ấy. “Cậu đã thấy bộ đồ khi nó được bật sáng chưa? Chúng ta chuẩn bị tỏa sáng thêm lần nữa nào.” “Tất nhiên. Portia nói rằng chúng ta sẽ nổi bật hơn tất cả . Và không cần quay ngang ngửa gì hết.” Cậu ấy nói. “Mà họ ở đâu rồi nhỉ?” “Tớ không biết.” Mắt tôi đang còn đang chằm chằm nhìn các cỗ xe. “Có lẽ chúng ta nên đi lên và dẫn đầu” Và chúng tôi đã làm thế,dường như cả 2 đều đang bừng sáng lên vậy, tôi có thể thấy mọi người đang chỉ trỏ và bàn tán, và tôi biết điều đó, một lần nữa, họ sẽ lại bàn tán về chúng tôi trong buổi lễ khai mạc. Cỗ xe đã gần tới cánh cổng. Tôi ngẩng cao đầu và nhìn quanh một vòng nhưng chẳng thấy Portia hay Cinna đâu cả, những người bạn đã bên cạnh chúng tôi từ đấu trường hồi năm trước, họ ở đâu đang được chứ .“ Chúng ta có được khuyên nên nắm tay nhau không nhỉ?” Tôi hỏi. “Tớ đoán điều đó tùy thuộc vào chúng ta.” Peeta đáp. Tôi nhìn vào đôi mắt xanh đó không điều gì có thể che khuất cái cảm giác chết chóc và đang nhớ đó, chỉ mới năm trước mà thôi, tôi còn phải chuẩn bị tâm lý phải giết cậu ấy. Chắc rằng cậu ấy cũng đã từng cố gắng để làm điều đó với tôi. Nhưng giờ đây mọi thứ đã đảo ngược, tôi đã quyết định phải cứu sống cậu ấy, dù biết cái giá chính là cuộc sống của tôi, nhưng một phần nào đó trong tôi không được mạnh mẽ như thế vậy nên tôi lấy làm vui khi đó là Peeta chứ không phải là Haymitch ở bên cạnh tôi. Không chần chừ gì nữa, tay chúng tôi tự tìm thấy nhau. Tất nhiên hai chúng tôi bước vào đó như là một. Tiếng ồn của đám đông bỗng dưng ồ ạt dội vào khiến tôi cảm thấy như đang quay tròn trong bóng đêm vậy, nhưng không ai trong chúng tôi phản ứng lại điều đó. Tôi chỉ đơn giản kéo tầm mắt ra xa và giả vờ như chẳng có khán giả, không có sự kích động nào. Tôi không bắt kịp vài hình ảnh thoáng qua của chúng tôi trên màn ảnh rộng dọc theo tuyến đường .Hai chúng tôi không chỉ đẹp, chúng tôi trong bóng tối và đầy sức mạnh. Không, còn phải hơn cả thể nữa. Chúng tôi bắt đầu đi qua những người yêu quý từ quận 12, những người đã phải chịu đựng rất nhiều và cũng tận hưởng một ít phần thưởng từ chiến thắng của chúng tôi, không tìm kiếm sự ủng hộ từ họ, chỉ đáp lại họ bằng những nụ cười hay bắt những chiếc hôn gió của họ. Chúng tôi là không hề khoan nhượng. Và tôi yêu điều đó. Cuối cùng cũng có điều gì đó đúng với bản chất của tôi. Khi lượn vòng quanh tuyến đường vòng tròn của thành phố, tôi đã thấy nhà thiết kế nào đó đã cố tình ăn cắp ý tưởng thắp sáng của Cinna và Portia cho những vật tế của họ. Cả một dàn ánh sáng được thắp trên trang phục của cặp đôi từ quận 3, nơi mà người ta sản xuất đồ điện tử, dù sao cũng có chút ý nghĩa. Nhưng còn những người chăn nuôi gia súc đến từ quận 10 kia, họ làm gì với cái thắt lưng lửa kia? Tự hun cháy chính mình chăng? Thật là thảm hại. Peeta và tôi, tay trong tay, trông thật đầy mê hoặc với bộ trang phục than luôn thay đổi trên người điều đó khiến các cặp hiến tế khác phải nhìn chằm chằm vào chúng tôi. Có vẻ cặp đôi từ quận 6 bị thu hút nhất, những kẻ được biết là nghiện morphin. Cả hai đứa chúng đều gầy gò và da vàng ủng. Chúng chẳng thể rời nổi mắt khỏi chúng tôi dù Tổng thống Snow đã bắt đầu lên tiếng chào mừng chúng tôi tới Cuộc Dẹp Loạn . Bài ca chào mừng được ngân lên, và chúng tôi đang tiến tới vòng cuối cùng của tuyến đường, hay là tôi đã nhầm? Hay bởi tôi bị ám ảnh bởi Tổng thống quá chăng? Peeta và tôi đợi cánh cổng của trung tâm Huấn luyện đóng lại để có thể thư giãn một chút. Cinna và Portia ở đó và rất hãnh diện về màn diễu hành của chúng tôi và cả Haymitch cũng có mặt như thường lệ, chỉ có điều ông ấy không đi cùng cỗ xe của chúng tôi mà với quận 11. Tôi đã thấy ông gật đầu chào về phía chúng tôi và họ cũng đều đáp lại tương tự chào chúng tôi. Tôi nhận ra Chaff liền bởi tôi đã dành hàng năm trời theo dõi ông rất nhiều lần cùng với Haymitch qua ti vi . Ông ta có 1 làn da tối màu, cao khoảng 6 feet và một tay bị cụt do đã mất khi tham gia đấu trường 30 năm về trước. Chắc rằng họ cũng đã đề nghị ông ta một cánh tay nhân tạo thay thế nó, như việc họ đã làm khi cắt phần dưới chân Peeta, nhưng có lẽ ông ta đã từ chối. Seeder, người phụ nữ gần giống với những người từ Seam đến, với làn da màu ô liu và mái tóc đen thẳng nhuộm xen kẻ sọc bạc. Duy chỉ có đôi mắt vàng nâu cho biết bà ta từ quận khác tới. Bà ta trạc khoảng 60 tuổi, nhưng trông còn rất khỏe mạnh, chẳng có dấu hiệu gì chứng tỏ bà ta đã uống rượu hay dùng morphin hay bất cứ loại thuốc nào khác trong những năm qua cả. Trước khi chũng tôi kịp nói điều gì, bà đã ôm tôi.Tôi có cảm giác gì đó thoảng qua như Rue hay là Thresh vậy. Trước khi kịp cản chính mình tôi đã thì thầm thốt ra “Những gia đình đó?” “Họ còn sống.” Bà ta cũng thì thầm đáp lại trước khi tôi rời khỏi. Chaff quẳng cánh tay còn lành lên vai tôi và hôn tôi một phát chình ình giữ miệng. Tôi nhảy lùi lại và giật mình trong khi ông ta và Haymitch cười ha hả. Đó là toàn bộ việc diễn ra trước khi những tên lính kiên quyết dẫn chúng tôi thẳng tới thang máy. Tôi có cảm giác rất rõ ràng rằng họ chẳng lấy làm vui lắm khi tồn tại tình bạn thắm thiết giữa những kẻ chiến thắng. Khi bước tới thang máy tay tôi vẫn nắm chặt tay Peeta, có ai đó đang vội vã đi về phía tôi. Cô ta kéo cái mũ đầy lông lá ra khỏi đầu và ném ra phía sau mà chẳng quan tâm là nó bay tới đâu. Johanna Mason. Tới từ quận 7, Sản xuất gỗ và giấy từ cây. Cô ta thắng nhờ đóng vai là kẻ yếu ớt và cần sự giúp đỡ và không thể chối từ một cách hoàn hảo. Sau đó cô ta đã chứng tỏ mình là kẻ giết người máu lạnh để cỡ nào. Cô ta vuốt mái tóc dựng đứng của mình lên rồi bắt đầu đảo mắt một vòng. “Trang phục của tôi quá tệ hại đúng không. Kẻ tạo mẫu ngu ngốc nhất Capitol này. Những hiến tế của tụi tôi đã làm cái cây suốt 40 năm dưới tay của mụ ta rồi. Ước gì tôi có được Cinna. Cô trông thật tuyệt.” Cô ta đang nói. Về điều mà tôi có vẻ luôn tệ nhất. Quần áo, đầu tóc, trang điểm. Thế nhưng tôi nói dối. “Vâng, anh ấy đã giúp tôi thiết kế dòng trang phục cho riêng mình. Cô nên thấy anh ấy có thể làm gì với vải nhung.” Nhung ư. Chỉ có vải mà thôi.Tôi không thể nghĩ gì hơn với cái đầu này. “Tôi đã thấy rồi. Trong cuộc diễu hành đúng không. Đó là cái váy cô đã mặc ở Quận 2 à? Chiếc màu xanh với kim cương? Thật tuyệt vời, tôi đã ước sao có thể chạm nó qua màn hình và từng muốn xé toạc nó ra khỏi người cô đấy.” Johanna nói. Tôi cá là cô ta đã làm thế nếu có thể. Dù chỉ là 1 ít da thịt của tôi. Trong khi chờ thang máy, Johanna kéo séc để thoát ra phần còn lại của cái cây trên người cô ta và vứt nó xuống sàn sau đó đá nó đi với thái độ khó chịu. Chỉ còn trừ đôi dép bông màu xanh còn nữa không còn chút gì về bộ đồ đó còn ở trên người cô ta. “Tốt hơn rồi!” Khi hai chúng tôi một mình, và cậu ấy cười phá lên. “Gì thế?” Tôi hỏi và quay lại phía cậu ấy khi chúng tôi bước ra tầng lầu. “Là cậu đấy, Katniss. Cậu không thấy à?” “Mình làm sao chứ?” Tôi nói. “Sao bọn họ đều cư xử như thế chứ, Finnick thì mời cậu đường, Chaff còn hôn cậu, Johanna thì hạ mình xuống.” Cậu ấy cố ra vẻ bình thường nhưng không thành công. “Họ chơi với cậu bởi vì cậu … Cậu biết đấy.” “Không,tớ không biết gì cả.” Tôi nói. Mà thật sự tôi cũng chẳng hiểu cậu ấy đang nói về điều gì nữa. “Kiểu như cậu đã không ngó tới mình khi đang chẳng có chút đồ gì trên người lúc còn ở đấu trường, dù rằng mình đã sắp chết đến nơi rồi. Cậu quá … thuần khiết.” Cuối cùng cậu ấy cũng nói. “Tớ không thế.” Tôi đáp. “Trên thực tế năm trước thì tớ đã cắt quần áo của cậu ra dù rằng luôn có máy ghi hình bám sát chứ còn gì nữa.” “Ừ, nhưng ý mình là với Capitol này, cậu quả là thuần khiết.” Cậu ấy nói rõ hơn để cố làm tôi hạ hỏa. “Với mình, cậu hoàn hảo. Họ chỉ đang trêu chọc cậu thôi.” “Không, bọn họ đang cười tớ và cậu cũng vậy.” Tôi nói. “Không.” Cậu ấy lắc lắc đầu nhưng vẫn đang còn cố nén cười. Tôi đang thử nghĩ lại một cách nghiêm túc câu hỏi về chuyện ai nên là người sống sót ra khỏi đấu trường khi cánh cửa thang máy khác lại mở ra. Haymitch và Effie nhập cuộc cùng chúng tôi, tìm kiếm thứ gì đó khiến họ hài lòng. Bỗng gương mặt Haymitch trở nên khó chịu. “Cháu đã làm gì chứ?” Tôi gần như thốt ra nhưng tôi thấy ông ấy luôn nhìn chằm chằm phía sau tôi ở lối đi tới phòng ăn. Effie nháy mắt về cùng một phía và nói mát mẻ “Có vẻ năm nay họ đã sắp đặt những gì phù hợp với cháu.” Tôi quay quanh để tìm cái đầu đỏ của cô gái Avox, người đã phục vụ tôi năm trước cho tới khi đấu trường bắt đầu. Thật tốt khi có một người bạn ở đây. Tôi chú ý thấy một người thanh niên, một Avox khác, cũng có mái tóc đỏ. Chắc hẳn đây là điều mà Effie nói là sắp đặt phù hợp. Ngay sau đó tôi có 1 cảm giác ớn lạnh. Bởi tôi cũng biết cậu ta. Không phải từ Capitol mà từ cái năm có những cuộc trò chuyện thoải mái ở Hob, đùa giỡn về món súp Greasy Sae, cái ngày cuối cùng thấy anh ta nằm bất tỉnh trên quảng trường trong khi máu chảy ra lênh láng vì Gale. Avox mới của tôi là Darius. Chú thích: 1: đoạn đối thoại đó có hai tầng nghĩa “Thật là một buổi sáng ẩm ướt nhỉ?” Cinna nói. “Anh có thể vắt khô em được luôn” tôi đáp. Chap 16 Haymitch nắm lấy cổ tay tôi như thể ông đã đoán được tôi sẽ làm gì tiếp theo. Nhưng tôi hoàn toàn cứng họng khi chứng kiến sự tra tấn của Capitol dành cho Darius. Có một lần Haymitch nói với tôi rằng họ đã làm gì đó với lưỡi của các Avox để họ không bao giờ có thể nói được nữa. Tôi cứ nghe tiếng Darius văng vẳng trong đầu mình, cái giọng đầy vui vẻ và hăng hái đó, vang lên từ bên kia chợ Hob để trêu ghẹo tôi. Không như kiểu tôi bị những người chiến thắng ở đây châm chọc, bởi chúng tôi thực sự rất thích nhau. Giá mà Gale có thể thấy anh ấy … Tôi biết bất kì cử chỉ nào của mình dành cho Darius, bất cứ một hành động công khai nào, đều sẽ làm anh bị trừng phạt dã man hơn. Chúng tôi chỉ có thể nhìn chằm chằm vào mắt nhau, đó là điều duy nhất chúng tôi có thể làm được. Darius, giờ anh đã thành một nô lệ câm, và phải đối mặt với cái chết. Chúng tôi sẽ nói gì đây? Rằng chúng tôi rất xin lỗi ư? Rằng chúng tôi hiểu nỗi đau của họ? Rằng chúng tôi rất vui vì quen biết nhau sao? Không, Darius không nên vui vì anh ấy biết tôi. Nếu tôi có mặt ở đó và ngăn Thread lại, anh có lẽ đã không phải bước lên để cứu Gale. Đã không trở thành một Avox. Cụ thể hơn là không phải trở thành Avox của riêng tôi, bởi chắn chắn tổng thống Snow sẽ sắp xếp cho anh ấy ở đây vì “lợi ích” của tôi. Tôi dằng cổ tay mình khỏi tay Haymitch rồi cắm đầu chạy tới phòng ngủ, khoá trái cửa lại. Tôi ngồi hẳn sang một bên giường, chống khuỷu tay lên đầu gối, nắm tay lại thành quả đấm và đặt lên trán, rồi cứ ngồi nhìn bộ đồ của mình phát sáng trong bóng tối, tưởng tượng như tôi đang trong căn nhà cũ ở quận 12, ngồi co ro trước đống lửa. Nhưng rồi đống lửa đó tan biến dần vào bóng tối như thể cái chết đang từ từ hút đi sự sống của nó vậy. Cuối cùng Effie cũng gọi tôi đi ăn tối, tôi đứng dậy và cởi bộ đồ ra, gấp lại gọn gàng, đặt nó lên bàn cùng cái vương miện, rồi vào phòng tắm để rửa hết những vệt đen trên mặt đi. Tôi mặc một chiếc sơ mi cùng quần đơn giản rồi xuống hội trường, đi đến phòng ăn. Tôi không biết nhiều về bữa tối ngoại trừ Darius và cô gái Avox tóc đỏ sẽ phục vụ chúng tôi. Effie, Haymitch, Cinna, Portia, và Peeta đều đã ở đó, tôi chắc họ đang nói về buổi lễ khai mạc. Khoảng thời gian duy nhất mà tôi cảm thấy mình đang ở thì hiện tại là lúc tôi cố ý làm rơi đĩa đậu xuống sàn, và trước khi bị ai đó ngăn lại, tôi đã tự mình cúi xuống để dọn sạch chúng. Darius ở ngay cạnh tôi khi tôi đem cái đĩa sang, cả hai đã ở gần nhau một lúc, bị che khuất đi tầm nhìn, chúng tôi đồng thời cầm cái xẻng múc đậu lên. Cái khoảnh khắc tay chúng tôi vô tình gặp nhau, tôi có thể cảm thấy làn da anh ấy, thô ráp do thứ nước sốt bơ từ món ăn. Trong cái sự chật hẹp xen giữa những ngón tay đó, một cái siết nhẹ đầy tuyệt vọng là tất cả những gì mà chúng tôi đã không bao giờ nói ra được. Effie bỗng hét lên từ đằng sau tôi “Đó không phải việc của cháu, Katniss!” và anh ấy lập tức buông ra. Khi chúng tôi ngồi xem băng ghi hình buổi lễ khai mạc, tôi ngồi giữa Cinna và Haymitch vì tôi không muốn ngồi cạnh Peeta. Điều khủng khiếp xảy ra với Darius là do tôi và Gale, có thể cả Haymitch, chứ không do cậu ấy. Cậu có thể đã biết Darius bị gì khi anh ấy cúi đầu chào, nhưng Peeta không cùng đường với chúng tôi. Hơn nữa, tôi vẫn còn giận cậu ấy vì đã cười nhạo tôi cùng với những người chiến thắng khác, mà điều cuối cùng tôi muốn ở cậu ấy lại là sự thông cảm và niềm an ủi. Tôi vẫn chưa hề thay đổi suy nghĩ của mình về việc cứu cậu ấy trong đấu trường, nhưng tôi không hề muốn nợ cậu ấy hơn như vậy. Trong lúc xem lại cuộc diễu hành ở Vòng tròn trung tâm, tôi nghĩ làm thế nào thì cũng là quá tệ khi cho chúng tôi mặc những bộ phục trang đó rồi đem phô trương từng người trên phố bằng xe ngựa hằng năm. Trẻ con trong những bộ đồ đó thì nhìn ngớ ngẩn, nhưng đối với những người già, hoá ra, nó trông thật ti tiện. Một vài người trẻ hơn, như Johanna và Finnick, hay những người có thân hình tuyệt vời, như Seeder và Brutus, vẫn cố gắng để giữ gìn lại một chút phẩm giá. Nhưng đa số lại phải mặc trang phục giống ly đựng đồ uống hay những viên thuốc đầy bệnh hoạn, họ trông thật kì quái trong những thứ phục trang đó, thật sự tôi thà miêu tả con bò, cái cây, hay thậm chí là ổ bánh mì còn hơn miêu tả họ. Năm ngoái chúng tôi nói nhiều về các thí sinh, nhưng tối nay thì thỉnh thoảng mới có vài lời bình luận. Điều kì diệu nho nhỏ là việc đám đông phát cuồng khi Peeta và tôi xuất hiện, nhìn chúng tôi trẻ đẹp và hùng dũng trong bộ trang phục rực rỡ. Chúng tôi là hình ảnh “cần nên noi theo” cho những Vật tế khác. Khi đoạn băng kết thúc, tôi đứng dậy cảm ơn Cinna và Portia về những gì họ đã làm cho chúng tôi rồi đi thẳng tới phòng ngủ. Effie nhắc tôi phải tới bữa sáng thật sớm để bàn về chiến lược luyện tập, nhưng ngay cả đó là giọng của cô, tôi cũng chỉ nghe ra tiếng ồ ồ. Tội nghiệp cho Effie. Bà cuối cùng cũng đã có một năm đầy toại nguyện trong Trò chơi này với tôi và Peeta, nhưng bây giờ thì mọi thứ hoàn toàn đổ vỡ dù cho đó là bà ấy đi nữa thì cũng không thể chuyển mọi chuyện theo hướng tích cực hơn được. Trong thời gian ở Capitol, tôi đoán việc này sẽ được tính như một bi kịch thực sự. Sau khi tôi đi ngủ được một lúc, có tiếng gõ cửa, nhưng tôi lờ nó đi. Tôi không muốn ở cùng Peeta tối nay. Nhất là khi có Darius quanh đây. Nó tương đương với việc Gale đang ở đây vậy. Làm sao tôi có thể để cậu ấy đi với Darius trong khi anh ấy vẫn còn những ám ảnh về cái hành lang chết tiệt ấy được? Hình dạng cái lưỡi nổi bần bật trong cơn ác mộng của tôi. Đầu tiên tôi thấy nó bị đông cứng và bất lực trong khi đôi bàn tay đeo găng mang từng khúc thịt đầy máu trong miệng Darius ra. Sau đó, tôi đang ở một buổi tiệc, tất cả đầu đeo mặt nạ, ai đó đang cầm một cây roi, với cái lưỡi thè ra ướt nhẹp, tôi cho là Finnick, bước dài tới chỗ tôi, nhưng khi anh ta túm được tôi và kéo mặt nạ xuống, lại là tổng thống Snow, ghê tởm hơn là đôi môi sưng húp của ông ta đang nhỏ từng giọt nước bọt đẫm máu xuống nền nhà. Cuối cùng tôi quay lại đấu trường, lưỡi tôi khô rát và đầy cát, trong khi tôi cố gắng lấy một ngụm nước từ con suối thì nó lại rút đi xa hơn mỗi lần tôi sắp với được nó. Tôi bật dậy, tức tốc chạy thẳng vào phòng tắm và uống liền một hơi trực tiếp từ vòi nước cho đến khi không thể uống hơn được nữa mới thôi. Tôi cởi bộ đồ sũng nước ra rồi khoả thân trèo lên giường, cố tìm cách chìm vào giấc ngủ. Tôi cố gắng tới bữa sáng trễ nhất có thể vì thật sự tôi không muốn thảo luận tí gì về “chiến lược luyện tập” cả. Thảo luận về cái gì chứ? Mỗi người chiến thắng đều đã biết những người khác có thể làm được gì. Hoặc đã từng có thể làm được gì? Vì thế tôi và Peeta chỉ cần tiếp tục diễn cho thiên hạ thấy rằng chúng tôi vẫn đang yêu nhau thắm thiết là được, chỉ vậy thôi. Tôi cố gắng không nhắc về chuyện này khi có Darius đứng yên lặng kế bên. Tôi ngâm mình trong bồn thật lâu, mặc đồ thật chậm – bộ đồ trang bị cho buổi luyện tập mà Cinna đã để lại cho tôi – gọi đồ ăn từ thực đơn bằng cách nói vào một cái ống loa nhỏ để trong phòng. Chỉ trong một phút, xúc xích, trứng, khoai tây, bánh mì, nước ép và sô cô la nóng liền xuất hiện. Tôi cố ăn cho thật no, không quên kéo dài bữa ăn từng phút cho tới 10 giờ, đó là lúc chúng tôi buộc phải tới Trung tâm huấn luyện. Khoảng 9 giờ 30 phút, Haymitch đập thình thịch vào cửa phòng như thể ông muốn ăn tươi nuốt sống tôi vậy, chắc chắn ông tới để lôi xác tôi tới phòng ăn ngay lập tức. Dù thế, tôi vẫn quanh co đòi đánh răng trước khi xuống hội trường, cốt là để giết thêm 5 phút nữa. Phòng ăn trống trơn, chỉ có Peeta và Haymitch. Tôi nhìn Haymitch, mặt của ông đỏ lựng lên vì rượu và cả cơn giận do tôi gây ra. Trên cổ tay ông có đeo một chiếc vòng vàng đầy hoa tiết hình ngọn lửa – đây chắc hẳn là kết quả từ sự nhượng bộ với kế hoạch “tạo dấu hiệu riêng” của Effie – và vấn đề là ông rất rất không hài lòng. Nó thật sự là một cái vòng rất đẹp, nhưng khi chuyển động, nó lại giống cái gì đó dùng để nhốt hơn, một cái còng tay, chứ không như một món đồ trang sức. “Cháu tới trễ,” ông càu nhàu. “Cháu xin lỗi, cháu đã cố ngủ sau khi bị những cơn ác mộng về việc cắt lưỡi quấy phá vào nửa đêm.” Tôi có ý gằn giọng, nhưng giọng tôi bị cắt lại ở cuối câu. Haymitch ban đầu nhìn tôi cau có, nhưng sau đó lại đột nhiên trở nên dịu dàng. “Được rồi, đừng bận tâm nữa. Hôm nay, trong buổi luyện tập, cháu có hai việc phải làm “ Một, tiếp tục thể hiện tình yêu.” “Đương nhiên rồi,” tôi nói. “Và hai, kết bạn,” Haymitch tiếp tục. “Không,” tôi phản đối. “Cháu không tin tưởng bất kì ai trong bọn họ, cháu không thể hiểu được họ muốn gì, và cháu chỉ muốn làm chuyện này trong giới hạn hai người bọn cháu mà thôi.” “Đó là những gì tớ đã nói lúc đầu, nhưng -” Peeta bắt đầu. “Nhưng như vậy sẽ không đủ.” Haymitch khẳng định. “Cháu cần nhiều đồng minh hơn trong khoảng thời gian này.” “Tại sao?” tôi hỏi. “Bởi vì cháu đang có một bất lợi rất khác biệt. Các đấu thủ của cháu đã biết nhau trong nhiều năm nay. Vậy cháu thử nghĩ xem họ sẽ chọn ai làm mục tiêu đầu tiên?”ông ấy nói. “Bọn cháu. Và rồi bọn cháu sẽ không cần phải làm gì để phá hoại tình bạn của họ cả,” tôi nói. “Vậy thì việc gì phải bận tâm chứ?” “Bởi vì cháu có thể chiến đấu. Cháu nổi tiếng với vô số người. Điều đó làm họ muốn trở thành đồng minh của cháu. Nhưng chỉ khi cháu có ý để người khác biết cháu muốn hợp tác với họ,” Haymitch nói. “Ý ông là muốn bọn cháu tham gia vào đội của bọn Nhà nghề năm nay?” tôi hỏi, không thể không tỏ ra là mình không muốn. Theo truyền thống thì những vật tế từ các quận 1, 2 và 4 liên minh thành một đội đầy thế lực, có thể thêm vài đấu thủ đặc biệt nữa, và cùng đi săn những kẻ khác yếu hơn. “Đó là chiến lược của chúng ta phải không? Được huấn luyện như lũ Nhà nghề?” Haymitch bỗng hỏi ngược. “Và ai là người sẽ được bổ nhiệm vào liên quân Nhà nghề khi mà thoả thuận thường được tiến hành ngay trước khi trò chơi bắt đầu? Peeta gần như nằm trong số họ năm ngoái.” Tôi rùng mình nhớ lại cảm giác ghê tởm khi phát hiện Peeta cùng một giuộc với lũ Nhà nghề suốt Trò chơi năm ngoái. “Vậy, chúng cháu sẽ cố gắng để được vào đội của Finnick và Brutus – có phải đó là những gì ông muốn nói?” “Không cần thiết phải là họ. Ai cũng là người chiến thắng. Tự tạo cho cháu một đội nếu cháu muốn. Chọn bất kì ai cháu thích. Theo ta thì nên là Chaff và Seeder. Dù thế cũng không nên bỏ qua Finnick,” Haymitch nói. “Tìm ai đó vào đội mà họ có thể hữu dụng cho cháu khi ở Đấu trường. Hãy nhớ là cháu không còn đứng chung vòng tròn với lũ trẻ run lẩy bẩy nữa. Tất cả những người này đều là những sát thủ đầy kinh nghiệm, không cần biết hình dạng họ trông ra sao.” Có thể ông ấy đúng. Chỉ những ai tôi có thể tin tưởng thôi sao? Seeder cũng được. Nhưng tôi thật sự không muốn thoả hiệp với cô ấy, chỉ để có thể giết cô ấy sau này. Không. Tuy nhiên, tôi đã thoả hiệp với Rue trong tình huống tương tự như thế. Tôi nói với Haymitch là tôi sẽ cố, cho dù tôi nghĩ tôi sẽ làm điều này một cách tệ hại. Effie tới sớm hơn một chút để đưa chúng tôi xuống vì năm ngoái, mặc dù chúng tôi tới đúng giờ, chúng tôi vẫn là hai Vật tế cuối cùng xuất hiện. Nhưng Haymitch nói với cô ấy ông không muốn cô ấy đưa chúng tôi xuống phòng tập. Không một người chiến thắng nào sẽ xuất hiện cùng với cô bảo mẫu cả, và vì là những người trẻ nhất, điều này lại càng quan trong hơn vì chúng tôi cần thể hiện mình không phụ thuộc vào bất kì ai. Vậy nên cô ấy cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình bằng cách đưa chúng tôi tới thang máy, xoa đầu chúng tôi, rồi bấm nút xuống tầng hầm cho chúng tôi. Nó thật sự chỉ tốn chút ít thời gian nên không hề có khoảng trống nào để đối thoại cả. Nhưng khi Peeta nắm tay tôi, tôi đã không đẩy ra. Tôi có thể đã lờ cậu ấy tối qua vì lý do riêng tư, nhưng trong buổi huấn luyện, chúng tôi phải xuất hiện như một đội không thể tách rời. Effie không cần phải lo lắng về việc chúng tôi sẽ tới cuối cùng. Chỉ có Brutus và người phụ nữ từ quận 2, Enobaria, là đang ở đó. Enobaria khoảng 30 và tất cả những gì tôi nhớ về cô ta là việc chỉ với hai bàn tay không, cô ta đã giết một Vật tế bằng cách xé toạc cuống họng anh ta bằng chính hàm răng của mình. Cô trở nên rất nổi tiếng vì hành động ấy, sau khi chiến thắng, cô được tu chỉnh lại hàm răng một cách rất “thẩm mỹ” nên mỗi cái răng của cô đều được dát vàng và tạo hình nhọn hoắt như răng nanh. Vì thế cô ta không hề thiếu những người ngưỡng mộ mình ở Capitol. 10 giờ, chỉ có khoảng một nửa số Vật tế có mặt. Atala, huấn luyện viên, bắt đầu bài diễn văn của mình đúng giờ, không hề do dự vì sự thiếu hụt nhân lực này. Chắc cô ấy đã đoán trước. Tôi đại loại được thư thả hơn một chút, vì không có cả tá người cho tôi giả vờ kết bạn. Atala lược sơ qua danh sách những việc cần làm, bao gồm cả kĩ năng chiến đấu và sinh tồn, rồi để chúng tôi tự luyện tập. Tôi nói với Peeta rằng tôi nghĩ sẽ tốt hơn nếu chúng tôi tách ra, như thế sẽ có nhiều diện tích để làm việc hơn. Khi cậu ấy tới nói chuyện với Brutus và Chaff, tôi lại đối mặt với bài học thắt nút, hiếm có ai lại muốn học nó như tôi. Tôi thích người huấn luyện và anh ấy cũng nhớ tôi, có thể là do tôi đã dành thời gian với anh ta vào năm ngoái. Anh rất vui khi tôi cho anh ấy xem cách tôi đặt bẫy có thể làm kẻ thù bị treo tòn ten trên cây. Rõ ràng là ấy đã chú ý tới cái bẫy của tôi tại đấu trường năm ngoái và bây giờ anh ấy nhìn tôi như thể tôi là một học sinh tiên tiến, nên tôi nói anh ấy cho tôi xem tất cả những loại nút hữu dụng và một vài loại nút mà tôi có thể không bao giờ dùng tới. Tôi cố gắng dành hết cả buổi sáng với anh ta, nhưng khoảng hơn một tiếng rưỡi, ai đó vòng tay quanh tôi từ đằng sau, những ngón tay của người đó dễ dàng hoàn tất cái nút phức tạp trước mặt mà tôi đã phải đổ mồ hôi vì nó. Tất nhiên đó là Finnick, người gần như đã dành cả tuổi thơ của mình không làm gì, ngoại trừ việc sử dụng các cây đinh ba và thực hiện vô số thao tác với dây để tạo ra những loại nút đặc biệt cho các cái lưới của anh ấy. Tôi đứng nhìn chừng một phút trong khi anh ấy nhặt sợi dây lên, làm một cái thòng lọng, rồi giả vờ như anh ấy bị treo cổ cho tôi giải trí. Tôi nhìn dọc theo căn phòng rồi tới một trạm bỏ không khác, nơi những Vật tế học cách nhóm lửa. Tôi biết làm thế nào để nhóm được ngọn lửa lớn nhưng tôi vẫn còn quá phụ thuộc vào diêm để bắt đầu công việc đó. Vậy nên người hướng dẫn chỉ tôi cách tạo lửa với đá, thép, và một số mảnh vải bị cháy đen. Nó thật sự khó hơn vẻ ngoài rất nhiều, dù là tôi đã cố gắng học chăm chú, nhưng tôi vẫn mất khoảng một tiếng mới nhóm được một ngọn lửa nhỏ. Tôi nhìn lên với một nụ cười chiến thắng hiếm có. Hai Vật tế từ quận 3 ở ngay cạnh tôi, họ cũng đang ráng sức nhóm một ngọn lửa hợp lệ bằng những que diêm. Tôi nghĩ tới việc rời đi nhưng tôi thật sự muốn thử dùng đá lửa lần nữa, và nếu tôi phải báo cáo lại với Haymitch về việc kết bạn, hai người họ cũng là một lựa chọn tạm được. Cả hai rất nhỏ với làn da xanh mét và mái tóc đen. Người phụ nữ, Wiress, tầm tuổi mẹ tôi, nói chuyện bằng giọng giản dị không kém phần khôn ngoan. Nhưng ngay lập tức tôi nhận ra bà ấy có một thói quen lạ là hay hạ giọng vào khoảng giữa câu, như thể bà ấy quên mất người đối diện đang ở đó. Beetee, người đàn ông, lớn tuổi hơn, có vẻ đang rất lo lắng. Ông ấy đeo kính nhưng lại dành nhiều thời gian để nhìn xuống phía dưới chúng. Họ hơi lạ, nhưng tôi khá chắc cả hai bọn họ sẽ không cố làm tôi thấy không thoải mái bằng cách khoả thân đâu. Hơn nữa, họ tới từ quận 3. Họ có thể xác nhận nghi ngờ của tôi về cuộc nổi dậy ở đó. Tôi lướt sơ qua Trung tâm Huấn luyện. Peeta đang là trung điểm trong vòng tròn thô tục của những người phi dao. Những kẻ bệnh hoạn đến từ quận 6 đang trong trạm nguỵ trang, vẽ mặt cho nhau bằng những vòng xoáy màu hồng sáng. Vật tế nam từ quận 5 thì đang nôn rượu vang lên sàn đấu kiếm. Finnick và một phụ nữ già từ quận của anh ấy đang chiếm dụng trạm bắn cung. Johanna Mason lại được dịp khoả thân để rưới dầu lên người cô ấy lần nữa cho bài học đấu vật. Tôi quyết định ở lại. Wiress và Beetee chính thức thành một hội. Họ có vẻ thân thiện ở mức độ vừa phải nhưng không tọc mạch lẫn nhau. Chúng tôi nói về tài năng của mỗi người, họ nói họ đều biết sáng chế, điều này làm giả thiết yêu thích thời trang của tôi dường như bị yếu đi. Wiress cho tôi xem một loại khâu thiết bị mà bà đang làm. “Nó cảm nhận được cấu tạo của vải và tự lựa chọn độ bền,” bà nói, rồi hít một hơi trong ống sậy trước khi đi. “Độ bền của chỉ,” Beetee giải thích thêm. “Một cách tự động. Nó loại đi những lỗi sai của con người.” Sau đó ông nói về sáng chế thành công mới nhất của ông ấy: một loại chip âm nhạc rất nhỏ, tới nỗi có thể giấu được trong một tia sáng nhưng lại lưu trữ được rất rất nhiều bài hát. Tôi nhớ Octovia đã từng nói về nó suốt buổi chụp hình đám cưới, và tôi thấy đây có vẻ là một cơ hội khả thi để nói bóng gió về cuộc nổi dậy. “À, vâng. Đội chuẩn bị của cháu đã rất buồn mấy tháng qua, cháu nghĩ, là do họ có được nó,” tôi nói ra vẻ tình cờ. “Cháu đoán là rất nhiều đơn đặt hàng ở Quận 3 phải bị bỏ lại.” Beetee rà soát tôi dưới cặp kính của ông ta. “Đúng vậy. Cháu có phải làm tương tự như vậy về việc sản xuất than năm nay không?” ông hỏi. “Dạ không. Ừm, Chúng cháu mất vài tuần khi họ đưa tới một người cầm đầu Bảo vệ hoà bình mới và đội của hắn, nhưng không giúp được gì cả,” tôi nói. “Cho sản xuất, ý cháu là vậy. Hai tuần ngồi xung quanh nhà mà không làm gì cả đồng nghĩa với hai tuần phải chịu đói với hầu hết mọi người.” Tôi nghĩ họ hiểu tôi đang cố nói điều gì. Đó là chúng tôi không có cuộc nổi dậy nào cả. “Ồ, Thật hổ thẹn,” Wiress nói bằng một thứ giọng khinh khi đầy thất vọng. “Ta nghĩ quận của cháu phải rất…” bà lê giọng, bị phân tâm bởi thứ gì đó trong đầu bà. “Thật thú vị,” Beetee thêm vào. “Cả hai chúng ta đều nghĩ vậy.” Tôi thấy thật tệ, biết rằng quận của họ phải cam chịu nhiều hơn quận chúng tôi. Tôi thấy tôi phải bảo vệ những người của mình. “Không có nhiều người trong chúng ta ở quận 12,” tôi nói. “Không phải chuyện sẽ ra sao nếu ở cạnh lực lượng Bảo vệ hòa bình bây giờ. Nhưng cháu nghĩ, chúng ta đều rất thú vị.” Khi chúng tôi di chuyển qua các trạm trú ẩn, Wiress dừng lại và nhìn chăm chăm vào những nhà sản xuất Trò chơi đang đi lang thang xung quanh, chỉ – ăn – và – uống, thỉnh thoảng chú ý tới chúng tôi. “Nhìn kìa,” bà bảo, khẽ gật đầu về hướng của họ. Tôi nhìn lên và thấy Plutarch Heavensbee trong chiếc áo choàng tím tuyệt đẹp với cổ áo lông được cắt tỉa chỉnh tề biểu thị anh chính là người đứng đầu sản xuất Trò chơi. Anh ta đang gặm một cái chân con gà tây. Tôi không hiểu tại sao điều này đáng được bình luận nhưng tôi nói, “À, anh ta vừa được thăng chức làm Trưởng sản xuất Trò chơi năm nay.” “Không, không. Ở góc bàn kia. Cháu mới có thể …” Wiress nói. Beete liếc xéo dưới cặp kính của ông. “Mới có thể hiểu được.” Tôi nhìn theo hướng đó, đầy lúng túng. Nhưng sau khi tôi thấy nó. Một mảnh vá không gian khoảng 15 cm vuông ở góc bàn, nó gần như đang rung lên. Nó giống như những cơn sóng hữu hình ôm trọn bầu khí quyển chung quanh, thứ đang lay động mạnh mẽ, được tạo hình theo những khía nhọn trên lằn gỗ, hay như rượu trong ly ai đó để lại. “Một hàng rào… vô hình sao? Họ đã dựng một cái để ngăn cách những người sản xuất Trò chơi và chúng ta. Ai đã khiến họ khơi mào vụ này vậy?” Beetee nói. “Có thể là cháu,” tôi thú nhận. “Năm ngoái cháu bắn một mũi tên vào bọn họ trong buổi Đánh giá cá nhân.” Beetee và Wiress nhìn tôi tò mò. “Cháu bị chọc giận. Nên, cháu xoá bỏ mọi hàng rào vô hình như thế để họ đều phải chú ý tới cháu.” “Người Trung Hoa,” Wiress mơ hồ nói. “Trong bộ giáp, giống như bọn họ,” Beetee nói nốt. “Xem như nó vô hình, được chứ?” Tôi muốn hỏi họ nhiều hơn, nhưng bữa trưa đã được thông báo. Tôi tìm Peeta, nhưng cậu ấy vẫn dính với nhóm gồm khoảng 10 người chiến thắng khác, nên tôi quyết định sẽ ăn với quận 3, có thể tôi sẽ mời Seeder đi cùng. Khi chúng tôi vào khu ăn uống, tôi thấy một số người trong tốp Peeta có ý tưởng khác. Họ kéo toàn bộ bàn nhỏ lại, tạo thành một bàn lớn để họ có thể ngồi ăn cùng nhau. Bây giờ tôi chả biết làm gì cả. Ngay cả ở trường tôi đã quen với việc tránh ngồi ăn ở những bàn đông người. Thành thật mà nói, tôi chắc đã ngồi một mình nếu như Madge không tham gia với tôi. Tôi nghĩ tôi muốn ăn với Gale, nhưng vì cách nhau hai khối, nên bữa trưa của chúng tôi không cùng giờ. Tôi lấy một cái khay và bắt đầu đi xung quanh các xe đẩy đầy đồ ăn đã được xếp thành vòng tròn quanh phòng. Peeta bắt kịp tôi ở món thịt hầm. “Thế nào rồi?” “Tốt. Ổn cả. Tớ thích những người chiến thắng từ quận 3,” tôi nói. “Wiress và Beetee.” “Thật à?” cậu hỏi. “Họ là một cái gì đó như trò đùa đối với những người khác.” “Tại sao chuyện này không làm tớ ngạc nhiên nhỉ?” tôi nói. Tôi nghĩ về việc làm thế nào mà Peeta luôn được vây quanh bởi những đám đông toàn bạn bè. Điều đó rất tuyệt, thật sự, và cậu ấy chưa từng chú ý tới tôi ngoại trừ việc nghĩ tôi là một đứa kì dị. “Johanna đã đặt biệt danh cho họ là Nuts và Volts,” cậu bảo. “Tớ nghĩ bà ấy là Nuts và ông ấy là Volts.” “Và vậy nên tớ thật ngu ngốc khi nghĩ họ có thể hữu dụng. Chỉ bởi vì điều Johanna Mason nói trong lúc cô ta rưới dầu lên ngực để đấu vật,” tôi đáp trả. “Thật ra tớ nghĩ biệt danh của họ đã là như vậy hàng năm qua rồi. Và tớ không hề có ý xúc phạm. Tớ chỉ muốn cho cậu biết chút thông tin thôi,” cậu ấy nói. “Wiress và Beetee rất thông minh. Họ biết chế ra nhiều thứ. Họ có thể cho biết bằng mắt rằng có một hàng rào vô hình đã được đặt giữa chúng ta với những người sản xuất Trò chơi. Và nếu chúng ta buộc phải có đồng minh, tớ muốn họ.” Tôi ném cái muôi trở lại nồi thịt hầm, làm văng nước thịt lên cả hai. “Cậu đang tức giận về cái gì vậy?” Peeta hỏi, cố lau vết nước thịt trên áo cậu. “Bởi vì tớ đã chọc câu trong thang máy sao? Tớ xin lỗi. Tớ nghĩ rằng nó sẽ giúp cậu sẽ cười.” “Quên đi,” tôi lắc đầu. “Có nhiều thứ lắm.” “Darius,” cậu nói. “Darius. Trò chơi. Haymitch đòi chúng ta phải lập nhóm với những người khác,” tôi nói. “Có thể chỉ cần tớ và cậu thôi, cậu biết đấy,” cậu bảo. “Tớ biết, nhưng có lẽ Haymitch đúng,” tôi nói. “Đừng bảo ông ấy rằng tớ đã nói như vậy, nhưng thường là ông đúng, về những việc có liên quan tới Trò chơi.” “Ừm, cậu có thể nói về đồng minh của chúng ta sau. Nhưng bây giờ, tớ nghiêng về phía Chaff và Seeder.” Peeta nói. “Tớ thấy ổn với Seeder, nhưng không với Chaff,” tôi nói. “Dù sao cũng chưa được.” “Tới ngồi ăn với ông ấy đi. Tớ hứa, tớ sẽ không để ông ta hôn cậu lần nữa đâu,” Peeta nói. Chaff không có vẻ là gặp khó khăn với bữa trưa. Ông ta rất điềm tĩnh, và ngay cả khi ông nói quá to và có những trò đùa tệ hại, hầu hết bọn họ vẫn đặt nguồn tài trợ vào ông. Tôi có thể hiểu tại sao ông ta sẽ tốt cho Haymitch – người của những suy nghĩ đen tối. Nhưng tôi vẫn không chắc là mình có thể lập đội với ông ta. Tôi cố gắng hết sức để hoà đồng hơn, không chỉ với Chaff mà còn với những nhóm khác. Sau bữa trưa tôi tới trạm có những loại côn trùng ăn được với Vật tế quận 8 – Cecelia, người đã có ba đứa con ở nhà, và Wood, một người đàn ông già gặp khó khăn trong việc lắng nghe và dường như không biết chuyện gì đang xảy ra kể từ khi ông cố giữ một thứ thuốc độc hại nào đó trong miệng ông ấy. Tôi ước tôi có thể nhắc tới việc gặp Twill và Bonnie trong rừng, nhưng tôi không tìm được cách để mở lời. Cashmere và Gloss, người chị và người anh tới từ quận 1, mời tôi tới và cùng họ làm võng một lúc. Họ lịch sự nhưng lại thoải mái, và thế là tôi dành hết toàn bộ thời gian để nghĩ về cách mà tôi đã giết hai Vật tế từ quận của họ, Glimmer và Marvel, vào năm ngoái, rất có thể họ biết hai người đó, thậm chí còn là cố vấn của bọn họ. Cả hai cái võng của tôi và nỗ lực của tôi tạo ra để phối hợp với họ thật bình thường nhưng lại rất đúng lúc. Tôi tập đấu kiếm với Enobaria và trao đổi vài lời bình luận, nhưng quá rõ ràng là cả hai chúng tôi đều không muốn hợp tác. Finnick lại xuất hiện lần nữa khi tôi đang học vài mánh bắt cá, nhưng chủ yếu chỉ để giới thiệu tôi với Mags, người phụ nữ già cũng tới từ quận 4. Giữa giọng nói hay nhấn câu từ quận 4 và những câu nói được cắt xén lung tung của bà – có khả năng là bà đã từng bị đột quỵ – tôi không thể hiểu nhiều hơn một từ trong cả câu bốn chữ đó. Nhưng tôi thề là bà ấy biết làm lưỡi câu từ bất cứ thứ gì – gai, xương đòn, bông tai. Sau một lúc, tôi nghe theo lời người huấn luyện và cố gắng bắt chước những gì Mags làm một cách đơn giản hoá. Khi tôi làm xong một cái lưỡi câu khá đẹp từ một cái móng con gì đó rồi buộc chặt nó vào vài sợi tóc của tôi, bà ấy cho tôi một nụ cười không răng và một lời bình khó hiểu, tôi nghĩ có thể là lời khen. Bỗng nhiên tôi nhớ lại cách bà ấy tình nguyện thế thân cho người phụ nữ trẻ, cuồng loạn trong quận của bà. Điều này là không thể vì bà không hề có cơ hội chiến thắng. Bà làm thế là vì cô gái, giống như tôi đã tình nguyện để cứu Prim vào năm trước. Và thế là tôi quyết định: tôi muốn bà ấy có mặt trong đội của tôi. Tuyệt thật. Giờ tôi chỉ cần trở về và nói với Haymitch tôi muốn một người đàn bà tám mươi tuổi cùng với Nuts và Volts làm đồng minh. Ông ấy sẽ thích thế. Vậy nên tôi từ bỏ việc kết bạn và đi tới khu bắn cung để lấy lại tỉnh táo. Thật tuyệt vời khi ở đó, thử tất cả các loại cung và mũi tên khác nhau. Người huấn luyện, Tax, nhận thức được rằng các mục tiêu trên tấm bia đã đặt sẵn không hề là thử thách đối với tôi, nên anh bắt đầu khởi động lũ chim giả ngu ngốc bay vào không trung để tôi bắn. Lúc đầu thì tưởng là vớ vẩn nhưng hoá ra cũng thú vị phết. Rất giống như đang săn một sinh vật đang chuyển động. Vậy nên tôi bắn tất cả những con mà anh ấy thả ra, anh ta bắt đầu tăng dần số lượng chim thả vào không trung. Tôi quên luôn phần còn lại của phòng tập với những người chiến thắng, cả việc tôi đã khổ sở thế nào và cứ thể thả mình vào việc bắn cung. Khi tôi cố bắt cả năm con chim trong một lần bắn, tôi nhận ra mọi thứ rất yên tĩnh tới nỗi tôi nghe được cả tiếng bước chân người khác trên sàn nhà. Tôi quay lại và thấy hầu hết những người chiến đều dừng lại để nhìn tôi. Gương mặt họ biểu lộ tất cả mọi loại cảm xúc, từ ghen tị, tới căm ghét, rồi cả sự ngưỡng mộ. Sau khi luyện tập, Peeta và tôi đi lang thang, đợi Haymitch và Effie tới ăn tối. Khi chúng tôi được gọi ra ăn, Haymitch vồ lấy tôi ngay lập tức. “Vậy là ít nhất nửa số người chiến thắng đã chỉ thị cho cố vấn của họ tới yêu cầu cháu làm đồng minh. Ta biết đó không phải là do tính cách nổi bật của cháu.” “Họ thấy cô ấy bắn,” Peeta nói với một nụ cười. “Thực tế, cháu thấy cô ấy bắn, tận mắt, lần đầu tiên. Cháu sắp tự đặt mình vào họ để được yêu cầu nhập hội với cô ấy một cách hợp lệ đây.” “Cháu giỏi tới thế sao?” Haymitch hỏi tôi. “Giỏi tới nỗi Brutus muốn cháu ư?” Tôi nhún vai. “Nhưng cháu không muốn Brutus. Cháu muốn Mags và quận 3.” “Đương nhiên là cháu muốn rồi.” Haymitch thở dài và gọi một chai rượu. “Ta sẽ nói với mọi người là cháu vẫn đang suy nghĩ.” Sau buổi triễn lãm bắn cung của tôi, tôi vẫn bị chọc ghẹo vài lần, nhưng tôi lại không cảm thấy mình bị chế nhạo. Thực tế, tôi cảm nhận như mình đã bắt đầu vào được vòng tròn của người chiến thắng. Suốt hai ngày tiếp theo, tôi dành thời gian với hầu hết những người đã đối đầu với Đấu trường. Ngay cả những kẻ bệnh hoạn, với sự trợ giúp của Peeta, họ đã vẽ cho tôi một bức tranh với cánh đồng đầy hoa vàng và tất nhiên, có cả tôi trong đó nữa. Cả Finnick, người đã cho tôi cả một giờ để học về đinh ba để đổi lấy một giờ học hướng dẫn bắn cung. Tôi càng biết nhiều người bao nhiêu, thì mọi chuyện càng tệ đi bấy nhiêu. Bởi vì, trên tổng thể, tôi không ghét họ. Còn có một vài người tôi thích. Và rất nhiều người trong số họ rất dễ bị hại đến nỗi bản năng tự nhiên của tôi sẽ là bảo vệ họ. Nhưng tất cả đều phải chết nếu tôi cứu Peeta. Ngày cuối của việc huấn luyện kết thúc bằng buổi đánh giá cá nhân. Chúng tôi lần lượt nhận được mười lăm phút để gây ngạc nhiên cho các Nhà sản xuất với các kĩ năng của chúng tôi, nhưng tôi không biết bất kì ai trong chúng tôi phải cho họ thấy cái gì bây giờ. Họ đã nói đùa về việc này rất nhiều vào bữa trưa. Chúng tôi có thể làm gì. Hát, nhảy, thoát y, kể chuyện cười. Mags, người mà giờ tôi đã hiểu hơn một chút, quyết định bà ấy sẽ đánh một giấc. Tôi không biết tôi sẽ làm gì. Bắn vài mũi tên, tôi đoán vậy. Haymitch nói rằng hãy làm họ ngạc nhiên nếu chúng tôi có thể, nhưng tôi cạn kiệt ý tưởng rồi. Là cô gái tới từ quận 12, tôi được sắp sếp để đi cuối cùng. Phòng ăn càng lúc càng yên tĩnh khi các Vật tế rời đi chuẩn bị cho việc trình diễn. Thật dễ dàng nếu để chúng tôi cứ giữ thái độ xấc xược, bất khả chiến bại mà chúng tôi đều có lúc ở cùng nhau. Khi mọi người dần biến mất qua cánh cửa, tất cả những gì tôi nghĩ là họ đều có vấn đề với những ngày sống của họ. Peeta và tôi cuối cùng cũng bị để lại một mình. Cậu đưa tay qua bàn để nắm tay tôi. “Quyết định sẽ làm gì cho những người sản xuất chưa?” Tôi lắc đầu. “Tớ thật sự không thể dùng họ như tấm bia luyện tập năm nay được, với cái hàng rào vô hình ấy. Có thể là làm vài cái lưỡi câu. Cậu thì sao?” “Chả có gì cả. Tớ đang ước là có thể nướng bánh hay thứ gì đó,” cậu ấy nói. “Hãy nguỵ trang đi,” tôi đề nghị. “Nếu những kẻ bệnh hoạn có để lại cho tớ bất kì thứ gì có thể làm được,” cậu ấy vặn lại. “Họ đã dán mắt vào trạm đó từ khi buổi huấn luyên mới bắt đầu.” Chúng tôi ngồi yên lặng một lúc và rồi tôi buột miệng nói về điều đang ở trong đầu cả hai. “Chúng ta định giết những người này thế nào đây Peeta?” “Tớ không biết.” Cậu ấy dựa trán mình lên hai đôi tay đang gắn chặt vào nhau của chúng tôi. “Tớ không muốn họ làm đồng minh. Sao Haymitch lại muốn chúng ta biết họ chứ?” Tôi nói. “Điều này sẽ làm mọi chuyện khó hơn nhiều so với lần trước. Có thể loại trừ Rue ra. Nhưng dù sao thì tớ nghĩ tớ không bao giờ có thể giết cô bé. Cô bé quá giống Prim.” Peeta ngước lên nhìn tôi, cặp lông mày của cậu nhăn lại. “Cái chết của cô bé là điều đáng kinh nhất, phải không?” “Chả có cái chết nào nhìn đẹp cả” tôi nói, nghĩ tới kết thúc của Glimmer và Cato. Họ gọi Peeta, nên tôi đợi một mình. 15 phút trôi qua. Rồi nửa tiếng. Gần 40 phút trước khi tôi được gọi. Khi tôi bước vào, tôi ngửi thấy mùi hương rất rõ từ người quét dọn và chú ý tới tấm thảm đã được kéo ra giữa phòng. Không khí rất khác so với năm ngoái, khi những người sản xuất đã ngà say và bị phân tâm bởi những món ngon trên chiếc bàn dạ tiệc. Họ thì thầm với nhau, bực bội nhìn cái gì đó. Peeta đã làm gì vậy? Cậu ấy đã làm gì khiến họ khó chịu như thế? Tôi cảm nhận được sự đau đớn vì lo lắng. Không ổn rồi. Tôi không muốn Peeta phải một mình làm tấm bia cho cơn tức của những nhà sản xuất. Đó là một phần việc của tôi. Kéo lửa giận của bọn họ ra khỏi Peeta. Nhưng cậu ấy làm thế quái nào mà bọn họ tức giận chứ? Bởi vì tôi mới là người muốn làm điều đó và thậm chí còn hơn như vậy. Để phá vỡ cái sự tự phụ của những người chỉ biết sử dụng não vào việc tìm trò giải trí bằng cách giết chúng tôi. Để làm họ nhận ra chúng tôi rất dễ bị tổn thương bởi sự tàn nhẫn của Capitol, và họ cũng như thế. Các người có biết tôi ghét các người tới thế nào không? Tôi nghĩ. Các người, những người đã đem tài năng đổ vào Trò chơi này. Tôi cố để bắt được ánh mặt của Plutarch Heacensbee, nhưng dường như anh ta cố ý lờ tôi, như thể anh có toàn bộ thời gian ở đây. Tôi nhớ anh ta đã từng mời tôi nhảy, nhớ cái cách anh hài lòng như thế nào khi cho tôi xem hình con chim húng nhại trên chiếc đồng hồ của anh ta. Sự thân thiện của con người này không có chỗ ở đây nữa rồi. Làm sao có thể, khi tôi chỉ là một Vật tế và anh ta là Nhà đứng đầu sản xuất. Thật quá quyền thế, quá dễ thay đổi, quá an toàn… Đột nhiên tôi biết tôi sẽ làm gì. Cái gì đó có thể cuốn trôi mọi thứ Peeta đã làm ra khỏi dòng nước chảy xiết kia. Tôi bước tới trạm học thắt nút và lấy một sợi dây. Tôi bắt đầu các thao tác của mình, nhưng nó rất khó vì thực tế tôi chưa bao giờ tự làm một cái nút như vậy. Tôi chỉ nhìn những ngón tay khéo léo của Finnick, và chúng làm rất nhanh. Sau khoảng mười phút, tôi bước lên với một cái thòng lọng tạm được.Tôi lôi một trong những người nộm ra giữa phòng, sử dụng nó như một con mồi, luồn cái thòng lọng qua cổ nó và để nó bị treo lủng lẳng trên cao. Trói tay nó lại sau lưng cũng là một ý hay, nhưng tôi nghĩ tôi sắp hết thời gian rồi. Tôi vội vàng chạy tới trạm hoá trang, chắc chắn là mấy kẻ bệnh hoạn đã làm nên một mớ lộn xộn ở đó. Nhưng tôi vẫn tìm được một ít nước dâu đỏ trong chén đựng, có thể nó sẽ có lợi cho nhu cầu của tôi. Loại vải giả thịt của da hình nộm rất tốt, dễ hấp thụ. Tôi cẩn thận dùng ngón tay vẽ những chữ cái lên thân hình nộm, cố giấu cho họ không thấy. Sau đó tôi bỏ đi nhanh chóng để xem phản ứng trên mặt những người sản xuất, khi họ đọc được tên của con hình nộm đó. Chap 17 Sức ảnh hưởng tới các nhà tổ chức là ngay tức thì và đầy mỹ mãn. Một số thốt ra tiếng kêu nhỏ. Kẻ khác thì nơi lỏng tay nắm cốc rượu, khiến chúng rơi vỡ loảng xoảng trên sàn. Có hai người hình như đã ngất xỉu. Phản ứng kích động trở thành đồng loạt. Giờ thì tôi đã có được sự chú ý của Plutarch Heavensbee. Ông ta nhìn bất động vào tôi khi phần dịch từ quả đào ông ta đang bóp nát trên tay chảy qua các ngón. Cuối cùng Plutarch Heavenbee hắng giọng và nói : “Giờ cô có thể đi được rồi đấy, thưa cô Everdeen.” Tôi gật đầu kính cẩn và quay đi, nhưng ở giây phút cuối tôi không cưỡng lại được việc hất tung cốc nước ép dâu rừng qua vai. Tôi có thể nghe thấy thứ chất lỏng kêu lộp độp trên các hình nộm khi thêm hai cốc rượu nữa vỡ vụn. Lúc cánh cửa thang máy đóng lại trước mặt, tôi không thấy ai cử động. Việc đó đã làm họ kinh ngạc, tôi nghĩ thế. Nó thật thiếu suy nghĩ, liều lĩnh và không nghi ngờ gì là tôi sẽ phải trả giá gấp mười lần. Nhưng trong một khắc, tôi cảm thấy có gì đó gần như là hoan hỉ và tự cho phép mình thưởng thức nó. Tôi muốn tìm ông Haymitch ngay và kể về buổi gặp mặt nhưng xung quanh không có ai. Tôi đoán họ đang chuẩn bị cho bữa tối và quyết định đi tắm, vì tay tôi bị dơ do nước ép quả. Khi đứng dưới làn nước, tôi mới bắt đầu ngạc nhiên về sự khôn khoan trong mánh khóe sau cùng của mình. Giờ thì câu hỏi luôn trong mục tiêu của tôi là “Việc này có giúp Peeta được sống không?”. Nói gián tiếp thì có lẽ là không. Những chuyện xảy ra khi huấn luyện là tuyệt mật cao độ, thế nên chẳng ích gì khi đối phó với tôi mà không ai biết tội lỗi của tôi là gì. Thực ra, năm ngoái tôi còn được trao thưởng vì sự xấc láo nữa cơ. Dù thế nhưng đây là một loại phạm tội khác. Nếu các nhà tổ chức nổi điên với tôi và quyết định trừng phạt trong trường đấu, Peeta cũng có thể bị liên lụy trong cuộc công kích. Có lẽ nó quá bốc đồng. Nhưng mà… tôi không thể nói xin lỗi do đã làm thế. Khi tất cả tập trung cho bữa tối, tôi để ý hai bàn tay của Peeta hơi dơ lem nhem với một đống màu vẽ, dù tóc cậu ấy vẫn còn ẩm lúc mới tắm. Chắc là phải hóa trang. Khi món súp được mang lên, ông Haymitch đi thẳng vào vấn đề trong suy nghĩ mọi người. “Được rồi, thế cuộc gặp mặt riêng của các cháu diễn ra thế nào?” Tôi trao đổi cái nhìn với Peeta. Không hiểu sao tôi không hào hứng với việc diễn đạt những việc đã làm bằng lời nói. Trong không khí tĩnh lặng của phòng ăn, dường như việc ấy là quá sức. “Cậu trước đi,” tôi nói với Peeta. “Chắc nó phải đặc biệt lắm. Tớ phải đợi tận 40 phút mới bước vào” Peeta hình như cũng vướng vào sự miễn cưỡng y như tôi đang phải trải qua. “À thì, tớ – tớ đã hóa trang, như cậu gợi ý đó Katniss.” Cậu ấy lúng túng. “Không hẳn là hóa trang. Ý tớ là tớ sử dụng thuốc nhuộm” “Để làm gì?”. Portia hỏi. Tôi nhớ các nhà tổ chức đã nháo loạn thế nào khi tôi bước vào phòng tập gym cho buổi gặp mặt. Mùi thuốc khử trùng. Tấm đệm được kéo đè lên vết bẩn ở giữa phòng. Có phải nó che giấu cái gì đó mà họ không thể lau sạch đi? “Không phải cậu tô cái gì đó à? Một bức tranh” “Cậu thấy nó rồi?” Peeta hỏi “Không. Nhưng họ thật sự có mục đích khi phủ khăn lên che nó đi,” tôi đáp. “Ồ, đó mới là chuẩn mực. Họ không thể để một vật tế biết những gì kẻ khác làm,” Bà Effie nói hờ hững. “Cháu đã tô vẽ gì thế Peeta?” bà ấy trông khá mập mờ. “Có phải là bức tranh vẽ Katniss?” “Sao cậu ấy lại vẽ cháu được, bà Effie?” tôi hỏi, không hiểu sao lại tức tối. “Để chứng tỏ là cậu ấy sẽ làm mọi thứ có thể để bảo vệ cháu. Dù sao thì đó cũng là điều mọi người ở Capitol đang mong đợi. Cậu ấy không tình nguyện bước vào cùng cháu à?” bà Effie nói, như thể đó là điều hiển nhiên nhất trên thế giới. “Thực ra, cháu đã vẽ một bức tranh về Rue,” Peeta đáp “Về việc cô bé trông thế nào sao khi Katniss phủ hoa lên em ấy.” Trên bàn có một quãng im lặng dài trong khi mọi người thấm thía câu nói này. “Thế chính xác cháu đang cố làm cái gì?” Ông Haymitch hỏi với giọng rất đắn đo. “Cháu không chắc. Cháu chỉ muốn họ cảm thấy có trách nhiệm, trong một khắc cũng được,” Peeta trả lời.“Vì đã giết chết cô gái bé nhỏ đó”. “Thật dễ sợ.” Bà Effie như kiểu sắp khóc. “Kiểu suy nghĩ như vậy… nó bị cấm Peeta à. Chắc chắn như vậy. Cháu sẽ chỉ chuốc thêm rắc rối cho bản thân và Katniss thôi.” “Ta phải đồng ý với bà Effie về vấn đề này,” Ông Haymitch nói. Portia và Cinna vẫn im lặng, nhưng mặt họ thực nghiêm túc. Tất nhiên, họ đã đúng. Nhưng dù điều ấy làm tôi lo lắng, tôi nghĩ những gì cậu ấy đã làm thật đáng nể. “Cháu đoán bây giờ là thời điểm không nên nếu nhắc tới cảnh cháu treo cổ một con hình nộm và vẽ tên Seneca Crane lên đó,” tôi nói. Câu này có ảnh hưởng thật đáng mong muốn. Sau một lát vẻ không tin, sự phản đối trong căn phòng quật vào tôi như một tấn gạch đá vậy. “Em… đã treo cổ…Seneca Crane?” Cinna hỏi. “Vâng. Em đang biểu diễn kĩ năng thắt nút mới, và anh ta không hiểu sao vướng ở cuối nút thòng lọng,” tôi đáp “Ôi Katniss,”, bà Effie nói nhỏ. “Làm thế nào mà cháu lại biết trò đấy cơ chứ?” “Nó là một bí mật ạ? Tổng thống Snow không phản ứng như kiểu nó bí mật đâu. Thực ra ông ta có vẻ muốn cháu biết cơ,” tôi đáp. Bà Effie rời bàn với chiếc khăn ăn chùi mặt. “Giờ mình làm bà Effie khó chịu rồi. Tớ đáng nhẽ nên nói dối và nói là đã bắn vài mũi tên” “Chị chắc hẳn nghĩ chúng em lên kế hoạch trước”. Peeta nói, ném cho tôi một nụ cười mỉm. “Phải không?” Portia hỏi. Chị ấy đụng ngón tay ấn mi mắt khép lại như thể đang tránh ánh đèn sáng chói. “Không ạ,” tôi đáp, nhìn Peeta với vẻ cảm kích. “Không ai trong chúng em biết sẽ định làm gì khi bước vào” “Còn bác, Haymitch?” Peeta nói. “Chúng cháu đã quyết định sẽ không có bất kì sự liên minh nào trong cuộc đấu” “Tốt. Rồi ta sẽ không phải chịu trách nhiệm về việc các cháu hạ gục bất cứ người bạn nào của ta với sự ngớ ngẩn của các cháu”, ông Haymitch đáp. “Đó chỉ là những gì bọn cháu đang nghĩ” tôi nói với ông ấy. Chúng tôi kết thúc bữa ăn trong im lặng, nhưng khi đứng dậy để vào phòng họp, Cinna đặt tay vòng qua tôi và siết nhẹ. “Đi thôi, đi xem điểm số trong bài huấn luyện” Mọi người tập trung quanh bàn tivi và một bà Effie với cặp mắt nảy lửa đập vào chúng tôi. Khuôn mặt của những kẻ hiến tếhiện lên từng quận một và điểm của họ nhấp nháy dưới các hình ảnh. Từ một tới mười hai. Có thể đoán được điểm số cao sẽ dành cho Cashmere, Gloss, Brutu, Enobaria và Finnick. Còn lại là từ thấp tới trung bình. “Họ từng cho điểm không chưa?” tôi hỏi “Chưa, nhưng mọi thứ đều có lần đầu mà.” Cinna trả lời. Hóa ra anh ấy đúng thật. Vì khi Peeta và tôi mỗi người đạt điểm mười hai, chúng tôi đã dựng nên lịch sử của đấu trường. Nhưng không ai có vẻ là chúc mừng. “Sao họ làm thế?” tôi hỏi “Bởi vì những người khác sẽ không còn lựa chọn nào ngoài nhắm vào cháu,”, ông Haymitch nói thẳng thừng. “Đi ngủ thôi. Ta không chịu được việc nhìn thấy ai trong số các cháu nữa”. Peeta đi cùng tôi xuống phòng trong im lặng, nhưng trước khi cậu ấy nói lời chúc ngủ ngon, tôi vòng cánh tay quanh cậu ấy và dựa đầu vào ngực cậu ấy. Tay Peeta lướt dọc lưng tôi và áp má vào tóc tôi. “Tớ xin lỗi nếu làm mọi việc tệ hơn” tôi nói “Không tệ hơn tớ đâu. Nhưng sao cậu lại làm thế?”, Peeta hỏi. “Tớ không biết. Để thể hiện rằng tớ không chỉ là một quân cờ trong cuộc chơi của họ chăng?”, tôi đáp. Cậu ấy hơi cười, chắc là nhớ tới buổi tối trước cuộc đấu năm ngoái. Chúng tôi ở trên mái nhà, vì không đứa nào ngủ được cả. Rồi Peeta đã từng nói gì đó mà tôi chưa hiểu ý cậu ấy là gì. Nhưng giờ tôi đã hiểu. “Tớ cũng thế”, Peeta kể lể “Và tớ không nói sẽ không cố gắng. Ý tớ là, để đưa cậu trở về nhà. Nhưng nếu tớ hoàn toàn thành thật về việc này…” “Nếu cậu hoàn toàn thành thật, cậu sẽ nghĩ rằng Tổng thống Snow có thể bằng mọi cách đã ra lệnh trực tiếp cho họ để đảm bảo chúng ta đã chết trong trường đấu.” tôi đáp. “Điều đó đã thoáng qua trong đầu tớ,” Peeta nói Nó cũng đã thoáng qua trong đầu tôi. Lặp đi lặp lại nhiều lần. Nhưng trong khi biết mình sẽ không sống sót mà rời trường đấu, tôi vẫn giữ hi vọng rằng Peeta sẽ sống. Nhưng sau cùng, cậu ấy đã không ném ra những quả dâu rừng, mà là tôi. Không ai từng nghi ngờ vể việc sự bất chấp của Peeta được thúc đẩy bởi tình yêu. Nên có lẽ tổng thống Snow sẽ muốn để cậu ấy sống, bị đay nghiến và tổn thương, như một lời cảnh cáo sống cho những kẻ khác. “Nhưng dù nó có xảy ra, mọi người cũng sẽ biết chúng ta đã thôi đấu tranh đúng không?” Peeta hỏi “Đúng vậy,” tôi đáp. Lần đầu tiên, tôi thoát khỏi được màn bi kịch cá nhân đã làm tôi kiệt sức từ khi bắt đầu Cuộc dẹp loạn. Tôi nhớ tới người đàn ông già nua bị bắn chết ở quận 11, tới Bonnie và Twill và những cuộc nổi dậy được đồn đại. Đúng thế, toàn quận sẽ dõi theo tôi để xem xem tôi đối phó với lời tuyên án tử hình này thế nào, với động thái cuối cùng của chế độ dưới quyền tổng thống Snow. Họ sẽ lục tìm vài dấu hiệu cho thấy cuộc chiến đấu của họ vẫn chưa đến nỗi tuyệt vọng. Nếu tôi có thể thể hiện rõ rằng tôi vẫn sẽ chống đối Capitol tới cùng, Capitol sẽ giết tôi… nhưng không phải nghị lực của tôi. Còn cách nào tốt hơn để mang lại hi vọng cho nhóm dân nổi loạn không? Cái hay của ý tưởng này là quyết định giữ cho Peeta được sống dựa trên sự đánh đổi cuộc đời của chính tôi tự nó đã là một sự chống đối. Một lời khước từ tham gia vào đấu trường sinh tử với những luật lệ của Capitol. Kế hoạch riêng của tôi hoàn toàn khớp với kế hoạch đã công khai. Và nếu tôi thực sự có thể cứu lấy Peeta…như một sự giải phóng, thì việc này thật lí tưởng. Vì cái chết của tôi sẽ còn có giá trị. Họ có thể biến tôi kiểu như thành một kẻ chết vì chính nghĩa và vẽ mặt tôi trên các tấm băng rôn, và nó sẽ giúp trấn an mọi người tốt hơn bất kể những việc tôi có thể làm nếu còn đang sống. Nhưng mạng sống của Peeta có giá hơn, và bi thảm hơn, vì cậu ấy có thể biến nỗi đau thành những ngôn từ làm thay đổi người khác. Peeta sẽ không làm thế nếu biết tôi đang nghĩ tới điều này, nên tôi chỉ nói : “Thế chúng ta nên làm gì vào những ngày cuối cùng ít ỏi?” “Tớ chỉ muốn dành từng giây phút có thể trong phần còn lại của cuộc đời với cậu,” Peeta trả lời. “Vậy thì, đi nào.” Tôi nói và kéo cậu ấy vào phòng. Cảm giác như vui sướng khi lại được nằm ngủ cùng Peeta. Giờ tôi mới nhận ra mình khao khát sự thân mật thuộc về con người tới mức nào. Khao khát cảm giác cậu ấy nằm cạnh tôi trong bóng đêm. Ước gì tôi không phí hai buổi tối hôm nọ mà kh ông cho cậu ấy vào. Tôi chìm vào trong giấc ngủ, được bao bọc trong hơi ấm của cậu ấy, và khi mở mắt ra lần nữa, ánh sáng ban ngày đang rót xuống qua những ô cửa sổ. “Không có ác mộng”, Peeta nói. “Không ác mộng,” tôi xác nhận. “Cậu thì sao?” “Không. Tớ đã quên rằng một giấc ngủ thực sự là thế nào rồi” cậu ấy đáp. Chúng tôi nằm đó một lúc, không vội vàng bắt đầu ngày mới. Tối mai sẽ phát sóng cuộc phỏng vấn, nên hôm nay bà Effie và ông Haymitch chắc sẽ phụ đạo cho chúng tôi. Tôi nghĩ sẽ có nhiều giày cao gót và những lời nhận xét đầy châm chọc hơn. Nhưng rồi cô gái Avox tóc đỏ bước vào với lời nhắn nhủ từ bà Effie nói rằng, từ cuộc diễu hành gần đây của chúng tôi, cả bà ấy và ông Haymitch đều nhất trí là chúng tôi có thể tự xoay sở cho phù hợp giữa công chúng. Những bài tập phụ đạo đã bị hủy bỏ rồi. “Thật sao?” Peeta nói, tóm lấy tờ ghi chú trên tay tôi và xem xét nó . “Cậu có biết nó có nghĩa gì không? Chúng ta sẽ có cả ngày cho bản thân.” “Nhưng thật tệ khi không thể đi đâu đó,” tôi đáp lại vẻ buồn bã. “ Ai nói chúng ta không thể?” cậu hỏi lại. Trên mái nhà. Chúng tôi gọi một đống thức ăn, túm lấy vài tấm mền và tiến thẳng lên mái nhà làm một bữa picnic. Bữa picnic kéo dài cả ngày giữa vườn hoa với tiếng chuông gió kêu leng keng. Chúng tôi ăn uống và nằm dưới ánh mặt trời. Tôi đớp lấy những quả nho treo lủng lẳng và dùng chút kiến thức mới học lúc huẩn luyện để đan và thêu những tấm lưới. Còn Peeta thì vẽ tôi. Chúng tôi nghĩ ra một trò chơi với tấm lưới chắn dựng quanh nóc nhà – một trong hai ném một quả táo vào nó và người còn lại phải bắt lấy. Không ai tới làm phiền cả. Tới quá trưa, tôi nằm và gối đầu lên đùi Peeta, làm một chiếc vương miện từ hoa trong khi cậu ấy nghịch tóc tôi, nói là đang thực hành thắt nút. Sau một lúc thì tay cậu ấy mới ngừng lại. “Cái gì?” tôi hỏi “Tớ ước có thể đóng băng giây phút này, ngay tại đây, bây giờ và đắm chìm trong nó mãi mãi” cậu ấy nói. Thường thì những kiểu trả lời thế này ám chỉ tình cảm bất diệt của cậu ấy dành cho tôi khiến tôi cảm thấy mình tội lỗi và độc ác. Nhưng tôi thấy rất ấm áp, thoải mái và ngoại trừ việc lo lắng về một tương lai không bao giờ có được, tôi chỉ để lời nói tuột ra khỏi miệng. “Được thôi” Tôi có thể thấy cậu ấy cười trong lời nói. “Vậy là cậu sẽ chấp nhận nó?” “Tớ sẽ chấp nhận.” tôi trả lời. Ngón tay cậu ấy trở lại trên tóc tôi và tôi chợp ngủ mơ màng, nhưng cậu ấy đánh thức tôi để nhìn mặt trời lặn. Đó là mảng sáng vàng cam diệu kì ẩn sau đường chân trời ở Capitol. “Tớ không nghĩ cậu muốn bỏ lỡ nó đâu” “Cảm ơn cậu”, tôi đáp. Vì tôi không thể đếm trên đầu ngón tay số lần mặt trời lặn mà tôi đã bỏ qua, mà tôi không muốn bỏ lỡ lần nào trong số chúng. * Chúng tôi không tham gia bữa tối với mọi người, và chẳng ai gọi cả. “Tớ vui lắm. Tớ mệt mỏi khi khiến mọi người xung quanh thực khổ sở”, Peeta lên tiếng. “Mọi người sẽ rơi nước mắt, hoặc bác Haymitch…”. Peeta chẳng muốn nói tiếp. Chúng tôi ở trên mái nhà cho tới giờ đi ngủ và rồi lặng lẽ trượt xuống phòng ngủ mà không bắt gặp ai. Sáng hôm sau, chúng tôi bị dựng dậy bởi đội chuẩn bị. Cảnh Peeta và tôi ngủ cùng nhau quá sức tưởng tượng với Octavia, vì chị ấy bật khóc ngay lập tức. “Cậu nhớ những gì Cinna nói với chúng ta đấy!” Venia nói mạnh giọng. Rồi Octavia gật đầu và thôi thổn thức. Peeta phải quay trở lại phòng mình để chỉnh trang và tôi ở lại một mình với Venia và Flavius. Tiếng ríu rít chuyện trò quen thuộc ngưng bặt. Thật ra, chẳng có tí chuyện nào cả, ngoài việc bảo tôi nâng cằm hay nhận xét về một kĩ xảo trang điểm. Trời đã gần trưa khi tôi cảm thấy có gì đó nhỏ giọt trên vai mình và quay lại thì nhìn thấy Flavius đang cắt tóc với những giọt nước mắt thầm lặng chảy trên mặt. Venia ném cho anh ấy một cái nhìn, rồi anh ấy nhẹ nhàng đặt chiếc kéo xuống bàn và rời đi. Sau đó đến Venia, làn da chị ấy nhợt nhạt tới độ những hình xăm như thể đang lồi ra. Thật cứng nhắc và nghiêm nghị, chị ấy làm tóc, làm móng tay và trang điểm cho tôi, những ngón tay linh hoạt để làm bù cho những thành viên trong đội đang vắng mặt. Toàn bộ quá trình, chị ấy tránh cái nhìn chằm chằm của tôi. Chỉ khi Cinna xuất hiện để kiểm tra tôi và để chị ấy ra ngoài thì Venia mới nắm lấy tay tôi, nhìn thẳng vào mắt tôi và nói, “Tất cả bọn chị đều muốn em biết rằng, việc biến em trở nên xinh đẹp nhất quả là một đặc ân,” Đội chỉnh trang của tôi. Những con thú cưng ngốc nghếch, hời hợt và trìu mến của tôi, bị ám ảnh bởi lông vũ và tiệc tùng, gần như làm trái tim tôi vỡ òa bởi lời tạm biệt của họ. Chắc chắn là từ câu nói cuối cùng của Venia mà tất cả chúng tôi biết rằng tôi sẽ không quay trở lại nữa. Có phải cả thế giới này biết điều đó không? tôi tự hỏi. Tôi nhìn Cinna. Chắc chắn anh ấy biết. Nhưng như đã hứa, sẽ chẳng có chuyện là anh ấy khóc đâu. “Thế, tôi nay em sẽ mặc gì?” tôi hỏi, nhìn vào túi quần áo đựng bộ váy của tôi. “Tổng thống tự mình phối hợp bộ trang phục,” Cinna nói. Anh ấy kéo khóa chiếc túi, để lộ ra một trong những bộ váy tôi đã mặc trong buổi chụp hình. Chất liệu lụa màu trắng nặng trịch khoét sâu cổ, phần eo bó sát và tay áo thả từ cổ tay xuống sàn. Và những viên ngọc trai nữa. Mọi chỗ đều có ngọc trai. Chúng được đính vào váy, trên vòng cổ và viền thành chiếc vương miện cho tấm mạng che mặt. “Dù họ thông cáo Cuộc dẹp loạn đường phố vào tối hôm chụp hình, mọi người vẫn bình chọn cho bộ váy ưa thích và đây là chiếc chiến thắng. Tổng thống nói em sẽ mặc nó tối nay. Lí do phản đối của bọn anh đều bị lờ đi” Tôi vò một góc chiếc váy lụa giữa các ngón tay, cố đoán xem tổng thống Snow đang suy tính cái gì. Tôi cho rằng kể từ lúc tôi thành tên tội phạm lớn nhất, nỗi đau, sự mất mát và nhục nhã của tôi nên được ở dưới ánh đèn sân khấu rực rỡ nhất. Ông ta nghĩ việc này sẽ làm mọi thứ rõ tỏ hơn. Thật quá đỗi man rợ, ngài tổng thống đang biến bộ váy cô dâu của tôi thành một tấm vải liệm, khiến tai họa này xóa sổ sạch sẽ nơi tôi trú ngụ, để tôi lại với một nỗi đau thấu tâm can trong lòng. “Chà, thật tiếc khi bỏ qua một chiếc váy đẹp đẽ thế này” là tất cả những gì tôi nói. Cinna cẩn thận giúp tôi mặc áo choàng. Khi nó được đặt cố định lên vai tôi, bọn họ không nhịn được một cái nhún vai than thở. “Nó luôn nặng thế này sao?” tôi hỏi. Tôi nhớ có vài bộ váy được làm chặt, nhưng bộ này như thể nó nặng tới một tấn vậy. “Anh phải vài lần sửa qua do ánh đèn sân khấu rồi đấy”, Cinna đáp. Tôi gật đầu, nhưng không thấy việc ấy để phù hợp với cái gì nữa. Anh ấy trang trí tôi bằng những đôi giầy, trang sức ngọc trai và mạng che mặt. Rồi sửa qua phần trang điểm. Bảo tôi đi lại. “Em thật quyến rũ,” anh ấy nói. “Bây giờ, Katniss, vì vạt áo trên của chiếc váy rất vừa vặn nêu anh không muốn em giơ tay quá đầu nữa. Chà, nhưng chỉ cho đến khi em phải xoay vòng” “Em lại phải xoay vòng nữa sao ạ?” tôi hỏi, nghĩ tới bộ váy năm trước. “Anh chắc chắn Caesar sẽ đề nghị em. Còn nếu không thì em tự gợi ý vậy. Chỉ cần không chậm trễ đúng lúc. Giữ nó cho màn cuối nhé,” Cinna chỉ bảo. “Anh ra hiệu cho em rồi em sẽ biết khi nào,” tôi nói. “Được rồi. Còn kế hoạch cho buổi phỏng vấn thì sao? Anh biết được ông Haymitch đã để cho hai em tự xoay sở.” “Không, năm nay em chỉ phải bổ sung cho nó thôi. Buồn cười là em chẳng lo lắng tí nào cả”. Và tôi sẽ không. Dù tổng thống có ghét tôi tới nhường nào, khán giả Capitol vẫn là của tôi. Chúng tôi gặp được bà Effie, ông Haymitch, Portia và Peeta trong thang máy. Peeta đang mặc một bộ tuxedo thanh lịch với găng tay trắng. Thứ mà chú rể mặc lúc đám cưới, ở đây, tại Capitol. Còn ở nhà mọi thứ đơn giản hơn nhiều. Một phụ nữ thường thuê chiếc váy trắng đã được mặc cả trăm lần. Đàn ông mặc thứ gì đó sạch sẽ mà không phải bộ đồ thợ mỏ là được. Họ điền vào vài mẫu đơn ở tòa nhà tối cao và được cấp cho một ngôi nhà. Gia đình và bạn bè sẽ tụ tập trong một bữa ăn mặn hoặc chút bánh nếu có thể được. Mà dù không có bánh, sẽ luôn có một bài hát truyền thống được hát khi cặp đôi bước qua ngưỡng cửa. Rồi chúng tôi sẽ có nghi lễ kỉ niệm của chính mình, nơi họ sẽ đốt lò sưởi lần đầu tiên, nướng ít bánh mì và chia sẻ nó. Có thể nó cổ hủ nhưng không ai thực sự cảm thấy đã kết hôn ở quận 12 cho tới lúc đã nướng bánh xong. Những vật tế khác đã tập trung sẵn sau sân khấu và đang nói chuyện khe khẽ nhưng khi Peeta và tôi đến, họ trở nên im bặt. Tôi nhận ra mọi người đang nhìn chằm chằm vào những dấu chữ thập trên váy cưới của tôi. Họ ghen tị vì vẻ đẹp của nó sao? Vì sức mạnh của nó có thể thu hút được đám đông? Cuối cùng Finnick lên tiếng, “Tôi không thể tin được Cinna lại nhét cô trong cái thứ đó” “Cinna không còn lựa chọn nào cả. Tổng thống ra lệnh cho anh ấy” tôi đáp, chẳng hiểu sao như đề phòng. Tôi sẽ không để ai chỉ trích Cinna. Cashmere hất những lọn tóc óng mượt ra sau và thốt lên, “Chà, trông cô thật tức cười!” Cô ta túm lấy tay anh trai và kéo anh ta đứng đúng chỗ để dẫn đoàn diễu hành lên sân khấu. Những vật tế khác cũng bước lên. Tôi thấy bối rối vì trong khi tất cả bọn họ đang cáu kỉnh, thì vài người đặt lên vai chúng tôi những cái vỗ vai thông cảm, và Johanna Mason thậm chí đã dừng lại để chỉnh thẳng thớm chiếc vòng cổ ngọc trai. “Khiến anh ta phải trả giá cho việc đó, được không nào?”, cô ấy nói. Tôi gật đầu nhưng không biết ý cô ấy là gì. Cho tới khi tất cả đều an tọa trên sân khấu, Caesar Flickerman, với mái tóc và khuôn mặt nổi bật giữa đám hoa oải hương, kết thúc bài diễn văn mở đầu và những người hiến sinh bắt đầu được phỏng vấn. Đây là lần đầu tiên tôi nhận ra chốn tận cùng của sự phản bội giữa những kẻ chiến thắng và cơn thịnh nộ kèm theo nó. Nhưng bọn họ thật khôn khéo, cực kì khôn khéo khi diễn kịch, vì tất cả đều quay lại chỉ trích chính phủ và tổng thống Snow. Nhưng không phải tất cả mọi người. Có những kẻ trung lập nhiều tuổi, như Brutus và Enobaria, những người mà chỉ đến đây vì một cuộc đấu khác, và họ cũng thất bại, nghiện ngập hay bị tổn thương khi tham gia vào cuộc đấu. Nhưng có những nhà vô địch vẫn sáng suốt và tỉnh táo để tiếp tục chống trọi. Cashmere mở đầu buổi khiêu vũ bằng một bài phát biểu rằng cô ta không thể ngừng khóc khi nghĩ tới cảnh mọi người dân Capitol hẳn sẽ phải chịu đau khổ mức nào bởi họ sẽ mất đi chúng tôi. Còn Gloss nhắc lại sự thân thiện nơi đây với anh ta và chị gái. Beetee thì đặt câu hỏi về tính hợp pháp của cuộc Dẹp loạn trong sự bồn chồn và bực dọc và băn khoăn không biết nó đã được kiểm tra bởi các chuyên gia gần đây chưa. Finnick thì ngâm một bài thơ mà anh ta đã viết gửi tới một tình yêu đích thực ở Capitol và gần trăm người đã ngất xỉu vì nghĩ anh ta ám chỉ mình. Lúc Johanna Mason tỉnh lại, cô ấy thắc mắc không biết có thể làm gì trong tình huống này nữa. Chắc chắn các nhà tổ chức Cuộc dẹp loạn đường phố không bao giờ có thể đoán trước được việc hình thành lòng yêu mến giữa các nhà vô địch và dân Capitol. Không ai có thể tàn nhẫn cắt đứt một mối giao liên như vậy. Kẻ chủ mưu sẽ âm thầm nghĩ tới việc tổng thống Snow trở nên quyền lực thế nào khi quay lại quận 11. Nếu ông ta có quyền lực, sao không cải tổ cuộc Dẹp loạn đi? Và Chaff, bước đi vững vàng trên giầy cao gót, lại khăng khăng rằng tổng thống có thể cải tổ nếu muốn, nhưng lão ta chắc hẳn không nghĩ nó chẳng hề ảnh hưởng gì nhiều tới mọi người. Lúc tôi được giới thiệu, khán giả hoàn toàn hỗn độn. Mọi người khóc lóc, ngã khụy và thậm chí còn kêu gọi việc cải tổ. Cảnh tượng tôi trong bộ trang phục cô dâu bằng lụa trắng thực đã gây ra hỗn loạn. Không còn tôi, thì không còn những người hâm mộ bất hạnh, và không còn đám cưới nào hết. Tôi thậm chí có thể thấy sự chuyên nghiệp của Caesar thể hiện thật xuất sắc khi anh ta cố trấn an mọi người để tôi phát biểu, nhưng ba phút của tôi nhanh chóng trôi qua. Cuối cùng cũng tạm lắng và anh ta tiếp tục, “Vậy, cô Katniss, rõ ràng hôm nay là một buổi tối đầy cảm xúc với mọi người. Cô có lời nào muốn bày tỏ không?” Giọng tôi run run khi phát biểu. “Chỉ có một điều là tôi rất xin lỗi khi các bạn không thể có mặt trong lễ cưới của tôi… Nhưng tôi rất vui vì ít nhất các bạn cũng thấy tôi mặc váy cưới. Đó không phải… là điều tuyệt vời nhất hay sao?” Tôi không nhìn cái ra dấu của Cinna. Tôi biết đây là thời điểm thích hợp. Tôi bắt đầu xoay vòng chầm chậm, giơ cánh tay áo của chiếc áo choàng nặng nề qua đầu. Khi nghe thấy tiếng la hét của đám đông, tôi nghĩ chắc là mình trông rất tuyệt. Rồi tôi để ý thấy có gì đó đang bốc lên quanh người. Khói. Từ đống lửa. Không phải thứ lập lòe mà tôi đã dùng năm ngoái trong cỗ xe ngựa, mà thứ gì đó thật hơn đang thiêu hủy chiếc váy. Tôi bắt đầu hoảng sợ khi khói trở nên dày đặc. Một ít tàn lụa cháy đen xoáy vào trong không trung và những viên ngọc trai rơi lách cách trên sân khấu. Không hiểu sao tôi sợ ngừng lại vì cơ thể tôi như là không bị thiêu đốt và tôi biết Cinna sẽ ở phía sau dù chuyện gì có xảy đến. Thế nên tôi tiếp tục xoay tròn rồi xoay tròn. Trong một giây ngắn ngủi, tôi thở hổn hển, hoàn toàn chìm vào trong ngọn lửa kì lạ. Rồi đột ngột, đống lửa tắt ngấm. Tôi chầm chậm dừng lại được, băn khoăn không biết tôi có hở hang không và tại sao Cinna lại sắp xếp để đốt cháy bộ váy cưới của tôi nữa. Nhưng tôi không trần truồng. Tôi đang mặc chiếc váy giống hệt chiếc váy cưới, chỉ khác là nó có màu đen như than và được tạo nên bởi những cọng lông vũ nhỏ xíu. Thật ngạc nhiên, tôi nâng tay áo dài và mềm mại lên không trung và đó là lúc tôi thấy chính mình trên màn hình tivi. Toàn thân phủ màu đen ngoại trừ phần mảnh vải trắng trên tay áo. Hoặc tôi nên gọi là những đôi cánh. Vì Cinna vừa biến tôi thành một con chim nhại. Chap 18 Tôi vẫn nén giận đôi chút, bao gồm cả lúc bàn tay ướm thử của Caesar vươn ra để chạm vào mũ tôi. Phần vải trắng đã bị thiêu sạch, để lại một tấm mạng màu đen mềm mại và vừa vặn che lên đường viền cổ váy sau lưng. “Những chiếc lông vũ,” Caesar nói. “ Cô trông như một con chim vậy.” “Tôi nghĩ là một con chim nhại.”, tôi đáp và vỗ nhẹ phần cánh. “Đó là con chim trên chiếc ghim cài mà tôi đeo như một vật tượng trưng.” Một thoáng nhận ra hiện trên gương mặt Caesar và tôi có thể thấy anh ta biết con chim nhại không chỉ là biểu tượng của riêng tôi. Rằng nó hẳn phải tượng trưng cho nhiều thứ khác. Và những gì được xem như là màn biến đổi trang phục sặc sỡ tại Capitol này sẽ gây tiếng vang theo cách hoàn toàn khác ra khắp các quận. Nhưng anh ta đã hiểu đúng nó. “Chà, khá khen cho nhà tạo mẫu của cô. Tôi không nghĩ bất cứ ai có thể chứng tỏ đây không phải thứ tuyệt vời nhất mà chúng ta từng xem trong một buổi phỏng vấn. Cinna, tôi nghĩ anh nên cúi chào ” Caesar làm điệu bảo Cinna đứng lên. Anh ấy đứng lên và hơi cúi chào lịch sự. Đột nhiên tôi thấy lo cho anh ấy. Anh ấy vừa làm gì nhỉ? Làm gì đó cực kì nguy hiểm. Chính việc ấy tự nó là một hành động phản loạn. Và anh ấy làm nó vì tôi. Tôi nhớ những lời này… “Đừng lo. Anh luôn giấu nhẹm cảm xúc vào trong công việc. Cách đó khiến anh không tổn thương ai cả trừ bản thân.” … và tôi sợ anh ấy làm tổn thương chính mình chứ không phải chuộc lỗi. Biểu hiện trở nên nôn nóng của tôi sẽ không đánh lạc hướng được Tổng thống Snow. Khán giả bị làm cho choáng váng mà im lặng giờ lại hoan hô nhiệt liệt. Tôi có thể nghe thấy rõ ràng tiếng còi báo hiệu ba phút đã hết. Caesar nói cảm ơn tôi và tôi trở lại chỗ ngồi, bộ váy bây giờ cảm tưởng còn nhẹ hơn là không khí. Khi đi qua Peeta đang bước lên phỏng vấn, cậu ấy không chạm phải ánh mắt tôi. Tôi cẩn thận ngồi vào ghế nhưng tránh xa chỗ khói phả ra khắp nơi, dường như khi đã bình yên vô sự, tôi chuyển sự chú ý sang Peeta. Caesar và Peeta đã từng là một đội theo lẽ đương nhiên kể từ lần đầu tiên họ xuất hiện cùng nhau một năm trước. Khoản đối đáp thoải mái, sự khôi hài và khả năng biến chuyển nhẹ nhàng sang những khoảnh khắc lắng đọng vào tận tâm, như việc thú nhận tình yêu của Peeta với tôi, đã tạo cho họ được thành công lớn với khán giả. Họ không khó khăn gì mà mở màn với vài câu chuyện đùa về những đốm lửa, lông vũ và những con vẹt nấu nhũn. Nhưng ai cũng thấy Peeta đang bận trí nên Caesar hướng cuộc đối thoại ngay sang chủ đề trong ý nghĩ mọi người. “Vậy , Peeta, cảm giác thế nào sau khi cậu trải qua mọi chuyện và nghe tin về Cuộc dẹp loạn?” Caesar hỏi. “Tôi bị kích động. Ý tôi là, trong một phút tôi thấy Katniss trông thật lộng lẫy trong những bộ trang phục cô dâu đó, và rồi…”, Peeta kéo dài giọng. “Cậu nhận ra là sẽ không bao giờ có một đám cưới?” Caesar hỏi nhẹ nhàng. Peeta im lặng một lúc, như đang quyết định. Cậu ấy nhìn quanh đám khán giả đang say sưa, rồi nhìn xuống sàn nhà bằng thiếc, cuối cùng nhìn lên Caesar. “Caesar, anh có nghĩ tất cả những người bạn của chúng ta ở đây có thể giữ bí mật không ?” Một tràng cười gượng gạo phát ra từ phía khán giả. Ý cậu ấy có thể là gì? Giữ bí mật khỏi ai? Cả thế giới đang xem chương trình. “Tôi khá chắc về điều đó .” Caesar đáp. “Chúng tôi đã kết hôn rồi.” Peeta nói khẽ. Đám đông phản ứng kinh ngạc và tôi phải giấu mặt trong những nếp gấp của chiếc váy để họ không thấy được nét bối rối của tôi. Cậu ta đang làm cái quái gì thế? “Nhưng… sao có thể ?” Caesar thắc mắc. “À, nó không phải lễ kết hôn chính thức. Chúng tôi không tới tòa nhà tối cao hay gì khác. Nhưng chúng tôi tổ chức buổi lễ ở quận 12. Tôi không biết sẽ thế nào nếu ở các quận khác. Nhưng chúng tôi đã tổ chức ở đó.”, Peeta trả lời, rất nhanh mô tả buổi nướng bánh. “Có gia đình cậu ở đó không ?” Caesar đáp. “Không, chúng tôi không nói với ai cả. Thậm chí cả bác Haymitch. Và mẹ Katniss thì sẽ không bao giờ đồng thuận. Nhưng anh thấy đấy, chúng tôi biết hôn lễ ở Capitol thì không có buổi nướng bánh. Không ai trong chúng tôi muốn chờ đợi cả. Nên vào một ngày, chúng tôi tổ chức nó thôi,” Peeta tiếp tục. “Và với chúng tôi, hai người đã là vợ chồng còn trên cả một mẩu giấy hay một bữa tiệc tùng.” “Vậy việc này xảy ra trước Cuộc dẹp loạn?” Caesar hỏi. “Tất nhiên là trước. Tôi chắc chắn chúng tôi sẽ không tổ chức sau khi đã biết tin,” Peeta đáp, bắt đầu trở nên trầm tư. “Nhưng ai có thể biết là nó sẽ xảy đến chứ? Không ai cả. Chúng tôi cùng trải qua Đấu trường, là những nhà vô địch, mọi người có vẻ rộn ràng khi thấy chúng tôi đi cùng nhau và rồi biến mất ở đâu đó, ý tôi là, sao mà chúng ta có thể đoán trước một việc như vậy?” “Cậu không thể, Peeta ạ.” Caesar quàng một tay qua vai cậu ấy. “Như cậu nói, không ai có thể. Nhưng tôi phải thừa nhận, tôi vui vì hai người ít nhất cũng có vài tháng hạnh phúc bên nhau.” Một tràng pháp tay vang dội. Như được kích thích, tôi nhìn lên từ những cọng lông vũ và để đám khán giả nhìn thấy nụ cười cám ơn bi thương của tôi. Chỗ khói còn lại bốc lên từ đám lông khiến mắt tôi ngập nước, bổ sung thêm một vẻ xúc động rất thích hợp. “Tôi không vui vẻ gì,” Peeta đáp. “Tôi mong chúng tôi chờ được cho đến khi toàn bộ mọi việc diễn ra chính thức.” Câu này khiến Caesar sửng sốt. “Chắc chắn một thời cơ chớp nhoáng còn hơn không có chút thời cơ nào đúng không?” “Có lẽ tôi cũng nghĩ vậy, Caesar ạ,” Peeta nói cay đắng, “nếu nó không phải vì những đứa trẻ.” Đấy. Cậu ta lại thế. Quăng một quả bom xóa sạch những nỗ lực của những vật tế khác đã dẫn trước cậu ta. Chà, chắc là không chứ. Có thể năm nay cậu ta chỉ châm ngòi cho quả bom mà những nhà vô địch tự tay tạo ra. Rồi mong ai đó có thể làm nó nổ tung. Rồi cho rằng đó là tôi trong bộ váy cô dâu. Không cần biết tôi tin tưởng vào tài năng của Cinna thế nào nhưng Peeta khi đó chả cần gì ngoài mưu kế của cậu ấy. Khi quả bom phát nổ, nó sẽ lan truyền đi bản cáo trạng của sự bất công, dã man và độc ác ra tứ phía. Thậm chí những kẻ cuồng Capitol, đói trò chơi, khát máu người ngoài kia cũng không thể làm ngơ trước sự khủng khiếp không tưởng của nó trong một giây nào. Tôi có thai. Khán giả không thể tiêu hóa cái tin tức đó ngay tức khắc. Nó làm họ choáng váng, đắm chìm và nhầm lẫn với những âm thanh khác trước khi bắt đầu kêu lên như tiếng gầm của con thú bị thương, rên rỉ, gào thét, kêu gọi sự giúp đỡ. Còn tôi? Tôi biết mặt tôi được chiếu cận cảnh căng đét trên màn hình nhưng không làm được gì để che đậy nó đi. Vì mất một lúc tôi mới hiểu lời Peeta. Đó có phải là điều tôi ghê sợ nhất về đám cưới, về tương lai đánh mất những đứa trẻ trong cuộc đấu không?. Còn giờ có thật không khi tôi chẳng dành cuộc đời để xây dựng lớp lá chắn phòng thân rồi tới lúc phải đầu hàng trước lời đề nghị hôn nhân hay lập gia đình? Caesar không thể kiểm soát được đám đông nữa, cả khi tiếng còi đã vang lên. Peeta gật đầu cảm ơn và quay lại chỗ ngồi mà không nói gì thêm. Tôi có thể thấy môi Caesar mấp máy, nhưng ở đây hoàn toàn hỗn độn và tôi không thể nghe thấy gì. Chỉ khi tiếng kèn của bài quốc ca được bật lớn như đang xuyên thấu các mảnh xương, thì chúng tôi mới biết đang tới phần nào của chương trình. Tôi tự động đứng lên và khi đó linh cảm Peeta đang tiến về phía mình. Nước mắt lăn trên mặt Peeta khi tôi nắm lấy tay cậu ấy. Những giọt nước mắt chân thật tới mức nào? Điều này ám chỉ rằng cậu ấy bị đeo bám bởi cùng một nỗi sợ hãi giống tôi sao? Giống mọi kẻ chiến thắng khác? Giống mọi cặp bố mẹ ở mọi quận tại Panem? Tôi liếc nhìn đám đông, nhưng khuôn mặt bố mẹ Rue như đang chập chờn trước mắt. Nỗi đau đớn của họ. Nỗi mất mát của họ. Tôi bỗng dưng quay sang nhìn Chaff và vươn tay ra. Tôi cảm giác những ngón tay mình bao quanh chỗ tay bị cụt mà giờ đã bao trọn cánh tay ông ấy và giữ giặt. Và rồi điều đó xảy ra. Hàng trên hàng dưới, các nhà vô địch bắt đầu đan tay vào nhau. Vài kẻ lẩn đi ngay, như bọn nghiện morphine, hay Wiress và Beetee. Người khác thì do dự nhưng cũng hòa vào những người quanh họ, như Brutus và Enobaria. Lúc bài quốc ca ngân lên những giai điệu cuối cùng, tất cả hai mươi tư người chúng tôi đứng thành một hàng vững chãi cùng thể hiện tình đoàn kết công khai lần đầu tiên giữa các quận kể từ thời kì đen tối. Bạn có thể thấy việc này bị phát hiện khi màn hình bắt đầu nhấp nháy màu đen sì. Dù thế nhưng quá muộn rồi. Trong cảnh rối loạn họ đã không cắt cảnh đúng lúc. Mọi người đều đã nhìn thấy. Trên sân khấu giờ cũng mất trật tự khi đèn điện đều ngắt phụt và chúng tôi bị bỏ lại để dò dẫm quay về Trung tâm huấn huyện. Tôi không còn giữ tay ông Chaff, nhưng Peeta dẫn tôi vào vào trong thang máy. Finnick và Johanna cố bám theo nhưng một tên canh giữ hấp tấp đã chắn đường họ và chúng tôi bước đi trước. Lúc ra khỏi thang máy, Peeta ghì vai tôi lại. “Không có nhiều thời gian nữa nên nói ngay đi. Tớ có phải xin lỗi vì điều gì không?” “Không gì cả.” tôi đáp. Đó là bước tiến lớn khi hành động mà không có sự đồng ý của tôi, nhưng không hiểu sao tôi thấy vui vẻ, tôi cũng chẳng có thời gian để lại phỏng đoán cậu ấy hay để bất kì cảm giác tội lỗi nào với Gale làm tôi lơ đi cảm nhận đối với những gì Peeta làm. Nó thật có sức mạnh. Ở nơi nào đó, rất xa chỗ này, một nơi gọi là Quận 12, mẹ và em gái cùng bạn bè tôi sẽ phải đối mặt với đống hoang tàn sau tối hôm nay. Ngày mai, ngay khi chiếc tàu đệm khí bay đi khỏi là cả một trường đấu nơi Peeta, tôi và những vật tế khác sẽ phải đối mặt với mọi hình thức trừng phạt. Nhưng dù tất cả đều vấp phải một kết cục khủng khiếp, có gì đó trên sân khấu tối nay không thể bỏ dở. Những nhà vô địch đã đưa lên sân khấu sự nổi loạn của chính mình và có lẽ, chỉ có lẽ thôi, rằng Capitol sẽ không thể ngăn chặn việc này. Chúng tôi đợi những người khác quay lại nhưng khi thang máy mở ra, chỉ có Haymitch xuất hiện. “Ngoài đó giờ loạn rồi. Mọi người bị đuổi về nhà và họ đã hủy bỏ phần phát sóng buổi phỏng vấn qua tivi.” Peeta và tôi lao đến bệ cửa sổ và cố nghe ngóng cuộc bạo động ở tít phía dưới đường. “Họ đang nói gì vậy ?” Peeta hỏi. “Có phải họ đang yêu cầu Tổng thống dừng Cuộc đấu lại không ?” “Ta không nghĩ bản thân họ biết cần hỏi gì. Toàn bộ tình huống này chưa có tiền lệ. Thậm chí ý nghĩ phá hoại trật tự của Capitol vừa bắt nguồn từ cuộc hỗn loạn vừa rồi thôi.” ông Haymitch lên tiếng . “Nhưng Snow không còn cách nào khác là hủy bỏ Cuộc đấu. Các cháu biết thế mà đúng không?” Tôi biết. Tất nhiên giờ ông ta không thể cải thiện được gì nữa. Lựa chọn duy nhất chừa lại cho ông ta là đấu tranh lại và đấu tranh cật lực. “Những người khác về nhà chưa ạ ?” tôi hỏi. “Họ bị ra lệnh về nhà. Ta không biết họ có bao nhiêu may mắn khi vượt qua chỗ khu chợ nữa.” ông Haymitch nói. “Chúng ta sẽ không thấy bà Effie nữa.” Peeta thêm vào. Chúng tôi không thấy bà ấy vào buổi sáng cuộc đấu năm ngoái. “Tớ sẽ gửi lời cảm ơn tới bà ấy.” “Hơn cả thế ấy chứ. Phải thật đặc biệt mới được. Bà Effie mà. Cuối cùng…” tôi nói. “hãy nói chúng ta ca tụng bà ấy thế nào và bà ấy là người chỉ dẫn tuyệt vời thế nào rồi nói là… nói chúng ta gửi tình cảm yêu mến tới bà.” Mất một lúc chúng tôi chỉ đứng trong im lặng, hoãn nói ra những lời vẫn thường nói. Rồi ông Haymitch lên tiếng : “Ta đoán đây cũng là nơi chúng ta nói lời tạm biệt thôi.” “Thế lời khuyên cuối cùng là gì ạ?” Peeta hỏi “Hãy sống sót,” ông Haymitch nói cộc lốc. Giờ với chúng tôi nó gần như là một trò đùa cũ rích rồi. Ông ấy trao cho từng người một cái ôm nhanh chóng và tôi biết đó là tất cả những gì ông ấy có thể kìm nén. “Đi ngủ đi. Các cháu cần nghỉ ngơi” Tôi biết mình nên nói một tràng với ông ấy, nhưng tôi không thể nghĩ ra điều gì mà ông ấy chưa biết, thực sự là vậy, và dù sao thì cổ họng tôi đã nghẹn cứng lại mà tôi ngờ chẳng lời nào thốt ra được. Nên lại một lần nữa, tôi để Peeta lên tiếng thay cả hai. “Tự chăm sóc bản thân nhé bác Haymitch.” Peeta nói. Chúng tôi đi ngang qua căn phòng, nhưng tới ngưỡng cửa, giọng ông Haymitch làm chúng tôi dừng bước. “Katniss, khi cháu đang trong trường đấu,” ông ấy mở lời. Rồi ngừng lại. Ông ấy quắc mắt lên theo cái cách mà tôi chắc rằng mình vừa làm ông ấy thất vọng. “Gì ạ?” tôi hỏi vẻ đề phòng. “Cháu chỉ cần nhớ ai mới là kẻ thù.” Ông Haymitch nói với tôi. “Chỉ có thế. Giờ đi đi. Hãy ra khỏi đây.” Chúng tôi bước xuống hành lang. Peeta muốn dừng lại để vào phòng rồi khoe màn trang điểm và định gặp tôi trong vài phút nữa, nhưng tôi không chịu. Tôi chắc rằng nếu một cánh cửa đóng lại giữa chúng tôi, nó sẽ khóa trái và tôi phải trải qua một đêm mà không có cậu ấy. Nhưng tôi phải tắm trong phòng mình. Tôi chần chừ việc buông tay cậu ấy ra. Chúng tôi đi ngủ sao? Tôi không biết nữa. Chúng tôi dành cả đêm ôm lấy nhau, nửa chừng giữa mơ màng và tỉnh giấc. Không trò chuyện. Cả hai sợ rằng sẽ quấy rầy người kia với hi vọng rằng sẽ có thể giữ gìn những giây phút nghỉ ngơi quý giá ít ỏi. _______________________ Cinna và Portia đến vào rạng sáng và tôi biết Peeta phải đi. Những vật tế sẽ vào trường đấu một mình. Cậu ấy trao cho tôi cái hôn phớt. “Gặp cậu sớm thôi.” “Hẹn gặp lại.” tôi trả lời. Cinna, người sẽ giúp tôi chỉnh trang cho Đấu trường, đi cùng tôi lên mái nhà. Tôi sắp trèo lên chiếc thang dây tới chỗ tàu đệm khí thì lại nhớ ra. “Em chưa tạm biệt Portia.” “Anh sẽ nói lại với cô ấy.” Cinna đáp. Dòng điện khiến tôi thấy lạnh người khi ở trên cầu thang cho tới khi vị bác sĩ găm một chip theo dõi lên cẳng tay trái. Giờ họ sẽ luôn luôn có thể định vị tôi trong trường đấu. Chiếc tàu đệm khí cất cánh và tôi nhìn ra cửa sổ cho tới khi đèn tắt ngấm. Cinna vẫn ép tôi ăn và khi không được, lại bắt tôi uống. Tôi cố nhấp ngụm nước, nghĩ tới những tháng ngày bệnh thải nước gần như đã giết chết tôi năm ngoái. Nghĩ về việc tôi sẽ cần nhiều sức mạnh đến thế nào để giữ cho Peeta sống sót. Khi chúng tôi đến được phòng giặt là của trường đấu, tôi đi tắm. Cinna bện tóc tôi thả sau lưng và giúp tôi chọn vài bộ quần áo lót đơn giản. Quần áo năm nay của vật tế là bộ liền thân màu xanh, làm từ chất liệu nhìn thấy cả da, có kéo khóa đằng trước. Một chiếc thắt lưng độn bông rộng 6 inch phủ chất liệu nhựa tím sáng. Một đôi giầy ni lông đế cao su. “Anh nghĩ thế nào ?” tôi hỏi, đưa chỗ vải ra cho Cinna kiểm tra. Anh ấy cau mày khi cọ xát chất vải giữa các ngón tay. “Anh không biết nữa. Nó sẽ là một cách bảo vệ khỏi cái lạnh hoặc nước.” “Mặt trời thì sao ?” tôi hỏi, hình dung ra cảnh mặt trời nóng bỏng trên sa mạc cằn cỗi. “Có thể. Nếu nó được xử lí,” anh ấy trả lời. “À, anh gần như quên mất cái này.” Cinna lấy chiếc ghim cài chim nhại của tôi từ trong túi áo và gắn nó vào bộ đồ liền thân. “Tối nay trang phục của em thật đồng bóng.” Tôi nói. Đồng bóng và táo bạo. Nhưng Cinna hẳn biết thế. “Anh nghĩ có lẽ em thích.” Anh ấy cười gượng. Chúng tôi ngồi xuống như năm ngoái, nắm tay nhau cho tới khi có tiếng nói bảo tôi chuẩn bị cho màn mở đầu. Anh ấy bước cùng tôi tới chiếc bục sắt hình tròn và cẩn thận kéo khóa phần cổ bộ đồ liền thân. “Nhớ này, cô gái lửa,” Cinna nói. “Anh vẫn cá cược cho em đấy.” Anh ấy hôn lên trán tôi và bước lùi lại khi lồng kính hình trụ hạ xuống bao quanh tôi. “Cảm ơn anh.” Tôi đáp, dù có thể anh ấy không nghe thấy tôi. Tôi nâng cằm, giữ đầu luôn ngẩng cao như anh ấy luôn dặn tôi và chờ đợi chiếc bục lên cao. Nhưng nó không di chuyển. Vẫn không có gì cả. Tôi nhìn Cinna, nhấc lông mày đòi một lời giải thích. Anh ấy chỉ lắc nhẹ đầu, bối rối như tôi. Sao họ lại hoãn lại ? Đột nhiên cánh cửa sau anh ấy bật mở và ba tên canh giữ xông vào căn phòng. Hai kẻ kẹp tay anh ấy sau lưng và thụi trong khi tên thứ ba đánh mạnh vào thái dương anh ấy với một lực khiến anh gục xuống đầu gối. Nhưng chúng vẫn tiếp tục đánh Cinna bằng đôi găng tay tán đinh kim loại, tạo thành những vết cắt dài trên mặt và cơ thể anh. Tôi kêu thét lên, đấm mạnh vào mặt kính cứng rắn, cố gắng vươn tới chỗ anh. Những tên lính canh hoàn toàn lờ tôi đi khi chúng kéo cơ thể mềm oặt của Cinna ra khỏi phòng. Những gì còn lại là vết máu loang trên sàn. Khi thấy buồn nôn và hoảng hốt, tôi mới cảm giác chiếc bục bắt đầu lên cao. Tôi vẫn đứng dựa vào tấm kính khi cơn gió nhẹ thổi qua tóc và tôi gắng giữ mình đứng thẳng. Cũng thật đúng lúc vì tấm kính đã mở ra và tôi đang đứng giữa trường đấu. Mắt tôi như có vấn đề. Mặt đất trở nên quá sáng chói và liên tục dập dờn. Tôi gục lên một chân và thấy chiếc bục kim loại được bao phủ bởi những gợn sóng xanh lam phủ lên đôi giầy. Tôi chầm chậm ngước mắt lên và hiểu được nước đang lan ra từ mọi hướng. Tôi chỉ có thể nghĩ ra một điều chắc chắn. Rằng đây không phải nơi dành cho một cô gái lửa. PART 3: KẺ THÙ Chap 19 “Thưa quý ông quý bà, hãy để Đấu trường sinh tử lần thứ bảy mươi lăm được bắt đầu!” Giọng Claudius Templesmith, phát ngôn viên của Đấu trường sinh tử nện vào tai tôi. Tôi mất gần một phút để quen dần với sức chịu đựng. Tiếng chiêng vang lên và các vật tế sẽ được thả ra khỏi những chiếc bục sắt. Nhưng đi đâu? Tôi không thể nhận thức ngay được. Cảnh Cinna bị đánh đập và đầy máu me làm tôi khủng hoảng. Giờ anh ấy đang ở đâu? Chúng sẽ làm gì anh ấy? Tra tấn? Giết hại? Biến anh ấy thành một Avox? Rõ ràng sự công kích của Cinna được sắp sẵn để tôi rối trí, giống cái cách mà Darius xuất hiện ở khu phố chỗ tôi. Và nó đã làm tôi rối trí thật. Tất cả những gì tôi muốn là gục người lên tấm bục. Nhưng tôi không thể làm thế sau những gì vừa được chứng kiến. Tôi phải mạnh mẽ lên. Tôi nợ Cinna điều đó, người bất chấp mọi thứ bằng việc ngầm đối đầu với tổng thống Snow và biến bộ váy lụa cô dâu thành bộ lông chim nhại. Và tôi còn nợ đám dân nổi loạn điều đó, những người bị kích động bởi tấm gương của Cinna, hiện có lẽ đang đấu tranh để hạ bệ Capitol. Lời từ chối tham gia đấu trường cùng luật lệ của Capitol sẽ là hành động nổi loạn sau cùng của tôi. Nên tôi cắn răng chịu đựng và bằng lòng với việc mình là một người chơi. Mọi người ở đâu? Tôi vẫn không thể cảm nhận được xung quanh. Mọi người ở đâu vậy?! Tôi cần câu trả lời từ chính mình và rồi cảnh vật dần trở nên rõ ràng hơn. Nước màu xanh. Bầu trời hồng. Mặt trời tỏa ánh nắng nóng nực xuống dưới. Được rồi, có một cái sừng dê, cái sừng bằng vàng sáng lấp lánh, cách xa chừng 40 yard. Nhưng xem xét gần hơn, tôi thấy những dải đất mở rộng ra từ một vòng tròn theo kiểu nan hoa trên bánh xe. Tôi nghĩ có từ mười tới mười hai và dường như chúng cách đều nhau. Giữa những cái nan hoa, tất cả là nước. Nước và một đôi người hiến tế. Chính là nó. Có mười hai chiếc nan hoa, mỗi cái có hai vật tế đứng cân bằng trên những chiếc bục đặt giữa chúng. Vật tế còn lại ở chỗ cái nêm nước của tôi là ông Woof già từ quận 8. Ông ta dường như cách xa phía phải tôi còn dải đất ở bên tay trái. Ngoại trừ nước ra thì bất cứ chỗ nào bạn nhìn tới là một bãi biển hẹp và sau đó là vùng cây cỏ dày đặc. Tôi nhìn lướt qua vòng tròn các vật tế, tìm Peeta nhưng chắc là cậu ấy bị khuất tầm nhìn do chiếc sừng dê. Tôi hớt lấy một ít nước khi nó chảy qua và nếm thử. Rồi chạm đầu ngón tay ướt nước vào lưỡi. Như tôi nghi ngờ, nó là nước muối. Giống như những con sóng mà Peeta và tôi đã gặp trong chuyến diễu hành ngắn ngày tại bờ biển ở Quận 4. Nhưng ít nhất nó còn có vẻ sạch. Không có xuồng, dây cọc, thậm chí còn không có một mẩu gỗ cọc để bám vào. Không đúng, chỉ có một con đường dẫn tới chỗ chiếc sừng dê. Khi tiếng chiêng vang lên, tôi thậm chí còn không do dự trước lúc nhảy ùm xuống về bên trái. Đó là một quãng bơi dài hơn quãng tôi thường bơi, và việc vượt sóng cần nhiều kĩ năng hơn việc bơi ngang qua chiếc hồ lặng sóng ở nhà, nhưng cơ thể tôi dường như nhẹ một cách kì lạ và bơi ngang dòng nước mà không tốn sức. Chắc đó là do muối. Tôi lê cơ thể nhỏ nước lên dải đất và lao tới bãi cát chỗ sừng dê. Tôi không thấy ai khác xuất hiện ở gần, dù chiếc sừng vàng đã che khuất đáng kể một phần tầm nhìn. Nhưng tôi không thể để ý nghĩ về các đối thủ làm tôi chậm bước. Bây giờ tôi sẽ suy nghĩ như một kẻ nhà nghề và điều đầu tiên tôi muốn là chạm tay vào một loại vũ khí. Năm ngoái, đồ tiếp tế được rải ra quanh chiếc sừng dê với những thứ có giá nhất thì ở gần chiếc sừng nhất. Nhưng năm nay phần thưởng được xếp đống thành núi cao 20 feet. Mắt tôi nhanh chóng định vị được một bộ cung tên vàng ở ngay trong tầm với và tôi dễ dàng đoạt lấy nó. Có ai đó ở phía sau. Tôi không hiểu sao như được báo động bởi sự thay đổi nhỏ của mặt cát hay có lẽ chỉ là sự thay đổi luồng không khí. Tôi rút một mũi tên từ bao tên vẫn còn mắc trên đống phần thưởng và chỉnh đốn chiếc cung khi quay người lại. Finnick, chói lòa và huy hoàng, đứng cách xa vài yard, với một chiếc đinh ba sẵn sàng phản công. Một dây thòng lọng ở tay còn lại. Anh ta hơi cười cười, nhưng có thể thấy được cơ bắp phần trên của anh ta đã cứng lên. “Cô cũng biết bơi” anh ta lên tiếng , “Cô đã học ở đâu tại quận 12?” “Chúng tôi có một cái bồn tắm lớn,” tôi trả lời. “Chắc thế,” anh ta đáp. “Cô thích trường đấu chứ?” “Không đặc biệt lắm. Nhưng anh nên thấy thích thú. Họ chắc đặc biệt xây nó cho anh.” tôi nói hằn hộc. Dù sao thì thật tốt khi khắp nơi là nước, vì tôi cá chắc chỉ có vài người biết bơi. Không có cái bể bơi nào ở trung tâm huấn huyện, không có cơ hội nào để học bơi. Bạn bước được vào đây thì phải là một vận động viên bơi lội hoặc một học viên thực sự nhanh nhạy. Thậm chí việc bị thảm sát ngay từ đầu còn phụ thuộc vào khả năng vượt qua 20 yard mặt nước. Điều đó khiến cho quận 4 một lợi thế khổng lồ. Mất một lúc để chúng tôi ngừng cử động, đánh giá tầm vóc, vũ khí và kĩ năng của đối thủ. Đột nhiên Finnick cười nhăn răng. “May mà chúng ta là đồng minh. Phải không?” Cảm nhận được một cái bẫy, tôi gần như đã bắn ra mũi tên, hi vọng nó trúng tim anh ta trước khi chiếc đinh ba đâm xuyên người tôi, khi mà anh ta đổi tay và có gì đó trên cổ tay bắt gặp ánh mặt trời. Một chiếc vòng bằng vàng ròng có họa tiết các đốm lửa. Giống chiếc vòng mà tôi nhớ là trên cổ tay ông Haymitch vào buổi sáng bắt đầu luyện tập. Tôi nhanh chóng suy ra rằng Finnick có thể đã lấy cắp nó để đánh lừa tôi, nhưng không hiểu sao tôi biết đây không phải là sự thật. Ông Haymitch đã đưa nó cho anh ta. Như một lời ra hiệu tới tôi. Thực ra là một mệnh lệnh. Rằng phải tin Finnick. Tôi có thể nghe thấy bước chân khác đang tới gần. Phải lập tức ra quyết định. “Đúng vậy!” tôi cáu kỉnh, vì dù ông Haymitch là cố vấn của tôi và cố gắng giữ mạng cho tôi thì việc này cũng làm tôi khó chịu. Sao ông ấy không nói với tôi là đã sắp xếp vụ này trước? Có thể bởi vì Peeta và tôi đã bác bỏ việc liên kết. Giờ thì ông Haymitch đã tự chọn một mối liên minh cho mình. “Cúi xuống !” Finnick ra lệnh bằng một giọng đầy quyền uy, khác hẳn với tiếng gầm gừ quyến rũ bình thường khiến tôi hành động ngay. Chiếc đinh ba xẹt qua đầu tôi và có một âm thanh va chạm tởm phát nôn khi nó đến được chỗ mục tiêu. Người đàn ông từ quận 5, kẻ say khướt đã nôn thốc lên sàn đấu kiếm, đổ gục người xuống đầu gối khi Finnick nhổ chiếc đinh ra khỏi ngực hắn. “Đừng tin người Quận 1 và 2.” Finnick nói. Chẳng còn thời gian mà truy vấn câu nói này. Tôi nhấc chiếc bao tên ra. “Mỗi người một phía chứ?” tôi nói. Anh ta gật đầu và tôi đi vòng quanh đống phần thưởng. Chừng bốn chiếc nan hoa bị tách ra thì Enobaria và Gloss vừa mới tới được bờ. Họ có là những người bơi chậm chạp hay nghĩ dòng nước có thể rình rập nhiều mối nguy hiểm khác thì đều tốt cả. Thỉnh thoảng sẽ không tốt khi để tâm đến quá nhiều cảnh đẹp. Nhưng giờ thì họ đang ở trên bờ, họ sẽ ở đây vì một nguyên nhân khác. “Có gì hữu dụng không?” tôi nghe tiếng Finnick hét hò. Tôi nhanh chóng nhìn lướt qua đống đồ bên cạnh và tìm thấy chùy, gươm, cung tên, đinh ba, dao, giáo mác, rìu, vài đồ vật kim loại mà tôi không biết tên… hết. “Vũ khí !” tôi vọng lại . “Không gì ngoài vũ khí cả!” “Ở đây cũng thế,” anh ta xác nhận. “Mang những gì cô muốn và đi thôi”. Tôi bắn một mũi tên về phía Enobaria đang trong tầm bắn quá gần nhưng cô ta lại đang chờ nó tới và lặn ngay xuống nước trước khi nó tìm được mục tiêu. Gloss thì không nhanh nhẹn lắm và tôi xuyên được một mũi tên lên bắp chân gã khi gã lao xuống nước. Tôi quàng thêm một chiếc cung tên khác và bao tên thứ hai vào người, giắt hai con dao dài và một cái giùi vào thắt lưng và gặp Finnick ở đằng trước đống đồ. “Cô sẽ làm gì với nó?” Finnick hỏi. Tôi thấy Brutus đang khó khăn tiến về phía chúng tôi. Thắt lưng gã ta được tháo ra và gã căng nó ra bằng tay thành một loại lá chắn. Tôi bắn gã và gã thành công khi chặn mũi tên bằng chiếc thắt lưng trước khi nó kịp xuyên qua gan. Chỗ mũi tên đâm thủng thắt lưng, một chất lỏng màu tím phòi ra, bắn vào mặt gã. Khi tôi nạp lại tên, Brutus nằm sóng xoài trên mặt đất, lăn vài feet tới chỗ nước và lặn xuống. Có tiếng kim loại rơi sau lưng tôi. “Dọn dẹp thôi.” tôi nói Finnick. Cuộc vật lộn vừa rồi đã tạo cho Enobaria và Gloss thời gian để tới chỗ Sừng dê. Brutus thì đang ở trong tầm bắn và chắc chắn Cashmere cũng ở gần đây, chỗ nào đó. Bốn kẻ nhà nghề quen mặt này sẽ có một sự liên minh trước đó. Nếu tôi chỉ để tâm tới sự an toàn của bản thân, có lẽ tôi sẽ muốn thu nạp họ cùng với Finnick đang đứng bên cạnh. Nhưng tôi lại đang nghĩ tới Peeta. Giờ tôi đã phát hiện ra Peeta vẫn còn đang mắc lại chỗ bục sắt. Tôi bỏ đi và Finnick theo sau mà không hỏi gì, như thể biết rằng đây là bước tiếp theo của tôi. Khi tôi tới được gần khoảng cách có thể, tôi bắt đầu dỡ dao ra khỏi thắt lưng, chuẩn bị bơi ra để tới chỗ cậu ấy và bằng cách nào đó sẽ đưa cậu ấy vào. Finnick đặt bàn tay lên vai tôi. “Tôi sẽ đón cậu ta.” Trong tôi nhảy lên sự nghi hoặc. Có thể tất cả chuyện này chỉ là mưu mẹo? Để Finnick lấy được trọn niềm tin của tôi và rồi bơi ra và dìm chết Peeta? “Tôi làm được“, tôi khăng khăng. Nhưng Finnick đã vứt hết toàn bộ vũ khí xuống đất. “Tốt hơn là đừng quá sức. Đừng làm trong tình cảnh này”, anh ta nói, bước tới và vỗ nhẹ vào bụng tôi. À phải. Tôi bị cho là có thai, tôi nghĩ thế. Trong khi cố đoán xem ý anh ta là gì và tôi nên cư xử thế nào – có lẽ là nôn khan hay gì đó – thì Finnick đã ở dưới mé nước. “Yểm hộ tôi nhé,” anh ta nói. Rồi lặn mất không dấu vết. Tôi giương cung, đề phòng bất kì kẻ tấn công nào từ chỗ Sừng dê, nhưng có vẻ không ai thích truy đuổi chúng tôi. Chắc chắn là Gloss, Cashmere. Enobaria và Brutus đã tụ tập lại vì ba lô của họ đã được xếp đầy rồi, còn họ đang chọn lựa vũ khí. Một cuộc điều tra nhanh những kẻ còn lại ở đấu trường cho thấy hầu hết các vật tế vẫn đang bị mắc lại tại chỗ thanh xà ngang. Finnick giờ đã tới chỗ Peeta và đang dìu cậu ấy trở lại, một cánh tay vắt qua ngực Peeta trong khi tay còn lại đẩy họ qua làn nước với những lối bơi đơn giản. Peeta đi theo mà không chống cự. Tôi không biết Finnick nói gì hay làm gì mà thuyết phục được cậu ấy đặt cả tính mạng vào tay anh ta – có lẽ là cho cậu ấy xem chiếc vòng tay. Hoặc chỉ cần thấy tôi đang chờ đợi là đủ. Khi họ tới được bờ, tôi kéo Peeta lên chỗ đất khô ráo. “Xin chào, lần nữa” cậu ta nói và trao tôi một nụ hôn. “Chúng ta đã gặp được đồng đội rồi”. “Ờ. Chỉ khi bác Haymitch gợi ý thôi” tôi trả lời. “Nhắc tớ xem. Chúng ta còn bắt tay với ai khác không?” Peeta thắc mắc. “Tớ nghĩ chỉ có bà Mags thôi.” Tôi đáp. Tôi gật đầu về phía người phụ nữ già đang kiên trì bơi về phía chúng tôi. “Chà, tôi không thể để bà Mags ở lại,” Finnick lên tiếng “Bà ấy là một trong số ít người thực sự ưa tôi.” “Tôi không có vấn đề gì với bà Mags”, tôi đáp. “Đặc biệt là bây giờ tôi đã hiểu rõ đấu trường. Những lưỡi câu được hun nóng có thể là cách tốt nhất để nấu một bữa ăn đấy.” “Katniss đã đi tìm bà ấy ngay ngày đầu tiên.” Peeta nói. “Katniss có cách đánh giá thật đáng nể.” Finnick thêm vào. Chỉ bằng một tay vươn ra ngoài mặt nước, anh ta đã nâng bà Mags lên như thể bà ấy không nặng hơn một chú cún. Bà ấy nhận xét vài lời mà tôi nghĩ là bao gồm cả từ “nhấp nhô”, rồi vỗ nhẹ chiếc thắt lưng. “Nhìn kìa, bà ấy đã đúng. Ai đó đã khám phá ra.” Finnick chỉ vào Beetee. Ông ta đang quay vòng dưới nước nhưng vẫn giữ được đầu trên mặt sóng. “Gì cơ?” tôi nói. “Chiếc thắt lưng. Chúng là các thiết bị giữ nổi,” Finnick đáp.” Ý tôi là, cô phải tự bơi nhưng chúng sẽ giúp cô khỏi bị chết đuối.” Tôi định bảo Finnick chờ đã, để đón Beetee và Wiress và mang họ theo, nhưng Beetee còn ở xa những ba cái nan hoa và tôi thậm chí còn không thấy Wiress. Theo tôi biết, Finnick sẽ nhanh chóng giết họ như đã làm với vật tế từ quận 5, nên thay vào đó tôi đề nghị cứ đi thẳng. Tôi đưa cho Peeta một chiếc cung, một bao tên, và một con dao và giữ phần còn lại cho mình. Nhưng bà Mags giật giật tay áo tôi và lầm bầm cho tới khi tôi đưa chiếc giùi cho bà ta. Vui mừng, bà ta kẹp cán giùi giữa răng và với tay tới chỗ Finnick. Cậu ta vắt cái bẫy lưới qua vai, nhấc bà Mags ngồi lên nó, nắm chặt chiếc đinh ba ở tay còn rảnh và chúng tôi chạy ra khỏi chỗ chiếc Sừng dê. Khi hết bãi cát thì rừng cây bắt đầu nổi lên rõ ràng. Không, không hẳn là rừng cây. Ít nhất không phải là kiểu rừng mà tôi quen thuộc. Rừng nhiệt đới. “nhiệt đới” là một từ gần như cũ kĩ hiện lên trong tâm trí tôi. Từ gì đó mà tôi đã nghe đến trong một Đấu trường hoặc học từ cha tôi. Hầu hết các loại cây đều lạ lẫm, với cành mềm và vài nhánh rẽ. Mặt đất đen ngòm và mềm nhũn dưới chân, bị che khuất bởi mớ dây leo với những bông hoa màu sắc. Trong khi mặt trời nóng bỏng và chói lòa, không khí trở nên ấm áp và ẩm ướt và tôi có cảm giác ở đây không bao giờ được khô ráo. Chất vải xanh da trời mỏng dính của bộ đồ liền thân bắt đầu dính vào da tôi cùng với mồ hôi. Peeta dẫn đầu, cắt đứt những mảng thực vật rậm rạp bằng con dao dài. Tôi bắt Finnick đi thứ hai vì dù anh ta là kẻ khỏe nhất nhưng anh ta đang bận tay với bà Mags. Thêm nữa, trong khi anh ta là kì cựu với chiếc đinh ba thì nó là vũ khí ít thích hợp với rừng nhiệt đới hơn những mũi tên của tôi. Không lâu sau, do đường dốc và nóng nực, xung quanh trở nên thiếu không khí. Dù vậy, Peeta và tôi đã tập luyện tích cực và Finnick là một hình mẫu cơ thể quá lí tưởng nên với bà Mags ngồi trên vai, chúng tôi vẫn nhanh chóng leo trèo được gần một dặm trước khi Finnick đề nghị nghỉ chân. Tôi nghĩ là việc đó vì lợi ích của bà Mags hơn là bản thân Finnick. Tán lá đã che mất chỗ bánh xe nên tôi trèo lên một cái cây có tán chảy cao su để có tầm nhìn tốt hơn. Rồi tôi ước mình không thấy gì. Quanh chỗ Sừng dê, mặt đất xuất hiện vết máu; mặt nước có những chỗ loang bẩn màu tím. Xác người nằm trên mặt đất và nổi lềnh phềnh trên biển, nhưng ở khoảng cách này, mọi người đều ăn mặc giống hệt nhau nên tôi không biết ai đã chết hay còn sống. Những gì tôi biết được là có vài bóng người màu xanh bé tí vẫn còn đang chiến đấu. Chà, tôi đã nghĩ gì nhỉ? Rằng cảnh những nhà vô địch nắm tay hôm qua sẽ dẫn đến một kiểu hoãn binh thường thấy ở đấu trường chứ? Không, tôi chưa bao giờ tin điều đó. Nhưng tôi đoán mình đã hi vọng mọi người có thể bày ra vẻ…gì nhỉ? Tự chủ? Hay ít nhất thì là vẻ miễn cưỡng trước khi nhảy ngay vào con đường giết chóc. Tôi nghĩ mọi người hẳn quen biết nhau. Cư xử như những người bạn.Còn tôi chỉ có một người bạn thực sự ở đây và cậu ta không tới từ quận 4. Tôi để cơn gió nhẹ nhàng dập dờn làm mát lạnh hai má trong khi ra quyết định. Dù có chiếc vòng tay, tôi nên lờ nó đi và bắn chết Finnick. Thực sự chẳng có gì hứa hẹn với mối liên minh này cả. Còn anh ta cũng không quá nguy hiểm để có thể vượt mặt. Bây giờ khi chúng tôi đã có được sự tin tưởng, có lẽ nó là cơ hội duy nhất để giết anh ta. Tôi có thể dễ dàng bắt chết Finnick từ sau lưng khi đang bước đi. Tất nhiên nó thật là hèn hạ nhưng sẽ hèn hạ hơn không nếu tôi còn chờ đợi? Quen biết anh ta nhiều hơn nữa? Nợ anh ta nhiều hơn? Không, đây chính là lúc rồi. Tôi liếc nhìn lần cuối vào những dáng người đang đánh nhau và tụt xuống mặt đất. Nhưng khi đáp xuống, tôi thấy Finnick như bắt kịp ý nghĩ của tôi. Như thể anh ta biết tôi vừa thấy gì và nó ảnh hưởng tới tôi thế nào vậy. Anh ta ngẫu nhiên đặt một trong những chiếc đinh ba lên vị trí phòng thủ. “Chuyện gì xảy ra ở đó vậy Katniss? Bọn họ có nắm tay nhau không? Có đọc lời thề không dùng bạo lực không ? Hay là vứt béng đống vũ khí xuống biển hòng chống đối Capitol?” Finnick hỏi. “Không,” tôi trả lời. “Không,” Finnick lặp lại. “Vì bất kì chuyện gì xảy ra trong quá khứ cũng chỉ là quá khứ. Không ai trong cái trường đấu này tình cờ là một kẻ chiến thắng đâu.” Anh ta nhìn chằm chằm Peeta một lúc. “Có lẽ trừ Peeta ra.” Finnick là người biết sau ông Haymitch và tôi. Về Peeta. Thành thật và nội tâm hơn những người còn lại trong chúng tôi. Finnick đã hạ gục tên ở quận năm mà không chớp mắt. Còn tôi mất bao lâu để thực hiện đòn chí mạng? Tôi vọt tới để chém giết khi nhắm vào Enobaria, Gloss và Brutus. Còn Peeta ít nhất cũng thương lượng trước tiên. Nếu thế sẽ có thể có sự liên minh rộng hơn. Nhưng để làm gì chứ? Finnick đã đúng. Tôi cũng đúng. Mọi người ở trong đấu trường không được vinh danh vì lòng thương hại của họ. Tôi hiểu cái nhìn chằm chằm của Finnick và đánh giá tốc độ của anh ta so với tôi. Cả thời gian mà một mũi tên xuyên qua não anh ta với thời gian chiếc đinh ba găm vào cơ thể tôi. Tôi có thể thấy Finnick đang đợi tôi hành động trước để tính toán xem sẽ ngăn chặn hay trực tiếp nhào vào tấn công. Tôi cảm giác gần như hai người sắp ra tay thì Peeta tình cờ bước vào giữa. “Thế có bao nhiêu người chết?” cậu ấy hỏi. Tránh ra, tên ngốc kia , tôi tự nhủ. Nhưng Peeta vẫn cắm rễ lỳ lợm giữa chúng tôi. “Khó nói lắm,” tôi trả lời. “Tớ nghĩ ít nhất phải sáu. Và họ vẫn đang đánh nhau.” “Tiếp tục đi thôi. Chúng ta cần nước uống.” cậu ấy nói. Hoàn toàn không có dấu hiệu của suối nước ngọt hay vũng ao nào còn nước muối thì ở khắp nơi. Tôi lại nghĩ tới cuộc đấu trước đó lúc tôi gần như chết thì bệnh mất nước. “Tốt hơn là mau tìm được chút nước.” Finnick nói. “Chúng ta cần ẩn nấp khi những kẻ khác đến săn lùng tối nay.” Chúng tôi. Chính chúng tôi. Bị săn đuổi. Được rồi, có lẽ việc giết chết Finnick là hơi vội vã. Anh ta vần còn có ích lắm. Finnick hẳn là có được sự phê duyệt của ông Haymitch. Ai biết tối nay sẽ xảy ra điều gì? Nếu ngày càng tồi tệ, tôi luôn có thể giết anh ta khi đang ngủ. Thế nên tôi để thời cơ trôi qua. Và Finnick cũng thế. Việc thiếu nước làm tôi khát vô cùng. Tôi cẩn thận quan sát khi tiếp tục đi về phía trước nhưng không may. Sau một dặm nữa, tôi nhìn thấy cuối hàng cây và biết rằng chúng tôi đang tiến lên đỉnh đồi. “Có lẽ chúng ta sẽ may hơn nếu ở phía đồi bên kia. Tìm thấy một dòng suối hay gì đó.” Nhưng không có phía đồi còn lại. Tôi biết điều này trước những người khác dù đang ở xa chỗ đỉnh đồi nhất. Tôi bắt gặp một mảng hình vuông gợn sóng trông vui mắt đang treo lơ lửng như tấm kính bị bẻ cong trong không khí. Ban đầu tôi nghĩ đó là do ánh sáng mặt trời hoặc hơi nóng đang chiếu xuống mặt đất. Nhưng nó trông cố định trong không gian, không chệch đi khi tôi di chuyển. Và đó là lúc tôi liên hệ hình vuông đó với Wiress và Beetee lúc ở trung tâm huấn luyện và nhận ra cái gì đang ở phía trước. Lời cảnh báo của tôi chỉ vừa định thoát ra khỏi miệng thì con dao của Peeta đã vung lên chém đứt vài dây leo. Có tiếng vút đi rõ rệt. Trong chốc lát, những cái cây biến mất và tôi trông thấy một khoảng trống lộ ra phía trên dải đất trơ trụi. Rồi Peeta bật lại từ chỗ hàng rào chắn, đẩy Finnick và Mags xuống đất. Tôi lao tới chỗ cậu ấy đang nằm bất động ở chỗ mạng lưới dây leo. Thay vào đó, tôi không nghe thấy gì. Chap 20 “Peeta!” Tôi hét lên. Tôi lắc cậu ấy mạnh hơn nữa, thậm chí còn tát vào mặt cậu ấy, nhưng vẫn không có tác dụng. Tim cậu ấy đang đập chậm lại. Tôi cứ tát cậu ấy trong vô vọng. “Peeta!” Finnick đỡ Mags dựa vào một cái cây rồi đẩy tôi ra ngoài. “Để tôi.” Ngón tay anh chạm nhẹ lên vài điểm ở cổ Peeta rồi lướt dọc theo đường gân xuống xương sống. Sau đó, anh bỗng bóp lỗ mũi Peeta lại. “Không!” Tôi la lên, lao mình về phía Finnick, để chắc là anh ấy không có ý định làm cho Peetathật sự chết đi, để giữ lấy bất kì tia hy vọng nào để sự sống quay lại với cậu ấy. Tay Finnick đưa ra và đẩy tôi một cái thật mạnh, nhằm thẳng vào ngực, đủ để tôi bị bật lại về phía thân cây ở đằng sau. Tôi choáng váng vài giây, vì cơn đau, khi tôi cố gắng lấy lại hơi thở của mình, Finnick lại đóng mũi Peeta lại. Từ nơi tôi ngồi, tôi rút một mũi tên ra, đặt nó vào dây cung, ngay giây phút tôi sắp thả nó ra thì tôi liền khựng lại khi thấy cảnh Finnick hôn Peeta. Điều này thật quái đản, ngay cả với Finnick, tôi giữ tay mình lại. Không, anh không hôn cậu ấy. Anh ấy chặn được mũi Peeta nhưng miệng cậu ấy vẫn mở, nên anh phải thổi không khí vào phổi cậu ấy. Tôi thấy được, tôi thật sự có thể thấy ngực Peeta phồng lên rồi xẹp xuống. Sau đó Finnick gỡ phần trên áo cậu ấy ra và bắt đầu ấn vào tim cậu ấy bằng lòng bàn tay. Bây giờ thì tôi đã vượt qua được cơn sốc, tôi hiểu anh ấy đang cố gắng làm gì. Rất hiếm khi, tôi có thấy mẹ làm việc tương tự thế này, nhưng không thường xuyên. Nếu nhịp tim ai đó ở quận 12 đột xuất đập chậm lại, sẽ rất khó để gia đình họ đưa họ tới nhà tôi kịp lúc. Vậy nên những bệnh nhận của bà thường bị bỏng, bị thương hay ốm nặng. Hoặc bị bỏ đói. Nhưng thế giới của Finnick thì rất khác biệt. Bất kì điều gì anh đang làm, anh ta đều đã làm trước rồi. Nhịp thở của tôi bắt đầu lặp lại và dần ổn định. Tôi cắm đầu mũi tên xuống đất rồi khom mình tới để xem, quá vô vọng, dù cho chỉ là một dấu hiệu của sự thành công. Những phút đau đớn của tôi trôi qua trong khi hy vọng của tôi giảm dần. Lúc tôi đang quyết định rằng đã quá muộn, rằng Peeta đã chết, phải tiếp tục, không thể buông xuôi mãi được, cậu ấy bỗng ho nhẹ một tiếng và Finnick ngồi xuống. Tôi bỏ đống vũ khí xuống đất rồi nhào tới chỗ cậu ấy. “Peeta?” tôi nói nhẹ nhàng, tay vuốt nhẹ những sợi tóc vàng trước trán cậu, sự run rẩy đang chống lại những ngón tay tôi khi chúng lướt xuống cổ cậu ấy. Những sợi lông mi của cậu khẽ rung nhẹ rồi mở ra để ánh mặt của cậu gặp tôi. “Cẩn thận,” cậu nói yếu ớt. “Có một hàng rào từ trường phía trước.” Tôi cười, nhưng nước mắt lại chảy dài trên má tôi. “Chắc chắn mạnh hơn nhiều so với cái trên mái Trung tâm Huấn luyện,” cậu nói. “Tớ ổn, chỉ hơi nhức một chút thôi.” “Cậu đã chết! Tim cậu đã ngừng đập!” Tôi bật ra, trước khi thật sự nhận ra nếu nó là một ý tưởng hay. Tôi lấy tay bịt miệng mình trước khi bắt đầu tạo ra những tiếng nấc khủng khiếp khi tôi oà khóc. “Giờ nó có vẻ như đang hoạt động,” cậu nói. “Không sao mà, Katniss.” Tôi gật đầu nhưng những tiếng rên vẫn không dừng lại. “Katniss?” Bây giờ thì Peeta lại lo cho tôi, đây mới là chuyện điên rồ nhất. “Không sao đâu. Chỉ là do hoóc môn của cô ấy,” Finnick nói. “Từ đứa bé.” Tôi ngước lên và nhìn anh ta, đang ngồi thở hổn hển do phải trèo cao, vì sức nóng và nhất là nỗ lực mang Peeta về từ cõi chết. “Không. Không phải—” Tôi thốt ra, nhưng lại bị ngắt lời bởi sự bấn loạn quá độ của cơn nấc mà có vẻ biểu hiện đó lại xác nhận điều Finnick nói về đứa bé. Cậu ấy gặp ánh mắt tôi và tôi trừng mắt với cậu ấy qua dòng nước mắt. Thật ngu ngốc, tôi biết, rằng những nỗ lực của cậu ấy luôn làm tôi phật ý. Tất cả những gì tôi muốn là giữ cho Peeta được sống, tôi đã không thể làm được nhưng Finnick có thể, tôi không nên làm gì ngoài sự biết ơn cả. Và tôi thật sự biết ơn anh ta. Nhưng đồng thời tôi cũng tức giận vì điều này có nghĩa là tôi không bao giờ trả hết nợ với Finnick Odair. Không đời nào. Vậy làm thế nào mà tôi có thể giết anh ta trong lúc anh ấy ngủ chứ? Tôi mong thấy một sự thể hiện đầy kiêu ngạo hay chua cay trên gương mặt anh ấy, nhưng ánh mắt của anh lại chế nhạo một cách kì lạ. Anh ấy liếc giữa Peeta và tôi, cố gắng tìm ra điều gì đó, nhưng rồi anh lắc nhẹ đầu để xoá nó đi. “Cậu sao rồi?” Anh hỏi Peeta. “Cậu có nghĩ là cậu có thể tiếp tục đi chứ?” “Không, cậu ấy cần nghỉ ngơi,” tôi nói. Mũi tôi đang sụt sùi như điên và tôi không có tới một mảnh vải nhỏ bị xé để dùng nó như khăn tay. Mags hái một nắm rêu trên cành cây và đưa cho tôi. Tôi quá bấn loạn tới nỗi không cần đặt câu hỏi về nó. Tôi hỉ mũi thật mạnh và lau nước mắt trên mặt đi. Nó rất tốt, nắm rêu. Rất hút nước và ngạc nhiên là khá mềm mại. Tôi để ý thấy một tia sáng vàng ở ngực Peeta. Tôi với tới và lấy ra một vật hình tròn được treo trên dây chuyền quanh cổ cậu ấy. Hình con chim húng nhại của tôi đã được khắc lên nó. “Đây có phải là dấu hiệu của riêng cậu?” Tôi hỏi. “Ừ. Cậu có phiền khi tớ dùng hình chim húng nhại của cậu không, tớ muốn chúng ta hợp với nhau,” cậu ấy nói. “Không, chắc chắc là tớ không phiền đâu.” Tôi cố nở một nụ cười nhẹ. Peeta xuất hiện trong đấu trường, đeo dây chuyền hình chim húng nhại là cả một ơn phúc và cũng là một lời nguyền. Một mặt, nó làm tăng sức ép lên cuộc nổi dậy ở các quận. Mặt khác, thật khó tưởng tượng được cảnh Tổng thống Snow thấy nó, và điều đó khiến việc giữ cho Peeta được sống còn khó khăn hơn. “Vậy cô muốn dựng trại ở đây à?” Finnick hỏi. “Tôi không nghĩ đó là một sự lựa chọn,” Peeta trả lời. “Ở lại đây. Không có nước. Không có sự bảo vệ. Tôi thật sự không sao. Nếu chúng ta đi từ từ thôi.” “Từ từ vẫn còn hơn là không đi.” Finnick giúp Peeta đứng dậy trong khi tôi tự kéo mình lên. Kể từ lúc tôi thức dậy sáng nay, tôi đã chứng kiến Cinna bị đánh, hạ cánh ở một đấu trường hoàn toàn khác, và tận mắt thấy Peeta chết. Nhưng tôi mừng vì Finnick đã chơi lá bài có thai cho tôi, bởi vì từ góc nhìn của những người tài trợ, tôi không thể làm được điều gì tốt khi bụng dạ thế này. Tôi kiểm tra vũ khí của mình, để biết được là chúng đang trong tình trạng hoàn hảo, bởi vì nó giúp tôi có vẻ kiểm soát hơn. “Tôi sẽ dẫn đầu,” tôi thông báo. Peeta định phản đối nhưng lại bị ngăn Finnick lại. “Không , để cô ấy làm.” Anh ấy cau mày nhìn tôi. “Cô đã biết hàng rào từ trường sẽ ở đó, phải không? Ngay vào giây cuối cùng? Cô đã cảnh báo.” Tôi gật. “Làm sao cô biết được?” Tôi do dự. Để tiết lộ rằng tôi nhận ra nó nhờ trò đùa của Wiress và Beete rất có thể gây nguy hiểm. Tôi không biết liệu những người sản xuất có để ý tới lúc đó không, khi cả hai bọn họ kéo sự chú ý về tôi suốt cả buổi huấn luyện. Bằng cách này hay cách khác, tôi có một ít thông tin rất giá trị. Và nếu họ biết tôi biết điều này, họ có thể làm gì đó để thay đổi trường lực để tôi không thấy bất kỳ sự khác thường gì nữa. Thế nên tôi nói dối. “Tôi không biết. Gần như là tôi có thể nghe được nó. Nghe kìa.” Tất cả chúng tôi đều im lặng. Có vài tiếng của côn trùng, đàn chim, và tiếng gió lùa qua tán lá. “Tớ không nghe thấy gì cả,” Peeta lên tiếng. “Có,” tôi nhấn mạnh, “giống như tiếng hàng rào điện xung quanh quận 12 khi chúng được bật, rất rất nhỏ.” Mọi người tập trung nghe lần nữa. Tôi cũng vậy, mặc dù chả có gì để nghe. “Đó!” Tôi nói. “Mọi người có nghe thấy không? Nó phát ra từ bên phải chỗ Peeta bị sốc lúc nãy.” “Tôi cũng không nghe thấy,” Finnick nói. “Nhưng nếu cô nghe được, cứ dẫn đầu đi.” Tôi quyết định đóng kịch cho cái giá của việc này. “Lạ thật,” tôi nói. Tôi quay đầu mình từ bên này sang bên kia như thể đang bối rối lắm. “Tớ chỉ có thể nghe thấy nó bằng tai bên trái.” “Bên tai mà bác sĩ chữa cho cậu à?” Peeta hỏi. “Ừ,” tôi nói, rồi nhún vai. “Có lẽ họ đã làm tốt hơn họ tưởng. Cậu biết mà, thỉnh thoảng tớ vẫn nghe được vài thứ thú vị bằng tai trái. Những thứ bình thường không có tiếng. Như tiếng đập cánh của côn trùng. Hay tiếng tuyết rơi.” Quá hoàn hảo. Bây giờ thì mọi chú ý sẽ quay về những bác sĩ đã phẫu thuật cái tai điếc của tôi sau khi Trò chơi kết thúc năm ngoái, và họ sẽ giải thích vì sao tôi có thể nghe như một con dơi thế này. “Cô,” Mags nói rồi thúc tôi về phía trước, nên tôi dẫn đầu. Mags thích đi bộ bằng nhánh cây mà Finnick đã nhanh chóng tái định hình thành cây nạng cho bà ấy. Anh ấy cũng làm một cây gậy tốt cho Peeta, nó tốt bởi vì, cho dù cậu ấy có phản đối, tôi vẫn nghĩ tất cả những gì cậu ấy muốn là được nằm xuống. Finnick đi phía sau, nên ít nhất sẽ có người cảnh báo từ sau lưng chúng tôi khi gặp chuyện gì đó. Tôi bước đi với cái hàng rào trường lực bên trái, bởi vì đó là bên mà cái tai siêu nhân của tôi đã nghe thấy. Để an toàn, tôi cắt một chùm hạt được treo như nho ở một cái cây gần đó và ném trúng về phía trước mặt khi tôi đi. Cũng tốt là tôi có làm, vì tôi có cảm giác tôi sẽ bỏ lỡ vài chỗ cho biết trường lực ở gần hơn tôi có thể nhận ra. Mỗi khi có hạt bị ném trúng vào trường lực, chỗ đó sẽ phát ra một tiếng nổ nhỏ cùng với khói bốc lên trước khi nó rơi xuống đất, bị cháy đen và vỏ thì nứt ra. Sau vài phút, tôi nhận ra có tiếng sột soạt sau lưng, tôi quay lại và thấy Mags đang lột vỏ một hạt trong số hạt kia và bóp cho nó chảy nước vào cái miệng – đã – đầy – thứ – nước – ấy của bà. “Mags!” Tôi hét lên “Nhổ chúng ra. Chúng có thể có độc đó.” Bà ấy lẩm bẩm gì đó và tảng lờ tôi, bà liếm môi với thái độ thản nhiên. Tôi nhìn Finnick xin anh ấy giúp nhưng anh ấy chỉ cười lớn “Tôi đoán là chúng ta sẽ hiểu được mà.” Tôi đi tiếp, tự hỏi tại sao Finnick, người đã ra sức cứu Mags nhưng vẫn để bà ấy ăn thứ hạt lạ đó. Người mà Haymitch đã đóng dấu uỷ thác dưới sự bằng lòng của ông. Người mang Peeta từ cõi chết trở về. Tại sao không bỏ mặc cậu ấy chết? Không ai trách được anh ta cả. Tôi sẽ không bao giờ đoán là do sức mạnh của anh có thể hồi sinh cậu ấy. Có lẽ nào anh thật sự muốn cứu Peeta? Và tại sao anh lại cương quyết muốn lập đội với tôi? Cũng có thể để giết tôi, nếu việc này có kèm điều đó. Nhưng lại loại được lựa chọn phải chiến đấu với nhau. Tôi tiếp tục đi, tung hạt lên, thỉnh thoảng ném trúng từ trường, cố nhấn sang bên trái để có thể tìm thấy một lỗ hổng nào đó cho chúng tôi vượt qua, ra khỏi Cornucopia, và hi vọng là tìm được nước. Nhưng sau vài giờ hoặc lâu hơn thì tôi nhận ra điều này thật vô ích. Chúng tôi chả có tí tiến triển gì ở bên trái cả. Thực tế, từ trường có vẻ đang dồn chúng tôi vào một đường vòng cung. Tôi dừng lại và quay lại nhìn vẻ khập khiễng của Mags, gương mặt đầy mồ hôi của Peeta. “Nghỉ một chút đi,” tôi nói. “Tớ cần tìm chỗ nào có thể quan sát được từ trên cao.” Cái cây tôi chọn có vẻ có phần nhô ra cao hơn so với những cây khác. Tôi leo theo cách của mình lên những cành cong oằn, cố gắng giữ khoảng cách gần với thân cây. Không nói tới việc những cành cao su này dễ gãy như thế nào. Tôi vẫn leo cao hơn ý thức, vì có gì đó tôi phải xem. Tôi bám vào khoảng trống không rộng hơn một cây non trên thân cây, lắc lư qua lại trong làn gió ẩm, nghi ngờ của tôi đã được xác nhận. Có lý do để chúng tôi không thể đi qua bên trái, và cũng sẽ không bao giờ đi được. Từ vị trí thuận lợi tạm thời này, lần đầu tiên tôi thấy được toàn bộ hình dạng đấu trường. Một vòng tròn hoàn hảo. Với một bánh xe hoàn hảo ở giữa. Vùng trời bên trên khu rừng nhuốm màu hồng nhẹ. Và tôi nghĩ tôi nhận ra được một hoặc hai trong những hình vuông dợn sóng kia, người Trung Hoa trong bộ áo giáp, Wiress và Beetee gọi chúng thế, bởi họ tiết lộ rằng thứ gì họ cố tình giấu kĩ, thứ đó chính là điểm yếu. Chỉ để chắc chắn hoàn toàn, tôi bắn một mũi tên vào khoảng không trống phía trên hàng cây. Có một tia sáng, một tia sáng từ bầu trời xanh, và mũi tên bị ném ngược lại vào khu rừng. Tôi trèo xuống và cho những người khác biết tin xấu. “Hàng rào bẫy chúng ta vào một vòng tròn. Một mái vòm, thật sự. Tôi không biết nó cao bao nhiêu nữa. Có Cornucopia, biển, và sau đó là rừng cây xung quanh. Rất chuẩn. Rất đối xứng. Nhưng không rộng lắm,” tôi nói. “Có thấy nước không?” Finnick hỏi. “Chỉ có nước muối ở nơi chúng ta bắt đầu Trò chơi,” tôi nói. “Chắc hẳn phải có vài nguồn khác chứ,” Peeta nói, cau mày lại. “Hoặc chúng ta sẽ chết trong vài ngày nữa.” “Ừm, tán cây rất dày. Có lẽ có ao hoặc suối ở đâu đó,” tôi nói nhưng không chắc chắn. Theo bản năng, tôi cảm thấy Capitol hình như muốn những mùa chơi không nổi tiếng kết thúc càng sớm càng tốt. Plutarch Heavensbee có thể đã được ra lệnh giết chúng tôi. “Ở bất kỳ tỉ lệ nào, cũng không có cơ hội cho ta khám phá ra thứ gì bên kia ngọn đồi, bởi vì câu trả lời là không có gì cả.” “Phải có thứ gì uống được ở giữa bánh xe và hàng rào,” Peeta khẳng định. Chúng tôi đều hiểu điều đó có ý nghĩa gì. Quay trở lại. Quay lại với những đối thủ và sự đổ máu. Với Mags gần như không thể đi và Peeta thì quá yếu để chiến đấu. Chúng tôi quyết định di chuyển xuống con dốc vài trăm mét rồi tiếp tục đi vòng tròn. Có thể sẽ thấy được nước ở độ cao đó. Tôi vẫn dẫn đầu, thỉnh thoảng tung một hạt lên, nhưng giờ chúng tôi đã hoàn toàn ra khỏi phạm vi của trường lực. Mặt trời nắng chói chang ngay trên đầu chúng tôi, biến không khí thành hơi nước, đùa giỡn trước mắt chúng tôi. Tới giữa trưa thì rõ ràng là Peeta và Mags không thể đi tiếp. Finnick chọn một chỗ cắm trại cách từ trường chừng mười mét, nói rằng chúng tôi có thể sử dụng nó như một món vũ khí, bằng cách làm trật hướng kẻ thù cho chúng tự đâm đầu vào nó nếu chúng tôi bị tấn công. Rồi anh và Mags nhổ những ngọn cỏ cao khoảng 5m và bắt đầu đan chúng lại thành một tấm thảm. Vì Mags có vẻ không bị gì do những hạt lúc nãy, Peeta hái vài chùm giống thế và rán chúng bằng cách ném chúng vào vòng từ trường. Cậu ấy lột vỏ, và chất chúng thành đống lên lá. Tôi đứng ngoài trông chừng, vừa lo lắng, khó chịu do mớ cảm xúc lộn xộn trong ngày. Khát. Tôi khát quá. Cuối cùng thì tôi không thể chịu đựng được nữa. “Finnick, sao anh không trông chừng ở đây để tôi đi săn xung quanh và tìm chút nước,” tôi nói. Không ai vui vì ý kiến để tôi đi một mình cả, nhưng mối đe doạ do mất nước đang treo lơ lửng trên đầu chúng tôi. “Đừng lo, tớ không đi xa đâu,” tôi hứa với Peeta. “Tớ cũng đi,” cậu nói. “Không, tớ sẽ săn được nếu có thể,” tôi nói với cậu. Tôi không thêm vào rằng, “Và cậu không thể đi theo bởi cậu quá ồn ào.” Nhưng nó ẩn đầy hàm ý. Cậu ấy vừa sợ sẽ bị thành mồi nhử, vừa sợ sẽ gây nguy hiểm cho tôi với tiếng bước chân nặng nề của cậu ấy. “Tớ sẽ không đi lâu đâu.” Tôi rón rén di chuyển qua các hàng cây, rất mừng là mặt đất giúp cho những bước chân của tôi không phát ra tiếng động. Tôi đi theo đường chéo, nhưng không tìm được gì ngoài cảnh cuộc sống thực vật xanh mướt, tươi tốt xung quanh. Tiếng đại bác nổ làm tôi dừng lại. Cuộc tắm máu đầu tiên ở Cornucopia chắc đã kết thúc. Số lượng cái chết của các Vật tế bây giờ đã bắt đầu có. Tôi đếm số tiếng nổ, mỗi tiếng đại diện cho một người chiến thắng đã chết. Tám. Không nhiều như năm ngoái. Nhưng có vẻ nhiều hơn kể từ khi tôi biết hầu hết tên bọn họ. Bỗng nhiên tôi yếu đi, vội vàng dựa vào một thân cây để nghỉ, tôi cảm nhận được sức nóng đang hút độ ẩm từ cơ thể tôi như một miếng bọt biển. Nuốt nước bọt thôi cũng đã khó và sự mệt mỏi thì đang trườn lên người tôi. Tôi cố chà hai bàn tay lên bụng, hy vọng vài người phụ nữ có thai nào đó trở thành người tài trợ và Haymitch sẽ gửi cho chúng tôi một ít nước. Không có sự may mắn nào. Tôi đổ ập người xuống đất. Trong sự tĩnh lặng, tôi bắt đầu chú ý tới các con vật: con chim lạ trong bộ lông rực rỡ, thằn lằn cây với cái lưỡi màu xanh đang nhấp nháy, và cái gì đó như một đường kẻ ngang giữa một con chuột và con thú có túi đang ngu ngốc bám vào nhánh cây gần thân. Tôi bắn một trong những mũi tên cuối cùng để có cái nhìn gần hơn. Nó thật xấu xí, thôi được rồi, một loài gặm nhấm to lớn với bộ lông lốm đốm màu xám và hai cái răng cửa độc ác nhô ra trên môi dưới của nó. Trong lúc tôi móc ruột và lột da nó, tôi thấy một thứ khác. Cái mõm của nó ướt. Như một con vật vừa được uống từ dòng nước. Phấn chấn hẳn lên, tôi bắt đầu từ cái tổ trên cây của nó và di chuyển từ từ theo đường xoắn ốc. Nó khổng thể xa được, nguồn nước của con vật đó. Không gì cả. Tôi không tìm thấy gì cả. Không nhiều bằng một giọt sương. Sau cùng, tôi biết Peeta sẽ lo lắng cho tôi, nên tôi quay lại chỗ cắm trại, nóng hơn và thất vọng nhiều hơn cả. Khi tôi về tới, những người khác đã thay đổi xong vài thứ. Mags và Finnick đã dựng một túp lều bằng các tấm thảm, một bên để mở, nhưng tới ba bức tường, một cái sàn nhà và một cái mái. Mags cũng xếp lại vài cái bát mà Peeta đã chất đầy hạt nướng vào chúng. Mặt họ quay lại nhìn tôi đầy hy vọng, nhưng tôi lắc đầu. “Không, không có nước. Mặc dù chúng ở ngoài kia. Nó biết chúng ở đâu,” tôi nói, nâng lớp da của con vật gặm nhấm lên cho họ xem. “Nó vừa uống xong khi tôi bắn nó rớt khỏi cái cây, nhưng tôi không tìn được nguồn. Tôi thề, tôi đã tìm từng tấc đất trong bán kính ba mươi.” “Chúng ta có thể ăn nó không?” Peeta hỏi. “Tớ không chắc lắm. Nhưng thịt của nó trông không khác lắm so với thịt sóc. Nó nên được nấu chin…” Tôi ngập ngừng, cố nghĩ cách để nhóm lửa ở ngoài đây hoàn toàn bằng tay không. Ngay cả khi tôi thành công, khói vẫn là một vấn đề cần nghĩ tới. Chúng tôi ở rất gần nhau trong đấu trường này, không thể giấu được nó. Peeta có ý tưởng khác. Cậu lấy một phần thịt, xiên vào mũi của thanh củi nhọn và để nó rơi vào hàng rào. Có tiếng kêu xèo xèo và thanh củi bay trở lại. Miếng thịt bị cháy đen bên ngoài nhưng lại chín kỹ ở bên trong. Chúng tôi cùng vỗ tán thưởng cậu ấy, nhưng nhanh chóng dừng lại, phải nhớ rằng chúng tôi đang ở đâu. Mặt trời trắng chìm trong bầu trời hồng khi chúng tôi kéo vào túp lều. Tôi vẫn còn thận trọng với thứ hạt kia, nhưng Finnick nói Mags nhận ra chúng từ một mùa chơi khác. Tôi đã không buồn dành thời gian ở trạm về thực vật ăn được trong buổi huấn luyện bởi vì nó quá dễ dàng với tôi năm ngoái. Giờ thì tôi ước tôi đã dành thời gian cho nó. Để chắc rằng sẽ có những thực vật không quen biết xung quanh tôi. Và tôi có thể đoán được một chút về nơi tôi sắp đối mặt. Mags có vẻ khoẻ mặc dù bà ấy ăn rất nhiều hạt ấy trong hàng tiếng đồng hồ. Nên tôi cầm một hạt lên và cắn một miếng nhỏ. Nó có vị ngọt nhẹ khá giống với hạt dẻ. Tôi nghĩ là nó không có vấn đề gì. Thịt của con thú gặm nhấm thì khá dai nhưng ngạc nhiên là có vị ngọt ướt. Thật đấy, đây không hẳn là một bữa ăn tồi cho đêm đầu tiên của chúng tôi ở đấu trường. Giá mà chúng tôi có gì để uống kèm. Finnick hỏi rất nhiều về con thú “gặm nhấm” mà chúng tôi quyết định gọi nó là chuột cây. Nó cao cỡ nào, tôi đã quan sát nó bao lâu trước khi tôi bắn, và nó đang làm gì lúc đó? Tôi không nhớ rõ nó đang làm gì nữa. Chắc là đánh hơi tìm lũ côn trùng hay thứ gì khác. Tôi kinh sợ đêm tối. Ít nhất thì thảm cỏ được bện chặt này cũng bảo vệ được chúng tôi khỏi bất cứ thứ gì lén lút băng qua khu rừng sau vài giờ nữa. Nhưng trong khoảng thời gian ngắn ngủi trước khi mặt trời trượt xuống đường chân trời, một mặt trăng trắng nhợt đã mọc lên, làm cho mọi thứ vừa đủ có thể nhìn được. Cuộc đối thoại của chúng tôi nhỏ dần vì chúng tôi biết điều gì sắp tới. Chúng tôi ngồi thành một hàng ở cửa túp lều và Peeta nắm lấy tay tôi. Bầu trời sáng lên khi con dấu của Capitol xuất hiện như thể nó đang nổi trong không gian. Tôi nghe bài quốc ca, sẽ rất khó cho Finnick và Mags. Nhưng hoá ra đối với tôi còn nhiều khó khăn hơn. Nhìn thấy mặt của 8 người chiến thắng đã chết hiện ra trên bầu trời. Người đàn ông từ quận 5, người mà Finnick đã giết bằng cây đinh ba của anh, là người đầu tiên hiện ra. Điều đó có nghĩa là tất cả Vật tế từ quận 1 đến quận 4 đều còn sống – 4 người Wiress và Beetee, và đương nhiên, Finnick và Mags. Theo sau người đàn ông từ quận 5 là người phụ nữ nghiện morphine ở quận 6, Cecelia và Woof từ quận 8, hai người từ quận 9, người phụ nữ từ quận 10 và Seeder từ quận 11. Con dấu của Capitol trở lại với một chút nhạc và bầu trời lại tối tăm ngoại trừ thứ ánh sáng của mặt trăng. Không ai lên tiếng. Tôi không thể giả vờ rằng tôi không biết bất kỳ ai trong bọn họ cả. Nhưng tôi lại nghĩ tới cảnh ba đứa trẻ cố bám lấy Cecelia khi bọn họ bắt cô ấy đi. Sự tốt bụng của Seeder dành cho tôi trong buổi họp mặt. Ngay cả suy nghĩ về đôi mắt đờ đẫn của những người nghiện morphine khi vẽ những bông hoa màu vàng lên má tôi cũng làm tôi đau đớn. Tất cả đã chết. Tất cả đều đã đi rồi. Tôi không biết chúng tôi có thể đã ngồi ở đây được bao lâu nếu không có sự xuất hiện của chiếc dù bạc, nó bay xuyên qua tán lá và đáp xuống trước mặt chúng tôi. Không ai tới lấy nó cả. “Anh nghĩ nó là của ai?” Cuối cùng tôi cũng lên tiếng. “Không nói được,” Finnick nói. “Sao chúng ta không để Peeta nhận nó, vì cậu ấy đã chết hôm nay?” Peeta tháo dây và kéo tấm lụa tròn ra ngoài. Trên cái dù đặt một vật bằng kim loại nhỏ. “Nó là cái gì vậy?” tôi hỏi. Không ai biết. Chúng tôi chuyền nó qua tay nhau, lần lượt kiểm tra. Nó là một cái ống rỗng bằng kim loại, nhọn dần ở một đầu, đầu bên kia có phần nhô ra như cái môi bị cong xuống. Nó hơi quen thuộc. Có thể là một phần bị rơi ra khỏi xe đạp, một thanh trong màn che, bất cứ cái gì, thật đấy. Peeta thổi một đầu xem nó phát ra tiếng gì. Và nó không phát ra tiếng gì cả. Finnick đút ngón út của mình vào nó, thử dùng nó làm vũ khí. Vô dụng. “Bà có thể câu cá bằng nó không, Mags?” tôi hỏi. Mags, người gần như có thể câu cá bằng bất kỳ thứ gì, lắc đầu và lại lầm bầm. Tôi cầm lấy nó và lăn nó trên lòng bàn tay. Vì chúng tôi là đồng minh, nên Haymitch sẽ làm việc với người cố vấn của quận 4. Ông có một phần trong việc lựa chọn món quà này. Có nghĩa là nó rất có giá trị. Ngay cả trong việc cứu mạng. Tôi nghĩ tới năm ngoái, khi mà tôi cần nước tới phát điên, ông vẫn không gửi cho tôi, vì ông biết tôi có thể tìm thấy nó nếu tôi cố gắng. Quà của Haymitch, vẫn còn thiếu một việc,thực hiện lời nhắn. Tôi gần như có thể nghe thấy ông ấy đang gầm gừ với tôi, Hãy dùng não của cháu nếu cháu có. Nó là cái gì? Tôi lau mồ hôi trên mắt và giữ món quà ra ngoài ánh trăng. Tôi di chuyển nó theo hướng này rồi hướng khác, xem nó ở từng góc độ khác nhau, không sót phần nào và sau đó giải đáp chúng. Cố để nó tiết lộ mục đích của nó cho tôi. Cuối cùng, trong sự thất vọng, tôi thúc một đầu của nó vào đất. “Tôi bỏ cuộc. Có lẽ nếu chúng ta bắt được Wiress và Beetee, họ sẽ giúp chúng ta giải đáp nó.” Tôi duỗi chân ra, ép má vào thảm cỏ, nhìn chằm chằm vào mọi thứ trong sự nặng nề. Peeta xoa tay vào chỗ căng ra giữa hai vai tôi và để tôi thư giãn một chút. Tôi tự hỏi sao cho tới giờ cái nơi quỉ quái này không mát lên chút nào nhỉ, khi mặt trời đã lặn rồi. Tôi tự hỏi xem chuyện gì đang xảy ra ở nhà. Prim. Mẹ tôi. Gale. Madge. Tôi nghĩ tới họ đang dõi theo tôi từ nhà. Ít nhất thì tôi hy vọng họ đang ở nhà. Không phải bị Thread tống vào nhà tù. Bị trừng phạt như Cinna. Bởi vì tôi. Tất cả mọi người. Tôi bắt đầu nóng ruột cho họ, cho quận của tôi, cho khu rừng của tôi. Một khu rừng tuyệt vời với những cây gỗ cứng mạnh mẽ, nguồn thức ăn dồi dào, chơi bời không phải sợ gì. Con suối chảy xiết. Những cơn gió mát. Không, những cơn gió lạnh thổi hơi nóng ngột ngạt này đi. Tôi hình dung một cơn gió trong đầu mình, để nó đông cứng má tôi và tê cóng những ngón tay tôi, và bất thình lình, một nửa mảnh kim loại bị chôn trong đất đen cuối cùng cũng có một cái tên. “Một cái cọc!” tôi kêu lên, ngồi thẳng dậy. “Cái gì cơ?” Finnick hỏi. Tôi nhổ thứ đó ra khỏi mặt đất và phủi sạch nó. Chụm tay xung quanh đuôi nhọn, che nó đi, và nhìn vào bên trong cái môi. Chính xác, tôi đã từng thấy một trong những thứ này trước đây. Vào một ngày gió lạnh rất lâu về trước, khi tôi vào rừng cùng với cha. Nó bị chèn khít vào một cái lỗ khoan trên cây gỗ thích. Một đường nhựa cây chảy ra từ nó vào trong xô. Si rô của cây gỗ thích có thể làm cho ổ bánh mì nhạt nhẽo của chúng tôi thành một bữa tiệc. Sau khi cha tôi chết, tôi không biết chuyện gì đã xảy ra với số cọc ít ỏi mà cha có. Có thể được giấu đâu đó trong khu rừng cũng nên. Không bao giờ tìm được. “Nó là một cái cọc. Gần giống với vòi nước. Anh cắm nó vào một cái cây và nhựa cây sẽ tự khắc chảy ra.” Tôi nhìn vào các gân xanh trên các thân cây xung quanh tôi. “Ừm, cắm đúng loại cây.” “Nhựa cây?” Finnick hỏi. Họ cũng không có đúng loại cây ở gần biển. “Để làm si rô,” Peeta nói. “Nhưng chắc hẳn phải có cái gì khác trong những cây này.” Chúng tôi đứng dậy cùng một lúc. Cơn khát của chúng tôi. Tình trạng thiếu nước tột độ. Hai cái răng cửa sắc bén của con chuột cây và cái mõm ướt của nó. Chỉ có một thứ giá trị trong những cây này. Finnick định đóng cái cọc vào vỏ xanh của một cái cây lớn bằng cục đá, nhưng tôi ngăn anh lại. “Khoan đã. Anh có thể làm hư nó mất. Chúng ta cần khoan một cái lỗ trước đã,” tôi nói. Không có gì dùng để khoan được cả, nên Mags đưa cái dùi của bà ra và Peeta dùi nó thẳng vào vỏ cây, vùi đầu nhọn của nó sâu khoảng 5 phân. Cậu và Finnick thay phiên mở cái lỗ bằng dùi và con dao cho tới khi nó vừa cái cọc. Tôi chêm cái cọc vào lỗ cẩn thận và tất cả chúng tôi đứng đó trong sự chờ đợi. Lúc đầu không có gì xảy ra. Sau đó một giọt nước lăn trên cái môi và nhỏ xuống lòng bàn tay Mags. Bà ấy liếm nó và lập tức giơ tay ra nữa để lấy thêm. Bằng cách lắc qua lắc lại và điều chỉnh cái cọc, chúng tôi có cả một dòng suối nhỏ đổ ra ngoài. Chúng tôi thay phiên nhau hứng trực tiếp bằng miệng dưới vòi nước, làm ướt cái lưỡi khô rát của chúng tôi. Mags mang tới một cái giỏ, được làm bằng cỏ bện rất chặt đến nỗi có thể giữ được nước. Chúng tôi đổ đầy cái giỏ và chia nhau, uống một hơi đầy và lát sau, phung phí, văng chúng tung toé lên mặt. Như mọi thứ ở đây, dòng nước ở bên phía những thứ nóng ấm, nhưng không có thời gian để kén cá chọn canh. Không có cơn khát làm phân tâm chúng tôi, chúng tôi đều nhận thức được chúng tôi mệt mỏi thế nào và phải chuẩn bị cho ban đêm. Năm ngoái, tôi luôn chuẩn bị đồ đạc sẵn sàng phòng khi tôi phải thực hiện một cuộc rút lui nhanh chóng vào ban đêm. Năm nay, không có ba lô để chuẩn bị. Chỉ có vũ khí của tôi, thứ dù sao cũng không bao giờ rời khỏi tầm nắm của tôi được. Sau đó tôi nghĩ về cái cọc và tháo nó ra khỏi thân cây. Tôi tước hết lá của một cành nho khá cứng, xỏ nó vào chỗ hõm ở giữa, và buộc cái cọc vào thắt lưng tôi an toàn. Finnick đề nghị canh ca trực đầu tiên và tôi để anh ấy làm, biết rằng phải là một trong hai chúng tôi canh chừng cho tới khi Peeta tỉnh táo hơn. Tôi nằm xuống bên cạnh Peeta trên sàn của túp lều, dặn Finnick gọi tôi dậy khi anh mệt. Thay vì vậy, tôi giật mình tỉnh giấc sau vài giờ bởi cái gì đó như tiếng đánh chuông. Peeta và Mags vẫn ngủ, nhưng Finnick có cùng sự chú ý với tôi, tôi cảm thấy thế. Tiếng chuông dừng lại. “Tôi đếm được mười hai tiếng,” anh nói. Tôi gật. Mười hai. Điều đó có nghĩa gì? Mỗi tiếng chuông cho mỗi quận? Có thể. Nhưng tại sao? “Anh có nghĩ nó có ý gì không?” “Không ,” anh nói. Chúng tôi đợi lời chỉ thị khác, có thể là một thông điệp từ Claudius Templesmith. Một lời mời tới dự tiệc. Thứ duy nhất đáng chú ý xuất hiện trong khoảng không. Một tia chớp điện đánh vào đỉnh một cái cây và cơn bão kéo tới. Tôi nghĩ đây là dấu hiệu của cơn mưa, của nguồn nước dành cho những ai không có cố vấn thông minh như Haymitch. “Đi ngủ đi, Finnick. Tới lượt gác của tôi rồi,” tôi nói. Finnick lưỡng lự, nhưng không ai có thể thức mãi được. Anh ấy ngồi ở cửa lều, một tay cầm cây đinh ba, rồi chìm dần vào giấc ngủ. Tôi ngồi với cây cung đã lên tên sẵn, quan sát khu rừng, hết trắng nhợt rồi lại xanh ma quái trong ánh trăng. Sau một giờ hoặc nhiều hơn nữa, sấm sét biến mất. Tôi có thể nghe thấy cơn mưa đang tới, mặc dù tiếng rơi lộp bộp trên lá chỉ cách khoảng vài trăm mét. Tôi tiếp tục đợi nhưng nó không bao giờ kéo tới. Tiếng đại bác làm tôi giật mình, mặc dù nó chỉ gây một chút động tĩnh cho những người bạn đồng hành của tôi. Không thể đánh thức họ vì điều này. Một người chiến thắng nữa đã chết. Tôi còn không buồn cho phép mình tự hỏi đó là ai. Cơn mưa ở xa kia đột ngột dừng lại, như cơn bão trong đấu trường năm ngoái. Khoảng thời gian sau khi nó dừng lại, tôi thấy sương trôi nhè nhẹ do cơn mưa lớn vừa qua. Chỉ cần một phản ứng. Tôi nghĩ cơn mưa mát làm bốc hơi mặt đất xung quanh. Nó tiếp tục tới gần với một tốc độ ổn định. Những cái tua tiến về phía trước và cong lại như những ngón tay trong khi chúng tiếp tục kéo theo phần còn lại. Trong lúc quan sát, tôi thấy lông ở cổ mình bắt đầu dựng hết lên. Có gì đó không ổn với đám sương mù này. Sự lan ra về phía trước này quá thống nhất so với tự nhiên. Và nếu nó không là tự nhiên… Một mùi ngòn ngọt tới buồn nôn bắt đầu thâm nhập vào mũi tôi và tôi chạy tới những người khác, la lên để gọi họ thức dậy. Chỉ trong vài giây, nó đánh thức họ, và da tôi bắt đầu rộp lên. Chap 21 Những vết đốt nhỏ xíu, bỏng rát nơi sương nhỏ giọt lên lớp da. “Chạy đi!” Tôi hét lên với mọi người. “Chạy!” Finnick bật dậy nhanh chóng, nhỏm lên để phản công với kẻ địch. Nhưng khi Finnick thấy bức tường mù sương, anh vác bà Mags vẫn còn đang ngủ lên lưng và dẫn đi. Peeta cũng đang cố bước nhưng không được nhanh nhẹn. Tôi tóm lấy cánh tay cậu ấy và dìu cậu xuyên qua khu rừng ngay sau Finnick. “Cái gì? Đó là cái gì vậy?” Cậu ấy nói trong hoang mang. “Một loại sương mù nào đó. Khí độc. Nhanh nào Peeta!” Tôi giục. Tôi có thể hiểu rằng tuy cậu ấy phủ nhận, nhưng những di chứng của việc va phải bức từ trường vẫn còn đáng kể. Cậu bước chậm hơn nhiều so với bình thường. Những đám dây leo rậm rạp thỉnh thoảng còn làm tôi không vững cũng khiến cậu ấy vấp phải mỗi lúc bước đi. Tôi nhìn bức tường mù sương phía sau đang mở rộng thành một dãy thẳng dài bằng khoảng cách mà tôi có thể nhìn được từ cả hai phía. Một thôi thúc mãnh liệt muốn biến mất, bỏ lại Peeta và tự cứu lấy bản thân đâm thẳng vào tâm trí tôi. Thật quá đơn giản để chạy đi, có lẽ là trèo lên một cái cây trên dãy sương mù cao khoảng 40 feet. Tôi nhớ lại làm thế nào mà tôi có thể làm vậy khi những con thú xuất hiện trong Đấu trường trước đó. Nhảy lên và chỉ nghĩ tới Peeta khi tôi nhắm tới chiếc sừng dê. Nhưng lần này, tôi bị nghẹt trong nỗi sợ hãi, phải ép nỗi sợ xuống và tiếp tục ở cạnh bên cạnh cậu. Lần này sự sống sót của bản thân không phải mục đích của tôi. Mà là của Peeta. Tôi nghĩ đến những cặp mắt dán vào màn hình tivi ở các quận, theo dõi xem liệu tôi có chạy trốn như Capitol mong muốn hay ở nguyên tại chỗ. Tôi luồn những ngón tay thật chặt vào tay cậu ấy và nói, “Theo chân tớ. Chỉ cần cố gắng bước theo tớ.” Việc đó có tác dụng. Chúng tôi dường như di chuyển ngày một nhanh hơn, nhưng không đủ để nghỉ ngơi, và sương mù thì vẫn tiếp tục phủ lên gót chân. Sương phun ra đầy hơi nước. Chúng nóng bỏng nhưng không như lửa cháy. Ít cảm giác nóng hơn và gây thương tích nghiêm trọng hơn như kiểu chất hóa học đó tìm thấy thịt chúng tôi và bám rịt vào nó, rồi đào khoét xuyên qua các lớp da. Bộ đồ liền thân chẳng hề giúp được tí nào. Chúng tôi còn có thể được mặc trong những tờ giấy ăn, vì tính bảo vệ mà chúng mang tới. Finnick vẫn đang đi đằng trước, chợt dừng lại khi anh ấy nhận ra chúng tôi có vấn đề. Nhưng đây không phải chuyện bạn có thể chống cự được, chỉ có thể lảng tránh. Anh ấy hét lên cổ vũ, cố gắng áp chúng tôi theo và tiếng nói của anh ấy như của hướng dẫn viên, dù ngày càng yếu đi. Cái chân giả của Peeta vướng phải một bụi dây leo và cậu ấy bò lên phía trước trước khi khi tôi có thể đuổi kịp. Khi giúp cậu ấy đứng dậy, tôi trở nên lo sợ điều gì đó rợn hơn cả những vết rộp, suy yếu hơn cả những vết cháy. Bên mặt trái cậu ấy võng xuống, như thể từng thớ cơ trong đó đều đã chết. Mi mắt rũ xuống hầu hết che đi đôi mắt. Miệng cậu ấy méo mó thành một hình tam giác kì cục hướng xuống đất. “Peeta–” Tôi mở lời. Và đó là lúc tôi cảm thấy có cơn co giật chạy dọc cánh tay mình. Bất kể là chất hóa học nào đã trộn lẫn trong làn sương và có hại hơn cả vết bỏng thì nó đều nhắm vào dây thần kinh chúng tôi. Một cảm giác run sợ hoàn toàn mới xuyên qua người và tôi kéo mạnh Peeta lên phía trước, nhưng việc ấy lại chỉ khiến cho cậu ấy vấp ngã lần nữa. Lúc tôi đỡ lấy Peeta, cả hai cánh tay tôi đều co quắp không thể kiểm soát. Màn sương đã tiến tới gần chúng tôi, toàn mảng sương chỉ cách gần một yard. Có gì đó không ổn với hai chân Peeta; cậu ấy vẫn cố bước nhưng chúng tôi di chuyển với dáng vẻ co cứng như con rối. Tôi có cảm tưởng Peeta đang lảo đảo đằng trước rồi nhận ra Finnick đã quay lại chỗ chúng tôi và đang kéo Peeta theo. Tôi dấn vai tới, dường như nó vẫn còn kiểm soát được, vào dưới cánh tay Peeta và cố hết sức để đuổi kịp tốc độ nhanh chóng của Finnick. Chúng tôi duy trì tầm mười yard giữa mình với đám sương khi Finnick dừng chân. “Không ổn rồi. Anh sẽ phải cõng cậu ấy. Em dẫn bà Mags được không?” Finnick hỏi tôi. “Được” tôi nói cứng, dù trái tim đang chùng xuống. Đúng là bà Mags không thể nặng hơn chừng bảy mươi pound nhưng bản thân tôi cũng không to khỏe gì. Tôi chắc là vẫn vác được những lô hàng nặng hơn. Giá mà cánh tay tôi ngừng lung lay. Tôi ngồi xổm xuống và bà ấy cố định người trên vai tôi, đúng kiểu mà bà ấy ngồi trên vai Finnick. Tôi từ từ đứng thẳng chân, và với đầu gối ghì chặt, tôi có thể xoay sở với bà. Finnick giờ đã quàng Peeta qua lưng và chúng tôi tiến lên phía trước, Finnick dẫn đường, tôi bước theo dấu vết mà anh ấy tạo ra xuyên qua đám dây leo. Khi màn sương tiến tới, lặng lẽ, đều đặn và dứt khoát, nó loại bỏ những tua xoắn dây leo. Dù bản năng của tôi là chạy ra xa khỏi nó, tôi nhận ra Finnick đang đi chéo xuống ngọn đồi. Anh ấy đang cố giữ khoảng cách với đám khí trong khi hướng chúng tôi về phía bờ nước bao quanh chiếc sừng dê. Vâng, nước, tôi nghĩ tới lúc những giọt axit khoan sâu vào trong người. Giờ tôi thấy ơn trời là mình đã không giết Finnick, vì làm sao mà tôi quên được bằng cách nào mà Peeta có thể ra khỏi đây mà vẫn còn sống? Thật may khi có ai đó bên cạnh, dù chỉ là tạm thời. Không phải lỗi của bà Mags khi tôi bắt đầu lả đi. Bà đang cố làm mọi thứ để trở nên là một hành khách dễ tính, nhưng thực tế, sức nặng mà tôi đang mang vượt quá sức chịu đựng. Nhất là giờ đây bên chân phải dường như trở nên cứng đơ. Đầu tiên là tôi gục xuống đất hai lần, tôi gắng chống đỡ lại trên đôi chân, nhưng lần thứ ba, đôi chân không còn chịu ợp tác với tôi nữa. Khi đang cố đứng dậy, nó trở nên kiệt quệ và bà Mags lăn xuống đất trước cả tôi. Tôi với ra xung quanh, cố tận dụng dây leo và cành cây để đứng thẳng. Finnick quay lại bên cạnh tôi, với Peeta đang bám lên anh ấy. “Không tác dụng đâu,” tôi nói, “Anh có thể vác cả hai không? Đi trước đi, em sẽ theo kịp.” Một lời đề nghị chẳng hiểu sao lại thật đáng nghi, nhưng tôi nói ra với giọng chắc chắn nhất có thể. Tôi nhìn thấy đôi mắt xanh lục của Finnick dưới ánh trăng. Chúng sáng rõ như ban ngày, như của một loài mèo với nét phản chiếu kì lạ. Có lẽ chúng lấp lánh như những giọt nước mắt. “Không,” anh nói. “Anh không thể cõng cả hai. Tay anh không còn hoạt động.” Đúng vậy. Cánh tay anh ấy co giật vô phương kiểm soát ở hai bên sườn. Đôi bàn tay trống rỗng. Trong ba chiếc đinh, chỉ còn lại một chiếc và nó nằm trong tay Peeta. “Xin lỗi bà Mags. Cháu không thể.” Những gì xảy ra tiếp theo quá nhanh gọn, quá điên rồ, tôi thậm chí còn không bước lên được mà ngăn nó xảy ra. Bà Mags tự đứng xuống đất, đặt một nụ hôn lên môi Finnick và rồi đi tập tễnh thẳng vào màn sương. Ngay lập tức, cơ thể bà bị bao trùm bởi lực xoắn man rợn và bà ngã xuống đất với chứng múa giật kinh hoàng. Tôi muốn hét lên nhưng cổ họng phát hỏa. Tôi bước một bước vô vọng về phía Mags nhưng khi tôi nghe thấy tiếng đại bác phát nổ, thì biết rằng trái tim bà đã ngừng đập, rằng bà ấy đã chết. “Finnick?” Tôi thốt ra giọng khàn khàn nhưng anh đã quay đi khỏi cảnh tượng ấy, tiếp tục rút khỏi màn sương. Lê bên chân vô dụng đằng sau, tôi loạng choạng theo sau Finnick, không còn biết làm gì khác. Thời gian và không gian trở nên vô nghĩa khi màn sương dường như ngấm sâu vào não tôi, làm suy nghĩ tôi rối tung, khiến mọi thứ trở nên không thật. Có sự khao khát sống đầy thú tính khiến tôi vấp bước sau Finnick và Peeta, tiếp tục di chuyển, dù có thể tôi đã chết rồi. Những bộ phận trong tôi đã tê liệt, hay rõ là đang chết dần. Còn bà Mags đã chết. Đây là vài điều mà tôi biết, hay có lẽ chỉ là tôi nghĩ tôi biết vì nó hoàn toàn không tạo cảm giác gì. Ánh trăng lấp lóe trên mái tóc vàng hoe của Finnick, những giọt mưa gây thương tích bỏng rát bắn vào phía tôi, một bên chân biến thành mẩu gỗ thừa. Tôi theo chân Finnick cho tới khi anh ấy đổ gục xuống đất với Peeta vẫn ở trên lưng. Tôi dường như chẳng còn khả năng ngăn bản thân thôi tiến về trước mà chỉ đơn giản là lê thân cho tới khi tôi vấp phải cơ thể nằm sóng xoài của họ, thiếu chút nữa là điếng người. Đây chính là địa điểm, cách thức và thời điểm mà tất cả chúng tôi cùng chết đi, tôi nghĩ vậy. Nhưng ý nghĩ đó bị sao nhãng và ít nguy cấp hơn những đau đớn hiện tại trên cơ thể. Tôi nghe thấy Finnick rên rỉ và quyết định đổ rạp cơ thể lên trên hai người. Giờ tôi có thể thấy bức tường sương mù đang tiến tới với màu sắc trắng long lanh. Có lẽ mắt tôi đang bị đánh lừa, hoặc do ánh trăng nhưng làn sương có vẻ đang biến đổi. Vâng, nó trở nên dày hơn, như thể nó bị ép vào một chiếc cửa sổ thủy tinh và đang bị ép phải đặc lại. Tôi nheo mắt đầy khó khăn và nhận ra những mẩu hơi dạng ngón không còn nhô ra từ màn sương nữa. Thật ra, nó hoàn toàn ngừng tiến về phía trước. Giống như những cảnh tượng khủng khiếp khác mà tôi đã chứng kiến trong trường đấu, nó đã đạt đến giới hạn. Cả việc đó và việc những nhà tổ chức vẫn chưa quyết định giết chết chúng tôi. “Nó dừng lại rồi.” Tôi cố nói chuyện, nhưng chỉ có một tiếng rên rỉ thốt ra từ cái miệng đang sưng lên. “Nó dừng lại rồi.” Tôi nói lần nữa, và lần này tôi phải nói rõ hơn, vì cả Peeta và Finnick đều đã ngoảnh đầu về phía màn sương. Giờ nó bắt đầu trồi lên trên, như thể đang chậm dần tan vào trong bầu trời. Chúng tôi dõi theo cho tới khi nó hoàn toàn biến mất và chỉ còn làn khói sót lại. Peeta lăn xuống khỏi người Finnick đã lật lưng lại. Chúng tôi nằm đó thở hổn hển, co rúm, thần trí và cơ thể đều bị chất độc xâm chiếm. Vài phút trôi qua, Peeta lơ đãng đứng dậy. “Những con khỉ…” Tôi nhìn lên và phát hiện một đôi mà tôi đoán là hai con khỉ. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một con khỉ sống trước đây – chẳng có con gì giống thế trong rừng cây ở nhà chúng tôi. Nhưng tôi chắc hẳn đã nhìn thấy một bức tranh, hay một con trong Đấu trường, vì khi tôi nhìn thấy những con vật đó, những từ ngữ tương tự cũng hiện ra trong tâm trí. Tôi nghĩ chúng có màu lông vàng, dù khó có thể thấy được, và to gần bằng một nửa người trưởng thành. Tôi thấy những con khỉ là một dấu hiệu tốt. Chắc chắn chúng sẽ không dạo quanh nếu hơi khí đủ làm chết người. Trong một lát, chúng tôi im lặng quan sát người khác, cả người và lũ khỉ. Rồi Peeta cố đứng thẳng trên đầu gối và bò lên con dốc. Tất cả chúng tôi phải bò đi, vì hiện giờ việc đi lại cũng khó như bay vậy; chúng tôi bò cho tới khi bụi dây leo biến thành một dải hẹp của bờ biển đầy cát và dòng nước ấm áp bao quanh chiếc Sừng dê táp vào mặt. Tôi co giật người lại như thể vừa chạm vào một ngọn lửa lớn. Chà xát muối vào vết thương. Tôi nhận thức rõ cảm giác, nước muối làm cho nỗi đau đớn nơi vết thương của tôi trở nên mờ nhạt đến nỗi tôi hầu như không còn cảm thấy gì cả. Nhưng có một cảm giác khác, kéo dài ra. Tôi thử nghiệm bằng cách cẩn trọng đặt một bàn tay lên mặt nước. Rất đau, hẳn vậy, nhưng rồi dịu hơn. Và xuyên qua lớp nước màu xanh lam, tôi nhìn thấy một chất màu trắng sữa lòi ra khỏi vết thương trên da. Khi màu trắng thu nhỏ lại, thì vết thương cũng vậy. Tôi mở dây thắt lưng và cởi bỏ bộ đồ liền thân, giờ chỉ kém hơn một đống vải rách lỗ chỗ. Đôi giầy và bộ đồ lót không hiểu sao lại không bị ảnh hưởng. Từng chút một, mỗi lần là từng phần của chân hay tay, tôi đã thấm được hết chất độc ra khỏi vết thương. Peeta có vẻ như cũng đang làm tương tự. Nhưng Finnick thì quay lưng khỏi mặt nước ở lần chạm đầu tiên và nằm úp mặt trên cát, không muốn hoặc không thể tự làm sạch mình. Rút cục, khi tôi đã vượt qua được giai đoạn tệ nhất, mở mắt dưới nước, hít nước vào trong khoang mũi và xì nó ra, và thậm chí còn súc nhiều lần để làm sạch họng, tôi đã đủ sẵn sàng để giúp Finnick. Có cảm giác quay trở lại trên cẳng chân nhưng hai cánh tay tôi vẫn lỗ chỗ những nốt co thắt. Tôi không kéo lê Finnick ra chỗ mé nước được và có thể vết thương sẽ giết chết anh ấy nữa. Nên tôi hớt nước vào lòng bàn tay run rẩy của mình và đổ lên vào bàn tay Finnick. Vì Finnick không ở dưới nước nên chất độc tiết ra từ vết thương đúng lúc nó chạm phải làn sương mà tôi đã cố sức tránh xa. Peeta đã đủ tỉnh táo để giúp tôi. Cậu ấy cắt rách bộ đồ liền thân của Finnick. Ở đâu đó cậu ấy tìm thấy hai cái vỏ ốc có tác dụng hơn hai bàn tay. Chúng tôi tập trung làm ướt đẫm hai cánh tay Finnick trước vì chúng bị thương khá tệ và mặc dù có nhiều chất lỏng trắng phọt ra từ vết đau, anh ấy cũng không chú ý lắm. Anh ấy chỉ nằm đó, mắt nhắm lại và thỉnh thoảng rên rỉ. Tôi nhìn xung quanh và nhận thấy độ nguy hiểm của chất độc mà chúng tôi đang ngấm vào ngày càng lớn dần. Trời đã khuya, đúng, nhưng trăng tối nay quá sáng để nghĩ đến việc lẩn trốn. Thật may vì chưa có kẻ nào tấn công. Chúng tôi có thể thấy họ tới từ chỗ Sừng dê, nhưng nếu cả bốn đứa nhà nghề cùng tấn công, chúng sẽ áp đảo. Nếu từ đầu chúng không phát hiện ra thì tiếng rên rỉ của Finnick sẽ sớm phản bội lại chúng tôi thôi. “Chúng ta cần đưa anh ấy xuống nước.” Tôi thì thào. Nhưng chúng tôi không thể đưa mặt anh ấy xuống trước, không thể trong điều kiện thế này. Peeta lắc bàn chân Finnick. Mỗi người chúng tôi vác một bên, xoay anh ấy vòng quanh 180 độ và bắt đầu kéo lê người Finnick xuống mép nước. Mỗi lần chỉ có vài inch. Rồi mắt cá chân. Rồi chờ đợi vài phút. Lên tới giữa bắp chân. Chờ đợi. Tới đầu gối. Những đám bông trắng sủi ra từ phần thịt và anh ấy rên lên. Chúng tôi tiếp tục việc giải độc, từng chút một. Những gì tôi nhận thức được là tôi ngồi dưới nước bao lâu thì tôi cảm thấy dễ chịu bấy nhiêu. Không chỉ ở phần da, mà đầu óc và sự điều khiển các bắp cơ tiếp tục được cải thiện. Tôi có thể thấy khuôn mặt Peeta bắt đầu trở lại vẻ bình thường, mi mắt cậu ấy mở ra, vẻ nhăn nhó đã không còn trên khuôn miệng. Finnick dần dần tỉnh lại. Đôi mắt anh ấy mở ra, tập trung nhìn chúng tôi và biểu lộ sự lo lắng rằng anh ấy đang cần phải giúp sức. Tôi đặt đầu anh ấy lên đùi và chúng tôi để Finnick ngâm nước khoảng mười phút với các bộ phận từ cổ xuống ngập trong nước. Peeta và tôi trao đổi cái cười khi Finnick nâng hai canh tay lên khỏi mặt nước. “Chỉ còn phần đầu anh thôi, Finnick. Đó là bộ phận bị thương nặng nhất nhưng anh sẽ thấy khá hơn thôi, nếu có thể chịu được.” Peeta nói. Chúng tôi giúp anh ấy ngồi dậy và để anh ấy bám vào tay khi Finnick cau mày, nhăn mũi và miệng. Cổ họng anh vẫn còn quá khô khốc để có thể nói chuyện được. “Tớ sẽ cố lấy nước ở một cái cây.” Tôi nói. Những ngón tay tôi dò dẫm chỗ thắt lưng và tìm thấy chiếc ống vẫn còn treo bởi đám dây leo. “Để tớ chọc lỗ trước đã,” Peeta nói. “Cậu ở đây với anh ấy đi. Cậu là người chữa bệnh mà.” Tôi nghĩ đó là một lời nói đùa. Nhưng tôi chẳng nói ra, bởi lo cho Finnick là quá đủ rồi. Anh ấy bị thương nặng nhất bởi màn sương, dù tôi không rõ là tại sao nữa. Có lẽ vì anh ấy to con nhất hoặc có lẽ do anh ấy phải tự gắng sức nhiều nhất. Và tất nhiên là còn có bà Mags. Tôi vẫn không hiểu chuyện gì đã xảy ra tại đây. Tại sao anh ấy lại nhất thiết phải bỏ rơi bà ấy để cõng lấy Peeta. Tại sao bà ấy không những không nghi ngờ gì về điều đó mà con đâm đầu vào chỗ chết mà không có một chút do dự nào. Có phải là vì bà ấy đã quá già để sống thọ? Có phải bọn họ nghĩ rằng Finnick sẽ giữ được một cơ hội tốt hơn để thắng được nếu anh ấy coi Peeta và tôi như những đồng minh? Cái nhìn phờ phạc trên khuôn mặt Finnick nói cho tôi biết rằng giờ không phải lúc đặt câu hỏi. Thay vì thế tôi cố trấn an lại mình. Tôi tháo chiếc ghim cài chim nhại ra khỏi bộ đồ liền thân rách nát và đính nó vào quai áo lót. Chiếc dây lưng giữ nổi hẳn phải là thứ chống lại axit vì nó trông vẫn còn tốt y như mới. Tôi có thể bơi nên chiếc dây lưng giữ nổi không cần thiết lắm nhưng lão Brutus đã chặn mũi tên của tôi với chiếc dây lưng của lão nên tôi vẫn thắt nó lại, nghĩ rằng nó có lẽ sẽ có tác dụng bảo vệ nào đó. Tôi thắt lại tóc và dùng những ngón tay chải, nó thưa đi đáng kể vì những giọt nước sương đã phá hủy. Tôi bện phần tóc còn lại ra sau lưng. Peeta vừa tìm thấy một cái cây thích hợp cách xa tầm mười yard tính từ dải bờ biển hẹp. Chúng tôi khó có thể trông thấy cậu ấy nhưng âm thanh của con dao rơi trên những cành cây gỗ thì nghe rất rõ ràng. Tôi tự hỏi chuyện gì xảy ra với cái giùi. Bà Mags hẳn đã đánh rơi nó hoặc mang nó vào màn sương bên người. Dù sao thì nó cũng đã mất rồi. Tôi di chuyển ra xa hơn nữa vào chỗ đất nông, luân phiên nổi phần bụng và lưng. Nếu nước biển chữa thương cho Peeta và tôi thì nhìn chung nó có thể chữa lành cho Finnick. Anh ấy bắt đầu di chuyển chậm, chỉ để kiểm tra chân tay và từ từ bơi. Nhưng không giống như tôi lúc đang bơi, lối bơi có điệu, thậm chí còn có nhịp. Trông cứ như một con vật biển kì lạ nào đó đang cố giành lại sự sống. Anh ấy lặn xuống và nổi lên, phun nước ra từ miệng, lăn qua lăn lại theo hình dáng xoắn ốc kì dị khiến tôi xem mà hoa mắt. Và rồi, khi anh ấy ở dưới nước rất lâu mà tôi cảm tưởng như anh đã chết đuối thì đầu anh ấy nổi lên ngay cạnh tôi và tôi kêu lên. “Đừng làm thế nữa.” Tôi nói “Sao? Nổi lên hay ở dưới nước?” Anh hỏi lại. “Cả hai. Mà không gì cả. Sao cũng được. Chỉ cần ngâm nước và cử động,” Tôi nói. “Hoặc nếu anh thấy việc này có ích, thì đi giúp Peeta đi. “ Chỉ mất một lúc để vượt qua góc khu rừng, tôi trở nên sợ hãi một sự khác lạ. Nhiều năm săn bắn hay có lẽ bởi bên tai đã hồi phục của tôi có ích hơn bất cứ ai. Nhưng tôi cảm nhận có một khối sinh vật máu nóng lơ lửng trên đầu. Chúng chẳng cần đến việc kêu lách cách hay hét lên. Chỉ cần hơi thở đã quá đủ. Tôi chạm vào cánh tay Finnick và anh ấy dõi theo cái nhìn chằm chằm của tôi lên phía trên. Tôi không hề biết rằng chúng làm thế nào mà xuất hiện quá lặng lẽ như vậy. Hoặc có lẽ không phải thế. Do tất cả chúng tôi đã quá chìm đắm trong việc phục hồi cơ thể. Trong thời gian đó chúng đã tụ tập lại. Không phải chỉ năm hay mười mà là cả hai chục con khỉ treo ngược người trên các cành cây nhiệt đới. Hai con khỉ mà chúng tôi bắt gặp lúc lần đầu chạy thoát khỏi màn sương trông như một hội đồng chào khách. Đám khỉ mang cảm giác như một điềm gở. Tôi chuẩn bị cây cung với hai mũi tên và Finnick gắn cây đinh ba trong bàn tay. “Peeta,” Tôi nói bình tĩnh nhất có thể. “Tớ cần cậu giúp gì đó đấy.” “Được rồi, chỉ một phút thôi. Tớ nghĩ tớ sắp hiểu rồi,” Cậu ấy đáp, vẫn giữ lấy cái cây. “Đúng rồi, ở kia. Cậu còn giữ ống nước chứ?” “Ừ. Nhưng chúng tớ vừa tìm thấy gì đó mà cậu nên nhìn thấy đã.” Tôi tiếp tục bằng một giọng có nhịp điệu. “Chỉ cần di chuyển về phía bọn này thật nhẹ nhàng, rồi cậu sẽ không làm nó giật mình.” Vì vài lí do, tôi không muốn cậu ấy chú ý tới những con khỉ, hay thậm chí liếc qua chỗ chúng. Có những sinh vật hiểu sự tương tác bằng mắt thường là một sự công kích. Peeta quay đầu về phía chúng tôi, thở hổn hển rời khỏi công việc làm trên cây. Giọng điệu khi yêu cầu của tôi thật kì cục tới nỗi nó cảnh bảo cậu ấy theo một kiểu khác thường. “Được thôi,” cậu nói một cách bình thường. Peeta bắt đầu xuyên qua đám cây và mặc dù tôi biết cậu ấy đang nỗ lực để giữ yên lặng thì việc này không bao giờ cần tới sự khỏe mạnh, dù cậu ấy có cả đôi chân tráng kiện. Nhưng rồi mọi việc đểu ổn thỏa, cậu ấy đang di chuyển, và những con khỉ vẫn ở nguyên chỗ hiện tại của chúng. Peeta chỉ cách bờ biển có năm yard khi cậu ấy cảm nhận được bọn khỉ. Đôi mắt Peeta chỉ phóng lên được một giây nhưng như thể cậu ấy vừa bóp cò một quả bom. Lũ khỉ tản ra thành một đống lông vàng cam đang rít lên và đổ về phía cậu ấy. Tôi chưa từng thấy con vật nào di chuyển nhanh đến thế. Bọn chúng trượt xuống đám dây leo như kiểu mọi thứ đều được bôi mỡ. Khoảng cách xa không tưởng được từ cây này sang cây khác. Răng nanh trắng nhởn, lông cổ xù lên, móng vuốt bắn ra như những con dao bấm. Tôi có thể không quen thuộc với lũ khỉ, nhưng động vật ngoài tự nhiên không hành động giống thế này. “Lũ mút.” Tôi nói lớn khi Finnick và tôi lao nhanh về phía bãi cỏ. Tôi biết mỗi mũi tên cần phải tính toán, và bọn khỉ cũng thế. Trong ánh sáng kì quái, tôi hạ gục từng con khỉ một, nhắm vào mắt, tim, họng, thế nên mỗi cú bắn ra là cú chí mạng. Nhưng điều đó vẫn không đủ nếu Finnick không xiên những con thú như lũ cá và quăng chúng sang một bên, Peeta chớp nhoáng với con dao. Tôi cảm nhận những vết cào trên chân, phần dưới lưng, trước khi ai đó hất văng kẻ tấn công. Không khí ngày càng nặng nề với các loại thực vật bị giẫm nát, mùi máu tanh và mùi hôi thối mốc meo của lũ khí. Peeta và Finnick và tôi cố định chỗ ngồi thành hình tam giác, cách xa người kia vài yard, lưng chúng tôi dựa vào nhau. Tim tôi chùng xuống khi những ngón tay kéo ra chiếc mũi tên cuối cùng. Rồi tôi nhớ Peeta cũng có một chiếc bao tên. Cậu ấy không bắn cung mà đâm xuyên bằng con dao đó. Giờ con dao của tôi đã mất, nhưng lũ khỉ nhanh hơn, có thể nhảy nhót ra vào rất nhanh mà bạn khó có thể phản ứng lại. “Peeta,” Tôi hét lên. “Những mũi tên của cậu !” Không vũ khí, không phòng vệ, tôi chỉ làm việc duy nhất có thể nghĩ được. Tôi chạy về phía Peeta, xô cậu ấy xuống đât và bảo vệ cơ thể cậu bằng chính mình, ngay khi tôi biết đã không đúng lúc. Dù vậy nhưng cô ta đã đến. Như một hồn ma, có vẻ vậy trong làn không khí dày đặc. Chỉ một khoảnh khắc không thấy đâu, giây tiếp theo đã loạng choạng phía trước Peeta. Đầu máu me, miệng mở ra với một tiếng hét cao độ, tròng mắt giãn ra nên đôi mắt cô ta trông như hai hố đen. Con nghiện morphine mất trí ở quận 6 thò ra hai cánh tay xương xẩu như thể để ôm con khỉ lại, rồi nó cắn ngập những chiếc răng nanh vào ngực cô ấy. Chap 22 Peeta vứt chiếc bao tên xuống và cắm ngập dao vào lưng con khỉ, đâm liên tiếp cho tới khi nó nhả ra những chiếc răng nanh. Cậu ấy đá văng con mút, chống đỡ với những con khác. Giờ tôi đã lấy được các mũi tên, cung đã lên dây và Finnick đứng sau lưng, hít thở khó khăn nhưng không chiến đấu tích cực được. “Được rồi, đi nào! Đi !” Peeta hét lên, thở hồng hộc trong cơn giận dữ. Nhưng có gì đó với bọn khỉ. Chúng đang rút lui, trèo lại lên cây, mất hút trong khu rừng như thể có một giọng nói mơ hồ nào đó gọi chúng đi. Giọng nói của một nhà tổ chức, nói với chúng rằng thế là đủ rồi. “Đỡ cô ấy đi,” Tôi nói với Peeta. “Bọn này sẽ yểm hộ.” Peeta nhẹ nhàng nâng con nghiện morphine dậy và cõng cô ta đi vài yard ra bờ biển trong khi Finnick và tôi giữ vũ khí sẵn sàng. Nhưng ngoại trừ vài xác chết lông cam kiệt quệ trên đất, những con khỉ khác đã bỏ đi. Peeta đặt cô gái trên cát. Tôi cắt bỏ chỗ vải trên ngực cô ta, để lộ ra bốn vết thương đâm thủng sâu hoắm. Máu dần dần nhỏ ra từ chỗ đó, khiến chúng trông ít nguy hiểm hơn nhiều. Vết thương thực sự là ở bên trong. Tại vị trí các vết rách, tôi chắc chắn rằng con thú đã cắn vết chí mạng, vào phổi, có thể còn vào tim. Cô ta nằm trên cát, thở hắt ra như con cá bị quẳng ra khỏi nước. Làn da võng xuống, xanh mét, những chiếc xương sườn nhô lên như của đứa trẻ chết đói. Chắc chắn cô ta có thể kiếm nổi thức ăn, nhưng lại đâm đầu vào morphine như ông Haymitch đâm đầu vào rượu, tôi đoán thế. Mọi dấu hiệu kiệt quệ của cô ta – cơ thể, cuộc sống và cái nhìn trống rỗng trong mắt. Tôi nắm lấy bàn tay co quắp, không rõ nó thò ra từ chỗ chất độc ảnh hưởng tới hệ thần kinh, cú sốc tấn công hay được rút ra từ đống thuốc phiện mà cô ta dùng sống qua ngày. Chúng tôi chẳng thế làm gì. Không gì ngoài ở lại với cô ta cho tới khi qua đời. “Tôi sẽ trông chừng đám cây.” Finnick nói trước khi bỏ đi. Tôi cũng muốn đi nhưng cô ấy ghìm tay tôi quá chặt đến nỗi tôi phải gỡ những ngón tay ra và tôi còn chẳng đủ sức mạnh cho kiểu độc ác ấy. Tôi nghĩ tới Rue, rằng tôi đã có thể hát một bài hay gì đó. Nhưng tôi thậm chí còn không biết tên con nghiện morphine này, mặc kệ cô ta có thích hát hay không. Tôi chỉ biết cô ta đang chết. Peeta cúi mình ở phía kia và vuốt tóc cô ấy. Khi cậu ấy nói chuyện bằng một giọng nhẹ bẫng, nó gần như là vô nghĩa nhưng những ngôn từ không phải dành cho tôi. “Với hộp màu ở nhà tôi có thể chế ra nhiều màu. Hồng. Nhợt như da em bé. Hay thẫm như cây đại hoàng. Xanh như cỏ xuân. Lam lung linh như băng trên mặt nước.” Con nghiện nhìn chăm chăm vào mắt Peeta, dõi theo lời nói của Peeta. “Có một lần, tôi mất ba ngày để trộn đống màu cho tới lúc tìm được sắc màu đúng của ánh mặt trời in trên lông mao trắng. Cô thấy là, tôi vẫn nghĩ nó có màu vàng nhưng thật ra còn hơn thế. Từng lớp màu. Từng cái một,” Peeta nói. Hơi thở của con nghiện chậm dần khó khăn. Bàn tay kia của cô ta vấy máu trên ngực, tạo thành những hình xoáy bé tý mà cô ta muốn vẽ. “Tôi vẫn chưa tìm hiểu được cầu vồng. Chúng đến quá nhanh và đi quá mau. Tôi chưa khi nào đủ thời gian mà bắt được chúng. Chỉ có chút xanh lam hay tím đây đó thôi. Và rồi chúng lại mờ đi. Quay trở lại không khí.” Peeta nói. Con nghiện morphine như bị thôi miên bởi những lời nói của Peeta. Bị mê hoặc. Cô ta nhấc bàn tay run rẩy và vẽ một hình mà tôi nghĩ là một bông hoa lên má Peeta. “Cảm ơn,” cậu ấy thì thầm. “Thật đẹp.” Trong một khắc, khuôn mặt của con nghiện hiện loáng thoáng một nụ cười nhăn nhở và tạo ra một âm thanh rúc rích. Rồi bàn tay sũng máu của cô ta rơi trở lại ngực, cô ấy phát ra một tiếng thở hắt cuối cùng và tiếng đại bác nổ lên. Cái ghì chặt trên tay tôi nới lỏng. Peeta bế cô ấy xuống nước. Cậu ấy trở lại và ngồi cạnh tôi. Con nghiện morphine trôi nổi về phía chiếc sừng dê một lúc rồi chiếc tàu đệm khí xuất hiện, bốn cái móc có ngạnh thò xuống, bọc quanh cô ấy, mang cô ấy trở lại vào bầu trời đêm rồi biến mất. Finnick quay lại với chúng tôi, nắm tay đầy những mũi tên của tôi vẫn ướt đẫm máu khỉ. Anh ấy vứt chúng gần tôi trên cát. “Anh nghĩ có thể em cần chúng.” “Cảm ơn.” Tôi đáp. Tôi lội xuống nước và rửa sạch máu đông, từ vũ khí, từ những vết thương. Lúc quay lại rừng để nhặt nhạnh chút rêu lau khô chúng, toàn bộ xác khỉ đã biến mất. “Chúng đi đâu rồi?” Tôi hỏi “Bọn anh không biết chính xác. Các dây leo di chuyển và chúng biến mất.” Finnick trả lời. Chúng tôi nhìn chằm chằm vào khu rừng, tê cóng và kiệt sức. Trong yên tĩnh, tôi để ý rằng chỗ những giọt sương đọng trên da tôi đã đóng vảy lại. Chúng ngừng gây đau đớn và bắt đầu ngứa ngáy. Ngứa dữ dội. Tôi cố nghĩ đây là một dấu hiệu tốt. Rằng chúng đang lành lại. Tôi lướt mắt qua Peeta, rồi Finnick và thấy cả hai đang gãi sột soạt lên khuôn mặt bị phá hủy. Vâng, thậm chí vẻ đẹp trai của Finnick cũng bị phá hủy trong tối nay. “Đừng gãi.” Tôi nói dù rất muốn gãi. Nhưng tôi biết đây là lời khuyên mẹ tôi sẽ đưa ra. “Các cậu sẽ chỉ gây nhiễm trùng thôi. Có nghĩ sẽ an toàn nếu dùng nước lần nữa không?” Chúng tôi cùng quay lại chỗ cái cây mà Peeta đã rạch. Finnick cùng tôi đứng đó với vũ khí treo thăng bằng trong khi cậu ta cắm cái máng vào nhưng không có mối đe dọa nào. Peeta tìm thấy hõm mạch gỗ thích hợp và nước bắt đầu phun ra từ chiếc máng. Chúng tôi làm dịu đi cơn khát, để dòng nước ấm áp đổ ào lên cơ thể đang ngứa ngáy. Chúng tôi đổ đầy nước vào một nhúm vỏ ốc và quay lại bờ biển. Trời vẫn tối dù rạng đông không còn bao lâu nữa là tắt ngúm. Nếu những nhà sản xuất không muốn nó thế. “Sao cả hai không nghỉ ngơi chút đi?” Tôi nói. “Em sẽ canh chừng một lúc.” “Không Katniss, anh muốn gác.” Finnick đáp lại. Tôi nhìn vào mắt anh, mặt anh và nhận ra anh ấy không kìm được nước mắt. Mags. Ít nhất những gì tôi làm được là để cho anh ấy chút riêng tư để khóc thương cho bà. “Được rồi, Finnick, cảm ơn anh.” Tôi đáp. Tôi nằm trên cát cạnh Peeta, cậu thả người xuống ngay tức khắc. Tôi nhìn đăm đăm vào màn đêm, nghĩ về việc một ngày qua đã tạo nên khác biệt thế nào. Làm thế nào mà sáng hôm qua, Finnick còn nằm trong danh sách cần giết mà bây giờ tôi lại yên giấc trong điều kiện anh ấy là một người bảo vệ của tôi. Anh đã cứu Peeta và để bà Mags chết mà tôi không biết tại sao. Chỉ vậy mà tôi chẳng bao giờ lấy lại được cân bằng giữa chúng tôi. Tất cả những gì tôi làm được lúc này là đi ngủ và để anh ấy đau buồn trong yên bình. Và tôi cũng vậy. Trời tảng sáng khi tôi mở mắt ra lần nữa. Peeta vẫn nằm bên cạnh. Phía trên chúng tôi, một thảm cỏ treo nơi cành cây ngăn chúng tôi khỏi ánh sáng mặt trời. Tôi ngồi dậy và thấy bàn tay Finnick vẫn bận rộn. Hai chiếc bát được dệt đựng đầy nước sạch. Cái thứ ba đựng một đống sò. Finnick ngồi trên cát, đập chúng bằng một cục đá. “Chúng tươi sẽ ngon hơn,” anh nói, bóc một khoanh thịt từ con sò và nảy nó vào mồm. Mắt anh ấy vẫn sưng húp nhưng tôi giả vờ không để ý. Dạ dày tôi sôi lên vì mùi thức ăn và tôi vươn tay ra lấy một chút. Cảnh những ngón tay đông máu khiến tôi ngưng lại. Tôi vẫn tiếp tục gãi làn da trầy máu khi ngủ. “Em biết đấy, nếu em gãi sẽ gây nhiễm trùng.” Finnick đáp. “Em vừa nghe được thôi.” Tôi đáp. Tôi lội xuống chỗ nước muối và rửa vết máu đi, cố nghĩ xem tôi ghét gì hơn, bị đau hay bị ngứa. Khi chán ngấy, tôi nặng nề bước ra biển, ngẩng đầu lên và gầm gừ, “Này bác Haymitch, nếu bác không quá say, chúng cháu có thể dùng thứ gì đó với làn da rồi.” Thật hài hước khi chiếc dù nhanh chóng xuất hiện trên đầu tôi. Tôi vói lên và chiếc ống đáp ngay trên bàn tay đang xòe. “Đúng lúc”, tôi nói nhưng không thể nén được giận dữ trên mặt. Với ông Haymitch. Với việc tôi không bỏ ra năm phút mà nói được với ông ấy. Tôi nằm phịch xuống bãi cát cạnh Finnick và xoáy bật chiếc nắp ống. Bên trong chứa thuốc mỡ đặc sệt đen sì có mùi hăng, kết hợp của hắc ín và lá kim thông. Tôi nhăn mũi khi bóp ít thuốc lên lòng bàn tay và bắt đầu xoa lên chân. Một âm thanh thư giãn thốt ra khỏi miệng khi chất lỏng triệt tiêu cảm giác ngứa ngáy. Nó cũng nhuộm làn da đóng vảy của tôi một màu xanh xám rùng rợn. Khi tiếp tục chuyển sang bên chân thứ hai, tôi thảy ống tuýt tới chỗ Finnick, đang dòm tôi nghi hoặc. “Như là em đang mục rữa ấy.” Finnick nói. Nhưng tôi đoán vết ngứa đã thắng vì sau một phút Finnick cũng chữa trị làn da của mình. Thật sự là hỗn hợp giữa vảy da và thuốc mỡ trông quá ghê tởm. Tôi không nhịn được việc thưởng thức sự khó chịu của anh ta. “Tội nghiệp Finnick. Đây có phải lần đầu trong đời anh trông không hoàn hảo không?” Tôi nói. “Chắc thế. Cảm giác hoàn toàn mới mẻ. Sao mà em vượt qua được nó suốt những năm qua?” anh hỏi. “Chỉ là tránh những chiếc gương. Anh sẽ quên nó đi thôi.” Tôi nói. “Sẽ không nếu như anh tiếp tục nhìn em.” Anh ấy đáp. Chúng tôi thay nhau trị thương, bất kể việc luân phiên chà xát thứ thuốc mỡ lên lưng người kia nơi phần áo lót không bảo vệ được da thịt. “Em sẽ đánh thức Peeta.” Tôi nói “Không, chờ đã.” Finnick lên tiếng. “Cùng làm việc này đi. Đặt mặt chúng ta ngay trước mặt cậu ta.” Chà, thú thật là đời tôi còn lại cực ít cơ hội đùa giỡn. Chúng tôi ngồi ở hai bên sườn Peeta, dựa vào cho tới khi mặt chúng tôi áp sát mũi cậu ấy và lắc nhẹ. “Peeta. Peeta, dậy đi.” tôi nói với một giọng nhỏ nhẹ, đều đều. Mi mắt cậu ấy đung đưa mở ra và rồi nhảy lên như thể chúng tôi vừa đâm cậu ấy. “Aa!” Finnick và tôi ngã ra sau trên mặt cát, cười ngặt nghẽo. Mỗi lần cố ghìm lại, chúng tôi lại nhìn vào cố gắng của Peeta để duy trì biểu lộ kinh khủng và nó lại khiến chúng tôi ngã ra. Lúc cả bọn trấn tĩnh lại, tôi đã nghĩ rằng có lẽ Finnick Odair sẽ ổn cả. Ít nhất thì cũng không tự phụ hay kiêu ngạo như tôi nghĩ. Thật sự không tồi chút nào. Và đúng lúc tôi đi tới kết luận trên, một chiếc dù đậu lại cạnh chúng tôi với một ổ bánh mì mới ra lò. Nhớ lại năm ngoài những món quà của ông Haymitch thường được hẹn giờ để gửi tới một thông điệp thế nào, tôi tự rút ra dấu hiệu cho chính mình. Hãy là những người bạn của Finnick. Rồi bạn sẽ có thức ăn. Finnick thảy chiếc bánh lên hai lòng bàn tay, kiểm tra vỏ bánh. Hơi có ý chiếm hữu. Thật không cần thiết. Nó có màu xanh của tảo biển mà bánh từ quận 4 luôn có. Chúng tôi đều biết nó là của anh ấy. Có lẽ anh ấy vừa mới nhận ra nó giá trị đến thế nào, và anh ấy có lẽ sẽ không thấy một ổ bánh mì nào khác nữa. Có lẽ phần kí ức về bà Mags nào đó đã gắn với lớp vỏ bánh. Nhưng tất cả những gì anh ấy nói là “Cái này sẽ hợp với món sò.” Trong khi tôi giúp Peeta phủ làn da bằng lớp thuốc mỡ, Finnick khéo léo rửa sạch thịt từ con sò. Chúng tôi tụ tập vòng tròn và ăn món bánh mì muối ngọt mới ra từ quận 4. Tất cả chúng tôi trông thật quái dị – thuốc mỡ dường như là nguyên nhân gây ra vài lớp vảy – nhưng tôi vui vì thứ thuốc đó. Không chỉ vì nó làm thuyên giảm cơn ngứa ngáy, mà vì nó bảo vệ tôi khỏi ánh sáng mặt trời trắng rực rỡ trên nền trời hồng. Từ vị trí của mặt trời, tôi dự đoán nó chắc phải đi về phía 10h, nghĩa là chúng tôi đã ở trường đấu gần một ngày. Mười một người trong chúng tôi đã chết. Mười ba còn sống. Nơi nào đó trong khu rừng, mười người đã ẩn náu đi. Ba hay bốn kẻ là bọn nhà nghề. Tôi không thực sự muốn cố gắng nhớ những người khác là ai. Với tôi, khu rừng nhanh chóng biến từ một nơi an toàn thành một cái bẫy nham hiểm. Tôi biết vào một thời điểm nào đó chúng tôi buộc phải sẽ tiến sâu vào rừng, dù để săn hay bị săn, nhưng ngay lúc này tôi định sẽ dính lấy bờ biển nhỏ bé. Tôi không nghe thấy Peeta hay Finnick gợi ý làm gì khác. Trong chốc lát khu rừng gần như tĩnh lặng, kêu o o, mờ ảo nhưng không phô ra sự nguy hiểm của nó. Rồi, ở xa xa, vang tới tiếng thét gào. Ngang chỗ chúng tôi, một phần đất nhọn của khu rừng bắt đầu rung lên. Một con sóng khổng lồ nhô lên cao trên ngọn đồi, phủ lên hàng cây và gầm lên trượt xuống con dốc. Nó đánh vào nước biển ở đó với một lực như thế, dù chúng tôi ở quá xa để có thể cảm nhận được, con sóng nổi bọt tăm xung quanh mắt cá chân, đã khiến cho chút đồ vật ít ỏi của chúng tôi nổi lềnh phềnh. Với ba người, chúng tôi quyết định thu nhặt mọi thứ trước khi bị trôi đi xa, ngoại trừ ba bộ liền thân thủng lỗ chỗ, bởi chúng quá rách nát nên sẽ không ai để ý nếu chúng tôi có làm mất chúng. Một tiếng đại bác nổ tung. Chúng tôi thấy chiếc tàu khí xuất hiện phía trên khu vực nơi ngọn sóng khởi đầu và gắp một thi thể từ đám cây. Mười hai rồi, tôi nghĩ thầm. Vòng xoáy nước dần ngừng lại, đang hấp thu trong con sóng khổng lồ. Chúng tôi sắp xếp lại các thứ trở lại trên nền cát ướt và gần như ngã người xuống khi tôi thấy chúng. Ba bóng người, cách xa khoảng hai cái nan hoa, đang đi cà nhắc trên mặt bờ biển. “ Ở đó.” Tôi nói khẽ, hất cằm về hướng của những kẻ mới tới. Peeta và Finnick dõi theo cái nhìn chằm chằm của tôi. Như thể thống nhất trước, tất cả chúng tôi biến mất trở lại dưới bóng khu rừng. Bộ ba người trong hình dáng xấu xí – bạn có thể thấy ngay sau đó. Một thì gần như bị kéo lê bởi người thứ hai còn kẻ thứ ba đi loanh quanh thành hình vòng tròn điên loạn, như thể bị mất trí. Bọn họ có màu gạch đỏ sậm, như thể vừa được nhúng vào sơn và để ra ngoài cho khô. “Ai thế?” Peeta hỏi. “Hay là cái gì thế? Bọn mút sao?” Tôi kéo ra một mũi tên, sẵn sàng cho một cuộc tấn công. Nhưng tất cả những gì xảy ra là kẻ đang bị kéo lê đổ người xuống bờ biển. Kẻ kéo lê thì dậm chân xuống đất thất vọng và trong cơn tức giận, đã quay lại và xô đẩy nhóm người, lật một kẻ khác ngã nhào. Khuôn mặt Finnick sáng lên. “Johanna ” anh ấy gọi và chạy về phía các vật thể màu đỏ. “Finnick!” tôi nghe tiếng Johanna vọng lại. Tôi trao đổi cái nhìn với Peeta. “Giờ thì sao?” tôi hỏi. “Chúng ta không thể để Finnick lại.” Peeta đáp. “Chắc là không. Đi nào.” Tôi nói cáu kỉnh, vì mặc dù tôi có cả đống đồng minh thì Johanna Mason chắc chắn không phải trong số đó. Hai chúng tôi đi xuống bờ biển tới nơi mà Finnick và Johanna vừa mới gặp nhau. Khi tới gần hơn, tôi thấy những người bạn của cô ta, và sự bối rối kéo tới. Ông Beetee trên mặt đất và Wiress vừa mới thu chân lại để tiếp tục thắt nút. “Cô ta đã tìm ra Wiress và Beetee.” “Quả hạch và Vôn điện?” Peeta nói, bối rối y hệt. “Tớ vừa mới nghe sao lại xảy ra chuyện này thôi.” Khi chúng tôi tới chỗ họ, Johanna đang khoa tay múa chân về phía khu rừng và nói rất nhanh với Finnick. “Bọn em nghĩ trời mưa, anh biết đấy, vì có chớp và tất cả bọn đều quá khát. Nhưng khi mưa bắt đầu dội xuống, nó hóa ra lại đầy máu. Máu đặc quánh, nóng bỏng. Anh không thấy đâu, anh không thể nói chuyện mà không đầy miệng được. Bọn em chỉ đi loanh quanh, cố thoát ra khỏi nó. Đó là lúc Blight va phải bức từ trường.” “Anh xin lỗi, Johanna.” Finnick nói. Mất một giây để tìm thấy Blight. Tôi nghĩ anh ta là một bản sao nam của Johanna từ quận 7, nhưng tôi không nhớ đã nhìn thấy anh ta. Nghĩ tới điều đó, tôi thậm chí không nghĩ anh ta đã xuất hiện lúc huấn luyện. “Phải, chà, anh ấy không được coi trọng, nhưng do tới từ quê nhà.” Cô ta nói. “Và anh ta bỏ em lại với hai người này.” Johanna thúc Beetee, kẻ đang khó tỉnh lại, bằng mũi giầy. “Ông ta nhặt được con dao sau chiếc sừng dê. Còn bà ta…” Tất cả chúng tôi liếc về Wiress, kẻ đang đi vòng vòng, người phủ máu khô và lầm bầm “Tích, tắc. Tích, tắc.” “Phải, chúng ta đều biết. Tích, tắc. Quả hạch đang bị sốc.” Johanna nói. Việc này dường như là để kéo Wiress đi đúng hướng và bà ta nghiêng về phía Johanna – đang xô đẩy dữ dội. “Chỉ cần ở nguyên dưới nước, được chứ?” “Thả bà ta đi,” tôi cáu kỉnh. Johanna thu hẹp đôi mắt nâu nhìn tôi trong căm ghét. “Thả bà ta?” Johanna rít lên. Cô ta bước lên trước khi tôi có thể phản ứng và vả tôi thật mạnh tới nỗi tôi bị choáng váng. “Mày nghĩ ai đã cứu chúng ra khỏi khu rừng máu cho mày hả? Mày –“ Finnick thảy cơ thể đang quằn quại của cô ta lên vai và vác ra chỗ mặt nước rồi liên tục nhúng xuống trong khi cô ta la hét những câu xúc phạm với tôi. Nhưng tôi không bắn. Vì cô ta đang ở cạnh Finnick và vì những điều cô ta đã nói, về việc tìm ra bọn họ giúp tôi. “Cô ta có ý gì? Cô ta đã tìm ra bọn họ cho tớ?” tôi hỏi Peeta. “Tớ không biết nữa. Cậu tìm họ trước tiên còn gì,” cậu ấy nhắc nhở tôi. “Ừ, tớ có. Trước tiên.” Nhưng điều đó không giải đáp được gì. Tôi nhìn xuống cơ thể ì ạch của lão Beetee. “Nhưng tớ sẽ không giữ chân họ được lâu nếu chúng ta không làm gì đó.” Peeta nâng Beetee dậy bằng hai tay và tôi tóm lấy Wiress rồi chúng tôi quay lại chiếc lều nhỏ bên bờ biển. Tôi đặt Wiress ở chỗ nông để bà ấy có thể rửa ráy một chút, nhưng bà ấy chỉ nén chặt hai tay vào nhau và thỉnh thoảng lầm bầm “Tích, tắc”. Tôi mở thắt lưng của Beetee và tìm thấy một xi lanh kim loại nặng trịch gắn vào một bên sườn với một dây thừng bện bằng dây leo. Tôi không biết nó là gì, nhưng nếu ông ta nghĩ nó đáng giữ thì tôi sẽ không phải là người làm mất nó. Tôi thảy nó lên mặt cát. Quần áo ông Beetee dính chặt vào người cùng với máu, nên Peeta ôm ông ấy dưới nước trong khi tôi cởi chúng. Mất một lúc để cởi bộ đồ liền thân, và rồi chúng tôi thấy bộ đồ lót trong của ông ta cũng thấm đẫm máu. Không còn lựa chọn nào là cởi quần áo khiến ông ấy trần truồng để lau sạch, nhưng tôi phải nói rằng việc này không gây cho tôi ấn tượng được nữa. Chiếc bàn bếp nhà chúng tôi năm nay đầy những người trần truồng. Bạn sẽ quen với nó sau một thời gian. Chúng tôi kéo chiếc chiếu của Finnick xuống và đặt úp Beetee để có thể kiểm tra phần lưng. Có một vết cắt tầm 6 inch chạy dọc theo bả vai trượt xuống dưới xương sườn. May là nó không quá sâu. Dù thế nhưng ông ta mất rất nhiều máu – bạn có thể thấy qua làn da tái nhợt – và nó vẫn rỉ ra khỏi vết thương. Tôi ngồi trên gót chân, cố gắng suy nghĩ. Tôi phải dùng cái gì đây? Nước biển? Tôi có cảm giác giống mẹ tôi khi công cụ chữa bệnh đầu tiên của bà là tuyết. Tôi nhìn lên khu rừng. Tôi cá có hàng đống cây dược ở đó nếu tôi biết cách dùng. Nhưng chúng không phải cây cỏ thuộc về tôi. Rồi tôi nghĩ tới đám rêu bà Mags đã cho tôi để xì mũi. “Tớ quay lại ngay.” Tôi nói với Peeta. Thật may là loài cây này khá phổ biến trong rừng nhiệt đới. Tôi bóc một nắm rêu từ những cái cây gần đó và mang nó trở ra biển. Tôi làm một tấm đệm dày từ rêu, đặt nó lên vết cắt của Beetee và cố định nó bằng cách thắt dây leo quanh cơ thể ông ấy. Chúng tôi đổ ít nước lên và kéo ông ta vào bóng cây ở rìa rừng. “Tớ nghĩ đó là tất cả những gì chúng ta có thể làm rồi.” tôi nói. “Khá đấy. Cậu giỏi trong vụ chữa bệnh này,” Peeta nói. “Nó ngấm vào máu cậu rồi.” “Không”, tôi nói, lắc đầu. “Tớ mang dòng máu của bố.” Khi lòng tốt sục sôi lên trong một cuộc đi săn, không phải trong một trận dịch bệnh. “Tớ sẽ đi xem Wiress.” Tôi lấy một nắm rêu dùng như một cái khăn và đặt Wiress vào chỗ nước nông. Bà ấy không kháng cự khi tôi cởi bỏ quần áo, lau máu trên da. Nhưng đôi mắt thì mở rộng cùng với nỗi sợ hãi, và khi tôi nói chuyện, bà ấy không đáp lại ngoại trừ việc nói điều này với một sự khẩn cấp ngày càng tăng: “Tích, tắc.” Bà ấy có vẻ cố nói với tôi điều gì đó, nhưng không có Beetee giải nghĩa, tôi cũng lúng túng. “Phải. Tích, tắc. Tích, tắc.” tôi nói. Điều này có vẻ khiến Wiress bình tĩnh đôi chút. Tôi giặt sạch bộ đồ liền thân của Wiress cho đến khi không có một dấu máu nào, và giúp bà ấy mặc trở lại. Nó không bị phá hủy như bộ của chúng tôi. Dây thắt lưng còn tốt, nên tôi cũng thắt nó lại. Rồi tôi đặt bộ đồ lót trong của bà bên cạnh bộ đồ của Beetee, dưới vài viên đá và để chúng nhúng nước. Lúc tôi súc rửa bộ đồ của Beetee, một Johanna sạch sẽ tỏa sáng và một Finnick đang bong tróc tham gia cùng chúng tôi. Mất một lúc, Johanna nuốt ngụm nước và ăn ngấu nghiến con sò trong khi tôi cố dỗ chút gì đó cho Wiress. Finnick kể chuyện về màn sương và những con khỉ bằng một giọng ngắt quãng và gần như không thoải mái, tránh các chi tiết quan trọng nhất của câu chuyện. Mọi người đề nghị canh chừng trong khi những người còn lại nghỉ ngơi, nhưng rút cục, Johanna và tôi cùng thức. Là tôi bởi tôi thực sự cần nghỉ ngơi, là cô ta bởi cô ta chỉ đơn giản không muốn nằm xuống. Hai người chúng tôi ngồi trong im lặng bên bờ biển cho đến khi những người khác yên giấc. Johanna liếc qua Finnick để chắc chắn, rồi quay ra phía tôi. “Sao mà các cô mất bà Mags?” “Trong màn sương. Finnick đi với Peeta. Tôi đi cùng bà Mags một lúc. Rồi tôi không thể vác bà ấy nữa. Finnick nói không thể vác cả hai. Bà ấy hôn Finnick và bước thẳng vào trong làn sương độc.” tôi nói. “Bà ấy là cố vấn của Finnick, cô biết thế mà.” Johanna nói vẻ cáo buộc. “Không, tôi không biết.” tôi đáp. “Bà ấy là một nửa gia đình của anh ấy.” cô ta nói vài giây sau đó, nhưng ít ác ý hơn. Chúng tôi nhìn nước táp lên các bộ đồ lót. “Thế cô làm gì với Quả hạch và Vôn điện?” tôi hỏi. “Tôi nói với cô là – tôi tìm họ cho cô. Ông Haymitch nói nếu chúng ta thành đồng minh thì tôi phải mang họ đến cho cô.” Johanna nói. “Đó là điều cô nói với ông ấy đúng không?” Không, tôi nhủ. Nhưng lại gật đầu tán thành. “Cảm ơn. Tôi sẽ đánh giá cao việc đó.” “Hi vọng thế.” Cô ta trao cho tôi cái nhìn đầy miễn cưỡng, như kiểu tôi là vật trở ngại lớn nhất trong đời. Tôi băn khoăn rằng sẽ thế nào nếu có một người chị gái giống thế này thực sự căm ghét bạn. “Tích, tắc.” Tôi nghe thấy sau lưng. Quay lại, tôi thấy Wiress vừa bò tới. Đôi mắt bà ấy tập trung vào khu rừng. “Ồ, ngon, bà ta đã tỉnh. Được rồi, tôi sẽ đi ngủ. Cô và Quả hạch có thể cùng canh giữ.” Johanna nói. Cô ta bước qua và nằm phịch xuống cạnh Finnick. “Tích, tắc.” Wiress thì thào. Tôi dẫn bà ấy ngồi đằng trước mình và giúp bà ấy nằm xuống, vuốt ve cánh tay xoa dịu bà. Bà ấy rạp xuống, cử động không yên, thỉnh thoảng thở ra câu nói của mình. “Tích, tắc.” “Tích, tắc.” Tôi thỏa thuận nhẹ nhàng. “Tới giờ đi ngủ rồi. Tích, tắc. Ngủ thôi.” Mặt trời mọc trên nền trời cho tới khi nó chiếu thẳng tới chỗ chúng tôi. Chắc phải trưa, tôi nghĩ lơ đãng. Không vấn đề gì. Ngang tầm mặt nước, dưới cùng phía bên phải, tôi trông thấy một vệt sáng khổng lồ giống như tia sét đánh vào đám cây và cơn bão điện lại kéo tới. Đúng khu vực mà nó xuất hiện tối qua. Ai đó hẳn đã đi vào phạm vi của nó, tạo ra một cuộc tấn công. Tôi ngồi một lúc quan sát tia chớp, giữ Wiress bình tĩnh, tạm lắng trong yên bình bởi con sóng nước vỗ bập bềnh. Tôi nghĩ đến tối qua, làm thế nào mà tia chớp phát ra chỉ ngay sau khi tiếng chuông vang lên. Mười hai tiếng chuông lớn. “Tích, tắc.” bà Wiress thốt, bày tỏ vẻ tỉnh táo trong chốc lát và rồi lại trở về nguyên trạng. Mười hai tiếng chuông tối qua. Như lúc giữa đêm. Rồi đến tia chớp. Giờ mặt trời đã lên đỉnh đầu. Như là buổi chiều. Rồi tới tia chớp. Tôi chậm rãi ngồi dậy và suy nghĩ về đấu trường. Tia chớp ở chỗ kia. Ở mũi nhọn hình quả táo là trận lụt máu xảy ra, nơi Johanna, Wiress và Beetee bị bắt gặp. Chúng tôi ở phần thứ ba, ngay cạnh đó, khi màn sương xuất hiện. Và khi nó biến mất, những con khỉ lại bắt đầu tập trung ở phần thứ 4. Tích, tắc. Đầu tôi hướng tới phía bên còn lại. Đôi giờ trước, tầm 10h, là con sóng xuất hiện từ phần thứ hai kể từ bên trái nơi mà tia chớp phát ra lúc này. Buổi trưa. Giữa đêm. Buổi trưa. “Tích, tắc.” Wiress nói trong lúc ngủ. Khi tia chớp ngừng lại và cơn mưa máu khởi nguồn ngay trên bên trái nó, lời nói của bà ấy đột nhiên có xúc cảm. “Ồ,” tôi nói thấp giọng. “Tích, tắc.” Đôi mắt tôi đảo xung quanh vòng tròn toàn đấu trường và tôi biết bà ấy đã đúng. “Tích, tắc. Đây là một chiếc đồng hồ.” Chap 23 Một chiếc đồng hồ. Tôi gần như có thể nhìn thấy những chiếc kim quay xung quanh toàn trường đấu có mười hai phần. Mỗi một giờ là khởi nguồn cho nỗi đe dọa mới, một loại vũ khí mới của nhà sản xuất, và là điểm kết thúc cho giờ trước đó. Tia chớp, mưa máu, sương, lũ khỉ – những thứ này là bốn giờ đầu tiên của chiếc đồng hồ. Và lúc mười giờ, là con sóng. Tôi không biết chuyện gì xảy ra vào 7 giờ còn lại, nhưng tôi biết bà Wiress đã đúng. Hiện tại, cơn mưa máu đang đổ xuống và chúng tôi ở trên bờ biển dưới phần có bọn khỉ, quá gần màn sương. Có phải các cuộc tấn công khác nhau nằm trong khu vực tiếp giáp của khu rừng? Không nhất thiết. Con sóng không phải. Nếu màn sương đó lan ra khỏi khu rừng, hay những con khỉ xuất hiện trở lại… “Dậy thôi,” tôi ra lệnh, lay Peeta và Finnick cùng Johanna tỉnh lại. “Dậy – chúng ta phải di chuyển.” Dù thế nhưng vẫn còn đủ thời gian để giải thích nguyên lí đồng hồ cho bọn họ. Về câu nói “tích, tắc” của bà Wiress và làm thế nào mà chuyển động của những chiếc kim vô hình lại gây ra một lực chết người lên mỗi phân khu. Tôi nghĩ tôi thuyết phục được những người tỉnh táo trừ Johanna, kẻ tự nhiên sẽ phản đối bất cứ điều gì tôi đề nghị. Nhưng kể cả cô ta có đồng ý, an toàn tốt hơn là phải tiếc nuối. Trong khi những người khác thu dọn chút đồ vật ít ỏi và giúp Beetee mặc lại bộ đồ liền thân, tôi dựng bà Wiress dậy. Bà ấy tỉnh lại với một câu “tích, tắc” đầy hoảng sợ. “Đúng rồi, tích, tắc, đấu trường là một chiếc đồng hồ. Nó là một chiếc đồng hồ, bà Wiress ạ, bà đã đúng.” Tôi nói. “Bà đã đúng.” Sự tin tưởng hiện trên khuôn mặt bà ấy – tôi đoán là bởi vì có ai đó cuối cùng cũng hiểu những gì bà ấy biết được từ tiếng chuông đầu tiên. “Giữa đêm.” “Nó bắt đầu vào giữa đêm.” Tôi xác nhận. Một mảng kí ức len lỏi bao phủ lên tâm trí tôi. Tôi trông thấy một chiếc đồng hồ. Không, nó là một chiếc đồng hồ đeo tay, nằm gọn trong lòng bàn tay của Plutarch Heavensbee. “Nó bắt đầu vào giữa đêm.” Plutarch nói. Và rồi con chim nhại của tôi sáng lên nhanh chóng và biến mất. Nhớ lại, nó giống như là ông ta đang cố đưa cho tôi gợi ý về cuộc đấu. Nhưng sao lại là ông ta? Thời điểm đó, tôi chỉ không hơn gì một vật tế trong cuộc đấu như ông ta đã từng. Có lẽ Plutarch nghĩ điều đó sẽ giúp tôi với vai trò là một cố vấn. Hay có lẽ đây là một kế hoạch xuyên suốt. Bà Wiress gật đầu về phía cơn mưa máu. “Một giờ ba mươi.” Bà nói. “Chính xác. Một giờ ba mươi. Và vào lúc hai giờ, một màn sương độc hại khởi nguồn tại đó.” Tôi nói, chỉ vào khu rừng ngay cạnh. “Nên giờ ta phải di chuyển tới nơi nào đó an toàn.” Bà ấy mỉm cười và ngoan ngoãn đứng dậy. “Bà có khát không?” tôi đưa cho bà một chiếc bát được dệt và bà ấy nuốt xuống gần một ga – lông nước. Finnick đưa mẩu bánh mì cuối cùng và bà ấy gặm lấy nó. Với việc vượt qua sự bất lực trong giao tiếp, bà ấy đã tỉnh táo trở lại. Tôi kiểm tra vũ khí của mình. Buộc chặt chiếc ống nước và tuýp thuốc trong chiếc dù và cố định nó vào thắt lưng bằng dây leo. Beetee vẫn khá bất tỉnh, nhưng khi Peeta cố nâng ông ấy dậy, ông ấy phản đối. “Wire.” “Bà ấy ở ngay đây.” Peeta nói chuyện. “Bà Wiress ổn cả. Bà ấy cũng đang đi tới kìa.” Nhưng Beetee vẫn kháng cự. “Wire.” Ông ấy nằng nặc. “Ồ, tôi biết ông ta muốn gì rồi.” Johanna không kiên nhẫn lên tiếng. Cô ta băng qua bờ biển và nhặt về chiếc xi lanh mà chúng tôi lấy ra từ chiếc thắt lưng của ông ta khi tắm gội. Nó được phủ một lớp máu đông dày. “Thứ vô dụng này. Nó là một loại dây điện gì đó. Đó là lí do ông ta có vết cắt. Chạy về phía Sừng dê để lấy thứ này. Tôi không biết nó có thể là thứ vũ khí gì. Tôi đoán cậu có thể kéo ra một mẩu và dùng nó như một chiếc dây thắt cổ hay gì đó. Nhưng thực ra, cậu có thể tưởng tượng việc lão Beetee thắt cổ ai đó không chứ?” “Ông ấy thắng đấu trường bằng dây điện đấy. Lập nên một chiếc bẫy điện,” Peeta nói. “Đó là thứ vũ khí tốt nhất mà ông ấy có thể có.” Có gì đó kì lạ với Johanna khi không bàn luận tới điều này. Điều gì đó không chân thực. Thật đáng nghi. “Có vẻ như cô vừa khám phá ra,” tôi lên tiếng. “Vì cô đặt tên cho ông ấy là Vôn và chỉ có thế.” Đôi mắt Johanna thu hẹp nhìn tôi đầy nguy hiểm. “Phải, điều đó là sự ngu xuẩn của tôi, phải không?” cô ta đáp. “Tôi đoán chắc hẳn mình đã bị làm xao nhãng trong việc giữ mạng sống cho những người bạn bé nhỏ của cô. Trong khi cô… gì nhỉ, nhắc lại xem? Giết chết bà Mags?” Những ngón tay tôi nắm chặt lấy con dao trên thắt lưng. “Tiến lên thôi. Cố gắng nhé. Tôi không quan tâm cô bị kiệt sức hay không, nhưng tôi sẽ xé toạc họng cô ra đấy.” Johanna nói. Tôi biết giờ tôi không thể giết cô ta lập tức. Nhưng chỉ là vấn đề thời gian giữa tôi và Johanna. Trước khi có một người giết chết người còn lại. “Có lẽ tất cả nên cẩn thận khi bước đi,” Finnick nói, ném cho tôi cái nhìn. Anh ấy lấy cuộn dây và đặt nó lên ngực ông Beetee. “Dây điện của ông đây, Vôn. Coi chừng nơi ông định gán nó vào nhé.” Peeta vực ông Beetee giờ đã không còn lải nhải dậy. “Đi đâu?” “Tôi muốn tới chỗ Sừng dê và canh chừng. Chỉ để chắc chắn việc chúng ta đúng về cái đồng hồ.” Finnick nói. Có vẻ đó là kế hoạch tốt nhất. Ngoài ra, tôi không để tâm tới cơ hội dùng tới vũ khí lần nữa. Giờ còn có sáu người chúng tôi. Dù bạn không tính Beetee và Wiress, chúng tôi có tới bốn chiến binh khỏe mạnh. Nó quá khác so với thời điểm năm ngoái ở một nơi nào đó, tôi phải làm mọi thứ một mình. Đúng thế, thật tuyệt khi có đồng minh nếu bạn có thể lờ đi ý nghĩ sẽ phải giết chết họ. Beetee và Wiress có thể sẽ tự tìm cách chết. Nếu chúng tôi phải chạy trốn, họ có thể chạy bao xa chứ? Johanna, nói thẳng ra, tôi có thể dễ dàng giết hại nếu điều đó xảy ra để cứu Peeta. Hay có lẽ chỉ cần giam cô ta lại. Điều tôi thực sự cần là ai đó có thể tách Finnick ra khỏi tôi, vì tôi không nghĩ mình có thể đích thân thực hiện. Không phải sau tất cả những gì anh ấy làm cho Peeta. Tôi nghĩ tới việc dùng thủ đoạn với anh ấy theo cách như lúc chạm trán với bọn Nhà nghề. Thật máu lạnh, tôi nhủ thầm. Nhưng lựa chọn của tôi là gì? Giờ thì chúng tôi đã biết về chiếc đồng hồ, anh ấy có thể không chết trong rừng, nên ai đó sẽ giết chết anh ấy trong một cuộc ẩu đả. Vì điều này nghĩ thật ghê tởm, nên đầu óc tôi điên cuồng khi cố chuyển đề tài. Nhưng thứ duy nhất làm tôi xao nhãng khỏi tình hình hiện tại là mơ ước viển vông việc giết chết tổng thống Snow. Tôi cho là không quá mộng tưởng đối với một cô gái mười bảy, nhưng rất thỏa mãn. Chúng tôi đi bộ xuống dải cát gần nhất, tới gần Sừng dê thật cẩn trọng, phòng trường hợp bọn Nhà nghề lẩn trốn ở đó. Tôi ngờ là thế, vì chúng tôi ở trên bờ biển hàng giờ và không có dấu hiệu gì của sự sống. Khu vực này bị bỏ không, như tôi kì vọng. Chỉ có duy chiếc sừng vàng to lớn và núi vũ khí đã được nhặt nhạnh. Khi Peeta đặt Beetee nằm trên chiếc mành mà chiếc Sừng dê có sẵn, ông ấy gọi to tên bà Wiress. Bà ấy nép mình bên cạnh ông Beetee và ông ấy đặt cuộn dây điện vào tay bà. “Bà rửa sạch nó được chứ?” Wiress gật đầu và chạy vụt tới mé nước, nơi bà nhúng cuộn dây xuống nước. Bà ấy khe khẽ hát vài bài ngắn vui nhộn, về một con chuột đang thoát khỏi chiếc đồng hồ. Chắc là nó dành cho trẻ em, nhưng có lẽ nó khiến bà ấy hạnh phúc. “Ồ, không phải lại bài hát đấy chứ.” Johanna nói, đảo mắt. “Nó vang lên hàng giờ trước khi bà ta bắt đầu tích tắc.” Đột nhiên Wiress đứng thẳng dậy và chỉ vào khu rừng. “Hai giờ.” Tôi nhìn theo ngón tay bà tới nơi bức tường sương mù vừa mới bắt đầu thấm qua chỗ bờ biển. “Đúng rồi, nhìn kìa, bà Wiress đã đúng. Đó là phần hai giờ và màn sương vừa xuất hiện.” “Giống cơ chế chiếc đồng hồ,” Peeta nói. “Bà thật thông thái khi khám phá ra điều đó, Wiress ạ.” Wiress mỉm cười và quay lại hát tiếp rồi nhúng ướt cuộn dây. “Ồ, bà ấy còn hơn cả thông thái.” Beeta nói. “Bà ấy có trực giác.” Tất cả chúng tôi quay lại để nhìn ông Beetee, kẻ dường như đang trở lại với cuộc sống. “Bà ấy có thể cảm nhận nhiều thứ trước bất cứ ai. Như một con chim bạch yến ở một trong những hầm mỏ của các cháu.” “Đó là gì?” Finnick hỏi tôi. “Đó là một loài chim bọn em mang vào các khu hầm mỏ để cảnh báo nếu thời tiết xấu đi.” Tôi trả lời. “Nó làm thế nào, chết ư?” Johanna hỏi. “Nó ngừng hót trước. Đó là lúc cô nên chạy ra ngoài. Nhưng nếu thời tiết quá xấu, nó sẽ chết, đúng vậy. Và cô cũng thế.” Tôi không muốn nói chuyện về những con chim biết hót đang chết đi. Chúng khơi dậy những ý nghĩ về sự ra đi của bố tôi, của Rue và Maysilee Donner rồi mẹ tôi hưởng lại con chim hót của cô ấy. Ồ, tuyệt, và giờ tôi đang nghĩ tới Gale, ở sâu trong khu mỏ kinh khủng đó, cùng với việc tổng thống Snow dọa sẽ treo cổ anh. Quá dễ để khiến việc đó trông như một tai nạn dưới hầm. Một con chim bạch yến không hót, một đốm lửa và không gì hơn. Tôi quay lại với việc tưởng tượng sẽ giết chết lão tổng thống. Dù khó chịu với Wiress, Johanna trông thật vui vẻ như lúc tôi nhìn thấy cô ta trong trường đấu. Trong khi tôi bổ sung vào kho mũi tên của mình, cô ta mò mẫm xung quanh cho tới khi xuất hiện với hai chiếc rìu có vẻ gây chết người. Nó dường như là một sự lựa chọn kì quặc cho tới khi tôi thấy cô ta quăng một chiếc với một lực khiến nó dính chặt vào tấm vàng của chiếc Sừng được mặt trời làm mềm ra. Tất nhiên rồi. Johanna Mason. Từ quận 7. Việc đốn gỗ. Tôi cá cô ta đã biết múa rìu từ lúc chập chững. Giống như việc Finnick với chiếc đinh ba. Hay Beetee với cuộn dây điện. Rue với sự hiểu biết về thực vật. Tôi nhận ra đó chỉ là một bất lợi khác cho các vật tế từ quận 12 phải đối mặt qua các năm. Chúng tôi không được xuống hầm mỏ cho tới lúc mười tám tuổi. Giống hầu hết các vật tế khác học được thứ gì đó về việc buôn bán của bọn họ từ sớm. Có nhiều thứ bạn làm được trong một hầm mỏ mà có thể dùng đúng lúc trong trường đấu. Cầm cuốc. Nổ tung mọi thứ. Khiến bạn lao đao. Theo cách mà tôi đi săn bắn. Nhưng chúng tôi học được quá muộn. Trong khi tôi rối tung với đống vũ khí thì Peeta ngồi trên mặt đất, vẽ gì đó bằng mũi dao trên một cái lá to và mềm lấy được trong rừng. Tôi nhòm qua vai cậu ấy và thấy cậu đang vẽ một tấm bản đồ về trường đấu. Ở trung tâm là chiếc sừng dê nằm trên dải cát tròn của nó với mười hai nhánh rẽ ra xung quanh. Nó trông như một hình quả táo được cắt thành mười hai miếng bằng nhau. Có một vòng tròn khác tượng trưng cho đường nước và một vòng tròn khác nhỉnh hơn biểu thị bìa rừng. “Nhìn xem chiếc sừng dê được đặt thế nào.” Peeta nói với tôi. Tôi kiểm tra chiếc sừng dê và hiểu được ý cậu ấy là gì. “Các đầu nhọn theo kiểu mười hai giờ.” Tôi nói. “Đúng, thế nên đây là đỉnh chiếc đồng hồ,” Cậu ấy nói và vẽ nhanh các chữ số từ một tới mười hai xung quanh mặt đồng hồ. “Từ mười hai tới một là vùng có chớp.” Cậu ấy vết tia chớp thành một dấu nhỏ xíu ở phần tương ứng, rồi theo chiều kim đồng hồ mà thêm vào máu, sương, khỉ vào các phần dưới. “Và từ mười tới mười một là con sóng,” tôi nói. Cậu ấy thêm vào. Finnick và Johanna tham gia cùng chúng tôi đúng lúc, trang bị hàm răng với đinh ba, rìu và dao. “Bọn cô thấy điều gì không bình thường ở những kẻ còn lại không?” tôi hỏi Johanna và Beetee, vì họ có thể có gì đó chúng tôi không biết. Nhưng tất cả họ nhìn thấy là rất nhiều máu. “Tôi đoán họ có thể giữ bí mật mọi thứ.” “Tôi sẽ đánh dấu những nơi mà chúng ta biết vũ khí của bọn tổ chức theo sau trừ khu rừng, nên sẽ tránh được,” Peeta nói, vẽ các gạch chéo lên hình màn sương và bờ biển có sóng. Rồi cậu ấy ngồi xuống trở lại. “Chà, dù sao thì sáng nay chúng ta biết quá nhiều rồi.” Tất cả chúng tôi gật đầu tán thành, và đó là lúc tôi để ý. Sự im ắng. Con chim bạch yến của chúng tôi đã ngừng hót. Không chờ đợi. Tôi gắn một mũi tên lúc xoay người và liếc Gloss còn nhỏ nước đang khiến Wiress trượt người trên mặt đất, cổ họng bà ấy toạc mở với một nụ cười tươi đỏ lòm. Thời điểm mũi tên của tôi biến mất vào bên thái dương phải của lão ta và mất một lát để nạp lại, Johanna đã chôn sâu chiếc lưỡi rìu vào ngực Cashmere. Finnick hất văng chiếc giáo mà Brutus nhắm vào Peeta và nhổ con dao của Enobaria ra khỏi bắp chân. Nếu không có chiếc sừng dê để nấp đằng sau, bọn họ đều đã chết, cả hai vật tế quận 2. Tôi bật lên phía trước để đuổi theo. Bùm! Bùm! Bùm! Tiếng đại bác cho biết không còn cách nào để cứu Wiress nữa, không cần giải quyết nốt Gloss hay Cashmere. Các đồng minh và tôi lượn quanh chiếc Sừng, bắt đầu đuổi bắt Brutus và Enobaria, những kẻ đang chạy hết tốc lực xuống một dải cát về phía khu rừng. Đột nhiên mặt đất xóc nảy dưới chân và tôi ngã văng về một bên trên mặt cát. Vòng tròn cát bao quanh chiếc Sừng bắt đầu xoáy nhanh, cực nhanh và tôi có thể trông thấy khu rừng trôi đi mờ ảo. Tôi cảm nhận lực li tâm đã kéo tôi về phía nước biển và chôn tay chân vào trong cát, cố gắng bám vào mặt đất không vững chắc. Giữa màn cát đang bay và sự choáng váng, tôi phải ép đôi mắt đóng lại. Theo nghĩa đen thì chẳng có gì tôi có thể làm ngoài việc cố bám trụ, cho tới lúc có sự giảm tốc, rồi chúng tôi đột ngột dừng lại. Ho và nôn mửa, tôi ngồi dậy từ từ để tìm những người bạn ở trong tình trạng tương tự. Finnick, Johanna và Peeta đang bám víu. Ba thi thể người đã chết đã bị quấn vào nước biển. Toàn bộ mọi việc, từ lúc im bặt bài hát của bà Wiress tới giờ, không thể mất tới một phút hay hai phút. Chúng tôi ngồi đó thở dốc, phun cát ra khỏi miệng. “Vôn đâu rồi?” Johanna lên tiếng. Chúng tôi tập trung lại. Một vòng xoáy rung rung của chiếc Sừng xác nhận ông ấy đã biến mất. Finnick tìm thấy ông ấy khoảng 20 yard ngoài mé nước, đủ sức giữ nổi và bơi ra để kéo ông ấy vào. Đó là lúc tôi nhớ tới cuộn dây điện và nó quan trọng thế nào với ông. Tôi điên cuồng nhìn quanh. Nó đâu? Nó đâu rồi? Và khi tôi trông thấy, nó vẫn gắn chặt trong bàn tay Wiress xa xa ngoài bờ nước. Dạ dày tôi co rút khi nghĩ tới mình phải làm gì tiếp theo. “Yểm hộ tôi.”. Tôi nói với những người khác. Tôi quăng vũ khí qua một bên và chạy nhanh xuống dải cát gần thi thể nhất. Không ngần ngừ, tôi lặn xuống nước và tìm bà ấy. Qua mi mắt, tôi có thể thấy chiếc tàu khí xuất hiện trên đầu, những chiếc móc bắt đầu thò xuống định mang bà ấy đi. Nhưng tôi không dừng lại. Tôi chỉ tiếp tục bơi hết sức có thể và kết cục là đụng phải cơ thể của Wiress. Tôi bắt đầu thở hắt ra, cố tránh nuốt phải dòng nước đỏ ngầu lan ra từ vết thương hở miệng trên cổ bà ấy. Bà ấy nổi bằng lưng, được đỡ bởi chiếc thắt lưng và chết đi, nhìn chòng chọc vào mặt trời sáng chói. Khi đạp nước, tôi phải giật mạnh cuộn dây điện khỏi những ngón tay của bà, vì cái siết tay dứt khoát của bà quá chặt. Tôi chẳng thể làm gì sau đó ngoài việc đóng mi mắt bà lại, thì thầm lời từ biệt và bơi đi. Lúc tôi vung vẩy cuộn dây trên mặt cát và lê người khỏi mé nước, xác bà ấy biến mất. Nhưng tôi vẫn có thể ngửi được mùi máu hòa lẫn với mùi muối biển. Tôi đi bộ trở lại phía Sừng dê. Finnick đã giúp Beetee hồi phục trở lại, dù hơi sũng nước, đang ngồi thẳng và xì nước ra. Ông ấy có giác quan tốt khi đeo kính, nên ít nhất ông ấy có thể nhìn được. Tôi đặt cuộn dây điện lên đùi Beetee. Nó sạch sẽ sáng bóng, không còn chút máu dính nào. Ông ấy gỡ một mẩu dây điện và đặt nó xuyên qua các ngón tay. Lần đầu tiên tôi thấy nó, và nó trông không giống bất kì loại dây điện nào mà tôi biết. Một màu vàng nhợt nhạt và đẹp như một đoạn tóc. Tôi tự hỏi nó dài bao nhiêu. Hẳn phải dài hàng dặm vải để lấp đầy một cái thìa lớn. Nhưng tôi không hỏi, vì tôi biết ông ấy đang nghĩ tới Wiress. Tôi nhìn những khuôn mặt điềm tĩnh của những người còn lại. Giờ thì Finnick, Johanna và Beetee đều mất đi những người đồng hành cùng quận. Tôi bước qua tới chỗ Peeta và vòng tay quanh cậu ấy, và mất một lúc tất cả chúng tôi ngồi trong im lặng. “Ra khỏi hòn đảo thối tha này thôi.” Johanna cuối cùng lên tiếng. Giờ vấn đề duy nhất là vũ khí của chúng tôi mà phần lớn đều vẫn giữ. Thật may là loài dây leo ở đây chắc chắn và chiếc ống nước cộng tuýp thuốc gói trong chiếc dù vẫn được gắn vào thắt lưng của tôi. Finnick cởi chiếc áo lót và buộc nó quanh vết thương mà con dao của Enobaria đã gây ra trên bắp vế; nó không sâu lắm. Giờ ông Beetee nghĩ mình có thể đi bộ được, nếu chúng tôi đi chậm, nên tôi giúp ông đứng dậy. Chúng tôi quyết định hướng về phía bờ biển ở phần mười hai giờ. Việc đó khiến chúng tôi có nhiều giờ lấy sức và giữ chúng tôi tránh khỏi bất cứ chất độc nào còn lại. Và rồi Peeta, Johanna, và Finnick chia ra thành ba hướng khác nhau. “Mười hai giờ, đúng không?” Peeta hỏi. “Đuôi kim chỉ vào số mười hai.” “Trước khi họ làm chúng ta mệt lử,” Finnick nói. “Tôi đang quan sát mặt trời đây.” “Mặt trời chỉ nói cho anh biết giờ tiếp theo là bốn giờ thôi. Finnick,” tôi nói. “Ta nghĩ quan điểm của Katniss là, việc biết được thời gian không có nghĩa cậu cần biết phần số bốn ở đâu trên đồng hồ. Cậu có thể có cái nhìn tổng quan về phương hướng. Nếu cậu không cân nhắc việc đó, họ cũng có thể thay đổi vành ngoài khu rừng,” ông Beetee thêm vào. Không, quan điểm của Katniss cơ bản hơn thế. Ông Beetee đã phân tích hẳn một lí thuyết hơn là nhận xét của tôi về mặt trời. Nhưng tôi chỉ gật đầu như kiểu tôi từ trước tới giờ đều không thay đổi. “Đúng vậy, thế nên bất cứ một con đường nào trong số này có thể dẫn tới phần mười hai giờ.” Tôi nói. Chúng tôi đi xung quanh chiếc Sừng dê, xem xét kĩ khu rừng. Nó vẫn gây rối hướng đi như thế. Tôi nhớ cái cây cao đã bị tia sét đánh trúng ở phần mười hai giờ, nhưng mỗi khu vực đều có một cái cây tương tự. Johanna thì nghĩ rằng hãy đi theo dấu chân của Enobaria và Brutus, nhưng chúng đều bị thổi bay hay xóa sạch rồi. Không hề có con đường nào cho biết mọi thứ ở đâu nữa. “Tôi đáng nhẽ không bao giờ nên đề cập tới chiếc đồng hồ,” tôi nói khó khăn. “Giờ thì họ cũng cướp luôn lợi thế đấy rồi.” “Chỉ tạm thời thôi.” Beetee lên tiếng. “Lúc mười giờ, chúng ta sẽ lại thấy con sóng và quay lại đúng dấu chân là được.” “Đúng rồi, họ không thể tái thiết kế toàn bộ đấu trường.” Peeta thêm vào. “Không vấn đề gì đâu.” Johanna không nhịn được lên tiếng. “Cô phải nói với chúng tôi hoặc chúng tôi sẽ chẳng bao giờ nhổ trại ở địa điểm ban đầu mất, thật ngu xuẩn.” Mỉa mai thay, lời đáp trả có lí của cô ta là câu duy nhất khiến tôi thoải mái. Đúng vậy, tôi phải nói với họ để giúp họ di chuyển. “Đi nào, tôi cần nước. Có ai còn can đảm không?” Chúng tôi ngẫu nhiên chọn một con đường và đi, không cần biết là con đường số mấy. Khi tới được chỗ khu rừng, chúng tôi xem xét nó, cố đoán xem bên trong có cái gì đang chờ đợi. “Chà, phải là phần giờ của bọn khỉ. Và tôi không thấy con nào ở đây.” Peeta nói. “Tôi sẽ cố đi tìm một cái cây.” “Không, tới lượt tôi.” Finnick lên tiếng. “Ít nhất tôi sẽ canh chừng sau lưng cho anh.” Peeta đáp. “Katniss có thể làm việc đó,” Johanna nói. “Chúng tôi cần cậu vẽ một bản đồ khác. Cái kia bị trôi đi rồi”. Cô ta giật mạnh một chiếc lá to từ một cái cây xuống và đưa cho cậu ấy. Mất một lúc để tôi ngờ rằng bọn họ đang cố chia rẽ và giết hại chúng tôi. Nhưng nó chả có nghĩa gì. Tôi sẽ có lợi thế hơn Finnick nếu anh ta giải quyết cái cây còn Peeta to lớn hơn nhiều so với Johanna. Nên tôi theo chân Finnick khoảng 15 yard vào rừng, nơi anh ta tìm thấy một cái cây thích hợp và bắt đầu đâm vào để tạo một cái lỗ bằng con dao của mình. Khi tôi đứng đó, với vũ khí đã sẵn sàng, tôi không thể xóa đi cảm giác lo lắng rằng có gì đó sẽ xảy đến và nó sẽ xảy đến với Peeta. Tôi lần mò lại hành trình của chúng tôi bắt đầu từ lúc tiếng chiêng vang lên, và đi tìm nguồn gốc cho sự khó chịu của mình. Finnick dẫn Peeta ra khỏi chiếc bục kim loại. Finnick cứu sống Peeta sau lúc bức từ trường khiến tim cậu ấy ngừng đập. Bà Mags chạy vào màn sương để Finnick có thể cõng Peeta. Con nghiện morphine tự lao mình tới trước mặt cậu ấy để ngăn sự tấn công của con khỉ. Cuộc ẩu đả với bọn Nhà nghề rất nhanh gọn, nhưng chẳng phải Finnick đã ngăn cây giáo của Brutus đâm vào Peeta bất chấp việc nhận được con dao của Enobaria lên bắp vế sao? Và giờ Johanna lại nhờ vả cậu ấy vẽ tấm bản đồ trên lá hơn là mạo hiểm vào khu rừng… Không cần nghi hoặc gì nữa. Vì nhiều lí do hoàn toàn không thể đong đếm, vài kẻ vô địch đang cố giữ cậu ấy được sống, dù có nghĩa họ sẽ phải tự nguyện hi sinh. Tôi điếng người. Vì một điều, rằng đó là nghĩa vụ của tôi. Vì lí do khác, rằng nó chẳng có nghĩa lí gì. Chỉ một trong số chúng tôi có thể thoát được. Vậy tại sao họ chọn Peeta để bảo vệ? Haymitch đã nói với họ điều gì, ông ấy đã thương lượng với họ cái gì khiến họ đặt tính mạng Peeta lên trên bản thân mình? Tôi biết những lí do của bản thân khi giữ Peeta được sống. Cậu ấy là bạn tôi, và đây là cách để thách thức Capitol, để lật đổ cái đấu trường kinh khủng của nó. Nhưng nếu tôi không có gì ràng buộc với Peeta, điều gì sẽ khiến tôi muốn cứu giúp cậu ấy, coi trọng cậu ấy hơn bản thân? Chắc chắn cậu ấy dũng cảm, nhưng tất cả chúng tôi cũng đủ can đảm để sống sót trong một Đấu trường. Phẩm chất tốt bụng khó có thể xem nhẹ, nhưng… và rồi tôi lại nghĩ tới điều này, những gì Peeta có thể làm còn nhiều hơn số còn lại trong chúng tôi. Cậu ấy có thể lợi dụng lời nói. Cậu ấy xóa bỏ sự tranh đấu ở cả hai buổi phỏng vấn. Có lẽ bởi vì sự tốt bụng bẩm sinh đó mà cậu ấy có thể lung lay một đám đông – không, một thành phố – đứng về phía cậu ấy chỉ bằng việc đảo một câu nói đơn giản. Tớ nhớ mình đã nghĩ rằng đó là một món quà mà thủ lĩnh của một cuộc cách mạng nên có. Có phải ông Haymitch đã thuyết phục những người khác điều này? Cái lưỡi của Peeta khi chống lại Capitol tuyệt vời hơn bất kì sức mạnh thể chất nào mà những người còn lại trong chúng tôi có được? Tôi không biết nữa. Nó có vẻ giống một sự biến chuyển thực sự lâu dài với vài vật tế. Ý tôi là, chúng ta đang bàn luận về Johanna Mason. Nhưng có sự giải thích nào khác cho những nỗ lực của họ để bảo vệ cho Peeta được sống đây? “Katniss, cầm cái ống nước chưa?” Finnick hỏi, kéo tôi trở lại hiện tại. Tôi cắt đoạn dây leo buộc chiếc ống ở thắt lưng và quăng chiếc ống kim loại cho anh ấy. Đó là lúc tôi nghe thấy tiếng hét. Lấp đầy sợ hãi và đau đớn tới nỗi nó làm máu tôi đông cứng. Quá quen thuộc. Tôi vứt chiếc ống, quên việc tôi đang ở đâu hay cái gì đang ở phía trước, tôi chỉ biết tôi phải tới chỗ em ấy, bảo vệ em. Tôi điên cuồng chạy về phía có giọng nói, không màng nguy hiểm, xé toạc những đám dây leo và cành cây, xuyên qua bất cứ thứ gì ngăn tôi chạy về phía em. Ngăn tôi chạy về phía đứa em gái bé nhỏ của mình. Chap 24 Con bé ở đâu? Chúng sẽ làm gì em ấy? “Prim!” tôi khóc rống. “Prim!” Chỉ có tiếng gào thét tuyệt vọng đáp lại. Làm sao mà em tới được đây? Sao em ấy lại tham gia Đấu trường? “Prim!” Dây leo cứa vào mặt và hai tay tôi còn cây cỏ túm lấy chân tôi. Nhưng tôi đang gần chỗ em ấy hơn. Rồi gần hơn nữa. Giờ thì đã rất cận kề. Mồ hôi đổ xuống mặt, làm cay xè những vết thương đang lành lại. Tôi thở dốc, cố tận dụng chút không khí oi nóng và ẩm ước đang cạn dần khí oxi. Prim vọng lại một âm thanh – thứ âm thanh khó nghe dần mất hút – tới nỗi tôi khó tưởng tượng được chúng phát ra như thế nào. “Prim!” Tôi rạch thủng bức tường cỏ thành một khoảng trống nhỏ và tiếng hét dội lại ngay trên đầu. Trên đầu? Tôi quay phắt lại. Chúng đã treo Prim lên cây? Tôi tuyệt vọng lùng sục các cành cây nhưng không thấy gì cả. “Prim à?” tôi nói van nài. Tôi nghe thấy em những không thể nhìn thấy. Tiếng rên rỉ lần nữa vang lên, trong trẻo như tiếng chuông ngân và nguồn phát ra nó thì không thể nhầm được. Nó đến từ cái mỏ của một con chim nhỏ màu đen có mào đậu trên một cành cây cách đầu tôi tầm mười feet. Rồi tôi hiểu ra. Nó là một con chim biết nói. Trước đây tôi chưa bao giờ thấy một con chim biết nói – bởi tôi nghĩ nó không còn tồn tại nữa – và mất một lúc, tôi dựa vào thân cây, nắm chặt chỗ đau bên sườn và xem xét nó. Loài chim lai, con đầu đàn, giống đực. Tôi kéo ra hình đúc bằng kim loại của con chim nhại, đặt đè lên bóng con chim biết nói; đúng rồi, tôi có thể hiểu cách chúng kết bạn để đẻ ra loài chim nhại. Không có nét gì cho thấy nó là con mút cả. Không gì ngoại trừ âm thanh ghê sợ giống giọng Prim như đúc đang ré lên từ mỏ của nó. Tôi khiến con chim im bặt với một mũi tên xuyên qua họng. Nó rơi xuống đất. Tôi nhổ mũi tên ra và siết chặt cổ nó với một lực mạnh. Rồi ném thứ ghê tởm ấy vào rừng. Tôi không đói đến độ ăn nó. Nó không phải là thật, tôi tự nhủ. Giống kiểu những con chó lai năm ngoái không phải là những vật tế đã chết. Nó chỉ là một mánh khóe tàn ác của đám các nhà tổ chức. Finnick lao vào khoảng cây trống thì thấy tôi đang lau sạch mũi tên bằng vài cây rêu. “Katniss ?” “Ổn rồi. Em ổn.” tôi trả lời dù không ổn chút nào. “Em nghĩ đã nghe thấy tiếng em gái mình, nhưng –” Tiếng thét gào sắc nhọn cứa vào tôi. Đó là một giọng khác, không phải của Prim, có lẽ là của một phụ nữ trẻ. Tôi không nhận ra nó. Nhưng ảnh hưởng lên Finnick là ngay tức thời. Sắc da anh ấy biến mất và thực ra tôi thấy con ngươi Finnick giãn ra trong sợ hãi. “Finnick, chờ đã.” tôi nói, vươn tay ra để trấn an anh nhưng Finnick đã lao đi. Anh ấy bỏ đi để đuổi theo các nạn nhân, mất trí giống như tôi khi đuổi theo Prim. “Finnick!” tôi gọi nhưng biết rằng anh ấy sẽ không quay đầu lại và chờ tôi giải thích lí lẽ. Nên tất cả những gì tôi làm là đuổi theo sau. Không mất công lần dấu vết dù Finnick di chuyển khá nhanh do để lại một con đường nhìn rõ dấu chân. Nhưng con chim ở xa ít nhất là một phần tư dặm đường khá dốc, khi tôi đuổi kịp anh ấy, tôi thở hổn hển. Finnick đang chạy vòng quanh một cái cây khổng lồ. Thân cây hẳn phải có đường kính tới bốn feet và cành cây phải hai mươi feet trở lên. Tiếng thét của người phụ nữ phát ra từ đâu đó trong tán lá nhưng con chim biết nói vẫn ẩn mình. Finnick cũng đang gào lên, từng đợt. “Annie! Annie!” Anh ấy đang trong tình trạng hoảng sợ và hoàn toàn không thể động vào nên tôi chỉ làm những gì tôi đã định. Tôi trèo lên một cái cây kề đó, phát hiện con chim biết nói và hạ gục nó bằng một mũi tên. Nó rơi thẳng xuống dưới, đáp đất ngay chân Finnick. Anh ấy nhặt nó lên và dần dần hiểu ra sự nhầm lẫn, nhưng khi tôi tụt xuống để tới chỗ Finnick, anh ấy chưa từng thất vọng tới như vậy. “Ổn rồi, Finnick. Nó chỉ là một con chim nhại. Chúng đang chơi khăm chúng ta,” tôi nói. “Nó không phải thật. Nó không phải … Annie của anh.” “Không, nó không phải Annie. Nhưng giọng nói là của cô ấy. Những con chim nhại lại những gì chúng nghe thấy. Chúng nghe những tiếng hét ấy ở đâu hả Katniss?” Tôi cảm giác hai má mình trắng bệch khi hiểu ý anh. “Ôi Finnick, anh không nghĩ chúng…” “Đúng thế. Đó chính xác là những gì anh nghĩ.” Tôi mường tượng Prim đang ở căn phòng trắng tinh, bị trói vào một chiếc bàn trong khi những bóng người che mặt, mặc áo choàng thu những tiếng nói từ em. Ở nơi nào đó chúng đang tra tấn em, hay đã tra tấn em để có được những tiếng gào thét đó. Đầu gối trở nên mềm nhũn và tôi gục xuống mặt đất. Finnick cố nói gì đó với tôi nhưng tôi không nghe thấy gì hết. Những gì tôi nghe thấy sau đó là một con khác bắt đầu kêu lên đâu đó phía bên trái tôi. Và lần này, nó là giọng của Gale. Finnick tóm lấy tay tôi trước khi tôi chạy đi. “Không. Nó không phải cậu ấy”. Finnick bắt đầu lôi tôi xuống ngọn đồi đi về phía bờ biển. “Chúng ta sẽ biến khỏi đây!” Nhưng giọng nói Gale đầy đau khổ nên tôi không thể nhịn được việc cố gắng tới chỗ con chim. “Không phải cậu ta, Katniss ! Nó là một con chó lai!” Fannick hét vào mặt tôi. “Đi nào!” Anh ấy kéo tôi theo, nửa như lôi xềnh xệch, nửa như bế cho tới khi tôi tiêu hóa được những gì anh ấy nói. Finnick đã đúng, nó chỉ là một con chim nhại khác. Tôi không thể cứu giúp Gale bằng cách đuổi theo nó mãi. Nhưng điều đó không thể thay đổi được thực tế rằng đó là giọng Gale và ở đâu đó, lúc nào đó, ai đó đã bắt anh ấy nói như vậy. Dù thế tôi đã thôi giằng co với Finnick và giống như giữa đêm tối đầy sương mù, tôi chạy trốn khỏi những thứ không thể đấu lại được, những thứ chỉ làm tôi tổn thương. Chỉ lần này mới khiến tim tôi chứ không phải thể xác tôi như tan rã. Đây chắc là một loại vũ khí theo hình đồng hồ. Tôi đoán là chỗ bốn giờ. Khi kim đồng hồ đè lên số bốn, những con khỉ sẽ trở về ổ và những con chim nhại lại chơi đùa. Finnick đã đúng – ra khỏi đây là việc duy nhất có thể làm, dù chẳng có thứ gì mà ông Haymitch có thể gửi gắm trong một chiếc dù bay để giúp Finnick và tôi hồi phục từ tổn thương mà những con chim đã gây ra. Tôi bắt gặp cảnh Peeta và Johanna đang đứng chỗ hàng cây và tôi tràn ngập khuây khỏa lẫn giận dữ. Sao Peeta không tới giúp tôi? Sao không ai đi tìm chúng tôi? Dù giờ cậu ấy đã quay người lại, giơ tay lên, vẫy về phía chúng tôi, môi mấp máy nhưng không câu nào tới được chỗ chúng tôi cả. Tại sao? Bức tường thật trong suốt, Finnick và tôi nhảy bổ vào và bật trở lại xuống thềm đất khu rừng. Tôi gặp may. Bên vai lãnh đòn nặng nhất từ cú va chạm trong khi Finnick đập mặt xuống trước và giờ mũi đang phọt máu. Đây là lí do Peeta, Johanna và thậm chí Beetee đang lắc đầu chán nản sau lưng họ không bước tới giúp được. Một bức tường chắn vô hình cô lập khu vực trước chúng tôi. Nó không phải là một tấm chắn vật chất. Bạn có thể chạm vào bề mặt trơn cứng tùy thích. Nhưng con dao của Peeta và chiếc rìu của Johanna không thể làm lõm nó. Tôi biết, nếu không xem xét vài feet từ một phía thì nó sẽ nuốt gọn toàn bộ cái nêm nước trong bốn mươi lăm giờ tới. Chúng tôi sẽ sập bẫy như lũ chuột đồng khi thời gian trôi đi. Peeta ấn tay vào mặt chắn và tôi đặt tay mình lên áp nào đó, như thể chạm vào cậu ấy qua bức tường. Tôi thấy môi Peeta mấp máy nhưng không nghe thấy gì, chẳng thể nghe được tiếng gì bên ngoài cái nêm. Tôi cố đoán xem cậu ấy đang nói gì, nhưng không tập trung được nên tôi chỉ nhìn chằm chằm vào mặt Peeta, cố hết sức duy trì sự bình yên này. Rồi những con chim bắt đầu xuất hiện. Từng con một. Đậu trên các cành cây xung quanh. Một đoạn hợp xướng ghê rợn được phổ nhạc tinh vi bắt đầu phun ra từ mỏ chúng. Finnick đầu hàng ngay, gập người xuống nền đất, ấn chặt hai tay vào tai như thể đang cố ép nát hộp sọ. Tôi cố gượng một lúc. Bắn sạch chỗ bao tên vào những con chim đáng ghét. Nhưng mỗi khi có một con rớt xuống chết thì con khác nhanh chóng thế chỗ nó. Cuối cùng tôi bỏ cuộc và cuộn người cạnh Finnick, gắng bỏ ngoài tai những âm thanh dằn vặt của Prim, Gale, mẹ tôi, Madge, Rory, Vick, cả Posy, Posy bé nhỏ bơ vơ… Tôi biết nó dừng lại khi cảm nhận tay Peeta trên người, thấy mình được nâng khỏi mặt đất và ra khỏi khu rừng. Nhưng tôi vẫn nhắm chặt mắt, tay đặt lên tai, cơ bắp cứng lại khó thả lỏng. Peeta ôm tôi trên đùi, nói vài lời dịu dàng và lay nhẹ tôi. Mất một lúc lâu để tôi bắt đầu thả lỏng giữa cái ôm chặt trên người. Lúc ấy tôi bắt đầu run rẩy. “Ổn rồi, Katniss”, cậu ấy thì thầm. “Cậu không nghe thấy họ đâu.” Tôi trả lời. “Tớ nghe thấy Prim. Ngay từ đầu. Nhưng đó không phải là em ấy,” Peeta đáp. “Nó là một con chim nhại thôi.” “Nó chính là Prim. Đang ở đâu đó. Con chim chỉ nhại lại âm thanh đó thôi.” “Không, chúng muốn cậu nghĩ thế. Giống như tớ từng nghi ngờ đôi mắt của Glimmer trong đàn chó lai năm ngoái. Nhưng chúng không phải là đôi mắt của Glimmer. Và kia cũng không phải giọng nói của Prim. Nếu đúng là thế, bọn họ đã thu nó từ một cuộc phỏng vấn nào đó rồi bóp méo giọng. Khiến nó phát ra bất kì tiếng gì mà em ấy đang nói.” “Không, chúng đang tra tấn con bé,” tôi đáp. “Có thể con bé đã chết rồi.” “Katniss, Prim không chết. Sao họ giết Prim được? Chúng ta gần như đã giảm xuống còn tám người cuối cùng. Rồi chuyện gì nữa?” Peeta hỏi. “Bảy người nữa sẽ chết,” tôi trả lời vô vọng. “Không, là trở về nhà. Chuyện gì tiếp theo khi còn tám vật tế trong Đấu trường?” Cậu ấy nâng cằm tôi lên khiến tôi phải nhìn vào mắt. Buộc tôi phải trao đổi ánh mắt. “Chuyện gì sẽ xảy ra? Với 8 người cuối cùng?” Tôi biết cậu ấy đang cố giúp tôi nên tôi bắt bản thân phải suy nghĩ. “Tám người cuối?” tôi nhắc lại. “Họ sẽ phỏng vấn gia đình và bạn bè cậu khi trở về nhà.” “Đúng thế.” Peeta đáp. “Họ sẽ phỏng vấn gia đình và bạn bè cậu. Nên chúng có thể làm thế không nếu giết sạch bọn họ?” “Không?” tôi hỏi, vẫn chưa chắc chắn. “Không đâu. Đó là cách chúng ta biết Prim vẫn sống. Cô bé chẳng phải là người đầu tiên chúng phỏng vấn sao?” cậu ấy hỏi lại. Tôi muốn tin Peeta. Rất muốn. Chỉ là… những giọng nói đó. “Prim trước. Rồi tới mẹ cậu. Chú cậu, Gale. Madge nữa”, cậu ấy tiếp tục. “Đó là một mánh khóe, Katniss ạ. Một cái bẫy kinh hoàng. Nhưng chỉ chúng ta mới có khả năng bị tổn thương bởi nó. Vì chúng ta là những kẻ trong cuộc. Không phải bọn họ.” “Cậu thực sự tin như vậy?” tôi hỏi. “Tớ thực sự tin.”Peeta đáp. Tôi dao động, nghĩ về việc làm thế nào mà Peeta có thể khiến bất cứ ai tin bất cứ điều gì được nhỉ. Tôi liếc Finnick để xác nhận, thấy anh ấy như lưu luyến Peeta, lưu luyến những lời nói của cậu ấy. “Anh có tin không Finnick ?” tôi hỏi. “Có thể đúng đấy. Anh không biết nữa.” anh ấy nói. “Beetee, chúng có thể làm thế không? Thu âm giọng nói ai đó rồi khiến nó…” “À có chứ. Nó không khó thế đâu Finnick. Những đứa trẻ chỗ chúng tôi được học một công nghệ tương tự trong trường.” Beetee đáp. “Tất nhiên Peeta đúng. Cả vùng này đều yêu mến đứa em gái nhỏ của Katniss mà. Nếu chúng thực sự giết chết cô bé như thế, chúng có thể gặp phải một cuộc nổi loạn đến nơi.” Johanna lên tiếng dứt khoát. “Chúng không muốn thế đúng không?” cô hất đầu lại và hét lớn. “Cả đất nước hỗn loạn ư? Không ai muốn một điều như thế đâu!” Miệng tôi mở lớn vì chấn kinh. Không một người nào từng nói những lời như vậy trong đấu trường. Nhất định, bọn họ đã chừa ohanna lại và loại cô ra. Nhưng tôi vừa nghe thấy cô ấy và không bao giờ có thể nghĩ về cô theo kiểu đó được nữa. Cô ta sẽ chẳng thắng được giải thưởng nào vì lòng thương cảm nhưng chắc chắn cô thật dũng cảm. Hoặc điên khùng. Cô nhặt vài cái vỏ sò và hướng vào rừng. “Tôi sẽ đi lấy nước.” Tôi không nhịn được việc túm lấy tay khi cô ta đi ngang qua chỗ tôi. “Đừng vào đó nữa. Những con chim – ” tôi nhớ là những con chim hẳn phải đi rồi nhưng vẫn không muốn bất kì ai vào đó. Kể cả cô ta. “Chúng chẳng làm tôi bị thương đâu. Tôi không giống các người. Tôi chẳng còn ai để mà yêu mến cả.” Johanna đáp và nới lỏng tay ra bằng một cái giũ lịch sự. Khi cô ta mang chiếc vỏ sò đựng nước lại cho tôi, tôi nhận lấy nó với một cái gật đầu cảm ơn im lặng, biết rằng cô sẽ khinh miệt sự thương hại trong giọng nói của tôi đến thế nào. Trong khi Johanna thu thập nước và những mũi tên của tôi, Beetee nghịch mớ dây điện còn Finnick tới mép nước. Tôi cũng cần phải lau rửa nhưng tôi đang nằm trong cánh tay Peeta, vẫn run rẩy khi đi đứng. “Chúng dùng ai để đối lại Finnick vậy?” cậu ấy hỏi. “Ai đó tên Annie.” Tôi đáp “Chắc hẳn là Annie Cresta.” “Ai vậy?” tôi hỏi lại. “Là Annie Cresta. Cô ấy là cô gái bà Mags tình nguyện thế chỗ. Cô ấy chiến thắng năm năm trước.” Peeta đáp. Đó chắc là mùa hè sau khi bố tôi mất, khi lần đầu tiên tôi phải chăm sóc cả gia đình, khi toàn bộ mạng sống của tôi phải gắn liền với cuộc vật lộn chống lại cái đói. “ Tớ không nhớ cuộc đấu hồi đó lắm.” tôi nói. “Có phải là năm xảy ra động đất không?” “Ừ. Annie đã phát điên khi những người đồng quận bị chém đầu. Trốn chạy bản thân và ẩn cư. Trận động đất đã làm vỡ con đê và gần như toàn bộ trường đấu bị ngập lụt. Cô ấy thắng vì là người bơi giỏi nhất,” Peeta tiếp tục. “Sau đó cô ấy có khá hơn không?” tôi hỏi. “Ý tớ là thần trí cô ấy?” “Tớ không biết. Tớ còn không nhớ nhìn thấy cô ấy trong Đấu trường. Nhưng trông không ổn định lắm trong cuộc tuyển người năm nay.” Peeta đáp. Tôi nghĩ Finnick yêu cô ấy. Chứ không phải là loạt người hâm mộ ở Capitol. Mà lại là một cô gái đáng thương, tâm thần ở quê nhà. Một tiếng súng nổ khiến tất cả chúng tôi hướng mắt về phía bờ biển. Chiếc tàu đệm khí hiện ra mà theo chúng tôi dự tính là hướng 6 đến 7 giờ. Chúng tôi dõi theo khi những cái chân móc hạ xuống dài gấp 5 lần để thu nhặt các mảnh của một cái xác bị đứt ra. Không thể biết được đó là ai. Dù chuyện gì xảy ra ở phần 6 giờ tôi cũng không muốn biết. Peeta vẽ một bản đồ mới trên một cái lá cây, viết JJ biểu tượng cho những con chim nhại ở phần bốn đến năm giờ và viết qua loa “con vật” ở chỗ mà chúng tôi nhìn thấy vật tế bị thu nhặt xác. Giờ chúng tôi đã biết được hướng bảy giờ sẽ mang tới điều gì. Nếu có gì được xác thực từ cuộc tấn công của chim nhại thì đó là nó khiến chúng tôi biết được chúng tôi đang ở đâu trên mặt đồng hồ. Finnick đan một cái giỏ đựng nước khác và một cái lưới bắt cá. Tôi bơi nhanh một lúc và bôi thuốc mỡ lên da. Sau đó ngồi trên mép nước và rửa cá Finnick bắt được và xem mặt trời lặn xuống nơi chân trời. Mặt trăng mờ mờ cũng đã lên, bao phủ toàn cảnh trường đấu một màn u tối kì dị. Chúng tôi sắp ngồi xuống ăn bữa ăn gồm cá gỏi thì bài quốc ca vang lên. Và rồi những khuôn mặt…của Cashmere. Gloss. Wiress. Mags. Người phụ nữ từ quận 5. Kẻ nghiện morphine đã hi sinh vì Peeta. Thật tai họa. Người đàn ông từ quận 10. Tám người đã chết. Thêm tám người từ ngay tối đầu tiên. Hai phần ba trong chúng tôi đã ra đi trong một ngày rưỡi. Điều đó hẳn phải thành kỉ lục. “Bọn chúng thực sự đang quét sạch chúng ta.” Johanna nói. “Còn ai nữa? Trừ năm người chúng ta và hội quận 2?” Finnick hỏi. “Chaff.” Peeta lên tiếng mà không cần nghĩ. Có lẽ cậu ấy đang canh chừng ông ấy giùm Haymitch. Một chiếc dù đáp xuống với đống bánh mì nhỏ hình vuông bên trong. “Có phải từ quận chú không Beetee?” Peeta hỏi. “Ừ, của quận 3”, ông ấy đáp. “Ở đấy có bao nhiêu?” Finnick đếm bánh, đặt từng cái lên lòng bàn tay trước khi xếp gọn lại. Tôi không biết chuyện gì xảy ra với Finnick và những chiếc bánh mì nhưng dường như anh ấy như bị ma ám khi cầm chúng. “24.” anh ấy trả lời. “Có hai tá nữa chứ?” Beetee hỏi. “Hai tư cái ngay đây.” Finnick trả lời. “Nên chia thế nào?” “ Mỗi người ba cái đi, và ai còn sống lúc ăn sáng có thể được phần còn lại.” Johanna nói. Tôi không biết tại sao câu này khiến tôi hơi cười. Tôi nghĩ thế vì nó thật chân thật. Khi tôi cười, Johanna ném tôi cái nhìn gần như là đồng tình. Không, không phải đồng tình. Có lẽ là hơi vui vẻ. Chúng tôi đợi cho tới khi những con sóng khổng lồ phủ ngập khoảng mười đến mười một giờ trên đồng hồ, rồi đợi nước rút đi sau đó tới bờ biển cắm trại. Về lí thuyết chúng tôi nên có đủ hai mươi tư giờ được an toàn khỏi khu rừng. Có một tràng những tiếng lách tách khó chịu có lẽ từ một vài loài côn trùng có hại đến từ chỗ cái nêm ở phần mười một đến mười hai giờ. Nhưng bất kể thứ gì đã làm cho âm thanh ấy bị chặn lại ở bìa rừng thì chúng tôi vẫn tránh xa khu bờ ấy ra đề phòng lúc chúng chỉ chờ một quả bóng bay không cẩn thận mà túa ra. Tôi không biết sao mà Johanna vẫn ngồi được. Kể từ lúc Đấu trường bắt đầu cô ta chỉ ngủ có gần một tiếng. Peeta và tôi xung phong canh giữ đầu tiên vì chúng tôi nghỉ ngơi tốt hơn và vì muốn có thời gian một mình. Những người khác thì ngủ ngay lập tức dù Finnick khi ngủ luôn thao thức. Mọi lúc tôi đều nghe thấy anh ấy lẩm bẩm tên Annie. Peeta và tôi ngồi trên mặt cát ẩm ướt, tựa lưng vào nhau, vai phải và mông tôi đối lập với cậu ấy. Tôi thấy khá hơn khi nhìn mặt nước trong khi cậu ấy nhìn vào khu rừng. Tôi vẫn bị ám ảnh bởi giọng nói của những con chim nhại mà thật không may những con côn trùng không xua chúng đi được. Sau một lúc tôi dựa đầu vào vai cậu ấy. Cảm nhận bàn tay vuốt ve tóc tôi. “Katniss,” cậu ấy nói nhẹ nhàng. “Chẳng ích gì khi giả vờ không biết điều người còn lại đang cố làm.” Không, tôi cũng nghĩ chẳng ích gì nhưng cùng chẳng vui vẻ gì khi bàn luận về nó. Dù sao nó cũng không phải việc chúng tôi. Những người xem ở Capitol sẽ dán mắt vào ti vi nên họ sẽ chẳng để lỡ lời nói nào không hay ho cả. “Tớ không biết cậu đang thỏa thuận điều gì với bác Haymitch nhưng cậu nên biết rằng bác ấy cũng buộc tớ phải hứa.” Tất nhiên tôi cũng biết điều này. Ông ấy nói Peeta rằng bọn chúng có thể để tôi sống nên cậu ấy không nghi ngờ gì. “Nên tớ nghĩ chúng ta có thể chấp nhận rằng ông ấy chỉ nói dối một trong chúng ta.” Điều này làm tôi chú ý. Một thỏa thuận kép. Một lời hứa kép. Mà chỉ ông Haymitch biết đâu mới là thật. Tôi ngẩng đầu, bắt gặp ánh mắt Peeta “Sao giờ cậu lại nói điều này?” “Vì tớ không muốn cậu quên rằng hoàn cảnh của chúng ta khác nhau thế nào. Nếu cậu chết đi và tớ sống thì cũng chẳng còn cuộc sống nào dành cho tớ khi trở lại quận 12 đâu. Cậu là cả cuộc đời tớ rồi.” cậu ấy nói. “Tớ sẽ chẳng thể nào hạnh phúc được nữa”. Tôi định phản bác nhưng cậu ấy đặt một ngón tay lên môi tôi. “Với cậu thì khác. Tớ không nói rằng điều ấy không khó khăn. Nhưng có những người khiến cuộc sống của cậu đáng sống.” Peeta kéo chuỗi vòng với mặt dây bằng vàng vòng quanh cổ. Cậu ấy cầm nó dưới ánh trăng nên tôi có thể nhìn thấy rõ ràng con chim nhại. Rồi ngón tay cái Peeta trượt dọc theo cái chốt mà tôi không thấy trước đó và nắp của mặt chiếc vòng mở ra. Nó không đặc như tôi nghĩ mà rỗng để lồng ảnh. Trong chiếc khung là những bức ảnh. Ở bên phải là mẹ tôi và Prim đang cười. Còn bên trái là Gale. Đang mỉm cười. Không gì trên đời có thể khiến tôi suy sụp nhanh hơn lúc này hơn ba khuôn mặt đó. Sau những gì tôi nghe thấy vào chiều nay thì nó quả là một vũ khí hoàn hảo. “Gia đình cần cậu, Katniss à.” Peeta nói. Gia đình tôi. Mẹ tôi. Em gái tôi. Và cả người anh họ giả vờ Gale. Nhưng ý của Peeta rất rõ ràng. Rằng Gale thực sự là gia đình tôi hoặc sẽ có một ngày, nếu tôi còn sống. Rằng tôi sẽ cưới anh ấy. Nên Peeta đã dâng tặng cuộc đời cậu ấy cho tôi và cả Gale cùng lúc. Để tôi biết rằng tôi không nên nghi ngờ gì về điều đó cả. Mọi thứ. Đó là những gì Peeta muốn tôi lấy đi từ cậu ấy. Tôi đợi cậu ấy nhắc đến đứa bé để đóng kịch trước máy quay, nhưng cậu ấy không nhắc. Đó là lí do tôi biết không gì trong chuyện này là một phần của cuộc chơi. Rằng cậu ấy đang nói với tôi sự thật về những gì cậu ấy cảm nhận được. “Không ai thực sự cần tớ cả.” Peeta lên tiếng và chẳng có gì tự cảm trong giọng nói. Đúng là gia đình cậu ấy không cần cậu. Họ sẽ thương khóc cho Peeta như đám bạn khác sẽ làm. Nhưng họ sẽ vượt qua. Thậm chí ông Haymitch với sự giúp đỡ của một đống rượu trắng cũng sẽ vượt qua. Tôi nhận ra chỉ có duy nhất một người sẽ bị tổn thương mà không thể chuộc lỗi nếu Peeta chết. Tôi. “Tớ cần.” tôi nói. “Tớ cần cậu.” Cậu ấy trông buồn rầu, hít thở sâu như thể sắp bắt đầu tranh luận dài dòng và điều ấy không hay chút nào vì cậu ấy sẽ lại bắt đầu về Prim, mẹ tôi và mọi thứ rồi tôi sẽ chỉ thấy rối bời. Nên trước khi cậu ấy mở lời, tôi ngăn môi cậu ấy lại bằng một nụ hôn. Tôi lại có cảm giác đó. Cảm giác mà tôi chỉ thấy một lần trước đó. Trong cái hang động năm trước khi tôi cố nhờ vả ông Haymitch gửi cho chúng tôi thức ăn. Tôi đã hôn môi Peeta cả nghìn lần suốt những ngày đấu đó và sau này. Nhưng chỉ có một nụ hôn khiến tôi cảm thấy có gì đó như khuấy đảo bên trong. Một nụ hôn khiến tôi muốn thêm nữa. Nhưng đầu tôi sẽ lại đau đớn rồi cậu ấy để tôi nằm xuống. Lần này, không gì ngoài chúng tôi có thể xen ngang. Và sau một hồi nỗ lực, Peea từ bỏ việc nói chuyện. Cảm giác trong tôi trở nên ấm áp hơn và lan ra từ ngựa, xuống toàn cơ thể, dọc tay chân, ở trên đầu. Thay vì làm tôi thỏa mãn, nụ hôn lại có tác dụng ngược lại, khiến nhu cầu của tôi lớn hơn. Tôi nghĩ mình rất muốn thế nhưng đây là một chuyện hoàn toàn mới. Một vết rạch đầu tiên của cơn dông chớp nhoáng – tia sét đánh vào một thân cây lúc nửa đêm – khiến chúng tôi lấy lại ý thức. Nó cũng làm Finnick tỉnh giấc. Anh ấy ngồi dậy với một tiếng hét đột ngột. Tôi nhìn thấy ngón tay anh găm sâu vào cát khi trấn tĩnh lại mình dù cơn ác mộng mà anh ấy đang trả qua không có thật. “Anh không thể ngủ được nữa.” Finnick nói. “Một trong hai em nên nghỉ đi.” Chỉ khi đó anh ấy dường như mới chú ý đến biểu hiện của chúng tôi, cách mà chúng tôi vòng tay ông lấy nhau. “Hoặc cả hai em. Anh có thể canh một mình.” Dù thế những Peeta không đồng ý. “Thế quá nguy hiểm.” cậu ấy nói. “Tớ không mệt. Cậu đi nghỉ đi Katniss.” Tôi không phản đối vì tôi cần ngủ nếu tôi còn có ích trong việc giúp cậu ấy còn sống. Tôi để cậu ấy đưa tôi tới chỗ những người khác. Peeta đặt sợi dây chuyền với chiếc mặt dây hình tròn quanh cổ tôi rồi đặt bàn tay lên chỗ đứa bé của chúng tôi. “Cậu sẽ trở thành một người mẹ vĩ đại, cậu biết mà.” Cậu ấy đáp. Peeta hôn tôi một lần cuối cùng và quay lại chỗ Finnick. Cậu ấy nhắc đến đứa trẻ ám chỉ rằng thời gian rảnh trong cuộc đấu đã hết. Rằng cậu ấy biết khán giả sẽ thắc mắc tại sao cậu ấy lại không sử dụng những câu tranh luận thuyết phục nhất trong kho vũ khí của mình. Những kẻ rêu rao đó hẳn phải bị lung lay. Nhưng khi nằm duỗi người trên bãi cát, tôi băn khoăn rằng, nó có thể tiến xa hơn nữa? Như một lời nhắc nhở rằng tôi vẫn có thể có một ngày có con với Gale? Chà, nếu vậy điều đó sẽ là một sai lầm. Vì nhắm tới một thứ gì đó không bao giờ là một phần kế hoạch của tôi. Và mặt khác, nếu có ai thấy chúng tôi có thể trở thành bố mẹ, bất cứ ai cũng có thể thấy rằng nên là Peeta. Khi tôi buông tay, tôi cố mường tượng ra một thế giới, nơi nào đó trong tương lai, không có Đấu trường, không có Capitol. Một nơi giống như bãi cỏ trong bài hát tôi đã hát cho Rue nghe khi cô bé qua đời. Nơi mà đứa con của Peeta được an toàn. Chap 25 Khi thức giấc, một cảm giác hạnh phúc mơ hồ và ngọt ngào dường như gắn liền với Peeta vẫn bao bọc lấy tôi. Tất nhiên, hạnh phúc không thể có lúc này, vì cứ tình hình hiện tại thì mọi chuyện sớm muộn sẽ diễn ra. Một ngày nào đó tôi sẽ chết. Và đấy thậm chí còn là kết cục tốt nhất, nếu tôi đủ khả năng loại bỏ tất cả những người còn lại. Khi đó, Peeta sẽ trở thành người chiến thắng ở Cuộc dẹp loạn này. Tuy vậy, tôi vẫn cố bám lấy cảm giác kì lạ và ngọt ngào đó, dù chỉ vài phút. Trước khi cát sỏi, mặt trời gay gắt và những vết ngứa ép tôi trở về với thực tại. Mọi người đều đã đứng lên, một chiếc dù chứa đồ cứu trợ từ từ hạ xuống bãi biển. Tôi cũng ra đó, chờ đợi một đợt những ổ bánh mì tiếp theo. Nó giống hệt cái mà chúng tôi nhận được tối hôm trước. hai mươi bốn ổ bánh mì từ quận 3. Như vậy, tổng cộng chúng tôi có ba mươi ba cái. Mỗi người trong chúng tôi lấy năm cái, dành lại tám cái. Không ai nói ra, nhưng tám sẽ vừa đủ để chia sau khi một người trở thành nạn nhân kế tiếp. Có lẽ là trong ánh sáng ban ngày, đùa cợt về việc ai sẽ sống sót để nhận bánh mì không còn hài hước nữa. Liệu chúng tôi sẽ duy trì liên minh này trong bao lâu? Tôi không nghĩ khán giả trông đợi số lượng đấu thủ giảm đi quá nhanh. Nhưng nếu lỡ tôi hiểu sai về việc mọi người nỗ lực bảo vệ Peeta? Nếu mọi chuyện chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên, hoặc là một kế hoạch hoàn hảo để họ chiếm lấy sự tin tưởng của tôi, và rồi biến chúng tôi thành những con mồi lơ là cảnh giác? Hoặc lỡ tôi chẳng hiểu chuyện gì đang diễn ra? Khoan, nếu là vì lí do này thì hoàn toàn có thể giải quyết. Tôi không biết chuyện gì đang xảy ra hết. Và nếu tôi không biết, đây là lúc tôi và Peeta phải hiểu rõ ràng tất cả. Tôi ăn bánh mì trong lúc ngồi cạnh Peeta trên bờ cát. Đột nhiên cảm thấy khó khăn khi phải nhìn thẳng vào cậu ấy. Có lẽ tất cả là do nụ hôn tối qua, dù chuyện hai chúng tôi hôn nhau vốn dĩ chẳng có gì mới mẻ. Thậm chí với Peeta chắc cũng không có gì khác biệt. Có thể chỉ là cảm giác khi người ta biết thời gian sống của mình còn lại không nhiều. Và… làm thế nào để tôi thực hiện được những mục đích chồng chéo của mình trong việc quyết định ai sẽ là người nên sống sót sau đấu trường? Sau khi ăn, tôi nắm tay Peeta và kéo cậu ấy xuống nước. “Lại đây, tớ sẽ dạy cậu bơi.” – Tôi cần tách cậu ấy khỏi mọi người, tới một nơi để chúng tôi có thể nói về việc chấm dứt liên minh này. Một chút tiểu xảo, vì một khi họ nhận ra chúng tôi đang bàn về cả đội, lập tức chúng tôi sẽ bị chú ý. Nếu tôi thật sự dạy Peeta bơi, tôi phải cởi cái thắt lưng vì nó giúp cậu ấy tự nổi, nhưng hiện tại nó không thành vấn đề. Vì thế tôi chỉ chỉ cho cậu ấy cách lái và luyện tập đạp nước. Ban đầu, tôi thấy Johanna có vẻ để ý tới chúng tôi, nhưng cuối cùng cô ta cũng chẳng quan tâm và bỏ đi ngủ trưa. Finnick đang dệt một cái lưới mới từ dây nho và Beetee loay hoay với mớ dây điện của ông ấy. Tôi biết thời cơ đã tới. Trong lúc Peeta đang bơi, tôi khám phá ra một chuyện. Những nốt ngứa của tôi bắt đầu bong da. Chà nhẹ lên mấy vết thương dọc cánh tay, tôi gột sạch lớp vẩy, để lộ ra lớp da non. Tôi gọi Peeta, tranh thủ lúc chỉ cho cậu ấy cách loại bỏ những vết ngứa để nói về cuộc đào tẩu của chúng tôi. “Chúng ta đã tới vòng tám người rồi. Tớ nghĩ đây là lúc ta rời đi thôi” – Tôi thì thầm, dù tin chắc không ai có thể nghe thấy mình. Peeta gật đầu, và tôi có thể thấy cậu ấy đang cân nhắc lời đề nghị của tôi. Cân nhắc xem liệu việc tách ra có tốt cho chúng tôi không. “Tớ nghĩ là,” – cậu ấy nói – “Cứ tiếp tục gắn bó cho tới khi Brutus và Enobaria bị loại. Tớ nghĩ Beetee đang thử làm một cái bẫy cho họ rồi. Sau đó chúng ta sẽ đi, tớ hứa.” Tôi không hoàn toàn bị thuyết phục. Nhưng nếu chúng tôi rời nhóm bây giờ, chúng tôi sẽ có hai kẻ thù phía sau. Có thể là ba, vì ai biết được Chaff sẽ làm gì. Cộng thêm cái đồng hồ nữa. Và rồi Beetee sẽ ra sao? Johanna chỉ mang ông ấy tới cho tôi, chỉ cần tôi rời đi thì chắc chắn cô ta sẽ giết chết ông ấy. Nhưng tôi chợt nhớ, tôi bảo vệ Beetee sao được. Chỉ có một người chiến thắng và người đó phải là Peeta. Tôi phải chấp nhận điều đó. Quyết định của tôi chỉ dựa trên sự sống của cậu ấy mà thôi. “Được rồi,” – Tôi nói – “Chúng ta sẽ ở lại cho tới khi bọn nhà nghề chết. Nhưng chỉ vậy thôi đó.” Tôi quay lại và vẫy Finnick. “Này, Finnick, lại đây đi! Chúng ta tìm được cách để anh bảnh bao trở lại rồi!” Ba chúng tôi kì cọ những vảy ngứa trên khắp cơ thể, người này giúp người kia lau phần lưng để rồi nước da non hồng hào như màu trời bắt đầu lộ ra. Chúng tôi bôi một ít thuốc bởi lớp da non có vẻ nhạy cảm với ánh nắng mặt trời, nhưng trông nó không tệ bằng một nửa so với việc da cứ bóng loáng nên và giờ thì chúng tôi có thể ngụy trang trong rừng một cách dễ dàng. Beetee gọi chúng tôi lại, hóa ra nãy giờ ông ấy loay hoay với mớ dây dẫn này là để chuẩn bị một kế hoạch. “Tôi nghĩ chúng ta đều rõ nhiệm vụ kế tiếp là phải loại Brutus và Enobaria.” – Ông nói một cách từ tốn – “Tôi không nghĩ chúng sẽ tấn công chúng ta lần nữa vì giờ lực lượng của chúng ta quá chênh lệch so với chúng. Chúng ta nên bẫy họ, dù việc này nguy hiểm và có thể vô ích.” “Bác có nghĩ là họ đã nhận ra cái đồng hồ không?” – Tôi hỏi. “Nếu chưa thì họ cũng sớm biết thôi. Có lẽ là không cụ thể chi tiết được như chúng ta. Nhưng ít nhất họ cũng phải biết về một vài khu vực có kiểu tấn công bằng dây điện và chuyện đó lặp lại theo chu kì. Việc trận chiến cuối cùng của chúng ta bị các nhà sản xuất cắt bỏ cũng sẽ không khỏi khiến họ thấy kì lạ. Ta biết dụng ý của nhà sản xuất là làm ta thất vọng, nhưng chúng thì hẳn phải băn khoăn tự hỏi tại sao chuyện đó lại diễn ra, và điều đó sẽ dẫn đến việc chúng phát hiện ra cái đồng hồ của đấu trường,” – Beetee nói. “Vì thế tôi nghĩ tốt nhất là nên đặt cược vào cái bẫy của chính mình.” “Đợi đã, để tôi gọi Johanna dậy,” – Finnick nói – “Cô ấy sẽ nổi xung khi cho là mình đã bỏ lỡ chuyện hệ trọng này.” “Hoặc là không.” – Tôi lầm bầm, lúc nào mà cô ta chẳng hung dữ. Nhưng tôi không ngăn Finnick, vì tôi cũng sẽ giận điên lên nếu bị đặt ra ngoài kế hoạch lúc này. Khi Johanna tới, Beetee bắt chúng tôi lui lại để ông có một khoảng trống đủ rộng. Ông ấy nhanh chóng vẽ một vòng tròn và chia nó làm mười hai phần. Đó là đấu trường, các nét vẽ không chi tiết và chính xác như Peeta nhưng hẳn là tâm trí ông đang đặt vào những điều phức tạp hơn những đường vạch gồ ghề đơn giản đó. “Nếu chúng ta là Brutus và Enobaria, và đã biết về cánh rừng, nơi nào sẽ khiến ta thấy an toàn nhất?” – Beetee hỏi. Giọng ông đầy khích lệ, và tôi không thể ngăn mình có cảm giác ông giống như một thầy giáo đang dẫn dắt học trò vào một tiết học thú vị. Có lẽ là vì khoảng cách lứa tuổi, hoặc đơn giản là Beetee thông minh hơn chúng tôi cả triệu lần. “Nơi chúng ta đang ở hiện tại ạ. Trên bãi biển này.” – Peeta nói – “Đó là nơi an toàn nhất.” “Vậy thì vì sao họ lại không ở đây?” – Beetee nói. “Bởi vì chúng ta đang ở đây chứ sao nữa.” – Johanna tỏ ra thiếu kiên nhẫn. “Chính xác. Chúng ta ở đây, chiếm lĩnh bãi biển này. Vậy thì họ có thể đi đâu?” – Beetee nói. Tôi nghĩ tới khu rừng chết chóc, tới bãi biển không còn chỗ trống. “Nếu là cháu thì cháu sẽ trốn ở rìa rừng. Như thế vừa có thể tránh những tai họa ập đến, vừa có thể quan sát chúng ta.” “Và còn vì thức ăn nữa,” – Finnick tiếp lời tôi – “Cánh rừng đầy rẫy những loài vật lạ, nhưng chỉ cần nhìn chúng ta, họ sẽ biết đồ biển an toàn.” Beetee mỉm cười như thể chúng tôi còn vượt lên sự mong đợi của ông ấy. “Đúng thế. Tốt lắm. Tất cả đều đã rõ rồi. Và đây là kế hoạch của ta: theo như lịch tấn công của cái đồng hồ, chuyện gì sẽ xảy ra vào giữa trưa và giữa đêm?” “Sét đánh vào cây ạ.” – Tôi nói. “Đúng thế. Vì thế ta đề nghị sau đợt sét buổi trưa và trước đợt sét buổi tối, chúng ta sẽ kéo dây dẫn này từ cái cây tích điện đó xuống nước biển, một chất dẫn điện không tồi đúng không. Khi sét đánh lúc nửa đêm, dòng điện sẽ theo dây dẫn truyền xuống nước và cả bãi biển này. Hẳn là tới mười hai giờ thì chỗ này vẫn là một cái đập nhờ trận sóng thần lúc mười giờ phải không. Bất kì ai tiếp cận với khu vực này lúc đó sẽ lập tức lãnh án tử hình.” – Beetee nói. Chúng tôi im lặng hồi lâu trong lúc kế hoạch của Beetee dần ngấm vào vỏ não. Nó thật lạ lùng, kì quái và thậm chí không khả thi chút nào. Nhưng sao chứ? Tôi từng đặt hàng ngàn cái bẫy điện. Chẳng phải đây chỉ là phiên bản lớn của những cái bẫy đó, với nhiều thành phần phức tạp hơn? Liệu nó có hoạt động không? Nhưng làm sao chúng tôi có thể đặt câu hỏi về điều đó. Chúng tôi – những đấu thủ chỉ quen với việc bắt cá, đốn cây và khai thác mỏ than, chúng tôi biết gì về cách chế ngự sức mạnh từ bầu trời chứ? “Liệu những cuộn dây này có thể tích nhiều năng lượng đến thế không, bác Beetee? Trông nó mỏng manh quá, nếu nó bị dòng điện đốt cháy thì sao?” – Peeta hỏi. “Ồ, nó sẽ cháy chứ. Nhưng chỉ tới khi dòng điện chạy qua thôi. Nó sẽ hoạt động như một cái cầu chì ấy.” – Ông ấy đáp. “Sao ông biết được chứ?” – Johanna hỏi, rõ ràng là chưa bị thuyết phục. “Vì tôi là người phát minh ra nó,” – Beetee trả lời, như thể đó chỉ là một bất ngờ nho nhỏ – “Thật ra đây không phải dây dẫn bình thường. cũng như sét và cây cối ở đây vậy. Cháu rõ về cây hơn tất cả chúng ta ở đây, Johanna ạ. Nó sẽ bị phá hủy bất kì lúc nào, phải vậy không?” “Vâng” – Johanna nhăn nhó đáp. “Đừng lo gì về cuộn dây – nó sẽ hoạt động như ta nói thôi.” – Beetee trấn an chúng tôi. “Thế chúng ta sẽ ở đâu khi cái bẫy này hoạt động?” – Finnick hỏi. “Trong rừng, đủ xa để an toàn.” – Beetee trả lời. “Bọn nhà nghề cũng sẽ an toàn, trừ khi chúng trở thành nạn nhân của nước biển.” – Tôi chỉ ra – “Đúng thế.” – Beetee đáp. “Nhưng tất cả đồ biển sẽ bị nấu chín.” – Peeta nói. “Hơn cả nấu ấy chứ,” – Beetee nói – “Chúng ta có lẽ sẽ xóa sổ nguồn thức ăn đó. Nhưng cháu vẫn có thể tìm ra cái gì đó ăn được trong rừng phải không, Katniss?” “Vâng. Đậu và chuột,” – Tôi nói – “Và chúng ta còn có nhà tài trợ nữa.” “Tốt, chính vì vậy mà ta không coi chuyện đó là vấn đề.” – Beetee nói – “Nhưng chúng ta là một đội, và việc này sẽ đòi hỏi nỗ lực của tất cả mọi người, nên quyết định có thực hiện hay không phụ thuộc ở các cháu.” Chúng tôi giống như những học sinh trung học. Hoàn toàn không có khả năng tranh luận với Beetee về kế hoạch hoàn hảo của ông ấy nhưng ý kiến lại được quan tâm nhiều nhất. Hầu như chẳng có vấn đề gì với kế hoạch của Beetee cả. Tôi nhìn vẻ mặt bối rối của mọi người. “Tại sao không?” – Tôi nói – “Nếu thất bại cũng không có hại gì hết. Nếu thành công, đây sẽ là cơ hội tuyệt vời để ta loại họ. Và thậm chí nếu chúng ta không thể giết họ thì với việc đồ biển bị xóa sổ, Brutus và Enobaria sẽ mất đi nguồn thức ăn” “Theo tôi thì chúng ta nên thử,” – Peeta nói – “Katniss nói đúng.” Finnick nhìn Johanna và rướn mày. Anh ấy sẽ không ủng hộ nếu không có cô ta. “Được rồi,” – Cuối cùng Johanna cũng nói – “Dù sao thế cũng tốt hơn là phải săn lùng họ trong rừng. Với lại tôi không nghĩ họ phát hiện ra kế hoạch của chúng ta được, vì chính chúng ta còn không hiểu nó cơ mà.” Beetee muốn kiểm tra cái cây tích điện trước khi bắt đầu thực hiện kế hoạch. Căn cứ vào vị trí của mặt trời thì giờ là khoảng chin giờ. Chúng tôi phải rời bãi biển ngay lập tức. Vì thế chúng tôi dỡ trại, đi bộ tới khu vực tiếp xúc với vùng sét và đi vào rừng. Beetee vẫn quá yếu , không thể leo dốc nên Finnick và Peeta thay nhau đỡ ông ấy. Tôi để Johanna dẫn đầu vì đường tới cái cây đó khá thẳng, cô ta không thể đi lạc hơn nữa, những mũi tên của tôi sẽ được việc hơn hai cái rìu của cô ta, thế nên tốt hơn hết là tôi đi sau cùng. Không khí ngột ngạt và đặc quánh xung quanh tôi. Không có giờ giải lao nào hết từ khi Đấu trường này bắt đầu. Giá như Haymitch ngừng việc gửi bánh mì từ quận 3 và mang tới cho chúng tôi chút gì đấy từ quận 4. Dù có cá để ăn nhưng tôi vẫn cần muối khủng khiếp. Một tảng băng cũng là một lựa chọn không tệ. Hoặc một ít nước lạnh. Tôi vô cùng biết ơn thứ chất lỏng từ cây, nhưng nó cũng chỉ có nhiệt độ ngang với nước biển, không khí và thân nhiệt chúng tôi mà thôi. Tất cả chúng tôi giờ chẳng khác gì món thịt hầm. Khi tới gần cái cây, Finnick đề nghị tôi dẫn đầu. “Katniss có thể nghe được trường lực của đấu trường.” – Anh ấy giải thích với Beetee và Johanna. “Nghe à?” – Beetee hỏi lại. “Chỉ ở bên tai mà Capitol đã chữa trị thôi.” – Tôi nói. Tôi không quá ngớ ngẩn với câu chuyện này đấy chứ? Chắc chắn là Beetee vẫn nhớ chính ông ấy là người chỉ cho tôi về lực điện của đấu trường và chắc ông ấy cũng biết có lẽ chẳng có cách nào nghe thấy nó được. Nhưng ông ấy cũng không hỏi thêm gì nữa. “Vậy thì cứ để Katniss đi trước,” – Beetee nói, dừng lại một chút để lau hơi nước trên cặp kính – “Không thể đùa với cái đó được.” Cái cây thu sét không thể nhầm lẫn được, bởi ngọn của nó cao hơn những cây khác trong rừng. Tôi tìm được một ít hạt và dặn mọi người đợi một lúc trong khi tôi đi chầm chậm xung quanh, tung hạt lên đầu. Nhưng tôi nhìn thấy vùng trường lực đó hầu như ngay lập tức, trước cả khi một hạt đậu chạm vào nó vì nó chỉ cách khoảng mười lăm yards. Giữa màu xanh trước mắt tôi có một khoảng hình vuông bị tách ra, nó ở trên cao, chếch một chút về bên tay phải. Tôi ném một hạt đậu vào đó và nghe thấy tiếng xèo xèo xác nhận. “Chỉ ở dưới cái cây sét đánh thôi.” – Tôi nói với mọi người. Chúng tôi chia nhiệm vụ cho nhau. Finnick bảo vệ Beetee trong khi ông ấy kiểm tra cái cây. Johanna lấy nước từ cây. Peeta thu thập hạt, tôi săn ở gần đó. Mấy con chuột cây có vẻ không sợ người chút nào, vì thế thôi bắt được ba con một cách dễ dàng. Nghe thấy tiếng sóng báo hiệu đã mười giờ, tôi biết mình nên quay trở lại.Tới chỗ mọi người rồi, tôi lấy nước rửa sạch mấy con thú đã chết. Tôi vạch một đường trên nền đất cách vùng trường lực một chút để mọi người không vượt khỏi ranh giới an toàn rồi cùng Peeta rang hạt, nướng thịt. Beetee vẫn loay hoay quanh cái cây, đo đạc hay cái gì đó tương tự mà chúng tôi không hiểu nổi. Đột nhiên ông ấy chộp một cái vỏ cây màu bạc, ném nó vào vùng lực điện trường. Nó nảy lại và nằm trên đất, phát sáng, lát sau nó trở lại màu sắc ban đầu. “Ồ, chuyện này giải thích nhiều điều đây.” – Beetee nói. Tôi nhìn Peeta và phải mình cắn môi để nhịn cười. Nó chẳng giải thích được gì với ai ngoài Beetee. Đúng lúc này chúng tôi nghe thấy tiếng động vang lên từ khu vực lân cận. Mười một giờ rồi. Trong rừng âm thanh này lớn hơn rất nhiều so với trên bãi biển tối qua. Chúng tôi cố lắng tai nghe. “Không giống tiếng máy móc lắm.” – Beetee nói một cách quyết đoán. “Cháu nghĩ là côn trùng,” – Tôi nói – “Hình như là bọ cánh cứng.” “Con gì đó có càng.” – Finnick thêm vào. Âm thanh ngày một lớn hơn, như thể bị kích thích bởi tiếng nói của chúng tôi hay chính là dấu hiệu của sự sống. Dù là gì đi nữa, tôi cược là nó cũng sắp xé chúng tôi tới tận xương trong vài giây nữa. “Đi khỏi đây thôi.” – Johanna nói – “Còn gần một giờ nữa sét mới bắt đầu.” Chúng tôi không đi xa. Chỉ quanh quẩn ở khu vực mưa máu. Chúng tôi gần như đi dã ngoại, ngồi trên đất, ăn thịt thú rừng và đợi tiếng sét đầu tiên báo hiệu giữa trưa. Theo Beetee đề nghị, tôi leo lên tán cây khi tiếng bọn côn trùng nhỏ dần rồi biến mất. Tia sét đầu tiên tỏa sáng rực rỡ trên nền trời, dù đang là giữa ban ngày, dưới ánh mặt trời. Nó tỏa một vùng ánh sáng quanh cái cây tích điện, khiến nó chói sáng với màu xanh trắng và bầu không khí xung quanh bị tích điện. Tôi trượt xuống và tả lại cho Beetee, ông ấy tỏ ra khá hài lòng dù tôi nói không đúng tính chất khoa học lắm. Chúng tôi trở lại con đường mòn quanh co để về bãi biển. Cát mịn và ẩm bởi trận sóng vừa quét qua. Beetee cho chúng tôi nghỉ cả buổi chiều trong lúc ông ấy chuẩn bị dây. Vì đó là vũ khí của ông ấy và chúng tôi sẽ chỉ cản trở việc ông ấy suy nghĩ. Có một cảm giác lạ lùng của kẻ phải nghỉ học từ sớm. Ban đầu chúng tôi thay nhau ngủ trưa trong bóng râm ở rìa rừng, nhưng đến chiều thì mọi người đều tỉnh táo. Chúng tôi quyết định, vì đây là cơ hội cuối cùng được ăn đồ biển nên cần làm một bữa tiệc. Dưới sự hướng dẫn của Finnick, chúng tôi nướng cá và nhặt sò, thậm chí còn lặn xuống để mò hàu nữa. Tôi thích phần này nhất, không phải vì tôi thích hàu. Tôi mới được nếm nó một lần ở Capitol và không thể thích ứng được với chất nhầy của nó. Nhưng được lặn sâu xuống nước giống hệt như đang sống ở một thế giới khác. Nước mát, trong, tôi có thể thấy được từng đàn cá sặc sỡ và hoa biển trên sàn cát. Johanna canh chừng trong lúc tôi, Finnick và Peeta làm sạch đống đồ ăn. Peeta mở một con hàu và tôi nghe thấy cậu ấy cười. “Nhìn này Katniss.” – Cậu ấy cho tôi xem một viên ngọc trai. Nó sáng, to cỡ một hạt đậu và hoàn hảo. “Nếu có đủ áp lực, than cũng sẽ biến thành ngọc.” – Cậu ấy nói với Finnick. “Không thể nào.” – Finnick phủ nhận. Nhưng tôi chợt nhớ tới cách Effie giới thiệu chúng tôi trước công chúng vào năm ngoái. Khi than bị nén dưới áp suất lớn và biến thành ngọc trai bởi sự hiện diện nổi bật của chúng tôi. Vẻ đẹp nảy được sinh ra từ sự đau đớn. Peeta rửa viên ngọc trong nước và đưa nó cho tôi. “Tặng cậu đó.” Tôi giữ nó trong lòng bàn tay và nhìn nó sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời. Tôi sẽ giữ nó. Trong tất cả những giây phút còn lại của cuộc đời tôi, tôi sẽ để nó bên mình. Món quà cuối cùng của Peeta. Thứ duy nhất mà tôi thực sự đón nhận từ cậu ấy. Có lẽ nó sẽ cho tôi sức mạnh trong những giờ khắc cuối cùng. “Cảm ơn nhé.” – Tôi nói, nắm chặt những ngón tay. Tôi điềm tĩnh nhìn vào đôi mắt xanh của cậu ấy, đối thủ khó khăn nhất của tôi, người sẽ quyết bảo vệ tôi bằng cả tính mạng của mình. Nhưng tôi thề sẽ phá hỏng kế hoạch đó. Một nụ cười đọng trong đôi mắt đó, và chúng hướng về phía tôi, như thể cậu ấy có thể đọc ý nghĩ của tôi vậy. – “Cái mặt dây chuyền không hữu ích rồi, phải vậy không?” –Peeta nói, dù Finnick đang ở đây, dù tất cả mọi người đều có thể nghe được. “Katniss?” “Nó hữu dụng.” – Tôi nói. “Nhưng không phải theo cách mà tớ muốn.” – cậu ấy nói, thay đổi hướng nhìn. Sau đó cậu ấy chỉ nhìn những con hàu. Khi chúng tôi chuẩn bị ăn, cái dù lại xuất hiện và mang tới hai phần bổ sung cho bữa tiệc. Một lọ tương cay nhỏ màu đỏ và bánh mì kẹp từ quận 3. Finnick lập tức đếm chúng. “Lại là hai mươi tư.” – Anh ấy nói. Vậy là ba mươi hai cái. Mỗi chúng tôi lấy năm, để lại bảy, bảy thì sẽ chẳng bao giờ chia được. Tất cả sẽ chỉ dành cho một người. Thịt cá khá đằm, sò mọng nước, ngay cả hàu cũng khá ngon, nhờ được cải thiện rất nhiều bởi nước sốt. chúng tôi ăn tới mức không thể ăn thêm chút nào nữa mà vẫn còn thừa thức ăn. Không thể giữ lại nên tôi đổ tất cả phần còn lại xuống nước để bọn Nhà nghề không thể lấy được khi chúng tôi rời đi. Không ai dọn dẹp đống vỏ sò. Những con sóng sẽ sớm cuốn chúng đi. Chẳng còn gì để làm ngoài chờ đợi. Peeta và tôi ngồi ở mép nước tay trong tay, không nói lời nào. Cậu ấy tính nhắc lại những gì đã nói tối qua nhưng tôi không thay đổi ý kiến. Và những lời của tôi cũng chẳng làm cậu ấy lung lay được. thời gian cho món quà đầy sức thuyết phục đã qua rồi. Tôi giữ viên ngọc trong chiếc dù, an toàn bên cạnh cái van và thuốc ở thắt lưng tôi. Hi vọng người ta sẽ mang nó về quận 12. Chắc chắn mẹ tôi và Prim sẽ biết phải trả lại nó cho Peeta trước khi chôn cất tôi. Chap 26 Bài quốc ca bắt đầu, nhưng không có gương mặt nào trên bầu trời tối nay. Khán giả sẽ càng bồn chồn và khát máu hơn. Mặc dù cái bẫy của Beetee đầy hứa hẹn, những nhà sản xuất vẫn không tiến hành cuộc tấn công nào khác. Có lẽ chỉ đơn giản là họ tò mò muốn biết nó hoạt động thế nào. Khi mà Finnick và tôi đoán chắc tầm khoảng chin giờ, chúng tôi rời khỏi chỗ cắm trại rải rác đầy vỏ hàu, băng qua bãi biển hướng mười hai, và bắt đầu yên tĩnh đi dạo đến cái cây sét dưới ánh trăng. Cái bụng no căng khiến chúng tôi bất tiện và khó thở hơn so với lúc leo núi sáng nay. Tôi bắt đầu hối hận khi đã ăn tá hàu cuối cùng đó. Beete yêu cầu Finnick hỗ trợ ông ấy, và những người còn lại đứng bảo vệ. Trước khi ông ấy cột dây thép vào cây, Beetee trải hàng đống các thứ ra. Ông nhờ Finnick cột chặt chúng vào một cành cây bị gãy và đặt chúng xuống đất. Rồi họ đứng ở hai bên cây, chuyền cuộn chỉ tới lui trong khi quấn dây thép xung quanh chúng và quanh thân cây. Lúc đầu nhìn có vẻ là quấn tuỳ ý, nhưng sau tôi thấy một mô hình, như một mê cung phức tạp, hiện ra dưới ánh trăng bên phía Beetee. Tôi tự hỏi liệu có tạo ra bất kỳ khác biệt nào qua việc đặt dây thép như thế không, hay chỉ đơn thuần là thêm vào sự tò mò của khán giả. Tôi cá là hầu hết bọn họ cũng chỉ biết về điện nhiều bằng tôi. Công việc trên thân cây hoàn tất ngay khi chúng tôi nghe sóng điện bắt đầu kêu. Tôi thật sự không bao giờ đoán chính xác được lúc nào trong khoảng thời gian lúc mười giờ nó sẽ bùng nổ. Phải có vài tiến triển gì chứ, để cho làn sóng điện tự làm tiếp, rồi mới đến hậu quả của cơn lũ. Nhưng bầu trời lại nói tôi rằng đã mười giờ ba mươi. Đây là lúc Beetee tiết lộ phần còn lại của kế hoạch. Vì chúng tôi di chuyển nhanh nhất qua hàng cây, ông muốn Johanna và tôi dời những cuộn dây xuyên qua khu rừng, tháo các dây thép từ cuộn dây trong khi chúng tôi đi. Chúng tôi phải đặt nó băng qua bãi biển hướng mười hai giờ và thả ống kim loại xuống, với những gì còn lại, để chúng ngập trong nước, chắc rằng chúng chìm xuống dưới đáy. Sau đó tẩu thoát vào rừng. Nếu chúng tôi đi lúc này, ngay bây giờ, chúng tôi nên làm việc một cách an toàn. “Tôi muốn đi cùng họ như một người bảo vệ,” Peeta nói ngay lập tức. Sau khoảng thời gian với hạt ngọc, tôi biết cậu ấy ít sẵn sàng hơn bao giờ hết cho việc để tôi ra khỏi tầm nhìn của cậu. “Cậu quá chậm. Hơn nữa, tôi cần cậu vào phút cuối. Katniss sẽ bảo vệ,” Beetee nói. “Không có thời gian để bàn cãi. Tôi rất xin lỗi. Nếu các cô gái muốn ra khỏi đó mà vẫn còn sống, họ cần phải đi ngay bây giờ.” Ông đưa cuộn dây cho Johanna. Tôi còn không thích kế hoạch này hơn cả Peeta. Làm sao tôi có thể bảo vệ cậu ấy ở khoảng cách như thế? Nhưng Beetee đúng. Với cái chân của cậu, Peeta quá chậm để chạy xuống dốc đúng thời gian. Johanna và tôi là những người nhanh nhất và là những chân chắc nhất khi ở đáy rừng. Tôi không thể nghĩ ra bất kỳ giải pháp thay thế nào cả. Và nếu tôi tin ai đó ở đây ngoài Peeta, đó chính là Beetee. “Không sao đâu,” tôi nói với Peeta. “Bọn tớ chỉ cần thả cuộn dây xuống và quay lại thẳng đây.” “Không được vào khu vực sấm sét,” Beetee nhắc tôi. “Chạy tới chỗ cái cây trong khu vực hướng một đến hai giờ. Nếu cô thấy sắp hết thời gian, chuyển qua một lần nữa. Đừng có mà nghĩ tới việc quay lại biển, cho tới khi tôi có thể đánh giá được mức thiệt hại.” Tôi ôm mặt Peeta bằng hai tay. “Đừng lo. Tớ sẽ gặp lại cậu lúc nửa đêm.” Tôi hôn cậu ấy và, trước khi cậu định tiếp tục phản đối, tôi liền buông cậu ra và quay qua Johanna. “Sẵn sàng chưa?” “Tại sao không?” Johanna nói với một cái nhún vai. Cô ấy rõ ràng là không vui vẻ gì với việc hợp tác hơn tôi. Nhưng tất cả chúng tôi đều bị cuốn vào cái bẫy của Beetee. “Cô bảo vệ, tôi sẽ tháo dây. Chúng ta có thể thoả hiệp sau.” Chúng tôi chạy xuống con dốc mà không có một cuộc thảo luận nào nữa. Thực ra, có rất ít thảo luận giữa chúng tôi. Chúng tôi di chuyển với tốc độ khá nhanh, một người gỡ dây, một người giữ quan sát. Khoảng được nửa quãng đường đi xuống, chúng tôi nghe thấy tiếng lách cách bắt đầu kêu, cho biết đã quá mười một giờ. “Nên nhanh lên,” Johanna nói. “Tôi muốn có nhiều khoảng cách giữa tôi và dòng nước đó trước khi sét đánh. Chỉ phòng khi Volts tính sai gì đó.” “Tôi sẽ cầm cuộn dây một lúc,” tôi nói. Bố trí cuộn dây là việc khó hơn cả nhiệm vụ bảo vệ, và cô ấy đã có một lượt khá dài. “Đây,” Johanna nói, đưa cuộn dây cho tôi. Cả hai tay chúng tôi đều còn cầm ống kim loại khi có sự rung động nhẹ. Bỗng nhiên sợi cước vàng mỏng từ bên trên nảy xuống phía chúng tôi, bó lại thành một vòng xoắn rối và quấn quanh cổ tay cả hai. Sau đó đứt ra rồi uốn như con rắn quanh chân chúng tôi. Chỉ mất một giây để chúng tôi nhanh chóng hiểu được việc này. Johanna và tôi nhìn nhau, nhưng cả hai đều không phải nói ra. Ai đó ở không xa bên trên chúng tôi đã cắt sợi dây. Và họ sẽ đến gần chúng tôi bất cứ lúc nào. Tay tôi tự động thoát khỏi đống dây và mới chỉ chạm tới đuôi lông của mũi tên khi ống kim loại đập vào một bên đầu tôi. Điều tiếp theo tôi biết là tôi đang nằm ngửa trên những cành nho, một cơn đau khủng khiếp ở thái dương bên trái. Có cái gì đó không ổn với mắt tôi. Tầm nhìn của tôi bị mờ và không thể tập trung được khi tôi cố khiến hai mặt trăng đang nổi trên trời kia hợp lại làm một. Thật khó để thở, và tôi nhận ra Johanna đang ngồi trên ngực tôi, ghì chặt vai tôi bằng đầu gối cô ấy. Một con dao găm vào cánh tay trái của tôi. Tôi cố giật đi nhưng tôi vẫn còn quá đuối sức. Johanna đang đào cái gì đó, tôi đoán đầu con dao của cô ấy, đang cứa vào da thịt tôi, xoáy sâu vào chỗ thịt đó. Một cảm giác bị xẻ dọc đau đớn và hơi nóng chạy khắp cổ tay tôi, lấp đầy lòng bàn tay. Cô ấy đánh mạnh xuống tay tôi và bôi máu lên nửa mặt tôi. “Nằm yên!” cô rít lên. Trọng lượng của cô ấy rời khỏi cơ thể tôi và để tôi lại một mình. Nằm yên ư? Tôi nghĩ. Gì vậy? Chuyện gì đang diễn ra? Mắt tôi khép lại, ngăn cái thế giới tương phản kia lại khi tôi cố gắng lý giải tình trạng của mình. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ là việc Johanna xô Wiress xuống biển. “Chỉ nằm yên thôi, được không?” Nhưng cô ấy đã không tấn công Wiress. Không phải như thế. Dù sao tôi cũng không phải Wiress. Tôi không phải là Nuts. “Chỉ nằm yên thôi , được không?” cứ vang lên trong não tôi. Những bước chân đang tới. Hai cặp. Nặng nề, không cố che giấu họ đang ở đâu. Giọng của Brutus: “Cô ấy giống như đã chết ấy! Thôi nào, Enobaria!” Bước chân đi vào màn đêm. Thật sao? Tôi trôi dạt vào và ra khỏi miền ý thức tìm kiếm câu trả lời. Có thật tôi giống như đã chết không? Tôi không có chỗ để tạo một lập luận ngược lại. Thực tế, suy nghĩ hợp lý lại là một cuộc đấu tranh. Tôi chỉ biết thế này. Johanna tấn công tôi. Đập ống kim loại đó vào đầu tôi. Cắt tay tôi, có thể đã gây thiệt hại đáng kể cho cả động mạch và tĩnh mạch, và rồi Brutus và Enobaria xuất hiện trước khi cô ấy có thời gian để kết liễu tôi. Sự liên minh đã kết thúc. Finnick và Johanna chắc hẳn đã có thoả hiệp để quay lưng với chúng tôi tối nay. Tôi đã biết rằng chúng tôi nên bỏ đi lúc sáng. Tôi không biết Beetee đứng ở đâu. Nhưng tôi không thiên vị trò chơi, Peeta cũng vậy. Peeta! Mắt tôi mở ra trong hoảng loạn. Peeta đang thức đợi tôi ở gần cái cây, không nghi ngờ và mất cảnh giác. Có thể Finnick đã giết cậu ấy rồi. “Không,” tôi thì thầm. Cái dây đó đã bị cắt ở khoảng cách khá gần bởi những đấu sĩ. Finnick và Beetee và Peeta – họ không biết chuyện gì đang xảy ra dưới đây. Họ chỉ có thể đang tự hỏi chuyện gì đã xảy ra, tại sao dây bị chùng hoặc thậm chí có lẽ nhảy lại lên cây. Chuyện này, chính nó, có thể là một tín hiệu cho việc giết ai đó? Chắc chắn chuyện này chỉ là Johanna quyết định đã đến lúc để phá vỡ chúng tôi. Giết tôi đi. Rồi trốn khỏi những đấu sĩ. Sau đó đem Finnick vào cuộc đấu nhanh nhất có thể. Tôi không biết. Tôi không biết. Tôi chỉ biết tôi phải quay lại với Peeta và giữ cho cậu ấy được sống. Phải tốn từng phần ý chí tôi mới đẩy được bản thân lên tư thế ngồi rồi tự kéo mình sang một bên cây gần chân tôi. Thật may mắn là tôi có thứ để bám vào vì khu rừng đang nghiêng qua nghiêng lại. Không có bất kì cảnh báo trước nào, tôi dựa về phía trước và nôn cả bữa tiệc ra, tiếp tục như thế cho tới khi không còn con hàu nào trong người tôi nữa. Run rẩy và đổ đầy mồ hôi, tôi phải đánh giá điều kiện thể chất của mình. Khi tôi nâng cánh tay bị thương lên, máu liền trào lên mặt tôi và thế giới xung quanh bỗng thay đổi một cách đáng báo động. Tôi nhắm chặt mắt lại và bám vào thân cây cho tới khi mọi thứ ổn định hơn một chút. Sau đó tôi thử đi vài bước thật cẩn thận tới cái cây bên cạnh, nhổ một ít rêu, và không cần kiểm tra vết thương, băng chặt cánh tay của tôi lại. Chắc chắn sẽ tốt hơn khi không phải nhìn nó. Sau đó, tôi cho phép tay mình chạm vào vết thương trên đầu. Có một khối u lớn ở đó nhưng không nhiều máu lắm. Rõ ràng tôi đã bị nội thương, nhưng dường như không tới mức nguy hiểm là chảy máu tới chết. Ít nhất là không chảy từ đầu tôi. Tôi lau khô bàn tay lên đám rêu và cầm cây cung bằng cánh tay bị thương với một chút run rẩy. Đặt mũi tên lên dây cung an toàn. Bắt đầu di chuyển lên con dốc. Peeta. Ước muốn đang chết dần của tôi. Lời hứa của tôi. Để giữ cho cậu ấy được sống. Trái tim tôi phấn chấn hơn một chút khi nhận ra cậu ấy chắc hẳn vẫn còn sống vì không có tiếng pháo nổ nào cả. Có lẽ Johanna đã hành động một mình, biết rằng Finnick sẽ bên phe cô ấy khi chủ ý của cô rõ ràng. Mặc dù thật khó để đoán chuyện gì đang diễn ra giữa hai người bọn họ. Tôi nghĩ về cách mà anh ấy nhìn cô ta để xác nhận khi cô ấy đồng ý đặt bẫy giúp Beetee. Có một mối liên minh sâu sắc hơn nhiều dựa trên tình bạn lâu năm và ai mà biết còn gì nữa. Vì thế, nếu Johanna đã trở mặt với tôi, tôi không nên tin tưởng Finnick nữa. Tôi đi tới kết luận này chỉ vài giây trước khi tôi nghe thấy ai đó đang chạy xuống con dốc về phía mình. Cả Peeta và Beetee đều không thể di chuyển với tốc độ này được. Tôi cúi đầu sau lùm cây của bụi nho, vừa kịp lúc để giấu mình đi. Finnick lướt qua tôi, với làn da lờ mờ bôi thuốc của anh, nhảy vọt qua bụi rậm như một con nai. Anh ta sớm đến được chỗ tôi bị tấn công, chắc chắn thấy được máu. “Johanna! Katniss!” anh gọi. Tôi ngồi yên đến khi anh ta đi theo hướng mà Johanna và những đấu sĩ đã đi. Tôi di chuyển nhanh nhất có thể mà không làm thế giới xung quanh bị xoáy đảo. Đầu tôi choáng theo từng nhịp đập gấp gáp của tim. Bọn côn trùng, hẳn đã bị kích thích bởi mùi máu tươi, đã tăng tần số vỗ cánh của chúng lên tới mức nó trở lên ầm ầm bên tai tôi. Không, khoan đã. Có thể tai tôi thực sự bị ù bởi cú đánh. Đợi đến lúc bọn côn trùng câm hết, thì điều đó là khả quan để nói. Nhưng khi lũ côn trùng im lặng, sấm sét sẽ bắt đầu. Tôi phải di chuyển nhanh hơn. Tôi phải tới chỗ Peeta. Tiếng pháo nổ làm tôi khựng lại một chút. Ai đó đã chết. Tôi biết rằng với tất cả mọi người có vũ trang và đang sợ hãi hiện giờ, đó có thể là bất kỳ ai. Nhưng mặc kệ là ai, tôi tin là cái chết sẽ kích hoạt một dạng, đại khái như miễn – phí – cho – tất – cả những ai đang ở ngoài đây trong đêm nay. Người ta sẽ đi giết trước rồi tự hỏi động cơ của họ sau. Tôi bắt chân mình chạy tiếp. Cái gì đó ngáng chân tôi và tôi ngã nhào xuống mặt đất. Tôi cảm thấy nó bọc xung quanh tôi, ôm chặt lấy tôi bằng những sợi sắc nhỏ. Một cái lưới! Đây chắc hẳn một trong những cái lưới ưa thích của Finnick, được đặt để bẫy tôi, và anh ta chắc đang ở gần đây, với cây đinh ba trong tay. Tôi vùng vẫy một lúc, chỉ làm cho cái lưới siết chặt vào tôi hơn, sau đó tôi thoáng nhìn được nó trong ánh trăng. Bối rối, tôi nhấc tay lên và thấy nó bị vướng vào mớ chỉ vàng lấp lánh. Đây không phải là một trong những cái lưới của Finnick, mà là những dây dẫn của Beetee. Tôi cẩn thận chống chân lên và nhận thấy mình đang ở trong khoảng đất chứa đầy các thứ đã lấy được từ thân cây trên đường trở về cây sấm sét. Tôi từ từ cởi bỏ mớ dây ra khỏi người, bước ra khỏi chúng, và tiếp tục leo dốc. Về mặt tốt, tôi đang đi đúng đường và vẫn chưa bị mất phương hướng bởi trấn thương ở đầu như tôi đã bị lúc nãy. Mặt xấu, mớ dây đã nhắc tôi nhớ về cơn bão sấm sét đang tới. Tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng côn trùng, nhưng có phải là chúng đang bắt đầu tắt dần? Tôi giữ vòng dây khoảng chừng vài feet ở bên trái tôi như một vật hướng dẫn khi tôi chạy mà vẫn rất quan tâm về việc không chạm vào chúng. Nếu như tiếng côn trùng đang tắt dần và tia chớp đầu tiên đánh vào cái cây, sau đó tất cả năng lượng đó sẽ tăng vọt xuống mớ dây và bất kỳ ai tiếp xúc với nó đều sẽ chết. Tôi chậm lại khi thấy những thân cây được trang trí bằng vàng, cố gắng di chuyển một cách lén lút, nhưng thật sự tôi chỉ may mắn một chút. Tôi tìm kiếm dấu hiệu của những người khác. Không có ai. Không có ai ở đó cả. “Peeta?” tôi gọi nhẹ nhàng. “Peeta?” Một tiếng rên rỉ khẽ trả lời tôi, tôi quay xung quanh và thấy hình dáng của một nhân vật quan trọng đang nằm trên mặt đất. “Beetee!” tôi kêu lên. Tôi chạy tới và quỳ xuống cạnh ông ấy. Tiếng rên chắc hẳn là ngoài ý muốn. Ông ấy đang bất tỉnh, mặc dù tôi có thể thấy không có vết thương nào ngoại trừ một vết cắt dưới chỗ gập khuỷu tay ông. Tôi lấy một nắm rêu gần đó và quấn chỗ đó lại trong khi tôi cố đánh thức ông ấy. “Beetee! Beetee, có chuyện gì vậy? Ai đã chém ông?” tôi lay ông ấy theo cái cách mà bạn sẽ không bao giờ lay một người bị thương, nhưng tôi không biết làm gì hơn. Ông ấy lại rên rỉ và giơ một tay lên để gạt tôi ra. Đây là lúc tôi nhận thấy ông ấy đang cầm một con dao, cái Peeta đã mang theo trước đó, tôi nghĩ vậy, nó đang được gói lỏng lẽo trong mớ dây dẫn. Lúng túng, tôi đứng dậy và nhấc mớ dây lên, xác định là nó đã được gắn lại cái cây. Tôi phải mất một chút thời gian để nhớ lại sợi thứ hai, ngắn hơn nhiều lọn mà Beetee đã quấn quanh nhánh cây và để lại trên mặt đất trước cả khi ông ấy bắt đầu thiết kế của mình trên cây. Tôi đã nghĩ rằng nó phải có ý nghĩa gì đó về điện, mà có lẽ điều đó đã được đặt sang một bên để sử dụng sau. Nhưng nó không phải thế, bởi vì có cả một mẩu 20, 25 yards tốt ở đây. Tôi nheo mắt nhìn lên ngọn đồi và nhận ra chúng tôi chỉ cách từ trường vài bước. Có một ô vuông mách bảo, ở trên cao bên phải tôi, giống cái hồi sáng nay. Beetee đã làm gì? Có phải ông ấy đã hướng con dao về phía trường lực như cách Peeta đã vô tình làm không? Và thoả thuận với đống dây là gì vậy? Có phải là kế hoạch dự phòng của ông ấy? Nếu sự truyền điện bằng nước thất bại, liệu ông có định tạo một tia sét mang đầy năng lượng đánh vào từ trường không? Dù sao thì nó sẽ làm được gì chứ? Không gì cả? Một thoả thuận tuyệt vời? Nướng chín tất cả chúng tôi? Vòng từ trường chắc cũng chủ yếu là năng lượng, tôi nghĩ. Cái ở Trung tâm Huấn luyện thì vô hình. Cái này dường như bằng cách nào đó phản chiếu lại khu rừng. Nhưng tôi đã thấy nó dập dờn khi con dao của Peeta bổ tới và mũi tên của tôi bắn vào. Thế giới thực nằm ngay sau nó. Tai tôi không bị ù nữa. Dù sao cũng chỉ toàn tiếng côn trùng. Giờ thì tôi biết điều đó bởi vì chúng đang chết nhanh chóng và tôi không nghe thấy gì ngoài tiếng của khu rừng. Beetee thật vô dụng. Tôi không thể đánh thức ông ấy. Tôi không thể cứu ông ấy. Tôi không biết ông đã cố làm gì với con dao và mớ dây và ông không có khả năng giải thích. Cái băng rêu trên cánh tay tôi đã ướt đẫm và không có tác dụng để đánh lừa tôi lúc này. Tôi thật dại dột. Tôi sẽ cháy đen chỉ trong vài phút nữa. Tôi vừa định rời xa khỏi cái cây này và – “Katniss!” Tôi nghe thấy tiếng cậu ấy mặc dù cậu đang ở một khoảng cách xa. Nhưng cậu ấy đang làm gì vậy? Cậu ấy phải hiểu rằng tất cả mọi người đang săn lùng chúng ta lúc này chứ. “Katniss!” Tôi không thể bảo vệ cậu ấy. Tôi không thể di chuyển nhanh và xa và khả năng bắn cung của tôi là vấn đề vì tôi không thể bắn tốt nhất ở tình trạng này được. Tôi làm điều duy nhất tôi có thể làm để kéo những kẻ tấn công khỏi cậu ấy và đưa họ tới tôi. “Peeta!” tôi hét lên. “Peeta! Tớ ở đây! Peeta!” Đúng vậy, tôi sẽ kéo họ vào đây, bất kỳ đâu gần nơi tôi đứng, tránh xa Peeta để tới săn tôi và cái cây sấm sét đó sẽ sớm trở thành thứ vũ khí tối thượng cả trong và ngoài nó. “Tớ ở đây! Tớ ở đây!” Cậu ấy sẽ không tới kịp. Không với cái chân đó trong đêm. Cậu sẽ không tới kịp. “Peeta!” Thành công rồi. Tôi có thể nghe thấy họ đang tới. Hai người bọn họ. Nhanh chóng vượt qua khu rừng. Đầu gối tôi bắt đầu khuỵu xuống và tôi quỳ bên cạnh Beetee, dồn trọng lượng của mình lên gót chân. Nâng cây cung và mũi tên của tôi vào vị trí. Nếu tôi có thể loại được họ, liệu Peeta sẽ sống sót đến phút cuối không? Enobaria và Finnick tới chỗ cây sấm sét. Họ không thể thấy tôi, ngồi phía trên họ trên con dốc, da tôi được nguỵ trang trong thuốc mỡ. Tôi hướng đích tới là cổ Enobaria. Với bất kỳ may mắn nào, khi tôi giết cô ta, Finnick sẽ cúi đầu núp sau cái cây ngay lúc sét đánh vào nó. Và nó sẽ là bất cứ lúc nào. Chỉ có một tiếng côn trùng khe khẽ kêu ở đây và đó. Tôi có thể giết họ bây giờ. Tôi có thể giết cả hai bọn họ. Một tiếng pháo nổ khác. “Katniss!” Tiếng Peeta hét lên vì tôi. Nhưng lúc này tôi không trả lời. Beetee vẫn thở yếu ớt bên cạnh tôi. Ông ấy và tôi sẽ sớm chết thôi. Finnick và Enobaria sẽ chết. Peeta sẽ sống. Hai tiếng pháo nữa vang lên. Brutus, Johanna, Chaff. Hai người trong bọn họ đã chết. Chỉ còn lại một vật tế để Peeta giết. Và đó là điều tốt nhất mà tôi có thể làm được. Một kẻ thù. Kẻ thù. Kẻ thù. Từ đó đang kéo về một mảnh ký ức gần đây. Đẩy nó vào hiện tại. Cái nhìn trên gương mặt Haymitch. “Katniss, khi cháu đang trong đấu trường…” Sự cau có, vẻ đa nghi. “Gì ạ?” Tôi nghe thấy chính giọng tôi siết lại khi tôi nổi giận với một số lời buộc tội không nói ra được. “Cháu chỉ cần nhớ ai mới là kẻ thù,” Haymitch nói. “Chỉ có thế.” Lời khuyên cuối cùng của Haymitch cho tôi. Tại sao tôi cần được nhắc nhở? Tôi luôn biết ai là kẻ thù. Ai bỏ đói, tra tấn và giết chúng tôi trong đấu trường. Người sẽ sớm giết tất cả những người tôi yêu quý. Cây cung của tôi rơi xuống khi tôi hiểu ra ý của ông. Phải, tôi biết ai mới là kẻ thù. Và đó không phải là Enobaria. Cuối cùng tôi cũng thấy con dao của Beetee với đôi mắt rõ ràng. Tay tôi run rẩy trượt sợi dây khỏi cán dao, quấn nó quanh mũi tên ngay trên phần lông chim và cột nó an toàn bằng một loại nút học trong kỳ huấn luyện. Tôi đứng dậy, quay lại phía từ trường, cho họ thấy đầy đủ về bản thân tôi nhưng không còn quan tâm nữa. Chỉ quan tâm tới nơi tôi nên hướng đầu mũi tên tới, nơi mà Beetee sẽ hướng mũi dao của ông ấy vào nếu ông ấy có thể được lựa chọn. Cây cung của tôi nghiêng về phía ô vuông dợn sóng, lỗ hổng, cái … ông ấy đã gọi nó là gì hôm đó nhỉ? Người Trung Hoa trong bộ áo giáp. Tôi bắn mũi tên, thấy nó găm trúng mục tiêu và biến mất, kéo theo sợi chỉ vàng sau nó. Lông tôi dựng đứng lên hết vào phút cuối và sấm sét đánh vào cái cây. Một tia sáng trắng chạy dọc theo dây dẫn, và chỉ một lát, mái vòm nổ thành nhiều tia sáng xanh rực rỡ. Tôi bị ném ngược trở lại mặt đất, cơ thể vô dụng, bị tê liệt, mắt bị đóng băng trong khoảng rộng, khi những mảnh nhẹ như lông từ cơn mưa rơi xuống tôi. Tôi không thể tới chỗ Peeta được. Tôi còn không thể lấy được hạt ngọc của mình. Mắt tôi căng ra để chụp lấy hình ảnh cuối cùng của vẻ đẹp kia đi với tôi. Ngay trước khi vụ nổ bắt đầu, tôi thấy một ngôi sao. Chap 27 Mọi thứ dường như phun trào cùng một lúc. Mặt đất nổ tung thành hàng ngàn mảnh bụi và xác thực vật trút xuống không trung. Cây cối bùng cháy. Ngay cả bầu trời cũng lấp đầy thứ ánh sáng rực rỡ như hoa nở. Tôi không thể nghĩ ra lý do tại sao bầu trời lại bị ném bom cho tới khi tôi nhận ra những người sản xuất đang bắn pháo hoa lên đó, trong khi sự phá huỷ thực sự lại diễn ra dưới mặt đất. Chỉ vì không có gì thú vị khi xem đấu trường bị hủy diệt hay nhắc nhở đến các vật tế. Hoặc để tô điểm thêm cho kết thúc đẫm máu của chúng tôi. Họ có để ai sống không? Liệu sẽ có người chiến thắng của Đấu trường sinh tử lần thứ 75 không? Có lẽ không. Dù sao thì, Cuộc Dẹp loạn đường phố là cái gì chứ, nhưng… tổng thống Snow đã đọc gì từ tấm thẻ đó nhỉ? “…như một lời nhắc nhở đến đám dân nổi loạn rằng ngay cả sức mạnh lớn lao nhất trong chúng cũng không thể vượt qua được quyền lực của Capitol…” Không có kẻ mạnh nào trong những kẻ mạnh nhất sẽ chiến thắng. Có lẽ họ chưa bao giờ có ý định sẽ có người chiến thắng trong Trò chơi này. Hoặc có lẽ hành động nổi loạn cuối cùng của tôi đã buộc họ làm thế. Tớ xin lỗi, Peeta , tôi nghĩ. Tớ xin lỗi tớ đã không thể cứu cậu . Cứu cậu ấy ư? Giống với việc tôi đánh cắp cơ hội cuối cùng được sống của cậu thì hơn, kết án cậu, bằng việc phá huỷ hàng rào từ trường. Có lẽ, nếu chúng tôi đã chơi theo luật, họ có thể để cậu ấy sống. Chiếc phi thuyền dừng lại trên đầu tôi mà không có chút cảnh báo. Nếu mọi thứ yên tĩnh, và có một con chim húng nhại đậu gần đây, tôi sẽ nghe thấy khu rừng dần đi vào yên lặng và sau đó là tiếng con chim báo hiệu trước sự xuất hiện của con tàu Capitol. Nhưng tai tôi không thể có chút nhận thức rõ ràng nào trong cuộc ném bom này. Cái móc được thả xuống cho tới khi nó trực tiếp ở ngay trên đầu tôi. Bộ móng trườn xuống người tôi. Tôi muốn hét lên, bỏ chạy, đập tan nó nhưng tôi lại đông cứng, bất lực để làm bất cứ điều gì ngoài thiết tha hy vọng rằng tôi sẽ chết trước khi nhìn thấy nhân ảnh của những người đang đợi tôi trên đó. Họ sẽ không tha cho tôi để tôn tôi làm người chiến thắng mà để chắc rằng cái chết của tôi sẽ thật chậm và được công khai nhất có thể. Nỗi sợ hãi tệ nhất của tôi được củng cố thêm khi gương mặt chào đón tôi bên trong phi thuyền thuộc về Plutarch Heavensbee, Người đứng đầu sản xuất Trò chơi. Quả là một mớ hỗn độn tôi đã gây ra cho Trò chơi xinh đẹp của ông ta với chiếc đồng hồ hẹn giờ thông minh và chiến trường của những người chiến thắng. Ông sẽ phải trả giá cho thất bại của mình, có thể mất cả mạng sống, nhưng không phải trước khi ông thấy tôi bị trừng phạt. Ông đưa tay ra, tôi nghĩ là để đánh tôi, nhưng ông làm một điều gì đó còn tệ hơn. Với ngón cái và ngón trỏ, ông vuốt mắt tôi nhắm lại, định tuyên án tôi trong bóng tối sao? Để tôi dễ bị tổn thương nhất? Họ có thể làm bất cứ điều gì với tôi bây giờ và tôi thậm chí không thể thấy được cái gì sẽ đến. Tim tôi đập thình thịch, máu bắt đầu chảy xuống từ miếng băng rêu. Suy nghĩ của tôi dần mập mờ. Có lẽ tôi sẽ chảy máu tới chết trước khi họ kịp hồi sinh tôi. Trong tâm trí mình, tôi thầm gửi lời cảm ơn tới Johanna Mason về vết thương xuất sắc mà cô ấy đã gây ra. Khi tôi trôi vào miền mông lung, tôi có thể cảm thấy mình đang nằm trên một chiếc bàn đệm. Có cảm giác bị gắn ống ở cánh tay trái. Họ đang cố gắng giữ cho tôi sống bởi vì, nếu tôi đi quá nhẹ nhàng, quá bí mật vào cõi chết, nó sẽ trở thành chiến thắng. Tôi phần lớn vẫn chưa thể cử động được, mở hờ mắt ra, nâng đầu lên. Nhưng tay phải tôi đã có lại chút cảm giác. Có thứ gì đó rơi phịch xuống người, cảm giác giống như một cái chân vịt, không, cái gì đó ít sinh khí hơn, giống cái dùi cui. Tôi không có sự phối hợp chuyển động thật sự nào, không có bằng chứng nào cho thấy tôi vẫn còn ngón tay. Nhưng tôi vẫn cố gắng đưa tay qua lại xung quanh cho tới khi tách được cái ống ra. Một tràng bip vang lên nhưng tôi không còn đủ tỉnh táo để tìm hiểu nó sẽ gọi ai đến. Lần tiếp theo tôi tỉnh dậy, tay tôi bị trói vào bàn, cái ống lại cắm vào cánh tay. Tôi có thể mở mắt ra và nâng nhẹ đầu lên. Tôi đang ở trong một căn phòng rộng với trần nhà thấp và ánh sáng bạc. Có hai dãy dường được đặt đối diện nhau, tôi có thể nghe thấy hơi thở mà tôi giả định là của những người chiến thắng. Đối diện thẳng với tôi, tôi thấy Beetee với khoảng mười loại máy khác nhau đang được nối với người ông ấy. Hãy để chúng tôi chết! Tôi hét lên trong đầu mình. Tôi nặng nhọc đặt đầu mình xuống bàn và lịm đi lần nữa. Khi tôi cuối cùng cũng thật sự tỉnh lại, sự giam cầm đã biến mất. Tôi nâng bàn tay lên và thấy mình vẫn còn những ngón tay mà chúng có thể di chuyển theo mệnh lệnh của tôi. Tôi tự đẩy mình ngồi dậy và bám vào chiếc bàn đệm cho tới khi tôi dần ổn định được căn phòng trong sự tập trung. Cánh tay trái được băng bó và những cái ống thì treo cạnh giường. Tôi ở một mình với Beetee, người vẫn nằm trước mặt tôi, đang được duy trì mạng sống bởi một đội quân máy móc của ông ấy. Những người khác đâu rồi? Peeta, Finnick, Enobaria, và… và… một người nữa, phải không? Cả Johanna và Chaff hay Brutus đều không đồng thời còn sống khi cuộc ném bom bắt đầu. Tôi chắc họ sẽ là ví dụ cho tất cả chúng tôi. Nhưng bọn họ đã đưa họ đi đâu? Chuyển họ từ bệnh viện sang nhà tù? “Peeta…” tôi thì thầm. Tôi rất muốn bảo vệ cậu ấy. Tôi vẫn còn quyết tâm đó. Vì tôi đã thất bại trong việc giữ cho cậu được an toàn trong cuộc sống của chính cậu, tôi phải tìm cậu ấy, giết cậu ấy ngay bây giờ trước khi Capitol chọn được thủ đoạn đau đớn nào đó để đưa cậu vào cõi chết. Tôi trượt chân xuống bàn và nhìn xung quanh tìm vũ khí. Có một vài ống tiêm được đóng kín trong bọc nhựa vô trùng trên cái bàn gần giường Beetee. Tuyệt vời. Tất cả những gì tôi cần là không khí và một phát tiêm chắc chắn vào tĩnh mạch của cậu. Tôi dừng lại một chút, đắn đo có nên giết Beetee không? Nhưng nếu tôi làm thế, những cái máy sẽ bắt đầu kêu bip bip và tôi sẽ bị bắt trước khi tới được chỗ Peeta. Tôi hứa trong im lặng là sẽ quay lại để kết liễu ông ấy nếu tôi có thể. Tôi trần truồng trừ chiếc áo ngủ mỏng trên người, nên tôi nhét cái ống tiêm dưới miếng băng đang bao phủ vết thương trên cánh tay tôi. Không có bảo vệ ở cửa. Không nghi ngờ gì là tôi đang cách hàng dặm dưới Trung tâm Huấn luyện hoặc là thành trì nào đó của Capitol, và khả năng trốn thoát của tôi là không tồn tại. Không thành vấn đề. Tôi không trốn thoát, chỉ là hoàn tất một việc thôi. Tôi tựa và đi theo hành lang hẹp dẫn tới một cánh cửa bằng kim loại hơi khép hờ. Ai đó ở sau nó. Tôi rút ống tiêm ra và nắm nó trong lòng bàn tay. Ép người vào bức tường, tôi lắng nghe những giọng nói đang phát ra từ bên trong. “Thông điệp đã tới được quận 7, 10 và 12. Nhưng quận 11 lúc này đã kiểm soát được vấn đề vận chuyển, nên có ít nhất một tia hy vọng bọn họ sẽ nhận được thức ăn.” Plutarch Heavensbee. Tôi nghĩ. Mặc dù tôi thật sự chỉ mới nói chuyện với ông ta một lần. Một giọng khàn khàn lên tiếng hỏi. “Không, tôi rất tiếc. Không có cách nào để tôi đưa ông tới được quận 4. Nhưng tôi đã gửi một đơn hàng đặc biệt để bồi thường cho cô ấy nếu có thể. Đó là điều tốt nhất tôi có thể làm, Finnick.” Finnick. Đầu óc tôi ráng hết sức để hiểu được cuộc đối thoại, hiểu được sự thật rằng nó đang diễn ra giữa Plutarch Heavensbee và Finnick. Chẳng lẽ anh ấy gần và thân với Capitol đến nỗi tội ác của anh sẽ được tha bổng? Hay anh ta thật sự không biết Beetee có ý định gì? Anh ấy cằn nhằn điều gì khác. Điều gì đầy thất vọng nặng nề. “Đừng ngu ngốc thế. Đó là điều tệ nhất mà anh có thể làm. Hãy chắc rằng cô ấy bị giết chết. Chỉ cần anh còn sống, họ sẽ giữ cô ấy sống để làm mồi nhử.” Haymitch nói. Haymitch nói! Tôi bang thẳng qua cánh cửa và vấp ngã vào căn phòng. Haymitch, Plutarch, và một Finnick bị đánh đập nặng nề ngồi quanh một cái bàn đặt đầy đồ ăn mà không ai ăn cả. Luồng ánh sáng ban ngày xuyên qua khung cửa sổ hình vòng cung, và trong khoảng cách tôi thấy đỉnh của một rừng cây. Chúng tôi đang bay. “Tự đánh mình xong chưa, cháu yêu?” Haymitch nói, sự khó chịu hiện rõ trong giọng ông. Nhưng khi tôi nghiêng về phía trước ông bước tới và nắm lấy cổ tay tôi, trấn tĩnh tôi lại. Ông nhìn vào tay tôi. “Ồ, vậy là cháu với một cái ống tiêm sẽ chống lại Capitol sao? Thấy không, đây là lý do tại sao không ai để cháu lên kế hoạch.” Tôi nhìn chằm chằm vào ông một cách khó hiểu. “Thả nó xuống.” Tôi cảm nhận được lực ép lên cổ tay phải tăng lên cho tới khi tay tôi buộc mở ra và thả cái ống tiêm xuống. Ông để tôi ngồi bên cạnh Finnick. Plutarch đặt một chén canh trước mặt tôi. Một ổ bánh mì nhỏ. Nhét cái muỗng vào tay tôi. “Ăn đi,” anh ta nói bằng một giọng tử tế hơn nhiều giọng Haymitch thường dùng. Haymich ngồi ngay đối diện tôi. “Katniss, ta sắp giải thích chuyện gì đã xảy ra. Ta không muốn cháu hỏi bất kỳ điều gì cho tới khi ta nói xong. Cháu hiểu chứ?” Tôi gật cứng nhắc. Và đây là những gì ông ấy kể cho tôi. Có một kế hoạch đã được lập sẵn để giúp chúng tôi thoát khỏi đấu trường từ lúc cuộc Dẹp loạn được công bố. Những Vật tế từ quận 3, 4, 6, 7, 8 và 11 có những mức hiểu biết khác nhau về nó. Plutarch Heavensbee đã qua nhiều năm, là một phần trong nhóm bí mật nhằm lật đổ Capitol. Ông đảm bảo cho những vòng dây được đặt giữa đống vũ khí. Beetee phụ trách thổi bay một cái lỗ trong trường lực. Ổ bánh mì chúng tôi nhận được trong đấu trường là ám hiệu cho thời gian giải thoát. Quận sản xuất ra ổ bánh biểu thị cho ngày. Ba. Con số của số vòng giờ. Hai mươi bốn. Chiếc phi thuyền thuộc về quận 13. Bonnie và Twill, người phụ nữ tôi đã gặp trong rừng từ quận 8, đã đúng về sự tồn tại và khả năng phòng vệ của nó. Chúng tôi hiện tại đang trên một chuyến đi rất quanh co đến quận 13. Trong khi đó, hầu hết các quận trên Panem đều đang chuẩn bị cho cuộc nổi dậy với quy mô toàn diện trên toàn lãnh thổ. Haymitch dừng lại để thấy tôi vẫn đang theo kịp. Hoặc là ông ấy đã nói xong lúc này. Thật quá khủng khiếp để hiểu hết được, cái kế hoạch hết sức kỹ lưỡng này, mà tôi cũng là một phần trong đó, chỉ vì tôi bị chỉ định làm một phần của Đấu trường sinh tử. Bị sử dụng mà không có sự đồng ý, không biết gì về nó. Ít nhất thì trong Đấu trường sinh tử, tôi phải biết tôi đang được diễn với ai chứ. Những người bạn của tôi chắc hẳn vẫn còn nhiều bí mật nữa. “Ông đã không nói cho cháu biết,” giọng tôi tả tơi không khác gì Finnick. “Cả cô và Peeta đều không được biết. Chúng tôi không thể liều được,” Plutarch nói. “Tôi còn sợ là cô có thể nhắc tới sự bất cẩn của tôi về chiếc đồng hồ suốt cả Trò chơi.” Ông lôi chiếc đồng hồ từ trong túi ra, lướt ngón cái ngang qua mặt pha lê, ánh lên hình chim húng nhại. “Tất nhiên, khi tôi cho cô xem cái này, tôi chỉ đơn thuần là muốn ám chỉ cô về đấu trường. Là một người cố vấn. Tôi nghĩ đây là bước đầu tiên hướng tới việc đạt được lòng tin của cô. Tôi chưa bao giờ dám mơ cô sẽ thành Vật tế lần nữa.” “Tôi vẫn chưa hiểu tại sao Peeta và tôi không được phép tham gia vào kế hoạch,” tôi nói. “Bởi vì một khi trường lực bị thổi bay, cháu sẽ là người đầu tiên họ cố bắt giữ, và cháu càng biết ít bao nhiêu, càng tốt bấy nhiêu.” Haymitch nói. “Người đầu tiên ư? Tại sao?” tôi nói, cố gắng bám vào dòng suy nghĩ. “Cùng một lý do, tất cả những người còn lại đều đồng ý hy sinh để cô được sống.” Finnick nói. “Không đâu, Johanna đã cố giết tôi.” tôi nói. “Johanna đánh cháu bất tỉnh để cắt máy theo dõi trong tay cháu ra và dẫn Brutus và Enobaria xa khỏi cháu.” Haymitch nói. “Gì cơ?” Đầu tôi bắt đầu nhức nhối, tôi muốn họ thôi nói chuyện theo vòng tròn. “Cháu không biết mọi người đang – ” “Chúng tôi phải cứu cô vì cô là chim húng nhại, Katniss,” Plutarch nói. “Khi cô sống, cuộc nổi dậy sống theo cô.” Con chim, chiếc huy hiệu, bài hát, những trái dâu, cái đồng hồ, bánh quy, bộ váy bốc cháy. Tôi chính là con chim húng nhại. Người đã sống sót qua những mưu kế của Capitol. Biểu tượng của cuộc nổi dậy. Đó là những gì tôi đã nghi ngờ trong rừng khi tôi tìm thấy Bonnie và Twill đang chạy trốn. Mặc dù tôi chưa bao giờ thực sự hiểu được tầm quan trọng của mình. Nhưng sau đó, tôi đã được giúp đỡ để hiểu ra. Tôi nghĩ tới sự chế nhạo của Haymitch về kế hoạch tẩu thoát khỏi quận 12 của tôi, bắt đầu cuộc nổi dậy của riêng tôi, bỏ qua cả ý kiến quận 13 có thể tồn tại. Thoái thác và lừa dối. Và nếu ông đã làm được thế, ngay sau chiếc mặt nạ đầy mỉa mai và say khướt của ông, quá thuyết phục và quá lâu, ông ấy còn nói dối về điều gì nữa? Tôi biết ông ấy nói dối về điều gì. “Peeta,” tôi thì thầm, tim tôi trùng xuống. “Những người khác giữ cho Peeta sống, vì nếu cậu ấy chết, chúng ta biết không thể giữ cháu trong khối liên minh được nữa,” Haymitch nói. “Và chúng ta không thể mạo hiểm để cháu không được bảo vệ.” Từ ngữ của ông có vấn đề với sự thật, biểu hiện của ông ấy không đổi, nhưng ông không thể giấu sự rầu rĩ đang lan trên mặt ông. “Peeta đang ở đâu?” tôi rít lên với ông. “Cậu ấy bị Capitol bắt giữ cùng với Johanna và Enobaria,” Haymitch nói. Cuối cùng thì ông cũng lịch sự hơn khi bỏ ánh nhìn đăm đăm đó đi. Về mặt kĩ thuật, tôi không có vũ trang. Nhưng không ai nên đánh giá thấp tác hại mà móng tay có thể gây ra, nhất là khi mục tiêu không chuẩn bị. Tôi nhào qua bàn và cào vào mặt Haymitch, làm chảy máu và bị thương một mắt. Sau đó cả hai chúng tôi đều la hét những điều rất rất khủng khiếp vào nhau, và Finnick đang cố gắng kéo tôi ra, tôi biết đó là tất cả những gì Finnick có thể làm để không để mặc tôi, nhưng tôi là chim húng nhại. Tôi là chim húng nhại và thật quá khó để có thể giữ mạng sống cho tôi. Những bàn tay khác giúp Finnick và tôi trở lại chỗ ngồi, cơ thể tôi bị giữ lại, cổ tay bị ràng chặt, nên tôi đập đầu mình trong cơn giận dữ và lại chống tới cái bàn. Một cây kim chọc vào tay tôi và đầu tôi đau khủng khiếp, tôi dừng lại và chỉ đơn giản là kêu la rên siết kinh khủng theo cách của một con thú khi nó sắp chết, cho tới khi giọng tôi kiệt quệ. Liều thuốc giúp an thần, không ngủ, nên tôi cứ hơi ngà ngà, thẫn thờ đau khổ cho thứ dường như vốn đã là như vậy. Họ lắp ống và nói chuyện với tôi bằng giọng thật thà mà không bao giờ với được tới tôi. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ là Peeta, đang nằm trên một chiếc bàn tương tự ở đâu đó, trong khi bọn họ cố moi thông tin từ cậu mà thậm chí cậu còn không có. “Katniss. Katniss, tôi xin lỗi.” Giọng Finnick từ giường bên cạnh đi vào ý thức tôi. Có lẽ là do chúng tôi đang cùng một loại thương tổn. “Tôi muốn quay lại cứu cậu ấy và Johanna nhưng tôi không thể đi được.” Tôi không trả lời. Chủ ý tốt của Finnick Odair còn có ý nghĩa ít hơn là không có gì. “Như vậy tốt cho cậu ấy hơn Johanna. Họ sẽ sớm khám phá được cậu ấy không biết gì cả. Và họ sẽ không giết cậu nếu họ nghĩ họ có thể dùng cậu ấy để chống lại cô,” Finnick nói. “Như mồi nhử ư?” tôi nói với trần nhà. “Như cách họ sẽ dùng Annie làm mồi nhử phải không, Finnick?” Tôi có thể nghe thấy anh ấy khóc nhưng tôi không quan tâm. Họ có thể còn không buồn thẩm vấn cô ấy, cho đến giờ cô ấy đã đi rồi. Đã đi từ rất lâu kể từ lúc Đấu trường của cô ấy kết thúc. Có một cơ hội tốt để tôi đi theo hướng như thế. Có lẽ tôi đã hoàn toàn phát điên và không ai tận tâm đến độ có thể nói chuyện với tôi được. Tôi cảm thấy mình điên đủ rồi. “Tôi ước là cô ấy đã chết,” anh nói. “Tôi ước họ đều đã chết và chúng ta cũng vậy. Như thế là tốt nhất.” Chà, không có lời đáp lại tốt lành nào dành cho câu đó. Tôi khó lòng mà tranh luận về nó kể từ lúc tôi đi vòng quanh với cái ống tiêm trong tay để giết Peeta khi tôi tìm thấy bọn họ. Có thật là tôi muốn cậu ấy chết không? Điều tôi muốn… Điều tôi muốn là có cậu ấy trở lại với tôi. Nhưng tôi sẽ không bao giờ có lại cậu ấy lúc này. Thậm chí nếu lực lượng nổi dậy bằng cách nào đó có thể lật đổ được Capitol, bạn có thể chắc chắn rằng hành động cuối cùng của tổng thống Snow là cắt cổ Peeta. Không. Tôi sẽ không bao giờ có lại cậu ấy. Nên vậy chết là tốt nhất. Nhưng liệu Peeta sẽ biết điều đó hay cậu sẽ tiếp tục chiến đấu? Cậu ấy rất khoẻ và là một kẻ nói dối giỏi. Cậu ấy có nghĩ là cậu có cơ hội sống sót không? Cậu ấy có quan tâm nếu thật sự điều đó xảy ra? Dù sao thì cậu ấy cũng đâu có dự tính trước điều này. Cậu ấy đã thoát ra khỏi cuộc sống rồi. Có thể, nếu cậu biết tôi đã được cứu, cậu sẽ rất vui. Cảm thấy rằng cậu đã hoàn thành nhiệm vụ của mình để giữ cho tôi sống. Tôi nghĩ là mình ghét cậu ấy còn hơn cả ghét Haymitch. Tôi bỏ cuộc, thôi nói chuyện, thôi trả lời, từ chối thức ăn và nước. Họ có thể bơm bất kỳ cái gì họ muốn vào tay tôi, nhưng thật sự cần nhiều hơn thế để giữ cho một người tiếp tục tồn tại một khi cô ấy đã mất động lực sống của mình. Tôi thậm chí có một ý tưởng buồn cười rằng nếu tôi thực sự chết, có thể Peeta sẽ được phép sống. Không phải như một người tự do mà như một Avox hay gì đó, đợi chờ những Vật tế tương lai của quận 12. Rồi có thể cậu ấy sẽ tìm được cách trốn thoát. Cái chết của tôi có thể, thực tế, cứu được cậu. Nếu nó không thể, không thành vấn đề. Thật ra cũng đủ lý do để chết rồi. Để trừng phạt Haymitch, vì trong tất cả những kẻ trong cái thế giới thối nát này, đã biến Peeta và tôi thành một phần trong Trò chơi của ông. Tôi đã tin ông. Tôi đặt những gì quý giá nhất vào tay Haymitch. Và ông đã phản bội tôi. “Thấy không, đây là lý do tạo sao không ai để cháu lên kế hoạch,” ông nói. Điều đó đúng. Không ai trong tâm trí tỉnh táo của họ sẽ để tôi lên kế hoạch. Bởi vì tôi rõ ràng không thể phân biệt nổi một người bạn trong số kẻ thù. Nhiều người ghé qua để nói chuyện với tôi, nhưng tôi biến mọi từ ngữ họ thốt ra nghe như tiếng tách tách của lũ côn trùng trong rừng. Vô nghĩa và xa lạ. Nguy hiểm, chỉ khi nó tới gần. Bất kỳ lúc nào từ ngữ trở nên khác biệt hơn, tôi rên rỉ cho tới khi họ chịu tiêm cho tôi một liều giảm đau và nó sẽ giúp mọi thứ tốt lên Đến một lần, tôi mở mắt ra và thấy ai đó mà tôi không thể ngăn ánh nhìn của người đó xuống tôi. Một người sẽ không bào chữa, hay giải thích, hoặc nghĩ anh ấy có thể đổi chủ tâm của tôi bằng những lời cầu xin, bởi vì chỉ mình anh ấy mới thật sự biết tôi hành động như thế nào. “Gale,” tôi thì thầm. “Chào, Catnip.” Anh cúi xuống và vuốt vài sợi tóc khỏi mắt tôi. Một bên mặt anh bị bỏng, vết bỏng còn khá mới. Tay anh được quấn vải có dây thòng qua cổ, và tôi có thể thấy được lớp băng dưới chiếc áo thợ mỏ của anh ấy. Chuyện gì đã xảy ra với anh? Sao anh lại ở đây? Ở nhà đã xảy ra chuyện xấu rồi. Thật không nhiều bằng một câu hỏi của việc quên Peeta như ghi nhớ những người khác. Tất cả những gì cần là nhìn vào Gale và gương mặt họ sẽ xuất hiện trong hiện tại, cầu cứu sự hồi âm. “Prim?” tôi hổn hển. “Con bé còn sống. Mẹ em cũng vậy. Anh đã đưa họ ra kịp lúc,” anh nói. “Họ không ở quận 12 sao?” tôi hỏi. “Sau Đáu trường, họ đưa máy bay tới. Thả bom.” Anh ngập ngừng. “Ừm, em biết chuyện gì xảy ra với Hob rồi đấy.” Tôi biết. Tôi đã thấy nó. Kho chứa hàng chôn vùi dưới lớp bụi than dày cộm. Toàn bộ quận bị che phủ trong hàng đống thứ. Một cảm giác kinh khủng dâng lên khi tôi hình dung những quả bom rơi xuống Khu mỏ. “Họ không ở quận 12 sao?” tôi lặp lại. Nếu việc nói điều đó bằng cách nào đó bảo vệ cho sự thật. “Katniss,” Gale nói nhẹ nhàng. Tôi nhận ra giọng nói đó. Đó là giọng anh ấy dùng để tiếp cận con mồi bị thương trước khi anh ra đòn chí mạng. Tôi giơ tay lên theo bản năng để bịt miệng anh lại nhưng anh bắt lấy tay tôi và nắm chặt nó. “Đừng,” tôi thì thầm. Nhưng Gale không phải là người giữ bí mật với tôi. “Katniss, đã không còn quận 12 nữa.” HẾT QUYỂN HAI
Chờ đã, không, có ai đó đang đứng ở chỗ nan hoa phía bên trái tôi, tức là đối diện Peeta. Là Mags. Nhưng bà ta không đi về phía Sừng dê hay cố trốn thoát. Thay vào đó lại nhảy ùm xuống nước và bắt đầu lội nước về phía tôi, mái đầu hoa râm nhấp nhô trên sóng. Chà, bà ta lớn tuổi nhưng tôi đoán sau 80 năm sống ở quận 4 bà ta có thể vẫn nổi lênh đênh.
“Peeta?” Có mùi tóc bị cháy sém thoảng qua. Tôi gọi tên cậu ấy lần nữa, lắc nhẹ đầu nhưng cậu ấy không đáp lại. Các ngón tay tôi sờ sang đôi môi Peeta, nơi mà không còn hơi thở ấm áp dù vài giây trước cậu ấy còn thở hổn hển. Tôi áp tai lên ngực cậu ấy, chỗ mà tôi thường gối đầu lên, nơi tôi biết tôi sẽ nghe thấy nhịp đập mạnh mẽ và đều đặn của tim Peeta.
Peeta quay lại bắt gặp tình thế khó khăn của tôi và lia chiếc bao tên khi một con khỉ thình lình lao ra khỏi một cái cây tới chỗ ngực cậu ấy. Tôi không có mũi tên, không có cách nào để bắn cung được. Tôi có thể nghe thấy tiếng “thịch” tìm một mục tiêu khác từ chiếc đinh ba của Finnick và biết rằng thứ vũ khí ấy đã được đâm vào. Bên tay cầm dao của Peeta bị vô hiệu khi cậu ấy cố chuyển chiếc bao tên. Tôi văng con dao của mình vào một con mút đang lao tới nhưng thứ sinh vật đó lại lộn nhào, tránh lưỡi dao và ở nguyên tại vị trí của nó.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top