Đất Việt Trời Nam c1-c19

  CHƯƠNG I

Trần Cương nằm mộng gặp giao long

Lý Sảm lánh nạn ra Hải ấp


Núi rừng Yên Tử còn ngủ yên trong sương sớm. Chân trời phía đông ửng lên màu hồng phơn phớt. ánh sáng ban ngày xua dần những làn hơi lạnh còn len lỏi trong các bản làng. Mấy chú gà trống gáy vang như giục mặt trời thức dậy. Bà Trần gọi con:

- Này Cương! Có đi rừng không? Mẹ nắm cơm cho rồi đấy. Bố anh chứ! Ngáy như kéo gỗ. Mẹ thấy con ngủ ngon quá nên không muốn gọi sớm. Thôi ăn bát cơm rồi đi.

Trần Cương ăn vội bát cơm, chào mẹ, đeo cung, vác giáo vào rừng nhưng đi mãi vẫn không gặp con thú nào. Đến trưa, mặt trời lên cao, xua hết mây mù và khí lạnh, chàng thấy đói trong lòng, liền ngồi tựa vào gốc cây cổ thụ lấy cơm nắm ra ăn, lấy lá rải dưới gốc cây nằm nghỉ. Trong ánh nắng cuối xuân ấm áp, chàng mơ mơ màng màng như thấy mình lạc vào một xứ sở thần tiên xa lạ, phong cảnh kì thú muôn màu. Bỗng từ trong dòng sông trước mặt, hiện ra một con giao long cực lớn, bay vút lên trời, quấn quít trong đám mây lành. Trần Cương còn chưa hết kinh ngạc, giao long đã biến thành người đàn ông, khố đỏ áo vàng, đầu đội khăn vành đính ngọc dạ quang giắt nhiều lông chim trĩ, vẻ rất oai linh, từ đám mây hạ xuống, nói với chàng rằng:

- Ta là long vương ở Bạch Đằng giang. Ba ngày nữa, nhà ngươi hãy ra bờ sông cứu con ta, sau này ắt được hưởng phúc lớn.

Nói xong, người đàn ông lại biến thành con giao long, lựa theo dòng mà ra sông lớn. Trần Cương tỉnh dậy, bàng hoàng, lấy làm lạ lùng, về nói lại với mẹ. Bà Trần là người đôn hậu khoan hoà, ngẫm nghĩ rồi bảo con:

- Giao long là giống rồng, thuộc về tượng đế vương. Vậy ba ngày nữa con cứ ra bờ sông xem sự thể ra sao. Nhà mình nghèo, lấy điều tích đức làm trọng, con chớ nên xem thường.

Ba ngày sau Trần Cương dậy sớm, ra bờ sông Cầm đi đi lại lại tìm kiếm nhưng chỉ có vi lô xạc xào heo hắt. Dưới sông, dòng nước trong xanh mải miết chảy để kịp đem nước đổ ra bể. Tuyệt nhiên không biết giao long con ở nơi nào mà cứu.

Ngày ấy ở lĩnh Đông Triều còn hoang vu lắm có người con gái tên là Tú Hồng, sắc đẹp lạ lùng. Các vị công tử con quan nhiều người đến ngỏ ý cầu hôn, nàng đều từ chối. Một hôm Tú Hồng ra sông giặt lụa, thấy con cá chép vàng giãy giụa trên cỏ. Nàng đem con cá thả xuống sông. Đêm về, Tú Hồng mơ thấy có người con trai khôi ngô đẹp đẽ, đến nói rằng:

- Cảm ơn nàng đã cứu mạng ta.

Hai người ân ái với nhau. Lúc chia tay, người con trai bảo:

- Nhờ nàng giữ gìn giọt máu của ta.

Khi tỉnh dậy, Tú Hồng thấy mình đã mang thai. Sắp đến ngày sinh nở, quan sở tại cho rằng nàng chửa hoang, bắt buộc vào chiếc bè, đem thả trôi trên sông. Tú Hồng nằm lả không biết đã mấy ngày, lênh đênh trôi không biết qua những xứ sở nào.

Bấy giờ Trần Cương quanh quẩn bên bờ sông đã lâu, bỗng thấy từ xa có chiếc bè trôi lại, bên trên có người con gái bị trói, liền vớt lên đem về nhà cho sưởi, cho ăn. Người con gái ấy chính là Tú Hồng. ít ngày sau Tú Hồng sinh ra một bé trai rất khoẻ mạnh. Hôm đó là ngày Tân Thìn, tháng Quí Thìn, năm Đinh Thìn (1027). Từ đó Tú Hồng ở lại với Trần Cương. Ngày đầy năm, bà Trần đặt tên cho đứa bé là Trần Kinh. Khi Trần Kinh lên ba tuổi, một hôm có vị đạo sĩ vân du qua nhà, nói với Trần Cương rằng:

- Đứa bé này có tướng lạ, nó là cái trứng rồng chưa nở, tổ của nó thuộc về Nam phương. Đời Đế Minh (khoảng năm 2870 t.c.n) đi tuần phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh, lấy con gái Vu Tiên, sinh ra Kinh Dương Vương, cho cai quản phương Nam. Sau Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình quân là Thần Long, sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ. Bà Âu Cơ sinh ra cái bọc có trăm quả trứng, nở thành trăm người con trai, cho cai quản phương Nam Ngũ Lĩnh mà lập nên đất Bách Việt. Đứa bé này cũng là hậu bối của giống tiên rồng ấy. Hai trăm năm sau cõi Nam hưng vượng tất phải chờ trứng rồng nở. Ta khuyên ông nên bỏ nghề rừng mà làm nghề sông nước để rồng có cơ ra biển.

Trần Cương còn muốn hỏi thêm đôi điều nhưng vị đạo sĩ đã phất tay áo đi hút về phía núi Yên Tử. Từ hôm ấy Trần Cương không vào rừng nữa. Bà Trần già mất, Trần Cương bán cơ nghiệp, mua thuyền, sắm chài lưới, đem Trần Kinh và Tú Hồng xuống sông làm nghề đánh cá, vì vậy kiếm được nhiều tiền bạc, đóng được thuyền lớn, thuê nhiều gia nhân, xuôi dần ra cửa biển. Thời gian thấm thoắt, mấy chục năm qua, Trần Kinh trưởng thành. Chàng đánh cá giỏi và có sức khoẻ hơn người. Mấy năm sau, cha mẹ già yếu lần lượt về trời. Theo lời cha dặn, Trần Kinh xuôi ra biển rồi lần lần tìm xuống phương Nam. Một ngày nọ, chàng cho thuyền ngược một cửa sông vào đất liền. Nơi đây phong cảnh thanh bình, mặt đất bằng phẳng, nương dâu bãi mía tốt tươi, thôn ấp trù phú, dân cư đông đúc hiền hoà. Đàn bà, con gái vừa hái dâu vừa hát; những điệu ca nghe thật êm ái du dương. Trần Kinh trong lòng xao xuyến, hỏi thăm mấy người nông phu, biết đây là phủ Thiên Trường, mới quyết chí ở lại sinh kế lâu dài, làm nghề đánh cá, lập nghiệp, lấy vợ là Dương Thị, sinh ra Trần Hấp. Trần Hấp sinh ra Trần Lý. Vợ Trần Lý là nàng Tô Thị, sinh được hai người con trai là Trần Thừa, Trần Tự Khánh và một người con gái là Trần Thị Dung, về sau nuôi người cháu họ là Trần Thủ Độ làm con nuôi. Trần Thủ Độ không được học hành mà tính quyết đoán, có sức khoẻ và ý chí hơn người, tuy là em họ Trần Thị Dung nhưng khi lớn lên, hai người quyến luyến nhau lắm, những buổi chiều hè, thường ra bờ sông, chỉ tay lên vầng trăng non thề sẽ sống mãi bên nhau.

*

Khi trước, đời vua Lý Thánh Tông, niên hiệu Long Thuỵ (1054-1072) đang thời thịnh trị. Thánh Tông có một vị ái phi tên là nàng Yến, tức Nguyên phi ỷ Lan. Một hôm có ông thầy địa lí nói với Nguyên phi:

- Thiên Trường là nơi có khí tượng phát tích đế vương, nay lại thường thấy mây lành bao phủ. Nguyên phi nên tâu với hoàng thượng tìm cách mà yểm sớm đi, để khỏi lo di hoạ cho con cháu mai sau.

Nguyên phi đem lời ấy tâu với nhà vua. Thánh tông nhà Lý ghét những chuyện trù yểm khuất tất, người phán:

- Đức là ở người, mệnh là ở trời. Ngày xưa Tần Thuỷ Hoàng muốn tìm thuốc tiên để đổi mệnh trời, cuối cùng cũng chỉ là vô ích.

Nói xong, vua không cho trù yểm gì hết. Chuyện ấy về sau các quan cũng không còn ai dám nhắc lại.

*

Những ngày rét buốt của mùa đông rồi cũng tới, ánh nắng huy hoàng một thời thịnh trị dần tắt trên mái điện Thiên An. Đến đời vua Lý Cao tông (1176-1210), vua ăn chơi xa xỉ, coi thường triều chính, ngày đêm vui thú với bọn cung phi, mĩ nữ. Dân tình đói khổ, người chết đầy đường. Bốn phương trộm giặc nổi lên như cỏ dại, vua cũng không để ý. Vì thế bọn Đàm Dĩ Mông ngày càng lộng hành bóc lột trăm họ, kỉ cương đổ nát, chính sự rối ren.

Bấy giờ là năm Thiên Tư Gia Thuỵ thứ mười (ất Mão-1195), tháng hai sét đánh vào gác Ly Minh làm sập mái. Các quan tâu rằng:

- Trong nước dân tình đói khổ mà thánh thượng lại không chăm lo việc triều chính để lòng dân oán vọng thấu tận giời xanh nên mới xảy ra điềm ấy.

Cao Tông phán:

- Các ngươi động tý lại nói đến điềm giời, việc gì cũng bảo là giời phạt nhưng thực ra lại chẳng hiều làm sao như vậy. Trẫm nói cho mà hay, nước Đại Việt ta kể từ Ngô Vương Quyền đòi lại nền độc lập đến nay đã trên hai trăm năm mươi năm, trải qua nhà Đinh, nhà Lê rồi đến nhà Lý ta, vậy mà lâu đài cung thất vẫn tủn mà tủn mủn, lầu gác lụp xụp chẳng ra thể thống gì, làm cho bộ mặt quốc gia rất là nhếch nhác, không xứng mặt con rồng cháu tiên tý nào. Đấy! Giời giận chính là vì lẽ ấy đấy. Các khanh mau tìm phu thợ kiếm gỗ tốt, nung đủ gạch ngói. Trẫm sẽ cho dựng ngay trên nền đất ấy một cung điện cực lớn để đón trăng lên.

Lý Kính Tu tâu rằng:

- Nay muôn dân lầm than, của kho cạn kiệt mà thánh thượng xây dựng cung đài, thật không phải lúc. Xin bệ hạ mở rộng ân đức để bách tính được nhờ.

Đàm Dĩ Mông nói:

- Đế sư nói như vậy hoá ra ngày nay hoàng thượng hẹp đức lắm hay sao?

Phạm Bỉnh Di cũng nói:

- Hoàng thượng là bậc thánh quân. Lời của người là thánh ý. Bề tôi chỉ nên tận tâm mà hoàn thành sứ mệnh, chớ bàn ra tán vào. Chẳng lẽ đế sư không hiểu điều đó?

Trong triều khi ấy phần lớn là phường a dua nịnh hót, thành ra những người trung lương bị cô lập. Cao Tông giao cho Đàm Dĩ Mông lo việc đốc thúc bộ công dựng cung ấy. Tháng sáu năm sau xây xong, đặt tên là cung Ngoạn Thiềm. Dân chúng bị vơ vét đến cùng tận, kẻ ăn mày, người chết đói nhiều lắm. Tháng giêng năm Thiên Tư Gia Thuỵ thứ mười ba (Mậu Ngọ -1198) Đàm Dĩ Mông lại tâu rằng:

- Trước đây ai cũng coi giời là hơn cả, hoàng đế là con giời. Từ khi đạo Phật thịnh hành người ta chỉ biết đi kêu cầu cửa phật, coi nhẹ việc thờ phụng giời đất. Như thế chẳng phải là giảm lòng tôn kính với nhà vua hay sao? Vả lại phần lớn những thầy tu chẳng qua là lười biếng ngại việc nên trốn tránh ra ở chùa chứ người thành tâm hành đạo ít lắm. Xin hoàng thượng xuống chỉ đuổi họ về quê tự làm lấy mà ăn, cũng thêm ra được hàng vạn người trồng cấy.

Đế sư Lý Kính Tu tâu rằng:

- Xin hoàng thượng chớ nghe lời nói ấy. Người ta muốn sống được trước phải có đức tin làm gốc. Đạo Phật vào nước ta mấy trăm năm nay đã trở thành đức tin của dân chúng, đạt đến sự ngưỡng mộ thiêng liêng, là chỗ dựa tinh thần của trăm họ, nay tự dưng bắt bỏ đi, người ta không khỏi cảm thấy bơ vơ mà sinh ra tác loạn. Như thế chẳng phải nguy lắm hay sao?

Đàm Dĩ Mông bảo:

- Phật là đức tin thì giời, vua là cái gì? Chẳng lẽ giời và vua không còn đáng để cho trăm họ tin tưởng nữa hay sao? Ông là thầy vua mà toàn nói những lời phương hại đến bậc chí tôn.

Cao tông phán rằng:

- Đàm Dĩ Mông nói có lý lắm. Việc này trẫm giao cho Phan Lân, Đỗ Quảng, Đỗ Kính Tu lo liệu, nội trong hai tháng phải đuổi hết các tăng đồ về quê làm ruộng.

Đỗ Kính Tu can rằng:

- Từ khi Thái Tổ dựng nghiệp tới nay, triều ta được sự giúp rập của đạo phật đã nhiều. Việc đuổi tăng đồ thật chẳng nên làm.

Phạm Bỉnh Di nói:

- Người có đức thì giời ban thiên hạ chứ đâu phải do mấy ông thầy chùa giúp rập mà nên. Thiên tử đã truyền thánh chỉ, ông là võ quan sao không lo làm tròn chức nhiệm? Chẳng lẽ muốn kháng chỉ hay sao?

Cao Tông nói:

- ý trẫm đã quyết. Từ quan đến đến bách tính, kẻ nào trái lời phải khép vào tội khi quân.

Đỗ Kính Tu không dám nói gì nữa, đành đi ra nói với Phan Lân, Đỗ Quảng:

- Đàm Dĩ Mông ngày càng tác yêu tác quái. Nhà Lý rồi đến bại hoại về tay nó mà thôi. Việc này chúng ta không làm thì trái mệnh vua mà làm thì trái lòng dân, biết sao bây giờ?

Phan Lân nói:

- Tôi nghĩ chúng ta cứ làm nhưng làm từ từ cho dân chịu được.

Ba người đồng tình mới đem quân đi đuổi tăng chúng ở các chùa về quê nhưng có kẻ nào chống lại cũng không bắt tội. Tháng Bảy năm ấy Ngô Công Lý làm phản ở Diễn châu. Đinh Khả xưng là hậu duệ của Đinh Tiên Hoàng, làm loạn ở châu Đại Hoàng, có Bùi Đô giúp sức, thanh thế mỗi ngày một to.

Đàm Dĩ Mông tâu vua rằng:

- Bọn Đỗ Kính Tu, Phan Lân, Đỗ Quảng nhận chỉ đi làm việc mà chẳng hết lòng. Hoàng thượng nên triệu về bắt tội để làm gương cho những kẻ coi thường phép nước.

Phạm Bỉnh Di can rằng:

- Ba người ấy đều là võ quan trụ cột của triều đình. Hoàng thượng hãy sai họ đi dẹp loạn Đinh Khả ở châu Đại Hoàng, nếu thắng thì yên được nước, còn như bại vong nhân đó mà trị tội, không còn kêu vào đâu được nữa.

Cao Tông nghe theo, cho sứ đến truyền chỉ sai ba người đi đánh Đinh Khả. Ba tướng thoát được cái việc dẹp Phật đạo, mừng lắm đem quân đánh Đinh Khả. Quân của Đinh Khả vốn ô hợp, chưa đánh đã tan. Đinh Khả, Bùi Đô đều bị bắt giải về triều. Người nhà của hai tướng ấy mang lễ vật biếu Đàm Dĩ Mông rất hậu, nhờ xin với hoàng thượng cho. Do vậy hai người ấy không những không phải tội mà còn được tin dùng.

Năm sau, Thiên Tư Gia Thuỵ thứ mười bốn (Kỷ Mùi-1199), dân tình cơ khổ vì nạn lụt, mất mùa đói kém, mùa Đông lại rét to. Đàm Dĩ Mông tâu:

- Trời lạnh thế này, hoàng thượng nên vào ái châu săn voi, tránh rét thì hơn.

Nhà vua nghe theo, trên đường đi bắt dân phục dịch rất là khổ cực, người chết nhiều lắm, tiếng ta oán của bách tính lan đến tận hang cùng ngõ hẻm. Vua lại sai sứ thần sang Chiêm Thành sắc phong cho vua nước ấy. Khi trở về, sứ thần mang theo một khúc nhạc Chiêm nghe rất thê lương, ai oán. Cao Tông thích nghe khúc nhạc ấy lắm. Các quan nhiều người khuyên vua nên bỏ đi. Phạm Bỉnh Di cự lại rằng:

- ý vua là ý giời. Vua thích là giời thích, việc gì phải bỏ.

Cao Tông cho là phải, ngày nào cũng sai nhạc công tấu bản nhạc ấy vài lần, ai nghe cũng cảm thấy buồn thảm mà sa lệ. Tăng phó là Nguyễn Thường than rằng:

- Bài tựa Kinh Thi nói: "Âm thanh của nước loạn nghe như ai oán giận hờn". Nay dân loạn nước nguy, chúa thượng dong chơi vô độ, triều chính rối ren, lòng dân trái lìa, đó là triệu bại vong.

Đàm Dĩ Mông lại tâu với nhà vua:

- Bản nhạc này thật là sang trọng, cần có một cung điện hợp với nó, âm thanh mới càng vang động lòng người, lên được tới giời.

Cao Tông cho là phải, liền sai dựng điện Kính Thiên để dâng nhạc lên thiên đình. Bách tính vì thế mà cùng khổ không còn lời nào tả xiết. Điện Kính Thiên làm sắp xong, có con chim khách vào làm tổ trên mái, đẻ một đàn chim con. Đỗ Kính Tu tâu rằng:

- Xưa Nguỵ Minh đế làm gác Lăng Tiêu, có con chim khách đến làm tổ, Cao Đường Long can rằng: "Thần từng nghe câu: Chim khách có tổ, chim cưu đến ở. Nay chim khách đến ở nơi cung khuyết, theo ngu kiến của thần thì gác ấy có làm xong nữa tất có người họ khác đến ở". Xin bệ hạ xét lời của Cao Đường Long, trước cốt sửa đức, sau hãy khởi công mới phải.

Phạm Bỉnh Di nói:

- Vua là con giời. Con chim khách là loài nhỏ bé ti tiểu báo điềm giời thế nào được. Đó chỉ là chuyện huyễn hoặc. Thần cho rằng các quan phải dốc hết lòng trung giúp vua lo công việc, làm cho nhanh để chóng hoàn thành mới là đúng vậy.

Cao Tông cho lời ấy là phải, bắt các quan đốc thúc thợ thuyền đêm ngày làm gấp. Chúng dân vì việc ấy mà không còn đường sống, ly tán rất nhiều. Quan thượng phẩm phụng ngự là Đỗ Quảng nói với Đỗ Anh Triệt rằng:

- Hoàng thượng việc gì cũng nghe theo Đàm Dĩ Mông, lại được Phạm Bỉnh Di vào hùa. Tôi e vận số nhà Lý nguy đến nơi rồi.

Đỗ Anh Triệt nói:

- Bỉnh Di là một kẻ ngu trung. Người này ắt sẽ chết vì điều ấy.

Năm Trị Bình Long ứng thứ tư (Mậu Thìn-1208), vua lập hoàng tử Lý Sảm làm hoàng thái tử.

Quan coi việc quân ở Hoan, ái là Phạm Du thu nạp dân lưu tán và bọn trộm cướp, cùng nhau đánh phá các châu huyện. Người châu Quốc Oai cũng nổi lên đóng ở Tây Kết. Các quan tâu lên. Vua phán:

- Thì các khanh cử người mà dẹp chúng đi, sao việc gì cũng phải hỏi trẫm.

Quan Thượng phẩm phụng ngự Phạm Bỉnh Di xin đem quân châu Đằng đi đánh. Vua chuẩn cho đi.

Mùa xuân, tháng giêng năm Trị Bình Long ứng thứ năm (Kỉ Tỵ-1209), Phạm Bỉnh Di đem con trai là Phạm Bỉnh Phụ và bọn thuộc tướng Quách Bốc, Lê Khải đi đánh Phạm Du. Quân Phạm Du tuy đông nhưng là quân ô hợp đói khổ, chưa được rèn luyện chinh chiến bao giờ nên thua luôn mấy trận, quân tướng tan nát. Phạm Du chạy sang Hồng châu, dựa vào thế sông nước thủ hiểm. Phạm Bỉnh Di thu hết tài sản của Phạm Du chia cho dân nghèo, khuyên họ về quê cày cấy, không được làm phản. Dân chúng cảm ơn nhiều lắm. Những gì không thể chia được, sai quân lính đốt hết. Bản thân Bỉnh Di không lấy tí gì làm của riêng cho mình. Nghe tin ấy Phạm Du tức lắm, sai người mang vàng bạc vào kinh đô, đút lót cho bọn nội nhân, nhờ bọn này tâu với vua là Bỉnh Di tàn ác, giết người vô tội và bày tỏ tình cảnh của mình. Vua Cao Tông hồ đồ giận dữ, lập tức sai sứ đòi Bỉnh Di về kinh. Tháng bảy năm ấy Phạm Bỉnh Di về đến kinh thành, cho bọn Quách Bốc, Lê Khải đóng quân ở ngoài còn mình và con trai là Phạm Bỉnh Phụ vào triều. Các quan thấy vậy nói với nhau rằng:

- Phạm Bỉnh Di ngày thường a dua a tòng với Đàm Dĩ Mông, phen này chết là đáng.

- Thật ra Bỉnh Di chỉ là kẻ ngu trung nhưng được cái đức liêm chính, không tham lam, để ông ta bị tội cũng là đáng thương. Kẻ đáng ghét là Đàm Dĩ Mông kia.

Mọi người cho lời ấy là phải, sai người ra nói với Bỉnh Di rằng:

- Lời của Phạm Du đã đến tai vua trước rồi. Vua còn chưa nguôi giận1. Ông nên trốn đi thì hơn.

Bỉnh Di thản nhiên nói:

- Ta thờ vua tận trung mà bị gian tặc gièm pha ư ? Huống chi lại có lệnh vua đòi, ta còn tránh vào đâu?

Nói xong, Bỉnh Di dắt con đi thẳng vào triều. Vua Cao Tông thét võ sĩ lôi cha con Bỉnh Di ra chém. Các quan đều quỳ lạy xin tha cho, Đỗ Kính Tu nói:

- Phạm Bỉnh Di là người thân thiết của hoàng thượng. Tuy chính kiến không phải lúc nào cũng đúng nhưng có đức liêm chính, được lòng người, nếu đem giết đi thế nào cũng loạn.

Nhà vua không nghe, phẩy tay áo, quay mặt đi vào. Thương thay, cha con Phạm Bỉnh Di có công mà chịu tội chết chém, phơi thây ngoài nắng. Ai trông thấy cũng gạt nước mắt xót xa.

Người nhà Lê Khải ra ngoài, báo tin dữ và khuyên Lê Khải, Quách Bốc đem quân trốn đi. Quách Bốc bàn với Lê Khải:

- Chúng ta chinh chiến có công, đã không được thưởng lại còn phải tội. Vua chỉ biết chơi bời, nghe lời xiểm nịnh. Trốn đi sao bằng đánh thốc vào trong thành, giết béng hôn quân, lập vua mới, vừa trả thù cho Phạm tướng quân, vừa cho thiên hạ được nhờ có hơn không ?

Lê Khải bảo:

- Ông nói phải lắm !

Hai người liền chia quân đánh thành. Quân sĩ hăng hái hưởng ứng. Tiếng reo hò vang trời dậy đất. Các đội quân tứ sương, quân hổ bôn và quân thánh dực không sao ngăn lại được. Tình thế rất nguy cấp, các quan vội đỡ nhà vua ra xe, mở cửa thành phía Tây chạy lên miền Quy Hoá giang Thái tử Lý Sảm lúc ấy đang mải chơi thả diều trong vườn ngự uyển, bỗng nghe tiếng ngựa hí, quân reo, bốn mặt thành mịt mù khói bụi, biết là có biến, cuống quýt, không làm thế nào được. May sao có thị vệ lang là Tô Trung Từ vừa tới. Tô Trung Từ bảo:

- Việc gấp lắm rồi. Xin thái tử hãy đi theo thần.

Nói rồi, Tô Trung Từ cầm kiếm lăm lăm, đi trước mở đường. Mấy người lính hổ bôn theo sau phò tá. Trời gần tối, Tô Trung Từ đưa thái tử Sảm ra bờ sông, tìm được một chiếc thuyền, xuôi dòng mà đi. Thái tử nói:

- Không biết tìm hoàng thượng ở đâu?

Trung Từ bảo:

- Hiện nay quê tôi ở Thiên Trường còn đang yên ổn, hãy tạm về đấy, nghe ngóng xem hoàng thượng đến nơi nào rồi sẽ tìm.

Thái tử chẳng biết làm sao, đành nghe theo. Trung Từ cho thuyền dong buồm thẳng hướng Đông đi suốt đêm. Trăng sáng vằng vặc, thái tử vừa đói, vừa mệt, ngồi tựa vào mạn thuyền ngắm sông nước. Hai bên bờ hoa lau phơ phất như cờ trận. Tiếng gió thổi xạc xào hoà với tiếng sóng vỗ vào mạn thuyền tạo ra một thứ âm thanh đơn điệu buồn buồn không khác nào tiếng hát ru của người vợ có chồng chinh chiến nơi xa. Từ trên cao, một con vạc vô tình thả vào không gian mấy tiếng vác...vác. Thái tử ngửa mặt lên trời, cảm khái nói:

- Thân ta nay bốn bể không nhà, con vạc kia còn hạnh phúc hơn nhiều lắm.

*

Trần Lý đang cùng các con đánh cá trên sông, bỗng thấy xa xa có chiếc thuyền lạ lướt tới, khi đến gần mới nhìn rõ người đeo kiếm đứng ở mũi thuyền chính là Tô Trung Từ, em vợ mình. Hai bên chào hỏi xong, Trần Lý sai các con rước thái tử về nhà ở thôn Lưu Gia, trong Hải ấp, mổ gà, giết lợn thết đãi rất nồng hậu. Trong khi uống rượu, thái tử thấy con gái của Trần Lý là Trần Thị Dung nhan sắc đậm đà, vừa lòng lắm. Nhưng nghĩ mình đang gặp bước gian nan, đem thân ra ngoài, không biết mai hậu thế nào nên không dám nói gì. Hôm sau về nhà Tô Trung Từ, - cũng ở Hải ấp - thái tử đem nỗi lòng thổ lộ hết. Tô Trung Từ nói:

- Chuyện ấy nào có khó gì. Trần Lý là anh rể tôi. Việc con Dung, thái tử cứ để tôi lo liệu nhưng trước mắt phải sai người dò xem hoàng thượng ở đâu.

Thái tử khen phải, lập tức phái người đi tìm Cao Tông. Tô Trung Từ đem chuyện thái tử có tình ý với Trần Thị Dung nói cho Trần Lý biết. Trần Lý bảo:

- Cao Tông không được lòng dân nên cha con giờ phải lưu vong. Ta gả con cho thái tử chẳng phải là đưa nó vào chỗ chết ư?

Tô Trung Từ cười, nói:

- Anh rể nói sai rồi. Nhà Lý có thiên hạ hai trăm năm nay, lấy pháp độ và sự khoan hậu để cai trị nên lòng người quy thuận, nay vì Cao Tông mà loạn. Nếu bác gả con Dung cho thái tử, xin gia phong quyền tước, rồi dấy binh, mộ tướng, khôi phục triều đình, đó chính là công đầu. Ngôi công khanh nào có khó gì. Bác không làm, e rằng cơ hội ngàn năm tuột mất.

Trần Lý bảo:

- Những lời ấy của cậu nghe cũng có lý nhưng tôi chỉ là một kẻ thường dân. Trong triều còn bao nhiêu là văn quan võ tướng, chẳng lẽ không ai vì lòng ái quốc mà đứng lên bên cạnh nhà vua hay sao?

Tô Trung Từ cười ngất, nói:

- Lòng ái quốc! Lòng ái quốc! Thời buổi này mà anh rể lại nói đến cái thứ hàng đắt tiền ấy. Từ khi nhà Lý được nước tới nay trải bảy đời vua những người lương đống như Lý Thường Kiệt, Lê Phụng Hiểu, Lý Đạo Thành, Đào Cam Mộc chỉ đếm được trên đầu ngón tay, còn những phường a tòng nịnh hót thì không sao kể xiết. Ví như Lý Du Đô dâng chim sẻ để được thăng quan, Vũ Xưng hiến ngọc châu cầu mong thoát tội, Lê Văn Thịnh hoá hổ mưu hại quân vương, Tử Khắc dâng con hươu mà được giữ binh quyền, Vũ Đới tha Anh Vũ để lưu hại cho triều đình, Đàm Dĩ Mông xui vua làm bậy mà thành tể tướng, Phạm Du làm loạn tố cáo bừa mà được trọng dụng; còn bao nhiêu kẻ bày chuyện thị phi bắt được con voi cũng dâng tấu biểu, vết mai rùa cũng cho là chữ thánh; đưa Ung Minh về nước Mên không xong, chống một mình Quách Bốc không nổi thế thì lòng ái quốc để ở chỗ nào? Cái lũ người mà bác gọi là văn quan võ tướng ấy chẳng qua là những thằng ăn mày đài các mà thôi. Chúng chỉ muốn chống đỡ cho mái điện Thiên An bằng những cọng rào.

Trần Lý bảo:

- Nếu quả thực như vậy, cậu hãy về nói với thái tử chọn ngày tốt, đem sính lễ sang. Ta cho đón cô dâu.

Trần Thị Dung là em ruột Trần Thừa và Trần Tự Khánh, là chị họ của Trần Thủ Độ, đang tuổi cập kê, mười phần xinh đẹp, đã cùng Trần Thủ Độ hẹn biển thề trăng, nay nghe cha muốn gả cho thái tử, có ý không bằng lòng, suốt ngày sùi sụt khóc thầm. Trần Thủ Độ cũng đau lòng lắm, mới bảo Trần Thị Dung:

- Thôi! Chị cứ về với thái tử đi. Đời người cũng dài, chỉ cần ta còn sống, thế nào rồi sẽ có ngày gặp nhau. Món nợ này nếu không trả được, quyết chẳng phải là thằng con trai.

Nói xong rút dao khía vào ngón tay cho máu nhỏ xuống sông. Trần Thị Dung ôm lấy Trần Thủ Độ, nói:

- Độ ơi! Hãy mau nghĩ cách cứu chị về.

Mấy hôm sau, thái tử Lý Sảm cho người mang sính lễ đến nhà Trần Lý, đón Trần Thị Dung về với mình ở nhà Tô Trung Từ. Thị Dung ngồi trong kiệu hoa, nước mắt hai hàng, chốc chốc lại ngoái đầu nhìn về phía Trần Thủ Độ. Thủ Độ đứng dưới khóm tre, răng cắn bặm môi, nhìn theo chiếc kiệu.

Thái tử Lý Sảm lấy được Trần Thị Dung thì sung sướng không sao tả xiết, liền trao cho Trần Lý tước Minh tự, phong cho Tô Trung Từ chức Điện tiền chỉ huy sứ. Vừa lúc người đi tìm tin tức vua Cao Tông cũng trở về. Thái tử liền sai Trần Lý đem các con, tập hợp hương binh dẹp loạn, đón Cao Tông. Trong khi đi đường xảy ra giao chiến, Trần Lý tử trận. Trần Thừa bảo các em:

- Hộ giá nhà vua và tang cha, hai việc đều trọng, không thể bỏ việc nào. Nay một mình ta đem xác cha về quê chịu tang là đủ, các em kíp đem quân hộ giá hoàng thượng.

Anh em ôm nhau khóc lóc, chia tay. Trần Tự Khánh hộ vệ nhà vua về kinh, dẹp được đảng Lý Thầm, Quách Bốc, vua phong là Thuận Lưu bá. Kinh thành lúc ấy tạm yên ổn nhưng các châu huyện bên ngoài giặc cướp hoành hành, đường bộ và đường thuỷ đều tắc nghẽn nên thái tử Sảm vẫn ở nhà Tô Trung Từ. Hôm ấy nhằm tiết thanh minh, tháng ba, thái tử cho mở tiệc ăn tết. Mọi người đang uống rượu vui vẻ, bỗng lính gác vào báo phía xa có một toán quân đang kéo tới, không biết là quân nào. Xin thái tử và quan điện tiền kíp cho phòng bị. Thái tử Sảm sợ hãi, mặt cắt không còn hột máu. Tô Trung Từ nói:

- Xin thái tử yên lòng, để tôi ra xem sao đã.

Thật là:

Vừa vượt được qua vùng lửa bỏng

Mới ngờ phía trước vạc dầu sôi.

CHƯƠNG 2

Đàm thái hậu hờn ghen muốn giết nàng dâu

Đại cư sĩ tham lòng mưu đồ vương nghiệp

Hãy tạm gác chuyện thái tử Sảm. Xin lược lại việc Quách Bốc, Lê Khải làm loạn năm trước. Sau khi vua Cao Tông bỏ chạy, bọn Quách Bốc vào thành, thu nhặt thi hài cha con Phạm Bỉnh Di đưa vào bệ đá ở chỗ mát, lấy chiếu của vua để bọc thây, lấy xe của vua để chở xác, mang đi mai táng. Bỉnh Di tuy là kẻ ngu trung nhưng đối với dân cũng không tàn ác tham lam nên dân chúng trong thành thương xót, theo đi đưa đám đông chật mặt đường. Xong việc, bọn Quách Bốc, Lê Khải lập Lý Thầm (em ruột Cao Tông) lên làm vua. Bọn Đàm Dĩ Mông, Nguyễn Chích Lại đều ra nhận chức. Khi anh em Trần Tự Khánh hộ giá Cao Tông trở về, Lê Khải chết trận, Lý Thầm, Quách Bốc bị bắt.

Mấy hôm sau, vua Cao Tông thiết triều, các quan đều đến sụp lạy, Đàm Dĩ Mông cũng có trong đó. Đỗ Anh Triệt nhổ vào mặt Đàm Dĩ Mông mà mắng :

- Ngươi thân làm đại thần mà ôm lòng vô quân, nhận tước phong của giặc, nay lại đứng ngang hàng với ta. Ta tuy bất tài nhưng cũng không thể nhìn mặt ngươi.

Đàm Dĩ Mông vừa sợ vừa thẹn, lui ra ngoài.

Mùa xuân, tháng ba năm Trị Bình Long ứng thứ sáu (Canh Ngọ-1210), vua sai Thượng phẩm phụng ngự là Đỗ Quảng đem quân đến nhà Tô Trung Từ đón thái tử. Lúc ấy Tô Trung Từ nghe báo, vội ra xem, xe của Đỗ Quảng đã vào tới cổng. Ngay hôm sau thái tử theo Đỗ Quảng về Thăng Long, lưu Trần Thị Dung ở lại nhà họ Trần với mẹ và anh là Trần Thừa đang chịu tang cha.

Vua Cao Tông từ khi đi chạy nạn Quách Bốc, ở nơi lam sơn chướng khí nên mắc bệnh kiết lị, thường đi ngoài ra nhiều máu tươi. Quan thái y bốc thuốc, bệnh đã gần khỏi nhưng nhà vua quá ham mê tình ái vì vậy bệnh phát nặng, năm ấy mới ba mươi tám tuổi mà thân hình suy kiệt như người ngoại lục tuần. Mùa đông, tháng mười vua mệt lắm, truyền gọi Đỗ Kính Tu vào cung. Vua cầm tay Đỗ Kính Tu, nói:

- Ta xem trong mình không còn bao hơi sức, chắc không sống được mấy ngày nữa. Những lời khanh nói trước đây, ngẫm kĩ thật chẳng sai câu nào. Tiếc rằng ta đã không coi làm trọng; rường mối bại hoại cả. Nay ta sắp về cõi Phật. Thái tử hãy còn trẻ tuổi, chưa trải việc đời, mong ngươi hết lòng giúp rập, may ra khôi phục được triều chính thì ta ở nơi chín suối cũng ngậm cười.

Đỗ Kính Tu khóc lạy, nhận lời kí thác. Ngày hai mươi tám tháng mười, vua băng tại cung Thánh Thọ, ở ngôi ba mươi nhăm năm, hưởng thọ ba mươi tám tuổi, táng ở Thọ lăng1.

Thái tử Lý Sảm lên ngôi, mới mười sáu tuổi, tôn mẹ là Đàm Thị làm Hoàng thái hậu, cùng dự việc triều chính, sai sứ sang cáo phó với nhà Tống. Nhà Tống cử sứ giả sang viếng tang.

Mùa xuân, tháng giêng năm Tân Mùi (1211), đổi niên hiệu là Kiến Gia năm thứ nhất. Sang tháng hai vua sai quan phụng ngự là Phạm Bố đi đón Trần Thị Dung vào cung, phong làm nguyên phi, phong cho Thuận Lưu bá Trần Tự Khánh tước Chương Thành hầu, phong điện tiền chỉ huy sứ Tô Trung Từ làm thái uý phụ chính. Lúc bấy giờ dân tình đói khổ đã lâu, giặc cướp hoành hành, không ngăn cấm được. Vua lại dùng Đàm Dĩ Mông làm thái uý, giao cho giữ việc nước. Đàm Dĩ Mông là kẻ ít học không có mưu lược, chỉ chuyên về xảo thuật và kĩ nghệ, mà tham lam nhu nhược, chẳng dám quyết đoán việc gì nên chính sự ngày thêm đổ nát1.

Trần Thị Dung từ khi vào cung được phong làm nguyên phi nhưng trong lòng buồn bực ủ rũ, vì trước kia đã cùng Thủ Độ sớm bước vào đường tình ái nên rất tinh tường trong chuyện gối chăn, được nhà vua vừa lòng lắm. Có điều Huệ Tông không khoẻ mạnh như Thủ Độ, do vậy chỉ khi nào Trần Thủ Độ lén lút vào thăm mới tươi tỉnh lên được. Đàm thái hậu biết chuyện, nói với Huệ Tông. Nhà vua bảo:

- Chị em thăm nhau có gì là lạ.

Đàm thái hậu nói:

- Ai gia chỉ sợ có chuyện nàng Văn Khương2 nước Tề ngày trước mà thôi.

Việc này có người nói lại với nguyên phi, thành ra mẹ chồng nàng dâu sinh nhiều điều xích mích. Lại thêm anh em họ Trần ngày càng được tin dùng, mà người họ Đàm bị khinh bạc, khiến Hoàng thái hậu càng ghét Trần nguyên phi nhiều lắm, thường mắng nhiếc nguyên phi là con gã thuyền chài, xuất thân hèn hạ. Vào dịp tết nguyên đán năm Kiến Gia thứ ba (Quý Dậu-1213), thái hậu cho đủ tam cung lục viện treo đèn kết hoa nhưng không cấp cho cung nguyên phi. Nhà vua thấy vậy hỏi, thái hậu bảo:

- Con nhà thuyền chài thì cần gì phải trưng bày cho lắm.

Nhân việc ấy, Trần Thủ Độ nói với Trần Tự Khánh:

- Nhà Lý nhờ họ Trần ta mà giữ được giang sơn, nay lại khinh thường chúng ta quá vậy.

Trần Tự Khánh bảo:

- Đã thế, ta vào cung đón nguyên phi rồi bỏ quan, cùng về quê tất triều đình thành cái thuyền không lái xem sao.

Trần Thủ Độ nói:

- Xin anh chớ làm như vậy, việc nước sẽ hỏng hết, mà công lao nhà ta vất vả bấy nay cũng thành ra uổng phí cả. Thái hậu tuy ghét chúng ta nhưng thế chưa thể làm gì được. Tốt nhất ta nên tạm nhẫn nhịn thì hơn. Khi đại bàng đủ lông đủ cánh, lo gì không bay vút lên chín tầng mây.

Trần Tự Khánh bảo:

- Chú nói rất phải nhưng để cho nguyên phi khổ sở với thái hậu thì ta chẳng cam lòng.

Trần Thủ Độ nói:

- Việc đó em chẳng đau lòng bằng anh sao? Hay là ngày mai em mở cửa cung. Anh dẫn quân vào, vờ đón nguyên phi đi, may ra vì thế nhà vua phải ra mặt bênh vực, thái hậu mới nhụt bớt đi được.

Sớm hôm sau, Trần Tự Khánh đem quân xông vào cửa cung, nói là đón xa giá nhà vua. Lính canh ngăn lại, hai bên xô xát kịch liệt. Nhà vua phải cùng thái hậu và nguyên phi lánh ra ngoài, hiệu triệu quân các lộ đến hộ giá và đi bắt Tự Khánh. Thái hậu nói:

- Việc đến nước này mà hoàng nhi còn muốn dựa vào họ Trần mãi ư? Sao không mau cách chức anh em nhà nó đi cho rồi.

Nhà vua cực chẳng đã, xuống chiếu giáng nguyên phi làm ngự nữ. Mùa xuân năm sau, quân các lộ đóng trại bên bờ Nhị hà. Quân Trần Tự Khánh đóng trên bến Triều Đông3. Trần Tự Khánh nói với các tướng:

- Ta thật chẳng có ý làm nhọc sức nhà vua, chỉ vì thái hậu làm khổ nguyên phi quá nên mới bất đắc dĩ phạm vào cửa khuyết, ngờ đâu sự thể lại đến nỗi này. Các ngươi coi giữ doanh trại, để ta sang tạ tội với hoàng thượng.

Tự Khánh nói xong, một mình, một ngựa, không mang binh khí, không mặc áo giáp, tiến thẳng vào quân doanh của nhà vua. Hai tướng Đinh Khả và Bùi Đô nghe báo, tưởng Trần Tự Khánh có mưu kế gì, vội cho thúc trống báo động liên hồi. Quân sĩ bất ngờ, hoảng loạn, xô va vào nhau mà tự tan vỡ. Nhà vua hốt hoảng, cùng thái hậu và ngự nữ chạy ngược về Trĩ sơn ở châu Lạng.

Trần Tự Khánh thấy tình hình thay đổi theo hướng bất ngờ như vậy, bứt tóc giậm chân, than rằng:

- Không ngờ ta ngày càng đắc tội thế này. Xa giá long đong mãi mà ngự nữ ngày càng thêm khổ.

Nói xong, Tự Khánh một mặt phái sứ giả đến nói với nhà vua thiện ý của mình và xin đón xa giá về cung, mặt khác cho quân nhổ trại, ngày đêm hành quân để theo cho kịp nhà vua. Huệ Tông thấy thế lại càng nghi ngờ, vội đem thái hậu và ngự nữ chạy sang huyện Binh Hợp. Mùa hè năm ấy Tự Khánh đang đem quân kíp theo nhà vua, đi đến cánh đồng thuộc châu Đại Hoàng4, trời vừa tối, liền cho quân dừng lại nấu ăn, cắm trại nghỉ qua đêm. Canh ba bỗng thấy lửa sáng rực trời, tiếng trống, tù và vang lên inh ỏi, quân bốn mặt không biết từ đâu đến, tràn vào trại. Trần Tự Khánh vội vã lên ngựa ra xem, quân sĩ đã hoảng loạn cả lên. Trong ánh lửa, Tự Khánh huơ ngọn giáo nói to với quân sĩ:

- Các ngươi chớ sợ. Hãy ra xem ta giết giặc đây.

Nói xong, Tự Khánh xông ra cửa trại. Vừa lúc một tướng bên kia cưỡi ngựa lướt tới. Tự Khánh chẳng nói chẳng rằng, đâm một giáo. Tướng kia ngã lăn xuống đất. Đám quân theo sau tướng ấy cũng bị Tự Khánh đánh dạt ra. Quân sĩ của Tự Khánh thấy vậy, nhất tề xông lên đánh lui quân giặc. Khi trời sáng mới biết viên tướng bị Tự Khánh giết lúc đêm chẳng phải ai xa lạ mà chính là Bùi Đô. Hoá ra Huệ Tông trên đường bỏ chạy, dặn Đinh Khả và Bùi Đô đem quân ngăn Tự Khánh. Hai tướng vâng mệnh, phục quân nhằm tiêu diệt cánh quân của Khánh, chẳng ngờ Tự Khánh quá kiêu dũng nên Bùi Đô bị giết, còn Đinh Khả quân sĩ tan tác, vội vã rút đi. Tự Khánh lệnh cho lính nhổ trại, hành quân. Tướng Vương Lê can:

- Quân kia tuy đã chạy nhưng Đinh Khả là tay vũ dũng, quân lính vẫn còn đông. Tôi nghĩ thế nào chúng cũng quay lại. Nếu chúng ta đang đi mà bị chặn đánh thì nguy lắm. Chi bằng tướng quân cho một nửa quân sĩ nhằm các bụi rậm mai phục, một nửa nấu cơm phân phát cho mọi người. Quân kia quay lại, ta đổ phục binh ra đánh, chắc thế nào cũng được.

Tự Khánh nghe theo kế ấy, cho Vương Lê và Nguyễn Chi mang quân đi mai phục, lại dặn khi nào thấy lá cờ đỏ ở giữa trại hạ xuống thì đổ quân ra mà đánh, còn mình tự đốc thúc quân lính canh phòng, giữ trại. Quả nhiên đến gần trưa thấy một đạo quân kéo đến. Tướng đi đầu chính là Đinh Khả. Theo sau là bọn Đỗ Kì Hưng, Đàm Bính, Đinh Lâm, ào ạt kéo tới. Trần Tự Khánh đem quân ra ngoài trại bày trận, đợi Đinh Khả tới. Tự Khánh cầm ngược ngọn giáo, cúi đầu chào, nói:

- Tôi thật có lòng phò tá hoàng thượng mà bị nghi oan, nay đem quân đến đây cũng chỉ muốn cùng tướng quân đón xa giá về triều để xã tắc yên định mà thôi. Xin tướng quân hợp binh cùng tôi đi đón nhà vua cho trăm họ được nhờ.

Đinh Khả cầm cái dùi sắt chỉ vào mặt Tự Khánh, mắng:

- Thằng thuyền chài kia, sao dám nói những điều càn rỡ như vậy. Các ngươi ai ra bắt nó cho ta.

Đàm Bính, cháu Đàm thái hậu, vốn ghét anh em họ Trần, múa cây đại đao xông vào. Tự Khánh đưa ngọn giáo đón đỡ. Hai tướng đang đánh nhau quyết liệt. Bỗng thấy phía sau quân của Tự Khánh bỏ hàng ngũ rút dần về trại. Tự Khánh cũng vừa đánh vừa lui vào trong, sai quân đóng chặt cửa trại lại. Lúc ấy đang là tháng năm, trời nắng như lửa cháy. Quân của Tự Khánh ở trong trại râm mát no đủ. Quân của Đinh Khả ở ngoài trời phơi nắng mệt mỏi. Cuối giờ Ngọ là lúc ánh nắng gay gắt nhất. Quân Đinh Khả nhiều người tản đi tìm nước uống. Tự Khánh ra lệnh hạ cây cờ đỏ ở giữa trại xuống. Đinh Khả bảo các tướng:

- Bọn này chắc muốn tháo chạy đây. Các ngươi bắt sống Trần Tự Khánh cho ta.

Nói rồi Khả cứ việc thúc quân đánh trại, không để ý đến xung quanh. Đàm Bính thấy Tự Khánh không hơn gì mình, hung hăng xông vào cửa trại. Vừa lúc Tự Khánh kéo ra, quát to lên rằng:

- Chúng bay không biết mắc mưu ta hay sao? Sắp về chầu ông bà, ông vải cả mà còn hí hửng thế ư ?

*

Đinh Khả ngớ người ra, đã thấy quân phục của Tự Khánh rầm rập kéo đến. Đàm Bính luống cuống, bị Tự Khánh đâm một giáo, ngã ngựa, chết. Vương Lê, Nguyễn Chi xua quân xông vào chém giết quân Khả ngổn ngang đầy đồng. Đinh Lâm thấy Nguyễn Chi là tay lợi hại, mới bắn một phát tên, trúng ngay giữa ngực, Nguyễn Chi ngã nhào xuống ngựa, quân sĩ vội đến cứu về trại. Đỗ Kì Hưng đánh nhau với Vương Lê, bị Lê vụt một roi, vỡ đầu chết. Đinh Lâm Thu nhặt tàn quân bảo vệ Đinh Khả chạy trốn.

Tự Khánh thu quân về trại mới biết Nguyễn Chi bị thương, vội vã vào thăm. Nguyễn Chi nói với Tự Khánh:

- Tôi không thể theo hầu tướng quân được nữa, có lời này xin tướng quân minh xét. Tướng quân cứ theo xa giá mãi; nhà vua lại càng nghi, chi bằng rút quân về Triều Đông, giao kết với các tướng lĩnh quanh vùng để làm phên giậu, rồi sai sứ mang biểu đến tâu với nhà vua thì việc mới có thể xong được.

Đêm ấy, Nguyễn Chi vì vết thương quá nặng, máu ra nhiều, chết trong trại, mới có hai mươi sáu tuổi. Tự Khánh thương Chi là người trẻ tuổi mà anh dũng, khóc mãi không thôi. Hôm sau tự Khánh theo kế của Nguyễn Chi, đem quân về đóng bên bờ Nhị hà, cho người đến giao kết với tướng quân Lê Mịch ở Yên Duyên và tướng lĩnh các vùng lân cận, một mặt viết biểu sai người đến chỗ Huệ Tông, kể rõ sự tình.

Thái hậu cho Trần Tự Khánh là kẻ phản trắc, thường chỉ tay vào mặt ngự nữ Trần Thị Dung mà nói là bè đảng của giặc, bảo vua đuổi đi, lại sai người bắt ngự nữ phải tự sát1. Ngự nữ nói với vua rằng:

- Thiếp ơn nhờ được hoàng thượng yêu dấu, dẫu thịt nát, xương mòn cũng chưa báo được ân tri ngộ. Nay vì anh thiếp mà hoàng thượng gặp bước gian nan. Thái hậu muốn giết, thiếp xin đành chịu không oán thán gì. Chỉ thương nỗi trong mình thiếp đang mang giọt máu của hoàng thượng. Nó có tội tình gì mà cũng phải chết oan.

Huệ Tông lúc ấy mới biết ngự nữ có thai, liền phong làm Thuận Trinh phu nhân. Thái hậu nghe nói Thuận Trinh phu nhân đang mang thai, càng muốn giết lắm, sai người bỏ thuốc độc vào thức ăn của phu nhân nhưng nhà vua phát hiện ra. Mỗi bữa nhà vua sẻ nửa phần ăn của mình, cho phu nhân ngồi cùng ăn và giữ luôn phu nhân bên cạnh5. Từ đấy phu nhân dẫu không yêu nhà vua nhưng cũng cảm kích vì sự bao dung che chở đó.

Đầu tháng sáu năm Kiến Gia thứ sáu (Bính Tí-1216), phu nhân sắp sinh, thái hậu sai người đem chén thuốc độc đến, bắt phu nhân phải chết. Vua lại ngăn không cho, đêm ấy cùng phu nhân trốn theo quân của Trần Tự Khánh1. Đi suốt đêm nên phu nhân mệt, lại bụng mang dạ chửa, đến sáng không thể đi tiếp được nữa, hỏi dân mới biết đất ấy là huyện Yên Duyên. Vua gọi người đưa đường đến nhà tướng quân Lê Mịch xin ở nhờ. Tướng quân Lê Mịch nói:

- Thần không biết xa giá hoàng thượng tới, chậm đón tiếp, mong hoàng thượng xá tội.

Huệ Tông bảo:

- Khanh có tội gì đâu mà xá, cho trẫm ở nhờ đây là tốt lắm rồi.

Lê Mịch nói:

- Thần là con dân của hoàng thượng. Sao hoàng thượng lại nói là ở nhờ ? Thần thật đắc tội.

Nói rồi Lê Mịch sai gia nhân giết dê, mổ lợn thết đãi nhà vua và những người tuỳ tòng, đồng thời phái người đến trại quân của Trần Tự Khánh thông báo. Trần Tự Khánh liền cử tướng Vương Lê đem binh thuyền đi đón. Nhà vua từ giã tướng quân Lê Mịch, đem phu nhân lên thuyền Vương Lê mà đi. Thuyền đi đến bãi Cửu Liên thì phu nhân kêu đau bụng dữ dội. Hoá ra phu nhân vì chạy trốn vất vả nên trở dạ đẻ. Vua liền hạ chỉ cho đỗ thuyền ở bến Cửu Liên, sai người đi tìm bà đỡ và truyền cho Trần Tự Khánh đến chầu. Đêm ấy phu nhân sinh trưởng nữ, sau này phong là công chúa Thuận Thiên.

Trần Tự Khánh cùng anh là Trần Thừa hộ giá nhà vua về kinh đô. Tháng mười hai năm ấy vua phong Thuận Trinh phu nhân làm hoàng hậu, phong Trần Tự Khánh làm thái uý phụ chính, phong Trần Thừa làm nội thị phán thủ. Trần Thủ Độ giữ chức điện tiền chỉ huy sứ. Trần Tự Khánh cùng với thượng tướng quân Phan Lân, xếp đặt quân ngũ, chế tạo khí giới, rèn luyện binh lính. Dần dần thế quân phấn chấn lên nhiều.

Trước đây Trần Thừa lấy vợ là Lê Thị, sinh con trai, đặt tên là Trần Liễu (1210). Lúc đón được vua và phu nhân, anh em họ Trần hộ giá về kinh, được phong quan tước, Trần Thừa cho người về quê đón mẹ và vợ con lên kinh đô để gia đình đoàn tụ. Mùa hạ năm Kiến Gia thứ Tám (Mậu Dần-1218), Lê Thị - vợ Trần Thừa - sinh con trai thứ hai, đặt tên là Trần Cảnh. Trần Cảnh mắt sáng, mặt vuông, tai dài, khi mới sinh, có đám trẻ tụ tập trước cổng hát rằng:

Cành liễu leo cột phía Đông

Mận tàn hạt lép còn mong nỗi gì

Câu hát ấy sau này ứng vào điềm Trần Cảnh lên ngôi vua, nhà Trần thay nhà Lý - Chữ Trần ( ) gồm chữ liễu ( ) bám sát một nét sổ ( ), bên cạnh là chữ Đông ( ). Chữ Đông còn có ý nói họ Trần dấy nghiệp từ phía Đông. Mận chỉ chữ Lý ( ), họ Lý. Mận tàn hạt lép chỉ nhà Lý đã suy tàn, vua không có con trai. Năm Trần Cảnh lên ba tuổi, có ông lão ăn mày đi qua, trông thấy Cảnh đang chơi ở sân, liền nói:

- Cậu bé này có tướng cực quí, hẳn trứng rồng đã nở rồi đây.

Cha Cảnh thấy lạ, cho người ra mời nhưng ông lão đã đi đằng nào rồi.

*

Việc phong Thuận Trinh phu nhân lên ngôi hoàng hậu và anh em họ Trần nắm giữ quyền bính khiến mâu thuẫn giữa thái hậu và hoàng hậu càng thêm gay gắt. Nhà vua buồn rầu, cùng bọn cung nữ ra chơi vườn ngự uyển. Lúc ấy đang là mùa đông, tháng chạp, gió lạnh thổi hun hút. Vì nhà vua ham chuyện ân ái nên cơ thể gầy yếu, không chịu được lạnh, ôm ngực ho một hồi dài. Bọn thị nữ vội đỡ nhà vua về cung, truyền thái y đến khám thì người vua đã nóng ran, vật vã, khát nước, đổ mồ hôi, mê sảng liên hồi. Thái y xem mạch, bốc thuốc nhưng bệnh không chuyển. Qua tết nguyên đán, bệnh tình của nhà vua ngày càng trầm trọng. Sang tháng Ba vua dần dần phát điên, có khi tự xưng là thiên tướng giáng trần, tay cầm giáo và khiên, cắm cờ nhỏ vào búi tóc, đùa múa từ sớm đến chiều mới nghỉ, đòi uống rượu, ngủ li bì đến hôm sau, quyền hành chính sự giao cả cho Trần Tự Khánh.

Tháng ba năm sau, Kiến Gia thứ tám (Mậu Dần-1218), thành Thăng Long bỗng dưng rung chuyển, vệt động đất lan dài theo hướng Đông Bắc, đến tận châu Cổ Pháp, làm núi Tiên sạt mất một góc. ít ngày sau lại có sao chổi mọc ở hướng Tây Nam. Quan chiêm tinh cho là điềm xấu, làm bản tấu dâng lên, nói:

... Cổ Pháp là quê hương nhà Lý, Tiên sơn là nơi đức Thái Tổ hoài thai6, Thăng Long là đất đế đô do Thái Tổ khổ công khởi dựng. Nay bỗng dưng ba nơi ấy đều rung chuyển, đến nỗi Tiên sơn sạt lở, lại có sao chổi mọc ở hướng Đông Nam. Thật là điềm chẳng lành cho xã tắc. Thần lấy làm lo sợ, quỳ tâu, xin hoàng thượng kíp lập đàn tràng, dâng lễ cầu đảo, để nhà Lý được lâu dài, thịnh trị ... ".

Trần Tự Khánh thay vua xem tấu, nói:

- Nếu đã là ý trời thì cầu đảo cũng chẳng thể làm gì được.

Các quan nghe thế rất bất bình nhưng không ai dám nói gì. Tháng chín hoàng hậu sinh thứ nữ, sau phong là công chúa Chiêu Thánh.

*

Người thượng ở Quảng Oai vì quá đói khổ, nổi lên làm loạn. Trần Tự Khánh thân cầm quân đem theo bọn Vương Lê, Phùng Tá Chu đi đánh. Lúc ấy đang là cuối thu, trời khô hanh, se se lạnh. Quân sĩ nhằm hướng Tây mà đi, dọc đường chỉ thấy ruộng đồng hoang hoá, làng xóm tiêu điều, dân lưu tán hành khất phiêu dạt khắp nơi, có cả người chết đói. Binh lính nhiều kẻ gặp người nhà đi ăn xin, ôm nhau khóc, cảnh tượng thật thương tâm.

Mấy ngày sau quân vào đến đất Quảng Oai, trước mặt là rừng núi hoang vu, tuyệt nhiên không thấy bóng thổ dân đâu cả. Tự Khánh cho quân tìm nơi thoáng đãng, có nguồn nước, cắm trại, đề phòng bị đánh úp, cử thám tử đi dò xét quân man. Thám tử về báo không thấy tên phiến quân nào. Tự Khánh cho nhổ trại, tiến sâu vào rừng, các xe lương thảo cũng lục cục theo sau. Đến một thung lũng nhỏ, thấy có đội quân người thượng mặt mũi tô vẽ hung tợn, cởi trần, đóng khố sui, khố đằng7, tay cầm dao quắm, vai đeo tên nỏ, từ đâu hiện ra, Tự Khánh xua quân đuổi bắt. Chỉ nghe một tiếng hú dài kinh người, đội quân người thượng chạy vào con đường rừng. Tự Khánh cho quân đuồi gấp. Phùng Tá Chu nói:

- Nơi này hết sức hiểm trở. Thái uý nên cẩn trọng kẻo mắc mưu gian của giặc.

Tự Khánh bảo:

- Trời ơi! Không đuổi mau đi, có vài tên người man què, lấy đâu ra mà mưu với chả mẹo.

Nói xong, vẫy ngọn giáo cho quân cứ việc ào ạt xông lên, bỗng trước mặt hiện ra một vách núi dựng đứng chắn mất lối đi, hai bên rừng dây leo chằng chịt. Quân thượng biến đâu hết cả. Vương Lê quay lại nói với Tự Khánh:

- Đây là nơi tuyệt lộ. Ta bị quân man lừa mất rồi. Xin thái uý cho lui binh.

Lệnh lui quân chưa kịp phát ra thì thấy trên sườn núi nổi lên một hồi tù và dài, rồi gỗ đá, chuỳ chông ào ào lăn tới. Quân sĩ sợ hãi, nhốn nháo tháo lui, lại bị dây rừng quấn quýt vướng vào chân, không sao chạy thoát được. Nhiều người bị gỗ đá, chuỳ chông đè chết hoặc bị thương. Tiếng kêu khóc vang cả núi rừng. Khi ra khỏi tầm lăn của gỗ đá, tưởng là thoát nạn, ai ngờ lại một tiếng hú vang lên rồi tên nỏ không biết từ đâu bắn ra như mưa mà chẳng ai nhìn thấy một tên quân người thượng nào. Quân Tự Khánh chết hại rất nhiều, giẵm đạp lên nhau chạy tháo thân. Vương Lê cầm mộc che cho Tự Khánh, chạy ra đến cửa rừng mới biết là thoát, trên mình Vương Lê đã bị găm bốn mũi tên. Lúc ấy quân người thượng ở đâu xông ra đuổi bắt. May có Phùng Tá Chu đi sau liều chết đánh cản chúng lại, Tự Khánh và Vương Lê cắm cổ chạy. Quân lương bị người man cướp mất cả. Đêm ấy trong trại tiếng khóc than như mưa như gió. Trần Tự Khánh bảo Phùng Tá Chu:

- Ta không nghe lời ông mới có trận thua này. Bây giờ đã mất hết lương thảo, lòng quân rối loạn. Chi bằng ngày mai hãy rút quân về.

Phùng Tá Chu nói:

- Vậy ngày mai thái uý cứ từ từ rút đi. Tôi xin đoạn hậu.

Vương Lê bị bốn mũi tên, vết thương không sâu vì Lê mặc giáp cứng lại dày, nhưng các mũi tên đều tẩm thuốc độc nên khắp mình sưng tấy rất đau đớn. Đến đêm Vương Lê mê sảng không biết gì. Tự Khánh thương lắm, sai quân dược điều trị, hôm sau bảo quân lính lấy một chiếc xe, lót thật êm cho Vương Lê nằm chở đi, tự mình cầm giáo đi bên cạnh bảo vệ. Tướng sĩ thấy vậy, ai cũng bảo Tự Khánh là người có lòng yêu kẻ dưới.

*

Mùa đông năm sau, bệnh tình của Huệ Tông có thuyên giảm. Trần Tự Khánh tâu xin tha tội cho Nguyễn Nộn, sai đi đánh người man ở Quảng Oai.

Nguyễn Nộn vốn là hậu duệ của Nguyễn Bặc thời vua Đinh Tiên Hoàng, tu hành ở chùa Phù Đổng, sức vóc cường tráng, thường luyện tập võ nghệ, dùng một cây thiết côn dài múa tít, tung lên cao mấy trượng, rồi nhào người theo bắt lấy, kiêu dũng mà mềm mại như một con báo. Năm trước những người đào ao cho nhà chùa, bắt được một cái hòm bằng đá. Nguyễn Nộn cậy ra, bên trong đựng toàn vàng ngọc. Bọn ấy đòi chia phần. Nguyễn Nộn bảo:

- Để ta đem dâng lên triều đình, thế nào các ngươi cũng được thưởng, nếu tự tiện chia nhau, quan trên biết được, phải tội chặt đầu chứ chả chơi.

Tuy nói vậy nhưng Nguyễn Nộn lại đem giấu đi làm của riêng. Trong bọn người đào ao có một đứa tên là Hồ Miêu, rất tinh khôn, thấy mãi chả có ai được thưởng gì, mới nghi Nguyễn Nộn đã biển thủ hòm của báu. Hồ Miêu bàn với bọn người đào ao, cùng nhau đến hỏi. Nguyễn Nộn nói:

- Ta nghĩ lại rồi. Chúng bay không biết câu dân gian, quan tham hay sao? Dẫu ta có đem dâng lên cũng chưa chắc đã đến được triều đình, có khi còn bị họ giết người diệt khẩu, hoá ra chẳng mang vạ cả lũ ư.

Hồ Miêu nói:

- Thế thì đem chia quách cho mỗi người một ít là xong. Anh em ta đây không ai nói ra, quan trên làm sao mà biết được.

Nguyễn Nộn nhất quyết không chia. Bọn người đào ao tức giận đến báo với quan tư xã

đem tuần đinh đến khám, bị Nguyễn Nộn lấy danh nghĩa bảo vệ chùa, đánh cho một trận, chạy tháo thân, phải báo lên quan phủ. Quan phủ mang lính về vây chùa, khám xét tìm thấy hòm vàng ngọc, liền bắt Nguyễn Nộn cùng hòm tang vật, làm sớ tâu lên triều đình. Triều đình giao cho bộ hình bắt Nguyễn Nộn giam vào đại lao tra xét. Trần Tự Khánh thấy Nộn có sức khoẻ lại giỏi võ nghệ, mà vụ án cũng đã rõ ràng, mới xin tha cho và sai đi đánh người thượng.

Nguyễn Nộn vâng mệnh, điểm binh ra khỏi thành, nhằm hướng Tây đi về đất Quảng Oai. Trong đám thuộc tướng của Nguyễn Nộn, có Đỗ Nguyên Bá là cháu của thượng phẩm phụng ngự Đỗ Quảng. Sau Đỗ Quảng làm phản, bị Tô Trung Từ đánh bại. Đỗ Nguyên Bá muốn trả thù cho chú, đêm ấy vào trướng hỏi Nguyễn Nộn rằng:

- Năm trước, tướng quân có một mình mà dám chống lại cả quan phủ, nay có binh, có tướng, sao lại phải quỳ mọp dưới chân người ta vậy ?

Nguyễn Nộn Quắc mắt, hỏi:

- Ngươi nói thế là có ý gì ?

Nguyên Bá nói:

- Việc bắt hay thả tướng quân đều do một tay anh em họ Trần cả. Nay tướng quân coi Tự Khánh như ân nhân, chẳng phải mua cười cho thiên hạ sao? Anh em họ Trần, tuy tiếng là tướng của nhà Lý nhưng thực ra chỉ muốn nuốt chửng nhà Lý mà thôi. Chúng làm nhiều điều xằng quấy, khiến lòng người không phục. Nếu tướng quân khởi binh chống lại họ Trần, tôi chắc thiên hạ về với tướng quân cả.

Nguyễn Nộn trợn mắt thét:

- Ta vâng lệnh thái uý, đi tiễu trừ quân giặc. Sao ngươi dám nói càn như vậy. Võ sĩ đâu! Lôi tên này ra chém cho ta.

Võ sĩ xông vào kéo Nguyên Bá đi. Bá, mặt không đổi sắc, chỉ cười mủm mỉm. Lúc sắp hành hình, Bá vẫn tươi tỉnh như không, lại còn hát mấy câu:

- Trời xanh xanh... hề

Đất xanh xanh

Đất trời nghiêng ngửa... hề

Đâu kẻ hùng anh?

Nguyễn Nộn thấy thế, hỏi :

- Nhà ngươi chết đến nơi mà còn vui vẻ thế ư ?

Nguyên Bá nói:

- Tôi biết mình không chết, lại gặp người tri kỉ, sao không vui vẻ ?

Nguyễn Nộn liền sai cởi trói, mời Nguyên Bá vào trướng, hỏi:

- Sao ngươi biết ta không giết ngươi ?

Đỗ Nguyên Bá nói:

- Lời nói phải, lại đúng chỗ, gây nên cái chết thế nào được ?

Nguyễn Nộn vái Nguyên Bá một vái, nói:

- Ông thật hiểu hết gan ruột của tôi. Vậy có điều gì mong ông hết lòng chỉ giáo cho. Hiềm một nỗi tôi chưa có công trạng gì, e quân lính không phục.

Đỗ Nguyên Bá nói:

- Đánh xong quân man, ắt thành công trạng chứ gì nữa.

Từ bữa ấy Nguyễn Nộn luôn giữ Đỗ Nguyên Bá bên mình để bàn việc. Mấy hôm sau đi đến đất Quảng Oai, Nguyễn Nộn cho quân sĩ đốt rừng, tiến đánh. Nguyên Bá can:

- Quân man nổi loạn, chẳng qua do đói khổ làm càn. Tướng quân cho đốt rừng, đánh giết, tất họ chống lại hoặc sợ tản đi. Như thế phỏng có ích gì ?

Nguyễn Nộn nói:

- Vậy phải làm sao bây giờ ?

Nguyên Bá Nói:

- Tôi chắc quân man thế nào cũng cho người dò xét chúng ta. Tướng quân cứ đem cơm gạo treo lên các cành cây quanh trại, nếu ngày mai không còn, khắc sẽ có kế hay.

Nguyễn Nộn nghe theo, cho quân nấu cơm, gói làm nhiều gói, treo lên cành cây trong cánh rừng gần đấy. Sáng hôm sau thấy mất cả. Nguyễn Nộn hỏi, Nguyên Bá nói:

- Kế này chắc sẽ thành công. Đêm nay tướng quân lại cho treo cơm nhiều hơn hôm qua, ngày mai tôi xin nói rõ đầu đuôi.

Qua một đêm nữa, số cơm đem treo cũng mất hết. Nguyên Bá mới nghé sát vào tai Nguyễn Nộn nói:

- Mưu kế của tôi là... thế này... này!

Nguyễn Nộn cười phá lên bảo:

- Mẹo của ông, dẫu Lý Thường Kiệt, Dương Đình Nghệ tái sinh cũng không đoán ra được.

Về phía người thượng, thấy quân lính triều đình kéo tới thì trốn cả vào rừng sâu nhưng vẫn cử một toán bí mật theo dõi, đêm ấy thấy quân triều đình treo nhiều gói trên cây, bảo nhau hạ xuống, thấy toàn là cơm trắng, đang đói sẵn, ăn thử không có độc. Quân người thượng liền lấy hết các gói cơm mang về động, báo với tù trưởng, chia cho mọi người. Đêm thứ hai, tù trưởng sai quân đi, lại lấy được nhiều cơm hơn mà chẳng ai việc gì. Đêm thứ ba, tù trưởng tự cầm đại quân đi lấy cơm, xem xét tình hình. Nửa đêm đến cánh rừng cạnh trại lính triều đình, thấy trong trại đèn đuốc sáng choang, quân lính canh phòng nghiêm mật. Trên cây trong rừng chỗ nào cũng treo lủng liểng vô số những gói cơm, tù trưởng cho quân leo lên tháo xuống, chẳng ai còn để ý đến việc đánh nhau nữa. Vừa lúc ấy một tiếng pháo nổ vang trời, rồi đèn đuốc bốn bên cháy lên, sáng như ban ngày, vây quân người thượng vào giữa. Quân thượng hoảng hốt, toan tìm đường tháo chạy nhưng không thể nào ra khỏi trùng vây. Viên tù trưởng đang luống cuống chưa biết chạy vào đâu, bị một chiếc lưới chụp lên đầu, không sao chui ra được, quân triều đình trói nghiến đưa về trại. Số quân thượng còn lại cũng lần lượt bị bắt hết cả.

Hoá ra Đỗ Nguyên Bá thấy người thượng trốn vào sâu trong rừng, mới dùng kế mồi ngon câu cá đói, nhử ra mà bắt. Sáng hôm sau Nguyễn Nộn cho dựng pháp trường, đào một cái hố thật to. Lệnh cho quân sĩ điệu bọn người thượng ra đấy để chém hết, đẩy xuống, lấp đất đi. Khi sắp hành hình, Đỗ Nguyên Bá đem quân đi tuần núi về, liền bảo bọn đao phủ hãy khoan, đợi lệnh, rồi vào nói với Nguyễn Nộn:

- Tướng quân không nên giết bọn người man mới là đắc sách.

Nguyễn Nộn bảo:

- Ta muốn giết sạch chúng đi để trừ hậu hoạ.

Nguyên Bá nói:

- Chính giết chúng, tướng quân mới gặp ba điều hoạ, tướng quân sẽ mang tiếng là người ác, dân chúng sợ hãi không theo. Dân chúng đã không theo lấy ai mà sai khiến. Đó là điều hoạ thứ nhất. Tướng quân muốn tranh hùng với họ Trần, tất phải mang quân lên phía Bắc. Phía Tây yên định, họ Trần không lo gì nữa, rảnh tay đối phó với tướng quân. Đó là điều hoạ thứ hai. Giả như muốn về với triều đình, mà bốn bề sóng yên gió lặng cả, tướng quân không biết câu Điểu tận cung tàng hay sao. Đó là điều hoạ thứ ba.

Nguyễn Nộn bảo:

- Chả lẽ bây giờ thả chúng ra à?

Nguyên Bá nói:

- Không những phải thả chúng, mà còn cần thết đãi chúng thật đàng hoàng nữa. Người man là giống thật thà, khi chúng đã chịu ơn, tướng quân bảo làm gì mà chúng chả nghe. Kế này gọi là nuôi khỉ dạy làm trò đó.

Nguyên Bá còn ghé vào tai Nguyễn Nộn, nói nhỏ vài câu, rồi đi ra. Nguyễn Nộn bảo quân lính đưa bọn người thượng trở lại, tự tay cởi trói cho tù trưởng, sai lính thả hết quân thượng ra, cho làm tiệc rượu thết đãi rất trọng thể, lại chia cho một nửa lương thực và cấp cho nhiều vàng lụa, dặn:

- Các ngươi ở nơi heo hút, đói rét khổ sở muôn phần. Ta không nỡ giết. Từ nay hãy lo trồng cấy, chăn nuôi lấy cái ăn, cái mặc. Không được làm loạn nữa. Sau này có việc gì, cử người lên phía Bắc gặp ta.

Người thượng lâu rồi không được hưởng ân huệ của triều đình, nay thấy như vậy răm rắp dạ theo, coi Nguyễn Nộn như thiên thần giáng thế, như cha mẹ tái sinh. Mấy hôm sau Nguyễn Nộn kéo quân đi. Dân thượng khóc lóc đưa tiễn, Quân lính của Nộn cũng cho rằng chủ tướng của mình là người nghĩa hiệp. Nguyễn Nộn theo kế của Đỗ Nguyên Bá, một mặt viết sớ tâu về triều đình báo tin đã bình xong Quảng Oai, đang kéo quân về triều. Một mặt cho người chuẩn bị thuyền bè để đưa quân về vùng Thiên Đức. Khi về đến hương Phù Đổng, Nguyễn Nộn cho lính tìm bắt được Hồ Miêu, kẻ trước kia đã phát giác Nguyễn Nộn biển thủ hòm vàng ngọc. Nộn thét quân nọc Hồ Miêu ra đánh. Nguyên Bá thấy vậy chỉ cười. Nguyễn Nộn hỏi vì sao tướng quân lại cười. Nguyên Bá Nói:

- Chẳng lẽ thượng công không biết trước kia Hàn Tín8 không chỉ báo ân phiếu mẫu mà còn hậu đãi cả gã bán thịt hay sao? Vả lại nếu không có Hồ Miêu tố giác, thượng công đâu có ngày nay.

Nguyễn Nộn sực tỉnh liền mời Hồ Miêu ngồi cùng uống rượu. Chuyện đó đồn đi, ai nấy đều cho Nguyễn Nộn là người rộng rãi, không chấp kẻ dưới nên nhiều người tìm đến xin theo.

*

ở làng Cao Duệ9, huyện Trường Tân thuộc Hồng châu có hai chàng trai là Nguyễn Bằng và Phạm Hữu rất thân với nhau. Cả hai người đều theo học một ông thầy ở làng Đạo Phái10. Hôm ấy hai người đi học về qua cánh đồng, thấy đám trẻ chăn trâu đùa vui, dừng lại xem. Một đứa trong đám trẻ nói:

- Con trâu nhà tao cày mỗi ngày được năm sào ruộng.

Một đứa khác bảo :

- Trâu nhà mày khoẻ thế nào bằng trâu nhà tao được!

Đứa kia nói:

- Trâu nhà tao húc mỗi nhát, trâu nhà mày đi đời.

Đứa này sừng sộ:

- Thật chứ ? Mày có dám cho trâu đánh nhau không ?

Đứa kia:

- Dám chứ sao không. Chết đừng có trách.

Thế là hai con trâu đang thủng thỉnh ăn cỏ được kéo ra giữa bãi. Hai đứa trẻ thúc cho chúng tiến lại gần nhau nhưng cả hai con đều ngoảnh đi, tiếp tục hì hục gặm cỏ, dường như chúng chẳng để ý gì đến nhau. Hai đứa trẻ quất cho chúng xáp lại gần . Cuối cùng hai con trâu cũng hiểu ra chủ chúng muốn gì. Chúng nhìn nhau bằng con mắt hằn học rồi xông vào kịch chiến. Trận đấu ngày càng dữ dội. Cuối cùng một con dồn được con kia đến bờ khe sâu. Con đuối sức lăn xuống khe, làm lở một mảng đất lớn vì thế con thắng cuộc cũng lao theo. Nguyễn Bằng, Phạm Hữu cùng mấy đứa trẻ chạy lại, hai con trâu đã nằm thở dốc dưới lòng khe, bốn mắt đăm đăm nhìn lũ trẻ như van lơn cầu cứu. Nguyễn Bằng bảo Phạm Hữu:

- Hai con trâu thật là dại dột, đang yên đang lành lại đánh nhau.

Phạm Hữu bảo:

- Hai con trâu có muốn đánh nhau đâu. Muốn đánh nhau là lũ trẻ kia đấy chứ !

Mấy đứa trẻ reo lên sung sướng.

- A! Chúng mày ơi! Hôm nay nhất định có thịt trâu ăn rồi!

Hai chàng trai về đến đầu làng, thấy quan quân đi lại rầm rập, hỏi ra mới biết Đoàn Thượng đang về bắt đinh tráng vào lính. Phạm Hữu bàn với Nguyễn Bằng:

- Chúng ta đều đã có tên trong sổ đăng lính cả rồi, trốn cũng chẳng được, mà bây giờ thiên hạ đang loạn, đất nước chia năm xẻ bảy. Ta theo Đoàn Thượng, nhỡ Nguyễn Nộn thắng, tất anh em mình không khỏi mang hoạ, chi bằng ta làm như Quản Trọng và Bão Thúc Nha ngày trước, anh cứ về đăng lính, tôi trốn sang Kinh Bắc với Nguyễn Nộn. Sau này ai có lợi thế thì tiến cử người kia. Đó mới là kế vạn toàn. Đợi khi thiên hạ thái bình, ta lại cùng nhau đi học.

Nói rồi cả hai nhỏ nước mắt chia tay, Nguyễn Bằng đi theo Đoàn Thượng, còn Phạm Hữu sang Kinh Bắc với Nguyễn Nộn. Gặp lúc Nguyễn Nộn đang chiêu binh mãi mã, Phạm Hữu vào xin ra mắt. Nộn thấy Hữu mặt mũi sáng sủa, có chữ nghĩa học hành, lại ăn nói khoát đạt thì quý trọng, liền cho làm chức quản binh hiệu uý, giúp việc ghi chép sổ sách quân lính, lương thảo cho quân sư Đỗ Nguyên Bá.

Chẳng bao lâu, Nộn thấy quân tình đã mạnh, muốn về Thăng Long, đánh anh em họ Trần, mời quân sư Đỗ Nguyên Bá đến bàn. Nguyên Bá nói:

- Cứ như ý tôi, chưa nên xuất quân vội. Ngày nay đã hình thành cái thế thiên hạ chia ba. Anh em họ Trần chiếm được kinh đô, khống chế vua Lý, có thể mượn tiếng triều đình mà sai khiến các lộ. Nhà Lý tuy suy tàn nhưng lòng người chưa dứt. Họ Trần dựa vào đó mà chiếm thế thượng phong, xem như được thiên thời. Đoàn Thượng ở phía Đông cũng ra sức bành trướng thế lực, dựa vào vùng đất rộng, dân giầu, lại có nhiều sông lạch che chắn để thủ hiểm, xem như được địa lợi. Nếu ta mang quân sang sông, nhất định họ Đoàn sẽ đánh vào sau lưng ta, chả nguy lắm sao. Thượng công ở phía Bắc, lực lượng mới xây dựng, hãy nắm lấy nhân hoà.

Nguyễn Nộn hỏi:

- Muốn được nhân hoà phải làm thế nào ?

Nguyên Bá nói:

- Thượng công mới gây nghiệp. Lòng người chưa yên định. Nay thượng công hãy ra sức thi ân, cứu giúp người nghèo, nâng đỡ kẻ khó, chiêu hiền, đãi sĩ, khuyến khích nông tang, giảm bớt tô thuế. Như vậy lo chi không có được nhân hoà. Khi thế và lực đã đủ mạnh, muốn đánh đâu mà chả được. Đây là kế nhà cao cần móng chắc vậy.

Nguyễn Nộn nghe theo kế ấy, chiếm giữ hương Phù Đổng, tự xưng là Hoài Đạo Vương, nuôi quân, rèn sức, gọi anh em họ Trần là giặc, xin nhà vua cho được dẹp loạn để chuộc tội.

Trần Tự Khánh muốn đi đánh Nguyễn Nộn. Thượng tướng Phan Lân can:

- Ngày nay thế lực của Nguyễn Nộn đã mạnh, không thể đánh thắng ngay được. Đoàn Thượng ở Hồng châu cũng tác oai, tác quái. Ta đem quân đi đánh, tất họ sẽ liên kết với nhau, việc chinh chiến không biết bao giờ mới dứt, trăm họ thêm điêu linh. Chi bằng cứ phong vương cho Nguyễn Nộn để Đoàn Thượng ghen tức mà đánh lẫn nhau. Bên nào thua cũng bớt cho ta một mối hoạ. Trong khi đó thái uý có thể ung dung mà lo việc triều chính có hơn không?

Hôm ấy Trần Tự Khánh về phủ, cho mời quan điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ đến bàn việc. Trần Thủ Độ nói:

- Lời bàn của thượng tướng Phan Lân rất phải. Bọn Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng dẫu có hung hăng cũng chưa thể làm gì ta nổi, mà lực lượng của ta cũng chưa thể đánh bại bọn chúng nhanh chóng được, chi bằng cứ củng cố triều chính, bồi dưỡng quân lực rồi sau sẽ liệu.

Vì thế Trần Tự Khánh không đi đánh Nguyễn Nộn nữa mà tâu lên Huệ Tông, xin nhà vua cứ hứa phong vương cho Nộn. Vua tuy chưa phong vương cho Nguyễn Nộn nhưng cũng cử người mang sắc thư đến tuyên dụ. Từ đấy Nguyễn Nộn càng ra sức chiêu mộ quân lính, phát triển địa bàn về phía Bắc, ráo riết chuẩn bị tiến đánh họ Trần. Tin ấy bay về kinh đô khiến Trần Tự Khánh mất ăn, mất ngủ.

Thế mới rõ là:

Những tưởng xua ưng đi bắt thỏ

Nào ngờ thả cọp chốn rừng xanh

Mời bạn đọc tiếp chương sau xem Trần Tự Khánh, Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng tranh giành thiên hạ thế nào.

1- Theo ĐVsktt.

2- Nàng Văn Khương khi còn ở nước Tề thường tư thông với anh trai mình là thế tử Chư Nhi, sau được gả cho vua nước Lỗ. Đến khi Chư Nhi làm vua nước Tề, thường tìm cách cho Văn Khương về nước để anh em được ân ái với nhau.

3- Triều Đông: Bến sông ở phía Đông thành Thăng Long, giáp với Nhị hà (ĐVsktt)

4- Đại Hoàng: Nay thuộc huyện Hoàng Long, tỉnh Ninh Bình (ĐVsktt).

5- Theo ĐVsktt

6- ĐVsktt chép: Lý Công Uẩn người châu Cổ Pháp-Bắc Giang, mẹ họ Phạm đi chơi chùa Tiên sơn cùng người thần giao hợp có chửa sinh ra vua ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất.

7- Khố làm bằng vải chế từ vỏ cây và dây rừng.

8- Hàn Tín nghèo khổ, bị gã hàng thịt bắt chui qua háng. Bà phiếu mẫu giặt vải bến sông, thương Tín đói, thường cho ăn cơm. Sau này Tín làm đại tướng của Lưu Bang, được phong tước Tề vương, đem nghìn lạng vàng trả ơn phiếu mẫu, lại trọng đãi cả gã hàng thịt.

9- Cao Duệ: Thường gọi là làng Rồng, thuộc huyện Trường Tân, Hồng châu-nay là làng Cao Duệ, xã Nhật Tân, huyện Gia Lộc, Hải Dương.

10- Đạo Phái: Nay thuộc huyện Thanh Miện, Hải Dương.

Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng
Trần Thủ Độ gồm thâu quyền bính

Năm Kiến Gia thứ mười ba (Quý Mùi-1223), thế quân của Nguyễn Nộn càng mạnh. Phía Đông, Đoàn Thượng cũng chiếm hết châu Hồng, châu Đằng. Trần Tự Khánh biết thế nhưng không làm sao được. Tháng mười hai, Tự Khánh ốm nặng, cho mời nội thị phán thủ Trần Thừa đến dặn:
- Em không thể cùng anh lo việc thiên hạ nữa. Nay họ Trần ta đã ở ngôi cao tột đỉnh trong triều. Đó là phúc lớn của tổ tông, nhưng chốn quan trường đầy những chông gai, không khéo sẽ thành đại hoạ, mong anh cẩn trọng.
Lại dặn Trần Thủ Độ:
- Chú là người vừa có tài, vừa có sức. Tương lai họ Trần nhà ta ắt phải nhờ tay chú lo liệu cả. Hiềm cái, chú chẳng được học hành, khi nắm quyền lớn cần phải tìm người kiến thức trợ giúp mới được.
Thủ Độ hỏi:
- Đỗ Kính Tu có là người kiến thức không ?
Tự Khánh bảo:
- Đỗ thái phó tuy tài cao, học rộng, thông kinh, bác sử, nhưng quá gò mình vào lễ nghĩa mà kém quyền biến, như vậy chưa thể coi là người kiến thức.
Thủ Độ lại hỏi:
- Phan Lân, Vương Lê có phải là người kiến thức không ?
Tự Khánh bảo:
- Phan, Vương hai người ấy trung dũng có thừa nhưng chỉ giỏi việc quân tình chứ việc trị nước chăn dân thì hai ông ấy không thể làm được nên cũng không coi là người kiến thức.
Thủ Độ hỏi tiếp:
- Đỗ Nguyên Bá bên Nguyễn Nộn thế nào ?
Tự Khánh thở dài mà rằng:
- Ta có biết Đỗ Nguyên Bá. Tiếc thay người ấy có tài nhưng đoản mệnh.
Thủ Độ định hỏi nữa nhưng Tự Khánh đã đi rồi.
Vua Lý Huệ Tông truy phong cho Trần Tự Khánh làm Kiến Quốc Đại Vương; phong Trần Thừa làm phụ quốc thái uý, vào chầu không phải xưng tên; phong Phùng Tá Chu làm thái phó. Một mình chỉ huy sứ Trần Thủ Độ quản lĩnh các quân điện tiền hộ vệ trong ngoài cấm đình1.
Trần Thừa bàn với Trần Thủ Độ:
- Nay nhà vua tuy bệnh có thuyên giảm nhưng vẫn không thể trông coi việc triều chính. Dân tình đói khổ. Giặc cướp khắp nơi. Bọn Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng không chịu quy phục. Khi lâm chung, chú hai có dặn phải tìm người kiến thức giúp đỡ nhưng không nói rõ là ai. Vậy chú nghĩ thế nào ?
Thủ Độ nói:
- Em nghe nói có ông Kiều Hoàng Minh, hậu duệ đời thứ mười hai của Kiều Tam Chế2, là người học rộng, tài cao nhưng không ra làm quan, nay đến ẩn dật ở Sài sơn, hái thuốc, luyện đan, hay cứu người nên được dân vùng đó coi như vị tiên, thường gọi là Kiều chân nhân. Đỗ Nguyên Bá biết là người tài, mấy tháng trước đã đến mời ra giúp Nguyễn Nộn nhưng bị chối từ.
Trần Thừa bảo:
- Vậy ta cũng nên đến xem sự thể thế nào.
Thủ Độ nói:
- Để chọn ngày tốt, em sẽ đi ngay.
Trần Thừa bảo:
- Chú chuẩn bị lễ vật. Ba ngày nữa là ngày đại cát, nên đi.
Thủ Độ về sắm lễ vật, trai giới ba ngày, bỏ võ phục, mặc áo đại trào, đem theo một tiểu đồng hầu cận và ba người vệ sĩ, sáng sớm mở cửa Tây thành, cưỡi ngựa nhằm hướng Sài Sơn thẳng tiến. Mặt trời lên khỏi ngọn tre, năm thầy trò vào đến đất Sài Sơn. Qua một khoảng rừng thưa, thấy hiện ra dãy núi đá cao chất ngất. Dưới chân núi, thấp thoáng mấy nếp nhà tranh của sơn dân. Thủ Độ cho người hỏi thăm. Sơn dân chỉ đường đi tiếp vào trong. Năm thầy trò dắt ngựa đi sâu vào núi. Chỉ thấy:
Tầng tầng đá dựng
Lớp lớp cây dày.
Bên trên, lá chen kín lá
Phía dưới, dây quấn khít dây.
Vài chú chim giọng cất véo von
Dăm cô bướm cánh xoè rực rỡ.
Hoa thơm chờ ong tới
Quả ngọt đợi khỉ sang.
Đầu ngọn núi lộ ra một khoảng trời, mây trắng vờn chỏm đá lấp lánh tựa thấy bóng kim ô.
Giữa cánh rừng giấu kín mấy lòng khe, nước xanh xiết bờ rêu nhập nhoà như hiện hình ngọc thỏ.

Càng đi sâu vào rừng, khí trời càng trong lành, yên ả. Trần Thủ Độ bảo mấy người tuỳ tùng:
- Quang cảnh nơi này đẹp đẽ u tịch, hẳn nào chẳng có bậc thần tiên đến ở. Ta thường quen việc chinh chiến, không ngờ lại có một nơi thanh bình thế này.
Đi vào một đoạn nữa, rừng mở ra. Trên khoảng đất vồng lên, rộng đến mấy mẫu, có một trang viên nhỏ, rào giậu sơ sài, đứng từ xa cũng có thể thấy hết được quang cảnh trang viên. Khi tới gần, trên cổng có một tấm biển lớn bằng gỗ rất chắc chắn nhưng không có chữ. Cánh cổng to dày không đóng. Nhìn qua cổng ấy vào trong là một sân đất rộng rồi đến ngôi nhà chính mái lá, vách nứa, cửa chắn bằng tấm liếp có mành mành che. Trần Thủ Độ cho buộc ngựa vào gốc cây, bảo mọi người đứng đợi. Lúc sau có một bé gái chừng tám chín tuổi ra mời khách. Thủ Độ hỏi:
- Đây có phải nhà Kiều chân nhân không cháu ?
Bé gái đáp:
- Vâng ạ! Kiều chân nhân là ông nội cháu.
Thủ Độ hỏi tiếp:
- Hôm nay ông cháu có nhà không?
Bé gái đáp:
- Ông cháu đang ngủ trong nhà ạ. Mời các bác vào.
Thủ Độ bảo bọn tuỳ tùng ở ngoài, chỉ cho một mình tiểu đồng đem lễ vật cùng theo bé gái vào. Khi mở bức mành mành, Thủ Độ thấy một ông già nhỏ bé, ngắn ngủn, có lẽ không cao quá bốn thước3 rưỡi, tóc bạc trắng búi củ hành, nằm dưới đất, gác hai chân trên chiếc chõng tre, đậy cuốn sách lên mặt mà ngủ, cốt cách nửa như tiên thánh nửa như kì nhân quái dị, chỉ hương thơm của các vị thuốc bay khắp nhà là dễ chịu. Để tỏ ra tôn trọng chủ nhà, Thủ Độ lui lại vài bước, đứng ngoài hè đợi bé gái vào đánh thức ông. Một lát bé gái bước ra, bảo:
- Ông cháu dậy rồi, mời bác vào.
Thủ Độ bước vào, trông vẻ mặt ông già, lại càng thất vọng. Ông gìa da đen, trán dô, má hóp, răng vổ, chỉ được đôi mắt sáng kéo lại. Thủ Độ chắp tay, lên tiếng:
- Kẻ phàm tục xin kính chào chân nhân.
Tuy nói vậy nhưng Thủ Độ lại nghĩ " Chẳng biết là chân nhân hay quái nhân đây". Kiều chân nhân cũng chắp tay cười nói:
- Không dám! Chẳng biết đại quan đến đây tìm chân nhân hay tìm quái nhân vậy?
Thủ Độ giật nảy mình, không hiểu vì sao ông già lại biết được ý nghĩ của mình, vội quỳ xuống làm lễ, nói:
- Tôi người trần mắt thịt, không được học hành, tính tình thô lỗ, có điều sơ suất, xin tiên lão thứ lỗi cho.
Kiều chân nhân vội đỡ Thủ Độ dậy, nói:
- Xin đại quan chớ đa lễ. Tôi hủ lậu, ở chốn rừng xanh núi đỏ. Chẳng hay có việc gì mà đại quan phải nhọc công tìm tới?
Nói rồi gọi người nhà pha trà. Lát sau có một thiếu niên bưng trà ra mời khách. Thủ Độ cầm chén trà trên tay, thấy hương thơm thoang thoảng, vừa dịu dàng thanh khiết như được chế ướp hết sức công phu, lại vừa như còn mùi ngai ngái tươi nguyên của những thứ lá cây quen quen là lạ. Khi nhấp vào môi, vị ngọt êm thấm nơi đầu lưỡi, làm Thủ Độ cảm thấy sảng khoái vô cùng nhưng vị ngọt nhanh chóng chuyển sang vị đắng. Cái thứ vị đắng cũng mơ hồ y như sự cảm nhận rất mơ hồ của vị ngọt ban đầu nhưng nó tồn tại không lâu đã lại biến thành vị ngọt rất đượm đà, làm Thủ Độ không thể nhận biết ra loại trà gì. Bất giác, Thủ Độ thốt lên:
- Ngon tuyệt! Dạ thưa cụ cho kẻ phàm này uống thứ trà gì mà ngon đến như vậy?
Kiều chân nhân nói:
- Chắc đại quan ở chốn kinh kì, không thiếu gì những thứ trà ngon. Đây chỉ là thứ lá cây thông thường có tên là đinh lăng mà bọn dân nghèo chúng tôi dùng ăn gỏi cá.
Thủ Độ ngồi chết lặng như một võ sĩ bị trúng đòn phủ đầu của đối phương. Vì thực ra khi còn ở quê đánh cá, Thủ Độ cũng hay dùng thứ lá này, bây giờ lại quên đi mất. Kiều chân nhân thong thả nói tiếp:
- Đinh lăng là thứ cây có thể làm tăng lực, trị độc, vị của nó tiền cam, hậu khổ, hậu cam cam, đắng mà không chối, ngọt mà không sắc khiến người ta dễ tiếp nhận.
Thủ Độ vái Kiều chân nhân một vái, nói:
- Đa tạ cụ đã có lòng chỉ giáo. Hôm nay còn chút việc, xin cụ dạy cho.
Thủ Độ bảo người hầu cận dâng mâm lễ vật. Kiều chân nhân không nhìn mâm lễ, chỉ nói:
- Những gì cần nói với ngài, tôi đã nói hết rồi.
Thủ Độ bối rối nói:
- Bỉ chức ngu muội, không hiểu được hết lý lẽ cao siêu, lại không có chữ nghĩa nên chẳng thể ghi chép, xin cụ chỉ bảo cặn kẽ để bỉ chức có thể nhập tâm ạ.
Kiều chân nhân nhìn thẳng vào mắt Trần Thủ Độ, hỏi:
- Đại quan còn điều chi chưa rõ?
Thủ Độ thấy trong đôi mắt của ông già như có một thứ ánh sáng lạ kỳ soi tỏ mọi ý nghĩ của mình, mới thành thực mở đầu câu chuyện:
- Thưa cụ, hiện nay đất nước ly loạn, dân tình cực khổ, nhà vua đau ốm không khỏi, việc chính sự hết sức rối ren, tôi thân giữ trọng trách mà kiến thức ít ỏi, không biết làm sao, xin cụ rộng lòng chỉ bày kế sách để hưng quốc an dân cho trăm họ được nhờ.
Kiều chân nhân nói chậm rãi:
- Từ thượng cổ đến nay có quốc gia nào trị rồi không loạn, có loạn rồi mới lại trị; có triều đại nào thịnh rồi không suy, suy rồi mới lại thịnh, cũng như cái vị lá này ngọt rồi đắng, đắng xong lại thấy ngọt. Có điều những bậc tể phụ phải biết điều tiết sao cho vị đắng ngọt ấy vừa phải, đừng gay gắt quá hoặc đừng bất cập là được. Đó chính là điều hoà âm dương chứ gì nữa. Nhân thân tiểu vũ trụ, con người có lúc ốm lúc khoẻ thì đất trời cũng phải có khi mưa khi nắng chứ. Nay nước đang loạn cũng như người đang ốm. Cái sự ốm ấy đã lâu ngày nên cơ thể suy nhược. Vậy mà các phe đảng đua nhau nổi lên làm cho muôn dân điêu đứng lầm than; nước nhà có khác nào người đã hư suy lại nhiễm thêm tà khí.
Đợi ông cụ nuốt xong miếng nước, Thủ Độ nói:
*
- Quốc tình hiện nay đúng là như vậy. Phía Bắc, Nguyễn Nộn bành trướng; phía Đông, Đoàn Thượng hoành hành, nếu không thống nhất giang sơn về một mối, không biết đất nước sẽ đi về đâu. Dám xin cụ kê cho toa thuốc.
Kiều chân nhân nói:
- Nguyễn, Đoàn hai người ấy tuy mạnh nhưng không có gì đáng sợ. Họ là thực chứng của căn bệnh. Còn sự rối ren của triều đình, sự tham bạo của quan lại, sự cùng cực của muôn dân, sự trống rỗng của quốc khố, sự mất lòng tin của trăm họ, sự nhu nhược của nhà vua cùng với trăm ngàn điều tệ hại khác nữa đó là hư chứng của căn bệnh. Phép chữa, thực chứng thì tả, hư chứng thì bổ. Chữa thực chứng tuy có đớn đau nhưng bao giờ cũng nhanh chóng hơn. Cái khó của ngài là ở phép bổ kia. Trong những cái khó đó, cái khó nhất là không làm sao trừ bỏ được bọn tham quan ô lại. Bọn này nếu không là hoàng thân quốc thích cũng con cháu công thần, chúng gian hiểm vô cùng, không những có bề trên che chở mà còn nhiều thủ đoạn xảo quyệt để giấu giếm hành tung, đâu có dễ gì tìm ra manh mối, mà ngay cả khi tìm ra manh mối liệu có xử được chúng hay không? Vậy là của dân cứ bị vơ vét mà không dám kêu, cơm lính cứ bị cắt xén mà không dám nói. Bách tính biết trông cậy vào đâu? Người trung lương bị hãm hại, bỏ rơi. Hỏi còn ai muốn hết lòng vì nước nữa đây? Nước có dân làm gốc, dân không tin, sao nước chẳng suy tàn. Nhà vua tự bịt mắt mình, lúc nào cũng muốn quần thần tung hô là thời thái bình thịnh trị.
Kiều chân nhân dừng lại nhấp một ngụm nước rồi tiếp:
- Nhưng trăm sự đều do ý giời. Giời làm ra thế! Muốn chữa khỏi bệnh chỉ có cách đổi giời.
Chính câu nói này của Kiều chân nhân như kéo Trần Thủ Độ ra khỏi cơn mê, ông ta kêu lên:
- Đổi giời!
Tiếng kêu nửa như kinh hãi của một tội đồ, nửa như sung sướng của kẻ tìm ra lối thoát ở cuối đường hầm. Từ đấy trong đầu Thủ Độ hình thành dần một kế hoạch đổi giời. Thủ Độ tiếp:
- Tuy nhà Lý đã quá mục ruỗng nhưng trong triều vẫn còn nhiều người trung thành, dẫu có muốn đổi giời phải đâu là dễ.
Kiều chân nhân cười khà khà, nói:
- Trung thành! Trung thành. Những kẻ đeo mỹ tự ấy chẳng khác nào một mụ gái goá đang tuổi hồi xuân, nếu có người đàn ông khác chăm lo chu đáo, quên ngay chồng cũ thôi mà. Vả lại đã mưu cuộc đổi giời trong tay phải cầm chắc cây kiếm thép.
Thủ Độ hơi nhíu đôi lông mày, nói:
- Thế trăm họ lại đổ máu nữa ư?
Kiều chân nhân nói:
- Nhưng nếu không làm vậy máu trăm họ có ngừng chảy hay không? Từ thượng cổ tới nay có triều đại nào không tô vẽ cho cung điện của mình bằng máu. Có vị hoàng đế nào không đẽo gọt ngai vàng của mình bằng xương thịt muôn dân, sĩ tốt. Cái gì khi mới hình thành trong ý nghĩ cũng dịu ngọt, khi thực hiện mới gặp nhiều khổ đắng, công việc xong rồi lại thấy sung sướng ngọt ngào. Thế chả phải là tiền cam, hậu khổ, hậu cam cam đó sao?
Thủ Độ nói:
- Lão chân nhân dạy rất phải. Hôm nay bỉ chức đến đây là muốn mời lão chân nhân cùng về triều mưu cuộc đổi giời, mong lão chân nhân hãy vì trăm họ mà xuống núi cho.
Kiều chân nhân cười, nói:
- Ấy là tôi cũng nói chuyện thế thôi, chứ tôi ở nơi sơn dã quen rồi, hơn nữa tuổi già, sức yếu đâu còn kham nổi viêc thiên hạ.
Thủ Độ nói:
- Tôi thường được nghe nói ông Khương Tử Nha hơn tám mươi tuổi mới làm tướng nhà Chu, lập nên kì tích, sao lão chân nhân đã vôi nhận là già?
Kiều chân nhân bảo:
- Tôi đâu dám so với Khương Tử Nha, nhưng ngài có thể là Chu Công Đáng.
Trần Thủ Độ lại nói:
- Anh hai tôi khi sắp qua đời có dặn phải tìm người kiến thức giúp đỡ, vậy thưa cụ như thế nào mới là người kiến thức?
Kiều chân nhân cười lớn, nói:
- Người kiến thức là người biết dùng kiến thức của cả trăm họ để mưu cái lợi cho trăm họ. Đại quan đi tìm kiến thức của một người sao bằng đi tìm kiến thức của muôn dân có hơn không?
*
Mùa xuân năm Kiến Gia thứ mười bốn (Giáp Thân-1224), bệnh tình của Huệ Tông đã thuyên giảm nhiều nhưng Trần Thủ Độ lấy cớ nhà vua vẫn còn ốm nên cho dọn vào ở trong một gian hậu cung. Quan ngự y là Chử Nhiệm Khai can rằng:
- Bệnh tình của hoàng thượng mười phần đã đỡ được bảy tám rồi, nên đi lại ra ngoài cho sảng khoái mới mau hồi phục chứ sao lại bắt hoàng thượng ở trong hậu cung như vậy?
Thủ Độ quắc mắt, quát:
- Nhà ngươi là ngự y mà không thông y lí hay sao? Trong ngũ ố1 thì tâm ghét nhiệt. Ngươi vẫn nói bệnh của hoàng thượng là ở nội tâm, nay đã qua mùa xuân, tiết trời nóng bức, để hoàng thượng ra ngoài được không?
Chử Nhiệm Khai không dám nói gì, lắc đầu đi ra. Từ đấy Huệ Tông bị giam chặt nơi hậu cung, đêm ngày có lính hổ bôn thân tín của Trần Thủ Độ canh giữ, các triều thần không được bén mảng, chỉ có một thị nữ A Nhi ra vào đưa cơm nước hầu hạ. Một hôm nhà vua muốn ra vườn chơi. Bọn lính canh không cho đi, nói:
- Hoàng thượng điên dại thế này, đi ra ngoài nhỡ xảy ra chuyện gì, chúng tôi chết cả.
Huệ Tông rầu rĩ nói với thị nữ:
- Giá như cứ điên thật lại hay, khốn nạn thay bây giờ ta không còn điên nữa mới khổ chứ.
Trần Thủ Độ từ khi giam chặt được nhà vua, thường lấy cớ có việc cơ mật cần bàn với hoàng hậu, ra vào nơi cung cấm mà không ai dám nói gì. Hoàng hậu Trần Thị Dung tuy yêu Thủ Độ nhưng vẫn cảm cái ơn Huệ Tông có lòng bao dung đối với mình nên bảo với Thủ Độ rằng:
- Chị nay là người của họ Lý, như đoá hoa đã tàn héo mất rồi. Thiếu gì người đẹp trong thiên hạ. Cậu quyến luyến tôi làm chi cho uổng một đời trai?
Thủ Độ nói:
- Chị quên lời nguyện ước bên bến sông nơi quê nhà năm xưa rồi hay sao? Nếu kiếp này không được sống cùng chị mới là uổng một đời trai.
Cuối cùng tình yêu tự nhiên đã thắng lòng biết ơn gượng ép. Từ đấy hai người thường tư thông với nhau ngay nơi cung cấm. Một hôm trong khi ân ái, Thủ Độ bảo Trần Thị Dung:
- Bệnh tình của Huệ Tông không thể chữa trị được, chẳng lẽ để triều đình không có vua mãi. Chi bằng ta nên lập vua mới.
Trần Thị Dung hỏi:
- Hoàng thượng không có con giai, cậu định lập ai đây. Vả lại lập vua mới tất phải phế truất vua cũ. Có phải vì tôi mà cậu muốn phế bỏ Huệ Tông hay không?
Câu hỏi bất ngờ của Trần Thị Dung làm Thủ Độ hơi chột dạ nhưng bản lĩnh của một vị tướng can trường đã giúp ông ta bình tĩnh lại ngay. Thủ Độ trả lời tự nhiên, không hề lúng túng.
- Không có con trai à! Vô nam tắc dụng nữ, việc chi phải lập người ngoài. Phế hay không phế, Huệ Tông cũng còn có ý nghĩa gì nữa đâu.
Hoàng hậu thở dài, giây lâu mới nói:
- Quyền bính ở trong tay cậu. Cậu muốn làm sao thì tuỳ, miễn đừng để đến mức mẹ con tôi không có chỗ dung thân là được.
Thủ Độ nói:
- Ơ kìa! Con chị làm vua, giang sơn này vẫn là của nhà chị, sao lại bảo không có chỗ dung thân? Vả nữa tình cảm của tôi đối với chị như thế nào? Chẳng lẽ tôi lại làm tổn hại chị hay sao?
*
Thấm thoắt đã đến tháng mười, rét sớm, Huệ Tông ở hậu cung một mình, chăn đệm sơ sài lạnh lắm, lại không có củi sưởi. Thị nữ A Nhi xin lĩnh thêm chăn cho vua. Thủ Độ bảo:
- Mới tháng mười, đã rét lắm đâu mà cần nhiều chăn chiếu.
Đêm ấy Huệ Tông bị lạnh, không sao ngủ được, ôm ngực ho rũ rượi. A Nhi thương vua, ôm ngài vào lòng ủ cho đỡ lạnh. Huệ Tông ứa hai hàng nước mắt bảo A Nhi:
- Ta có vợ, có con, có cả triều thần văn võ, vậy mà bị giam ở đây đã gần một năm, không ai lai vãng thăm hỏi. Bây giờ tình cảnh đã đến nước này cũng chỉ có một mình nhà ngươi ở bên cạnh. Nhà ngươi thật là một bầy tôi trung, tiếc rằng ta không thể làm gì cho ngươi được nữa. Ôi! Ta có ngờ đâu anh em thằng thuyền chài lại tàn ác thế này.
A Nhi không nói gì, chỉ ôm vua mà khóc. Hôm sau A Nhi đi lấy thức ăn sáng cho vua nhưng không được, liền giấu một miếng bánh của mình mang vào nhưng bị bọn lính canh khám lấy mất, cả nước uống cũng không cho. Huệ Tông phải nhịn đói, nhịn khát đến ngày thứ ba lả đi. A Nhi phải bế nhà vua vào lòng mà mớm ngước bọt, ngài mới tỉnh lại. Nước mắt A Nhi rơi ướt mặt nhà vua. Vừa lúc đó Trần Thủ Độ đến, nói:
- Bệnh tình hoàng thượng đã đến nước này, sao không lo việc lập tự?
Huệ Tông bảo:
- Nhà ngươi hãy cho ta uống nước đã rồi muốn nói gì hẵng nói.
Thủ Độ sai lính lấy nước đến nhưng không cho Huệ Tông uống ngay, rút trong tay áo ra hai tấm lụa vàng, nói:
- Thực ra việc lập tự, triều đình đã lo giúp nhà vua cả rồi. Ngài chỉ việc ký tên vào hai chiếu thư này, xong hẵng uống nước.
Huệ Tông cố lấy chút hơi tàn, nói như thét lên:
- Chiếu thư gì? Đưa nước đây cho ta đã!
Thủ Độ cười lớn, nói:
- Đây là một chiếu thư nhường ngôi cho công chúa Chiêu Thánh và một chiếu thư thoái vị của nhà vua. Nếu nhà vua không phê cũng chẳng còn nước đâu mà dâng nhà vua nữa.
Huệ Tông gục mặt xuống, miệng lẩm bẩm:
- Chẳng còn nước! Chẳng còn nước nữa rồi!
Trần Thủ Độ nói:
- Nhà vua dẫu không còn nước nhưng trăm họ còn nước, việc gì mà lo.
Lịch sử ghi rằng: Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu lập công chúa Chiêu Thánh làm Hoàng thái tử để truyền ngôi cho. Vua xuất gia ở chùa Chân Giáo trong đại nội. Chiêu Thánh lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 1, tôn hiệu là Chiêu Hoàng.
Lý Chiêu Hoàng sinh tháng chín năm Mậu Dần (1218), đến tháng mười năm Giáp Thân (1224) lên ngôi, nếu tính tuổi đã bảy tuổi nhưng tính năm mới được sáu năm một tháng. Mọi việc trong ngoài đều do Trần Thủ Độ cắt đặt, phong Phùng Tá Chu làm thái phó. Nữ hoàng từ khi lên ngôi phải chịu nhiều lễ nghi phiền toái, có buổi thiết triều các quan bàn việc lâu quá, làm người tè cả ra long bào, lúc ngơi việc học hành cứ tha thẩn buồn bã một mình như người mất hồn. Một hôm Trần Thủ Độ vào thăm, nữ hoàng bảo:
- Cậu Độ ơi! Cháu chẳng muốn làm vua nữa đâu.
Thủ Độ nói:
- Bệ hạ sao lại nói vậy? Giang sơn này là của bệ hạ. Bệ hạ không làm vua thì ai giữ gìn xã tắc.
Nữ hoàng cười, nói:
- Xã tắc, xã tắc là cái gì? Cậu cứ giữ hộ cháu có được không?
Thủ Độ nói:
- Xã tắc của bệ hạ! Thần không giữ được.
Nữ hoàng hỏi:
- Xã tắc có nặng không mà cậu không giữ được?
Thủ Độ trả lời:
- Nặng lắm! Nặng lắm!
Nữ hoàng nói:
- Nặng thế cho ai giữ thì giữ! Cháu chả làm vua nữa, buồn lắm, chẳng ai chơi với cháu. Cháu còn phải đánh rải gianh.
Những câu nói ngây thơ của Lý Chiêu Hoàng đã gợi ý cho Trần Thủ Độ hoàn thiện bước thứ hai trong kế hoạch đổi giời. Ngay tối hôm đó Thủ Độ nói với thái hậu Trần Thị Dung:
- Tôi thấy hoàng thượng còn nhỏ tuổi mà phải chịu nhiều nghi lễ phiền hà ở chốn cung đình, thật là quá sức. Bọn nội nhân toàn là người nhớn, hoàng thượng chẳng có ai mà kết bạn chơi đùa, xem ra buồn bã lắm, sợ lâu ngày sinh bệnh cũng chưa biết chừng.
Thái hậu Trần Thị Dung hỏi:
- Cậu bảo phải làm sao bây giờ?
Thủ Độ nói:
- Có lẽ phải chọn một số nội nhân ít tuổi, con nhà gia thế để hoàng thượng có bạn.
Thái hậu bảo:
- Cậu xem thế nào có lợi thì làm. Chiêu Thánh bây giờ có khác gì con của cậu.
Trần Thủ Độ liền về chọn một số con em trong tôn tộc họ Trần còn nhỏ tuổi để đưa vào làm sắc dịch trong nội cung như: Lục hoả thị cung ngoại4, chi hậu, nội nhân thị nội5. Trong số đó có Trần Bất Cập là cháu gọi Thủ Độ bằng bác, làm cận thị thự lục cục chi hậu6, Trần Thiêm làm chi ứng cục, Trần Cảnh làm chính thủ7. Trần Cảnh cùng tuổi với nữ hoàng nhưng sinh trước ba tháng, mặt mũi khôi ngô xinh đẹp, thông minh dĩnh ngộ, tuy nhỏ tuổi mà học đâu nhớ đấy, ăn nói mực thước, đi đứng đường hoàng. Trần Cảnh thường đứng hầu bên ngoài, một hôm bưng nước vào cho nữ hoàng rửa nên được đứng hầu bên cạnh. Nữ hoàng thấy Trần Cảnh chỉ nhỉnh hơn mình một chút thích lắm, té nước đùa bỡn, lại truyền cho vào hầu bên trong để được chơi với nhau. Nữ hoàng thường đùa với Cảnh nhưng Cảnh không dám đùa lại chỉ giữ lễ nhún nhường. Được ít ngày, nữ hoàng đòi Trần Cảnh buổi đêm cũng phải vào chơi trò đuổi bóng rồi ném khăn trầu cho Cảnh, lại bắt Cảnh ngủ trong cung với mình. Trần Cảnh về nói lại với Trần Thủ Độ. Thủ Độ nói:
- Nếu thực như thế thì họ nhà ta thành hoàng tộc hay bị diệt tộc đây7?
Rồi Thủ Độ lại dặn:
- Lần sau hoàng thượng còn làm vậy, cháu cứ thế này... mà nói nhé. Hoàng thượng bảo sao về nói lại với chú, chớ để ai biết mà mang vạ đó.
Đúng là hôm khác, nữ hoàng lại lấy khăn trầu ném cho Cảnh. Cảnh lạy rồi nói:
- Bệ hạ có tha tội cho thần không? Thần xin vâng mệnh7.
Nữ hoàng cười, nói:
- Tha tội cho ngươi. Nay ngươi đã biết nói khôn rồi đó7.
Trần Cảnh về nói với Thủ Độ. Thủ Độ sợ bị lộ chuyện mới đem cả gia quyến vào cung cấm, sai đóng cửa thành và cửa cung, cho người canh giữ, không để các quan vào chầu, loan báo rằng :"Bệ hạ đã có chồng rồi". Các quan đều vâng lời xin chọn ngày vào chầu. Trần Thủ Độ không ngờ sự việc diễn ra trót lọt và êm thấm đến thế, liền vào nói với thái hậu Trần Thị Dung:
- Nhà vua phải lòng thằng Cảnh. Hai đứa đã trao khăn trầu cho nhau. Tôi công bố việc này với các quan, ai cũng lạy mừng cả rồi. Chị nghĩ thế nào?
Thái hậu nói:
- Chiêu Hoàng là con tôi, thằng Cảnh là cháu ruột tôi, việc đến như thế mà bây giờ cậu mới cho tôi biết! Thật tệ quá! Chúng nó còn bé cả, đã biết gì mà trao khăn mới trao túi.
Thủ Độ cười, bảo:
- Chị không nhớ chuyện của chúng mình ngày trước đó sao? Bọn trẻ bây giờ được nuôi dưỡng tử tế, chúng chóng khôn lắm, lại chả ranh mãnh bằng mấy chúng mình ấy chứ. Theo tôi, nên lo cho chúng càng nhanh càng tốt.
Thái hậu nói:
- Chả lo còn biết làm sao nữa!
Thủ Độ được lời, vui như mở cờ trong bụng, vội vã đi lo liệu cắt đặt công việc cưới hỏi cho nữ hoàng. Từ khi có chồng, nữ hoàng vui lắm, lại rất ra vẻ người nhớn, đi đâu cũng dắt chồng theo bên cạnh, tình cảm xem ra muôn phần nồng nàn. Được mấy ngày, Thủ Độ lại bảo Trần Cảnh phải làm thế này..., phải nói thế kia...
Một đêm, Trần Cảnh bảo nữ hoàng:
- Chúng mình là vợ chồng, cái gì cũng chơi chung, sao đằng ấy không cho mình làm vua chung với.
Nữ hoàng cười ngất, bảo:
- Làm vua thích cái nỗi gì, chỉ tổ phải nghe các ông già cãi nhau, chán chết. Đằng ấy thích làm vua thì vua nhường cho đấy.
Hôm sau, Trần Cảnh nói với Trần Thủ Độ. Buổi chiều, Thủ Độ vào cung tìm thái hậu Trần Thị Dung. Lúc ấy thái hậu đang xem thị nữ tỉa hoa ở vườn trước. Thủ Độ trông thấy bảo:
- Cái cây này cỗi mất rồi, hoa lá không còn đẹp nữa. Chị để tôi chọn giống mới thay vào.
Thái hậu không hiểu ý, vô tình trả lời:
- Mấy cây này trồng đã lâu, nghe nói từ thời Cao Tông đến nay không còn ra hoa được nữa, thay đi cũng phải nhưng tìm đâu ra giống tốt bây giờ.
Thủ Độ nói:
- Chỉ cần chị ưng thuận khắc có giống tốt ngay thôi.
Thái hậu bảo:
- Thế thì cậu cứ thay đi.
Thủ Độ lại đi gặp quan thái phó Phùng Tá Chu, bảo:
- Nhà vua muốn nhường ngôi cho chồng, thái hậu cũng đồng ý rồi, ông soạn chiếu đi.
Phùng Tá Chu tuy là thái phó nhà Lý nhưng thực ra trước nay vẫn làm việc dưới quyền họ Trần, trước đây thường được Trần Tự Khánh tin dùng giao cho nhiều trọng sự.Chunói:
- Việc soạn chiếu đâu có khó gì, chỉ sợ các quan phản đối.
Thủ Độ bảo:
- Ông cứ soạn đi, chuyện các quan tôi khắc lo được. Từ trước đến giờ có việc gì bàn ở triều đình mà không mỗi người mỗi ý.
Phùng Tá Chu sai người mài mực, trải lụa viết thoăn thoắt, một lúc đã xong, đọc lại cho Thủ Độ nghe. Thủ Độ gật đầu khen, cầm tờ chiếu đi ra.
*
Những ngày cuối năm, dân kinh thành nhà nào cũng bận, nhà gia thế, quan lại lo mua sắm quà cáp dâng biếu quan trên; kẻ sĩ lo làm sao có được câu đối hay, bài thơ mới để đón xuân cùng bạn hữu; cánh thợ giầy, thợ ô, thợ hàng mã, thợ sơn kiệu lo sao làm gấp để kịp trả hàng. Các nhà buôn bán bày hàng la liệt, tiếng chào mời ời ợi khắp mọi nơi. Mấy bác dân cày ở các vùng lân cận cũng bán thóc, bán khoai để đi sắm tết. Những kẻ cùng đinh không còn mảnh vải che thân kéo về xin ăn. Đám binh lính tụ tập trong quán rượu toàn nói chuyện về quê ăn tết, không ai biết sắp xảy ra cái việc đổi giời.
Đêm mười một tháng chạp, gió bấc rít ràn rạt trên mái điện Thiên An, vài hạt mưa lất phất càng làm cho tiếng trống cầm canh khục lên như tiếng ho của ông già cảm lạnh. Dăm chú lính tứ sương8 co ro đứng gác cổng thành, thỉnh thoảng nghến lên ngóng người đổi phiên. Đền đài, cung thất như ngâm trong thứ ánh sáng đục lờ lờ của vầng trăng muộn bị mây che phủ. Đầu trống canh năm, quan điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ cùng quan thái phó Phùng Tá Chu mặc võ phục dẫn hai đạo quân hổ bôn9 đến, dàn thành hai hàng dọc theo mép sân điện. Một đội quân thánh dực được đưa vào đứng bên trong, sẵn sàng đợi lệnh. Lúc sau các quan lục tục kéo đến đông đủ, đứng cả ngoài sân. Bỗng trong điện vang lên tiếng viên thái giám:
- Hoàng thượng ngự triều. Truyền các quan vào lạy.
Các quan lần lượt tiến vào điện, tung hô vạn tuế rồi đứng thành hai ban văn võ. Nữ hoàng mặc long bào, ngồi trên sập báu gục xuống ngủ, miệng chảy dãi ra ngực áo thêu rồng. Một thị nữ phải đứng phía sau đỡ cho ngài khỏi lăn xuống đất. Quan thị độc Giang Định Hoá dõng dạc nói to lên rằng:
- Hoàng thượng có chiếu.
Tất cả các quan lớn nhỏ đều quì xuống nghe chiếu. Thị nữ đứng sau phải vỗ nhẹ vào má nữ hoàng để đánh thức người dậy nhưng người chỉ hét lên:
- Đau bụng! Đau bụng! Đi ị, đi ị.
Thị nữ vội bế nữ hoàng ra phía sau. Thì ra nữ hoàng bị lạnh, người muốn đi ngoài. Lúc sau, thị nữ ẵm nữ hoàng trở lại, người vẫn ngủ. Thủ Độ bảo Giang Định Hoá:
- Thôi! Cứ đọc đi.
Giang Định Hoá cao giọng đọc:

- " Từ xưa nước Nam Việt ta đã có đế vương trị thiên hạ. Duy triều Lý ta vâng chịu mệnh trời, có cả bốn biển, các tiên thánh truyền nối hơn hai trăm năm, chỉ vì thượng hoàng có bệnh, không người nối dõi, thế nước nghiêng nguy, sai trẫm nhận minh chiếu, cố gượng lên ngôi, từ xưa đến giờ chưa từng có việc ấy. Khốn nỗi trẫm là nữ chúa, tài đức đều thiếu, không người giúp đỡ, giặc cướp nổi lên như ong, làm sao mà giữ nổi ngôi báu nặng nề? Trẫm dậy sớm thức khuya, chỉ sợ không cáng đáng nổi, vẫn nghĩ tìm người hiền lương quân tử để cùng giúp chính trị, đêm ngày khẩn khoản đến thế là cùng cực rồi. Kinh Thi có nói: Quân tử tìm bạn, tìm mãi không được, thức ngủ không nguôi, lâu thay lâu thay . Nay trẫm suy đi tính lại một mình, duy có Trần Cảnh là người văn chất đủ vẻ, thực thể cách quân tử hiền nhân, uy nghi đường hoàng, có tư chất thánh thần văn võ, dù đến Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông cũng không hơn được. Sớm hôm nghĩ chín từ lâu nghiệm xem nên nhường ngôi báu, để thoả lòng trời, cho xứng lòng trẫm, mong đồng lòng hết sức, cùng giúp vận nước, hưởng phúc thái bình. Vậy bố cáo thiên hạ để mọi người đều biết".

Thượng tướng Phan Lân định bước ra phản đối, tướng Vương Lê biết ý bấm kéo lại, thành ra quần thần có xôn xao một tí nhưng cuối cùng cũng không ai dám nói gì. Thủ Độ bảo:
- Làm lễ trao áo ngay đi.
Giang Định Hoá nói to:
- Hoàng thượng trao long bào.
Thị nữ vỗ nhẹ vào vai nữ hoàng, bảo:
- Chúa thượng! Chúa thượng! Cởi long bào ra.
Nữ hoàng còn đang ngái ngủ, ruỗi tay cho thị nữ cởi long bào, nói:
- ừ ! ừ ! Bắt mặc vào, lại bắt cởi ra.
Giang Định Hoá hô lên:
- Tân hoàng đế ngự triều.
Một viên thái giám dắt Trần Cảnh lên điện. Trần Cảnh vừa đi vừa dụi mắt, ngật ngưỡng bước vào, cùng ngồi lên sập báu, ngáp một cái rõ dài. Nữ hoàng đã cởi xong áo, cầm khoác lên người Trần Cảnh, bảo:
- Cảnh mặc áo này đẹp hơn vua.
Thị nữ vội kéo nữ hoàng lại, nói khẽ:
- Bây giờ Cảnh mới là vua.
Chiêu Hoàng hỏi:
- Thế từ nay vua không phải làm vua nữa à?
Thị nữ gật đầu. Chiêu Hoàng bảo:
- Thích nhỉ!
Giang Định Hoá bảo thị nữ bế Chiêu Hoàng vào rồi hô:
- Các quan lạy mừng tân hoàng đế!
Trăm quan đều quì lạy tung hô vạn tuế, dâng tôn hiệu là Khải Thiên Lập Cực Chí Nhân Chương Hiếu Hoàng Đế, đổi niên hiêu là Kiến Trung năm thứ nhất. Giang Định Hoá đọc chiếu của vua mới, xưng là Thiên Hoàng, sau đổi là Văn Hoàng, đaị xá thiên hạ, phong Trần Thủ Độ là quốc thượng phụ, nắm giữ mọi việc cai trị trong nước, toàn dân mở hội ba ngày. Thế là công cuộc đổi giời của Trần Thủ Độ đã hoàn toàn viên mãn. Vua bãi triều cho các quan đi xem hội. Mọi người ra khỏi điện Thiên An, trời đã rạng sáng, mặc dù còn nhiều mây và gió lạnh nhưng ai nấy nhìn tỏ mặt nhau. Trai gái trong thành Đại La kéo đi xem hội, nói cười ríu rít.
Thái hậu Trần Thị Dung ở trong cung Vĩnh An, đang sai bọn thị nữ sắp kiệu để đi xem hội thì Trần Thủ Độ tới, bảo:
- Giống cây tốt đã được thay rồi đấy. Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh rồi. Từ nay nó không phải làm vua nữa.
Thái hậu tái mặt đi, giây lâu mới nói:
- Thế là cậu lừa mẹ con tôi, cậu phế truất con tôi. Cậu làm cái điều khi quân phản chúa ấy được ư?
Nói xong, thái hậu bưng mặt khóc. Trần Thủ Độ nói:
- Nhà Lý đã quá suy tàn, có khác nào cái cây kia không thể ra hoa được nữa, không thay đi để trăm họ lầm than mãi hay sao?
Thái hậu nói rít lên trong tiếng nấc:
- Thôi! Cậu đừng nói dài lời, cậu đi đi. Tôi không muốn trông thấy cậu nữa.
Thủ Độ biết không thể nói cho thái hậu hiểu ngay được, cúi đầu bỏ ra ngoài cung, gặp Đỗ Kính Tu tóc tai rũ rượi gào khóc chạy đến chỉ vào mặt Thủ Độ mà mắng:
- Thằng giặc Thủ Độ lừa vua dối chúa kia. Tao không ngờ mày lại gian hùng đến thế. Tiên đế ơi, hôm nay thần quyết liều cái mạng già này với quân gian tặc đây.
Vừa nói, Đỗ Kính Tu vừa giơ cây gậy trúc nhằm đầu Thủ Độ giáng xuống. Thủ Độ không né tránh, cứ kệ cho Kính Tu phang mình túi bụi, tung cả khăn, rách cả áo. Đến khi ông già mệt quá không thể đánh tiếp được nữa, Thủ Độ mới gọi:
- Lính đâu.
Mấy anh lính hổ bôn xúm cả lại. Đỗ Kính Tu bảo:
- Mày cứ giết tao đi. Trời sẽ giết mày.
Thủ Độ bảo mấy anh lính:
- Các ngươi tìm cho ta cái kiệu lại đây để đưa lão thái phó về nghỉ.
Nói xong, Thủ Độ quay lại vái Đỗ Kính Tu một vái rồi đi về phíaNamthành xem hội.
Chiều hôm ấy viên quan coi cổng Tây thành đến báo với Trần Thủ Độ là lão tướng Phan Lân đã đem gia quyến bỏ đi rồi. Một lúc sau lại có người báo thượng thư Đỗ Anh Triệt thắt cổ tự tử ngay lúc ở triều về, không chịu làm tôi nhà Trần. Thủ Độ bùi ngùi, nói:
- Tiếc thay! Tiếc thay! Những người trung nghĩa thế mà ta không giữ được họ.
Từ đó đến sau tết nguyên đán vẫn còn người cáo quan bỏ đi. Thủ Độ tâu với vua mới:
- Nước không thể hai vua. Xin hoàng thượng định tước vị cho Chiêu Hoàng.
Vua xuống chiếu phong Chiêu Hoàng làm Hoàng hậu, gọi là Chiêu Thánh. Phong Trần Thủ Độ làm thái sư thống quốc hành quân vụ chinh thảo sự. Thủ Độ gồm thâu được toàn bộ quyền hành vào tay mình, liền đến nói với Huệ Tông nhà Lý:
- Vận nhà Lý đến nay đã hết. Thể theo lòng mong mỏi của trăm họ, Văn Hoàng đế đã lên ngôi, vậy thượng hoàng nhà Lý cũng nên biết điều mà xử sự cho phải lẽ chứ.
Huệ Tông nói:
- Mấy năm nay ta đã hiểu rõ tấm lòng tử tế của ông. Nay ông đã là thái sư đương triều, muốn làm gì ta chả được. Ta chỉ xin đến một ngôi chùa thanh tịnh, xuống tóc quy phật mà thôi.
Thủ Độ đồng ý cho Huệ Tông ra tu ở chùa Chân Giáo trong hoàng thành. Thị nữ A Nhi cầm tay nhà vua khóc nức nở, nói:
- Hoàng thượng ơi! Từ nay thiếp không được hầu hạ hoàng thượng nữa rồi.
Huệ Tông chỉ nhìn A Nhi, nước mắt tuôn xuống như mưa, không nói được câu gì, nghẹn ngào đi theo người lính dẫn đường.
Thủ Độ đang lo xếp đặt lại triều chính, có lính thám mã hoả tốc về báo việc Nguyễn Nộn đã mang quân vượt sông Thiên Đức, sắp tiến đánh kinh thành, vội vã vào triều triệu tập các quan bàn kế phá giặc.
Thật là:
Đổi giời chưa kịp xem giời sáng
Được nước còn lo giữ nước yên.

Đan Thành

Nguyên Bá đau bệnh tiến cử Ma Lôi

Trần Thừa xót con công nhận Bà Liệt

Đang nói lúc ấy bọn Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng nuôi quân rèn tướng, tích thảo dồn lương đã được hơn năm năm. Hai nhà lại liên kết với nhau tạo ra thế phên giậu rất vững chắc.

Chiều ngày rằm tháng chạp, Nguyễn Nộn đang cùng các tướng uống rượu vui vẻ, nghe tin Trần Thủ Độ đã phế vua nhà Lý, liền trợn mắt, nghiến răng ken két, nói:

- Thằng thuyền chài này to gan thật. Ta thề phải moi gan nó ra mới nghe. Anh em ai có kế gì phá được họ Trần, sẽ thưởng công đầu.

Các tướng bàn định, mỗi người dâng một kế sách nhưng xem ra đều bất khả thi cả. Đỗ Nguyên Bá vẫn ngồi uống rượu, chẳng nói chẳng rằng. Nguyễn Nộn thấy thế hỏi:

- Đỗ quân sư mọi khi rất hăng hái tranh đàm, sao hôm nay ngồi yên thế?

Nguyên Bá vẫn không nói gì, cứ ngật ngà ngật ngưỡng uống hết chén này đến chén khác. Nguyễn Nộn cáu tiết quát:

- Đỗ quân sư sao hôm nay lại gở đời ra thế này?

Nguyên Bá lúc ấy mới ngẩng lên, nói:

- Xin đại vương tha tội. Tôi đang nghĩ kế cho đại vương nên không để ý. Nay trong đầu tôi đã có kế hay rồi đây.

Nguyễn Nộn bảo:

- Quân sư đã có kế hay sao không nói cho mọi người cùng nghe?

Nguyên Bá cười tươi tỉnh, nói:

- Quân cơ bất cáo chúng. Đã gọi là kế hay mà lại nói cho mọi người cùng nghe thì còn gì là kế nữa.

Trương Thái cười ầm lên, nói:

- Quân sư nói đúng lắm, đúng lắm. Việc ấy để quân sư bàn với đại vương. Anh em ta cứ chén đã.

Mọi người ai nấy lại uống, say tuý luý cả. Nguyễn Nộn kéo Nguyên Bá vào một căn mật thất, chỗ này là nơi Nguyễn Nộn chỉ khi nào bàn việc cơ mật hoặc giao trọng sự cho ai đó mới dùng đến, nói:

- ở đây quân sư đã cho ta nghe kế sách được chưa?

Nguyên Bá hỏi:

- Có phải đại vương muốn đánh phương Đông?

Nguyễn Nộn hỏi lại:

- Sao quân sư biết ?

Nguyên Bá nói:

- Xưa nay đại vương là người dùng binh cẩn trọng, lẽ đâu lại bàn việc đại sự hớ hênh như thế nên tôi biết đại vương không có ý đánh họ Trần. Mà muốn đánh phía Đông?

Nguyễn Nộn nói:

- Quả quân sư xét việc rất tài, đến Tư Mã Trọng Đạt cũng chẳng hơn gì. Đúng là ta muốn đánh xong phía Đông, gồm thâu binh lực, sau đó mới tính đến họ Trần. ý quân sư thế nào?

Nguyên Bá nói:

- Xin đại vương đừng làm vậy. Sở dĩ anh hùng hào kiệt đất Bắc theo về với đại vương là vì ngài biết giữ tín nghĩa. Lâu nay hai nhà Nguyễn, Đoàn liên thủ tạo ra thế phên giậu vì thế họ Trần không làm gì được. Bây giờ đại vương đánh Hồng châu, một khi chiến sự nổ ra, nếu quyết đánh cho kì được thì hao binh tổn tướng mà chắc gì ta đã thủ thắng, lúc ấy không còn liên kết nữa hai bên đều yếu đi, họ Trần sẽ nhân cơ hội đó mà thôn tính từng nhà. Như thế có phải tự nhiên tạo ra cái thế trai cò đấu nhau, lão ông đắc lợi không? Còn không đánh cho kì thắng thì chẳng được gì mà lại gây thù chuốc oán, khác nào tự chặt tay mình. Vả lại Đoàn vương cũng không có lỗi gì với bên ta mà cất quân đến đánh là không chính danh, đã không chính danh tất mang tiếng bất nghĩa, thiên hạ sẽ nghĩ thế nào về đại vương đây?

Nguyễn Nộn hỏi:

- Theo quân sư, nên đánh họ Trần ư ?

Nguyên Bá nói:

- Đúng vậy.

Nguyễn Nộn bảo:

- Ta sợ Thủ Độ là bậc anh hùng thời nay, khó mà đánh được.

Nguyên Bá nói:

- Trần Thủ Độ, thực ra y chỉ là một kẻ cơ hội, vũ dũng vô mưu, may mắn nắm được nhà vua, sai khiến thiên hạ chứ đâu có thực tài.

Nguyễn Nộn hỏi:

- Muốn đánh họ Trần phải làm thế nào?

Nguyên Bá nói:

- Muốn đánh họ Trần trước hết có bốn việc cần làm: Một là cần cử người sang hẹn với Đoàn vương để cùng tiến binh, bảo Đoàn vương vượt sông đánh vào phía Đông Nam, khoá chặt phía Nam thành Đại La rồi phá luỹ, đánh vào Hồng Mai, Kẻ Mơ. Hai là cho người mang vàng bạc đến giúp người man ở Quảng Oai, bảo họ đem quân quấy nhiễu phía Tây để Thủ Độ phải chia bớt quân ra chống đỡ. Ba là ta trương ngọn cờ phù Lý diệt Trần để chiêu mộ thêm binh lính, huấn luyện một đội quân cảm tử. Vì La thành và Đại La thành Đều có luỹ tre gai dày bao bọc nên tôi sẽ huấn luyện một đạo hoả công binh, dùng vào việc đốt phá luỹ. Bốn là đại vương phải thân đốc thúc việc thu góp thuyền bè để vượt sông.

Nguyễn Nộn theo kế của Nguyên Bá, lập tức cho quân thi hành. Nguyên Bá chọn trong đám du binh những người tinh tráng khoẻ mạnh, thành lập đạo hoả công binh đưa ra giữa cánh đồng đắp luỹ giả luyện tập. Khi ấy đang là tháng giêng, trời mưa phùn và rét lắm. Nguyên Bá ngày nào cũng đem quân đi tập nên bị cảm lạnh, lúc đầu chỉ ho húng hắng nhưng sau bệnh tăng lên, phát sốt, phải giao việc luyện quân cho viên tuỳ tướng là Phan Ma Lôi. Ma Lôi nguyên người Chiêm Thành sang buôn bán ở Ai Lao rồi đến Đại Việt, nhân gặp lúc Nguyễn Nộn chiêu binh mới tới ra mắt. Nguyễn Nộn vốn tính hiếu kì, thấy Ma Lôi nói tiếng Việt không sõi, nghe là lạ, nhận vào làm nô. Đỗ Nguyên Bá thấy Ma Lôi thông minh sắc sảo lại chăm chỉ mới xin Nguyễn Nộn cho mình, làm tuỳ tướng. Những công việc Nguyên Bá giao, Ma Lôi đều làm rất chu đáo. Vì vậy Nguyên Bá mới dạy Ma Lôi học chữ và cách dùng binh. Ma Lôi học đến đâu nhớ đến đấy, được Nguyên Bá khen là người cơ trí. Qua rằm tháng giêng, Nguyên Bá ốm càng nặng, Nguyễn Nộn đến thăm. Nguyên Bá hỏi:

- Mọi việc đai vương đã chuẩn bị đến đâu rồi?

Nguyễn Nộn bảo:

- Xong cả rồi, chỉ chờ quân sư khoẻ là khởi binh thôi.

Nguyên Bá nói:

- Nhỡ tôi không khỏi thì sao? Mai là ngày Hoàng Đạo, đại vương nên cất quân đi ngay thôi, để chậm lại, mấy tháng nữa nước sông lên to lúc ấy có muốn tiến cũng không được.

Nguyễn Nộn bảo:

- Nhưng quân sư ốm thế này nhỡ ra có bề gì thì ta không đành lòng, ba quân biết trông cậy vào ai.

Nguyên Bá nói:

- Mạng tôi là ở giời, cần gì phải lo cho lắm. Nhỡ tôi có làm sao cũng sẽ có người khác giúp đại vương.

Nguyễn Nộn nghe theo, về lệnh cho các tướng hôm sau lên đường, lại sai người đem gấm che cho xe của Nguyên Bá. Hai ngày sau, hậu quân do Nguyễn Sĩ Vinh chỉ huy sang hết bờ hữu ngạn sông Thiên Đức, đội tiền quân do Trương Thái làm tiên phong đã đến bến Bồ Đề. Nguyễn Nộn giữ đạo trung quân, có Vương Thiện Luân và Quách Thanh làm tả hữu đội. Ma Lôi cầm cây phủ đi hộ vệ xe quân sư Đỗ Nguyên Bá ở ngay chính giữa. Nguyễn Sĩ Hiển cùng Võ Hàn chỉ huy đại đội binh thuyền. Buổi chiều lập xong trại trên bến Bồ Đề làm căn cứ vượt Nhị hà. Lúc đó Đỗ Nguyên Bá thấy trong mình khoan khoái, mới bảo Ma Lôi đưa mình đi xem doanh trại rồi cùng Nguyễn Nộn lên đê ngắm dòng sông Nhị cuồn cuộn chảy. Từng xoáy nước cồn lên ngụp xuống, màu phù sa nhuốm trong ánh nắng chiều, đỏ như pha máu. Trên bờ, doanh trại kéo dài dọc theo triền sông liên tiếp mấy dặm, các trại đều có bốn cửa, ra vào thuận tiện che chắn cho nhau. Dưới sông thuyền bè san sát, chia làm ba đội, tiến lui rất nhịp nhàng, các đội có thể thay nhau chở quân sang rồi quay về thuận tiện. Hàng vạn tay cung sẵn sàng giội những trận mưa tên về phía quân địch. Những giàn lệ chi pháo nghễu nghện trên các thuyền lớn, chĩa sang bên hữu ngạn. Cờ xí tung bay, chiêng trống vang lừng. Đỗ Nguyên Bá nói với Nguyễn Nộn:

- Ráng chiều đỏ thế này, sáng mai chắc gió Đông Bắc thổi mạnh. Đêm nay đại vương cho quân canh tư nấu cơm ăn, canh năm bắt đầu sang sông. Trời sáng, đạo tiền quân phải sang hết bờ bên kia, dọn đường cho đại quân ta kéo sang. Gió càng mạnh càng thuận lợi cho ta. Quân Trần ở bờ Tây Nam là mất lợi thế rồi.

Nguyễn Nộn vui vẻ nói:

- Không ngờ hành quân vất vả thế, quân sư lại khoẻ lên. Thật là trời giúp ta. Thủ Độ, lần này xem ngươi có còn tác yêu tác quái được nữa không?

Nguyễn Nộn nói xong cười ha hả, dẫn mọi người về trại. Nửa đêm Đỗ Nguyên Bá đau lắm, thổ ra nhiều máu tươi, gọi Ma Lôi lại bên giường, đưa cho cuốn sách, dặn:

- Ngươi theo ta mấy năm nay, ít nhiều đã học được chút binh pháp. Đây là cuốn Bát thập nhất kì mưu, ta đã dày công đúc kết trong nhiều năm, áp dụng chưa bao giờ sai sót, nay trao lại cho ngươi. Ta xem trong người không thể sống thêm được nữa. Sau khi ta đi rồi, ngươi phải hết lòng phò tá đại vương. Mong ngươi chớ phụ lòng ta.

Ma Lôi khóc lạy, nhận sách rồi cho người đi báo với Nguyễn Nộn. Lúc Nguyễn Nộn tới, Nguyên Bá đã yếu lắm. Nộn cầm tay Bá, khóc nói:

- Quân sư ơi! Chẳng lẽ lại bỏ ta mà đi trong lúc này ư?

Nguyên Bá nói rất khẽ:

- Tôi từ khi theo đại vương, ngoài là nghiã quân thần mà thực ra bên trong đại vương coi tôi như bè bạn, nói thì nghe, kế thì dùng. Ơn ấy sâu nặng lắm, tiếc rằng kiếp này chưa thể báo đền. Nay tôi không theo hầu đại vương được nữa, xin đại vương chớ đau buồn. Ma Lôi là người có thể thay tôi, xin trả lại đại vương để đại vương sai khiến. Đại vương nhận một lạy! Tôi đi!

Quân sư Đỗ Nguyên Bá nói xong thì tắt thở, năm ấy mới hai mươi tám tuổi. Nguyễn Nộn thương khóc không biết nhường nào. Trời đang khô tạnh bỗng mưa gió ào ào một lúc. Người ta nói đó là trời đất khóc Đỗ Nguyên Bá. Khi còn sống, Nguyên Bá có công nhưng không kiêu ngạo, tuổi trẻ ở ngôi cao mà vẫn chan hoà với mọi người, lại thường khuyên Nguyễn Nộn giữ điều tín nghĩa với kẻ sĩ, làm phúc cho bách tính. Nghe tin Nguyên Bá mất, từ quan đến dân xứ Bắc ai ai cũng thương khóc như mất người thân trong nhà. Sau trong dân có bài thơ than Nguyên Bá rằng:

Quân sư Đỗ Nguyên Bá

Tuổi trẻ tài cao

Kiên trung trời đã tỏ

Nhân nghĩa đất cũng hay

Mưu cơ một khối óc

Sức lực hai bàn tay

Giữa đường sao đứt gánh

Thương thay thương thay!

Đỗ Nguyên Bá chết, Nguyễn Nộn không dám tiến binh, cho người phi báo với Đoàn Thượng để Thượng kịp dừng lại. Trong khi đó bên Hữu ngạn Nhị hà, quân Trần ra sức củng cố phòng tuyến. Hai tướng Lê Khâm và Vương Lê đóng bản doanh ở bến Triều Đông thủ thế. Dùng dằng sang tháng hai vẫn chưa bên nào dám vượt sông, trời mưa dầm gió bấc, quân lính khổ cực không biết nhường nào. Phùng Tá Chu tâu rằng:

- Nay vẫn còn gió Bắc, đánh nhau trên sông tất quân ta thất lợi. Chi bằng hoàng thượng cứ phong vương cho hai nhà Nguyễn, Đoàn để họ bãi binh. Đợi sang Hè ấm áp hẵng liệu sau.

Lúc ấy nhà vua còn ít tuổi chưa quyết định được. Thái sư Trần Thủ Độ nói:

- Lời bàn của Phùng thái phó rất phải.

Nhà vua mới cử sứ giả mang chiếu sang phong cho Nguyễn Nộn làm Hoài Đạo vương, chia cho đất Bắc Giang thượng, Bắc Giang hạ và Đông Ngạn. Nguyễn Nộn quỳ lạy xưng thần rồi lệnh cho rút quân về Bắc. Phan Ma Lôi can:

- Nay quân ta đang lợi thế. Họ Trần vì sợ mới phải đem mồi ra nhử. Đại vương nhân đây đánh ngay tất được, sao lại lui binh.

Nguyễn Nộn nói.

- Điều đó phải đâu ta không biết. Không phong vương ta vẫn là vương. Chia đất hay không đất ấy vẫn là của ta. Chúng đem cái của ta mà cho ta mới thật nực cười. Nhưng quân sư vừa mất, trong lòng ta trăm sự rối bời, quân tình nao núng, tiến binh chắc không lợi. Vả lại việc binh cốt thần tốc bất ngờ, điều cốt yếu ấy lỡ mất rồi. Quân Trần đã phòng bị chu đáo, ta làm sao mà thủ thắng được đây.

Ma Lôi nói:

- Đại vương đã có ý như vậy, việc rút quân phải cẩn trọng. Lê Khâm và Vương Lê là những tay rất giỏi thuỷ chiến, nếu thấy quân ta rút thế nào cũng đem quân chặn ngả về Thiên Đức giang thì quân ta khốn ngay.

Nguyễn Nộn nói:

- Ngươi nói phải lắm. Vậy làm sao?

Ma Lôi nói:

- Đêm nay trời mưa bụi, cách xa trăm bước không nhìn thấy nhau, ta cho một đội thuyền nhẹ đánh trống hò reo, giả vờ tấn công, còn đại đội binh thuyền của Nguyễn Sĩ Hiển mau chóng rút ngay về sông Thiên Đức để đưa bộ binh sang sông. Trên bờ nên giữ nguyên cờ quạt, lều trại để nghi binh.

Nguyễn Nộn nghe theo, sai người đi thực hiện.

Bên hữu ngạn, Vương Lâm là con trai của Vương Lê nói với bố:

- Con nghĩ Nguyễn Nộn đã thụ phong, chắc lơi lỏng phòng bị. Đêm nay ta cho quân tập kích, thế nào cũng thắng.

Vương Lê nói:

- Nguyễn Nộn là tay dùng binh lão luyện, chớ khinh thường mà mắc mưu hắn.

Vừa trống canh một, thấy bên tả ngạn trống đánh vang lừng, đèn đuốc sáng trưng. Trong ánh đuốc sáng mờ mờ, bóng tinh kì phấp phới suốt một dải dài đến mười mấy dặm. Mấy lớp thuyền địch xông sang, tên bay, pháo nổ vang cả mặt sông. Lúc ấy Lê Khâm về thành bàn việc với Trần Thừa. Vương Lê không biết quân địch nhiều hay ít nên chỉ ra lệnh các đạo binh thuyền phải giữ vững cửa trận không được ra đánh, lại cử mấy tốp lính bơi thuyền nhẹ đi thám thính. Quá canh ba thấy thuyền địch không ham đánh nữa mà kéo dần về phía thượng lưu. Quân thám thính cũng về báo quân địch chỉ có chưa đến năm mươi chiếc thuyền nhỏ do Võ Hàn chỉ huy nghi binh thế thôi, còn đại đội binh thuyền của Nguyễn Sĩ Hiển đã rút cả về phía sông Thiên Đức rồi. Vương Lê liền cho thuyền chiến đuổi theo nhưng đoàn thuyền của Võ Hàn đã đi xa.

Đoàn Thượng thấy Nguyễn Nộn nhận phong lui binh, cũng rút quân về Hồng châu.

*

Mùa hạ, tháng năm, Văn hoàng đế Trần Cảnh phong em là Trần Nhật Hiệu lúc ấy mới hai tuổi làm Khâm Thiên đại vương, phong phẩm hàm cho các quan văn võ, lấy ngày sinh mười sáu tháng sáu làm tiết Càn Ninh. Mùa đông tháng mười tôn phụ quốc thái uý Trần Thừa làm thượng hoàng.

Thượng hoàng Trần Thừa lúc còn ở nhà, vẫn thường đánh cá ngoài sông. Vào năm Thiên Gia Bảo Hựu thứ Ba (1204), đời Lý Cao Tông, Trần Thừa đã hai mốt tuổi, một hôm quăng chài nhưng mãi đến chiều vẫn không được con cá nào, cứ xuôi dòng đi mãi xuống hạ lưu, không ngờ gần tối trời nổi cơn dông hất tung thuyền lên bãi ngô bên bờ. Có người con gái họ Mai đi hái bắp về, trông thấy Thừa nằm sóng soài trên cát mới lấy áo tơi che cho rồi đưa về nhà ở thôn Bà Liệt. Nhà Mai Thị rất nghèo, chỉ có hai mẹ con mà Trần Thừa lại ốm sốt. Bà mẹ Mai Thị đem con gà mái đang ấp ra chợ bán lấy tiền mua thuốc cho Thừa. Còn những quả trứng sắp nở phải ủ trong trấu ấm, ít hôm sau nở ra một lũ gà con không mẹ, không cha. Trần Thừa ở đó mấy ngày, thấy Mai Thị xinh đẹp mà nghèo quá, có ý thương. Mai Thị thấy Thừa khoẻ mạnh cũng mến lắm. Hai người tình ý với nhau. Đến khi Mai Thị có mang, Trần Thừa bảo:

- Tôi ở đây đã lâu, sợ cha mẹ mong đợi. Vả lại tôi phải về nói với cha mẹ đem cơi trầu đến cưới hỏi để cô khỏi mang tiếng là người lang chạ.

Mai Thị cầm tay Thừa, khóc nói:

- Anh về quê, tôi ở đây đợi anh, một ngày dài tựa một năm. Mong anh mau quay lại.

Thừa bảo:

- Cô tưởng tôi sung sướng lắm hay sao? Phải xa nhau, đẩy mỗi mái chèo là đứt từng khúc ruột, nhớ nhung khổ lắm chứ. Cứ yên lòng, chỉ độ mươi mười lăm ngày là tôi quay lại thôi mà.

Mai Thị bảo:

- Mong anh nhớ lấy lời.

Trần Thừa nói:

- Tôi có là vua là chúa gì mà quên lời cho được.

Hai người gạt nước mắt chia tay, kể bao tình lưu luyến. Nhà chỉ còn một đấu gạo, Mai mẫu thổi cơm nắm cho Trần Thừa mang đi ăn đường, còn hai mẹ con nấu cám với ngô non ăn trừ bữa.

Trần Thừa đi thấm thoắt đã được mươi ngày. Mai Thị tựa cửa trông chờ, cầu trời khấn phật cho người đi mỗi bước sông nước là mỗi bước may mắn. Mười lăm ngày rồi một tháng, hai tháng Trần Thừa không trở lại, hai mẹ con Mai Thị chỉ biết sùi sụt khóc thầm. Đến lúc năm tháng, Mai Thị không thể giấu cái bụng được nữa. Lý trưởng làng Bà Liệt sai trương tuần mang đinh tráng đến bắt Mai Thị ra đình cho làng phạt ăn khoán nhưng nhà Mai Thị không có thứ gì có thể bán đi để làng ăn. Lý trưởng bắt nọc Mai Thị ra giữa sân đình, đánh đến rách cả da thịt, truy hỏi xem kẻ nào là cha của cái thai để báo lên cho quan huyện Tây Chân bắt vạ. Mai Thị nhất quyết không khai. Mai mẫu thương con, đành điểm chỉ vào tờ văn tự bán mảnh đất đang ở lấy tiền nộp cho lý trưởng, hai mẹ con dắt díu nhau đi tha phương cầu thực.

Mai mẫu phần vì thương con, phần vì già yếu không chịu được đói rét. Một chiều đông mưa gió, hai mẹ con nhịn đã mấy ngày, Mai mẫu mệt lả trong quán chợ, thều thào dặn Mai Thị:

- Mẹ không sống được nữa, thế nào con cũng phải tìm cho được anh Thừa, xem ra có điều uẩn khúc gì đây. Mẹ quyết không tin anh ấy là người phụ bạc.

Mai mẫu nói xong, tắt thở. Mai Thị khóc đến khản cả tiếng, thân gái quê người không biết làm cách nào chôn cất cho mẹ. Mãi chiều hôm sau có người người đàn ông cầm cái tròng bắt lợn đi qua, thấy tình cảnh như vậy, bảo:

- Này nhà cô kia, có muốn tôi chôn cất mẹ cô không?

Mai thị vừa khóc vừa lạy người đàn ông:

- Con cắn rơm cắn cỏ lạy ông. Ông làm ơn làm phúc chôn cất cho mẹ con, con thề làm trâu làm ngựa đền ơn ông.

Gã hoạn lợn cười hề hề, nói:

- Tôi không cần cô làm trâu làm ngựa, chỉ cần cô làm vợ là được.

Mai thị nói:

- Trăm lạy ông, ngàn lạy ông, con là gái đã có chồng lại bụng mang dạ chửa, mong ông thương cho.

Gã hoạn lợn nói:

- Có chồng à? Sao không bảo cái thằng chồng cô nó chôn mẹ cho. Tôi cũng chỉ cần cô làm vợ một đêm là được... Bụng chửa à? Bụng chửa càng sướng chứ sao! Tôi vừa thiến mấy con lợn cho nhà cụ chánh có tiền đây. Nếu cô ưng lòng, tôi thuê người đào huyệt ngay, còn không cứ để mẹ cô nằm đấy đến có bọ ra cũng chẳng ai chôn đâu. Bây giờ đói kém, người chết đầy ra kia kìa.

Mai thị rùng mình ghê sợ nhưng quá thương mẹ, đành nhắm mắt nói:

- Vâng! Con xin vâng theo ý ông.

ở nhà gã hoạn lợn ra, Mai Thị như người mất hồn, tuy không được học hành nhưng cô cũng hiểu chữ trinh đáng giả ngàn vàng, chỉ có thể dành cho người mình yêu. Vâỵ mà bây giờ chữ trinh ấy đã bị gã hoạn lợn bôi nhọ lên rồi. Tủi thân, cô đứng khóc bên bờ sông, mặc cho gió lạnh luồn qua manh aó rách bỡn cợt cái thân xác tả tơi khốn khổ của mình. Cô biết đi đâu về đâu giữa nơi đất khách. Trời cao đất dày nào có hiểu thấu nỗi thống khổ của cô, chỉ có dưới kia dòng sông đỏ quạch phù sa chảy cồn cào như khuyến khích cô về với nó. Mai Thị đã toan gửi thân vào dòng nước nhưng cô cảm thấy đứa bé trong bụng đang cựa quậy. Cô không có quyền cướp đi mạng sống của nó. Nó không chỉ thuộc riêng cô. Nó là con anh ấy. Cô chết đi nghĩa là cô giết hại nó, tội đó dẫu có xuống đến mười tám tầng địa ngục cũng không sao chuộc hết. Cô phải sống vì nó, vì anh ấy. Nghĩ vậy, Mai Thị thất thểu bước đi, bóng cô dật dờ giữa khoảng đồng không, dưới bầu trời đầy mây đen và gió lạnh. Đến một ngã ba đường, cô gục xuống bãi cỏ. Trong bóng tối huyền hoặc của trạng thái nửa mê nửa tỉnh, cô nghe tiếng ai đang hú hồn gọi cô về. Tiếng hú sao mà thê lương thảm thiết quá, nó như xiết vào không gian, hút trong từng cơn gió lạnh, làm cô thấy toàn thân nổi da gà, rùng mình mở mắt. Có tiếng người cười nói:

- A! Tỉnh rồi đây.

- Không chết được đâu. Hôm trước có mấy người cũng lả đi thế này, cho húp vài miếng cháo là tỉnh ngay thôi mà.

- Mấy người hẵng dãn ra một tí. Người đói lả thì có gì lạ mà cũng xúm lại xem, bỏ cái váy này ra được rồi đấy.

Người cứu Mai Thị là bà lão bán bánh đa nướng. Hôm ấy bà đi chợ về, thấy Mai Thị nằm bên vệ cỏ nhưng chưa chết, cái thai trong bụng có lẽ sắp đến ngày sinh. Bà liền nhờ người khiêng về nhà cứu chữa. Có người nói:

- Sinh dữ, tử lành. Bà mang người sắp đẻ về nhà làm gì?

Bà lão bảo:

- Ôi dào! Tôi ngần này tuổi đầu rồi còn sợ gì lành mới chả dữ. Phật dạy cứu một người phúc đẳng hà sa. Các bác cứ mang cô ấy về cho tôi. Lành dữ đâu tôi chịu.

Hôm sau, Mai Thị khoẻ hẳn, sợ làm phiền bà lão nên có ý muốn đi. Bà lão bảo:

- Nếu con không có nơi nào nương tựa, cứ ở đây với già. Đời già cũng nhiều cay đắng lắm. Bây giờ chỉ có một mình, có con bầu bạn cũng tốt. Mẹ con ta giúp nhau khi tắt lửa tối đèn.

Từ hôm ấy Mai Thị ở lại nhà bà lão, ngày ngày say bột, tráng bánh cho bà mang đi chợ bán. Được hơn một tháng, Mai Thị sinh ra đứa con trai khôi ngô, khoẻ mạnh. Bà lão bán bánh đa bảo:

- Đặt tên là Bà Liệt để ngày sau nó biết lối mà tìm về quê.

Năm sau bà lão bán bánh đa ốm mất. Mai Thị nối nghiệp, vẫn làm bánh đa đem ra chợ bán nuôi con. Bánh đa Mai Thị làm ngon, lại dày dặn nên bán được giá mà đắt khách, vì thế sung túc dần lên. Một hôm Mai Thị ra chợ bán bánh, thấy Trần Thừa đang mặc cả mua tấm lưới, liền chạy lại ôm lấy Thừa, khóc nói:

- Ôi anh Thừa ơi! Thế là tôi đã tìm được anh. Con anh hai tuổi rồi đây.

Nói xong, Mai Thị chỉ đứa bé ngồi bên sọt bánh đa. Cô sung sướng trào nước mắt, nghĩ thế nào Thừa cũng chạy lại ôm con nhưng Trần Thừa nói:

- Ô! Cô này nói gì lạ vậy, tôi làm sao có con với cô được.

Nói xong Trần Thừa bỏ đi, mặc cho Mai Thị đứng khóc ngay giữa chợ. Có người biết nhà ông Trần Lý ở Lưu Gia, mách đường cho Mai Thị tìm đến nhưng Trần Thừa nhất định không nhận Bà Liệt là con mình. Ông Trần Lý không biết làm thế nào, đành cho đứa bé một số tiền, bảo mẹ con bế nhau về. Mai Thị không nhận tiền, nói:

- Anh Thừa đã có con với tôi, nay dù anh quên lời nói cũ mà không nhận con, tôi cũng không biết làm thế nào nhưng trước sau gì thằng bé này cũng vẫn là con của anh. Từ nay dù anh có đi đến đâu, tôi cũng mang nó đi theo. Tôi không cần anh nuôi nó, chỉ cần đừng để nó không có bố là được.

Sau này Trần Thừa lấy vợ họ Lê, có con, có công hộ giá được phong làm nội thị phán thủ, mang gia quyến lên kinh thành ở. Mai Thị cũng đem Bà Liệt lên thành Đại La, hai mẹ con vẫn sinh sống bằng nghề bán bánh đa. Bà Liệt càng lớn càng khoẻ mạnh, vạm vỡ, thường cùng bạn bè rủ nhau đi học võ, đánh vật, bắn cung môn nào cũng tỏ ra xuất sắc. Khi Trần Tự Khánh chết, Trần Thừa được phong làm phụ quốc thái uý, tiếng tăm lừng lẫy. Thừa cho tuyển trong dân những trai tráng có sức khoẻ, giỏi võ nghệ, lập một đội võ vật. Bà Liệt về nói với mẹ xin được đi tòng quân.

Mai Thị nói:

- Con muốn đầu quân, mẹ không giữ nhưng phải gắng sức lập công đừng để mang tiếng xấu cho cha đấy nhé.

Bà Liệt nói với viên hiệu uý, xin vào đội võ vật. Viên hiệu uý thấy Bà Liệt rất giống Trần Thừa, buột miệng hỏi:

- Nhà ngươi có họ hàng gì với quan thái uý hay không?

Bà Liệt nói:

- Thái uý là cha tôi.

Viên hiệu uý đem lời ấy về bẩm lại với Trần Thừa. Thừa bảo:

- Chỉ nói tào lao. Chẳng lẽ thằng Liễu nhà ta lại xin vào đội võ vật.

Viên hiệu uý bẩm:

- Bẩm thái uý! Không phải là công tử Liễu đâu ạ. Người này nói tên là Bà Liệt, quê ở Hải ấp lại rất giống thái uý nên hạ chức mới dám vào bẩm ạ.

Trần Thừa biết đích xác là con mình đã đến nhưng mẹ Bà Liệt chỉ là một hạ dân làm nghề quạt bánh đa hèn mọn nên quyết không nhận, nói:

- Sao ngươi nói lẩn thẩn mãi thế? Ta làm gì có con nào như vậy nhưng nó muốn vào đội thì cứ cho nó vào, cấm không được nói năng quàng bậy, ăn đòn đấy.

Hôm sau, viên hiệu uý nói với Bà Liệt:

- Mẹ ngươi là người quạt bánh đa, sao ngươi là con của thái uý được.

Sau buổi tập hôm ấy, đám tân binh nhao nhao chế giễu Bà Liệt:

- Ê cái đồ thấy người sang bắt quàng làm họ kìa. Mẹ quạt bánh đa mà đòi là con thái uý.

- Anh em xem thằng nhận vơ xấu chưa kìa.

- Tớ cứ tưởng đằng ấy vào phủ thái uý ở rồi cơ đấy.

Bà Liệt tủi thân nhưng không dám nói gì, chỉ lủi thủi tìm chỗ ngồi một mình. Viên hiệu uý là người đã đứng tuổi, tính điềm đạm, có ý thương, hỏi:

- Ngươi nói là con thái uý, có gì làm bằng không?

Bà Liệt mới đem hết chuyện nhà tâm sự với viên hiệu uý. Viên hiệu uý hiểu rõ sự tình càng thương Bà Liệt, an ủi:

- Thôi cháu ạ! Ta chưa rõ chuyện của cháu thực giả đến đâu nhưng cuộc đời lắm nỗi éo le, không biết thế nào mà lường. Cháu cứ chịu khó tập tành, sau này có dịp lập công chẳng sợ gì không giầu sang phú quí.

Bị cha ruồng bỏ như vậy nhưng Bà Liệt vẫn giữ lòng trung trinh, gắng công rèn tập, võ nghệ làu thông, không hề tỏ ra một lời trách oán. Một hôm Trần Thừa dẫn lính đi săn trong rừng bỗng có một con hổ vằn xông ra định vồ. Con ngựa sợ hãi chồm lên, hất Trần Thừa xuống đất. Các tướng ai cũng hoảng cả lên. Bà Liệt cầm cây roi sắt tiến đến vụt con hổ một nhát thật mạnh, làm nó đau quá rống lên chạy biến vào rừng. Bà Liệt vội đỡ Trần Thừa dậy. Lúc về thành, Trần Thừa cũng chỉ thưởng cho Bà Liệt một chiếc áo. Hôm sau được nghỉ, Bà Liệt về khoe với mẹ. Mai Thị bảo:

- Con cứu được cha, thật không phụ công mẹ nuôi con bấy nay.

Đến khi Trần Thừa được tôn làm Thượng hoàng, càng ra sức luyện tập quân lính, chú trọng việc võ bị. Một hôm đội lính vật đá cầu. Bà Liệt mải tranh quả cầu với người trong đội, hai bên xô xát. Người kia khoẻ hơn, vật ngã Bà Liệt, bóp cổ Liệt suýt nghẹt thở. Thượng hoàng Trần Thừa lúc ấy đang xem, quên mất phải giữ danh giá của đấng thượng hoàng chí tôn chí kính, ngài thét lên:

- Con ta đấy !

Người lính vừa vật ngã Bà Liệt sợ hãi lạy tạ. Còn Bà Liệt đứng ngây ra. Trước đây bị hắt hủi ruồng bỏ, chưa bao giờ chàng khóc. Hôm nay nghe câu nói đó phát ra một cách tự nhiên từ miệng thượng hoàng, chàng thấy như tim mình thắt lại. Niềm sung sướng hạnh phúc tột đỉnh hoà với nỗi tủi cực ê chề làm những giọt nước mắt trào ra lăn dài trên hai gò má của chàng.

Ngay hôm sau, thượng hoàng sai mang kiệu, cùng với Bà Liệt đến đón Mai Thị vào cung để phong làm hoàng phi. Mai Thị nói:

- Tôi có bao giờ mong được làm hoàng phi đâu. Với tôi, ông cũng chả là thượng hoàng gì cả. Tôi phải lòng là phải lòng anh Trần Thừa đánh cá năm xưa. Trải bao năm tháng sóng gió dập vùi, tôi không còn trong sạch để thờ ông; đó là lỗi ở tôi. Tôi còn sống đến ngày hôm nay là mong có lúc trả lại đứa con của ông cho ông. Giờ ông đã nhận nó rồi, con tôi đã có cha rồi, tôi không còn gì phải ân hận nữa, cũng không mong muốn gì nữa. Tôi giao nó lại cho ông từ đây đấy.

Nói xong, Mai Thị bỏ vào nhà trong, lúc lâu cũng chẳng thấy ra. Trần Thừa cho thị nữ vào mời. Người thị nữ chạy ra kêu lên:

- Hoàng phi treo cổ tự vẫn rồi.

Bà Liệt thét lên:

- Mẹ ơi! Mẹ chết rồi, con sống làm gì nữa đây.

Nói xong, rút gươm ra tự sát.

Thế mới là:

Nhận cha chưa kịp vui sum họp

Mất mẹ đã mang hận chia lìa

Đan Thành
Nguyễn Nộn phản bạn đánh chiếm Hồng châu

Phạm Hữu gặp thầy học nghề Đại ấp

Trên kia đang nói Bà Liệt thấy mẹ chết, đau buồn quá liền rút gươm tự sát. Viên hiệu uý đứng cạnh vội giật lấy thanh gươm. Thượng hoàng cũng ôm con an ủi, truyền dùng lễ hoàng phi an táng Mai Thị, sai Bà Liệt mang lính về quê lập đền thờ mẹ.

Thượng hoàng nhà Lý lúc bấy giờ đã gọi là Huệ Quang đại sư, từ khi ra ở chùa Chân Giáo, trong lòng buồn phiền, khí sắc hao gầy. Các vị tăng chúng thấy vậy thương lắm, thường chuyện trò để người khuây khoả. Hôm ấy ngày rằm tháng bảy, nhà chùa cúng cháo thí cho các vong hồn. Huệ Quang bảo:

- Các cô hồn còn được nhà chùa cúng tế, hồn phách cha mẹ ta chẳng biết giờ đây phiêu bạt nơi nào, có ai cúng lễ cho không.

Nói xong ôm mặt khóc rưng rức. Sư cụ trụ trì biết Huệ Quang chưa dứt được lòng phàm mới sai hai chú tiểu mang tiền đưa Huệ Quang ra chợ chọn mua lễ vật về đặt ban thờ riêng cúng cha mẹ. Người phủ thái sư biết, về báo với Trần Thủ Độ

- Thượng hoàng nhà Lý ra chợ chơi, dân chúng tranh nhau chạy đến xem, nhiều người thương khóc. Xin thái sư định liệu, để lâu tất không hay.

Thủ Độ nói:

- Dù sao Huệ Quang cũng từng là một vị hoàng đế, ngươi truyền lệnh ta cho các sư tăng ở chùa Chân Giáo không được để ông ấy đi đâu, nhỡ bệnh cũ tái phát nguy đến tính mạng đó, bảo họ phải phụng sự cẩn thận.

Lệnh ấy của Thủ Độ làm ra vẻ quan tâm giữ gìn cho Huệ Quang nhưng thực tình chỉ muốn giam chặt lại, không cho đi đâu sợ mọi người trông thấy sinh lòng nhớ vua cũ. Mấy hôm sau Thủ Độ cho mời Phùng Tá Chu và Lê Khâm đến bàn. Phùng Tá Chu nói:

- Thượng hoàng nhà Lý bây giờ đã như cái hạt luộc chín, thái sư cần gì phải lo.

Thực ra Phùng Tá Chu tuy thờ nhà Trần nhưng trong lòng vẫn còn chút tình thương vua nhà Lý mới nói như vậy để Trần Thủ Độ tha cho Huệ Quang. Lê Khâm thì khác, với tinh thần Bất cộng Lý gia1, ông ta nói:

- Cây khế đã chặt đi, còn sót có cái rễ mà sau mọc lớn hơn cây mẹ.

Thủ Độ là người sáng dạ, chỉ cần được người khác gợi ý một, lập tức có thể hiểu mà thực hiện gấp năm gấp mười. Lời của Lê Khâm chỉ muốn nhằm vào một mình Huệ Quang, chẳng ngờ làm Thủ Độ nảy ra ý phải diệt cả họ hàng nhà Lý. Sang tháng Tám, Thủ Độ ra chơi chùa Chân Giáo, lúc ấy Huệ Quang đang ngồi xổm nhổ cỏ. Thủ Độ nói:

- Nhổ cỏ thì phải nhổ cả rễ sâu2.

Huệ Quang đứng dậy phủi tay nói:

- Điều ngươi nói ta hiểu rồi2

Mấy hôm sau, Thủ Độ sai người bày biện hương hoa đến bảo Huệ Quang:

- Thượng phụ sai thần đến mời2.

Huệ Quang nói:

- Ta tụng kinh xong sẽ tự tử2.

Huệ Quang vào trong phòng khấn rằng;

- Thiên hạ nhà ta về tay ngươi, ngươi lại còn giết ta, ngày nay ta chết, đến khi khác con cháu nhà ngươi cũng bị như thế2.

Khấn xong ra vườn sau thắt cổ tự tử, năm ấy Huệ Quang mới ba mươi ba tuổi. Các nhà sư thấy vậy thương khóc thảm thiết. Các quan đại thần trong triều cũng đến khóc lạy chịu tang. Trần Thủ Độ không cho đưa tang ra lối cửa chính mà bắt khoét tường thành phía Nam làm cửa, gọi là cửa khoét, đem linh cữu ra phường Yên Hoa thiêu, chứa xương vào tháp chùa Bảo Quang. Dân chúng đi đưa khóc như mưa gió. Chiều hôm ấy lính canh bắt mấy người dân thường đến trình với Trần Thủ Độ rằng bọn người này trong khi đi đưa tang đã nói những lời xúc phạm hoàng thượng và đức ông thái sư thống quốc, xin thái sư trị tội. Thủ Độ bảo:

- Xét cho cùng chúng cũng chỉ vì lòng trung mà nói như vậy. Ta không nỡ trách phạt. Thôi! Thả hết chúng đi.

Đám dân thường ấy mới biết Trần Thủ Độ cũng là người nghĩa khí, cùng nhau thụp lạy tạ ơn.

Huệ Quang chết rồi, Trần Thủ Độ tâu với vua Trần giáng thái hậu Trần Thị Dung làm Thiên Cực công chúa, gả cho mình làm vợ, lại ban cho châu Lạng làm ấp thang mộc. Việc này khiến người đời sau hết lời chê trách.

Mùa thu tháng tám năm Kiến Trung thứ tư (1228), vua Trần phong anh là Trần Liễu làm thái uý. Phùng Tá Chu tâu:

- Nay trong triều đã yên định, quân thế đủ mạnh, lương thảo dồi dào xin hoàng thượng lo mặt tả ngạn để thiên hạ thu về một mối.

Trần Thái Tông hỏi:

- Muốn sang tả ngạn phải làm thế nào?

Phùng Tá Chu tâu:

- Nhà Tống vẫn muốn đánh Đại Việt ta, nhưng hiện nay họ đang cùng người Thát đánh nước Kim. Quân Kim tuy mạnh nhưng không thể cùng một lúc chống với hai kẻ địch hung bạo như Mông và Tống, trước sau gì cũng phải tan vỡ. Người Thát là giống sài lang hiện đã đánh chiếm hết cả miền Tây Hạ, khi nước Kim đã diệt rồi, ắt sẽ đến lượt nước Tống. Tống, Mông nước nào thắng cũng không thể bỏ qua Đại Việt, nếu nước ta cứ trong tình trạng chia năm xẻ bảy thế này sao đủ sức chống được giặc mạnh. Còn việc nên làm thế nào, thần chắc quan thái sư đã có kế sách.

Thái Tông quay nhìn thái sư Trần Thủ Độ. Thủ Độ tâu:

- Thần xin đem quân sang sông, trước chiếm đất Tế Giang, Gia Lâm làm bàn đạp, sau đánh chiếm Đằng châu, chiếm được hai nơi ấy thì Hồng châu thượng hạ như trong lòng bàn tay rồi. Mặt khác, xin hoàng thượng gia phong thêm cho Nguyễn Nộn để y không đi cứu Đoàn Thượng, việc ta chắc xong.

Lê Khâm nói:

- Tôi xin hiến một kế để Nguyễn, Đoàn hai nhà đánh nhau; ta ở giữa thu lợi, như vậy chẳng đỡ mệt cho thái sư sao.

Thái Tông truyền:

- Nhà ngươi cứ nói.

Lê Khâm tâu:

- Nguyễn Nộn không phải là người tín nghĩa. Xưa kia nhiều kẻ theo hắn là nhờ có Đỗ Nguyên Bá sắp đặt. Nay Nguyên Bá đã chết, Nguyễn Nộn lộ nguyên hình là một gã tham tàn. Chúa thượng nên nhân việc Đoàn Thượng không nhận phong vương, đem đất thượng Hồng mà gia phong cho Nguyễn Nộn. Tôi chắc thế nào hai nhà ấy cũng hại lẫn nhau. Đây chính là kế Tào Tháo phong đất Kinh Tương cho Công Cẩn vậy.

Trần Thái Tông nghe theo kế ấy, phái sứ giả sang phong đất thượng Hồng cho Nguyễn Nộn. Nộn họp các tướng bàn:

- Ta có ý lấy đất Hồng châu đã lâu, nay vua Trần lại phong đất ấy cho ta nhưng sợ Đoàn Thượng không chịu, nên làm thế nào bây giờ?

Đại tướng thuỷ quân Võ Hàn nói:

- Từ cổ đến nay chưa ai tự dưng đem đất cho người khác. Đại vương muốn được đất ấy chỉ có cách nhân dịp này cử sứ sang đòi. Thế nào Đoàn Thượng cũng gây khó dễ. Ta mượn cớ tiến binh sang đánh mới được.

Đại tướng tiền quân Trương Thái nói:

- Họ Trần rất là ma giáo, đây chính là kế khích Chu Du đòi đất Lưu Bị, ai có lạ gì. Nếu ta tham một mảnh đất thượng Hồng, nhất định mắc mưu ngay.

Nguyễn Nộn nói:

- Ta cũng biết là như thế nhưng không lấy đất Hồng, chịu kẹp giữa hai nhà Trần, Đoàn mãi hay sao. Ma Lôi, ngươi có ý gì không?

Phan Ma Lôi nói:

- Tôi có một kế không những có thể lấy được đất thượng Hồng mà ngay hạ Hồng cũng về tay ta cả. Đoàn Thượng tuy ngang tàng nhưng lại dễ tin người, chỉ cần một mẹo lừa nhỏ là cơ nghiệp của hắn thành tro tàn.

Nguyễn Nộn cười bảo:

- Mưu kế của ngươi thế nào, cứ nói.

Ma Lôi thưa:

- Đại vương nên viết thư sai sứ đến nói rõ với Đoàn Thượng việc nhà Trần phong đất là kế li gián hai nhà Nguyễn, Đoàn, rồi hẹn với Đoàn Thượng cùng đem quân đánh nhà Trần. Đoàn Thượng đang hận nhà Trần, tất mang quân đi. Hạ Hồng bỏ ngỏ, ta đem quân đánh úp, hai đầu ép lại, chắc là toàn thắng.

Trương Thái nói:

- Kế ấy tuy hay nhưng là việc lừa người, không phải hành động của bậc quân tử.

Ma Lôi nói:

- Phàm đã là việc dụng binh, tranh thành cướp đất không lừa người tất bị người lừa, vậy đằng nào hơn?

Võ Hàn nói:

- Lời quân sư Ma Lôi rất phải, không nên vì tiểu tiết mà bỏ cơ hội lớn. Đại vương nên quyết ngay đi thôi.

Nguyễn Nộn phán:

- Lời Võ tướng quân rất hợp ý ta.

Nói xong liền sai lấy bút mực viết thư cho Đoàn Thượng, mặt khác lệnh cho các tướng điểm binh sẵn sàng chờ lệnh. Cử Ma Lôi làm quân sư, toàn quyền điều vát tướng lĩnh. Từ khi Đỗ Nguyên Bá chết, truyền lại cuốn Bát thập nhất kì mưu cho Ma Lôi. Ma Lôi đêm ngày nghiền ngẫm, chẳng bao lâu đã thuộc hết các mưu mẹo như : Mồi ngon câu cá đói, thóc tốt nhử gà tồ, nhà cao cần chắc móng, vững giậu thì bền tường, giấu vuốt chờ mồi, tách trâu khỏi cỏ..., nay muốn đem ra thi thố, đêm ngày vạch kế hoạch cho Nguyễn Nộn.

*

Đây nói về Đoàn Thượng, từ khi không đến nhận phong của nhà Trần, rút về Hồng châu xưng là Đông Hải vương, xây thành đắp luỹ tính kế lâu dài, tự mình luyện tập quân sĩ ở Thị Đức thành, cho con là Đoàn Văn giữ thành Yên Nhân khống chế cả một dải Gia Lâm, Tế Giang cho đến Đằng châu. Hôm ấy nhận được thư của Nguyễn Nộn, Thượng cho họp chư tướng, nói:

- Ta dẫu là tội nhân của nhà Lý nhưng không bao giờ có dạ phản chủ, ngày đêm chỉ mong diệt được bè lũ nhà Trần để trấn hưng triều Lý. Nay có thư của Hoài Đạo vương hẹn cùng khởi binh, các tướng nghĩ thế nào?

Đại tướng là Phạm Đình Khanh thưa:

- Hoài Đạo vương tuy lâu nay kết thân với ta nhưng lòng dạ hiểm ác khó lường. Nếu ta tin ngay, cất quân đi e có điều gian dối gì chăng. Vả lại họ Nguyễn đã nhận phong của họ Trần, thường thông sứ qua lại, một khi họ hợp mưu với nhau thì ta nguy mất.

Tả quân Mai Đức Long nói:

- Hoài Đạo vương đã kết tình huynh đệ với đại vương ta, xưa nay chưa có điều gì khiếm khuyết. Bỗng dưng ta đem lòng nghi kị, như thế chẳng phải mang lỗi lớn lắm sao?

Đoàn Thượng bảo:

- Mai tướng quân nói có lý lắm. Ta dựng cờ cốt lấy chữ tín làm trọng mà lại đi nghi ngờ anh em còn ai tin ta nữa.

Nói rồi truyền lệnh chuẩn bị, phân công Phạm Đình Khanh lĩnh tiền đội đi trước. Mai Đức Long, Trịnh Dực lĩnh tả hữu đội. Đoàn Thượng giữ trung quân đi ở giữa, sai Nguyễn Ưng đốc thúc thuyền bè theo đường sông lên bãi Cửu Liên, chọn ngày mùng hai tháng chạp tiến binh, để hai nghìn quân cho Nguyễn Hoa giữ thành Thị Đức, lại báo cho Đoàn Văn chuẩn bị quân lương vận chuyển trước đến Tế Giang.

*

Nguyễn Nộn, sau khi đưa thư cho Đoàn Thượng, liền sai Nguyễn Sĩ Vinh đem năm nghìn quân đến Gia Lâm chia lẻ ra đóng làm mười trại dọc bờ sông Phú Lương, nói phao lên là hai vạn quân, cho người đưa thư giục Đoàn Thượng tiến gấp. Khi biết Thượng đã cất quân đi rồi, Ma Lôi liền cùng bọn Nguyễn Sĩ Hiển, Võ Hàn đem quân đánh úp thành Thị Đức để chẹn đường về của Đoàn Thượng, còn Nguyễn Nộn cùng Quách Thanh phục binh đánh Thượng ngang đường.

Thị Đức là ngôi thành đắp bằng đất, bên ngoài và phía trên trồng luỹ tre gai rất dày, Nguyễn Hoa lệnh cho quân sĩ canh phòng cẩn mật chẹn ngang con đường từ huyện Thanh Miện đến bến sông Thưa. Ma Lôi trước đây theo kế của Đỗ Nguyên Bá đã huấn luyện sẵn một đội hoả công binh. Lúc ấy là cuối mùa đông cây cỏ héo tàn, thời tiết khô hanh lại có gió hây hẩy rất thuận lợi. Canh ba, Ma Lôi cho đội hoả công binh tiến sát chân thành phía Bắc, cứ cách ba mươi bước đặt một bó rơm tẩm dầu, đồng loạt đốt lên. Lửa được gió cháy như Hoả Diệm Sơn, các thân tre nổ như pháo tết. Nguyễn Hoa vừa đi tuần về, thấy bên ngoài xôn xao, chạy ra, bốn bề đã rực trời lửa sáng. Phó tướng Vũ Bình bảo:

- Tướng quân nên chạy ra cửa Nam.

Nguyễn Hoa nói:

- Ta là tướng giữ thành tất phải sống chết với thành chứ có đâu lại bỏ chạy bao giờ. Nhưng ta sẽ đưa ngươi ra khỏi trùng vây, mau tìm đến cấp báo với đại vương để tránh mắc lừa quân giặc.

Nói xong, Nguyễn Hoa múa cây côn bịt sắt dẫn Vũ Bình cùng năm tráng sĩ ra cửa Nam, ở đây lửa cháy to quá không thể ra được, lại vòng sang cửa Tây. Quân Bắc thấy có người ra thành, liền xúm lại đánh. Nguyễn Hoa không hề nao núng, rút trong người ra bốn ngọn phi tiêu, vung tay ném không sai phát nào. Quân Bắc kinh sợ dạt ra. Nguyễn Hoa bảo Vũ Bình và mấy tráng sĩ:

- Các ngươi cứ việc đi mau, để ta chặn chúng cho.

Vũ Bình đi rồi, Nguyễn Hoa múa tít cây côn, đánh quay lại cứu quân sĩ. Lúc ấy quân Bắc đã tràn vào thành, hai bên đánh nhau dữ dội, xác chết nằm ngổn ngang. Hoa đang xông xáo đánh lui mấy toán Bắc quân, gặp ngay Nguyễn Sĩ Hiển chặn lại nói:

- Nguyễn Hoa! Ngươi chết đến nơi rồi mà còn hung hăng thế sao? Mau hàng ngay đi, đại vương ta cũng không bạc đãi đâu. Ta lấy tình quen biết mà đảm bảo như thế đấy.

Nguyễn Hoa cười nói:

- Ta biết bụng dạ đại vương nhà ngươi thế nào rồi, muốn hàng lắm nhưng cây côn này nó không cho hàng.

Hoa nói xong, vung côn xông vào. Hai người đánh nhau đang hăng, Ma Lôi từ xa trông thấy, xem ra Sĩ Hiển không thể một mình hạ được Nguyễn Hoa, liền vác cây đại phủ xông vào đánh giúp. Nguyễn Hoa một mình qua lại đánh với hai tướng, vẻ mặt vẫn bình tĩnh như không. Võ Hàn thấy thế cũng lao tới, vây Nguyễn Hoa vào giữa. Nguyễn Hoa thấy đuối sức, vờ vụt Ma Lôi một côn rồi nhảy ra khỏi vòng, chạy đến gần ngôi nhà đang cháy, rút một cây phi tiêu dài, đợi ba tướng đuổi tới, vung tay ném. Cây phi tiêu cắm trúng giữa mặt Sĩ Hiển. Hiển chỉ kịp rú lên một tiếng, ngã lăn xuống đất chết. Hoa định quay lại đánh chẳng ngờ cây xà đang cháy rơi trúng người, lảo đảo ngã xuống, bị Võ Hàn xông đến chém chết. Quân Đông Hải thấy mất chủ tướng, chạy tan cả. Ngay ngày hôm sau, Ma Lôi cử người ở lại giữ thành Thị Đức còn bao nhiêu quân sĩ và các tướng đều đi sang Đường An3, chặn lối về của Đoàn Thượng.

Chiều hôm ấy Đoàn Thượng dẫn quân đến địa phận Tế Giang, hai bên đường lau sậy rậm rạp, đây đó những bạt rừng thưa rải rác. Mặt trời ngả bóng tà tà, Thượng cho quân dừng lại nấu cơm ăn bỗng đâu nổi lên một tiếng pháo lệnh, quân Bắc ba mặt ào ào xông đến chém giết. Quân Thượng không kịp trở tay bị chết hại rất nhiều. Mai Đức Long nói:

- Có lẽ quân ta bị Nguyễn Nộn lừa thật rồi. Đây gần thành Yên Nhân, đai vương mau rút về đó ngay cho. Tôi xin đi sau cản giặc.

Nói rồi giục Phạm Đình Khanh và Trịnh Dực bảo vệ Đoàn Thượng chạy sang thành Yên Nhân, không ngờ Nguyễn Nộn dùng kế của Ma Lôi lấy mất thành Yên Nhân rồi. Đoàn Thượng phải quay ngược trở lại, rơi vào thế lưỡng đầu thọ địch, không biết chạy vào đâu. Đang lúc cùng đường bỗng thấy một đạo quân mấy trăm người đánh thốc từ hướng Tây Nam đến, tướng đi đầu chính là Nguyễn Ưng. Bốn tướng hợp sức đánh giết một hồi, cứu được Đoàn Thượng ra ngoài vòng vây. Đoàn Thượng hỏi Nguyễn Ưng:

- Sao nhà ngươi đến kịp đây tiếp ứng cho ta?

Nguyễn Ưng thưa:

- Tôi xin đến đây chịu tội với đại vương. Thuyền bè bị Vương Thiện Luân lừa cướp hết mất rồi. Tôi chưa chết là muốn về đây báo để đại vương khỏi mắc vào gian kế của Nguyễn Nộn. Xin đại vương nhận một lạy.

Nguyễn Ưng nói xong vái Đoàn Thượng một vái, rút gươm định tự sát. Mai Đức Long ngăn lại nói:

- Lỗi này không riêng của mình bác, chính tôi có tội đầu tiên. Tôi đã khuyên đại vương tin lời Nguyễn Nộn nên mới ra cơ sự này. Bác hãy đợi tôi đi cùng.

Nói rồi cũng định tự vẫn. Đoàn Thượng nói:

- Nói về lỗi, chính ta mới là kẻ có tội. Nhưng bây giờ không phải là lúc trách lỗi ai cả, hãy quay về Thị Đức củng cố lại lực lượng có hơn không?

Vua tôi đang tìm đường đi tắt qua rừng thì thấy Vũ Bình cùng mấy tráng sĩ quần áo tơi tả chạy đến quỳ thưa:

- Đại vương ôi! Thị Đức bị Ma Lôi Đánh chiếm mất rồi. Tướng quân Nguyễn Hoa cản giặc cho tôi đến đây báo tin, không biết bây giờ sống chết thế nào.

Nghe tin mất Thị Đức, Đoàn Thượng rất lo lắng. Lúc sau lại có đám tàn binh từ Thị Đức chạy đến báo tin Nguyễn Hoa đã giết Sĩ Hiển và chết thế nào. Đoàn Thượng nghe tin Nguyễn Hoa chết, đau xót vô cùng. Phạm Đình Khanh nói:

- Bây giờ trước sau đều có giặc, đại vương không nên nấn ná ở đây. Ta mau tìm đường về Bàng châu4. Đất ấy xuôi về Tam Trĩ Nguyên còn mấy trăm dặm, có thể tính kế lâu dài được.

Đoàn Thượng nghe theo, đi tắt đường sang châu Nam Sách, đến Hàn giang, nước chảy xiết lại không có thuyền bè, chưa biết tính thế nào. Trống mõ ở đâu nổi lên, quân Bắc từ các bãi ngô bãi mía xông ra đuổi đánh, tướng đi đầu chính là Trương Thái. Quân Đông Hải hết vía rụng rời, xô nhau bỏ chạy. Mai Đức Long bảo bọn Phạm Đình Khanh, Nguyễn Ưng và Trịnh Dực:

- Các bác bảo vệ đại vương, để tôi cản giặc cho - quay lại nói với mấy viên tuỳ tướng - Chúng ta ngày thường ăn lộc của đại vương, hôm nay xin hãy đem thân báo đền ân chủ.

Các tướng đều nói:

- Chúng tôi chẳng dám tiếc thân.

Mai Đức Long cầm ngang ngọn giáo, dẫn tám dũng sĩ cản đường Trương Thái. Trương Thái chỉ tay bảo:

- Đức Long! Ta biết ngươi là dũng tướng đời nay, cùng đường rồi sao không hàng đi, mua lấy cái chết làm chi cho uổng.

Đức Long nói:

- Chủ ta là người quân tử, nhất thời lỡ nhầm gian kế của lũ ngươi. Ta là đại tướng, chết thì được chứ có đâu lại theo hàng một lũ tiểu nhân.

Trương Thái cười lớn nói:

- Liệu ngươi có dám đỡ lưỡi đao của ta không?

Đức Long cũng cười, nói:

- Không giết được ngươi đâu dám nhận là dũng sĩ Hồng châu.

Hai người lao vào đánh nhau. Quân Bắc nhất loạt tiến lên. Tám dũng sĩ Hồng châu liều chết đánh cản nhưng làm sao chặn được mấy nghìn quân Bắc, tất cả lần lượt tử thương chỉ còn mình Đức Long đánh với Trương Thái. Đức Long sợ đơn thương độc mã không làm gì nổi, mới nghĩ ra một kế, vờ kéo lê ngọn giáo chạy ra phía bờ sông Hàn. Trương Thái đuổi theo bén gót, reo lên giễu cợt:

- Dũng sĩ Hồng châu chạy nhanh quá, đợi ta với chứ.

Đức Long chẳng nói gì, cứ cắm đầu chạy đến sát mép nước, dừng lại nói:

-Ta với ngươi đánh nhau bằng binh khí chán rồi, ngươi có dám cởi trần đánh nhau tay không với ta mới là giỏi.

Trương Thái nói:

- Việc đó có gì là khó. Ta đang bức đây, cởi trần thì cởi trần.

Nói xong bỏ đao, cởi tuột giáp trụ. Đức Long cũng trần trùi trụi xông vào nhưng lại nghĩ: " Đánh nhau ở chỗ cạn nhỡ mình không kéo được nó xuống chỗ sâu thì hỏng mất ", liền giả vờ kêu " Ôí " lên một tiếng, ngã ùm xuống nước chìm nghỉm. Trương Thái không biết là mẹo liền lao theo quyết bắt sống. Đức Long chỉ chờ có thế, giơ tay túm ngay lấy búi tóc của Trương Thái, lôi ra xa dìm cho chết. Trương Thái chỉ quen đánh nhau trên bộ, chống sao được Đức Long là người sinh ra và lớn lên bằng nghề chài lưới vùng ven biển, bị dìm cho một trận, uống nước ừng ực nhưng nhờ có sức khoẻ hơn người nên cứ túm chặt lấy Đức Long. Hai ngươi cùng chìm dần trong dòng nước cuồn cuộn chảy. Bắc quân chạy theo trên bờ kêu gào nhưng không ai dám xuống cứu. Việc này về sau có bài thơ chứng rằng:

Sông Hàn cuồn cuộn chảy về Đông

Lưu mãi đời sau dấu anh hùng

Ngàn năm sóng giội không rửa sạch

Phù sa hay máu để nước hồng.

Phạm Đình Khanh cùng Nguyễn Ưng và Trịnh Dực bảo vệ Đoàn Thượng chạy về huyện Trường Tân5, chỗ này đến thành Thị Đức đi bộ mất nửa ngày đường. Quân Bắc đằng sau đuổi gấp, trên mặt sông Đĩnh Đào la liệt thuyền chiến của Võ Hàn. Đoàn Thượng cùng đường, bảo các tướng:

- Các ngươi theo ta đến đây cũng tỏ được lòng trung rồi. Trời chẳng thương, mình ta chịu là đủ, các ngươi phải cùng chết làm chi, hãy mau tìm đường trốn cả đi.

Bọn Phạm Đình Khanh, Nguyễn Ưng và Trịnh Dực cùng các tướng sụp lạy, khóc nói:

- Chúng tôi thà chết cả chứ nhất định không chịu bỏ đại vương lúc này.

Nói xong, Khanh, Ưng dẫn hơn trăm tàn binh xông ra cản giặc, chết cả trong đám loạn quân. Đoàn Thượng biết không thể thoát, trèo lên gò đất cao nguyền rằng:

- Ta là Đông Hải vương cùng ngươi thề khôi phục nhà Lý, coi ngươi như anh em, hết lòng tin tưởng, vậy mà ngươi nhẫn tâm lừa ta. Ta chết rồi cũng kiện nhà ngươi tới tận Diêm la địa phủ.

Nói xong rút gươm tự sát. Trịnh Dực và các tướng tuỳ tùng cũng đâm cổ chết theo.

Nguyễn Nộn trước kia vốn ở nhà chùa, xem nhiều tranh tượng tả cảnh cực hình chốn âm ty, nay nghe quân lính kể lại lời nguyền của Đoàn Thượng, sợ hãi sinh ra bệnh hoảng hốt mất ngủ, truyền cho quân lính lấy gỗ tốt làm quan tài mai táng Đoàn Thượng tại nơi tự sát. Dân Hồng châu gọi nơi ấy là Mả Vua6.

Đoàn Văn con trai Đoàn Thượng, khi trước ở thành Yên Nhân, nhận lệnh cha đem lương thảo đến Tế Giang, giao thành cho phó tướng Vương Hà giữ. Mấy hôm sau Nguyễn Nộn cho đội quân của Quách Thanh mặc giả quân Hồng châu gọi mở cổng cho công tử về. Vương Hà không nghi ngờ gì, mở cổng ra đón, bị Quách Thanh chém một nhát chết. Quân Bắc ùa cả vào thành bắt hết gia quyến Đoàn Văn. Khi Đoàn Thượng chết rồi, Nguyễn Nộn cho người đến bảo Đoàn Văn nếu không chịu hàng sẽ giết sạch cả họ. Đoàn Văn không biết làm thế nào đành đến xin hàng.

Nguyễn Nộn thắng lớn nhưng mất hai viên đại tướng Trương Thái và Nguyễn Sĩ Hiển, tiếc lắm, lệnh cho bắt hết gái đẹp, trai tráng, trâu ngựa, của cải đất Hồng châu đem về Kinh Bắc. Kẻ nào không tuân, giết không tha. Nguyễn Sĩ Vinh nhân lệnh ấy làm quá lên, ra tay chém giết binh lính cũ của Hồng châu, trả thù cho em trai là Nguyễn Sĩ Hiển.

*

Phạm Hữu, từ khi chia tay Nguyễn Bằng sang với Nguyễn Nộn, được tin dùng làm quản binh hiệu uý dưới trướng Đỗ Nguyên Bá, chuyên lo sổ sách, nay theo đi đánh trận, trong khi giao chiến ở Tế Giang, bị một mũi tên vào vai phải ngã lăn bên gốc cây, đến đêm tỉnh lại, chiến trận đã im lìm. Chàng nghiến răng rút mũi tên, nhai cỏ rịt vào vết thương, gượng đau đứng dậy đi về phía bìa rừng. Đây đó xác quân lính hai bên còn ngổn ngang chưa có người thu táng, bỗng nghe văng vẳng có tiếng ai kêu rên cầu cứu lúc càng rõ. Phạm Hữu tiến lại phía ấy thấy bốn năm xác lính Hồng châu lẫn với mấy xác lính Bắc quân đè lên nhau, trong đó có một người còn động đậy. Chàng nâng người đó lên, dưới ánh trăng lờ mờ nhận ra đó chính là Nguyễn Bằng, liền kéo ra nhưng Nguyễn Bằng bị thương cả hai chân không thể đi được. Phạm Hữu liền xé áo của mấy xác lính làm băng buộc vết thương cho bạn, lại lấy một bộ đồ lính Bắc quân cho Nguyễn Bằng mặc, bảo:

- Bây giờ Sĩ Vinh đang truy giết quân Hồng châu. Anh thay bộ này nhỡ sáng ra có gặp Bắc quân cũng không lo bị sát hại.

Nguyễn Bằng nói:

- Từ ngày chúng ta xa nhau đến nay đã mấy năm, không ngờ gặp lại trong tình huống trớ trêu thế này.

Phạm Hữu bảo:

- Anh còn nhớ chuyện hai con trâu bị ép đánh nhau năm xưa không? Có điều chúng ta nhất định phải sống. Chúng ta khác loài trâu chính là ở chỗ ấy đấy. Thôi! Chuyện thì dài, sau này còn dịp nói, để tôi dìu anh đi, tìm nơi trú tạm đã.

Xa xa có ánh lửa lập loè, Nguyễn Bằng bảo:

- Ta đến chỗ ánh lửa kia xem có phải nhà dân, xin cái gì ăn tạm.

Hai người đỡ nhau lê đi, lúc lâu đến một làng nhỏ ven sông. Nơi phát ra ánh lửa là một ngôi nhà gỗ năm gian, có vẻ là gia đình khá giả, đêm khuya lắm nhưng ở tiền sảnh vẫn còn ánh đèn, phía sau là hai ngôi nhà nhỏ hơn tối im ỉm. Phạm Hữu ngó qua giậu râm bụt thấy có bóng người, cất tiếng gọi.

- Trong nhà có ai còn thức, giúp chúng tôi với.

Có tiếng kẹt cửa, một ông già cầm đèn ra hỏi:

- Ai mà đến khuya thế này?

Phạm Hữu nói:

- Chúng cháu là lính bị thương ở rừng, mong cụ giúp đỡ. Bạn cháu yếu lắm.

Ông lão mở cổng cho hai người vào. Trong nhà sực nức mùi thơm của các loại thuốc quý. Ông lão cởi mở nói:

- Nhà tôi đêm khuya có người gọi cổng lấy thuốc là chuyện thường. Chắc các bác chưa ăn gì. Tôi bảo trẻ nó làm cơm ngay. Bác này trông mệt quá. Để tôi xem vết thương thế nào nào.

Nói xong, ông cụ gọi người nhà nấu cơm còn tự mình rửa vết thương cho hai chàng trai, lấy thuốc dấu rịt lại kĩ càng. Phạm Hữu nói:

- Thật phúc đức chúng con gặp được cụ, xin cho chúng con được biết cao danh ạ.

Ông lão vuốt chòm râu bạc, nói:

- Tôi họ Chử7, tên là Nhiệm Khai. Nhà tôi đời đời làm thuốc ở ấp Đại này.

Phạm Hữu ồ lên một tiếng, hỏi tiếp:

- Dạ! Có phải cụ là Chử thái y của Lý triều không ạ?

Ông lão vui vẻ bảo:

- Bác cũng biết có Chử thái y này ư ? Nhưng từ khi nhà Lý mất, tôi về quê làm thuốc cứu giúp dân lành, tránh xa chốn quan trường rồi. Cũng may vết thương của các bác đều không chạm tới xương nên mau lành thôi.

Phạm Hữu rút trong người ra một nén bạc, hai tay dâng lên, nói:

- Chúng con có lẽ còn phiền cụ ít ngày, gọi có chút lễ mọn trong lúc khó khăn, mong cụ nhận giúp. Chúng con biết ơn nhiều lắm.

Chử thái y nói:

- Tôi đã giúp được gì cho các bác đâu. Hãy cất bạc đi, sau này còn nhiều dịp dùng đến đấy.

Hai người ở lại nhà Chử công qua tết nguyên đán. Đầy tháng, các vết thương lành lặn cả. Chử công thấy hai chàng nói năng lễ độ, lại là người có học thì mến, coi như con cái trong nhà. Nguyễn Bằng bảo Phạm Hữu:

- Chúng ta làm phiền Chử công đã lâu, có lẽ đã đến lúc xin phép về quê được rồi.

Phạm Hữu hỏi:

- Về quê rồi anh định làm gì?

Nguyễn Bằng nói:

- Thì chúng mình lại đi học ?

Phạm Hữu bảo:

- Học rồi đi thi, nhao vào chốn quan trường. Con đường đó thật là ghê sợ. Tôi muốn bái Chử tiên sinh làm thầy, ở đây học lấy nghề làm thuốc cứu người. Một mai về quê có thể giúp giùm làng nước.

Nguyễn Bằng nói:

- Anh có ý như thế thì hai chúng ta cùng ở lại.

Hai chàng mới vào bái lạy Chử công, nói rõ ý nguyện của mình. Chử công bảo:

- Các con biết mưu việc cứu người thật là đáng quý. Nhưng nghề làm thuốc vất vả lắm. Ai muốn làm giầu chớ chọn nghề này. Vả lại y thuật cũng phải có duyên mới làm được. Bây giờ mỗi anh lấy một con dao lạng, lạng lấy hai cân xuyên quy tôi xem đã.

Nguyễn Bằng nhanh nhẹn, lạng thoăn thoắt, một lúc đã làm xong, lại làm giúp cho Phạm Hữu. Chử công cầm tay từng người xem xong, nói:

- Tiếc rằng trong hai người chỉ có Phạm Hữu học làm thuốc được thôi. Nguyễn Bằng tay nhiều mồ hôi quá. Con còn nhiều vất vả với đời, nhưng đừng buồn, cứu người cũng có dăm bảy đường, làm ông quan tốt còn có thể cứu được nhiều người hơn cơ đấy. Xem ra con có duyên với văn chương, hãy gắng công học hành, mai này ra giúp dân.

Nguyễn Bằng nói:

- Dạ thưa thầy! Ngày nay nhà Lý đã mất. Trần Thủ Độ chuyên quyền, vô học, vậy còn trông mong gì về đường khoa cử nữa ạ?

Chử công bảo:

- Không phải hoàn toàn như thế đâu. Đúng! Trần Thủ Độ là người chuyên quyền và tàn nhẫn vô học thật đấy nhưng ông ta có tài và quyết đoán mà liêm chính, biết trọng người hiền lại hướng về trăm họ. Ta chắc nhà Trần rồi sẽ khá.

Phạm Hữu hỏi:

- Thầy nhận định như vậy sao không giúp nhà Trần mà lại bỏ về ạ?

Chử công nói:

- Không phải chỉ riêng mình ta như thế, nhiều người cũng bỏ đi chỉ vì chữ "trung". Người quân tử có lẽ đâu lại thờ hai chúa. Há các con chẳng hiểu đạo tam cương8 sao?

Hôm sau Nguyễn Bằng bái biệt Chử công và chia tay Phạm Hữu, hẹn ba năm sau gặp lại ở chốn quê nhà. Phạm Hữu ở lại nhà Chử công ra sức tu nghiệp, vốn tính thông minh học đâu nhớ đấy. Chử công quý mến lắm mới đem hết những điều tinh diệu của y thuật truyền cho, lại đưa những bộ sách quý của Biển Thước, Trương Cơ bảo chép ra hai bản dùng về sau. Các phép chẩn mạch đoán bệnh, lôi công bào chế, xuyên lâm tầm dược cũng chỉ bảo cặn kẽ. Người con gái út của Chử công là Chử Thị Ngọc, tuổi vừa đôi tám xinh đẹp nết na, thấy Hữu thông minh nho nhã lại chịu học chịu làm, đem lòng yêu. Chử công biết ý mới bảo Phạm Hữu:

- Ta xem con là ngươi tư chất, em Ngọc cũng có ý thương yêu. Ta muốn tác thành cho hai con. Vậy ý con thế nào?

Phạm Hữu thưa:

- Con đội ơn thày đã dày công dạy dỗ, còn chưa có dịp báo đền nay lại được thày thương như vậy thật nhà con có phúc lớn, con đâu dám không vâng nhưng việc nhân duyên là ở mẹ cha sắp đặt. Xin thày cho con về Trường Tân thưa lại với cha mẹ để có cơi trầu gọi là sính lễ và con cũng được tròn hiếu đạo.

Chử công thấy Hữu nói như vậy mừng lắm, liền sắp sửa hành trang để hôm sau Phạm Hữu về quê, lại cho một gia nhân theo hầu sớm tối. Nói sao hết tình lưu luyến của đôi trẻ khi chia tay, Phạm Hữu bảo:

- Ta về quê chuyến này nhiều nhất là nửa tuần trăng, xin nàng chớ nên lo buồn làm chi.

Chử Thị nói:

- Đường đất xa xôi, mong anh cẩn trọng rồi mau trở lại. Đừng để tôi mòn mỏi mong chờ.

Nói xong đưa cho Hữu một chiếc khăn trầu. Phạm Hữu và người gia nhân đi rồi, Thị Ngọc buồn lắm, chỉ mong sao cho chóng đến ngày người yêu trở lại. Nhưng mới được ba ngày thấy tên gia nhân hớt hải chạy về báo:

- Giữa đường cậu Hữu bị quan binh bắt trói đưa đi rồi, không biết lành dữ thế nào.

Cả nhà nghe tin đều rụng rời hết vía.

Thật là:

Chỉ muốn ẩn thân tìm an lạc

Biết đâu kiếp nạn lại đang chờ .

Thái sư giết tôn tộc nhà Lý ở thái đường Hoa Lâm

Hoàng thượng hỏi đạo đời Phù Vân trong thảo am Yên Tử

Hãy nói Nguyễn Nộn từ khi đánh tan Đoàn Thượng, nghĩ mình là vô địch trong thiên hạ, tự xưng là Đại Thắng vương, bắt nhiều con gái đẹp của đất Hồng châu về hầu hạ, đã bị bệnh tâm thần hoảng loạn lại quá ham mê tửu sắc, sức lực mỗi ngày một giảm, hơn nữa lúc nào cũng bị lời thề của Đoàn Thượng ám ảnh nên trong lòng luôn không được yên. Nộn sợ Trần Thủ Độ biết, mới cho quân nói phao lên rằng quân số của mình ngày nay đã lên tới mười lăm vạn, chỉ qua tết nguyên đán là tiến sang bờ Nam, bao vây kinh thành. Tin ấy bay về Thăng Long, nhà Trần lo lắm. Trần Thủ Độ xin cử Phạm Kính Ân đem quân sang sông tuần thám còn mình tự điều vát quân sĩ sẵn sàng đánh giặc. Lê Khâm tâu:

- Trong phép thủ thắng không đánh mà giặc tự tan là thượng sách, cùng bất đắc dĩ phải giao chiến thì giữ cho ít tốn xương máu là trung sách, thắng mà hao binh tổn tướng là hạ sách. Cứ như ý tôi, thái sư không nên cất quân vội, cần có bước chuẩn bị kĩ trước đã.

Trần Thái Tông lúc ấy mới chín tuổi, ngồi thiết triều, hỏi:

- Khanh bảo chuẩn bị thế nào?

Lê Khâm tâu:

- Binh thư nói biết mình biết người trăm đánh trăm thắng. Muốn biết được người tất phải dụng gián, dụng thám. Việc cho Phạm Kính Ân sang sông là cần thiết nhưng như vậy cũng mới chỉ biết được bên ngoài của quân địch, muốn biết nội tình, cần có người vào tận hang ổ của chúng.

Thái Tông nhìn Thủ Độ, hỏi:

- Thượng phụ bảo thế có đúng không?

Thủ Độ tâu:

- Khuông quốc thượng tướng quân1 nói rất có lí, nhưng ai sẽ là người vào được hang ổ của chúng bây giờ.

Phùng Tá Chu nói:

- Thần nghĩ việc này cũng không khó, nhưng cần có người dám liều thân cho xã tắc.

Thái Tông bảo:

- Liều thân thì liều thân, các khanh cứ bàn đi, nhanh nhanh lên trẫm còn đi đào dế đây.

Phùng Tá Chu tiếp:

- Nguyễn Nộn là kẻ tham của, hám danh mà háo sắc. Nay nhân việc y vừa đánh thắng Đoàn Thượng, nhà vua nên gia phong cho hắn lại đem con gái hoàng tộc gả cho để dò tin tức từ trong, như vậy lo gì không biết được nội tình của chúng.

Thái tông nghe theo kế ấy, liền sai sứ sang phong cho Nguyễn Nộn làm Hoài Đạo Hiếu Vũ Vương. Thượng hoàng phong cho cháu vợ là Ngoạn Thiềm làm công chúa gả cho Nộn.

Nguyễn Nộn được gia phong tước lộc, lại lấy được công chúa Ngoạn Thiềm, mãn nguyện lắm, tự thấy mình đau ốm, quân lực cũng không bằng họ Trần mới sai sứ về kinh tạ ơn, xưng thần và hẹn đến tháng mười vào chầu. Ma Lôi và các tướng thấy Nộn suốt ngày quấn quýt bên công chúa Ngoạn Thiềm và bọn cung nữ, không còn tưởng gì đến việc binh nhung, mới cùng nhau đến thưa:

- Đại vương nay bệnh tình chưa khỏi, tửu sắc là cái họa chết người, vả lại họ Trần kết thân với ta chưa chắc đã có ý tốt. Chuyện nàng Tây Thi ngày trước còn như tấm gương, xin đại vương minh xét.

Nguyễn Nộn tỉnh ra, liền sai lập cung riêng cho công chúa Ngoạn Thiềm ở. Công chúa Ngoạn Thiềm phái người báo tin cho Trần Thủ Độ biết Nguyễn Nộn đang ốm, bệnh tình ngày càng trầm trọng. Thủ Độ tâu với vua Trần. Thái Tông bảo:

- Vua không thích đánh nhau. Thượng phụ muốn làm thế nào thì làm, sao cứ phải hỏi?

Các tướng đều xin nhân cơ hội này phát binh đi đánh. Thủ Độ nói:

- Việc đánh bây giờ thật không khó gì nhưng nhà vua không muốn trăm họ phải đau thương. Ta cũng thấy xương máu đổ nhiều rồi, chẳng lẽ nồi da xáo thịt mãi sao? Cứ như trong thư của Ngoạn Thiềm thì Nguyễn Nộn chẳng còn sống được bao lâu, nếu có người sang bên ấy lấy lời phải trái khuyên bảo các tướng lĩnh, quân sĩ về với triều đình há chả hơn sao?

Thái tông nói:

- Thượng phụ nói hay đấy. Ai dám đi sứ, ta thưởng cho con dế to nhất. Thêm hai con bọ ngựa.

Lê Khâm bước ra tâu:

- Thần xin đi nhưng không dám nhận phần thưởng của hoàng thượng đâu ạ.

Trăm quan bấm bụng không dám cười.

*

Lại nói Nguyễn Nộn ngày càng ốm nặng, đau đầu hoa mắt, nóng sốt li bì, ăn không tiêu, mới vài tháng mà người gầy rộc, tóc rụng mấy phần, thân hình tiều tuỵ, đi không vững. Hôm ấy nghe báo có sứ của triều đình đến, Nộn gượng dậy tiếp, ăn cơm rồi sai quân lấy ngựa cưỡi, phi thẳng lên đồi nhưng mới được vài trăm bước, choáng váng mặt mày ngã nhào xuống đất, mê man bất tỉnh. Quân lính vội vàng xúm lại cứu về. Thầy thuốc xem mạch xong, lắc đầu nói:

- Mạch trầm mà sác, không có lực, đây là tử mạch. Bệnh ở lý2 rồi không còn cách chữa.

Chừng nửa canh giờ sau, Nguyễn Nộn thổ ra mấy đấu máu, miệng nói lảm nhảm:

- Thằng thầy chùa bất tín kia. Ta là Đoàn Thượng đây. Ta đã kiện mày đến tận diêm la địa phủ rồi. Bây giờ Diêm vương bắt mày xuống đây xem mày có đắc chí được nữa không?

Đến đêm Nguyễn Nộn chết ở cung Thưởng Nguyệt. Tính từ khi Nộn đánh giết được Đoàn Thượng đến lúc ấy chưa đầy ba tháng. Quân sĩ phần bỏ đi, phần nghe lời khuyên của Lê Khâm theo về với triều đình. Ma Lôi thấy quân tình không thể cứu vãn được, đang đêm cùng với người nhà lẻn trốn đi. Thiên hạ từ đấy thu về một mối.

Nhà Trần gồm thâu được thiên hạ, ra sức xây dựng kỉ cương, chỉnh đốn triều chính, chăm lo nông tang, qua mấy năm dân giàu nước thịnh nhưng Trần Thủ Độ vẫn canh cánh bên lòng về sự lưu luyến của trăm họ đối với nhà Lý. Theo ý ông ta, những người thuộc tôn tộc nhà Lý luôn là mối đe doạ đối với nền thống nhất của đất nước. Một hôm Thủ Độ có việc ra ngoại thành phía Tây, xa xa thấy năm sáu người vai mang cung tên, tay cầm giáo dài phi ngựa như bay băng qua mấy cánh rừng thưa đuổi săn muông thú. Người đi đầu mặc võ phục, bên ngoài khoác một tấm da beo, ngồi trên lưng con ngựa ô chuy trông rất kiêu dũng, khi đến gần hoá ra là Hoài Đức vương Trần Bà Liệt.Thủ Độ nói:

- Hoài Đức vương kiêu dũng thế này, thật đáng là trang nam tử.

Chiều hôm ấy, Trần Thủ Độ cho người mời Bà Liệt đến phủ bàn việc. Thủ Độ nói:

- Cháu thân mang tước vương, đó là ân sủng lớn của hoàng thượng, sao không nghĩ cách báo đền mà suốt ngày chỉ đi săn bắn vậy?

Bà Liệt khoanh tay, cúi đầu nói:

- Trình quốc công! Cháu từ khi được ơn thượng hoàng không bỏ, lại được hoàng thượng gia phong, cũng chỉ muốn có dịp báo đáp ân dày nhưng chưa biết làm thế nào, sợ tháng ngày nhàn rỗi sinh lười biếng mới lấy việc đi săn để rèn luyện và làm vui. Quốc công có việc gì cần, xin cứ sai bảo. Cháu nguyện hết lòng, dù gian nguy cũng chẳng dám từ nan.

Thủ Độ nói:

- Nhà Trần ta vừa mới thống nhất giang sơn được vài năm, tuy muôn dân đã thoát được vòng binh lửa, không còn cảnh chết đói đầy đường như trước nữa nhưng cũng còn nhiều người luyến tiếc nhà Lý. Người họ Lý cũng oán hận họ Trần ta lắm, nếu có người nổi dậy làm phản e rằng trăm họ khó tránh khỏi một cuộc chiến xương thịt tương tàn. Hoài Đức vương có cách gì ngăn chặn được việc đó không?

Bà Liệt nói:

- Việc đó có khó gì, cứ diệt hết mầm mống nhà Lý đi, dẫu có người muốn làm phản cũng không thể dựa vào đâu mà nổi lên được.

Thủ Độ bảo:

- Người nhà Lý thì nhiều, làm sao mà diệt hết cho được.

Bà Liệt hăng hái nói:

- Thượng công cứ bắt hết giam lại, bố cáo là họ mưu phản, đem chém đi là xong.

Thủ độ xua tay, nói:

- Không được, làm như vậy sẽ loạn ngay. Ta có một kế này nếu cháu chịu giúp chắc hẳn sẽ thành công.

Bà Liệt nói:

- Xin thượng công cứ dạy. Vì cơ nghiệp họ Trần, cháu thề muôn chết không từ.

Thủ Độ cười, nói:

- Tốt! Nhưng không ai cần cháu chết. Việc là như vầy...như vầy...cháu cứ thế mà làm.

Bà Liệt nhận kế, lui ra tìm cách nhanh chóng thi hành, hôm ấy đang dẫn quân lính đến đất Đường Hào để tìm thợ giỏi, bỗng thấy một thanh niên khôi ngô cùng một gia nhân từ xa tiến lại. Trong quân có người trước kia là lính của Nguyễn Nộn, biết thanh niên đó, nói:

- Người kia chính là Phạm Hữu, quản binh hiệu uý của Nguyễn Nộn ngày xưa. Xin đại vương bắt lấy.

Bọn lính liền xúm lại bắt Phạm Hữu. Tên gia nhân may mắn chạy thoát. Bà Liệt sai người giải Phạm Hữu về nộp cho Trần Thủ Độ. Thủ Độ hỏi:

- Nhà ngươi là một quản binh hiệu uý, chức tuy nhỏ nhưng việc lại trọng. Triều đình đã thống nhất giang sơn được mấy năm rồi, cớ sao không ra trình diện mà lại trốn tránh.

Phạm Hữu nói:

- Trình thái sư! Tôi vốn con nhà lương dân, không thích sự binh đao, không màng danh lợi, chỉ mong sao được sống yên nơi thôn dã, đem chút tài mọn cứu giúp dân lành, tích âm đức cho con cháu là mãn nguyện rồi. Trước đây tôi tòng chinh cũng chỉ là chuyện bất đắc dĩ thôi, ba năm nay may gặp được ân sư chỉ bày phương lược dụng dược cứu người, mải mê học tập nên không biết Nguyễn Nộn đã chết, xin thái sư lượng thứ.

Thủ Độ xét hỏi một lúc, biết Phạm Hữu là học trò của Chử Nhiệm Khai, có ý nể trọng, hỏi:

- Nay non sông đã thu về một mối, trăm họ thoát cảnh đói nghèo, thiên hạ đang lúc thái bình nhưng không thể không lo binh bị phòng khi hữu sự. Ta muốn phong ngươi làm quân dược hiệu uý, cho làm việc ở quân dược ty, chăm lo sức khoẻ cho quân đội. Ngươi nghĩ thế nào?

Phạm Hữu nói:

- Cảm ơn thái sư đã có lòng bao dung nhưng xin cho tôi một tháng về lo việc nhà rồi đến để thái sư sai khiến.

Tướng Vương Lâm đang đứng hộ vệ bên cạnh Thủ Độ, thấy Phạm Hữu nói vậy liền quát.

- Ngươi thật to gan, không biết có trời cao đất dày chi hết, đã được thái sư tha tội, không biết tạ ân lại còn mặc cả đòi về một tháng. Việc quân đâu có trì độn như thế được. Hẳn là ngươi muốn chết.

Phạm Hữu nói:

- Tướng quân nhầm. Bởi tôi sợ chết mới phải nhận quay lại. Mấy lời vừa rồi của tướng quân làm cho cái ý sợ chết của tôi nó bay đi mất. Tướng quân muốn giết, xin cứ việc ra tay.

Thủ Độ nói:

- Phạm Hữu mải học đến nỗi không biết cả những sự thay đổi như sấm sét ở bên ngoài, vậy cũng là người có trí. Người ta ai chả có cha mẹ quê hương, Phạm Hữu xin về một tháng là muốn làm tròn đạo hiếu, giữ trọn nghĩa thày trò, đó là điều chính đáng. Vậy ta cho ngươi ba tháng lo liệu việc nhà, mùa xuân sang năm phải tới nhận việc.

Phạm Hữu lạy tạ, lui ra. Thủ Độ bảo bọn Vương Lâm:

- Phạm Hữu là người có học. Đối với hạng người này phải lấy ân đức mà thu phục, không thể dùng quyền uy và sự sống chết dọa nạt họ được đâu. Hơn nữa đang lúc ta cần nhân tài, thêm được một người là quý một người, chớ nên bỏ lỡ.

Phạm Kính Ân nói:

- Ngày thường thái sư tự coi mình là người ít học, nhưng chỉ xem trong việc này cũng đủ biết ngài hành sự mẫn tuệ như bậc trí giả rồi.

Thủ Độ nói:

- Ta học hành lỗ mỗ, hành sự theo cảm tính, có đâu dám coi là trí giả. Các ngươi chớ khen như vậy mà làm ta hư.

Phạm Kính Ân nói.

- Thái sư không cần đọc sách mà làm được như trong sách, há chẳng phải là bậc trí giả sao?

Thủ Độ hỏi:

- Ngươi nói đến sách nào vậy?

Kính Ân nói:

- Bẩm thái sư! Trong sách Tam Lược của Hoàng Thạch công3, có viết như sau: "Vốn đạo trị nứơc cậy ở người hiền và nhân tâm...Trọng lễ thì chí sĩ quy tụ, trọng lộc thì nghĩa sĩ coi thường cái chết". Quyển hạ lại nói rằng: "Ban ân xuống tới đâu thì người hiền theo về, ban ân xuống tới đâu thì thánh nhân theo về". Việc thái sư ban ân cho Phạm Hữu chẳng nằm trong sách cả đó sao?

*

Trần Bà Liệt đem quân đến Hoa Lâm ở huyện Đông Ngàn, xây thái đường cho họ Lý, tập trung mấy nghìn binh lính và thợ giỏi làm ròng rã hết mùa hè, qua mùa thu sang mùa đông mới xong, cho người về báo với Trần Thủ Độ. Thủ độ nói:

- Nhà Lý trị vì trên hai trăm năm, công đức tưới nhuần thiên hạ, mở mang văn trị, có nhiều đời vua sáng, Bắc đánh tan quân Tống, Nam chinh phục Chiêm Thành, võ công thật hiển hách. Chỉ vì Cao tông vô đạo, Huệ tông ươn hèn đến nỗi muôn dân phải chịu lầm than. Ta dựng thái đường ở quê hương nhà Lý để người họ Lý có chỗ phụng thờ tổ tông mà kéo dài hương hoả dòng dõi mãi mãi về sau.

Thủ độ nói rồi cho người mời tôn tộc nhà Lý đến Hoa Lâm tế tổ. Chỉ có Lý Bảo Long là cháu nội Lý Du Đô4 nói là không lễ ở thái đường do họ Trần làm, trốn đi mất. Hôm ấy mấy trăm người trong tôn tộc nhà Lý kéo đến thái đường khóc lóc làm lễ. Từ sáng, Thủ Độ lệnh cho Vương Lâm và Phạm Kính Ân mang giáp binh bảo vệ, không cho thường dân quấy nhiễu. Đến trưa họ Lý ăn cỗ uống rượu, già trẻ lớn bé say cả. Thủ Độ gọi Bà Liệt đến bảo:

- Cho chúng đi gặp tổ tiên được rồi đấy.

Bà Liệt nhận lệnh đi ra. Lát sau nghe một tiếng ầm long trời lở đất. Cả ngôi thái đường đồ sộ đổ sụp xuống hầm sâu5. Trong đám khói bụi cuồn cuộn bốc lên có tiếng kêu la gào khóc của mấy trăm người, cả những đứa bé mới sinh được vài ngày cũng chung số phận. Bà Liệt sai lính đào đất lấp hầm chôn sống tất cả. Những ai định leo lên liền bị lính của Vương Lâm chém chết đẩy xuống. Mấy hôm sau Vương Lâm hỏi Thủ Độ:

- Thái sư sợ mất lòng thiên hạ, phải nhường một anh học trò như Phạm Hữu mà lại có thể giết cả tôn tộc họ Lý là sao?

Thủ Độ nói:

- Sự quyền biến của việc trị nước phải như vậy, khi không cần giết thì một người cũng không giết; khi cần giết, mấy trăm người cũng phải giết có gì là lạ. Vả lại Phạm Hữu tuy có cái ương ngạnh của kẻ sĩ nhưng xem ra lời nói chân thành, đó là người có cái tâm tốt, có thể dùng được.

*

Trời ấm dần lên, ánh nắng buổi sớm mùa xuân làm cho cây cỏ cùng muôn loài hồi sinh sau những ngày đông tái tê rét buốt. Nền trời lộ ra những mảng màu xanh trong vắt. Vầng thái dương gắng sức đẩy khối mây đen về phía cuối trời. Nơi tiếp biên giữa ánh sáng và mây đen hừng lên một đường viền đỏ như máu.

Hoàng hậu Chiêu Thánh không nói năng gì. Nàng ngồi thu mình trong góc phòng. Dường như mùa đông nghiệt ngã vẫn chưa buông tha nàng. Từ khi Hoàng thái tử Trịnh, đứa con mà nàng đặt bao niềm hy vọng không còn sống, Chiêu Thánh như người vừa điên vừa lãnh cảm. Bốn năm qua rồi mà nàng không sao cải thiện được tình trạng ấy, tự giam mình trong phòng kín nơi cung cấm, chỉ ngày rằm, mùng một mới cùng thị nữ đến chùa Bảo Quang thắp hương trong bảo tháp, nơi cất giữ di hài cha nàng. Những khi mẹ đến thăm, nàng càng cảm thấy buồn. Những lời khuyên giải, những câu chuyện mẹ nói, sao nó nhạt nhẽo quá chừng, không thể nào nhớ được. Gần đây nàng chỉ mơ hồ nhận thấy hình như mẹ nàng và ông chồng bà ta vị thái sư thống quốc đang có mưu đồ toan tính gì ghê gớm lắm nhưng nàng cũng không hỏi. Thực tình họ làm gì nàng cũng đâu có để ý. Nhà vua lâu lắm không bước tới căn phòng này, ngài đã mười chín tuổi, một thanh niên thực thụ, khoẻ mạnh với bao công việc và mĩ nữ vây quanh. Làm sao nhà vua còn thì giờ đến căn phòng của người vợ lãnh cảm như nàng. Hôm qua mẹ nàng nói chuyện gì đó về chị Thuận Thiên, không biết bây giờ chị ấy thế nào? Hiển hoàng Trần Liễu chồng chị ấy sau vụ cưỡng dâm cung phi cũ của nhà Lý ở cung Lệ Thiên đã bị giáng xuống làm Hoài vương; chắc chị ấy buồn lắm. Từ nhỏ mình đã không thích cuộc sống cung đình, lớn lên càng thấy chán ghét, nó bẩn thỉu nhơ nhớp độc địa quá, toàn thủ đoạn mưu mô và những trò dâm loạn. Buồn thay, người đầu têu ra những trò dâm bôn loạn luân ấy lại chính mẹ mình cùng ông chồng và là em họ bà ta. Rồi đến mình và chị Thuận Thiên cũng không thoát khỏi cái xoáy nước đục ngầu tanh tưởi ấy. Ôi! Hoàng cung vàng son lộng lẫy nhớp nhúa ê chề. Trời ơi! Sao lại bắt tôi sinh ra ở một nơi như vậy? Muôn kiếp trước có thế không và muôn đời sau liệu có còn như vậy?

Chiêu Thánh đang miên man với những dòng suy nghĩ thì Thiên Cực công chúa mẹ nàng đến. Thiên Cực công chúa Trần Thị Dung ngồi xuống bên con, ôn tồn nói:

- Hôm nay con thấy trong người thế nào?

Chiêu Thánh miễn cưỡng trả lời:

- Dạ! Con khoẻ ạ!

- Những lời mẹ nói với con hôm qua, con đã nghĩ kĩ chưa?

- Dạ! Hôm qua mẹ nói gì ạ?

Thiên Cực công chúa nhìn con, thở dài nói:

- Thế ra con chả để ý gì đến lời của mẹ cả. Hoàng thượng nay đã lớn tuổi rồi mà con không sinh đẻ. Cậu và mẹ định đón chị Thuận Thiên về bên này để cùng con hầu hạ đức vua cho có chị có em.

Chiêu Thánh choáng váng nhìn mẹ, kinh hãi nói:

- Hả?! Mẹ nói cái gì? Đón chị Thuận Thiên về bên này hầu hạ đức vua? Còn Hoài vương? Chị ấy đang mang thai của Hoài vương cơ mà?

- Chính vì đang có thai nên cậu con và mẹ mới muốn đón nó về bên này không sợ mai sau ngôi vua rơi vào tay ngoại tộc.

Chiêu Thánh lắc đầu, nói:

- à ra thế! Để bảo vệ cái ngai vàng của nhà các người, không còn điều nhơ bẩn nào mà các người không làm. Các người còn hỏi tôi làm gì nữa. Ngôi vua! Ngôi vua! Tôi nhổ toẹt vào cái ngôi vua ấy từ lâu rồi.

*

Thái sư thống quốc Trần Thủ Độ ngồi trầm ngâm một mình, mọi công việc do vợ chồng ông sắp đặt diễn ra một cách trôi chảy. Đám gia binh của Hoài vương Liễu đã giải tán về quê cả, công chúa Thuận Thiên cũng đón vào cung rồi, thế mà hoàng thượng lại biến mất. Ông cho người đi tìm từ chiều qua đến giờ vẫn không thấy đâu. Thiên Cực công chúa Trần Thị Dung thấy chồng suy tư nung nấu như vậy, không dám lại gần. Bà biết những thời khắc trầm mặc của ông, đó là lúc ông vật vã để đi đến một quyết định nhằm giành lấy sự thành công. Bỗng thái sư vỗ mạnh vào đùi, nói:

- Thôi đúng rồi! Nhất định là như vậy.

Trần Thị Dung vội đến bên chồng, hỏi:

- Sao? Ông biết hoàng thượng ở đâu rồi à!

- Đúng vậy. Thằng này gớm thật. Mình khổ sở để lo cho nó mà nó cứ giở chứng ra. Nói không nghe, ông lột xác ra.

Nói rồi thái sư cho mời tướng quân Trần Khuê Kình đến, dặn:

- Nhà ngươi đem theo năm người đến chỗ quốc sư Phù Vân ở Yên Tử. Ta chắc hoàng thượng ở đấy. Nếu đúng như vậy, cử người về báo gấp cho ta.

Trần Khuê Kình nhận lệnh đi ngay, hai hôm sau cho người phi ngựa hoả tốc về báo quả là nhà vua đang ở Yên Tử. Thủ Độ cho mời các tướng Phùng Tá Chu, Phạm Kính Ân, Vương Lâm đến dặn dò công việc, lại mời lão tướng Lê Khâm đến bảo:

- Việc phòng thủ kinh thành nhờ lão tướng đảm nhiệm cho.

Nói rồi cùng đoàn tuỳ tùng lập tức đem trăm quan đến núi Yên Tử.

*

Thái tông Trần Cảnh là người khoan nhân hiếu hữu, lúc ấy đã mười chín tuổi mà chưa có con trai. Vợ chồng thái sư Trần Thủ Độ mưu việc cướp công chúa Thuận Thiên đang có chửa của Hoài vương Liễu về làm hoàng hậu. Thái tông nhất định không nghe nhưng vì Thủ Độ chuyên quyền o ép quá, ngài liền bỏ hoàng cung, mang Trần Thiêm trốn lên Yên Tử với quốc sư Phù Vân, quyết không cướp vợ của anh. Quốc sư Phù Vân là người xuất gia từ nhỏ, khi xưa ở kinh thành thường được Thái tông mời giảng kinh vì vậy hai người gặp nhau mừng lắm. Phù Vân biết được lí do Thái tông lên núi lại càng kính trọng nhà vua hơn, nhưng ông cũng khuyên nhà vua nên quay về nắm giữ triều chính để trăm họ được yên định. Thái tông nói:

- Tôi lên đến đây là đã quyết vất bỏ ngai vàng, dứt đời phàm tục rồi, cũng không còn là vua nữa, xin quốc sư nhận làm đồ đệ mà chỉ bảo cho tôi thoát ra khỏi chỗ tối tăm.

Phù Vân nói:

- Chẳng lẽ hoàng thượng cho triều đình là nơi tối tăm ư? Nhưng người đã quyết như vậy cứ tạm ở lại đây, ta cùng nói chuyện việc đạo việc đời cũng không có hại gì.

Đêm ấy tụng kinh xong, hai người ngồi trong am cỏ nói chuyện. Bấy giờ đang là mùa xuân, mưa rừng rơi tí tách, thỉnh thoảng vọng một tiếng beo gầm vang trong khe núi; lại có tiếng con nai tác lên, chạy ràn rạt rất gần. Gió thổi vi vút qua rừng thông như muốn liên kết các âm thanh rời rạc thành một xâu chuỗi trong cái vũ trụ thâm u riêng biệt của rừng già. Phù Vân hỏi:

- Hoàng thượng nghĩ gì vậy? Người có nhớ kinh thành không?

Thái tông nói:

- Thưa sư phụ! Tôi đang nghĩ về việc đạo. Như nước Đại Việt ta từ lâu đã có ba giáo phái truyền từ Trung Nguyên và Thiên Trúc tới. Phật, Lão, Nho ai có lí của người ấy, vậy đâu là chính đạo đây?

- Thưa hoàng thượng! Chính không ở đạo mà ở người tu. Chính không ở người tu mà ở người hành đạo.

- Thưa sư phụ! Sao lại mơ hồ như vậy?

- Đạo nào cũng mưu cầu hạnh phúc cho con người nhưng người tu mượn nó để truyền điều lành đạo sẽ chính, truyền điều ác đạo sẽ tà. Người được truyền điều lành làm điều lành càng chính nữa, được truyền điều ác làm điều ác càng tà nữa, được truyền điều ác mà vẫn làm điều lành chính thêm một bậc, được truyền điều lành mà làm điều ác tà thêm một bậc.

- Thưa sư phụ! Vậy khi áp dụng vào việc đời nghĩa là kẻ được nuôi dạy tử tế mà không nên người thì có tội nặng hơn kẻ không được nuôi dạy phải không?

- Hoàng thượng thật thánh minh. Người đã nắm được cái điều cốt lõi rồi đấy.

- Thưa sư phụ! Ngày nay có người cho rằng tam giáo đồng nguyên, điều đó là đúng hay sai?

- Tâu hoàng thượng! Đúng mà cũng sai.

- Xin sư phụ giảng cho.

Quốc sư Phù Vân im lặng một lúc mới nói:

- Tam giáo có nhiều chỗ không thống nhất được với nhau đến nỗi khác đạo không thể cùng bàn nên những người trung dung mới đưa ra thuyết tam giáo đồng nguyên nói rằng: Già Diệp bồ tát giáng sinh làm Lão tử, Tĩnh Quang bồ tát giáng sinh làm Khổng tử, Hộ Minh bồ tát giáng sinh làm Thích Ca Mầu Ni phật. Thực ra thuyết ấy cũng chỉ nhằm mê hoặc người đời mà thôi. Hoàng thượng có nghe những tiếng động ngoài rừng kia không? Chúng cùng là những âm thanh nhưng tiếng gió mưa khác xa tiếng beo gầm và càng khác với tiếng tác của con nai. Tam giáo tuy cùng có cái nguồn chung là lòng nhân, muốn dẫn con người đến thế giới toàn gồm những sự tốt lành nhưng mỗi giáo phái có cách nhìn về sự tốt lành khác nhau nên đường tu không giống nhau. Đạo Phật hướng con người đến một chữ thiện. Mọi người cùng hành thiện lo gì không có thế giới tốt đẹp. Lão tử hướng con người đến một chữ phác. Phác nghĩa là giản dị thực thà thuần khiết. Mọi người đều giản dị thực thà thuần khiết cả, không có ai mưu mô lừa dối, tội lỗi cũng không có chỗ để sinh ra, thế giới không có tội lỗi chẳng phải là thiên đường sao? Đạo Khổng hướng người ta đến chữ dụng, có nghĩa là khuyến khích mọi người học tập để làm việc và biết làm việc có ích nhất. Khi mọi người đều làm việc và trở thành hữu dụng cả lo gì không giầu có sung sướng. Nhưng nói cho cùng ba đạo đều nhầm lẫn cả.

Thái tông kinh ngạc kêu lên:

- à ra vậy! Xin sư phụ chỉ cho những điều nhầm lẫn ấy.

Quốc sư Phù Vân sôi nổi hẳn lên, dường như ông không còn là một nhà tu hành, nói:

- Tâu hoàng thượng! Thiện ác, phác phức, hữu dụng vô dụng bao giờ cũng cùng tồn tại như lưỡng nghi âm dương. Con nai con thỏ thiện quá tất bị con beo làm hại. Nếu chỉ cần thiện mà không cần ác, nhà chùa đắp tượng các vị kim cương hộ pháp làm gì. Còn phác ư ? Nếu chỉ phác để cho con người được vô vi sống theo bản năng tự nhiên, loài người chẳng giống như cầm thú hay sao!? Hữu dụng ư ? Ai ai cũng cố rèn cho mình ngày càng trở nên tinh xảo để mong hữu dụng, đấu tranh với nhau mà nhoi mãi lên đó chính là khởi nguồn của sự ghét ghen đố kị, mầm loạn lạc tội lỗi ở đấy mà ra chứ đâu.

- Thưa sư phụ! Như vậy bỏ hết đạo đi chăng.

- Tâu hoàng thượng! Làm như vậy lại càng không thể được.

- Vậy xin sư phụ chỉ cho cần phải làm sao?

- Không phải bỏ đi mà cần kết hợp, điều hoà sao cho âm dương có sự cân bằng.

- Thưa sư phụ! Như vậy là tuỳ hoàn cảnh mà hành đạo cho hợp lẽ có phải không ạ?

Quốc sư Phù Vân vui vẻ nói:

- Hoàng thượng lại nắm được một điều cốt lõi nữa rồi đấy.

Thái tông ngẫm nghĩ một lúc, đột nhiên hỏi:

- Thưa sư phụ! Thường ngày các vị tiên thánh ở đâu? Thế giới tiên phật có khác gì với thế giới con người?

Phù Vân nói:

- Tiên phật làm gì có thế giới riêng đâu. Các vị ấy vốn cũng là người, khi chết đi cũng nát tan cùng cây cỏ. Phật tiên, ma quỷ thực sự tồn tại trong mỗi con người chúng ta. Khi ta cứu kẻ hoạn nạn, giúp người đói khổ, nâng đỡ người yếu ớt tức là phật đã hiện ra trong cử chỉ của ta. Khi hồn ta thư thái, thân ta an định sau những công việc mới làm xong, trên gương mặt thoáng một nét cười tươi tức là tiên thánh đã hiện ra trong nụ cười ấy rồi đấy. Người đời tốn công vô ích đi cầu cúng nơi chùa nọ miếu kia mà không biết rằng cầu đạo hành thiện ngay chính trong tâm mình mới là điều căn bản nhất, mau chóng gặp tiên gặp phật nhất ở ngay chính nơi ta. Thứ nhất là tu tại gia chính là như vậy. Còn như ta manh tâm làm điều ác, hại người khác vì vọng lợi cho riêng mình thì ma quỉ cũng hiện ra trong mỗi hành động của ta vậy.

Thái tông cúi đầu nghe và lẩm bẩm trong miệng:

- Đúng vậy! Đơn giản thế mà sao lâu nay ta chẳng nghĩ ra.

*

Ánh nắng sớm mùa xuân vàng như lụa làm cho phong cảnh núi rừng Yên Tử đẹp như bức tranh thuỷ mặc. Những giọt mưa đêm còn treo trên ngọn lá, phản chiếu ánh mặt trời lấp lánh như muôn ngàn châu ngọc. Hơi ấm quét dần màn mây, để lộ ra lớp lớp núi non xanh mướt trải dài mãi về phía biển Đông.

Trần Khuê Kình dẫn thái sư cùng các quan đến thảo am diện kiến nhà vua. Thái tông nói:

- Vì trẫm non trẻ, chưa cáng đáng nổi sứ mệnh nặng nề, phụ hoàng lại vội lìa bỏ, sớm mất chỗ trông cậy, không dám giữ ngôi vua mà nhục xã tắc6.

Thủ Độ cùng trăm quan nài nỉ mãi, vua cũng không chịu xuống núi. Con trai của Lê Khâm là Lê Tần tuy còn trẻ tuổi nhưng văn võ kiêm toàn đang đứng hầu bên cạnh, ghé sát vào tai Thủ Độ nói nhỏ mấy câu. Thủ Độ gật đầu. Lê Tần liền xin phép lui ra. Lúc sau nghe trong rừng vang lên tiếng chặt cây, đục đá ầm ầm. Có chú tiểu đồng vào báo quân lính triều đình đang phá rừng làm tổn hại đến cảnh quan nơi đất phật. Vua hỏi thái sư sao lại như vậy? Thủ Độ nói:

- Xa giá ở đâu tức là triều đình ở đó6. Nhà vua không chịu về kinh đô, thần xin phá rừng để xây cung điện ở đây vậy. Trước hết cất ngay điện Thiên An cùng Đoan Minh các để vua thiết triều và nghỉ ngơi ở chỗ cắm lều kia. Thần đã cho người xuống núi ngày mai sẽ đưa thêm dân phu và thợ thuyền lên.

Quốc sư Phù Vân thấy tình thế không thể chần chừ, nói:

- Bệ hạ nên gấp quay xa giá trở về, chớ để làm hại núi rừng của đệ tử6.

Nhà vua cầm tay Phù Vân lưu luyến mãi chẳng muốn rời. Quốc sư Phù Vân nói:

- Nhà vua nên mau trở về kinh. Bần đạo không thể tiễn xa. Chỉ xin nhà vua nhớ cho phàm người làm vua, nên lấy điều muốn của thiên hạ làm điều muốn của mình, lấy lòng của thiên hạ làm lòng mình. Đó chính là bí quyết của sự vững bền vậy.

Trên đường đi Phạm ứng Thần bảo Thủ Độ:

- Riêng thỉnh được hoàng thượng về triều cũng đủ biết thái sư lo việc thật không ai bì kịp.

Thủ Độ bảo:

- Tôi có làm được gì đâu. Đó là mưu của tướng quân Lê Tần đấy chứ. Người ấy mai sau hẳn là cây cột của triều đình7.

Trời đang tạnh ráo bỗng nổi cơn dông, mây kéo mịt mù, gió thổi vun vút, xoáy từ vương phủ xoáy ra nhưng không tổn hại gì đến dinh thự lầu gác, chỉ làm đổ mấy khóm chuối và hất tung những mái tranh của các nhà nông phu. Đám tá điền sợ hãi trước những tia chớp sét loằng nhoằng, chui rúc trong các đống rơm rạ tránh cơn thịnh nộ của thiên đình. Nhưng cơn mưa gió diễn ra không lâu, chốc lát bầu trời đã sáng trong trở lại.

Hoài vương Trần Liễu ngồi trong vương thất nóng lòng chờ công chúa Thuận Thiên, lẩm bẩm nói:

- Lạ thật! Đang là tiết xuân mà giời nổi cơn dông. Thiên Cực công chúa cho đón Thuận Thiên vào triều để thăm Chiêu Thánh mà sao đã năm hôm không thấy trở về?

Ngoài cổng có tiếng xôn xao, một tên gia nhân vào báo người của công chúa Thuận Thiên đã về. Hoài vương hỏi dồn:

- Người của công chúa đã về à? Thế công chúa đâu? Có chuyện gì vậy? Đưa nó vào đây.

Tên gia nhân đưa người thị nữ vào. Người thị nữ run run quỳ nói:

- Trình đức ông! Con đã về.

Hoài vương hỏi:

- Công chúa đâu? Đã xảy ra chuyện gì rồi?

- Trình đức ông! Công chúa không trở về được nữa ạ.

- Sao lại như vậy? Hả?

- Trình đức ông! Thực ra Thiên Cực người cho gọi công chúa vào triều không phải để thăm Chiêu Thánh đâu ạ. Mà theo lệnh của thái sư để thay Chiêu Thánh hầu hạ hoàng thượng.

Hoài vương Liễu đấm mạnh xuống mặt bàn thất bảo làm bộ ấm trà run lên bần bật, nói như gầm lên:

- Hả? Ngươi nói cái gì? Thay Chiêu Thánh hầu hạ hoàng thượng? Mẹ kiếp không còn ra cái giống người nữa rồi! Chó má thật! Chó má thật! Ngươi làm thế nào mà về được đây?

- Dạ! Trình đức ông! Hoàng thượng cũng không đồng ý việc ấy nhưng thái sư ép buộc quá nên người đã trốn đi đâu không biết. Hiện nay thái sư cùng các quan đang đi tìm chưa thấy về. Con trốn ra được về báo để đức ông biết.

Hình như Hoài vương vừa nắm bắt được điều gì, ông ngẩng lên với đôi mắt sáng rực, gọi:

- Bay đâu! Mời cho ta Thôi Thạch lang và Mã Thiết đến đây ngay.

Khi Thôi Thạch lang và Mã Thiết đến, Hoài vương Liễu nói:

- Nay nhà vua ươn hèn nhu nhược, thái sư chuyên quyền làm nhiều điều xằng bậy quá lắm. Vợ ta đang có chửa, là chị dâu nhà vua mà thái sư cũng bắt về ép nhà vua làm trò thương luân bại lý, còn chuyện gì mà ông ấy không làm? Hoàng thượng vì thế phải bỏ đi. Nay thái sư và các quan đi tìm nhà vua cả, ta muốn họp binh chiếm lấy kinh thành, giành lại ngai vàng về cho dòng trưởng đích, mong các ông hết lòng phò giúp. Ta thề chẳng quên công.

Thôi Thạch lang là người Tống, vốn tên là Vương Uyên, võ nghệ cao cường, làu thông binh pháp lại có sức địch muôn người, được Hoài vương Liễu mời về dạy dỗ các con. Một hôm Hoài vương muốn chuyển một tấm đá ra chỗ khác để làm sân tập nhưng bốn năm người không khiêng nổi. Vương Uyên thấy vậy liền lấy chão buộc tấm đá lại, cõng lên nhẹ nhàng như người cõng con trẻ mà đi. Ai trông thấy cũng rùng mình bái phục. Hoài vương liền đặt cho biệt danh là Thôi Thạch lang.

Mã Thiết là người Trại8 rất giỏi côn quyền, đặc biệt là cưỡi ngựa, bắn cung. Có lần người lái buôn Hồi Hột biếu Hoài vương một con tuấn mã rất đẹp nhưng ai cưỡi lên cũng bị nó hất ngã. Riêng một mình chàng trai người Trại chinh phục được nó. Hoài vương liền tặng con ngựa cho chàng và đặt tên chàng là Mã Thiết.

Thôi Thạch lang và Mã Thiết cùng thưa:

- Chúng tôi xin dốc hết sức để đền ơn tri ngộ của đại vương.

Hoài vương cho hai người mang tay chân xuống các ấp tập trung đám thân binh mới bị Trần Thủ Độ giải tán, trong năm hôm đã có được hơn vạn người và mấy chục chiến thuyền. Hoài vương sắp xếp đội ngũ, phát hịch chia hai đường thuỷ bộ xuất quân, mấy hôm sau cả hai cánh quân đã hội nhau trên bến Triều Đông. Mã Thiết nói:

- Sĩ khí đang hăng, ta nên tấn công ngay.

Thôi Thạch lang bàn:

- Quân ta đi đường dài mấy ngày rất mệt, tấn công ngay e không có lợi. Hiện nay trong thành bỏ trống, chẳng nên vội gì cứ để quân sĩ nghỉ một đêm mai vào thành khí thế mới hùng dũng có hơn không?

Hoài vương nghe theo, để quân nghỉ ngơi ngoài bãi, canh ba bỗng thấy nổi lên một tiếng pháo lệnh rồi trống thúc liên hồi. Quân triều đình bốn mặt kéo đến bủa vây chém giết tơi bời. Quân Hoài vương hoảng loạn bỏ chạy, trốn mất quá nửa. Thôi Thạch lang xông ra đốc chiến, bị quân của Vương Lâm vây chặt, đành xuống ngựa đầu hàng. Mã Thiết ra sức đánh đỡ, bảo vệ Hoài vương xuống thuyền, rút quân về ngả Thiên Đức, chẳng ngờ Lê Khâm biết trước, cứ để Hoài vương tiến binh rồi chiếm các cửa sông chặn đường về. Hoài vương đành quay lại sông Cái, bị binh thuyền của Phạm Kính Ân xông vào đánh cho một trận tan nát. Mã Thiết chỉ còn năm trăm quân và mấy chiếc thuyền, hộ vệ Hoài vương định xuôi xuống miền Đông nhưng đến bãi Cửu Liên thấy cơ man thuyền chiến chặn mất lối, trên chiếc lâu thuyền đi đầu phấp phới lá cờ hiệu của thái sư Trần Thủ Độ. Thì ra thái sư và bách quan đã đón nhà vua về kinh từ hai hôm trước rồi. Mã Thiết liền đưa Hoài vương cùng quân sĩ trốn vào bãi lau, được mấy hôm hết lương thực rất khổ sở.

Thái tông nghe tin Hoài vương Liễu thua trận cùng quẫn lắm, sợ Thủ Độ giết mất anh, liền đi thuyền long phụng ra sông, bảo thị vệ treo cao cờ lên cốt để Hoài vương trông thấy. Mã Thiết thấy vậy bảo:

- Bây giờ chỉ còn một cách, đức ông sang hàng nhà vua mới toàn được mạng. Tôi chắc hòang thượng không xử tệ với đức ông.

Hoài vương nói:

- Vẫn biết hoàng thượng không nỡ hại ta nhưng còn thái sư thì sao?

- Đức ông đừng lo, tôi xin liều chết đem quân chặn thuyền của thái sư để đức ông đi thoát. Cứ lên được thuyền nhà vua là sống rồi.

Nói xong, Mã Thiết quay lại đám quân sĩ thân tín , nói:

- Anh em ta theo Hoài vương mưu việc lớn. Nay việc không thành là do lòng giời. Tình thế đến nước này, đành phải quyết một trận báo đền ơn chủ. Hoài vương thoát được sẽ không bạc đãi cha mẹ, vợ con chúng ta. Ai muốn theo, cùng ta ra sông. Ai không muốn theo tự tìm đường trốn đi, chớ để quân lính triều đình bắt được.

Mọi người tuy đã rã rời nhưng đều xin theo cả. Mã Thiết cải trang cho Hoài vương thành người thuyền chài, chọn một chiếc thuyền nhỏ cùng hai lực sĩ đưa Hoài vương đi còn mình dẫn mọi người đem thuyền chặn ở giữa sông. Quân của Trần Thủ Độ vào báo. Thủ Độ lệnh cho Phạm Kính Ân vây đánh. Mã Thiết cùng mấy trăm thuỷ thủ không chống nổi, bị bắt cả. Thủ Độ không thấy Hoài vương, xa xa lại có chiếc thuyền nhỏ chèo hối hả về phía thuyền vua, biết đích thị là Hoài vương Liễu, liền cho thuyền nhẹ đuổi gấp, hô to lên:

- Bắt lấy thằng giặc Liễu đem bêu đầu cho ta.

Quân sĩ cùng đồng thanh hô vang mặt sông. Hoài vương giục chèo cuống quýt nhưng thuyền của thái sư cũng đuổi theo bén gót.

Thật là:

Mất vợ còn đang cơn hậm hực

Ra quân lại mắc tội bêu đầu

Mời bạn đọc tiếp chương sau xem Hoài vương Liễu có trốn thoát được không.

----------------------------------

1 Khuông quốc thượng tướng quân: Là tước vị của Lê Khâm, Trần Thủ Độ xưng hô như vậy để tỏ ý tôn trọng ông ta.

2 Trong bát cương - Hàn nhiệt, biểu lý, âm dương, hư thực. Bệnh ở lý tức là đã nhập sâu đến nội tạng rất khó chữa.

3 Hoàng Thạch công: Người nước Hàn, sống vào cuối thời Chiến Quốc đầu thời Tần. Ông là một trong những lãnh tụ của phái chống Tần. Truyền thuyết cho rằng ông là thầy của Tương Lương thời Hán.

4 Lý Du Đô: Thái sư dưới thời Lý Anh tông.

5 Sự việc này vẫn còn được coi là một nghi án.

6 Theo ĐVsktt.

7 Sau này Lê Tần trở thành một trong những tướng lính chủ chốt của cuộc kháng chiến chống quân Mông Thát lần thứ nhất.

8 Trại: Còn gọi là dân tộc Sán Dìu, sống nhiều trong vùng núi Chí Linh- Hải Dương và Đông Triều, Quảng Ninh ngày nay.

Chương 7

Thủ Độ đeo ấn về quê tuyển câu đương

Nguyễn Bằng mang gươm vượt rừng sang đất giặc

Thái tông ngồi trong lâu thuyền bỗng nghe trên mặt sông vang dậy tiếng reo hò đuổi bắt, vội ra xem, thấy Trần Liễu cùng hai tráng sĩ đang vội vã khua chèo trốn chạy. Đằng sau, Thủ Độ thúc quân đuổi riết. Nhà vua liền gọi:

- Hoài vương mau lại đây.

Hoài vương cho thuyền áp vào thuyền vua nhưng thuyền vua cao, thuyền Hoài vương thấp quá, không trèo lên được. Thái tông phải cầm tay anh kéo lên, đưa vào trong khoang. Anh em nhìn nhau khóc. Thuyền thái sư đuổi tới. Thủ Độ cầm kiếm nhảy sang thuyền nhà vua, xông vào khoang, thét:

- Giết thằng giặc Liễu1!

Nhà vua đứng chắn ở cửa che cho anh, nói:

- Phụng Càn* vương đến hàng đấy1!

Thủ Độ bực tức, quăng gươm, nói:

- Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em các người thuận nghịch thế nào1?

Thái tông nói:

- Anh em con đã biết lỗi rồi, xin thượng phụ rút quân về tha cho Phụng Càn*.

Thủ Độ hầm hầm bỏ về thuyền mình, ra lệnh lui binh. Thái tông bảo Hoài vương:

- Anh ơi! Tình thế đã đến nước này, anh em mình dẫu không nghe cũng không được đâu.

Hôm sau thiết triều, nhà vua hạ chiếu tha cho Hoài vương, lại lấy đất Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Phụ, Yên Hưng, Yên Bang phong cho làm thực ấp. Vì thế Trần Liễu còn gọi là An Sinh vương.

Nhân việc Thái Tông tha cho Hoài vương, về sau Trần Dụ tông làm bài thơ Đường thái tông dữ bản triều thái tông như sau:

Vua Thái Tông nhà Đường

Vua Thái Tông triều ta

Đường, Việt hai vua hiệu Thái Tông

Đường xưng Trinh Quán, Việt Nguyên Phong

Kiến Thành bị giết, An Sinh sống

Miếu hiệu tuy đồng, đức chẳng đồng2

Trần Thủ Độ bực lắm, ra lệnh chém hết binh sĩ của Hoài vương. Mấy trăm thủ cấp bêu trên cọc tre. Dân thành Đại La vừa thương vừa sợ. Ai cũng oán Trần Thủ Độ là tàn bạo. Mấy nghìn nam phụ lão ấu các gia đình tội binh đến nhận xác, tiếng khóc gào vang cả đất trời. Nhiều phụ nữ tay xách nách mang, bế địu con thơ đi tìm chồng nhưng không thể nhận ra ai vào mấy ai giữa những cái thây không đầu bê bết máu, chỉ còn biết lăn lộn kêu giời. Không ai trông thấy là không rơi nước mắt.

Bấy giờ thông thị đại phu Trần Phụng Công thấy Thủ Độ giết người nhiều quá quyền lấn thiên tử, vào gặp nhà vua, khóc nói:

- Bệ hạ còn thơ ấu mà Thủ Độ thì quyền át cả vua, xã tắc rồi sẽ ra sao3?

Thái tông nói:

- Thôi được! Khanh hãy cùng đi gặp thái sư với trẫm.

Nói xong nhà vua sai đóng xe, cùng Phụng Công đến gặp thái sư. Nhà vua nói:

- Bây giờ khanh nói lại những lời lúc nãy để trẫm và thái sư cùng nghe.

Phụng Công không hề lúng túng, nói lại y nguyên ý kiến của mình. Thủ độ nói:

- Tâu hoàng thượng! Lời thông thị đại phu nói rất đúng. Thần cũng chỉ mong trao trả bớt quyền bính cho hoàng thượng để có chút thời gian nghỉ ngơi. Ta thật cảm kích trước lời nói thẳng thắn của thông thị đại phu.

Nói xong Thủ Độ lấy vàng lụa thưởng cho Phụng Công. Nhà vua nói:

- Nếu vậy trẫm sẽ phong cho An Quốc làm tể tướng để cùng lo việc triều chính với thái sư.

Thủ Độ tâu:

- An Quốc là anh thần, nếu cho là giỏi hơn thần thì thần xin trí sĩ, nếu cho thần giỏi hơn An Quốc thì không thể cử An Quốc. Nếu anh em đều làm tể tướng cả thì việc triều đình sẽ ra làm sao4?

Nhà vua nghe lời ấy, không dùng An Quốc làm tể tướng.

*

Trời vào hè nắng đẹp, trên tấm màn xanh thi thoảng còn lởn vởn vài gợn mây. Chàng tân binh Thân Văn Khoai xúng xính trong bộ đồ lính tứ sương, cầm giáo đứng gác cổng hoàng thành, có vẻ mãn nguyện lắm. Bên kia cổng là anh lính cũ Thái Công Bình, đã đứng gác ở đây mấy năm rồi, từ thời hiệu uý Trịnh Quang Minh còn là một anh tốt hoẻn. Bỗng Văn Khoai giật nảy mình vì tiếng quát của Thái Công Bình:

- Mụ kia đi đâu? Muốn chết à? Vào đây.

Người đàn bà quẩy gánh lá cây vội quay đầu trở lại. Công Bình quát tiếp:

- Đứng lại ! Không được chạy.

Theo sau tiếng quát là tiếng tuốt kiếm nghe đánh roẹt, lạnh cả gáy. Người đàn bà quẳng gánh, lạy van rối rít.

- Lạy cậu lính. Cậu tha... tha...tha cho em. Em trót dại.

- Chót dại cái gì? Cố tình coi thường luật pháp, tội chẳng thể tha. Vào đồn!

- Lạy cậu tha cho, em không biết ạ. Em trót dại. Nhà em ông ấy là thợ tỉa cây trong hoàng thành nên em mới dám vào đây xin nắm lá về cho bò chứ em có dám làm gì đâu.

- Trong hoàng thành có biết bao nhiêu là thợ tỉa cây, ai cũng như mụ thì loạn hết à? Ai không biết cửa này chỉ dành riêng cho hoàng thượng thế mà mụ dám xông ra. Tội mất đầu đâu có nói chuyện chơi.

- Dạ! Em có dám xông ra đâu? Cậu quát một cái là em quay lại ngay đấy chứ?

- Còn già mồm hả? Mụ có biết giẵm lên vạch vôi kia đã phải tính là mắc tội rồi không? Thôi! Vào đồn.

Người đàn bà thấy tình thế rất nguy mới thò tay vào ruột tượng lấy ra năm hào bạc, dúi vào tay Công Bình, nói:

- Cậu tha cho em. Có mấy hào bạc để cậu uống rượu.

Công Bình trợn mắt quát:

- A! Mụ dám hối lộ hả? Riêng tội hối lộ đã phải phạt một trăm roi rồi. Vào đây.

Người đàn bà không biết làm sao đành theo Công Bình đi. Khi đã vào khuất trong cổng, Công Bình hất hàm bảo:

- Bảo có mấy hào bạc thì đâu? Đưa đây.

Người đàn bà biết ý, đưa đồng tiền cho Bình rồi đi ra. Văn Khoai thấy vậy hỏi Bình:

- Anh làm thế nhỡ họ tố cáo thì sao.

Công Bình ung dung trả lời:

- Luật pháp quy định kẻ nào hối lộ phải phạt nặng. Bố nó cũng chẳng dám tố cáo. Với lại chả làm thế lấy tiền đâu mà nộp cho cấp trên. Mỗi tháng phải nộp cho các bố ấy tám đồng bạc đấy. Không bóp nặn của bọn này thì biết làm thế nào. Cái vạch vôi vẽ rộng mãi ra ngoài kia là để cho nhiều kẻ giẵm vào. Hiểu chửa?

- Sao tôi nghe nói hiệu uý Trịnh Quang Minh là người nghiêm khắc, trong sạch lắm, đã được đích thân thái sư ban thưởng cơ mà?

Thái Công Bình bịt mũi cười không ra tiếng, nói:

- Thái sư bận trăm công ngàn việc, hiểu thấu sao những trò ma mị này. Mà nói chung các bố quan to nhìn xa trông rộng đâu đâu không biết, nhưng những việc ở ngay trước mắt lại mù tịt. Hiệu uý nhà mình bíp thái sư đấy.

- Bíp thái sư?

- Chứ sao nữa. Hồi ấy ông ta cũng chỉ là anh lính quân hiệu như tao với chú mày, suốt ngày đứng gác. Từ lính đến dân, anh nào mắc lỗi đều xì tiền ra là xong nhưng vô phúc vị quan nào dù to đến đâu, vi phạm quân lệnh là bị ông ta tóm ngay, xin xỏ đút lót mấy cũng không được. Các quan đều cho ông ấy là vừa nghiêm, vừa thẳng, vừa trong sạch, xem như tấm gương về sự liêm chính. Vì vậy hôm hoàng thượng ngự triều, ông ấy được vào gác trước thềm cấm. Thiên Cực công chúa không biết lớ ngớ thế nào ngồi kiệu đi vào, bị ông ấy bắt quay ra. Đôi bên hoá to tiếng. Bà Thiên Cực cậy là vợ thái sư, về nỉ non gì đó với chồng. Thái sư đùng đùng nổi giận cho đòi Trịnh Quang Minh vào hỏi tội. Ai cũng nghĩ Quang Minh lần này được một phen nhừ tử. Bà Thiên Cực cũng hỉ hả lắm. Lúc được thái sư hỏi, Quang Minh cứ tình thực kể lại. Thái sư sướng quá khen: "Ngươi ở chức thấp mà giữ được luật pháp, ta còn trách gì nữa1", rồi thưởng cho vô khối vàng lụa, lại thăng ngay lên hàm hiệu uý. Thái sư có biết đâu Quang Minh nhà ta coi vương pháp ra cái đếch gì.

Văn Khoai lắc đầu ngán ngẩm nói:

- Chết thật! Thế mà tôi cứ tưởng được ở đây gần đèn cho nó rạng. Ai ngờ...!

- Chú mày ấm ớ thật, sao không biết sát chân đèn là nơi tối nhất!

*

Hải ấp đã là chốn khởi nguồn của Trần triều, là quê hương của nhà vua. Thôn xóm thay đổi, nhà cửa toà ngang dãy dọc mọc lên, đường xá thênh thang, lăng tẩm, hành cung được xây dựng huy hoàng tráng lệ. Năm nay lại được mùa, lúa chín đầy đồng. Trai gái vừa gặt hái vừa ca hát vui vẻ. Buổi chiều, Tô Đại Cơ say mèm từ quán bà hai Nhách, lảo đảo kéo đôi chân xiên xẹo về nhà. Lúc qua sân đình, hắn thấy mấy cô gái trẻ đang đẩy trục lúa trông cũng hay hay, liền giơ tay phát độp vào mông một cô, nói:

- ừ hừ ! Mẩy quá nhỉ !

Cô gái cũng chẳng vừa, cầm cây gậy đẩy trục, quay lại phang bốp vào lưng Tô Đại Cơ, chửi:

- Cha bố tổ cái thằng mất dạy.

Tô Đại Cơ chỉ tay nói:

- A! Con ôn kia! Mày chửi ông mày nhé. Mày không biết ông mày là cháu quan thái uý à? Cô họ ông mày là công chúa nhé, đương kim phu nhân thái sư nhé. Ông mà lên kinh ông trình thì chúng mày bỏ con mẹ chúng mày ngay. Không biết ông là con vua cháu chúa à? Khôn hồn thì gọi ông bằng cậu công tử, không thì chết con mẹ chúng mày cả lũ.

Thực ra "cậu công tử" chỉ nói thế thôi chứ "cậu" cũng chưa lên kinh bao giờ. Cô gái điên tiết, văng cục:

- Con vua cháu chúa bà cũng có sợ cái bề hê bà đây này. Rõ cái đồ chó mượn oai hùm.

"Cậu công tử" tức lắm nhưng không làm gì được, đành dệnh dạng bỏ đi, cái đầu còn nghênh nghênh lắc đi lắc lại ra điệu ta đây kẻ dờ.

Tô Đại Cơ quê ở Hải ấp, là con ông Tô Nhuận Điền. Ông Tô Nhuận Điền là cháu họ quan thái uý Tô Trung Từ, là anh họ ngoại Thiên Cực công chúa Trần Thị Dung. Thủa nhỏ ông Nhuận Điền học rất thông minh nhưng không muốn làm quan, không đi thi, ở quê chăm lo vườn ruộng giữ đạo nhà. Ông chỉ sinh được một mình Tô Đại Cơ. Đại Cơ lớn lên không chịu học hành, suốt ngày lêu lổng rượu chè, cờ bạc. Ông Nhuận Điền không nói được con, buồn bã mà chết. Từ đó không còn ai kiềm chế, Đại Cơ càng ngông cuồng lắm. Đại Cơ cứ khụng khiệng vừa đi vừa chửi mấy con nặc nô không coi công tử ra cái chó gì, bỗng nghe tiếng mõ rao:

- Loa loa! Loa lo...a! Lệnh quan truyền xuống. Ngày mai thống quốc thái sư đương triều về ấp ta. Quan viên phụ lão, sĩ tử nho sinh, dân chúng bách tính ăn mặc chỉnh tề, trống cờ đi đón. Loa loa! Loa lo...a!

Tô Đại Cơ quay ngay lại sân đình, chỉ tay vào mấy cô gái nói:

- Đấy! Chúng mày đã nghe thấy chửa? Ông đã bảo mà. Ngày mai quan thái sư chồng cô ông về, rồi chúng mày biết tay. Ông mà xin được một chân quan thì thì...thì!... Chúng mày liệu mà run trước đi thì vừa.

Hôm sau Trần Thủ Độ ngồi trong đình tra xét sổ đinh. Mấy vị đại tư xã, tiểu tư xã, lý trưởng, tiên thứ chỉ đều có mặt đứng hầu. Quân lính cầm giáo đứng hai hàng hộ vệ. Dân chúng bách tính xúm xít đầy sân đình để xem quan thái sư thống quốc. Những trai tráng trong ấp cứ theo tên gọi đến trình diện, được phát một tấm thẻ đại hoàng nam do chính tay thái sư đóng dấu ấn. Xong việc, thái sư ngẩng lên hỏi lý trưởng:

- Làng ta có ai tên là Tô Đại Cơ không hả?

Lý trưởng đã biết Tô Đại Cơ có họ dây mơ rễ má với thái sư mới khúm núm thưa:

- Dạ! Trình thái sư! Có đấy ạ. Cậu Tô chính là nhân tài kiệt xuất của làng con đấy ạ! Cậu ấy thông minh, học hành giỏi giang lắm ạ!

- Thế nó đâu mà không thấy có mặt?

- Dạ! Cậu ấy còn đứng chờ ở ngoài kia ạ!

Lý trưởng liền bảo anh tuần đinh gọi Đại Cơ vào. Đại Cơ nghe gọi, hí hửng lắm nhưng không quên giơ nắm đấm dứ dứ về phía mấy cô gái hôm qua, ý muốn nói chúng mày biết tay ông, rồi khuệnh khoạng đi vào, nhưng đến hè đình, hắn dừng lại sửa khăn áo, lom khom đi đến trước bàn thái sư, quì xuống vái, nói lí nhí:

- Con là Tô Đại Cơ kính chào quan thái sư cùng các quan ạ!

Trần Thủ Độ hỏi:

- Kẻ đang quì kia tên là gì, con nhà ai, mau nói!

Giọng quan thái sư âm vang nghiêm nghị quá làm Đại Cơ tự nhiên run rẩy, nói lắp bắp:

- Dạ! Dạ!...Dạ! Con là Tô Đại Cơ Xin! Xin! Xin... kính chào các quạn ạ!

- Cha mẹ ngươi là ai, làm gì.

- Dạ! Dạ!... Bác con là thái uý Tô Trung Từ, cô con là Thiên! Thiên! Thiên... Cược công chúa ạ!

Thái sư giận dữ đập bàn, quát:

- Ta hỏi cha mẹ ngươi là ai chứ có hỏi cô bác ngươi đâu?

Tô Đại Cơ sợ quá giật bắn người lên. Dân chúng đứng xem được mẻ cười thoả thích. Ai đó nói:

- Đúng là cái đồ mả cha không khóc, khóc đống mối; mả mẹ không khóc, khóc bối thòng bong. Đi đâu cũng khoe là cháu thái uý, cháu công chúa. Chẳng ai biết cha mẹ nó là ai.

Tô Đại Cơ lúng búng:

- Dạ! Cha con là Tô Nhuận Điền ạ!

Thái sư bảo:

- à ra vậy! Sao ngươi không nói ngay ra mà cứ loanh quanh mãi?

- Dạ! Nhưng cha con chỉ là dân thường thôi ạ.

Dân chúng lại khúc khích cười. Thái sư nói:

- Dân thường thì sao mà không dám nói. Thôi được! Bây giờ ta cho ngươi chức câu đương, ngươi có làm được không?

- Dạ! Dạ! Thế thì nhà con thật có phúc ba đời ạ! Con làm được đấy ạ.

Thái sư nghiêm mặt nói:

- Ngươi vì có công chúa xin cho được làm câu đương, không thể ví như những câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để khác với người khác2.

Tô Đại Cơ vội cầm lấy hai bàn chân, kêu:

- ối! ối! Thế thì con không làm câu đương nữa. Xin thái sư tha cho.

Thái sư quát:

- Việc nước không phải chuyện đùa, muốn làm thì làm, muốn chơi thì chơi à? Lính đâu! Đem vị câu đương này ra chặt ngón chân cái cho ta.

Đại Cơ giẫy giẫy hai ông quần ướt sũng, nước chảy cả ra sàn đình khai mù, lạy van rối rít mãi thái sư mới tha cho. Dân chúng thích quá, cười vang cả lên. Một người nói:

- Thái sư nghiêm thế này, bố thằng nào có việc riêng cũng không dám đến nhờ.

Người khác bảo:

- Các quan ai cũng được như vậy làm gì còn có bọn tham nhũng, đất nước rồi chả mấy mà khá.

*

Cuối thu, bầu trời vần vũ, từng đám mây đen chen chúc nhau tràn xuống phương Nam. Những cơn gió lạnh đầu tiên báo hiệu mùa đông khắc nghiệt sắp về. Cả kinh đô Thăng Long xôn xao vì cái tin thành Đại Lý5 thất thủ, vua Đại Lý chạy trốn. Chỗ nào người ta cũng bàn chuyện chiến tranh, y như giặc Thát đã đánh đến bờ sông Cái. Hai anh lính Thân Văn Khoai và Thái Công Bình ngồi uống rượu trong một tửu quán ở cuối phố. Khi đã ngà ngà, Văn Khoai hỏi Công Bình:

- Dạo này em thấy bác ít phạt người thì phải.

Công Bình nhấp một ngụm rượu, khà một tiếng, gắp miếng cổ hũ đưa lên miệng, vừa nhai vừa nói:

- Chiến tranh đến nơi, mọi người đều lo đánh giặc, ai còn nghĩ đến chuyện kiếm tiền làm gì. Mà thực ra tao cũng có muốn lấy tiền của ai đâu. Hồi trước còn ông hiệu uý Trịnh Quang Minh được đô uý nâng đỡ mới cần tiền để dâng lên, đô uý lại được ông gì gì ấy che chở nên cũng cần cống lễ vì thế họ bắt anh em mình phải nghĩ cách phạt vạ lấy tiền. Từ khi thái sư khui ra vụ ấy, ông hiệu uý bị đuổi ra ngoài làm lính, ông đô uý bị giáng cấp, còn ông gì gì nghe đâu bị cách tuột cả quan tước.

- Thái sư nghiêm thế không trách tướng sĩ răm rắp một lượt nhưng bây giờ giặc đã kề biên, không biết các bố ấy nghĩ thế nào.

- Giặc đến thì đánh chứ lo gì, bao giờ bảo mình ra trận thì ra trận, biết thế đếch nào mà tính trước việc của các thầy ấy! Uống đi chứ chú mày. Mà tao nghe mấy ông ở trên nói hoàng thượng nhà mình anh dũng, mưu lược lắm, lúc mới hai mươi ba tuổi đã cầm quân đánh sang đất Tống, trừ diệt bọn thảo khấu trên vùng biên đấy.

- Thật thế á?

- Thật chứ lại. Năm ấy bọn giặc cướp trên đất Tống hoành hành ngang ngược, sang tận Lạng Giang bên ta, cướp của giết người, bắt đàn bà con gái đem về. Nhà vua sai ông Bùi Khâm đem quân lên, đánh cho một trận rồi báo cho quan quân bên Tống biết nhưng quan quân bên Tống không dẹp được. Năm sau vua ta lại sai đốc tướng Phạm Kính Ân6 đem quân sang triệt hết các ổ cướp, đốt phá hết doanh trại của chúng nhưng bọn thảo khấu ở các trại Vĩnh An, Vĩnh Bình thuộc châu Khâm lại nổi lên. Hoàng thượng đi thuyền nhỏ đem quân sang. Bọn giặc sợ hãi bỏ chạy đến châu Liêm. Vua giả làm người thường, xưng là Trai Lang cùng các tướng tuỳ tùng đi thuyền Kim Phượng, Nhật Quang, Nguyệt Quang vào sâu trong đất Tống. Về sau bọn thổ dân biết là vua, chúng đem xích sắt chặn sông hòng đánh lại nhưng đánh không được. Vua sai quân nhổ mấy chục neo sắt đem lên thuyền, xuôi ra biển ung dung trở về. Năm sau nữa vua lại sai Thân vệ tướng quân Trần Khuê Kình đánh sang Bằng Tường để thảo phạt bọn giặc cướp cho đến khi nhà Tống cử tướng giỏi xuống giữ gìn được biên giới, vua mới ban chiếu cho tướng quân Trần Khuê Kình giao lại thành Bằng Tường cho người Tống, mang quân về.

Thân Văn Khoai há mồm nghe Thái Công Bình nói chuyện. Khi Công Bình ngừng lời, Văn Khoai kêu lên thán phục:

- Giỏi quá nhỉ!

- Giỏi chứ chả giỏi, giặc Thát mà sang á! Vua ta lại chả đánh bỏ mẹ nó đi ấy chứ.

Hai anh em chừng đã ngà ngà say, đứng dậy đi vào giữa phố, mua mỗi người một thanh kiếm thép.

*

Thái sư Trần Thủ Độ bặm môi, nắm chặt tay, khuôn mặt vuông vức của ông đanh lại đầy vẻ can trường, đôi quai hàm bạnh ra như được đúc bằng đồng thanh. Ông nói:

- Việc tuyển thêm quân ta giao cho Bùi Khâm, hẹn đến rằm tháng chạp phải làm xong.

Bùi Khâm bước ra, chắp tay nói:

- Xin tuân lệnh.

Thái sư tiếp:

- Lê Tần nhận lệnh! Ngươi lo việc huấn luyện thuỷ quân, tu sửa thuyền bè, cung nỏ sẵn sàng đánh giặc.

Lê Tần tuân lệnh bước ra. Thái sư gọi tiếp:

- Trần Khuê Kình! Nhà ngươi huấn luyện bộ binh, tân binh, mùa hè sang năm sẽ tổng duyệt.

Khuê Kình dạ một tiếng rồi bước đi. Tiếp theo, thái sư phân công các tướng chỉ huy kị binh, tượng binh, quân lương, quân dược, chế tác binh khí, tất cả đâu vào đấy nhưng dường như ông vẫn còn điều gì băn khoăn. Trần Quốc Tuấn đứng bên hỏi:

- Mọi việc đều đã được định liệu, sao thượng công vẫn có ý lo phiền ạ?

Thái sư nói:

- Ta muốn đưa người sang Đại Lý để dò tin tức giặc nhưng chưa tìm được ai phù hợp với việc này.

Vương Lâm bước ra thưa:

- Trình thái sư! Tôi xin tiến cử một người có thể đảm đương việc ấy.

- Ngươi định cử ai vậy?

- Trình thái sư! Người này tên là Nguyễn Bằng, quê ở Trường Tân, đỗ thái học khoa Kỷ Hợi7, văn võ song toàn, tính tình lanh lợi, hiện đang làm huyện lệnh ở Đường Hào.

- Sao ngươi biết được người đó?

- Dạ! Người này là em rể quân dược hiệu uý Phạm Hữu. Năm ngoái tôi lên nhọt độc ở lưng, được Phạm Hữu chữa cho. Một hôm tôi đến nhà Phạm Hữu để tạ ân, vừa gặp Nguyễn Bằng từ Đường Hào cũng lên chơi vì vậy quen biết nhau.

- Người ấy võ nghệ thế nào?

- Ông ta võ nghệ chẳng kém gì tôi nhưng văn chương, mưu lự thì hơn tôi nhiều lắm. Để tôi mời đến thái sư xem.

- Thôi được! Ta không cần gặp. Phép dụng gián ai cũng chỉ biết người trực tiếp giao việc cho mình, không lộ ra ngoài. Việc này ta giao cho ngươi lo liệu, mau chóng thu xếp cho đi ngay, càng vào sâu đất giặc càng tốt. Tin tức chuyển về theo mật tuyến.

*

Nguyễn Bằng đang xem lại cuốn sổ đinh tráng trong huyện thì nhận được lệnh bàn giao công việc cho quan huyện mới, trong ba ngày phải về tới kinh thành gặp tướng Vương Lâm để nhận trọng sự. Chiều hôm sau, mọi công việc bàn giao đã xong, Nguyễn Bằng nói với vợ:

- Giặc Thát đang lăm le xâm lấn, có lẽ triều đình điều ta sang việc quân, nàng hãy đem con về quê nương tựa xóm làng, ngày mai ta lên kinh, sự thể thế nào sẽ tin về cho.

Phạm Thị nghe lời, đưa các con về làng Cao Duệ ở huyện Trường Tân nương nhờ bên ngoại, ngày đêm mong ngóng tin chồng. Nguyễn Bằng lên kinh tìm đến phủ tướng quân Vương Lâm nhưng Vương Lâm đang ở bên dinh thái sư. Nguyễn Bằng đành ra nghỉ ở nhà công quán đến chiều mới trở lại, gặp ngay lúc Vương Lâm vừa về. Một gia nhân đưa Nguyễn Bằng vào ngôi đại sảnh. Vương Lâm đã chờ sẵn ở đó. Trông thấy Vương Lâm, Nguyễn Bằng vội làm lễ, nói:

- Hạ chức là Nguyễn Bằng xin có mặt để tướng quân sai bảo.

Vương Lâm vội đỡ Nguyễn Bằng dậy, nói:

- Đây là nhà tôi, không phải là chốn quân doanh. Hơn nữa tôi với ông là bạn, không cần đa lễ.

Hai người chia ngôi chủ khách ngồi bàn việc. Sau khi nói cho Nguyễn Bằng biết nhiệm vụ, Vương Lâm hỏi:

- Việc nặng nề thế đấy, ông có vướng mắc gì không?

- Việc quân, việc nước, tôi dẫu phải bước lên chông, lăn vào lửa cũng chẳng dám từ. Xin tướng quân cho biết bao giờ khởi hành?

Vương Lâm cười thân mật, hỏi:

- Có cần về thăm nhà không? Hay là ngày mai ông về thăm nhà vài bữa rồi lên đây ta liệu.

- Tôi đã chịu mệnh đâu còn dám nghĩ chuyện nhà!

- Tôi thật cảm kích trước tấm lòng vì nước của ông. Công việc như thế tạm ổn, bây giờ ta có thể cùng nhau làm vài chén; từ hôm nay ông đã là người lính rồi. Bay đâu! Sắp bàn rượu bên gốc tùng kia để ta tiếp khách.

Bóng trăng trên cao soi rõ hai người lính ngồi đối ẩm bên gốc tùng già. Chừng đã ngà ngà, Vương Lâm bảo:

- Nào cạn chén! Uống đi ông. Ngày mai ông đi, tôi chờ ra trận, sau cuộc chiến này dù không còn được ngồi uống với nhau thì cũng thoả lòng.

Nguyễn Bằng đã say nên thoải mái hơn, nói:

- Uống chứ! Uống chứ! Tửu phùng tri kỉ. Bác cứ đợi tôi về.

Hai người cười váng lên, gõ bàn làm nhịp, cùng hát: Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu hề. Cổ lai ư...hư hư...chinh chiến kỉ nhân i i i...hi hi... hồi8.

Tiếng hát về đêm nghe vang xa, bay cao như chạm lanh canh vào các vì tinh tú.

*

Sáu con tuấn mã phi như bay về phía biên thuỳ. Trước mặt đã là ải Qui Hoá, nơi ấy có chúa động Hà Khuất trấn giữ. Nguyễn Bằng ra hiệu cho mọi người đi chậm lại. Đường núi khúc khuỷu trập trùng. Hai bên đường, vô số cây đại thụ gốc rễ xù xì đứng nghiêm nghị bên nhau như những tráng sĩ rừng xanh canh miền biên ải. Hết sườn núi này sang sườn núi khác kéo dài vun vút về đỉnh Chim Ưng, bao nhiêu chóp đá của dãy Tây Côn Lĩnh quanh năm mây phủ tưởng như chạm tới trời. Sáu con ngựa cùng chạy nước kiệu vào trước quân doanh. Mọi người xuống ngựa. Hai anh lính cầm giáo đứng gác, chặn lại hỏi. Nguyễn Bằng đưa trình tấm thẻ. Một anh lính gác bảo mọi người chờ, cầm tấm thẻ chạy vào, lát sau quay lại cùng với người đàn ông chừng gần năm mươi tuổi ăn vận theo kiểu dân man động, đó chính là tướng quân Hà Khuất ra đón. Khi tất cả đã vào trong trại, Hà Khuất nói:

- Tao đã nhận được cái lệnh đưa các cái mày sang phía bên kia nớ. Người của tao ở bên ấy sẽ đón à. Cửa Mã Quan có quân Mông Thát nó chiếm rồi nớ, tao cho người đưa các cái mày đi tắt rừng qua khe Độc Long rồi vượt lên đỉnh Chim Ưng mà sang nớ. Hôm nay các cái mày cứ nghỉ, sớm mai sẽ đi à. Hàng hoá tao cho đóng gói sẵn cả rồi à.

Sớm hôm sau, Hà Khuất cho mang đến sáu bộ quần áo man, bảo mọi người thay vào, mỗi người đeo một thanh kiếm có ngạnh khoằm ở gần mũi và một chiếc gùi đựng hàng buôn cùng lương thực, theo anh lính dẫn đường, nhằm hướng đỉnh Chim Ưng mà đi. Càng đi sâu vào rừng càng âm u ẩm ướt. Hai chiếc dây đeo gùi thít chặt vào hai bên nách làm Nguyễn Bằng cảm thấy đôi tay tê dại. Dưới chân rêu đá lầy nhầy, chỉ cần sơ ý trượt chân là lao ngay xuống vực thẳm. Tiếng chim bắt cô trói cột gọi nhau xé rách vẻ uy nghiêm tĩnh lặng của rừng già. Đôi lúc có những đàn khỉ, thấy người, kéo nhau đến xem, kêu chí choé. Anh lính dẫn đường im lặng, đi phăm phăm phía trước, thỉnh thoảng dừng bước chờ mọi người, tay cầm cây kiếm mũi khoằm chốc chốc lại giật đứt những dây leo chăng cản ngang đường. Rất nhiều khe nước nhỏ rót xuống vực, có vòi nước không chạm được xuống phía dưới mà rơi đến lưng chừng tan ra tạo thành một màn hơi mỏng trắng đục bay lượn lờ trên thảm rừng xanh. Bất giác Nguyễn Bằng ngâm:

Vạn trượng hồng tuyền lạc

Thiều thiều bán tử phân

Bôn lưu há tạp thụ

Sái lạc xuất trùng vân

Nhật chiếu hồng nghê tự

Thiên thanh phong vũ văn

Linh sơn đa tú sắc

Không thuỷ công nhân uân8

Trời về chiều, sương xuống lạnh. Đoàn người đi đến một thung lũng hẹp. Người lính dẫn đường dừng lại nói:

- Các cái mày dừng lại, lên chòi ăn cơm, đi ngủ nớ, không được xuống đất, ông khái mang đi đấy à.

Lúc này Nguyễn Bằng mới để ý nhận ra cái chòi làm chông chênh giữa lưng chừng bốn cây gỗ lớn. Các gốc cây đầy những vết cào của loài thú dữ. Người lính dẫn đường bám thân cây trèo lên chòi, vứt xuống một chiếc thang dây, bảo mọi người leo lên.

ở rừng thời gian đi nhanh. Loáng cái, màn đêm đã trùm kín khắp mọi nơi nhưng hình như bây giờ chúa rừng mới đánh thức muôn loài trong cái thế giới hoang dã đầy bí mật này. Mở đầu là tiếng tru dài của một con chó sói, tiếp theo là hàng loạt tiếng hú trả lời của bầy đàn. Cánh rừng rộn rã hẳn lên bởi tiếng sói, tiếng vượn, tiếng tác của hươu nai, tiếng chim khảm khắc gọi bạn, tiếng ve rừng ra rả suốt đêm...

Anh lính dẫn đường vừa đặt lưng đã ngáy ngon lành. Mấy anh lính miền xuôi nói chuyện nhí nháu. Nguyễn Bằng bảo:

- Các chú ngủ đi cho lại sức, ngày mai đường xa lắm đấy.

Tuy nói vậy nhưng chính Nguyễn Bằng cũng đâu có ngủ được, âm thanh của rừng hoang làm cho chàng trằn trọc không yên. Về khuya rừng càng lạnh, những tiếng i...i...i...on...on...on không biết từ đâu vọng đến khiến chàng liên tưởng tới bao nhiêu câu chuyện ma rừng đã từng được nghe người già kể lại từ thời thơ bé. Bỗng mấy tiếng iái...gừm...iái...gừm rất to ở ngay dưới chân chòi làm sáu anh lính miền xuôi ngồi bật cả dậy. Có anh hoảng hốt nói:

- Cái gì mà nghe ghê thế hả?

Anh lính dẫn đường ầm ừ, trở mình, nói:

- ừ ...ừ! Ông khái đấy nớ! Ngủ đi à.

Dứt lời, anh ta lại ngáy ngay được, mặc mấy anh lính miền xuôi rúm rít vì sợ, một thứ sợ hãi xen lẫn thích thú vì sự lạ. Lát sau có tiếng cào sồn sột vào gốc cây. Anh nào đó vừa cười vừa nói:

- Bỏ mẹ! Nó trèo lên đấy, có thằng thì mất ấy!

Nguyễn Bằng bảo mọi người:

- Thôi! Không nói nhảm nữa. Tất cả ngủ đi. Nó không lên được đâu.

Sáng hôm sau, khi đôi chim khảm khắc ngừng hót thì rừng già cũng lấy lại được cái vẻ trầm tư huyền bí ban ngày. Một anh nói:

- Đêm hôm qua thích thật đấy, tớ nằm mãi mới ngủ được.

Anh khác cười, bảo:

- Sợ bỏ mẹ lại còn thích.

Anh khác nữa:

- Chả trách người ta bảo rừng già cũng như vị quan lớn vậy, ban ngày trầm tư đạo mạo, đến đêm nghịch như ma như mãnh.

- Chẳng thế lại có câu ban ngày quan lớn như thần, ban đêm quan lớn tần mần như ma.

Đoàn người cứ đi nhưng bây giờ không phải là trèo lên, mà lao xuống dốc. Con đường đi xuống vừa âm u vừa trơn như ai bôi mỡ. Thỉnh thoảng lại có một người ngã bệt đít làm ai nấy cười như nắc nẻ, càng xuống sâu càng hun hút như tới tận âm ty địa phủ, trước mặt sau lưng toàn dốc đá dựng đứng, cây cối khoằm khoèo kì quái. Nguyễn Bằng hỏi người lính dẫn đường:

- Đây là đâu mà có vẻ ác địa thế này?

Người lính dẫn đường trả lời:

- Các cái mày không biết à? Chỗ này gọi là khe Độc Long nớ, chưa ác đâu, xuống dưới kia rồi mới biết à.

Một lúc sau xuống đến đáy khe. Nơi đây dường như quanh năm không có gió, một mảng trời nho nhỏ bị cầm tù giữa bốn bề vách đá. Nước chảy róc rách qua những lớp lá mục ẩm ướt. Chướng khí bốc lên mờ mờ khiến mọi người ngột ngạt tức thở. Lối lên ở phía bên kia không có đường, phải bám vào dây leo mà đu mình lên từng nấc một, vách lên cao gấp hai lần vách xuống. Người lính dẫn đường nói:

- Tao lên trước nớ, các cái mày bám dây cho chắc, tuột tay rơi xuống là tan thây à.

Một anh lính vừa nắm lấy thân dây leo vừa nói:

- Để tôi thử xem nào.

Người lính dẫn đường vội thét lên:

- Dừng à! Ay à!!! Chết rồi à.

Không kịp rồi! Theo tiếng nói của anh lính dẫn đường, anh lính vừa định thử leo lên ngã vật xuống, mặt xám ngắt trong giây lát nổi lên những vết tím lịm. Những người lính miền xuôi hốt hoảng không biết chuyện gì đã xảy ra. Anh lính dẫn đường nói:

- Nó chết rồi! Con rắn lục nâu cắn nó nớ.

- Rắn lục xanh chứ sao lại rắn lục nâu.

- Lục xanh cắn may ra còn kịp cứu nớ, lục nâu cắn thì chết ngay thôi. Nó đây à.

Anh lính dẫn đường chém một nhát kiếm vào thân dây leo. Một con rắn mầu nâu nhạt, hơi có sắc xanh bóng chỉ nhỏ như ống sậy, đứt đầu rơi xuống quằn quại. Anh lính dẫn đường nói tiếp:

- Các cái mày phải tinh mắt nớ, cẩn thận à.

Ai nấy mặt buồn rười rượi. Trong lòng khe toàn là đá khối không đào được huyệt, họ phải xếp cho người bạn xấu số một ngôi mộ đá.

Trời gần tối lên đến lưng chừng núi, ở đây có lối hơi bằng phẳng để leo lên. Anh lính dẫn đường nói:

- Từ đây lên dễ hơn rồi nớ. Giờ các cái mày mệt rồi, nghỉ à, mai đi tiếp à.

Nguyễn Bằng hỏi người lính dẫn đường:

- Hôm sau chú quay về một mình có buồn không?

- Cái đại nhân không biết à. Tao lên ở lại đó thay cho người khác về nớ. Khi nào có người lên thay tao mới về à.

Trưa hôm sau lên đến đỉnh Chim Ưng, lởm chởm đá tai mèo sắc như gươm giáo. Nhìn sang bên Tây, vách đá dựng thành, phía xa là thảo nguyên mênh mông một màu xanh nhàn nhạt rồi lại núi trùm lên núi, rừng ken vào rừng tầng tầng lớp lớp không biết đâu là điểm tận cùng. Quay lại bên Đông bát ngát một màu mây bạc, loáng thoáng lộ ra những bạt rừng xanh thẫm. In trên nền trời xanh là những cánh chim đại bàng bay lượn một cách kiêu dũng. Gió thổi phần phật làm tung khăn áo mọi người. Mấy anh lính miền xuôi lần đầu lên núi rất phấn khích, một niềm phấn khích thật là bồng bột. Họ muốn gào lên, mặc dù tất cả đã mệt rã rời.

Nguyễn Bằng đứng ngắm mãi về Đại Việt, chưa bao giờ chàng có cảm giác đất nước đẹp đến thế này, nhất là giờ đây sắp phải rời xa để đi sâu vào đất giặc. Chàng cất tiếng hát:

Tay vịn lên mây trắng

Đầu cụng vào trời xanh

Giang sơn tình muôn dặm

Nâng bước chân lữ hành.

Tất cả mấy anh em đều đồng thanh hát:

Giang sơn tình muôn dặm

Nâng bước chân lữ hành.

Giang sơn tình muôn dặm

Nâng bước chân lữ hành...

Tiếng hát ngân xa, kéo dài mãi ra như muốn gửi bao tình lưu luyến của những anh lính về chốn quê nhà. Hứng khởi cảm động, họ khoác chặt tay nhau, hát vang lên mãi...

Anh lính dẫn đường đưa mọi người vào một hang đá. ở đó đã có ba người chờ sẵn, một người mặc kiểu dân man động còn hai người kia vận y phục Đại Lý. Một người mặc y phục Đại Lý chạy ra đón, nói:

- Xin chào mọi người! Chúng tôi chờ các vị ở đây đã lâu rồi.

Hoá ra ông ta là người kinh ở miền xuôi lên. Người lính dẫn đường nói:

- Tao dẫn các cái mày đến đây là xong nớ. Từ đây hai cái người kinh này nó dẫn các cái mày đi à.

Hôm sau, anh lính dẫn đường ở lại thay cho người mặc y phục man động trở về. Nguyễn Bằng và bốn anh lính miền xuôi thay quần áo Đại Lý, bỏ kiếm, đeo gùi hàng theo hai người dẫn đường mới đi tiếp xuống sườn phía tây. Con đường này dốc đá dựng đứng, phải dùng dây cột chặt phía trên, thả các gùi hàng xuống trước, người tụt xuống sau, cứ như thế nhiều nấc, nhiều nhịp mới tới chân núi. Người dẫn đường chỉ tay nói:

- Xuống chân núi này là đất Đại Lý rồi. Từ đó có hai đường, xuôi về hướng Nam bốn mươi dặm là đến ải Mã Quan, đi tiếp ba mươi dặm nữa đến địa phân ải Quy Hoá của ta, ngọn núi này thuộc về châu Thuỷ Vĩ9. Còn một lối hướng thẳng phía Tây hai trăm dặm đến thành Thiện Xiển10 rồi ngược lên hướng Bắc ba trăm dặm nữa là tới thành Đại Lý. Ta đi nhanh cũng phải mất sáu ngày mới tới được thành Thiện Xiển.

Chỉ còn nhịp cuối cùng này nữa là đến chân núi, đã có bốn người xuống tới nơi. Nguyễn Bằng đang treo mình trên lưng chừng vách đá, cũng đã gần mặt đất, bỗng có những chuyển động lạ truyền từ sợi dây đến tay chàng. Sợi dây đứt chăng? Từ sáng đến giờ nó đã bị cạnh đá cứa sước nhiều lắm rồi. Nguyễn Bằng chỉ kịp nghĩ vậy, cái điều tồi tệ nhất đã xảy ra. Sợi dây leo bị cạnh đá cứa đứt. Một anh lính ở dưới kêu lên:

- Chết rồi! Đại nhân đứt dây rơi xuống rồi!

Mấy người xuống trước cùng chạy xúm lại, chỉ thấy Nguyễn Bằng dang chân tay nằm bất động. Một người nói:

- Nguyễn đại nhân mà làm sao thì hỏng hết công việc.

Thật là:

Tráng sĩ trên đường vừa hiến mạng

Chủ quân cơ sự cũng khôn lường

Mời bạn đọc tiếp chương sau xem số phận Nguyễn Bằng ra sao.

______________________________________

1 Những lời thoại này lấy nguyên văn trong ĐVsktt.

* Phụng Càn là tên cũ của Trần Liễu.

2 Bài thơ vốn chữ Hán, Lời dịch của Đào Phương Bình, nói rằng vua khởi thuỷ nhà Đường là Lý Thế Dân lấy hiệu Thái tông phải giết anh là Kiến Thành để tranh ngôi. Vua khởi thuỷ nhà Trần cũng lấy hiệu Thái tông nhưng lại cứu sống anh là An Sinh vương, đức của vua Trần lớn hơn vua Đường nhiều lắm.

3 ĐVsktt.

4 Theo ĐVsktt.

5 Đại Lý: Một quốc gia cổ, ở Vân Nam, có biên giới chung với Đại Việt, nay là vùng Vân Nam-Trung Quốc, bị Hốt Tất Liệt và Cốt Đãi Ngột Lang đánh chiếm năm 1254.

6 Phạm Kính Ân là tướng cũ của nhà Lý.

7 Năm Kỷ Hợi (1239) có khoa thi thái học sinh. Lưu Miễn, Vương Giát đỗ đầu-Theo ĐVsktt.

8 Thơ của Vương Hàn đời Đường. Tạm dịch: Say nằm bãi cát đừng cười nhé. Xưa nay ra trận mấy ai về.

8 Thơ của Trương Cửu Linh đời Đường. Xin tạm dịch:

Mạch tuôn muôn trượng suối hồng

Chập chờn hơi tím lưng chừng núi cao

Giội trên cây lá ào ào

Tung lên đến tận trời cao mây vờn

Nắng soi hiện mống chiều hôm

Trời xanh mà ngỡ mưa tuôn bời bời

Linh sơn cảnh đẹp trên đời

Lẫn màu sơn thuỷ như thời hỗn mang.

9 Thuỷ Vĩ: Tỉnh Lào Cai ngày nay (Theo Dư điạ chí của Nguyễn Trãi- chú thích 13 chương 27)

10 Thiện Xiển: Một thành phố và căn cứ quân sự quan trọng của Đại Lý. (Theo nghiên cứu của Nguyễn Lương Bích).

Doạ Đại Việt, ba đoàn sứ Thát vào giam

Giữ Yên Khâu, một tướng nhà Trần bị hại

Nguyễn Bằng đang theo dây leo thả mình xuống, gần tới nơi thì dây đứt, nằm ngất lịm. Mọi người xúm lại cứu chữa. May gặp chỗ đất mềm nên Nguyễn Bằng chỉ bị choáng, một lúc sau tỉnh lại. Bảy người lại đeo gùi hàng đi sâu vào đất Đại Lý.

*

Trời chưa sáng mà khắp làng nhà nào cũng đỏ lửa. Mấy chú gà trống choai gáy éc e như h•y còn ngái ngủ, tiếng gáy tuy non nớt nhưng các chú muốn báo rằng đã có ta sống ở trên đời. Bà Vũ nấu xong nồi cơm nếp, xới ra mâm cho nguội, nắm cho con mang đi ăn đường rồi đến bên giường con trai định gọi nhưng thấy Vũ Tuấn còn đang ngủ say nên lại thôi, lầm bẩm một mình:

- Mẹ bố nó, ngủ thế này không biết đi có làm được việc gì không?

Mấy chú gà gáy dồn, ngoài đường vang lên tiếng mõ:

- Loa loa! Loa loa! Dân làng nghe báo. Hôm nay làm lễ tiễn binh. Trai tráng trong làng đã trúng tuyển, sáng sớm ra đình để về doanh trại. Loa loa! Loa loa.

Vũ Tuấn choàng dậy bảo mẹ:

- Con đã bảo bu gọi dậy sớm mà không gọi, khéo không người ta đi hết còn gì!

- Bố anh! Làm gì mà rối cả lên, ngủ như trâu ấy. Vào lính liệu mà ăn mà ngủ không giặc nó đến đít chưa biết thì vừa.

Vũ Tuấn ra đến sân đình, nhiều người đã đứng lố nhố khắp cả. Đám trai làng chuẩn bị đầu quân túm tụm một góc chuyện trò. Nguyễn Văn Điền, Mai Văn Tự, Đoàn Sĩ Hiệp, Phạm Anh cùng mấy người nữa đều đã có mặt, họ vừa trông thấy Vũ Tuấn đến liền gọi to:

- Tuấn! Lại đây.

Vũ Tuấn chạy lại phía các bạn, nói:

- à ! Đông đủ cả rồi nhỉ! Thằng Thử đâu?

Một người nói:

- Chắc cũng sắp ra đấy.

- Có khi chưa ngủ dậy cũng nên, thằng này chúa dậy muộn.

Trời sáng rõ, cha mẹ đám tráng đinh đăng lính lần này cũng đứng cả hai bên sân đình. Có người cười, có người khóc nhưng phần nhiều nghiêm trang nhìn về phía cửa đình, ở đó treo một lá cờ đại. Lúc sau, quan đô uý cùng mấy viên hiệu uý đi vào, theo sau là Nguyễn Vĩ Thố lí trưởng làng Cao Duệ, trương tuần và các vị chức sắc trong làng. Mấy anh lính tốt chạy lăng xăng bảo dân làng đứng lui xuống phía cuối sân đình, một anh cầm chiếc loa đứng lên bục cao cạnh lá cờ đại, hướng về đám trai đinh, nói:

- Nghe đây! Nghe đây! Hôm nay làm lễ tiễn binh, trai tráng trúng tuyển lặng yên nghe lệnh, khi gọi đến tên ai người ấy thưa "có" rồi vào trong đình đứng thành hàng để chờ làm lễ. Cha mẹ đinh tráng đứng ở ngoài sân không được ồn ào để các quan làm việc.

Mọi người yên lặng trước cảnh tượng long trọng của buổi lễ. Anh lính cầm loa dõng dạc gọi:

- Đoàn Sĩ Hiệp.

- Có!

Sĩ Hiệp thưa xong, bước những bước dài mạnh dạn về phía cửa đình. Trong đám cha mẹ, ai đó nói:

- Oai quá nhỉ. Cậu này nhất định rồi sẽ khá.

Người lính cầm loa gọi tiếp:

- Phạm Anh.

- Có!

Phạm Anh khoan thai bước lên bậc tam cấp. Mấy cô gái làng xì xào:

- Đẹp trai quá!

- Trông thư sinh thế!

- Trắng như con gái ấy!

Anh lính cầm loa gọi đến Nguyễn Văn Điền, Mai Văn Tự. Văn Điền, Văn Tự thưa, đi vào. Gọi đến Nguyễn Vĩ Thử, không có người trả lời. Trong đình, lí trưởng Nguyễn Vĩ Thố chắp tay nói với quan đô uý:

- Dạ! Thưa quan đô uý! Nguyễn Vĩ Thử là con trai của hạ cấp ạ. Mấy ngày hôm nay cháu nóng sốt li bì, đau bụng quằn quại. Dạ! Có giấy xác nhận của đại tư xã đây ạ. Xin quan đô úy hoãn cho cháu đến lượt tuyển lính sau ạ.

Viên đô uý cầm tờ giấy đưa lên xem, nói:

- Thôi được! ốm thì để lần sau chứ biết sao.

Trong đám tân binh, Sĩ Hiệp bảo Phạm Anh:

- Quái! Cái thằng Thử này! Hôm qua tao vẫn thấy nó đi chơi, còn ghẹo con Điệp nữa, sao bố nó lại bảo ốm mấy ngày rồi là thế nào?

Văn Tự bảo:

- Thôi! Cứ im đi đã. Ai còn lạ gì bố con nhà ông ấy nữa. Khi đi gọi người khác đăng lính, ông ấy nói hay lắm nhưng con ông ấy năm lần bảy lượt trốn không chịu đi.

Sĩ Hiệp bảo:

- Nhưng có giấy của đại tư xã cơ mà?

Phạm Anh nói:

- Chú ông ấy làm đại tư xã chứ ai, xin giấy gì chả được.

Anh lính cầm loa gọi tiếp Vũ Tuấn và những người khác. Gần trưa, mọi nghi lễ đã xong. Mấy chục gã tân binh xếp thành hàng, ngước trông bóng cờ bước theo nhịp trống rập rình. Dân làng tiễn đưa vẫy khăn, vẫy nón đến khi đoàn quân khuất dần sau luỹ tre phía xa mọi người mới tản dần về, chỉ còn các bà mẹ đứng nhìn theo mãi. Bà Nguyễn lấy vạt áo chấm nước mắt, bảo bà Phạm:

- Khổ! Nuôi con đến lúc nhớn đỡ đần được một chút lại phải vào lính, thằng Điền nhà tôi hiền lành như thế có biết đánh nhau bao giờ, chiều hôm qua vẫn còn giúp bố cày nốt hai sào ruộng ở cánh đồng Bến.

Bà Phạm bảo:

- Ai đẻ con ra lại muốn cho đi đánh nhau. Cũng là tại cái thằng giặc cả, nó không sang ăn cướp nước mình thì đâu nên chuyện. Thằng Phạm Anh nhà tôi yếu ớt quá, suốt ngày chỉ biết vùi đầu vào kinh vào sách.

Bà Đoàn nói:

- Yếu ớt cũng chẳng lo, theo anh theo em luyện tập vài tháng là lớn phổng lên ngay ấy mà. Trai thời loạn chẳng ra giúp nước thì sao. Biết đâu mà lo. Chúng nó đi rồi mình cứ chịu khó việc nông tang để anh em chúng có cái ăn mà đánh giặc là được.

Tuy nói vậy nhưng bà Đoàn cũng lấy tay áo quệt vội những giọt nước mắt chỉ chực rơi xuống. Mấy bà cùng nói:

- Bà Đoàn nói thế cũng phải.

*

Cốt Đ•i Ngột Lang gầm lên làm những cây kiếm cong treo trên giá run bần bật, nói:

- Vua đại Việt khinh ta quá lắm, đã không nghe lời lại còn giam sứ. Phen này ta quyết làm cỏ nước Nam. Triệt Triệt Đô, Đoàn Hưng Trí kiểm điểm binh mã đợi lệnh.

A Truật lúc bấy giờ mới mười tám tuổi nhưng đã là một dũng tướng, bước ra thưa:

- Thưa cha! Con thường nghe nói người Nam là giống quật cường không thể lấy lời đe doạ đè nén họ được. Chi bằng ta cứ ngon ngọt mà dụ thì hơn chứ chưa nên tiến binh vội.

Ngột Lang gầm lên:

- Vó ngựa của ta in dấu từ Tây sang Đông. Kẻ nào cũng mới chỉ nghe tên ta đã phải bỏ thành mà chạy. Ta đâu có phải ngon ngọt với ai bao giờ. Cứ nhùng nhằng mãi, khi nào mới đến được đất Nam Tống đây.

Tín Thư Phúc bước ra thưa:

- Trình nguyên soái! Công tử nói rất đúng. Ta nên cho sứ sang Đại Việt nói rõ là mượn đường vào đất Tống. Chỉ cần người Nam cho quân ta vượt qua cửa ải, Đại Việt đã nằm trong tay ta rồi mà đường sang Nam Tống cũng không còn gì ngăn trở, ta có thể đến Ngạc Châu1 trước kì hạn. Như thế có phải đỡ vất vả vì giao tranh dọc đường không, lại dễ dàng lấy được Đại Việt.

Cốt Đ•i Ngột Lang nghe theo mới nuốt giận viết thư, cử sứ giả đi lần nữa. Một mặt sai A Truật, Hoài Đô, Triệt Triệt Đô, Đoàn Hưng Trí chuẩn bị binh mã, lương thảo vận chuyển trước đến ải Mã Quan. Chừng một tháng sau có mấy tên quân hộ vệ đoàn sứ về báo:

- Đoàn sứ của ta không dụ được vua Đại Việt liền đe là nguyên soái sẽ mang đại binh sang, không ngờ chúng nổi giận, bắt giam hết cả lại. Chúng còn bảo: "Để nguyên soái của các ngươi sang đây sẽ giam chung một thể". Mấy chúng tôi liều chết trốn ra mới về thoát được. Mong nguyên soái mau phát binh đi đánh báo thù rửa cái nhục này.

Cốt Đãi Ngột Lang lông mày dựng ngược, vểnh râu, trợn mắt thét:

- Vua tôi nhà Trần giỏi thật. Ta xem các ngươi có mấy lá gan mà dám chống lại thiên triều!

Nói xong liền lệnh cho các tướng: Triệt Triệt Đô cùng Bố Nhĩ Hải, A Nhĩ Hải mỗi người đem một nghìn quân đi tiên phong, ngay ngày hôm ấy phải ra khỏi thành Thiện Xiển. A Truật, Hoài Đô đem mười viên lực sĩ cùng một vạn quân đi tiếp ứng cho ba mũi tiên phong và do thám những nơi bố phòng của quân Đại Việt. Đoàn Hưng Trí giao lại công việc trong nước cho em trai là Tín Thư Nhật nhiếp chính, cùng người em khác là Tín Thư Phúc, mang một vạn hai nghìn quân bộ Bắc Thoán và tám nghìn quân kị đi thứ ba vừa làm nhiệm vụ dẫn đường vừa hỗ trợ cho hai đạo quân trước. Cốt Đãi Ngột Lang thân đem một vạn năm nghìn quân đi sau. Tổng số nhân mã là bốn vạn tám ngàn lính. Bắt chín vạn ba ngàn dân phu người Đại Lý, Bạch Man, Lô Lô đi phục dịch, hẹn trong mười ngày phải ra khỏi Mã Quan.

Lúc ấy Nguyễn Bằng đang vờ buôn bán ở Thiện Xiển, dò biết được tình hình, bảo người đưa tin qua lối đỉnh Chim Ưng về cho Hà Khuất. Hà Khuất liền cử ngựa trạm chạy suốt ngày đêm về kinh cấp báo.

Bấy giờ đang là mùa đông, mấy vạn dân phu, trâu bò Đại Lý đi phục vụ quân binh rất khổ sở. Người chết vì rét, ngã núi, chết vì mệt nhọc... nhiều lắm. Thỉnh thoảng lại có mưa tuyết, quân lính vô cùng vất vả. Khi tiền quân đã áp sát ải Quy Hoá của Đại Việt thì hậu quân của Cốt Đãi Ngột Lang chưa ra hết cửa Mã Quan. Đạo quân của A Nhĩ Hải được lệnh đánh Quy Hoá, tấn công liền ba ngày mà không sao chiếm được ải. Quân của Hà Khuất dùng cung nỏ, gỗ đá đánh lại làm quân Mông Thát chết hại rất nhiều. Tín Thư Phúc bẩm với Cốt Đãi Ngột Lang:

- Trước đây nguyên soái cho sứ sang Đại Việt nhưng chưa xuất binh nên vua của chúng mới khinh lờn. Nay quân ta tiến đánh, cái cơ một sớm một chiều lấy được Đại Việt đã rõ. Vua tôi chúng tất phải sợ hãi. Xin nguyên soái phái sứ đi một lần nữa chắc bọn chúng không còn dám hỗn.

Cốt Đãi Ngột Lang nói:

- Ngươi nói cũng có lí, nhưng bây giờ cử ai đi sứ đây?

Triệt Triệt Đô nói:

- Lần này phải cử một dũng sĩ biết ăn nói đi, cho chúng thấy quân ta hùng mạnh thế nào. Tôi xin tiến cử một người là Ngạch Vu Tháp. Người này tướng mạo đường đường, oai phong lẫm lẫm lại ăn nói hào hùng, nhất định không phụ lòng thống tướng.

Hôm sau Ngạch Vu Tháp đến ải Quy Hoá, cho quân lính giương biển miễn chiến, gọi mở cửa thành cho sứ vào. Hà Khuất bắt phải cho quân lính lui lại, chỉ để Ngạch Vu Tháp và mươi tên quân theo hầu đi vào, ngay hôm ấy cho người áp giải về kinh thành Thăng Long.

Cốt Đ•i Ngột Lang ém quân lại đợi sứ về nhưng gần một tháng chẳng thấy sứ đâu mới tiếp tục xua quân đánh vào Quy Hoá. Triệt Triệt Đô đứng dưới cửa quan gọi to lên rằng:

- Này Hà Khuất! Ta giao sứ cho ngươi đến nay đã gần một tháng, vua tôi nhà ngươi cớ sao không cho sứ trở về?

Hà Khuất ở trên thành nói xuống:

- Đại Việt ta là nước văn hiến. Sứ của các ngươi đến chầu lại không biết giữ lễ, buông lời ngạo mạn, khinh thị quân vương, tội đáng phơi thây nhưng vua ta nhân từ mở đức hiếu sinh không giết, chỉ mời vào nghỉ trong nhà lao thôi. Bây giờ muốn nói chuyện gì phải hỏi cây nỏ của ta trước đã.

Triệt Triệt Đô căm tức bầm gan, múa cây búa Nguyệt Lãng thúc quân vào đánh. Trên thành tên đạn giội xuống như mưa. Quân Thát xông lên mấy lần đều phải lùi trở lại.

*

Kinh thành Thăng Long sôi lên vì tin quân Mông Thát đã đánh vào ải Quy Hoá. Các lò rèn đúc trong thành Đại La đỏ lửa suốt ngày đêm. Trường thương, đoản kiếm, hoạ kích, đại đao được làm ra vô số. Trai tráng trong lính ngoài dân ai ai cũng muốn sắm cho mình một thứ binh khí vừa tay cầm. Từ tướng quân đến sĩ tốt chỗ nào cũng chỉ nói chuyện chinh chiến. Các tướng Vương Lâm, Trần Khuê Kình, Chu Bác Lãm đến nói với Bùi Khâm và Lê Tần rằng:

- Nay quân Thát đã đến cửa ngõ, không biết hoàng thượng giao quyền tiết chế cho ai? Nếu để thái sư cầm quân e rằng hỏng việc. Chúng ta đều là trọng thần phải nên gắng sức khuyên nhà vua chọn người hiền tài mà giao binh quyền mới có thể giữ yên đất nước.

Mọi người cùng nói phải đấy, riêng Lê Tần bảo:

- Các ông không phải lo. Dẫu hoàng thượng có giao ấn nguyên nhung thái sư cũng không nhận đâu. Việc cầm quân ắt có người tài đảm trách.

Trong điện Thiên An, Thái Tông ngồi thiết triều. Văn võ bách quan đứng hai hàng. Thái Tông phán:

- Nay quân giặc đã xâm phạm biên cương, trẫm giao toàn quyền điều vát quân sĩ cho thống quốc thái sư. Khanh hãy vì muôn dân trăm họ mà nâng lấy gánh nặng giang sơn.

Thái sư Trần Thủ Độ bước ra tâu:

- Muôn tâu hoàng thượng! Việc hoàng thượng uỷ thác, thần muôn chết chẳng dám từ. Nhưng xét nghĩ nước ta nay phía Bắc sát biên giới với hai nước lớn là Tống và Thát, việc binh bị chắc phải lâu dài mà thần tuổi đã sáu tư, không biết còn hầu hạ hoàng thượng được bao lâu, nên trộm nghĩ cần phải chọn trong các tướng trẻ lấy người tài giỏi để giao trọng trách, đặng gây dựng rường cột lâu dài cho xã tắc.

Quần thần đều cho là thái sư nói phải. Thái tông truyền:

- Các khanh đã nói vậy hãy cử cho trẫm một người có thể gánh vác được công việc nặng nhọc lâu dài này.

Lê Tần đứng ra tâu:

- Thần xin tiến cử Trần Quốc Tuấn. Người ấy trẻ tuổi, tài đức vẹn toàn, thông hiểu binh pháp, tài hoa văn chương, sâu sắc kinh sử lại có lòng thương yêu bách tính, đó là tướng muôn đời hiếm thấy.

Các quan đều nói sự tiến cử của Lê Tần là sáng suốt nhưng Nhân Đạo vương nói:

- Thần thiết nghĩ cử tướng là phải dùng người tài đức vẹn toàn, thông đạo, hiểu lễ. Cứ xét việc tháng giêng năm Nguyên Phong thứ nhất thì thấy Quốc Tuấn là kẻ ngông cuồng không có đức, không biết giữ lễ, e khó mà hiệu lệnh được ba quân.

Đầu đuôi sự việc tháng giêng năm Nguyên Phong thứ nhất (Tân Hợi-1251) thế này: Trần Quốc Tuấn là con thứ của An Sinh vương Trần Liễu, vốn vẫn sống ở ấp An Sinh1. Công chúa Thuỵ Bà (em ruột của An Sinh vương, chị ruột của Thái Tông) một hôm đến chơi, thấy Quốc Tuấn thông minh dĩnh ngộ mới nhận làm con nuôi, mang về Thăng Long cho ăn học. ở đây Quốc Tuấn gặp công chúa Thiên Thành2 lúc ấy mới hơn mười tuổi. Hai người thường chơi với nhau, lâu ngày tình cảm quyến luyến. Tháng Giêng năm Tân Hợi, Thái Tông gả Thiên Thành cho con trai Nhân Đạo vương là Trung Thành vương( Năm ấy Thiên Thành khoảng mười bốn, mười lăm tuổi). Vua cho mở hội bảy ngày để mừng lễ cưới. Quốc Tuấn lúc ấy đã hai mươi tuổi, không biết làm thế nào, mới nhân ban đêm lẻn vào chỗ ở của công chúa thông dâm với nàng3.

Công chúa Thuỵ Bà sợ Nhân Đạo vương bắt làm tội Quốc Tuấn, liền đến cáo cấp với nhà vua, nhà vua vội sai nội nhân đến dinh Nhân Đạo vương nhưng thấy yên lặng, vào phòng ngủ của Thiên Thành thì Quốc Tuấn đang ở đấy. Lúc bấy giờ Nhân Đạo vương mới biết chuyện.

Hôm sau, công chúa Thuỵ Bà vội dâng mười mâm vàng lên nhà vua để làm lễ hỏi Thiên Thành cho Quốc Tuấn. Vua bất đắc dĩ phải gả, mặt khác lấy hai nghìn khoảnh ruộng ở phủ ứng Thiên để hoàn lại sính lễ cho Trung Thành vương. Việc này bị đời sau rất là chê trách4.

Từ đấy Nhân Đạo vương vẫn ấm ức nên buổi chầu hôm đó mới bác ý kiến chọn Quốc Tuấn làm tướng. Trung Thành vương tính tình khoan hậu, lại biết Quốc Tuấn là người tài mới bước ra tâu:

- Quốc Tuấn tuy làm chuyện không hay nhưng là người tài ba lỗi lạc, hiếm có trên đời. Thần nghĩ cử người ấy làm tướng là rất xứng đáng. Xin hoàng thượng minh xét, đừng vì việc người ta mắc lỗi mà bỏ, để hỏng đại sự quốc gia.

Thái tông tươi cười nói:

- Đáng khen Trung Thành vương là người đại lượng. Vậy theo sự đồng tiến cử của triều thần, trẫm phong Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn quyền tiết chế ba quân điều binh phá giặc. Các vương hầu tướng lĩnh nhất nhất tuân theo. Ai trái lệnh xử theo quân pháp.

Quốc Tuấn bước lên nhận kiếm lệnh và soái ấn, năm ấy ông mới hai mươi bảy tuổi. Thái tông nói:

- Nay khanh đã nhận quyền tiết chế, trong việc quân trẫm cũng phải tuân theo. Khanh cứ điều động.

Quốc Tuấn nói:

- Thần trộm nghĩ việc dùng binh muốn thủ thắng phải tạo cho mình cái thế có thể điều được giặc. Nay nếu ta mang hết quân lên biên ải để chống nhau với quân Thát, đường sá xa xôi, núi rừng hiểm trở lại đang vào mùa rét mướt, dân phu vận chuyển lương thảo rất cực nhọc. Như vậy quân Thát nhàn nhã chờ ta đến mà đánh, hại cho ta lắm. Chi bằng nhử cho chúng vào sâu phải hành quân xa, người ngựa mỏi mệt lúc ấy ta lấy quân nhàn nhã mà đánh ắt toàn thắng. Đó chính là kế dĩ dật đãi lao vậy.

Phú Lương hầu Vương Lâm nói:

- Thần nghĩ rằng từ Đại Lý sang ta chỉ có một đường đi qua Quy Hoá, vừa nhỏ hẹp vừa hiểm trở rất tiện cho việc bố phòng, một người trấn giữ trăm người khó qua. Ta nên chặn giặc ngay từ ngoài thì hơn, để chúng vào sâu tất tàn hại sinh linh bách tính.

Đại tướng Lê Tần bước ra tâu:

- Lời Phú Lương hầu nói cũng có lý nhưng theo kế sách của Hưng Đạo vương vẫn hơn, vì giặc chỉ ỷ vào kị binh, khi vào sâu trong đất ta sông ngòi chằng chịt chúng không thể tỏ rõ được sở trường. Đó chính là chỗ chết của chúng.

Hưng Đạo vương nói:

- Thần xin cử một đạo binh lên tăng viện cho các cửa ải để làm chậm bước tiến quân của giặc, mặt khác thông báo cho những vùng có thể giặc đi qua, đưa dân tạm lánh đi nơi khác, cất giấu hết thóc lúa trâu bò gà lợn để giặc không thể cướp bóc được. Khi chúng đã vào sâu, ta cho quân chặn đường tiếp lương thì mấy vạn quân binh của chúng sẽ thành ma đói cả.

Thái tông nghe theo kế ấy, lệnh cho Hưng Đạo vương tiến binh. Lúc tan triều, các tướng hỏi Lê Tần vì sao biết thái sư không nhận quyền tiết chế. Tần nói:

- Các ông chỉ biết chỗ dở của thái sư là không biết dàn binh phá trận mà không thấy chỗ hay của thái sư không tham quyền cố vị, việc không cáng đáng được, thành thực không nhận, thế lại chả hơn lắm kẻ chẳng hiểu cái mù tịt gì nhưng cứ tranh giành làm hỏng việc hay sao? Vả lại thái sư đánh thành cướp đất thì kém nhưng việc đắp móng xây nền, cất nhắc hiền tài đã ai sánh kịp. Triều Trần ta không có ông ấy liệu được như ngày nay? Người cẩn trọng như thế không thể mạo hiểm mà nhận quyền tiết chế.

Mọi người đều cho lời của Lê Tần là rất chí lý. Hôm sau Hưng Đạo vương phân công các tướng: Đội thứ nhất,Trần Khánh Dư lĩnh một nghìn quân lên tăng viện cho ải Yên Khâu chỉ cần giữ chân giặc trong năm ngày rồi tản vào rừng, khi đại quân của chúng đã qua thì chẹn đường không cho vận chuyển lương thảo. Đội thứ nhì, Lê Tần mang thuỷ binh lên trấn giữ bờ Nam ngã ba Bạch Hạc, khi giặc đến lập tức chặn đánh tiêu hao chúng rồi xuôi theo sông Lô1 đưa quân về Bình Lệ nguyên tăng cường cho trận tuyến của nhà vua và thái tử. Đội thứ ba, Hoàng thượng, thái tử Hoảng, Trần Khuê Kình, Bùi Khâm, Trung Thành vương đem ba vạn quân bày trận ở cánh đồng Bình Lệ đợi giặc. Đội thứ tư, Vương Lâm mang một vạn quân, năm trăm thuyền chiến chờ sẵn trên sông Nguyệt Đức, phòng tình huống bất trắc. Đội thứ năm, Thái sư Trần Thủ Độ, Nhân Đạo vương thống lĩnh toàn bộ hậu quân, tuỳ cơ tiếp ứng cho các đạo khi cần. Hưng Đạo vương đặt soái phủ tại Bình Lệ nguyên, bên cạnh nhà vua để ngày đêm cùng bàn kế sách.

*

Trần Khánh Dư năm ấy mới chưa đầy hai mươi tuổi, là con của tướng quân Trần Phó Duyệt ở châu Chí Linh, luyện tập võ nghệ từ nhỏ lại có sức khoẻ ít người sánh kịp, thường một mình dong thuyền đi chơi ở sông Lục Đầu xem buôn bán nên học được nhiều mẹo kinh doanh của thương khách, lần này được Quốc Tuấn tín nhiệm cho đem quân đi đánh giặc thì thích lắm, liền điểm binh đi ngay, khi đi đến địa phận Hưng Hoá, nghe nói trên núi Lịch có vị tiên tử đã tu luyện ở đấy từ thời Đinh Tiên Hoàng, có thể biết trước mọi việc. Khánh Dư mới cùng bộ tướng tìm đến, thấy một ông già tóc như tuyết nhuốm, mình gầy da khô, ngồi thiền trong am cỏ. Có khách tới, một tiên đồng bước ra chào, hỏi:

- Ngài có phải là tướng quân Trần Khánh Dư đó chăng?

Khánh Dư giật mình hỏi lại:

- Sao ngươi biết ta?

Tiên đồng nói:

- Sư phụ tôi bảo hôm nay Trần Khánh Dư tướng quân người đi đánh giặc qua thăm. Xin mời vào trong ạ.

Khánh Dư vào trong cúi chào tiên tử. Tiên ông đứng dậy đáp lễ, hỏi:

- Chẳng hay tướng quân có việc gì mà phải lặn lội đến thảo am này tìm bần đạo.

- Tiểu tướng nhận lệnh đi đánh giặc qua đây, nghe nói tiên ông tu luyện từ thời Đinh Tiên Hoàng Đế, đạo pháp đã dày, hiểu biết việc quá khứ vị lai. Xin tiên ông chỉ cho biết việc chinh chiến năm nay thế nào?

Tiên tử cười, nói:

- Thế mới biết người đời cũng khéo ngoa ngôn. Từ thời Đinh Tiên Hoàng đến nay đã ba trăm năm. Tôi cũng chỉ là người thường thôi, làm sao sống lâu đến thế. Còn như việc đánh giặc năm nay, muôn người một ý, thế nước đang lên há phải lo chi.

- Tiểu tướng còn ít tuổi mà được giao việc nặng không rõ mai hậu thế nào? Xin tiên ông dạy cho.

- Tướng quân cũng là người của cung Thanh Hư xuống đây sao lại hỏi vậy?

Khánh Dư tỏ ý không hiểu. Tiên tử lấy giấy bút vẽ một sợi dây vòng xuống, vòng lên, có chỗ gấp, lại vòng lên rồi đi thẳng. Cuối sợi dây ghi bốn chữ "nhất bách linh nhị". Trên sợi dây có xiên mấy đồng tiền. Khánh Dư xin tiên tử giải nghĩa cho nhưng ngài chỉ cười. Lúc tiên đồng tiễn mọi người ra về, Khánh Dư mới trộm hỏi:

- Này! Nhà ngươi có biết sư phụ vẽ cái gì đây không?

Cũng may vớ chú tiên đồng lẻo mép nói:

- Đây! Sợi dây này là chỉ đường đời của tướng quân, vòng lên vòng xuống bốn khúc là trải bốn đời vua, kết thúc ở nhất bách linh nhị là ngài thọ một trăm lẻ hai tuổi. Mấy đồng tiền này là cuộc đời ngài dẫu làm tướng, tột đỉnh công danh vẫn không thoát được chuyện buôn bán tiền nong. Sư phụ còn bảo ngài cũng là một tiên đồng ở cung Thanh Hư nhưng vì có lần lấy một trăm lẻ hai đồng tiền của An Kì Sinh2 đi đánh đáo nên bị đày một trăm lẻ hai ngày, xuống hạ giới là một trăm lẻ hai năm.

Trần Khánh Dư cười, bảo:

- Làm sao mà ta thọ được đến thế?

Tiên đồng bảo:

- Nhưng ngài chớ vội mừng, còn một chỗ vòng xuống với một chỗ gấp đây này.

- Thể nghĩa là sao?

- Hai lần hút chết chứ sao nữa.

- Sao ta lại hút chết?

Tiên đồng không nói, bái biệt quay về. Sau này quả có hai lần Khánh Dư mắc tội suýt bị giết.

*

Bấy giờ trên ải Quy Hoá, tướng Hà Khuất đang chỉ huy vài trăm người chống lại mấy vạn quân Thát. Triệt Triệt Đô, A Nhĩ Hải, Bố Nhĩ Hải ba tướng vây đánh ải Quy Hoá suốt cả ngày không hạ được, quân lính thiệt hại rất nhiều, ban đêm bàn nhau bắc thang dây trèo lên. Hà Khuất ở bên trong ít quân lại đánh nhau suốt ngày, tên đạn cũng cạn cả. Quân Thát lợi dụng trời tối trèo vào thành. Hà Khuất đem tướng sĩ chạy về thành Yên Khâu chốt giữ. Cốt Đ•i Ngột Lang vào ải, hôm sau kéo thẳng xuống Yên Khâu.

Yên Khâu là một thành nhỏ bên bờ Thao giang, một bên là núi dựng đứng, một bên là nước sông chảy xiết, nếu không mở được ải thì toàn quân sẽ bị ùn lại trong một địa thế chật hẹp. Vì vậy vừa đặt chân tới, Cốt Đ•i Ngột Lang ra lệnh tấn công ngay nhưng Hà Khuất đ• cho đặt các giàn hồi hồi pháo1, lệ chi pháo bắn ra vô số đá lớn đá bé làm quân Thát không dám xông lên. Đánh suốt một ngày không được, đến đêm Hà Khuất lại cho quân luồn rừng vào sát trại quân Thát, bắn tên nỏ tẩm thuốc độc làm lính Thát sợ h•i không dám ra khỏi trại. Hôm sau, Hoài Đô dâng kế:

- Quân ta đông, quân Nam ít tất ban ngày chúng không dám ra ngoài, xin thống tướng cho đóng bè tre, nhá nhem tối cho quân xuôi dòng mà sang phía bên kia ải đốt lửa lên làm hiệu. Hai đầu đánh ập lại, nhất định bắt được tướng của chúng.

Cốt Đ•i Ngột Lang nghe theo, một mặt sai Triệt Triệt Đô, A Nhĩ Hải cứ việc đánh ải, mặt khác cho A Truật, Bố Nhĩ Hải, Hoài Đô Đem quân vào rừng chặt tre nứa đóng mấy trăm cái bè, gần tối lệnh cho Triệt Triệt Đô, A Nhĩ Hải càng đánh thành gấp để Hà Khuất không còn thì giờ chú ý đến mặt sông. Đầu giờ Tuất, Cốt Đãi Ngột Lang lệnh cho A Truật, Bố Nhĩ Hải đem hai nghìn quân lên bè xuôi xuống phía sau ải.

Canh ba đêm hôm ấy, Hà Khuất đang đốc quân chống giữ các mặt, từ sáng đến bấy giờ ông chưa hề được nghỉ chút nào, bỗng nghe phía sau ải có tiếng pháo nổ, lửa cháy lên rần rật, sáng rực cả núi rừng. Quân về báo sau ải có giặc. Thuộc tướng của Hà Khuất là Hà Bổng nói:

- Giặc đã vào thành, xin chủ tướng hãy dẫn quân tạm lánh vào rừng để đánh lâu dài với chúng.

Hà Khuất nói:

- Việc ấy ta giao cho con. Hãy báo thù cho ta.

Nói xong, Hà Khuất cầm đao nhảy lên mặt thành đánh nhau với quân Thát. Cây đao của Hà Khuất múa lên lấp lánh trong ánh lửa, đi đến đâu máu quân Thát phun ra đến đấy. Nhưng quân Thát đông quá, tất cả cùng nhằm vào bắn. Hà Khuất trúng mấy chục mũi tên, ngã gục trên mặt thành, tay vẫn nắm chặt thanh đao. Đời sau có thơ rằng:

Hà Khuất giữ biên ải

Son sắt tấm lòng trung

Quy Hoá ngăn bước giặc

Yên Khâu đánh đến cùng

Cánh nỏ còn giương mãi

Lưỡi đao vẫn vẫy vùng

Thao giang ngàn năm hát

Tên tuổi một anh hùng.

Hà Bổng thấy Hà Khuất đã chết, đánh mở đường máu đưa số quân còn lại vào rừng lập trại để đánh lâu dài, đêm đêm lẻn ra thổi tù và, bắn tên nỏ vào quân Thát.

Cốt Đãi Ngột Lang qua được ải Yên Khâu, nói với các tướng :

- Từ ải Quy Hoá đến đây có chưa đến một trăm dặm đường mà đi mất cả chục ngày, thế này bao giờ mới đến được La thành? Ngày mai các đội hành quân gấp, không được trễ nải.

Hoài Đô nói:

- Đường đất ở đây chật hẹp khó đi nhanh, đội hình kéo dài quá. Ví thử có quân giặc đánh chặn ngang phía sau thì lương thảo của ta mất hết. Xin thống tướng cho các xe lương đi về phía trước.

A Nhĩ Hải nói:

- Xe lương ở cả phía trước nhỡ gặp quân Nam ta khó có thể nhanh chóng bày trận được.

Triệt Triệt Đô nói:

-Tôi đem quân đi trước mở đường. Nguyên soái chia một nửa lương thảo đi thứ hai, còn một nửa để đi sau, như thế mới có thể vẹn toàn.

Cốt Đãi Ngột Lang bảo:

- Các ngươi nói đúng lắm. Ta cho Triệt Triệt Đô mang quân đi tiên phong, đường tắc thì mở, giặc chặn thì đánh. Bố Nhĩ Hải chia một nửa quân lương đưa về phía trước. A Truật đoạn hậu. Sớm mai lên đường.

Đội tiên phong của Triệt Triệt Đô đi được ba ngày bỗng có thám mã của Tín Thư Phúc về báo phía trước có một dạo quân Đại Việt chăn đường. Triệt Triệt Đô liền dẫn các dũng sĩ tiến lên xem thì thấy có một tướng trẻ cưỡi ngựa ô truy cầm cây thương dài đứng chặn giữa đường, tư thế rất oai phong. Triệt Triệt Đô hoành cây Nguyệt Lãng đại phủ trên lưng ngựa, hỏi:

- Thằng nhãi kia muốn chết hay sao mà dám cản đường ta?

Tướng trẻ kia cười lớn, nói:

- Ta đâu có muốn cản đường nhà ngươi. Nghe nói nhà ngươi có nhiều lương thảo lắm, ta chỉ muốn lấy một ít mà thôi.

Triệt Triệt Đô quát:

- Ngươi không biết ta là tiên phong Triệt Triệt Đô hay sao mà dám nói càn như vậy.

Tướng kia bảo:

- Ta không cần biết ngươi là tiên phong hay quỷ phong gì cả, chỉ muốn lấy lương thực của ngươi thôi. Hãy để các xe lương lại rồi ta cho đi.

Triệt Triệt Đô quay lại bảo các tướng:

- Hãy báo ngay cho Bố Nhĩ Hải phải trông coi lương thảo cẩn thận. Thằng này hung hăng lắm, không khéo nó cướp lương thật đấy.

Thật là:

Vất vả muôn phần qua được ải

Còn lo lương thảo khó chu toàn.

Mời bạn đọc tiếp chương sau xem tướng Việt ấy là ai.

CHƯƠNG 9

úp trại giặc Khánh Dư lập công đầu

Mải lùng ăn A Truật suýt toi mạng

Trên kia đang nói Triệt Triệt Đô dẫn quân tiến xuống, bỗng gặp một tướng trẻ đứng chặn đường. Triệt Triệt Đô quay lại hỏi các tướng:

- Có ai ra bắt thằng nhãi kia không?

Cổ Hà Cáp Hoa vỗ ngựa tiến lên. Cổ Hà Cáp Hoa là dũng sĩ đã từng đánh Đông dẹp Bắc, thường dùng cặp song chuỳ thiết xích, đánh như gió bão, ít người địch nổi, lại có tài ném sợi báo trường càn khôn tuyến bắt địch thủ như trở bàn tay. Tướng trẻ kia cũng cho ngựa tiến lên đón đánh. Hai ngựa giao nhau hơn hai mươi hiệp, Cổ Hà Cáp Hoa không hạ nổi tướng ấy mới lùi ngựa lại rút báo trường càn khôn tuyến tung về phía địch thủ. Tướng trẻ kia thấy Cổ Hà Cáp Hoa đang đánh tự nhiên lùi lại, đã đề phòng, sợi dây ruột báo vừa tung tới, liền quay đốc thương gạt một nhát rơi xuống đất. Cổ Hà Cáp Hoa thấy tướng kia phá mất bảo bối của mình, hoảng hốt, bị tướng ấy sấn tới đâm cho một thương, may né người tránh được, mũi thương xuyên trúng vào đùi, máu chảy toé ra, vội chạy vào trận. Tướng kia phi ngựa đuổi theo bén gót. Triệt Triệt Đô thấy nguy, liền ra lệnh cho cung thủ bắn chặn tướng kia lại. Tướng ấy múa thương gạt tên rơi lả tả rồi quay ngựa cho thu quân về giữ ải. Suốt ngày hôm ấy không ra đánh nhau nữa.

Triệt Triệt Đô báo tin ấy cho Cốt Đãi Ngột Lang biết. Cốt Đãi Ngột Lang thở dài, nói:

- Cổ Hà Cáp Hoa theo ta đi đánh trận nhiều năm, chưa có ai địch nổi ông ta mà nay chịu bại với một tên tướng vô danh. Không ngờ ở cái xó rừng nước Nam này mà cũng có người tài như thế.

A Truật nghe vậy, khí tức bốc lên, bước ra nói:

- Sao cha lại đề cao quân giặc như vậy, làm giảm nhuệ khí quân ta. Mai con xin bắt sống tên tướng ấy.

- Việc của con không phải ở đấy. Đây là đất Nam, hãy lo giữ cho chắc phía sau. Còn việc kia ta đã có chủ định.

Hôm sau Cốt Đ•i Ngột Lang lên xem địa thế, thấy hai bên sườn núi cao vút, đường vào cửa ải hẹp tới mức không thể đi hai ngựa song hàng, cửa ải và tường ngăn toàn bằng gỗ tươi, xem ra mới được xây dựng, quay lại bảo các tướng:

- Ta xem ải này tuy hiểm nhưng không chắc chắn, có thể phá được. Tín Thư Phúc! Ngươi mau cho quân đi tìm xem có còn con đường nào khác nữa không. Triệt Triệt Đô cứ việc đánh ải.

Triệt Triệt Đô liền lên ngựa đến trước ải khiêu chiến, trông thấy tướng trẻ kia trên mặt thành mới gọi hỏi:

- Bớ tướng kia! Hôm qua đánh nhau kiểu gì mà ta chưa kịp hỏi họ tên ngươi đã chạy mất thế hả?

Tướng kia trên mặt thành nói vọng xuống:

- Ta chỉ ngại nói tên ra ngươi lại sợ hết hồn thôi! Ta họ Trần tên là Khánh Dư ở núi Chí Linh đây. Nhà ngươi là quỷ phong Triệt Triệt Đô phải không? Đã có vợ con chưa? Cha mẹ ngươi có còn không?

- Ta là tiên phong sao ngươi lại gọi là quỉ phong? Ngươi hỏi cha mẹ, vợ con ta làm gì? Có đánh nhau thì xuống đây, nói chuyện quả cà ra dây muống sốt ruột lắm.

- à! Ta hỏi để biết. Nếu nhà ngươi có vợ dại con thơ, cha già mẹ yếu, chưa chắc ta đã giết.

Triệt Triệt Đô nghe nói vậy, gầm lên vì tức mà không biết đó là mẹo của Khánh Dư. Số là khi Khánh Dư mang quân đi, Quốc Tuấn có dặn chỉ cần giữ chân giặc năm ngày là được, đi gần tới Yên Khâu, nghe tin Yên Khâu đã thất thủ, Khánh Dư mới lui binh lại, chọn nơi hiểm đạo, cho quân chặt gỗ xây ải chắn ngang đường. Lúc quân Thát tới, Khánh Dư chỉ đánh lấy lệ, mỗi lần giao tranh toàn nói chuyện con cà con kê giết thời gian để quân Thát không tiến lên được. Đến ngày thứ tư, quân Thát vẫn không phá được ải mà Khánh Dư hôm nào cũng ra đánh vài hiệp rồi lại lên thành. Triệt Triệt Đô tức quá, cầm giáo chỉ lên, nói:

- Thằng nhãi kia hèn thế, hôm nào cũng chưa đánh đã chạy, nếu sợ quá thì hàng đi. Ta tha chết cho.

Khánh Dư đắc chí cũng chỉ xuống, nói:

- Ta đã bảo rồi. Ta chỉ muốn chỗ lương thảo của các ngươi thôi. Cứ để lương thảo lại, ta mở cửa ải cho muốn đi đâu thì đi.

- Ngươi chỉ nói phách. Thực ra ngươi sợ ta nên không dám ra đánh.

Khánh Dư cười lớn, nói:

- Ta mà lại sợ ngươi sao xứng là tráng sĩ dưới trời Nam. Đã là tướng, được đánh nhau thì sướng như được ăn ngon vậy. Nhưng ăn phải bình tĩnh đàng hoàng chứ đâu có hùng hục như cái đồ cuốc mướn nhà ngươi. Mỗi ngày đánh một trận cho nó tiêu cơm là đủ rồi.

Triệt Triệt Đô cáu tiết xua quân vào đào gỗ dưới chân ải. Khánh Dư cho quân ném gỗ đá xuống làm quân Thát chết hại vô số. Sang ngày thứ năm, Hoài Đô hiến kế:

- Quân do thám không tìm được đường nào khác. Chẳng lẽ quân ta nằm mãi ở đây. Bọn người man lại thường ra bắn lén gây sợ hãi cho binh lính. Theo tôi, Nguyên soái nên làm thế này... mới có thể vào được ải.

Cốt Đ•i Ngột Lang Bảo:

- Ngươi nói phải lắm.

Liền truyền cho Triệt Triệt Đô, Đoàn Hưng Trí, Tín Thư Phúc y kế thi hành. Tín Thư Phúc chọn trong đám mấy vạn quân được hai trăm tên rất thạo nghề trèo núi, đêm hôm ấy cho mỗi tên đeo một bó cỏ tẩm dầu, leo qua vách đá lên ải, nhất loạt phóng hoả. Triệt Triệt Đô thấy lửa cháy trên ải, biết mưu kế đã thành, xua quân ào ạt xông lên nhưng đến khi vào được ải, hoá ra là ải không người, chẳng thấy Trần Khánh Dư đâu. Thì ra hôm ấy Khánh Dư hết hạn năm ngày nên từ chiều đã mang quân vào rừng rồi. Trên thành chỉ còn mấy lá cờ cắm nghi binh.

Hôm sau Cốt Đãi Ngột Lang hành quân cấp tốc ba ngày liền cũng chẳng thấy bóng dáng quân Đại Việt ở chỗ nào, đến tối cho quân đóng trại lại nghỉ. Hoài Đô nói:

- Chỗ này có nhiều rừng thưa mà quân ta lại dàn ra quá dài, nếu quân Nam dùng xung binh mà đánh tất quân ta bị cắt ra nhiều đoạn khó ứng cứu được nhau.

A Truật nói:

- Tôi đang muốn quân Nam đến xem chúng nó thế nào đây. Ta đi suốt ba ngày hôm nay có thấy gì đâu.

Hoài Đô nói:

- Xin chớ nên khinh địch. Phía trước ta chưa rõ chúng bố phòng thế nào, đằng sau lại không biết Trần Khánh Dư ở đâu. Nếu hai đầu chúng đánh ập lại, quân ta nguy mất.

Cốt Đãi Ngột Lang bảo:

- Hoài Đô nói phải đấy.

Liền cho các trại dồn cả lên phía trước. Riêng các xe lương phía sau tránh đoạn rừng thưa, dựa vào sườn núi đá đóng trại đề phòng quân Đại Việt đánh hoả công.

Trần Khánh Dư từ khi cho quân vào rừng lập trại, ngày nào cũng cử thám mã đi dò xét địch tình, hôm ấy biết chắc quân Thát nghỉ lại quãng rừng thưa mới lệnh cho quân sĩ mỗi người mang theo năm bó đuốc, đầu canh hai khởi hành. Cuối canh ba là lúc quân Thát đang ngủ mệt, Khánh Dư cho quân lính đốt đuốc cắm khắp rừng rồi nổi trống hò reo đánh thốc vào trại giặc. Quân Thát bàng hoàng tỉnh dậy thì hỡi ôi khắp rừng chỗ nào cũng có đuốc sáng, không biết quân Đại Việt nhiều hay ít, hoảng loạn xô nhau bỏ chạy, thành ra tự gây hại rất nhiều. Khánh

Dư cho đánh cướp hết các xe lương cùng trâu bò phía sau kéo vào rừng, cái gì không mang đi được phóng hoả đốt hết. Cốt Đãi Ngột Lang thấy đằng sau lửa cháy rực trời, thúc quân chạy miết. A Truật cầm cây trường thương đi đoạn hậu, gặp ngay Khánh Dư đuổi đến. Hai bên đánh nhau mấy chục hiệp không phân thắng bại. Quân sĩ reo hò vang trời dậy đất. Hoài Đô thấy A Truật ham đánh sợ có điều sơ suất mới đem quân cung thủ quay lại nhất loạt bắn chặn quân Đại Việt. Khánh Dư ít quân không dám đuổi xa, lại đã lấy được nhiều lương thực của quân Thát, bèn thu quân về trại trong rừng.

Cốt Đãi Ngột Lang cho quân chạy đến sáng mới dám dừng, kiểm điểm quân sĩ người ngựa không thiệt hại bao nhiêu nhưng mất toi mấy vạn thạch lương cùng rất nhiều trâu bò, quân dụng. Quân do thám của Đoàn Hưng Trí về báo:

- Khánh Dư chỉ có một nghìn du binh1 nhưng cho đốt đến năm nghìn ngọn đuốc để quân ta tưởng là chúng đông.

Cốt Đãi Ngột Lang biết vậy phàn nàn mãi:

- Không ngờ thằng nhãi ranh này lại nhiều mưu mô đến thế, dám lừa cả ta.

Nói xong cho đòi A Truật vào, mắng:

- Ngươi đoạn hậu để mất quân lương, tội chẳng thể tha. Quân đâu! Lôi ra chém.

A Nhĩ Hải, Bố Nhĩ Hải, Triệt Triệt Đô, Đoàn Hưng Trí, Tín Thư Phúc năm tướng cùng quỳ xuống xin tha mạng cho A Truật. Nhưng Cốt Đãi Ngột Lang vẫn hằm hằm nổi giận, nói:

- Nó là con ta. Cha giết con há chẳng xót sao nhưng để mất quân lương làm quân ta lâm vào thế nguy khốn, không giết thì tướng sĩ có phục nữa không?

Hoài Đô quì xuống, nói:

- Tội của A Truật quả đáng phạt nặng nhưng từ khi thống tướng xuất binh đến giờ chưa có trận đánh nào lớn mà đã chém đại tướng của nhà, e rằng đó không phải là điều hay. Vậy xin thống tướng hãy cho nợ lại để A Truật đới công chuộc tội.

Xưa nay Cốt Dãi Ngột Lang thường hay nghe lời Hoài Đô nên mới nói:

- Nếu các tướng đã nói như vậy, ta tạm tha cho nó. Nhưng đổi Bố Nhĩ Hải xuống đoạn hậu.

Trong đám lính Bắc Thoán nhiều kẻ nhớ nhà túm tụm nhau bên bờ sông than thở. Lại có người vỗ kiếm làm nhịp hát:

Ô kìa đôi én giữa trời

Song song bay lượn khiến người ngẩn ngơ

Gác son lầu ngọc giờ vui thoả

Cửa vàng đây màn gấm êm đềm

Bách Lương lửa bỗng cháy trùm

Cùng nhau lánh nạn bên thềm vua Ngô

Lầu vua Ngô - Cô Tô cũng cháy

Tổ rụng tàn lại hại con thơ

Một thân còn những xác xơ

Cánh run nhớ bạn bơ vơ góc trời

Bay đôi thôi đã hết rồi

Cõi lòng thương nhớ bùi ngùi xót xa2 .

Hát xong lại cùng nhau nhìn về ải Bắc mà khóc. Có người đến báo việc ấy. Cốt Đãi bảo với các tướng:

- Ta cần tiến quân cho nhanh, đánh lấy kinh thành của Đại Việt, cướp lương thảo để yên lòng quân sĩ.

Nói xong, Cốt Đãi Ngột Lang cùng các tướng dẫn quân xuôi theo bờ sông Cái, đi mấy ngày nữa ra khỏi rừng đến miền đồng bằng. Trên các cánh ruộng vừa mới gặt chỉ còn trơ lại gốc rạ. Đó đây đã có ruộng được cày vỡ. Tiền quân đi nhanh quá, bỏ hậu quân rớt lại một đoạn khá xa. Cốt Đãi Ngột Lang nói với các tướng:

- Ta nên đóng trại lại để chờ hậu quân của Bố Nhĩ Hải và Tín Thư Phúc. Nay xem dân Nam mới thu hoạch vụ mùa. Các ngươi đem quân vào làng bản cướp lấy lúa gạo, trâu bò bù cho chỗ đã mất.

Hoài Đô nói:

- Nơi đây sâu trong đất giặc, ta đưa quân đi cướp phá phải đề phòng, không nên ham quá nhỡ mắc mưu chúng.

Cốt Đ•i Ngột Lang nói:

- Đoàn Hưng Trí, Hoài Đô trông coi các trại, cho quân tuần tra rộng ra vùng xung quanh, thấy có quân Nam phải về báo ngay. Triệt Triệt Đô, A Truật, A Nhĩ Hải mỗi ngươi mang một nghìn quân vào các làng, bất kì cái gì ăn được đều phải lấy về. Trai tráng kẻ nào muốn theo, cho theo để chúng dẫn đường, kẻ nào không theo, giết hết.

*

- Hư! Hư!...Hư! Người ta đã bảo không đi, lại cứ bắt đi. Người ta có phải là đàn bà, trẻ con đâu..ư..ư...

Thằng cu Quý vừa khóc vừa kể lể. Nó đang tức các anh bắt theo đám đàn bà con gái đi chạy giặc. Nhâm cũng bực lắm, dỗ mãi mà cu Quý vẫn nhất định đòi ở lại theo các anh đánh giặc. Nhâm gắt:

- Mày ở lại chỉ làm vướng chân người ta ra thôi. Ông bác đã bảo tất cả trẻ nhỏ đều phải đi hết. Mày không nghe thấy à?

- Tôi mười ba tuổi rồi, đâu có còn là trẻ nhỏ. Các anh chỉ biết đánh giặc lấy một mình. Tôi ứ đi! Tôi cứ ở lại đấy, các anh đánh được, tôi cũng đánh được.

Cu Quý vênh mặt nói. Cái bàm tóc múi bưởi trên thóp nó toẽ ra rất ngang ngạnh. Nhâm bực bội vứt con dao đang vót tên xuống chiếc trõng tre, nói:

- Thôi! Mặc xác mày. Tao sang nhà ông bác, gọi anh cả về để anh ấy tai cho mày một trận.

Nhâm vừa đi, cu Quý thấy ai đó ném miếng mấu tre vào chân mình. Nó quay lại, sửng sốt kêu lên:

- Ơ! Na! mày chưa đi à? Ai cho mày ở nhà thế. Thôi! Đi đi, đàn bà con gái không được ở nhà.

Na là con bé hàng xóm, kém Quý một tuổi, hai nhà ở gần nhau nên nó thường sang chơi với Quý. Na thấy Quý lên mặt đàn anh, cười hí hí, nói:

- Anh Quý ra đây em bảo này.

Quý chạy ra. Na bảo:

- Không được đuổi em đi, em cho xem cái này.

- Tao chả xem cái gì hết. Tao đợi anh cả về còn theo đi đánh Thát.

- Đợi anh cả về lại chả bị tống đi sớm. Em có cái này đánh được Thát, ra đây em cho xem.

Na kéo Quý ra góc vườn, rút trong bụi chuối ra một cây nỏ hun bồ hóng đen kít, dây vẫn còn chắc nguyên. Mắt cu Quý sáng lên, hỏi:

- ở đâu ra thứ này thế?

- Của thầy em đấy. Khi trước thầy em chưa vào lính vẫn dùng nó đi săn mà.

Cu Quý lên dây nỏ nhưng cánh nỏ cứng quá hí hoáy mãi vẫn không sao kéo được sơi dây lên đến mỏ lẫy. Na chỉ vào cái cần gỗ gạt dây, bảo:

- Thày em vẫn cầm cái này kéo một cái là lên được.

Cu Quý làm theo, nó đỏ mặt kéo cần gạt, sật một cái:

- A! Được rồi!

Quý giơ nỏ nhắm vào cây chuối kéo lẫy. Phựt! Cái Na há mồm nhìn, reo lên:

- Trúng rồi! Trúng rồi!

Hai trái đào của nó bồng lên xẹp xuống theo nhịp nhảy. Quý đưa ngón tay trỏ lên miệng suỵt một tiếng, ra hiệu im lặng, nói:

- Có tên đâu mà đòi trúng rồi!

- ừ nhỉ! Hì hì...

- Mày ở đây đợi, tao đi kiếm tên.

Nói xong, cu Quý chạy vào nhà, thuổng luôn ba mũi tên của Nhâm, chạy ra vườn. Hai đứa trẻ biến mất vào những ngôi nhà bỏ trống.

Làng Đồng Bảng1 vắng teo vắng ngắt. Dân làng đã đi lánh giặc từ khi nhận được bố cáo của triều đình, chỉ còn mấy chục tráng đinh ở lại giữ làng. Họ tập trung trong đình vây quanh lý trưởng Phùng Lộc Hộ bàn kế đánh giặc. Phùng Lộc Hộ ngồi ngay ngắn giữa chiếu, ông hỏi cả Bính:

- Thằng cu Quý nhà anh đã chịu đi chưa?

- Thưa bác. Hôm qua cháu về nhà không thấy nó. Đến bây giờ cũng không ai biết nó ở đâu. Chắc con Na rủ nó đi rồi. Cái con Na cũng ương lắm, bé tí mà cứ đòi ở lại đánh Thát.

Phùng Lộc Hộ cả cười, nói:

- Trẻ con cũng ham đánh giặc, thật phúc cho đất nước. Tôi mới nhận được tin bên Tam Dương anh em Lỗ Định Sơn vừa thắng lớn. Họ dùng bẫy sập làm cho giặc chết hại rất nhiều. Làng ta phải nghĩ cách đánh cho chúng biết mặt dân Nam.

Một người nói:

- Làng ta không ở cạnh đường, chưa chắc chúng đã đánh vào, hay là ta đem quân tập kích chúng.

Phùng Bính nói:

- Quân ta có mấy chục người mà đi tập kích, e bất lợi. Giặc thế nào cũng dừng lại chờ nhau. Bọn tiền đội nhất định phải đi cướp phá kiếm cái ăn. Ta nhân đó mà đánh.

- Thế chúng không đi cướp thì sao?

- Làm gì có giặc nào là giặc không đi cướp bao giờ.

Phùng Lộc Hộ nói:

- Anh Bính nói đúng lắm. Các chú cứ vót nhiều tên nhiều chông vào. Nhất định giặc sẽ đến, lúc đó tha hồ mà đánh. Mà chúng không đến, ta kéo chúng đến chứ lo gì.

Một người nói:

- Ta cũng nên học anh em bên Tam Dương làm nhiều bẫy sập mới được.

Phùng Lộc Hộ lắc đầu nói:

- Địa thế làng ta khác, không thể làm bẫy sập được. Vả lại giặc đã đề phòng cách ấy của ta rồi, không dễ gì chúng mắc lại. Ta nên có cách đánh khác. Bây giờ các chú về tranh thủ nghỉ ngơi, ai vót thêm tên thì vót. Các đô trưởng Bính, Giáp, Dũng, Long, Hào ở lại nhận kế.

Khi chỉ còn lại năm vị đô trưởng, Phùng Lộc Hộ mới dặn nhỏ mỗi người mấy câu. Ai nấy vui vẻ đi lo phần việc của mình, không biết trong hậu đình có hai đứa bé ngồi nghe mọi người bàn cách đánh giặc. Trời tối gió rét, cái Na bảo:

- Rét ghê! Anh Quý ơi em đói quá!

- ừ! Tao cũng thế. Bây giờ có cái gì ăn thì hay thật. Hay mày ở đây để tao về xem có cái gì ăn được mang ra cho!

- ứ! ở đây một mình em sợ lắm. Ông tượng kia cứ nhìn trừng trừng. Có cả chuột nữa.

- Nhưng mày theo về nhỡ các anh bắt được, tống đi luôn đó. Chịu khó đợi anh một lúc đi, cứ cầm chặt cây nỏ này là hết sợ đấy.

Quý nói xong, dúi cây nỏ với mấy mũi tên cho cái Na, nó chạy biến ra ngoài. Cái Na ôm cây nỏ ngồi lại một mình, thỉnh thoảng lấm lét nhìn trộm ông tượng. Trong ánh sáng lờ mờ của đĩa đèn dầu lạc với mấy nén nhang, ông tượng nhìn nó không chớp mắt. Lúc lúc có ít gió lọt qua khe cửa làm ngọn đèn lung lay, cái Na thấy ông tượng như cười với nó, lúc sau không còn sợ nhưng đói đau cả bụng, nó mong cu Quý nên mon men ra cửa ngóng. M•i cu Quý không quay lại, cái Na ôm chặt cây nỏ, ngồi ngủ gật ngay dưới chân bệ ông tượng. Gần canh hai cu Quý mới mò về, không biết nó kiếm đâu được ít cơm nguội với mấy củ khoai luộc còn nóng, lay vai cái Na, gọi:

- Na ơi! Có cơm có khoai đây, dậy ăn đi này.

- ứ! Buồn ngủ lắm, chẳng ăn đâu.

- Dậy ăn đi chứ, đói ngủ sao được. Ăn đi mai mới có sức mà đánh Thát.

Nghe nói mai đánh Thát, cái Na tỉnh như sáo hỏi:

- Mai đánh Thát thật hả anh Quý?

- Thật.

*

Triệt Triệt Đô bảo A Truật:

- A Nhĩ Hải không cướp được lương lại thiệt hại quân mã. Nếu chúng ta không kiếm thêm được lương thảo e rằng chẳng mấy ngày nữa mà nguy khốn.

A Truật bảo:

- Ông nói phải lắm. Ngày mai chúng ta nhất định phải tìm bằng được nơi cất giấu lương thực của người Nam.

- Muốn vậy ta đi xa ra một chút. Các làng phía ngoài kia thế nào cũng có nhiều. Dân ven đường này mang lương thực đến cất ở đó chứ đâu.

Sáng sớm hôm sau, A Truật và Triệt Triệt Đô chia quân làm hai đường đến các làng xa nhưng tuyệt nhiên không thấy một tiếng gà kêu chó cắn, cũng không hề thấy một hạt lúa củ khoai nào cả. Đến gần trưa hai cánh quân gặp lại nhau trên một cánh đồng rộng, bỗng xa xa thấy có đoàn người quẩy gánh hối hả chạy, ra vẻ nặng nề lắm. A Truật bảo:

- Lương thực kia chứ đâu. Không đuổi gấp bắt lấy, để làm gì.

Hai tướng thúc quân đuổi theo. Đoàn người quảy gánh chạy dần về phía cánh rừng nhỏ phía xa rồi toẽ ra làm hai đi vào một làng lớn, đó là làng Đồng Bảng. Quanh làng có luỹ tre gai dày bao bọc. Cánh rừng nhỏ chắn ngay phía đầu làng như một tấm bình phong. Chia con đường thành hai lối tả hữu đi vào. A Truật bảo Triệt Triệt Đô:

- Ông đi vào cánh tả, tôi vào cánh hữu, làng này lớn, ta hội quân ở giữa đình làng.

Trời đã ngả về chiều, nắng yếu nhưng mà hanh. Cánh quân của Triệt Triệt Đô theo phía tả đi vào khỏi cổng làng, thấy đường ngang ngõ tắt phơi đầy rơm rạ. Triệt Triệt Đô bảo đám lính:

- Làng này xem ra trù phú lắm. Các ngươi gắng tìm kĩ nhất định có lương thực.

Một tốp lính đã vào đến khu vườn chùa, thấy các khóm chuối ở đây vẫn còn nguyên buồng nặng trĩu, liền xúm nhau lại lấy kiếm chặt đem ra.

Phựt!

Một mũi tên cắm trúng ngực tên lính Thát, nó đổ kềnh giãy giãy. Bọn lính Thát ngơ ngơ ngác ngác không biết tên từ đâu bắn tới, một đứa nữa bị mũi tên thứ hai xuyên trúng đùi. Nó kêu thét lên, ngồi bệt xuống đất. Bọn còn lại đã nhìn thấy Quý, một đứa tuốt kiếm xông tới chém. Dòng máu đỏ tươi ứa ra dưới lưỡi kiếm. Quý nằm gục trong mảnh đất vườn chùa, tay ghì chặt cây nỏ còn mũi tên chưa bắn. Cái Na từ bụi chuối phía sau xông ra ôm lấy xác Quý, khóc nấc lên:

- Anh Quý ơi! Anh Quý ơi! Đừng chết anh ơi...

Một tên lính Thát quát:

- Bắt lấy con nhãi.

Tên lính khác túm lấy Na kéo đi. Na giằng lại, ghé miệng cắn một miếng thật mạnh vào tay tên lính Thát làm bật ra miếng thịt đỏ lòm. Tên lính Thát kêu ré lên vì đau đớn, nó đâm thẳng mũi kiếm vào ngực cô bé. Na từ từ lả người ôm lên xác Quý. Sau sự kháng cự yếu ớt đó, cả làng lại im lặng. Một sự im lặng dồn nén ngột ngạt oi nồng như trước cơn bão táp.

Cánh quân của A Truật từ phía hữu đi vào đến giữa làng, thấy trên bãi đất rộng có năm sáu cây bồn trát bằng rơm trộn bùn vừa cao vừa to, bên trên lợp rạ chống mưa. A Truật reo lên bảo:

- Lương thực đây rồi. Các ngươi cứ tìm nữa đi, nhất định còn nhiều đấy.

Bọn lính xúm xít phá các cây bồn tìm lương thực nhưng bồn nào bới ra cũng toàn rơm khô củi nỏ tẩm dầu. A Truật nói:

- Chết rồi! Có lẽ chúng ta đã mắc mưu quân Nam. Lui binh mau.

Nhưng không kịp. Vô số những mũi tên quấn giẻ ở đầu có lửa từ khắp mọi nơi bắn tới. Rơm cỏ khắp làng cháy lên ngùn ngụt. Quân Thát rối loạn, xô nhau chạy ra phía cổng nhưng các lối đều có xe chở rơm rạ cháy tơi bời chắn mất. Trời hanh lại gió hây hẩy, khói bụi bốc lên mù mịt. Lửa cháy bên tả. Lửa cháy bên hữu. Khắp đất trời chỗ nào cũng toàn là lửa. Tiếng tù và, tiếng trống ngũ liên nổi lên liên hồi rồi tên nỏ không biết từ đâu bắn ra như châu chấu. Quân Thát sợ hãi giày xéo lên nhau mà chạy, nhiều đứa nhảy cả xuống ao tránh lửa, không biết dưới ao đầy những rào tre gai và chông nhọn đang chờ. Triệt Triệt Đô cầm búa Nguyệt Lãng gạt lửa, xông pha đi tìm A Truật. Quân Thát đang hoảng loạn không biết chạy đường nào, A Truật bảo các tướng:

- Không liều đánh ra, chịu chết cả ở đây sao?

Chúng tướng liều chết xông vào lửa đạn đánh thốc sang con đường bên tả. May gặp Triệt Triệt Đô tới đón, cầm mộc che tên đưa A Truật và quân lính theo lối vườn chùa ra ngoài, mặt mũi chân tay A Truật đã đầy vết bỏng.

Phùng Lộc Hộ hô anh em xông ra đuổi đánh. Tiếng trống, tiếng thanh la rầm trời. Gần tối, quân Thát cắm đầu cắm cổ chạy cho mau. Triệt Triệt Đô thấy Phùng Lộc Hộ đuổi gần đến nơi mới lén rút mũi tên bắn một phát trúng ngực trái Phùng Lộc Hộ. Ông thét lên một tiếng thấu trời rồi ngã xuống, máu trong tim tuôn ra thấm đỏ luống đất còn cày dở.

A Truật và Triệt Triệt Đô đang chạy bỗng phía trước có một toán quân hò reo xốc tới. A Truật bảo:

- Phen này ta chết thật mất rồi.

Thật là:

Lửa đạn phía sau chưa chuồn thoát

Quân vây mặt trước lại đến gần.

Mời bạn đọc tiếp chương sau xem A Truật có thoát được không.

Chương 10

Trái quân lệnh tiên phong bị giết

Ngăn binh thù viện tướng hi sinh

Bọn A Truật, Triệt Triệt Đô bị dân binh đuổi, đang chạy không kịp thở lại thấy phía trước có quân xông đến mà trời tối đến nơi. A Truật bảo

- Ta chết ở đây mất.

Triệt Triệt Đô nói:

- Xin công tử chớ lo, để tôi ra đánh chúng.

Triệt Triệt Đô nói xong múa cây đại phủ xông lên, khi tới gần thấy tướng đi đầu cánh quân kia chính là A Nhĩ Hải. Số là Cốt Đãi Ngột Lang thấy A Truật cùng Triệt Triệt Đô mang quân đi từ sáng chưa về mới bảo A Nhĩ Hải đem một nghìn lính đi tìm, nếu thu được nhiều lương thảo thì cùng nhau chuyên chở, nếu bị đánh phải tiếp ứng ngay. Bọn Triệt Triệt Đô, A Truật gặp được A Nhĩ Hải mừng quá, cùng đưa quân về trại.

Tối hôm ấy có quân do thám về báo thấy quân Nam đóng rất nhiều ở ngã ba Bạch Hạc. A Truật báo cho Cốt Đãi Ngột Lang. Ngột Lang thúc các tướng đem quân đi ngay trong đêm, hai hôm sau đến gần ngã ba Bạch Hạc, chọn cánh đồng bằng phẳng cách bờ sông năm dặm hạ trại. Gần trưa Cốt Đãi Ngột Lang cùng các tướng ra bờ sông xem, bên kia cờ xí rợp trời, thuyền bè san sát. Cốt Đãi Ngột Lang nói:

- Có thể đánh một trận lớn diệt sạch quân Nam được rồi đây.

*

Ngã ba Bạch Hạc mùa cạn, lòng sông hẹp, ngầu đục phù sa, hai bên bờ ngô non bát ngát như tấm thảm màu lục trải dài đến tận chân trời. Trên mặt sông những chiếc thuyền mông đồng đi đi lại lại thoăn thoắt, tiếng dô dô của binh lính vang xa đến mấy dặm. Lê Tần đứng trên lâu thuyền quan sát quân sĩ dàn trận. Các thuyền cắm cờ chỉ huy đều hướng về phía bên kia sông. Mỗi thuyền chỉ huy có hai thuyền châu kiều đi phía trước. Trên mỗi thuyền châu kiều có hai giàn lệ chi pháo, một trăm cây nỏ mạnh, năm mươi mái chèo, mỗi mái chèo có hai người đẩy. Theo sau mỗi thuyền chỉ huy là tám thuyền mông đồng. Mỗi thuyền mông đồng có ba mươi hai mái chèo, mỗi mái chèo có một người đẩy, hai mươi nhăm chiến binh vai đeo túi tên, tay cầm nỏ cứng sẵn sàng tiến đánh. Lê Tần truyền lệnh:

- Tất cả tướng sĩ trên bộ, dưới thuyền không được làm tổn hại các ruộng ngô non của dân. Ai sơ ý làm gãy hoặc để trâu ngựa ăn một cây nào, phải đánh mười trượng. Ai cố ý trái lệnh phải xử theo quân pháp.

Lệnh ban ra, quân sĩ các đội, các thuyền đều làm đường riêng để đi từ trên bờ xuống sông, không tổn hại một cây ngô nào của dân. Trời gần sáng có thám mã về báo giặc đã

đến bên kia sông. Lê Tần lên bờ, vừa gặp lúc Trần Quốc Tuấn đến kiểm tra phòng tuyến. Hai người lên đài cao nhìn sang bên kia sông xem thế giặc, thấy doanh trại Mông Thát đóng liên tiếp nhau mấy chục dặm, toàn một thứ lều hình tròn theo kiểu dân du mục. Trại nào cũng có rào làm bằng tre hoặc gỗ rất chắc chắn. Các cửa tiền hậu, tả hữu thông thoáng, ra vào rất tiện lợi. Đường trên ngõ dưới có phép tắc. Trần Quốc Tuấn nói:

- Ta thường nghe nói Cốt Đãi Ngột Lang là người giỏi cầm quân, nay xem y cắm trại mới thấy quả là danh bất hư truyền.

Lê Tần hỏi:

- Tôi xem thế giặc đang hăng. Tiết chế định phương lược thế nào?

Quốc Tuấn nói:

- Nên tránh khí hăng buổi sáng, dồn sức đè bẹp cái khí nản ban chiều thì chắc thắng. Ông cứ thế này...thế này mà làm.

Lê Tần mỉm cười có vẻ tâm đắc lắm, nói:

- Xin tuân lệnh.

Quốc Tuấn xuống đài trở về đại bản doanh ở Bình Lệ.

Bên kia sông Hoài Đô nói với Cốt Đãi Ngột Lang:

- Quân ta đã hội đủ, sĩ khí đang hăng. Xin thống tướng cho quân tiến đánh ngay ắt quân Nam không kịp trở tay.

- Ta đâu phải không biết điều ấy nhưng các bè tre nứa còn thiếu nhiều. Chỉ cần ta bắc được cầu phao sang bên kia coi như quân Nam đã nằm trong rọ cả rồi. Ngươi hãy cùng bọn A Nhĩ Hải, Tín Thư Phúc cho quân làm suốt đêm nay, đầu giờ Mão ngày mai phải có cho ta hai nghìn bè tre để bắc cầu phao, năm trăm mảng nứa có thể chở được quân sang sông và đuổi đánh thuyền quân Nam.

Hoài Đô nhận lệnh đi ra. Đoàn Hưng Trí đến nói:

- Trên bãi sông có rất nhiều cây ngô non, xin thống tướng điều quân cắt về cho ngựa ăn, giữ lại lương cỏ khô để đến những ngày sau cũng tốt.

Ngột Lang cười ha hả, nói:

- Thế là người Nam bắt đầu cấp quân lương cho ta rồi đấy.

Nói xong sai Bố Nhĩ Hải đem mấy nghìn quân đi cắt sạch cánh đồng ngô đem về cho ngựa ăn. Những con ngựa chiến to khoẻ lâu nay trên đường hành quân phải ăn toàn cỏ khô thóc cũ kham khổ, nay được cây ngô non ngốn lấy ngốn để. Con nào cũng bạnh cổ ra nuốt cái thứ cây phương Nam ngon ngọt.

Đầu giờ Mão hôm sau, Cốt Đãi Ngột Lang họp các tướng, truyền lệnh:

- A Truật, A Nhĩ Hải đem một vạn quân lên năm trăm chiếc bè, đánh nhau với binh thuyền quân Nam bảo vệ cho đội quân bắc cầu phao. Đoàn Hưng Trí, Tín Thư Phúc đem một vạn quân Bắc Thoán đưa hai nghìn bè tre xuống sông bắc ba hàng cầu phao. Triệt Triệt Đô cùng ta khi nào xong cầu phao, cho kị binh sang sông đánh vào trại quân Nam. Hoài Đô, Bố Nhĩ Hải trông coi hậu quân, lương thảo cho sang sông, khi sang đến bên kia điều lính cắt hết cây ngô ở bờ bên ấy mang đi làm thức ăn dự trữ vài ngày cho ngựa.

Các tướng nhận lệnh ra quân. Cứ mười người một bè tre hoặc bè nứa khiêng ra sông, quân nào theo tướng ấy ào ào kéo đi như thác đổ, chỉ trong chốc lát đã kín đặc mặt nước.

Bên kia Lê Tần trên đài cao đã nhìn thấy mới cầm cây cờ lệnh phất một cái, mười bốn chiếc thuyền châu kiều tiến về phía quân Thát đang xúm xít bắc cầu phao; gần đến nơi hai mươi tám giàn lệ chi pháo cùng phóng đạn. Đạn đá rơi như mưa xuống đám quân Bắc Thoán nhiều đứa vỡ đầu chết trôi ngay trên sông, máu loang đỏ cả nước, tiếng kêu gào váng cả trời đất. A Truật, A Nhĩ Hải đem năm trăm chiếc mảng nứa xông ra, cho cung thủ nhất tề bắn trả, tên bay như mưa rào, tiếng reo hò sôi cả mặt sông. Lúc ấy một nghìn bốn trăm cây nỏ mạnh trên các thuỳên châu kiều mới theo hiệu lệnh bắn ra. Quân A Truật, A Nhĩ Hải không sao chống đỡ nổi, lăn xuống nước chết vô số. Vả lại quân Thát không thạo nghề chèo chống trên mặt nước, làm bè mảng nhiều cái xoay tít va vào nhau mà vỡ. Quân sĩ rơi xuống sông chết đuối không có người vớt, kêu la inh ỏi. Lê Tần cho nổ một tiếng pháo, năm mươi sáu chiếc thuyền mông đồng cùng tiến sang. Quân Thát liệu thế không địch nổi dạt cả lên bờ, bỏ lại cơ man bè mảng trôi phập phều trên sông. Bên kia Lê Tần cho nổi chiêng thu quân về hữu ngạn. Cốt Đãi Ngột Lang kiểm điểm quân mã, thiệt mất một nghìn rưởi quân Bắc Thoán và gần một nghìn quân Mông Cổ, ngồi buồn rầu chưa biết nên tìm cách gì để sang sông thì Hoài Đô đến, nói:

- Quân ta không có thuỷ binh mà người Nam lại rất giỏi thuỷ chiến, nếu không dùng kì binh ắt không thắng được chúng.

Cốt Đãi ngột Lang bảo:

- Nay ta mới biết thế nào là Miền Bắc cưỡi ngựa, phương Nam chèo thuyền. Ngươi có mẹo gì không?

- Trình nguyên soái! Muốn sang được sông nhất định phải làm thế này... mong nguyên soái minh xét.

Cốt Đãi Ngột Lang cười ha hả, nói:

- Phải lắm! Phải lắm! Quả là trời đã cử ngươi giúp ta.

Nói xong liền cho gọi bọn A Truật, Triệt Triệt Đô, A Nhĩ Hải, Đoàn Hưng Trí vào nhận mật lệnh. Đến đêm, trời trở rét mưa bay mù mịt trên sông, tối như bưng, giáp mặt không nhìn thấy nhau. Canh ba, A Truật, A Nhĩ Hải cho quân khiêng bè nứa ra sông reo hò thách đánh làm nghi binh thu hút sự chú ý của quân Đại Việt nhưng không dám tiến sang mà cũng chỉ thấy quân Đại Việt reo hò chứ không có thuyền tiếp chiến. Trong khi đó bọn Đoàn Hưng Trí, Tín Thư Phúc đem số quân Bắc Thoán lên phía thượng nguồn bắc cầu phao, đến gần sáng thì xong. Tín Thư Phúc cho đốt hàng trăm hoả bè thả xuôi cho trôi vào thuỷ trại quân Đại Việt. Lửa bốc lên soi sáng cả một dải sông nhưng chẳng thấy thuyền bè của quân Việt đâu. Mờ sáng, Cốt Đãi Ngột Lang cùng Triệt Triệt Đô mang kị binh sang sông đánh thẳng vào trại quân Việt cũng không có ai chống đỡ, dưới sông không thấy thuyền bè nào cả. Bọn A Truật, A Nhĩ Hải cho quân đẩy bè sang sông. Cốt Đãi ngột Lang đang bối rối không biết Lê Tần đem quân biến đi đằng nào thì thấy một đám lính khinh kị của Đại Việt thấp thoáng phía cánh rừng xa, liền bảo Triệt Triệt Đô:

- Ngươi đem một nghìn quân kị đuổi bọn kia, bắt cho được vài tên. Ta sẽ đem quân tiếp ứng cho.

Triệt Triệt Đô đem bọn dũng sĩ Cổ Hà Cáp Hoa, Ngạc Cáp Đan cùng một nghìn kị binh đuổi miết suốt hai ngày nhưng quân Việt toàn kị binh nhẹ chạy nhanh, không sao đuổi kịp được. Chiều ngày thứ ba tới một cánh đồng rộng, phía trước có sông chắn ngang, mà đám kị binh Đại Việt lên thuyền sang bên kia sông mất rồi, Triệt Triệt Đô bảo các tướng:

- ở đây trống trải, không biết là nơi nào?

Có tên lính chinh thám người Bạch Man nói:

- Trình tướng quân! Cánh đồng này gọi là Bình Lệ, dòng sông kia là Bình Lệ nguyên.

Triệt Triệt Đô nói:

-Ta nên đóng trại lại đợi nguyên soái đến rồi sẽ liệu.

Nói xong lệnh cho quân sĩ xuống ngựa cắm trại giữa đồng nghỉ. Cuối canh một, bọn A Truật, A Nhĩ Hải, Đoàn Hưng Trí, Tín Thư Phúc cũng lần lượt lục tục kéo đến, lúc ấy là đêm mười một tháng chạp năm Nguyên Phong thứ bảy (Đinh Tỵ-1257). Cốt Đãi Ngột Lang dẫn các tướng ra sông ngắm sang bên kia, chỉ thấy trời tối đen như mực, không biết quân tình Đại Việt thế nào, dưới sông cũng không có ánh đèn lửa thuyền bè gì cả mới bảo Tín Thư Phúc:

- Ngươi cử ngay mấy đội do thám sang sông xem quân Nam ở bên ấy nhiều hay ít.

Mấy đội do thám về đều báo bờ bên kia không có quân Nam. Cốt Đãi Ngột Lang chắc mẩm quân Đại Việt sợ hãi đã bỏ đi hết. Số là hôm trước ở ngã ba Bạch Hạc, Quốc Tuấn đã dặn Lê Tần chỉ cần đánh một trận cho chúng nhụt nhuệ khí đi rồi rút quân về Bình Lệ hợp với quân của nhà vua, phục sẵn chờ quân giặc tới, để một đội khinh kị nhử cho quân Thát đi đúng vào nơi đã mai phục.

Tại Bình Lệ, Trần Khuê Kình nói:

- Quân Thát đến nhất định không dám sang sông ngay. Ta nên nhân lúc giặc chưa lập xong trại, tung quân vào đánh chắc thắng to.

Trần Quốc Tuấn nói:

- Quân giặc mới đến, nếu ta đánh ngay chắc chỉ có số quân đi trước không đáng kể, có thắng thì thắng nhỏ mà lại phô mất lực lượng của mình, phí công mai phục, đợi chúng đến đông mới đánh, khó cho ta vì bên kia toàn đồng trống rất thuận tiện cho kị binh của chúng. Chi bằng ta đem quân phục sẵn trong các cánh rừng bên này, các thuyền chiến tạm lánh vào khe lạch và bãi lau, lập thành Điểu Vân trận. Giặc không thấy quân ta, ắt khinh suất mà tiến. Khi chúng sang sông, quân huỷ bộ của ta đổ ra đánh mới có thể toàn thắng được. Trong thiên Thiểu chúng, Thái công có nói: Đánh vào lúc địch chưa kịp vượt sông. Hậu quân địch còn chưa xuất quân nhưng Tôn tử, Ngô tử cũng có nói địch đến giữa sông thì đánh. ý của ta là như vậy.

Các tướng nghe theo, ai mang quân ấy đi mai phục. Lê Tần cũng mang thuỷ quân lánh vào các bờ lau sậy.

Sáng sớm hôm sau mười hai tháng chạp, Cốt Đãi Ngột Lang đổ quân ra sông, bắc cầu phao vượt sang. Khi quân sĩ đã xuống sông quá nửa, nghe thấy bên hữu ngạn nổ một tiếng pháo, cơ man là thuyền chiến trong các ngách sông, bãi lau kéo ra. Tiếng binh lính hô: Giết! Giết! Vang ầm trời đất. Quân Thát hốt hoảng định thoát lên bờ nhưng không kịp, bị tên đạn bắn chết rất nhiều, xác nổi trên sông như cá ruộng cạn nắng tháng sáu. A Nhĩ Hải bị một viên đá lệ chi đập vào mặt, máu chảy ướt đẵm ngực. Hoài Đô nói với Cốt Đãi Ngột Lang:

- Nguyên soái tạm cho lui binh. Tôi xin hiến kế khác có thể sang sông được.

Cốt Đãi Ngột Lang vội vã cho khua chiêng thu quân. Quân Thát nghe tiếng chiêng, chen nhau lên bờ chạy như vịt, bị tên đạn của quân Việt bắn đuổi theo, chết đầy bãi sông. Hoài Đô nói với Cốt Đãi Ngột Lang:

- Tôi nghe nói vua Nam mới dùng một viên tướng trẻ làm nguyên soái, tên là Trần Quốc Tuấn. Người này trí dũng song toàn, tinh thông thao lược. Cứ xem cách phục binh thì rõ ràng y đã dùng thế trận Điểu Vân để đánh ta. Ta phải tương kế tựu kế mà đánh lại mới có cơ thắng được.

Cốt Đãi Ngột Lang hỏi:

- Vậy bây giờ ta phải làm thế nào?

Hoài Đô ghé vào tai Ngột Lang nói thầm mấy câu. Ngột Lang gật gật lia lịa, nói:

- ừ !Được! Được.

Nói xong gọi Triệt Triệt Đô vào, dặn:

- Ta cho ngươi năm nghìn quân, lấy Tín Thư Phúc cùng đi. Ngươi đem xuống hạ lưu vượt sông sang bên kia. Không được đánh nhau. Khi nào thấy quân Nam sang bờ bên này đuổi quân ta, ngươi đánh vào phía sau chúng, cướp hết thuỳên bè, không cho chúng có đường rút. Ta đem quân đánh quay lại nhất định bắt được vua Nam.

Lại dặn Cổ Hà Cáp Hoa và Ngạc Cáp Đan:

- Ta cho hai ngươi mang một nghìn quân ra bờ sông khiêu chiến, vừa đánh vừa lui, nhử cho quân Nam đuổi lên bờ, cứ việc chạy. Quân Nam đuổi xa bờ sông là chui vào bẫy của ta rồi.

Nói xong gọi bọn A Truật, Bố Nhĩ Hải, Hoài Đô, Đoàn Hưng Trí nhổ trại rút đi. Cổ Hà Cáp Hoa, Ngạc Cáp Đan đem một nghìn quân ra sông dàn hàng bắn tên xuống thuyền Đại Việt, reo hò thách đánh. Trung Thành vương và Bùi Khâm cho thuyền tiến sát vào bờ, hô quân xông lên đuổi đánh. Trần Quốc Tuấn trên đài trận trông thấy vội hạ lệnh khua chiêng thu quân. Nhà vua đứng cạnh, hỏi:

- Quân ta đang đuổi giặc sao tiết chế lại cho khua chiêng lui binh?

Quốc Tuấn nói:

- Tâu hoàng thượng! Binh thư có nói giặc chạy thật thì cờ xí nghiêng ngả, quân ngũ lộn xộn. Nay quân Thát chạy mà cờ quạt nghiêm chỉnh, hàng ngũ không loạn, ắt muốn nhử quân ta sang sông để chúng dễ bề dùng kị binh mà đánh rồi cho một mũi bọc hậu cướp thuyền bè, quân ta nguy ngay.

Lê Tần nói:

- Tiết chế nói rất đúng. Dưới hạ lưu có một chỗ sông rộng nhưng nước nông. Tôi e quân Thát đã theo đó mà sang rồi cũng nên.

Quốc Tuấn nói:

- Điều đó tôi cũng đã tính đến, cho người chặn giữ rồi. Giặc sang tất có ngựa về báo.

Còn đang nói, có phi mã về báo quân Thát đã theo phía hạ lưu sang sông rồi. Nhà vua nói:

- Quả không ngoài dự đoán của tiết chế.

Quốc Tuấn bảo Trần Khuê Kình:

- Ông đem quân tiếp ứng cho cánh ấy. Phải đánh tan đội quân đó, đại quân của chúng mới hết hi vọng sang sông.

Lại cho Trung Thành vương cấp tốc đưa binh thuyền xuống đánh ngang vào đội hình quân giặc. Khi thuyền của Trung Thành vương tới nơi, quân Thát cũng sang sông gần hết. Đạo quân của Trần Khuê Kình vây bọc quân Thát, buộc lòng Triệt Triệt Đô phải giao chiến. Triệt Triệt Đô, Tín Thư Phúc dẫn đầu đám kị binh xông lên. Trần Khuê Kình cho lệ chi pháo, Hồi Hồi pháo và các giàn nỏ cùng bắn chặn lại. Người ngựa quân Thát chết chồng chéo lên nhau. Hai bên đang kịch chiến, bên kia sông có đạo quân kỵ của A Truật tiến đến, ào cả xuống sông lội sang. Thì ra Cốt Đãi Ngột Lang thấy quân Đại Việt không đuổi, biết là mưu kế của mình đã hỏng, lại thấy bọn Triệt Triệt Đô, Tín Thư Phúc không quay lại, mới bảo A Truật đem kỵ binh đi tiếp ứng. Lúc ấy A Nhĩ Hải bị thương, đau lắm, đang nằm trong xe, bảo Cốt Đãi Ngột Lang:

- Tôi chắc Triệt Triệt Đô sang được sông rồi. Nếu nguyên soái cho A Truật sang hãy đánh dọc theo bờ sông ngược lên để chia cắt thủy binh với bộ binh của chúng không cho liên hệ với nhau. Nhất định quân chúng rối loạn. Ta nhân đấy mới sang sông được.

Cốt Đãi Ngột Lang nghe theo, cho A Truật cứ y kế thi hành. Triệt Triệt Đô, Tín Thư Phúc thấy có quân tiếp viện càng đốc quân đánh dấn vào. Trần Khuê Kình cho nổi một hồi tù và. Quân Đại Việt lui dần về phía bìa rừng. Quân Thát đuổi theo. Bỗng một tiếng pháo nổ. Hơn năm mươi thớt voi chiến trong rừng xông ra, tiếng gầm rống kinh thiên động địa làm cho ngựa chiến của quân Thát sợ hãi quay đầu ù té chạy. Trần Khuê Kình thúc quân vây đánh. Đến khi A Truật sang được sông thì năm nghìn quân của Triệt Triệt Đô đã chết gần hết, Triệt Triệt Đô, Tín Thư Phúc đem quân nhập với quân của A Truật theo bờ sông cố chết đánh lên. Trần Quốc Tuấn cho đội khinh kỵ ra chặn nhưng kị binh Đại Việt đánh không lại với kỵ binh Mông Thát, bị chết hại nhiều lắm. Trần Thái tông thấy thế, rút cây bảo kiếm vẫy một cái, dẫn đầu đội long kỵ, cùng thái tử Hoảng xông vào đám quân Thát, đánh rát một hồi, làm quân Thát chùn hẳn lại nhưng quân long kỵ cũng tổn thất nhiều. Trong lúc ấy Cốt Đãi Ngột Lang xua quân xuống sông bắc cầu vượt sang. Hoài Đô nói với binh lính:

- Thắng bại chỉ có lúc này, không gắng sức xông lên thì chịu chết cả dưới sông hay sao?

Nói xong tự đẩy bè xông vào đánh nhau với thuyền Đại Việt. Thuỷ binh Đại Việt tuy mạnh nhưng đã mất tuyến chi viện trên bờ mà mấy vạn quân Thát tràn cả xuống sông, không sao cản nổi nữa. Bọn Đoàn Hưng Trí, Cổ Hà Cáp Hoa, Ngạc Cáp Đan đã sang được bờ liền đánh thốc lên hợp với bọn A Truật tấn công quân Đại Việt. Trần Thái tông vẫn đang xông pha đánh giết trong đám quân Mông Thát. Tên đạn loạn xạ. Đội quân long kỵ đã lúng thế, không chặn được đám kỵ binh Mông Thát. Vua ngoảnh lại trông tả hữu, chỉ có Lê Phụ Trần (Lê Tần) một mình một ngựa, ra vào trận giặc, sắc mặt bình thản như không. Lê Tần ra sức đánh đỡ che chắn bảo vệ Thái tông cùng thái tử.

Đang khi nguy cấp bỗng thấy phía sau quân Thát rối loạn, bỏ chạy tứ tung. Hoá ra Trần Khuê Kình đã kịp mang đội tượng binh đến cứu giá. Trần Quốc Tuấn cũng thúc quân đánh dốc xuống, tạm đẩy lui quân Thát. Bùi Khâm nói:

- Xin hoàng thượng dừng lại ở binh trạm, chỉnh đốn quân ngũ để tiếp tục chiến đấu.

Nhà vua nói:

- Được! Ta quyết sống mái với quân Thát phen này.

Lát sau nhà vua đem ý ấy nói với Lê Tần. Tần quỳ xuống tâu:

- Nếu bệ hạ làm như vậy chẳng qua chỉ là dốc túi đánh một ván thôi, hãy tạm lánh chúng rồi liệu sau thì hơn.

Trần Quốc Tuấn cũng nói:

- Quân Thát tuy thiệt hại rất nhiều nhưng chúng đã sang được sông. Kỵ binh của chúng còn mạnh. Nếu ở lại quyết chiến thì quân ta phải chịu tổn thương nặng. Lời bàn của Lê tướng quân là rất sáng suốt. Xin hoàng thượng xét cho.

Nhà vua nói:

- Tiết chế cũng nói như vậy, ta nên lui binh.

Quốc Tuấn nói:

- Tướng quân Lê Tần và tướng quân Trần Khuê Kình hộ giá nhà vua rút theo đường bộ đi trước về bến Lãnh Canh. Trung Thành vương, lão tướng Bùi Khâm cùng tôi sẽ đi đường thuỷ, đem binh thuyền về Lãnh Canh đón hoàng thượng.

Lúc ấy quân Thát lại ồ ạt xông đến. Trần Khuê Kình đi trước mở đường cho nhà vua, gặp ngay Cổ Hà Cáp Hoa. Hai bên đánh nhau ba bốn hiệp. Khuê Kình giả vờ thua chạy. Cổ Hà Cáp Hoa đuổi sát tới tung quả truỳ sắt đập sang. Khuê Kình né người tránh được, quay ngoắt lại, tay trái đẩy vào vai Cáp Hoa, tay phải chém một nhát kiếm cực mạnh. Cáp Hoa bật cả mũ trụ, đứt nửa mặt lăn xuống chết. Quân Thát thấy Khuê Kình dũng mãnh như một vị thần, lùi cả lại. Đoàn quân củaThái Tông vì thế đi thoát.

Trần Quốc Tuấn thấy nhà vua đã đi xa, cho quân vừa đánh vừa rút xuống thuyền, nhổ neo xuôi dòng mà đi. Cốt Đãi Ngột Lang hô quân cung tên bắn xuống nhưng không làm gì được. Bọn Triệt Triệt Đô, Tín Thư Phúc, A Truật đến ra mắt Cốt Đãi Ngột Lang, trình lại mọi việc. Ngột Lang đang lúc cáu tiết vì mưu kế hỏng bét, không bắt được vua Đại Việt lại thiệt gần vạn nhân mã, mắng Triệt Triệt Đô:

- Ta cho ngươi Năm nghìn quân, bây giờ đâu cả? Ta dặn ngươi sang sông không được giao chiến chỉ cốt cướp thuyền, vậy thuyền ngươi cướp được đâu?

Triệt Triệt Đô không biết nói sao, cúi đầu chịu trận. Cốt Đãi Ngột Lang gọi quân mang Thuốc độc đến bắt Triệt Triệt Đô tự xử. Các tướng đều quỳ xuống khóc như mưa xin cho Triệt Triệt Đô. Tín Thư Phúc nói:

- Tôi là phó tướng, nếu tiên phong có tội thì tôi há không có tội hay sao? Tôi nguyện cùng chịu tội với tiên phong.

Ngột Lang nói:

- Nhà ngươi cũng có tội, nhưng xưa nay việc quân trách nhiệm ở người chánh tướng. Ta để đường cho ngươi đới công chuộc tội, còn Triệt Triệt Đô tội đã rõ ràng chẳng thể tha.

Cốt Đãi Ngột Lang nói xong bỏ ra ngoài, lệnh cho các tướng mang quân đuổi theo vua Đại Việt. Triệt Triệt Đô nói:

- Ta một đời thanh gươm yên ngựa, lẽ nào lại chết bằng thuốc độc như bọn đàn bà.

Nói xong quay về Bắc, lạy ba lạy, rút kiếm đâm cổ chết. Bọn Hoài Đô, Bố Nhĩ Hải, Đoàn Hưng Trí cùng các tướng thấy Triệt Triệt Đô chết thê thảm như vậy, ai cũng thương xót. Trong trận này dũng tướng Ngạc Cáp Đan xông pha lập nhiều công trạng được Ngột Lang lấy làm tiên phong thay Triệt Triệt Đô.

*

Lê Tần cùng Trần Khuê Kình bảo vệ Thái tông đi chưa lâu thì quân Thát đuổi tới. Chỗ này đồi thấp lúp xúp, cây cối rậm rạp, cỏ lau chằng chịt. Mấy viên thị vệ xin Thái tông dừng lại lập trại đánh giặc. Lê Tần gạt đi, nói:

- Nơi này thế đất thiên la không thể trú quân. Tướng quân Khuê Kình hộ giá đi cho nhanh để tôi cản giặc.

Nói xong, Lê Tần lấy một trăm kị sĩ mang cung nỏ nấp trong các lùm cây hai bên, một mình hoành giáo đứng cản giữa đường, đợi tiền quân giặc vừa tới, chẳng nói chẳng rằng xông thẳng lên đâm chết mấy tên. Lính Thát lùi cả lại. Lê Tần quay ngựa lững thững bỏ đi. Quân Thát liền đuổi theo. Lê Tần vẫy ngọn giáo một cái, một trăm cây nỏ cùng bắn ra. Mấy chục lính Thát trúng tên. Tiên phong Ngạc Cáp Đan cũng bị một mũi tên xuyên vào cánh tay hữu. Quân Thát tưởng có đông phục binh, không dám đuổi. Lê Tần mang một trăm kị sĩ theo kịp Thái tông, không mất người nào. Nhà vua bảo:

- Khanh đúng là Triệu Tử Long của trẫm.

Cốt Đãi Ngột Lang đến nơi, nghe Ngạc Cáp Đan báo có phục binh liền lên chỗ cao đứng ngắm, nói:

- Các ngươi chỉ thần hồn nát thần tính, làm gì có phục binh. Chỗ này là đất thiên la, ai dám cho quân vào đấy mà ẩn bao giờ. Mau đuổi gấp đi.

Ngạc Cáp Đan bị thương không đánh nhau được. Cốt Đãi Ngột Lang gọi A Truật lên làm tiên phong.

Vua Trần về gần đến sách Cụ Bạn, quân Thát cũng sắp đuổi tới. Phía trước lại thấy bụi bay mù mịt, một đội quân đang tiến đến nhanh như gió lốc. Thái tông bảo:

- Phía sau có giặc đuổi, phía trước có quân đến, ta phải cố mà đánh không chết cả.

Trần Khuê Kình nói:

- Bệ hạ cứ yên lòng, để thần ra xem phía trước là quân nào.

Nói xong, Khuê Kình phi ngựa lên. Tướng kia đến gần hoá ra là Phạm Cụ Chích. Số là Trần Quốc Tuấn đã cho thuyền chiến về đến bến Lãnh Canh nhưng chưa thấy Thái tông,

mới bảo các tướng:

- Hoàng Thượng đi đường bộ, ta e giặc có thể đuổi kịp, Lê Tần và Khuê Kình tuy khoẻ nhưng ít quân lại mệt cả, sợ không cản nổi giặc. Ai có thể đem quân đi tiếp viện?

Phạm Cụ Chích bước ra, nói

- Tôi là người vùng này, thông hiểu đường lối. Xin để tôi đi.

Quốc Tuấn liền cho Phạm Cụ Chích năm trăm kị binh tức tốc đi ngay. Lúc ấy gặp Trần Khuê Kình, Phạm Cụ Chích hỏi:

- Hoàng thượng đâu?

- Bệ hạ còn ở phía sau kia.

Cụ Chích đến bái kiến nhà vua, nói:

- Xin hoàng thượng cứ đi, bến Lãnh Canh không còn xa. Tiết chế đang đợi bệ hạ ở đó. Để thần chặn giặc lại.

Nói xong đem năm trăm tráng sĩ chặn ngang đường chờ quân Thát đến.

A Truật đi tiên phong. Được một lúc gặp Phạm Cụ Chích chặn mất đường. A Truật quát:

- Ngươi là tên nào? Tài đảm được bao nhiêu mà dám cản đường ta? Biết điều xuống ngựa hàng đi. Phụ thân ta sẽ dùng làm quan hướng đạo.

Cụ Chích biết đó là A Truật, con của Cốt Đãi Ngột Lang, bảo:

- Hướng đạo hử? Ta sẽ hướng cho cha con nhà ngươi vào đường địa phủ.

A Truật tức quá xông vào đánh Cụ Chích. Đoàn Hưng Trí đánh trống thúc đội kị binh Bắc Thoán ào cả lên vây bọc năm trăm chiến binh Đại Việt. Hai bên xô vào nhau hỗn chiến. Phạm Cụ Chích đang đánh với A Truật, bị Tín Thư Phúc chém một nhát, không kịp đỡ, lăn xuống chết. Mấy chục tráng sĩ Đại Việt xông đến cướp xác đưa lên ngựa chạy vào rừng.

Trần Thái tông về đến bến Lãnh Canh, đoàn thuyền của Trần Quốc Tuấn đã chờ sẵn ở đấy, liền đón tất cả quân sĩ lên thuyền, đang nhổ neo, quân Thát đuổi tới. Cốt Đãi Ngột Lang cho quân cung thủ nhắm cả vào thuyền long phụng của nhà vua mà bắn. Tên bay như vãi trấu. Lê Tần đứng cạnh cầm mộc che cho vua từ từ rút về sông Cà Lồ để đến Phủ Lỗ là nơi có trận địa của hầu tướng Vương Lâm. Đường bộ dần dần tách xa đường sông nên quân Thát không theo được nữa. Khi đến sông Cà Lồ, Vương Lâm mang thuyền nhẹ ra đón lên quân doanh. Lê Tần sai quân Phá cầu Phù Lỗ để quân giặc không sang được. Trung Thành Vương nói:

- Ngày xưa Dực Đức phá cầu Tràng Bản mà Tào Tháo dám sang sông. Huyền Đức chê Dực Đức là kém mưu. Sao tướng quân còn phá cầu đi?

Lê Tần nói:

- Ngày xưa ở trận Tràng Bản, Lưu bị dùng kì binh để chống Tào Tháo nên mới làm như vậy. Ngày nay ta lấy chính binh mà đánh không thể áp dụng như thế được.

Trần Quốc Tuấn nói:

- Lê tướng quân nói rất phải. Nơi đây cũng không thể giữ lâu dài được. Xin hoàng thượng lui về Thiên Mạc hội quân với thái sư. Cho dân trong thành Đại La lánh ra ngoài, chôn giấu hết lương thực. Hoàng gia cũng lánh cả về Thiên Trường. Bỏ thành không cho giặc vào. Đấy chính là tử địa của chúng. Lúc ấy thần khắc có kế hay, chỉ cần đánh một trận là quét sạch bọn chúng.

Bỗng có một tướng bước ra nói lớn:

- Việc ấy quyết không thể được. Kinh thành là nơi tôn miếu xã tắc, trăm họ trông về, không thể để giặc Thát vào giày xéo. Tôi thà chết chứ không dám tuân lệnh ấy.

Thế mới là:

Muốn giăng lưới rộng lừa cá lớn

Còn ngại kình ngao cắn dây rường.

Đan Thành

Quyết tử chiến, hầu tướng Vương Lâm cản giặc mạnh

Sơ tán dân, công chúa Thiên Cực đốt trang viên

Đang nói Trần Quốc Tuấn xin nhà vua bỏ Thăng Long cho dân tạm lánh về Thiên Trường thì có người đứng ra phản đối. Các tướng nhìn xem hoá ra là Phú Lương hầu Vương Lâm. Trần Quốc Tuấn nói:

- Tấm lòng của Phú Lương hầu thật đáng quý nhưng nếu giặc vào sâu, việc đánh chúng sẽ dễ dàng hơn. Vì quân giặc hết lương thực, hết cỏ rơm. Ta chôn giấu thóc lúa, chúng chẳng biết đâu mà cướp bóc. Trời gần sang tiết Xuân sẽ có mây mưa, người ngựa của chúng không hợp thuỷ thổ tất sinh ra bệnh tật, quân số cũng ngày càng hao mòn lại không có viện binh, lòng quân hoang mang. Đó toàn là những điều đại kị trong phép dùng binh. Tôn tử nói gặp trường hợp như vậy cứ đánh không nghi ngại.

Thái tông nói:

- Tiết chế lý giải rất minh xác nhưng quân ta rút đi ngay, chỉ một sớm một chiều giặc Thát vào tới Thăng Long vậy làm sao đưa dân lánh đi cho kịp?

Lê Tần nói:

- Xin quan gia1 hãy chọn một tướng đảm lược có thể giữ chân giặc lại, việc ấy chắc xong.

Quốc Tuấn nói:

- Việc này quan gia cùng chư tướng không phải lo nữa. Thái sư và Thiên Cực công chúa phu nhân đã sắp đặt đâu vào đấy cả rồi. Vả lại ta có rút đi, giặc Thát cũng còn phải dồn quân, chưa thể mang toàn binh vào thành ngay được. Nếu có một tướng dám ở lại giữ chân chúng, đại quân ta rút đi càng nhàn.

Vương Lâm hăng hái bước ra nói:

- Sao lại không có tướng nào dám giữ chân giặc? Tôi tuy tài hèn cũng xin ở lại ngăn binh giặc để quan gia cùng chư tướng đem quân đi.

Quôc Tuấn thấy Vương Lâm nói vậy, bảo:

- Binh thư có nói tướng vì hờn giận mà ra quân thì thất lợi. Tôi e tướng quân có điều còn chưa hài lòng chăng?

Vương Lâm nói:

- Tôi không có hờn giận gì, chỉ muốn dốc lòng báo quốc. Tôi còn sống, quyết không để giặc Thát qua được bến sông này.

Thái tông nói:

- Vậy ta cử Phú Lương hầu ở lại ngăn giặc. Còn toàn quân cấp tốc đi ngay.

Quốc Tuấn cho bộ binh lên thuyền đi đường thuỷ do Lê Tần thống lĩnh bảo vệ nhà vua theo sông Cán Khê ra sông Nhị, quân kỵ theo đường bộ vượt sông Thiên Đức về Tế Giang do Trần Khuê Kình chỉ huy, hai đường hẹn ngày hôm sau sẽ hội quân trên sông Thiên Mạc, một mặt cho phi mã hoả tốc về Thăng Long đốc thúc việc đưa dân và hoàng tộc lánh đi, còn mình đi thuyền nhẹ về gặp thái sư Trần Thủ Độ ở Đông Bộ Đầu bàn kế phá giặc và chuyển toàn bộ căn cứ này đến Thiên Mạc.

*

Cốt Đãi Ngột Lang dẫn kị binh đuổi theo vua trần suốt ngày không kịp, đến sông Cà Lồ trời đã tối, cầu Phù Lỗ lại bị phá mất, nhìn sang bên kia thấy đèn đuốc sáng như sao sa, chăng suốt một tuyến dài bên bờ sông, liền cho quân dừng lại nghỉ qua đêm. Hoài Đô thấy vậy nói:

- Người Nam ít quân nên đốt nhiều đèn đuốc để nghi binh thôi. Sao thống tướng không cho đánh ngay đi?

Ngột Lang bảo:

- Phép tranh thắng không ngoài hai chữ thực hư. Quốc Tuấn còn trẻ tuổi nhưng là con mọt sách ranh mãnh lắm. Sáng nay nó đã dùng kế hư thực làm ta mắc bẫy, bây giờ lại đem kế thực thực để nhử ta đây. Vả lại quân ta đánh nhau từ sáng đến giờ người ngựa mỏi mệt cả. Binh thư có nói trời tối đường xa, thà để người mệt còn hơn ngựa mệt. Cứ nghỉ đi, đợi hậu quân dồn cả lên, ngày mai cùng tiến đánh.

Bên kia Vương Lâm đốc thúc quân lính canh phòng nghiêm mật, nửa đêm đi tuần qua các trại lính thấy có một chỗ năm sáu người xúm lại, mới ghé vào. Đó là đội binh làng Cao Duệ. Anh lính tốt Mai Văn Tự đang lên cơn sốt rét người nóng như than. Vương Lâm nói:

- Các ngươi cử hai người đưa anh này về phía sau kẻo ngày mai đánh nhau mà ốm thế này làm gì được.

Mai Văn Tự ngồi nhỏm dậy, nói:

- Xin tướng quân đừng bắt tôi phải lui đi. Tôi chỉ sốt qua loa, đã có thuốc của anh Phạm Anh cho đây rồi, chắc chỉ một lúc là khỏi. Tôi còn sức giết Thát mà.

Vương Lâm nhìn người lính tên Phạm Anh, thấy có nét quen quen nhưng không nhận ra đã gặp ở đâu, hỏi:

- Ngươi có thuốc gì mà thần hiệu đến vậy?

Phạm Anh thưa:

- Trình tướng quân! ở đây rừng suối âm u, lam sơn chướng khí, quân ta sốt rét rất nhiều. Tôi thường lấy cây Mã Liên An đun nước cho anh em uống ạ.

Vương Lâm vui vẻ hỏi:

- Tốt! Tốt! Ngươi học ở đâu được bài thuốc này vậy?

- Dạ! Trình tướng quân! Đó là thầy tôi dặn làm như vậy đấy ạ.

- Thầy ngươi là thầy lang ư?

Vũ Tuấn láu táu nói thay:

- Trình chủ tướng! Thày anh ấy là quân dược hiệu uý Phạm Hữu đấy ạ.

Vương Lâm mừng rỡ kêu lên:

- Trời! Thảo nào ta thấy ngươi rất giống cha ngươi. Cha ngươi cũng đã từng chữa bệnh cho ta. Vậy ta giao cho ngươi lấy thêm hai người đưa hết số anh em ốm đau về phía sau. Đi ngay đêm nay.

Phạm Anh thất sắc, quỳ xuống nói:

- Sắp được giết quân Thát, chúng tôi chờ mãi ngày này rồi. Xin tướng quân đừng bắt chúng tôi đi.

Vương Lâm nghiêm mặt nói:

- Giám binh đâu? Giặc đã kề bên. Kỷ luật không nghiêm đánh sao được. Lời ta nói là quân lệnh. Binh sĩ không nghe lời tướng, phải xử thế nào?

Viên Giám binh đứng cạnh nói:

- Quân không nghe lệnh tướng là loạn binh phải chém.

Vương Lâm hỏi:

- Phạm Anh! Ngươi có nhận lệnh không?

Phạm Anh không biết làm sao đành quỳ xuống xin tuân lệnh. Trước khi đi còn dặn bọn Văn Điền, Sĩ Hiệp:

- Các cậu giết thêm cho chúng mình mỗi người một thằng lính Thát nhé.

Vương Lâm gặp Phạm Anh lại nhớ đến Phạm Hữu và Nguyễn Bằng. Ông liền quay về lều chỉ huy viết một bức thư và một tờ mật lệnh, gọi người lính truyền tin, nói:

- Ngươi đem bức thư này theo mật tuyến đến trao cho tướng quân Hà Bổng ở Quy Hoá, bảo chuyển ngay sang Đại Lý cho hiệu uý Nguyễn Bằng.

*

Đêm ấy trong trại quân Thát có nhiều người tự sát. Đó là những tên lính bị thương vì trúng tên nỏ của quân Đại Việt. Người Thát bắn bằng cung, mũi tên dài mà to, thoạt trông dễ sợ nhưng mũi tên không trúng chỗ hiểm thì không giết được đối thủ. Quân Việt bắn bằng nỏ, mũi tên nhỏ, ngắn, đều có tẩm thuốc độc. Kẻ nào bị tên bắn phải, lúc đầu tưởng không có gì ghê gớm nhưng chỉ sau mấy canh giờ chất độc phát tác, đau nhức không thể chịu nổi, qua một đêm độc tố chạy vào tim là chết, không tài nào cứu được. Nhiều người đã rút gươm kết liễu cuộc đời để giải thoát khỏi những cơn nhức buốt và khát nước. Ngạc Cáp Đan không ngoài số ấy. Những con ngựa trúng tên cũng không sống quá hai ngày. Cốt Đãi Ngột Lang sai quân dược chữa trị đều vô hiệu.

Mờ sáng hôm sau, Cốt Đãi Ngột Lang cho nổ pháo, xua quân tiến sang. Lòng sông Cà Lồ mùa cạn hẹp như khe suối. Cốt Đãi Ngột Lang sai lính đi dọc bờ bắn lên trời, chỗ nào tên rơi xuống không nổi lên là chỗ nông, cho lính lội qua. Vương Lâm chờ quân Thát sang đến nửa sông mới lệnh cho lính nhất loạt bắn tên, bắn đá ra. Quân Thát chết, xác người xác ngựa lấp đầy lòng sông làm ứ cả nước. Cốt Đãi Ngột Lang múa cây đại đao xông lên trước, hô:

- Trèo qua xác chết mà sang. Kẻ nào lui lại, chém!

Nói xong thúc ngựa sang sông. Quân sĩ ào ạt kéo theo. Quân Vương Lâm ít không cản được. A Truật, Tín Thư Phúc, Hoài Đô đã sang được cả, đánh dồn quân Vương Lâm lên cánh đồng. Vương Lâm nói với quân sĩ.

- Ngày thường chúng ta ăn cơm vua nhận lộc nước, nay không liều thân báo quốc còn đợi lúc nào?

Nói xong dẫn quân sĩ nhất loạt xông lên xáp chiến. Vương Lâm gặp ngay A Truật. Hai người đâm chém nhau một lúc, không ai sơ hở miếng nào. Hoài Đô trông thấy nhảy lại đánh giúp, rồi Tín Thư Phúc cũng đến. Ba tướng vây Vương Lâm vào giữa trận. Vương Lâm cố sức đánh nhưng không chống được với ba tướng Thát, bị Tín Thư Phúc chém một nhát gãy tay trái. Lâm ngửa mặt lên trời kêu:

- Hoàng thượng ôi! Thần nguyện chết ở đây.

Nói xong, tay phải cầm giáo nhằm Hoài Đô xốc đến. Hoài Đô hoảng quá bỏ chạy. Tín Thư Phúc thấy vậy đuổi theo, định chém một nhát quyết định. Vương Lâm biết có người đuổi sát, quay ngoắt lại dồn sức đâm một nhát cực mạnh. Tín Thư Phúc trở tay không kịp, bị ngọn giáo xuyên qua miếng hộ tâm vào ngực, chết lăn xuống ngựa. Vương Lâm mất nhiều máu cũng kiệt sức ngã theo. Năm ấy ông bốn mươi chín tuổi.

Về sau có người lính tốt làm bài thơ rằng:

Mấy đời thờ Trần chúa

Sống chết chẳng sờn lòng

Giữa trời vầng nguyệt tỏ

Vương Lâm tấm gương trung.

Vương Lâm chết rồi, quân Thát lớp lớp vây bọc quân Việt. Anh lính Vũ Tuấn làng Cao Duệ sau khi giết được hai lính Thát, bị đâm một nhát giáo vào vai, ngã lăn trong đám cỏ. Nguyễn Văn Điền mất một cánh tay. Đoàn Sĩ Hiệp chiếm được một gò cao có đặt giàn lệ chi pháo, các pháo binh đã tử thương cả. Hiệp một mình hì hục xúc đá cho vào máy, bắn chặn quân Thát. Mấy tên lính Thát xông lên định bắt. Hiệp bỏ pháo, cầm thương chống lại, bị đập một truỳ vào lưng, rơi từ trên gò cao xuống, nằm chết lịm, miệng ứa máu. Đến gần trưa, quân Việt thương vong cả. Những người lính khác của làng Cao Duệ như Mai Văn Lương, Nguyễn Văn Ngô, Vũ Mậu đều trong số ấy.

Cốt Đãi Ngột Lang lệnh cho bọn A Truật, Hoài Đô, Đoàn Hưng Trí đem kỵ binh đuổi gấp, còn mình chỉ huy trung quân. Bố Nhĩ Hải đoạn hậu bảo vệ lương thảo dần dần theo sau, chiều tối đến bến Bồ Đề hạ trại.

Lại nói Phạm Anh cùng hai đồng đội đưa được số bệnh binh về tuyến sau, vội vàng quay lại. Trận địa vắng lặng, chỉ còn la liệt xác lính của hai bên chết và bị thương nằm chồng chéo lên nhau. Phạm Anh tìm được Nguyễn Văn Điền, Vũ Tuấn và Đoàn Sĩ Hiệp, đưa đến chỗ anh em thương binh đang được băng bó. Đến chiều có dân binh ở các làng bên đến chuyển thương binh về tuyến điều trị và chôn cất những người đã chết. Có tên lính Thát bị thương nặng, trông thấy người dân binh, nó nắm tay đưa lên miệng tu ra hiệu xin nước uống. Một anh dân binh cầm cây tre vót nhọn giơ lên định đâm. Tên lính Thát khiếp sợ nhắm mắt chờ chết. Một dân binh khác ngăn lại, nói:

- Đừng giết! Thằng này còn trẻ. Hãy tha cho nó.

Nói xong, anh dân binh rút ống nước đưa vào miệng cho tên lính Thát uống. Tên lính Thát uống một hơi, môi mấp máy như muốn cảm ơn rồi thở dài, nhắm mắt lại. Nó không bao giờ còn được nhìn thấy mầu xanh mênh mông của thảo nguyên nữa. Anh dân binh nói:

- Chắc mẹ nó ở nhà cũng mỏi mòn mong, khóc hết nước mắt đấy.

*

Thành Đại La ồn ã suốt mấy hôm nay. Người ta chôn giấu thóc lúa, mâm, chậu, nồi đồng, lư hương, chân đèn, bát đĩa. Đây đó lổng chổng những chiếc nồi đất vỡ, mảnh văng cả ra ngoài đường. Chị cả Thìn loay hoay xếp đồ đạc vào hai chiếc thúng đã đầy ự, vừa ngó nghiêng gọi con:

- Long ơi! Chạy bố nó đi đâu rồi không biết? Long ơi, về đi thôi không người ta đi hết cả rồi.

Chị nhìn ra sân sau, thấy cu Long tay cầm chiếc đòn gánh vung lên vừa múa võ vừa hô:

- Trung thiên đề đao trảm phản nghinh. Lôi phong tá tẩu quỷ thần kinh. Đề đầu tiền thụ lai quảng tiến. Trảm phạt trung bình mã thiên thanh... Mẹ ơi! Xem con múa bài Mai hoa thần kiếm đây này.

- Giời ơi! Võ mới vẽ gì như bọ chó múa bấc ấy. Về đi đi không các bác ấy đợi.

- ứ! Mẹ lại nói thế rồi. Hôm nào bố về lại dạy võ cho con. Con theo bố đi đánh Thát cơ.

- Muốn đánh Thát thì bây giờ phải đi nhanh lên đã.

- ứ! Con đánh thằng Thát một đòn lão ông thám thuỷ là nó lăn quay.

- ừ! ừ! Nó lăn quay , nó lăn quay. Đi đi!

Chị cả Thìn quảy gánh, dắt con ra đến hồ Lục Thuỷ, có người gọi:

- Này mẹ Thìn! Đưa thằng bé lại đây.

Chị Thìn nhìn lên, hoá ra là bà cụ Hải trong ngõ cùng với mọi người đã đứng cả bên bờ hồ. Chị tư Phúc gánh hai đứa con trong hai chiếc thúng, mỗi đứa ôm một đùm quần áo. Chị Thìn hỏi:

- Ơ! Nhà chị sao bảo có mấy anh lính ở Đông Bộ Đầu vào giúp cơ mà?

- Quan thái sư có cho lính đến giúp những nhà neo đơn chạy giặc nhưng tôi chỉ nhờ các anh ấy chôn hộ ít lương thực, đồ đạc thôi. Mình cố đi được thì tự đi để các anh ấy còn phải ra trận chứ.

Bà cụ Hải bảo:

- Cô nói phải đấy. Nước có giặc, mỗi người cố lên một tí, cứ đuổi được nó ra rồi muốn làm gì thì làm. Thời thái bình có ăn bát cháo cũng sướng.

Một người nói:

- Chẳng biết quan gia nhà ta nghĩ thế nào mà bỏ kinh thành cho giặc vào cơ chứ?

Chị tư Phúc bảo:

- Mấy anh lính nói chuyện, quân ta nhử cho giặc vào trọng địa rồi mới vây chặt. Giặc hết lương thực tất chết đói cả. Nghe đâu tướng quân Trần Khánh Dư đã lấy mất nửa lương thực của chúng rồi.

Một người nói:

- Đánh nhau mà hết lương thì chỉ có nước hàng.

Ông chủ hiệu thịt cầy bảo:

- Không phải! Quốc công tiết chế muốn nhử chúng vào sâu rồi mới chặn đứt phía sau, bao vây mà diệt. Phép đó gọi là nhử chó vào nhà đóng cửa đánh.

Mọi người cùng cười, nói:

- Đắc sách! Đắc sách.

*

Quan thái sư Trần Thủ Độ bận ở Đông Bộ Đầu nên việc lo cho hoàng gia trong thành Thăng Long và dân thành Đại La tạm lánh giặc phải nhờ Thiên Cực công chúa. Mấy hôm nay phu nhân lúc đi xuống các phố xóm xem dân chúng làm vườn không nhà trống đến đâu, lúc lại vào hoàng thành đôn đốc các gia đình vương hầu chuyển đi. Phủ thái sư bà giao cho đám gia nhân dọn về Thiên Trường. Suốt ngày hôm nay phải lăn lộn cùng các tướng, chỉ huy mấy nghìn lính vận chuyển nốt kho lương thực cuối cùng, từ sáng đến giờ bà mới chỉ kịp ăn một bữa qua loa lúc ban trưa. Đêm mười ba tháng chạp, người lính truyền tin phi ngựa như bay đến báo cho phu nhân biết tiền quân của giặc đã áp đến bến Bồ Đề, Thái sư lệnh cho phu nhân cùng những người còn lại phải ra khỏi thành ngay. Phu nhân khoác áo cùng mấy thị nữ lên lầu thành nhìn ra sông Nhị. Mưa bay mù mịt mặt sông, nơi đó trên bến Đông Bộ Đầu không biết thái sư đã dời đi chưa? Bà ngoảnh lại phía hoàng thành, Thăng Long chìm trong bụi mưa cùng những cơn gió lạnh từ phương Bắc tràn về. Trước lúc ra đi trong lòng vị phu nhân thống quốc thái sư rộn lên bao nỗi xốn xang lo lắng; ngày mai Thăng Long sẽ ra sao? Cung điện, dinh thự sẽ ra sao? Bao giờ quan gia cùng triều đình mới trở lại nơi này? Bà bước xuống lầu, một luồng cảm xúc dâng trào, rưng rưng nghèn nghẹn. Bỗng phu nhân ngẩng lên bước những bước dài, nói với người thị nữ:

- Ta đi thôi.

Cỗ xe song mã vượt màn mưa ra khỏi hoàng thành tiến về phía trang viên bên hồ Lục Thuỷ. Ông lão bộc mở cổng. Người xung quanh đã đi hết nhưng lão vẫn đợi Thiên Cực công chúa. Những ngày bận rộn thái sư và phu nhân ở trong phủ lo việc quân việc nước, hoặc về thái ấp trông nom việc canh điền, còn hầu hết thời gian ngài đến nghỉ ở đây, tự mình chăm sóc những cây cảnh quý và cây ăn quả hiếm lạ. Những hòn giả sơn đều do chính tay thái sư xếp đá tạo nên. Mấy trăm lồng chim, mỗi cái một kiểu cũng do lão bộc cùng thái sư vót nan làm lấy. Phu nhân thì trồng hoa, tỉa lá, chăm chút lũ chim non. Trang viên tuy nhỏ nhưng mấy năm nay thái sư và phu nhân đã dồn bao tâm sức làm cho nó trở nên đẹp đẽ, khó có khu vườn nào sánh kịp.

Từ hôm nhận được lệnh lánh đi, phu nhân không có thời gian đến đây. Bữa trước thái sư có ghé qua bảo mấy anh lính canh theo ngài giúp dân cất giấu tài sản rồi đi luôn. Thái sư dặn lão bộc ở lại cho chim ăn, khi nào phu nhân đến thì cùng đi. Phu nhân xem hết các phòng một lượt, lát sau quay lại bảo lão bộc:

- Lão mở tất cả cửa lồng thả hết chim ra.

Ông lão bộc đã hiểu, làm theo. Những con chim đang ngủ yên bị đuổi ra khỏi lồng, ngoài trời tối đen, vừa mưa vừa rét, chúng không biết bay đi đâu, cứ xáo xác gọi nhau tìm chỗ trú. Thiên Cực công chúa sai mấy thị nữ giúp lão bộc rút rơm khô đưa vào các phòng cùng nhà kho chứa thóc, châm lửa đốt. Trong phút chốc mấy dãy nhà cùng cháy lên. Ngọn lửa mỗi lúc một bốc cao át cả bụi mưa và gió lạnh. ánh lửa soi rõ từng nếp nhăn trên khuôn mặt già nua người lão bộc. Hai giọt nước mắt óng ánh như hai giọt sương lăn trên đôi gò má màu đất nâu của lão. Thiên Cực công chúa bảo:

- Đi thôi! Ngày mai ta còn nhiều việc lắm.

Cỗ xe xuyên màn đêm ra khỏi thành Đại La xuôi về phương Nam.

*

Bà Tô mấy hôm nay chốc chốc lại ngóng ra đầu làng, mong gặp cô em họ về để đựơc chuyện trò. Mới đấy mà đã mấy mươi năm, nhớ khi còn nhỏ, ba bốn chị em thường rủ nhau sang sông cắt cỏ, lúc đói lòng chia nhau từ quả sung chát đến múi khế chua. Lớn lên cô ấy theo vua Lý vào cung, trở thành hoàng hậu rồi lại thành Thiên Cực công chúa thái sư thống quốc phu nhân, nếm đủ vị cay đắng ngọt bùi ở chốn kinh thành, thi thoảng có việc giỗ chạp lễ tiết về được một lúc, chị em gặp nhau chưa nói câu gì đã vội vã đi rồi. Bà Tô còn đang thả hồn trong những kỉ niệm xa xưa thì bà Na hớt hải chạy sang bảo:

- Này chị Tô ơi! Cô Dung cô ấy về đêm qua rồi đấy.

Bà Tô hỏi:

- Thế cô ấy đâu?

- Tôi cũng đã gặp đâu. Bọn trẻ nó bảo cô ấy đang cùng các quan cho đám dân binh kiểm điểm gươm giáo ở ngoài kho để chuyển lên phía trên cho quan quân đánh giặc.

- Cái số cô ấy thế mà khổ, lúc nào cũng tất bật công kia việc nọ, chẳng bao giờ có được chút thư thả như chị em mình.

- ừ thì sắc tài làm khổ tấm thân thôi mà. Nhưng cũng chịu thật đấy, đàn bà như cô ấy thật là giỏi.

Hai bà bạn đang nói chuyện, Tô Đại Cơ say bét nhè ở đâu về , nói:

- Bu!

- Cái gì thế? Mày lại đi uống rượu rồi phải không? Thế này bao giờ ra được cái hồn người.

- Uống rượu thì làm sao mà không ra được hồn người? Chẳng qua là người ta cố ý vùi dập tài năng của tôi đấy chứ. Mẹ kiếp! Chúng nó sợ nhà mình phát lên thì chúng nó ra bã. Mà cái bố thái sư nhà mình cũng gà mờ thật. Mấy thằng không đọc nổi một cái văn tự mà bố ấy cũng cho làm ông lý ông chánh. Còn tôi học gần hết tam tự kinh, xin một chân câu đương cũng không được. Lại doạ chặt ngón chân cái, bố thằng nào chịu nổi.

Bà Tô bảo con:

- Mày nói thế mà nghe được ư? Cùng học với anh em, người ta đọc hết kinh nọ sách kia, mày có quyển tam tự kinh không xong còn nói gì nữa. Chỉ tài uống rượu thôi.

- Thế ông thái sư ông ấy có biết chữ nào đâu mà làm quan to thế? Lần này bu cứ bảo Thiên Cực công chúa, cô Dung ấy có muốn cho tôi cái chức câu đương, cứ lẳng lặng mà phong thẳng đi. Khỏi phải trình thái sư lôi thôi lắm. Chẳng gì tôi cũng là con dòng cháu giống.

- Thôi con ơi! Lần trước chưa phong đã suýt mất chân, lần này đến xin có khi mất mạng luôn đấy con ạ.

Đại Cơ nhăn nhó nói:

- Nhưng mà mấy đứa con gái nó cứ cười tôi, không chịu được.

Bà Na bảo:

- Thì chị cứ nói thử với cô Dung một tiếng xem sao.

Tối hôm ấy bà Tô đang dệt đũi, Thiên Cực công chúa Trần Thị Dung mặc áo dân thường đến chơi. Chị em gặp nhau cười cười nói nói. Bà Tô bảo:

- Rõ khổ! Sao ban ngày không vào chơi, tối tăm rét mướt thế này mới lần vào! Này! Nhai miếng trầu đi cho nó đỡ lạnh.

- Em về từ hôm qua nhưng đã đi được đến đâu, cứ tíu tít lên về công việc.

- Chết! Nghe nói quân Thát vào kinh rồi phải không? Liệu nó có đánh đến đây được không?

- Cái đấy chưa biết thế nào nhưng chị em mình cứ lo cho quân đội có cái ăn cái mặc, nhất định sẽ đánh thắng. à mà thằng cháu Cơ đi đâu rồi?

- Ôi! Khổ lắm cô ạ. Con cái nghĩ đến lại buồn lòng, suốt ngày lêu lổng, bây giờ vẫn còn ở ngoài quán rượu cũng chưa biết chừng. Từ ngày dân kinh thành lánh về đây, nó càng đua đòi lắm. Học thì lười mà chỉ mộng làm quan thôi.

Bà Dung bảo:

- Hay tại không được làm câu đương mà nó sinh ra như vậy.

- Không phải đâu cô ạ! Con tôi, tôi biết chứ, không được làm câu đương là phúc đấy. Thằng này làm quan thế nào cũng mang vạ vào thân mà khổ dân. Lúc nào cũng ra vẻ công tử phú gia, bây giờ không uống rượu ta nấu đâu. Thấy đám con cái các vương hầu ở kinh về uống rượu ngoại, nó cũng uống rượu ngoại. Toàn là rượu Hồi Hồi, Cao Ly, Bạch Man gì gì ấy, mấy lạng bạc một cốc, hôm nọ bán béng của tôi năm sào ruộng ở cánh đồng chùa rồi đấy.

Hai chị em đang nói chuyện thì Tô Đại Cơ từ ngoài chuệnh choạng bước vào, trông thấy bà Dung, y vội quỳ xuống chào theo kiểu một công tử gặp một mệnh phụ bề trên:

- Con xin kính chào công chúa ạ! Chúc công chúa thiên thiên tuế - Hắn quay sang bà Tô, nói - Bu!?

Bà Dung hỏi bà Tô:

- Cháu nó có việc gì thế chị?

- ối giời ơi! Nói làm gì cho nó đau ruột. Nó bảo cô có cho nó làm câu đương thì cứ lẳng lặng mà phong, đừng nói gì với chú ấy nữa. Thế có dở không? Việc nước việc dân mà cứ làm như đi ăn cỗ ấy.

Thiên Cực công chúa cười, nói:

- à ra vậy! Cháu muốn làm quan cũng đâu có khó, chỉ cần thoả mãn một trong hai điều sau thì không chỉ làm câu đương mà ngay đến chức huyện lệnh ta cũng lo cho được.

Tô Đại Cơ mừng quá nói hút cả hơi:

- Dạ dạ! Hai điều chứ hai mươi điều, hai trăm điều con cũng làm được ạ! Xin công chúa cứ dạy.

- Không cần nhiều đến thế. Ta chỉ cần cháu làm được một trong hai điều thôi. Một là phải có tài, hai là phải có công. Tài cháu không thuộc hết cuốn tam tự kinh. Bây giờ đang là thời loạn, cháu hãy ra lập công giúp nước lo gì không có công danh. Bằng lòng vậy không?

- Cháu bằng lòng ạ!

Thiên Cực công chúa nghiêm nét mặt nói:

- Tốt! Thị nữ đâu? Hãy ghi tên Tô Đại Cơ vào thập vận binh thứ chín, sáng mai cho chuyên chở vũ khí ra mặt trận.

Người thị nữ đứng bên cạnh dạ một tiếng, rút cuốn sổ ghi tên Tô Đại Cơ. Thiên Cực công chúa nhìn Tô Đại Cơ ra lệnh:

- Tô Đại Cơ! Từ hôm nay ngươi đã là người lính, phải tuân theo quân luật. Ta hẹn giờ Dần ngày mai ngươi phải có mặt trước trại lính để thừa hành công vụ. Trễ nải sẽ xử theo quân pháp. Ngươi còn nói gì không?

Tô Đại Cơ thấy thái độ của công chúa nghiêm như vậy, cũng chột dạ nhưng vì cái nhu cầu phải làm quan nó lớn qúa nên y vui vẻ nói:

- Dạ! Được công chúa nâng đỡ là phúc cho con lắm rồi, còn nói gì nữa ạ!

Vì Tô Đại Cơ say rượu lại lười quen nên sáng hôm sau mãi cuối giờ Mão mới thất thểu ra gặp Thiên Cực công chúa. Công chúa quát:

- Ta dặn ngươi giờ nào tới đây? Bây giờ là giờ nào rồi? Đội ngũ đã đi hết, ngươi định làm gì đây. Giám binh đâu? Binh lính không chấp hành giờ giấc, không theo kịp đội ngũ phải xử thế nào?

Viên giám binh bước ra thưa:

- Trình công chúa! Binh lính ngủ sớm dậy muộn, không chấp hành giờ giấc, trễ nải công việc, không theo đội ngũ, nhận lệnh không thi hành là lãn binh, phải chém.

Thiên Cực công chúa hô:

- Võ sĩ đâu? Lôi tên lính này ra chém cho ta.

Tô Đại Cơ gào lên:

- ối làng nước ơi! Công chúa toàn lừa tôi vào chỗ chết.

Thật là.

Nhờ chỗ quan ông, suýt mất cẳng còn đương tiếc

Cậy cửa quan bà, gần cụt cổ lại không thương.

Đan Thành

Đánh Đông Bộ Đầu, Quốc Tuấn thu toàn thắng

Chặn Quy Hóa giang, Hà Bổng lập đại công

Đang nói chuyện Tô Đại Cơ trái lệnh bị Thiên Cực công chúa thét võ sĩ lôi ra chém, hoảng quá hoá liều hét toáng lên rồi lại đập trán xuống thềm xin tha chết. Người thị nữ đứng cạnh thương tình nói với Thiên Cực công chúa:

- Anh này ngày đầu vào lính chưa được rèn luyện nên mới mắc tội lớn, mong công chúa ra ân cho lập công chuộc tội.

Mấy viên vệ uý cũng thương là tân binh nên cùng xin cho. Công chúa nói:

- Đã vào lính phải theo phép nhà binh, không được như ở nhà với mẹ. Nể lời mọi người ta tha cho tội chết nhưng phải đánh hai mươi roi để nhớ lấy, lần sau không được lười nhác.

Tô Đại Cơ mếu máo đập đầu lạy tạ nhận đòn. Thiên Cực công chúa cho xếp vào thập vận binh thứ mười lăm, chiều hôm ấy theo thuyền chuyển lương ra trận.

*

Cốt Đãi Ngột Lang dừng quân trên bến Bồ Đề một đêm, cho thám binh sang sông dò xem quân Đại Việt phòng thủ kinh thành thế nào. Gần trưa các đội thám binh về đều báo Thăng Long bỏ ngỏ, không có quân sĩ canh giữ. A Truật nói:

- Phụ thân để con mang quân sang trước, nếu gặp quân Nam sẽ đánh mở đường. Phụ thân cùng Đoàn tướng quân đem quân tiếp ứng.

Cốt Đãi Ngột Lang nói:

- Hôm trước Trần Quốc Tuấn đã dùng trận Điểu vân đánh ta, hôm nay lại bỏ trống thành trì. E có quỉ kế gì đây.

Hoài Đô nói:

- Tôi cho rằng quân Nam đã thiệt hại nặng, không đủ binh lực để giao tranh với ta nữa nên bỏ đi chứ không có mưu kế gì đâu. Xin nguyên soái cứ sang sông.

Cốt Đãi Ngột Lang bảo:

- Nếu vậy, các tướng nghe lệnh. A Truật, Hoài Đô mang ba nghìn quân sang trước, đánh chiếm bờ sông. Ta đem đại binh tiếp ứng. Bố Nhĩ Hải cho quân lương đi thứ ba. Đoàn Hưng Trí sang sau để giúp Bố Nhĩ Hải bảo vệ quân lương. Đội nào đến bờ gặp quân Nam phải đánh ngay.

Các tướng tuân lệnh lần lượt tiến binh, sẵn sàng tác chiến nhưng quân sang hết bên hữu ngạn vẫn chả thấy lính Đại Việt ở chỗ nào mà đánh. Đến chiều Cốt Đãi Ngột Lang đóng bản doanh trên bến Đông Bộ Đầu, vào nghỉ trong điện Phong Thuỷ, sai lính đi thám sát. Trời tối, lính thám sát về báo trong thành Đại La không một tiếng gà kêu chó cắn. Thăng Long không có lính giữ cửa. Cốt Đãi Ngột Lang sai A Truật tức tốc điểm năm nghìn binh vào thành. Hoài Đô, Đoàn Hưng Trí đem năm nghìn quân tiếp ứng, tự mình giữ một vạn quân làm ngoại viện. Bố Nhĩ Hải bảo vệ quân lương, quân dược đóng tại Đông Bộ Đầu. Sáng hôm sau quân tướng vào cả trong thành mà chẳng thấy dân chúng, triều đình Đại Việt đâu cả. Cốt Đãi Ngột Lang lệnh cho Bố Nhĩ Hải tải hết lương thực vào thành Thăng Long. Hoài Đô can:

- Quân ta tuy đã chiếm được thành nhưng không biết quân Nam ở đâu, nếu vào cả trong thành, quân Nam vây bốn mặt, quân ta khốn ngay. Lương thực còn không đáng bao nhiêu, làm sao giữ vững được. Xin thống tướng chia quân, đóng ở bên ngoài, chỉ để số ít trong thành, khi hữu sự còn ứng cứu cho nhau. Mặt khác, phải kiểm điểm kho tàng của quân Nam lấy thêm lương thực cho ta.

Cốt Đãi Ngột Lang nghe theo, giữ Hoài Đô cùng năm nghìn quân ở lại trong thành tìm lương thực. A Truật đem một vạn quân trở về Đông Bộ Đầu cùng Bố Nhĩ Hải. Đoàn Hưng Trí đem năm nghìn quân đóng ở Mi Động giữ phía Nam thành Đại La. Ba nơi tạo thành thế chân vạc ứng cứu cho nhau. Một nơi bị đánh, hai nơi đến cứu ứng.

Năm nghìn quân của Cốt Đãi Ngột Lang xục tìm suốt ngày chẳng được chút lương thực nào, khi vào đến nhà ngục chỉ thấy bọn sứ giả Ngạch Vu Tháp bị trói nằm khò khoeo ở đó, một tên đã chết từ đời nào, mới đưa ra gặp Cốt Đãi Ngột Lang. Ngột Lang thấy vậy uất quá nói:

- Phen này ta quyết bắt vua tôi nhà Trần mà băm vằm ra mới được.

Nói xong sai Nghạch Vu Tháp ra Đông Bộ Đầu lĩnh binh, ngày mai dẫn đường đuổi bắt vua Nam.

Hoài Đô nói:

- Quân ta nay còn không được ba vạn, lương thực dè xẻn chỉ đủ bốn năm ngày. Thống tướng mang quân đi, nhỡ quân Nam úp phía sau thì quân ta tan nát hết. Xin thống tướng hãy cứ ngưng binh, chỉ đánh các vùng lân cận để cướp lương, cướp người, bắt trai tráng bổ sung vào lính cho ta tăng quân số đã. Khi đã vững chân rồi, có thể lấy người Nam đánh người Nam, có phải quân ta đỡ đổ máu không. Nếu không, phải ngược lên phía Bắc sang đất Tống ngay.

Cốt Đãi Ngột Lang nói:

- Ta mà đem quân lên phía Bắc nhất định bị quân Nam đuổi theo. Vả lại đường lên phía Bắc có nhiều đồn ải không dễ vượt qua nhanh chóng được, như vậy lấy gì ăn mà đi. Trước hết hãy ở lại đây, cho quân nghỉ ngơi, tìm lương thảo bổ sung cái đã. Nếu biết vua Nam trốn ở đâu, ta sai sứ đến doạ cho chúng quy phục là hơn.

Hoài Đô nói:

- Việc dụ vua Nam qui thuận không phải là dễ. Xin thống tướng lo việc kiếm lương ngay.

Cốt Đãi Ngột Lang nói:

- Ta có bảy viên đại tướng, nay đã chết mất hai, A Nhĩ Hải bị thương chưa khỏi, còn bốn người chia ra lo giữ các nơi, biết dùng ai vào việc này bây giờ?

Hoài Đô thưa:

- Trong mười đại dũng sĩ, đã tử trận mất bảy viên, nay còn Nghạch Vu Tháp, Lâm Tằng Cơ, Đa Xích Nãn cũng đều là những người đã lập được công; sao thống tướng không dùng họ vào việc chỉ huy ba quân.

Cốt Đãi Ngột Lang nghe theo, phong Nghạch Vu Tháp, Lâm Tằng Cơ, Đa Xích Nãn làm tướng, sai đến Đông Bộ Đầu bảo A Truật chia cho mỗi người một nghìn quân ra các vùng phía Tây, phía Nam tìm lương và bắt người.

*

Trong khi Cốt Đãi Ngột Lang đang lúng túng tìm đối sách ở Thăng Long, Trần Thái Tông đóng đại bản doanh trên sông Thiên Mạc cùng Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn, Lê Tần ngày đêm bàn kế phá giặc. Hôm ấy là chiều ngày rằm tháng chạp, Thái Tông cùng mấy vệ sĩ đi thuyền nhỏ kiểm tra thuỷ trại, được tin Cốt Đãi Ngột Lang đã vào Thăng Long, nhà vua liền đến chỗ quân Tinh Cương do Trần Nhật Hiệu chỉ huy nhưng không thấy quân sĩ đâu cả, chỉ mỗi mình Nhật Hiệu ngồi trong thuyền. Nhà vua hỏi:

- Nay quân Thát đã vào Thăng Long, ngự đệ có kế gì phá giặc không?

Nhật Hiệu sợ hãi, không nói được, cũng không đứng lên nổi, lấy tay chấm vào nước viết lên mạn thuyền hai chữ nhập Tống, ý bảo nhà vua nên chạy vào đất Tống. Nhà vua bảo:

- Nhà Tống tự lo giữ lấy thân còn chẳng nổi, ta bỏ dân bỏ nước sang nhờ họ sao được. Quân Tinh Cương đâu cả?

Nhật Hiệu đáp:

- Không gọi được chúng đến.

Thái Tông lắc đầu bỏ đi. Thực ra không phải quân Tinh Cương không đến. Số là Thái Tông nhiều lần đem việc quân bàn với Trần Nhật Hiệu nhưng Nhật Hiệu toàn bàn chùn, nhà vua biết là người không làm nên việc, chỉ giao cho một toán quân nhỏ, chủ yếu để hầu hạ và bảo vệ Nhật Hiệu, nhưng người xã Tinh Cương biết Nhật Hiệu hèn nhát nên không theo mà ra nhập các đội quân khác để được đi đánh giặc.

Nhà vua lúc ấy dời thuyền Nhật Hiệu đến thuyền Trần Thủ Độ, có cả Trần Quốc Tuấn và Lê Tần ở đấy. Nhà vua kể lại lời Trần Nhật Hiệu. Mọi người cười ầm cả lên. Nhà vua bảo:

- Em ta còn sợ giặc như vậy, biết liệu thế nào?

Trần Thủ Độ nói:

- Đầu thần chưa rơi xuống đất, bệ hạ đừng lo gì khác.

Nhà vua hỏi:

- Các khanh đã trù hoạch mọi việc đến đâu rồi?

Trần Quốc Tuấn đứng ra tâu:

- Quân giặc vào thành Thăng Long không khác gì cá vào lưới. Ta vây chặt không cho chúng ra các làng mạc cướp phá, chỉ mấy ngày quân chúng hết lương tất có biến, lúc ấy thần sẽ có kế đánh tan bọn chúng.

Nhà vua nói:

- Phải lắm!

Hôm sau Trần Quốc Tuấn phân công lão tướng Bùi Khâm đem năm nghìn quân vây cánh Bắc, Hoài Đức vương Trần Bà Liệt lĩnh một vạn quân chặn suốt dải phía Tây. Đại tướng Trần Khuê Kình chỉ huy đại đội binh mã chặn mọi con đường xuống hướng Nam. Hẹn đêm hai ba tháng chạp táo quân lên chầu giời, gió Đông Bấc thổi mạnh, thấy lửa cháy ở Đông Bộ Đầu tất cả cùng tiến đánh. Các tướng lĩnh quân đi ngay. Quốc Tuấn lại gọi Trung Thành vương đến giao cho một trăm năm mươi thuyền nhẹ dặn cứ như thế như thế mà làm. Trung Thành vương lĩnh kế bước ra. Quốc Tuấn nói với Lê Tần:

- Phiền tướng quân trông coi cho đại đội binh thuyền, trong vòng mười ngày ắt phải dùng đến. Lúc ấy xin mời Quan gia cùng thái sư lên đài cao xem phá giặc.

*

A Truật cùng Bố Nhĩ Hải đóng quân trên bến Đông Bộ Đầu, ngày nào cũng bị binh thuyền quân Đại Việt tiến đánh nhưng khi đem quân ra nghênh địch, thuyền Đại Việt lại rút đi, ban đêm quân lính định ngủ, quân Việt đốt lửa hò reo tiến vào, đem binh ra, quân Việt đã đi đâu mất. Cứ như thế mấy ngày liền, quân Thát mất ăn mất ngủ sinh ra trễ nải việc canh phòng. Bọn Đa Xích Nãn, Lâm Tằng Cơ, Nghạch Vu Tháp không phá nổi vòng vây để đi tìm lương. Quân lính đào cả cây chuối, mò cá ốc ở hồ Lục Thuỷ lên ăn nhưng những thứ ấy cũng chẳng có nhiều nên ngựa bị thương hoặc ốm yếu phải đem ra làm thịt. Cốt Đãi Ngột Lang muốn điều quân của A Truật đi giúp bọn Nghạch Vu Tháp nhưng lại sợ mất Đông Bộ Đầu. Hoài Đô nói:

- Tình cảnh quân ta hiện nay muôn phần bi đát. Xin thống tướng hãy cử ngay sứ giả đến chỗ vua Nam, một là dụ chúng, hai là xem binh tình chúng thế nào. Nếu binh lực của chúng yếu, ta có thể dốc toàn lực đánh một trận mà diệt đi. Nếu quân lực của chúng mạnh mẽ, ta chiêu an cho chúng giảng hoà hoàn quốc. Như vậy ta có thể an toàn mang quân về nước hoặc sang Ngạc châu.

Cốt Đãi Ngột Lang đã chọn sứ giả nhưng còn dùng dằng chưa đi. Cánh quân bảo vệ phía Nam của Đoàn Hưng Trí hết sạch lương ăn, mò đi kiếm, bị dân binh Đại Việt đánh rát một trận, không dám thò đầu ra nữa. Ngày hai mươi tháng chạp, Trần Khuê Kình cho quân áp sát Mi Động, chia nhiều đội nhỏ, theo phép luân xa chiến thay nhau đêm nào cũng vào quấy phá nên quân Đoàn Hưng Trí vừa đói khổ, vừa lo chống cự không lúc nào được yên. Sau ba ngày căng thẳng không chịu nổi, Đoàn Hưng Trí dẫn quân chạy dồn cả về Đông Bộ Đầu làm tình hình trở lên rối loạn. Cốt Đãi Ngột Lang thấy vậy mới vội cho sứ đi thuyền nhỏ đến gặp quân Đại Việt. Trung Thành vương liền cho giải về Thiên Mạc gặp nhà vua. Lúc ấy Thái Tông đang họp bàn cùng Trần Thủ Độ và Trần Quốc Tuấn, thấy báo có sứ của Cốt Đãi Ngột Lang đến. Nhà vua hỏi:

- Có nên gặp sứ của chúng hay không?

Trần Quốc Tuấn nói:

- Quan gia cứ nên cho gặp xem ý tứ bọn chúng thế nào.

Nhà vua truyền cho sứ giả vào gặp. Hai sứ giả quân Thát thấy thuyền bè Đại Việt san sát liên tiếp mấy mươi dặm, hàng nào đội ấy rất tề chỉnh, có ý sợ nhưng vẫn nghênh ngang bước vào thuyền của nhà vua, không quì lạy mà chỉ cúi chào. Trần Quốc Tuấn quát:

- Quì xuống.

Sứ Thát vênh vang nói:

- Ta là sứ nước lớn không phải quì trước vua nước nhỏ.

Thái Tông nói:

- Các ngươi là đám quân ma đói mà vẫn còn hống hách thế ư? Võ sĩ đâu! Lôi hai tên này lên bờ chém cho ta.

Sứ Thát lúc ấy mới hoảng lên vội quì lạy xin tha mạng. Thái sư Trần Thủ Độ nói:

- Hai bên đang giao tranh cũng không nên chém sứ. Xin hoàng thượng tha tội chết cho chúng, xem chúng nói gì.

Thái Tông nói:

- Các ngươi đã biết tội thì ta tha chết cho, vậy có chuyện gì hãy nói đi.

Sứ Thát lắp bắp nói:

- Muôn tâu quốc vương! Thống tướng chúng tôi không muốn kéo dài việc chinh chiến nên muốn cùng quốc vương nghị hoà, xin hoàn quốc cho ngài. Hai bên bãi binh để quân sĩ đỡ hao tổn xương máu, chỉ xin quốc vương cho mượn đường lên phía Bắc thôi.

Thái Tông cười lớn nói:

- Thống tướng nhà ngươi nhân đức thế còn mang quân cố chết đến đây làm gì? Ai hoà với các ngươi mà nghị. Quân đâu! Lôi ra đánh mỗi tên hai mươi roi, trói đưa trả về, dạy cho Cốt Đãi Ngột Lang một bài học.

Chu Bác Lãm bảo hai sứ Thát:

- Đến nước này mà còn đòi nghị hoà, thống tướng nhà các ngươi hoá dại mất rồi.

Hai sứ Thát bị đánh đau quá, lại bị trói chặt vất nằm co quắp trong khoang thuyền, nhịn đói suốt cả ngày đưa về trả cho quân Thát ở Đông Bộ Đầu. A Truật cho cởi trói, dẫn vào Thăng Long gặp Cốt Đãi Ngột Lang. Sứ giả kể lại tình hình binh thế của Đại Việt rất lớn. Vua Đại Việt không chịu nghị hoà. Cốt Đãi Ngột Lang nghiến răng thét:

- Không nghị hoà ta cho chúng biết thế nào là chiến!

*

Trần Quốc Tuấn sau khi cho sứ Thát về, liền ra lệnh tiến binh. Đó là đêm hai mươi ba tháng chạp năm Nguyên Phong thứ bảy (Đinh Tỵ-28/01/1258). Lệnh cho lão tướng Bùi Khâm bỏ cửa phía Bắc không vây, đem quân lên phục trong cánh rừng phía Bắc hồ Dâm Đàm, khi nào giặc thua chạy về đấy đổ quân ra đánh. Lệnh cho Hoài Đức vương canh ba đem quân đánh vào cửa Tây thành. Đại tướng Trần Khuê Kình chia ba nghìn quân cũng canh ba đánh vào phía Nam Thăng Long, còn đại binh theo ven sông lên phục ở phía Nam Đông Bộ Đầu khi nào thấy phía Bắc đốt lửa xông vào đánh. Thuỷ binh do Lê Tần, Trung Thành vương, Chu Bác Lãm tiến lên Nhị hà ngăn không cho quân Thát vượt sông sang tả ngạn, canh ba đốt lửa từ phía bắc thuận theo chiều gió đánh xuống. Thái Tông cùng Quốc Tuấn đem quân thánh dực đến bến Triều Đông dựng đài cao bên bờ sông quan sát. Thái sư Trần Thủ Độ tiếp ứng phía sau.

*

Hôm ấy Cốt Đãi Ngột Lang cho lính ở Đông Bộ Đầu đặt lưới bắt cá chép cúng ông Công ông Táo mong phù hộ kiếm được quân lương để bếp lính lúc nào cũng đỏ lửa. Lính tráng bảo nhau tết nhất đến nơi rồi, chả kiếm được cái gì mà ăn, không khéo chết đói hết. Tất cả các ao hồ trong thành Đại La đều bị khoắng đi khoắng lại đục ngầu để tìm cá, ốc. Cây chuối, rau lang cũng cắt sạch, cái gì người không thể nuốt được thì cho ngựa, cho trâu. Tình cảnh thật muôn phần ngao ngán.

Hoài Đô lên lầu cao quan sát rồi xuống, nói:

- Tôi xem các cánh rừng bên tả ngạn yên tĩnh, không có khói bụi, chắc quân Nam không chặn ngả ấy. Ngày mai nguyên soái nên dồn quân đánh sang mới có thể tìm được đường về.

Cốt Đãi Ngột Lang nói:

- Ta nghĩ khác. Đã đem quân đến đây, thiệt hại mấy vạn nhân mã lẽ nào lại về không. Ngày mai ngươi ở lại giữ thành. Ta sẽ đem quân đi phá vây, đánh xuống hướng Tây Nam thế nào cũng tìm được lương thực.

Nói xong cho lính đến Đông Bộ Đầu bảo A Truật sáng hôm sau đem năm nghìn quân vào thành cùng đi phá vây. A Truật bảo Bố Nhĩ Hải:

- Ngày mai tôi theo nguyên soái đi kiếm lương thực, ông ở nhà phải cẩn thận, không cho binh thuyền quân Nam đến gần thuỷ trại của ta. Nếu chúng tấn công hãy đốt lửa to lên, tôi sẽ đem binh về cứu.

Bố Nhĩ Hải nói:

- Tướng quân cứ yên lòng mà đi, cốt sao mau chóng tìm được quân lương, nếu không lòng quân sinh biến mất.

Đêm ấy A Truật cho quân ngủ yên để sáng mai đi sớm. Canh ba lính gác vào báo có quân Nam từ hướng Bắc đốt lửa tiến vào. A Truật bảo:

- Kệ chúng, đêm nào mà chả thế, chỉ có vài tên quấy rối vậy thôi, đại quân của chúng ở phía Nam cơ.

Nói chưa dứt lời lại có quân vào báo quân Nam đã phá cổng Bắc tràn vào trại rồi. A Truật, Bố Nhĩ Hải vội vã ra xem, thấy lửa từ phía Bắc theo gió bốc lên cuồn cuộn sáng rực trời đất. Lửa cháy vào tàu ngựa, những con ngựa chiến rứt cương chạy bổ tứ tung, giẵm đạp lên quân sĩ. Nhiều con không chạy được, chết cháy khét lẹt. Lính Thát nhốn nháo chạy quàng chạy xiên như ong vỡ tổ, dạt cả về hướng Nam. Bỗng pháo nổ liên thanh, một đạo quân Đại Việt từ hướng Nam đánh vào. Thấp thoáng trong ánh lửa, quân Thát nhận ra tướng Việt đi đầu là Trần Khuê Kình, vội vã chạy té cả ra phía bờ sông. Bố Nhĩ Hải xông ra ngăn Trần Khuê Kình. Đánh nhau mới được bốn năm hiệp, Bố Nhĩ Hải không địch nổi, quất ngựa bỏ chạy. Khuê Kình thúc quân xốc vào đánh phá, chém giết quân Thát không biết bao nhiêu mà kể.

Thuỷ binh của Lê Tần, Trung Thành vương, Chu Bác Lãm giăng kín mặt sông, đánh vào thuỷ trại quân Thát, đốt hết thuyền bè rồi thúc quân đánh lên bờ. Quân Thát không biết chạy đường nào, giày xéo lên nhau mà chết. Bố Nhĩ Hải đang chỉ huy một đám lính mở đường máu đánh về phía Bắc, gặp ngay Lê Tần chặn lại. Hải luống cuống bị Lê Tần chém một nhát rơi đầu, quân sĩ chạy tan cả. Hai bên đánh nhau đến sáng. Hơn hai vạn quân Thát đóng ở Đông Bộ Đầu chết gần hết, chỉ có A Truật dẫn mấy trăm kị binh cố sống cố chết chạy lên phía hồ Dâm Đàm. Mấy nghìn quân của Đoàn Hưng Trí mới từ Mi Động rút về, đóng ở bên trong mở cửa trại chạy vào Thăng Long, bị quân Việt đuổi đánh, xác chết đầy đường. Đoàn Hưng Trí không dám ngoảnh lại, cắm đầu cắm cổ chạy, may thoát được.

Trong khi ở Đông Bộ Đầu đang xảy ra giao tranh, lính Thát trong thành Thăng Long vẫn ngủ yên, lại than thở kêu khổ vì đói, quá canh ba bỗng thấy phía Tây và phía Nam thành lửa bốc lên ngùn ngụt, trống đánh, pháo nổ, quân sĩ reo hò vang trời dậy đất xông vào. Phía Đông, ánh lửa từ Đông Bộ Đầu chiếu đến, sáng rực cả một vùng. Cốt Đãi Ngột Lang, Hoài Đô chạy ra, quân sĩ khắp nơi đã náo loạn cả, liền thét bọn Nghạch Vu Tháp, Lâm Tằng Cơ trấn an quân sĩ giữ thành, lát sau thấy bọn Đoàn Hưng Trí chạy về gọi mở cửa. Cốt Đãi Ngột Lang cho vào. Đoàn Hưng Trí quỳ khóc, nói:

- Nguyên soái ôi! Đông Bộ Đầu mất rồi, quân lính tan nát hết cả. Thành này cũng không thể giữ được đâu. Xin nguyên soái lo liệu sớm đi.

Cốt Đãi Ngột Lang cau mày, hỏi:

- A Truật, Bố Nhĩ Hải đâu?

- Bố Nhĩ Hải chết rồi. Công tử A Truật không biết chạy đi đâu.

Hoài Đô nói:

- Tình thế không thể ở lại được nữa. Nay chỉ có cửa Bắc không có quân vây, xin nguyên soái cho chạy ra phía ấy.

Cốt Đãi Ngột Lang hạ lệnh cho bọn Nghạch Vu Tháp, Đa Xích Nãn đem lính đi đốt phá cung điện dinh thự nhưng bọn này mải lo chạy nên chưa phá phách được nhiều. Cốt Đãi Ngột Lang cầm đại đao đi trước, dặn Hoài Đô cùng Lâm Tằng Cơ đi đoạn hậu, Đoàn Hưng Trí, Đa Xích Nãn, Nghạch Vu Tháp đi tả hữu. A Nhĩ Hải vết thương ở đầu chưa khỏi cũng nai nịt lên ngựa. Trời sáng rõ, quân Thát mở cửa Bắc chạy về hướng hồ Dâm Đàm định theo bờ sông mà đi.

Quân Đại Việt thấy quân Thát đã ra khỏi thành mới hò nhau đuổi đánh. Quân Thát cứ bặm môi chạy không dám quay lại, qua khỏi hồ Dâm Đàm có một con đường theo bờ sông ngược lên phía Bắc, một bên là rừng, một bên là bãi sông. Cốt Đãi Ngột Lang thúc quân đi cho nhanh bỗng một tướng Việt trong rừng xông ra cản đường, quát:

- Ta là Bùi Khâm đợi ở đây đã lâu. Tướng Thát không xuống hàng còn định chạy đi đâu.

Quân Thát bủn rủn cả chân tay, nhiều đứa ngã quỵ không đứng lên được. Cốt Đãi Ngột Lang lao vào đánh nhau với Bùi Khâm để mở đường. Đằng sau, Trần Khuê Kình đem quân khinh kỵ xốc tới. Phía Tây, Hoài Đức vương Trần Bà Liệt đánh áp vào. Dưới sông, thuỷ binh của Trung Thành vương hò reo đánh lên. Quân Thát bỏ đội ngũ, mạnh ai nấy chạy tứ tung. Cốt Đãi Ngột Lang thấy nguy đến nơi, không dám ham đánh, dẫn đám kỵ binh co giò chạy tháo thân. A Nhĩ Hải, Lâm Tằng Cơ bị vây không chạy được, đâm cổ tự tử. Hoài Đô, Đoàn Hưng Trí, Nghạch Vu Tháp, Đa Xích Nãn mỗi người chạy tán loạn một nơi. Quân sĩ bị chết rất nhiều, một số bị bắt hoặc buông vũ khí đầu hàng xin được sống. Hoài Đô chạy đến trưa tới bến Cổ Sở trên sông Đáy gặp Nghạch Vu Tháp dẫn một đội quân thất thểu đi tới. Tự nhiên con ngựa của Hoài Đô khuỵu chân không đi được nữa. Trong đám lính có đứa nói đây là điềm chẳng lành. Nghạch Vu Tháp bảo:

- Đã đến nông nỗi này còn có điềm gì xấu hơn được nữa, chẳng qua là nó đói quá không đi được. Chúng bay xẻ thịt ra nướng ăn cho đỡ đói, đưa con khác cho tướng quân đi.

Nghạch Vu Tháp quay về phía Hoài Đô, nói:

- ở đây có nhiều làng mạc, để quân lính ăn xong, ta hợp binh lại đánh vào kiếm lấy ít lương thảo cho quân sĩ mang đi ăn đường.

Hoài Đô bảo:

- Chính tôi cũng đang nghĩ như vậy.

Quân sĩ lấy kiếm xẻ thịt ngựa nướng nhếu nháo, dâng lên cho Hoài Đô và Nghạch Vu Tháp. Ai nấy nhai trệu trạo nuốt vội nuốt vàng lấy mấy miếng cho tỉnh lại. Hoài Đô kiểm điểm quân số thấy có gần năm trăm người mới hò hét xông vào làng cướp phá, không ngờ dân ở đây đã biết trước, đặt rất nhiều hầm chông, bẫy đá. Lính Thát thụt xuống không lên được, kêu khóc như ri, lại bị dân binh bắn tên nỏ, nhiều kẻ đeo tên mà chạy. Mấy làng bên cạnh đem cơm gạo ra nhử nhưng quân Thát sợ mắc bẫy không dám cướp, cứ cắm đầu chạy miết. Một cô dân binh bảo:

- Đang đói mà chê cơm. Có lẽ bọn này là giặc phật!

Từ đấy người Việt có từ giặc phật để mỉa mai chỉ đám tàn quân Mông Thát bại trận mải chạy không dám cướp phá.

Đám quân của Hoài Đô và Nghạch Vu Tháp chạy đến chiều, gặp bọn Cốt Đãi Ngột Lang ở gần ngã ba Bạch Hạc mới tựa vào rừng cây để nghỉ và bàn tính chuyện vượt sông. Đựơc một lúc Đoàn Hưng Trí cũng tìm đến. Ngột Lang nói:

- Người ngựa đã mệt mỏi lắm rồi, ta cho lính cụm lại trong cánh rừng này, xem còn cái gì ăn được thì ăn, lấy sức sáng mai vượt sông sớm.

Hoài Đô nói:

- Như thế thật là nguy hiểm, nhỡ quân Nam đuổi kịp, ta biết chạy vào đâu. Vùng này dân Nam cũng có thể bất ưng thành lính, chúng lợi dụng ban đêm tiến đánh, quân ta rệu rã chống sao nổi. Xin nguyên soái cho lính cứ năm người cử một người đi chăn ngựa, một người nấu ăn, còn ba người đi đẵn tre nứa đóng bè, cơm chín, ngựa no, quân sĩ ăn xong sang sông ngay. Về được bờ bên kia là sống rồi.

Đoàn Hưng Trí nói:

- Tướng quân Hoài Đô nói phải lắm.

Cốt Đãi Ngột Lang nghe theo, cho các đội y kế thi hành. Cuối canh hai đêm ấy bè mảng mới đóng xong mà ngựa lại nhiều con lăn ra chết. Cốt Đãi Ngột Lang lệnh cho lính giết hết những con ngựa đã yếu, lóc lấy thịt gói đem đi làm cái ăn, thành ra đến canh tư mới sang sông được. May! Thuỷ quân của Trung Thành vương ngược nước nên không đuổi kịp. Quân Thát sang sông gần hết, trời vừa sáng. Cốt Đãi Ngột Lang nói:

- Thôi thế là thoát rồi.

Bỗng đâu nổi lên một hồi tù và, trống thúc liên hồi, một đạo quân trong rừng kéo ra, tướng đi đầu là Trần Khánh Dư. Quân thát hồn bay phách lạc, bảo nhau:

- Gặp Trần Khánh Dư khó mà hòng trông thấy quê hương.

Trần Khánh Dư xốc tới, quát:

- Cốt Đãi Ngột Lang không lại hàng mau, còn muốn ta ra tay hay sao?

Nghạch Vu Tháp nói:

- Tôi còn có thể ra giao chiến được. Xin thống tướng yên lòng.

Nói xong quất ngựa xông ra. Trần Khánh Dư bảo:

- Các ngươi là một lũ ma đói không biết điều hàng mau còn thích đánh nhau đến thế ư ?

Nghạch Vu Tháp xông vào đánh mới được mấy hiệp, con ngựa không chịu được quị xuống, hất Nghạch Vu Tháp ngã quay ra đất. Khánh Dư chỉ ngọn giáo vào mặt bảo:

- Rõ cái đồ trẻ con, không đáng để ta giết.

Nói xong hô quân xông lên bắt Cốt Đãi Ngột Lang. Hoài Đô, Đoàn Hưng Trí liều chết cùng xông ra cản Trần Khánh Dư nhưng quân sĩ người ngựa mỏi mệt đánh không lại, Nghạch Vu Tháp bị ngựa xéo chết trong đám loạn quân. Đang lúc khốn quẫn thấy hậu quân của Trần Khánh Dư rối loạn. Hoá ra Đa Xích Nãn đã sang được sông từ trước, dẫn gần một nghìn quân đến cứu. Trần Khánh Dư rơi vào thế lưỡng đầu thọ địch vội cho quân lui cả vào rừng. Cốt Đãi Ngột Lang thừa cơ chạy miết về Quy Hoá. Khi chạy đã xa, Cốt Đãi Ngột Lang hỏi Đa Xích Nãn:

- Làm sao ngươi biết ta ở đây mà đến cứu?

Đa Xích Nãn thưa:

- Trình nguyên soái! Hôm qua lúc quân sĩ chạy tan nát, không biết thống tướng đi về hướng nào. Tôi thu thập được gần nghìn anh em đợi trời tối sang sông, nhổ sắn nhổ khoai ăn tạm, đêm ngủ trong rừng, bỗng dưng tôi thấy có người đến bên nói: " ngươi mau đến cứu thống tướng ở bến sông". Tôi nhìn kĩ hoá ra tiên phong Triệt Triệt Đô. Tôi hỏi : "Tiên phong sao vẫn còn ở đây? ". Ngài nói: " Ta đã thành quỉ, bị giam ở nơi này, không về được. Ngươi nói với thống tướng Đại Việt là đất địa linh, đừng bao giờ dại dột mà xâm phạm tới nữa ". Tiên phong nói xong chỉ cho tôi mấy người đứng cạnh đấy, bảo:"Các anh em này cũng bị giam hết cả rồi ". Tôi nhận ra mấy người ấy là Tín Thư Phúc, Bố Nhĩ Hải, A Nhĩ Hải và tám anh em dũng sĩ. Tất cả đều bị trói, có quân Nam áp giải không biết đi đâu. Tôi giật mình tỉnh dậy, dẫn quân ra bờ sông may cứu được nguyên soái.

Cốt Đãi Ngột Lang than:

- Triệt Triệt Đô thật là trung thành. Tiếc rằng ta một lúc nóng giận giết mất ông ấy.

Quân Thát chạy xa rồi, Trần Khánh Dư đem quân về xuôi. Mấy viên tỳ tướng hỏi:

- Sao tướng quân không đuổi đánh mà lại rút về?

Khánh Dư nói:

- Ta muốn đám tàn quân này làm mồi cho Hà Bổng ăn tết.

Lại nói A Truật từ khi đem mấy chục lính kị chạy trốn khỏi Đông Bộ Đầu, men theo bờ sông mà đi. Về đến Yên Khâu, dừng lại nghỉ, cho quân đi tìm măng, tìm củ rừng ăn tạm. Chiều hôm ấy Cốt Đãi Ngột Lang dẫn tàn quân chạy đến. Cha con gặp nhau tủi cực không biết nhường nào, khóc như mưa như gió. Hoài Đô nói:

- Xin thống tướng bớt bi thương. Nơi này vẫn trong đất giặc, nhỡ bị đánh úp thì nguy to.

Cốt Đãi Ngột Lang nói:

- Ta mang đi bảy viên đại tướng chết mất bốn, mười viên đại lực sĩ chết chín, gần năm vạn quân nay còn không nổi một vạn không đau lòng sao được. Cả đời chinh chiến chưa bao giờ cay đắng thế này.

Rừng già ban đêm như đứa trẻ đỏng đảnh, đầy những trò tinh nghịch oái oăm. Sau tấm màn đen bí mật ngập tràn tiếng i...i...on...on, ái ái...ừm ừm, quân Thát không biết thần chết vẫn lần theo từng bước, nhất cử nhất động không thoát khỏi những đôi mắt của thám binh Hà Bổng. Nửa đêm về sáng, trời lạnh thấu xương, quân Thát vừa đói vừa mệt, ngủ say như chết. Mấy tốp lính gác, áo quần tơi tả, đi lại dật dờ trong ánh đuốc như những hồn ma, không còn sót lại chút gì vẻ kiêu dũng của những chiến binh đồng cỏ đã từng làm sụp đổ bao nhiêu lâu đài thành quách dưới gầm giời.

Cuối canh tư, phía sau trại có tiếng pháo nổ, tiếng tù và nổi lên, tiếng trống đồng hoà với tiếng quân reo vang ầm rừng núi. Quân Thát nháo nhác gọi nhau:

- Quân Nam đánh đến, chạy thôi!

A Truật bảo:

- Cha chạy trước để con chặn hậu cho.

Cốt Đãi Ngột Lang, Hoài Đô cùng mấy nghìn binh lính người không kịp mặc giáp, ngựa không kịp đóng yên cứ trần trùi trụi mà chạy. Đến sáng Cốt Đãi Ngột Lang dừng lại thở hổn hển bảo:

- Chạy cũng xa rồi, đây gần ải Quy Hoá có lẽ quân Nam không đuổi nữa. Ta đi từ từ đợi A Truật.

Hoài Đô nói:

- Chỗ này đường hẹp, hai bên vách núi dựng như thành, thật là mạt địa. Thống tướng nên đi mau, quân Nam đặt bẫy đá thì quân ta chết hết.

Hoài Đô nói chưa dứt lời, trên đỉnh núi nổ một tiếng pháo, gỗ đá rơi xuống như mưa. Quân Thát tranh nhau chạy, chết hại vô số. Cốt Đãi Ngột Lang chạy đến gần ải Quy Hoá lại có một cánh quân dựng thành gỗ chặn mất đường, quân sĩ ùn cả lại, tên nỏ từ trong rừng bắn ra. Lính Thát mải chạy mất hết khiên mộc lẫn áo giáp, đứng làm mồi cho tên thuốc độc. Cốt Đãi Ngột Lang than:

- Thôi! Uy danh mấy mươi năm của ta chôn vùi ở đây mất rồi.

Nói xong rút gươm ra tự sát.

Thật là:

Biết trước đất Nam đầy linh khí

Thì đâu đến nỗi phải ngậm ngùi

Đan Thành

Nhà vua xét công thưởng tướng sĩ

Chiêu Thánh gạt lệ lên xe hoa

Đang nói Cốt Đãi Ngột Lang sa vào nơi mạt địa, không có đường tiến, chẳng có đất lui, trong cơn cùng quẫn định rút gươm tự sát. Đoàn Hưng Trí bước lên giữ lấy thanh gươm, nói:

- Thống tướng chớ vội lo, tôi có cách này may ra thoát - quay lại bảo đám binh lính - Đây đã gần đất ta rồi, đằng nào cũng khốn, không liều mà đánh, chịu chết hết cả hay sao?

Nói xong đem bọn quân Bắc Thoán lên đầu, dẫn Cốt Đãi Ngột Lang và Hoài Đô vượt núi chạy suốt hai hôm thoát được về bên kia biên giới. Binh lính theo sau bị quân của Hà Bổng bắn chết đầy rừng. Đám quân đoạn hậu chết gần hết, chỉ có A Truật cùng vài chục lính Bạch Man tắt rừng chạy thoát. Mấy ngày sau Cốt Đãi Ngột Lang về đến Mã Quan, kiểm điểm sĩ tốt còn không đầy năm nghìn người mà phần lớn đều bị thương cả, mới thề rằng:

- Đời ta không bao giờ trở lại đất phương Nam này nữa.

Về sau Cốt Đãi Ngột Lang làm đến tể tướng nhà Nguyên, đánh cướp nhiều nơi nhưng suốt gần ba mươi năm không dám đem quân sang Đại Việt. Mỗi lần Hốt Tất Liệt nói đến đánh Giao Chỉ, Cốt Đãi Ngột Lang đều lấy cớ trong nước còn chưa ổn định gàn đi.

*

Trong khi các cánh quân Đại Việt tiến đánh Đông Bộ Đầu, Trần Quốc Tuấn mời Thái tông lên đài cao ở bến Triều Đông quan sát mặt trận. Khi thấy kinh thành bốc cháy, quân Thát bỏ chạy, Thái tông liền truyền khẩu dụ cho thái sư Trần Thủ Độ đem quân vào thành dập lửa, cứu các cung điện, lầu gác, chữa cháy giúp dân. Ngay chiều hôm ấy nhà vua đem trăm quan về Thăng Long lo việc sửa sang cung thất. Mấy trăm thợ giỏi được triệu đến cùng quan binh làm gấp ngày đêm để kịp đón tết.

Ngày hôm sau dân thành Đại La bồng bế nhau về, tiếng cười tiếng nói tíu tít khắp phường to ngõ nhỏ. Thóc lúa, của cải đào lên, đâu đâu cũng rộn rã chuẩn bị đón xuân. Chị cả Thìn đặt gánh xuống sân, bảo cu Long:

- Chạy bố chúng nó hết rồi con ạ. Từ nay mẹ con mình lại được ở nhà. Mai mẹ mua cá nấu bún cho con ăn.

Cu Long hỏi:

- Giặc chạy hết sao bố chưa về hả mẹ.

- Con ngoan đi, vài ngày nữa tết thế nào bố cũng về.

- A! Tết bố về, lại dạy con tập võ.

Bên kia bờ rào, bà cụ Hải bảo cô con út:

- Con xem gạo, đỗ đã đủ chưa. Tết này anh mày nó về, làm nhiều nhiều bánh chưng một chút. Thằng ấy là chúa ăn của nếp.

Chị tư Phúc lấy cái nơm úp con gà trống hoa, bảo hai đứa con:

- úp con gà vào đây, vài hôm nữa bố về làm thịt cúng giao thừa.

Vừa nói, chị vừa nhìn ra cổng, biết đâu nhỡ anh về! Tự nhiên má chị đỏ lên. Tuy đã hai con nhưng chị còn trẻ và đẹp, một vẻ đẹp tự nhiên hơi hớ hênh, dư tràn sức sống và sự khát khao ham muốn rất người. Ngoài đường có tiếng chào hỏi xôn xao. Ai đó nói:

- Gớm! Trên Nhật Tân năm nay hoa đẹp ơi là đẹp!

Những ngày giáp tết, trời ấm dần lên. Tiết xuân như thổi vào cỏ cây vạn vật một luồng sinh khí. Hôm nay là mùng một tết, khắp các ngả đường dẫn vào hoàng cung rực rỡ vô số những ngọn minh đăng nối tiếp nhau đủ các màu. Từ canh năm, anh lính tốt Thân Văn Khoai đã trở về nơi gác cũ bên cổng hoàng thành. Cạnh đấy có gốc đào già cháy dở trồi lên mấy chiếc mầm rất mập với vài cái nụ nhỏ xíu xinh xinh. Những hạt mưa li ti nhảy múa tung tăng, tranh nhau hôn lên mấy nụ đào be bé. Chân cổng phía bên kia không phải là Thái Công Bình, người lính tinh nhanh ấy nằm lại trên chiến trường Bình Lệ, anh đã hoà đời mình vào những giọt mưa xuân làm xanh tươi lá cành của quê hương xứ sở, thay vào đó là anh lính tốt Nguyễn Văn Lai mới được tuyển từ đội lính của phủ Thiên Trường lên. Trong trận Đông Bộ Đầu, Nguyễn Văn Lai có công giết được ba lính Thát, dường như đứng lâu anh ta không chịu nổi, cứ ngọ ngà ngọ ngoạy có vẻ khó chịu lắm, lúc sau quay sang hỏi Văn Khoai.

- Ngày nào cũng phải đứng gác thế này hả anh?

- Là lính giữ hoàng thành chỉ có đứng gác chứ làm gì nữa.

- Ôi! Thế thì chán quá. Tính tôi thích bơi lội chạy nhảy, bây giờ đứng như tượng suốt ngày chịu sao nổi anh ơi, giờ giấc nghiêm ngặt không cựa vào đâu được, hơi tí là bị phạt ngay. Thế mới biết người ta bảo gần lửa rát mặt, biết vậy cứ ở đội thuyền cho xong.

Văn Khoai cười bảo:

- Nhưng về đây đã được ăn ngon, mặc đẹp, lâu dần sẽ quen. Cậu không thấy làm lính hoàng cung là danh giá à? Khối người mơ chẳng được đấy.

- Danh giá thì có nhưng bó buộc lắm. Chả trách con chim trong lồng ăn uống đầy đủ ngon lành thế nhưng hở cửa là bay đi, chẳng cần ngoảnh cổ nhìn lại. Giặc chạy hết rồi, có lẽ ăn tết xong tôi xin về quê cày ruộng giúp thầy tôi. Binh đâu phải là nghiệp hả anh.

Hai anh em đang nói chuyện, từ điện Kính Thiên nổi lên một hồi trống dài, tiếp theo là tiếng pháo nổ. Cả hoàng cung như được nâng lên trong tiếng pháo. Trời sáng dần ra, đằng Đông rực lên màu hồng phơn phớt của ánh tảo minh, bóng đêm và mưa bụi lùi về phía cuối trời. Tiếng pháo ran lên trên các phố La thành rồi lan ra khắp nơi trong Đại La thành

Trăm quan đã tề tựu trước sân điện Kính Thiên. Đúng giờ Mão, nhà vua mặt rồng tươi tốt bước lên điện. Triều thần quì lạy tung hô vạn tuế. Thái tông giơ tay vẫy, miễn lễ cho mọi người. Ngài nói:

- Ơn nhờ linh khí giang sơn, hồng phúc của tổ tiên cùng sự chung sức đồng lòng của muôn dân trăm họ, đã đánh đuổi được giặc Thát ra khỏi biên thuỳ. Nhân dịp tân xuân, trẫm có lời chúc trăm quan cùng bách tính người người an khang, nhà nhà thịnh vượng, đặng làm cho Đại Việt ta thành một nước phú cường.

Nhà vua vừa dứt lời, từ quan đến lính cùng tung hô:

- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế.

Hoàng thành vang ầm trong nhịp trống, tiếng người. Dân Đại La nhất loạt hô theo:

- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế...

Tiếng hô lan qua bãi ngô, theo dòng Nhị hà mang niềm phấn khích đến tận ngõ nghách của các xóm làng. Đợi cho bầu không khí lắng lại, nhà vua nói tiếp:

- Trẫm xin tỏ lòng tri ân tới các gia đình quan lại, sĩ phu, tướng lĩnh, binh lính cùng muôn dân có người thân đã anh dũng xả thân trong cuộc chiến vừa qua vì sự trường tồn của giang sơn xã tắc. Sự cống hiến đó thật là lớn lao, dẫu đem núi Yên Tử mà so cũng không thể nào sánh được.

Giọng nhà vua nghẹn lại, người xúc động nghĩ đến các chiến binh đã vì núi sông, vì người mà ngã xuống. Các triều thần cùng tướng lĩnh, binh sĩ cũng im lặng, một sự im lặng thành kính trang nghiêm trong đau thương mất mát. Bầu không khí như chìm hẳn xuống. Giây lâu nhà vua mới nói tiếp:

- Cho dù tổn thất đó thật lớn lao nhưng người Đại Việt đã chiến thắng vinh quang. Trẫm mong các khanh, tất cả thần dân Đại Việt của trẫm hãy cùng trẫm chung sức chung lòng xây dựng lại cơ đồ, làm oai linh dòng giống Lạc Hồng ngày càng rạng tỏ.

Nhà vua vừa ngừng lời, trăm quan cùng binh lính lại đồng thanh tung hô :

- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế!

Nhà vua tiếp:

- Có được chiến thắng đó là nhờ các khanh từ quan lại đến nông phu đã cùng trẫm lo mối lo của xã tắc, gánh gánh nặng của giang sơn, thật đáng khen lắm lắm. Ai cũng có công, ai cũng đáng thưởng, người đầu tiên phải kể đến là Thiên Cực công chúa Trần Thị Dung.

Viên quan thị độc hô to:

- Thiên Cực công chúa Trần Thị Dung lĩnh chỉ.

Bà Dung quì trước sân rồng. Nhà vua nói:

- Trong khi trẫm cùng triều thần đem quân chống giặc ở ngoài, Thiên Cực công chúa đã lo cho hoàng tộc và trăm họ lánh về Thiên Trường, không để quân Thát bắt người cướp của, đó là công lớn thứ nhất. Khi tạm lánh ở Hoàng giang khanh đã giữ gìn hoàng thái tử, các cung phi, các công chúa cùng vợ con tướng lĩnh có được cuộc sống bình ổn không bị giặc cướp, vì thế hậu phương ta yên định, đó là công lớn thứ hai. Trong khi ta đang cần quân dụng để đánh giặc, khanh đã chiêu mộ dân binh, quyên góp đồ binh bị gửi ra mặt trận, đó là công lớn thứ ba. Đàn bà làm được như thế thật chẳng hổ danh con cháu Trưng vương. Do những công lao to lớn đó, trẫm phong khanh danh hiệu Linh Từ quốc mẫu; xe kiệu, mũ áo, quân hầu đều ngang với hoàng hậu.

Linh Từ bái lạy tạ ơn lĩnh chỉ. Ai cũng bảo:

- Thật là xứng đáng.

Viên thị độc gọi:

- Tướng Trần Khánh Dư lĩnh chỉ.

Trần Khánh Dư bước ra qùi trước sân rồng. Nhà vua phán:

- Trần Khánh Dư tuổi trẻ mà anh dũng mưu cơ, thừa lúc quân giặc sơ hở, đánh úp cướp được nhiều lương thảo làm cho quân Thát sớm lâm vào tình cảnh khốn đốn. Công ấy không phải nhỏ. Trẫm phong cho tước hầu.

Trần Khánh Dư bái tạ nhận chỉ đứng dậy. Thái tông nói tiếp:

- Trẫm muốn nhận khanh làm thiên tử nghĩa nam. ý khanh thế nào?

Khánh Dư vội quì lạy tạ ơn rằng:

- Đội ơn hoàng thượng ưu ái. Nhi thần thật cảm kích, đâu dám không tuân.

Từ đấy Trần Khánh Dư được đối xử như một hoàng tử. Quan thị độc hô tiếp:

- Quan đại phu Lê Tần nhận chỉ.

Lê Tần quì lạy. Thái tông phán:

- Lê Phụ Trần đánh giặc có công, nguy nan không rối trí, mưu lược anh hùng, biết lấy nhàn chờ đánh nhọc. "Trẫm không có khanh thì đâu có ngày nay. Khanh hãy cố gắng để cùng được trọn vẹn về sau". Nay trẫm phong khanh làm ngự sử đại phu, tước Bảo Văn hầu, cho kết duyên cùng công chúa Chiêu Thánh. Hẹn ngày nguyên tiêu mở hội thành hôn.

Lê Tần cùng các quan ngơ ngác không hiểu nhà vua nói gì nhưng cũng không ai dám hỏi. Thái tông tiếp lời:

- Có những người được phong khen, hôm nay vắng mặt ở đây, bộ lễ có trách nhiệm chuyển sắc chỉ của trẫm đến bản thân hoặc gia đình họ. Đó là Hà Bổng chủ trại Quy Hoá có công tập kích đánh tan tàn quân giặc. Hôm nay là ngày tết, dân ta được yên vui nhưng ông ấy vẫn còn đuổi quân Thát ở miền biên giới. Công lớn ấy thật đáng ghi cho muôn đời mai hậu noi theo. Trẫm phong cho tước hầu, cử làm tướng trông coi động Quy Hoá. Đó là Phùng Lộc Hộ, đánh giặc từ khi chúng mới vừa đặt chân tới Bạch Hạc, không cho chúng bắt người cướp của, bảo vệ được bách tính, chẳng may lâm trận tử vong. Trẫm truy phong là Lân Hồ Đô Thống đại vương, xây miếu thờ ở quê làng Đồng Bảng, huyện Tùng Thiện. Trẫm lại ban tám chữ lớn " nam thiên tráng khí, Bắc khấu hàn tâm", khắc vào bức hoành đặt thờ trong miếu. Những người mệnh vong trong lúc cùng đánh giặc được phối hưởng, quanh năm khói hương thờ phụng. Đó là bảy anh em họ Lỗ, đứng đầu là Lỗ Định Sơn ở Tam Dương, toàn gia địch chiến, đánh giặc cả khi chúng đến lẫn lúc chúng rút chạy, gây cho quân Thát nhiều tổn thất. Cùng rất nhiều tướng sĩ có công, sau này sẽ được lần lượt ban thưởng. Những gia đình binh lính trận vong, thương tật được cấp tiền bạc. Những người tham gia đánh giặc đều được ban thưởng, cho về thăm nhà. Tuyên bố đại xá thiên hạ, chỉ riêng những kẻ hàng giặc thì không được tha.

Nhà vua vừa dứt lời, tiếng tung tung hô vạn tuế ầm vang như sóng dậy khắp trong ngoài kinh thành. Tan buổi triều, người ta ôm nhau mà khóc mà cười. Ai nấy hoan hỉ bảo rằng:

- Vua ta thật là đấng minh quân.

Cái tết này không ai sung sướng hơn chị cả Thìn. Đúng tối giao thừa, anh cả Thìn về đến nhà, vừa đặt khăn gói xuống đã ôm lấy cu Long hôn lấy hôn để. Chị cả Thìn bảo chồng:

- Em đã đun nước nóng, nhà đi tắm đi. Thay áo thay khố ra để em giặt rồi vào ăn cơm.

Anh cả Thìn âu yếm nhìn vợ. Đêm ấy hai người trò chuyện, nói sao hết tình ái ân của đôi vợ chồng lâu ngày mới được gặp nhau. Chị sờ lên mặt anh, bảo:

- Mình đen quá, mà chân tay cứng như gỗ lim vậy.

- Không thế thì sao đánh được giặc.

- à! Em chưa hỏi. Chú Sơn con bà Hải mấy chú tư Phúc có về không?

Anh cả Thìn không trả lời, chỉ buông một tiếng thở dài. Dưới ánh sáng lờ mờ của đĩa đèn dầu lạc, chị thấy anh nhìn trân trân vào một điểm nào đó trong khoảng tối trên mái nhà. Chị lay người anh, hỏi:

- Hay có chuyện gì rồi hả thày em.

Anh cả Thìn như tỉnh lại, nói:

- à à! Không có gì! Mai anh sang bên ấy chúc tết. Các chú ấy chưa về được. Khuya rồi, ngủ đi.

Chị cả Thìn thấy anh nói vậy, không dám hỏi nữa, kéo chăn đắp cho con rồi ôm lấy tấm ngực lực lưỡng của chồng, nằm yên. Anh Thìn trằn trọc không ngủ, đầu óc căng căng. Ngày mai gặp mọi người, nói chuyện thế nào, dịp đầu xuân anh không thể là con chim mang về tin dữ.

Sáng mùng một, chị cả Thìn dậy sớm, lẳng lặng làm thịt gà sắp mâm cỗ cúng, chị không muốn đánh thức anh, sợ anh mệt. May thay, sáng ra ai nấy đều hướng về những tấm cáo thị dán khắp nơi trong thành, người ta còn mải kéo nhau đi xem đốt pháo và tung hô vạn tuế. Những nhà có người thân chưa về lại càng hăng hái đi để nghe tin tức con em nên dù anh cả Thìn có không đến chúc tết cũng không ai trách cứ. Buổi chiều, nỗi mong chờ hi vọng đã biến dần thành đám mây u ám ngày càng nặng trĩu treo lơ lửng trên những mái nhà có người đi lính chưa về. Họ tìm đến những người trở về từ mặt trận để hỏi thăm. Gần tối, chị tư Phúc rủ bà cụ Hải sang chơi chúc tết nhà anh cả Thìn. Chị cả Thìn đon đả ra chào khách. Cụ Hải vui vẻ nói:

- Năm mới sang mừng tuổi anh chị năm nay giầu bằng ba bằng bốn năm ngoái. Bố cháu về đâu rồi, xem có khoẻ không nào.

Anh Thìn trong nhà chạy ra:

- Cháu chào bà, chào cô Phúc. Mời bà, mời cô vào trong nhà xơi nước. Cháu chúc bà năm nay khoẻ bằng ba bằng bốn năm ngoái, chúc cô Phúc ăn gia làm nên bằng ba bằng bốn năm ngoái.

Những lời chúc tụng như một công thức đã cũ nhưng không thể thay đổi. Bà cụ Hải thắp mấy nén nhang cắm lên ban thờ. Chị tư Phúc thở dài, nói:

- Không hiểu nhà em thế nào mà hôm nay chưa được về. Bác có gặp nhà em không?

Anh cả Thìn bảo:

- Cứ vui vẻ cho con ăn tết đi đã, lính tráng trận mạc biết đâu mà đợi. Chắc cũng chỉ mấy ngày nữa...

Cả Thìn dừng giữa câu nhưng anh cảm thấy hài lòng vì đã nói được tự nhiên và rành rẽ đến thế. Bà cụ Hải cũng họa vào:

- Phải đấy! Cứ vui vẻ ăn tết cái đã, biết thế nào mà đợi.

Chị tư Phúc bảo:

- Tết nhất, nhà người ta vui vẻ; nhà con, chòng chọc ba mẹ con, chán chả muốn ăn uống gì bà ạ.

Bà cụ Hải bảo:

- Thằng Sơn nhà tôi cũng chả có tin tức gì - Bà quay đi, lấy khăn chấm lên mắt, đổi giọng, nói tiếp - Nhưng thôi! Biết thế nào mà lo, mà có lo cũng chả được việc gì, cứ đợi ít ngày nữa thế nào rồi cũng lần lượt được về.

Chị tư Phúc bảo:

- Thôi! Năm sớm sang mừng tuổi hai bác. Bà con mình về đi. Biết đâu nhà con mấy chú Sơn chả ở nhà rồi.

Hai người ra về, đường phố đã tối, rẽ vào ngõ, chỉ có cây duối già đứng đợi trong mưa bụi.

*

Từ tối hôm qua, các chùa trong thành Đại La như hấp thu được nhịp thở của mùa xuân, tất cả cùng sống dậy. Chùa Bảo Quang đông nghịt người đến lễ. Tiếng chuông ngân như xoa dịu nỗi đau nhân thế và mở lối cho muôn vạn linh hồn thoát khỏi đường mê. Khói hương nghi ngút bay ra ngoài tam bảo, trùm lên những cây đại già trầm mặc suy tư. Chiêu Thánh từ hôm lánh giặc trở về, chưa ra khỏi tam quan. Nàng cùng tăng ni thu dọn gạch ngói vỡ, dựng lại những bức tượng đổ, chiều chiều thắp hương trong bảo tháp nơi cất giữ di cốt phụ hoàng. Từ khi thái sư Trần Thủ Độ và mẹ nàng đón chị Thuận Thiên vào cung, nàng dọn ra ở hẳn chùa này thấm thoắt đã hai mươi năm, chỉ có một mình A Nhi đi theo bầu bạn sớm chiều. Mấy năm trước, Chiêu Thánh định gả A Nhi cho một anh lính tứ sương nhưng A Nhi không chịu, nguyện ở vậy hầu hạ Chiêu Thánh đến trọn đời. Dễ có đến hơn mười năm Thái tông Trần Cảnh không gặp lại Chiêu Thánh. Chị Thuận Thiên bây giờ đã thành người thiên cổ nhưng ngọn lửa yêu thương trong lòng Chiêu Thánh đối với hoàng thượng đã tắt từ lâu. Thời gian đầu đôi lần hoàng thượng đến thăm nhưng nàng lánh mặt, lâu sau hoàng thượng không tới nữa. Chiêu Thánh yên trí rằng hình ảnh của nàng cũng đã phai mờ trong trí nhớ quân vương. Nàng có thể dùng quãng đời còn lại toàn tâm lo việc thờ phụng người cha đáng thương và xấu số của mình. Tuy không chính thức xuống tóc nhưng trái tim nàng đã ưu du cõi tam muội từ lâu. Có lẽ vì vậy mà tâm hồn nàng trở nên thảnh thơi thư thái, những vết thương nơi cõi lòng theo tháng năm dần kín miệng. Tết năm nay, giặc Thát bị đánh tan, trăm họ nao nức vui cười, Chiêu Thánh cũng như thấy mình trẻ lại, nàng lao vào công việc hàn gắn thương tích trên mặt đất, không biết điều đó cũng làm cho khuôn mặt nàng bớt đi dấu vết bi thương. Mặt đất, mặt người sắc xuân đang trở lại. Ai biết trong lòng vị công chúa bốn mươi tuổi đời đang nghĩ những gì. Hôm nay là mùng một tết, mùa xuân tô lên những cành bưởi, cành hồng một màu xanh mới. Chiêu Thánh mặc áo đại lễ đang đứng đốt giấy tiền trước bảo tháp Huệ Quang, A Nhi từ ngoài chạy về kéo nàng vào trong phòng, nói nhỏ:

- Có tin này không biết có nên nói để công chúa biết hay không!

- ồ! A Nhi, em làm sao vậy? Có chuyện gì mà phải ngập ngừng. Năm mới như vậy là không may mắn rồi.

- Công chúa ơi! Chuyện này chưa biết là may hay không đây - ghé sát vào tai Chiêu Thánh - Hoàng thượng nói gả công chúa cho Bảo Văn hầu Lê Tần.

Chiêu Thánh lãnh đạm nói:

- Hoàng thượng gả ai cho ai có việc gì đến ta.

A Nhi ngơ ngác:

- Ơ! Nhưng gả chính công chúa cơ mà.

- Ô kìa! Năm mới mà sao A Nhi lẩn thẩn thế? Chính công chúa hay phụ công chúa cũng đã sao?

A Nhi lắc đầu quầy quậy hỏi:

- Thế công chúa đồng ý lấy Lê hầu hay sao.

- Công chúa nào? Sao lại hỏi ta?

- Chính công chúa Chiêu Thánh chứ còn công chúa nào nữa!

Chiêu Thánh dường như đã hiểu ra, trợn mắt hỏi:

- Ta? Chính ta? Gả ta cho Lê Tần? Em làm sao thế, có ốm không mà nói bậy bạ vậy?

Chiêu Thánh vừa nói vừa sờ tay lê đầu A Nhi. A Nhi thanh minh:

- Em không có nói bậy bạ. Dân khắp thành Đại La đều biết vậy. Đâu đâu người ta cũng kháo nhau nguyên tiêu này ăn mừng công chúa Chiêu Thánh thành thân với tướng quân Lê Tần. Có lẽ chỉ chốc nữa Linh Từ quốc mẫu sẽ đến đây.

Chiêu Thánh lặng im giây lâu mới nói:

- Dù sao ta vẫn còn là vợ của hoàng thượng, có lẽ nào lại như thế.

Chiêu Thánh đang nghi hoặc, ngoài cổng chùa có tiếng ồn ào. Ai đó nói:

- Linh Từ quốc mẫu giá lâm.

Lời nói của A Nhi đã được xác nhận. Chiêu Thánh bưng mặt khóc:

- Ôi thân ta sao quá gian truân! Trời ơi! Nhà vua sao có thể làm những chuyện thương phong bại tục như vậy được. Mà cũng đúng thôi, anh chị em lấy nhau không kể luân thường, vua cướp vợ thần, em cướp vợ anh chẳng kiêng đạo lý, đã dám cướp vợ người thì cũng có thể đem vợ mình ra làm phần thưởng cho kẻ khác lắm chứ. Không việc hủ bại nào không xảy ra ở chốn cung đình.

*

Lê Tần từ lúc ở triều về, ngồi đứng không yên, không hiểu sao hoàng thượng lại ban cho cái ân trạch oái oăm như vậy, chưa biết nên xử trí thế nào bỗng gia nhân vào báo có quan trung minh tự Lưu Miễn đến thăm. Lưu Miễn vốn xuất thân khoa bảng, cùng Vương Giát đỗ đầu trong khoa thi thái học sinh năm Thiên ứng Chính Bình thứ tám (Kỷ Hợi-1239), được phong tước minh tự bổ làm an phủ sứ lộ Thanh Hoá, lúc ấy đang có việc ở kinh thành. Miễn học sâu biết rộng lại thích giao du hào kiệt, được Lê Tần quý trọng, hai người thường qua lại với nhau, tình bạn bè rất là tương đắc. Hôm ấy ngày đầu năm, biết chuyện của Lê Tần, Miễn đến mừng. Lê Tần vội mời vào. Miễn nói:

- Nhân tiết tân xuân, tôi xin có lời mừng Lê huynh đắc sự công danh, lại yên bề gia thất.

Lê Tần nói:

- Chính vì cái sự yên bề gia thất ấy mà tôi đang sầu khổ muôn phần chứ có gì đáng mừng đâu!

- Hà cớ chi mà Lê huynh phải sầu khổ?

- Từ khi phu nhân của tôi lâm trọng bệnh về với tổ tiên, đã hơn hai mươi năm chưa khi nào tôi vương nghĩ tới chuỵên tục huyền, nguyện ở vậy một đời làm kẻ trung tình. Nay hoàng thượng ban cho cái sự lạ này, một là lỗi đạo quân thần, hai là không còn thủ tiết được với người vợ quá cố, ba là họ Lê nhà tôi đã có lời nguyền bất cộng đới thiên cùng họ Lý, tôi đâu dám chung thân với công chúa họ Lý bao giờ, vì thế mà trong lòng sầu muộn.

Lưu Miễn cười lớn, nói:

- Tôi vẫn kính trọng Lê huynh là người tài cao học rộng, sao vẫn giữ những chính kiến hẹp hòi quá như vậy. Ba nỗi khổ của huynh giải có khó gì.

- Xin Lưu huynh chỉ rõ cho.

Lưu Miễn nói chậm rãi:

- Thứ nhất về đạo quân thần huynh không có lỗi. Chiêu Thánh ra khỏi hoàng cung hai mươi năm nay, tình nghĩa với hoàng thượng không khác gì người dưng nước lã. Từ khi hoàng thượng giáng Chiêu Thánh xuống làm công chúa, đã coi nàng không còn là vợ nữa rôì. Hôm mới về kinh, tình cờ nhà vua đi qua chùa Bảo Quang, trông thấy Chiêu Thánh trong sân có phần khoẻ mạnh xinh đẹp hơn xưa, người nói: "Ta phải trả lại tuổi xuân hạnh phúc cho nàng". Kết duyên cùng Chiêu Thánh, huynh đã giúp vua trả được món nợ đó vậy. Thứ hai, huynh muốn làm kẻ trung tình, vậy chữ hiếu huynh để vào đâu? Trong tất cả các tội bất hiếu, tội không chịu sinh con cái để dòng giống tuyệt tự tuyệt tôn là nặng nhất, mà nay huynh vẫn chưa có con. Vả lại huynh là đấng nam nhi đại trượng phu, khư khư ôm mối trung tình với người đã khuất há chẳng phải thói thường của đám quần thoa, không sợ thiên hạ người ta cười ư? Ba là lời nguyền của họ Lê với họ Lý, thánh nhân dạy oán cừu nên cởi không nên buộc. Thiên hạ nay đã về nhà Trần, huynh còn oán thù ai. Triều đại nào có thịnh lại chả có suy, vượng như Chu, cường như Tần, thịnh như Hán, minh như Đường rồi cũng đều có ngày chung cục. Khi cái cũ đã suy tàn cái mới cường mỹ ắt phải thay thế, âu cũng là thuận tự nhiên. Chẳng lẽ cứ để cho một triều đại suy đồi với ông vua bạo ngược trị vì mãi, muôn dân bách tính sẽ ra sao? Sứ mạng của huynh là phải giải lời nguyền. Cuộc hôn nhân này chính là sự hoá giải lời nguyền ấy. Tôi nghĩ không phải ngẫu nhiên mà thánh thượng lại sắp đặt như vậy. Chắc là người đã hao tâm tổn lực lắm. Kẻ nông cạn sao hiểu chỗ khuất khúc ấy.

*

- Thôi! Nghe mẹ đi con, hãy về trong phủ để còn sắm sửa, vài ngày nữa nhà trai người ta có cơi trầu đưa sang. Nhà vua làm thế này cũng là vì lòng tốt, muốn chăm lo cho hạnh phúc của con.

Linh Từ quốc mẫu cố ngọt nhạt dỗ dành nhưng điều đó chỉ làm cho Chiêu Thánh càng thêm bực bội, tủi cực. Nàng nói trong nước mắt:

- Thôi! Bà đừng nói nữa. Bà hãy về với ông chồng thái sư của bà đi. Tôi biết tỏng cái sự chăm lo của họ Trần nhà bà đối với tôi rồi. Vâng! Chính vì cái sự chăm lo quá chu đáo ấy đã biến tôi từ một hoàng đế thành hoàng hậu, rồi từ hoàng hậu thành công chúa, đến nay cái phận công chúa cũng không còn. Các người muốn tôi phải làm thê thiếp cho một tên đầy tớ của họ Trần nhà các người. Lòng tốt của nhà vua, thật là phát buồn nôn lên được. Bà về đi! Mang luôn cả cái lòng tốt của họ Trần nhà bà về cho tôi được yên.

Linh Từ vẫn dịu dàng, một vẻ dịu dàng đầy sự nhẫn nại và tình thương của mẹ đối với con gái. Bà nói:

- ừ thì mẹ hẵng về nhưng con cũng cần nghĩ lại. Việc này chỉ mang đến điều tốt đẹp cho con đấy thôi.

Chiêu Thánh không nói. Linh Từ đứng dậy đi ra, lên kiệu về phủ. ChiêuThánh bảo A Nhi:

- Em lau sạch chỗ bà ấy vừa ngồi cho ta.

A Nhi ân cần đến ngồi bên Chiêu Thánh, nói:

- Em nghĩ quốc mẫu nói cũng phải. Tình duyên với nhà vua coi như đã dứt, công chúa nên lo cho bản thân, chẳng nên suy nghĩ nặng nề quá làm gì. Nàng Ly Cơ xưa chẳng đã từng hối hận đó sao. Còn tiết hạnh ư? Người đời chỉ lấy mỹ tự mà doạ nhau chứ có tiết hạnh thật thì nàng Tuyên Khương nước Vệ, nàng Chân Thị nhà họ Viên, nàng Dương Văn Nga nhà Đinh và cả Linh Từ quốc mẫu nhà ta nữa biết trốn vào đâu. Thế mà họ vẫn được thiên hạ tôn kính đó thôi.

Chiêu Thánh nhăn mặt nói:

- A Nhi ơi! Chồng ta vẫn sống sờ sờ ra kia. Ta vẫn là vợ đương kim hoàng thượng.

A Nhi than:

- Trời ơi! Thật khổ thân công chúa. Em cứ nghĩ làm vợ hờ của một ông vua thà làm vợ thật của anh đốn củi còn không đến nỗi mất phần chăn gối.

*

Rằm tháng giêng, dân thành Đại La ăn tết nguyên tiêu cũng là lẽ thường nhưng năm nay nhà vua cho mở hội hoa đăng mừng công chúa Chiêu Thánh cải giá mới là chuyện lạ. Suốt từ tối, hồ Lục Thuỷ san sát những đèn. Nào dân, nào lính, nam thanh nữ tú áo khăn rực rỡ kéo nhau đi nườm nượp, cười nói ồn ào. Trên trời cao chị Hằng bẽn lẽn nhìn trộm thế gian rồi lại kéo chiếc khăn mây mỏng che vội khuôn mặt ủ dột còn hoen vệt ướt của những ngày mưa gió. Một chàng trai đi bên cô gái, cao hứng nói:

- Hôm nay trời còn nhiều mây nhưng trăng đẹp quá. Lâu lắm mới lại thấy trăng, suốt cả mùa đông bị mây che khuất.

Cô gái bảo:

- Trăng đẹp thật nhưng cứ lẩn vào mây như người xấu hổ ấy. Người ta bảo còn biết xấu hổ là vẫn còn nhân cách phải không anh?

- Ai mà biết được lòng dạ trăng già.

Tiếng nói của đôi trai gái chìm giữa những âm thanh ồn ào của đám người đang hò hét xem trò tạp kĩ. Trong quán rượu, bàn nào cũng đầy những lính, nhà hàng phải bày bàn ghế ra cả ngoài hè cho khách ngồi. Một bàn trong góc có ba anh lính, một anh mặt trắng, một anh có râu và một anh mắt xếch. Anh mắt xếch hỏi anh mặt trắng.

- Nghe nói hôm nay trong dinh quan ngự sử bận lắm cơ mà? Sao cậu đi chơi được.

Anh mặt trắng thở dài nói:

- Cưới vợ thì ai chả bận. Anh có biết suốt mười ngày hôm nay mấy anh em chúng tôi khổ sở thế nào không? Từ sáng đến tối chỉ khiêng kiệu ra lại khiêng kiệu vào, tập mỗi cái việc khiêng kiệu cô dâu mà không nổi. Hôm nay xong việc mới được đi chơi đấy chứ.

Anh có râu bảo.

- Khiêng kiệu cô dâu thì làm gì khó khăn đến thế... ừ! Mẹ kiếp, chai rượu này như có mùi khê.

Anh mặt trắng tiếp:

- Khê đâu mà khê. Rượu cũ nó thế... Người bảo kiệu công chúa phải khiêng bốn đòn, người lại nói cải giá chỉ khiêng hai đòn thôi. Tập đi tập lại cho đến sáng nay vẫn còn nửa hai nửa bốn. Các anh không biết chứ, khổ nhất là ngày hôm nay, lúc đi đón dâu mà mặt chú rể buồn như đưa đám.

Anh mắt xếch bảo:

- Quái! Cái bố Lê Tần nhà ta quá nửa đời người còn ngấm ngố đến thế. Đánh giặc rõ hăng mà lấy vợ lại ra chiều e ấp. Đúng là người cổ.

Anh có râu dằn cạch cái chén vại xuống bàn, nói:

- Mẹ kiếp không vớ được tay ông!

Mấy anh em cùng cười. Anh mặt trắng nói tiếp:

- ối giời ơi! Đến cái đận đón cô dâu ra kiệu mới khốn nạn chứ. Khóc khóc, mếu mếu nước mắt nước mũi đầm đìa, làm cứ như ăn vạ. Lại còn chết ngất mấy lần. Đành phải cho cả một thị nữ vào kiệu ngồi để giữ. Đáng lẽ chỉ khiêng một người hoá khiêng hai. Cái con thị nữ nó béo như nặc nô, nặng bỏ cha bỏ mẹ đi được.

Anh có râu bảo:

- Cái đám cưới này kể ra trái lễ, nhưng chắc rồi chẳng ai hạnh phúc bằng họ cho mà xem.

Anh mắt xếch nói:

- Lễ mấy chả nghĩa. Thời nay ai còn hơi đâu nghĩ đến cái thứ xa xỉ phẩm ấy nữa. Biết thế nào mà chắc hạnh phúc mới không hạnh phúc.

Anh có râu cả quyết:

- Chắc chứ. Tôi cứ đánh cuộc với các cậu mười ăn một đấy.

- Cuộc thì cuộc, mấy khi vua gả chồng cho vợ. Uống nhanh lên xong rồi còn đi hát cô đầu. Chưa bao giờ nhiều ả đào xinh tươi đến thế.

- ố ồ! Bọn con hát bây giờ có giá ra phết. Một cô đào non còn hơn mười vị tiến sĩ... Rượu khê thật lại cứ bảo không.

- Không khê đâu... Đúng là đánh giặc xong tha hồ lắm chuyện hay ho.

Thật là:

Kẻ trong tiệc cưới đang buồn khổ

Người ngoài quán rượu lại hân hoan

Mời bạn đọc tiếp chương sau xem đôi vợi chồng ấy có hạnh phúc hay không.

Đan Thành

Vua thánh, tôi hiền cùng xuống trần gian

Phạm Hữu, Nguyễn Bằng trở về quê cũ

Mặt trời xuống dần sau lũy tre phía đầu ô, còn chút nắng vàng hắt hiu rớt lại trên các ngọn cây gợi một nỗi buồn thê thiết. Cứ nghĩ như trong tay ta đang nắm một vật gì đó thật thiêng liêng quý báu mà bắt buộc phải lìa bỏ. Nuối tiếc, day dứt đè nặng trong lòng khiến ta rơi vào trạng thái của một kẻ tội đồ đang giằng xé tim gan trong những giờ sám hối. Anh cả Thìn ngồi một mình đã lâu trong quán rượu vắng khách, chén rượu rót ra chưa đụng đến. Người chủ quán đứng tuổi thấy lạ, hỏi:

- Ơ kìa! Quan bác không uống đi. Hình như quan bác có điều gì phiền muộn? Hay quan bác đánh mất vật gì?

- Vâng! Tôi đang sắp đánh mất cái điều mà tôi không muốn mất tí nào.

- Sắp đánh mất?

- Vâng! Sắp đánh mất! Nhưng thôi! Bác hỏi làm chi.

- Vậy ra bác đang ăn năn hối hận vì việc đã làm?

- Không ăn năn gì cả cũng không hối tiếc gì cả, chỉ đau xót và ngại ngần thôi. Tôi sắp phải báo tin buồn cho gia đình những bạn bè. Giặc Thát đã giết chết bạn bè tôi, còn tôi sắp giết chết tia hi vọng cuối cùng nơi con mắt người thân của họ. Anh bảo phải làm một việc như vậy không đau lòng sao được, nhưng không thể không làm.

- à ra vậy! Thế thì bác uống đi. Cứ uống đi để lấy dũng khí. Tôi hiểu lòng bác. Thật là khó!

- Vâng! Khó lắm bác ạ. Khó hơn cả việc cầm giáo xông vào trận giặc. Tôi đã phải nén chặt trong lòng từ hôm được về nhà tới nay để đợi cho qua cái tết. Nhưng mỗi lần nhìn thấy những khuôn mặt đang khắc khoải chờ mong, hi vọng, ruột gan tôi quặn thắt, như có bàn tay tàn nhẫn của người khổng lồ bóp ngang lồng ngực.

Bác chủ quán mang thêm ra một đĩa thức ăn, ngồi rót rượu cùng uống với cả Thìn, nói:

- Nào! Kính bác một chén. Tôi sẽ cùng uống với bác. Những người ở mặt trận về như bác thế này đều đáng gọi là anh hùng cả.

- Không! Chính những người tôi sắp đến gặp mới thật sự là những vị anh hùng. Tôi không có quyền để họ phải chờ đợi lâu hơn nữa.

- Bác nói đúng. Họ cần phải biết rõ sự thật, dù cho đó là sự bất hạnh phũ phàng.

Hàng phố đã lên đèn, cả Thìn đứng dậy lấy ít bạc vụn đưa cho người chủ quán. Bác chủ quán gạt đi, nói:

- Hôm nay tôi đãi bác. Mong có lần khác được hầu chuyện. Xin chúc cho những người anh hùng vượt qua được cửa ải của thời thiên hạ thái bình.

Cả Thìn bước ra ngoài, vầng trăng gần tròn mờ mờ sau màn mây mỏng. Từng cơn gió dư tàn của mùa Đông vẫn đem về khí lạnh. Anh vượt qua khoảng tối cuối phố, rẽ vào ngõ nhà bà cụ Hải và chị tư Phúc. Người chủ quán nhìn theo, ái ngại nói:

- Thật tội nghiệp cho anh lính, giặc chạy hết rồi mà đâu đã cười được.

Lát sau tiếng gào khóc váng lên trong nhà chị tư Phúc. Mây kéo dày thêm che khuất hẳn phần còn lại của vầng trăng. Thành Đại La chìm trong thứ ánh sáng trắng đục u hoài. Mưa bay lất phất làm ướt lạnh tiếng kêu gào của người goá phụ. Những cây duối già cũng run lên theo tiếng khóc than thảm thiết não nùng.

Thái tử Hoảng lúc ấy đã mười chín tuổi, các quan mới bàn lập con gái thứ năm của Yên Sinh vương Trần Liễu làm Thiên Cảm phu nhân. Ngày hai mươi bốn tháng hai, Thái Tông nhường ngôi cho thái tử còn mình làm thượng hoàng. Nhà vua tôn thượng hoàng là Hiển Nghiêu Thánh Thọ thái thượng hoàng đế. Thượng hoàng khi còn ít tuổi thích chuyện tà dâm đều do Trần Thủ Độ bày vẽ cho cả, đến khi lớn lên do thiên tính thông minh lại được dạy dỗ cẩn thận, bỏ tật xấu trở nên mộ đạo, nghiên cứu điển cố, kinh thư, làm ra sách Khoá hư lục, lại thích cảnh lâm tuyền, coi chuyện sống chết chẳng có gì đáng kể, tư tưởng hướng về đạo Phật nhưng khoáng đạt hơn nhiều, khi ấy bỏ ngôi báu như trút cái giầy cũ mà thôi. Sau này thượng hoàng thường vui thú tiêu dao khi thì Quỳnh Lâm, lúc tới Hoa Yên, lấy mây núi làm nhà, cỏ cây làm bạn lại thường đàm đạo với các bậc cao sĩ trong thiên hạ, được mọi người vô cùng tôn kính.

Thiên Cảm phu nhân được lập làm hoàng hậu. Hoàng hậu tính tình khoan hoà đại độ, tư chất thông minh, rất sùng kính tam bảo, một hôm giữa ban ngày, đứng tựa lan can nhìn ra vườn sau ngắm đôi chim khuyên trên cành ngọc lan, bỗng thấy phật Quan Âm bồ tát dắt hai đứa bé. Một đứa như tạc bằng vàng, toả ánh hào quang lấp lánh. Một đứa thân hình rắn chắc tựa đúc bằng thép quý. Cả hai cùng khôi ngô đẹp đẽ. Hoàng hậu chắp tay bái chào Quan Âm. Bồ tát nói:

- Ta đem Kim Tiên đồng tử cho hoàng hậu đây.

Nói rồi đẩy đứa bé màu vàng vào lòng hoàng hậu, dắt đứa kia về phía dinh quan ngự sử họ Lê. Cung nhân thấy hoàng hậu đứng yên một cách lạ thường mới lay gọi. Hoàng hậu giật mình tỉnh lại, biết là vừa trải qua giấc mơ lạ. Từ bữa ấy hoàng hậu mang thai.

Công chúa Chiêu Thánh ở nhà họ Lê, suốt ngày khóc than sầu muộn, nghĩ rằng thế nào cũng bị hành hạ giày vò nhưng Lê Tần tuyệt nhiên không có cử chỉ nào gây khó cho nàng. Ngay đêm tân hôn, Tần cũng không chạm tới công chúa, trước sau một niềm quý trọng không dám phạm, lại sai gia nhân hầu hạ chu đáo tỉ mỉ không để thiếu thứ gì. Mọi việc ăn uống có A Nhi lo toan vẫn như khi ở chùa Bảo Quang. Ngày ngày Lê Tần vào chầu hoàng thượng về lại đến thăm hỏi an ủi. ít ngày sau Chiêu Thánh nhận ra họ Lê cũng là đấng nam nhi quân tử, có ý thương nên không còn sầu khổ như trước nữa. Một hôm Lê Tần từ trong cung về bảo công chúa rằng:

- Nay người Thát đã đại bại nhưng họ cậy thế nước lớn chèn ép vua ta, đòi tăng lễ vật cống tiến hằng năm, tham lam vô hạn. Triều đình cử tôi cùng Chu Bác Lãm sang Vân Nam thương lượng với họ, chỉ ít ngày nữa lên đường. Trong khi tôi đi vắng, công chúa nên giữ gìn sức khoẻ. Đời này kiếp này xin hết lòng phụng sự công chúa. Mong công chúa chớ lo phiền.

Chiêu Thánh nói:

- Tôi đã tuân mệnh hoàng thượng mà về với chàng, là vợ chàng rồi, là người nhà họ Lê rồi. Chàng cũng không nên câu nệ làm gì nữa.

Từ hôm ấy hai người mới có sự ái ân chồng vợ. Chính hôm trong cung xảy ra giấc mộng của hoàng hậu, Chiêu Thánh cũng mơ thấy phật Quan Âm dắt đứa bé đến bảo:

- Cương Thiết tiên đồng của công chúa đây.

Nói xong đặt đứa bé vào vòng tay Chiêu Thánh. Chiêu thánh tỉnh dậy khắp phòng thoang thoảng hương thơm, liền cùng thị nữ ra chùa thắp hương lễ phật. Hôm Lê Tần lên đường, Chiêu Thánh báo cho chàng biết nàng đã mang thai. Lê Tần ra đi trong lòng sướng vui không giấy mực nào tả xiết.

Mùa Đông năm ấy, ngày mười một tháng mười một hoàng hậu Thiên Cảm sinh hoàng trưởng tử, đặt tên là Khâm. Hoàng tử do tinh anh thánh thần sinh ra, thuần tuý đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng. Hai cung cùng cho là lạ đều gọi là Kim Tiên đồng tử. ít ngày sau, bên phủ quan ngự sử, Chiêu Thánh cũng sinh trưởng nam. Đứa bé mới sinh đã vạm vỡ khôi ngô đường đường là một trang tuấn kiệt, giống hệt đứa bé Chiêu Thánh nhìn thấy trong mơ. Lê Tần đặt tên con là Bình Trọng.

Không biết bao nhiêu trai tráng Đại Việt đã bỏ mình vì nước, trong đó có rất nhiều con em những người dân ở Hải ấp. Hoàng thượng đã ban chỉ dụ cấp cho mỗi binh lính chết trận một đạo sắc phong dũng binh cùng tấm hoành phi với ba chữ đại tử vị quốc sơn son thếp vàng để người thân khói hương thờ phụng, lại cấp cho cha mẹ những người lính ấy mỗi người một suất bổng hàng tháng, hưởng đến trọn đời, con cái được nuôi dưỡng đến khi trưởng thành. Những vợ lính chết trận, nếu không tái giá, được cấp bổng như cha mẹ chồng để lo phần hương hoả.

Từ lúc ở đình về, bà Tô như người điên loạn, bà khóc con. Bà khóc cái thằng Tô Đại Cơ mất dạy của bà. Cái thằng bố phải tức đến chết vì không thể nào nói được. Cái thằng chỉ biết có uống rượu cùng ghẹo gái, ai ngờ đâu lại có hành động anh hùng đến vậy. Người ta bảo rằng thập vận binh số mười lăm chở quân lương bất ngờ bị lính Thát xông ra đánh cướp ở bãi sông, mười anh em quyết đánh trả bọn giặc, chín người kia lần lượt tử thương chỉ còn một mình Tô Đại Cơ chống sào đẩy thuyền ra xa bờ. Bọn Thát bắn theo như mưa. Trên người Cơ trúng mấy mũi tên. Biết mình không thể sống, chàng lấy gươm chọc thủng thuyền, dìm lương thực xuống sông để quân Thát không cướp mất. Khi quan quân đánh lui toán quân Thát, không ai tìm thấy xác Tô Đại Cơ đâu.

- Ôi con ơi! Con vì nước vì dân mà chết. Từ nay mẹ biết sống thế nào đây?

Linh Từ quốc mẫu về quê dưỡng bệnh, sang thăm an ủi.

- Thôi chị ơi! Bây giờ dẫu có khóc than vật vã cũng không thể làm người đã chết sống lại được, mà chỉ tổn hao sức khoẻ. Cháu nó đã vì nước vì dân mà hiến thân mình, cũng nên lấy đó làm điều vinh hạnh. Nhà vua, triều đình cùng muôn dân bách tính đâu có quên công ơn ấy.

- ới cô ơi! Ai cũng biết là như vậy. Nó sống chỉ là thằng ăn tàn phá hại. Nó chết, tôi còn có phận nhờ, còn được mát mặt, nhưng đẻ con ra ai lại mong con chết để mà hưởng cái sự hiển vinh bổng lộc bao giờ.

Cả Hải ấp ai cũng bảo.

- Cái thằng Tô Đại Cơ ở nhà hư thế, mới vào lính rèn dũa được mấy ngày đã trở thành người can trường đến vậy. Thế mới biết ngọc bất trác bất thành khí. Bây giờ nói đến nó ai chả thương.

- Chết vì nước như thế cũng đáng là cái chết.

*

Chị tư Phúc không còn có thể khóc thêm được nữa. Sau cái buổi tối anh cả Thìn báo tin anh tư Phúc đã nằm lại ở chiến trường Bình Lệ, chị như kẻ rơi xuống vực sâu không đáy, vùng vẫy gào khóc nhưng không làm sao thoát ra khỏi cảm giác chơi vơi, hụt hẫng. Hai đứa con còn bé, chúng chưa ý thức được cái điều quan trọng đang xảy ra với gia đình chúng, chỉ lờ mờ hiểu rằng từ nay bố chúng không về và thấy mẹ khóc gào, thằng anh dắt thằng em lùi lũi tìm chỗ ngồi yên. ít ngày sau vị lý tể đến đưa giấy của triều đình báo việc anh Tư Phúc tử trận và cho người treo lên gian chính giữa nhà bức hoành phi có ba chữ đại tử vị quốc cùng mấy quan tiền tỉnh bách do nhà nước cấp. Thôi chẳng phải nói chị tư Phúc vật mình khóc than thảm thiết thế nào nhưng dù nỗi đau buồn có lớn lao đến đâu cũng không thể giết chết được vẻ đẹp căng thừa sức sống của người đàn bà chưa vượt qua tuổi hăm nhăm. Điều đó làm cho lý tể Vũ Tình thấy lúng túng, lúc lúc lại đưa mắt nhìn trộm bộ ngực phồng đẫy của nàng goá phụ rung lên theo tiếng nấc nghẹn ngào. Trong đầu óc giầu sức tưởng tượng của Vũ Tình hiện ra toàn những trò tục tĩu. Nhưng ngày ấy nền văn minh nhân loại chưa "chế tạo" được nhiều kiểu tình ái như dăm bảy thế kỉ sau này mà "kĩ thuật" hôn nhau cũng mới chỉ truyền tới tầng lớp quan trên của đất Đại Việt nên dù có thèm thuồng đến đâu, Vũ Tình cũng chỉ quanh quẩn trong ý nghĩ muốn chị tư Phúc sinh cho mình một đứa con trai.

Bên nhà bà cụ Hải vẫn im ắng, kể cả khi lý tể Vũ Tình đến báo tin con bà tử trận. Bà cụ không khóc, bà ngồi im, một sự im lặng đanh rắn như được vón kết bằng mọi nỗi khổ đau trên thế gian dồn lại. Cô con gái bà thắp mấy nén nhang cắm lên ban thờ, khấn vái người anh trai, hai dòng nước mắt lăn dài trên má. Cô bé khóc tức tưởi không bật lên thành tiếng.

*

Trời nắng như lửa cháy những người lính bị thương tản vào các gốc cây đợi gọi tên mình đến nhận tấm thẻ thương tích. Ai có thẻ thương tích khi về quê được miễn lao dịch và được cấp một khoản tiền hàng tháng. Đám lính làng Cao Duệ có mấy người như Nguyễn Văn Điền, Vũ Tuấn đã lĩnh được thẻ. Người ta gọi đến Đoàn Sĩ Hiệp. Viên giám binh hỏi:

- Anh bị thương ở đâu?

Sĩ Hiệp trả lời.

- Tôi bị đập một truỳ vào lưng rơi từ gò cao xuống, từ ấy như người bị ép ngang ngực, thỉnh thoảng ho ra máu chứ không có vết thương nào cả.

Viên thư lại nói:

- Thế này làm sao mà cấp thẻ cho anh được? Thẻ thương tích là phải có thương tích rõ ràng chứ. Ai ép anh ở ngực thì ai biết cái sức ép ấy nó thế nào. Quân dược hiệu uý, ý ngài thế nào?

Quân dược hiệu uý Phạm Hữu nói:

- Để tôi khám cho cậu ấy xem đã.

Nói xong ông bắt mạch khám cho Sĩ Hiệp, nói:

- Anh này bị nội thương chưa khỏi, rõ ràng bị đánh rất mạnh, có thể cấp thẻ thương tích được.

Viên thư lại viết tên Sĩ Hiệp vào tấm thẻ xương. Vị giám binh cầm tờ thân sử của Sĩ Hiệp lên xem, cười nói:

- A! Anh này là người cùng làng với quân dược hiệu uý đây mà. Có phải vì tình thân thuộc mà quân dược hiệu uý nói như vậy không?

Phạm Hữu nói:

- Tôi quả thực không biết anh ta, chỉ đúng hiện tình mà làm thôi.

Viên giám binh nói:

- Ông nói lạ. Người cùng làng mà không biết nhau được ư?

Phạm Hữu nói:

- Tôi đi khỏi làng đã hơn ba mươi năm nay, năm chừng mười họa mới về, làm sao biết được những người mới hai mươi tuổi?

- A! Ông dám bẻ lại tôi à. Bay đâu! Đuổi tên lính này ra ngoài. Quân dược hiệu uý, ông nên dâng lá đơn mà về an dưỡng tuổi già được rồi đấy.

Phạm Hữu đứng lên chắp tay nói:

- Cám ơn ngài! Đó là điều tôi vẫn mong mỏi từ lâu.

Nói xong, Phạm Hữu đứng dậy đi ra. Viên giám binh bảo viên phó hiệu uý quân dược:

- Hắn đi rồi! Từ nay ông không phải dè chừng ai nữa cứ tuỳ ý mà làm, miễn sao chúng ta cùng có lợi là được.

- Tôi sợ ông ta bẩm lên cấp trên, chúng ta khó mà thoát tội.

- Ông lo xa quá làm chi. Tôi chỉ việc cho hắn mấy chữ tư vị cá nhân, coi thường vương pháp, báo man thương tích cho người thân thuộc, dẫu hắn có muốn yên thân về quê cũng không được nói chi đến chuyện làm hại ai.

- Nhưng ông ta là người có công cứu chữa nhiều tướng sĩ, lại rất liêm chính từ trước tới nay, dễ gì mà hại được.

- Ông thật quá khờ dại. Đấy chính là tội của hắn chứ đâu phải là công. Công lao ấy, tư chất ấy có khác nào cái gai trước mắt bao nhiêu người kể cả chánh ty quân dược. Những ai có tư túi ít nhiều đều ghét hắn. Ta chỉ việc hô lên một tiếng khối kẻ làm theo.

- Như thế chẳng hoá ra loạn lắm sao?

Viên giám binh cười hề hề, nói:

- Chứ sao nữa. Hết giặc ngoại bang mới bắt đầu loạn!

*

Đây nói chuyện Nguyễn Bằng giả vờ buôn bán ở thành Thiện Xiển bên Đại Lý đã hơn ba năm, mọi tin tức thu lượm được đều gửi theo mật tuyến về cho hầu tướng Vương Lâm. Hôm ấy trời rét, tuýêt rơi nhiều nhưng vì là tháng cuối năm nên cửa hàng vẫn mở. Khách mua hàng ra vào tấp nập. Đâu đâu cũng nói chuyện chiến sự ở ích châu, ở Ngạc châu và ở Đại Việt. Nhiều kẻ nói rằng thống tướng Cốt Đãi Ngột Lang đánh tan mấy đạo quân Đại Việt, sắp bắt được vua Đại Việt rồi. Lại có người bảo thống tướng bị thua mấy trận liền, hết cả quân lương mà vẫn chưa đến được thành Đại La. Rất nhiều dân phu bị bắt đi phục dịch quân đội quay về nói:

- Chưa biết được thua thế nào nhưng đường sang An Nam khó khăn lắm. Tất cả dân binh chúng tôi không theo kịp được quân đội, đều tụt lại phía sau. Nghe nói phía trước đang giao tranh dữ dội. Quân ta thiệt hại cũng nhiều.

Chiều hôm ấy có người lính truyền tin đưa đến cho Nguyễn Bằng bức thư triệu hồi. Nguyễn Bằng bàn giao công việc cho người ở lại, theo anh lính mật tuyến trở về, đi đến ải Quy Hoá gặp quân của Hà Bổng đang truy đuổi tàn quân Mông Thát. Nguyễn Bằng liền nhập vào đội quân của Hà Bổng cùng đánh giặc cho đến khi bọn Cốt Đãi Ngột Lang chạy hết về bên kia biên giới. Xong việc, Hà Bổng cho người đưa Nguyễn Bằng về đến thành Đại La. Nguyễn Bằng đến phủ họ Vương mới hay tin tướng Vương Lâm đã tử trận, thành ra không biết liên hệ với ai, đành đến binh trạm báo việc mình trở về. ở binh trạm người ta yêu cầu Nguyễn Bằng trình bức thư của Vương Lâm nhưng bức thư đã thất lạc trong khi cùng Hà Bổng truy đuổi quân Thát. Viên đô uý ở binh trạm nói:

- Như vậy là chưa có lệnh của thượng cấp ông đã bỏ vị trí thừa hành công vụ. Tội ấy chẳng nhỏ chút nào. Lính đâu! Giam người này vào nhà lao chờ điều tra rõ đã.

Thế là Nguyễn Bằng bị tống vào thiên lao, chẳng biết kêu với ai.

*

Mùa thu tháng bảy, ngày rằm, dân Đại La cúng cháo thí cầu siêu cho những oan hồn. Các gia đình có người nhà chết trận đốt vàng mã mong cho người cõi âm có được cuộc sống đủ đầy. Bà cụ Hải chia lắm giấy tiền ra làm hai, phần ít đốt trước, phần nhiều đốt sau. Bà vừa đốt vừa khấn. Những tàn tro theo gió bay tản mát như vãi bạc, phân phát cho các cô hồn. Cô con gái hỏi mẹ:

- Sao bu không đốt luôn một lượt lại chia ra làm gì?

- Dương sao âm vậy con ạ. Muốn gửi được tiền vàng quần áo cho anh mày phải đốt cúng các quan trước đã. Đi làm việc gì không có tiền biếu các quan liệu có được không?

Hôm sau, mẹ con bà cụ Hải cùng chị Tư Phúc theo anh cả Thìn dẫn đi Bình Lệ tìm mộ chồng con. Hai đứa trẻ nhà chị tư Phúc gửi cả sang cho chị cả Thìn trông. Bốn người ra đến đầu ô, lý tể Vũ Tình chạy theo gọi bảo:

- Bà với cô Phúc đi Bình Lệ sao không đợi tôi. Khổ! Dù sao các chú ấy cũng là người phường này. Tôi là lý tể phải để tôi có trách nhiệm lo liệu với chứ. Đây! Tôi cũng đem theo cơm nắm, thức ăn, gạo nước cùng đi với mọi người đây. Có lẽ cũng phải ba bốn ngày mới tới nơi được.

Bà cụ Hải bảo:

- Gớm! Hôm nay thầy lý tốt quá nhỉ, giá mọi việc trong phường phố thầy lý đều chu đáo thế này thì dân cũng được nhờ. Nhưng thôi, thày lý cứ về không nhỡ ai muốn mua lợn con nuôi lại không có người đóng triện. Mỗi con triện thu hai chinh, lại còn bao nhiêu thứ khác nữa. Thày lý đi với chúng tôi, mỗi ngày thất thu đến hào bạc chứ chả chơi. Bà con tôi đã có anh Thìn đây đưa đi là được rồi.

Vũ Tình nói:

- Chết! Bà dạy thế! Con đã đi với mọi người đâu có quản gì hơn thiệt, cô Phúc nhỉ?

Chị tư Phúc không trả lời. Vũ Tình quay sang anh cả Thìn, nói tiếp:

- à chú Thìn này! Mấy hôm nữa về mang giấy sang nhà, tôi đóng triện cho.

Anh cả Thìn nói:

- Cám ơn thày lý nhưng những hào rưỡi tiền triện, nhà tôi chưa kiếm đủ đâu.

Bà cụ Hải bảo:

- Chết! Sao bảo mỗi con triện triều đình qui định chỉ thu có năm đồng cắc, thu đến hai chinh là quá lắm rồi. Nhà anh làm gì mà mất những hào rưỡi?

Cả Thìn nói:

- Dạ nhà con định xin cái giấy mở cửa hàng bán giầy guốc ạ, nhưng thầy lý đây nhất định bắt nộp haò rưỡi mới đóng dấu cho.

Cụ Hải nói:

- Thảo nào cô lý sắm toàn váy đẹp.

Vũ Tình cười làm lành, nói:

- ấy cũng là luật lệ nhà nước cả, nhưng thôi hôm nào về, chú cứ sang tôi triện cho không phải tiền nong gì cả.

Nói xong câu ấy, Vũ Tình đánh mắt nhìn chị tư Phúc. Bà cụ Hải cười bảo:

- Thế hoá ra luật lệ nhà nước ở trong tay, các thày còn kiếm bằng mấy những đứa đi buôn lậu rượu ngoại ấy nhỉ!

Vũ Tình đánh trống lảng:

- Thôi! Bà con mình đi nhanh kẻo nhỡ đò.

*

Nguyễn Bằng từ hôm bị giam, trong lòng buồn bực, nghĩ mình tận trung, không làm gì nên tội mà phải giam cầm, mới đưa ít bạc lẻ cho người lính coi ngục nhờ mua chút rượu về cùng uống. Cũng may được anh lính coi ngục mới vào nghề nên hiền lành tử tế, biết Nguyễn Bằng là người đàng hoàng có học thì coi trọng. Nguyễn Bằng xin giấy mực viết bức thư cho Phạm Hữu. Phạm Hữu biết chuyện liền đến nhà ngục đút tiền cho lính canh để vào thăm. Hai người ôm nhau khóc, kể lể sự tình. Nguyễn Bằng nói:

- Anh em mình hết lòng vì nước từ lúc tóc còn xanh, luôn tự nhủ phải lo tròn phận sự, đã hơn ba mươi năm, tuổi ngoại ngũ tuần, tóc bạc trắng cả, ngờ đâu bây giờ đều mắc vào vòng oan nghiệt thế này mà chẳng biết kêu ai!

Phạm Hữu bảo:

- Thôi! Chú cứ yên tâm. Tôi sẽ tìm mọi cách cứu chú ra rồi ta cùng về quê mà di dưỡng tuổi già.

Phạm Hữu về bán đồ đạc trong nhà đem tiền bạc đến đút cho viên đô úy ở binh trạm xin cho Nguyễn Bằng ra. Viên đô uý nói:

- Cũng may mà tôi chưa đưa lên thượng cấp. Ông cứ về đi, ngày Canh Dần đến mà đón ông ấy.

Phạm Hữu nghe nói vậy khấp khởi mừng, đến ngày Canh Dần tới cổng nhà lao chầu chực sớm, không ngờ mãi lúc mặt trời đứng bóng, nắng như thiêu như đốt vẫn chưa thấy Nguyễn Bằng được tha ra. Bọn lính gác ngục đã thay phiên ra ngoài ăn cơm trưa. Phạm Hữu đến gần một người hỏi:

- Chú Lính ơi! Làm ơn cho tôi hỏi thăm ông Nguyễn Bằng đã được ra chưa?

Người ngục tốt mặt lạnh như thoi bạc, nói:

- Ai được tha hôm nay đã tha hết rồi còn gì.

- Tôi ở đây từ sáng sớm đã thấy ai ra đâu?

- Thế thì cũng sắp ra đấy.

Phạm Hữu vừa đói vừa khát nhưng không dám đi ăn uống gì vì sợ Nguyễn Bằng ra lại không gặp nhau, đành đứng chờ đến khi mặt trời xuống sát luỹ tre. Năm sáu thân nhân những kẻ có "tội!" hôm nay được tha cũng đứng chầu chực nhưng chẳng ai đón được người nhà. Quá đói khát mệt mỏi, Phạm Hữu đành ra một ngôi quán gần đấy uống nước, ăn bánh. Bà chủ quán hỏi:

- Ông đi đón người nhà trong lao hay sao?

- Vâng! Tôi đi đón suốt từ sáng đến giờ vẫn chưa thấy đâu.

- Trời ơi! Ông cứ đứng đấy mà đón thì phải đến cuối giờ Hợi mới được tha.

Phạm Hữu ngạc nhiên hỏi:

- Sao vậy bà? Trong giấy nói rõ ràng tha vào ngày Canh Dần mà?

- Thì giờ Hợi cũng còn là ngày Canh Dần chứ đã sang ngày Tân Mão đâu. Ông muốn người nhà ra sớm phải đút cho lính gác cổng kia một ít, nếu không, thuê tôi làm cho.

Phạm Hữu cám ơn người chủ quán, rồi đi về phía cổng nhà lao. Người chủ quán dặn với:

- Này ông! Nó có bảo xin chai rượu đừng có thực thà mua rượu vào mà hỏng việc đấy

Phạm Hữu hiểu ý, bước đi. Anh lính gác cổng còn trẻ, tươi cười hỏi:

- Bác có chuyện gì?

Phạm Hữu nói:

- Này chú lính. Tớ cũng là lính có việc này chú mày giúp cho được không? Tớ có ông em bị giam trong đó, hôm nay được tha mà sao giờ chưa thấy ra?

Anh lính gác cổng cười nói:

- Việc này nó tế nhị lắm bác ạ

- Lính tráng cả với nhau; cái tế nhị lắm ấy nó thế nào cứ nói cho tớ biết.

- Bác cho chai rượu để cháu bảo các anh ấy kí giấy cho là ra ngay không đợi đến đêm.

Phạm Hữu đã được bà chủ quán mách nước mới đưa cho anh lính bốn đồng tiền hào, bảo:

- Tớ không biết các vị uống rượu gì, trăm sự nhờ cậu giúp cho.

Tuy số tiền có thể mua được năm chai rượu ngon cùng với đồ nhắm nhưng người lính vẫn có vẻ ngần ngừ. Phạm Hữu hỏi:

- Như thế liệu đã đủ chưa?

Anh lính cười, nói:

- Kể ra hơi ít.

Phạm Hữu dúi thêm cho một hào nữa, hỏi:

- Thế đã được chưa?

Anh lính tươi cười nói:

- Tốt quá rồi. Bác cứ ra ngoài ấy đứng đợi, một tí là ra ngay đấy.

Phạm Hữu ra gốc cây gần đấy đứng đợi, chừng nhai giập miếng trầu, thấy người lính gác cổng gọi:

- Này người nhà bác ra rồi đây này.

Mấy người đi đón thân nhân ồn lên hỏi:

- Ơ! Sao người nhà chúng tôi chẳng thấy đâu cả nhỉ?

- Sao bây giờ mới có một người ra là thế nào?

- Quái! Sao đến tối mới tha người ta thì làm sao mà lần mò về nhà được.

Anh lính gác bảo mọi người:

- Tất cả đứng ra ngoài kia đợi, biết điều sẽ được ra sớm không đến đêm, nghe chửa.

Phạm Hữu nói nhỏ với đám người nhà phạm nhân câu gì đó. Tất cả chạy dồn lại phía anh lính gác. Trên đường về Phạm Hữu hỏi Nguyễn Bằng:

- Tôi đã xin nghỉ việc, định ngày mai đem cả nhà về quê, chú có về một thể không?

Nguyễn Bằng nói:

- Em muốn về lắm nhưng nghĩ cũng tức. Mình công khó công nhọc bao nhiêu năm chả lẽ bây giờ về tay trắng. Có lẽ em phải tìm đến phủ thái sư.

- Thôi chú ơi! Thái sư bây giờ già về Thiên Trường nghỉ rồi. Chú tìm đến thì thái sư biết chú là ai. Có khi còn mang vạ. Tôi cũng có hơn gì đâu, suýt nữa bị nó hại cho mất mạng ấy chứ. Qua cơn binh lửa được nguyên tuyền về với vợ con là may rồi.

Nguyễn Bằng buột mồm chửi:

- Mẹ cha những thằng quan đểu, không biết lúc chống giặc chúng ở đâu mà bây giờ chui ra lắm thế. Thôi về quách nhà quê vậy.

Phạm Hữu cười bảo.

- Này! Nhưng đừng tưởng về quê mà không có quan đểu đâu nhé.

*

Tháng bảy mưa ngâu, từng đợt mưa sùi sụt lê thê như nỗi buồn chia li, tưởng không bao giờ dứt. Người ta bảo đó là nước mắt của đôi vợ chồng phải xa nhau, mỗi năm chỉ được gặp một lần. Đôi vợ chồng ấy thật là bất hạnh, nhưng dù sao họ cũng còn có hạn có kì để mà hẹn gặp. Còn những người vợ có chồng nằm lại nơi này...

Trời về chiều mưa tầm tã, từng đoàn người đi tìm mộ thân nhân ngày càng kéo đến đông, vợ mọn con thơ, ông già bà lão đội mưa lội lóp bóp trong bùn, tiếng than khóc kêu gào ướt nhoè trong hơi gió, vô cùng thảm đạm thê lương. Chị tư Phúc tìm thấy mộ chồng ngay từ hôm vừa đến, khóc lăn khóc lộn làm lý tể Vũ Tình vất vả lắm mới đỡ cho đứng lên được. Sự tận tâm của Vũ Tình với chị tư Phúc làm mẹ con bà cụ Hải và anh cả Thìn yên lòng đi tìm mộ chú Sơn. Mấy nghìn ngôi mộ lính được chia làm hai khu vực. Một khu có ghi tên tuổi quê quán từng người, khu kia là những ngôi mộ vô danh. Tất cả các bia mộ đã được đọc kĩ càng, nhẩm đi nhẩm lại nhưng vẫn không tìm thấy mộ chú Sơn. Bà cụ Hải hỏi anh cả Thìn:

- Có còn ở đâu nữa không anh?

Cả Thìn trả lời:

- Sát bìa rừng đằng kia còn một khu nữa. Bà con mình lại đằng ấy xem sao.

Ba người đi lại phía bìa rừng. Vũ Tình vẫn đỡ cho tư Phúc khỏi lăn xuống đám nước bùn, trong khi nâng đỡ ấy thầy lý đã nhỡ tay đụng phải cái chỗ nhạy cảm nhất của người đàn bà. Không ngờ cái nhỡ tay được tính toán chu đáo và chờ đúng thời điểm ấy lại có tác dụng như một liều linh đơn thần dược. Chị tư Phúc không gào khóc nữa chỉ còn ấm ức trong cổ, nhẹ nhàng nép mình nhận sức nóng từ khuôn ngực thầy lý. Những nén hương trên mộ anh tư Phúc đã tắt hết, bột hương cũng rã ra trôi theo nước, trơ lại những cọng xương tăm run rẩy trong sự dập vùi thô bạo của gió mưa. Lý tể Vũ Tình vuốt mặt, mỉm cười, sau khuôn mặt bảnh bao dễ coi của y là bao nhiêu ý nghĩ bậy bạ đang đú đởn quay cuồng.

Anh cả thìn cùng mẹ con bà cụ Hải tìm hết các bia mộ bên bìa rừng nhưng cũng không có tấm nào đề tên chú Sơn. Cả Thìn bảo:

- Thế này nhất định chú Sơn nằm trong khu mộ vô danh kia rồi. Không thể nào tìm được nữa.

Ba bà con tần ngần đến trước khu mộ vô danh nhưng chỉ có bạt ngàn nấm đất. Không hi vọng tìm ra ngôi mộ của Sơn. Bà cụ Hải bảo cả Thìn và cô con gái che áo tơi lá, châm lên một bó hương lớn, bà cầm nắm hương nói:

- Sơn ơi! Mẹ không tìm thấy con nhưng tất cả các con nằm đây đều là con của mẹ. Tất cả các con đều là con của mẹ!

Nói xong, bà cụ cắm nắm hương nơi đầu gió, mưa ngớt dần, khói hương lan toả khắp khu mộ những người lính chiến vô danh. Dáng người mẹ cao vời giữa khoảng đồng không đầy gió mây vần vũ.

Con ngựa già gõ móng kéo chiếc xe trên mặt đường lầm bụi. Vầng kim ô xuống dần, hoàng hôn thu lại chút nắng vàng cuối cùng còn rơi rớt trên những ruộng mạ non. Không gian vắng lặng. Tít phía xa có bóng vài người nông phu cùng mấy chú mục đồng thong thả dắt trâu về làng, đôi ba cánh cò lấp lánh trên khoảng trời trong veo. Những chú dơi nhào lộn trên không như nghệ nhân biểu diễn trò tạp kỹ.

Đã gần năm năm Nguyễn Bằng mới được trở về, ông say sưa ngắm nhìn phong cảnh quê hương, bỗng tiếng chuông vọng lại từ một ngôi chùa cổ phía xa làm Nguyễn Bằng dứt ra khỏi trạng thái nửa mơ nửa tỉnh, chàng nói:

- Bác Hữu ạ! Em chưa bao giờ thấy quê mình đẹp đến thế này. Hồi ở bên Đại Lý,

có những lúc nhớ nhà đến cồn cào gan ruột. Giờ gần về đến làng rồi cứ nghĩ như ngày còn trẻ chúng mình vẫn đi học qua cánh đồng này.

Phạm Hữu bảo:

- Chú thật là người đa cảm... Đường về làng không còn xa nhưng cũng chẳng ít ổ gà đâu. Đúng là ngôn ngữ của anh chàng tha hương, ai đi xa trở về mà chả yêu qúi gốc vối nhà mình.

Nguyễn Bằng nói:

- Vẫn biết là thế nhưng nghĩ đến lúc đặt chân trên mảnh vườn nhà sao em thấy nao nao trong lòng thế nào ấy.

Chử thị vợ Phạm Hữu bảo:

- Cũng phải coi chừng khối bọ nẹt đấy, nó lại chả đốt cho xưng mặt lên ấy.

Nguyễn Bằng nói:

- Sâu bọ ở đâu chả có hả chị, cứ sợ nó làm sao mà sống được.

Phạm Hữu cười lớn, khen:

- Khá lắm! Thế mới đáng là trang nam tử. Hết giặc rồi ta về dọn sạch vườn nhà, có lẽ đâu lại sợ loài sâu bọ.

Chử thị thấy chồng hào hứng quá, cũng cười bảo:

- Thôi! Lạy các ngài. Các ngài cứ liệu mà sống yên cho chị em tôi nhờ, bắt sâu bắt bọ ở đâu chẳng thấy nó lại cho mỗi thày một miếng có mà kêu giời cũng xa.

Mải vui chuyện, giời đã sập tối. Người đánh xe cho ngựa ngoặt vào cổng làng. Bỗng phía trước có người thét:

- Nó đây rồi! Bắt lấy nó.

Theo tiếng thét, mấy người tuần đinh cầm mồi lửa, tay thước xồng xộc kéo đến. Con ngựa già sợ hãi chùn lại. Nguyễn Bằng, Phạm Hữu cùng nhảy xuống xe. Tiếng la hét dội lên càng dữ dằn hơn trước, có cả tiếng xích sắt loảng xoảng. Một người nói:

- Xích cổ nó lại cho ông chứ chúng mày sợ à?

Thật là:

Vừa qua nạn nước cơn binh lửa

Lại thấy quê hương cảnh xích xiềng

Đan Thành
Nguyễn trạng nguyên bẻ sứ phương Bắc

Lê bảng nhãn chép sử cõi Nam

Trên kia đang nói Nguyễn Bằng cùng gia đình Phạm Hữu về đến đầu làng, trời đã tối lại thấy đinh tráng gậy gộc săn đuổi ai đó. Hai chàng vừa nhảy xuống xe, có người quát hỏi:

- Xe nào đây?

Nguyễn Bằng nói:

- Chúng tôi đây.

Trong ánh đuốc có người nhận ra, reo lên:

- A! Quan quân dược hiệu uý Phạm Hữu! Ơ lại cả quan huyện lệnh Nguyễn Bằng nữa.

Mọi người đều chắp tay bái chào. Phạm Hữu nói:

- Không dám! Không dám! Chúng tôi bây giờ không phải là quan nữa rồi, về nhà sống cùng dân làng, mong bà con giúp đỡ. Chẳng hay làng ta có chuyện gì mà ồn ã vậy?

Một thanh niên tiến lên nói:

- Tôi là Nguyễn Vĩ Thử, lý tể làng này, xin các vị cho xem tín thẻ.

Nguyễn Bằng, Phạm Hữu cùng rút tín thẻ đưa ra. Vĩ Thử xem xong cho đi. Đám tráng đinh vẫn nhao nhao đuổi bắt ai đó. Nguyễn Bằng nói với Phạm Hữu:

- Quái! Cái thằng này là con xã quan Nguyễn Vĩ Thố đây mà, nó lạ gì mình mà còn đòi xem thẻ, nghe nói nó trốn lính năm lần bảy lượt, chẳng hiểu sao lại làm lý tế làng này thế nhỉ?

Phạm Hữu cười nói:

- Thì tôi đã bảo đừng tưởng về quê là thoát cái nạn quan đểu mà lại.

Lúc về đến nhà, Nguyễn Bằng hỏi vợ xem trong làng xảy ra việc gì. Phạm Thị nói:

- Hai bác với thày em không biết chứ ở nhà bây giờ nhiễu nhương lắm. Lý Thử lùng bắt con Điệp đấy.

- Cô Điệp làm sao mà bị lùng bắt.

- Ôi dào! Thật khổ. Lý Thử phải lòng con Điệp nhưng con Điệp nó chê lý Thử là hèn nhát trốn lính, làm quan thì hách dịch thất đức. Dạo đánh Thát, lý Thố mang dân làng đi phu dịch phục vụ quan binh lên tận Nguyệt Đức, chẳng may bố con Điệp ngã nước phải vay của của lý Thố năm đồng bạc mua thuốc nhưng khi về làng được ít lâu thì cũng chết. Sau giặc Thát thua chạy, quan trên mang sắc chỉ khen thưởng những người có công. Nguyễn Vĩ Thố vì có công đưa dân phu đi phục vụ quan binh, được điều lên làm việc ở huyện. Nguyễn Vĩ Thử được làm lý tể vì khi đi dân phu đã làm tốt việc nấu ăn cấp dưỡng cho mọi người. Đến nay con Điệp vẫn chưa trả được món nợ, định gán mảnh vườn nhưng lý Thử không chịu, muốn bắt con Điệp về làm vợ bé, nó phải trốn đi.

Phạm Hữu bảo:

- Thế mà dân làng không ai bênh con bé à?

Phạm Thị bảo:

- Bác bảo ai dám động đến lý Thử bây giờ, bố nó chả mang lính trên huyện về bắt đi sớm.

Nguyễn Bằng bảo:

- Huyện cũng còn huyện lệnh và các cai kí khác nữa chứ, phải đâu chỉ có bố con nó.

Phạm Thị nói:

- Thày em cứ như trên giời rơi xuống ấy. Các quan trên huyện có về nhà nó đánh chén, chơi tổ tôm, ôm đào hát thì có, chứ những việc như thế ai bõ làm. Bênh một con bé mồ côi, chẳng được cái gì lại mất lòng đồng liêu, họ ngại.

Nguyễn Bằng lắc đầu nói:

- Cứ tưởng mùa Đông qua là mùa Xuân toàn cỏ cây tươi đẹp.

Phạm Hữu bảo:

- Thì ai bảo mùa Xuân cỏ cây không tươi đẹp? Càng tươi đẹp càng lắm sâu bọ nhoi ra có gì là lạ.

*

Bấy giờ là năm Thiệu Long thứ tư (Tân Dậu-1261) quan thái sư Trần Thủ Độ tuổi cao sức yếu thường nghỉ ở thái ấp Quắc Hương, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đóng binh ở Vạn Kiếp, đại tướng quân Lê Tần nắm giữ thuỷ quân. Các việc trong triều do quan đại hành khiển Nguyễn Giới Huân sắp đặt. Mùa Hè, nhà Nguyên cho sứ thần là lễ bộ lang trung Mạnh Giáp, viên ngoại lang Lý Văn Tuấn mang thư của vua Nguyên Hốt Tất Liệt sang dụ. Trong thư có đoạn đại lược như sau:

" Quan liêu sĩ thứ An Nam, phàm việc mũ áo, lễ nhạc, phong tục đều căn cứ theo lệ cũ nước mình, không phải thay đổi. Huống chi, nước Cao Ly mới rồi sai sứ sang xem, đã xuống chiếu cho hết thảy đều theo lệ ấy. Ngoài ra đã răn bảo các biên tướng ở Vân Nam không được tự tiện đem quân lấn cướp các nơi cương giới, quấy nhiễu nhân dân. Quan liêu sĩ thứ nước ngươi yên ổn làm ăn như cũ "

Nhà vua mở tiệc đãi yến bọn Mạnh Giáp ở cung Thánh Từ. Hôm sau lên điện, nhà vua nói:

- Ngày nay nhà Nguyên cho sứ thần đến. Trẫm muốn cử sứ bộ sang Nguyên thông hiếu. Các khanh bàn xem nên cử người nào đi cho lợi.

Quan đại hành khiển Nguyễn Giới Huân tâu:

- Thần cho rằng quan hàn lâm viện học sĩ kiêm quốc tử viện giám tu là Lê Văn Hưu có thể cử đi được. Người này học rộng tài cao, thông kinh bác sử, làm việc cẩn trọng, ứng đối mau lẹ chắc không làm hổ thẹn quốc uy.

Quan hàn lâm viện thị độc là Trần Chu Hinh bước ra tâu:

- Thần cho rằng việc bang giao với nhà Nguyên không ai hơn Lê Phụ Trần, ông ấy đã quen đi lại với người Nguyên. Hoàng thượng nên cử ông ấy đi thì hơn.

Quan thị lang Trương Xán nói:

- Quân tình là việc trọng không thể mỗi lúc thay người thống suất. Lê đại tướng quân là cột trụ của quân đội không thể để đi sứ.

Các quan người nói này người nói kia rốt cuộc vẫn không chọn được ai đi sứ. Quan thái phó Trình Quốc công Phạm Văn Tuấn tâu.

- Thần nghĩ nên hỏi Nguyễn thượng thư hẳn có ý kiến hay.

Thánh tông nhớ ra, ồ lên một tiếng nói:

- Khanh không nhắc thì trẫm quên mất cuốn bách khoa toàn thư này.

Nguyễn thượng thư là ai mà Thánh tông đề cao đến như vậy? Người ấy họ Nguyễn tên Hiền quê quán ở xã Dương A, huyện Thượng Hiền, đỗ trạng nguyên khoa thi năm Đinh Mùi (1247), lúc ấy mới mười ba tuổi. Khi vào bái yết nhà vua, Thái tông thấy chú bé loắt choắt, mang mũ áo trạng nguyên rộng thùng thình, vua hỏi:

- Trạng học với ai?

Nguyễn Hiền đáp ngay:

- Tôi học ở chùa, thỉnh thoảng mới hỏi sư cụ vài chữ .

Vua thấy trạng nói cụt ngun ngủn, liền phán:

- Nhà ngươi tuy đã đỗ trạng nguyên nhưng tính khí còn con trẻ, về nhà học lễ phép trong ba năm rồi hãy ra làm quan.

ít lâu sau có sứ thần phương Bắc sang, muốn thử xem triều đình Đại Việt có người tài không, liền đưa ra một câu đố như sau:

Lưỡng nhật bình đầu nhật

Tứ sơn điên đảo sơn

Lưỡng vương tranh nhất quốc

Tứ khẩu tung hoành gian.

Cả triều đình không ai giải được. Nguyễn Quang Quan xin nhà vua cho mời tân quan trạng Nguyễn Hiền. Thái tông liền cử Ngô Khắc tức tốc phi ngựa về quê tìm Nguyễn Hiền. Khi tìm đến nhà chỉ thấy một chú bé đang lúi húi đun bếp lại lấy que cời tro vẽ mày râu lên ông bồi rau, Ngô Khắc liền thử đọc một câu đối:

- Ngã văn quân tử viễn bào trù, hà sự tu mi táo (Tôi nghe nói người quân tử nên tránh chỗ bếp núc, việc gì phải sửa râu mày cho ông táo thế).

Chú bé ứng khẩu đối ngay:

- Ngộ bản hữu quan cư đỉnh nại, khả dĩ tạm điều canh (Ta vốn làm quan ở hàm khanh tướng, bây giờ tạm nấu canh thôi).

Ngô Khắc biết rõ là Nguyễn Hiền đây rồi, liền đưa chiếu chỉ của vua gọi. Hiền nói:

- Nhà vua bảo ta không biết lễ, thực ra vua cũng chẳng hơn gì. Đây dẫu không có Ngọa Long cương nhưng lẽ nào không có sông Vị Thuỷ.

Hiền nói rồi nhất định không tuân chỉ. Ngô Khắc vội trở về tâu lại. Triều thần có người nói Nguyễn Hiền ngông cuồng, không tuân chỉ là khi quân phạm thượng xin nhà vua giáng tội. Nguyễn Quang Quan nói:

- Nguyễn Hiền không tuân chỉ là có tội nhưng lời nói không phải không có lý, điều đó càng chứng tỏ tân trạng nguyên tuy còn nhỏ tuổi nhưng đã có khí tiết khác người. Xin hoàng thượng lấy lễ cầu hiền mà đón, sau này nếu không có tài thì trị tội cũng chưa muộn.

Thái Tông nghe theo, cho Ngô Khắc mang quân lính võng lọng đến đón, Hiền mới chịu đi. Dọc đường Ngô Khắc sợ Nguyễn Hiền không giải được câu đố mới nói trước cho biết. Hiền cười bảo:

- Điều đó có khó gì. Ông ra mua cho tôi một cái bánh chưng.

Hôm sau nhà vua thiết triều. Sứ giả phương Bắc nghêng ngang tự đắc cho rằng Đại Việt không thể giải được câu đố. Nhà vua phán:

- Những trò chơi chữ kiểu học trò con nít này đâu cần bận tâm đến các đại thần, để ta bảo một chú bé giải câu đố ấy- Quay sang bảo thị thần gọi Nguyễn Hiền vào, lại bảo sứ giả- Nhà ngươi nói lại câu đố với chú bé này đi.

Sứ giả nhìn chú bé cười khinh mạn, đọc lại câu đố. Nguyễn Hiền cười ngất, bảo:

- Tưởng câu đố khó thế nào. Ông đã có công sang nước tôi mà lại lấy sản vật nước tôi ra đố thì ai chả biết. Thứ này người Đại Việt có từ thời Hùng vương cơ. Người ta ăn chán ra rồi. Nó là cái bánh chưng này này.

Nói xong, Nguyễn Hiền móc cái bánh chưng đặt toạch lên bàn. Sứ thần cười ồ lên bảo:

- Không đúng rồi! Không đúng rồi.

Cả triều đình mặt tái mét. Riêng Nguyễn Hiền bình tĩnh văn lại sứ thần:

- Đúng chứ sao không đúng?

Sứ Bắc bảo:

- Nhà ngươi hãy giải cho rõ, nếu không có lý thì phải đánh đòn.

Nguyễn Hiền ung dung nói:

- Nếu tôi nói có lý thì sao?

Sứ Bắc nghĩ nắm chắc phần thắng trong tay mới nói quyết rằng:

- Ngươi nói có lý thì ta đi chân đất mà về, quyết không đòi cống phẩm gì hết.

Nguyễn Hiền nói:

- Xin cả triều đình làm chứng cho. Xin hoàng thượng ban cho giấy mực.

Thái Tông truyền lấy giấy mực. Nguyễn Hiền bảo sứ thần:

- Xin ngài hãy vẽ cái bánh chưng này đi rồi sẽ biết, nó chỉ là một hình vuông với hai cái lạt buộc chữ thập ở giữa thôi.

Cả triều đình cười ồ lên ai cũng hiểu ra đó là chữ điền. Chữ điền gồm hai chữ nhật ghép sát nhau, hoặc bốn chữ sơn châu đầu vào nhau, hoặc hai chữ vương đặt vuông góc tại điểm giữa nhau, hoặc bốn chữ khẩu dồn khít lại. Sứ thần phương Bắc không thể nói gì được nữa, đành tháo giầy đi chân đất lủi thủi ra về. Thái Tông tươi cười phán:

- Tân trạng nguyên tuổi trẻ tài cao. Trẫm phong hàm thượng thư.

Nhà vua nói xong, lại ban thưởng rất hậu. Trên kia đang nói việc Phạm Văn Tuấn khuyên vua Trần Thánh Tông hỏi ý kiến Nguyễn Hiền xem nên cử ai đi sứ sang thông hiếu với nhà Nguyên. Lúc ấy Nguyễn Hiền đang đi kinh lý miền ven biển, nhận được chỉ dụ liền về triều ngay. Được nhà vua hỏi, Nguyễn Hiền tâu:

- Thần nghĩ việc này nên giao cho thông thị đại phu Trần Phụng Công, chư vệ kí ban Nguyễn Thám làm phó sứ thì không phải lo gì nữa.

Khi bọn Mạnh Giáp, Lý Văn Tuấn trở về Nguyên,Thánh Tông cho Trần Phụng Công làm chánh sứ, Nguyễn Thám làm phó sứ, lại cử thêm viên ngoại lang Nguyễn Diễn cùng theo đoàn sứ Nguyên sang kinh đô Khai Bình của nhà Nguyên. Quả nhiên như lời Nguyễn Hiền dự đoán, đoàn sứ bộ do Trần Phụng Công dẫn đầu đã hoàn thành sứ mệnh bang giao. Vua Nguyên phong Trần Thánh Tông làm An Nam quốc vương, lại gửi tặng ba tấm gấm Tây Thục, sáu tấm gấm Kim Thục.

Lúc bấy giờ dân nước làm ăn yên ổn trong ba bốn năm không có nạn binh đao, nhưng khắp nơi bọn tham quan ô lại gây sự phiền hà sách nhiễu bách tính. Quan thượng thư Nguyễn Hiền tâu rằng:

- Nay thống quốc thái sư già yếu, xã tắc thiếu người gánh vác. Bọn tham quan nhân cơ đục nước hà hiếp muôn dân. Xin hoàng thượng cất nhắc người lương đống để trông coi việc triều chính.

Nhà vua nói:

- Trong hai người Quốc Khang và Quang Khải ta muốn phong một người làm thái uý, các khanh hãy chọn cho ta.

Nói xong, nhà vua nhìn quan học sĩ Lê Văn Hưu có ý dò hỏi. Nhưng vì Lê Văn Hưu là thầy của Trần Quang Khải nên giữ ý không nói. Quan thẩm hình viện Đặng Ma La tâu:

- Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải là người kiêm văn toàn võ, bác sử thông kinh, nghiêm trang mực thước nên chọn.

*

Các quan đều cho là phải. Nhà vua liền phong cho Trần Quang Khải làm thái uý. Ngô Tần bước ra tâu:

- Hưng Đạo vương nay nắm binh quyền đóng ở Vạn Kiếp. Thần nghe khi xưa An Sinh vương sắp qua đời có dặn lại những lời phản nghịch. Xin hoàng thượng lưu tâm minh xét.

Phạm Văn Tuấn nói:

- Tôi không tin Hưng Đạo đại vương lại phản trắc. Nay người Nguyên đang dồn người Tống đến bước đường cùng. Nếu nước Tống mất, ắt đến lượt nước ta. Mong hoàng thượng chăm lo hơn nữa việc binh bị.

Đại phu Trần Phụng Công nói:

- Trình quốc công nói đúng lắm. Thần cũng cho rằng người Nguyên hoà mục với ta chỉ là kế hoãn binh chờ thời mà thôi. Xin hoàng thượng tăng cường binh lực hơn nữa.

Quan hàn lâm học sĩ Lê Văn Hưu tâu:

- Từ xưa tới nay các bậc thánh đế đều lấy việc sửa mình, chăm lo cho dân được an lạc âu ca làm điều cội rễ. Xin quan gia trừ bỏ bọn tham quan ô lại để muôn dân bách tính được thấm nhuần ơn mưa móc.

Thánh tông khen phải. Tháng hai năm sau (1262), thượng hoàng ngự ở hành cung Tức Mặc, ban tiệc lớn. Các hương lão từ sáu mươi tuổi trở lên, mỗi người được ban tước hai tư, đàn bà được hai tấm lụa.

Tháng ba cho chế tạo vũ khí, chiến thuyền. Quân thuỷ lục tập trận trên chín bãi phù sa sông Bạch Hạc. Mùa Thu, tháng chín soát lại số tù, kẻ nào khi quân Nguyên sang mà đầu hàng thì không tha. Một hôm Thánh tông ngự thuyền rồng trên sông, nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy, nhà vua hỏi:

- Sông này chảy vào nước ta từ địa phận Quy Hoá, vậy nguồn cội nó ở nơi nào?

Lê Văn Hưu bước ra tâu:

- Sông này bắt nguồn từ hồ nước trên miền núi cao của người Tạng, chảy qua đất Đại Lý hai nghìn sáu trăm dặm rồi đổ vào nước ta từ địa phận Quy Hoá ra đến cửa bể Đại Bàng một nghìn tám trăm dặm nữa, cả thảy là bốn nghìn bốn trăm dặm.

Nhà vua nói:

- Sông có ngọn nguồn người có tổ tông, vậy nước Đại Việt ta có từ bao giờ?

Hưu tâu:

- Muôn tâu hoàng thượng! Giống người Việt Thường ta có từ thủa hồng hoang mờ tối nhưng đến họ Hồng Bàng mới lập quốc, tới nay đã mấy nghìn năm, trải nhiều quốc hiệu, thời vua Hùng tên nước là Văn Lang, vua An Dương vương tên nước là Âu Lạc, đến nhà Tiền Lý đặt tên nước là Vạn Xuân, Vua Đinh Tiên Hoàng lấy tên nước là Đại Cồ Việt, đến vua Thánh tông nhà Hậu Lý (1054) mới lấy tên là Đại Việt.

Vua khen:

- Ai cũng nói khanh là người học sâu biết rộng, quả không sai. Nhưng các khanh hãy nói họ Hồng Bàng lập quốc thế nào?

Quan ngự sử trung tướng Trần Chu Phổ tâu:

- Lê học sĩ nói như thế cũng còn chưa đủ. Nước ta có thể xem như bắt đầu lập quốc từ thời Kinh Dương vương Lộc Tục. Con Lộc Tục là Sùng Lãm nối ngôi cha gọi là Lạc Long Quân đặt quốc hiệu là Xích Quỉ. Lạc Long Quân lấy con gái đế Lai là bà Âu Cơ...

Nhà vua ngắt lời:

- Chuyện bà Âu Cơ sinh ra một trăm trứng thì ta biết rồi nhưng Xích Quỉ là cái gì mà lại lấy làm tên lập quốc. Ta chỉ thấy nói giống chim cá rắn rùa đẻ trứng chứ chưa thấy nói giống người, giống tiên đẻ trứng bao giờ, những chuyện hoang đản như thế liệu có nên tin chăng?

Tân trạng nguyên phò mã Trần Quốc Lặc tâu:

- Những chuyện truyền thuyết trong dân gian đương nhiên được người đời thêu dệt nên, nước nào chả có. Nước Tàu có văn tự đã lâu nhưng những chuyện Nữ Oa, Bàn Cổ cũng chỉ là hoang truyền mà thôi, huống chi nước ta thời ấy lại không có văn tự.

Nhà vua hỏi:

- Vậy thì sự thật về Lạc Long Quân và Âu Cơ là thế nào?

Lê Văn Hưu tâu:

- Tân trạng nguyên nói rất có lí. Xin quan gia tha tội, thần trình bày một giả thuyết về thời ấy.

Thánh tông nói:

- Khanh cứ trình bày, càng sát thực bao nhiêu càng tốt.

Lê Văn Hưu chậm rãi kể:

- Vâng! Có thể Lạc Long Quân chính là Sùng Lãm con trai Kinh Dương vương Lộc Tục. Ngày ấy núi rừng còn hoang vu lắm, đời sống thiếu thốn nhiều; vải, lụa cũng chưa có như bây giờ. Vua dùng ống tre uống nước, lá cây để đóng khố, tuy nhiên tình yêu và tính ghen tuông đã có lâu rồi. Lạc Long Quân sau khi lên ngôi vua, lấy bà Âu Cơ, hai người cũng chỉ sinh đẻ bình thường thôi chứ không đến một trăm con trai hay một trăm quả trứng. Khốn nỗi tính đàn ông ai còn lạ gì, vì Lạc Long Quân phải đi tuần thú trong địa phận của mình luôn luôn nên cũng có quan hệ với nhiều người đàn bà khác nữa, đẻ ra một số con trai. Đương nhiên hồi ấy chưa có cái gọi là cô đầu đào hát như bây giờ. Việc ấy khiến bà Âu Cơ đau lòng lắm nhưng vì bà là người nhân hậu đoan chính nên mới bảo Lạc Long Quân mang những người con trai ấy về để bà nuôi dạy, cho cùng ăn cùng ngủ chung với con mình, đêm lạnh cùng chui vào một tấm chăn vỏ cây lớn mà giãy đạp lùng nhùng như một chiếc bọc. Vì thế người thời ấy mới nói đùa là bà Âu Cơ sinh ra cái bọc có trăm trứng. Về sau người ta tưởng thật.

Lê Văn Hưu ngừng lời. Thánh tông đang chăm chú lắng nghe, hỏi:

- Thế làm sao mỗi người lại phải mang năm mươi con đi một nơi?

Lê Văn Hưu đáp:

- Tâu hoàng thượng! Bà Âu Cơ nghĩ rằng đưa các con chồng về nuôi để Lạc Long Quân yên lòng ở nhà tu chí làm ăn, chăm lo triều chính nhưng không ngờ cái trò quan hệ nam nữ nó như anh nghiện rượu, không mắc vào thì thôi, đã mắc các quan đều biết đấy, đố gỡ ra được. Thỉnh thoảng bố Lạc Long Quân nhà ta vẫn chuồn ra ngoài cải thiện. Sự chịu đựng của ai cũng chỉ có hạn nên mẹ Âu Cơ mới tỏ ý không bằng lòng. Thế là hai ông bà hoá ra xích mích.

Một viên quan bảo:

- Có lẽ đâu lại thế. Vua đi ra ngoài dễ gì để vợ biết bao giờ.

- Biết chứ sao! Ngày ấy làm gì có quán rượu, quán hát. Bố nào mò ra ngoài là vợ con biết ngay chứ chả như các thày bây giờ lấy lí do công kia việc nọ đi thâu đêm tối ngày chẳng ai biết đấy là đâu.

Vua Thánh tông gật gù nói:

- ừ! Cũng có lí, cũng có lí. Xong rồi thế nào nữa? Lê học sĩ kể tiếp đi.

Lê Văn Hưu tiếp:

- Tâu hoàng thượng! Sự xích mích mỗi ngày một thêm gay gắt, về sau mẹ Âu Cơ sinh ra lạnh lùng. Những lần Lạc Long Quân đi đánh rồng tinh ở vịnh Hạ Long, mộc tinh ở Bạch Hạc về, Âu Cơ cũng chẳng cho là thật. Lạc Long Quân nghĩ mình oan, tức quá mới bảo:"Tôi với bà sống chẳng hợp nhau, thôi thì tôi phải đi khỏi cái nhà này để bà hài lòng", thế là đùng đùng đem năm mươi người con xuống vùng đồng bằng ven biển lập nghiệp, trải bao gian khó mới dựng nên được nước Văn Lang.

Một viên quan hỏi:

- Ơ! Chẳng lẽ vợ chồng bỏ nhau dễ thế à?

- Hồi ấy có giá thú văn tự gì đâu mà chả dễ. Bây giờ đủ cả giấy nọ tờ kia còn bỏ nhau xoành xoạch nữa là.

Vua Thánh tông bảo:

- Có lẽ vậy! Có lẽ vậy. Trẫm giao cho Lê học sĩ cùng ngự sử Trần Chu Phổ hãy hợp nhau biên chép lại mọi việc chính sự từ trước tới nay để truyền cho muôn đời mai hậu.

*

Trời tối đen như người bịt mắt, Điệp chạy đã xa làng, xem chừng bọn tráng đinh nhà lý Thử không đuổi đến nữa, cô ngồi thụp xuống bờ ruộng bưng mặt khóc. Cô không dám oán trách ai. Cha con Vĩ Thố, Vĩ Thử là người có công với nước, oán trách người có công với nước là có tội, triều đình đã bảo thế, nhà vua đã bảo thế. Điệp chỉ còn biết tự trách mình đã sinh ra trong cảnh đói nghèo và tủi cho cái nhan sắc của mình bây giờ không biết để cho ai. Bằng lòng lý Thử ư? Người ta bảo hắn có công, không biết hắn lập công ở đâu nhưng cô chỉ thấy hắn nhiều lần trốn lính. Điệp đã từng hò hẹn với Mai Văn Lương, hai đứa trẻ con nhà nghèo phải lòng nhau còn chưa có lời nói cùng cha mẹ. Giặc Thát sang, Mai Văn Lương vào lính, anh nằm lại bên bờ sông Nguyệt Đức. Điệp chờ đến cái ngày người ta treo vào giữa túp lều rách nát của mẹ anh tấm đại tự với ba chữ vàng chói tử vị quốc. Cô khóc đến cạn nước mắt vì cái chết của cha và cái tin Mai Văn Lương tử trận. Cô không biết chữ, không hiểu nhiều về ý nghĩa cuộc đời, chỉ lờ mờ nhận thấy mình sống không còn để làm gì. Giờ đây cô không thể trở về ngôi nhà của mình nữa. Khóc chán, Điệp đứng dậy dò dẫm bước đi giữa khoảng đồng không tăm tối mịt mùng. Thế là hết, cha mẹ, tình nhân, nhà cửa và cả quê hương, tất thảy đã trôi vào dĩ vãng. Điệp cắm đầu đi trong đêm, chẳng biết đi đâu, bước thấp bước cao, ngã lên ngã xuống, càng đi càng xa làng Cao Duệ thuộc huyện Trường Tân nơi quê hương gốc gác của cô, đến sáng thì tới một khu chợ nhỏ ven đường, hỏi thăm mới biết đây đã thuộc về phủ Đường An. Điệp vào chợ xin ăn. Có người đàn bà mặc chải chuốt, đánh mắt nhìn Điệp một lượt từ đầu đến chân, bảo:

- Con gái xinh xẻo thế này sao phải đi xin ăn. Trốn chồng phải không? Có muốn làm việc với mợ thì mợ đưa về. Hừ! Cũng được đây.

- Dạ! Mợ muốn việc gì cháu cũng làm được ạ.

- Việc thì thiếu gì, chỉ sợ các cô cao giá không chịu làm thôi.

- Dạ! Được mợ cứu giúp, dẫu có làm trâu làm ngựa cháu cũng không ngại.

- Làm trâu, làm ngựa! Sao không nghĩ phải làm người cho nó ra con người có hơn không. Ăn ngon mặc đẹp, múa hát lại chả sướng hơn cửi trần đi cày, kéo xe à?

Nói xong người đàn bà nắm tay Điệp dắt đi. Đến một khu dinh thự cổng cao, trụ cổng tạc hình hoa lá cong lượn như cổng đình. Phía trên cổng có ba chữ đại. Điệp không hiểu là chữ gì cứ mơ mơ hồ hồ ngoan ngoãn đi theo người đàn bà như con chó con theo chủ. Vào đến thềm có hai cô gái chạy ra chào:

- Mợ Hồng đã về! Chúng con chào mợ ạ.

Mợ Hồng đảo con mắt sắc như dao cạo, nói với hai cô gái:

- Đây là em Mộng Điệp. Nó còn dại, các con lo cho em ăn mặc tươm tất nghe chưa?

Mợ Hồng quay sang bảo Điệp:

- Đây là chị Mơ, chị này là Huệ. Hai chị ấy sẽ lo ăn mặc cho con. Hôm nay, ngày mai cứ nghỉ ngơi cho lại sức chưa phải làm gì vội.

- Thưa mợ! Con tên là Điệp chứ không phải là Mộng Điệp đâu ạ.

- Thì từ hôm nay đổi đời, tên là Mộng Điệp có sao. Thôi con Mơ đưa em xuống nhà ăn uống rồi tắm rửa thay áo xống đi.

Điệp theo Mơ xuống nhà ngang ăn cơm trắng với cá rán, thịt đông, rau canh cải. Đó là những món ở nhà dẫu nằm mơ Điệp cũng không dám nghĩ tới. Mợ Hồng thấy Điệp ăn uống ngon lành, có vẻ bằng lòng lắm. Ăn xong Mơ dẫn Điệp ra vườn sau tắm trong một chiếc hồ hình bán nguyệt xây gạch xung quanh. Mơ đưa cho Điệp một bộ váy áo mới tinh bằng thứ lụa hồng thêu kim tuyến óng ánh bảo không được mặc váy áo cũ nữa. Điệp ngại ngần không dám mặc. Mơ bảo:

- Thôi cứ mặc vào em ạ! Đã trót nuốt miếng cơm của nhà này khó nhả ra lắm đấy.

- Sao chị không bảo em trước?

- Mợ Hồng biết chị nói với em thế này thì chị chết đòn ngay. Có chị vì hở lời đã bị đánh đến gần chết đấy. Chị em mình đành vậy, biết làm sao.

- Thế ở đây chị em mình phải làm việc gì hả chị?

- Điều đó chị không thể nói với em. Sau rồi em sẽ biết.

Điệp đã lờ mờ hiểu ra điều gì, cô không mặc bộ đồ mới, chạy thẳng vào nhà tìm mợ Hồng. Lúc ấy mợ Hồng đang ngồi cùng một người đàn ông trẻ tuổi, ăn mặc bảnh bao có cốt cách của một quan nhân hay một công tử con nhà thế phiệt. Phía sau người ấy là một gã đàn ông mặt mũi dữ dằn, râu quai nón đứng hầu. Mới trông thấy y, Điệp đã hết cả hồn vía. Mợ Hồng vừa thoáng thấy Điệp, quát:

- Con Điệp phải không? Sao không thay áo sống đi rồi ở dưới ấy. Ai cho mày lên đây?

- Dạ thưa mợ! Bộ váy áo ấy đẹp quá; những kẻ bần hàn như con sao dám mặc ạ. Mợ đã cứu con, cho ăn uống thế là con biết ơn lắm rồi. Sau này có dịp xin đền đáp.

Mợ Hồng trừng mắt, nói:

- A! Con này muốn giở qủe. Thế mà xoen xoét cái mồm làm trâu làm ngựa cũng làm. Đứa nào nói gì với mày hả? Con Mơ đâu rồi? Lên đây! Mày nói gì với nó?

Cô Mơ mặt mũi tái nhợt, lên quì giữa nhà. Điệp vội nói:

- Chị Mơ không nói gì với con đâu ạ. Chỉ vì con nhớ bố mẹ nên muốn về thôi.

- Sao mày bảo bố mẹ chết hết cả rồi? Con này ghê thật, dám lừa bịp kiếm ăn à? Này bà nói cho mà biết, cơm nhà bà ngon thật đấy nhưng không dễ nuốt đâu nhé. Tử tế thì bà đùm bọc chứ còn lừa đảo, bà cũng không cần nghe chửa. Thôi giả tiền cơm cho bà rồi xéo đi đâu thì xéo khuất mắt. Bữa cơm bà chỉ lấy bốn xu rưỡi thôi.

- Lạy mợ con...

Chị Mơ kéo áo Điệp bảo:

- Thôi! Xin lỗi mợ đi rồi xuống đây.

Người đàn ông râu quai nón nhìn trừng trừng làm Điệp chết khiếp, cô nói như một con rối:

- Con xin lỗi mợ! Con xin lỗi mợ.

Rồi lùi lũi theo chị Mơ xuống nhà ngang.

*

Sáng nay nắng nhẹ trời mát, anh lính Thân Văn Khoai vui vẻ sắp đi nhận phiên gác bỗng ngoài doanh có người hô:

- Quan hàn lâm viện thị độc tới.

Quan hàn lâm viện thị độc Trần Chu Hinh hô to:

- Hoàng thượng có chỉ.

Mọi người nhất loạt quì xuống bái mệnh. Quan thị độc dõng dạc đọc:

- Lính tốt Thân Văn Khoai khi trước theo thượng hoàng đánh giặc, có công hộ giá ở Bình Lệ nguyên, chưa được khen thưởng. Nay trẫm đặc cách phong làm đô trưởng. Khanh hãy hết lòng phục vụ triều đình, lập công hơn nữa.

Thân Văn Khoai vui mừng khôn xiết, bái lạy tạ ơn lĩnh chỉ. Quan thị độc lại gọi quân hầu mang vàng lụa của thượng hoàng ban cho Thân Văn Khoai, trước khi về còn dặn dò:

- Ta đã được nghe chính thượng hoàng nói về công lao của nhà ngươi. Bây giờ trong tay ngươi nắm mạng sống của một trăm binh lính. Hãy cố gắng làm cho tốt chức nhiệm.

Khi quan thị độc về rồi, đám lính mới nhao nhao đòi Văn Khoai kể chuyện chiến công. Văn Khoai nói:

- Có gì đáng gọi là chiến công đâu. Hôm thượng hoàng rút từ Bình Lệ về Lãnh Canh, con ngựa của người bị trúng một mũi tên ngã quị. Tôi liền nhường ngựa của tôi cho người, chạy bộ theo. Về sau không theo kịp nữa, tôi nấp trong rừng bắn chết một thằng Thát, cướp lấy ngựa chạy kịp về Lãnh Canh cùng quan binh xuống thuyền.

Đám tân binh cùng reo lên:

- Đô trưởng của chúng ta giỏi quá.

Lúc ấy Trịnh Quang Minh đã được ân xá trở về làm thập trưởng. Văn Khoai khoác tay Quang Minh, nói với mọi người.

- Tôi chỉ có chút công thừa, không thể nói là giỏi. Các chú mới về không biết, bác Quang Minh đây mới thật là người giỏi. Bác ấy đã được đích thân thống quốc thái sư tiếp chuyện và ban thưởng. Tôi chỉ đáng là học trò của bác ấy thôi. Tất cả anh em chúng ta còn phải nhờ bác ấy chỉ bảo nhiều đấy.

Trịnh Quang Minh đang buồn vì phải làm cấp dưới của Thân Văn Khoai nhưng được lời giới thiệu ấy cũng hởi lòng hởi dạ. Vì thế từ quan đến lính trong đô vệ binh thân thiết nhau lắm. Chiều hôm ấy Văn Khoai bỏ ra mấy lạng bạc bảo nhà bếp làm bữa nhắm đãi anh em trong cả đô, lại mời đô trưởng của mấy đô tứ sương, hổ bôn bên cạnh nữa. Trong bữa tiệc, Văn Khoai nhường Quang Minh ngồi ghế trên, tôn như bậc thầy. Quang Minh lấy làm vinh hạnh lắm, ai nấy đều cho Văn Khoai là người nghĩa khí. Mấy hôm sau nhân được ngày nghỉ, Quang Minh rủ Văn Khoai:

- Nghe nói ở La thành có quán rượu Phúc Tình nhiều món ngon lắm, tôi với chú ta ra làm vài chén đi.

Văn Khoai đang cao hứng nên nhận lời ngay. Quán rượu Phúc Tình trên mặt phố gần hồ Lục Thuỷ, quả khang trang sạch sẽ, phía trước là hai dãy đại sảnh có gác dành cho khách uống rượu, phía sau là mấy dãy nhà có phòng kín để khách quá chén nghỉ ngơi, lại có cả phòng ngũ cung để tao nhân mặc khách cùng đào nương đàn hát. Trên lầu, dưới nhà chỗ nào cũng treo đèn lồng rực rỡ. Trên vách phòng rượu trưng nhiều bức tranh thuỷ mặc khổ lớn, phòng nghỉ của khách dán tranh vũ nữ có cô hở cả đùi cả rốn. Cơ ngơi này mấy năm nay phát đạt là nhờ sự liên kết giữa mợ Tư Phúc với thầy lý tể Vũ Tình.

Sau cái đận đi tìm mộ anh Tư Phúc về, thày lý Vũ Tình tỏ ra quan tâm đến gia đình có công với nước hơn, đến thăm vợ con anh Tư Phúc luôn. Cái thân hình mềm mại của người đàn bà còn đang độ căng đầy sự ham muốn thể xác được che giấu dưới lần áo vải sồi lam lũ như xui khiến mời gọi thày lý làm điều tội lỗi. Khi đã đạt được cái mình muốn, thày lý phát hiện ra một điều, sự vụng trộm tội lỗi đó chính là niềm hạnh phúc sâu sắc của cuộc đời. Thày lý đã giúp mẹ con chị Tư Phúc dựng được một quán rượu nhỏ ở đầu phố, có một khoản thu đủ để ba mẹ con chị sống yên ổn. Nhưng chẳng ai muốn được cái gì một cách dở dang, một bữa thày lý bảo:

- Tôi với mợ đã đến nước này, để tôi kiếm cơi trầu đón mợ về đằng ấy. Mợ nghĩ thế nào?

- Về đằng ấy với thầy lý để mợ lý xé xác em ra ư? Lại còn hai đứa con của em nữa, thày lý cũng đã có một đàn con rồi, việc xử sự càng thêm khó. Chi bằng ta cứ thế này mà hưởng lộc trời có hơn không. Vả lại ở đằng này mỗi tháng triều đình còn cấp cho em mấy quan tiền tuất, được tiếng là vợ người tử vị quốc giữ gìn tiết hạnh chứ về đằng ấy đã chịu cảnh lẽ mọn lại mất hết quyền lợi. Em chả vào.

- Mợ nghĩ thế cũng là hết nhẽ, nhưng tôi đi lại đây mãi sao tiện. Vả lại, gần gũi nhau luôn nhỡ có con thì mợ còn giữ làm sao được chữ tiết hạnh nữa.

Tư Phúc gí ngón tay vào mũi Vũ Tình, mắng yêu:

- Sao mà ngớ ngẩn thế. Đã sợ không tiện thì đừng đến nữa. Có con ư? Thuốc Bắc, thuốc ta đầy ra đấy, lại còn cả... Ai dại gì mà để có thai. Dạo này đắt khách, em tính mở rộng quán ra để làm ăn đây. Thày lý phải giúp em đấy.

- Thế cũng được, nhưng đừng đến mức đào nương kỹ nữ mà lính kiểm thành họ không tha đâu.

Tư Phúc bĩu môi nói:

- Lính kiểm thành! Chẳng lẽ lính kiểm thành thì không mê gái chắc? Việc này chính một viên hiệu uý kiểm thành xui em đấy. Này nhé nhà em là nhà có công với nước, trên đã có vương pháp che, ở phố thì thầy lý nâng đỡ. Trên che dưới đỡ, bố đứa nào cũng không dám làm gì. Khối quán đầy đào hát, đầy kỹ nữ có làm sao đâu. Hay là thày lý không muốn giúp em thì thôi. Em đi nhờ người khác vậy.

- Ơ kìa! Chưa chi đã dỗi. Mở rộng thì mở rộng.

Quán rượu Phúc Tình đặt đúng vị trí thuận lợi. Nó như cái cây được bón bằng ân sủng của triều đình và che chắn bởi tình thương của các vị quan viên đối với mẹ con người gái goá, lớn lên như có phép nhiệm mầu, mới qua vài năm đã trở thành tửu quán có tiếng nhất nhì nơi đô hội.

Thân Văn Khoai và Trịnh Quang Minh tới nơi, trời vừa tối. Trong quán đèn nến sáng như ban ngày. Phía nhà sau đèn màu lờ mờ, thấp thoáng vài bóng giai nhân thướt tha qua lại. Khách trong phòng rượu đủ cả văn nhân, binh lính. Một bàn có mấy người ăn mặc kiểu võ quan nói chuyện bô bô:

- Hoàng thượng đã xuống chỉ cho soạn bộ quốc sử rồi.

- Món này cay quá... Nước mình văn hiến lâu đời phải có sử chứ. Hoàng thượng thật anh minh.

- Này! mới có mấy ả phốp pháp ra phết. Tí nữa chứ! Hả?...

- Chính chúng ta là những người làm nên lịch sử.

Từ gian lầu phía sau vọng ra giọng hát của một cô đào:

- Non non nước nước i i i...

*

Lại nói Lê Văn Hưu tuân chỉ chép sử, ngày đêm miệt mài tra cứu soạn thảo đến tháng chạp năm Quý Hợi (1-1264) thì hoàn thành, sao làm ba bản, dâng lên thượng hoàng, nhà vua và thống quốc thái sư Trần Thủ Độ. Sang tháng giêng năm Giáp Tý (1264), quan thái sư Trần Thủ Độ bảy mươi mốt tuổi, dưỡng bệnh ở Quắc Hương; nhà vua cho Ngô Tần mang một bản đến trình. Thái sư hỏi:

- Lê Văn Hưu là người thế nào?

Ngô Tần thưa:

- Trình thái sư! Lê Văn Hưu người làng Phủ Lý, huyện Đông Sơn, ái châu, từ nhỏ đã nổi tiếng là tài giỏi, một hôm đi học qua quán thợ rèn dừng lại hỏi: "Bác ơi! Ông tổ nghề rèn là ai vậy?". Thấy cậu bé có vẻ thông minh dĩnh ngộ, bác thợ rèn cười bảo: "Cháu là học trò phải không? Ta có câu đối này, cháu đối được thì có thưởng nếu không phải ở đây quai búa cho ta". Lê Văn Hưu bảo: " Vâng! Bác cứ đọc đi". Bác thợ rèn đọc:

- Than trong lò, sắt trong lò, lửa trong lò, thổi phì phò, rèn nên dùi sắt.

Lê Văn Hưu bảo: " Thế thì có gì là khó đâu ạ? Cháu đối nhé:

- Nghiên ở túi, bút ở túi, giấy ở túi, viết lúi húi, giật lấy khôi nguyên.

Bác thợ rèn cười lớn, khen: "Giỏi ! Giỏi! Ta thua cháu đó", nói xong thưởng cho Lê Văn Hưu ba mươi đồng tiền để mua giấy bút nhưng Hưu không lấy, chỉ muốn bác thợ rèn nói cho biết ai là ông tổ nghề rèn. Năm Đinh Mùi, Hưu đỗ bảng nhãn, nổi tiếng học sâu biết rộng. Làm quan cho đến nay, mọi việc đều cẩn trọng, không sai sót bao giờ.

Vì thái sư Trần Thủ Độ không biết chữ lại đang ốm nên bảo Ngô Tần:

- Ngươi đọc cho ta nghe.

Ngô Tần ở bên thái sư, đọc mới hết kỷ Hồng Bàng. Thái sư nhăn mặt nói:

- Sử thế này thì đem người viết mà chém đi. Ngươi về triều trước, tâu với nhà vua bắt Lê Văn Hưu bỏ vào ngục. Đợi ta khoẻ sẽ vào định liệu.

Thái sư nói xong, thở giấc lên, ngất đi. Mọi người vội gọi thày thuốc trong phủ đến cấp cứu.

Thật là:

Bia đá sử xanh thành hay bại

Ai đi ai ở vẫn chưa tường

Mời bạn đọc tiếp chương sau xem Ngô Tần về tâu với nhà vua thế nào.

Đan Thành

Nhật Hiệu xấu hổ gượng nhận chức quan

Khánh Dư ngang tàng tha tù ăn lễ

Thái sư Trần Thủ Độ đang ốm, mới nghe đoạn đầu cuốn Đại Việt sử ký đã uất lên ngất xỉu. Thầy thuốc trong phủ xúm vào cứu chữa. Hồi lâu thái sư tỉnh lại nói:

- Ta tuy không biết chữ nghĩa sử sách chi cả nhưng cũng hiểu Lạc Long Quân và Âu Cơ là Quốc tổ của người Đại Việt, tượng trưng cho giống nòi, là tiên là thần vạn thủa. Thế mà các ngươi dám xúc phạm, coi như người thường được ư? Ai nói với các ngươi là người không đẻ được ra trứng. Gà vịt còn đẻ được trứng, chẳng lẽ người không bằng gà vịt à? Rõ là một lũ mất gốc dốt nát.

Thái sư nói xong rên khừ khừ, đêm ấy qua đời ở phủ đệ, lúc gần đi vẫn lẩm bẩm chửi bọn dốt nát. Ngô Tần vội về triều báo tin thái sư mất. Thượng hoàng và nhà vua cùng đến chịu tang.

Thái sư Trần Thủ Độ khi còn sống ít được học hành, làm nhiều điều dâm loạn, tàn ác nhưng chính ông là người khổ công đắp nền xây móng dựng nên triều đại nhà Trần thịnh vượng, kéo muôn dân cùng đất nước ra khỏi cảnh lầm than. Cũng chính ông là người nhen nhóm từng người lính, mũi tên tạo nên quân đội Đại Việt đủ mạnh làm tròn sứ mệnh đánh thắng cuộc xâm lược đầu tiên của quân Mông Thát vào Đại Việt. Các sử gia đời sau rất nhiều người chỉ trích ông một cách nặng nề nhưng cũng không thể không công nhận: Thủ Độ tuy làm tể tướng, nhưng mọi việc không việc gì không để ý. Vì thế đã giúp nên vương nghiệp và giữ được tiếng tốt đến lúc mất. Có bài thơ ca ngợi Trần Thủ Độ rằng:

Một đời vất vả dựng cơ đồ

Tấc lòng đâu quản chuyện nắng mưa

Đem thân gánh đỡ ngàn công việc

Dang tay chèo chống vạn mối lo

Trinh liêm ghi tạc lòng quân sĩ

Uy vũ dẹp tan dạ cường Hồ

- Đầu bạc chưa rơi, xin đừng sợ

Nam thiên tráng khí bụi không mờ

Bấy giờ ngự đệ Trần ích Tắc mới mười mấy tuổi nhưng đã rất nổi tiếng văn chương, sau này trong nhà nuôi nhiều môn khách tài hoa như Mạc Đĩnh Chi, Bùi Phóng đến vài chục người, thường cùng nhau xướng hoạ thơ văn, đá cầu, đánh cờ môn nào cũng tỏ ra tinh thạo. Ích Tắc theo về chịu tang, thượng hoàng Thái tông sai Ích Tắc làm một bài văn điếu. Ích Tắc bảo người lấy giấy mực, vén tay áo viết một mạch đến lúc buông bút mới ngẩng lên, nói:

- Tâu Thượng hoàng! Con đã viết xong rồi ạ.

Thượng hoàng cùng nhà vua xem đều khen. Đến khi mang đọc, lời văn lưu loát như nước chảy mà hết sức bi tráng, ai nghe cũng không cầm được nước mắt. Mọi người đều cho Ích Tắc có văn chất thánh thần. Từ đấy Ích Tắc hoá kiêu kì cho rằng mình xứng đáng làm vua hơn, ngầm cử tay chân sang tư thông với người Nguyên, cầu vua Nguyên phong mình làm vua xứ An Nam.

Ngô Tần tâu với nhà vua ý kiến của thái sư Trần Thủ Độ về bộ Đại Việt sử ký nhưng ông nói thêm:

- Thần cho rằng những lời nói của thái sư trong lúc không còn tỉnh táo chưa hẳn đã sáng suốt. Mong quan gia minh xét.

Thánh tông phán:

- Việc này ta đã thỉnh ý thượng hoàng. Người nói: "Truyền thuyết trong dân gian tuy nhiều điều không có căn cứ nhưng nó là sự chung đúc lâu đời của muôn dân bách tính, là niềm ngưỡng vọng của trăm họ, là bảo ngọc tâm linh của non sông. ý dân như vậy, chớ làm khác đi. Vả lại văn tự không có, lấy gì làm bằng cho việc đúng sai? Nếu các học giả ai cũng cứ theo suy luận riêng của mình mà viết thành sách thì sau này hậu thế tránh sao khỏi tình trạng đa thư loạn mục, biết tin vào đâu? Vậy sách viết ra còn có ích lợi gì?" Lê học sĩ! Nhà ngươi hãy khảo cứu viết lại thật kĩ sao cho được bộ sách làm sáng tỏ nền chính trị nước nhà.

Lê Văn Hưu nhận chỉ, tra cứu sử sách, biên chép kĩ càng suốt tám năm trời mới hoàn thành bộ Đại Việt sử ký gồm ba mươi quyển, mùa Xuân năm Thiệu Long thứ Mười lăm (Nhâm Thân-1272) dâng lên nhà vua. Thánh tông xem xong, xuống chiếu khen ngợi.

Một hôm nhà vua đãi yến các quan ở ngự hoa viên, mới hỏi quan ngự sử Trần Chu Phổ rằng:

- Vì sao người Việt ta khi xưa không có chữ?

Trần Chu Phổ tâu:

- Cũng chưa ai nói chắc người việt ta xưa không có chữ. Biết đâu từ đời Triệu Vũ đế muốn triệt hẳn cái gốc của dân ta mới bắt bỏ đi chăng?!

Thượng thư Nguyễn Hiền tâu:

- Đồ đồng đồ đá từ xưa đến nay còn lại rất nhiều, ngoài hình chạm khắc cũng không có văn tự gì. Thần cho là người Việt mình trước kia đúng là chưa có chữ.

Trần Chu Hinh nói:

- Người Việt ta vốn có lòng tự tôn dân tộc, sao lại không có chữ? Thần cho là có nhưng đã bị người Bắc đồng hoá đi rồi. Cần phải tìm cho ra mới được.

Lê Văn Hưu nói:

- Chính vì có lòng tự tôn dân tộc nên thần dám khẳng định người Việt ta xưa kia chưa có chữ. Bởi vì chữ là tài sản quí báu của quốc gia, dân ta vì lòng tự tôn dân tộc nhất định cất giấu không cho người Bắc phá bỏ, đánh mất một tài sản quí giá như thế là một tội lớn. Cha ông ta không thể mắc một tội lớn như vậy được.

Thánh tông vui vẻ nói:

- Không ngờ điều trẫm nêu ra lại được mọi người tranh đàm hào hứng đến vậy, nhưng bây giờ nói gì vẫn còn là quá sớm. Biết đâu năm bảy thế kỷ sau con cháu chúng ta tìm được câu trả lời minh xác.

*

Khi thái sư Trần Thủ Độ mất, ngôi tể tướng bỏ trống. Thánh tông thiết triều, phán:

- Nay thống quốc thượng phụ về trời, chức thái sư phải có người gánh vác. Trẫm xét trong các vương hầu, duy có Khâm Thiên đại vương Nhật Hiệu đảm trách được. Vậy trẫm phong Trần Nhật Hiệu chức thái sư tướng quốc.

Nhật Hiệu bước ra tâu:

- Thần không dám nhận chức ấy. Xin hoàng thượng chọn người có thực tài mới đảm trách được.

Thánh tông hỏi:

- Hoàng thúc hãy nói cho rõ vì sao vậy?

- Muôn tâu hoàng thượng! Khi xưa quân Thát đánh sang, thần không ra sức đánh giặc. Khi thượng hoàng hỏi kế sách, thần sợ hãi không nói thành lời chỉ lấy tay chấm nước viết lên mạn thuyền hai chữ nhập Tống, từ bấy đến nay mỗi lần nghĩ lại muôn phần hổ thẹn. Thượng hoàng nhân từ không trách phạt cũng để thần phải đội ơn trời bể lắm rồi, còn mặt mũi nào dám nhận quyền cao chức trọng.

Thánh tông khen:

- Hoàng thúc thật là có nhân cách. Như vậy lại chả hơn nhiều kẻ tội lỗi đầy mình mà không biết xấu hổ là gì ư? Hoàng thúc không nhận chức thái sư thì thôi. Trẫm phong hoàng thúc làm tướng quốc thái uý vậy.

Như vậy Thánh tông cho Nhật Hiệu không nhận chức "thái sư" nhưng lại ban thêm hai chữ "tướng quốc" thành "tướng quốc thái uý" nắm quyền trong nước. Nhật Hiệu cố từ chối nhưng không được, đành gắng gượng nhận chức.

*

- Cứ đánh tuốt xác nó ra. Không thể thương được những loài bướng bỉnh như vậy. Cơm không ăn, cho mày ăn roi - Mụ hồng thét lên.

út Mãi vung chiếc roi gân bò vun vút, nghe mà nổi hết gai gà. Điệp lăn lộn dưới đất, van xin:

- Con lạy mợ! Mợ bắt con làm gì cũng được nhưng đừng bắt con bán thân.

- Tao chỉ có mỗi việc ấy thôi. Không bán thân sao trả được nợ.

- Con chỉ ăn một tháng cơm của mợ, con về bán mảnh vườn, xin hoàn trả mợ đầy đủ ạ.

- Vườn ở đâu mà bán? Cái bọn lừa đảo chúng mày nói mười không tin được một. Bà theo chân mày về quê à? Mỗi bữa bốn xu rưỡi, hai bữa là chín với một xu nước non tắm rửa, vị chi mỗi ngày là một hào. Mày ở đây một tháng tức là ba đồng.

Điệp thét lên:

- Trời ơi! Nhiều thế làm sao con trả được? Con có muốn ở đây đâu, bà bắt con phải ở đấy chứ.

- A! Nỏ mồm lý sự. Đánh!

Chiếc roi trong tay út Mãi lại lồng lên cắn xé làn da mịn màng của Điệp.

- Bà vẫn biết mày là đứa vô ơn, giỏi cãi lắm. Nhiều à? Chính tay mày điểm chỉ vào giấy nợ đây chứ ai. Tiền của bà nó còn biết đẻ chứ đâu phải chỉ có thế. Một tháng một đồng thành hai, vị chi cứ chồng đủ cho bà sáu đồng bạc ra đây rồi mày muốn đi đâu thì đi.

Điệp gào lên:

- Thì ra tôi không biết chữ, các người lừa tôi.

- Lừa này! Lừa này! Ai lừa mày. Ông thì dận cổ - út Mãi vừa nói vừa quất roi veo véo vào người Điệp.

Chị Mơ chạy vào van xin mụ Hồng:

- Thôi mợ ơi con xin mợ. Để con khuyên em nó dần dần chứ đánh thế này cả tháng sau cũng chưa hết vết lằn, có muốn tiếp khách cũng không được.

- Thôi được! Ta tạm tha cho nhưng chị em phải bảo nhau, đừng để ta phải cho động tay chân.

Mơ kéo Điệp xuống nhà dưới, nói:

- Dại quá em ơi! Chị đã nói rồi, không thể chống lại với họ được đâu. Ngày mới đến đây chị cũng chống đối như em, còn định treo cổ chết nữa nhưng chết cũng chẳng được còn bị đánh đến rách da rách thịt.

Điệp đau quá vừa rên vừa nói:

- Em chết mất thôi chị ạ.

- Chết cũng khó lắm chứ đâu có dễ. Chết được thì chị đã chết rồi. Chẳng ai người ta để cho em chết. Họ nuôi mình như nhà nông chăm chút con lợn. Ai muốn cho lợn chết bao giờ. Tốt nhất là được ăn cứ ăn, được chơi cứ chơi, chiều thằng đàn ông một tí, mình yên thân.

- Đàn bà chúng ta sao ai cũng chỉ muốn yên thân nhưng càng muốn yên, họ càng nhận chúng ta xuống bùn. Em chưa chịu đâu, không thể nào chịu được. Em sẽ trốn đi báo quan.

- á à, giỏi! Giỏi! Đi báo quan! Có thật muốn đi báo quan tao cho người dẫn đi hẳn hoi, không phải trốn - Mụ Hồng đột ngột xuất hiện khiến Mơ và Điệp co rúm lại - Báo quan này, báo quan này.

Mỗi một câu "báo quan này" mụ Hồng véo một cái vào phía dưới cánh tay của Điệp. Những vết véo tụ máu tím lịm. Mơ sợ hãi van xin.

- Con xin mợ. Em nó còn dại, để con bảo nó dần dần.

- Còn cái thân mày nữa đấy, không bảo được nhau, sống cũng chẳng được, chết cũng không xong với bà. Nào! Con kia có muốn đi báo quan không?

Điệp không trả lời. Mụ Hồng bỏ lên nhà trên. Mơ bảo:

- Em hồ đồ quá! Mợ Hồng chính là bà hai của quan huyện chứ ai. Mợ ấy là con nhà danh gia vọng tộc lại được quan châu về thăm luôn. Chính vì để quan châu đi lại tự nhiên với vợ mình nên quan huyện mới được nâng đỡ. Mợ Hồng có nhiều nghề ngón làm mê mẩn lòng người nên quan châu không thể rứt ra được. Quan huyện đã có bà ba, bà tư, mỗi bà một cơ ngơi, thỉnh thoảng mới về đây xem công việc làm ăn buôn bán thế nào thôi.

Điệp ngơ ngác hỏi:

- Buôn bán? Em có thấy buôn bán hàng họ gì đâu.

- Em khờ quá! Chính chị em mình là hàng chứ còn gì nữa? Chị Huệ đấy, bán về Đại La rồi. Khách đến chơi ở đây chỉ là phụ thôi, toàn các thày phán thày đề trong huyện ấy mà, thu được bao nhiêu đâu. Họ đãi nhau là chính. Chị xấu xí thuộc loại hàng ế chứ không cũng bán đi rồi. Đấy! Thế thì quan nào xử kiện cho em?

Điệp kêu lên ngao ngán.

- Trời ơi! Thế này ra quan chỉ biết kiếm lợi thôi. Dân chúng mình kêu ai?

- Thì thế đấy. Quan to có lợi to, quan nhỏ có lợi nhỏ. Không có lợi, ai ngu gì mà làm quan.

*

Người thượng ở Quảng Oai từ khi được Nguyễn Nộn xúi giục vẫn có ý không thần phục nhà Trần. Khi quân Thát vào xâm lấn, họ lập quân ngũ riêng đánh chặn bọn lính Thát đi cướp lúa gạo, giết lính Thát, thu nhiều binh khí, trong đợt truy sát đám tàn quân Hoài Đô và Nghạch Vu Tháp, còn lấy được mấy xe vàng lụa do lính Thát cướp trong kinh thành mang đi. Tù trưởng người thượng khi ấy là Phùng Hà nói với các đầu lĩnh:

- Người man ta từ khi được Hoài Đạo vương thương yêu, ơn trọng như núi. Công lao ấy đối với chúng ta chưa có triều đại nào sánh được. Nay người nhà Trần không có công ơn gì. Bọn quan châu quan huyện chỉ biết hối thúc việc đi tìm mật gấu, xương hổ, da báo, nhung hươu khiến dân ta vô cùng khổ sở. Của rừng có hạn, lòng tham vô bờ. Lần này quan huyện lại đòi mười bộ xương hổ, mười con gấu ngựa, năm sừng tê giác, mười cặp nhung hươu thì lấy đâu ra? Chi bằng ta đánh đuổi bọn huyện quan rồi tự hùng cứ đất đai của mình là hơn.

Các đầu lĩnh mặt mũi tô vẽ dữ dằn cùng nói:

- Chúng tôi xin vâng lệnh.

Phùng Hà chia quân đánh úp huyện đường. Quan huyện đang đêm phải mang gia quyến chạy đến báo với quan châu. Quan châu vội làm sớ dâng lên cáo cấp với triều đình. Trần Thánh tông liền họp các đại thần bàn kế đánh dẹp. Quan đại hành khiển Nguyễn Giới Huân hiến kế:

- Người man xứ Quảng Oai từ xưa tới nay chưa bao giờ thật lòng thần phục là vì họ ở nơi hẻo lánh không được giáo hoá, không biết đến vương pháp, ân đức của triều đình cũng chưa thấm nhuần, trước kia lại nghe Nguyễn Nộn xui bẩy nên mới đem lòng phản trắc. Ta nên sai sứ thần đến khuyên giải lẽ thiệt hơn, ban ân điển của triều đình thì chắc họ theo.

Thông thị đại phu Trần Phụng Công nói:

- Điều quan hành khiển nói cũng mới chỉ đúng một phần. Cái cớ để người man nổi dậy còn vì bọn quan châu quan huyện ở đó quá nhiễu nhương bách tính, tham tàn vô độ. Xin hoàng thượng giáng chỉ bắt tội bọn chúng để yên lòng trăm họ thì hoạ mới được trị tận gốc.

Thánh tông nhìn tướng quốc thái uý Trần Nhật Hiệu, hỏi:

- Hoàng thúc có kế sách gì không?

Nhật Hiệu nói:

- Đại hành khiển cùng Thông thị đại phu bàn rất phải. Một mặt nên cho người đến nói rõ với Phùng Hà, mặt khác đòi quan tri châu tri huyện xứ ấy về triều trị tội, cử người liêm chính đến thay. Nếu Phùng Hà không nghe, ta dùng binh cũng chưa muộn.

Thánh tông nghe theo nhưng bọn Phùng Hà dựa vào miền sơn dã thủ hiểm, không chịu hàng phục. Thánh tông phán:

- Nay ta muốn chọn một tướng đi đánh quân man, hiềm nỗi Hưng Đạo Vương và Lê Phụ Trần đều bận việc cả, có lẽ phải cho người đi gọi đại tướng Trần Khuê Kình về thì việc này mới xong được.

Nhà vua nói xong liếc nhìn hầu tướng Trần Khánh Dư, thấy cái yết hầu chạy lên chạy xuống có vẻ phải nhẫn nhịn lắm. Nhà vua tiếp:

- Ta nghe nói Phùng Hà là người nhiều mưu trí lại có bọn Lương Mi, Phùng Sơn đều là mãnh tướng, phi Lê Tần và Khuê Kình chắc không ai địch được.

Trần Khánh Dư nghe nói vậy, máu uất bốc lên không chịu được nữa, bước ra tâu:

- Thần tuy bất tài nhưng xin quyết đem binh đi bắt sống Phùng Hà về dâng trước điện.

Thực ra Thánh tông biết Khánh Dư là người có tài nên nói khích vậy. Lúc ấy Khánh Dư ngỡ nhà vua coi thường mình mới quyết xin ra trận. Nhưng nhà vua nói:

- Ta cũng biết nhà ngươi có tài nhưng sợ còn trẻ tuổi không phải là đối thủ của Phùng Hà. Vì thế không muốn cử ngươi đi chuyến này.

Khánh Dư quì tâu:

- Xin hoàng thượng cứ để thần đi. Không thắng lợi quyết không sống trên đời làm chi.

Nhà vua nói:

- Khanh đã quyết như vậy, trẫm giao cho hai vạn quân, hẹn trong năm ngày phải lên đường.

Khánh Dư nói

- Trời ơi! Có phải buôn bán lớn đâu mà xuất nhiều vốn thế. Thần chỉ xin năm nghìn quân cũng quá đủ rồi, sau hai ngày lập tức lên đường.

Nhà vua nói:

- Ngươi chớ coi thường. Người man không phải dễ đánh đâu. Ta nghe nói khi xưa Kiến Quốc đại vương giao tranh với chúng còn thất lợi đấy.

- Tâu hoàng thượng! Quảng Oai là nơi đất hẹp, núi hiểm, đem nhiều quân cũng không ích gì, cần dùng mẹo mà thắng mới được chứ dùng sức thì dẫu có mười vạn quân mà họ chạy cả vào núi cũng chẳng làm gì được.

- Ngươi đã nói vậy, trẫm giao cho năm nghìn bộ binh, năm trăm kị binh, mong sớm đến ngày thắng trận ban sư.

Trần Khánh Dư hồ hởi nói:

- Thần xin hết sức để chóng đến ngày hoàn trả quan gia cả vốn lẫn lời.

*

Phùng Hà từ khi đánh đuổi huyện quan, chiếm cứ trị sở làm nơi đóng quân, nghe nói quan binh của triều đình kéo đến, liền cử người đi do thám. Mưu tướng Lương Mi bàn:

- Quân ta ít, quân triều đình đông, nên lui vào núi mai phục chuỳ chông, bẫy đá, tên nỏ cho nhiều, chỉ để lại đây một ít quân khi chúng đến thì bỏ chạy, nhử vào nơi phục binh ắt là phá được.

Phùng Hà khen phải, rồi ra lệnh cứ thế thi hành, dặn Phùng Sơn chọn một trăm người khoẻ mạnh ở lại phủ huyện.

Trần Khánh Dư chia quân làm năm đội, tiền quân một nghìn người do Vũ Quảng làm tiên phong, tả quân là Ninh Cát Đại, hữu quân là Phan Hoành. Khúc Bá Lợi chỉ huy kị binh, bản thân mình giữ trung quân. Vào đúng ngày trung thu đến đất Quảng Oai. Đêm ấy trăng sáng vằng vặc, Khánh Dư cho quân đóng trại nghỉ ngơi, cử thám binh đi dò la tình hình quân man, hôm sau cũng chưa tiến đánh. Ninh Cát Đại nói:

- Việc quân cốt thần tốc. Sao tướng quân không tiến đánh ngay đi?

Đang bàn bạc, thám binh về báo:

- Quân man chỉ có một trăm đứa đóng giữ huyện đường.

Khánh Dư nói:

- Bọn này sợ ta vét nhẵn túi nên làm phép giấu binh đây. Vũ Quảng! Ta cho ngươi mang quân tiên phong đánh thẳng vào huyện đường, người man chạy chớ đuổi, cử vài tên quân nhanh nhẹn bám theo xem chúng chạy về đâu.

Vũ Quảng đem quân đánh vào huyện đường, gặp ngay Phùng Sơn. Hai người đánh nhau được vài hiệp, quân lính của Phùng Sơn hò hét rút chạy. Nghe veo một cái, Phùng Sơn cũng nhào lên cây truyền đi mất dạng, bỏ Vũ Quảng đứng trơ không địch thủ. Vũ Quảng đóng quân lại huyện đường, không đuổi. Phùng Sơn thấy thế quay lại thách đánh. Vũ Quảng cầm đao xông ra. Sơn cứ từ từ vừa đánh vừa chạy về chỗ phục binh. Vũ Quảng quay lại bảo quân lính:

- Đuổi dấn lên bắt lấy vài đứa cho ta.

Quân sĩ hò reo ào lên, không biết đang đi vào miền đất chết. Vũ Quảng đuổi đến khe núi Bạch Trĩ, không thấy Phùng Sơn đâu nữa. Bỗng nghe có tiếng tù và rúc vang từ bốn phía rồi gỗ đá theo sườn núi lăn xuống. Vũ Quảng vội cho quân lui lại nhưng đường đã bị nghẽn. Người thượng hò reo bắn tên, lăn đá xuống như mưa. Phùng Sơn đứng trên núi chỉ tay nói:

- Người mặc giáp mầu nâu, cầm đao kia chính là tướng giặc.

Mấy trăm cây nỏ cùng châu vào bắn. Vũ Quảng chết, tên cắm trên người như một con nhím. Quân sĩ tháo chạy, thiệt hại mấy trăm người. Trần Khánh Dư nghe tin Vũ Quảng chết trận liền gọi Phan Hoành đến dặn:

- Người man là giống thật thà mà hám lợi. Ngươi mang lương thực đóng làm năm trại suốt từ gò Bạch Trĩ đến núi Trâu Đen, cứ trại sau chứa nhiều lương hơn trại trước, mỗi trại cách nhau mười dặm, nếu quân man ra đánh chỉ việc bỏ lương thực mà chạy. Hẹn trong ba ngày phải nhử cho quân man ra đến núi Trâu Đen.

Lại gọi Ngô Kế Trung đến dặn dò mẹo mực cho đi giúp Phan Hoành. Ngô Kế Trung nhận mật kế đi ngay. Khánh Dư gọi Ninh Cát Đại đến, bảo:

- Phía trước núi Trâu Đen có một cái hồ, bên kia hồ là một khoảng rừng thưa. Ngươi mang quân ra đấy mai phục, cứ thế này... thế này mà làm, nhất định bắt được Phùng Sơn.

Phía người thượng thấy quân lính triều đình áp sát chân núi đóng trại, họp nhau bàn. Phùng Hà nói:

- Quan quân đóng trại áp sát là muốn tiến đánh. Ta nên rút sâu vào núi, bên kia lâu ngày chán tất phải bỏ đi.

Lương Mi nói:

- Quan quân đóng liên tiếp mấy trại là muốn tiếp ứng cho nhau để vây hãm lâu dài, nếu không đánh cho nhụt nhuệ khí của chúng đi, bất lợi cho ta lắm.

Phùng Sơn nói:

- Lương Mi nói rất phải, cha để con mang quân ra đánh thử với chúng một trận xem sao.

Phùng Hà nói:

- Quan quân là những kẻ gian dối, hay dùng mẹo lừa người. Con mang quân đi phải cẩn thận lắm mới được.

Phùng Sơn mang quân xuống núi, đến trước trại lính triều đình thách đánh. Một tướng trong trại cầm giáo xông ra. Đánh nhau mới được vài hiệp, bị Phùng Sơn bắt sống, quân sĩ bỏ chạy về trại hai. Phùng Sơn vào trại thu được rất nhiều lương thực, cho quân lính khuân cả lên núi, báo tin thắng trận, dẫn tướng bị bắt vào sơn động. Phùng Hà hỏi:

- Nhà ngươi tên chi? Quân lính triều đình có bao nhiêu? Đóng những nơi nào? Mau khai cho thật nếu không ta nướng ngươi lên đó.

Tướng ấy nói:

- Tôi là hữu quân Phan Hoành giữ một vạn quân chở lương thực đến trước, đợi đại quân đến sau.

Phùng Hà thét:

- Ngươi nói dối! Quân đâu! Đốt lửa lên, nướng tên này cho ta. Triều đình thiếu gì tướng giỏi mà cử một kẻ chưa đánh đã bị bắt như ngươi làm hữu quân?

Phan Hoành cười ngất nói:

- Ta vì bị lên cái nhọt ở vai, không đánh nhau được mới bị bắt chứ đâu có bắt ta dễ thế. Không tin ta thì cứ nướng đi để rồi đến lúc quân triều đình sẽ nướng các ngươi.

Phùng Hà sai lột áo Phan Hoành ra xem, quả nhiên thấy có cái nhọt lớn ở vai sưng tấy rất đau đớn mới sai cởi trói, nói:

- Nay đã bị ta bắt được, ngươi có theo không?

- Tướng bại trận được tha chết, còn gì không theo.

Phùng Hà sai lấy thuốc cao dán vào nhọt cho Phan Hoành, mở tiệc khoản đãi, nhưng vẫn nghi có điều gian dối, cử lính giám sát chặt chẽ. Phùng Hà lại hỏi:

- Các chiến tướng triều đình thế nào.

Hoành nói:

- Tôi là kẻ kém nhất nên mới bị bắt chứ còn nhiều người khác xem ra ở đây không ai địch nổi.

Phùng Sơn quát:

- Ngươi dám khinh người thế ư? Để ta mang quân xuống lấy luôn trại thứ hai cho ngươi xem.

Lương Mi nói:

- Tiểu chủ đã lấy được một trại rồi. Trại này hãy nhường cho tôi.

Phùng Hà cho Lương Mi đem quân xuống núi. Quân triều đình thấy quân người thượng đến, kêu to:

- Phan tướng quân đã bị bắt rồi, chúng ta đánh sao được, chạy đi thôi.

Quân triều đình chạy hết. Lương Mi không phải đánh mà lấy được lương thực còn nhiều hơn Phùng Sơn. Phùng Sơn tức quá, hôm sau lại xin đi đánh. Quân triều đình trong trại bắn tên ra. Sơn cho lấy phên tre đỡ tên, tiến vào. Quân triều đình lại tháo chạy. Sơn thu toàn thắng quay về kể chuyện giao chiến rất hào hứng, không ngờ Phan Hoành bảo:

- Quân triều đình chỉ sợ Lương Mi thôi nên nghe ông ấy xuống là bỏ chạy ngay.

Phùng Sơn uất quá gầm lên:

- Không sợ ta à? Để ta xuống lần này đuổi cùng đường xem chúng có sợ không.

Phùng Hà bảo:

- Để lần này Lương Mi đi xem chúng có dám đánh không.

Lương Mi kéo quân xuống, quả nhiên quân triều đình không dám giao chiến rút chạy hết bỏ lại vô số lương thảo, quân dụng. Lương Mi đại thắng trở về không phải đánh nhau gì cả. Phùng Sơn cáu tiết bảo:

- Ngày mai ta đem quân xuống, nếu đứa nào dám đánh lại sẽ giết hết.

Đang nói chuyện, có thám binh về báo:

- Quân triều đình nhổ trại lui hết đi rồi.

Lương Mi lúc ấy đang đắc chí, nói:

- Bọn chúng hết sạch lương thực, không về mau ở đây mà chờ chết hay sao. Xin động chủ cho đuổi đánh, thế nào cũng bắt được Trần Khánh Dư.

Phùng Sơn hăng máu nói:

- Để con xuống đánh cho chúng tan tành một mẻ.

Phùng Hà bảo:

- Khánh Dư là tay chuyên buôn bán kiếm lời, toàn nhằm cướp lương thảo của người khác, có đâu lại dễ dàng để mất của không thế.

Phan Hoành nói:

- Động chủ phán đoán như thần. Tiểu chủ và Lương đầu lĩnh có đem quân xuống cũng rất khó xoay sở vì Khánh Dư còn rất nhiều tướng kiệt hiệt. Hai vị địch làm sao được.

Phùng Sơn tức quá, quát:

- Để tao xuống bắt Khánh Dư lên đây rồi sẽ sửa đến cái tội của mày.

Phan Hoành cười bảo:

- Tôi chỉ sợ tiểu chủ xuống núi lần này không có cơ hội quay về xử phạt tôi thôi.

Phùng Sơn bị khích, hục hặc muốn xuống đánh lắm. Lương Mi nói:

- Xin động chủ cho tôi cùng tiểu chủ xuống núi, có gì trợ giúp lẫn nhau.

Phùng Hà nói:

- Nếu đã vậy, hai ngươi đem quân xuống trước, ta đi sau tiếp ứng cho.

Cha con Phùng Hà, Phùng Sơn cùng Lương Mi mang quân xuống núi, chỉ để lại mấy chục người canh giữ Phan Hoành và trông coi sơn động. Đi qua gò Bạch Trĩ trời đã tối, chẳng thấy quân triều đình đâu. Phùng Sơn thúc quân đến thẳng núi Trâu Đen cũng không có ai ngăn cản, đến trước trại quân triều đình, chỉ thấy quân lính đốt đuốc nhốn nháo gói buộc để rút. Phùng Sơn hô quân đánh thốc vào trại. Quân triều đình sợ hãi ù té chạy mất. Quân người thượng thấy nhiều của cải, tranh nhau cướp lấy, không còn nghĩ gì đến đánh nhau nữa. Bỗng một tiếng pháo nổ, đèn đuốc cháy lên sáng như ban ngày. Quân triều đình lớp lớp vây bọc quân thượng vào giữa. Lương Mi, Phùng Sơn hai tướng xông xáo nhưng không sao ra khỏi trùng vây, đang khi lúng túng lại có một tướng cưỡi ngựa múa giáo xấn đến quát:

- Ta là hữu quân Phan Hoành đây! Hai thằng kia không cúi đầu chịu trói còn đợi đến khi nào.

Lương Mi, Phùng Sơn hoảng sợ nhào lên cây truyền ra ngòai, chạy sang cánh rừng bên kia hồ, chẳng ngờ gặp ngay phục binh của Ninh Cát Đại vây chặt lấy. Hai người định dùng thuật phi thân truyền cây thoát đi nhưng Phùng Sơn vừa tung người lên liền vướng ngay vào lưới, đành chịu trói. Lương Mi may thoát được chạy đến sáng về sơn động, trên núi đã bạt ngàn cờ quạt của quan binh.

Khi đêm, Phùng Hà thấy phía trước bọn Sơn, Mi đánh nhau với quân triều đình liền thúc quân tiến tên tiếp ứng. Đi chưa được bao xa đã bị đội kị binh của Khúc Bá Lợi đánh tạt ngang, quân sĩ chết nằm la liệt, số còn lại bị bắt sống cả. Phùng Hà được mấy thân tín bảo vệ mở đường máu ra khỏi vòng vây, chạy về động nhưng động đã bị Trần Khánh Dư cướp mất rồi, đành trốn vào rừng, may sao gặp Lương Mi, mới cùng nhau chạy vào động trong. Tới nơi, bọn lính Trong sơn động ra đón, chúng nói:

- Quân Khánh Dư nhiều quá, chúng tôi không giữ nổi động ngoài, phải đem Phan Hoành giải về đây.

Lương Mi nói:

- Thằng này không phải là Phan Hoành. Nó chỉ giả vờ đến lừa chúng ta thôi.

Phùng Hà quát:

- Mày là thằng nào mà dám lại đây lừa ta?

Người kia đáp:

- Ta đích thực không phải Phan Hoành mà là Ngô Kế Trung, gia tướng của của Trần hầu. Các ngươi biết điều thì sớm hàng đi, cố kháng cự tránh sao khỏi tội chết.

Phùng Hà quát võ sĩ:

- Các ngươi moi gan nó ra xem to bằng nao mà dám múa mép với ta.

Ngô Kế Trung cười, nói:

- Ta thường được Trần hầu yêu quí. Ngươi giết ta, không sợ Trần hầu trả thù ư? Con trai ngươi đang ở trong tay Trần hầu đó.

Lương Mi nói:

- Thế lực của ta bây giở không thể làm gì được nữa, chi bằng hàng triều đình, xin tha tù binh để đỡ tốn xương máu thì hơn.

Phùng Hà nghe theo, thả Ngô Kế Trung về, xin Khánh Dư tha Phùng Sơn và tù binh người thượng ra. Khánh Dư nói:

- Ta đã khó nhọc mang quân vào đến đây lẽ nào nói suông một câu hàng mà xong. Hàng nghìn tù binh thế này, ta mang về triều lĩnh không ít tiền thưởng. Phải bắt được Phùng Hà nữa ta mới rút quân về.

Phùng Hà nghe được tin ấy sợ hãi nói:

- Nếu bị giải về triều đình, tính mạng con ta nguy mất.

Lương Mi nói:

- Tôi nghe Khánh Dư chỉ thích tiền bạc cùng gái đẹp. Động chủ nên thân mang lễ vật thật hậu đến, tiếng nói mới được coi trọng.

Phùng Hà nghe theo, liền cùng bọn gia thuộc mang nhiều vàng bạc đến đại bản doanh Khánh Dư để khao quân lại biếu riêng Khánh Dư một hòm vàng lá, ba cặp nhung hươu, năm tấm da hổ, mười cân độc dược để tẩm mũi tên, bao nhiêu châu ngọc cướp được của quân Thát ngày trước đem trả lại triều đình hết. Khánh Dư cười ha hả bảo:

- Có thế chứ. Lẽ đâu ta chịu lỗ vốn.

Lại quay sang bảo Phùng Hà:

- Các ngươi cũng là người Đại Việt cả, ta không có ý giết hại. Lương thực các ngươi lấy được trong năm trại vừa rồi ta cho hết. Từ nay phải thần phục triều đình không được làm phản nữa.

Phùng Hà cùng bọn quân lính dập đầu lạy tạ. Khánh Dư lại trao cho Phùng Hà tấm thẻ bài của triều đình phong làm quan lang. Phùng Hà dâng sớ lên triều đình xin đến tháng chạp vào chầu thiên tử. Từ đấy đất Quảng Oai được yên định. Khánh Dư đem quân về triều, Ngô Kế Trung nói:

- Quân hầu bình man đại thắng sao không bắt bọn Phùng Hà, Lương Mi về triều để hoàng thượng định tội. Nếu có kẻ biết chuyện người man biếu quà đem phát giác, e triều đình có người đàn hặc chăng.

Khánh Dư bảo:

- Chẳng lẽ ngươi không biết câu tướng ở ngoài dẫu lệnh vua cũng có thể không tuân đó sao. Người man cũng vì bọn quan lại ức hiếp quá mới phải làm phản. Ta đã có lợi rồi, sinh phúc cho chúng chứ bức bách đến cùng khác gì xui người ta cưỡng laị. Vả lại ta là con của thượng hoàng, kẻ nào dám đàn hặc ta đây?

Mấy hôm sau Khánh Dư về đến kinh thành, vào triều kiến nhà vua. Thánh tông xuống tận bậc thềm cầm tay nói:

- Ngự đệ đi bình man chuyến này vất vả quá.

Khánh Dư nói:

- Công việc bình man nay đã hoàn thành. Thần xin trả lại quân lính cho hoàng thượng.

Nói xong dâng trả ấn nguyên nhung và trình tờ sớ của Phùng Hà, lại gọi bọn lính hầu khiêng những hòm châu báu do người thượng trả lại đặt trước điện, chỉ giữ lại phần quà riêng của mình. Thánh tông cười, nói:

- Hôm nay qủa là khanh đã trả cả vốn lẫn lãi cho trẫm rồi đây.

Nhà vua nói xong, xuống chiếu phong Trần Khánh Dư chức Phiêu kỵ đại tướng quân. Nguyên chức này chỉ dành riêng phong cho các hoàng tử, vì thượng hoàng nhận Khánh Dư là con nên mới được phong, rồi từ tước hầu phong lên tử phục thượng vị hầu, quyền chức phán thủ. Lúc ấy thái tử Khâm đã tám chín tuổi, Thánh tông giao cho Khánh Dư rèn luyện võ nghệ, binh pháp. Vì thế Khánh Dư được thường xuyên ra vào nơi cung cấm.

Một hôm Khánh Dư ở trong cung về, người nhà đến báo Ngô Kế Trung đã mang vợ con bỏ đi rồi. Khánh Dư đến xem, chỉ thấy một tờ giấy biên chép những thứ vàng bạc Khánh Dư cho mà Ngô Kế Trung đã mang đi. Khánh Dư lắc đầu than:

- Ngô Kế Trung sống cùng ta từ khi còn nhỏ tuổi, bao phen hoạn nạn vào sinh ra tử có nhau, bây giờ được giầu sang sung sướng sao lại bỏ đi không lời từ biệt thế này?

Nói rồi cho người đi tìm nhưng suốt mấy trăm dặm không thấy tin tức gì. Khánh Dư ngày càng được triều đình trọng vọng, bữa ấy cùng thái tử ra chơi vườn ngự uyển, phía bên kia thuỷ đình thấy thấp thoáng bóng giai nhân bên dặng liễu, liền rủ thái tử sang bên ấy, hoá ra là Thiên Thuỵ công chúa đang cùng thị nữ ngắm hoa. Thiên Thuỵ năm đó đang ở tuổi trăng tròn, xinh đẹp đoan trang, rực rỡ hơn thược dược, tươi thắm tựa mẫu đơn. Khánh Dư mắt nhìn đăm đăm chẳng khác kẻ đang khát trông thấy trái cam ngọt, khiến công chúa xấu hổ quay đi nhưng sắp đến chỗ rẽ, ngoảnh lại ném cho Khánh Dư một nụ cười duyên. Thế thôi cũng đủ lao đao một đời nam tử.

Từ lúc gặp công chúa Thiên Thuỵ, Khánh Dư không lúc nào không tưởng nhớ tới nàng. Hôm sau cũng giờ ấy, chàng lại vào vườn hoa nhưng không gặp công chúa. Hôm sau nữa, hôm sau nữa cũng vậy. Khánh Dư buồn khổ vô cùng, ra ra vào vào, chán ăn chán ngủ, ốm lử khử lừ khừ rồi ốm thật, nóng sốt, hôn mê, luôn mồm kêu:

- Con quỉ! Con quỉ con xinh đẹp, ai bảo ngươi nhìn ta. Ngươi giết ta rồi.

Thầy thuốc đến khám không tìm rõ được nguyên cớ, chỉ nói bệnh ở tâm, sốt cao quá nên phát chứng kinh phong. Cho uống thuốc mấy ngày, đỡ sốt nhưng Khánh Dư vẫn buồn phiền không nói năng gì. Người nhà cho mời thầy bói đến. Thày bói xem, gieo quẻ đoán:

- Tướng quân đi bình man bị thần núi Bạch Trĩ quở phạt. Phải lập đàn chay cầu cúng bảy ngày bệnh ắt khỏi.

Người nhà nghe theo, cúng bái suốt bảy ngày đêm, bệnh vẫn y nguyên. Khánh Dư ngày càng lầm lì, thân hình võ vàng gầy rộc, thỉnh thoảng kêu:

- Trời ơi! Khổ quá trời ơi. Ta chết mất thôi.

Thầy thuốc nói:

- Không ăn không ngủ thế này, ngày một suy kiệt đi, khó chữa lắm.

Thật là:

Một cái liếc tình không gươm giáo

Cũng làm tan nát dạ anh hùng

Chưa biết Trần Khánh Dư có khỏi được bệnh không? Chương sau xin nói rõ.

Đan Thành

Hà Bổng minh oan cho Nguyễn Bằng

Phạm Hữu làm thơ cười Vĩ Thố

Đang nói chuyện Trần Khánh Dư đêm ngày tơ tưởng hình bóng Thiên Thụy công chúa mà không sao gặp được, sinh ốm tương tư chẳng thuốc thang nào chữa khỏi, hình vóc hao gầy tiều tụy. Thầy thuốc trong phủ bảo cần phải ra ngoài tìm nơi thoáng mát chơi cho khuây khoả. Gia nhân mới đóng kiệu đưa chàng lên chơi Tây Hồ. ở đây phong cảnh đẹp đẽ, cây cối tốt tươi, mặt nước mênh mông, sóng vỗ lô xô, gió hiu hiu thổi mang theo hơi nước mát rượi, xa xa rất nhiều phượng thuyền của các vương hầu, công chúa, ưng thuyền của các tướng lĩnh dạo chơi và vô số nhạn thuyền của binh lính hộ vệ. Khánh Dư không xuống thuyền, chàng đi lững thững trên bờ, ngắm cảnh. Bỗng thấy phía trước có đám thị nữ hộ tống một vị công nương, nói cười huyên náo. Khánh Dư bước lên xem ai, chàng không tin ở mắt mình nữa; người đang bước tới trước mặt chính là công chúa Thiên Thuỵ. Nàng không mang bộ đồ của một công chúa mà chỉ khoác trên mình tấm áo lụa mỏng bất cứ con gái nhà bình dân naò cũng có thể có. Chính vì vậy mà nàng trở nên huy hoàng trác tuyệt như một giọt sương mai phản chiếu những tia nắng hồng trong buổi bình minh. Khánh Dư đứng lặng im, dường như không dám thở, chàng sợ mỗi cử động nhẹ của mình có thể làm tổn thương đến cái kì quan tuyệt vời của tạo hoá kia và nó sẽ biến tan đi mất.

*

- Ừ ừ! Thịt cầy không có món dồi, ra cái chó gì. Ông nói cho mà biết nhé! Các anh trai trẻ được cái mạnh ăn mạnh nói chứ nghề chơi ở đời cứ gọi là còn non nước lắm. Đã là thịt cầy phải đủ bảy món tiết canh, thôn bộ, chả, hầm, rang chứ lại.

Một anh trai đinh nói:

- Cụ ơi! Như thế mới có năm món. Cụ bảo bảy món cơ mà?

Vĩ Thố cười hề hề, bảo:

- Thì bảy chứ sao. Dồi, xáo nữa chả là bảy à. Mà dồi chính là đầu bảng đấy. Sống trên đời ăn miếng dồi chó, Chết xuống âm phủ biết có hay không! Thế mà có món dồi các anh làm hỏng cha nó hết.

Mấy tay đàn em cười cầu tài. Trương tuần Vũ Văn Dư bảo:

- Dồi ngon nhưng mà ít. Cậu cứ thịt mông cậu chén có sướng hơn không?

Vĩ Thố lắc đầu bảo:

- Hỏng! Hỏng bét. Các anh nghĩ thế làm việc dân sao được. ít nhưng nó quí. Ví như cả châu Hồng này mới có một vị tri châu, cả huyện Trường Tân này có một mình ta là huyện lệnh thế mới là quý nhân.

Một cô đào hát gõ dùi vào tang trống cắc cắc, nói:

- Quan anh say rồi! Đang nói chuyện thịt chó chứ có nói chuyện châu chuyện huyện đâu?

Vĩ Thố véo vào đùi cô đào, nói:

- Say à! Chưa say! Cứ ví cái huyện này như mâm cỗ, các quan trên huyện phải có được những miếng dồi. Bốn tổng là bốn cái đùi bày ra bốn đĩa lớn, việc ban phát cho các hào mục là quyền ở quan, xương xẩu nấu nhừ, ninh kĩ gặm hết thịt, quẳng ra ngoài cho đám lính tráng. Hừ béo đây! Mông thế này mới là mông. Tao đã say đâu. Say để con đào Tuyết nó nỡm à! Hì hì. Tuyết! Ngồi nhích lại đây anh bảo.

- Gâu gâu! Gâu gâu...gâu.

Tiệc rượu ngoài đình đã tàn, cô đào Tuyết cùng mấy trai đinh dìu quan huyện Vĩ Thố về nghỉ nơi tư thất. Đàn chó cứ chẫu ra sủa váng lên như làng có cướp. Buổi chiều, Vĩ Thố hỏi Vĩ Thử:

- Mảnh vườn nhà con Điệp anh làm xong chửa?

Vĩ Thử thưa:

- Con đã làm như thày dặn nhưng tay Nguyễn Bằng nó chống lại. Nó bảo vườn nhà vắng chủ không được động tới, phải đợi chủ về, nợ nần thanh toán đâu có đó. Dân làng xem ra nhiều người theo nó.

Vĩ Thố cau mày, nói:

- Tưởng ai chứ Nguyễn Bằng mà anh lý cũng sợ à? Như thế thì làm việc dân việc nước thế nào được. Hắn là kẻ có tội, ta còn chưa sờ đến đấy. Anh cho tuần đinh gọi nó đến đây.

Vĩ Thố ngồi chĩnh chệ trên kỉ, có bốn người lính đứng hộ vệ. Lát sau Nguyễn Bằng đến, không quì lạy mà chỉ khoanh tay chào. Vĩ Thố mặt lạnh như tiền, vuốt râu hỏi:

- Người vừa đến kia là kẻ nào.

Nguyễn Bằng biết Vĩ Thố giở trò với mình, không nói gì. Một người lính quát:

- Ông già kia! Quan lớn hỏi; sao không nói?

Nguyễn Bằng vẫn không nói. Vĩ Thố quát:

- Tên dân đen kia, gặp quan sao không quì?

Nguyễn Bằng cười khinh bỉ, nói:

- Ta tưởng vì tình bạn cũ, chỗ đồng môn mà ông mời ta đến đây, hoá ra là quan lớn gọi Bằng này đến hầu ư?

Vĩ Thố đập bàn, quát:

- Ai bạn bè với ngươi. Ngươi là kẻ có tội, được triều đình tạm tha, từ ngày về quê không chịu đi phu dịch lại còn có hành vi chống đối. Ngươi thì coi thường pháp luật rồi. Nhưng coi thường vương pháp chỉ có thiệt vào thân. Lính đâu! Nọc cổ nó ra đánh cho ta.

- Ta có tội gì mà đánh.

- Tội gì ư? Ta nói có tội là có tội. Ngươi thiếu gì tội. Một là trốn tránh phu dịch, hai là kết bè kết đảng xúi giục dân chúng làm loạn, chống lại nhà chức trách, ba là bênh vực kẻ tiện dân hòng quịt nợ của người cho vay làm phúc, bốn là vô lễ với quan trên không tuân vương pháp, năm là...ừ...ừ...nhà ngươi còn nhiều tội lắm, tội nào cũng có thể chém cả, không tha được. Lính! Đánh!

Bốn người lính xúm lại vật Nguyễn Bằng ra đánh. Vợ con Nguyễn Bằng biết tin chạy đến kêu khóc xin quan huyện tha cho. Cha con Phạm Hữu, Phạm Anh cũng kéo đến. Lũ chó trong làng sủa rống lên như loạn. Vĩ Thố sai gia nhân cài cổng không cho ai vào, lại bảo lính đóng gông giải Nguyễn Bằng lên huyện tống vào nhà lao. Lý Thử gọi trương tuần cho thêm trai đinh giúp mấy người lính. Đám người nhà Nguyễn Bằng không biết làm sao, đành về làm giấy trình lên quan phủ. Lý Thử bảo:

- Thày thế mà ghê thật. Con nghĩ mãi chưa ra cách gì. Thày chỉ ho một tiếng là có đứa mọt gông.

Vĩ Thố vuốt râu bảo:

- Chẳng thế làm quan sao được.

- Nhưng thày làm thế nào mà nghĩ ra lắm tội của hắn thế?

Vĩ Thố bảo:

- Thế mới gọi là có năng lực. Các anh chỉ có cái máu hăng nhưng xem ra độ tinh nhạy còn kém lắm. Muốn trị đứa nào; nó không có tội phải nghĩ tội ra cho nó chứ. Đã là dân mấy thằng tránh khỏi tội. Đấy! Xem bây giờ đứa nào dám lên huyện mà kêu?

Vĩ Thử hỏi:

- Như thế là dựng chuyện lên à?

Vĩ Thố bảo:

- Chứ còn sao nữa. Anh khờ bỏ mẹ. Không thế sao có câu muốn nói gian làm quan mà nói. Đang lúc thái bình thịnh trị, làm ăn như các anh chả trách dân nó khinh.

Bấy giờ nhà Nguyên đang có nội loạn. Vua Nguyên phong cho Nậu Lạt Đinh chức đạt lỗ hoa xích, cử đi sứ sang Đại Việt để duy trì mối bang giao hai nước. Nhà Trần cử đoàn sứ bộ gồm viên ngoại lang Dương An Dưỡng, nội lệnh Vũ Phục Hoàn, thư xá Nguyễn Cầu, trung thư lang Nguyễn Cử đi cùng Nậu Lạt Đinh theo đường Vân Nam sang Nguyên đáp lễ. Khi đi qua ải Quy Hoá, Hà Bổng nhân nói chuyện hỏi thăm Nguyễn Bằng mới biết Bằng bị oan, liền viết sớ dâng lên triều đình minh oan cho Nguyễn Bằng, lại gửi theo cả bức thư của Vương Lâm mà Nguyễn Bằng bỏ quên ở Quy Hoá.

Quan đại hành khiển Nguyễn Giới Huân nhận được sớ liền vào triều tâu với Thánh tông. Nhà vua nói:

- Chiến tranh qua lâu rồi, người có công như vậy lại không được trọng thưởng. Trẫm e trong thiên hạ còn nhiều người như Giới Tử Thôi.

Nói xong cho sứ giả mang sắc chỉ về huyện Trường Tân tìm Nguyễn Bằng thì Bằng đã bị đưa đến nhà lao của quan phủ. Huyện lệnh Nguyễn Vĩ Thố sợ tội, muốn hại Nguyễn Bằng, mới nói với sứ giả:

- Nguyễn Bằng từ khi về quê, oán trách triều đình, không tuân vương pháp, xui dân làm loạn nên bị quan phủ bắt giam rồi.

Sứ giả nói:

- Sự việc nghiêm trọng đến thế ư? Vậy bắt được đồng đảng của nó có bao nhiêu đứa?

- Bẩm thưa quan lớn, hiện nay mới bắt một mình Nguyễn Bằng thôi.

- Đã gọi là làm loạn phải có nhiều người, lẽ nào một mình Nguyễn Bằng mà làm loạn được? Ngươi có bằng chứng gì không?

- Dạ! Bằng chứng và đồng đảng của nó là con Thị Điệp mười tám tuổi đã trốn đi rồi.

Sứ giả nói:

- Nghĩa là hiện nay trong tay các ngươi không có bằng chứng gì? Hừ! Đồng đảng của kẻ làm loạn là một cô gái ư? Sự thật về việc này thế nào ngươi phải khai rõ ra.

Vĩ Thố xun xoe nói:

- Việc này phức tạp lắm. Bây giờ trưa rồi, xin quan lớn hãy đi dùng bữa. Chiều nay hạ chức cho đòi các nhân chứng, sáng mai xin tường trình tại công đường để thượng quan được rõ ạ.

Chiều hôm ấy sứ giả nghỉ lại ở huyện đường, có lính bảo vệ và đào hát hầu hạ. Vĩ Thố sai thắng xe ruổi thẳng lên bàn với quan tri châu. Quan tri châu vuốt bộ ria rất đẹp, điềm đạm nói:

- Thường nhật ta nghe nói quan huyện Trường Tân là người đa mưu túc trí, giảo hoạt lắm cơ mà, sao hôm nay việc mới có vậy đã cuống lên thế?

Vĩ Thố khẩn khoản:

- Thưa đại nhân! Nhưng vị sứ giả đại nhân này...

Tri châu cướp lời:

- Sứ giả nào mà chả thế! Cái luật chung ở đời là nén bạc đâm toạc tờ giấy. Ông không biết à?

- Thưa! Nhưng vị này có vẻ sắc sảo liêm chính lắm, chưa chắc đã mua được đâu ạ.

Quan châu gõ gõ cái quạt ngà vào lòng bàn tay, nói:

- Phải nặng nặng vào. Tiền thập vạn quan khả dĩ thông thần hiểu chửa?

Vĩ Thố vững dạ về mang rất nhiều vàng bạc biếu quan sứ giả. Sứ giả cảm ơn lòng ưu hậu của huyện quan, về tâu lại với triều đình việc Nguyễn Bằng phản loạn. Quan thẩm hình viện Đặng Ma La bước ra tâu:

- Phản loạn là một tội đại hình vậy sao quan tri châu không báo lên triều đình. Đây là việc có quan hệ đến mạng người, không thể không xét kĩ xem có bằng chứng gì không?

Thánh tông phán:

- Đặng thám hoa nói rất đúng. Trẫm giao cho khanh đặc trách tra xét vụ này.

*

Mộng Điệp mặc một bộ đồ váy áo lụa hồng, đi lại thướt tha như một tiên nữ, dường như đôi gót chân thon nhỏ của nàng không chạm tới mặt đất. Con ngựa bất kham khi đã được thuần phục bao giờ cũng trở thành tuấn mã. Mộng Điệp sau bao lần giật cương cắn thiếc, đến một ngày nàng để tuột mất sự trinh trắng vào tay một gã chủ bạ ngay tại huyện này. Thôi thế là đã lỡ. Còn gì để gìn giữ nữa đây? Nàng muốn trả thù cuộc đời bằng những cuộc truy hoan suốt sáng tối ngày dường như bất tận. Chẳng mấy lúc nàng đã quen và hoà được cuộc đời mình vào cuộc sống giang hồ. Tuổi trẻ và sắc đẹp cho phép nàng làm chóng mặt hoa mắt bất kì một huyện uý, chủ bạ, thư lại hoặc thầy đề thầy lý nào. Những thằng đàn ông đứng trước dân như thần như thánh ấy rốt cuộc cũng lần lượt úp mặt làm nô lệ cho đôi bầu vú của người con gái chân tay còn dính mùi bùn. Và các vị quan nhân mang bộ mặt công luân, ai cũng hể hả nghĩ rằng mình được giai nhân cưng chiều hơn cả.

Trời không nắng không mưa nhưng là một thứ bóng râm đểu giả, không những không mát mẻ gì mà còn làm cho không gian trở nên oi nồng ngột ngạt như muốn ép ra nước mấy bà quạt bánh đa ngoài chợ cùng bác nông phu cuốc mướn trên đồng. Quan tri châu Hà Phương ngồi giữa chiếc sập chân quì dạ cá bằng gỗ gụ bóng loáng. Mợ Hồng ngồi bên hầu quạt, mắt mợ nhìn quan cười díp lại kéo thành cái đuôi dài như muốn làm cồn lên những đợt sóng tình. Quan phụ mẫu đáng kính cũng cười, ngài muốn ban phát cho vị tình nương bao điều trìu mến nhưng chưa tìm được ngôn từ phù hợp nên đôi môi ngài cứ mấp máy không thốt thành lời. Có đến hai tháng quan mới qua chơi nên tình cảm chủ khách hết sức nồng nàn. Mợ Hồng gọi:

- Mộng Điệp đâu? Sao chưa mang trà lên hả?

Mộng Điệp hiện ra như nữ thần sắc đẹp trong bộ đồ lụa màu thanh thiên. Mặt quan lớn ngây đờ như vừa bị trúng tên thuốc độc. Mộng Điệp e lệ nâng chén trà mời quan. Mặc dù đó chỉ là sự e lệ giả vờ do được rèn dũa kì công nhiều lần mà có cũng đủ làm đại quan quên hẳn vị tình nương đang ngồi bên cạnh. Mộng Điệp bước đi rồi, ba hồn bảy vía quan lớn vẫn chưa tìm về đúng chỗ. Trạng thái tâm lý ấy của quan lớn không thoát khỏi đôi mắt trải đời của người đàn bà vừa mới vào tuổi bốn mươi, đã từng làm đảo điên bao đấng mày râu, mợ Hồng bảo:

- Quan lớn làm sao thế?

Hà Phương lúng túng:

- ờ! ờ! Không có gì!...Không có gì.

- Thôi! Không phải giấu em nữa. Quan lớn muốn thế cũng được thôi. Cứ cắt cho em năm mẫu bên đường cái quan, em cho nó hầu quan lớn.

- Thật thế hử? Cái đó có khó gì. Ai chứ mợ năm mẫu thì năm mẫu.

Mợ Hồng cười hi hí bảo:

- Quan lớn thế mới là quan lớn chứ, đúng là người có tấm lòng vì nước vì dân mà làm việc. Quan viết giấy cho em đi.

- Gớm chửa! Mợ cứ làm như quan quỵt mất không bằng. Viết giấy thì viết giấy. Mợ cứ cho gọi con bé lên đây.

Mợ Hồng gọi:

- Mộng Điệp! Dẫn quan vào phòng trong, hầu quan nghỉ nghe chưa?

Mộng Điệp dạ một tiếng, bước vào, đảo mắt liếc quan một cái. ánh mắt như một đường kiếm loáng qua, khiến trái tim quan lớn muốn nhảy ra ngoài lồng ngực, ngài run run tụt khỏi mặt chiếc sập gụ, lúng túng giấu những ngón chân vào đôi hài chi long.

Vì chỉ là một kỹ viện cấp huyện nên căn phòng tiếp khách làng chơi đã hẹp lại không lấy gì làm sạch sẽ lắm, nhưng trên bức tường chính giữa cũng có bàn hương và bức tranh vẽ hình Quản Trọng. Quan tri châu không để ý đến điều đó. Tất cả tâm trí ngài còn mải hút vào cái tác phẩm tuyệt mỹ bằng da bằng thịt chỉ che hờ một làn lụa mỏng kia. Quan lớn là người có học, xuất thân khoa bảng nên mặc dù trong hoàn cảnh thân hình loã thể, ngài vẫn dùng thứ ngôn ngữ có đủ áo quần tươm tất để trò chuyện cùng mĩ nhân, khác hẳn với những quân phàm phu tục tử. Mọi hành vi của ngài đều từ tốn dần dần theo phong cách nho sinh. Sự hưởng thụ niềm hoan lạc cũng theo lối tao nhân mặc khách. Quan lớn nói:

- Thần nữ sao mà xinh đẹp, gom âm dương mà điểm trang. Ôi! Bông hoa hồng của nàng sao trắng đến vậy. Thế này mà không được chạm vào cành lá thì còn chi là đời quân tử. Tri chi giả, bất như hảo chi giả; hảo chi giả, bất như lạc chi giả.

Mộng Điệp cười rúc rích bảo:

- Quan lớn nói cái gì chi chi giả giả, em chẳng hiểu ra sao.

Hà Phương giảng giải:

- à! Nàng không hiểu cũng phải thôi. Câu này Khổng tử nói rằng biết cái gì không bằng ưa thích nó, ưa thích nó không bằng vui sướng với nó. Ví như ta biết nàng sao bằng được vui thú với nàng.

- Ôi! Quan lớn thật là hay chữ. Chơi trò này mà cũng viện được lời thánh nhân thì ngài quả là thánh thật!

*

- Việc dân việc nước đâu phải trò đùa. Các anh làm thế này có mà bỏ mẹ. Đứa nào không chịu đóng góp thì qui cho là đồng đảng của Nguyễn Bằng, lôi cổ nó lên huyện - Vĩ Thố vừa đi đi lại lại vừa nói.

Lý Thử im lặng. Trương Dư nói:

- Con đã dùng hết cách rồi nhưng bọn thằng Hiệp, thằng Tự lại bảo đóng góp để xây trường mời thày về dạy học cho bọn trẻ thì chúng nó đóng chứ còn xây chùa thì không.

Vĩ Thố cười hề hề, nói:

- Tốt! Tốt! Xây chùa, xây trường, xây miếu, tu sửa đình làng càng làm nhiều càng tốt. Như thế càng có cơ hội cho các anh kiếm ăn. Còn xây giếng, lát đường nữa chứ. Chúng nó đã nói thế, cứ bổ đầu cho chúng nó đóng góp luôn thể. Thằng Hiệp, thằng Tự là thằng nào mà dám láo, có muốn mọt gông như thằng Nguyễn Bằng không?

- Dạ thưa cậu! Thằng Đoàn Sĩ Hiệp cùng thằng Mai Văn Tự đều là lính cũ, chúng nó lại được bọn thằng Nguyễn Văn Điền, Vũ Tuấn có thẻ thương tích bênh vực, hung hăng lắm ạ.

- Hung hăng thì chúng nó định làm trò gì, không tuân vương pháp, bắt tất. Nên nhớ rằng pháp luật chính là cái cột vững chắc để các anh dựa vào đấy mà kiếm cơm đấy, nó cũng là cái vồ tạ để các anh đập bẹp những thằng chống đối, rõ chửa? Việc dân việc nước mà các anh lơ mơ hỏng mẹ nó hết. Anh Dư! Anh mang tuần đinh bắt bọn chúng lên đây.

Trương tuần Vũ Văn Dư đi ra. Vĩ Thố bảo Lý Thử:

- Anh ngu lắm! Làm lý tể có mỗi một cái làng này mà không xong. Thế mà tôi đang định xin với quan trên cho anh một chân xã quan thì anh làm thế nào?

Lý Thử gãi đầu, nói:

- Thầy nói thế nào chứ, tôi có biết cái gì đâu mà làm quan.

- Không biết cái gì mới phải làm quan, chứ giỏi giang ra thì cần gì. Anh là cái thằng chọc cứt không nên lỗ, phải chịu khó làm quan mà sống. Xem như bố anh đây, đâu có mấy hột chữ nhưng vì có mưu mẹo, biết che chắn đấu đá mà từ một lý tể như anh, trở thành một huyện quan có tiếng trong cái châu này. Từ nay các công việc trong làng, anh phải sắn tay áo mà lao vào. Tiền đấy, đồ đấy, tiền đồ đấy khéo thì hưởng, không khéo thì nhịn. Bây giờ tôi còn đương chức, còn che chắn được cho anh. Vài năm nữa tôi già cũng phải về nghỉ chứ, lúc ấy anh không có lễ biếu lên, quan trên nào để ý đến, cái ghế của anh dám gãy lắm hả?! Chúng nó thích xây trường học, cho nó xây mà kiếm chác. Xây xong liệu chúng nó có tiền cho con đi học không hay chính con các anh mới được đến trường?

*

Trương tuần Vũ Văn Dư mang mấy tráng đinh xông vào. Sĩ Hiệp ôm ngực ho rũ. Phạm Anh cầm bát thuốc trên tay, hỏi:

- Ông trương mang tráng đinh đến có việc gì vậy?

Trương tuần Vũ Văn Dư nhếch mép cười, nói:

- Thằng Đoàn Sĩ Hiệp coi thường luật pháp, trốn tránh phu dịch, không chịu đóng góp lệ làng. Cụ huyện sai bắt lên công đường.

Phạm Anh nói:

- Không được! Anh Hiệp đánh Thát mới sinh ra ốm đau thế này đi phu dịch làm sao, không làm ăn gì được lấy tiền đâu mà đóng lệ làng.

Trương Dư nói:

- Việc đánh Thát không phải trách nhiệm của tôi. Không có tiền nộp lệ làng sao có tiền mua thuốc.

- Này anh Dư! Khi xưa ở chiến địa, tôi chữa bệnh cho anh đâu có lấy tiền. Bây giờ tôi cũng chỉ giúp anh Hiệp thôi. Chẳng lẽ anh quên hết tình chiến hữu rồi ư?

- Chuyện xưa là chuyện xưa, ngày nay là ngày nay. Tôi chỉ biết tuân thượng lệnh làm theo luật pháp, không dám nghĩ đến chuyện tư tình. Tuần đinh! Lôi thằng Hiệp lên quan.

Phạm Anh trừng mắt:

- A! Quân sấp mặt. Mày dám bắt anh Hiệp ư?

Đang lúc căng thẳng thì Văn Điền, Vũ Tuấn ở ngoài bước vào.

- Phạm Anh! Không phải nói với nó nữa. Cái thằng trương tuần mặt người lòng chó này. ở nơi trận mạc mày bỏ trốn không dám đối mặt với quân thù, về làng cậy là cháu huyện quan, lên gân vênh mặt. Mày muốn bắt ai? Một điều mày nói đến luật pháp, hai điều mày nói đến luật pháp. Nếu có pháp luật thật thì cậu cháu mày đã khốn nạn lâu rồi.

Vừa nói, Vũ Tuấn vừa tiến sát về phía trương Dư. Dư lùi lại há mồm lắp bắp:

- Loạn! Loạn! Chúng mày làm loạn thật rồi.

*

Con người ta nhiều khi chỉ vì lòng tự ái mà làm đảo lộn những kế hoạch lớn đã được kì công sắp đặt. Đó là việc mợ Hồng nhất quyết bán Mộng Điệp về thành Đại La. Mợ phải mất rất nhiều công rèn dũa mới biến được một cô gái chân lấm tay bùn thành một kỹ đệ thạo nghề. Mộng Điệp thực sự là cái cây ra nhiều quả vàng cho mợ. Nhưng con người ta đâu chỉ cần có vàng! ở cái tuổi nắng xiên khoai còn đang gay gắt, mợ sợ nhất phải sống cô đơn, quan huyện thì ít khi về, trước đây lâu lâu quan châu đến thăm nên mợ còn có người bầu bạn. Giờ đây quan châu ghé qua luôn nhưng không phải vì mợ mà vì Mộng Điệp. Điều đó có khác nào mợ đã tuyên chiếu thoái vị cho cái dung nhan kiều mị của mình. Lâu nay người ta cứ tưởng tiền bạc đã làm khô cằn trái tim mợ. Nhưng không! Ngoài tiền bạc ra, con tim ấy còn đập rộn ràng cho những niềm hoan lạc cùng các công tử trong đám con cái bạn bè của người cha đáng kính từ khi mợ mới bước vào tuổi mười ba. Giống như việc uống nước, khi gia thế phong lưu, người ta thường kén chọn những thứ chè ngon hảo hạng, đến khi sa sút có thể uống nước vối nước sôi, khi thực sự cơ hàn mà bị cơn khát thôi thúc cũng đành uống nước lã chứ biết làm sao. Xưa kia có bao giờ mợ thèm để ý đến cánh làng chơi thày đề, huyện uý thế mà gần đây mợ đã hạ cố đắp chăn chung với một gã trương tuần, không phải là để lấy tiền mà mợ còn phải cho thêm gã hai đồng bạc. Thế rồi cái đám đàn ông đốn mạt ấy cứ thò đến là đòi Mộng Điệp. Mợ thành kẻ chết khô giữa trời mưa. Không! Mợ chưa thể dễ dàng bó giáo lai hàng một đứa học trò vô danh tiểu tốt như Mộng Điệp. Nhất định mợ sẽ giành lại những thành trì đất đai bị tuột khỏi tay. Mợ nhất quyết bán Mộng Điệp dù cho điều đó có làm cho mợ xót xa vì sự lên án của cái hầu bao.

Con ngựa cái còn đang cơn hăng sức, chạy tốc tác làm chiếc xe lắc lư phát ra những tiếng cọt kẹt nhè nhẹ, bỏ lại phía sau một màn bụi mỏng trên con đường đất mới hanh vàng. Mộng Điệp ngồi trong xe, vén tấm rèm ngó ra. Hai bên đồng lúa, làng mạc lùi dần, tiếng nhạc ngựa leng keng đưa cô về phía kinh thành. Rải rác trên đồng có những khu mả lùm tùm bên những bờ dứa dại. Vô số những nén hương tắt giữa chừng run rẩy trong ánh tảo minh còn non yểu. Vài áng mây mong manh hồng rực lên như muốn vội vã nhuộm đỏ bầu trời nhưng chúng nhanh chóng bị xua tan bởi những luồng gió ác thượng tầng. Mộng Điệp bỗng nhớ ra cô đã xa nhà được mấy năm rồi, chưa một lần về thăm nấm mồ cha mẹ. Một niềm xót xa tủi hận dâng trào, Điệp khóc!

Xe chạy một chặng khá xa thì mây đen ùn ùn kéo tới. Mặt trời bị che khuất chỉ còn để lại trên cánh đồng thứ ánh sáng giả hiệu đùng đục nhờ nhờ. Vài ba chú cò khờ khạo nghiêng nghiêng ngó ngó như muốn hỏi trời xem sắp có chuyện gì. Người mã phu cho xe dạt vào một làng nhỏ ven đường để tránh cơn dông. Đường hẹp, những thân cỏ may mỏng manh đổ rạp theo vệt bánh xe lăn.

Buổi chiều trời vẫn mưa tầm tã, không có dấu hiệu nào của sự tạnh ráo. Không thể dừng được nữa, chiếc xe chở Mộng Điệp đi hút vào miền mờ mịt gió mưa.

*

Ngôi chùa Rồng rồi cũng được toạ lạc ngay giữa làng Cao Duệ, ba phía là ao, chỉ có một con đường độc đạo đi vào cửa tam quan. Trước sân có một bệ cao, bên trên là đài sen nâng tượng phật Quan Âm bồ tát bằng đá cực lớn, tay cầm cành dương vẩy nước cam lồ cứu khổ cứu nạn. Phía dưới tạc hình con quỉ đội đài sen đưa Quan Âm vượt qua biển cả. Chuỵên này có tích hẳn hoi nhưng dân trong làng ra xem có người bảo:

- Thế này chẳng hoá ra phật phải nhờ vào quỉ mới sống được à?

Người khác bảo:

- Phật nuôi quỉ để sai việc.

Một ông chừng ngoại lục tuần hóm hỉnh nói:

- Phật nuôi quỉ hay quỉ nuôi phật cũng nên.

Một ông khác nói:

- Ôi chà! Cái đó chỉ có ma mới biết được.

Một bà chép miệng bảo:

- Quái! ở nơi cửa phật mà các ông toàn nói chuyện ma với quỉ.

Một bà than vãn:

- Chẳng biết có Phật thật không, năm nay mất mùa mà cứ đóng góp xây cất mãi rồi khéo ra ma cả ấy chứ.

Buổi trưa các vị chức sắc trong làng ra làm lễ dâng hương thờ phật rồi tụ họp ngoài đình ăn cỗ hoàn công thợ, có quan huyện Nguyễn Vĩ Thố về dự. Phạm Hữu là quan hưu chức có công nên cũng được mời. Khi rượu đã ngà ngà, Vĩ Thố bảo Phạm Hữu:

- Thật tiếc cho cha con ông, khi chiến tranh loạn lạc thì xông pha nơi trận mạc, lúc thái bình có cơ hội thăng quan tiến chức, làm ăn được lại bỏ về. Tiếc quá! Tiếc quá. Giá ông ở lại...

Phạm Hữu lúc ấy còn tỉnh táo nhưng vờ say, gật gù nói:

- Quan lớn nói phải lắm. Nhưng làm quan đâu có dễ, cần phải có tài, phải không ạ?

Vĩ Thố đắc ý gật gù:

- Đúng rồi!

- Phải có khả năng che chắn đấu đá phải không ạ?

- Đúng!

- Phải biết dò đoán được ý quan trên mà chiều, phải biết kín đáo ăn chặn của dân, phải biết vu tội cho người ngay thẳng, phải có nhiều mưu mô để vơ vét cướp đoạt mà dân chúng vẫn phải coi mình là phụ mẫu chi quan công minh liêm chính, tóm lại là phải cực gian thâm có phải không? Những tố chất quí báu ấy cha con tôi không có thì làm quan sao được.

Vĩ Thố biết Phạm Hữu xỏ xiên mình nhưng không có cớ đàn hặc, cười méo mó, nói:

- Ông Hữu say rồi! Ông Hữu say rồi.

Phạm Hữu cầm chén đứng dậy bước ra giữa đình nói:

- Tôi say hay tôi chưa say không can hệ. Cái điều can hệ là tôi nói có đúng hay không kia.

Anh mõ cùng đám thợ làm thuê và mấy người nấu bếp nói:

- Đúng lắm! Đúng lắm!

Trương tuần Vũ Văn Dư thấy chạm nọc, buông đũa bát cầm tay thước chỉ đám người ồn ào, quát:

- Bọn kia! Biết gì mà nói leo?

Phạm Hữu bảo:

- Anh trương! Không phải nổi nóng. Tôi say rồi đang muốn về đây. Nhưng dù sao cũng mang tiếng có ít nhiều chữ nghĩa; làng có hội lớn lại có quan huyện về dự thế này là trịnh trọng lắm, tôi xin đọc mừng một bài thơ.

Mọi người cười khen tốt tốt. Vĩ Thố sợ Phạm Hữu làm thơ chửi mình, bảo:

- Hôm nay hoàn thành ngôi chùa nên chỉ làm thơ nói về nhà chùa thôi đấy nhé.

Phạm Hữu cười bảo:

- Tôi hiểu ý quan huyện rồi. Tôi đọc đây:

Hừ hừ!.. Tượng nhỏ tượng to đủ chỗ ngồi

Riêng người nằm khểnh dưới đất chơi

Tượng giả bộ nghiêm, thèm không dám

Người cứ tự nhiên tuý luý hoài

Ai bảo phật tiên người hay tượng

Cực lạc nhân gian hay bảo đài

ật ưỡng trên cao giời khó giữ

Kềnh luôn ra đất mới lâu dài.

Phạm Hữu đọc xong, đám cử toạ vỗ tay tán thưởng. Vĩ Thố biết Phạm Hữu chơi ác mình, cáu lắm nhưng chẳng làm thế nào được cũng gượng cười khen hay. Phạm Hữu mủm mỉm cầm cây quạt, giơ tay chào mọi người, bảo:

- Thôi các vị cứ ăn uống vui vẻ. Tôi xin phép về còn phải bảo các cháu nó sao nốt mấy mẻ thuốc.

Phạm Hữu về rồi, Vĩ Thố mới bảo:

- Hừ! Mẹ kiếp! ật ưỡng trên cao giời khó giữ. Hoá ra là nó rủa mình à!

*

Lại nói quan thẩm hình viện Đặng Ma La vâng chỉ làm khâm sai đi điều tra vụ Nguyễn Bằng phản loạn. Đặng Ma La vốn biết Nguyễn Bằng là người chính trực có công đánh giặc, chắc có chỗ uẩn khúc chi đây, nhưng sợ quan lại địa phương bưng bít mới nghĩ ra một kế, cùng mấy vệ sĩ mặc áo thường dân đi thẳng về làng Cao Duệ giả làm người buôn rau ở chợ, gánh một gánh rau úa ra bán. Có bác nông phu cười bảo:

- Gớm cái nhà bác này! Rau úa chết đi được còn mang bán thì ai mua.

Đặng Ma La nói:

- Tôi nghe nói đây là quê hương quan huyện Vĩ Thố, mà huyện quan lại chỉ thích ăn rau úa nên mới đem bán.

Bác nông phu giơ ngón tay trỏ lên miệng suỵt một tiếng, liếc mắt nhìn quanh, bảo:

- Chết! Sao bác nói dại thế, lại dám gọi cả tên cúng cơm của quan huyện ra nữa chứ. Lý tể làng này là con trai quan huyện, trương tuần gọi quan huyện là cậu ruột. Tay chân của họ nghe thấy thì bác chết đấy. Hẳn bác không phải là người vùng này?

- Sao tôi nghe nói quan huyện ở đây thanh liêm minh bạch, yêu dân như con, thương người nghèo lắm cơ mà.

- Ôi dào ôi! Thương cái xương chẳng còn. Bao nhiêu người bị vây cánh của ông ấy cướp sạch ruộng vườn, bồng bế nhau đi ăn mày cả lũ kia kìa.

Đặng Ma La gặng:

- Bác nói thế nào chứ chẳng lẽ không có ai lên tiếng bênh người nghèo à?

- Bác này đúng là ở nơi khác đến, coi giời bằng vung. Ai muốn bênh cứ trông gương ông Nguyễn Bằng đấy, tù mọt gông mấy năm nay, vợ con nheo nhóc, may nhờ ông Phạm Hữu cưu mang mới chưa đến nỗi chết đói.

- Ơ! Sao bảo Nguyễn Bằng phản loạn nên bị quan châu bắt?

Bác nông phu cười ngất, bảo:

- Ông Nguyễn Bằng mà coi là làm loạn thì cả nước này làm loạn hết.

- Thế thì đầu đuôi ra sao bác kể cho tôi nghe được không?

Người nông phu kể hết đầu tình sự việc cho Đặng Ma La nghe. Nghe xong, Đặng Ma La bảo:

- Không có ai làm giấy kiện lên quan châu à?

Bác nông phu ngán ngẩm thất vọng nói:

- Ôi giời ơi! Quan châu, quan huyện cũng cùng một giuộc cả. Chính vì có người làm đơn lên quan tri châu mới khốn khổ thế đấy.

- Bây giờ tôi đứng tên kiện, bác có dám ra làm chứng không?

- Chẳng ăn thua gì đâu bác ơi, tôi chịu thôi. Người dám làm chứng ở làng này may ra chỉ có ông Phạm Hữu.

Sau khi nói chuyện với người nông phu, Đặng Ma La giả làm người hàn nồi, la cà vào trong xóm gặp nhiều người khác nữa, biết dân ở đấy ai cũng căm ghét cha con huyện quan Vĩ Thố đến tận xương tuỷ mà không biết kêu vaò đâu và cũng hiểu được nỗi oan ức của Nguyễn Bằng. Hôm sau Đặng Ma La tìm gặp Phạm Hữu nói chuyện. Phạm Hữu hăng hái xin làm nhân chứng. Đặng Ma La liền đến phủ đệ quan tri châu cho đòi cha con quan huyện Nguyễn Vĩ Thố, Nguyễn Vĩ Thử và trương tuần Vũ Văn Dư đến hầu. Bọn này kêu oan, nhất định không chịu nhận tội. Đặng Ma La cho mời Phạm Hữu, vợ con Nguyễn Bằng cùng những người bị cướp ruộng vườn đến đối chất. Cha con Nguyễn Vĩ Thố không thể chối cãi nhưng vẫn không chịu nhận tội. Đặng Ma La sai lính nọc bọn Thố ra đánh mỗi người bốn mươi côn. Vĩ Thử, Văn Dư không chịu được đau đành khai ra hết. Đặng Ma La tuyên án:

- Cha con, cậu cháu bọn Nguyễn Vĩ Thố, Nguyễn Vĩ Thử, Vũ Văn Dư coi thường vương pháp, lạm dụng phép công mưu việc tư lợi, câu kết ngụy đảng hãm hại người lành, hà lạm công khố, đè nén dân chúng, khiến cho nhiều gia đình phải tan nhà nát cửa, làm rối loan kỉ cương phép nước, tội ác tầy trời chẳng thể dung tha. Nay ta thừa lệnh hoàng thượng tuyên bố tịch thu toàn bộ tài sản, tước bỏ mọi phẩm hàm của Nguyễn Vĩ Thố đày đi Hoan châu làm sai dịch. Tịch thu tài sản Nguyễn Vĩ Thử, Vũ Văn Dư, tước bỏ mọi phẩm hàm đuổi về làm dân thường. Tất cả vườn ruộng bọn chúng cướp của thứ dân được trả về chủ cũ. Đốt bỏ văn tự xoá nợ cho dân. Quan chi châu Hà Phương không làm tròn phận sự, bao che dung túng cho hạ cấp làm càn, nay bãi chức quan, bắt về triều đình nghị tội.

Dân chúng đến xem xử án nhất loạt tung hô:

- Hoàng thượng vạn tuế! Hoàng thượng vạn tuế! Vạn tuế, vạn tuế, vạn tuế!

Đợi cho bầu không khí lắng xuống, Đặng Ma La nói tiếp:

- Nguyễn Bằng có công đánh giặc mà phải chịu hàm oan, hai lần vào lao ngục vẫn giữ được khí tiết, hết lòng vì nước vì dân, thật là trung lương, thật là quân tử. Nay đưa về triều đình đợi nhà vua ban thưởng. Lính đâu! Đưa Nguyễn đại nhân lên đây.

Quân lính mở cửa nhà ngục. Vợ con Nguyễn Bằng cùng Phạm Hữu vào theo. Chỉ thấy Nguyễn Bằng tóc tai quần áo tả tơi, người gầy đét, ghẻ lở đầy mình, chân tay bị cùm kẹp tím bầm sưng tấy, nằm thở thoi thóp như sắp tắt hơi, không còn biết gì nữa. Phạm Thị vợ Nguyễn Bằng oà khóc:

- Quân giết người! quân giết người...

Thật là:

Đất khách coi khinh ngàn gươm giáo

Quê hương hấp hối một thân tù

Mời bạn đọc tiếp chương sau xem Nguyễn Bằng sống chết ra sao.

Đan Thành

Cuộc tình éo le trong vườn Yên Hoa

Thú chơi phiêu bồng bên hồ Lục Thuỷ

Đang nói Đặng Ma La xử án cứu được Nguyễn Bằng ra thì đã gần chết. Vợ con Nguyễn Bằng kêu khóc om sòm. Phạm Hữu bảo:

- Mẹ con cô hãy ra ngoài kia để tôi còn chữa cho chú ấy.

Phạm Hữu nói xong, cầm tay Nguyễn Bằng, thấy mạch trầm hoãn không có lực, người lạnh, thở gấp như hụt hơi, nói:

- Khổ thân chú ấy. Bị bỏ đói đây mà. Chú lính cho tôi ít nước nóng rồi chạy đi mua hộ tí cháo, bảo họ múc cho chỗ loãng loãng thôi.

Người lính vội mang nước đến. Phạm Hữu cho Nguyễn Bằng uống mấy giọt thuốc hồi dương cứu nghịch làm người ấm lên, lại bón cho mấy thìa cháo. Lát sau Nguyễn Bằng tỉnh lại, ai nấy đều mừng rỡ. Nguyễn Bằng thấy Phạm Hữu cùng vợ con quây quần cả bên mình, mừng quá nói:

- Tôi có chết cũng đã gặp được mọi người thế này là...

Hai hàng nước mắt ứa ra, không nói hết được câu. Những người xung quanh cũng rưng rưng cảm động. Phạm Hữu bảo:

- Tôi đến đây, chú muốn chết cũng đâu có được. Bọn quan huyện, quan châu bị bắt cả rồi.

Đặng Ma La đợi mấy ngày cho Nguyễn Bằng khoẻ hẳn mới đưa về kinh yết kiến hoàng thượng. Thánh tông khen Nguyễn Bằng là người dũng nghĩa, xét công lao phong cho làm tri châu châu Hạ Hồng, thay quan chi châu cũ Hà Phương. Nguyễn Bằng lạy tạ nhưng không nhận chức, chỉ xin được về quê an dưỡng tuổi già. Thánh Tông ban cho năm trăm lạng bạc, hai tấm lụa, chuẩn cho về quê sum họp gia đình.

*

Xin trở lại với vị tướng trẻ tài ba mà si tình Trần Khánh Dư cùng nàng công chúa xinh đẹp yêu kiều Thiên Thụy. Từ hôm Khánh Dư gặp lại Thiên Thụy bên bờ Tây hồ, chàng như được uống một liều thuốc cải tử hoàn sinh, xua tan mọi nỗi ưu phiền cùng bệnh tật, bởi vì công chúa đã hẹn đúng tối hôm rằm chàng đến vườn Yên Hoa trong khu ngự uyển gặp nàng. Hôm nay chính là ngày hẹn. Từ lúc mặt trời còn cao, Khánh Dư đã ăn mặc rất chải chuốt, đi ra đi vào chỉ mong sao xua được bóng ác vàng bay nhanh qua núi cho giời chóng tối.

Vườn Yên Hoa thuộc ngự hoa viên, có từ thời Lý Anh Tông. Lai lịch của nó gắn liền với thú ăn chơi của các vương hầu công tử cùng tao nhân mặc khách chốn kinh kỳ. Trong kinh thành Đại La có xóm Yên Hoa rất nhiều ca kỹ múa giỏi đàn hay lại biết ươm trồng nhiều giống kì hoa dị thảo hương thơm sắc thắm. Các vương tôn, công tử, quan lại thường lui tới nghắm hoa nghe nhạc, nhiều khi thâu đêm suốt sáng. Có người biết nhà vua hay chơi hoa mới xin về dâng lên. Nhà vua thích lắm, thưởng cho rất hậu, lại sai đem cây hoa lạ trồng trong vườn.Về sau người ta đua nhau tìm những loài cây quí dâng cho nhà vua. Tất cả các cây ấy đều được trồng trong khu vườn riêng, cử người chăm sóc cẩn thận, gọi là vườn Yên Hoa với ý là những cây ở đây đều được lấy giống từ xóm Yên Hoa. Đến thời Lý Cao Tông không những chỉ có các giống hoa lạ mà các loại cây hiếm có hình dáng đẹp ở khắp nơi cũng được mang về trồng. Nhà vua lại cho đào một chiếc hồ bán nguyệt rộng mười mẫu, xây thuỷ đình cực kì lộng lẫy. Chung quanh hồ trồng rất nhiều cây liễu, có đường lát gạch phương điều để người của hoàng gia đi dạo ngắm hoa. Đến đời Lý Huệ Tông, Trần Tự Khánh nắm giữ quyền bính cho xây một hòn giả sơn cao bảy trượng giữa hồ. Trong lòng giả sơn có nhiều hang động thông qua một đường ngầm nối liền với những hang động của dãy non bộ trên bờ. Khi Trần Thái Tông lên ngôi cho xây thêm năm ngôi hoa đình tượng trưng ngũ hành và đường đi lối lại liên kết thành hệ thống rất đẹp đẽ. Những cây được trồng từ thời nhà Lý đã thành cổ thụ, nhiều cây cao hơn mười trượng, cành lá sum suê toả bóng xuống một sân chơi lát gạch men xanh ngọc nhạt. Khu vườn luôn râm mát yên tĩnh, những chiều Hè nắng nóng hoặc đêm trăng thanh gió mát, các công chúa, hoàng tử thường đến đây chơi dạo vui đùa, khi chọi dế đá cầu, lúc kéo co đánh vật, hoặc giả chơi trò trốn tìm đuổi nhau rất vui vẻ.

Mới đầu giờ Dậu, Trần Khánh Dư đã tới hoa viên. Cả khu vườn vắng lặng vì giờ này trong hoàng cung đang là bữa ăn chiều. Khánh Dư đi dạo một mình, lúc lâu sau chàng ngồi xuống ghế đá ven hồ, ngắm trăng lên. Trăng rằm chưa tròn hẳn nhưng trong sáng, từ từ nâng chiếc khuôn vàng vào giữa màn xanh, toả ra một thứ ánh sáng mềm mại dịu dàng. Đội minh đăng quân đã thắp xong các dãy đèn trong khắp hoàng cung. Ngự uyển lung linh dưới ánh sáng của hàng trăm ngọn đèn nhiều màu. Khánh Dư có vẻ sốt ruột, chốc chốc lại nhìn về phía con đường từ ngự hoa viên dẫn vào hoàng cung mong kiếm tìm hình bóng giai nhân. Công chúa Thiên Thụy không đi lối ấy, nàng theo cửa nhỏ đi qua phía sau hòn giả sơn, chỉ có một thị nữ theo cùng. Khánh Dư ngoảng lại đã thấy người đẹp kề bên. Nàng đi giày thêu, áo lửng không tay màu mỡ gà dài gần tới gối bó gọn trong chiếc thắt lưng màu vàng kim tuyến, khuôn mặt rạng rỡ như bức tranh vẽ hình Lạc Thần gặp Hậu Nghệ. Nói sao hết nỗi vui sướng của Khánh Dư. Thiên Thụy hỏi:

- Chú Dư đợi Thiên Thụy đã lâu chưa?

- Gần một trăm năm rồi.

Thiên Thụy vừa đấm nhẹ vào lưng Khánh Dư vừa nũng nịu nói:

- Chú Dư chỉ nói đùa! Chú Dư chỉ nói đùa!

Khánh Dư định nắm lấy tay Thiên Thụy nhưng nàng đã bỏ chạy, nói:

- Đố chú Dư đuổi được Thiên Thụy.

- Đuổi được thì sao?

- Sao cũng được.

Khánh Dư đuổi theo. Thiên Thụy chạy vòng ra sau hòn giả sơn rồi chui tọt vào một cửa hang. Trong hang thắp những ngọn đèn màu rất nhỏ, chiếu ánh sáng mờ mờ lên các vách đá lóng lánh như được gắn muôn ngàn viên ngọc dạ quang bé xíu, rất nhiều nhũ đá thiên hình vạn dạng ghép nối một cách khéo léo rủ xuống chẳng khác gì ở nơi tiên động. Phía trước thấp thoáng bóng Thiên Thụy đang chạy. Đến một ngách ít ánh đèn, nàng chạy chậm lại, bị Khánh Dư tóm được. Chàng ôm nàng trong vòng tay. Thiên Thụy đẩy ra, bảo:

- Đừng! Kìa! Nhỡ ai nhìn thấy.

- Làm gì có ai ở đây! Ta đợi cơ hội này đã lâu lắm rồi.

Nói xong, Khánh Dư hôn tới tấp lên mặt lên môi Thiên Thụy. Nàng yên lặng trong vòng tay chàng. Đôi trai gái như quên hết những gì có thể xảy ra ở xung quanh và trong cái khung cảnh mơ hồ huyền ảo như chuyện thần tiên, họ đã đưa nhau đến miền thần tiên nhất của những người tình. Từ đấy hai người thường hẹn nhau đến đây để được thoả thích làm chuyện mây mưa.

Quan tri châu Hà Phương bị điệu về kinh thành chờ xét xử. Khi dẫn tới nhà ngục, có người cháu làm cai ngục là Hà Bình trông thấy gọi nhưng Hà Phương không trả lời. Chiều hôm ấy, cai ngục Hà Bình đuổi hết lính ra, một mình vào thăm Hà Phương. Hà Bình hỏi:

- Chú không nhận ra cháu ư?

Hà Phương bảo:

- Không phải! Chỉ sợ có người làm khó dễ còn gặp nhau thường xuyên sao được. Bây giờ chú phạm tội bị giam ở đây, cháu có cách gì giúp chú không?

- Lần trước cũng có người mắc tội, họ nhờ quan chi hậu cục Đỗ Khắc Chung tâu xin với nhà vua thế nào đó nên được giảm án. Các quan ở bộ hình cũng có vẻ kiêng nể ông ấy lắm nhưng chắc phải mất rất nhiều tiền bạc.

- Tiền bạc thì không lo. Chú có thể chi đủ nhưng làm thế nào mà gặp được ngài chi hậu cục đây. Bây giờ từ châu huyện đến kinh kì chỗ nào cũng nhan nhản cò mồi, không khéo mất tiền mà chả được việc gì.

- Đúng đấy chú ạ. Có tiền mà không biết đường biết lối cũng không thể thành việc, có khi còn mang vạ thêm. Cháu có một người bạn là Hiếu Ngân làm ở dinh quan phiêu kị tướng quân Trần Khánh Dư. Ông Trần Khánh Dư được hoàng thượng quí mến, cũng hay đi lại với quan chi hậu cục Đỗ Khắc Chung. Để hết giờ làm việc cháu nhờ thử xem.

Hà Phương như người chết đuối vớ được cọc, bảo:

- Cũng may gặp được cháu ở đây; thôi thì trăm sự nhờ cháu. Chỗ này chú chỉ có ít bạc lẻ, cháu cầm đi mời người ta chén rượu. Tình hình thế nào mau cho chú biết để còn lo liệu.

Hết giờ làm việc, Hà Bình phi ngựa đến dinh quan phiêu kị tướng quân Trần Khánh Dư, may sao Hiếu Ngân cũng vừa lúc được nghỉ đang định về nhà. Hai người gặp nhau. Hà Bình bảo:

- Này! Có vụ làm ăn đấy. Ông giúp tôi một tay chứ?

Hiếu Ngân nói:

- Giúp thì giúp! Miễn là nặng tay vào. Vịt gầy hay béo?

- Gầy béo gì! Quan tri châu ở châu Hạ Hồng là chú họ tôi chứ ai.

- Chú họ chú ruột gì cũng phải có ăn mới làm được chứ, uống nước lã đi nói hộ à?

- Ai đã để ông uống nước lã. Ta đến tửu quán nào đó nói chuyện đi.

- Đến phường Yên Hoa hay ra hồ Lục Thuỷ.

- Xóm Yên Hoa hát toàn hành vân với lưu thuỷ chán bỏ mẹ. Ta ra hồ Lục Thuỷ, các kỹ nữ hát nhạc ngoại Hồi Kê, Đại Lý rồi cả nhạc Chiêm, nhạc Thiên Chúc nữa, miệng hát chân nhảy, rốn lúc lắc thế mới thích.

- Ôi giời! Bây giờ đâu phải hát nhạc ngoại nó mới phơi rốn ra. Ông thích thì không mặc gì đứng hát nhạc cổ nó cũng chiều. Nhiều đứa đầu óc tóc tai cắt cum cúm như đồ ăn cắp.

Hôm sau Hà Bình vào nói với Hà Phương:

- Bạn cháu nó nhận lời giúp cho rồi đấy. Nhưng qua cửa phiêu kị tướng quân không có lễ hậu thì không xong được.

Hà Phương liền viết một lá thư giao cho Hà Bình về nhà ở huyện Bàng Hà lấy vàng bạc để lo việc.

Buổi chiều, Trần Khánh Dư đang chải đầu, định tối đi gặp công chúa Thiên Thụy trong ngự hoa viên, nàng đã hẹn đợi chàng bên hồ bán nguyệt. Hiếu Ngân chạy vào báo:

- Trình tướng quân! Bạn của hạ chức đã đến rồi, đang đợi ở cổng sau.

Khánh Dư tươi cười nói:

- Tốt! Tốt. Ngươi bảo chúng đem cả vào đây. Để ý xem có ai nhìn ngó gì không đấy.

Hiếu Ngân đi ra, lát sau dẫn Hà Bình cùng một tên đầy tớ vác chiếc hòm nặng vào. Hà Bình quì xuống nói:

- Quan chi châu Hà Phương có chút lễ mọn dâng lên. Xin đại nhân che chở cho.

Khánh Dư bảo mở ra. Chiếc nắp hòm được nâng lên. Bên trong đầy ắp mấy chục thoi vàng ròng lấp lánh. Khánh Dư cười mỉm bảo:

- Ngươi cứ về đi, mọi việc để ta lo.

Tối hôm ấy Khánh Dư vào hoàng thành nhưng không đến gặp Thiên Thụy mà tìm gặp Đỗ Khắc Chung. Khắc Chung nể Khánh Dư nên nhận lời nói giúp. Khánh Dư đưa cho Khắc Chung một cái túi gấm, nói:

- Đây là lễ của quan tri phủ Hà Phương gửi biếu.

Khắc Chung mở ra thấy có hai thoi vàng, gật gù bảo:

- Cũng biết điều đấy. Lộc bất tận hưởng. Ông hãy nhận lấy một thoi.

Khánh Dư xua tay, nói:

- Không không! Người ta biếu ông. Còn tôi là chỗ đồng hương chỉ giúp vô tư thôi.

- Tướng quân chối từ thì tôi đâu dám nhận một mình.

- Có gì mà không dám? Ông cứ cho Dư này mấy chén rượu là được rồi.

Hai người cùng cười. Khánh Dư theo Khắc Chung đến kỹ viện Phúc Tình bên hồ Lục Thuỷ, chẳng còn nhớ gì đến lời hẹn hò với công chúa Thiên Thụy.

Quan tri châu Hà Phương vì được Đỗ Khắc Chung và Trần Khánh Dư nói đỡ nên thoát tội chết, chỉ bị giáng xuống làm huyện lệnh huyện Đông Triều. Các quan trong triều tuy không đồng tình với cách luận tội của bộ hình nhưng e dè thế lực của Khánh Dư và sợ Khắc Chung là cận thần của nhà vua, lại không có bằng chứng về việc ăn hối lộ của hai người ấy nên đành nhẫn nhịn.

Công chúa Thiên Thụy từ buổi Khánh Dư bỏ lỡ hẹn, buồn bã sầu khổ không biết chừng nào, bữa ấy mát trời, cùng thị nữ đến giảng võ đường xem luyện tập cho khuây khoả. Từ trên đài cao nhìn xuống thấy một thiếu niên tuổi chừng mười tám đôi mươi, tóc búi cao giắt một cây cài vàng, môi như son tô, mặt tựa phấn rắc muôn phần đẹp đẽ. Thiếu niên ấy mặc võ phục nhẹ, vai đeo cây cung màu mã não, túi tên buộc chặt sau lưng, tay cầm trường thương, cưỡi ngựa bạch câu phi như bay trên sân tập. Công chúa nghe một vị lão quan nói:

- Công Tôn Át cũng chẳng thể hơn.

Thiếu niên kia múa một bài thương. Ngọn thương bay vun vút vẽ thành những vòng sáng lấp lánh bao trước, chặn sau mười phần kín đáo. Bài võ vừa dứt, chàng hoành ngọn thương ngang lưng ngựa, phi một vòng quanh sân tập, rút cây cung mã não bắn liền ba phát đều trúng hồng tâm. Cả võ trường vỗ tay vang trời dậy đất. Thiếu niên ấy tiến đến trước tướng đài chào các vị lão quan. Một vị quan nói:

- Thật không hổ danh con nhà tướng.

Thiên Thụy hỏi vị quan vừa nói:

- Viên tướng ấy là ai vậy?

- Thưa công chúa! Người ấy là công tử Nghiễn, con trai cả của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, năm nay mới mười chín tuổi. Hai năm trước đã từng theo đi tuần biên giới, gặp bọn thảo khấu bên kia sang quấy nhiễu biên dân, công tử đã dẫn quân đánh tan chúng, bắt được nhiều tên vì thế dân miền biên mới được yên. Hôm nay công tử về kinh, các tướng mời ra cùng thao luyện.

Công chúa nghe nói vậy hài lòng lắm, khi ấy Quốc Nghiễn đã nhìn thấy nàng. Bốn mắt gặp nhau, Quốc Nghiễn ngây ra không nói được lời nào. Mọi người lại nghĩ là chàng say nắng! Lúc ở võ trường về, Quốc Nghiễn hỏi một lão gia tướng:

- Hôm nay ta thấy trên tướng đài có một vị công nương; chẳng hay lão có biết đó là ai không?

Người gia tướng ấy thưa:

- Tôi nghe nói hoàng thượng có người con gái lớn là công chúa Thiên Thụy rất xinh đẹp. Hẳn là người ấy.

Công tử Nghiễn ngay ngày hôm sau về Vạn Kiếp nói với cha xin hỏi công chúa Thiên Thụy cho mình. Trần Hưng Đạo cũng ưng ý nhưng lại nói:

- Ta cũng biết Thiên Thụy là cô gái xinh đẹp đoan trang, hiếm có trên đời. Có điều biết lấy ai mối manh bây giờ?

Công tử Nghiễn nói:

- Tĩnh Quốc đại vương là người được hoàng thượng rất quí trọng. Việc này phi chú ấy ra thì khó có ai kham nổi.

Hưng Đạo vương gật gù, nói:

- Con nói phải đó.

Hưng Đạo vương liền sai sắm sửa sính lễ, chọn ngày lành tháng tốt đến nhờ Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang vào cung hỏi công chúa Thiên Thuỵ cho công tử Nghiễn.

Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang về danh nghĩa là anh ruột của Trần Thánh Tông nhưng thực chất là con của công chúa Thuận Thiên nhà Lý với An Sinh vương Trần Liễu, là em cùng cha khác mẹ với Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Ông là người hiền lành, đức độ lại có lòng hiếu thuận nên được thượng hoàng Thái tông và nhà vua cùng anh em trong hoàng tộc rất quí trọng. Chuyện kể rằng: Mùa Đông năm Thiệu Long thứ mười một, Thánh Tông cùng Quốc Khang vui đùa trước mặt thượng hoàng. Quốc Khang múa điệu múa của người Hồ; thượng hoàng vui vẻ cởi áo đang mặc thưởng cho. Thánh Tông cũng múa điệu Hồ để xin chiếc áo ấy. Quốc Khang nói: "Cái quí nhất là ngôi hoàng đế, thần còn không tranh với chú hai. Nay đức chí tôn ban cho thần vật nhỏ mọn này mà chú hai cũng định cướp lấy chăng?". Thượng hoàng cả cười nói: "Thế ra mày coi ngôi vua với cái áo xoàng này chẳng hơn kém gì nhau". Thượng hoàng cho Khang chiếc áo ấy. Từ đó Thượng hoàng và nhà vua càng yêu quí Quốc Khang hơn. Tháng chín năm sau vua phong Quốc Khang làm Vọng Giang phiêu kị đô thượng tướng quân. Khi ấy Quốc Khang được Hưng Đạo vương nhờ việc thì vui vẻ nhận lời, vào nói với nhà vua. Nhà vua cũng ưng cho, hẹn đến mùa Đông tiến hành hôn lễ.

Công chúa Thiên Thụy từ hôm ở giáo trường về, không lúc nào không tơ tưởng đến công tử Nghiễn, tuy vậy cũng không sao quên được những cuộc ái ân với Trần Khánh Dư. Nàng vẫn mong được gặp lại chàng nhưng đến hơn một tháng Khánh Dư không trở lại. Sự mong ngóng đã trở thành hờn giận, nàng cho rằng Khánh Dư là kẻ vong tình, đã quên đứt mình rồi. Vả lại kinh thành bây giờ nhiều chỗ ăn chơi, biết đâu chàng đã gặp một tuyệt thế giai nhân mà quên tình cũ. Đến khi nghe tin công tử Nghiễn nhờ người tới hỏi và nhà vua cũng đồng ý thì Thiên Thụy mừng như mở cờ trong bụng. Lòng tự ái khiến nàng quyết trả thù Khánh Dư bằng cách cho người báo với chàng cái tin nàng sắp đi lấy chồng. Qủa nhiên nhận được cái tin quái ác ấy, Khánh Dư cuồng lên như bị ong đốt, quyết cướp lại người tình cho bằng được.

*

Thời cuộc thay đổi như trên bàn cờ. Quán rượu Phúc Tình phát triển mãi lên và nghiễm nhiên trở thành một kỹ viện có tiếng ở nơi đô hội về nhiều cách chơi tân kì, khiến các vị quan nhân, tướng tá mê mệt biết thế nào là chốn Bồng Lai ở nơi trần thế. Chủ quán tư Phúc có hai con đã lớn nhưng xem ra vẫn còn xuân sắc lắm. ả không biết đọc nhưng ông chủ Vũ Tình là người có ít nhiều chữ nghĩa lại có chức sắc trong phường phố. Các cung cách làm ăn là do ông chủ đọc sách Tàu, đem áp dụng theo lối kỹ viện Bắc quốc. Họ tuy không phải là vợ chồng nhưng hợp ý nhau lắm.

Mộng Điệp được bán về kỹ viện Phúc Tình đã năm ngày nhưng chưa được tiếp khách. Những kiến thức nghề nghiệp mợ Hồng dày công rèn luyện cho nàng không đáp ứng được yêu cầu của quan khách chốn đế đô. ở đây cái gì nàng cũng thấy bỡ ngỡ, từ quần áo, nhà cửa, đường đi lối lại, trông vào đâu cũng rực lên vẻ sang trọng của đất kinh thành. Ngay đến câu chửi và những trận đòn trừng phạt, mợ Hồng ở huyện Đường An chỉ là người dọa trẻ. Các kỹ nữ muốn tiếp khách phải khổ công học hỏi để khỏi làm mất tiếng tăm của kỹ viện. Quả là ông bà chủ có tư tưởng làm ăn nhớn. Các kỹ nữ mới đến, nội trong mười ngày phải học hết những bài bí quyết của chuyện gió trăng do chị cả giảng giải. Năm ngày qua, Mộng Điệp đã học được những bài tiếp khách phòng trà và thuật chuốc rượu, phải làm ra vẻ kiều mỵ, phải tạo được hương sen vàng thơm ngát...cùng những thủ đoạn lừa lọc nhiếp phách câu hồn để lấy tiền của khách. Hôm nay chị cả sẽ giảng bài bí quyết trong phòng. Từ sớm, Mộng Điệp cùng hai cô mới đến đã bị gọi dậy sang phòng học. Chị cả Tâm Băng ngồi chờ sẵn. Ba người vừa bước vào, Tâm Băng bảo:

- Hôm nay là bài học chính, các cô phải nhớ cho kĩ mới giữ được khách, nếu không thông thạo nghề ngón để khách bỏ đi thì chỉ có cách ra đứng đường làm gà lẻ thôi đấy.

Chị cả Tâm Băng đẹp, chừng hai bốn hai nhăm tuổi, nói năng lưu loát nhưng đôi mắt lạnh lùng không ra kênh kiệu cũng không phải u buồn mà đầy sức quyến rũ. Mấy chị em ngồi yên chỗ, Tâm Băng bắt đầu giảng:

- Các bí quyết trong phòng có nhiều nhưng chung qui là phải làm sao cho khách chơi vui thú sung sướng đến mê cuồng. Để làm được điều đó, các cô đừng cho là dễ nhé, chúng ta phải lao động cật lực đấy, dù có chán ngán rã rời vẫn phải làm như vui vẻ ham hố để khách khỏi phật lòng. Những thủ thuật cơ bản đã được đúc kết trong một câu là mặt ngoài bảy chữ, bên trong tám nghề. Phàm đã vào phòng với khách phải tuỳ cơ mà thực hiện cho tốt.- Chị cả Tâm Băng ngụm một ngụm nước nhấm giọng, nói tiếp - Bẩy chữ ấy là khốc, tiễn, thích, thiêu, giá, tẩu, tử. Khốc là khóc. Khách đến chơi thường là loại đa tình mà sĩ diện, dễ mủi lòng; khi đã vào phòng phải làm ra vẻ bi lụy sầu khổ mong sự chở che của đấng trượng phu. Khách nổi máu anh hùng hoặc động lòng trắc ẩn tất phải nghe ta. Khi khách đã nghe mà gắn bó với ta rồi thì cắt tóc thề bồi đó là tiễn. Thấy khách có vẻ nhiều tiền thì...

Chị cả Tâm Băng đang giảng bỗng thấy ấu Lang con trai bà chủ lôi xềnh xệch một cô gái đẩy vào học đường, nói:

- Chị cho con này nó nghe lại với! Ngu đần quá, khách nào người ta chơi với, chỉ tổ cơm toi.

Cô gái vừa bị đẩy vào là Năm Hà, chưa đầy mười sáu tuổi, đã ra nhận việc mấy ngày nhưng không chịu chiều theo ý khách. ấu Lang trước khi bỏ đi còn chỉ mặt Năm Hà, bảo:

- Ngồi đấy mà nghe giảng, ngày mai khách còn kêu, tao cho mày biết thế nào là đòn mèo.

Chị cả Tâm Băng lạnh lùng nói:

- Trông mày cũng không đến nỗi nào mà sao vô duyên thế?

Năm Hà gạt nước mắt nói:

- Em đang có kinh không làm gì được chứ đâu dám không chiều khách.

- Sao không uống thuốc chỉ kinh.

- Em uống rồi nhưng không sạch.

- Phải uống nhiều giấm vào.

- Ăn đói, uống nhiều giấm cồn ruột lắm, em không chịu được.

- Thế có chịu được roi gai, đòn mèo không?

- Chị ơi! Chị thương em với, xin cho em với.

- Tao xin cho mày, ai xin cho tao đây? Hãy vào ngồi mà nghe đây đã.

Tâm Băng nói tiếp từng chữ thích, thiêu, giá, tẩu, tử rồi hắng giọng bảo:

- Bây giờ các cô phải biết thế nào là tám nghề, không thạo tám nghề, đừng hòng giữ khách. Khi đã lên giường nếu khách là hạng lục lâm thảo khấu, thường hùng hục lấy được nhưng là hạng quan sang quyền quí hay tao nhân mặc khách, còn sờ mó mơn trớn chán, khi ấy phải tuỳ theo mà thực hành một trong tám nghề sau: Kích cổ thôi hoa, kim liên song toả, đại triển kì cổ, mạn đả khinh xao, khẩn thuyên tam điệt, tả chi hữu trì, toản tâm truy hồn, nhiếp thần nột toạ. Đó là tám phép nghề có thể nói là muôn vạn gã phong tình dù cao thủ đến đâu cũng không ra ngoài lưới ấy, nhưng phải tuỳ từng khách chơi mà ứng dụng chớ để nhầm lẫn.

Chị cả Băng Tâm ngừng lời. Các đệ tử vẫn há mồm nghe như chưa hiểu đầu đuôi gì cả. Tâm Băng phải diễn nôm lại tường tận rồi bảo chị em đi kiến tập.

*

Đô trưởng Thân Văn Khoai vừa mới lĩnh lương, đi tìm thập trưởng Trịnh Quang Minh, bảo:

- Này! Bác Minh, hôm nay anh em mình đi hồ Lục Thuỷ chứ? Em có tiền đây rồi. Ta lại đến hiệu Phúc Tình đi.

- Ôi! Đi với cậu chán bỏ mẹ. Bảo cát hoa thì không dám. Vác mặt đến nó cười cho như thằng thộn ấy à? Có dám thì đi, không thì thôi.

Văn Khoai gãi đầu nói:

- Cát hoa thì cát hoa, nhưng mà ngượng chết.

- Để nó cười vào mũi cho còn ngượng hơn.

Hai anh em dẫn nhau đến kỹ viện Phúc Tình, lên gác hai chọn một bàn nhìn ra bờ hồ, uống rượu. Từ đây ngắm được các nhà hàng bên cạnh, đâu đâu cũng lấp lánh ánh đèn màu, khách chơi qua lại dập dìu, khăn tía áo hồng tài tử giai nhân đón đưa không ngớt. Tỉu bảo vừa bưng rượu ra, có hai ca kỹ ôm đàn tì bà theo đến hầu rượu. Văn Khoai không biết nói thế nào, nhìn Quang Minh. Quang Minh cười chỉ ghế mời hai cô gái bằng một câu kiểu cách như người Tàu:

- Anh em tôi xin mời nhị vị thư thư cùng chung vui.

Một trong hai cô gái nói:

- Để em rót rượu mời nhị vị tráng sĩ. Chẳng hay nhị vị tráng sĩ ưng nghe khúc đàn nào đây?

Văn Khoai lại nhìn Quang Minh. Quang Minh biết ý bảo:

- Xin cho nghe khúc Quá Quan có được không?

- Hai tráng sĩ cạn ly đi, tiện nữ xin hầu đàn. Cả bốn người cùng nâng chén. Cô gái rót một tuần rượu nữa rồi lên dây đàn dạo khúc Quá Quan, cô gái kia gõ phách cầm nhịp, cả hai cùng cất giọng hát. Tiếng đàn, tiếng hát khi bổng khi trầm, lúc dồn dập như mưa bay gió cuốn nơi biên ải, lúc tha thiết nỗi niềm sầu nhớ của người con gái xa quê.

Tiếng đàn vừa ngừng, mấy người khách ở bàn phía trong bảo:

- Hay lắm! Hay lắm! Nhưng mà buồn quá. Có cái gì nhảy nhót một tí nhỉ?

Quang Minh bảo:

- Phải đấy! Phải đấy.

Cô gái cầm cây đàn tì bà bảo:

- Xin chiều ý qúi khách, có ngay ạ.

Hai cô gái cùng đi vào, lát sau đi ra với ba người nữa. Tất cả cùng mặc áo bó chẽn lấy thân, vạt áo ngắn hếch lên, cạp quần ngắn trễ xuống để hở một khoang bụng trắng với cái rốn sâu hom hỏm. Mỗi cô cầm một thứ nhạc cụ rất lạ mắt. Tất cả cùng vừa tấu nhạc vừa nhảy, tài nghệ sánh ngang với các diễn viên tạp kỹ. Nhạc mỗi lúc một sôi động, điệu nhảy mỗi lúc một quay cuồng. Tất cả các khách trong tửu lầu đều vỗ tay tán thưởng. Văn Khoai hỏi Quang Minh:

- Nhạc kiểu gì mà nghe lạ thế?

- Tớ cũng không biết nhưng chắc là của ngoại, nghe chẳng hiểu gì nhưng họ khen, mình cũng cứ khen không lại mang tiếng là không biết thưởng thức.

Rượu đã ngà ngà, hai cô gái ban đầu trở lại bảo:

- Nhị vị quan anh vào phòng đấm lưng chứ ạ?

Văn Khoai vẫn im thin thít. Quang Minh hỏi:

- Đấm lưng kiểu gì đấy?

- Kiều gì cũng chiều ạ.

- Đấm thì đấm. Tôi thế nào cũng được nhưng chú em tôi đây còn mới mẻ, e dè lắm. Các vị thư thư đừng có làm chú ấy chết đấy nhé.

Cả bọn cùng cười. Quang Minh ngật ngưỡng theo cô gái vào phía trong, bỏ Văn Khoai ngồi lại cùng cô kia. Cô gái bảo:

- Huynh đi cùng em chứ? Đi với em đi. Huynh không đi với em chắc là em chết mất.

Cô gái nói xong cầm tay Văn Khoai kéo đi. Văn Khoai vốn vụng đường ăn nói, chẳng biết từ chối ra sao, đành để cô gái lôi vào phòng. Trong phòng màn trướng, giường đệm đẹp đẽ lại có cái bàn nhỏ với hai chiếc nghế cũng nhỏ để hai người ngồi nói chuyện. Văn Khoai đỏ mặt, ngồi cúi gằm không dám động cựa. Cô gái thấy vậy, cầm tay hỏi:

- Huynh không đến đây bao giờ hay sao mà run thế.

Văn Khoai thực thà trả lời:

- Tôi có đến vài lần rồi nhưng chỉ để uống rượu chứ chưa dám vào phòng này bao giờ.

- Huynh là võ quan mà nhút nhát thế, đánh giặc sao được.

Văn Khoai đã lấy lại được bình tĩnh, lại thấy cô gái cũng có vẻ hiền lành mới bảo:

- Đánh giặc tôi cũng không ngại bằng nói chuyện với các cô.

Cô gái cười tinh quái, bảo:

- U à! Nói lém rồi phải không? Chắc ghê ra phết chẳng phải vừa.

- Tôi thấy cô cũng có vẻ con nhà lành, sao lại chọn làm nghề này.

Câu hỏi của Văn Khoai dường như đã chạm đến một nỗi niềm thầm kín nào đó. Cô gái không trả lời, quay đi giấu một giọt nước mắt. Điều đó không qua được mắt chàng vệ binh đã nhiều năm làm cái công việc quan sát và nhận xét. Văn Khoai thấy lạ hỏi:

- Cô sao vậy?

- Không! Em không làm sao cả.

Sự giấu giếm của cô gái càng gợi trí tò mò của Văn Khoai, chàng hỏi:

- Cô không phải giấu tôi. Ban nãy cô nói nếu tôi không đi với cô chắc cô chết mất, thế là thế nào?

Cô gái thấy anh lính là người thật thà, thở dài bảo:

- Huynh hỏi những điều ấy làm chi? Em nói ra càng không sống được.

Văn Khoai mạnh dạn hẳn lên:

- Cô cứ nói đi. Có tôi đây, kẻ nào dám làm gì cô!

Cô gái nghĩ: Chết thật! Mình chưa đi hết chữ đầu tiên trong bảy chữ mà anh chàng đã nổi máu yêng hùng lên rồi. Văn Khoai thấy cô gái ngồi thừ ra và bây giờ chàng mới nhận thấy cô là người rất đẹp với đôi chân thon và trắng ẩn dưới làn váy bằng lụa mỏng, chàng hỏi tiếp:

- Em tên là gì? Liệu anh có giúp gì cho em được không?

Sự thay đổi cách xưng hô của chàng lính làm cô gái thấy con người này có thể tin tưởng được. Nàng nói:

- Dạ! Tên em là Mộng Điệp, quê ở Trường Tân, châu Hạ Hồng.

- Trời! Anh cũng là người châu Hạ Hồng. Vì sao em phải lưu lạc đến đây.

Mộng Điệp đem hết chuyện của mình kể với Văn Khoai. Càng nói, nỗi tủi cực càng dâng lên, cô khóc, khóc nức nở làm Văn Khoai thấy cồn cào trong dạ. Chàng ôm lấy vai nàng mà an ủi, như muốn chia bớt nỗi thống khổ của nàng, quên mất rằng mình chưa bao giờ gần gũi một cô gái thế này. Điệp vẫn khóc, không phải nàng thực hiện âm mưu chữ thứ nhất trong bảy chữ mà là những giọt nước mắt thực sự đang chảy từ con tim khốn khổ cuả nàng. Đôi vai tròn xinh đẹp rung lên theo tiếng nức nở trong vòng tay chàng lính. Văn Khoai bảo:

- Anh sẽ tìm cách chuộc em ra. Em có ưng lòng không.

Mộng Điệp vái Văn Khoai một vái, nói:

- Đa tạ chàng đã có ý thương em. Nếu được như vậy xin thề kết cỏ ngậm vành, còn chi mà không ưng lòng nhưng những điều em nói với chàng hôm nay chớ có hở lời kẻo thân em xương tan thịt nát.

- Sao vậy?

- Chàng cứ biết thế thôi. Thân phận chúng em ở chốn hồng trần cũng chỉ như hạt cát, ai muốn giẵm lên cũng được chứ có sung sướng gì. Đã đến nước này cũng không dám giấu gì chàng, hôm nay trong người em không được sạch sẽ nhưng vẫn không dám nghỉ tiếp khách, nếu chủ biết được bắt uống thuốc chỉ kinh với giấm thì tệ hại lắm. ở đây có cô bé Năm Hà bị uống nhiều quá, kinh nguyệt không ra nhưng tháng nào cũng hộc máu mồm máu mũi, chết tháng trước rồi. Khổ thân con bé mới mười sáu tuổi đầu.

Mộng Điệp nói xong lại khóc tấm tức. Văn Khoai bảo:

- Không uống thì thôi, sao phải khổ thế?

- Thôi thế nào được, không uống thì ăn roi gai.

- Roi gai! Roi gai là thế nào?

- Roi gai là cắm hàng trăm cái gai bưởi vào sợi roi da. Cô nào có lỗi thì lột hết áo quần, trói úp vào cây cọc rồi dùng roi ấy quất vào lưng vào mông, chỉ vài nhát là bật máu ra. Thế mà có người bị đánh mấy chục roi thì sống sao nổi, nhưng cũng chưa đáng sợ bằng đòn mèo.

- Đòn mèo!

- Vâng đòn mèo! Người ta cho con mèo rất to vào quần cô nào có tội, buộc túm lại rối quất cho con mèo kêu gào cào cắn lung tung làm "tội nhân" đau đớn sợ hãi đến chết ngất. Nghe nói các kiểu trừng phạt này đều do ông chủ được người Tàu truyền cho. Hai thằng con bà chủ là Mạnh Hùng và ấu Lang thi hành.

Văn Khoai Đập tay xuống bàn, nói:

- Được! để ta xem chúng nó gan to bằng đâu mà độc ác thế.

- Thôi chàng ơi! Nếu chàng thật dạ thương em thì chuộc em ra chứ không làm gì được người ta đâu. Đây là nơi được nhiều quan lớn che chở. Bọn Mạnh Hùng, ấu Lang lại là nhà có công với nước, bố chúng nó chết ở trận Bình Lệ đấy. Chàng không trông thấy tấm hoành phi có ba chữ Tử vị quốc to tướng treo ngay giữa gian đại sảnh đấy ư?

Văn Khoai cảm thấy bất lực, uất ức bặm môi đấm mạnh tay xuống mặt bàn, lát sau nói:

- Trời ơi! Nếu người bỏ mình ngoài mặt trận biết được chuyện này hẳn đau lòng lắm!

Hai người trò chuyện đến tận canh khuya, không nỡ rời nhau. Văn Khoai vốn là người lính có lòng tận tụy với công việc mới bảo Mộng Điệp:

- Bây giờ tôi phải về trại. Nàng hãy yên lòng tạm chờ ở đây ít lâu. Tôi kiếm đủ tiền sẽ chuộc nàng ra.

Văn Khoai nói xong bảo người gọi Quang Minh cùng về. Quang Minh mắt nhắm mắt mở bảo:

- Mới vừa chợp mắt...Bây giờ là giờ Tý, về làm gì?

Văn Khoai bảo:

- Về thôi anh ạ. Tôi ở đây không quen. Vả lại nhỡ các quan đi kiểm tra, mình không có nhà sau này khó ăn khó nói lắm.

- Ôi giời ôi! Làm gì có quan nào đi kiểm tra. Các bố ấy ngủ đầy trong các phòng kia kìa. ở đây hết phòng các bố sang ngủ cả ở các nhà hàng bên cạnh.

- Anh cứ nói thế chứ, các quan ai lại ngủ ở kỹ viện.

Quang Minh cười ngất bảo:

- Quan mà không ra đây á?! Chú mày chỉ được cái quá thật thà. Chẳng thế lại có câu Ban ngày quan lớn như thần, ban đêm quan lớn tần mần như ma.

Lúc bấy giờ nhà Tống bị quân Nguyên dồn xuống phía Nam. Người Nguyên lại có ý đồ nhòm ngó biên giới Đại Việt. Các động tĩnh của quân Nguyên ở miền biên viễn đều được thám binh của Đào Thế Quang báo về kinh thành Thăng Long. Lại có đoàn sứ giả do Lê Khắc Phục dẫn đầu sang Nguyên trở về tấu trình hiện tình nhà Nguyên, nhà Tống. Thánh tông thiết triều, các quan đều nói:

- Người Nguyên tuy dồn sức đánh Tống nhưng vẫn nhìn nước ta như cú rình mồi. Xin nhà vua cử tướng giỏi đi tuần thám biên giới và cửa biển để đôn đốc việc binh bị, phòng khi có chuyện bất chắc.

Nhà vua nghe theo liền cử Trần Nhật Duật đi tuần tra các miền biên ải, Trần Khánh Dư đi tuần tra các cửa biển suốt từ Hoan, ái lên tới An Bang, Vân Đồn, sau đó theo đường sông qua Đông Triều, Vạn Kiếp rồi về kinh thành.

Khánh Dư lúc ấy nhận được tin công chúa Thiên Thụy sắp lấy chồng, lòng như lửa đốt chưa biết tính thế nào, lại nhận được lệnh đi kinh lý vùng biển mới định giả vờ ốm, viết bản tấu nói là bệnh cũ tái phát xin hoàng thượng giao việc ấy cho người khác, đang định cử người chuyển đến cho quan đại hành khiển thì Hiếu Ngân xin ra mắt. Hiếu Ngân thấy sắc mặt Khánh Dư khác thường, hỏi:

- Không biết hầu tướng lo nghĩ chuyện gì mà khí sắc suy hao đến vậy?

Khánh Dư vốn vẫn tin dùng Hiếu Ngân nên mới đem chuyện nói hết cho nghe, lại hỏi:

- Ngươi có cách gì giúp được ta không?

Hiếu Ngân mủm mỉm cười, bảo:

- Tôi có một kế khiến tướng quân đôi đường lưỡng lợi. Xin tướng quân chớ từ chối việc đi tuần biển. Đây chính là dịp làm ăn nhất bản vạn lợi đấy.

Thật là:

Chủ tướng đang trong cơn bí nước

Gia thần cao kiến lại dâng mưu

Mời bạn đọc tiếp chương sau xem mưu kế của Hiếu Ngân thế nào.

Đan Thành

Nịnh Quan trên, Hà Phương chịu cắm sừng

Tranh mĩ nhân, Khánh Dư mang trọng tội

Đang nói chuyện Khánh Dư vì sợ mất công chúa Thiên Thụy, định dâng bản tấu không đi tuần biển, có gia thần là Hiếu Ngân đến xin hiến kế. Khánh Dư mừng lắm bảo:

- Ngươi nói rõ mưu kế ta nghe.

Hiếu Ngân nói:

- Đi tuần biển là việc hệ trọng của quốc gia. Hoàng thượng giao cho tướng quân là người rất đề cao ngài. Đó là cơ hội lập công danh, nếu tướng quân không nhận không những làm cho hoàng thượng thất vọng mà còn bỏ mất trách nhiệm của người làm tướng, sao gọi là quân tử. Vả lại tướng quân đã cáo ốm, đâu còn đi gặp công chúa được nữa, có phải hai việc đều nhỡ nhàng không?

- Vậy làm sao bây giờ?

- Hôn lễ của công chúa mãi mùa Đông mới tiến hành, còn năm sáu tháng nữa. Tướng quân đi tuần biển nhanh thì mất ba tháng, chậm cũng chỉ ba tháng rưỡi, bốn tháng là cùng. Lúc bấy giờ về thế nào hoàng thượng chả ban khen, tướng quân nhân đấy tìm công chúa mà tỏ bày tấc dạ, việc sao không thành. Như thế chẳng phải đôi đường lưỡng lợi ư

- Ta e ít thời gian quá, sợ khó xoay chuyển được tình thế.

Hiếu Ngân cười, nói:

- Tướng quân không nhớ chuyện Hưng Đạo vương với công chúa Thiên Thành khi xưa hay sao. Chỉ trong có một đêm mà Hưng Đạo vương giành lại được người mình yêu. Tướng quân và công chúa Thiên Thụy đã nặng tình như thế còn lo gì nữa. Vả lại đi chuyến này kiểm tra các cửa biển, quan sở tại những nơi ấy thường buôn bán với người nước ngoài rất giầu có, nhiều san hô ngọc trai, hổ phách và bao nhiêu của quý khác, thấy người của triều đình đến sao không mang ra biếu.

Khánh Dư như tỉnh ra, bảo:

- ừ nhỉ?

Nói rồi vào triều lĩnh binh đi thừa hành công vụ, mang Hiếu Ngân theo làm mưu sĩ.

Trần Khánh Dư vốn có tài quân sự nên chưa đầy ba tháng đã tuần du khắp các vùng cửa biển, cho củng cố lại những nơi bố phòng còn lỏng lẻo, lại dặn tướng sĩ phải canh giữ nghiêm mật không để kẻ gian ngoại bang vào do thám. Quan lại các nơi ấy muốn lấy lòng Khánh Dư, mang vàng bạc châu ngọc đến biếu rất nhiều đúng như lời dự đoán của Hiếu Ngân nhưng Khánh Dư lòng tham không đáy bắt phải tìm nhiều san hô, mã não, ngọc trai để mang về kinh thành. Dân chúng phải kiếm tìm cực khổ oán giận lắm, về sau nhiều người làm sớ dâng lên triều đình kể tội Khánh Dư tham lam. Tháng tám đến châu Vĩnh Yên, bấy giờ thương khách các nước Qua Oa, Lộc Lạc, Tiêm La và xứ Bắc đến buôn bán ở Vân Đồn đông lắm. Quan tri châu Vĩnh Yên đánh thuế rất nặng các mặt hàng ngoại nhập. Những thứ như xe, rượu ngoại, thuốc Bắc, tơ lụa và nhiều thứ khác tiền thúê nhiều hơn tiền mua. Một chiếc xe đơn mã nhập vào chỉ hết tám quan tiền tỉnh bách nhưng phải nộp thuế tới mười quan tiền thượng cung. Khách buôn phải bán ra với giá trên hai mươi quan tỉnh bách mới có lãi. Một chai rượu hồng mao hay Khổng Phủ nhập vào hai đồng phải đóng thuế hai đồng sáu, vị chi là bốn đồng sáu cộng thêm công vận chuyển, khi đến tay người tiêu dùng lên đến sáu bảy đồng, đại loại là như vậy. Khách buôn không chịu được, tìm trăm phương ngàn kế trốn thuế hoặc đút lót cho bọn lính hải khẩu để đi thoát hàng lậu. Nhiều khách buôn cất cả hàng cũ đến bán. Quan tri châu ra lệnh những hàng chất lượng còn được tám phần thì cho nhập, dưới tám phần tịch thu huỷ bỏ. Bọn lính hải khẩu và lính kiểm hàng nhân đấy bắt chẹt khách buôn, nộp tiền cho chúng hàng có xấu đến đâu cũng đánh cho trên tám phần. Ai không chịu, dù hàng còn tốt như mới chúng vẫn đánh giá chỉ có bảy phần chín trở xuống, thế là phải tịch thu, mất cả vốn lẫn lời. Vì thế bọn lính hải khẩu và kiểm hàng làm giầu nhanh chóng không biết chừng nào, xây nhà cao cửa rộng toà ngang dãy dọc, chiều chiều rủ nhau lũ lượt đến các tửu điếm, kỹ viện thượng hạng để hưởng niềm hoan lạc Bồng Lai nơi trần thế hoặc túm tụm đánh bạc thâu đêm suốt sáng. Khách buôn ai có ý kêu ca hoặc nói năng sơ hở là bị chúng chụp luôn cho cái mũ coi thường pháp luật, gian lận thương mại, hoặc một tội danh rất cha vơ chú váo nào đó. Lúc ấy trời có muốn cứu cũng đành bó tay. Nếu chỉ riêng có thế thì thói quan vơ lính vét cũng là chuyện dễ hiểu, lính hải khẩu còn móc nối với bọn lưu manh vô lại trong chợ và các cảng thuyền, nửa ăn trộm, nửa ăn cướp của khách hàng, rồi tệ cò mồi gây bao điều phiền phức khiến khách buôn đứng đắn tử tế nhiều người ngán ngẩm, làm ăn thua lỗ phải bỏ nghề. Chỉ còn hạng anh chị biết móc nối chặt chẽ với lính hải khẩu để đi hàng lậu mới sống được.

Khánh Dư thấy dân tình làm ăn tấp nập, mức thuế đóng cao mà sổ thuế dâng lên triều đình chẳng đáng bao nhiêu, mới hỏi quan tri châu làm sao lại như vậy. Quan tri châu nói:

- Dân ở đây từ cổ đến giờ rất khó kiềm toả. Họ toàn buôn bán trốn chui trốn lủi không sao thu được thuế. Họ sống dưới thuyền là chính chứ có nhà cửa như người trên cạn đâu mà tróc nã được.

Khánh Dư cười gằn bảo:

- Ông ngu lắm! Đánh thuế cao thế này thì cướp của người ta không bằng, họ không trốn mới là lạ. Ông tưởng làm thế mà thu được nhiều tiền à? Tôi tính thử thế này, ông đánh mười đồng cho một người buôn thì một trăm người chỉ có mười người đóng thuế còn chín mươi người trốn. Vị chi ông thu được một trăm đồng. Nếu ông đánh có hai đồng thôi, ai người ta dại gì chả đóng thuế để bán hàng công khai cho nó được giá, vị chi ông thu được hai trăm đồng, như thế có phải gấp đôi không, mà vẫn được tiếng là nhẹ thuế. Giá hàng giảm xuống đỡ khổ cho người tiêu dùng. Ông thu được nhiều tiền. Người buôn dễ chịu, họ không lẩn lủi buôn lậu nữa. Quan binh đỡ phải nhọc sức lùng bắt, dồn tâm trí vào việc canh phòng giặc cướp chẳng lợi hơn ư?

Quan tri châu bị mắng không dám ngẩng mặt lên, khấu đầu nói:

- Dạ! Dạ! Đại quan dạy rất phải.

Lúc sau Hiếu Ngân nói riêng với Khánh Dư:

- Tướng quân thật thà quá. Làm như tướng quân quan binh còn ăn vào chỗ nào. Người ta muốn cho có nhiều người buôn lậu trốn thuế để còn săn bắt. Tên nào bị bắt tất phải cởi hầu bao xì tiền ra mà hối lộ quan binh mới có thu nhập. Quan tri châu mới có phần quà biếu chứ. Vụ nào bị phanh phui lanh tanh bành ra rồi không thể giấu giếm được nữa mới bắt thật, báo cáo lên trên lấy công chống gian thương. Ai cũng làm việc ngay thẳng như tướng quân cả thì làm sao mỗi chân lính hải khẩu phải mua đến một trăm hai mươi quan tiền?

Khánh Dư bặm môi bảo:

- Thế ư? Bọn này ăn lộc vua mà chẳng chịu nghĩ gì cho dân cho nước.

- Ở đây mà nói đến dân đến nước người ta cho là bị thần kinh đấy tướng quân ạ. Phải nghe trong hầu bao xủng xoảng thật nhiều tiền đồng mới là khôn ngoan.

Khánh Dư tức quá chém tay vào không khí, quát:

- Rõ thật là quá nhiều kẻ lưu manh vô sỉ. Ngươi mang lính bắt hết những tên đó về đây.

Hiếu Ngân gãi đầu, nói:

- Nhưng thưa tướng quân! Xưa nay lưu manh làm quan, quan là lưu manh nhiều không kể xiết, bắt thế nào hết được đây?

Lại nói Hà Phương được Trần Khánh Dư và Đỗ Khắc Chung giúp cho, không những thoát tội chết mà còn được làm quan huyện Đông Triều, cảm ơn lắm, vội mang vợ con đi nhậm chức. Đông Triều bấy giờ là một huyện thuộc phủ Kinh Môn, núi non trùng điệp, rừng già âm u xen lẫn với sông nước chằng chịt, dân tình không thuần phác lại thường có bọn lục lâm thảo khấu và thuỷ tặc tụ tập chẹn đường chắn sông cướp bóc đánh giết các thuyền buôn. Huyện quan nhiều lần phải thân cầm quân đi tiễu trừ rất vất vả mà vẫn chưa yên. Nhân biết có Trần Khánh Dư đi tuần biển về qua, Hà Phương ra tận bến sông đón mời lên phủ huyện nghỉ ngơi và nhờ Khánh Dư xin cho mình đổi về huyện Trường Tân. Trong bữa tiệc, Hà Phương gọi vợ bé là Bùi Thị ra chào khách. Khánh Dư bản tính hiếu sắc, thấy Bùi Thị còn trẻ lại xinh đẹp, vừa ý lắm mới cầm tay nàng kéo xuống ngồi cạnh mình, ép uống rượu. Hà Phương thấy vậy cũng không dám nói sao. Bùi Thị cố giãy ra không uống. Khánh Dư phật ý bỏ đứng dậy đi ra, nói:

- Các ngươi coi thường ta cũng không sao.

Nói xong cười nhạt bỏ về thuyền, định nhổ neo đi ngay. Hiếu Ngân bảo:

- Tướng quân quả thích Bùi Thị thì đừng đi vội. Tôi chắc chiều nay Hà Phương thế nào cũng mang vợ tới mời tướng quân.

Khánh Dư hỏi:

- Sao ngươi biết:

- Nói trước không hay. Tướng quân cứ ở lại đây đến sáng mai, nếu không đúng như lời, tôi xin chịu tội.

Khánh Dư nghe lời, cho thuyền đỗ lại. Quả nhiên buổi chiều thấy vợ chồng quan huyện Hà Phương đi kiệu đến. Hà Phương xin lỗi về việc vợ mình đã thất lễ với quan trên. Khánh Dư vẫn còn làm ra vẻ mặt giận. Hà Phương nói:

- Hôm nay xin để nàng lại đây đại nhân sai bảo, mong đại nhân chiếu cố.

Nói xong, để vợ ở lại, lủi thủi ra về. Đêm ấy Khánh Dư ái ân với Bùi Thị. Trong khi làm chuyện mây mưa, Khánh Dư hỏi:

- Ta so với Hà Phương thế nào?

Bùi Thị thưa:

- Phu quân thiếp là bạch diện thư sinh yếu ớt sao so được với quan lớn là một hổ tướng. Đời thiếp được một lần hầu hạ tướng quân thật là diễm phúc.

Khánh Dư cười ha hả bảo:

- Biết ăn nói lắm! Biết ăn nói lắm. Nếu nàng ưng lòng thì ta đưa về kinh thành, như thế sẽ luôn được ở gần ta.

- Tướng quân đã có lòng thương thì còn gì thiếp không ưng.

Hôm sau Khánh Dư nói với Hiếu Ngân. Hiếu Ngân xua tay nói:

- Không nên! Không nên! Nơi kinh thành thiếu gì gái đẹp. Tướng quân định ăn đời ở kiếp với ả này hay sao. Vả lại mang ả về vừa chịu tiếng là ép người đoạt vợ vừa phải nuôi thêm một miệng ăn mà sau này chắc gì đã dùng đến nữa. Tốt nhất tướng quân cứ cắm thuyền lại đây chơi mấy ngày, bao giờ chán mang trả lại cho vợ chồng họ đoàn tụ với nhau. Khi nào buồn buồn có thể quay lại đây mượn chơi, như vậy có đỡ rắc rối không?

Khánh Dư nghe theo, dừng thuyền mấy ngày, cho quân lính chơi bời ăn uống, còn mình hú hí với Bùi Thị. Mấy hôm sau no xôi chán chè, Khánh Dư bảo Bùi Thị:

- Hôm nay ta phải về kinh thành, nàng hãy ở lại đây với huyện quan. Có dịp thuận lợi ta lại về thăm nàng.

Bùi Thị chẳng biết làm sao, đôi hàng lệ nhỏ, chào từ biệt bước lên bờ. Khánh Dư sai Hiếu Ngân cùng mấy anh lính tốt đưa Bùi Thị về phủ huyện, lại dặn Hiếu Ngân bảo Hà Phương cứ yên lòng, việc đổi về Trường Tân không có gì khó cả. Giữa tháng chín, Khánh Dư về tới kinh thành Thăng Long, vào triều tấu trình công việc. Nhà vua khen Khánh Dư là người chu đáo. Khánh Dư nhân đấy xin cho Hà Phương được đổi về huyện Trường Tân. Nhà vua cũng chuẩn cho. Khánh Dư đi chuyến này, về việc công hoàn thành tốt đẹp, về việc riêng thì gom được vô số vàng bạc, châu ngọc, san hô, mã não, hổ phách, đồi mồi, thật là món lời lớn, ban thưởng rất hậu cho Hiếu Ngân. Khi qua Vân Đồn, Hiếu Ngân lại tiến cử một người tên là Quây Xẻn. Quây Xẻn người Tống, thạo nghề buôn bán nhưng mắc tội buôn hàng lậu, bị bắt nên mất sạch vốn liếng, đành đi làm thuê ở bến thuyền, Hiếu Ngân biết là người có nghề đem về nuôi cho ăn trong thuyền rồi tiến cử lên. Khánh Dư nói chuyện thấy rất hợp ý mới giữ làm gia thần. Khánh Dư tuy được lợi lớn nhưng khi nghĩ đến công chúa Thiên Thụy lại buồn, không biết tìm cách nào để gặp mặt nàng, đang suy nghĩ nung nấu, có chỉ của nhà vua đòi vào gặp trong buổi chầu sớm ngày mai. Hôm sau trên điện, nhà vua hỏi:

- Khanh đi chuyến vừa rồi thu được nhiều bạc vàng châu báu lắm phải không?

Khánh Dư cãi:

- Muôn tâu hoàng thượng! Thần không dám ạ.

Thánh tông nghiêm nét mặt, ném những tấu biểu các nơi vừa gửi lên cho Dư xem, phán:

- Khanh còn cãi ư? Xem đây là những cái gì? Khắp nơi từ dân đến lính người ta gọi khanh là con cọp đói mồi.

Khánh Dư không chối cãi được nữa mới nói liều rằng:

- Tâu hoàng thượng! Tướng là chim ưng, dân lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng thì có gì là lạ.

Nhà vua rất không hài lòng nhưng tiếc Dư là người có tài không nỡ trách phạt, chỉ đuổi ra. Dư sợ vua trị tội, vội bái tạ lui ra rồi chuồn luôn về hương ấp ở huyện Bàng Hà, không dám ở lại kinh thành.

*

Trời thu, nắng như rắc vàng trên đường phố. Gió heo may đã về khiến khách bộ hành cùng một lúc có hai cảm giác, nửa người quay về phía nắng thì nóng ấm còn nửa kia thì se se lạnh. Xóm Cây Duối bên hồ Lục Thuỷ xưa vốn chỉ có mươi nóc nhà sơ sài, nay đã thành một dãy phố sầm uất với nhiều lầu gác dinh thự tân kì đua nhau mọc lên. Giá đất tăng vùn vụt. Có chỗ trước kia cho không ai lấy, nay bỏ cả đống tiền mua chẳng nổi. Dân ở đây cũng không thuần nhất như xưa, nhiều nhà giầu có, xe ngựa tấp nập đi về hối hả với những vụ làm ăn bạc vạn. Các vị quan có tiền cũng mua đất dựng nhà quay ra mặt hồ nghỉ ngơi trong lúc thư nhàn. Đám ăn mày, trộm cắp cùng những kẻ lưu manh vô lại theo nhau tập trung về từng đàn kiếm ăn.

Bà cụ Hải đã chết ít lâu sau cái lần đi tìm mộ con ở Bình Lệ về, cô con gái bán gia tài cho kỹ viện Phúc Tình lấy tiền về quê tậu ruộng. Ông hàng thịt chó nay già lắm, tóc trắng như sợi gai, ngày ngày vẫn đều hai bữa rượu làm da mặt lúc nào cũng đỏ như trái táo chín, mọi công việc giao cả cho anh con giai nhớn. Cửa hàng được sửa chữa lại rộng rãi lịch sự lên rất nhiều. Khách đến ăn toàn những tay kiệt hiệt, miệng nói bô bô, tiêu tiền như vãi trấu. Chỉ có nhà anh cả Thìn - nay đã là bác cả Thìn - là chưa thay đổi mấy. Bác cả Thìn vốn không thạo nghề buôn bán lại lúc nào cũng giữ cái ý nghĩ mình đã từng một thời là lính hoàng gia cần phải mẫu mực, không được làm những sự sai quấy. Dạo bác Thìn dẫn mấy người đi Bình Lệ tìm mộ chồng con, lý tể Vũ Tình có hứa khi nào về sẽ cho cái giấy để bác mở hiệu bán giầy guốc nhưng vì ghét cái thói trăng hoa đĩ bợm vô liêm sỉ của Vũ Tình, bác không đến. ở nhà mãi cũng chán, bác kiếm bộ tràng đục cùng vài hộp sơn ra đầu phố làm nghề sửa chữa xe, kiệu mỗi ngày kiếm vài ba xu cùng với số tiền bác gái thu được từ gánh bún riêu bán rong, thế cũng đủ sống được qua ngày. Nhưng rồi bác gái sinh thêm bé Phượng và bé Quy. Nhà năm miệng ăn, hai bác phải chật vật lắm mới giữ được cho lũ con khỏi đói. Vũ Tình thấy bác cả Thìn khoẻ mạnh lại tinh thông võ nghệ, sang mời làm tương bang cho nhà hàng nhưng bác từ chối. Cũng từ đó bác cả Thìn không muốn gặp mặt tư Phúc và Vũ Tình nữa. Ngôi nhà cũ của vợ chồng bác ngoi ngóp giữa những toà ngang dãy dọc dồn dập mọc lên, như một thầy tu khổ hạnh thủ tâm giữ đạo giữa đám quần hùng, mãi cách đây vài năm nhờ một người bà con làm ăn buôn bán tận Qua Oa về chơi cho một ít tiền mới được sửa chữa rộng ra như ngày nay nhưng so với những nhà kế bên nó vẫn chỉ là chú em rách rưới còi cọc.

Cu Long đã lớn, đi học xa chuẩn bị cho khoa thi tới, lâu lâu mới về thăm nhà. Chị em cái Phượng, cái Quy cũng mười bốn mười lăm cả, có thể giúp mẹ được nhiều việc. Nhưng cũng giống như tất cả những đứa trẻ khác, lúc còn bé chúng luôn vòi vĩnh bắt bố kể chuyện đánh Thát, khi đến tuổi trăng tròn, chẳng đứa nào còn muốn nghe chuyện của bố nữa. Chúng thích ăn diện và đi chơi phố. Chiều nay bác cả Thìn đợi cậu con trai, chốc chốc lại trông ra cổng, bảo:

- Thằng Long dặn hôm nay về mà sao vẫn chưa thấy đâu. Bây giờ đi lại sẵn xe ngựa đường trường, cũng đỡ khổ hơn bố ngày trước. Dạo hành quân lên Bình Lệ...

Cái Phượng ngắt lời bố:

- Bố lại kể chuyện cổ tích chiến trường của bố đấy, nghe mệt lắm. Bây giờ người ta làm ăn ầm ầm, phố phường đầy dẫy thứ chơi, ai lại cứ kể chuyện đánh nhau mãi.

Bác Thìn gái sợ chồng phật ý, mắng con:

- Tiên nhân con này, nói thế à?

Bác cả Thìn bảo vợ.

- Thôi! Kệ chúng nó. Mỗi thời mỗi khác. Mình cũng chẳng bắt chúng nó sống như mình ngày trước được.

Cái Quy thấy bố nói vậy, bảo:

- Mẹ thì thế nào cũng nói được, hôm nọ mưa nhà dột, kêu khổ. Con thấy khối người chẳng đi lính bây giờ giầu hú hụ, nhà cửa, xe ngựa đàng hoàng chứ đâu có như nhà mình. Chẳng phải đâu xa, ông lý Tình cạnh đây làm ăn như sấm như sét, năm sáu cơ ngơi. Nhà mình, chúng con bàn làm gì bố cũng sợ phạm pháp, sợ ảnh hưởng thanh danh người lính. Nhà cửa lúp xúp thế này chẳng biết cái thanh danh ấy có bị tổn thương không?

Bác Thìn gái mắng cái Quy:

- Con ranh kia! Biết gì mà cũng nói. Không có người ở nơi chiến trận ngã xuống thì liệu bây giờ chúng mày có tí tởn được như thế không? Ăn lắm vào cho nó dửng mỡ. Rõ cái đồ vô phúc.

Bác cả Thìn không nói gì chỉ ngồi trầm tư, nhìn hút vào không gian.

*

Dãy cây bàng cổ thụ trước cổng hoàng thành rụng hết lá, trơ lại vô số những chiếc cành khẳng khiu như cánh tay ông già gầy guộc chới với giữa tầng không hứng gió may. Trời mùa Đông lạnh và xám như gio. Quang cảnh thiên nhiên ấy dẫu có giấu kín phía sau bóng dáng của mùa xuân xem ra cũng chẳng ăn nhập gì với tâm trạng của những đôi trai gái đang liếc mắt đưa tình trao gửi cho nhau. Tình yêu! Vâng tình yêu, cái nguồn mạch của hạnh phúc sướng vui và bao nỗi sầu đau buồn khổ, như hai nửa đục trong tuôn chảy với dòng đời. Nhân loại đã có bao kẻ bị cái dòng sông cháy bỏng ấy cuốn đi và nhận chìm một cách vô tình. Một khi vướng vào sợi dây oan nghiệt ấy nghĩa là tự mình đem mũi gai nhọn găm vào giữa trái tim để được hưởng niềm khoái lạc của sự nhức nhối.

Đã ba tháng nay, từ khi gặp Mộng Điệp, đô trưởng Thân Văn Khoai không sao ngủ được, hình bóng nàng không khi nào rời khỏi tâm trí chàng. Làm thế nào để có được bốn trăm quan tiền chuộc Mộng Điệp ra? Văn Khoai vốn là người tự tin nhưng chưa bao giờ chàng thấy bất lực đến thế. Mỗi lần hình dung ra khuôn mặt xinh đẹp sầu khổ của Mộng Điệp, chàng có cảm giác như ai đang dùng móng sắc cào cấu trái tim mình. Thập trưởng Trịnh Quang Minh thấy bạn buồn bã như vậy, tìm lời an ủi hỏi chuyện. Văn Khoai thực thà kể hết sự tình. Quang Minh bảo:

- Bốn trăm quan tiền qủa không phải là nhỏ. Bao nhiêu năm nay làm lính, tôi cũng chỉ mới dành dụm được năm mươi quan. Cậu đã có lòng muốn chuộc người ta, tôi xin giúp cả cho cậu.

- Tấm lòng của bác em rất hiểu nhưng em không thể để liên lụy đến bác như thế được.

- Không sao! Không sao. Chúng ta là anh em. Xin chú đừng ngại. Sau khi phải đày đi làm lính chèo thuyền tôi đã nghiệm ra một điều ở đời tiền bạc không phải là thứ quí nhất. Đã ở lính thì chiến hữu chính là xương thịt của mình. Chú buồn, tôi vui sao được. Vả lại số tiền tôi cũng không dùng đến.

- Xin đa tạ bác. Như vậy là đã có được ba trăm quan. Em về quê bảo đẻ em bán đi mấy sào ruộng nữa là có thể đủ.

*

Công chúa Thiên Thụy đang trong những ngày đợi chờ hôn lễ nhưng nàng không sao xua đuổi được hình ảnh Khánh Dư ra khỏi đầu óc. Đành rằng Quốc Nghiễn là một chàng trai trẻ đẹp tài hoa, hoàn mĩ về mọi mặt song dường như sự đạt được con người ấy quá dễ dàng khiến Thiên Thụy giảm cảm giác hào hứng. Chính những ngày Đông lạnh lẽo này càng gợi cho nàng nhớ tới Khánh Dư. Khánh Dư, chàng không có cái vẻ mĩ miều của con nhà quyền quý, con người ấy thô mộc cứng cáp làm sao. Hơi thở của chàng ấm và gấp. Vòng tay chàng chắc khoẻ. Đã bao lần nàng nằm gọn trong vòng tay ấy, nó như vòm mái đủ vững chắc che chở cho nàng. Càng về khuya, nỗi nhớ nhung càng cồn lên, Thiên Thụy không sao ngủ được, nàng ra đứng bên khung cửa sổ. Bầu trời vắng tanh không một ngôi sao. Một tiếng vạc cô đơn lạnh buốt bay giữa tầng không. Tội nghiệp con chim, nó đang lẻ bạn. Thiên Thụy rùng mình, nàng quay vào lấy giấy bút viết cho Khánh Dư một bức thư tình với trăm ngàn lời trách móc nhưng lại hàm chứa một niềm nhớ thương da diết khôn nguôi.

Khánh Dư từ buổi trở về hương ấp, ruột gan như có lửa đốt, không biết làm cách nào để liên lạc được với Thiên Thụy. Suốt ngày chàng uống rượu rồi thở ngắn than dài, mọi công việc tô thuế cũng không màng tới, giao cả cho Hiếu Ngân và Quây Xẻn lo liệu với tá điền. Chiều nay Khánh Dư cũng đang trong cơn buồn khổ, bỗng gia nhân vào báo có người từ kinh thành tới. Khánh Dư bảo:

- Nói là ta không khoẻ, không muốn tiếp ai.

Gia nhân chạy ra một lúc, quay vào nói.

- Trình tướng quân! Người ấy mang thư của công chúa Thiên Thụy.

Mắt Khánh Dư sáng lên, vội vàng nói:

- Ngươi mau ra đưa họ vào đây.

Người thị nữ cúi chào Khánh Dư rồi dâng bức thư của công chúa Thiên Thụy. Khánh Dư xem thư xong, trong lòng phấn khởi bội phần, liền sai người mài mực, viết thư trả lời. Thôi rồi khỏi phải nói, bức thư Khánh Dư viết thật là dài, vừa bộc bạch tâm trạng nhớ nhung khao khát được gặp lại công chúa, rồi đến bể cạn non mòn cũng không sao quên nhau được. Tình cảm xem ra "lâm li thống thiết" lắm nhưng vì Khánh Dư là võ quan, ít khi cầm bút nên chữ nhầm chữ lỗi be bét cả, chữ đường là con đường chàng viết thành chữ đường là cục đường để nấu chè, chữ chung là cái chuông viết thành chữ trung là ở giữa, chữ thương là yêu thương hoá ra chữ thương là cái cót vựa đựng thóc. ấy thế mà khi đọc lại có vẻ đắc ý lắm, xong xuôi phong kín đưa cho người thị nữ mang về còn mình thì ngong ngóng đợi đến ngày hẹn.

Công chúa Thiên Thụy nhận được bức thư tình, mừng hơn vớ được của, chẳng còn lòng dạ nào mà nghĩ đến việc Khánh Dư viết sai hay đúng. Nàng múa! Nàng hát. Nàng nhảy lò cò như đứa trẻ chơi nhảy bàn ô. Nàng nhìn cái gì cũng thấy sáng tươi đẹp đẽ, con chim trong vườn hót cũng hay hơn. Đến ngày hẹn, nàng định làm mặt giận để chọc khổ Khánh Dư. Nhưng vừa trông thấy chàng ngồi đợi trên phiến đá phẳng mà hai người thường hẹn hò nhau trong thạch động, Thiên Thụy không kìm được lòng mình, chạy vội về phía chàng. Cả hai quên hết những điều hờn dỗi. Bao nhiêu nỗi nhớ nhung buồn khổ đều biến thành những cử chỉ âu yếm. Cặp trai gái đang say mê trong cơn hoan lạc thì có tiếng xôn xao rồi ba bốn người hiện ra sau lối ngoặt. Cặp uyên ương chưa kịp rời nhau ra, mấy người kia đã đến ngay trước mặt. Điều tệ hại nhất là người dẫn đầu chính là công tử Nghiễn. Thì ra hôm nay công tử mới vừa từ Vạn Kiếp lên, chàng đến thăm công chúa, vị hôn thê mà bao ngày mong đợi. Thị nữ nói là công chúa chơi trong ngự hoa viên nên chàng đến đây tìm nàng, không ngờ lại bắt gặp cảnh tượng trớ trêu này. Trong giây lát Quốc Nghiễn đã hiểu ra tất cả, lòng tự ái và khí uất tưởng bốc tận trời xanh, chàng rút kiếm lao về phía Khánh Dư nhưng may thay người tuỳ tướng đứng bên kịp ngăn chàng lại. Quốc Nghiễn bỏ đi. Công chúa Thiên Thụy bưng mặt khóc như đứa trẻ vừa đánh vỡ thứ đồ chơi quý.

Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang vừa ở triều về đã nhận ngay được thư từ hôn của Hưng Đạo vương và Quốc Nghiễn gửi hoàng Thượng cùng bức thư nhờ ông bày tỏ việc công chúa Thiên Thụy thông dâm với Trần Khánh Dư. Quốc Khang vò đầu bứt tóc không biết vì đâu cơ sự lại trở nên như vậy. Vốn là người trung thực và tận tụy, ông lật đật trở lại hoàng cung, tâu trình mọi việc cùng Thánh tông. Thánh tông nghe xong, sai người tức tốc đi gọi Trần Khánh Dư, Hưng Đạo vương và Quốc Nghiễn về triều để đối chất. Mặt khác sai thái giám khám xét nơi ở của công chúa Thiên Thụy, bắt được bức thư của Trần Khánh Dư.

Hôm sau triều thần phân xử. Quốc Nghiễn cứ những điều mắt thấy tai nghe kể lại làm các quan không nhịn được cười. Khánh Dư và công chúa Thiên Thụy cũng không chối cãi. Thánh Tông vì sợ mất lòng Hưng Đạo vương, phán:

- Trần Khánh Dư ngông nghênh ngạo mạn, coi thường phép nước, quyến rũ công chúa làm điều càn quấy, xúc phạm bề trên, khi quân phạm thượng, nhân chứng vật chứng đã rõ ràng. Truyền tước bỏ mọi phẩm hàm, tước bỏ mọi chức quan, tịch thu gia sản rồi đem lên Tây hồ đánh chết làm gương cho những kẻ coi nhẹ kỷ cương.

Khánh Dư không lạy, cũng không kêu xin, chỉ gào lên:

- Quốc Tuấn ngày xưa cũng thế, sao bây giờ không gả Thiên Thụy cho tôi?

Bọn vũ sĩ xông vào lột mũ áo, trói Khánh Dư lại, dẫn đi. Lúc bãi triều, quan thẩm hình viện Đặng Ma La xin gặp riêng hoàng thượng, nói:

- Trần Khánh Dư có tài làm tướng, thật là hiếm có, xin hoàng thượng gia ân đừng giết ông ta.

Thánh Tông bảo:

- Khanh cứ yên tâm, ta nói thế để vừa lòng Hưng Đạo vương thôi. Đã sai người đi bảo đừng đánh chết rồi.

Thương thay Khánh Dư bị bọn võ sĩ lôi lên bờ hồ Tây đánh một trận nhừ tử, lại dìm xuồng hồ cho uống ước ừng ực nhưng chàng không hề kêu một tiếng. Ai trông thấy cũng cũng chết khiếp vì sự gan dạ. Viên ngũ trưởng thấy vậy ghé vào tai Khánh Dư, bảo:

- Tướng quân hãy giả vờ chết, chúng tôi thả tướng quân ra.

Khánh Dư quát:

- Nhà vua bảo các ngươi đánh chết thì cứ đánh. Có thế thôi làm sao phải giả vờ.

Nói xong nằm yên chịu đòn, lúc sau khắp mình bê bết máu, chàng mê man không biết gì nữa. Bọn lính dừng đánh. Viên ngũ trưởng nói:

- Tội nhân đã chết. Ai là người nhà thì đưa thi hài về mà mai táng.

Lúc ấy người nhà Khánh Dư chưa hay tin nên không có ai tới. Chỉ có một người ăn mặc rách rưới, nón mê tuột cạp đến ôm xác Khánh Dư khóc:

- Hầu tướng ôi! Tôi biết rồi thế nào cũng có ngày này mà.

Bọn võ sĩ thấy có người đến khóc mới bỏ về. Người khách áo rách kia thấy Khánh Dư còn thở khò khè liền thuê một chiếc xe, đặt lên chở ra ngoài thành Đại La tìm thầy thuốc cứu chữa. May mắn gặp được thầy thuốc còn trẻ tuổi nhưng thông hiều y thuật, khám xét vết thương xong, nói:

- Vết thương tuy đau đớn nhưng không phạm vào trong. Chỉ bôi thuốc ít ngày cho liền những chỗ rách da, cũng khỏi.

Người khách áo rách đưa cho thầy thuốc hai lạng bạc, bảo:

- Nhờ thầy chạy chữa giúp cho.

Thầy thuốc cười, nói:

- Tôi được chữa bệnh cho hầu gia là vinh hạnh rồi. Xin đừng kể chi công lao tiền bạc.

Ngày hôm sau Khánh Dư từ từ mở mắt, trông thấy người khách áo rách, nhận ra người gia thần cũ, chàng khẽ gọi:

- Ngô Kế Trung, có phải ngươi đấy không?

- Vâng! Tôi đây thưa hầu tướng.

- Sao ngươi lại ở đây?

- Hầu tướng hãy cứ nghỉ ngơi đi. Chuyện dài lắm, sau này hẵng nói.

Mấy hôm sau, các vết thương trên mình Khánh Dư đã lành miệng. Chàng bảo Ngô Kế Trung đưa mình về huyện Bàng Hà. Kế Trung liền thuê thuyền, chủ tớ từ giã người thày thuốc tốt bụng, ra đi. Hôm ấy là ngày hai mươi tháng chạp, trời rét lắm mà trên mình Ngô Kế Trung chỉ khoác có một manh áo, lại thủng nhiều chỗ. Khánh Dư hỏi:

- Sao ngươi mua quần áo mới lại không mặc, nhường hết cả cho ta, còn mình chịu rét thế kia.

- Thưa hầu tướng! Những thứ tôi mua từ hôm trước tới nay đều là tiền của hầu tướng cả, chứ tôi có gì đâu.

- Sao lại như vậy được? Hôm nay nhân đi thuyền nhàn rỗi, ngươi kể chuyện cho ta nghe. Từ khi bỏ đi, ngươi làm gì, ở đâu, vợ con ra sao?

- Tôi biết bỏ đi mà không xin phép là đắc tội lắm, nhưng không làm thế thì sao hầu tướng cho đi.

- Nhưng vì sao phải đi mới được chứ?

Ngô Kế Trung thở dài, nói:

- Vận nước lúc thịnh lúc suy, đời người khi lên khi xuống. Tôi thấy hầu tướng khi ấy tuổi còn trẻ mà công danh đã lẫy lừng, nên sợ có lúc phải đi xuống, mới gói ghém chỗ bạc vàng hầu tướng đã ban cho rồi đưa vợ con trốn đi nhưng vẫn thường nghe ngóng đường đi nước bước của hầu tướng. Chẳng ngờ vợ tôi là con đàn bà đê tiện, chỉ thích ăn chơi cùng ngồi lê đánh bạc. Gia tư dần khánh kiệt, thị muốn tôi bán vàng bạc để tiêu sài. Tôi không nghe vì biết số bạc vàng ấy sau này còn phải dùng cho hầu tướng. Thế là thị chửi bới om sòm, giễu tôi là đồ đàn ông ăn hại không biết làm ra tiền, mài chữ ra mà ăn. ít lâu sau không chịu sống cuộc đời khổ cực, thị tếch theo một gã buôn trâu lên mạn ngược, bỏ lại hai cha con tôi. Bố con bồng bế nhau đi, vừa xin ăn, vừa viết chữ thuê. Đến một ngày cháu bị nóng sốt, ra mới. Không đủ tiền mua thuốc, nó đã bỏ tôi.

Nói đến đây Ngô Kế Trung không cầm được nước mắt. Khánh Dư cũng lặng người đi, lúc lâu sau mới trách:

- Nhà ngươi thật là cố chấp. Có vàng bạc trong tay mà để con chết thảm thế được ư?

- Xin hầu tướng hiểu cho. Tôi không thể lạm dùng số của cải ấy được.

Khánh Dư phàn nàn mãi rồi hỏi:

- Hôm ở hồ Tây sao ngươi biết ta bị nạn mà đến cứu?

- Tôi thường bí mật theo hầu tướng. Hôm ấy thấy bọn lính giải ngài đi nên tôi theo.

Mấy hôm sau đến Lục Đầu giang, hai người lên bộ về hương ấp. Gia tư của cải bị bọn lính về vét sạch sành sanh, nhà cửa hơ hoác, vườn tược tiêu điều, cỏ gấu chớm mọc đến bên thềm. Hiếu Ngân, Quây Xẻn đã bỏ đi. Vợ con Khánh Dư cũng không biết phiêu dạt nơi nào. Chàng đứng ngắm quang cảnh mà lòng đau xót. Hai người vòng ra phía sau, gặp mỗi mình người lão bộc ngồi đun nồi cháo sắn. Thấy có người, lão dụi mắt nhìn lên. Nhận ra chủ, người hầu già ôm chầm lấy chàng, khóc không thành tiếng. Khánh Dư cố trẫn tĩnh, an ủi người lão bộc, hỏi:

- Phu nhân cùng các con tôi đâu?

Lão Bộc thưa:

- Trình chủ tướng! Phu nhân nghe tin ngài thọ hình ở kinh thành nên đã gửi các công tử sang quê ngoại, lên kinh tìm rồi.

Khánh Dư bảo:

- Thế này thì ta phải quay lại Đại La tìm nàng thôi.

Ngô Kế Trung can:

- Hầu tướng không nên đi. Phu nhân biết hầu tướng đã thoát nạn, thế nào cũng về ngay. Tốt nhất ta cứ nghỉ ngơi rồi báo sang quê ngoại để các công tử khỏi lo đã.

Lão bộc bảo:

- Ngô tướng quân nói đúng đấy. Xin chủ tướng đừng lên kinh. Cũng còn ít gạo, để tôi nấu cơm cho hai người ăn.

Ngô Kế Trung hạ cái bọc vải trên lưng xuống mở ra, nói:

- Đây là tất cả số của cải tôi mang đi, bây giờ xin giao lại để hầu tướng chi dùng.

Khánh Dư bảo:

- Ngươi vì ta mà mất cả vợ con. Ta sao dám dùng chỗ vàng bạc này.

Kế Trung nói:

- Xin hầu tướng hãy quên những chuyện đã qua. Mọi việc còn đang chờ ở phía trước kia.

*

Đây nói công chúa Thiên Thụy được tin Khánh Dư bị xử tội chết, thương xót lắm mới cùng thị nữ lên hồ Tây tìm cách cứu chàng nhưng khi đến nơi, không còn ai ở đấy. Tìm mãi thấy một ông lão câu cá, Thiên Thụy hỏi thăm, ông già bảo:

- Ông ấy bị đánh đau quá, lính bảo là đã chết, người nhà mang đi mai táng rồi.

Thiên Thụy nghe vậy, rụng rời chân tay, thét lên một tiếng, nhao xuống hồ tự vẫn.

Thật là:

Chàng vừa thoát nạn về quê cũ

Nàng lại quyên sinh xuống đáy hồ

Mời bạn đọc tiếp chương sau xem công chúa Thiên Thụy sống chết thế nào.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: