Phần 6: Âm sơn cổ lâu 阴山古楼
Khúc dạo đầu
Chương 1: Bút ký trộm mộ
*****
Tiết trời Hàng Châu vào tháng tám rất dễ chịu, tuy mùa hè mấy năm gần đây ngày càng nóng bức, nhưng ở cạnh Tây Hồ, bạn vẫn có thể cảm nhận được cái gọi là “Trời trong xanh nước long lanh”.
(*) Nguyên văn là “Thủy quang liễm diễm tình phương hảo”, một câu trong bài “Hồ thượng sơ tình hậu vũ” của Tô Thức.
Tôi ngả lưng trên chiếc ghế dựa trong cửa hàng, xem xét lại những việc mình thu xếp trong mấy tháng qua. Trở về từ Cách Nhĩ Mộc đã hơn ba tháng, nhưng dường như tôi vẫn chưa lấy lại được nhịp sống bình thường. Chuyện xảy ra vào phút cuối quả thực vượt quá giới hạn chịu đựng của tôi, thật không sao tưởng tượng nổi mọi việc lại kết thúc theo cái cách ấy.
Trong suốt ba tháng, tôi vẫn không tài nào thoát khỏi cơn ác mộng đó. Gần như đêm nào tôi cũng mơ, mơ thấy vô số hình ảnh mình từng trải qua.
Nhưng tôi thực sự có thể thoát ra được không? Tôi ngờ rằng những khúc mắc đọng lại trong lòng mình sẽ không hề bớt đi dù cho bí mật này đã có lời giải.
Những chuyện người ta đã liều mạng che giấu, hiển nhiên bạn đừng hòng nhìn ra được, cho nên muốn lần ra bí mật của người khác tất phải gánh vác hậu quả khi nắm nó trong tay.
Đây là những điều cuối cùng tôi ngộ ra được, thế nhưng ngay đến Muộn Du Bình còn không thoát khỏi vận mệnh này, thì tôi biết phải làm sao? Liệu có mấy người sống được cả đời với cõi lòng chất chứa hoài nghi cơ chứ?
Sau khi trở về, tôi bắt đầu ghi chép lại tất cả những chuyện đã xảy ra trong suốt một năm, bắt đầu từ cuốn bút ký của ông nội tôi cho đến hiện tại. Tôi biết rồi đến một ngày nào đó mình sẽ quên đi, giống như mặt nạ của chú Ba, mang quá lâu sẽ không gỡ xuống nổi. Thời gian có thể khiến một vài thứ đổi thay. Bây giờ, tôi chỉ mong ngày này có thể đến sớm một chút.
Trong tổng thể câu chuyện, vẫn còn rất nhiều phần tôi chưa hiểu rõ. Ví dụ như, chú Ba thật của tôi đang ở đâu? Thân phận đích thực của Muộn Du Bình? Văn Cẩm thuở nhỏ đã đến nơi nào? Chung cực rốt cuộc là gì? Di tích ngầm đồ sộ kia do ai xây nên? Nhóm người Văn Cẩm có thân phận ra sao, bọn họ rốt cuộc đang tiến hành kế hoạch gì?
Những câu hỏi này vẫn là bí ẩn trùng trùng, ban đầu luôn khiến tôi để tâm, nhưng cho đến bây giờ, xem ra cũng không còn quá quan trọng nữa.
Sau khi Muộn Du Bình trở về, chúng tôi đã đưa hắn đến bệnh viện số một của Đại học Bắc Kinh để khám toàn thân. Thân thể hắn cơ bản là vẫn bình thường, chỉ có thần trí không được tỉnh táo. Chúng tôi để hắn lại bệnh viện, tìm chuyên gia chăm sóc, nhưng đây cũng không phải kế lâu dài. Tôi đã hỏi vài người ở Trường Sa, mong hiểu được chút ít về lai lịch của Muộn Du Bình, nhờ bọn họ đi nghe ngóng giùm tôi, nhưng cho đến bây giờ vẫn chưa thấy ai nhắn lại.
Bàn Tử nói mình có cách, thế mà cũng cóc thấy hồi âm, xem ra tìm hiểu câu chuyện đằng sau Muộn Du Bình là việc khó khăn hơn tôi tưởng rất nhiều. Giờ tôi chỉ biết hi vọng hắn sớm bình phục mà khai ra thông tin gì đó có ích, bằng không chúng tôi cũng chỉ còn cách nuôi hắn cả đời. Đối với hắn mà nói, đây có lẽ không phải là chuyện xấu.
Rất ít người có cơ hội quên đi mọi thứ, mà những người may mắn quên đi lại bất chấp tất cả để nhớ lại, cái vòng luẩn quẩn này thật đúng là một nghịch lý thất thường. Đứng trên góc độ cá nhân, thật ra tôi không lo hắn vĩnh viễn mất trí, mà trái lại chỉ sợ hắn nhớ ra điều gì đó nhưng mơ hồ không rõ.
Phan Tử được đưa tới bệnh viện, anh có thể sống sót quả là một kỳ tích, làm tôi cứ cảm thấy khó tin sao đó. Thật ra anh ấy bị thương cũng không nặng, chẳng mấy chốc mà bình phục.
Phía Trường Sa bây giờ đang rối tinh rối mù. Phan Tử cho tôi biết, trước kia khi lão gia nhân thân tín còn sống, những lúc ông Ba đi vắng cục diện bên kia vẫn được kiểm soát tốt. Nhưng giờ thì nguy rồi, tổ vỡ ong tan, tin đồn nhan nhản khắp nơi, anh cũng không biết phải làm sao. May mà sản nghiệp nhà chú Ba đã hao hụt khá nhiều vì đấu đá với Trần Bì A Tứ, bằng không còn khó xử lý nữa. Giờ anh chỉ còn nước đi đến đâu tính đến đó, nếu vẫn không trụ được thì đành giải tán thôi. Những năm qua anh cũng tích cóp được chút tiền, từ lâu đã không phải lo kế sinh nhai, giờ có lẽ cũng đến lúc nghỉ ngơi rồi.
Tôi bảo anh mau mau tìm một cô mà lập gia đình đi thôi, đừng bận tâm đến sản nghiệp nhà chú Ba làm gì. Chú Ba cũng đã lớn tuổi, lại không có con cái, chuyện này chẳng chóng thì chầy sẽ đến. Căn cơ tích tụ đã lâu, chỉ dựa vào chúng tôi cũng chẳng thể nào xoay chuyển được tình thế.
Phan Tử không hề phản ứng. Chú Ba sống chết còn chưa rõ, tôi nghĩ anh ấy sẽ vĩnh viễn không yên tâm, có khi còn tiếp tục tìm kiếm ấy chứ, tôi cũng đành chúc anh may mắn.
Bàn Tử tạm biệt xong lại quay về Bắc Kinh. Hắn là tên vô cảm nhất, về đến nơi vẫn mở cửa hàng buôn bán như thường. Theo như lời Phan Tử thì người này chẳng những không hề nông cạn, mà lòng dạ còn vô cùng thâm sâu, nhưng tôi thật sự không nhìn ra hắn thâm sâu chỗ nào. Trước khi đi, Bàn Tử còn nói một câu rất khuôn sáo: Non xanh còn đó nước biếc vẫn đây, hẹn ngày gặp lại. Nói nghe rất chi là xúc động, nếu tôi không đi cùng hắn bấy lâu, lại đã từng vào sinh ra tử thì thật khó mà cảm nhận được câu nói này thê lương sầu thảm đến chừng nào.
Trát Tây tạm biệt chúng tôi ở Cách Nhĩ Mộc. Nếu không nhờ anh ta, chúng tôi chắc chắn không thể thoát ra khỏi Tháp Lý Mộc, vậy nên lúc ấy chúng tôi đã tính đưa cho anh ta ít tiền. Trát Tây nói chuyện lần này coi như một trải nghiệm cho mình, có thể đưa chúng tôi sống sót trở ra cũng nhờ Bồ Tát phù hộ, anh không thể lấy tiền của chúng tôi nữa. Sau đó tôi tặng chiếc đồng hồ đeo tay của mình cho anh ấy, coi như kỷ niệm.
A Ninh đã chết, tôi tạm thời không liên lạc gì với công ty của Cầu Đức Khảo. Mấy e-mail viết cho người quen đều bị gửi trả về, chẳng biết bọn họ có còn muốn tiếp tục nữa không. Nhưng dù sao đi chăng nữa, sau lần thất bại này, lão quỷ kia chắc cũng hết dám mơ hão rồi. Còn nếu lão cứ tiếp tục chấp nhất thì cũng chỉ còn biết tự cầu phúc cho mình.
Cát bụi lại về với cát bụi, cuộc sống của mọi người dường như đều quay về quỹ đạo bình thường. Khi đó tôi mới trở lại Hàng Châu, tiếp tục cuộc sống cậu ấm an nhàn sáng chín giờ mở cửa chiều năm giờ tan ca của mình, ngồi vào ghế mây đánh một giấc, tỉnh rồi lại chán ngán giở cuốn bút ký của ông nội ra, chợt cảm thấy thời gian chảy ngược, chớp mắt đã qua mấy đời.
Trang Chu mơ hóa bướm, tỉnh giấc rồi lại không biết mình là người mơ hóa bướm hay bướm mơ hóa người. Trước nghe kể cứ thấy mơ hồ, mà giờ đây tôi bỗng dưng hiểu được cảm giác của ông ấy. Chỉ cảm thấy mọi chuyện xảy ra trong suốt một năm ròng giống như mộng ảo, xẹt qua rất nhanh, lại cảm thấy dường như mình vẫn còn trong ao rắn. Sự bình thản lúc này, không chừng chính là dự cảm của tôi trước cái chết.
Dù sao đi chăng nữa, tôi đều muốn vui vẻ chấp nhận. Có đôi khi, dấu chấm hết của một sự kiện còn khiến người ta mong chờ hơn kết quả của nó.
Nhưng sâu tận đáy lòng tôi hiểu rất rõ, chuyện này nếu nói đã chấm dứt thì e là quá sớm.
Chương 2: Bàn bạc
Hai tuần sau, Muộn Du Bình xuất viện, tôi đến Bắc Kinh gặp họ, tiện thể bàn bạc luôn những chuyện sắp tới.
Sau khi trở về, chuyện làm tôi đau đầu nhất chính là làm sao xử lý cục diện hỗn loạn mà chú Ba để lại. Những việc tôi làm trong năm qua tuy hoành tráng nhưng đều âm thầm lén lút, người trong nhà hoàn toàn không hay biết về những biến đổi lớn lao đã xảy ra với tôi. Nhưng lần này chú Ba thực sự mất tích, có thể sẽ vĩnh viễn biến mất, làm sao để giải thích chuyện này là cả một vấn đề.
Lại nói đến Muộn Du Bình, bây giờ hắn đã thực sự biến thành cục nợ, cùng với quá trình khôi phục ý thức của hắn, tôi lại phải đối mặt với vấn đề làm sao để làm quen lại từ đầu.
Hắn không có người thân, lẻ loi một mình trên đời, cũng không biết nhà ở đâu, hỏi thăm biết bao nhiêu người mà chẳng đào ra chút tin tức nào, đúng như lời hắn nói, hắn gần như không có mối liên hệ nào với thế gian này. Tất cả hành lý hắn mang theo đều để lại trong thung lũng, không tiền bạc không giấy tờ, nếu bỏ mặc vào lúc này, e rằng hắn cũng chỉ biết lang thang đầu đường xó chợ.
Bàn Tử xoay sở cũng không tệ, đã mở được một chi nhánh ở Lưu Ly Hán. Chúng tôi gặp nhau trong cửa hàng mới mở của hắn, sau mấy tháng không gặp, Muộn Du Bình đã khôi phục khí sắc như xưa, ngoại trừ ánh mắt bỡ ngỡ nhìn thế gian thì những thứ còn lại đều cho tôi cảm giác quen thuộc, chuyện này khiến lòng tôi có phần nhẹ nhõm. Khi tôi nhìn thấy hắn, hắn đang tựa cửa sổ, không hề nhìn tôi, ánh mắt trong veo, còn lãnh đạm hơn ngày trước, giống như tâm tư đã không còn tồn tại trên nhân gian vậy.
Ban đầu tôi nói vài câu khách sáo, hắn không hề phản ứng, bèn quay sang hỏi Bàn Tử tình hình hắn ra sao, thầy thuốc bảo thế nào.
Bàn Tử lắc đầu: “Không như cậu nghĩ đâu, nghe nói đã nhớ ra vài đoạn ngắn rồi. Bác sĩ bảo hắn đã phải chịu kích thích mãnh liệt, bây giờ cũng phải kích thích tinh thần hắn mới có hy vọng bình phục, bằng không thì ngày ngày chưng óc heo cho hắn cũng vô ích”.
Tôi thở dài, cũng không biết trong tảng thiên thạch ấy, vào thời khắc cuối cùng đã xảy ra chuyện gì khiến hắn biến thành thế này.
“Cậu có dự định gì không?”, nói vài câu chuyện phiếm, Bàn Tử liền hỏi tôi: “Chỗ tôi ở hơn bốn mươi mét vuông, nhưng thật ra vẫn hơi chật, cậu muốn để cậu ta ở lại đây, tôi muốn cua gái cũng không được, người ta thấy tôi giấu một cậu trai tơ trong nhà không chừng lại hiểu lầm Bàn gia đây có sở thích đó.”
“Anh đúng là cái đồ vô lương tâm, người ta từng cứu mạng chúng ta đâu chỉ một lần, anh lo mấy cái chuyện tầm phào đó làm gì?”, tôi nổi giận.
“Cậu ta có ở chỗ cậu qué đâu mà cậu chả mạnh mồm, cậu muốn tôi chi tiền tìm cho Tiểu ca một gian nhà thì cứ nói một câu, cậu ta có muốn ở tứ hợp viện (1) tôi cũng chiều tuốt, nhưng ở chung với tôi thì không được, cái đó đâu có liên quan gì với chuyện cứu mạng hay không.” Bàn Tử nói: “Cậu xem hay là thế này, tôi đi thuê phòng trọ, cậu tìm một bảo mẫu, chúng ta thu xếp cho cậu ta một chỗ gần đây, cơm bưng nước rót, cuối tuần rảnh rỗi thì ghé chơi.”
“Khỉ gió, anh thu xếp kiểu gì mà cứ như kim ốc tàng Kiều.” Tôi nói, “Hắn ta đâu phải tên ngốc, anh cũng phải hỏi xem hắn muốn gì đã chứ.”
Nghe thế, Bàn Tử liền quay sang Muộn Du Bình: “Tiểu ca, cậu nói đi, sau này có dự định gì không?”
Muộn Du Bình nhắm nghiền hai mắt, dường như đang cân nhắc, rất lâu sau mới lên tiếng: “Tôi muốn lang bạt bốn phương.”
Tôi nói: “Lang bạt? Anh định đi đâu? Có đích đến cụ thể không?”
Hắn hờ hững đáp: “Không biết, cứ đến những nơi hai người đã nói, Trường Sa, Hàng Châu, Sơn Đông, thử xem có thể nhớ ra chuyện gì không.”
Tim tôi hẫng đi một nhịp, đây là điều tôi không muốn nghe nhất — hắn muốn tìm lại ký ức. Hiện giờ đầu óc hắn căn bản là trống rỗng, quá khứ của hắn là một bí ẩn lớn lao, song bí ẩn càng lớn, sự giày vò của nó lại càng nhỏ. Nhưng nếu trong cuộc hành trình, trí nhớ của hắn bắt đầu khôi phục, những mảnh xúc cảm vụn vặt hiện ra trong đầu có sức mê hoặc rất lớn đối với người mất đi ký ức như hắn, mỗi gợi ý đều có thể biến thành vô vàn manh mối, làm hắn khốn khổ không chịu được.
Tôi hiểu, đối với một người mất đi trí nhớ thì mục tiêu lớn nhất của cả cuộc đời hẳn là tìm lại quá khứ của mình. Điều này dù sao cũng không thể tránh, nhưng tôi thật sự không muốn hắn lại tiếp tục dấn thân vào con đường năm xưa.
Bàn Tử thấy sắc mặt tôi biến đổi, biết lòng tôi có vướng mắc, bèn vỗ vai tôi nhắc nhở: “Nên thuận theo tự nhiên đi, không phải chúng ta đã nói rồi sao, cậu có muốn ép cậu ta ở lại đây cũng không ổn.”
Tôi thở dài, nếu đã vậy thì chỉ có cách thực thi phương án hai, chính là để mắt đến hắn, cân nhắc việc này cùng hắn. Suy cho cùng chúng tôi cũng là người từng trải, trong nhiều tình huống có thể giúp hắn tránh phương án cực đoan.
Ý tưởng này tôi cũng từng nghĩ đến, thậm chí từng lên kế hoạch dẫn hắn đến Trường Sa gặp những người khác, nhưng bây giờ Trường Sa đang rối loạn, tôi cũng không biết nên đi tìm ai. Lúc này tôi chợt nhớ ra một chuyện, liền hỏi Bàn Tử: “Lần trước không phải anh đã nói mình có cách để thăm dò tin tức về Tiểu ca ở Bắc Kinh, về sau sao lại lặn mất tăm thế?”
“Đừng nhắc vụ này nữa, cứ nhắc là tôi muốn điên tiết.” Bàn Tử nói: “Bàn gia đây lúc ấy đang định tìm đám người gắp Lạt ma hỏi thăm, bọn họ làm trung gian nên tin tức rộng, chú Ba cậu đã liên lạc với Tiểu ca qua mạng lưới này thì nhất định sẽ để lại chút tin tức ở nơi gắp Lạt ma, chúng ta có thể nhúng tay vào đó.”
Tôi nghe đến đây, thầm nghĩ đúng là cách hay, sao lại điên tiết? Bàn Tử nói tiếp: “Không ngờ ai nấy đều lắc đầu, bảo cái gì mà không nói được. Cậu xem, đám cò mồi này ngày thường chuyên môn dẫn mối, mà đến lúc ấy lại giở chứng muốn làm thánh nhân quân tử.”
Tôi “À” một tiếng, thì ra là vậy, nghề nào cũng có quy tắc riêng, chuyện này thật sự không thể trách họ. Bát cơm của bọn họ chỉ trông chờ vào những tin tức này, một khi để lộ, chỉ e sẽ tuyệt đường làm ăn, có khi còn bị xử lý.
“Cái đám đó tìm đủ cách cũng không cạy miệng nổi, đường này coi như đường cụt rồi.” Bàn Tử nói: “Còn bên cậu thì sao?”
Tôi thở dài, nói nếu có chú Ba ở đây không chừng còn thăm dò được ít tin tức, chứ những người tôi tiếp xúc bây giờ vẫn còn non lắm. Mấy lão trùm tính tình quái đản, giờ đều đang lăm lăm theo dõi tình hình chỗ tôi, tôi đi gặp riêng bọn họ còn không bị bắt nạt. Đây không phải chuyện một người như tôi có thể làm.
“Vậy thì cậu cũng đừng suy tính nhiều làm gì, tôi thấy vẫn nên thuận theo lời Tiểu ca nói, chúng ta đăng ký một tour du lịch cho cậu ấy, chuẩn bị ít tiền, để Tiểu ca tự ra ngoài thăm thú, ” Bàn Tử nói: “Hay là mình cứ dứt khoát làm chủ hôn cho cậu ta đi, gói cậu ta lại gả cho một phú bà, với nhan sắc của Tiểu ca, không chừng chúng ta còn kiếm được món hời, sau đó để mặc bọn họ với nhau, cậu thấy sao nào?”
*No comment =)))))))))*
Đây không phải mấy câu đùa cợt vô nghĩa sao, tôi thầm nghĩ, lẳng lặng lắc đầu, cân nhắc phương án vừa rồi của Bàn Tử, cảm thấy đó đúng là cách hay, chẳng qua Bàn Tử còn chưa nghĩ đến điểm mấu chốt. Nghĩ đến đây lại nhớ ra một người: “Không đúng, cách tìm người gắp Lạt ma của anh, có lẽ cũng không phải đường cụt.”
“Là sao?”
“Đám người đó không chịu nói chẳng qua là sợ đắc tội với người ta, cũng có thể là không biết, sợ nói ra lại lòi đuôi. Nhưng có một người không phải nghĩ ngợi nhiều đến thế, chúng ta có thể nhắm vào gã.”
“Là ai?” Bàn Tử hỏi, Muộn Du Bình cũng quay sang.
“Cái lần lên núi Trường Bạch đó, người thay chú Ba tôi gắp Lạt ma là một gã họ Sở, anh còn nhớ chứ?”
“Cậu muốn nói gã đầu trọc?”
Tôi gật đầu. Gã họ Sở trọc đầu, là ông chủ quỹ tín dụng đen mà chú Ba hợp tác, sau khi bị Trần Bì A Tứ mua chuộc thì bị cớm tóm cổ, giờ không biết đang bóc lịch ở đâu. Gã từng liên hệ với Muộn Du Bình và Bàn Tử, nhất định phải biết tin tức về bọn họ, hơn nữa hiện giờ gã đang ngồi tù, không có gì vướng bận hết. Cơ mà không biết tìm gã kiểu gì đây, tìm được rồi cũng chưa biết phải cạy miệng gã thế nào. Dù sao gã không ngại nói, nhưng im cũng chả mất gì.
Bàn Tử vỗ tay: “Ai nha, thật đúng là.” Gật đầu ra ý đã hiểu, hắn tiếp, “Chuyện này tôi thật sự không nghĩ tới, nhưng nếu đi tìm gã, gã lại tố ngược chúng ta thì biết làm sao?”
“Hạng người này rất khôn khéo, nắm trong tay vô vàn tin tức, nếu gã cố ý muốn nhả ra thì một dải Trường Sa sẽ chao đảo. Gã ngậm miệng không nói chính vì biết như thế mới có lợi cho mình.” Tôi tiếp, “Giờ gã đang gặp nạn, có rất nhiều việc cần người khác giúp đỡ, tôi thấy không khó mở lời đâu.” Nói đến đây tôi đã biết mình nên làm gì. Những chuyện khác không thể làm phiền Phan Tử, riêng việc này không mẫn cảm, có thể nhờ anh đi dò hỏi tình hình.
Vậy là quyết định điều tra giúp Muộn Du Bình, có chúng tôi nhúng tay vào vẫn hơn là để hắn chạy lung tung. Nhưng việc này một người không làm nổi, bên tôi còn đang chật vật muốn chết, vả lại thế cục hỗn loạn, chắc chắn không thể để Muộn Du Bình chạy theo tôi khắp nơi. Mà hạng người như hắn tôi cũng không khống chế nổi, lỡ đang yên đang lành hắn tự dưng nhớ ra chuyện gì rồi đùng đùng bỏ đi thì không biết tôi còn gặp rắc rối gì, chi bằng kéo luôn Bàn Tử xuống nước.
Bàn bạc một lúc, Bàn Tử cũng đành đồng ý. Hắn nói: “Chuyện khác tạm thời chưa nói nói, tốt nhất là tìm ra chỗ ở của Tiểu ca, vậy là chúng ta đã tiết kiệm được rất nhiều công sức.”
Chuyện này cứ thế mà ước định, tôi đi nhờ Phan Tử giúp, Muộn Du Bình tạm thời ở với Bàn Tử, có manh mối rồi chúng tôi sẽ bàn bạc lại sau. Dù sao với quan hệ giữa ba người thì việc này cũng không thể tránh được, chi bằng coi nó là việc của mình mà làm, xem như trả nợ ân tình cho Muộn Du Bình.
Người ta thường nói lời hay khó khuyên quỷ đáng chết, ngoảnh đi ngoảnh lại, mấy chuyện thị phi đã kéo đến rồi.
Trở về Hàng Châu, tôi gọi điện cho Phan Tử kể rõ đầu đuôi gốc tích. Phan Tử cũng là người nghĩa khí, khảng khái chấp thuận ngay. Anh làm việc rất năng suất, ba ngày sau tôi đã nhận được điện thoại của anh.
Tôi tưởng đã có manh mối, liền hỏi anh tình hình thế nào rồi.
Anh thở dài, nói với tôi: “Phiền toái rồi, tôi đã tìm đến nơi hỏi gã, đúng là gã biết chuyện cậu muốn biết, nhưng không chịu nói suông, mà phải có điều kiện.”
“Điều kiện gì?” Tôi hỏi. Đây là chuyện nằm trong dự liệu, tôi mà là gã thì cũng ra điều kiện.
“Gã muốn mười vạn đồng, còn bảo cậu đến tận nơi, gã muốn đích thân nói cho cậu biết.”
“Gặp tôi?” Tôi sững sờ giây lát, hơi bất ngờ, thầm nghĩ: đòi tiền cũng đúng thôi, nhưng gặp mình làm gì? Nghe có vẻ không thỏa đáng.
“Chẳng lẽ gã muốn dụ tôi đến cho cớm tóm, lấy công chuộc tội?” Tôi lạnh người nói, bên tai vang vang tiếng xích sắt leng keng.
“Tôi cảm thấy khả năng này cũng có.” Phan Tử “a” một tiếng, “Nhưng gã còn bảo tôi đưa cho cậu xem một thứ, nói cậu nhìn thấy thứ này rồi nhất định sẽ đến gặp gã.”
“Là cái gì thế?” Tôi hiếu kỳ hỏi.
“Là một tấm ảnh cũ.” Phan Tử dừng một chút, “Rất cũ, là kiểu ảnh đen trắng lưu hành vào thời thế hệ chúng tôi còn trẻ.”
Toàn thân tôi bỗng nổi da gà. Phản ứng đầu tiên của tôi là nghĩ đến tấm ảnh chụp chung của chú Ba ở Tây Sa trước khi rời bến, tấm ảnh chó má đã hao phí mất bao nhiêu thời gian của tôi. Trong lòng thoáng cân nhắc, không lẽ gã cũng biết ẩn tình đằng sau chuyện này? Nhưng đến bây giờ gã mới đem nó ra làm điều kiện thì cũng lề mề quá.
Nghĩ vậy bèn hỏi: “Trên đó chụp cái gì?”
Phan Tử ậm ừ cả buổi mới nói: “Tôi không dám chắc, có cảm giác tấm ảnh kia chụp một con “ma”.
———————————————–
(1) Tứ hợp viện: Kiểu nhà có 4 gian phòng quây quanh một khoảnh sân vuông (có thể là chữ nhật). Đặc trưng của tứ hợp viện là chiếm chỗ, mà đất ở Bắc Kinh đắt đỏ khỏi bàn, nên “ở tứ hợp viện” cũng tức là ở sang ~
Chương 3: Tấm ảnh cũ thứ hai.
*****
Tấm ảnh được gửi qua email, mà Phan Tử mù tịt cái này. Tôi dạy anh cả buổi, đến khi thông thạo thì đã là một tiếng sau khi tôi gọi điện thoại cho anh.
Đó là một tấm ảnh cũ kỹ ố vàng, bề mặt còn có dấu hiệu phai màu. Nhưng dù là thế, tôi vẫn có thể nhìn ra cảnh tượng trong đó, cũng vỡ lẽ vì sao Phan Tử không thể khẳng định, và “ma” có nghĩa là gì.
Tấm ảnh kia hẳn là được chụp trong gian nhà cũ nào đó, lấy phông nền là một tấm bình phong. Ảnh chụp bạc phếch, không nhìn rõ từng chi tiết mà chỉ thấy phía sau bình phong có một bóng người đứng thẳng.
Nắng chiếu xuyên qua bình phong, bóng người nhìn tương đối rõ. Điều khiến người ta nổi gai ốc chính là tư thế của cái bóng đó, người thường khi đứng luôn có xu hướng nghiêng về trọng tâm, nhưng bóng người này gần như đứng thẳng. Hơn nữa bả vai người đó còn lõm xuống, liếc qua đã thấy bất thường, cảm giác đầu tiên của tôi chính là người kia đang treo lơ lửng giữa không trung.
Sau bình phong treo một xác chết?
Tôi rùng mình ớn lạnh, bỗng chốc bừng tỉnh. A, đây là ảnh chụp trong viện điều dưỡng bỏ hoang ở Cách Nhĩ Mộc. Trong đầu tôi lập tức hiện ra tình cảnh lúc đó, đây không biết là hành lang ở lầu mấy.
Viện điều dưỡng kia là nơi nhóm Văn Cẩm chọn làm chốn ẩn thân để tránh khỏi sự truy lùng của chú Ba. Nhóm Văn Cẩm thân thế bí hiểm, theo như lời chú Ba thì không biết bọn họ đang tiến hành nghiên cứu cái gì. Trong viện điều dưỡng bỏ hoang, bọn họ đã quay rất nhiều băng hình, giám sát nhất cử nhất động của bản thân, trong số đó thậm chí còn một người giống hệt tôi, chuyện này hoàn toàn là một mớ bòng bong.
Vì sao gã họ Sở lại có ảnh chụp nơi đó, chẳng lẽ gã cũng dây dưa vào chuyện này?
Lòng tôi hơi khó chịu, mà nghĩ mãi không ra bức ảnh này có chỗ nào khơi gợi hứng thú của mình. Nhìn ảnh sẽ đi tìm người? Không hề có cảm giác ấy.
Nhìn xuống bên dưới, sàn nhà lát gỗ, bên trái bức ảnh có một cảnh ở xa, là hành lang phía sau bình phong, một nửa bị bình phong che mất, một nửa vẫn thấy được. Chỗ đó đã nhăn nhúm, thoạt nhìn không rõ ràng lắm, nhưng nhìn kỹ thì thấy một bên hành lang có vài khung cửa.
Trong một thoáng, tôi đã cảm thấy cảnh tượng này có phần quen thuộc. Cái cảm giác xưa cũ cổ kính này, thêm vào đó là cách sắp xếp các phòng, tôi chắc chắn đã từng gặp ở đâu đó, hơn nữa ấn tượng còn tương đối sâu sắc.
Tôi rê chuột xuống dưới, trong email còn gửi kèm ảnh scan, bên trên có chữ viết tay của gã họ Sở, hiển nhiên là viết cho tôi.
Trên đó viết: Năm 1984, ở viện điều dưỡng Cách Nhĩ Mộc của quân giải phóng.
Không đúng, tôi thử nghĩ, gã rất thân với chú Ba, không chừng chú Ba đã để lại vật gì ở chỗ gã chăng? Hoặc là chú từng nhờ gã giúp việc gì. . . . . . nên gã mới biết chút tin tức.
Khả năng này khá lớn, nếu gã thật sự biết ở viện điều dưỡng đã xảy ra chuyện gì thì quả là một tin vui bất ngờ cho tôi. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, bức ảnh này chụp cái gì mới được chứ?
Đối với người bình thường, chụp ảnh dĩ nhiên là vì mục đích chủ quan, hoặc để giữ làm kỷ niệm, hoặc để bảo tồn tư liệu, không có chuyện rỗi hơi đi chụp một tấm hình vô nghĩa. Lúc ấy trong viện điều dưỡng hiển nhiên đã xảy ra chuyện gì đó, tạo cơ hội cho một người chụp được bức ảnh này.
Xem ra đây khó có thể là ảnh lưu niệm, vì tấm bình phong chẳng có gì bắt mắt, hành lang thô sơ nằm ngoài rìa bức ảnh chắc chắn cũng không phải lý do chụp hình. Vậy thứ người này muốn chụp hiển nhiên là cái bóng sau bình phong rồi.
Đây là chuyện khá kỳ lạ, một mặt cái bóng khiến người ta sởn gai ốc, mặt khác cách chụp ảnh quả thực gây cho người ta cảm giác có thể nó đang chụp “ma”, vì nhìn thoáng qua trông nó hơi giống ảnh ma trên internet. Hơn nữa lòng tôi hiểu rất rõ, đó không thể là ma, đằng sau tấm bình phong nhất định phải có vật gì. Mà người chụp, vì lý do nào đó, đã đứng cách một tấm bình phong để chụp bức ảnh này. Có điều chúng tôi không ở hiện trường, chỉ thấy được thành quả, nên có hơi khó tưởng tượng.
Trong viện điều dưỡng đúng là ẩn chứa nhiều bí ẩn, bọn họ ghi hình lại nhất cử nhất động của mình, giờ còn lòi ra tấm ảnh này, rốt cuộc họ đã làm cái quỷ gì trong đó chứ?
Nghĩ đi nghĩ lại, tôi cũng không thể đắn đo quá nhiều, xem ra đúng là phải đi gặp người này một chuyến. Tôi gọi điện cho Phan Tử, nói rõ suy nghĩ của mình. Phan Tử suy tính một lát rồi bằng lòng, nói để anh thu xếp, thu xếp thỏa đáng rồi sẽ báo cho tôi sau.
Bỏ qua mấy chuyện râu ria, chẳng bao lâu sau, tôi đã gặp được gã họ Sở ở trại giam Bình Đường, quá trình thuận lợi hơn tôi nghĩ. Phan Tử đưa tôi đến, đây là lần đầu tiên tôi đặt chân vào nhà đá, trên đường vào mồ hôi lạnh túa ra như mưa, qua vài cánh cửa sắt, tôi đã thấy gã ngồi trong phòng nghỉ.
Người này rõ ràng đã gầy đi kha khá, quả đầu trọc cũng không còn sáng bóng như xưa, xem ra đã già đi mấy tuổi, run rẩy nhíu nhíu mày. Tôi cho gã điếu thuốc, gã rít mấy hơi mới bắt đầu thả lỏng. Nhớ lại mặt mũi bóng nhẫy của gã ngày trước, lòng tôi không khỏi cảm khái, lăn lộn trong cái nghề này phất nhanh mà tàn cũng nhanh, sa chân đến nước này cũng đành chấp nhận.
Gặp rồi lung túng mất một chặp, tôi không biết phải nói gì, trái lại là gã mở lời trước: chú Ba nhà cậu ra sao rồi? Giọng nói cũng khản đặc đi nhiều.
Tôi kể sơ lược về tình hình ở Trường Sa, nói chú Ba đã bặt vô âm tín, cũng không thấy xuất hiện trong giới tai to mặt lớn, chẳng biết lại chạy đi đâu rồi.
“Báo ứng, đi con đường này tất gặp báo ứng!” Gã hung hăng rít một ngụm khói, hình như hơi thất thần, ngẫm nghĩ rồi ngước lên nhìn tôi nhìn chằm chằm, lại hỏi, “Cậu đang thăm dò chuyện về Trương câm điếc?”
“Trương câm điếc?” Tôi ngây ra một chặp mới phản ứng, “Anh đang nói Tiểu ca kia? Các anh gọi hắn là Trương câm điếc?”
“Trên đường đi mọi người đều gọi hắn như thế.” Lúc này gã đã hít xong, tốc độ cực nhanh. Tôi thấy tay gã bắt đầu run, liền đưa cả thuốc lẫn bật lửa của mình qua, gã lập tức lấy thêm một điếu. “Vì hắn không thích mở miệng, cậu hỏi thăm chuyện của hắn làm gì?”
Tôi thầm nghĩ cái này liên quan đếch gì đến anh, tạm thời không biết trả lời sao. Phan Tử bên cạnh liền xen ngang: “Mẹ kiếp, anh hỏi nhiều thế làm gì?”
Gã họ Sở rít vài hơi, liếc qua Phan Tử, ỷ thế làm càn: “Anh thích vậy đấy, hỏi mấy câu thì có làm sao?”
Phan Tử vừa thấy gã đã nổi điên, “hừ” một tiếng định buông lời độc địa. Tôi ngăn anh lại, giờ có thể coi như thời gian gã họ Sở sa sút nhất, có xỉa xói cũng vô dụng. Gã đã không còn gì để mất, anh mắng vài câu thì ích gì? Tôi liền mở lời: “Anh Sở, anh dấn thân vào giang hồ lâu hơn em, hẳn cũng biết có một số việc thật sự khó nói.”
“Ái dà, cậu Ba cũng tính khua môi múa mép với tôi, khá lắm.” Gã gật đầu nhìn tôi, nói bằng giọng xách mé.
Tôi trái lại không hề bị khiêu khích, chỉ nhìn thẳng vào gã. Gã làm bộ run run nhịn cười một lát, thấy tôi không tỏ thái độ thì cũng hơi cụt hứng, đột ngột quay sang Phan Tử hỏi: “Chú Phan, đã chuyển tiền cho ông già nhà anh chưa?”
Phan Tử lấy ra một tờ biên lai, đại khái là Phan Tử trả giùm tôi mười vạn đồng, quẳng đến trước mặt gã. Gã nhặt lên xem, nói: “Đúng là người của ông Ba, sảng khoái lắm!”
“Tiền tụi em đã trả, người anh cũng gặp rồi, giờ anh nói được chưa?” Phan Tử nói dỗi.
Gã gật đầu rồi nói với anh: “Mời chú Phan ra ngoài một lát, đây là chuyện giữa anh và cậu Ba nhà chú.”
Phan Tử cau mày, có vẻ bực bội. Tôi vội nháy mắt ra hiệu cho anh nghe lời gã đi, lỡ đâu gã có cách thì sao. Phan Tử rủa thầm một tiếng rồi đứng dậy ra ngoài.
Gã họ Sở nhìn theo anh, cho đến khi cửa đóng hẳn lại mới quay sang tôi. Tôi phát hiện gã đổi sắc mặt, nhả ra một ngụm khói rồi nói với tôi: “Cậu Ba, cậu không thể tiếp tục điều tra nữa.”
Tôi giật mình nhìn gã họ Sở, không ngờ gã lại nói thế.
“Vì sao?” Tôi buột miệng hỏi.
“Cậu cứ xem kết cục của tôi, của chú Ba cậu, của Trương câm điếc và của mọi người là hiểu ngay thôi.” Gã thở dài rồi đứng lên: “Bí mật đằng sau rất ghê gớm, cỡ như chúng ta không dây được đâu.”
Tôi ngồi thẳng lại, nhớ tới bức ảnh kia, liền hỏi gã: “Thật ra anh biết những gì?”
Chương 4. Người cùng cảnh ngộ
*****
Gã họ Sở nói thế làm tôi có cảm cảm giác gã biết khá nhiều chuyện, không khỏi trở nên căng thẳng, đành mở miệng thúc giục, chỉ lo gã lại như chú Ba, nói được một nửa rồi ngừng.
Cứ thế thành ra vô tình để lộ tâm lý sợ hãi của mình. Gã họ Sở nhìn tôi cười cười, nói: “Cậu đừng vội, tôi sẽ kể hết cho cậu nghe những gì mình biết, nhưng trước tiên cậu phải đồng ý với tôi một vài chuyện.” “Là chuyện gì?” Tôi hỏi, thầm nghĩ không phải gã thấy được đà mà muốn hét giá chứ?
Gã nhìn nhìn ra cửa, run rẩy nói: “Chuyện này tôi chỉ kể riêng với cậu, cậu không được nói lại cho người khác biết. Dù sao tôi đã kể cho cậu chuyện của Trương câm điếc thì cũng có thể vì tiền mà tiết lộ chuyện của những người khác, lỡ bất cẩn để người ta nghe được mấy tin tức này, không biết chừng lại tìm người xử lý tôi mất. Án tù của tôi không phải chung thân, vẫn còn mong đến ngày mãn hạn, hơn nữa nơi này cũng không an toàn như tôi nghĩ. Nếu chưa rơi vào đường cùng thì tôi cũng không bán mấy tin tức này đâu.”
Tôi gật đầu. Chuyện này tôi hiểu, cho nên gã mới đòi tôi đích thân đến gặp, còn phải đuổi Phan Tử ra ngoài, những chuyện kiểu này càng ít người biết càng tốt.
“Tôi và chú Ba cậu là bạn bè lâu năm rồi, có rất nhiều chuyện năm đó là do tôi làm, ví dụ như điều tra Trần Văn Cẩm. Cho nên chuyện mà tôi biết nhiều hơn cậu nghĩ rất nhiều.” Gã run rẩy nói, “Cũng biết vực thẳm đằng sau nó sâu đến đâu. Có lẽ cậu không biết, ông Ba thường xuyên nhắc đến cậu, cho nên tôi cũng biết chuyện về cậu. Cậu không phải người trong nghề, nên tôi mới dám bán tin cho cậu.” A, lòng tôi khuấy đảo một trận, vậy là có thể lý giải vì sao gã có được tấm ảnh kia. Lại hỏi: “Thế rốt cuộc là có chuyện gì?”
Gã nói tiếp: “Tôi không biết ông Ba đã kể cho cậu nghe chuyện về những người đó chưa?”
“Ý anh là đội khảo sát kia?” Tôi hỏi, trong đầu vang vang lời chú Ba: Bọn họ không bình thường đâu. “Có kể chút ít, nhưng không nhiều lắm.”
“Đời này chú Ba cậu dành trọn cho việc điều tra hành tung của nhóm người kia. Hồi còn hợp tác với ông ấy, tôi thường xuyên nghe ông ấy ba hoa chém gió, nhưng càng điều tra, ông ấy phát hiện nhóm người này càng bất thường.” Gã hút hết một điều thuốc nữa, lại rút điếu khác ra châm lửa mà hút tiếp, “Những người này dường như đều lẻ loi, tách biệt khỏi thế giới này, không hề có mối liên hệ nào với xã hội. Bọn họ là ai, đến từ đâu, rốt cuộc đang khảo sát cái gì, chẳng ai biết cả.”
“Chuyện này tôi biết.”
“Nhưng khi tôi khuyên ông ấy buông tay, ổng lại nói mình tuyệt đối không tin trên thế giới này lại có chủng người như thế tồn tại. Trong mấy năm đó chúng tôi gần như đã dùng hết mọi biện pháp mà vẫn không hề có tiến triển, cuối cùng chú Ba cậu đành nghe lời tôi, buông bỏ hy vọng. Tôi cứ tưởng chuyện đến đây là kết thúc rồi, ai ngờ một năm trước, sau khi ông Ba, cậu, và cả Trương câm điếc trở về từ Sơn Đông, ông Ba tự dưng nói cho tôi biết Trương câm điếc kia chính là một người trong nhóm đó, hơn nữa cũng không già đi. Sửng sốt, chúng tôi lập tức bắt tay vào điều tra, mục tiêu đương nhiên là Trương câm điếc.” Tôi ngồi thẳng dậy, thấy gã lại châm thêm một điếu thuốc, không biết đây đã là điếu thứ bao nhiêu rồi. Gã hít sâu một hơi, “Khi đó Trương câm điếc là người của ông Tư, chú Ba cậu mượn hắn từ chỗ ông Tư. Tôi nhờ người qua đó thăm dò thân thế của hắn, kết quả là nghe được vài chuyện khó tin.”
Gã dừng lại một chút, “Nghe nói lần đầu tiên ông Tư gặp Trương câm điếc là vào một tình huống rất lạ lùng, chuyện xảy ra vào bốn năm trước, trong một lần bộ thi ở Quảng Tây. Cậu đã nghe nói đến bộ thi chưa?”
Tôi gật đầu. Bộ thi là chuyện từ thời xưa, thường xuất hiện khi xảy ra tai họa nào đó. Ở những nơi có truyền thuyết về cương thi thì nó lại càng thịnh hành, đánh hạn bạt chính là một loại trong số đó. Vào những lúc như thế người ta thường đào mồ quật xác, đôi khi thật sự có thi biến, thôn dân sẽ chọn ra những người can đảm, lấy thừng lấy chão quấn quanh bánh tông lôi ra khỏi cổ mộ, phơi dưới nắng gắt trừ hại.
Còn bộ thi mà người của Trần Bì A Tứ kể cho gã thì không giống vậy, chuyện này lại phải nói từ việc làm ăn của Trần Bì A Tứ ở Quảng Tây.
Quảng Tây trước kia là nơi tập trung văn hóa nhiều dân tộc, văn vật di tích vô số kể, có điều do văn hóa khác biệt quá xa với trung nguyên mà những chiêu trò của người trung nguyên hoàn toàn vô dụng ở Quảng Tây. Hoạt động sôi nổi nhất ở Quảng Tây thường là mấy tay săn đồ cổ hoặc hiệu buôn đồ cổ, đều tìm đến các thôn xóm thu mua hàng. Do Quảng Tây giáp ranh với Việt Nam mà dần dà có vài người Việt Nam phát hiện con đường phát tài này, họ liền kết bạn vượt biên sang Trung Quốc đào một vài cổ mộ. Quảng Tây có nền văn hóa Lĩnh Nam, cổ mộ rất nhiều, hơn nữa đa số đều phô ra công khai, người Việt Nam tuy không hiểu cách trộm mộ, nhưng đào lung tung vẫn lấy được vài món đồ. Thời đó việc làm ăn ở Trường Sa, Thiểm Tây thật ra đã rất khó khăn rồi, cậu hỏi chẳng lẽ không có đấu à thì thật ra vẫn có, còn rất nhiều đấu mỡ, trộm đến hơn mười lần mà bên trong vẫn còn đồ, đi vào cũng chẳng đến mức trắng tay. Nhưng số đấu có đồ quý, có long tích bối thực sự quá ít, muốn mở một cái đấu mới thì đã có mấy nhà ngồi chồm hỗm nhòm ngó giành hàng, với cục diện này chắc chắn phải tìm đường thay đổi, nên có rất nhiều ông trùm đều có ý muốn mò sang tình khác kiếm ăn. Có thời gian họ đã đào được kha khá mộ nước Kim ở Hắc Long Giang; Quảng Tây cũng là một tuyến trong đó.
Trần Bì A Tứ làm ăn rộng, liên hệ với cả người Việt Nam ở Quảng Tây, lần đó phái người đi Quảng Tây chính vì bên kia nói có một nhóm người Việt Nam phát hiện ra một cái đấu to, không rõ lai lịch thế nào, nhìn quy mô thì thấy tương đối lớn, cần bên này phái người qua “chỉ đạo” vì bọn họ không biết vật nào đáng giá vật nào không.
Lần ấy có ba người đi, bọn họ theo chân người Việt Nam vào rừng mưa nhiệt đới, lần đầu tiên thấy người Việt Nam hành sự ra sao. Người Việt Nam vũ trang đầy đủ, mà xem ra nhóm người này không chỉ làm một nghề, còn khiêng theo một cái sọt, hỏi họ giấu hàng gì trong đó, họ chỉ nói bên trong là “A Khôn”. Người của Trần Bì A Tứ dù hiểu tiếng Việt, nhưng cũng không biết đó là ý gì.
Đi suốt ba ngày trong khu rừng ở biên cảnh Việt Trung, bọn họ mới đến nơi. Cổ mộ gần như là bày tơ hơ ra đó, bọn họ dùng lá chuối tây che lên cửa vào, hình như đây là một cái hầm. Đúng vào lúc người của Trần Bì A Tứ định đi vào, người Việt Nam liền ngăn cản, ra hiệu bằng tay với họ, đại để là “cẩn thận”. Nói rồi một người Việt Nam dỡ hết lớp ngụy trang bên trên cái sọt ra, lúc này bọn họ mới phát hiện trong cái sọt kia hóa ra là một thanh niên toàn thân trần trụi.
Chân tay người kia bị trói, tóc tai bù xù, toàn thân lấm lem bùn đất; người Việt Nam khiêng hắn theo vào trong miệng hầm.
Dưới cửa vào chính là mộ đạo dẫn thẳng xuống thềm đá bên dưới, nhóm người Việt Nam rút dao, người phía Trần Bì A Tứ cũng lăm lăm móng lừa đen, càng đi càng thấy cổ mộ này quy mô rất lớn, đi chừng mười phút mới đến mộ thất. Xuống đến đáy mộ bắt đầu ngửi thấy mùi hôi thối, họ đi tìm nơi phát mùi thì thấy chính giữa mộ thất có một giếng vuông lớn cỡ cái chậu rửa mặt, mùi thối truyền ra từ lòng giếng.
Đây là một ngôi mộ hai tầng, hơn nữa còn là mộ quần táng kiểu Lĩnh Nam. Chiếu đèn pin xuống, dưới miệng giếng là một mộ thất khá thấp, đại khái chỉ cao tầm mét rưỡi, có thể thấy những quan tài gỗ bày theo hình vầng mặt trời bị dầm trong nước, tỏa ra mùi tanh tưởi nồng nặc từ dưới đáy.
Người Việt Nam đẩy thẳng thanh niên bị trói kia xuống, sau đó thòng dây thừng, lấy đèn pin ra soi, hình như đang chờ đợi con mồi nào đó.
Người phía Trần Bì A Tứ thấy vậy là biết cổ mộ này nhất định có vấn đề, có lẽ lần đầu tiến vào đã có người phải chết, nên lần này họ mới dẫn người theo. Thanh niên kia có thể coi là mồi câu, bọn họ muốn dùng người sống để dụ cái thứ bên trong ra, sau đó thả dây thừng xuống trói lại lôi cổ lên, đây đích xác là một kiểu bộ thi.
Nghe vậy tôi không khỏi cảm thấy quá tàn nhẫn, trộm cắp văn vật đơn giản là để cầu tài, biến thành muốn lấy mạng người khác thì sự việc đã biến chất rồi. Nhưng chuyện này còn có nguyên nhân lịch sử, rất khó vơ đũa cả nắm. Người phía Trần Bì A Tứ đều biết người Việt Nam rất liều mạng, mình không thể can thiệp vào chuyện này, bằng không chẳng biết bọn họ rồi sẽ làm ra chuyện gì.
Nhưng bọn họ chờ cả buổi vẫn không thấy chút xíu động tĩnh nào. Người Việt Nam ở lại bên trên cảm thấy rất quái gở, bàn nhau bằng tiếng Việt một lát rồi đầu lĩnh ép một người Việt khác phải xuống xem.
Người kia xuống đến nơi, nhìn quanh một vòng rồi ngoắc tay ra hiệu không sao, mấy người Việt Nam khác cũng xuống theo, bắt đầu kéo đồ lên. Người của Trần Bì A Tứ lúc ấy cũng sơ ý, không xuống cùng họ. Kết quả chưa lấy nổi hai món thì bỗng dưng bên dưới đã phát sinh biến cố, chỉ nghe tiếng người kêu gào thảm thiết, máu bắn tung tóe ra khỏi miệng giếng.
Mấy người Việt Nam này tương đối lực lưỡng, lập tức có người trốn lên. Nhưng mới trốn được hai người thì sau đó loáng cái đã thấy một cánh tay thi thể móng dài loằng ngoằng thò ra khỏi miệng giếng, suýt nữa đã túm được đầu lĩnh lôi xuống. Bọn họ sợ chết khiếp, không còn cách nào khác, đành lấy đá tảng chẹn miệng giếng lại, chồng thêm hơn mười khối đá lớn rồi hốt hoảng bỏ chạy.
Chuyện này sau đó đến tai Trần Bì A Tứ, đối với một ông trùm kinh nghiệm phong phú thì mấy cái bánh tông không đủ để bỏ qua một ngôi mộ cổ. Do đó Trần Bì A Tứ đích thân dẫn người quay lại Quảng Tây, một tuần sau mới đến ngôi mộ cổ kia. Sau khi dời mấy tảng đá đi, bọn họ liến phát hiện bên dưới rất bề bộn, tay chân gãy rời văng tung tóe khắp nơi, bốn bề tanh tưởi.
Trần Bì A Tứ nghĩ mọi người đã chết sạch, nhưng xuống đến nơi lại thấy hơn mười con bánh tông đổ dồn vào một góc mộ thất, cổ đều bị vặn đứt. Một người toàn thân trần trụi ngồi trên nóc quan tài, giữa đống bánh tông, đang nhìn lão chằm chằm bằng nét mặt vô cảm.
Gã họ Sở nói: “Người này, chính là “A Khôn” trước kia bị người Việt Nam dùng làm mồi câu, cũng chính là Trương câm điếc của hiện tại. Đó là lần đầu tiên họ gặp nhau.”
Tôi rùng mình ớn lạnh: “Sao nghe như kịch thế.”
“Câu chuyện này nhất định có phần khoa trương, cái nghề này rất dễ chém gió.” Gã nói đến đây, dường như cũng rất vui vẻ, cứ như đang quay về khoảng thời gian trước khi vào tù, “Nghe nói nhóm người Việt Nam kia phát hiện ra Trương câm điếc trong một thôn làng ở Quảng Tây. Khi đó thần trí hắn còn mơ hồ, bọn họ coi hắn là thằng đần, trói lại làm mồi câu. Nhưng đại khái là có chuyện như thế xảy ra, khoa trương có chăng là số lượng bánh tông thôi. Sau này hắn trở thành gia nhân của Trần Bì A Tứ, chuyện này truyền đi rất rộng giữa mấy tay thủ hạ đắc lực của ông Tư, có điều bọn họ lại không hé răng nửa lời với người ngoài.”
“Còn chuyện xảy ra trước đó thì sao?”
“Không ai biết gì cả. Trương câm điếc khá là lợi hại, ông Tư rất coi trọng hắn, nhưng tôi e là ông Tư cũng không nắm rõ gốc gác của hắn. Nghề này có quy củ riêng, mấy chuyện kiểu thế cũng không mấy ai hỏi đến.”
Tôi mới nói, Trần Bì A Tứ có biết cũng chẳng ích gì, bây giờ lão ta đang ở đâu tôi còn không rõ thì biết đến chỗ nào mà hỏi cho được.
“Tuy câu chuyện này chỉ là truyền thuyết, nhưng ít nhất cũng có thể cho chú Ba cậu một chỉ dẫn.” Gã nói. “Nhưng sự tình chuyển biến bất ngờ, chú Ba cậu đi Tây Sa gấp, tôi mới thay ông ấy đến Quảng Tây, cầm tấm ảnh của Trương câm điếc đến vùng đó hỏi thăm. Tiên sư nó, điều kiện sống ở đó không dành cho người, ông đây mất hai tháng ròng tìm kiếm mới tìm ra chút manh mối từ một thôn nhỏ tên Ba Nãi —“
Thôn làng kia ở miền núi, nằm kề biên giới Việt Trung. Nơi đó còn có người nhận ra Trương câm điếc, người bản địa gọi là A Khôn, hơn nữa còn đưa gã đến chỗ A Khôn ở.
Tôi a lên một tiếng, thật không ngờ: “Anh nói hắn sống ở vùng nông thôn Quảng Tây?”
“Tuy khá hẻo lánh, nhưng nơi này lại là địa bàn của Trần Bì A Tứ, có rất nhiều người Việt Nam sinh sống. Hẳn là hắn sống ở đấy, nhưng tôi cũng không dám khẳng định trăm phần trăm. Trong chuyến đi gắp Lạt ma ở núi Trường Bạch, tôi liên hệ với hắn thông qua ông Tư. Phần lớn thời gian hắn đều ra ngoài xuống mộ, có thể thấy căn phòng kia không ai ở, có lẽ năm đó sau khi rời Quảng Tây, hắn cũng chưa bao giờ về.”
“Phòng hắn ở trông như thế nào?” Tôi hỏi, hơi tò mò nhà của Muộn Du Bình rốt cuộc là cái dạng gì.
“Rất bình thường, đó là một gian nhà sàn thấp, trông giống nhà đất mà người dân tộc thiểu số vẫn ở, bên trong kê giường và một cái bàn, mặt bàn phủ một lớp kính, bên dưới chèn khá nhiều ảnh. Tôi phải lén chui vào, bởi vì đó là địa bàn của ông Tư, tôi không dám đường đột, cũng không dám khuân đồ ra, chỉ lục lọi bên trong một lát, lấy một tấm ảnh trong đó ra – cũng chính là tấm ảnh mà tôi đã gửi cho cậu, chuẩn bị bàn bạc với chú Ba cậu rồi quyết định bước tiếp theo. Ai ngờ Trần Bì A Tứ đã theo dõi tôi từ lâu, còn chưa kịp rời Ba Nãi đã bị tóm cổ, chuyện sau đó thì cậu cũng đã biết rồi đấy.” Gã dừng một chút rồi tiếp, “Tôi có cảm giác từ khi tôi hỏi thăm về Trương câm điếc ở Trường Sa, ông Tư đã để mắt đến tôi rồi. Có thể ông ấy biết một vài chuyện, nên tôi vừa đến Ba Nãi đã bị theo dõi. Lúc ấy tôi không còn lựa chọn nào khác, đành hợp tác với ông ta để đối phó với chú Ba cậu.”
Tôi hỏi: “Vậy bí mặt đằng sau những chuyện anh vừa kể là gì?”
Gã họ Sở nhìn tôi, lại bắt đầu run rẩy: “Cái này tôi không thể nói…”
Tôi hừ một tiếng, ghét nhất là có người đánh đố mình, “Có cái quái gì mà không thể nói? Hay anh chê ít tiền?”
Gã run run: “Cậu Ba, thật không dám giấu, hồi chú Ba cậu còn chưa mất tích, ông ấy kị nhất là dò hỏi đến ngọn nguồn. Giờ ông ấy sống chết không rõ, lỡ có ngày đột ngột xuất hiện, việc này nếu cậu tự tra ra thì không nói làm gì, chứ ông ấy mà biết tôi mách cho cậu thì chỉ e cái mạng nhỏ này cũng khó giữ nổi. Chú Ba cậu đâu phải thiện nam tín nữ gì, tôi đã bán đứng ông ấy một lần rồi, nhưng tình thế lúc đó còn có thể coi là bất đắc dĩ, chứ lần này tôi mà còn dám bán nữa, thì xét về đạo nghĩa tôi có cãi đằng trời. Cậu cũng đã nói, chuyện giang hồ có phép tắc của giang hồ, cậu muốn biết thì cứ đến gian nhà kia, nhìn những tấm ảnh khác ép dưới lớp mặt bàn thủy tinh là tự nhiên sẽ hiểu vì sao tôi bảo cậu thu tay lại. Tôi chỉ cho cậu biết đến đây được thôi, còn nội dung cụ thể thì tôi tuyệt đối không thể nói ra miệng được.”
Gã còn muốn hút thêm, nhưng thuốc đã hết, ho khan một tiếng, ánh mắt lờ đờ, vậy mà lại trông nhang nhác ánh mắt của Muộn Du Bình.
Chương 5: Lại xuất phát.
*****
Thôn làng ở Quảng Tây, trong thôn có người câm điếc, mẹ kiếp, càng nói càng lan man. Nhưng những điều gã họ Sở nói ra lại làm tôi ngứa ngáy trong lòng, rốt cuộc gã đã thấy gì trong nhà Muộn Du Bình, tôi truy hỏi vài lần mà gã cứ khăng khăng ngậm miệng không chịu khai ra. Xem cái kiểu của gã, tôi cảm thấy hơi quái quái, cứ như gã đang cố làm bộ làm tịch vậy. Cuối cùng đến cả giám thị trại giam cũng vào hỏi có chuyện gì thế, đến nước này nếu cứ ép uổng khéo lại sinh sự nên tôi đành thôi.
Phan Tử cũng ức chế không kém, anh bảo hay cứ tìm người đến tẩn cho gã một trận, cạy miệng gã ra. Tôi bảo không cần, trông tay này cứ giả giả sao đó, không chừng gã cũng chả biết cái qué gì đâu.
“Vì sao? “ Phan Tử hỏi.
“Đây gọi là phô trương thanh thế. Có thể gã biết trong nhà có một cái bàn, trên bàn có ảnh, nhưng lại không biết chính xác ảnh chụp cái gì. Loại người chuyên bán tin tức và cho vay nặng lãi này đều thích phô trương như thế đấy.” Tôi nói. “Nhưng gã đương nhiên phải đến tận nơi rồi mới dám quả quyết như vậy.”
Đây cũng chỉ là phỏng đoán của tôi, mà thật ra có phỏng đoán cũng chẳng để làm gì, dù sao đi chăng nữa tôi cũng muốn đích thân đi kiểm chứng một lần. Đến lúc đó, tự nhiên sẽ biết chuyện gã nói có quá khoa trương hay không.
Theo địa chỉ thôn Ba Nãi mà tay họ Sở đưa, chúng tôi chốt kế hoạch đến Quảng Tây.
Ba Nãi là một sơn trại của người Dao, nằm lọt giữa Thập Vạn Đại Sơn của Quảng Tây. Mọi người vẫn gọi nó là Siberia của Quảng Tây, ám chỉ sự nghèo khó lâu đời của vùng này. Nhìn địa chỉ, e rằng chỗ đó còn không nằm trong thôn Ba Nãi mà chỉ là cụm dân cư sống giữa bốn bề rừng núi mà thôi.
Trần Bì A Tứ là người cổ hủ, chắc lão thích chọn cái chốn lỡ có đứa nào báo công an thì cũng phải mất ít nhất hai ngày mới đến được này làm căn cứ vì gặp chuyện không may chỉ cần chạy lên núi là thoát, chỉ có bọn tôi là khốn khổ.
Bàn Tử và Muộn Du Bình đến Hàng Châu trước chờ ngày hội họp. Hắn nói thế cũng tốt, thừa dịp này móc nối với đám người phía Nam tăng nguồn hàng, chớ dạo này làm ăn chật vật, hắn sắp đói ăn đến nơi rồi. Thế là chúng tôi nghỉ ngơi vài ngày rồi bay từ Hàng Châu tới Nam Ninh, sau đó chuyển sang đi tàu hỏa đến Thượng Tư.
Không phải đi đổ đấu, thành ra cả bọn chẳng mang gì. Chúng tôi trang bị nhẹ nhàng, cười đùa suốt dọc đường đi, một toa có sáu người, hai tay từ vùng khác đến Thượng Tư làm thuê, người còn lại là hướng dẫn viên du lịch. Tay hướng dẫn viên dạy cả đám chơi bài Đại Tự (1), kiểu na ná mạt chược, rất vui vẻ.
Đến gần Thượng Tư, xung quanh đã bạt ngàn đồi núi. Tàu hỏa nhích dần qua các đường hầm, xa xa núi non chìm trong sương, tay hướng dẫn viên nói đó là vùng trung tâm của Thập Vạn Đại Sơn.
Vùng núi của Quảng Tây được gọi là Thập Vạn Đại Sơn, gồm những rặng núi chạy dài mấy trăm km quây quần lại với nhau, rừng rậm rộng hơn ngăn trăm vạn mẫu, trung tâm của nó là vài chục vạn mẫu là rừng nguyên sinh. Núi non trùng điệp, rừng rậm xanh tươi, thác reo suối chảy, nghe nói là danh lam thắng cảnh nơi chư tiên tụ hội. Có điều địa hình kiểu này khiến việc đi lại cực kỳ khó khăn, chúng tôi chọn tàu hỏa cũng vì lẽ đó. Dân đồng bằng mà đòi đi ô tô vào khu trung tâm Quảng Tây ấy à, có mà nôn mửa đến khô người đi.
Tôi ngắm những ngọn núi lớn, tâm trạng rất khác thường. Trước kia thấy cảnh tượng này thường đồng nghĩa với việc sau đó tôi sẽ dấn thân vào giữa núi non trùng điệp, truy tìm một vài bí mật chôn giấu bên trong. Còn lúc này đây, đích đến của chúng tôi lại là một huyện thành nằm sâu trong núi.
Cảm giác này hết sức kỳ lạ, không biết là thất vọng hay là vui mừng. Nhìn những mỏm núi đá hoa cương hòa lẫn vào rừng núi ngút ngàn đằng xa, tôi bất chợt sởn da gà.
Tới Thượng Tư, chuyển sang Nam Bình rồi đến Ba Nãi, ngồi trên xe vào giữa trưa hè, phong cảnh tươi đẹp trên đường đi khiến người ta muốn tan chảy. Tôi và Bàn Tử mải mê ngắm đến hoa mắt, ngay cả ánh mắt của Muộn Du Bình cũng trở nên có thần.
Thời gian đi đường có vẻ chậm trễ hơn dự tính, đến Ba Nãi đã gần chạng vạng. Trước đó tôi đã hỏi thăm vài người qua đường lấy thông tin, biết có thể xin tá túc qua đêm ở làng người Dao. Hỏi thăm suốt dọc đường, đến khi hỏi một người bản địa tên A Quý mới coi như tìm được đúng đường.
A Quý đã ngoại tứ tuần, có hai gái một trai, tuổi đó cũng chưa phải là già. A Quý có hai căn nhà sàn gỗ kiểu người Dao, mội căn để ở, một căn dùng làm quán trọ, cũng được coi là người tài ba trong làng, rất nhiều du khách đến đây đều do anh ta giới thiệu. A Quý liếc nhìn Muộn Du Bình, tôi cứ tưởng anh ta sẽ nhận ra, ai dè lại chẳng có phản ứng gì. Bàn Tử giới thiệu lai lịch của chúng tôi, A Quý khoát tay bảo không cần, cũng chẳng thèm cò kè mặc cả đã đồng ý cho ở trọ. A Quý khá quen với dạng khách như chúng tôi, rất có phong thái ông chủ nhà nông, còn ra ý trên địa bàn này chuyện gì anh ta cũng có thể giúp chúng tôi giải quyết.
Dọc đường tàu xe mệt mỏi, tôi cũng chẳng nghĩ ra có việc gì cần anh ta giúp, chỉ thấy bụng mình đói meo, bèn bảo giờ cứ giúp tôi bữa cơm chiều cái đã!
A Quý bảo hai cô con gái làm cơm, còn mình thì đi bố trí chỗ ở cho chúng tôi. Quăng hành lý xuống sàn gỗ, tôi lấy nước suối lau người. Ngồi trên nhà sàn cao cao, vô cùng mát mẻ khoan khoái, toàn thân thả lỏng, lại nhìn hai cô gái yểu điệu người Dao bận rộn bếp núc, tôi bống dưng cảm thấy đây mới chính là cuộc sống mà tôi ao ước.
Nhân lúc còn chưa đến bữa, Muộn Du Bình liền hỏi A Quý địa chỉ mà tay họ Sở cung cấp cho chúng tôi nằm ở đâu, hắn có vẻ sốt ruột.
A Quý nói nằm ngay trong làng, cơ mà hơi chếch lên trên. Bàn Tử khuyên hắn đừng vội: “Tuy đấy là nhà cậu, nhưng muộn thế này rồi còn bảo người ta dẫn cậu đi, mà cậu cũng không có chìa khóa, rất dễ khiến người ta nghi ngờ. Chúng ta đã đến đây rồi, thời gian còn nhiều lắm, chờ đến mai hẵng đi cũng chả sao.”
Tôi cũng đồng ý, Muộn Du Bình liền gật đầu, tôi tin hắn chắc chắn có đủ kiên nhẫn.
Cơm chiều có thịt hầm ăn với rượu ngọt, người trong làng Dao còn làm nghề săn, nghe nói đây là thịt sóc, cảm giác rất quái. Nhưng rượu ngọt thì tương đối ok, vừa vào miệng đã ngọt lịm, hơn nữa nước ở đây cũng ổn, vào đến miệng là mát rười rượi. Bàn Tử uống say, bắt đầu bốc phét, ba hoa với A Quý mình là ông chủ lớn, giờ chỉ muốn ở lại đây thôi, còn bảo A Quý gả cả hai cô con gái cho mình, mình sẽ chăm chỉ “cày cấy”.
Tôi sợ hắn nói lung tung lại đắc tội với người ta, vội vàng thu mâm, giúp hai cô con gái dọn dẹp, để Bàn Tử nằm chỏng chơ một mình hứng gió lạnh cho tỉnh ra một chút.
Vừa lau dọn vừa chuyện phiếm với hai cô gái, hỏi hình hình trong làng người Dao. Hai cô cho tôi biết, trước kia nơi này rất nghèo, ăn không đủ no, sau này có người đến du lịch thì mới khá khẩm lên. Cha họ dẫn người về trọ lại, tiền kiếm được cũng đủ ăn, ông không cần lên núi đi săn nữa, có thể mua những món đồ người ta mang tới, nhà họ còn đủ dư dả để nuôi vài gia nhân.
Tôi chú tâm hỏi thăm tình hình của Trần Bì A Tứ, lại hỏi hai cô nơi này có người Việt Nam ở không.
Các cô nói người Việt Nam cũng có, nhưng không ở Ba Nãi mà ở sâu trong núi cơ. Nơi này hiện có khá nhiều người, các cô cũng chẳng rõ trong đó có người Trường Sa không.
Thu dọn xong tôi vẩy tay, thầm nghĩ xem ra Trần Bì A Tứ đúng là cẩn thận, thậm chí còn không dám ở lại trong thôn.
Mà có khi bọn họ hóa trang thành khách du lịch đến Ba Nãi, còn người Việt Nam thì đi thẳng vào rừng, hai bên gặp gỡ trao đổi trong núi cũng nên. Nếu là như thế thì thứ được trao đổi trong đó e là phải nhiều hơn chúng tôi nghĩ rất nhiều, chí ít cũng được Trần Bì A Tứ cực kỳ coi trọng. Mối quan hệ này, có thể cũng là do lão cài cắm vào hồi còn chạy nạn ở Quảng Tây.
Nghĩ vậy, tôi bước vào phòng ăn định xin A Quý ít trái cây, đúng lúc này thì thấy Bàn Tử toàn thân chếnh choáng men say đang nhìn đăm đăm vào bức tường.
Tôi cứ tưởng hắn uống quá chén nên đầu óc cũng lơ tơ mơ đi rồi, ai ngờ hắn vừa thấy tôi đã kéo đi, bảo: “Tiểu Ngô, cậu qua đây.”
Tôi bước qua, hỏi hắn có chuyện gì thế? Hắn đưa mắt ra hiệu cho tôi nhìn về một hướng, tôi thấy trên bức tường gỗ trong phòng ăn có treo một khung hình, bên trong chèn rất nhiều ảnh. Hắn hất cằm về phía một tấm ảnh trong số đó, hỏi tôi: “Cậu nhìn xem, ai kia?”
——————————–
(1) Bài Đại Tự là loại bài rất phổ biến ở Quảng Tây, một bộ có 80 lá cho 3 người chơi, luật có vẻ khá rắc rối, ai thích tìm hiểu kỹ thì vào
đây
chớ mình đọc một hồi mà cóc hiểu =))
Chương 6: Kế thừa
*****
Đó là một tấm ảnh đen trắng đã ngả nâu, trông na ná tấm ảnh mà gã họ Sở cho tôi xem, kẹp giữa vô vàn tấm ảnh tương tự, không dễ dàng nhận ra. Tấm ảnh chụp chung hai người, tôi giật mình phát hiện ra một trong hai chính là Trần Văn Cẩm!
Tấm ảnh này lớn hơn nhiều so với tấm gã họ Sở cho tôi xem, cho nên nhìn tương đối rõ. Người đàn ông trong ảnh mặc trang phục dân tộc Dao, nét mặt căng thẳng, còn Văn Cẩm thì cười tươi như hoa. Ngoài hai người kia ra, nền tấm ảnh còn có một đứa bé.
Đây là chuyện quái quỷ gì vậy? Ảnh chụp Văn Cẩm sao lại xuất hiện ở chỗ này? Tôi nổi hết da gà, lập tức hỏi A Quý: “Tấm ảnh này chụp vào lúc nào?”
A Quý bước qua xem: “Vài thập niên trước.” Anh ta chỉ vào người đàn ông mặc đồ dân tộc, “Đây là cha tôi, còn cô gái này chính là thành viên của đội khảo cổ.”
“Đội khảo cổ? Nơi này đã có đội khảo cổ đến?” Tôi gần như nhảy dựng lên, “Chuyện là thế nào vậy?”
“Tôi cũng không rõ lắm, hình như họ nói đã phát hiện ra thứ gì ở ngọn núi bên kia.” A Quý chỉ về một hướng, “Chuyện xưa lắc xưa lơ rồi, sau bỗng dưng chẳng ai nhắc đến nữa.”
Trong lòng tôi thầm than, đi nát đôi giày không manh mối, thu được kết quả chẳng phí công, chuyến đi này đúng là không uổng! Bèn vội vàng kéo A Quý ngồi xuống, bảo anh ta kể ngay cho tôi nghe chuyện về đội khảo cổ.
A Quý chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì, có khi còn đang nghĩ đám người này chập mạch rồi chắc? Sao vừa nghe đến chuyện này đã hưng phấn làm vậy?
Bàn Tử liền nói: “Chúng tôi hiếu kỳ thôi, ông đừng để ý làm gì, cứ kể chi tiết chuyện này đi, chúng tôi sẽ trả công hậu hĩnh, ngàn chữ đổi ba mươi đồng.”
A Quý nghe đến tiền là tươi tỉnh ngay, vội vẫy tay gọi con gái qua đếm chữ, thuật lại câu chuyện từ đầu đến đuôi cho chúng tôi nghe.
Khi chuyện này xảy ra, A Quý mới hơn mười tuổi. Thuở ấy Ba Nãi vẫn còn nghèo khổ, gần như cách biệt với thế giới bên ngoài, cho nên sự xuất hiện của đội khảo cổ đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng anh ta.
A Quý vẫn còn nhớ đội khảo cổ có hơn mười người, do một cô gái đứng đầu, họ theo chân những người ra ngoài họp chợ mà vào làng. Do cha anh ta hồi đó là liên lạc viên trong thôn, nên phải đi tiếp đãi.
Cô gái kia nói với cha A Quý, họ là thành viên đội khảo cổ đến từ thành phố, phải tiến hành khảo sát ở vùng phụ cận, mong anh hãy giúp sức. Bọn họ có văn kiện đóng dấu đỏ của chính phủ, việc này ở trong làng có thể coi như đại sự, cha A Quý không dám thờ ơ, lập tức giúp bọn họ thu xếp chỗ nghỉ chân và người dẫn đường.
Đội khảo cổ ở đây khoảng sáu bảy tháng, nhưng suốt bấy lâu, họ dành phần lớn thời gian lần mò trong núi, người ở làng căn bản không hề tiếp xúc với họ. Người có mối liên hệ mật thiết nhất với họ, chính là tay dẫn đường được cha A Quý thu xếp.
Sau khi đội khảo cổ đi rồi, người làng mới hỏi tay dẫn đường, những người này rốt cuộc làm gì trong núi? Hắn cũng bảo không rõ. Suốt mấy tháng trời gần như lặn lội khắp các ngọn núi quanh vùng, cuối cùng hình như mới tìm được mục tiêu. Không tiếp tục thăm dò trong núi thì không cần người dẫn đường nữa, hắn cũng rời khỏi đội. Cô gái kia chỉ bảo hắn cách ba ngày đi trình diện một lần, còn đặc biệt lưu ý là đúng ba ngày không sớm không muộn.
Về sau, lại xảy ra một chuyện nghe rất quái gở.
Thời gian đầu tay dẫn đường cứ ba ngày đi một lần, không xảy ra vấn đề gì lớn. Nhưng có một lần hắn phải giúp nhà thông gia cắt cỏ, nghĩ bụng đi sớm một ngày có làm sao, kết quả đến nơi thì phát hiện doanh địa của đội khảo cổ kia trống huơ trống hoác, không biết mọi người đã đi đâu. Hắn sợ hãi, tưởng họ gặp tai họa gì, mà lại không dám nói ra, bèn một mình đi tìm, tìm khắp các ngọn núi xung quanh cũng không thấy họ đâu.
Hắn hoảng hồn quay về thôn, cả đêm mất ngủ, hôm sau lại lên đường thì phát hiện ra những người đó đã trở về, trong doanh địa tưng bừng náo nhiệt, giống như chưa có chuyện gì xảy ra. Lúc ấy hắn đã cảm thấy bất thường, tưởng sơn thần tác quái, cũng không dám nói ra, chờ đội khảo cổ đi rồi mới kể cho người trong thôn nghe.
Lúc rời đi, đội khảo cổ mang theo hơn mười rương đồ, nghe nói đều tìm được từ chỗ kia. Chẳng ai biết bên trong đựng những gì. Tấm ảnh này là cha A Quý chụp chung với nữ đội trưởng kia trước khi họ đi, mang vào thành phố rửa ra rồi gửi về. Nhờ sự kiện này mà về sau cha Quý được lên làm cán bộ thôn, cho nên ông vẫn coi đây là quá khứ huy hoàng của mình mà đem trưng lên tường.
A Quý kể xong, Bàn Tử đã không kiềm chế nổi cảm giác hưng phấn, lại hổi tiếp: “Chuyện xảy ra vào năm nào, ông còn nhớ chứ?”
A Quý lấy tẩu thuốc chỉ vào đứa bé đứng lẫn vào phông nền tấm ảnh: “Đây là tôi, khi ấy vẫn còn nhỏ xíu, không nhận ra là mấy tuổi nữa. Hồi đó không biết chữ mà ghi lại, nhưng chắc chắn vẫn còn người nhớ rõ, nếu các anh muốn biết kỹ càng hơn thì ngày mai tôi sẽ đi hỏi thăm giùm.”
Tôi nói cảm ơn mà bụng dạ quay cuồng, xem ra chuyện này quả thực không hề đơn giản. Đội khảo cổ từng xuất hiện ở đây, Muộn Du Bình cũng sống ở đây, làm quái gì có chuyện trùng hợp ngẫu nhiên thế, đằng sau nhất định có nguyên nhân sâu xa. Tuy tin tức A Quý cung cấp cũng không nhiều, nhưng đã có thể khẳng định, bọn họ quả thực đã tiến hành một loạt hoạt động khảo cổ trong núi, chuyện này hiển nhiên có liên quan đến kế hoạch đó.
Tôi nhìn sang ngọn núi kia, lại hỏi A Quý: “Ông là người địa phương, xin hỏi người vùng này gọi ngọn núi kia là gì? Liệu có gì trong đó không?”
“Vùng đó gọi là núi Chân Dê, không rõ trong đó có gì, mà thật ra tôi cũng tò mò muốn biết lắm. Về sau tôi có hỏi thăm vài người, nghe mấy ông cụ kể, ban đầu trong khe núi kia có một sơn trại cổ, không biết là từ đời nào. Về sau hoàng đế đánh giặc, phóng lửa đốt rừng, sơn trại bị thiêu rụi quá nửa, rất nhiều người chết cháy, thế là thành hoang phế. Có khi bọn họ nghiên cứu cái đó cũng nên.”
A Quý hỏi: “Sao nào? Các anh cũng thấy hứng thú?”
“Tương đối hứng thú.” Bàn Tử thành thật đáp.
“Ngọn núi kia hơi xa, đường lại khó đi, hơn nữa lạ cái là dã thú rất ít, bình thường chúng tôi không qua đó làm gì. Trong đó còn một lũng sông, có thể bắt cá, nhưng mùa này trời mưa lớn, dễ gặp nguy hiểm, tôi nghĩ các anh không nên vào.”
“Ông đã đến đó bao giờ chưa?” Muộn Du Bình đột ngột hỏi.
“Tôi thì chưa, chỉ có ông nội tôi là đã từng đến. Ông nói ngọn lửa năm đó rất dữ dội, gần như quét sạch mọi thứ có thể nhìn thấy trên mặt đất, còn trong lòng đất có lẽ vẫn sót lại vài công trình ngầm. Chuyện qua cũng lâu rồi.” A Quý nói, “Nếu các anh muốn biết chuyện về đội khảo cổ kia, chi bằng ngày mai tôi đưa các anh đi tìm người dẫn đường năm đó mà hỏi, lão chắc chắn phải biết nhiều hơn tôi, tốt nhất đừng đi vào trong núi.”
Muộn Du Bình cũng không để ý, chỉ hỏi: “Nếu nhất định muốn đi, thì phải đi đường nào?”
“Phải đi dọc con suối, chứ đi đường bộ khó lắm. Nếu các anh muốn đi thì tôi có thể tìm người dẫn đường, trả công hai trăm đồng, thế nào? Nhưng ngày mai vẫn chưa đi được, phải chờ ít nhất hai ngày, chứ giờ này nhà kia vẫn đi săn chưa về.”
Muộn Du Bình nhìn sang tôi, tôi liền gật đầu. Dù sao đi chăng nữa cũng phải đến đó xem, thời gian hai ngày là vừa đủ. Trước tiên chúng tôi có thể vào thôn hỏi thăm chút chuyện về Muộn Du Bình, sau mới vào trong núi, không có mâu thuẫn về mặt thời gian.
A Quý thì thào: “Vấn đề là cái chỗ kia chán lắm, chỉ có mỗi cánh rừng thôi, các anh đi cũng chẳng thấy gì đâu.”
Bàn Tử đáp: “Tụi tôi đi ngó qua một cái thôi cũng được.”
A Quý cười khổ, lắc đầu thở dài: “Đường kia rất khó đi, các anh là người thành phố, chả hiểu sao lại thích bỏ tiền ra mua lấy khổ cực vào người.”
Nói rồi lại đột ngột nghĩ ra chuyện gì, liền hỏi chúng tôi, “Phải rồi, các anh hỏi thăm chuyện này làm gì? Không lẽ các anh là kẻ trộm văn vật?”
Bàn Tử uống say, vừa nghe đã chửi um lên: “Cái gì mà buôn bán văn vật? Nói năng rõ hãm tài! Cho ông biết nhé, thật ra chúng tôi là dân đổ. . . . . .”
(*) A Quý hỏi đám Ngô Tà có phải là “đạo mại văn vật” (trộm văn vật đen bán) không, Bàn Tử nghe thành “đảo mại văn vật” tức là đám trung gian mua qua bán lại văn vật, mới giãy nảy lên, định thanh minh mình là dân “đảo đấu” aka đổ đấu nhưng mới nói đến chữ đảo đã bị Tà cấu véo rồi =))
Tôi vội vàng huých tay hắn, tiếp lời: “Là hướng dẫn viên du lịch! Có một đoàn khách muốn đến thăm, mà ở đây lại không có hướng dẫn viên địa phương, nên chúng tôi đành đi trước dò đường tìm cảnh quan.”
A Quý vừa nghe đã hứng thú: “Hay lắm, cứ đưa khách đến đây đi, tôi sẽ giúp các anh thu xếp. Vùng này còn nhiều cảnh đẹp lắm, ngọn núi kia chẳng có gì hay cả, các anh đi thì không sao chứ khách du lịch người ta không thích đâu.”
Tôi tươi cười gật đầu đồng ý, trong lòng âm thầm rủa xả Bàn Tử.
Bàn Tử cũng biết mình lỡ lời, nên không dám làm nhảm thêm, cun cút đi giải quyết nỗi buồn.
Tôi còn muốn hỏi A Quý một vài chi tiết cụ thể, nhưng anh ta nói mình không nhớ, xem cái điệu này, có thể anh ta ra ngoài làm thuê khá lâu nên cũng không hiểu rõ lắm những chuyện xảy ra trong thôn. Tôi đành bỏ cuộc, chờ đến mai tìm những người khác hỏi thăm. Việc này cứ thế mà kết thúc, sau đó chúng tôi ngồi ngoài trời hóng gió, tiếp tục bàn bạc chi tiết.
Bàn Tử vừa thấy A Quý đi, liền hạ giọng nói: “Mẹ kiếp, cái đội khảo cổ kia xuất quỷ nhập thần, ban ngày không thấy mặt, đến khi đi còn mang theo một đống đồ, rõ ràng vùng núi này có một ngôi mộ cổ! Đúng là mèo mù vớ cá rán, chúng ta đi du lịch đến đây lại nghe được tin béo bở. Sao hả? Hai vị, chúng ta có nên thuận theo ý trời, tiện tay dốc tuột cái đấu này không?”
Tôi đáp: “Tôi biết ngay anh sẽ nói vậy mà! Hiện giờ ngọn núi kia có cổ mộ cũng chỉ là phỏng đoán của anh thôi, phải đến tận nơi mới biết chính xác được. Hơn nữa những cổ mộ mà nhóm người kia chui vào cái nào cái nấy đều quái dị khác thường, tôi thật sự không muốn đi.”
“Lần này nhất định không sao, cậu không thấy bọn họ đều an toàn trở ra đấy à!” Bàn Tử nói, “Hơn nữa còn mang theo vài rương minh khí, con mẹ nó, cái đống ấy đáng giá bao nhiêu tiền cơ chứ?”
“Mà nói cũng lạ, theo lời A Quý mà suy ra thì nhóm người này rõ ràng không hề áp dụng phương pháp “đại yết đỉnh” (*) của đội khảo cổ, mà xem ra cũng đào đạo động chui xuống, đúng là hiếm gặp.” Tôi nói. Nếu từ đầu không biết nhóm người này thuộc chính phủ, tôi dứt khoát sẽ nghĩ bọn họ là dân trộm mộ chuyên nghiệp ngụy trang làm thành viên đội khảo cổ.
(*) Tức phương pháp khai quật đào từ trên xuống dưới không bỏ sót chỗ nào, thường được những đội khảo cổ chuyên nghiệp áp dụng (mà cách này cần thời gian dài với lượng nhân lực vật lực lớn nên cũng chỉ có đội khảo cổ chuyên nghiệp làm được).
“Đấy là tại kiến thức cậu hạn hẹp đó thôi, trong điều kiện không thích hợp, đội khảo cổ cũng sẽ dùng đạo động để cứu lấy một vài văn vật. Tôi thấy có khi là vì quy mô của cổ mộ này tương đối lớn, với điều kiện của Thượng Tư hồi ấy không thể tiến hành khai quật được.” Bàn Tử nói, nước dãi nhỏ tong tong, “Không phải cô bé kia đã nói rồi sao, người Việt Nam vẫn còn trong núi, tôi chỉ e bọn họ cũng đã nghe câu chuyện này, giờ đang đi tìm cổ mộ đó. Dù chúng ta không tham tiền thì cũng không thể mất trắng món hời này vào tay cái đám ngay cả xẻng Lạc Dương cũng không biết dùng kia.”
Tôi thở dài, thầm nghĩ tôi thật sự không muốn xuống đất lần nữa, anh có nói kiểu gì cũng vô ích thôi. Nhưng nếu nơi đó thực sự có cổ mộ thì dĩ nhiên nó phải liên quan đến thứ mà đội khảo cổ truy tìm, không xuống thì lại có phần không cam tâm.
Đúng là khó xử mà.
Bàn Tử tiếp tục lải nhải bên tai tôi, nên tôi đành dùng kế hoãn binh, bảo hắn đừng kích động, hai ngày nữa chúng ta đến tận nơi xem xét rồi tính sau. Nhưng dù có cổ mộ thật thì chỗ kia rộng thênh thang thế, cũng chưa chắc đã tìm ra; còn nếu tìm được thật thì hắn muốn xuống chúng tôi cũng sẽ giúp một tay. Nói đến thế hắn mới chịu ngừng, nhưng đã không thể kiềm chế bản thân được nữa, A Quý vừa quay lại đã bị hắn bám lấy hỏi tới hỏi lui.
Ban đầu tôi còn sợ hắn lòi đuôi, nhưng lúc này lòng dạ đã rối như tơ vò, chẳng còn hơi sức đâu mà để ý, đành mặc kệ hắn. Tôi tựa vào cột nhà, vừa học Muộn Du Bình ngắm trăng, vừa cân nhắc xem mình nên làm gì.
Buổi tối trời hơi nồm, chúng tôi vừa quạt tay vừa hứng làn gió mát mang theo hương cây cỏ trong lành từ núi thổi ra. Chẳng mấy chốc men say đã bốc lên đầu, tôi đã hơi váng vất, nghe không rõ Bàn Tử đang tán dóc chuyện gì với A Quý, cũng không nghĩ ngợi gì nổi. Chỉ cảm thấy mình đứng đây ngắm sao trên trời, thật giống như quay về thuở thơ ấu ở quê nhà, hết sức tự nhiên mỹ mãn.
Còn đang ngơ ngẩn, bỗng dưng chú ý đến một ô cửa sổ bên phía gian nhà gỗ gia đình A Quý ở, trong đó hình như có người đang nhìn chúng tôi.
Bên đó không thắp đèn, chỉ thấy một cái bóng mơ hồ quái đản. Tôi dụi dụi mắt, phát hiện bả vai nó hoàn toàn lõm xuống, giống y như cái bóng sau bình phong trên tấm ảnh mà gã họ Sở gửi cho tôi.
Chương 7: Truyền thuyết cái bóng
*****
Gió núi mùa hè thổi qua ngọn đèn treo trước nhà, chao đèn lắc lư kéo theo cả lũ côn trùng bám xung quanh, in hình một cái bóng loang lổ. Ban đầu tôi còn tưởng mình nhìn lầm, nhưng gió đã ngừng thổi mà cái bóng ấy vẫn ở nguyên chỗ cũ.
Tôi nhìn nó, ban đầu còn chưa có cảm giác gì, sau càng nhìn càng ớn lạnh sống lưng, chẳng lẽ trong nhà A Quý có người treo cổ?
Bèn cố nén cảm giác hoảng loạn mà ngồi dậy, dụi mắt nhìn cho kỹ.
Nhìn lại lần nữa thì cái bóng đó đã biến mất, sau cửa sổ tối đen như mực, chẳng có cái khỉ gì hết.
Là ảo giác? Tôi ra sức nhíu mày, hỏi A Quý: “Bên kia là phòng ai vậy?”
A Quý ngó sang rồi đáp: “Là phòng con trai tôi.”
“À,” Tôi ngẫm nghĩ nhưng chẳng nghĩ được gì, chỉ cảm thấy đầu óc váng vất, tự nhủ nhất định là con anh ta đang nhìn qua bên này rồi, tôi uống hơi nhiều nên mới nhìn lộn thôi.
Sắc trời cũng đã tối, A Quý nhìn sang phòng mình rồi nói phải về nghỉ ngơi.
Bàn Tử thanh toán phí tin tức ba mươi đồng một ngàn chữ, chúng tôi chào anh ta rồi cũng vào phòng. Bàn Tử bực bội nói: “Đệch, chỉ nói vài ba câu mà thằng rùa con này moi hết ba trăm đồng của tôi rồi, trí tuệ của nhân dân lao động đúng là vô biên.”
Tôi nói: “Ai bảo anh thích ra vẻ giàu có, khoe của ở cái chỗ khỉ ho cò gáy này rõ là dở hơi, mẹ kiếp lại còn hối hận, đúng là dở hơi trong những thằng dở hơi mà.”
Bàn Tử lẩm bẩm mấy câu, bảo tôi đạo đức giả, ngụy quân tử, tôi cũng chẳng hơi đâu mà để ý. Người bình thường đến Quảng Tây đều khó ngủ, mấy đêm trước chúng tôi đều ngủ không ngon giấc, nhưng tối nay có men rượu, đầu óc mơ mơ màng màng, nhanh chóng thiếp đi, lại còn ngủ rất say, đến quá mười một giờ hôm sau mới dậy. Ăn xong bữa trưa A Quý làm, chúng tôi đi theo con gái anh ta đến địa chỉ mà tay họ Sở cho, chưa đầy mười phút đã tới nơi.
Đó là một ngôi nhà sàn cũ kỹ, tường đất màu vàng lợp ngói đen, chỉ có một tầng, trông nhỏ hơn những căn nhà sàn khác – mà hình như nhà cửa nơi đây đều cùng một kiểu dáng này – thoạt nhìn như bỏ hoang, không hề bắt mắt, nằm lẫn vào những căn nhà khác trong thôn.
Con gái A Quý rất tò mò về mục đích đến đây, nên chúng tôi đành giả bộ chụp ảnh. Bàn Tử cho cô gái ít tiền đuổi khéo đi chỗ khác, thấy bốn bề vắng tanh, chúng tôi liền thử trèo vào.
Nhà sàn dựng trên sườn dốc, dựa lưng vào núi, cửa sổ đã hư hỏng hoàn toàn, cửa chính đóng kín như bưng, trên dán tranh môn thần đã phai màu, đẩy hai lần mà đến cái kẽ cửa cũng chẳng thèm hé ra.
“Có ấn tượng gì với căn nhà này không?” Tôi hỏi Muộn Du Bình.
Hắn chạm tay vào cột và cửa nhà, lắc đầu. Tôi thở dài, lúc này Bàn Tử đã mở được cửa sổ bên hông nhà, vẫy tay gọi bọn tôi: “Mau lên, lối này vào được.”
“Sao mà thành thục thế, mẹ kiếp có phải hồi trước anh từng đi đào tường khoét vách rồi không?” Tôi mắng.
“Bàn gia đây là nhân vật cỡ nào, cái này tôi suy luận mà ra đó hiểu không? Trộm mộ với trộm cướp chỉ khác nhau có một chữ thôi.” Bàn Tử vừa nói vừa giục chúng tôi.
Chúng tôi để một người trông chừng rồi lén trèo vào từ đường cửa sổ, sau đó đóng kỹ lại. Vào trong rồi tim lại đập thình thình, cảm thấy cực kỳ kích thích, đến cả quần cũng bị móc trúng, suýt nữa thì phơi mông ra, nghĩ bụng trộm của người sống còn căng thẳng hơn trộm của người chết.
Trong nhà hơi tối, có điều kết cấu rất đơn giản. Đầu tiên tôi thấy một gian phòng ăn lớn kèm bếp lửa như của nhà A Quý, trên tường treo rất nhiều công cụ, đều đã rỉ sét cả.
“Tiểu Ca, thật không ngờ cậu vốn là nông dân.” Bàn Tử vơ bừa lấy một cái cuốc: “Cày đồng đang buổi ban trưa, cậu là dân cày, tôi là ban trưa.” (*)
(*) Trích từ bài Mẫn nông của Lý Thân. Nguyên văn: “Sừ hoà nhật đương ngọ/Hãn trích hoà hạ thổ/Thuỳ tri bàn trung xan/Lạp lạp giai tân khổ.” Bản dịch bài này chính là bài ca dao nổi tiếng: “Cày đồng đang buổi ban trưa/Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày/Ai ơi bưng bát cơm đầy/Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.”
Chúng tôi phớt lờ hắn, thấy một bên có tường gỗ ngăn cách, đằng sau hẳn là gian phòng mà gã họ Sở nói mình đã tìm ra. Nhà sàn kiểu này chỉ có một gian phòng, chắc chắn không sai được.
Không có cửa, chỉ có một tấm mành cũ kỹ loang lổ bụi bặm. Muộn Du Bình cau mày nhìn quanh một vòng, dường như hơi do dự, nhưng chỉ vài giây sau đã vén mành đi vào. Tôi hơi căng thẳng, cái con người gần như lơ lửng trong hư không này rốt cuộc đã tìm được một điểm dừng chân thuộc về mình, vậy mà lại chẳng nhớ ra, không biết có phải ông trời đang đùa giỡn với hắn hay không. Nhưng chẳng còn thời gian ngẫm nghĩ, Bàn Tử đã đẩy tôi vào.
Vừa vào phòng, mùi ẩm mốc đã xộc đến, bên trong tối om, không nhìn rõ được gì. Tôi thấy Bàn Tử muốn đi mở cửa sổ, rồi lại phát hiện phòng kín như bưng.
Không ngờ đến tình huống này nên chẳng ai mang đèn pin, chúng tôi chỉ còn cách cột rèm lại để ánh sáng bên ngoài chiếu vào. Nương theo ánh sáng mờ mờ, có thể thấy gian phòng rất chật chội, sát tường kê một cái giá trống không. Chúng tôi thấy vài quyển sách và mấy cái hộp, mặt đất rơi đầy bùn, trừ mấy thứ này ra thì còn một tấm phản và một cái bàn gỗ, là loại bàn học sinh cũ kỹ. Bề mặt các đồ vật đều phủ một lớp bụi mỏng.
Không khí trên núi rất trong lành nên bụi bám không dày lắm, nếu là ở thành phố lớn thì chỉ e bụi ở đây có thể xúc đi trồng cây chứ chẳng đùa. Điều này cũng cho thấy nơi đây rất lâu không có ai vào.
“Đây là nhà anh à?” Tôi hơi giật mình, nhìn căn phòng này, cảm thấy bình thường quá, đây là nơi Muộn Du Bình ở ư? Loại người như hắn, đáng ra nhà cửa phải quái quái một tí mới đúng chứ?
Nhưng ngẫm lại thì tôi cũng không tưởng tượng ra được cụ thể là phải cổ quái như thế nào, suy cho cùng hắn vẫn là một con người, mà người thì phải ngủ trên giường chứ chẳng lẽ trèo vào quan tài ngủ. Manh mối cũng không thể viết lên vách tường, mà hẳn là nằm trong mấy món đồ bài trí này.
Chúng tôi bước vào trong, Bàn Tử đến gần cái giá, phát hiện nó căn bản là trống không, lẩm bẩm: “Chẳng ngờ cậu còn là một nông dân nghèo mạt rệp.”
Đồ đạc trong phòng tuy không nhiều, nhưng khá lộn xộn, nào sách nào hộp vứt bừa bãi, dễ chừng đã bị gã họ Sở lục lọi. Tôi tiện tay vớ đại một quyển sách lên, thấy nó ngấm nước, là một quyển sách đóng gáy bằng chỉ cũ lắm rồi, giở vài trang thì thấy bên trong đã hơi mốc. Trong lòng lấy làm lạ, tại sao lại có loại sách này?
Thứ duy nhất còn coi được là giường và bàn, nghĩ đến đây tôi lập tức lại gần cái bàn, tìm những tấm ảnh mà tay họ Sở nói. Tấm thủy tinh phủ trên mặt bàn bám đầy bụi, bên dưới có thể thấy loáng thoáng rất nhiều ảnh, xem ra gã không lừa tôi.
Chương 8: Bí ẩn của bức ảnh
*****
Bàn Tử nhéo tôi một cái, ra hiệu cho tôi nhìn Muộn Du Bình. Tôi quay đầu lại, thấy Muộn Bình vẫn lặng thinh, cẩn thận chạm vào từng cuộn sách, mà nhìn vẻ mặt hắn thì hình như đang nghi ngờ điều gì đó.
“Anh đã nhớ ra chuyện gì chưa?” Lòng tôi thoáng động, liền hỏi.
Hắn phớt lờ tôi, mở miệng muốn nói lại ngừng, đôi mày nhíu càng thêm chặt.
Tôi thầm nghĩ, không lẽ đã có manh mối rồi? Nhưng không dám lên tiếng quấy rầy hắn, chỉ đành đứng sau lẳng lặng mà nhìn. Chỉ thấy hắn nghiêng đầu, dạo một vòng quanh phòng rồi nói: “Hình như có gì đó không ổn.”
“Không ổn chỗ nào?” Bàn Tử khó hiểu.
Hắn nhíu chặt đôi mày, dường như dốc hết tinh lực của mình mà nhớ lại: “Không ổn, căn phòng này cho tôi cảm giác bất thường.”
“Chẳng lẽ đây không phải phòng của anh?”
Hắn lắc đầu, bỗng dưng chuyển ánh mắt về phía cái giường, nhanh chóng ngồi xổm xuống nhòm vào gầm giường. Tôi cũng nằm bò ra nhìn, nhưng chỉ thấy dưới đó tối om om. Muộn Du Bình quay đầu lại, Bàn Tử hiểu ý, lập tức chuyển cho hắn cái bật lửa. Hắn thắp lửa lên, đưa xuống dưới gầm giường.
Dưới đó trống không, chỉ rặt những mạng nhện, nhưng hắn vẫn chưa từ bỏ ý định mà tiếp tục chui vào, bắt đầu lần mò khắp những khe hở trên sàn gỗ. Chợt thấy ngón tay hắn cong lại, móc một mảng sàn nhà lên. Muộn Du Bình khí lực kinh người, chỉ nghe một tiếng đứt gãy đinh tai, một mảnh sàn đã bị lôi lên. Rồi hắn quẳng nó qua một bên, tiếp tục cạy sàn, động tác quả đúng là điên cuồng.
Tôi và Bàn Tử đều mệt mỏi rã tời, nhất thời không biết làm gì. Bàn Tử la lên: “Tiểu Ca, cho dù bất thường thì cũng không nên đập phá căn phòng này.” Nhưng vô ích, đến khi chúng tôi kịp phản ứng thì Muộn Du Bình đã đào ra một lỗ hổng lớn trên nền nhà. Bấy giờ tôi mới tỉnh ngộ, chỉ thấy hắn thò tay vào trong động, ra sức lôi một cái rương sắt màu đen ra.
Đệch, thì ra là thế! Tôi bắt đầu hưng phấn, vội vàng xáp lại, chỉ thấy bên dưới sàn gỗ còn có một ngăn phụ, rõ ràng đã được thiết kế cực kỳ công phu. Thầm nghĩ hẳn là đã tìm được điểm mấu chốt, tôi lập tức giúp Muộn Du Bình giữ chặt rồi kéo cái rương ra. Cái rương nặng muốn chết, kéo ra đến nơi mồ hôi đã đầm đìa lưng áo, Bàn Tử giúp chúng tôi nâng nó đặt lên giường.
“Mẹ kiếp đây là cái gì?” Bàn Tử hỏi. “Nặng quá, chẳng lẽ là ống heo của Tiểu Ca?”
“Làm gì có chuyện đó.” Tôi nói, thổi đi lớp bụi bám trên mặt, cẩn thận quan sát nó. Đây là một cái rương sắt đen khá lớn, rộng 1×0.5, thoạt nhìn có thể chứa được một người.
(nghe đến câu mà mà lạnh sống lưng ó.ó)
Mặt rương phủ kín hoa văn đã rỉ sét, niên đại có vẻ khá xa, trông như vật dụng trong nhà địa chủ thời trước, có thể là đồ cổ. Tôi nhìn ổ khóa xoay kiểu cổ bên trên, nghĩ bụng rương này hẳn là có từ thời Dân Quốc, dễ chừng là rương đựng quần áo của nhà giàu, hoặc là rương đựng trang phục của gánh hát.
Muộn Du Bình thở hổn hển bò ra, chúng tôi nhìn hắn hỏi: “Sao vậy?”
Hắn không đáp lời, ánh mắt trở nên mờ mịt, thần trí cũng mê muội đi.
Xem ra hắn chỉ nhớ được một đoạn ký ức rời rạc, cơ mà hắn đã nhớ ra chuyện này, chứng tỏ cái rương do hắn đích thân cất giấu, suy ra bên trong phải có thứ gì đó quan trọng, có khi còn chứa manh mối về thân thế của hắn. Chúng tôi đều phấn khởi, tôi bảo Bàn Tử: “Mau mở ra xem nào.”
Bàn Tử lập tức bẻ khóa, ai ngờ còn chưa kịp động thủ thì Muộn Du Bình đã đưa tay đè lên nắp rương, la lớn: “Tuyệt đối không được mở.”
Chương 9: Tài liệu
*****
Chúng tôi bị hắn dọa cho phát hoảng, chỉ thấy sắc mặt hắn tái nhợt cứ như đang cực kỳ căng thẳng.
“Sao vậy?” Tôi hỏi.
Hắn cau mày nhìn cái rương, rất lâu sau mới đáp: “Đừng mở nó ra, dự cảm của tôi… rất xấu.”
“Anh nhớ ra chuyện gì rồi? Anh nhớ không thể mở cái rương này ra?”
Muộn Du Bình gật đầu: “Tôi không biết, chỉ có dự cảm cực kỳ xấu. Mở cái rương này, nhất định sẽ gặp chuyện không hay.”
Nhìn sắc mặt hắn, tôi phát hiện ra hắn đang toát mồ hôi lạnh, cũng không khỏi đổ mồ hôi đầy lưng. Hắn mà còn căng thẳng đến mức này, trong rương rốt cuộc chứa thứ gì, chẳng lẽ là bom mìn? Lập tức bảo Bàn Tử thu cái tay đang cạy khóa về.
Bàn Tử nói: “Móa nó, Tiểu Ca cậu dừng dọa tôi chứ. Rốt cuộc cậu đã nhớ ra chuyện gì rồi?”
Muộn Du Bình day day trán, có phần khổ sở: “Tôi không biết diễn tả cảm giác này ra sao.”
Bàn Tử tặc lưỡi: “Có khi nào cái rương này không mở theo cách thông thường, mà bên trong có cơ quan? Nếu chúng ta cứ mở nó ra như thường, không chừng sẽ có độc châm bắn ra hay nọc độc chảy ra?”
Tôi nghĩ bụng cũng có thể lắm, Muộn Du Bình hiểu biết khá sâu về cơ quan, cái rương sắt này có vẻ là thứ gì đó khá quan trọng đối với hắn, rất dễ bố trí cơ quan, mở ra rất nguy hiểm.
Lần này rầy rà to rồi đây, lòng tôi ngứa ngáy khó chịu, nhưng trong tình thế này tôi lại không thể cắn răng nói cứ đánh liều mở ra xem sao. Giờ đây trong đầu tôi chỉ nghĩ, nếu vừa rồi Bàn Tử nhanh tay một chút thì có thể đã ngăn được chuyện phiền toái này. Nhưng nghĩ lại, nếu vừa rồi Bàn Tử nhanh tay hơn một chút, không khéo đời chúng tôi sẽ chẳng còn cơ hội gặp thêm bất cứ chuyện phiền toái nào nữa.
Tôi bảo Bàn Tử giúp tôi cẩn thận khuân cái rương lên bàn rồi quan sát kỹ càng ổ khóa. Cái loại khóa xoay kiểu cổ này thật ra không phải khóa, mà là một dạng chốt bình thường, chỉ cần đẩy nhẹ một cái là mở ra. Với trình độ của chúng tôi, có nhìn đến mòn mắt cũng không thể thấy đằng sau ổ khóa xoay này có vấn đề gì chăng.
“Thế bây giờ phải làm gì đây?” Bàn Tử cũng phiền muộn.
“Xem ra chỉ còn nước khuân cái của nợ này về rồi tìm vài cao thủ đến xem, sau đó tiếp tục tìm kiếm trong này xem còn chỗ nào đáng chú ý.” Tôi nói. Nhìn quanh bốn phía, giờ cũng chỉ còn cách này thôi.
Bàn Tử gõ gõ vào vỏ sắt: “Tiên sư nó chứ, thế phải chờ đến bao giờ mới được mở cái này ra, không chừng phải nửa năm mất. Hay chúng ta cứ dứt khoát tìm A Quý hỏi mượn con dao, cạy thẳng vào từ vỏ sắt?”
Tôi còn chưa kịp lắc đầu thì Muộn Du Bình đã lắc trước: “Không đúng, có lẽ vấn đề không phải ở cơ quan.” Nói rồi hắn vươn hai ngón tay thon dài đè lên ổ khóa xoay kia, hơi hơi nhúc nhích, “Không cảm nhận được cơ quan, khóa không có vấn đề.”
“Không phải cơ quan, thế sao không được mở?”
Muộn Du Bình lắc đầu. Tôi đăm chiêu nói: “Chẳng lẽ là do thứ bên trong cái rương này có vấn đề?”
Trong này có thể là gì? Chẳng lẽ bên trong là rắn độc? Bị nhốt chừng ấy năm, có mà thành rắn khô luôn rồi. Bàn Tử vẫn rất kiên trì, nói: Bằng không thì thế này, các cậu dẹp hết đi để Bàn gia đây tới, ông đây mạng cứng, không tin mình lại bị một cái rương xử đẹp.
“Tuyệt đối không thể, chưa nói đến vật sống, nhưng bên trong có thể là kịch độc gì đó, anh mở ra không chỉ liên lụy đến chúng tôi mà có khi còn ảnh hưởng đến mọi người trong thôn.”
Bàn Tử chửi thề, ngồi phịch xuống giường: “Cái gì cũng không được, thôi tống xừ nó đến xưởng cơ khí nung chảy ra đi, chúng ta bắt tay nhau giấu nhẹm chuyện này.”
Tôi cảm thấy bầu không khí này có hơi buồn cười, lại có chút quỷ dị. Chúng tôi từ một vùng rất xa lặn lội đến đây, cũng đã mò đến tận nhà Muộn Du Bình và tìm ra manh mối quan trọng, nhưng lại vì cảm giác mơ mơ hồ hồ của Muộn Du Bình mà ngay cả cái rương chứa manh mối cũng không dám mở ra. Đúng là bực mình, nhưng mạo hiểm ở cái khâu này thì quả thực không đáng.
Tôi vỗ vỗ vai Bàn Tử, bảo hắn bình tĩnh đừng nóng, chi bằng lại gõ thử mặt sàn xem bên dưới có còn tường kép nữa không. Xem cái cách Muộn Du Bình phá tanh banh sàn nhà thì thấy tường kép này làm bằng ván gỗ đóng đinh, chứng tỏ anh ta không định lấy nó ra trong thời gian ngắn. Loại công trình chứa tường kép như thế này, dễ chừng còn có cái thứ hai thứ ba.
Thế nên chúng tôi bắt đầu sờ đông gõ tây, có điều căn nhà này lơ lửng trên không, gõ kiểu gì cũng cảm thấy bên dưới ván gỗ có thứ gì đó.
Nền nhà sàn không được lát theo kiểu công nghiệp, chỉ đơn giản là dùng những tấm ván gỗ dài bắc lên, khe hở giữa chúng rất lớn. Bàn Tử bèn quỳ rạp lên sàn nhà mà nhòm xuống. Bên dưới có một nửa là chuồng gà
(nuôi gà kìa :)) )
có thể nhìn thấy cả bùn đất.
Bàn Tử đúng là không sợ bẩn, quan sát cẩn thận từng li từng tí, toàn thân nhoe nhoét bùn nhưng cũng chẳng thu hoạch được gì, cứ như chỉ có đúng một ngăn bí mật đó thôi.
Chúng tôi rà đi rà lại ba lần khắp mọi ngóc ngách trong ngoài, xác định không còn gì khả nghi nữa, Bàn Tử mới phủi quần áo, nói: “Thôi được rồi, cái cần tìm thì tìm không ra, cái cần mở cũng chẳng mở được, chúng ta mau khua khoắng vài món đồ rồi rút lui thôi, tránh cho đám A Quý nảy sinh nghi ngờ. Chui vào một căn nhà đổ nát chụp ảnh đâu có lâu đến thế.”
Tôi nghĩ cũng phải, định khuân cái rương kia đi, nhưng Bàn Tử đã ngăn lại: “Thứ này không thể để lộ được, giờ khuân nó ra ngoài, A Quý thấy chúng ta lúc đi tay không, lúc về lại khuân theo một món đồ to kềnh càng như thế, chỉ e khó mà giải thích cho xuôi. Nếu chuyện này đồn đãi ra ngoài, có khi còn đến tai Trần Bì A Tứ. Tôi thấy tốt nhất chúng ta nên nhét cái rương vào chỗ cũ, trước khi đi lựa một đêm thích hợp mà khuân nó ra là được.”
Bàn Tử suy nghĩ rất thấu đáo, tôi gật đầu, sau đó hắn chui xuống gần giường, đẩy cái rương kia vào trong hầm rồi lấy mấy tấm ván gỗ gác qua loa lên trên, giấu cái hầm đó đi.
Kế đó tôi thu dọn ảnh và tài liệu cho vào trong túi, chuẩn bị mang về xem lại cho kỹ, bỗng dưng lại nghe tiếng gõ sàn nhà.
Tôi bảo Bàn Tử: “Đừng gõ nữa, không phải anh nói muốn đi sao?”
Bàn Tử đứng bên cạnh hút thuốc, giơ hai tay lên ra ý mình đâu có gõ. Tôi lại nhìn sang Muộn Du Bình, hắn đang sắp xếp chỉnh tề nào hộp nào sách lên giá, hiển nhiên cũng nghe thấy tiếng gõ, liền nhìn sang chúng tôi.
Ơ? Tôi hơi sửng sốt, vậy là ai đang gõ sàn nhà?
Chúng tôi lẳng lặng nín thở, nghe lại thật kỹ, nhận ra tiếng “cộc cộc cộc” kia phát ra từ dưới gầm giường, rất khẽ mà cũng rất dồn dập.
Bàn Tử và tôi nhìn nhau, rồi hắn dụi tắt điếu thuốc, thật cẩn thận cúi người nhòm xuống dưới gầm giường, tôi cũng ngồi xổm xuống theo.
Dưới đó nhất định không có ai, cái này khỏi cần nói. Chúng tôi áp sát sàn nhà, phát hiện nó không hề chấn động, vậy âm thanh này không phải tiếng gõ sàn, hơn nữa nghe hơi xa xăm, không cảm nhận được cụ thể là ở góc nào dưới sàn nhà.
Bàn Tử ra hiệu: Bên dưới mặt sàn.
Tôi gật đầu, thầm nghĩ: Chẳng lẽ có con chuột con gà nào chạy dưới gầm căn nhà sàn này? Rồi bỗng dưng tôi thấy đống ván gỗ phủ trên cái rương sắt khẽ nhúc nhích.
Cmn kì quái, tôi trợn mắt há mồm, chẳng lẽ cái rương sắt kia đang cử động?
Chương 10: Con chuột
*****
Suy nghĩ đầu tiên lóe lên trong đầu tôi, chính là có chuột.
Trong những thôn làng kiểu này, có chuột là chuyện hết sức bình thường. Một căn nhà gỗ bỏ hoang, quả đúng là thiên đường của loài chuột. Nhưng vừa rồi khi di chuyển đồ đạc tôi đâu phát hiện ra dấu vết của chuột, cho nên cảm thấy hơi bất ngờ, có thể nó bị tiếng gõ sàn nhà dọa cho kinh hãi nên mới chui ra. Chúng tôi gõ thử khắp nơi, chỉ có gầm giường là không đụng tới, nên nó mới trốn xuống đấy.
Tình huống này tôi thật không ngờ tới. Tôi không lo cái rương sắt kia bị cắn hỏng, nhưng nếu con chuột gặm lung tung, khiến ổ khóa xoay bật mở thì có thể sẽ gây nguy hiểm.
Tôi hơi lo lắng, lập tức bò lại gần cái ngăn bí mật kia, ra sức vỗ mạnh hai cái xuống sàn để dồn con chuột chạy ra.
Quả nhiên tôi vừa vỗ sàn nhà, bên kia giống như hoảng sợ, thoáng cái tiếng động đã to lên, nhưng không thấy chuột chạy ra từ đống ván gỗ. Những con vật sống gần người đều hết sức tinh ranh, xem ra nó phán đoán ở vào tình thế này thì núp bên trong an toàn hơn là nhảy ra ngoài chạy trốn.
Tôi vốn không ưa chuột, hơn nữa chuột ở đây hẳn là chuột rừng, là giống chuột hung hãn hơn bình thường, có thể chủ động cắn người, nên nhất thời cũng không dám tùy tiện lật tấm ván gỗ này lên, mà chờ Bàn Tử đến xử lý.
Bàn Tử lúc ấy đang phớt lờ tôi, bao nhiêu uất ức nghẹn lại trong lòng trước kia giờ được dịp xả, liền khinh khỉnh nói: “Láo(*), cũng không thèm hỏi xem ông nội mi cầm tinh con gì.” Hắn bảo tôi điều chỉnh vị trí, chặn hết các hướng mà con chuột kia có thể chạy, rồi cẩn thận nhấc một tấm ván gỗ lên, cúi người xuống, một tay khom lại như vuốt chim ưng.
(*) Nguyên văn là “Động thủ trên đầu thái tuế”: Thái Tuế là một thiên thể giả định, đi đến đâu sẽ hạ xuống đó một vật có dạng khối thịt, nếu động thổ ở nơi có khối thịt này sẽ kinh động đến Thái Tuế và gặp tai họa.
Tôi và hắn liếc nhìn nhau, ra hiệu sẵn sàng. Bàn Tử hít sâu một hơi, vận sức đẩy mạnh tấm ván gỗ rồi thò tay xuống, mới quơ được hai cái đã kích động ngã bổ chửng ra đằng sau, đập đầu vào ván giường, đau đến nỗi phải rụt ra ngay. Nhưng hắn khá là chuyên nghiệp, trước khi kêu đau còn kịp bảo tôi mau quơ thử coi!
Trong ngăn bí mật vang lên tiếng va chạm, tôi sợ con chuột giật mình sẽ cắn đứt ổ khóa xoay, cũng không nghĩ được nhiều, thò tay xuống quơ quào, tính dồn ép nó chạy ra, ai ngờ vừa quơ một cái đã tóm được vật gì lớn bằng miệng bát. Vật kia lập tức ngọ ngoạy, khiến đầu tôi ong lên. Đệch! Chẳng lẽ không phải chuột mà là rắn?
Thôi chết cha Bàn Tử rồi, đây chính là vùng nhiều rắn độc nhất ở Quảng Tây Trung Quốc! Vừa tính buông tay thì Bàn Tử nhào vào giúp, nhoáng cái đã túm tay tôi mà nói: “Nắm chặt lấy, đừng buông!”
Mặt tôi tái xanh, cứ để mặc cho hắn cầm tay mình rồi ra sức kéo lên, lại còn nói: “Má nó, cũng coi như có thành quả, đợi lát nữa đưa cho A Quý nấu ch… — Đệch! Đây là cái quái gì?”
Bàn Tử giãy ra, tôi nhìn lại, thứ kéo ra từ ngăn bí mật kia không ngờ lại là một bàn tay người xám ngoét!
Tôi hét toáng lên, lập tức vung vẩy cho bàn tay kia rớt ra, thầm nghĩ cái quái gì vậy? Bàn tay đó nhanh chóng rụt vào hầm ngần, túm lấy rương sắt bắt đầu kéo bằng lực rất mạnh, kéo hai lần không được thì bắt đầu bẻ ván gỗ xung quanh.
Tôi và Bàn Tử đều ngây ra mà nhìn, phải mất rất lâu Bàn Tử mới phản ứng, la to: “Chết tiệt! Kế rút củi đáy nồi! Là trộm!”
Tôi cũng bắt đầu phản ứng, có người bên dưới sàn muốn thó cái rương này. Bàn Tử lập tức nổi giận, quát to một tiếng, nhoáng cái đã ôm lấy rương sắt lôi ra khỏi ngăn bí mật. Lúc này tôi thấy ván gỗ ở một bên vách của ngăn bí mật đã bị bẻ gãy, bàn tay thò vào từ chính cái lỗ kia, mỗi tội miệng lỗ quá nhỏ, không thể kéo cái rương ra theo đường đó.
Cánh tay kia phát hiện rương đã bị khuân đi, lập tức rút vào trong động. Bàn Tử đâu chịu để yên? Bèn nhảy qua chộp lấy cổ tay nó trong chớp nhoáng rồi bảo tôi giúp. Nhưng tôi còn chưa kịp làm gì thì bàn tay kia đã vùng ra rồi chui tọt vào trong động, sau đó chợt nghe một loạt tiếng va đụng vọng lên từ dưới sàn nhà, tên kia hiển nhiên đang bò như điên khỏi đây.
Bàn Tử vội lao ra, la lên với Muộn Du Bình: “Tiểu Ca, ra ngoài chặn nó lại!”
Ngẩng đầu nhìn lên, đã thấy Muộn Du Bình phá cửa sổ nhảy ra từ đời nào rồi. Bàn Tử nổi cơn hưng phấn, dặn dò tôi: “Tiểu Ngô, cậu ở lại canh chừng cái rương!” Nói đoạn cũng nhấc thân hình phì nhiêu mà lao ra ngoài, vừa chạy vừa kêu to: “Tiểu Ca, trái phải vây đánh!”
Tôi kéo cái rương ra khỏi gầm giường, chỉ cảm thấy tim mình muốn vọt ra khỏi lồng ngực, mẹ kiếp chuyện gì đang xảy ra vậy? Cái tay kia rốt cuộc là của ai? Sao trông ghê thế? Đệt! Má nó dọa tôi sợ muốn chết!
Thở dốc cả buổi, chẳng biết có phải vì khí hậu nóng ẩm nơi này hay không mà tôi không sao hít thở cho bình thường được, liền kéo cái rương vào một góc. Tôi nghe bên ngoài truyền đến tiếng la lớn của Bàn Tử: “Mẹ kiếp, người biến đâu mất rồi? Chui xuống đất à?” Giọng hắn ngày càng xa, rõ ràng là đang chạy.
Tôi hít mấy hơi thật sâu, định đi giúp bọn họ, chợt nghe dưới gầm giường lại phát ra tiếng ván gãy. Tôi ngây ra một thoáng, ơ một tiếng, nhận ra có gì đó không ổn. Đệt! Chẳng lẽ tên kia còn chưa đi? Đây là kế điệu hổ ly sơn?
Vội cúi đầu ngó xuống gầm giường, chỉ thấy từ miệng hầm ngầm kia chui ra một người, đang bò về phía tôi.
Chương 11: Chạm trán
*****
Phản ứng đầu tiên của tôi chính là chuồn, vội vàng ôm cái rương lên rồi tính đường chạy ra. Nhưng cái rương quá nặng, một mình tôi không sao nâng nổi, mới gắng gượng đẩy được vài cái chân tay đã luống cuống, đầu óc căng thẳng. mà chẳng hiểu sao cái rương vẫn nằm ì dưới sàn không thèm nhúc nhích.
Ngoảnh lại nhìn, người kia đã bò ra khỏi gầm giường, toàn thân lấm lem, giống như Văn Cẩm chui ra từ vũng bùn.
Tôi chợt nhận ra, đây không phải bánh tông mà là người! Tôi việc gì phải sợ? Nhớ ra ban nãy Bàn Tử có nghịch cái cuốc, tôi lập tức chạy ra lấy rồi quay vào.
Lúc quay lại, đã thấy tên kia ôm cái rương sắt loạng choạng lao về phía tôi. Tôi vung cuốc đánh, hắn khom lưng rồi trở người một cái là thoát, còn huých khuỷu tay vào lưng rôi. Tôi đau nhói, suýt nữa đã ngã nhào ra đất. Hắn cũng không thèm quay đầu lại nhìn mà chạy thẳng ra cửa.
Tuy tôi không thích ẩu đả, nhưng trong thâm tâm cũng là một người khá cố chấp, lại mang dòng máu thổ phu tử, nên phút chốc đã nổi trận lôi đình, nhặt cuốc lên đuổi theo.
Ra khỏi cửa, quang cảnh trước mắt sáng sủa hẳn lên, thấy ngay Bàn Tử đang ngồi xổm một bên ngó nghiêng gầm căn nhà sàn. Tên kia rất khỏe, ôm rương sắt lảo đảo, tính chạy vòng ra sau lưng hắn.
Tôi la lên với Bàn Tử: “Chặn nó lại!”
Bàn Tử còn chưa hiểu có chuyện gì xảy ra, mới quay sang nhìn tôi. Tôi lại quát: “Cái rương bị cướp đi rồi!”
Bàn Tử cũng coi như phản ứng nhanh, nháy mắt đã đưa tay ra, vừa hay túm được áo tên kia.
Cái rương quá nặng, tên kia lập tức mất thăng bằng, ngã lăn xuống đất, cái rương văng ra. Hắn đứng lên tính giật lại, nhưng Bàn Tử nào phải tôi, sao có thể để hắn dễ dàng được như ý? Lại bồi thêm một cú Thái Sơn áp đỉnh nữa khiến hắn té lăn quay.
Lúc này tôi đã lao đến gần cái rương, ôm gọn lấy nó.
Đây là một sai lầm cực kỳ nghiêm trọng, vào lúc này lẽ ra tôi nên giúp Bàn Tử khống chế tên kia mới đúng, vì bắt được hắn rồi thì cái rương đương nhiên sẽ an toàn. Nhưng chuyện xảy ra quá nhanh, tôi không kịp suy tính rõ ràng. Hậu quả là Bàn Tử không ngăn nổi hắn, hắn thấy không còn hy vọng đoạt lại cái rương, liền lộn nhào một vòng rồi đứng lên bỏ chạy.
Bàn Tử quát: “Đứng lại!” rồi đuổi theo ngay, tôi cũng lập tức nối gót. Nhưng lại phát hiện ra tên kia chạy cực nhanh, lao vào thôn, nhoáng cái đã mất dạng. Nhà cửa trong thôn đan xen phức tạp, nối với nhau bằng những con hẻm lát đá xanh, nếu không phải dân bản địa thì rất dễ lạc đường, căn bản không xác định nổi hắn chạy theo hướng nào.
Bàn Tử thở dốc, không hiểu sao lại có người từ trong nhà phi ra, mới hỏi tôi đã xảy ra chuyện gì? Tôi thuật lại mọi việc, hắn mới chửi ầm lên, hối hận đã không đuổi kịp.
Nhìn theo hướng tên kia biến mất, tôi chỉ cảm thấy khó hiểu. Kẻ kia rốt cuộc là ai? Vì sao lại đột ngột xuất hiện, muốn cướp cái rương sắt? Chúng tôi bây giờ không đối địch với ai, đến đây cũng chẳng mấy người biết! Lẽ nào chỉ là tên trộm vặt bình thường? Nhưng nếu là vậy thì thủ pháp của tên trộm vặt này cũng quá mới mẻ.
Trong khi Bàn Tử vẫn hùng hổ chửi bới thì Muộn Du Bình đã chạy tới. Vừa rồi hắn bị Bàn Tử phân công núp vào một góc, chứ nếu hắn có ở đây, tôi dám cá tên kia chạy không thoát.
Khi quay về phòng, cái rương sắt kia vẫn nằm trong vũng bùn, dính một mảng bùn lớn. Bàn Tử nói: “May nhờ ông trời phù hộ, cái rương vẫn chưa mở, bằng không thì chẳng đoán được sẽ còn chuyện gì xảy ra.”
Tôi đáp: “ Xem ra bây giờ không thể đặt vật này vào chỗ cũ, tôi thấy hay là mang về nhà A Quý, cho anh ta ít tiền là tự khắc biết mình phải làm gì thôi.”
Bàn Tử gật đầu đồng ý: “Dù có câu nơi nguy hiểm nhất chính là nơi an toàn nhất, nhưng khuân nó theo vẫn chắc ăn hơn.” Không chờ ai phản đối đã đi khuân cái rương. Nhưng vừa đặt tay vào một khe hở trên cái rương để nhấc lên thì nghe một tiếng “cạch”, ổ khóa xoay đã rời ra khỏi rương.
Cái rương rơi xuống đất, lộn nhào, vật bên trong nhoáng cái đã lăn ra.
Âm sơn cổ lâu
Chương 1: Khởi nguồn
*****
Để giúp Muộn Du Bình tìm lại ký ức đã mất, chúng tôi đến Ba Nãi nằm ở vùng trung tâm của Thập Vạn Đại Sơn, nơi được mệnh danh là Siberia của Quảng Tây.
Tôi vốn cho rằng tình huống mất trí nhớ và đi tìm lại trí nhớ đã mất này rất khó xảy ra trên thực tế, nên ban đầu vẫn cảm thấy có gì đó khác thường. Quá khứ của người khác có lẽ không có gì hấp dẫn, nhưng câu chuyện đằng sau Muộn Du Bình chắc chắn không giống vậy, việc này giống như đọc một cuốn tiểu thuyết huyền bí mà bản thân bạn cũng bước vào trong đó, lòng vừa thấp thỏm lại vừa hưng phấn.
Muộn Du Bình vẫn trầm lặng ít nói như xưa, người như hắn liệu có mang chút tâm tính nào của người bình thường hay không thì tôi không dám chắc, nhưng chí ít sự kiên trì mà hắn biểu lộ ra đã đủ khiến tôi bội phục. Tôi cũng hơi do dự, giúp hắn đi tìm quá khứ đồng nghĩa với việc kéo hắn từ cuộc sống bình yên này trở về với hiện thực, đây rốt cuộc là chuyện tốt hay xấu?
Quá trình vào núi không nhắc lại nữa, chúng tôi dựa theo manh mối gã họ Sở cung cấp, tìm được căn nhà sàn mà Muộn Du Bình ở trước đây, hơn nữa còn phát hiện ra một cái rương sắt nằm trong ngăn bí mật dưới gầm giường cũ nát. Sau đó xảy ra một loạt sự kiện, có kẻ đứng dưới gầm nhà muốn kéo cái rương đi, may mà chúng tôi phát hiện kịp thời. Nhưng gã kia rõ ràng là rất thông thạo đường xá trong thôn, trốn vào một con hẻm rồi hoàn toàn mất dạng.
Trong khi chúng tôi còn đang ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì vừa xảy ra thì ổ khóa của cái rương cũ nát Bàn Tử đang ôm đã gãy rời, nháy mắt cái rương liền lộn nhào xuống đất.
Chuyện xảy ra quá nhanh, ba người căn bản chưa kịp phản ứng thì cái rương đã rơi xuống đất, nắp bật tung, một vật to cỡ nắm tay từ bên trong rớt ra, lăn lóc dưới chân Bàn Tử.
Trước kia Muộn Du Bình từng nói hắn có chút ấn tượng mơ hồ với cái rương này, trong rương có thể là thứ gì đó cực kỳ nguy hiểm, bảo chúng tôi tuyệt đối không được mở ra. Do vậy vừa thấy nó rơi xuống, tôi đã giơ tay cúi người, làm tư thế phòng thủ.
Bàn Tử không có thời gian phản ứng, chỉ kịp rụt cổ lại, hai người chúng tôi nhoáng cái đã đứng im không dám nhúc nhích.
Tôi cứ đinh ninh sẽ có một vụ nổ lớn, lúc này cũng không có nhiều thời gian cân nhắc, tất cả đều là phản xạ tự nhiên. Nhưng nghiến răng rụt cổ suốt mấy giây vẫn chẳng thấy gì, không cháy nổ, cũng không có ám khí bay ra.
Tôi thận trọng mở mắt nhìn xuống chân Bàn Tử, vật rơi ra ngoài trông giống một khối gỗ xù xì, tôi chưa thấy bao giờ nhưng hình như không phải vật nguy hiểm. Bàn Tử từ từ thả lỏng, tiến lên vài bước, tôi cũng chầm chậm buông tay, lòng đầy hoài nghi, chẳng lẽ Muộn Du Bình nhớ lộn? Hay là để lâu quá, thứ nguy hiểm cũng hết hạn sử dụng luôn rồi?
Nhìn sang Muộn Du Bình, hắn không có biểu cảm gì đặc biệt, nhưng rõ ràng cũng đang hoảng sợ.
Giống như một quả pháo tịt ngòi, chẳng ai dám bước lên xem trước. Chúng tôi giằng co mất một lúc, Bàn Tử vừa rồi còn quả quyết số mình sống dai mới nhích lại gần, tôi cũng nối gót hắn. Vật rơi ra từ rương trông hơi giống một cái hồ lô lớn bằng cốc miệng loe (1), bề ngoài lại xù xì như có mụn nhọt, nhìn giống da cóc ghẻ, không dễ chịu chút nào. Nhìn kỹ có thể thấy trong đám mụn nhọt trên cái “hồ lô” xấu xí này thấp thoáng những vệt sáng của kim loại, hình như là sắt.
Bàn Tử định thò tay ra nhấc lên thì Muộn Du Bình ngăn lại, hắn hái một cái lá bí ngô bên cạnh lót tay rồi mới cầm “hồ lô sắt” lên.
Nhìn cảm giác của hắn khi cầm nó lên thì đúng là sắt thật, hơn nữa cũng không nhẹ. Đống mụn cóc kia trông như bị acid mạnh ăn mòn, hoặc là khi đúc bị lẫn vào nhiều bọt khí, còn mấy cái đốm đỏ vàng vàng là vết rỉ sét, vật này chính là một cục sắt hình hồ lô. Bề mặt nó có vài hoa văn cổ đại, tuy đã mờ đến độ nhìn không rõ nữa, nhưng có thể mơ hồ nhận ra đây đúng là một món đồ cổ.
Bàn Tử bực mình nói: “Cái quái gì thế này? Trông như đạn pháo, chẳng lẽ lại là lựu đạn thời cổ?”
Tôi lắc đầu ngay: “Đừng có đoán mò, anh thích chôn lựu đạn xuống gầm giường lắm hay sao?”
Vào thời Minh, hỏa khí đã phát triển cực thịnh, “Chấn Thiên Lôi” và “Quốc Tính Bình” đều có lực sát thương rất lớn. Mấy món này cũng từng qua tay tôi vài lần, nhưng đều đã rút ruột – nói cách khác là không còn thuốc nổ nữa (vì không ai được phép mua bán đồ thật, vậy khác nào buôn súng đạn). Mấy thứ này mới đầu mắc vào lưới đánh cá ngoài biển của ngư dân Phúc Kiến, sau được dân buôn đồ cổ đổi bằng vật dụng sinh hoạt. Nhưng cái món đồ sắt xù xì này trông không giống hàng từ biển, nên chắc là không phải. Hơn nữa hắn dám chôn thứ này dưới gầm giường, lỡ gặp hôm trời hanh khô nó phát nổ thì sao? Muộn Du Bình tuyệt đối sẽ không làm chuyện thiếu đầu óc như vậy.
Muộn Du Bình lắc lắc vài cái, lắng nghe, rồi lắc đầu. Tôi hỏi hắn cảm giác nguy hiểm vừa rồi giờ đã hết chưa? Hắn không đáp, nhưng thần sắc đã thay đổi, nhìn cái hồ lô sắt kia một lát rồi nói: “Lớp sắt này chẳng qua chỉ là vỏ bọc, đồ thật ở bên trong.”
Tôi sửng sốt: “Làm sao anh biết?”
Muộn Du Bình đáp: “Vì nó quá nhẹ.”
Bàn Tử kinh ngạc: “Con mẹ nó cậu có thể ước lượng được hả?”
Chuyện này cũng không lạ, những người hay tiếp xúc với đồ cổ đều phải luyện được tay nghề này. Hơn nữa ai đã từng ước lượng sắt tinh khiết hay từng làm khuôn đúc đều biết trọng lượng một khối sắt chênh lệch rất lớn so với tưởng tượng của người bình thường, sức người bình thường không thể dùng hai ngón tay kẹp một khối sắt lớn cỡ cái hộp bút lên được.
Tôi bảo Bàn Tử: “Với cái kiến thức cơ bản nửa vời của anh dĩ nhiên là không rành rồi, loại công phu thượng đẳng này chúng tôi phải luyện cỡ mấy đời mới được.”
Bàn Tử xì một tiếng khinh khỉnh: “Bàn gia ta đâu rảnh rỗi mà luyện cái món đó, mua cái cân điện tử thì đáng mấy đồng.”
Tôi cũng làm bộ khinh thường rồi lại hỏi Muộn Du Bình: Anh có ấn tượng hay là manh mối gì về thứ nằm trong lớp sắt này không?”
Muộn Du Bình lắc đầu, Bàn Tử liền nói: “Trước kia có một loại vàng bọc sắt, trong khi vận chuyển vàng được bao vỏ sắt bên ngoài nên không ai thấy. Có điều lớp vỏ sắt này trông như được đúc lên, hơn nữa còn quá nhẹ, bên trong chắc chắn không phải vàng.”
Tôi chưa từng nghe nói đến “vàng bọc sắt”, chỉ biết có một giống ngao Tạng tên là Thiết Bao Kim, ông nội tôi từng nuôi một con, do không thích nghi được với khí hậu nên không nuôi nổi, về sau nó bị con bò trong thôn đá chết. Không biết Bàn Tử nói vậy là khoác lác hay hắn đã gặp thật rồi.
Điểm thu hút sự chú ý của tôi chính là những hoa văn mờ mờ bên trên, đã có hoa văn thì chí ít nó cũng có tác dụng trang trí.
“Hay nó là một linh kiện cơ khí?” Bàn Tử nói tiếp “Ví như chân lư hương bằng sắt, hay là mấy cái đồ trang trí gắn trên bánh xe hồi trước ấy. “
Tôi nghĩ cũng có thể. Hiểu biết của tôi về đồ sắt không sâu, vì sắt dễ gỉ, rất khó bảo quản trong cổ mộ nên độ phổ biến thua xa đồ đồng và đồ sứ. Vả lại giá trị của đồ sắt thường không cao, cho nên dân chơi đồ cổ chẳng mấy ai hiểu rõ, tôi thực sự không có manh mối gì.
Nhưng nếu đã là đồ cổ thì phải có gốc tích, hẳn là liên quan đến những việc hắn đã trải qua trong thôn này.
Tôi nhớ lại giả thiết của Bàn Tử hôm trước, nảy ra một suy đoán. Hắn nói gần núi Dương Giác có thể có một ngôi mộ cổ, chuyện hẳn là thế này: Có thể Muộn Du Bình cũng là thành viên trong đội khảo cổ của Văn Cẩm năm đó, cái hồ lô này có thể là một món đồ bọn họ lấy ra từ cổ mộ, nhưng vì lý do nào đấy, Tiểu Ca đã giấu nó đi. Cái món đồ chơi này chắc là từ cổ mộ kia mà ra, nếu không rất khó lý giải nguồn gốc của nó.
Bàn Tử cau mày ú: “Tôi cũng đoán thế, vậy năm đó Tiểu Ca giấu nó đi chắc là để đề phòng điều gì đó, tình hình lúc ấy chắc là rất phức tạp.”
Có đề phòng thì ắt có kẻ địch, điều này cho thấy chuyện xảy ra với đội khảo cổ e rằng không đơn giản như lời A Quý nói.
Ba người im lặng giây lát, tôi cảm thấy vừa vui vẻ lại vừa buồn bực. Vui vì ở đây tìm được nhiều thông tin hơn tôi tưởng, bực vì những tin tức này chỉ luẩn quẩn xung quanh “một sự kiện” rất chung chung, chứ không chạm được vào tình tiết cụ thể.
Văn Cẩm đã từng ở đây, A Quý trong hình mới lên bảy lên tám, mà đến giờ cũng ngoại tứ tuần rồi, tức là chuyện đã xảy ra từ hai mươi đến ba mươi năm. Trong khoảng thời gian này vừa hay xảy ra sự kiện Tây Sa, vậy thời điểm Văn Cẩm xuất hiện ở đây hẳn là không bao lâu trước sự cố Tây Sa – họ rời khỏi đây rồi mới đến Tây Sa. Tôi thấy trong hình không còn ai nữa, nên cũng không rõ cô ấy đến đây cùng nhóm đi Tây Sa, hay là cùng một nhóm khác.
Muộn Du Bình bị người Việt Nam trói lại làm mồi là vào khoảng năm sáu năm trước, vậy khoảng thời gian mười lăm năm ở giữa hắn đã làm gì? Tôi thấy chuyện này rất có vấn đề, với thân thủ của hắn thì mấy người Việt Nam kia chắc chắn không phải đối thủ, cho dù đối phương có súng đi chăng nữa thì hắn muốn thoát thân cũng không thành vấn đề, vì sao lại bị trói gô như heo? Không lẽ cuộc gặp gỡ với Trần Bì A Tứ là do hắn sắp đặt trước? Tất cả đều là nghi vấn.
“Cái tên cướp đồ của chúng ta ban nãy liệu có liên quan đến chuyện này không nhỉ?” Bàn Tử hỏi.
Tôi muốn tra từ hướng này, bèn hỏi: “Hai anh có nhìn rõ tên đó không?”
“Chịu, tên kia chạy còn nhanh hơn thỏ, loáng cái đã mất dạng, chỉ thấy gã xấu xấu bẩn bẩn, dáng người xấp xỉ cậu.”
Tôi thầm nghĩ, tên kia là ai mới được chứ? Chúng tôi đến đây căn bản không gây chú ý, hắn đơn giản chỉ là một tên trộm vặt bám đuôi chúng tôi hay là người trong cuộc? Chuyện này nằm ngoài dự liệu của tôi, có cảm giác dây dưa không rõ, nếu hắn có liên quan đến chuyện này thì chúng tôi gay go lớn rồi, ban đêm phải đóng chặt cửa mới dám ngủ mất.
“Để lát nữa chúng ta hỏi A Quý xem, tên kia trông như thằng điên, không chừng A Quý biết.” Bàn Tử nói: “Giờ biết làm sao đây? Chúng ta có lấy cái hồ lô sắt này về cũng chả biết làm gì, hay tìm một thợ rèn xem xem có thể nung chảy phần nào không.”
Tôi nói khỏi cần làm vậy, trí tuệ của nhân dân lao động là vô biên, tôi biết một cách xử lý món đồ này, đó là dùng acid sulfuric nhỏ lên để mài mòn dần lớp vỏ sắt của nó. Anh nhìn những vết rỗ trên hồ lô mà xem, không chừng đã có người từng làm vậy, nhưng vì lý do nào đấy mà chưa xong đã ngừng.
Có khi người làm việc này chính là Muộn Du Bình cũng nên. Tôi còn có cảm giác, sự cảnh giác của hắn đối với vật này có thể là do trong lúc dùng acid sulfuric hòa tan lớp vỏ sắt, hắn bỗng dưng phát hiện ra dấu hiệu gì đó nguy hiểm, dấu hiệu này để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí, khiến hắn phải phải ngừng lại ngay lập tức. Bây giờ tuy hắn đã quên tuốt luốt, nhưng ấn tượng ấy vẫn lưu lại trong đầu, làm hắn cảm thấy bất an.
Đương nhiên đây chỉ là phỏng đoán, nhưng tôi cảm thấy rất có khả năng này.
Bàn Tử gật đầu: “Vậy thì dễ rồi, ta cứ đến hiệu bán phân hóa học lấy một ít là được.”
Tôi thầm nghĩ tốt nhất không nên tùy tiện mang cái món đồ chơi kia đi, đợi lát nữa dẫn A Quý đến đây cân nhắc cho cẩn thận, rồi để Muộn Du Bình xem xét tỉ mỉ cái đã.
Muộn Du Bình lại bỏ hồ lô sắt vào trong rương, đậy nắp vào. Bàn Tử khuân nó lên: “Được rồi, hôm nay coi như cũng có thu hoạch, từ giờ chúng ta phải mang cái món đồ chơi này theo bên mình. Các cậu mau vào trong khua khắng nốt đi, lát nữa khuê nữ kia sẽ quay về đấy, nhớ canh thời gian cho khớp.”
Tôi nhớ ra mấy tấm ảnh gã họ Sở nhắc đến mình còn chưa xem, đấy mới là việc chính, liền đứng dậy bước ra gần cửa sổ.
Vừa đứng lên, còn chưa đi nổi hai bước, tôi bỗng cảm thấy có gì đó bất thường. Quay đầu nhìn lại thì sửng sốt, tôi thấy trên sườn dốc phía trên căn nhà sàn không biết từ bao giờ đã đứng lố nhố mấy thôn dân, đang nhìn chúng tôi bằng sắc mặt âm trầm.
Chương 2: Thôn làng kỳ lạ
*****
Muộn Du Bình kéo tôi lại, trái tim tôi đập thình thình, suy nghĩ đầu tiên lóe lên là: bọn họ đã đứng ở đây từ hồi nào?
Chúng tôi vốn là dân thành phố, đã quen nhìn mọi thứ ngang tầm mắt, khi đến những nơi thế này thì thường không có phản xạ nhìn lên đỉnh núi, cho nên lúc vừa đến đây, tôi hoàn toàn không nhớ trên sườn núi có người hay không. Nếu bọn họ đã ở trên đó từ đầu, vậy thì lúc chúng tôi tiến vào nhà sàn chắc chắn đã bị phát hiện, giả thiết này không ổn cho lắm.
Hơn nữa nhìn vẻ mặt của mấy người đó chẳng thấy tốt lành gì, ánh mắt đem đến cảm giác lạnh lẽo.
Tôi hơi luống cuống, nhất thời cũng đứng yên, đối diện với bọn họ, phát hiện ra mấy người này đều trong khoảng bốn mươi đến năm mươi. Người miền núi sinh sống vất vả nên thường già sớm, vậy nên tuổi thực của họ có thể thấp hơn một chút.
Bọn họ cũng không hề nhúc nhích, chỉ nhìn chúng tôi chằm chằm.
Trước kia từng bị tẩy chay ở quê nhà, cũng đã trải qua hoàn cảnh này, tôi dám chắc thái độ này cho thấy sự cảnh giác và nghi ngờ cao độ của họ với chúng tôi, xem ra hồi nãy chúng tôi leo ra ngoài đã bị nhìn thấy thật rồi.
Ở trong thôn tuyệt đối không thể đắc tội với dân bản xứ, bằng không hậu quả khó lường, nhẹ thì bị đuổi đi, nặng có thể bị gô cổ tống vào đồn công an. Lý lịch của tôi với Bàn Tử cũng chả sạch sẽ gì cho cam, đã vào đó thì khó tránh khỏi chuyện bé xé ra to.
Giờ mà tiếp tục đi vào thì đúng là muốn ăn đòn, Bàn Tử ở đằng sau búng tay mấy cái, ra hiệu cho chúng tôi mau đi, đừng có đứng đấu mắt với họ nữa. Làm thế khác nào khiêu khích, chọc cho người ta nổi khùng lên mà nhào xuống tẩn cho đâu.
Vốn đang đi chôm chỉa, trong thâm tâm vẫn hơi chột dạ, lúc này tim đập càng thêm mạnh, thoáng chốc đã trở nên căng thẳng, cảm giác như có một luồng áp lực từ trên núi ép xuống, làm tôi muốn biến khỏi đây ngay. Nhưng nhìn lại căn nhà sàn kia, tôi lại cảm thấy mình không thể đi, một thứ tưởng chừng trở tay là lấy được lại không thể nào chạm đến, cứ như khi đọc tiểu thuyết, những lúc tưởng chừng bí ẩn sắp được vạch trần mà tác giả lại cứ thích vòng vo Tam Quốc. Đứng ngẩn ra giây lát, Bàn Tử liền túm lấy tôi, vừa thì thào: “Đến tối mình quay lại, chỉ chậm vài giờ chứ mấy.”, vừa kéo tôi đi.
Ba đứa căng người ra, cố gắng bỏ đi một cách tự nhiên. Vào đến thôn rồi, đi được một quãng xa rồi quay đầu lại, thấy những thôn dân kia không bám theo mới thở phào nhẹ nhõm.
Tình cảnh này hơi cái lần tôi với lão Dương chui vào vườn nhà người ta hái trộm cam hồi nhỏ, trộm xong chui ra đụng ngay chủ vườn, lúc đó trong túi cả hai đầy cam nên sợ hết vía, đành phải giả vờ vô tình đi ngang qua, cái cảm giác hồi hộp đó khiến đôi chân cũng không chịu nghe lời mình nữa. Bây giờ tất nhiên không giống hồi nhỏ, nhưng cảm giác cũng không hề dễ chịu, lại còn hơi buồn cười.
Dựa theo trí nhớ, chúng tôi đi dọc theo mấy con đường quanh co trở về nhà A Quý. Anh ta không ở nhà, chỉ có cô con gái lớn đang quét dọn, thấy chúng tôi liền hỏi sao các anh quay về sớm thế, tôi bảo trời nóng quá chịu không nổi.
Bàn Tử lập tức trở về phòng, giấu cái rương sắt xuống gầm giường, lúc này chúng tôi mới yên tâm. Bàn Tử ra ngoài tìm nước uống, còn tôi vẫn không quên nổi mấy tấm ảnh mình còn chưa được xem, cảm thấy toàn thân nóng ran, tâm trạng không yên.
Đầu óc Bàn Tử nhanh nhạy hơn tôi, hỏi ngay con gái A Quý xem con đường mòn sau lưng nhà sàn dẫn đi đâu, bình thường có nhiều người qua lại không? Cô gái trả lời là dẫn vào trong nương, giờ đang vào hè, đúng vụ dưa hấu chín nên người ta thường lên núi hái dưa. Còn căn nhà sàn kia đã ở đó từ lâu rồi, nghe đâu trước kia từng có một bà lão ở đó.
Tôi ngó sang Muộn Du Bình, thầm hỏi “bà lão”? Không lẽ trước kia Muộn Du Bình chung sống với một bà lão? Vậy mười lăm năm còn trống đó không chừng hắn bị giam ở đây làm nô lệ tình dục, thật là thê thảm quá xá.
*Câm nín trước sự biến thái đội lốt thiên chân của Tà =__=*
Tôi không biết mấy cái suy nghĩ bậy bạ trong đầu từ đâu mà đến, có thể do dọc đường đi nghe Bàn Tử kể nhiều chuyện cười tục tĩu quá chăng.
Nhưng cái “trước kia” mà con gái A Quý nói không rõ là bao lâu, có khi là trước khi Muộn Du Bình đến, hoặc cũng có thể là sau khi hắn rời đi.
Bàn Tử liền bảo tôi, cậu đã nghe chưa, phải bình tĩnh, ở đây không giống như vùng hoang sơn dã lĩnh mà muốn làm gì cũng được. Chi bằng chúng ta cứ chờ thêm một chút đến tối, còn hơn là đi làm chuyện liều lĩnh.
Tôi bảo mình không chờ được, cơm trưa xong tôi sẽ đi thăm thú xung quanh một lượt, hắn nói tùy tôi.
Nói tóm lại, cơm trưa xong tôi và Muộn Du Bình quay lại gian nhà sàn kia, phát hiện dưới gốc đại thụ trước cửa có mấy lão già đang ngồi hóng mát.
Truyện với đời khác nhau ở chỗ, trong truyện bạn có thể đẩy nhanh tiết tấu vào những thời điểm mấu chốt, mà ngoài đời thì cmn toàn là chuyện ngoài ý muốn. Tôi ngồi dưới một gốc cây gần đó chờ mấy lão kia lượn đi, phơi nắng muốn nổ não mà mấy lão ngược lại càng tám càng hăng say.
Thật khó diễn tả cảm giác lo âu bức bối trong lòng tôi lúc này, nhưng tôi lại không muốn quay về cho Bàn Tử cười nhạo, đành thấp thỏm không yên ngồi chờ mấy tiếng đồng hồ. Sau đó Bàn Tử đến tìm chúng tôi, hắn thấy hai đứa đi mãi không về, còn tưởng chúng tôi bị bắt.
Lúc này tôi đã dần dần
lãnh tĩnh
lại, hay phải nói là
nhiệt tĩnh
mới đúng, vì mặt trời sáng chói trên cao đã dần dần hâm bầu không khí thành nóng ẩm. Chúng tôi có quạt phành phạch cũng vô ích, đều bị hấp cho mềm người, nóng đến lả đi. Muộn Du Bình thực sự khiến tôi bội phục, dù nóng cỡ nào hắn vẫn ngồi yên bất động, không nhìn ra chút bực bội nào, nhưng toàn thân hắn cũng ướt đẫm mồ hôi. Thì ra khốc ca lạnh lùng như núi băng cũng phải đầu hàng trước ánh nắng chói chang của Quảng Tây.
Bàn Tử chế giễu tôi một hồi, tôi cũng chẳng còn hơi sức đâu mà đốp lại. Hắn ở Bắc Kinh đã lâu, không sao chịu được thời tiết nóng ẩm nơi này nên lại càng khó chịu, liền bảo chúng tôi: “Mợ nó đừng chờ nữa, chúng ta ra ngoài đi dạo tìm con suối mà ngâm mình, bằng không người tôi thiu lên mất.”
Đi vòng ra ngoài thôn có một khe núi, trên đường đến đây chúng tôi đã đi ngang qua, tuy không rộng nhưng nước chảy rất xiết, lúc nhìn thấy đã nghĩ đó hẳn là một nơi nghỉ mát tuyệt vời, mỗi tội không biết từ trong này phải đi đường nào để ra đó.
Tôi cũng chịu hết nổi rồi, vừa nghe đã thấy chí lý, cả ba liền đứng dậy cùng đi, dọc đường hỏi thăm mấy thôn dân. Được họ chỉ đường, Bàn Tử bẻ một tàu lá chuối tây che đầu, vừa xỉ vả mặt trời vừa đi vòng vo qua một loạt khúc quanh mới ra khỏi thôn.
Con suối nằm sát hàng rào vây quanh thôn, những thôn làng miền núi đa số đều xây gần suối, giữa thôn làng và con suối là một ghềnh đá. Những hôm trời mưa to nước dâng cao, ghềnh đá này sẽ có tác dụng làm vùng đệm. Chúng tôi đứng trên đó phóng mắt nhìn ra xa, thấy có khá đông người đang bơi lội, xem ra dân bản xứ cũng vẫn sợ nóng.
Làn nước biếc uốn lượn trong khe trông yên ả hơn so với khi chúng tôi nhìn nó từ hạ du, vừa đến gần đã cảm nhận được một luồng không khí mát mẻ ùa đến. Bơi lội dưới suối đa phần là trẻ con, đám con gái mười lăm mười sáu đều mặc áo sơ mi, quấn áo thấm nước dán sát vào thân thể, lộ ra vóc dáng uyển chuyển, khiến Bàn Tử bỗng chốc trở nên hăng hái, vội vàng cởi đồ nhảy ùm xuống suối, chẳng khác nào Trư Bát Giới thấy nhện tinh.
Tôi cảm thấy mình mặc quần sịp trông thật khó coi, bèn mặc quần đùi xuống nước. Dưới ánh mặt trời, nước suối trở nên ấm áp, tôi bơi đến bóng râm dưới ghềnh đá, còn Muộn Du Bình không xuống cùng, chỉ ngồi dưới một gốc cây bên bờ hóng mát.
Ngâm mình chốc lát, nóng bức đã tiêu tan, cảm giác khoan khoái dễ chịu ùa đến. Bàn Tử đang nô đùa với mấy cô bé, Muộn Du Bình bắt đầu gà gật. Tôi nhìn từ khe suối về phía thôn làng, có thể thấy căn nhà sàn của Muộn Du Bình cách đó không xa, ra đây đúng là thoải mái hơn nằm chờ trong nhà A Quý.
Giống như thí sinh đi thi chờ điểm, đứng chờ trước bảng vàng vẫn thoải mái hơn nằm chờ ở nhà. Cảm giác lo âu vừa rồi khiến tôi cảm thấy tội nghiệp cho chính mình, bèn tự nhủ với bản thân đừng căng thẳng làm gì, lần này chúng tôi không đi đổ dấu, ở đây sẽ chẳng có chuyện gì đâu, không có bánh tông, từ từ rồi khoai khắc nhừ.
Nghĩ vậy liền nằm xuống cho thân thể chìm vào trong nước, nhắm mắt lại rồi thả lỏng người.
Không biết đã nằm bao lâu, đến khi tôi đã mơ mơ hồ hồ thì bỗng nghe có người gọi mình. Tôi dần dần tỉnh lại, vừa ngồi xuống thì một gáo nước đã ụp thẳng vào mặt, khiến tôi tỉnh táo ngay lập tức. Tôi đứng lên mới phát hiện ra mấy đứa trẻ nghịch nước ban nãy đều đã trở lên bờ, vừa gọi nhau í ới vừa chạy về một hướng. Bàn Tử vừa hắt nước vừa gọi: “Dậy mau!”
Tôi đứng dậy, chợt thấy xa xa có khói nhẹ bốc lên từ một chỗ nào đó trong thôn, bèn hỏi có chuyện gì? Bàn Tử trả lời: “Hình như là cháy nhà.”
Tôi nhìn về phía đó, phát hiện ra đó chính là hướng căn nhà sàn của Muộn Du Bình, lập tức có linh cảm xấu.
Chương 3: Hỏa hoạn
*****
Lúc này tôi chỉ cảm thấy mơ hồ, nhưng trong lòng vẫn tự nhủ, không thể có chuyện trùng hợp như thế, với thời tiết này, một gian nhà cũ bằng gỗ rất dễ bốc cháy, nhưng cảm giác mơ hồ dâng cao trong lòng lại khiến tôi nghẹt thở.
Chạy theo mấy đứa bé về hướng đám cháy, càng tới gần tôi lại càng cảm thấy không ổn. Khi đến tận nơi, tôi gần như không tin nổi vào mắt mình, chỉ thấy căn nhà sàn của Muộn Du Bình cuồn cuộn khói đặc, thế lửa dữ dội, hơi nóng ngút trời, căn bản không thể lại gần, nhìn thoáng qua đủ biết nó đã cháy đến độ không thể cứu vãn, mà ngọn núi phía sau căn nhà sàn cũng vừa bắt lửa, cây cối cháy đen, lửa còn đang lan lên đỉnh núi.
Thôn dân từ bốn phương tám hướng kéo đến, lao lên núi dập lửa. Chúng tôi đã từng gặp đám cháy rừng, biết rừng đã cháy thì đáng sợ khó mà tưởng nổi, cho nên cứu rừng trước là rất chính xác.
Lửa này dường như là lan từ trên núi xuống, nhà sàn của Muộn Du Bình lại nằm ngay dưới chân mới hứng tai ương. Nhưng tôi cứ đứng ngẩn người ra đó, biết chuyện chắc chắn không xảy ra theo hướng này.
Lửa quá lớn, chúng tôi ra suối chưa được bao lâu, cho dù bị sét đánh trúng cũng không thể cháy nhanh cỡ đó, mà rõ ràng nhất chính là trong không khí nồng nặc mùi dầu hỏa.
Nơi này không có chốt phòng cháy (1), muốn cứu hỏa đều phải múc nước bằng thùng. Nhưng số thùng có hạn, bọn họ múc nước từ trong chum đi dập lửa, chờ đám cháy rừng được dập tắt, dám cá nhà của Muộn Du Bình đã cháy trụi rồi. Tôi sốt ruột định xông vào thì bị Bàn Tử giữ chặt, nói thôi hết cách rồi, chui vào đó quá nguy hiểm, mất mạng ở đây thì thật không đáng.
Đầu óc tôi rối tinh rối mù, quỳ sụp xuống đất, nhưng đúng vào lúc này, bỗng có bóng người lướt qua bên cạnh. Chúng tôi còn chưa kịp phản ứng thì đã thấy Muộn Du Bình lao vụt qua, xông đến trước gian nhà cháy, lăn vào khoảng không bên dưới sàn nhà.
Bàn Tử và tôi đều kinh hoàng, nên biết rằng lao vào trong đám cháy trong tình trạng không có đồ bảo hộ chắc chắn sẽ bỏng nặng. Đừng nói không chạm vào lửa thì không sao, nhiệt độ ở trung tâm đám cháy cao trên ngàn độ, chỉ cần ở đó trong nháy mắt cũng đủ chín người.
Bàn Tử lập tức hô to “Cứu người!”, rồi tôi và hắn cùng xông lên, nhưng mới đến cách căn nhà được năm sáu mét, thì hơi nóng khủng khiếp đã ập thẳng vào mặt, nướng cho tóc gáy của tôi xoăn tít thò lò, lông mày tóc tai đều nổ lép bép. Tôi cắn răng chịu đựng cái bỏng rát trên da thịt, lao đến sát căn nhà, ngồi xổm xuống, nhưng rồi phát hiện ra mình căn bản không thể chui vào. Sức nóng bên trong tuôn ra ào ào cứ như một con rồng lửa đang hít thở. Tôi phải nằm rạp xuống miễn cưỡng nhìn, mới thấy bên dưới có bùn, Muộn Du Bình đắp một lớp bùn lên người, đang đi vào bên trong.
Còn muốn quan sát kỹ hơn, nhưng chúng tôi cứ bị hơi nóng sấy cho không tài nào mở mắt, nhìn không được rõ, đành phải lăn vài vòng ra ngoài, mấy người cứu hỏa bên cạnh liền xông lên giữ chúng tôi lại.
Vừa được nâng dậy, tôi đã nghe tiếng thứ gì đó ầm ầm sụp đổ phát ra từ đám cháy, thế rồi Muộn Du Bình cũng lăn ra từ khoảng trống dưới gầm nhà sàn. Người hắn bốc khói trắng, lảo đảo đứng dậy, chạy về phía chúng tôi. Lập tức có người tiến lên dội nước cho hắn, còn nghe bên cạnh có ai đó nói điên rồi điên rồi.
Tôi lao tới, thấy cả người hắn đắp đầy bùn nhão dưới gầm nhà, chẳng biết có bị bỏng hay không, nhưng tay trái có vài chỗ phủ tro đen xì, hiển nhiên hắn đã dùng tay đào bạt mạng. Tôi mắng ầm lên: “Anh chán sống rồi hả!”, còn Bàn Tử thì đỡ hắn dậy rồi hỏi: “Sao rồi?”
Mặt hắn không hề đổi sắc, chỉ lạnh lùng đáp: “Đã cháy sạch rồi.” Nói đoạn nhìn sang mấy người cứu hỏa, “Cả sàn nhà cũng bị đốt thủng.”
Động tác này có ý gì, khỏi cần nói cũng biết. Bàn Tử cũng liếc qua đám người cứu hỏa, nhìn tôi bằng nét mặt hình sự. “Tiểu Ngô, xem ra cái thôn này có vấn đề.”
Tôi mải xem vết thương của Muộn Du Bình, không rảnh đi suy xét chuyện đó. Bên cạnh có người giục tôi mau đưa hắn đến trụ sở thôn tìm y tá khám xem vết bỏng nặng nhẹ thế nào, gian nhà kia đâu có ai ở, bắt chước đi cứu người làm gì.
Chúng tôi nhờ một đứa trẻ đến xem cháy dẫn đường, đưa Muộn Du Bình đến trụ sở thôn. Đứa bé kia bảo chúng tôi ngồi lại, để nó đi gọi y tá đến. Tôi nhớ lại tình hình ban nãy mà phát sợ, liền oán trách Muộn Du Bình. Bàn Tử bảo tôi đừng gây chuyện, cẩn thận người ta nghe được. Tôi đành ngậm miệng, lồng ngực uất nghẹn khó thở, cũng không biết nói gì cho phải.
Muộn Du Bình dường như không hề để ý đến vết thương trên người, chỉ ngồi ngẩn ra đó, không biết đang nghĩ gì, bầu không khí đóng băng.
Cảm giác bực bội này tôi cũng không biết phải diễn tả thế nào, ai mà ngờ lại xảy ra chuyện này chứ. Nếu biết từ sớm, tôi thà bị họ túm được tẩn cho một trận cũng phải xông vào xem cái đã, chứ bây giờ nói gì cũng muộn.
Lửa cháy tầm bốn tiếng mới tắt, rất nhiều người bị bỏng. Chẳng bao lâu đã có một ông lang vườn tới, dùng thảo dược đắp lên vết thương cho người bệnh. Kiểm tra Muộn Du Bình thì hắn vẫn bình thường, đại khái là nhờ bùn nhão dưới đất cách nhiệt nên vết bỏng của hắn tuy nhiều nhưng không sâu. Riêng cánh tay trái thì bỏng khá nặng, thầy lang hình như đã gặp nhiều ca còn kinh khủng hơn thế nên cũng không gấp gáp, lề mề đắp thuốc cho họ, nói chỉ cần chăm thay thuốc thì nửa vết sẹo cũng chẳng còn. Vào mùa hè, vùng này liên tục cháy rừng, nên từ thời xa xưa thôn dân đã tích lũy đầy đủ kinh nghiệm xử lý vểt bỏng.
Mấy người chúng tôi lẳng lặng trở về nhà A Quý, vừa rửa một cái mà lông mày tóc tai cháy xém của tôi thi nhau rụng, đúng là tổn thất nặng nề.
Muộn Du Bình hoàn toàn rơi vào im lặng, trong phòng nồng nặc thứ mùi quái lạ của thảo dược chữa bỏng, rất khó ngửi. Tôi có ý trách Bàn Tử, bảo nếu lúc ấy anh không bàn lùi thì chúng tôi đã cương quyết chui vào lấy ảnh ra, vậy là có thể tránh được chuyện này.
Bàn Tử liền nổi cáu, bảo chuyện này sao có thể trách tôi, có người phóng hỏa tức là chúng ta đã bị người ta theo dõi từ lâu, gặp chuyện xúi quẩy cũng chỉ là vấn đề sớm muộn. Lần này mới chỉ đốt một gian nhà cũ, nếu xem ảnh rồi thì thứ mà chúng đốt có thể chính là chúng ta. Hơn nữa ở vào tình thế ấy chẳng ai cứng đầu cứng cổ chui vào, giữa ban ngày ban mặt mà anh dám lẻn vào nhà người ta thì cũng to gan lớn mật quá rồi.
Cục tức của tôi không có chỗ xả, quả thật không thể trách Bàn Tử, nhưng nghe Bàn Tử nói thế lòng tôi vẫn vô cớ nổi giận, đành cố nhịn khao khát muốn gây lộn với hắn, đập đầu vào tường vài cái mới dịu đi được một chút.
Bàn Tử nghĩ tới cái gì đó, liền “Á” một tiếng rồi nói với tôi: “Tôi thấy trong chuyện này chúng ta đúng là hết cách, tôi đoán tên trộm rương cũng chính là người phóng hỏa. Cậu nghĩ mà xem, lúc trộm rương gã gây tiếng động rõ lớn, còn cố ý gõ sàn nhà cho chúng ta chú ý, nhất định là muốn dụ chúng ta ra ngoài.” Hắn dừng lại một chút: “Sau đó đồng bọn của gã đứng lù lù bên ngoài, chúng ta ra ngoài thấy thế thì nhất định không dám vào nữa, chờ mình đi là chúng nó châm lửa đốt nhà. . . . . . Mẹ kiếp, chuyện này nhất định là như thế.”
Có lý, tôi gật đầu. Nếu là như thế, thì có lẽ bọn họ tình cờ phát hiện ra chúng tôi, trong lúc cấp bách tạm thời dụ ba đứa ra ngoài, chứ giả như họ biết trước kế hoạch của chúng tôi thì đã ra tay từ đời nào rồi. Kẻ phóng hỏa rất có thể là mấy thôn dân đứng trên sườn núi nhìn chúng tôi. . . . . . . Bọn họ là ai? Tôi chưa từng gặp họ, họ cũng chưa chắc đã biết tôi.
“Chúng nó chắc chắn không biết mình đang tìm cái gì, nếu biết mình tìm ảnh thì chỉ cần đốt ảnh đi là xong, không cần phải đốt cả gian nhà.” Bàn Tử nói. “Nhưng những tên này cũng dốt, để lộ mặt rồi, tôi không tin tụi mình không tìm ra được. Cậu còn nhớ mặt mũi chúng nó không?”
Tôi cũng có chút ấn tượng mơ hồ, nhưng khoảng cách quá xa nên ấn tượng không sâu lắm, muốn nhận dạng thì hơi khó, không khỏi thở dài.
Nếu Muộn Du Bình không đột ngột nhớ ra cái rương kia, thì cũng sẽ không xảy ra chuyện này. Nhưng nếu hắn quên cái rương thật thì không khéo giờ này nó cũng bị chôn vùi dưới đống phế tích cháy rụi kia rồi. Nghĩ đến đây, tôi cũng hơi nhẹ lòng. Trời không tuyệt đường người, hơn nữa gian nhà kia bị đốt cũng cho tôi biết một điều: trong thôn này nhất định có người biết chuyện gì đó, mà không phải là chuyện bình thường, dù sao đi chăng nữa đây cũng coi như một manh mối.
Nhưng không biết đám người này còn có hành động gì nữa không, có thể gây chuyện bất trắc với chúng tôi hay không. Bàn Tử nói hẳn là không đến mức lấy mạng, bằng không thì chẳng cần đốt nhà làm gì, cứ giết phứt chúng ta là xong. Nhưng chúng ta vẫn phải cẩn thận, sau này tất phải để ý nhiều hơn nữa.
Bàn Tử hơi bất an, liền vào sân nhà A Quý cầm về mấy lưỡi liềm nhét dưới gầm giường phòng thân, còn mua mấy cái lục lạc bò treo lên cửa sổ, khẽ động là reo.
Lúc này tôi rất bực bội, cứ cảm thấy lòng dạ không yên. Tôi có một dự cảm———- việc A Quý giúp chúng tôi đi tìm ông lão dẫn đường năm xưa cũng sẽ gặp sự cố. Có người không muốn chúng tôi tiếp tục điều tra thêm nữa.
Chương 4: Biến cố
*****
Đám cháy rừng cuối cùng cũng tắt, nghe A Quý nói thì hình như là do thời tiết nóng bức, còn cụ thể vì sao lại cháy thì không rõ. Dù sao vùng này cứ đến hè là kiểu gì cũng cháy rừng, có điều đây là lần đầu tiên cháy gần thôn đến thế, cũng may nó chỉ thiêu rụi một căn nhà hoang, không gây tổn thất quá lớn.
Trong lòng tôi âm thầm chửi rủa, nhưng tôi thì tổn thất to đấy, thế là tiêu tùng hết manh mối mà gã họ Sở cho chúng tôi rồi. Giờ chỉ còn một đường duy nhất là sau khi đi khỏi đây phải nghĩ cách cạy miệng gã, đây nhất định không phải chuyện chơi, vả lại tôi cũng rất khó chấp nhận dùng đến thủ đoạn uy hiếp. Nhưng chưa đến nỗi tuyệt vọng hoàn toàn, nên tôi cũng chẳng phiền muộn cho lắm ——— chỉ cần gã họ Sở không bị thiêu cháy là được rồi.
Tôi bảo Bàn Tử, xem ra chúng ta không nên ở lại đây lâu, tìm được người dẫn đường rồi, nếu không có lý do đặc biệt thì chúng ta có thể phải quay về Trường Sa, vì ở lại đây cũng chẳng để làm gì nữa. Cái gọi là đổ đấu ở núi Dương Giác, có lẽ phải chờ hồi sau phân giải.
Bàn Tử cũng đành chịu, tuy có phần tiếc nuối, nhưng lần này chúng tôi chẳng mang công cụ gì đến đây cả, kể ra có muốn vào núi Dương Giác cũng quá viển vông. Hắn vẫn kiên trì muốn vào núi xem một lượt rồi mới về, nên cuối cùng chúng tôi quyết định sẽ bàn chuyện này sau.
Sau đó tôi cứ thấp thỏm không yên, cảm thấy chuyện đi tìm người dẫn đường nhất định cũng sẽ xảy ra sự cố, nghĩ tới tình huống xấu nhất, để đến lúc nó thật sự xảy ra tôi còn thoải mái được một chút.
Có chút ngoài dự liệu đó là, chuyện tìm người dẫn đường lại vô cùng thuận lợi. A Quý trở về, bảo chúng tôi là anh ta đã hẹn với lão thợ săn kia rồi, ngày mai lão ở nhà, chúng tôi có thể đến thăm. Người già thường trái tính trái nết, anh ta giới thiệu chúng tôi là người của chính phủ thì lão mới hăng hái hơn chút ít, đến lúc đó chúng tôi đừng để lòi đuôi là được.
Bàn Tử nhìn qua đủ biết không phải quan chức chính phủ gì rồi, nên tôi bảo hắn đừng đi. Hắn nói mình sẽ đến hiệu phân bón tìm cách kiếm một ít acid sulfuric về, xem có thể hòa tan cái “hồ lô sắt” kia ra được không, xem trong đó có cái quái gì. Rồi lại đi đào bới đống đổ nát sau đám cháy, không khéo lại bới được món gì hay.
Tôi cảm thấy phân chia công việc như thế cũng ổn, nhưng vẫn dặn đi dặn lại rằng kiếm được acid rồi tuyệt đối đừng manh động, phải chờ chúng tôi về đông đủ rồi tinh sau, chứ cái “hồ lô sắt” trông thế mà nguy hiểm đấy. Bàn Tử ậm ừ luôn mồm, bảo ơ hay tôi có phải trẻ ranh đâu.
Bàn bạc xong chúng tôi đi ngủ, cả đêm không trò chuyện, mỗi người ôm một tâm tư mà thiếp đi, đến rạng sáng ngày hôm sau thì chia nhau hành sự, tôi và Muộn Du Bình theo A Quý đi tìm lão thợ săn kia. Cứ tưởng mọi việc sẽ thuận buồm xuôi gió, ai ngờ chúng tôi đến nơi rồi lão già kia lại thả một con bồ câu nói đêm qua mình vào núi, đến giờ vẫn chưa về.
Thợ săn đã đi săn là sẽ chạy khắp nơi, không biết ở đâu mà lần. Tôi tự hỏi đây là chuyện quái quỷ gì vậy, sao đã hẹn trước mà còn đùng đùng bỏ vào núi, chẳng lẽ đã bị tôi đã nắm đúng thóp? Con trai lão cũng hơi ngại, thanh minh lão đã già nên hồ đồ, hai năm trước không dưng bắt đầu có biểu hiện bất thường, thỉnh thoảng lại vào trong núi, không biết là đi làm gì. Ai nói ông ấy cũng bỏ ngoài tai, nói đi là đi, hôm sau có việc quan trọng cũng mặc kệ. Anh xem súng săn của ông ấy vẫn treo trên tường, nhất định không phải đi săn thú, chờ một lát chắc sẽ về thôi.
Tôi thầm nghĩ thôi đành đợi chứ biết làm sao, mới ngồi xuống, chợt có một người bước vào cử, vừa vào đã cất tiếng: “Lão Bàn Mã có nhà không?”
Lão Bàn Mã chính là tên thường gọi của lão dẫn đường kia, xem ra không chỉ có chúng tôi tìm lão. Điều khiến tôi bất ngờ, chính là người này nói chuyện đặc sệt giọng Bắc Kinh.
Chúng tôi nhìn ra bên ngoài, chỉ thấy một gã đàn ông trung niên lùn tịt bước vào, vừa nhìn mặt đã cảm thấy hơi khác thường. Người này dáng vẻ đường bệ mà cách ăn mặc cũng rất chỉnh tề, nước da rám nắng nhưng không có vẻ gì là người lao động chân tay.
Con trai lão Bàn Mã lập tức đứng dậy tiếp đón, A Quý liền bảo tôi: “Đây là cháu họ xa của lão Bàn Mã, nghe đồn là người giàu có.”
Tôi nghe khẩu âm của gã là giọng Bắc Kinh gốc, thầm nghĩ họ hàng kiểu này chắc là bắn đại bác cũng không đến.
Gã trung niên kia hình như rất quen thuộc với nơi này, không hề do dự bước thẳng vào trong sân. Đưa cho con trai lão Bàn Mã một điếu thuốc, gã nhìn sang tôi, nét mặt tỏ vẻ nghi ngờ, ơ một tiếng: “Có khách à?”
Con lão Bàn Mã đáp bằng tiếng phổ thông nói bằng giọng địa phương nặng sệt: “Dạ, anh ấy cũng đến tìm cha em, hai vị này là người của chính phủ ————”
Gã trung niên kia hình như không có hứng với chuyện này, liền xen ngang: “Cha cậu đâu?”
Con trai lão Bàn Mã có vẻ lúng túng, kể lại một lần chuyện cha mình hành tung không rõ. Gã trung niên kia à một tiếng, gật đầu: “Ông cụ có ý gì vậy? Lại đi vắng nữa rồi, đến là bó tay, giờ anh biết ăn nói sao với ông chủ đây.” Nói đoạn quay sang gườm gườm nhìn chúng tôi: “Hay cậu chê ít tiền, đi tìm mối khác định lừa anh.”
Con trai lão Bàn Mã vội chối không phải không phải, nói chúng tôi đúng là người của chính phủ đến tìm lão Bàn Mã.
Gã trung niên lại liếc chúng tôi một cái, bán tín bán nghi, đến trước mặt chúng tôi hỏi: “Các cậu ở cơ quan nào? Người trong trấn này tôi biết hết, sao chưa thấy các cậu bao giờ?”
Câu hỏi này có hơi sỗ sàng, tôi ngẩng đầu nhìn gã, cũng không tiện nổi giận, đáp: “Chúng tôi là người trên tỉnh đến tìm ông ấy phỏng vấn.”
“Trên tỉnh?” Gã nghi ngờ nhìn chúng tôi, nhưng thấy hai đứa cũng giống người trong cơ quan nhà nước, liền lẩm bẩm gì đó rồi quay sang nói với con trai lão Bàn Mã: “Được, vậy cậu khuyên cha cậu thêm đi. Con người ta sinh ra với hai bàn tay trắng, chết đi cũng chẳng mang gì theo được, ông chủ tôi ra giá hời, cứ giữ riệt lấy cái món đồ chơi kia mà làm gì chứ. Đừng cố chấp nữa, bán đi nhất định là có lợi, bảo ông cụ cầm lấy ít tiền mà hưởng nốt mấy năm an nhàn.”
Con trai lão Bàn Mã gật đầu lia lịa.
Gã trung niên lại nói: “Thôi cậu đang có khách, anh cũng không tiện ở lại, xin phép về trước.” Nói rồi lại mỉm cười, “Xong việc này tôi sẽ đưa mọi người đi ngắm cảnh, buổi tối nhớ tìm tôi uống rượu ăn chút điểm tâm. Giờ tôi đi trước, đợi lát nữa quay lại.”
Nói rồi hùng hổ bước ra khỏi sân, cũng không quay đầu lại. Tôi chả hiểu gì sất, liền hỏi con trai lão Bàn Mã xem người kia là ai? Muốn gì?
Con trai lão Bàn Mã thấy gã đã đi xa mới thở phào, than vãn rằng người kia có họ hàng xa với nhà mình, là cháu của lão Bàn Mã, cũng là anh em họ của anh ta. Gã là một tên côn đồ lưu manh, ở Bắc Kinh không được như ý, hai bên từ lâu đã không qua lại, chẳng biết dạo gần đây theo ông chủ nào chạy lên Quảng Tây thu mua đồ cổ, khắp nơi mời gã làm mối. Người này xưa nay vốn sành sỏi, lại cực kỳ xảo trá, nên không dám đắc tội.
Tôi hỏi: “Nghe cái điệu này thì gã đã ưng ý món đồ nào đó của nhà anh và muốn thu mua, chẳng lẽ nhà anh còn có bảo bối gia truyền gì?”
Chương 5: Soát núi
*****
Anh con trai của lão than thở với tôi: “Cứ nhắc đến chuyện này là tôi lại bực mình, ông cụ nhà tôi có một cục sắt vụn, xưa nay vẫn luôn cất giấu như bảo bối, bảo là trước kia nhặt được trên núi, là đồ quý giá, còn bảo tôi đi khắp huyện tìm người hỏi xem có bán được không. Tôi cũng coi như ông cụ lẩm cẩm thôi, chẳng hiểu sao việc này lại đến tai gã họ hàng xa kia. Quả nhiên gã đã tìm được người mua, ra giá rất hời, ngờ đâu kết quả đúng là điên rồ, ông cụ lại cương quyết không bán. Còn thằng cha kia cũng nhất định không đi, cứ ở riết trong khe núi ngày ngày đến năn nỉ ỉ ôi, thật là phiền muốn chết luôn.”
Tôi nhìn sang Muộn Du Bình, trong lòng kích động, xem ra lão già kia lỡ hẹn không phải do chúng tôi, mà vì muốn tránh mặt thằng cháu họ xa nhà mình. Cục sắt? Chẳng lẽ trong tay lão già kia cũng có cái thứ mà chúng tôi tìm được dưới gầm giường Muộn Du Bình?
A Quý bên cạnh hút thuốc cười nói: “Sao chú không chôm nó ra từ chỗ ông cụ, đem bán lấy tiền không hơn à, chần chừ thêm ít lâu chính phủ đến tịch thu thì đến một xu cũng chẳng được.”
Anh con trai đáp: “Không phải tôi không muốn, nhưng ông cụ đúng là khôn ngoan, có lần tôi bảo muốn vứt cái của nợ kia đi cho ổng đừng làm mấy chuyện điên rồ nữa, ổng mới giấu nó vào xó nào đấy mà tôi không tìm nổi. Ài, ngẫm lại thật muốn tát cho mình một cái, không ngờ cục sắt vụn kia đúng là đồ quý, nếu phi vụ mua bán này mà thành thì đúng là trứng vàng từ trên trời rơi xuống, tôi cũng chẳng cần lo lắng chuyện học hành của con tôi nữa.”
Tôi nghe vậy mà ngấm ngầm cảm thán, thoạt nhìn anh con trai này có vẻ kỳ cục, chán ngán ông bố nhà mình, nhưng xem kỹ thì nhà này cũng có cái khó, mấy cái chuyện riêng trong gia đình này chúng tôi cũng không chen mồm vào được.
Đúng lúc này, Muộn Du Bình đột ngột hỏi: “Có phải cha anh giấu thứ đó đi vào hai năm trước?”
Con trai lão ngẫm nghĩ rồi gật đầu: “Ơ, làm sao anh biết?”
Tôi lập tức hiểu ra ẩn ý của Muộn Du Bình, bèn tiếp lời: “Chắc chắn cha anh đem giấu cái đó trên núi, trong lòng ông cụ lo lắng không yên nên cứ cách dăm ba ngày lại đi kiểm tra, đây là nguyên nhân cha anh trở nên khác thường.”
Anh ta nghe vậy, thở dài công nhận là có lý. A Quý liền nói: “Xem ra ông cụ nhà chú rất để tâm đến chuyện này, anh thấy chú vẫn nên khuyên nhủ thêm thì hơn. Chứ chú mà dám chôm đồ, ông cụ lại chẳng vác súng ra bắn cho vỡ sọ.”
Anh con trai đáp: “Dạ, ông cụ nhà em tính tình nóng nảy, em cũng lười cự cãi với ổng, không khuyên được thì thôi. Cơ mà gã họ hàng xa kia cứ dai như đỉa, em sợ với tính thằng cha đó thì nhà em về sau khó mà sống yên.”
Chúng tôi cứ thế ngồi chuyện phiếm chờ lão Bàn Mã trở về, anh con trai kể cho chúng tôi nghe rất nhiều chuyện, cũng đủ cho chúng tôi hiểu sơ sơ về lão.
Bàn Mã là dân bản xứ, gia đình đã sống ở đây được mấy đời rồi, là một trong những thợ săn già còn đủ sức trụ lại nghề của vùng này. Thế hệ sau của bọn họ bị Hán hóa nghiêm trọng, những lúc nông nhàn mới đi săn, còn đa số thời gian ra ngoài làm thuê, cả con gái cũng ra ngoài làm ăn cả, cho nên ở đây cũng dần dần vắng vẻ. Từ sau khi vùng này phát triển du lịch, tình hình mới khởi sắc.
Lại nói tiếp, ở vùng này lão Bàn Mã cũng có thể coi là người nổi tiếng, tài bắn súng trăm phát trăm trúng (*), hơn nữa thân thủ linh hoạt, đặc biệt giỏi trèo cây, trước kia mỗi dịp lễ tết đến Bàn Mã đều được người ta thăm hỏi tới tấp. Sau này kinh tế phát triển, lão cũng già đi, dần dần không còn được coi trọng nữa, nên sinh ra tâm lý hận đời, tính tình trở nên cực kỳ cố chấp, thường bất hòa với các con.
(*) Nguyên văn là “bách bộ xuyên dương” aka bắn trúng cái lá dương từ khoảng cách 100 bước chân.
Mấy ông già kiểu này cứ như đúc từ một khuôn, tôi còn biết rất nhiều người như thế. Hàng xóm cũ của tôi là một lão Hồng quân, cũng thường xuyên than thở lũ trẻ bây giờ chán quá, không thèm giao du với đám nít ranh không hiểu sự đời chúng tôi, đây là kiểu người điển hình không thể vượt qua cái bóng của bản thân. Ngẫm lại thì mình cũng thế, hình như bản lĩnh siêu phàm nhất của con người ta chính là tự dằn vặt mình.
Chúng tôi ngồi lì ở nhà lão đợi đến chiều vẫn chưa thấy lão về, dù che đậy giỏi đến đâu tôi vẫn không thể đè nén cảm giác lo âu của mình, phần vì sợ nảy sinh thêm phiền phức, phần vì đã chờ lâu lắm rồi.
Anh con trai lão tỏ ra rất ngại, bảo chúng tôi để mình đi tìm xem sao, không ngờ cũng đi tít hút luôn, bỏ chúng tôi chờ đến chập tối, thật sự là chờ hết nổi.
A Qúy cảm thấy rất mất mặt, luôn mồm chửi rủa cha con nhà này rõ là kỳ cục. Nhưng ra đến cửa, vừa hay chúng tôi bắt gặp anh con trai đang gấp gáp đi ngang qua, theo sau là một nhóm người, không chào hỏi gì chúng tôi mà đi thẳng lên núi.
Tôi thấy sắc mặt anh ta không tốt, A Quý bực bội túm lấy một người hỏi có chuyện gì thế, người nọ mới đáp: “Con trai nhà A Lại tìm thấy quần áo bê bết máu của lão Bàn Mã trên núi, có thể lão đã gặp nạn, chúng tôi đang tìm người đi lục soát vùng núi đó.”
“Tìm thấy ở đâu? “A Quý vội hỏi.
“Ở Rạch Đầu Trâu, con trai nhà A Lại săn thú về, đi ngang qua thì gặp.”
“Ở tít đằng đó?” A Quý tỏ ra rất kinh ngạc.
Tôi không hề có ấn tượng về phương hướng địa danh vùng này, bèn hỏi: “Đấy là đâu?”
“Đấy là cái khe nằm giữa núi Chu Độ và núi Dương Giác, phải đi cả ngày mới đến.” A Quý bảo chúng tôi: “Hai cậu về trước đi, tôi phải đến nơi xem thế nào.” nói rồi đi theo họ.
Tôi và Muộn Du Bình nhìn nhau một cái, cảm giác trong lòng thật khó mà diễn tả. Thầm nghĩ thôi mình lại đoán trúng thật rồi, chuyện lần này cũng gặp rắc rối.
Sắc mặt Muộn Du Bình hoàn toàn phẳng lặng, không một gợn sóng, nhưng chân đã bước theo nhóm người kia. Tôi vội vã đuổi theo, thầm nghĩ việc này thật quái gở, chúng tôi nhất định phải làm cho ra nhẽ mới được.
Chương 6: Rạch Đầu Trâu
*****
Chúng tôi muốn đi giúp họ soát núi, ban đầu A Quý còn không chịu, hai đứa phải năn nỉ hết nước hết cái mới được đi theo. A Quý bảo con gái nhỏ của mình là Vân Thái đi cùng chúng tôi, căn dặn không được tách đoàn, người trong thôn gom lại được chừng hai mươi, giơ cao đuốc và đèn pin, dắt theo chó săn hướng về rạch Đầu Trâu.
Đường núi bốn bề tối tăm lạnh lẽo, chúng tôi vừa gọi vừa đưa quần áo cho chó săn ngửi mùi.
Lâm trường này đã bị chặt một lần, con đường phía trước cũng không quá khó đi, khổ nỗi vùng này mưa nhiều, nước đọng lại thành vũng trên núi, trong đó nhung nhúc những đỉa rừng. Đến khu rừng bảo tồn đường mới bắt đầu khó đi, được cái những người miền núi này đều là thợ săn, kinh nghiệm đầy mình, đi cũng không vất vả cho lắm. Mà đối với chúng tôi, so với lối dẫn ra khỏi Tháp Mộc Thác thì đi con đường này khác gì tản bộ. Đoàn người cứ thế tiến sâu vào ngọn núi lớn.
Tôi vừa đi vừa hỏi Vân Thái, rạch Đầu Trâu là nơi thế nào, có nguy hiểm gì không?
Vân Thái ngoảnh đầu lại đáp: “Đó là ranh giới giữa mặt sau khu rừng bảo tồn và rừng phòng hộ của thôn chúng tôi, núi Dương Giác nằm trong khu rừng bảo tồn còn núi Chu Độ nằm trong rừng phòng hộ, giữa hai ngọn núi là rạch Đầu Trâu, sau lưng núi Dương Giác chính là rừng già sâu thẳm. Người ở lâm trường căng một tấm bảng chỗ sơn khẩu, trên bảng viết chúng tôi không được đi vào, cho nên ngoại trừ những thợ săn già thời trước, đám chúng tôi thường không đặt chân đến núi Dương Giác, càng chưa nghe nói có ai đã từng tiến vào cánh rừng sau núi.”
A Quý đi sau tôi nói: “Trong thôn này, người thông thạo núi Dương Giác nhất e rằng chỉ có lão Bàn Mã. Cánh rừng sau núi nghe đâu trước kia chỉ có dân buôn lậu người Việt cổ mới dám đặt chân vào, thời xưa dân buôn ngọc người Việt trốn thuế thường đi xuyên rừng ròng rã cả tháng để bán ngọc thạch, không biết đã có bao nhiêu người đi qua vùng rừng sâu núi thẳm này rồi.”
Buôn bán ngọc thạch là cái ngành thương mại hái ra tiền nhất, khắc nghiệt nhất, mà cũng thần bí nhất ở biên giới Trung Việt thời xưa. Tôi đã từng nghe kể về cuộc cạnh tranh vô cùng khốc liệt trong giới buôn ngọc Việt Nam và Myanmar, sau một đêm trở nên giàu sụ hoặc trắng tay đều là chuyện thường. Trước những món lợi khổng lồ lấy một đổi vạn, nhân tính hoàn toàn không có đất dung thân.
A Quý bảo nơi này còn cách khá xa địa điểm giao dịch ngọc thạch lý tưởng nhất. Dân buôn ngọc từ Ba Nãi đến Quảng Tây đều có mối làm ăn với một vài ông chủ bên Quảng Đông, đều là người nghèo khổ nên cũng đặc biệt hung ác. Nhất là vào thời nhà Thanh, khi đó người Việt Nam một nửa là dân buôn một nửa là thổ phỉ, đến đây theo tốp, trở thành một mối nguy của vùng này.
Tôi thầm nghĩ, nếu tìm được di hài của dân buôn ngọc Việt Nam trong cánh rừng này, thì không chừng cũng sẽ tìm được ngọc thạch nguyên khối mà họ mang đến. Dạo gần đây những khối ngọc thạch lấy từ mạch ngọc tốt cực kỳ hiếm hoi, giá ngọc thạch bị hét lên cao chót vót. Vả lại chất lượng đá hồi đó tốt hơn bây giờ nhiều, tìm được vài khối ngọc tốt còn đáng giá hơn bất cứ món minh khí nào. Nhưng nghĩ lại thì dân buôn ngọc Việt Nam thời đó coi ngọc thạch còn quý hơn mạng mình, giờ cứ thế lấy đi là rất bất nghĩa, cái này không giống với trộm mộ, e rằng sẽ gây ra chuyện chẳng lành.
Đi một mạch đến nửa đêm, chúng tôi mới tiến vào trong rạch. Người phát hiện ra bộ quần áo nhuốm máu chỉ vào một gốc cây, nói bộ đồ này tìm thấy trên kia. Hắn nói mình thấy có máu dính vào thân cây, ngẩng đầu lên mới phát hiện ra nó, mới đầu còn tưởng có con cú bị mèo hoang cắn chết, sau mới nhận ra là quần áo của người.
Chiếu đèn pin lên cây, loại đèn pin vỏ đồng này chiếu sáng rất kém, nhưng cũng đủ để xác định bên trên không còn gì khác nữa. Hiển nhiên lão Bản Mã đã trèo lên cây rồi để bộ quần áo dính máu đó lại.
Lão già ấy đã gần tám mươi, dù trước kia là cao thủ trèo cây, nhưng theo lý mà nói cũng không thể vô duyên vô cớ leo lên đó, hiển nhiên là gặp chuyện gì nguy hiểm. Tôi hỏi Vân Thái nơi này có thú dữ không, Vân Thái đáp hồi xưa nghe nói có hổ, chứ bây giờ trong núi chỉ còn báo.
Tôi nghe vậy liền nghĩ thời nay đào đâu ra hổ nữa, nhưng báo lại leo cây rất giỏi, lỡ gặp báo thì phiền phức to. Vả lại báo có tập tính tha thức ăn lên cây giấu, không khéo lão già gặp nạn rồi cũng nên.
A Quý lại nói báo sống sâu trong núi, rừng chỗ này chưa đủ sâu, rất khó gặp báo. Nhưng lão Bàn Mã không mang súng, chẳng biết đi vào tít vào trong đây làm gì nữa.
Tôi nhớ lại chuyện tiểu binh giấu những khẩu súng thu được trong tổ chim, thầm nghĩ lẽ nào lão Bàn Mã cũng học theo cái chiêu này. Nhưng trên cây làm gì có tổ chim cơ chứ?
Chúng tôi lùng sục quanh gốc cây một lúc mà không tìm thấy gì ngoài vài vết máu, nhưng rải rác khắp mọi hướng. Lúc này mấy con chó dắt theo đã có chỗ dùng, mấy tay thợ săn đều mang súng, nạp đạn đầy đủ rồi chia nhau ra mà tìm.
Rạch Đầu Trâu vừa sâu vừa dài, chưa có ai đi đến tận cùng, đoạn giữa rạch chính là sơn khẩu của núi Dương Giác và Chu Độ. Nơi đây mang dáng dấp của một cánh rừng rậm nhiệt đới, cho cảm giác giống như hồi ở Tháp Mộc Thác. Tôi không hề cảm thấy dễ chịu, lúc nào cũng nghe mang máng như có tiếng cười khanh khách, sau đó rớt mồ hôi lạnh. Nhưng cũng chẳng còn cách nào khác, tự mình muốn đến đây mà, đành phải miễn cưỡng đi theo nhóm A Quý cùng với ba con chó, hướng về núi Dương Giác.
Chó miền núi rất khỏe, con nào đứng thẳng lên cũng cao hơn đầu tôi. Tuy chúng là chó lai tạp nhưng đều được huấn luyện thành thục, nhanh chóng đánh hơi được mùi, dẫn chúng tôi đi một mạch vào sâu trong khe núi.
Dọc đường đi không ai nói câu nào, đi đến quá nửa đêm trăng đã treo đỉnh đầu, chúng tôi mới dừng lại ở một nơi gần sơn khẩu núi Dương Giác. Đó là một con dốc nằm trên sườn núi, do đất đá thường xuyên sạt lở nên cây cối trên sườn dốc này khá thưa thớt. Hình như chó đã tìm được mục tiêu, nó kéo chúng tôi đến dưới một tán cây, sủa oang oang vào một bụi rậm đằng sau đó.
Vân Thái hơi hoảng, tim tôi cũng treo lơ lửng trên không. Nếu ông lão bị con báo tấn công, thì thứ ẩn trong bụi cỏ kia hẳn là thê thảm đến không nỡ nhìn.
A Quý tiến lên, cầm nhánh cây vén bụi cỏ ra, chiếu đèn pin vào, không thấy có thi thể bên trong. Chúng tôi qua đó, phát hiện ra đó là mảnh vỡ của một tấm bia đá có niên đại rất lâu đời, hẳn là từ đầu công nguyên, in rõ dấu vết gió mưa, hoa văn trên bề mặt đã bị mài mòn sạch sẽ.
Đám người A Quý nhổ hết đám cỏ cao đến thắt lưng xung quanh mà tìm kiếm, bỗng một người thợ săn “a” lên một tiếng, lùi lại mấy bước. Chúng tôi vội vã qua xem, chỉ thấy sườn dốc phía sau bụi cỏ có một hố bùn nhão, chắc là do bùn đất bị nước mưa cuốn trôi đến đây. Vừa nhìn vào trong hố, tôi và Muộn Du Bình liếc nhau, tim nảy lên một nhịp. Trong lòng hố có thể thấy loáng thoáng vài khúc gỗ mục ngâm bùn, nhìn hình dáng này tôi dám chắc đó là một cỗ quan tài đã nát vụn. Nơi này có một ngôi mộ cổ đơn sơ bị đào ra sao?
Chương 7: Mộ cổ
*****
Ánh trăng ảm đạm chiếu lên sườn núi, bốn bề tăm tối mịt mùng, chỉ nghe vô vàn âm thanh kỳ lạ phát ra từ cánh rừng rậm sâu thẳm dưới khe núi. Cái hố này dọa cho đám A Quý ngớ người, bọn họ coi đây là điềm gở, quay ra liếc nhìn nhau. A Quý không hiểu gì cả, lẩm bẩm: “Đêm hôm khuya khoắt nhìn thấy quan tài, về nhà phải rửa mắt mới được.”
Một người khác nằm bò ra nhìn xuống dưới đó, hỏi: “Mộ ai thế nhỉ, sao lại đào trong cái chốn rừng sâu núi thẳm này?”
Không ai đáp lời, Vân Thái hoảng sợ trốn ra sau lưng Muộn Du Bình.
Tôi dám chắc đây là một ngôi mộ hoang, không phải mộ nhà giàu, niên đại chắc là từ thời Minh Thanh, vì với dạng quan tài thô sơ thế này, nằm trong khu vực mưa dầm quanh năm mà có thể lưu giữ được đến bây giờ thì niên đại không thể quá sớm. Bùn đất trong quan tài cũng có cỏ mọc, vậy là nó đã bị mưa xối trơ ra đó ít nhất một năm trời, thi cốt bên trong nhất định đã bị hủy hoại.
Cái hố không lớn, chúng tôi chiếu đèn pin vào nhưng không tìm thấy tung tích của lão Bàn Mã. Người chắc chắn không thể ở trong hố, nhưng tôi cảm thấy đây có thể chính là nơi Bàn Mã giấu đồ, bởi vì nó đúng là rất thích hợp. Cục sắt mà con trai lão Bàn Mã nói có thể được giấu ngay bên dưới.
Lũ chó vẫn đang sủa ầm ĩ, nghe mà phát bực. A Quý kéo chúng ra xa, thả cho chúng lang thang khắp nơi, kế đó nhặt cành cây chọc xuống hố dò dẫm.
Họ cũng không dám leo xuống, trong hố có quan tài, người thường đều kiêng kỵ, nhưng phản ứng của lũ chó cho chúng tôi biết trong hố chắc chắn có vật gì, tìm kiểu này có khướt mới thấy.
Tôi ngắm nghía thế núi ở đây, tuy chỉ là kẻ gà mờ về phong thủy nhưng tôi vẫn có thể nhận ra chỗ này tuyệt đối không hợp để chôn cất. Đây là sơn khẩu, nước từ trên núi dồn cả về đây, chôn người chết vài hôm là thối, mộ này ắt hẳn không phải ngôi mộ lớn trong núi Dương Giác mà Bàn Tử phỏng đoán, có thể chỉ là mộ cổ núi hoang bình thường, hẳn không có gì nguy hiểm. Tôi liền bảo A Quý đừng chọc nữa, để mình xuống đó lục lọi với Muộn Du Bình.
Tôi trộm mộ đã thành quen, mở một cái quan tài thì có là gì, huống chi Muộn Du Bình còn ở bên cạnh, cho nên cũng không hề lúng túng. A Quý lại kinh ngạc vô cùng, thắc mắc cớ sao người thành phố như tôi lại to gan đến vậy, còn Vân Thái thì tròn mắt nhìn tôi đầy chờ mong, dường như còn chưa kịp phản ứng.
Hai người một trước một sau nhảy xuống hố, do cái hố nằm trên sườn dốc nên có bên thấp bên cao, có thể thấy rõ vách đá dựng đứng hình thành từ triền núi sạt lở, một nửa quan tài còn kẹt trong đó, phần đầu không nhỏ, qua lớp còn sơn sót lại trên bề mặt, có thể thấy đây là một cỗ một quan tài cũ bằng gỗ sơn đen. Bùn lỏng tràn vào mộ đến nửa thước, nếu không phải do đất nơi này dễ lún thì là do cỗ quan tài quá nặng.
Tuy cách chôn cất khá thô sơ, nhưng người dân bình thường cũng không thể làm được. Quan tài trông na ná mấy cái được bày bán ven đường, có lẽ là của địa chủ thời trước. Quan tài đã cũ nát tả tơi, bên trong rặt bùn loãng.
Chẳng biết có phải bị lây từ Bàn Tử hay không mà nhìn thấy quan tài tim tôi cũng bắt đầu đập rộn, nhưng lúc này tôi phải giả vờ lơ ngơ một tí, bằng không rất dễ bị hội A Quý hoài nghi.
Muộn Du Bình nhận lấy cây đèn pin, vén đám cỏ dại, nhìn khắp một vòng, chúng tôi đã thấy có vết máu ở một góc khuất trên quan tài. Muộn Du Bình nhờ tôi soi đèn giúp, còn hắn đưa tay ra ước lượng, dấu tay trên quan tài hẳn là in lên khi người kia cúi xuống lấy thăng bằng. Bên dưới chính là khe hở của quan tài, Muộn Du Bình ngồi xổm xuống, không hề nghĩ ngợi đã thò tay vào trong đó, bắt đầu đào bới trong lớp bùn.
Nghe tiếng khuấy nước bùn, tôi hơi rợn tóc gáy. Hắn chỉ mò mẫm vài vòng rồi rút tay ra, cầm theo một vật dính đầy bùn. Muộn Du Bình vẩy vẩy bùn bám bên trên, thì ra đó là một cái bịch nilon dính máu, nhưng hắn rũ rũ vài cái, chúng tôi mới phát hiện trong bịch trống không.
“Quái nhỉ?” Tôi lấy làm lạ hỏi. “Đồ bên trong đâu mất rồi?”
“Vết máu còn mới, ông ta đã tới đây mang đồ đi trong vòng vài tiếng,” Muộn Du Bình nhìn quanh bốn phía, bình thản nói tiếp: “Chắc chắn ông ta chỉ quanh quẩn đâu đây thôi.”
“Ông ta đến lấy đồ sau khi đã bị thương?” Vậy là lão đã bị thương từ trước khi đến đây. Tôi thở phào, từ chỗ bị thương đến nơi này cũng khá xa, đã lết được đến tận đây chứng tỏ vết thương cũng không nặng lắm.
Muộn Du Bình lại mò thêm lần nữa nhưng không tìm được gì, sau đó chúng tôi trèo lên, tôi kể sơ qua tình hình cho A Quý biết.
Khả năng Bàn Mã gặp báo không cao lắm, một tay thợ săn không mang theo súng, dù dũng mãnh và và lão luyện đến đâu, cũng tuyệt đối không thể tránh thoát đòn tấn công của một con báo. Mà khó hiểu hơn là sau khi bị thương vì sao lão còn muốn đến đây, đáng ra lão nên quay về thôn ngay lập tức mới đúng. Lão chảy một đống máu còn đến đây mang cục sắt kia đi làm gì mới được chứ, lẽ nào lão cảm thấy để nó ở đây sẽ gặp nguy hiểm?
Chúng tôi gọi lũ chó về, lấy ngôi mộ cổ làm mốc, chia ra mấy nhóm tìm kiếm xung quanh. Hai người chúng tôi đi theo cha con A Quý, tôi bèn hỏi Vân Thái, trong rừng ngoài báo ra thì còn con gì có thể tấn công người?
Vân Thái nói trước kia nhiều lắm, chứ bây giờ đều bị thịt hết rồi. Hồi trước đến cả con trăn cũng hay gặp, nhưng lâu lắm rồi không thấy nữa, có thể tấn công người chắc chỉ còn lợn rừng thôi.
Tôi thầm nghĩ cũng có thể, nhưng vẫn không tài nào giải thích được nguyên nhân lão Bàn Mã đến đây mang đồ đi. Lúc này trong lòng tôi mơ hồ có linh cảm, phải chăng mối nguy hiểm mà lão Bàn Mã gặp không phải động vật, phải chăng mấy kẻ đốt nhà bí ẩn đã úp sọt lão?
Đang suy nghĩ, chợt nghe xa xa từ một hướng khác có tiếng chó sủa dồn dập. Thế rồi, một tiếng súng nổ cắt ngang khe núi tĩnh mịch, dọa lũ chim bay nháo nhác.
Chương 8: Ông lão
*****
Tiếng la hét hoảng loạn nghe như tiếng kêu của lệ quỷ, chúng tôi lập tức nhìn về hướng ấy, chỉ nghe được bên kia đang nháo nhào hết cả lên mà không biết đã xảy ra chuyện gì. Chúng tôi đờ ra mất một lúc, rồi lập tức vơ vét đồ nghề chạy về nơi phát ra tiếng hét.
Do cách nhau không quá xa, chẳng mấy chốc đã đến chỗ họ, nhưng chỉ thấy mấy con chó đang sủa nhặng xị, dưới bóng cây rậm rạp tôi cũng không nhìn ra vì sao bọn họ lại la ầm lên như thế. A Quý quát lên: “Có chuyện gì vậy?”
“Coi chừng! Trong bụi cỏ có vật gì đó!” Những người phía trước kêu lên. Lời vừa dứt, cánh rừng bên cạnh chợt có động, hình như có con gì đó băng ngang bụi cây trong chớp nhoáng, gây ra tiếng động cực lớn, có lẽ là một động vật cỡ đại.
A Quý giương cao cây súng của mình, nã một phát, không biết đã bắn trúng nơi nào, tiếng súng nổ đùng đoàng như tiếng sấm dọa đàn chim phía xa giật mình nháo nhác bay đi, còn cái thứ gây ra tiếng động kia cũng lao đi băng băng rồi biến mất trong màn đêm.
Chúng tôi nhào đến trước mặt bọn họ, những người trên núi cũng lao tới, rọi đèn pin khắp cánh rừng mà chỉ thấy mấy lùm cây đang rung rinh. A Quý lập tức thét to: “Thả chó ra!”
Mấy người thợ săn huýt sáo, đám chó săn lập tức lao ra ngoài, khí thế hoàn toàn khác với đám chó cảnh trong thành phố, nhoáng cái mặt trước đã trở nên hỗn loạn, bên tai là tiếng bụi cây va quệt và tiếng chó sủa liên miên không dứt. Đám A Quý lập tức bám đuôi, mấy người này đều có kinh nghiệm săn thú, hô to mấy tiếng bằng giọng địa phương rồi chia nhau ra, chạy theo đàn chó vào rừng.
Chúng tôi muốn đi cùng, nhưng A Quý đã quay lại la to vài tiếng với Vân Thái, cô bé liền ngăn cản chúng tôi, bảo đừng đi theo, bọn họ không rảnh mà để mắt đến chúng tôi. Trong bóng đêm mịt mùng, thợ săn không thể tùy tiện nổ súng, dã thú kia bị dồn ép quá có thể sẽ nổi điên mà tấn công người. Dã thú, đặc biệt là loại mãnh thú cực kỳ hung hữ như báo, chỉ cào một phát cũng đủ gây trọng thương, cho nên phải hết sức cẩn thận. Chúng tôi không có kinh nghiệm nên rất dễ gặp nạn, hơn nữa tôi không biết vây săn là gì, đi giúp họ chỉ tổ vướng víu tay chân.
Tôi đương nhiên không chịu, thầm nghĩ luận về thân thủ, Muộn Du Bình mà làm vướng víu tay chân mấy người sao? Nhưng đuổi theo được vài bước, lại phát hiện cái vướng víu mà cô nói lại là chuyện khác.
Chó săn đã được huấn luyện thuần thục, ba con tách khỏi đội hình lao đến trước mặt con thú kia; con thú kia bị vây kín, lập tức quay sang hướng khác mà chạy. Phía sau là mấy tay thợ săn quây kín, chó và người một trước một sau, vừa vặn hình thành một vòng vây. Mỗi người trong vòng vây này đều cần phải có kinh nghiệm, bằng không con mồi sẽ tìm được điểm yếu mà phá vòng vây chạy mất.
Đám A Quý không ngừng la hét, đánh lạc hướng con mồi, khiến nó luẩn quẩn trong vòng vây không biết nên trốn chạy theo phương nào. Đồng thời nhóm thợ săn đều đồng loạt giương súng, không ngừng siết chặt vòng vây, đây chính là cách săn lợn rừng. Tôi đã từng thấy cảnh tượng như thế này ở quê, săn động vật lớn đều dùng cách thức này.
Đã lâu không được tận mắt chứng kiến một màn săn thú, tôi chỉ biết nín thở mà nhìn. Đám A Quý càng siết càng gần, chẳng mấy chốc con mồi kia đã vừa vặn rơi vào tầm bắn của súng săn, chỉ có điều con mồi không ngừng di chuyển, ánh đèn pin không thể tập trung vào nó được. Chó săn ở đây đều vào cỡ trung bình, cùng lắm cũng chỉ săn được mấy con vật nhỏ như gà rừng hay thỏ hoang, nên chúng không dám tùy tiện xông lên. Nếu là giống chó săn sói cỡ lớn ở phương bắc, với hình thức lấy một chọi ba, thì đã sớm xông lên đánh sáp lá cà rồi.
Dằng dai cả buổi, đám A Quý vẫn chưa nổ súng. Những con mồi bình thường vào lúc này đều phạm sai lầm, đều đột ngột lao về một phương hướng nào đó, thoáng chốc là tới gần thợ săn đã chuẩn bị sẵn sàng. Thợ săn nổ súng ở cự ly gần là chắc chắn trúng, tiếp đó chó săn sẽ đuổi theo, con vật cơ bản là không trốn chạy nổi nữa. Nhưng con vật này không những không muốn phá vây ngay, mà trái lại còn dần dần trở nên bình tĩnh, mấy lần ẩn nấp vào bụi cỏ mà không thể biết được vị trí chính xác, cứ thế trái lại khiến đám A Quý không dám tới gần.
Tôi thấy vậy mà kinh ngạc, thầm nghĩ lợi hại nha, đổi khách thành chủ, con này rốt cuộc là cái giống gì, xảo trá như thế, không lẽ là hồ ly?
A Quý chiếu đèn pin vài lần vẫn không trúng, tốp thợ săn này đâu phải đám sơn tinh cả đời kiếm ăn trong núi như lớp thợ săn trước, kinh nghiệm dù sao vẫn còn thiếu sót, cũng không nghĩ ra cách nào hay, liền gào lên gọi Vân Thái ném đá ép con mồi phải chạy ra. Hai đứa tôi nhặt vài hòn đá lên định ném, lại bị Muộn Du Bình giữ lại cả đôi. Tôi ngẩng đầu lên nhìn hắn, chợt nhận ra không biết từ bao giờ sắc mặt hắn đã biến đổi, ánh mắt hắn không nhìn vào vòng vây săn mà nhìn ra sau lưng A Quý, hô to: “Cẩn thận đằng sau!”
Tôi nhìn theo hắn, phát hiện bụi cỏ sau lưng A Quý lại nổi sóng, giống như có gió thổi qua. Nhưng bốn bề đều lặng gió, nên hẳn là có thứ gì đó đang nấp trong bụi cỏ, nhích dần về phía A Quý.
A Quý lập tức quay đầu, gợn sóng kia cũng ngưng ngay lập tức.
“Cái gì vậy?” Tôi ngạc nhiên hỏi: “Còn một con nữa?”
“Không chỉ có vậy.” Muộn Du Bình nhìn khắp bốn phía, nói bằng giọng hờ hững. Tôi cầm đèn pin chiếu rọi khắp bốn vùng quanh, lập tức phát hiện những bụi cỏ đằng xa đang lan truyền những đợt sóng kỳ lạ, dồn về phía chúng tôi.
Thợ săn ở đây chưa bao giờ gặp cảnh tượng này, cả đám trợn mắt há mồm, cô bé Vân Thái lại là người đầu tiên phản ứng, lập tức huýt sáo gọi đám chó quay về.
Tôi kêu mấy người bọn họ tụ tập lại đây, cẩn thận quan sát động tĩnh bốn phía, chỉ thấy những gợn sóng này cứ thoắt ẩn thoắt hiện không ngừng.
Ba con chó săn còn cảm nhận được tình cảnh kỳ lạ này rõ ràng hơn chúng tôi, không ngừng quay khắp bốn phía sủa loạn xạ, phiền phức không chịu nổi. Những làn sóng vận động bất quy tắc dần dần áp sát chúng tôi, tuy nói mình không sợ nhưng tôi cũng bắt đầu căng thẳng, tim đập như nổi trống.
“Chui vào giữa đi con.” A Quý bảo Vân Thái, có lẽ anh ta cũng không nắm rõ tình huống lúc này rốt cuộc là gì. Người miền núi quả đúng là dũng mãnh, không một ai sợ hãi, mấy người kia đều giương súng lên, lúc này cũng không hơi đâu để mắt đến chúng tôi nữa. Tôi nhặt một hòn đá làm vũ khí, quan sát cảnh tượng bốn phía, nói: “Chỗ này rậm rạp quá, chúng ta lui về phía triền núi có ngôi mộ cổ bên kia đi.”
Mấy người lập tức lên đường, vừa cảnh giác vừa nhanh chân rút lên núi, không ngờ chúng tôi vừa động, mấy đợt sóng kia lập tức vây lại, đến khi còn cách tôi hơn ba mươi mét thì đều nhanh chóng biến mất. Chúng tôi gần như không có thời gian căng thẳng, mà lập tức hoảng loạn, không đi theo đường chính mà leo thẳng lên dọc sườn núi.
Bùn trên núi nhão nhoẹt, mấy gã đàn ông đã lên cả, nào ngờ Vân Thái bất ngờ trẹo chân, trượt xuống dưới vài mét. Tôi đưa tay ra kéo, kết quả là chính mình cũng trượt theo luôn, bùn dưới chân đều lún cả xuống.
Muộn Du Bình và A Quý dừng lại kéo tôi, nháy mắt đã tụt lại sau đoàn vài mét. Cỏ dại mọc trên sườn núi dày như một tấm thảm, lúc này tôi chợt nghe từ các bụi rậm xung quanh phát ra tiếng cây cỏ bị giẫm gãy liên tục trong lòng nổi lên cảm giác cực kỳ bất an.
Được kéo lên rồi, tôi lại tìm Vân Thái. Vân Thái bị trẹo chân suýt khóc, đôi chân đổ đầy mồ hôi lạnh của tôi cũng không chịu nghe lời tôi nữa, đành cắn răng vén đám cây cỏ ra, chật vật đỡ Vân Thái lên triền núi. Bùn nhão bên kia lại lún xuống thành một cái hố, tôi ủn mông cô bé lên còn Muộn Du Bình đứng bên trên thì vươn một tay ra kéo.
Tôi thử leo vài cái, phát hiện ra mình quá nặng, lại chẳng có ai đứng sau ủn mông
( :)) )
, đám bùn kia không chịu nổi sức nặng của tôi nên cứ lún dần xuống, bèn lách người sang bên cạnh. Ai ngờ tôi xui xẻo đến độ uống nước cũng mắc răng, còn chưa đi được mấy bước, bùn nhão dưới chân đã tiếp tục lún xuống khiến tôi ngã nhào xuống triền núi, ngày càng trượt sâu hơn. Giãy dụa bò lên, chợt nghe A Quý trên đỉnh đầu la to: “Chạy! Mau chạy đi!”
Nghe vậy, bản năng mách bảo cho tôi biết chắc chắn anh ta đã thấy được gì đó, liền rẽ sang trái, lại nghe A Quý la to: “Sai rồi! Không phải bên đó!” Ngay lập tức, tôi thấy bụi cỏ phía trước lay động một chập, thế rồi một con vật to cỡ con nghé nhỏ, mắt xếch trán trắng (1), giống báo mà không phải báo nhô nửa người lên từ bụi cỏ, đôi ngươi xanh biếc lóe hàn quang, mặt mày dữ tợn giống như gương mặt hung yêu trong Kinh kịch.
Vừa đối diện với nó, tôi đã biết ngay cái thứ của nợ này là gì rồi, trong lòng hết sức kinh ngạc – thì ra đó là một con linh miêu. (2)
Linh miêu là một loài mèo lớn, nhỏ hơn báo nhưng lớn hơn mèo rất nhiều. Loài động vật họ mèo này có khuôn mặt y chang yêu quái, nét tà độc hung ác đều hiện lên mặt. Khác biệt rõ ràng nhất giữa linh miêu và báo là trên lỗ tai linh miêu có hai nhúm lông mao thô dài ngoằng, giống như lông công trong Kinh kịch.
Loài vật này cực kỳ thông minh, tuy thích sống riêng lẻ, nhưng những khi thức ăn khan hiếm cũng sẽ đi săn thành bầy; ngoại trừ sư tử, thì đây là loài động vật họ mèo duy nhất có thể đi săn theo đàn. Linh miêu cỡ lớn ở Tây Tạng được gọi là “Ma rừng”, nghe nói còn biết tha con gái trẻ về ổ giao phối. Nhưng do có bộ da đẹp, nên thời cận đại gần như đã bị bắt giết sạch sẽ, sao lại xuất hiện ở một vùng có nạn săn trộm trầm trọng như Quảng Tây cơ chứ?
Nhưng nếu là linh miêu, thì lại giải thích được vì sao lão Bàn Mã bị tấn công mà chưa chết. Linh miêu rất giống mèo, thích đùa giỡn con mồi cho đến khi sức cùng lực kiệt mới giết chết, nhưng bản tính lại rất thận trọng, không dễ mà vật lộn sáp lá cà.
Giữa những luồng suy nghĩ biến đổi chớp nhoáng, bên tôi lại thêm một con linh miêu thò đầu ra. Con này còn bự hơn, vả lại trên đầu còn có bùn nhão chảy ròng ròng. Muộn Du Bình đã trượt từ trên xuống đến bên cạnh tôi, tay cầm đao săn của A Quý, vừa xuống đến nơi lập tức kéo tay tôi: “Cứ giẫm lên lưng tôi.” Hắn nói như chém đinh chặt sắt.
“A, vậy thì ngại quá.” Tôi nhất thời không kịp phản ứng.
“Lên mau!” A Quý đứng bên trên la to, mồ hôi đầy đầu.
Bản năng của động vật họ mèo là tấn công vào cổ họng con mồi, một đòn chết tươi. Tôi rụt cổ lại, thầm nhủ vậy tôi không khách khí nữa, gạt đi chút bùn đất rồi giẫm lên vai Muộn Du Bình. Muộn Du Bình vung người đẩy tôi lên, A Quý đứng bên trên nhoáng cái đã túm được tay tôi, tôi quơ quào tay chân loạn xạ, vất vả lắm mới đứng vững được trên triền núi. Chợt nghe Vân Thái thét lên một tiếng sợ hãi, thoáng chốc từ bụi cỏ bên dưới có một con vật lớn lao ra. Vừa mới nhún người mượn lực, tôi đã trông thấy một con “mèo bự” gần như bám vào vách núi mà phi đến trước mặt mình.
A Quý thả tay theo phản xạ, tôi lập tức rơi xuống, bị ngoạm lấy giữa không trung.
Cũng may hình thể con linh miêu vẫn còn quá nhỏ, không thể đè tôi xuống đất. Nháy mắt tôi đã ngã vào bụi cỏ, lăn xuống vài mét, hung hăng đá nó một cú bay vèo đi, đứng lên nhìn lại thì thấy bả vai mình gần như đã bị cắn thủng.
Cỏ cây bốn phía dường như đều lay động, cái con bị tôi đá bay xuống đất cũng đã lấy lại tư thế tấn công, nhào về phía tôi một lần nữa.
Tôi hoàn toàn không có thời gian để mà sợ hãi, kiếp thám hiểm trong những năm gần đây đã trang bị cho tôi một bản năng sống mạnh mẽ. Vừa đưa tay lên che cổ họng tôi đã bị đẩy ngã, bèn dứt khoát xoay người lăn vèo vèo từ triền núi xuống.
Cú lăn này đúng là tối tăm mặt mũi, vừa đứng lên tôi liền bất chấp tất cả mà lảo đảo bỏ chạy. Đám A Quý sau lưng đã bắt đầu nổ súng, tôi cũng không phân biệt nổi phương hướng nữa, đành cắm đầu chạy sâu vào trong khe núi, chạy được vài mét chợt nghe sau lưng có luồng gió quét qua. Tôi biết tuyệt đối không thể dâng phần gáy của mình cho động vật họ mèo xơi được, xương sọ sẽ bị cắn thủng mất, thế nên lập tức xoay người.
Vừa xoay người một cái, tôi đã thấy một bóng đen đuổi tới với khí thế như sấm sét, căn bản không thể nào ước đoán được tốc độ, chớp mắt đã lao đến trước mặt tôi. Tôi nghĩ bụng thôi tiêu rồi, lần này sau khi bị đốn gục tôi hoàn toàn không có thời gian bố trí phòng ngự nữa. Nào ngờ trong khoảnh khắc bóng đen ập đến trước mặt, bụi cỏ bên người tôi đột ngột rẽ ra, sau đó một luồng hàn quang lóe lên, có bóng người lao khỏi bụi cỏ như một tia chớp, nhanh chóng quấn riết lấy bóng đen.
Bóng đen lao tới với khí thế hung mãnh, hai cái bóng nhảy đi rất xa. Tôi ngây ra tại chỗ, hoàn toàn không thể phản ứng, giống như đang nằm mơ.
Trong bụi cỏ rối tung rối mù, nhưng rồi nhanh chóng trở về với yên lặng. Không lâu sau có một bóng đen đứng lên từ trong đó, tôi thở phào nhìn bóng người nọ bước ra, đi đến dưới ánh trăng thì nhận ra đó là một ông lão gầy gò xa lạ, toàn thân nhuốm máu, tay cầm một cây đao săn đặc biệt của người Mèo. Con linh miêu kia bị ông lão vác trên lưng, hình như đã tắt thở.
Ông lão đi đến trước mặt tôi, thấy tôi thì đờ người. Ổng dùng tiếng địa phương hỏi tôi một câu, tôi cũng không hiểu ổng đang nói gì, đành ý tứ lắc đầu, trong lòng thầm nghĩ ông tiên này là ai vậy? Nhưng sau đó tôi lại thấy một hình ảnh còn đáng kinh ngạc hơn: trên người ông lão đó, không ngờ cũng xăm một con kỳ lân đen giống y chang con trên người Muộn Du Bình.
Chương 9: Lão Bàn Mã
*****
Ông lão gầy gò, so với con linh miêu vác trên vai nom càng thêm quắt queo, nhưng nhìn kỹ sẽ thấy những bắp thịt đã khô quắt trên thân thể ông lão vẫn rắn rỏi như sắt thép, có thể mường tượng ra những bắp thịt này vào thời trai trẻ đã từng tráng kiện đến thế nào. Dưới ánh trăng, ánh mắt lão ngời sáng có thần, gây cho người một cảm giác khó nói thành lời.
Ông lão tra thanh đao vào vỏ trên thắt lưng, lại ngắm nghía tôi một chặp, chuyển con linh miêu sang vai bên kia, sau đó dùng giọng địa phương bảo tôi đi cùng.
Cây cỏ bốn bề vẫn còn lay động nhưng ông lão chẳng thèm để mắt, cứ vác con linh miêu bước phăm phăm về phía trước, chẳng bao lâu tiếng động xung quanh cũng dần dần lùi xa, chỉ nghe trong cánh rừng sâu thẳm truyền đến tiếng gừ gừ của một đàn thú khác. Đàn linh miêu chỉ tập hợp trong thời gian ngắn để săn mồi, đây có thể là con khỏe nhất trong đám, phụ trách ra đòn chí mạng cuối cùng; con này vừa chết, cả đàn cũng tan luôn. Bản tính linh miêu cực kỳ thận trọng, tuyệt đối sẽ không mạo hiểm đến lần thứ hai.
Ông lão vừa quát tháo, vừa hướng về ngôi mộ cổ. Có ánh đèn pin phát ra từ phía bên kia nhưng thủy chung vẫn dừng lại từ trên núi. Rõ ràng tay A Quý này cũng chẳng phải người tốt, không chịu xuống dưới cứu tôi.
Chỉ có một cái đèn pin ném về hướng này, chúng tôi bắt lấy, rồi thấy Muộn Du Bình đi về phía chúng tôi với dáng vẻ hoảng hốt hiếm có. Thấy tôi không sao hắn mới thở phào nhẹ nhõm, rồi lại nhìn sang ông lão kia.
Cánh tay Muộn Du Bình đẫm máu, ông lão trở tay nắm lấy đao săn. Hai người liếc nhau một cái, Muộn Du Bình thấy hình xăm kia thì ngây người, nhưng ông lão hình như không hề để ý đến hắn, bước thẳng qua bên cạnh hắn.
Tôi thầm nghĩ ôi cái đệt, ông lão này quá siêu phàm, lại mang đầy phong thái của Muộn Du Bình, lẽ nào chính là cha hắn?
Muộn Du Bình muốn bước lên hỏi, nhưng tôi ngăn hắn lại. Ông lão này không phải hạng hồ đồ, vả lại ngôn ngữ bất đồng, có hỏi cũng vô ích, ta cứ về đã rồi tính sau.
Đi ngang qua chỗ tôi ngã xuống, thấy trên mặt đất cũng có xác một con linh miêu cổ bị vặn gãy, hiển nhiên là kiệt tác của Muộn Du Bình. Ông lão ra hiệu cho chúng tôi khiêng nó lên, Muộn Du Bình liền vác xác nó trên vai rồi leo lên triền núi. Người bên trên lập tức chạy tới, nhìn thấy ông lão đều tỏ ra hết sức kinh ngạc.
Ông lão và bọn họ bắn ra một tràng tiếng địa phương, tôi nghe ù ù cạc cạc, liền lén hỏi Vân Thái xem ông lão này là ai.
Vân Thái đáp: “Còn ai vào đây nữa, ông ấy chính là lão Bàn Mã mà các anh muốn tìm.”
“Ông ấy chính là Bàn Mã?” Tôi thoáng giật mình, nhưng đúng là trước kia tôi cũng từng nghĩ đến chuyện này rồi. Ai cũng bảo lão Bàn Mã là thợ săn cừ khôi nhất, ngoài lão ra còn ai đủ sức tay không giết chết một con linh miêu lớn cỡ này ở tuổi xế bóng cơ chứ. Phải biết rằng một con linh miêu có thể săn được cả sói Tạng đi riêng lẻ, họ mèo là họ động vật ăn thịt có vú đã tiến hóa đến đỉnh cao, nếu không phải là người cực kỳ am hiểu tập tính của nó thì không thể nào hạ thủ được.
Vừa rồi Lão Bàn Mã nhất định đã bị linh miêu tấn công, sau đó dây dưa với đàn linh miêu đến tận nơi này thì nghỉ ngơi chờ đợi thời cơ. Mẹ kiếp, cái đòn tất sát cuối cùng kia tôi thấy ngay cả Muộn Du Bình cũng không thể ra tay dứt khoát đến vậy, chỉ chậm một giây thôi là tôi hoặc lão nhất định sẽ phải chết .
A Quý quan sát vết thương của tôi, xong giới thiệu đôi bên cho nhau. Lão Bàn Mã hình như không có hứng với chúng tôi, chỉ chào hỏi lấy lệ rồi bắt đầu lau rửa những vết bẩn trên người.
Lau đi vết máu trên người, tôi mới nhận ra hình xăm của lão và Muộn Du Bình na ná như nhau. Sau xương sống lão có một vết thương sâu đến ghê người, có thể là do bị linh miêu tập kích bất ngờ mà ra.
Có vài người quây thành tốp, xì xào kể về về hành trình vào núi. Tôi nửa đoán nửa suy luận, lại nhờ Vân Thái phiên dịch nên cũng hiểu được lờ mờ. Nửa đầu câu chuyện cũng gần giống như tôi phán đoán, đúng là lão vì chuyện của con trai mới vào núi, không ngờ lại chạm trán cái giống kia ở đây. Cũng may những khi vào núi lão có thói quen buộc một cành cây trên lưng, trước hết có thể làm gậy chống, ở nơi đất bằng lại có thể đề phòng điểm yếu phía sau bị đánh úp. Đây là quy tắc lưu truyền từ thời xa xưa khi dã thú hoành hành, cả đời chẳng có ích gì, ai ngờ lần này lại cứu được một mạng. Tuy quần áo bị xé nát, nhưng gáy không bị cắn đứt, đúng là nguy hiểm khôn cùng.
Bao nhiêu năm trời không gặp linh miêu, giờ bỗng dưng xuất hiện ở vùng này, có thể là do mấy hôm trước trời mưa to, trong núi sâu xảy ra chuyện bất thường buộc chúng phải chạy ra. Chỗ này có người ở nên chuột cũng lắm, chúng mới bị con mồi thu hút đến đây.
Thấy lão tỏ ra rất phấn chấn, như thể tìm lại được cảm giác của một thời oanh liệt đã qua, tôi cảm thấy giờ không thích hợp để hỏi những chuyện khác. A Quý liền gọi đoàn quay về, nói giờ này người trong thôn chắc là đang rất sốt ruột. Vết thương của tôi và lão Bàn Mã đều sâu, phải về còn xử lý.
Vài người đem đốt hai cái xác linh miêu, trời cũng dần sáng, không còn sớm nữa, đã qua cả một đêm rồi, nên họ dập tắt đống lửa rồi lập tức lên đường.
Bộ da linh miêu rất có giá, cứ thế đốt đi thật là uổng phí. Nhưng A Quý nói không thể để ai khác biết ở đây xuất hiện linh miêu, bằng không thì chưa đến một tuần đám săn trộm đã ùn ùn kéo đến. Những tên này tham lam vô độ, dù không bắt được linh miêu thì cũng chuyển sang những loài thú khác, nơi này nhất định sẽ sạch bách chẳng còn gì.
Dọc đường đi không ai nói thêm lời nào, về đến thôn thì trời đã sáng. Những cán bộ trong thôn cũng thức trắng cả đêm, đang dẫn theo vài người chuẩn bị vào núi đi tìm, đến sơn khẩu thì gặp chúng tôi.
Chúng tôi ăn sáng trong trụ sở thôn, có bánh rán (1) và cháo trứng, tôi đói quá làm luôn hai bát to. Trong thôn vui như tết, liên tiếp có người đến hỏi han.
Bả vai tôi gần như bị cắn thủng, phải sát trùng rồi tiêm một mũi phòng uốn ván, còn đắp thêm cả thảo dược. Lưng lão Bàn Mã khâu mười mấy mũi, tay y tá thôn kia thật chẳng biết nương tay là gì, khâu vết thương mà cứ như khâu chăn đệm, khâu dăm ba nhát đã xong. Trong khi lão Bàn Mã vẫn yên lặng không nói lời nào thì mấy người trông như cán bộ thôn kia lại cứ thao thao bất tuyệt.
Tạm thời bỏ qua những chuyện lặt vặt, xử lý xong vết thương chúng tôi định về nghỉ ngơi, chờ sức khỏe phục hồi sẽ đến thăm lão Bàn Mã sau. Ai ngờ trước khi đi, lão lại bảo chúng tôi cùng về nhà mình.
Tôi và Muộn Du Bình liếc nhau, nghĩ bụng ông lão này tính tình cũng thật cổ quái, rồi vội vã đi theo. Đi chưa nổi hai bước, lão đã chỉ chỉ Muộn Du Bình nói cái gì đó.
Chúng tôi không hiểu, nhìn sang A Quý đi cùng. Nét mặt A Quý nom cũng rất kỳ quái, nói với lão Bàn Mã vài câu, lão lại dùng giọng điệu cương quyết đáp lại, nói rồi đi thẳng.
Tôi ngơ ngác nhìn A Quý, hỏi ổng nói cái gì vậy? Anh ta có vẻ lúng túng đáp: “Muốn biết hãy đến một mình, người kia không thể đi theo.”
Tôi nhíu mày nhìn Muộn Du Bình, thầm nghĩ lão nói vậy có ý gì chứ? A Quý lại tiếp “Ông ấy còn nói…”
“Nói gì nữa?”
“Nói nếu hai người còn đi chung với nhau, sớm muộn gì cũng có ngày một người bị người kia hại chết.”
Chương 10: Ngồi xuống bàn bạc.
*****
Nghe những lời này, tôi có hơi sửng sốt. Lão Bàn Mã không dưng nói ra một câu không đầu không cuối, thật khiến người ta không kịp phản ứng, nhưng đầu óc cũng đồng thời căng thẳng, cảm thấy câu nói vừa rồi nghe có hơi rợn người.
Còn chưa kịp suy nghĩ tường tận, Muộn Du Bình đã đuổi đến trước mặt lão Bàn Mã, giữ chặt lão lại hỏi: “Nói vậy, tức là ông biết tôi?”
Lão Bàn Mã ngẩng đầu nhìn hắn bằng gương mặt vô cảm, cũng không đáp lời. Muộn Du Bình lập tức lột áo, lộ ra nửa thân trên, “Ông nhìn đi, ông có biết tôi là ai không?”
Hình xăm màu đen rõ mồn một, tựa như hai con kỳ lân ở hai phía đang lao vào nhau, mà ánh mắt hai người nhìn nhau cũng hết sức kỳ lạ.
Giằng co một hồi, lão Bàn Mã vẫn lặng thinh không nói, chỉ âm thầm đi qua bên cạnh Muộn Du Bình, hoàn toàn phớt lờ hắn, nét mặt cũng không hề biến đổi.
Tôi không tài nào diễn tả được cảm giác khi đó, thật kỳ lạ, nếu bắt buộc phải diễn đạt thành lời, tôi chỉ có thể nói rằng dường như tôi đã thấy đến hai Muộn Du Bình của hai thời điểm khác nhau, nhập lại rồi tách rời ra trong tích tắc.
“Muộn Du Bình cuối cùng cũng gặp phải đối thủ.” Lúc ấy trong lòng tôi nảy ra một suy nghĩ kỳ cục, nếu không phải rơi vào thời điểm không thích hợp thì tôi còn có cảm giác hả hê. Xưa nay tôi vẫn tưởng trên đời không ai khó trị hơn hắn, thì ra không phải vậy, quả nhiên nhiều lúc phải lấy độc trị độc, lấy muộn trị muộn.
(=)))
Muộn Du Bình không đuổi theo nữa, hắn lẳng lặng nhìn lão Bàn Mã nghênh ngang bỏ đi, ngẩn ngơ mất vài giây, mọi thứ lại tan thành mây khói.
A Quý không biết phải làm sao, hết nhìn tôi rồi nhìn theo lão bàn Mã đã đi xa, lại nhìn đến Muộn Du Bình, sắc mặt có vẻ ngán ngẩm, hiển nhiên anh ta không hiểu nổi mấy câu nói úp mở làm màu vừa rồi. Tôi sợ A Quý chán nản, vội vỗ vai anh ta vài cái rồi đến bên Muộn Du Bình khuyên hắn về đi, đừng sốt ruột. Lão Bàn Mã bảo tôi đi thì tôi cứ đi đã, hỏi lão xong sẽ lập tức quay về kể lại cho anh biết.
Muộn Du Bình chẳng ừ hữ gì, chỉ gật đầu, ánh mắt vẫn dõi theo lão Bàn Mã đằng xa, không biết đang nghĩ gì.
Không hiểu vì sao, đúng lúc này, tôi cảm thấy ánh mắt hắn đột ngột biến đổi, giống như đã thiếu đi điều gì, đồng thời cũng cho tôi cảm giác hình như mình từng gặp ánh mắt này ở đâu đó.
Vừa rồi khi bốn mắt họ giao nhau chắc chắn đã gửi đi tín hiệu gì đó, thái độ của lão Bàn Mã là một sự gợi ý rất rõ ràng. Lão nhất định đã biết một vài chuyện, hơn nữa lão chắc chắn phải biết Muộn Du Bình là ai, thậm chí còn có khúc mắc sâu xa gì đó với hắn. Mà nhìn thái độ của lão, thì đảm bảo cái khúc mắc này cũng chả vui vẻ gì.
Tôi gấp gáp đuổi theo.
Một lần nữa theo A Quý vào ngồi trong phòng ăn nhà Bàn Mã, tâm trí tôi cứ không ngừng nghĩ ngợi xem những lời lão Bàn Mã nói có ý gì? Và phải trao đổi với lão bằng cách nào mới hiệu quả.
Nếu hai người còn đi chung với nhau, sớm muộn gì cũng có ngày một người bị người kia hại chết.
Lão Bàn Mã đột ngột nói ra một câu kỳ lạ như thế, nếu lão thực sự không biết gì, thì một thợ săn miền núi như lão cũng chẳng lý gì lại vô duyên vô cớ bày trò dắt mũi tôi. Nhưng thái độ của lão lại rất quái gở, hơn nữa rõ ràng lão không ưa Muộn Du Bình.
Tôi thật sự không luận ra những mối liên hệ trong đó. Đây có thể chỉ là một câu nói hết sức bình thường, cũng có thể ẩn chứa điều gì đó. Tôi vẫn luôn tự nhắc nhở bản thân đừng nghĩ ngợi quá nhiều, có lẽ ý của lão Bàn Mã chỉ là bản lĩnh của Muộn Du Bình rất cao cường, nhưng của tôi lại quá cùi bắp, nên sẽ có ngày tôi vạ lây đến hắn. Nhưng trực giác mách bảo cho tôi biết, nếu xem xét những lời này một cách có đầu có đuôi, thì người bị cảnh cáo dường như lại chính là tôi.
Nhưng Muộn Du Bình làm sao hại chết được tôi chứ? Nếu không có hắn, tôi đã thành bánh tông thứ thiệt vài lần rồi; cho dù hắn muốn hại chết tôi thì tôi cũng chỉ biết bó tay chịu chết, nói kiểu gì cũng không thấy hợp lý. Mà với tính tình lập dị của hắn, người khác cũng rất khó kết thân.
Con trai lão Bàn Mã xách nước đến cho chúng tôi tắm rửa, do vết thương sau lưng nên lão để con làm thay, còn mình thì lấy loại thuốc lá riêng của người Dao cho vào điếu cày (1) hút.
Tôi ngửi mùi này thấy giống mùi thảo dược của Muộn Du Bình, xem ra trong loại thảo dược đó cũng có thành phần thuốc lá. Vốn định mượn chi tiết này nói vài câu xoa dịu bầu không khí, lại không tìm được chủ đề nào.
Sắc trời mỗi lúc một âm u, hình như lại muốn mưa, Quảng Tây đúng là đất mưa nhiều. Cô con dâu lão Bàn Mã đóng cửa sổ lại rồi ngồi xuống chiếu, gió lùa qua khe hở thổi vào làm bầu không khí nhanh chóng dịu đi. Lúc này lão mới làm một động tác giống hành lễ kiểu địa phương với tôi, tôi cũng dựa theo đó mà đáp lại.
Lúc này tôi mới có điều kiện quan sát kỹ càng vẻ ngoài lão Bàn Mã. Ngũ quan rõ ràng, gương mặt đầy những vết nhăn ngăm đen như bao người miền núi khác, tướng mạo hết sức bình thường. Nhìn ông lão bây giờ rất khó tưởng tượng được dáng vẻ của ông tiên này lúc trước, đúng là không thể trông mặt bắt hình dong. Mặt mũi như này thì chắc chắn không thể có họ hàng gì với Muộn Du Bình được, nghĩ đến đó tôi mới hơi yên tâm.
*Gián tiếp khen Bình đợp trai kìa =))*
A Quý ngồi bên cạnh kể qua một lượt về mục đích đến của tôi, nhắc lại tôi là cán bộ chính phủ. Lão Bàn Mã liền nhìn tôi nói một câu, A Quý phiên dịch: “Lão nói, cậu thật ra là ai lão cũng đoán được lờ mờ, từ lâu lão đã đoán trước đến một ngày sẽ có người hỏi chuyện này. Cậu muốn hỏi gì thì cứ hỏi đi, hỏi xong thì mau cút, đừng đến quấy rầy lão nữa.”
Tôi lại ngây ra mất một lúc, cảm thấy lời lão đều mang ẩn ý gì đó, cứ như lão hiểu lầm tôi là một người nào khác.
Nhưng tôi lại không thể cảm nhận một cách rõ ràng nguyên nhân của sự hiểu lầm này. Nghĩ đến đây tôi liền phản ứng, biết lúc này căn bản không nên nghĩ nhiều, cứ coi như mình không phát hiện ra là tốt nhất, chờ có thêm manh mối rồi nói cho rõ ràng cũng chưa muộn.
Tôi nghiêm mặt, chỉnh đốn lại tâm tư rồi bảo lão: “Cháu chỉ muốn hỏi thăm ông vài chuyện về đội khảo sát ngày trước, mong ông có thể kể sơ sơ một lượt cho cháu nghe tình hình năm đó. Nhưng trước đó, cháu cũng muốn biết câu nói vừa rồi của ông là có ý gì?”
Lão Bàn Mã rít một hơi thuốc dài, tôi còn chưa nói xong lão đã lắc đầu cười, nói mấy câu, A Quý ngây ra một lúc mới dịch lại: “Ông ấy nói cậu nghĩ sai rồi, đó không phải đội khảo sát.”
Tôi liếc qua A Quý, anh ta phiên dịch xong cũng hết sức kinh ngạc, “Vậy họ là ai?”
Lão đáp: “Bọn họ là lính.” Lão nói bằng tiếng địa phương nhưng tôi cũng miễn cưỡng nghe ra.
Ban đầu tôi còn tưởng mình nghe lầm, A Quý phiên dịch lại, tôi mới khẳng định là không lầm.
Cân nhắc một lát, tôi cảm thấy lão Bàn Mã hẳn đã nhầm. Lúc đó bọn họ đều mặc đồ lục quân nên lão mới tưởng họ là binh lính.
“Tình hình khi ấy rất căng thẳng. Có rất nhiều binh lính đến đây, đều đeo súng tự động sau lưng, nói mình muốn đến núi Dương Giác rồi nhờ tìm người dẫn đường. Vậy là cha A Quý đến tìm ta, ta mới đưa bọn họ vào núi.” Lão nói với tôi.
(Đoạn đối thoại kế tiếp đều nhờ A Quý làm phiên dịch, để cho thuận tiện, sẽ không nhắc lại nữa.)
Tôi nhíu mày, chợt nhớ ra hồi đó đang có tranh chấp biên giới với Việt Nam. Những năm 70 nơi này chỉ có giặc cỏ, tôi không nghĩ ra thời ấy nó chính là chiến khu, vậy thì tình hình khi đó lại càng thêm phức tạp.
Tình huống này tôi thật sự không ngờ tới, thoáng chốc đã rơi vào trầm tư, vô vàn suy nghĩ hiện lên trong đầu.
Trong hoàn cảnh lúc ấy, chắc chắn không có đội khảo sát nào tới đây làm nhiệm vụ, chuyện này thật kỳ lạ… Nhóm Văn Cẩm đúng là thần thông quảng đại. Chẳng lẽ hạng mục cần khảo sát cũng là hạng mục do quốc gia cắt cử, có cả súng ống chứng tỏ có sự bảo vệ của quân đội rồi.
Phải là hạng mục nào mới đủ khiến quốc gia cử một đội khảo sát đến chiến khu? Lẽ nào trong núi Dương Giác thực sự tồn tại một cổ mộ có giá trị rất lớn?
“Những kẻ đó đều là quái vật…” câu nói của chú Ba chợt vang lên trong đầu khiến tôi rùng mình.
Lão Bàn Mã nói tiếp: “Cậu không biết vị bằng hữu kia của cậu là hạng người nào đâu, đi cùng hắn cậu chắc chắn sẽ không có kết cục tốt.”
“Ông biết hắn?” Tôi hỏi, “Vì sao lại nói vậy?”
Lão Bàn Mã nhìn tôi: “Tuy không biết mặt, nhưng ta nhận ra được mùi vị chết chóc trên người họ.”
———————————————
(1) Thực ra nguyên văn
水烟袋
chỉ có nghĩa là cái ống hút thuốc có nước
Chương 11: Mùi vị
*****
Tôi không hiểu lão Bàn Mã đang nói gì, “mùi vị chết chóc” là sao? Mùi xác thối?
Lão Bàn Mã không nói thẳng ra, chỉ bảo mùi vị chết chóc chính là mùi người chết.
Xem ra trong lòng lão Bàn Mã chắc chắn còn giấu nhiều chuyện, tuy không thể hiện ra ngoài, nhưng không câu nói nào không ngầm ám chỉ với tôi rằng lão biết rất nhiều chuyện. Nhưng dường như lão lại muốn che che đậy đậy, thái độ rất mâu thuẫn; từ thái độ bình thản khi đối mặt với Muộn Du Bình, có thể thấy lão già này nhất định là một người từng trải.
Đầu óc tôi cứ quay mòng mòng, đặt mình vào địa vị người khác mà nghĩ xem, một người sẽ tỏ thái độ này vào lúc nào?
Một là khi đang muốn bán đồ với giá cao, trước kia tôi đã tiếp xúc với một vài tay lái buôn, cũng có cái kiểu nói năng nhát gừng như thế. Khổ nỗi lão quỷ này lại không giống cho lắm.
Hai là trong lòng ẩn giấu một bí mật, tuyệt đối không thể tiết lộ, nhưng anh ta lại chứng kiến một chuyện nào đó xảy ra có liên quan đến bí mật của mình; nếu không chịu tiết lộ, có thể sẽ gây ra hậu quả cực kỳ nghiêm trọng. Trong tình cảnh mâu thuẫn này, anh ta chỉ có thể nói một câu lập lờ nước đôi. Ví dụ như có một đặc vụ đã bị nghi ngờ, lúc này anh ta thấy một thằng nhóc đang nghịch một khối tròn bằng sắt; anh ta biết khối tròn đó chính là mìn, nhưng nếu nói ra điều này với thằng nhóc thì thân phận đặc vụ của anh ta có thể bại lộ. Nên anh ta mới bảo thằng nhóc kia: “Cháu nghịch món đồ này, sớm muộn gì cũng bị nó hại chết.”
Tôi cảm thấy khả năng này rất lớn. Khi mới tới nơi này tôi chỉ muốn biết chút ít về tình hình và thời gian nhóm Văn Cẩm vào núi; nhưng sau khi lão trông thấy Muộn Du Bình, lại tỏ thái độ khiến tôi buộc phải để ý. Nói cách khác, theo lý mà suy thì lão cho rằng Muộn Du Bình chính là quả mìn có thể nổ chết tôi. Trong lòng lão chứa một bí mật cho lão biết Muộn Du Bình chính là quả mìn đó, nhưng bí mật này lão lại không muốn nói ra.
Chuyện đó có ý gì! Tôi bỗng nghĩ mình sẽ không tài nào hiểu được nội tình, con mẹ nó chứ, không sợ lão cố gắng giấu kín bí mật của mình, chỉ sợ là thực ra lão không có cái bí mật nào thôi. Tôi sẽ nhớ mặt lão quỷ này, ghi lòng tạc dạ cái ý tốt của lão, chí ít có thể nói, ấn tượng về lão đối với tôi cũng không phai. Hiện giờ chưa dùng tới cách phải nặng lời, cứ kiên trì thêm chút nữa không chừng còn có thể moi ra chút đỉnh.
Có điều là ngay từ đầu mình đã tỏ rõ thái độ rình rập nên lão chắc chắn sẽ sinh lòng cảnh giác, đó là lý do vì sao đầu tiên tôi quyết định phải thật bình tĩnh, rời sự chú ý của mình đi chỗ khác. vì vậy liền gập đầu nói: “thôi quên đi, chuyện này nếu ông đã không muốn nói cháu cũng không miễn cưỡng được, ông có thể nói cho cháu đội khảo cố kia đã xảy ra chuyện gì không?”
A Quý nghe xong liền thở phào nhẹ nhõm, rõ ràng là anh ta sợ hai người chúng tôi nổ ra tranh cãi, không để cho tôi có cơ hội hỏi lại bất cứ một câu gì, vội vàng phiên dịch ngay vấn đề này với Bàn Mã.
Ông già lúc này mới ngẩn đầu lên, nhưng liền lắc lắc, nói một câu gì đó. A Quý phiên dịch lại: “ lão nói, cậu hiểu sai rồi, đấy không phải đội khảo cổ, những người đó phục vụ trong quân đội.”
” Phục vụ trong quân đội?” Ban đầu tôi còn tưởng mình nghe nhầm, A Quý lại phiên dịch thêm một lần nữa. tôi mới xác định không phải tai mình có vấn đề.
Suy nghĩ một chút, tôi cảm thấy nhất định là lão Bàn Mã lầm rồi vì lúc đó mọi người đều mặc quân phục xanh biếc, lão khả năng tưởng những người đó là binh lính cũng nên.
( Đoạn đối thoại tiếp theo đều là do A Quý phiên dịch, nhưng để tiện hơn cho việc tự thuật thì không cần nhất nhất phải giải thích rõ ra nữa.)
” Tình thế lúc đó rất căng thẳng. Nhiều binh lính tới đây lưng đeo súng tự động, nói là muốn vào ngọn núi Dương Giác kia, cần một người dẫn đường cho bọn họ. Bố của A Quý lúc đó tới tìm lão, lão liền đưa bọn họ vào núi”. Ông già nói với tôi.
Tôi nhíu mày, chợt nhớ khi đó đang có tranh chấp biên giới với Việt Nam, vào những năm bảy mươi của thế kỷ trước nơi đây thường diễn ra những trận đánh lẻ tẻ như sao. Tôi quên là lúc đó nơi đây đang là chiến khu, tình thế có khi càng thêm phức tạp.
Đây thật sự là tình huống mà tôi không hề nghĩ đến, tôi lập tức rơi vào trầm tư vài khắc, trong đầu có rất nhiều thứ dần hiện ra.
Trong hoàn cảnh lúc đó, khẳng định là không thể có đội khảo cổ nào tới đây điều tra cả, chuyện này cũng thật kỳ quái,…. đội Văn Cẩm quả là rất siêu phàm. Lẽ nào dự án năm đó là do chính nhà nước phái họ đi, có súng ống nghĩa là thật sự có binh sĩ bảo vệ. Xem ra những gì lão Bàn Mã này nói cũng không phải hoàn toàn là giả.
Là loại dự án gì có thể khiến nhà nước phái một đội khảo cổ lao vào trong một chiến trường như vậy? Chẳng nhẽ núi Dương Giác này thật sự có một cổ mộ rất lớn ư?
“Những người đó lai lịch bất minh…” lời nói của chú Ba đột nhiên lóe lên trong đầu tôi, khiến tôi một phen rùng mình, lạnh sống lưng.
Chương thứ 12
Hồi tưởng của lão Bàn Mã
Sau đó tôi ngồi nói chuyện với lão Bàn Mã suýt soát ba tiếng đồng hồ, cố gắng dò xét bí mật này.
Tôi biết nếu từ đầu đã để lộ ý định dò xét của mình thì sẽ khiến lão cảnh giác ngay, nên tôi quyết định trước hết phải tỏ ra bình tĩnh, bắt đầu dò hỏi từ hành trình Văn Cẩm vào núi.
Nội dung cuộc trò chuyện hết sức rời rạc, lão Bàn Mã nói phải có A Quý phiên dịch, có khi còn phải giải thích khái niệm với nhau, rất tốn thời gian. Hơn nữa lão cũng thường trả lời không đúng trọng tâm, mà có lẽ A Quý phiên dịch cũng sai lêch đi chút ít. Cho nên trò chuyện xong, đầu óc tôi hoàn toàn bị chia ra làm những mảnh rời rạc.
Đội khảo cổ của Văn Cẩm vào núi đại khái là năm 1976, lão không thể nói ra thời gian chính xác.
Đội trưởng lúc ấy hẳn là Văn Cẩm, nhưng khi tôi lấy bức ảnh chụp chung ở Tây Sa ra cho lão xem thì lão lại không phân biệt nổi những người khác. Thời gian đã quá lâu, mà người cũng nhiều, trong hoàn cảnh lúc ấy, tóc tai quần áo mọi người đều như nhau, lão chỉ nhớ duy nhất người đội trưởng cũng rất hợp lý.
Ban đầu mọi chuyện diễn ra bình thường, khi ấy vùng này thường xuyên xảy ra tranh chấp biên giới, trong thôn xuất hiện quân đội cũng rất bình thường. Phải biết rằng những năm 1978 vùng Thượng Tư hầu hết đều có quân giải phóng, đường trong núi này phần lớn đều được đào vào thời điểm diễn ra chiến dịch phản kích quân Việt, bộ đội phải vào trong núi tìm người dẫn đường cũng là nhiệm vụ quân sự.
Lão Bàn Mã nhận tiền phụ cấp của bộ đội, bấy giờ lão vẫn còn là tráng niên, trong khi săn thú thường một mình lặn lội vào những nơi xa nhất, sâu nhất, dĩ nhiên tìm lão làm người dẫn đường là thích hợp nhất.
Bọn họ lên đường vào sáng sớm ngày hôm đó, nhiệm vụ của bộ đội lão không tiện hỏi nhiều, cứ thế dẫn bộ đội vào núi Dương Giác, sau đó đi cùng đoàn luôn. Tâm tư của lão đặt cả vào việc nhớ đường, núi Dương Giác là nơi không hay lui tới, lão phải đảm bảo có thể trở về.
Bọn họ đi khá lâu, nghỉ trong núi một đêm rồi đến một cái hồ trong núi.
Nơi này lão Bàn Mã mới đến có một lần vào năm ba mốt tuổi, lão cưới vợ nên muốn bắt mấy con hoẵng về biếu nhà ngoại. Năm ấy trong núi không yên ổn, dã thú đều trốn vào rừng sâu. Lão dắt chó đi một mạch vào đây, tìm được cái hồ này, nấp ven hồ một ngày thì săn được một con lợn rừng, sau đấy cũng không vào đây thêm lần nào nữa.
Những cái hồ kiểu này hiển nhiên không có tên, có lẽ ngoại trừ lão Bàn Mã thì người trong thôn cũng không ai biết nơi này có hồ. Đây là một cái hồ khép kín, không có suối chảy vào, đáy hồ có thông đến đâu hay không thì lão chịu. Bọn họ dựng lều căng bạt bên hồ, thế là nhiệm vụ của lão Bàn Mã đã xong.
Sau đó, lão nhận nhiệm vụ cứ cách vài ngày lại đi cấp dưỡng cho bộ đội. Nguồn dự trữ của bộ đội cũng rất đầy đủ, cho nên mỗi lần vào núi lão cũng chỉ mang theo chút gạo hoặc muối ăn, chuyện quái lạ mà A Quý kể cũng xảy ra trong một lần tiếp tế như thế. Trong suốt quãng thời gian đó, không ai biết đội quân kia trú đóng ở đó làm gì.
Trong quá trình tiếp tế lão Bàn Mã cũng rất hiếu kỳ, nhưng lão biết vào thời buổi này, dòm ngó những bí mật kiểu này sẽ phải trả giá rất đắt, cho nên lão cố nhịn trí tò mò của mình xuống. Sau đó, khi nhóm người nhổ trại, họ đã có thêm khoảng hơn ba mươi cái hộp, cái nào cũng to bằng cỡ hộp giày, được những người lính hết sức cẩn thận đưa ra ngoài.
Lão tò mò, cũng từng muốn cầm thử một hộp, nhưng lại bị một người lính khéo léo ngăn lại. Người lính nói trong hộp này chứa một thứ rất nguy hiểm, khi anh ta cầm nó lên, lão chỉ cảm thấy cái hộp rất nặng, không biết bên trong chứa vật gì.
Tôi nghe tới đây, trong đầu hình như cũng lờ mờ có ấn tượng. Loại hộp lớn cỡ hộp giày này, tên là “hộp thu nạp”, biệt danh là hộp đồ cổ, là dụng cụ đội khảo cổ dùng để lưu giữ những mảnh văn vật nhỏ khai quật được. Loại hộp này thường được đánh số nghiêm ngặt, lớn có nhỏ có, nhưng hầu hết đều to cỡ cái hộp giày. (Văn vật khai quật được thường khá nặng, hộp lớn cỡ hộp giày chứa được khối lượng phù hợp nhất cho việc vận chuyển)
Lão Bàn Mã rất buồn bực, vì ven hồ chẳng có chỗ nào đặc biệt, vậy thứ chứa trong những cái hộp kia rốt cuộc từ đâu mà đến? Khi ấy lão cứ đinh ninh hộp này nhất định phải chứa đá, bởi vì ven hồ kia toàn đá là đá.
Nhưng lão nhanh chóng phát hiện ra khả năng này không lớn, vì đi vào núi được một thời gian, bên trong cái hộp bắt đầu tỏa ra một thứ mùi kỳ lạ, rất khó ngửi, không biết phải miêu tả thế nào.
Mùi thịt người chết đới :-ss
Chương 13: Tâm lý chiến
*****
Tôi nghĩ ngay đến mùi thịt ôi, nhưng Bàn Mã nói không phải. Người đi săn quanh năm suốt tháng tiếp xúc với thịt nên lão dễ dàng nhận ra mùi thịt ôi. Chứ còn cái mùi này, quả đúng là không tài nào mô tả nổi.
*ơ không phải thịt người chẳng lẽ là hóa thạch sh*t khủng long :v*
Bình thường muốn tả mùi phải dựa vào vật, ví dụ “thơm như hoa lài” hoặc “hôi như tất thối”. Lão Bàn Mã không tài nào mô tả được, dĩ nhiên là vì lão chưa từng ngửi qua mùi này,thậm chí mùi na ná thế cũng chưa.
Tôi muốn hỏi lão mùi này có phải là “mùi người chết” hay không, nhưng rồi lại thôi. Nếu lão đã không muốn nhắc đến đề tài này thì nửa chừng thắc mắc cũng không có lợi cho tôi.
Sau đó lão Bàn Mã càng thêm hiếu kỳ, nhưng những người kia lại bắt đầu đề phòng, nên lão vẫn chưa có cơ hội tiếp xúc với những cái hộp này. Về đến thôn, nhóm người ấy nhanh chóng rời đi, từ đó về sau biệt tăm biệt tích. Chuyện này ảnh hưởng rất lớn đến lão, mỗi lần vào núi săn thú lão đều nghĩ về cánh quân kia. Bọn họ vào núi nhằm mục đích gì, đã làm gì ven hồ; vật đừng trong hộp là gì, từ đâu mà tới?
Khi ấy lão đã có linh cảm, rồi sẽ có người đến thăm dò chuyện này. Nhưng không ngờ lại đến quá muộn, gần ba mươi năm sau chúng tôi mới xuất hiện.
Tôi hỏi lão hồ nước trông như thế nào, lão bảo hồ dẹt như một thanh loan đao. Bốn phía đều là đá tảng, có những tảng rất to, to hơn thân người, mà cũng có những viên nhỏ bằng đá cuội. Hồ vẫn còn đó, nhưng vì khí hậu biển đổi nên mực nước rút xuống rất nhanh, ba năm trước lão quay lại thì thấy hồ chỉ còn một nửa so với ban đầu.
Nghe đến đó, tôi rơi vào trầm tư. Thứ được giấu trong hộp, rất có thể chính là khối sắt mà chúng tôi đã tìm thấy ở nhà Muộn Du Bình. Nếu có đến ba mươi cái rương được khuân ra ngoài thì hiển nhiên số lượng không nhỏ, rất khả năng nó là mảnh vỡ của món đồ nào đó như lời Bàn Tử nói.
Những thứ này từ đâu mà ra? Trước kia trong điều kiện thiếu thốn thông tin, Bàn Tử từng suy đoán trong núi Dương Giác có một ngôi mộ cổ. Giờ nghe chuyện lão kể, tôi lại nghĩ phải chăng những món đồ này được vớt từ đáy hồ lên?
Lẽ nào bọn họ phát hiện ra một cỗ máy bằng sắt cỡ lớn dưới đáy hồ, tháo nó ra ngay tại chỗ rồi mang từng khối ra ngoài?
Khả năng này không lớn, vì nếu thế thì thứ này khác nào sắt vụn, hơn nữa cũng không thể đựng bằng hộp nhỏ cỡ hộp giày.
Tôi không nén nổi trí tò mò, lòng đã ngầm đồng ý với giả thiết của Bàn Tử, mà dù sao đi chăng nữa cũng phải đến núi Dương Giác ngó thử một lần.
Lão Bàn Mã cũng có một khối sắt, nói là nhặt được trong núi, vả lại lão cứ đinh ninh có cực kỳ quý giá; rõ ràng là sau khi đội khảo sát rời đi, lão Bàn Mã còn động tay động chân vào nữa.
Đây chính là bí mật trong lòng lão, khối sắt và “mùi người chết” có mối liên hệ với nguy hiểm, lão nhất định đã gặp chuyện gì đó mới kết nối ba cái này lại với nhau. Trong ký ức của Muộn Du Bình, khối thép kia là một vật vô cùng nguy hiểm; mà trong hồi ức của lão Bàn Mã, người lính kia cũng bảo lão rằng khối sắt này rất nguy hiểm.
Tôi nghĩ cách cạy miệng lão ra, xét về độ gian trá, tuy tính tôi an phận thủ thường nhưng chơi với đám Phan Tử Bàn Tử đã lâu, muốn gian trá cũng có thể nặn ra một ít gian trá. Vào lúc này, tôi có thể lợi dụng việc lão không nắm rõ thân phận của tôi để lừa lão một chặp.
Bí quyết lừa người chính là để người khác lầm tưởng bạn đã biết cả rồi, cho nên về hình thức cuộc đối thoại, bạn phải biến câu hỏi thành chất vấn.
Tôi im lặng giây lát, trong đầu đã vạch ra phương án sơ lược, liền hỏi: “Vậy sau đó trở lại ven hồ, ông đã phát hiện ra khối sắt này như thế nào.”
Đó hoàn toàn là suy đoán, vì nếu khối sắt này tìm được trong núi thì rất khó có thể là nơi nào khác ngoài cái hồ. Tôi thử đánh cuộc một phen, dù sao có đoán sai cũng không mất mát gì.
Lão Bàn Mã đờ người, tôi biết ngay mình đã đoán đúng. Nhưng trừ khoảnh khắc đứng hình ấy ra, lão cũng không có biểu hiện gì khác, mà chỉ nhìn sang tôi.
Tôi biết lúc này mình phải bồi thêm một cú nữa, lại tiếp: “Ông yên tâm, tôi chỉ cần biết chuyện xảy ra khi đó, còn những chuyện khác tôi không có hứng.”
Lão Bàn Mã biến sắc, buông điếu thuốc xuống hỏi: “Thật ra cậu là ai?”
Lòng tôi thở phào, muốn toát mồ hôi lạnh. Câu tiếp theo sẽ tiếp nối thành công trong phán đoán của câu trước, mùi vị người chết, khối sắt nguy hiểm, chuyện của Muộn Du Bình. Tôi đoán lý do khiến lão giữ bí mật là vì một sự cố, sự cố này nhất định cực kỳ nguy hiểm, dễ chừng còn có người chết. Đáng ra tôi có thể hỏi: “Tôi sẽ không hỏi đến cái chết của hắn.” Nhưng tôi không biết rốt cuộc đã chết bao nhiêu người, nên đổi sang một biện pháp chắc ăn hơn.
Người có “tim đen”, trừ phi hiểu rõ về tôi, bằng không tất sẽ lộ ra sơ hở.
Tôi thầm nghĩ đây chính là lúc đổi khách thành chủ, lập tức trưng ra bộ mặt cao thâm khó dò – những khi chặt chém khách hàng tôi vẫn thường làm thế – lạnh nhạt nói: “Ông đừng hỏi gì thì hơn, chuyện này ông chỉ cần kể rõ đầu đuôi cho tôi biết là được.”
Nói đoạn vuốt túi áo, lấy ra một xấp tiền vốn dành để trả phí tư liệu cho Bàn Mã. Đáng ra chỉ trả hai ba trăm, nhưng để trông có vẻ hoành tráng nên trong túi có bao nhiêu tôi lôi ra bằng hết, đập xuống trước mặt.
“Tôi biết một vài chuyện nhưng không rõ ràng lắm, nên ông đừng lo gì cả, chỉ cần nói ra sự thật là được. Ông cầm tiền là xong, về sau sẽ không làm sao hết, cũng không ai biết chúng ta đã nói gì ở đây.”
Bàn Mã nhìn tôi, có vẻ thấp thỏm không yên. Tôi nhìn lão bằng ánh mắt cực kỳ bình tĩnh và tập trung, chờ lão nổi giận hoặc đầu hàng.
“Làm sao cậu biết chuyện này?” Lão hỏi. “Nói ta nghe thử xem.”
Hừ, tôi chửi thầm, nghĩ bụng lão quỷ này đúng là ngoan cố, cái này làm sao mà nói ra được. Ngoài mặt tôi không đổi sắc, nhưng tâm trí tức khắc xoay chuyển điên cuồng.
Trong một giây phản ứng, tôi gần như buột miệng hỏi: “Lẽ nào các người không biết có người đi theo mình sao?”
Lời vừa nói ra, còn chưa còn chưa kịp định thần thì đã thấy nét mặt Bàn Mã thả lỏng, tim rớt mất một nhịp, thầm nghĩ thôi tiêu rồi, mình đã bị lật tẩy.
Bàn Mã liền nhìn tôi nói: “Tuy không biết cậu là ai, nhưng ta cũng không phải lão già hồ đồ. Cậu về rồi đừng quay lại tìm ta nữa, cậu chẳng biết gì hết, ta cũng không nói cho cậu biết.” Nói đoạn liền ra ý muốn tiễn khách.
Tôi lập tức phản ứng, thầm nghĩ làm sao lão phát hiện ra được nhỉ. Vì lão có thể xác định không ai bám theo mình, hay là vì tình hình khi đó không thể bị bám theo được? Tôi cố nghĩ làm sao để vớt vát, lại phát hiện mình chẳng có cách nào hay, nhanh chóng chán nản buông xuôi.
Con trai lão mở cửa, có ý muốn mời chúng tôi ra. Cửa vừa mở ánh sáng liền ùa vào, tôi đang định đứng lên, chợt phát hiện chân lão run rẩy nhè nhẹ.
Tôi nhìn sang lão, phát hiện lão cũng đang nhìn tôi, tuy nét mặt vẫn điềm tĩnh không chút gợn sóng nhưng sắc mặt lại xấu một cách đáng sợ, rõ ràng trong lòng lão đang căng thẳng cực độ.
Tôi nhanh chóng hiểu ra, lão cũng đang lừa tôi!
Tôi lập tức biến tư thế nhổm người đứng dậy của mình thành một động tác vươn vai, sau đó ngồi trở về chỗ cũ, nói bằng ngữ điệu không thể phản bác: “Đừng cứng đầu nữa, nói thật, tôi không còn nhiều kiên nhẫn đâu.”
Bàn Mã nhìn tôi, con trai lão cũng nhìn tôi. Tôi hoàn toàn tự tin, có thể cảm nhận được vẻ mặt của bản thân vào lúc đó đúng là cực kỳ âm hiểm và khó nắm bắt.
Rất lâu sau, Bàn Mã rốt cuộc cũng cúi đầu, nháy mắt ra hiệu cho con trai. Anh con trai nói gì đó với A Quý, A Quý liền bị nửa lôi nửa kéo ra ngoài. Con lão trở lại ngồi vào chỗ của A Quý, cửa bị đóng lại lần nữa.
Lão Bàn Mã hành lễ cực kỳ trịnh trọng với tôi, rồi ngẩng đầu lên nói: “Dù cậu là ai, thì cũng mong cậu nói lời giữ lời, nếu muốn tính nợ cũ thì cứ tính cả lên đầu ta. Người đều do ta giết, mấy người kia chỉ giúp ta khiêng đồ thôi.”
Chương 14: Ma hồ
Tôi kinh ngạc không hiểu câu nói này có ý gì, nhưng ngay sau đó Bàn Mã đã kể đầu đuôi câu chuyện, mới nghe vài câu toàn thân tôi đã lạnh toát, nhanh chóng hiểu rõ hoàn toàn lai lịch của mùi người chết. Nhưng chuyện này thật sự quá kinh khủng, nằm ngoài dự kiến của tôi, sau khi nghe xong, cảm giác đầu tiên của tôi không phải nghi hoặc mà là ghê tởm.
Tôi thật sự không thể ngờ lại có chuyện như thế xảy ra, cũng chẳng hiểu nổi mục đích của lão khi ấy, càng không tài nào tưởng tượng được lòng người thời đó sao lại ra nông nỗi này. Nếu điều Bàn Mã nói là thật thì thứ lão đang gánh không phải bí mật gì cả, mà là nghiệp chướng nặng nề.
Quá trình trước đó hoàn toàn giống như những gì Bàn Mã đã kể, vấn đề mấu chốt nằm ở cái lần lão vào núi rồi phát hiện ra đội khảo cổ biến mất.
Bàn Mã đã nói dối, lần ấy lão lên núi, đội khảo cổ không hề biến mất; hơn nữa lão cũng không đi một mình, mà còn dẫn theo bốn người anh em nữa. Họ vác đồ đạc giúp lão, như thế trên đường về họ còn có thể đi săn.
Giao lương thực xong họ vẫn chưa về ngay, bởi vì nán lại đó đến chập tối sẽ được ăn một bữa cơm trắng. Đối với họ thì đây quả là đãi ngộ của bậc vua chúa, thế nhưng đội khảo cổ không cho ở lại trong doanh địa, họ đành đứng bên ngoài tán phét mãi đến giờ cơm chiều.
Trong khoảng thời gian này, một trong số bốn người anh em của lão khi nhìn đồ tiếp tế quân dụng của đội khảo sát, đã nảy lòng tham.
Sự nghèo khó của Thập Vạn Đại Sơn hồi ấy, người bây giờ không tưởng tượng nổi đâu. Nhiều năm liền xung đột biên giới khiến muông thú trốn hết vào núi thẳm, lũ trẻ không có thịt mà ăn, chỉ có bông lúa với rau dại, thành ra đều suy dinh dưỡng cả. Cơm trắng với họ chẳng khác nào bánh kẹo, cho nên đồ tiếp tế của bộ đội trở nên quá sức hấp dẫn, mấy bao gạo đó phải ăn được cả năm.
Để thôn dân vận chuyển giúp thì nhất định sẽ bị ăn bớt dọc đường, nên bộ đội khi nhận lương thực đều phải cân lại, nếu phát hiện thiếu cũng không truy xét gì, nhưng lần sau sẽ đổi người khác. Người anh em kia tính chờ họ cân xong đi ngủ rồi sẽ lẻn vào xúc trộm vài bát, như thế không lo mất việc mà lại có thể mang lợi lộc về nhà.
Đây vốn là một việc hết sức đơn giản, Bàn Mã không đồng ý vì tay nghề lão tốt, gia cảnh cũng tạm ổn, chưa khổ đến nỗi để con cái chết đói, nhưng ba người kia đều động tâm.
Bàn Mã đành phải để họ đi còn mình đứng chờ bên ngoài, ai mà ngờ ba người vào rồi lại sinh chuyện chứ.
Trong góc lều chứa gạo, họ xúc trộm mỗi bao ba bát, lúc ra vừa hay lại đụng phải một tiểu binh vào đó kiểm tra. Tiểu binh lập tức giương súng, nhưng cậu ta không nhìn thấy một người nấp phía sau; trong tình thế cấp bách, người này thình lình đè tiểu binh xuống, rồi cả ba chụp bao gạo lên đầu cho cậu ta chết ngạt.
Giết người rồi, bọn họ sợ đứng tim. Tội giết người, đặc biệt là giết quân nhân sẽ bị xử bắn ngay tại chỗ, nếu để người ta phát hiện chắc chắc sẽ bị bắn thẳng tay. Họ vội chạy ra kể lại cho Bàn Mã, Bàn Mã liền nghĩ bụng ôi thôi hỏng bét rồi.
Chuyện này kiểu gì cũng dây đến lão, vì đội khảo sát mời lão, còn mấy người anh em là do lão nhờ đến giúp, toàn bộ trách nhiệm lão đều không thể trốn thoát. Hơn nữa vào thời điểm nhạy cảm này, dù lão chối mình không tham dự thì cũng chẳng ma nào tin.
Lão lập tức nghĩ ra một cách, phải lôi xác tiểu binh kia ra ngoài coi như mất tích, nếu không họ nhất định sẽ bị tra ra.
Họ lén quay về trả hết gạo, sau đó lôi cái xác tiểu binh ra khỏi lều, kết quả là chưa đi được bao xa đã bị người canh gác phát hiện. Đối phương đuổi theo hỏi họ đang làm gì, bọn Bàn Mã nhất thời chột dạ, để lộ thi thể, tay lính canh lập tức giương súng; nhưng kẻ trước đó đưa ra chủ ý ăn trộm đã chuẩn bị sẵn sàng, thình lình cắt đứt cổ người kia.
Gần như không hề suy xét, bọn họ cứ như bị tẩu hỏa nhập ma mà giết hai người liền. Bàn Mã thầm nghĩ toi đời rồi, lão đề nghị trốn đi, nhưng tay giết người kia lại nổi điên nói đã giết hai người rồi, giết hai là giết mà giết sạch cũng là giết, nếu để họ trở về báo cáo lên quân đoàn thì chúng ta phải trốn trên núi cả đời. Chi bằng giết hết cho xong, rồi cứ nói là không thấy họ đâu nữa, mọi người chắc clão sẽ tưởng là người Việt Nam làm.
Đây là sự kích động bất ngờ xảy đến trong bầu không khí quỷ dị. Đội khảo sát không đông, hiện giờ phần lớn đều ngủ say không biết trời trăng gì nữa, nghĩ đến số gạo trắng và súng tiểu liên, cùng chuyện xảy ra sau đó, ngay cả Bàn Mã cũng không thể kiềm chế tạp niệm nổi lên trong lòng.
Chuyện xảy ra sau đó thật ghê tởm, họ cầm súng tiểu liên và dao găm lần lượt lẻn vào từng lều, dùng thắt lưng siết chết bằng sạch những người bên trong.
Giết người xong họ ném xác xuống hồ rồi đem giấu hết súng ống đạn dược lẫn vật tư, lén lút vác gạo và thức ăn về thôn, giấu dưới gầm giường, cùng hẹn nhau quyết giữ bí mật này đến chết.
Khi đó Bàn Mã chột dạ, tính tới tính lui rồi bắt đầu lan truyền khắp thôn câu chuyện đội khảo cổ mất tích một cách kỳ lạ, chuẩn bị sẵn đường lui. Bởi dạo đó thường xảy ra xung đột biên cảnh, nếu có một đoàn người mất tích ở biên giới Việt Nam thì thường bị đổ cho đặc công Việt Nam làm.
Mấy người họ cứ đinh ninh mình không làm gì sơ hở, ai ngờ đây lại là khởi đầu cho một cơn ác mộng.
Ba ngày sau, Bàn Mã làm bộ muốn đi đưa lương thực, nhân cơ hội quay lại ven hồ, định đến chỗ kia lục tìm mấy món đồ đáng giá. Chuyện điên khùng đêm đó khiến lão vẫn còn e ngại vùng giữa hồ, nên ban đầu chỉ dám đứng từ xa nhìn lại. Đáng sợ làm sao, lão lại trông thấy ven hồ xuất hiện một doanh địa, mà còn có người hoạt động nữa chứ.
Có một đội quân khác? Thi thể đã bị phát hiện? Lão sởn da gà, mất một lúc lâu mới bình tĩnh lại, cho đến khi gắng gượng lấy dũng khí đi vào doanh địa, lão lại trố mắt đứng nhìn: đội khảo sát trước kia ấy thế mà lại xuất hiện ngay trước mặt lão.
Bàn Mã hoàn toàn không hiểu nổi cảm giác của mình lúc này, cũng không thể xác định rõ rốt cuộc là chuyện gì đang xảy ra. Nhìn những bóng người lướt qua trong doanh địa, lão cữ ngỡ mình đang rơi vào ảo ảnh. Họ dường như không hề hay biết trước kia đã xảy ra chuyện gì, rối rít chào hỏi lão.
Lão còn tưởng mình đang nằm mơ, tự véo mấy cái mới phát hiện ra đây là thật. Những gương mặt ấy tuy không quen lắm, nhưng đều đã gặp trong đội khảo cổ kia; thậm chí lão còn thấy mấy người bị chính tay mình siết cổ đang đứng đó chuyện trò vui vẻ.
Lão hoảng hốt chạy về thôn, hồn bay phách lạc, vội vàng kể lại mọi chuyện với mấy người kia. Cả đám quay lại xem thì thấy quả nhiên là thế, ai nấy đều hoảng sợ, suy nghĩ xem chuyện này rốt cuộc là sao. Lẽ nào đó là một hồ ma có thể hồi sinh người chết?
Nhưng bọn họ đều sống sờ sờ, không giống cương thi chút xíu nào.
Bàn Mã nghĩ mãi mà không ra. Người trong thôn rất mê tín, cứ đinh ninh đây nhất định là do sơn thần hồ quỷ tác quái, sợ đến mất vía. Bàn Mã suy tính hồi lâu mới dám lấy hết dũng khí trở lại bên hồ đưa lương thực cho họ nhân tiện ướm hỏi chuyện hôm ấy, nhưng mọi người đều nói không có việc gì, biểu cảm vẫn như bình thường.
Ngày hôm ấy giống như đã bị lật sang trang, thiên thần đã xóa bỏ mọi việc xảy ra trong ngày đó. Hoặc là, mấy kẻ thủ ác đều đã mơ cùng một giấc mơ, họ căn bản không hề giết người.
Bàn Mã không phải là người dễ chịu thua, lão không tin mình nằm mơ, nhưng nghĩ mãi mà không thông được. Sau đó lão vẫn luôn chú ý đến nhóm người này, muốn biết bọn họ rốt cuộc là người hay quỷ? Nhưng dù có quan sát kỹ lưỡng đến đâu, lão cũng không thấy mảy may sơ hở.
Điểm duy nhất khiến lão cảm thấy kỳ quặc là, lão ngửi thấy trên người họ xuất hiện một thứ mùi lạ mà trước kia không có.
Chương thứ 15
Trúng tà
Thứ mùi đó chính là thứ mà Bàn Mã đã ngửi thấy trong rương kia, có điều mùi trong rương phát ra còn nồng nặc hơn.
Đối với Bàn Mã mà nói, đây đích thị là mùi của người chết. Những người kia không biết là người hay quỷ, hay thậm chí còn là quỷ dữ nữa. Mùi này nhất định là từ trong âm tào địa phủ bay ra.
“Trên người vị bằng hữu kia cũng có thứ mùi đó, nếu như không phải bị mùi thảo dược át đi, lần đầu tiên lão gặp hắn đã ngửi thấy ngay rồi.” Lão Bàn Mã nhìn tôi, “hắn giống như bọn họ vậy, cũng là yêu quái trong hồ kia.”
Muộn Du Bình trên người có mùi gì chứ? Tôi đối với những mùi lạ thường không quá nhạy cảm, tôi cũng không phải thợ săn nên khứu giác cũng bình thường, cho nên đối với những lời này vẫn nửa tín nửa ngờ. Lần sau phải thử một phen lén ngửi xem trên người anh ta có mùi gì mới được. (thử đi rồi phán xem là nước hoa của hãng nào để bên này đi mua
.
Nếu như chuyện dừng lại tại đây, e rằng đã nhanh chóng rơi vào quên lãng, qua một thời gian, người ta sẽ tự hoài nghi về trí nhớ của mình. Đối với những điều không thể giải thích sẽ tự động được não bộ xóa hết. Nhưng tôi biết chuyện chắc chắn không thể chấm dứt như vậy, vì nếu chỉ có như vậy thì lão Bàn Mã sẽ không thể đưa ra cái kết luận (động trời) là Muộn Du Bình sẽ hại chết tôi được.
Quả nhiên là Bàn Mã còn tiếp tục kể lại, ông ấy nói: sau khi chuyện đó xảy ra, cả đời ông ta cũng sẽ không thể quên được thứ mùi đó.
Sau khi phát sinh sự việc kỳ quái, Bàn Mã luôn cảm thấy tâm thần bất an. Tuy là những người đó có vẻ không hề khác trước nhưng Bàn Mã cảm giác được trong ánh mắt và thần sắc của họ lại ẩn chứa một tia ma quái. Loại cảm giác này hoàn toàn không dựa vào một căn cứ nào, nó chỉ là do ảnh hưởng tâm lý mà thành. Lão Bàn Mã có một linh cảm rằng trong thôn sẽ phát sinh chuyện bất thường
Vài ngày sau, trong thôn xảy ra chuyện thật, thậm chí còn khiến cho Bàn Mã kinh người sởn gai ốc.
Cùng hành động với ông ta đêm hôm đó còn có bốn người nữa, bọn họ đều có liên hệ huyết thống với nhau, một người trong số đó tên là Bàng Nhị Quý, thiếu can đảm nhất, hắn đột nhiên không thấy tăm hơi đâu nữa. Bàn Mã và những người kia đều giữ kín bí mật, trong lòng chợt động, cũng không ai dám nói gì. Người trong thôn đi vào núi tìm hai ngày, cuối cùng nhóm Bàn Mã đành liều mạng quay trở lại hồ, bỗng phát hiện Bàng Nhị Quý đang ở trong doanh địa, cùng với những người trong đội khảo cổ kia chuyện trò vui vẻ.
Bọn họ không hiểu chuyện gì, lôi hắn trở về, lúc Bàn Mã kéo hắn lại ngửi thấy trên người Bàng Nhị Quý bốc lên thứ mùi thần bí kia.
Bàn Mã nhìn Bàng Nhị Quý mà toàn thân nổi da gà, ông ta cũng cảm giác biểu cảm của Bàng Nhị Quý không giống với trước kia, hình như đã biến thành một người khác.
Cái cảm giác sợ hãi này không cách nào hình dung nổi, ông ta nghĩ rằng Bàng Nhị Quý khẳng định đã bị ma dụ. Về tới thôn, Bàn Mã dặn dò vợ Bàng Nhị Quý, bảo cô ấy nếu thấy chồng mình có gì bất thường lập tức báo ngay cho ông ta.
Nhưng bà ta cũng không có cơ hội để phát hiện điều gì, ngày thứ hai, vợ của Bàn Nhị Quý tỉnh dậy phát hiện hắn đã treo cổ ở ngay trên mép giường. Toàn bộ căn phòng tràn ngập thứ mùi quái đản đó.
Người trong thôn tưởng rằng hắn nghĩ quẩn hoặc là bị ma hồ mê hoặc, trong lòng Bàn Mã đã hiểu hết, ông ta càng thêm thấp thỏm lo ấy hơn, khẳng định những người đó là yêu quái, nhất định Bàng Nhị Quý cũng đã bị trúng tà.
Vợ Bàn Nhị Quý sợ hãi cũng không dám ở lại cái căn nhà đó nữa, lập tức trở về nhà mẹ đẻ, căn nhà đó liền bị bỏ hoang.
Những người kia bị dọa sợ, hai người sau đó đã rời khỏi thôn. Bàn Mã và một người nữa vẫn ở lại, buổi tối không ai dám ngủ, mượn thêm vài con chó canh, sợ là người kế tiếp sẽ là mình.
Nhưng chó cũng vô dụng, một tuần sau, người bằng hữu của ông ta cũng mất tích. Hai ngày sau đó, một đứa bé phát hiện ra hắn đang ở trong căn nhà bỏ hoang của Bàng Nhị Quý, đã treo cổ chết cùng một chỗ với người kia.
Bàn Mã trời sinh bàn tính kiên cường khí khái, từ nhỏ đã bầu bạn với núi rừng, cho nên vô cùng mạnh mẽ, sau khi sợ hãi cực điểm, ngược lại ông ta lại bất chấp tất cả, mang theo súng đi tới bên hồ, thầm nhủ cùng lắm là chết, có chết cũng phải chết một cách rõ ràng, tuyệt đối không ngồi một chỗ mà chờ đợi. Thế nhưng sau khi ông ta vào núi, vừa đúng lúc đội khảo cổ đang đi ra.
Bàn Mã đi tới nửa đường thì gặp bọn họ, hình như họ không cần tới người dẫn đường nữa, Bàn Mã trước đã muốn cắt đứt quan hệ, nhưng vừa thấy những người kia lập tức toàn thân bủn rủn. Lòng thầm kinh sợ, chỉ biết đi theo bọn họ ra khỏi núi.
Như những gì sau đó Bàn Mã nói thì đội khảo cổ mang theo những rương tỏa ra thứ mùi khó hiểu kia đi khỏi thôn, cho tới bây giờ cũng không hề xuất hiện nữa. Hai người trốn khỏi thôn cũng không xảy ra chuyện gì, Bàn Mã vẫn kinh sợ mất hơn một năm, sau đó mới dần bình tâm trở lại, tin tưởng nhóm người kia đã đi thật rồi.
Chuyện này giống như một cơn ác mộng luôn luẩn quẩn trong đầu Bàn Mã, cảm giác hoảng sợ đó tôi có thể tưởng tượng được. Sau khi nhóm binh sỹ kia đi được nửa tháng, vì muốn biết rõ chuyện gì xảy ra, ông ta đã quay lại hồ lần thứ nữa. Đi một vòng quanh hồ, đột nhiên Bàn Mã phát hiện có một bộ y phục không biết tại sao lại bị vứt lại trên bờ, trong bộ quần áo đó, ông ta tìm thấy khối sắt kỳ quái kia.
Phát hiện ra khối sắt này khiến cho Bàn Mã khẳng định những người kia đã lấy nó từ trong hồ lên, bởi vì khối sắt nằm trong quần áo, tuyệt dối không thể bị nước hồ đẩy vào bờ được. Khối sắt kia tỏa ra thứ mùi khiến cho người ta sởn tóc gáy, Bàn Mã cảm thấy đây là chuyện rất quan trọng, vì vậy vẫn luôn luôn giữ nó bên người. Mấy năm trước khi đời sống sinh hoạt khó khăn, ông ta từng muốn bán nó đi, giờ cuộc sống đã tốt lên, nhớ tới tình hình năm đó mà vẫn không nén nổi bản thân có chút sợ hãi, đã nghĩ sẽ giữ bí mật này tới cuối đời rồi đem nó theo xuống quan tài.
Sau đó thì chúng tôi xuất hiện.
Bí mật của Bàn Mã rốt cuộc cũng đã kết thúc.
Sau khi nghe xong, tôi im lặng suy nghĩ thật lâu, ít khi tôi cảm thấy mê hoặc như vậy. Đây là lần đâu tiên tôi cảm giác được, hình như mình vừa cầm được một sơi xích, có thể đem hết những nỗi băn khoăn trong lòng xâu chuỗi lại với nhau.
Những bí ấn này giống như từng túyp sắt lối hai đầu, nỗi băn khoăn trong đầu tôi ví như là mỗi khớp lối đó, nếu như đem hai mối nghi ngờ trong đó giáp lại, như vậy bốn bí ẩn sẽ chỉ còn lại hai mà thôi. Nếu đem tất cả những ống tuýp đó lối với nhau thì những bí ẩn sẽ chỉ còn lại ở hai điểm đầu và cuối. Cho nên khi những mối nghi ngờ từng bước từng bước được lối lại, nó sẽ khiến cho con người ta rất thích thú.
Nếu như là tôi trước kia, nhất định sẽ phát điên, nhưng hiện giờ tôi đã học được cách không nhìn đến bản chất vấn đề. Tôi rõ ràng ý thức được chân tướng chuyện này, sự tình vẫn cần phải được chứng thực, nếu như suy nghĩ của tôi chính xác, như vậy vấn đề mà chú Ba hay là cả Giải Liên Hoàn vẫn nghi hoặc, đã có được lời giản đáp.
Để có thể chứng thực được chuyện này, nhất định phải tới được bên hồ kia đã.
Bàn Mã lấy khối sắt ra cho tôi xem, vật kia quả nhiên giống với thứ phát hiện dưới giường nhà Muộn Du Bình, cùng một loại sắt, mặt trên có những hoa văn cổ xưa, có điều khối sắt của Bàn Mã lớn hơn. Tôi thử ngửi qua một cái, đúng là có thấy một mùi rất kỳ lạ, chỉ thoang thoảng, gần như không thể nào phân biệt được. Lão già nói, lúc mới phát hiện ra mùi của nó rất đậm, dần dần, mùi này cũng biến mất. Khối sắt để ở nhà, bao nhiêu côn trùng sâu bọ đều không có.
Tôi tạm thời mất đi hứng thú đối với vật này, trong đầu tràn ngập những suy đoán.
Bàn Mã không chịu quay lại cái hồ đó, tôi nghĩ hay là để cho A Quý tìm người dẫn đường cho chúng tôi, sau khi để lại tiền cho lão Bàn Mã rồi tôi liền đứng dậy cao từ.
Lúc đi tới của, tôi bỗng nhớ tới một chuyện khác, quay đầu lại hỏi: “ đúng rồi, ông già, trên người ông có một hình xăm, chuyện thế nào vậy?”
Bàn Mã nhìn tôi, có chút kinh ngạc khi thấy tôi đột nhiên hỏi câu này, người con trai liền thay lão giải thích: “đây là hình xăm phòng bệnh, là khi bố tôi còn nhỏ, có một thầy cúng người Miêu đi qua đây. Lúc đó bố tôi đã cứu mạng ông ta, nên ông ta đã xăm hình này lên người bố tôi để tạ ơn. Nghe nói là có hình xăm này thì được phép đến sơn trại người Miêu mà không gặp bị ngăn trở, không ai có thể làm khó dễ mình cả”.
Chương thứ 16
Ra kế hoạch
A Quý vẫn ở cửa chờ tôi, ngồi chồm hỗm dưới đất buồn bực hút thuốc, rõ ràng là không biết mấy người nhà Bàn Mã đang giở trò quỷ gì. Sau khi nhìn thấy tôi thì lập tức đứng lên, tôi nhìn anh ta nói: “ đi thôi, chúng ta trở về nhà.”
Trên đường về tôi hỏi anh ta xem có biết cái hồ mà Bàn Mã nhắc đến trong núi Dương Giác không? A Quý gật đầu nói trước có từng nghe người ta nói qua, có điều bản thân thì chưa bao giờ đi tới đó. Tôi nói tôi ra giá cao một chút, anh giúp tôi mau chóng tìm một người thợ săn, dẫn chúng tôi vào núi.
A Quý hoàn toàn đáp ứng, lại thử hỏi tôi, Bàn Mã rốt cuộc đã nói gì với tôi vậy? Có điều A Quý là người ngoài cuộc, tôi thầm nghĩ nói cho anh chính là hại anh, có khi anh thuận miệng lại kể ra mất.
Vội vã trở lại nhà A Quý, tôi nóng lòng luốn đem những gì vừa phát hiện được kể lại cho Muộn Du Bình, lại thấy trong nhà chỉ có mỗi Vân Thái và chị gái cô ấy đang đốt lò bếp. Muộn Du Bình bà Bàn Tử đều không có ở đây.
Thầm thấy khó hiểu, liền qua hỏi Vân Thái mấy người kia đâu? Vân Thái nói vị kia chẳng nói lời nào, lúc về thấy ông chủ Bàn không có nhà lên tới hỏi em, em bảo là ông chủ Bàn đi ra ngoài cả đêm không về, người đó liền vội vã đi tìm.
Lúc trước lòng tôi hừng hực hưng phấn, nhưng nghe xong lập tức bao nhiêu phấn khích đều bị át đi, thầm nghĩ Bàn Tử đi cả đêm không về sao?
Sơn thôn không giống như thành phố có chỗ ăn chỗ chơi cho anh ta đi tiêu dao, thế mà cả đêm cũng không về thì thật bất thường. Đối với tôi thì tính cách của Bàn Tử cũng tương đối hiểu, nhớ là lúc trước nói muốn đi tìm mua acid sulfuric, bỗng trong lòng có một dự cảm rất khó hình dung.
Chắc Muộn Du Bình giống tôi, cũng lập tức nghĩ ngay tới khả năng này, cho nên mới vội bỏ đi tìm.
Tôi liền nhờ A Quý đưa vào trong trụ sở thôn, nếu như Bàn Tử có xảy ra chuyện bất trắc, nhất định sẽ ở nơi này. Vừa ra ngoài được vài bước, lại tình cờ gặp Muộn Du Bình và Bàn Tử đang trở về, trên mặt Bàn Tử có băng gạc, vừa đi vừa chửi lầm bầm, hình như là anh ta bị thương.
Vừa hỏi thì biết hóa ra là Bàn Tử mua được acid sulfuric rồi, trên đường trở về thấy một tổ ong vò vẽ nên thấy thích quá, kết quả không biết lượng sức mình, bị chúng nó đốt cho. Vào trong trụ sở thôn để tiếp nước rồi ngủ quên luôn trong đấy. Bàn Tử nói ong bắp cày nơi này không giống với những con anh ta đã từng gặp phải trước kia, vừa tới gần đã bị chúng lao ra vây quanh, vô cùng hung dữ.
Tôi mới bảo anh đừng có mà đổ cho nguyên nhân khách quan, tiên trách kỷ hậu trách nhân, anh cũng phải thú nhận là bản thân mình đã già rồi đi. Lão Bàn Tử không nói là năm đó còn trai tráng, việc chọc tổ ong sau anh đâu có hay làm, đừng khiến người ta chê cười như thế chứ.
Trở về phòng để Bàn Tử thay thuốc, lúc tháo gạc tất nhiên sẽ rất đau, nếu không phải vì trước mặt là Vân Thái anh ta phải ra vẻ mình là nam tử hán đại trương phu, khẳng định là Bàn Tử đã gào lên như heo bị chọc tiết rồi.
Ngược lại Vân Thái rất bình tĩnh, khử trùng qua loa trên mặt anh ta. Lúc này tôi phát hiện trên cằm Bàn Tử có mấy vết như móng tay to sưng vù lên, Vân Thái dùng cái que trúc gẩy cái vết thương ra để bôi thuốc lên, nhìn như là cắt thịt sống ra, thảo nào mà Bàn Tử đau bằng chết.
Sau khi làm xong Bàn Tử ăn cũng khổ, vất vả lắm mơi dùng xong được bữa cơm, trời về tối, chúng tôi ngồi trên hành lang nhà sàn hóng mát. Lúc này tôi mới đem hết thảy mọi chuyện nghe được tại nhà Bàn Mã thuật lại một lượt.
Sau khi nghe xong, hai người cùng cau mày, Bàn Tử hỏi: “ còn có chuyện như vậy sao, mẹ nó chứ, cũng quá cả việc ngày xưa tôi kể truyện ma hù dọa mấy cô nương, nếu chuyện này là thật, cậu nói giả thiết của cậu là gì?”
“Tôi cho rằng lão Bàn Mã hoàn toàn không nói dối”, tôi đáp, “chuyện này tuyệt đối là thật, nhưng ý nghĩa của chuyện này không phải như vậy.”
“Cậu nói thế là có ý gì?” Bàn Tử hỏi lại.
“Chúng ta thử cân nhắc khả năng hợp lý nhất, không cần lo tới ma hồ kia, cũng không có yêu quái gì cả, vậy khả năng lớn nhất là gì?”
Bàn Tử lắc đầu nói: “ thôi đi mà, tế bào não của tôi đều đã bị lũ ong bắp cày kia diệt hết rồi, tôi không đoán được đâu, có gì nói thẳng luôn đi.”
Tôi cười khổ, khó khăn lắm mới có cơ hội thể hiện một chút thì Bàn Tử lại không phối hợp, nói: “ được, chúng ta đem tất cả những nhân tố không thể xảy ra bỏ hết đi, không có bất kỳ một thế lực thần bí nào ở hồ nước kia cả. Không có chuyện người chết sống lại, cũng không có yêu ma quỷ quái, nhưng để cho sự việc diễn ra hợp lý, như Bàn Mã nói, thì khả năng duy nhất có thể xảy ra rất rõ ràng- người không thể nào sống lại, vậy thì lúc đội khảo cổ vào núi cùng với lúc xuống núi, chắc chắn không phải là cùng một đoàn người.”
Bàn Tử im lặng một lúc, hiểu ra ý của tôi liền nói: “ cậu nói là, người chết không thể sống lại, nhóm người ra khỏi núi năm đó là một đội khác sao?”
“Người của Bàn Mã đã giết đội khảo cổ kia, chắc chắn là đã chết, Bàn Mã cũng không biết người trong đội đó, nếu như sau đó có một nhóm người khác dịch dung, tôi nghĩ cũng không cần hóa trang quá cao siêu cũng có thể lừa gạt được lão già đó.”
“Nhưng vì sao bọn họ phải làm vậy? Đây không phải chỉ là đùa giỡn lão ta thôi sao.”
“Đó chỉ là suy đoán của tôi thôi, thông qua tình hình của đội khảo cổ cùng với chuyện của lão Bàn Mã, tôi cảm thấy sự tình vẫn còn thiểu sót gì đó. Chúng ta giả thiết như đây là một âm mưu đã được lên kết hoạc từ trước, như vậy khả năng trong chuyện này, cái ngày lão Bàn Mã tàn sát đội khảo cổ, thực chất là bọn họ đã bị chỉ định giết hết, nhưng kế hoạch có thể đã bị sai lệch. Hay những sát thủ tới giết đội khảo cổ đã gặp biến cố khi ở trong rừng, nên không tới được. Ngược lại Bàn Mã đã hoàn thành nhiệm vụ của họ, sau đó nhóm người thay thế đội khảo cổ đi tới nơi này, tưởng là nhóm sát thủ đã hoàn thành công việc, vì vậy cứ theo kế hoạch từ trước bắt đầu giả trang lại. Như vậy Bàn Mã mới nghĩ là có ma hồ xuất hiện.” tôi nói, “đây là một suy luận tương đối hợp lý, sự thật có thể không hoàn toàn xảy ra như vậy, nhưng điều này khả năng giải thích cho những chuyện đã xuất hiện.”
“Ai da, chuyện này nghe mơ hồ quá, có điều Đàn gia tôi hình như từng nghe qua sự việc thế này ở đâu rồi?” Bàn Tử nói,” cậu có bằng chứ gì không?”
“Chỉ có một chút chi tiết, ví như nói, đội khảo cổ kia đúng là được Bàn Mã dẫn vào núi, nhưng lúc đi ra, không cần chờ Bàn Mã vào dẫn mà tự mình xuất phát. Nó giải thích cho việc đội khảo cổ phải thông thuộc địa hình nơi này thì bọn họ mới có đủ bản lĩnh để đi ra ngoài. Chuyện xảy ra sau đó, có thể là bởi đội khảo cổ kia phát hiện ra manh mối từ nhóm Bàng Nhị Quý nên liền ra tay giết người diệc khẩu?” tôi nói, ” tôi hiện giờ cũng không biết đội khảo cổ kia có phải chính là đội đã đi Tây Sa không, nhưng tôi cảm giác được cho dù không phải toàn bộ cả nhóm nhưng khẳng định cũng phải có vài người. Nếu như vậy anh nói xem có phải những người này vì lần đi Tây Sa mà xảy ra chuyện đánh tráo này không.” suy nghĩ của tôi càng ngày càng hoàn thiện.
Bàn Tử nói: “ con mẹ nó, cậu chứng minh nó bằng cách nào chứ?”
“Cách trực tiếp nhất, chúng ta phải đi tới hồ nước trong núi Dương Giác kia xem một chuyến, hiện giờ hồ đã nhỏ đi, tôi nghĩ có thể lặn xuống để quan sát bên dưới chứa cái gì, có xác chết nào bị vứt vào trong hồ nước không.”
“Con mẹ nó việc này có chút khó khăn, hiện giờ đã qua tới bốn mươi năm, dù có xác người thì sớm đã nát vụn ra hết rồi.”
“Xương cốt chắc chắn vẫn còn ở đó.” Tôi nói, “người của Bàn Mã không hề có thuyền, xác người chết khẳng định chỉ có thể ném ở ngay bên hồ thôi, tôi nghĩ chúng ta cứ thử đên xem vận khí mình tới đâu.”
Chương thứ 17
Như đã từng quen biết.
Tuy Bàn Tử thấy ý kiến của tôi rất mơ hồ nhưng vẫn chấp nhận đây là khả năng hợp lý nhất. Vốn dĩ anh ta cũng là người hăng hái hơn ai hết trong vụ đi núi Dương Giác này, vì vậy tôi vừa nói là muốn đi, tất nhiên anh ta sẽ hoàn toàn đáp ứng.
Tiếp theo chúng tôi thảo luận một qua vài công việc cụ thể, bời vì lần này đi chỉ mang tính chất là du lịch, nên không có bất cứ đồ dùng trang thiết bị nào mang theo, do đó vấn đề hiện nay có chút khó giải quyết. Nhỡ may đụng phải những chuyện liên quan tới khai quật mộ thì hẳn là chỉ có thể trơ mắt ếch bó tay.
Ở nơi hẻo lánh như này không thể nào có sẵn những trang bị để mình mua, Bàn Tử lúc đó mới nói, ngược lại thì cũng không khó tìm, chúng ta có thể mua đồ dùng thay thế. Tuy rằng không quá vừa tay, nhưng lần này rời thôn cũng coi như gần, không cần yêu cầu quá cao.
Bàn Tử nói là vật dụng để đi dã ngoại thì thợ săn cũng có, khẳng định là không cần chúng ta còng lưng khuân đống chất đốt và lò không khói, có điều nếu gặp phải dã thú lớn, chi bằng chúng ta nên chuẩn bị thêm một vài vũ khí phòng thân.
Liền gọi A Quý tới để thương lượng với anh ta những chuyện này, A Quý nói mình cũng đi săn nên có ba khẩu súng trong nhà, chúng đã được thay đổi hình dạng vài lần nên giờ cũng không biết gọi là súng gì. Ba khẩu súng không có cùng năm sản xuất, cũ nhất là một khẩu A Quý lấy từ trong chuồng gà ra, tuy chất lượng nòng súng còn dùng được, nhưng thân súng đều đã bị gỉ hết, không ai dám dùng, cũng không có đạn để mà dùng. Ngoài ra thì hai khẩu kia đều tạm ổn, có thể nhìn ra được vết tích của những năm tháng chiến tranh vẫn còn lưu lại.
Mấy năm trước nhà nước ban lệnh cấm dùng súng, nhưng thợ săn ở đây đều phải dựa vào súng để mưu sinh, cần câu cơm này tất nhiên không ai chịu giao ra, cấp trên cũng hiểu tình hình nên đành mắt nhắm mắt mở thi hành, chỉ khó là giờ biết đi đâu tìm mua được đạn. A Quý nói cán bộ thôn phải đi vào trong huyện mới có thể mua được một ít.
Săn bắn không phải là chuyên ngành của A Quý, cho nên trong nhà không trữ nhiều đạn, Bàn Tử lấy hai khẩu súng kiểm tra một lúc, nói: “ A Quý à những thứ đó không thành vấn đề đâu, súng này được bảo dưỡng tốt thì còn có thể dùng, trước phải nã thử một phát xem có còn dùng được hay không.”
Chúng tôi phải mua lại đạn với giá cắt cổ, qua mấy nhà hàng xóm của A Quý gom được năm mươi viên, tôi nhìn qua cái mẫu mã mấy viên đạn hình trụ bằng đồng này cũng biết là chúng được làm thủ công. Thứ này mà tới giá năm mươi đồng thì quả có điểm khiến tôi đau lòng. Bàn Tử nói đừng có nhỏ mọn như vậy chứ, năm mươi đồng này có thể cứu được mạng nhà cậu cũng thừa giá trị đi.
Dao đi rừng thì nhà A Quý có, anh ta lập tức mang nó ra mài sắc, những đồ dùng khác chúng tôi viết vào trong một mảnh giấy, bảo A Quý đi quanh thôn xem có ở đâu bán đồ thay thế này không. Không có dây leo núi thì có thể dùng dây thừng, còn không có chủy thủ thì thay bằng liềm.
A Quý đề nghị với chúng tôi, giờ đang là mùa mưa nên trong núi có rất nhiều muỗi độc, đặc biệt là ở những nơi như bên cạnh hồ nước, muỗi có khi to bằng cả con ong bắp cày. Phải mang theo nhang muỗi và màn, đốt lửa trại lên thì vứt nhang muỗi vào, nếu không những người thành phố như chúng tôi chắc chắn không chịu nổi đâu. Tôi thầm nói có Muộn Du Bình ở đây, chuyện này không cần lo lắng. (Tiểu Ca cửa hàng tiện lợi :D )
Sắp xếp thỏa đáng rồi, A Quý lại nói những thứ này phải mất một hai ngày mới có thể chuẩn bị được, dù sao thì thợ săn cũng chưa trở về, khi nào xong xuôi mọi việc chúng ta sẽ lên đường.
Trong lúc này, Bàn Tử có thể nghĩ cách để dùng acid sulfuric mà anh ta vừa mang về, xem trong khối sắt kia chứa vật gì. Điều này cần thao tác chính xác, phải chọn một nơi tương đối an toàn nữa.
Tôi nhớ tới những lời Bàn Mã kể, cảm thấy làm thế không ổn, trong khối sắt này tỏa ra một thứ mùi kỳ lạ, hơn nữa mùi này lại có thể bị phai theo thời gian, dần dần sẽ chỉ còn thoang thoảng. Rõ ràng vật chất bên trong có tính bay hơi, có quỷ mới biết thứ này có tác hại gì đối với cơ thể con người. Tôi cảm thấy thời điểm khai phá thứ này chưa tới, để sau khi đến nơi kia tìm được những manh mối để lại rồi thì tính tiếp vẫn hay hơn là mạo hiểm đoán mò như vậy.
Lòng hiếu kỳ của Bàn Tử khiến anh ta không thể chịu nổi, nhưng nghe tôi nói hoàn toàn có lý, hơn nữa Muộn Du Bình cũng tán thành suy luận của tôi, nghĩ tới khả năng làm liên lụy đến những người khác, anh ta đành phải nhịn lại.
Đúng lúc Bàn Tử đang đầy hưng phấn, một là do anh ta chắc chắn có cổ mộ ở nơi kia, hai là đã lâu không được săn thú nên tay chân ngứa ngáy vô cùng. Mặc cho mặt xưng vù như ngựa đá, cả đêm hôm đấy chúng tôi phải nằm nghe anh ta ba hoa về nững cuộc săn thú trước đây. Tôi cũng không ngủ được, nhưng đầu óc lại nghĩ tới sự việc ở bên hồ, Muộn Du Bình vẫn không nói gì cả. Tôi thấy anh ấy đang nhìn về căn gác bên cạnh phòng A Quý, nhìn cái cửa sổ kia tới mức xuất thần.
Tôi nhớ tới tối ngày hôm trước, trong căn gác đó chợt thấy một cái bóng mơ hồ, có điều bây giờ trong cửa sổ kia một khoảng tối đen, không thấy thứ gì cả. Con trai A Quý hình như không muốn gặp người lạ, lúc nào cũng ru rú ở trong phòng. Tôi nghi ngờ có phải hắn bị bệnh gì nên chỉ có thể ở trong nhà, hình như nông thôn nào cũng xảy ra những chuyện như vậy.
Một đêm không ngủ, thêm một ngày hoạt động mạnh nữa khiến thần trí tôi dần dần không còn nghe rõ Bàn Tử nói gì, Muộn Du Bình dựa đầu vào tường thiu thiu ngủ. Bên ngoài này so với trong phòng mát mẻ hơn rất nhiều, bốn phía xung quanh Muộn Du Bình một con côn trùng cũng không hề có, chúng tôi cứ nằm như vậy mà ngủ, lúc tỉnh lại đã tới giữa trưa ngày hôm sau rồi. (Rất thích cảnh này, vì nó yên bình khôn tả
:D
)
Ngày hôm sau mọi người ai về việc đấy, tới ngày thứ ba đã chuẩn bị ổn thỏa hết, A Quý báo cho chúng tôi lên đường.
Điều khiến tôi buồn bực là tôi không thấy người dẫn đường nào cả, chỉ có mình A Quý và Vân Thái đợi chúng tôi.
Tôi hỏi chuyện gì xảy ra vậy, A Quý anh không phải chưa từng đi tới đó sao? Tại sao lại tự mình đưa chúng tôi đi?
A Quý nói những thợ săn đã đi vào trong núi, không biết có phải gặp chuyện trở ngại gì không nhưng tới giờ cũng chưa thấy đội nào trở về. Những người khác thì chưa ai từng đi qua đó, anh ta chỉ có thể tìm thêm chính con gái mình là Vân Thái đi cùng. Vân Thái trước kia theo ông nội đi qua nơi đó vài lần, biết đường lối phải đi như thế nào. A Quý dẫn theo chúng tôi, hơn nữa còn có Vân Thái biết đường, thêm mấy con chó, vấn đề cũng không lớn. Bằng không chỉ có mấy người chúng tôi bất đồng quan điểm, sợ rằng lại xảy ra chuyện phiền toái.
Tôi thầm nghĩ không ổn, xem ra tôi là tôi ra giá quá cao, A Quý tiếc lên không để cho người khác kiếm được số tiền ấy. Bàn Tử lập tức nói không được, chúng đi công chuyện, mang theo một tiểu nha đầu như vậy không bằng đùa nhau sao. Nếu bị chút thương tích gì, người làm cha như anh không đau lòng, tôi còn đau lòng hơn ấy chứ. (hahaha, con nhà người ta chứ con nhà anh đâu mà anh nói thế
:D
)
A Quý lại hăng hái nói không việc gì đâu, trẻ con ở đây năm sáu tuổi đã được đụng vào súng đạn rồi, nếu nói về đi núi, con gái tôi so với tôi còn giỏi hơn nữa kia, với lại núi này con gái tôi rất quen thuộc, không cần lo lắng.
Vừa buông lời thì Vân Thái liền từ trong phòng đi ra, lúc tôi và Bàn Tử nhìn thấy, ánh mắt liền ngây dại. Chỉ thấy Vân Thái đã hóa thành một người hoàn toàn khác, trên thân khoác y phục đi săn của dân tộc Dao, đao săn giắt ngang eo, lưng đeo một khẩu súng săn ngắn. Dáng vóc cô gái người Dao từ đầu đã rất đẹp rồi, thêm bộ y phục này trên người, đôi chân thon và những đường cong liền hiện lên rõ rệt, thực sự đẹp ngỡ ngàng. Hơn nữa trong cái tư thế oai hùng mạnh mẽ kia lại mang theo một nét cười hoạt bát, ở tuổi mười bảy mười tám thật khiến người ta không thể ngăn nổi thích thú, lập tức vẻ đẹp kia đã đốn gục Bàn Tử.
Cô gái đi tới bên cạnh chúng tôi, nhìn tôi bằng đôi mắt thách thức, nói: “ mấy ông chủ coi thường người ta đúng không?”
“Không có không có! Hoàn toàn không hề có chuyện đó!” Bàn Tử lập tức nói, ” em gái, em hiểu lần rồi, Bàn Tử anh chỉ là sợ em vất vả thôi, kỳ thật trong lòng bọn anh em tuyệt đối là sự lựa chọn tốt nhất.” (Đánh mắt nhìn Ngô Tà, học mà tán gái đi cu .
Tôi lập tức nhíu mày, đá Bàn Tử một cước rồi khẽ mắng: “ anh sao lại có thể giở quẻ nhanh thứ thế, dù thế nào thì ở cái tuổi của anh mà còn muốn trâu già gặm cỏ non sao?”
“Tuổi của tôi thì làm sao chứ, nhắc tới tên Bàn Tử tôi thì không phải tráng niên cũng là tráng ngưu, không phải là trâu già.” Sau lại thấp giọng nói, ” cậu cũng bảo với Phan Tử đi tìm cô nào làm vợ, sao tôi lại không được chứ?”
Tôi cũng không biết anh ta thật sự phải lòng hay chỉ muốn bỡn cợt chút cho vui, liền nói với Bàn Tử người dân tộc Dao, nhà gái thường rất nghiêm ngặt, anh cẩn thận người ta tưởng thật mà gô cổ anh lại, vậy là anh sẽ phải tới nhà người ta ở rể cả đời làm nông, nếu như anh thay lòng đổi dạ chạy trốn, có một cực hình là vạn trùng xuyên tim, một thân thần mỡ cũng sẽ thành mồi cho trùng độc thôi.
Bàn Tử rõ ràng là người có kiến thức sâu rộng, liền xem thường những lời tôi nói, lại đáp: “ chết dưới hoa mẫu đơn, làm quỷ cũng phong lưu, hay nhất là toàn bộ mỹ nữ trong Dao trại này đều hướng về Bàn Tử tôi hạ trùng độc, vậy hẳn là tôi sẽ trở thành trưởng thôn ở đây rồi.” (anh thật có lòng mà :v )
Trong lúc cười đùa tôi lại liếc mắt nhìn qua cái phong thái của Vân Thái, cảm thấy những lời A Quý nói cũng không sai. Hơn nữa lúc này đây phỏng chừng sẽ không có nguy hiểm nào quá lớn.
Điều duy nhất khiến tôi phải để ý là, trong lúc chúng tôi đang thu gom đồ đạc, Bàn Tử thì luôn tìm cách trêu đùa với Vân Thái, chọc cho cô ấy cười tít lên. Nhưng tôi có thể nhìn ra, Vân Thái thỉnh thoảng vẫn lén nhìn trộm Muộn Du Bình, chỉ thoáng một cái thôi, liếc mắt rồi lập tức quay đi ngay, nhưng trong đôi mắt ấy, tôi có thể thấy một ý gì đó. ( con gái xin chết dưới chân Tiểu Ca không thiếu, anh có để ý tới mòn con mắt cũng không hết :v )
Chúng tôi xuất phát dựa theo con đường mà lúc trước đi tìm lão Bàn Mã, đối với con đường này tôi đã có một chút hiểu biết, dọc đường so với ban đêm phải tìm kiếm ông già kia thì dễ dàng hơn nhiều. Bàn Tử đơn giản là đang mê mẩn, cứ vây quanh Vân Thái suốt, còn thiếu mỗi việc nằm xuống làm ngựa cho cô ấy cưỡi, Vân Thái thì lại quá sức dễ thương, hoạt bát.
Cô ấy hỏi tôi rốt cuộc là đang làm chuyện gì, chắc không phải là đi du lịch, vì làm gì có ai đi du lịch mà tới chỗ này chứ. Bàn Tử làm bộ thần bí, nói bọn anh đều là những nhân vật có tầm cỡ đang thực hiện một nhiệm vụ bí mất, nếu như em đồng ý thành hôn với anh, anh sẽ lén nói cho em biết.
Tôi còn sợ nếu Vân Thái lấy anh ta thì quả thật rất phí của giời, may mà Vân Thái cũng có khiếu thẩm mỹ, kiên quyết không thèm. Có điều là Muộn Du Bình không hề bị không khí vui vẻ của chúng tôi chú ý, nét mặt anh không có chút thay đổi, trong lúc ai lấy đều buông lỏng cảm xúc thì chỉ có mình anh ấy vẫn đắm chìm trong biển mây đen.
Buổi tối hôm đó chúng tôi tới được cổ mộ chỗ cửa núi, sau khi xâm nhập vào trong núi một hai km thì mọi người dừng lại nghỉ ngơi, hừng đông ngày mai sẽ tiếp tục. Đi tiếp hai ngày sẽ tới được bên hồ nước kia.
Xa xa ngay ở trên triền núi vẫn thấy được hồ nước kia, đại khái là do mấy ngày trời mưa như trút nước nên nhìn nó to hơn tôi tưởng một chút. Quả nhiên là đúng như theo Bàn Mã nói bốn phía của hồ đều là đá tảng, lại thêm một vùng trùng điệp núi vây quanh. Những đỉnh núi đồ sộ tới bất ngờ cứ lối tiếp nhau chạy dài, thế núi ẩn hiện hùng vĩ trong mây trời, tuyệt không giống như đồi núi thông thường, nhìn qua đã thấy hiểm ác không lường. Cây cối trong núi phân bố đặc biệt phong phú, ngay cả sườn núi cũng phủ một màu xanh mướt, Thập Vạn Đại Sơn này quả nhiên danh bất hư truyền. Tôi không khỏi mừn thầm, nơi này cách thôn không xa, nếu đi tiếp vào sâu bên trong lòng núi này e rằng so với Tháp Mộc Đà còn húng hiểm hơn nhiều.
Đi qua một nơi được cây cối che phủ hoàn toàn không còn nhận ra đâu là đường núi, chúng tôi tới được bãi đá ven hồ, hoàn toàn không phát hiện được bất kì một dấu vết nào của đội khảo cổ đóng quân năm đó. Nước trong hồ trong vô cùng, bóng mây trời phản chiếu dưới mặt hồ rất đẹp, buông ba lô xuống, chúng tôi đến bên hồ nước rửa mặt, nước rõ là lạnh, điều này chứng mình đáy hồ này có thông với mạnh nước ngầm. Trong trong tiết trời nóng nực mà nước trong hồ lại lạnh như băng thật khiến cho tinh thần con người khoan khoái.
Rửa xong mặt tôi ngẩng đầu nhìn bốn phía, mặt hồ phản chiếu không gian mây trời và núi non trùng điệp. Đột nhiên tôi liền phát hiện nơi này giống như đã từng gặp qua. Tôi đưa mắt liếc Muộn Du Bình, trên mặt anh cũng hiện ra một vẻ rất nghi hoặc.
Chương thứ 18 Đột nhiên thay đổi suy nghĩ. Cảm giác quen thuộc trong chớp mắt ấy giống như tôi đã từng gặp qua, cứ mỗi lần như vậy toàn thân tôi lại bất giác nổi da gà. Trong sách nói đây là một loại ảo giác, nhưng lúc này thì không giống thế, bởi vì tôi cũng thấy nét mặt của Muộn Du Bình thay đổi, hình như có chút hồ nghi, không biết có phải là cùng cảm giác với tôi không nữa. Đây là nơi nào? Ở nơi đâu tôi đã gặp qua cảnh sắc này, hay là từng thấy qua cảnh giống như vậy? Tôi cố gắng nhớ lại, lật qua từng trang ký ức trong đầu, nhưng nghĩ mãi cũng không ra, chỉ nhớ là hoàn cảnh này tôi chắc chắn mới nhìn qua không lâu. Hơn nữa, cùng với cảm giác mơ hồ ấy còn có một dự cảm “bất hợp lý” nữa. Rõ ràng là trong trí nhớ của tôi có ấn tượng với nơi này, và hoàn cảnh hiện tại lại có một vài điểm khác biệt. Bàn Tử vô lo vô nghĩ, cởi sạch quần áo chỉ để lại mỗi cái quần cộc rồi lao tùm xuống nước bơi, A Quý nhắc nhở anh ta cẩn thận một chút, hồ trong núi thường ẩn chứa nhiều điềm xấu, không nên quá ham vui như vậy. Bàn Tử không thèm nổi lên, liền lấy tay té nước qua chỗ A Quý làm cho anh ta không nói được gì nữa. ( ôi con rể thật là quý hóa :v ) Trở lại trên bờ, chúng tôi tháo giày và quần đã bị ẩm, Bàn Tử giúp A Quý căng lều, sau đó A Quý lại đi đốn củi, Vân Thái hỗ trợ mọi người nấu cơm, tôi ngồi uống nước, lúc này mới nhớ ra thế núi này từng thấy ở nơi nào. Hình dáng và cảm giác về ngọn núi nơi này khiến tôi liên tưởng tới khe suối bên thôn chúng tôi từng ngâm mình tránh nóng, từ đường nét của triền núi đến thế đứng đều rất giống nhau. Chỉ có điều là lúc đó chúng tôi ở bên khe suối, còn giờ thì lại đứng ở ven hồ. Vì thế mà những hình ảnh in trên mặt nước cùng với dáng núi đã làm tôi vô cùng kinh ngạc. Chỉ là nơi này đâu đâu cũng thấy cây cối xanh tươi rợp mắt, còn bên cạnh thôn người ta đã đốn đi tương đối nên thoạt nhìn thấy có chút khác biệt. Lúc tôi nhắm mắt dưỡng thần có cẩn thận quan sát qua bốn phía phong cảnh khe suối, Muộn Du Bình đứng nhìn mà trong lòng bất an, anh ta chắc chắn đã để ý tới tất cả mọi nơi. Chỉ có Bàn Tử là mải đùa nghịch với mấy cô bé gái nên khó trách anh ta không thấy cái gì. Điều này đúng là rất thú vị, tài năng của tạo hóa cũng thật điêu luyện, không biết chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên hay do địa chất nơi đây tạo thành. Hình như có một loại địa thế phong thủy cũng như thế này, nó được gọi là “thung lũng vẩy cá”, hầu hết núi đều có hình dạng như vẩy cá, từng tầng từng tầng một, thế núi cũng giống nhau, loại phong thủy này không thích hợp để chôn cất người chết. Bởi vì có người nói rằng dưới vẩy cá là nơi chất chứa dơ bẩn. Theo như địa lý mà nói thì đất nơi này rất dễ bị rửa trôi, địa thế đặc biệt giữ nước, ngôi cổ mộ mà chúng tôi thấy ở cửa núi chính là một ví dụ. Có điều nếu trong “thung lũng vẩy cả” mà có một hồ nước thì hoàn toàn khác, đấy gọi là “cá gặp nước”. Vẩy cá ở trong nước, theo dòng chảy mà không bị cuốn mất, vậy đây không phải là cá, mà lại là một con rắn nước, nếu như có người thanh niên chết sớm thì hẳn là phải chôn ở chỗ này. Nói như thế khả năng rất lớn là nơi này có cổ mộ, tiếc là tôi không biết tỉ mỉ về cách mai táng ở địa thế này, trong mắt tôi bốn phía trên núi đều không phải là nơi phù hợp để chôn chất người chết. Bên kia Vân Thái cũng vừa dựng xong lều, bắt đầu thu gom củi đốt, tôi và Bàn Tử, Muộn Du Bình không cần phải hỗ trợ gì cả. Liền tiến hành tìm kiếm, quan sát xơ lược hoàn cảnh chung quanh. Kích thước hồ chỉ lớn bằng hai sân bóng, một loáng là chúng tôi đã đi hết vòng quanh hồ, tôi lượn trên bờ nhìn vào trong nước, cảm giác thấy đáy hồ hình như chỉ có đá là đá. Hơn nữa mực nước trên cạn so với tầng đáy chênh lệch rất lớn, đi vào trong nước một chút vẫn còn có thể nhìn thấy đáy, tiến thêm chút nữa liền chỉ còn một khoảng tối đen, xem ra nước trong hồ khả năng rất sâu. Trên bãi ven hồ đâu đâu cũng thấy những tảng đá lớn nhỏ, như Bàn Mã nói thì kích thước của chúng khác biệt rất lớn, khiến tôi để ý là, bãi đá này vô cùng sạch sẽ, không thấy một chút tạp vật nào cả, có lẽ mấy ngày mưa lớn vừa rồi đã rửa trôi tất cả vào trong lòng hồ. Đối với tôi thì những hồ nước sâu bao giờ cũng chứa một nỗi sợ hãi vô thức, tục ngữ có câu nước cạn không giấu rồng, nước sâu ắt có quái. Hồ nước sâu luôn ẩn chứa những thứ ngoài phạm vi mà chúng ta không thể nhìn thấy được khi chỉ nhìn từ mặt hồ nhỏ thế này, có thể bên dưới còn ẩn giấu một thứ kỳ quái không ai biết. Trên thế giới có rất nhiều hồ nước chứa thủy quái, mặt hồ không lớn nhưng vô cùng sâu, cho dù không có cái gì kinh khủng nhưng ở những nơi nước sâu thường có cá to. Nước trong còn có thể sẽ thấy một vài hình dáng cá vô cùng lớn. Đi một vòng không thấy có dấu vết thi hài nào rõ ràng, có điều bãi đã này phần lớn đều là đá vụn, khoảng bốn mươi năm qua mực nước ở đây không ngừng biến đổi, đá trên núi liên tiếp lăn xuống, những xác người kia không biết chừng đều đã bị lấp dưới những phiến đá này rồi. Chúng tôi phán đoán quá trình lúc đó, theo như tình hình của thì đội khảo cổ có thể cũng từ phía Nam mà tiến tới hồ như chúng tôi, mặt khác là về núi ở đây, nguy cơ đá nở và đất trôi thường trực. Như vậy chúng tôi phải đi về khu vực phía Nam của hồ nước để tìm kiếm. Đây là một công trình lớn, mấy con chó mang theo cũng không tồi, có điều ngay cả chúng cũng không biết có thể phát huy tác dụng được hay không. Xác chết đã bị dìm trong nước nhiều năm như vậy, chắc chắn đã hóa thành xương trắng, có thể trông cũng không khác gì phiến đá. Ăn xong cơm trưa, A Quý đi dạo quanh bốn phía ngắm cảnh, xem có con gì để săn, chúng tôi cũng tiến hành khoanh vùng khu vực tình kiếm. Vân Thái bảo chúng tôi đi tắm cho hết mùi mồ hôi trên quần áo đã. Khu vực quanh hồ rất lớn, tôi , Bàn Tử, Muộn Du Bình ba người mỗi người chọn một địa điểm rồi bắt đầu hành động. Cái chính là chúng tôi dùng tay không lật hết những tảng đá này ra, đá tích tụ ở đây chủ yếu đều là do những phiến gần bờ nhất liên tiếp lăn vào trong lòng hồ, nhưng mực nước cũng dần sâu hơn, với lại bản thân những tảng đá này cũng chống được ảnh hưởng bào mòn của nước mưa (nước mưa sẽ chảy xuống dưới ghềnh đá hội tụ thành mạch nước ngầm, chứ không chảy ngược lên trên ghềnh đá, nó có cùng nguyên lý với đập ngăn sông vậy). Đáy hồ dốc đứng, năm đó chắc chắn Bàn Mã không thể tiến vào quá sâu trong hồ, vậy có thể khẳng định những thi thể kia chỉ được ném gần bờ, hơn nữa do mực nước đã rút đi ít nhiều nên những thi hài đó sẽ không ở trong hồ mà hiện đang ở ngay trên bờ này. Bàn Tử nói nếu sau khi ném xác xuống nước mà không buộc với một vật nào đó thì chúng sẽ biến thành một cuộc thi bơi, một thời gian mới chìm xuống đáy hồ thành mồi cho tôm cá, xương cốt tứ tán. Đầu ở chỗ này nhưng mông lại cách xa tới cả trăm thước, như vậy có tìm chắc chắn không thấy được. Hơn nữa nếu những xác chết kia không được ném vào chỗ nào sâu sâu thì cũng sẽ bị động vật khác tha lên bờ ăn. Tôi nói bất luận thế nào cũng không thể có chuyện không để lại chút dấu vết nào được, Mao chủ tịch từng nói, trên đời này sợ nhất là hai chữ sự thật, chúng ta cứ tìm trước đã, nếu tìm không thấy thì mới lại phân tích nguyên nhân. Ba người cứ liên tục làm việc cho tới khi mặt trời ngả về tây, vẫn không có kết quả, mấy con chó săn đang nô đùa bên hồ, hoàn toàn không đếm xỉa gì tới chúng tôi, cũng không thèm hỗ trợ gì hết. Ánh nắng bên hồ rất gay gắt, bị phơi một ngày khiến đầu tôi đau như búa bổ. Tiếng súng của A Quý vang lên hai phát trong rừng, anh ta mang về một con gà rừng, mùi gà nướng thơm lừng khiến chúng tôi không thể kiềm chế được. (Mang chó đi chỉ để chúng nô đùa bên hồ, đáng ra là nên buộc vào cổ mỗi con củ riềng xem chúng nó có bớt nô không . Bàn Tử không thể ghìm lòng nổi mặt nhìn như đưa đám, chúng tôi liền dừng tay cùng nhau hút thuốc, Bàn Tử nói: “ xem ra quá sức rồi, cậu bảo là nơi này có cổ mộ thì còn có thể tin được chứ, còn người chết thì chắc tìm không thấy đâu.” Tôi biết anh ta vẫn tơ tưởng vụ cổ mộ nên an ủi, “dù sao thì cứ đợi thêm mấy ngày nữa, từ từ rồi xem thế nào, nếu thật sự không tìm được những thi thể đó, tôi sẽ thay anh tìm cái đấu lớn kia.” Hiếm khi lòng tôi lại không bị cuống như lúc này, uống chút rượu trắng rồi chúng tôi tới ngồi quanh đống lửa bên hồ nghỉ ngơi, vừa ở bên hồ lại vừa trong núi nên không khí mát mẻ vô cùng. Vân Thái đã thay đổi y phục, cô ấy mặc áo phông, đầu cũng vừa gội, nhìn rất giống một cô gái người thành phố. Lúc dùng bữa cô ấy còn múa cho chúng tôi xem, vũ điệu của dân tộc Dao có rất nhiều động tác xoay thân và đá chân về phía sau, cô gái người Dao vừa có đôi chân nhỏ nhắn lại vừa xinh đẹp, Bàn Tử nhìn mà hàm rớt xuống đất, đòi học cho bằng được, nhưng anh ta toàn nhảy dựng lên như đập đất, tôi được một trận cười nghiêng ngả. Đã lâu rồi không được cười thoải mái như vậy, sau tôi thậm chí còn cười không nổi nữa, nhưng vừa liếc qua Muộn Du Bình chỉ thấy anh tựa trên tảng đá, nét mặt không có lấy một chút cảm xúc lới lỏng. Thoạt nhìn còn không phát hiện được sự hiệu hữu của anh ta. Trong lòng tôi lại nghĩ đi tìm lại quá khứ của anh có phải là một sai lầm hay không, hiện giờ nhìn những manh mối chúng tôi đã thu thập được rõ ràng là mình đã đi đúng hướng. Đối với chúng tôi mà nói, con đường này dừng lại cũng được thôi, nhưng riêng với Muộn Du Bình thì bất cứ một vật gì hiện ra cũng chạm vào cánh cửa tâm hồn anh, khiến cho anh rất khó mà thoải mái được. Người này lại là điển hình cho nhân cách tự kỷ, tâm tại đào viên ngoại, ngột tự tiếu xuân phong*, không ai có thể hiểu được trong lòng anh ấy nghĩ gì. Ngẫm lại thì cũng thật không đành lòng, tôi cầm một viên sỏi nhỏ ném Muộn Du Bình, nhìn anh ta nói: “ đừng suy nghĩ nữa, nói cho anh biết tôi từng trải qua chuyện này nên có kinh nghiệm lắm, cứ ngồi suy nghĩ vậy cũng vô ích thôi, chúng ta hiện đang ghép lại bức tranh, tất cả những mảnh ghép tìm được đều đã gần đủ, bớt suy nghĩ đi một chút.” nói rồi đưa cho anh ta một chum rượu trắng. Muộn Du Bình chỉ lặng lẽ nhận lấy, rồi lại để qua một bên, tôi hơi phật ý, thở dài hỏi: “ anh không thể uống một hớp sao?” Anh lắc đầu, đưa mắt nhìn vào trong bóng tối dày đặc. Tôi đành chuyển lực chú ý về phía Bàn Tử, anh ta đột nhiên lại đổi sang trò đố vui cân não, hỏi Vân Thái, cái gì chiến đấu mà: “ giết địch một trăm, tự tổn hại ba nghìn?” Tôi sợ Bàn Tử lại pha trò vớ vẩn cho tiểu cô nương đây đoán, tiểu cô nương rất ngây thơ hử một tiếng, cảm thấy nếu nói ra thì rất bẩn, mới dò hỏi Bàn Tử một chút. Bàn Tử nói yên tâm đi, cái này suy nghĩ khác đi một chút thì tuyệt đối nghiêm chỉnh. A Quý cũng uống hơi quá chén, cười khanh khách, đoán đi đoán lại cũng không đúng, cuối cùng đành phải công bố đáp án, hóa ra là thí hồ đánh với mười ba yêu*. Trong chơi mạt chược, nã pháo thắng nhà dưới một trăm nhưng lại bại bởi trung pháo ba mươi lần. Trong Dao trại không thịnh hành trò này, Vân Thái cơ bản là nghe mà không hiểu, tôi mắng anh làm thế khác nào bắt nạt người khác? Hỏi cái gì nó liên quan một chút chứ. Bàn Tử liền nói có ngay, lại quay ra hỏi: “ đố tiếp, cái gì chiến đấu mà “giết một địch tự tổn hạ ba nghìn?” “Ong bắp cày!” Vân Thái lập tức giơ tay nói. (đúng là cute quá mà :D ) Bàn Tử lắc đầu tặc lưỡi nói: “ nha đầu thối này, em định giễu anh có phải không?” Chúng tôi cùng cười ầm lên, tôi nói: “ vậy chắc là kỵ binh và xe tăng đánh nhau.” Bàn Tử nói, “nếu là kỵ binh và xe tăng thì để giết được một cái xe tăng chắc chết hơn một nghìn quân luôn.” Tiếp theo chúng tôi thi nhau đoán, có người đoán là chơi bài tú lơ khơ, có người đoán là con kiến, lại có người đóan là ăn mắm. Bàn Tử đều nói sai, dương dương tự đắc, hình như đang lăng nhục chỉ số thông minh của chúng tôi. Tôi cả giận nói “con mẹ nó, đấy là chiến đấu gì chứ? Nếu đáp án của anh gượng ép tôi sẽ xử lý anh.” Bàn Tử nói: “ chuyện này rất là dễ nhé, ai da, Bàn gia tôi thông mình trời phú, với những người phàm phu tục tử như thế này khoảng cách chênh lệch quá lớn, tôi nói cậu nghe cho rõ đây, giết một địch mà tự tổn hại ba nghìn chính là chuối tiêu chiếu đầu với voi.” Tôi nghe xong liền giận, mắng “anh nói bậy bạ gì đấy, chuối tiêu mà lại đánh nhau với voi, đấy là cái trò gì, anh thử nói xem chuối tiêu đánh kiểu gì với voi mà giết một lại hại tới ba nghìn?” Bàn Tử nói: “ voi ăn no quá nên chết thôi.” Chúng tôi liền nổ ra một tràng cười, Vân Thái cũng cười tới không thở nổi, nhưng cười được vài tiếng mọi người liền từ từ im lặng, vì tôi thấy trong lúc chúng tôi đang cười nghiêng ngả thì Muộn Du Bình lại lặng lẽ đứng lên. Đi tới bên hồ rồi ngồi xuống nơi mà đống lửa khó có thể chiếu tới. Trong ánh mắt Vân Thái liền hiện lên một tia lo lắng, cô ấy nhìn tôi một cái hỏi: “ anh ấy có phải nghĩ chúng ta quá ồn ào không?” Bàn Tử thở dài, hút một hơi thuốc lá rồi an ủi: “ không chuyện gì đâu, đừng để ý tới người ta, người ta đang đi đại tiện” ( tôi mà có ở đây là tôi sút anh rồi đấy :v ) Tôi nhìn Muộn Du Bình vừa định đứng lên lại thấy Vân Thái đã nhanh chân bước tới trước chỗ anh ta ngồi. Chú thích: Tâm tại đào viên ngoại, ngột tự tiếu xuân phong* : câu thơ này nghĩa là lòng để ở vườn đào, thầm tự cười gió xuân. Ý nói khó mà đoán được tâm ý người khác. Thí hồ đánh với mười ba yêu* : là một kiểu chơi mạt chược Chương thứ 19 Hiệu ứng Siphon Vân Thái ngồi bên cạnh Muộn Du Bình, xa xa không biết có nói gì với anh ấy không, Bàn Tử cứ nhìn chằm chặp, tôi nói đùa: “ anh thất tình rồi, nén đau thương lại nhé.” Bàn Tử xem thường đáp: “ chẳng phải cậu cũng vậy sao!” “Cũng vậy cái đầu nhà anh!” tôi cả giận nói, “tôi không biến thái như thế đâu, bản thân chưa bao giờ có hứng thú với một tiểu cô nương như vậy!” Bàn Tử vỗ vai tôi nói: “ tôi tin Tiểu Ca là người tuyệt đối có nghĩa khí.” Nói xong cầm cốc đưa cho tôi, còn bản thân thì đứng lên đi tiểu. Tiếp đó phía sau có tiếng nước róc rách truyền tới, liên tục không ngừng, chẳng biết là anh ta đã nín trong bao lâu nữa. Tôi không khỏi mìm cười, mà cười cũng mệt, không gian lắng đọng, nhìn ánh trăng phía xa in trên mặt hồ, bỗng cảm giác thấy tới đây cũng có lẽ là do duyên số sắp đặt. Lặng lẽ ngắm non sông tươi đẹp nơi đây, ai có thể nghĩ tới năm đó đã xảy ra chuyện quỷ dị như vậy, lại nghe tiếng cười thống khoái của chúng tôi, ai biết được rằng chúng tôi đều mang trong lòng rất nhiều tâm tư. Vạn vật trên đời hết thảy đều rất đơn giản, mà con người dường như là loại sinh vật phức tạp nhất, phức tạp tới nỗi mà vừa phải chống lại vừa phải trốn tránh nhưng không được. Tự chuốc lấy lo âu vẫn là tự chuốc lấy lo âu mà thôi. Tôi nhắm mắt lại, hít sâu một hơi, nghĩ tới bản thân mình trước kia, rồi lại nhìn tới mình của ngày hôm nay, cảm thấy trước kia đâu đâu cũng vướng phải những ngăn trở, so sánh mà có chút nực cười. Bàn Tử đi tiểu xong run rẩy quay lại chỗ cũ, nhìn Vân Thái vẫn còn ở bên kia, lại kỳ quái hỏi: “ em ấy vẫn còn chưa bị mắng cho mà quay về sao? Rất có nghị lực a.” Tôi nói: “ đừng nói thế, có lẽ Tiểu Ca lại thích cô ấy thì sao, bọn họ chắc đang trao đổi tín vật đính ước cũng nên.” ( :v há há) Bàn Tử nói: “ không được, bọn họ nói chuyện cách chúng ta xa như vậy, nhỡ có yêu quái hay cái gì từ trong hồ xuất hiện kéo họ đi, chúng ta không thể cứu được, tôi phải đi xem bọn họ một cái đã.” Nói rồi nhẹ nhàng đi qua. Tôi kéo anh ta lại, nói không nên quấy rầy, Muộn Du Bình giờ đã rất phiền rồi, anh ta chắc ngập đầu trong những vấn đề kia, giai đoạn này tôi cũng từng trải qua, để anh ấy một mình thì tốt hơn. Anh thử lắng tai nghe một chú, Vân Thái hình như cũng không nói gì, có khi là chỉ qua ngồi nhìn trời với Tiểu Ca thôi. Bàn Tử ngồi xuống, lắng tai nghe thật kỹ, lại nghe thấy như là Vân Thái đang hát vậy. Tôi và Bàn Tử đều lặng đi, trong gió thì thầm có tiếng hát rất khẽ, là một ca khúc của dân tộc Dao, giọng ca nhẹ nhàng, nhưng thật sự rõ. ( có thể coi như là Vân Thái đang cầm cưa :v ) Không ai nói gì, lòng tôi thầm nghĩ Vân Thái cô ấy thật tốt, ngay sau đó bản thân cũng ngồi xuống, ngước mắt nhìn bầu trời dày đặc sao, lắng tai tiếp tục nghe. Trời cao gió thổi hiu hiu, không biết đã bao lâu, đột nhiên tiếng hát bỗng ngừng lại, trong lòng tôi thoáng có chút rối loạn, hai mắt mở choàng. Bên kia Muộn Du Bình đã đứng lên, mắt hướng ra mặt hồ, mấy con chó đang chán cũng liền ngẩn đầu lên nhìn theo. Bàn Tử vẫn đang nhắm mắt nghỉ ngơi, A Quý cũng thấy có điểm khác thường, tôi lay Bàn Tử dậy, chợt nghe trong gió có tiếng “xoạch xoạch”, hình như có nhiều bàn chân rất lớn đang đi lên trên bờ hồ. Chó lập tức liền đứng cả lên, nhìn chằm chằm cảnh giác về phía đó, những con chó săn này đã được huấn luyện rất chuyên nghiệp, không một con nào dám sủa tùy tiện. Bàn Tử và tôi liếc mắt nhìn nhau, tôi khó hiểu nhìn anh ấy, Bàn Tử lại chỉ chỉ cái đèn pin, ý bảo tôi đưa cho anh ta. A Quý bên cạnh bảo chúng tôi cứ bình tĩnh ngồi xuống, phía trước liên tục vẫy tay ra hiệu cho chúng tôi không được manh động. Anh ta nói nhỏ: “không có chuyện gì đâu, hình như là dã thú uống nước thôi.” “Dã thú gì vậy chứ, nghe động tĩnh thì phải to lắm ấy.” Bàn Tử cũng nhẹ giọng đáp. A Quý cầm súng săn lên, bảo chúng tôi đợi ở đây không được nhúc nhích, trong bóng tôi rón rén bước chân trần qua bên kia. Vân Thái theo sau, Bàn Tử vừa nhìn thấy có màn đi săn, lập tức không kiềm chế được, nháy mắt cho bọn tôi. Tôi cũng muốn đi xem, vì vậy họ vừa đi được mấy thước liền lén bám đuôi theo. Đi tới bên cạnh Muộn Du Bình, chỉ thấy loáng thoáng tình hìn trên mặt hồ, chúng tôi tìm xem con dã thú trong tưởng tượng ở đâu, nhưng nhìn mãi không thấy. Chắc nó chỉ có tiếng uống nước to chứ thân hình cũng vừa phải thôi. Chúng tôi dùng đèn pin quét qua mặt hồ, men theo hướng âm thanh kia truyền tới mà tìm kiếm, vừa nhìn lại phát hiện âm thanh này phát ra từ tứ phía xung quanh. Hơn nữa lại có tiết tấu nhịp nhàng, không giống như là của dã thú phát ra. “Đây không phải là động vật, là tiếng gì vậy?” Bàn Tử lầm bẩm. “Tiếng thủy triều.” Muộn Du Bình nói. Chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau, hồ nhỏ như vậy mà cũng có triều cường sao? Chẳng lẽ hôm nay có siêu mặt trăng? Ngẩng đầu nhìn, ảnh trăng chỉ thấy lờ mờ xa xa. A Quý để súng xuống, chúng tôi cũng đi tới bên cạnh hồ nước, quả nhiên đúng như vậy, mặt nước có sóng đánh dập dờn, như sóng biển vỗ vào bờ cát. Có điều là biên độ không lớn, phát ra tiếng như dã thú uống nước chính là do nước va vào tảng đá vọng lại. Tôi nhìn bãi đá dưới chân mình, phát hiện thấy mực nước đã giảm xuống, trước mắt đều là đá ẩm, nói cách khác là trong lúc chúng tôi đang nói chuyện trên trời dưới bể và lúc Vân Thái hát thì nước trong hồ cũng từ từ hạ xuống. Từ chỗ nước rút tới bờ tôi ước chừng cũng phải mấy chục bước, độ sâu của hồ này chắc chắn khó thể tưởng được. “Chuyện gì xảy ra vậy? Lẽ nào đáy hồ này bị thủng?” Bàn Tử nâng tay lên rõi mắt ra xa. Đối với tôi phong thủy tương đối quen thuộc, biết đây là một hiện tượng địa lý, liền qua nói vơi anh ta: “ đây được hiểu là hiệu ứng Siphon*.” “Hiệu ứng Siphon là cái gì? Hút rượu nước hai hử?”. “Hồ này thực chất thông với mạch nước ngầm, quanh đây có thể còn một cái hồ to hơn nữa lối với nơi này, bị ảnh hưởng bởi thủy triều, hồ này liền bị rút đi. Ví hồ nhỏ và hồ lớn này là một thanh nam châm, mà giả dụ hiệu ứng Siphon là do lực lấp dẫn của mặt trăng kia sinh ra, vậy thì mặt trăng kia chính là một nam châm cực đại, chắc chắn hồ lớn sẽ chịu lực hút rất lớn từ nó, hồ bé cũng xuất hiện áp lực nhưng ít hơn, nước trong hồ bé bị đẩy sang hồ lớn, mực nước sẽ từ từ bị rút xuống.” Tôi ngẩn đầu nhìn lên không trung, đột nhiên vỡ ra điều gì đó. Khó trách chúng tôi không thể tìm được dấu vết của những xác chết kia, nếu như nơi đây tồn tại hiệu ứng Siphon thật thì mỗi tối đều có thủy triều, vậy thì thi thể năm đó có thể đã bị hút vào giữa hồ. Nó có nguyên lý giống như bồn cầu tự hoại vậy. Không chỉ có những xác người mà tất cả những gì có trong hồ này đều sẽ bị đẩy vào giữa hồ, thảo nào mà tôi cảm thấy trên hồ ngoài đá ra chẳng thấy thêm một ít dấu vết nào nữa. Mặt và đáy hồ có độ chênh lệch rất lớn, vô cùng dốc, chỉ cần rơi xuống không phải lúc thủy triều lên thì nhất định sẽ bị đẩy trở lại, còn nếu như không dùng đá ngăn lại thì chắc chắn sẽ rơi vào nơi sâu nhất trong hồ. Nghĩ tới đây tôi không khỏi có chút chán nản, không biết hồ này sâu bao nhiêu, chúng tôi không mang bình dưỡng khí, nếu hồ này quá sâu thì chúng tôi chỉ có thể mất công toi trở về. Có điều là khi suy nghĩ lại thì cũng không tới mức hết hi vọng, tay không lặn xuống nước có thể xuống tới hơn một trăm thước, tuy chúng tôi không phải thợ lặn chuyên nghiệp nhưng nếu hai ba mươi thước thì cũng không vấn đề. Còn nếu không quá sâu, biết đâu chúng tôi còn có thể lặn xuống tìm kiếm chút đỉnh, nhưng ngay cả như vậy cũng đòi hỏi kỹ năng bơi lội tương đối tốt. Để tới được đây một lần không phải dễ, bất luận là thế nào thì chúng tôi cũng sẽ thử cho biết, chỉ là bơi trong hồ này cũng không phải chuyện gì khó khăn. Nghĩ xong tôi mới nói với mọi người: “ các anh có thể nín thở được trong bao lâu?” Chú thích: Hiệu ứng Siphon*: Siphon là để chỉ một loạt các thiết bị có liên quan đến dòng chảy của chất lỏng qua ống – còn được gọi với thuật ngữ là hút – nhưng theo nghĩa hẹp nó dùng để chỉ một ống hình chữ U ngược đẩy cho nước chảy dốc lên phía trên bề mặt của vật chứa, mà không cần máy bơm, được hỗ trợ bởi trọng lực kéo cho nước chảy vào một nơi thấp hơn vật chứa ban đầu. Hiệu ứng Siphon xảy ra do chênh lệch áp suất giữa vị trí hút và vị trí chứa thông qua sự kiểm soát của trọng lực. Chương thứ 20 Đáy hồ Trong mấy người chúng tôi chỉ có Bàn Tử, Muộn Du Bình và tôi là có kỹ năng bơi lội, A Quý cũng biết bơi nhưng anh ta chỉ quen hoạt động trong khe suối nên không có thói quen nhịn thở lâu, vì vậy chắc cũng không thể giúp được gì nhiều. Ngược lại thì Vân Thái bơi rất tốt, nhưng cô ấy không có áo tắm, chúng tôi lại không thể để cô ấy mặt đồ con để xuống nước được, chỉ sợ là Bàn Tử không còn tâm tư đâu mà làm việc nữa. Phải nói là thời gian nín thở cũng cần chính xác, Bàn Tử nói anh ta phổi lớn nên có thể nhịn năm phút, tôi nói không thể nào, người anh như hộ pháp thế này, lặn xuống nước sẽ chịu áp lực nhiều hơn chúng tôi, có thể nhịn được ba phút cũng thành thánh rồi. Ngàn vạn lần không được thể hiện như vậy, trò này không đùa được đâu. Bàn Tử nói anh ta ngược lại không lo tới việc đó, chúng ta là đi từ trên bờ xuống, lại không có chân vịt nên chắc chắn sẽ chìm rất chậm, có khi chưa tới đâu đã hết khí rồi. Tôi gật đầu, quả thật để muốn tự do bơi lội thì hoàn toàn không thể chỉ bằng tay không, phải có đồ trang bị và bảo hộ hỗ trợ, mà trong đó quan trọng nhất chính là phải được rèn luyện thường xuyên. Thời gian tôi còn ở Trường Sa, có nghe mấy thợ lặn nói là điểm mấu chốt nhất khi lặn xuống nước sâu chính là phải rèn luyện được một tâm lý thật vững, đặc biệt là trước khi hạ đáy biển thợ lặn còn được huấn luyện cách ngồi thiền tĩnh tâm. Ở những chỗ nước sâu, tứ phía sẽ chỉ có một màu đen kịt, như là mình đang trong một khoảng không vô tận, lúc đó con người ta sẽ không thể tự chủ được nỗi sợ hãi của mình, riêng khi dưới nước mà không thể định thần được sẽ rất dễ xảy ra chuyện. Nếu có bình lặn thì sẽ làm tăng hao tổn dưỡng khí, còn không thì chắc chắn sẽ nghẹn thở. Đáng tiếc là vùng biển Trường Sa tương đối nông, hơn nữa nước lại trong xanh, tôi chưa có cơ hội được thử nghiệm cái cảm giác đó, nên không thể biết nó trong thực tế sẽ như thế nào. Có điều là với việc tự do lặn xuống nước, trang thiết bị cũng không quá nghiêm ngặt, có thể dùng một vài đồ thay thế được. Ví như Bàn Tử nói mấu chốt vấn đề nằm ở chỗ chúng tôi chỉ cần dùng tảng đá để tăng tốc khi lặn xuống lòng hồ. Trước kia nơi này chắc chắn rất sâu, nhưng mấy năm gần dây mực nước hạ xuống có khi tới cả trăm thước, tất nhiên là để an toàn thì chúng tôi cũng cần phải thăm dò qua đã. Chúng tôi thảo luận thật kỹ càng từng chi tiết một, ba người đều mang tâm trạng rất phấn khởi. Ngày thứ hai chúng tôi thức dậy từ rất sớm, lợi dụng lúc mặt trời còn chưa ló rạng, tôi tiếp tục đứng bên bờ rà soát thêm một lần cuối cùng nữa, tự xác định vị trí mình đã đánh dấu ngày hôm qua. Bốn phía hồ này có một tầng sương bao phủ, nhưng lên tới bờ thì tan ra, Vân Thái đã quen dậy sớm nên cũng đi chuẩn bị điểm tâm sáng. Chỉ là cháo loãng, một mình Bàn Tử có thể uống được mười bát. Có điều là do tự tay Vân Thái làm nên anh ta không thể nói là ăn không ra gì được. Sau khi ăn xong, Bàn Tử tới hỗ trợ tôi rà soát hồ nước, lúc này lại dẫn theo mấy con chó, Bàn Tử đứng đùa với chúng. Anh ta nói đi tìm mấy khúc xương đi, đi tìm đi, tìm được ta gọi chúng mày là chó mẹ. Mấy con chó vẫn nô đùa chạy quanh hồ nước, hoàn toàn phớt lờ những lời anh ta nói. (đã bảo là buộc riềng vào cổ chúng nó rồi mà :v ) Đợi đến khi ánh nắng chói chang xuất hiện, tôi đã lượn xong được một vòng quanh hồ, xác định là không thể tìm thêm được gì. Tôi cùng hai người còn lại ngồi xuống bàn bạc, tình hình này chắc chắn phải hạ đáy hồ một chuyến, giờ đã tới chính ngọ, nước cũng ấm hơn một chút. Với kế hoạch như hôm qua đã bàn, cần một thời gian tương đối để chuẩn bị một đoạn dây thừng, một cái bè và mấy khối đá có trọng lượng thích hợp. A Quý và Vân Thái giúp chúng tôi bện dây cỏ, không cần quá chác chắn, chỉ cần có thể dùng để đo lường độ sâu là được, nhưng nhất định phải thật là dài. Bàn Tử cầm liềm đi cắt về không ít cỏ, sau đó phơi trước nắng cho khô, cơ bản là không phải tất cả cỏ đều thích hợp để bện, hơn một nửa trong số đó là không thể dùng được. Tôi và Muộn Du Bình dùng dây thừng đã bện để cố định cái bè to bằng hai cái bàn bát tiên* lại. Sau đó tìm mấy khối đá to bằng bắp đùi, buộc vào dây làm quả tạ. Dây cỏ bện làm ba đoạn, mỗi đoạn hơn mười thước, hai người một buổi sáng có thể làm được như vậy cũng là rất tuyệt vời rồi. Vì cỏ chưa được trải qua gia công nên còn rất thô ráp, nhưng tôi cũng không quan tâm, dù sao thì cũng không phải sử dụng lâu dài, chỉ cần chịu đựng trong vài giờ là ổn rồi. Bên cạnh đó Bàn Tử còn lấy túi ni-lông cắt lấy một mảnh, rồi quấn dây thừng xung quanh nó thành một cuộn, đầu kia buộc một hòn đá nhỏ làm như một cái mỏ neo, dùng để thăm dò độ sâu. Sau khi đã chuẩn bị ổn thỏa, chúng tôi đem tất cả mọi thứ chất lên trên cái bè, tiếp theo cởi đồ trên người ra, chỉ để lại độc một cái quầy đùi. Muộn Du Bình mặc quần của Bàn Tử mua, mặt tiền có in hình đôi gà con, chứng kiến cảnh ấy mà Vân Thái cười tới suýt thì ngất. (há há há, mình cũng cười rung cả bàn phím ) Lúc này đã khoảng hai giờ chiều, nước trong hồ vẫn lạnh ngắt như băng, chắc chắn là bên dưới có thông với mạch nước ngầm. Nếu không có ảnh mặt trời, chênh lệch nhiệt độ lớn như vậy không chừng tới khi chúng tôi lặn xuống còn bị chuột rút cũng lên. Cứ thế chèo đi, rất nhanh sau đó màu nước dưới chân cho tôi biết độ sâu đã thay đổi, điều này có chút khiến cho lòng người không yên tâm. Chung quy là nhìn mãi không tới đáy nên bản thân nảy sinh cảm giác bất an, có điều đã kinh qua bao nhiêu biến cố lớn nhỏ rồi nên cái cảm giác này chỉ chợt lóe lên rồi lập tức biến mất. Hồ cũng không lớn, chúng tôi chèo bè một lúc đã vào tới trung tâm. Gió thổi rất mát, bao nhiêu nắng nóng toàn bộ tiêu tan, tới giữa hồ, để giữ được thăng bằng trong khi chèo cần tới dùng lực rất lớn. Bàn Tử lấy tay lau mặt một cái mới hỏi: “ thuyền trưởng thiên chân, trước tiên ta phải làm gì?” “Trước tiên phải đo độ sâu đã.” tôi đáp, Bàn Tử cầm hòn đá buộc vào đầu dây thừng ném vào trong nước. Tảng đá kéo sợi dây liên tục chìm xuống, cuộn dây trong tay Bàn Tử không ngừng quay tròn. Ngay sau đó chỉ còn nhìn thấy sợi dây, còn cục đá đã chìm vào trong bóng tối. Đợi hơn một phút, cuộn dây mới dừng quay, Bàn Tử lúc này mới từ từ cuộn từng vòng dây từ dưới lên, miệng lẩm nhẩm đếm. Cuối cùng cũng xác định được hồ sâu hơn ba mươi ba thước. Tôi hít một ngụm khí lạnh, tuy đoán cũng không sai mấy nhưng sau khi nghe vẫn thấy có cảm giác sờ sợ. Đồng thời có thể đây chưa phải là nơi sâu nhất, loại hồ đá này vị trí sâu nhất không hẳn đã là ở giữa hồ. “Ba mươi ba thước, thuyền trưởng à, chúng ta phải lặn sâu những hơn ba chục tầng lầu sao.” “Chết tiệt, thế quái nào mà vừa nghe đến ba mươi thước đã lập tức đầu hàng rồi?” tôi vừa mắng vừa gạt đi, “mười tầng thì cũng bình thường thôi, con mẹ nó chứ, sợ cái quỷ gì.” Nói rồi cùng Muộn Du Bình lấy bông nhét lỗ tai, đầu tiên phải xuống nước để thích ứng với nhiệt độ bên dưới đã, để Bàn Tử ở bên trên trông chừng, anh ta béo nên lặn không được ổn lắm, chúng tôi sẽ giải quyết trong một lần mà không cần tới anh ta. Nói xong lấy đá buộc vào dây cỏ rồi thắt ngang hông, cầm trên tay một cái liềm, bọc đèn pin trong túi ni-lông, tôi và Muộn Du Bình nháy mắt ra hiệu. Chúng tôi cùng hít thật sâu hột hơi tới cực hạn, rồi thả tảng đá từ trên bè gỗ vào trong nước, tảng đá từ từ chìm xuống, kéo chúng tôi lặn xuống theo. Ở bên Sudan vợ tộc trưởng mà ngoại tình thì cũng sẽ bị xử tử như thế này, tôi ngẩng đầu mình lên mặt nước, chưa bao giờ lặn mà không mang kính, tình hình xung quanh tất cả đều như sương mù che mắt, mơ mơ hồ hồ thấy bóng dáng mờ nhạt của nửa người Bàn Tử và bè gỗ, còn thấy cả mặt trời rọi từng quầng sáng lấp lóa trên mặt nước. Nhưng mọi vật cũng ngay lập tức lùi xa, rất nhanh sau đó tôi xâm nhập vào một vùng bốn phía tuyệt đối tĩnh lặng. Nhìn xuống chút nữa, phía dưới là một vực sâu đen đặc, chỉ có thể nhìn thấy đèn pin trên tay Muộn Du Bình, đầu anh ta hướng xuống dưới linh hoạt như một con dơi liệng trong nước. Tình hình như vậy không kéo dài được lâu, tôi tự nhủ. Bốn phía dần tối lại, đồng thời cũng xuất hiện một áp lực rất lớn, mãng nhĩ và ngực tôi bắt đầu cảm thấy khó chịu, có thể khiến tôi phải phun hết khí ra mất. Rất nhanh sau đó, đen pin trên tay tôi soi ra hình dạng vật trong nước, đó là một tảng đá mày xanh u ám, tôi từ từ bơi tới sát vị trí của nó. Xuống tới đây, có thể thấy đáy nước càng lúc càng rõ ràng hơn, còn thấy đá có chỗ nông có chỗ sâu, hiển nhiên cũng không bằng phẳng, đây là một sườn dốc. Cũng gần như ngay lúc đó tôi không nhịn được liền nhìn đồng hồ đeo tay một cái, mới xuống nước chưa được ba mươi giây. Tôi bắt đầu cảm thấy một áp lực xông thẳng vào mũi mình, cảm thấy cực muốn hít thở. Đằng kia Muộn Du Bình vẫn tiếp tục lặn xuống, tôi ngẩng đầu nhìn lên trên, trời ạ, đỉnh đầu một khoảng mơ hồ, chỉ thấy xa xa có một chút ánh sáng, bạn có thể tưởng tượng, một mình bạn ở trong cái nơi đen kịt sâu ba mươi thước này ngẩng đầu nhìn lên cái khoảng trống chỉ bằng miệng bát, không khỏi kinh thần sợ hãi tay chân rối loạn, cảm giác không thể nào duy trì được nữa. Vì vậy liền rút liềm giắt bên hông ra định cắt đứt dây cỏ, không ngờ là, dây cỏ ngâm nước rất dai, tôi cắt hai phát mà nó chỉ đứt có một nữa, nửa còn lại có cứa thế nào cũng không rời ra. Tôi bỗng luống cuống, phản xạ tự nhiên là hít sâu một hơi để trấn định tinh thần, kết quả vừa hít một giây nước đã xộc thẳng vào phế quản, khiến cho cả người lập tức ho rũ rượi. Vất vả lắm mới có thể khống chế nước chui vào phổi, đột nhiên sợi dây trong tay tôi truyền đến một cơn chấn động mạnh, tảng đá trong tay rơi xuống, tôi cố gắng ổn định bản thân đưa mắt nhìn lại, đáy nước quả nhiên như một bãi đá dốc chạy dài, giống với hình thái ven bờ, tất cả đều là đá tảng lớn bé chồng chất lên nhau. Có điều những tảng đá này ngâm trong nước hết năm này qua năm khác, bề mặt bị phủ một tầng vẩn đục, chúng lại khiên tôi cảm thấy có chút bất thường. Những tảng đá này hoàn toàn “sạch sẽ”, không giống như những đáy nước mà tôi từng thấy trước đây, thường mặt đá phải bám rêu hoặc là ốc các loại. Bãi đá dốc đứng, khối đá của tôi vừa rơi xuống cũng không có dấu hiệu trượt khỏi sườn dốc. Phía dưới bãi đá một vùng âm u tịch mịch, có vẻ như vẫn có thể lặn xuống tiếp. Tôi không biết độ sâu bây giờ là bao nhiêu thước, dưới kia nơi Muộn Du Bình lặn xuống chắc chắn sâu hơn nhiều so với tôi, vì tôi thấy ánh đèn trong tay anh ta mỗi lúc một tối, nhìn như là một quả pháo sáng đang rơi xuống dần. Không khí trong phổi tôi cũng sắp cạn, bản thân vẫn muốn lặn tiếp xuống đáy nước, rất nhanh sau đó cũng chạm tới tầng đáy, trái lại tôi thấy lúc này mình có thể nín thở thêm một khoảng thời gian nữa. Cảm giác cấp bách vừa rồi có thể là do áp lực nước đè lên lồng ngực, trong giây lát tôi đã khống chế được liền nhấc khối đá của mình lên, ném xuống dưới sườn dốc. Tảng đá lập tức tuột xuống, lần thứ hai kéo tôi lặn theo, đi thêm được bảy tám thước, dốc đá thoải dần, rồi dừng lại. Tôi nắm chặt sợ dây thừng chìm xuống, định mang tảng đá lên bỗng lúc đó tôi chợt phát hiện tận sâu phía dưới sườn dốc màu xám tro này, bỗng xuất hiện một bóng đen mơ hồ rất lớn. Nhìn như đầu một con cá sấu vậy. Tầm nhìn dưới nước rất kém, tôi chỉ có thể nhận ra đại khái hình dạng, không khỏi hoảng hồn. Thầm nghĩ chết mợ rồi, trong hồ này cũng có thủy quái sao? Đèn pin soi qua, lại nhìn ra cái bóng đen kia thực chất là một gian nhà gỗ hình dạng cổ kính, đổ sụp ở sâu dưới chân tôi, chỉ thấy được qua một vài nét chính về dáng vẻ của nó. Bề mặt nó bị che phủ bởi một lớn trầm tích lắng đọng. Tôi níu sợi dây lại để cố định tư thế của mình, tiến tới gần gian nhà gỗ kia chiếu đèn pin vào, thấy không phải chỉ một căn nhà gỗ, mà bên dưới còn đan xen rất nhiều bóng đen khác, thậm chí còn có cả nhà ngói đổ nát nữa. Từ trên sườn dốc nhìn xuống vực sâu, thềm nhà, bờ rào cái gì cũng có tất, mọi thứ đều lặng lẽ nằm lại giữa hồ nước này. Trời ạ, tôi sợ ngây cả người, đây có lẽ nào là một thôn trại cổ của người Dao.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top