Chương 52: Thuyền đắm giữa biển cát
在信号弹然后的几十秒里,我们全部都惊呆了。大家都看着那巨大的东西,脑子一片空白。一直到信号弹熄灭,我们才反应过来,随即所有的手电都朝那个方向照了过去。
Trong mấy chục giây đạn tín hiệu ấy, toàn bộ chúng tôi đều khiếp sợ đến ngây người. Tất cả mọi người nhìn vật khổng lồ kia, đầu óc trống rỗng. Mãi cho đến khi đạn tín hiệu tắt, chúng tôi mới tỉnh lại được, lập tức tất cả ánh đèn pin đều dồn về phía vật đó.
零碎的光线无法照出那个东西的全貌,在手电的光线下,我们只能知道那里有个东西,然而看上去也是模糊不清的。如果刚才没有信号弹照出的印象,手电扫过我们肯定不会注意到异样。而我们从下往上看,也实在看不分明。
Những chùm tia sáng lẻ tẻ không thể soi sáng được toàn bộ vật kia. Dưới ánh sáng đèn pin, chúng tôi chỉ có thể biết ở chỗ đó có thứ gì đó, nhưng ngước lên chỉ thấy mờ mờ không rõ. Nếu không phải vừa rồi có ánh sáng đạn tín hiệu soi ra được hình dáng thì chỉ với với đèn pin soi qua, chúng tôi chắc chắn sẽ không chú ý đến có gì khác thường. Mà chúng tôi đứng từ dưới nhìn lên, cũng thực không nhìn rõ nổi.
"这是什么东西?"扎西自言自语了一声。
"Đấy là cái gì?" Trát Tây lẩm bẩm.
没有人能说出这是什么,我只能肯定这是一块古老的木头物体残骸,只是不知道是什么东西的残骸。这乍一看像一只巨大的棺材,然而仔细看又发现形状不对,似乎是建筑的残骸。然而,我却从来没有见过这样古怪形状的建筑。
Không ai có thể nói ra được đó là cái gì, tôi chỉ có thể xác định, đó là xác của một vật thể nào đó bằng gỗ, chỉ là, không biết là xác của vật gì. Thoạt nhìn thì trông giống một bộ quan tài khổng lồ, nhưng nhìn kỹ lại thấy hình dáng không giống lắm, hình như là xác của một tòa kiến trúc nào đó. Nhưng tôi chưa bao giờ nhìn thấy một công trình kiến trúc nào có hình dạng cổ quái đến vậy.
"爬上去看看!"不知道谁说了一声,我们才反应过来。他们几个就想往斜坡上爬,我忙把他们拦住,说道:"别乱来,冷静一点,这么高,而且是土丘,不是随便爬爬就能爬上去的,要是除了意外就糟糕了。"
"Trèo lên xem tí đi!" Không biết ai nói câu này, chúng tôi mới tỉnh lại được. Mấy người này đã liền muốn trèo lên sườn dốc rồi, tôi vội vàng cản họ lại, nói: "Đừng làm bậy, bình tĩnh một chút. Chỗ này cao đến thế, hơn nữa còn là một gò đất, không phải cứ trèo đại lên là lên được, nếu có gì bất trắc thì hỏng bét."
阿宁也点头道:"对,那三个人还没找到,这下面我们都找过了,没有发现任何线索,那么很可能他们在上面,现在一点动静也没有,肯定有问题。说不定这上面有什么危险,我们要小心。还是我先上去看看,如果比较好爬,你们再上来。"
A Ninh cũng gật đầu nói: "Đúng, hoàn toàn không tìm thấy ba người kia, cả ở dưới này chúng ta cũng đã tìm rồi, vẫn không có phát hiện bất cứ đầu mối gì, như vậy, rất có khả năng là bọn họ ở phía trên, mà giờ một chút động tĩnh cũng chẳng có, nhất định là có vấn đề. Không chừng, phía trên này có nguy hiểm gì, chúng ta phải cẩn thận. Hay là để tôi lên trước xem một chút, nếu ổn, mọi người cùng lên."
说着她把手电往腰带里一插就让我们给她照明,自己准备往上爬。
Nói rồi, cô ta giắt đèn pin vào một bên hông, để bọn tôi chiếu sáng còn cô thì tự mình chuẩn bị trèo lên.
这时候扎西拦住了她,道:"别动,我来,这种事情没道理让女人去做。这种土丘我以前爬过很多,绝对比你有经验。"说这也不等阿宁回应,就咬住匕首,跳上土丘,然后用匕首做登山镐,开始向上爬去。
Bấy giờ, Trát Tây liền ngăn cô ta lại, nói: "Đừng động, để tôi, chuyện này để đàn bà con gái làm coi sao được. Gò đất kiểu này trước đây tôi trèo lên nhiều lần rồi, chắc chắn có kinh nghiệm hơn so với chị." Nói đoạn, cậu ta cũng không chờ A Ninh đáp lại, liền miệng cắn dao găm, nhảy lên gò đất, sau đó dùng dao găm thay cuốc chim leo núi, bắt đầu leo lên trước.
他动作很快,姿态犹如猴子一样敏捷。我们用手电给他照着,几乎没费什么力气。我们就看他"腾腾"爬到了那个巨大物体的下方。他找了一个地方站稳,就对我们做了个手势,意思是不算难爬,接着他就用手电去照那个东西。
Động tác cậu ta rất nhanh, thoăn thoắt cứ như một con khỉ. Chúng tôi chiếu đèn pin cho cậu ta, hầu như chẳng mất tí công sức gì. Chúng tôi nhìn cậu ta rầm rập trèo đến phía dưới vật thể khổng lồ kia. Cậu ta tìm một chỗ đứng vững, rồi quay ra làm một động tác tay với bọn tôi, ý rằng không khó trèo lắm đâu. Sau đó, cậu ta lấy đèn pin chiếu cái vật kia.
在下面我们只能看到他的动作,也看不到他照出了什么,心里很急,那队医问道:"那是什么东西?"
Đứng ở dưới, chúng tôi chỉ có thể nhìn thấy động tác cậu ta, chứ không thấy cậu ta chiếu ánh sáng nhìn ra vật gì, trống ngực đập dồn. Ông bác sĩ hỏi: "Đó là gì thế?'
"我不知道。"扎西的声音从上面传下来。我看他在上面挠了挠头,冒了一句藏语,然后说道:"天,这......好像是艘船啊。"
"Tôi không biết." Tiếng Trát Tây vọng xuống dưới. Tôi nhìn thấy cậu ta ở trên cao gãi đầu gãi tai, phun ra một câu tiếng Tạng, sau đó nói: "Trời ơi, đây... hình như là một con thuyền đấy!"
"船?"我们互相看了看。扎西就又叫了起来:"真的是船!你们自己爬上来看看。"
"Thuyền?" Chúng tôi nhìn nhau. Trát Tây lập tức kêu lên: "Thật sự là con thuyền! Mấy người trèo lên đây mà xem."
他刚说完阿宁就爬了上去,我动作笨拙,跟着阿宁。而队医太胖了,爬了几下就滑了下去。我们让他在下面待着,别乱来,等一下摔死就完了,然后朝扎西靠拢过去。
Cậu ta vừa nói xong, A Ninh liền trèo lên. Tôi cũng vụng về đi theo A Ninh. Ông bác sĩ quá béo, trèo được một tí lại trượt xuống. Chúng tôi đành để ông ta đợi ở dưới, đừng làm bậy cái gì, kẻo tí ngã chết thì toi đời, sau đó mới trèo đến chỗ Trát Tây.
这土坡确实不难爬,有点坡度,虽然土很松软,但是上面十分不平整,很多地方都可以落脚。我们学着扎西用匕首当登山镐,三下五除二就靠了过去。
Đất ở sườn dốc này quả thực không khó trèo. Có hơi dốc chút, tuy rằng đất rất xốp, nhưng bề mặt không bằng phẳng, có rất nhiều chỗ để đặt chân. Chúng tôi học theo Trát Tây, dùng dao găm làm cuốc chim leo núi, thoăn thoắt chả mấy chốc mà đã đến gần.
我手脚并用的爬到扎西的边上,这上面很冷。我踩着几处突出的土包,滑了一下后站稳脚跟,就朝那东西看去。不过我离得远,视线又给扎西遮住了,也看不清楚那船是不是真的船。
Tôi dùng cả tay lẫn chân leo đến bên cạnh Trát Tây. Phía trên này rất lạnh. Tôi giẫm lên mấy gờ đất nhô ra, trượt một chút rồi mới đứng vững gót chân, sau đó nhìn về phía vật kia. Thế nhưng nó vẫn cách tôi quá xa, tầm nhìn cũng bị Trát Tây che mất, không thấy rõ lắm thứ kia có thật là thuyền hay không.
我挪了一下,给自己挤出一个位置,这才看清楚。在扎西的手电下,一块古老的残骸镶嵌在土丘里,只露出一半,另一半深深的插入土丘,看形状,确实是一艘古代的沉船。
Tôi dịch sang một chút, chừa cho mình một vị trí, bấy giờ mới nhìn rõ. Dưới ánh đèn pin của Trát Tây, một vật đổ nát từ cổ xưa ghim vào trong gò đất, chỉ nhô ra phân nửa, một nửa còn lại cắm vào sâu trong lòng gò đất, nhìn hình dạng, quả đúng là một con thuyền đắm thời cổ đại.
阿宁点起一个冷焰火,就往沉船上扔。此时四周亮了起来,我发现这沉船的解体程度已经非常眼中,几乎和那些泥融成了一体,木头的船身完全破碎了,已经炭化。在木船的一边还有一条巨大的裂缝,里面似乎是空的,我能看到里面的泥,但是最深的地方却漆黑一片看不清楚。
A Ninh đốt một quả pháo lạnh, hướng lên trên phía con thuyền đắm. Lúc này bốn phía đã sáng bừng lên, tôi phát hiện mức độ tàn tạ của con thuyền đắm này đã rất rõ ràng, gần như rữa ra hòa cùng với bùn đất, đã bị carbon hóa. Ở một bên thuyền gỗ còn có một vết nứt cực lớn, bên trong hình như trống không. Tôi có thể thấy trong đó có bùn, nhưng ở nơi sâu nhất thì tối đen, không nhìn thấy gì cả.
我转头看了看四周的地貌,心想这可是大发现。这里以前应该是古河道,这条沉船沉没在古河道里,被裹在了淤泥里。没想到沧海桑田,古时候的河道竟然变成了戈壁,而且这包裹这沉船的土丘,竟然高出了地面这么多。
Tôi quay đầu nhìn địa hình xung quanh, nghĩ thầm đây chính là một phát hiện lớn. Nơi này trước đây chắc là một con sông cổ, con thuyền đắm này bị đắm ở con sông cổ này, rồi bị chôn vùi trong nước bùn. Không ngờ bãi bể nương dâu, con sông cổ đại giờ lại biến thành sa mạc, hơn nữa, gò đất chôn vùi con thuyền đắm này lại cao hơn mặt đất nhiều đến thế.
阿宁爬到那古船的边上,用手电照那个裂缝,就照出里面大量的泥巴和裹在泥巴里的东西。在泥巴里,还能看到很多类似陶罐一样的东西。
A Ninh leo đến bên con thuyền cổ, soi đèn pin vào trong khe nứt, liền soi thấy ở trong có một lượng lớn bùn và thứ gì đó vùi trong bùn. Trong đống bùn đó, còn có thể thấy rất nhiều những bình gốm sứ và các đồ vật cùng loại khác nữa.
阿宁道:"这似乎是艘去往西域通商的货船,这些是他们的货品,着简直是惊世的发现,现在还有很多人认定西域没有水路运输。"
A Ninh nói: "Có lẽ đây là một con tàu chở hàng đi Tây Vực buôn bán, những thứ này là hàng hóa của họ, đây thực là một phát hiện chấn động, hiện nay vốn có rất nhiều người nhận định rằng Tây Vực không có vận tải đường thủy."
古时候这里是十七条丝绸之路中比较险恶的一条,而西域各国就分布在这片荒芜的土地上,这里是阿拉伯文明和中国文明交易的中间地带。以前这里无数的河流上非常的繁闹,不知道有多少布匹和丝绸通过这些河道到达了西方,据说西域各国的皇室还能吃到中原的西瓜。当时这里的河道千变万化,也有不少的商旅因为古河改道而搁浅沉没,这里的沙漠深处起码被掩埋着上千艘沙漠沉船,然而因为沙漠变化太频繁,几乎无法寻找,没想到这里竟然有一艘。
Thời cổ đại, nơi đây là một trong mười bảy con đường tơ lụa đầy hung hiểm, mà các quốc gia Tây Vực lại phân bố ở trên mảnh đất hoang vu này. Nơi đây là dải đất trung gian để giao dịch giữa nền văn minh Ả Rập và văn minh Trung Hoa. Xưa kia, trên vô số những dòng sông này cực kỳ phồn thịnh náo nhiệt, không biết bao nhiêu là vải vóc tơ lụa đã đi qua những con sông này để chuyển đến phương Tây. Có người nói, hoàng thất các nước Tây Vực còn có thể ăn cả dưa hấu của Trung Nguyên. Thuở ấy, những con sông ở đây thay đổi khôn lường, không ít những đội thương buôn bị mắc cạn hoặc đắm tàu vì sông cổ đổi dòng. Ở sâu trong sa mạc này ít nhất cũng phải có hơn một ngàn con thuyền đắm bị vùi lấp dưới tầng cát, nhưng bởi vì sa mạc thay đổi quá nhiều lần, cho nên gần như không thể nào tìm được chúng, không ngờ ở nơi đây lại có một chiếc thuyền.
队医在下面什么都看不到,很心急就大叫:"看到什么?那三个人在不在上面?"
Ông bác sĩ đứng dưới không nhìn thấy gì, sốt ruột kêu to: "Thấy gì thế? Ba người kia có phải ở trên đó không?"
扎西对下面叫了几声回答他,队医又说了什么就听不清楚了。
Trát Tây gọi với xuống mấy tiếng trả lời, ông bác sĩ lại nói cái gì đó nghe không rõ.
这时候我突然想到高加索人,可能他们也是因为看到这艘沉船,然后才爬上来查看的。下面全找过了,没有发现什么人,他们应该就在上面。可是四周的崖壁上刚才看过,什么人也没有,这三个人到哪里去了。
Lúc này, tôi bỗng nghĩ đến anh chàng Caucasus nọ. Có lẽ bọn họ cũng là bởi nhìn thấy con thuyền đắm này, sau đó mới trèo lên trên kiểm tra xem. Đã tìm hết phía dưới cả rồi mà không phát hiện ra người nào cả, vậy bọn họ chắc hẳn ở phía trên. Thế nhưng liếc nhìn vách đá bốn phía cũng chẳng thấy một ai, không biết ba người này đã đi đến nơi nào rồi.
这里的岩壁除了这沉船,没有其他地方能藏人,难道那三个人在这沉船里面?
Các vách đá ở đây, ngoại trừ con thuyền đắm ra thì không có nơi nào có thể trú ẩn, lẽ nào ba người kia ở bên trong con thuyền?
这时候月亮被乌云遮住了,一下子四周变得更加给俺,我们几个人都找了个位置站稳。我让阿宁打开对讲机,再找找信号的位置。
Lúc này, ánh trăng bị mây đen che khuất, thoáng cái, bốn phía càng thêm tăm tối, mấy người chúng tôi tìm được một vị trí đứng vững. Tôi bảo A Ninh mở bộ đàm, tìm vị trí tín hiệu.
阿宁拿出对讲机,一打开,那声音就响了起来,非常清晰。她挥动了一下,信号都差不多。接着扎西指了指船,让她对准古船试试。阿宁伸了过去,一靠近那古船的裂缝,我们真的就听到了无比清晰的声音从对讲机里传了出来。
A Ninh lấy bộ đàm ra, vừa bật lên, tiếng động kia lại vang lên, vô cùng rõ ràng. Cô ta vung tay một cái, tín hiệu cũng không khác lắm. Sau đó, Trát Tây chỉ chỉ vào con thuyền, bảo cô ta nhắm vào con thuyền cổ thử xem. A Ninh với người đến, vừa đến gần khe nứt trên thân con thuyền cổ, chúng tôi tức khắc liền nghe thấy tiếng động vang lên cực kỳ rõ ràng từ bộ đàm.
我们互相看了看,都感觉到很不可思议,看样子,信号真是从这古沉船里面发出来的。
Bọn tôi nhìn nhau, ai nấy đều cảm thấy không thể tin nổi. Xem ra, tín hiệu thực sự là từ bên trong con thuyền cổ này phát ra.
扎西看了看那裂缝,说道:"真见鬼,难道那三个白痴爬到里面去了?"
Trát Tây nhìn vào trong cái khe một chút, nói: "Đúng là gặp ma rồi, chẳng lẽ ba tên ngốc này đã trèo vào bên trong rồi?"
那裂缝很宽,确实可以爬进人去,只是这里面的空间不知道能不能容纳下他们是那个。我们用手电去照,发现这船里面非常深,最里面很黑。我喊了好几声,但是没人回应。
Cái khe rất rộng, quả thực con người có thể trèo vào, chỉ là không gian bên trong không biết có thể đủ cho bọn họ hay không. Chúng tôi chiếu đèn pin vào trong, thấy con thuyền này cực kỳ sâu, ở tận cùng bên trong tối đen. Tôi gọi mấy tiếng, nhưng không có ai đáp lại.
"怎么办?"
"Làm sao bây giờ?"
"可能是他们进去过了,但是又出来了,然后把对讲机掉在里面了。"阿宁说,"也有可能他们在里面出了意外。"
"Có lẽ là bọn họ đi vào rồi, nhưng rồi lại đi ra, bộ đàm bị rơi lại ở bên trong." A Ninh nói, "Cũng có thể bọn họ ở trong đó gặp bất trắc gì đó."
"那这声音是怎么发出的?"我问道。
"Tiếng động này phát ra thế nào?" Tôi hỏi.
"这个没人能回答你,不过进去看看就知道了。"阿宁给我使了个眼色,说着就放下背包,意思好像是让我和她钻进去看看。
"Cái này không ai có thể trả lời được, có điều, cứ vào trong xem ắt biết." A Ninh nháy mắt với tôi, nói rồi bỏ ba lô trên lưng xuống, có lẽ ý là muốn tôi chui vào trong xem cùng cô ta.
扎西是向导,要保存实力。这里就我和阿宁的体型比较正常,我也没法说不行。她脱掉外套,咬住匕首就猫腰先爬进了裂缝里。
Trát Tây là người dẫn đường, phải giữ sức cho cậu ta. Ở đây chỉ có tôi và A Ninh thể hình tương đối bình thường, tôi cũng không thể từ chối được. Cô ta cởi áo khoác, cắn dao găm, sau đó khom lưng bò vào khe nứt trước.
一进去,船身上的泥巴就不停的往下掉,还好船身比较结实。她进去后停了几秒,稳了一下,扎西就把手电递给了她。然后我也脱掉外套爬了进去。
Đi vào trong, bùn bám trên thuyền không ngừng rơi xuống, cũng may thân thuyền khá chắc chắn. Sau khi tiến vào, A Ninh ngừng lại vài giây, trụ vững một chút, rồi Trát Tây bèn đưa đèn pin vào trong cho cô nàng. Sau đó tôi cũng cởi áo khoác, trèo vào.
这裂口正好能让我爬进去,不过里面比我想的要宽大。我笨手笨脚的进去,发现里面完全是个泥土的世界,头顶上全是干泥,人没法坐起来,只能匍匐前进。本来这船舱内的空间应该很大,然而现在基本上全塞满了泥土,其实我们就在一个泥洞里。
Khe nứt này vừa đủ để tôi có thể chui vào, có điều, bên trong rộng rãi hơn so với tưởng tượng của tôi. Tôi lóng ngóng chui vào, phát hiện bên trong là một thế giới toàn bùn với đất, trên đỉnh đầu rặt những bùn khô, không thể nào ngồi xuống, chỉ có thể nằm rạp xuống mà bò. Không gian trong khoang thuyền vốn rất rộng, nhưng bây giờ thì chất đầy toàn bùn đất, kỳ thực, bọn tôi đang ở ngay trong một hang động bằng bùn.
阿宁开着对讲机,此时正在清晰的发出那犹如冷笑一般的声音。那声音在这里格外响亮。看着船舱内部漆黑一片,我的心提到了嗓子眼。到底是什么在发出那种声音呢?
A Ninh bật bộ đàm, lúc này tiếng động nghe như tiếng cười lạnh liền vang lên rõ ràng. Tiếng động này ở nơi đây cực kỳ vang dội. Nhìn trong khoang thuyền chỉ có tối om om một khoảng, tim tôi như bay lên cuống họng. Rốt cuộc là cái gì mới phát ra được tiếng động như vậy chứ?
阿宁在里面用了一个侧爬的姿势,就是士兵拖枪匍匐前进的那种动作。她用单手前进,另一只手打着手电开始四处照射。我喘着粗气学她的样子,也开始用手电去照四周的泥巴,真的全是泥,除了零星能看到镶嵌在泥里的一些木片,我感觉好像在地道战的场景里。
A Ninh ở trong, dùng tư thế trườn nghiêng, chính là tư thế bộ đội cầm súng trườn bò. Cô ta dùng một tay đẩy người lên trước, tay kia cầm đèn pin chiếu sáng khắp xung quanh. Tôi cũng thở hổn hển bắt chước động tác của cô ta, cũng bắt đầu lấy đèn pin chiếu sáng đống bùn khắp bốn phía. Thực sự tất cả toàn là bùn với bùn, ngoài một ít phiến gỗ thỉnh thoảng có thấy găm trong bùn, tôi cảm thấy mình như đang trong một trận tác chiến dưới đường hầm vậy.
这些肯定是沉船之后从破口涌进来的泥土。当时的船应该没有完全沉没,所以泥没有充满整个船舱。这些泥巴下面应该都是当时的货物,不知道里面运的是什么。
Nhất định sau khi thuyền đắm, những bùn đất này đã tràn vào trong thông qua khe vỡ trên thuyền. Ngay lúc đó có lẽ thuyền còn chưa chìm nghỉm hoàn toàn, cho nên bùn không ngập cả khoang thuyền. Phía dưới lớp bùn này có lẽ toàn là hàng hóa thời xưa, không biết là cái gì.
往里面爬了七八米,我们就能够直接听到那种奇怪的声音了。没有对讲机的过滤,这声音听上去稍微有些不同,是从船舱的最里面发出来的,很轻。阿宁停了停,关掉了对讲机,就向着那个声音的方向爬去。
Bò vào bên trong chừng bảy, tám mét, chúng tôi có thể trực tiếp nghe thấy tiếng động kỳ quái này rồi. Không nghe qua bộ đàm, tiếng động này nghe có hơi khác một chút, là từ nơi tận cùng bên trong khoang thuyền vọng lại, rất khẽ. A Ninh dừng lại, tắt bộ đàm, rồi bò về phía tiếng động vang lên.
我稍微和她保持了距离,给她能够退后的空间。没等爬几步,阿宁惊叫了一声,停住了。我也赶紧爬过去,从她侧面探头过去,就看到船舱尽头给泥土覆盖的"甲板"上有一个圆桌大小的洞,好像是坍出来的。下面竟然还有空间,用手电往下照去,下面一片狼藉,全是从上面塌落下来的土块,一个人就埋里面,只露出了上半身。
Tôi hơi giữ vững khoảng cách với cô ta, chừa khoảng không gian cho cô ta có thể lùi. Bò chưa được mấy bước, A Ninh liền kinh hô một tiếng, dừng lại. Tôi cũng vội vã bò đến, từ bên cạnh cô ta thò đầu ra nhìn, liền thấy trên sàn tàu bị bùn đất đắp kín ở cuối khoang thuyền có một hang động to cỡ mặt bàn tròn, hình như là bị sụt lở mà ra. Bên dưới đó vẫn có không gian, dùng đèn pin chiếu xuống, phía dưới lộn xộn bừa bãi, toàn là những khối đất từ bên trên sụt xuống, có một người bị vùi trong đó, chỉ lộ ra nửa người trên.
我用手电一照,发现那就是失踪的人中的一个,脸上全是泥,脸色发青,不知道是死是活。那冷笑一般的声音,就是从下面的土堆里发出来的。
Tôi chiếu đèn pin vào một cái, lập tức nhận ra đó là một trong ba người mất tích. Trên mặt anh ta toàn là bùn, xanh mét, không biết là chết hay sống. Tiếng cười lạnh kia chính là từ bên dưới đống đất này vọng lên.
"真的在里面!"我大叫起来,心说这帮人也太能玩了。我边叫喊着边往前挤,想赶紧下去把他挖出来。
"Đúng là ở bên trong!" Tôi kêu to, thầm nghĩ đám người này đùa cũng quá trớn rồi. Tôi vừa gọi vừa lách lên trước, muốn xuống dưới đó đào anh ta lên.
没想到我突然一叫,那种冷笑一般的声音一下就消失了,整个船舱突然安静了下来。
Không ngờ khi tôi vừa gọi, tiếng cười lạnh kia lập tức tắt lịm đi, toàn bộ khoang thuyền bỗng dưng im bặt.
这一静把我吓了一跳,手脚不由自主的停了停。
Tự dưng lặng thinh thế này làm tôi sợ hết hồn, tay chân bất giác khựng lại.
随即我就想到,刚才我们讨论这声音是他们的求救信号,现在我大喊了一声,这声音就停了,显然有人听到了我的叫声,于是停止发出信号。这有两个可能,一个是他认为救援已经在身边,没有必要再发出这种声音来吸引我们;另一个是,他听到我们到来,信念一松,失去了意识。
Sau đó tôi nghĩ, vừa rồi chúng tôi đã thảo luận, tiếng động này là tín hiệu cầu cứu của bọn họ, hiển nhiên có người đã nghe được tiếng tôi gọi cho nên bèn ngừng phát tín hiệu. Có hai khả năng: một là, anh ta cho rằng cứu viện đã đến rồi, không cần phải tiếp tục phát ra tiếng động này để thu hút chúng tôi nữa; hai là, anh ta nghe thấy tiếng chúng tôi đến, tinh thần liền thả lỏng, mất đi ý thức.
无论是哪种,我们都必须马上把他就出来,特别是后一种,我知道很多求救的人就是在得救前一刻失去求生意志而功亏一篑的。
Dù là khả năng nào thì chúng tôi cũng phải đào anh ta ra, nhất là với khả năng thứ hai. Tôi biết rất nhiều trường hợp, người cầu cứu ngay một khắc trước khi được cứu liền mất ý chí sinh tồn mà thất bại trong gang tấc.
阿宁和我想法相同,她让我给她照明,爬了过去,然后小心翼翼的翻身滑进了那个洞里。我跟着过去,阿宁让我别下来了,在上面接应。
A Ninh và tôi có cùng suy nghĩ. Cô ta để tôi chiếu sáng, còn bản thân thì bò qua đó, sau đó thận trọng xoay người, trượt vào trong hang động kia. Tôi đi theo sau, A Ninh bảo tôi đừng xuống, ở trên tiếp ứng.
扎西在外面听见了我的叫声,对我们大叫,问里面情况。我让他等等,我看清楚再说。
Trát Tây ở ngoài nghe thấy tiếng tôi kêu, bèn gọi to hỏi chúng tôi xem tình huống bên trong sao rồi. Tôi bảo cậu ta chờ chút, tôi nhìn rõ một chút nữa rồi nói.
在这个位置上,看得更加清楚。那洞口下面,应该是古船的第二层货仓,或者叫底舱。一般是用来放置一些容易破损的东西,因为底部的晃动不会很激烈。底舱的空间不大,里面也全部是泥土,但是被侵蚀的程度远远小于我待的地方。我基本还能想象出这是一艘船的内部,可以看到那些泥土里混杂着很多的陶罐,应该是货物,不知道里面装的是什么东西。
Ở vị trí này lại càng nhìn thấy rõ ràng hơn. Bên dưới cửa động chắc là tầng hầm kho hàng của con thuyền cổ, hoặc gọi là khoang đáy. Khoang đáy thường dùng để đặt những vật dễ bị hư hại, bởi vì ở dưới đáy không rung lắc dữ dội như ở trên. Không gian trong khoang đáy không lớn, bên trong cũng toàn là bùn đất, thế nhưng mức độ bị ăn mòn ít hơn so với tôi tính. Tôi cơ bản có thể tưởng tượng ra đây là bên trong con thuyền, có thể thấy dưới lớp đất bùn hỗn tạp này có rất nhiều bình lọ gốm sứ, chắc là hàng hóa, không biết trong ấy đựng gì.
阿宁下去了之后,马上就拨开那人身上的土块,然后把放到他的脖子上,感受脉搏。
A Ninh trượt xuống dưới xong lập tức gạt hết đất trên người người nọ ra, sau đó đặt tay lên cổ anh ta, xem mạch đập.
我忙问:"怎么样?"
Tôi vội hỏi: "Sao rồi?"
阿宁明显颤抖了一下,回头对我摇头,示意已经不行了。
A Ninh rõ ràng là run rẩy một chút, rồi quay ra lắc đầu nhìn tôi, ý bảo không được rồi.
我叹了口气。阿宁开始挖土块,很快把那个人挖了出来,然后用力的拖到一边。这时候我就发现挖出的土块里面,出现了另外一个人。我看到了头发和一只手,阿宁继续挖掘,然而这个人就埋得比较结实。她挖了一会儿也没有起色。
Tôi thở dài. A Ninh bắt đầu đào đất, rất nhanh đã đào được người kia lên, sau đó cố sức kéo anh ta sang một bên. Lúc này tôi liền phát hiện ra, bên trong khối đất vừa đào ra kia lại còn một người khác nữa. Tôi nhìn thấy tóc và một cánh tay, A Ninh vẫn tiếp tục đào xới, nhưng người này bị chôn vùi khá sâu. Cô ta đào mãi một hồi lâu mà vẫn không khá hơn.
我实在看不下去,自己也跳下塌口帮忙。我一摸到那人的手,心里就一沉,知道也没戏了,那人的手冰凉冰凉的,已经死了。
Tôi thực sự không nhìn nổi nữa, bèn nhảy xuống giúp. Tôi sờ vào tay người kia một cái, trong lòng liền trầm xuống, biết đây không phải đùa nữa rồi, cánh tay của người kia lạnh ngắt. Đã chết.
我们花了九牛二虎之力才把他挖出来,也拖到一边。在这个人的下面,我看到了高加索人苍白的脸庞,他蜷缩着身子,瞪着眼睛,手往前伸着,握着一只对讲机,保持着一个僵硬的手势,好像是想要从里面爬出来。
Chúng tôi dùng sức chín trâu hai hổ mới đào anh ta lên được, cũng kéo sang một bên. Ở phía dưới người này, tôi lại nhìn thấy gương mặt tái lợt của anh Caucasus. Cơ thể anh ta co rúm, hai mắt trợn trừng, tay duỗi ra phía trước, nắm chặt lấy bộ đàm, vẫn duy trì tư thế cứng ngắc như vậy, hình như là muốn từ trong trèo ra ngoài.
看来发出信号的就是他,我看到那只对讲机,心想。
Xem ra người phát tín hiệu chính là anh ta. Tôi nhìn thấy cái bộ đàm kia, nghĩ thầm.
我将他拉出来,阿宁又摸了摸他的脖子,脸色一变,"还活着!"就马上解开了高加索人的衣服,然后给他做心肺复苏,同时对我大叫:"告诉扎西,让队医准备抢救,有人本掩埋窒息。"说着就去给高加索人做人工呼吸。
Tôi lôi anh ta ra, A Ninh liền sờ cổ anh ta, biến sắc: "Còn sống!" Nói rồi lập tức cởi quần áo anh Caucasus ra, rồi xoa bóp tim phổi, đồng thời kêu to với tôi: "Bảo Trát Tây, nói bác sĩ chuẩn bị cấp cứu, có người nghẹt thở vì bị chôn sống." Nói rồi tiếp tục hô hấp nhân tạo cho anh Caucasus.
我忙爬起来对外面大叫,扎西听到之后,马上也对土丘下的队医叫了起来。我转头,就看到高加索人抽搐了一下,人缩了起来,同时开始呕吐,但是显然恢复了呼吸。
Tôi vội vã đứng lên gọi to với bên ngoài. Trát Tây nghe xong, cũng lập tức kêu ông bác sĩ đứng dưới gò đất. Tôi quay đầu, liền thấy anh người Caucasus co giật một chút, người co rụt lại, đồng thời bắt đầu nôn mửa, tức là hô hấp đã khôi phục lại.
"你上去接手!"阿宁用一种不容置疑的口吻对我道,语气很平,但是充满了威严。
"Anh lên giúp!" A Ninh nói với tôi với vẻ đanh thép, giọng nói tuy rất bình thường, nhưng tràn đầy uy nghiêm.
我愣了一下,突然被她这种神态电了一下,像条件反射一样按照她的说法做了。接着阿宁迅速脱掉自己的衣服,绑在高加索人身上,做了一个简易的担架,把衣服的袖子扔给我,然后叫我用力。
Tôi sửng sốt một chút, tự dưng bị thần thái này của cô nàng làm giật mình, như phản xạ có điều kiện, tôi lập tức làm theo lời cô. Sau đó, A Ninh nhanh chóng cởi áo quần của mình, buộc vào thân người anh Caucasus, làm một cái cáng cứu thương đơn giản, sau đó ném tay áo cho tôi, bảo tôi ra sức kéo.
我在上面咬紧牙关用力往上拉,她在下面抬脚,把高加索人运了上来。然后,我一路往后,用力将他拖出沉船的裂缝。
Tôi ở phía trên, cắn răng cố hết sức kéo mạnh, cô ở dưới khiêng lên, đưa anh Caucasus lên trên. Sau đó, tôi cứ thế lùi về sau, gắng sức đưa anh ta đến khe nứt của con thuyền đắm.
外面的扎西已经在准备了。高加索人刚一被拖出来,扎西就把高大的高加索人整个儿背到了身上,用皮带扣住,然后往下爬去。我累得够戗,一边把阿宁从里面扶出来,一边喘着气跟着,护住扎西,之后一点一点爬了下去。
Ở bên ngoài, Trát Tây đang chuẩn bị. Anh Caucasus vừa được đẩy ra ngoài, Trát Tây liền cõng cả một anh chàng Caucasus cao to lồng ngồng lên lưng, dùng thắt lưng buộc chặt, rồi leo xuống dưới. Tôi mệt quá, vừa đỡ A Ninh đi ra, vừa thở phì phò đi theo, bảo vệ Trát Tây, trèo xuống dưới từng chút từng chút một.
费了九牛二虎之力,好几次看到扎西差点摔下去,幸亏他反应够快,每次都能用匕首定住身形。好不容易爬到了土丘下,队医已经准备好了一切,我们把高加索人放到地上,队医马上准备抢救。
Dốc hết sức bình sinh, nhiều lần thấy Trát Tây suýt té ngã, may mà cậu ta phản ứng nhanh, mỗi lần nghiêng ngả đều có thể dùng dao găm trụ vững lại được. Vất vả lắm mới trèo được xuống đất, bác sĩ đã chuẩn bị xong hết, chúng tôi đưa anh Caucasus đặt lên nền đất, bác sĩ lập tức chuẩn bị cấp cứu.
可是刚撕开高加索人的衣服,他突然就抽搐了起来,一下扯住了队医的衣服。我们赶紧过去把他按住。队医揭开他的外衣,我就一阵作呕,只见他保暖外衣的里面,已经全部是血,竟然好像有外伤。
Thế nhưng, khi xé mở áo của anh Caucasus, đột nhiên anh ta co quắp, túm lấy áo bác sĩ kéo xuống. Chúng tôi vội vã đè anh ta lại. Bác sĩ vạch áo khoác anh ta ra, tôi lập tức lên cơn buồn nôn. Chỉ thấy, bên dưới lớp áo khoác giữ ấm của anh toàn toàn là máu thịt bê bết, có lẽ là ngoại thương.
队医又用剪刀剪开他里面的内衣,当掀起带血的布片时,他叫了一声:"天哪。"这时我几乎要呕吐出来。只见在高加索人的肚子上,全是一个一个细小的血洞口,没流多少血,洞口十分的细小,但是密密麻麻,足有二三十个。
Bác sĩ dùng kéo cắt lớp áo lót anh ta ra, kéo miếng vải lên để cầm máu thì ông ta kêu một tiếng "Trời ạ!". Lúc này, tôi gần như sắp nôn mửa. Chỉ thấy, trên bụng anh Caucasus lỗ chỗ toàn là những lỗ máu rất nhỏ, không chảy nhiều máu, lỗ máu cũng rất nhỏ, nhưng lại có quá nhiều lỗ, ước chừng phải hai mươi, ba mươi cái.
"这是什么伤口?"扎西问道。
"Đây là vết thương gì vậy?" Trát Tây hỏi.
队医摇头:"不知道,好像是......被什么东西扎的,类似于螺丝刀这样口径的东西。不过衣服怎么没破?你们在现场没注意到?"
Bác sĩ lắc đầu: "Không biết, hình như là... bị cái gì đâm vào, đường kính tương đương cái tua vít vậy. Có điều, sao áo lại không bị rách? Hai người ở hiện trường có để ý tới không?"
我们都摇头,其实当时这么混乱,我们真没有注意到他的肚子,但是他的衣服没有破洞我们可以确定。应该不是坍塌造成的外伤。
Chúng tôi đều lắc đầu, kỳ thực, lúc đó hỗn loạn như thế, chúng tôi quả thực không chú ý đến bụng của anh ta. Nhưng quần áo anh ta rõ ràng không bị rách, điều này chúng tôi có thể khẳng định. Chắc hẳn không phải là ngoại thương do bị sụt lở tạo thành.
现在也管不了这么多了,队医让我们帮忙按住,先给他爆炸,然后简单的检查了一下,就给他注射了什么东西,最后拿出一个小氧气包给他吸。大概是那一针的作用,高加索人慢慢安静了下来。
Giờ cũng không suy nghĩ được nhiều vậy. Bác sĩ bèn bảo chúng tôi giúp đè anh ta lại, trước kiểm tra qua một chút, rồi tiêm cho anh ta một mũi, cuối cùng lấy túi oxy ra cho anh ta thở. Có lẽ do tác dụng của mũi tiêm nọ, anh Caucasus dần dần yên tĩnh lại.
做完这些我们已经全身是汗,队医擦了擦汗就让我们想办法。这人现在十分虚弱,我们不能把他带出去,但是那些比较大的设备都在外面的车上,需要搬进来,另外还需要帐篷和睡袋给他保暖,等他稳定下来才能把他带出去。
Làm xong những thứ này, toàn thân chúng tôi đã toàn mồ hôi. Bác sĩ lau mồ hôi, chúng tôi thì ngồi nghĩ cách. Người này bây giờ quá yếu ớt, chúng tôi không thể đưa anh ta ra ngoài, thế nhưng phần lớn thiết bị đều ở trên xe bên ngoài rồi, cần chuyển vào đây. Ngoài ra, còn cần lều bạt và túi ngủ để giữ ấm cho anh ta, chờ anh ta ổn lại thì mới đưa ra ngoài được.
这里只有扎西知道该怎么看他的石头堆,他就说他去拿,顺便叫些人进来帮忙。我们一路走进来花了很长时间,不过出去就快很多,我说跟他一起,他说不用了,他一个人更快,我在这里多个照应。
Ở đây chỉ có Trát Tây là biết cách xem những đống đá ký hiệu, cậu ta bèn nói để cậu ta đi lấy đồ, tiện thể gọi thêm người đến hỗ trợ. Chúng tôi đi một đường tới đây tốn rất nhiều thời gian, có điều đi ra ngoài thì nhanh hơn nhiều. Tôi nói, tôi đi cùng cậu ta, cậu ta lại bảo không cần, cậu ta đi một mình thì nhanh hơn, tôi ở chỗ này chăm nom.
说完他就跑开了。队医解开高加索人身上阿宁的衣服,还给她,然后拿出背包里的保暖布,给高加索人的几个重要部位保暖。
Nói rồi, cậu ta liền chạy ra. Bác sĩ cởi áo của A Ninh trên người anh Caucasus ra, trả lại cho cô, sau đó lấy chăn giữ ấm trong ba lô trên lưng, đắp ấm cho mấy phần cơ thể quan trọng của anh Caucasus.
我点起无烟炉子,加大火焰,放到一边,给几个人取暖,同时拿出烧酒,这些东西都是为了驱寒用的。我们刚才出了一身的汗,戈壁的夜晚相当的冷,很容易生病。
Tôi nhóm lò không khói, tăng độ lửa lên, rồi đặt qua một bên, cho vài người sưởi ấm, cùng lúc đó tôi lấy rượu trắng, mấy thứ này cũng là dùng để chống đỡ cái lạnh. Chúng tôi vừa toát đầy mồ hôi, buổi tối ở sa mạc khá lạnh, rất dễ mắc bệnh.
大火起来,照亮了四周,一下就暖和起来。队医继续处理高加索人的伤口,我和阿宁退到一边,几个小时的疲劳一下子全部涌了出来。我坐到一块大石头上喝水,阿宁披上了衣服,我们两个都是一脸的泥土,十分狼狈。我朝她苦笑了一声,却看到她一脸的疲惫靠到了土丘上,摆弄着对讲机,似乎相当的沮丧。
Lửa nhóm lên, chiếu sáng khắp bốn phía, chẳng mấy chốc đã ấm lên. Bác sĩ tiếp tục xử lý vết thương trên người anh Caucasus. Tôi với A Ninh lùi qua một bên, mệt mỏi suốt mấy tiếng đồng hồ lập tức trỗi dậy. Tôi ngồi trên một tảng đá lớn uống nước, A Ninh đắp thêm áo, hai chúng tôi mặt mũi toàn đất bùn, trông cực kỳ chật vật. Tôi nhìn cô cười khổ một tiếng, lại thấy cô ta nét mặt uể oải đến ngồi dựa vào gò đất, hí hoáy nghịch bộ đàm, có vẻ khá ủ rũ.
我想起刚才她那种气势,心说真是不容易,她一个女人能在那种场合干练到那种样子,想来估计也是逼出来的,想想一个女人要强悍到这样,真是有点心酸。
Tôi nhớ tới lúc nãy cô ta khí thế bừng bừng, nghĩ thầm đúng là không dễ dàng gì. Cô ta thân là đàn bà con gái, lại có thể lão luyện trong những tình cảnh như thế này, nghĩ đến phỏng chừng cũng là bức bách mà thành. Nghĩ xem một cô gái sao mà phải dũng mãnh đến cỡ này, đúng là có chút xót xa.
不过说来也奇怪,看她也不像是缺钱的样子,干这种事情也不见她开心。她到底干什么非要为裘德考卖命不可?而且还拼命到这种程度,真是想不通,以后有机会要好好问问她。
Có điều, nhắc đến cũng thấy kỳ quái. Trông cô ta cũng không giống dạng thiếu tiền, đi làm những việc này cũng không thấy cô ta vui vẻ gì. Rốt cuộc cô ta vì sao mà phải bán mạng cho Cầu Đức Khảo đây? Không những thế còn liều mạng đến cỡ này, thực sự không nghĩ ra nổi, sau này có cơ hội phải đi hỏi thăm xem sao.
喝了几口水就想方便,于是绕了个圈子到了土丘下面放水,在沙漠里这批人都是这个样子,我也习惯了。
Uống mấy ngụm nước liền mắc tiểu, vì thế tôi bèn đi vòng ra sau gò đất đi giải quyết, nhóm người này trong sa mạc cũng toàn thế, tôi cũng quen rồi.
尿着尿着,忽然我就听到一边的石头后面,突然传来一声怪异的冷笑,那声音和刚才在对讲机里听到的如出一辙,顿时让我浑身一凉。我转头往那块石头看去,心说难道一直听这个声音,出现幻听了不成?
Đang đứng đái, bỗng tôi nghe thấy từ một tảng đá ở bên cạnh chợt vang lên một tiếng cười lạnh quái dị, tiếng động đó hoàn toàn không khác gì với tiếng động trước nghe trong bộ đàm, tức thì khiến toàn thân tôi lạnh ngắt. Tôi quay phắt đầu nhìn tảng đá kia, tự nhủ sao vẫn nghe thấy cái âm thanh này thế, có phải là ảo giác nghe lầm rồi hay chăng?
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top