Chương 4: Nhiều hơn một cái
陈皮阿四越想心里越发悚,但是这人那时候已经五十近六,阅历胆识自然不是我可以比拟的,害怕之后,一定心神,心说你个驴日的看什么看,闪电般掏出几颗铁弹子,双脚使力定住身体,啪啪两颗,直打向那顿白面朝天的罗汉像。
Trần Bì A Tứ càng nghĩ càng thấy sợ, nhưng ông ta lúc đó đã xấp xỉ sáu mươi, vốn sống và lòng can đảm tự nhiên không phải thứ tôi có thể so bì được, sợ hãi qua đi, ông ta định thần lại, thầm mắng "Đồ chó đẻ nhìn cái gì mà nhìn", nhanh như chớp móc ra mấy viên đạn sắt, hai chân dùng sức ghim chặt cơ thể, pặc pặc hai phát, bắn thẳng vào tượng La Hán mặt trắng đang ngẩng mặt lên trời kia.
前头已经说过,陈皮阿四的做人哲学就是先下手为强。这句话我爷爷也不止和我说过一遍,可以说跑江湖的,这个道理是最简单但是又十分实用。两颗铁弹没有留力,就听两声闷响,直中白面罗汉像的双眼,直打的罗汉像两只眼窝全数裂开,铁弹子弹飞出去,掉入镜儿宫的底部。
Phần trước đã nói, triết lý làm người của Trần Bì A Tứ là ra tay trước thì thắng. Câu này ông nội tôi cũng đã nói với tôi không chỉ một lần, có thể nói là người lăn lộn giang hồ, đạo lý này là đơn giản nhất nhưng lại vô cùng thực dụng. Hai viên đạn sắt không hề nương tay, chỉ nghe thấy hai tiếng trầm đục, trúng ngay vào đôi mắt của tượng La Hán mặt trắng, đánh cho hai hốc mắt của tượng nứt toác ra, đạn sắt nảy đi, rơi xuống đáy Kính Nhi Cung.
要是人,就实打实给打瞎了,可见这一手有多狠毒。罗汉像虽然是泥塑,但是也受不了这样的撞击。这一下子,那罗汉两只眼睛的地方变成两个深坑,看上去非常空洞古怪,但是比起刚才的感觉已经好上了很多。
Nếu là người, thì coi như mù đặc rồi, đủ thấy chiêu này tàn độc đến mức nào. Tượng La Hán tuy làm bằng đất nung, nhưng cũng không chịu nổi cú va chạm như vậy. Lần này, chỗ hai con mắt của tượng La Hán biến thành hai cái hố sâu hoắm, trông vô cùng trống rỗng quái dị, nhưng so với cảm giác lúc nãy thì đã khá hơn rất nhiều.
陈皮阿四小松一口气,心里冷笑,心说这些臭和尚,搞什么四大皆空,还不是一样在这里弄这些诡计吓唬人?想着从怀中掏出一只壁虎爪,一头勾上上头的曲木宫顶,一头由连着的海象皮制的单股绳缚在脚踝上,往下一松,带着弹性的海象皮绳就向下拉伸。使用海象皮绳是陈皮阿四多年盗墓经验中总结出来,这东西的强度仅次于钢绳,但是可以拉伸,加上陈皮阿四身材矮小精瘦,贴身缠绕在腰部,只是十几圈,套上衣服一点也看不出来,就可以用来对付十米左右的深度。
Trần Bì A Tứ thở phào nhẹ nhõm, cười khẩy trong lòng, thầm mắng đám hòa thượng thối này, bày đặt tứ đại giai không cái quái gì, chẳng phải cũng bày trò quỷ quái này ở đây dọa người sao? Nghĩ đoạn, ông ta móc trong ngực ra một cái móng vuốt tắc kè, một đầu móc lên trần gỗ cong bên trên, một đầu buộc vào cổ chân bằng dây da hải mã bện một sợi, thả lỏng người xuống, sợi dây da hải mã đàn hồi liền kéo dãn xuống dưới. Sử dụng dây da hải mã là kinh nghiệm Trần Bì A Tứ đúc kết được sau bao năm trộm mộ, độ bền của thứ này chỉ kém dây thép, nhưng lại có độ co dãn, cộng thêm vóc dáng thấp bé gầy gò của Trần Bì A Tứ, quấn sát quanh thắt lưng, chỉ hơn chục vòng, mặc áo vào là chẳng nhìn ra được chút nào, có thể dùng để đối phó với độ sâu khoảng mười mét.
不过这"镜儿宫"休止十几米深,陈皮阿四放绳子一直到极限,可是离宫底还有很长的一段距离。
Nhưng "Kính Nhi Cung" này đâu chỉ sâu mười mấy mét, Trần Bì A Tứ thả dây đến cực hạn, nhưng cách đáy cung vẫn còn một khoảng rất xa.
但是由此看下去,已经可以看到下面东西的轮廓了。底下的宫底基座似乎是汉白玉的,上面因为历年的地震和自然的剥落,有着很多不知名的碎片。宫底中心摆着一座袖珍的不知道是玉石还是象牙的白色宝塔,上面罩着半透明的绞纱"宝帐",所以看下去白蒙蒙的。
Tuy nhiên từ đây nhìn xuống, đã có thể thấy được đường nét của những thứ bên dưới rồi. Nền móng dưới đáy cung dường như làm bằng đá cẩm thạch trắng, bên trên do động đất bao năm và sự bong tróc tự nhiên, vương vãi rất nhiều mảnh vỡ không rõ tên. Giữa đáy cung đặt một tòa bảo tháp bỏ túi không biết làm bằng ngọc thạch hay ngà voi màu trắng, bên trên trùm một tấm "bảo trướng" bằng lụa mỏng bán trong suốt, cho nên nhìn xuống thấy trắng mờ mờ.
陈皮阿四这一辈子,对于佛塔浮屠的了解还是少了一点,这也和解放前那一代人不识字有关系。长沙土夫子里有一句老话:万户侯不如仗浮屠。就是说浮屠地宫的东西,往往比万户侯陵墓里的还要奢侈。陈皮阿四虽然听过这话,但是到底领会不深,如果是我,当时已然可以知道这下面的是什么东西了。
Trần Bì A Tứ cả đời này, sự hiểu biết về tháp Phật phù đồ vẫn còn hơi ít, điều này cũng liên quan đến việc thế hệ trước giải phóng không biết chữ. Thổ phu tử vùng Trường Sa có câu nói cũ: Vạn hộ hầu không bằng trượng phù đồ. Ý nói đồ trong địa cung tháp Phật, thường còn xa xỉ hơn đồ trong lăng mộ vạn hộ hầu. Trần Bì A Tứ tuy từng nghe câu này, nhưng rốt cuộc lĩnh hội không sâu, nếu là tôi, lúc đó đã có thể biết được bên dưới này là thứ gì rồi.
袖珍宝塔下面,应该就是放佛骨舍利的八重宝函,也就是一只套一只的八只盒子。这东西是佛家专用的,加上里面的舍利,就是三千世界和六道轮回。暂且不管下面压的是真的佛骨还是玉石影骨,光那只八重宝函,我的天,就是根本无法计算价值的东西了。
Bên dưới tòa bảo tháp bỏ túi, hẳn chính là Bát trọng bảo hàm đựng xá lợi xương Phật, tức là tám cái hộp cái này lồng vào cái kia. Thứ này là đồ chuyên dụng của nhà Phật, cộng thêm xá lợi bên trong, chính là tam thiên thế giới và lục đạo luân hồi. Khoan nói đến bên dưới đè xương Phật thật hay là ảnh cốt (xương giả) bằng ngọc thạch, chỉ riêng cái bát trọng bảo hàm kia, trời ơi, đã là thứ không thể nào tính toán được giá trị rồi.
我听到这里,感觉到有点疑惑。如果陈皮阿四真的从地宫盗出了八重宝函,那这些东西又怎么会在报纸上出现呢?难道他当时离宝物近在咫尺,却因为什么原因放弃了?以这种人的性格,实在不太可能。
Tôi nghe đến đây, cảm thấy hơi nghi hoặc. Nếu Trần Bì A Tứ thực sự trộm được bát trọng bảo hàm từ địa cung ra, thì những thứ này sao lại xuất hiện trên báo chứ? Chẳng lẽ ông ta lúc đó đã ở ngay gần báu vật, lại vì lý do gì đó mà từ bỏ? Với tính cách của loại người này, quả thực không có khả năng lắm.
老海没有注意到我走神,还在那里口若悬河。不过这人的叙述实在是太罗嗦了点,我又插不进嘴,只得听他继续忽悠我。
Lão Hải không để ý tôi đang lơ đãng, vẫn thao thao bất tuyệt ở đó. Có điều lời kể của lão này thực sự là quá dài dòng, tôi lại không chen ngang được, đành phải nghe lão tiếp tục "chém gió".
陈皮阿四看到宝塔之后,虽然还不知道下面是什么东西,但是他知道肯定不会太差。现在只要能下到下面,自然可以满载而归,但是如何下去呢。
Trần Bì A Tứ sau khi nhìn thấy bảo tháp, tuy vẫn chưa biết bên dưới là thứ gì, nhưng ông ta biết chắc chắn sẽ không tồi. Bây giờ chỉ cần xuống được dưới đó, tự nhiên có thể thắng lớn trở về, nhưng xuống dưới bằng cách nào đây.
只可惜自己没带着足够的绳索,早知道这样,不如刚才就退回去,准备好了再回来,也没的这进退两难的处境。
Chỉ tiếc là bản thân không mang đủ dây thừng, sớm biết thế này, thà lúc nãy quay về, chuẩn bị xong xuôi rồi hẵng quay lại, đỡ phải lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan này.
他手电再往边上一照,看看能不能荡到地宫一边,然后顺着那些罗汉像爬下去。他用手电一节一节的看,估计着高度,直看到底部。宝塔的周围,却突然看见一些奇怪的东西,好象一堆黄土撒在汉白玉的地宫底,不知道是封地宫的时候不小心掉下来的,还是他刚才用线锔开顶的时候弄下来的。
Ông ta soi đèn sang bên cạnh, xem xem có thể đu người sang một bên địa cung, rồi men theo những tượng La Hán kia leo xuống hay không. Ông ta dùng đèn pin soi từng đoạn từng đoạn một, ước lượng độ cao, soi thẳng xuống đáy. Xung quanh bảo tháp, lại đột nhiên nhìn thấy một số thứ kỳ lạ, giống như một đống đất vàng rắc trên đáy địa cung bằng đá cẩm thạch trắng, không biết là do lúc bịt kín địa cung không cẩn thận làm rơi xuống, hay là do ông ta lúc nãy cưa trần gỗ làm rơi xuống.
他仔细一看,心里咯噔了一声,不由暗叫糟糕。
Ông ta nhìn kỹ, tim thót một cái, không khỏi thầm kêu hỏng bét.
原来宫底那些不是黄土,而是一个很大的土包,一看便知道,那是一个地黄蜂的蜂包。
Hóa ra dưới đáy cung không phải là đất vàng, mà là một cái gò đất rất lớn, nhìn một cái là biết, đó là một cái tổ ong đất.
顺着土包的走向,能看到地宫边上有一道半人高的石门,开的十分隐蔽,土包就是从那里"长"进来的。
Nhìn theo hướng đi của gò đất, có thể thấy bên cạnh địa cung có một cánh cửa đá cao nửa người, mở vô cùng kín đáo, gò đất chính là từ đó "mọc" vào trong.
看来这"镜儿宫"的四周还有附属的地下建筑,而且很可能没有封死,结果给这些虫子当成冬暖夏凉的避暑山庄了。由这里看下去,这蜂包的规模还不大,但是矮门内的部分恐怕非常恐怖。也难怪这蜂巢修的如此巨大,在地下人工建筑中,风雨不侵,当真是"好地段",这蜂巢里的老虫也会看风水。
Xem ra bốn phía của "Kính Nhi Cung" này còn có kiến trúc ngầm phụ trợ, hơn nữa rất có khả năng chưa được bịt kín, kết quả bị lũ côn trùng này coi thành sơn trang nghỉ mát đông ấm hạ mát. Từ đây nhìn xuống, quy mô của cái tổ ong này vẫn chưa lớn lắm, nhưng phần bên trong cửa thấp kia e là vô cùng kinh khủng. Cũng chẳng trách cái tổ ong này xây to đến thế, trong kiến trúc nhân tạo dưới lòng đất, mưa gió không xâm nhập được, quả thực là "khu đất vàng", lũ côn trùng già trong tổ ong này cũng biết xem phong thủy đấy chứ.
自己刚才锯下的一截曲木宫顶卡在下层的几个罗汉像间,没砸到虫巢,不然自己挂腊肠一样吊在这里,逃也逃不快,给蜜蜂钉死,恐怕给后来人留下千年笑柄。
Khúc gỗ trần cung mình vừa cưa lúc nãy kẹt giữa mấy pho tượng La Hán ở tầng dưới, không đập trúng tổ ong, nếu không mình treo lủng lẳng như lạp xưởng ở đây, chạy cũng chẳng chạy nhanh được, bị ong đốt chết, e là để lại trò cười ngàn năm cho người đời sau.
可这样一来就麻烦了,只要脚一着地,就算你步履如烟,但是搬动这么一座小塔,在如此小的空间里,不惊动这些地蜂是不可能的。
Nhưng như vậy thì phiền phức rồi, chỉ cần chân chạm đất, cho dù ông bước đi nhẹ tựa khói sương, nhưng di chuyển một tòa tháp nhỏ như thế, trong không gian chật hẹp như vậy, không kinh động đến lũ ong đất này là chuyện không thể nào.
陈皮阿四只是一个琢磨,就知道下去是不可能了,要把东西弄上来,只剩下一个办法。
Trần Bì A Tứ chỉ ngẫm nghĩ một chút, liền biết xuống dưới là không thể rồi, muốn lấy đồ lên, chỉ còn lại một cách.
在这里不得不提一下陈皮阿四这个人的来历。这个人自小在浙江沿海的渔村长大。日本人打来才逃难到了长沙,所以他一口长沙话很不"地道"。但是这人非常的聪明,自古时候起土夫子基本上不传手艺给外省人,他是难得的一个。
Ở đây không thể không nhắc đến lai lịch của Trần Bì A Tứ. Người này từ nhỏ lớn lên ở làng chài ven biển Chiết Giang. Người Nhật đánh tới mới chạy nạn đến Trường Sa, cho nên giọng Trường Sa của ông ta rất không "chuẩn". Nhưng người này vô cùng thông minh, thổ phu tử từ xưa về cơ bản không truyền nghề cho người ngoại tỉnh, ông ta là một trường hợp hiếm hoi.
陈皮阿四在海盐的时候,已经有了一手绝活,那就是在滩涂上抓螃蟹。当然不是用手抓,陈皮阿四抓螃蟹用的东西,叫做"九爪钩"。
Lúc Trần Bì A Tứ còn ở vùng duyên hải, đã có một tuyệt kỹ, đó là bắt cua trên bãi bồi. Tất nhiên không phải bắt bằng tay, thứ Trần Bì A Tứ dùng để bắt cua, gọi là "Cửu trảo câu".
这东西就是类似于武侠片里的飞虎爪,或者特种部队用来攀岩用的三钩爪子。但是这种爪子有九个钩子,成一个环行,排的很密。抓螃蟹的时候,就用绳子绑在钩子的尾巴上,然后看见螃蟹在滩涂上一冒头,就一把甩出去,一钩就是一只螃蟹,然后一扯,螃蟹就飞回来,自己掉进筐里。
Thứ này tương tự như móng vuốt phi hổ trong phim kiếm hiệp, hoặc móng vuốt ba ngạnh dùng để leo núi của đặc nhiệm. Nhưng loại móng vuốt này có chín cái móc, xếp thành vòng tròn, rất dày đặc. Khi bắt cua, dùng dây thừng buộc vào đuôi móc, sau đó nhìn thấy cua vừa ngoi đầu lên bãi bồi, liền quăng một cái, móc trúng ngay một con cua, sau đó giật một cái, con cua bay về, tự rơi vào trong giỏ.
据我爷爷的笔记上记录,这种功夫能精准到什么地步,二十米一只生鸡蛋,一甩手就能勾过来,落地不破,简直是神技。再远一点,就要用棒子甩,也是十分的准确。
Theo ghi chép trong sổ tay của ông nội tôi, loại công phu này chuẩn xác đến mức nào, hai mươi mét một quả trứng gà sống, vung tay một cái là có thể móc về, rơi xuống đất không vỡ, quả thực là thần kỹ. Xa hơn một chút, thì phải dùng gậy để quăng, cũng vô cùng chính xác.
陈皮阿四此时无计可施,没有办法,只好一咬牙使出看家本事。他先荡到一边,顺着罗汉像,一层一层地爬下去。等到距离差不多了,他掏出九爪钩,提起一头气,一个角度极其小的弧线,爪子就钩到了宝帐上。幸好这东西不是常见的青石的,十分轻盈,陈皮阿四一提将宝帐甩起,架到一边的罗汉脑袋上,手上力道一变,钩子脱出又回到他手里。
Trần Bì A Tứ lúc này hết cách, không còn lựa chọn nào khác, đành nghiến răng tung ra tuyệt kỹ trấn phái. Ông ta đu người sang một bên trước, men theo tượng La Hán, trèo xuống từng tầng từng tầng một. Đợi đến khoảng cách vừa đủ, ông ta lôi Cửu trảo câu ra, nín thở, vung một đường cong góc cực nhỏ, móng vuốt đã móc trúng vào bảo trướng. May mà thứ này không phải đá xanh thường gặp, vô cùng nhẹ, Trần Bì A Tứ nhấc một cái hất tung bảo trướng lên, gác lên đầu tượng La Hán bên cạnh, lực tay thay đổi, móc tuột ra rồi quay về tay ông ta.
接下来是把这玉石或是牙塔去掉,不过无论是什么材料,用九爪钩是提不上来的。陈皮阿四甩出九爪钩,勾住袖珍的塔刹,扯了几下,纹丝不动。
Tiếp theo là dọn cái tháp ngọc thạch hoặc tháp ngà kia đi, nhưng bất kể là chất liệu gì, dùng Cửu trảo câu cũng không nhấc lên nổi. Trần Bì A Tứ quăng Cửu trảo câu ra, móc vào tháp sát nhỏ xíu, giật mấy cái, chẳng suy chuyển chút nào.
没半吨也有五百斤,陈皮阿四心里暗骂。
Không nửa tấn thì cũng phải năm trăm cân, Trần Bì A Tứ thầm chửi trong bụng.
他用手电扫了一遍塔身,看到塔基处有四根袖珍的柱子。这塔必然是按照头顶上塌掉的这一座等比自制的,那结构也应该差不多。这四根柱子支撑着塔身所有的重量,宝函就在柱子中间,只不过角度不对,不然仔细去勾,也应该能勾的上来。
Ông ta dùng đèn pin quét một lượt thân tháp, nhìn thấy ở nền tháp có bốn cái cột nhỏ xíu. Tòa tháp này chắc chắn là tự chế theo tỷ lệ của tòa tháp đã sập trên đầu, vậy thì kết cấu chắc cũng tương tự. Bốn cái cột này chống đỡ toàn bộ trọng lượng của thân tháp, bảo hàm nằm ngay giữa các cột, chỉ là góc độ không đúng, nếu không cẩn thận mà móc, chắc cũng móc lên được.
这时候陈皮阿四心里已经有点急躁,他估计着下来也有四个小时了,刚才隐约听到几声哨声,弄不好那帮苗人已经在附近了,没时间在犹豫想办法了。
Lúc này trong lòng Trần Bì A Tứ đã hơi nôn nóng, ông ta ước chừng xuống dưới cũng được bốn tiếng rồi, vừa nãy lờ mờ nghe thấy mấy tiếng còi, không khéo đám người Mèo kia đã ở gần đây rồi, không có thời gian do dự nghĩ cách nữa.
他心里一压,脑子一热,心里恶念已起,甩手啪啪又打出两颗铁弹子。弹子打在塔基上的小柱子上,柱子应声而碎,接着他纵身一跃,一下子踩到塔的一边,然后一使缓劲,顺着自己的冲力将塔带的往一边斜倒。另两边的柱子本来就受力不平衡,一下子断裂,塔往下一沉,塔身和塔基裂了开来。
Ông ta dằn lòng xuống, đầu nóng lên, ác niệm trong lòng nổi lên, vung tay pặc pặc bắn tiếp hai viên đạn sắt. Đạn sắt bắn vào cái cột nhỏ trên nền tháp, cái cột vỡ tan theo tiếng vang, tiếp đó ông ta tung người nhảy một cái, đạp phắt lên một bên tháp, sau đó dùng kình lực hoãn xung, nương theo lực quán tính của mình kéo cho tòa tháp đổ nghiêng sang một bên. Hai cái cột bên kia vốn dĩ chịu lực đã không cân bằng, lập tức gãy đôi, tháp sụp xuống, thân tháp và nền tháp tách rời ra.
陈皮阿四趴在塔上,控制着力度,塔重力量缓,倾斜的很慢。等到陈皮阿四看到塔下的宝函一露个角,一甩九爪勾,一下将这东西从塔下勾了上来,然后收钩子再甩出去,勾住一边的罗汉像,像拉起纤绳一样把自己稳住。
Trần Bì A Tứ nằm bò trên tháp, khống chế lực độ, tháp nặng lực hoãn xung, nghiêng đi rất chậm. Đợi đến khi Trần Bì A Tứ nhìn thấy bảo hàm dưới tháp lộ ra một góc, vung Cửu trảo câu, một phát móc thứ này từ dưới tháp lên, sau đó thu móc lại quăng ra lần nữa, móc vào tượng La Hán bên cạnh, giống như kéo dây thừng neo thuyền để giữ mình ổn định lại.
这一系列动作只有3秒就全部完成了,但是他没想到那罗汉像根本拉不住塔身和他的体重。一拉之下,罗汉像首先不稳,竟然从墙上掉了下来。
Chuỗi động tác này chỉ trong 3 giây là hoàn thành tất cả, nhưng ông ta không ngờ tượng La Hán kia căn bản không chịu nổi trọng lượng của thân tháp và cơ thể ông ta. Vừa kéo một cái, tượng La Hán mất thăng bằng trước tiên, thế mà lại rơi từ trên tường xuống.
这下面一圈几乎是蜂包,要是这样掉下去,等于直接摔进蜂包里面,那不死也不可能了。
Bên dưới một vòng gần như đều là tổ ong, nếu rơi xuống như thế này, đồng nghĩa với việc ngã thẳng vào trong tổ ong, vậy thì không chết cũng không được.
闪电间陈皮阿四使尽全身的力气用力一扯,将罗汉像扯向自己的方向,一手将八重宝函丢向空中。如此闪电般一换手,罗汉像给他稳稳接到了手里,但是无法避免的,宝塔顶也重重撞上了地宫壁,更多的罗汉像给倾斜的塔刹拨落下来。
Trong chớp mắt Trần Bì A Tứ dùng hết sức bình sinh giật mạnh một cái, kéo tượng La Hán về phía mình, một tay ném bát trọng bảo hàm lên không trung. Một cú đổi tay nhanh như chớp, tượng La Hán được ông ta đón vững vàng trong tay, nhưng không thể tránh khỏi, đỉnh bảo tháp cũng va mạnh vào vách địa cung, càng nhiều tượng La Hán bị tháp sát nghiêng gạt rơi xuống.
这一次陈皮阿四再也无技可施,眼看着一排的罗汉像砸进地黄蜂巢里,顿时灰尘四起,黄蜂巢给压得几乎完全凹陷裂开。
Lần này Trần Bì A Tứ hết đường xoay xở, trơ mắt nhìn một hàng tượng La Hán đập vào tổ ong đất, nhất thời bụi mù tứ tung, tổ ong vàng bị đè cho gần như lõm hẳn xuống nứt toác ra.
混乱中他只得丢下手里的罗汉,又转接住宝函,条件反射地手电去照那蜂包。心说完了,老命交代了,没死在战场上,还是死在地宫里,应了祖宗的老话了。
Trong hỗn loạn ông ta đành phải vứt pho tượng La Hán trong tay xuống, quay sang đỡ lấy bảo hàm, phản xạ có điều kiện soi đèn pin vào cái tổ ong kia. Bụng bảo dạ xong rồi, cái mạng già này coi như đi tong, không chết trên chiến trường, lại chết trong địa cung, đúng là ứng nghiệm lời các cụ rồi.
手电一照间,那些裂缝处却没有他想象的大量的黄蜂涌出来,反而他看到蜂巢的裂缝里面干涸没有一点水份,似乎是一个废弃的蜂包。
Ánh đèn pin vừa soi vào, những chỗ nứt vỡ kia lại không có lượng lớn ong vàng ùa ra như ông ta tưởng tượng, ngược lại ông ta nhìn thấy bên trong vết nứt tổ ong khô khốc không chút hơi nước, dường như là một cái tổ ong bỏ hoang.
但是,让他浑身冰凉的是,有一道裂缝里面有一驮黑呼呼的东西,看样子是修巢的时候裹进去的,不知道是死人还是什么动物的尸体。
Nhưng, điều khiến ông ta lạnh toát cả người là, trong một khe nứt có một đống đen thui, xem ra là bị cuốn vào lúc xây tổ, không biết là người chết hay là xác động vật gì.
他跳下去,掰开一看,是一座和这里样式相同的罗汉像给裹在了里面,已经摔的成了几片,估计是蜂巢还没形成的时候就从上面摔下来碎了,结果给包进去。
Ông ta nhảy xuống, bẻ ra xem, là một pho tượng La Hán cùng kiểu dáng với những pho ở đây bị bọc bên trong, đã vỡ thành mấy mảnh, đoán chừng là lúc tổ ong chưa hình thành thì rơi từ trên xuống vỡ tan, kết quả bị bọc vào trong.
陈皮阿四抬头看去,他刚才下来的时候虽然没注意,但是他感觉并没有发现哪里少了一尊罗汉像啊,这一座是从哪个位置上掉下来的呢?
Trần Bì A Tứ ngẩng đầu lên nhìn, lúc nãy khi ông ta xuống tuy không chú ý, nhưng ông ta cảm thấy tịnh không phát hiện ra chỗ nào thiếu mất một pho tượng La Hán, vậy pho tượng này rốt cuộc là rơi từ vị trí nào xuống nhỉ?
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top