Âm sơn cổ lâu
Chương 1: Khởi nguồn
Editor: Nguyễn Nam
Beta: Thanh Du
Note: Thực ra từ chương này trở đi mới bước vào phần Âm sơn cổ lâu,
11 chương trước chỉ là khúc đệm ~
*****
Để giúp Muộn Du Bình tìm lại ký ức đã mất, chúng tôi đến Ba Nãi nằm ở vùng trung tâm của Thập Vạn Đại Sơn, nơi được mệnh danh là Siberia của Quảng Tây.
Tôi vốn cho rằng tình huống mất trí nhớ và đi tìm lại trí nhớ đã mất này rất khó xảy ra trên thực tế, nên ban đầu vẫn cảm thấy có gì đó khác thường. Quá khứ của người khác có lẽ không có gì hấp dẫn, nhưng câu chuyện đằng sau Muộn Du Bình chắc chắn không giống vậy, việc này giống như đọc một cuốn tiểu thuyết huyền bí mà bản thân bạn cũng bước vào trong đó, lòng vừa thấp thỏm lại vừa hưng phấn.
Muộn Du Bình vẫn trầm lặng ít nói như xưa, người như hắn liệu có mang chút tâm tính nào của người bình thường hay không thì tôi không dám chắc, nhưng chí ít sự kiên trì mà hắn biểu lộ ra đã đủ khiến tôi bội phục. Tôi cũng hơi do dự, giúp hắn đi tìm quá khứ đồng nghĩa với việc kéo hắn từ cuộc sống bình yên này trở về với hiện thực, đây rốt cuộc là chuyện tốt hay xấu?
Quá trình vào núi không nhắc lại nữa, chúng tôi dựa theo manh mối gã họ Sở cung cấp, tìm được căn nhà sàn mà Muộn Du Bình ở trước đây, hơn nữa còn phát hiện ra một cái rương sắt nằm trong ngăn bí mật dưới gầm giường cũ nát. Sau đó xảy ra một loạt sự kiện, có kẻ đứng dưới gầm nhà muốn kéo cái rương đi, may mà chúng tôi phát hiện kịp thời. Nhưng gã kia rõ ràng là rất thông thạo đường xá trong thôn, trốn vào một con hẻm rồi hoàn toàn mất dạng.
Trong khi chúng tôi còn đang ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì vừa xảy ra thì ổ khóa của cái rương cũ nát Bàn Tử đang ôm đã gãy rời, nháy mắt cái rương liền lộn nhào xuống đất.
Chuyện xảy ra quá nhanh, ba người căn bản chưa kịp phản ứng thì cái rương đã rơi xuống đất, nắp bật tung, một vật to cỡ nắm tay từ bên trong rớt ra, lăn lóc dưới chân Bàn Tử.
Trước kia Muộn Du Bình từng nói hắn có chút ấn tượng mơ hồ với cái rương này, trong rương có thể là thứ gì đó cực kỳ nguy hiểm, bảo chúng tôi tuyệt đối không được mở ra. Do vậy vừa thấy nó rơi xuống, tôi đã giơ tay cúi người, làm tư thế phòng thủ.
Bàn Tử không có thời gian phản ứng, chỉ kịp rụt cổ lại, hai người chúng tôi nhoáng cái đã đứng im không dám nhúc nhích.
Tôi cứ đinh ninh sẽ có một vụ nổ lớn, lúc này cũng không có nhiều thời gian cân nhắc, tất cả đều là phản xạ tự nhiên. Nhưng nghiến răng rụt cổ suốt mấy giây vẫn chẳng thấy gì, không cháy nổ, cũng không có ám khí bay ra.
Tôi thận trọng mở mắt nhìn xuống chân Bàn Tử, vật rơi ra ngoài trông giống một khối gỗ xù xì, tôi chưa thấy bao giờ nhưng hình như không phải vật nguy hiểm. Bàn Tử từ từ thả lỏng, tiến lên vài bước, tôi cũng chầm chậm buông tay, lòng đầy hoài nghi, chẳng lẽ Muộn Du Bình nhớ lộn? Hay là để lâu quá, thứ nguy hiểm cũng hết hạn sử dụng luôn rồi?
Nhìn sang Muộn Du Bình, hắn không có biểu cảm gì đặc biệt, nhưng rõ ràng cũng đang hoảng sợ.
Giống như một quả pháo tịt ngòi, chẳng ai dám bước lên xem trước. Chúng tôi giằng co mất một lúc, Bàn Tử vừa rồi còn quả quyết số mình sống dai mới nhích lại gần, tôi cũng nối gót hắn. Vật rơi ra từ rương trông hơi giống một cái hồ lô lớn bằng cốc miệng loe (1), bề ngoài lại xù xì như có mụn nhọt, nhìn giống da cóc ghẻ, không dễ chịu chút nào. Nhìn kỹ có thể thấy trong đám mụn nhọt trên cái "hồ lô" xấu xí này thấp thoáng những vệt sáng của kim loại, hình như là sắt.
Bàn Tử định thò tay ra nhấc lên thì Muộn Du Bình ngăn lại, hắn hái một cái lá bí ngô bên cạnh lót tay rồi mới cầm "hồ lô sắt" lên.
Nhìn cảm giác của hắn khi cầm nó lên thì đúng là sắt thật, hơn nữa cũng không nhẹ. Đống mụn cóc kia trông như bị acid mạnh ăn mòn, hoặc là khi đúc bị lẫn vào nhiều bọt khí, còn mấy cái đốm đỏ vàng vàng là vết rỉ sét, vật này chính là một cục sắt hình hồ lô. Bề mặt nó có vài hoa văn cổ đại, tuy đã mờ đến độ nhìn không rõ nữa, nhưng có thể mơ hồ nhận ra đây đúng là một món đồ cổ.
Bàn Tử bực mình nói: "Cái quái gì thế này? Trông như đạn pháo, chẳng lẽ lại là lựu đạn thời cổ?"
Tôi lắc đầu ngay: "Đừng có đoán mò, anh thích chôn lựu đạn xuống gầm giường lắm hay sao?"
Vào thời Minh, hỏa khí đã phát triển cực thịnh, "Chấn Thiên Lôi" và "Quốc Tính Bình" đều có lực sát thương rất lớn. Mấy món này cũng từng qua tay tôi vài lần, nhưng đều đã rút ruột – nói cách khác là không còn thuốc nổ nữa (vì không ai được phép mua bán đồ thật, vậy khác nào buôn súng đạn). Mấy thứ này mới đầu mắc vào lưới đánh cá ngoài biển của ngư dân Phúc Kiến, sau được dân buôn đồ cổ đổi bằng vật dụng sinh hoạt. Nhưng cái món đồ sắt xù xì này trông không giống hàng từ biển, nên chắc là không phải. Hơn nữa hắn dám chôn thứ này dưới gầm giường, lỡ gặp hôm trời hanh khô nó phát nổ thì sao? Muộn Du Bình tuyệt đối sẽ không làm chuyện thiếu đầu óc như vậy.
Muộn Du Bình lắc lắc vài cái, lắng nghe, rồi lắc đầu. Tôi hỏi hắn cảm giác nguy hiểm vừa rồi giờ đã hết chưa? Hắn không đáp, nhưng thần sắc đã thay đổi, nhìn cái hồ lô sắt kia một lát rồi nói: "Lớp sắt này chẳng qua chỉ là vỏ bọc, đồ thật ở bên trong."
Tôi sửng sốt: "Làm sao anh biết?"
Muộn Du Bình đáp: "Vì nó quá nhẹ."
Bàn Tử kinh ngạc: "Con mẹ nó cậu có thể ước lượng được hả?"
Chuyện này cũng không lạ, những người hay tiếp xúc với đồ cổ đều phải luyện được tay nghề này. Hơn nữa ai đã từng ước lượng sắt tinh khiết hay từng làm khuôn đúc đều biết trọng lượng một khối sắt chênh lệch rất lớn so với tưởng tượng của người bình thường, sức người bình thường không thể dùng hai ngón tay kẹp một khối sắt lớn cỡ cái hộp bút lên được.
Tôi bảo Bàn Tử: "Với cái kiến thức cơ bản nửa vời của anh dĩ nhiên là không rành rồi, loại công phu thượng đẳng này chúng tôi phải luyện cỡ mấy đời mới được."
Bàn Tử xì một tiếng khinh khỉnh: "Bàn gia ta đâu rảnh rỗi mà luyện cái món đó, mua cái cân điện tử thì đáng mấy đồng."
Tôi cũng làm bộ khinh thường rồi lại hỏi Muộn Du Bình: Anh có ấn tượng hay là manh mối gì về thứ nằm trong lớp sắt này không?"
Muộn Du Bình lắc đầu, Bàn Tử liền nói: "Trước kia có một loại vàng bọc sắt, trong khi vận chuyển vàng được bao vỏ sắt bên ngoài nên không ai thấy. Có điều lớp vỏ sắt này trông như được đúc lên, hơn nữa còn quá nhẹ, bên trong chắc chắn không phải vàng."
Tôi chưa từng nghe nói đến "vàng bọc sắt", chỉ biết có một giống ngao Tạng tên là Thiết Bao Kim, ông nội tôi từng nuôi một con, do không thích nghi được với khí hậu nên không nuôi nổi, về sau nó bị con bò trong thôn đá chết. Không biết Bàn Tử nói vậy là khoác lác hay hắn đã gặp thật rồi.
Điểm thu hút sự chú ý của tôi chính là những hoa văn mờ mờ bên trên, đã có hoa văn thì chí ít nó cũng có tác dụng trang trí.
"Hay nó là một linh kiện cơ khí?" Bàn Tử nói tiếp "Ví như chân lư hương bằng sắt, hay là mấy cái đồ trang trí gắn trên bánh xe hồi trước ấy. "
Tôi nghĩ cũng có thể. Hiểu biết của tôi về đồ sắt không sâu, vì sắt dễ gỉ, rất khó bảo quản trong cổ mộ nên độ phổ biến thua xa đồ đồng và đồ sứ. Vả lại giá trị của đồ sắt thường không cao, cho nên dân chơi đồ cổ chẳng mấy ai hiểu rõ, tôi thực sự không có manh mối gì.
Nhưng nếu đã là đồ cổ thì phải có gốc tích, hẳn là liên quan đến những việc hắn đã trải qua trong thôn này.
Tôi nhớ lại giả thiết của Bàn Tử hôm trước, nảy ra một suy đoán. Hắn nói gần núi Dương Giác có thể có một ngôi mộ cổ, chuyện hẳn là thế này: Có thể Muộn Du Bình cũng là thành viên trong đội khảo cổ của Văn Cẩm năm đó, cái hồ lô này có thể là một món đồ bọn họ lấy ra từ cổ mộ, nhưng vì lý do nào đấy, Tiểu Ca đã giấu nó đi. Cái món đồ chơi này chắc là từ cổ mộ kia mà ra, nếu không rất khó lý giải nguồn gốc của nó.
Bàn Tử cau mày ú: "Tôi cũng đoán thế, vậy năm đó Tiểu Ca giấu nó đi chắc là để đề phòng điều gì đó, tình hình lúc ấy chắc là rất phức tạp."
Có đề phòng thì ắt có kẻ địch, điều này cho thấy chuyện xảy ra với đội khảo cổ e rằng không đơn giản như lời A Quý nói.
Ba người im lặng giây lát, tôi cảm thấy vừa vui vẻ lại vừa buồn bực. Vui vì ở đây tìm được nhiều thông tin hơn tôi tưởng, bực vì những tin tức này chỉ luẩn quẩn xung quanh "một sự kiện" rất chung chung, chứ không chạm được vào tình tiết cụ thể.
Văn Cẩm đã từng ở đây, A Quý trong hình mới lên bảy lên tám, mà đến giờ cũng ngoại tứ tuần rồi, tức là chuyện đã xảy ra từ hai mươi đến ba mươi năm. Trong khoảng thời gian này vừa hay xảy ra sự kiện Tây Sa, vậy thời điểm Văn Cẩm xuất hiện ở đây hẳn là không bao lâu trước sự cố Tây Sa – họ rời khỏi đây rồi mới đến Tây Sa. Tôi thấy trong hình không còn ai nữa, nên cũng không rõ cô ấy đến đây cùng nhóm đi Tây Sa, hay là cùng một nhóm khác.
Muộn Du Bình bị người Việt Nam trói lại làm mồi là vào khoảng năm sáu năm trước, vậy khoảng thời gian mười lăm năm ở giữa hắn đã làm gì? Tôi thấy chuyện này rất có vấn đề, với thân thủ của hắn thì mấy người Việt Nam kia chắc chắn không phải đối thủ, cho dù đối phương có súng đi chăng nữa thì hắn muốn thoát thân cũng không thành vấn đề, vì sao lại bị trói gô như heo? Không lẽ cuộc gặp gỡ với Trần Bì A Tứ là do hắn sắp đặt trước? Tất cả đều là nghi vấn.
"Cái tên cướp đồ của chúng ta ban nãy liệu có liên quan đến chuyện này không nhỉ?" Bàn Tử hỏi.
Tôi muốn tra từ hướng này, bèn hỏi: "Hai anh có nhìn rõ tên đó không?"
"Chịu, tên kia chạy còn nhanh hơn thỏ, loáng cái đã mất dạng, chỉ thấy gã xấu xấu bẩn bẩn, dáng người xấp xỉ cậu."
Tôi thầm nghĩ, tên kia là ai mới được chứ? Chúng tôi đến đây căn bản không gây chú ý, hắn đơn giản chỉ là một tên trộm vặt bám đuôi chúng tôi hay là người trong cuộc? Chuyện này nằm ngoài dự liệu của tôi, có cảm giác dây dưa không rõ, nếu hắn có liên quan đến chuyện này thì chúng tôi gay go lớn rồi, ban đêm phải đóng chặt cửa mới dám ngủ mất.
"Để lát nữa chúng ta hỏi A Quý xem, tên kia trông như thằng điên, không chừng A Quý biết." Bàn Tử nói: "Giờ biết làm sao đây? Chúng ta có lấy cái hồ lô sắt này về cũng chả biết làm gì, hay tìm một thợ rèn xem xem có thể nung chảy phần nào không."
Tôi nói khỏi cần làm vậy, trí tuệ của nhân dân lao động là vô biên, tôi biết một cách xử lý món đồ này, đó là dùng acid sulfuric nhỏ lên để mài mòn dần lớp vỏ sắt của nó. Anh nhìn những vết rỗ trên hồ lô mà xem, không chừng đã có người từng làm vậy, nhưng vì lý do nào đấy mà chưa xong đã ngừng.
Có khi người làm việc này chính là Muộn Du Bình cũng nên. Tôi còn có cảm giác, sự cảnh giác của hắn đối với vật này có thể là do trong lúc dùng acid sulfuric hòa tan lớp vỏ sắt, hắn bỗng dưng phát hiện ra dấu hiệu gì đó nguy hiểm, dấu hiệu này để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí, khiến hắn phải phải ngừng lại ngay lập tức. Bây giờ tuy hắn đã quên tuốt luốt, nhưng ấn tượng ấy vẫn lưu lại trong đầu, làm hắn cảm thấy bất an.
Đương nhiên đây chỉ là phỏng đoán, nhưng tôi cảm thấy rất có khả năng này.
Bàn Tử gật đầu: "Vậy thì dễ rồi, ta cứ đến hiệu bán phân hóa học lấy một ít là được."
Tôi thầm nghĩ tốt nhất không nên tùy tiện mang cái món đồ chơi kia đi, đợi lát nữa dẫn A Quý đến đây cân nhắc cho cẩn thận, rồi để Muộn Du Bình xem xét tỉ mỉ cái đã.
Muộn Du Bình lại bỏ hồ lô sắt vào trong rương, đậy nắp vào. Bàn Tử khuân nó lên: "Được rồi, hôm nay coi như cũng có thu hoạch, từ giờ chúng ta phải mang cái món đồ chơi này theo bên mình. Các cậu mau vào trong khua khắng nốt đi, lát nữa khuê nữ kia sẽ quay về đấy, nhớ canh thời gian cho khớp."
Tôi nhớ ra mấy tấm ảnh gã họ Sở nhắc đến mình còn chưa xem, đấy mới là việc chính, liền đứng dậy bước ra gần cửa sổ.
Vừa đứng lên, còn chưa đi nổi hai bước, tôi bỗng cảm thấy có gì đó bất thường. Quay đầu nhìn lại thì sửng sốt, tôi thấy trên sườn dốc phía trên căn nhà sàn không biết từ bao giờ đã đứng lố nhố mấy thôn dân, đang nhìn chúng tôi bằng sắc mặt âm trầm.
Chương 2: Thôn làng kỳ lạ
Editor: Biển
Beta: Thanh Du
*****
Muộn Du Bình kéo tôi lại, trái tim tôi đập thình thình, suy nghĩ đầu tiên lóe lên là: bọn họ đã đứng ở đây từ hồi nào?
Chúng tôi vốn là dân thành phố, đã quen nhìn mọi thứ ngang tầm mắt, khi đến những nơi thế này thì thường không có phản xạ nhìn lên đỉnh núi, cho nên lúc vừa đến đây, tôi hoàn toàn không nhớ trên sườn núi có người hay không. Nếu bọn họ đã ở trên đó từ đầu, vậy thì lúc chúng tôi tiến vào nhà sàn chắc chắn đã bị phát hiện, giả thiết này không ổn cho lắm.
Hơn nữa nhìn vẻ mặt của mấy người đó chẳng thấy tốt lành gì, ánh mắt đem đến cảm giác lạnh lẽo.
Tôi hơi luống cuống, nhất thời cũng đứng yên, đối diện với bọn họ, phát hiện ra mấy người này đều trong khoảng bốn mươi đến năm mươi. Người miền núi sinh sống vất vả nên thường già sớm, vậy nên tuổi thực của họ có thể thấp hơn một chút.
Bọn họ cũng không hề nhúc nhích, chỉ nhìn chúng tôi chằm chằm.
Trước kia từng bị tẩy chay ở quê nhà, cũng đã trải qua hoàn cảnh này, tôi dám chắc thái độ này cho thấy sự cảnh giác và nghi ngờ cao độ của họ với chúng tôi, xem ra hồi nãy chúng tôi leo ra ngoài đã bị nhìn thấy thật rồi.
Ở trong thôn tuyệt đối không thể đắc tội với dân bản xứ, bằng không hậu quả khó lường, nhẹ thì bị đuổi đi, nặng có thể bị gô cổ tống vào đồn công an. Lý lịch của tôi với Bàn Tử cũng chả sạch sẽ gì cho cam, đã vào đó thì khó tránh khỏi chuyện bé xé ra to.
Giờ mà tiếp tục đi vào thì đúng là muốn ăn đòn, Bàn Tử ở đằng sau búng tay mấy cái, ra hiệu cho chúng tôi mau đi, đừng có đứng đấu mắt với họ nữa. Làm thế khác nào khiêu khích, chọc cho người ta nổi khùng lên mà nhào xuống tẩn cho đâu.
Vốn đang đi chôm chỉa, trong thâm tâm vẫn hơi chột dạ, lúc này tim đập càng thêm mạnh, thoáng chốc đã trở nên căng thẳng, cảm giác như có một luồng áp lực từ trên núi ép xuống, làm tôi muốn biến khỏi đây ngay. Nhưng nhìn lại căn nhà sàn kia, tôi lại cảm thấy mình không thể đi, một thứ tưởng chừng trở tay là lấy được lại không thể nào chạm đến, cứ như khi đọc tiểu thuyết, những lúc tưởng chừng bí ẩn sắp được vạch trần mà tác giả lại cứ thích vòng vo Tam Quốc. Đứng ngẩn ra giây lát, Bàn Tử liền túm lấy tôi, vừa thì thào: "Đến tối mình quay lại, chỉ chậm vài giờ chứ mấy.", vừa kéo tôi đi.
Ba đứa căng người ra, cố gắng bỏ đi một cách tự nhiên. Vào đến thôn rồi, đi được một quãng xa rồi quay đầu lại, thấy những thôn dân kia không bám theo mới thở phào nhẹ nhõm.
Tình cảnh này hơi cái lần tôi với lão Dương chui vào vườn nhà người ta hái trộm cam hồi nhỏ, trộm xong chui ra đụng ngay chủ vườn, lúc đó trong túi cả hai đầy cam nên sợ hết vía, đành phải giả vờ vô tình đi ngang qua, cái cảm giác hồi hộp đó khiến đôi chân cũng không chịu nghe lời mình nữa. Bây giờ tất nhiên không giống hồi nhỏ, nhưng cảm giác cũng không hề dễ chịu, lại còn hơi buồn cười.
Dựa theo trí nhớ, chúng tôi đi dọc theo mấy con đường quanh co trở về nhà A Quý. Anh ta không ở nhà, chỉ có cô con gái lớn đang quét dọn, thấy chúng tôi liền hỏi sao các anh quay về sớm thế, tôi bảo trời nóng quá chịu không nổi.
Bàn Tử lập tức trở về phòng, giấu cái rương sắt xuống gầm giường, lúc này chúng tôi mới yên tâm. Bàn Tử ra ngoài tìm nước uống, còn tôi vẫn không quên nổi mấy tấm ảnh mình còn chưa được xem, cảm thấy toàn thân nóng ran, tâm trạng không yên.
Đầu óc Bàn Tử nhanh nhạy hơn tôi, hỏi ngay con gái A Quý xem con đường mòn sau lưng nhà sàn dẫn đi đâu, bình thường có nhiều người qua lại không? Cô gái trả lời là dẫn vào trong nương, giờ đang vào hè, đúng vụ dưa hấu chín nên người ta thường lên núi hái dưa. Còn căn nhà sàn kia đã ở đó từ lâu rồi, nghe đâu trước kia từng có một bà lão ở đó.
Tôi ngó sang Muộn Du Bình, thầm hỏi "bà lão"? Không lẽ trước kia Muộn Du Bình chung sống với một bà lão? Vậy mười lăm năm còn trống đó không chừng hắn bị giam ở đây làm nô lệ tình dục, thật là thê thảm quá xá.
*Câm nín trước sự biến thái đội lốt thiên chân của Tà =__=*
Tôi không biết mấy cái suy nghĩ bậy bạ trong đầu từ đâu mà đến, có thể do dọc đường đi nghe Bàn Tử kể nhiều chuyện cười tục tĩu quá chăng.
Nhưng cái "trước kia" mà con gái A Quý nói không rõ là bao lâu, có khi là trước khi Muộn Du Bình đến, hoặc cũng có thể là sau khi hắn rời đi.
Bàn Tử liền bảo tôi, cậu đã nghe chưa, phải bình tĩnh, ở đây không giống như vùng hoang sơn dã lĩnh mà muốn làm gì cũng được. Chi bằng chúng ta cứ chờ thêm một chút đến tối, còn hơn là đi làm chuyện liều lĩnh.
Tôi bảo mình không chờ được, cơm trưa xong tôi sẽ đi thăm thú xung quanh một lượt, hắn nói tùy tôi.
Nói tóm lại, cơm trưa xong tôi và Muộn Du Bình quay lại gian nhà sàn kia, phát hiện dưới gốc đại thụ trước cửa có mấy lão già đang ngồi hóng mát.
Truyện với đời khác nhau ở chỗ, trong truyện bạn có thể đẩy nhanh tiết tấu vào những thời điểm mấu chốt, mà ngoài đời thì cmn toàn là chuyện ngoài ý muốn. Tôi ngồi dưới một gốc cây gần đó chờ mấy lão kia lượn đi, phơi nắng muốn nổ não mà mấy lão ngược lại càng tám càng hăng say.
Thật khó diễn tả cảm giác lo âu bức bối trong lòng tôi lúc này, nhưng tôi lại không muốn quay về cho Bàn Tử cười nhạo, đành thấp thỏm không yên ngồi chờ mấy tiếng đồng hồ. Sau đó Bàn Tử đến tìm chúng tôi, hắn thấy hai đứa đi mãi không về, còn tưởng chúng tôi bị bắt.
Lúc này tôi đã dần dần lãnh tĩnh lại, hay phải nói là nhiệt tĩnh mới đúng, vì mặt trời sáng chói trên cao đã dần dần hâm bầu không khí thành nóng ẩm. Chúng tôi có quạt phành phạch cũng vô ích, đều bị hấp cho mềm người, nóng đến lả đi. Muộn Du Bình thực sự khiến tôi bội phục, dù nóng cỡ nào hắn vẫn ngồi yên bất động, không nhìn ra chút bực bội nào, nhưng toàn thân hắn cũng ướt đẫm mồ hôi. Thì ra khốc ca lạnh lùng như núi băng cũng phải đầu hàng trước ánh nắng chói chang của Quảng Tây.
Bàn Tử chế giễu tôi một hồi, tôi cũng chẳng còn hơi sức đâu mà đốp lại. Hắn ở Bắc Kinh đã lâu, không sao chịu được thời tiết nóng ẩm nơi này nên lại càng khó chịu, liền bảo chúng tôi: "Mợ nó đừng chờ nữa, chúng ta ra ngoài đi dạo tìm con suối mà ngâm mình, bằng không người tôi thiu lên mất."
Đi vòng ra ngoài thôn có một khe núi, trên đường đến đây chúng tôi đã đi ngang qua, tuy không rộng nhưng nước chảy rất xiết, lúc nhìn thấy đã nghĩ đó hẳn là một nơi nghỉ mát tuyệt vời, mỗi tội không biết từ trong này phải đi đường nào để ra đó.
Tôi cũng chịu hết nổi rồi, vừa nghe đã thấy chí lý, cả ba liền đứng dậy cùng đi, dọc đường hỏi thăm mấy thôn dân. Được họ chỉ đường, Bàn Tử bẻ một tàu lá chuối tây che đầu, vừa xỉ vả mặt trời vừa đi vòng vo qua một loạt khúc quanh mới ra khỏi thôn.
Con suối nằm sát hàng rào vây quanh thôn, những thôn làng miền núi đa số đều xây gần suối, giữa thôn làng và con suối là một ghềnh đá. Những hôm trời mưa to nước dâng cao, ghềnh đá này sẽ có tác dụng làm vùng đệm. Chúng tôi đứng trên đó phóng mắt nhìn ra xa, thấy có khá đông người đang bơi lội, xem ra dân bản xứ cũng vẫn sợ nóng.
Làn nước biếc uốn lượn trong khe trông yên ả hơn so với khi chúng tôi nhìn nó từ hạ du, vừa đến gần đã cảm nhận được một luồng không khí mát mẻ ùa đến. Bơi lội dưới suối đa phần là trẻ con, đám con gái mười lăm mười sáu đều mặc áo sơ mi, quấn áo thấm nước dán sát vào thân thể, lộ ra vóc dáng uyển chuyển, khiến Bàn Tử bỗng chốc trở nên hăng hái, vội vàng cởi đồ nhảy ùm xuống suối, chẳng khác nào Trư Bát Giới thấy nhện tinh.
Tôi cảm thấy mình mặc quần sịp trông thật khó coi, bèn mặc quần đùi xuống nước. Dưới ánh mặt trời, nước suối trở nên ấm áp, tôi bơi đến bóng râm dưới ghềnh đá, còn Muộn Du Bình không xuống cùng, chỉ ngồi dưới một gốc cây bên bờ hóng mát.
Ngâm mình chốc lát, nóng bức đã tiêu tan, cảm giác khoan khoái dễ chịu ùa đến. Bàn Tử đang nô đùa với mấy cô bé, Muộn Du Bình bắt đầu gà gật. Tôi nhìn từ khe suối về phía thôn làng, có thể thấy căn nhà sàn của Muộn Du Bình cách đó không xa, ra đây đúng là thoải mái hơn nằm chờ trong nhà A Quý.
Giống như thí sinh đi thi chờ điểm, đứng chờ trước bảng vàng vẫn thoải mái hơn nằm chờ ở nhà. Cảm giác lo âu vừa rồi khiến tôi cảm thấy tội nghiệp cho chính mình, bèn tự nhủ với bản thân đừng căng thẳng làm gì, lần này chúng tôi không đi đổ dấu, ở đây sẽ chẳng có chuyện gì đâu, không có bánh tông, từ từ rồi khoai khắc nhừ.
Nghĩ vậy liền nằm xuống cho thân thể chìm vào trong nước, nhắm mắt lại rồi thả lỏng người.
Không biết đã nằm bao lâu, đến khi tôi đã mơ mơ hồ hồ thì bỗng nghe có người gọi mình. Tôi dần dần tỉnh lại, vừa ngồi xuống thì một gáo nước đã ụp thẳng vào mặt, khiến tôi tỉnh táo ngay lập tức. Tôi đứng lên mới phát hiện ra mấy đứa trẻ nghịch nước ban nãy đều đã trở lên bờ, vừa gọi nhau í ới vừa chạy về một hướng. Bàn Tử vừa hắt nước vừa gọi: "Dậy mau!"
Tôi đứng dậy, chợt thấy xa xa có khói nhẹ bốc lên từ một chỗ nào đó trong thôn, bèn hỏi có chuyện gì? Bàn Tử trả lời: "Hình như là cháy nhà."
Tôi nhìn về phía đó, phát hiện ra đó chính là hướng căn nhà sàn của Muộn Du Bình, lập tức có linh cảm xấu.
Chương 3: Hỏa hoạn
Editor: Béo Bụng Bự
Beta: Thanh Du
*****
Lúc này tôi chỉ cảm thấy mơ hồ, nhưng trong lòng vẫn tự nhủ, không thể có chuyện trùng hợp như thế, với thời tiết này, một gian nhà cũ bằng gỗ rất dễ bốc cháy, nhưng cảm giác mơ hồ dâng cao trong lòng lại khiến tôi nghẹt thở.
Chạy theo mấy đứa bé về hướng đám cháy, càng tới gần tôi lại càng cảm thấy không ổn. Khi đến tận nơi, tôi gần như không tin nổi vào mắt mình, chỉ thấy căn nhà sàn của Muộn Du Bình cuồn cuộn khói đặc, thế lửa dữ dội, hơi nóng ngút trời, căn bản không thể lại gần, nhìn thoáng qua đủ biết nó đã cháy đến độ không thể cứu vãn, mà ngọn núi phía sau căn nhà sàn cũng vừa bắt lửa, cây cối cháy đen, lửa còn đang lan lên đỉnh núi.
Thôn dân từ bốn phương tám hướng kéo đến, lao lên núi dập lửa. Chúng tôi đã từng gặp đám cháy rừng, biết rừng đã cháy thì đáng sợ khó mà tưởng nổi, cho nên cứu rừng trước là rất chính xác.
Lửa này dường như là lan từ trên núi xuống, nhà sàn của Muộn Du Bình lại nằm ngay dưới chân mới hứng tai ương. Nhưng tôi cứ đứng ngẩn người ra đó, biết chuyện chắc chắn không xảy ra theo hướng này.
Lửa quá lớn, chúng tôi ra suối chưa được bao lâu, cho dù bị sét đánh trúng cũng không thể cháy nhanh cỡ đó, mà rõ ràng nhất chính là trong không khí nồng nặc mùi dầu hỏa.
Nơi này không có chốt phòng cháy (1), muốn cứu hỏa đều phải múc nước bằng thùng. Nhưng số thùng có hạn, bọn họ múc nước từ trong chum đi dập lửa, chờ đám cháy rừng được dập tắt, dám cá nhà của Muộn Du Bình đã cháy trụi rồi. Tôi sốt ruột định xông vào thì bị Bàn Tử giữ chặt, nói thôi hết cách rồi, chui vào đó quá nguy hiểm, mất mạng ở đây thì thật không đáng.
Đầu óc tôi rối tinh rối mù, quỳ sụp xuống đất, nhưng đúng vào lúc này, bỗng có bóng người lướt qua bên cạnh. Chúng tôi còn chưa kịp phản ứng thì đã thấy Muộn Du Bình lao vụt qua, xông đến trước gian nhà cháy, lăn vào khoảng không bên dưới sàn nhà.
Bàn Tử và tôi đều kinh hoàng, nên biết rằng lao vào trong đám cháy trong tình trạng không có đồ bảo hộ chắc chắn sẽ bỏng nặng. Đừng nói không chạm vào lửa thì không sao, nhiệt độ ở trung tâm đám cháy cao trên ngàn độ, chỉ cần ở đó trong nháy mắt cũng đủ chín người.
Bàn Tử lập tức hô to "Cứu người!", rồi tôi và hắn cùng xông lên, nhưng mới đến cách căn nhà được năm sáu mét, thì hơi nóng khủng khiếp đã ập thẳng vào mặt, nướng cho tóc gáy của tôi xoăn tít thò lò, lông mày tóc tai đều nổ lép bép. Tôi cắn răng chịu đựng cái bỏng rát trên da thịt, lao đến sát căn nhà, ngồi xổm xuống, nhưng rồi phát hiện ra mình căn bản không thể chui vào. Sức nóng bên trong tuôn ra ào ào cứ như một con rồng lửa đang hít thở. Tôi phải nằm rạp xuống miễn cưỡng nhìn, mới thấy bên dưới có bùn, Muộn Du Bình đắp một lớp bùn lên người, đang đi vào bên trong.
Còn muốn quan sát kỹ hơn, nhưng chúng tôi cứ bị hơi nóng sấy cho không tài nào mở mắt, nhìn không được rõ, đành phải lăn vài vòng ra ngoài, mấy người cứu hỏa bên cạnh liền xông lên giữ chúng tôi lại.
Vừa được nâng dậy, tôi đã nghe tiếng thứ gì đó ầm ầm sụp đổ phát ra từ đám cháy, thế rồi Muộn Du Bình cũng lăn ra từ khoảng trống dưới gầm nhà sàn. Người hắn bốc khói trắng, lảo đảo đứng dậy, chạy về phía chúng tôi. Lập tức có người tiến lên dội nước cho hắn, còn nghe bên cạnh có ai đó nói điên rồi điên rồi.
Tôi lao tới, thấy cả người hắn đắp đầy bùn nhão dưới gầm nhà, chẳng biết có bị bỏng hay không, nhưng tay trái có vài chỗ phủ tro đen xì, hiển nhiên hắn đã dùng tay đào bạt mạng. Tôi mắng ầm lên: "Anh chán sống rồi hả!", còn Bàn Tử thì đỡ hắn dậy rồi hỏi: "Sao rồi?"
Mặt hắn không hề đổi sắc, chỉ lạnh lùng đáp: "Đã cháy sạch rồi." Nói đoạn nhìn sang mấy người cứu hỏa, "Cả sàn nhà cũng bị đốt thủng."
Động tác này có ý gì, khỏi cần nói cũng biết. Bàn Tử cũng liếc qua đám người cứu hỏa, nhìn tôi bằng nét mặt hình sự. "Tiểu Ngô, xem ra cái thôn này có vấn đề."
Tôi mải xem vết thương của Muộn Du Bình, không rảnh đi suy xét chuyện đó. Bên cạnh có người giục tôi mau đưa hắn đến trụ sở thôn tìm y tá khám xem vết bỏng nặng nhẹ thế nào, gian nhà kia đâu có ai ở, bắt chước đi cứu người làm gì.
Chúng tôi nhờ một đứa trẻ đến xem cháy dẫn đường, đưa Muộn Du Bình đến trụ sở thôn. Đứa bé kia bảo chúng tôi ngồi lại, để nó đi gọi y tá đến. Tôi nhớ lại tình hình ban nãy mà phát sợ, liền oán trách Muộn Du Bình. Bàn Tử bảo tôi đừng gây chuyện, cẩn thận người ta nghe được. Tôi đành ngậm miệng, lồng ngực uất nghẹn khó thở, cũng không biết nói gì cho phải.
Muộn Du Bình dường như không hề để ý đến vết thương trên người, chỉ ngồi ngẩn ra đó, không biết đang nghĩ gì, bầu không khí đóng băng.
Cảm giác bực bội này tôi cũng không biết phải diễn tả thế nào, ai mà ngờ lại xảy ra chuyện này chứ. Nếu biết từ sớm, tôi thà bị họ túm được tẩn cho một trận cũng phải xông vào xem cái đã, chứ bây giờ nói gì cũng muộn.
Lửa cháy tầm bốn tiếng mới tắt, rất nhiều người bị bỏng. Chẳng bao lâu đã có một ông lang vườn tới, dùng thảo dược đắp lên vết thương cho người bệnh. Kiểm tra Muộn Du Bình thì hắn vẫn bình thường, đại khái là nhờ bùn nhão dưới đất cách nhiệt nên vết bỏng của hắn tuy nhiều nhưng không sâu. Riêng cánh tay trái thì bỏng khá nặng, thầy lang hình như đã gặp nhiều ca còn kinh khủng hơn thế nên cũng không gấp gáp, lề mề đắp thuốc cho họ, nói chỉ cần chăm thay thuốc thì nửa vết sẹo cũng chẳng còn. Vào mùa hè, vùng này liên tục cháy rừng, nên từ thời xa xưa thôn dân đã tích lũy đầy đủ kinh nghiệm xử lý vểt bỏng.
Mấy người chúng tôi lẳng lặng trở về nhà A Quý, vừa rửa một cái mà lông mày tóc tai cháy xém của tôi thi nhau rụng, đúng là tổn thất nặng nề.
Muộn Du Bình hoàn toàn rơi vào im lặng, trong phòng nồng nặc thứ mùi quái lạ của thảo dược chữa bỏng, rất khó ngửi. Tôi có ý trách Bàn Tử, bảo nếu lúc ấy anh không bàn lùi thì chúng tôi đã cương quyết chui vào lấy ảnh ra, vậy là có thể tránh được chuyện này.
Bàn Tử liền nổi cáu, bảo chuyện này sao có thể trách tôi, có người phóng hỏa tức là chúng ta đã bị người ta theo dõi từ lâu, gặp chuyện xúi quẩy cũng chỉ là vấn đề sớm muộn. Lần này mới chỉ đốt một gian nhà cũ, nếu xem ảnh rồi thì thứ mà chúng đốt có thể chính là chúng ta. Hơn nữa ở vào tình thế ấy chẳng ai cứng đầu cứng cổ chui vào, giữa ban ngày ban mặt mà anh dám lẻn vào nhà người ta thì cũng to gan lớn mật quá rồi.
Cục tức của tôi không có chỗ xả, quả thật không thể trách Bàn Tử, nhưng nghe Bàn Tử nói thế lòng tôi vẫn vô cớ nổi giận, đành cố nhịn khao khát muốn gây lộn với hắn, đập đầu vào tường vài cái mới dịu đi được một chút.
Bàn Tử nghĩ tới cái gì đó, liền "Á" một tiếng rồi nói với tôi: "Tôi thấy trong chuyện này chúng ta đúng là hết cách, tôi đoán tên trộm rương cũng chính là người phóng hỏa. Cậu nghĩ mà xem, lúc trộm rương gã gây tiếng động rõ lớn, còn cố ý gõ sàn nhà cho chúng ta chú ý, nhất định là muốn dụ chúng ta ra ngoài." Hắn dừng lại một chút: "Sau đó đồng bọn của gã đứng lù lù bên ngoài, chúng ta ra ngoài thấy thế thì nhất định không dám vào nữa, chờ mình đi là chúng nó châm lửa đốt nhà. . . . . . Mẹ kiếp, chuyện này nhất định là như thế."
Có lý, tôi gật đầu. Nếu là như thế, thì có lẽ bọn họ tình cờ phát hiện ra chúng tôi, trong lúc cấp bách tạm thời dụ ba đứa ra ngoài, chứ giả như họ biết trước kế hoạch của chúng tôi thì đã ra tay từ đời nào rồi. Kẻ phóng hỏa rất có thể là mấy thôn dân đứng trên sườn núi nhìn chúng tôi. . . . . . . Bọn họ là ai? Tôi chưa từng gặp họ, họ cũng chưa chắc đã biết tôi.
"Chúng nó chắc chắn không biết mình đang tìm cái gì, nếu biết mình tìm ảnh thì chỉ cần đốt ảnh đi là xong, không cần phải đốt cả gian nhà." Bàn Tử nói. "Nhưng những tên này cũng dốt, để lộ mặt rồi, tôi không tin tụi mình không tìm ra được. Cậu còn nhớ mặt mũi chúng nó không?"
Tôi cũng có chút ấn tượng mơ hồ, nhưng khoảng cách quá xa nên ấn tượng không sâu lắm, muốn nhận dạng thì hơi khó, không khỏi thở dài.
Nếu Muộn Du Bình không đột ngột nhớ ra cái rương kia, thì cũng sẽ không xảy ra chuyện này. Nhưng nếu hắn quên cái rương thật thì không khéo giờ này nó cũng bị chôn vùi dưới đống phế tích cháy rụi kia rồi. Nghĩ đến đây, tôi cũng hơi nhẹ lòng. Trời không tuyệt đường người, hơn nữa gian nhà kia bị đốt cũng cho tôi biết một điều: trong thôn này nhất định có người biết chuyện gì đó, mà không phải là chuyện bình thường, dù sao đi chăng nữa đây cũng coi như một manh mối.
Nhưng không biết đám người này còn có hành động gì nữa không, có thể gây chuyện bất trắc với chúng tôi hay không. Bàn Tử nói hẳn là không đến mức lấy mạng, bằng không thì chẳng cần đốt nhà làm gì, cứ giết phứt chúng ta là xong. Nhưng chúng ta vẫn phải cẩn thận, sau này tất phải để ý nhiều hơn nữa.
Bàn Tử hơi bất an, liền vào sân nhà A Quý cầm về mấy lưỡi liềm nhét dưới gầm giường phòng thân, còn mua mấy cái lục lạc bò treo lên cửa sổ, khẽ động là reo.
Lúc này tôi rất bực bội, cứ cảm thấy lòng dạ không yên. Tôi có một dự cảm———- việc A Quý giúp chúng tôi đi tìm ông lão dẫn đường năm xưa cũng sẽ gặp sự cố. Có người không muốn chúng tôi tiếp tục điều tra thêm nữa.
————————————–
(1) Nguyên văn: 消防栓, có thể hiểu là một cái vòi nước được lắp đặt ở nơi công cộng chuyên cung cấp nước cho công tác cứu hỏa (xe cứu hỏa đến chỉ việc bắt vòi vào và hút nước ra),
Chương 4: Biến cố
Editor: Béo Bụng Bự
Beta: Thanh Du
*****
Đám cháy rừng cuối cùng cũng tắt, nghe A Quý nói thì hình như là do thời tiết nóng bức, còn cụ thể vì sao lại cháy thì không rõ. Dù sao vùng này cứ đến hè là kiểu gì cũng cháy rừng, có điều đây là lần đầu tiên cháy gần thôn đến thế, cũng may nó chỉ thiêu rụi một căn nhà hoang, không gây tổn thất quá lớn.
Trong lòng tôi âm thầm chửi rủa, nhưng tôi thì tổn thất to đấy, thế là tiêu tùng hết manh mối mà gã họ Sở cho chúng tôi rồi. Giờ chỉ còn một đường duy nhất là sau khi đi khỏi đây phải nghĩ cách cạy miệng gã, đây nhất định không phải chuyện chơi, vả lại tôi cũng rất khó chấp nhận dùng đến thủ đoạn uy hiếp. Nhưng chưa đến nỗi tuyệt vọng hoàn toàn, nên tôi cũng chẳng phiền muộn cho lắm ——— chỉ cần gã họ Sở không bị thiêu cháy là được rồi.
Tôi bảo Bàn Tử, xem ra chúng ta không nên ở lại đây lâu, tìm được người dẫn đường rồi, nếu không có lý do đặc biệt thì chúng ta có thể phải quay về Trường Sa, vì ở lại đây cũng chẳng để làm gì nữa. Cái gọi là đổ đấu ở núi Dương Giác, có lẽ phải chờ hồi sau phân giải.
Bàn Tử cũng đành chịu, tuy có phần tiếc nuối, nhưng lần này chúng tôi chẳng mang công cụ gì đến đây cả, kể ra có muốn vào núi Dương Giác cũng quá viển vông. Hắn vẫn kiên trì muốn vào núi xem một lượt rồi mới về, nên cuối cùng chúng tôi quyết định sẽ bàn chuyện này sau.
Sau đó tôi cứ thấp thỏm không yên, cảm thấy chuyện đi tìm người dẫn đường nhất định cũng sẽ xảy ra sự cố, nghĩ tới tình huống xấu nhất, để đến lúc nó thật sự xảy ra tôi còn thoải mái được một chút.
Có chút ngoài dự liệu đó là, chuyện tìm người dẫn đường lại vô cùng thuận lợi. A Quý trở về, bảo chúng tôi là anh ta đã hẹn với lão thợ săn kia rồi, ngày mai lão ở nhà, chúng tôi có thể đến thăm. Người già thường trái tính trái nết, anh ta giới thiệu chúng tôi là người của chính phủ thì lão mới hăng hái hơn chút ít, đến lúc đó chúng tôi đừng để lòi đuôi là được.
Bàn Tử nhìn qua đủ biết không phải quan chức chính phủ gì rồi, nên tôi bảo hắn đừng đi. Hắn nói mình sẽ đến hiệu phân bón tìm cách kiếm một ít acid sulfuric về, xem có thể hòa tan cái "hồ lô sắt" kia ra được không, xem trong đó có cái quái gì. Rồi lại đi đào bới đống đổ nát sau đám cháy, không khéo lại bới được món gì hay.
Tôi cảm thấy phân chia công việc như thế cũng ổn, nhưng vẫn dặn đi dặn lại rằng kiếm được acid rồi tuyệt đối đừng manh động, phải chờ chúng tôi về đông đủ rồi tinh sau, chứ cái "hồ lô sắt" trông thế mà nguy hiểm đấy. Bàn Tử ậm ừ luôn mồm, bảo ơ hay tôi có phải trẻ ranh đâu.
Bàn bạc xong chúng tôi đi ngủ, cả đêm không trò chuyện, mỗi người ôm một tâm tư mà thiếp đi, đến rạng sáng ngày hôm sau thì chia nhau hành sự, tôi và Muộn Du Bình theo A Quý đi tìm lão thợ săn kia. Cứ tưởng mọi việc sẽ thuận buồm xuôi gió, ai ngờ chúng tôi đến nơi rồi lão già kia lại thả một con bồ câu nói đêm qua mình vào núi, đến giờ vẫn chưa về.
Thợ săn đã đi săn là sẽ chạy khắp nơi, không biết ở đâu mà lần. Tôi tự hỏi đây là chuyện quái quỷ gì vậy, sao đã hẹn trước mà còn đùng đùng bỏ vào núi, chẳng lẽ đã bị tôi đã nắm đúng thóp? Con trai lão cũng hơi ngại, thanh minh lão đã già nên hồ đồ, hai năm trước không dưng bắt đầu có biểu hiện bất thường, thỉnh thoảng lại vào trong núi, không biết là đi làm gì. Ai nói ông ấy cũng bỏ ngoài tai, nói đi là đi, hôm sau có việc quan trọng cũng mặc kệ. Anh xem súng săn của ông ấy vẫn treo trên tường, nhất định không phải đi săn thú, chờ một lát chắc sẽ về thôi.
Tôi thầm nghĩ thôi đành đợi chứ biết làm sao, mới ngồi xuống, chợt có một người bước vào cử, vừa vào đã cất tiếng: "Lão Bàn Mã có nhà không?"
Lão Bàn Mã chính là tên thường gọi của lão dẫn đường kia, xem ra không chỉ có chúng tôi tìm lão. Điều khiến tôi bất ngờ, chính là người này nói chuyện đặc sệt giọng Bắc Kinh.
Chúng tôi nhìn ra bên ngoài, chỉ thấy một gã đàn ông trung niên lùn tịt bước vào, vừa nhìn mặt đã cảm thấy hơi khác thường. Người này dáng vẻ đường bệ mà cách ăn mặc cũng rất chỉnh tề, nước da rám nắng nhưng không có vẻ gì là người lao động chân tay.
Con trai lão Bàn Mã lập tức đứng dậy tiếp đón, A Quý liền bảo tôi: "Đây là cháu họ xa của lão Bàn Mã, nghe đồn là người giàu có."
Tôi nghe khẩu âm của gã là giọng Bắc Kinh gốc, thầm nghĩ họ hàng kiểu này chắc là bắn đại bác cũng không đến.
Gã trung niên kia hình như rất quen thuộc với nơi này, không hề do dự bước thẳng vào trong sân. Đưa cho con trai lão Bàn Mã một điếu thuốc, gã nhìn sang tôi, nét mặt tỏ vẻ nghi ngờ, ơ một tiếng: "Có khách à?"
Con lão Bàn Mã đáp bằng tiếng phổ thông nói bằng giọng địa phương nặng sệt: "Dạ, anh ấy cũng đến tìm cha em, hai vị này là người của chính phủ ————"
Gã trung niên kia hình như không có hứng với chuyện này, liền xen ngang: "Cha cậu đâu?"
Con trai lão Bàn Mã có vẻ lúng túng, kể lại một lần chuyện cha mình hành tung không rõ. Gã trung niên kia à một tiếng, gật đầu: "Ông cụ có ý gì vậy? Lại đi vắng nữa rồi, đến là bó tay, giờ anh biết ăn nói sao với ông chủ đây." Nói đoạn quay sang gườm gườm nhìn chúng tôi: "Hay cậu chê ít tiền, đi tìm mối khác định lừa anh."
Con trai lão Bàn Mã vội chối không phải không phải, nói chúng tôi đúng là người của chính phủ đến tìm lão Bàn Mã.
Gã trung niên lại liếc chúng tôi một cái, bán tín bán nghi, đến trước mặt chúng tôi hỏi: "Các cậu ở cơ quan nào? Người trong trấn này tôi biết hết, sao chưa thấy các cậu bao giờ?"
Câu hỏi này có hơi sỗ sàng, tôi ngẩng đầu nhìn gã, cũng không tiện nổi giận, đáp: "Chúng tôi là người trên tỉnh đến tìm ông ấy phỏng vấn."
"Trên tỉnh?" Gã nghi ngờ nhìn chúng tôi, nhưng thấy hai đứa cũng giống người trong cơ quan nhà nước, liền lẩm bẩm gì đó rồi quay sang nói với con trai lão Bàn Mã: "Được, vậy cậu khuyên cha cậu thêm đi. Con người ta sinh ra với hai bàn tay trắng, chết đi cũng chẳng mang gì theo được, ông chủ tôi ra giá hời, cứ giữ riệt lấy cái món đồ chơi kia mà làm gì chứ. Đừng cố chấp nữa, bán đi nhất định là có lợi, bảo ông cụ cầm lấy ít tiền mà hưởng nốt mấy năm an nhàn."
Con trai lão Bàn Mã gật đầu lia lịa.
Gã trung niên lại nói: "Thôi cậu đang có khách, anh cũng không tiện ở lại, xin phép về trước." Nói rồi lại mỉm cười, "Xong việc này tôi sẽ đưa mọi người đi ngắm cảnh, buổi tối nhớ tìm tôi uống rượu ăn chút điểm tâm. Giờ tôi đi trước, đợi lát nữa quay lại."
Nói rồi hùng hổ bước ra khỏi sân, cũng không quay đầu lại. Tôi chả hiểu gì sất, liền hỏi con trai lão Bàn Mã xem người kia là ai? Muốn gì?
Con trai lão Bàn Mã thấy gã đã đi xa mới thở phào, than vãn rằng người kia có họ hàng xa với nhà mình, là cháu của lão Bàn Mã, cũng là anh em họ của anh ta. Gã là một tên côn đồ lưu manh, ở Bắc Kinh không được như ý, hai bên từ lâu đã không qua lại, chẳng biết dạo gần đây theo ông chủ nào chạy lên Quảng Tây thu mua đồ cổ, khắp nơi mời gã làm mối. Người này xưa nay vốn sành sỏi, lại cực kỳ xảo trá, nên không dám đắc tội.
Tôi hỏi: "Nghe cái điệu này thì gã đã ưng ý món đồ nào đó của nhà anh và muốn thu mua, chẳng lẽ nhà anh còn có bảo bối gia truyền gì?"
Chương 5: Soát núi
Editor: Xanh Cuồng
Beta: Thanh Du
*****
Anh con trai của lão than thở với tôi: "Cứ nhắc đến chuyện này là tôi lại bực mình, ông cụ nhà tôi có một cục sắt vụn, xưa nay vẫn luôn cất giấu như bảo bối, bảo là trước kia nhặt được trên núi, là đồ quý giá, còn bảo tôi đi khắp huyện tìm người hỏi xem có bán được không. Tôi cũng coi như ông cụ lẩm cẩm thôi, chẳng hiểu sao việc này lại đến tai gã họ hàng xa kia. Quả nhiên gã đã tìm được người mua, ra giá rất hời, ngờ đâu kết quả đúng là điên rồ, ông cụ lại cương quyết không bán. Còn thằng cha kia cũng nhất định không đi, cứ ở riết trong khe núi ngày ngày đến năn nỉ ỉ ôi, thật là phiền muốn chết luôn."
Tôi nhìn sang Muộn Du Bình, trong lòng kích động, xem ra lão già kia lỡ hẹn không phải do chúng tôi, mà vì muốn tránh mặt thằng cháu họ xa nhà mình. Cục sắt? Chẳng lẽ trong tay lão già kia cũng có cái thứ mà chúng tôi tìm được dưới gầm giường Muộn Du Bình?
A Quý bên cạnh hút thuốc cười nói: "Sao chú không chôm nó ra từ chỗ ông cụ, đem bán lấy tiền không hơn à, chần chừ thêm ít lâu chính phủ đến tịch thu thì đến một xu cũng chẳng được."
Anh con trai đáp: "Không phải tôi không muốn, nhưng ông cụ đúng là khôn ngoan, có lần tôi bảo muốn vứt cái của nợ kia đi cho ổng đừng làm mấy chuyện điên rồ nữa, ổng mới giấu nó vào xó nào đấy mà tôi không tìm nổi. Ài, ngẫm lại thật muốn tát cho mình một cái, không ngờ cục sắt vụn kia đúng là đồ quý, nếu phi vụ mua bán này mà thành thì đúng là trứng vàng từ trên trời rơi xuống, tôi cũng chẳng cần lo lắng chuyện học hành của con tôi nữa."
Tôi nghe vậy mà ngấm ngầm cảm thán, thoạt nhìn anh con trai này có vẻ kỳ cục, chán ngán ông bố nhà mình, nhưng xem kỹ thì nhà này cũng có cái khó, mấy cái chuyện riêng trong gia đình này chúng tôi cũng không chen mồm vào được.
Đúng lúc này, Muộn Du Bình đột ngột hỏi: "Có phải cha anh giấu thứ đó đi vào hai năm trước?"
Con trai lão ngẫm nghĩ rồi gật đầu: "Ơ, làm sao anh biết?"
Tôi lập tức hiểu ra ẩn ý của Muộn Du Bình, bèn tiếp lời: "Chắc chắn cha anh đem giấu cái đó trên núi, trong lòng ông cụ lo lắng không yên nên cứ cách dăm ba ngày lại đi kiểm tra, đây là nguyên nhân cha anh trở nên khác thường."
Anh ta nghe vậy, thở dài công nhận là có lý. A Quý liền nói: "Xem ra ông cụ nhà chú rất để tâm đến chuyện này, anh thấy chú vẫn nên khuyên nhủ thêm thì hơn. Chứ chú mà dám chôm đồ, ông cụ lại chẳng vác súng ra bắn cho vỡ sọ."
Anh con trai đáp: "Dạ, ông cụ nhà em tính tình nóng nảy, em cũng lười cự cãi với ổng, không khuyên được thì thôi. Cơ mà gã họ hàng xa kia cứ dai như đỉa, em sợ với tính thằng cha đó thì nhà em về sau khó mà sống yên."
Chúng tôi cứ thế ngồi chuyện phiếm chờ lão Bàn Mã trở về, anh con trai kể cho chúng tôi nghe rất nhiều chuyện, cũng đủ cho chúng tôi hiểu sơ sơ về lão.
Bàn Mã là dân bản xứ, gia đình đã sống ở đây được mấy đời rồi, là một trong những thợ săn già còn đủ sức trụ lại nghề của vùng này. Thế hệ sau của bọn họ bị Hán hóa nghiêm trọng, những lúc nông nhàn mới đi săn, còn đa số thời gian ra ngoài làm thuê, cả con gái cũng ra ngoài làm ăn cả, cho nên ở đây cũng dần dần vắng vẻ. Từ sau khi vùng này phát triển du lịch, tình hình mới khởi sắc.
Lại nói tiếp, ở vùng này lão Bàn Mã cũng có thể coi là người nổi tiếng, tài bắn súng trăm phát trăm trúng (*), hơn nữa thân thủ linh hoạt, đặc biệt giỏi trèo cây, trước kia mỗi dịp lễ tết đến Bàn Mã đều được người ta thăm hỏi tới tấp. Sau này kinh tế phát triển, lão cũng già đi, dần dần không còn được coi trọng nữa, nên sinh ra tâm lý hận đời, tính tình trở nên cực kỳ cố chấp, thường bất hòa với các con.
(*) Nguyên văn là "bách bộ xuyên dương" aka bắn trúng cái lá dương từ khoảng cách 100 bước chân.
Mấy ông già kiểu này cứ như đúc từ một khuôn, tôi còn biết rất nhiều người như thế. Hàng xóm cũ của tôi là một lão Hồng quân, cũng thường xuyên than thở lũ trẻ bây giờ chán quá, không thèm giao du với đám nít ranh không hiểu sự đời chúng tôi, đây là kiểu người điển hình không thể vượt qua cái bóng của bản thân. Ngẫm lại thì mình cũng thế, hình như bản lĩnh siêu phàm nhất của con người ta chính là tự dằn vặt mình.
Chúng tôi ngồi lì ở nhà lão đợi đến chiều vẫn chưa thấy lão về, dù che đậy giỏi đến đâu tôi vẫn không thể đè nén cảm giác lo âu của mình, phần vì sợ nảy sinh thêm phiền phức, phần vì đã chờ lâu lắm rồi.
Anh con trai lão tỏ ra rất ngại, bảo chúng tôi để mình đi tìm xem sao, không ngờ cũng đi tít hút luôn, bỏ chúng tôi chờ đến chập tối, thật sự là chờ hết nổi.
A Qúy cảm thấy rất mất mặt, luôn mồm chửi rủa cha con nhà này rõ là kỳ cục. Nhưng ra đến cửa, vừa hay chúng tôi bắt gặp anh con trai đang gấp gáp đi ngang qua, theo sau là một nhóm người, không chào hỏi gì chúng tôi mà đi thẳng lên núi.
Tôi thấy sắc mặt anh ta không tốt, A Quý bực bội túm lấy một người hỏi có chuyện gì thế, người nọ mới đáp: "Con trai nhà A Lại tìm thấy quần áo bê bết máu của lão Bàn Mã trên núi, có thể lão đã gặp nạn, chúng tôi đang tìm người đi lục soát vùng núi đó."
"Tìm thấy ở đâu? "A Quý vội hỏi.
"Ở Rạch Đầu Trâu, con trai nhà A Lại săn thú về, đi ngang qua thì gặp."
"Ở tít đằng đó?" A Quý tỏ ra rất kinh ngạc.
Tôi không hề có ấn tượng về phương hướng địa danh vùng này, bèn hỏi: "Đấy là đâu?"
"Đấy là cái khe nằm giữa núi Chu Độ và núi Dương Giác, phải đi cả ngày mới đến." A Quý bảo chúng tôi: "Hai cậu về trước đi, tôi phải đến nơi xem thế nào." nói rồi đi theo họ.
Tôi và Muộn Du Bình nhìn nhau một cái, cảm giác trong lòng thật khó mà diễn tả. Thầm nghĩ thôi mình lại đoán trúng thật rồi, chuyện lần này cũng gặp rắc rối.
Sắc mặt Muộn Du Bình hoàn toàn phẳng lặng, không một gợn sóng, nhưng chân đã bước theo nhóm người kia. Tôi vội vã đuổi theo, thầm nghĩ việc này thật quái gở, chúng tôi nhất định phải làm cho ra nhẽ mới được.
Chương 6: Rạch Đầu Trâu
Editor: Ala Ju
Beta: Thanh Du
*****
Chúng tôi muốn đi giúp họ soát núi, ban đầu A Quý còn không chịu, hai đứa phải năn nỉ hết nước hết cái mới được đi theo. A Quý bảo con gái nhỏ của mình là Vân Thái đi cùng chúng tôi, căn dặn không được tách đoàn, người trong thôn gom lại được chừng hai mươi, giơ cao đuốc và đèn pin, dắt theo chó săn hướng về rạch Đầu Trâu.
Đường núi bốn bề tối tăm lạnh lẽo, chúng tôi vừa gọi vừa đưa quần áo cho chó săn ngửi mùi.
Lâm trường này đã bị chặt một lần, con đường phía trước cũng không quá khó đi, khổ nỗi vùng này mưa nhiều, nước đọng lại thành vũng trên núi, trong đó nhung nhúc những đỉa rừng. Đến khu rừng bảo tồn đường mới bắt đầu khó đi, được cái những người miền núi này đều là thợ săn, kinh nghiệm đầy mình, đi cũng không vất vả cho lắm. Mà đối với chúng tôi, so với lối dẫn ra khỏi Tháp Mộc Thác thì đi con đường này khác gì tản bộ. Đoàn người cứ thế tiến sâu vào ngọn núi lớn.
Tôi vừa đi vừa hỏi Vân Thái, rạch Đầu Trâu là nơi thế nào, có nguy hiểm gì không?
Vân Thái ngoảnh đầu lại đáp: "Đó là ranh giới giữa mặt sau khu rừng bảo tồn và rừng phòng hộ của thôn chúng tôi, núi Dương Giác nằm trong khu rừng bảo tồn còn núi Chu Độ nằm trong rừng phòng hộ, giữa hai ngọn núi là rạch Đầu Trâu, sau lưng núi Dương Giác chính là rừng già sâu thẳm. Người ở lâm trường căng một tấm bảng chỗ sơn khẩu, trên bảng viết chúng tôi không được đi vào, cho nên ngoại trừ những thợ săn già thời trước, đám chúng tôi thường không đặt chân đến núi Dương Giác, càng chưa nghe nói có ai đã từng tiến vào cánh rừng sau núi."
A Quý đi sau tôi nói: "Trong thôn này, người thông thạo núi Dương Giác nhất e rằng chỉ có lão Bàn Mã. Cánh rừng sau núi nghe đâu trước kia chỉ có dân buôn lậu người Việt cổ mới dám đặt chân vào, thời xưa dân buôn ngọc người Việt trốn thuế thường đi xuyên rừng ròng rã cả tháng để bán ngọc thạch, không biết đã có bao nhiêu người đi qua vùng rừng sâu núi thẳm này rồi."
Buôn bán ngọc thạch là cái ngành thương mại hái ra tiền nhất, khắc nghiệt nhất, mà cũng thần bí nhất ở biên giới Trung Việt thời xưa. Tôi đã từng nghe kể về cuộc cạnh tranh vô cùng khốc liệt trong giới buôn ngọc Việt Nam và Myanmar, sau một đêm trở nên giàu sụ hoặc trắng tay đều là chuyện thường. Trước những món lợi khổng lồ lấy một đổi vạn, nhân tính hoàn toàn không có đất dung thân.
A Quý bảo nơi này còn cách khá xa địa điểm giao dịch ngọc thạch lý tưởng nhất. Dân buôn ngọc từ Ba Nãi đến Quảng Tây đều có mối làm ăn với một vài ông chủ bên Quảng Đông, đều là người nghèo khổ nên cũng đặc biệt hung ác. Nhất là vào thời nhà Thanh, khi đó người Việt Nam một nửa là dân buôn một nửa là thổ phỉ, đến đây theo tốp, trở thành một mối nguy của vùng này.
Tôi thầm nghĩ, nếu tìm được di hài của dân buôn ngọc Việt Nam trong cánh rừng này, thì không chừng cũng sẽ tìm được ngọc thạch nguyên khối mà họ mang đến. Dạo gần đây những khối ngọc thạch lấy từ mạch ngọc tốt cực kỳ hiếm hoi, giá ngọc thạch bị hét lên cao chót vót. Vả lại chất lượng đá hồi đó tốt hơn bây giờ nhiều, tìm được vài khối ngọc tốt còn đáng giá hơn bất cứ món minh khí nào. Nhưng nghĩ lại thì dân buôn ngọc Việt Nam thời đó coi ngọc thạch còn quý hơn mạng mình, giờ cứ thế lấy đi là rất bất nghĩa, cái này không giống với trộm mộ, e rằng sẽ gây ra chuyện chẳng lành.
Đi một mạch đến nửa đêm, chúng tôi mới tiến vào trong rạch. Người phát hiện ra bộ quần áo nhuốm máu chỉ vào một gốc cây, nói bộ đồ này tìm thấy trên kia. Hắn nói mình thấy có máu dính vào thân cây, ngẩng đầu lên mới phát hiện ra nó, mới đầu còn tưởng có con cú bị mèo hoang cắn chết, sau mới nhận ra là quần áo của người.
Chiếu đèn pin lên cây, loại đèn pin vỏ đồng này chiếu sáng rất kém, nhưng cũng đủ để xác định bên trên không còn gì khác nữa. Hiển nhiên lão Bản Mã đã trèo lên cây rồi để bộ quần áo dính máu đó lại.
Lão già ấy đã gần tám mươi, dù trước kia là cao thủ trèo cây, nhưng theo lý mà nói cũng không thể vô duyên vô cớ leo lên đó, hiển nhiên là gặp chuyện gì nguy hiểm. Tôi hỏi Vân Thái nơi này có thú dữ không, Vân Thái đáp hồi xưa nghe nói có hổ, chứ bây giờ trong núi chỉ còn báo.
Tôi nghe vậy liền nghĩ thời nay đào đâu ra hổ nữa, nhưng báo lại leo cây rất giỏi, lỡ gặp báo thì phiền phức to. Vả lại báo có tập tính tha thức ăn lên cây giấu, không khéo lão già gặp nạn rồi cũng nên.
A Quý lại nói báo sống sâu trong núi, rừng chỗ này chưa đủ sâu, rất khó gặp báo. Nhưng lão Bàn Mã không mang súng, chẳng biết đi vào tít vào trong đây làm gì nữa.
Tôi nhớ lại chuyện tiểu binh giấu những khẩu súng thu được trong tổ chim, thầm nghĩ lẽ nào lão Bàn Mã cũng học theo cái chiêu này. Nhưng trên cây làm gì có tổ chim cơ chứ?
Chúng tôi lùng sục quanh gốc cây một lúc mà không tìm thấy gì ngoài vài vết máu, nhưng rải rác khắp mọi hướng. Lúc này mấy con chó dắt theo đã có chỗ dùng, mấy tay thợ săn đều mang súng, nạp đạn đầy đủ rồi chia nhau ra mà tìm.
Rạch Đầu Trâu vừa sâu vừa dài, chưa có ai đi đến tận cùng, đoạn giữa rạch chính là sơn khẩu của núi Dương Giác và Chu Độ. Nơi đây mang dáng dấp của một cánh rừng rậm nhiệt đới, cho cảm giác giống như hồi ở Tháp Mộc Thác. Tôi không hề cảm thấy dễ chịu, lúc nào cũng nghe mang máng như có tiếng cười khanh khách, sau đó rớt mồ hôi lạnh. Nhưng cũng chẳng còn cách nào khác, tự mình muốn đến đây mà, đành phải miễn cưỡng đi theo nhóm A Quý cùng với ba con chó, hướng về núi Dương Giác.
Chó miền núi rất khỏe, con nào đứng thẳng lên cũng cao hơn đầu tôi. Tuy chúng là chó lai tạp nhưng đều được huấn luyện thành thục, nhanh chóng đánh hơi được mùi, dẫn chúng tôi đi một mạch vào sâu trong khe núi.
Dọc đường đi không ai nói câu nào, đi đến quá nửa đêm trăng đã treo đỉnh đầu, chúng tôi mới dừng lại ở một nơi gần sơn khẩu núi Dương Giác. Đó là một con dốc nằm trên sườn núi, do đất đá thường xuyên sạt lở nên cây cối trên sườn dốc này khá thưa thớt. Hình như chó đã tìm được mục tiêu, nó kéo chúng tôi đến dưới một tán cây, sủa oang oang vào một bụi rậm đằng sau đó.
Vân Thái hơi hoảng, tim tôi cũng treo lơ lửng trên không. Nếu ông lão bị con báo tấn công, thì thứ ẩn trong bụi cỏ kia hẳn là thê thảm đến không nỡ nhìn.
A Quý tiến lên, cầm nhánh cây vén bụi cỏ ra, chiếu đèn pin vào, không thấy có thi thể bên trong. Chúng tôi qua đó, phát hiện ra đó là mảnh vỡ của một tấm bia đá có niên đại rất lâu đời, hẳn là từ đầu công nguyên, in rõ dấu vết gió mưa, hoa văn trên bề mặt đã bị mài mòn sạch sẽ.
Đám người A Quý nhổ hết đám cỏ cao đến thắt lưng xung quanh mà tìm kiếm, bỗng một người thợ săn "a" lên một tiếng, lùi lại mấy bước. Chúng tôi vội vã qua xem, chỉ thấy sườn dốc phía sau bụi cỏ có một hố bùn nhão, chắc là do bùn đất bị nước mưa cuốn trôi đến đây. Vừa nhìn vào trong hố, tôi và Muộn Du Bình liếc nhau, tim nảy lên một nhịp. Trong lòng hố có thể thấy loáng thoáng vài khúc gỗ mục ngâm bùn, nhìn hình dáng này tôi dám chắc đó là một cỗ quan tài đã nát vụn. Nơi này có một ngôi mộ cổ đơn sơ bị đào ra sao?
Chương 7: Mộ cổ
Edit: Tử Yển
Beta: Thanh Du
*****
Ánh trăng ảm đạm chiếu lên sườn núi, bốn bề tăm tối mịt mùng, chỉ nghe vô vàn âm thanh kỳ lạ phát ra từ cánh rừng rậm sâu thẳm dưới khe núi. Cái hố này dọa cho đám A Quý ngớ người, bọn họ coi đây là điềm gở, quay ra liếc nhìn nhau. A Quý không hiểu gì cả, lẩm bẩm: "Đêm hôm khuya khoắt nhìn thấy quan tài, về nhà phải rửa mắt mới được."
Một người khác nằm bò ra nhìn xuống dưới đó, hỏi: "Mộ ai thế nhỉ, sao lại đào trong cái chốn rừng sâu núi thẳm này?"
Không ai đáp lời, Vân Thái hoảng sợ trốn ra sau lưng Muộn Du Bình.
Tôi dám chắc đây là một ngôi mộ hoang, không phải mộ nhà giàu, niên đại chắc là từ thời Minh Thanh, vì với dạng quan tài thô sơ thế này, nằm trong khu vực mưa dầm quanh năm mà có thể lưu giữ được đến bây giờ thì niên đại không thể quá sớm. Bùn đất trong quan tài cũng có cỏ mọc, vậy là nó đã bị mưa xối trơ ra đó ít nhất một năm trời, thi cốt bên trong nhất định đã bị hủy hoại.
Cái hố không lớn, chúng tôi chiếu đèn pin vào nhưng không tìm thấy tung tích của lão Bàn Mã. Người chắc chắn không thể ở trong hố, nhưng tôi cảm thấy đây có thể chính là nơi Bàn Mã giấu đồ, bởi vì nó đúng là rất thích hợp. Cục sắt mà con trai lão Bàn Mã nói có thể được giấu ngay bên dưới.
Lũ chó vẫn đang sủa ầm ĩ, nghe mà phát bực. A Quý kéo chúng ra xa, thả cho chúng lang thang khắp nơi, kế đó nhặt cành cây chọc xuống hố dò dẫm.
Họ cũng không dám leo xuống, trong hố có quan tài, người thường đều kiêng kỵ, nhưng phản ứng của lũ chó cho chúng tôi biết trong hố chắc chắn có vật gì, tìm kiểu này có khướt mới thấy.
Tôi ngắm nghía thế núi ở đây, tuy chỉ là kẻ gà mờ về phong thủy nhưng tôi vẫn có thể nhận ra chỗ này tuyệt đối không hợp để chôn cất. Đây là sơn khẩu, nước từ trên núi dồn cả về đây, chôn người chết vài hôm là thối, mộ này ắt hẳn không phải ngôi mộ lớn trong núi Dương Giác mà Bàn Tử phỏng đoán, có thể chỉ là mộ cổ núi hoang bình thường, hẳn không có gì nguy hiểm. Tôi liền bảo A Quý đừng chọc nữa, để mình xuống đó lục lọi với Muộn Du Bình.
Tôi trộm mộ đã thành quen, mở một cái quan tài thì có là gì, huống chi Muộn Du Bình còn ở bên cạnh, cho nên cũng không hề lúng túng. A Quý lại kinh ngạc vô cùng, thắc mắc cớ sao người thành phố như tôi lại to gan đến vậy, còn Vân Thái thì tròn mắt nhìn tôi đầy chờ mong, dường như còn chưa kịp phản ứng.
Hai người một trước một sau nhảy xuống hố, do cái hố nằm trên sườn dốc nên có bên thấp bên cao, có thể thấy rõ vách đá dựng đứng hình thành từ triền núi sạt lở, một nửa quan tài còn kẹt trong đó, phần đầu không nhỏ, qua lớp còn sơn sót lại trên bề mặt, có thể thấy đây là một cỗ một quan tài cũ bằng gỗ sơn đen. Bùn lỏng tràn vào mộ đến nửa thước, nếu không phải do đất nơi này dễ lún thì là do cỗ quan tài quá nặng.
Tuy cách chôn cất khá thô sơ, nhưng người dân bình thường cũng không thể làm được. Quan tài trông na ná mấy cái được bày bán ven đường, có lẽ là của địa chủ thời trước. Quan tài đã cũ nát tả tơi, bên trong rặt bùn loãng.
Chẳng biết có phải bị lây từ Bàn Tử hay không mà nhìn thấy quan tài tim tôi cũng bắt đầu đập rộn, nhưng lúc này tôi phải giả vờ lơ ngơ một tí, bằng không rất dễ bị hội A Quý hoài nghi.
Muộn Du Bình nhận lấy cây đèn pin, vén đám cỏ dại, nhìn khắp một vòng, chúng tôi đã thấy có vết máu ở một góc khuất trên quan tài. Muộn Du Bình nhờ tôi soi đèn giúp, còn hắn đưa tay ra ước lượng, dấu tay trên quan tài hẳn là in lên khi người kia cúi xuống lấy thăng bằng. Bên dưới chính là khe hở của quan tài, Muộn Du Bình ngồi xổm xuống, không hề nghĩ ngợi đã thò tay vào trong đó, bắt đầu đào bới trong lớp bùn.
Nghe tiếng khuấy nước bùn, tôi hơi rợn tóc gáy. Hắn chỉ mò mẫm vài vòng rồi rút tay ra, cầm theo một vật dính đầy bùn. Muộn Du Bình vẩy vẩy bùn bám bên trên, thì ra đó là một cái bịch nilon dính máu, nhưng hắn rũ rũ vài cái, chúng tôi mới phát hiện trong bịch trống không.
"Quái nhỉ?" Tôi lấy làm lạ hỏi. "Đồ bên trong đâu mất rồi?"
"Vết máu còn mới, ông ta đã tới đây mang đồ đi trong vòng vài tiếng," Muộn Du Bình nhìn quanh bốn phía, bình thản nói tiếp: "Chắc chắn ông ta chỉ quanh quẩn đâu đây thôi."
"Ông ta đến lấy đồ sau khi đã bị thương?" Vậy là lão đã bị thương từ trước khi đến đây. Tôi thở phào, từ chỗ bị thương đến nơi này cũng khá xa, đã lết được đến tận đây chứng tỏ vết thương cũng không nặng lắm.
Muộn Du Bình lại mò thêm lần nữa nhưng không tìm được gì, sau đó chúng tôi trèo lên, tôi kể sơ qua tình hình cho A Quý biết.
Khả năng Bàn Mã gặp báo không cao lắm, một tay thợ săn không mang theo súng, dù dũng mãnh và và lão luyện đến đâu, cũng tuyệt đối không thể tránh thoát đòn tấn công của một con báo. Mà khó hiểu hơn là sau khi bị thương vì sao lão còn muốn đến đây, đáng ra lão nên quay về thôn ngay lập tức mới đúng. Lão chảy một đống máu còn đến đây mang cục sắt kia đi làm gì mới được chứ, lẽ nào lão cảm thấy để nó ở đây sẽ gặp nguy hiểm?
Chúng tôi gọi lũ chó về, lấy ngôi mộ cổ làm mốc, chia ra mấy nhóm tìm kiếm xung quanh. Hai người chúng tôi đi theo cha con A Quý, tôi bèn hỏi Vân Thái, trong rừng ngoài báo ra thì còn con gì có thể tấn công người?
Vân Thái nói trước kia nhiều lắm, chứ bây giờ đều bị thịt hết rồi. Hồi trước đến cả con trăn cũng hay gặp, nhưng lâu lắm rồi không thấy nữa, có thể tấn công người chắc chỉ còn lợn rừng thôi.
Tôi thầm nghĩ cũng có thể, nhưng vẫn không tài nào giải thích được nguyên nhân lão Bàn Mã đến đây mang đồ đi. Lúc này trong lòng tôi mơ hồ có linh cảm, phải chăng mối nguy hiểm mà lão Bàn Mã gặp không phải động vật, phải chăng mấy kẻ đốt nhà bí ẩn đã úp sọt lão?
Đang suy nghĩ, chợt nghe xa xa từ một hướng khác có tiếng chó sủa dồn dập. Thế rồi, một tiếng súng nổ cắt ngang khe núi tĩnh mịch, dọa lũ chim bay nháo nhác.
Chương 8: Ông lão
Editor: Tử Triệt
Beta: Thanh Du
Note: Mải hóng một mùa thị quá là hài hước nên ra chương muộn mất 1 ngày, nhanh thì thứ 6, chậm thì cuối tuần này mình sẽ đền bù :"> Dù sao được biết tuy nhà mình làm ăn chậm chạp nhưng vẫn có người theo đến cùng mình cũng rất vui :3
*****
Tiếng la hét hoảng loạn nghe như tiếng kêu của lệ quỷ, chúng tôi lập tức nhìn về hướng ấy, chỉ nghe được bên kia đang nháo nhào hết cả lên mà không biết đã xảy ra chuyện gì. Chúng tôi đờ ra mất một lúc, rồi lập tức vơ vét đồ nghề chạy về nơi phát ra tiếng hét.
Do cách nhau không quá xa, chẳng mấy chốc đã đến chỗ họ, nhưng chỉ thấy mấy con chó đang sủa nhặng xị, dưới bóng cây rậm rạp tôi cũng không nhìn ra vì sao bọn họ lại la ầm lên như thế. A Quý quát lên: "Có chuyện gì vậy?"
"Coi chừng! Trong bụi cỏ có vật gì đó!" Những người phía trước kêu lên. Lời vừa dứt, cánh rừng bên cạnh chợt có động, hình như có con gì đó băng ngang bụi cây trong chớp nhoáng, gây ra tiếng động cực lớn, có lẽ là một động vật cỡ đại.
A Quý giương cao cây súng của mình, nã một phát, không biết đã bắn trúng nơi nào, tiếng súng nổ đùng đoàng như tiếng sấm dọa đàn chim phía xa giật mình nháo nhác bay đi, còn cái thứ gây ra tiếng động kia cũng lao đi băng băng rồi biến mất trong màn đêm.
Chúng tôi nhào đến trước mặt bọn họ, những người trên núi cũng lao tới, rọi đèn pin khắp cánh rừng mà chỉ thấy mấy lùm cây đang rung rinh. A Quý lập tức thét to: "Thả chó ra!"
Mấy người thợ săn huýt sáo, đám chó săn lập tức lao ra ngoài, khí thế hoàn toàn khác với đám chó cảnh trong thành phố, nhoáng cái mặt trước đã trở nên hỗn loạn, bên tai là tiếng bụi cây va quệt và tiếng chó sủa liên miên không dứt. Đám A Quý lập tức bám đuôi, mấy người này đều có kinh nghiệm săn thú, hô to mấy tiếng bằng giọng địa phương rồi chia nhau ra, chạy theo đàn chó vào rừng.
Chúng tôi muốn đi cùng, nhưng A Quý đã quay lại la to vài tiếng với Vân Thái, cô bé liền ngăn cản chúng tôi, bảo đừng đi theo, bọn họ không rảnh mà để mắt đến chúng tôi. Trong bóng đêm mịt mùng, thợ săn không thể tùy tiện nổ súng, dã thú kia bị dồn ép quá có thể sẽ nổi điên mà tấn công người. Dã thú, đặc biệt là loại mãnh thú cực kỳ hung hữ như báo, chỉ cào một phát cũng đủ gây trọng thương, cho nên phải hết sức cẩn thận. Chúng tôi không có kinh nghiệm nên rất dễ gặp nạn, hơn nữa tôi không biết vây săn là gì, đi giúp họ chỉ tổ vướng víu tay chân.
Tôi đương nhiên không chịu, thầm nghĩ luận về thân thủ, Muộn Du Bình mà làm vướng víu tay chân mấy người sao? Nhưng đuổi theo được vài bước, lại phát hiện cái vướng víu mà cô nói lại là chuyện khác.
Chó săn đã được huấn luyện thuần thục, ba con tách khỏi đội hình lao đến trước mặt con thú kia; con thú kia bị vây kín, lập tức quay sang hướng khác mà chạy. Phía sau là mấy tay thợ săn quây kín, chó và người một trước một sau, vừa vặn hình thành một vòng vây. Mỗi người trong vòng vây này đều cần phải có kinh nghiệm, bằng không con mồi sẽ tìm được điểm yếu mà phá vòng vây chạy mất.
Đám A Quý không ngừng la hét, đánh lạc hướng con mồi, khiến nó luẩn quẩn trong vòng vây không biết nên trốn chạy theo phương nào. Đồng thời nhóm thợ săn đều đồng loạt giương súng, không ngừng siết chặt vòng vây, đây chính là cách săn lợn rừng. Tôi đã từng thấy cảnh tượng như thế này ở quê, săn động vật lớn đều dùng cách thức này.
Đã lâu không được tận mắt chứng kiến một màn săn thú, tôi chỉ biết nín thở mà nhìn. Đám A Quý càng siết càng gần, chẳng mấy chốc con mồi kia đã vừa vặn rơi vào tầm bắn của súng săn, chỉ có điều con mồi không ngừng di chuyển, ánh đèn pin không thể tập trung vào nó được. Chó săn ở đây đều vào cỡ trung bình, cùng lắm cũng chỉ săn được mấy con vật nhỏ như gà rừng hay thỏ hoang, nên chúng không dám tùy tiện xông lên. Nếu là giống chó săn sói cỡ lớn ở phương bắc, với hình thức lấy một chọi ba, thì đã sớm xông lên đánh sáp lá cà rồi.
Dằng dai cả buổi, đám A Quý vẫn chưa nổ súng. Những con mồi bình thường vào lúc này đều phạm sai lầm, đều đột ngột lao về một phương hướng nào đó, thoáng chốc là tới gần thợ săn đã chuẩn bị sẵn sàng. Thợ săn nổ súng ở cự ly gần là chắc chắn trúng, tiếp đó chó săn sẽ đuổi theo, con vật cơ bản là không trốn chạy nổi nữa. Nhưng con vật này không những không muốn phá vây ngay, mà trái lại còn dần dần trở nên bình tĩnh, mấy lần ẩn nấp vào bụi cỏ mà không thể biết được vị trí chính xác, cứ thế trái lại khiến đám A Quý không dám tới gần.
Tôi thấy vậy mà kinh ngạc, thầm nghĩ lợi hại nha, đổi khách thành chủ, con này rốt cuộc là cái giống gì, xảo trá như thế, không lẽ là hồ ly?
A Quý chiếu đèn pin vài lần vẫn không trúng, tốp thợ săn này đâu phải đám sơn tinh cả đời kiếm ăn trong núi như lớp thợ săn trước, kinh nghiệm dù sao vẫn còn thiếu sót, cũng không nghĩ ra cách nào hay, liền gào lên gọi Vân Thái ném đá ép con mồi phải chạy ra. Hai đứa tôi nhặt vài hòn đá lên định ném, lại bị Muộn Du Bình giữ lại cả đôi. Tôi ngẩng đầu lên nhìn hắn, chợt nhận ra không biết từ bao giờ sắc mặt hắn đã biến đổi, ánh mắt hắn không nhìn vào vòng vây săn mà nhìn ra sau lưng A Quý, hô to: "Cẩn thận đằng sau!"
Tôi nhìn theo hắn, phát hiện bụi cỏ sau lưng A Quý lại nổi sóng, giống như có gió thổi qua. Nhưng bốn bề đều lặng gió, nên hẳn là có thứ gì đó đang nấp trong bụi cỏ, nhích dần về phía A Quý.
A Quý lập tức quay đầu, gợn sóng kia cũng ngưng ngay lập tức.
"Cái gì vậy?" Tôi ngạc nhiên hỏi: "Còn một con nữa?"
"Không chỉ có vậy." Muộn Du Bình nhìn khắp bốn phía, nói bằng giọng hờ hững. Tôi cầm đèn pin chiếu rọi khắp bốn vùng quanh, lập tức phát hiện những bụi cỏ đằng xa đang lan truyền những đợt sóng kỳ lạ, dồn về phía chúng tôi.
Thợ săn ở đây chưa bao giờ gặp cảnh tượng này, cả đám trợn mắt há mồm, cô bé Vân Thái lại là người đầu tiên phản ứng, lập tức huýt sáo gọi đám chó quay về.
Tôi kêu mấy người bọn họ tụ tập lại đây, cẩn thận quan sát động tĩnh bốn phía, chỉ thấy những gợn sóng này cứ thoắt ẩn thoắt hiện không ngừng.
Ba con chó săn còn cảm nhận được tình cảnh kỳ lạ này rõ ràng hơn chúng tôi, không ngừng quay khắp bốn phía sủa loạn xạ, phiền phức không chịu nổi. Những làn sóng vận động bất quy tắc dần dần áp sát chúng tôi, tuy nói mình không sợ nhưng tôi cũng bắt đầu căng thẳng, tim đập như nổi trống.
"Chui vào giữa đi con." A Quý bảo Vân Thái, có lẽ anh ta cũng không nắm rõ tình huống lúc này rốt cuộc là gì. Người miền núi quả đúng là dũng mãnh, không một ai sợ hãi, mấy người kia đều giương súng lên, lúc này cũng không hơi đâu để mắt đến chúng tôi nữa. Tôi nhặt một hòn đá làm vũ khí, quan sát cảnh tượng bốn phía, nói: "Chỗ này rậm rạp quá, chúng ta lui về phía triền núi có ngôi mộ cổ bên kia đi."
Mấy người lập tức lên đường, vừa cảnh giác vừa nhanh chân rút lên núi, không ngờ chúng tôi vừa động, mấy đợt sóng kia lập tức vây lại, đến khi còn cách tôi hơn ba mươi mét thì đều nhanh chóng biến mất. Chúng tôi gần như không có thời gian căng thẳng, mà lập tức hoảng loạn, không đi theo đường chính mà leo thẳng lên dọc sườn núi.
Bùn trên núi nhão nhoẹt, mấy gã đàn ông đã lên cả, nào ngờ Vân Thái bất ngờ trẹo chân, trượt xuống dưới vài mét. Tôi đưa tay ra kéo, kết quả là chính mình cũng trượt theo luôn, bùn dưới chân đều lún cả xuống.
Muộn Du Bình và A Quý dừng lại kéo tôi, nháy mắt đã tụt lại sau đoàn vài mét. Cỏ dại mọc trên sườn núi dày như một tấm thảm, lúc này tôi chợt nghe từ các bụi rậm xung quanh phát ra tiếng cây cỏ bị giẫm gãy liên tục trong lòng nổi lên cảm giác cực kỳ bất an.
Được kéo lên rồi, tôi lại tìm Vân Thái. Vân Thái bị trẹo chân suýt khóc, đôi chân đổ đầy mồ hôi lạnh của tôi cũng không chịu nghe lời tôi nữa, đành cắn răng vén đám cây cỏ ra, chật vật đỡ Vân Thái lên triền núi. Bùn nhão bên kia lại lún xuống thành một cái hố, tôi ủn mông cô bé lên còn Muộn Du Bình đứng bên trên thì vươn một tay ra kéo.
Tôi thử leo vài cái, phát hiện ra mình quá nặng, lại chẳng có ai đứng sau ủn mông ( :)) ), đám bùn kia không chịu nổi sức nặng của tôi nên cứ lún dần xuống, bèn lách người sang bên cạnh. Ai ngờ tôi xui xẻo đến độ uống nước cũng mắc răng, còn chưa đi được mấy bước, bùn nhão dưới chân đã tiếp tục lún xuống khiến tôi ngã nhào xuống triền núi, ngày càng trượt sâu hơn. Giãy dụa bò lên, chợt nghe A Quý trên đỉnh đầu la to: "Chạy! Mau chạy đi!"
Nghe vậy, bản năng mách bảo cho tôi biết chắc chắn anh ta đã thấy được gì đó, liền rẽ sang trái, lại nghe A Quý la to: "Sai rồi! Không phải bên đó!" Ngay lập tức, tôi thấy bụi cỏ phía trước lay động một chập, thế rồi một con vật to cỡ con nghé nhỏ, mắt xếch trán trắng (1), giống báo mà không phải báo nhô nửa người lên từ bụi cỏ, đôi ngươi xanh biếc lóe hàn quang, mặt mày dữ tợn giống như gương mặt hung yêu trong Kinh kịch.
Vừa đối diện với nó, tôi đã biết ngay cái thứ của nợ này là gì rồi, trong lòng hết sức kinh ngạc – thì ra đó là một con linh miêu. (2)
Linh miêu là một loài mèo lớn, nhỏ hơn báo nhưng lớn hơn mèo rất nhiều. Loài động vật họ mèo này có khuôn mặt y chang yêu quái, nét tà độc hung ác đều hiện lên mặt. Khác biệt rõ ràng nhất giữa linh miêu và báo là trên lỗ tai linh miêu có hai nhúm lông mao thô dài ngoằng, giống như lông công trong Kinh kịch.
Loài vật này cực kỳ thông minh, tuy thích sống riêng lẻ, nhưng những khi thức ăn khan hiếm cũng sẽ đi săn thành bầy; ngoại trừ sư tử, thì đây là loài động vật họ mèo duy nhất có thể đi săn theo đàn. Linh miêu cỡ lớn ở Tây Tạng được gọi là "Ma rừng", nghe nói còn biết tha con gái trẻ về ổ giao phối. Nhưng do có bộ da đẹp, nên thời cận đại gần như đã bị bắt giết sạch sẽ, sao lại xuất hiện ở một vùng có nạn săn trộm trầm trọng như Quảng Tây cơ chứ?
Nhưng nếu là linh miêu, thì lại giải thích được vì sao lão Bàn Mã bị tấn công mà chưa chết. Linh miêu rất giống mèo, thích đùa giỡn con mồi cho đến khi sức cùng lực kiệt mới giết chết, nhưng bản tính lại rất thận trọng, không dễ mà vật lộn sáp lá cà.
Giữa những luồng suy nghĩ biến đổi chớp nhoáng, bên tôi lại thêm một con linh miêu thò đầu ra. Con này còn bự hơn, vả lại trên đầu còn có bùn nhão chảy ròng ròng. Muộn Du Bình đã trượt từ trên xuống đến bên cạnh tôi, tay cầm đao săn của A Quý, vừa xuống đến nơi lập tức kéo tay tôi: "Cứ giẫm lên lưng tôi." Hắn nói như chém đinh chặt sắt.
"A, vậy thì ngại quá." Tôi nhất thời không kịp phản ứng.
"Lên mau!" A Quý đứng bên trên la to, mồ hôi đầy đầu.
Bản năng của động vật họ mèo là tấn công vào cổ họng con mồi, một đòn chết tươi. Tôi rụt cổ lại, thầm nhủ vậy tôi không khách khí nữa, gạt đi chút bùn đất rồi giẫm lên vai Muộn Du Bình. Muộn Du Bình vung người đẩy tôi lên, A Quý đứng bên trên nhoáng cái đã túm được tay tôi, tôi quơ quào tay chân loạn xạ, vất vả lắm mới đứng vững được trên triền núi. Chợt nghe Vân Thái thét lên một tiếng sợ hãi, thoáng chốc từ bụi cỏ bên dưới có một con vật lớn lao ra. Vừa mới nhún người mượn lực, tôi đã trông thấy một con "mèo bự" gần như bám vào vách núi mà phi đến trước mặt mình.
A Quý thả tay theo phản xạ, tôi lập tức rơi xuống, bị ngoạm lấy giữa không trung.
Cũng may hình thể con linh miêu vẫn còn quá nhỏ, không thể đè tôi xuống đất. Nháy mắt tôi đã ngã vào bụi cỏ, lăn xuống vài mét, hung hăng đá nó một cú bay vèo đi, đứng lên nhìn lại thì thấy bả vai mình gần như đã bị cắn thủng.
Cỏ cây bốn phía dường như đều lay động, cái con bị tôi đá bay xuống đất cũng đã lấy lại tư thế tấn công, nhào về phía tôi một lần nữa.
Tôi hoàn toàn không có thời gian để mà sợ hãi, kiếp thám hiểm trong những năm gần đây đã trang bị cho tôi một bản năng sống mạnh mẽ. Vừa đưa tay lên che cổ họng tôi đã bị đẩy ngã, bèn dứt khoát xoay người lăn vèo vèo từ triền núi xuống.
Cú lăn này đúng là tối tăm mặt mũi, vừa đứng lên tôi liền bất chấp tất cả mà lảo đảo bỏ chạy. Đám A Quý sau lưng đã bắt đầu nổ súng, tôi cũng không phân biệt nổi phương hướng nữa, đành cắm đầu chạy sâu vào trong khe núi, chạy được vài mét chợt nghe sau lưng có luồng gió quét qua. Tôi biết tuyệt đối không thể dâng phần gáy của mình cho động vật họ mèo xơi được, xương sọ sẽ bị cắn thủng mất, thế nên lập tức xoay người.
Vừa xoay người một cái, tôi đã thấy một bóng đen đuổi tới với khí thế như sấm sét, căn bản không thể nào ước đoán được tốc độ, chớp mắt đã lao đến trước mặt tôi. Tôi nghĩ bụng thôi tiêu rồi, lần này sau khi bị đốn gục tôi hoàn toàn không có thời gian bố trí phòng ngự nữa. Nào ngờ trong khoảnh khắc bóng đen ập đến trước mặt, bụi cỏ bên người tôi đột ngột rẽ ra, sau đó một luồng hàn quang lóe lên, có bóng người lao khỏi bụi cỏ như một tia chớp, nhanh chóng quấn riết lấy bóng đen.
Bóng đen lao tới với khí thế hung mãnh, hai cái bóng nhảy đi rất xa. Tôi ngây ra tại chỗ, hoàn toàn không thể phản ứng, giống như đang nằm mơ.
Trong bụi cỏ rối tung rối mù, nhưng rồi nhanh chóng trở về với yên lặng. Không lâu sau có một bóng đen đứng lên từ trong đó, tôi thở phào nhìn bóng người nọ bước ra, đi đến dưới ánh trăng thì nhận ra đó là một ông lão gầy gò xa lạ, toàn thân nhuốm máu, tay cầm một cây đao săn đặc biệt của người Mèo. Con linh miêu kia bị ông lão vác trên lưng, hình như đã tắt thở.
Ông lão đi đến trước mặt tôi, thấy tôi thì đờ người. Ổng dùng tiếng địa phương hỏi tôi một câu, tôi cũng không hiểu ổng đang nói gì, đành ý tứ lắc đầu, trong lòng thầm nghĩ ông tiên này là ai vậy? Nhưng sau đó tôi lại thấy một hình ảnh còn đáng kinh ngạc hơn: trên người ông lão đó, không ngờ cũng xăm một con kỳ lân đen giống y chang con trên người Muộn Du Bình.
——————————————-
(1) Nguyên văn là 吊睛白额 (điếu tinh bạch ngạch). 吊睛 nghĩa đen là con ngươi treo lên, nghĩa bóng là đuôi mắt vênh lên, hay mắt xếch. 白额 là trán có vệt trắng. Cụm từ 吊睛白额 vốn để tả hổ, hổ mắt xếch trán trắng tạo cảm giác rất hung dữ
Chương 9: Lão Bàn Mã
Editot: Nguyễn Nam
Beta: Thanh Du
*****
Ông lão gầy gò, so với con linh miêu vác trên vai nom càng thêm quắt queo, nhưng nhìn kỹ sẽ thấy những bắp thịt đã khô quắt trên thân thể ông lão vẫn rắn rỏi như sắt thép, có thể mường tượng ra những bắp thịt này vào thời trai trẻ đã từng tráng kiện đến thế nào. Dưới ánh trăng, ánh mắt lão ngời sáng có thần, gây cho người một cảm giác khó nói thành lời.
Ông lão tra thanh đao vào vỏ trên thắt lưng, lại ngắm nghía tôi một chặp, chuyển con linh miêu sang vai bên kia, sau đó dùng giọng địa phương bảo tôi đi cùng.
Cây cỏ bốn bề vẫn còn lay động nhưng ông lão chẳng thèm để mắt, cứ vác con linh miêu bước phăm phăm về phía trước, chẳng bao lâu tiếng động xung quanh cũng dần dần lùi xa, chỉ nghe trong cánh rừng sâu thẳm truyền đến tiếng gừ gừ của một đàn thú khác. Đàn linh miêu chỉ tập hợp trong thời gian ngắn để săn mồi, đây có thể là con khỏe nhất trong đám, phụ trách ra đòn chí mạng cuối cùng; con này vừa chết, cả đàn cũng tan luôn. Bản tính linh miêu cực kỳ thận trọng, tuyệt đối sẽ không mạo hiểm đến lần thứ hai.
Ông lão vừa quát tháo, vừa hướng về ngôi mộ cổ. Có ánh đèn pin phát ra từ phía bên kia nhưng thủy chung vẫn dừng lại từ trên núi. Rõ ràng tay A Quý này cũng chẳng phải người tốt, không chịu xuống dưới cứu tôi.
Chỉ có một cái đèn pin ném về hướng này, chúng tôi bắt lấy, rồi thấy Muộn Du Bình đi về phía chúng tôi với dáng vẻ hoảng hốt hiếm có. Thấy tôi không sao hắn mới thở phào nhẹ nhõm, rồi lại nhìn sang ông lão kia.
Cánh tay Muộn Du Bình đẫm máu, ông lão trở tay nắm lấy đao săn. Hai người liếc nhau một cái, Muộn Du Bình thấy hình xăm kia thì ngây người, nhưng ông lão hình như không hề để ý đến hắn, bước thẳng qua bên cạnh hắn.
Tôi thầm nghĩ ôi cái đệt, ông lão này quá siêu phàm, lại mang đầy phong thái của Muộn Du Bình, lẽ nào chính là cha hắn?
Muộn Du Bình muốn bước lên hỏi, nhưng tôi ngăn hắn lại. Ông lão này không phải hạng hồ đồ, vả lại ngôn ngữ bất đồng, có hỏi cũng vô ích, ta cứ về đã rồi tính sau.
Đi ngang qua chỗ tôi ngã xuống, thấy trên mặt đất cũng có xác một con linh miêu cổ bị vặn gãy, hiển nhiên là kiệt tác của Muộn Du Bình. Ông lão ra hiệu cho chúng tôi khiêng nó lên, Muộn Du Bình liền vác xác nó trên vai rồi leo lên triền núi. Người bên trên lập tức chạy tới, nhìn thấy ông lão đều tỏ ra hết sức kinh ngạc.
Ông lão và bọn họ bắn ra một tràng tiếng địa phương, tôi nghe ù ù cạc cạc, liền lén hỏi Vân Thái xem ông lão này là ai.
Vân Thái đáp: "Còn ai vào đây nữa, ông ấy chính là lão Bàn Mã mà các anh muốn tìm."
"Ông ấy chính là Bàn Mã?" Tôi thoáng giật mình, nhưng đúng là trước kia tôi cũng từng nghĩ đến chuyện này rồi. Ai cũng bảo lão Bàn Mã là thợ săn cừ khôi nhất, ngoài lão ra còn ai đủ sức tay không giết chết một con linh miêu lớn cỡ này ở tuổi xế bóng cơ chứ. Phải biết rằng một con linh miêu có thể săn được cả sói Tạng đi riêng lẻ, họ mèo là họ động vật ăn thịt có vú đã tiến hóa đến đỉnh cao, nếu không phải là người cực kỳ am hiểu tập tính của nó thì không thể nào hạ thủ được.
Vừa rồi Lão Bàn Mã nhất định đã bị linh miêu tấn công, sau đó dây dưa với đàn linh miêu đến tận nơi này thì nghỉ ngơi chờ đợi thời cơ. Mẹ kiếp, cái đòn tất sát cuối cùng kia tôi thấy ngay cả Muộn Du Bình cũng không thể ra tay dứt khoát đến vậy, chỉ chậm một giây thôi là tôi hoặc lão nhất định sẽ phải chết .
A Quý quan sát vết thương của tôi, xong giới thiệu đôi bên cho nhau. Lão Bàn Mã hình như không có hứng với chúng tôi, chỉ chào hỏi lấy lệ rồi bắt đầu lau rửa những vết bẩn trên người.
Lau đi vết máu trên người, tôi mới nhận ra hình xăm của lão và Muộn Du Bình na ná như nhau. Sau xương sống lão có một vết thương sâu đến ghê người, có thể là do bị linh miêu tập kích bất ngờ mà ra.
Có vài người quây thành tốp, xì xào kể về về hành trình vào núi. Tôi nửa đoán nửa suy luận, lại nhờ Vân Thái phiên dịch nên cũng hiểu được lờ mờ. Nửa đầu câu chuyện cũng gần giống như tôi phán đoán, đúng là lão vì chuyện của con trai mới vào núi, không ngờ lại chạm trán cái giống kia ở đây. Cũng may những khi vào núi lão có thói quen buộc một cành cây trên lưng, trước hết có thể làm gậy chống, ở nơi đất bằng lại có thể đề phòng điểm yếu phía sau bị đánh úp. Đây là quy tắc lưu truyền từ thời xa xưa khi dã thú hoành hành, cả đời chẳng có ích gì, ai ngờ lần này lại cứu được một mạng. Tuy quần áo bị xé nát, nhưng gáy không bị cắn đứt, đúng là nguy hiểm khôn cùng.
Bao nhiêu năm trời không gặp linh miêu, giờ bỗng dưng xuất hiện ở vùng này, có thể là do mấy hôm trước trời mưa to, trong núi sâu xảy ra chuyện bất thường buộc chúng phải chạy ra. Chỗ này có người ở nên chuột cũng lắm, chúng mới bị con mồi thu hút đến đây.
Thấy lão tỏ ra rất phấn chấn, như thể tìm lại được cảm giác của một thời oanh liệt đã qua, tôi cảm thấy giờ không thích hợp để hỏi những chuyện khác. A Quý liền gọi đoàn quay về, nói giờ này người trong thôn chắc là đang rất sốt ruột. Vết thương của tôi và lão Bàn Mã đều sâu, phải về còn xử lý.
Vài người đem đốt hai cái xác linh miêu, trời cũng dần sáng, không còn sớm nữa, đã qua cả một đêm rồi, nên họ dập tắt đống lửa rồi lập tức lên đường.
Bộ da linh miêu rất có giá, cứ thế đốt đi thật là uổng phí. Nhưng A Quý nói không thể để ai khác biết ở đây xuất hiện linh miêu, bằng không thì chưa đến một tuần đám săn trộm đã ùn ùn kéo đến. Những tên này tham lam vô độ, dù không bắt được linh miêu thì cũng chuyển sang những loài thú khác, nơi này nhất định sẽ sạch bách chẳng còn gì.
Dọc đường đi không ai nói thêm lời nào, về đến thôn thì trời đã sáng. Những cán bộ trong thôn cũng thức trắng cả đêm, đang dẫn theo vài người chuẩn bị vào núi đi tìm, đến sơn khẩu thì gặp chúng tôi.
Chúng tôi ăn sáng trong trụ sở thôn, có bánh rán (1) và cháo trứng, tôi đói quá làm luôn hai bát to. Trong thôn vui như tết, liên tiếp có người đến hỏi han.
Bả vai tôi gần như bị cắn thủng, phải sát trùng rồi tiêm một mũi phòng uốn ván, còn đắp thêm cả thảo dược. Lưng lão Bàn Mã khâu mười mấy mũi, tay y tá thôn kia thật chẳng biết nương tay là gì, khâu vết thương mà cứ như khâu chăn đệm, khâu dăm ba nhát đã xong. Trong khi lão Bàn Mã vẫn yên lặng không nói lời nào thì mấy người trông như cán bộ thôn kia lại cứ thao thao bất tuyệt.
Tạm thời bỏ qua những chuyện lặt vặt, xử lý xong vết thương chúng tôi định về nghỉ ngơi, chờ sức khỏe phục hồi sẽ đến thăm lão Bàn Mã sau. Ai ngờ trước khi đi, lão lại bảo chúng tôi cùng về nhà mình.
Tôi và Muộn Du Bình liếc nhau, nghĩ bụng ông lão này tính tình cũng thật cổ quái, rồi vội vã đi theo. Đi chưa nổi hai bước, lão đã chỉ chỉ Muộn Du Bình nói cái gì đó.
Chúng tôi không hiểu, nhìn sang A Quý đi cùng. Nét mặt A Quý nom cũng rất kỳ quái, nói với lão Bàn Mã vài câu, lão lại dùng giọng điệu cương quyết đáp lại, nói rồi đi thẳng.
Tôi ngơ ngác nhìn A Quý, hỏi ổng nói cái gì vậy? Anh ta có vẻ lúng túng đáp: "Muốn biết hãy đến một mình, người kia không thể đi theo."
Tôi nhíu mày nhìn Muộn Du Bình, thầm nghĩ lão nói vậy có ý gì chứ? A Quý lại tiếp "Ông ấy còn nói..."
"Nói gì nữa?"
"Nói nếu hai người còn đi chung với nhau, sớm muộn gì cũng có ngày một người bị người kia hại chết."
Và đây là tiền đề cho câu nói nổi tiếng: "Cũng may tôi chưa hại chết cậu" :">
Chương 10: Ngồi xuống bàn bạc.
Editor: Biển
Beta: Thanh Du
*****
Nghe những lời này, tôi có hơi sửng sốt. Lão Bàn Mã không dưng nói ra một câu không đầu không cuối, thật khiến người ta không kịp phản ứng, nhưng đầu óc cũng đồng thời căng thẳng, cảm thấy câu nói vừa rồi nghe có hơi rợn người.
Còn chưa kịp suy nghĩ tường tận, Muộn Du Bình đã đuổi đến trước mặt lão Bàn Mã, giữ chặt lão lại hỏi: "Nói vậy, tức là ông biết tôi?"
Lão Bàn Mã ngẩng đầu nhìn hắn bằng gương mặt vô cảm, cũng không đáp lời. Muộn Du Bình lập tức lột áo, lộ ra nửa thân trên, "Ông nhìn đi, ông có biết tôi là ai không?"
Hình xăm màu đen rõ mồn một, tựa như hai con kỳ lân ở hai phía đang lao vào nhau, mà ánh mắt hai người nhìn nhau cũng hết sức kỳ lạ.
Giằng co một hồi, lão Bàn Mã vẫn lặng thinh không nói, chỉ âm thầm đi qua bên cạnh Muộn Du Bình, hoàn toàn phớt lờ hắn, nét mặt cũng không hề biến đổi.
Tôi không tài nào diễn tả được cảm giác khi đó, thật kỳ lạ, nếu bắt buộc phải diễn đạt thành lời, tôi chỉ có thể nói rằng dường như tôi đã thấy đến hai Muộn Du Bình của hai thời điểm khác nhau, nhập lại rồi tách rời ra trong tích tắc.
"Muộn Du Bình cuối cùng cũng gặp phải đối thủ." Lúc ấy trong lòng tôi nảy ra một suy nghĩ kỳ cục, nếu không phải rơi vào thời điểm không thích hợp thì tôi còn có cảm giác hả hê. Xưa nay tôi vẫn tưởng trên đời không ai khó trị hơn hắn, thì ra không phải vậy, quả nhiên nhiều lúc phải lấy độc trị độc, lấy muộn trị muộn. (=)))
Muộn Du Bình không đuổi theo nữa, hắn lẳng lặng nhìn lão Bàn Mã nghênh ngang bỏ đi, ngẩn ngơ mất vài giây, mọi thứ lại tan thành mây khói.
A Quý không biết phải làm sao, hết nhìn tôi rồi nhìn theo lão bàn Mã đã đi xa, lại nhìn đến Muộn Du Bình, sắc mặt có vẻ ngán ngẩm, hiển nhiên anh ta không hiểu nổi mấy câu nói úp mở làm màu vừa rồi. Tôi sợ A Quý chán nản, vội vỗ vai anh ta vài cái rồi đến bên Muộn Du Bình khuyên hắn về đi, đừng sốt ruột. Lão Bàn Mã bảo tôi đi thì tôi cứ đi đã, hỏi lão xong sẽ lập tức quay về kể lại cho anh biết.
Muộn Du Bình chẳng ừ hữ gì, chỉ gật đầu, ánh mắt vẫn dõi theo lão Bàn Mã đằng xa, không biết đang nghĩ gì.
Không hiểu vì sao, đúng lúc này, tôi cảm thấy ánh mắt hắn đột ngột biến đổi, giống như đã thiếu đi điều gì, đồng thời cũng cho tôi cảm giác hình như mình từng gặp ánh mắt này ở đâu đó.
Vừa rồi khi bốn mắt họ giao nhau chắc chắn đã gửi đi tín hiệu gì đó, thái độ của lão Bàn Mã là một sự gợi ý rất rõ ràng. Lão nhất định đã biết một vài chuyện, hơn nữa lão chắc chắn phải biết Muộn Du Bình là ai, thậm chí còn có khúc mắc sâu xa gì đó với hắn. Mà nhìn thái độ của lão, thì đảm bảo cái khúc mắc này cũng chả vui vẻ gì.
Tôi gấp gáp đuổi theo.
Một lần nữa theo A Quý vào ngồi trong phòng ăn nhà Bàn Mã, tâm trí tôi cứ không ngừng nghĩ ngợi xem những lời lão Bàn Mã nói có ý gì? Và phải trao đổi với lão bằng cách nào mới hiệu quả.
Nếu hai người còn đi chung với nhau, sớm muộn gì cũng có ngày một người bị người kia hại chết.
Lão Bàn Mã đột ngột nói ra một câu kỳ lạ như thế, nếu lão thực sự không biết gì, thì một thợ săn miền núi như lão cũng chẳng lý gì lại vô duyên vô cớ bày trò dắt mũi tôi. Nhưng thái độ của lão lại rất quái gở, hơn nữa rõ ràng lão không ưa Muộn Du Bình.
Tôi thật sự không luận ra những mối liên hệ trong đó. Đây có thể chỉ là một câu nói hết sức bình thường, cũng có thể ẩn chứa điều gì đó. Tôi vẫn luôn tự nhắc nhở bản thân đừng nghĩ ngợi quá nhiều, có lẽ ý của lão Bàn Mã chỉ là bản lĩnh của Muộn Du Bình rất cao cường, nhưng của tôi lại quá cùi bắp, nên sẽ có ngày tôi vạ lây đến hắn. Nhưng trực giác mách bảo cho tôi biết, nếu xem xét những lời này một cách có đầu có đuôi, thì người bị cảnh cáo dường như lại chính là tôi.
Nhưng Muộn Du Bình làm sao hại chết được tôi chứ? Nếu không có hắn, tôi đã thành bánh tông thứ thiệt vài lần rồi; cho dù hắn muốn hại chết tôi thì tôi cũng chỉ biết bó tay chịu chết, nói kiểu gì cũng không thấy hợp lý. Mà với tính tình lập dị của hắn, người khác cũng rất khó kết thân.
Con trai lão Bàn Mã xách nước đến cho chúng tôi tắm rửa, do vết thương sau lưng nên lão để con làm thay, còn mình thì lấy loại thuốc lá riêng của người Dao cho vào điếu cày (1) hút.
Tôi ngửi mùi này thấy giống mùi thảo dược của Muộn Du Bình, xem ra trong loại thảo dược đó cũng có thành phần thuốc lá. Vốn định mượn chi tiết này nói vài câu xoa dịu bầu không khí, lại không tìm được chủ đề nào.
Sắc trời mỗi lúc một âm u, hình như lại muốn mưa, Quảng Tây đúng là đất mưa nhiều. Cô con dâu lão Bàn Mã đóng cửa sổ lại rồi ngồi xuống chiếu, gió lùa qua khe hở thổi vào làm bầu không khí nhanh chóng dịu đi. Lúc này lão mới làm một động tác giống hành lễ kiểu địa phương với tôi, tôi cũng dựa theo đó mà đáp lại.
Lúc này tôi mới có điều kiện quan sát kỹ càng vẻ ngoài lão Bàn Mã. Ngũ quan rõ ràng, gương mặt đầy những vết nhăn ngăm đen như bao người miền núi khác, tướng mạo hết sức bình thường. Nhìn ông lão bây giờ rất khó tưởng tượng được dáng vẻ của ông tiên này lúc trước, đúng là không thể trông mặt bắt hình dong. Mặt mũi như này thì chắc chắn không thể có họ hàng gì với Muộn Du Bình được, nghĩ đến đó tôi mới hơi yên tâm.*Gián tiếp khen Bình đợp trai kìa =))*
A Quý ngồi bên cạnh kể qua một lượt về mục đích đến của tôi, nhắc lại tôi là cán bộ chính phủ. Lão Bàn Mã liền nhìn tôi nói một câu, A Quý phiên dịch: "Lão nói, cậu thật ra là ai lão cũng đoán được lờ mờ, từ lâu lão đã đoán trước đến một ngày sẽ có người hỏi chuyện này. Cậu muốn hỏi gì thì cứ hỏi đi, hỏi xong thì mau cút, đừng đến quấy rầy lão nữa."
Tôi lại ngây ra mất một lúc, cảm thấy lời lão đều mang ẩn ý gì đó, cứ như lão hiểu lầm tôi là một người nào khác.
Nhưng tôi lại không thể cảm nhận một cách rõ ràng nguyên nhân của sự hiểu lầm này. Nghĩ đến đây tôi liền phản ứng, biết lúc này căn bản không nên nghĩ nhiều, cứ coi như mình không phát hiện ra là tốt nhất, chờ có thêm manh mối rồi nói cho rõ ràng cũng chưa muộn.
Tôi nghiêm mặt, chỉnh đốn lại tâm tư rồi bảo lão: "Cháu chỉ muốn hỏi thăm ông vài chuyện về đội khảo sát ngày trước, mong ông có thể kể sơ sơ một lượt cho cháu nghe tình hình năm đó. Nhưng trước đó, cháu cũng muốn biết câu nói vừa rồi của ông là có ý gì?"
Lão Bàn Mã rít một hơi thuốc dài, tôi còn chưa nói xong lão đã lắc đầu cười, nói mấy câu, A Quý ngây ra một lúc mới dịch lại: "Ông ấy nói cậu nghĩ sai rồi, đó không phải đội khảo sát."
Tôi liếc qua A Quý, anh ta phiên dịch xong cũng hết sức kinh ngạc, "Vậy họ là ai?"
Lão đáp: "Bọn họ là lính." Lão nói bằng tiếng địa phương nhưng tôi cũng miễn cưỡng nghe ra.
Ban đầu tôi còn tưởng mình nghe lầm, A Quý phiên dịch lại, tôi mới khẳng định là không lầm.
Cân nhắc một lát, tôi cảm thấy lão Bàn Mã hẳn đã nhầm. Lúc đó bọn họ đều mặc đồ lục quân nên lão mới tưởng họ là binh lính.
"Tình hình khi ấy rất căng thẳng. Có rất nhiều binh lính đến đây, đều đeo súng tự động sau lưng, nói mình muốn đến núi Dương Giác rồi nhờ tìm người dẫn đường. Vậy là cha A Quý đến tìm ta, ta mới đưa bọn họ vào núi." Lão nói với tôi.
(Đoạn đối thoại kế tiếp đều nhờ A Quý làm phiên dịch, để cho thuận tiện, sẽ không nhắc lại nữa.)
Tôi nhíu mày, chợt nhớ ra hồi đó đang có tranh chấp biên giới với Việt Nam. Những năm 70 nơi này chỉ có giặc cỏ, tôi không nghĩ ra thời ấy nó chính là chiến khu, vậy thì tình hình khi đó lại càng thêm phức tạp.
Tình huống này tôi thật sự không ngờ tới, thoáng chốc đã rơi vào trầm tư, vô vàn suy nghĩ hiện lên trong đầu.
Trong hoàn cảnh lúc ấy, chắc chắn không có đội khảo sát nào tới đây làm nhiệm vụ, chuyện này thật kỳ lạ... Nhóm Văn Cẩm đúng là thần thông quảng đại. Chẳng lẽ hạng mục cần khảo sát cũng là hạng mục do quốc gia cắt cử, có cả súng ống chứng tỏ có sự bảo vệ của quân đội rồi.
Phải là hạng mục nào mới đủ khiến quốc gia cử một đội khảo sát đến chiến khu? Lẽ nào trong núi Dương Giác thực sự tồn tại một cổ mộ có giá trị rất lớn?
"Những kẻ đó đều là quái vật..." câu nói của chú Ba chợt vang lên trong đầu khiến tôi rùng mình.
Lão Bàn Mã nói tiếp: "Cậu không biết vị bằng hữu kia của cậu là hạng người nào đâu, đi cùng hắn cậu chắc chắn sẽ không có kết cục tốt."
"Ông biết hắn?" Tôi hỏi, "Vì sao lại nói vậy?"
Lão Bàn Mã nhìn tôi: "Tuy không biết mặt, nhưng ta nhận ra được mùi vị chết chóc trên người họ."
———————————————
(1) Thực ra nguyên văn 水烟袋 chỉ có nghĩa là cái ống hút thuốc có nước, search hình thì ra ít nhất hai loại, mình không biết trong truyện nhắc đến loại nào nên cứ để là điếu cày cho dân dã
Chương 11: Mùi vị
Editor: Béo Bụng Bự
Beta: Thanh Du
*****
Tôi không hiểu lão Bàn Mã đang nói gì, "mùi vị chết chóc" là sao? Mùi xác thối?
Lão Bàn Mã không nói thẳng ra, chỉ bảo mùi vị chết chóc chính là mùi người chết.
Xem ra trong lòng lão Bàn Mã chắc chắn còn giấu nhiều chuyện, tuy không thể hiện ra ngoài, nhưng không câu nói nào không ngầm ám chỉ với tôi rằng lão biết rất nhiều chuyện. Nhưng dường như lão lại muốn che che đậy đậy, thái độ rất mâu thuẫn; từ thái độ bình thản khi đối mặt với Muộn Du Bình, có thể thấy lão già này nhất định là một người từng trải.
Đầu óc tôi cứ quay mòng mòng, đặt mình vào địa vị người khác mà nghĩ xem, một người sẽ tỏ thái độ này vào lúc nào?
Một là khi đang muốn bán đồ với giá cao, trước kia tôi đã tiếp xúc với một vài tay lái buôn, cũng có cái kiểu nói năng nhát gừng như thế. Khổ nỗi lão quỷ này lại không giống cho lắm.
Hai là trong lòng ẩn giấu một bí mật, tuyệt đối không thể tiết lộ, nhưng anh ta lại chứng kiến một chuyện nào đó xảy ra có liên quan đến bí mật của mình; nếu không chịu tiết lộ, có thể sẽ gây ra hậu quả cực kỳ nghiêm trọng. Trong tình cảnh mâu thuẫn này, anh ta chỉ có thể nói một câu lập lờ nước đôi. Ví dụ như có một đặc vụ đã bị nghi ngờ, lúc này anh ta thấy một thằng nhóc đang nghịch một khối tròn bằng sắt; anh ta biết khối tròn đó chính là mìn, nhưng nếu nói ra điều này với thằng nhóc thì thân phận đặc vụ của anh ta có thể bại lộ. Nên anh ta mới bảo thằng nhóc kia: "Cháu nghịch món đồ này, sớm muộn gì cũng bị nó hại chết."
Tôi cảm thấy khả năng này rất lớn. Khi mới tới nơi này tôi chỉ muốn biết chút ít về tình hình và thời gian nhóm Văn Cẩm vào núi; nhưng sau khi lão trông thấy Muộn Du Bình, lại tỏ thái độ khiến tôi buộc phải để ý. Nói cách khác, theo lý mà suy thì lão cho rằng Muộn Du Bình chính là quả mìn có thể nổ chết tôi. Trong lòng lão chứa một bí mật cho lão biết Muộn Du Bình chính là quả mìn đó, nhưng bí mật này lão lại không muốn nói ra.
Sau đó tôi ngồi nói chuyện với lão Bàn Mã suýt soát ba tiếng đồng hồ, cố gắng dò xét bí mật này.
Tôi biết nếu từ đầu đã để lộ ý định dò xét của mình thì sẽ khiến lão cảnh giác ngay, nên tôi quyết định trước hết phải tỏ ra bình tĩnh, bắt đầu dò hỏi từ hành trình Văn Cẩm vào núi.
Nội dung cuộc trò chuyện hết sức rời rạc, lão Bàn Mã nói phải có A Quý phiên dịch, có khi còn phải giải thích khái niệm với nhau, rất tốn thời gian. Hơn nữa lão cũng thường trả lời không đúng trọng tâm, mà có lẽ A Quý phiên dịch cũng sai lêch đi chút ít. Cho nên trò chuyện xong, đầu óc tôi hoàn toàn bị chia ra làm những mảnh rời rạc.
Đội khảo cổ của Văn Cẩm vào núi đại khái là năm 1976, lão không thể nói ra thời gian chính xác.
Đội trưởng lúc ấy hẳn là Văn Cẩm, nhưng khi tôi lấy bức ảnh chụp chung ở Tây Sa ra cho lão xem thì lão lại không phân biệt nổi những người khác. Thời gian đã quá lâu, mà người cũng nhiều, trong hoàn cảnh lúc ấy, tóc tai quần áo mọi người đều như nhau, lão chỉ nhớ duy nhất người đội trưởng cũng rất hợp lý.
Ban đầu mọi chuyện diễn ra bình thường, khi ấy vùng này thường xuyên xảy ra tranh chấp biên giới, trong thôn xuất hiện quân đội cũng rất bình thường. Phải biết rằng những năm 1978 vùng Thượng Tư hầu hết đều có quân giải phóng, đường trong núi này phần lớn đều được đào vào thời điểm diễn ra chiến dịch phản kích quân Việt, bộ đội phải vào trong núi tìm người dẫn đường cũng là nhiệm vụ quân sự.
Lão Bàn Mã nhận tiền phụ cấp của bộ đội, bấy giờ lão vẫn còn là tráng niên, trong khi săn thúthường một mình lặn lội vào những nơi xa nhất, sâu nhất, dĩ nhiên tìm lão làm người dẫn đường là thích hợp nhất.
Bọn họ lên đường vào sáng sớm ngày hôm đó, nhiệm vụ của bộ đội lão không tiện hỏi nhiều, cứ thế dẫn bộ đội vào núi Dương Giác, sau đó đi cùng đoàn luôn. Tâm tư của lão đặt cả vào việc nhớ đường, núi Dương Giác là nơi không hay lui tới, lão phải đảm bảo có thể trở về.
Bọn họ đi khá lâu, nghỉ trong núi một đêm rồi đến một cái hồ trong núi.
Nơi này lão Bàn Mã mới đến có một lần vào năm ba mốt tuổi, lão cưới vợ nên muốn bắt mấy con hoẵng về biếu nhà ngoại. Năm ấy trong núi không yên ổn, dã thú đều trốn vào rừng sâu. Lão dắt chó đi một mạch vào đây, tìm được cái hồ này, nấp ven hồ một ngày thì săn được một con lợn rừng, sau đấy cũng không vào đây thêm lần nào nữa.
Những cái hồ kiểu này hiển nhiên không có tên, có lẽ ngoại trừ lão Bàn Mã thì người trong thôn cũng không ai biết nơi này có hồ. Đây là một cái hồ khép kín, không có suối chảy vào, đáy hồ có thông đến đâu hay không thì lão chịu. Bọn họ dựng lều căng bạt bên hồ, thế là nhiệm vụ của lão Bàn Mã đã xong.
Sau đó, lão nhận nhiệm vụ cứ cách vài ngày lại đi cấp dưỡng cho bộ đội. Nguồn dự trữ của bộ đội cũng rất đầy đủ, cho nên mỗi lần vào núi lão cũng chỉ mang theo chút gạo hoặc muối ăn, chuyện quái lạ mà A Quý kể cũng xảy ra trong một lần tiếp tế như thế. Trong suốt quãng thời gian đó, không ai biết đội quân kia trú đóng ở đó làm gì.
Trong quá trình tiếp tế lão Bàn Mã cũng rất hiếu kỳ, nhưng lão biết vào thời buổi này, dòm ngó những bí mật kiểu này sẽ phải trả giá rất đắt, cho nên lão cố nhịn trí tò mò của mình xuống. Sau đó, khi nhóm người nhổ trại, họ đã có thêm khoảng hơn ba mươi cái hộp, cái nào cũng to bằng cỡ hộp giày, được những người lính hết sức cẩn thận đưa ra ngoài.
Lão tò mò, cũng từng muốn cầm thử một hộp, nhưng lại bị một người lính khéo léo ngăn lại. Người lính nói trong hộp này chứa một thứ rất nguy hiểm, khi anh ta cầm nó lên, lão chỉ cảm thấy cái hộp rất nặng, không biết bên trong chứa vật gì.
Tôi nghe tới đây, trong đầu hình như cũng lờ mờ có ấn tượng. Loại hộp lớn cỡ hộp giày này, tên là "hộp thu nạp", biệt danh là hộp đồ cổ, là dụng cụ đội khảo cổ dùng để lưu giữ những mảnh văn vật nhỏ khai quật được. Loại hộp này thường được đánh số nghiêm ngặt, lớn có nhỏ có, nhưng hầu hết đều to cỡ cái hộp giày. (Văn vật khai quật được thường khá nặng, hộp lớn cỡ hộp giày chứa được khối lượng phù hợp nhất cho việc vận chuyển)
Lão Bàn Mã rất buồn bực, vì ven hồ chẳng có chỗ nào đặc biệt, vậy thứ chứa trong những cái hộp kia rốt cuộc từ đâu mà đến? Khi ấy lão cứ đinh ninh hộp này nhất định phải chứa đá, bởi vì ven hồ kia toàn đá là đá.
Nhưng lão nhanh chóng phát hiện ra khả năng này không lớn, vì đi vào núi được một thời gian, bên trong cái hộp bắt đầu tỏa ra một thứ mùi kỳ lạ, rất khó ngửi, không biết phải miêu tả thế nào.
Chương 12: Tâm lý chiến
Editor: Ala Ju
Beta: Thanh Du
*****
Tôi nghĩ ngay đến mùi thịt ôi, nhưng Bàn Mã nói không phải. Người đi săn quanh năm suốt tháng tiếp xúc với thịt nên lão dễ dàng nhận ra mùi thịt ôi. Chứ còn cái mùi này, quả đúng là không tài nào mô tả nổi. *ơ không phải thịt người chẳng lẽ là hóa thạch sh*t khủng long :v*
Bình thường muốn tả mùi phải dựa vào vật, ví dụ "thơm như hoa lài" hoặc "hôi như tất thối". Lão Bàn Mã không tài nào mô tả được, dĩ nhiên là vì lão chưa từng ngửi qua mùi này,thậm chí mùi na ná thế cũng chưa.
Tôi muốn hỏi lão mùi này có phải là "mùi người chết" hay không, nhưng rồi lại thôi. Nếu lão đã không muốn nhắc đến đề tài này thì nửa chừng thắc mắc cũng không có lợi cho tôi.
Sau đó lão Bàn Mã càng thêm hiếu kỳ, nhưng những người kia lại bắt đầu đề phòng, nên lão vẫn chưa có cơ hội tiếp xúc với những cái hộp này. Về đến thôn, nhóm người ấy nhanh chóng rời đi, từ đó về sau biệt tăm biệt tích. Chuyện này ảnh hưởng rất lớn đến lão, mỗi lần vào núi săn thú lão đều nghĩ về cánh quân kia. Bọn họ vào núi nhằm mục đích gì, đã làm gì ven hồ; vật đừng trong hộp là gì, từ đâu mà tới?
Khi ấy lão đã có linh cảm, rồi sẽ có người đến thăm dò chuyện này. Nhưng không ngờ lại đến quá muộn, gần ba mươi năm sau chúng tôi mới xuất hiện.
Tôi hỏi lão hồ nước trông như thế nào, lão bảo hồ dẹt như một thanh loan đao. Bốn phía đều là đá tảng, có những tảng rất to, to hơn thân người, mà cũng có những viên nhỏ bằng đá cuội. Hồ vẫn còn đó, nhưng vì khí hậu biển đổi nên mực nước rút xuống rất nhanh, ba năm trước lão quay lại thì thấy hồ chỉ còn một nửa so với ban đầu.
Nghe đến đó, tôi rơi vào trầm tư. Thứ được giấu trong hộp, rất có thể chính là khối sắt mà chúng tôi đã tìm thấy ở nhà Muộn Du Bình. Nếu có đến ba mươi cái rương được khuân ra ngoài thì hiển nhiên số lượng không nhỏ, rất khả năng nó là mảnh vỡ của món đồ nào đó như lời Bàn Tử nói.
Những thứ này từ đâu mà ra? Trước kia trong điều kiện thiếu thốn thông tin, Bàn Tử từng suy đoán trong núi Dương Giác có một ngôi mộ cổ. Giờ nghe chuyện lão kể, tôi lại nghĩ phải chăng những món đồ này được vớt từ đáy hồ lên?
Lẽ nào bọn họ phát hiện ra một cỗ máy bằng sắt cỡ lớn dưới đáy hồ, tháo nó ra ngay tại chỗ rồi mang từng khối ra ngoài?
Khả năng này không lớn, vì nếu thế thì thứ này khác nào sắt vụn, hơn nữa cũng không thể đựng bằng hộp nhỏ cỡ hộp giày.
Tôi không nén nổi trí tò mò, lòng đã ngầm đồng ý với giả thiết của Bàn Tử, mà dù sao đi chăng nữa cũng phải đến núi Dương Giác ngó thử một lần.
Lão Bàn Mã cũng có một khối sắt, nói là nhặt được trong núi, vả lại lão cứ đinh ninh có cực kỳ quý giá; rõ ràng là sau khi đội khảo sát rời đi, lão Bàn Mã còn động tay động chân vào nữa.
Đây chính là bí mật trong lòng lão, khối sắt và "mùi người chết" có mối liên hệ với nguy hiểm, lão nhất định đã gặp chuyện gì đó mới kết nối ba cái này lại với nhau. Trong ký ức của Muộn Du Bình, khối thép kia là một vật vô cùng nguy hiểm; mà trong hồi ức của lão Bàn Mã, người lính kia cũng bảo lão rằng khối sắt này rất nguy hiểm.
Tôi nghĩ cách cạy miệng lão ra, xét về độ gian trá, tuy tính tôi an phận thủ thường nhưng chơi với đám Phan Tử Bàn Tử đã lâu, muốn gian trá cũng có thể nặn ra một ít gian trá. Vào lúc này, tôi có thể lợi dụng việc lão không nắm rõ thân phận của tôi để lừa lão một chặp.
Bí quyết lừa người chính là để người khác lầm tưởng bạn đã biết cả rồi, cho nên về hình thức cuộc đối thoại, bạn phải biến câu hỏi thành chất vấn.
Tôi im lặng giây lát, trong đầu đã vạch ra phương án sơ lược, liền hỏi: "Vậy sau đó trở lại ven hồ, ông đã phát hiện ra khối sắt này như thế nào."
Đó hoàn toàn là suy đoán, vì nếu khối sắt này tìm được trong núi thì rất khó có thể là nơi nào khác ngoài cái hồ. Tôi thử đánh cuộc một phen, dù sao có đoán sai cũng không mất mát gì.
Lão Bàn Mã đờ người, tôi biết ngay mình đã đoán đúng. Nhưng trừ khoảnh khắc đứng hình ấy ra, lão cũng không có biểu hiện gì khác, mà chỉ nhìn sang tôi.
Tôi biết lúc này mình phải bồi thêm một cú nữa, lại tiếp: "Ông yên tâm, tôi chỉ cần biết chuyện xảy ra khi đó, còn những chuyện khác tôi không có hứng."
Lão Bàn Mã biến sắc, buông điếu thuốc xuống hỏi: "Thật ra cậu là ai?"
Lòng tôi thở phào, muốn toát mồ hôi lạnh. Câu tiếp theo sẽ tiếp nối thành công trong phán đoán của câu trước, mùi vị người chết, khối sắt nguy hiểm, chuyện của Muộn Du Bình. Tôi đoán lý do khiến lão giữ bí mật là vì một sự cố, sự cố này nhất định cực kỳ nguy hiểm, dễ chừng còn có người chết. Đáng ra tôi có thể hỏi: "Tôi sẽ không hỏi đến cái chết của hắn." Nhưng tôi không biết rốt cuộc đã chết bao nhiêu người, nên đổi sang một biện pháp chắc ăn hơn.
Người có "tim đen", trừ phi hiểu rõ về tôi, bằng không tất sẽ lộ ra sơ hở.
Tôi thầm nghĩ đây chính là lúc đổi khách thành chủ, lập tức trưng ra bộ mặt cao thâm khó dò – những khi chặt chém khách hàng tôi vẫn thường làm thế – lạnh nhạt nói: "Ông đừng hỏi gì thì hơn, chuyện này ông chỉ cần kể rõ đầu đuôi cho tôi biết là được." Nói đoạn vuốt túi áo, lấy ra một xấp tiền vốn dành để trả phí tư liệu cho Bàn Mã. Đáng ra chỉ trả hai ba trăm, nhưng để trông có vẻ hoành tráng nên trong túi có bao nhiêu tôi lôi ra bằng hết, đập xuống trước mặt. "Tôi biết một vài chuyện nhưng không rõ ràng lắm, nên ông đừng lo gì cả, chỉ cần nói ra sự thật là được. Ông cầm tiền là xong, về sau sẽ không làm sao hết, cũng không ai biết chúng ta đã nói gì ở đây."
Bàn Mã nhìn tôi, có vẻ thấp thỏm không yên. Tôi nhìn lão bằng ánh mắt cực kỳ bình tĩnh và tập trung, chờ lão nổi giận hoặc đầu hàng.
"Làm sao cậu biết chuyện này?" Lão hỏi. "Nói ta nghe thử xem."
Hừ, tôi chửi thầm, nghĩ bụng lão quỷ này đúng là ngoan cố, cái này làm sao mà nói ra được. Ngoài mặt tôi không đổi sắc, nhưng tâm trí tức khắc xoay chuyển điên cuồng.
Trong một giây phản ứng, tôi gần như buột miệng hỏi: "Lẽ nào các người không biết có người đi theo mình sao?"
Lời vừa nói ra, còn chưa còn chưa kịp định thần thì đã thấy nét mặt Bàn Mã thả lỏng, tim rớt mất một nhịp, thầm nghĩ thôi tiêu rồi, mình đã bị lật tẩy.
Bàn Mã liền nhìn tôi nói: "Tuy không biết cậu là ai, nhưng ta cũng không phải lão già hồ đồ. Cậu về rồi đừng quay lại tìm ta nữa, cậu chẳng biết gì hết, ta cũng không nói cho cậu biết." Nói đoạn liền ra ý muốn tiễn khách.
Tôi lập tức phản ứng, thầm nghĩ làm sao lão phát hiện ra được nhỉ. Vì lão có thể xác định không ai bám theo mình, hay là vì tình hình khi đó không thể bị bám theo được? Tôi cố nghĩ làm sao để vớt vát, lại phát hiện mình chẳng có cách nào hay, nhanh chóng chán nản buông xuôi.
Con trai lão mở cửa, có ý muốn mời chúng tôi ra. Cửa vừa mở ánh sáng liền ùa vào, tôi đang định đứng lên, chợt phát hiện chân lão run rẩy nhè nhẹ.
Tôi nhìn sang lão, phát hiện lão cũng đang nhìn tôi, tuy nét mặt vẫn điềm tĩnh không chút gợn sóng nhưng sắc mặt lại xấu một cách đáng sợ, rõ ràng trong lòng lão đang căng thẳng cực độ.
Tôi nhanh chóng hiểu ra, lão cũng đang lừa tôi!
Tôi lập tức biến tư thế nhổm người đứng dậy của mình thành một động tác vươn vai, sau đó ngồi trở về chỗ cũ, nói bằng ngữ điệu không thể phản bác: "Đừng cứng đầu nữa, nói thật, tôi không còn nhiều kiên nhẫn đâu."
Bàn Mã nhìn tôi, con trai lão cũng nhìn tôi. Tôi hoàn toàn tự tin, có thể cảm nhận được vẻ mặt của bản thân vào lúc đó đúng là cực kỳ âm hiểm và khó nắm bắt.
Rất lâu sau, Bàn Mã rốt cuộc cũng cúi đầu, nháy mắt ra hiệu cho con trai. Anh con trai nói gì đó với A Quý, A Quý liền bị nửa lôi nửa kéo ra ngoài. Con lão trở lại ngồi vào chỗ của A Quý, cửa bị đóng lại lần nữa. Lão Bàn Mã hành lễ cực kỳ trịnh trọng với tôi, rồi ngẩng đầu lên nói: "Dù cậu là ai, thì cũng mong cậu nói lời giữ lời, nếu muốn tính nợ cũ thì cứ tính cả lên đầu ta. Người đều do ta giết, mấy người kia chỉ giúp ta khiêng đồ thôi."
Chương 13: Đó là một hồ ma
Edit: Tử Yển
Beta: Thanh Du
*****
Tôi kinh ngạc không hiểu câu nói này có ý gì, nhưng ngay sau đó Bàn Mã đã kể đầu đuôi câu chuyện, mới nghe vài câu toàn thân tôi đã lạnh toát, nhanh chóng hiểu rõ hoàn toàn lai lịch của mùi người chết. Nhưng chuyện này thật sự quá kinh khủng, nằm ngoài dự kiến của tôi, sau khi nghe xong, cảm giác đầu tiên của tôi không phải nghi hoặc mà là ghê tởm.
Tôi thật sự không thể ngờ lại có chuyện như thế xảy ra, cũng chẳng hiểu nổi mục đích của lão khi ấy, càng không tài nào tưởng tượng được lòng người thời đó sao lại ra nông nỗi này. Nếu điều Bàn Mã nói là thật thì thứ lão đang gánh không phải bí mật gì cả, mà là nghiệp chướng nặng nề.
Quá trình trước đó hoàn toàn giống như những gì Bàn Mã đã kể, vấn đề mấu chốt nằm ở cái lần lão vào núi rồi phát hiện ra đội khảo cổ biến mất.
Bàn Mã đã nói dối, lần ấy lão lên núi, đội khảo cổ không hề biến mất; hơn nữa lão cũng không đi một mình, mà còn dẫn theo bốn người anh em nữa. Họ vác đồ đạc giúp lão, như thế trên đường về họ còn có thể đi săn.
Giao lương thực xong họ vẫn chưa về ngay, bởi vì nán lại đó đến chập tối sẽ được ăn một bữa cơm trắng. Đối với họ thì đây quả là đãi ngộ của bậc vua chúa, thế nhưng đội khảo cổ không cho ở lại trong doanh địa, họ đành đứng bên ngoài tán phét mãi đến giờ cơm chiều.
Trong khoảng thời gian này, một trong số bốn người anh em của lão khi nhìn đồ tiếp tế quân dụng của đội khảo sát, đã nảy lòng tham.
Sự nghèo khó của Thập Vạn Đại Sơn hồi ấy, người bây giờ không tưởng tượng nổi đâu. Nhiều năm liền xung đột biên giới khiến muông thú trốn hết vào núi thẳm, lũ trẻ không có thịt mà ăn, chỉ có bông lúa với rau dại, thành ra đều suy dinh dưỡng cả. Cơm trắng với họ chẳng khác nào bánh kẹo, cho nên đồ tiếp tế của bộ đội trở nên quá sức hấp dẫn, mấy bao gạo đó phải ăn được cả năm.
Để thôn dân vận chuyển giúp thì nhất định sẽ bị ăn bớt dọc đường, nên bộ đội khi nhận lương thực đều phải cân lại, nếu phát hiện thiếu cũng không truy xét gì, nhưng lần sau sẽ đổi người khác. Người anh em kia tính chờ họ cân xong đi ngủ rồi sẽ lẻn vào xúc trộm vài bát, như thế không lo mất việc mà lại có thể mang lợi lộc về nhà.
Đây vốn là một việc hết sức đơn giản, Bàn Mã không đồng ý vì tay nghề lão tốt, gia cảnh cũng tạm ổn, chưa khổ đến nỗi để con cái chết đói, nhưng ba người kia đều động tâm.
Bàn Mã đành phải để họ đi còn mình đứng chờ bên ngoài, ai mà ngờ ba người vào rồi lại sinh chuyện chứ.
Trong góc lều chứa gạo, họ xúc trộm mỗi bao ba bát, lúc ra vừa hay lại đụng phải một tiểu binh vào đó kiểm tra. Tiểu binh lập tức giương súng, nhưng cậu ta không nhìn thấy một người nấp phía sau; trong tình thế cấp bách, người này thình lình đè tiểu binh xuống, rồi cả ba chụp bao gạo lên đầu cho cậu ta chết ngạt.
Giết người rồi, bọn họ sợ đứng tim. Tội giết người, đặc biệt là giết quân nhân sẽ bị xử bắn ngay tại chỗ, nếu để người ta phát hiện chắc chắc sẽ bị bắn thẳng tay. Họ vội chạy ra kể lại cho Bàn Mã, Bàn Mã liền nghĩ bụng ôi thôi hỏng bét rồi.
Chuyện này kiểu gì cũng dây đến lão, vì đội khảo sát mời lão, còn mấy người anh em là do lão nhờ đến giúp, toàn bộ trách nhiệm lão đều không thể trốn thoát. Hơn nữa vào thời điểm nhạy cảm này, dù lão chối mình không tham dự thì cũng chẳng ma nào tin.
Lão lập tức nghĩ ra một cách, phải lôi xác tiểu binh kia ra ngoài coi như mất tích, nếu không họ nhất định sẽ bị tra ra.
Họ lén quay về trả hết gạo, sau đó lôi cái xác tiểu binh ra khỏi lều, kết quả là chưa đi được bao xa đã bị người canh gác phát hiện. Đối phương đuổi theo hỏi họ đang làm gì, bọn Bàn Mã nhất thời chột dạ, để lộ thi thể, tay lính canh lập tức giương súng; nhưng kẻ trước đó đưa ra chủ ý ăn trộm đã chuẩn bị sẵn sàng, thình lình cắt đứt cổ người kia.
Gần như không hề suy xét, bọn họ cứ như bị tẩu hỏa nhập ma mà giết hai người liền. Bàn Mã thầm nghĩ toi đời rồi, lão đề nghị trốn đi, nhưng tay giết người kia lại nổi điên nói đã giết hai người rồi, giết hai là giết mà giết sạch cũng là giết, nếu để họ trở về báo cáo lên quân đoàn thì chúng ta phải trốn trên núi cả đời. Chi bằng giết hết cho xong, rồi cứ nói là không thấy họ đâu nữa, mọi người chắc clão sẽ tưởng là người Việt Nam làm.
Đây là sự kích động bất ngờ xảy đến trong bầu không khí quỷ dị. Đội khảo sát không đông, hiện giờ phần lớn đều ngủ say không biết trời trăng gì nữa, nghĩ đến số gạo trắng và súng tiểu liên, cùng chuyện xảy ra sau đó, ngay cả Bàn Mã cũng không thể kiềm chế tạp niệm nổi lên trong lòng.
Chuyện xảy ra sau đó thật ghê tởm, họ cầm súng tiểu liên và dao găm lần lượt lẻn vào từng lều, dùng thắt lưng siết chết bằng sạch những người bên trong.
Giết người xong họ ném xác xuống hồ rồi đem giấu hết súng ống đạn dược lẫn vật tư, lén lút vác gạo và thức ăn về thôn, giấu dưới gầm giường, cùng hẹn nhau quyết giữ bí mật này đến chết.
Khi đó Bàn Mã chột dạ, tính tới tính lui rồi bắt đầu lan truyền khắp thôn câu chuyện đội khảo cổ mất tích một cách kỳ lạ, chuẩn bị sẵn đường lui. Bởi dạo đó thường xảy ra xung đột biên cảnh, nếu có một đoàn người mất tích ở biên giới Việt Nam thì thường bị đổ cho đặc công Việt Nam làm.
Mấy người họ cứ đinh ninh mình không làm gì sơ hở, ai ngờ đây lại là khởi đầu cho một cơn ác mộng.
Ba ngày sau, Bàn Mã làm bộ muốn đi đưa lương thực, nhân cơ hội quay lại ven hồ, định đến chỗ kia lục tìm mấy món đồ đáng giá. Chuyện điên khùng đêm đó khiến lão vẫn còn e ngại vùng giữa hồ, nên ban đầu chỉ dám đứng từ xa nhìn lại. Đáng sợ làm sao, lão lại trông thấy ven hồ xuất hiện một doanh địa, mà còn có người hoạt động nữa chứ.
Có một đội quân khác? Thi thể đã bị phát hiện? Lão sởn da gà, mất một lúc lâu mới bình tĩnh lại, cho đến khi gắng gượng lấy dũng khí đi vào doanh địa, lão lại trố mắt đứng nhìn: đội khảo sát trước kia ấy thế mà lại xuất hiện ngay trước mặt lão.
Bàn Mã hoàn toàn không hiểu nổi cảm giác của mình lúc này, cũng không thể xác định rõ rốt cuộc là chuyện gì đang xảy ra. Nhìn những bóng người lướt qua trong doanh địa, lão cữ ngỡ mình đang rơi vào ảo ảnh. Họ dường như không hề hay biết trước kia đã xảy ra chuyện gì, rối rít chào hỏi lão.
Lão còn tưởng mình đang nằm mơ, tự véo mấy cái mới phát hiện ra đây là thật. Những gương mặt ấy tuy không quen lắm, nhưng đều đã gặp trong đội khảo cổ kia; thậm chí lão còn thấy mấy người bị chính tay mình siết cổ đang đứng đó chuyện trò vui vẻ.
Lão hoảng hốt chạy về thôn, hồn bay phách lạc, vội vàng kể lại mọi chuyện với mấy người kia. Cả đám quay lại xem thì thấy quả nhiên là thế, ai nấy đều hoảng sợ, suy nghĩ xem chuyện này rốt cuộc là sao. Lẽ nào đó là một hồ ma có thể hồi sinh người chết?
Nhưng bọn họ đều sống sờ sờ, không giống cương thi chút xíu nào.
Bàn Mã nghĩ mãi mà không ra. Người trong thôn rất mê tín, cứ đinh ninh đây nhất định là do sơn thần hồ quỷ tác quái, sợ đến mất vía. Bàn Mã suy tính hồi lâu mới dám lấy hết dũng khí trở lại bên hồ đưa lương thực cho họ nhân tiện ướm hỏi chuyện hôm ấy, nhưng mọi người đều nói không có việc gì, biểu cảm vẫn như bình thường.
Ngày hôm ấy giống như đã bị lật sang trang, thiên thần đã xóa bỏ mọi việc xảy ra trong ngày đó. Hoặc là, mấy kẻ thủ ác đều đã mơ cùng một giấc mơ, họ căn bản không hề giết người.
Bàn Mã không phải là người dễ chịu thua, lão không tin mình nằm mơ, nhưng nghĩ mãi mà không thông được. Sau đó lão vẫn luôn chú ý đến nhóm người này, muốn biết bọn họ rốt cuộc là người hay quỷ? Nhưng dù có quan sát kỹ lưỡng đến đâu, lão cũng không thấy mảy may sơ hở.
Điểm duy nhất khiến lão cảm thấy kỳ quặc là, lão ngửi thấy trên người họ xuất hiện một thứ mùi lạ mà trước kia không có.
Chương 14: Trúng tà
Edit: Nam
Beta: Thanh Du
*****
Thứ mùi đó chính là mùi mà Bàn Mã ngửi thấy trong hộp, chẳng qua mùi phát ra từ hộp nồng nặc hơn thôi.
Đối với Bàn Mã, đó hoàn toàn là mùi của người chết. Thứ mùi trên thân thể những ác ma không biết là người hay quỷ đó chắc chắn được mang ra từ địa phủ.
"Trên người cậu ta cũng có thứ mùi đó, nếu không bị mùi thảo dược át đi thì ta đã ngửi được nó từ lần đầu gặp mặt." Bàn Mã nhìn tôi nói: "Cậu ta giống bọn họ, đều là yêu quái cả."
Trên người Muộn Du Bình có mùi qué gì chứ ? Tôi không mẫn cảm với mùi vị cho lắm, cũng không phải thợ săn để mà có khứu giác nhạy bén hơn người, nghe lời lão nói thì nửa tin nửa ngờ. Lần sau phải lén ngửi thử xem sao. *=))))))*
Nếu chuyện đến đây là hết, có lẽ mọi việc sẽ qua đi, một thời gian sau người ta sẽ hoài nghi trí nhớ của chính mình, những sự việc không lời giải sẽ tự động chìm vào quên lãng. Nhưng tôi biết chắc chuyện vẫn chưa dừng ở đây, vì nếu chỉ đơn giản như thế thì lão Bàn Mã đã không đưa ra kết luận Muộn Du Bình sẽ hại chết tôi.
Quả nhiên lão lại nói: Chuyện xảy ra sau đó khiến cả đời lão không quên nổi thứ mùi này.
Sau khi chuyện lạ xảy ra, Bàn Mã luôn cảm thấy tinh thần mình bất ổn. Tuy đám người ấy dường như không hề thay đổi, nhưng Bàn Mã luôn cảm thấy ánh mắt vẻ mặt họ toát ra nét gì đó yêu dị, cảm giác này không dựa trên căn cứ nào mà hoàn toàn là một loại hiệu ứng tâm lý. Lão có dự cảm: trong thôn sẽ sinh chuyện.
Vài ngày sau, trong thôn xảy ra một chuyện khiến lão rợn tóc gáy.
Tham gia hành hung với lão còn có bốn người, tính ra thì bọn họ đều là họ hàng dây mơ rễ má cả, người xa người gần. Trong số đó người tên Bàng Nhị Quý nhát gan hơn cả bỗng dưng mất tích; Bàn Mã và mấy người kia trong lòng đều ôm ấp bí mật, đã thử nhắc đến chuyện này nhưng rốt cuộc không ai dám nói ra. Người trong thôn vào núi tìm suốt hai ngày, cuối cùng đám Bàn Mã quyết tâm trở lại ven hồ, nào ngờ lại phát hiện gã Bàng Nhị Quý kia đang ngồi trong doanh trại cười nói vui vẻ với người của đội khảo sát.
Bọn họ chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì cả, đành đưa gã về. Khi Bàn Mã kéo gã, chợt ngửi thấy thứ mùi thần bí kia toát ra từ người gã.
Bàn Mã nhìn Bàng Nhị Quý mà nổi da gà giữa ban ngày ban mặt, lão bỗng nhận ra nét mặt của Bàng Nhị Quý không giống trước đây, cứ như đã biến thành con người khác.
Cảm giác sợ hãi này không thể nói rõ thành lời, lão nghĩ Bàng Nhị Quý nhất định đã bị quỷ ám rồi. Về tới thôn, lão dặn vợ Bàng Nhị Quý nếu phát hiện chồng mình có biểu hiện bất thường thì phải báo ngay cho lão.
Nhưng vợ gã không có cơ hội phát hiện ra điều gì. Ngày hôm sau, chị ta vừa tỉnh dậy đã thấy chồng mình treo cổ bên giường, cả căn phòng nồng nặc thứ mùi quỷ quái kia.
Người trong thôn cứ đinh ninh Bàng Nhị Quý nghĩ quẩn hoặc bị hồ ly tinh quyến rũ. Bàn Mã hiểu rõ sư tình, lòng thấp thỏm lo âu, lại càng thêm chắc chắn những người kia đúng là yêu quái, Bàng Nhị Quý nhất định đã trúng tà.
Vợ Bàng Nhị Quý bị dọa cho hết hồn, không dám ở lại căn nhà cũ, đành dọn về nhà mẹ đẻ, căn nhà kia trở nên hoang phế. Những người khác thì sợ chết khiếp, hai người trong số đó liền dọn ra khỏi thôn, chỉ còn Bàn Mã và một người nữa ở lại. Ban đêm hai người tuyệt nhiên không dám ngủ, phải mượn vài con chó, chỉ lo người tiếp theo sẽ là mình.
Nhưng nuôi chó cũng vô ích, một tuần sau đó, cái người ở lại thôn cùng lão cũng mất tích. Chờ thêm hai ngày, một đứa bé tìm thấy hắn treo cổ trong ngôi nhà hoang của Bàng Nhị Quý, vị trí treo cổ trùng khớp với Bàng Nhị Quý lúc trước.
Bàn Mã bản tính cứng cỏi, thuở nhỏ đã làm bạn với núi non nên hết sức kiên cường. Sau cơn sợ hãi cùng cực, lão trái lại không còn vướng bận gì nữa, vác cây súng quay lại cái hồ kia, trong lòng tự nhủ nếu đằng nào cũng chết thì mình phải chết cho mình bạch, chứ tuyệt đối không ngồi yên chờ chết. Nhưng khi lão vào núi thì vừa hay đội khảo sát cũng nhổ trại.
Bàn Mã đi được nửa đường thì gặp đội khảo sát, hình như họ không cần người dẫn đường. Bàn Mã trước khi đi đã hạ quyết tâm, nhưng vừa nhìn thấy bọn họ liền nhanh chóng dao động, khiếp hãi theo cả đội xuống núi.
Chuyện sau đó giống như Bàn Mã đã kể, đội khảo sát rời thôn mang theo những cái hòm tỏa ra mùi lạ, từ đó trở đi không quay lại đây nữa. Hai người trốn khỏi thôn cũng bình an vô sự, Bàn Mã thấp thỏm sống qua một năm mới dần dần yên tâm, đinh ninh bọn họ đã đi thật rồi.
Chuyện này giống như một cơn ác mộng cứ ám ảnh Bàn Mã không thôi, cảm giác khiếp sợ này tôi có thể hiểu được. Đội khảo sát đi được chừng nửa tháng, lão tò mò muốn biết chuyện gì đã xảy ra, bèn quay lại cái hồ. Đi một vòng quanh hồ, lão phát hiện một bộ quần áo đương thời không hiểu sao lại bị quẳng lên bờ, bọc trong bộ quần áo ấy chính là khối sắt kỳ cục kia.
Phát hiện ra khối sắt này, lão kết luận những người kia nhất định đã bò từ dưới hồ lên, vì khối sắt kia bọc trong quần áo, tuyệt đối không thể bị sóng xô lên bờ. Cái mùi tỏa ra từ khối sắt khiến lão sởn gai ốc, lão nghĩ đây không phải chuyện đùa nên vẫn luôn mang nó theo người. Trước kia thỉnh thoảng gặp cơn túng quẫn lão đã định bán đi, nay điều kiện sống đã khá giả hơn trước, nhớ tới chuyện năm đó mà hoảng, định bụng sẽ mang theo bí mật này xuống mồ.
Sau đó, chúng tôi xuất hiện. Bí mật của Bàn Mã, cuối cùng cũng chấm dứt.
Nghe xong câu chuyện, tôi rơi vào trầm tư. Lạ một nỗi tôi không cảm thấy mọi chuyện thêm mơ hồ, trái lại lần đầu tiên có cảm giác dường như mình đã tìm được một sợi xích có thể kết nối những nghi vấn trong lòng.
Những bí ẩn này giống như ống thép có ren ở hai đầu, mỗi đầu tiếp xúc đều là nghi vấn. Nhưng nếu ta nối liền hai nghi vấn lại với nhau, như thế bốn bí ẩn sẽ mất đi hai; lại nối liền tất cả các ống thép, thì vô vàn bí ẩn có lẽ chỉ còn hai cái ở hai đầu. Cho nên nối liền từng nghi vấn lại với nhau là một công việc rất thú vị.
Nếu là trước đây, tôi nhất định sẽ phát điên; nhưng bây giờ đã học được cách không chỉ nhìn vào bản thân vấn đề, tôi liền hiểu rõ chân tướng sự việc. Cái này lại phải chứng thực, nếu tôi suy luận đúng, thì vấn đề mà chú Ba – hay có thể là Giải Liên Hoàn – vẫn luôn nghi hoặc đã có câu trả lời.
Mà muốn chứng thực chuyện này, lại phải đến cái hồ kia.
Lão Bàn Mã đưa khối sắt kia cho tôi xem, quả nhiên nó giống y xì đúc khối sắt dưới gầm giường Muộn Du Bình, cũng xù xì thô ráp, bề mặt có những hoa văn cổ. Có điều khối sắt của Bàn Mã lớn hơn một chút, tôi ngửi thử, quả nhiên có mùi quái lạ nhưng chỉ thoang thoảng, hầu như không thể nhận ra. Lão nói lúc vừa phát hiện thì mùi của nó rất nồng, dần dần mới nhạt đi; đặt khối sắt này trong nhà, côn trùng sâu bọ đều không dám bén mảng.
Tôi tạm thời mất hứng với vật này, trong lòng nổi lên đủ loại suy đoán.
Bàn Mã không chịu đến cái hồ kia nữa, tôi định bảo A Quý tìm người dẫn đường khác, đưa tiền cho Bàn Mã rồi đứng dậy cáo từ.
Ra đến cửa, tôi sực nhớ ra một việc khác, bèn quay lại hỏi lão "À phải rồi, hình xăm trên người ông có lai lịch thế nào?"
Bàn Mã nhìn tôi, tỏ ra ngạc nhiên vì câu hỏi đột ngột này. Con lão giải thích: "Đây là hình xăm phòng cổ độc do một vu sư người Mèo xăm cho cha tôi hồi nhỏ. Lần đó ông ta được ông nội tôi cứu mạng, bèn xăm hình này cho cha tôi để tạ ơn. Nghe nói có hình xăm này trên người là được quyền thoải mái đi lại trong làng người Mèo mà không ai dám gây khó dễ."
Chương 15: Kế hoạch
Edit: Thanh Du
*****
A Quý chờ tôi ở cửa, ngồi xổm trên đất bực dọc hút thuốc, hiển nhiên cũng không biết đám Bàn Mã đang làm cái quái gì. Nhìn thấy tôi, tôi liền bảo anh ta: Đi, chúng ta về.
Trên đường về tôi hỏi anh ta có biết cái hồ trong núi Dương Giác mà Bàn Mã nhắc đến hay không? A Quý gật đầu, bảo trước kia từng nghe nói nhưng cũng chưa đến đấy bao giờ. Tôi liền bảo mình ra giá cao, mau tìm giúp một thợ săn đưa nhóm tôi vào đó.
A Quý gật đầu lia lịa, rồi hỏi dò xem Bàn Mã rốt cuộc đã nói với tôi chuyện gì? Cơ mà A Quý hỏi rất e dè, tôi thầm nghĩ nói cho anh tức là hại anh, bèn thuận miệng đáp lấy lệ.
Vội vã trở về nhà A Quý, tôi nóng lòng muốn kể cho Muộn Du Bình nghe phát hiện của mình, nhưng trong nhà chỉ có Vân Thái đang đun bếp với em, không thấy Bàn Tử và Muộn Du Bình đâu cả.
Tôi nghĩ bụng, quái, bèn hỏi em của Vân Thái xem họ đâu rồi? Em Vân Thái đáp cái anh lầm lì kia về đến nơi thấy anh béo chưa về mới hỏi em, em bảo anh béo đi cả đêm chưa về, anh ấy liền vội vã đi tìm.
Tôi còn đang phấn chấn, nghe tới đây liền mất hứng, thầm nghĩ Bàn Tử cả đêm chưa về?
Trong thôn không có mấy chỗ chơi bời cho hắn la cà như ở thành phố, hắn đi thâu đêm kể cũng lạ. Tôi khá hiểu Bàn Tử, nhớ lại trước kia hắn đã nói muốn đi tìm acid sunfuric, chợt có dự cảm mơ hồ.
Hẳn là Muộn Du Bình cũng như tôi, nghĩ ngay tới khả năng này, cho nên mới lập tức đi tìm.
Tôi lập tức bảo A Quý dẫn mình đến trụ sở thôn, nếu Bàn Tử gặp chuyện ngoài ý muốn, nhất định sẽ ở đó. Đi được vài bước đã thấy Bàn Tử với Muộn Du Bình quay lại, trên mặt Bàn Tử còn quấn băng, vừa đi vừa chửi um lên, hình như là bị thương.
Hỏi ra mới biết Bàn Tử đi mua acid sunfuric, trên đường về thấy một tổ ong vò vẽ, thế là bản tính lộ ra, kết quả dự đoán sai thân thủ của mình, dính chưởng nghiêm trọng, phải ngâm nước muối rồi ngủ lại cả đêm ở trụ sở thôn. Bàn Tử nói ong vò vẽ ở đây không giống ong mình hay gặp, ong vò vẽ mình gặp trước kia đều phải chọc vào tổ mới xông ra, chứ ong này mới mon men đến gần đã đột ngột vây kín, hung ác cực kỳ.
Tôi bảo anh đừng đổ tội cho khách quan, cứ thẳng thắn thừa nhận mình rút lui xem nào. Lão Bàn Tử không khoe chuyện quá khứ (*), mấy cái trò như chọc tổ ong vò vẽ từ sau anh hạn chế đi, tránh cho người khác chê cười.
(*) Chế từ câu tục ngữ "Hảo hán bất đề đương niên dũng" nghĩa là hảo hán không khoe khoang ngày xưa mình anh dũng thế nào, nói cách khác là không ngủ quên trong quá khứ.
Về phòng thay thuốc cho Bàn Tử, thay thuốc hiển nhiên là rất đau, nếu không ráng nhịn đau để chứng tỏ khí khải nam tử trước mặt Vân Thái thì hắn nhất định đã gào rống ầm ĩ như heo bị cắt tiết rồi.
Tôi tiến lên hỗ trợ, Vân Thái trái lại khá bình tĩnh, thay thuốc cho hắn nhẹ nhàng như chuồn chuồn lướt nước. Tôi phát hiện trên cằm hắn có mấy mảng thịt sưng vù nhỏ bằng móng tay, Vân Thái lấy thanh nứa cắt hết những chỗ sưng rồi bôi thuốc, quả thực chính là róc thịt sống, chẳng trách hắn đau chết ngất đi được.
Thay thuốc xong muốn ăn cơm cũng chật vật, khó khăn lắm mới ăn xong bữa, sắc trời cũng tối sầm lại. Cả đám đứng trên hành lang căn nhà sàn hóng gió, tôi thuật lại một lần tất tật những chuyện mình nghe được.
Nghe xong câu chuyện, hai người đều nhíu mày. Bàn Tử hỏi tôi: "Lại có chuyện như thế nữa à, má nó còn ghê hơn mấy chuyện ma quỷ tôi đem dọa bọn con gái hồi nhỏ. Chuyện này có thật không, cậu nói xem giả thiết của cậu là gì?"
"Tôi cho rằng, Bàn Mã tuyệt đối không bịa chuyện. Việc này chắc chắn là thật, nhưng cái "thật" của ổng không phải là "thật" theo nghĩa đen."
"Ý cậu là sao?"
"Chúng ta đi tìm giả thiết hợp lý nhất, bỏ qua mấy cái nhảm nhí như hồ ma với chả yêu quái. Anh cảm thấy giả thiết hợp lý nhất trong trường hợp này là gì?"
Bàn Tử lắc đầu: "Thôi đừng vòng vo nữa, não tôi bị ong chích thủng cả rồi, không đoán được cậu nghĩ gì đâu, cậu cứ xổ toẹt ra đi."
Tôi gượng cười, khó khăn lắm mới tìm được cơ hội thể hiện chút ít mà Bàn Tử cũng không chịu phối hợp: "Được rồi, chúng ta loại bỏ hết những yếu tố không thể xảy ra, không có sống lại, không có yêu quái, nhưng câu chuyện phải logic, lời Bàn Mã nói phải đứng vững, thế thì chuyện này rõ ràng chỉ có duy nhất một khả năng."
"Rõ ràng cái gì cơ?"
Tôi đáp: "Người chết sống lại thế quái nào được, suy ra đội khảo sát vào núi không phải đội khảo sát rời núi."
Bàn Tử dừng một chút, lĩnh ngộ nói: "Ý cậu là, người chết không sống lại, những kẻ trở ra là một nhóm người khác?"
"Những người bị bọn Bàn Mã giết quả thực đã chết, Bàn Mã cũng không hiểu rõ về đội khảo sát kia, nếu có một nhóm người khác dịch dung, tôi nghĩ không cần phải giỏi hoá trang cũng lừa được Bàn Mã."
"Nhưng vì sao bọn họ phải làm thế? Chẳng lẽ chỉ để đùa bỡn lão."
"Tôi chỉ phỏng đoán thôi, thông qua tình hình của Bàn Mã và đội khảo sát kia, tôi cảm thấy chuyện này có thể có sai sót. Chúng ta đặt giả thiết đây là một âm mưu đã được tính toán từ lâu, vậy có thể trong âm mưu đó, vào cái ngày Bàn Mã giết chết cả đội thì đội khảo sát này cũng đã bị sắp đặt để biến mất. Nhưng kế hoạch này có thể xuất hiện sai sót, có lẽ sát thủ đến giết đội khảo sát đã gặp chuyện ngoài ý muốn trong rừng nên không đến nơi được, trái lại để Bàn Mã hoàn thành nhiệm vụ. Sau đó đội khảo sát giả đến đây thay thế tưởng sát thủ đã hoàn thành nhiệm vụ, nên cứ dựa theo kế hoạch mà bắt đầu nhiệm vụ ngụy trang. Bàn Mã không hiểu rõ câu chuyện, mới nói nó là 'hồ ma'." Tôi nói: "Đây là một phỏng đoán hợp lý thôi, sự thật có thể khác hoàn toàn, nhưng nó chứng minh chuyện này có thể xảy ra."
"Ờm, giả thiết này nghe cũng hợp lý đấy, cơ mà hình như Bàn gia đây đã từng nghe cái mô tuýp này ở đâu đó rồi?" Bàn Tử nói."Cậu có bằng chứng không?"
"Chỉ có một vài chi tiết nhỏ, ví dụ như đội khảo cổ do Bàn Mã dẫn vào, nhưng lúc quay ra họ tự đi chứ không chờ Bàn Mã dẫn đường, chứng tỏ nhóm người sau có khả năng tìm đường ra. Chuyện xảy ra sau đó có thể là vì đội khảo sát phát hiện ra manh mối gì đó, bèn giết đám Bàng Nhị Quý diệt khẩu. Giờ tôi vẫn chưa biết đội khảo sát này có phải chính là đội đi Tây Sa không, nhưng tôi có cảm giác, dù không phải tất cả thì nhất định cũng có vài người trong số họ đi Tây Sa. Nếu là như thế thì anh nói xem, liệu có ai vì muốn vào đội khảo cổ đi Tây Sa mà tiến hành một vụ đánh tráo?" Tôi suy luận hết sức thành thục.
Bàn Tử hỏi: "Mẹ kiếp, nhưng cậu chứng minh kiểu gì được?"
"Cách trực tiếp nhất có lẽ là chúng ta đến chỗ cái hồ nằm trong núi Dương Giác xem sao. Bây giờ hồ đã thu hẹp, tôi nghĩ có thể lặn xuống nước thăm dò đáy hồ, xem liệu có những cái xác bị vứt xuống hay không."
"Mẹ kiếp, chuyện này cũng khó nói lắm, từ đó đến giờ đã qua 40 năm, xác người lại chẳng nát bấy từ đời tám hoánh."
"Xương cốt nhất định vẫn còn." Tôi nói: "Đám Bàn Mã không có thuyền, chắc chắn chỉ vứt xác quanh hồ thôi, tôi nghĩ chúng ta có thể đi thử vận may."
Chương 16: Dường như đã từng quen
Edit: Béo Bụng Bự
Beta: Thanh Du
Bàn Tử cảm thấy giả thiết của tôi rất mơ hồ, nhưng cũng phải thừa nhận đây là khả năng hợp lý duy nhất.
Hắn ta vốn tích cực ủng hộ phương án vào chơi trong núi Dương Giác một ngày, thấy tôi nói muốn đi thì đương nhiên là đồng ý nhiệt tình. Sau đó chúng tôi bàn bạc cụ thể về công việc, vì chuyến này coi như đi du lịch, chẳng mang theo đồ nghề gì nên vấn đề trang bị cũng hơi khó nhằn. Lỡ đâu phải đào mồ quật mả cần có đồ nghề mà mang theo hai bàn tay trắng thì chỉ còn nước trơ mắt mà nhìn.
Nhưng ở những nơi thế này lại không có sẵn trang bị để mà mua, Bàn Tử nói có vài thứ cũng không khó giải quyết, chúng ta có thể mua cái khác bù vào, tuy không thuận tay cho lắm, nhưng lần này không đi xa thôn lắm nên cũng không cần đòi hỏi quá cao.
Hắn bảo, thợ săn nào mà chẳng có những vật dụng để sinh tồn nơi hoang dã, chúng ta cần gì phải vác theo nhiên liệu rắn và lò không khói. Nhưng chứng kiến độ hung hãn của dã thú rồi, tôi cảm thấy vẫn nên chuẩn bị vũ khí cho chu đáo thì hơn.
Tôi gọi A Quý tới để thương lượng về những chuyện này. Bản thân A Quý cũng đi săn, có ba khẩu súng săn đều là súng cũ không rõ tên tuổi được sửa sang lại, niên đại cũng không đồng đều. Khẩu cũ nhất được A Quý lấy ra từ chuồng gà, tuy nòng súng vẫn còn nguyên vẹn nhưng bên trong đã hoen gỉ cả rồi, chẳng ai dám xài đến, vả lại cũng không biết đào đâu ra đạn. Hai khẩu còn lại vẫn bắn được, xem ra là di vật từ thời chiến tranh.
Mấy năm trước có lệnh cấm súng, nhưng người vùng này sống bằng nghề săn thú, đã là cần câu cơm thì dễ gì giao ra. Cấp trên hiểu chuyện nên cũng mắt nhắm mắt mở cho qua, có điều bây giờ đạn là hàng hiếm, A Quý phải nhờ cán bộ thôn lên tận huyện mới mua được.
A Quý cũng chỉ là thợ săn nghiệp dư nên không giữ nhiều đạn trong nhà. Bàn Tử kiểm tra hai khẩu súng rồi nói: "Súng của A Quý tuyệt đối không có vấn đề gì, một khẩu đã lâu không đụng đến nhưng được bảo dưỡng tốt lắm, phải bắn thử một phát mới biết có xài được không."
Chúng tôi trả cái giá cắt cổ năm mươi đồng một viên đạn, mua được bốn năm mươi viên từ mấy nhà hàng xóm của A Quý. Tôi nhìn viên đạn hình trụ bằng đồng thau, biết ngay đây hàng thủ công làm ra trong xưởng nhỏ. Cái của nợ này mà mua mất năm mươi đồng, mẹ kiếp đúng xót ruột. Bàn Tử bèn khuyên đừng có bủn xỉn như vậy, năm mươi đồng mà cứu được mạng cậu thì cũng đáng chứ.
Nhà A Quý đã có sẵn dao phát, anh ta mài lại cho sắc; những món đồ khác chúng tôi viết ra giấy rồi bảo A Quý đi quanh thôn tìm xem có vật thay thế hay không. Thiếu dây thừng leo núi thì xài dây gầu dưới giếng, thiếu đèn pin công suất lớn thì mượn mấy cái đèn pin nhỏ buộc lại, thiếu dao găm thì xài tạm lưỡi liềm.
A Quý bảo chúng tôi giờ đang vào mùa mưa, trong núi nhiều muỗi kiến độc, đặc biệt là vùng ven hồ, muỗi ở đấy to bằng con ong vò vẽ; đề nghị phải mang theo nhang muỗi và màn, quây quanh đống lửa, bằng không mấy người thành phố chúng tôi nhất định sẽ không chịu nổi. Tôi lại thầm nghĩ, có Muộn Du Bình ở đây còn lo gì nữa?
Sắp xếp ổn thỏa, A Quý liền nói mấy món đồ này sẽ phải mất một hai ngày để chuẩn bị. Dù sao thợ săn vào đó cũng chưa ai trở về, nên chuẩn bị cho chu đáo rồi hẵng xuất phát.
Trong lúc này, Bàn Tử lại hỏi có thể nghĩ cách dùng acid sunfuric mình mang về để xem trong khối sắt kia chứa vật gì không? Việc này cần những thao tác tinh vi, phải kiếm bãi đất nào khá khẩm hơn một chút.
Tôi nghĩ đến câu chuyện Bàn Mã kể, thấy không ổn cho lắm. Từ khối sắt này tản ra một thứ mùi, hơn nữa cái mùi này còn nhạt dần đi theo thời gian, cho thấy bên trong chứa một loại vật chất bay hơi, có quỷ mới biết loại vật chất này có gây hại cho cơ thể người hay không. Tôi cảm thấy vẫn chưa đến lúc dùng acid hòa tan vật này, tốt nhất là chờ đến khi tra được chút manh mối rồi mới phán đoán xem có cần thiết phải mạo hiểm như thế hay không.
Bàn Tử tò mò muốn chết đi được, nhưng lời tôi nói cũng rất có lý. Nghĩ đến chuyện có thể ảnh hưởng đến những người khác, hắn cũng chỉ còn cách từ bỏ.
Sau đó Bàn Tử tỏ ra hết sức hào hứng, thứ nhất hắn tin chắc vào giả thiết cổ mộ của mình, thứ hai hắn đã lâu không đi săn nên chân tay ngứa ngáy lắm rồi, bất chấp khuôn mặt nở toe toét như hoa loa kèn (1), cả đêm không ngừng ba hoa về chuyện mình đi săn thú hồi xưa. Tôi cũng đang cao hứng, trong đầu nảy ra một vài giả thiết; còn Muộn Du Bình vẫn ngậm hột thị, tôi thấy anh ta cứ nhìn đăm đăm vào ngôi nhà A Quý nằm kế bên, nhìn cái cửa sổ kia đến xuất thần.
Tôi nhớ lại cái bóng mình nhìn thấy trong căn nhà đó vào đêm hôm trước, nhưng bây giờ khung cửa sổ kia tối om om, chẳng nhìn thấy gì. Con trai A Quý hình như không thích gặp người, ít khi giao du. Tôi hoài nghi không biết có phải cậu ta mắc bệnh gì nên mới phải ru rú trong nhà, ở nông thôn thường có chuyện như thế.
Một đêm thức trắng, cộng thêm một ngày nghĩ ngợi căng thẳng, chẳng bao lâu đầu óc tôi đã mơ màng không nghe rõ Bàn Tử đang nói gì nữa. Muộn Du Bình thì tựa vào đâu đó ngủ gà ngủ gật, ngoài này mát mẻ hơn trong nhà nhiều, xung quanh Muộn Du Bình không có lấy một con côn trùng, chúng tôi cứ thế nằm xuống ngủ mê mệt.
Ngày thứ hai ai nấy đều tự chuẩn bị hành lý phần mình, sang ngày thứ ba mọi việc đã xong xuôi, A Quý dẫn chúng tôi lên đường.
Chuyện khiến tôi bực bội nhất là không thấy người dẫn đường trong truyền thuyết đâu cả; người đi cùng lại chính là A Quý và Vân Thái.
Tôi hỏi có chuyện gì thế, A Quý không phải anh đã nói mình chưa đến đó bao giờ sao? Cớ gì anh lại đích thân dẫn chúng tôi đi.
A Quý đáp dạo này thợ săn vào núi chẳng biết gặp phải trở ngại gì mà mấy đội đi không một ai trở lại. Những người khác đều chưa từng đến đó, anh ta đành nhờ con gái Vân Thái dẫn đi; trước kia Vân Thái từng theo ông nội vào đó vài lần nên biết rõ đường. Anh ta dẫn theo chúng tôi cộng thêm Vân Thái biết đường, vả lại còn có chó nên chắc không có vấn đề gì lớn đâu.
Tôi thầm nghĩ thôi tiêu rồi, chắc mình trả giá quá cao nên A Quý không nỡ để đống tiền lọt vào tay người khác đây mà. Bàn Tử lập tức phản đối, nói chúng tôi đi làm công chuyện, có phải trò đùa đâu mà mang theo một con bé, lỡ bị thương kẻ làm cha như ông không đau lòng thì chúng tôi cũng đau.
A Quý vẫn khăng khăng nói không sao đâu mà, con gái ở đây lên năm lên sáu đã chơi súng, vào trong núi nó còn được việc hơn các anh. Với lại nó cũng thuộc đường trong núi hơn tôi, các anh đừng lo lắng.
Nói đến đây thì Vân Thái từ trong nhà bước ra, tôi và Bàn Tử vừa nhìn đã lóa mắt. Chỉ cảm thấy Vân Thái dương như đã biến thành con người khác, cô bé mặc trang phục đi săn của người Dao, dao săn buộc sau eo, lưng đeo một khẩu súng săn ngắn. Con gái người Dao vốn có dáng vóc đẹp, khoác bộ đồ này lên lại khoe trọn bắp chân và những đường cong trên thân thể, quả là đẹp mắt.
Thêm vào đó là vẻ mặt vừa tươi tắn lại vừa mạnh mẽ tinh anh, cộng thêm khí thế khiến người ta không thể chối từ của tuổi mười bảy mười tám, loáng cái đã chinh phục được Bàn Tử.
Cô bé lại gần chúng tôi, nhìn Bàn Tử đầy khiêu khích: "Ông chủ nói vậy là có ý xem thường người ta phải không?"
"Đâu có đâu có!" Bàn Tử chối lia lịa: "Em gái à, chớ có hiểu lầm, chẳng qua anh sợ em phải chịu khổ thôi, chứ thật ra em mới đúng là lựa chọn tốt nhất."
Tôi đá cho Bàn Tử một cú, khẽ mắng: "Sao ông anh trở mặt nhanh như chong chóng thế, ông anh đã đến tuổi này rồi còn muốn làm trâu già gặm cỏ non hay sao?"
"Đến tuổi này thì đã làm sao, tôi đây gọi là người đến tuổi tráng niên, cùng lắm thì làm tráng ngưu."
Tôi thở dài: "Ông anh nghĩ mà xem, người ta là đêm động phòng dưới chăn uyên ương, một nhánh hoa lê áp hải đường (*). Ông anh thì hay rồi, đúng là một con heo mập áp hải đường, nếu ông anh dám làm bậy, tôi sẽ đại diện cho trai tráng cả tộc Dao bắn chết tươi."
(*) Đây là hai câu thơ trong bài Nhất thụ lê hoa của Tô Đông Pha làm ra để trêu chọc một cặp chồng già lấy vợ trẻ. Cây lê sống lâu, vốn là biểu tượng của tuổi già; hoa lê màu trắng như mái tóc bạc phơ. Hải đường lại tươi tắn rực rỡ, tượng trưng cho cô gái trẻ. Nhưng Bàn Tử không hợp với hình tượng cành lê thanh mảnh nên đổi thành heo mập hợp hơn =))
Cười đùa một hồi, tôi cũng đành phải chấp nhận. Nhìn khí phách của Vân Thái, tôi cảm thấy A Quý nói không sai, vả lại tôi đoán chuyến đi này cũng không gặp nguy hiểm gì quá lớn.
Điều duy nhất khiến tôi bận tâm là khi chúng tôi gói ghém đồ đạc, Bàn Tử luôn trêu đùa Vân Thái, chọc Vân Thái cười khanh khách. Nhưng để ý thì thấy Vân Thái thỉnh thoảng lại len lén nhìn Muộn Du Bình, nhìn rất cẩn thận, chỉ liếc mắt một cái rồi quay đi ngay, nhưng tôi vẫn nhìn ra được chút manh mối từ đôi mắt trong veo ấy.
Chúng tôi xuất phát, đi dọc theo còn đường đi tìm lão Bàn Mã lần trước. Tôi cũng lờ mờ nhớ đường, chuyến đi này vui vẻ hơn lần đi tìm người kia nhiều. Bàn Tử quả thực đã bị mê hoặc rồi, cứ lượn lờ quanh Vân Thái suốt, chỉ thiếu điều bò bằng bốn chân làm ngựa cho cô cưỡi; mà Vân Thái cũng thật dễ thương và sôi nổi.
Cô hỏi chúng tôi rốt cuộc làm nghề gì, nhất định không phải hướng dẫn viên du lịch rồi vì làm gì có hướng dẫn viên du lịch nào lại đến cái chốn này chứ. Bàn Tử liền ra vẻ thần bí, nói tụi anh là nhân vật lớn đi làm nhiệm vụ bí mật, nếu em chịu hôn anh một cái thì anh sẽ tiết lộ cho em biết.
Tôi còn sợ Vân Thái hôn hắn ta thật, vậy cũng quá lãng phí rồi, may mà Vân Thái vẫn còn mắt thẩm mỹ, cương quyết không mắc mưu. Nhưng Muộn Du Bình vẫn dửng dưng trước bầu không khí náo nhiệt của chúng tôi, sắc mặt hắn không hề thay đổi khiến tôi cảm thấy có gì đó khác thường.
Đêm hôm ấy chúng tôi đến sơn khẩu nơi có ngôi mộ cổ, đi sâu thêm một vài km nữa rồi nghỉ ngơi, đến hửng sáng lại lên đường, đi suốt hai ngày trong núi là đến được mép hồ kia.
Tôi đứng trên triền núi, từ xa đã thấy cái hồ kia. Có lẽ là vì mấy ngày mưa to liên tiếp nên mặt hồ cũng lớn tưởng tượng của tôi một chút, dĩ nhiên bốn phía vẫn là đá tảng như lời Bàn Mã nói. Chúng tôi đi đến ven hồ, hoàn toàn không nhìn ra dấu vết có người đã từng đóng quân ở đây năm nào.
Nước hồ trong veo in bóng mây trên trời thành một cảnh tượng đẹp đẽ. Chúng tôi bỏ đồ đạc xuống, đến bên hồ rửa mặt. Nước hồ lạnh băng cho thấy đáy hồ thông với mạch nước ngầm trong đất, vào ngày tam phục (*) chạm tay vào mặt nước lạnh lẽo khiến người ta run rẩy toàn thân.
(*) Tam phục: chỉ thời kỳ nóng nhất trong năm, gồm sơ phục, trung phục mà mạt phục. Sơ phục là khoảng thời gian từ ngày thứ 21- 31 sau hạ chí; trung phục là 10 ngày nối tiếp sơ phục (trong năm nhuận thì là 20 ngày nối tiếp sơ phục); mạt phục là 10 ngày kể từ lập thu.
Rửa mặt xong, tôi ngẩng đầu nhìn lên bốn phía, nhìn mặt nước in bóng bầu trời và núi non xung quanh, chợt nhận ra nơi này dường như đã từng quen thuộc. Tôi liếc sang bên cạnh, thấy Muộn Du Bình cũng đang nhìn phong cảnh núi non bốn bề với vẻ nghi hoặc.
Chương 17: Câu đố
Edit: Ala Ju
Beta: Thanh Du
*****
Trước đây đã từng xảy ra chuyện tương tự làm tôi sởn da gà, Muộn Du Bình cũng ngây ra mà nhìn với ánh mắt đầy nghi hoặc, chưa biết chừng hắn có cảm giác giống tôi.
Ở đâu nhỉ? Tôi đã từng thấy cảnh này ở đâu, hay từng thấy tình cảnh tương tự như vậy ở đâu rồi?
Tôi ra sức hồi tưởng, suy đi nghĩ lại mà vẫn không tài nào nhớ ra, chỉ biết rõ mình từng thấy cảnh tượng này cách đây không lâu, hơn nữa đi kèm với cảm giác thân thuộc còn có một loại cảm giác "không đúng". Hiển nhiên ấn tượng trong tâm trí tôi vẫn không hoàn toàn trùng khớp với nơi này.
Bàn Tử vô tâm vô phế, cởi sạch đồ chỉ còn mỗi quần đùi rồi nhảy xuống nước bơi. A Quý cẩn thận hơn, hồ nằm trong núi vốn là điềm chẳng lành nên không có việc gì thì hạn chế bơi lội.
Trở lại bờ, chúng tôi cởi giày và quần ướt đẫm ra, Bàn Tử phụ A Quý dựng lều che mưa. A Quý đi đốn củi trở về, Vân Thái giúp nấu cơm, tôi uống nước xong mới nhớ ra mình đã gặp thế núi này ở đâu.
Hình dạng và cảm giác về ngọn núi này không ngờ lại khá tương đồng với cảnh núi chúng tôi nhìn thấy khi vọc nước ở dòng suối ven thôn, đường nét và hướng núi đều giống nhau như đúc; có khác chăng là khi đó chúng tôi ở dưới suối, còn giờ thì ở trong hồ, điều này khiến tôi phải sững sờ trong giây lát.
Khi đó tôi đã cẩn thận quan sát cảnh vật xung quanh khe nước; đừng nhìn Muộn Du Bình có vẻ mất tập trung mà nhầm, hắn chắc chắn đã thu tất cả vào trong mắt. Còn sự chú ý của Bàn Tử lại dồn hết lên những cô bé kia, hèn gì không phát hiện ra.
Thật thú vị, bàn tay tạo hóa thật diệu kỳ, không biết đây chỉ đơn thuần là trùng hợp hay do nguyên nhân địa chất nào đó mà thành hình.
Sau đó tôi, Bàn Tử và Muộn Du Bình bắt đầu đi quanh hồ để thăm dò.
Hồ cũng chỉ còn rộng khoảng hai sân đá banh, đi một lát là xong. Dưới đáy hình như toàn là đá tảng nhưng thành hồ rất dốc, xem ra lòng hồ cũng khá sâu.
Tôi luôn có cảm giác sợ hãi một cách khó hiểu đối với những hồ nước sâu. Có câu nước cạn không chứa rồng, nước sâu tất có quái, lòng nước sâu cho thấy dung tích của hồ không nhỏ như chúng ta thấy từ bề mặt, mà có thể còn chứa đựng thứ gì kỳ quái bên trong. Trên thế giới có biết bao nhiêu hồ lớn chứa thủy quái, tuy bề mặt chúng không rộng nhưng lại rất sâu. Dù không có gì kỳ quái thì chỗ nước sâu cũng dễ có cá lớn, thi thoảng vào mùa nước lên sẽ phát hiện vài con cá khổng lồ.
Không thấy vết tích xương cốt rõ ràng, song những viên đá này đều nhỏ vụn, trong hơn 40 năm mực nước nơi này lên xuống vô định, đá núi không ngừng lăn xuống, những mảnh xương này kia có thể nằm bên dưới lớp đá.
Chúng tôi phán đoán tình hình lúc đó, dựa theo lẽ thường thì có lẽ đội khảo cổ dựng trại ở bờ nam. Bờ bên kia là núi, có nguy cơ gặp đất đá bùn lầy trôi xuống, vậy thì khu vực chúng tôi muốn tìm hẳn là bờ nam.
Đây là một công việc đồ sộ, may mà còn dẫn theo vài con chó, nhưng cũng chẳng biết có tác dụng gì không. Thi thể ngâm nước chừng ấy năm nhất định đã thành xương trắng, có lẽ trông cũng từa tựa đá tảng.
Ăn cơm trưa xong, A Quý đi thăm thú xung quanh xem có món gì tốt. Chúng tôi bắt đầu tìm kiếm trong khu vực, Vân Thái giặt mớ quần áo đẫm mồ hôi giùm chúng tôi. Vùng ven hồ rất rộng, tôi, Bàn Tử và Muộn Du Bình chia nhau mỗi người một khoảnh mà tìm kiếm.
Lấy tay không vần từng khối từng khối đá, nơi đây đá chất thành cụm hẳn là do những tảng đá gần bờ hồ không ngừng lăn xuống. Nhưng đáy hồ lại từ từ dốc xuống, vả lại bản thân những tảng đá tích tụ lại còn có tác dụng chống nước mưa bào mòn (nước mưa không chảy thành dòng bên trên bãi đá mà sẽ ngấm qua đá, hợp thành dòng nước ngầm bên dưới.) Nơi Bàn Mã vứt thi thể năm nào chắc chắn rất gần bờ, cho đến giờ cũng đã khô hạn nhiều năm và mọc đầy cỏ nên tôi nghĩ hài cốt sẽ không bị vùi quá sâu.
Bàn Tử nói thi thể bị ném xuống đó nếu không buộc lại thì ban đầu sẽ trôi lơ lửng, sau đó chìm xuống rồi bị tôm cá rỉa, xương cốt phân tán hết, đầu ở đây cái kia có thể trôi xa hơn 100m, muốn kiếm cũng kiếm không ra. Mà nếu thi thể không được ném xuống nơi đủ sâu thì có thể còn bị thú vật tha lên bờ xé ăn.
Tôi nói dù gì đi chăng nữa cũng khó có chuyện không lưu lại chút manh mối nào. Mao chủ tịch từng nói hai chữ đáng sợ nhất trên đời là niềm tin, chúng ta cứ tìm trước đã, tìm không thấy hẵng đi phân tích nguyên nhân sau.
Cứ thế cho đến khi trời chiều đã ngả về tây, ba người vẫn tay trắng. Mấy con chó săn chạy chơi ven hồ, hoàn toàn không đếm xỉa đến chúng tôi, cũng chả thèm giúp sức. Phơi dưới ánh nắng gay gắt bên bờ hồ cả ngày khiến đỉnh đầu tôi đau rát; từ trong rừng vang lên hai tiếng súng của A Quý, rồi anh mang về một con gà rừng đem nướng, chẳng mấy chốc mùi thơm đã tỏa ra ngào ngạt làm chúng tôi thèm nhỏ rãi.
Bàn Tử không nén nổi tâm trạng ủ rũ, lúc nghỉ ngơi chúng tôi quây quần bên nhau mà hút thuốc, Bàn Tử liền nói thôi đủ rồi, cậu nhìn thử xem khu này chỗ nào nhiều khả năng có mộ cổ?
Tôi bảo chẳng phải anh cũng biết sơ sơ đó sao, anh nói xem chỗ nào ở đây có mộ? Bàn Tử liền đáp: "Tôi thấy không ổn đâu, nhìn sơ qua thế núi nơi này chẳng ra cái dáng gì cả, khó có mộ lớn lắm. Nhưng Bàn gia đây trình độ nửa vời, nên mới hỏi lại cậu xem tôi có nhìn lầm không."
Tôi nghĩ bụng trình độ anh mà nửa vời thì trình độ tôi chắc là hạng bét, cũng chẳng còn bụng dạ đâu mà suy xét chuyện này, dù sao cũng phải nán lại vài ngày rồi mới về, từ từ khoai khắc nhừ thôi.
Hiếm khi trong lòng không vội vã, uống ít rượu gạo, chúng tôi quây quần quanh đống lửa ven hồ nghỉ ngơi hóng mát. Hồ nằm ven núi, không khí mát rười rượi. Vân Thái cũng đã thay sang một chiếc sơ mi mỏng, gội đầu xong bỗng khoác lên mình dáng dấp con gái thành phố hiện đại, sau bữa cơm còn nhảy múa cho chúng tôi xem. Vũ điệu của người Dao có rất nhiều động tác xoay tròn và đá cẳng chân, mà chân con gái Dao lại đẹp nõn nà làm Bàn Tử ngồi coi muốn rớt cằm, khăng khăng đòi học, nhưng tướng nhảy của hắn y như lên đồng làm tôi cười lăn cười bò cả ra.
Lâu rồi không cười sảng khoái đến thế, mãi mới ngưng lại được, tôi đảo mắt nhìn sang Muộn Du Bình thì đã thấy hắn dựa vào tảng đá, nét mặt không hề thoải mái, nếu nhìn lướt qua sẽ không phát hiện ra hắn đang tồn tại.
Tôi thầm nghĩ, mình tới đây truy tìm quá khứ của hắn liệu có phải sai lầm hay không? Nhưng nhìn những manh mối hiện đã thu thập được thì hiển nhiên trên lý thuyết chúng tôi đến đúng chỗ rồi. Đối với chúng tôi con đường đến đây có thể đi một cách ung dung, nhưng với hắn những thứ gặp phải trên đường luôn gợi mở cánh cửa quá khứ, muốn thả lỏng cũng khó.
Người này lại mang đặc trưng của kiểu nhân cách hướng nội, lòng ở ngoài chốn đào viên mà vẫn cười với gió xuân, chẳng để ai vào lòng. Tôi nhặt một hòn đá nhỏ ném hắn, nói: "Anh đừng cả nghĩ, nói cho anh biết, theo kinh nghiệm của tôi có nghĩ đến nát óc cũng chẳng để làm gì. Chúng ta đang chắp tranh, trước khi tìm ra tất cả mảnh ghép thì nghĩ ngợi ít thôi." Rồi đưa rượu gạo cho hắn.
Muộn Du Bình lặng lẽ nhận lấy rồi đặt sang một bên. Tôi thở dài: "Anh không thể uống lấy một ngụm sao."
Hắn lắc đầu, nhìn sang khoảng tối bên cạnh.
Tôi đành chuyển sự chú ý sang Bàn Tử, thấy hắn đang ra câu đố mẹo cho chúng tôi đoán, hỏi Vân Thái chiến đấu như thế nào thì gọi là "Giết địch một trăm, tự tổn ba ngàn."
Tôi sợ Bàn Tử lấy truyện cười bậy bạ ra cho Vân Thái đoán, nhuộm đen đầu óc trong sáng của cô bé, liền la rầy hắn. Bàn Tử nói yên tâm đi, câu đố này hoàn toàn đứng đắn.
A Quý cũng nốc kha khá rồi, chỉ biết cười ngô nghê, đoán tới đoán lui vẫn trượt, cuối cùng công bố đáp án hóa ra lại là xuông đối trận với xập xám chướng, chỉ chăm chăm nã pháo, thắng nhà con một trăm lại trúng pháo thua ba mươi lần.
(Đây là những thuật ngữ chỉ các thế bài trong mạt chược. Xuông (Nguyên văn: thí hồ) là thế bài tạp không được tính điểm (phán) nào, xập xám chướng (Nguyên văn: thập tam yêu) là thế bài có đủ 13 quân nhất vạn, cửu vạn, nhất tác, cửu tác, nhất đồng, cửu đồng, đông, tây, nam, bắc, bạch, phát, trung, là thế bài đặc biệt, nã pháo chính là "ù". Mỗi ván có một người đóng vai nhà cái, còn lại là nhà con, cách chơi của nhà cái và nhà con sẽ khác nhau đôi chút. Để tìm hiểu kĩ hơn mời vào )
Trò này không phổ biến trong thôn người Dao, Vân Thái chẳng hiểu mô tê gì sất, tôi mới mắng anh hỏi thế chẳng hóa bắt nạt người ta hay sao? Có câu đố mẹo nào mang tính địa phương một chút không hả?
Bàn Tử đáp có, rồi lại hỏi: "Tiếp nè, chiến đấu như thế nào thì gọi là "Giết địch một tên, tự tổn ba ngàn."
"Ong vò vẽ!" Vân Thái lập tức giơ tay đáp.
Bàn Tử lắc đầu: "Nha đầu thúi, cố ý đâm thọt anh hả?"
Cả đám cười rộ lên, rồi tôi nói vậy chắc chắn là kỵ binh đấu với xe tăng, Bàn Tử bảo nếu đấu với xe tăng thì có tổn thất một vạn kỵ binh cũng không hạ nổi một cỗ.
Chúng tôi tiếp tục đoán, người đoán chơi bài tây, người đoán con kiến, người lại đoán là ăn bào ngư, Bàn Tử đều nói sai rồi, cái mặt vênh vênh đắc ý cứ như đang cười nhạo trí khôn của chúng tôi.
Tôi phát cáu, bảo tiên sư thế anh nói coi đó là kiểu chiến đấu gì? Đáp án mà khiên cưỡng là tôi tẩn cho đấy.
Bàn Tử đáp: "Quá dễ, hầy, Bàn gia đây đúng là thiên phú dị bẩm, hạng phàm phu tục tử các người còn kém xa. Nghe cho kỹ lời tôi nói đây, giết địch một tên tự tổn ba ngàn, là trận chiến giữa chuối tiêu và voi."
Tôi nghe vậy lườm lườm Bàn Tử, mắng, anh nói bậy gì đó, chuối tiêu đấu với voi là cái của nợ gì, anh nói coi chuối tiêu đấu với voi kiểu gì mà giết địch một tên tự tổn ba ngàn?
Bàn Tử đáp: "Thì voi chết no chứ sao."
Chúng tôi cười ồ lên, Vân Thái cũng cười đến suýt ngạt thở. Song cười được vài tiếng chúng tôi cũng phải từ từ ngừng lại, bởi tôi thấy trong lúc cả đám cười lăn cười bò ra thì Muộn Du Bình lại lẳng lặng đứng lên, bước tới bên hồ, rồi ngồi ra một góc xa nơi ánh lửa trại phải khó khăn lắm mới chiếu đến.
Trong mắt Vân Thái lướt qua một tia hốt hoảng, nhìn sang chúng tôi: "Chúng ta ồn quá, làm phiền anh ấy sao?"
Bàn Tử thở dài, rít một hơi thuốc lá rồi an ủi: "Không đâu, hắn đi đại tiện ấy mà."
Tôi nhìn Muộn Du Bình, lòng âm thầm thở dài, đang định đứng lên đi xem xem có chuyện gì thì Vân Thái đã giành mất cơ hội, bước về phía hắn.
Chương 18: Hiệu ứng siphon
Edit: Biển
Beta: Thanh Du
*****
Vân Thái ngồi bên Muộn Du Bình, cách chúng tôi một quãng khá xa nên không biết hai người có nói chuyện không. Bàn Tử nhìn họ đăm đăm, tôi mới trêu rằng: "Thất tình hả, thôi hãy cố nén bi thương mà chấp nhận sự thật đi."
Bàn Tử phản bác: "Tôi tin Tiểu Ca chắc chắn là người có nghĩa khí." Nói rồi đưa rượu sang cho tôi, còn mình thì đứng dậy đi trút bầu tâm sự. Chẳng mấy chốc sau lưng đã truyền đến tiếng nước chảy tồ tồ, chảy mãi chưa dứt, không biết hắn đã phải nín bao lâu.
Tôi không nhịn nổi mà bật cười rũ rượi, cười chán chê mới nhìn về mặt hồ xa xa chìm trong ánh trăng mờ ảo, chợt cảm thấy mình đến được nơi đây có lẽ cũng là duyên số.
Chỉ nhìn cảnh sắc tươi đẹp nơi đây, ai mà ngờ được năm đó đã xảy ra chuyện quỷ quái đến vậy, cũng như nghe tiếng cười phóng khoáng bề ngoài, ai mà biết thực ra trên vai chúng tôi mang theo biết bao nhiêu gánh nặng. Mọi thứ trên đời đều vô cùng đơn giản, mà con người dường như lại là thứ phức tạp nhất, kiểu phức tạp này họ vốn muốn chống đối, nhưng rồi lại không thể trốn tránh được.
Suy nghĩ viển vông, quả đúng là suy nghĩ viển vông. Tôi nhắm nghiền hai mắt, hít sâu một hơi, nhớ lại tâm tư của mình ngày trước, rồi nghĩ đến tâm trạng của bản thân lúc này, chợt thấy hình ảnh cái kẻ cứ mãi quẩn quanh giữa muôn vàn câu đố quả có hơi tức cười.
Bàn Tử giải quyết xong nỗi buồn, lập cập quay lại, thấy Vân Thái vẫn ngồi bên đó liền thắc mắc: "Con bé kia còn chưa bị đuổi về à? Cũng lì lợm dễ nể nha."
Tôi bảo: "Đừng nói vậy, biết đâu Tiểu Ca lại thích kiểu này thì sao, có khi người ta đã trao tín vật hẹn ước luôn rồi."
Bàn Tử đáp: "Làm gì có chuyện đó, họ ngồi cách chúng ta rõ xa, lỡ có con yêu quái nổi lên dưới hồ kéo họ đi mất thì tôi cũng không cứu kịp. Thôi tôi qua đó bảo vệ hai người ấy đây." Dứt lời liền nhổm lên định đi.
Tôi giữ hắn lại, bảo anh đừng có quấy rối. Giờ này có lẽ Muộn Du Bình đang rất buồn bực, đầu óc chất chứa vô vàn câu hỏi, tình cảnh này tôi đã từng trải qua, cứ để hắn ngồi một mình thì hơn. Anh lắng nghe cho kỹ đi, Vân Thái không hề nói chuyện, chắc là đang ngắm trời trăng với hắn thôi.
Bàn Tử ngồi xuống dỏng tai nghe ngóng, lại nghe như Vân Thái đang hát. Tôi và Bàn Tử đều lặng đi, gió hồ hiu hiu mang theo tiếng ca trong trẻo, là một bài hát của người Dao, lời ca nhẹ bẫng lại hết sức rõ ràng.
Chẳng ai nói gì nữa, tôi thầm nhủ con bé Vân Thái kia đúng là không tệ, bèn thả lỏng người nằm xuống, ngắm bầu trời đầy sao tiếp tục lắng nghe.
Trên trời mây lững lờ trôi, lòng tôi nhanh chóng bình lặng như mặt nước hồ. Dần dần, giữa tiếng ca huyền ảo, tôi từ từ chìm vào mông lung, dường như muốn thiếp đi.
Nhưng giờ hãy còn sớm, tôi mơ mơ màng màng không biết bao lâu thì tiếng hát chợt ngừng. Tôi thoáng giật mình mở mắt, chỉ thấy Muộn Du Bình đằng kia đã đứng dậy nhìn xuống mặt hồ, bầy chó đang uể oải nằm kế bên cũng ngẩng đầu nhìn theo một hướng.
Bàn Tử còn đang nhắm mắt nghỉ ngơi, A Quý cũng cảm thấy có chuyện khác thường. Tôi lay Bàn Tử dậy, chợt nghe trong gió có tiếng "oàm oạp" truyền đến từ phía hồ, giống như có những bàn chân ngoại cỡ đang bước lên từ bãi cạn trong hồ.
Bầy chó đều đứng dậy nhìn chằm chằm đầy cảnh giác về hướng đó, những con chó săn này đều được huấn luyện nghiêm khắc, không hề sủa bậy. Tôi và Bàn Tử liếc nhìn nhau, tôi nhe răng với hắn, hắn chỉ cái đèn pin ở bên cạnh ý bảo tôi đưa sang. A Quý vừa ra hiệu cho chúng tôi trật tự ngồi xuống vừa xua tay ý nói chúng tôi đừng căng thẳng, rồi thì thào: "Không sao đâu, hình như là thú hoang đang uống nước."
"Là con thú gì vậy, nghe tiếng động thì cái đầu nó phải bự lắm." Bàn Tử hỏi nhỏ.
A Quý cầm chắc súng săn, ra hiệu cho chúng tôi ngồi yên đừng quậy, rồi bước chân trần dò dẫm trong bóng đêm, Vân Thái cũng theo sau. Bàn Tử không dằn lòng được liền nháy mắt ra hiệu, mà tôi cũng muốn hóng, bèn len lén bám đuôi sau vài mét.
Đi đến bên Muộn Du Bình, có thể lờ mờ thấy được một chút cảnh tượng trên mặt hồ. Chúng tôi tìm kiếm con thú hoang trong truyền thuyết nhưng không thấy gì cả, có thể con thú này uống nước thì ồn nhưng cái đầu cũng không lớn. Chúng tôi quét đèn pin qua, men theo âm thanh mà tìm kiếm, rồi nhận ra loại âm thanh này có nhịp diệu.
"Không phải thú hoang thì là tiếng gì chứ?" Bàn Tử làu bàu.
"Là tiếng thủy triều." Muộn Du Bình đáp.
Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, cái hồ nhỏ xíu này mà cũng có thủy triều? Chẳng lẽ hôm nay có siêu trăng? Ngẩng đầu nhìn lên, mặt trăng hôm nay hơi mờ.
A Quý buông súng, chúng tôi đi đến ven hồ. Tới gần mép nước, quả nhiên nước hồ đang sóng sánh nhịp nhàng như sóng biển vỗ bờ cát, có điều biên độ không lớn. Còn âm thanh giống như động vật uống nước kia là do tiếng nước vỗ vào một tảng đá vọng lại.
Tôi nhìn bãi đá dưới chân, lờ mờ nhận ra mực nước đã hạ xuống để lại một mảng ẩm ướt dưới chân. Nói cách khác trong khoảng thời gian chúng tôi chém gió ngó trăng rồi nghe Vân Thái hát hò, nước trong hồ vẫn liên tục hạ. Từ vùng đất ẩm đi đến mép nước ít ra cũng phải vài chục bước, xem ra mực nước đã vơi đi rất nhiều.
"Chuyện quái quỷ gì đây? Chẳng lẽ có hàng trăm con voi đang uống nước ở bờ bên kia?" Bàn Tử khum tay nhìn ra xa.
Tôi thông thạo địa lý, liền giải thích: "Đây là hiệu ứng siphon."
"Hiệu ứng siphon là cái gì? Rượu Hồng Tinh ấy hả?"
(Hiệu ứng siphon nguyên văn là 虹吸效应- hóngxīxiàoyìng, có thể hiểu nôm na là nguyên lý bình thông nhau, khi được nối liền qua một ống dẫn thì mực nước trong hai bình luôn cân bằng với nhau. Bàn Tử nghe nhầm thành 红星二锅头 – hóngxīngèrguōtóu, một loại rượu trắng giá rẻ rất phổ biến ở Trung Quốc.)
"Xem ra hồ này thật sự nối liền với mạch nước ngầm trong đất, gần đây có thể còn một cái hồ lớn hơn nữa nối liền với nó. Cái hồ kia bị tác động bởi thủy triều hoặc khí áp, kéo theo hồ bên này cũng chịu chung ảnh hưởng. Nếu ví hồ lớn và hồ nhỏ là hai khối nam châm, lại giả sử hiệu ứng siphon hình thành do lực hút của mặt trăng, vậy thì bản thân mặt trăng cũng là một khối nam châm lớn. Chắc chắn lực hút tác động lên hồ lớn sẽ mạnh hơn, nên giữa hai hồ xuất hiện chênh lệch áp suất, nước trong hồ nhỏ sẽ bị hút sang bên hồ lớn, khiến mực nước trong hồ nhỏ hạ xuống." Tôi ngẩng đầu nhìn lên trời mà giải thích, chợt nhận ra điều gì đó.
Chẳng trách chúng tôi không tìm thấy chút dấu vết nào của thi thể. Nếu ở đây tồn tại hiệu ứng siphon, hằng đêm đều xuất hiện thủy triều siphon, vậy thì thi thể năm đó có lẽ đã bị thủy triều siphon hút đến giữa hồ rồi, cái này cũng giống như nguyên lý của bồn cầu tự hoại.
Không riêng gì thi thể mà tất tật mọi thứ trong hồ đều bị hút đến giữa hồ, chẳng trách tôi cứ có cảm giác bờ hồ ngoài đá ra chẳng còn gì hết.
Đáy hồ rất dốc, một khi rơi xuống là khỏi mong sẽ được thủy triều đẩy lên. Nếu lúc đó không lấy đá neo lại, thì chắc chắn đã chìm nghỉm xuống rốn hồ rồi.
Nghĩ đến đây tôi không khỏi nản lòng, chẳng biết cái hồ này sâu bao nhiêu, chúng tôi lại không mang theo bình khí. Nếu mực nước quá sâu, thì coi như chúng tôi ra về tay trắng.
Nhưng cũng chưa hết hy vọng hoàn toàn, bởi con người có thể lặn xuống độ sâu hơn 100 mét mà không cần thiết bị gì. Tuy chúng tôi không chuyên nghiệp được tới mức đó, nhưng tôi nghĩ nếu hồ chỉ sâu độ hai ba mươi mét thì chắc không thành vấn đề, chỉ cần có người giỏi bơi lội là được. Dù gì chúng tôi cũng phải thử một lần, lặn đến giữa hồ cũng chẳng phải chuyện khó khăn gì.
Nghĩ vậy tôi bèn hỏi họ: "Các anh có thể nín thở trong bao lâu?
Chương 19: Dưới đáy hồ
Edit: Hàn Giang
Beta: Thanh Du
*****
Trong nhóm thì ba người Bàn Tử, Muộn Du Bình và tôi đều bập bõm biết bơi. A Quý cũng vậy, nhưng quanh đây chỉ có mấy con suối nhỏ, anh không quen bơi đứng nên e rằng không giúp được nhiều. Ngược lại Vân Thái bơi rất giỏi, song không có áo tắm, tôi không thể để cô bé mặc độc cái áo con mà lặn xuống hồ, mà Bàn Tử chắc cũng không muốn.
Nói đến khả năng nhịn thở, Bàn Tử khoe mình phổi lớn, có thể nhịn năm phút liền. Tôi bảo làm gì có chuyện ấy, anh béo thế kia lúc lặn xuống sẽ phải chịu áp lực lớn hơn chúng tôi rất nhiều, mà người bình thường chỉ cần nhịn được ba phút cũng đã thần thánh lắm rồi. Tuyệt đối không nên khoe mẽ, đây nào phải chuyện chơi.
Bàn Tử nói thật ra mình không lo cái này, mà lo chúng tôi không đeo chân nhái, nếu lặn xuống quá chậm thì dễ chừng chưa đến đáy đã cạn khí rồi. Trước đó nên lặn thử ở vùng nước nông thì hơn.
Tôi gật đầu, thật ra lặn tự do (*) không hoàn toàn là tay không bắt giặc, mà cũng có thiết bị và phương pháp bảo hộ tương xứng, trong đó quan trọng nhất là yếu tố tâm lý. Hồi ở Tây Sa tôi đã nghe mấy người thợ lặn kể yếu tố then chốt khi lặn sâu xuống nước chính là tâm lý, vì thế tất cả thợ lặn, đặc biệt là thợ lặn tự do đều phải trải qua khóa huấn luyện ngồi thiền kiểu yoga. Dưới tầng nước sâu chỉ còn bóng đêm vô tận giống như đang lơ lửng trong vũ trụ, khiến con người bất giác sinh ra sợ hãi. Khi ấy, chỉ cần một thoáng hoang mang sẽ không thể tập trung được nữa, dễ dàng gặp chuyện bất trắc. Nếu có bình dưỡng khí thì lượng oxi tiêu thụ sẽ tăng đột biến, bằng không chỉ còn nước thở bằng niềm tin.
(*) Tức là lặn không dùng bình dưỡng khí.
Tiếc rằng vùng biển Tây Sa vừa cạn lại vừa trong xanh, tôi không có cơ hội trải nghiệm cảm giác ấy, nên cũng chẳng biết tình hình thực tế ra sao.
Nhưng được cái thiết bị lặn tự do cũng không quy củ cho lắm, hoàn toàn có thể tìm vật dụng thay thế. Ví như vấn đề của Bàn Tử, chúng tôi chỉ cần buộc thêm tảng đá để tăng tốc độ lặn là xong. Hồ này trước kia hẳn là rất sâu nhưng năm nay mực nước đã hạ, không thể sâu quá trăm mét được. Tôi đoán năm mươi mét là cùng, đương nhiên trước khi lặn chúng tôi cũng phải thăm dò độ sâu của nó.
Vùng hồ vào đêm tối đen như mực, chúng tôi cũng không thể suy xét mọi sự rõ ràng như trước, đành rút về trại nghỉ ngơi. Bàn Tử hỏi Vân Thái vừa rồi đã hát bài gì cho Muộn Du Bình nghe, có thể dạy lại cho mình không? Tôi chẳng còn bụng dạ nào mà đùa giỡn, đành nằm xuống học cách suy nghĩ như Muộn Du Bình, nghĩ tới những việc ngày mai cần làm.
Đêm đó không ai nói một lời, sáng hôm sau chúng tôi dậy từ sớm tinh mơ. Nhân lúc mặt trời còn chưa mọc, tôi tranh thủ đi thám thính quanh hồ lần cuối để khẳng định ấn tượng của mình hôm qua. Bốn bề phủ sương mờ, nhưng màn sương này chỉ lấp ló quanh quẩn ven hồ. Cha con Vân Thái đều quen dậy sớm, bữa sáng đã chuẩn bị xong xuôi từ lâu. Đó là món cháo loãng mà người như Bàn Tử có thể húp liền cả chục bát, nhưng đã là đồ Vân Thái nấu thì đời nào hắn dám chê.
Bàn Tử cũng dẫn theo một con chó đến giúp, vừa đi vừa trêu nó: tìm xương đi, tìm xương đi, tìm được xương tao cưới vợ cho mày. Con chó quay mông ra hồ uống nước đùa nghịch, hoàn toàn phớt lờ hắn.
Khi mặt trời lên cao, tôi cũng vừa dạo quanh một vòng hồ, xác định gần như không thể tìm ra. Vân Thái tò mò muốn biết chúng tôi đang tìm gì nên cũng đi sau nghe ngóng, Bàn Tử bịa chuyện hai đứa đi tìm vàng, cô bé nghe vậy thì nửa tin nửa ngờ.
Tôi bàn với họ rằng nhất định phải lặn xuống nước, nhưng cũng không thể khơi khơi mà lặn được. Cả đám phải đợi đến chiều cho nước ấm lên chút ít, lại cần chuẩn bị một sợi dây thừng thật dài, một cái bè nhỏ và vài tảng đá nặng vừa phải.
A Quý và Vân Thái giúp chúng tôi tết dây thừng cỏ, không cần quá chắc chắn, chỉ cần đủ dài để đo độ sâu là được. Bàn Tử dùng liềm cắt một đống cỏ lớn rồi rải ra phơi khô, nhưng không phải cỏ gì cũng tết được, mà đến quá nửa là đồ bỏ.
Tôi và Muộn Du Bình dùng dây thừng đánh số buộc hai bè nhỏ cỡ cái bàn bát tiên vào với nhau, rồi lại tìm tảng đá to cỡ bắp vế buộc vào đầu dây cho đầm.
Thừng cỏ tết làm ba đoạn, chỉ dài hơn mười mét, nhưng hai người mất một buổi sáng đã tết được chừng ấy cũng giỏi lắm rồi. Do chưa trải qua quá trình gia công tỉ mỉ nên vẫn còn khá thô sơ, nhưng tôi cũng chẳng câu nệ. Cần gì phải xài được đến mấy tháng, chỉ mong trụ nổi vài tiếng đồng hồ là ngon rồi.
Mặt khác lại cắt rời bao nilon của Bàn Tử, lấy dây nilon bên trong cuốn lại thành cuộn, bên trên buộc thêm hòn đá thành một cái neo nhỏ để đo độ sâu của hồ.
Chuẩn bị xong xuôi mọi thứ, chúng tôi xếp hết đồ đạc lên chiếc bè nhỏ rồi cởi sạch chỉ chừa lại cái quần đùi, chầm chậm đẩy bè vào sâu trong hồ. Quần của Muộn Du Bình là do Bàn Tử mua, bên trên in hình hai con gà con, làm Vân Thái cười đến suýt nghẹn thở.
(À vâng con gà huyền thoại của ĐMBK đã lên sàn như thế =)))))))))))
Lúc này khoảng hai giờ chiều mà mặt nước vẫn lạnh như băng, nhất định là do mạch ngầm nối liền với cái hồ kia. Nếu không có ánh nắng, chúng tôi lặn xuống không chừng còn bị chuột rút.
Bơi đứng liền một mạch, chẳng bao lâu màu nước dưới chân đã sâu hun hút khiến người ta có phần hoang mang. Những chốn sâu không thấy đáy luôn gây ra cho con người cảm giác bất an, nhưng tôi đã trải bao phen sóng gió nên thứ cảm giác ấy chỉ lướt qua như gió thoảng. Hồ cũng không rộng lắm, chúng tôi bơi một chặp đã ra đến giữa hồ.
Gió trên mặt hồ mát rượi xua tan đi nắng nóng ngày hè. Dừng lại giữa hồ, thế bơi đứng khiến chúng tôi càng phải ra sức giữ thăng bằng. Bàn Tử lấy tay vuốt mặt một cái rồi hỏi: "Thuyền trưởng, ta phải làm gì bây giờ?"
"Đo độ sâu cái đã." Tôi đáp.
Bàn Tử cầm sợi dây nilon buộc hòn đá ném xuống nước. Hòn đá kéo theo sợi dây chìm xuống không phanh, cuộn dây trong tay Bàn Tử quay tròn không ngớt, chẳng mấy chốc hòn đá đã chìm nghỉm mất hút, chỉ còn thấy mỗi sợi dây.
Sau hơn một phút cuộn dây mới ngừng quay, Bàn Tử bứt đứt đầu sợi dây rồi từ từ kéo ngược nó lên, cuốn lại thành vòng mà đếm, kéo xong thì cũng ước lượng được hồ sâu hơn ba mươi ba mét.
Tôi rùng mình ớn lạnh, tuy kết quả này cũng gần giống suy đoán của tôi nhưng khi nghe vẫn không khỏi kinh hãi. Hơn nữa đây chưa chắc đã là rốn hồ, với kiểu hồ đá như thế này thì nơi sâu nhất không phải lúc nào cũng nằm chính giữa.
"Ba mươi ba mét, da fuck, mình phải lặn sâu hơn mười tầng lầu cơ à."
"Hừ, sao vừa nghe đến ba mươi thước đã bó tay chịu trói?" Tôi cười nói: "Mười tầng lầu là cái đinh, mẹ kiếp anh sợ quái gì chứ".
Dứt lời, tôi và Muộn Du Bình lập tức bịt kín hai lỗ tai, trước tiên lặn vài lượt nông nông để thích nghi với nhiệt độ dưới nước, còn Bàn Tử tạm thời cứ cho ở lại quan sát. Người béo không giỏi lặn, nếu chúng tôi lặn một chuyến mà xong việc thì khỏi phiền hắn vác xác xuống. Nói đoạn tôi buộc sợi thừng nối với tảng đá vào thắt lưng, giắt thêm cái liềm, bỏ đèn pin vào túi nhựa rồi nháy mắt ra hiệu với Muộn Du Bình.
Chúng tôi hít một hơi thật sâu, khi khí đã đầy phổi lập tức đẩy tảng đá trên bè xuống nước. Tảng đá từ từ rơi xuống kéo theo chúng tôi chìm sâu vào lòng hồ.
Ở Sudan, phu nhân tù trưởng mà đi lăng nhăng sẽ bị xử tử kiểu này. Tôi ngẩng đầu nhìn lên mặt nước, ngoài nửa thân người Bàn Tử và cái bóng của bè gỗ còn thấy sắc nắng loang loang, nhưng cảnh tượng này chớp mắt đã vụt trôi, bốn phía hoàn toàn rơi vào tĩnh mịch. Nhìn xuống lại thấy vực thẳm đen ngòm, chỉ còn ánh sáng từ ngọn đèn pin của Muộn Du Bình, đầu hắn chúc xuống dưới, động tác linh hoạt như một con dơi biển.
Tình cảnh này sẽ qua nhanh thôi, tôi tự nhủ với lòng. Ánh sáng xung quanh mờ dần đi kèm với áp lực nước tăng vọt, khiến màng nhĩ và ngực bắt đầu khó chịu cực kỳ, buộc tôi phải xả bớt không khí trong phổi ra.
Chẳng mấy chốc, đèn pin trong tay tôi đã chiếu xuống đáy nước, đó là một phiến đá mờ mờ còn cách một quãng xa. Song tôi chợt nhận ra điểm bất thường, vì tiếp tục chiếu xuống sâu hơn vẫn thấy một bóng đen; nói cách khác nơi này quả nhiên vẫn chưa phải đáy hồ, mà chỉ là một bãi đá gồ lên đó thôi. Ngoài ra tôi còn còn thấy rất nhiều vật na ná cành cây vắt ngang đáy vực, hẳn là gỗ từ những cây khô.
Cũng đúng vào lúc này, tôi bắt đầu thấy khó chịu, nhìn đồng hồ mới biết mình lặn còn chưa đầy một phút, thế mà đã cảm nhận được một luồng áp lực xộc thẳng lên mũi, khát khao được hít khí trời.
Muộn Du Bình vẫn không ngừng lặn xuống, tôi ngẩng đầu nhìn lên, trời ơi sao mà xa hun hút. Trong lòng sợ hãi thì tay chân tự nhiên cũng luống cuống, tôi rút cái liềm đeo ở thắt lưng định cắt đứt sợi thừng cỏ giữ chân mình lại. Ai ngờ thừng cỏ ngâm nước lại dai nhách ra, tôi cứa hai nhát mà thừng chỉ đứt có một nửa, nửa còn lại cò cưa mãi cũng không chịu đứt cho.
Tôi nhanh chóng rơi vào sợ hãi tột cùng, mà phản xạ tự nhiên lại mách bảo bản thân nên hít một hơi sâu lấy lại bình tĩnh. Kết quả vừa hít đã đưa một ngụm nước xộc thẳng vào phổi, làm tôi ho đến gập người.
Dây thừng truyền đến một đợt chấn động, báo hiệu tảng đá đã chìm đến đáy. Tôi cố gắng trấn tĩnh mà lặn xuống, nhận ra mình đang từ từ đậu lên một sườn dốc, bên dưới còn một cái khe đen ngòm sâu hoắm, nhưng vẫn nhìn ra một vài thứ trong đó.
Tôi nhìn theo ánh đèn pin chiếu xuống mà sợ đến đứng tim. Trong khe sâu là một căn nhà gỗ kiểu cổ cũ nát, chỉ còn lại bộ khung mờ mờ, mặt trên bị trầm tích phủ kín. Chiếu đèn pin sang nơi khác, tôi thấy càng nhiều căn lầu gỗ, thậm chí còn có mấy căn nhà ngói hoang tàn. Lần dọc xuống theo khe dốc còn thấy đủ mọi thứ như thềm đá, bờ rào... tất cả lặng lẽ chìm dưới làn nước sâu.
Chương 20: Nổi lên
Editor: Thanh Du
*****
Đáy hồ xanh thăm thẳm đã chắp cánh cho trí tưởng tượng của tôi bay cao bay xa, nhưng tôi không thể ngờ mình lại thấy mấy thứ này dưới đó.
Những căn nhà gỗ ấy đã bị trầm tích bao phủ hoàn toàn, rất giống một bộ phận của con thuyền chìm. Dưới ánh sáng này không thể quan sát kĩ càng, nhưng có thể khẳng định trước mắt tôi hẳn là một khu trại cổ của người Dao chìm dưới đáy hồ.
Dưới chân con dốc chìm trong bóng đêm, thấp thoáng những bóng đen nhập nhoạng, nhất định còn có thứ gì đó. Tôi đoán, có lẽ chúng đều là những căn nhà sàn gỗ kiểu này.
Đây là chuyện quái quỷ gì thế? Sao dưới đáy hồ lại có những thứ này? Lẽ nào nơi đây từng xảy ra cơn lũ quét trên diện rộng, kéo sụp dãy núi, bao phủ lên nơi đã từng là thôn làng?
Nhìn tòa cổ lâu màu xanh u ám, đầu óc tôi rối tung, quên hết mọi thứ xung quanh, chỉ biết ngắm nhìn cảnh tượng trước mắt đến ngây ngẩn.
Còn đang ngẩn người, bỗng toàn thân tôi chấn động, bắt đầu nổi lên. Đưa tay kéo sợi thừng trông như cuống rốn, lại phát hiện nó đã đứt rời. Lúc này mới cảm nhận được áp lực nước ập thẳng vào mặt khiến người ta nghẹt thở, rốt cuộc không còn tâm trí đâu mà để tâm đến tình hình trước mắt, ra sức vùng vẫy ngoi lên.
Đó là một thứ cảm giác khiến người ta rất khó diễn tả, có lực nổi giúp sức nên tôi ngoi lên rất nhanh.
Bốn bề tối om, quầng sáng bên trên dần dần rõ nét. Não tôi bắt đầu thiếu oxi, chỉ cảm thấy ánh sáng cứ mờ dần, quả thực giống như đang bơi lên thiên đường.
Cảnh tượng người chết đuối trông thấy vào thời khắc lâm chung, đại khái cũng như thế này chăng!
Trong những giây cuối cùng, oxi trong phổi tôi gần cạn kiệt, đầu óc thoáng chốc trống rỗng, trước mắt chỉ còn một mảng trắng nhờ, sau đó cảm giác cơ mặt mình thả lỏng, ánh sáng xung quanh thu hẹp lại, đồng thời nghe được tiếng nước với những âm thanh nhập nhoạng không rõ ràng, nhìn thấy mặt hồ lấp loáng.
Tôi gần như không còn sức lực hớp ngụm khí đầu tiên, nhịp thở này phải dốc sức lực toàn thân mà bạo phát ra. Đợi cho lá phổi lần thứ hai ngập tràn không khí, tôi suýt nữa đã ngất xỉu. Ôi trời! Sống mấy chục năm, chưa bao giờ tôi cảm thấy hít thở lại là chuyện khoan khoái đến vậy.
Tôi bắt đầu thở hồng hộc, gần như là ngấu nghiến thô bạo từng ngụm không khí, rồi dần dần cũng thong thả trở lại.
Đợi đến khi tỉnh táo hoàn toàn, đưa tay lên nhìn đồng hồ, thì ra từ khi lặn xuống đến lúc trồi lên mới hết hơn một phút, thế mà tôi cảm thấy như đã qua vài giờ. Tình hình dưới đáy nước và quang cảnh tận mắt chứng kiến làm tôi kinh hoàng đến độ cảm giác cũng sai lệch đi.
Thường thì tôi nín thở được lâu hơn, xem ra bể bơi và hồ nước sâu chênh nhau một trời một vực, tôi suy nghĩ quá ngây thơ rồi.
Bàn Tử và chiếc bè còn cách tôi ba mươi mét, có thể vào lần cuối cùng lao lên mặt nước tôi xuất lực không chuẩn, thành ra bị chệch hướng.
Tôi bơi về phía lắn, trở lại bên chiếc bè.
Hắn hỏi tôi, sao cậu trồi lên nhanh dữ?
Tôi muốn đáp trả lời, lại cảm thấy môi trên âm ấm, sờ thử, té ra là chảy máu cam. Kế đó toàn thân nhất là lỗ tai bắt đầu đau, đầu váng mắt hoa, suýt nữa đã tuột tay khỏi cái bè mà chìm xuống nước.
Chợt tôi có cảm giác Bàn Tử đang kéo mình lại, nghe láng máng tiếng hắn nói: "Chết tiệt, cậu trồi lên nhanh quá, vỡ hết mạch máu rồi!"
Cũng may tôi chỉ hoa mắt chóng mặt chút xíu rồi nhanh chóng bình phục. Tôi không phải thợ lặn chuyên nghiệp, xem ra thân thể này quả thực không hợp với môn lặn tự do.
Lại nằm bò lên bè, nhìn máu mũi chảy ròng ròng qua mặt xuống cằm rồi hòa vào nước, tôi không khỏi lo lắng mơ hồ, chẳng biết ruột gan phèo phổi của mình có làm sao không đây?
Bàn Tử đưa tôi cái khăn tay để bịt mũi, rồi hỏi cậu làm sao thế? Sao chưa chi đã nổi lên rồi?
Tôi ngẩng đầu lên cho máu mũi chảy ngược, đồng thời kể lại những điều mình thấy. Hắn nghe đến há hốc mồm, lại còn không tin, bảo chuyện này không thấy tận mắt thì không hiểu rõ được, nóng lòng muốn xuống xem thử. Tôi vội vàng cản hắn lại, bảo bên dưới không nông như kết quá mình đo được đâu, một mình xuống đó nguy hiểm chết bà.
Lúc này lại nghe tiếng nước ào ào, Muộn Du Bình cũng ngoi lên, hít một hơi thật sâu. Nơi hắn nổi lên chỉ cách bè có hơn hai mét, rõ ràng hắn bình tĩnh hơn tôi rất nhiều.
Ngó đồng hồ, hắn lặn lâu hơn tôi chừng một phút.
Hắn ráng sức bơi đến cạnh cái bè, vịn một tay lên đó.
Bàn Tử định hỏi tình hình rsao thì bàn tay còn lại của hắn đã đột ngột cầm một vật quẳng lên bè, lập tức kéo theo bọt nước văng tung tóe vào mặt chúng tôi.
Tôi còn chưa kịp nhìn rõ, Bàn Tử đã hét toáng lên: "Tổ sư! Đây là cái của nợ gì?"
Tiếng hét của Bàn Tử đại khái đã cảnh tỉnh tôi, làm tôi phát sợ, vội vuốt hết nước trên mặt mà nhìn. Tôi linh cảm Muộn Du Bình có thể đã tìm thấy thi thể, cũng chuẩn bị tinh thần sẵn sàng thấy một bộ xương trắng ởn.
Chương 21: Quái vật mò được
Editor: Béo Bụng Bự
Beta: Thanh Du
*****
Bàn Tử rất cẩn thận, dùng lưỡi liềm vén lớp da bò ra. Quả nhiên, bên trong toàn là sợi bông gần như đã mục nát, là phần còn sót lại của một cái chăn đã ngâm nước đến mục rữa. Dùng liềm chọc ngoáy vào trong, chúng tôi nhanh chóng phát hiện ra một vài thứ bên dưới đám sợi bông.
Đáng tiếc tôi đã đoán sai rồi, thứ bị vứt lên bè hình như là xác của một con vật lớn bằng cái balo leo núi, nhìn kỹ một chút lại phát hiện ra xung quanh "xác chết chìm" còn mọc ra một "cục" tay đã thối đen, lại trương phồng vì no nước, tròn vo như một quả cầu, xem ra đã bị ngâm trong nước rất lâu.
Người đã từng thấy những xác lợn xác chó trôi nổi trong lòng hồ sau cơn lũ, nhất định đều biết loại xác này ghê tởm đến nhường nào. Tôi tức thì cảm thấy buồn nôn, vội xoay người đạp chân xuống phóng ra ngoài, cách xa khỏi cái bè kia, trong lòng tự nhủ Muộn Du Bình vớt cái của nợ này lên làm gì không biết?
Tôi bơi ra ngoài được hơn một mét, dùng nước hồ rửa sạch nước xác rữa bắn lên mặt mình, cảm thấy hơi dinh dính. Bàn Tử mở miệng mắng, "Tiểu Ca, chết tiệt! Mẹ kiếp, cậu dám ra tay thật, cái thứ buồn nôn này cậu mò lên làm gì hả!"
Muộn Du Bình lại không thèm để ý, lập tức bò lên trên bè, tay đặt thẳng lên trên cái xác rữa kia, khiến nước ngấm trong xác bị ép ra, chảy từ trên bè xuống mặt hồ.
Sau đó, hắn bắt đầu kéo cái "xúc tu" này ra khỏi xác chết, ném nó vào trong nước.
Ban đầu tôi suýt nữa thì nôn ra, nhưng ngay sau đó liền phát hiện ra có gì đó không ổn, vì không ngửi thấy mùi hôi thối nồng nặc. Sau đó Bàn Tử hình như đã nhận ra điều gì, bèn ngoắc tay ra hiệu cho tôi qua.
Tôi bơi qua đó, thấy cái "xúc tu" mà Muộn Du Bình ném ra vẫn còn trôi lơ lửng quanh bè, tôi nhịn cơn buồn nôn vớt lên nhìn thử thì phát hiện đây không phải xúc tua mà là một thứ rong rêu kỳ lạ nào đó. Tôi lại nhìn kỹ cái "xác chết chìm" màu đen kia, mới biết là mình đã hiểu lầm rồi.
Cái dạ dày lồi lên của "xác chết chìm" này quắt lại, thoạt nhìn không giống xác chết, mà trái lại giống một quả bóng cao su xẹp lép, còn cái xúc tu chính là vật thể kỳ quái trông giống rong rêu.
Tôi đi tới giúp Muộn Du Bình gỡ đám rong rêu bên cạnh cái "xác chết chìm" kia, cuối cùng cũng nhìn rõ vật ấy hóa ra là một cái túi da bò kiểu cũ đã mục nát và chuyển thành màu đen, da bò ngâm nước lâu ngày trở nên trong suốt, lớp vỏ đã mục rữa hết, chỉ còn lại một tầng đáy mỏng manh.
Đây là loại túi lớn trước kia dùng để đựng hành lý to, bên trong có khung sắt, cho nên mới chưa bị mủn ra, bằng không nhất định đã mục nát sạch sẽ rồi.
"Đây là..." Bàn Tử im bặt.
Muộn Du Bình nói: "Ở chỗ tôi lặn xuống có một lớp hàng rào, rất nhiều túi và tạp vật chìm xuống đáy hồ đều mắc trên đó, rải rác trên một khoảng lớn. Tôi thấy có súng trường, túi da và lều, tôi chỉ mò một cái lên thôi."
Tôi lập tức hiểu ra đây là cái gì, "Đây nhất định là súng và trang bị cùng chìm xuống đáy hồ sau khi bọn họ giết người xong, như câu chuyện lão Bàn Mã kể. Xem ra tôi nói không sai, những thứ này quả nhiên đều bị hiệu ứng siphon hút xuống đáy hồ, chìm xuống mắc lên lớp hàng rào ấy."
Muộn Du Bình gật đầu, hiển nhiên là đồng ý với cách giải thích của tôi.
"Hàng rào? Con mẹ nó, dưới đáy hồ này có một cái làng thật sao?" Bàn Tử vẫn chưa tin.
Đầu tôi rối như tơ vò, trong lòng tự nhủ, tôi lừa anh làm gì? Nếu không tận mắt nhìn thấy thì tôi cũng không tin nổi.
Cổ trại dưới nước xem ra có quy mô khá lớn, tình cảnh hết sức đặc biệt, cả ngôi làng nằm trọn vẹn trong lòng hồ. Đây thường là một sự hi sinh để tích nước cho công trình thủy lợi cỡ lớn, giống như khi đập Tam Hiệp tích nước đã có rất nhiều thôn xóm nằm dưới mực nước, thậm chí cả danh thắng và di tích cổ đều bị nhấn chìm. Cũng có thể là do động đất dẫn đến lở núi, nước từ trong hồ chảy vào khe núi, nhấn chìm cả thôn, hoặc là nền đất cả thôn sụp xuống do địa chấn, bị chôn vùi dưới đất rồi lại bị nước bao phủ.
Nhưng địa hình nơi này không giống như đã từng xảy ra động đất, cái hồ đá này cũng vô cùng quái đản, dưới đáy hồ rặt những đá vụn, không biết từ đâu mà có.
Mẹ kiếp! Thôn này nhất định có liên quan đến toàn bộ câu chuyện. Đội khảo cổ năm ấy tìm đến bên hồ để vớt khối sắt, mà khối sắt đó hiển nhiên nằm trong cổ trại dưới đáy hồ. Trong đủ thứ nhân tố, rốt cuộc nguyên cớ sâu xa là do đâu? Nơi này rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?
Câu chuyện ẩn sâu dưới làn nước, nhất định vượt quá trí tưởng tượng của tôi.
"Trước tiên đừng động đến những thứ này, mà hãy nhìn xem trong túi có gì cái đã!"
Bàn Tử vội vàng muốn mở túi ra, nhưng túi này rất lớn, mà bè lại nhỏ, ba người chúng tôi cùng dựa vào, không dễ hành động. Hắn vừa táy máy vài cái, vẫn chưa tìm được cách mở túi mà bè hình như lại sắp lật đến nơi.
Lòng tôi rối như tơ vò, không còn tâm trí đâu mà suy xét, bèn ngăn hắn lại: "Đừng nóng vội nhất thời, nhỡ lật bè thì toi, chúng ta lên bờ trước đã."
"Không được!" Bàn Tử đáp, "Chúng ta không biết bên trong có gì, nếu là xác chết hoặc là vật gì không thể để A Quý nhìn thấy, chẳng lẽ cậu định giết người diệt khẩu à? Chúng ta cứ xem trước ở đây đi."
Tôi thấy hắn nói cũng đúng, để cho bọn họ biết quá nhiều chuyện chung quy cũng không phải chuyện tốt, bèn bảo hắn nhanh tay lên một chút.
Cái bao vẫn còn hình dạng hoàn chỉnh, tôi gỡ nhẹ lớp da bò mỏng manh mục nát kia thì thấy nó vẫn còn dai lắm, chất lượng sản phẩm quân sự lúc ấy quả thực khiến người ta ngưỡng mộ.
Loại túi này thông thường đều dùng sắt tây làm mép khóa, chúng tôi ngồi trên bè, hết sức cẩn thận lật ngược cái túi, tìm được mép khóa ở mặt sau, lúc lật lại cảm thấy bên trong có gì đó mềm nhũn giống như một cục bông. Loại túi này vốn hay dùng để đựng quần áo hoặc vải vóc, mở ra tuyệt đối đừng là chăn màn, không thì cũng quá nực cười.
Sau khi lật lại, chúng tôi thấy hai bên mép khóa bằng sắt tây đã gỉ đặc, không tài nào mở nổi. Bàn Tử rút liềm ra, rạch thẳng một đường lên túi, lộ ra khung sắt bên trong.
Trước kia tôi từng xem một bộ phim điện ảnh trong nước rất cũ, nói về tiễu phỉ, trong phim cũng có loại túi này, thời bấy giờ chuyên dùng để vứt xác, mở ra chắc chắn là xác bị chặt, tâm lý vẫn hơi bị ám ảnh. Bàn Tử cũng rất cẩn thận dùng lưỡi liềm rạch mở lớp da bò, quả nhiên bên trong là một mớ sợi bông gần như đã mục nát cả, là phần còn sót lại của một cái chăn bị ngâm nước đến mủn. Ra sức thò tay vào khua khoắng, chẳng mấy chốc chúng tôi đã tìm ra một vài đồ vật dưới đáy đám bông ấy. Loay hoay một lúc, Bàn Tử làm như một người khảo cổ, moi hết ra ngoài, toàn là đồ dùng hằng ngày của một phụ nữ.
Sở dĩ tôi có kết luận này, là bởi vì trong đó có ba cái lược. Đàn ông cũng mang lược, nhưng sẽ không thể mang theo những ba cái một lúc, hơn nữa trong đó một cái có răng rất lớn, nhất định là lược dùng cho tóc dài.
Ngoài lược ra, còn có hai cái cặp tóc, một huy hiệu Mao chủ tịch, một khung ảnh gỗ và một lọ kem dưỡng da Bách Tước Linh, ngoài ra còn một hộp lá trà.
Cả hộp kem Bách Tước Linh lẫn hộp trà đều làm bằng sắt, đã gỉ xanh gỉ vàng, nhưng trạng thái dưới đáy hồ khá ổn định, nên có thể thấy gỉ sắt chỉ đến một mức độ nào đó là ngừng.
Tôi cảm thấy hứng thú nhất với khung ảnh gỗ kia, bên trong có ảnh nhưng đã ngấm nước mà mủn ra, chỉ còn lại những mảng màu loang lổ. Những thứ bên trong nhất định đều đã mục nát hết, cho dù không nát, thì từ những mảng màu đó cũng không nhìn ra được hình dạng gì.
Lắc hộp trà lên cũng không nghe thấy tiếng động, hiển nhiên đã bị phong kín.
Bàn Tử muốn mở ra, những đã bị gỉ chết. Hắn không mê tín,bèn lấy lưỡi liềm làm búa đập vào đáy hộp. Nhưng bè lại không chịu nổi động tác gõ mạnh như thế, hắn buộc phải vừa bơi ngửa vừa đặt cái hộp lên ngực mình để gõ, âm thanh trong trẻo như gõ trống vang vọng trên mặt hồ, thật giống một con rái cá cỡ bự.
Tôi thấy buồn cười, nhưng đúng là rất hữu dụng, chẳng mấy chốc đáy hộp đã bị phá, hắn đổ từ bên trong ra một khối màu đen, sau đó liền hô lên kinh ngạc.
Tôi vừa nhìn thấy, trong lòng chợt lặng đi. Đó hóa ra là một khối sắt nhỏ, giống hệt khối sắt tìm thấy dưới giường của Muộn Du Bình .
Bàn Tử lầm bầm: "Lại là cái của nợ này! Xem ra cái túi này đúng là của đội khảo cổ hồi đó, lão Bàn Mã không lừa gạt chúng ta, mẹ kiếp cái món đồ chơi này rốt cuộc là gì chứ?"
Tôi nhận lấy khối sắt nhìn kỹ một chút, lắc đầu không nói, phát hiện khối sắt này so với khối sắt của Muộn Du Bình thì trông hơi bất thường.
Khối sắt này nhỏ hơn rất nhiều so với khối sắt lần trước, đại khái chỉ to bằng ngón tay cái. Điều khiến tôi bất ngờ là khối sắt này tương đối trơn nhẵn, tuy cũng bị gỉ loang lổ, nhưng vẫn sạch hơn nhiều so với khối sắt của Muộn Du Bình, hoa văn bên trên vẫn đủ rõ để nhìn ra được.
Chương 22: Lại thấy khối sắt
Edit: Nam
Beta: Thanh Du
*****
Tôi từng cho rằng khối sắt dưới gầm giường của Muộn Du Bình sở dĩ có hình dạng khó coi như vậy là vì bị người ta xử lý bằng acid, bây giờ xem ra đúng là thế thật.
Hình dạng nguyên sơ của khối sắt hẳn là như thế này, chứ không phải y chang con cóc như của Muộn Du Bình. Nhìn từ những hoa văn cực kỳ tinh xảo bên trên, lại thấy nó cũng không phải một khối nguyên vẹn, mà có lẽ chỉ là mảnh vỡ của một hay một vài món đồ sắt lớn.
Tôi vừa bơi đứng, đầu óc vừa nhanh chóng vận động, cảm thấy mọi chuyện căn bản đã xâu chuỗi lại với nhau. Bây giờ vấn đề bắt đầu trở nên rõ ràng, đại khái chỉ hướng về hai điểm chính.
Suy đoán của chúng tôi là đúng hay sai? Nơi này liệu có xảy ra sự kiện đội khảo cổ bị đánh tráo? Chúng tôi phải tiếp tục lần theo dấu vết những thiết bị mà họ đã ném xuống hồ.
Những thi thể ấy rất có khả năng cũng ở quanh đây, việc này xem ra không còn là chuyện khó nữa.
Vấn đề nằm ở cổ trại dưới đáy hồ. Dưới đáy hồ nước nơi rừng xanh núi thẳm sao lại ẩn giấu một khu trại cơ chứ? Khối sắt cũng đến từ khu trại này, nó vốn là vật gì, được dùng làm gì nhỉ? Tại sao đội khảo cổ lại biết chuyện này, còn vớt nó lên nữa chứ? Mẹ kiếp, những chuyện mờ ám đằng sau có thể còn nhiều hơn! Hiện giờ tôi hoàn toàn không biết phải suy luận từ đâu, chỉ có thể nghe ngóng qua loa từ A Quý, nhưng tôi có cảm giác anh ta cũng không biết nhiều tin tức.
Đáp án cho nghi ngờ của tôi, đều nằm dưới đáy nước.
Tôi thở dài, bước tiếp theo cần làm gì đã quá rõ ràng – phải quan sát đáy hồ thật cẩn thận, còn phải vớt hết mọi thứ có thể tìm được lên bờ xem xét, xem tình hình này chắc chúng đã ngâm trong nước rất lâu rồi.
Chỉ tiếc là dây thừng tết bằng cỏ trên người đã nhũn ra không dùng được, mà tôi cũng không đủ sức lặn xuống lần nữa, bằng không chỉ muốn lặn xuống xem xét lại ngay.
Chúng tôi dùng sợi thừng nilon làm một ký hiệu qua loa, ba người leo lên bờ nghỉ ngơi trước. Vân Thái nhìn bộ dạng của tôi mà phát sợ, vội vàng giúp tôi xử lý.
Tôi nhét hai mảnh vải vào lỗ mũi, ngồi trong bụi cây thay quần áo xong xuôi, cảm thấy đầu mình dường như muốn nứt ra từ bên trong, đau đến nỗi toàn thân không còn chút sức lực nào.
Bàn Tử và Muộn Du Bình kéo cái bè trên đặt túi da bò mục nát từ dưới nước lên bờ, nâng nó lên như khiêng cáng, khiêng một mạch đến khoảnh đất khô trên bờ.
Vân Thái hết sức tò mò về vật chúng tôi vớt lên từ dưới nước, thực ra bên trong chẳng có gì đặc biệt, Bàn Tử cũng mặc cho cô xem. Vừa nhìn rõ, cô đương nhiên cảm thấy ghê tởm.
Ánh mặt trời gay gắt thế này, xem ra mấy cái quần đùi phơi trên đá chẳng mấy chốc mà khô. Chúng tôi ăn một ít quả dại để lấy chất đường,Bàn Tử vừa ăn vừa hỏi A Quý có biết gì về ngôi làng chìm dưới đáy nước không. A Quý ngơ ngác không hiểu gì, anh ta nói mình không hề biết dưới lòng hồ lại có cả một ngôi làng như thế.
Ban nãy lặn dưới lòng nước mờ đục, cảnh vật phần lớn không thể xem xét rõ ràng, nhưng dựa vào độ dày của lớp trầm tích bám trên vật này cũng có thể phán đoán ngôi làng đó đã chìm dưới đáy nước khá lâu năm. Tôi bảo A Quý hãy cố mà nhớ lại xem, trong phạm vi quanh đó có nghe nói gì về chuyện này không? Cho dù là những truyền thuyết rất xa xưa, chỉ cần có dính dáng là được.
Anh ta vẫn lắc đầu, thề thốt rằng không có chuyện đó đâu rồi nói: " Thật ra tôi cũng cảm thấy có gì đó kỳ lạ, mọi người chúng tôi đều biết ở đây có một cái hồ, nhưng đến bây giờ nó vẫn chưa có tên, những người già cả cũng không hay nhắc đến".
Tôi và Bàn Tử ngơ ngác nhìn nhau, tôi đoán anh ta cũng không biết nhiều, vì suy cho cùng dẫu có là truyền thuyết thì muốn lưu truyền cho đời sau cũng phải dựa vào may mắn, nhưng không ngờ anh ta lại phủ nhận tuyệt đối như thế.
Núi Sừng Dê từ xưa đã là ranh giới giữa bãi săn và rừng thẳm, có truyền thuyết là hết sức bình thường. Trong núi có một hồ nước lớn nhường này, lẽ ra cũng phải có truyền thuyết, thế mà lại không hề có, cứ như bị cách biệt với thế gian, khiến tôi cảm thấy hơi lạ.
Bàn Tử nói: "Liệu đây có phải là thôn trại cổ bị đám cháy rừng lan đến mà các anh từng kể không? Ngôi làng cổ kia thật ra là bị vùi dưới đáy hồ, nên trên mặt đất mới không tìm được một dấu vết nào."
A Quý lắc đầu: "Câu chuyện đó đã quá xưa rồi, truyền thuyết về ngôi làng cổ bị thiêu cháy có từ thời Minh kia, tôi không hiểu giữa hai chuyện có mối liên hệ gì."
Tôi nhìn sắc mặt A Quý, biết ngay anh ta không hề nói dối, đành nằm xuống hút điếu thuốc, lấy ngón tay day day thái dương đau nhức, tự nhủ quả nhiên phải dựa vào bản thân rồi.
Bàn Tử chỉ ra vào một chỗ mà tôi đoán là nơi sâu nhất dưới đáy hồ, nói: "Đáy hồ này từ đâ mà có nhỉ? Tôi thấy nó giống như được búa đẽo ra, cậu nói xem nó được hình thành như thế nào?"
Tôi đáp: "Đây không phải là hình thành, cái địa thế này thông thường chỉ sinh ra nơi khe hẹp giữa những ngọn núi thôi. Hồ này hẳn là một đập nước cũ, có thể đã hình thành từ mấy trăm năm trước."
"Vậy là do động đất sao ?" Vân Thái ngồi cạnh hiếu kỳ hỏi.
Tôi lắc đầu: "Ngôi làng dưới nước được giữ gìn khá nguyên vẹn, nếu là do động đất, chúng ta nhất định không thể nhìn thấy những hàng rào và đường lát đá chỉnh tề như vậy. Điều đó cho thấy thôn được nước bao phủ trong tình huống tương đối ôn hòa."
Tôi cũng chỉ vào nơi sâu nhất dưới hồ mà Bàn Tử vừa chỉ ban nãy, rồi nói ra suy luận của mình: "Có thể là do địa chấn hoặc do nguyên nhân khác, nên mấy trăm năm trước trong sơn thể trước mặt chúng ta bất ngờ xuất hiện một con sông ngầm nối thông với hệ thống nước ngầm ở gần đây. Thôn này vừa hay nằm đúng chỗ trũng, nên đã bị một trận lũ quét bất ngờ nhấn chìm tất cả."
Vì sao tôi lại nói là mạch nước ngầm? Vì tôi chưa từng nghe A Quý nói gần đây có một hồ nước lớn hơn, càng chưa từng nghe nói trong Thập Vạn Đại Sơn có hồ lớn. Nhưng nơi đây lại được biết đến với những mạch nước ngầm đá vôi, với khí hậu cận nhiệt, lượng mưa rất dồi dào, nhất định phải có chỗ thoát nước. Dòng nước chảy trên mặt đất, cuối cùng cũng nhập vào sông lớn chảy ngầm dưới đất thôi.
Thủy triều siphon xuất hiện tối qua, nhất định cũng do lỗ hổng này gây ra.
Bàn Tử bảo: "Xem ra tôi nói chẳng sai, thứ chúng ta muốn tìm nhất định đang nằm ở nơi sâu nhất, không thể tìm thấy đâu."
Tôi lắc đầu: "Cũng không hẳn ! Những căn nhà gỗ đó trông giống như được lọc qua lưới, những thứ bị thủy triều siphon hút vào đáy hồ phần lớn sẽ bị kẹt lại ở hàng rào và nhà gỗ nằm bên ngoài cổ trại. Chúng ta chỉ cần đi vòng quanh rà soát một lượt, căn bản sẽ có thu hoạch. Nếu không tìm thấy gì, vậy mới thật sự tính là thất bại."
Lặn một vòng quanh hồ nước cũng không quá sâu, ước chừng chỉ hơn hai mươi mét, chỉ cần có chút kiên nhẫn thì nhất định sẽ phát hiện ra thứ gì đó.
Bàn Tử nhìn mặt trời, bỗng dưng trở nên hăng hái: "Việc hôm nay chớ để ngày mai, chúng ta cùng xuống nước nào."
Tôi lập tức lắc đầu, chuyện này không thể được, vừa rồi lặn xuống nước mới biết không có đồ lặn thật sự hơi khó khăn, nếu muốn ung dung nghiên cứu cổ trại dưới đáy nước thì nhất định phải có đồ lặn chuyên nghiệp. Chúng tôi chưa thể tiến hành ngay lập tức, mà trước mắt phải quay lại huyện thành, rồi dùng quan hệ nhờ người chở trang bị tới đây.
Đây là một công trình cỡ lớn, thiết bị lặn rất nặng, có khi phải thuê mười mấy người dẫn la thồ vào núi mới xong, mà làm thế lại không phù hợp với mong muốn âm thầm hành động ban đầu.Vả lại kể cả có la thì vẫn không ổn, ngoài bình dưỡng khí còn phải chuẩn bị cả thiết bị bơm bổ sung dưỡng khí, mà món đồ ấy khá cồng kềnh, có khi la cũng không kéo nổi vào đây, lấy vào được rồi lại dỡ ra rồi vận chuyển tiếp, thời gian lại càng kéo dài.
Lòng tôi nóng như lửa đốt, bắt tôi đợi thêm một thời gian nữa chỉ e sẽ tự dày vò đến chết mất.
Bàn Tử cũng không muốn quay về, nhưng hắn lý trí hơn tôi, ngẫm nghĩ một hồi rồi nói: "Khỏi cần nghĩ cũng biết muốn rà soát toàn bộ đáy hồ thì nhất định phải quay về lấy bình dưỡng khí. Có điều theo tình hình ban nãy, nếu chỉ lặn xuống nước xem xét qua loa thì cũng không cần đến bình dưỡng khí làm gì. Chi bằng chúng ta chia nhau ra mà làm, một người trở lại mua trang bị, hai người kia ở lại đây tiếp tục lặn xuống vớt đồ, hai việc tiến hành cùng một lúc."
"Vậy ai quay về?" Tôi hỏi
"Theo quan hệ mà nói thì cậu đương nhiên là người thích hợp nhất, vì cậu quen biết nhiều nhất, còn tôi và Tiểu Ca sẽ ở lại vớt đồ. Cậu xem cậu quen nhiều dân trong nghề như thế, cứ tìm vài người mua đồ giúp, dặn họ mua xong thì gặp nhau, cậu làm việc này tiện hơn chúng tôi nhiều."
Tôi quát hắn: "Về cái đầu anh! Như vậy khác nào bức tôi chết nghẹn?"
"Một người nghẹn chết vẫn còn hơn ba người cùng nghẹn chết. Với lại cậu nghĩ mà xem, để Tiểu Ca đi chắc chắn cậu ta chẳng làm ăn được gì, còn người quen của tôi đều ở Bắc Kinh, hành động khó khăn hơn cậu rất nhiều, để tôi đi mua chỉ tổ mất thời gian thôi. Ở lại đây ngắm cảnh cũng không tệ lắm, nhưng nếu ngồi chờ cả tháng thì buồn lắm đấy. Cứ nghe lời Bàn gia là chuẩn, cậu quay về mua đồ lựa chọn lý tưởng nhất." Bàn Tử đường đường chính chính nói.
Tôi nhìn bản mặt hắn in rành rành hai chữ "thiếu đánh", nhưng nghĩ kĩ thì lời hắn nói kể ra cũng có lý. Tôi chỉ cần gọi cho Phan Tử một cuộc điện thoại là mọi việc có thể xử lý xong xuôi chỉ trong vài ngày, còn có thể gọi Vương Minh và mấy người làm trong cửa tiệm của chú Ba đến giúp một tay. Huống hồ tay Bàn Tử này cũng không được việc cho lắm, để hắn ra ngoài làm việc chỉ tổ thêm lo lắng vào người, nên cũng đành gật đầu ưng thuận. Sau đó tôi tính toán mình không thể lề mề, sáng sớm ngày mai lập tức lên đường, cố mà tốc chiến tốc quyết.
Tôi lập tức bảo A Quý ngày mai nhờ anh ta đưa tôi về, còn Vân Thái sẽ ở lại với Bàn Tử và Muộn Du Bình.
Nghĩ lại thì chuyến này đi đi về về cũng vất vả cho A Quý, mà bây giờ lại không thể thiếu anh ta, phải biệt đãi anh ta một chút, bèn ra một cái giá thật hời.
Xong xuôi thì tôi tê liệt thật, gần như không đứng nổi nữa. Bàn Tử và Muộn Du Bình lại đi lặn thêm hai lần nữa, lại mang lên một số món đồ nhưng đều nát bét hết cả, toàn là rác rười chẳng có giá trị gì. Trong số đó có một khẩu súng Sten (*) đương thời đã nát như một que cời lò, Bàn Tử vốn rất thích súng nên tiếc ra mặt.
Bàn Tử cũng đã thấy khu trại chìm dưới nước, hắn không khỏi kinh ngạc trước quy mô của nó, lại bảo tiếc là không mang kính lặn, nếu mang thì còn nhìn rõ hơn nhiều, cũng không vơ nhầm đống rác này lên. Sau đó Bàn Tử mày mò khắp nơi tìm vật thay thế, lục tung hết mớ trang bị, cuối cùng cũng tìm được cái chao đèn pin. Nhưng món đồ này không thể bịt kín, Bàn Tử lại nổi hứng ra một quyết định cực kỳ trái khoáy: hắn gắn chao đèn pin lên mắt mình, chỗ nào hở ra thì bôi dầu trơn dán băng dính, sau đó dùng sức ép chặt, như thế có thể đảm bảo một con mắt có thể nhìn xa trong nước. Bàn Tử lặn xuống vùng nước nông để thử nghiệm, nhưng lập tức bị nước tràn vào chao đèn, hương án này coi như vứt. Không còn cách nào khác, hắn đành dặn dò tôi bao giờ trở về huyện thành với A Quý nhớ tìm đại một tiệm bán đồ thể thao nào đấy, mua trước vài món trang bị bình thường cho hắn xài.
Chương 23: Dòng chảy
Edit: Ala Ju
Beta: Thanh Du
*****
Tóm lại là, sau khi trở về Ba Nãi, đầu tiên tôi ăn một bữa rồi không ngừng không nghỉ đi đến một huyện thành gần đó, mua vài vật dụng bơi lội và dặn A Quý mang về, sau đó lên xe khách cỡ nhỏ rời khỏi Thập Vạn Đại Sơn.
Dọc đường xóc nảy ầm ầm, trong lòng lại sốt ruột, hiển nhiên là cực kỳ khó chịu.
Trên xe tôi gặp người bà con xa của lão Bàn Mã nói rặt một giọng Bắc Kinh, xem ra có tâm sự rất nặng nề, cả đoạn đường không hề lên tiếng, chỉ đăm đăm suy nghĩ chuyện gì, cũng không nhận ra tôi nữa.
Về đến cảng Phòng Thành, chọn một khách sạn rồi tôi bắt tay vào xử lý công việc.
Trước đây tôi từng đặt mua đồ, cũng biết những chuyện mờ ám và khó khăn trong đó nên tôi tiến hành rất có trật tự. Trước tiên gọi điện cho Phan Tử để anh mang tới một ít trang bị vì anh quen thuộc cửa nẻo, hiệu suất cũng cao nhất; tiếp đó lại gọi Vương Minh đến hỗ trợ, tôi cần một người nằm vùng.
Phan Tử nghe nói tôi cần trang bị lại hơi lo lắng, tôi cũng đành lừa anh, bảo là người khác nhờ tôi làm anh mới chịu đồng ý.
Người và vật năm ngày sau sẽ tới, ở cảng Phòng Thành tôi thuê một chiếc xe tốt để chở đồ thẳng đến Ba Nãi. Quốc lộ Bàn Sơn cheo leo hiểm trở, mà tôi chỉ có bằng lái cấp C cho phép lái xe từ 9 chỗ ngồi trở xuống, lần này nhắm mắt lái xe to là rất liều mạng, mấy lần suýt phi xuống vực. Do cả hành trình đều lái xe nép sát vào vách núi nên hai bên đầu xe bị va quẹt đến biến dạng, đến khi xuống xe hai chân Vương Minh đã mềm nhũn.
Những con đường ở Ba Nãi đều là đường rải cát đá hỗ trợ cho hộ nghèo, đến đoạn cuối cùng không tài nào đi tiếp được. Mà trời lại đổ mưa rào, nên tôi đành leo xuống chuyển qua xe nhỏ. Trang bị từ xe lớn phải dùng ba toa xe kéo mới chở hết vào làng, đến đây hết thảy đều thuận lợi, nhưng từ ngày tôi đi đến khi trở lại thôn Ba Nãi đã mất hai tuần.
Vốn đã hẹn với A Quý ra đón ở đầu thôn, trước hết chuyển đồ đạc tới nhà anh ta, nhưng đến khi dỡ hàng ở đầu thôn lại không thấy người của anh ta đâu cả. Tôi đã mệt bở hơi tai nên cũng hơi cáu, bèn bảo Vương Minh ở lại đầu thôn rồi đích thân đến nhà tìm A Quý.
Tòa nhà vừa là phòng khách vừa là phòng ăn mà chúng tôi ở lần trước giờ đây cửa đóng then cài, gõ mãi không thèm nhúc nhích, tôi đành phải tới căn nhà gỗ anh ta ở. Cửa nhà gỗ lại đang mở, đây là nơi ở của mấy người Vân Thái. Đại sảnh cũng gần giống với căn nhà chúng tôi trọ, ở đây không có bếp nên trông sạch sẽ hơn nhiều, trong góc nhà chất đống một mớ khung màu họ bện để bán cho khách tham quan. Trên tường dán vài bức tranh tết, khuê phòng của hai chị em ở nhà trong, A Quý ở phòng bên cạnh, ngoài ra còn có một cầu thang gỗ dẫn lên lầu hai.
Người dân ở đây thành thật chất phác, cửa lớn đều không khóa, phòng bên trong cũng chỉ có rèm che. Tôi gọi vài tiếng rồi cẩn thận bước vào, phát hiện không có ai mới gọi vọng lên lầu mấy tiếng nhưng vẫn không người đáp, hình như cả nhà đều đi vắng hết.
Trong lòng tôi bắt đầu chửi rủa, mẹ kiếp A Quý làm sao vậy? Đã hẹn phái người đứng đó chờ tôi sao lại cho tôi leo cây? Chẳng lẽ anh ta vào núi rồi? Vậy thì chết toi! Ở đây tôi chỉ quen biết mỗi mình anh ta, không biết phải chờ đến đời tám hoánh nào anh ta mới về nữa! Khi ấy tâm huyết tôi dâng trào, tuyệt không mê tín, sợ có thể anh ta làm việc trên lầu không nghe thấy, bèn bước thẳng lên lầu, vừa đi vừa gân cổ lên gọi tiếp.
Giữa lầu một và lầu hai có một tấm liếp đan bằng tre trông như cánh cửa đặt trên sàn gác, tôi nhanh chóng đẩy ra rồi bò lên, bên trên là một hành lang, đoạn cuối hành lang dẫn đến một bên ban công gỗ. Tường trúc cũng đã cũ, xem ra đều thó được từ mấy căn nhà gỗ bỏ hoang. Hai bên mỗi bên có một phòng, một bên dùng để chứa đồ đạc, trong phòng toàn là khung bện và da thú được căng ra phơi khô; còn bên kia đóng chặt, gõ cửa một hồi cũng không thấy gì, giống như người bên trong đã đi vắng.
Tôi thở gấp vài hơi để bản thân tỉnh táo lại, nổi giận cũng không được gì. Lúc này đột nhiên nhớ đến lời A Quý nói, đằng sau cánh cửa này hình như là phòng của con trai anh ta.
Tôi chỉ mới nghe anh ta nhắc đến con trai chứ vẫn chưa bao giờ được gặp, có lẽ nó bị tàn tật nên không hay gặp người, sao hôm nay cũng không ở nhà chứ? Nổi máu tò mò, tôi nhòm qua khe cửa thì thấy bên trong tối mù mù, chỉ thấy trên tường treo rất nhiều đồ đạc mà không nhìn rõ là cái gì, hình như đều là giấy, nhưng quả thực không có người, hơn nữa cũng không thấy vật dụng sinh hoạt thường ngày nào, căn phòng trống huơ trống hoác.
Quái lạ, con trai anh ta ngủ trong kiểu phòng như thế này hả? Phòng này làm sao cho người ở được? Muốn đẩy cửa bước vào xem cho kỹ nhưng cửa vẫn không nhúc nhích, hình như có then cài khóa kín rồi. (bạn Tà quá liều mạng, phải mình mình xách dép chuồn ngay rồi bạn lại còn muốn xông vào nữa ORZ)
Tôi không có thời gian suy nghĩ những chuyện này, bèn nén tò mò bước xuống lầu tìm hàng xóm hỏi thăm. Họ nói lâu rồi không thấy mặt A Quý đâu, hình như hai tuần trước đi vào sau núi đến giờ vẫn chưa trở ra. Có điều họ cũng không dám chắc vì anh ta thường ra ngoài tiếp khách, mấy ngày nay mưa lớn nên con gái nhỏ của anh ta đã tới nhà ông nội ở thôn bên.
Tôi chửi thề một tiếng, hai tuần trước cũng chính là lúc tôi rời khỏi đây, xem ra anh ta vào núi lần thứ hai rồi không ra nữa, cũng có thể anh ta đã quên béng lời dặn ra đón tôi rồi.
Thật là bó tay, tôi cũng chỉ còn cách tự bỏ tiền gọi dân làng hỗ trợ. Trước tiên chuyển trang bị đến nhà A Quý để Vương Minh trông coi, sau đó nhờ người hàng xóm kia tùm giúp một người dẫn đường vào núi, rồi mang theo một số trang bị trong khả năng đi vào núi, sau đó đổi cho A Quý ra, tìm người vác trang bị vào.
Nhưng vừa hỏi thăm, tôi lập tức hiểu ra vì sao A Quý không trở ra tiếp ứng.
Thì ra sau khi tôi rời đi, trời đổ mưa tầm tã mấy ngày liền, cả ngọn toàn là bùn nhão lẫn với đất đá sạt lở, đừng nói đi bộ ra, mà dù có mang theo mười mấy người dắt la vào núi cũng có thể chầu trời trong vài giây, rất có thể họ đều bị vây trong núi.
Chuyện xảy ra quá bất ngờ, nhất thời tôi cũng không biết phải làm sao. Người hàng xóm kia bảo tôi không cần lo lắng quá, A Quý biết phải đối phó thế nào. Họ chỉ cần chờ ở ven hồ, cùng lắm chỉ phải dầm mưa, sẽ không gặp nguy hiểm gì quá lớn. Nhưng nếu tôi muốn vào trong núi thì phải chờ ít nhất một tuần, nếu mưa vẫn không tạnh thì có thể còn phải chờ lâu hơn. Thời tiết này cũng chẳng có thợ săn nào chịu giúp đỡ, vấn đề ở đây không phải là tiền.
Một tuần, tôi tính lại thì thấy không ổn. Nếu A Quý vẫn chưa về thì đã hai tuần họ không được tiếp tế, đồ ăn rất có thể đã hết sạch, dù có thể đi săn nhưng trời mưa to như thế có con mồi hay không cũng là vấn đề.
Dù họ chịu đựng được thì tôi cũng không thể trì hoãn thêm một tuần, bèn ra giá gấp ba để tìm người cần tiền không cần mạng. Cuối cùng người hàng xóm bị hỏi nhiều phát phiền, bèn bảo tôi dưới thời tiết này dám đi vào núi chỉ có một người, chính là lão Bàn Mã, hay là anh qua đó hỏi ông ta xem?
Chương 24: Tâm lý chiến (2)
Edit: Hoa Cúc
Beta: Thanh Du
*****
Cầm khối sắt lên, gỡ lớp giấy báo bên ngoài ra quan sát, một tia sáng chợt lóe lên trong đầu, tôi nhớ ra một câu khác mà ông nội đã nói. Nhìn lại khối sắt trong tay, tôi đã nghĩ ra một sách lược hoàn chỉnh, cẩn thận ngẫm lại thì thấy không chê vào đâu được.
Tôi trở lại phòng của A Quý, Vương Minh toàn thân ướt sũng, đang vắt quần áo cho khô bớt đi. Tôi cũng cởi quần áo, không thèm khách khí nữa, bước thẳng vào phòng A Quý lấy rượu ra làm mấy ngụm cho đỡ khô miệng, sau đó thì suy nghĩ xem tiếp theo mình nên làm gì.
Nói thật, tôi chưa bao giờ tưởng tượng ra tình huống như thế này, gặp chuyện thì hoàn toàn trở tay không kịp. Việc này khiến tôi nhớ lại một khái niệm mà trước kia giảng viên từng nhắc tới, gọi là "Ấn tượng đầu tiên gây ra đánh giá chủ quan". Đây là một khái niệm trong ngành vận chuyển hàng hóa, sau này được ứng dụng vào rất nhiều ngành nghề. Nghĩa là trong bất kỳ mắt xích nào cũng nhất định phải cân nhắc lại một lượt tất cả mọi điều kiện, không thể có yếu tố "chắc hẳn". Trong ngành vận chuyển hàng hóa có rất nhiều việc cần cân nhắc, bao gồm cả thời tiết, tôn giáo, chu kỳ bãi công thông thường, mọi chi tiết đều phải được tính toán đầy đủ khi nhập vào mỗi cảng, mới có thể cam đoan mọi việc suôn sẻ.
Đối với thời tiết nơi đây, tôi bị ảnh hưởng bởi ấn tượng chủ quan, người không biết mùa mưa ở Quảng Tây đáng sợ đến nhường nào mới có thể không tính đến yếu tố khí hậu.
Chuyện hôm nay đã trở nên cực kỳ khó giải quyết. Bọn họ nói hoàn toàn không thể dự đoán khi nào trời tạnh mưa, hơn nữa cho dù tạnh thì một thời gian sau trong núi vẫn vô cùng nguy hiểm, vì vậy thời điểm có thể lên núi sớm nhất là một tuần, mà muộn nhất có thể là hơn một tháng.
Tôi chẳng thể mong chờ ông trời chiếu cố, lên núi ngay lập tức là việc đúng đắn nhất.
Nhưng bây giờ mà đi tìm lão Bàn Mã xin giúp đỡ thì khả năng thành công thật sự không lớn. Lần trước lúc lừa ông ta tôi đã nói sẽ không tới tìm ổng nữa, bây giờ lại đến nhờ vả thì sẽ không khớp với ấn tượng mình có một thế lực rất lớn chống lưng mà tôi đã để lại cho lão, lập tức lòi đuôi ngay. Mà lòi đuôi rồi, lão không đánh tôi đã là phúc, chứ đừng nói đến việc giúp tôi.
Suy đi nghĩ lại, tôi tự nhủ không thể lùi bước. Nếu đi tìm lão Bàn Mã là biện pháp duy nhất thì chỉ có thể kiên trì đến cùng, phải tìm một cách nói thật khéo léo để khiến lão mắc câu.
Bàn Mã là một con cáo già, có trí tuệ đặc hữu của thế hệ ấy, làm sao gài lão mắc câu thật sự là một việc khó khăn. Nghĩ tới nghĩ lui mà không ra cách nào ổn thỏa, mẹ kiếp việc này thật khó nhằn! Tôi đột nhiên xuất hiện, nhờ lão dẫn tôi vào núi, chuyện này bản thân nó vốn không có sức thuyết phục. Nếu như ngay cả việc lên núi tôi còn không làm nổi, thì càng không có khả năng uy hiếp lão.
Điều đầu tiên tôi phải xác định rõ chính là thái độ của tôi không thể là cầu xin, mà phải là uy hiếp hay ép buộc. Thà cứ để lão nghĩ tôi là một tên xấu xa có thế lực, chuyên lật lọng, không từ thủ đoạn để đạt được mục đích cũng không thể để lão nhận ra tôi là một cái thùng rỗng.
Tiếp theo tôi phải đánh trống lảng, không cần biết là viện lý do gì để lão dẫn tôi lên núi, thì lên núi chính là lên núi, dùng lý do này đến tìm lão khác nào bảo lão tôi không có thể làm được việc này. Một tên xấu xa thế lực mạnh có thể thất thế ở địa bàn khác, nhưng không thể không đủ sức lên núi. Tôi phải che giấu mục đích thật sự, khiến lão tưởng rằng tôi cần lão làm chuyện khác, lên núi chỉ là một việc tất yếu phải làm.
Thứ nhất, là phải ép buộc. Thứ hai, không thể lộ ra biểu hiện vô năng. Phải dùng việc gì để che giấu đây?
Cứu A Quý và Vân Thái?
Không thể được. Như thế quá lương thiện. Nếu tôi là một kẻ lạnh nhạt vô tình không từ thủ đoạn, cái phẩm chất lương thiện này không thể tồn tại được. Hơn nữa, con người lão Bàn Mã có một loại tính ác trời sinh, một khi tôi bộc lộ ra sự thiện lương, lão lập tức có thể áp đảo và uy hiếp ngược lại tôi, do đó tôi không thể bộc lộ ra nhược điểm trong tính cách.
Nói cần lão qua đó để nhận diện vật gì ngay tại chỗ?
Hình như có hơi gượng ép, không đủ sức thuyết phục đêr lão nhất định phải nghe theo. Hơn nữa nếu làm vậy, tôi muốn giả cũng không biết phải giả giọng điệu như thế nào cho giống. Mặt khác, cứ cho là lão đồng ý, thì khi thấy chỉ có mình tôi đi cùng lão sẽ khó tránh nảy sinh nghi ngờ. Bản lĩnh của tôi trong mắt lão chắc chắn là càng nhìn càng giống với phường yếu kém, không chừng gặp nguy hiểm còn phải nhờ lão cứu. Cứ tiếp tục như thế, rồi sẽ chẳng thể khống chế tình hình.
Nghĩ mãi nghĩ mãi, đầu cũng muốn to ra, tôi cảm thấy việc này không giống với mấy lời khách sáo. Lời khách sáo cũng giống như đàm phán thương vụ, bạn chỉ cần giả vờ trong lúc đàm phán là xong. Nhưng việc này đàm phán xong, tôi còn phải đi cùng lão, trên đường đi luôn phải đóng kịch trong điều kiện khắc nghiệt như thế, độ khó là quá cao.
Tôi day huyệt Thái Dương, muốn xua hết tâm địa xấu xa ra khỏi đầu. Mẹ kiếp! Thử nghĩ theo hướng khác, nếu giả vờ không được, có lẽ phải dùng đến biện pháp cực đoan hơn chăng?
Bắt cóc? Đầu óc tôi chớp động: Đánh ngất ông lão, sau đó quẳng lên xe lừa?
Nhớ tới thân thủ của Bàn Mã, nhìn lại Vương Minh và bản thân, tôi tức khắc bỏ cuộc. Đệt! Bắt cóc? Không chừng còn bị lão chém chết ngay tại trận.
Bắt cóc không được, vậy cứ trực tiếp đưa thật nhiều tiền, làm dữ một chút, cầm hai ba mươi vạn đập vào mặt lão?
Nghĩ đến gia đình Bàn Mã có phần khó khăn, lại thêm thái độ của con lão, thoáng chốc trong đầu đã nghĩ ra một kịch bản: Cứ nói tôi cần loại khối sắt này, trong vài ngày phải tìm ra, một khối bao nhiêu tiền rồi bảo lão mò lên, tôi sẽ trả một vạn cho mỗi một khối lấy được. Nếu thế, may ra bọn họ sẽ vì tiền mà lên núi.
Cảm thấy cách này có phần khả thi, tôi bắt đầu lục lọi trên người mình. Hai ba mươi vạn không phải con số lớn, nhưng tôi đâu thể mang chừng ấy theo người. Móc hết tiền mặt và mấy thứ đố linh tinh trên người ra, đếm thử thì chỉ có bốn vạn. Trong thẻ có tiền, nhưng nếu cần thì phải lên thị trấn rút.
Ngẫm lại một chút, cảm thấy đại khái đã ổn, vừa định bảo Vương Minh xuất phát, trong đầu lại lóe lên một tia sáng.
Không được! Đây không phải sách lược vẹn toàn! Tuy chắc rằng Bàn Mã rất có thể sẽ đồng ý, nhưng rốt cuộc vẫn chưa chắc chắn trăm phần trăm, lỡ đâu ông lão từ chối thì sao?
Một khi lão đã từ chối, tôi sẽ không có cơ hội thứ hai.
Ông nội từng nói, làm chuyện gì cũng có thể có thất bại, nhưng không thể thất bại khi không còn cơ hội thứ hai.
"Xác suất thành công của mỗi biện pháp có thể chưa đến 50%, thậm chí có thể chỉ là 10%, nhưng nhất định phải chừa lại đường sống, như vậy thật ra sau này vẫn còn lại vô số lần xác xuất 100%."
Chương 25: Gió mặc gió, mưa mặc mưa.
Edit: Earl Panda
*****
Vốn chuẩn bị rất nhiều cớ để giải thích, định bụng xoáy sâu thêm nữa vào nỗi sợ hãi của lão ta, nhưng lại hoàn toàn không cần thiết. Tôi chỉ cần nói vài câu, lão đã sợ khiếp vía rồi.
Muốn đấu với người khác, thì cứ tấn công thẳng vào điểm yếu của hắn.
Mà điểm yếu của Bàn Mã, chính là nỗi khiếp hãi trong lòng lão. Không cần phải nói gì hết, tôi hoàn toàn có thể bóp nát tâm lý lão ta.
Có điều, mọi việc cũng không suôn sẻ như tôi tưởng, bởi vì lão ta thực sự sợ quá, gần như đạp cửa mà chạy, có lẽ lão thà chết cũng không muốn đến chỗ những người đó nữa.
Tôi phải thuyết phục lão từng chút từng chút một, cuối cùng phải chốt lại cho lão một câu, nhất định phải kết thúc chuyện này thôi, bằng không con cháu lão ta sẽ phải gánh xui xẻo thay. Đến tận lúc bấy giờ mới ép được lão ưng thuận, mềm lòng một cái, mới chịu bằng lòng liều mạng dẫn tôi vào núi. Về phần vào núi làm gì? Tôi không nói, lão cũng không hỏi.
Đương nhiên, trên danh nghĩa thì là lão theo tôi vào núi, nhưng thực tế thì lại là tôi bám theo lão ta. Dù sao thì trong đường núi, tôi đi đằng trước hay đằng sau cũng chả khác biệt gì.
Nhìn dáng vẻ của lão, tôi có cảm giác tội lỗi vô cùng.
Vì lợi ích của cá nhân mình mà dọa một lão già khiếp sợ đến mức như thế, vốn đã chả phải điều gì hay ho rồi, ấy vậy mà tôi lại còn ép lão theo tôi vào trong núi đầy hiểm nguy. Hành vi này khiến tôi nghĩ mà ghê tởm, cảm thấy bên trong tôi thực sự chảy chung dòng máu với bọn chú Ba, cái thứ bản năng gian trá tàn nhẫn từ trong huyết mạch này.
Những chuyện sau đó chỉ cần nói vắn tắt lại. Chúng tôi sắp xếp đồ đạc nửa ngày rồi mới xuất phát. Mới đầu tôi còn đi phía trước, Bàn Mã phía sau, nhìn thì tưởng tôi đi dẫn đường, thực ra là tôi vốn ù ù cạc cạc chả biết gì.
Suốt đoạn đường chúng tôi đi không ngừng nghỉ, lại một cơn mưa to như trút nước ập đến, đường núi khó đi cực kỳ, cũng may lúc trước khi ở cảng Phòng Thành đã nghỉ ngơi dưỡng sức đầy đủ, cho nên tôi vẫn chịu đựng được. Dọc đường đi Bàn Mã không nói một câu, tôi cũng chẳng ừ hử gì với lão, chỉ cắm đầu mà đi.
Chỉ vài hôm là tôi đã trở lại bên cái hồ kia, vừa nhìn ra xa xa, ôi mẹ ơi! Mực nước hồ phải tăng ít nhất là năm, sáu mét, loáng cái mặt hồ đã rộng mênh mông hơn trước, hoàn toàn khác với cảnh tượng sóng nước dập dờn lúc trước. Núi Giác Dương bây giờ mưa xối ào ạt, nước bùn từ trên cao xối thẳng xuống, tung tóe khắp nơi, trông dữ tợn cực kỳ.
Lúc này người ở trên núi thì nguy hiểm quá, chúng tôi vội vàng xua la đi, lội qua nước bùn, đi men theo con đường mòn nhỏ xuống thẳng bãi đá ven hồ.
Ở trong núi, tiếng mưa tạt vào lá cây nghe đinh tai nhức óc, càng đừng nói lúc xuống đến bên hồ, mưa rào xối xả đập xuống mặt hồ, phát ra thứ âm thanh với tần suất đều tăm tắp, vang vọng khắp trời đất, khiến người ta chẳng thể nói chuyện được gì vì quá ầm ĩ.
Mấy con chó săn của Bàn Mã cứ lồng lên không yên, cũng không chịu đi theo nữa, Bàn Mã đành phải để kệ chúng nó trốn dưới tàng cây sát mép bãi đá.
Không còn tán cây che chắn phía trên, màn mưa trực tiếp dội xuống đầu, tầm nhìn hạ xuống cực thấp, chúng tôi cố kiết kéo con la đi về phía cái lán che mưa đã dựng từ trước. Trong màn mưa bất chợt trông thấy một cái bóng mờ mờ lóe lên, hình như là Bàn Tử.
Tôi biết có gọi cũng vô dùng, cho dù đứng mặt đối mặt với nhau mà gào cũng chẳng nghe thấy gì nữa là. Tôi bèn tiếp tục tiến về phía trước.
Đúng lúc này, không biết vì sao, con la bỗng nhiên khựng lại. Quay lại nhìn, hóa ra là do Bàn Mã kéo giựt lại. Rõ ràng lão ta nghĩ rằng đã đến được mục tiêu, phải đợi nghe chỉ thị của tôi.
Trải qua mấy ngày nay, tôi thấy lão ta cũng nghĩ thông rồi, không khiếp sợ như lúc trước nữa. Hơn nữa, xem ánh mắt thì hình như lão đã hạ quyết tâm gì rồi, toàn thân âm trầm cực kỳ, đến mức tôi trông mà cũng hơi sợ.
Con người chính là như vậy, một ngày hai ngày còn hù dọa cho khiếp vía được, chứ ngày nào cũng dọa liền chai lỳ ngay.
Đến đây rồi thì koong cần giả bộ nữa. Kỳ thực, chặng cuối của quãng đường tôi cũng không vờ vịt gì nữa, vì tôi quá mệt rồi, trái lại, bây giờ tôi bắt đầu suy nghĩ xem nên giải thích với Bàn Mã như thế nào về cảnh tượng lão ta sắp nhìn thấy. Nếu như nói thực cho lão biết thì chỉ sợ lão giết phứt tôi luôn mất, mà nếu tiếp tục lừa bịp nữa thì lại rất khó, cũng quá là vô nhân đạo nữa.
Tôi không biết nên nói với Bàn Mã như thế nào, mà chỉ cần bọn A Quý xuất hiện là lộ tẩy ngay. Tôi định trước thương lượng với Bàn Tử cái đã, hoặc là trốn biệt luôn, chờ lão hết cơn giận hẵng thò mặt ra. Thế là tôi bèn bảo lão đứng yên tại chỗ đừng nhúc nhích, còn tôi thì buông dây cương, đi tìm bọn Bàn Tử trước, tiện thể báo bọn họ qua đây giúp dỡ đồ nữa.
Nhưng chưa đi được mấy bước, xuyên qua màn mưa nhìn về phía trước, bóng người ban nãy lại thoáng hiện ra, nhưng hình dáng có vẻ kỳ quái.
Không để tôi kịp nhìn kỹ xem đó là ai, đột nhiên sau gáy tê rần lên, trước mắt tối sầm đi, ngã dúi dụi xuống đất, may là chưa ngất xỉu.
Tôi lăn một vòng rồi lồm cồm bò dậy, thấy Bàn Mã sắc mặt xanh mét đứng sau lưng tôi, một tay lăm lăm con dao săn đã rút ra, trong mắt toàn là sát ý.
"Ông làm cái gì đấy?" Tôi gào lên.
Lão giơ dao lên, rồi lại bổ về phía tôi.
Mẹ kiếp! Tôi cuống cả lên, lăn ngay một vòng để né. Con dao của Bàn Mã vạch một đường vòng cung tuyệt đẹp trong màn mưa, bổ thẳng về phía cổ họng tôi, tôi lảo đảo vừa kịp né một cái, ngã ngồi xuống đất, bấy giờ mới nhận ra lão ta đang ra đòn sát thủ.
Nhìn ánh mắt kia, còn cả vẻ mặt không đổi suốt dọc đường nữa, tôi nghĩ bụng toi rồi, cứt thật! Đúng là người này đã nghĩ thông suốt trên đường, nhưng mẹ kiếp lão nghĩ thông chính là muốn tiên hạ thủ vi cường, liều mạng với bọn tôi! Giết sạch cả đám chúng tôi là xong! Mẹ, đúng là phiền to!
Tôi nghĩ mà chạy, vừa chạy được vài bước, Bàn Mã đã sấn đến trước mặt tôi rồi, vung ngang dao mà chém. Tôi gào lên tôi sai rồi, tôi lừa ông đó, không có việc gì đâu, chỉ là bọn họ vẫn chưa quay về thôi, thế mà mả mẹ nó lão ta đếch thèm nghe lọt tai chữ nào.
Suốt một đường bôn ba, tôi đã không chạy nổi nữa rồi, giằng co với lão trong mưa chưa được bao lâu bèn cắm đầu cắm cổ chạy về phía cái lán, nào ngờ giẫm phải một tảng đá có cạnh sắc, ngã nhào xuống. Bàn Mã lập tức xông đến đè tôi xuống, tôi vớ bừa mấy hòn đá mà ném, nhưng lão ta đều né được cả.
Mắt thấy lưỡi dao của lão lại vung đến đây, bỗng nhiên lão khựng lại, hình như nhìn thấy cái gì đó, quay phắt về một phía khác. Tôi thừa cơ bò dậy tiếp tục chạy, nhưng lập tức nhận ra khắp xung quanh chúng tôi xuất hiện rất nhiều bóng người đứng trong màn mưa, vây chúng tôi vào giữa.
Chương 26: Bóng ma trong mưa
Editor: Ala Ju
Beta: Thanh Du
*****
Mấy bóng người kia cũng đung đưa, khi thì xuất hiện, chốc chốc lại biến mất trong màn mưa. Họ nhòm ngó như những hồn ma, vừa nhìn đã biết không có ý tốt, hình như đang quan sát chúng tôi hết sức chăm chú, lay động tùy thời khiến người ta không rét mà run.
Ý niệm đầu tiên lóe lên trong tâm trí tôi chính là phỏng đoán trước đó: trong thôn có người đang lén lút ngăn cản, đến bây giờ rốt cuộc họ cũng động thủ, muốn chặn giết chúng tôi tại đây.
Loạn rồi! Một bên là Bàn Mã, một bên là đội ngũ đông đảo muốn chặn giết, chó má! Mẹ kiếp chết chắc rồi!
Tôi nhìn lướt qua một vòng, phát hiện nơi này có chừng bảy người, không biết bọn họ muốn làm gì cơ chứ? Đây gọi là mai phục ở chỗ này sao?
Tôi lau mặt một cái cho hết nước mưa, nhưng mưa lớn thoắt cái đã rơi đầy mí mắt. Những bóng người kia vẫn mơ mơ hồ hồ không thấy rõ, không biết họ mang theo vũ khí gì.
Tôi cũng không nhìn rõ vẻ mặt của Bàn Mã, bởi hai bên vẫn duy trì khoảng cách. Chỉ thấy lão khựng lại một chút, rồi đột nhiên đâm bổ vào một cái bóng trong số đó.
Mới đầu tôi sợ hết hồn, nhưng ngay sau đó đã hiểu ra lão nghĩ gì: lão coi mấy cái bóng này là những người kia!
Trong hoàn cảnh này thì dẫu là ai cũng không thể ung dung mai phục hay chặn giết người khác được, cho nên thay vì chờ cho đối phương nhìn rõ tình thế, chi bằng lập tức nhào tới. Như thế mấy người này sẽ rơi vào hoàn cảnh hỗn loạn, chỉ cần họ rối trí một chút sẽ không thể phân biệt được đâu là địch đâu là bạn, cho lão cơ hội mà lợi dụng.
Tôi không biết chuyện này với tôi là tốt hay xấu, mà hiện giờ cũng không nghĩ nhiều được như thế, lập tức chạy theo sau lão. Bọn họ vây kín chúng tôi, Bàn Mã một khi đánh nhau với bọn họ nhất sẽ có sơ hở cho tôi thừa cơ trốn thoát.
Không thể quay lại lều trú mưa, nếu những người này đã chờ ở đây từ sớm thì chẳng biết tình hình của mấy người A Quý và Muộn Du Bình ra sao rồi. Bản lĩnh của Muộn Du Bình và Bàn Tử dù có cao cường đến đâu thì mỗi người chỉ có một cây súng cũng đi đời nhà ma rồi, huống hồ còn bị A Quý và Vân Thái liên lụy.
Chạy trên bãi đá vừa trơn lại vừa lởm chởm này không khác nào diễn xiếc, mới chạy được mấy mét đầu gối đã bầm dập. Tôi bám theo Bàn Mã đang nhào vào một cái bóng phía trước, nhưng vì khoảng cách thay đổi nên những cái bóng vây quanh bốn bề đều không dễ nhìn ra, cũng không thấy rõ động tác của bọn họ.
Bàn Mã đâm thẳng vào cái bóng kia, dao trong tay cắt ngang màn mưa, không thể nhận ra động tác ấy lại là của một ông lão tám mươi tuổi.
Lạ một nỗi, cái bóng vẫn đứng trơ trơ ra, dường như không hề để ý đến đòn tấn công ác liệt ấy.
Trong chưa đầy mười giây, chúng tôi đã lao đến sát sạt cái bóng kia, mũi dao của Bàn Mã đổi chiều, chẳng những không chém lên mà còn khựng lại. Kế đó lão hét thảm một tiếng, dao rớt xuống đất, người bắt đầu điên cuồng lùi lại, rồi vấp phải tảng đá ngã sóng xoài.
Tôi từ bên cạnh bước tới nhìn, chân tướng của cái bóng hóa ra lại là một bộ xương khô đứng thẳng! Trên người bộ xương là quân trang và vũ trang đã mục nát thành những miếng vải đen, lưng đeo súng tiểu liên đã rỉ sét.
Da đầu tôi tê đi, lập tức lùi lại một bước, thầm nghĩ cái đệt! Mẹ nó đây là cái của nợ gì? Lẽ nào những người chết kia thật sự bơi từ dưới nước lên bờ?
Tôi có khả năng chịu đựng cú sốc tâm lý tốt hơn Bàn Mã rất nhiều, khi mưa đột ngột trút xuống tôi đã để ý thấy bộ xương khô kia chỉ dùng cành cây chống đỡ, sau lưng có một cái giá làm bằng củi.
Nơi này sao lại có người chết? Bọn họ tìm thấy thi thể dưới đáy hồ?
Tôi rùng mình ớn lạnh, nhìn kỹ mớ hài cốt kia thì thấy quả nhiên không sai. Phán đoán dựa vào quần áo và vũ trang bị nước ăn mòn, thì đây nhất địnhlà một người lính, xem ra giả thiết của tôi không sai.
Cái quái gì vậy? Nhát ma người ta à? Hay là Bàn Tử giở trò đùa dai?
Lão Bàn Mã khiếp sợ vô cùng, khi tôi quay đầu lại nhìn thì lão đã mất hút, chạy đến chỗ con la vẫn không thấy lão đâu cả.
Đầu tôi đau muốn chết, nhìn đến những cái bóng khác thì phát hiện chúng đều là xác chết, tổng cộng có thể tìm ra bảy khối, những nơi khác có còn không thì chưa thể khẳng định được.
Trời đổ mưa tầm tã, tôi không tài nào tìm được Bàn Mã, nên đành chuẩn bị đi hội quân với A Quý trước, báo cho họ biết nơi này còn có người khác.
Mấy con la có vẻ sợ những xác chết này, xua đuổi thế nào cũng không thèm nhúc nhích. Tôi đành phải cột chúng vào tảng đá, sau đó đi vòng qua mấy xác chết, đi thẳng về phía căn lều trú mưa trước mặt.
Lều trú mưa rõ ràng đã được gia cố, giữa cơn mưa lớn vẫn sừng sững không đổ, tôi vừa bước vào liền cảm thấy bốn bề lập tức trở nên yên tĩnh, nhìn quanh một vòng không thấy họ đâu.
Tôi lại chửi thầm trong bụng, mưa to thế này chẳng lẽ còn xuống nước? Mẹ kiếp, hay là xảy ra chuyện gì rồi?
Trong căn lều chồng chất rất nhiều đồ đạc được vớt từ dưới nước lên. Trong hai tuần tôi đi vắng, thành quả của Bàn Tử và Muộn Du Bình cũng thật ấn tượng.
Trong đống đồ này, những thứ bằng kim loại đều đã gỉ nát. Tôi thấy có ấm nước, súng trường súng lục, kính viễn vọng, chủy thủ dao bầu, đều là trang bị vũ khí thời đó, đúng là mang đậm không khí chiến tranh. Ngoài ra còn có rất nhiều đồ dùng hàng ngày như hộp bánh bích quy, cực kỳ chu đáo, cái gì cũng đủ, có lẽ nó được tìm thấy trong những vật thể lớn được vớt lên từ dưới đáy hồ.
Nghĩ đến mình không có hàng nóng phòng thân, tôi nhặt lên một lưỡi lê ba cạnh kiểu 56 (*), lưỡi lê này rất nổi tiếng nhưng thời bấy giờ thật ra cũng không hay được dùng. Dù sao cho đến những năm 1980 thì vũ khí cá nhân cũng có hỏa lực rất mạnh, bình thường chỉ thời điểm thi hành nhiệm vụ đặc thù mới dùng đến lưỡi lê. Chiến đấu trong rừng, người Việt Nam cũng sẽ không đấu lưỡi lê với anh.
Do nguyên liệu chế tạo tốt nên lưỡi lê cũng không hư hỏng quá nhiều, tôi nghe nói trên loại dao này thường tẩm độc nên rất cẩn thận trở tay cầm, nghĩ xem nên làm gì tiếp theo. Má! Sao lúc nào cũng phải sống chung với mưa lớn, gọi thì không nghe, nhìn cũng không rõ.
Nghĩ bụng mình ở trong lều lại trở thành mục tiêu quá lớn, không khéo Bàn Mã sẽ tìm đến truy sát, tôi lại lao vào cơn mưa, chạy đến ven hồ xem A Quý và mọi người có ở đó không.
Đi đi lại lại vài vòng, chợt thấy có người đứng gần mép nước đang kéo bè gỗ lên bờ, tôi xông tới thì nhận ra bóng lưng mỏng manh đang kéo bè đó là A Quý.
Thấy tôi xuất hiện trước mặt, anh ta ngây người, sắc mặt trắng tái thấy ghê.
"Sao chỉ có một mình anh? Mọi người đâu cả rồi?" Tôi hỏi.
Anh ta ngơ ngác đứng dại ra trong nước, cứ thế nhìn tôi chằm chằm, tôi hỏi lại lần thứ hai vẫn không hề phản ứng.
Tôi nhìn bè gỗ, vốn đinh ninh A Quý mới đi từ dưới hồ lên, chửi thầm mẹ kiếp mấy người này điên cả rồi, mưa sầm sập như thế còn ở đó mà vớt đồ! Nhưng sau đó lại thấy không ổn, nếu là như thế thì tại sao anh ta lại tự tay kéo bè trở về? Lẽ ra anh ta phải ngồi trên bờ chờ mấy người kia mới đúng chứ. Bơi trong mưa lớn rất nguy hiểm, huống chi mực nước đã dâng lên cao chừng ấy.
Mà vẻ mặt A Quý lại càng không ổn.
Tôi đến gần vài bước muốn hỏi lại cho rõ ràng, nhưng càng đến gần lại càng nhận rõ sự bất thường. Trông A Quý đờ đẫn cứ như vừa gặp chuyện gì khiến anh ta chịu kích thích cực độ, đến nỗi hồn lìa khỏi xác.
Tôi tiến lên tát cho anh ta một cái rồi gào lên: "Đã xảy ra chuyện gì?"
Lần này anh ta mới phản ứng, chớp mắt lệ đã rơi đầy mặt, mếu máo nói: "Họ... bọn họ chết cả rồi!"
Chết rồi?
Đầu óc tôi ong lên, làm sao có thể?
A Quý nói xong câu đó thì hoàn toàn suy sụp, gần như loạng choạng gục xuống mặt nước. Tôi đành phải đỡ anh ta lên dìu vào trong lều trước đã, rồi đến chỗ con la cầm mấy bình rượu gạo rót xuống, bấy giờ anh ta mới từ từ thả lỏng, nhưng tâm tình vẫn còn rất mụ mị, nói năng lẫn lộn.
Tôi vừa nghe vừa sắp xếp lại, cuối cùng cũng thông ở đây đã xảy ra chuyện gì.
———————————–
(*) Lưỡi lê ba cạnh là cái này, kiểu 56 tức là kiểu ra đời vào năm 1956.
Chương 27: Hồ ma quỷ dị.
Edit: Earl Panda
*****
Sau khi tôi rời đi, A Quý cũng quay lại một chuyến, tìm vài người giúp vận chuyển lương thực và đồ đạc đến bên hồ. Thấy không có vấn đề gì, Vân Thải bèn theo họ về nhà làm việc khác, chỉ còn mình A Quý ở đây trông.
Lúc đó, Muộn Du Bình và Bàn Tử đã vớt lên được rất nhiều thứ, đồng thời phát hiện nơi có khả năng giấu kín những cái xác kia. Nhưng trời bắt đầu mưa liên miên không dứt, mực nước dần lên cao, khiến công việc trục vớt lâm vào cảnh bế tắc.
Tuy nhiên, đúng lúc này, trong quá trình sắp xếp những đồ đạc vớt được, họ tìm thấy cả một bộ trang bị bao gồm đồ lặn, dây thừng đầy đủ. Hồi xưa người ta dùng loại trang bị lặn rất nặng, để trục vớt những khối sắt dưới đáy hồ.
Bộ trang bị lặn tuy đầy đủ nhưng do ngâm nước trong thời gian dài, phần lớn là không dùng được nữa, nhưng mũ lặn được làm bằng chất liệu chống rỉ, lại được đóng gói khá kỹ trong ba lô, cho nên không bị ngấm nước, bên trong mũ vẫn còn khô ráo, chỉ có mặt ngoài là một lớp gì đó như cao su, bong tróc loang lổ.
Bàn Tử bèn nảy ra một ý, dùng cái mũ lặn này và một phần thứ giống cao su đó, làm thành một dụng cụ lặn đơn giản, không khí bên trong mũ lặn đủ để thở khoảng bảy, tám lần. Trong không khí mà con người thở ra cũng chứa một lượng lớn dưỡng khí, chút tí tẹo không khí ấy vẫn còn khá khả quan, nếu sử dụng khéo léo thì có thể tăng số thời gian lặn dưới nước lên đến năm phút đồng hồ. Trong việc lặn, dôi dư ra năm phút so với một phút đã là cách biệt một trời một vực rồi.
Thế là họ sử dụng bộ trang bị này, tìm được những hài cốt dưới nước kia.
Bọn họ sử dụng hai sợi thừng, một sợi buộc bên hông Bàn Tử. Vì mũ lặn rất nặng, cho nên chỉ đành dựa vào sức của anh ta thôi. Có thể trong quá trình nổi lên sẽ phát sinh nguy hiểm gì đó, cho nên đến lúc đấy cần có người kéo anh ta lên. Sợi thừng còn lại thì móc đầy những chiếc móc câu bằng dây sắt uốn lại, số dây sắt này dỡ ra từ khung sắt của chiếc vali da. Bàn Tử lặn xuống nước, vớt được đồ nào thì cứ móc vào đống móc sắt ấy, thế là một chuyến lặn xuống đã vớt lên được bao nhiêu là thứ.
Toàn bộ số hài cốt rải rác ở khắp nơi, sau khi vớt lên, họ dùng cành cây ghép lại để xác định số lượng người chết, nói chung quá trình rất suôn sẻ.
Sau khi vớt hết xương cốt dưới nước lên, đến khi ghép lại, bọn họ liền phát hiện ra một vấn đề – tất cả số hài cốt này đều thiếu mất bàn tay phải.
Theo phương pháp thống kê thì hộp sọ và xương chậu là căn cứ quan trọng nhất để phán đoán số lượng các bộ hài cốt, vì các loại xương khác quá lẻ tẻ, thiếu sót cái này cái kia cũng không đáng ngạc nhiên, nhưng ngay đến một bàn tay phải cũng không có thì lại quá kỳ lạ, không thể là ngẫu nhiên được.
Bàn Tử và Muộn Du Bình bắt đầu suy xét vấn đề, nguyên nhân gì đã dẫn đến tình trạng này? Trong lúc những cái xác bị ném đi, có tình huống gì đặc biệt đã xảy ra, khiến tất cả các bàn tay phải đều đứt mất, hay là bị người ta chém đứt?
Theo những gì Bàn Mã đã kể với tôi, hoàn toàn không nhắc đến chuyện chém đứt bàn tay phải của những thi thể này, mà bọn họ cũng không có lý do gì để làm vậy. Nghĩ mãi mà vẫn không có lời giải, Bàn Tử còn nghi ngờ đám người này rặt một lũ gấu chó, bị người ta chặt mất tay gấu đem làm nem công chả phượng rồi?
Cuối cùng, A Quý kết luận: Có thể những người này vốn đã không có tay phải? Tay phải của bọn họ đều giả, làm bằng gỗ, cho nên đã rữa nát hết rồi?
Nghe đến đó, tôi lại không cho là vậy. Trái lại, tôi cứ có cảm giác, trên tay phải những người này có điểm đặc biệt nào đó, thế là người ta chặt tay họ để che giấu thân phận, hoặc là đem làm chiến lợi phẩm gì đó. Nhưng Bàn Mã lại không nhắc đến việc này, lẽ nào năm đó sau khi đám người lão ta vứt xác xong, lại có người khác đến xử lý những cái xác này một lần nữa?
Nhưng phỏng đoán này của tôi ngay sau đó bị chứng minh là sai, bởi vì A Quý sau đó nói, Bàn Tử cũng nghĩ đến việc này, bèn kiểm tra xương cổ tay của các bộ hài cốt, lại không thấy vết chém, bàn tay phải cứ như thể bị bong ra một cách tự nhiên, các khớp xương cổ tay vẫn còn nguyên vẹn.
Theo lời kể của lão Bàn Mã, đội khảo cổ nọ vẫn có tay phải đầy đủ, chứng tỏ bàn tay phải chỉ bị mất sau khi chết. Bọn họ nghĩ mãi không giải thích được chuyện này, thế là lại lặn xuống nước lần nữa để tìm đầu mối.
Lặn xuống đến gần hàng rào, vẫn không tìm thấy gì nữa, Bàn Tử bắt đầu nghi ngờ các phần xương cốt còn bị cuốn vào trong phạm vi làng cổ đằng sau hàng rào nữa.
Trước khi bắt đầu lặn, bọn họ đã có ngầm thống nhất với nhau, đó là tuyệt đối không tiến vào trong làng cổ dưới đáy hồ, chỉ hoạt động trong phạm vi khá đơn giản quanh đấy. Khu vực đằng sau hàng rào sâu hơn bên ngoài đến mấy mét, hơn nữa, thám hiểm đáy hồ có mức độ nguy hiểm rất cao, chưa ai từng khảo sát qua khu vực này, nói không chừng cấu trúc ngôi làng đã quá yếu ớt, động vào phát là sụp liền, thế thì lại càng cần thêm trang thiết bị đầy đủ hơn mới được.
Nhưng mà Bàn Tử đã không đợi được nữa, anh ta nghĩ cứ qua xem một tí cũng chẳng sao đâu. Lúc này mới xảy ra một chút mâu thuẫn. Nhưng tại tôi không ở đấy, Muộn Du Bình thì chẳng bao giờ nhiều lời gì, còn A Quý thì không thể phản bác ông chủ lớn được, thế là anh ta bèn lặn xuống đó.
Đúng lúc này, lại xảy ra một biến cố không tưởng nổi.
Sợi thừng mà họ dùng lúc đó là loại thừng nilon mà A Quý mua trên huyện, bền chắc cực kỳ, lại dài hơn 300 mét, cho nên Bàn Tử không lo lắng tí gì, lặn xuống sâu hơn nữa.
Nhìn sợi dây từ từ bị kéo xuống nước, giống như lúc trước, A Quý cũng không quá lo lắng, chỉ để ý thời gian, chuẩn bị sẵn sàng đến đúng giờ thì dùng sức kéo Bàn Tử lên.
Bọn họ hẹn thời gian là bốn phút rưỡi, bốn phút rưỡi nghe thì có cảm giác lâu, nhưng ở trên bờ thì chỉ một tí là trôi qua, không lâu sau, A Quý bắt đầu kéo dây thừng, kéo được mấy cái, đột nhiên sợi thừng căng lên, kéo thế nào cũng không nhúc nhích, như là bị cái gì ở dưới đó cắn giữ lại vậy.
Suy nghĩ đầu tiên của anh ta là có lẽ bị kẹt ở chỗ hàng rào rồi, lúc trước tình huống này cũng từng xảy ra, có điều, hàng rào bị ngâm nước không biết bao nhiêu năm, xốp mềm cứ như bánh bao Vượng Tử ấy, chỉ cần kéo mạnh chút là được.
Lại dùng sức giựt mạnh vài cái, quả nhiên sợi dây lại kéo được nữa, A Quý bắt đầu thuận lợi kéo dây, nhưng lần này lại cảm thấy có gì không ổn, kéo dây lên mất ít sức hơn trước rất nhiều, cực kỳ nhẹ tay.
Cảm giác này có hơi kinh khủng, giống như khi ta câu cá, cá cắn câu, sau đó giằng co mấy giây, dây câu lại trùng, chứng tỏ mồi đã bị cắn rơi, cá thoát khỏi câu.
Hiện tại, mồi chính là Bàn Tử.
A Quý mồ hôi lạnh chảy ròng ròng, càng ngày càng thấy không ổn, sợi dây cũng càng ngày càng nhẹ, dần dần có thể nhìn thấy bóng đen dưới nước, anh ta gần như ngạt thở, đợi đến khi anh ta lôi được bóng đen lên khỏi mặt nước, thì chẳng thấy Bàn Tử đâu, thứ bị kéo lên là cái mũ lặn.
Anh ta bình tĩnh lại để suy đoán, rất có thể sợi thừng bị mắc kẹt chỗ nào đó, Bàn Tử thấy tình hình không ổn, bèn cởi bỏ mũ lặn rồi tự nổi lên. Cởi xong rồi thì thì thứ gì đó mắc sợi thừng lại cũng liền lỏng ra, như thế, Bàn Tử chả mấy chốc nữa sẽ nổi lên ngay thôi.
Lúc đó, Muộn Du Bình ở trên bờ. A Quý dần dần phát hoảng, vốn là một vụ làm ăn cực tốt, bây giờ loáng cái đã xảy ra chuyện, là phải chịu trách nhiệm rồi. Tệ hơn nữa là ở những vùng rừng núi hẻo lánh, xảy ra chuyện kiểu này, có thể sẽ bị người ta đồn đại cả đời luôn.
Anh ta vừa cởi quần áo vừa quay ra phía bờ gọi to, thấy Muộn Du Bình lập tức chạy qua, anh ta bèn nhảy xuống hồ, ôm tảng đá mà lặn xuống nước. Đáng tiếc anh ta thực sự chẳng có kinh nghiệm, chìm được mấy mét tảng đá lại tuột khỏi tay, rồi lại giãy giụa nổi lên.
Đến khi Muộn Du Bình chạy tới, A Quý kể lại tình hình vừa rồi, hắn bèn đội mũ lặn lên, nhảy xuống nước.
A Quý vừa kéo thừng vừa cầu trời phù hộ, nhưng không ngờ, đợi đến năm phút sau, không chỉ chẳng thấy Bàn Tử nổi lên, ngay cả Muộn Du Bình vừa xuống cũng không có bất cứ động tĩnh gì, sợi dây cứ thế rủ xuống nước.
Anh ta bèn kéo dây, cảm giác quen thuộc lại tới từ bên kia đầu dây. Kéo được dây ra hỏi nước, tình huống vẫn như trước: chẳng thấy Muộn Du Bình đâu nữa rồi! Ở đầu bên kia của sợi thừng vẫn chỉ còn lại chiếc mũ lặn.
Tôi nghe xong mà hoang mang, trong đầu rối như tơ vò, cảm giác không thể tiếp nhận nổi, thật là phét lác, chuyện thế này làm sao mà xảy ra được? Nhưng tôi cũng biết rõ, A Quý không thể nào nói dối, vậy chuyện này đối với tôi quả thực là quá đáng sợ!
Tôi hỏi A Quý chuyện này xảy ra khi nào? Anh ta đáp, cho đến giờ là sắp hai tuần rồi. Sau lúc đó, anh ta ở trên mặt hồ đợi nguyên một ngày một đêm, nhưng không có cái gì nổi lên nữa.
Hai tuần rồi? Cho dù có là kình ngư giỏi đến đâu đi nữa mà ngâm nước suốt hai tuần thì cũng chết chắc. Thảo nào A Quý nói bọn họ đã chết, bất kể là nguyên nhân gì khiến bọn họ cởi mũ lặn ở dưới nữa kia, thì cái chết cũng là chắc chắn.
Sau ngày hôm đó, ngày nào A Quý cũng kiểm tra mặt hồ một vòng, xem có cái xác nào nổi lên không, nhưng vẫn chẳng thấy gì. Anh ta nghĩ dưới đáy hồ có quái ngư nào đó đã ăn thịt bọn họ rồi, nhưng cũng không thấy bất kỳ vết máu hay dấu vết tấn công nào trên mũ lặn.
Tôi nhìn cái mũ lặn, thấy Bàn Tử đã chỉnh sửa nó khá là thú vị, khiến nó trở nên rất khó cởi khi ở dưới nước, chuyện này đã biến thành "vấn đề sống còn" rồi.
Tôi từng lặn xuống đáy nước rồi, biết tình hình dưới đó như thế nào, mặc dù tiến vào làng cổ có những mối nguy tiềm tàng, nhưng cũng không thể khiến bọn họ tiêu tốn nhiều sức lực vào việc cởi mũ lặn.
Có phải là bệnh DCS? Lặn xuống càng sâu, tỉ lệ oxy hít vào cần phải được điều chỉnh, nếu không sẽ xảy ra tình trạng say ngứa(*). Nhưng đó cũng không phải say rượu, không thể say đến mức thoát y luôn được.
(*) DCS (decompression sickness) là căn bệnh có thể xảy ra khi lặn sâu và có khả năng gây chết người. Không khí chúng ta thở là hỗn hợp của nhiều chất khí trong đó đa phần là nito và oxy. Cả hai đều hòa tan trong máu, nhưng nito là khí trơ và bị loại bỏ khi chúng ta thở ra. Càng lặn sâu áp lực nước càng tăng, số lượng nito hấp thụ cũng tăng. Khí này vẫn hòa tan trong máu và cơ cho đến khi người lặn trở lại vùng áp suất bề mặt. Khi nổi lên, nito sẽ khuếch tán ra khỏi cơ và bị loại bỏ khi thở ra, nhưng nếu nổi lên quá nhanh, khí nito có thể bị tạo thành những bọt khí trong máu và cơ, dẫn đến các triệu chứng như: đau mỏi ở khớp và cơ, ngứa ngáy khó chịu, da phát ban do những bong bóng hơi bên trong và dưới da, nhức đầu, nôn mửa. Thậm chí có thể rách mạch máu. Hậu quả có thể nghiêm trọng hơn nếu các bong bóng khí đi vào não và tủy sống. Từ tiếng Trung gọi chung chung các triệu chứng này dưới cái tên "say ngứa" (醉痒), tui dịch gượng như vậy để khớp với vế câu còn lại.
Chắc chắn đã có chuyện gì đó xảy ra dưới nước, khiến bọn họ không thể không cởi mũ lặn. Hơn nữa, Muộn Du Bình cũng phải cởi mũ lặn, chứng tỏ điều đó không có sự lựa chọn khác. Hắn ta không hay nảy ra mấy ý tưởng linh tinh giống Bàn Tử.
Như vậy, sau khi cởi mũ lặn, vì sao bọn họ không nổi lên nữa? Lẽ nào, khi gặp phải chuyện này, cuối cùng đã dẫn đến sự cố nào đó?
Tôi lặn lội đường xa, cả thể xác lẫn tinh thần đều mệt mỏi, lại gặp phải tình huống khó giải quyết như vậy, quả thực có chút luống cuống, nhưng tôi tuyệt đối không thừa nhận là bọn họ đã chết. Bọn tôi đã trải qua nhiều chuyện đến thế, nhiều lần có thể chết luôn ở bất kỳ đâu rồi, nhưng đều tìm được đường sống trong chỗ chết, bọn họ làm sao có thể chết trong một hành trình nửa du lịch nửa điều tra này được?
Nói thì nói vậy, tôi suy xét thật kỹ vấn đề, tim gan vẫn còn nhức nhối, lập tức không trông mong vào số đỏ nữa. Sự cố sẽ không nói lý với anh đâu, cho dù trước đây anh có gặp nguy hiểm lớn hơn nữa, thì đến lúc anh phải chết, làm sao cũng không tránh được. Trong lịch sử có vô vàn đại anh hùng cả đời gió mưa bão táp, cuối cùng lại chết trong tay một nhân vật nhỏ bé bình thường. Lẽ nào ông Trời lại trêu ngươi tôi, hai người họ cứ như vậy liền mất?
Suy nghĩ một lúc, tôi vẫn không tài nào tiếp thu được việc này, thật là phiền não. Nghĩ thầm, lúc đó trời đang mưa, tầm nhìn trên mặt hồ chắc chắn là không rõ ràng, có lẽ bọn họ đã nổi lên rồi, nhưng cách A Quý khá xa, cho nên anh ta không nhìn thấy, sau đó vì nguyên nhân nào đó mà một mình lên bờ.
Bất kể thế nào, có chuyện thì vẫn phải làm. Bất kể bọn họ có phải là gặp sự cố gì hay không, tôi vẫn phải lặn xuống dưới xem đến cùng xem sao. Sống phải thấy người, chết phải thấy xác.
Bánh bao Vượng Tử là một loại đồ ăn vặt =))
Chương 28: Một mình xuống nước.
Edit: Earl Panda
*****
Mưa vẫn rất to, cứ như điên cuồng vậy. Ở Hàng Châu, mưa lớn như vậy thường không lâu đến thế.
A Quý đã không thể giúp tôi được nữa, tôi đoán là anh ta sợ tôi cũng sẽ biến mất giống như hai người kia, anh ta không chịu nổi thêm một cú sốc như thế nữa. Tôi kể anh ta nghe chuyện Bàn Mã dẫn tôi tới, bảo anh ta phải cẩn thận, mặc dù tôi nghĩ lúc này Bàn Mã có lẽ cũng đã suy sụp lắm rồi. Anh ta muốn đi dọn dẹp những bộ hài cốt kia, tôi bảo không nên, có chúng ở đấy, ít nhất cũng đề phòng được nếu Bàn Mã quay về. Xem ra khó lòng có thể nói lý gì với lão ta được nữa. Tôi thật không ngờ người này lại có thể hung ác đến mức này.
Quay về bên con la, tôi dỡ bộ đồ lặn trong đống hành lý xuống, vội vã đến bên bờ hồ. Tôi không thể chờ thêm một phút nào nữa, tôi phải đi kiểm chứng ngay.
Mặc nguyên bộ đồ vào, hồi ở Hải Nam tôi đã quen với việc lặn, lúc này không căng thẳng chút gì, đội mưa gió, thúc bè gỗ chèo ra giữa hồ.
Đeo chân vịt vào, chả mấy tôi đã bơi ra đến trung tâm hồ. Mưa xối xả rơi xuống mặt hồ. Vô vàn những hạt mưa đập xuống mặt nước vang lên những âm thanh đinh tai nhiếc óc, thứ âm thanh khó lòng miêu tả nổi ấy khiến lòng tôi bình tĩnh hơn một chút. Tôi nhìn quanh tìm kiếm xem có dấu vết gì do hai người kia để lại lúc trước không, nhưng trong tình cảnh này thì chẳng thể tìm kiếm nổi cái gì, đành chọn đại khái một hướng, sau đó đeo kính lặn, lặn xuống nước.
Có kinh nghiệm của lần trước, lần này tôi ung dung hơn một chút, biết cứ lặn kiểu này chắc chắn sẽ không xuống được tận dưới đáy, bèn quyết định lơ lửng ở đó một lúc, quan sát đại khái tình hình.
Đến vị trí lần trước lặn xuống, tôi lại cắt dây thừng, thở hết không khí ra khỏi phổi, như vậy sẽ không bị nổi lên quá nhanh, đồng thời vung vẩy tay chân để bản thân giữ nguyên ở độ sâu hiện tại.
Có kính lặn, quanh cảnh dưới nước trở nên rõ ràng hơn, tiếc là lúc này ánh sáng lại u ám hơn trước nhiều. Tôi vừa khua chân để giữ thăng bằng, vừa cố gắng chìm xuống sâu hơn một chút, một tay khua đèn, bắt đầu chiếu vào chỗ sâu hơn.
Không lâu sau, cả một thế giới dưới đáy hồ màu xanh xám với các đường nét rõ ràng dần dần xuất hiện trước mắt tôi.
Tôi đạp hai chân, bơi về phía trước. Đèn pin chỉ chiếu sáng được từng phần một, không thấy rõ toàn cảnh được, chỉ có thể dựa vào trí nhớ mà tưởng tượng chắp nối các mảnh nhỏ lại. Cũng may tôi học kiến trúc, có một cách ghi nhớ đặc biệt đủ để tôi ghép các bộ phận nhỏ được ghi nhớ trong đầu thành một chỉnh thể.
Đây là một thế giới đơn sắc, toàn bộ chỉ một màu xanh đậm của nước hồ. Bơi về phía trước một đoạn ngắn, tôi phát hiện quả đúng như tôi nghĩ, lối vào kéo dài đến tận đáy lòng chảo tối mịt, cả một sường dốc phủ đầy trầm tích gỗ. Đáy hồ không hoàn toàn bằng phẳng mà là cả một thung lũng gồ ghề lại rất sâu dưới mặt nước, hàng rào được dựng men theo sườn núi, ở phía nam thung lũng.
Quãng thời gian kế tiếp, tôi không ngừng nổi lên lại chìm xuống, liên tục thay đổi vị trí của mình. Trong một phút ngắn ngủi, tôi quan sát hết tình hình dưới đáy nước.
Càng ngày càng nhiều chi tiết xuất hiện trước mặt, làng cổ dưới nước âm u này có quy mô cũng phải tương đương với bản làng người Dao chúng tôi tới, tổng cộng khoảng chừng năm, sáu mươi hộ gia đình, đa phần là nhà sàn. Xem mức độ bào mòn thì có thể thấy những ngôi nhà cổ này không phải xây từ thời cận đại, phong cách quá đỗi cổ xưa, những chi tiết đặc thù của dân tộc Dao vô cùng rõ nét, không giống nhà sàn thời nay Tây chả ra Tây Ta chả ra Ta.
Vị trí chúng tôi lặn xuống trước kia tôi vẫn còn chút ấn tượng, Bàn Tử cũng từng nhắc đến khu vực hàng rào tre. Tôi sục tìm cả một quãng đó, chả mấy chốc thấy một cái phao đánh dấu rất nhỏ, đồng thời cũng nhìn thấy dãy hàng rào tre.
Tôi lập tức lặn xuống, nhưng dưới nước chẳng có gì cả, không có chút dấu vết nào chứng tỏ bọn họ từng tới đây, cũng không có bất kỳ khác thường gì.
Chương 29: Cổ thụ
Edit: Earl Panda
*****
Bàn Tử và Muộn Du Bình chắc hẳn phải gặp chuyện gì đó ở chỗ này, vì một lý do nào đó mà tôi không biết, tháo dây thừng, sau đó biến mất dưới đáy hồ sâu hơn mười mét.
Không có đồ lặn, bọn họ ở dưới nước chỉ có thể chịu được khoảng một phút, trong một phút họ có thể đi đâu được chứ? Tôi không muốn tin vào mấy thứ quỷ quái như là bị ma nước ăn thịt gì đó. Dựa theo thực tế mà suy đoán, khi ở dưới nước, tối đa cũng chỉ bơi ra xa được khoảng hai mươi ba mét, nói cách khác, trừ phi lúc đó có một con tàu ngầm đến tiếp ứng cho bọn họ, bằng không thì chẳng làm gì được cả, cũng không thể đi đâu hơn được nữa. Chắc chắn bọn họ chỉ ở quanh đây thôi.
Thế nhưng, khắp bốn phía chẳng có gì cả, dưới đáy hồ tĩnh lặng trống không.
Điều kỳ quái nhất trong chuyện này đó là hai chi tiết: phải cởi mũ lặn và tháo dây thừng.
Đội mũ lặn này vào rất phiền phức, nó có khóa kéo ở phía sau, hơn nữa lại rất dài, muốn cởi ra phải mất chừng mười đến hai mươi giây, lại phải tháo dây thừng, nhanh nhất cũng đã mất thêm năm giây rồi. Hai mươi lăm giây này là đối với Muộn Du Bình, còn với thể chất và tố chất tâm lý của Bàn Tử, e là phải lâu hơn một chút nữa.
Ngoài ra, mũ lặn này không làm ảnh hưởng đến hành động của họ, khi bị tấn công còn có thể dùng làm công cụ phòng thủ, dù là về tình hay lý thì cũng không cần thiết phải cởi nó ra làm gì.
Rốt cuộc là chuyện gì xảy ra, lại khiến bọn họ buộc lòng phải cởi mũ?
Bởi vì ngay đến cả Muộn Du Bình cũng phải cởi mũ ra, như vậy chắc chắn không phải ý tưởng đột nhiên nghĩ ra, người này tính cách của hắn đáng tin hơn Bàn Tử nhiều, cởi mũ chắc chắn phải là một hành động cần thiết.
Nếu bọn họ đã có thể ung dung cởi mũ lặn ra, thì có lẽ không phải gặp sự cố gì cấp bách như bị động vật tấn công chẳng hạn. Có lẽ bọn họ đã gặp phải chuyện gì kỳ quái, nhưng là một chuyện kỳ quái cho phép bọn họ có thể ung dung suy nghĩ, rồi đưa ra phán đoán "có thể cởi mũ lặn, sẽ không gặp nguy hiểm" hoặc "có thể cởi mũ lặn, nguy hiểm đã ở trong phạm vi khống chế".
Có thể xác định một điều rằng, chắc chắn chuyện này xảy ra ở xung quanh đây thôi.
Cứ thế phân tích từng bước từng bước làm tôi dần dần bình tĩnh lại, liếc nhìn ngôi làng cổ dưới sườn dốc sâu thẳm nơi đáy nước, bỗng nhiên cảm thấy một sự lạnh lẽo quỷ dị từ dưới đống hoang tàn này. Phải chăng bọn họ ở bên trong làng cổ dưới đáy hồ này?
Nhưng sao có thể bơi từ đây đến làng cổ trong một phút được. Điên rồi mới cởi dây bơi vào đó, khác gì tự sát đâu.
Tôi thử tưởng tượng lại tình huống lúc đó, nhìn khắp xung quanh lại không thấy có chỗ nào phải cởi dây mới đi qua, hay phải cởi mũ lặn xuống mới chui qua được.
Xung quanh toàn là bãi đá sạch sẽ, tôi chậm rãi bơi, thấy tình hình xung quanh quá đơn giản. Nhờ ánh đèn cường lực và kính lặn, tầm nhìn của tôi rất rõ ràng. Chỉ có một khả năng duy nhất, đó là khu vực bên dưới sườn dốc đá này, gần dãy hàng rào tre, ở đó còn có mấy khúc gỗ mục cực lớn chìm dưới đáy.
Mấy khúc gỗ mục khổng lồ này nhất định là cây đại thụ ngoài cổng làng năm xưa, bây giờ tất cả cành non và lá cây đều mục nát thành bùn rồi, chỉ còn thân cây là chưa rữa nát hết.
Vô số cành cây rơi vãi chất thành đống xung quanh thân cây, tạo thành những đống cành cây to tướng trông như bụi rậm héo rũ vậy, đan xen khắp nơi, bị chất vôi có trong nước phủ một lớp trắng lên trông như đá tảng.
Nếu Bàn Tử phát hiện vật gì ở trong đó, rất có thể anh ta sẽ cởi dây mà chui vào, bởi vì dây thừng rất dễ bị mắc kẹt trong đống cành cây, cùng với mũ lặn nặng nề, anh ta sẽ không thể thò đầu vào xem được.
Nghĩ đến đây, tôi thoáng rùng mình, trong đầu nảy ra một ý tưởng hết sức kinh khủng: Có lẽ nào, Bàn Tử phát hiện ra cái gì trong đống cành cây đó, bèn cởi mũ lặn và dây thừng ra để xem, kết quả là bị kẹt ở trong đó. Sau đó, Muộn Du Bình vì cứu Bàn Tử, cũng cởi mũ lặn và dây thừng, kết quả cũng lại kẹt ở trong, thế là hai người đều cùng chết chìm, thi thể cũng không thấy đâu nữa.
Nếu quả thực như vậy, tôi sẽ phải đối mặt với một cảnh tượng cực kỳ khủng khiếp: trong đống cành cây này là thi thể bị ngâm nước suốt hai tuần của hai người bọn họ.
Tôi không dám bơi qua đó, nhưng lập tức ép buộc bản thân mình phải khua chân vịt, hiện giờ không thể trốn chạy được.
Giữ một khoảng cách, tôi bơi lên phía trên đống gỗ mục này, soi đèn xuống chiếu xem. Thấy phía dưới đó là một khu vực rộng khoảng một sân bóng rổ, toàn là những cành cây trắng ởn, đan cài vào nhau suốt một quãng trông như lưới sắt vậy. Ánh sáng chiếu xuyên qua kẽ hở các cành cây mà xuống, hết lớp này đến lớp nọ, nếu mắc kẹt ở trong này thì có là Đại La thần tiên cũng không thoát ra nổi.
Giữa các cành cây đan xen quả thực có một vài chỗ hổng khá lớn, hình như là do có người xô mạnh vào mà thành, nhưng trong đó không có thi thể của Bàn Tử và Muộn Du Bình.
Tôi tìm kiếm một lượt, quả thực không có, bấy giờ mới thở phào một hơi, cắn răng lặng xuống, đến gần một đống cành cây.
Tiến sát lại gần, tôi nín thở ngó vào nhìn, lập tức nhận ra mình đã lầm rồi, những đống cành cây này không thể khiến người ta bị kẹt mà chết được. Nhiều cành bị gãy chưa nói, bên trong còn rữa nát như bột phấn, đưa tay ra gõ một cái đã gãy lia lịa. Chẳng qua chúng có thể giữ nguyên hiện trạng là nhờ một lớp chất vôi mỏng bao phủ bên ngoài gắn kết mà thôi, thứ này không chịu được lực, cho dù có bị rơi xuống đây, thì giãy dụa vài cái là thoát ra được rồi.
Trong những lỗ hổng nọ quả thực có vô số mảnh vôi vỡ vụn và những "cành cây vôi" đứt gãy chất hàng đống lộn xộn ở khắp nơi, có lẽ là do Bàn Tử đã sục sạo vào đây để tìm hài cốt. Dí đèn pin lại gần để chiếu xuống dưới, cũng không thấy gì khác thường, chứng tỏ bọn họ không tìm thấy gì dưới này.
Tôi không khỏi cười khổ, nếu không phải vì lý do này, vậy rốt cuộc đã có chuyện gì xảy ra? Vì sao đang yên đang lành tự dưng lại biến mất dưới đáy hồ? Chẳng nhẽ lại đúng như lời A Quý nói, dưới hồ có ma quỷ quấy phá chăng?
Đúng vào khoảnh khắc ấy, tôi thậm chí đã nảy ra một ý nghĩ, cởi hết đồ lặn ra, để xem rốt cuộc sẽ xảy ra chuyện gì, vất vả lắm mới nhịn được, không làm cái chuyện hoang đường này.
Bên dưới những cây gỗ mục này là ngôi làng cổ, tôi dõi mắt nhìn bao quát xuống phía dưới, thấy toàn là những mái ngói lớp lớp, không thấy bên trong. Chỉnh nấc đèn pin đến cường độ cao nhất cũng vô ích, không có tia sáng nào chiếu ra được cái gì, ngược lại càng khiến ngôi làng trở nên sâu thẳm tĩnh mịch.
Tôi bình tĩnh lại, chuẩn bị tiếp tục tìm kiếm, khua đèn một cái. Không ngờ ngay trong lúc quay đầu đi, tôi đột nhiên cảm thấy bên trong làng cổ kia có gì đó thay đổi.
Vội vàng quay đầu lại xem, chỉ thấy ở nơi sâu thẳm bên trong ngôi làng, chẳng biết từ khi nào xuất hiện một điểm sáng màu lục cực kỳ quái gở, cứ như thể một ngọn đèn cô độc lạnh lẽo được thắp sáng giữa màn đêm tối tăm.
Dưới làn nước sâu, quầng sáng xanh lạnh lẽo nom cứ như ánh lửa ma trơi từ cõi u minh vọng lại, trong mờ mờ ảo ảo, đầu óc tôi tức thì trống rỗng, cứng đơ ra như bị bóng đè, tim đập bình bịch, lồng ngực tắc nghẹn đến không thở nổi.
Cái đệt! Thế là thế nào? Đấy là ánh sáng gì? Lẽ nào trong làng cổ có người??
Lẽ nào Muộn Du Bình và Bàn Tử đang ở trong làng cổ này, không những còn sống, mà còn đang hoạt động?
Nhưng đây là dưới đáy hồ sâu những mấy chục mét, trong một ngôi làng cổ ẩn mình suốt mấy ngàn năm, bọn họ không có oxy, làm sao có thể sống được ở dưới nước trong một thời gian dài như vậy?
Cứ coi như là đèn pin đi, thì trải qua hai tuần lễ cũng đủ hết sạch pin rồi, hơn nữa, thứ ánh sáng này có cảm giác quỷ dị đến mức không diễn tả nổi, chắc chắn không phải phát ra từ đèn pin, càng không thể là ánh lửa. Cảm giác khó thở ngày càng mãnh liệt, chẳng lẽ là oan hồn năm xưa chết dưới đáy hồ, không thành Phật mà thành ma, vẫn lởn vởn mãi trong đống phế tích hoang tàn này? Phải chăng đây chính là ngọn đèn năm xưa của người Dao, vượt qua ranh giới giữa chốn âm tỳ địa ngục và nhân gian, để chỉ đường dẫn lối cho những âm hồn vong linh quay trở về quỷ vực?
Ở ngay giữa bóng tối sâu thẳm lạnh lẽo nơi đáy hồ, một cảm giác quái gở không rõ dần dần dâng lên, khiến tôi không kìm được mà muốn bơi về phía ánh đèn nọ, cứ như người đi lạc trong núi nhìn thấy ánh lửa vậy. Trong nháy mắt đó, một linh cảm lóe lên trong đầu: phải chăng chính vì nhìn thấy đốm sáng này, cho nên Bàn Tử với Muộn Du Bình mới biến mất?
Chẳng lẽ mấu chốt chính là ở đây? Tiếp theo sẽ xảy ra chuyện gì?
Tôi không kịp bình tĩnh lại, quan sát khắp bốn phía, chỉ sọ có gì đột ngột ập đến đầu mình. Nhưng nhìn khắp xung quanh một lượt, vẫn chỉ có sự tĩnh lặng tột cùng, chiếu đèn pin xuống, vẫn không thấy gì khác thường.
Quay đầu nhìn lại, ánh đèn xanh biếc lẻ loi nọ càng ngày càng tối đi.
Một cảm giác hoảng loạn không biết từ đâu bắt đầu dâng lên trong lòng tôi.
Chương 30: Ánh đèn dưới đáy nước
Edit: Earl Panda
*****
Ánh đèn lẻ loi trong làng cổ dưới đáy hồ, không biết nằm ở chính xác vị trí nào. Là ở chỗ sâu tít dưới đáy kia, hay từ một ô cửa sổ nào đó trong ngôi làng?
Màu sắc của ánh đèn thực sự khó lòng miêu tả nổi, rất đục, như thể bị người ta chụp lên một lớp vải bọc màu xanh sẫm vậy, mờ mờ ảo ảo, không giống ánh đèn dầu của nhân gian.
Cái hồ nước quỷ dị này đã khiến tôi phải kinh ngạc quá nhiều lần, dưới vẻ đẹp tĩnh mịch thanh tịnh kia lại ẩn giấu quá nhiều bí ẩn. Rốt cuộc đã có chuyện gì xảy ra ở đây, lại khiến tất cả mọi thứ như thể bị nguyền rủa?
Trong cảnh u ám như thế, tôi một mình lặn xuống đáy hồ, không có bất kỳ trợ giúp nào, lần đầu tiên tôi cảm thấy hoảng loạn và cô độc vô cùng.
Cái cảm giác tuyệt vọng mà bất lực đó còn khiến tôi sợ hãi hơn cả cái chết.
Trong một chốc, tôi đã nghĩ đến loài cá xấu xí phát ra ánh sáng để dụ dỗ con mồi dưới đáy biển sâu. Ngôi làng cổ này như thể một sinh vật khổng lồ đang sử dụng ánh sáng của nó để dụ dỗ con mồi tự chui đầu vào lưới.
Liếc nhìn đồng hồ dưỡng khí, khi sợ hãi, tim đập mạnh khiến dưỡng khí tiêu hao rất nhanh, nhưng từ đầu đến cuối vẫn không thể nào thoát khỏi cơn ác mộng sởn tóc gáy này.
Tôi kiềm chế nỗi sợ hãi của mình, trong lòng tự nhủ: "Nếu muốn biết rõ chân tướng, e rằng mình phải mạo hiểm một phen. Nếu Bàn Tử và Muộn Du Bình còn sống, như vậy bọn họ chắc chắn đang ở trong một tình huống cực kỳ quỷ dị, mà mình là hy vọng duy nhất của họ. Nếu mình đã đến đây rồi, căn bản là không có đường lui, ánh đèn xanh lét này, dù là hung hay là cát, thì cũng là đèn chỉ đường cho mình."
Cứ như đang thôi miên chính mình vậy, nhưng trong hoàn cảnh lúc này, tôi thực sự không biết phải lấy đâu ra dũng khí để đi sâu xuống đó nữa. Lẩm nhẩm đến lần thứ ba, cảm giác hoảng loạn dần vơi bớt một chút, vì vậy tôi bèn rút lưỡi lê ra, cầm chắc trong tay, thực ra tôi không biết thứ này có thể đối phó gì được với ma quỷ không, tóm lại là cứ liều đi.
Tôi khua khoắng tay chân, lặn sát xuống bãi đá dần tiến về phía ngôi làng cổ. Lặn xuống không được bao lâu, ánh đèn âm u nó dần dần bị các ngôi nhà cổ che khuất mất, không nhìn thấy nữa, bóng tối dần lan tràn trở lại, một lần nữa, ngôi làng nọ lại quay về với bóng tối âm u.
Tôi dần bình tĩnh lại, như một kỳ tích, nỗi sợ hãi dần dần lui bước, xem ra nỗi sợ đó hoàn toàn đến từ ánh đèn xanh âm u nọ, tôi không khỏi thở phào nhẹ nhõm.
Với tính cách của tôi, nếu ánh đèn nọ mà từ từ tiến lại gần, thế nào tôi cũng bị dọa đến phát điên lên mất.
Vị trí hiện nay của tôi cách biên giới ngôi làng không xa lắm, từ từ tới gần, phát hiện dốc đá sát biên giới ngôi làng cũng có rất nhiều gỗ mục, có thanh còn đứng thẳng, có thanh đã sập, vắt ngang dưới đáy hồ, chứng tỏ trước khi ngôi làng này bị nước nhấn chìm, xung quanh nó là một rừng cây rậm rạp, bốn bề đại thụ san sát, phong thủy quá tốt.
Lặn xuống không được bao lâu đã đến làng cổ, mái nhà sàn gần nhất chỉ cách tôi có hai, ba mét.
Do trượt từ trên dốc xuống, độ sâu có lẽ đã vượt quá bảy mươi mét, tức thời tôi chưa kịp thích ứng với áp suất nước. Đúng là "Chẳng rõ Lư Sơn hình dáng thật/ Bởi thân đang đứng ở chốn này"(*), đứng ở đây rồi, chẳng nhìn thấy toàn cảnh ngôi làng nữa, chỉ thấy tầng tầng lớp lớp những ngôi nhà san sát, mà ánh sáng xanh âm u ở cách đó không xa.
(*) trích bài "Đề Tây lâm bích" của Tô Thức.
Cùng với đó, tôi còn nhìn thấy dưới chân mình, ngay sát mép làng, có rất nhiều tấm bia đá dựng thẳng, trông như những bia mộ.
Tôi liền lặn xuống một tí, dùng đèn pin soi thử xem, thấy trong thành phần của bia đá này có chất vôi, bị hòa tan bớt trong nước, khiến cả tấm bia nham nham nhở nhở. Không nhìn rõ chữ trên bia, nhưng chắc chắn không phải bia mộ, là một loại bia đá đặc thù của người Dao người Mèo.
Người Dao cổ có truyền thống ghi lại luật lệ trên bia đá, khi trong làng có những việc cần đến tập thể giải quyết, họ sẽ mở một cuộc họp bia đá, thống nhất lập một bia đá trong làng, gọi là "bia đá luật". Có thể coi nó như luật điển của dân Dao vậy, tất cả mọi người, kể cả Vua Dao cũng đều phải tuân thủ.
Người Dao gọi tấm bia đá dạng này là "A Thường".
Loại pháp lệnh này thiêng liêng hơn tưởng tượng của người Hán nhiều, người Dao quan niệm "bia đá nặng hơn trời", thời cổ đại không ít lần người Dao người Hán xung đột với nhau, chẳng qua cũng là bởi người Hán muốn động đến bia đá luật mà ra. Mỗi tấm bia đá đều có một người trông coi, gọi là "người đứng đầu bia đá", quyền hành rất lớn.
Ở đây có rất nhiều bia đá, nếu là loại bia đá luật, bên trên chắc chắn ghi chép lại những sự kiện quan trọng, đáng tiếc chữ viết đã mòn vẹt đi không đọc rõ được nữa. Mặt khác, nhiều tấm bia đá luật do nội dung có liên quan đến những bí mật nội bộ sâu xa khó hiểu từ thời xa xưa, cho nên bia không có chữ, đương sự năm xưa hoàn toàn tự giác mà tuân theo luật lệ đã định.
Dù thế nào đi nữa, nếu có thể đọc được chữ trên bia đá, ít nhiều cũng biết được ngôi làng cổ này rốt cục đã gặp phải chuyện gì.
Lướt qua các tấm bia, một lần nữa tôi lại nổi lên phía trên ngôi làng. Khoảng cách rất gần, những ngôi nhà sàn hoang tàn cùng những con đường nhỏ dần trở nên rõ ràng hơn. Ánh đèn xanh âm u lại hiện ra, không nhìn thấy nguồn sáng, nhưng quầng sáng mờ mờ ảo ảo đã ở ngay phía trước.
Da gà da vịt tôi nổi hết cả lên, tim càng đập bình bịch, cảm giác hoảng loạn sợ hãi gần như không giảm bớt tí nào, chỉ loáng đã tràn ra khắp các giác quan. Cùng lúc đó, tôi cũng cảm thấy nỗi sợ hãi này có gì đó vô cùng khác thường, như thể đến từ nơi ký ức sâu thẳm nhất, nguyên thủy nhất trong tôi, không cách nào miêu tả được, càng không tài nào xua tan được.
Rốt cuộc tôi đang sợ cái gì?
Từ độ cao này nhìn xuống một ngôi làng cổ ngàn năm, trên thế giới này người có trải nghiệm giống như tôi đây chỉ e không quá trăm người. Ngay phía dưới đây, buông tay một cái là chạm đến được mái nhà sàn bằng gỗ mục nát, cứ như thể đang dạo chơi lơ lửng giữa không trung của con đường mòn cổ xưa hoang vắng. Trong đầu không khỏi tưởng tượng lại khung cảnh của hàng ngàn năm về trước, nhưng ngay lập tức lại bị dòng nước cuốn trở về hiện thực, cái cảm giác đan xen này khiến người ta cảm thấy mọi thứ rất không thật.
Lần đầu tiên nhìn thấy ngôi làng cổ dưới đáy hồ này, tôi cảm thấy làng cổ này có phần rất giống Ba Nãi, nhà sàn bằng gỗ cứ san sát, dày đặc, giữa những ngôi nhà sàn hai đến ba tầng thi thoảng lại xen kẽ những bậc thềm đá và con đường mòn lát đá rộng đủ ba người cùng sánh bước. Tất cả những ngôi nhà sàn đều mục nát, trông như thể sẽ sụp xuống bất cứ lúc nào vậy, có phần mái của nhà này lại đổ nghiêng lên tường của nhà khác, tạo thành hình chữ "môn" (门).
Tôi bơi lửng lơ ngay phía trên những chữ "môn" ấy, nhìn những bọt khí do chính mình thở ra, không kìm được mà vươn ra chụp lấy nó. Bơi vào trong làng rồi, chỉ cần có gì bất ngờ xảy đến, những ngôi nhà gỗ này sẽ đổ sụp, chạy không kịp là bị chôn sống. Một khi đã bị chôn sống dưới đáy nước, tức nghĩa là đừng mong chờ một cơ hội được cứu sống nào.
Bơi lướt qua mấy ngôi nhà sát đổ nát tan hoang, ánh đèn càng ngày càng gần lại, tim càng ngày càng đập mạnh, cảm giác ngộp thở ngày càng tăng.
Từ góc này mà đoán, có lẽ ánh sáng đến từ một ngôi nhà cổ nào đó quanh đây, có thể là chiếu từ cửa sổ ra ngoài.
Đang định nghiến răng kiên trì lặn tiếp, bỗng xung quanh tối sầm lại, ánh sáng biến mất.
Tinh thần đang ở trạng thái căng thẳng, sự việc đột ngột này khiến tôi suýt thì ngất xỉu tại chỗ, ống hít thở tuột ra khỏi miệng. Nhưng trong nháy mắt đó, tôi đã nhìn thấy chỗ ánh sáng phát ra. Đó là một ngôi nhà sàn hình tháp khổng lồ sừng sững, được ghép lại từ mấy ngôi nhà sàn, có lẽ là lầu tháp của gia tộc lớn ở đây. Thường thì gia tộc nào lớn giàu có nhất làng sẽ tập hợp lại xây dựng kiến trúc như thế này. Nhưng trong nháy mắt đó quá nhanh, chưa kịp nhìn rõ ánh đèn phát ra từ ô cửa sổ nào.
Tôi từ từ lặn xuống, bật đèn pin lên soi, lập tức ngẩn ra vì sửng sốt.
Trời ạ! Đây là tòa nhà gì?
Tòa lầu tháp này bên ngoài kết cấu lại bằng đá, hơn nữa, mái ngói diềm cong, lối kiến trúc kiểu An Huy.
Đây không phải là lầu tháp của dân tộc Dao, mà là kiến trúc của người Hán.
Thế là thế nào? Trong ngôi làng cổ của người Dao, sao lại có kiến trúc của người Hán?
Chương 31: Đại viện Dao gia.
Edit: Earl Panda
*****
Mèo Dao với nhà Hán xưa nay ở thế không đội trời chung, chia nhau ra mà sống, rất khắt khe với huyết thống và sự riêng tư của mình, đặc biệt là khu vực phía Nam, vốn là nơi xảy ra nhiều xung đột giữa các dân tộc thiểu số nhất từ xưa đến nay. Thời cổ đại có cuộc chiến loạn Tam Miêu(*), hồi trước Giải Phóng vẫn còn cổng thôn của người Hẹ. Hồi đó chỉ vì một cái giếng nước, một con kênh con rạch ở giữa hai tộc Hán Mèo, thậm chí giữa hai bản làng người Dao, đều có thể biến thành một trận giết chóc thảm liệt vô cùng, trực tiếp thúc đẩy cho sự ra đời của cuộc vận động Thái Bình Thiên Quốc.
(*) Thời vua Nghiêu, Thuấn, Vũ, bộ lạc Hoa Hạ cùng liên minh bộ lạc Mèo Man tranh đoạt vùng Trung Nguyên, chiến tranh liên tục hơn mười năm, cuối cùng Hoa Hạ chiếm ưu thế, từ đó dung hợp Mèo Man cả về văn hóa lẫn huyết thống. Mèo Man là một thuật ngữ, nghĩa rộng để chỉ liên minh bộ lạc Mèo Man – một cộng đồng người rất thịnh vượng phát triển vào thời đó, nghĩa hẹp để chỉ một nhánh nhỏ của cộng đồng người này đã xảy ra chiến tranh với Nghiêu Thuấn Vũ. Khu vực sinh sống của họ ở khoảng giữa hồ Động Đình và hồ Phàn Dương, ranh giới phía Bắc ở chân núi phía nam của Phục Ngưu sơn, bao gồm toàn bộ khu vực bồn địa Nam Dương.
Có thể nói, trong quá khứ, giữa các dân tộc tồn tại những mối hiềm nghi và ngăn cách, xung đột như nước với lửa, cho nên Hán Dao ở cùng nhau hoàn toàn là chuyện không thể xảy ra. Dù người Dao có chịu cho người Hán định cư trong bản làng của mình đi nữa, người Hán cũng chỉ được phép ở trong nhà người Dao thôi, chắc chắn không lý nào Vua Dao lại cho phép người Hán xây dựng thứ lầu gác to lớn diễu võ giương oai cỡ này ở trong làng của người Dao.
Tôi hoàn toàn không tài nào hiểu được, đây quả thực cứ như thể phát hiện một trái dưa hấu trong ruộng cao lương vậy!
Từ từ lặn xuống, lẳng lặng nhìn tòa lầu cổ này, lại phát hiện thêm nhiều điểm kỳ quặc hơn nữa: tòa lầu cổ kiểu Hán này hoàn toàn bị bao bọc bên trong những ngôi nhà sàn xếp chồng chất lên nhau, hơn nữa, màu sắc mái ngóc trên đỉnh lầu cũng giống nhau y đúc, cứ như thể những ngôi nhà sàn này cố ý bảo vệ tòa lầu gác bên trong vậy. Thoạt nhìn từ bên ngoài thì không thể phát hiện được tòa lầu cổ ở bên trong.
Xem quy mô tòa lầu tháp kiểu Hán thì quái lạ cực kỳ, cấu trúc tòa nhà có dạng hình chữ "khẩu" (口), ở trung tâm chữ "khẩu" này là giếng trời, bốn phía là ba tầng lầu gác có mái hiên, bệ đỡ và tường bao toàn bộ đều tu tạc từ đá tảng, ai học kiến trúc liếc mắt một cái là nhìn ra, đây chính là phong cách của những tòa đại trạch của danh gia vọng tộc tọa lạc dọc các con phố ở phương Nam thời Minh Thanh. Thông thường, danh gia vọng tộc địa phương xây dựng sân viện của dòng họ, thường khá sâu, phía sau còn có nhiều tòa nhà và sân vườn hơn nữa, còn tường bao đá tảng thật lớn là dùng để phòng chống bọn giặc cướp, loại công trình kiến trúc chắc chắn như thế này có thể bảo vệ cho cuộc sống tự bế của hàng trăm con người ở bên trong.
Nói cách khác, tòa lầu cổ này có lẽ chỉ là mặt tiền của một tòa đại trạch tĩnh mịch nào đó, cổng đối diện với chính giữa con đường, bên ngoài có tường cao bao quanh toàn bộ khu nhà, bốn phía có cửa lớn, cửa nhỏ, tường bình phong, lại có một số cửa con để hạ nhân ra vào, lại có một số cửa mở ra mặt đường có lẽ để làm cửa hàng cửa hiệu. Bước vào cổng chính, thấy đường hành lang gấp khúc thông ra phía sau tòa nhà. Ví dụ điển hình là "hồ thanh ngư thảng"(**) ở Hàng Châu.
(**) chả hiểu sao... không thấy ở Hàng Châu có cái địa danh nào như thế...
Nhưng mà ở đây chỉ có duy nhất một tòa lầu như vậy, hình như toàn bộ bộ phận phía sau bị đứt gay mất, toàn bộ đại trạch cổ chỉ còn một cái đầu.
Tôi chậm rãi bơi vòng quanh một vòng, quả thực là thế, phía sau là con đường lát đá xanh, bốn phía là nhà sàn của người Dao, không còn bất kỳ toàn kiến trúc nào kiểu Hán nữa, thật không thể tưởng tượng nổi.
Cảnh tượng tương tự không phải chưa từng gặp qua. Sau Giải Phóng, một số tòa đại trạch được phân cho người nghèo, một tòa lầu ở được đến mười hộ gia đình, con đường thông ra sân sau bị bịt kín, vốn cùng thuộc một tòa trạch viện, cuối cùng lại biến thành nhiều căn nhà nhỏ độc lập như vậy. Nhưng tình huống ở đây lại hoàn toàn khác.
Tôi đọc nhiều sách đến thế, có ấn tượng rất sâu với kiến trúc cổ điển Trung Hoa, trong đầu liền hiện lên vô số khái niệm, nhưng vẫn không tìm được cái gì có khả năng giải thích được cảnh tượng trước mắt tôi đây. Người ngoài nghề có thể sẽ nghĩ đúng là chuyện bé xé ra to, nhưng với tôi mà nói, lại như cục nghẹn ở cổ họng, mẹ kiếp cái nhà này rốt cục là ai xây? Vì sao lại xây thành cái dạng này?
Ánh đèn xanh âm u đến từ bên trong tòa lầu cổ kiểu Hán này, khi tôi vừa tới nơi thì tắt phụt, chẳng lẽ "người" bên trong tòa nhà này phát hiện ra vị khách không mời là tôi đây? Hay kẻ đó muốn nói cho tôi biết, đây chính là đích đến của tôi? Thậm chí tôi còn nghĩ, đây là một tòa nhà kiểu Hán, hồn ma trong đó chắc cũng là người Hán, biết đâu người ta còn nể tình đồng bào mà tha cho tôi một mạng.
Bất kể thế nào, tôi vẫn phải vào trong tòa lầu cổ này tìm hiểu đến tận cùng, mối nghi hoặc vô tận thậm chí còn khiến tôi bớt sợ hãi nữa.
Nổi lên phía trên giếng trời, phía dưới cứ như một miệng giếng khổng lồ sâu hoắm tối thui, bật đèn pin sáng tối đa, chiếu xuống xem thử, lại không nhìn thấy thứ gì có thể phát sáng, cũng không có đồ đạc linh tinh gì.
Tôi không để mình có thời gian mà hoảng loạn và tưởng tượng linh tinh nữa, cố gắng lấy lại bình tĩnh, lộn người lại, đầu hướng xuống dưới, tay chân khua khoắng, lặn xuống dưới giếng trời.
Không gian thu hẹp lại, ánh sáng bừng lên, tôi nhanh chóng điều chỉnh cường độ ánh sáng để mắt có thể thích ứng, xong xuôi, người đã đáp xuống dưới đáy giếng trời trong tòa lầu.
Cảm giác lại có chút khác biệt, khắp xung quanh toàn những hạt gì màu trắng trôi bồng bềnh, do tôi lặn xuống khuấy dòng nước nên chúng nổi hết lên, bên dưới quả thực toàn bàn ghế bằng đá cùng chất lắng đọng. Soi đèn pin chiếu xung quanh, bốn góc giếng trời đều có các cây cột lớn, ở trung tâm hai bên có hai cây cột, tổng cộng mười hai cây, kế tiếp là đường hành lang gỗ đá thông vào bên trong, đi đến cuối gặp một gian nhà, song cửa sổ khắc hoa đã mục nát, bị phủ một lớp màu trắng, trông cũ kỹ hoang toàn vô cùng.
Cửa gỗ song gỗ mục nát đến sụp hết cả, nhưng thật là một kỳ tích, kết cấu của gian nhà vẫn tương đối hoàn chỉnh, có lẽ năm xưa được xây bằng vật liệu gỗ thượng đẳng.
Tiếp tục soi đèn, bốn mặt tường đều có cửa, phía trước thông đến cổng sau của tiền đường, phía sau thông đến sân giữa, hai bên thông đến hai bên chái nhà. Trên các cây cột trước cửa có treo câu đối, chất gỗ để khắc câu đối không tốt bằng cây cột, đã móp méo và mọc đầy nấm bên trên. Trong đó có hai câu đối bị rữa nát đến nỗi rơi mất một nửa, chỉ có câu đối ở cửa thông ra cổng sau tiền đường là còn được bảo tồn tương đối hoàn chỉnh.
Khua chân vịt, tôi lau qua hai câu đối ở cửa thông ra tiền đường, đó là hai câu như thế này:
"Yến Nhiên đã tạc, cất cao khúc khải hoàn,
Khúc Phụ còn nhớ, khẽ ngâm nga vần thơ." (giải thích bên dưới)
Đây là câu đối rất thông thường, nhưng kết hợp ý nghĩa hai câu lại, xem ra chủ nhân tòa lầu này có quân công gì đó. Chủ nhân tòa lầu này từng phục vụ trong quân ngũ ư? Hơn nữa, xem quy mô thì phải là sĩ quan hẳn hoi.
Cổng sau của tiền đường đã sụp thành một đống bùn nát, khung cửa sổ vỡ ra thành mấy cái lỗ to tướng, vừa chạm tay vào liền nát thành bột mịn, cuồn cuộn bốc lên trong nước như sương khói, cứ như thể có thể tiêu tan thành mây khói bất cứ lúc nào vậy. Nhét đèn pin vào trong khe hở mà chiếu, bên trong bừa bộn vô cùng, toàn là xà nhà gỗ sụp xuống và một số đồ đạc không hình dung nổi là cái gì, có thể thấy mức độ hư hại ở bên trong hết sức nặng nề.
Lờ mờ thấy ở giữa có một bình phong, đó là một mặt tường dựng đứng ở ngay giữa phòng. Trong phong thủy, khí xông vào từ cửa trước, không thể để nó cứ thế xông ra ngoài thẳng qua cửa sau, ở giữa phải có một bức bình phong ngăn cách, gọi là đi đường vòng, khiến khí không đi quá nhanh mà nấn ná trong nhà một vòng. Còn có cách nói khác, làm vậy khiến cửa sau từ hướng Nam Bắc đổi thành hướng Đông Tây, càng thuận lợi cho tài vị.
Điều này thật ra rất có lý, ngộ nhỡ anh đang tiến hành âm mưu gì mà bị phát hiện, trốn không kịp, ít ra cũng có bức bình phong, có không gian để chạy lòng vòng một phen. Thậm chí lỡ có cướp xông vào nhà, ít nhiều cũng có chỗ mà nấp một chút.
Tôi rón rén bơi vào trong. Sở dĩ phải vào tiền đường trước, bởi vì câu đối nọ khiến tôi nhớ đến một sự kiện... Tiền đường của các thế gia vọng tộc ở Quảng Tây, Quảng Đông đa phần đều có lầu gác treo hoành phi và linh vị. Hoành phi treo ở đó tất nhiên phải có liên quan đến thân phận của chủ nhà, cho nên tôi quyết định đi xem trước, tìm đầu mối.
Tiến vào bên trong, vừa liếc nhìn, liền choáng váng.
Vừa chiếu đèn xem xung quanh, phát hiện toàn bộ trong tiền đường đã hư hỏng hết cả, sàn gỗ đều sụp hết, ngẩng lên nhìn cũng không thấy trần nhà đâu, trực tiếp thấy luôn gác mái cao nhất, chỉ có vài bộ phận bằng đá và một số xà nhà lớn là chưa mục rữa. Một lượng lớn đồ đạc linh tinh rơi xuống đất, đổ vỡ lộn xộn. Toàn bộ không gian bên trong gian nhà này trông như cứ mấy ngôi nhà cũ bị đem đi giải tỏa, chỉ còn thừa lại chút khung kết cấu vậy, hoặc trông như một giàn giáo thật lớn.
Tôi bơi lơ lửng, chiếu đèn pin lên gác trần trên bình phong, cơ bản tất cả đều nát vụn chả còn gì, phía trên chỉ còn một bức hoành phi, cũng hư hại rất nặng. Tôi bơi tới, cẩn thận chùi sạch chất bẩn bám trên hoành phi đi, màu sắc bên dưới đã bạc hết sạch, chỉ còn lại đường nét màu vàng đất gờ lên, lờ mờ đọc ra bốn chữ: Phàn thiên tử bao.
Chả hiểu là ý gì, nhưng lạc khoản lại khiến tôi phải giật mình nheo mắt một cái: là... Trương gia lâu chủ. Phía dưới là ngày tháng năm và ấn ký.
Loại hoành phi này có thể là do người khác tặng, nếu người khác không tặng, chủ nhân lại vốn là một vị đại Nho hoặc văn nhân nhã sĩ nào đó, có thể chủ nhân sẽ tự tay viết. Trong bản làng của người Dao này, chuyện có người Dao biết viết chữ Hán là không có khả năng cho lắm, huống hồ lại còn viết chữ bằng bút lông đẹp đến thế. Đây là chữ sấu Kim thể cực đẹp, tôi làm bản rập nhiều năm, có thể nhìn ra được bút pháp của người này cực kỳ điêu luyện. Vị Trương gia lâu chủ này, rất có thể là chủ nhân của tòa lầu cổ này.
"Trương gia lâu chủ..." Tôi thầm lẩm bẩm, "Trương gia?"
Trương Khởi Linh, Trương Trương Trương Trương, lẽ nào là trùng hợp ư?
Trong đầu tôi hồi tưởng lại tất cả mọi thứ trước khi mọi việc xảy ra, ở đây tìm được rất nhiều đầu mối, mà hình như mọi đầu mối đều có một mối liên quan mập mập mờ mờ nào đó với Muộn Du Bình, chẳng lẽ hắn thật sự có liên quan?
Có lý! Kẻ trâu bò làm việc trâu bò, tòa lầu tháp kỳ quái này, phải chăng chính là nhà cũ của Muộn Du Bình? Còn vị Trương gia lâu chủ này là lão tổ tông của hắn? Ngẫm lại thì cũng có khả năng lắm chứ.
Vị Trương gia lâu chủ này xây một đại trạch lớn như thế ở trong núi, chứng tỏ của cải dồi dào, lại khéo tay viết thư pháp, nội dung câu đối cũng văn nghệ văn gừng cực kỳ, thấy thế nào cũng cùng trường phái với cái loại Nho Thương như Hồ Tuyết Nham, kiểu người như vậy, cớ sao lại chạy đến một bản làng người Dao xa xôi, xây dựng một tòa lầu cổ quái như thế? Vì bị người hãm hại bèn chạy đến đây ẩn cư, hay còn mưu đồ gì khác?
Tôi bỗng dưng có chút hưng phấn, nghĩ trong tòa lầu cổ này chắc chắn đã xảy ra sự kiện gì lớn rồi, nếu quả thực có liên quan đến Muộn Du Bình, chuyến này vào đây cũng đáng giá. Đáng tiếc đến đây thì không còn gì đáng xem nữa, bên trong tiền đường có lẽ vẫn còn bừa bộn nhiều sách vở, đến giờ chắc chắn đã nát thành cám hết rồi, nếu có nhiều văn tự hơn thì tốt quá. Xem ra chỉ có thể xem từng gian nhà một, tìm hết tất cả các manh mối.
.
——
Hai câu đối: "Dĩ lặc Yến Nhiên cao tấu khải/ Do tư Khúc Phụ đề ngâm thi".
"Yến Nhiên dĩ lặc", điển cố này xuất phát từ tướng quân Đậu Hiến thời Hán. Năm xưa Đậu Hiến truy kích quân Hung Nô đến tận núi Yến Nhiên, bèn tạc bia đá ghi công. "Do tư Khúc Phụ", Khúc Phụ thời cổ thuộc nước Lỗ. Tây Chu Vũ vương phạt Trụ diệt Thương, phong đất Yểm xưa cho người em ruột là Chu Công Đán, lập quốc gọi là "Lỗ", lấy Khúc Phụ làm kinh đô.
Dịch nôm cả hai câu này là: Tuy rằng đã đánh bại man di, ca vang khúc khải hoàn, nhưng vừa nhớ đến cố hương Khúc Phụ, không khỏi khẽ ngâm câu thơ nhớ quê.
Chương 32: Ánh sáng xanh lục.
Edit: Earl Panda
*****
Nhìn đồng hồ dưỡng khí, còn phân nửa, cần tận dụng thời gian. Tôi trước tiên chuẩn bị lùi về chỗ giếng trời, rồi nghĩ xem tiếp theo nên đến gian phòng nào là thích hợp nhất.
Đang định đạp chân vịt, đột nhiên phía sau lóe lên một cái, một vầng sáng màu lục âm u lóe lên sau lưng tôi.
Gần như theo phản xạ, tôi quay phắt lại đằng sau. Qua cánh cổng sau của tiền đường, tôi lại nhìn thấy vầng sáng xanh lục quỷ dị đó lập lờ ở khoảng giếng trời trước hậu đường. Ánh sáng soi chiếu những song cửa chạm trổ hoa văn, dần "loang ra" trong làn nước mờ mờ ảo ảo.
Ánh sáng lục này quái quỷ dị, vẫn không khác trước là mấy. Bây giờ, với khoảng cách gần hơn, tôi thậm chí để ý thấy vầng sáng này có hơi rung rung khẽ đến mức khó có thể phát hiện ra. Nhịp điệu rung rung này khiến cả khoảng giếng trời xanh thẫm âm u, quỷ khí ngập tràn, cảm giác như đã tiến vào một không gian hoàn toàn khác.
Tôi nuốt một miếng nước bọt, toàn thân rét buốt, nỗi sợ hãi trong lòng khó mà miêu tả được, ngay cả đầu óc cũng có chút mất kiểm soát. Nên tới ắt vẫn phải tới, muốn tránh cũng không tránh được!
Tôi cố gắng bình tĩnh lại, vừa từ từ tới gần hậu đường, vừa tự nhủ, nếu đã đến đây thì cũng có thể đoán trước được tình huống này sẽ xảy ra. Tình cảnh tượng tự tôi cũng đã gặp phải không ít rồi, chẳng phải sau đó vẫn bình an vô sự đấy thôi? Tôi không tin lần này có gì còn đáng sợ hơn những lần trước.
Từ tiền đường lại đi qua cửa chính, qua giếng trời, cuối cùng đến hậu đường, còn chưa đến hai mươi bước chân, nhưng không biết là do người tôi cứng ngắc hay là do cảm giác thời gian bị sai lệch, mà tôi phải bơi mất năm phút mới đến nơi.
Cửa hậu đường đóng chặt, cửa sổ có mấy chấn song đã gãy mất, bên trong ánh sáng xanh lục tràn ngập, nhưng không nhìn rõ cái gì. Rón ra rón rén chiếu đèn vào trong một cái, ánh sáng vừa lướt qua một cái, liền chiếu ra một cái bóng gì đó, khiến tim tôi đang đập bình bịch mà suýt ngừng đập luôn.
Vốn tưởng rằng sẽ có một bộ mặt phụ nữ xanh lè thò ra ngoài, kết quả lại chỉ là một cái bóng.
Bên trong hậu đường cũng giống như trong tiền đường, ngoài đống đồ đạc hư hỏng vỡ nát chồng chất trên mặt đất, còn lại hầu như trống rỗng. Ở giữa hậu đường cũng có một bức bình phong, ánh sáng xanh lành lạnh lập lòe lúc ẩn lúc hiện phía sau bình phong.
Cảnh tượng này rất giống tình tiết trong truyện liêu trai, một ngôi nhà cổ hoang tàn, anh chàng thư sinh chăng đèn đọc sách giữa đêm khuya, nàng ma nữ bèn nhẹ nhàng lướt tới, rướn người nhìn vào ngọn đèn trong nhà. Chẳng qua bây giờ có thay đổi tình tiết tí xíu, thư sinh đứng ngoài ngó vào ánh lửa trong nhà, còn ở trong nhà có khi đúng là một ma nữ chết đuối.
Tôi quan sát khắp hậu đường một lượt để xem rõ kết cấu cơ bản của nó, nhỡ đâu xảy ra xung đột gì còn có thể co cẳng mà chạy cho nhanh. Đang chuẩn bị chui qua cửa sổ mà vào, vầng sáng xanh lạnh lẽo kia đột nhiên nhanh chóng mờ đi, rồi tắt phụt.
Tôi căng cứng cả người, cứ như thể bị ai bắt thóp lấy gáy, tức thì nín thở.
Nó nhìn thấy tôi?
Trong đầu tôi hiện lên rất nhiều hình ảnh, tưởng tượng cảnh tượng sau bức bình phong là cái gì. Nếu con "ma nước" kia đã phát hiện ra tôi, vậy nhất định sẽ lẩn trốn đâu đó, chuẩn bị tấn công bất ngờ.
Không đúng! Bản thân hoàn toàn không có tí phần thắng nào, nếu cứ bơi qua đó, ngộ nhỡ là ma nước thật, vậy chẳng phải là tôi chết toi luôn sao?
Hiện giờ tôi chỉ có một thân một mình, không ai biết tôi ở đây, đừng nói đằng sau khung cửa này là ma nước, chỉ cần tự dưng bị kẹt chân, hoặc là hao hết dưỡng khí, là tôi chết chắc ở đây luôn, thậm chí mấy trăm năm sau cũng không tìm thấy xác. Vậy có nên cứ đánh liều tiếp không? Hay nên suy nghĩ cẩn thận lại một chút?
Tôi lập tức nản chí, dũng khí mới vừa rồi tiêu tan thành mây khói, chẳng dám chui vào nữa.
Phải chăng mình bị dọa sợ đến nỗi mê muội cả ra rồi?
Hiện giờ, trong tình huống này, có nên lui về trước tìm cứu viện?
Nhưng mà, nếu làm thế, vậy tất cả những thứ tôi làm trước đó đều phí hoài cả. Muộn Du Bình và Bàn Tử thì hoàn toàn chẳng thấy tí dấu vết gì, bọn họ cứ thế biến mất dưới đáy hồ này, bây giờ nếu mà lùi bước, phải bao lâu nữa mới có thể xuống nước được lần nữa? Cho dù có quay về, tôi liệu còn dũng khí trải qua hết toàn bộ những quá trình vừa rồi? E là không. Như vậy, Muộn Du Bình với Bàn Tử thực sự biến mất khỏi cuộc đời tôi rồi.
Lúc này tôi không kìm được mà nhớ đến Phan Tử, nếu anh ấy ở đây thì sẽ là động lực lớn cho tôi đến nhường nào! Đúng là tôi vẫn khác với những người bọn họ. Vốn cứ tưởng mình kinh nghiệm đã đủ phong phú, nhưng thứ gọi là dũng khí, dường như không mấy liên quan đến kinh nghiệm.
Tôi đang ở giữa giếng trời, chỉ cần lùi vài bước, quẫy đạp hai chân, đi lên, chả mất mấy phút là ra khỏi tòa lầu cổ quái gở dưới đáy hồ này, không phải bận tâm tất cả những thứ trước mắt này nữa. Nhưng tôi vẫn cứng đờ ở đó, do dự, bởi trong lòng tôi biết rõ, cho dù là thối lui hay tiến lên, chỉ cần bước một bước, từ nay không bao giờ dừng lại được nữa.
Lúc này, liếc mắt một cái chợt nhìn thấy một thứ, một dấu tay cực rõ ràng.
Dấu tay ấn trên khung cửa sổ, bởi vì vừa nãy quá căng thẳng, nên tôi không phát hiện ra.
Ở đây đâu đâu cũng toàn chất lắng đọng, dấu tay này rõ ràng như thế, chứng tỏ mới có người sờ vào đây cách đây không lâu thôi. Là của tôi ư? Ướm tay vào đo thử, thấy dấu tay có hai ngón tay đặc biệt dài, đây là dấu tay của Muộn Du Bình.
Tôi sửng sốt, sau đó theo dấu tay thử bắt chước lại, đây đúng là động tác đẩy khung cửa ra – Muộn Du Bình đã từng ở đây, đẩy khung cửa sổ này ra?
Từ chỗ tôi ban đầu xuống nước cho đến tận đây phải cách đến mấy trăm mét, hắn cởi bỏ mũ lặn, không có bất kỳ công cụ hỗ trợ nào, sao có thể nín thở trong thời gian dài như vậy? Lẽ nào hắn cũng biến thành ma nước rồi?
Nỗi kinh ngạc trong lòng càng ngày càng lớn, nhưng cứ nghĩ đến Muộn Du Bình, tâm trạng tôi bỗng nhiên lại trấn tĩnh hẳn. Không phải tôi đã bằng lòng giúp hắn sao? Nếu hắn biến thành ma nước rồi, cùng lắm tôi chết rồi cũng biến thành ma nước, tổ hợp ba con ma nước bọn tôi cũng sẽ không quá cô quạnh. Nếu không nhờ vài lần hắn cứu mạng tôi, tôi đã sớm chết từ lâu, hôm nay vì hắn mà mạo hiểm một tí, có gì là không được? Mạng của tôi thế là đáng giá rồi.
Tôi miễn cưỡng bình tĩnh lại. Nói thật, nói thì nói vậy chứ sợ hãi cũng chả giảm được tẹo nào, thậm chí còn sợ hơn, toàn thân run lên bần bật không kiềm chế nổi, nhưng niềm tin trong lòng này lại quá mạnh mẽ, khiến tôi đã chui luôn vào trong hậu đường trước khi kịp sợ cứng người tiếp.
Vừa chui vào, tôi lại nghĩ, như thế có phải hơi bất lịch sự rồi không? Có nên gõ cửa trước không? Làm thế ít ra người ta cũng nể tình tôi có tri thức lại hiểu lễ nghĩa mà thả tôi một con đường sống chứ. Nghĩ xong tôi lập tức tát cho mình một cú, để trấn định lại một chút.
Bên trong hậu đường chẳng khác gì ở tiền đường, tôi rón rén đi vòng qua bức bình phong, ánh sáng xanh lục không sáng lên lần nữa. Mắt thấy sắp phải nhìn thấy cảnh tượng đằng sau bình phong rồi, tôi lại hơi ngập ngừng, bởi vì tay run đến nỗi không cầm chắc nổi đèn pin nữa.
Run rẩy không kìm được, ánh đèn pin cũng run rẩy theo, khiến bức bình phong trước mặt trông như sắp đổ luôn, tôi đành dùng tay kia hỗ trợ, cố gắng lùi ra sau vài bước.
Trong nháy mắt đó, thần kinh tôi căng lên như dây đàn, trong lòng chuẩn bị sẵn tinh thần nếu gặp phải bất kỳ cảnh tượng khủng bố nào, khi cảnh tượng đằng sau bức bình phong thực sự hiện lên đập vào mắt, tôi thậm chí cảm giác các mạch máu trong não như đứt phựt luôn.
Nhưng ánh đèn chiếu vào, chỉ thấy một đống đồ đạc màu trắng đổ sụp, chẳng còn gì khác.
Mẹ kiếp! Tôi có cảm giác cứ như bị đùa giỡn vậy, tinh thần đang trong tình trạng căng thẳng cực độ, cũng không buông lỏng ra chút nào dù chẳng nhìn thấy gì khủng bố, ngược lại vẫn liên tục duy trì trạng thái căng thẳng.
Nhìn khắp xung quanh, phát hiện toàn bộ bên trong hậu đường hoàn toàn kín mít, khu vực phía sau này lại trống không, chắc hẳn chỉ có duy nhất một cánh cổng chính dẫn ra sân sau.
Nếu như cái gì đó phát ánh sáng xanh lục vừa ở đây, bây giờ chắc chắn là vẫn còn, nhất định là ẩn nấp đâu đó thôi.
Tôi nín thở bơi qua, duy trì động tác phòng thủ, nhìn bên dưới đống đồ đạc bị sụp xuống, xem có đè lên cái gì không. Nhưng mà do quá bừa bộn nên cũng không nhìn rõ lắm. Nhìn một chút, đột nhiên liếc thấy một thứ gì đó đứng thẳng tắp, ở một góc đằng sau bức tường bình phong, lại có một tấm bình phong nữa.
Không biết tấm bình phong này được làm từ cái gì mà lại không bị hư thối, nhưng các mối chốt đã không chống đỡ được nữa, tấm bình phong được dựng nghiêng nghiêng vẹo vẹo chứ không vuông vắn thẳng thớm.
Chiếu đèn pin vào, da gà da vịt tôi lần lượt nổi hết cả lên.
Đằng sau tấm bình phong, hiện lên một bóng người cổ quái.
Chương 33: Trở thành sự thật.
Edit: Earl Panda
*****
Tôi lập tức chết đứng tại chỗ, hai chân như nhũn ra, cả người như mất hết sức lực, không dám động đậy tí gì, mắt cũng không dám rời sang chỗ khác, ánh đèn pin vẫn chiếu về hướng kia. Dưới ánh đèn cường độ cao, bóng người nọ hiện lên tương đối rõ ràng. Điều rợn gai ốc chính là tư thế của cái bóng đó, tư thế quái dị cực kỳ, người thẳng đứng nhưng hai vai lại lõm xuống. Cảm giác đầu tiên của tôi là người này cũng đang bơi lửng lơ trong nước giống tôi, nhưng dường như cái bóng lại chẳng cử động một tí gì, vậy chỉ có xác chết mới như thế. Lúc đó cảm giác ngộp thở đã lên đến cực hạn, có lẽ tôi hiện giờ đang gặp phải chuyện quái dị nhất ở đây rồi, nếu là ở trên mặt đất thì vẫn còn có vô số cách giải thích, nhưng đây là dưới hồ nước, dưới đáy một hồ nước sâu đến sáu mươi bảy mươi mét, mà cái bóng này lại thong thả đứng đó, không động một ly, tuyệt đối không thể là thợ lặn khác được. Đây rốt cuộc là cái gì? Chả lẽ ma nước ư? Không ai sống được ở dưới nước nếu không có bình dưỡng khí, mà cũng không ai có thể đứng thẳng tắp như thế ở dưới nước.
Tôi thầm khiếp đảm trong bụng, mẹ kiếp lần này đúng là xúi quẩy to, có khi A Quý lại nói đúng rồi, chỉ e đích thực là có ma nước thôi, thế mà tôi còn không tin. Nghĩ đến ma nước, tôi lập tức nhớ lại những bộ xương người chúng tôi từng vớt lên lúc trước. Chả lẽ đây là bánh tông thi hóa từ những người trong đội khảo cổ năm đó bị giết chết? Hay là vong linh trong làng này sau khi ngôi làng bị chìm dưới nước? Muộn Du Bình và Bàn Tử biến mất, là bởi vì trúng bẫy của những thứ này rồi?
Nếu là bánh tông thì còn dễ xử lý, tôi thân đầy trang bị như này dù thế nào cũng không thể chạy chậm hơn nó được. Nếu là ma nước, chỉ e lần này tôi phải chết thay chúng nó rồi. Nếu bọn Bàn Tử gặp nạn, cũng không biết có ra giúp tôi không nữa. Tôi hoàn toàn không biết phải làm sao, không dám tiến tới càng không dám quay đầu, chỉ sợ tôi vừa quay đi cái thứ này liền nhào tới. Tôi thà bị nó giết chết quách luôn còn hơn là cứ có cảm giác ghê rợn ở sau lưng.
Tôi chỉ có thể nhìn chằm chằm cái bóng kia. Nhưng chỉ nhìn một lát, tôi phát hiện cái bóng kia vẫn không động đậy tí gì, sự bất động này quá kỳ quái, cứ như thể là một bức tượng đá, ngay cả một chút rập rờn theo làn nước cũng không có. Đồng thời, tôi cứ có cảm giác là lạ, cái bóng này hình như tôi đã từng nhìn thấy ở chỗ quái nào rồi ấy.
Cái cảm giác này càng ngày càng mãnh liệt, cứ như là đang chỉ dẫn tôi. Tôi lấy lại dũng khí, cái bóng đằng sau tấm bình phong kia lại dần dần biến đổi. Mồ hôi lạnh tứa ra như tắm, tôi nhìn cái bóng kia biến đổi, cảm giác quen thuộc ngày càng tăng, thậm chí lấn át cả nỗi sợ hãi của tôi. Bơi đến khoảng bảy mét, cảm giác quen thuộc liền lên đến cực điểm, ngay trong chớp mắt đó, tôi lập tức nhớ ra. Trời ơi, cái bóng này, tấm bình phong này, không phải chính là cảnh tượng trong tấm ảnh chụp của Sở ca đó sao?
Trước khi đến Ba Nãi, tôi nhận được một tấm ảnh do Sở ca – bạn cũ của chú Ba – gửi cho tôi. Trong ảnh là quang cảnh bên trong một tòa kiến trúc cổ xưa, ở đó có một tấm bình phong, đằng sau tấm bình phong, là một cái bóng. Nhớ lại, cái bóng người trong hình, giống y đúc cái bóng tôi đang nhìn thấy bây giờ.
Do đằng sau tấm ảnh có dòng ghi chú là "Nhà ma Cách Nhĩ Mộc", lúc đó tôi đoán bức ảnh được chụp trong tòa nhà ma ở Cách Nhĩ Mộc, hiện giờ xem ra tôi sai rồi, lẽ nào dòng ghi chú đó vốn không phải là của bản thân tấm ảnh, tấm ảnh đó thực ra vốn được chụp ở đây?
Nhưng tấm ảnh đó lại không có dấu vết gì là cảnh dưới nước, nói cách khác, nếu ảnh đó được chụp ở đây, thì phải là chụp lúc ngôi làng này chưa chìm trong nước.
Kiểu ảnh chụp này sớm nhất cũng phải khoảng thập niên ba mươi bốn mươi, lẽ nào khoảng thời gian ngôi làng này chìm dưới nước kỳ thực không xa xôi như tôi tưởng? Ảnh chụp... cái bóng... đáy nước... Lẽ nào tấm ảnh Sở ca gửi tôi còn có một ý nghĩa sâu xa gì đó mà tôi không biết, mà tôi lại chỉ coi nó đơn giản như một tờ giấy viết thư? Sở ca gửi tôi tấm ảnh, là muốn tôi tìm cái bóng trong ảnh ư? Đầu óc tôi lập tức tỉnh táo hẳn ra, sau đó lại bị vô số suy nghĩ quỷ dị lấp đầy.
Khiến tôi đau đầu nhất là cái bóng kia. Trong tấm ảnh nọ, tư thế của cái bóng cũng rất quái dị, hầu như không chút khác biệt nào so với cái bóng trước mặt tôi đây.
Nếu như bức ảnh được chụp ở đây, chứng tỏ sau khi chụp ảnh xong, cái bóng cũng không di chuyển một tí gì, vẫn chỉ đứng đó thôi? Vậy thì cái bóng không thể là ma nước được, bởi lúc chụp ảnh làm gì có nước, cái bóng này phải là một vật chết.
Tôi ngẩn ra ở đó một lúc, cuối cùng cũng tìm được dũng khí, nhặt một cục gạch lên, quẫy chân vịt, lập tức bơi về phía tấm bình phong. Vừa đến gần tấm bình phong, tôi lập tức giơ cục gạch lên phang một cú, thầm nghĩ "chết mẹ mày đi". Nhưng còn chưa nghĩ xong, tôi liền hối hận.
Bình phong bị ngấm nước quá lâu, căn bản không chịu được lực tác động vào. Cục gạch vừa nện xuống, tấm bình phong lập tức sụp xuống luôn, các chất mục ruỗng bắn vào mặt tôi như hoa tuyết. Tôi lập tức lùi về phía sau, cầm đèn pin chiếu, nhưng toàn nhìn thấy những chất bẩn trôi lờ nhờ. Tôi gạt hết ra, chiếu đèn pin về phía trước, trong lúc hỗn loạn, từ trong đống chất bẩn đó có một thứ gì đó bắn ra, bổ nhào về phía tôi.
Trong đầu tôi như "ầm" một tiếng, vùng vẫy lùi về phía sau, tay cầm dao găm đâm chém loạn xạ, đâm được hơn mười nhát mà chả đâm trúng cái gì, ống thở trong miệng lại còn rớt ra ngoài.
Tôi luống cuống túm lấy lại ống thở, những chất cặn bẩn bị dòng nước xô đẩy tán ra, trước mắt tôi hiện ra một khúc gỗ nổi màu trắng. Tôi chửi thề một tiếng, đạp khúc gỗ ra, dùng đèn pin chiếu về phía vị trí cái bóng.
Cái bóng kia vẫn đứng đó, các chất cặn bẩn dần dần lại lắng xuống, mặt mũi thực của cái bóng ít nhiều đã lộ ra. Đó là một sinh vật hình dáng kỳ quái, có đầu, có tay, có chân, đứng im lìm ở đó. Toàn thân bám đầy những chất cặn màu trắng, động tác thì cứng còng, như người chết hóa cương thi rồi bị treo lên, không thể nào thối rữa ra được, cả cái xác bị bao bọc lại. Lại trông có phần giống tượng đá, rất khó miêu tả. Mặt nó hoàn toàn bị che mất, không biết mặt mũi có vẻ gì, nhưng đây đúng là vật chết, bởi nếu nó có thể cử động thì trên người nó sẽ không bị bám đầy cặn như vậy.
Đây là cái của nợ gì nhỉ? Mối ngờ vực trong lòng tôi ngày càng sâu.
Chương 34: Bộ mặt thật của cái bóng.
Edit: Earl Panda
*****
Tôi nhìn bóng người nọ, da gà da vịt rớt đầy đất.
Cảm giác đầu tiên khi nhìn vào thì đó là một bức tượng đá, nhưng tôi lập tức ý thức được điều đó không có khả năng, bởi hình dáng quá mức giống thật, cứ như thể một cái xác treo cổ bị đông cứng lại ấy vậy. Vào thời kỳ đó, dù có người muốn chạm khắc cái thể loại tượng đá kinh hãi thế tục cũng sẽ không tả thực đến thế. Khu vực Nam Man mặc dù có nhiều Tà thần, nhưng đa phần miêu tả kiểu phóng đại cường điệu hóa, chứ không theo lối tả thực.
Suốt một đường mà bao nhiêu chuyện kỳ quái xảy ra, tôi không dám coi thường, có lẽ thứ phát ra ánh sáng xanh lục nọ chính là thứ này đi, vị trí cũng khá hợp lý.
Cẩn thận bơi tới gần hình người nọ, lúc tới gần, cảm giác xác chết bị hóa sáp lại càng thêm rõ ràng, mặt khác, tôi phát hiện cổ tay phải của nó bị đứt lìa, hoàn toàn mất bàn tay. Không phải ngay từ đầu đã vậy, mà là bị chặt mất.
Có mà đồ hàng nhái! Muốn học tượng Vệ nữ mà học chưa đến nơi đến chốn! Tôi chần chừ một chút, cẩn thận dùng lưỡi lê cạo sạch chất cặn màu trắng bám trên đó, muốn thử xem màu sắc ban đầu của nó là gì.
Vừa cạo một miếng để nhìn, tôi lấy làm kinh hãi, thứ này vốn có màu đen đỏ lốm đốm, nhưng không quá sặc sỡ, màu sắc xỉn xỉn nhòe vào nhau. Cứ như bị lên nấm mốc vậy. Lại tiếp tục cạo, lại phát hiện hóa ra những đốm đen đen đỏ đỏ loang lổ này là rỉ sắt, thứ này hóa ra là sắt.
Không thể nào! Là tượng người sắt? Tôi lấy can đảm đưa tay lên bóp một cái, quả thực là sắt, có vài chỗ có lẽ là do tôi luyện tốt nên vẫn chưa mục nát, thậm chí còn nhìn thấy những hoa văn chạm trổ tinh xảo bên trên. Những chỗ khác đều rỉ sét hết cả, toàn là màu xỉn xỉn loang lổ.
Tôi dần dần nhận ra được điều gì, lập tức cạo tất cả chất cặn bám trên người nó xuống, một tượng người bằng sắt có tạo hình vô cùng đặc biệt chả mấy chốc xuất hiện trước mặt tôi.
Tôi không khỏi sửng sốt đến ngẩn người, bởi vì thoạt trông thứ này có hình dáng rất giống thật nhưng bề mặt chạm khắc đơn giản, nhưng giờ nhìn lại lần nữa, hóa ra bề mặt nó còn được mài nhẵn và đánh bóng, mặc dù bây giờ đã rỉ sét hết cả, nhưng vẫn có thể xác định được trước đây nó vô cùng tinh xảo, toàn thân phủ đầy những hoa văn duyên dáng, quả là một tác phẩm nghệ thuật. Đưa tay lên sờ thử, cảm thấy những hoa văn này giống như những hoa văn trên cục sắt tìm thấy dưới gậm giường Muộn Du Bình.
Tôi hiểu rồi! Thứ mà đội khảo cổ vớt từ dưới nước lên, chính là cái này! Những cục sắt đó, chính là những mảnh nhỏ của loại tượng sắt này.
Thứ này là văn vật ư? Có giá trị khảo cổ không?
Lại nhớ Muộn Du Bình từng nói những cục sắt này vô cùng nguy hiểm, tôi không dám đụng vào nữa mà giữ một khoảng cách, quan sát kỹ càng.
Tôi không hiểu rõ lắm về đồ sắt, nhưng lại có kiến thức khá sâu về các món đồ đồng mạ vàng nguyên chất. Ở chợ đồ cổ từng nhìn thấy tượng sắt rồi, thuộc hợp kim sắt là thép, toàn là những món nhỏ lặt vặt, tôi chưa từng gặp món nào to như này. Thứ nhất, thời cổ đại sắt rất quý, tượng người sắt lớn đến thế này, chưa nói những cái khác, chỉ một bức tượng thôi đã tốn nguyên liệu đến kinh người. Thứ hai, đồ sắt không dễ bảo quản, dễ bị rỉ sét, nhiều tượng Phật bằng sắt thời Minh thực ra toàn rỗng ở trong.
Nếu như toàn bộ bức tượng này cũng được chế tác giống như cục sắt của Muộn Du Bình, vậy thì ruột đặc, bên trong có lẽ có thứ gì đó, nhưng cũng không quá trống, có lẽ rất nặng. Nặng như thế, chẳng lẽ là pháp khí bằng sắt của Phật giáo, dùng để giam yêu quái gì đó?
Tôi suy nghĩ miên man, nhưng cũng biết có nghĩ thế nào cũng không ra nguyên cớ đâu, tất cả mọi chuyện đều không có manh mối dẫn dắt, có suy nghĩ thế nào cũng vô dụng.
Vốn là muốn nhìn một chút hoa văn trên tượng sắt, nhưng rỉ sét quá nhiều, không thể thấy toàn thể hoa văn như thế nào, những chỗ khác cũng không nhìn ra được cái gì. Bàn Mã từng nói có rất nhiều cục sắt, lẽ nào ở đây không chỉ có một tượng sắt?
Nhưng bốn phía đều trống huếch trống hoác, chả có gì cả, loại vật này lại lớn đến thế, cũng không có khả năng bị vùi lấp bởi đống đồ đạc bị sụp xuống này được. Những cục sắt đội khảo cổ mang đi là vớt lên từ đâu?
Chẳng lẽ trong ngôi làng này chỗ nào cũng có tượng sắt giống vậy, phân bố khắp nơi nơi trong làng? Hay là, nó được giấu chỗ nào khác trong tòa lầu cổ này?
Vô thức quay đầu lại, thấy cánh cửa chính ở một bên.
Nhớ lại tấm ảnh nọ, ở một bên bức bình phong có một cái hành lang, tôi điều chỉnh vị trí đứng, phát hiện chỗ hành lang trong hình chính là cổng sau của hậu đường.
Theo cấu trúc các ngôi nhà cổ thông thường, cánh cửa này hẳn sẽ dẫn đến một khoảnh sân rộng, mà ở đây chỉ có dãy nhà mặt tiền, cho nên cánh cửa này sẽ dẫn ra ngoài đường lát đá của ngôi làng, chứ không thể nào là hành lang được.
Nhưng trong trí nhớ, khung cửa trong tấm ảnh chụp cũng giống ở đây y như đúng, không nghi ngờ gì, địa điểm trong tấm ảnh chính là nơi này. Tại sao lại có sự chênh lệch này nhỉ? Lẽ nào, khi chụp ảnh thì nơi này vẫn có đường hành lang, mà sau này lại bị hủy đi mất?
Ý thức về thời gian của tôi hoàn toàn rối loạn, xem ra, thời gian chụp tấm ảnh, thời gian làng cổ bị chìm dưới nước, tất cả đều phải cân nhắc lại.
Bơi lại gần nhìn xem, cánh cửa chạm trổ hoa văn hoàn toàn không có dấu hiệu mục nát, kéo một cái, hóa ra nó bề ngoài sơn giả gỗ, nhưng thật ra là cửa sắt. Lại dùng đèn pin soi thử, nhất thời ngẩn ra, không thấy con đường lát đá bên ngoài, mà phía sau cánh cửa này, quả đúng là một đường hành lang.
Đường hành lang không phẳng, mà nghiêng xuống, thông xuống một nơi nào đó sâu dưới lòng đất. Xem ra tình cảnh đã giống y đúc trong ảnh rồi. Tôi giật mình, thầm nghĩ, không thể nào đâu?
Theo kết cấu một tòa cổ trạch, cửa sau của hậu đường đến hành lang, hành lang thông đến... Lẽ nào nơi này thật sự xây một tòa cổ trạch đúng quy cách, có hậu viện thật, nhưng là xây ở dưới lòng đất?
Chương 35: Dưới lòng đất.
Edit: Earl Panda
*****
Mọi khái niệm trong tôi đều bị đảo lộn hết cả, tòa lầu cổ này không chỉ vị trí không đúng, mà ngay cả kết cấu cũng quỷ dị, đi qua cửa thông ra đằng sau là đến một đoạn hành lang ngầm dưới lòng đất.
Chẳng lẽ phần còn lại của tòa đại trạch đều xây dựng dưới lòng đất?
Người thiết kế chắc chắn đã tận lực động tay động chân gì đó, có lẽ chiều dài thực tế của hậu đường khác với chiều dài nhìn thấy bên trong gian phòng. Người ta bước vào trong, thấy cánh cửa này liền tưởng là cửa sau, thực ra nó còn cách cửa sau thực sự một đoạn hành lang bí mật nữa.
Cổng chính ở trên mặt đất, phần còn lại ở dưới lòng đất, đây mà là nhà ư? Có mà là hang chuột thì có. Người thiết kế ra thứ này đúng là giàu trí tưởng tượng.
Bỗng nhớ lại một câu nói, một câu mà chú Ba đã nói với tôi từ rất lâu về trước, tự dưng xây biệt thự ở nơi thâm sơn cùng cốc, không phải Hoa kiều thì cũng là trộm mộ tặc. Đây cũng đủ tính là thâm sơn cùng cốc rồi nhỉ? Nguyên một tòa cổ trạch trong núi sâu, chẳng lẽ là lầu các của trộm mộ tặc? Giống như thường nghe người ta hay xây chuồng lợn phía trên cổ mộ để che giấu tòa cổ mộ đó vậy.
Nhìn bề ngoài thì có vẻ cách giải thích này khá hợp lý, đi theo đoạn hành lang xuống dưới, có khả năng chính là tòa cổ mộ bọn họ đang khai quật, những tượng người sắt này chính là vật bồi táng đào lên từ trong cổ mộ.
Nhưng nghĩ kỹ lại thì tính cách trộm mộ tặc không như tôi nghĩ như vậy, cho dù có là trộm mộ tặc có thực lực nhất, tính cách cổ quái nhất, cũng không thể xây một đường hành lang chắc chắn như vậy chỉ để đi trộm mộ! Nhìn là biết hành lang đá này có độ bền vĩnh cửu do những người thợ dày dạn kinh nghiệm nhất xây nên, chứ không phải nổi lòng tham nhất thời.
Huống hồ, vì sao lại xây lầu gác kiểu Hán trong một ngôi làng của người Dao? Giả như tòa lầu này xây nên là để che giấu hoạt động trộm mộ, nhưng xây một tòa lầu kiểu Hán trong làng người Dao, vậy khác nào lạy ông tôi ở bụi này?
Nếu theo cách nghĩ này, phương pháp tốt nhất, hữu hiệu nhất, có lẽ là xây một ngôi nhà sàn kiểu dân tộc Dao ở đây, sau đó nửa đêm trực tiếp đào một hang động xuống dưới, chứ xây dựng tòa cổ lâu kiểu Hán to như vậy, thời gian và tiền bạc hao phí có khi còn hao phí hơn cả giá trị của một tòa cổ mộ, làm vậy thì cũng quá khoa trương rồi, hoàn toàn không cần phải...
Giả thuyết này không được, vậy chỉ còn một khả năng, đó là thứ gì đó bên dưới này có giá trị lớn đến kinh người, hơn nữa rất khó tiến vào, có thể phải mất đến hai mươi năm, ba mươi năm trở lên để tiến hành. Nhưng tôi cơ bản có thể xác định, thứ dưới này không thể là cổ mộ quy mô lớn, bởi đất này đúng ở vị trí trũng nhất của cả vùng núi này, toàn bộ nước ngầm đều đổ dồn xuống đây, không thể xây dựng mộ táng quy mô lớn được.
Từ một số kiến thức ngành kiến trúc của tôi, hoàn toàn có thể xác định được một việc: tòa kiến trúc này dường như được xây dựng để phục vụ một mục đích đặc biết nào đó, tất cả mọi chi tiết đều để phục vụ mục đích này, nhưng hiện nay tạm thời chưa rõ mục đích này là gì, cho nên chưa thể phán đoán được. Nhưng phần cốt lõi của mục đích này có lẽ nằm ở dưới đất.
Nhìn đồng hồ dưỡng khí, không còn dư bao nhiêu nữa, kiên trì được tối đa mười lăm phút nữa thôi, không có thời gian để phung phí thêm nữa, nhìn đoạn hành lang này, hình như cũng không sâu lắm, sau vài chục bước mới dần dần bằng phẳng lại, bên dưới là mặt đất lát gạch xanh.
Ánh sáng màu xanh lục không thấy đâu nữa, cũng không có dấu hiệu gì nguy hiểm. Tôi nghĩ, cho dù là ma nước, nhưng hình như cũng không có ác ý gì, ngược lại còn đang cố gắng chỉ dẫn tôi tiến đến bước này. Nếu quả thực muốn lấy mạng tôi, chỉ e tôi đã ngoẻo từ lâu rồi.
Những trải nghiệm trước kia làm tôi có cảm giác mình thật bất lực. Vì vậy, tôi lấy lại bình tĩnh, rón rén mở cánh cửa kia, bơi về phía bóng tối đen đặc.
Đến tận dưới đáy, bật đèn pin lên xem, tôi lập tức lạnh cả người.
Phía dưới là một gian hầm ngầm xây bằng gạch, không lớn, hẹp dài, cực kỳ dài, tôi đứng đây không nhìn thấy phía đầu cùng bên kia ở đâu.
Hai bên tường gạch bày rất nhiều giá bằng sắt, trên từng tầng giá sắt bày vô số tượng người sắt nằm ngang.
Tượng sắt hai bên cứ như đồ sứ vừa nung, bày la liệt ra, dưới ánh đèn pin ngả vàng trông cứ như những xác chết, có cảm giác như đang ở tầng hầm của nhà thờ lớn ở nước ngoài vậy. Ước tính một chút, phải có ít nhất là sáu trăm bức tượng.
Chẳng lẽ trước kia nơi đây là một xưởng nung người sắt?
Ở đây có rất nhiều cặn lắng đọng, vô số rỉ sắt loang lổ, trông như thể những xác chết đen sì đang thối rữa.
Đi một quãng, tôi phát hiện động tác của các tượng sắt không giống nhau, quỷ dị hơn là, tất cả các tượng sắt đều không có bàn tay phải, tất cả các bàn tay phải đều bị chém đứt, vết chém không theo quy tắc gì, hình như là người làm.
Khủng hoảng cực độ lúc trước đã làm tôi tê dại, cảnh giác khắp bốn phía, lại tiếp tục đi về phía trước. Mãi cho đến cuối gian phòng, cũng không thấy đình viện ngầm trong tưởng tượng đâu, mà lại là một mặt tường kín mít, trên mặt đất là một miệng giếng xây bằng gạch.
Đào một miệng giếng trong tầng hầm dưới mặt đất, hơn nữa lại còn đang ở đất Quảng Tây nguồn nước dồi dào, đúng là đầu óc hỏng rồi mới làm thế. Bên thành giếng còn xây các gờ thang để dễ dàng trèo lên xuống, tôi lập tức hiểu ra đây là gì.
Lúc này, phán đoán lúc trước của tôi bắt đầu lung lay. Quả thực đây rất giống một tòa lầu giả để che giấu hoạt động trộm mộ! Chẳng lẽ bên dưới quả thực là một cổ mộ, biết đâu trên đời này lại có một lão thủ lĩnh giang hồ tính cách cổ quái như thế thật, thích vung cả đống tiền để xây dựng nguyên căn biệt thự xa hoa ngay phía trên khu vực mình trộm mộ, thậm chí còn xa hoa hơn cả giá trị của mộ cổ nữa chứ, lại còn cố tình xây cho thật quái gở cực kỳ khác người thường, để người ta càng chú ý đến càng tốt ấy.
Chẳng lẽ lại có cái hoàng lăng nào xây dựng bên dưới khu vực mà mạch nước ngầm cực phong phú, mẹ nó đến mộ dưới biển còn có người xây rồi! Dựa vào cái gì mà không cho phép người ta đi ngâm nước chứ?
Tôi chiếu đèn pin xuống giếng, nếu đây là một hang trộm, kết cấu như vậy có thể xác định, cổ mộ này cực kỳ khó vào, cần phải xây dựng một cái hành lang, để có thể sử dụng máy móc cỡ lớn cùng nhiều người làm việc, mộ chắc ở bên dưới nền nhà của người khác, cho nên bọn họ đành phải dùng cách vòng vo Tam Quốc này chứ không đào thẳng quách xuống cho xong. Như vậy, nhóm người này chắc chắn không hoàn toàn là trộm mộ tặc chuyên nghiệp, mà có khả năng là một đội ngũ rất đông người mà còn vàng thau lẫn lộn nữa, nghĩ như thế, có vẻ rất giống tác phong của quân phiệt trộm mộ trong quá khứ.
Thế lực của quân phiệt ở địa phương rất lớn, muốn xây dựng một cái nhà ở trong làng người Dao thì có ai dám ý kiến. Đồng thời, quan hệ giữa các dân tộc vốn căng thẳng, ngộ nhỡ người Dao biết bọn họ đang trộm mộ trong làng, khó tránh mâu thuẫn lại càng thêm gay gắt.
Vừa phải làm nhanh, mà vừa phải giấu giếm, nếu phần mộ dưới lòng đất quy mô quá lớn, để tiết kiệm thời gian, quả thực có khả năng phải xây dựng một hành lang thật kiên cố, để người ra vào dễ dàng. Lại đối chiếu với câu đối ở trên, gia chủ của tòa lầu này có quân công, đích thực là có khả năng này.
Nghĩ vậy cảm giác mình thật lợi hại, lại nhìn xuống dưới giếng sâu tối om, chả thấy manh mối nào, lưng đeo bình dưỡng khí, không thể xuống dưới được, tôi liền chuẩn bị rút lui.
Lúc này, dưới giếng lại lóe lên ánh sáng xanh lục.
Tôi giật thót mình, lại tới rồi! Lúc này có thể thấy ánh sáng cách miệng giếng rất gần, chỉ khoảng hai ba mét thôi. Định dùng đèn pin chiếu, không ngờ chưa kịp làm gì, ánh sáng lục kia đã động trước, lập tức xồ về phía tôi.
Tôi lập tức giơ dao găm lên, nghĩ bụng mẹ kiếp nó chuyển động thật! Nhưng ánh sáng lục kia tới quá nhanh, vọt một cái đã sượt qua tai tôi cứ như sao băng vậy.
Trong một chớp lóe lên, không thấy gì cả, nhưng tôi tức khắc khẳng định được đây không phải ma nước gì sất, mà giống một loài động vật nào đó phát ra ánh sáng xanh hơn.
Vội vàng quay lại, chỉ thấy quầng sáng xanh lóe lên bên cạnh một giá sắt, rồi lập tức tắt phụt. Dùng đèn pin chiếu, ánh sáng lại lóe lên, cứ như ăn khớp với đèn pin trên tay tôi vậy.
Rốt cục tôi cũng nhìn thấy chân thân của thứ kia.
Đó là một thứ màu xám trông cứ như một con thằn lằn cực kỳ béo mập vậy, nó dài cỡ một cánh tay tôi, đang nằm sấp trên đầu một tượng sắt, trên mình hình như bị buộc một cái gì đó. Tôi tập trung nhìn kỹ, đó là một cái đèn pin, đang phát ra ánh sáng xanh lục âm u.
Chương 36: Bàn Tử khôn vặt.
Edit: Earl Panda
*****
Tôi không biết đây là loài động vật gì, hình như là một loại kỳ nhông cỡ lớn, hồi xưa tôi từng ăn kỳ nhông ở dưới quê rồi, nhưng chưa thấy con nào to như này, trông phát khiếp. Về phần chiếc đèn pin nọ, tôi vừa nhìn thấy liền giật mình, đây chính là chiếc đèn pin màu vàng cũ kỹ mà bọn tôi dùng khi trần truồng lặn xuống lần đầu đây mà.
Đây nhất định là do Bàn Tử mang xuống, xem sợi dây buộc trên mình kỳ nhông, chắc chắn là do có người buộc vào, chẳng lẽ là kiệt tác của bọn Bàn Tử?
Tôi suy nghĩ một chốc, liền hiểu ngay. Không ai tự dưng mà làm một việc như thế, rất có thể Bàn Tử muốn người khác phải chú ý đến con kỳ nhông này.
Lẽ nào bọn họ đang mắc kẹt trong một nơi nào đó, mà chỉ có duy nhất cách này để cầu cứu với bên ngoài?
Có đánh chết tôi cũng không thể ngờ được, ánh sáng xanh lục là từ thứ này phát ra. Cứt thật, ánh đèn pin thế quái nào mà lại biến thành màu xanh lè được nhỉ?
Tôi liền trấn tĩnh lại, toàn thân tức thì thả lỏng, xụi lơ ra. Xem ra tôi đoán không sai, bọn họ thực sự gặp kỳ ngộ ở dưới nước, hiện giờ rất có thể vẫn còn sống, chỉ là đang bị kẹt ở một nơi, phải dùng đến cách này để cầu cứu. Rất có thể nơi đó vẫn có không khí, chỉ là không biết vì sao lại thế thôi.
Tuy không biết Bàn Tử với Muộn Du Bình đã trải qua chuyện gì ở dưới nước, rồi làm sao mà lại đến được rồi kẹt lại ở chỗ kia, nhưng rất có khả năng bọn họ vẫn còn sống, thật tốt quá!
Với cái tính ranh như ma của Bàn Tử, trên mình con kỳ nhông kia chắc hẳn còn có manh mối nào đó liên quan đến tình trạng hiện giờ của bọn họ, xem ra phải bắt nó mới được. Nhưng ở dưới nước tay chân không linh hoạt, hơn nữa nhìn tốc độ bơi của con vật kia, chỉ e không bắt nổi.
Kỳ nhông là trùm dưới nước, cắn người rất kinh, chưa kể con này to quá, nó cắn cho một phát chỉ e đi tong luôn cả ngón tay của tôi.
Kệ! Có thế nào cũng phải thử xem đã.
Tôi giơ dao găm lên, chậm rãi bơi qua, cố gắng bơi chậm hết cỡ, nhưng chỉ đến gần được hơn một mét, vèo một cái, con vật kia quẫy đuôi thật mạnh một cái, ngay lập tức đã bắn đi đến sáu bảy mét nhanh như chớp vậy, rồi dừng lại ở đống gạch đá bên kia.
Khốn khiếp thật! Cái thứ này, cho dù tôi có ngồi trên bờ cầm xiên cá xọc xuống có khi cũng chẳng xiên trúng được, huống hồ hiện giờ tôi còn ở dưới nước, bắt bằng tay không. Cũng may trông nó có vẻ hiền hiền, không có ý định tấn công.
Tôi còn muốn thử tiếp, tiếp tục chầm chậm bơi tới. Lúc này đã đến rất sát nó rồi, nhưng ngay trong chớp mắt khi tôi chìa tay ra thì nó đã nhanh chóng vọt đến chỗ khác.
Tôi lập tức nhận ra, ở dưới nước tôi không có khả năng bắt được con vật này. Phần đuôi của nó chuyển động tạo ra luồng nước có lực đẩy rất mạnh, không khó tưởng tượng được sức bật lớn đến mức nào, cho dù có chộp trúng được, thì với sức của tôi, cũng chẳng bắt nó lại nổi.
Đèn dưỡng khí nháy lên cảnh báo, tôi liền luống cuống soi đèn pin khắp xung quanh, tìm xem có công cụ gì có thể sử dụng được không. Nhưng xung quanh chẳng có gì cả, tượng sắt kia thì nặng muốn chết, dù có dùng được tôi cũng chẳng khênh đi được.
Vừa suy nghĩ, lập tức nhớ ra con dao găm trong tay mình. Có thể nói nó chính là trụ cột tinh thần của tôi, tuy rằng cho tới giờ vẫn chưa dùng lần nào.
Tôi thực sự không muốn làm con kỳ nhông bị thương, dù thế nào cũng là một sinh mạng. Nhưng đến lúc này, đã gấp quá rồi, không quan tâm được nhiều thế. Một khi tính ác trong con người đã nổi lên, thì tất cả những cái gì mà thương xót cảm thông đều hóa lời nói suông cả.
Tôi lại bơi đến lần nữa, giơ dao găm lên như muốn xiên chết nó, cho dù xiên một cái không chết, thì cũng làm nó bị thương, không bơi nhanh được nữa.
Nó dừng lại dưới chân tượng sắt, nằm sấp trên nền gạch xanh. Tôi nín thở, từ từ bơi qua như xác chết trôi vậy, tới gần từng tí từng tí một. Mắt thấy chỉ cách nó có nửa cánh tay, tôi giơ dao găm lên cực kỳ chậm, như một cảnh quay slow motion trong phim vậy, giơ đến một vị trí khá tốt, lập tức đâm xuống thật mạnh.
Có thể do con kỳ nhông cảm nhận được sát ý của tôi, nó vọt lên phía trước mấy centimet, nhưng cũng đúng lúc ấy, trong tôi nổi cơn hung đồ, dao găm xuống một nhát, găm trúng đuôi nó.
Con vật kia đuôi toàn thịt, đau đến cuộn cả mình mẩy lại. Sức nó rất lớn, dao găm suýt tuột khỏi tay tôi. Tôi đuổi theo, túm lấy cái đèn pin phía trên, nhưng lực cản dưới nước lớn quá, tay túm không trúng, con kỳ nhông trực tiếp giằng đứt đuôi mình, bơi ra xa khoảng sáu bảy mét nhanh như bay, không dừng lại nữa mà bỏ chạy đến đầu bên kia của căn hầm gạch.
Không có đuôi, tốc độ của nó chậm lại rõ ràng.
Tôi khua chân vịt đuổi theo, mấy lần suýt bắt được nó. Nhưng ở dưới nước, thật sự rất khó để nhắm chính xác được, lúc nào nó cũng thoát khỏi tay tôi vào đúng những khi tôi chắc mẩm có thể đắc thủ nhất. Cứ đuổi bắt như thế suốt mấy chục mét, tôi trước đấy đã lặn dưới nước một lúc lâu, thể lực không đủ để bắt kịp/
Tôi nghiến chặt ống thở, tay kéo giựt lấy giá sắt, mượn lực mà đẩy mình lên, miễn cưỡng đuổi theo. Ánh sáng xanh đột nhiên ngoặt một cái, tôi cũng bổ nhào theo, chỉ thấy trên nền gạch xanh của vách tường có một cái hang, thò tay vào, lập tức mò đúng được cái đèn pin, nhưng rút mãi mà không ra được.
Con kỳ nhông nhất định là đã bám chặt bên trong tường gạch này rồi.
Tôi đạp cả hai chân lên hai bên vách tường mà kéo ra, dùng toàn bộ sức nặng cơ thể mà kéo thật mạnh. Bỗng nhiên hẫng một cái, đèn pin bị rút ra. Cả người tôi bắn ra ngoài, đập vào giá sắt đằng sau.
Vất vả lắm mới đứng vững lại được, nhìn vật cầm trong tay, hóa ra sợi thừng buộc đèn pin là sợi thừng nilon trong ba lô hành lý của Bàn Tử, sợi dây không chịu được lực mạnh, nên đã đứt rồi.
Lại dùng đèn pin chiếu vào trong hang, con kỳ nhông vẫn rúc ở bên trong, xem ra không chịu thò mặt ra ngoài nữa rồi, tôi cũng không buồn quan tâm nữa, vội vàng soi chiếc đèn pin dưới ánh đèn, để xem Bàn Tử có động tay động chân cái gì nữa không.
Bên trên quả nhiên có khắc vài chữ: "SOS, đi theo ống siphon."
Lật mặt sau, còn một hàng chữ nhỏ nữa, nhưng không nhìn rõ được.
Chương 37: Đi theo ống siphon
Edit: Earl Panda
Để cho dễ hiểu, các bạn cứ tưởng tượng, mình bị ném vào bồn cầu, sau đó giật nước xả......
*****
Mấy chữ này khắc rất cẩu thả, nét chữ nguệch ngoạc, nhưng do người khắc dùng sức quá mạnh, đèn pin bị khắc đến mức biến dạng, có lẽ đây là lý do vì sao nó cứ chập chờn lúc sáng lúc tối.
Trên chụp đèn có dán một lớp băng dính chống thấm màu xanh lá cây, mẹ kiếp thảo nào ánh sáng lại xanh lè như thế! Tôi không khỏi chửi thầm, Bàn Tử chết bầm dọa tôi suýt vãi cả hồn vía, nếu có đội tìm kiếm nào nhìn thấy có khi cũng hồn vía lên mây luôn.
Ý nghĩa của mấy chữ này rất rõ ràng, chính là báo cho tôi biết, bọn họ vẫn còn sống, nhưng cần cứu viện, đầu mối duy nhất để tìm bọn họ chính là thủy triều siphon nọ.
Lượng pin của loại đèn này nhiều nhất cũng chỉ sử dụng được hơn mười tiếng đồng hồ là cùng, thế mà giờ vẫn còn phát sáng được, mà lại còn sáng trưng đến thế, vậy chắc hẳn đèn được buộc lên mình kỳ nhông cũng chưa lâu, bọn họ chắc chắn vẫn còn sống tốt.
Tên mập này đúng là gớm thật! Con kỳ nhông đến giờ mới xuất hiện, chứng tỏ anh ta đã đoán được tôi chắc chắn sẽ xuống nước vào tầm này. Nhưng, nơi này cách nơi họ mất tích bét cũng phải hơn một ngàn mét, bọn họ làm thế nào mà đến được tận cái giếng này mà không cần bình dưỡng khí?
Quên đi, tôi không muốn nghĩ ngợi gì nữa, chỉ cảm thấy trấn tĩnh hẳn lại, cục đá đè nặng cuối cùng cũng buông xuống được rồi. Chỉ cần biết bọn họ vẫn còn sống, những cái khác không quan trọng nữa.
Bây giờ quan trọng nhất là làm sao để cứu người ra.
Lúc trước ở trên bờ, khi thấy hiện tượng siphon là có thể đoán hồ này có đường thông với mạch nước ngầm ở đâu đó. Bây giờ xem lại, suy đoán là chính xác, mà nơi bọn họ mắc kẹt ở ngay gần khu vực lỗ thông.
Bàn Tử nói đi theo dòng nước, nhưng thủy triều còn chưa bắt đầu, làm thế nào để đi theo dòng nước?
Tôi vứt cái đèn pin cũ kỹ đi, thử dùng tay để cảm nhận dòng nước xung quanh. Nước hồ lạnh lẽo quanh tôi vẫn tĩnh lặng, cảm nhận thứ gì sần sùi thô ráp còn được, chứ cảm nhận dòng nước thì hoàn toàn không được, với cả, bây giờ nhìn bằng mắt cũng thấy nước đang lặng.
Suy nghĩ một chút, có một biện pháp, nhón một nhúm chất lắng đọng trên mình tượng sắt, để xem chúng trôi trong nước như thế nào.
Dưới ánh sáng đèn pin, những hạt nhỏ trắng trắng bồng bềnh trong nước rồi khuếch tán ra, tôi nhìn kỹ, mới đầu chúng dần dần lắng xuống trong làn nước, sau đó bắt đầu trôi về phía miệng giếng cực kỳ chậm.
Quả nhiên! Ở đây có một dòng nước cưc chậm, hướng về phía đáy giếng.
Đúng là có ống siphon ở đây, chỉ là quá yếu nên không thể phát hiện bằng mắt thường. Hơn nữa, xem phương hướng, có lẽ do áp suất không khí ở bên kia rất thấp, khiến nước ở đây bắt đầu bị hút ngược trở lại.
Nhìn đồng hồ dưỡng khí, chỉ còn một tẹo thời gian, tôi chỉ mang theo đúng một bộ thiết bị dưỡng khí, nếu lúc này không tìm được người, có lẽ phải chờ A Quý chuyển bộ thiết bị nữa đến mới có cơ hội thứ hai, cũng phải mất hai đến ba ngày, tôi phải xác nhận xem bọn họ có thể chịu đựng được thêm nhiều ngày như thế nữa không. Nếu có thể, tôi hy vọng có thể đưa bọn họ ra ngoài luôn một lượt.
Ước lượng thời gian, khi kim đồng hồ dưỡng khí chỉ về số 0, khí nén bên trong còn đủ dùng trong hai mươi phút. Chỉ cần khống chế thời gian quay về trong khoảng mười phút, vậy thời gian dò tìm của tôi ít nhất là mười phút.
Không thể chậm trễ thêm nữa! Tôi tháo bình dưỡng khí trên người ra thả xuống giếng trước, sau đó mới chui đầu vào.
Giếng rất chật hẹp, cũng may là đào thẳng, tôi lặn thẳng xuống, nhìn áp kế, áp suất chả mấy chốc đã vượt 7 atm, độ sâu sắp đạt đến 90 mét.
Đầu chúc xuống dưới, cảm giác khó chịu lên đến cực hạn, lúc trước do quá căng thẳng nên không cảm nhận được, bây giờ hơi thả lỏng một tí, áp suất đè nén không thể thở nổi khiến cơn buồn nôn dâng lên tận cổ họng.
Lúc này không thể nôn được. Các cơ quan nội tạng trong cơ thể tôi có không khí, do áp suất, tôi mà ọe một phát là tất cả bãi nôn sẽ trôi ngược vào khí quản ngay, tôi chỉ có thể dùng hết sức bình sinh mà nín, cố gắng dời sự chú ý đến những nơi ánh đèn pin chiếu loang loáng.
Không lâu sau đó, gạch xanh biến mất, thay vào đó là bề mặt đất đá, chứng tỏ công trình người ta làm chỉ đến đây thôi, bên dưới là đào khoét đơn thuần. Cũng tại nơi này, tôi bắt đầu cảm thấy không ổn, nghe thấy một tiếng động kỳ quái phát ra từ sâu trong đáy giếng, tốc độ dòng nước ngày một tăng nhanh.
Càng nghe càng thấy không ổn, hình như là tiếng nước chảy xiết, đang định dừng lại nghe cho rõ, bình dưỡng khí bên dưới bỗng bị một sức mạnh nào đó kéo giựt lấy, bắt đầu rung rung.
Tôi nghiến răng cắn chặt ống thở, mắc ống thở vào bình dưỡng khí, vốn rất tốn sức, bỗng lại rung lên bần bật một cái, tức thì ống thở trong miệng tuột ra ngoài, văng về phía dưới sâu.
Tôi lập tức nhào lên tóm lại, cũng may có biện pháp phòng hờ trước rồi, có sợi dây lưng ngoắc với bình dưỡng khí tôi buộc trên cổ, liền định dùng dây lưng đất kéo bình dưỡng khí lên. Nào ngờ bình dưỡng khí vừa chìm xuống chưa đến một mét, lập tức trôi tuột đi đâu mất, vượt ra khỏi tầm nhìn của tôi.
Trong nháy mắt đó, tôi đã nhìn thấy đáy giếng. Hóa ra bên dưới đáy giếng là một đường nước khác vuông góc với đường giếng, dòng nước chảy xiết cực kỳ, loáng cái đã hút bình dưỡng khí đi mất. Vừa định chửi thề, bình dưỡng khí cùng sợi dây lưng bị kéo một phát liền căng lên, một lực lớn vô cùng, suýt nữa thì kéo gãy luôn cổ tôi.
Mắt thấy mình sắp bị kéo tuột vào dòng nước xiết, tôi nghiến răng, định dùng hết sức bình sinh kéo lại bình dưỡng khí lên, nhưng cố gắng được vài giây là biết mình chịu chết rồi, với cả các mạch máu ở cổ bị siết chặt quá, máu bắt đầu không cung cấp đủ cho não.
Tôi thầm chửi mắn Bàn Tử thậm tệ, thế quái nào lại viết cái thứ gợi ý như thế chứ? Tôi lại định cởi dây lưng ra khỏi cổ, nhưng cởi mãi không được. Lúc này tôi đã chẳng suy nghĩ được gì nữa, cứ dứt khoát thả lỏng tay chân, chìm thì cho chìm, cứ thuận theo dòng nước xem thế nào, dù sao Bàn Tử cũng dặn tôi đi theo ống siphon này mà.
Tôi chưa kịp có cảm giác gì, toàn thân đã bị một sức mạnh cực lớn lôi tuột xuống, nửa giây sau, đã bị ném vào trong đường nước, xoay vòng vòng vài cái rồi bị cuốn theo luôn. Muốn giữ vững tư thế cơ thể, bả vai bị đập vào vách đá xung quanh liên tiếp mấy cú. Cũng may đường nước này rộng đủ cho hai ba người chui vào, hơn nữa quanh năm bị nước xối vào nên bốn bề nhẵn nhụi, bằng không nếu có góc cạnh nào, chắc chắn là tôi da tróc thịt bong.
Cũng khéo làm sao, bình dưỡng khí bị cuốn theo dòng nước xoay mấy vòng, cuối cùng lại bị cuốn đến bên cạnh tôi, rồi chầm chậm đụng vào tôi một cái. Lúc này tôi đã hụt hơi lắm rồi, hầu như không nhịn nổi nữa, nhưng vẫn phải bất chấp tất cả mà níu lấy nó.
Vất vả lắm mới tìm được ống thở trong dòng nước xiết, tôi vội vàng nhét nó vào miệng. Còn chưa kịp hít một hơi không khí, đã lại bị dòng nước ném xuống một sườn dốc nữa, tôi bị cuốn đi mấy vòng, cái đầu tôi cứ như viên bi trong bàn pinball, bị hất một cái văng vào vách đá rồi rơi tuột xuống.
Một cú ngã này làm tôi mê man luôn, mãi hồi lâu vẫn không biết chuyện gì xảy ra, theo bản năng cắn chặt ống thở, cũng không bị cuốn về phía trước bao lâu nữa, bỗng nghe một tiếng vang thật lớn, bình dưỡng khí trước mặt bị đập trúng phải vật gì đó trong đường nước.
Tôi giật mình tỉnh táo lại, định ôm lấy đầu bảo vệ nhưng chưa kịp làm gì thì đã tông trúng vật kia, một tiếng trầm đục vang lên, tôi chóng hết cả mặt mày. Tôi không có tính đàn hồi như cái bình dưỡng khí kia, lúc va chạm chỉ có thể bị dòng nước xô vào vách dính dẹp lép trên ấy. Tôi gờ tay lên sờ một cái. Hóa ra là một lưới sắt, tôi dùng hết sức bình sinh quay người lần mò, không có chỗ hổng nào chui vừa.
Chẳng lẽ đến đây là hết đường rồi? Ngẩng đầu nhìn lên, bốn phía không có bất kỳ lối đi nào nữa, toàn là vách đá rắn chắc. Ngõ cụt.
Tôi không tin, điều chỉnh lại tư thế, dùng đèn pin soi thật kỹ. Quả thực không có.
Khốn kiếp! Thật kỳ quái! Bàn Tử nói cứ theo ống siphon là có thể tìm bọn họ, thế quái nào bây giờ là ngõ cụt?
Vừa nghĩ đến, tức thì mồ hôi lạnh tứa ra, nghĩ bụng, toi rồi, chẳng lẽ Bàn Tử đang ở đoạn nào đó giữa quãng đường nước lúc nãy? Vừa rồi tôi bị va đập đến ngu người ra, nên đã bỏ lỡ?
Vừa rồi tốc độ bị cuốn đi quá nhanh, tôi không muốn quay lại tìm nữa, hơn nữa, với tốc độ trôi nhanh như thế, tôi không thể kịp phản ứng lại, tìm lối rẽ sau đó chui vào được. Cũng may, tôi cảm giác mình bị ngã xuống đây cũng không lâu lắm, nếu lối rẽ kia quả thực nằm trong đường nước này, có lẽ cách cũng không xa.
Nơi này tương đối rộng rãi, tôi đeo bình dưỡng khí trên lưng, bắt đầu thử bám lấy vách đá mà đi ngược dòng nước. Mới đi được hai bước, liền nhận ra tiêu rồi, dòng nước này quá xiết! Ngay cả có kiếm được chỗ nào để bám tay vào thì cũng phải dùng hết sức bình sinh mới di chuyển được một tí, huống hồ vách đá này còn nhẵn thín, trơn tuồn tuột.
Tôi dùng đủ mọi cách, thử đủ mọi góc, kết quả vẫn thất bại. Duy có một lần thành công nhất là rời được khỏi lưới sắt khoảng mười bước, nhưng trượt chân một cái, lập tức bị hất văng về chỗ cũ, cuối cùng kiệt sức.
Bị dòng nước xiết đè ép, tôi càng ngày càng thấy không ổn.
Nơi này trông có vẻ bình thường, nhưng chắc chắn là đường cùng, tôi không khác nào bị kẹt ở một nơi không có lồng giam. Sao Bàn Tử đếch viết lại chi tiết này?
Nếu thật sự không thoát được, lần này tôi bị anh ta hại chết rồi!
Nhìn đồng hồ dưỡng khí, không hiển thị con số nào nữa, tức là bất cứ lúc nào cũng có thể hết sạch không khí. Tôi hoảng hốt, cố sức rung lắc lưới sắt, thử xem có thể tháo được nó ra không, nhưng lại phát hiện lưới này là dùng sắt nóng chảy rưới thẳng vào đá mà vá lại, rắn chắc muốn chết luôn.
Bên kia lưới sắt tối đen, chiếu đèn vào, chỉ thấy đường nước càng dốc, nước càng xiết. Có lẽ chính vì thế mà mới xây lưới sắt ở đây, đề phòng có người bị cuốn xuống đường nước còn chật hẹp hơn.
Nhất thời, tôi thực sự hoảng loạn, ngay đến ống thở cũng không cắn chắc. Tôi vội vàng hít sâu, cố gắng bình tĩnh.
Trước đây, lúc nào cũng thế, hễ cứ khi tôi bị nhốt là sẽ nghĩ ra biện pháp gì đó ngay, bởi con người là loài sinh vật chỉ cần một tia hy vọng là có thể phát huy tiềm năng vô hạn của mình. Tôi bắt đầu nhanh chóng suy nghĩ, đồng thời không ngừng xem xét xung quanh, không ngừng sờ nắn, tìm một tia linh cảm.
Mới đầu tôi còn tràn đầy lòng tin, cho rằng trời xanh không tuyệt đường người, nhưng điều khiến tôi tuyệt vọng là, cho dù đây không phải không gian khép kín, nhưng mọi thứ xung quanh lại quá đơn giản, mò mẫm nửa ngày cũng chỉ có thể xác nhận mình không có khả năng chiến thắng dòng nước quá xiết này, cũng không có khả năng tháo dỡ lưới sắt này.
Mặc dù vẫn tiếp tục nghĩ cách, nhưng trong đầu tôi đã bắt đầu mơ hồ hiện lên một suy nghĩ: lần này không thoát được rồi!
Chắc chắn phải chết rồi.
Mấy phút tiếp theo, cả đời này tôi không thể quên được.
Trong đường nước tối đen, không có bất kỳ quái vật nào, cũng không có bất kỳ thứ gì kinh khủng. Tuy đầu óc tôi không muốn thừa nhận, nhưng tiềm thức đã rất rõ ràng: chỉ một thời gian rất ngắn nữa thôi là tôi sẽ chết, chết thực sự, lần này không thể thoát nổi.
Cảm giác này thực sự rất đáng sợ, ngôn ngữ không thể miêu tả nổi.
Tôi bỗng cảm thấy hối hận trước tất cả mọi quyết định trước đây của mình, cùng lúc đó lại muốn tự nhắc nhở rằng mình không thể bỏ cuộc, phải cố gắng đến giây cuối cùng. Nhưng trong lòng tôi đã hoàn toàn tuyệt vọng, đầu óc không kìm chế được mà suy nghĩ đủ thứ linh tinh. Sau đó tôi bắt đầu thất thần, nghĩ nếu như lúc trước tôi cứ nổi lên mặt nước thì sẽ thế nào? Rồi lại nghĩ nếu như tôi chết, người thân của tôi sẽ phản ứng thế nào? Hối hận và sợ hãi khiến đầu óc tôi rối tung lên như tơ vò.
Đồng hồ dưỡng khí đã không hiển thị số nữa, không thể xác định được lúc nào tôi sẽ ngạt thở, chỉ có thể vừa cố gắng tiết kiệm hơi thở đến phút cuối cùng, vừa chờ đợi khoảnh khắc cái chết ập đến.
Chương 38: Hang động kỳ lạ
Edit: Earl Panda
*****
Đến phút cuối cùng, tôi gần như chỉ còn chờ đợi giây phút ngạt thở dần dần ập đến. Dưỡng khí hít vào ngày càng ít, tất cả như kéo dài ra. Nỗi sợ hãi khiến tôi nước mắt nước mũi ròng ròng, không tài nào bình tĩnh nổi, chỉ còn duy nhất một suy nghĩ đọng lại trong đầu: Tôi sắp chết.
Rất nhanh, dưỡng khí đã hao hết, tôi vẫn không ngừng hít ống thở, nhưng chẳng hít được gì. Nín thở một hơi cuối cùng, nín đến cực hạn, trong cơn đau đớn dữ dội, tôi theo bản năng hít thở qua miệng, một cảm giác chua rát sặc vào phổi, tôi co quắp cả mình mẩy.
Đang ở dưới nước, tôi không hít được hơi nào mà sặc hết nước trong phổi ra, sặc một lúc, cảm giác vừa chua vừa rát liền tràn ra khắp phổi, chỉ thấy ngực mình như sắp nổ tung.
Tôi không tài nào diễn tả được cảm giác sau đó nữa, tôi cũng không biết mình đã vùng vẫy giãy giụa được bao lâu. Dần dần, mọi cảm giác đều tan biến hết, bốn phía dần lặng như tờ, ánh sáng trước mắt dần tối đi, bên tai lại vang lên một số tiếng động kỳ quái, vừa giống tiếng người nói, lại vừa giống tiếng nước chảy.
Một giây tiếp theo, tất cả tối sầm lại.
Khoảnh khắc ấy, tôi cứ ngỡ mình đã chết, không còn bất kỳ cơ hội nào lật lại tình thế nữa. Không phải chết vì bánh tông, mà lại chết đuối. Ông nội nói thật đúng, gặp bánh tông cũng chết, chết đuối cũng là chết, vì sao lại sợ bánh tông mà không sợ nước? Con người đúng là loài động vật nực cười.
Cũng may, cảm giác bình lặng sau cùng không tệ lắm. Nếu ai chết đi cũng được bình thản như vậy, vậy thì chẳng cần sợ hãi bản thân cái chết nữa, mà đoạn thời gian trước cái chết mới thật sự là gian nan.
Đến khi tỉnh lại, ban đầu tôi cảm thấy kinh ngạc vô cùng, nhưng mất một lúc lâu không thể suy nghĩ được gì, cho nên tôi không tài nào hiểu được sự kinh ngạc này, lại càng không hiểu điều này tượng trưng cho cái gì.
Dần dần, dần dần, ý thức tôi mới hồi phục lại.
Cảm giác đầu tiên là đau đớn, đau đớn dữ dội bắt đầu ở tay, sau đó dần dần lan rộng ra, cuối cùng đến phổi. Trong phổi cứ như bị kẹt một tấm lưới sắt, mỗi lần hít thở đều khó chịu muốn chết.
Tất cả sức lực của tôi đều dồn cả vào để chống đỡ cơn đau, không biết bao lâu sau, tôi mới phát hiện ra mình dần thích ứng được. Sau đó, các cảm giác khác dần hồi phục.
Tất cả những gì đã trải qua lại bắt đầu hiện lên trong đầu tôi, trở về từ cảng Phòng Thành, xuống nước, ánh sáng xanh lè kỳ quái dưới ngôi làng cổ đáy hồ, tòa đại trạch kiểu Hán kỳ quái, tượng người sắt, dưới đáy giếng, cuối cùng là ngộp thở... vân vân, mọi chi tiết dần dần quay trở lại. Tôi lập tức lấy làm lạ vô cùng, nếu vậy mình chắc hẳn phải chết rồi chứ, sao lại tỉnh lại?
Trong nháy mắt, cứ có cảm giác như thể tất cả là một giấc mộng, không chừng tôi vẫn luôn nằm ngủ ở đây, chết đuối chỉ là cơn ác mộng mà thôi. Nhưng toàn thân tôi đau nhức khủng khiếp, tôi biết điều đó là không có khả năng, có lẽ bởi nguyên nhân nào đó mà mình đã được cứu sống.
Thử cử động một chút, lại cực kỳ khó khăn. Có thể cảm thấy xung quanh rất ẩm ứt, hình như là một tảng đá ướt, hai tai và mắt bắt đầu có phản ứng, tiếng động xung quanh dần dần trở nên rõ ràng, có người đang ngâm nga cái gì đó, còn có...
Là tiếng của Bàn Tử!
Tiếng hát nghe dở cực kỳ, nhưng đủ làm tôi kích động. Tôi lập tức muốn quay đầu nhìn, kết quả lại đau đến kêu oai oái.
Tiếng hát lập tức dừng bặt lại. Bàn Tử kêu lên: "Tỉnh tỉnh!" Sau đó, trước mắt tôi sáng bừng lên, một bộ mặt béo phì râu ria nham nhở xuất hiện trước mặt tôi. Cùng lúc đó, tôi nhìn thấy Muộn Du Bình, hắn đang đứng sau lưng Bàn Tử, tay giơ đuốc.
Tôi nhìn hai tên đầu heo này, mới đầu còn không thể tin vào mắt mình. Bàn Tử bắt đầu nói nói, đầu óc tôi vẫn còn lờ mờ chưa hiểu rõ hắn đang nói gì, nhưng tôi có thể cảm nhận rõ ràng một điều, rằng đây không phải ảo giác, tôi thực sự đang nhìn thấy bọn họ! Cảm xúc lẫn lộn đan xen, những sợ hãi, lo lắng, hy vọng, đủ các loại cảm xúc lúc trước cuối cùng cũng buông lỏng được, tôi không biết phải giãi bày thế nào, chỉ biết nước mắt chảy xuống ròng ròng, nhưng lại không kìm được mà bật cười ha hả.
Một người đã trải qua quá nhiều chuyện vậy, nỗi sợ hãi hoang mang trong cái cảnh cô độc khủng khiếp, sự tuyệt vọng khi vừa lướt qua vạt áo thần chết, lại cuối cùng nhận ra mình vẫn bình yên vô sự, cái cảm giác vui mừng khôn xiết này khiến người ta muốn phát điên lên. Nhưng trăm mối cảm xúc ngổn ngang trong tôi lại không phải vì thế, mà là vì tôi nghĩ: bất kể đang trong tình huống nào, cuối cùng cũng được ở bên hai người bọn họ, cuối cùng cũng không phải ở một mình nữa, cảm giác này thật tốt quá!
Vừa co giật vừa cười khùng khục nhất định là trông rất quái gở, Bàn Tử hiển nhiên tưởng tôi bị điên rồi, lập tức đỡ tôi dậy, không nói hai lời giáng cho tôi hai phát tát. Anh ta đập lưng tôi bôm bốp, nói: "Hít thở! Hít thở! Hít sâu vào!"
Anh ta ra tay rất nặng, não tôi nghe bùm một tiếng, cảm xúc ngổn ngang mất không chế đã bị anh ta đánh bay rồi, lại còn bị đấm bôm bốp vào lưng nữa, làm tôi đột nhiên cảm thấy buồn nôn vô cùng, bắt đầu ọe ra nôn mửa rồi ho khan, không biết đã nôn ra cái gì.
Nôn xong, tôi khó khăn quay đầu lại nhìn bọn họ, tầm mắt ngày càng rõ ràng, đủ các loại tiếng động vang lên trở nên có trình tự hơn.
"Thế nào? Còn khó chịu không?" Tôi nghe Bàn Tử hỏi.
Tôi sợ anh ta đấm tôi tiếp, lập tức xua tay, nhưng không nói nên lời.
Anh ta thở phào nhẹ nhõm, bảo: "Cảm tạ trời đất, cậu đã tỉnh lại rồi. Mẹ kiếp, ông đây còn tưởng cậu lần này thành người thực vật con mẹ nó luôn rồi, vậy ông đây có lỗi quá rồi."
"Rốt cuộc là chuyện gì xảy ra? Sao tôi không chết?" Tôi bất giác hỏi.
"Cái đó cậu phải đi hỏi Diêm Vương ấy." Bàn Tử nói, rồi đỡ tôi ngồi dậy tựa vào vách đá, bảo tôi thả lỏng.
Tôi đã tỉnh táo lại, nhìn bọn họ. Đã mấy tuần không gặp họ, hai người này trông cứ như vừa đi làm công nhân ở lò than về ấy, chỉ mặc độc cái quần lót, chật vật vô cùng, mặt mũi nham nhở râu ria, lại gầy sọp đi không ít. Tôi thở phào một hơn, tuy trông họ có vẻ vất vả, nhưng khí sắc không tệ, chứng tỏ không ai bị thương.
Quay đầu xem xét xung quanh, ở phía xa xa có đống lửa nho nhỏ, không biết được dựng lên bằng cái gì, đống lửa đã soi sáng cảnh vật xung quanh. Nơi này là một cái hang bằng phẳng do sức người khai tạc nên, rộng chừng ba mươi mét vuông, đứng thẳng lên có thể chạm đến trần hang, bốn bề nước rỉ ra, cứ như là trời mưa, mặt đất cũng đều ẩm ướt. Vách đá có màu xanh lục nham nhở, trông khá đẹp dưới ánh đèn pin. Bên kia còn có một cửa hang cao khoảng nửa người, nhưng lại rất hẹp, như là một vết đao chọc vào, không biết dẫn đến đâu.
"Khốn nạn! Đây là chỗ nào? Hai người gặp phải chuyện gì? Làm tôi lo gần chết, còn tưởng hai người tiêu rồi."
Bàn Tử toét miệng bảo: "Nói ra rất dài, còn lo cậu không tìm được tụi này chớ. Sao? Có phải chú em nhìn thấy thông tín viên của tôi nên mới tìm đến được đây phải không?"
Nhắc đến cái con "thông tín viên" kia tôi lại giận điên lên, hận không thể cắn chết Bàn Tử chết bầm luôn, nhưng có lòng lại không có sức, tôi đành mắng: "Cái tên thông tin viên của anh quá không chuyên nghiệp, mẹ nó suýt thì hại tôi chết toi!"
"Đệt! Ở đây có thể tìm được cái thứ đó đã là tốt lắm rồi." Bàn Tử hỏi, "Thôi nói mau đi, làm sao mà cậu đến được đây?"
Tôi nghe xong liền tức giận, nghĩ bụng anh hỏi tôi sao tôi biết được? "Tôi không biết, không phải hai người cứu tôi lên à?"
Bàn Tử vốn hưng phấn bừng bừng, vừa nghe lời tôi nói, sắc mặt liền cứng đờ lại. "Tụi này cứu cậu á?"
"Chứ còn gì!" Tôi bèn kể lại một lượt quá trình từ lúc tìm được con kỳ nhông, cho đến lúc xuống giếng.
Bàn Tử nghe xong, vẻ mặt rất kỳ quái, anh ta quay đầu nhìn Muộn Du Bình, Muộn Du Bình đang ngồi trên tảng đá phía sau, sắc mặt cũng âm u không rõ.
Tôi lấy làm lạ, hỏi: "Sao? Có vấn đề gì? Chả lẽ không phải hai người cứu tôi à?"
Bàn Tử từ tốn lắc đầu nói: "Làm sao cậu đến được đây, chả nhẽ cậu hoàn toàn không biết?"
Tôi chẳng hiểu gì cả: "Biết cái gì?" Lại nhìn vẻ mặt bọn họ, bỗng cảm thấy không ổn, lập tức hỏi: "Rốt cuộc là làm sao? Tôi đã gặp phải chuyện gì?"
Bàn Tử ngán ngẩm ngồi phệt dưới đất, thở dài bảo: "Cậu không biết, tụi này càng không biết."
Tôi không khỏi nổi giận, mắng: "Rốt cuộc là thế nào? Anh chơi trò bí hiểm cái mẹ gì? Mau nói đi xem nào."
Bàn Tử ra dấu, bảo tôi đi mà hỏi Muộn Du Bình. Tôi nhìn hắn, chợt nghe hắn nói: "Khoảng năm tiếng trước, cậu xuất hiện ở nơi cậu đang nằm bây giờ, hôn mê sâu, hầu như không còn tri giác. Bọn tôi sơ cứu cho cậu, sau đó, năm tiếng sau, cậu tỉnh."
Tôi chờ Muộn Du Bình nói tiếp, hắn lại ngậm miệng.
"Hết rồi?" Tôi vô cùng kinh ngạc hỏi.
"Hết rồi."
"Anh còn chưa nói làm thế nào hai người cứu được tôi." Tôi nói.
Bàn Tử nhìn tôi. "Cậu vẫn chưa hiểu rõ vấn đề à, tụi này căn bản không cứu được cậu. Năm tiếng trước, cậu xuất hiện ở đúng nơi cậu đang nằm bây giờ." Anh ta nhấn mạnh từng từ, "Xuất hiện, nói cách khác, vốn chỗ đó chẳng có gì cả, đột nhiên cậu nằm ở đó."
Tôi nhíu mày, một lúc sau mới hiểu ý anh ta, hỏi: "Ý anh là, tôi đột nhiên xuất hiện ở đây?"
Bàn Tử gật đầu: "Tôi với Tiểu Ca vẫn ở trong cái hang khác suốt, ở đấy tương đối khô ráo, nhưng cứ cách một lúc tôi sẽ tới đây lấy nước. Lúc phát hiện cái hang này tự dưng thêm một người, tôi sợ gần chết, nhưng ông Béo nhà cậu vừa nhìn đã nhận ra cậu luôn, bèn gọi Tiểu Ca tới, mới cứu cậu về đấy. Lúc đấy cậu ngừng thở rồi cơ, đúng ra phải tìm anh hùng đến cứu mạng rồi đấy, cũng may ông Béo đây có tư cách diễn vai anh hùng. Sau lại sợ người cậu gãy xương chỗ nào, mới không dám di chuyển, chờ cậu tỉnh lại đã."
Tôi nhìn ánh mắt Bàn Tử, biết anh ta không nói giỡn, nhất thời lâm vào trầm tư.
Tình huống này thật không thể ngờ được, tôi vốn tưởng sau khi hôn mê đã gặp kỳ ngộ gì, được Bàn Tử với Muộn Du Bình phát hiện kịp lúc, sau đó được cứu, bây giờ hóa ra lại không phải thế. Nhưng không thể có chuyện trong lúc hôn mê tôi lại tức bơi đết đây được, cũng không có khả năng di chuyển đến đây trong nháy mắt. Rốt cuộc là sao?
Lẽ nào, người cứu tôi là người khác? Có người ở ngoài cứu tôi lên, rồi tống tôi vào đây?
Đó là một đường giếng hoang dưới đáy hồ, không thể có người đi ngang qua được, nói cách khác, có người đã theo dõi tôi.
Tôi nói cho Bàn Tử suy nghĩ của mình, hỏi anh ta xem liệu có dấu vết gì chứng minh khả năng đấy không, nhưng anh ta lẫn Muộn Du Bình đều không có phản ứng gì, tựa hồ không đồng tình.
Bàn Tử cười khổ, vỗ vỗ tôi, to tiếng trút hết ra: "Mẹ kiếp, không thể có chuyện đó được! Nếu có người có thể đưa cậu đến đây, như vậy kẻ đó nhất định đếch phải 'người'."
"Vì sao?" Tôi hỏi.
Anh ta cười khổ sở: "Cậu đứng lên được không? Tôi đưa cậu đi một vòng trong hang này, tự cậu xem đi, là biết vấn đề ở đâu thôi."
Chương 39: Vấn đề trong hang động
Edit: Earl Panda
*****
Bàn Tử cứ tỏ vẻ bí hiểm, mà Muộn Du Bình ở bên cạnh thì chẳng nói năng gì.
Tôi không biết rốt cuộc Bàn Tử đang giở trò gì nữa, nhưng thái độ của Muộn Du Bình cho tôi biết, hắn cũng không hề phản đối lời nói của Bàn Tử. Nỗi ngờ vực trong tôi đã lên đến đỉnh điểm, tôi quyết định không tính toán với hai tên này nữa, đi xem xem sao đã.
Nghĩ thì nghĩ thế, có lòng nhưng không có sức, tôi được Bàn Tử dìu lấy, toàn thân run rẩy lẩy bẩy, phải bấu chặt lấy cổ anh ta mới không ngã dúi dụi xuống.
Hang động này rộng khoảng ba mươi mét vuông, thực ra cũng chẳng có gì đáng xem, chiếu đuốc nhìn một vòng cũng chỉ thấy toàn là dấu vết do con người đục đẽo khai tạc, còn lại chẳng có gì. Thứ duy nhất đặc biệt là dấu vết đen như mực ở trên trần, chẳng biết trong lớp đá này có hàm chứa khoáng chất gì nữa.
Tôi khom lưng lội nước đi theo anh ta, đi qua lối đi như bị dao chém nọ, vào trong hang động bên kia.
Nơi này là một hang động khác phải rộng ít nhất gấp đôi hang động tôi ở lúc đầu, bên trong chất đầy đồ đạc, toàn là những công cụ đã rỉ sét hết, những khung gỗ của các sọt đeo lưng, còn có cả đống gạch xanh chất thành đống, xung quanh còn rải rác những đồ lặt vặt gì đó bằng đá mài mà tôi không biết.
Đáng kinh ngạc là, trong góc hàng còn bày mấy cái giá cao chạm trần hang, trên giá đặt mấy tượng người sắt nằm ngang. Trần hàng và vách tường đầy những hoa văn màu xanh lục sẫm, dưới ánh đèn lại càng nổi lên rõ ràng, lấp lánh như ngọc lưu ly.
Ở chính giữa hang động còn có một cái vò lộn ngược, bên trên đặt một bức tượng thần, chẳng biết là thần thánh phương nào, phía trước có đặt một lư hương đã cắm mấy nén nhang, rất đơn sơ.
"Rốt cuộc đây là chỗ mẹ nào thế?" Tôi ngạc nhiên kêu lên, nhìn thì có vẻ như là một gian phòng đá vẫn đang được khai tạc, mới làm được phân nửa, hộp dụng cụ với nguyên liệu vẫn còn chất hàng đống.
"Theo suy đoán của bọn tôi, đây chắc là một hầm mỏ." Bàn Tử nói.
"Hầm mỏ?" Tôi nhìn quanh quất. "Hầm mỏ gì?" Rồi lại nhìn các tượng người sắt trên giá, hỏi: "Chẳng lẽ là mỏ sắt?"
Bàn Tử lắc đầu: "Mẹ kiếp còn giá trị hơn cả mỏ sắt ấy! Cậu nhìn mà xem." Anh ta chỉ về phía mấy hoa văn màu lục sẫm. "Cậu sờ mà coi đấy là đá gì? Nghĩ mà xem, xung quanh đây cái gì là nhiều nhất?"
Tôi vẫn không hiểu lời anh ta cho lắm, sờ sờ mấy đường hoa văn kia, cảm giác ôn nhuận lại nhẵn bóng lạ thường, cứ như da mặt của con gái. Anh ta không nói bừa, quả thực không bình thường. Nghĩ một lúc, trong đầu hiện lên một ý tưởng. "Cái đệt! Lẽ nào đá này là... ngọc bích?"
Bàn Tử gật đầu: "Tôi không phải người trong nghề, nhưng mà tôi thấy, dù đây không phải ngọc bích thì cũng là ngọc thạch gì đó không kém cạnh. Cho nên, đây là một quặng ngọc cực kỳ lớn."
Tôi a lên một tiếng, mới giật mình nhớ ra những hiện tượng kỳ quái mình từng nhìn thấy trong làng cổ dưới đáy hồ lúc trước.
Xem ra hang động này cũng là một phần của tòa lầu cổ kỳ quái nọ, trước giờ vẫn hoài nghi trong lòng núi có gì đó, cảm giác khả năng lớn là cổ mộ, không ngờ lại là quặng ngọc.
Đúng thực là bất ngờ, nhưng điều này âu cũng hợp lý.
Nơi này có một quặng ngọc bí mật, logic cũng gần giống với cổ mộ vậy, chỉ khác cái là giá trị của cổ mộ không thể so sánh với quặng ngọc được. Hoàng kim có giá, ngọc thạch vô giá, có được một quặng ngọc, phú khả địch quốc.
Bởi vậy, bên trên mới bố trí kín đáo như thế, cuối cùng thì mọi thứ cũng đã hợp lý cả rồi: nếu như là vì để lén khai thác một quặng ngọc, đừng nói là xây một tòa lầu, xây cả một tòa thành cũng chẳng lỗ.
Xây một tòa lầu cổ ở nơi này, thậm chí có khả năng là Vua Dao cũng có góp phần nữa, dùng đặc quyền của mình để bảo vệ quặng này. Quặng ngọc giá trị cực lớn, không một cơ quan chính quyền nào có thể bỏ qua được sự mê hoặc cỡ này.
Về phần tại sao phải giấu giếm ư? Rất đơn giản, nếu thế lực ở các địa phương khác biết được, chắc chắn sẽ đem quân đến đánh. Đem ngọc đổi ra tiền, có thể mua được bao nhiêu là nha phiến, bao nhiêu là thuốc lá chứ!
"Sự việc xảy ra ở đây, tôi thấy chỉ e đều có liên quan đến quặng ngọc này. Chỉ vì thứ này mà bày ra bao nhiêu là âm mưu quỷ dị khủng khiếp cũng không lạ lùng gì, thứ này giá trị quá lớn rồi." Bàn Tử nói.
"Thế những vật này thì sao?" Tôi nhìn giá sắt cùng mấy chục tượng sắt ở góc hang, hỏi. "Lẽ nào những thứ này cũng là công cụ? Tại đốc công quá hà khắc, nên bọn họ sửa cuốc chim thành hình dạng đốc công, ngày ngày đánh đập cho bõ ghét à?"
Bàn Tử nửa cười nửa không, như thể không có hơi sức đâu mà đùa giỡn nữa, nói: "Tôi không rõ lắm, có điều cậu xem mấy thứ này đi, đều công cụ đúc bằng gang, bên cạnh còn có đế sắt, tôi nghĩ những tượng sắt này cũng giống như khi tụi mình đi đánh chuyến hàng lớn ấy, chỉ dùng để chuyển đồ thôi. Khai thác khoáng thạch xong, liền phong kín vào trong tượng sắt để vận chuyển, chuyển đến nơi rồi mới nấu chảy lớp sắt bên ngoài. Ngày xưa chiến tranh loạn lạc, làm vậy thứ nhất là để phòng ngừa bể vỡ ngọc nếu gặp bất trắc trên đường vận chuyển, thứ hai là trên này có khắc hoa văn chống gỉ, dùng xong có thể đập nát, rồi đem luyện thép, làm đạn dược."
"A!" Tôi hít sâu một hơi, hóa ra là thế.
Rắn có đường rắn, chuột có đường chuộc, cùng hạng người như nhau nhìn cái là biết ngay. Lúc trước tôi còn thấy buồn bực, không khỏi có chút thất vọng, còn tưởng đằng sau những tượng sắt này còn có câu chuyện gì sâu hơn nữa chứ.
Nghĩ một lúc, lại thấy có gì không đúng. Lẽ nào đội khảo cổ trục vớt những cục sắt là vì ngọc thạch bên trong đó?
Không có khả năng cho lắm. Ngọc thạch giá trị dù lớn, nhưng quốc lực thời đó, cũng không nghèo đến nỗi cần đội khảo cổ đi vớt ngọc chứ, lẽ nào thứ này còn có tác dụng gì khác?
Bàn Tử chỉ cười, vẻ mặt cũng không quá thoải mái. Men theo vách hang động đi một vòng, tôi tiếp tục nói: "Có điều, xem quy mô hầm mỏ này, hình như bọn họ cũng không khai thác được gì nhiều, độ rộng của hang không lớn lắm."
"Quy mô quặng ngọc vốn không lớn, nhưng đây không phải vấn đề mấu chốt." Anh ta dìu tôi đứng thẳng một chút, "Đây không phải thứ mà ông Béo nhà cậu muốn cho cậu xem."
Tôi quay đầu tiếp tục nhìn khắp bốn phía, nhưng chẳng gì đáng chú ý cả. Liền hỏi: "Anh muốn tôi xem cái gì cơ?"
Bàn Tử giơ đuốc lên hỏi: "Cậu không phát hiện ra à? Ở đây không có bất kỳ lối ra nào."
Tôi bỗng giật thót mình, một giây trước còn chưa hiểu đầu cua tai nheo gì, một giây sau đã hoàn toàn rõ ràng. Vội vàng nhìn khắp hang động, càng nhìn, mồ hôi lạnh càng tứa ra.
Quả thực, hai cái hang động này không rộng, nhưng vừa xem hết một lượt, lại không thấy bất kỳ lối nào có thể ra ngoài.
Cái hang nhỏ rộng ba mươi mét vuông sát vách kia quá đơn sơ, chắc chắn không có lối ra rồi. Hang này rộng hơn chút, nhưng cũng không có bất kỳ cửa hang nào khác.
Đầu óc tôi hơi loạn, lập tức xoay người, Bàn Tử đỡ tôi đi khắp một vòng hang động này một lần nữa. Lúc này tôi chỉ hoàn toàn tập trung vào việc tìm lối ra, sau khi xem xong, chỉ thấy toàn thân lạnh lẽo, không nói được gì.
Bàn Tử nói đúng, ở đây không có bất kỳ lối ra nào. Toàn bộ vách hang động đều là đá tảng nguyên khối, ngay cả một khe hở cũng không có.
"Thế là thế nào?" Tôi nhìn anh ta. "Sao lại có thể như thế?"
Anh ta vẻ mặt khổ sở, không nói gì.
Tôi vô thức nhìn lên trần hang, vách hang không có gì, vậy có thể ở trên đỉnh.
Trần hang rất thấp, vươn tay ra là sờ được. Nhìn xung quanh một vòng, cũng chẳng khác gì vách hang, không có gì cả, hoàn toàn là đá nguyên khối.
Bàn Tử thở dài, phất tay nói: "Thôi đừng nhìn nữa! Trong này từ trong ra ngoài từ trên xuống dưới, bọn tôi đều tìm khắp từng tấc đất rồi, hai cái hang động này hoàn toàn khép kín."
Tôi không tài nào tiếp thu được sự thật này: "Sao có thể?"
Bàn Tử thở dài bảo: "Tôi không biết, nhưng đây đúng là sự thực. Hang động này, hình như..." Anh ta ngập ngừng một chút, giọng nói có hơi do dự: "Hoàn toàn khép kín, như thể bị đào khoét từ trong ra ngoài."
Tôi ngơ ngẩn, lắc đầu nói: "Tuyệt đối không thể được. Nếu như vậy, chúng mình vào đây bằng cách nào?"
Anh ta để tôi tựa vào vách đá, nhìn Muộn Du Bình ở phía sau, lắc đầu nói: "Không biết."
Chương 40: Không gian khép kín
Edit: Earl Panda
Hiện tượng siphon hoạt động theo nguyên lý bình thông nhau thôi, vật lý lớp mấy học rồi ấy nhỉ? Minh không nhớ đã giải thích chưa, thôi cứ ghi chú lại. Não ngày càng cá vàng.
Bản raw của mình phần 6 khá loạn, nhiều khi giữa các đoạn văn không có logic liền mạch, mình không những vừa dịch lại còn kiêm biên tập nữa, khổ không sao kể hết. Cho đến chương này có một đoạn khá kỳ lạ, nên lên trang daomubiji so lại, thì y như rằng đoạn kỳ lạ đó đã được cắt bỏ. Thôi từ nay mình chẳng tin tưởng vào bản raw của mình nữa, lên trang online dịch trực tiếp vậy. Bản raw của mình cũng khá cũ rồi, down từ cách đây 4, 5 năm gì đó. Nếu ai đọc không hiểu chỗ nào, cứ comment ở dưới mình sẽ cố gắng giải thích, chứ bây giờ mình không có hơi sức đâu mà rà soát, kiểm tra và beta lại được nữa.
Từ giờ đến ít nhất là đầu tháng 10 mình bận chạy deadline, từ giờ đến lúc đó post chương sẽ chậm.
*****
Tôi nhìn Muộn Du Bình nãy giờ im lặng, biểu hiện của hắn đã khác lúc trước, có chút cổ quái, tuy vẫn không động đậy cũng không nói năng gì, nhưng hình như hắn không còn chú ý đến chỗ tôi nữa.
Tôi hỏi hắn: "Thế anh nghĩ sao? Anh có ấn tượng gì với nơi này không?"
Muộn Du Bình ngồi tựa trong góc, quay đầu nhìn tôi, từ tốn nói một câu: "Tôi không có ấn tượng gì, nhưng tôi biết, sự việc mới chỉ là bắt đầu."
Trong bầu không khí kỳ dị vô cùng này, Bàn Tử và Muộn Du Bình kể lại những gì họ đã trải qua, tôi vốn tưởng sẽ được nghe một câu chuyện phức tạp cỡ nào, thật không ngờ, câu chuyện của bọn họ lại cực kỳ đơn giản.
Sau khi tôi rời đi, hành động của bọn họ không khác những gì tôi đoán là bao, bắt đầu sử dụng những dụng cụ thô sơ do A Quý mang tới để tiến hành trục vớt. Những bộ hài cốt trên tảng đá vốn tìm được trong đống cành cây khô, phỏng đoán có lẽ là do hiện tượng siphon, phần lớn hài cốt đều mắc kẹt trong các cành cây, còn đống trang bị bị ném xuống nước lại ở nơi khác, kẹt ở khu vực hàng rào.
Lần cuối cùng xuống nước trước khi mất tích, Bàn Tử là người đầu tiên. Lúc đó anh ta đã định nổi lên rồi, nhưng lại thấy cái gì lóe lên trong phạm vi chiếu sáng của đèn pin, hình như là kim loại gì đó.
Lặn xuống nước là để vớt đồ, đương nhiên là anh ta lập tức bị thu hút, bèn bơi tới gần, nhưng lại không thấy gì hết, chỉ có một vài tảng đá lớn.
Dưỡng khí trong mũ lặn đã không còn bao nhiêu nữa, anh ta không thể xem xét kỹ lưỡng những tảng đá này được, cứ tưởng ánh sáng lóe lên vừa nãy là kim loại hoặc thủy tinh gì đó, nên không để ý nữa, chuẩn bị bơi lên trên.
Đúng lúc này, bỗng cảm giác "có cái gì cắn phải mình", bàn tay lập tức tê rần, rồi ngay lập tức cơn tê dại lan ra khắp toàn thân. Anh ta thầm nghĩ không xong rồi, muốn xông lên trên mặt nước, nhưng đã không kịp nữa. Trong chớp mắt tiếp theo, anh ta ngất đi, đến khi tỉnh lại, đã nằm trong hang động này rồi.
Tình huống của Muộn Du Bình phức tạp hơn anh ta một chút, nhưng cũng gần tương đương. Hắn vốn là đi tìm Bàn Tử, cho nên lặn xuống rất gấp, chưa xuống nước được bao lâu, đột nhiên cảm thấy không ổn, định quay đầu lại thì đã muộn rồi, ở dưới nước, thân thủ của hắn dù tốt mấy thì cũng có giới hạn.
Nguyên văn câu hắn nói là: 'Tôi cảm thấy phía sau có cái gì động đậy, định quay đầu lại thì đã muộn, đến lúc tỉnh lại thì cũng đã ở đây rồi."
Tôi nghĩ bụng, quái lạ, sao lại có thể có chuyện này?
Loáng cái đã mất đi tri giác, sau đó tỉnh lại, liền phát hiện mình đã ở một nơi khác, nghe cứ như là chuyện người ngoài hành tinh ấy. Chẳng lẽ nơi này là bên trong đĩa bay à?
Tôi lại nhìn về phía hang đá một lần nữa, khắp bốn phía chỉ toàn đá, nếu quả thực là đĩa bay, thì cũng là đĩa bay thời kỳ đồ đá.
Tôi cảm thấy sự việc này càng ngày càng không đáng tin, mẹ kiếp! Bàn Tử với Muộn Du Bình bị cái gì đó "cắn" một cái, liền mất đi tri giác, nếu như là trúng độc của sinh vật nào đó thì đã chết đuối luôn rồi. Nhưng trái lại, bọn họ lại xuất hiện ở đây, nghĩ thế nào cũng không thấy giống hiện tượng bí ẩn gì, mà giống như là có người làm thì đúng hơn, như thể có người nào đó đã đánh ngất bọn họ rồi đưa đến đây.
Nhưng mà, nếu là con người, thì biết giải thích tình cảnh hiện tại như thế nào đây? Đây là một hang động hoàn toàn khép kín, người nào có thể đưa chúng tôi đi xuyên qua núi đá mà nhét vào trong này? Lưu Khiêm à?
(*Lưu Khiêm là một ảo thuật gia nổi tiếng người Đài Loan.)
Bàn Tử nhớ lại tình huống lúc đó, vẫn còn ngờ vực: "Tôi thật không nghĩ ra, lúc đó ở dưới nước tầm nhìn cũng khá tốt, sau khi bị châm vào tay vẫn còn tỉnh táo một lúc rồi mới ngất, lúc ấy tôi đã kịp nhìn khắp xung quanh một lượt rồi, mà chẳng thấy gì cả."
"Hay đó là một loài sâu bọ hoặc cá gì đó tương đối nhỏ, chỉ cần dính vào lưng anh là anh không phát hiện được gì rồi. Thế vết thương trên người anh đâu?" Tôi hỏi, không thể nào vô duyên vô cớ lại bị đau buốt, nếu là bị cái gì châm vào, nhất định là có dấu vết.
"Ngay sau khi tỉnh lại tôi đã kiểm tra rồi, chẳng có dấu vết gì cả." Bàn Tử chìa tay ra cho tôi xem chỗ anh ta bị châm, quả thực là chẳng có gì. "Tôi không nghĩ là sâu bọ gì. Cậu xem, ngay cả Tiểu Ca cũng trúng chiêu, sâu bọ nào dám cắn cậu ta chứ?"
Tôi chậc một tiếng, thật là tà môn, nghĩ mãi không hiểu! Tất cả mọi chi tiết đều không hợp lý, hoàn toàn không giống việc mà "con người" có thể làm được. Chẳng lẽ có Hà bá đang đùa giỡn bọn tôi à?
Bàn Tử tiếp tục nói, nơi duy nhất có thể ra vào ở đây là một cái khe nứt nhỏ trên đỉnh hang động bên ngoài, khe nứt này chỉ nhỏ bằng cổ tay thôi. Anh ta phát hiện ra con kỳ nhông kia ở đó. Đa phần nước rỉ xuống đây cũng là từ cái khe nứt đó. Hai người họ đã không được ăn gì suốt hai tuần rồi, chỉ dựa vào uống nước mà sống, anh ta gầy xọp đi mất sáu ký, da dẻ nhão nhoét cả ra. Để không tiêu tốn thể lực vô ích, đa số thời gian đều ngồi yên bất động.
Ở một phía khác bên ngoài vẫn còn một số giá gỗ chất đồ còn thừa lại trong lúc khai tác hang động, có thể dùng để nhóm lửa. Mỗi ngày lại nhóm một ít, cũng may dưỡng khí không thành vấn đề.
Lúc trước khi tôi đột nhiên xuất hiện, bọn họ cứ tưởng tôi phát hiện được ký hiệu trên mình con kỳ nhông mà đi tìm, đồng thời đã biết cách ra vào. Không ngờ ngay cả tôi cũng không biết mình vào bằng cách nào, hại Bàn Tử buồn bực mãi.
Tôi hít sâu một hơi, chợt nhớ ra một việc, hỏi: "Hai người nếu đã tự dưng hôn mê, sao lại bảo tôi đi theo ống siphon mà vào? Làm sao hai người biết cứ đi theo dòng nước là có thể xuống đây?"
Bàn Tử nói: "Là tiếng động. Tôi không biết vị trí nơi này ở đâu, nhưng biết chắc nó ở gần lỗ thoát của ống siphon, bởi mỗi khi đến tối, nước rỉ bên ngoài sẽ rút bớt đi theo quy luật, tiếng động vang lên rất rõ ràng, cứ như tiếng hít thở ấy. Chỉ có thể ở rất gần ống siphon mới có biên độ dao động lớn như thế. Nếu cậu phát hiện ra kỳ nhông, được dẫn tới gần lỗ thoát của ống siphon, rất có thể sẽ phát hiện được khe hở thông với nơi này."
Tôi không khỏi thầm chửi mắng, hóa ra là như thế, quá là chủ nghĩa lý tưởng rồi!
Ý tưởng của Bàn Tử hoàn toàn không có căn cứ gì, sự thực chứng minh, nếu đi theo ống siphon thì chỉ có một con đường chết. Nhưng tôi chưa chết, nên cũng không muốn giận dỗi gì nữa.
Sau khi nghe xong, tôi run lên bần bật. Tuy tuyệt đối tin tưởng Bàn Tử, nhưng trong lòng bị thôi thúc mãnh liệt phải kiểm tra hang động này một lượt nữa, phải xem xét những vách đá này tỉ mỉ hơn nữa.
Bàn Tử nhìn mà thở dài, lắc đầu bảo: "Đừng phí sức nữa. Thiên Chân, cậu nghĩ mà xem, tôi với Tiểu Ca bị nhốt ở đây suốt hai tuần con mẹ nó rồi. Hai tuần cơ đấy, tụi này có thể làm gì trong hai tuần? Lúc đầu ông Béo đây cũng chả thèm tin đâu, vẫn nghĩ có thể có đường ngầm gì đó cơ đấy, tìm mãi, tìm suốt, tìm từng tí một. Cậu biết cảm giác nhìn chằm chằm một tảng đá đến một nghìn lần nó như thế nào không? Tôi nhìn mà đến cuối cùng suýt thì phát ói ra, nhưng mà, không có vẫn là không có."
Vẻ mặt anh ta đau khổ vô cùng, tôi có thể tưởng tượng ra cái cảm giác này, nhưng chưa tự mình kiểm tra, trong lòng cứ thấy trống trống thế nào ấy, nên tôi bảo anh ta cứ kệ tôi.
Cố sức bám vào vách đá mà đi một vòng, lần này xem xét rất kỹ càng, nhưng Bàn Tử quả thực không sai tý nào, vách đá này đúng là một chỉnh thể hoàn toàn, thỉnh thoảng có vài vết nứt nho nhỏ cũng là do tự nhiên hình thành, ngay cả lưỡi dao cũng không chen lọt vào được. Vết nứt lớn nhất chính là ở trên đỉnh hang động bên ngoài, nhưng cũng chỉ to bằng một cánh tay, nước từ bên trên cứ ào ào chảy xuống, dưới mặt đất toàn là nước đọng thành vũng, những vũng nước lớn này lại chảy xuống các vết nứt trên mặt đá dưới đất.
Vị trí hang động này ở đâu? Có phải ở gần vị trí tôi suýt chết đuối hay không? Nhìn những dấu vết đục đẽo, rất giống những dấu vết trên vách đá dưới đáy giếng, nhất định là do cùng một nhóm thợ đục ra.
Như vậy, chúng tôi đang ở tầng đá núi dưới đáy hồ. Suy cho cùng tôi cũng không học thăm dò địa chất thực sự, mà chỉ có một chút kiến thức thông thường về cơ học mà thôi. Những thứ khác tôi chẳng biết gì mấy.
Gõ gõ vách đá, tiếng gõ vang lên rất trầm đục, có vẻ như không có khả năng là đường ngầm. Hơn nữa, có Muộn Du Bình ở đây, nếu quả thực có đường ngầm, hắn đã phát hiện ra từ lâu rồi.
Rồi lại liếc nhìn đống đồ chồng chất ở một bên. Vừa nãy nhìn thoáng qua có thấy mấy thứ trông như là đá mài, đến gần nhìn kỹ, thì có vẻ như là bếp lò bằng gang, bên trong còn có cặn sắt. Bên cạnh là rất nhiều giá để dụng cụ, vẫn rất vững chắc.
Ngoài ra còn có những bức tượng thần bằng đất sét chỉ nhỏ cỡ chai bia, là Quan Công, còn cả Bồ Tát, và một số nhân vật chưa từng thấy bao giờ, có lẽ là thần linh của dân tộc thiểu số.
Tôi thử cử động bàn tay, nhưng không biết là do cơ thể tôi vẫn mệt mỏi hay là do tôi quá nặng, mà chẳng cử động được tí gì. Bàn Tử nói anh ta đã thử di chuyển chúng rồi, bên dưới không có đường ngầm nào.
Quay về chỗ Bàn Tử, cuối cùng xác định anh ta nói không sai, lúc trước tuy cũng tin anh ta, nhưng lần này là xác định hẳn rồi. Trong lòng dâng lên một chút lo âu, đây là phản ứng của con người với không gian khép kín.
Chương 41: Giả thiết
Edit: Earl Panda
Xin chào, mình lại trồi lên đây ( ' ▽ ' )ノ Nhưng việc mình vẫn chưa xong, deadline vẫn lầy, tình trạng tinh thần không tốt và còn đang giả nợ môn cuối cùng mà trước lười quá chưa đi học (个_个)
Nhưng hết tháng này chắc xong thôi, có lẽ lúc đó sẽ nhiều thời gian rỗi hơn. Chương này trộm dịch trong giờ a hi hi ( ≧Д≦)
*****
Tôi cởi đồ lặn ra để một bên, muốn mau chóng hồi phục lại thể lực. Rồi tôi hỏi Bàn Tử, hai người ở đây lâu như thế, có phán đoán gì chưa?
Anh ta lắc đầu: "Tôi thấy phán đoán đáng tin cậy nhất, đó chính là cả đám tụi mình đều đã chết sạch, linh hồn bèn đi xuyên qua đá núi mà vào trong hang động này."
Tôi cười khổ. Lời này tôi hiểu rõ ý, cũng không phải thực sự cho rằng chúng tôi đã chết sạch cả, ý anh ta là, các phán đoán khác còn chẳng đáng tin bằng thứ mê tín dị đoan này. Đây là một sự việc không có tiền căn hậu quả. Muốn phán đoán, phải có đầu mối. Nhưng bây giờ không có bất kỳ đầu mối nào, tất cả chỉ có thể là giả thiết.
Bàn Tử nói: "Nếu như có gì đó quấy phá, thì mục đích của nó cũng không phải là giết tụi mình. Cho nên, bất kể sau này có chuyện gì xảy ra, chúng mình cũng không đến mức toi mạng đâu! Nếu muốn giết, hà tất phải đổi sang chỗ này làm chi?"
Tôi cười khổ, không toi mạng, thì sẽ là gì? Chẳng lẽ ở đây sẽ tự dưng xuất hiện một gã đàn ông cao to vạm vỡ đè ngửa cả đám ra cưỡng bức à? Tôi lắc đầu bảo: "Chưa chắc, hiện giờ còn sống sờ sờ ra đấy cũng chưa chắc đã là chuyện tốt. Tôm ngâm rượu không phải cũng là tôm sống đấy ư?"
(*Tôm ngâm rượu hay醉虾 là đặc sản Thượng Hải với Ninh Ba, điểm đặc biệt là món ăn này là không sơ chế hay nấu chín tôm, mà trực tiếp bỏ tôm sống vào ngâm trong rượu Thiệu Hưng cho đến khi tôm không giãy giụa gì nữa, sau đó ăn sống kèm với nước chấm pha chế từ rượu, dấm, ớt, tỏi và các gia vị khác.)
Bàn Tử lạnh cả người, đúng là nghĩ mà thấy phát sợ, lại có chút buồn bực, mắng: "Ông đây ghét nhất là những thứ quái quái gở gở chả hiểu đầu cua tai nheo gì như này! Cậu xem có phải ba đứa tụi mình bát tự xung khắc gì không mà cứ suốt ngày đâm đầu vào những thứ quỷ quái không vậy! Mẹ kiếp đúng là ma chướng mà! Cả A Quý cũng thật là, chẳng biết cái cóc khô gì cả, chứ không đã nhắc trước tụi mình một tí, tụi mình còn đề phòng được chút."
Tôi hơi cau mày, Bàn Tử nói cũng đúng, sở dĩ chuyện này không có chút manh mối nào, thậm chí còn chẳng biết dựa vào đâu mà phán đoán, cũng bởi vì lẽ vậy, bây giờ tự dưng rơi vào cảnh ngộ như này, chắc chắn là có điểm mấu chốt quan trọng nào đó mà chúng tôi đã bỏ qua mất.
Bắt đầu tra lại sự việc từ khi ở trong thôn làng, sau đó dần dần phát triển từng chút một, tất cả tin tức đã có đều từ phía trên đưa xuống, bây giờ đã biết các cục sắt đều từ các tượng sắt này mà ra, đã biết Văn Cẩm từng đến hồ nước này, cũng đã xác định rõ đội khảo cổ từng bị đánh tráo, cũng đã biết một số bí mật trong ngôi làng cổ dưới đáy hồ, tuy những đầu mối trong đó vẫn chưa hoàn toàn liên kết với nhau (ví dụ như những tượng sắt này rốt cục là để làm gì chả hạn), nhưng vẫn phải tiếp tục tra xét, chỉ cần cứ tiếp tục điều tra, tôi tin là mọi thứ sẽ liền mạch logic.
Thế nhưng, tình cảnh hiện nay, lại chẳng có liên quan gì đến những thông tin đã biết, chứng tỏ, trong số vô vàn những đầu mối chúng tôi đã tra ra ở trong làng, một mảnh ghép nào đó đã bị khuyết thiếu mất.
Là để sót mất ở đâu nhỉ?
Lúc nãy tôi hỏi xem Bàn Tử có phán đoán gì, mới phát hiện ra tình huống đang diễn ra hiện nay vốn không cách nào dự đoán trước được, không có bất kỳ một yếu tố nào có thể cảnh báo trước. Nghĩ vậy, tôi nói với hai người kia: "Chúng ta thử liệt kê lại một lượt tất cả những gì mình đã biết ra, nơi này chắc chắn là có liên quan gì đó đến toàn bộ sự việc, mình liệt kê hết lại từ đầu đến cuối, không chừng có thể tìm được gợi ý nào đó."
Bàn Tử thổi thổi, rồi trỏ xuống mặt đất. Trên đó có mấy dấu chữ anh ta dùng đá khắc xuống: "Lúc trước tôi có thử làm rồi, thực sự vẫn không nghĩ ra. Cậu cứ thử làm lại đi cũng được, cậu đọc sách nhiều, chắc chắn là giỏi hơn tôi, chứ tôi càng nghĩ đầu lại càng đau."
Tôi nhìn những chữ kia, quả đúng là phương pháp liệt kê quen thuộc của anh ta, vạch ra tất cả các khả năng có thể xảy ra cùng với tất cả các đầu mối, sau đó tìm mối liên hệ giữa chúng.
Tôi nói: "Lần này không giống những lần trước, tất cả các tin tức lẫn manh mối đều chỉ là mảnh vụn, anh viết như thế, chỉ càng viết càng loạn. Bây giờ tôi sắp xếp lại một chút, sau đó chúng ta bắt đầu từ đầu, xem có thể sắp xếp lại cho hoàn chỉnh như trò chơi xếp hình hay không."
Tôi lượm một tảng đá, vạch mấy từ khóa then chốt trên mặt đất. Từ khi bắt đầu vào thôn làng, những đồ vật lần lượt được phát hiện, kế tiếp là toàn bộ những sự việc nối tiếp sau đó.
Cục sắt – mảnh vỡ của tượng sắt – ngôi làng cổ dưới đáy hồ – không biết có tác dụng gì – ở đâu cũng có – có vẻ nguy hiểm – có mùi kỳ quái.
Ảnh chụp – thiêu hủy.
Lời kể của Bàn Mã – đội khảo cổ bị đánh tráo – tìm được thi thể – vớt cục sắt – mục đích?
Ngôi làng cổ dưới nước – tòa lầu cổ kiểu Hán – đường hầm ngầm – tượng sắt số lượng lớn – mỏ ngọc?
Hầm mỏ khép kín – tượng sắt – vết đục đẽo tương tự.
A, B – đau nhói – hôn mê.
C – ngạt thở – hôn mê.
Viết xong, nhóm riêng ra những thông tin đã xác định, bảng biểu liền trở thành:
Không biết có tác dụng gì – ở đâu cũng có – có vẻ nguy hiểm – có mùi kỳ quái – mục đích?
Tượng sắt số lượng lớn – mỏ ngọc?
Hầm mỏ khép kín – tượng sắt – vết đục đẽo tương tự.
A, B – đau nhói – hôn mê.
C – ngạt thở – hôn mê.
Cứ thế, chúng tôi đã gom toàn bộ những yếu tố đã xác định và những yếu tố không thể xác định nhóm riêng ra thành hai nhóm.
Sau đó, chúng tôi bắt đầu nối một vài yếu tố vào nhau, tôi nói: "Đầu tiên, chúng ta có thể khẳng định, chủ nhân của tòa lầu cổ kiểu Hán này họ Trương, tạm thời gọi người này là Trương gia lâu chủ." Tôi liếc Muộn Du Bình một cái, "Người này có quân công, hơn nữa còn là một bậc thầy về cổ học, có thể là quân phiệt địa phương, hoặc có thể có thân phận khác, chuyện này không quá liên quan tới vấn đề của chúng ta."
"Vào một ngày nào đó năm nào đó, nhân vật Trương gia lâu chủ này, bởi một nguyên nhân nào đó – nguyên nhân này chúng ta cũng không cần biết – phát hiện ra một mỏ ngọc bên dưới ngôi làng này. Bị tiền tài lợi ích khổng lồ mê hoặc, ông ta cùng với Vua Dao ở đây hợp tác cùng khai thác, xây dựng một tòa lầu kiểu Hán vững chãi kiên cố trong làng người Dao, cho bọn thuộc hạ sử dụng. Tòa lâu kiên cố như thế, chứng tỏ bọn họ đã khai thác nơi này một thời gian rất dài rồi, thậm chí có thể chuẩn bị cho mấy đời sau khai thác tiếp."
"Hang động nơi chúng ta bị kẹt bây giờ, xem vết tích đục đẽo thì có lẽ chính là hầm mỏ mà bọn họ đào lúc đó, chí ít thì cũng là một trong số đó."
Nói xong, tôi nhìn Bàn Tử, hỏi anh ta có muốn bổ sung thêm gì không? Anh ta lắc đầu, tôi lại nói: "Được, cho đến đây thì mọi việc vẫn rất bình thường, cũng hợp logic, nhưng lại mâu thuẫn với tình cảnh của chúng ta hiện giờ. Rõ ràng hầm mỏ này hoàn toàn khép kín, tôi phải nói như thế, bởi từ lúc mọi việc vẫn bình thường cho đến tình cảnh của ta hiện giờ, ở đoạn giữa đó, chắc chắn đã xảy ra một sự việc gì khiến hầm mỏ này xảy ra một sự biến đổi không thể nào giải thích được."
Bàn Tử gật đầu bảo: "Mẹ, đừng có nói kiểu học thức thế, đơn giản là cái hang động này có vấn đề thôi."
Ban đầu đây chỉ là giả thiết, cũng tương đối chính xác, tôi bèn gạch đầu dòng mới rồi viết xuống, sau đó viết một dấu chấm hỏi bên cạnh. "Ở đây đã xảy ra chuyện gì? Chắc chắn không thể đột nhiên bịt kín được, bởi nếu thế, nhất định sẽ có người bị nhốt đến chết."
"Không hẳn thế, cậu nghĩ xem, ngay cả chúng ta vào đây như thế nào cũng không giải thích nổi, không chừng bọn họ sau này tìm được cách ra ngoài." Bàn Tử nói.
Tôi lắc đầu. Thợ mỏ trong những năm đó có trình độ văn hóa cỡ nào chứ? Biện pháp mà bọn họ nghĩ ra, làm gì có chuyện tôi không nghĩ ra được? Hơn nữa, cho dù có nghĩa ra, thì cũng không thể quá nhanh, như vậy, với những dụng cụ và thể lực mà họ có, chắc chắn họ phải đục đẽo các kiểu để tìm cách thoát thân, tất yếu phải để lại vô số dấu vết và đá vụn trên mặt đất.
Nhưng mà, dù sao tôi cũng không ở hiện trường lúc đó, không thể khẳng định chắn chắn một suy luận được, tôi cũng không phản bác Bàn Tử. Chúng tôi cắn môi, bắt đầu suy nghĩ đủ các loại giả thiết.
Còn chưa suy nghĩ được bao lâu, Muộn Du Bình bất chợt lên tiếng, thản nhiên nói: "Tượng thần trong hầm mỏ, là thần Lôi Vương của dân tộc Dao, là hung thần, bình thường không thờ cúng công khai, trừ phi có chuyện gì quá đáng sợ xảy ra."
Chúng tôi đều sửng sốt, Bàn Tử nói: "Cái đệt! Sao cậu hiểu được cái thứ của nợ này vậy?"
Muộn Du Bình không đáp, mà tiếp tục nói: "Trong đây có đặt thứ này, chứng tỏ sự việc không phải đột nhiên mà xảy ra, hơn nữa, sau khi xảy ra, lại còn có thể đem bức tượng từ ngoài vào trong này để thờ cúng, chứng tỏ sự việc này tuy rất đáng sợ, nhưng không đến mức dọa bọn họ chạy hết."
Tôi ngẫm nghĩ, thấy cũng có lý: "Đặt tượng thần ở đây, chứng tỏ bọn họ vẫn muốn tiếp tục đào khoét xuống dưới, cho nên mới dùng tượng thần để trấn áp thứ gì đó. Sự việc tuy đáng sợ, nhưng chỉ là nỗi sợ hãi trong lòng, chứ không đe dọa đến tính mạng. Bây giờ chúng ta ngẫm lại, tự đặt mình trong hoàn cảnh đó, nếu chúng mình là thợ mỏ, thì trong tình huống này, tụi mình phải làm gì?"
Bàn Tử lạnh cả người: "Sao câu này nghe cứ quen tai? Lẽ nào, bọn họ đào được cái gì xui xẻo ở chỗ này?"
Tôi cũng gật đầu, đồng thời trong đầu suy nghĩ đến đủ thứ. Hồi xưa ở dưới quê hay nghe đủ loại đồn đại, có nhà máy nào đó khởi công, kết quả vừa đào một cái đã đào trúng xương người chết bị loạn táng, thế là bèn bày tượng Quan Công để trấn."
"Chỗ này là tầng đá, ở cái chỗ chó má này thì đào được cái gì?" Bàn Tử nói, "Chả lẽ là hóa thành khủng long bạo chúa?" Nói xong anh ta thở dài sườn sượt, cảm thấy giả thuyết của mình rất có khả năng, "Cậu nghĩ mà xem, bọn họ cứ đào đào đào, đột nhiên đào ra quái vật thời tiền sử, chắc chắn là sợ chết khiếp, tưởng đào được xương của yêu quái."
Tôi vỗ vỗ anh ta: "Đồng chí, lúc nào rảnh rỗi nhớ đọc nhiều sách vào một chút, niên đại của hóa thạch khủng long kém niên đại của ngọc đến vài trăm triệu năm, ở đây mà đào ra hóa thạch khủng long, cũng chả khác gì đào ra một lố KFC dâu."
"Vậy cậu nói là cái gì?" Bàn Tử không phục, nói.
Bọn tôi suy nghĩ mãi, cuối cùng vẫn đều lắc đầu, kỳ thực chẳng còn có gì mà nghĩ nữa cả, trong tầng đá cứng này thì còn có cái gì có thể khiến người thời đó cho là điềm gở đây? Tôi thật sự nghĩ mãi không ra. Thứ hợp lý nhất ở đây chỉ có thể là đá, chẳng lẽ lại là một tảng đá mà bọn họ cho là điềm gở? Nếu giả thiết này mà còn bảo không hợp lý, thì cái gì cũng có khả năng cả.
Bàn Tử đến trước bức tượng, hỏi Muộn Du Bình: "Tiểu Ca, cái ông thần này hung đến mức độ nào? Có giống thần Chung Quỳ của mình không, chuyên đi bắt quỷ ấy?"
Muộn Du Bình lắc đầu: "Lôi Vương, chuyên khắc chế Tà thần."
Thần thoại của người dân tộc Dao Mèo khác với thần thoại của người Hán, trong đó nhiều thần tà ác cũng được coi là thần, ngang vai ngang vế với những vị thần chánh nghĩa, những vị thần bình thường không thể làm gì được.
Bàn Tử chậc một tiếng: "Nói cách khác, Chung Quỳ chỉ là công an, còn Lôi Vương này là bí thư chi bộ." Sau đó anh ta rút ra hai thanh củi nhỏ trong đống lửa, cắm vào lư hương, lạy mấy lạy. "Bí thư Lôi, thật ngại quá, tụi chúng em lúc trước có mắt như mù, không nhận ra là anh. Ít của này tuy chẳng ra cái gì, nhưng cũng có chút hình thức, coi như là hóa đơn tạm, bao giờ tụi em ra được ngoài nhất định sẽ bù đắp thêm hương đèn. Tụi em biết anh làm bí thư chi bộ, nhiều thứ không tiện nhận, cho nên anh cứ cho tụi em số điện thoại của quý phu nhân, chúng em sẽ liên hệ với phu nhân..."
Tôi nghĩ thầm, cái tên này chẳng đáng tin cậy gì cả, nói: "Anh cũng đâu phải người Dao, người ta phù hộ anh thế nào được? Đừng lãng phí củi nữa, huống hồ chỉ có cấp trên xuất hóa đơn tạm cho cấp dưới, làm gì có chuyện ngược lại?"
Bàn Tử bảo: "Chú thì biết cái gì! Cậu ở Hàng Châu nộp thuế, đi Bắc Kinh không phải nộp thuế à? Đây tôi không gọi là hóa đơn tạm, mà là quyền chọn tài chính. Tụi mình đây là đang chào hỏi trước, kẻo sau lại hối hận."
Nói đoạn anh ta quay lại, sợ mấy thanh củi đầu nặng gốc nhẹ sẽ làm đổ cả bát hương mất, anh ta bèn rút ra để xoay ngược thanh củi, làm hương tro rơi đổ hết cả ra.
Bàn Tử lập tức đỡ lấy, tôi cười bảo: "Đấy anh xem, người ta thanh chánh liêm minh, không nhận."
Bàn Tử lại chậc một tiếng, chẻ đôi thanh củi nhỏ đi một nửa, rồi cắm lại, sau đó dùng chân san phẳng đống tro hương đã rơi xuống đất, chà vài cái. Hương tro quét lên mặt đất, tôi bỗng nhìn thấy, trên mặt đá dưới chân Bàn Tử xuất hiện một vài đường nét kỳ quái.
Chương 42: Đào lên được thứ gì?
Edit: Earl Panda
Mình vẫn chưa được giải thoát arrgggggg =__=
*****
Tôi lấy làm lạ, lập tức mò lại gần, gạt chân Bàn Tử ra để nhìn cho kỹ. Quả nhiên, có một phần tro hương rơi xuống những đường kẽ hở nhỏ xíu trên mặt đá, tạo thành một số đường cong rõ nét. Hơn nữa, những đường nét này rất mượt, không phải kẽ nứt tự nhiên của đá tảng.
Tôi thường xuyên làm bản rập, biết đây cũng là một loại tương tự với bản rập vậy. Phương pháp dùng bột phấn mịn để làm nổi rõ những dấu vết trên mặt đất, cũng giống phương pháp dùng bút chì tô lên giấy để nhìn thấy vết hằn của trang trước thường thấy trong phim gián điệp vậy. Tức là hiển nhiên trước đây từng có người khắc cái gì đó trên bề mặt đá trước bàn thờ này.
Tôi phấn khởi hẳn lên, lập tức cầm lư hương đổ hết tro bụi xuống đất, rồi dùng hai tay bôi gạt ra khắp mặt đất. Chả mấy chốc. trên mặt đất và cả vách đá bắt đầu xuất hiện vô số đường nét nhỏ xíu.
"Đây là..." Bàn Tử cũng nhận ra điều khác thường.
"Đây chắc là do công nhân đào hang khắc xuống." Tôi nói.
"Nhìn xem, chưa chi bí thư Lôi đã hiển linh rồi kìa!" Bàn Tử reo lên, "Hiệu suất còn nhanh hơn chúng ta nữa!"
"Đừng vội mừng sớm như vậy." Tôi bảo, dàn đều tro hương ra khắp mặt đất.
Bàn Tử cũng ngồi xổm xuống hỗ trợ, Muộn Du Bình cũng xông đến giúp một tay, chúng tôi dàn đều tro hương ra cả một khoảng rất lớn. Chả mấy chốc, một hàng chữ xiên xiên xẹo xẹo dần dần hiện lên trước mặt chúng tôi.
Hàng chữ này mỗi chữ đều to cỡ cái bàn cờ vua, toàn bộ là dạng phồn thể, nét chữ cực ngoáy, lại có một số nét mờ mờ không rõ, nhưng số lượng rất nhiều, phải đến ba mươi bốn mươi chữ, to to nhỏ nhỏ đầy mặt đất.
Nhìn nét chữ thì có lẽ là cùng một người khắc.
Đều là chữ Hán, nhưng có một số chữ tôi chưa từng thấy bao giờ, chắc là phát âm của tiếng địa phương.
Bàn Tử ngờ vực hỏi: "Chẳng lẽ các công nhân hồi xưa cũng giống tụi mình bây giờ, cũng viết chữ dưới đất để thảo luận vấn đề à?"
Tôi lắc đầu nói không phải, hàng chữ này rất liền mạch, chứng tỏ người khắc đã viết cả một đoạn văn hẳn hoi, có điều vết khắc rất nông, có lẽ cũng giống chúng tôi, dùng cục đá viết viết vẽ vẽ qua quýt lên vách đá thôi, không cần dùng đến đồ nghề chạm khắc.
Là một người như thế nào, có mục đích gì, lại viết xuống hàng chữ này trước bức tượng thần nhỉ? Không nghĩ ra nổi, nhưng mấu chốt vấn đề có lẽ nằm ở hàng chữ này.
Tôi thử đọc, chữ viết theo hàng dọc, nhìn sơ chẳng hiểu gì, tôi phải đọc kỹ từng chữ từng chữ một rồi dùng một cục đá viết lại sang bên cạnh.
Là một đoạn văn rất đơn giản.
Ngày mùng bảy tháng mười một.
Tường đông, bên trái bảy thước, có mười sáu.
Tường tây, bên trái ba thước, có bảy.
Tường bắc, bên trái năm thước, có mười.
Tường nam, bên trái sáu thước, có bốn.
Đếm kỹ, nội trong ba ngày đào ra rồi làm lại.
"Đây là... ghi chép số liệu để khai thác quặng?" Tôi ngờ vực nói.
Xem ngữ cảm toàn bộ đoạn văn, hình như là một lời nhắn, một lời nhắc nhở của một ông quản đốc cho những người khác trước khi rời đi. Hơn nữa còn có một lời dặn dò: Đếm kỹ. Nghe giống lời của cấp trên dành cho cấp dưới.
"Đông tây nam bắc?" Bàn Tử nhìn quanh một lượt, "Đây là ghi chép phân bố của mỏ ngọc à?"
Tôi lắc đầu, phương hướng của mỏ ngọc hoàn toàn là do tự nhiên hình thành, không có bất cứ quy luật gì cả, chỉ dựa vào một mặt cắt rồi định ra bên trái mấy thước gì đó hoàn toàn không có tác dụng gì sất. "Có mười sáu", "có bảy", "có mười", "có bốn", nghe giống như một loại ký hiệu đo lường gì đó, như thể đang đêm cái gì đó trên tường.
Lại nhìn mặt tường phía đông, trên tường chẳng có gì cả, chỉ có bề mặt sần sùi tự nhiên của mỏ ngọc xen lẫn đá núi, đường nét các vết sậm màu của ngọc rất phức tạp, cứ như những mạch máu của đá núi vậy, căn bẳn không thể dùng những con số nhỏ bé như "mười sáu" để thể hiện. Hơn nữa còn có một câu cuối cùng: nội trong ba ngày đào ra rồi làm lại, hình như ý nói "mười sáu", "bảy" là vật gì đó cản trở đến quá trình khai thác mỏ.
Là cái gì nhỉ? Chẳng lẽ lại là yêu tinh đá Pech(*) cứng chắc không gì sánh dược? Nhưng mà Pech cứng muốn chết, lại nặng đến hàng trăm tấn, làm sao có thể đào ra trong vòng ba ngày được?
(*) Một loại yêu tinh(?) trong thần thoại Scottland, ngoại hình rất giống Gnome nhưng cực kỳ khỏe và là những thợ mỏ, thợ điêu khắc đá tuyệt vời. Có mặt trong game Dungeons and Dragons.
Cả ba chúng tôi cùng đứng lên, đi sang đầu bên trái của vách hang phía đông, dùng ngón tay ước lượng cự ly sáu thước để xem có gì không.
Cách sáu thương, vẫn là bề mặt đá cùng vô số dấu vết ngọc thạch màu lục sẫm, ngoài ra chẳng có gì cả.
Tôi với Bàn Tử nhìn nhau, kỳ thực, tất cả các vách đá ở đây bọn tôi đã kiểm tra kỹ lắm rồi, nhìn thêm nữa cũng chẳng được gì.
"Cái thứ gì đó người kia vết, phải chăng đã bị đào ra rồi?"
Cũng có khả năng này, nhưng suy nghĩ kỹ một chút, trong đầu tôi lại nảy lên một suy nghĩ rất kỳ quái.
Tôi quay trở lại trước bàn thờ, gom hết tro hương dưới đất lại, bỏ vào lư hương. Sau đó cầm lư hương đến trước vách đá kia, bôi tro đầy lên đó.
Vốn trên vách đá chẳng có gì cả, nhưng sau khi tôi quét vài lượt tro hương lên đó, quả nhiên, trên bề mặt đá dần dần xuất hiện vài đường cong, hình như là đường viền của cái gì đó.
"A?" Bàn Tử kinh ngạc kêu lên, "Sao cậu biết?"
"Lời nhắn này quá mơ hồ, là kiểu lời tổng kết cuối cùng ấy, cho nên chắc chắn trên vách đá cũng còn những lời nhắn khác nữa." Tôi nói, tiếp tục bôi tro lên tường.
Chẳng mấy chốc, vô số đường nét bất quy tắc xuất hiện trên vách đá. Tôi tháo đèn pin cường lực xuống, bật lên. Đường nét rất rõ ràng, giống như nét vẽ phác thảo vậy, trước dùng những đường thẳng ngắn để phác họa sơ lại hình dáng vật thể.
Nhưng mà, chúng tôi chẳng nhìn ra được cái gì liên quan giữa các đường nét này với những đường mạch ngọc trên vách đá cả. Cứ như thể là những nét vẽ phác thảo, dùng để tham khảo khi muốn cắt xẻ vật gì vậy.
Cho dù như vậy, tôi vẫn cảm thấy toàn thân mình run lên bần bật, rất nhiều mảnh ghép nhỏ bắt đầu dần dần ghép lại thành các tổ hợp trong đầu tôi, tôi biết, bên trong vách đá này chắc chắn có cái gì đó, bằng không người ta đã không khắc những đường vẽ này ở đây. Bọn họ muốn đào thứ đó ra, nên mới đánh dấu như thế.
Vì sao lại không nhìn thấy gì nhỉ? Chẳng lẽ vẫn sai phương pháp rồi?
Nghĩ đoạn, tôi hỏi: "Hai người có ai biết, trong quá trình khai thác mỏ ngọc thì có bước nào đặc biệt không?"
Bàn Tử lắc đầu bảo: "Không phải cứ dùng thuốc nổ là xong à?"
Muộn Du Bình lại nói: "Trước tiên dùng lửa đốt, sau hắt nước lạnh lên, đá tảng tự nhiên sẽ nứt ra."
"Hắt nước lên? Đi! Đi múc nước!" Tôi lập tức kêu lên, cũng không biết mình rốt cuộc đang muốn chứng minh cái gì nữa, nhưng tôi có linh cảm rất mạnh, là mình đã đụng đến điểm mấu chốt rồi!
Tôi vọt vào trong hang động bên kia, thắt nút ống quần bộ đồ lặn của tôi, múc nước, rồi quay trở lại, cùng Bàn Tử hắt nước lên vách đá.
Cứ như vậy, hắt được khoảng chục lần, màu sắc vách đá do bị ngâm nước mà bắt đầu đổi màu sẫm dần.
Lui ra sau vài bước để nhìn, do đã hắt nước lên, các đường mạch ngọc trở nên mờ đi không thấy rõ nữa, những phần đá khác cũng trở nên trơn trượt, bóng loáng. Hóa ra đá này cũng là ngọc thạch, chẳng qua hàm lượng khác biệt một chút, so với những dấu vân phỉ thúy màu lục kia thì chúng chẳng khác gì đá núi bình thường.
Cùng lúc đó, chúng tôi nhìn thấy, trong vách đá kia dường như có cái bóng ẩn hiện.
Là bóng người.
Chương 43: Người trong đá
Edit: Earl Panda
...
*****
Lúc mới nhìn thấy, tôi còn tưởng là bóng của mình phản chiếu lên vách đá. Cử động một cái, lại phát hiện cái bóng không hề động đậy theo tôi.
Ba người chúng tôi lạnh toát như rơi vào hầm băng, nhìn bóng người trong mạch ngọc, run rẩy không đứng vững nổi.
"Đó là cái khỉ gió gì vậy?" Tôi thì thào hỏi.
"Quỷ mới biết." Bàn Tử cũng thì thào đáp lại, ngập ngừng một chút. "Hình như... hình như là người?"
"Sao có thể là người? Nếu là người, hắn ta chui vào trong vách đá này kiểu gì?" Tôi nói.
Bàn Tử liếc tôi một cái, run rẩy hỏi: "Cậu đã nghe truyền thuyết về cá trong đá bao giờ chưa?"
Anh ta vừa dứt lời, tôi lập tức nổi hết cả da gà.
Cá trong đá là một mô típ truyện thường gặp trong các tiểu thuyết chí quái, kể rằng có một tảng núi đá nguyên khối, khi người ta đập vỡ ra, mới phát hiện bên trong rỗng, không những có nước mà còn có cả một con cá còn sống nhăn.
Không ai biết con cá này chui vào trong tảng đá như thế nào, cũng không ai biết con cá này làm sao mà sống được trong môi trường hoàn toàn không có thức ăn.
Hiện tượng này thường được cho là thần tích, trong đá có cá, nếu không phải từ bên ngoài chui vào thì là do chính tảng đá sinh ra. Truyền thuyết kể rằng ăn cá này có thể trường sinh bất lão, nhưng cũng có người nói, ăn xong sẽ mất mạng ngay tức thì.
Truyền thuyết về cá trong đá rất phổ biến, ở đâu cũng có, có vẻ như không phải bịa đặt, bây giờ Bàn Tử đột nhiên nhắc tới, tôi đương nhiên biết anh ta có ý gì. Nhưng biết thì biết, tôi vẫn thực sự không thể tin nổi truyền thuyết này lại xuất hiện ở đây.
"Không thể nào." Tôi nói.
"Nếu trong đá có thể có cá, vì sao lại không thể có người?"
Tôi lạnh cả sống lưng, nhìn bóng người trong đá, vẫn lắc đầu. "Không thể nào, đây nhất định chỉ là cái bóng gì đó trông giống hình người mà thôi."
"Có phải hay không, cứ hắt nước lên tiếp sẽ biết ngay. Trên mặt đất viết, thứ này không chỉ có một." Bàn Tử nói.
Chúng tôi bèn tiếp tục hắt nước, loáng cái đã hắt đầy nước lên hết bốn mặt vách đá.
Các vách tường đá dần thấm ướt, tôi rùng mình nhận ra, bên trong các vách đá khắp xung quanh đây đều khảm đầy bóng người với đủ loại tư thế, động tác khác nhau.
Dường như toàn bộ vách đá đều có chôn người ở bên trong.
Đếm một chút, hoàn toàn trùng khớp với con số đã ghi trên mặt đất.
"Đúng là gặp ma rồi!" Bàn Tử lại ngồi phịch xuống đất, "Thảo nào phải cần đến Lôi bí thư ra tay, con mẹ nó thế này rốt cuộc là thế nào?"
"Chẳng lẽ là thai Côn Lôn?" Tôi nhớ đến câu chuyện về trời đất sinh yêu tinh, lẽ nào đây là một bảo huyệt, một sức mạnh nào đó đã khiến ngọc bích hóa thành hình người?
Bàn Tử lắc đầu: "Thai Côn Lôn chỉ là truyền thuyết, với cả nghe nói phải là dãy núi cực kỳ lớn mới được, còn mấy cái bóng hình dáng quái gở này, tôi xem chả phải thứ tốt lành gì, hơn nữa..." Anh ta liếc nhìn sang cái giá đặt đầy những tượng người sắt, "Vừa nãy có thể là tôi đã đoán sai rồi, cậu xem tư thế của mấy cái bóng này, có phải rất giống đống tượng người sắt kia không?"
Tôi kinh ngạc không thốt nên lời, Bàn Tử sắc mặt trắng bệch, nói: "Tôi biết là nghe rất đáng sợ, nhưng mà cứ xem những công cụ ở đây, toàn là đồ bằng gang, tự dưng tôi nghĩ đến khả năng này."
Tôi nhìn những bóng người kia: "Ý anh là nói, những tượng người sắt này không phải là phương tiện chuyên chở, mà là dùng để phong kín những cái bóng mà bọn họ đào ra này?"
"Chỉ e là không đơn giản như thế." Bàn Tử sửa lại, "Những tượng người sắt này, có lẽ là thành phẩm sau khi xử lý. Trước tiên bọn họ khoan lỗ trên vách đá, sau đó rưới sắt lỏng vào trong, đông lạnh cái bóng người bên trong, sau đó mới đập ra."
Tôi nhớ dưới tầng hầm tòa lầu cổ chất đầy những tượng sắt này, toàn thân nổi hết cả da gà, nếu là như vậy, nơi này đã phải đào ra bao nhiêu là thứ này rồi? Tôi gượng cười nói: "Đây đều chỉ là phán đoán của tụi mình mà thôi."
Sắc mặt Bàn Tử vẫn tái nhợt như trước, hiển nhiên chính bản thân anh ta cũng cảm thấy suy nghĩ của mình quá kinh khủng, lại nói: "Kỳ thực có một cách, chính là bây giờ mình đập nát vách đá này, xem bên trong rút cục là cái gì." Nói đoạn, anh ta chỉ vào cái dùi đục đá ở một bên.
Tôi sờ lên bề mặt tường đá, rất dày, không dễ đập vỡ như vậy. Chợt nhớ mấy truyền thuyết trấn yêu ngày xưa, người cổ đại không phải luôn nói, ông Trời trấn yêu, rất thích nhốt yêu quái dưới núi hay sao?
Cái đệt! Lẽ nào những cái bóng này là yêu quái?
Nếu là thế, thả chúng nó ra, chẳng phải là tự tìm chết?
Tôi vừa tò mò vừa sợ hãi, lắc đầu bảo: "Trước kia công nhân dùng cách tốn sức như thế để xử lý, chứng tỏ những bóng người này cực kỳ đáng sợ và quái gở, thậm chí vô cùng nguy hiểm, vẫn là đừng động vào thì hơn."
Bàn Tử nghe tôi nói thế, quay đầu nhìn Muộn Du Bình, như đang hỏi ý kiến hắn.
Muộn Du Bình nhìn chằm chằm mấy cái bóng, không trả lời, mà nói với chúng tôi: "Chúng ta với chúng nó... thực ra giống nhau."
Chương 44: Đá ở nơi này
Edit: Earl Panda
Chúc mừng năm mới
*****
"Vì sao lại thế?" Tôi buồn bực nói, nhưng vừa hỏi xong cũng đã hiểu ra ý của Muộn Du Bình.
Về một khía cạnh nào đó, chúng tôi cũng không khác gì những bóng người trong đá này, tình cảnh giống hệt nhau, chỉ là không gian của bọn chúng nhỏ hẹp hơn, bị nhốt trong vách đá, giống như lũ quái ngư sống trong đá vậy. Nhưng có thể khẳng định, nếu chúng tôi cũng phải sau ngần ấy năm mới được tìm thấy, chắc chắn không thể còn sống sờ sờ chạy nhảy hát hò gì được.
Nghĩ vậy, tôi có hơi lạnh người, nói: "Ít nhiều cũng vẫn có điểm không giống mà, chí ít bây giờ chúng ta còn có không gian hoạt động rộng hơn, với cả chúng mình vẫn còn sống. Chỉ cần còn sống là còn có vô số khả năng."
Muộn Du Bình thản nhiên đáp: "Ý tôi không phải thế."
Tôi a một tiếng, có chút ngạc nhiên. Trước giờ tôi vẫn cảm thấy tôi với hắn rất ăn ý với nhau, nhưng khi ở đây, tôi không theo kịp được suy nghĩ của hắn. Dường như dòng suy nghĩ của hắn nhanh nhạy hơn tôi rất nhiều.
Tôi hỏi: "Có phải anh có ý tưởng gì không? Mau nói toẹt ra xem nào!"
Hắn nhìn tôi, "Hai người có từng nghĩ đến không, nếu như ở trong này không có một cái hầm mỏ đào sẵn như thế, thì bây giờ tình cảnh của chúng ta như thế nào?"
Tôi suy nghĩ một chút, cảm giác đầu óc có hơi trì trệ, vẫn không hiểu ý của hắn. Nhưng sắc mặt Bàn Tử đã trắng bệch, chửi một tiếng: "Cái đệt!"
Tôi cũng hiểu ngay ra, tóc gáy dựng đứng.
Nơi này vốn chỉ toàn là đá, nằm trong lòng một ngọn núi lớn. Nếu không có hầm mỏ này, mà chúng tôi cũng bị đưa đến đây bằng một cách thức không thể tưởng tượng nổi, thì lúc này, có thể nói, chúng tôi cũng bị khảm trong vách đá, giống y đúc những cái bóng này.
Tôi sợ chết khiếp. Đây là cái cảm giác gì? Nếu một ngày tôi tỉnh lại, phát hiện mình kẹt cứng trong vách đá sâu trong lòng núi lớn, không thể động đậy, cứ thế cho đến chết, quá khủng khiếp.
Muộn Du Bình bảo: "Nghĩ ngược lại, có lẽ, chúng ta bây giờ vẫn còn sống, chỉ là may mắn mà thôi."
Tôi lặng lẽ gật đầu. Sự kiện quái gở này có lẽ là một loại hiện tượng kỳ bí trong núi sâu, có lẽ đây không phải là lần đầu tiên. Cho dù năm xưa không có ai đào hầm ở chỗ này, sự kiện tương tự cũng vẫn sẽ xảy ra, mà tình cảnh bây giờ của chúng tôi lại càng không thể tưởng tượng nổi.
Bàn Tử nuốt nước bọt, nhìn những bóng người kia, bảo: "Nói thế thì, những cái này là tiền bối của tụi mình à? Cũng là những người bị hại, trước kia cũng gặp phải chuyện này?"
"Đây chỉ là một khả năng thôi." Muộn Du Bình nói. "Có điều, tôi thà rằng tin là như thế."
Tôi hiểu ý của hắn. Nếu đây là một hiện tượng tự nhiên kỳ quái, thì suy đoán trước đây của hắn là sai lầm, như vậy, cho dù tình cảnh của chúng tôi bất lợi đến đâu, thì ít nhất hiện giờ cũng tạm thời an toàn.
Bàn Tử lại hỏi: "Thiên Chân, cậu đọc nhiều sách, cậu suy đoán xem thế này rốt cục là sao? Nếu đúng như lời Tiểu Ca nói, thì có thể là tình huống gì?"
Tôi bật cười: "Tình huống kiểu này, dù có đọc nhiều sách hơn nữa cũng vô ích. Đọc sách là để dùng những kiến thức học được trong sách giải thích hiện tượng, theo khái niệm của vật lý thì có thể chúng ta đã tiến vào một khe hở giữa hai không gian, loáng cái từ chỗ này đã vào đến chỗ kia. Nhưng mà trong thực tế, khả năng này không thể xảy ra được, cứ cho là mình có thể tiến vào vết nứt không gian do tự nhiên hình thành đi, thì lần sau nó cũng sẽ xuất hiện ở một vũ trụ khác, chứ xác suất xuất hiện ở cùng một khu vực thấp đến mức gần bằng 0%."
Trên thế giới có rất nhiều hiện tượng kỳ bí tương tự, ở một số địa điểm đặc biệt, ví dụ như Bermuda, đều xuất hiện hiện tượng này. Nhưng tôi không tin ở nơi này lại có thể có hiện tượng này, quá trình Bàn Tử và Muộn Du Bình hôn mê bất tỉnh dưới đáy hồ, hoàn toàn không giống một "hiện tượng tự nhiên", mà giống như bị người khác ám toán vậy. Cho nên, tôi vốn rất đồng tình với kiến giải lúc trước của Muộn Du Bình: thế lực đã đưa chúng tôi vào trong này, chắc chắn là có ý nghĩa và mục đích.
Bàn Tử lại không cho là đúng, nói: "Xác suất thấp đến mức gần bằng 0%, chứ cũng không phải 0%."
Tôi nói: "Dùng khoa học để giải thích, cũng chỉ có một cách giải thích này thôi. Nếu không phải thế, thì tình huống chúng ta đang đối mặt nằm ở phạm trù khác rồi."
Bàn Tử rơi vào trầm tư, lẩm bẩm: "Trong các truyền thuyết từ thời tổ tiên mình lưu truyền, có cái nào tương tự thế này không nhỉ?"
Tôi suy nghĩ một chút, trước giờ chưa từng có ghi chép gì về việc bóng người xuất hiện trong vách đá cả, đương nhiên, cũng có thể do tầm hiểu biết của tôi chưa đủ rộng.
Bàn Tử nói tiếp: "Nghe nói trong ngọn núi ở khu vực gần mộ Lưu Bá Ôn, có một người đi suốt một ngày, đến khi ra ngoài lại đến một nơi cách đó hơn trăm cây số, cứ như thể đang từ nơi này nháy mắt một cái đã bị dẫn đến nơi khác vậy. Bọn họ gọi hiện tượng này là "sơn quỷ cõng", nghĩ là mình bị sơn quỷ cõng đi, cho nên không biết mình đã đi được bao dặm đường. Cũng có người gọi là "núi biết đi", cho rằng núi cũng đi đường nữa, cậu xem, mấy hiện tượng này có phải cũng tương tự không, chỉ khác cái là hướng đi khác nhau?"
Tôi lắc đầu, khả năng này không được. Bọn họ là ở trên núi, chúng tôi bây giờ là ở trong núi, không có cái gì là "cõng" hay "đi" hết, mà là bị núi nuốt chửng thì có.
Hơn nữa, trong chuyện này còn có điểm kỳ quặc, đặc biệt khó giải thích. Hầm mỏ này bị phong kín, bốn phía không có nơi nào có dấu hiệu đổ nát, nhưng hầm mỏ này chắc chắn phải có lối vào, đó là ở đâu? Cho dù có gặp phải hiện tượng tự nhiên dị thường như "sơn quỷ cõng" hay "núi biết đi", thì cũng không thể đến mức ngay cả lối vào cũng mất luôn chứ.
Tình huống bây giờ lại càng thêm phức tạp, hơn nữa, còn có cảm giác vô cùng kỳ quái.
Nghĩ tới đây, tôi lại nhớ đến lời của Bàn Mã, lão ta nói trong hồ này có ma, thế mà bây giờ tôi lại hơi hơi tin rồi. Chỉ có ma quỷ mới có thể làm ra những việc không thể tưởng tượng nổi như thế này. Cho dù không có ma, thì tôi thấy núi này hoặc hồ này, có điểm bất thường.
Hơi nước dần dần bay hơi hết, những cái bóng dần phai màu đi, loáng cái đã mờ hẳn. Tôi dùng chân vạch lên dòng chữ "tượng sắt" viết lúc trước, sau đó suy nghĩ mãi, vẫn không có kết quả gì.
Vách đá đã quay về nguyên trạng, cảm giác của chúng tôi lại thay đổi. Biết rõ bên trong vách đá có cái gì, làm tôi cứ có cảm giác bị nhìn trộm rất mãnh liệt, trong lòng bồn chồn không yên. Lúc mới vào còn không có cảm giác này, cho nên rõ ràng đây là thần hồn nát thần tính, nhưng mãi mà không xua tan đi được.
Cả ba người đều im lặng suy nghĩ, không nói lời nào, thỉnh thoảng Bàn Tử lại có ý kiến, nhưng đều bị tôi phản bác hết.
Tôi nghĩ đến rất nhiều khả năng, nhưng đều không đáng tin cậy. Cuối cùng, tôi lại bắt đầu suy nghĩ hết mọi chuyện lại từ đầu, bao quát tất cả các chi tiết nhỏ nhất, để xem có thể nhìn ra cái gì.
Như Bàn Tử nói, tượng sắt là dùng để phong kín những cái bóng này, như vậy có thể giải thích được động cơ của đội khảo cổ, thứ mà bọn họ muốn tìm chính là những mảnh nhỏ di thể của các cái bóng này, chỉ là không biết chúng có ích lợi gì đối với bọn họ.
Trong lúc thợ mỏ khai thác ngọc ở đây, đã đào ra được những cái bóng này, có thể xác định một điều, quá trình khai thác ngọc vẫn không hề bị gián đoạn, ham muốn với ngọc quý đã khiến bọn họ tìm về một tượng Lôi Vương để thờ, xong lại tiếp tục đào bới.
Thế rồi, đến một ngày nào đó, có một người để lại một lời nhắn trước bức tượng Lôi Vương.
Nội dung lời nhắn là tình hình cụ thể của những bóng người trong vách đá, đương nhiên không một ai chấp hành chỉ thị của người này, có lẽ ngay sau khi người này rời đi, công cuộc khai thác ngọc liền dừng lại. Nguyên nhân khiến việc khai thác bị dừng lại thì rất nhiều, có thể là chiến loại, có thể là tai nạn, đương nhiên cũng có thể là do lối vào của hầm mỏ này đột nhiên biến mất, thậm chí còn có thể là do thợ mỏ cũng gặp phải tình huống mà chúng tôi đang đối mặt. Nói không chừng, ở đây không chỉ có một hầm mỏ, bọn họ còn bị nhốt ở nơi khác nữa. Cái gì cũng có khả năng, chỉ có một khẳng định duy nhất, đó là câu chuyện khai thác quặng ngọc chỉ đến đây là kết thúc.
Sau đó, là câu chuyện của chúng tôi.
Thoạt trông thì rõ ràng là khá hợp lý, nhưng nếu cẩn thận suy xét, sẽ phát hiện một mâu thuẫn rất khó phát giác ở trong đó. Mâu thuẫn đến từ cách tư duy ngược lại, nếu như tất cả hoạt động khai thác ngọc chưa từng xảy ra? Nếu thế, nơi này sẽ gặp phải chuyện gì? Không ai khai thác ngọc, không có hầm mỏ, như vậy, phải chăng Bàn Tử và Muộn Du Bình cũng sẽ không gặp chuyện khi ở dưới nước?
Nếu như, hoạt động khai thác ngọc chưa từng xảy ra, như vậy vị trí của chúng tôi bây giờ chính là đá núi, nếu thế lực đưa chúng tôi đến đây là một loại hiện tượng tự nhiên, như vậy, cho dù nơi đây là đá núi kín mít thì tình huống này của chúng tôi vẫn xảy ra. Chúng tôi chỉ là một trong những nạn nhân của hiện tượng kỳ bí.
Nhưng ngược lại, nếu như đó không phải hiện tượng tự nhiên? Nếu hầm mỏ này không tồn tại, vậy phải chăng tình huống hiện tại của chúng tôi cũng sẽ không xảy ra?
Tôi có cảm giác khả năng này sẽ không xảy ra, bởi Muộn Du Bình và tôi đều cho rằng, đằng sau chuyện này là một loại ý thức nào đó, mục đích của ý thức này không phải là giết chết chúng tôi. Tất nhiên vẫn chưa biết rõ mục đích thực sự đằng sau hành động dẫn dụ chúng tôi đến đây, nhưng tiền đề của hành động này, là phải có hầm mỏ. Nhốt chúng tôi đến chết, cũng không khác gì trực tiếp giết luôn chúng tôi, như vậy hành động này đối với "Nó" không hề có ý nghĩa. Dựa vào suy đoán trên, phân tích sự việc, điều đầu tiên ta biết được, đó là ý thức kia chắc chắn phải biết đến sự tồn tại của hầm mỏ này. Mặc khác, hầm mỏ này không phải đã được dự tính từ trước, sự tồn tại của nó ở đây là một điều ngẫu nhiên, như vậy có thể chứng minh một điều, mục đích của ý thức thần bí kia chỉ mới bắt đầu nảy sinh sau khi hầm mỏ được hình thành. Phải có hầm mỏ trước, sau đó mới có mục đích. Nhưng như thế, sự việc vẫn rất gượng ép, không hợp lý được.
Đặt giả thiết, thế lực mà chúng tôi tạm gọi là ma quỷ này, trong một ngày dạo chơi, đột nhiên phát hiện ra hầm mỏ ở nơi này, sau khi suy xét kỹ lượng, nhận ra có thể lợi dụng được hầm mỏ này, bèn nảy ra một ý tưởng, một mục đích nào đó, sau đó dùng thủ đoạn bắt chúng tôi, nhốt vào trong này, để thực hiện mục đích...
Nếu diễn biến đúng là vậy, thì mục đích của kẻ này cũng chẳng phải thứ tốt đẹp gì. Hơn nữa, loại hành động này có mở, thân, kết, rất bài bản lớp lang, có mục đích và quá trình rõ ràng, đúng với chiều tư duy của con người. Tôi cũng không phản đối niềm tin rằng trên thế giới tồn tại những thế lực thần bí, nhưng tôi cho rằng, loại thế lực này nhất định phải rất siêu việt, chứ không thực dụng và nông cạn như thế này.
Vậy, nếu thế lực thần bí này không phải ma quỷ, thì là con người, vậy là đã khác rồi.
Có một người biết ở đây có một hầm mỏ, nhận thấy mình có thể lợi dụng hầm mỏ này, bèn trù tính một âm mưu, sử dụng thủ đoạn nào đó đánh ngất Bàn Tử và Muộn Du Bình, lại dùng một cách thức xảo diệu nào đó để đưa họ vào trong đây, tất cả là vì thực hiện kế hoạch của kẻ này. Nghe rất hợp lý, chúng tôi chẳng những cảm thấy kẻ này rất không đáng tin, thậm chí còn cho rằng kẻ này đã trăm phương ngàn kế tính toán kỹ đến thế, chắc chắn phải có một âm mưu to lớn lắm đây.
Có câu nói nổi tiếng thế này: Sau khi loại trừ hết tất cả những khả năng không thể xảy ra, lại có thêm một khả năng không thể xảy ra nữa, vậy đó chính là sự thực. Đây chính là nguyên nhân tôi vẫn luôn cảm thấy sự việc này rất kỳ quái. Vì trong đó, tôi ngửi thấy một mùi "âm mưu" nồng nặc.
Nói cách khác, chúng tôi đang nằm trong một âm mưu do một "người" bày ra. Chỉ là âm mưu này quá xảo diệu, không thể lý giải được. Tôi nhìn Muộn Du Bình, nhất định hắn đã nghĩ đến điểm này từ lâu rồi. Cho nên, hắn từ đầu đến cuối không đặt giả thuyết gì với chúng tôi, nhưng cũng không hành động gì hơn nữa, bởi vì chung quy đó cũng chỉ là cảm giác, không thể chứng thực.
Chương 45: Dị biến
Edit: Earl Panda
Chúc mừng năm mới
*****
Mấy ngày kế tiếp, tất cả vẫn không có gì thay đổi. Ban đầu tôi không tài nào thích ứng nổi, bụng đói đến ngất lên ngất xuống, nhưng chỉ ba ngày sau, cơ thể tự động chuyển sang tiêu hao năng lượng bên trong, dần dần tỉnh táo hẳn lên.
Không có bất cứ chuyện gì xảy ra, thời gian cứ như đông cứng lại. Trong tiểu thuyết võ hiệp, nhiều đôi nam nữ si tình bị đẩy vào đường cùng, đến khi trở lại thế giới bên ngoài, nhớ lại, mới phát hiện ra quãng thời gian bị cô lập mới là lúc vui sướng bình an nhất.
Nhưng tình huống thực tế lại hoàn toàn không phải vậy. Đống lửa ủ đến mức thấp nhất, bốn phía chỉ nghe thấy tiếng nước chảy không ngừng, bốn bề vách đá nhuốm màu vàng đất ảm đạm dưới ánh lửa. Bị nhốt kín trong hang núi khiến người ta không lúc nào là dừng lo nghĩ. Tôi phải học Muộn Du Bình ngồi thiền mỗi ngày mới miễn cưỡng chống đỡ được, bằng không chắc phát điên lên mất.
Với tính cách Bàn Tử, càng kéo dài thêm nữa càng không xong. Tôi không biết hai tuần trước anh ta làm sao mà vượt qua được nữa, nhưng anh ta gần như ngày nào cũng nảy ra một ý kiến nào đó.
Ngoài ra, trong mấy ngày này, chúng tôi dùng tro hương rải lên vách đá một lượt, hy vọng có thể tìm ra được dấu vết gì khác.
Quả thực, trên mặt đất có rất nhiều dấu khắc, xem ra trước kia người ta thường hay vẽ linh tinh xuống dưới đất trong lúc nghỉ ngơi. Chúng tôi nhìn thấy một bàn cờ đơn giản, còn có rất nhiều chữ, nhưng chẳng có tí giá trị nào, chỉ có một điểm làm tôi phải suy tư. Đó là những dấu khắc dưới mặt đất trước một vách hang, có lẽ là một thợ mỏ nào đó đã khắc xuống trong lúc nghỉ ngơi, viết đi viết lại một cái tên đến mấy lần, là "chị Triệu Thúy". Có lẽ là do tương tư mà nên đây. Nhìn cái này, không khỏi nhớ đến A Quý trên mặt đất, có khi anh ta còn phát điên hơn bọn tôi ấy chứ.
Đến ngày thứ ba, tôi không kìm được bắt đầu sinh ra hoài nghi với chính suy nghĩ của mình, nghĩ rằng, nếu cứ thế cứ thế ngồi chờ ở đây, chưa biết chừng đến cuối cùng lại chẳng có gì xảy ra cả? Hay là, tên ma quỷ kia đã quên béng mất bọn tôi ở đây rồi?
Muộn Du Bình vẫn cái bộ dạng ấy, con dao găm của tôi bị hắn lấy mất, giắt vào bên hông. Hắn gần như bất động, cả ngày chỉ tựa người bên đống lửa, nhìn không ra một chút âu lo nào.
Tuy trước giờ lúc nào hắn chẳng như thế, nhưng tôi có cảm giác sự trấn tĩnh này của hắn có phần quá đáng, đôi khi còn có ảo giác, hắn biết rõ sắp có chuyện gì xảy ra.
Sự bình tĩnh này liên tục duy trì đến tận nửa đêm ngày thứ năm – chắc là nửa đêm, nếu chiếc đồng hồ đeo tay của tôi vẫn còn chính xác, bỗng có một biến cố xảy ra.
Tôi tỉnh dậy đi tiểu, ngây ngây dại dại, đột nhiên phát hiện Muộn Du Bình không còn ở vị trí cũ, giật mình kinh ngạc, theo phản xạ nhìn khắp xung quanh, mới phát hiện ra hắn đang đứng trước một vách đá, nhìn cái gì đó.
Bàn Tử nằm một bên ngáy o o, tôi có cảm giác không ổn, nhìn đồng hồ rồi đạp anh ta dậy, cả hai cũng đến chỗ Muộn Du Bình.
Vừa đến trước vách đá nhìn, chúng tôi liền sửng sốt, bóng người lại xuất hiện.
Tôi nghĩ thầm, Muộn Du Bình nửa đêm dậy ngắm cái này làm gì? Nhìn lại lần nữa, mới nhận ra vách đá không hề ướt, hơn nữa, bóng người quỷ quái kia, hình như có hơi khác so với hồi trước.
Cầm đèn mỏ bật lên, chiếu sáng cả một vách tường đá, ngay tức khắc tôi lạnh cả người. Tất cả những cái bóng trong vách đá hiện giờ đều nhìn thấy rõ ràng. Dưới ánh sáng mạnh, dường như khoảng cách giữa cái bóng và bề mặt tường đá đã gần hơn so với lúc trước rất nhiều.
"Đệt mợ! Làm sao thế này?" Tôi mắng.
Muộn Du Bình nói: "Chúng nó đang di chuyển về phía chúng ta."
Chương 46: Quái vật
Edit: Earl Panda
Chúc mừng năm mới
*****
Những cái bóng trong vách đá quả thực là tới gần chúng tôi hơn, hơn nữa, ngay cả động tác cũng thay đổi đến kỳ quái, phần đầu duỗi ra phía trước như thể đang cố gắng chui ra khỏi tường đá vậy.
"Di chuyển?" Bàn Tử còn chưa tỉnh ngủ, chẳng hiểu mô tê gì cả.
"Lúc trước chúng ở sâu trong vách đá khoảng ba thước, bây giờ chỉ cách chưa đến một thước." Muộn Du Bình nói, ra hiệu, "Trong năm ngày, chúng đã tiến gần về phía chúng ta hơn hai thước, thêm một ngày rưỡi nữa..."
Hắn dừng lại, không nói tiếp nữa.
Tôi hiểu ý của hắn, chỉ còn có một ngày rưỡi, những cái bóng này có thể chui ra khỏi tường đá.
"Lẽ nào chúng vẫn còn sống?" Tôi không khỏi sởn gai ốc.
Muộn Du Bình lắc đầu, nhìn chằm chằm cái bóng, dáng vẻ đó, trông như đang đối mặt với cái bóng vậy.
Cơn buồn ngủ của tôi biến mất trong chớp mắt, cầm đèn lên chiếu một vòng, thấy bốn phía toàn là các cái bóng khác nhau nổi lên, tôi sởn da gà da vịt. Những cái bóng này rốt cuộc là cái gì? Nếu chúng chui ra khỏi vách đá... nghĩ đến đây mà dựng hết tóc gáy.
Đi một vòng, tôi đột nhiên nhận ra điều gì, lập tức chửi thề: "Đệt! Chả nhẽ đây chính là mục đích của nó?"
"Mục đích gì?" Bàn Tử vẫn mơ mơ màng màng.
"Tôi không rõ lắm, nhưng có lẽ là một loại nghi lễ, chúng ta là tế phẩm, đây là một kiểu nuôi ăn, chúng ta là thức ăn, hoặc có thể đây là một kiểu đi săn, chúng ta là con mồi... Nói chung, chúng ta là để chuẩn bị cho những cái bóng này."
Bàn Tử nhíu mày, cuối cùng cũng tỉnh táo lại, ngẩn ra, mắng một tiếng: "Mẹ kiếp! Không thể nào!"
Tôi nói: "Cái gì mà không thể nào nữa? Nhìn mấy cái bóng này hình dáng quái gở thế, chắc chắn không phải mỹ nữ cup F đâu mà mơ, chúng nó bị tụi mình thu hút, nhất định không phải là chuyện tốt."
Tâm tư tôi rối bời, không biết phải làm sao nữa, quay ra nhìn Muộn Du Bình, đã thấy hắn ngồi như nhập định, chả biết đang nghĩ cái gì.
Bàn Tử bỗng lôi từ trong đống công cụ ra một cái dùi đục đá, quăng cho tôi.
"Để làm gì?" Tôi hỏi.
"Tiên hạ thủ vi cường." Anh ta trầm giọng bảo. "Đánh cho mẹ nó cũng đếch nhận ra con mình luôn." Nói rồi toan đập.
Tôi túm anh ta lại. "Những thứ này là cái gì còn chưa biết, anh đập vài cái chưa chắc đã đập chết, ngược lại còn thả nó chui ra ngoài, xem đến lúc đó anh giải quyết thế nào!"
Bàn Tử mắng: "Đúng là không chịu nổi thằng đần nhà cậu! Không đập một cái ra thử xem thế nào trước đã?"
Tôi vẫn cứ cảm thấy không ổn, lại nhìn Muộn Du Bình, hắn vẫn không thèm để ý bọn tôi.
Bàn Tử cho rằng hắn cũng đồng ý, thế là giơ dùi lên, nhằm vào một bóng người, đập xuống.
Mấy ngày không ăn cơm, thể lực chống đỡ hết nổi, lần đập thứ nhất chỉ vỡ ra một cái hố nông, nhưng đá ở nơi này quá giòn, ngay sau đó đã nứt ra mấy đường bé tí.
Anh ta hừ vài tiếng, ngay sau đó, xuôi theo đường vân xanh lục của mạch ngọc, bỗng nứt ra một vết rất sâu.
Trong nháy mắt, một mùi rất nồng bốc ra từ trong khe đá nứt, nồng đến mức gần như không hít thở nổi, chúng tôi đều bất giác giật lùi về sau mấy bước.
Bàn Tử còn định đập tiếp, tôi lại kéo anh ta lại, bởi vì tôi nhìn thấy, ở sâu trong khe nứt đó lộ ra một cái gì đó.
Chúng tôi bịt mũi miệng, chờ mùi nồng nọ tiêu tán bớt, mới đến gần xem.
Bàn Tử cầm đèn mỏ, chiếu vào trong.
Mới đầu chỉ thấy một đống gì đó màu xanh lục sẫm, hình như cũng là đá, nhưng không thể nhìn rõ là bộ phận nào của cái bóng. Vốn cũng chẳng đáng sợ gì, nhưng đến khi nhìn gần lại, cái đống đó bỗng dưng giật lên một cái, một đôi mắt chỉ toàn tròng trắng đột ngột xuất hiện trong khe nứt, nhìn thẳng về phía tôi.
Ngay lúc đó, tôi gần như nghẹn thở.
Cặp mắt đó không có bất kỳ cảm xúc gì, cũng không có phương hướng cụ thể gì, nhưng bằng cách nào đó mình vẫn biết được nó thực sự đang nhìn mình, tình cảnh này thật là quái gở!
Tôi và Bàn Tử đều không kìm được mà lạnh cả người, sởn gai ốc, đồng thời lập tức xác nhận, thứ này không phải người!
Không dám nhìn nữa, tôi quay phắt đầu đi chỗ khác, Bàn Tử cũng không biết phải làm sao bây giờ.
Tôi nhìn anh ta, nghĩ bụng không phải anh muốn đánh nó đến mẹ nó cũng đếch nhận ra hay sao? Anh ta lại lắc đầu quầy quậy.
Vừa định nói gì đó, đột nhiên từ trong khe nứt vang lên một tiếng rít chói tai như tiếng trẻ con thét, đồng thời, một cái móng vuốt thò phắt ra ngoài, chộp lấy cổ tôi.
Tốc độ quá nhanh, không ai phản ứng kịp. Tôi bị kéo xềnh xệch đến gần khe nứt, đập vào vách đá đau điếng.
Muộn Du Bình lúc này phản ứng nhanh hơn cả Bàn Tử, lập tức nhào tới túm tôi lại, một tay kia rút dao găm ra xọc thẳng vào khe nứt, đâm trúng vào cổ tay nó, liên tiếp ba lần, thứ kia mới chịu buông tay.
Tôi ngã xuống, ngay tức khắc được Bàn Tử kéo lại về.
Đôi móng vuốt kia lại thò ra ngoài, nhưng chỉ chộp được khoảng không. Bàn Tử xoay chiếc dùi nện vài nhát, cũng không biết có đánh trúng hay không, móng vuốt lại rụt vào.
Chúng tôi còn chưa hoàn hồn, thở hổn hà hổn hển. Bàn Tử nói: "Mẹ kiếp! Con mụ nội nhà nó là một tay đáng gờm đây!"
Muộn Du Bình đi thẳng về phía đống lửa không thèm quay đầu lại một cái, cầm cái rổ lên, vốc vào trong rổ một đống than củi vẫn đang cháy đượm, nói: "Hỗ trợ."
Chương 47: Than lửa
Edit: Earl Panda
Mình lại đang chạy đết lai tiếp, nên lâu nay thi thoảng mới són ra được một tí -_-
Nhưng mà lại muốn đào hố mới quá huhuhuhuhu
*****
Tôi vừa nhìn là biết ngay Muộn Du Bình định làm gì, không cần suy nghĩ kỹ càng xem làm thế có thỏa đáng hay không, hắn đã đem đổ cả rổ than củi đang cháy đượm vào trong khe nứt nọ.
Thứ bên trong vách đá vẫn còn cách khe nứt một đoạn, Bàn Tử theo sát phía sau, lại đổ thêm một rổ than nữa, than đổ sau đẩy than đổ trước vào tít bên trong khe nứt.
Tức thì, từ trong vách đá vọng ra tiếng khóc thét như tiếng trẻ con, chói tai muốn chết, thê thảm vô cùng.
Theo lý mà nói, giết chết thứ kinh khủng này sẽ không có áp lực tâm lý quá lớn mới đúng, nhưng tôi vừa nghe thứ tiếng này lại có cảm giác trong lòng đau nhói, có chút không đành lòng. Hiện giờ nó đang ở thế yếu, hoàn toàn chỉ biết mặc cho người ta xẻ thịt.
Muộn Du Bình mặt lạnh như tiền, không chút do dự tiếp tục lấy than mà đổ.
Trong không khí nồng nặc một thứ mùi kỳ quái, tôi rất quen thuộc với mùi này, đó chính là "mùi người chết" trong cục sắt lúc trước, không ngờ nó thật sự tượng trưng cho cái chết. Cái bóng trong vách đá mới đầu cứ run lẩy bẩy không ngừng, rồi dần dần ngừng lại, tiếng kêu thét thê lương cũng dần yếu đi.
Tôi từ nhỏ đã hay mềm lòng, tuy vừa nãy suýt chút nữa đã bị tóm, nhưng mà giết chết một sinh vật hình dáng kỳ quái như thế, trong lòng tôi vẫn thấy khó chịu cực kỳ.
Bàn Tử lại không cổ hủ như tôi, tuy cũng có chút lẩm bà lẩm bẩm, nhưng không hề ngượng nghịu tí gì, chỉ cười gượng mấy tiếng rồi nói: "Kiếp sau đầu thai làm người, đừng có đầu thai lộn chỗ."
Cuối cùng, cái bóng kia ngừng bặt, chỉ còn lỗ hổng trên tảng đá, vẫn còn đang bốc khói xanh lè.
Tôi chán nản ngã ngồi xuống đất, thở phào một cái. Vừa định nghỉ một tí, Muộn Du Bình lại bảo: "Còn chưa kết thúc."
Tôi ngẩng đầu lên nhìn mới hiểu ý hắn là gì, trên vách đá bên kia, còn có ba cái bóng đã tới gần lắm rồi.
"Chúng ta nhất định phải làm vậy à?" Tôi hỏi.
Muộn Du Bình không đáp, chỉ liếc nhìn Bàn Tử. Anh ta gật đầu, giơ búa với dùi đục lên, đến chỗ một cái bóng khác. Tôi không muốn nhìn nữa, bèn ra ngồi một chỗ không nhúc nhích. Bàn Tử niệm vài câu A di đà Phật rồi ra tay luôn, rất nhanh, chuyện ban nãy lại lặp lại lần nữa.
Vừa chuyển sang cái bóng thứ ba, Bàn Tử cũng chịu hết nổi, đầu đầy mồ hôi đứng nhìn trước cái bóng kia một lúc lâu, hỏi Muộn Du Bình: "Tiểu Ca, hay là chúng mình nghỉ một lát đã rồi làm tiếp?"
Muộn Du Bình lắc đầu, nhìn xung quanh, lạnh lùng nói: "Không cần làm nữa, hết thời gian rồi."
Quay đầu nhìn theo, tức thì giật thót cả người. Không biết tự bao giờ, toàn bộ những cái bóng trên vách đá đã hiện ra sát bề mặt, vừa nhìn đã đếm rõ được, ít nhất cũng phải mười mấy cái bóng, hơn nữa, chỉ bằng mắt thường cũng đủ nhìn thấy rõ ràng rồi.
Chúng nó thực sự đang chậm chạp di chuyển ra phía ngoài vách đá.
Thế này là thế nào? Lẽ nào chúng nó đã phát hiện ra bọn tôi, bèn tăng tốc?
Tôi lại đứng lên, Muộn Du Bình lấy con dao găm của tôi, trở tay cầm, Bàn Tử giơ búa dùi lên, mỗi mình tôi tay không tấc sắt, nhìn quanh một chút, cũng nhặt một cái cần khoan đá lên từ dưới đất. Ba người lưng tựa lưng, cảnh giác khắp bốn phía.
Bàn Tử đã hưng phấn lên rồi, cái loại người như anh ta đích thực chỉ thích đánh chửi nhau, chẳng quan tâm đối phương là Arnold Schwarzenegger hay là yêu quái đá. Anh ta chửi một tiếng, nói: "Mẹ kiếp! Thế cũng tốt, chứ tôi chịu không nổi cái chỗ này rồi, chết đói không vinh quang bằng chết như thế này, chúng ta chiến một trận!" Nói xong lại như sực nhớ ra điều gì, giơ chân đá veo bức tượng thần. "Mẹ, đéo nể tình nhau gì cả! Ông đây bái mày chi bằng bái cái chim cho rồi!"
Tim tôi đập bình bịch, không kìm được run lẩy bẩy, nhưng kỳ lạ là không phải vì sợ, tôi bảo Bàn Tử: "Chết như vậy có gì vinh quang? Mẹ kiếp ai biết anh chết như thế nào?"
Vừa nói xong, bỗng nhiên sau gáy mát lạnh, có vật gì rơi xuống cổ tôi, tôi sợ bắn cả người. Vừa nhìn lại, thì ra là một mảnh đá nhỏ.
Tôi giật mình, thầm nghĩ cái đệt toi rồi, quên mất trên đỉnh đầu cũng là vách đá. Ngẩng đầu lên đã thấy trần hang cách đỉnh đầu chưa đến hai nắm tay đã nứt toác ra, từ trong khe nứt xuất hiện cái gì đó xanh lè.
Chúng tôi lập tức tránh ra, gần như cùng lúc đó, vách đá trên đầu toác ra, một đống xanh lè từ trên rơi bộp xuống, phát ra một tiếng kêu thét thảm thiết.
Dưới ánh đèn mỏ, tôi không nhìn rõ toàn cảnh, chỉ biết là một cái bóng rơi xuống, chỉ dừng lại trong phạm vi đèn chiếu được đúng nửa giây đã lập tức tránh ra ngay, lại bổ nhào vào đống lửa.
Đống lửa bị hất tung ra, bụi lửa và than lửa văng ra khắp nơi, vùng ánh sáng tập trung nhất lại bị hất văng tứ tán rồi, tức thì khắp nơi tối sầm lại, chỉ nhìn thấy vô số điểm lửa nhỏ vẫn đang cháy.
Chúng tôi không liệu được sự cố này, tôi dùng đèn mỏ đuổi theo chiếu thứ kia, nhưng chỉ quét được cái bóng vụt qua.
Bàn Tử phản ứng nhanh nhất, nhặt một que củi cháy dở lên, nhưng chỉ vừa cầm lên lửa đã tắt ngúm, chỉ còn lại tro củi thừa chút lửa tàn.
"Mẹ——" Anh ta chửi ầm lên, chữ "kiếp" còn chưa thoát ra khỏi miệng đã biến thành tiếng kêu đau, hình như anh ta bị cái gì tông vào nên ngã nhào xuống, ngay sau đó là những tiếng va đập liên tiếp vang lên.
Tôi nghe tiếng bèn chiếu đèn theo, thấy Bàn Tử đang quần nhau với thứ gì đó, tôi dời sang chỗ khác chiếu Muộn Du Bình, đèn pin vừa chuyển, lại không tìm thấy hắn, xoay sang chỗ khác, lại chiếu đến một khuôn mặt nanh ác dữ tợn không gì sánh được.
Tôi chỉ xoay đèn mỏ theo quán tính, cho nên trong chớp mắt kia khi khuôn mặt đó hiện ra, cảm giác giật thót tim còn kinh khủng hơn là trực tiếp nhìn thẳng vào. Tôi tức thì sợ vãi tè ra quần, theo phản xạ giật bắn người ra phía sau, gào lên: "Lại lòi ra một tên nữa!"
Sợ thì sợ, cây cần khoan đá trên tay tôi lập tức vung về phía hướng đó, một tiếng trầm đục vang lên, chẳng biết đã đập phải cái gì rồi. Thế nhưng lại chẳng có tí lực gì, cần khoan đá làm bằng sắt, rất nặng, tôi chỉ cầm bằng một tay nên chẳng phang nổi thêm cú nữa, đành phải rụt về, lại cầm đèn mỏ chiếu.
Còn chưa kịp chiếu rõ ràng được tí gì, phía sau lưng bị húc mạnh một cái, tôi ngã văng ra, lăn lông lốc dưới đất. Đèn mỏ bị tuột khỏi tay, không biết bay đến chỗ nào rồi.
Tôi đứng lên liền biết toi rồi, chẳng nhìn thấy gì cả, phiền to. Đúng lúc này chợt nghe tiếng Muộn Du Bình kêu lên: "Quỳ rạp xuống đất, không được cử động!" Ngay sau đó một tiếng thét thảm thiết vang lên, một đống gì đó nặng nề rơi bịch xuống ngay bên cạnh tôi.
Tôi ôm đầu lùi qua một bên, cách mấy nắm tay bên cạnh vang lên mấy tiếng lục cục, sau đó lại nghe thấy tiếng gãy xương đánh "rắc" một cái, tiếng kêu thảm nọ lập tức im bặt.
Ở bên kia, phía Bàn Tử còn chưa xong, nghe thấy tiếng anh ta nện hết cú này đến cú khác, "Mẹ mày! Dám trốn ông Béo tao này! Dám trốn ông Béo tao này!" Mỗi tiếng búa nện lại một tiếng hét thảm, cứ như vậy sau bốn tiếng đập, phía bên đấy cũng im bặt. Anh ta "phì" một tiếng rõ dài.
Không nhìn rõ được tình hình bên đó, bốn bề xung quanh cũng im lặng cả rồi.
Tôi hỏi: "Giải quyết xong rồi?"
Muộn Du Bình bên cạnh lạnh lùng nói: "Đừng nói chuyện, nghe!"
Tôi lập tức nín thở, nghe thấy trong bóng tối vang lên những tiếng bò sàn sạt, số lượng cực nhiều, đếm không xuể.
Chương 48: Có ba mươi lăm tên.
Edit: Earl Panda
Tình như bình...
*****
Tuy tôi không nhìn thấy cái gì, nhưng có thể tưởng tượng tình cảnh bây giờ như thế nào, những bóng người bên trong vách đá này nhất định đã bao vây kín lấy chúng tôi rồi.
Nhớ lại dòng chữ trên mặt đất lúc trước: mười sáu, mười, bảy, bốn, tổng cộng là ba mươi bảy. Vừa rồi có hai kẻ bị chết cháy, như vậy, chúng tôi đang phải đối mặt với ba mươi lăm tên.
Tôi không nhìn thấy gì, không biết bọn Bàn Tử có bị thương không, nhưng không có tinh lực để mà suy nghĩ linh tinh nữa rồi, tôi cầm chắc lấy cần khoan đá, dồn toàn bộ sự tập trung vào hai lỗ tai.
Bàn Tử ở cách chúng tôi khá xa, có thể là đã bị tách ra, bên cạnh không có ai, tôi có chút không kìm được, tiếng hít thở rất gấp, nhưng đồng thời lại hèn mọn cố gắng áp chế hơi thở của mình, nghĩ bụng phải đi tìm anh ta mới được.
Cầm cự chưa được bao lâu, quả nhiên Bàn Tử bùng nổ trước tiên, anh ta kêu đau một tiếng, rồi gào lên: "Mẹ kiếp!"
Vừa gào lên, không biết anh ta đập phải cái gì, nháo nhào cả lên, có cái gì kêu váng lên, đồng thời khắp nơi cũng vang lên tiếng rít ầm ĩ như tiếng bầy chim líu ríu kêu loạn vậy, hỗn loạn thành một nổi lẩu thập cẩm, ập cả về phía anh ta.
Tôi xoay tròn thanh cần khoan trong tay, định xông lên giúp một tay, vừa tiến lên được hai bước đã đâm sầm vào một đống gì đó, trơn trơn nhẵn nhẵn. Không kịp phản ứng, một tiếng rít vang lên trong bóng tối, bốn bề đầy thứ gì xẹt qua xẹt lại, tôi bị đụng ngã, lăn lộn trên đất, mấy chỗ trên người đau nhói.
Tôi quờ tay túm được một cái móng vuốt, nhưng lại lập tức tuột tay. Vội vội vàng vàng quờ quạng khắp nơi, loáng cái tay bị cào cho rối tinh rối mù lên. Có điều, chẳng được bao lâu, một tiếng trầm đục vang lên, vật kia bị đạp văng ra ngoài.
Tôi vội vã khua khoắng tay chân đứng lên, lại bị Muộn Du Bình ấn xuống, hắn khẽ quát: "Đừng nói gì cả, cậu đừng nhúc nhích!" Nói đoạn, hắn lại vụt về phía Bàn Tử như một cơn gió.
Tôi cảm thấy rất quái lại, muốn đến giúp một tay, nhưng lại cảm thấy lời Muộn Du Bình nói mình không thể không nghe. Bỗng nhiên cảm thấy trên vai mình có gì không ổn, thì ra nơi vừa rồi bị Muộn Du Bình ấn lên toàn là máu.
Lượng máu nhiều như thế này, không biết là tự hắn rạch ra, hay là bị trọng thương rồi. Trong lòng tôi rét lạnh, trận chiến ác liệt vừa rồi, nghe chừng như thể hắn chiếm hết thế thượng phong, nhưng hiển nhiên, cũng chẳng dễ dàng gì.
Từ phía bên kia vang lên tiếng Bàn Tử gào thét xé tim xé phổi, không phải tiếng thét khi chiếm thế thượng phong, mà là tiếng gầm lên giận dữ khi bị đẩy vào đường cùng, nghe mà hồn phi phách tán. Rất nhiều khi, tôi không kìm được mà nghĩ, ngộ nhỡ một trong ba chúng tôi mà xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn, thì sẽ làm sao bây giờ? Nhưng nghĩ thì nghĩ thế, chỉ cần Muộn Du Bình còn ở đây, tôi cứ có cảm giác chuyện đó sẽ không xảy ra đâu. Thế mà bây giờ, cảm giác an toàn đó lại tan thành mây khói, rất có thể, Bàn Tử sẽ bị giết chết ở chỗ này mất.
"Lùi vào sát vách!"
Giọng Muộn Du Bình vang lên ngay ở vị trí của Bàn Tử. Âm cuối vừa dứt, tình hình càng hỗn loạn, tiếng kêu thảm thiết, tiếng ngã xuống đất, tiếng chửi của Bàn Tử, tất cả cùng nháo nhào lại với nhau.
Trong đầu tôi giờ trống rỗng, lúc này đã không thể nghĩ ngợi được gì, chỉ biết ôm thanh cần khoan đá mà không nhúc nhích được gì, dỏng tai lắng nghe động tĩnh phía bên kia. Mình có đến đấy cũng vô ích, huống chi tình hình hỗn loạn lúc này tôi chẳng hiểu mô tê gì, nếu thân thủ không tốt, tôi sấn qua đấy có khi còn bị Bàn Tử ngộ sát.
Không biết tình hình này kéo dài suốt bao lâu, bỗng nhiên, đột ngột biến mất, yên tĩnh hoàn toàn.
Tôi vẫn không dám động đậy, không biết thế này là sao nữa. Bọn họ đều chết cả rồi? Hay là đám người trong đá đều bị giết cả rồi? Hay là, cả hai trường hợp?
Cẩn thận lắng nghe, đột nhiên "tách" một tiếng, đèn pin sáng bừng lên. Quay đầu nhìn, thì ra là Muộn Du Bình, hắn một tay đỡ Bàn Tử, một tay cầm đèn của tôi.
Tôi hít một hơi, nhìn hắn tập tễnh đỡ Bàn Tử lại gần, buông Bàn Tử xuống, rồi hắn cũng ngồi xuống. Cả hai người toàn thân đầy vết thương, máu đầm đìa.
Trên cơ thể hắn trải đầy vết máu ố, hình xăm kỳ lân lại nổi lên. Lúc này, không chỉ mỗi bả vai, mà cả nửa người trên của hắn đều phừng phừng, hình xăm lan kín toàn thân.
Tôi ngẩn cả người, chết lặng mà nhìn, hắn lại đưa đèn pin cho tôi. Rồi hắn nắm tay tôi thật chặt, cầm tay tôi chiếu đèn về phía một lỗ hổng trên vách đá, đó là kẽ nứt nơi đám người trong đá chui ra ngoài.
"Đây là con đường do đám kia di chuyển mà tạo nên, tôi vừa xem thử rồi, lối này có thể thông ra bên ngoài." Hắn nói, "Cậu cầm theo dụng cụ, mau đi đi."
Tôi lập tức gật đầu, "Anh nghỉ ngơi một lúc trước đã, tôi giúp anh kiểm tra vết thương. Nếu không có vấn đề gì, chúng ta lập tức rời đi. Mẹ kiếp, tôi còn tưởng lần này tụi mình lành ít dữ nhiều rồi chứ. Phục anh thật đó, không ngờ anh lợi hại đến vậy."
Nào đâu hắn tựa vào vách đá phía sau, thản nhiên nói: "Tôi với anh ta, không đi được nữa rồi."
"Anh mê sảng cái gì đó?" Tôi mắng.
Hắn đột nhiên mỉm cười với tôi, nói: "May quá, tôi còn chưa hại chết cậu..."
Tôi sửng sốt. Hắn ho một trận, phun ra một búng máu tươi.
"Anh..." Đầu óc tôi nổ bùm một tiếng.
Hắn chỉ mỉm cười nhìn tôi, rồi từ tốn cúi đầu xuống, ngồi ở đó, như thể đang nghỉ ngơi. Thế nhưng, bốn bề đã hoàn toàn yên tĩnh.
Chương 49: Thoát ra.
Edit: Earl Panda
Dịch mất có 1 tiếng mà loay hoay mất 1 tiếng rưỡi vì chờ mãi không thấy cái verification code của WP gửi đến để log in vào tài khoản. Điên hết cả tiết.
*****
Nhìn hắn yên lặng ngồi trước mặt, cảm giác của tôi lúc này vô cùng khó tả.
Tôi không biết trong đầu mình đang suy nghĩ cái gì nữa, vô số ý nghĩa bắt đầu rối tung như tơ vò, nhưng mà, tôi lại không có cảm giác gì.
Sững sờ trong phút chốc rồi mới tỉnh lại được, tôi lập tức run lẩy bẩy, lần mò đến sờ cổ tay hắn. Chỉ vươn tay ra thôi mà gần như dùng hết toàn bộ sức lực của mình.
Vẫn may, còn một chút độ ấm cơ thể, mạch đập rất yếu, gần như không cảm thấy gì.
Quay đầu nhìn Bàn Tử, mới phát hiện bụng anh ta bị rạch một vết lớn, phòi cả ruột ra ngoài, mạch đập càng yếu hơn.
Những vết thương trên người bọn họ vẫn chảy máu đầm đìa, toàn là vết cào, vết rạch, hiển nhiên là do móng vuốt của thứ kia cào, có thể thấy cuộc chiến vừa rồi ác liệt đến mức nào.
Máy chảy quá nhiều, tim bị suy kiệt, cái chết là không thể nào tránh khỏi được nữa. Tôi có chút tuyệt vọng, bất lực, chán nản, hối hận, tất cả những cảm xúc không tài nào hình dung được cứ thế ập đến, nước mắt gần như trào ra khỏi vành mắt.
Cũng không biết vì sao, cũng không biết lấy được sự quyết tâm từ chỗ nào, ngay trong nháy mắt kế tiếp, tôi lập tức gạt hết tất cả những cảm xúc này sang một bên, đột nhiên tĩnh tâm lại.
Ngay đến cả tôi cũng giật mình vì sự tỉnh táo bất ngờ này, như thể bên trong tôi còn một con người khác, tạm thời gạt bỏ hết mọi cảm xúc tâm trạng đi. Không biết những người khác khi bị đẩy vào trong tình cảnh này liệu có giống như tôi không, nhưng vào lúc này, đầu óc tôi trở nên tỉnh táo vô cùng.
Bọn họ còn chưa chết, tôi đương nhiên không thể nhanh chân chạy trước, càng không thể ngồi yên ở đây chờ bọn họ chết được. Tôi phải làm chút gì đó, phải cố gắng đến giây phút cuối cùng.
Tôi đứng lên, bắt đầu suy nghĩ xem mình nên làm gì.
Đầu tiên, tôi tìm tro hương, bôi hết tro lên những vết thương nặng nhất trên người bọn họ, để tạm thời cầm máu. Sau đó tôi cẩn thận nhét lại ruột vào bụng cho Bàn Tử. Cái cảm giác này tôi không muốn diễn tả lại.
Làm xong, tôi lấy bộ đồ lặn, xé nhỏ thành mấy đoạn dây, rồi lại lấy một khung gỗ vứt chỏng chơ gần đó, buộc lại, làm thành một cái giá kéo, buộc cả hai người kia vào đó.
"Có chết, hai người cũng phải chết trên mặt đất cho tôi." Tôi nghiến răng nói.
Xong xuôi, tôi tay cầm đèn pin, tay cầm dao găm, nhìn khắp xung quanh. Trên mặt đất toàn là chất dịch màu xanh lét, có lẽ là máu của cái thứ kia, nhiều hơn nữa là những cái xác máu thịt bầy hầy, một đống lộn xộn.
Tôi không nhìn kỹ, cũng không dám nhìn kỹ, quay sang nhìn vách đá xung quanh để tìm cửa hang mà Muộn Du Bình nhắc đến. Vừa liếc mắt nhìn tôi liền sững sờ, bên trong vách đá vẫn loáng thoáng ẩn hiện những cái bóng, hơn nữa, còn nhiều hơn cả lúc trước, nhưng lại nhỏ hơn lúc trước, xem ra là bóng của trẻ con.
Tôi nhìn thấy thế, không khỏi sởn da gà, lúc này không dám dừng lại nữa, kéo hai người kia, chui vào trong cửa hang mà Muộn Du Bình nhắc đến.
Bàn Tử vốn đã nặng, cộng thêm cả Muộn Du Bình nữa, tôi phải lấy hết sức bình sinh mới kéo được bọn họ vào trong.
Quả nhiên đúng như lời Muộn Du Bình nói, bước qua cửa hang là một con đường hẹp dài, cái thứ kia hình như có thể ăn mòn chất ngọc nơi này, nên mới chậm rãi di chuyển bên trong đá ngọc. Khắp bốn phía đều là mỏ ngọc thượng hạng, nếu như có bất kỳ một tên buôn ngọc nào lọt được vào chỗ này, chắc sẽ mừng phát điên mất.
Thế nhưng, nếu như nơi này được hình thành một cách tự nhiên bên trong đá ngọc, vậy thì lối đi này có lẽ không có đường ra. Tôi cố sức kéo đi, nhận thấy con đường này rất dài, lại nhìn hai bên vách tường của lối đi, cảm giác rất quái gở, thi thoảng bên vách đá lại xuất hiện loáng thoáng mấy khuôn mặt mơ hồ, cứ như thể những "người" trong đá đang tụ lại chỗ tôi, xem tôi chậm chạp lết đi.
Cũng may, thần kinh của tôi đã sợ đến mức căng hết cỡ rồi, tôi cứ mặc kệ, nghiến răng kéo Bàn Tử và Muộn Du Bình đi, chỉ dựa vào chính sức mình mà lết.
Con đường này không có bất kỳ ngã rẽ rào, nhưng lại ngoắt ngoéo vô cùng, có nhiều chỗ thậm chí còn thẳng đứng lên, tôi vừa lết, vừa bò, vừa trèo, suốt mười mấy tiếng đồng hồ, gần như đã mệt phát ngất rồi mà vẫn chưa đến cuối con đường.
Cũng không biết qua bao lâu, ánh đèn pin cũng sắp tắt rồi, đột nhiên, tôi nghe thấy tiếng nước.
Tôi gần như phát điên lên cố sức bò về phía trước, bỗng nhiên tay hẫng một cái, bàn tay không tỳ xuống đất như trong tưởng tượng, suýt thì ngã lộn cổ xuống.
Cố gắng chiếu đèn pin lên xem, thì ra phía trước là một vết đứt gãy địa tầng, xuất hiện một khe nứt trong lòng núi, không rộng, dùng hai chân chống là có thể giữ thăng bằng. Bên trên cái khe, nước đổ xuống như thác.
Tôi uống mấy ngụm nước, chiếu đèn pin về phía trước. Phía trước không còn đường đi nữa, hình như đây đã là điểm xuất phát của con đường này rồi. Cái thứ kia có lẽ chui ra từ nơi này. Lại chiếu đèn khắp trên dưới trái phải một lượt, hay thật! Trên khắp bề mặt của khe nứt toàn là những cái hốc lỗ chỗ như thể bị sâu mọt cắn đục, toàn bộ cùng nằm trên một mặt vách đá, cứ như thể lũ đó là một loại sâu mọt trong lòng núi vậy. Mặt vách đá còn lại không có gì cả.
Tôi buông Bàn Tử với Muộn Du Bình xuống, cũng không thể quan tâm được đến tình trạng của bọn họ nữa, tôi vịn vào những cái hốc lỗ chỗ kia, trèo xuống dưới, xem lối này có thông ra ngoài được hay không.
Kỳ thực tôi cũng không biết phải phân biệt thế nào, chỉ có thể dò dẫm từng bước. Đột nhiên, cảm thấy nơi đó như có gió tạt vào, tôi liền mừng rỡ, lập tức theo đó mà men qua, quả nhiên nơi đó có một cửa hang có không khí lưu thông.
Có hy vọng! Tôi nghĩ thầm, rồi lại trèo lên, cởi dây ra, lần lượt đưa từng người xuống dưới.
Tôi bị bỏ đói vài ngày, vốn không còn sức lực gì, đoạn đường này lại quá đỗi giày vò, bình thường chỉ hơi dùng sức một tí là cảm thấy choáng váng, lại còn nôn khan. Đây là dấu hiệu cho thể thể lực đã cạn kiệt, tôi có cảm giác mình có thể ngất xỉu bất cứ lúc nào.
Lại tốn ít nhất là sáu, bảy tiếng đồng hồ, mới hoàn thành được đoạn đường có vài bước chân như thế. Tôi rụt vào trong, lại bắt đầu hành trình vừa bò vừa kéo đầy u ám.
Tôi có thể xác định, trong quá trình vượt qua đoạn đường này, chắc chắn có rất nhiều chuyện xảy ra ở xung quanh tôi, bởi khắp nơi đều vang lên những tiếng động kỳ quái, nhưng tôi vẫn cứ bò đi mà không suy nghĩ bất cứ điều gì, hoàn toàn tê dại. Cho dù lúc này có chết đi, có lẽ tôi sẽ vẫn cứ như thế.
Không biết đã bò qua bao lâu, phía trước bỗng xuất hiện ánh sang. Lúc này ngay cả sức để bò nhanh hơn cũng không có, tôi vẫn chỉ biết tiếp tục bò như một cái xác không hồn.
Sau đó, trong nháy mắt, tôi nghe thấy tiếng gió thổi và tiếng nước chảy, nhìn thấy mặt đất đã lâu rồi chưa thấy. Tôi gần như không phản ứng được gì, chưa kịp nhận ra đây là nơi nào, thì đã thấy trước mặt xuất hiện vài ba người. Ngẩng đầu nhìn lên, là mấy người có dáng vẻ như là dân làng với vẻ mặt âm u nọ.
Bọn họ lôi tôi ra khỏi hang động, nhưng tôi cũng không nhận biết được gì hết.
Trên sườn núi ven hồ bên kia la liệt toàn là người, nghe bên tai toàn là tiếng Trường Sa.
Cơ thể tôi đã suy kiệt, vừa bị lôi ra liền hoa cả mắt, sau đó có người dẫn theo một tốp người khác nữa đi về phía tôi. Nhìn bầu trời, có vẻ như là đã sẩm tối, bốn bề đèn đuốc sáng trưng, toàn là đèn măng-sông. Còn có người cầm bộ đàm không ngừng kêu lên: "Tìm được rồi! Tìm được rồi!"
Người dẫn đầu tốp người nọ chạy về phía tôi, loáng cái đã đến trước tầm nhìn của tôi. Tôi ngước ra, kinh ngạc nhận ra, đó chính là chú Hai tôi, theo sau chú còn có cả Phan Tử.
Vẻ mặt bọn họ đều vô cùng sốt ruột, tôi cũng không kịp chờ chú đến chỗ tôi, đã mất đi tri giác.
Chương 50: Chú Hai.
Edit: Earl Panda
...
*****
Lúc tỉnh lại, tôi phát hiện mình đã về đến nhà của A Quý, Vân Thải đang ở bên chăm sóc tôi. Bên ngoài rất ầm ĩ, tôi bị tiếng ồn ào này đánh thức.
Tôi cũng không bị thương gì, chỉ là do cạn kiệt sức lực, cho nên ngủ ngon một giấc là cơ thể không còn gì đáng ngại. Tôi ngồi dậy, Vân Thải thấy thế, bèn đưa nước cho tôi, sau đó ra ngoài gọi người. Không lâu sau, Phan Tử vào phòng, hỏi tôi thế nào rồi.
Tôi không thấy chú Hai đâu, cũng không trả lời anh, mà hỏi ngay bọn Bàn Tử sao rồi?
Phan Tử nói cho tôi biết, bọn họ đã được đưa đến bệnh viện chữa trị rồi, đến giờ vẫn chưa có tin gì. Anh bảo tôi yên tâm, nếu bọn họ không chết nổi thì chắc chắn không chết nổi, còn nếu bất hạnh mà tiêu tùng rồi, thì cũng đâu còn cách nào nữa.
Tôi nghe vậy cũng an tâm hơn một chút, đưa đi bệnh viện, chí ít vẫn còn có hy vọng.
Sau đó, tôi hỏi rốt cục bọn tôi gặp phải chuyện gì? Anh cứ ra vẻ thần bí, cái gì cũng không nói, chỉ nói chú Hai nhà tôi không cho anh nói nhiều về việc này, bây giờ chú vẫn còn đang ở bên hồ, chờ bao giờ chú về sẽ đích thân nói cho tôi biết. Rồi anh bảo tôi cứ nghi ngơi đi, nói đoạn đi ra ngoài luôn, như thể đang rất vội vã.
Mấy ngôi nhà sàn gần nhà A Quý cũng đều được chú Hai bao hết, tôi còn nhìn thấy rất nhiều người làm trước kia của chú Hai với chú Ba, phải đến hai mươi mấy người, tôi nhớ lại số người từng thấy lúc ở bên hồ, chắc lần này phải đến mấy trăm người lận. A Quý đã hết hoảng loạn rồi, giờ bận bịu luôn chân luôn tay, nhưng tôi hỏi anh ta tình hình thế nào, anh ta cũng chẳng biết cái gì cả.
Tôi hết cách, đành ngoan ngoãn nghe lời, nằm ườn trong nhà A Quý nghỉ ngơi suốt hai ngày trời, sau khi sức khỏe đã hồi phục như cũ, chú Hai mới từ bờ hồ trở về.
Đi cùng với chú Hai còn có nhiều người nữa, hóa ra đều là mấy người chú họ ở Trường Sa, có vài người đã cùng lăn lộn làm ăn với chú Ba từ lâu, toàn là những nhân vật máu mặt trong nhà tôi.
Tôi nghĩ thầm, chuyện gì xảy ra thế nhỉ? Sao người Ngô gia đều đến đây hết cả thế này?
Tôi không dám hỏi, bởi sắc mặt của cả chú Hai lẫn mấy người họ hàng này đều vô cùng khó coi, hàn huyên hồi lâu, mới để ý thấy ánh mắt bọn họ nhìn tôi rất kỳ quái.
Sắc mặt chú Hai rất kém, lằng nhằng một hồi mấy người họ hàng mới tản ra, chú Hai quay sang nhìn tôi một cái, rồi ôm lấy bả vai tôi, hỏi tôi có làm sao không?
Tôi gật đầu nói không vấn đề gì, bấy giờ mới thấp giọng khẽ hỏi chú chuyện gì xảy ra thế. Chú nhìn tôi, thở dài, vỗ vỗ vai tôi, ý bảo đi dạo với chú một lát.
Chúng tôi đi đến một khe suối ở thôn bên cạnh, suốt dọc đường chú chẳng nói với tôi câu nào, mãi cho đến khi tới ngôi nhà cũ đã bị thiêu rụi nọ, chú mới bảo: "Mail của cháu, chú đã đọc rồi."
Tôi đã thầm lờ mờ đoán ra, có khả năng chuyện này với nội dung email đó có liên quan, bèn nhìn chú, chờ chú nói tiếp.
Chú dừng lại một chút, rồi mới nói: "Cháu có tin tưởng vào nội dung mà cháu viết trong mail không?"
"Chú bảo cháu phải làm sao? Cháu muốn không tin, nhưng lại không dám không tin, vì cháu không nghĩ ra được khả năng nào khác." Tôi nói, "Chú với chú Ba ở cùng nhau lâu như thế, có phát hiện ra được điều gì khác thường không?"
Chú Hai châm điếu thuốc, nhìn tôi, cau mày không nói một lời.
Tôi nói: "Đây là điều người khác nói, chú Ba cũng không chính miệng phủ nhận, cho nên, không phải là cháu không có chút gì hoài nghi."
Chú Hai lại nhìn tôi, rít vài hơi hút xong điếu thuốc, ngừng lại một chút, rồi đột ngột nói: "Cháu không cần phải hoài nghi, chú cho cháu biết, điều đó đúng là sự thực."
"Sự thực?" Tôi nói, "Làm sao chú khẳng định được?"
Chú từ tốn nói: "Chuyện này, bọn chú đã biết cả rồi."
Tôi ngẩn ra, không thể tin vào tai mình.
Chú Hai nói tiếp: "Tiểu Tà, có những chuyện không đơn giản như cháu nghĩ, nhưng cũng có những chuyện, không phức tạp như cháu nghĩ đâu."
"Nếu mọi người đã biết cả rồi, sao vẫn để chuyện này xảy ra?" Tôi hỏi.
Chú đứng đó không nói, sau đó ra hiệu, bảo tôi đi tiếp, tiện thể đưa cho tôi một thứ.
Tôi nhận lấy, thì ra là một tấm ảnh, "Đây là?"
"Trước khi ngôi nhà cũ kia bị cháy sạch, chú giữ lại một tấm. Chú nghĩ, bây giờ mới cho cháu xem thì thích hợp hơn là lúc đó." Chú nói.
Tôi sửng sốt, ngơ ngác, nhà cũ? Cháy sạch? Cái đệt! Không thể nào! Đoạn liền nói: "Chú Hai, đó là do chú làm à?"
Còn định nói nữa, nhưng chú lại khoát tay, bảo tôi xem kỹ tấm hình kia, "Những chuyện đó, không nhắc lại nữa."
Đó là một tấm ảnh chụp trắng đen vô cùng bình thường, cũng là một tấm ảnh chụp chung. Nhìn kỹ, trong tấm ảnh là một người đàn ông trung niên lạ hoắc, đang nói gì đó với Văn Cẩm, đằng sau là những người khác trong đội khảo cổ. Người đàn ông trung niên không phải người trong tấm ảnh từng xem lúc trước. Người này rất trắng, rất gầy. Nhưng lại trông có chút quen thuộc.
"Đây là tấm ảnh mà Sở đầu trọc muốn cho cháu xem." Chú Hai nói, "Chú giữ lại một tấm ảnh có khả năng nói rõ vấn đề ra nhất, nghĩ nếu như cuối cùng vẫn hết cách, buộc phải cho cháu biết việc này, thì vật chứng vẫn rõ ràng hơn là chỉ mỗi lời chú nói."
"Chính là cái này?" Tôi có chút không hiểu, "Tấm ảnh này có vấn đề gì?"
"Không phải cháu quen biết người này hay sao?" Chú nói, chỉ vào người đàn ông xa lạ nọ.
Tôi nhìn cái người trắng bệch mà gầy gò kia, bỗng nhiên nghĩ ra hắn là ai, không khỏi "a" lên một tiếng, "Sao lại là hắn? Không phải hắn..."
Người này không liên quan gì đến câu chuyện của chúng tôi, nhưng cũng không phải là không đóng vai trò gì trong chuyện này, nếu như người đó đã cùng xuất hiện trong một tấm hình với đội của Văn Cẩm, vậy thì vị trí của hắn trong đội khảo cổ không phải là như tôi nghĩ rồi.
Chúng tôi tiếp tiếp đi dạo, chú Hai nói: "Chú không thể kể cho cháu biết chi tiết, nhưng chú có thể kể cho cháu nghe một câu chuyện. Tiểu Tà, có một số lúc, có một số chuyện, hắn chính là một câu chuyện, cháu có muốn nghe hay không?"
Chương 51: Vui vẻ.
Edit: Earl Panda
...
*****
Tôi gật đầu. Chú Hai châm một điếu thuốc nữa, nói: "Cháu đọc sách không ít hơn chú là bao, Tần Thủy Hoàng bản kỷ chắc đọc rồi chứ?"
Tôi gật đầu, làm nghề đồ cổ ai mà chẳng phải đọc "Sử ký", đương nhiên là đọc rồi. Chú nói tiếp: "Còn "Hán thư" thì sao?"
Tôi cũng gật đầu. Chú nói: "Cháu có nhận ra không? Những vị hoàng đế cổ đại này đều có một thông lệ, dù là hoàng đế lớn hay hoàng đế nhỏ, hoàng đế chính tông hay hoàng đế xuất thân hèn mọn, hễ một khi công thành danh toại, tận hưởng thái bình, bọn họ thế nào cũng đều có chung một hành động, đó là cầu trường sinh."
"Truy cầu trường sinh là mộng tưởng cuối cùng của mỗi bậc đế vương, cũng không có gì là lạ. Cả đời cháu nếu mà không phải lo tiền tiêu, thích giết ai thì giết, thích cưới cô nào thì cưới cô đó, vậy thì điều duy nhất mà cháu theo đuổi, chỉ e cũng chỉ là muốn tiếp tục cuộc sống như thế vĩnh viễn." Tôi hùa theo nói.
Chú Hai không để ý, chỉ tiếp tục nói: "Nếu mở sử sách ra, cháu sẽ phát hiện, thật sự, cái lệ này rất khó phá vỡ, hơn nữa, càng là khai quốc hoàng đế thì lại càng trầm trọng hơn, Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Đường Thái Tông..." Chú dừng lại một làn, "Từng đời từng đời truyền xuống, quốc hiệu thay đổi mấy chục lần, tước hiệu cũng thay đổi, thậm chí, ngay cả danh hiệu hoàng đế cũng không còn nữa, thì thông lệ ấy vẫn không hề bị phá vỡ."
Tôi gật đầu, đúng là như vậy. Bản tính con người cứ thế truyền thừa không thay đổi, dù anh đứng ở vị trí nào, đến một lúc nhất định, đều sẽ cảm thấy cái chết đang tới gần.
"Thế nhưng, cái gọi là bí quyết trường sinh và truyền thuyết về nó, càng đến thời hiện đại lại càng mơ hồ. Rất nhiên bậc đế vương cho rằng, manh mối của thuật trường sinh nằm trong mộ táng của các phương sĩ thời cổ, cho nên, đương nhiên sẽ xuất hiện một vài đội ngũ trợ giúp bậc đế vương tiến hành khảo sát thực địa. Những đội ngũ này thường treo đầu dê bán thịt chó, được che đậy dưới một lớp vỏ bọc biên chế hiện có." Chú nhìn tôi, cười cười, "Những người thuộc đội ngũ này đều là những cao thủ dân gian lợi hại nhất đương thời. Từ xưa thổ phu tử, thổ địa khắp Nam Bắc, Mô kim hiệu úy, không ít người được chiêu hàng rồi ăn thuế nhân dân. Có đôi khi, dưới áp bức của cường quyền, cũng không phải là thuần phục, mà là vì già trẻ lớn bé trong nhà, buộc phải cúi đầu."
"Có điều, những chuyện này không bao giờ được lôi ra ngoài ánh sáng, bởi vậy suốt nhiều thế hệ, những người này đều không có kết cục gì tốt đẹp. Ngoài ra, trong những đội ngũ này, lúc nào cũng có người khao khát thoát khỏi sự kìm kẹp khống chế mọi nơi mọi lúc này, chưa kể, trường sinh không chỉ hấp dẫn đối với các bậc đế vương, mà còn vô cùng mê hoặc đối với những kẻ tìm kiếm này nữa. Đến khi bọn họ thực sự phát hiện được một vài manh mối, trong lòng ắt sinh ra tư tâm."
"Những tư tâm này, bọn họ thường kể cho anh em hoặc người nhà của mình, thành viên của những gia tộc này đều là những kẻ đã trải qua nhiều sóng gió, lăn lộn trên mũi đao, gan to tày trời. Vì vậy, một số kế hoạch sẽ được sắp đặt nên, để thực hiện tư tâm này. Một số kế hoạch thất bại, một số kế hoạch lại thành công, còn một số cũng không biết là thất bại hay thành công nữa, nhưng có thể khẳng định một điều, một khi bị phát hiện, tức là, ngày diệt vong của những người này cũng đến."
Chú ngừng lại, ôm vai tôi nói: "Nhưng mà, có một số kế hoạch được giấu diếm suốt một thời gian rất dài, thậm chí còn thay đổi cả triều đại. Đến lúc này, hai bên đã đạt được một nhận thức chung nào đó, không ai muốn nó bị chọc ra nữa." Nói đoạn, chú nhìn tôi, "Đặc biệt là "nó"."
Tôi không dám nói là tôi nghe hiểu được toàn bộ câu chuyện của chú Hai, nhưng tôi hiểu rõ chú muốn nói điều gì.
Nói thật, tôi cũng hoàn toàn không ngờ, bối cảnh đằng sau sự việc này lại ở phạm vi như thế, thảo nào Sở ca nói với tôi, chuyện này không thể tra thêm được nữa. Tôi im lặng, liên kết lại những điều chú Hai nói cùng những suy đoán trước đây của tôi, mới phát hiện ra, rất nhiều chuyện đã trở nên hợp lý hơn rồi.
Tôi hỏi: "Như vậy, chuyện ở đây, cũng là một phần trong hoạt động của "nó"?"
Chú Hai gật đầu: "Chỉ e là thế, cho nên chú đã sớm biết đến sự tồn tại của ngôi làng này từ lâu rồi, vừa nghe Phan Tử nói cháu đến đây, liền thấy không ổn ngay, mới lập tức bảo anh ta đưa cháu về. Hễ là những nơi mà nhóm người kia từng đi qua, đương nhiên là hung hiểm vô cùng."
"Chú có biết rõ tình hình ở đây không? Cái thứ trong đó rốt cuộc là cái giống gì?" Tôi hỏi.
Chú suy nghĩ một lát, nói: "Cái này, có thể là Mật Lạc Đà."
"Mật Lạc Đà? Là cái gì cơ?"
"Mật Lạc Đà là tổ tiên người Dao, trong thần thoại, đó là nữ thần đầu tiên sinh ra từ trong núi. Chú đoán, lũ quái vật đó là nguyên mẫu của Mật Lạc Đà." Chú móc từ trong túi ra một cục sắt, "Lần đầu tiên nữ thần này tạo ra người, lại là người sắt. Nhưng hộp sắt lại tương khắc với sức mạnh của nữ thần, nên không thành công. Năm xưa thợ mỏ dùng sắt để phong ấn người trong đá vào đó, hiển nhiên là đã nghe đến truyền thuyết này của tộc Dao, cũng gần giống với suy đoán của cháu."
Tôi gật đầu. Chú Hai nói tiếp: "Về phần vật này sinh ra như thế nào, chỉ e không ai biết được. Nghe cháu miêu tả thì, chuyện này rất giống một nghi thức tôn giáo nào đó, các cháu trở thành tế phẩm, bị nhốt ở trong đó. Vật kia nằm ở rất sâu trong lòng núi, muốn đào xuống đó phải tốn rất nhiều thời gian, chú có cảm giác, chuyện mấy đứa gặp phải có thể là do có người đã sắp xếp."
Chú cũng có cảm giác như thế, chứng tỏ trực giác của tôi không hề sai. Nhưng tôi nói: "Nhưng mà, cháu nói chú nghe, trong cái hầm mỏ đó lại không có bất kỳ lối ra nào."
Chú suy nghĩ một chút, vỗ vỗ tôi bảo: "Trước đây chú đã nói rồi mà, phàm là việc đã xảy ra, cho dù cháu có thấy hiện tượng gì đi nữa, thì nó vẫn đã xảy ra rồi. Nếu cháu đã vào trong, thì đương nhiên phải có lối vào, không tìm thấy không thể nói là không có, lối vào chắc chắn vẫn ở đó thôi."
Tôi cười khổ, lúc trước khi Bàn Tử nói, tôi cũng nghĩ như thế, nhưng không tìm thấy chính là không tìm thấy.
Bộ đàm của chú Hai đột nhiên vang lên, chú bật lên, chỉ ậm ừ vài tiếng rồi tắt. Tôi hỏi tiếp, chú tới tìm tôi sao mà phải đem theo nhiều người thế? Như vậy cũng quá khoa trương rồi! Bây giờ bọn họ đang ở bên hồ làm cái gì?
Mặt chú Hai tái mét, chỉ bảo: "Có một việc, lần này, may mà nhờ có cháu, bằng không bọn chú đã không tìm được đến đây. Về mục đích đến đây, bây giờ chú không nói cho cháu biết được, bao giờ xác thực được việc này, tự nhiên cháu sẽ biết." Chú nhìn đồng hồ, "Chuyện này mới chỉ bắt đầu thôi, hơn nữa, chúng ta cũng không còn nhiều thời gian nữa."
"Có liên quan tới chú Ba phải không? Có lẽ, cả "nó" nữa?" Tôi hỏi.
Chú Hai cười, "Đừng sốt ruột, đến lúc đó tự cháu sẽ biết, những gì cháu trải qua thật ra lại nhỏ bé đến mức nào. Bây giờ đừng hỏi nữa, cũng đừng đi nghe ngóng hỏi thăm thêm gì, cháu muốn tìm kiếm quá khứ của Tiểu Ca thì cứ cố gắng mà đi tìm, nhưng ở chỗ chú đây, thì bớt giở cái trò ấy ra. Chú khác lão Tam, không để cháu làm loạn đâu."
Chú Hai không nói gì với tôi nữa. Mà tôi, khác với khi ở cùng chú Ba, cũng không khua môi múa mép cái gì nữa. Bởi có làm cũng vô ích, chú Hai tôi nói được là làm được, chú đã bảo bao giờ chứng thực được sự việc thì sẽ nói cho tôi biết, thì tuyệt đối không bao giờ nuốt lời.
Chú nói chú vẫn phải ở lại đây một thời gian nữa, tôi có thể ở lại mà chờ, hoặc đi chơi chỗ khác cũng được. Có điều, sau đó phải báo cáo lại hành tung của mình, không được chạy lung tung.
Vì nhớ Bàn Tử với Muộn Du Bình, nên chỉ một tuần sau, tôi rời khỏi thôn làng này, đến bệnh viện ở cảng Phòng Thành. Vân Thải và A Quý đưa tôi vào phòng bệnh của họ, hai người họ vẫn ổn cả.
Thực ra mà nói, vết thương của hai người bọn họ không đến nỗi trí mạng, chỉ là mất quá nhiều máu và còn bị nhiễm trùng nữa. Cũng may thể chất của bọn họ rất tốt, tôi dùng tro hương cầm máu cũng có tác dụng ngăn được vi khuẩn, cho nên chỉ truyền thêm máu là cứu được rồi. Số tro hương này cực kỳ quan trọng, nếu như bọn họ mất thêm chút máu nữa thôi, chỉ e Đại La thần tiên cũng không cứu nổi nữa.
Phương thức dùng tro hương cầm máu là do tôi nghe Bình thư của Đan Điền Phương mà biết đấy, không ngờ lại thực sự có ích như thế, xem ra đúng là phải nghe Bình thư nhiều lên một chút mới được.
Vừa nhìn thấy Bàn Tử, suýt nữa là tôi nước mắt ngắn dài. Chỉ mới vài ngày không gặp, cơ thể anh ta đã tròn quay trở lại như cũ, không giống như lúc vừa mới thoát ra khỏi điện Diêm La.
Bàn Tử thấy Vân Thải tới, đã không biết trời trăng gì nữa, lập tức nhảy xuống giường khoe khoang mình bất tử.
Bọn họ hỏi chuyện sau đó thế nào, tôi kể mình đã nhét ruột vào bụng Bàn Tử ra làm sao, rồi kéo bọn họ từ đó ra đến tận bên ngoài như thế nào.
Bàn Tử nghe xong mà sửng sốt, bảo chẳng trách gần đây cứ có cảm giác ruột mình lộn tùng phèo thế nào ấy, hễ cứ buồn đại tiện là lại ợ một cái, nói tôi đừng có mà bỏ ngược ruột đấy nhé.
Nói đến đây, chúng tôi bắt đầu bàn bạc về toàn bộ sự việc đã xảy ra. Tôi bèn lấy ra một tờ giấy cho bọn họ xem. Lúc còn ở trong nhà A Quý, tôi đã dựa vào trí nhớ, vẽ phác lại sơ đồ của ngôi làng cổ dưới đáy nước.
Nhưng cứ bàn bạc suông như vậy cũng chẳng ra được kết quả gì, Bàn Tử ầm ĩ muốn dẫn cả đám đi ăn cơm bệnh viện.
Một lát sau, lại chẳng thấy Vân Thải động đậy gì, nhìn lại, mới phát hiện cô bé đang nhìn tấm sơ đồ ngôi làng cổ dưới đáy hồ mà ngẩn người. Không phản ứng gì cả, như thể bị cái gì thu hút.
Tôi hơi ngạc nhiên, tấm sơ đồ này vẽ phác ra thôi, chẳng có gì đẹp đẽ cho cam. Tôi với Bàn Tử liếc mắt nhìn nhau, Bàn Tử hỏi: "Có chuyện gì thế, em gái?"
Vân Thải há miệng, ngẩng đầu lên nói: "Hai ông chủ, cái ngôi làng dưới đáy hồ mà anh vẽ này sao trông giống Ba Nãi thế."
Chương 52: Ngôi làng giống nhau.
Edit: Earl Panda
...
*****
Ba Nãi chính là ngôi làng mà A Quý ở, cũng là một thôn làng người Dao điển hình, có điều, chúng tôi mới ở đó được có vài ngày, không quen thuộc địa hình trong làng cho lắm. Vân Thải vừa nói thế, tôi thật sự có chút bất ngờ.
"Điểm gì giống?" Bàn Tử cầm lấy tấm sơ đồ đưa qua, "Thôn làng của các em không phải đều na ná như nhau à?"
Vân Thải cũng không dám nói chắc, bèn đưa tấm sơ đồ cho A Quý, nói: "Cha ơi, cha xem xem." Bọn tôi cũng lập tức sán lại gần.
A Quý nhìn một lúc, mới đầu dường như cũng không hiểu lắm, Vân Thải bèn chỉ vào một chỗ trên sơ đồ, sau đó trao đổi vài câu bằng tiếng địa phương, anh ta mới bừng tỉnh, gãi đầu gãi tai nói: "Í chà! Thật đúng là có điểm giống."
Tôi bắt đầu có hứng thú, suy cho cùng bọn tôi cũng không phải dân địa phương, có nhiều điểm không thể nhạy cảm bằng những người đã sống ở đây suốt nhiều thế hệ được. Với cả, con gái cũng vốn chu đáo tỉ mỉ hơn, nên bèn bảo cô bé chỉ cho bọn tôi xem xem.
Vốn tôi tưởng rằng, có thể là do thế núi ở vùng hồ và thế núi xung quanh Ba Nãi tương đối giống nhau dẫn đến việc cấu trúc tựa núi của hai ngôi làng có thể cũng có vài điểm tương đồng mà thôi, nhưng khi Vân Thải vừa chỉ ra, tôi liền rùng mình một cái.
Bởi vì điểm giống nhau, lại chính là các con đường và các hàng rào giậu.
Vân Thải nói với tôi, lần đầu tiên cô bé nhìn thấy tấm sơ đồ này, liền phát hiện ra rõ ràng hướng đi của các con đường và hàng rào trong "ngôi làng dưới đáy hồ" này giống y đúng thôn làng của bọn họ. Điểm này khiến cô rất lấy làm lạ, dần dần sau đó mới phát hiện ra một vài bộ phận khác của ngôi làng cũng có nhiều điểm rất giống nhau nữa.
Tôi không có khả năng nhớ kỹ toàn bộ hướng đi của các con đường lát đá và bậc thang đá trong làng Ba Nãi, nhưng vẫn còn nhớ các con đường xung quanh ngôi nhà của A Quý, vừa thử tham chiếu lại, quả nhiên đúng là như thế. Chỉ cần xoay tấm sơ đồ mặt bằng này sang một hướng khác, lập tức có thể tìm thấy mấy con đường nhỏ gần nhà A Quý, những điểm giao lộ cực kỳ giống trong tấm sơ đồ này.
Tôi suy nghĩ một lát liền toát hết cả mồ hôi lạnh, điểm này có chút quá đà rồi. Tấm sơ đồ này vẽ sơ lại mặt bằng ngôi làng dưới đáy hồ, ngôi làng đó đã bị chìm có lẽ phải đến trăm năm ngàn năm rồi, thế nhưng bây giờ lại phát hiện, ngôi làng dưới đáy hồ cùng ngôi làng đang tồn tại trong hiện thực lại có vô số điểm giống nhau cực kỳ, thế là thế quái nào?
Tuy đã cố gắng kìm nén cái cảm giác sởn da gà này xuống, nhưng tôi vẫn không khỏi run bắn lên, trực giác cho tôi biết, có lẽ đây là một vấn đề lớn.
Hít sâu mấy hơi trấn tĩnh lại, sau đó bảo Vân Thải chỉ rất hết những điểm giống nhau giữa hai ngôi làng, tôi phải xác định lại xem có phải những điểm giống nhau đó là vì nguyên nhân tự nhiên đặc thù nào đó hay không.
Có lẽ lúc đó sắc mặt của tôi có hơi dọa người, Vân Thải thấy tôi có vẻ nghiêm trọng như thế liền sợ hãi, không dám nói câu nào. Bàn Tử vỗ tôi một cái, bảo tôi đừng có hù dọa con gái nhỏ nhà người ta, tôi mới nhận ra mình có hơi quá đáng rồi.
Chúng tôi bắt đầu xem xét từ cổng làng, cho đến cuối làng, càng nói, trong lòng tôi càng lạnh lẽo, nhận ra rõ ràng sự tương đồng này không thể nào là do ngẫu nhiên được. Từ vị trí mấy miếu thờ ngoài cổng làng, cho đến phần lớn những con đường lát đá bên trong, hàng rào giậu, cả cách sắp xếp nhà cửa, thực sự là quá giống nhau.
Nguyên nhân có thể tạo thành tình huống như vậy, chỉ có một khả năng, đó là ngôi làng cổ dưới đáy hồ và làng Ba Nãi đều do cùng một người thiết kế.
Thế nhưng, ai lại có thể thiết kế ra làng được? Làng xóm hình thành một cách tự nhiên, trải qua hàng ngàn năm, những người thôn dân tự điều chỉnh, sắp xếp, tìm kiếm nơi xây nhà thích hợp nhất, tìm vị trí con đường thích hợp nhất, cứ thế, dần dần tạo thành cấu trúc nhà cửa phố xá.
Điều khiến tôi chú ý nhất là sự giống nhau về độ cao của con đường. Khi một ngôi làng đã được hình thành, đặc biệt là làng trên núi, đường phố là thứ khó có thể thay đổi nhất dù trong một thời gian rất dài, bởi vậy mới có lối nói "đường cổ gió tây". Các thôn dân cùng lắm cũng chỉ sửa chữa các con đường mà thôi, chứ không thể xóa sổ nguyên một con đường, rồi lại khai thông ra một con đường khác. Các con đường trên xóm núi mà chúng tôi từng đi qua, phần lớn đều đã tồn tại từ thời Lưỡng Tấn. Kể cả ở Hàng Châu, có nhiều con đường đá trên núi do các tăng nhân hòa thượng trong chùa tu tạc nên từ rất lâu trước kia, cho đến ngày nay, chính phủ cũng chỉ sửa chữa lại nó mà thôi.
Cho nên, sự giống nhau về độ cao giữa các con đường cổ trong làng Ba Nãi và các con đường trong ngôi làng dưới đáy hồ chính là một điều hết sức bất thường, thậm chí có thể nói là quỷ dị. Đối với một kẻ học kiến trúc như tôi mà nói, càng suy nghĩ, thì bao nhiêu thứ trong đầu lại càng rối tung lên như mớ bòng bong, mà vẫn không biết mình đang tìm kiếm điều gì.
Bàn Tử còn chưa nhận ra là tôi đã nghĩ xa đến thế, hỏi: "Thiên Chân, cậu từng nghe nói qua chuyện nào tương tự như thế trước đây chưa?"
Tôi lắc đầu bảo anh ta đừng hỏi nữa, đây không phải chỉ đơn thuần là "nghe nói qua", hai quần thể kiến trúc có kết cấu giống hệt nhau, trong lịch sử, chuyện như thế chỉ có một người từng làm, đó là Uông Tàng Hải. Hai thành phố do ông ta chịu trách nhiệm thiết kế là thành Khúc Tĩnh và thành Áo Môn cũng đều hoàn toàn giống nhau, nhưng đó đã sang phạm vi thành phố rồi, thành thị còn có thể quy hoạch được, chứ làng xóm thì hoàn toàn khác, tôi chưa bao giờ nghe nói ở đâu có hai ngôi làng hoàn toàn giống nhau.
Hơn nữa, nếu như cả hai ngôi làng cùng tồn tại, có thể nói thật sự là một kỳ quan, hoặc là một trò đùa ác của một cao nhân ẩn thế nào đó, nhưng bây giờ, một ngôi làng còn tồn tại, một ngôi làng đã chìm dưới đáy hồ.
Dù tôi có tự nhủ mình không được phức tạp hóa vấn đề lên ra sao, nhưng trực giác của tôi vẫn cứ cảnh báo rằng, chuyện đã xảy ra ở đây tuyệt đối không hề đơn giản. Hiện giờ trong tay tôi nắm giữ một mảnh nhỏ, chẳng qua chỉ là lớp vỏ mỏng ngoài cùng của củ hành tây "sự thật".
Bàn Tử thấy tôi không có phản ứng gì, bèn đi hỏi Muộn Du Bình. Muộn Du Bình cũng không trả lời, như thể hắn không hứng thú với vấn đề này, chỉ ngồi đờ ra.
A Quý tránh né nói: "Theo truyền thuyết của chúng tôi, ngôi làng vốn ban đầu không ở vị trí đó, mà là ở trong núi Sừng Dê. Có khi cũng đúng như lời ông chủ Béo nói đấy, ngôi làng bên dưới đó có lẽ chính là làng cổ của chúng tôi, ngôi làng không phải bị lửa thiêu, mà là bị nước nhấn chìm, sau đó tổ tiên chúng tôi bèn ra ngoài, thấy thế núi cũng tương tự, bèn xây dựng lại một ngôi làng giống hệt ngôi làng nguyên gốc, dù sao thì núi ở nơi này với núi ở ngoài kia cũng na ná nhau mà!"
Tôi nói với anh ta: "Trừ phi tổ tiên các anh có nghiên cứu rất sâu về thuật phong thủy, bằng không, cho dù có phỏng theo, cũng rất khó có thể bắt chước giống đến mức độ này."
Muốn đạt được mức độ giống nhau như thế này, phải tiến hành đo lường tính toán rất kỹ lưỡng ở thôn làng nguyên gốc khi nó còn chưa bị nhấn chìm, mà ngày đó người Dao vẫn còn đang trong giai đoạn chưa được khai hóa, không thể có tài nghệ đến mức ấy được."
Vân Thải bĩu môi: "Ông chủ, dựa vào cái gì mà anh coi thường người Dao thế? Không chừng có một người như vậy thật thì sao!"
Tôi cười khổ, không phải là tôi coi thường, mà là nếu điều này là thật thì sự việc phức tạp hơn nhiều, bèn đáp: "Cho dù có một người như vậy thật thì vẫn không hợp lẽ, bởi làm vậy hoàn toàn là không cần thiết. Văn hóa người Dao cũng không có quy định ngặt nghèo gì về kiến trúc xây dựng, vậy cần gì phải xây lại một ngôi làng giống hệt làng cũ làm gì? Kết cấu của ngôi làng này, bản thân nó vốn không mang ẩn ý gì đặc biệt."
Trên khắp Trung Quốc có rất nhiều ngôi làng do cao nhân thiết kế, ví dụ như Du Nguyên thôn ở Chiết Giang, do Lưu Bá Ôn xây dựng dựa trên tinh tượng, cả ngôi làng là một bản đồ sao khổng lồ. Nhưng sơ đồ mặt bằng ngôi làng này lại hoàn toàn không có quy hoạch gì cả, dựa vào kiến thức của tôi, thì không thấy có gì kỳ hoặc trong này hết.
"Cậu nghĩ sao?" Bàn Tử hỏi tôi, "Chắc chắn là cậu có ý tưởng gì rồi."
Quả thực, tôi có một vài suy đoán, nhưng thật ra có suy đoán cũng chẳng ích gì, bèn lắc đầu: "Tôi chỉ có thể xác định, việc này là cố ý, hơn nữa còn tốn rất nhiều sức lực mới làm được, bởi vì người bình thường cho dù có muốn xây cũng không thể xây được giống đến mức độ này." Tôi cảm thấy điều khó lý giải nhất, đó là một sự kiện rõ ràng như thế này mà lại không có bất kỳ truyền thuyết nào nhắc đến.
A Quý có ký ức của bao thế hệ để lại, thôn làng hiện tại của bọn họ cũng có niên đại rất lâu rồi. Nói cách khác, hành động "copy" này đã xảy ra từ cách đây rất lâu. Từ một vài dấu vết trong Trương gia lâu mà phán đoán, thì thời gian khai thác mỏ ngọc cũng không quá muộn cho lắm. Nước hồ bị chảy ngược có lẽ là vì hành động khai thác mỏ ngọc này, bằng không hầm mỏ khoogn thể nào tu sửa gì được.
Ba sự kiện này, "copy", nước hồ chảy ngược, khai thác mỏ ngọc, sắp xếp lần lượt theo thời gian phát sinh thì có lẽ sự kiện "copy" xảy ra trước sự kiện khai thác mỏ ngọc, cuối cùng mới là sự kiện nước hồ chảy ngược.
Nói cách khác, trước khi mỏ ngọc bị khai thác, cái hồ kia không hề tồn tại. Ngôi làng không bị ngập, cho dù đã bị bỏ hoang, thì nó vẫn tồn tại ở đó.
Nếu như vậy, thì chắc chắn dân bản xứ phải biết đến sự tồn tại của ngôi làng giống như đúc đó, cho dù sau này nó có bị ngập, thì trải qua thời gian lâu dài như thế, ít nhất cũng phải tồn tại dưới dạng truyền thuyết.
Hơn nữa, loại truyền thuyết này sẽ được lan truyền trong phạm vi rất rộng, ngay cả những ngôi làng ở bên ngoài cách đến mấy chục dặm, cũng không khỏi có sự lưu truyền.
Thế nhưng, A Quý lại nói không hề có bất kỳ một truyền thuyết nào đề cập đến ngôi làng dưới đáy hồ. Ngôi làng cổ bí ẩn này cứ như thể là một ngoại lệ, hoàn toàn bị người đời quên lãng trong dòng chảy của lịch sử.
Chương 53: Âm mưu bóng gương.
Edit: Earl Panda
Nghiêm túc suy nghĩ có phải vị trí mắt kỳ lân nằm ở nipple hay không....
*****
Đương nhiên, sự lãng quên này có thể chỉ là tình cờ, trên thực tế, không biết bao nhiêu truyền thuyết đã bị chôn vùi trong dòng chảy lịch sử, thế nhưng, những sự chôn vùi đó thường nằm ở quy mô lớn, chứ không phải chỉ có mỗi vẻn vẹn một truyền thuyết biến mất. Truyền thuyết biến mất, kéo theo đó là cả khoảng trống hoàn toàn của cả một giai đoạn lịch sử, không có bất kỳ một thông tin gì còn lại nữa.
Tôi nghĩ trong này tất có gì mờ ám, truyền thuyết và truyện kể về ngôi làng cổ không ít, nhưng ở đây lại là một sự đứt đoạn hoàn toàn rõ ràng, thậm chí không có lấy một truyền thuyết nào liên quan đến "ngày xưa từng có một ngôi làng giống nơi này y như đúc, nhưng đã bị nhấn chìm dưới nước", phải chăng có ai đó không muốn lưu truyền câu chuyện này?
Về loại "copy" này, kỳ thực tôi có một trực giác hết sức mãnh liệt, cho rằng đây chính là "âm mưu bóng gương". "Âm mưu bóng gương" là một loại mưu mô thường gặp trong tiểu thuyết trinh thám Nhật Bản. Điểm mấu chốt của âm mưu này chính là che giấu, nói cách khác, ngôi làng của A Quý là giả, để người khác không phát hiện ra ngôi làng thật đã biến mất, bèn cố ý dựng nên ngôi làng giả này.
Trực giác của tôi mãnh liệt đến thế, nguyên nhân là bởi câu chuyện hồ ma của lão Bàn Mã. Lúc đó tôi cũng đã đoán đây là một loại âm mưu bóng gương, đội khảo cổ cũ biến mất, đội khảo cổ mới không rõ lai lịch thay thế nào đó, thần không biết, quỷ không hay, chính là "bóng gương".
Điều này cũng giải thích vì sao lại có truyền thuyết một trận lửa lớn thiêu rụi ngôi làng, ngôi làng ngày xưa chắc chắn không hoàn toàn nằm trên sườn núi, những ngôi làng trên núi thường có rất nhiều ngôi nhà lẻ tẻ nằm rải rác ở những nơi khá xa, ngôi làng này nước không nhấn chìm được, nếu như nhất định phải tiêu diệt nó, thì chỉ có thể sử dụng lửa, dùng lửa để che đậy toàn bộ dấu vết, cuối cùng mới có câu chuyện này.
Đằng sau quỷ kế này chính là một âm mưu khác còn lớn hơn nữa, thậm chí có thể máu tanh cực kỳ, người dân sống trong ngôi làng gốc chắc chắn đã bị thảm sát toàn bộ, kẻ giết người rất có thể đã cải trang thành thôn dân, vào sinh sống trong ngôi làng giả mạo, để thực hiện kế hoạch của mình. Quỷ kế này đã được thực hiện từ cách đây rất lâu, vài năm sau, lại xảy ra vụ việc ở mỏ ngọc, sau đó, ngôi làng bị nhấn chìm.
Quá nhiều sự kiện xảy ra trong một nơi, rõ ràng, trong ngôi làng giữa núi non trùng điệp này đang ẩn giấu thứ gì đó.
Tất cả thực sự vẫn còn quá mơ hồ, cảm giác không quá khả dĩ cho lắm, tôi cố gắng không suy nghĩ theo hướng này nữa, nhưng dù sao thì cũng không thể tìm được chứng cứ gì, hiện giờ chỉ có thể kìm lại bao nhiêu là nghi vấn, đợi kết quả điều tra sâu hơn sau này.
Đại não hoàn toàn không đủ xài nữa, tôi định đi kiếm chút gì uống cho thư giãn, Bàn Tử lại chậc một tiếng, chỉ vào bức vẽ hỏi tôi: "Thiên Chân, cậu xem xem, bức trang cậu vẽ trông giống cái gì kìa?"
Tiến lại gần, thấy anh ta đã cầm bút tô đen vài chỗ, loáng cái sơ đồ mặt bằng của tôi đã trở nên loang loang lổ lổ, đến khi anh ta cầm bức tranh để dưới ánh nắng, tôi mới ngẩn ra.
Được anh ta tô vẽ thêm một chút, sơ đồ mặt bằng ngôi làng của tôi đã biến thành hình dáng một con vật gì đó, có mắt và móng vuốt. Nhìn kỹ hơn chút nữa, tôi lập tức nhận ra, đó chính là một con kỳ lân.
"Càng ngày càng thú vị." Bàn Tử lẩm bẩm.
Lông tơ toàn thân tôi dựng đứng cả lên, điều tôi nhìn thấy rõ ràng nhất, đó là hình dáng con kỳ lân nọ trông rất giống hình xăm trên người Muộn Du Bình. Cái đệt! Lẽ nào đến đúng nơi thật rồi! Tôi nghĩ thầm, mấy khái niệm trong đầu cứ không ngừng hiện lên, kỳ lân, hình xăm, sơ đồ mặt bằng, đột nhiên một suy nghĩ hiện lên trong đầu tôi.
Tôi cầm bức vẽ đi đến chỗ Muộn Du Bình, hắn vẫn đang ngẩn người.
Tôi nói với hắn: "Mau mau! Cởi quần áo ra!"
Hắn sửng sốt, vẻ mặt khó hiểu, tôi đưa bức vẽ cho hắn xem, không ngừng giải thích như vậy như vậy, hắn vẫn chẳng hiểu mô tê gì, nhưng vẫn nghe lời tôi cởi quần áo ra.
Tôi nhìn động tác của hắn mà ngứa ngáy vô cùng, thật muốn đạp một cú lật ngửa hắn ra, dí mặt vào nhìn cho kỹ. Chờ hắn cởi đồ xong tôi mới nhớ ra, lúc bình thường hình xăm trên người hắn không hiện ra.
Tôi hỏi Muộn Du Bình thế là thế nào, hắn nói, hình xăm này vốn là dùng nhựa của một loài thực vật có gai mà vẽ nên, bình thường màu sắc trong suốt, chỉ khi nào nhiệt độ cơ thể vượt quá một mức nhất định mới biến thành màu đen. Thời cổ người Mèo gặp nhiều bệnh do trời nóng ẩm, loại hình xăm này có thể dùng để kiểm tra nhiệt độ của trẻ con.
Đương nhiên, nhiệt độ cơ thể vượt quá một mức nhất định, có cũng thể là do vận động mạnh nữa, cho nên khi Muộn Du Bình đánh lộn kịch liệt hoặc là khi hắn kích động, hình xăm cũng vẫn hiện lên. Cũng bởi vì độ đậm nhạt khác nhau, mức độ nhạy cảm với nhiệt độ cũng khác nhau, cho nên chỉ khi đánh lộn ác liệt, hình xăm mới hoàn toàn hiện lên đầy đủ.
Bàn Tử lấy túi chườm nóng, chúng tôi ép Muộn Du Bình chườm nóng ngực hắn, quả nhiên, hình xăm màu đen dần dần hiện lên.
Bàn Tử nói: "Cái đệt! Chiêu này tốt thật! Sao trước kia tôi không biết cái này." Tôi bắt đầu quan sát kỹ lưỡng hình xăm của hắn cùng bức vẽ của tôi.
"Cậu xem vị trí của tòa cổ lâu đi." Bàn Tử nói, chỉ vào con đường nhỏ bên cạnh tòa tháp, "Nếu như làng này giống với Ba Nãi, thì vị trí của tòa cổ lâu dưới đáy hồ vừa đúng là vị trí ngôi nhà sàn của Tiểu Ca, nếu so với hình xăm trên người Tiểu Ca, thì vừa đúng vị trí mắt kỳ lân."
"Í?" Tôi hơi giật mình, vừa xem kỹ thì quả đúng như thế, Bàn Tử quả nhiên kỹ tính.
Điều này có ý nghĩa sâu xa gì đây?
Bàn Tử lại nói: "Như vậy có thể xác định được một điểm, đó là Tiểu Ca có liên quan sâu xa gì đó với chuyện này."
Tôi hứ một tiếng, đúng là nói thừa.
Bàn Tử bảo không phải thế, việc này đối với bọn tôi có ý nghĩa xác định phương hướng cực kỳ quan trọng. Lúc trước mới chỉ suy đoán, rằng có lẽ ở đây sẽ có ít manh mối gì đó, bây giờ thì có thể khẳng định được rồi. Suy đoán và khẳng định là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, từ nay về sau phương hướng làm việc của chúng tôi cũng sẽ có sự thay đổi.
Tôi gật đầu, nói vậy cũng đúng, hơn nữa, sự việc trong thôn làng này vừa mới bắt đầu, vẫn có việc để làm.
Bàn Tử với bọn tôi tiếp tục thảo luận phương hướng tiếp theo, "Cuối cùng coi như cũng tra ra được đầu đuôi sự việc rồi, cũng không cần quá gấp, dù sao thì ngôi làng này cũng không thể đột ngột biến mất được nữa, chúng ta nhất định phải tiếp tục chờ đợi, điều tra một cách có hệ thống hơn. Ngoài ra, cũng phải từng bước hỏi thăm khắp xung quanh ngôi làng này, để xem có thể tra ra được cái gì không. Thu xếp một chút, trước hết phải quay về đem theo ít đồ đạc, kế tiếp có lẽ phải ở đây lâu dài rồi." Nói đoán nhếch miệng cười với Vân Thải: "Em gái à chúng ta còn ở cùng nhau dài dài rồi!"
Vân Thải cũng cười cười, ánh mắt lại không kìm được đảo qua nhìn Muộn Du Bình.
Chương 54: Vị khách không mời mà đến.
Edit: Earl Panda
Ha ha....
*****
Những chuyện sau đó kỳ thực không cần phải ghi chép lại, nhưng nó có chút liên quan đến những việc xảy ra sau này, cho nên cũng đáng để nhắc tới.
Năm ngày sau, chú Hai rời đi, tôi không biết các chú đã tìm được gì ở nơi này, chung quy chú vẫn chẳng nói gì cho tôi biết cả, nhưng chú hẹn khi nào về lại Hàng Châu sẽ nói chuyện nghiêm túc với tôi một phen.
Bàn Tử và Muộn Du Bình không bị quá nhiều vết thương nghiêm trọng, cho nên sau khi cứu chữa xong, chỉ một hai tuần sau là có thể xuất viện. Chúng tôi không về Hàng Châu ngay, mà quay lại Ba Nãi lần nữa. Bàn Tử đã kết luận Muộn Du Bình có mối liên quan gì đó với nơi này, bởi thế, có lẽ chúng tôi còn ở lại đây lâu dài để thu thập thêm nhiều manh mối hơn nữa.
Bốn ngày sau, chúng tôi quay về chỗ hồ nước nọ, tế bái mấy bộ hài cốt giữa hồ, đắp cả một nấm đất vàng.
Lão Bàn Mã không còn xuất hiện nữa, điều này làm tôi vô cùng áy náy, nhưng nghĩ đến tội nghiệt của lão ta, có cảm giác đây cũng là số mệnh. Có các trang thiết bị trục vớt chuyên nghiệp của tôi, chúng tôi bắt đầu trục vớt kỹ lưỡng hơn, hy vọng có thể tìm thêm được nhiều manh mối hơn nữa. Chúng tôi lần lượt vớt được vô số thứ linh tinh, nhưng không có phát hiện gì đặc biệt quan trọng.
Sau đó, chúng tôi chuẩn bị tiến vào ngôi làng cổ nọ, kiểm tra tòa lầu của nhà họ Trương kia kỹ lưỡng hơn. Nhưng có một điều cực kỳ quan trọng, đó là các bình dưỡng khí đều đã tiêu hao hết, phải đi đổi bình mới.
Trùng hợp làm sao, đến ngày cuối cùng khi công việc lặn xuống nước đã xong xuôi, trong lúc chúng tôi lên bờ để chuẩn bị đi về, bên hồ lại xảy ra một biến cố.
Lúc đó chúng tôi còn đang ở giữa hồ, Bàn Tử vừa nổi lên liền lớn tiếng gọi bọn tôi, lau mặt một cái, rồi chỉ lên bờ. Tôi nhìn về phía bờ, thấy ở đó không chỉ có nhóm Vân Thải, mà còn xuất hiện thêm bao nhiêu là người nữa, lại còn đang dựng lều trại.
"Cái đệt! Thế này là thế nào?" Bàn Tử lấy làm lạ hỏi, "Chỗ này biến thành điểm du lịch rồi à? Sao toàn người với người thế này?"
Tôi thở hổn hển mấy hơi, cẩn thận quan sát kỹ lưỡng, phát hiện trong đám người đó có rất nhiều thôn dân trong làng, thấy cả Vân Thải đang trò chuyện với bọn họ, trong số đó còn có mấy người ăn mặc rất thời thượng, không rõ lai lịch. Còn có thêm nhiều người nữa đang đi xuống đây dọc theo con đường mòn, dắt theo rất nhiều la, cõng theo đủ các loại gói, bọc.
Tôi không nhận ra bất cứ ai trong nhóm người này, có lẽ không phải người của chú Hai quay lại.
Từ tốn bơi trở về bờ, tôi phát giác chuyện này có điểm quái lạ, vì những người đó mang theo quá nhiều la, bao nhiêu là đồ đạc túi lớn túi bé chất cả đống. Có mấy căn lều lớn đã được dựng nên, trên bãi đá ai nấy đều bận bịu, có vài người hơi ngạc nhiên liếc nhìn qua đây, nhưng nhìn chung chẳng ai để ý đến mấy thằng mặc quần đùi ngoi lên từ dưới nước bọn tôi.
Chúng tôi chẳng biết phải phản ứng thế nào nữa, bèn đi đến bên cạnh Vân Thải và A Quý. Tôi bỗng nhìn thấy một người, đó chính là cái gã thân hình ngắn tũn nói giọng Bắc Kinh đặc sệt mà chúng tôi gặp phải trong nhà lão Bàn Mã đây mà. Gã đang sẵng giọng chỉ đạo mấy anh thôn dân bốc vác làm cái này cái kia, vẻ mặt ngông nghênh đắc ý lắm.
Hạng người này tôi gặp nhiều rồi, nhớ lúc đó có nghe được, gã ta hình như theo chân một ông chủ lớn ở Bắc Kinh đến đây, như vậy, có lẽ đám người này cũng đều do ông chủ Bắc Kinh này mang tới. Lẽ nào bọn họ cũng hỏi thăm chuyện của lão Bàn Mã, cũng định tới đây tìm đồ? Như thế cũng quá đông người rồi!
Gã nhìn thấy bọn tôi, coi như là đã từng gặp mặt một lần, bèn lân la tới chào hỏi. Tôi cũng lười suy nghĩ nhiều, khách sáo đôi ba câu, rồi đi vòng qua gã, đến chỗ Vân Thải hỏi chuyện.
Cô bé nhỏ giọng bảo, nghe mấy người làng nói, có một ông chủ cực lớn mướn bọn họ vận chuyển đồ đạc đến nơi này, cụ thể như nào thì cũng không rõ lắm.
Tình huống này tương đối xấu hổ, tôi không hy vọng lại xảy ra chuyện như thế này, nhưng hồ này là của tập thể mà, tôi đâu thể không cho người khác đến đây được. Mục đích của nhóm người này có lẽ là mấy cục sắt kia, tôi không biết bọn họ có biết sự thật đằng sau mấy khối sắt đó hay không, hay chỉ đơn thuần là muốn cứu chuộc mà thôi, đâm ra tôi không nghĩ ra được đối sách nào cả.
Người của bọn họ cứ ùn ùn kéo tới không ngừng, sáu báy căn lều được dựng lên, giọng ai cũng đặc sệt chất Bắc Kinh, làm tôi trong thoáng chốc cứ ngỡ mình đang ở bên bờ hồ Hậu Hải.
Bọn tôi ngồi xuống, vừa nghỉ ngơi vừa cảnh giác xem bọn họ làm việc. Thực ra thì cũng bực mình thật, giống như mình đang chơi bóng trong sân banh, đang chơi hăng say, bỗng tự dưng có một đống người ùa vào, ai nấy đều cao to lực lưỡng, nhân số còn đông hơn gấp mấy lần, lúc này mình buộc phải ngoan ngoãn ra khỏi sân mà nghỉ ngơi thôi.
Tôi vừa rủa thầm vừa chăm chú quan sát bọn họ đang vận chuyển cái gì đó, bèn theo dõi xem có phát hiện ra điều gì hay không. Không nhìn thì thôi, đã nhìn rồi, trong lòng tôi liền trĩu nặng hẳn xuống. Trong đống bao lớn bao nhỏ này lại có vài cái mặt nạ thở dưới nước, xem ra số vật tư này có lẽ là thiết bị lặn.
"Người ta đến là đã có chuẩn bị." Bàn Tử hừ một tiếng, "Chúng nó biết rõ dưới nước có cái gì."
Tôi suy nghĩ một chút, rồi nói với Bàn Tử: "Có phải có ông lớn nào trên Bắc Kinh tới đây đào hàng không? Mấy người đó anh có quen không?"
Bàn Tử nói: "Ở Bắc Kinh phần đông là thương buôn với mối lái, trong Phan Gia Viên có mấy ai là đích thân xuống đất đâu, tôi nghĩ khả năng này không lớn. Đám người này không phải dân lăn lộn xứ "tứ cửu thành"(*) đâu, tôi thấy có khi không phải người quen của tụi mình. Mấy năm nay, đâu đâu cũng có thế lực mới nổi."
(*) "tứ cửu thành" tức bốn cổng hoàng thành và chín cổng nội thành, chỉ thành Bắc Kinh.
"Anh ở Bắc Kinh quen biết rộng, nhìn xem, có nhận ra được một, hai người nào không?" Tôi hỏi lại.
Bàn Tử lắc đầu, "Tôi nhìn thế nào cũng không có lấy một nhân vật nào nổi cả, cậu để tôi nhìn kỹ xem, có điều, khẩu âm Bắc Kinh của mấy tay này cứ là lạ. Chờ chút, để ông Béo nhà cậu đi nghe ngóng xem sao, để xem có hỏi ra được ông chủ của bọn chúng là ai không."
Bàn Tử bèn đi về phía doanh địa tấp nập người tới kẻ lui, dùng phương ngôn Bắc Kinh chào hỏi với một người trong số đó, nhưng người đó chẳng thèm phản ứng lại với anh ta. Nhưng Bàn Tử là nhân vật nào chứ? Anh ta lập tức đi theo, loáng cái bọn họ đã đi ra tít xa.
Tôi nghĩ xem mình có thể làm những gì, vào trong doanh địa đó đi lượn một vòng, xem xem có cái gì, hay là thẳng thắn đi tìm ông chủ của họ luôn?
Cuối cùng, tôi lại chẳng làm cái gì cả, bởi cơn đau nhức ê ẩm sau khi lặn dưới nước làm tôi không tài nào đứng dậy nổi, hai mắt và hai tai cũng rất khó chịu, đặc biệt là tai, vừa ngứa vừa đau, nghe tiếng động gì cũng thấy quái quái, xem ra lặn dưới nước sâu gây tổn hại cho cơ thể rất lớn.
Trong lúc đang suy tư xem nên làm gì bây giờ, bỗng nhiên, Muộn Du Bình ngồi phía sau nhéo bả vai tôi một cái.
Lại nhéo đúng chỗ thế chứ lỵ, tôi thoải mái đến mức rụt cả cổ lại, nghĩ bụng cái tên này tự dưng có lương tâm, đi xoa bóp mát xa cho tôi cơ đấy. Rồi lại nghe hắn khẽ giọng bảo: "Xem kìa."
Tôi lại quay lại chú ý đến doanh địa kia một lần nữa, cứ nghĩ nơi đó chẳng có gì khác thường, lại phát hiện ở khu rừng bên cạnh lại có thêm một nhóm người nữa đến, có một người đã dỡ đồ trên lưng la xuống. Gã lùn tịt xun xoe chạy đến đón.
Quan sát kỹ, tôi thấy người nọ khá lớn tuổi, xuống khỏi lưng la bước đi cứ lảo đà lảo đảo, đứng cũng không thẳng được lưng lên nữa. Xung quanh người này có thêm mấy tùy tùng, kẻ trước người sau lũ lượt tiến về phía chỗ chúng tôi.
Tôi định đứng lên, thì Muộn Du Bình lại kéo tôi lại. Tôi quay đầu, thấy hắn cúi xuống nấp sau lưng tôi, nhìn chằm chằm người kia, nói với tôi: "Đừng để bọn họ nhìn thấy tôi."
"Sao thế?" Tôi giật mình, ngồi thẳng lên che Muộn Du Bình lại, nhìn đám người kia ngày càng tới gần. Cái người có vẻ như là đại nhân vật được dìu đi kia, hóa ra lại là một ông lão cao lớn nhưng gầy còm, có thể thấy, hồi trẻ nhất định là rất khôi ngô. Ông cụ này được một đám người vây xung quanh, nên tôi không nhìn rõ mặt mũi, chỉ cảm thấy ông cụ này rất già, bước đi hoàn toàn chẳng có tí sức nào, đã gần đất xa trời lắm rồi.
Đám người bên cạnh ông cụ có nam, có nữ, rất hỗn tạp, gã lùn tịt nọ hình như đang giới thiệu nọ kia. Mấy người đó vừa đi vừa nói chuyện, cũng không đến trước mặt bọn tôi, mà quẹo vào trong một căn lều.
Chờ bọn họ vào trong lều rồi, Muộn Du Bình mới buông bàn tay đang ghì chặt vai tôi xuống. Vai tôi bị hắn bóp chặt quá, khí huyết không thông, tôi phải xoa xoa mấy cái, rồi mới hỏi hắn: "Sao thế? Anh quen người này?"
Hắn gật đầu, sắc mặt tái mét: "Cầu Đức Khảo."
"Cầu Đức Khảo?" Tôi sửng sốt, "Ông già này chính là Cầu Đức Khảo?" Tôi suýt thì nhảy dựng lên. Mẹ kiếp! Mấy người này cũng là đội ngũ thuộc công ty của A Ninh, không ngờ ông già này lại tự mình ra trận.
Nhất thời tôi cũng không biết phải phản ứng thế nào nữa. Cầu Đức Khảo trong lòng tôi đã có một hình tượng nhất định, vừa rõ ràng cũng vừa mơ hồ, đó là một nhà truyền giáo có gương mặt nhã nhặn như Sven Hedin, nhưng cũng hơi giống tên bịp bợm Marco Polo. Mà hồi nhỏ, trong những câu chuyện mà ông nội kể cho tôi nghe, Cầu Đức Khảo là một tên xấu xa bại hoại, tôi thậm chí còn từng tưởng tượng lão ta là một con yêu quái đầu to mặt sói. Thật không ngờ, người thật lại là một ông già khô đét như thế.
Sự tưởng tượng này làm tôi thấy vô cùng quái lạ, cảm giác rất không thật. Những câu chuyện của ông nội đối với tôi hồi bé không khác gì truyện cổ tích, mà bây giờ, nhân vật trong truyện cổ tích đó đột nhiên nhảy ra khỏi cuốn sổ của ông nội, trong khoảnh khắc, tôi cứ có cảm giác rối loạn.
Lão ta đến làm gì? Xem tình hình này, có lẽ là đã biết chuyện dưới đáy hồ rồi. Sau vụ ở đầm rắn, cả lão ta lẫn chúng tôi đều không bỏ cuộc, tiếp tục điều tra vụ việc, rồi cũng tra đến tận nơi này?
Nhưng mà, phương hướng điều tra của chúng tôi hoàn toàn là tùy hứng mà làm, nền tảng cơ sở của bọn chúng khác chúng tôi, sao có thể đụng mặt nhau được? Lẽ nào bọn chúng vẫn luôn theo dõi tôi?
Ngẫm lại thấy cũng không đúng, nếu là theo dõi, bọn chúng không thể nào chuẩn bị đồ đạc trang bị còn chu toàn hơn cả bọn tôi được. Chúng tôi hoàn toàn không biết ở nơi đây phải cần đến đồ lặn, mà bọn chúng lại mang đến, chứng tỏ bọn chúng biết nhiều thứ hơn tôi nhiều, mà ít nhất cũng phải biết được từ rất sớm. Tôi có chút hưng phấn, cũng có hơi sợ hãi. Lão già này lại tự mình xuất hiện ở đây, chứng tỏ không phải chuyện đùa nữa rồi. Tuổi lão ta đã không còn thích hợp để bôn ba đường trường, lần này xuất hiện, nhất định phải là một phen được ăn cả ngã về không.
Rốt cuộc phía dưới đó có thứ gì?
Ngẫm nghĩ kỹ lại, cục diện bây giờ thật là phiền phức, quan hệ giữa bọn tôi và bọn chúng lại quá phức tạp. Ông nội tôi với Cầu Đức Khảo xem như là kẻ thù truyền kiếp, mặc dù bây giờ tôi chẳng có suy nghĩ báo thù gì, nhưng mối quan hệ này khiến tôi không thể nào có hảo cảm gì với bọn chúng được. Mà ân oán giữa chú Ba với Cầu Đức Khảo, lại khiến loạn càng thêm loạn.
Hai bên dù không có địch ý, nhưng có sự cạnh tranh rất gay gắt, ở thế địch mạnh ta yếu, phải suy nghĩ thật kỹ xem làm thế nào để xử lý mối quan hệ này đây.
Thôi cứ đi bước nào hay bước ấy.
Tôi kìm lại nhịp tim mình xuống, lại nghĩ đến một việc. Không phải Muộn Du Bình bị mất trí nhớ sao? Sao hắn lại nhận ra Cầu Đức Khảo? Hơn nữa, hắn trốn tránh cái gì?
Quay đầu lại, tôi liền hỏi hắn. Hắn về nhìn đăm đăm về phía căn lều nọ, đáp: "Lúc còn ở trong bệnh viện, tôi từng gặp ông ta một lần."
"Bệnh viện? Ở Bắc Kinh hay ở Cách Nhĩ Mộc?" Chúng tôi được người của Cầu Đức Khảo đón ra khỏi Sài Đạt Mộc, có điều tôi không nhớ là đã từng đụng phải lão ta, lúc đó lão ta còn chịu đả kích nhiều hơn cả bọn tôi nữa.
"Bắc Kinh." Hắn trả lời. "Vừa tháng trước nữa."
Đó là lúc hắn ở Bắc Kinh chữa bệnh. Mẹ nó! Cầu Đức Khảo từng gặp Muộn Du Bình rồi à? Sao Bàn Tử không nói tôi biết?
Lại nghĩ đến đó, cái tên Bàn Tử này, nói nghĩa khí thì đúng là đầy nghĩa khí, nhưng bảo anh ta đi chăm sóc người khác thì đúng là không xong. Lúc tôi về Hàng Châu, bảo anh ta trông coi Muộn Du Bình, chắc lại trông một nửa thả một nửa đây mà. Với cả, cái loại người như Muộn Du Bình, một mình hắn mà ở chung với bất cứ ai cũng hết sức khó khăn. Không có tôi ở giữa làm trò mua vui, với tính cách của Bàn Tử, ở chung với hắn ta thì chỉ có nước mắt to trừng mắt nhỏ mà thôi. Lúc Muộn Du Bình gặp Cầu Đức Khảo, chẳng biết anh ta trốn tiệt ở xó nào rồi, cho nên mới không biết tí gì.
Nghĩ đến điều này mà tôi chỉ muốn chửi một trận cho bõ tức, Muộn Du Bình là con bài tẩy trong tay cả đám bọn tôi, thế mà hắn từng gặp Cầu Đức Khảo rồi mà bọn tôi lại chẳng biết tí gì? Nói cách khác, nếu Cầu Đức Khảo ra tay cứng lên một chút, Muộn Du Bình bị lão ta bắt đi cũng có khả năng lắm, lỡ mà thế thật thì bọn tôi đây thắt cổ quách cho rồi. Bàn Tử quá lơ là rồi! Cả Muộn Du Bình nữa, rõ thật là, cái gì cũng chẳng nói ra.
"Lão ta tìm anh làm gì?" Tôi hỏi Muộn Du Bình, "Sao không nói tôi một tiếng, hả anh Hai của tôi ơi?"
Hắn không đáp, rụt lại nấp sau người tôi.
Quay ra, thấy Cầu Đức Khảo được đỡ ra khỏi lều, lão ta nhìn khắp bốn phía, rồi đội mũ lên, đi về phía bóng cây gần đó.
"Anh trốn cái gì?" Tôi lại hỏi, "Bị lão ta nhìn thấy thì sao? Có khi lão biết tỏng anh ở đây từ lâu lắc rồi ấy chứ."
Muộn Du Bình lắc đầu, nói với tôi: "Chúng ta không thể để bọn chúng giành trước, phải kéo dài thời gian của chúng."
"Anh định làm gì?" Tôi hỏi.
Hắn chỉ vào đống trang bị lặn ở một bên, "Chúng ta cướp mặt nạ thở của chúng."
Chương 55: Giở trò.
Edit: Earl Panda
....
*****
Tôi hiểu ý của Muộn Du Bình ngay lập tức, trong đầu có ánh sáng lóe lên, nghĩ sơ sơ một chút mà không khỏi thầm khen hay.
Chúng tôi bây giờ không có mặt nạ thở, nếu bọn Cầu Đức Khảo có bất kỳ hành động nào, cũng chỉ biết ngồi khô trên bờ mà xem. Mà nếu quay về lấy mặt nạ thở rồi trở lại, thì không chừng trong lúc đó người ta đã giải quyết xong xuôi hết mọi sự rồi ấy chứ. Nhỡ dưới nước này có cái gì then chốt, thì chúng tôi coi như chẳng có chút cơ hội nào nắm được tiên cơ.
Quả đúng như lời Muộn Du Bình nói, có lẽ đây chính là cơ hội duy nhất.
Nhân lúc bọn chúng còn không để ý bèn chạy đi cướp mặt nạ thở của chúng, sau đó phá hỏng trang bị lặn, không còn bình dưỡng khí, dù bọn chúng có máy nén không khí thì cũng bó tay. Đây là mánh khóe tiên hạ thủ vi cường điển hình, hành động ngay trong lúc không ai ngờ nhất.
Có điều, trong điều kiện hiện nay, liệu có cướp được không nhỉ? Tôi tự hỏi. Mặt nạ thở được đặt ở chỗ bãi sông cách hồ nước một đoạn khá xa, qua đó lấy, cho dù Muộn Du Bình có một địch mười thì cũng bị vướng bọn tôi, tôi với Bàn Tử thế nào cũng bị túm lại đánh chết tươi trước khi kịp nhảy tùm xuống hồ.
Suy nghĩ một chút, tôi nói: "Anh nói có lý lắm, nhưng việc này không gấp được, người ta quân số đông như thế, mình không đọ lại được. Chờ đến tối khuya, len lén chạy ra trộm là được mà."
Muộn Du Bình lắc đầu: "Chúng ta không có buổi tối nữa rồi, một khi sắp xếp hạ trại xong xuôi, bọn chúng sẽ xuống nước ngay, cậu xem kìa."
Hắn chỉ về một hướng, ở đó đã có người người ngồi bên hồ bơm đầy các túi khí, còn có người lội vào trong hồ, rõ ràng đó là thợ lặn, lặn xuống trước để quan sát tình hình.
"Vì sao bọn chúng phải vội thế?" Tôi rất lấy làm lạ.
Muộn Du Bình ngập ngừng một lúc, rồi đột nhiên nói: "Có lẽ, không còn thời gian nữa rồi."
Tôi sửng sốt, những lời này bật lên từ miệng hắn nghe có vẻ đầy thâm ý, nhưng hiện nay tôi không hơi đâu mà suy ngẫm nó nữa.
Bàn Tử chạy lạch bạch về, anh ta vừa nghe kế hoạch của bọn tôi, kêu a một tiếng, lắc đầu bảo: "Mẹ kiếp! Vừa mới làm thân được với bọn chúng một tí đã phải đi cướp của chúng rồi, làm thế thanh danh ông Béo ta đây thối hoắc lên mất!"
Tôi nói: "Nhỡ dưới nước này có minh khí, bọn chúng lặn xuống mò lấy hết luôn thì sao. Anh muốn minh khí, hay muốn danh tiếng?"
Bàn Tử suy nghĩ một lát rồi nói: "Thật kỳ lạ, tôi cảm thấy lời của Thiên Chân đặc biệt rất thuyết phục. Vậy trước hết chúng ta cứ kệ danh tiếng cái đã, cậu bảo giờ làm sao?"
Tôi lại ngẫm nghĩ một lát, dùng vũ lực xông tới mà cướp thì không được rồi, tôi liền bảo Bàn Tử đi chuẩn bị bè gỗ nhỏ, chất đầy đá lên đó. Chúng tôi không thể vác mấy cục chì nặng trịch lên lưng rồi lao vào trong hồ được, nên chỉ có thể dùng đá tảng để tăng sức mặng. Sau đó, nhất định phải tìm cách nào đấy đánh lạc hướng bọn người kia, rồi nhanh chóng chôm lấy mặt nạ thở.
Khoảng cách từ nơi đặt mặt nạ thở đến mép nước, nếu chạy với tốc độ nhanh nhất, có lẽ cũng chỉ tốn khoảng ba mươi giây thôi. Nhưng trên con đường này lại có quá nhiều người đi lại, chỉ cần hơi có động tĩnh một chút là bị người ta đuổi theo ngay. Trộm đó ngay trước mắt nhiều người đến vậy, đòi hỏi kỹ xảo khéo léo và tố chất tâm lý tốt.
Về việc này, tôi không phải dân trong nghề, nghĩ thế nào cũng thấy không ổn. Hơn nữa, lại nghe Muộn Du Bình nói thế kia, cảm giác rất vội vã, như thể mình sắp tuột mất mọi cơ hội rồi ấy.
Lúc này, Bàn Tử lại có cách. Anh ta liếc nhìn mấy người kia một lượt, rồi lại nhìn vị trí đặt mặt nạ thở, đột nhiên nói: "Mấy cậu biết cưỡi ngựa không?"
"Làm sao?" Tôi hỏi.
Anh ta chỉ vào mấy con la đứng một bên, nháy mắt ra hiệu: "Xem cảnh dân nài ngựa Mông Cổ cướp dê chưa?"
Tôi chẳng hiểu ý anh ta gì cả, cau mày nói: "Nhưng la khác ngựa mà, con la sao chạy nổi bằng ngựa?"
"Mẹ! Tụi mình không đua ngựa, mà chỉ cần nó chạy cho vài chục mét thôi. Lũ này to bự như vậy, chúng nó mà chạy lồng lên, ai dám cản? Vấn đề chỉ có một, trong lúc chạy tuyệt đối đừng có lăn ra ngã."
Có hy vọng! Tôi gật đầu túi bụi. Bàn Tử lập tức đi chuẩn bị ngay. Chúng tôi đẩy bè gỗ vào hồ trước, sau đó quay lại, cắn răng bỏ tiền ra cho người trông la, nói muốn mượn la đi vận chuyển ít đồ đạc.
Người nọ đã từng gặp bọn tôi trong làng rồi, có tiền đương nhiên cứ kiếm.
Bàn Tử hỏi: "Lúc nào la chạy trốn nhanh nhất?"
Người kia bảo: "Lúc động dục, kéo cũng không kéo lại nổi."
Bàn Tử nói: "Cái này hơi khó, còn kỵ cái gì nữa không? Con la sợ nhất là gì?"
Chuẩn bị xong xuôi, chúng tôi kéo la, thong thả đi vào trong doanh địa bận bịu tấp nập. Đến gần nơi đặt mặt nạ thở, liếc nhìn nhau, tôi đã căng thẳng đến mức toát mồ hôi đầy người.
Ba người dắt một con la, cảm giác rất ngốc, như mấy nông dân Mexico ấy. Có điều, trông cũng không nổi bật lắm, vì xung quanh cũng có nhiều người đang dỡ đồ trên lưng la xuống.
Mặt nạ thở nằm trong một túi vải bạt lớn, cả mấy cái túi được buộc vào nhau, Bàn Tử xua xua la đi, rồi liếc mắt nhìn tôi, ý nhắc tôi đi tháo dây.
Tôi thấy xung quanh không ai để ý đến tôi, vừa định ra tay, bỗng nhiên nghe phía sau có người gọi một tiếng: "Này! Mấy người đang làm gì thế?"
Tôi quay ngoắt lại theo phản xạ, thấy một cô gái đang đi về phía mình, có mấy người hóng mát dưới bóng cây cũng đều đứng lên hết cả. Tôi liền luống cuống, nghĩ bụng phải làm sao bây giờ? Bị phát hiện rồi!
Ngay trong khoảnh khắc đó, Bàn Tử xồ đến, chộp lấy túi đựng mặt nạ thở kêu to: "Mau lên la!"
Tôi cũng lập tức chộp túi mặt nạ thở lên. Ba người treo lên lưng la, Bàn Tử ra sức quất mông la, gào lên: "La phát điên rồi!"
Đừng xem la bình thường đi chậm rì rì, nó đột ngột phi vút một cái, tôi suýt nữa ngã ngửa, cộng thêm hai túi vạt bạt của tôi với Bàn Tử bị buộc liền với nhau, hai đứa bọn tôi co kéo một hồi, cứ như làm xiếc, vô cùng nguy hiểm.
Tất cả mọi người đều quay hết sang phía này, cô gái phía sau mau chóng phản ứng lại, kêu toáng lên: "Cản bọn chúng lại!"
Bàn Tử phỏng đoán không sai một tí nào, con la này chạy vun vút khí thế đến kinh người, cứ lao đầu về phía trước, khiến hai người đang dựng lều che nắng phía trước giật mình bỏ chạy tán loạn, thậm chí còn vấp ngã xuống đất.
Bàn Tử vẫn gào lên: "Tránh ra! Coi chừng!"
Ba người lao về phía bên hồ, đằng sau nhốn nháo đều chìm trong tiếng thét chói tai của cô gái lúc này, nhưng trong tình huống này ai dám chạy lên? Bị la đạp một cước cũng phải thương tổn đến cả gân cốt, thế là nhất thời, cả quãng bên hồ nhốn nháo nhộn nhạo, gà bay chó sủa.
Tôi còn chưa kịp phản ứng, con la đã chạy tới mép hồ. Nó lại sợ nước, quẹo một cái, cả đám bọn tôi ngã túi bụi xuống đất.
Trán tôi đập phải một tảng đá, rồi được Bàn Tử đỡ dậy, con la vẫn tiếp tục lao đầu chạy. Quay lại, thấy cô nàng nọ đã dẫn theo vài người đuổi tới nơi, chúng tôi lập tức vội vàng chạy vào hồ nước.
Một khi đã tới bên hồ, chúng tôi liền chiếm được ưu thế. Hồ này mực nước giảm xuống rất nhanh, vừa nhảy xuống hồ, đạp nước vài lần đã đến độ sâu chân không với tới. Chúng tôi kéo hai túi mặt nạ thở vào chỗ nước sâu. Bơi ra được khoảng mười mét, quay lại nhìn xem, thấy mấy người kia cũng xuống nước.
Bơi đến bên bè gỗ nhỏ, ôm lấy tảng đá, Bàn Tử kêu: "Chìm!" Ba người bọn tôi cùng ngụp xuống nước, nhanh chóng chìm xuống.
Ở dưới nước, chỉ thấy mấy người kia đã bơi đến nơi rồi, suýt chút nữa thì bị bọn chúng túm lại. Có mấy người lặn xuống mò một vòng, nhưng chẳng mấy mà lại nổi lên hết.
Chúng tôi ung dung mặc cả bộ đồ lặn, mặt nạ thở, đeo kính lặn. Đúng là dụng cụ chuyên nghiệp, loáng cái xung quanh đã trở nên rõ ràng hẳn lên. Tôi thở hắt ra để đẩy nước ra khỏi kính lặn một nửa, đeo bình dưỡng khí, đeo chân vịt, hai người kia cũng trang bị đầy đủ cả rồi.
Trang bị của Cầu Đức Khảo đúng là hàng cao cấp, trên đai lưng còn có dây đeo công cụ nữa, trong đó còn có đèn pin siêu sáng Led Lenser, dao găm và một lon dưỡng khí đơn, một lon này có đủ lượng khí duy trì được khoảng ba phút đồng hồ. Để vận chuyển mấy thứ này lên núi cần thủ tục rất lằng nhằng phiền phức, xem ra người này bối cảnh không hề nhỏ.
Kiểm tra mọi thứ xong xuôi, tôi đã chìm xuống đáy hồ, có đủ đồ lặn có thể lặn xuống đến hai ba trăm mét, chút chiều sâu ấy tôi không thèm để vào mắt. Quan trọng là, đối thủ không còn mặt nạ thở nữa rồi, không cần lo có người lặn xuống đuổi theo mình.
Bàn Tử ra hiệu, chỉ về phía trước. Vị trí hiện tại cách vị trí lặn xuống lần trước một đoạn, mực nước vẫn tương đối nông, phía trước là cả một khoảng mênh mông sâu thăm thẳm, ngôi làng cổ chính là nằm ở chỗ này. Chúng tôi phải rời khỏi vị trí này, hồ nước này nói lớn không lớn, nói nhỏ không nhỏ, chỉ cần bơi chếch sang chỗ khác, đến lúc lên bờ, đám người kia cũng chỉ biết trơ mắt nhìn mà thôi. Bật đèn pin, tôi bắt đầu đi theo Bàn Tử, cuối cùng bơi đến phía làng cổ, thả các khối chì và bình dưỡng khí xuống, nhìn chúng dần chìm xuống giữa ngôi làng, rồi lặn thẳng đến phía đầu hồ bên kia.
Lúc len lút trèo lên bờ, thấy bên kia hồ nhốn nháo lộn xộn.
Lúc sau có A Quý và Vân Thải đến tiếp ứng cho bọn tôi, chúng tôi cười thầm trong bụng, len lén chuồn về.
<HẾT QUYỂN 6>
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top