DAO HOANG PART 1

DAO HOANG-TO HOAI

Bi... ly... bi... ly... Tiếng chiêng âm vào núi, dội lại; tiếng trống từ mặt nước vang lên. ông trăng ngoài rằm thảnh thơi tỏa ánh sáng nhạt xuống, như mỗi chiều ai chợt nhớ, lại thấy ông trăng trở lại chơi nhởn trong lùm cây và trên con đường cát mịn ngoài ngõ. Mon reo:

- Ô, tiếng chiêng tập vật nổi rồi đấy. Gái nghé nghiêng:

- Chiêng thổi cơm thì cũng thế. Hai anh em nhìn ra, buột miệng:

- Trăng lên rồi. Giữa lúc ấy, mẹ bước đến. Gái nói:

- Mẹ đi thổi cơm thi à? Nàng Hoa cười. Gái thưa với mẹ:

- Cho con đi với.

Rồi hai mẹ con cùng đi. Mon chạy tọt vào trong nhà, đi theo bố. An Tiêm và con ra sới vật.

Tiếng chiêng... bi... ly... bi... ly... cùng tiếng người hí, người reo xôn xao suốt đêm trên bờ sông. Hàng tháng nay, vùng Bãi Lở rộn rịch lên. Càng gần ngày về hội đầu năm ở kinh đô, lại càng náo nức. Năm nay, năm đầu tiên Bãi Lở được về hội kinh đô. Các xóm đua nhau tập luyện, cho đến những ngày sau cùng thì cả hai bên sông tấp nập sáng đêm. Hơn mười năm trước, An Tiêm được nhà vua cho ra mở đất ven sông Cái. Nhớ lại những khó khăn ngập đầu lúc ấy, chồng chất không biết bao nhiêu mà đếm xuể! Xưa nay, các đời vua đều cắt cử quan văn quan võ ra trấn bốn cõi, người đi mở đất khẩn hoang đến ở đông đúc, trùm lớp, rộng mãi ra thành phên giậu mới. Vì thế, trải hơn mười triều vua Hùng, đất nước đã rộng ra tới mười lăm bộ. Năm ấy, nước sông Cái đỏ ngầu, lên to. Con sông đương xói nghiêng về một phía, lở ầm ầm, cứ đến mùa nước lại khủng khiếp đổi dòng. Vốn là con sông dữ, nó như con trăn vùng lên, cuốn vào lòng những làng xóm, những đồi nương, những cánh rừng, cả trâu, cả người. Và dòng nước chướng cứ mỗi năm một hung hăng quẫy về hướng kinh đô. Nhà vua hỏi các quan thế là điềm gì. Mưu sĩ tâu:

- Bỗng dưng loài trâu nước bồn lên, húc lở bờ cõi là điềm gở. Phải yểm cho nó chết đi mới được!

- Ai hộ ta? Trăm quan chen nhau vào xin đi. Nhiều quan ở xa, nghe tin vua triệu người ra ngoài cõi đánh trâu nước phá đất, chen chân kéo vào kinh đô. Chẳng khác hội các cõi về trình việc nước. Trống đồng bắc dóng lên các ngã ba, thúc liên miên theo bước quân trẩy. Suốt đêm, đuốc đốt không đứt quãng. Nhà vua còn ngần ngừ, không biết chọn ai. Bấy giờ miền nào cũng đương mở mang, việc bận như mắc cửi. An Tiêm bước tới.

- Tôi xin đi.

Nhà vua trông ra. Mai An Tiêm. Nhớ lại chuyện An Tiêm ngày trước từng sống ở đất kẻ bể. Sông nước, bể khơi, coi như đồng bãi bằng phẳng. Mình lẳn mình trắm. Đôi mày dựng ngược. Con mắt sắc. Nước da đỏ lịm như đồng hun. Một trang quắc thước, hiên ngang lạ lùng. ừ, An Tiêm có thể gánh vác được việc quan trọng này đây. Nhà vua gật đầu. Các quan đòi đi đánh trâu thần còn dùng dằng, còn xin đi nữa, cho đến hôm An Tiêm lên đường mới chịu lui. Thế là An Tiêm ngược nước lên Bãi Lở. Con sông lớn vẫn đương vùng lên đổi dòng. Đất lở đất bồi lớp lớp đỏ rực như những vạt máu trên chiến trường. Nước thúc đất xuống ầm ầm vang động suốt mùa nắng, không lúc nào ngớt. Người ở xa hàng trăm dặm cũng nháo nhác chạy hết. An Tiêm cho người đi gọi dân lại, cùng nhau kéo ra bờ sông.

- Các người trông kìa... Những cụ già thở dài:

- Đã bao năm nay chúng tôi chỉ biết chạy đi cho đàn trâu điên lên húc hết nhà cửa, cánh đồng xuống sông mà thôi. An Tiêm nói:

- Thế thì sợ a? Các cụ lại nói:

- Con nước sắp quật chết cả mình đến nơi, ai mà chẳng sợ! Rõ ràng mắt chúng tôi đã trông thấy nửa đêm trăng vằng vặc sáng, đàn trâu thần dưới nước nhô lên, xô nhau phá vào bờ, cách mấy dặm còn nghe tiếng trâu thở, còn nghe sừng trâu ùm oàm đánh vào nhau... Cho đến gà gáy thì lặn hết, đến sáng ngày trông ra chỉ còn thấy tan hoang. Công của hàng đời lăn hết xuống nước. Bởi thế, chúng tôi mới phải bỏ đi. An Tiêm nói:

- Nay tôi đến đây để cùng các người quyết một còn một mất với đàn trâu nước kia. Mọi người ngơ ngác hỏi:

- Chủ tướng bảo làm thế nào bây giờ?

- Phải đánh những con đầu đàn!

An Tiêm quả quyết. Lòng quả quyết của An Tiêm dấn lên trên cái rụt rè của mọi người. Ngay sau đấy, An Tiêm cùng dân làng vào núi, đến chân núi Tản Viên bên kia và sang núi Tam Đảo bên này, vác đá ra. Cứ chỗ khúc sông nào lở nhiều nhất thì ném đá xuống. Dòng sông cuộn nước như nghìn vạn con thú nhe nanh vuốt lên dọa. Nhưng những người ném đá không sợ. Những hòn đá tảng rào rào lăn xuống quãng sông đương giận dữ sùi bọt mép. Lấy đá trong núi, lấy mãi rỗng cả núi, trước còn đi gần một ngày đường sau phải đi tới ba bốn ngày, vào tận trong vùng rừng sâu. Những tảng đá to tướng, đem đục lỗ, bện dây xỏ vào, hàng chục người xúm lại, kéo ra. Suốt năm ném đá chặn nước. Rồi mùa nước lại tới. Những con thủy quái trâu nước lại lồng lên, vượt qua những mô đá mà hàng nghìn người đã công phu đắp suốt năm, tràn ra các cánh đồng, đuổi mọi người khiếp sợ bạt lên tận lưng núi. Những cái nhà sàn lại ngập chơi vơi trong nước. Cả đến người không mau chân chạy cũng chết đuối. Suốt mùa nước, nước cứ rướn lên đánh nhau với người, đuổi người đi. Nhưng mùa nước qua, An Tiêm lại gọi dân làng từ trong núi xông ra vác đá lấp những đoạn sông lở. Lại lăn đá thật gấp để chặn tận cổ nước, ngăn những con lũ tới. Năm nào, người và nước cũng vật lộn quyết liệt chìm xuống nổi lên như thế. Ba năm qua, hầu như sức người đã chuyển cả một dãy núi quanh rìa các triền Tam Đảo và Tản Viên ra đứng cao chênh vênh bên bờ sông. Thế là dòng sông bị những bàn tay đá ngáng mạnh, đã phải đổi tính nết, đổi chiều. Bây giờ, khi mùa mưa tới, con sông Cái chỉ còn sức vùng vẫy vơ vẩn ở đâu bên kia núi đá một quãng rồi lại lừ đừ xuôi và đàn trâu nước cũng không ai thấy tăm hơi. Những con sóng dịu dàng đưa phù sa đắp vào chân đá, bồi thêm làn cát đỏ mịn, nổi thành bãi mới. Mỗi năm, bãi mới lấn ra cho người đến trồng mía và dâu tằm. Làng xóm mọc lên ven sông, xa trông chen như vảy cá, đông vui san sát. Người ta vẫn giữ cái tên lúc gian khổ, gọi đấy là vùng Bãi Lở. Sông dữ đã chịu khuất phục tay người, trở nên hiền hậu, đáng yêu, hồn nhiên đem về cho hai bên bờ một đời sống trù phú. Tiếng tốt theo dòng loang đi. Con sông Cái dài rộng mênh mang chảy ngang qua đất nước, đâu đâu cũng nức lời đồn quan lạc tướng An Tiêm tài giỏi trị được trâu nước, trâu thần, lập nên cõi Bãi Lở. Đất lành chim đậu, người các nơi kéo đến lập nghiệp mỗi ngày một đông và mỗi năm Bãi Lở một khang trang, tốt tươi hơn. Chẳng bao lâu, cả một vùng dài hàng trăm dặm ven sông Cái xưa hoang vu, trắng nước, con cày con cáo không biết rúc mũi đâu cho sống, cả đến con chuồn chuồn bay lạc qua đấy cũng đến phải mỏi rã cánh rơi xuống nước mà chết, bây giờ nhà cửa như bát úp. Làng xóm an cư, người ở yên tâm trồng cau, trồng mít, đắp nền nhà, tính chuyện lâu dài. Năm nào mùa màng cũng rờ rỡ, trên đồng đầy tiếng hát và tiếng sáo. Trong làng, khói bếp suốt ngày đến canh khuya.

Vào dịp cơm mới tháng mười hay ra giêng thong thả, người các cõi dập dìu đi chơi đông như trảy hội. Năm nay, Bãi Lở được nhà vua cho về kinh đô dự hội. Bãi Lở đã được ngang hàng với các cõi trong mười lăm bộ trên đất nước. Mọi việc sửa soạn đã đến mức tất bật hết sức. Hàng trăm đô các lò vật lên sới tập suốt đêm. Từng làng mở hội thổi cơm thi, làm cỗ cơm nén để kén người tài cơm thi, cỗ nén. Đô vật và người thổi cơm, người làm cỗ giỏi mỗi làng đua tài nhau, chen nhau cho tới khi cả Bãi Lở chỉ còn chọn lấy có một đội vật, một toán cơm thi, một toán cơm nén giỏi nhất về kinh đô. An Tiêm gọi tất cả các làng đến và nói:

- Ta vốn người tứ chiếng đến đây, chỉ vì cùng lòng mở đất lập nghiệp. Bấy lâu nghìn người như một ý chí, sống chết không rời nhau, thế mới nên cơ ngơi ngày nay. Bây giờ lại được ơn vua gọi về dự hội, thế là cả nước đã biết công khó nhọc người Bãi Lở. Chúng ta phải cố gắng làm cho tiếng thơm càng thơm xa.

Ai nấy vui sướng không kể xiết. Đã đến ngày trảy hội. Mỗi làng chỉ có vài người được chọn đi mà đám trảy hội của người Bãi Lở đông vui hàng dặm đường, đám đầu đã khuất mà quãng cuối còn tụ ở đầu cõi. Các lão trượng cũng trảy hội. Đây là các cụ một đời giỏi cày, tài vác đá chắn sóng, chịu khó đến con cháu cũng không bì kịp, được cả làng kính trọng. Các cụ ông, râu tóc bạc trắng, mặt đỏ bồ quân, tay cầm chiếc quạt mo tre, bước phăng phăng, nhanh hơn cả những cỗ xe trâu tải người và mọi thức ăn vật dụng. Đoàn người và xe cộ đi theo bờ sông Cái. Trong lòng con sông quê hương rực rỡ bóng người và sống áo màu nâu vỏ só, quan lục, hồng điều lỏa tỏa trong dải nắng nhẹ đầu xuân. Dòng sông hóa tấm the màu trải dài theo chân đám trảy hội. Gái và mẹ ngồi trên chiếc xe trâu đi giữa đám trai gái làng trong đội cơm thi cơm nén. Đầu tiên còn nom thấy nhau, rồi người người gồng gánh bề bộn tuốn theo, chen lấn lên, tất cả đi đã xa, bụi cuốn mù mịt. Mon trông theo không thấy mẹ và em đâu nữa. Bấy giờ mới đến lượt các đô vật. An Tiêm và Mon đi với đám tay đô. Mon ngồi gọn lỏn đằng sau xe, bên cạnh cái bồ cỏ, đương nghển cổ nhìn lại. Chiếc xe lắc lư qua các làng, người ra đưa đứng chen chân bên đường. Mon ta cũng lây cái sung sướng và hãnh diện như một tay đô được tuyển đi hội, suốt dọc sông nghe tiếng chiêng và tiếng trống, tiếng hò reo cổ vũ. Các cụ lão bà cũng trảy kinh xem hội. Và chỉ có các cụ lão bà ngồi kiệu vì đường xa. Thế nhưng, xưa nay cày cấy thì các lão bà chẳng chịu ai, một tay đã bảo ban con cháu mấy đời cấy hái. Có những lão bà thọ hàng trăm tuổi, không nhớ tuổi mình nữa. Các cụ mặc váy sồi, thắt lưng sồi mộc, đầu trọc, chít khăn vuông điều ngồi ngay ngắn trên cái ghế đòn bốn người khiêng. Đám Bãi Lở đi đã được một chợ. Dần dần, gặp ngang đường đám trảy hội người các bộ khác, ở Ninh Hải, ở Dương Tuyền, và cả đến các bộ xa từ Hoài Hoan, Lục Hải đã tới, càng ngày càng tấp nập. Biết là sắp đến vùng Phong Châu.

Bi... ly... bi... ly... Bùng... bi... Những cây muỗm lùn đội đầu một mâm hoa như đơm xôi đương vào giữa cuộc tiến hương tiến hoa. Hoa cau, hoa móng rồng tỏa thơm dìu dịu khắp. Kinh đô rung động náo nức trong tiếng chiêng, tiếng cồng, tiếng trống thúc giục. Những cuộc thổi cơm thi, những đám vật của các cõi về đua tài. Ngày nào cũng từ sớm đến chiều, có hôm mê mải đốt đình liệu sáng rực để thổi cơm và đánh vật thi tuyển cả đêm. Từ bến sông Cái lên, các phường liên tiếp dựng những cột trụ, những cây tre cao treo đèn phất giấy lệnh. ở mỗi góc đường, ở giữa chợ chất những đống củi cao như gò, những cây đình liệu cháy suốt đêm chưa hết. Tưởng như trời kinh đô lơ lửng hàng nghìn hàng vạn ông trăng tròn cho người chơi thâu đêm. Rồi mới sáng sớm bãi cỏ rộng dưới chân thành đã đông ghế người. Cả đất nước cơm nắm cơm đùm kéo nhau về hội xem các cõi tranh tài. Hôm nay, toán cơm thi cõi ất bộ Hoài Hoan đọ tài với toán cơm thi Bãi Lở. Toán cõi ất nổi tiếng mười lăm bộ, giữ giải cơm thi đã nhiều năm. Đến nỗi có những người hàng năm đánh cược ăn giải, ai kiên gan đoán cõi ất được, năm nào hết hội cũng được giắt về nhà mình hàng đàn trâu, đàn ngựa. Nhiều toán các cõi cố gắng ganh nhau, toán này đè được toán khác thật quyết liệt, nhưng chưa ai vượt toán cõi ất. Năm nay toán cõi ất vào thi trận sau cùng với Bãi Lở.

Không ai ngờ sự xuất hiện chói lọi của Bãi Lở. Chỉ vì Bãi Lở mới về hội lần đầu, thế mà Bãi Lở đã lần lần đánh ngã được hết các cõi rồi ra đọ tài với cõi ất. Lệ thường, đội thắng năm trước ăn một điều lợi là được ra bãi sửa soạn trước. Người trùm toán cơm thi cõi ất là cháu gái quan lạc tướng đất Hoài Hoan. ả có tiếng tai ác, người ta nói cô ả này nhiều mánh khóe xảo quyệt đã khiến toán cõi ất giữ được giải lâu, chứ cũng không phải vì cõi ất tài giỏi đặc biệt gì. Có điều là những mưu chước mờ ám và ma mãnh của toán cõi ất, ai cũng đồn dăng dăng, mà không biết thế nào đối phó hoặc kêu lên nhà vua được. Nhiều toán đã cất công rình

- có khi công phu rình trước hàng tháng, xem toán cõi ất chiếm bãi trước như thế nào. Nhưng cũng không thấy gì. Mà chỉ ấm ức, bởi vì khi vào cuộc, thường thường địch thủ của toán cõi ất, nếu không bị tai nạn thì cũng gặp lúng túng. Chết uất đi được mà đành than:

"Bao giờ toán cõi ất mất quyền ra bãi trước thì may mới đến lượt cõi ta giật giải".

Làm sao biết được năm nay toán cơm thi cõi ất đem mánh khóe gì hại toán Bãi Lở. Cái bãi thổi cơm thi rộng, từ giếng nước đến chỗ đặt đá đánh bùi nhùi, đến chỗ đặt ba ông đầu rau, nơi nọ xa nơi kia, phải chạy nhanh hàng mấy trăm bước. Chỉ một cái lạt gàu tụt, chiếc gáo mo cau xộc xệch hay hòn đá chậm ra lửa, hay bùi nhùi chưa nỏ, bắt lửa kém, hay chỗ đám cỏ kê nồi còn ẩm chút sương mưa đêm qua, cũng đủ thua cuộc. Nhưng không ai biết đấy là cái sơ ý của toán thổi cơm thi hay họ đã bị kẻ đua tài ganh ghét ngầm hại. Thật ra, toán cõi ất đã có ý coi thường đứt đuôi dân Bãi Lở rồi. Bởi vậy, họ chỉ làm có một cái ác vặt. Nửa đêm trước, cho người bới lũm mấy quãng đất giữa lối đi lấy nước rồi lại trải cỏ lên như thường. Chẳng cần vấp ngã, chỉ hụt vài bước chân, đến sau người ta một nháy mắt, mọi việc chậm hơn người một thoáng, cũng đủ thua trông thấy. Tùng... bi... ly... Người xem đã xúm đen xúm đỏ quanh bãi đợi từ gà gáy. Thoạt đầu, bên nam vào thi có hai người. Bãi Lở là một chàng trẻ tuổi và bé Mon. Hôm nay thì bốn đợt liên tiếp. Anh trai cao lớn lực lưỡng. Bé Mon loắt choắt, nhưng cũng gọn gàng khố bao trong chiếc thắt lưng điều bỏ giọt, như người lớn... Trông thật lạ. Bởi vì trên bãi cơm thi này, chưa bao giờ có cậu bé mười tuổi ra chạy giúp người lớn như thế. Người đứng xem quanh bãi vừa cười vừa chép miệng:

"Hết người hay sao mà phải cho trẻ thò lò mũi ra thế kia! Cánh Bãi Lở phen này đến trôi ra sông Cái về Bãi Lở mất thôi". Người Bãi Lở, các lão bà, các chị ngồi xúm đằng cuối bãi. Họ đốt từng đống trầm, từng bó hương đen, lại mổ gà xem bói tỏi gà, chân gà và kể vè những bài kể công An Tiêm với sự tích đánh trâu nước lập nên Bãi Lở. Bùng... bi... ly... Mon bước sát theo anh lớn. Trước tiên, nghe trống thúc nhịp một, hai bên hai người cùng ra hai giếng. Mỗi giếng cách nhau trăm bước. Không nhìn nhau, không ai bảo ai mà hai cái gàu mo cau thả đều, kéo đều từ mặt giếng lên. Tiếng reo như sóng quanh bãi. Rồi anh lớn, tay cầm niêu nước giếng, vai đeo túi gạo. Mon bưng lon nước để vo gạo, lại kẹp thêm dưới tay cái rá nhỏ. Anh trai bước nhanh. Mon chạy theo về phía những ống giang. Anh trai nhặt một ống. Mon cúi lấy hòn cuội. Tay cắp thêm mấy thứ mà không cần đặt niêu, anh với đỡ cái rá ở tay Mon. Mon bưng lon nước. Hai người vừa đi như chạy vừa vo gạo, kịp đến chỗ bắc bếp thì gạo cũng đã vo xong. Bên toán cõi ất cũng làm thế. Chỗ thổi cơm hai toán cũng cách nhau hàng trăm sải chân. Họ đến đều nhau như in bước. Vừa dứt ba tiếng cồng, anh trai Bãi Lở đã bắc xong bếp rồi quay ra, cầm mảnh đá sắc cạo lòng ống giang cho thành lùm lùm từng đống bùi nhùi rồi đem ủ kịp giữa hai hòn cuội, rắc mồi tro lên, đập một cái. Đá tóe lửa, bắt bùng vào đám bùi nhùi. Thế là cả ống giang chứa lửa làm nòm cùng chui tọt vào bếp. Lúc ấy, gạo vo đã ráo nước. Lệ thổi cơm thi thổi khéo không được đảo, không ghế, không vần, phải giữ đượm lửa để lúc nước sôi tra gạo thế nào thì cả niêu cơm đến lúc chín đều vẫn nguyên thế. Hôm ấy trời khô quang, nhưng làn gió bấc tai ác mùa lạnh còn sót lại, chốc chốc bỗng lướt qua mặt cỏ. Lệ thổi cơm thi không được che gió. Anh trai phải cúi nhanh xuống, tay nhấc thanh giang, vừa chặn chiếc que cơi giữ than khỏi vạc, vừa chuyển thanh giang chia đều lửa dưới trôn niêu khi có gió tạt. Dứt hai hồi cồng, cơm vừa chín. Mà chưa chín thì cũng phải dừng lại đấy. Hai bên cùng đặt niêu cơm vào cái rế nhỏ, bưng chạy lại chỗ dựng đài có các quan chấm giải ngồi. Anh trai Bãi Lở ung dung đi, không nhanh, không chậm. Mon nghiêm trang ngẩng mặt, khuỳnh tay, lon ton bước theo.

Tiếng trống thúc giục người đua tài vẫn giọt nhịp một xuống. Bọn cõi ất cũng bước đi, nhưng đã mấy lần giương trố mắt, hồi hộp. Hai đứa Bãi Lở mấy lần bước đúng chỗ hũm cỏ. Nhưng, ô hay, sao chúng nó dường như chẳng lần nào bị hẫng, mặt chúng nó vẫn tươi tỉnh như kia! Bi... ly... bi... ly... Chấm hồi chiêng, cả hai niêu cơm đã được bày lên hai chiếc mâm bồng phủ vuông lụa điều. Mỗi bên có một người đứng cạnh mâm bồng để canh cho niêu cơm khỏi lẫn. Bé Mon đứng lại. Trong khi hai bên lao vào đợt thổi cơm thi nữa thì các quan chấm giải đến nếm cơm, xướng danh cho cả bãi biết cơm ai thổi khéo, được cuộc. Lại một cuộc thi mới tiếp luôn. Mỗi bên một người chạy thoắt đến, nhảy xuống chiếc thuyền thúng cắm ở lạch nước cạnh bãi. Bấy giờ anh trai Bãi Lở ấy lại bước ra, đọ tài khéo lần nữa. Mọi thứ để thổi cơm đã để sẵn trong khoang thuyền bé: ba hòn đá kê niêu, ống giang, đá cuội đánh lửa, gạo, lon nước vo. Tất cả lủng củng dưới chân. Không khéo thì chỉ lúng túng giẫm lỉnh kỉnh cũng vỡ cả. Từ trong lạch, người trai Bãi Lở thò tay xuống nước làm bê chèo, bơi mải miết ra đầm nước. Người cõi ất cũng đương ngồi trong một cái thúng như thế, bơi sóng đôi ra. Giữa đầm nước có một gò cỏ. Hai bên đã đặt niêu thổi cơm trên bờ gò. Tới nơi chỉ việc bắc bếp, bởi vì mọi việc lo thổi nấu đã phải làm ngay trong khi bơi thuyền, cả vo gạo, cả đánh đá lửa. Vừa làm thế mà hai tay lại phải thò xuống nước thay bê chèo.

Cái thúng con con chỉ rình xoay ngang, quay tít. Mà thuyền của bên cõi ất lại đương chen ra ve vé lướt vượt qua bên trái, cố ý đánh sóng cho thuyền này ụp hay ít nhất thì cũng tròng trành, chẳng đánh lửa hay vo gạo được. Người trai Bãi Lở không thèm đòn trả miếng hiểm ấy mà cũng không chút luống cuống. Mấy tháng đã ròng rã luyện thổi cơm nhiều lần trên dòng sông Cái nước lên cuồn cuộn. Bây giờ chỉ như làm lại, đã quen, lại được nước đầm phẳng lặng, dễ hơn. Bước xuống thuyền, anh ném phăng cái áo và thắt lưng lên bờ. Anh cởi trần, khố điều đóng gọn, không vướng mảy may. Anh cắm cúi chèo. Chiếc thúng nhấc cong mũi, vượt bật lên trước thuyền cõi ất. Hai bàn tay lia lịa cắt nước. Bàn tay gạt nước gạt thật nhanh, thật gọn, bàn tay chỉ ướt một phía, còn lòng tay vẫn ráo khô, nhấc lên vẫn đánh đá vào bùi nhùi lửa ngay. Rồi một tay chèo, một tay vo gạo, vừa đến bờ gò. Cái thúng áp mạn, các thứ đánh mồi lửa, vo gạo đã xong. Theo lệ, người chỉ được ở dưới thuyền, thổi cơm với lên bờ. Anh ném ba hòn đá vào kê niêu. Niêu cơm vừa đặt, mớ bùi nhùi và thanh giang bỏ ra, lập tức trong bếp đã rừng rực lửa. Thế rồi, bếp thì trên bờ, người ngồi trong lòng chảo thuyền với lên thổi lửa. Cái thúng nhẹ như lá tre, chốc lại tròng trành quay ngang, lại phải chèo khít vào, rồi tay ướt ấy lại cầm mồi lửa. Có lúc thuyền tuột ra, nhưng sợ tay ướt, không dám thò tay bơi, cứ cố nhoài lưng bíu bờ, phải uốn lấy đà mới khỏi ngã sấp xuống nước.

Tiếng chiêng tiếng cồng nổi bốn phía, rối cả ruột. Các quan chấm giải đặt án thư ngồi coi thổi cơm thi ngay giữa gò. Còn bao nhiêu bùi nhùi, quấn vội lên đốt niêu như đốt rơm. Lửa vừa vạc, coi như cơm cũng vừa chín. Anh chàng Bãi Lở nhún chân nhảy nhẹ lên bờ, mời các quan ra chứng kiến. Lúc ấy, người thổi cơm toán cõi ất mới đương quềnh quàng quấn bùi nhùi đốt niêu cơm. Chợt cơn gió chúi đến, đẩy thuyền ra. Người thổi cơm cong lưng luýnh quýnh nghiêng vào. Chẳng may, với xa quá, cả người rơi tõm xuống nước, mất giải. Quanh đầm, quanh bãi ầm vang tiếng reo hò chen trong tiếng hô báo tin toán Bãi Lở đoạt giải nhất thổi cơm bên nam. Mọi người lại chạy dồn quanh bãi. Bắt đầu cuộc thi thổi cơm bên nữ. Không ai còn để mắt đến cái người cõi ất vừa ngã xuống nước bị thua cuộc, đương lóp ngóp đẩy chiếc thuyền bơ vơ ra giữa đầm. Toán nữ Bãi Lở ra quân. Nàng Hoa và bé Gái. Bé Gái, váy áo tròn xoe, hệt mẹ, như cái bóng mẹ, bước sau mẹ con cón, bé xinh tí tẹo. Nhưng từ lúc nãy, thấy Mon nhanh nhẹn, xốc vác giúp bên nam được, không ai dám coi thường trẻ con Bãi Lở nữa. Bên cõi ất thì ả cháu gái quan lạc tướng bộ Hoài Hoan ra đối địch. Khốn thay, từ lúc không may xảy cái anh ngã lộn cổ xuống nước thì thế thua hình như đã hằn rõ trên nét mặt ngơ ngác của những người toán cõi ất. Nhưng mà chưa biết thế nào. Trận đấu nữ này thật rắc rối. Mỗi người phải địu trên lưng một đứa trẻ lạ chưa đầy tuổi tôi mà không quen hơi. Bên cạnh để một chiếc rổ sảo, trong có hơn chục con ếch to. Đàn ếch nhốn nháo nhảy nhô nhốp tròng trành cái rổ. Chỉ nhỡ cái rổ trành quá, nghiêng đi, ếch sẽ chồm ra hết. Mà lệ cấm người phụ không được làm hộ. Ai thổi cơm thì người ấy phải vừa chăm bếp, vừa dỗ đứa trẻ trên lưng, vừa giữ cho cái rổ sảo đựng ếch không có mẹt đậy khỏi nghiêng. Tiếng cồng dài hai hồi báo hiệu cơm phải chín tới. Lại không đợi đưa cơm vào trình, các quan chấm giải nghe hiệu cồng thứ hai còn đương ngân ngư đã tiến vào xét cả hai bên. Quan chủ khảo đến bếp Nàng Hoa. Nhấc cái rổ, lũ ếch giở chứng, bỗng nhiên ngoan ngoãn kia vẫn ngồi chồm chỗm, trô trố nhô lên đủ mười bốn cái đầu đen trũi, bóng nhẫy. Bé con địu trên lưng thì đương giụi mắt muốn ngủ. Nàng Hoa hơi cúi, chân đứng chéo nhún gối tựa đưa võng ru em bé. Tưởng được võng đưa, em bé thiu thiu vào giấc ngủ. Cơm ai chín mà trẻ không khóc, ếch không nhảy ra mất con nào thì quan chủ khảo cho nổi trống lên. Tiếng trống chấm giải trước nhất tưng bừng vang đi từ bếp Bãi Lở. Lập tức, khắp bãi người xem lại rền tiếng reo hòa vào như sấm. Cháu gái quan lạc tướng bộ Hoài Hoan ở bếp đằng kia nghiêng tai nghe. Tiếng trống mới nổi đằng bếp ấy, ả đã quỵ xuống, ngất đi. Đổ cả niêu cơm. Đứa bé bị vập đầu, khóc ré trong địu trên lưng. Thế là đàn ếch nhảy tứ tung. Quanh bãi còn đương nhốn nháo, đám này còn hò reo, đám kia còn lao xao khen tài kỳ lạ của Nàng Hoa thì trận thổi cơm thi sau cùng đã lại mở ra giữa hai hồi cồng hiệu. Bây giờ hàng loạt trống đồng mới lên tiếng cùng một lúc trong cuộc thổi cơm thi quan trọng sau cùng. Cạnh án thư chủ khảo, hai dãy trống đồng bắc gióng song song. Những chiếc dùi trống gỗ mít dài bằng cái đòn ống, đầu đập giập mềm xơ như bông, đầu bọc da báo da hổ cứ nhấp nhô đều đặn, uy nghi đâm xuống mặt trống.

Những hồi trống đồng trang nghiêm nổi lên, bắt đầu cuộc đấu khó khăn nhất. Cái hơi trống đầm đầm, rền lạ lùng báo cho mọi người biết cuộc sau cùng của giải thổi cơm thi. Người xem nhộn nhạo hẳn. Chiêng và cồng theo nhau đổ hồi dồn dập, không thong thả nhịp một như lúc nãy. Thinh không lúc nào cũng ầm vang. Cõi ất và Bãi Lở, mỗi bên bước ra đủ một cỗ mười cô gái. Sắp hàng ngang, mười cô mày ngài mắt phượng long lanh, dáng dấp khoan thai, váy xắn quai cồng, tóc búi ngược. Mỗi cô, sau thắt lưng buộc một chiếc cần trúc dài vút lên đầu, có sợi dây đay thòng lọng xuống kéo miếng phên dài làm bàn bếp treo trước mặt. Cái niêu đặt trên tấm phên. Người thổi cơm cầm đũa cả, lại cầm thanh giang cháy hơ trôn niêu. Mười cô gái ấy vừa đi vừa vo gạo, đánh bùi nhùi, bắc đầu rau, nhóm bếp thổi cơm trên cái phên tre. Lúc bước hụt, cái phên đảo đi, giựt lên ngang mặt. Lúc ấy phải khéo uốn người sao cho khỏi đổ. Rồi lại rảo chân lên kịp đều hàng. Cả mười cô cùng đi về phía cuối bãi, xa tít. Người quanh bãi hồi hộp đến mê người, đợi xem lát nữa toán nào từ đằng kia đi trở lại mà giật giải. Không biết mười cô gái nào qua rừng, lên gò, xuống ngòi, rồi trở lại đến được trước án thư quan giám khảo vừa lúc dứt hồi cồng, lúc ấy niêu cơm trên mảnh phên cũng vừa chín tới. Toán nào giựt giải đây? Lòng mong ngóng của mọi người đã đổ sự tin cậy vào toán Bãi Lở, có thể vượt nốt lèo này nữa thì...

Tiếng cồng, tiếng chiêng dồn dập giữa tiếng trống đồng vẫn đương trầm hùng nổi lên. Người ở Bãi Lở tụ một góc bãi, vẫn đốt trầm và xem bói chân gà cùng hát kể sự tích đất nước. Trời xuân giêng hai bỗng thơm trong trẻo một mùi hoa cau vừa nứt bẹ. Mọi người hồi hộp nghển nhìn phía rừng thưa. Toán nào về trước? Kia kìa đoàn người đương nhô ra khỏi rừng, cả mười cô bước thẳng hàng ngang suốt như kẻ chiếc đòn ống. Váy áo nâu non tươi và khăn vuông điều - màu nâu màu điều chân chỉ quen thuộc trên các cánh đồng, các bến nước. Thoạt trông ai cũng nhận ra ngay đấy là mười cô gái Bãi Lở. Mười cô gái Bãi Lở hớn hở bước về tới đâu, người xem ở đấy cồn lên như sóng dồn theo. Không ai còn ngõi đến mười cô gái cõi ất lủi thủi đi sau. Người ta chen lấn lấp cả đi, dù mười cô cõi ất chỉ đi cách một quãng. Mười cô Bãi Lở về nhất. Như đoàn quân hùng dũng, nhanh như cánh cắt, ngay giữa nơi trận mạc xung sát mà vẫn đưa được cơm chín ngon lành ra chiến trường cho ba quân. Cả vùng Phong Châu sôi nổi mừng Bãi Lở. Lúc ấy, ả cháu gái quan lạc tướng bộ Hoài Hoan vừa hồi tỉnh, mặt hãy còn xanh lét, lại lăn ra, ngất đi lần nữa. Liền hôm sau, đến kỳ tranh giải vật. Bùng... bi... bi... bùng...

Những lò vật tài giỏi bậc nhất vào giật giải. Từ mấy hôm mới bắt đầu hội, đội vật các cõi lên kinh đã có đấu rờn, đấu bỏ. Người ta náo nức đồn năm nay có lò vật Bãi Lở mới về hội mà đã nổi lắm. Vì là lò mới, phải vật thử sức từ đầu, Bãi Lở đi khắp các sới, chạm trán với đủ các lò, cho nên, lời đồn ấy, ngay lập tức, được chứng nhận. Lò vật Bãi Lở có hai mươi đô, hôm nào cũng đấu liền liền, thế mà tới hôm nay, cả hai mươi người cứ trơ như cột đá. Đô tài giỏi các lò, chỉ mới đụng đến đô Bãi Lở, cùng lắm cũng chỉ chịu được hai lần tỳ cổ tỳ vai và một miếng quét đã phải lăn ra, không ai đứng được trước mặt họ. Tiếng tăm Bãi Lở càng dội lên. Từ gà gáy, sới vật đã ồn người như mở chợ. Sới vật trên đài cao, có đến hàng vạn người chen lấn như những đợt sóng bao quanh. Lầu xem vật của nhà vua choán một góc bãi. Tất cả các tay đô bện khố lục đứng dàn trên đài. Mặt vuông, cằm bạnh, vai nổi, ngực bè, lưng và lườn, chân tay chàm vằn vèo hình thủy quái, cả trên những bắp vế quặn chão. An Tiêm đóng khố bao điều. Điểm mặt cả mười đô vật các lò lên sới đấu với lò Bãi Lở không thấy còn lại một ông quan võ nào. Chỉ có một mình đô An Tiêm làm quan trấn cõi ngoài. An Tiêm đã đấu tám trận. Tiến đến trận này, An Tiêm đã bốc bổng đối thủ lên rồi vỗ đôm đốp vào rốn cả tám người thua ngã ngửa chỏng cẳng. Các ông quan võ thay nhau ra cầm chịch. Các ông quan võ đứng trên lầu xem vật. Không phải các quan võ không lên tranh tài. Xướng danh thật nghiêm ra thì có quan cũng là đô vật, nhưng đã thua ngay từ những keo đầu. Chỉ còn lại những tay đô là lính, là thủ túc hoặc con cháu, quanh năm ăn lộc vua để luyện vật, chứ không phải những tay đô được kén từ các lò trong làng như Bãi Lở. Lý thú nhất, khi đứng dàn trên đài, bên cạnh đô An Tiêm, lại có cả thằng đô cu Mon. Mon ta cũng cởi trần, cũng đóng khố điều, nòi như bố.

Chỉ khác: tóc Mon còn cun cún và Mon mới chỉ đứng cao ngang sườn bố. Tuy vậy, nét mặt nghiêm nghị cũng oai chắm chắm như tay đô chính cống. Bùng... bùng... bi... Tiếng trống nổi liên tiếp. Cả vạn người xem đầy tinh thần thượng võ, cứ nhảy lên, hí vang, rầm rầm múa sức khỏe, như trên đài vật. Cả nước Văn Lang đua tài. Tiếng trống thúc rền. Người xem từng lúc lại hí, lại reo như sấm, mỗi khi có tay đô chèn được miếng hay hoặc một đô nào đuối tay quai, ngã ngửa chềnh ềnh giữa đài. Năm cuộc liền, chưa đô nào vật ngã được đô lò Bãi Lở. Trận cuối cùng, An Tiêm ra với đô lò cõi Bính năm ngoái giữ giải. Chàng đô trẻ tuổi cõi Bính là con trai quan lạc tướng bộ Vũ Ninh. Trống đồng nhịp đôi trầm hùng lên. Lò Bãi Lở bước vào trận ăn thua này, cái thắng đã cầm trong tay, nhưng người xem lại càng hồi hộp đợi keo vật cuối cùng, chắc phải ác liệt. Thế mà chớp nhoáng quá. Có người còn đương ngơ ngác, chưa kịp trông, hoặc tưởng mình trông nhầm hay sao ấy. Lạ không, rõ ràng hai đô vừa vào sới, vươn cái lưng to bè như cánh phản, đương vờn lượn mình, cùng móc tay rồi múa lên đình. Bài múa lên đình trang trọng, ngón tay vui mừng xoắn vào nhau như hái hoa. Vừa xong, đôi bên lùi lại quờ rộng thành vai ra bái nhau, thế mà chỉ một chớp mắt vừa chớm vào vật, còn đương lừa tay vít vai, chưa tỳ, chưa chèn, bỗng vụt một cái, đô lò cõi Bính đã ngã quay.

Thảm hại, người bị đột ngột ngã mất đà băng đi, lẫy mãi không dậy được, như con cá rô rạch cạn, trong khi ấy cánh tay quai của An Tiêm còn giơ lên chưa hết tầm. An Tiêm đứng thẳng lên, cũng quên không đập vào rốn địch thủ để giao hẹn được cuộc nữa. Các quan cầm chịch, các quan xem vật còn đương giật mình, đã nghe tiếng hô xướng danh chõ ra bốn phía bãi báo tin lò vật Bãi Lở giật giải năm nay. Đến lúc ấy, chàng đô trẻ tuổi cõi Bính vẫn còn nằm giãy giữa đài. Đến lúc ấy, An Tiêm mới chợt nhớ và cúi xuống lật ngửa chàng ta lên, vỗ tay đét một cái vào giữa rốn anh chàng, đánh cái dấu thắng trận chắc chắn vào đấy cho thiên hạ bốn phương trông tỏ tường. Không hiểu An Tiêm hạ miếng hiểm đến thế nào mà khủng khiếp thế! Quan lạc tướng Vũ Ninh, vừa ngượng, vừa lo, xám hẳn mặt. ạng nhảy từ trên lầu xuống, hét to:

- Không phải mày đấu vật. Mày cầm dao đâm trộm con tao, mày giết con tao rồi! Lúc bấy giờ An Tiêm đã lùi xuống chân đài. Quan lạc tướng bộ Vũ Ninh chồm thẳng ngay vào đầu bố con An Tiêm. An Tiêm tránh một bên, Mon bắt chước bố cũng né người, nhưng rồi Mon lại nhảy thoắt lên đài. Xem vẻ thằng bé thật táo tợn. Dưới kia, quan lạc tướng Vũ Ninh mất đà, ngã chúi xuống. Trên đài, con quan lạc tướng đã ngóc lên được, nhưng đau xương sườn, còn ngồi nghẹo ngọ. Khắp bãi xôn xao, tiếng cười như sấm động cờn ra xa. An Tiêm vẫy con xuống. Hai bố con trở về chỗ địa phận lò vật Bãi Lở. Người xem ùa tới, như một làn sóng kéo theo. Những đêm hội, kinh đô tưng bừng sáng như trải lụa. Đuốc và đình liệu trong ngoài nội đỏ ngọn suốt đêm. Ngờ chừng cả tháng nay, kinh thành hóa ra cả tháng những đêm trăng. Tin cõi Bãi Lở đã giật giải cơm thi lại giật giải vật, làm cho khắp nơi càng rộn rịch hơn. Người ta hể hả thấy cõi ất và cõi Bính xấu hổ không dám thò mặt nghênh ngang đi đâu. Bấy lâu, những cõi này cậy thế, lại nhiều khéo gian để giữ giải. Ai cũng biết, nhưng không dám nói. Người kinh đô lại vui sướng và lạ lùng nữa. Chưa bao giờ một cõi mà lĩnh được cả giải vật và giải cơm thi, như vinh quang của người Bãi Lở được lần này. Đất nước ta nhiều người tài giỏi. Ai cũng mừng đất nước bây giờ ở tận cõi Bãi Lở xa xôi mà dân có sức, có gan to, đàn ông và đàn bà đều xốc vác, mưu lược, đánh vật thì địch thủ chỉ còn biết ngã như chuối đổ, thổi cơm thi thì vừa đi vừa nhóm bếp đuổi theo quân trẩy mà cơm vẫn dẻo. Có những người ấy thì chẳng còn lo phên giậu cõi xa bị giặc giã quấy nhiễu nữa.

Khắp kinh thành, nhà nào, ngõ nào cũng truyền tai nhau dăng dăng những chuyện Bãi Lở. Danh tiếng An Tiêm lừng lẫy, thổi nhanh như gió đưa. Đèn đuốc kinh đô đương vào những ngày hội sau cùng. Còn thi cỗ nén nữa thì giã đám. Đây là cuộc thi khoe của và khéo tay của các bộ. Nguyên vì ngày trước có một lần vua cha cầm quân đi đánh giặc, nửa đêm, người các cõi ở Chu Diên đem thức ăn đến dâng tiễn. Toàn thức ăn nguội mà thật ngon. Người cõi Chu Diên tâu rằng: quân trẩy từ đây lên Lục Hải hay lên Vũ Định đều phải trèo đèo lội suối, mấy ngày đường không kiếm được cái ăn là thường, của ngọc thực này chúng tôi đã nấu nướng theo lề lối từ đời xưa, để dành ăn dần hàng tháng được. Quan quân nghe lời các bô lão, ăn rồi còn mang theo làm lương khô. Quả nhiên, hàng tháng mở gói ra ăn vẫn ngon lành như nguyên. Từ đấy, nhà vua đặt lệ thi cơm nén vào hội đầu năm. Nhớ ghi lần ra quân cõi xa ấy, lại học được cách của người bộ Chu Diên luyện tích trữ binh lương được phong phú, phòng khi trận mạc. Đấu vật để luyện quân và thổi cơm thi cũng là việc phòng vệ sắp sẵn như thế, lâu dần thành phong tục. Nhưng rồi trong lúc thái bình, hội thi cơm nén, thường các cõi nhiều của đông người ở cánh đồng hay ven sông, lắm thóc, lắm trâu, lắm cá, lắm mía, nấu nướng khéo, dễ được giải. Dần dần, chẳng cõi nào ăn đứt được các phường chuyên nấu cỗ. Mấy đời rồi, chỉ phường nọ thay chân phường kia nơi kinh đô và các bộ gần được giải. Chưa hề các cõi ven nội chịu mất giải cho cõi ngoài, vốn chỉ được coi là dân nơi hoang dã, thức ăn cái uống thô lậu. Bao giờ cũng vậy, cả đến trong một đám hội làng thì cứ đến trước ngày giã đám, những đám hội thường nhộn nhịp hơn. Người người muốn chơi cho đã. Cả kinh đô mở cửa, nhà nào cũng bày biện, mời mọc và rủ nhau ăn uống linh đình thâu đêm. Tiếng sáo, tiếng khèn réo rắt tứ phía. Chiêng, cồng với trống giọt không ngớt. Đấy cũng là hiệu lệnh cho khắp nơi, khắp nhà làm cỗ ăn mừng, chất thêm củi ngoài đường, dựng nốt những cây đình liệu lên đốt phóng suốt sáng. Hôm nay, ngày nhà vua ra chấm cỗ cho các cõi vào hội. Mỗi cõi đóng một phía quanh tám góc vườn ngự. Vua và cả nhà cùng các quan văn quan võ lần lượt đi ngắm cỗ, nếm cỗ từng bọn. Như hội đêm năm mới ở kinh đô mỗi năm, đây lại là dịp cho các cõi tha hồ khoe mọi thứ quý trên rừng, dưới bể của đất mình. Nhưng nhiều năm về gần đây, và càng gần đây, những cuộc thi cơm nén không giữ được ý nghĩa như xưa.

Chỉ vì các cõi đua đòi ganh nhau tìm của lạ. Có khi cướp đoạt của nhau, giết nhau cũng vì thế. Rồi các đời vua cũng cứ theo cái cầu kỳ ấy mà đặt giải. Thói quen đã lấp mất cái nền nếp tốt đẹp ban đầu của cuộc thi cỗ nén từ lúc nào, không ai biết. Các cõi đuổi nhau tìm chuốc cái mới, cái lạ không phải của đất mình. Thức ăn đem vào giải thì bây giờ không còn là của mình đem nấu nướng ra mà nhiều thứ phải đi tìm mãi tận cõi ngoài về để khoe hơn, khoe của. Lều các cõi rải rác quanh vườn ngự. Những đống gỗ trầm cuộn khói lên xanh cả ngàn cây, ngào ngạt, kín góc tây thành. Làn khói thơm đặc bốc lên rồi quyện xuống, khiến cho mặt sông Cái cũng ủ đầy hương. Người ở cuối sông có cảm tưởng nước mùa hoa bưởi chảy qua đám hội kinh đô cũng đượm mùi thơm đưa về tận đấy. Nhà vua và các quan lần lượt đi xem, nếm. Không có đâu khác mọi năm. Cái hợm khoe của đã khiến người ta lú lấp cả sự thật nhãn tiền là thức ăn uống lạ không bao giờ đem lại được cái thích ngon miệng, chỉ lạ miệng mà không ngon cơm. Miếng ăn ngon không phải chỉ vì no đói, mà còn vì nỗi cảm thương nghìn đời đối với đất quê chôn rau cắt rốn của mình. Mỗi năm mỗi cõi đua nhau làm món mới, nào tê giác khô, nào giao long sấy, thịt tê tê vảy đỏ, nào tỏi chim trĩ ướp, nào gan cá nhà táng, nào chả phượng đuôi trắng...

Mọi sơn hào hải vị đều được chuốc từ biển bắc hoặc đem về từ các rừng cõi ngoài, trông thì lạ, nhưng mùi vị cũng thật khác thường, không có cái ngon lành quen thuộc. Lúc ấy, góc nam vườn xôn xao tiếng dao thớt, tiếng chày giã, tiếng hát ví, tiếng sáo, tiếng cười. Như cả làng đương có cỗ to. ầm ĩ nô cười như đám người cấy, người gặt giữa buổi đem mo cơm ra ăn ngay ngoài ruộng bãi. Vua hỏi:

- Cái gì ồn ào vậy? Các quan thưa:

- Đấy là lều cỗ nén của các cõi ở Bãi Lở. Vua truyền đến thẳng đấy. Thì thấy quang cảnh lều Bãi Lở đương nhộn nhịp, khác hẳn vẻ sang trọng mà lại khép nép gượng gạo chỗ mấy lều nhà vua vừa đến. Như ở những quán rượu đương giữa buổi chợ đông! Như quang cảnh chợ bến đò sung túc ngoài thành đem vào đây. Những nhộn nhịp tấp nập chợ búa đò giang ai cũng quen mà bao giờ thấy lại cũng vui thích, như nơi làng quê đã biết từ thuở bé mà bao giờ cũng nhớ. Hàng trăm người Bãi Lở, trai gái vừa làm vừa hát- hát ví ăn giải đấy. Đằng kia, các cụ lão bà đương dỡ ra những nồi đại cơm gạo ré thơm phức. Lá chuối ngự đã hơ sẵn xếp lên những chiếc mo cau mỏng vàng căng như khăn lá mộc. Rồi từng nắm cơm mịn bọc lá chuối mở ra đặt lên mâm bồng chen cạnh một chồng bánh dày trắng mỡ, bên những chiếc bánh chưng vuông chăm chắm cao đều bốn thành góc buộc cặp lại một. Hàng chục cái cối gỗ mít lớn còn đương bì bạch giã thêm bột bánh. Bánh dày ăn với chè kho mật mía ráo như ngói, phảng phất mùi thảo quả.

Cái ngon riêng của bánh dày chè kho rắc vừng của Bãi Lở còn ở chỗ để dành đến hàng tháng sau, bánh vẫn dẻo, chè vẫn vàng óng, nổi cát, sờ không ướt tay. Chè kho quấy xong đổ ra để nguội trên những chiếc nia lớn bây giờ đương cắt khúc. Phía cuối lều, xế ngoài gốc cây chò lớn, những chiếc chày giã giò của các chàng đô vật lực lưỡng hôm trước, xem chừng đã bị bết quánh, sắp được. Cối giò hoa, giò lụa, giò mỡ, gói thành chiếc, kẹp hai thanh tre nẹp, treo như lợn con lủng liểng đều một chuỗi dài từng trăm chiếc. Chỉ trông màu lạt tươi lạt chín mới phân biệt được giò luộc rồi hay chưa. Còn chả ướp quế thì đặc biệt không rán. Miếng chả quế đắp vòng quanh cái ống bương to như cột. Bếp xếp từng thanh củi núi đá than hoa đượm cả buổi đương rực hồng. Cái ống đắp miếng chả quế cứ quay đều trên lửa cho đến khi màu vàng hoa sẫm rộp lên, tỏa thơm ngọt mùi quế ngậy sánh như mật ong. Không uống chè sấy như thói quen bắt chước, khách đến chơi Bãi Lở được mời uống chè tươi vò nấu nước giếng đất, như người đồng bãi cõi nam. Cái chè xanh nhấm đầu cành cũng ngọt đậm lưỡi, mới trồng ba năm trên bãi bồi mà đã bỡi vổng như cây chè lưu niên. Hàng thúng cam, loại cam đường trồng vườn ven sông Cái, đã được chiết hãm cho chín theo vụ và khi hái lại đem vùi trong cát, giữ tươi được đến mấy tháng. Nhấp múi cam ngọt lịm, người đi đường nhịn nước hằng ngày vẫn bước khỏe như không. Những chàng trai hôm trước tranh giải trên sới vật và thổi cơm thi khéo không nhường tài ai, bây giờ giã giò, quấy chè kho, thổi cơm, nướng chả quế. Các cụ gói bánh, nắm cơm, gói giò, xem nồi nước, đứng sai bảo cắt đặt cho con cháu mỗi đứa mỗi việc.

Những chiếc cảnh rượu gạo nếp cẩm mở sẵn nút lá chuối khô đứng lù lù trong bốn góc lều, cả dưới gốc cây chò, ai mỗi lúc qua lại cũng uống một bát. Mùi rượu thơm nồng ấm cả dãy lều Bãi Lở nhộn tiếng cười hát. Cũng bày biện như trước lều cõi khác, nhưng người Bãi Lở đem mâm kiệu cỗ nén án ngữ gọn gàng phía ngoài, như đem kho lương đặt ra giữa đường quân trẩy. Nhà vua tới, mọi việc bếp núc vừa xong đâu đấy. Mâm ngũ quả đỏ ối cam. Chè xanh đặc khói thơm ngọt. Rồi cơm nén, giò chả, thứ thì bày lên mâm để nếm ngay, có thứ đã xếp từng khăn gói một để biếu khách, như sắp sẵn cho người lên đường, cho quân kéo qua lấy lương ăn. An Tiêm và Nàng Hoa cùng các lão ông xúng xính áo điều, khăn lam đầu rìu, lão bà áo dài nhuộm vỏ só mới, ra đón vua. Vua, vợ vua- cả mẹ vua cũng vừa đến, con trai con gái vua, quan văn quan võ các cõi đều xô nhau ra nếm cơm nén và giò chả Bãi Lở. Vừa quen miệng lại vừa bùi miệng, cơm và thức ăn, thật ngon. Lại thêm, ai cũng cạn luôn mấy tuần rượu tăm nổi tiếng đất bãi, đều ngà ngà cả. Các bà, các cô thì nhấp rượu nếp cẩm. Thật hay. Thế mà chỉ là thức ăn thức uống hàng ngày được làm cho tinh, cho khéo hơn. Ai cũng sửng sốt thấy ra cái ăn bình thường mà quý và nhận thấy chỉ có thưởng thức cái ăn cái uống của đất nước mình mới thấm thía hết miếng ngon từ tấm bé được. Vua tấm tắc khen rồi ở lại luôn đấy cùng các quan nhắm rượu cho đến chiều. Mấy khi đã ngồi xem dân Bãi Lở giã bánh, nén cơm, đổ chè kho, thật nhanh thật thạo. Thế là các cõi, các phường chuyên cỗ bát cầu kỳ năm nay đâm ra ế, vua không vời đến. Cay nhất là bọn chuộng lạ, nem công chả phượng đến thế mà phải thua mọi thứ bánh trái bình thường ở đâu cũng có. Đến hôm tan hội, nhà vua mở đại tiệc thết các quan trong ngoài và các cõi về hội được giải. Hội đầu năm nay cũng khác mọi năm. Chưa bao giờ, kể cả mười lăm bộ trong nước, chưa cõi nào vào dự hội kinh đô mà giật cả ba giải nhất đám. Các cụ lão trong phường đông lân nói:

- Già này đã được xem hội kinh đô từ lúc còn trẻ, thật không bao giờ thấy người ngoài cõi tài đến như ông An Tiêm. Nghe các cụ kể lại thì cả đời trước cũng chưa cõi nào giật được ba giải một hội. Thế mà cõi Bãi Lở năm nay giật giải cả ba! Nhà vua hỏi An Tiêm:

- Người dạy dân thế nào mà giỏi vậy? An Tiêm nói:

- Lúc còn bé theo nhà vua về, tôi thường được nghe người già kể cho biết gốc tích từ khi có đất nước. Đấy là lúc mẹ đưa năm mươi con lên ở từ vùng chân Tam Đảo vắt qua sông Cái sang Tản Viên, anh cả làm vua đầu rồi về sau cha truyền con nối, cùng ở một nhà, đời nào cũng hòa thuận, thiên tử và thần dân tắm cùng sông, cày một ruộng, vua tôi chịu khó chịu khổ mới dựng nên được mười lăm bộ nước Văn Lang ta ngày nay. Kịp đến khi tôi vâng lời nhà vua ra trấn Bãi Lở, ngày đêm nghĩ đến công lao lập ra đất nước của các vua cha, lo sợ mà cố gắng noi theo, quyết làm cho đất Bãi Lở chìm rồi phải sống lại, có được thế mới khỏi phụ lòng tin của nhà vua. Vì vậy mà hơn mười năm nay, người Bãi Lở chúng tôi mải mê không biết thế nào là khó nhọc, ở núi cũng như ở nhà, đi đường đá gập ghềnh, cũng như đi chỗ phẳng. Đến nỗi bọn cõi ất định mưu ác để tranh giải, đào hố giữa bãi thổi cơm thi, nhưng dân tôi hằng ngày đã quen coi bước hũm cũng giống bước nơi bằng, không thể ngã được. Người Bãi Lở chúng tôi quanh năm vác đá đi đánh nhau với trâu nước, chặn cổ đuổi được trâu nước, cho nên không thể đô nào lay nổi những cánh tay đã khiêng đá, dù cho đô cõi Bính đã định xỉa đòn ngầm vào huyệt bắp thịt, rốt cuộc những kẻ thâm thiểm cũng đành chịu ngã ngửa bụng trước đô Bãi Lở chúng tôi mà không giở trò ác được. Người Bãi Lở chúng tôi từ đi mở đất đến nay chưa lúc nào biết đến cái thong thả, ăn không kịp ngồi mâm, đêm không biết có gà gáy tan canh, cho nên, ăn đứng thì phải biết thổi cơm nhanh, lam làm vất vả đêm ngày ròng rã trên đường thì phải biết nén cơm thạo. Ngày nay, Bãi Lở có hạt thóc, có cây mía, có con lợn, con trâu, lúc khổ cũng như lúc sướng, chúng tôi đều nhớ lời vua cha, khi ngài là công tử Lang Liêu, còn hàn vi, nghĩ ra cách làm bánh chưng, bánh dày, có nói:

"Vật trên trời đất và mọi của quý không gì bằng gạo", cho nên chúng tôi càng cố gắng khéo tay làm đấy thôi. Chỉ có một lòng tin và hai chữ kiên tâm mà Bãi Lở mở mang lên được, nay được cùng các cõi đem sức, đem của mình làm ra, mừng rỡ về hội... Nhà vua nghe An Tiêm nói chưa hết lời, đã đùng đùng nổi giận, sai đi bắt ả trùm toán cơm thi cõi ất và người trưởng lò vật cõi Bính. Nhà vua quát:

- Chém! Nhiều người trong hàng quan đứng dậy, ngăn rằng đương tiệc vui, không nên chém người. Nhà vua lại quát:

- Đem bỏ ngục! Lính dẫn ả cõi ất và bọn lò vật cõi Bính ra.

Nhà vua bảo mưu sĩ:

- An Tiêm có công to, cần trọng thưởng. Mưu sĩ tâu:

- An Tiêm có tội, phải khép nó vào tội chết mới được. Nhà vua ngạc nhiên hỏi cớ sao. Mưu sĩ lại tâu:

- Hơn mười năm nay, An Tiêm toàn mưu đồ những chuyện phạm thượng và phản trắc. Đất lở, sóng tràn, nhưng nhờ oai đức nhà vua, đất đã bồi, sông đã lặng, cớ sao nó vẫn đặt tên là Bãi Lở, nó mong cho đất nước long lở à? Ngăn sông lở làm sao nó dám đắp lên ba ngôi núi đá. Đất nước ta mở ra trên sông Cái, có núi Tản Viên và núi Tam Đảo trấn hai hướng trời, nay nó dám đắp núi lên đọ với hướng trời, thế là nó muốn thế nào? ở kinh đô này và trên cả mười lăm bộ nước Văn Lang nhà vua cũng chưa đắp núi đá, chưa đặt bài vè tụng công đức, mà nó dám bắt dân hát kể công, nó dám đắp núi đá cao hơn cả kinh đô, thế là có ý gì? Đất phía ấy có thế chín mươi chín núi, bây giờ nó muốn thêm một ngọn núi nữa để vua tôi phải quay mặt chầu về phía ấy. Nó thật có ý hiểm đến nơi rồi. Ngày nay, ơn nhà vua, nó được về kinh dự hội, lại càng càn rỡ quá lắm. Xưa nay, không cõi nào dám để đứa con trẻ vào đứng trước mặt các quan chấm giải, chẳng những thế, nó còn dám xui trẻ lên đài, làm nhục quan lạc tướng bộ Vũ Ninh ngay trước mặt nhà vua, không còn ra thể thống nữa. Lại như hôm qua, giữa đại tiệc vua ban, nó dám nói ngông, bịa tạc, gây tao loạn trong các hàng quan. Xưa rày, đã nhiều người kể nó vẫn thường khoe rằng làm người ở đời chỉ có mình làm nên mình, không biết trên dưới có ai. Không thể còn kẻ cuồng loạn nào đến như thế nữa! Bây giờ cái thế nó đang lấn tới, được cả ba giải hội, càng ngông cuồng hơn, nếu không tức khắc ngăn chặn đi thì họa về sau không biết đâu mà lường. Chi bằng, nhân nó còn đương ở trong tay ta, như hổ lìa rừng, chim cúp cánh, xin nhà vua hãy kịp thời xử trí. Nhà vua thất kinh:

- Bây giờ ta mới nghĩ ra. Rồi bối rối:

- Làm thế nào bây giờ? Mưu sĩ tâu:

- Ngoài bể Đông có dải đất chưa ai đến bao giờ, nó xấc xược như thế thì bắt nó phải chung thân biệt xứ ra đảo hoang giữa bể để xem nó có phép biến chết thành sống, để xem nó có thân lập nổi thân như nó thường khoác lác hay không. Vả chăng, như thế cũng để dứt mối lo về sau. Nhà vua gật đầu. Thế là cả nhà An Tiêm bị bắt bỏ ngục. Mịt mù ngày đêm. Hai buổi, cai ngục mở hé khe cửa đưa cơm. Ngoài cửa nhà ngục xám ngắt mấy lớp tường đá. Mỗi ngày người tù chỉ còn biết trông lên cái khe đầu tường để đoán lờ mờ lúc ấy là lúc nào. Trong nhà ngục gồ ghề, ngồi nằm trên đá, bốn phía tường đá tảng. Phải khi trời nồm, mồ hôi đá toát nhầy nhụa, lạnh như xăm vào người. Thế mà thỉnh thoảng, trong vòm đá ẩm ướt, nghe vẳng tiếng cười khúc khích, lại có khi tiếng thút thít khóc. Mon và cái Gái đấy. Trẻ con thì cứ vui đấy, buồn đấy, như mưa như nắng. Mon hỏi bố:

- Bố ơi! Nhà ta phải ở đây mãi à? An Tiêm đáp:

- Chưa biết. Gái hỏi bố:

- Bố ơi! Nhà ta có về Bãi Lở nữa không? An Tiêm vuốt đuôi tóc con gái. Mon lại hỏi:

- Bố ơi! Không ở đây thì rồi nhà ta đi đâu. An Tiêm đáp:

- Đợi xem, con ạ. Trong bóng tối đầy hơi đá nhớp nháp. Gái nằm vào lòng mẹ, tiu nghỉu. Mon im lặng, vẻ tấm tức. Nhiều lúc, chẳng cười chẳng khóc, hai đứa cứ buồn thiu như thế. Vì không thể hiểu đầu đuôi ra sao, đương ở ngoài nhà trạm, người Bãi Lở quây quần sửa soạn trở về thì đột nhiên có lính đến gọi đi, rồi đuổi cả nhà phải chui vào hầm đá này. Cái gì không rõ thì tức không chịu được! Lát sau, An Tiêm nói:

- Các con ơi, ngồi nhích lại đây bố kể các con nghe chuyện ngày trước. Các con lớn lên chỉ trông thấy Bãi Lở đã thành làng xóm, các con không biết những ngày đầu ra Bãi Lở gian nan chẳng khác mấy hôm nay ở trong nhà đá này đâu...

Chuyện Bãi Lở ngày xưa... Những câu chuyện tung hoành ngày trước của An Tiêm được đem kể lại trong cái hầm đá bức bối, ẩm ướt. Ngoài tường, cái vui ấm giêng hai còn đương giỡn qua. Mon và Gái thấy mình ngồi ướp trong mùi thơm hoa đại. Anh em nó đoán ngoài bờ tường đá có cây đại, mùi hoa thì không biết đâu tòa ngang dãy dọc, đâu là ngục tối, mùi hoa cứ ngọt ngào đưa khắp nơi, đến cho tất cả mọi người. Một tiếng chim hót anh ánh trên khe đá. Rồi bóng chiếc lá đại hơi xô động, vờn lên tường một chút nắng nhạt. Một con chim bạc má nho nhỏ vừa nhún chân nhảy qua. Quả nhiên là mùa nảy lộc còn đương hớn hở thấp thoáng ngoài kia. Câu chuyện kỳ thú bố kể càng mê mải, chờn vờn như bông hoa lấp ló trên vách đá. Ngày ấy, sông Cái chưa hiền như bây giờ. Mùa nước đến, sông cứ réo ầm ầm, thúc lên thúc xuống từng tảng nước, tảng đất. Chỉ một thoáng mà những con nước đã hùng hục ngoạm xuống được cả một cánh bãi. Đất và nước vào trận giáp lá cà. Người cứu đất rầm rầm kéo đi vác đá ném xuống đánh nhau với nước. Có lúc nước thúc dữ, quét sạch đá, đuổi mọi người phải bạt vào núi. Nước vẫn đuổi theo ùa lên, ngập tràn lan. Nhưng con người càng tỏ ra kiên gan. Nước không thể dâng mãi. Đến một lúc nước cũng phải mỏi, nước rút xuống, thế là người lại lũ lượt hò nhau vác đá xô ra, ném xuống chặn sông. Cứ thế, dằng dai năm này sang năm khác, giữ từng sải đất, phải, từng sải đất, mới nên được cái Bãi Lở trù phú bên sông ngày nay. Mon nằm gối lên đầu gối bố. Câu chuyện hay đã xua không cho cơn buồn ngủ đậu xuống. Đôi mắt cứ thao láo. Gái thì thao thức hỏi mẹ: nếu ngày ấy con mà được đi ném đá chặn nước lũ thì hòn đá con vác có to bằng tảng đá vách hầm này không? An Tiêm nói:

- Các con ạ, khổ thế nhưng vẫn sống. Bởi vì con người có lá gan. Mon định hỏi, lại thôi. Cho đến lúc đi ngủ, Mon mới hỏi câu ấy:

- Làm thế nào bố có được cái gan? An Tiêm nói:

- Con ạ, bố sẽ kể chuyện bố ngày xưa cho các con nghe. Lại đến những đêm nghe bố kể chuyện thuở bé của bố. Tiếng trống đồng ập ình xa xa. Đến lúc đã buồn ngủ díp hai mắt lại mà còn nghe tiếng trống và tiếng sóng trong câu chuyện trào lên. ...

Cho đến bây giờ, khi nhớ lại thuở ấy, bên tai An Tiêm cũng còn vang tiếng nước vỗ. Mới sinh ra, An Tiêm ở bờ biển. Những đợt sóng cao lù lù từ ngoài khơi chạy vào, vừa chạy vừa gào, ập xuống, muốn lôi ngay thằng bé ra khơi. Nhưng thằng bé vẫn bám được vào đất. Thằng bé vẫn lang thang sống trên dọc biển Đông. An Tiêm lớn lên, cha mẹ mất từ lúc ẵm ngửa, không biết mình là ai. Những chòm xóm ven biển đã chuyền tay nhau nuôi thằng bé. Mới đầu thì ai cũng có lòng thương. Nhưng sau vì mỗi người đều phải đêm ngày mải miết đi đâm cá, đi gõ hà, gõ ngao kiếm miếng ăn, thế là thằng bé cứ bò đi vơ vẩn, người phải đổi tay nuôi, người này vứt cho người khác. Có người không muốn nuôi, đem bỏ nó ra bãi cho sóng liếm đi. Có người thương, lại ra ẵm về. Bồng bềnh giữa cái sống cái chết như thế, thằng bé trải gian truân từng ngày, vừa lớn lên, vừa lưu lạc, đi nhiều quá đến nỗi trí nhớ mỏng manh của nó không còn nhớ được hôm qua, năm qua ở đâu nữa. Quãng mười tuổi, trạc như Mon, như Gỵi - như tuổi các con bây giờ, bằng tuổi ấy, bé An Tiêm đã dày dạn lắm, khắp mình đã trổ chàm vằn vèo, xám xịt, để hằng ngày xuống mò cái ăn dưới nước thì cá mập, cá trình khó nhìn thấy mà đuổi bắt ăn thịt. Có một lần, bé An Tiêm cắp xĩa ra biển đâm cá. An Tiêm bơi một hơi ra ngoài khơi, rồi lặn xuống. Muốn được cá to phải tìm chỗ nước sâu. Dưới nước, mở mắt tìm cá trong ánh sáng vàng chóe. Một đàn cá mập ngửi thấy hơi người, xộc đến. Những cái miệng cá mập hoác ra bằng cái chiêng, đỏ như máu, răng xít lủa tủa nhọn hoắt, có thể cắn đôi, có thể nuốt chửng người. An Tiêm quẫy như con cá măng bé nhỏ, giữa cơn gầm gào của đàn sói nước. Bình tĩnh, An Tiêm vừa bơi lùi, vừa giơ xĩa lên chống đỡ. Một cái miệng cá mập đỏ lừ ngoạp tới, chĩa răng, bị luôn một xĩa. Con cá nghiêng người, nhảo ra. Mấy cái mồm máu khác nhâu nhâu đến. Vừa đâm con này trước mặt, con khác đã xông đến đớp đằng chân. An Tiêm thoắt co chân, quay xĩa lại, đâm suốt... Cứ vùng vẫy tơi bời thế, dần dần, An Tiêm lùi vào được chỗ cạn. Đuổi theo mùi máu, bọn cá mập lồi mắt tròn xoe, càng say máu. Nhưng đã vào tới nơi nước nông nổi gờ lưng lên rồi, đàn cá mập không dám theo nữa, cứ đánh sóng ầm ầm té nước lên.

An Tiêm lóp ngóp bò vào bờ. Bị những cái đuôi cá mập tát vào, bấy giờ An Tiêm mới nhìn thấy khắp người bật máu, chảy ròng ròng, đỏ xám. Nhưng tay vẫn cầm cái xĩa. An Tiêm lớn lên giữa những hiểm nghèo ấy. Trong cái chết mà không chết, thì cái sống phải mạnh. Mon và Gái cứ nín hơi, nhịn thở, dán mắt lên nhìn bố, lòng đầy kính trọng, khâm phục. Bây giờ thì quên hẳn mình đương ngồi trong nhà đá. Hai đứa trẻ thả mình vào những tưởng tượng mênh mông tuổi thơ của bố đương kể, có cá mập, có xĩa mũi đồng sắc như nước, có đêm trăng ngủ trên tảng đá mát rợi, có bóng sao như những cái hoa đèn rơi xuống chân trời, có miếng cá tươi ngọt thơm, có bước chân len lỏi đi trên bờ cát mãi đến tận cuối trời. Hết ngày sang đêm, bố vẫn kể chuyện. Tiếng con chim mê ngủ bỗng hót trên vách đá đọng lại trong ánh trăng. Rồi một con chim gáy nào, tưởng trời sáng, tiếng cúc cu của nó vui hẳn lên. Đến một ngày kia, vua cha xuống bộ Ninh Hải mở hội thi cày. Nhà vua cũng cày thi với dân các cõi mới đến đấy phá đất. An Tiêm chỉ đứng cao ngang ngực người lớn, đã đến hội. Chẳng những thế, An Tiêm cày vừa nhanh vừa chắc, được nhà vua thưởng lụa, cho đứng ngang hàng những người cày giỏi. Sau đó, nhà vua gọi An Tiêm đến, rồi cho theo về kinh đô. ... Chợt nghe gà nhà ai le te gáy sang canh ngoài đầu tường đá, Mon hỏi bố:

- Về kinh đô rồi sao nữa, hả bố?

- Vài năm sau, đi đắp núi trị thủy ở Bãi Lở.

- à đi đánh nhau với trâu thần ở sông Cái...

- Bố chỉ ở bể Đông đến năm ấy nhưng nghĩa câu chuyện gian truân ấy thì còn dài suốt đời, các con ạ. Cái nghĩa làm người, có chí thì nên. Gái ngẫm nghĩ, buông một câu không đầu đuôi:

- Bây giờ, bố ạ. An Tiêm cười, quen tay xoa mớ tóc đuôi bò nhỏ mướt, lưa thưa trên đầu con gái. An Tiêm nói như ăn ý với câu nói đứt quãng của con gái:

- Phải, như bây giờ. Trong bốn bức tường đá, mà không buồn, vẫn có tiếng cười, các con vẫn cười. Tường đá có dày mấy cũng không giữ nổi chân con người đâu. Gái bảo mẹ:

- Thế thì mẹ đừng buồn, mẹ ạ. Nàng Hoa cũng phải cười:

- Mới thật bố nào con ấy! Mon nói:

- Bây giờ đến lượt mẹ kể chuyện! Nàng Hoa lại kể chuyện cổ tích trầu cau cho các con nghe. Chuyện kể đến chỗ người em hóa hòn đá, người anh hóa cây cau, vợ người anh thành dây trầu không leo cây cau, thì Mon và Gái đều bùi ngùi thương. Gái rơm rớm nước mắt. Cũng từ lúc ấy, cảm thấy anh em càng quý mến nhau hơn.

Tảng sáng hôm ấy, nghe ngoài tường có tiếng ầm ầm, rồi tiếng kêu khóc râm ran lúc xa lúc gần. An Tiêm đứng dậy, áp tai ra phía khe hở. Cũng không hiểu chuyện gì đương xảy ra ngoài kia. Khi đó, ngoài các phường dân càng ngày càng xôn xao từ lúc loang cái tin cả nhà ông An Tiêm bị bắt bỏ ngục. Người thật thà như đếm cũng phải nghĩ ra đây là thủ đoạn của bọn độc ác, mà thế nào cũng có bàn tay quan lạc tướng bộ Vũ Ninh và bộ Hoài Hoan, hai ông quan này còn đương cay đắng vì nỗi mất mặt trong chuyện giật giải vừa rồi. Chẳng bao lâu, tiếng đồn cả nhà An Tiêm bị bỏ ngục đã dậy khắp. Lại thêm, những người Bãi Lở tự dưng mất chủ, hàng trăm người ngày nào cũng lang thang đi nghe ngóng. Họ đi ngơ ngác, tiu nghỉu như người có tội, như gà con lạc mẹ. Càng làm cho cả trong thành ngoài nội động lòng thương và thêm tức những kẻ hại người. Cơn giận của mọi người mỗi lúc một tăng. Câu chuyện kín không còn ai ghé tai thì thào và không chờ đợi được nữa. Những tiếng ồn ào đôi lúc vẳng vào tận khe đá chính là tiếng hò hét, kêu khóc của người kinh đô căm uất vì nỗi oan của An Tiêm. Tưởng như nếu cứ cả hàng nghìn người tụ lại thì chắc không thể mũi mác hay tường đá nào cản nổi. Bọn mưu sĩ bàn nhau:

- Hay là...

- Tâu nhà vua cho đày ngay nó đi.

- Phải.

- Cứ phao tin ngày ấy... ngày ấy... nhà vua cho quan lạc tướng An Tiêm đi nhậm chức ở Cửu Chân.

Một sớm kia, Phong Châu còn ngủ im trong làn sương dày. Những người đi mò hến và bắt ốc, hớt tôm sớm trong bờ sông Cái nhìn ra còn thấy từng đoàn thuyền rúc mũi vào nhau, đỗ san sát. Thấp thoáng ánh lửa nấu nước uống sớm ở đầu khoang nào đó vừa chợt ló ánh lên lại bị vùi ngay vào mù sương trắng xóa vừa xuống tận mặt nước, làm cho cái bến sớm càng hiu hắt hơn. Giữa lúc ấy, có sáu chiếc thuyền to lần lượt rời bến, êm như biến đi. Thuyền nào cũng đốc sào đẩy lẳng lặng xuôi ra đến giữa dòng mù sương mới động chèo. Đấy là đoàn thuyền áp giải cả nhà An Tiêm đi biệt xứ. Vợ chồng An Tiêm và hai con ló đầu lên khoang thuyền nhìn lại cái bến vẫn đang còn ngủ trong làn sương thấp bọc hai bên bờ nước, chỉ thấy nhấp nhô người lầm lũi mò hến và những con vạc đi ăn đêm về. An Tiêm cảm thấy bùi ngùi, khi nhớ rằng cũng cứ ngược con sông Cái, chèo độ tháng ròng thì tới vùng Bãi Lở. Ba Vì núi nhọn hoắt trên đỉnh Tản Viên đối nhau với bên kia ba gờ núi Tam Đảo xanh thẫm, trông cũng đoán biết cứ theo dòng sông Cái này lên sẽ qua Bãi Lở, dưới chỗ xanh xanh ấy là đất Bãi Lở. An Tiêm cười, nói:

- Mình ạ, hơn mười năm trước, vợ chồng ta lên ngược đi mở đất, bây giờ thì xuống xuôi, cũng đi mở đất... An Tiêm trỏ tay bảo hai con:

- Nhà ta trước ở đằng sau làn sương kia. Trong tâm trí hai người lớn, Bãi Lở hiện ra, lẫn lộn những nét buồn. Mon và Gái đương thích chí. Trẻ con ở cạn, mỗi khi được cưỡi lên nước, bao giờ cũng vui. Chỉ một bơi chèo đẩy con thuyền xa vài sải, đã ra vẻ phong cảnh đổi khác rồi. Bấy giờ, đỉnh cao trời trong, mặt nước còn mờ sương. Mon nói:

- Mọi khi con trông thấy khói thổi cơm sớm Bãi Lở bay xuống sông cũng thành sương dày thế này.

Gái lạ lùng nhìn những đàn vạc đi ăn về bay lẻ tẻ trên dòng sông tan sương, phút chốc đôi cánh vỗ nhịp nhàng đã loang loáng chấp chới đầy ánh nắng, càng bay càng xa. Chẳng bao lâu, sáu chiếc thuyền giương buồm băng băng xuôi trên dòng cứ mỗi lúc một lớn, hai bên bờ càng tít tắp. Bỗng đằng đuôi, hiện ra một chiếc đò dọc nhỏ như chiếc lá tre, vun vút đuổi theo. Đã sang ngày thứ hai rời bến. Đúng ngày mà người kinh đô đã nghe đồn hôm ấy quan lạc tướng An Tiêm đi nhậm chức. Người tiễn quan lạc tướng kéo ùn ùn ra bến sông Cái. Đến sáng đã đông đặc khắp ven sông. Nhưng chờ đến trưa, rồi chiều cũng không thấy gì. Bến quan thuyền bè xuôi ngược và ra vào áp mạn chen chúc kín mặt nước. Người ra tiễn cứ đi hỏi thăm mãi, cũng không ai biết thuyền quan lạc tướng An Tiêm đi nhậm chức ở Cửu Chân đậu đâu. Các cụ già Bãi Lở lo lắng:

- Có khi chủ tướng đi rồi. Một cụ nói:

- Tôi dò thấy một người lái đò ngang nói tinh mơ hai hôm trước có đoàn sáu thuyền xuôi, nghe đồn thuyền quan trảy ra cửa bể.

- Thế thì đúng rồi. Một cụ thở dài:

- Chuyến này chủ tướng đi, lành ít dữ nhiều. Nhưng mới đi hai hôm, chắc không xa.

Thế rồi, một chiếc thuyền nhỏ rời bến, vụt đi như tên bắn. Trên thuyền, một cụ già và một người trai trẻ, có đủ đồ nghề lưới gõ như chiếc thúng câu được con nước đương xuôi mạnh. Chẳng bao lâu đã bắt kịp được đuôi đoàn thuyền chở An Tiêm. Cái thuyền nhỏ khôn ngoan không áp vào hàng thuyền trên đầu, cũng không đến bên thuyền cuối, mà họ chèo ghé tới chiếc thuyền thứ năm, kề ngay dưới đuôi lái. Bấy giờ nước đương cữ lớn, lại được gió, những cánh buồm cói căng hết góc, còn người chèo thuyền thì được lúc thong thả thả tay, nằm dài cả ra ngủ trên mui. Chỉ có mỗi người lái phải thức, đương gà gưỡng đưa đẩy cái cán lái to tướng. ạng già dưới mặt nước gọi vọng lên:

- Chú lính ơi! Người lính choàng trông ra:

- Gì thế, cụ? ạng già nói:

- Già hỏi không phải thì chú bỏ đi cho, có phải ông An Tiêm trên thuyền này? Người lính trợn mắt, đảo nhìn vội lên mặt sông phía trước. Đoàn thuyền vẫn xuôi thẳng băng giữa cơn gió bấc nhạt nhẽo còn sót lại của những ngày cuối mùa hoa bưởi đương lồng lộng trong nắng nhẹ, làm cho con nước cứ truồi đi đâm lại, xôn xao lên một cách kỳ lạ. Người lính hỏi khẽ xuống:

- Cụ già ở đâu?

- Già người Bãi Lở.

- ...

- Già ra đến bờ sông thì nghe tin chủ tướng đi rồi. Già này đã gần kề miệng lỗ, không biết có còn được gặp chủ tướng lần nào nữa không, chú lính thương già.

Người lính nghe ông già nói thế thì mủi lòng. Vả chăng, ai người đã xem hội kinh đô vừa rồi mà không mến yêu người Bãi Lở! Bèn quăng cái chão néo xuống cho chiếc thúng con buộc núp vào đuôi lái, rồi đỡ ông già và người trẻ leo lên.

- Tôi đi mời quan lạc tướng lại đây. Này, đừng ai lên mui, thuyền quan tuần qua mà biết thì chết cả.

- Dạ dạ... ạng già vừa trông thấy An Tiêm, đã rơi nước mắt. An Tiêm chỉ cười:

- ạng lão chớ lo cho tôi. Gian nan đến như khi Bãi Lở, thì cũng đến thế mà thôi. Chân cứng đá mềm, ông lão ạ. ạng già đưa biếu An Tiêm một đôi giày cỏ và một chiếc nón lá cọ.

- Đây không phải của riêng lão mà là của người Bãi Lở tiễn chân chủ tướng. Vật thì thường, nhưng quý ở lòng, xin chủ tướng giữ cẩn thận, có khi cần đến. An Tiêm toan nói:

"Khi xuống thuyền, đến lúc gà gáy sắp đi, bọn quan quân còn khám gắt khám kỹ từng nẹp áo, không cho mang gì theo, cốt hãm ta vào chỗ chết", nhưng An Tiêm lại không nói như thế. An Tiêm bảo ông lão:

- Những người ấy không hiểu được ta. Khám thì khám, phỏng thử đem đi một mảy thóc, một mảy hạt vừng thì có khó nỗi gì! Nhưng ta không mang, ta nhất quyết không khuất tất, không mang. Con người nương tựa ở bàn chân bàn tay này chứ còn ở đâu. Ta chẳng cần một mảy may gì. ạng lão khẩn khoản:

- Vật thì thường, nhưng quý ở tấm lòng người Bãi Lở chúng tôi, xin chủ tướng biết cho... Nói mãi, An Tiêm phải nhận. Rồi lại cứ tự nhiên và sôi nổi bàn bạc, dặn dò mọi chuyện làm ăn ở Bãi Lở. Trước sau, An Tiêm nói đi nói lại:

- Phải trông con nước mà chặn lại thì mới có đất sống được, bảo nhau thế.

- Chủ tướng đừng lo, bao nhiêu năm nay người Bãi Lở ta đã biết ngăn lũ lấy đất sống. Nhưng An Tiêm vẫn khắc khoải. Buồn như chim lìa đàn, như tổ ong vỡ, ong mất chúa. Mặt trời đã gác núi. Chiều mờ mờ trên sông. An Tiêm và ông già cùng người trẻ Bãi Lở vẫn ngồi trò chuyện, chưa nỡ chia tay.

Bỗng có tiếng quát dưới lòng sông vang lên:

- Thuyền nào đây? Lúc ấy đương buổi tuần chiều. Thấy có cái thúng lạ buộc vào thuyền lớn, bọn lính tuần quát hỏi. Người lính lái thuyền vội bảo An Tiêm lui vào trong khoang. Rồi người lính cầm hai cái giỏ to, nhúng nước, ném lên vai cho người trai trẻ và ông già. Sau đó, hai người trèo xuống. Như người đánh cá trên sông. Người lính nọ ngồi lái thuyền, thò đầu ra ngoài cửa, đủng đỉnh, tay gạt lái miệng nói vọng ra, trả lời bọn lính tuần:

- Gọi phường chài lên đổi cá để ăn lấy sức chèo đêm đấy!

- Đã bẩm quan chưa?

- Chỉ đổi cá ăn thôi, việc gì phải bẩm.

- Không được, không được. Chiếc thuyền canh chèo lướt lên, đi báo quan.

Thấy thế, người lính buông ngay tay lái rồi hấp tấp nhảy theo xuống chiếc thuyền của hai người Bãi Lở. Người lính ấy sợ quan đến khám thì có khi phải tội, đã bỏ trốn. Chiếc thuyền nhỏ được cởi dây trôi băng ra giữa dòng, cả ba người cùng chèo lẩn nhanh vào sương mù đã bắt đầu giăng trên mặt sông rộng. Lát sau, ở đoàn thuyền, mấy cái thúng chở lính đã ập tới. Họ lên thuyền thấy vợ chồng con cái An Tiêm vẫn bình thường ngồi trong khoang cái. Nhưng hỏi đến người lái lúc nãy vừa đối đáp thì không thấy. Bốn phía mặt nước mù mịt rồi. Cả toán chèo thuyền ấy phải đóng gông vào cổ, lập tức bị điệu sang tù giam trong gian đáy thuyền khác. Đoàn thuyền xuôi ròng rã hơn mười ngày thì ra đến cửa biển. Nhìn ngược lại, không còn biết núi Tản Viên, núi Tam Đảo ở đâu. Rồi có đến mấy ngày nữa, vẫn chỉ thấy nước đỏ xuộm như đi trong sông. Đấy là vì phù sa ở cửa sông Cái tuôn ra ngày đêm bồi biển thành những sườn cát non lênh láng màu đỏ son. Xa xa, những vùng nấm đá đỏ hắt như ánh hoàng hôn. Những bãi hầu lởm chởm giống những bông hoa đá vừa nở vừa chuyển động. Cửa sông đã lùi lại, man mác dần dần, rồi có một lúc, trông lại, chẳng thấy đất quê đâu, đến khi ngước ra trước mặt thì chỉ còn một trời một nước với từng đợt sóng nguồn dài như những con trăn quăng mình, và từng đợt con mòng, con sếu bay thành đàn trên trời cao. Bấy giờ đã vào mùa nắng, những đàn mòng, đàn sếu đi tránh rét bay rợp vùng biển trở về phương bắc. Lần đầu tiên, anh em Mon trông thấy biển. Còn đương ngơ ngác, những cơn gió mạnh đã thổi tới, muốn làm bay người xuống nước. Từ lúc ấy, nỗi nhớ đất cứ bâng khuâng day dứt hai anh em. Những dấu vết sau cùng của mùa hoa còn sót lại cũng đã lặng lẽ qua. Mọi hôm, còn ở trong sông, cứ đến chặp tối, khi những cánh lính đổi bọn chèo thì những tiếng hò lại rộn mặt sóng. Phách nhất chèo mở mái ra Phách nhì chân dặm Phách ba reo hò Phách tư bớt dặm khoan chèo Dô ta Dô tà...

Bây giờ, chặp tối im bặt. Những người lính chèo thuyền ra biển sợ không dám cất tiếng hò nữa. Trên mặt biển, ngày đêm chuyển động những cơn gió lớn báo hiệu trận bão đầu mùa có thể thổi đến, làm vật vã mệt nhọc cả người và thuyền. Vừa một tuần trăng. Đã sang vùng biển xanh như lá và từ đây, chỉ còn những thăm thẳm buồn bã thế. Một hôm, thấy bóng chim rập rờn đầu thuyền, rồi bay trở lại. An Tiêm nói:

- Thế là ta ra đã xa lắm.

- Sao bố biết?

- Chim đã bay trở lại đất trong bờ rồi. Suốt đêm, đoàn thuyền vào vùng biển phẳng lặng. Giàn sao lấp lánh cả trên trời dưới nước và tiếng nước óc ách gõ nhịp quanh người. Đột nhiên, gần sáng, Mon đương ngủ say, bỗng mê thấy mình ngã vật mạnh vào bên mạn. Đến khi thật sự thấy đau điếng hẳn bên vai, mới biết ngã thật. Lúc ấy, Mon nhìn ra, cả nhà đã nhốn nháo xô giạt về một phía. Chiếc đèn bấc quang treo trên vách khoang xoay tròn. Rồi vụt tắt. Tiếng thình thình đập vào mạn thuyền, như vồ nện. Ngay trên đầu, chân người chạy liên tiếp xô lên xô xuống ngoài mui. Tiếng hú, tiếng xô của những người chèo báo hiệu đẩy thuyền cho nhau kéo dài rồi mất hút vào tiếng gió, tiếng sóng và bóng tối gào thét. An Tiêm nói:

- Bão rồi. Vợ chồng con cái ngồi quây một chỗ trong chiếc thuyền đương nhấp nhô nhảy nhót. Có lúc mất đà, thuyền trượt tuột theo chân sóng, người như bị ngã cây, ruột gan hẵng lên. Rồi tự dưng sóng lại ào ào trở lại, quay cuồng, xoay con thuyền chong chóng. Cơn say sóng mấy hôm vừa bớt, bây giờ lại nôn nao.

Nàng Hoa gục một góc khoang. Gái nằm lả. Chỉ còn mình An Tiêm ngồi nguyên, có Mon bám hai tay lên vai bố. Như không biết cả bốn phía sóng đương điên đảo đập chiếc thuyền. Một chiếc thuyền đằng sau bị sóng độn nhô vút lên, rồi lao xuống, không thấy ngoi lên nữa. Những cơn sóng ngầm đã lắc vỡ tan cái thuyền, ngay trước mắt. An Tiêm bình tĩnh nói:

- Các con ạ, lúc nào trông ra bể, các con cứ nhớ câu chuyện Bãi Lở bố kể hôm nọ nhé. Các con cứ nhớ chuyện bố khi bố còn bé, bố ở bờ bể, ngày nào cũng thấy sóng gió thế này, đến khi lên Bãi Lở, ngày nào trời đất cũng thử thách thế này. Đây cũng lại thế, hàng nghìn hàng vạn con trăn bể, con rắn bể, con trâu bể đến húc, đến quấn, đến thử lá gan các con đấy. Mon ngẩng đầu, rắn rỏi hỏi bố:

- Bây giờ lấy đá ở đâu ném nó? An Tiêm cười:

- à, giỏi lắm! Nhưng lúc này chúng ta đương ở trong thuyền. Bình tĩnh, nó không thể làm gì được. Nó không thể hung hăng mãi thế đâu.

- Tại sao vậy?

- Sóng to không thể to mãi. Có lúc sóng cũng phải mỏi, phải rút chạy mà ta thì vẫn như thường. Con cứ chú ý mà xem. Trời đã mờ sáng, Mon trông ra ngoài mặt biển, thấy hàng nghìn vạn con thủy quái xám sì hung hăng dựng đứng lên, nanh vuốt trắng xóa. Cái thuyền càng bị đe dọa, cứ phút chốc bị nhấc bổng, phút chốc bị ném sâu xuống. Mon khiếp quá, nhắm mắt. Nhưng Mon lại nhớ chuyện bố kể. Những ngày đầu bố mẹ đến Bãi Lở. Những ngày thuở bé trôi nổi của bố. Mặt biển và con sóng ngày ấy cũng hung tợn thế này... mà bố mình vẫn mạnh khỏe. Thế là Mon bảo Gái:

- Đừng nhắm mắt, đừng sợ, em ạ!

Mon cứ mở mắt trân trân nhìn qua cái lỗ ống tre cửa khoang bằng bàn tay. Mỗi lần thuyền bị vùi trong sóng, sóng ngầm lắc thuyền kêu răng rắc, nước ào qua mui, lại phun ộc vào như mở cống. Mon không sợ, Mon cứ nhìn. Mon không sợ! Như bố ngày trước. Không sợ! Quả nhiên, đến chiều, những làn sóng dữ dần dần thu mình lại, biến đâu mất. Biển lại bâng khuâng, hiền hậu. ồ, sóng cũng phải có lúc mỏi, thế thật. Một hôm, An Tiêm nói:

- Sắp đến đảo.

- Sao bố biết?

- Sóng cứ lăn tăn lúc nhỏ lúc to, sóng vướng bờ đằng kia rồi mà. Đến chiều, thấy nổi lên ngang mặt một vệt đen lởm chởm dài. Mon hỏi bố:

- Đảo này a?

- Có nhẽ thế. Mon bỗng thấy cái đảo này cũng thường thôi. Đằng xa, Mon thấy mình đứng lên, cao hơn cả hòn đảo lúc ấy chỉ dẹt đét bằng sợi chỉ trên mặt nước. Mon hỏi bố:

- Đảo này có người ở không ạ? An Tiêm nhìn con, ngần ngừ, rồi nói:

- Bố chưa biết. An Tiêm không ngơ ngác, cũng không thơ thới như các con. An Tiêm trầm ngâm. Thế là cuộc đời sắp sang khúc khác. An Tiêm lặng nhìn bờ đảo xám dài, lạnh lẽo dầm chân trong nước và sương mù. Mặt biển đùn lên những cơn gió đột ngột, đẩy đoàn thuyền lướt nhanh vào bóng tối run rẩy, bạt về phía cái đảo hoang.

Chạng vạng tối, đoàn thuyền đến sát bờ đảo

- vách đá trố ra như tường dựng. Còn ở ngoài mênh mông, Mon đứng trên mui, thấy bóng đảo chỉ đến ngang ống chân. Bây giờ, ngồi dưới thuyền ngửa cổ nhìn lên, không trông hết được một tảng đá. Rồi, núi đương sẫm tím thoắt đổi màu. Núi vừa gần kề trên sống mũi bỗng mù mịt tận đâu. Hoàng hôn vàng ệch dựng cả một rặng núi cắm chân xuống nước, xa trước mặt. Đằng sau, mây cuồn cuộn lan đầy mặt biển như khói hun. Viên quan coi thuyền ra đứng ngoài mũi, nhìn ngang đảo, cơ chừng muốn xem chỗ nào áp mạn được rồi gọi các thuyền lại. Mặt tái ngắt như còn hoảng cơn bão, viên quan dằn giọng:

- Từ giờ đến tối, phải tìm cách bỏ cho được người ta lên trên kia. Rồi quay ra luôn. Một người lính nói:

- Trời im ắng lắm. Chỉ sợ sắp có gió bốc thôi. Mùa này mà gặp gió cạn còn sợ hơn bão nữa! Viên quan cau mặt, trỏ tay lên đảo, nói:

- Biết thế nào mà nằm đêm trên núi ma kia! Muốn tao tống một mình mày lên a? Không ai dám cãi một lời. Tất cả đoàn thuyền đỗ lại ngoài vùng nước ráng đỏ. Viên quan tránh mặt không gặp An Tiêm mà chỉ có một cái thuyền đưa vợ chồng con cái An Tiêm từ từ lướt vào mặt nước lẫn đá và bóng tối. An Tiêm trông lại, chép miệng:

- Bọn nhát sợ đã rúm khoeo lại ngoài kia cả rồi!

Nàng Hoa cúi mặt, lặng im. Thấy bố bảo bọn hèn nhát như thế, lúc đầu Mon và Gái cũng có ý sờ sợ. Thuyền vào gần. Bóng đảo đổ sụp xuống trước mặt, mù mịt cả hai phía. Nhưng thấy bố nhìn thẳng vào núi, hai mắt đăm đăm, cằm bạnh suy nghĩ, không nói gì nữa, hai anh em cũng vững bụng hơn. Thuyền đã kề gờ đá. Nhưng không cách nào bám. Những đợt sóng lại đẩy thuyền rập rềnh đập vào thành đá rồi thuyền lại trôi ra. Cố trèo men một quãng nữa, lại phải quay lại. Chẳng tìm ra chỗ nào bám được. Cứ dò dẫm mãi thì tối trên vực mất. Bỗng thấy một vấu đá lừng lững chĩa ra. Mấy người lính xuống cái thúng, loay hoay bơi liều vào, giắt theo chiếc chạc lớn. Cái chạc được kéo theo, quàng trên vấu đá. Người đứng trên, lôi thuyền áp khít vào rồi chìa một khúc gỗ ra làm cầu. Cầu tròng trành như cầu noi. Dưới vực sâu im lặng không một tiếng động nước. Người bước cứ bước, không biết thế nào, không dám trông xuống. An Tiêm, lưng cõng Mon, tay dắt Nàng Hoa. Nàng Hoa cõng Gái. Khúc gỗ rung rẩy bàn chân. Một người lính kêu ồi ồi rồi xốc nhanh cái Gái lên trước, thế là cả Nàng Hoa cũng bíu người lính theo lên được. An Tiêm còn quay lại, định khiêng hai tay nải bánh dày, nhưng mấy người lính đã nhanh tay cắp đỡ. Tất cả lên đảo chỉ có thế. Họ ngồi lại chon von ngay trên mỏm đá. Chưa tìm được lối nào trèo lên nữa. Trời đã tối thui. Trên đỉnh núi, mây thấp vùn vụt đổi màu đỏ đậm như những lá cờ điều phất qua. Đám người chụm lại, bật hồng. Có người tìm quanh, quơ được mấy mảng rêu khô, nhen thành đám lửa. Chưa phải mùa lạnh, nhưng hơi núi gây gây toát ra bóng tối, đã lạnh thít người lại rồi. Đống lửa nhỏ lom đom, run rẩy. Những người lính lại móc ở đâu được mấy nắm rêu nữa, buộc thành cái nòm dài như chiếc đòn vác lên vai. Họ làm đuốc để dò đường trở xuống thuyền. Một người nói:

- Bây giờ chúng tôi theo lệnh quan phải trở lại. Xin chủ tướng biết cho lòng thành của chúng tôi. Có mệnh hệ thế nào đừng oán chúng tôi. An Tiêm cười, nói:

- Không, không, thế là các người đã tốt với chúng tôi quá. Các người cõng giùm các cháu lên, lại để cho lương ăn.

Lại đốt cho đống lửa. ở chỗ cùng trời cuối đất này, tôi không bao giờ quên được. Tối rồi, hãy trở lại thôi. Bó đuốc rêu trên vai người lính đã cháy đỏ. Bóng những người trở xuống thuyền lẫn vào bóng tối mờ, còn trông thấy mảnh ván nhấp nhoáng. Họ đã sang thuyền được. Phút chốc, tiếng rút soạt mảnh gỗ rồi mái chèo khua oàm oạp trên nước, nghe một lát, thuyền đã ra xa, ra xa, rồi im. Chỉ còn trông cái nòm đuốc đỏ mờ mờ trong sương trên đầu thuyền, biết dưới ấy có người và những người ấy đương rời đảo ra khơi. Hốt nhiên, từ các đỉnh núi, như cùng một lúc, khạc ra một tiếng gầm chuyển động. ấy là một cơn giông cạn xoáy tới, tràn luồn qua các khe đá. Những đầu gió va vào nhau, vập vào núi, phát ra những tiếng kinh rợn. Đống lửa trước mặt vợ chồng An Tiêm bốc lên, xoáy đi mất. Xung quanh tối bưng. Dưới kia, cái nòm đuốc của đám lính trên thuyền cũng đương tan rữa vào bóng tối. Bắt đầu có tiếng sóng hú. Rồi sóng dâng cao lên trên đầu, hình như trông thấy cái thuyền dềnh lên, một bóng đen như núi đổ lao qua rồi chìm xuống, giữa tiếng gầm sóng có tiếng người kêu thét như từ nơi âm ty nào lọt tới. Đoàn thuyền, đoàn người ngoài kia, mới nãy còn thấy thấp thoáng ánh lửa, bây giờ chỉ còn bóng tối và tiếng biển gào. Có lẽ cũng ngụp cả rồi. An Tiêm thét to:

- Bíu lấy đá, bíu lấy đá, mình ơi, các con ơi! An Tiêm đã nằm rạp rồi lại chồm ngay lên, gạt Mon và Gái và Nàng Hoa lăn vào trong giữa gờ đá. Những cơn gió lại ầm ầm giựt lên, đánh cả những tảng đá to đổ rào rào xuống biển. Trông ra thấy những con sóng trắng xóa bóng đêm. Con sóng khủng khiếp gieo xuống ngay chỗ lúc nãy thuyền mới đặt chân lên. Nếu không bíu kịp vào khe đá, cả người chắc bị quăng theo. An Tiêm bảo Nàng Hoa:

- Con sóng này mà lên đến đây nữa thì... Phải cố trèo lên cao nữa mới được. Cứ thế, bò chạy trốn sóng. Những con sóng lên cao lưng chừng trời, ngã vào nhau, vỡ ra xung quanh. Nhưng may, chưa một đợt sóng gieo xuống núi ấy...

- Mình xem thế nào, nghỉ lại đây được chưa.

Cái Gái mỏi lắm rồi, tay nó lạnh, đầu nó nóng quá, khéo mà sốt... An Tiêm bíu đá, nhón chân bước ra. Lần thêm mấy bước nữa, rồi đứng lại. Chỗ ấy, có một khoảng rộng, nhưng quanh vẫn chỉ lồi lõm đá. Tiếng sóng đã ở dưới sườn. Nhưng con sóng dữ nhất, xô lên, nghe như sóng chỉ ghè đầu đập vách ngoài. Tiếng gió xiết quanh rồi cuống cuồng leo lên cao. An Tiêm giơ tay. Cánh tay bị gió hất loạng quạng vào đá. Nhưng chỉ đứng thẳng lên mới bị gió tạt, ngồi xuống, đã khuất hẳn. "Có thể núp đây được. Hãy tạm cho qua đêm nay!"

An Tiêm nghĩ thế rồi toan quay lại chỗ Nàng Hoa và hai con. Nhưng chợt nhớ, cả hai cái tay nải bánh dày đã quên dưới ghềnh đá. Lúc nãy, cơn gió đột ngột đến, chỉ biết bối rối chạy. Làm sao bây giờ? Phải xuống tìm cái tay nải bánh dày mới được, phải xuống ngay. Sóng còn đánh to nữa. Có thể trôi mất. Mà có khi trôi mất rồi. Phải xuống tìm ngay. An Tiêm có trí nhớ lạ lùng, giỏi như con ngựa đi đêm. Chỉ hai bàn tay bíu đá, hai chân bước mò. Thế mà, tay chân như có mắt, cứ chăm chắm thẳng vào tảng đá đã bíu, cứ thế, lần xuống. Một lưỡi sóng đùng đùng đột lên, tưởng sắp úp xuống kín núi ngay trên đầu. An Tiêm vội nằm xuống. Nhưng những con sóng đâm vào nhau trên cao rồi cùng ngã vật xuống, tiếng nước xiết ghê hai mang tai. An Tiêm đã lần tới mỏm đá lúc nãy. Đây rồi. Bãi đá ướt nham nhở nhưng sóng chưa cuốn tới. An Tiêm vớ được cả hai cái tay nải. Lập tức, An Tiêm vác bổng lên một bên vai, bao đằng trước, bao đằng sau. Bấy giờ đã mệt lắm. Nhưng cũng không thể trù trừ đứng lại. An Tiêm ré chân trèo thốc lên. Một cơn gió khác lại giựt người xuống. An Tiêm nắm hai cái tay nải. Bấy giờ mới chợt nhớ cái nón lá cọ vẫn buộc úp trên cái tay nải sau lưng. An Tiêm sờ xem nút buộc có chắc không. Nghe có tiếng lăn lọc cọc trong nón, An Tiêm nắn thấy hai hòn cuội to cộm, lại thấy gồ một cục, An Tiêm biết ngay đấy là cái sừng trâu. Đá cuội và sừng trâu để đánh lấy lửa. Bất giác, An Tiêm thở dài, nghĩ:

"Ta chỉ biết khinh ghét bọn tầm thường mà không biết lo xa. Người Bãi Lở biết lo xa hơn ta". Rồi móc trong nón ra hai hòn cuội và mẩu sừng trâu, giắt vào cạp khố, cho chắc chắn. Bỗng giữa tiếng sóng, tiếng gió có tiếng người kêu. An Tiêm vừa hú vừa nhô khỏi gờ đá đã nghe tiếng hú ập vào trước mặt. Thì ra, đã trở lại được chỗ cũ rồi, nhưng vách đá cản tiếng xa đi. Ngay ở trước mặt, Mon hét lớn:

- Bố về à... Mon chạy ra, choàng vào người bố, thật bố. Mon lại hỏi reo lên:

- Cái gì đây?

- Bánh dày. Nàng Hoa hỏi An Tiêm:

- Sao đi đâu lâu quá?

- Bỏ quên cái nải dưới kia.

- ại chao! Trong bóng tối cơn bão, không trông thấy nhau, tiếng nói cứ vời vợi. An Tiêm bảo:

- Tìm được nơi kín gió, chắc chắn hơn, sóng không đến. Thế là lại lần ra gờ đá. Bốn phía có đá chắn cao. An Tiêm xếp cho mẹ con Gái vào trong cùng, kê cái tay nải chắc chắn bên cạnh. An Tiêm và Mon ngồi ngoài. Mọi người lặng im. Vừa lúc chiều còn trong thuyền, bây giờ đã trên đỉnh núi, không biết ở đâu, giữa tiếng sóng, tiếng gió quay cuồng. Nhưng vẫn đủ mặt mọi người trong nhà. Mon cũng không lấy gì làm lo lắng. Bố con ngẩng đầu lên nhìn trời. Chẳng biết còn sớm hay đã khuya. Trời cũng đen như đá. An Tiêm bảo các con:

- Bão cạn thì không có cơn trận gì đâu. ở những vùng núi đá hay thình lình có bão cạn. Gió lùa vào ngóc ngách núi, quẩn không ra được, xoáy mãi lên thành bão. Nhưng đến lúc thoát ra được thì chỉ một lúc tan cơn. An Tiêm dỗ các con:

- Các con nằm xuống, ghếch đầu lên cái nải này. Gió chỉ ở ngoài kia thôi, sóng chỉ xô đến dưới kia thôi, không sợ. Ngủ đi, ngủ yên, Gái ạ. Gái thiêm thiếp sốt giật, nằm trong lòng mẹ, nghe không rõ lời bố.

Nhưng Mon nghe mỗi câu nói của bố, tin cậy, vững chắc. Mon muốn ngủ mà không ngủ được. Không phải vì lo, mà Mon đương mải nhìn lên xem mảng trời trên đầu. Bốn phía đá tối đen, hở một mảng trời lúc mờ lúc sẫm, ào ào chuyển động. Dù sao cũng còn có một mảng trời đụng đậy, còn có cái để xem. Mon ngắm lên mãi. Mắt Mon hoa chăng. Mon vừa thấy lóa một đốm sáng. Không, rõ một đốm sáng. Mon lại nhìn. Nhưng không thấy nữa. Mình hoa mắt rồi. Một lát sau, lại thấy, lần này thấy một đốm, hai đốm, ba đốm rồi một lúc, những đốm sáng lại biến mất. Lạ lùng, Mon hỏi bố:

- Bố ơi! Cái gì sang sáng trên trời... An Tiêm nhìn lên rồi nói to:

- Sao! Sao đấy! ạng sao đấy! Từ chặp tối, nền trời chỉ có đen sũng, khiến Mon quên rằng trên trời còn có những ông sao. An Tiêm đứng dậy, vươn vai, nói:

- Thế thì bão đương tan. Mây đen đã mỏng lắm, lác đác thấy sao rồi. Hai bố con không ngủ, cứ chong chóng nhìn lên trời, xem bão tan. Những vì sao loáng thoáng sáng rồi lại tối, có lúc còn sẫm hơn, rồi lại thoáng bóng sao. Cứ thế, cho đến một lúc cả bầu trời, như ai vừa cụp cái quạt thóc, các ông sao được rắc lên, lóng lánh, ngời ngợi. Sao mai nghiêng về phía ấy, đất quê ở đây kia. Mon lại đếm đủ các thứ sao như đã thấy những đêm mùa nắng còn ở sông Cái, bố trỏ xem sao, đếm sao. Mon thấy trời sao trên núi này chẳng khác trời sao ven sông Cái. Sao lưỡi cày, sao gàu nước, sao gông cỏ... Cả trời sao rời rợi. Sau cơn bão, ánh sáng sao rợn hơn đêm bình thường. Khắp trời bao la, những ánh sao sắc ngọt, những ánh sao đứng im, những ánh sao lung lay, đương rơi. An Tiêm nói:

- Lặng gió rồi, con thấy không? Những ngọn gió cuối cùng nhẹ nhàng rút đi lúc nào cũng không ai biết. Tiếng sóng nào là tiếng sóng cuối cùng vật vã lên ngọn đá, cũng không nghe nữa. Bây giờ, trông đến tận mù mịt cuối trời, chỉ thấy lay láy những ánh sao. Rồi cả nhà bỡ ngỡ nhìn ra một buổi sáng trên lưng núi. Trận bão cạn đêm qua còn phảng phất như một cơn mê hoảng. Bấy giờ mới nhận ra nơi này chênh vênh ở sườn một dãy núi, hút mắt nhìn sang hai bên cũng chỉ toàn một giống đá tảng đen sẫm lởm chởm xuống tận mặt biển. An Tiêm để tay lên trán, dõi mắt một lúc, rồi nói:

- Không thấy cái thuyền nào. Mon nói:

- Thuyền đắm rồi còn gì.

- Sao con biết? Mon đăm đăm nhìn xuống nước, nói:

- Thấy cái cột buồm, bố ạ. Trên mép nước dưới kia, rõ những cái cột và những mảnh buồm cói. Những con sóng hiền lành làm lăn lên lăn xuống những miếng ván gãy. Những người trở về ấy không bao giờ về nữa. Chỉ thương mấy người lính tốt bụng. An Tiêm còn đương bâng khuâng, đã nghe tiếng Nàng Hoa ở trong hốc đá nói ra:

- Mình ạ, con nó đòi uống nước... Bấy giờ, An Tiêm mới nghĩ tới điều cần kíp. Nước uống. Giữa nơi trơ trọi những núi đá, An Tiêm có cảm tưởng không có nước. Tuy lo, nhưng An Tiêm bình tĩnh bảo vợ:

- Tôi ra ngoài kia kiếm nước cho con. Mình hãy xem những gì ta còn mang theo đây. Một tay nải, trong đựng bốn buộc bánh dày, mỗi buộc được chục chiếc, đã khô quắt, sau một tháng thuyền lênh đênh. Một tay nải mấy cái váy áo. An Tiêm lấy trong tay nải ra đôi dép cỏ của ông lão Bãi Lở đưa hôm trước. Của đất quê cho ta có nón cọ và giày cỏ này đây. An Tiêm cởi mảnh mo buộc đôi giày cỏ, thấy giữa hai chiếc giày, ngả ra một con dao, dọng dao dày bằng nửa đốt tay. An Tiêm nói với Nàng Hoa:

- Người Bãi Lở biết ta phải đến chỗ hiểm nghèo nên cho lửa, lại cho dao, những của quý này không gì so với được. Ta không thể chết là nhờ tấm lòng này đây. Rồi An Tiêm đưa cho Nàng Hoa xem và giữ cái sừng trâu và hòn cuội đánh lửa. An Tiêm cầm con dao và nói:

- Mình đánh lửa nướng bánh cho cái Gái ăn. Tôi lên núi tìm nước cho con uống. Mon ơi, mày đi với bố. Hai bố con ra khỏi khe núi.

An Tiêm nhìn cả hai cánh núi. Không thấy đâu một bóng cây. Trèo lên đỉnh cao nữa, nhìn sang bên kia, đầu tiên, ùa đến một nỗi bàng hoàng. Cả hai bên cánh núi chỉ thấy dài một màu đá xám, nhìn đến rợn mắt. Như đứng giữa miệng con hổ, con báo, con gấu khổng lồ đương nhe hàm răng lởm chởm ra. An Tiêm trỏ tay về một phía:

- Núi đằng kia thấp xuống rồi, có thể đằng ấy có rừng. Mon hỏi:

- Bây giờ ta xuống đấy a? An Tiêm nói:

- Rồi hôm nào bố con mình sẽ đi. Giờ hãy tìm quanh đây lấy nước uống đã. Lời An Tiêm nói đem hy vọng lại cho con trẻ, nhưng cái việc "lấy nước uống đã" tưởng như dễ dàng ấy cũng chưa biết trông vào đâu có. Núi đá trọc không bao giờ có nguồn nước. Mà chỉ từ giờ đến trưa, nếu không nước uống thì người lử lả rồi. Cái Gái lại sốt cả đêm, đương khát. Không thể chùng chình đứng lo ở đây. An Tiêm bảo con:

- Trèo xuống chỗ này! Trên núi cao, mỗi tảng đá như một cái tường. Có khi đứng chỗ này kín bưng, nhưng chỉ dịch sang tảng đá bên cạnh, đã trông ra một phong cảnh khác mà ngay sát đấy, không thấy. Hai bố con vừa đặt chân được đến một mỏm đá, đột nhiên trông thấy một đốm xanh xanh cuối ghềnh đá đằng kia. Mon nói to:

- Đằng kia có cây, bố ạ. An Tiêm gật đầu:

- May ra thì phải. Phỏng thử vết xanh xanh xa dưới kia chỉ là một lớp rêu đá thì sao. Đá bờ biển thường có rêu thế. Xa nhìn đỏ khé như rặng cây nở hoa, đến gần chỉ là bờ đá rêu đỏ.

Nhưng cũng có thể bụi tre, bụi trúc đấy. Song, tre trúc vào mùa này trong ống cũng không còn nước. Chỉ đến khi trời mưa hết sấm, mới có nước trong ống. Giờ đã sang tiết giêng hai, nước đọng ở ống các giống cây có đốt, đã ứa lên ngọn ngậm vào măng vào lá rồi. Cả đến thân chuối rừng mùa này cũng cạn nước. Thảng hoặc, có còn thì nước chuối cũng đắng lắm. Bây giờ thấy cái đốm xanh đằng ấy. Dù phân vân, nhưng đấy cũng là hy vọng và chỉ có một cách xuống đấy. Mon bíu đá, xuống thoăn thoắt. Chân tay nó nhẹ như vượn. An Tiêm trông con, nửa buồn nửa mừng. Buồn nỗi con mới dúm tuổi đầu phải vì bố mẹ mà chịu lăn lộn, khổ cực. Nhưng cũng mừng nó nhanh nhẹn thế kia, rồi những ngày sắp tới, còn bao nhiêu gian nan chưa biết như thế nào... phải nhanh nhẹn thế mới được... Hai bố con đã xuống tới. Đây có những tảng đá lớn cao vòi vọi, đứng ken khít lấp bóng mặt trời. Giữa những khe, mủn đá đọng lại, ẩm ướt, mọc lên mấy cây cọ rừng. An Tiêm đứng ngắm, chịu không đoán ra cây cọ hay cây móc diều. Chỉ nghĩ:

"Lá này có thể lấy về lợp nhà. Nó là giống cọ rừng. Thế là có được một thứ dùng". An Tiêm cúi xuống, xem xét chỗ đất cọ mọc. Không thể hy vọng trong đá có mạch nước. Cọ mọc như chui từ khe đá ra, rễ chùm xòe quanh đá đã khô xác. Trong rừng có những loài cây tính nết trái nhau, giống cọ này xem chừng cũng giống ương ngạnh. Bây giờ đương mùa hanh khô thì cọ rừng lại lên tốt, tụm lá già bọc dưới xanh sẫm. Trong ngọn cọ, lá nõn nhú thành búp và trổ cả bẹ hoa, như cái măng. Trông cây tốt tươi, thấy mát hẳn. Lúc ấy, Mon nói:

- Con khát nước rát cả cổ, bố ạ.

An Tiêm ngẩng lên nhìn những cây cọ. Màu xanh tốt thế kia! Lá nõn như tơ thế kia! Tưởng như mía, nhá cũng ra nước được. Nghĩ thế, An Tiêm giắt chặt con dao vào lưng, tót lên một cây rậm và cao nhất. Như con nhái bén, chỉ ba bước chân bám, An Tiêm đã đến lưng cây. Mon nói:

- Con lên với! Rồi Mon cũng trèo thoắt lên theo bố. Hai bố con rúc cả vào trong đám lá ngọn cọ. An Tiêm vạch từng kẽ lá cọ non, xem. Cọ mùa này đương trổ lá mới. Trong mỗi khe, ụ lên những tràng hoa nõn. Bẹ cọ non trắng ngà như cái ruột măng tre. An Tiêm cầm dao, vạch vào giữa bẹ cọ. Một làn nước bềnh bệch đột ngột phụt ra. An Tiêm gọi reo lên:

- Mon! Mon! An Tiêm vốc tay hứng nước cho Mon uống rồi lại ghé miệng vào ngọn cỏ. Làn nước ngọt mát đùn ra, uống một hơi thỏa thuê. Đến lúc rút con dao thì mạch nước cọ cũng vừa cạn, chỉ còn ri rỉ xuống thân cây. An Tiêm nhớ lại, có cõi người ta đã lấy nước trong cây móc diều và lấy thân cây báng giã thành bột để ủ rượu. Giống cọ rừng này cũng có nước như thế

- mà thế là có nước quanh năm, cả những khi đương ra lá. Cái cây cứu được người rồi. An Tiêm bảo con:

- Cây này là cái suối đứng giữa trời. Không còn lo nữa. Rồi An Tiêm lại trèo lên ngọn. An Tiêm đâm dao liền hai nhát vào nõn cọ. An Tiêm ngửa nón ra hứng. Nước cọ chảy đầy lòng nón. An Tiêm bưng ngược cái nón rồi hai bố con leo nhanh về. Nước cọ thấm xuống, đầy giàn tay cầm. An Tiêm cởi phăng áo, ấp vào chỗ nước chảy. Bên kia núi, Nàng Hoa chốc lại đứng ra ngoài, nghển nhìn quanh. Bố con đi mãi đâu mà lâu! Gái đã thức từ nãy. Mẹ hỏi:

- Con ăn bánh dày nhé? Trẻ con sốt, bao giờ cũng ngoan hơn thường ngày. Gái lắc đầu.

- Con khát nước, mẹ ạ. Mẹ nói:

- Bố đương tìm nước về cho. Gái nằm yên, thiêm thiếp, hai má vẫn nóng ửng. Lát sau, Gái gọi:

- Mẹ ơi!

- Con gọi gì mẹ?

- Con ăn bánh dày vậy. Mẹ nướng bánh dày cho con.

- Con nằm yên nhé. Mẹ ra kiếm củi vào nướng bánh. Rồi Nàng Hoa bước ra ngoài. Ra mãi ngoài mấy tảng đá, nhưng không thấy một cành củi nhỏ. Hết đá tảng, lại đến đá tảng. Nàng Hoa không dám đi xa hơn. Nàng Hoa trở về, bảo Gái:

- Con chịu khó vậy. Bố kiếm củi về nướng bánh cho. Gái ngoan lắm. Gái lại him mắt, nằm lặng lẽ. Chỉ thỉnh thoảng, chiêm chiếp hai vành môi. Nhưng dáng Gái đã mệt lắm rồi. Tưởng nếu không chiếp như thế thì hai cái môi khát nước sẽ khô kiệt đến dính vào nhau mất. Nàng Hoa nhìn con, nước mắt lã chã rơi. Rồi lại nghển nhìn ngoài kia. Vẫn chẳng thấy gì. Gái mở mắt, gọi:

- Mẹ ơi!

- Con gọi gì mẹ?

- Bố về chưa? Mẹ không biết trả lời con thế nào. Chốc chốc, Gái lại hỏi lại. Nhưng hỏi mấy câu rồi Gái không nói ra tiếng được nữa, Gái nằm cúi ngoẹo đầu. Miệng Gái đã khô hẳn, chỉ nghe tiếng phao phảo vào tảng đá. Nàng Hoa òa khóc. Nàng Hoa tưởng Gái ngáp hấp hối sắp nhuôi ra. An Tiêm và Mon từ ngoài xộc vào. Tay An Tiêm bưng cái nón. An Tiêm nói to:

- Con ơi! Nước đây! Rồi đưa cả cái nón vào trước mặt Gái. Gái đương nằm lử lả thế mà Gái ngồi dậy, đỡ nón, cúi uống nốt vành nước còn sóng sánh lại. An Tiêm cầm cái áo ướt sũng, đưa cho Nàng Hoa.

- Mình vắt nước áo này ra mà uống. Nàng Hoa kề cái áo vào miệng Gái. Nhưng Gái lắc đầu:

- Mẹ uống đi! Nàng Hoa vặn cái áo, làn nước phòi ra. Chỉ nhấp một chút nước. Nàng Hoa đã thấy tỉnh. Nàng Hoa lại đưa áo, vắt vào miệng Gái vẫn còn chóp chép. Gái đẩy tay mẹ, không uống. An Tiêm cầm áo vắt thật kiệt, cho Gái và Nàng Hoa uống nốt cái nước sệt mồ hôi khét. Thế là cả nhà được hơi nước rồi. Cái u ám nặng nề xung quanh suốt từ sáng, giờ đã tan. An Tiêm hỏi Nàng Hoa:

- Nướng bánh dày cho con ăn chưa?

Nàng Hoa đáp:

- Chưa tìm được củi. An Tiêm nói:

- Có nguồn nước rồi, không sợ khát nữa. Bây giờ Mon đi kiếm củi nướng bánh. Bố xuống rừng cọ, mang nước về, cả nhà cùng ăn bánh uống nước. Mặt trời nghiêng trước mặt, đã chiều. Bóng núi in đậm đen trên mặt biển. Những đám mây tụ lại, vàng xuộm trên đầu núi đứng gió, như chiều hôm qua. An Tiêm nhìn quanh, nói:

- Khéo không đêm nay lại có bão nữa. Ráng vàng đương ùn lên kia kìa. Ta phải nướng bánh ăn sớm thôi.

Lúc ấy, cả những mỏm đá cũng ánh vàng chóe rồi. Nhưng không ai có vẻ lo sợ. Người đã về đủ. Gió to thì cũng đến như hôm qua, đã có hốc đá kín. Sóng biển có đến đổ cây nước cũng không ập được lên đây. Sửa soạn nướng bánh. Đói ngấu nghiến cả rồi. Cạnh tảng đá, đống củi đã chất cao. Gái đã khỏi sốt. Có lẽ đêm qua sợ quá mà thành sốt thôi. Bây giờ Gái đương cùng Mon khuân củi vào xếp chồng bên tảng đá. Rồi Gái lấy cái sừng trâu cọ lửa ra. Gái kiếm đâu được bùi nhùi bằng một nắm rêu khô, nhồi vào trong sừng trâu. Nhưng lúc ấy lại kéo ra được nắm bùi nhùi nỏ trong sừng trâu. ạng lão Bãi Lở cẩn thận đã nhét sẵn bùi nhùi vào đấy. Thế là Gái kéo mạnh hai hòn đá mấy cái, trong mặt sừng trâu bật xẹt một tia sáng xanh, bắt vào bùi nhùi thành đốm lửa vàng như mọi ngọn lửa thường ngày ở các nơi. Gái cầm ra, nhóm vào đống củi. ánh lửa nhảy nhót trên vách đá. Những ánh lửa đầu tiên của con người nhóm lên ở đây, rực rỡ hắt trên mặt đá, đẩy bóng tối đã xạm hẳn lại, lui ra ngoài kia. Nàng Hoa lấy chiếc bánh dày trong tay nải ra. Chiếc bánh dày đã khô cứng, nhưng trắng mịn. Nàng Hoa cắt từng miếng rồi xếp quanh vành ngoài đống lửa. Mon và Gái được chén trước mỗi đứa một miếng. Vợ chồng An Tiêm cầm miếng bánh dày nướng, ngửi mùi nếp thơm mà nhớ Bãi Lở. †n miếng đầu tiên ở chỗ trơ trọi này, vẫn công của ở nơi đã sinh sống, bồi hồi nhớ về đất nước - còn thấy gần gũi như mới hôm nào trảy hội.

Ngoài kia, trời xuộm vàng rồi đỏ khé, đặc sệt. Cả một vùng suốt từ dưới mặt biển đến chân trời, như vũng máu đỏ lòe. Hốt nhiên, nghe một tiếng hú. Tiếng gió hú đã cất lên, kéo dài thành vạn vạn tiếng từ trong các khe đá ùa ra kêu xé trên đầu. Như trời nứt toác, sắp sập xuống. Hai đứa trẻ ngơ ngác đứng lên. An Tiêm thong thả nói:

- Lại bão như đêm qua. Tiếng sóng cồn lên, như sét đánh mặt nước. Trên cao, gió vẫn đùng đùng khủng khiếp. Những cái thuyền quan quân đêm qua có sống sót, chắc đêm nay cũng đến chìm nghỉm tất rồi. Nhưng trong khe đá này có đống lửa cháy. Góc bên kia, Nàng Hoa và Gái còn lúi húi hơ từng miếng bánh vào mặt than hồng. An Tiêm đương tìm một mảnh đá ghép chỗ dựa để dựng ống nước. Không ai cảm thấy lo lắng bên cạnh đám ánh sáng bập bùng đương vun cả nhà lại quanh lửa. An Tiêm nói:

- Ta đã tạm có lửa có nước, không sợ nữa. Ngày mai sang ở bên kia núi, chỗ gần đám cây cọ. Mình ạ, lúc trưa tôi lâu về vì tôi mải dọn cái hang ở ngay đấy. Ta sang ở tạm, rồi liệu sau.

Cũng phải đi từ sáng sớm đến quá trưa mới sang được sườn núi bên này, khuất biển. Lên tới đỉnh cao nhất, An Tiêm quay lại, nhìn trái núi tun hút xuống mặt nước. Trông lại biển, đằng sau cái ngấn chân trời, có đất quê và con sông Cái. Lát nữa, xuống núi bên này, không còn thấy như thế, có bao giờ trở lại? An Tiêm và Nàng Hoa mỗi người thoáng một vẻ ngao ngán khác nhau. Rồi trèo xuống, cả nhà lúi húi lấp dần xuống khe. Đến chỗ cách đám cọ rừng một quãng, có một hang đá phẳng, phía trên tự nhiên nhô ra như mái nhà. Đấy là chỗ An Tiêm đã đánh dấu làm nơi trú chân. Thế là mỗi người mỗi việc. Mon biết đường ra đám cây cọ, Mon đưa mẹ đi kiếm củi. Rồi An Tiêm và Mon, bố con khuân đá lên, lát nền và lấp hai bên vách kín. Thành một vuông nhà tường đá, trông ra những hòn đá tảng bậc bậc xuống phía có ánh sáng xanh những tàu lá cọ. Nàng Hoa và Gái vác về được hai bó củi cọ, đánh lửa lên. Ngọn khói xanh xanh cuốn vào vòm đá, vừa cay mắt, vừa thơm. Người ở đâu đun bếp cũng được khói lùa vào cay mắt, và ở đây, lần đầu cái hang đá thấy có người đến, người ở và người đốt lửa. Buổi tối, Mon và Gái ăn bánh xong, ngồi khơi lửa chơi một tý, rồi ngủ ngay bên cái tay nải. Mẹ kê tay nải vào sườn che lạnh bên ngoài. An Tiêm và Nàng Hoa, hai vợ chồng ngồi bàn tính công việc. An Tiêm nói:

- Trời này còn rét vài cơn nữa mới thôi. Giêng hai rét đài, rét lộc, núi còn lạnh, ta ở đây cho đến khi ấm trời có mưa xuống hãy đi tìm nơi khác.

- Cứ ở đây mà đi kiếm cái ăn về có được không?

- Không được. Đẵn hết đám cọ kia thì hết nước uống.

- ờ nhỉ, vài cây cọ khô cũng chỉ đốt sưởi mấy đêm thì hết thôi. Cái rét trên núi cao luồn vào khe đá, phả quanh người, cứ thấm dần, nửa đêm về sáng, buốt như châm gai. Chợt có lúc đợi mãi không nghe một tiếng gà eo óc, một tiếng chó sủa, tưởng những tiếng ấy đâu xa từ kiếp trước rồi. Càng buốt lạnh hơn. Đá được lấp thêm kín phía trước mặt, bây giờ vòm thành cái cửa hang tò vò một lỗ vừa người chui. Mỗi đêm, từ chặp tối, đống lửa càng cao hơn mọi khi. Nhưng ban ngày phải hà tiện. Thế mà cũng không đủ. Bởi những cây cọ thân mủn, lửa ăn ngoem ngoém, chỉ mới nửa đêm, đã vạc hết. Cái lạnh bò vào và lạnh từ trong đá toát ra, cứng chân tay, không nằm, không ngồi được. Cả nhà rúc quanh cái tay nải, đợi sáng. Sáng sớm, An Tiêm xách dao đi. Mon hỏi bố:

- Bố đi đâu? An Tiêm đáp:

- Ra rừng cọ. Đi lấy củi, Mon nghĩ thế. Nàng Hoa bảo chồng:

- Đợi chốc nữa tan sương hãy đi có hơn không? An Tiêm đáp:

- Đi sớm mới kịp được. Không hiểu kịp cái gì, Mon chỉ lúi húi đi với bố. Đến đám cọ, trông những cây cọ khô phờ phạc, mấy hôm đã chặt vãn, chẳng còn mấy. An Tiêm bảo Mon: 99 100

- Con vơ những tàu cọ kia rồi buộc lại. Bố đẵn cây cọ này.

- Bỗ đẵn làm củi à?

- Không, làm giường, làm vách, cho ấm hơn.

Mon không hiểu bố làm giường, làm vách thế nào. Nhưng Mon không hỏi thêm, mà chỉ cắm cúi nhặt, vơ lại, rồi lên gối buộc thành một bó. An Tiêm đẵn một lúc ba cây cọ đã chọc nước. Rồi xả ra từng mảnh, chỉ còn cái thân dài, nhẵn cả hai mặt. Loay hoay gõ, tước cộc cộc, đến lúc thấy sương xuống lạnh buốt hai mang tai, biết đã chiều. Cũng vừa xong, bố con ra về, vác theo củi, cả những mảnh thân lá cọ. ở hang, trong khi Nàng Hoa thổi lửa nướng bánh, An Tiêm và Mon lục cục lát những mảnh cọ xuống mặt đá. An Tiêm đặt lá xuống trước, rồi phủ lên từng thanh cọ một. ở cả ba phía vách đá ngoài lại kê ván dựng, trông vào đống lửa ở giữa, thành hình tươm tất một mặt ván như mặt nhà sàn, có vách tựa. Lửa vừa to ngọn, mọi người ngồi xuống. Mon và Gái thử đặt lưng vào cái giường mới. Nằm lên thanh cọ phẳng thấy ấm, khác hẳn cái lạnh mặt đá. Những tàu lá cọ ở dưới làm bồng bềnh mảnh cọ, không khấp khểnh được. Thế là trong hang đá có sàn tử tế, như ở nhà, cũng đỡ lạnh. An Tiêm nói:

- Dù ở hang thì mình cũng là con người, phải có chỗ ăn chỗ nằm tử tế. Ngọn lửa đương đượm. Khói nghi ngút đầy hang. Những thân cọ đỏ hỏn. Nàng Hoa nói:

- Cái củi ọp ẹp này chỉ một lúc thì tàn. Ngủ sớm đi, còn ấm. Mon nằm trên những mảnh cọ cạnh đống lửa nhìn vẩn vơ lên vách đá. Vách đá có nước hay sao mà thấy cứ nhấp nhánh. ánh lửa càng cao thì đá càng nhấp nhánh vòng rộng ra. Rồi trông thấy nước chảy loang loáng cả đến chỗ đầu ngọn lửa đương bốc lên. Nhưng, không hiểu sao, không thấy giọt nước nào rơi xuống. Mon bảo bố:

- Trên vách đá có nước, bố ạ. An Tiêm nhìn quanh rồi nói:

- Hang này không có nhũ, phải có nhũ mới có nước.

- Nước kia kìa. An Tiêm ngẩng lên nhìn, rồi cười, nói:

- Rắn đấy.

Cả Mon và Gái sửng sốt đứng dậy. Nhưng đứng cao, gần đụng chỗ nhấp nhánh ở mái đá, lại ngồi thụp xuống. Bây giờ mới trông thấy những con rắn đương bò vằn vèo trong khe đá mà mình rắn nhấp nhánh, thoạt nhìn cứ tưởng nước chảy. Những con rắn ở các phía vách đá luồn dồn cả đến trên ngọn lửa, chốc, những cái đuôi lại thò xuống, như đuôi chuột. Gái bưng tay lên mặt, không dám nhìn. Rắn đậu tụ thành một mảng to như cả mặt vách đá nhấp nhánh. Mon rút mảnh cọ dưới chân, muốn chọc lên cho nó rơi xuống. Phải đánh rắn. Không đánh, có lúc nó cắn mình. Nhưng An Tiêm đã nói:

- Con trăn, con rắn mùa rét thì hiền lành, chẳng làm hại ai đâu. Suốt mùa này nó cuộn tròn ngủ khì trong hốc đá. Thấy lửa ấm thì mò đến. Nó cũng rét, muốn sưởi ấm như mình thôi.

Nghe bố nói thế, Mon và Gái ngồi lặng lẽ nhìn đàn rắn bò trên vách đá. Những con rắn đến cả phía trên ngọn lửa rồi nằm im, vết nhấp nhánh bây giờ như những cái mắt đá. Không ai nghĩ đến có rắn ở cạnh mình nữa. Mon buồn ngủ, rồi ngủ thẳng một giấc đến sáng. Khi thức, đã thấy bố ngồi nướng bánh. Nhưng đầu tiên Mon trông ngay lên vách đá. Những con rắn được chỗ có hơi lửa ấm, nằm yên, có lẽ những vết nhấp nhánh đã thôi lung lay từ đêm qua. Ngày lại ngày, không còn ai ngó ngàng đến lũ rắn nằm sưởi nhờ người trên vách đá. Bởi vì, người ta còn những nỗi lo khác, lo hơn. Nàng Hoa nói:

- †n hết chiếc bánh này thì chỉ còn ba cặp bánh nữa thôi. Tuy nghe mẹ nói thế, nhưng trẻ con cũng chưa biết lo. Chỉ có An Tiêm và Nàng Hoa, từ hôm trước, đã thường bàn bạc, lo lắng. Cái lo khi chưa đến thì còn nhẹ nhàng nhưng bây giờ cứ mỗi hôm một xiết lại. Nếu ở rừng, có thể tìm ra nơi đất thịt hun làm bánh ngói ăn tạm được. Nhưng trên khe núi, một nắm đất mủn cũng không có, ngày kia, ngày kìa không còn gì ăn, sống bằng cách nào? Mấy lần, An Tiêm bảo Nàng Hoa:

- Hết cái rét này, ta sẽ vào phía trong đảo, tìm đến nơi có rừng thì mới có thể kiếm ra cái ăn được.

Nàng Hoa cũng hy vọng thế. Sự tin tưởng của Nàng Hoa vào những tính đếm của chồng cũng làm nỗi lo vơi đi. Nhưng bao giờ mới đến ngày nắng ráo? ở trên núi quanh năm mù mịt trong gió hú, ngày và đêm cuốn đi, nếu ngày nào không có một lúc hửng sáng trong làn sương đục vào lúc xế trưa thì không ai biết có ngày nữa. Mỗi ngày nỗi lo lại ló ra. Lương cạn rồi mà ngày nào cũng âm thầm thế này. Nhưng có một cái lo hơn lại đến trước. Hết nước. Mon xuống lưng núi, chặt cọ. Chặt đến hai cây cọ mà nước chỉ ra nham nháp. Mấy hôm trước, nước cây cọ phun như vòi. Bây giờ không lên nổi một giọt. Không hiểu tại sao. Mon chạy ngay về, bảo bố thế. An Tiêm xuống, trèo lên chặt luôn mấy cây. Chặt đến cả ngọn, cả bẹ, cũng chỉ có nước nham nháp. An Tiêm nhớ ra bao giờ cũng đến cuối năm khi mùa khô tới, nước ngược từ trong đất lên nuôi cây. Nhưng đến khi bắt đầu măng mọc, chớm có mưa mới và có sấm, nước trong thân cây cũng vừa cạn. Ai xưa nay đi rừng kiếm cái ăn cái uống làm miếng sống đều biết như vậy. Bọn cây cọ này cũng như thế chăng? Nhưng, nếu thế thì điềm cạn nước trong ống cây cũng là lúc trời sắp mưa? Trong cái khó khăn nhất, sẽ thấy được chỗ nút cởi. Hết nước trên mặt đất và trong cây thì trời sắp mưa. Phải thế chăng? Đêm núi hoang dại, không một tiếng động - cả tiếng dế, tiếng kiến cũng không nghe thấy ở núi đá. Con kiến, con dế cũng chưa dám đến, ở đây đêm cứ thăm thẳm thế này. Mọi khi cũng biết thế, nhưng đêm nay, đêm không còn nước uống, đêm càng sâu hơn, rợn hơn, khiếp hơn. Quanh trên đầu, những cơn gió ở đâu lại chồm đến, đuổi nhau, chạy phần phật bốn phía rồi gào lên, tuốn đi, hòa với trăm nghìn vạn tiếng gió khác, như kéo cả triền núi bay theo.

Đang ầm ầm, lại bỗng nín im, chùng xuống, nặng chịch. Rét cong sống lưng. Rét lắm. Bao nhiêu đêm thế rồi. An Tiêm nhìn ra cửa hang, vẫn tối bưng mắt như mọi đêm. Không một đốm sao. An Tiêm ra lấy củi. Đốt nữa, đốt cho trông thấy ánh lửa dập dờn lên, đỡ hiu hắt. Nàng Hoa hỏi An Tiêm:

- Mình vẫn thức à? Nàng Hoa nói to:

- Đá sao mà đổ mồ hôi, ướt nham nháp cả, mình ạ. An Tiêm quờ tay ra. Mọi khi đá khô khốc, lạnh tê, bây giờ đá ướt nhầy nhụa dưới tay. Trở trời rồi. An Tiêm lắng nghe vách đá trên đầu có tiếng rào rạo như tay ai cầm một nắm sạn cọ vào nhau. Đấy là tiếng trăn, tiếng rắn đang bò. ánh lửa hắt lên, thấy trong khe những mình rắn nhấp nhánh đuỗi dài, không cuộn tròn im phắc như mọi khi. An Tiêm bảo:

- Đá đổ mồ hôi, thế là trở trời rồi. Mọi khi, những con rắn có lửa sưởi ấm thì im thít, bây giờ vừa nồm một cái, lửa lên đã cựa quậy, không chịu được nóng, muốn bò đi nơi khác. Mình trông lại mà xem. Nàng Hoa không nhìn đám rắn trên đầu, mà chỉ hỏi:

- Trở trời mà rắn bò xuống đây thì thế nào?

- Không sao. Nàng Hoa cũng chưa đỡ lo, nhưng An Tiêm đã nói câu khác, như mong mỏi, như dè dặt:

- May ra thì có mưa. May ra... Nàng Hoa chợt nhớ ngày trước:

- Kể ra còn ở Bãi Lở thì dạo này cũng đến cữ mưa mới rồi. Không ai nói rõ hơn nữa, mà cùng nghĩ: mưa xuống thì có nước uống. Từ đấy đến sáng, thức và lặng im. Mọi ý nghĩ của hai người đều ngóng ra ngoài trời đêm. Nhưng cửa hang như cái miệng giếng, chỉ thấy đen dày, mù mịt. Một lúc, chợt mờ mờ qua cửa hang như một làn bụi sương. Mon nhỏm dậy, hỏi bố:

- Sáng rồi, hả bố? An Tiêm đặt tay lên vai con, ngước mặt và hỏi:

- Con nghe tiếng gì đấy không?

- Không.

- Tiếng gió đấy.

- Gió mọi khi hú to lắm mà.

- Không, gió đông, gió đông khác gió bão. Gió đông chỉ vờn khe khẽ, nghe kỹ mới thấy. Có gió đông về thì ấm rồi. Mon lắng tai nghe xem gió đông thổi khác gió đêm qua thế nào. Nhưng Mon lại nghe những tiếng ùng ục nổi từ đằng xa. Mon reo:

- Gió đông đương kêu ùng ục, phải không bố? An Tiêm đứng lên, cười như reo và nói:

- Không! Sấm đấy! Sấm! Sấm mới rền ở bên kia núi. Thế là đương mưa ngoài bể. Đương mưa ngoài bể rồi. An Tiêm bước ra cửa hang rồi lại quay vào ngay.

- Mưa sắp đến đây. Cả cái Gái cũng đã thức. Gái nói:

- Mưa thì có nước uống, mẹ nhỉ! Nghe câu Gái hỏi, ai đương khát nước cũng động lòng, cả nhà xôn xao lên. Bên ánh lửa nhấp nhóa trong hang, người bộn rộn, cứ ngồi đứng lố nhố trông ra. Một làn sương mỏng vẫn phủ cửa hang, nhưng bây giờ nghe và nhìn trong thinh không, cảm thấy từ bên kia núi đưa sang một đám mây mòng mọng, tưởng như có những ông sấm đương ầm ầm chạy quanh. Đám mây nước đã tràn qua hết ngọn núi sang bên này. Mọi người đều cảm thấy một cơn gió vừa mát vừa ấm hây hẩy vào hang, khác hẳn cái gió hanh hao mọi khi. Rồi còn những ông sấm đằng xa, mỗi ông lại rền một tiếng ở một góc trời, các ông sấm cũng mừng sắp có mưa mới đầu năm. Tiếng ào ào xa xa gần gần! Mưa rồi, mưa tới rồi, mưa tới ngay cửa hang rồi. Những hạt mưa to lúc đầu rơi chan chát xuống đá bỗng ào ào xối một chặp liền. Nàng Hoa và Gái, cả Mon xô ra cửa hang, tíu tít, luống cuống giơ hai bàn tay hứng mưa, vốc lấy mưa. Những hạt mưa lẹt đẹt trên bàn tay, ai cũng mút tay chùn chụt. An Tiêm ra sau, đặt cái ống cọ hứng nước, lại cầm theo cái tay nải không ném xuống bờ đá. Mưa lộp bộp trên cái nải. Mon hỏi bố:

- Bố giặt tay nải à?

- Không, để tay nải thế cho nước thấm, lấy cái mà trữ nước uống tạm.

Hai anh em Mon không có cái lo ấy mà cứ tưởng tượng được mưa to và có lẽ từ giờ ở trên núi cứ mưa to mãi, lúc nào khát chỉ việc chìa tay ra hứng. Mưa mới, mưa to lắm, mưa lâu thật. Tiếng rào rào liên miên đan khít hai bên tai. Cửa hang không tối nữa, mà bây giờ mù trắng bóng nước. Tạnh mưa, ngoài hang lộ ra một miếng trời còn mọng nước lóng lánh. Trời đã sáng từ bao giờ không biết. Bước ra, thấy trời và 109 110 núi hơn hớn như chú bọ ngựa xanh rờn vừa lột xác, khác hẳn con bọ ngựa già hôm qua. Trời quang rồi, phía nào cũng trông thấy núi đen sẫm, chạy dài hai bên đuôi mắt. Nhưng không còn cảm nỗi ghê rợn như những hôm trước. Trong tiếng gió đông giỡn qua, mặt trời chói lọi chiếu vào lớp lớp núi đá vừa tắm mưa xong, lấp lánh muôn ngàn vết sáng kỳ lạ. Những ngọn gió đông từ những vùng trời xa xôi nào đến, giỡn trên những khe đá, những hang, những vực, tiếng vờn, tiếng vui, khiến con người bỗng nhiên không còn cảm thấy ngập trong nỗi lo sợ tuyệt vọng nữa, mà thấy như đâu đây, thiên hạ đâu đâu cũng có người, tiếng vang tiếng ấm của con người từ trong bờ quê, sông quê đem đến trong tiếng gió những hy vọng khác thường. An Tiêm bước ra đứng trên một tảng đá lớn nhô ngay dưới mái hang. Nàng Hoa nhìn theo, thấy An Tiêm đương vẫy tay. Nàng Hoa và Gái với Mon cùng ra trèo lên. Một niềm vui lạ lùng đến trước mắt: mặt đá hũm chỗ chân đứng đã thành cái vũng đầy nước, lấp loáng ánh mặt trời. Không ai bảo ai, cả nhà cúi uống ngụm nước mưa mát lạnh. An Tiêm trỏ tay lên bốn phía, nói:

- Chỗ nào có tảng đá to sang sáng là có hũm nước trên nóc. Trời cho ta những cái giếng nước kia đấy.

Mon nhìn mấy tảng đá gần thấy trên nóc đều đọng nước, bóng mặt trời sáng chói. Có hũm sâu như hang, trong có rêu. Đã lâu, rêu khô xác, bây giờ nước xuống, những nạm rêu khô lại xõa ra, mềm lụa xám mờ dưới đáy nước. Mon và Gái chạy chuyền các mỏm đá ra xa, còn thấy nhiều cái giếng trời như thế. Mon về bảo bố:

- Nhiều giếng đá lắm. Chẳng cần cái tay nải thấm được vài ngụm nước của bố đâu. Chiều hôm ấy, An Tiêm bàn với Nàng Hoa:

- Nhiều nước mưa thế này, lại còn mưa suốt mùa hè nữa, ta khéo giữ thì ta có nước uống quanh năm. Không sợ chết khô trên núi đá như bọn nhà nhái bén nữa. Có cái uống, nhưng ở núi đá thì chẳng kiếm được cái ăn. Ta cũng không thể ở mãi chỗ núi đá trọc thế này. Bây giờ đã sang mùa ấm, có nắng, ta tìm ra trước mặt xem chỗ nào có rừng. Phải thấy rừng mới kiếm được cái nuôi sống người.

Thế là, một ngày kia, cả nhà An Tiêm rời đỉnh núi đá, đi tìm rừng. Tan sương sớm đã ra khỏi hang đá - như khi mùa lạnh đã qua, đàn rắn bỏ nơi tránh rét, bò ra kiếm ăn đàn rồi. Ra đi, tràn đầy hy vọng. Nhưng thật là chỉ cầu may. Vì đi người không.

Chỉ còn lại góc bánh dày đã lên mốc xanh. Bánh đã hết từ lâu, nhưng vẫn cố giữ mấy miếng. An Tiêm đi trước, lưng giắt con dao. Mon theo bên bố. Gái bước cạnh Mon và Nàng Hoa, vắt cái tay nải nhẹ nhàng trên vai. Mỗi bước lại phải chuyền qua một vong đá. Nhưng Nàng Hoa và Gái muốn đi dấn mau nữa. Trong cảnh khốn cùng, mọi người cứ muốn tưởng tượng như có ở đằng kia những cảnh làm ăn, có đám trảy hội. ấy bởi từ lúc xuống đến lưng núi, đã trông thấy một lằn viền rừng xanh đằng xa. Bao nhiêu ngày ròng rã rét mướt ở hang, nằm trong mây mù u ám như dán liền lên trời! Bây giờ, trong nắng hẩng, những cánh rừng sáng xanh lờ lững dưới kia, nghĩ như trong ấy được nghe thánh thót tiếng chim. Nhưng mẹ con Gái không thể chuyền như sóc chạy trên đá, mới xuống đến lưng núi, bụng chân đã tức anh ách. Rồi mặt trời ngả phía chân rừng, cái lạnh nhuốm vào hai vai áo, mà rừng còn xa, hãy còn lửng lơ giữa dốc. Chỗ ấy không có cây tiện trèo tìm nơi ngủ kín đáo. Cả nhà đi kiếm rêu đá, chất đống cao như gò rơm. Rồi nhen bùi nhùi, đốt lên, rực một vùng ánh sáng, khiến người quên cả bụng đói trong veo. Nàng Hoa bảo các con:

"Mọi khi ở hang, mẹ thấy đá sắp sập xuống, hôm nay ngủ được thấy có trời cao trên đầu, dễ chịu hẳn". Sáng sớm, lại đi từ lúc còn sương mù. Gái bảo Mon:

- Có mùi thơm thơm trong sương. Mon nói:

- Như mùi hoa tầm xuân. Gái cười:

- ở đây có hoa tầm xuân à?

Mon cũng cười, không trả lời được. Một lúc, trông ngang mắt, thấy đỏ hồng như một rừng đào. Nhớ ngày nào, thuyền ra cửa sông, thấy rêu đá đỏ hắt chân trời. Đến gần, không phải rừng đào, cũng không phải rêu đá. Quả nhiên đấy là những bụi tầm xuân mọc liền thành rừng. Bụi tầm xuân từ bao giờ mọc lên, những khúc dây quấn quít cuồn cuộn cao như tường. Đương vào mùa hoa tầm xuân, khắp nơi, ửng màu hồng nhạt. Hoa tầm xuân, hoa hồng dại, các cõi đất quê ta, đâu cũng có, từ triền Tam Đảo xuống qua vùng đồng bãi hai bên sông Cái sang đến vườn Tản Viên, ngoài rừng tre rừng mía, những bờ bụi tầm xuân nở đầy. Thế ra ở đảo hoang đây cũng có tầm xuân đến trước người, như ở bờ sông Cái. An Tiêm nhìn Mon, rồi nói:

- Con nhớ được mùi hoa tầm xuân này ở Bãi Lở, giỏi đấy. Phải, nơi này cũng như quê mình, cũng có hoa tầm xuân. Hoa tầm xuân nở thì hết mùa lạnh. ở Bãi Lở, thế là lại sắp đến mùa nước, lại lo đấy. Các con ạ, sau này ta sẽ đưa người ra đảo mở đất, rồi đây cũng thành như Bãi Lở ở sông Cái. ừ, có khi sau này... Mon góp chuyện với bố:

- Khi ấy con đã lớn bằng những người theo bố mẹ lên ngược lập làng đánh trâu nước lấy bãi, lấy đất ở sông Cái, con cũng theo bố mẹ... An Tiêm cười:

- Khi ấy thì một mình con đem dân ra đảo được rồi. Từ chỗ gặp cây, đường đỡ quạnh quẽ hẳn.

Những bụi tầm xuân rồi lác đác những bụi cây có hoa không biết tên, cái đỏ cái vàng cái tím cái trắng xôn xao chen quanh bước đi và trong tầm mắt. Đã qua những rừng tầm xuân, một lúc sau lại đến trước những cây lớn chen gốc nhau, cành lá và dây leo kín mặt đất. Những tòa cây kỳ lạ, xanh đen, xòa lá như ngồi xổm mà ngửa mặt lên cao xanh, như những cây bứa cành ngang thân thẳng đứng, trông lên đến hết ngọn vẫn chỉ thấy thăm thẳm im lặng. Cây ngồi, cây đứng ken liền. Cả nhà phải đi lên lưng chừng cây. Nàng Hoa và Gái bấm chân bám bíu từng cành rồi mới dám men sang cành khác. Vướng. Váy áo mẹ con rách lướp tướp. Sang đến bên kia, xuống được mặt đất, ai cũng lem luốc nhọ cả đến tròng mắt. Hai đầu gối xuống dốc dồn muốn khuỵu.Nàng Hoa đứng vịn tảng đá run lẩy bẩy, một chốc mới gượng lại được. Trời tối ngay ở chân dốc. Trông thấy cảnh rừng thưa trước mặt. Đêm nay đốt nhiều lửa hơn. Những đống lửa chồng đống. Khói cuồn cuộn, những ông sao cũng lấp láy muốn trôi theo khói. Nàng Hoa và Gái mệt nằm lả. An Tiêm ngồi đốt củi, nghĩ thương vợ con, cứ chuyện cho khuây.

- Mình nghe tiếng gì không? Nàng Hoa hé mắt, lặng im.

- Tiếng suối chảy trong rừng trước mặt. Ta gặp suối rồi. Mai ta sẽ đến suối, lấy nước suối uống. Ta sẽ làm nhà ở ngay đầu con suối. Nàng Hoa mỉm cười, An Tiêm lại nói:

- Mình ạ, lúc nãy đi lấy củi, tôi nghe có tiếng hươu kêu. Mon nói:

- Con cũng nghe tiếng, gần lắm. Mon hí hửng tưởng bây giờ có tiếng hươu, có thể đi bắt ngay. ở rừng bắt hươu như thò tay vào xó cửa bắt con gà, làm sao có thể chết bên cạnh miếng thịt được. An Tiêm và Mon còn kể chuyện vui một lúc nữa. Chuyện ngày trước ở Bãi Lở, khi mới đến. An Tiêm dang tay bá cổ hươu mà hươu cũng không chạy. Chuyện ấy, hôm nọ kể đã nhiều lần, thế mà lần nào kể lại, lần nào cũng thấy lý thú. Nhưng Nàng Hoa và Gái chỉ còn gượng vui trên nét mặt, không thể đáp chuyện. Đống lửa vẫn rừng rực, đến khuya không còn nghe tiếng người nói nữa. Những cơn ngủ thiếp, lử lả bên đống lửa. Sớm hôm sau, An Tiêm bảo Nàng Hoa:

- Tôi đốt lửa thêm cho mình nằm đây sưởi. Mình ở đây với con Gái, tôi với thằng Mon đi tìm cái ăn và đem nước về, gần thôi. Trong những đốm cỏ xanh đằng xa có cái gì đụng đậy, nhấp nhô. Mon chớp chớp mắt. Những cái bóng vẫn nhô nhốp trên tảng đá.

- Bố ơi!

- ...

- Đằng bãi cỏ... An Tiêm chăm chú nhìn rồi nói:

"Xuống gần nữa mới rõ. Con gì thì hay quá". Rồi bố con leo xuống. Mon reo:

- Hươu! Hươu! An Tiêm cũng nói to:

- Trời ơi! Của rừng đây rồi.

Trong búi cỏ có một đàn hươu đang giỡn. Con hươu đực đốm sao, cặp sừng kềnh càng trên đầu, hếch mũi nghe ngóng. Mon rón rén. Đàn hươu vẫn vừa giỡn vừa gặm cỏ. Trong đám, rộ lên những tiếng kít kít nho nhỏ mỗi khi hươu chen nhau nhảy quanh tảng đá. Mon đã đến gần lắm. Mùi hươu tỏa ra ấm sực nức. Rồi Mon đứng lên, dang hai tay, đi vào. Mấy con hươu đương đùa nhau bỗng đứng lại. Thoắt một cái, hươu rút chân, chạy như gió cuốn. Cả đàn hươu chạy theo. Mon tưng hửng, đứng trơ. Hai bố con nhìn nhau. Đột nhiên, không để đâu hết lo. Mẹ và em đương đói lử lả đằng kia, hôm nay nữa mà không được miếng ăn thì... Cả mình nữa, mắt nhìn đã vàng lóe... Bố con tạt sang rừng khác. Tưởng như trong các cánh rừng, những con hươu đã biết tin có người đến bắt hươu - vô khối dấu chân chạy mới chồng lên nhau, dấu chân nặng vết ngắn, sâu hằn, thoạt trông cũng biết nhiều đàn hươu vừa chạy qua đây. Nhưng không thể đuổi được. Mon đã thấy nhược lắm. Bố vẫn cắm cúi đi. Mon cố theo. Biết Mon mệt, đói, chốc An Tiêm lại đứng lại, đợi con. Mon biết ý bố, nhưng Mon chỉ nhìn bố, rồi lại cố đi. Hai bàn chân dần dần, lải rải... Mon đứng lại. Mon gọi:

- Bố ơi! An Tiêm đứng, cúi xuống.

- Bố trông cây này... cây gì... An Tiêm reo:

- Cây ngót! Mon nói:

- Cây ngót như ở bờ sông Cái ấy a?

- ừ, cây rau ngót như ở bờ sông, nhà mình vẫn nhặt ăn. Trong rừng thưa, đất ẩm kín mủn lá. Những cây lá ngót mọc thành vạt dài, thấp củn, ken dày, thoạt trông tựa lá han, lá ké, không nhận ra

- nhưng trông kỹ, những cây ngót thật khác. Cây ngót rừng, thân lẳng khẳng, lá xanh mờ, mới nhìn đã ngon mắt, biết là ăn được, khác hẳn những lá thuốc hay lá độc. An Tiêm nói:

- Thế là sống rồi! Lấy lá ngót về ăn tạm, con ạ. Hai bố con hái được hai ôm to rau ngót. Lại ngắt lá dong rải ra, lấy dây buộc lại, mỗi người đeo một ôm về. Nàng Hoa và Gái vẫn nằm thiếp cạnh đống lửa đã vạc. Nhưng nghe tiếng người, Nàng Hoa mở mắt, khẽ hỏi Mon:

- Bố đâu? Mon đáp:

- Bố còn ra suối lấy nước.

- Suối gần hay suối xa?

- Tiếng suối nghe róc rách từ đêm qua ấy. Nàng Hoa nhớ đêm qua có nghe như tiếng gió thổi trên ngọn cây. Mon nói:

- Được cái này ăn rồi. Mon mở gói lá. Nàng Hoa nhìn, nhưng mắt mờ, không trông rõ. Nàng Hoa khe khẽ hỏi:

- Cái gì thế? Mon nói:

- Lá ngót, mẹ ạ. Mon buộc cả ôm lá ngót bọc mấy lần lá dong, lại quấn dây vào. Mon khều lửa, vùi cả bọc vào giữa đám than đương còn đỏ. Mon hầm lá ngót. Một lát, Mon lôi bọc lá dong đã cháy thui trong đống than ra. Mon gọi mẹ, gọi em:

- Dậy nào! Dậy nào! Mon xốc Gái lên. Trông mặt em thiểu não quá. Nhưng có lẽ bởi Mon là anh, Mon phải cố thế thôi, chứ Mon cũng đói rét cả bụng đây. Mon mở gói ra. Mon hầm rau khéo quá. Đám lá dong bọc ngoài cháy đen vừa bén đến lá ngót. Cái lá hầm chín nục, bấm ngón tay đã đứt đôi, bốc khói thơm nghi ngút. Nàng Hoa ngồi dậy, tay vén làn tóc xõa và khẽ hỏi con:

- Bố vẫn chưa về à? Vừa lúc ấy, An Tiêm đang bước tới trước tảng đá. An Tiêm quảy trên vai một bó cây trúc, hai đầu buộc hai túm lá dong

- đựng nước suối. Từng giọt nước nhỏ theo bước đi. An Tiêm mở một miệng gói lá như cái gàu nước, đến trước mặt Gái:

- Con uống hớp nước cho tỉnh. Hai mẹ con Gái uống. Nước suối trong mát ngọt như được ăn đẵn mía. Uống rồi mà còn tóp tép miệng. An Tiêm nói:

- A, nướng rau ngót rồi à? Thơm quá. Rau ngót nướng ăn ngon lắm đấy. Nướng nốt bọc ngót này nữa.

Bữa xuống rừng đầu tiên ăn toàn rau ngót. Thế cũng hay, đi một quãng nữa thì đến đầu con suối, chỗ mình định làm nhà, gần thôi. Khói lá ngót nóng nhừ, bốc lên mùi bùi bùi. Đói quá cũng không ăn được. Nàng Hoa và Gái chỉ nhấm từng chiếc lá chín. Mon khác, Mon thấy đói ghê, Mon bỏ vào miệng từng nắm to, gần như nuốt chửng. An Tiêm nói:

- †n xong rồi chốc nữa ta về nơi ta ở. Chiều hôm nay Gái vào rừng với anh mà kiếm rau, chỗ gần suối nhiều ngót lắm, bố trông thấy rồi. An Tiêm lại cầm bó trúc lên:

- Chỗ ấy có cả rừng trúc này. Thế là có cái làm nhà rồi. Có trúc thì thế nào cũng tìm ra tre. Rồi có mai, có nứa, có vầu. Được những thứ ấy thì nhà mình có đủ tất, đủ cả nồi thổi nấu, chẳng khác nhà ở Bãi Lở. †n hết lá ngót, Nàng Hoa và Gái thấy khoẻ khoắn lại. Thế là cả nhà lại đi. Đã sang rừng phẳng, không phải leo như những hôm trước. Thoạt trông thấy mặt suối óng ánh. Nàng Hoa và Gái ùa đến. Chẳng khác lúc bố con An Tiêm thấy cái suối, chạy vội lại, như bao nhiêu năm mới thấy. Hai mẹ con rối rít vục tay, hắt nước lên mặt một thôi một hồi. Cho mát lạnh đến cả hai tròng mắt, bấy giờ mới ngẩng nhìn xung quanh. Mon đứng im, chăm chú nghe, rồi hớn hở hỏi:

- Cả nhà có nghe tiếng gì không? Gái nói:

- Tiếng suối đấy.

- Không phải.

- Chịu.

- Tiếng ve! Tiếng ve kêu! Nghe thấy chưa? Tiếng ve! Mọi người lắng tai, nghe lẫn trong tiếng suối róc rách, nếu không để ý kỹ không biết được, từ nguồn nước xa đưa lại tiếng con ve núi giọng kim kêu lanh lảnh. Tiếng ve núi giọng kim trong vắt, thường núi nào cũng có ve kêu lúc xẩm tối dưới gốc cây, ve kêu nửa đêm trên lưng cây. Nhưng bao nhiêu lâu nay, Nàng Hoa và Gái với An Tiêm và Mon nữa, mới lại được uống ngụm nước suối, mới lại nghe tiếng mõ con ve. Bỗng thấy lạ quá, sửng sốt, thế rồi lại tưởng vẫn như ở Bãi Lở ven sông Cái ngày nào. Dù sao, cũng thấy sống rồi. An Tiêm điềm nhiên nói, như mọi việc hằng ngày vẫn thế:

- Con ve kêu có buổi. Bây giờ ve kêu vậy là chiều rồi. An Tiêm lại trỏ tay:

- Nhà ta sẽ cất trên lưng chừng cây kia. ở đây không phải chỉ có vết chân hươu thôi, mà cả vết hổ, vết gấu, vết trâu. Phải ở cao thế mới được. Ta sẽ cất một cái nhà cẩn thận, mà đẹp. Khác gì ở Bãi Lở nào!

Nắm lá ngót đem cái khỏe lại cho người và cũng làm cho buổi chiều ấy khác hẳn tối hôm qua. An Tiêm vác về, ném đùng xuống những cây gỗ lớn. Nàng Hoa bắt đầu nhóm lửa. Mon và Gái mỗi đứa kiếm một ôm lá ngót nữa. Lúi húi nhặt, đem bọc vào mấy lần lá dong rồi vùi lửa. Trong khi ấy, An Tiêm hơ lửa thui những đốt trúc. Cây trúc già, cứng đặc ruột, chẳng khác gỗ lim. An Tiêm hun cẩn thận từng đốt rồi vót nhọn một đầu. Cái đầu trúc nhọn hoắt, lại có ngạnh như lưỡi câu.

- Từ mai đi đâu mỗi người có cây trúc cầm tay. Nó là đòn càn, lại làm dao, làm giáo giữ mình và kiếm cái ăn.

†n xong, thì trời vừa tối. Miếng lá ngót nướng còn ngọt miệng, vẫn bùi và thơm lạ. Bọn lá dong thừa bây giờ đem trải ra quanh lửa làm chiếu nằm. Đống lửa lại phần phật reo. Đêm nay vẫn trời trong và lắm sao như đêm trước. Canh khuya, nghe tiếng suối nỉ non ngay trong bóng tối bên cạnh và thỉnh thoảng tiếng ve kim đằng xa lại nổi từng lúc, như tiếng khèn. Mọi người thấy êm ấm lại vui vui. Không còn những đêm lặng ngắt, chỉ có tiếng gió hú như ở núi đá mọi khi. Mon mơ màng nhìn khói cuốn tàn lửa lên trời, lẫn lộn không biết đâu đốm lửa đâu đốm sao. Những đốm lửa tàn giữa trời, lả tả rơi xuống xung quanh rồi tắt. Để ý nữa, sao lại có những đốm lửa rơi đằng kia tắt rồi lại nhấp nháy sáng. Lại thêm những đốm khác xa gần hiện ra. Bóng nước suối a? Không phải. Cứ nhấp nháy đôi một. Bóng sao đổi ngôi đọng lại đấy a? Có thấy sao đổi ngôi xuống đâu! Cũng không phải.

- Cái gì đo đỏ đằng kia, bố à? An Tiêm bỗng khẽ kêu:

- Mắt hươu! Mắt con hươu đấy! Mắt hươu ban đêm bắt vào lửa thành hai chấm đỏ. Mắt hổ thì xanh hơn, to hơn, sáng hơn. Mắt cáo, mắt cầy, mắt gấu xanh mờ. Hươu đây. Chắc hươu thấy lửa, tò mò men đến. Cứ ngồi yên cả nhé, yên nhé. An Tiêm cầm một cái lao trúc vừa vót xong, cúi rạp người, bước ra. Bây giờ càng rõ nhiều đốm đỏ, giỡn chập chờn. Mon tưởng có lẽ đàn hươu đã gặp ban ngày. Đàn hươu đương đi vẩn vơ quanh, nhìn những ngọn lửa kỳ dị chưa bao giờ hươu được thấy. Tất cả im phắc

- người và rừng đều im. Chỉ có tiếng củi lép bép và những đôi mắt hươu thoang thoáng. Bóng An Tiêm từ từ rướn cao. Ngọn lao phóng vút vào bóng tối. Đằng kia, nghe một tiếng "toác" như tiếng ống nứa nứt đêm mùa hanh. Rồi tiếng ràn rạt trên cỏ. Những đốm sáng biến mất. An Tiêm quơ một chiếc củi lửa, chạy ra. Mon và Gái, cả Nàng Hoa, cùng đứng dậy. An Tiêm đã trở lại. ánh lửa rừng rực, An Tiêm bước vào, kéo theo một con hươu, cái lao trúc còn cắm xuyên chéo trên đầu hươu. An Tiêm cười, nói:

- Khéo quá. Mai khởi công nhà mới, được con hươu ăn mừng. An Tiêm bảo Mon soi đuốc ra ngoài bới một túm cỏ tranh. Cỏ ấy đốt lấy tro ăn với thịt hươu nướng. ở Bãi Lở, người ta thường ăn thịt với than cỏ tranh. Các vùng ven sông không có muối ăn như cách thức của người đường bể. Mon vừa bới nhổ cỏ vừa nghĩ đến cái nhà sắp làm và nhớ hôm trước, ở sườn núi xuống, An Tiêm trỏ tay trước mặt, bảo Mon:

- Con trông kìa. Một màu xanh đen cánh rừng bạt ngàn. An Tiêm bảo Mon:

- Con ạ, đứng đây nhìn xuống khác nào ở triền Tam Đảo trông ra bờ sông Cái. Các cụ nói ngày trước rừng Tam Đảo liền từ bờ sông vào chân núi. Đến khi có người đặt chân tới, như đất Bãi Lở mình đấy, rừng phải giạt vào núi, nước dữ phải trở về dòng, rừng núi sông nước kia phải biết kiềng tay kiềng sức người ta đấy. Không biết bây giờ ở Bãi Lở thế nào, lại đương mùa nước lên, mùa này đương mùa nước. Rồi An Tiêm và Mon đến một khoảng trống có đá lẫn vạt cỏ cạnh nguồn nước bên rừng.

- Ta sẽ làm nhà ở ngọn nước này.

Nhưng cái nhà mới của An Tiêm không giống cái nhà nào ở ven sông Cái ngày trước. Nhà ven sông bằng lau sậy, bằng rơm, bằng tre, bằng đất. Nhà ở rừng sâu thì chỉ có gỗ và đá, ở đâu lại nghĩ ra cách làm nhà theo đấy. Chỗ ấy có mấy cây nghiến mọc chụm quanh tảng đá. Những thân cây, những tảng đá nhỏ, đá vụn lấp chặn cả bốn phía, đá liền với thân cây, thành một nền lửng trên có sàn gỗ. Ba phía, lấy thân cây về ken trúc dựng đứng làm vách. Mái phủ tạm lá dong xanh óng. Một phía trổ lỗ cửa xuống. Một cây gỗ cao, đẽo từng bậc, làm thang lên. Người vào cả rồi, kéo dựng cái thang lên, thế là túp nhà một mình trú giữa cây, như cái tổ chim to. Chỉ còn con gấu có thể leo cây nghiến lên được. Nhưng cả bốn phía đều có thân cây để nấp. Đứng trong nhà mà xỉa lao xuống, con gấu chỉ có đường chết. Giữa sàn nhà trồi lên một khoảng mặt đá, đấy là bếp. Suốt ngày đêm trên bếp được giữ có lửa. Củi cây rừng chắc không bộp như củi cọ. Những cây củi kiếm về dựng bốn phía, cứ việc thò tay rút. Đống lửa rấm lúc nào cũng lên khói trước mặt. Thế là từ đây lại có nhà ở và đống lửa, được làm người như thường. Trên cột đầu nhà treo sợi dây dài, mỗi ngày buộc một nút, đánh dấu cho biết ngày tháng. Lại bắt được một con rùa ngoài khe đá về, đào lỗ cho rùa ở ngay bên chân cột. Cả nhà ai cũng biết xem điềm rùa, cứ rùa thò đầu ra hay rùa nằm quay vào, biết được sắp mưa hay sắp nắng. Con người ta phải biết tính đếm như thế. Rồi trong vườn nhà, ít lâu sau, các đầu cột đều có lạt buộc thòng lòng xuống dài ngoẵng từng miếng thịt hươu. Những miếng thịt hươu ướp tro rễ cỏ tranh. Ngày đêm, khói bếp dày đặc, miếng thịt đỏ hắt rồi đen xạm, khô quắt. Thịt ấy, trữ quanh năm. Khi cạn thức ăn, lại xẻo một miếng xuống. Bắt mỗi con thú, được thịt ăn, đem cái xương đầu treo lên vách. Dần dần, trên cột vách lố nhố những bộ xương đầu hươu có sừng bè ngang bè dọc, những đầu con dê núi, sừng một nhánh cong vắt như đội mũ. Chẳng bao lâu, lại đã vào mùa lạnh. Cái rét về sớm trong rừng. Có khi mấy hôm không ra khỏi nhà, bếp đỏ suốt ngày giữa sàn ở lưng cây. Trong khi làm nhà, tìm thêm được mấy thứ nữa. Gái đi kiếm lá ngót ở một khoảng rừng xa. Chỗ ấy khuất, chỉ thấy tàu lá đen sì trên những thân cây cao vút. Gái đoán cây cao thế thì dưới gốc thoáng, chắc có rừng ngót. Gái lần vào. Đúng như vậy, những đám ngót ken kín mặt đất.

Chỉ có cái lạ: chỗ quanh mỗi gốc cây, đất nhẵn thín, hình như có những quả như quả trám lăn lóc. Xem kỹ, đúng quả trám. Những quả trám trắng già lổ đổ vàng, bên cạnh vết chân hươu và phân hươu. Phải rồi, con hươu nghiện ăn trám. Ngày trước, ở ven sông Cái thành làng đã lâu mà từng đàn hươu còn về tìm trám quanh nhà. Vào cuối mùa mưa, cứ nghe chó cắn động gốc trám, cả xóm lại đem lưới ra chăng kín các lối vào rừng. Có lần bắt được một lúc hàng chục con hươu. Gái nhặt trám, bọc thành từng gói lá rồi bẻ cái gậy, quảy về nhà và kể chuyện thấy vết chân hươu như thế. Cả mấy tháng ăn vã rau ngót và trám trắng vùi lửa với thịt hươu nướng cũng chán miệng và sít răng. An Tiêm nghĩ cách đào lấy đất nặn bát, nặn nồi rồi đốt củi làm than nung. Nhưng những chiếc bát đàn và nồi niêu đều vỡ sụp, lăn ra như hòn cuội. Đất rừng ẩm, sâu ngập quá đầu người mà vẫn chỉ một thứ mùn lẫn cuội. Không phải đất thó, đất nặn không ăn, không làm nồi, cũng không nung bánh ngói được. Lại vẫn rau ngót và trám trắng chén tràn với thịt hươu nướng. Khi những rặng tầm xuân bắt đầu nở trong mưa bay như mưa ra bụi hồng, mới biết cái Tết đã qua. Đầu năm cuối năm bây giờ lại có những thói quen và dấu hiệu mới. An Tiêm từ ngoài rừng về. Vai vác cái gì dài, xa trông như khoác ngòng ngoèo trên cổ một con trăn. Về gần đến bên suối nước, mới nom rõ cây vầu.

- Tìm được một rừng vầu! Nhiều lắm! Đã bảo mà, có trúc thì phải có tre, có vầu, có mai...

Cây vầu của quý này làm được hai việc mà từ khi đến đây không có. Chặt bốn đốt vầu dài liền nhau, lấy cái lao trúc tống đá xuống lòng ống, phá thủng ba mắt ống, chỉ để một mắt sau cùng, thế là Gái được ống vầu vác ra suối lấy nước. Kề hứng một lát cạnh mỏm đá, đã được đầy ống, vác về dựng bên chân cầu thang. Như thế, đêm hôm khỏi nỗi lục cục trèo xuống, mò ra tận suối lấy nước. Bây giờ chỉ việc với tay ra ngoài vách, lôi cái ống vào, thế là khối nước uống. Nhưng được ống vầu đựng nước chưa thích bằng ống vầu làm nồi nấu canh, nồi kho thịt. Mọi khi, đành ăn lá ngót nướng, lá ngót hầm, quả trám và lá ngót lùi. Bây giờ, một khúc vầu, mỗi đầu một mắt, thế là được hai ống để nấu canh. ống vầu tươi đặt nghiêng giữa bếp. Lửa đượm than lên ngọn cả cái vỏ vầu đã ám khói, cháy xèo xèo. Cháy hết lượt vỏ vầu, canh ngót cũng vừa sôi, nhấc liền ống ra. Canh rau ngót thơm mát lạ lùng, trời ôi, cái nước canh ngót. Nước canh ngót này mà có cua, có hến sông Cái... Nửa ống vầu kia để làm nồi kho thịt với trám. Có ống vầu cũng như có nồi, bếp núc làm gì cũng tiện. Rồi thanh vầu vót làm đũa, mắt vầu làm bát, làm muôi. Giá có gạo thì ống vầu còn làm cái lam cơm. Nhưng bây giờ thì làm thế nào có hạt gạo, bao lâu nay không trông thấy một hạt cơm.

Mùa lạnh nữa lại tới. Đến độ rét mướt ấy thì xống áo vợ chồng con cái bạc và rách như xơ mướp. Người đi cách một quãng, trông đã lẫn cả vào bóng đá. Chỉ cái váy sồi nâu của Nàng Hoa và của Gái còn hơi tinh tươm. Năm trước, Nàng Hoa đã nói:

- Mình ạ, làm sao giữ được xống áo nên hồn.

Cho khi nào trở về được còn có cái mà mặc. An Tiêm cũng vẫn có ý như thế. Cái thắt lưng điều của bố và của con trai với hai cái khăn chàm, không mấy khi dùng đến. Nhưng tai ác cái giống vải, chỉ để không mà cũng tã dần ra. Biết làm thế nào! Gió núi thổi hun hút xoáy vào từng lỗ áo rách, xé thêm ra, cái rét càng như gai châm, người đi cong gập lại, không lê bước nổi. Mới mấy hôm rét mà đã không ai ló được khỏi lỗ cửa, chỉ quanh suốt ngày trong lều với lửa ở lưng chừng cây. An Tiêm nói:

- Mình còn nhớ cái năm ta mới lên Bãi Lở, chưa ai trồng bông, trồng dâu được, cả làng phải tước sợi bẹ cọ ra làm váy áo đụp thêm cho khỏi rét.

- ừ, cái sợi ở bẹ cọ rừng, nhưng còn cái kim...

- Có thể nghĩ cách làm được kim. Nhưng cọ thì ở cánh rừng này không có. Thôi, mai nắng đi tìm thêm. ối thứ khác làm được cái mặc... Mình để ý mà xem, có phải khi mới ra đây, tưởng không bới đâu được thức gì, thế mà rồi vẫn có. Cả mấy ngày ấy, ai cũng vơ vẩn đi tìm. Một hôm, ở rừng về. An Tiêm mừng rỡ, chưa chui vào cửa, đã nói to:

- Tìm được rồi.

- Cái gì, hả mình?

- Vỏ cây sui.

- à vỏ sui, đây cũng có cây sui à? Vỏ cây sui để làm xống áo cũng không lạ đối với người đã ở Bãi Lở.

Mới đến Bãi Lở, người ven sông còn thưa thớt lắm, đàn ông chỉ độc một cái khố, trẻ con thì trần truồng quanh năm. Đến mùa lạnh, các chòm xóm xô vào rừng lấy vỏ cây sui đắp vào người, mùa lạnh nào cũng thế. Khi An Tiêm lên mở đất Bãi Lở, Nàng Hoa đem theo nghề trồng dâu chăn tằm, kéo kén, dệt sợi rồi lại trồng bông. Từ đấy, người Bãi Lở có vải, có sợi gốc, biết nhuộm nâu, nhuộm chàm, biết dấn bùn cho thâm xống áo. Bây giờ, lại như ở Bãi Lở ngày nào, vào rừng tìm vỏ cây sui. Không ngờ cuộc đời lại có khi ngược nước như thế. Cây gỗ sui mọc hóc hiểm trong khe ẩm hơi đá tối hốc sâu. Cây sui ấy cao mấy đầu người, lá rợp mặt đá. Không trông thấy gốc, đến gần vẫn tưởng đấy là bụi cây dại. Vì thế, đã có khi trông thấy nhưng chẳng ai hơi đâu mò vào để cho con rắn, con trăn tưởng vào trêu nó. Lại có khi lá han xát ngứa móc thịt ra. Thế mà An Tiêm đã lần mò tìm được. Lấy dao khía vỏ cây sui, bóc ra, đem về. Mẹ con Nàng Hoa, mỗi người quảy một gánh nặng. Vỏ sui phơi trên mỏm đá, những ngày nắng, khô rắn như mo nang. Lúc ấy, lấy đá ghè kỹ như người đập vải. Vỏ sui mềm dần, rụng lần vỏ ngoài, còn lại một lớp sợi tơ ra như sợi bông, bết thành nạm trắng xám, càng phơi, nạm tơ sui càng kết lại. Được mấy nắng. Nàng Hoa đem vào, xé cho cả nhà, mỗi người một mảnh. Xé rồi buộc, Nàng Hoa buộc thật khéo. Miếng nách buộc lên vai, lại khoanh lưng mấy nạm, vắt lại, vạt trước vạt sau không còn một chỗ hở. Riêng vạt trước xòe xuống có miếng vỏ sui dày phủ kín đầu gối. Thừa bao nhiêu, buộc từng mảnh, thế là mỗi người còn được cái chăn đắp. Váy áo vỏ sui trắng bệch, trắng xám, ai trông cũng lúi húi, lọm khọm như nhà gấu trắng ở núi. Tuy vậy, ấm như khoác cái sưởi trên người, chỉ một lúc đã quen như mặc xống áo thật. Nhưng, Nàng Hoa nhìn chồng, nghĩ mà thương. Dễ thường người già đi rồi hóa gấu thật. Bao lâu rồi, tóc An Tiêm dài quá lưng, kín tai, chỉ còn hai con mắt lay láy giữa bộ râu quai nón lốm đốm bạc mọc trùm lên cả đuôi mắt. An Tiêm cũng thấy vợ thật đáng thương hại. Mẹ con nhà nó vất vả quá, lam lũ quá. ở Bãi Lở cũng chỉ gian nan có thoảng có thì. Bây giờ vì mình mà mẹ con phải chịu đi đày đến chốn bơ vơ thế này. Thằng Mon đụp cái áo sui đến đầu gối, lụ khụ như ông cụ. Nhưng nó phóng lao trúc khỏe lắm đấy. Mon cứ ra rừng là y như phải kéo theo về, có khi cầy hương, có khi nai, có lần Mon chạy về gọi cả nhà ra khiêng con nai to quá. Khỏi cái lo rét, lại tìm được củ mài. Khi trở nồm có đá đổ mồ hôi, con rắn, con trăn, con gấu đã bỏ hang hốc tránh rét bò ra kiếm ăn, những cánh rừng đại ngàn không còn làm u ám rầu rĩ hai con mắt nữa, rừng đã nở lá non thơm mát mũi, phía nào lá rừng cũng cuồn cuộn xanh lên như khói. Đến một quãng rừng thoáng, An Tiêm ngẩng đầu, thấy một dây nở hoa tím bò ngọn cây. Chiếc hoa tím, cánh cụp thì đậm, cánh nở thì phai, đầu tiên, tưởng hoa của cây ấy, nhưng trông lại, biết hoa trong những dây leo dưới đệp lá chằng chịt. An Tiêm bảo Mon:

- Hượm đã, con ạ.

- Cái gì thế? Mon rút chiếc lao trúc, cầm sẵn tay, nhìn ra. Chưa biết sao, hãy phòng sẵn, đấy cũng là biết cách đi rừng. Nhưng An Tiêm lại nói:

- Lên xem cái dây kia.

- Chỗ hoa tim tím ấy à? An Tiêm trèo lên, chặt quang mấy bụi cây ngoài, len vào tận nơi. Cái lá to như lá mảnh bát, không phải dây bìm lá nhỏ lẩn mẩn, nhận ra đấy dây củ mài. An Tiêm quay lại, nói to xuống:

- Củ mài! Củ mài! Mon leo vào tận nơi. Hai bố con hí húi phát quang hết các dây dợ xung quanh, còn trơ lại một gốc dây mài bằng cổ tay người lớn.

- Củ mài này to lắm. Kể ra, phải đến tháng tám ăn mài mới khỏi sượng. Nhưng mấy năm nay chẳng được miếng mài, cứ đào về, để ráo nhựa một tý thôi. Đào theo dây xuống, được lưng chừng, đã quá trưa, phải bỏ, mai đào nốt.

Nàng Hoa và Gái thấy nói tìm được củ mài, ai cũng mừng. Miếng củ mài khác nào miếng cơm. Người ở đâu, khi thiếu đói, đều phải lùng rừng nương nhờ củ mài. Ngày tấm bé, An Tiêm còn ở bờ biển ngoài cõi Ninh Hải hay khi vợ chồng lên phá đất ven sông Cái thì miếng mài, miếng cơm chẳng để ý. Bây giờ bảo sắp có củ mài, bỗng thấy rau ngót, thấy trám, thấy thịt trộn tro cỏ tranh, tưởng như ăn đều xót ruột cả. Bao lâu nay thèm một miếng cơm, một mùi cơm, mùi thơm bùi bột mài cũng đương thèm. Cả nhà cùng vào rừng đào nốt củ mài. Củ mài ấy to bằng bắp chân, dài nửa sải tay, tõe bốn nhánh thành bốn củ. Hai anh em Mon khiêng một củ mài. Củ mài to không biết đã già bao nhiêu năm! Về đến nhà, phải đổi vai mấy lần. An Tiêm cắt cái núm đầu củ đem trồng bên hòn đá cạnh ngọn suối. Tối ấy đỏ lửa đến khuya. Cả nhà ngồi quanh cái ống vầu luộc củ mài. Mùi mài tỏa thơm ngậy khắp nhà, hệt mùi xôi nếp cái mới. Tự nhiên, ai cũng nhớ cõi Bãi Lở, nhớ đến làng xóm ven sông Cái. An Tiêm nói:

- Hôm nay tìm được củ mài, càng nghĩ càng thấy không ai đóng cửa cái sống của mình được.

Chặp tối hôm ấy, thuyền quan quân đổ cả nhà ta lên núi, tưởng cái chết đến nơi, thế mà rồi lại thấy ra miếng nước ở cây cọ, biết không thể chết. Con cua con cáy bấy thế mà còn biết bò kiếm ăn, con hà phải đóng vỏ vào tảng đá suốt đời đứng một chỗ mà vẫn sống, huống chi con người đầy đủ tai mắt chân tay thế này. "Không thể chết, nhưng cũng không thể chịu khổ mãi, cứ mãi chịu chui rừng thế này, cứ lay lắt thế này. Bàn tay vợ chồng mình đã từng làm cho đất Bãi Lở nên cái ăn, bây giờ chúng mình cũng sẽ làm cho cái đảo này thành cái ăn, sẽ thành nơi có người đến ở đông vui, như đất Bãi Lở. "Mình ạ, ta ở trong rừng cũng được, không còn khốn khổ như ở hang đá núi trọc, nhưng không, ta phải tìm cách mở mang ra. Bây giờ thấy được mài ăn, chắc các rừng quanh đây cũng có mài. Đợi đến qua mùa mưa, ta sẽ đi tìm thêm mài, tích cái ăn chắc bụng đã. Rồi ta lại đi tìm đất mới phen nữa. Cái khi ở núi trọc xuống rừng này tôi đã trông hướng nhiều lần. Sau lưng ta, núi dựng đứng. Không lẽ cả đảo chỉ có núi đứng như thế. Chắc đằng trước mặt, phía gió mát thổi tới phải có bãi, có sông. Không biết đi bao lâu mới tới được bờ đảo đằng trước mặt, nhưng ta trữ được lương ăn rồi, ta lại đi phen nữa. Ta quyết mở mang lên, quyết không chịu sống rúc ráy như con tê tê trong lòng đất đâu. Mình ơi, một ngày kia, có bao giờ nhà vua còn nhớ tìm lại vợ chồng con cái An Tiêm trên đảo, lúc ấy An Tiêm sẽ nói rằng: vợ chồng con cái An Tiêm vẫn sống và đương gây dựng chốn đảo hoang thành cõi bờ đồng đất quê ta. Đấy là sở nguyện của tôi". Tiếng củi nổ vui tai trên bếp rực than. †n mài no, Mon và Gái mỗi đứa nằm một góc, cọ quậy trong mảnh chăn vỏ sui. Nhưng không phải đã ngủ. Mắt tỉnh như sáo sậu. Còn mải hỏi bố các thứ chuyện. Cũng lây cái vui của bố mẹ. Gái nói:

- Bây giờ mẹ kể sự tích trầu cau. Mon nói:

- Nghe bố kể chuyện ông Gióng, ba năm nằm chõng đá... Mon tưởng tượng bố con mình cũng to lớn như ông Gióng. ừ một hôm nào, cả nhà lại đi, sẽ tới một cánh bãi như Bãi Lở, sẽ tới một con sông như sông Cái. Ta cưỡi ngựa sắt, vùn vụt bay như ông Gióng. Không phải leo rừng, chỉ một chốc đã tới nơi. ở bãi sông ấy, đến mùa nước xuống, bắc cầu noi đưa một dãy trống đồng ra mặt nước giữa sông, tiếng đồng rền ra gọi các cõi về xem hội. Rồi lò vật mở, các sới vật nhộn nhịp suốt giêng hai... Giấc mơ thú vị theo chuyện ông Gióng đi tìm đất ở ven sông chập chờn đến trên hai mí mắt buồn ngủ của Mon. Trong cánh rừng đêm đen thẫm, gió nổi rào rào rồi im. Phút chốc, lại lặng lẽ ghê. Con ve núi thôi kêu từ nãy. Đã khuya lắm. Dần dần, rừng xa rừng gần im phăng phắc. Một tiếng hươu đột ngột giác, nghe bảng lảng thật xa. Rồi lại vắng, vắng thăm thẳm. Vắng ơi là vắng!

Mấy mùa nắng rồi, cả nhà An Tiêm ở rừng sâu. Cuộc sống bờ bụi đã khá quen với mọi người và mỗi ngày một nền nếp dần, như ý An Tiêm muốn:

"dù khó khăn đến thế nào, con người cũng phải có chỗ ở, có miếng ăn tử tế, cả nhà mình đây cũng là một chòm xóm, chứ không phải như hươu nai ở hoang trong rừng".

- An Tiêm hay nói thế. Mon nói:

- Nhà mình còn đi tìm bờ sông làm nhà ở, bố đã bảo thế. Nàng Hoa hỏi An Tiêm:

- Mình thử xem khi nào đi được. Bây giờ ta có thịt sấy để trữ.

- Để tôi xem.

Mùa nắng đã lại đến. An Tiêm bàn với Nàng Hoa: đi nắng thì vất vả quá, đợi hết mùa nắng này sẽ đi tìm ra bãi biển đằng kia. Mọi công việc lặng lẽ sửa soạn cho chuyến đi sắp tới. Những buổi chiều mờ như khói tỏa khắp rừng. Trên bờ suối, thỉnh thoảng thấy một đàn rắn đỏ hắt ngoằng đến rồi đủng đỉnh, lững lờ như một dòng lửa chảy. Những con ve kim ra rả đến tận chặp tối nóng nực. Tiếng ve gióng giả, liên miên, tưởng tiếng ve cũng lặn vào chiều như ánh nắng, như khói nắng, hôm nào cũng thế. Cả cánh rừng u uất đổ mồ hôi đêm. Tắt hết lửa mà vẫn khó thở, ngột ngạt quá. Sáng ra, trông lại sau núi, cả nửa khoảng trời đứng đen thẫm. An Tiêm nói:

- Thảo nào, cơn mưa trong núi thế kia thì oi là phải. Mọi người dặn nhau đừng đi kiếm ăn xa. Sợ phải mưa không về được. Cả ngày, rừng oi ả như nẫu ra, không một tiếng động. Ai cũng về sớm. Không phải sợ mưa, mà vì bức bối, chân tay rã rời, không muốn bước. Nhưng trời như bị hãm, vẫn không mưa. Nửa trời đằng kia mây đen càng tụ lại, không tan, không loang, đen dữ dội như một rặng núi mới nổi.

- Mây đen còn dọa thế thì còn oi khốn khổ. Đêm ấy, người ngồi không yên chỗ, bốn phía như có lò nung, nhưng vẫn sáng trăng. Một nửa trời bên này, trăng hè trong leo lẻo, trắng rợn trên khe lá. Nửa trời đằng ấy mây đen đứng thành, đen xám, đen kịt. Suốt cánh rừng, không tiếng ve, những con ve cũng mệt rũ, không đánh tiếng lên được. Phía núi, đợt mây thành đen kịt đứng như bóng tối bỗng ngùn ngụt kéo lên cao hơn, rợn hơn. An Tiêm gọi to:

- Ra xem rồng lấy nước! Rồng lấy nước đằng kia. Mon đã đứng cạnh bố, trên mỏm đá. Nàng Hoa và Gái lật đật trèo xuống. Trong đám mây đen kịt nửa đêm toác xuống một làn trắng toát, trắng hơn cả ánh trăng trên bóng lá. Làn trắng tõe đôi đám mây đen, doãng dần rỗng ra, dài như chiếc ngà voi khổng lồ thúc xuống. Những tiếng ầm ầm nổi lên, rền như sấm. Đột nhiên, rừng mát hẳn. Không phải mưa, mưa gì như đổ núi. Cũng không phải sấm, vì sấm sao sấm ầm dài từ nãy. Tiếng ầm càng xa xa càng dữ. Nhưng ở đây trời đã dịu trở lại trong hơi ẩm thường khi ở rừng sâu. Suốt mấy ngày đêm oi bức vật vã, bây giờ, tất cả ngủ thiếp. Riêng mình An Tiêm vẫn thao thức. Tiếng ầm ầm lạ lùng phía xa, tiếng mưa hay tiếng núi lở? An Tiêm ra góc cột khêu bấc trong ống nhựa trám. ánh sáng lom đom tỏa. Có cái sáng trong nhà, cũng đỡ vắng. Có lẽ khuya đã sang canh từ lâu. Tiếng gầm ào ào đột nhiên đến ngay cửa rừng. Cả nhà choàng thức. Như cả một rặng núi đổ xuống. ống nhựa trám đã tắt từ lúc nào. Gái kêu trước nhất:

- Bố ơi! An Tiêm tìm đánh lửa. ánh sáng nhựa trám lại le lói. Mọi người ngồi rụm lại trong tiếng chuyển động long lở bốn phía, không ai hiểu sao. Nàng Hoa ôm Gái vào lòng, tay cầm bó mo nang bọc xống áo. Lúc nào cũng giữ cái đáng giá nhất trong nhà. Mon đứng dậy, cầm chiếc lao trúc, ngó ra:

- Cái gì... Cái gì... An Tiêm thét:

- Trời ơi! Rồng cuốn nước đến đây rồi. Nói thế rồi An Tiêm đạp toang mấy cây gỗ chắn vách nhìn ra. Trong rừng tối như mực, tiếng réo, tiếng đá, tiếng cây khủng khiếp đổ.

- Các con ơi! Trèo lên... Mình ơi, trèo lên... Một con nước xô lên quá nóc lều rồi những con nước ập xuống, cả bóng tối khoảng rừng ngụp vào. Mon lật đật quàng tay ôm cây thang. Nước đánh dựng lên rồi ngã xuống. Mon ngã theo. Nhưng vẫn bám chắc thang gỗ.

- Bố ơi! Tiếng thét sặc trong nước. Trong đêm, hốc núi chìm vào những làn sóng, vùi cái hang đá, nhưng rồi lại nhô ra. Con người mắc vào đá như những hòn sỏi, như những con chuột bị lắc đi lắc lại trong ống. Trong cơn mê hoảng, nhưng trong tiềm thức cả khi mê, con người vẫn không mất hẳn trí nhớ. Nước ộc vào hang, nước ra, những bàn tay bàn chân tưởng chết cứng, vẫn bám gờ đá, vướng chắc vào gờ đá. Mon thấy mình đương trôi trong bụng nước. Bỗng chốc, sóng đánh Mon vạp vào tảng đá. Mon lặng điếng, buông một tay. Tay vừa buông đã ngật ra. Mon lại bíu vào cây thang gỗ. Cho tới lúc trời tảng sáng. Những con lũ trắng xóa đã biến mất. Bỗng nhiên, chỉ còn lại một im vắng. Trời sáng dựng lên trên một quang cảnh ghê rợn. Cánh rừng trước mặt đã băng mất. Suốt một dải dài toang ngoảng, ngổn ngang, những tảng đá lớn, không biết từ đâu vật đến, chồng đống những trái núi mới lổn nhổn trên chỗ hôm qua còn rừng. Đột nhiên, một con trăn mốc trong hốc núi bò ra. Cái sống đầu tiên sống lại, đương đi bơ vơ. Làn da trăn rào rào thành tiếng trên đá đến trước cửa hang rồi lại trườn xa. Đấy là tiếng động làm An Tiêm tỉnh lại. An Tiêm ngỡ mình chết rồi chiêm bao. An Tiêm thử đứng dậy. An Tiêm không chết. Chút sáng mờ hắt trước mặt. An Tiêm nhớ tức khắc đến vợ con. An Tiêm chạy ra phía mờ sáng cửa hang. An Tiêm cất tiếng hú. Xung quanh vắng lặng, có lẽ chỉ còn độc một con trăn mốc đương luồn qua những rặng cây đổ, nghe tiếng hú. Con trăn tưởng cơn nước ống lại sắp ập đến. Con trăn trườn nhanh. Da bụng trăn sát trên đá, trên sỏi, trên cành cây, tiếng sào sạo vang đến tận đây. Một vùng trời đất này chỉ còn có con trăn ấy sống ư? An Tiêm hốt hoảng quay vào hang, tìm vợ con. An Tiêm đứng im, nghe. Xung quanh tối như bưng. An Tiêm vẫn đứng im. Từ ngoài cửa hang hay từ đâu, tiếng rào rạo làn da bụng con trăn đương ngoằn đi. Tiếng sào sạo... sào sạo đều đều... Những con trăn... những con trăn... Tiếng đều đều nghe trong bóng tối. Trong hang này chỉ có con trăn thôi... Hình như đâu quanh mình, rờn rợn đâu quanh mình. Có phải không? An Tiêm cúi xuống. Con trăn thở, con trăn bò rờn rợn ngay bên cạnh. An Tiêm sờ tay ra sau lưng. Con dao vẫn nguyên trong dây thắt khố. An Tiêm rút dao, rà rà bước. Một tay An Tiêm quờ trước mặt. Vách đá nhờn như mò vào da trăn. Nhưng không phải. An Tiêm đã có ý định, nếu con trăn ngoằng lại, núc An Tiêm, An Tiêm sẽ doạng chân thật chắc rồi lần tay tìm đúng chỗ da mỏng ở bụng nó, thích lên một nhát. An Tiêm bước, rờ rờ tay. An Tiêm đụng vào một khúc đuôi trăn

- không, một bàn chân, chân người. An Tiêm nhận ra chân trẻ con. An Tiêm cúi xuống, bế xốc nó lên, chạy ra cửa hang. Cái Gái! Cái Gái không chết. Người nó còn mềm ấm. An Tiêm ôm con trong lòng, hà hơi lên mặt con. Một lát, Gái khe khẽ:

- Mẹ... mẹ... An Tiêm nói:

- Con nằm đây... Con nằm đây...

Rồi An Tiêm lại hấp tấp, lập cập vào hang. Nó gọi mẹ nó trong ấy. Hang vẫn hoàn toàn lặng im. Bây giờ mới để ý lúc nãy tiếng Gái khò khè, không phải con trăn bò. Tay An Tiêm cầm con dao, tay lại quờ ra trước mặt. An Tiêm lần chân giẫm từng hòn đá, bước từ ngoài hẩng sáng vào đến tận trong cùng, chỗ cái hốc nghiêng lên ngách thượng, tay đụng vào nhũ đá. Những nhũ đá rụng lách tách, lã chã. Như mưa đá. Nhưng vẫn không thấy gì cả. Xế trưa, An Tiêm cõng Gái trên lưng, bước đi. Gái vẫn còn mệt lử. Nhưng An Tiêm phải đi tìm Nàng Hoa và thằng Mon. Gái nằm trên lưng bố như con nhái, không cựa quậy. Trận bão vỡ nước, con lũ ống chỉ còn sót lại những vũng nước đọng hốc đá. Dòng suối cũng biến đâu mất. Vết sóng nước đêm qua ẩn đổ cả dãy cây thành một luồng rỗng giữa hai cánh rừng âm u. Bố cõng con đi. Đêm qua, Nàng Hoa bị sóng đánh giạt lên một đỉnh đá. Nàng Hoa ngất, ngay đợt nước đầu tiên, cuốn đi. Khi mặt trời lên, Nàng Hoa tỉnh lại. Những cỏ rác ẩm ướt vướng bên người bây giờ khô cong, rũ xuống. Nàng Hoa mở mắt, nhưng tóc bết kín mặt. Nàng Hoa lấy tay tõe tóc. Trước mặt, chỉ có trời xanh im lặng, Nàng Hoa cố ngồi dậy. Nàng Hoa thấy mình đương ở trên một hòn đá cao. Hòn đá to như tòa nhà, trông xuống, hoa mắt, xám mặt lại. Nàng Hoa không dám nhúc nhích. Tưởng như hòn đá khấp khểnh sắp sụp xuống. Xung quanh, bốn phía, chỉ thấy đá. Không biết đây là đâu. Trận nước cuốn như một cái màng che hết trí nhớ. Mang máng lúc ấy đương giữa đêm, không biết chồng ở đâu, các con bây giờ đâu mà một mình mình lại ngồi trên đỉnh đá này. Nàng Hoa gào khóc cho đến lúc không còn sức há được miệng nữa. Nàng Hoa như một con cá trên cạn, dán mình xuống đá, chỉ còn thoi thóp. Suốt ngày hôm ấy. Nàng Hoa mê trở về ven sông Cái. Những đêm lửa sưởi, kể chuyện sự tích trầu cau cho Mon và Gái nghe. Cuối cùng câu chuyện kể đến lòng chung thủy một nhà đoàn tụ. Nàng Hoa chợt tỉnh, lại nhớ từ khi ra đảo, vợ chồng con cái như chân tay trên một người, bây giờ chân đâu, tay đâu. Nghĩ đến đấy, Nàng Hoa ứa nước mắt.

Chuyện cổ tích kể đến chỗ người em hóa hòn đá. Có lẽ đương chặp tối. Bóng đen từ mặt đất dâng lên, chỉ còn thấy mờ mờ trên trời. Hay là Nàng Hoa đã ngất đi, rồi như trong chuyện cũ, em hóa hòn đá, anh hóa cây cau, chị dâu hóa giàn trầu không. Chết rồi mà vẫn quấn quít, hòa thuận, Nàng Hoa nghĩ thế. Dễ thường chồng mình chết rồi, đã thành hòn đá này. Mình cũng sắp chết trên hòn đá. Chết rồi sẽ hóa cây si, cây cau, cây ngái che lên hòn đá này cũng nên. Hai hàng nước mắt lại ứa ra. Một lúc, như trời sáng. Lẽ nào, vì một câu chuyện trầu cau mà cả đêm không chợp mắt. Nhưng trời đã sáng thật. Khi sáng trời thì người ta tỉnh táo hơn trong lúc đêm tối. Cho đến bao nhiêu năm sau, có một lần nhà vua đi qua... Nhà vua đi qua... Câu chuyện oan khuất được tỏ tường...

Lúc ấy, Nàng Hoa nghe đâu vẳng lại một tiếng hú. Tiếng người hú. Nàng Hoa không còn sức nhúc nhích được nữa, thế mà tiếng hú lạ lùng kia đã dìu Nàng Hoa nhỏm đầu lên. Nàng Hoa nhìn xuống. Con mắt hoa lảo đảo. Nàng Hoa giơ hai tay rồi gào lên một tiếng. Không ra tiếng nữa, tiếng kêu cuối cùng của người hấp hối. Rồi Nàng Hoa nằm vật xuống, ngất đi. An Tiêm không nghe thấy tiếng kêu ấy của Nàng Hoa. Không nghe hẳn thành tiếng, nhưng đi trong chỗ hoang vắng kiệt cùng mà lòng đương mong mỏi bồn chồn, thì dẫu cho một tiếng động nhỏ đến đâu cũng gây ra một rung cảm sâu xa ngoài cả tiếng động ấy, không thể đoán tại sao biết được. Trông thấy đống đá cao chót vót kỳ quái, An Tiêm nghĩ biết đâu trên ấy hay trong các hang hốc quanh đó, có dấu vết lạ, tiếng gì lạ. An Tiêm đặt Gái ngồi tựa lưng vào tảng đá bên cạnh. Lúc nãy, An Tiêm đã tìm được nắm lá ngót, vò ra cho con nhai sống. Bây giờ Gái tỉnh hơn. An Tiêm trèo lên. Bỗng An Tiêm giật mình. Cái gói mo nang bọc xống áo mà Nàng Hoa đi đâu cũng đeo theo. Cái gói vướng ngãng vào khe đá cạnh đấy. An Tiêm leo lên được đỉnh đá. An Tiêm vực Nàng Hoa xuống đến chân đá, nhìn lại cái dốc ngang mang tai. Không biết tại sao đã xuống được. Gái mừng quá, ôm mẹ, lúc ấy đã hơi tỉnh. An Tiêm hấp tấp nói:

- Ra cả ngoài rừng kia! Gái đã lon ton đi trước. An Tiêm cõng Nàng Hoa, cắm cúi bước. Đã ra đến một bờ rừng. Trước mặt, rừng núi đổ nát vẫn ngổn ngang hun hút, nhưng sau lưng, một vệt rừng im lặng. Cơn bão nước không phá vào đến đây. An Tiêm ở lại. Không tìm thấy suối. Không lo, có nước đọng trên các hũm đá rải rác quanh rồi. Nàng Hoa ngồi lả. Ngoài kia, trên đá lởm chởm còn sót chút nắng vàng rực. ở vũng nước đọng, bốc hơi nóng ấm ngột ngạt. An Tiêm cởi bọc mo nang ra phơi xống áo, thắt lưng, khăn chàm lên trên mặt đá. Mảnh sừng trâu và hai hòn cuội đánh lửa vẫn giắt trong cạp khố, bấy giờ cũng phơi ra đấy. Nàng Hoa định cất tiếng hỏi An Tiêm, mấy lần mấp máy miệng, không nói được ra tiếng. Cơn vật vã còn làm bải hoải rời rã người. An Tiêm đã cho uống mấy ngụm nước rau ngót, vẫn chưa lại người. Nhưng mỗi lần không nói được thì nước mắt giàn giụa xuống. Biết ý Nàng Hoa muốn nói gì, An Tiêm bảo:

- Ta đốt lửa nghỉ lại đây. Có khi nó cũng giạt vào mỏm nào quanh chỗ này thôi. Không lo. Mình nghĩ xem, bão đổ cây nước, vỡ núi vỡ rừng, tan tác đến thế mà rồi lại tìm được nhau. Còn sống thì còn tìm được nhau.

Không lo. Sớm hôm sau, An Tiêm ra hũm đá gần đấy vục nước về rồi trèo lên tảng đá cao nhìn ra. Bốn phía hoang rợn, xanh ngắt, vẫn một luồng rừng toang hoác đi tận đâu. Giữa đám cây, đá ngổn ngang, luồng bão cuộn thành ống nước thốc ra, như có một con trăn khổng lồ vừa trườn mình qua, bao nhiêu rừng, bao nhiêu núi lăn lóc cuốn hết theo. Đứng trên núi, An Tiêm hú gọi. Ngay tức khắc, ba bốn tiếng hú đáp lại, từ những núi xung quanh. Tiếng xa, tiếng gần, vang vang như tiếng trống đá. An Tiêm đợi. Nhưng đấy chỉ là tiếng đáp lại của vách đá, của tiếng trống đá tự nhiên. An Tiêm lại hú. Tiếng vọng lại lịm dần, rồi im. Tối ấy, mọi người uống nước cầm hơi, đợi sáng. An Tiêm đốt mấy đống lửa to. Ngọn lửa bốc cao, bóng rừng cao cao. An Tiêm nghĩ: trông thấy ánh lửa này, Mon còn sống đâu quanh tất biết đường mà về với bố mẹ.

Mon tỉnh dậy. Đầu tiên, hai con mắt mở ra thấy xám đen. Mon đưa tay lên giụi. Không nhấc nổi bàn tay. Cũng không nhận ra mình đương nằm sấp mặt, cả hai tay luồn vào cái lỗ ở cây gỗ có khấc thang trèo lên nhà lều. Mon cũng không biết, nếu không luồn tay vào đấy, chắc Mon đã buông cây gỗ, đã chìm và trôi đâu từ đêm qua rồi. Dần dần, Mon nghiêng được đầu. Và dần dần, trí nhớ trở lại. Từ lúc cả cây gỗ xô Mon vào tảng đá nước cuốn, Mon ngất đi. Ngọn nước cứ xô thúc Mon đi mãi. Tỉnh lại, đầu tiên Mon nhớ bố mẹ. Mon vùng dậy. Nhưng chân Mon cứng đơ. Hai tay không còn sức rút được khỏi cái lỗ ở thân gỗ. Mon nằm im, bỗng ứa nước mắt. Mon khóc. Tai nạn ghê gớm không thể lường được đã xảy đến cho nhà mình. Mon không biết Mon đã bị trôi bao xa. Nhưng Mon biết hình như đây không còn cánh rừng quanh nhà. Nằm nghiêng mặt thế, Mon khóc. Rồi Mon muốn gọi bố thật to. Không gọi được. Cổ Mon khé lại. Chỉ có nước mắt ròng ròng xuống má, xuống mặt đất lổn nhổn sạn sỏi. Nước mắt khô rồi, Mon trông nghiêng trước mặt, thấy một lằn xanh ngay chân trời, thẳng tắp như sợi chỉ. Không giống rừng cây trước nhà. Tay Mon đã bớt ê ẩm, cựa được. Mon co đầu gối. Hai cánh tay từ từ rời cây gỗ, Mon bò ra rồi cố ngồi dậy. Mon ngồi lên, mùi nước biển trong gió mát mà nồng mằn mặn ùa lên, bọc lấy Mon, là lạ, ngai ngái như giữa rừng mùa hoa dứa dại chín. Sóng biển lồng lộng trước mặt. Phía sau, còn hình một khu rừng lớn, cây cối đã đổ rạp cả một quãng xuống mặt đất. Gió hây hẩy đến, nắng càng rực rỡ mặt nước xanh đen biếc. Mon thấy mình đương ngồi đầu một bãi cát. Con nước chỉ đẩy hơi quá tay, Mon đã băng ra biển rồi. Nhưng cũng chẳng hiểu, cây gỗ trôi đến đây, dừng lại ở bãi cát, hay là Mon đã bị trôi ra biển rồi sóng biển hắt lại Mon lên đây. Nhưng đây là đâu? Mon lại trông quanh mình. Chỉ còn quen biết có cây gỗ bước lên thang nhà. Không còn ai nữa. Mon bàng hoàng tủi thân, lại khóc. Nắng lên đã rát cả lưng. Mon nhìn vào bờ cây trong xa. Nhưng Mon không đứng lên được. Rồi lại thiếp đi. Mệt quá, lo quá, đói quá. Một đêm qua. Đêm đầy gió nồm đưa hơi biển lên mát rượi. Sớm hôm sau, Mon tỉnh dậy. Mon nhớ hôm qua, trông nghiêng ra biển, nhớ bố mẹ, nhớ em, Mon khóc. Mon bị nước lũ ống cuốn đến đây, xa lắm, xa lắm rồi. Mon lại nghẹn trong cổ, sắp khóc. Nhưng Mon không khóc, Mon đứng dậy. Mon đứng dậy được. Mon thất thểu ra bờ biển xa thoai thoải. Những tảng đá đỏ rêu tựa chỗ cửa sông Cái năm trước, Mon đã thấy, rêu phủ như màu hoa tầm xuân hồng nhạt suốt bờ biển. Bố thường nói:

"Trong rừng dưới bể, con người ở đâu mà biết chịu khó cũng tìm ra cái nuôi sống mình". Từ khi ở đảo, bố lại hay kể chuyện vì câu nói ấy mà buộc lụy vào thân. Rồi bố lại nói:"Đấy chỉ vì người đời chưa vỡ nổi nghĩa câu nói sâu xa ấy mà thôi. Một đời tao đã lăn lộn vào sông ra bể, tao biết quý câu nói ấy". Bây giờ Mon một thân ở đây. Từ thuở bé, chưa bao giờ Mon đứng đây một mình thế này. Nhưng nghĩ lại lời nói của bố, Mon tưởng như không phải mình đứng một mình. Mon lội qua bãi lầy ra dãy đá phủ rêu đỏ. Đến nơi, nhìn kỹ thấy chen trong rêu đỏ có những con hà bám khắp, tảng đá xù xì không còn ra hình thù tảng đá. Mon kêu lên:

"ạ, cái ăn được đây rồi!". Nhưng không có gì nậy hà ra khỏi đá. Đương nghĩ cách, lại trông thấy trên mép nước sóng đánh, lấp ló, mờ mờ những con ngán đội mai lăn lên lăn xuống theo sóng. Mon cúi xuống, nhặt con ngán, nhặt được một vốc tay những con ngán bằng con trai và những con sò to như nắm tay. Khoeo chân vẫn mỏi, lội cát nặng, không nhấc lên được, muốn ngã, Mon phải lom khom bốc ngán rồi chệnh choạng, lõm bõm lội vào bờ. Mon đến ngồi bên một tảng đá. Lúc ấy, lại trông thấy ở bờ cát, vô khối con ngao, con hầu. Nhưng Mon đương đói, Mon còn nhặt hòn cuội đập, hút hết hơn chục con ngán to. Thịt ngán tươi ngọt mát, thịt sò huyết đỏ như son, ăn hết lẻm cả mà còn thòm thèm. Thấy người khỏe khoắn hơn hẳn lúc nãy. Mon ngồi duỗi thẳng chân, trông ra biển. Trông ra biển, Mon nhớ năm trước bố kể ngày còn nhỏ, bố cũng là người kẻ bể ngoài Ninh Hải. ại, bao nhiêu chuyện bố kể thật kỳ lạ và ghê gớm. Bố lúc ấy chưa bằng tuổi Mon bây giờ mà đã phải lang thang kiếm ăn cả năm ngoài đảo. Ngoài Ninh Hải, đảo nhiều như trấu rắc mặt biển. Chuyện bố bơi ra khơi kiếm cái ăn, phải con cá trình, cá mập đuổi cắn. Bố bơi nhanh hơn cá mập. Bố còn xỉa chết cả cá mập. Ngày nhỏ, bố mình thật khổ, bố mình cũng thật giỏi. Có một lúc, Mon lại chạnh nghĩ: bây giờ không biết bố đâu, mẹ đâu, còn mình thì đang bơ vơ. Mon thấy mủi lòng. Nhưng Mon nghĩ lại ngay và cầm được nước mắt. Mon muốn đi tìm bố mẹ và em. Phải đi tìm bố mẹ. Phải làm thế nào đi tìm được bố mẹ và không nên khóc, khóc thì chẳng nghĩ được gì. Mon đứng dậy. Đến lúc ấy, Mon mới nhận ra Mon đương ở truồng. Bây giờ Mon chỉ còn nguyên thân hình bố mẹ sinh ra và Mon đương tồng ngồng đi trên bãi. Manh áo và cái khố, sóng đã kéo rách mất tiệt từ bao giờ. Lúc này, bạn với mình chỉ còn có cây gỗ bậc thang lên nhà. Cây gỗ nhà mình cứu mình, đưa đến đây. Mon ra bãi, kéo cây gỗ thang nhà vào trong bờ cây. ở đây, chỉ còn có cái thang này thân thuộc, phải giữ nó. Rồi Mon đi theo những bụi cây bờ biển. Bụi cây và cánh rừng bờ biển sáng trắng khác cây cỏ rừng sâu. Biển đây không có núi đá dựng, bờ bãi, thoai thoải vào tận trong mép rừng lô xô những bụi dứa dại bạc phấn xù xì gai. Những cây dứa dại già chết rữa, tàu lá dứa mềm và dai đầy xơ như một đệp sợi. Mon lấy hai tàu dứa khô, bẻ hết gai cạnh rồi buộc úp làm một. Thế là Mon đã có cái khố vừa vặn, có cả hai múi bảnh chọe bỏ đằng trước bỏ đằng sau bẹn, kiểu khố đuôi lươn. Đi sâu vào có đến nửa buổi mà rừng vẫn thoáng. Mon nghe tiếng reo hò xa xa đâu phía trong, Mon ngơ ngác. Nhưng nhìn đi nhìn lại, không thấy gì khác. Mon lần vào chỗ có tiếng kỳ lạ. Một lúc, gặp một cây thông to. Nước bão cuốn qua đây, thế mà cây thông vẫn đứng và cây thông đương reo. Biết rõ là tiếng thông reo. Nhưng Mon vẫn bồi hồi đứng ngẩn một lúc, ngỡ như có người ở đây. Cây thông này bằng mấy người ôm, trên thân lồi cái vấu có một lỗ trống hốc. Cây thông già tuổi lắm. Mon ngẩng đầu, chăm chú, tưởng nghe được tiếng vi vu ở mỗi vừng lá thông đương bay ra. Mon ra bãi kéo cái 159 160 thang gỗ vào dựng tựa vào cây thông. Mon leo lên, chui vào cái lỗ trống trong thân cây. Mon nằm nghiêng trong hốc, chân duỗi thò ra ngoài. Mon nghĩ: bố đi qua sẽ trông thấy chân mình, biết mình ở đây. Rồi làm một giấc. Ngủ say quá, không biết đã qua một đêm sang ngày khác hay là mới ngủ được một lúc. Mon đứng dậy. Mon nhìn ra cửa cái lỗ trong bụng cây thông già. Giấc ngủ làm cho Mon đã thật lại sức. Đến lúc chợt nhớ bây giờ chỉ có một mình, Mon lại thấy cực thân, nước mắt ứa lên mí. Nhưng Mon giữ ngay được cho khỏi khóc. Phải sống và kiếm được cái ăn để đi tìm bố mẹ. Mỗi lần sắp khóc, Mon lại nghĩ như thế và thế là cơn buồn qua đi. Vả lại, rồi ngày lại ngày, bao nhiêu mê mải, lo lắng chồng chất trong việc tìm cách cho sống được. Nghị lực cũng có phép làm tan biến được nỗi buồn. Đầu tiên, Mon có ý tìm ở nơi cao ráo. Bố đã nói:

"Con người khác con vật, trú ngụ đâu người cũng phải có cái nhà mà ở". Trông thấy cây tre, Mon nhớ bố bấy lâu đi rừng chỉ ao ước gặp cây tre. Mon nhớ bố bảo: phải rồi, tre làm được nhiều thứ cần dùng. Mon đã biết như thế. Tre kéo được ra cả lửa. Mon vào rừng tre. Loáng thoáng rừng tre với rừng trám. Rừng ven biển, thật nhiều thứ làm được, ăn được. Mon trở lại chỗ cây thông, thấy hãy cứ tạm ở đây được. Mon mang theo về mấy cái mo nang lấy ở rừng tre. Mon cặm cụi ngồi tước mo nang thành sợi. Được một đống bùi nhùi khô, như bùi nhùi đánh lửa ở đám thổi cơm thi. Lúc nãy, qua cái suối đã nhặt về mấy hòn cuội. Cái gì cũng phải có lửa trước đã

- Mon nghĩ thế. Những hòn cuội to, đen bóng, chỉ cọ mấy cái vào kẹp sợi mo nang đã ra lửa, lửa bắt bùi nhùi cháy ngay.

Mon đã đốt được một đống lửa dưới gốc thông tối hôm ấy. Mấy hôm sau, mỗi lúc đói, Mon lại ra biển bắt ngán, nhặt sò và đập hà ăn rồi lên ngồi mài đá. Không có dao thì phải làm ra dao. Mon tìm được hòn cuội to phẳng bằng cái vồ. Mon mài vạt đi một phía, làm con dao đá. Có lửa mới nên được nhiều thứ nhưng không có dao thì trông thấy cái cây cũng đành chịu, không đem thứ gì về cho mình được. Những năm trước, ở Bãi Lở, có lần Mon đã thấy cụ già mài dao đá khéo lắm, sắc lắm. Con dao đá mà chỉ bổ vài nhát đã đẵn được cây tre. Trên bờ bãi sông Cái bấy giờ còn nhiều cuốc đá, con lăn đá. Các cụ già quen tay dao đá hơn. Quang cảnh làm ăn ngày ấy, Mon chỉ còn thoáng nhớ và Mon cũng chẳng biết mài con dao đá thế nào. Nhưng, không phải thế là khó. Hòn đá cuội to thì ở đây chỗ nào cũng có, Mon cứ chọn những hòn cuội tựa hình dao và hì hục mài. Mon đã mài được mấy con dao đá sắc. Mon xách dao đá sang rừng tre. Dao đá không chém được như dao thép của bố. Mon phải cưa đẽo từng gốc cây. Nhưng hì hục, chịu khó ngày lại ngày, chẳng bao lâu cũng chặt được cái cây đổ xuống. Mon lại mài đá nữa. Mon thấy dao đá mài kỹ, lưỡi vừa dày cạnh vừa sắc, chặt tre cũng tốt. Mon có cả kho dao để dành trong lòng suối, không lo gì nữa. Có cách sống rồi, thế là trước tiên, Mon đi tìm bố mẹ. Mon chọn mấy cây tre to, đẽo hai đốt một làm ống đựng nước, vác ra suối, vục nước đem về. Buổi sáng, Mon đi về tay trái. Mon nghĩ: ta sắp gặp bố mẹ và em đây. Lưng Mon để trần, Mon đóng khố đơn bằng xơ dứa. Một vai đeo hai ống tre đựng đầy những con ngán và sò tươi. Một bên đeo ống nước. Tay Mon cầm hai cái lao trúc chọn. Lưng Mon buộc hai con dao đá, một nắm bùi nhùi mo nang và hòn cuội đen để đánh lửa. Thế là Mon đi. Càng đi sâu vào trong thì ngày ngày mỗi khác, rừng hoang và đá trọc, đá đứng thành vách thật xa, càng xa. Mon quay lại. ý nghĩ có thể gặp bố mẹ và em lúc ra đi, đã nhạt dần. Mon phải trở lại nơi rừng có cây thông hôm trước. ở gốc thông vài ngày, sốt ruột quá, nhớ quá, Mon lại đi phía tay phải. Phía này, thẳng bãi, chỉ gặp bãi cát. Mon chăm chăm xem đâu có dấu vết của bố, của mẹ, của em. Nhưng chẳng đâu có một dấu chân, một vết dao chém cây, càng đi càng thấy hoang vu. Mon lại tiu nghỉu, phải quay lại. Nhưng Mon vẫn chưa chịu thôi. Mấy hôm sau, Mon cặm cụi theo một con suối vào rừng sâu, lại đi tìm bố mẹ và em. Bên kia gốc thông có một con suối nhỏ, Mon đeo hai ống tre đựng con ngán, một ống nước, hai cái lao trúc, trong mép khố vẫn giắt hòn cuội, nắm bùi nhùi, con dao đá. Nhảy qua cái suối nhỏ ấy, Mon đi. Rừng rừng từng đợt, những dây củ mài chằng chịt, dây song dây mây, chi chít rừng nứa, rừng trúc, xanh mát vân vân trước mặt. Mon đi cho đến hôm ăn hết một ống đầy ngán. Mà vẫn chỉ thấy rừng. Con suối nhỏ đi theo từ hôm trước cũng đã chui xuống hốc đá, lẩn vào lòng đất từ bao giờ, không thấy ra nữa. Bốn phía mù mịt rừng, không thấy đâu một dấu vết. Thế là chắc mình đã lạc xa lắm. Đi cả ba phía mà không thấy gì. Bố mẹ ở nơi nào? Em ở đâu? Ai còn sống? Làm thế nào tìm được? Nghĩ miên man, buồn quá, nhưng lại nghĩ: thôi bây giờ phải trở lại gốc thông, tìm cái ăn cái ở, đợi một khi nào lại đi tìm. Mon không mất hết hy vọng. Mon nhớ lời bố nói:

"Có khi nào chịu chui rừng mãi thế này! Con người phải biết làm ra cái ăn cái ở". Bố mình có gan có chí lắm, bố mình đã dựng nên làng xóm ở Bãi Lở. Không chịu tù trong rừng, phải tìm đường nữa, mở mang ra. Nếu không có trận lũ ống ghê gớm, chắc cả nhà đã đi tìm chỗ ở mới, biết đâu chẳng đã tới được bờ biển này. ồ, ở đây bao nhiêu tre, có cả rừng hóp đá. Bố tha hồ đẵn tre đực đem ngâm làm cánh nỏ. Trong cơn ngủ chập chờn, Mon mê thấy ngày cùng bố đi chặt hóp đá đem ngâm xuống suối, làm cánh nỏ. Tỉnh giấc, vẫn chỉ thấy một mình nằm vắt trên cây giữa rừng. Hoang vắng quá, Mon lại nghẹn ngào. Nhưng Mon không khóc, Mon tụt xuống gốc cây và đi ngay. Không, bố ta đã phải bơ vơ lưu lạc từ khi còn ít tuổi hơn ta nữa kia. Trở về gốc thông, Mon cặm cụi làm lều ở. Mon cũng bắt chước như năm trước bố làm cái nhà tựa vào lưng cây nghiến. Vùng đất chỗ ấy cao, Mon xếp đá cao lên, đến tận gần chỗ chui vào hốc thân cây thông. Lần lần, Mon đẵn về một đống tre, trúc. Rồi Mon đẽo những con dao đá sắc hơn, cưa được cả những cây gỗ bổi. Mon dựng sáu cái cột sàn to. Tre bắc làm sàn. Mây và song đan liếp. Cái cột có khấc làm thang nhà mình ngày trước bây giờ đem bắc làm thang leo lên nhà mới. Mỗi lần trèo lên, bước mỗi khấc nhìn xuống, tưởng cái Gái đã giẫm vào khấc ấy, tưởng hôm bố đẵn cây gỗ này về làm thang. Mon chạnh nghĩ, thương thân, không muốn bước lên. Nhưng lại nghĩ bây giờ chỉ có cái cột ấy là thân thiết, ở đây chỉ còn cái cột biết mặt và thuộc bàn chân bố mẹ, em mình. Mon lại bước lên bậc cái thang lên nhà mới. 165 166 Làm xong nhà, vừa hay mùa lạnh đến. Những đêm khí rừng toát ra, ngủ đốt lửa mà vẫn lạnh một bên người. So với mấy năm trước cùng bố mẹ vất vả kiếm ăn trong rừng, ở đây Mon thấy mọi thứ dễ tìm hơn. Ngày nào đi rừng cũng đào được củ mài. Ra ngoài bãi cát mép biển tìm con ngán, con ngao, con sò, con hầu, con hà vô khối, đâu cũng có. Khi nước biển xuống, vét được sạn muối mặn đọng lại trên những tảng đá khô nước, khỏi phải ăn rễ cỏ tranh đắng chát. Đây nhiều thứ ăn nhưng ai cũng biết rằng không phải cứ có cái ăn thì vui. ở đây buồn quá, lúc nào cũng vắng ngắt vắng ngơ, vắng và buồn không biết đến thế nào. Mấy hôm, Mon tìm đẵn những tàu dứa dại, dọc hết gai rồi phơi lên sàn nhà, trên bờ đá quanh gốc thông. Lá dứa khô ải rữa đi, còn lại một đệp tơ sợi. Sắp rét, Mon tính cách sửa soạn sắm áo, sắm chăn. Năm trước, cả nhà đi bóc vỏ cây sui về, mẹ buộc áo sui cho. Bây giờ Mon bện cái khố lá dứa cũng thấy bền, lá dứa lại dễ lấy và lá dứa cũng thắt làm áo, làm chăn được. Đêm, Mon đốt lửa lên, bóc lá dứa. Ngồi tước một lúc, hai mắt đã díp. Mon ngủ ngay trên đống lá dứa ấm. Quá nửa đêm, đống bếp lửa giữa nhà tàn than. Cái lạnh khuya làm Mon thức giấc. Ngoài khe vách, trăng sáng trắng tinh. ánh trăng trổ xuống khe vách mây hở như những sợi mây trắng muốt cài thêm vào đấy. Mon đứng dậy, trông ra ngoài. Vùng rừng lênh láng ánh trăng. Từ hôm nọ, Mon đã bắt chước bố, thắt nút dây treo đầu cột, đánh dấu ngày tháng, bây giờ biết đến mùa mát đã có trăng trong xanh. Rừng im quá. Cái im lặng trăng sáng trải dài, phủ lên bóng rừng đen thẫm. Mon lắng nghe xa một tiếng hươu giác. Con hươu về rừng đằng ấy. Có đàn hươu về đằng ấy. Mai ta sẽ đến tìm. Đã lâu, không được ăn thịt hươu. Mấy lần đi rừng có trông thấy vết chân hươu, vết chân gấu nhưng chưa gặp con nào. Mai đi tìm hươu. Hươu ở rừng này chắc chưa biết sợ người, có thể đuổi bắt được cũng nên. Mon nhìn phía rừng. Rừng sâu khuất ánh trăng, tối đen. Nhưng sao lại thấy một vệt sáng lao xao dãi trong bóng tối. Không phải chỉ như hai con mắt hươu, mắt cầy, đây là vệt lóng lánh dài, dài lắm. Mà ông trăng đương sấp bóng đằng này. Không thể có một giọt sáng sang phía ấy như thế được. Sáng ở cây gỗ mục hay sáng con sâu đất, con đom đóm. Nhưng mùa này không phải mùa đom đóm. Cây gỗ mục hay đóm sâu đất, thì sáng quanh năm. Đi rừng đêm hay gặp cây gỗ mục sáng, Mon đã thấy. Mon nghĩ: Mai ra chặt một khúc đem về để dưới gốc thông làm cái đèn trước nhà cho mình cũng hay đấy. Hôm sau, Mon cầm cái lao trúc đi về phía đêm qua có tiếng hươu. Thấy những vết chân đã hơi khô, có ám sương, biết đàn hươu chỉ đi qua, Mon quay về. Chợt nhớ, Mon tạt xuống chỗ cây gỗ sáng. Tìm khắp quãng ấy cũng chẳng thấy cây gỗ mục nào. Mon lội qua suối về. ở suối lên, Mon trông xuống mu bàn chân mình lấp lánh sạn cát. Quái, đây suối trong vắt, không phải như lội bãi cát ngoài biển mà sao lại có cát bám vào chân. Mon cúi, lấy ngón tay dính sạn cát lên. Hạt cát long lanh lóng lánh. Mon quay lại vốc một nắm cát mịn ven suối rồi khỏa xuống nước. Nước trong leo lẻo lùa cát đi, trong cát lấp lánh những hạt vàng chảy theo. Có lẽ đêm qua cái suối lóng lánh tại thế này. Đây là cái suối chảy ra vàng.

Ngày trước, ở Bãi Lở cũng có suối chảy ra bạc. Mon không được đi đến những suối bạc, suối vàng ấy lần nào, nhưng Mon thấy người trong các làng cứ mỗi năm, đến mùa lại đem giỏ, đem lưới đi đãi được từng vốc. Vàng ấy, bạc ấy đem về đập mỏng thành lá, để trong nhà, bảo trừ ma. Mon đã thấy những ông già ngồi rèn vàng làm con dao cho các bà, các chị bổ cau và đập thành những cái kim nho nhỏ nhọn để xăm mình. Kim đâm vào người rớm máu rồi mới xoa nước chàm, vài năm phải xăm lại như thế, bằng cái kim vàng. Lại có người lấy cuội đập làm cái khuyên đeo tai thay lõi cuốn chiếu. Bảo đeo vàng cho khỏi ốm và đẹp. Trẻ con thì đeo bạc để kỵ gió và được khước. Ngày tết, ngày hội ở Bãi Lở, Mon thấy nhiều người đeo. Mon cũng được đeo cái vòng bạc. Mẹ bỏ cuốn chiếu ở lỗ tai Gái, cho nó đeo đôi vòng vàng to. Mọi khi vẫn đeo, cho đến lần lên hội ở Phong Châu mới bỏ ra. Rồi thì tai biến đến ngày nay, vàng bạc để lại ở Bãi Lở, không có nữa. Mon nghĩ: có thể lấy vàng này rèn con dao. Ta làm con dao bằng vàng, không có dao sắt, ta có con dao bằng vàng, con dao vàng chắc còn sắc hơn dao đá. 169 170 Mấy hôm, Mon xếp những tàu lá dứa, chằn xuống suối. Nước suối mùa này cạn trong, chỉ róc rách chảy những hạt cát vàng đọng lại trong khe lá. Vài ngày một lần, Mon ra gỡ mạng lá dứa đã rữa ra thành xương lá. Có lần được hẳn một bọng cát vàng. ít lâu, đã được một đốt tay. Mon lấy dao đá đập dẹt lại thành một cục vàng chóe. Rồi chẳng bao lâu Mon đánh hẳn được một dao vàng. Cái lưỡi con dao vàng to bằng dao của bố. Con dao vàng này thật sắc. Chém tre, chém trúc được. Nhưng chỉ vài nhát thì lưỡi dao oằn lên, phải đập lại. Thôi thế đã là quý. Con dao đá mẻ thì phải bỏ, con dao vàng đem đập lại, lại chém được. Đêm đêm, trông về phía rừng, con suối sáng đêm nào cũng óng ánh. Mon đặt tên suối ấy là suối Sáng. Mon vẫn chắn lá dứa đãi vàng. Mon còn định đánh nhiều dao và làm nhiều thứ bằng vàng. Mon sẽ làm cho cái Gái những chiếc vòng khuyên vàng, làm vòng khuyên vàng cho mẹ nữa, như ở Bãi Lở. Chắc mẹ và em thích lắm. Vàng dẻo dễ đánh, chỉ hơ lửa rồi lấy dao đá rèn, không phải kéo lò.

Mon vào rừng tìm nấm buổi sáng. Cái giống nấm cỏ, sau mỗi trận mưa đầu mùa, mọc như nghể. Nấm cũng ngọt như rau ngót, Mon rất thích ăn. Đêm qua mưa to. Nước trong rừng tràn các suối còn in lại trên những làn cỏ giạt xuống, thẳng tắp. Bỗng Mon để ý: có những đám cỏ rối từng vũng tròn. Đến xem, thấy vết chân gấu. Cỏ gãy còn đương ngóc lên. Một con gấu to vừa đi qua. Thoạt trông biết ngay, chân gấu khác dấu chân con hươu, con hổ. Hai chân trước nó nhỏ, dấu quào lắt nhắt. Chân sau gấu hình cả bàn chân có gót tròn và đậm, như gót người. Có một con gấu nào mới qua đây. Bối cỏ giạt nước vừa bị nén xuống còn đương cựa quậy trong vết chân hằn lại, nước rỉ vào hũm chân chưa đầy mặt lõm. Mon hạ cái lao trúc trên vai xuống cầm tay rồi rón rén theo vết gấu. Một quãng, Mon nghe ở khe đá trước mặt vẳng ra tiếng kêu kít kít như tiếng con tê tê vừa đào ổ vừa húc mũi vào hít đất. ờ, trong khe đá có con tê tê. Tiếng sột soạt, những tiếng sột soạt mạnh, như giẫm chân xuống đất, không nhẹ như con cầy đụng đậy, con tê tê đào đất mới khỏe thế được. Nhưng lúc ấy Mon trông thấy hai con gấu bé - gấu mới đẻ, có lẽ gấu chưa mở mắt, lông còn xám nhờ, bết từng đám, nằm rúc vào nhau.

Chính những con gấu con ấy đã kêu kít kít lúc nãy. Ngay trên đầu mỏm đá, một con trăn mốc to như cây chuối đương núc gấu mẹ. Con gấu mẹ ấy mới đẻ, tha con đến đây thì gặp trăn. Trăn mốc sởn vẩy lên, quăng mình ào ào qua rừng tìm mồi. Mỗi lần vòng núc chặt hơn, xương gấu mẹ gãy răng rắc, con trăn mốc quật đuôi xuống đất như vồ đập, lại núc một vòng nữa. Gấu đã bị trói hẳn cả người vào trong mình trăn, chỉ còn cái mõm há hốc ngoi lên, cái lưỡi đỏ nhọn hoắt, thò dài ra, như một cục máu đương rơi. Mon nhìn quanh tìm chỗ có thể để mở trận đánh trăn rồi Mon trèo lên tảng đá gần đấy, cao hơn chỗ khe đá có con trăn đương núc gấu. Đứng trên, nghe tiếng xương gấu gãy mỗi lúc cứ như tiếng cành cây gãy trong vòng núc của con trăn, mỗi khi cái đuôi trăn lấy đà quật mạnh xuống. Rồi cả mình con trăn nguồn lên dồn đẩy dần cái mồi gấu vào mõm. Mõm trăn mốc há hoác, sắp nuốt con gấu đã nhũn rũ ra như đống lá khô. Miệng trăn đỏ nhợt, há ra. Chiếc lao trúc của Mon phóng tới, cắm phập suốt. Cái lao ngập gần hết vào miệng con trăn. Con trăn không ngoạm lại được. Trăn vùng một cái, tung mồi gấu ra rồi nó cứ tha cả cái lao trong miệng như thế biến thẳng vào rừng. "Cho mày chạy đi! Thế nào mày cũng chết đứt cổ rồi!". Mon nghĩ bụng vậy. Mon nhảy xuống, đến chỗ con gấu bị nạn. Rớt dãi nhầy nhụa ở người trăn tiết ra khi nó vặn mình núc mồi, còn hôi sặc sụa. Con gấu mẹ chỉ còn là một đống lông đen xương trắng lòi lẫn lộn và một vũng máu. Chỗ chân tảng đá, hai gấu con, lỗ mắt ướt nhoèn, nằm uốn tròn - hình nằm trong bụng mẹ, cứ kêu lít nhít như chuột mới đẻ. Mẹ mới đẻ gấu lúc sáng sớm, còn đương liếm con. Những nạm lông xám ướt lờm nhờm. Lúc ấy, con trăn mốc đói mồi quăng mình đến. Mon ôm hai con gấu con về lều gốc thông. Mon ngồi vuốt cho gấu khô lông. Rồi Mon đi kiếm quả trắm và những nạm cỏ thật non về cho gấu. Bọn gấu con cũng như ngựa con và bê, chúng nó chỉ một lúc ra khỏi bụng mẹ, đã cứng khoeo, hai mắt thao láo, răng trắng tểnh và lún phún ria mép cẩn thận. Những chàng gấu con này cũng thế. Hai hôm sau, gấu con đã lon ton chơi, chạy trong gốc thông, như hai con chó mới mở mắt. Chẳng bao lâu, gấu con đã lớn phổng thành hai chàng gấu thật sự, đứng cao ngang sườn Mon. Đôi tai ngắn củn trên cái đầu bẹt, con mắt nâu ti hí, nhanh như chớp.

Bàn chân gấu có năm ngón tõe ra, giống bàn chân người. Con gấu có sáu chiếc răng cửa trắng nhởn, to thô lố, thò dài. Con gấu to xác thế m, lúc ngồi rỗi chỉ chăm chăm giơ bàn chân tìm kiếm bắt kiến đưa lên miệng nhấm. Mon đi đâu cũng có hai con gấu cùng đi. Mon đặt tên hai thằng là Gấu anh và Gấu em. Niềm vui đầu tiên của Mon không phải chỉ là trong nhà có bạn, nhưng còn cái sung sướng hơn, ấy là từ khi có bạn thì Mon mới được trò chuyện thả cửa. Bao lâu nay Mon cứ lì lầm cả ngày, không được nói. Bây giờ Mon mới được nói. Hai con gấu không đáp được chuyện, nhưng cứ được nói, mình nghe tiếng mình đã thích rồi. Và hai con gấu có thể biết chịu chuyện. Mắt gấu tròn xoe, hình như ánh lên, mỗi lúc Mon cười nói vẻ thích chí. Cái gì làm gấu không bằng lòng, gấu xì mõm ra, gù lưng tôm, vừa đi vừa ngồm ngoàm nhai không, như làu bàu, nhấm nhẳn. Mon đi trước, Gấu anh Gấu em theo sau, lủn củn. Ba đứa đi hái lá ngót. Rừng này cũng có lá ngót mọc từng vệt dài ngay cạnh suối. Lần đầu, Mon cho anh em gấu đi ngắt rau ngót. Mon cúi xuống, bấm ngón tay, bứt một nắm lá. Rồi quay lại xem gấu làm thế nào. Hai con gấu cũng lúi húi quơ chân trước lên, rứt lá ngót, không đợi Mon phải bảo. Mon quát hỏi:

- Chúng mày hái làm sao, tao xem nào. Hai con gấu lẳng lặng không trả lời. Cả hai lại cúi trên những cây ngót mọc là là mặt đất. Về đến gốc thông, Mon ra hiệu cho Gấu em được ngả lưng nằm chơi, còn Gấu anh thì bắt đi vác nước. Mon đem cái ống tre ra đẽo bớt vỏ rồi đổ nước bỏ lá ngót vào, nấu canh. Mon cứ vừa làm vừa quay ra, hét mắng luôn miệng:

"Thằng này lười hơn thằng em! Lười thưỡn lưng ra thôi! Đi vác nước đi! Mày không vác nổi ống nước thì ông đánh mày. Lại còn vờ vờ hé mắt nhìn cái gì? Đi vác nước!". Nói to như có mấy người đương cãi nhau. Tuy to tiếng thế nhưng rồi Gấu anh vẫn đứng ì ra. Không biết thế nào, Mon lại phải leo xuống bảo gấu cách làm: này cầm cái ống tre, này vác lên vai đi thử mấy bước, rồi Mon trỏ tay ra suối. Quát:

- Ra suối, ra đằng kia, suối đằng kia! Làm như hét cho cả trăm người nghe. Gấu anh tinh ý lắm. Chỉ có thế, Gấu anh đã hiểu. Có lẽ vì hằng ngày, Mon đi vác nước ngoài suối. Hai con gấu đứng trên sàn vẫn trông thấy.

- Được rồi, được rồi!

- Mon nói, Mon vẫn chưa thôi ne nẹt và bắt nạt nó. Cứ Gấu anh vác được ống nước nào thì Mon đổ ngay ống nước ấy đi, lại bắt ra suối lễ mễ vác về ống nước khác. Mon trợn mắt, hét:

- Cho quen đi! Bắt mày vác mười ống, phải vác đủ mười ống mới quen được!

Cả ngày, Mon lằm bằm mắng mỏ hai thằng gấu. Không phải vì ghét. Mà vì yêu chúng nó quá. Mà vì muốn được nói cho sướng miệng. Lúc nào cũng nói rầm rĩ, như cả nhà đông người trò chuyện. Hai con gấu này học cách ăn làm chóng lắm. Chẳng bao lâu, sai gì cũng nên. Gấu biết xuống bờ biển bắt con ngao, con sò. Biết ra rừng ngắt lá ngót một mình. Lại biết bới măng tre, măng trúc. Chỉ có thổi sáo véo von bằng cái ống hóp đá thì hai con gấu chịu. Hôm ấy ba đứa đi bới măng. Các cánh rừng đều rực rỡ nắng. Lại sắp bắt đầu một mùa nắng, rừng sáng xanh lên. Sắp có sấm mới, lại đi tìm măng ngọt. Lấy măng vào cữ sắp có sấm thì măng ngọt như mía lùi. Mon đã thuộc như thế, từ Bãi Lở. Mon cầm lao đi trước. Gấu anh và Gấu em, mỗi thằng đeo cổ một cái giỏ, bước cung cúc, lưng gấu càng gù xuống hơn. Đến trước một bụi trúc, Mon quỳ xuống, lấy tay với đám cỏ. Mon cầm cái lao trúc đào đất. Chỉ vài nhát đã thấy nhú lên chiếc mầm măng trắng phây. Mon xới quanh rồi bẻ cái măng, bỏ lên chiếc giỏ đeo lưng gấu. Hai gấu đứng ơ mặt xem Mon tìm măng, đào măng. Rồi có một lúc, Mon bới ra một vệt nứt trong cỏ. Gấu anh xông đến, hích lưng đẩy Mon ra. Mon hiểu con gấu muốn tranh làm đấy. Mon né sang bên. Nhanh nhảu, hai chân trước gấu cứ quào hắt đất như mưa. Rồi quay lại, chân sau vét đất ngược lại. Hai con gấu bắt chước nhau cùng làm thế. Những cái măng trúc dần dần thò lên. Làm mấy bận, con gấu đào đất lấy măng nhanh hơn cả Mon. Cẩn thận kẻo gãy, không được sây xước cái nào đâu. Gấu biết làm khéo thế. Chỉ tìm quanh vài bụi trúc, hai cái giỏ đã đầy ních những măng là măng. Ba thằng thong thả đi về. Nhưng, đến gốc thông, thấy cái nhà đã rụi xuống như một đống rơm. Ba chân tre bênh hoác ra, những mảnh ván, mặt bếp, sập hết. Mon mò quanh gốc thông, hai con gấu cũng lò dò theo.

Mon thấy có vết chân hổ. Rồi càng thấy nhiều vết chân hổ. Con hổ này to, bàn chân nó tròn bằng cái bát đàn úp. Móng chân hổ quào toạc đất từng mảng sâu. Phía gót, đất nghiêng hẳn xuống. Con hổ rún mình nhảy, hai chân sau nó ấn lún đất. Con hổ nhảy đi đâu? Nó vừa đuổi mồi húc đổ nhà mình à? Có lẽ thế. Chỗ cái cột tre gãy trông thấy vướng đám lông xám ở vai hổ. Con hổ chạy đuổi mồi đâm vào cột nhà. Nhưng tịnh chẳng thấy vết con hươu con nai nào. Mồi gì mà khiến hổ phải cuống cuồng nhảy đụng đổ cả nhà! Trong rừng này, còn có con cầy, con nhím. Những thứ ấy, hổ thò tay ra bắt được, chẳng phải vồ, phải nhảy đuổi vội vã thế. Bỗng Mon nghe tiếng gấu rít sau lưng. Mon quay lại. Cả hai gấu con cùng nằm rạp, dán mũi xuống đất, quào chân ra đằng trước.

Mon trông xuống chỗ ấy, thấy một đám dãi nhoáng nhựa cây. Mon biết ngay. Con trăn vừa quăng mình qua đấy, rớt dãi còn nhầy nhụa trên mặt đất. Con trăn đuổi mồi quăng đến đâu, nhựa da trăn dính đến đấy. Đám nhựa sệt lại ở chỗ con trăn quật đuôi lấy đà. Những ngày đổi trời, mưa nắng hấp hơi, trăn đi hàng đàn, khi bò ào ào như những con lũ, khi quăng mình qua rừng, cành cây rung chuyển, tơi tả như rừng gặp gió quẩn trong núi ra. Mon vẫn gặp luôn. Lúc nào con trăn ăn no rồi quấn tròn khúc nằm to xù xụ như tảng đá mốc, lim dim mắt, lúc ấy con trăn hiền như đất, ai đứng chơi trên người trăn cũng được. Nhưng lúc con trăn đói đuổi mồi thì thật khủng khiếp, không loài nào chống nổi. Nó phóng nhoáng như chớp từ trong bụi ra, trườn trên những tảng đá, rồi nằm vắt ngang cành cây thò đầu xuống để hóng mồi. Cả đến con hổ ngửi hơi biết trăn đói đương rình đâu đây, hổ cũng phải chạy tránh ngay. Nhiều khi, hổ chưa kịp chạy, trăn đã quăng mình từ trên cây xuống, quấn chặt con hổ. Trăn núc mãi vào cho đến khi con hổ khốn nạn mềm nhũn dài ra thành một cục mồi máu me. Thế là trăn há hoác miệng, nuốt dần, có khi nuốt mấy ngày mới vào bụng hết cái mồi con hổ, đầy đủ móng vuốt. Trông những đám dãi, Mon đoán biết không phải hổ đi tìm mồi mà có một con trăn đuổi hổ, con hổ chạy. Không biết hổ có chạy thoát? Hay đã bị trăn quấn chặt, tha đi rồi. Hai gấu con vật vã nằm lại hai bên má áp xuống mặt đất, ngửi vết nhoáng trăn rồi lại quào, lại im, mặt tiu nghỉu buồn thiu. Gấu làm hiệu cho Mon biết có con trăn đuổi bắt hổ? Chúng nó sợ lắm. Hay chúng nó đương nhớ mẹ. Những con gấu ấy nhớ mẹ. Mon không muốn nghĩ hơn. Mon cũng chạnh lòng nhớ. Mon vội nghĩ ra chuyện khác. Phải làm nhà lại. Phải dựng lại cái nhà. Mùa mưa rào đến nơi rồi.

Lần này Mon làm nhà cách khác. Vẫn ở gốc thông ấy, nhưng Mon không chôn những chân cột chênh vênh nữa. Mon xếp thành nền đá cao có cái trụ đá ở giữa, trăn hay hổ cũng không húc đổ được. Cái cây gỗ đẽo làm thang nhà lúc còn ở với bố mẹ, và nó đã cứu mình, đưa mình đến đây, lại gác cạnh những ống bương đựng nước ở rìa đá làm lối trèo lên, như cũ. Mon làm lại nhà. Tuy vậy, không phải khó nhọc lắm như lần làm nhà trước. Bây giờ ba thằng cùng làm. Bên cạnh Mon, hai bạn gấu vác đá đi đi lại lại, Mon không phải lẻ loi một mình như dạo trước. Mon thành tay thợ cả. Mon đi đẵn tre, lấy mây lấy song, rồi Mon ngồi giữa đống ngổn ngang tre gỗ với cái ống bật lửa, la liệt những dao đá, những dao vàng và kéo, cột, nan song, mây xung quanh. Bây giờ đã biết cách làm nhà hơn. Mon lấy dây mây buộc cột ngoãm cho chắc chắn, mưa bão cũng khó đánh tung lên được. Đống đá to dần, tròn đều như cây rơm. Trên đống đá, tựa vào gốc cây thông, ló lên túp lều nhỏ cao cao, công trình của Mon, một nếp nhà xinh gọn hơn trước. Lỗ cửa bây giờ có liếp che gió, bếp là một khoảng giữa nhà, mặt sàn lát tảng đá phẳng. Để cho bếp mùa lạnh ủ, dù than có vạc, hòn đá lót bếp, vẫn nóng hầm hập đến tận sáng. Cái mái nhà lần này cũng khác. Mon không lợp lá dong lá chuối như ngày trước bố mẹ lợp nhà khi mới xuống rừng. ở Bãi Lở, lợp nứa bổ đôi, lợp lá mía. Đây có nhiều tre, Mon đem xả những cây tre làm hai mảnh. Mảnh úp, mảnh ngửa ken nhau, thế là được cái mái nhà chắc, không dột, không tốc. Mưa rào xối nước xuống, trắng tinh ngoài giọt tranh, trong này, lửa bếp vẫn đầm ấm đỏ ngọn. Từ khi có anh em gấu cùng ở, Mon đỡ thui thủi, không như những năm trước, mỗi khi bồn chồn nhớ bố mẹ, không biết thế nào, chỉ muốn ứa nước mắt. Bây giờ trò chuyện, đùa nhả, cãi nhau với anh em gấu như với cái Gái, lắm lúc ngỡ rồi sẽ gặp em, lại cũng đùa chơi và cãi nhau vui thế này. Những khi nhớ em, Mon lại rủ gấu ra tập cho chúng nó biết cách ngồi chồng chân chắp tay như chơi chồng nụ chồng hoa, như những khi trẻ con các xóm kéo ra bờ sông chơi mê cả buổi. Nhưng đến lúc gấu biết chơi thế, Mon lại chán ngay. Vì gấu nhảy cao quá, chắp tay chân cao nhất, rồi đến lúc đứng thẳng người giơ tay lên, anh em gấu cũng nhảy qua đầu như bỡn. Mon lại tập cho anh em gấu biết đánh vật. Phải như mọi người ở lò vật Bãi Lở. Chẳng chịu kém đâu. Những hôm mê mải chơi dưới gốc thông, ba tay đô này lại thả cửa quần nhau. Dạy cho gấu biết vật thật là khó. Gấu tuy tinh khôn, nhưng chỉ biết làm theo, không biết nghĩ ra làm riêng được. Mon nắm hai tay, víu vai gấu. Gấu đưa chân trước lên vai Mon. Mon lẳng gấu xuống, gấu bíu chân lại, giữ chặt vai Mon. Những cái vuốt sắc cắm vào vai Mon. Máu rườn rượt chảy khắp người Mon. Mon thét lên, nhảy bật ra. Gấu há hốc mõm, cứ đứng lớ quớ giơ hai tay như thế, như sợ quá, như lạ lùng quá, nhìn những dòng máu đương lõa lợi hai vai Mon. Nhưng đến lúc khỏi đau vai, Mon lại dạy gấu chơi vật, không sợ. Và cũng chỉ có một lần gấu vô ý thế thôi. Bây giờ nắm hai "bàn tay" lại, những chiếc vuốt nhọn cũng cụp vào. Nắm tay gấu chỉ còn êm mượt lông như hai nắm bông. Cứ thế, chân trước, chân sau tròn thu lu, gấu ghì gấu vật với Mon. Có đêm sáng trăng, ba tay đô còn quần nhau vào khuya, đến lúc cả ba mệt thở phì phò rồi mới dò lên nhà. Chẳng kịp thổi lửa đã lăn ra ngủ khì.

Tháng ngày qua lặng lẽ. Mon và anh em gấu vẫn tha thủi ở rừng. Mon bây giờ như người có hai cái bóng. Mon đi đâu, hai cái bóng cũng đi theo. Có hôm trở trời, Mon sốt nằm trên sàn, mặt đỏ rừ, hai con gấu cũng quanh quẩn không đi đâu. Làm gì, hai cái bóng cũng cùng làm. Thế nhưng chẳng phải việc nào gấu cũng chỉ biết bắt chước và lúc nào gấu cũng chịu là cái bóng đâu. Một buổi sáng, Mon thức dậy, thấy như trong nhà quang khác hẳn. Chợt nhìn: vắng hai con gấu mọi khi vẫn nằm ngay chỗ cửa. Mon trông ngoài liếp. Mon nghển nhìn ngoài suối Sáng. Cũng không thấy. Không phải gấu đi vác nước, mấy chiếc ống nước vẫn đựng bên gờ đá cạnh cửa. Anh em nhà gấu đi đâu? Từ ngày còn bết lông, Mon cứu gấu về, gấu không đi một mình thế này bao giờ. Gấu vốn thuần tính. Bây giờ gấu đi đâu? Bỗng nhiên, Mon thấy vắng đến ghê cả răng. Hay gấu nhớ rừng, nhớ đời sống lang thang, gấu quen rừng, gấu về rừng sâu rồi. Còn mình về đâu bây giờ? Mình nhớ bố mẹ, mình về đâu? Nghĩ gấu, thương mình, cảm nỗi quạnh hiu rợn người. Mọi khi, mỗi lúc nhớ, Mon đều nghĩ được cách cho khuây khỏa. Bây giờ không nghĩ ra cách thế nào nữa. Đã quen có hai con gấu, cái lều trong gốc thông được êm vui hẳn. Chúng nó như em mình, cũng bằng cái Gái nhà mình. Bây giờ chúng nó đi đâu? Mon không muốn thò chân xuống thang. Mon ngồi lỳ trên nhà. Chẳng đi kiếm cái ăn. Chẳng thổi lửa.

Mon ủ rũ, tựa vách. Mon nhắm mắt nghĩ miên man. Chợt nghe động lách cách dưới chân thang. Mon choàng mắt nhìn xuống. Thằng Gấu anh đương lúi húi trèo lên. Gấu em cũng ngoi ngóp theo. Gì thế kia, một tay gấu ôm vào ngực cái bọc to, ướt ròng ròng. Khó nhọc sao mà cả hai đứa cùng thè dài lưỡi, thở khặc khặc, chốc lại gạt tay lên qua tai, như người ta gạt mồ hôi. Hai anh em gấu đã lên đến trước mặt Mon. Mon trông rõ mỗi đứa cầm trong tay một cái khoái ong đầy bọng. Tổ ong lỗ chỗ nổi sáp vàng mỡ, phủ kín mật. Anh em gấu chìa nạm khoái ong cho Mon. Mon cười cầm lấy rồi cắn từng miếng, nhai cả bã. Mật ong ngọt tê đầu lưỡi. Như thèm từ thuở bé mà chưa được đụng một miếng mật ong bao giờ. Mật ong ngọt lừ. Rồi Mon nhìn hai con gấu. Thế ra hai thằng gấu này khôn bằng người rồi. Mọi khi, nó là đầu sai, bảo gì làm nấy. Bây giờ mới hiểu nó biết đến mùa ong, biết nghĩ ra đi tìm mật ong đem về cho mình ăn. Hôm sau, lại nghe từ tờ mờ sáng cái gì lịch kịch dưới sân, Mon tỉnh dậy. Trông ra cửa, thấy anh em gấu nối đuôi nhau lúi húi đi. Mon nhảy tót xuống theo. Tài thế, không ngoảnh lại mà như biết Mon theo, hai con gấu tự dưng nhe răng ra, tai đụng đậy cúp xuống. Tỏ ý thích cho Mon theo đấy. "Tao biết rồi. Anh em mày lại đi lấy mật. Ong hồi này đương cữ mật.

Làm thế nào chúng mày lấy được cả bọng mà ong khỏi đốt. Chúng mày đánh nhau được với ong? Tao phải đi xem chúng mày đánh nhau với ong thế nào...". Chúng đi quanh co xa lắm. Mùi mật chín bay tỏa xa từng luồng thơm, cách mấy rừng, gấu cũng đánh hơi thấy. Một lúc, đương đi, gấu chồm lên một cây nghiến to. Trên lưng cây, có một cái hốc tối đen. Loáng thoáng ong bay ra bay vào. Gấu anh trèo lên cây nghiến. Gấu em cũng thoắt lên nốt. Mon đứng lại dưới gốc cây. Hai con gấu hung hăng leo lên, bíu ngang hai bên cành rồi thò thẳng tay vào tổ ong. Đàn ong đen như chàm bay ra xúm xít quanh. Hai cái đầu gấu vẫn nhấp nhô nhòm vào tìm khoái, không để ý ong kéo về mỗi lúc một đông đặc. Gấu đã lôi được miếng khoái ong to bằng mo cau, vàng chóe, trông xa cũng biết khoái ngập những mật. Rồi hai con gấu cùng thong thả tụt xuống, không cần biết đàn ong vẫn bâu quanh đầu. Lại như lúc nãy, gấu cung cúc đi, thằng anh trước, thằng em sau. Hai chân trước nhô cao, cái lưng gù lên, bàn chân gấu đi lướt lướt quét trên cỏ. Đàn ong lúc nhúc bâu khắp người, hai con gấu như hai cái gốc cây cháy ra than. Mon rợn người. Thế kia mà ong xúm đến thì mình chết mất. Tự nhiên, Mon nằm rạp. Chẳng biết anh em gấu đối phó thế nào, chỉ thấy đàn ong à à lay động theo hai cái bóng gấu vẫn đi. Như cái bùi nhùi, hai con gấu khật khưỡng đi ba chân. Một chân cắp vào ức, giữ cái khoái ong. Hai vai chân trước nhô cao và hai chân sau liên liến bước trong cỏ. Chẳng khác lúc nãy. Chỉ khác, chốc chốc gấu giơ "tay" xua lên đầu. Con ong cắm được kim vào đầu gấu, rồi chết rơi lả tả xuống đất. Thỉnh thoảng gấu cúi, nhặt xác ong, thè lưỡi, nhấm ăn. Phải, hôm qua về đến nhà chẳng còn con ong nào theo đốt mà tay gấu vẫn xua lên. Các chàng bị ong đuổi, quen tay xua. Mon nằm trên mặt cỏ, nghe xung quanh đã vắng im. Đã biết giống ong không bao giờ tự dưng đốt người, nhưng Mon vẫn trờn trợn. Mon từ từ ngồi dậy, Mon không đi theo hai con gấu, Mon rẽ rừng về lối khác.

Về gốc thông, trèo lên, thấy anh em gấu đã ngồi chồm chỗm trong nhà. Không còn một tiếng ong nào vo ve. Không hiểu chúng làm thế nào mà đàn ong phải đuổi mỏi cánh, chịu thôi. Lại thấy hai mảnh khoái ong vàng ngậy để trước mặt. Con mắt gấu hấp háy nhìn Mon. Những bàn chân trước đẫm mật. Con mắt lại hấp háy nhìn Mon. Những bàn chân trước đưa lên, thè lưỡi ra liếm. Như mời cùng ăn. Ba anh em Mon mút no mật ong, hôm ấy. Nhưng hôm ấy Mon thích nhất là lại nhận thêm ra những tính tốt nữa của gấu. Con gấu không bị thịt, không lù đù như có lúc mình tưởng thế. Trông dáng không thể biết hết, phải ở lâu mới hiểu, càng ở lâu càng biết nhau hơn. Thật như vậy. Rồi lại vào những ngày mưa rét. Cái dây thắt nút đánh dấu ngày tháng treo trên vách mỗi năm thêm một nút, thêm nhiều mấu, lại sắp hết năm rồi. Ngày trước ở với bố mẹ, không biết lo. Bây giờ tính tháo vát phải nảy ra, Mon đã thạo. Mon trông luồng cây, biết hướng có suối. Mon phân biệt vết chân các loài thú. Cả con thú đi chỉ quệt vào lá, chỉ gãy lá chỗ nó ngồi và nó mới ngồi hay bỏ đi đã lâu, đi phía nào, Mon ngắm hướng, xem cứt mới cứt cũ, biết cả. Mon lại biết tìm lá đấu, lá cầm máu, lá chữa rắn cắn. Mùa lạnh đến, Mon ngả xuống tấm da nai, da hươu vẫn dựng đầu vách. Mỗi lần lao được con hươu, con nai to. Mon lột da nhúng nước biển rồi phơi nắng đến khô cong, đem vào gác lên bếp. Tấm da nai, tấm da hươu trải ra thành cái đệm như ổ rơm, ổ lá chuối khô, gió gầm sàn không lọt lên được. Năm nay, đuổi được cái rét ra ngoài rồi. Thức ăn cũng chẳng thiếu. Hôm nào ngại rét, với tay lên xà nhà, xẻo miếng thịt hươu nướng vào than bếp đương đượm. Mấy ngày không đi kiếm miếng cũng không đói được. Nhưng hai con gấu cứ ngửi mùi thịt nướng thơm lại quay đi, nhìn ra ngoài. Gấu vốn thờ ơ với thịt. Gấu chỉ thích ăn hạt dẻ, quả trám và mật ong. Gấu anh him him mắt, nhìn bếp. Gấu em nằm ngửa, nghịch đạp bốn chân lên trời rồi thè lưỡi, liếm một bên lòng bàn chân trước. Một chốc, Gấu anh cũng lật ngửa mình như Gấu em. Cũng giơ một bàn chân trước, liếm lia lịa như mài lưỡi vào đấy.

- á... à... Chúng mày mút chân thế đã no chưa? Liếm chân ngon hơn ăn thịt, a? Ai biết đâu gấu liếm chân cũng là gấu ăn thức ăn để dành. Con gấu vốn sợ gió rét. Con gấu có áo bông bù xù, con gấu hung tợn không biết sợ cái gì mà sợ rét. Trong rừng, đến khi gió rét, gấu ngủ đứng trong hốc cây kín đáo, khi thức, lại liếm hai lòng bàn chân trước. Cứ liếm suông thế cũng khỏi đói, lòng chân đỏ hắt lên. Ngủ rồi liếm gan bàn chân, rồi lại ngủ, buồn buồn lại lần quanh hốc cây, tìm bắt con kiến. Thằng gấu to như con voi, mà cứ lần quanh vách nhấm ăn từng con kiến. Cho tới hôm nào nắng ấm mới lò dò ra rừng tìm ăn. Phong tục nhà gấu xưa rày như thế. Qua mùa lạnh ấy, Mon biết thêm tính gấu. Gấu ngoan, nhưng gấu cũng bướng. Gấu có tính có nết riêng. Gấu không phải con vẹt, chỉ biết bắt chước.

Chẳng bao lâu, lại sắp bắt đầu những ngày mát trời. Đầu tiên, từ sáng sớm, nghe trên trời mù sương có những tiếng kêu kứu... kứu... bay ngang. Tiếng lạ lùng, bấy lâu chưa hề nghe. Mãi cho đến lúc tan sương mới trông thấy từng đàn chim sếu bay nối nhau như lớp lớp cầu vồng ngang trời. Mon nhớ những đàn sếu, đàn bồ nông chiều thong thả bay rợp trên cửa sông Cái. Bố đã bảo con sếu, con bồ nông ra lúc hoàng hôn là đi kiếm ăn đêm. Lại bảo khi con sếu, con bồ nông bay đàn sáng sớm là sắp hết mùa rét, chim đã về phương khác. Đấy là chim trở về quê. Mon bỗng vui quá. Chưa bao giờ Mon được thấy chim bay nhiều đến như thế. Năm trước, thuyền ra biển, con chim bay trở lại bờ, Mon buồn lắm. Đến cả chim sải cánh khắp thế gian được mà chim cũng sợ không ra nơi hoang vắng này. Nhưng không, thế là ở đây có chim sếu mùa lạnh đến trú chân. Mon bâng khuâng cảm như thấy chim bay nhiều như thế, chắc sắp bắt được cái gì sung sướng lắm đây, sắp gặp được bố mẹ và em cũng nên. Một hôm, Mon và anh em gấu bỏ kiếm ăn ở trong rừng, ra biển từ sớm. Vì năm trước, trưa nắng to, Mon đưa gấu ra biển, bước trên cát, chân gấu rát bỏng, cứ giật thon thót. Lòng bàn chân gấu thế mà mỏng mịn, đỏ hây, không chịu được nóng. Gấu sợ rét, gấu sợ ăn thịt, gấu sợ bỏng chân và anh chàng gấu to xác thế, lại thích bắt kiến, bắt mối, nhấm ăn từng con. Gấu nhiều tính nết buồn cười thật. Đi từ đêm, ra tới bãi, trông được thấy vệt biển xa xanh ngắt, chưa sáng hẳn. Mặt trời còn lấp trong những đám mây hồng nhỏ bay nhanh nhanh qua.

Mon mê mải xem mặt trời lên. Không phải Mon thấy lạ. Mon bỗng dưng nhớ chắc cũng ông mặt trời này, buổi sáng ngày trước ở ven sông Cái, Mon vẫn thấy nhô lên bên núi Tam Đảo, đến chiều thì đỏ rực khắp dòng sông Cái. Mặt trời đương lên đằng ấy. Bãi Lở ở đằng ấy a, đằng ấy có bao nhiêu người nhìn, còn ở đây không có người nào, chẳng có người nào, chỉ một mình mình. ở Bãi Lở, có làng có bãi trên bờ sông, khi mặt trời lên, có chim gáy cúc cu rộn ràng, có đàn khướu mun líu lo, có đàn ri đàn sẻ ào ào vừa bay vừa kêu trong gió. ở đây, mặt trời lên, trong rừng chỉ rền rĩ tiếng ve mãi không thôi. Bây giờ, mặt trời lên, bố mẹ mình, em mình ở đâu, có đương thấy mặt trời lên ở đây. Hai con gấu ngơ ngẩn giữa bãi cát, cũng xem mặt trời, vẻ lạ lùng lắm. Như xưa rày chưa được thấy mặt trời như thế bao giờ. Trước gấu còn lom khom nhìn, bây giờ gấu đứng cả hai chân, nhìn lên. ạng mặt trời tròn xoe, đỏ tía tai, một nửa còn ngập dưới mặt nước, đương từ từ nhô ra, rồi đột nhiên nảy lên trên mặt nước, như cái hoa đỏ tự nhiên ai thả trôi lững lờ đằng xa. Khoái chí, anh em gấu vòng hai chân ôm xốc nhau, rồi thình lình tì vai chơi vật nhau. Gấu vật với Mon mới chóng được thua. Vì Mon vừa bắt tay đã móc lại khóa và bốc ngã được gấu. Nhưng gấu vật nhau với gấu có đến nửa ngày, hai thằng cứ rầm rập chèn lên chèn xuống, cát lầm lên giữa đám bụi nắng, chẳng ai chịu thua ai. Các anh chàng này chỉ cậy có sức mà không có mẹo. Cứ đẩy nhau đến chán thì buông ra. Rồi Mon và hai con gấu lại lang thang đà chân thơ thẩn đi luôn theo những bóng cây thưa bờ biển, tối đâu ngủ đấy và lúc nào mặt trời lên cao, nắng đã bốc hơi ngùn ngụt trên cát thì Mon đứng lại, mò ngán, đập hà ăn. Hai con gấu chỉ khép chân lại vơ cỏ, nhìn Mon ăn ngon lành mà không đụng đến các thức tanh tưởi. Đương đi, thấy hiện lên một cái chấm đen nhỏ trên mặt biển. Hay ánh nắng làm lóa mắt? Đến lúc thấy cái chấm nhỏ là là xuống mặt nước, bốc lên cao rồi lại xuống thấp, như cái lá cuốn trong gió, mới rõ đấy là cái chấm đen thật. Và chỉ một thoáng đã rõ hẳn, Mon nhận ra chấm đen là con chim từ ngoài khơi bay vào. Con chim lạ, không phải con chim sếu. Con chim bay từ ngoài khơi vào, không phải con sếu bay đi. Mon nhổm người lên, reo to:

- Con chim! Anh em gấu đương mải chạy lon ton đằng trước, cũng nghe tiếng Mon.

Chúng nó vội buông vai nhau ra rồi cùng nằm bệt mõm xuống, thờ phì phò, hơi thở thuốn xuống thành hai lỗ cát trước mũi. Con chim đương bay vào phía người đi. Trông thấy con chim lạ, Mon mừng quá. Không phải chỉ mừng vì thấy chim mà Mon lại nhớ lời bố: chỗ đất lành có người ở thì chim đến, đây có người ở đất lành rồi, nên có chim đến. Người ở là ta với gấu hay chim đến với cả bố mẹ ta, em ta, bố mẹ và em còn ở đâu trên đảo? Con chim bay về, con chim bảo thế ư? Chuyến này về trữ cái ăn, lại đi tìm. Lần này, có anh em gấu cùng đi, ta sẽ đi xa hơn nữa. Con chim đã bay vào ngang trước mặt. Trông rõ con chim biển, mình trắng bạc và mỏ to, béo tròn như con gáy. Chim đương bay mải miết. Chim như không biết dưới bãi cát có người nhìn lên. Con chim qua chỗ hoang vu không biết sợ người. Đến lúc chim vượt đầu, bay đi nữa, Mon thấy từ con chim rơi xuống cái gì trên bờ cát trắng đằng kia - chim đánh rơi miếng mồi hay chim ỉa, không biết. Chắc là bãi cứt chim. Mon trông thấy, nhưng cũng không để ý. Sau nghĩ lại, tò mò, Mon ra xem cái cứt chim này thế nào. Mon bước ra bãi cát. Bãi phẳng lặng, còn đọng lại những đường gợn lăn tăn sóng nhô đều tăm tắp - vết nước thủy triều trong đêm. Ra đến nơi, Mon trông đoán là bãi cứt chim. Giữa đám dãi nhờ nhờ, trắng bệch, có mấy cái hạt to như hạt bí ử, màu hạt đen láy.

Con chim này ăn quả ở đâu rồi ỉa ra hạt hay những hạt này ở miếng mồi chim đã ăn hết, còn giắt lại ở mép chim, chân chim rơi xuống. Mon cúi xoa cát rồi nhặt xem cái hạt. Mon không biết hạt này bao giờ. Có lẽ cái hạt chim ỉa. Ngắm nghía mãi cũng không đoán ra. Mon nghĩ bụng: hạt gì thì cũng thử trồng xem, cái cây lộn kiếp hay là cây gì cũng được. Mon đi mãi vào bờ, đến chỗ lơ thơ mấy tụm cỏ, con nước có lên cao cũng không tới. Mon tìm một hốc, vùi hạt chim ỉa xuống cạnh tảng đá, chỗ có khe có hơi đất ẩm. Hai con gấu theo lẽo đẽo đằng sau, tất nhiên chẳng hiểu Mon làm gì. Rồi cả bọn lại chạy ra bãi. Mon và hai con gấu xuống ven bờ đá bắt ngán, đập hà. Trời nắng đã gay gắt, những con gấu xù xì, xem ra đã oi bức khó chịu, vừa đi, vừa khặc khặc thở. Gấu biết nhặt sò mà gấu lại không ăn các thứ ấy. Phải nghỉ, cho gấu đi gặm cỏ. Vào đến rừng, thoát nắng rồi mà còn thè lưỡi thở hổn hển. Anh em gấu bò đến tảng đá cạnh bờ suối rồi quỵ hai chân trước, sát mõm xuống, uồng ừng ực. Lúc nãy khát, gấu đã uống nước biển. Nhưng chát quá, sặc không nuốt được, lại phải lắc ra. Uống xong hơi nước thật dài, con gấu ngóc đầu lên, ngồi tựa xuống hòn đá, giãi thẻ hai chân sau, để cho nước suối mát lạnh lõng bõng chảy xuống đầu mõm. Chúng nó mệt nhọc một vẻ khoan khoái lạ. Lát sau, vào rừng vơ cỏ gặm ăn. Rồi lăn ra ngủ đấy. Mon cũng vào theo và cũng ngủ qua đêm trên bãi cỏ với anh em gấu. Đi chơi mấy hôm rồi về. Ngày lại năm, lại đến mùa mát trời. Mon lại tính việc đi tìm bố mẹ. Thế là lại đi. Trên cổ hai con gấu đeo trĩu vòng xuống những xâu thịt khô. Mon vác một ống nước với cái lao trúc. Hai con dao vàng và hòn cuội đánh lửa thì giắt cạp khố. Hôm đầu ngủ lại cửa rừng, thật vui.

Vui nhất là Mon. Lần này có anh em cùng đi. Mon không còn thấy Mon lủi thủi như năm trước. Cái vui lại nở trong Mon một hy vọng, tưởng như chắc tìm được bố mẹ. Rồi niềm vui tràn lan sang những tin tưởng khác. Chặp tối Mon ăn thịt hươu nướng. Còn bọn gấu thì trèo cây tìm được khoái ong mút mát ngay ở ngang đường. Tối đến, bốn phía rừng như cái chiếu quây lại. Mon đốt đống lửa to bên tảng đá. Ban ngày nắng, nhưng đêm trong rừng, sương xuống ẩm nặng hai vai, ướt cả tóc. Thế là Mon rúc vào nằm giữa, hai gấu hai bên. Hơi ấm của hai cái chăn gấu đánh bạt hết sương lạnh. Cả ba ngủ lúc nào. Cứ thế, đến sáng. Chợt, Mon cảm thấy lành lạnh bên người. Hai con gấu đã trở dậy từ lâu. Mon bừng mắt. Trên vòm lá, ánh sáng ban ngày đã lờ mờ, trong khi ở lưng cây, từng làn sương như những cuộn khói luồn qua. Mon ngồi nhổm lên, ngơ ngác. Mon thấy hai con gấu đương ngồi sát vai nhau trên đầu tảng đá, nhìn ra. "Hai thằng này dậy sớm làm gì, lại ngứa chân, muốn đấu vật à?" Rồi Mon len lén đến, chui vào giữa cánh nách hai con gấu. Hai con gấu vẫn ngồi nguyên. Mon nhoi mặt ra dưới cái vai xù xì lông gấu. Mon trông đằng trước mặt, xem gấu đương nhìn gì, thì thấy một quang cảnh thật lạ. Trong cánh rừng thưa có một đàn gấu chó - giống gấu nhỏ con, cùng loài với anh em gấu. Đàn gấu nọ sáng sớm kéo qua rừng, đứng lại. Chúng nó trông thấy anh em gấu bên này. Hai con gấu đương ngủ. Nhưng hơi đàn đi ngang qua nồng nàn tỏa đến, đã đánh thức hai con gấu thức dậy ra nhìn.

Đàn gấu đông đến mười mấy con, những gấu già, những gấu con loắt choắt bước sau gấu mẹ. Có gấu con đương đi, trèo lên vai gấu lớn, ngồi thu lu, ngó ra bốn phía, những con khỉ con nghịch ngợm. Cả đàn gấu đứng im, nhìn sang tảng đá. Đàn gấu với anh em gấu im lặng nhìn nhau. Trông con mắt và vẻ ngẩn ngơ của anh em gấu, Mon hiểu. Những con gấu không kêu, không nói với nhau, tiếng gọi đàn không thành tiếng, thế mà bồi hồi tất cả. Mon bàng hoàng. Mon chột dạ. Mắt Mon rưng rưng. Mon nói như khóc:

- Gấu ơi! Chúng mày đừng bỏ anh nhé.

- Rồi Mon giũi đầu bíu cả hai tay lên vai gấu. ở bên kia rừng, đàn gấu từ nãy vẫn nhìn sang, bấy giờ trông thấy người nhô ra, thế là chúng nó lộn xộn kéo đi. Một thoáng đã mất hút, không thấy đâu nữa. Hai con gấu trên tảng đá ngây nhìn theo, nhìn theo mãi. Gấu muốn đi với đàn hay như thế nào, Mon không biết. Mon giơ hai tay, nắm mõm hai con gấu, thủ thỉ nói:

- ừ, chúng mày nghĩ phải. Anh em ta đây, anh em mình đây cơ mà. Gấu anh và Gấu em cùng thè cái lưỡi âm ấm liếm hai bàn tay Mon. Mon cảm động vuốt hai tai gấu bẹp xuống. Lát sau, ba đứa đi sang cánh rừng phía trước. Như hôm qua, mỗi đứa lại đeo vác những thứ lịch kịch, lọm cọm. Vừa đi được mấy bước, hai con gấu ngoảnh lại. Mon cũng ngoảnh đầu lại. Mon thấy đằng xa đàn gấu lúc nãy đương nhấp nhô đi theo. Tự nhiên, Mon lùi lại, đi sau cùng. Mon xôn xao, lo lắng lắm. Thế này là thế nào? Bọn kia muốn rủ anh em gấu này đi theo. Nếu không, chúng nó theo làm gì. Mình đi đâu chúng nó cũng bám, lúc xa lúc gần, không rời. Theo xem gấu đi với mình ư? Chắc không phải. Chúng nó muốn làm ác, muốn cắn xé mình ư? Không, mình có trêu ghẹo bọn nó đâu. Nhưng chúng nó cũng chỉ lờ lững đằng kia thế thôi. Cứ lúc nào Gấu anh, Gấu em quay đầu thì Mon lại lo. Mon nói như khóc:

- Gấu ơi! ở với tao! Chúng mày ở với tao! Đừng theo chúng nó. Anh mày đây mà! Đừng bỏ tao một mình nhé.

Gấu anh và Gấu em chỉ nhìn lại rồi lại đi. Nhưng, Mon không thể yên lòng. Đàn gấu lẵng nhẵng theo sau như cái đuôi, và khó chịu như người đi đường sắp bị cơn mưa dập tới. Có lúc, Mon định trèo lên cây rồi phóng lao xuống. Một thằng mà chết thì cả đàn chúng mày phải bỏ chạy. Nghĩ thoáng thế thôi, Mon lại thôi ngay. Gấu chẳng làm hại mình, không nên thế. Vả lại, chúng nó có đàn đấy, nếu một con bị ngã, cả đàn sẽ xông đến trả thù thì không xong. Từ khi ở rừng, Mon gặp biết bao loài thú có tiếng ác, cả hổ, cả trăn, cả chó sói, cả cá sấu, cả con giải, nhưng Mon biết rồi, chúng cũng như mình, ai có công việc ấy, không ai bận đến ai, không ai tự nhiên động đến nhau. Đàn gấu kia muốn gì đây. Chúng nó muốn rủ hai thằng này theo. Đúng thế rồi. Làm thế nào bây giờ? Làm thế nào? Nghĩ đi nghĩ mãi không ra nhẽ. Mỗi lần gấu đương đi lại quay đầu lại, Mon kêu van:

- Gấu ơi gấu! Mon đây mà... Gấu anh, Gấu em có nghe tiếng Mon nói không... Nhưng hai con gấu chỉ quay lại nhìn rồi vẫn cung cúc đi, lưng và cổ đeo lẵng nhẵng những xâu thịt khô và Mon vẫn đi sau. Đi xuyên rừng suốt ngày, rừng già rồi rừng thoáng. Chiều đến, khi sương xuống mờ mờ, không thấy đàn gấu đằng sau nữa. Đàn gấu đã lảng hay chúng nó lạc không theo được. Mon thấy dễ chịu hẳn, thế là Mon thúc:

- Chạy nhanh thôi! Rồi Mon chạy. Hai gấu cũng chạy theo. Mon cố chạy vào trong làn sương dày cho đàn kia không trông thấy nữa. Sương đã nặng lắm, tối rồi. Được một đỗi xa, Mon dừng lại. Rồi, lại như tối trước, Mon đốt đống củi. Ngọn lửa bừng lên, Mon ngồi hơ cho tay bớt giá rồi làm thức ăn. Mon nướng thịt. Trong khi Mon lấy cái ống đựng trám, đổ ra, hai con gấu nhặt từng quả trám trắng, nhấm nhót, nhá lốc cốc. Cả ngày hôm nay hai con gấu cứ mê mải đi, không con nào chùn lại lùng bắt tổ ong như hôm trước. Có lẽ gấu cũng ngại thế nào, không muốn. Gấu sợ ra đằng kia, đàn sẽ dụ dỗ cũng nên. Mon nghĩ thế. Bỗng Mon ngoảnh mặt ra, thấy ngoài trời tối, vô số những con mắt đỏ đục nhấp nháy chạy đi chạy lại. Đêm ta đốt lửa, thường thú rừng hay mò đến xem. Bố hay ném lao được những con hươu đến nhìn lửa như thế. Mình cũng đã ném được. Có lần hươu mải xem lửa, Mon mò ra, kéo được chân bắt sống con hươu nhỏ. Nhưng thoáng trông đây, Mon đoán cũng biết ngay không phải hươu, không phải mắt nai, cũng không phải mắt hổ.

Lại vẫn đàn gấu. Những đôi mắt to. Những đôi mắt nhỏ. Xanh lè. Những gấu to. Những gấu con con. Tất cả đương nhìn lửa. Lại như ban sáng. Gấu anh nhìn ra. Rồi Gấu em cũng nhìn ra. Mon không dám ngủ, cứ ngồi mắt thao láo trông xa rồi lại nhìn hai con gấu. Hai con gấu nằm lim him có ánh lửa ánh lên mắt. Gấu đương nghĩ gì? Đàn gấu cứ theo mãi thế này. Sao chúng nó theo mãi? Ngộ đến lúc anh em gấu ngã lòng thì sao. Những con gấu không nói năng, nhưng Mon biết trong những con mắt im lặng có hơi đàn quấn quít, có sự năn nỉ, có sự dỗ dành: hai thằng kia, mày đi đâu, mày đi với ai? Sao mày đi với người ấy? Thằng người ấy giết mẹ chúng mày rồi bắt chúng mày phải theo a? Thế mà chúng mày chịu theo a? Tội nghiệp, nó giết mẹ mày, bắt chúng mày đi theo từ lúc bé a? Mon cũng nghĩ rồi cứ chốc lại lẩm nhẩm kể lể: Gấu! Gấu! Gấu! Chúng mày nhớ không? Mẹ mày chẳng may phải con trăn quấn chết. Hôm ấy không gặp tao thì con trăn nuốt nốt cả hai thằng rồi. May mà tao cứu được, tao đem chúng mày về. Lúc ấy chúng mày còn non quá, chưa mở mắt kia mà. Tao vuốt từng đám lông cho ráo. Mẹ chúng mày vừa mới đẻ chúng mày ra thì gặp nạn trăn đói. Tao phải đi lấy cỏ cho chúng mày ăn. Cả măng nữa. Có thế chúng mày mới chóng cứng khoeo lên. Từ ngày ấy tới giờ... Gấu! Gấu! Biết thế không! Biết thế không! Gấu ơi! Mon tỉnh dậy, thấy hai con gấu thức, nằm nguyên một kiểu như chặp tối, từ chặp tối vẫn nằm thế. Hai chân trước duỗi dài, mõm kề sát đất, mắt hấp háy nhìn đống lửa. Trong ánh lửa, mắt gấu hình như càng về khuya càng long lanh. Hay là nước mắt? Chúng nó khóc?

Một lúc, Gấu anh đứng dậy. Gấu em cũng đứng theo. Gấu anh bước ra mấy bước. Gấu em bước theo. Mon ôm mặt, không dám giơ tay, không dám bước ra. Mon cũng không muốn bước ra. Bây giờ thì tùy lòng nhau. Lời nói nào, sự cách trở nào bây giờ cũng không ngăn được nữa đâu. ại chao, chúng nó ra rừng cả rồi ư? Ngoài rừng tối vẫn rối loạn, cuống quít, đi lại những đốm mắt sáng, mắt to, mắt li ti. Cả đàn gấu ngoài ấy vẫn thức. Cả đàn gấu vẫn ngồi đợi ngoài ấy từ chập tối. Bây giờ Gấu anh và Gấu em, nghĩ đến cùng kiệt rồi, chúng nó sắp bỏ mình, chúng nó ra với đàn. Những con gấu không gọi nhau. Nhưng hơi gấu nồng ấm trong sương, những con mắt lóe sáng trong đêm, những cái ấy biết trò chuyện với nhau. Hai con gấu không bước ra mà đứng lại. Rồi hai con gấu quì hai chân sau xuống, nhìn ra. Như lúc sáng, hai con gấu đã xếp hai chân sau ngồi thế, nhìn ra. Thế là Mon hồi hộp rón rén bước đến. Mon lại lẳng lặng chui vào nách hai con gấu. Như lúc sáng. Mon và chúng nó đã quen hơi nhau, và quen cả cách cứ đứng như thế một lúc, thấy ấm, và thế là lại như mọi khi, hai con gấu nằm ềnh xuống. Cánh tay Gấu anh dang ra cho Mon gối. Đêm lạnh vẫn ngủ thế. Đêm nay cũng thế. Mon và hai con gấu lại lăn ra ngủ say mê mệt. Trời tảng sáng. Hai con gấu đã dậy từ lúc nào, lại đương ngồi mê mải nhìn ra, hai chân trước đứng khòng khòng. Đằng kia, đã trông rõ đàn gấu vẫn tụ cả dưới gốc cây. Những con gấu thoăn thoắt trên cây xuống, dáng hẳn mấy con gấu bé vừa mới thức. Nhưng, Mon tin anh em gấu ở với Mon và không đi theo bọn kia. Mon tin thế. Mon nghĩ: ra với chúng nó thì gấu đã ra đêm qua, lúc nó bước khỏi đống lửa. Nhưng lúc ấy gấu đứng lại rồi ba đứa nằm úp vào nhau, ngủ như mọi đêm. Có thể, gấu đã định ở lại. Mon vui vẻ giơ bàn tay. Hai con gấu hếch mõm, liếm tay Mon. Vừa ấm, vừa mát, nhưng thích. Anh em gấu vừa liếm tay Mon, như nói:

"Anh yên lòng. Chúng em đã ở với anh từ khi mồ côi mẹ. Chúng em không đi đâu đâu. Chúng mình đương đi tìm bố mẹ và em anh đây mà!" Trời đã sáng hẳn. Mon lại khoác những xâu thịt khô lên cổ mỗi con gấu, buộc lại cẩn thận. Mon xách lao trúc, đeo dao đá, dao vàng, hòn cuội đánh lửa, cả ba lại bắt đầu một ngày đi. Cẩn thận, Mon vẫn đi sau. Đàn gấu kia cũng công phu, vẫn không chịu bỏ. Lại lẽo đẽo luẩn quẩn theo đằng xa, như hôm trước. Chốc, Gấu anh và Gấu em lại ngoảnh lại. Mon hơi phân vân, lo lo. Mon nghĩ ra một kế:

"Ta xuống bờ biển, hẳn đàn gấu mất theo. Gấu chỉ ở rừng sâu. Gấu không dám ra chỗ trống". Mon làm ngay thế. Bãi rộng, phẳng tắp, Mon và hai con gấu ra tận tảng đá kề bên nước. Biển im như tờ, ánh nắng hắt màu rong rêu ở đáy nước, làm cho mặt biển đổi màu xanh ngắt. Lặng lẽ, những đợt sóng nhỏ sáng sớm của con nước thấp vừa âm thầm rút xuống, trơ lại tảng đá rêu xanh mướt. Làn mây mỏng phủ dài cuối biển. Mặt trời ủ trong mây, giữa trưa mà như chiều êm đềm. Lâu không ra biển, Mon định ở lại đấy. Vừa kiếm sò về nướng, vừa để nghe xem đàn gấu đằng sau ý tứ thế nào. Hai con gấu đương ngơ ngác nhìn vào. Đàn gấu kia đã đứng lại trong chân rừng. Quả nhiên, không con nào dám ra chỗ trống trải, không con nào dám xuống bãi cát theo ra. Chúng nó ngơ ngẩn một lát rồi quay lại. Cả đàn đã lấp vào rừng sâu. Mon nghĩ: hay quá. Thế mà gấu sợ bãi cát thật. Ta ở luôn đây vài hôm, chắc chúng mày phải thôi theo. Nhưng không ở chỗ này, ta sẽ chuyển đến đằng kia cho mất đi theo. Anh em gấu còn ngóng vào một lúc nữa. Nhưng đàn gấu kia đã chán, đàn gấu bỏ vào rừng rồi. Đến tối, đốt lửa lên, trông vào không thấy những đốm mắt. Mon ngủ một đêm đẫy giấc. Nghe gió biển mơn man qua trên mặt. Nhưng sớm hôm sau, lại thấy đàn gấu nhấp nhô ở chân rừng trong kia. Lại ngay ngáy lo. Hai gấu và Mon cứ ở lại suốt ngày ở bờ biển, không dám vào. Chặp tối, trong kia trông ra chắc không thấy. Mon đưa hai con gấu theo bờ, chạy nhanh xuống cách đấy một quãng xa. Đêm hôm ấy không đốt lửa. Sáng hôm sau, không thấy đàn gấu trong gốc cây chân rừng. Có lẽ thoát. Nhưng cũng chưa dám vào vội. Cả ngày, Mon đi tìm những tảng đá sần sùi chồng chất bám những con hà. Lấy đá đập một cái, thịt hà tứa ra. Mon hút tươi, mát ngọt. Rồi lại ngủ đêm lại ở mép nước.

Nhưng bây giờ lại sang nỗi lo khác. Những cái măng khô đeo trên cổ hai con gấu, chỉ còn gặm một bữa thì hết. Sò tươi ăn ngon, sò nướng vừa ngon vừa thơm, gấu không ăn. Phải vào rừng kiếm măng, mà vào rừng thì biết đâu đàn gấu chẳng trông thấy, lại theo. Khó nghĩ quá. Nhưng, đến khi đói rồi, anh em gấu thấy Mon ăn sò, gấu cũng bắt chước. Mon cứ trố mắt nhìn. Hai tay gấu to xù xì mà thật khéo, bóc gọn, vỏ sò mở toác, màu đỏ tươi sò huyết, rồi gấu thè lưỡi hút. Con sò ướt vừa tọt vào mõm, cả hai gấu lại lắc lắc ra. Gấu cố ăn sò nhưng gấu vẫn sợ tanh, chưa ăn được. Gấu lại ngồi bần thần nhìn Mon hút sò, Mon lại ăn làm mẫu cho anh em gấu, nhai tóp tép cho gấu thèm. Một chốc, gấu lại cầm con sò khác, bóc và liếm rồi lại lắc lắc. Tức quá, Mon bật cười lên. Hai con gấu ngồi ngẩn ti hí mắt nhìn. Nhưng chỉ một lúc, gấu đói quá. Măng khô không khốc như củi. Cũng nhá hết rồi. ở bãi biển, không thấy lá ngót, không có quả trám, không có mật ong. Lẩn thẩn, rồi đâm liều, thế là gấu mon men ra bờ nước, gấu vác đá, đập hà. Mỗi con hà chỉ được một vảy thịt, không đủ dính góc mép. Gấu cúi xuống liếm, nuốt chửng. Hôm sau, gấu thò tay đuổi bắt cáy. Những con cáy tám chân lềnh nghềnh bé tý. Con cáy có một chiếc càng to, cáy bò như ôm cái khèn. Gấu bắt cả cáy càng to, nhai luôn. Rồi gấu trông thấy trong nước có con ruốc đứng múa, con mực hoa chân bơi toài toài. Gấu quơ ra.

Con ruốc trốn lọt vào lỗ cát. Gẫu móc lỗ cát, vớ được con ruốc, quên hết cả cái sợ tanh mọi khi. Giống gấu phàm ăn, khi đã quá đói chẳng kể gì. Cả đến con sam có cái mai to bằng vỏ dừa mà gấu vớ được cũng nhấc lên, ngắm nghía rồi nhá luôn cả vỏ, cả đám chân sam lúa nhúa. Mon nhớ một hôm, nhớ ngày trước nhà ở Bãi Lở, Mon bắt chước bố mẹ đốt đất nặn bánh ngói đưa cho gấu. Gấu nhai gau gáu từng miếng bánh ngói bằng đất sấy nhỏ lửa. Mới lại biết tính gấu hễ đói thì quơ tất. Thế là Mon đã biết cách dỗ gấu ăn được thịt mà lúc đầu ngửi, bao giờ gấu cũng lắc lắc. Cái cớ giản dị để ở lại bờ biển được hai đêm nữa: bởi vì hai con gấu đã ăn thịt nướng. Tối hôm ấy, đốt lửa. Cũng không thấy trong bóng tối phía rừng có những chấm mắt xanh nhìn ra. Đến sáng, nhìn thấy rừng quang. Đàn gấu đã đi thật. Thật chúng nó không theo rủ rê hai con gấu này nữa. Mon thấy yên trí, Mon và anh em gấu trở lại đi phía khác. Buổi trưa, nghe mấy tiếng quắc quắc trên không. Rồi từ sau rặng cây trước mặt, sà lại mấy con chim biển. Những con chim này giống hệt con chim năm trước thấy, chim to bằng con vịt, lấm tấm trắng, hai đầu cánh chấm đen. Mình nó thon thả, nhưng trông đến cái mỏ thô lố thì biết ngay là giống chim phàm ăn. Mấy con chim đương giằng xé cái gì trên kia. Giữa trời mà chúng cướp mồi kịch liệt như ở mặt đất. Đạp nhau, húc cánh. Những cái mỏ chọi đôm đốp. Những tiếng quắc quắc rợn lên. Một đám lông tơi tả rơi xuống đầu Mon. Mon đã trông rõ những con chim đương tranh nhau một miếng đo đỏ, trăng trắng như con cá tươi. Tưởng chúng giằng giựt quá chân quá mỏ thế nào cũng rơi mồi, thế mà không, chỉ trong thoáng mắt, miếng mồi đã được xé biến vào các mỏ. Hết mồi rồi, đàn chim lại xô nhau bay trở lại sau lùm cây. Năm trước, vào mùa này, Mon ra chỗ này. Cũng gặp con chim biển. Mon nghĩ: thấy chim có thể thấy người, khi trở về, ý định đi tìm cha mẹ đã sôi nổi, và bây giờ lại qua đây. Lại gặp chim biển, lần này gặp những mấy con. Dạo ấy, tìm được cái hạt gì trong đám cứt chim đem trồng chỗ hốc đằng kia. Thử lại xem cái hạt lộn kiếp ấy thế nào. Mon nhìn lại, nhận ra hướng rồi đi tìm nơi hốc đá mà Mon đã bỏ cái hạt. Vừa đi, Mon vừa nghĩ. Không phải nghĩ xem còn cái hạt hay không, hay cái hạt lộn kiếp nở cây gì. Mon không để ý, bởi chẳng chắc đâu có cái gì.

Mon đương nghĩ đến đàn chim. Năm ngoái gặp có một con. Năm nay, gặp một đàn tranh nhau giựt mồi. Có chim có người, biết đâu bây giờ chẳng đã có người đến ở, nên có chim đến. Biết đâu chuyến này đi sẽ thấy được bố mẹ, biết đâu chốc nữa sẽ gặp bố mẹ, gặp em. Nghĩ thế, Mon nao nao trong người và tự dưng, chân bước thoăn thoắt nhanh hơn. Mon nhận ra tảng đá ấy ngay trước mặt. Tảng đá cao, bên cạnh há ra cái hốc đen thẫm. Mon đi nhanh đến. Hai gấu lon ton theo. Lạ quá, nghe lao xao như tiếng người cãi nhau trong hốc đá. Tiếng người? Tiếng người cãi nhau to. Không, tiếng gì lào xào. Như tiếng gió quết trên bụi mía, bụi ngô. Rồi lại phảng phất xa. Chưa chắc đã là tiếng người, rồi lại thấy đúng, có tiếng gì như tiếng người thật. Mon chạy vội đến. Mon trèo lên mỏm đá, nhìn xuống. Thấy những con chim lúc nãy, mà đông hơn nhiều. Đàn chim đương xúm xít vộc đuôi, châu mỏ dưới chân tảng đá. Chúng lại tranh ăn dưới ấy. Tiếng lầm rầm nghe là tiếng đạp, tiếng xô cánh, tiếng kêu, tiếng mỏ chọi nhau của những con chim cướp cái ăn, như lúc nãy ở trên trời. Mon cúi xuống gần tận nơi.

Đàn chim mải tranh mồi, cũng không hay. Mon lẳng một hòn đá vào giữa đám. Đàn chim lại càng xô vào mổ nhau tợn, mổ xốc lấy cả hòn đá. Chim ở đây chưa biết sợ. Chúng lại mải tranh ăn dữ dội nữa. Rồi cả hai gấu chạy đến tận giữa đám chim, kêu khặc khặc như quát mắng. Bây giờ chim mới chịu lả tả bay tản ra, thế nhưng vẫn chới với tiếc rẻ liệng quanh. Mon trông vào hốc đá, thấy lòng thòng mấy cái dây như dây bí, khô trắng. Cái dây bò dài từ mép đá ra. Cái dây hệt dây bí, ở mỗi mấu trổ một tàn lá to tròn, đã héo vàng úa. Đến mùa quả chín thì lá vàng giữa dây. Trên đốt dây có quả to - quả bí ử. Quả này thô lố bằng đầu gối, tròn vóc và dài con như cái gối xếp gỗ. Vỏ bóng mỡ, xanh đen, lẫn với hòn đá suối đương giữa mùa nước có rêu phủ. Mới đầu thấy một quả, trông lại thấy một quả nữa. Trông lại thấy một quả nữa. Đếm cả thảy được bảy quả to. Có quả, chim đã ăn hết, chỉ còn cái cuống dính miếng cùi. Có quả chim đương mổ, vệt mỏ khía hết vỏ đen xanh, ở trong có màu cùi trắng bạch. Cái quả lạ lùng, chưa được thấy bao giờ. Nhưng, tưởng như mới ngắm đã thấy đẹp, thật no mắt mát mắt. Chắc ăn được. Mon quay lại, hấp tấp hỏi hai con gấu:

- Chúng mày có biết quả gì đây không?

Hai con gấu chụm chân ngồi im, hau háu nhìn xuống. Mon bước tới, rút con dao sau lưng, rồi nhấc cái dây quả lên. Lưỡi dao vàng ánh xuống, loáng một cái, đã cắt được cuống một quả. Quả tròn và nặng, đã già, mới va vào đá đã nứt tách ra. Mon phải kẹp đầu gối đỡ lấy rồi hai tay bưng, trèo lên chỗ hai con gấu. Mon lại hỏi gấu, tự nhiên:

- Quả lành hay quả độc, chúng mày biết không? Hai con gấu vẫn hau háu nhìn quả lạ.

Mon hồi hộp quá, đã quên hẳn, không nhớ đấy là gấu, lại nói:

- Chim ăn được thì chúng mình ăn được, không sợ. Có phải không? Mon nhấc con dao. Con dao vàng ngời sáng trong ánh nắng trên tảng đá. Mon xoa quả lạ một cái, rồi cầm dao lên. Một nhát vàng bổ xuống, quả nứt căng, tách đôi ra. Dưới lần vỏ màu xanh, hé ra một lớp cùi trắng mỏng rồi tảng ruột đặc sang sáng sàn sạn như cát, đỏ ối, lấp lánh quanh nạm hạt đen nhánh. Mon bổ quả lạ làm bốn. Mon cho mỗi gấu một miếng. Mon cầm một miếng, đưa lên miệng. Mùi nước thơm ngọt mát kề ngay trước môi. Đương cơn khát, Mon chỉ ăn một thoáng đã hết miếng. Trông sang, hai con gấu đã nhá veo cả ruột lẫn vỏ từ lâu. Và Gấu em đương lẳng lặng khều trộm miếng còn lại trên mặt đá bên cạnh Mon. Mon xuống khe, hái nốt mấy quả kia lên, bày la liệt lên mặt đá. Mon bổ một quả nữa. Mon cứ ngắm mãi màu ruột quả đỏ lợ. Lần này, không đợi Mon nhấc hẳn lưỡi dao ra, hai con gấu đã xúm tay bê hai nửa quả nhá gau gáu. Chẳng mấy lúc, lại chén hết quả nữa. Rồi quả nữa, hai thằng cũng lẻm hết. Mỗi gấu chén ba quả liền một lúc. Xong, cả hai anh chàng gấu cùng thiu thiu mắt, ngã ngửa người xuống tảng đá. Họng khò khò như có cái gì chẹt cổ.

Mon giật mình. Thôi chết, ăn phải quả độc. †n phải quả độc sắp chết. Tiếng khò khò càng to, hai con mắt gấu mỗi chốc lại trợn trắng lên kia. Mon cũng ăn hết một quả, Mon cũng ăn hết cả một quả, Mon cũng chết đến nơi. Nhưng Mon vẫn thấy mình tỉnh. Mon bặm môi lại, vẫn thấy như thường. Mon rút hai con dao sau lưng, Mon múa dao lên trời. ánh lưỡi dao bay vàng loang loáng. Chẳng thấy sao cả, vẫn khỏe thế. Nhưng Mon trợn. Mon muốn móc họng cho nôn. Nước mùi quả lạ trong cổ tứa thơm. Có gì đâu. Nước quả lạ thơm mát thế, chẳng nhẽ lại là quả độc! Mon lại lặng lẽ ngồi xuống, cố bình tĩnh. Hai con gấu nằm ngửa, gà gà sắp chết, như thế đến tận trưa, vẫn chưa chết, Những tiếng thở có lúc rống lên như lúc đánh vật hăng. Rồi, cả hai từ từ lăn mình nằm sấp. Cái bụng đã tọp đi, bây giờ mới nằm sấp được. Có lẽ chỉ tại gấu ăn no quá, chướng bụng nghẹt thở, từ nãy phải nằm ngửa cho khỏi tắc cổ. Mon nghé tai, nghe tiếng gù đều đều. à, tiếng ngáy, tiếng ngáy. Bây giờ gấu nhắm mắt, gấu ngáy. Bây giờ gấu ngủ say cả rồi. Mon đứng dậy, vỗ độp một cái vào đít, như phủi bụi, cười to.

- Những thằng này sắp chết vì nốc quá mồm!

Rồi Mon cũng nằm xuống ngay cạnh gấu, khoan khoái làm một giấc. Cả buổi chiều và tối, không phải ăn. Sáng hôm sau, còn một quả, chén nốt. Hai con gấu lại nhá sồn sột, ngon lành. Đã quên trận ăn tham đến ngột cổ suýt vỡ bụng hôm qua. Sáng sớm, những con chim biển lại lảng vảng đến. Đàn chim biển lượn vòng rộng và bay đi dọc dài, nghiêng nghé, ngắm nghía tảng đá. Nhưng chẳng còn cái ăn như hôm qua. Lượn một lát, rồi từng con, lả tả, phấp phới bay về phía xa, rồi mất tăm theo bờ nước xanh ngắt. Mon nghĩ:

"Ta cứ đi theo chim. Điềm lành đã đưa ta gặp quả ngon. Điềm lành đã đưa chim đến". Mon và hai con gấu tung tăng đi. Biển cát phẳng tăm tắp. Mon vơ hạt quả lại thành một bọc, đem theo. Cứ thấy chỗ nào có hốc đá ẩm, Mon lại vùi vài hạt. Như ngày trước đi theo bố mẹ tra hốc trồng đậu ở bãi ven sông Cái. Cả ngày đường, Mon rắc hết bọc hạt, chỉ giữ lại một nắm, định đem những hạt giống ấy về trồng ở gốc thông, trước lều. Chẳng bao lâu, đi đến chỗ vướng núi chắn ra biển năm trước, phải dừng lại. Lần này Mon quả quyết trèo lên. Nhưng trông sang sau núi đằng kia, vẫn chỉ thấy viền trắng một bãi cát dài. Mon trèo xuống, sang rắc thêm mấy hạt bên bờ ấy. Bỗng nghe những tiếng cười đùa ầm ầm ngoài khơi. Mon vụt ngoảnh nhìn ra. Một đoàn người đang vùng vẫy ầm ĩ ngoài ấy. Những bóng đen nhấp nhô hụp lặn. Người ở đâu đến đùa giỡn chơi được giữa vùng biển mênh mông kia. Mon nghe kỹ, hình như tiếng rít, tiếng thét, không phải tiếng cười. Nhưng vẫn là một đám người đương lênh đênh ngoài ấy. Hay là có một chiếc thuyền đắm? Mon lên mỏm đá để nhìn cho rõ. Bỗng nhiên, tất cả đám ấy biến đi. Mặt biển lại ánh màu xanh rêu xanh đen trầm lặng bát ngát. Nhớ bố nói ngoài Ninh Hải có giống cá lợn thường lên mặt nước chơi đùa như trẻ con. Giống cá này đen trùi trũi mà hiền, người bơi vào vùng vẫy chơi với bọn cá cũng được. Có lẽ đây cũng là đàn cá lợn đi chơi. ít lâu sau, lại thấy cá lợn chơi đùa trên mặt biển. Bây giờ biết đích xác là cá, không phải người. Càng nhớ bố mẹ. Đi thêm mấy ngày, gặp một vùng bãi lầy có rừng rậm kề nước. Cành lá sát xuống tận đất, chui vào mà không vạch được lối ra. Tối ấy, Mon và hai gấu phải núp lại giữa bụi cây chằng chịt, trong lòng đá của một con suối mất dòng đã cạn khô, như những con tê tê rúc ráy bới đất làm nơi trú ẩn. Mon nghĩ mẹo, đánh lửa đốt cái bụi rậm bên cạnh. Lửa loang cháy toang ra. Suốt đêm cháy rừng, tàn lửa rực một góc trời, thế là nằm trong bụi cũng được sáng như ban ngày. Mon chuyện với hai con gấu:

- Lần này ta đi gặp may nhiều lắm. Chúng nó rủ rê chúng mày thế mà chúng mày không bỏ tao.

Rồi con chim lại đưa đến chỗ nhặt được quả lạ, ăn đến bây giờ còn thơm miệng. Tuy gặp may nhiều thế nhưng mà cũng chưa gặp được bố mẹ. Bây giờ đi mãi cũng không nên, phải quay lại. Để tao nghĩ xem nên thế nào đã rồi đi đằng khác vậy. Quay trở về, nhưng Mon không buồn. Về qua chỗ bãi mà Mon đã vùi những hạt quả ở đầu bãi, Mon tưởng tượng: sang năm, những dây này ra quả, suốt dọc biển chỗ nào cũng sẽ có quả ngon. Sang năm, chim biển sẽ kéo về ăn quả nhiều nữa. Khi ấy, chắc bố mẹ mình ở đâu cũng thấy có chim bay qua trên đầu. Bố mình sẽ đoán: chim biển về đâu thì đấy có đất và có người ở. Ngày trước, bố đã bảo như thế. Rồi bố sẽ đưa mẹ và em theo chim đến đây. Mình ra hái quả, thế là được gặp. Thế nhưng, mọi việc trong đời không phải chỉ có những gặp may như Mon nghĩ. Mon đương sắp một chuyến đi tìm bố mẹ nữa thì Mon bị ốm. Bước chân xuống bậc đá, hai đầu gối run rẩy. Cả ngày, Mon nằm trong sàn. ốm mà phải thui thủi thì tủi thân quá. Người gầy rộc, cứ nằm dán mình xuống, không ngóc đầu lên được. Chẳng biết nằm như thế đã mấy ngày mấy đêm hay hàng tháng rồi. Những con gấu cứ lúng túng không biết làm thế nào. Rồi hôm sau hai con gấu hùng hục đi một lúc vác về những rau ngót, măng, quả trám, có khi những con sò, con ngán, bày la liệt mặt sàn.

Lại nói về nhà An Tiêm. Lời An Tiêm nói, Nàng Hoa thấy là phải. Phải kiên gan mới có sức sống tới ngày đi tìm con được. Khi nghe ra thế, Nàng Hoa cảm thấy mình khỏe, không lệt bệt yếu như trước nữa. Nàng Hoa ngồi dậy, Nàng Hoa ra gốc cây, xách vào cái ống tre nước. Nàng Hoa đổ nước ra tay rồi vỗ lên mặt. Mặt gầy hóp, nhưng đã khô hẳn nước mắt. Nàng Hoa không khóc nữa. Nàng Hoa vào trong lều, nét mặt Nàng Hoa lặng lẽ và nghiêm. An Tiêm biết câu nói của mình đã thấm ý nghĩa. Nàng Hoa nghe ra rồi. Khóc thương không thể làm gì. Chỉ có mạnh chân khỏe tay mới có hy vọng tìm lại được người. Nàng Hoa đã hiểu như thế. Từ hôm ấy, cả nhà lại đổ sức vào làm cho được chỗ ở và cái ăn. Phải, làm người phải có cái mái để che trên đầu, dù chỉ trú chân, khác con tê tê chỉ biết bới hang đất. Suốt ngày tản đi rừng, chỉ những lúc về đốt ống tre nấu canh hay nướng thịt, mới quây quần quanh lửa. Những lúc ấy lại không thể đừng được nỗi nhớ. Có khi cái Gái bỗng dưng ngẩn ngơ để rơi miếng thịt đương cầm trên tay rồi òa khóc. Thế là nước mắt lại đầm đìa xuống má Nàng Hoa. Nhưng chỉ những lúc ấy thôi, bởi vì cả Gái cũng đã hiểu nhà mình có lẽ chỉ tạm ở đây, bố mẹ đương lo đi tìm anh Mon. Cái Gái theo bố, theo mẹ biền biệt vào rừng. Đương mùa măng, mỗi buổi Nàng Hoa và cái Gái đem về từng bó măng, rồi phần để ăn, phần lấy mảnh tre bổ ra phơi khô. An Tiêm đã đẽo cái lao tre, phóng được mấy con nai to, đem gác bếp phơi khô để làm thịt ăn đường. Chẳng mấy lâu, trên sườn lều đã lủng lẳng từng dãy thịt nai sấy. Khi những miếng thịt đã khô se, đen như bồ hóng, một hôm, An Tiêm bảo Nàng Hoa:

- Mai ta đi tìm con, mình ạ. Nàng Hoa hỏi An Tiêm:

- Đi thế nào, hả mình? An Tiêm nói:

- Cả nhà ta cùng đi. Trước kia chúng mình đã định thế nào cũng có lần trèo xuyên ngang đảo tìm xem bờ bể bên kia có khác bên này không. Chúng ta muốn đến sinh sống ở nơi bằng phẳng có cá, có đất thì mới còn cầu may có khi gặp được người... có khi còn trở lại đất quê. Ta đương định như thế thì cơn bão nước ập đến, phá tan cả.

Nhưng cơn bão nước đã đổ về đằng ấy, thế là ta biết đất dốc về đằng ấy, đất dốc bao giờ cũng đổ xuống bãi chứ không thể dốc lên núi. Bây giờ đi tìm con, ta đi theo vết con bão nước, cả nhà ta sẽ đi, bao nhiêu ngày không tính, cứ ra tới bể mới thôi. Thế là cả nhà đi. An Tiêm đeo cái ống nước dài như chiếc đòn ống, lưng giắt dao, hai tay xách hai cái lao trúc. Nàng Hoa theo sau, vác những buộc dây thịt khô, những bọc măng khô. Cái Gái đeo thêm cái mo nang bọc xống áo. Đi suốt mấy ngày, đêm ngủ lại đâu thì đốt lên đống lửa to. œớc Mon còn sống ở rừng nào, trông ánh lửa mà tới. Nhưng, được hai hôm theo vết bão đổ rừng thì thấy không còn nhận được ra đi theo ngả nào nữa. Càng đi, vết bão còn lại càng ngổn ngang, tan hoang, không thành đường ống thuốn băng từng khúc rừng như chỗ gần núi trong kia. Rừng đổ chồng đống và con nước tràn qua mới chỉ ít lâu mà các thứ dây leo đã lại quấn quít xanh rợn lên, các sườn rừng cỏ tranh đã lại ngùn ngụt cao ngang người. Không còn dấu tích gì. Cái mong gặp Mon trên dòng nước phá của cơn bão không còn như lúc mới nghĩ. Biết theo lối cây đổ nào mà đi bây giờ? An Tiêm bảo Nàng Hoa:

- Ta cứ đi thẳng vậy.

Vất vả, dò dẫm từng bước. Những buộc thịt khô chỉ đề phòng mà thôi. Ngày ngày đôi khi dừng lại, ai cũng ngắt lá ngót, đào măng, bắt hươu, bắt ăn thịt con cầy, con nhím, con lửng lợn, con lửng chó, con kỳ đà. Chỗ thịt khô mang theo để dành, chỉ ăn đến những khi không kiếm được. Thế mà cũng vơi dần, biết là đi đã xa rồi. Đêm nào cũng đốt lửa. Có những đêm không ai ngủ. Trông ra bóng rừng chập chờn xung quanh, hồi hộp như sắp thấy Mon đến. Nhưng đến sáng, cũng chẳng thấy. Hôm sau, lại đi. Những đêm mới đi, lúc nào tắt lửa thì trời tối bưng. Bây giờ bóng rừng suốt đêm loang lổ ánh trăng. Rừng đã thưa, cứ mỗi hôm lại dấn lên đi nữa. Rừng thưa rồi đến khi thấy rừng thấp xuống, những lớp cây mọc càng rải rác ra, rồi không còn gặp một chỏm núi nào. An Tiêm đoán:

- Có lẽ sắp ra chỗ đất phẳng. Nàng Hoa im lặng. Nhưng trong lòng lại ngỡ như ra được chỗ đất phẳng, biết đâu chẳng gặp được con.

Mỗi đêm đến chỗ ngủ, Nàng Hoa chất một đống củi to hơn, đống củi nuôi lòng mong đợi ấy cháy thâu đêm. Chỉ thấy hết đêm lại đến những buổi sáng vắng im như tờ. Một hôm, mới bảnh mắt, rừng đã sáng choang. ánh mặt trời lọt lá thưa rỏ xuống tận mặt cỏ. Trước mặt bao la những vùng cỏ tranh cồn lên. Trong luồng gió mát, con hươu phởn phơ đi từ đằng xa đã trông rõ. Cảm thấy một điều lạ sắp xảy tới. Tự dưng, ai cũng vui vẻ hồi hộp. An Tiêm đi trước, bỗng đứng dừng. Nàng Hoa và Gái vừa theo kịp. Cả ba người trông ra, thấy một quang cảnh khác hẳn từ khi ra đây chưa được thấy. Dưới kia, tít đến tận chân trời, trải man mác một màu xanh, đôi chỗ loáng một khoảng trắng nước. Từ trong lòng đất các chân rừng, nước chảy ra, nhuyễn thành một vùng lầy bao bọc những bãi sậy liên tiếp xen khít chân nước, màu xanh càng mênh mông một hoang vắng. Mọi người đương vui quá. An Tiêm cảm thấy tràn đầy quanh mình hơi nước biển nồng mặn đã quen từ khi tấm bé. Mùi biển ôm quanh mình. An Tiêm trỏ tay:

- Mình trông thấy ngoài khơi kia không, ngoài ấy là bể Đông. Thế là ra đến bờ bể Đông. ở lại đây được rồi, mình ạ. Nàng Hoa đăm đăm nhìn ra xa... Rồi hỏi:

- Chỗ sông Cái, Bãi Lở quê mình có ở bể Đông không? An Tiêm nói:

- Không, quê nhà ta phía rừng sau lưng, quê ta trông ra bể Đông.

Bỗng nhiên, nước mắt Nàng Hoa sa xuống. Ngỡ như đến một quang cảnh khác đi thì có hy vọng thấy Mon, nhưng bây giờ nghe nói thế, biết bể Đông với quê mình hai phía khác nhau, tưởng như lại càng xa hơn. Bao nhiêu lâu nay mong ước... Mong ước lại được như nhà mình ở ven sông Cái. Chao ơi, cái tiếng gà eo óc gáy dồn đêm cuối cùng nghe trong cửa sông bây giờ nhớ lại vẫn thấy như chiêm bao. Một đời đã đổ mồ hôi làm nên nơi ăn chốn ở thành chòm thành xóm thì không bao giờ quên được. Huống chi ở nơi luồng nước dữ dội quanh năm vật vã thay dòng, con sóng cũng quăng mình như con trăn, vào khi giao mùa nước lũ chuyển dữ đến cả rừng con nước ngông nghênh ngóc lên tàn phá. Nhưng người đã chặn lại, giành đất cho người sinh sống. Thế rồi những bãi cây bông cao hơn trượng, quả bông to bằng quả vả, nứt ra từng đấu bông đẹp như tơ, những bãi mía cây dài bằng cột nhà ép lấy mật trong và ngọt, những bãi vải quả trĩu đỏ như mâm xôi gấc, bờ bãi và nhà cửa chen kín hai bên bờ sông. Mong ước có khi lại được thế - mong ước có ngày lại gặp con. Đến đây, gặp đất phẳng, gặp bể, vừa nghĩ có khi cả nhà ta bỏ sức lại làm nên cơ ngơi như ở Bãi Lở. Nhưng thế là đến đây cũng chẳng gặp con. Đến bờ bể Đông lại xa quê mình hơn. Cái gió mát trước mặt tự dưng hóa lạnh. Gió trong núi đằng sau lưng, gió từ vùng người ở quê thổi ra, gió có hơi người ấm hơn. Thấy Nàng Hoa đương vui lại buồn quá, An Tiêm nói:

- Rồi ta lại đi tìm nữa. Trời mà còn để cho con ta chứng sống, thế nào cũng có ngày gặp nhau.

Nghe An Tiêm nói thế, Nàng Hoa lại nhớ lại có lần An Tiêm đã đinh ninh nói vậy. Bấy lâu, Nàng Hoa vẫn cố dấn làm thế. Không khóc, không than thở, bao nhiêu thương nhớ đứa con đầu lòng đều đổ vào công việc sửa soạn đi tìm con, như lần này. ừ, mới đi, rồi còn đi nữa, trời mà để cho con chứng sống, thế nào cũng có ngày... Nàng Hoa lại thấy lời nói ấy là phải.

- ...Thế nào cũng có ngày gặp con, mình ạ. Đến bờ biển, đêm đầu tiên An Tiêm đốt một ôm lửa trên đỉnh gò. Từ hôm ấy, Nàng Hoa và Gái theo lệ, đêm nào cũng đốt một đống củi. Không phải sợ ở trong bóng tối thì thú rừng đến vồ mồi lầm lẫn. Mà đốt lên cho thấy bóng sáng, ngộ may Mon ở đâu thấy được ngọn lửa của bố mẹ. Mon lần tới. Từ đây, mỗi đêm trông thấy ngọn lửa cũng là nuôi lòng mong mỏi. Lửa đêm đốt trên gò cũng như lửa rấm trong bếp, không bao giờ tắt. Thế là lại bắt đầu những ngày tấp nập, nhộn nhịp ở chỗ mới

- dù cho nhà chỉ còn có ba người. Trước mặt, ngút ngàn bãi sậy liền ra đến biển. An Tiêm chọn gò đất cao, dưới bóng mấy cây vàng tâm. ở chỗ phẳng không cần làm nhà sàn như tổ chim trên cây. An Tiêm dựng một nếp nhà tranh

- tựa những nếp nhà xưa kia ở Bãi Lở. Hôm cái nhà đã lên tường rồi sắp nóc, An Tiêm đứng ngắm, tưởng mình đứng ở giữa đất Bãi Lở, trong xóm ven sông. Không biết bây giờ ở đấy thế nào? Hay là nước lũ về cuốn đi hết rồi.

An Tiêm nghĩ mình như ong chúa, ong chúa đi mất, thế là tan đàn. Mỗi lúc nghĩ về Bãi Lở, lại thoáng qua một nét buồn ấy. Nhưng bao giờ An Tiêm cũng cố khuây đi, và cứ lao mình vào mọi việc quanh mình thì tưởng như lại gần gũi Bãi Lở. Cái nhà tranh gọn ghẽ, chắc chắn, cả nền đá và tường đá tảng xếp. Phía nào đứng cũng không trông thấy, phải vào gần đến gốc vàng tâm mới nhìn ra bức tường đá và rõ cái nhà ở trong. Tường đá xếp tròn trôn ốc, xoay xung quanh nhà. Đá to đặt từ dưới lên quá đầu, đến lượt đá dăm bằng nắm tay, như vảy con cá trắm xanh. Cái tường đá dày rộng có đến hơn sải chân. Trèo lên lưng tường thấy hở ra một lỗ. Mỗi ngày, khi người ta đã vào cả bên trong, lại vần một tảng đá to ra, lấp lại, như rào cổng. Con trăn không lần được lối quăng mình vào, con hổ ban đêm cũng chỉ đi ngoài tường được thôi. Cái nhà ba gian ba mặt vách đất nện. Trong nhà, mỗi góc xếp một ổ cây sậy phơi khô, ngồi vào sậy vỡ lạo xạo. Ngoài đầu nhà đào cái vũng sâu làm giếng. ở vùng biển nước mặn mà ngay sát bờ, chỉ khoát sải tay đất, đã tới mạch nước ngọt - nước chân đồi, ngọt mát và trong. Khác Bãi Lở, cửa liếp đan phên và mái nhà ống sậy. ở sông Cái, mái và phên vách bằng lá mía. ống sậy phơi khô xếp chất ngất chồng cao hơn đầu người, trên cùng phủ một lớp lá dài. Qua vài trận mưa rào hay mưa dầm rả rích, đống lá xẹp xuống, bết lại, mốc xám, còn lại một đệp mái dày. Mái sậy bền hơn mái lá mía. Bây giờ mới được nhà ở tử tế có vách, có mái, khỏi chui rúc như chim ngủ cành cây. An Tiêm và Gái ở rừng ra. Vắng Mon, Gái đã biết đi rừng với bố, biết phóng thạo lao trúc, nhiều lần được hươu. An Tiêm vác bó bẹ móc rừng. Gái đeo trên vai buộc lá ngót. Dạo này được nắng, hôm nào An Tiêm cũng lấy về những bẹ móc già, phơi khắp trên mặt tường.

Hai bố con leo lên lỗ cổng đá, chui vào. Trong nhà, Nàng Hoa đã biết bố con về từ lúc nãy - dù chưa trông thấy. Vì mỗi khi về đến chân đồi, bao giờ Gái cũng hú gọi mấy tiếng. Bên trong tường đá, Nàng Hoa hú đáp lại. Nàng Hoa đương lúi húi tõe ngón tay chải ra từng sợi móc. Bẹ móc đã khô, đem hòn đá đập mềm ra. Sợi móc đen, sợi móc nâu, từng sợi cứng như cước, mà dai. Ngày ngày, Nàng Hoa ngồi đạp móc rồi gỡ ra, xếp thành một đệp. Từ khi còn ở đỉnh núi, gặp được cây móc rừng, Nàng Hoa đã có ý lấy cây móc tết làm xống áo, dây móc khô cũng tết thành vải được. Nhưng rồi năm tháng qua lại, ở đâu cũng chỉ những vất vả túi bụi kiếm cái ăn, chưa một lúc thong dong mà làm được cái nhà có mái. Đến khi kiếm được bẹ dứa dại đem phơi khô bện lại để mặc và làm khố, lại thấy cũng tạm được. Bẹ dứa dại, bện chóng tã ra, song không phải khâu. Nhưng đến đây không tìm được dứa dại, xống áo chỉ còn hình thù thế, cái nào cũng rách bươm bướm cả. Vợ chồng An Tiêm bàn nhau phải làm cái mặc bằng dây móc. Làm được cái mặc bằng dây móc thì chắc bền. Vùng này sẵn cây móc điều, tìm rừng nào cũng có. Mỗi lần đi rừng, An Tiêm và Gái lại móc bẹ móc, thỉnh thoảng vác về. Lấy được nhiều sợi móc rồi, đi cắt sậy lợp thêm lên mái phòng mùa mưa tới. An Tiêm cắt sậy dưới bãi lầy. Những hôm xuống bãi biển, An Tiêm lại mò cá, bắt sò, bắt ốc. ở những chỗ trũng, thường gặp từng đàn cá, những đàn cá ngừ, cá bẹ ăn nổi đông như kiến đen trong nước, thò tay bắt chỗ nào cũng được. An Tiêm đem cả về những con ốc xoắn xuýt trắng ngà như bẹ cau nõn. ốc to để làm tù và thổi. ốc nhỏ, cái Gái có một đống để bày, những vỏ ốc, vỏ sò, vỏ ngán - cứ đổ ra đấy rồi tự nhiên thành đồ dùng trong nhà. An Tiêm lại nhặt những chiếc ốc đẹp hơn để lên tường đá. An Tiêm thường đứng lặng, ngửa mặt lên trời, nghĩ rằng:

"Đến được đây, trời dần sáng ra rồi, trời mở cửa cho ta rồi. Dù cho cả nhà còn có ba đầu người, ta cũng sẽ làm cho bãi biển này thành như Bãi Lở. Biết đâu, rồi cũng có người đến đây". Những ý nghĩ về đồng bãi, về làng xóm và người ở nơi hoang vắng, An Tiêm thường xếp đặt, ước thử, trước sau lo làm nên như thế. An Tiêm lội xuống nước. Mùa lạnh cá cũng sợ rét, kéo đàn xuống phía nam. Bây giờ, trời nắng trở lại, những đàn cá về, ăn đứng một nơi, có giống cá mối suốt ngày kiếm ăn đáy biển, mãi đến khuya hết nóng mới ngoi lên mặt nước. Lúc ấy, An Tiêm đương lội ra cắt sậy. Trông thấy trong những vũng nước có gì động đậy lổm nhổm luồn ra xa như những làn sóng ngầm gợn trong đất. Thoạt trông, An Tiêm tưởng có cá sấu rúc mồi dưới bùn. Cá sấu và rái cá thường ăn bọn, một lũ cùng cắm đầu xuống bới bùn, xa trông như làn sóng đất. Những làn sóng ấy cuồn cuộn chạy nhanh thật lực. Khi con cá sấu nhô ra khỏi bùn, quay đầu lại, thì cá sấu đã ở tít xa. An Tiêm đuổi hụt nhiều lần. Lúc ấy lao phóng trúng vào lưng cá sấu, lao bật như đụng vào đá. Chỉ có đâm trúng vào mắt, vào họng, cá sấu mới quỵ. An Tiêm đứng lại, nhìn quanh. Phải cẩn thận lắm. Vô ý giẫm vào cá sấu phục trong bùn, có thể mất cả ống chân. Nhưng có lẽ đây không phải đàn cá sấu đương đi. Làn sóng đất này nhè nhẹ lướt ra... An Tiêm rón rén lội theo. Rồi đứng yên. Đứng yên như thế một lát, những gợn sóng trong nước bùn đục lại ngoằn quay lại, ngoằn đến ngay trước mặt. Rồi sóng nổi lên, trông rõ cái đầu gồ gồ trong bùn. An Tiêm ngắm kỹ rồi dang thẳng cánh tay, thọc cái lao trúc xuống đúng đến ngọn sóng đất vừa gồ lên. Bùn tóe ra. Một con cá lờm đen sì, bụng trắng nhả nhoi lên mặt bùn. Mũi lao đã xuyên ngang mình nó. Con lờm, giống cá không vảy, như cá trê ở trong đầm, nhưng cá lờm sống vùng nước lợ. Con lờm này dài bằng sải tay. Một con ấy, một xách nặng, cả nhà ăn thừa. Thịt cá lờm nướng, thơm điếc mũi. Gái kêu lên:

- Cá lờm ngon quá! An Tiêm bảo con:

- Xương cá lờm thẳng, đem làm kim khâu tốt hơn kim tre. ồ, mấy hôm rày mẹ mày đương đi tìm cái kim khâu...

Nướng cá xong, cả nhà ngồi cùng xé ăn. Nàng Hoa đương ăn, bỗng nghẹn ngào trong cổ. Nàng đứng dậy, ra ngoài giếng, lấy cái gàu mo nang kéo nước. Nước mắt Nàng Hoa rơi trong gàu nước. Từ ngày ra đây, hôm nay mới được ăn miếng cá nước lợ ngon ngọt như cá sông, thế mà không có con trai cùng ăn. An Tiêm nhìn theo Nàng Hoa, An Tiêm biết Nàng Hoa đã ra khóc thầm ngoài ấy. Nàng Hoa vào, An Tiêm tảng lờ như không biết, An Tiêm giơ cái xương cá to thẳng nhọn như cái gai tre lên, cười hỏi:

- Đố mình biết cái gì đây? Cái Gái không được nói trước đấy. Nhưng cái Gái cứ nói leo:

- Xương cá lờm! Nàng Hoa cũng lây cái vui của hai bố con:

- Xương cá chứ cái gì! An Tiêm xua xua, cười to:

- Cái xương cá thì trẻ con cũng biết rồi. Còn là cái gì nữa?

- Thế cái gì, hả bố? An Tiêm mới thong thả, cắt nghĩa:

- Vừa bảo lúc nãy mà mày đã quên rồi. Cái xương cá lờm còn để làm kim khâu, xương cá lờm thẳng, chỉ có xương cá lờm mới thẳng thế, thật là cái kim, mà kim tốt lắm. Vừa cứng, chẳng bao giờ gãy, tốt hơn kim tre nhiều. Thế này nhé, mỗi đầu xương đục một lỗ xâu chỉ, một con cá to thế này được mấy chục cái kim. Thế là có kim khâu rồi. An Tiêm mài bẹt cái đầu xương cá lờm, lấy gai tre và dùi đá dùi một lỗ. Cái kim ấy xâu được sợi móc. Nàng Hoa khâu ríu thành từng miếng vải móc, buộc túm cạp, thành cái váy khép. Đầu tiên, Nàng Hoa làm váy áo cho con, rồi khố, rồi thắt lưng cho chồng, rồi cho mình. An Tiêm mặc cái khố buông lá tọa sợi móc. Thôi, bỏ cái khố dây. Quần áo, váy lùng nhùng, bùng nhùng, cả nhà đen sì như họ nhà gấu. Có lẽ thật buồn cười, nhưng người trong cảnh thì không ai cười được và chỉ mừng nghĩ đã tìm được cái để đắp vào người, chắc và bền. Đến mùa giá buốt, lúc đi kiếm ăn xa đống lửa sưởi, chỉ phải khoác thêm mảnh vỏ sui lên mình. Mấy cái xống áo cũ còn sót lại từ khi ở quê ra, đã lả tả từng mảnh, từng mụn. Nàng Hoa lấy dây móc vá lành lặn cẩn thận.

Rồi tự nhiên, không ai dám mặc đến nữa. Những của quý ấy khác nào các thứ áo mồi để có đi hội mới được mặc. Thế là Nàng Hoa lấy ra mấy miếng vải móc, bọc tất cả lại đem treo lên hốc cột thêm một gói, như năm trước còn ở rừng đã treo thế. Những của nả còn lại từ đất quê, giữ cho cẩn thận - vẫn tưởng thấy mình gần gũi với mọi người trong quê và cũng như không lúc nào lòng người nguôi được nhớ thương. Rồi mùa gió lạnh đã đến trên bờ biển. Ngang trời, từng đàn sếu, đàn bồ nông lặng lẽ bay qua. ở chỗ mênh mông này, ngửa mặt lên, lúc nào cũng nhìn thấy trời nắng, và mưa, và trăng sao, ngày tháng và trời đất rộng rãi, thảnh thơi, không âm thầm, ủ dột như trong rừng sâu, nhưng mà hoang vắng quá, cho nên cứ mỗi lần những đàn sếu, đàn bồ nông theo gió bấc lang thang bay qua, đàn chim đến tránh rét ở những cửa sông và bờ biển ấm áp, làm cho người nhìn theo cũng nhộn nhịp nỗi vui được thấy chim bay, nhưng rồi lại buồn ngay vì thấy mình vẫn đứng đây.

Ngày tháng qua. Cái váy khép mảnh, cái áo bằng dây móc đã bóng nhẵn, và cứ càng lâu ngày càng cứng lềnh kềnh. Con người vùi trong cảnh hoang dại, tưởng không còn biết ngóc đầu. Những vất vả hằng ngày, đã ghê gớm đến không còn biết con người có khi còn biết quay mặt nhìn phía nào được nữa. Nhưng lúc nào vợ chồng An Tiêm cũng nhớ con, cũng hy vọng có ngày gặp được, cũng như tin trời đã mở cửa rồi mỗi ngày mỗi sáng ra. Mỗi lần Nàng Hoa khóc, An Tiêm lại khuyên can:

"Mình ơi, ta sẽ đi tìm nó". An Tiêm lại sửa soạn đi tìm. An Tiêm tính: cơn bão trong núi đã thúc con nước ra tận đây, biết đâu Mon cũng đương ở cùng phía bể này với bố mẹ. Ta sẽ đi cả hai phía, lần này đi xa hơn. Nhưng chưa nghĩ được cách đi thế nào. Một hôm mát trời, An Tiêm và Nàng Hoa với Gái đương ở trong nhà nghe tiếng quàng quạc trên không. Vội chạy ra, thấy mấy con chim đương từ biển bay vào. Những con chim trắng đầu và cánh đốm đen. Tiếng quàng quạc không phải tiếng hót, mà đấy là những con chim đương vừa kêu vừa giằng nhau cái mồi trên không. Chẳng hiểu tha từ đâu đến, chúng nó đương kéo nhau đạp nhau đánh nhau giữa trời. An Tiêm biết đấy là giống chim biển, vốn phàm ăn. Tung cả con chuột sống lên, chim cũng đỡ hai chân và rỉa ăn hết cả con chuột trên lưng chừng trời. Chúng nó đã đuổi nhau tranh ăn từ đâu rồi bay quá cánh vào đây. Xâu xé hết mồi, chúng lại nhào ra biển, như đi kiếm nữa. Gái kêu to:

- ›! Chim ỉa! Chim ỉa! Rồi Gái chạy ra phía đầu đồi, như đuổi theo. Cả nhà đã ra, cứ đăm đắm đứng nhìn những con chim đương vút ra khơi rồi chập chờn lấp vào sóng biển đằng ấy. Trên mặt An Tiêm ánh lên một nét rực rỡ khác thường. An Tiêm nói:

- Con sếu, con bồ nông chỉ là chim trú chân bay qua thôi, còn chim bể đến đây tất người đến. Có khi sắp có thuyền đến. Có khi đằng kia có người ở cũng nên. Thuyền hay người thì đằng nào cũng là điềm lành đến với ta. Chim đến rồi, có chim bể đến ở đảo này rồi. Giữa lúc ấy, Gái từ gốc cây chạy vào. Bàn tay Gái ngửa lên, giơ ra trước mặt:

- Cái hạt gì, cái hạt gì ấy, đây này. Trên tay Gái lấp lánh mấy hạt, như hạt bí, đen nhánh. Những hạt ấy vừa rơi xuống từ trong đàn chim bay qua. An Tiêm cầm từng hạt miết ngón tay xem đi xem lại.

- Bố cũng không biết hạt này. Nhưng chắc đấy là đàn chim ăn quả rồi để lại cho ta hạt. An Tiêm đem những cái hạt ấy vùi xuống chỗ đất ẩm, cạnh vũng nước giếng đầu nhà. Rồi mùa mưa rét lại đến. Rồi những ngày nắng lại tiếp theo. Có cái ăn, có cái mặc khỏi chết rét, mùa này qua mùa khác lặng lẽ như buổi sáng đi, buổi chiều đến. Một hôm, cái Gái chợt nhìn thấy trong đám đất ẩm ven giếng nảy lên xanh tròn mấy cái lá. Gái kéo mẹ ra xem, Nàng Hoa trầm trồ đoán:

- Cây bí! Cây bí! An Tiêm ra, càng đoán rõ hơn:

- Cái lông lá nó trắng bệch, có lẽ bí đao. ại thôi, nếu thế nhất định đằng kia có người ở, lũ chim đã cắp trộm bí của người trồng tha đến đây ăn rồi. Cả nhà còn bàn tán mãi đến chiều. Ai cũng rộn rịch như có người sắp đến nhà mình. Rồi tự dưng, một lúc, thấy cái Gái hớt hải chạy từ bờ biển vào. Gái kêu to:

- Có người, có người, bố ơi! Bố mẹ cũng chạy xộc ra.

- Người ở đâu? Người đâu? Gái đứng một lát mới nói được:

- ở ngoài bể. Nhiều lắm, một đoàn. Ba người cùng hấp tấp chạy ra. Đến bãi cát, trông lên cả một vùng trời nước đương vào hoàng hôn vàng rực. Đằng chân nước, lô nhô những cánh buồm xám, một đám thuyền sấp bóng mặt trời, xám đen. Những cánh buồm to rộng, thong dong giương trên nền trời. An Tiêm lặng người. Nước mắt Nàng Hoa lã chã xuống hai má mà không biết. Nàng Hoa nói:

- Mình ơi, đoàn thuyền này nhiều lắm. Làm thế nào cho đoàn thuyền biết ta ở đây?

- Thuyền đương đi thế là thuyền đương vào đảo rồi.

Nhưng giữa lúc ấy, cả đoàn thuyền vụt biến mất trên mặt nước vàng phẳng lặng, không một gợn sóng. An Tiêm kêu lên:

- Không phải thuyền, đấy là đàn cá ông voi. Đôi khi, cá ông voi đi đàn nhô đuôi như những cánh buồm trên mặt nước. Nhưng phải một lúc lâu lắm, không thấy gì nữa, mới ủ ê trở về. Khi có những trận mưa lớn đầu mùa, dây bí đầu nhà nở ra trong kẽ lá những cái hoa bằng hoa mướp, năm cánh trắng nhỏ, rồi chẳng bao lâu, hoa héo, dưới cánh nhô lên những quả tròn như quả bưởi, vằn vèo xanh chỗ đậm chỗ nhạt. Quả lớn dần, to nần nẫn trong khe đất. Chớm đến độ nhạt nắng, những dây bí vàng hết lá, cả những nhánh dây bò lan trên đất, trên sườn tường đá cũng quắt queo vàng sậm. Những quả bí thô lố to, mỗi hôm một xanh đen, mỡ bóng, lúc lúc một khác mắt. Vỏ quả xanh như thế, không phải bí trắng, không phải bí ử, không phải dưa hồng. Nhưng cũng chịu không ai biết giống bí gì, dưa gì. An Tiêm chỉ đoán:

- Dây héo thế là quả già đương chắc, sắp hái được. An Tiêm gõ, thấy vỏ quả cứng, tiếng kêu giòn trong. Bấm móng tay, có nước mọng tứa ra. Nàng Hoa cũng ra theo. Chỉ có Gái hôm ấy đương sốt, phải nằm trong nhà, mẹ không cho đi. An Tiêm rút con dao cùn liếc hai lần trên mặt quả xanh đen tròn rồi nói:

- Vỏ bí cứng mà gõ kêu tiếng đã khô thế là quả già rồi. Ta bổ thử một quả xem. An Tiêm ấn hai tay, con dao thút vào, chẽ đôi quả ra. Màu vỏ xanh đen chỉ chớm ngoài rồi đến ngay lần cùi trắng bạch và suốt qua bên kia, một lớp ruột đỏ hây xếp vòng tròn ở giữa lổn nhổn hạt đen hạt trắng. An Tiêm nhấc hai nửa quả lên, áp vào mặt mình, rồi mặt Nàng Hoa thấy toát mùi thơm mát lạ lùng. An Tiêm mơ màng nhìn xa, rồi nói:

- Ngày trước, thường nghe người già kể ở ngoài bể Đông, không biết phía nào, có giống dưa đỏ, thơm và mát, một miếng dưa bằng một miếng thuốc, đương trời oi nóng, ai ăn một miếng thì tránh khát được cả một ngày đường nắng. Hôm nay được thấy dưa đỏ, có lẽ dưa đỏ ngoài bể là như thế này đây.

Rồi cắt dưa làm nhiều mảnh, cầm một miếng dưa đưa lên miệng. Mùi thơm ngọt mát ở miếng dưa tỏa ra khiến Nàng Hoa cũng cầm lên ăn ngay. Trong khoảng khắc, hai người đã ăn hết một quả. Nàng Hoa cười, nước mắt ròng ròng xuống má:

- Mình ơi, có khi dưa này của con trai nhờ đàn chim gửi đến cho ta. An Tiêm nói:

- Đàn chim từ bờ bể phía kia bay tới. Ta sẽ đi về phía ấy tìm con. Nàng Hoa mang vào nhà cho Gái một miếng dưa. An Tiêm nói:

- Con ăn đi, dưa này ăn khỏi sốt. Gái cầm miếng dưa ăn hết ngay. †n xong, ngủ một giấc, đến chiều đứng dậy, bước ra sân. Mặt đã khỏi đỏ dừ, hết sốt thật.

- Quả là các cụ nói không sai, nhà ta gặp được quả quí rồi. Mùa đầu tiên, hái được bốn quả dưa, ăn hết ngay.

Tất cả hạt, Nàng Hoa đem gieo khắp chân đồi xuống tận dưới bãi cạnh bờ bãi sậy. Chẳng bao lâu lại mọc đầy, lá dưa xanh xanh như ruộng mạ. Từ khi được ăn dưa ngon, Nàng Hoa cảm thấy trong lòng một tin vui mơ hồ mà gần gũi. Quả dưa, chỉ quả dưa thôi, mà sao Nàng Hoa lại tưởng như sắp có người tới, sắp gặp được người. ở đâu đây, Mon còn sống, trên bờ bể này hay ngoài bờ bể này, có phải Mon vẫn sống, có phải Mon đã trồng được những quả dưa ngon đến như thế. Có phải vì lòng cha mẹ đêm ngày thương nhớ con đã xui con máy mắt, nóng ruột, có phải con đã cho những con chim đến đây thả hạt dưa xuống. Những quả dưa ngon ngọt ấy khác nào tin báo cho bố mẹ biết: Con đây, con sống đây, con lạy bố mẹ! Con lạy chào bố mẹ! Nàng Hoa mơ một ngày, vợ chồng đến một bãi biển phương trời kia, bỗng thấy Mon ở đấy. Dù sao, trong mong mỏi, dẫu cho mong manh, mơ hồ đến đâu, cũng phảng phất cái hy vọng đợi chờ. Sắp đến mùa dưa đỏ. Trông ra khắp nơi, quanh đồi, mới thấy xanh đậm hôm trước, thế mà bây giờ, dây lá đã vàng xọng, rồi trong đám héo hắt ấy nhô lên những quả dưa thô lố, nhẵn như những hòn đá cuội to tướng ai vừa khiêng dưới suối lên bỏ đấy. An Tiêm dặn:

- Hôm nào được dưa già, mình với con hái cất vào nhà, ủ dưới cát, để chỗ mát cho khỏi thối, rồi ăn dần. Nàng Hoa ngạc nhiên vì lời dặn, hỏi lại An Tiêm:

- Mình bảo sao? An Tiêm nói, thiết tha:

- Bây giờ sắp có gió bấc, gió bấc đưa được thuyền xuống phía nam, tôi đi tìm con.

- Đợi ăn lứa dưa này đã...

- Không, mưa nắng có thì, không biết thế nào, thấy gió bắc về, phải đi ngay cho được gió... Nàng Hoa mừng rỡ, hỏi:

- Chúng mình cùng đi a? An Tiêm nói như tự nhiên, không để ý câu Nàng Hoa hỏi:

- ừ, tôi đi. Dọc xuống bờ đằng kia, chỗ nào men lên bộ được thì tôi lên, chỗ nào đi thuyền được thì đi. Nàng Hoa buồn hẳn, hỏi khẽ:

- Mình đi một mình à?

- ừ, tôi đi một mình.

- Tôi tưởng...

- Không, tôi đi một mình thôi. Nàng Hoa rơm rớm nước mắt, thế nào cũng có ngày đi tìm con, đây là ý nghĩ nung nấu trong lòng, nhưng Nàng Hoa vẫn ngỡ: cả nhà cùng đi, như lần ở núi xuống, cả nhà cùng đi. Bây giờ An Tiêm bảo đi một mình. Nàng Hoa bàng hoàng. An Tiêm nói:

- Tôi đã tính thế này rồi. Mẹ con mình cứ ở đây. Không nên đi cả ba. Tôi đi rồi tôi về. Nói cho thật đến nhẽ, tôi đi lần này mà có mệnh hệ nào, rồi mình lại đi tìm con. Chứ bây giờ đi cả nhà thì không nên, mình ạ. Có làm sao thì chỉ đi tìm con được một lần thôi. Có thương nhớ, có lo thì để bụng, phải nén cái thương, cái lo để đi tìm được cái mong ước của ta. Đầu tiên, Nàng Hoa kêu lên:

"Thà đi cả nhà, thà chẳng may mà chết cả nhà còn hơn...", thế là nước mắt lại ròng ròng xuống, nhưng Nàng Hoa đã nghĩ lại ngay. Nàng Hoa im lặng. An Tiêm nói bao giờ cũng phải. Nàng Hoa vẫn không thể tưởng đến rồi ra có một khi hai mẹ con lủi thủi ở lại đây một mình, còn An Tiêm cũng một mình một cây gỗ rỗng, chìm nổi với sóng gió ngoài kia. Nhưng đấy là đi tìm Mon. Mà đi tìm Mon thì cái gì làm được cũng làm tất cả.

Thế là Nàng Hoa nguôi lòng, nghe ra và lại lặng lẽ sửa soạn cho An Tiêm đi. An Tiêm vào rừng chặt về những cây vầu đại, dài có đến mấy chục sải chân. Cây vầu đại to đốt bằng mấy dóng bương, dóng tre. An Tiêm đã nghĩ ra cách đóng bè đi từ lúc còn loay hoay thả cây gỗ trên sóng. Bè nhẹ, chịu được sóng, được gió, trôi nhanh. Mà làm bè cũng chóng, thế nào cũng còn kịp đi nhờ mùa gió này. Chẳng bao lâu, một cái bè ken mười tầng vầu già không óp, nức toàn mây, dài như cả nếp nhà, đã lồ lộ nằm ngoài bãi cát. Trên bè, lại đủ thứ: thịt sấy và nước uống, cả cái tù và ốc to tướng. Tất cả các thứ đều buộc chắc, bọc lá chuối, sóng tràn hay lật bè cũng không sao. Ngày An Tiêm đi, cả Nàng Hoa và Gái, hai mẹ con cũng ra đẩy bè xuống nước cho An Tiêm. An Tiêm lại đi, Nàng Hoa vừa nghĩ thế, không nao núng, không khóc. Phải nén cái thương, cái lo để đi tìm được cái mong ước của ta. An Tiêm cầm cây sào trúc cắm xuống bùn, đẩy bè ra. Mới vài tay đẩy, bóng người đã nhấp nhô trong bãi sậy xào xạc ngoài kia. Bên tai Nàng Hoa vẫn vẳng câu nói của An Tiêm:

"Mình với con ở lại giữ con dao này, cái sừng trâu lấy lửa này. Phải nén cái thương, cái lo..." Người đã dời xa trên mặt nước nhưng vẫn trông thấy, làm cho nỗi buồn cứ day dứt, xót xa, mà không dám khóc. Thế nhưng, đến lúc cái bè đã ra khỏi làn nước bùn đỏ ở bờ sậy, đi vào khoảng trời biển nhấp nhô, mới đầu còn lúc tỏ lúc khuất, rồi không thấy gì nữa, cái Gái bật khóc òa kêu to:

- Bố ơi! Nàng Hoa tự thấy mình lúc này phải trách nhiệm như có An Tiêm. Nàng Hoa nói:

- Con nín đi. Bố đi gọi anh con về mà. Làn sương từ cuối biển dâng lên, mờ khắp.

- Bố đâu? Bố đâu rồi? Mẹ vuốt tóc con, dịu dàng nói:

- Bố đi gọi anh Mon về. Con nín đi. Gái nín lặng. Gọi được anh Mon về ư? Ngẩn ngơ. Gái mỉm cười nhìn mẹ.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #hoai