TIẾT TỬ
Sống ở thời đại này cứ như người say, mơ mơ màng màng
Say thì sống, tỉnh mộng thì chết
—
Gậy như ý trên tay phát sáng, lấp lánh phản chiếu vầng hào quang của ánh trăng ngoài cửa sổ.
"Vở kịch hay đến đâu, diễn suốt ba ngày, cũng không ai còn sức nghe nổi nữa". Cô đưa gậy như ý trên tay cho Liên Phòng, "Người Nga đúng là kiên nhẫn, trong số công sứ các nước, bọn họ là người về muộn nhất".
Liên Phòng cẩn thận đặt gậy như ý vào trong hộp. Ngoài cửa xe đã nhìn thấy Đức Thắng Môn.
Đầu tháng 12 năm 1922, có một sự kiện vô cùng náo nhiệt đã diễn ra, đó là ngày đại hôn của vị hoàng đế thuộc "triều đình nhỏ" hoàng thất Tốn Thanh. [1]
[1] Năm 1912, sau khi Long Dụ Thái hậu chấp nhận "Điều kiện đối xử ưu tiên đối với nhà Thanh" và công bố "Thanh đế thoái vị chiếu thư" đã chính thức kết thúc chế độ phong kiến quân chủ cuối cùng tại Trung Quốc. Hoàng đế Phổ Nghi chỉ còn là "hư danh" và ông được gọi là hoàng đế của "Triều đình nhỏ" thuộc hoàng thất Tốn Thanh.
Bên trong cung tường, các vị khách quý trong và ngoài nước đều đã chuẩn bị quà tặng hậu hĩnh để chúc mừng yến tiệc đại hôn của đôi tân nhân mới cưới suốt mấy ngày trời; bên ngoài cung tường, từ cảnh sát đến hiến binh [2] đang canh gác cửa cung, đội phòng chống hoả hoạn đứng cách đó không xa tuỳ cơ chờ lệnh, cảnh giác khi có khách khứa náo loạn. Một bức tường son của cố cung giống như đã bị ngăn cách hàng trăm năm, phía trong, các bậc nguyên lão triều Thanh đều nước mắt lăn dài, quỳ rạp dưới đất bái lại, phía ngoài từ đầu ngõ đến cuối phố đã sớm xem chuyện này là một hồi náo nhiệt, bàn tán thảo luận.
[2] Hiến binh là lực lượng quân sự hoặc bán quân sự nồng cốt, tinh nhuệ của bộ Quốc phòng, được rèn luyện cả về thể chất, trí thông minh, sự nhanh nhẹn và nghiệp vụ chuyên môn của một quốc gia lãnh thổ.
Vở kịch vừa nảy cô nói vốn là do Thăng Bình Thự [3] vì để chúc mừng ngày đại hôn nên long trọng chuẩn bị diễn xướng. Các diễn viên diễn tấu nổi tiếng nhất khắp nơi đều tụ về Sấu Phương Trai, hát xướng suốt ba ngày. Sáng sớm mai, ngay giờ Tị hai khắc sẽ bắt đầu buổi diễn, đến giờ Tuất một khắc thì kết thúc, từ lúc hừng đông chiêng trống linh đình đến tận đêm khuya.
[3] Cuối thời nhà Thanh, các đế vương hậu phi thường rất thích hí kịch. Từ Hi Thái hậu thường tổ chức cho bọn thái giám diễn kịch. Không chỉ thế, bà còn gọi những gánh kinh kịch nổi tiếng bên ngoài vào cung để diễn, Thăng Bình Thự là nơi sắp xếp các vở diễn và cấp thẻ bài cho những người đó vào cung.
"Đúng giờ Ngọ ngày mai sẽ khai màn", Liên Phòng dịu giọng nói, "Thăng Bình Thự đều đã sắp xếp ổn thoả rồi ạ".
Cô gật nhẹ đầu, trong lòng nhẩm tính thời gian.
Xe hơi tiến gần đến Đức Thắng Môn, vừa vặn đụng ngay một đám học sinh đang biểu tình, những cánh tay giơ cao tấm biểu ngữ bằng vải bố trắng kéo dài từ đầu phố đến dưới tửu lầu phía xa. Cô quan sát ước đoán, phỏng chừng còn khoảng mười đến hai mươi mấy phút nữa mới xong, bèn dặn dò tài xế không được tách đám học sinh đó, cho xe tạm dừng phía ngoài Đức Thắng Môn, nhường đường cho bọn họ đi qua.
Con phố này vốn đông đúc náo nhiệt, từ quán trà, tiệm ngũ cốc, quán mì, tất cả đều là những cửa hiệu nổi tiếng lâu đời. Một chiếc xe chạy tới, có người nhận ra, đây chẳng phải là xe trong phủ Nhị lão gia nhà họ Hà sao. Chú hai nhà họ Hà ra ngoài không thường phô trương thanh thế, chỉ cần một chiếc xe là đủ, còn sợ bị người khác chú ý quá nhiều. Mà hiện giờ ở đây có đến năm chiếc xe hơi tổng cộng, tất nhiên không còn nghi ngờ gì, người đến ắt là đứa con gái nổi danh bất hiếu của Hà gia, Hà Vị.
Cha của Hà Vị có năm anh em trai cùng bảy chị em gái, toàn bộ xuất thân nhà mẹ đẻ của họ đều có chút bối phận địa vị, duy chỉ có mẹ ruột của chú hai đến từ một gia đình bình thường, lại mất sớm. Lúc phân ở riêng, chú hai chỉ nhận được một nơi nhỏ tí, không khác gì bị người ta tống cổ khỏi nhà. May sao ông ta từ khi sinh ra đã có đầu óc hơn người, dựa vào công việc môi giới mà không ngừng phát tài. Có điều nhiều năm qua đi, dưới gối không có con cái, từng bị các chú bác trong tông tộc chỉ trích. Dưới sức ép hối thúc của các chú bác ấy, cuối cùng ông quyết định nhận nuôi đôi trai gái vốn là con của người anh cả để kế thừa hương hoả. Đáng tiếc đứa con trai nối dỗi của chú hai duyên mỏng, ba năm trước đã đột ngột qua đời, chỉ còn lại một đứa con gái.
Đứa con gái đó, chính là Hà Vị.
Anh trai mất, chú hai vì đau buồn quá mức mà thân thể bệnh nặng. Chú bác trong tông tộc Hà gia cùng cha ruột của cô đều ngầm ám chỉ muốn cô quậy ầm ĩ một phen, kiên quyết đòi về nhà. Nếu không còn Hà Vị, mà trong nhà chú hai lại không có con cái gì, cuối cùng toàn bộ tài sản đều rơi vào tay dòng họ phân xử, đây là kết quả mà các anh em chú bác trong tộc đều vô cùng chờ mong. Lại không ngờ rằng, Hà Vị năm đó mới mười sáu tuổi giả vờ bên ngoài thì đồng ý nhưng bên trong lại âm thầm mời luật sư nước ngoài đến Bắc Kinh đấu tranh chống lại ý định của tông tộc, còn ồn ào đến mức đưa nhau lên toà kiện tụng, đem toàn bộ gia sản của chú hai bị tịch thu năm đó hoàn trả chủ cũ. Vụ kiện tụng xảy ra không đến một năm mà lời đồn thất thiệt đã nổi lên bốn phía, cả thành đều biết. Không lâu sau, cha ruột của cô cùng mấy chú bác anh em ở Bắc Kinh liên minh với nhau tìm đến toà soạn báo nổi tiếng đăng một dòng tin, thông báo đoạn tuyệt quan hệ máu mủ với cô. Ngay ngày hôm sau, cô cũng tìm đến một cơ quan báo chí lớn nhất cả nước, tuyên bố cắt đứt quan hệ với gia đình dòng họ. Khi đó, cô còn chưa đầy mười bảy tuổi.
Đây vốn là chuyện cũ ở Hà gia.
Nếu muốn nói rõ ràng mọi chuyện về vị nhị tiểu thư này, có lẽ chờ đến khi 34 tuồng kịch trong cung xướng xong cũng không kể hết.
Bên cửa xe chỗ Liên Phòng có tiếng gõ vang. Liên Phòng tưởng là đám học sinh, vội vàng giục tài xế xuống giải thích đây không phải xe của công sứ.
Người bên ngoài cửa xe làm một động tác "mời". Nhìn thành thạo như thế không giống là học sinh.
"Anh đi xem thử đi". Liên Phòng cẩn thận không dám kéo cửa sổ xuống, nói với người đàn ông ngồi phía trước.
Người đàn ông xuống xe, sau vài ba câu trao đổi liền quay trở về, mang theo một tin báo cho Liên Phòng: "Vị kia của Bạch gia đến rồi, muốn trước khi trưởng bối hai bên gia đình gặp mặt có thể tranh thủ làm quen tiểu thư một chút".
Liên Phòng xoè bàn tay, đưa một món đồ đến trước mặt cô, là một cái đồng hồ quả quýt khá cũ.
Hà Vị cầm lấy cái đồng hồ kia, mở nắp kim loại nhìn chăm chú, mặt đồng hồ làm bằng pha lê đã vỡ nát, kim báo đừng ở vị trí 3 giờ 41 phút.
Tuy cô chưa từng nhìn thấy cái đồng hồ này nhưng lại biết rõ lai lịch của nó.
Hồi đó khi Bạch lão gia cùng chú hai kết làm tri kỷ là lúc hai người nghèo khó nhất. Chú hai bán hết toàn bộ tài sản mình có để mua một chiếc tàu chở khách bảy mươi chỗ ngồi, băng qua đại dương trùng trùng cùng với Bạch gia rời khỏi kinh thành, xuôi về Tây Bắc xa xôi để lánh nạn. Hai người đều sợ chết mất xác ở xứ người, con cháu đời sau không thể nhận mặt nhau nên quyết định mỗi người tự đập vỡ cái đồng hồ quả quýt tuỳ thân dựa theo thời gian dừng ở ngày ba tháng Chạp năm 1911, lúc 3 giờ 41 phút sáng. Cái đồng hồ của Bạch lão gia hiện đúng là thời gian này, nhưng chú hai từ khi ra đời đã mang dáng vẻ thư sinh yếu đuối, đập vỡ một cái đồng hồ cũng không dễ dàng gì, kim đồng hồ của ông so với thời gian trên đồng hồ của Bạch lão gia chậm hai mươi mấy giây. Mỗi khi chú hai kể đến chuyện này đều mang theo ý cười vui vẻ.
Mùa hè năm trước khi cô đăng tin đoạn tuyệt quan hệ với dòng tộc, không lâu sau liền nhận được một bức thư được gửi từ Tây Bắc. Bên ngoài bìa thư viết tên cô, nhưng bên trong lá thư lại đề "Hà Tri Hành thân khải" [4], là gửi cho chú hai.
[4] một cách đề thư ý chỉ "gửi cho Hà Tri Hành"
Hai vị bằng hữu tri kỷ năm xưa vẫn còn giữ liên lạc, thường xuyên thư từ qua lại, vốn định qua tháng Giêng sang năm sẽ đưa con cái lên Bắc Kinh gặp mặt nhau một lần. Chú hai nghe xong định luôn ngày lành tháng tốt nên an tâm rời kinh đi công tác.
Từ đây đến tháng Giêng vẫn còn sớm, sao người lại tới trước rồi?
Hà Vị trả lại đồng hồ cho người đàn ông: "Đêm nay tôi có việc, anh nói với người đó, ngày mai tôi sẽ chọn địa điểm khác mời anh ta dùng cơm".
"Anh ta nói muốn gặp ngay đêm nay", người đàn ông lại nói, "Còn nói không có ý định lấy lại cái đồng hồ này".
Đêm nay ư?
Theo thói quen trước giờ, không gì có thể làm xáo trộn kế hoạch đã định sẵn của cô, dù là tạm thời đi gặp ai khác. Nhưng lai lịch người này đặc thù, với cô mà nói lại là người mà chú hai coi trọng, đã là chuyện chú hai coi trọng thì cũng là chuyện cấp thiết trong lòng cô.
Hạ Vị ra quyết định: "Hỏi rõ địa điểm hẹn gặp, hoặc bảo xe bọn họ dẫn đường trước đi".
Người đàn ông lại xuống xe truyền lời, xong xuôi thì quay về, từ con nhỏ có một chiếc xe hơi chạy ra, đi về phía trước.
Xe cô chạy theo sau, Hà Vị để tâm đến cái đồng hồ quả quýt được Liên Phòng nắm chặt bằng hai tay, cô bé ấy nhìn qua không biết được vật này trị giá thế nào, cất giữ ở đâu, cất giữ như thế nào mới thoả đáng.
Hà Vị cười, nhẹ giọng nói: "Đối với chú hai, vật này có chút quý giá. Khi nào về em tìm một cái tráp cất thật tốt, chờ chú từ Hồng Kông trở lại, chị còn đưa cho chú ấy".
Liên Phòng thở phào nhẹ nhõm, đã giải quyết xong.
Xe dẫn đường đi trước, vòng qua đoàn học sinh, chạy về hướng chùa Hộ Quốc.
Không bao lâu, chiếc xe phía trước từ từ dừng lại ở đầu một con ngõ nhỏ trên phố Nam Đại vắng người qua lại. So với đường Nam Đại phồn hoa náo nhiệt mà nói, con ngõ nhỏ này lại càng quạnh quẽ không có gì đặc biệt.
"Đây là đâu vậy" Liên Phòng hỏi.
"Bách Hoa Thâm Xử", tài xế nói, "Đầu hẻm bên này là đường Nam Đại, đi đến cuối hẻm là lối ra ở ngõ phía Đông của chùa Hộ Quốc".
Cô và Liên Phòng lần lượt xuống xe, nương theo đèn xe, liếc mắt nhìn vào trong hẻm. Đường đất xiêu vẹo chật hẹp, hai bên bức tường lát gạch vỡ vụn bao lấy con đường dài tăm tắp. Bỏ qua cái tên nghe có vẻ tao nhã lịch thiệp, còn lại chỉ là một con ngõ nhỏ tầm thường đến không thể tầm thường hơn. Cô nhìn thấy đường bên trong tối mù, cẩn thận cùng người kia đi vào.
Đến trước một cái cửa bằng gỗ, có hai người đứng ngoài canh giữ, nhìn thấy các cô thì đẩy cửa ra. Dù hai người đó mặc một bộ áo ngắn bằng vải bố bình thường nhưng đôi ủng dưới chân đã bán đứng họ, cô nhận ra, họ đều là những võ quan trẻ tuổi.
Trong căn tứ hợp viện nho nhỏ, đèn hai bên phòng đã được thắp sáng.
"Người bên trong là vị hôn phu của chị", Hà Vị nói với Liên Phòng, "Nếu mang theo em vào thì không ổn lắm, em ở chỗ này chờ chị".
Liên Phòng kinh ngạc, hai mắt trợn to nhìn Hà Vị đi vào bên trong.
Ngoài viện đơn sơ mộc mạc nhưng trong phòng lại như một khung cảnh khác.
Không rõ Bạch gia đã mua lại nơi này hay chỉ là một chỗ ở nhờ tạm thời, cũng không đoán được bày trí trong phòng là phong cách của ai. Bức tường đối diện cửa ra vào treo đầy những bức vẽ cùng ảnh chụp được đóng khung gỗ, không Trung không Tây, lại phù hợp với trào lưu của giới học giả trong kinh thành đương thời.
Phòng treo hai tấm rèm châu, một tấm phía sau cửa lớn, tấm còn lại ngăn cách bên trong và bên ngoài phòng. Cả trong ngoài đều không thấy bóng người.
Lò sưởi bằng than đặt chính giữa, cũng không biết đốt lên cho ai dùng.
Cô chần chừ một lúc mới tháo khăn choàng bằng đuôi hồ ly trắng trên cổ xuống, lại cởi áo khoác ngắn bằng lông chồn trắng lai trên người, đang định vén lại mái tóc dài bị rối xoã trên cổ áo thì bỗng thấy một người đàn ông cao lớn bước vào cửa.
Động tác của Hà Vị dừng lại giữa chừng, có chút kỳ quái. Cô nhanh chóng chỉnh trang đầu tóc rồi thu tay về, hơi xoay lưng chuyển hướng, đối diện với người vừa bước vào. Đoán chừng khí khái này chắc hẳn đã từng được giáo dưỡng bên trong trường quân đội, tay trái anh đút vào túi quần, không bàn đến lễ tiết tiếp đón trọng đãi gì, chỉ cần đứng ở chỗ đó thôi giống như một người nhàn rỗi. Lại càng không giống người chủ động mời cô đến đây gặp mặt.
"Tôi là Hà Vị". Cô vươn tay phải về trước.
Anh nắm lấy tay cô, nhẹ giọng nói: "Hân hạnh gặp mặt".
Tựa như cầm phải một khối băng cứng lạnh lẽo, khí lạnh thấm vào da thịt. Cô nhanh chóng rút tay về.
"Tối nay tôi đến khách sạn Lục Quốc quả thực có chuyện quan trọng", Hà Vị hạ quyết tâm, nếu anh không có ý định mời cô ngồi xuống từ từ nói chuyện thì chuyến gặp mặt này án chừng chỉ kéo dài khoảng ba phút sẽ kết thúc, "Nếu chỉ vì muốn nhìn qua một chút, hiện thời cũng xem như gặp được rồi. Nếu có chuyện khác cần bàn, không bằng ngày mai tôi chuẩn bị tiệc rượu, chính thức mời khách, anh thấy thế nào?"
"Đến khách sạn Lục Quốc? Vì muốn gặp công sứ nước Nga?" Anh hỏi.
Các nhóm công sứ tối nay đều tuần tự trở về lãnh sự quán, chỉ duy có công sứ nước Nga đến khách sạn Lục Quốc. Sao anh lại biết chuyện này?
Cô quan sát kỹ người trước mặt.
Áo trên người vừa vặn, được ủi thẳng thóm, cổ áo sơ mi dựng đứng không thắt nơ, hơi mở ra. Khuôn mặt anh so với những thanh niên cùng tuổi có hơi gầy, khí chất sạch sẽ thanh tú hiếm có. Đôi mắt dưới hàng mi dày không tính là quá to, nhưng đôi đồng tử đen trong đó lại lớn hơn so với người bình thường. Nhìn đôi mắt này khiến cô liên tưởng đến mặt biển về đêm không một gợn sóng, chỉ có ánh trăng phản chiếu trên mặt hồ để lại ánh sáng duy nhất.
Ngọn đèn đặt bên tay phải của anh, làm cho sống mũi dưới ánh sáng mờ tỏ lại càng thêm cao thẳng. Ban đầu cô đánh giá áo sơ mi của anh trước tiên, sau cùng lại quay về sợi chỉ trên bả vai áo sơ mi đó, một nếp gấp cùng chút kim tuyến không phù hợp đường thêu.
Cô nhìn anh, anh cũng thẳng thừng nhìn cô, ngược lại không hề trốn tránh.
Trong ánh sáng dịu dàng, anh nói: "Phía Nga đang đàm phán để thiết lập một liên bang mới. Em có thể chờ đến khi thế cuộc ổn định rồi lại nói, lúc này cần gì phải hao tâm tốn sức lôi kéo một công sứ vô dụng, lãng phí tiền bạc?"
Khi nói chuyện, ánh sáng trên mặt anh có chút biến ảo, nhưng đều lọt vào mắt cô.
"Tin này tôi có nghe nói", Hà Vị dời mắt về trước, muốn giải thích sơ qua cho anh rõ, "Có điều theo như tôi đoán, nếu thật sự thiết lập một liên bang mới, chắc cũng phải náo loạn một phen, càng không kịp gọi toàn bộ công sứ ở bên ngoài tức tốc quay về".
Mà khi cô nhờ vả người ta làm việc, chỉ cần mấy ngày đã có thể giải quyết êm xuôi.
"Tách" một tiếng, đốm lửa bắn ra từ trong chậu than.
Suy nghĩ trong đầu bị gián đoạn. Đang yên đang lành, sao lại nói về nước Nga làm gì.
Anh hình như cũng cảm nhận được nên không nói gì thêm.
Bất luận thế nào, những lời anh vừa nói cũng là nghĩ vì cô. Hà Vị muốn giữ lại chút mặt mũi cho anh, thoáng nhìn qua cái ghế tựa bên cạnh, nhân tiện ngồi xuống.
Anh có vẻ muốn đi, lại chần chừ ở lại, cuối cùng ngồi xuống theo cô. Có điều chỗ anh ngồi cách cô khá xa, chừng khoảng mười bước.
Nếu muốn ngồi xa hơn nữa, chắc phải đi ra khỏi phòng.
Hà Vị thầm cười, quay đầu đi, nhìn hoa hải đường vây quanh bên cạnh chậu than: "Đây là Hải Đường Tây Phủ ư?"
"Phải", anh nói, "Hải Đường Tây Phủ".
Cô như nhận ra điều tuyệt diệu trong đó, bình thường hải đường không có hương, nhưng Hải Đường Tây Phủ lại mang hương thơm ngào ngạt, đúng là khó có được. Cô nhìn thấy đầu cành hải đường có điểm một chấm đỏ nho nhỏ, còn không phải là nụ hoa sao? Trong khí tiết mùa đông lạnh lẽo ở kinh thành lại có thể nuôi dưỡng hải đường nở hoa. Quả nhiên là Bách Hoa Thâm Xử, đất lành hoa nở.
Nói chuyện hoa cỏ xong, lại muốn hỏi chuyện con người.
Sự hiểu biết của cô với anh rất ít, toàn bộ hảo cảm của cô khi gặp người đàn ông xa lạ này đều bắt nguồn từ tình nghĩa bạn cũ của chú hai với cha anh. Có chút tính toán, cô cũng muốn trước khi trưởng bối hai bên gặp mặt có thể nói rõ ràng mọi chuyện.
Cô nhìn anh, làm ra vẻ tuỳ ý hỏi một câu đã chuẩn bị sẵn từ lâu: "Anh có thiếp thất chưa?"
Người đàn ông bị hỏi bất ngờ, không lên tiếng.
"Trước khi anh vào trường quân đội học, cha mẹ trong nhà có nạp thiếp cho anh không? Hay nói là anh có nha hoàn thông phòng gì đó chưa?" Xem chừng tuổi tác của anh, sợ là đã sớm có vợ kết tóc bên gối, lại bởi vì hôn ước của gia đình hai nhà Hà – Bạch mới bị ép phải cắt đứt duyên tình.
Anh lần nữa bị hỏi, ngồi cách xa, ngước đầu nhìn cô, trong mắt như muốn nói không nên lời...
Hà Vị thấy anh hơi do dự, cho rằng mình đoán trúng rồi.
"Không có", anh bỗng phá vỡ suy nghĩ trong đầu cô, "Đều không có".
Vậy thì tốt.
Hà Vị hỏi xong lo lắng trong lòng, tâm cũng trấn định vài phần.
Anh bất ngờ đứng dậy, không nói thêm lời nào, vén rèm bước ra ngoài.
Anh đi đâu vậy?
Không lâu sau, một võ quan trẻ tuổi từ ngoài bưng trà tiến vào, vừa nhìn điệu bộ liền biết hắn vốn không quen hầu hạ người khác, ngâm trà không được thành thục.
"Công tử chúng tôi..." Viên võ quan điều chỉnh thần sắc, "còn ở chùa Hộ Quốc, cô hai nếu chờ đợi thấy nhàm chán, tôi có thể truyền lời bảo nha hoàn của cô vào đây hầu hạ".
"Đi chùa Hộ Quốc?' Cô nhìn lại hắn, "Vừa đi sao? Có phải có việc gấp không?"
"Bây giờ đi không kịp, đã đi từ trưa rồi", viên võ quan cười nói, "Có nói trước bữa tối sẽ về nhà nên chắc cũng nhanh thôi ạ".
Từ trưa?
Hà Vị chậm rãi hỏi: "Người vừa mới đi ra ngoài là ai?"
"Vị kia à, là bạn học trước đây của công tử nhà chúng tôi, họ Tạ". Viên võ quan thấy lạ hỏi, "Cậu ấy không giới thiệu gì sao?"
Hà Vị hơi giật mình, vờ như không có việc gì, cầm lấy tách trà trống trơn, đưa lên miệng mình: "Chưa kịp giới thiệu".
Từ đầu tới cuối đều là cô nói chuyện, người ta còn chưa kịp xen vào.
...
"Căn viện này là của cậu ấy đấy, công tử chúng tôi không muốn gióng trống khua chiêng khi vào kinh nên chỉ mượn tạm chỗ thế này", viên võ quan nói, "Tạ..." Võ quan không biết nên gọi anh là công tử, tiên sinh hay gì khác? Người này giống như thần long thấy đầu không thấy đuôi, từ lúc bọn họ vào kinh, đến tối nay mới xuất hiện, vẫn là đợi sau khi công tử đến chùa Hộ Quốc thì tới. Hắn sợ Hà Vị hỏi lại mà mình đáp không được nên muốn châm trà cho cô trước, lảng tránh đề tài này.
Võ quan ôm bình trà, mắt nhìn Hạ Vị cầm lấy cái tách không, nhấp hơn nửa ngụm. Nếu không phải trong tay hắn là bình nước sóng sánh thì giờ phút này viên võ quan thật sự cho rằng trong miệng cô hương trà đã nồng đượm, nước ấm chảy vào cổ họng.
Hà Vị bỗng chốc tỉnh lại, cúi đầu nhìn tách trà trống không, buồn bực vì bản thân cứ liên tục mất mặt.
Cô cười mỉm nhìn viên võ quan, đặt tách trà làm bằng men gốm xanh lục lên chiếc bàn thấp. Võ quan châm trà xong liền vội vàng rời đi. Cô ngồi tại chỗ đó, trong vô thức xoay xoay chiếc nhẫn hồng mã não trên ngón áp út, nhớ đến khuôn mặt người kia.
Đúng là một đêm hoang đường. Thanh triều lụn bại mười năm, vậy mà giờ này còn muốn tổ chức đại hôn cho đế hậu trong Tử Cấm Thành. Mà cô lại ở Bách Hoa Thâm Xử ngoài Tử Cấm Thành, nhận lầm vị hôn phu của mình.
---
Chào mừng mọi người đến hố mới của Nhỏ~
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top