dan so hoc

1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN

• Dân số

Dân số (population): số người hiện diện vào một thời điểm nào đó của một địa phương, một quốc gia hay của một tầng lớp xã hội mà ta muốn nghiên cứu. Ví dụ: dân số Việt Nam vào 0 giờ ngày 01-04-1999 là 76.324.753 người, dân số thành phố Hồ Chí Minh vào 0 giờ ngày 01-04-1999 là 5.037.155 người.

• Đoàn hệ

Đoàn hệ (cohort): tập hợp những nhóm người cùng trải qua một sự kiện nhân khẩu trong một khoảng thời gian như nhau (thường là một năm). Ví dụ: đoàn hệ đồng sinh gồm những người sinh cùng một năm (hay còn gọi là thế hệ đồng sinh), đoàn hệ đồng hôn gồm những người kết hôn cùng một năm.

• Sự kiện nhân khẩu

Sự kiện nhân khẩu (hay biến cố nhân khẩu) bao gồm: sinh sản, tử vong, hôn nhân (kết hôn và tái hôn), chấm dứt hôn nhân, di dân (nhập cư và xuất cư).

• Cách tính tuổi trong dân số học

+ Tuổi theo năm niên lịch

Được tính căn cứ vào năm sinh và năm tính toán. Ví dụ, một người được sinh vào năm 1980, đến năm 2000 tuổi theo năm niên lịch tính được là 20 tuổi.

+ Tuổi đúng đến ngày-tháng-năm

Được tính căn cứ vào ngày-tháng-năm sinh và ngày-tháng-năm tính toán. Ví dụ, một người có ngày-tháng-năm sinh là: 08-03-1980, đến ngày 07-03-2000, tuổi đúng tính được là 19 tuổi 11 tháng 29 ngày; đến ngày 08-03-2000, tuổi đúng tính được là 20 tuổi.

+ Tuổi trọn năm

Được tính căn cứ vào ngày-tháng-năm sinh và ngày-tháng-năm tính toán nhưng chỉ lấy số năm đã sống trọn. Ví dụ, ngày-tháng-năm sinh: 08-03-1980, ngày-tháng-năm tính toán: 07-03-2000, tuổi trọn năm tính được là 19 tuổi; hoặc ngày-tháng-năm tính toán: 08-03-2000 hay 07-03-2001, tuổi trọn năm tính được đều là 20 tuổi.

0 1 2 3 4 5 ---> tuổi đúng

     

0 1 2 3 4 ---> tuổi trọn năm

Chöông 2

PHÂN BỐ DÂN CƯ

2.1. KHÁI NIỆM

2.1.1. Dân cư và những đặc điểm chủ yếu

Dân cư (inhabitant): tập hợp những người cùng cư trú trên một lãnh thổ nhất định được đặc trưng bởi kết cấu, mối quan hệ qua lại với nhau về mặt kinh tế, bởi tính chất phân công lao động. Ví dụ: dân cư vùng đồng bằng sông Hồng, dân cư vùng đồng bằng sông Cửu Long, dân cư thành phố Hà Nội, dân cư thành phố Hồ Chí Minh.

Dân cư có những đặc điểm chủ yếu sau:

- Dân cư là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội. Ở mức độ nhất định, sự phát triển và phân bố sản xuất ở các nước hay các vùng lãnh thổ phụ thuộc nhiều vào nguồn lao động, trước hết là những người trực tiếp lao động, vào kết cấu và chất lượng của dân cư.

- Dân cư là người tiêu thụ phần lớn những sản phẩm do họ sản xuất ra. Do vậy, dân cư có ảnh hưởng quan trọng đến sự phân bố và phát triển các ngành kinh tế.

- Dân cư có quá trình tái sản xuất riêng của mình. Tùy thuộc vào các nhân tố chính trị, xã hội, quá trình này diễn ra khác nhau theo thời gian và không gian.

2.1.2. Phân bố dân cư

Phân bố dân cư là sự sắp xếp số dân một cách tự phát hoặc tự giác trên một lãnh thổ nhất định sao cho phù hợp với điều kiện sống và các yêu cầu phát triển của xã hội.

2.1.3. Mật độ dân cư

Mật độ dân cư là chỉ tiêu đánh giá sự phân bố dân cư trên một lãnh thổ, đó là tương quan giữa toàn bộ số dân tính trên toàn bộ diện tích lãnh thổ mà dân số ấy cư trú tại một thời điểm, đơn vị tính bằng số người/km2.

Số dân của lãnh thổ

Mật độ dân cư = ---------------------------------------- (người/km2)

Diện tích tự nhiên của lãnh thổ

Ví dụ: năm 1994, mật độ dân cư của Singapore là 4.991 người/km2, Banglades: 810 người/km2, Nhật: 336 người/km2. Việt Nam, vùng đồng bằng sông Hồng: 1.125 người/km2, đồng bằng sông Cửu Long: 405 người/km2.

Mật độ dân cư là một đại lượng bình quân, phản ánh mức độ tập trung dân cư trên một vùng lãnh thổ, chứ không mang ý nghĩa là sự phân bố dân cư đồng đều trên từng đơn vị diện tích.

Tùy theo mục đích nghiên cứu, có các loại mật độ:

- Mật độ dân cư thành thị: số dân trên một đơn vị diện tích thành phố.

- Mật độ dân cư nông thôn: số dân trên một đơn vị diện tích làng mạc.

- Mật độ dân cư trên một đơn vị diện tích canh tác (người/ha).

- Mật độ lao động trên một đơn vị diện tích canh tác (lao động/ha)...

2.2. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÂN BỐ DÂN CƯ

Sự phân bố dân cư trên một lãnh thổ là kết quả của sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội và lịch sử. Các yếu tố tự nhiên là tiền đề và có vai trò quan trọng, các yếu tố kinh tế - xã hội và lịch sử có ảnh hưởng quyết định.

2.2.1. Các yếu tố tự nhiên

Con người là một bộ phận của tự nhiên, đồng thời là thực thể của xã hội. Sự phân bố dân cư diễn ra trong hoàn cảnh tự nhiên nên chịu ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên ở một mức độ nhất định. Các yếu tố tự nhiên tác động đến sự phân bố dân cư có thể được xem xét qua hai khía cạnh:

- Khía cạnh sinh lý: con người chỉ có khả năng thích nghi trong những giới hạn sinh thái nhất định, vượt qua ngưỡng giới hạn đó sẽ có hại cho sức khỏe hoặc sẽ không sống được. Do vậy, những nơi nào có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sức khỏe, an toàn sinh mệnh thì nơi đó dân cư tập trung đông đúc.

- Khía cạnh kinh tế: nơi nào có các điều kiện tự nhiên thuận lợi cho cư trú và các hoạt động sản xuất phát triển thì nơi đó thường tập trung đông dân cư.

• Khí hậu

Khí hậu là yếu tố tự nhiên có ảnh hưởng rõ nét nhất đến sự phân bố dân cư. Nhìn chung, nơi nào có khí hậu ấm áp, ôn hòa thường thu hút dân cư, ngược lại, quá nóng hay quá lạnh sẽ hạn chế mức độ tập trung dân cư. Trong cùng một đới khí hậu, con người dễ thích nghi với kiểu khí hậu có tính chất hải dương hơn kiểu khí hậu có tính chất lục địa.

Trong thực tế, dân cư tập trung đông nhất ở khu vực ôn đới, sau đó đến khu vực nhiệt đới. Ở khu vực khí hậu nóng ẩm, dân cư trù mật hơn so với các vùng khô hạn. Tại các hoang mạc nóng, hoang mạc lạnh hay các vùng núi cao băng giá, thường không có hoặc có rất ít người ở.

• Nước

Nước là yếu tố quan trọng thứ hai tác động đến sự phân bố dân cư vì nước rất cần thiết cho các hoạt động sinh hoạt và sản xuất của con người.

Có thể nói, nơi nào có nước thì nơi đó có con người sinh sống. Các nền văn minh đầu tiên của nhân loại đều phát sinh trong những lưu vực sông lớn như: văn minh Lưỡng Hà (Babylone) ở lưu vực sông Tigre và Euphrate, văn minh Ai Cập ở lưu vực sông Nil, văn minh Ấn Độ ở lưu vực sông Ấn - Hằng... Ngày nay, các vùng này vẫn là những nơi có mật độ dân cư cao nhất thế giới. Các thành phố lớn trên thế giới đều có sông chảy qua.

• Địa hình và đất đai

Địa hình và đất đai cũng là các yếu tố có ảnh hưởng đến sự phân bố dân cư. Các đồng bằng có địa hình thấp, đất đai màu mỡ thuận tiện cho hoạt động nông nghiệp thì dân cư đông đúc. Những đồng bằng châu thổ của các con sông lớn là nơi hội đủ các điều kiện tự nhiên thuận lợi (khí hậu, đất đai, nguồn nước) cho cư trú và sản xuất nên đông dân. Ngược lại, những vùng núi non hiểm trở, ít đất trồng trọt, đi lại khó khăn là những vùng ít có sức thu hút dân cư.

Trên bình diện thế giới, đa số dân cư tập trung trên các đồng bằng có độ cao tuyệt đối không quá 200m, đấy là nơi có nhiều điều kiện thuận lợi cho cả việc cư trú và sản xuất.

• Khoáng sản

Việc khai thác các loại khoáng sản phục vụ cho các hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con người không nhất thiết đưa đến sự tập trung dân cư trong mọi trường hợp, mà còn tùy thuộc vào những điều kiện xã hội và kỹ thuật.

Việc khai thác các mỏ than ở Anh đã đưa đến sự tập trung dân cư rất lớn, tạo thành những vùng liên thị. Ngược lại ở Mỹ, với tổ chức kỹ thuật khai thác, các vùng có khai thác than không phải là nơi đông dân. Ở châu Âu, nhất là ở Pháp, các mỏ sắt thu hút sự tập trung dân cư, ngược lại ở Mỹ và Liên Xô (cũ) không có sự tập trung dân cư tại các vùng này.

2.2.2. Các yếu tố kinh tế - xã hội và lịch sử

• Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Các yếu tố tự nhiên chỉ tạo ra khả năng cho việc tập trung dân cư, khả năng ấy có hiện thực hay không còn do các yếu tố xã hội, trước hết là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chi phối.

Trong xã hội nguyên thủy, con người sinh sống bằng săn bắn hái lượm với những công cụ lao động rất thô sơ và thường phải di chuyển theo nguồn thức ăn có trong tự nhiên, nay đây mai đó nên cần một khoảng không gian rộng lớn. Do vậy, dân cư phân bố thưa thớt.

Nhờ việc tìm ra lửa và chế tác ra các công cụ lao động bằng đồng, bằng sắt, nền nông nghiệp định canh định canh định cư ra đời, dân cư tập trung tại các vùng đồng bằng, hình thành nên các điểm quần cư nông thôn.

Từ sau cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, bức tranh phân bố dân cư trên thế giới có nhiều thay đổi. Dân cư tập trung đông đúc quanh các trung tâm công nghiệp. Công nghiệp hóa kéo theo đô thị hóa, nhiều thành phố mới ra đời thu hút mạnh mẽ dân cư từ những nơi khác.

Cùng với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ - mà ngày nay đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, sự phân bố dân cư trên thế giới có nhiều nét mới, nhiều trung tâm dân cư lớn đã hình thành ngay cả ở các vùng quanh năm băng giá, vùng núi cao 3000-4000 mét, vùng hoang mạc nóng bỏng, thậm chí còn vươn ra tận ngoài biển.

• Tính chất của nền kinh tế

Sự phân bố dân cư phụ thuộc vào tính chất của nền kinh tế. Hoạt động sản xuất công nghiệp đòi hỏi dân cư tập trung hơn hoạt động sản xuất nông nghiệp. Do đặc điểm của sản xuất công nghiệp là liên tục, tập trung cao, quy mô lớn, khối lượng sản phẩm nhiều theo dây chuyền phức tạp, cần nhiều công nhân, nên mật độ dân cư ở các thành phố, khu công nhiệp cao hơn nhiều so với vùng nông thôn hoạt động nông nghiệp.

Trong khu vực công nghiệp, mật độ dân cư cao hay thấp tùy theo tính chất của từng ngành sản xuất. Các ngành dệt, may mặc, chế biến thực phẩm... là những ngành cần nhiều lao động hơn các ngành khác.

Trong điều kiện hiện nay, nhờ điện khí hóa, tự động hóa và liên hiệp hóa, nhiều khu công nghiệp lớn và hiện đại ra đời với mật độ dân cư không quá cao. Kỹ thuật càng tiên tiến, mức độ tập trung dân cư trong các khu công nghiệp có xu hướng càng giảm.

Hoạt động sản xuất nông nghiệp tập trung dân cư đông hay ít tùy thuộc vào từng loại cây trồng. Việc canh tác lúa nước đòi hỏi rất nhiều lao động nên những vùng trồng lúa nước đồng thời là những vùng dân cư trù mật nhất thế giới. Ngược lại, các vùng trồng lúa mì, ngô hay các loại cây công nghiệp... có dân cư không đông lắm do không cần nhiều lao động.

• Lịch sử khai thác lãnh thổ

Nhìn chung, những khu vực sớm được con người khai thác để cư trú và sản xuất thường là nơi đông dân với mật độ cao nhất thế giới: các đồng bằng phía Đông và Đông nam Trung Quốc, Đông Nam Á, Ấn - Hằng, Tây Âu, tam giác châu sông Nil. Ngược lại, những lãnh thổ mới được khai thác, dân cư tập trung ít đông đúc hơn: Canada, Úc, vùng Đông Siberia của Liên bang Nga...

• Chuyển cư

Chuyển cư chính là sự phân bố lại dân cư. Các dòng chuyển cư quốc tế và trong nước đã góp phần ít nhiều tác động đến sự phân bố dân cư thế giới.

Trong lịch sử, sự chuyển cư từ châu Âu sang châu Mỹ, châu Úc sau hai thế kỷ đã làm cho số dân của các nước Hoa Kỳ, Canada, Úc tăng lên nhanh chóng. Trong khoảng thời gian từ 1750-1900, dân số châu Âu chỉ tăng 3 lần, trong khi dân số châu Mỹ tăng 12 lần. Chuyển cư cưỡng bức từ châu Phi sang châu Mỹ đã làm giảm số lượng và mật độ dân cư của châu lục này. Giữa thế kỷ XVII, dân số châu Phi bằng 18,4% dân số thế giới. Trải qua nhiều thời kỳ bị bắt bán sang châu Mỹ làm nô lệ, đến năm 1975, dân số châu Phi chỉ còn bằng 8% dân số thế giới.

2.3. ĐẶC ĐIỂM PHÂN BỐ DÂN CƯ TRÊN THẾ GIỚI

Ngày nay, con người có mặt hầu như ở khắp mọi nơi trên thế giới, nhưng sự phân bố rất không đồng đều, có vùng đông dân, có vùng thưa dân, thậm chí có vùng lại không có người ở. Mật độ dân cư trung bình của thế giới hiện nay khoảng 45 người/km2, nhưng ý nghĩa của con số này bị hạn chế bởi sự phân bố không đồng đều của dân cư. Tính chất không đồng đều của sự phân bố của dân cư được thể hiện dưới nhiều khía cạnh.

2.3.1. Theo độ cao địa hình

Dân cư trên thế giới phân bố khác nhau theo độ cao địa hình. Những nơi có độ cao từ 500m trở xuống (57,3% diện tích) là địa bàn cư trú của tuyệt đại bộ phận dân cư thế giới (80% dân số thế giới).

Trong vùng ôn đới, những nơi có địa hình thấp thường là những nơi có nhiều điều kiện thuận lợi nhất cho cuộc sống của con người thường, còn trong vùng nhiệt đới thường là những nơi có địa hình cao hơn.

2.3.2. Theo vĩ tuyến

Đại bộ phận dân cư thế giới tập trung ở Bắc bán cầu, những điểm dân cư cư trú thường xuyên lên đến vĩ độ 78oB, còn ở Nam bán cầu chỉ đến vĩ độ 54oN. Về cơ bản, dân cư tập trung ở các vĩ độ thuộc vùng ôn đới và nhiệt đới. Trong vùng ôn đới có 58% dân số thế giới, còn vùng nhiệt đới 40%.

2.3.3. Theo châu lục

Dân cư phân bố không đồng đều theo các châu lục, chủ yếu tập trung ở Cựu lục địa chiếm khoảng 70% diện tích và 86% dân số thế giới, trong khi đó, Tân lục địa chỉ chiếm 30% diện tích với 14% dân số.

Baûng 1: Dân số thế giới và các châu lục (1995)

Châu lục Dân số

(triệu người) Diện tích

(triệu km2) Mật độ dân cư

(người/km2)

Toàn thế giới 5.716,4 149,0 38,3

Châu Á 3.458,0 44,4 77,9

Châu Mỹ 774,8 42,1 18,4

Châu Phi 728,1 30,3 24,0

Châu Âu 727,0 10,5 69,2

Châu Đại dương 28,5 8,5 3,4

Châu Nam cực 0 13,2 0

(Nguồn: Atlas Économique Mondial - 1998 - Les 226 Pays Étudiés)

Châu Á có mật độ dân cư cao nhất thế giới: hơn hai lần so với mật độ trung bình của thế giới, hơn 3,24 lần so với châu Phi, hơn 4,2 lần châu Mỹ và 22,9 lần châu Úc và châu Đại dương. Các vùng dân cư trù phú nhất tập trung ở Nam Á, Đông Nam Á, phía Đông Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên. Ở đây có hơn 50 thành phố triệu dân, điển hình là các thành phố có trên mười triệu dân: Tokyo (28,5 triệu-1992), Thượng Hải (14,1 triệu), Bombay (13,3 triệu), Seoul (11,6 triệu), Bắc Kinh (11,4 triệu), Calcuta (11,1 triệu), Jakarta (10,1 triệu). Các vùng núi cao Ấn Độ, Trung Quốc, vùng Siberia và một số hoang mạc là những nơi dân cư thưa thớt.

Châu Âu có mật độ dân cư đứng hàng thứ hai trên thế giới sau châu Á và cũng cao hơn nhiều so với các châu lục khác: 2,9 lần so với châu Phi, gần 3,8 lần so với châu Mỹ, và gần 20,4 lần so với châu Úc và châu Đại dương. Dân cư châu Âu phân bố khá đồng đều, ngoại trừ phần phía Bắc và Đông Bắc dân cư kém trù mật hơn.

Châu Phi có mật độ dân cư thấp hơn châu Á, châu Âu nhưng vẫn còn cao hơn so với các châu lục khác. Khu vực tập trung đông dân là vùng duyên hải Đông và Tây Phi, ven Địa Trung Hải, đặc biệt là châu thổ sông Nil với các thành phố triệu dân: Cairo (7,69 triệu-1985), Alexandre (2,93 triệu). Các vùng thưa dân là các vùng hoang mạc Sahara, Calahari, bồn địa Congo, rừng rậm nhiệt đới.

Châu Mỹ, mật độ dân cư không chênh lệch nhau nhiều giữa các vùng Bắc, Trung và Nam Mỹ. Dân cư đông đúc ở khu vực Đông Bắc Hoa Kỳ với hai trung tâm lớn: New York (16,2 triệu dân - 1992), Chicago (6,84 triệu dân). Những nơi ít dân nhất là bán đảo Alaska, đảo Greenland, phía bắc Canada kể cả các đảo, vùng rừng rậm xích đạo Amazone, hoang mạc Atacama.

Châu Úc và châu Đại dương dân cư thưa thớt nhất với mật độ dân cư chưa đến 4 ngưới/km2. Hầu hết dân cư tập trung ở phía Đông và Đông Nam Úc, còn vùng hoang mạc rộng lớn gần như không có sự cư trú thường xuyên của con người.

2.3.4. Theo quốc gia

Năm 1987, dân số thế giới đạt 5,026 tỷ người, thì có khoảng 23,7% dân sống ở các nước công nghiệp phát triển, trong khi đó, có đến 76,3% dân sống ở các nước đang phát triển. Đến năm 1996, dân số của các nước công nghiệp phát triển chỉ chiếm khoảng 20,17%, trong khi dân số của các nước đang phát triển chiếm đến 79,83% dân số thế giới với tổng số hơn 5,804 tỷ người.

Xét theo quy mô dân số, có quốc gia dân số quá đông, có quốc gia dân số lại quá ít. Các quốc gia có dân số đông đứng hàng đầu như Trung Quốc (1.129 triệu), Ấn Độ (930 triệu), Hoa Kỳ (263 triệu), Indonesia (198 triệu), Brazil (157,8 triệu), Nga (148,3 triệu), Nhật Bản (125,2 triệu), Bangladesh (119,2 triệu), Nigeria (101 triệu), Mexico (93,7 triệu), Đức (81,8 triệu), Việt Nam (75 triệu). Chỉ với 12 quốc gia này, đã chiếm 63% dân số thế giới năm 1995.

Những quốc gia có mật độ dân cư cao thuộc loại cao nhất thế giới tập trung chủ yếu ở Nam Á, Đông Nam Á, Đông Bắc Á như Bangladesh (848,7 người/km2), Nhật Bản (330,6 người/km2), Ấn Độ (273 người/km2).

Tính chất không đồng đều cũng thể hiện rõ trong việc phân bố dân cư giữa các vùng trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia, trừ những quốc gia có diện tích quá nhỏ.

Chöông 3

CƠ CẤU DÂN SỐ

3.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA

Cơ cấu dân số (population structure): là sự phân chia số dân theo những tiêu chuẩn nhất định thành những bộ phận dân số khác nhau. Các tiêu chuẩn có thể là giới tính, tuổi, thành phần dân tộc, quốc tịch, ngôn ngữ, tôn giáo, nghề nghiệp, nơi cư trú... Các thuật ngữ: cơ cấu dân số, kết cấu dân số hay cấu trúc dân số có ý nghĩa tương đương.

Trong Dân số học, các loại cơ cấu dân số được chia thành hai nhóm:

- Cơ cấu sinh học hay cơ cấu tự nhiên của dân số gồm: cơ cấu dân số theo giới tính, độ tuổi...

- Cơ cấu xã hội của dân số gồm: cơ cấu dân số theo thành phần dân tộc, quốc tịch, trình độ văn hóa, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, nơi cư trú...

Mỗi khía cạnh nghiên cứu phản ảnh một mặt của tình trạng dân số. Do vậy, muốn hiểu cơ cấu dân số một cách đầy đủ, cần phải xem xét cả về phương diện sinh học và xã hội.

Cơ cấu sinh học hay cơ cấu tự nhiên của dân số phản ảnh những đặc điểm về thể trạng và tiềm lực phát triển của dân số. Sự thay đổi theo thời gian của cơ cấu sinh học là sự biến động tự nhiên của dân số.

Cơ cấu xã hội cũng được quan tâm nghiên cứu nhiều vì nó ảnh hưởng trực tiếp, sâu sắc đến hoạt động của toàn xã hội. Mỗi cá nhân trong cuộc đời của mình thường thay đổi nghề nghiệp, nâng cao trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật... Chính những sự thay đổi này theo thời gian là sự biến động xã hội của dân số. Nghiên cứu cơ cấu xã hội ở những thời điểm khác nhau (năm tổng điều tra) cho thấy khuynh hướng biến động xã hội của dân số trong thời khoảng đó.

Thông qua việc nghiên cứu cơ cấu dân số của một lãnh thổ, một quốc gia giúp ta đánh giá được chất lượng và tiềm năng lao động của dân số, giúp dự đoán được các nhu cầu và chiều hướng phát triển của dân số trong tương lai, từ đó, giúp tính toán hay hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cho tương lai.

3.2. CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH

3.2.1. Khái niệm và ý nghĩa

Trong thành phần giới tính của một dân số, bao giờ cũng có cả nam và nữ. Cấu trúc giới tính của dân số có ảnh hưởng quan trọng đến mức độ tăng giảm số lượng của dân số đó ở từng thời kỳ, đến sự phân công lao động và mọi hoạt động khác của xã hội. Nghiên cứu cơ cấu dân số theo giới tính còn có ý nghĩa thực tiễn rất lớn trong việc phân công lao động xã hội và áp dụng các chính sách của mỗi quốc gia.

Cơ cấu giới tính của dân số thường được biểu thị bằng tỷ lệ giới tính hay hệ số giới tính.

3.2.2. Các chỉ tiêu phân tích

3.2.2.1. Tỷ lệ giới tính

Tỷ lệ giới tính là tương quan số lượng nam hoặc nữ so với tổng số dân và được tính theo tỷ lệ phần trăm (%).

Số nam

Tỷ lệ nam = ----------------- x 100%

Tổng dân số

Số nữ

Tỷ lệ nữ = ----------------- x 100%

Tổng dân số

Ví dụ, theo kết quả điều tra dân số Việt Nam, ngày 01-04-1999, tỷ lệ nam là 49,1%, tỷ lệ nữ là 50,9% so với tổng dân số.

3.2.2.2. Hệ số giới tính

Số nam

Hệ số giới tính = ------------- x 100

Số nữ

- Nếu hệ số này = 100 : số nam và số nữ bằng nhau.

- Nếu hệ số này > 100 : số nam nhiều hơn số nữ.

- Nếu hệ số này

• Sự biến động của hệ số giới tính

+ Theo tuổi

Một cách phổ biến ở trẻ sơ sinh, hệ số giới tính thường dao động trong khoảng 104-106 (104-106 nam/100 nữ), nghĩa là số nam thường nhiều hơn số nữ từ 4-6%, nhưng hệ số này không giữ nguyên mà sẽ thay đổi theo chiều hướng giảm từ tuổi trưởng thành trở đi, nhất là ở nhóm tuổi già, hệ số giới tính sẽ giảm nhanh.

+ Theo khu vực

Hệ số giới tính cũng không giống nhau giữa các nước khác nhau và các khu vực khác nhau trên thế giới. Những nước kinh tế phát triển thường có số nữ nhiều hơn số nam, tuổi thọ trung bình của nam giới thường thấp hơn tuổi thọ trung bình của nữ giới (châu Âu, Bắc Mỹ, Úc và New Zealand). Trái lại, những nước kinh tế chậm phát triển thường có số nam nhiều hơn số nữ, tuổi thọ trung bình giữa nam và nữ không chênh nhau nhiều, thậm chí có nước tuổi thọ trung bình của nam cao hơn tuổi thọ trung bình của nữ. Những nước có số nam trội hơn là những nước Nam Á, các quần đảo Melanesia, Polynesia, Micronesia.

• Các yếu tố ảnh hưởng đến hệ số giới tính

+ Sự phân phối giới tính ở trẻ sơ sinh

Sự chênh lệch giữa số nam và nữ khi mới sinh phụ thuộc chủ yếu vào cấu trúc gen. Ở người, giới tính là một tính trạng và được quy định bởi một cặp gen nằm trên cặp nhiễm sắc thể giới tính. Nếu là nữ, cặp nhiễm sắc thể giới tính đó đồng dạng, được ký là hiệu là XX và từ tế bào sinh dục nữ chỉ hình thành một loại giao tử (noãn) mang một nhiễm sắc thể X. Nếu là nam, cặp nhiễm sắc thể giới tính đó không đồng dạng, được ký hiệu là XY và từ tế bào sinh dục nam sẽ hình thành hai loại giao tử (tinh trùng) là X và Y. Khi noãn X kết hợp với tinh trùng X sẽ tạo ra con gái và kết hợp với Y sẽ tạo ra con trai. Trên lý thuyết, sự phối hợp ngẫu nhiên của hai loại giao tử này sẽ hình thành giới tính ở thế hệ sau theo tỷ lệ (1:1). Tuy nhiên, trên thực tế ở nam giới, tỷ lệ giao tử Y thường nhiều hơn giao tử X, nên ở thế hệ sau, số trẻ sơ sinh nam thường nhiều hơn số trẻ sơ sinh nữ, do đó hệ số giới tính ở trẻ sơ sinh thường lớn hơn 100. Khi lớn lên, hệ số giới tính thay đổi theo chiều hướng giảm và thường nhỏ hơn 100.

+ Sự khác biệt tỷ suất tử vong giữa nam và nữ

Chiến tranh là một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra sự chênh lệch lớn trong cấu trúc nam nữ. Trong chiến tranh, mức tử vong của nam giới thường cao hơn nhiều so với tử vong của nữ giới, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu nam nữ của nhiều nước và hậu quả của nó kéo dài qua nhiều thế hệ. Ví dụ, Thụy Điển không có chiến tranh từ năm 1813 nên số nam và nữ ở độ tuổi 30-50 gần như ngang nhau. Trong khi đó, ở Liên Bang Nga sau chiến tranh thế giới thứ hai, hệ số giới tính chỉ bằng 81,82 (hay tỷ lệ nam và nữ là 45% và 55% so với tổng dân số).

Sự khác nhau về điều kiện sống và làm việc cũng ảnh hưởng đến tỷ suất tử vong của nam và nữ. Nam giới thường làm việc trong những điều kiện nặng nhọc, độc hại, vất vả hơn nữ giới, hay tình trạng tệ nạn xã hội như nghiện rượu, ma túy, một số bệnh tật... là những yếu tố ảnh hưởng mạnh đến mức tử vong của nam giới.

Các nguyên nhân làm thay đổi hệ số giới tính cũng có sự phân hóa theo từng nhóm nước. Ở các nước kinh tế phát triển, nam thường có tỷ suất tử vong cao hơn nữ. Ở các nước đang phát triển, mức tử vong của nữ giới lại có phần trội hơn, đặc biệt là ở các bà mẹ khi sinh nở và các em gái do tình trạng thiếu chăm sóc hay nuôi dưỡng.

Tuổi thọ trung bình là một chỉ tiêu tổng hợp để đánh giá sự khác biệt mức tử vong của hai giới. Tuổi thọ trung bình của giới này so với giới kia càng chênh lệch thì cơ cấu giới tính càng thay đổi. Ở phần lớn các nước trên thế giới, tuổi thọ trung bình của nữ thưòng cao hơn tuổi thọ trung bình của nam từ 2-3 năm. Nhiều nước châu Âu, Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Úc mức chênh lệch cao nhất có thể đạt tới 5-8 tuổi nghiêng về phía nữ (châu Âu: 6,1; Bắc Mỹ: 8,0; Úc và châu Đại dương: 6,3; Mỹ Latinh: 3,8; châu Phi: 3,1; châu Á: 1,5). Chỉ có một số nước như Ấn Độ, Pakistan, Banglades, Irak, Nepan, Butan, Burkina Faso, Papua New Ghine thì tuổi thọ trung bình của nữ thấp hơn.

+ Sự khác biệt giữa số lượng nam và số lượng nữ chuyển cư

Chuyển cũng cư là một nhân tố tác động đến sự biến đổi của hệ số giới tính. Trên bình diện thế giới, sự chuyển cư không có ý nghĩa gì, nhưng đối với từng khu vực, từng quốc gia hay từng địa phương, ở từng thời điểm cụ thể nó lại có ảnh hưởng đặc biệt, đôi khi mang tính quyết định đến sự thay đổi cơ cấu nam nữ. Số người xuất cư phần đông là nam giới, do vậy ít nhiều đều có sự ảnh hưởng đến cơ cấu giới tính của cả vùng có xuất cư và vùng có nhập cư. Ví dụ, trước 1930, hệ số giới tính ở Hoa Kỳ là 104, ở Canada là105, ở Úc là 110.

+ Chính sách dân số của quốc gia

Chính sách dân số của quốc gia cũng có ảnh hưởng đến cơ cấu nam nữ trong dân số. Luật pháp một số quốc gia cho phép mỗi cặp vợ chồng chỉ được sinh một đứa con và nếu trong cộng đồng dân cư vẫn còn tư tưởng trọng nam khinh nữ thì việc lựa chọn sinh con trai là điều dễ xảy ra.

3.3. CƠ CẤU DÂN SỐ THEO TUỔI

3.3.1. Khái niệm và ý nghĩa

Cơ cấu dân số theo tuổi là tập hợp những nhóm người được sắp xếp theo những lứa tuổi nhất định, hay đó là sự phân chia số dân theo từng nhóm tuổi được định trước nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu các quá trình dân số và các quá trình kinh tế - xã hội.

Trong Dân số học, cơ cấu dân số theo tuổi thường được chú trọng nhiều, vì thành phần tuổi của dân cư phản ánh một cách tổng hợp tình hình sinh sản, mức độ tử vong, tương lai phát triển của dân số và lực lượng lao động cụ thể của xã hội.

Cấu trúc dân số theo tuổi thay đổi theo thời gian và phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân, có những nguyên nhân tác động thường xuyên như sinh sản, tử vong; có những nguyên nhân tác động không thường xuyên như sự chuyển cư, chiến tranh, thiên tai...

Do những khác biệt về chức năng xã hội và chức năng dân số giữa nam và nữ, cơ cấu dân số theo độ tuổi thường được nghiên cứu cùng với cơ cấu dân số theo giới tính (gọi là cơ cấu dân số theo độ tuổi và giới tính).

3.3.2. Các cách phân chia nhóm tuổi

• Nhóm tuổi có khoảng cách đều nhau

Sự chênh lệch giữa hai độ tuổi kế tiếp nhau có thể là 1 năm, 5 năm hay 10 năm. Ví dụ: 0-4, 5-9, 10-14... 80+ hoặc 0-9, 10-19, 20-29... 80+. Nhóm tuổi với khoảng cách 5 năm thường được sử dụng nhiều nhất.

• Nhóm tuổi có khoảng cách không đều nhau

+ Căn cứ vào tuổi có khả năng sinh sản, dân số nữ được chia thành 3 nhóm:

- Trước tuổi sinh sản:

- Trong tuổi sinh sản: 15 - 49 tuổi

- Sau tuổi sinh sản: > 50 tuổi

+ Căn cứ vào tuổi lao động, dân số được chia thành 3 nhóm chính:

- Dưới tuổi có khả năng lao động (nhóm trẻ em) : 0 - 14 tuổi

- Tuổi có khả năng lao động (nhóm trưởng thành) : 15 - 59 tuổi (hoặc 64)

- Quá tuổi có khả năng lao động (nhóm người già): = 60 tuổi (hoặc 65)

Do sự khác nhau trong việc tính tuổi bắt đầu tuổi lao động và hết tuổi lao động, nên ba nhóm tuổi chính giữa các quốc gia thường không giống nhau.

Mỗi cách phân chia có ưu điểm riêng và được sử dụng vào những mục đích khác nhau. Cách phân chia thứ nhất tương đối tỷ mỷ nên được dùng vào việc phân tích, dự đoán các quá trình dân số. Cách thứ hai khái quát hơn nhằm đánh giá những biến chuyển chung về cơ cấu dân số.

3.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá

• Dân số trẻ

Dân số của một nước hay một địa phương được gọi là trẻ khi cơ cấu dân số có tỷ lệ của nhóm người dưới 15 tuổi vượt trên 35% và tỷ lệ nhóm người từ 60 tuổi trở lên chiếm ít hơn 10% tổng dân số; thể hiện qua tỷ suất sinh cao, tỷ suất tử cao và tuổi thọ trung bình (kỳ vọng sống) thấp.

Tỷ lệ người trẻ cao chứng tỏ dân số sinh động, nguồn dự trữ lao động dồi dào. Đây là một điểm thuận lợi. Nhưng trong hiện tại điều đó cũng có nghĩa là một sự bất lợi bởi vì số người cần được cấp dưỡng là một số lớn, Nhà nước phải đầu tư nhiều để nuôi dưỡng và đào tạo cho lớp người trẻ này. Muốn đạt được mục đích ấy, những người đang độ tuổi lao động phải được tận dụng và phải nâng cao năng suất lao động.

• Dân số già

Dân số của một nước hay một địa phương được gọi là già khi cơ cấu dân số có tỷ lệ của nhóm người dưới 15 tuổi chỉ chiếm khoảng 30-35% và tỷ lệ nhóm người từ 60 tuổi trở đi chiếm trên 10% tổng dân số, thể hiện qua tỷ suất sinh rất thấp, tỷ suất tử rất thấp và tuổi thọ trung bình (kỳ vọng sống) cao.

Tỷ lệ già nhiều, trẻ ít chứng tỏ nguồn dự trữ lao động kém. Đây là mối đe dọa thiếu lực lượng lao động thay thế trong tương lai.

• Tỷ lệ lao động

Dân số trong độ tuổi lao động là thành phần chủ yếu tham gia vào các hoạt động sản xuất xã hội. Những quy định về tuổi lao động và tuổi về hưu có sự khác nhau giữa các quốc gia. Ví dụ ở Việt Nam, tuổi bắt đầu lao động do Nhà nước quy định là 18; tuổi nghỉ hưu ở nữ là 55 và ở nam là 60. Tuy nhiên, trên thực tế tuổi lao động có thể bắt đầu sớm hơn và tuổi nghỉ hưu cũng muộn hơn. Ví dụ ở Việt Nam, tuổi lao động có thể từ 16 và kéo dài đến 60-65 tuổi.

Dân số trong tuổi lao động

Tỷ lệ dân trong tuổi lao động = ---------------------------------- x 100%

Tổng số dân

Tỷ lệ dân trong tuổi lao động là một chỉ tiêu để đánh giá lực lượng lao động của dân số một quốc gia hay một địa phương.

• Tỷ số phụ thuộc

Trong cơ cấu dân số của một nước hay một địa phương, luôn luôn có những lớp người trẻ chưa đến tuổi lao động và những lớp người già không còn tham gia lao động sản xuất nữa, những nhóm người này thường phải phụ thuộc vào nhóm người đang ở độ tuổi lao động.

Tỷ số phụ thuộc là một chỉ tiêu để đo lường mức độ phụ thuộc hay gánh nặng phụ thuộc giữa những lớp người ngoài tuổi lao động đối với những lớp người trong độ tuổi lao động.

Dân số dưới 15 tuổi + Dân số từ 65 tuổi trở lên

Tỷ số phụ thuộc = -------------------------------------------------------------- x 100

Dân số từ 15-64 tuổi

Đây là một chỉ tiêu nhằm đo lường số người phụ thuộc mà 100 người trong tuổi lao động phải đảm nhận. Nói cách khác, tỷ số phụ thuộc sẽ cho biết mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng.

Nếu tử số nhỏ, mẫu số lớn thì gánh nặng phụ thuộc giảm, sản phẩm tính theo đầu người tăng lên. Nếu tử số càng lớn, mẫu số càng nhỏ thì gánh nặng phụ thuộc càng lớn, sản phẩm tính theo đầu người càng nhỏ. Tỷ số phụ thuộc càng cao càng không có lợi cho sự phát triển của quốc gia và gánh nặng đối với người lao động càng lớn.

Nhìn chung, tỷ số phụ thuộc của các nước đang phát triển thường cao hơn các nước phát triển (vì tỷ lệ dân số dưới 15 tuổi cao hơn tỷ lệ dân số trên 65 tuổi). Ví dụ tỷ số phụ thuộc chung của toàn thế giới là 63,9; Nhật Bản: 42,8; Pháp: 51,5; Ấn Độ: 66,6; Việt Nam: 78,5; Ghana: 92,3.

3.3.4. Tháp tuổi

Cơ cấu dân số theo độ tuổi và giới tính thường được thể hiện trực quan bằng một loại biểu đồ, trên đó diễn đạt đầy đủ cơ cấu nam nữ của dân số một nước hay một địa phương theo các độ tuổi ở một thời kỳ nhất định. Biểu đồ này được gọi là tháp tuổi hay tháp dân số.

• Các dữ kiện cần thiết để xây dựng một tháp tuổi

- Số lượng dân số ở các lớp tuổi theo phái nam và nữ tại một thời điểm nhất định.

- Toàn bộ dân số muốn khảo sát phải được sắp xếp theo các lớp tuổi từ 0-100 tuổi (giả thiết tuổi thọ trung bình cao nhất là 100). Các lớp tuổi thường là lớp tuổi có khoảng cách 5 năm hay 10 năm.

• Biểu diễn trên biểu đồ

- Trục tung: thể hiện các lớp tuổi, từng 5 tuổi hoặc 10 tuổi.

- Trục hoành: một bên thể hiện số lượng tuyệt đối của nam, một bên thể hiện số lượng tuyệt đối của nữ (cũng có thể biểu hiện bằng số tương đối phần trăm (%) trong tổng số dân).

- Mỗi lớp tuổi nhất định của mỗi phái được biểu điễn bằng một băng hình chữ nhật có chiều cao bằng chiều cao của từng đơn vị lớp tuổi trên trục tung. Dân số của mỗi lớp tuổi càng đông thì băng hình chữ nhật càng dài. Cứ vẽ tiếp tục như vậy từ lớp tuổi thấp nhất đến lớp tuổi cao nhất. Tổng hợp các băng hình chữ nhật sẽ tạo thành một hình tháp. Mỗi nước có cơ cấu dân số khác nhau nên tháp tuổi được thể hiện có những hình dạng khác nhau.

• Các kiểu tháp tuổi cơ bản

Một cách tổng quát, các tháp tuổi được phân biệt theo ba kiểu cơ bản phản ánh cơ cấu tuổi và giới tính của các kiểu dân số khác nhau.

+ Kiểu mở rộng (tháp tuổi dân số trẻ)

Tháp có đáy rất rộng, đỉnh nhọn, thể hiện tỷ suất sinh và tỷ suất tử đều rất cao, số trẻ em nhiều hơn số người lao động, tuổi thọ trung bình thấp. Đây là kiểu kết cấu tuổi đặc trưng của dân số các nước đang phát triển.

+ Kiểu thu hẹp (tháp tuổi dân số trưởng thành)

Thể hiện tỷ suất sinh giảm, tỷ suất tử thấp, tuổi thọ trung bình được nâng lên. Trong cơ cấu tuổi, tỷ lệ trẻ em thấp hơn kiểu mở rộng, tỷ lệ người trưởng thành và người già tăng tương ứng. Đây là kiểu tháp tuổi chuyển tiếp từ dân số trẻ sang dân số già. Các nước như Hoa Kỳ (1990), Singapor, Hàn Quốc, Brazil, Argentina... có kiểu tháp tuổi này.

+ Kiểu ổn định (tháp tuổi dân số già)

Thể hiện số người ở ba lớp tuởi chính gần như tương đương nhau về số lượng và tỷ lệ (mỗi lớp tuổi chiếm tỷ lệ khoảng 30-35%). Dân số gần như không tăng, tỷ suất sinh ở mức rất thấp và tỷ suất tử vong cũng rất thấp ở lớp tuổi trẻ, nhưng ở lớp tuổi già tỷ suất tử vong cao hơn nên thu hẹp lại dần. Dân số có tuổi thọ trung bình cao. Các nước công nghiệp phát triển như Anh, Pháp, Nhật, Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy, Phần Lan... có kiểu tháp tuổi này.

Như vậy, từ hình dáng của tháp tuổi sẽ cho biết được hiện trạng dân số của mỗi nước và sự phát triển của dân số đó trong tương lai. Nhìn tháp tuổi, có thể thấy rõ được dân số theo từng độ tuổi, theo từng giới tính, từ đó có thể suy ra tình hình sinh, tử và phán đoán các nguyên nhân làm tăng giảm dân số của từng thế hệ.

3.3.5. Cơ cấu dân số thế giới theo ba nhóm tuổi chính

Phần lớn các nước đang phát triển Á, Phi, Mỹ Latinh có cơ cấu dân số trẻ vì lớp người dưới 15 tuổi thường chiếm khoảng 40% tổng dân số. Nguyên nhân chính là tỷ suất sinh được giữ ở mức cao và tỷ suất tử vong, nhất là tử vong của trẻ sơ sinh đã giảm đi một cách nhanh chóng. Ngoài ra, tỷ suất tử vong ở những lớp tuổi trẻ giảm nhanh hơn so với các lớp tuổi già nên tình trạng trẻ hóa dân số càng sâu sắc hơn. Với một lực lượng trẻ tiềm tàng như vậy, dù có giảm tỷ suất sinh tới mức chỉ đủ để tái sản xuất dân cư (2 con cho mỗi gia đình) thì số dân vẫn cứ tiếp tục tăng trong một thời gian dài nữa rồi mới đạt được sự ổn định.

Các nước kinh tế phát triển thường có cơ cấu dân số già. Nguyên nhân chủ yếu là do sự giảm thấp mức sinh, đồng thời tuổi thọ trung bình của dân cư lại tăng lên đã làm cho sự lão hóa dân số càng sâu sắc. Ví dụ ở Pháp, trong khi dân số từ 30 triệu (1886) tăng lên 43 triệu (1954) nhưng số người trẻ vẫn giữ nguyên ở mức khoảng 13 triệu.

Baûng 2: Cơ cấu dân số thế giới phân theo ba nhóm tuổi chính (%) - 1992

TG Âu Á Phi Bắc Mỹ Mỹ LT Úc-ĐD

15-64 tuổi 61 66 62 52 67 59 65

= 65 tuổi 6 14 5 3 12 5 9

(Nguồn: )

3.4. CƠ CẤU DÂN SỐ THEO THÀNH PHẦN DÂN TỘC

3.4.1. Khái niệm

Dân tộc là một cộng đồng người ổn định, được hình thành trong quá trình lịch sử, có những quan hệ chung về lãnh thổ cư trú, tâm lý dân tộc, ngôn ngữ, kinh tế và một số đặc trưng về văn hóa, hình thành trên cơ sở phát triển của các bộ tộc.

Các dân tộc khác nhau thường có những đặc điểm khác nhau về tư tưởng, ngôn ngữ, phong tục, tập quán, hình thái sản xuất...

Sự hình thành một cộng đồng dân tộc của một quốc gia thường diễn ra theo các hình thức sau:

- Đó là sự hợp thành từ bộ lạc trong quá trình lịch sử của mình hoặc trong quá trình đấu tranh với thế giới tự nhiên đã làm phát sinh các mối quan hệ dân tộc (trên cơ sở tự nguyện) và sau này tiến tới hình thành quốc gia.

- Cộng đồng dân tộc của một nước được hình thành qua một quá trình xâm chiếm đất đai của các dân tộc khác. Các dân tộc đi xâm chiếm đã thôn tính, đồng hoá các dân tộc bản địa và sau một thời kỳ lịch sử khá lâu dài đã hình thành nên các quốc gia với một cộng đồng dân tộc khá phức tạp. Thí dụ, các quốc gia ở Nam Mỹ là một điển hình: nước Perou năm 1500 có số dân bản địa là 6 triệu người, nhưng đến năm 1791 họ chỉ còn 600.000 người. Nếu vào năm 1570 dân bản xứ chiếm 95% tổng số dân nước này thì vào năm 1940 họ trở thành dân tộc thiểu số, chỉ chiếm khoảng 28% trong tổng số dân.

- Cộng đồng dân tộc của quốc gia được hình thành do quá trình di dân. Hoa Kỳ là quốc gia có thành phần dân tộc phức tạp. Trước kia, người da đỏ là dân tộc bản địa, nhưng sau những cuộc nhập cư ồ ạt của những người da trắng từ các nước Châu Âu cũng như người da đen bị bắt làm nô lệ đưa sang nơi này, ngoài ra, do những cuộc tàn sát, tiêu diệt người da đỏ cho nên hiện nay họ trở thành dân tộc thiểu số so với người da trắng và da đen.

Trên thực tế, ở phần đông các quốc gia trên thế giới, trong mỗi quốc gia đều có nhiều thành phần dân tộc hay chủng tộc khác nhau cùng sinh sống.

Đa số các quốc gia trên thế giới là quốc gia đa dân tộc, trong đó có một dân tộc (tộc người) chiếm ưu thế về số lượng gọi là dân tộc chủ thể và ngôn ngữ của họ được dùng làm ngôn ngữ chính thức của nhà nước (ví dụ, dân tộc Hán và tiếng Hán ở Trung Quốc, dân tộc Nga và tiếng Nga ở Nga, dân tộc Kinh và tiếng Việt ở Việt Nam). Các dân tộc còn lại là dân tộc ít người hay dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, cũng có quốc gia chỉ có một dân tộc sinh sống, đó là các quốc gia đơn dân tộc (ví dụ như Nhật Bản, Triều Tiên, Bangladesh...).

3.4.2. Ý nghĩa

Dân tộc chủ thể đóng vai trò rất quan trọng, hay nói khác đi, gần như đóng vai trò quyết định đối với tiến trình phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội, cũng như các vấn đề khác của quốc gia. Tuy nhiên, sự đóng góp của các dân tộc thiểu số không kém phần quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Mối quan hệ giữa dân tộc chủ thể với các dân tộc ít người diễn ra có thể hoặc là theo chiều hướng tích cực hoặc là theo hướng tiêu cực. Điều này thể hiện qua các chính sách dân tộc khác nhau của từng nước.

Trong Dân số học, việc nghiên cứu cấu trúc dân số theo thành phần dân tộc có ý nghĩa lớn trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc dân thống nhất, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất, đoàn kết và gắn bó với nhau, phát huy được những thế mạnh riêng gắn với từng dân tộc, đồng thời hạn chế, khắc phục những mặt yếu của mỗi dân tộc trong quá trình phát triển đất nước.

3.5. CƠ CẤU DÂN SỐ THEO LAO ĐỘNG

3.5.1. Khái niệm

Theo khuyến nghị của Tổ chức châu Á Thái Bình Dương về điều tra dân số và nhà ở (ARP), năm 1980, căn cứ vào tình trạng hoạt động kinh tế, dân số được chia thành hai bộ phận là dân số hoạt động kinh tế và dân số không hoạt động kinh tế.

• Dân số hoạt động kinh tế

Dân số hoạt động kinh tế hay còn gọi là lực lượng lao động bao gồm toàn bộ những người đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc, được chia thành 3 nhóm:

- Làm việc ổn định: bao gồm những người làm việc 6 tháng trở lên trong 12 tháng trước thời điểm điều tra và những người làm việc dưới 6 tháng trong 12 tháng qua và sẽ tiếp tục làm việc ổn định.

- Làm việc tạm thời: bao gồm những người làm việc dưới 6 tháng trong 12 tháng trước thời điểm điều tra và tại thời điểm điều tra đang làm một công việc tạm thời, hoặc không có việc làm dưới 1 tháng.

- Không có việc làm (thất nghiệp): bao gồm những người có nhu cầu lao động nhưng không có việc làm đã trên 1 tháng và trong 12 tháng trước thời điểm điều tra làm việc dưới 6 tháng.

• Dân số không hoạt động kinh tế

Dân số không hoạt động kinh tế bao gồm toàn bộ những người không thuộc bộ phận dân số hoạt động kinh tế, được chia thành 4 nhóm:

- Đang đi học: bao gồm những người không hoạt động kinh tế và đang đi học.

- Nội trợ: bao gồm những người làm công việc nội trợ như nấu ăn, giặt giũ, trông trẻ cho gia đình họ.

- Mất khả năng lao động: bao gồm những người, vì điều kiện sức khoẻ, không thể làm việc để tự nuôi sống mình được.

- Tình trạng khác: bao gồm những người có khả năng lao động nhưng không muốn làm việc, những người nghỉ hưu không làm việc và trẻ em.

Dân số lao động có liên quan chặt chẽ tới cơ cấu dân số theo độ tuổi. Ở các nước đang phát triển có dân số trẻ thì tỷ lệ dân số lao động thường thấp. Ở các nước phát triển có cơ cấu dân số già thì tỷ lệ dân số lao động thường cao.

Tỷ lệ dân số hoạt động kinh tế ở hai nhóm nước cũng khác nhau. Ở các nước phát triển, do nền kinh tế đã phát triển ở trình độ cao, tao được nhiều công ăn việc làm, nên tỷ lệ lao động không có việc làm thường thấp hơn so với các nước đang phát triển. Ngược lại, ở các nước đang phát triển, do nền kinh tế chưa phát triển và dân số lại tăng nhanh nên sức ép việc làm và tỷ lệ thất nghiệp thường cao hơn.

3.5.2. Một số chỉ tiêu đánh giá tính tích cực hoạt động kinh tế và việc làm

- Tỷ lệ dân số hoạt động kinh tế từ 13 tuổi trở lên trong tổng số dân.

- Tỷ lệ dân số hoạt động kinh tế trong tuổi lao động trong tổng số dân.

- Tỷ lệ dân số hoạt động kinh tế trong tuổi lao động so với tổng số dân trong tuổi lao động.

- Tỷ lệ người đang làm việc so với dân số hoạt động kinh tế.

- Tỷ lệ người đang làm việc từ 16 tuổi trở lên so với dân số hoạt động kinh tế từ 16 tuổi trở lên.

- Tỷ lệ dân số trong tuổi lao động chưa có việc làm so với dân số hoạt động kinh tế trong tuổi lao động (tỷ lệ thất nghiệp)...

3.6. CƠ CẤU DÂN SỐ THEO NGÀNH KINH TẾ

3.6.1. Khái niệm và ý nghĩa

Cơ cấu dân số theo ngành kinh tế là tập hợp những người được sắp xếp theo những thành phần ngành nghề khác nhau, những khu vực hoạt động khác nhau của nền kinh tế quốc dân.

Tìm hiểu thành phần dân số theo nghề nghiệp sẽ cho ta biết được một cách khái quát tình trạng kinh tế của một nước hay một địa phương.

Cơ cấu dân số theo ngành nghề liên quan tới đặc điểm lao động cụ thể của từng người. Nghề nghiệp của mỗi người phụ thuộc trước hết vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và tình hình kinh tế - chính trị của từng nước. Lực lượng sản xuất càng phát triển, sự phân công lao động trong xã hội càng sâu sắc thì số lượng các ngành nghề càng đa dạng và phức tạp. Những nước nông nghiệp lạc hậu, cơ cấu ngành nghề đơn giản. Những nước kinh tế phát triển có cơ cấu ngành nghề phức tạp hơn, thể hiện sự phân công lao động đã đạt được trình độ cao.

3.6.2. Dân số hoạt động phân theo khu vực hoạt động kinh tế

Việc phân chia khu vực lao động chủ yếu dựa vào tính chất và nội dung hoạt động sản xuất. Nền kinh tế quốc dân được phân biệt thành ba khu vực hoạt động. Mỗi khu vực có tính chất sản xuất, chất lượng sản phẩm, giá trị sản phẩm và hiệu quả kinh tế riêng, phản ánh sức sản xuất, trình độ sản xuất của xã hội.

- Khu vực I: bao gồm các ngành nghề hoạt động trong các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và khai thác ban đầu các loại khoáng sản, vật liệu. Các hoạt động này cung cấp lương thực thực phẩm cho con người và các loại nguyên liệu thô cho các ngành công nghiệp chế biến.

- Khu vực II: bao gồm các ngành công nghiệp chế biến và công nghiệp xây dựng. Các ngành này sẽ cung cấp các sản phẩm có giá trị cao hơn phục vụ trực tiếp cho nhu cầu của đời sống xã hội.

- Khu vực III: bao gồm các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân và được gọi chung là dịch vụ như thương mại, tài chính kế toán, tài chính ngân hàng, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, bảo hiểm, giáo dục, y tế, khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ... Hoạt động dịch vụ của các ngành này nối liền sản xuất với sản xuất, sản xuất với lưu thông, sản xuất với tiêu dùng hoặc giữa các nhu cầu tiêu dùng này với các nhu cầu tiêu dùng khác. Khu vực III không tạo ra sản phẩm hữu hình như các khu vực hoạt động khác mà tạo ra giá trị lợi nhuận.

Hiện nay, trên thế giới đang có xu hướng phân biệt thêm khu vực hoạt động thứ tư đó là khu vực lao động trí óc, bao gồm các lĩnh vực được quan tâm đặc biệt như: sở hữu trí tuệ, bằng phát minh sáng chế (patent), bí quyết công nghệ (know-how)...

Tỷ lệ lao động hoạt động trong mỗi khu vực và tỷ trọng đóng góp của từng khu vực trong tổng thu nhập quốc dân (GNP) sẽ phản ánh cơ cấu của nền kinh tế và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của một nước. Khu vực III còn được gọi là "chỉ số thịnh vượng" của nền kinh tế.

Trước đây, nhiều tác giả cho rằng có một phần của khu vực III thuộc loại thô sơ hay ăn bám, đặc biệt là ở thành phố lớn, nơi tập trung nhiều người buôn bán nhỏ hoặc làm một số công việc dịch vụ tạm bợ để mưu sinh. Từ thập niên 70, nhiều nhà kinh tế thành thị đã có những nhận định mới có phần tích cực hơn về tính chất và vai trò của các hoạt động dịch vụ này. Họ gọi các hoạt động này là khu vực (kinh tế) phi chính quy (informal sector).

Trong quá trình phát triển kinh tế, cơ cấu ngành nghề theo ba khu vực sẽ thay đổi từng giai đoạn:

- Ở điểm xuất phát là một nước nông nghiệp, tỷ lệ dân hoạt động trong khu vực I chiếm 80% hoặc nhiều hơn nữa, khu vực II và III ít phát triển.

- Giai đoạn công nghiệp hóa, tỷ lệ dân hoạt động trong khu vực I giảm, khu vực II tăng nhanh, khu vực III tăng vừa phải.

- Khi nền kinh tế đã phát triển, mức sống người dân được nâng cao, hoạt động sản xuất trở nên đa dạng thì tỷ lệ dân hoạt động trong khu vực I chiếm tỷ lệ thấp hơn 10%, khu vực II từ 30-35%, khu vực III chiếm tỷ lệ cao nhất 50-60%.

Tại các nước phát triển: khu vực I hoạt động nông nghiệp hiện đại chỉ sử dụng một số rất ít lao động, khoảng 2% ở Hoa Kỳ, 3-4% ở Đức, Anh. Năng suất lao động nông nghiệp không ngừng được nâng cao. Tại Hoa Kỳ, năm 1860, một nông dân làm nuôi được 5 người, 1960: 25 người và 1990: trên 50 người. Khu vực II sử dụng trên 30% lao động (Pháp, Đức: 35%). Đến một thời điểm nào đó, khi năng suất lao động công nghiệp đã được nâng cao do được cơ giới hóa và tự động hóa thì tỷ lệ lao động trong khu vực II sẽ giảm xuống, như trường hợp của Hoa Kỳ, Thụy Điển. Khu vực III ngày càng đa dạng và phức tạp, tỷ lệ thường cao hơn 50%, chẳng hạn như Pháp: 51%, Hoa Kỳ: 64%.

Tại các nước đang phát triển: khu vực I chiếm tỷ lệ lao động cao trên 70% ở các nước Đông Nam Á và châu Phi, khoảng từ 45-55% ở Mỹ Latinh, Trung Cận Đông. Khu vực II chiếm tỷ lệ lao động rất thấp vì công nghiệp chưa phát triển, dưới 12% ở hầu hết các vùng Nam Á, châu Phi, khoảng từ 15-20% ở hầu hết các nước Mỹ Latinh. Khu vực III thường có tỷ lệ lao động khá cao và thường cao hơn cả khu vực II, có thể đạt tới 20-25%.

Ví dụ: Năm 1992 Việt Nam Thailand Ấn Độ

Khu vực I : 71% 72% 67%

Khu vực II : 11% 13% 11%

Khu vực III : 18% 15% 22%

Tuy nhiên, tỷ lệ dân hoạt động trong khu vực III cao không phải là một tiêu chuẩn của sự phát triển kinh tế trong mọi trường hợp, tiêu chuẩn ấy chỉ đúng đối với những nước đã có một trình độ công nghiệp hóa cao. Còn đối với các nước đang phát triển, thực ra đấy chỉ là một hình thái của sự thất nghiệp. Các nước này chưa trải qua quá trình công nghiệp hóa nên khu vực II không có khả năng thu nhận nhiều nhân lực. Sự phát triển của khu vực III không bắt nguồn từ sự phát triển kinh tế, nó bao gồm phần lớn những ngành nghề phi sản xuất, trong đó buôn bán nhỏ chiếm đa số.

3.6.3. Dân số hoạt động phân theo thành phần kinh tế

Dựa vào tính chất của quan hệ sản xuất, nền kinh tế được phân thành những khu vực khác nhau: khu vực kinh tế cá thể, khu vực kinh tế tập thể, khu vực kinh tế tư bản tư nhân, khu vực kinh tế quốc doanh...

Tỷ lệ lao động tham gia trong mỗi thành phần kinh tế là cơ sở xác định vai trò, tầm quan trọng của thành phần đó trong nền kinh tế.

Ở Việt Nam nền kinh tế quốc dân bao gồm các thành phần kinh tế:

- Quốc doanh.

- Tập thể

- Tư nhân, cá thể và hộ gia đình

- Tư bản tư nhân

- Tư bản Nhà nước

- Thành phần kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài.

Baûng 3: Sự thay đổi cơ cấu sử dụng lao động theo thành phần kinh tế ở nước ta

Năm Khu vực Nhà nước Khu vực ngoài quốc doanh

1985 15,0 % 85,0 %

1990 11,3 % 88,7%

1998 9,0 % 91,0 %

(Nguồn: SGK Địa lý 12, nhà xuất bản Giáo dục, tái bản lầ thứ 10)

3.7. CƠ CẤU DÂN SỐ THEO TRÌNH ĐỘ VĂN HÓA

3.7.1. Khái niệm và ý nghĩa

Trình độ văn hoá của dân cư một quốc gia biểu hiện chất lượng của một dân tộc, thể hiện qua mặt bằng dân trí của dân cư, đồng thời nó cũng gián tiếp biểu hiện trình độ và khả năng phát triển của nền kinh tế nước đó.

Trong từng quốc gia nói riêng và trên thế giới nói chung, trình độ văn hóa thay đổi theo thời gian và theo không gian. Ở các nước phát triển, dân cư có trình độ văn hóa thường cao hơn so với dân cư các nước kém phát triển. Đây là một điều hợp quy luật. Bởi vì trình độ văn hóa là một yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến nền sản xuất xã hội, nó góp phần làm nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng để thỏa mãn cho nhu cầu ngày càng tăng cao của xã hội con người. Ở bất kỳ quốc gia nào, việc phát triển một nền công nghiệp hiện đại, tiên tiến cũng đều đòi hỏi nhân dân nước đó có trình độ khoa học - kỹ thuật nhất định. Ngược lại, nếu trình độ văn hóa của dân cư thấp kém thì nó sẽ là trở lực đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó.

3.7.2. Các chỉ tiêu phân tích, đánh giá trình độ văn hóa của dân cư

+ Tình trạng đi học

Bao gồm chưa đi học, đang đi học, đã thôi học (nhóm chỉ tiêu này chỉ tính số trẻ em trong độ tuổi đi học từ 5-19 tuổi).

+ Tình trạng biết chữ

Bao gồm tỷ lệ biết chữ và tỷ lệ mù chữ (người biết chữ là tất cả những người hiện tại biết đọc và biết viết những câu đơn giản bằng chữ quốc ngữ, chữ dân tộc hoặc chữ nước ngoài). Nhóm chỉ tiêu này được lưu ý nhiều vì đây là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá trình độ phát triển của quốc gia thông qua chỉ số phát triển con người (HDI).

+ Trình độ học vấn

Bao gồm các chỉ số chưa bao giờ đến trường, chưa tốt nghiệp tiểu học, tốt nghiệp tiểu học, tốt nghiệp trung học cơ sở, tốt nghiệp phổ thông trung học, tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp, tốt nghiệp cao đẳng, đại học và sau đại học.

Trên thế giới hầu hết các dân tộc có trình độ văn hóa thấp đều thuộc các nước chậm phát triển mà các nước này thường có dân số rất đông. Hiện nay, ước tính có khoảng trên 850 triệu người mù chữ tập trung ở các nước thuộc thế giới thứ ba, trong đó có quốc gia có đến 50% hay thậm chí đến 80% số dân bị mù chữ. Việc đầu tư vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo là bài toán kinh tế nan giải đối với các quốc gia này.

Việt Nam năm 1989 có 88% dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ và 12% mù chữ, đến năm 1997, tỷ lệ người biết chữ tăng lên 91% (theo thông tin truyền hình trong kỳ họp quốc hội khóa 9). Đây là thành tích to lớn của ngành giáo dục và toàn xã hội.

Baûng 4: Tỷ lệ dân số biết đọc biết viết của Việt Nam và một số nước

Quốc gia Tỷ lệ dân số biết đọc biết viết (%)

Việt Nam 92,0

Singapore 91,4

Malaisia 85,7

Indonesia 85,0

Trung Quốc 82,9

Ấn Độ 53,5

(Nguồn: SGK Địa lý 12, nhà xuất bản Giáo dục, tái bản lầ thứ 10)

3.8. CƠ CẤU DÂN SỐ THEO TÌNH TRẠNG HÔN NHÂN

3.8.1. Khái niệm và ý nghĩa

Cơ cấu dân số theo tình trạng hôn nhân thường chỉ tính nhóm dân số từ 13 hoặc 15 tuổi trở lên. Hôn nhân của dân cư thuộc một trong năm tình trạng sau:

- Chưa vợ, chưa chồng: là những người chưa bao giờ lấy vợ, lấy chồng.

- Có vợ, có chồng: bao gồm những người đã được pháp luật hoặc phong tục tập quán của địa phương thừa nhận là có vợ, có chồng hoặc sống với người khác giới như vợ chồng.

- Góa: là những người mà vợ hoặc chồng của họ đã qua đời và tại thời điểm thống kê họ chưa tái kết hôn.

- Ly hôn: là những người trước đây đã có vợ, có chồng nhưng vì lý do nào đó họ đã được pháp luật cho ly hôn và tại thời điểm thống kê họ chưa tái kết hôn.

- Ly thân: là những người về danh nghĩa thì họ đang có vợ, có chồng nhưng vì lý do nào đó họ không còn chung sống với nhau như vợ chồng.

Tỷ lệ những người có vợ, có chồng có ảnh hưởng trực tiếp đến mức sinh vì tuyệt đại bộ phận trẻ em được sinh ra trong giá thú, nhất là ở các xã hội nông nghiệp truyền thống. Mặt khác, tỷ lệ ly hôn và góa bụa cao lại góp phần làm giảm mức sinh, tăng mức tử vong của dân số.

Ở khía cạnh xã hội, tỷ lệ độc thân cao là chỉ báo cho thấy hôn nhân và gia đình truyền thống đã giảm sút ý nghĩa và sức hấp dẫn đối với giới trẻ ở các nước phát triển, trong khi đó, tỷ lệ ly thân và ly hôn cao lại cho thấy tính kém bền vững của gia đình. Ở một số quốc gia, tình trạng tảo hôn hay đa thê còn dẫn đến những vấn đề xã hội phức tạp khác.

Nhìn chung, tình trạng hôn nhân ở các nước phát triển thường đa dạng hơn ở các nước đang phát triển.

3.8.2. Các chỉ tiêu phân tích, đánh giá tình trạng hôn nhân của dân cư

+ Tỷ lệ chưa vợ, chưa chồng.

+ Tỷ lệ có vợ, có chồng.

+ Tỷ lệ góa vợ, góa chồng.

+ Tỷ lệ ly hôn.

+ Tỷ lệ ly thân.

Ngoài ra, mỗi tình trạng hôn nhân còn được phân tích theo từng nhóm tuổi và giới tính của dân cư.

3.9. CƠ CẤU DÂN SỐ THEO ĐỊA BÀN CƯ TRÚ

3.9.1. Khái niệm và ý nghĩa

Xã hội loài người hiện nay có hai hình thái cư trú theo địa bàn là nông thôn và thành thị. Sự phân định dân cư thành thị hay nông thôn là căn cứ vào nơi cư trú, nhưng có liên quan đến cơ cấu xã hội và ngành nghề của dân số.

Cơ cấu dân số theo địa bàn cư trú được phân biệt thành hai bộ phận là dân cư nông thôn và dân cư thành thị. Trong Dân số học, việc nghiên cứu cơ cấu dân số theo địa bàn cư trú nông thôn và thành thị (hoặc các dạng quần cư đô thị) có ý nghĩa quan trọng, vì nó cho thấy xu thế phát triển của một quốc gia.

Việc nghiên cứu các đặc trưng nhân khẩu học, kinh tế - xã hội học của dân số theo hai địa bàn cư trú là cơ sở để hoạch định chính sách dân số, chính sách phát triển kinh tế - xã hội cho phù hợp với từng địa bàn.

3.9.2. Các chỉ tiêu phân tích

Chỉ số phân tích cơ cấu dân số theo địa bàn cư trú là tỷ lệ dân nông thôn và tỷ lệ dân thành thị.

Số dân cư trú ở nông thôn

Tỷ lệ dân nông thôn = ---------------------------------- x 100%

Tổng số dân

Số dân cư trú ở thành thị

Tỷ lệ dân thành thị = ---------------------------------- x 100%

Tổng số dân

Tỷ lệ và quy mô của hai bộ phận dân số này luôn biến động theo thời gian, thậm chí có thể thay đổi nhanh chóng theo từng năm phụ thuộc vào tốc độ và trình độ phát triển sản xuất công nghiệp, việc mở rộng các mối quan hệ giao lưu giữa các quốc gia với nhau đã làm tăng cường tỷ lệ dân số hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế dịch vụ, cung ứng...

Các quá trình dân số như sinh, tử, chuyển cư, hôn nhân diễn ra ở hai địa bàn này, theo hai giới sẽ rất khác nhau về cường độ và khuynh hướng biến động.

Chöông 4

BIẾN ĐỘNG DÂN SỐ

4.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA

Biến động dân số là sự thay đổi số lượng dân số theo thời gian do tác động của ba quá trình sinh, tử và di dân. Trong đó, chênh lệch giữa mức sinh và mức tử là biến động tự nhiên, chênh lệch giữa nhập cư và xuất cư là biến động cơ học. Khái niệm sự gia tăng dân số, biến động dân số hay phát triển dân số là tương đương trong phạm vi Dân số học.

Quy mô dân số của một lãnh thổ theo thời gian có thể tăng lên, giảm đi hoặc giữ nguyên tùy thuộc vào các quá trình dân số có ý nghĩa động lực. Đó là các quá trình sinh sản, tử vong và chuyển cư (bao gồm nhập cư và xuất cư). Chúng tác động qua lại và tạo nên sự biến động của dân số.

Khảo sát sự biến động dân số nhằm mục đích tìm hiểu quá trình phát triển dân số của một quốc gia, một địa phương để biết dân số của vùng lãnh thổ đó thay đổi như thế nào: theo chiều hướng tăng, theo chiều hướng giảm, không tăng, không giảm hay phát triển quá nhanh dẫn đến bùng nổ dân số. Từ đó, đưa ra các giải pháp để cân bằng sự phát triển dân số với sự phát triển kinh tế - xã hội.

4.2. ĐO LƯỜNG BIẾN ĐỘNG DÂN SỐ

4.2.1. Các loại chỉ tiêu cơ bản để đo lường dân số

- Tỷ số (ratio): là tương quan số lượng giữa hai bộ phận trong dân số (lưu ý là hai bộ phận dân số này không bao trùm lên nhau). Ví dụ: tỷ số giới tính của một dân số là số nam tính trên 100 nữ.

- Tỷ lệ (propotion): là tỷ số thể hiện tương quan số lượng giữa một bộ phận dân số với toàn bộ dân số và tính theo phần trăm (%). Ví dụ: tỷ lệ lao động là tương quan số lượng giữa số người trong tuổi lao động so với tổng số dân của một lãnh thổ. Thuật ngữ tương đương với tỷ lệ là tỷ trọng.

- Tỷ suất (rates): tỷ suất thể hiện tương quan số lượng giữa số lần xuất hiện của một sự kiện hoặc một biến cố nhân khẩu với tổng số thành viên của dân số có khả năng chịu nguy cơ đó (thường là tổng số dân) trong một khoảng thời gian nhất định và được tính bằng phần ngàn (‰).

- Tỷ suất thô (nguyên) là tỷ suất tính cho toàn bộ dân số, mẫu số là tổng số dân (tính trung bình giữa năm).

- Tỷ suất đặc trưng là tỷ suất tính cho một nhóm dân số đặc biệt, mẫu số là số dân đang được quan tâm có khả năng trực tiếp chịu biến cố xảy ra.

- Xác suất (probability): xác suất xảy ra một sự kiện nhân khẩu tương tự như tỷ suất xảy ra sự kiện đó, tuy nhiên, trong cách tính toán khác nhau ở mẫu số: khi tính tỷ suất, lấy dân số ở giữa thời kỳ quan sát (dân số trung bình giữa năm), còn khi tính xác suất thì lấy dân số ở đầu kỳ quan sát (dân số đầu năm).

4.2.2. Phương trình cơ bản của biến động dân số

Quy mô dân số của một nước hay một địa phương có thể thay đổi tùy thuộc vào các yếu tố: sinh, tử và di dân. Dân số có thể tăng lên do: có trẻ em được sinh ra hay có người từ nơi khác nhập cư đến. Dân số có thể giảm bớt đi do: có người chết hay có người chuyển cư đi nơi khác.

Ba quá trình sinh, tử và di dân kết hợp lại sẽ tạo nên phương trình căn bản của biến động dân số:

Pt = P0 + B - D + I - O

Trong đó:

- Pt là dân số ở thời điểm t cần khảo sát.

- Po là dân số ở thời điểm gốc.

- B, D, I, O lần lượt là số trẻ em được sinh ra, số người chết, số người nhập cư, số người xuất cư trong thời kỳ (0, t).

4.2.3. Gia tăng tự nhiên

Gia tăng tự nhiên hay biến động tự nhiên do tương quan số lượng giữa hai quá trình sinh sản và tử vong quy định hay đó là hiệu quả của hai quá trình sinh và tử của một dân số ở một thời kỳ nhất định.

• Tỷ suất sinh

Tỷ suất sinh là tỷ số tương quan giữa số trẻ sơ sinh trung bình được sinh ra trong năm so với số dân trung bình năm đó, tính theo tỷ suất phần nghìn (‰).

Số sinh

Tỷ suất sinh = ------------------------- x 1000‰

Dân số trung bình

- Số sinh: số trẻ được sinh ra trong năm.

- Dân số trung bình: là trung bình của dân số đầu năm và cuối năm hay dân số của ngày 30/6 hoặc 1/7 hàng năm.

- Nếu tỷ suất sinh

20 - 30‰: sinh suất trung bình.

> 30‰: sinh suất cao.

> 40‰: sinh suất rất cao.

- Về mặt sinh lý, sinh suất tối đa là 60‰.

- Ví dụ, năm 1993, tỷ suất sinh của dân số Việt Nam là 30‰.

• Tỷ suất tử

Tỷ suất tử là tỷ số tương quan giữa số người chết trong năm so với số dân trung bình trong năm đó, tính theo tỷ suất phần nghìn (‰).

Số chết

Tỷ suất tử = ------------------------- x 1000‰

Dân số trung bình

- Số chết: số người chết trong năm thuộc tất cả các độ tuổi và giới tính.

- Nếu tỷ suất tử

12 - 15‰ : tử suất trung bình.

15 - 25‰ : tử suất cao.

> 25‰ : tử suất rất cao.

• Tỷ suất gia tăng tự nhiên

Tỷ suất gia tăng tự nhiên (Rate of Natural Increase) là số chênh lệch giữa tỷ suất sinh và tỷ suất tử của dân số trong một năm trên một lãnh thổ nhất định và được tính theo phần trăm (%o).

Tỷ suất sinh (‰) - Tỷ suất tử (‰)

Tỷ suất gia tăng tự nhiên = ------------------------------------------------

10

hay:

Số sinh - số chết

Tỷ suất gia tăng tự nhiên = ---------------------------- x 1000%

Dân số trung bình

- Nếu tỷ suất gia tăng tự nhiên

1,0 - 1,5% : tăng suất trung bình.

1,5 - 2,0% : tăng suất cao.

> 2,0% : tăng suất rất cao.

Gia tăng tự nhiên là sự kế tiếp của các thế hệ, trong đó, thế hệ già được thay thế bằng thế hệ trẻ. Tùy thuộc tương quan số lượng giữa hai quá trình dân số cơ bản là sinh và tử vong, về cơ bản, gia tăng tự nhiên là quá trình tái sản xuất dân cư.

• Có ba loại hình tái sản xuất dân cư

+ Tái sản xuất dân cư mở rộng

Có những đặc trưng: tỷ suất sinh cao, tỷ suất tu trung bình hoặc cao, thế hệ sinh sau nhiều hơn thế hệ trước. Loại hình tái sản xuất dân cư kiểu này thường phổ biến ở các nước đang phát triển có trình độ phát triển kinh tế trung bình và chậm phát triển thuộc châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh.

+ Tái sản xuất dân cư thu hẹp

Với tỷ suất sinh trung bình, tỷ suất tử vong thấp và ổn định, gia tăng tự nhiên ở mức trung bình, thế hệ sinh sau ít hơn thế hệ trước, do mức sinh giảm nhanh. Tái sản xuất dân cư thu hẹp thường thấy ở các nước công nghiệp mới như: Hàn Quốc, Singapore, Brasil...

+ Tái sản xuất dân cư giản đơn

Với tỷ suất sinh và tỷ suất tử đều thấp và hầu như bằng nhau, tỷ suất gia tăng tự nhiên bằng 0 hoặc âm, số lượng thế hệ trẻ tương đương thế hệ già. Các nước công nghiệp phát triển ở Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật... là những nước có kiểu tái sản xuất dân cư giản đơn.

4.2.4. Gia tăng cơ học

Gia tăng cơ học hay biến động cơ học cũng là nguồn lực quan trọng làm tăng hay giảm quy mô một dân số. Bản chất của gia tăng cơ học là sự di chuyển của dân cư hay nói gọn là sự chuyển cư.

• Tỷ suất nhập cư

Tỷ suất nhập cư là tỷ số tương quan số lượng giữa số người nhập cư đến một nơi định cư mới, tính trên 1000 dân của nơi đến trong năm đó.

Số người nhập cư

Tỷ suất nhập cư = ---------------------------------- x 1000‰

Dân số trung bình nơi đến

• Tỷ suất xuất cư

Tỷ suất xuất cư là tỷ số tương quan số lượng giữa số người xuất cư rời bỏ nơi đang sinh sống, tính trên 1000 dân của nơi họ rời bỏ trong một năm.

Số người xuất cư

Tỷ suất xuất cư = ---------------------------------- x 1000‰

Dân số trung bình nơi đi

• Tỷ suất gia tăng cơ học

Tỷ suất gia tăng cơ học là hiệu quả thực giữa tỷ suất nhập cư và tỷ suất xuất cư của dân số một vùng, tính trên 1000 dân của vùng đó trong một năm.

Tỷ suất sinh (‰) - Tỷ suất tử (‰)

Tỷ suất gia tăng cơ học = ------------------------------------------------

10

hay:

Số sinh - số chết

Tỷ suất gia tăng cơ học = ------------------------- x 100%

Dân số trung bình

4.2.5. Gia tăng dân số

Gia tăng tự nhiên và gia tăng cơ học là hai thành phần để đo lường biến động thực tế của quy mô dân số, hay nói khác đi, chúng là động lực của gia tăng dân số.

Gia tăng dân số = Số sinh - số tử + số nhập cư - số xuất cư

Hay:

Gia tăng dân số = Gia tăng tự nhiên + Gia tăng cơ học

Một nước dân số có thể gia tăng nhưng lại có tỷ suất gia tăng tự nhiên âm, thì số tăng đó là do các luồng nhập cư. Tuy nhiên, gia tăng cơ học chỉ có đối với những quốc gia, những vùng có sự chuyển cư. Nếu xét trên bình diện toàn thế giới thì tỷ suất gia tăng cơ học không còn ý nghĩa nữa trong quá trình biến động dân số thế giới.

Có thể nói gia tăng tự nhiên là thành phần mang tính chất quyết định và được xem là động lực chính của quá trình biến động dân số.

• Tỷ suất gia tăng dân số

Là tỷ suất mà dân số tăng hay giảm trong một năm do gia tăng tự nhiên và gia tăng cơ học, được biểu thị bằng phần trăm của dân số gốc.

r (%) = Tỷ suất gia tăng tự nhiên (%) + Tỷ suất gia tăng cơ học (%)

- Nếu tỷ suất gia tăng dân số bằng 0 (ZPG: zero population growth rate) thì có sự cân bằng giữa: tỷ suất sinh + tỷ suất nhập cư = tỷ suất tử + tỷ suất xuất cư.

+ Dân số đóng

Một dân số không có dòng chuyển cư đến hay đi, sự thay đổi quy mô dân số chỉ do quá trình sinh sản và tử vong quyết định. Tỷ suất gia tăng dân số chính bằng tỷ suất gia tăng tự nhiên của dân số đó. Dùng mô hình dân số đóng có thể nghiên cứu và định hướng mức độ tác động của gia tăng tự nhiên tới cấu trúc dân số theo tuổi, giới và các đặc trưng khác nhau của dân số.

+ Dân số mở

Dân số luôn có các dòng di dân đi và đến. Quy mô dân số, kết cấu tuổi và giới cùng các đặc trưng khác của dân số chịu tác động của cả biến động tự nhiên và biến động cơ học.

+ Dân số ổn định

Một dân số có tỷ suất phát triển dân số không đổi và một cấu trúc tuổi không đổi vì tỷ suất sinh và tỷ suất tử đặc trưng được giữ ở mức bất biến trong một thời kỳ đủ dài.

• Tỷ suất gia tăng dân số giữa hai thời điểm đơn giản

(Pt - P0) / t

r = --------------------- x 100%

(Pt + P0) / 2

Trong đó:

- P0: dân số ở thời điểm trước.

- Pt: dân số ở thời điểm sau.

- t : số năm giữa hai thời điểm t = tt - t0.

• Thời gian dân số tăng gấp đôi

Thời gian dân số tăng gấp đôi là số năm cần thiết để dân số của một vùng, một quốc gia tăng lên gấp đôi trên cơ sở căn cứ vào tỷ suất gia tăng tự nhiên (%).

Để tính thời gian dân số tăng gấp đôi, sử dụng công thức:

P1 = P0. ert

Suy ra:

0,7

t (năm) = --------

r%

hay:

70

t (năm) = --------

r

Thời gian dân số tăng gấp đôi là một chỉ tiêu để đánh giá nhịp độ gia tăng dân số. Khoảng thời gian này càng ngắn chứng tỏ dân số tăng càng nhanh.

Ví dụ, dân số Việt Nam cuối năm 1996 là 76 triệu người, với tỷ lệ gia tăng tự nhiên trung bình là 2,1%/năm thì thời gian để dân số Việt Nam tăng lên 152 triệu là: 70 / 2,1 ~ 33 năm.

4.3. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN DÂN SỐ THẾ GIỚI

4.3.1. Tình hình gia tăng

Lịch sử phát triển loài người đã trải qua hàng triệu năm với nhiều biến động do thiên tai, dịch bệnh, đói rét, địch họa... nhưng dân số, cho đến ngày nay vẫn chưa hề giảm đi, mà ngược lại đã không ngừng gia tăng về số lượng với tốc độ phát triển ngày càng nhanh và quy mô ngày càng lớn.

Baûng 5: Gia tăng dân số thế giới qua các thời kỳ

Thời gian Dân số Thời gian tăng gấp đôi

Thời đại đồ đá mới khoảng 100 - 120 triệu

Đầu công nguyên khoảng 200 - 250 triệu Hàng ngàn năm

Giữa thế kỷ XVII (1650) 500 triệu 17 - 18 thế kỷ

Khoảng năm 1840 1,0 tỷ Chưa đầy 2 thế kỷ

Năm 1930 2,0 tỷ Chưa đầy 1 thế kỷ

Năm 1975 4,0 tỷ Chưa đầy 50 năm

Năm 1987 5,0 tỷ

Năm 1995 5,7 tỷ

Năm 1997 > 5,9 tỷ 5.933.646.426 (28/05/97)

Năm 2002 > 6,2 tỷ 6.234.250.387

Năm 2025 dự đoán 8,0 tỷ Khoảng 50 năm

Nhìn qua lịch sử phát triển, có thể thấy dân số thế giới trải qua hai giai đoạn với tốc độ gia tăng khác nhau:

- Giai đoạn tăng chậm kéo dài từ thời tiền sử tới đầu công nguyên.

- Giai đoạn tăng nhanh dần từ đầu công nguyên và nhất là từ sau Đại chiến thế giới thứ hai đến nay, dân số thế giới tăng càng nhanh dẫn đến bùng nổ dân số.

Nhịp độ phát triển dân số diễn ra không đồng đều giữa các nước và có xu hướng ngày càng tăng nhanh, nhất là trong khoảng 3 thế kỷ trở lại đây. Dân số thế giới đã tăng lên gấp 6 lần trong vòng chưa đầy hai thế kỷ và sẽ còn tiếp tục tăng nhanh trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Theo Ủy ban dân số Liên Hiệp Quốc thì từ năm 1991 cho đến năm 2000, trung bình mỗi năm dân số thế giới tăng thêm 90-100 triệu người, với tỷ suất gia tăng tự nhiên dưới 1,72%/năm (trung bình mỗi ngày tăng thêm 240.000 người và 170 người trong mỗi phút).

Nguyên nhân của sự tăng nhanh dân số thực sự là do sự cải thiện các điều kiện vệ sinh y tế, phòng và chữa bệnh, đặc biệt là do sự cải thiện các điều kiện kinh tế - xã hội.

4.3.2. Các thời kỳ phát triển của dân số thế giới

Lịch sử phát triển dân số thế giới liên quan mật thiết với lịch sử phát triển xã hội của loài người. Việc phân chia các thời kỳ phát triển dân số thế giới chủ yếu dựa vào thời gian xuất hiện các chế độ kinh tế - xã hội khác nhau, tuy nhiên các mốc thời gian chỉ mang tính chất tương đối, nhất là những thời kỳ đầu của lịch sử loài người.

Nhìn chung, có thể chia lịch sử phát triển dân số thế giới thành ba thời kỳ chính:

• Thời kỳ tiền sản xuất nông nghiệp

Thời kỳ này tính từ khi loài người xuất hiện cho đến khoảng năm 6000 năm trước công nguyên, với các đặc điểm chế độ công xã nguyên thủy chuyển dần sang chế độ chiếm hữu nô lệ, hoạt động kinh tế của con người chủ yếu gắn liền với việc săn bắn, hái lượm với công cụ lao động bằng đá.

Những số liệu về dân số của thời kỳ này phần lớn mang tính chất phỏng đoán. Trong nhiều thiên niên kỷ, tuy tỷ suất sinh rất cao nhưng tỷ suất tử vong cũng cao xấp xỉ, nên mức gia tăng tự nhiên rất thấp (0,04%). Con người chết vì đói rét, bệnh tật và vì xung đột giữa các bộ lạc.

Đó là kết quả của trình độ phát triển lực lượng sản xuất thấp kém và tình trạng lệ thuộc gần như hoàn toàn của con người vào tự nhiên. Môi trường tự nhiên đã đặt ra giới hạn cho sự phát triển dân số thời kỳ ấy.

• Thời kỳ phát triển hoạt động sản xuất nông nghiệp

Cuộc cách mạng đồ đá mới đã làm xuất hiện chăn nuôi, trồng trọt và chuyển hoạt động từ săn bắt, hái lượm sang sản xuất các sản phẩm nông nghiệp.

Về mặt kinh tế - xã hội, đây là thời kỳ tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ và hình thành chế độ phong kiến. Công cụ lao động bằng đá được thay thế bằng đồ đồng, đồ sắt. Các nền văn minh cổ xưa nhất của loài người ra đời (Hy Lạp, Ai Cập, Trung Quốc, Ấn Độ). Lực lượng sản xuất biến đổi không ngừng.

Việc chuyển chăn nuôi và trồng trọt bắt đầu ở vùng Cận Đông đã đóng vai trò quan trọng trong động thái dân số. Sự phát triển của nhân loại gắn liền với việc phát hiện và sử dụng kim loại, nhất là sắt, với việc hoàn thiện các ngành trồng trọt, chăn nuôi và phát minh mới về kỹ thuật. Trên cơ sở này số dân tăng nhanh hơn.

Việc hình thành các khu vực quần cư lớn hàng triệu người tập trung tại các vùng có nền văn minh dựa trên cơ sở nền nông nghiệp được tưới nước như Ai Cập, Ấn Độ, Trung Quốc có tác động rất lớn đến mức gia tăng dân số.

Vào đầu công nguyên, dân số thế giới đã đạt 200-250 triệu người, năm 1000 có khoảng 300 triệu người (tăng 20% trong vòng 1000 năm), đến nửa đầu thế kỷ XVII, dân số thế giới đã đạt đến mức 500 triệu dân.

• Thời kỳ cách mạng công nghiệp

Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên đã diễn ra vào nửa sau thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII ở các nước châu Âu đánh dấu bước phát triển của nền kinh tế hiện đại, tạo nên bước chuyển biến to lớn về chất trong các hoạt động của con người. Đây là thời kỳ phát sinh, phát triển của chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới. Mặt khác, từ thế kỷ XVIII trở đi, việc điều tra dân số đã được tiến hành rộng rãi ở nhiều nước, số liệu dân số đầy đủ và chính xác hơn.

Cuộc cách mạng tư sản ở nhiều nước Tây Âu (cuối thế kỷ XVII-XVIII) đã đẩy nhanh nhịp độ phát triển các ngành kinh tế, trước hết là công nghiệp. Trong công nghiệp và nông nghiệp có nhiều đổi mới, cho phép chuyển một bộ phận từ nông nghiệp sang công nghiệp nhưng năng suất lao động nông nghiệp vẫn tăng. Giao thông vận tải ngày càng được hoàn thiện. Nền y học hiện đại và sự cải thiện điều kiện vệ sinh bắt đầu được quan tâm trên quy mô lớn. Tất cả các yếu tố trên đã góp phần quyết định mức gia tăng dân số thế giới.

Nhịp độ phát triển dân số liên tục tăng: 0,45% (1800), 0,52% (1850), 0,62% (1900), và đạt trên 1% và những năm trước chiến tranh thế giới thứ hai. Dân số thế giới đạt 1 tỷ khoảng năm 1840, 2 tỷ vào năm 1930, 2,5 tỷ vào năm 1945.

Cũng trong thời kỳ này, sự chuyển cư quốc tế được thực hiện với quy mô lớn, làm thay đổi ít nhiều trong sự phân bố dân cư thế giới. Từ năm 1846 đến năm 1930, đã có hơn 50 triêu người từ châu Âu sang định cư tại các châu lục khác, đặc biệt là khu vực Bắc Mỹ, Mỹ Latinh và châu Úc. Cũng trong thời gian này, hàng triệu người từ Trung Quốc và Ấn Độ di cư sang các nước khác trong khu vực Đông Nam Á, nam Thái Bình Dương và châu Phi.

Thời gian từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, thế giới có nhiều thay đổi lớn về kinh tế và công nghệ. Nhiều kỹ thuật tiên tiến được ứng dụng rộng rãi vào nhiều ngành sản xuất và đời sống ở nhiều nơi trên thế giới. Con người đã khống chế được nạn đói và các loại dịch bệnh.

Bản đồ chính trị của thế giới có nhiều thay đổi, phần lớn các nước thuộc địa đã giành được độc lập, hệ thống xã hội chủ nghĩa phát triển mạnh. Việc nhiều dân tộc thuộc địa thoát khỏi ách thống trị của đế quốc là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến động lực dân số thế giới.

Dân số thế giới từ sau thế chiến thứ hai gia tăng nhanh và liên tục đã dẫn đến bùng nổ dân số. Dân số thế giới đạt tỷ thứ 4 vào năm 1975 và tỷ thứ năm vào năm 1987, tỷ thứ 6 vào năm 2000.

Nguyên nhân chủ yếu là do sự thay đổi mức tử vong và tuổi thọ trung bình. Mặt khác, tỷ suất sinh vẫn ở mức cao cùng với việc giảm tỷ suất tử vong đã tạo nên nhịp độ gia tăng dân số rất lớn.

Nhìn chung, tình hình dân số thế giới có nhiều chuyển biến lớn trong thời kỳ thứ ba này. Tuy nhiên, ở mỗi khu vực khác nhau trên thế giới, quá trình phát triển dân số diễn ra không giống nhau, thậm chí hoàn toàn trái ngược nhau. Dân số của các nước kinh tế phát triển trải qua thời kỳ biến đổi mạnh và tiến tới ổn định, trong khi đó, dân số của các nước đang phát triển vẫn tiếp tục gia tăng với nhịp độ cao.

4.3.3. Quá trình chuyển tiếp dân số

Quá trình chuyển tiếp dân số được xây dựng dựa trên sự quan sát quá trình biến động của dân số các nước phát triển, chủ yếu là các nước Tây Âu, nơi có quá trình giảm mức sinh và giảm mức gia tăng dân số diễn ra sớm nhất. Ở đây, tình trạng dân số ổn định mới đã đạt được với mức sinh thấp và tỷ lệ gia tăng thấp thậm chí bằng zero hoặc không tăng hoặc giảm chút ít.

Quá trình dân số đi từ mức sinh cao, mức tử vong cao sang mức sinh thấp, mức tử vong thấp gọi là quá trình chuyến tiếp dân số hay quá độ dân số (demographic transition). Quá trình này trải qua 5 giai đoạn:

- Giai đoạn A: mức sinh cao, mức tử vong cao. Giai đoạn này ứng với tình hình châu Âu trước cách mạng công nghiệp và hiện nay chỉ còn ở một số nước châu Phi nam Sahara.

Năm 1991 Tỷ suất sinh (‰) Tỷ suất tử (‰)

Mali 51 21

Niger 51 19

Sierra Leone 48 22

- Giai đoạn B: mức sinh cao, mức tử vong bắt đầu giảm, tương ứng tình hình dân số của nhiều nước châu Phi và một số nước châu Á.

Năm 1991 Tỷ suất sinh (‰) Tỷ suất tử (‰)

Bờ biển ngà 50 15

Liberia 47 15

Irak 41 15

Bangladesh 37 13

- Giai đoạn C: mức sinh vẫn còn cao nhưng mức tử vong đã giảm xuống rất thấp. Đây là giai đoạn bùng nổ dân số (population boom). Mỹ Latinh và một vài nước châu Phi là những nơi có mức tăng dân số cao nhất thế giới, trên 3%.

Năm 1991 Tỷ suất sinh (‰) Tỷ suất tử (‰)

Kenya 46 7

Cap Vert 40 8

Namibia 43 11

Iran 41 8

- Giai đoạn D: mức sinh đã giảm và mức tử vong rất thấp. Đã ra khỏi giai đoạn bùng nổ dân số và có nhiều hy vọng hoàn tất quá trình chuyển tiếp dân số.

Năm 1991 Tỷ suất sinh (‰) Tỷ suất tử (‰)

Argentina 21 8

Uruguay 18 10

Trung Quốc 21 7

Việt Nam 32 9

Philippines 33 7

- Giai đoạn E: mức sinh rất thấp và mức tử vong rất thấp. Dân số tăng rất ít hoặc ngừng gia tăng.

Năm 1991 Tỷ suất sinh (‰) Tỷ suất tử (‰)

Đan Mạch 12 12

Đức 11 11

Hoa Kỳ 17 9

Nhật Bản 10 7

Trong thực tế, dân số các nước có thể trải qua quá trình này với nhiều mức độ và thời gian dài ngắn khác nhau. Năm giai đoạn này được khái quát hóa thành một sơ đồ gọi là sơ đồ chuyển tiếp dân số với những tiến trình đã được đơn giản hóa tối đa.

4.3.4. Các xu hướng biến động dân số

Trên thế giới có sự phân hóa về tốc độ gia tăng dân số theo lãnh thổ. Sự phân hóa ấy có thể phân biệt ứng với các nước kinh tế phát triển và đang phát triển.

Căn cứ vào tỷ suất gia tăng tự nhiên, có thể phân biệt thành 4 xu hướng biến động dân số như sau:

• Nhóm các nước có dân số không phát triển hoặc phát triển rất chậm

Tỷ suất sinh bằng hoặc thậm chí thấp hơn tỷ suất tử vong, tỷ suất gia tăng dân số hàng năm bằng 0 hoặc mang giá trị âm. Hầu hết các nước châu Âu có dân số ổn định hoặc giảm. Theo UNFPA, các nước Latvia, Estonia, Bulgaria, Hungary, Romania, Croatia có tốc độ phát triển dân số âm bình quân thời kỳ 1995-2000. Nhiều nước có tốc độ phát triển dân số bình quân thời kỳ 1995-2000 bằng không.

• Nhóm các nước có dân số phát triển chậm

Tỷ suất sinh thấp, tỷ suất tử vong cũng thấp, tỷ suất gia tăng hàng năm dưới 1% như Hàn Quốc (0,9% bình quân thời kỳ 1999-2000); Singapore, các nước Bắc Mỹ, Úc, Jamaica và Puerto Rico (0,8%); Cuba và Uruguay (0,6%); Nhật (0,5%); Slovakia, Na Uy, Thụy Điển, Pháp và Phần Lan (0,4%); Ba Lan (0,2%); Cộng hòa Czech (0,1%).

• Nhóm các nước có dân số phát triển ở mức trung bình

Tỷ suất sinh tương đối cao, tỷ suất tử vong trung bình, tỷ suất gia tăng tự nhiên dưới 2% như Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ (1,8% bình quân thời kỳ 1995-2000); Indonesia, Israel (1,5%); Trung Quốc, Thái Lan (1,0%).

• Nhóm các nước có dân số phát triển nhanh hoặc rất nhanh

Tỷ suất sinh cao, tỷ suất tử vong thấp hay trung bình, tỷ suất gia tăng tự nhiên thường trên 2%, một số nước xấp xỉ 4%: Kenya (3,9%); Zambia (3,8%); Mozambique (3,4%); Angola, Liban, Nigeria (3,3%); Liberia, Namibia (3,2%); Togo, Zaire (3,0%); Ethiopia, Uganda, Botswana, Benin, Gana, Guinea (2,9% - thời kỳ 1995-2000).

4.4. QUAN ĐIỂM VỀ BIẾN ĐỘNG DÂN SỐ

• Quan điểm của Malthus

Thomas Robert Malthus (1766-1834) là một mục sư, nhà kinh tế học người Anh đã xây dựng nên học thuyết dân số với các quan điểm chính:

- Dân số luôn có xu hướng tăng lên theo cấp số nhân, lương thực thực phẩm và các phương tiện sinh hoạt chỉ tăng theo cấp số cộng.

- Quy luật dân số là quy luật tự nhiên và vĩnh viễn, con người sẽ không hạn chế được sinh sản dưới mức tối đa về mặt sinh học.

- Dân số tăng nhanh là nguồn gốc của đói nghèo, không liên hệ gì hoặc liên hệ rất ít đến cách quản lý xã hội và phân phối thu nhập.

- Nếu không được kiểm soát, sẽ đến một lúc nào đó, dân số tăng tới mức tận dụng hết diện tích đất đai, lúc ấy mức sống sẽ giảm xuống nhanh chóng.

Từ đó, ông đề cập đến các nhân tố liên quan tới tỷ suất tử vong mà ông gọi là các biện pháp hạn chế mạnh để kiểm soát mức gia tăng dân số. Ông cho rằng, sinh đẻ bừa bãi đã gây ra nạn "nhân mãn" làm cho xã hội đói khổ, chiến tranh, dịch bệnh... xảy ra là tất yếu để hạn chế sự gia tăng dân số.

Nhìn chung, quan điểm của Malthus có điểm tích cực là đã nêu lên được sự gia tăng dân số với mức nhanh nhưng cơ sở lý giải và các biện pháp hạn chế sự gia tăng dân số mà ông đưa ra lại mang tính tiêu cực, không phù hợp với nhân bản của con người.

• Quan diểm Marxist

Marx (1818-1883) và Engels (1820-1895) cho rằng:

- Quy luật phát triển dân số không phải là quy luật tự nhiên và vĩnh viễn.

- Mỗi hình thái xã hội đều có quy luật riêng về dân số.

- Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia có trách nhiệm xác định số dân tối ưu của mình căn cứ vào những điều kiện địa lý, tài nguyên, và kinh tế - xã hội cụ thể của đất nước mình.

- Các vấn đề dân số hay dư thừa lao động là kết quả của hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa, nguyên nhân của sự nghèo khổ nằm ngay chính trong lòng chủ nghĩa tư bản, mà sự thể hiện ở sự bần cùng hóa giai cấp vô sản và có thể được giải quyết bằng việc lập lại trật tự xã hội.

Marx và Engels cũng bác bỏ quan điểm của Malthus cho rằng sự gia tăng dân số đòi hỏi tăng cường cứu tế, nghèo đói là sản phẩm của người nghèo.

Chöông 5

HIỆN TƯỢNG SINH SẢN

5.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA

Sinh sản là một trong ba quá trình của biến động dân số: sinh sản, tử vong và di dân.

- Sinh sản: là một hiện tượng sinh vật học, đóng vai trò thay thế và duy trì về mặt sinh học của xã hội loài người

- Thời kỳ khả sản: là thời kỳ mà người phụ nữ có khả năng sinh sản. Thời kỳ này kéo dài từ tuổi bắt đầu có kinh nguyệt đến khi mãn kinh. Để thuận tiện cho việc tính toán trong thực tế, thời kỳ khả sản thường được xác định bắt đầu từ tuổi 15 và kết thúc ở tuổi 49.

- Hiện tượng vô sinh: vô sinh hay không có khả năng sinh sản là hiện tượng người đàn ông hay đàn bà hay cặp vợ chồng thiếu khả năng sinh ra một đứa trẻ còn sống. Vô sinh bao gồm: vô sinh tự nhiên và vô sinh do bệnh lý.

Tuổi là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự vô sinh tự nhiên. Ở giai đoạn đầu của thời kỳ khả sản, người phụ nữ ít có khả năng có thai do tế bào trứng rụng không đều đặn. Khả năng có thai, tương tự như tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi, sẽ đạt mức cao nhất ở độ tuổi 20-29, sau đó sẽ giảm xuống cho đến tuổi mãn kinh, khoảng 50 tuổi, khi đó người phụ nữ vĩnh viễn hết khả năng sinh sản.

Vô sinh do bệnh lý chỉ hiện tượng vô sinh do bệnh tật, nhất là các bệnh do quan hệ tình dục. Các chuyên gia nghiên cứu đã chỉ ra bệnh lậu là nguyên nhân của mức sinh thấp ở các nước Trung Phi, khoảng 20% phụ nữ độ tuổi 45-49 ở nhiều vùng Trung Phi không có con.

Nghiên cứu hiện tượng sinh sản nhằm tìm hiểu: khả năng và mức sinh, cường độ và lịch trình sinh sản của dân số. Từ đó, dự đoán xu hướng biến động và phát triển của dân số. Hiện tượng sinh sản có thể được nghiên cứu trên hai bình diện: số trẻ được sinh ra và những người mẹ có sinh con.

Việc phân tích một số tỷ suất sinh được đề cập đến trong chương này sẽ giúp ích cho công tác đánh giá chính xác tình hình dân số và là cơ sở cho các dự báo dân số.

5.2. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN MỨC SINH

5.2.1. Hôn nhân và tuổi kết hôn

Hôn nhân là một hiện tượng mang tính xã hội, là những ràng buộc về pháp lý hoặc phong tục tập quán, tôn giáo. Trong nhiều trường hợp, hôn nhân là hình thức hợp pháp để có thể sinh con, hầu hết trẻ em được sinh ra là trong giá thú. Do đó, tỷ suất sinh phụ thuộc vào mức độ kết hôn, hay nói khác đi, hôn nhân là yếu tố ảnh hưởng thuận đến mức sinh.

Tuổi kết hôn là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến mức sinh. Tuổi kết hôn là độ tuổi được quyền xây dựng gia đình theo luật pháp hoặc theo tập quán. Tuổi kết hôn thay đổi theo thời gian và không gian. Ở đa số các quốc gia, việc xác định tuổi kết hôn thường có tính đến sự trưởng thành về giới tính và tâm lý xã hội. Nhìn chung, tuổi kết hôn càng sớm thì càng có nhiều khả năng có con đông.

Ngoài ra, tỷ lệ người sống độc thân (cả nam và nữ), tỷ lệ ly hôn, tỷ lệ tái giá... cũng là những yếu tố có ảnh hưởng đến mức sinh của cộng đồng dân cư

5.2.2. Mức sống dân cư

Điều kiện sống, mà chủ yếu là mức sống, mức thu nhập có ảnh hưởng nhiều đến mức sinh. Về mặt sinh học, người có mức sống cao, điều kiện sức khỏe tốt thì mức sinh không khác gì với người có mức sống thấp. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, những người nghèo, những nước đang phát triển có mức sống của đa số dân cư còn thấp thì tỷ suất sinh sản tự nhiên thường cao hơn những nước có nền kinh tế phát triển.

5.2.3. Phong tục tập quán - tôn giáo

Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc có những quan niệm riêng về hôn nhân và gia đình. Ở nhiều nước, quan niệm "trời sinh voi sinh cỏ, con đàn cháu đống, tứ đại đồng đường là đại phúc" hay tâm lý "trẻ cậy cha, già cậy con"... là rất phổ biến. Ngoài ra, trong xã hội nông nghiệp, con cái được xem là nguồn lao động, là chỗ dựa tinh thần và vật chất cho cha mẹ khi về già. Do đó, ở các nước này, mức sinh thường rất cao.

Tôn giáo, tín ngưỡng là yếu tố có ảnh hưởng đáng kể đến mức sinh. Người theo đạo Thiên Chúa hay đạo Hồi thường có mức sinh cao. Đối với đạo Thiên Chúa, họ khuyến khích đông con, ủng hộ gia đình quy mô lớn và không chấp nhận các biện pháp tránh thai có hiệu quả. Đối với Hồi giáo, họ không chấp nhận triệt sản và nạo phá thai khi thai đã được bốn tháng. Mặt khác, phần lớn người Hồi giáo sống trong xã hội nông nghiệp truyền thống mà ở đó trẻ em mang lại lợi ích kinh tế cho gia đình, trình độ giáo dục thường thấp, kết hôn sớm được khuyến khích, phụ nữ ít được học hành, thường chịu lệ thuộc và bị giới hạn trong các công việc nhà.

5.2.4. Trình độ học vấn

Trình độ học vấn của dân cư, đặc biệt là của người phụ nữ thường có ảnh hưởng nghịch đến mức sinh, càng biết chữ và học vấn càng cao thì càng có xu hướng giảm mức sinh. Điều này đúng cho cả các vùng nông thôn và đô thị. Việc giáo dục phổ cập và nâng cao trình độ học vấn trong dân cư ảnh hưởng đến mức độ sinh vì nó làm tăng tuổi kết hôn và giảm tỷ lệ những người kết hôn, cũng như trong thái độ đối với số con muốn có và trong việc chấp nhận các phương pháp sinh đẻ có kế hoạch.

Ngoài ra, tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế của phụ nữ, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế, xã hội, chính trị, chính sách và luật pháp của nhà nước về vấn đề dân số và hôn nhân... cũng là những yếu tố có ảnh hưởng đến mức sinh.

5.3. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ MỨC SINH

5.3.1. Tỷ suất sinh nguyên (CBR = Crude Birth Rate)

B

CBR = -------- x 1000‰

P

Trong đó:

- B: số trẻ được sinh trong năm.

- P: dân số trung bình năm.

Chỉ tiêu này mang tính tổng quát và thường không chính xác khi dùng đo lường mức sinh vì nó không tính đến sự khác biệt về cơ cấu tuổi và giới tính trong dân số. Mặt khác, trong thực tế, chỉ có một bộ phận phụ nữ là sinh sản được nhung số sinh lại được so sánh với toàn dân số.

Ngoài ra, còn có các nguyên nhân khác ảnh hưởng đến sinh suất như: tỷ lệ phụ nữ trong dân số đã lập gia đình (có chồng), tuổi lập gia đình sớm hay muộn, mức độ áp dụng các biện pháp kế hoạch hóa gia đình.

5.3.2. Tỷ suất sinh tổng quát (GFR = General Fertility Rate)

B

GFR = ----------- x 1000‰

W15-49

Trong đó:

- B: số trẻ được sinh trong năm.

- W15-49: số phụ nữ trong tuổi khả sản.

Tỷ suất này còn gọi là suất sinh sản toàn tuổi, nó chính xác hơn sinh suất nguyên vì có chú ý đến thành phần phụ nữ ở độ tuổi có thể sinh sản được.

5.3.3. Tỷ suất sinh theo tuổi, lớp tuổi (ASFR = Age Specific Fertility Rate)

• Tỷ suất sinh sản của phụ nữ ở tuổi x:

Bx

ASFRx = ----------- x 1000‰

Wx

Trong đó:

- Bx: số trẻ do các bà mẹ tuổi x sinh trong năm.

- Wx: số phụ nữ ở tuổi khả sản x.

• Tỷ suất sinh sản của phụ nữ ở lớp tuổi (x, x+4)

Bx,x+4

ASFRx,x+4 = ----------- x 1000‰

Wx,x+4

Trong đó:

Bx,x+4: số trẻ do các bà mẹ tuổi (x,x+4) sinh trong năm.

Wx,x+4: số phụ nữ ở tuổi khả sản (x,x+4).

Tỷ suất này cũng không phân biệt phụ nữ có chồng hay không có chồng. Suất sinh sản của phụ nữ có chồng thường cao hơn suất sinh sản tổng quát ở mọi lứa tuổi.

5.3.4. Tổng tỷ suất sinh (TFR = Total Fertility Rate)

Tổng tỷ suất sinh là tổng cộng của 35 suất sinh sản theo tuổi của phụ nữ từ 15 đến 49 tuổi, cũng còn được định nghĩa là số con trung bình có thể có của một phụ nữ với giả thiết người phụ nữ này có mức sinh ở từng độ tuổi giống mức sinh của toàn bộ nhóm phụ nữ đang được nghiên cứu.

49

TFR =  ASFRx

15

Lưu ý: khi tính tổng tỷ suất sinh theo từng lớp 5 tuổi, phải nhân thêm với 5, vì người phụ nữ cần phải có 5 năm để chuyển từ lớp tuổi này sang lớp tuổi kế tiếp.

45-49

TFR =  ASFRx,x+4 x 5

15-19

5.3.5. Hệ số tái sinh nguyên (GRR = Gross Reproduction Rate)

Là trung bình số trẻ em gái do một phụ nữ sinh được trong suốt cuộc đời sinh sản của họ, với giả thuyết không có tử vong ở trẻ sơ sinh gái.

GRR = TFR x hệ số sinh con gái

Hệ số sinh con gái thường dao động trong khoảng 0,488 - 0,49.

Chỉ số GRR cho biết được khả năng sinh sản của dân cư ở một lãnh thổ nào đó trong tương lai.

Tuy nhiên, trên thực tế, không phải tất cả số trẻ em gái được sinh ra đều sống được cho tới khi trưởng thành, xây dựng gia đình và sinh con. Do đó, để thấy khả năng thay thế thực sự, phải dùng chỉ tiêu hệ số tái sinh tịnh.

5.3.6. Hệ số tái sinh tịnh (NRR = Net Reproduction Rate)

Hệ số tái sinh tịnh, còn gọi là suất thay thế, là trung bình số trẻ em gái do một phụ nữ sinh được trong suốt cuộc đời sinh sản của họ, trong đó có tính đến yếu tố tử vong ở trẻ sơ sinh gái.

NRR = TFR x hệ số sinh con gái x Lx

49

NRR = 0,49 x  (ASFRx x Lx )

15

Trong đó Lx: là xác suất sống của con gái từ khi sinh ra sống đến tuổi x (tuổi của bà mẹ sinh ra mình). Lx thường được tính trong bảng sống.

- Nếu: NRR = 1: tái sản xuất dân cư giản đơn.

NRR > 1: tái sản xuất dân cư mở rộng.

NRR

Chöông 6

HIỆN TƯỢNG TỬ VONG

6.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA

- Tử vong hay chết là mất khả năng sống, không còn biểu hiện của sự sống.

- Nghiên cứu tử vong của dân số nhằm tìm hiểu mức tử vong, xu hướng tử vong; so sánh mức tử vong giữa các nhóm dân số khác nhau; tìm hiểu các yếu tố kinh tế xã hội và môi trường ảnh hưởng đến mức độ và xu hướng tử vong.

Từ đó, xác định nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt về mức tử vong giữa các bộ phận dân cư; xây dựng hệ thống các chỉ tiêu đánh giá, đo lường mức tử vong; xây dựng một hệ thống các biện pháp nhằm giảm mức tử vong; dựa vào xu hướng biến động của mức tử vong, xác định xu hướng biến động của quy mô dân số.

Ngoài ra, nghiên cứu tử vong còn cho phép thu thập các thông tin về người đã chết như: tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp và ngành nghề kinh tế, trình độ học vấn, số con đã sinh (đối với phụ nữ)... sẽ giúp tìm hiểu đặc điểm của người chết hoặc tìm hiểu các nguyên nhân liên quan dẫn đến cái chết (chẳng hạn như các loại bệnh có liên quan đến các ngành kinh tế cụ thể).

6.2. NGUYÊN NHÂN VÀ SỰ KHÁC BIỆT VỀ MỨC TỬ VONG

6.2.1. Nguyên nhân tử vong

Đối với các nhà thống kê y tế và dịch tễ học thì việc thống kê mức độ và xu hướng của từng loại nguyên nhân tử vong là điều cần thiết.

Các nhà Dân số học cũng quan tâm nhiều đến xu hướng tử vong theo nguyên nhân vì sự ảnh hưởng của nó đến mức độ tử vong chung, đến mô hình tử vong theo tuổi và sự khác nhau về mức độ tử vong giữa các giới và các nhóm dân số khác nhau.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tử vong như:

• Chiến tranh

Nhất là chiến tranh sử dụng vũ khí hiện đại là một trong những nguyên nhân trực tiếp gây chết người hàng loạt trong một thời gian ngắn.

Thế giới đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh với quy mô lớn như cuộc chiến tranh của Hốt Tất Liệt, Napoléon, Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và thứ hai, các cuộc chiến xảy ra ở nhiều khu vực đã làm chết hàng triệu người. Trong cuộc chiến tranh của Napoléon, riêng số người Pháp bị chết lên tới 1,2 triệu người. Trong suốt một thế kỷ, từ năm 1815-1914, số người chết vì chiến tranh xâm lược thuộc địa, nội chiến... ở các nước châu Âu là 2,27 triệu người. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1917) chỉ trong vòng 4 năm, số người chết tại các nước châu Âu và các nước thuộc địa là 15,589 triệu người. Từ 1918-1939, số người chết trận là 1,318 triệu người. Thiệt hại về người trong Đại chiến thế giới lần thứ hai (1939-1945) là 60 triệu người (trong đó, riêng Liên Xô chết 20 triệu người). Hai quả bom nguyên tử của Mỹ thả xuống Hiroshima và Nagasaki năm 1945 đã làm chết ngay tại chỗ 160.000 người (chưa kể những người bị chết do nhiễm xạ sau này).

Ngoài ra, chiến tranh còn là nguyên nhân gián tiếp làm tăng tỷ suất tử vong bởi vì chiến tranh thường kéo theo tình trạng đói kém, bệnh tật, tàn phá môi sinh với quy mô lớn và kéo dài, gây nên những hậu quả rất xấu cho đời sống kinh tế, xã hội những năm hậu chiến.

• Nạn đói và dịch bệnh

Đây cũng là những tai họa khủng khiếp đối với con người và nó làm tăng tỷ suất tử vong một cách đột ngột trong những thời điểm nhất định. Vào những thế kỷ trước, dịch bệnh là mối đe dọa thường xuyên của con người. Các loại dịch bệnh như đậu mùa, dịch tả, dịch hạch...có sức lây lan nhanh, làm chết hàng loạt người trong một khoảng thời gian ngắn. Ở châu Âu vào cuối thế kỷ XIV-XV, dịch hạch đã từng làm chết hàng triệu người.

Ngày nay, với sự tiến bộ không ngừng, ngành y học và dịch tễ học đã khống chế được nhiều loại dịch bệnh gây chết người trên quy mô lớn. Tuy nhiên, cuộc chiến chống lại bệnh tật vẫn phải tiếp tục. AIDS - một căn bệnh của thế kỷ, có khả năng lây truyền nhanh và gây tử vong với quy mô lớn cho đến nay vẫn chưa có thuốc đặc trị. Số người bị nhiễm HIV và chuyển thành bệnh AIDS ngày càng tăng với tốc độ khủng khiếp.

• Các loại bệnh tật

Bệnh truyền nhiễm và siêu vi trùng, bệnh ung thư, bệnh của hệ thống tuần hoàn, bệnh của hệ thống hô hấp, bệnh tật bẩm sinh (do đột biến hoặc do di truyền), các bệnh thường mắc phải ở trẻ em... là những nguyên nhân có khả năng gây tử vong ở mức cao cho dân cư.

Các công trình nghiên cứu, thống kê một số loại bệnh gây chết người nhiều nhất cho thấy mức độ gây tử vong ở các nước có khác nhau. Ở các nước công nghiệp phát triển, các bệnh gây tử vong được xếp theo thứ tự giảm dần gồm: bệnh tim, ung thư, các bệnh về máu, tổn thương thần kinh trung ương, cúm và viêm phổi; ở các nước đang phát triển, thứ tự các bệnh như sau: bệnh về đường tiêu hóa, cúm, viêm phổi, tim, u ác tính, sốt rét.

• Các nguyên nhân khác

Chẳng hạn như chết do thiên tai như động đất, núi lửa, sóng thần, bão lụt...; chết do tai nạn như tai nạn giao thông, tai nạn lao động, chết do ngộ độc, chết cháy, chết vì bị giết, tự vẫn... Thiên tai ngày nay có xu hướng gia tăng, con người cùng với các hoạt động sản xuất và sinh hoạt của mình đã góp phần làm tăng thảm họa thiên tai. Trong các tai nạn do thiên tai mang tới, các nước đang phát triển phải gánh chịu đến 97% thiệt hại.

6.2.2. Sự khác biệt về mức tử vong

• Theo giới tính

Mức tử vong của nam thường cao hơn mức tử vong của nữ ở tất cả các độ tuổi và tuổi thọ trung bình của nam thường thấp hơn tuổi thọ trung bình của nữ.

Lý do nữ giới sống lâu hơn nam giới:

- Giải thích sinh vật học: trẻ sơ sinh gái có khả năng đề kháng tốt hơn đối với bệnh truyền nhiễm và có khả năng di truyền lại kháng thể này.

- Giải thích xã hội học: phụ nữ phải nuôi con, nên nam giới phải đảm nhận những nhiệm vụ quan trọng và nguy hiểm trong xã hội, hầu hết đàn ông là trụ cột của gia đình nên phải làm việc nhiều hơn.

- Môi trường, thói quen và sự mạo hiểm nghề nghiệp: thực tế nam giới thuờng làm những nghề mạo hiểm hơn nữ giới, do đó dễ gặp phải tai nạn hoặc bệnh tật nghề nghiệp.

- Thói quen văn hóa: trẻ em trai thường được khuyến khích làm những việc mạnh, mạo hiểm, nữ giới lại được dạy dỗ là phải quan tâm đến sức khỏe của mình hơn là nam giới.

- Lối sống: sự khác nhau về lối sống cũng là một yếu tố có ảnh hưởng đến sự khác nhau về mức độ tử vong giữa các giới: hút thuốc, nghiện rượu...

Nhìn chung, những nguyên nhân trên đây thường xuất phát từ yếu tố tâm lý nên rất khó can thiệp.

• Theo tuổi

- Mức tử vong ở tuổi sơ sinh thường rất cao.

- Từ 1-9 tuổi mức tử vong giảm nhanh.

- Từ 10-19 tuổi mức tử vong tiếp tục giảm và đạt mức thấp nhất.

- Từ 20 tuổi trở đi mức tử vong bắt đầu tăng chậm.

- Sau 60 tuổi mức tử vong cao nhất.

Nhận thấy rằng, một dân số có mức tử vong trẻ sơ sinh cao thì mức tử vong của người già cũng cao và ngược lại. Tỷ suất tử vong của trẻ sơ sinh và người già cao chứng tỏ kinh tế xã hội kém phát triển.

• Theo khu vực cư trú

- Nhìn chung, mức tử vong của dân số tại các nước phát triển thường thấp hơn các nước đang phát triển. Tại các nước đang phát triển, mức tử vong ở vùng nông thôn thường cao hơn mức tử vong ở thành thị.

- Vùng có môi trường sống khắc nghiệt thường có mức tử vong cao.

• Theo tình trạng xã hội

- Người làm công việc có địa vị thấp thường có mức tử vong cao.

- Người sống độc thân thường có mức tử vong cao hơn người có gia đình, do người độc thân thường rơi vào tình trạng trầm cảm, dễ buồn chán.

- Kinh tế phát triển, trình độ giáo dục và địa vị xã hội tăng sẽ dẫn đến việc giảm mức tử vong trong dân cư.

6.3. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ MỨC TỬ VONG

6.3.1. Tỷ suất chết thô (CDR = Crude Death Rate)

D

CDR = ------- x 1000‰

P

Trong đó:

- D: số người chết trong năm.

- P: dân số trung bình năm.

CDR là chỉ tiêu đo lường mức độ tử vong trung bình trong năm của toàn bộ dân số, nó đơn giản và dễ tính toán.

Ví dụ: CDR của Pháp 9 (o/oo), Việt Nam 8 (o/oo), Trung Quốc 7 (o/oo), Campuchia 13(o/oo).

Tuy nhiên, nếu dùng CDR làm chỉ tiêu để so sánh mức tử vong của các nhóm dân số khác nhau sẽ không chính xác vì:

- Mức tử vong thường có sự khác biệt theo giới tính và độ tuổi.

- Cấu trúc tuổi của các nhóm dân số thường không giống nhau.

- CDR không có sự phân biệt theo độ tuổi hay giới tính.

6.3.2. Tỷ suất chết đặc trưng theo tuổi (ASDR = Age Specific Death Rate)

Dx

ASDRx = -------- x 1000‰

Px

Trong đó:

- Dx: số người chết trong năm ở tuổi x.

- Px: dân số trung bình năm ở tuổi x.

Người ta thường tính các tỷ suất tử vong theo các lớp tuổi sau:

0 tuổi tròn năm (khoảng cách 1 năm)

1-4 tuổi tròn năm (khoảng cách 4 năm)

5-9 tuổi tròn năm (khoảng cách 5 năm)

10-14 tuổi tròn năm (khoảng cách 5 năm)...

Đối với từng tuổi hay nhóm tuổi, mức tử vong lại khác nhau giữa nam và nữ, do đó phải tính riêng cho từng giới.

6.3.3. Tỷ suất chết thô chuẩn hóa trực tiếp (DSDR = Direct Standardized Death Rate)

Do cách tính của ASDRx là đo lường mức độ tử vong cho từng độ tuổi nên chỉ tiêu này không phụ thuộc vào cấu trúc tuổi của dân cư mà chỉ phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội. Tuy nhiên, khi dùng ASDRx để so sánh mức độ tử vong giữa các nhóm dân số cũng còn nhiều phức tạp. Vì vậy, khi so sánh các tỷ suất tử vong giữa các nhóm dân số khác nhau cần phải cố định sự khác nhau về cơ cấu tuổi bằng kỹ thuật gọi là phương pháp chuẩn hóa.

Bản chất của phương pháp chuẩn hóa là tạo ra một chỉ tiêu đơn để thuận tiện trong việc so sánh mức độ tử vong của các nhóm dân số. Chỉ tiêu này sẽ mang một cấu trúc tuổi chuẩn nào đó.

Giả sử có hai dân số (A) và (B) cần được so sánh các mức độ tử vong. Nếu lấy cấu trúc tuổi của dân số (A) làm chuẩn thì tỷ suất chết thô chuẩn hóa tính được là của (B), theo công thức:

PxA

DSDRB =  (ASDRxB x ------ )

P A

Trong đó: PxA / P A: tỷ trọng số dân ở mỗi độ tuổi so với tổng dân số của (A).

Khi đó, các chỉ số cần so sánh sẽ là: CDRA và DSDRB, kết quả so sánh sẽ chính xác hơn.

Nếu: CDRA > DSDRB: mức tử vong của A cao hơn B

CDRA

6.3.4. Tỷ suất chết của trẻ sơ sinh (IMR = Infant Mortality Rate)

D0

IMR = -------- x 1000‰

B

Trong đó:

- D0: số trẻ chết trong năm ở 0 tuổi.

- B: tổng số trẻ sinh ra trong năm.

IMR là chỉ tiêu đo lường mức độ chết của trẻ sơ sinh, không phụ thuộc vào cấu trúc tuổi, chỉ phụ thuộc vào kinh tế xã hội. IMR là chỉ tiêu đơn giản, dễ tính toán, có thể dùng để so sánh.

Tỷ suất tử vong trẻ sơ sinh là tiêu chuẩn đánh giá trình độ nuôi dưỡng và tình hình sức khỏe chung của trẻ em ở một lãnh thổ (tình trạng vệ sinh, y tế, dinh dưỡng...).

• Các yếu tố ảnh hưởng đến mức tử vong của trẻ sơ sinh

- Yếu tố thuộc về người mẹ: tuổi, số lần sinh, khoảng cách giữa các lần sinh, trình độ văn hóa...

- Sự ô nhiễm môi trường: nước, không khí, thức ăn, côn trùng làm lây lan bệnh dịch...

- Điều kiện dinh dưỡng: thiếu dinh dưỡng, protein, vitamin và chất khoáng...

Ngoài ra còn các yếu tố: thương tật, việc kiểm soát bệnh tật như phương pháp phòng tránh, điều trị bệnh...

6.3.5. Tuổi thọ trung bình

Tuổi thọ trung bình hay kỳ vọng sống (life expectancy) là số năm trung bình ước tính mà một người được sinh ra có khả năng sống được.

Tuổi thọ trung bình và tỷ suất tử vong có liên quan với nhau. Trong điều kiện cơ cấu tuổi như nhau, nước nào có tuổi thọ trung bình của dân cư càng cao thì tỷ suất tử vong của nước đó càng thấp.

Trong lịch sử phát triển, tuổi thọ trung bình của dân số thế giới thay đổi với xu hướng ngày càng tăng. Vào thời kỳ nguyên thủy, tuổi thọ trung bình của con người chỉ khoảng 18-20 năm, tăng lên 21 năm (thời phong kiến ở châu Âu), 34 năm (thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản) và hiện nay là 63 năm đối với nam, 67 năm đối với nữ (1992).

Tuổi thọ trung bình có sự khác biệt theo giới tính và giữa các quốc gia. Nữ giới thường có tuổi thọ trung bình cao hơn nam giới. Tuổi thọ trung bình của dân cư ở các nước kinh tế phát triển thường cao hơn các nước đang phát triển (71/61 tuổi, 1992). Những nước có tuổi trung bình của dân cư cao nhất thế giới là những thuộc Bắc Âu, Bắc Mỹ (76 tuổi), thấp nhất là ở các nước thuộc khu vực Trung Phi và Đông Phi (47-52 tuổi).

6.4. Tính tuổi thọ trung bình

Nguyên tắc: tìm tổng số năm mà tất cả mọi người trong thế hệ đã sống được chia cho tổng số dân của thế hệ đó khi chào đời (S0).

Giả thiết:

- Một người sống từ một tuổi đúng này qua một tuổi đúng khác thì người ấy sống được 1 năm trọn.

- Những người chết giữa hai tuổi đúng, quy ước mỗi người này trung bình sống được 0,5 năm.

- Giả sử tất cả mọi người trong thế hệ đều chết ở tuổi 105.

Ta có:

Tuổi đúng

x Số người sống

đến tuổi đúng x Tổng số năm

sống trọn Số người chết

giữa 2 tuổi đúng TS năm sống của những người chết giữa 2 tuổi đúng

0 S0

1 S1 S1 S0 - S1 0,5 (S0 - S1)

2 S2 S2 S1 - S2 0,5 (S1 - S2)

3 S3 S3 S2 - S3 0,5 (S2 - S3)

... ... ... ... ...

104 S104 S104 S103 - S104 0,5 (S103 - S104)

105 S105 = 0 0 S104 0,5 S104

- Tổng số năm sống trọn:

S1 + S2 + S3 +...+ S104

- Tổng số năm sống được của những người chết giữa hai tuổi đúng:

0,5 (S0 - S1) + 0,5 (S1 - S2) +... + 0,5 (S103 - S104) + 0,5 S104 = 0,5 S0

- Tổng số năm tất cả mọi người trong thế hệ sống được:

0,5 S0 + S1 + S2 + S3 +...+ S104

Như vậy, tuổi thọ trung bình sẽ bằng:

0,5 S0 + S1 + S2 + S3 +...+ S104

eo = -------------------------------------------

S0

hay:

S1 + S2 + S3 +...+ S104

eo = 0,5 + ----------------------------------

S0

Chöông 7

HIỆN TƯỢNG DI DÂN

7.1. KHÁI NIỆM

"Di dân (migration) là một hình thức di chuyển trong không gian của con người từ một đơn vị địa lý hành chính này đến một đơn vị địa lý hành chính khác, kèm theo sự thay đổi chỗ ở thường xuyên trong khoảng thời gian di dân xác định" (Liên hiệp quốc, 1958).

Định nghĩa của Liên hiệp quốc đã loại ra những trường hợp người sống lang thang, dân du mục, di dân theo mùa và di dân theo kiểu con lắc (đi về hàng ngày). Nhìn chung, ở đa số các nước, dân cư di chuyển ra khỏi giới hạn hành chính của một thành phố, tỉnh, huyện trong một khoảng thời gian xác định được xem là di dân.

Như vậy, di dân hay di cư bao gồm hai quá trình: xuất cư và nhập cư.

- Xuất cư (emigration): là quá trình chuyển đi của dân cư từ một vùng hay một quốc gia này sang một vùng hay một quốc gia khác để sinh sống thường xuyên hoặc tạm thời (trong một khoảng thời gian dài).

- Nhập cư (immigration): là quá trình chuyển đến của dân cư từ một vùng hay một quốc gia khác để sinh sống thường xuyên hay tạm thời (trong một khoảng thời gian dài).

Cả hai quá trình xuất cư và nhập cư đều có những ảnh hưởng đến cơ cấu và động lực tăng dân số của một vùng hay một quốc gia, nhất là quá trình nhập cư đôi khi đóng vai trò quyết định trong việc hình thành dân cư ở một số khu vực (ví dụ như Hoa Kỳ, Canada, Úc).

Sơ đồ 1: Các hình thái di động của dân cư

DÂN CƯ Những người không di chuyển

Những người

di chuyển Không thay đổi chỗ ở thường xuyên - Đôi khi đi vắng

Di dân theo nghĩa rộng

- Đi lại thường xuyên

(di dân con lắc, đi học hay đi làm xa)

Có thay đổi chỗ ở thường xuyên - Di dân có mục đích và có thời hạn Di dân theo nghĩa hẹp

- Di dân lâu dài

- Di dân vĩnh viễn

7.2. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN DI DÂN

Có nhiều yếu tố tác động dẫn đến sự di chuyển của dân cư. Các yếu tố này thuộc về các điều kiện tự nhiên (như khí hậu, địa hình, đất đai, tài nguyên...) hay các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và chính sách dân số của quốc gia. Sự thuận lợi hay khó khăn của các yếu tố này ở các vùng sẽ tạo nên lực hút hay lực đẩy của mỗi vùng mà có ảnh hưởng tới sự chuyển đến hay ra đi của dân cư.

- Lực hút: bao gồm những điều kiện thuận lợi cho việc sinh sống, làm việc, học tập và phát triển.

- Lực đẩy: bao gồm những trở ngại hay hạn chế cho việc sinh sống, làm việc, học tập và phát triển.

Bất kỳ một vùng lãnh thổ nào cũng đều có những thuận lợi hay khó khăn nhất định, nói khác đi yếu tố lực hút, lực đẩy của một vùng luôn tồn tại song song.

Quá trình di dân xảy ra khi có sự khác biệt nhất định giữa vùng đi và vùng đến về một số yếu tố đặc trưng: kinh tế, việc làm, thu nhập, tài nguyên thiên nhiên và môi trường; yếu tố dân cư và xã hội; sự thay đổi vế tiến bộ kỹ thuật và công nghệ. Ngoài ra, yếu tố lực hút và lực đẩy còn bao gồm những yếu tố cá nhân như tình trạng hôn nhân, gia đình, thay đổi nghề nghiệp, việc làm...; các yếu tố xã hội khác như thiết chế xã hội.

Lý thuyết lực hút và lực đẩy đã đưa ra quy luật chung của di dân là: dân cư sẽ di chuyển từ nơi có đời sống thấp đến nơi có đời sống cao hơn, từ vùng có điều kiện tự nhiên kém thuận lợi đến vùng có điều kiện thuận lợi hơn. Phong trào di dân ngày càng mạnh theo sự tiến bộ ngày càng cao của xã hội. Chính sự thay đổi về tiến bộ khoa học kỹ thuật dẫn đến sự hình thành các vùng trung tâm phát triển như khu công nghiệp, hiện đại hóa sản xuất nông nghiệp... sẽ thu hút các dòng di dân.

Ví dụ, vùng nông thôn xa xôi thường là nơi ra đi của lực lượng lao động trẻ, bởi vì ở đó không có các cơ hội kinh tế, lối sống buồn tẻ, ít cơ hội phát triển. Ngược lại, các trung tâm công nghiệp, đô thị hay thành phố lớn thường là những nơi có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với giới trẻ vùng nông thôn vì có nhiều cơ hội việc làm, học tập, tiện nghi sinh hoạt và những triển vọng tương lai đầy sáng lạn... từ đó hình thành nên luồng chuyển cư đặc trưng nông thôn - thành thị.

Ngoài ra, trong quá trình di chuyển, người di dân cũng cần phải tính đến những trở ngại trung gian như: khoảng cách di chuyển và chi phí di chuyển. Khoảng cách di chuyển càng xa thì chi phí di chuyển càng lớn. Chi phí bao gồm hai dạng: chi phí kinh tế và chi phí tinh thần (như sự cắt rời những mối quan hệ gia đình, bè bạn, láng giềng); trong đó chi phí tinh thần mặc dù khó có thể tính toán cụ thể nhưng đây lại là nhân tố có ý nghĩa quan trọng không thể bỏ qua.

Đối với một người di dân ở dạng tiềm năng (có ý định chuyển cư) thì họ phải tính toán các yếu tố thuận lợi và bất lợi của cả vùng đi và vùng đến, nhất là phải xem xét các yếu tố bất lợi của nơi đến để có thể đi đến quyết định là có nên di chuyển hay ở lại. Tất cả những điều tính toán không hợp lý trong quá trình di chuyển đều phải trả giá khá nặng nề.

7.3. CÁC HÌNH THỨC DI DÂN

Phân chia di dân thành các hình thức khác nhau là tùy thuộc vào mục đích di dân, phạm vi di dân theo lãnh thổ, mô hình tổ chức di cư và quyết định di cư... Trong thực tế, các hình thức di dân có quan hệ và tác động lẫn nhau rất chặt chẽ, biểu hiện khác nhau trong những điều kiện cụ thể. Do vậy, sự phân chia hay phân loại di dân chỉ mang tính chất tương đối.

7.3.1. Theo mục đích di dân

- Di dân để sản xuất: đó là các dạng di dân để phát triển nông nghiệp, công nghiệp và các ngành nghề khác. Ở nước ta, di dân nông nghiệp có tổ chức, xây dựng các vùng kinh tế mới thuộc hình thức di dân này.

- Di dân phi sản xuất: di dân để làm các công việc phi sản xuất như dịch vụ, học tập, làm trong các ngành phi sản xuất vật chất khác...

7.3.2. Theo nguyên nhân di dân

- Di dân vì lý do kinh tế.

- Di dân vì lý do chiến tranh.

- Di dân vì lý do thiên tai.

- Di dân vì lý do tôn giáo...

7.3.3. Theo hành vi di dân

- Di dân tự phát.

- Di dân tự nguyện.

- Di dân bắt buộc.

7.3.4. Theo hình thức tổ chức

- Di dân có tổ chức: là sự di chuyển theo các chương trình nhằm thực hiện các mục tiêu hay chương trình phát triển kinh tế - xã hội do Nhà nước trực tiếp tổ chức, chỉ đạo và đầu tư kinh phí. Vì là dạng di chuyển theo yêu cầu của Nhà nước nên những người di dân theo dạng này sẽ được Nhà nước ưu đãi, tạo điều kiện thuận lợi để hội nhập vào cuộc sống mới. Di dân có tổ chức có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện phân công lao động xã hội theo lãnh thổ và là công cụ để điều tiết mọi cuộc di chuyển khác để đạt được các mục tiêu phát triển đã đặt ra.

- Di dân không tổ chức, gồm hai dạng:

+ Di dân tự do: là sự di chuyển đến nơi cư trú mới, hoàn toàn do người di cư quyết định về việc lựa chọn địa điểm, cách di chuyển, chi phí trang trải và tìm việc làm ở nơi mới đến. Tuy nhiên, những người di cư này đã thực hiện một số thủ tục tối thiểu cần thiết với chính quyền địa phương nơi họ cư trú.

+ Di dân bất hợp pháp: là sự di chuyển đến nơi cư trú mới với những đặc điểm tương tự như di dân tự do nhưng người di cư bỏ qua sự kiểm soát, thậm chí tránh tiếp xúc với các cơ quan chức năng.

7.3.5. Theo ranh giới hành chính của lãnh thổ

- Di dân quốc tế: hình thức di dân ra khỏi biên giới của một quốc gia, tức là di dân từ nước này sang nước khác. Trong đó, có thể bao gồm dòng di chuyển của dân tị nạn, hợp tác và xuất khẩu lao động, di dân thuộc địa

- Di dân trong nước: là di dân giữa các vùng trong nội bộ của một quốc gia. Tùy thuộc vào mục đích và cấp hành chính mà có thể thống kê di dân theo từng cấp khác nhau: di dân nội vùng, ngoại vùng; di dân nội tỉnh, ngoại tỉnh; di dân nội và ngoại huyện. Ở đa số các nước, việc thống kê di dân trong nước chỉ xét tới đơn vị cấp tỉnh.

7.3.6. Theo hướng di dân thành thị và nông thôn

- Di dân nông thôn - nông thôn.

- Di dân nông thôn - thành thị.

- Di dân thành thị - nông thôn.

- Di dân thành thị - thành thị.

7.4. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ DI DÂN

7.4.1. Tỷ suất chuyển cư (MR = Migration Rate)

Là tỷ số tương quan giữa tổng số người nhập cư và xuất cư so với dân số trung bình của một lãnh thổ trong một năm, tính theo ‰.

I + O

MR = ---------- x 1000‰

P

Trong đó:

- I: số người nhập cư, O: số người xuất cư

- P: dân số trung bình năm.

7.4.2. Tỷ suất nhập cư (IR = In-migration Rate)

Là tỷ số tương quan giữa số người nhập cư đến một nơi định cư mới, tính trên 1000 dân của nơi đến trong năm đó.

I

IR = ---------- x 1000‰

Pnơi đến

7.4.3. Tỷ suất xuất cư (OR = Out-migration Rate)

Là tỷ số tương quan giữa số người di cư rời bỏ nơi mình đang sinh sống để đến một nơi định cư mới, tính trên 1000 dân của nơi họ rời bỏ trong năm đó.

O

IR = ---------- x 1000‰

Pnơi đi

7.4.4. Tỷ suất gia tăng cơ học (NMR = Net Migration Rate)

Tỷ suất gia tăng cơ học hay tỷ suất chuyển cư thực của một vùng là hiệu quả thực giữa tỷ suất nhập cư và tỷ suất xuất cư của dân số một vùng trong một năm, tính theo ‰.

I - O

NMR = ---------- x 1000‰

P

7.4.5. Chỉ tiêu hiệu quả di dân

 I - O 

k = ------------

I + O

Lưu ý: 0  k  1, k = 0: I = O: không tăng cơ học.

k = 1: chỉ có nhập hoặc xuất cư.

Chỉ tiêu hiệu quả di dân càng cao thì dân số biến động cơ học càng nhiều.

7.5. TÁC ĐỘNG CỦA DI DÂN TỰ DO NÔNG THÔN - THÀNH THỊ ĐẾN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ MÔI TRƯỜNG

7.5.1. Tác động tích cực

- Bổ sung nguồn lao động cho thành thị.

- Góp phần tạo nên sự đa dạng văn hóa trong dân cư thành thị.

- Góp phần tạo nên sự năng động cho nền kinh tế.

- Cải thiện cuộc sống cho một bộ phận dân cư nông thôn thông qua việc gửi tiền về quê của người lao động.

7.5.2. Tác động tiêu cực

- Giảm giá trị sức lao động.

- Sức ép việc làm cho nền kinh tế thành thị.

- Sức ép đối với hệ thống cơ sỏ hạ tầng, nhà ở, y tế, giáo dục.

- Sức ép môi trường.

7.6. TÌNH HÌNH DI DÂN TRÊN THẾ GIỚI

Di dân quốc tế có ý nghĩa quan trọng vì nó có thể làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của nhiều vùng trên thế giới.

Dân nhập cư thường có xu hướng tập trung lại tại một số khu vực nơi họ đến định cư. Sự khác biệt về văn hóa có thể gây khó khăn cho việc hội nhập. Năm 19982 một tường trình của Liên Hiêp Quốc về vấn đề di dân đã ghi nhận rằng "Lao động nước ngoài ở Tây Âu nay đã ổn định và hội nhập vào thị trường lao động của các nước tiếp nhận, nhưng sự hội nhập của họ về kinh tế không đi kèm theo một sự hội nhập về xã hội". Nhận xét này đến nay vẫn còn giá trị.

Từ 1980 đến 1992 Tây Âu đã tiếp nhận khoảng 15 triệu người nhập cư, và là một vùng đến có qui mô lớn trên thế giới. Với tình trạng suy thoái kinh tế, số người thất nghiệp trong nước tăng cao, làn sóng người nhập cư ngày càng nhiều gây ra căng thẳng trong xã hội các nước này.

Trong những năm 80, tại Hoa Kỳ có hơn 7 triệu người nhập cư hợp pháp. Nếu tính cả số người đến đây bất hợp pháp con số này có thể lên đến hơn 10 triệu. Tại Úc và Canada các luồng nhập cư còn mạnh mẽ hơn, nhưng tỷ lệ dân nhập cư đến từ các nước đang phát triển thấp hơn Hoa kỳ.

Trường hợp nhập cư vào Tây Âu và Bắc Mỹ cho thấy người nhập cư bị hấp dẫn bởi khả năng tìm được việc làm hơn là vì mức lương cao.

Như vậy, có thể nghĩ đến một chiến lược quốc tế về phát triển kinh tế bằng các chương trình hỗ trợ để tạo việc làm ngay tại các nước có nhiều lao động để tránh tình trạng xuất cư và tạo điều kiện cho một sự phát triển bền vững.

VI. ĐÔ THỊ HÓA VÀ DÂN SỐ

Dân nông thôn không đồng nghĩa với nông dân, không phải tất cả dân nông thôn đều là nông dân.

Khái niệm về dân thành thị cũng chưa được thống nhất, mỗi nước có một tiêu chuẩn riêng, thường dựa vào quy mô dân số và cơ cấu của ngành nghề lao động của điểm dân cư.

Nhiều nước lấy quy mô dân số là 2.000 dân như Pháp. Việt Nam trước đây cũng lấy quy mô điểm dân cư trên 2.000 và có trên 50% dân hoạt động phi nông nghiệp.

Đến năm 1990, Việt Nam đã thay đổi tiêu chuẩn các điểm dân cư thành thị là có dân số trên 4.000 và có trên 60% dân hoạt động phi nông nghiệp. Các thành phố, thị xã của Việt Nam được xếp thành năm loại từ lớn tới nhỏ.

Cùng với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa được xem như một khía cạnh quan trọng của quá trình phát triển kinh tế - xã hội.

Quá trình này bao gồm sự thay đổi trong phân bố lực lượng sản xuất, trước hết là trong sự phân bố dân cư, trong cơ cấu nghề nghiệp - xã hội, cơ cấu dân số, trong lối sống, văn hóa...

a. Đô thị hóa được thể hiện ở một số tính chất sau:

- Tập trung, tăng cường, phân hóa các hoạt động trong đô thị và năng cao tỷ lệ dân thành thị.

- Hình thành các hình thức và cấu trúc không gian mới, nhất là phát triển các thành phố lớn và cực lớn.

- Phổ biến rộng rãi lối sống thành thị trong dân cư.

Sự phát triển của quá trình đô thị hóa liên quan chặt chẽ với đặc điểm hình thành cư dân đô thị và sự phát triển của các thành phố.

Nhịp độ gia tăng dân số đô thị phụ thuộc vào quá trình tái sản xuất dân cư của chính đô thị và các dòng người nhập cư.

Sự phát triển và mở rộng quy mô thành phố đặt ra nhiều vấn đề như nên đưa vào ranh giới thành phố những lãnh thổ nào (bao gồm các khu dân cư làng mạc...) và việc cải tạo các điểm dân cư nông thôn ra sao để chúng trở thành các điểm dân cư đô thị.

Trên thực tế, sự phát triển của các thành phố còn diễn ra do việc mở rộng các khu vực ngoại vi và các điểm đô thị, bởi vì các khu vực này ngày càng bị hút vào quỹ đạo của thành phố.

b. Đặc điểm của quá trình đô thị hóa:

- Số dân đô thị gia tăng không ngừng.

Thời gian Số dân đô thị (triệu người) % so với DS TG

Đầu thế kỷ XIX 29,3 3,0

Đầu thế kỷ XX 224,4 13,6

Năm 1950 706,4 29,2

Năm 1970 1.371,0 37,1

Năm 1980 1.764,0 39,6

Năm 1990 2.234,0 42,6

Năm 2000 (dự đoán) 2.854,0 46,6

Khu vực 1970 1980 1990 2000

triệu người % triệu người % triệu người % triệu người %

1. Toàn thế giới 1.371 37,4 1.764 39,6 2.234 42,6 2.854 46,6

- các nước PT 698 66,6 798 70,2 877 72,5 950 74,4

- các nước ĐPT 673 25,4 996 29,2 1.357 33,6 1.904 39,3

2. Châu Phi 81 22,5 129 27,0 210 32,6 340 39,0

3. Châu Mỹ 330 64,7 423 68,9 530 72,9 642 76,1

4. Châu Á 503 23,9 688 26,6 915 29,9 1.242 35,0

5. Châu Âu 306 65,7 340 70,2 363 72,8 385 75,1

6.Châu Úc-Đdương 14 70,8 16 71,5 19 71 21 71,0

- Số dân tập trung nhiều vào các thành phố lớn.

Trong vòng 50 năm đầu của thế kỷ XX, số thành phố có từ 10 vạn dân trở lên đã tăng từ 360 lên 962 thành phố, trong đó chỉ mới có 75 thành phố có từ 1 triệu dân. Năm 1980, đã có 200 thành phố có từ triệu dân trở lên.

Theo dự đoán, đến năm 2000 sẽ có khoảng 42% dân thành thị sống trong các thành phố triệu dân và 70% tổng số dân thành thị sẽ sống ở các khu thành phố lớn.

Hiện nay, trên thế giới có nhiều thành phố cực lớn. Năm 1992, có 13 thành phố có từ 10 triệu dân trở lên.

Stt Thành phố Số dân 1992

(triệu người) Dự đoán 2000

(triệu người)

1 Tokyo (Nhật Bản) 25,8 28.0

2 Sao Paolo (Brazil) 19,2 22.6

3 New York (Hoa Kỳ) 16,2 16.6

4 Mexico city (Mehico) 15.3 16.2

5 Thượng Hải (Trung Quốc) 14.1 17.4

6 Bombay (Ấn Độ) 13.3 18.1

7 Los Angeles (Hoa Kỳ) 11.9 13.2

8 Buenos Aires (Argentina) 11.8 12.8

9 Seoul (Hàn Quốc) 11.6 13.0

10 Bắc Kinh (Trung Quốc) 11.4 14.4

11 Rio de Janero (Brazil) 11.3 12,2

12 Caltutta (Ấn Độ) 11.1 12,7

13 Jakarta (Indonesia) 10.1 13,4

Cùng với sự phát triển của quá trình đô thị hóa, lối sống thành thị được phổ biến rộng rãi và có ảnh hưởng đến lối sống của dân cư nông thôn. Về một số mặt, lối sống của dân cư nông thôn đang nhích lại gần lối sống của dân cư thành thị.

Một trong những lý do dẫn tới sự thay đổi ít nhiều về lối sống trong dân cư là sự chuyên môn hóa lao động. Mặc dù nông nghiệp vẫn còn là hoạt động cơ bản của dân cư nông thôn, nhưng tỷ lệ công việc đồng áng trong cơ cấu công việc của họ nói chung đã giảm xuống, tỷ lệ công việc phi nông nghiệp tăng lên rõ rệt. Tỷ trọng dân cư nông thôn làm việc hàng ngày tại các thành phố mà không chuyển cư ngày càng tăng.

Chính những người dân nửa đô thị này tạo thành một kênh dẫn đưa lối sống thành thị hòa nhập vào lối sống nông thôn.

Ngoài ra, các phương tiện thông tin đại chúng cũng có vai trò tích cực trong việc phổ biến lối sống đô thị vào nông thôn.

c. Đô thị hóa tại các nước phát triển và các nước đang phát triển:

- Ở phần lớn các nước kinh tế phát triển, do quá trình công nghiệp hóa diễn ra sớm và mạnh mẽ nên quá trình đô thị hóa cũng bắt đầu sớm.

Đặc trưng của quá trình đô thị hóa ở đây là tỷ lệ dân thành phố gia tăng với nhịp độ tương đối cao và việc hình thành các thành phố cực lớn (cụm đô thị, siêu đô thị).

Năm 1988, các nước có tỷ lệ dân thành thị cao là Bỉ (95%), CHLB Đức (94%), Anh (91%), Tây Ban Nha (91%), Island (90%), Úc (86%), Đan Mạch (84%), New Zealand (84%), Thụy Điển (83%)...

Tuy nhiên, nhịp độ gia tăng số dân thành thị trong thời gian gần đây đã bắt đầu chậm lại.

- Tại các nước đang phát triển, hiện nay quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ cùng với quá trình bùng nổ dân số.

Nét đặc trưng của quá trình này là sự tập trung quá mức dân cư từ nông thôn vào các thành phố lớn, trước hết là vào thủ đô. Dòng người từ nông thôn đến các thành phố ngày càng đông. Một mặt, do nhu cầu sức lao động của các thành phố lớn ngày càng tăng.

Mặt khác, người nông dân ra đi với hy vọng sẽ tìm được việc làm có thu nhập khá hơn, ổn định hơn hầu thay đổi cuộc sống vốn nhiều thiếu thốn và khó có điều kiện phát triển như ở các vùng nông thôn.

Nói khác đi, tại các nước này, các thành phố lớn là các trung tâm kinh tế có sức hút dân cư rất lớn và các vùng nông thôn là nơi có lực đẩy đáng kể và các luồng di dân từ nông thôn ra thành thị đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong xu hướng đô thị hóa.

Tuy nhiên, sự tập trung dân vào một, hai thành phố cực lớn trong một nước sẽ gây ra nhiều khó khăn trong việc quản lý đô thị và bảo vệ môi trường.

Ở nhiều nước Á, Phi và Mỹ Latinh, nhịp độ đô thị hóa diễn ra với tốc độ nhanh hơn công nghiệp hóa cộng với số người nhập cư vào các thành phố lớn ngày càng đông làm cho đội quân thất nghiệp và nửa thất nghiệp tại các thành phố tăng lên, vấn đề giải quyết việc làm gặp nhiều khó khăn, nhà ở thiếu thốn, cơ sở hạ tầng không đủ sức đáp ứng... từ đó dẫn đến sự mất cân bằng môi trường sinh thái, làm xuất hiện những hậu quả tiêu cực trong đời sống kinh tế - xã hội.

Nhìn chung, đô thị hóa là một quá trình tiến bộ, nó thúc đẩy sự phát triển của đất nước, làm cho người dân quen với cuộc sống năng động song nó lại làm gay gắt thêm nhiều vấn đề kinh tế - xã hội vốn đã nóng bỏng dưới áp lực của sự gia tăng dân số. Do vậy, đô thị hóa cần phải có sự quản lý chặt chẽ về mặt nhà nước.

Trong chiến lược phát triển đô thị, các quốc gia cần hết sức chú ý phát triển các thành phố nhỏ và trung bình thành cụm thành phố hay liên thị (metropolis) quanh các thành phố lớn, đại đô thị, siêu đô thị (megalopolis).

Đồng thời, phải có chính sách phát triển kinh tế nông thôn, thâm dụng lao động, tạo thêm việc làm phi nông nghiệp cho lao động trẻ ở nông thôn, tăng cường giao thông vận tải, thông tin liên lạc... nhằm giảm bới sự cách biệt giữa vùng nông thôn và các thành phố.

Chương 8

DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN

I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM

I.1. Phát triển và phát triển bền vững

Định nghĩa 1: Phát triển là quá trình một xã hội đạt đến thỏa mãn các nhu cầu mà xã hội ấy cho là cơ bản.

Định nghĩa này mang tính khái quát cao. Để làm rõ hơn, nó thường được bổ sung bằng hệ thống thước đo sự phát triển, bao gồm:

Về kinh tế: GNP/người.

Về xã hội: trình độ giáo dục, tuổi thọ trung bình, số calo/người.

Các chỉ số về cơ cấu của nền kinh tế quốc dân.

Định nghĩa 2: Phát triển là sự tiến bộ tổng quát về mức sống, cùng với sự giảm bớt bất công trong phân phối thu nhập và có khả năng tiếp tục tiến bộ bền vững trong tương lai, trong đó phúc lợi kinh tế - xã hội là cốt lõi của phát triển.

Như vậy, nói đến phát triển phải tính đến hai vấn đề:

Sự tăng trưởng về kinh tế.

Sự tiến bộ về mặt xã hội.

Định nghĩa 3: Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm hại đến khả năng của các thế hệ tương lai trong việc tìm cách thỏa mãn các nhu cầu của bản thân họ.

I.2. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển

Thu nhập quốc dân bình quân đầu người (GNP/người) hoặc thu nhập trong nước bình quân đầu người (GDP/người). GNP/người là thước đo mức sống vật chất trung bình của mỗi nước và mức chênh lệch giàu nghèo về đời sống giữa các nước khác nhau.

Cơ cấu kinh tế (%GDP): là tỷ lệ phần trăm đóng góp vào tổng sản phẩm trong nước của ba nhóm ngành nông nghiệp (khu vực I), công nghiệp, xây dựng (khu vực II) và dịch vụ (khu vực III).

Tuổi thọ trung bình của dân số: chỉ tiêu này cho phép đánh giá tổng hợp tình hình phát triển kinh tế, thu nhập và mức sống, phúc lợi y và mức độ tử vong trẻ em.

Tỷ lệ người biết chữ và mù chữ: chỉ tiêu này thể hiện trình độ dân trí của một nước. Nó đánh giá nỗ lưc của toàn xã hội và riêng ngành giáo dục trong việc nâng cao chất lượng người lao động, tạo đà thúc đẩy kinh tế phát triển.

Số calo đầu người: là thước đo mức độ đảm bảo nhu cầu thiết yếu lương thực, thực phẩm cho người dân một quốc gia.

Chỉ số phát triển con người (HDI): là chỉ tiêu tổng hợp, phản ánh mức độ phát triển kinh tế và mức sống, trình độ phát triển giáo dục, y tế, môi trường; được tính toán dựa vào ba yếu tố: GDP/người, tuổi thọ trung bình, trình độ học vấn (tỷ lệ người biết chữ và số năm đi học trung bình). Dựa vào chỉ số HDI, trình độ phát triển của các quốc gia được đánh giá, sắp xếp thành hai nhóm:

Nhóm các nước phát triển: gồm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới như nhóm G7 (Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật, Ý, Canada) và các nước có nền công nghiệp đã phát triển (Đông Âu và một số nước khác).

Nhóm các nước đang phát triển: gồm các nước và lãnh thổ công nghiệp mới (Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Hongkong, Arhentina, Brazin, Mehico), các nước có trình độ phát triển trung bình (chiếm đa số các nước đang phát triển ở châu Á, Phi, Mỹ Latinh) và các nước chậm phát triển (27 nước ở châu Phi, 11 nước ở châu Á, 3 nước ở châu Đại Dương, 1 nước ở châu Mỹ Latinh 1990).

I.3. Chất lượng cuộc sống

Chất lượng cuộc sống (quality of life)

Là khái niệm phức tạp nó thể hiện cả những đòi hỏi sự thỏa mãn về nhu cầu tình cảm và các nguyện vọng xã hội của cộng đồng hay của xã hội cũng như khả năng đáp ứng một cách bền vững và ổn định những nhu cầu cơ bản của cuộc sống (ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, giải trí, công ăn việc làm, các địch vụ y tế, xã hội) của chính bản thân xã hội.

Khái niệm này thay đổi tùy theo quan niệm văn hóa xã hội và truyền thống của mỗi dân tộc, ở từng giai đoạn phát triển của xã hội, chất lượng cuộc sống có mối quan hệ rất hữu cơ với nhiều yếu tố. Từ quan hệ đó, khái niệm về chất lượng cuộc sống toàn diện mới hình thành.

Sơ đồ 1: Chất lượng cuộc sống ở mức vĩ mô và vi mô

Các mối quan hệ tác động lẫn nhau ảnh hưởng đển chất lượng cuộc sống

Nhu cầu vật chất

Nhu cầu dinh dưỡng

Cơ thể cần được thường xuyên cung cấp đầu đủ các chất dinh dưỡng để:

Bù đắp lại năng lượng đã chi phí trong hoạt động sống và lao động.

Xây dựng cơ thể: tạo các tế bào mới bảo đảm sự phát triển của cơ thể (đối với trẻ em đang lớn) hoặc thay thế các tế bào già (ở cơ thể trưởng thành).

Nhu cầu dinh dưỡng được thể hiện ở hai mặt: lượng và chất.

Lượng dinh dưỡng cần thiết thay đổi tùy theo độ tuổi, tùy theo giới, tùy theo mức độ lao động nặng, nhẹ và tùy theo thể trọng cân nặng.

Hình thức lao động Năng lượng (Kcal/phút)

NAM

Dừng nghỉ 1,06  0,26

Ngồi quấn dây điện 1,14  0,20

Ngồi đánh bóng bút máy 1,17  0,29

Ngồi dũa 1,28  0,30

Đứng tiện 1,43  0,27

Ngồi sắp chữ 1,50  0,36

Đứng tráng phim, rửa ảnh 1,74  0,25

Đứng kiểm tra máy (đã lắp) 1,77  0,49

Ngồi dập định, ngòi bút 1,84  0,47

Lắp bánh ôtô 2,21  0,52

Quai búa tạ 4,12  0,79

NỮ

Đứng máy tiện nhỏ 1,13  0,28

Ngồi dán nhãn 1,26  0,24

Ngồi máy dệt kim (chạy điện) 1,40  0,29

Bảng 1: Nhu cầu năng lượng của công nhân Việt Nam từ 18 đến 30 tuổi

Để dễ so sánh nhu cầu năng lượng của các hoạt động khác nhau ở các đối tượng, người ta tính năng lượng cần thiết cho 1kg trọng lượng cơ thể trong 1giờ.

Dạng hoạt động Kcal / 1kg cơ thể /1 giờ

Ngủ 1,0

Nằm nghỉ 1,1

Ngồi nghỉ 1,4

Đứng nói chuyện 1,9

Đi bộ 3,2

Giặt 3,5

Xẻ gỗ 7,1

Chặt cây 7,8

Bảng 2: Năng lượng cần thiết cho 1kg trọng lượng cơ thể trong 1 giờ

cho các hoạt động khác nhau.

Xét theo nhu cầu dinh dưỡng cần cung cấp và khả năng đáp ứng thực tế ở các nước khác nhau cho thấy rất khác nhau:

Quốc gia, khu vực Số calo cung cấp hàng ngày (1981)

Thực tế cung cấp % nhu cầu

Hoa Kỳ 3.674 138

Hungari 3.509 134

Singapore 3.070 133

Anh 3.322 132

Liên xô 3.328 130

Hongkong 2.920 129

Triều Tiên 2.931 136

Thổ Nhĩ Kỳ * 3.019 122

Malaysia 2.662 121

Austraylia * 3.210 119

Nhật Bản 2.740 117

Arab Seoud 2.895 116

Philippin 2.318 116

Indonesia 2.342 110

Trung Quốc 2.526 107

Pakistan 2.313 106

Thailand 2.303 105

Sri Lanka 2.520 102

Việt Nam 1.961 90

Ấn Độ 1.906 86

Bangladesh 1.952 84

Nepal 1.929 84

Afganistan 1.758 72

* Tuy mức calo cung cấp cao hơn Triều Tiên và Malaysia, nhưng theo tiêu chuẩn cỉa các quốc gia này thì chỉ đạt mức đã ghi (một số quốc gia khác cũng tương tự).

Bảng 3: Năng lượng cung cấp hàng ngày theo đầu người

ở một số quốc gia (theo thứ thự mức sống)

Các chất dinh dưỡng cho quá trình đổi mới và phát triển cơ thể là protid, lipid, glucid, các vitamin và muối khoáng. Trong đó quan trọng nhất là thành phần protid (đạm).

Protid được xem là một trong những chỉ tiêu quan trọng nói lên mức sống của một gia đình, một cộng đồng, một quốc gia. Theo chỉ tiêu này, mức sống của nhân dân các khu vực trên thế giới thể hiện sự khác biệt rất lớn.

Tổng năng lượng Lượng calo có nguồn gốc

Khu vực cung cấp hàng ngày động vật trong khẩu phần

(calo) (calo) (%)

Bắc Mỹ 3.318 1.324 40

Tây Âu 3.133 1.102 35

Châu Đại Dương 3.261 1.190 15

Mỹ Latin 2.528 443 17

Trung Cận Đông 2.495 236 9,4

Châu Phi 2.188 141 6,4

Đông Nam Á 2.082 124 6,7

Bảng 4: Lượng calo có nguồn gốc động vật có trong khẩu phần ăn hàng ngày

Các độ tuổi khác nhau, chu cầu protid trong khẩu phần ăn cũng khác nhau.

Đối tượng Nhu cầu năng lượng Tỷ lệ protid cần cung cấp

trong ngày (Kcal) (% năng lượng cần)

Trẻ 1-2 tuổi 1.230 7,8% = 24g

Trẻ 4-9 tuổi 1.970 5,9% = 29g

Thiếu niên nam, nữ 3.050 8,0% = 61g

Trưởng thành 3.200 4,25% = 34g

Mẹ đang cho con bú 3.200 9,5% = 76g

Bảng 5: Nhu cầu protid ở các độ tuổi khác nhau

Đói và thiếu dinh dưỡng

Đói là tình trạng ăn không đủ lượng (calo) cần thiết cho cơ thể. Thiếu dinh dưỡng là tình trạng ăn thiếu chất, mà chủ yếu là thiếu đạm, đặc biệt là đạm động vật trong đó có chứa nhiều acid amin không thể thay thế.

Thiếu dinh dưỡng dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng. Trong khẩu phần ăn thiếu vitamin (thường có trong hoa quả và rau tươi) cũng làm suy dinh dưỡng.

Nhu cầu protid tối thiểu là 60g/ngày, trong đó ít nhất phải có 10g là protid động vật (thịt, trứng sữa, tôm cua...). Protid là thành phần quan trọng trong cấu tạo cơ thể, chiếm 2/3 trọng lượng khô (mà trọng lượng khô chiếm 1/3 thể trọng).

Trong khẩu phần hàng ngày của người dân ở các nước phát triển có 90g đạm, ít nhất là 50g đạm động vật. Riêng Mỹ, lượng đạm trong khẩu phần là 97g (1969) và 98,6g (1970) trong đó, đạm động vật chiếm tới 70%.

Ở các nước đang phát triển, lượng đạm trong khẩu phần chỉ khoảng 40-50g và tỷ lệ đạm động vật chỉ chiếm khoảng 15%. Theo FAO thì nạn đói và thiếu dinh dưỡng xảy ra triền miên và mỗi năm tăng trên toàn thế giới.

Ước tính tính có đến 2/3 số trẻ em ở các nước đang phát triển bị suy dinh dưỡng. Suy dinh dưỡng có thể xảy ra cả đối với trẻ em ở các gia đình khá giả do cha mẹ thiếu hiểubiết khoa học trong việc nuôi dưỡng con cái (cho ăn thiếu chất).

Muốn sống tạm no (lượng) đủ (chất), mỗi người cần khoảng 800-1000 kg lương thực trong một năm (vừa để ăn, vừa dùng cho chăn nuôi để lấy đạm động vật cần thiết). Bình quân của người Việt Nam là 325,4 kg lương thực (1990), tương đương với 1.970 kcal, trong khi mức năng lượng cần cho người lao động bình thường là 2.100-2.300kcal.

Hậu quả của thiếu thức ăn, suy dinh dưỡng

Sức khỏe kém, bệnh tật phát triển:

Thiếu thức ăn, nhất là thiếu protid sẽ dễ bị rối loạn tiêu hóa, bị ốm do sức chống đỡ bệnh tật của cơ thể bị suy giảm.

Trẻ em bị suy dinh dưỡng sẽ tụt cân (suy dinh dưỡng nặng có thể tụt 40% trọng lượng so với cơ thể bình thường, suy dinh dưỡng vừa tụt 25%), giảm chiều cao và vành sọ. Trẻ ngoài 4 tháng tuổi suy dinh dưỡng biểu hiện rõ tình trạng này. Trẻ bị suy dinh dưỡng còn bị ảnh hưởng đến trí tuệ vì trong quá trình phát triển và hoàn thiện về khối lượng, cấu trúc đã không được cung cấp đủ chất.

Ở các nước có thu nhập thấp, 52% số trẻ em 1 tuổi bị thiếu máu. Tỷ lệ tử vong ở nhóm này rất cao. Ở Ấn Độ, trẻ em trong nhóm 1-5 tuổi chiếm 16% số dân nhưng số trẻ em này bị chết chiếm tới 40% số người chết.

Các bà mẹ mang thai bị suy dinh dưỡng thường xẩy thai, đẻ non, đẻ con thiếu cân, bị thiếu máu và dễ bị tử vong (10% số bà mẹ ở Ấn Độ tử vong do thiếu máu).

Theo số liệu của Tổ chức y tế thế giới, 1/3 dân số thế giới đang bị thiếu đạm, trong đó, có 300 triệu người bị thiếu máu nặng.

Năng suất lao động giảm.

Ảnh hưởng đến tuổi thọ trung bình (triển vọng sống):

Ở các nước có thu nhập thấp, do thiếu ăn, thiếu dinh dưỡng nên tuổi thọ trung bình thấp hơn tuổi thọ trung bình của các nước có thu nhập cao (năm 1978, chênh lệch tới 24,1 năm).

Nhóm quốc gia Tuổi thọ trung bình Mức tăng

theo thu nhập 1950 1960 1978 1950-1978

Các quốc gia thu nhập cao 66,0 69,4 73,5 7,5

(nước công nghiệp phát triển)

Các quốc gia thu nhập trung bình 51,9 54,0 61,0 9,1

Các quốc gia thu nhập thấp 35,2 41,9 49,4 14,7

Bảng 6: Tuổi thọ trung bình của các nhóm quốc gia qua một số năm

Hiện nay, khoảng 25% số dân trên thế giới còn chưa được hưởng đầy đủ những nhu cầu vật chất cần thiết như ăn, mặc, ở, nước sạch, thuốc uống...

Nhu cầu tinh thần

Nhu cầu tinh thần gồm những nhu cầu về giáo dục, thông tin, liên lạc, giao thông, về an ninh, giải trí và các dịch vụ xã hội khác.

Tỷ lệ người có học (%) 1950 1960 1975

Các quốc gia có mức thu nhập cao 95 97 99

Các quốc gia có mức thu nhập trung bình 48 54 71

Các quốc gia có mức thu nhập thấp 22 29 38

Bảng 7: Tình hình giáo dục ở các nhóm quốc gia

Nhìn chung, nhiều nước trên thế giới có chất lượng cuộc sống còn thấp.

Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống

Sự gia tăng dân số:

Sự gia tăng dân số là một trong những nhân tố quan trọng dẫn tới việc giảm khả năng đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thần, là nguyên nhân của thiếu ăn và suy dinh dưỡng.

Theo tính toán của FAO, nếu dân số tăng 1% thì sản xuất lương thực phải tăng 2,5%. Tuy nhiên, trong vòng 40 năm (từ 1940-1980), dân số thế giới tăng 2,7 lần trong khi đó, sản xuất lương thực chỉ tăng 2,5 lần. Riêng châu Phi, trong vòng 10 năm (1969-1979), sản lượng lương thực tăng 15% nhưng bình quân lương thực trên đầu người lại giảm 11%. Việt Nam có tốc độ gia tăng dân số thuộc loại cao 2,2% song sản lượng lương thực hàng năm chỉ tăng 3,4% (1975-1990).

Các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình cómức tăng dân số cao (trên 2,3%) trong khi mức tăng thu nhập quốc dân và mức tăng thu nhập bình quân đầu người lại thấp.

Các quốc gia 1950-1960 1960-1970 1970-1980

Thu nhập cao 1,2 1,0 0,7

Thu nhập trung bình 2,4 2,5 2,3

Thu nhập thấp 1,9 2,5 2,3

Bảng 8: Mức tăng dân số trung bình hàng năm (%)

Các quốc gia 1950 1960 1980

Thu nhập cao 3.841 5.197 9.684

Thu nhập trung bình 625 802 1.521

Thu nhập thấp 164 174 245

Bảng 9: Mức thu nhập bình quân đầu người hàng năm ở các nhóm quốc gia (USD)

Quy mô gia đình:

Quy mô gia đình có liên quan trực tiếp đến sự tăng hay giảm dân số, có ảnh hưởng đến thu nhập bình quân và do đó ảnh hưởng gay gắt đến chất lượng cuộc sống.

Quy mô gia đình cũng có ảnh hưởng rõ rệt tới sức khỏe và bệnh tật của người mẹ và số trẻ em sinh ra.

Sơ đồ 2: Biểu hiện của sức ép dân số lên chất lượng cuộc sống

và tài nguyên môi trường

Sơ đồ 3: Mối quan hệ giữa gia tăng dân số (hệ quả của quy mô gia đình lớn)

với chất lượng cuộc sống

Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống

Từ những phần trình bày ở trên, nhận thấy rằng, nguyên nhân sâu xa của nghèo đói và chậm tiến là do dân số tăng quá nhanh, trong khi sản xuất lương thực thực phẩm và các phương tiện sinh hoạt không phát triển theo kịp mức tăng dân số. Do vậy, những nhu cầu cơ bản của con người đã không được đáp ứng một cách đầy đủ, nhất là ở các nước đang phát triển và chậm phát triển (tức là những nước có mức thu nhập thấp).

Vì vậy, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, cần thực hiện giải pháp:

Phát triển kinh tế.

Nâng cao mức thu nhập bình quân đầu người.

Nâng cao sản lượng lương thực và thực phẩm bằng cách phát triển chăn nuôi, trồng trọt, cải thiện giống vật nuôi và cây trồng... mở rộng diện tích canh tác, tăng cường thâm canh, cải tạo đất trồng.

Hạn chế sự gia tăng dân số.

Đảm bảo một quy mô gia đình vừa phải.

Thực hiện tốt chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.

II. DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

II.1. Ảnh hưởng của dân số tới kinh tế

Con người vừa là lực lượng lao động trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất vừa là lực lượng tiêu thụ các sản phẩm và dịch vụ được sản xuất ra.

Xét dưới góc độ người sản xuất, mỗi con người chỉ hoạt động trong một độ tuổi giới hạn nhất định, từ 15 đến 60 hoặc 64 tuổi. Xét dưới góc độ người tiêu dùng, con người tiêu thụ của cải, dịch vụ kéo dài trong suốt cuộc đời, từ khi ra đời cho đến khi chết. Do đó, quy mô dân số, cơ cấu tuổi và giới tính là cơ sở để xác định nhu cầu xã hội, từ đó xác lập quy mô sản xuất.

Dân số tăng nhanh sẽ làm tăng số lượng bộ phận phụ thuộc trẻ em, làm hạn chế việc tích lũy để tái sản xuất mở rộng do phải tăng quỹ tiêu dùng. Tỷ số phụ thuộc càng cao, càng ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất, làm căng thẳng thêm mối quan hệ giữa tiêu dùng và tích lũy.

Lực lượng lao động tăng nhanh do được bổ sung hàng năm làm tăng sức ép nhu cầu việc làm, đưa đến hậu quả làm giảm giá sức lao động, thất nghiệp gia tăng.

Tỷ lệ hoạt động kinh tế và năng suất lao động xã hội thường khác nhau ở các nhóm tuổi và giới tính. Nam giới ở độ tuổi 25-29 và 30-34 là hai nhóm dân số có tỷ lệ hoạt động kinh tế và năng suất lao động cao hơn nhiều so với các nhóm khác.

Dân số tăng nhanh làm giảm quỹ tích lũy và tỷ lệ tiết kiệm, gây nên tình trạng thiếu vốn để mở rộng sản xuất và đầu tư chiều sâu (khoa học, công nghệ và giáo dục), do vậy khó nâng cao năng suất lao động xã hội và tốc độ tăng sản phẩm, hạn chế khả năng tạo thêm việc làm cho nền kinh tế.

Tổ chức FAO đã tính rằng, nếu dân số tăng 1% thì lương thực phải tăng 2,5%, thu nhập quốc dân tăng 4%. Các nước có thu nhập GNP/người cao thì gia tăng dân số thấp và ổn định, ngược lại, các nước đang phát triển có mức thu nhập GNP/người thấp thì gia tăng dân số nhanh. Điều này làm cho sự phân biệt giàu nghèo ngày càng mở rộng, làm tăng nguy cơ tụt hậu của các nước nghèo.

Mối quan hệ giữa mức thu nhập và tốc độ gia tăng dân số được lượng hóa bằng công thức:

Tỷ lệ tăng GNP/người = tỷ lệ tăng GNP - tỷ lệ tăng dân số

Như vậy muốn tăng GNP bình quân đầu người thì phải tăng quy mô của tổng thu nhập quốc dân hoặc phải giảm tỷ lệ tăng dân số.

Tuy nhiên, quan hệ giữa dân số và kinh tế không đơn thuần chỉ là quan hệ toán học. Sự phát triển kinh tế còn phụ thuộc nhiều điều kiện: tài nguyên, vốn tài sản cố định, điều kiện địa lý, khí hậu, đất đai, điều kiện thị trường, giá cả, tài chính, dịch vụ... và cả yếu tố ổn định chính trị.

II.2. Ảnh hưởng của kinh tế tới dân số

Trình độ phát triển kinh tế có ảnh hưởng lớn và toàn diện tới các quá trình dân số (sinh, tử, chuyển cư) và khuynh hướng biến động các quá trình này.

Thực tế ở các nước công nghiệp phát triển cho thấy, do phát triển kinh tế cao, tỷ suất gia tăng dân số rất thấp, nhỏ hơn 1%/năm, thậm chí bằng 0 hoặc âm. Mức sinh giảm dưới mức thay thế, mức tử vong thấp và tuổi thọ trung bình cao.

Khi nền kinh tế phát triển, công nghiệp hoá, tự động hóa đòi hỏi chất lượng cao của người lao động, chứ không cần số lượng nhiều, đã tác động tới nhận thức của người dân, họ dễ chấp nhận mô hình ít con. Kinh tế phát triển, thu nhập và mức sống cao, tạo điều kiện cho người dân được học hành, nâng cao trình độ hiểu biết, họ dễ chấp nhận sử dụng các biện pháp kỹ thuật nhằm hạn chế mức sinh. Mặt khác, sự phát triển của kinh tế và hệ thống chăm sóc sức khỏe còn góp phần làm giảm mức tử vong và tăng tuổi thọ, có chế độ baảo hiểm xã hội cho người già khá tốt, bố mẹ không phải nhờ cậy con cái về kinh tế khi già yếu nên không cần sinh nhiều con. Mức sống cao cùng với lối sống đô thị đã lôi cuốn người dân vào các hoạt động văn hóa, xã hội, thể thao giải trí và du lịch cũng góp phần làm giảm mức sinh và gia tăng quá trình chuyển cư.

Trong khi đó tại các nước đang phát triển, nhiều nước còn đang trong vòng lẩn quẩn: muốn phát triển kinh tế phải hạn chế sự gia tăng dân số quá nhanh. Song muốn giảm mức sinh đẻ, cần phải đầu tư lớn về vật chất kỹ thuật, phải phát triển kinh tế. Một số nước đã giải quyết thành công bài toán này nhờ chính sách phát triển kinh tế khôn ngoan và chính sách dân số kiên trì và nghiêm khắc. Tuy nhiên, còn nhiều nước, nhất là các nước chậm phát triển, vẫn còn là một vấn đề nan giải.

Như vậy, cùng với chính sách dân số, sự phát triển kinh tế là nhân tố có ý nghĩa then chốt làm giảm mức sinh, mức tử vong, qua đó làm giảm tốc độ gia tăng số lượng, đồng thời nâng cao chất lượng con người cả về thể chất và trí tuệ.

Tóm lại, mối quan hệ giữa dân số và kinh tế là mối quan hệ tái sản xuất vật chất và tái sản xuất dân cư của một xã hội. Chúng có quan hệ khắng khít, tác động qua lại nhiều chiều, trong đó tái sản xuất con người là tiền đề và điều kiện để tái sản xuất vật chất. Ngược lại, tái sản xuất vật chất có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến sự sống, là cơ sở của tái sản xuất con người cả số lượng và chất lượng.

III. DÂN SỐ VÀ CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI

III.1. Dân số và lương thực, thực phẩm

III.2. Dân số và nhà ở

III.3. Dân số và lao động, việc làm, phát triển nguồn nhân lực

III.4. Dân số và giáo dục

III.4.1. Giáo dục và vai trò của giáo dục trong phát triển

Giáo dục là tất cả các dạng học tập của con người, là một quá trình được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch nhằm truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội của loài người.

Một nền giáo dục hiện đại, tiến bộ thường có những đặc trưng sau:

Tính đại chúng: nền giáo dục cho mọi người, vì mọi người.

Tính nhân văn, dân tộc và nhân loại.

Sự bình đẳng về cơ hội học tập và giá trị học vấn giữa các nhóm xã hội.

Trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, ngoài sức lao động cơ bản của con người, việc nâng cao chất lượng, tiềm năng con người cũng đóng góp một phần đáng kể vào việc nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.

Giáo dục còn có vai trò thúc đẩy sự phát triển các mặt khác của xã hội. Xã hội có trình độ dân trí cao sẽ là điều kiện thuận lợi cho quá trình dân chủ hóa. Có trình độ học vấn cao, mỗi công dân sẽ dễ dàng hơn trong việc lựa chọn nghề nghiệp, thực hành nghề và chuyển nghề khi cần thiết, do đó, giáo dục góp phần vào quá trình thay đổi cơ cấu xã hội, làm cho các nhóm xã hội xích lại gần nhau.

III.4.2. Các chỉ tiêu đánh giá giáo dục

Về số lượng:

Tổng số học sinh: chia theo trình độ cấp học.

Tỷ lệ học sinh theo từng cấp học.

Số học sinh, sinh viên trên 10.000 dân.

Số năm đi học trung bình.

Những điều kiện đảm bảo chất lượng:

Tỷ lệ ngân sách dành cho giáo dục.

Số lượng học sinh trung bình trên một giáo viên theo từng cấp học.

Trình độ giáo viên.

Chi phí bình quân cho một học sinh, sinh viên.

Tình hình trang thiết bị trường học và phương tiện dạy học.

Ở các nước đang phát triển còn chú ý các chỉ tiêu: tỷ lệ người mù chữ, tỷ lệ học sinh tới trường ở từng cấp học. Ở các nước phát triển thì chú ý tỷ lệ người biết chữ.

III.4.3. Dân số ảnh hưởng đến giáo dục

Dân số tác động trực tiếp và gián tiếp tới giáo dục qua sự biến đổi về quy mô và cơ cấu dân số. Tuy nhiên, giữa dân số và giáo dục là sự tác động qua lại lẫn nhau trong sự liên hệ và tác động qua lại của nhiều yếu tố khác như kinh tế, truyền thống văn hóa, tôn giáo, khoa học, địa lý...

Quy mô dân số tác động đến quy mô giáo dục.

Quy mô, tốc độ tăng dân số hàng năm và cơ cấu dân số sẽ phản ánh nhu cầu đi học của người dân. Một nước có quy mô dân số lớn sẽ có quy mô giáo dục lớn, tốc độ gia tăng dân số hàng năm cao hay thấp góp phần làm gia tăng số học sinh đến trường ở mỗi cấp học, mở rộng hay thu hẹp quy mô giáo dục.

Cơ cấu tuổi và giới tính ảnh hưởng đến cơ cấu của hệ thống giáo dục.

Các nước có cơ cấu dân số trẻ sẽ có quy mô giáo dục lớn hơn các nước có dân số già. Ở các nước đang phát triển, dân số thế hệ sau nhiều hơn thế hệ trước nên cấu trúc các bậc học cũng có dạng hình tháp đáy rộng đỉnh hẹp như tháp dân số, trong đó, cấp I nhiều hơn cấp II và cấp II nhiều hơn cấp III.

Dân số tăng nhanh chẳng những làm tăng số trẻ em đến tuổi đi học, làm tăng số học sinh phổ thông mà còn làm tăng nhu cầu học nghề và học đại học.

Quy mô dân số lớn, tốc độ gia tăng nhanh, cơ cấu dân số trẻ dẫn tới hậu quả là số trẻ em trong tuổi đi học tăng nhanh, số lượng lớn, vượt quá khả năng của ngành giáo dục. Mặt khác, tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm hơn tốc độ tăng dân số nên mức thu nhập bình quân thấp, khả năng đầu tư của Nhà nước và của gia đình học sinh dành cho giáo dục thấp. Do vậy, quy mô giáo dục bị hạn chết, chất lượng giáo dục bị giảm sút.

Thiếu phòng học, phải học nhiều ca, phòng học chật chội, không đảm bảo vệ sinh học đường, lớp học quá đông.

Thiếu giáo viên, trình độ giáo viên hạn chế, đới sống khó khăn.

Cơ sở vật chất, trang thiết bị, sách giáo khoa thiếu thốn, nghèo nàn, lạc hậu.

Tỷ lệ học sinh bỏ học cao, nhất là học sinh gái.

Ngoài những yếu tố trên, tuổi kết hôn, mức sinh, mức tử vong và chuyển cư cũng có ảnh hưởng đến giáo dục.

III.4.4. Ảnh hưởng của giáo dục đối với dân số

Ảnh hưởng đến mức sinh:

Mức sinh phụ thuộc vào trình độ học vấn của dân cư mà trước hết là trình độ học vấn của phụ nữ trong tuổi sinh sản và tỷ lệ phụ nữ có trình độ học vấn trong tổng số phụ nữ.

Trình độ văn hóa là điều kiện quan trọng giúp người phụ nữ tự nguyện thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Có trình văn hóa nhất định, người phụ nữ mới tiếp nhận nhanh và hiệu quả các biện pháp tránh thai.

Có trình độ văn hóa, người phụ nữ có điều kiện để cải thiện địa vị xã hội của mình trong gia đình (trong quan hệ kinh tế, quan hệ sinh đẻ...) và trong xã hội (tiếp tục học, kiếm việc làm có thu nhập cao hơn...). Do đó, họ thường lập gia đình muộn, sinh con muộn và sinh ít con hơn.

Quá trình sinh đẻ của con người không chỉ chịu sự chi phối của quy luật tự nhiên (có tính bản năng sinh tồn) mà còn chịu sự chi phối của quy luật xã hội (lao động sản xuất, đạo đức...). Vì vậy, tỷ lệ những người có trình độ văn hóa được nâng cao đến mức nào đó mới có khả năng để định lại giá trị đứa con, tạo ra dư luận tiến bộ trong cộng đồng.

Ảnh hưởng đến mức tử vong:

Giáo dục có ảnh hưởng tích cực đến tỷ suất tử vong của trẻ em. Trình độ giáo dục của bà mẹ luôn là nhân tố quan trọng quyết định đến tình hình tử vong của trẻ sơ sinh. Người mẹ có trình độ văn hóa dễ dàng tiếp nhận những kiến thức mới về nuôi con, tránh được những hủ tục, thành kiến, sai lầm trong việc nuôi con lúc khỏe cũng như lúc ốm đau; biết tận dụng các phương tiện, các cơ sở y tế phục vụ sức khỏe cho mẹ và con.

Ảnh hưởng đến di cư:

Giáo dục thúc đẩy sự di cư từ nông thôn về thành thị. Ở các nước đang phát triển, thành thị thường có ưu thế phát triển về nhiều mặt hơn là ở nông thôn. Vì thế những người có trình độ học vấn cao thường có xu hướng di cư từ nông thôn ra thành thị. Xu hướng này tác động mạnh đến những lớp người trẻ hơn lớp người già vì thường lớp trẻ có trình độ học vấn cao hơn, năng động hơn, ở thành phố họ dễ kiếm việc làm có thu nhập cao hơn.

III.5. Dân số và y tế

III.5.1. Sức khỏe - y tế và các chỉ tiêu đánh giá chính

Sức khoẻ là một trạng thái của một con người thoải mái về vật chất, tinh thần và xã hội. Định nghĩa này của Tổ chức y tế thế giới (WHO) không bó hẹp trong nghĩa là không có bệnh tật, không yếu đuối mà là ở trạng thái có thể chất tốt, trí tuệ phát triển và xã hội lành mạnh.

Y học là ngành khoa học có nhiệm vụ nghiên cứu các phương pháp dự phòng, chữa trị bệnh tật.

Y tế là hệ thống tổ chức các biện pháp cụ thể để dự phòng, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe.

Hệ thống y tế bao gồm: y tế Nhà nước, y tế dân lập và y tế tư nhân, các cơ sở y tế trung ương, địa phương (tỉnh, thành phố, quận, huyện) và cơ sở (phưòng, xã); những người sử dụng các phương pháp, phương tiện y tế hiện đại và những người sử dũng các phương pháp, phương tiện y tế dân gian cổ truyền.

Việc chăm sóc sức khỏe nhân nhân do ngành y tế giữ vai trò chủ đạo, ngoài ra còn có sự tham gia của nhiều ngành khác như thể dục thể thao, lương thực, giáo dục...

Hiện nay, để phản ánh mức độ đảm bảo y tế cho nhân dân của một quốc gia, người ta thường dùng các chỉ tiêu sau đây:

Số cán bộ y tế ngành y trên 10.000 dân. Có thể tính chi tiết số bác sĩ, y sĩ, y tá, hộ lý trên 10.000 dân.

Số cán bộ y tế ngành dược trên 10.000 dân. Có thể tính chi tiết số dược sĩ cao cấp, trung cấp, dược tác trên 10.000 dân.

Số giường bệnh trên 10.000 dân.

Tỷ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi.

Tỷ suất tử vong.

Tỷ lệ người ốm đau.

III.5.2. Tác động của dân số đến hệ thống y tế

Quy mô và tốc độ gia tăng dân số ảnh hưởng đến sự phát triển hệ thống y tế và các điều kiện chăm sóc sức khỏe.

Dân số tăng nhanh làm cho quy mô gia đình mở rộng, nhà ở chật chội, môi trường ô nhiễm, ăn uống thiếu chất làm tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong.

Dân số tăng nhanh nhưng mức độ đầu tư cho y tế thấp (cả % so với thu nhập quốc dân, bình quân thu nhập / người / năm) dưới 1% ở các nước đang phát triển làm cho hệ thống y tế không phát triển tương ứng với số cầu, gây quá tải, xuống cấp chất lượng chữa trị, chăm sóc sức khỏe của hệ thống y tế.

Ảnh hưởng của cơ cấu dân số đến hệ thống y tế.

Cơ cấu dân số là cơ sở để xác định cơ cấu của hệ thống y tế. Mỗi nhóm tuổi khác nhau có tỷ lệ mắc bệnh khác nhau và thường mắc các loại bệnh đặc trưng khác nhau.

Trẻ em do sức đề kháng yếu nên dễ mắc bệnh hơn các nhóm khác và thường mắc bệnh đường hô hấp, tiêu hóa.

Người trưởng thành ít mắc bệnh, các bệnh thường gặp là bệnh nghề nghiệp, nhất là những người lao động trong môi trường độc hại và nguy hiểm.

Người già có tỷ lệ mắc bệnh cao và thường là bệnh về tim mạch.

Phụ nữ dễ mắc bệnh hơn nam giới và các bệnh đặc trưng là bệnh phụ khoa.

Như vậy, việc dự báo số lượng và chủng loại nhu cầu của từng nhóm tuồi và giới tính của dân số một quốc gia là cơ sở để hình thành và phát triển quy mô, cơ cấu của hệ thống y tế nước đó.

Từ sự phụ thuộc giữa bệnh tật và độ tuổi, giới tính đã hình thành đội ngũ các bác sĩ nhi khoa, lão khoa và các coơ sở chữa bệnh riêng. Để công tác chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe có hiệu quả, tỷ lệ các bộ phận y tế phải tương xứng với tỷ lệ của từng nhóm tuồi trong dân số.

Ảnh hưởng của sự phân bố dân cư đến hệ thống y tế.

Ở các khu vực địa lý khác nhau như đồng bằng, miền núi, thành thị, nông thôn... do có sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, dân số, kinh tế - xã hội nên sẽ có cơ cấu bệnh tật khác nhau. Do đó, số lượng cán bộ và bác sĩ chuyên khoa cũng như các phương tiện y tế cần phải phù hợp với nhu cầu và cơ cấu bệnh tật. Ví dụ, ở Việt Nam, vùng đồng bằng ven biển miền Bắc thì các bệnh về tiêu hóa và hô hấp là rất phổ biến; ở vùng núi cao thì bệnh sốt rét, bệnh bướu cổ là các bệnh cần được quan tâm phòng, chống. Các bệnh xã hội nguy hiểm và dễ lây lan như giang mai, hoa liễu, AIDS... thường tập trung ở các thành phố lớn có mật độ dân số cao.

Mật độ dân cư cũng có ảnh hưởng đến hiệu quả phục vụ của hệ thống y tế. Ở những nơi có mật độ dân cư quá thấp, một cán bộ hay cơ sở y tế chỉ phụ vụ được một số ít dân cư nên hiệu quả không cao. Nếu mật độ dân cư quá cao, không đủ cán bộ và phương tiện y tế cần thiết thì diễn ra tình trạng ngược lại, nhiều bệnh nhân không được chăm sóc đầy đủ dẫn đến tử vong tăng lên.

Mật độ dân cư quá thấp hoặc quá cao đều gây trở ngại cho công tác dự phòng của y tế. Ở nơi mật độ dân cư quá thấp, thường là nơi có trình độ văn hóa, y tế thấp nên rất khó khăn trong việc vận động dân chúng ăn ở hợp vệ sinh, chữa bệnh theo khoa học. Còn ở nơi mật độ dân cư quá cao, thường là các thành phố lớn, có mức độ ô nhiễm môi trường cao đòi hỏi những chi phí lớn mới có thể hạn chế được tác động xấu của môi trường đến sức khỏe con người.

III.5.3. Tác động của y tế đối với dân số

Y tế tác động đến mức sinh.

Trong điều kiện xã hội văn minh, y tế có vai trò quan trọng trong quá trình sinh sản của con người, đặc biệt là trong việc hạn chế mức sinh. Ngành y tế đóng góp trực tiếp và quyết định cuối cùng trong việc tạo ra các phương tiện, phương pháp và tổ chức thực hiện các dịch vụ hạn chế mức sinh.

Công tác chăm sóc sức khỏe và bảo vệ bà mẹ và trẻ em được tăng cường làm giảm mức chết ở trẻ sơ sinh cũng đã gián tiếp góp phần làm giảm mức sinh. Khi điều kiện y tế, chăm sóc sức khỏe tốt hơn, khả năng tử vong của trẻ thấp thì các bà mẹ yên tâm, không cần sinh nhiều để dự phòng con bị chết.

Việc tăng cường các điều kiện chăm sóc tuổi già, trong đó có sự đóng góp của y tế cũng góp phần làm giảm mức sinh.

Y tế cũng tác động làm tăng mức sinh trong trường hợp chữa cho những người vô sinh có con.

Y tế tác động đến mức tử vong.

Y tế tác động làm giảm mức tử vong có liên quan đến mọi thành phần dân số. Nhờ tiến bộ của khoa học kỹ thuật nói chung và y tế nói riêng, mức tử vong đã giảm nhiều, đặc biệt đối với lứa tuổi trẻ em dưới 5 tuổi.

Ngày nay, trẻ em dưới 12 tháng đã được tiêm vaccin phòng các bệnh sởi, lao, bạch hầu, ho gà, uốn ván. Đối với người lớn, y tế đã chữa được nhiều loại bệnh gây tử vong ở mức cao trong quá khứ như lao, sốt rét, uốn ván, tim mạch, viêm não siêu vi trùng, bệnh dại... từ đó hạ thấp được mức tử vong và tăng tuổi thọ bình quân.

IV. DÂN SỐ VÀ MÔI TRƯỜNG - TÀI NGUYÊN

IV.1. Môi trường - tài nguyên

Môi trường sống của con người là tổng hợp các điều kiện vật lý, hóa học, sinh học bao quanh và có ảnh hưởng tới sự tác động, phát triển của từng cá nhân và của những cộng đồng con người.

Xét trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, môi trường là tập hợp tất cả các điều kiện, trong đó có con người tồn tại và phát triển bao gồm:

Môi trường tự nhiên (môi trường vật lý): bao gồm các yếu tố có sẵn trong tự nhiên như đất, nước, không khí, động thực vật. Chúng tác động qua lại lâu dài và hình thành sự cân bằng (cân bằng sinh thái).

Môi trường kỹ thuật: bao gồm các yếu tố do con người tạo nên, chịu sự chi phối của con người như cơ sở hạ tầng, các thành phố, công trình kiến trúc... Môi trường này ngày càng mở rộng.

Môi trường xã hội: là tổng thể các mối quan hệ giữa các cá thể con người. Cộng đồng con người họp lại thành quốc gia, xã hội, từ đó tạo nên các hình thái tổ chức, thể chế kinh tế - xã hội. Tính chất, đặc điểm của quan hệ sản xuất quyết định tính chất, đặc điểm của môi trường xã hội.

Ba loại môi trường này song song tồn tại, phát triển, tương tác lẫn nhau hình thành môi trường sống của con người.

Tài nguyên, theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các nguồn nguyên liệu, nhiên liệu, năng lượng thông tin có trên trái đất và trong vũ trụ, con người có thể sử dụng chúng để phục vụ cuộc sống và sự phát triển của mình.

Tài nguyên bao gồm tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên con người. Trong tài nguyên thiên nhiên chia thành tài nguyên hữu hạn (như khoáng sản, đất đai, sinh vật) và tài nguyên vô hạn (năng lượng mặt trời, gió, địa nhiệt). Tài nguyên hữu hạn chia thành hai loại dựa vào tính chất tái tạo là tài nguyên không tái tạo được (như khoáng sản) và tài nguyên có khả năng tái tạo được (như động, thực vật).

IV.2. Vị trí của con người trong môi trường

IV.3. Tác động của gia tăng dân số đến môi trường, tài nguyên

Dân số là một trong nhiều yếu tố có tác động đến môi trường nhưng lại là yếu tố có tầm quan trọng đặc biệt. Sự gia tăng dân số có ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.

Tăng dân số dẫn đến tăng số người tiêu thụ, đòi hỏi phải khai thác tài nguyên nhiều hơn, sản xuất nhiều hơn, và do vậy cũng làm môi trường ô nhiễm trầm trọng hơn. Ngược lại, việc hủy hoại môi trường có tác động xấu đến sản xuất, đáp ứng kém hiệu quả hơn đến chất lượng của cuộc sống con người.

Với nhu cầu cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống, bằng tiến bộ của khoa học công nghệ, con người khai thác ngày càng nhiều cả số lượng và chủng loại các nguồn tài nguyên, mở rộng quy mô, tăng nhanh cường độ tác động vào môi trường tự nhiên. Hậu quả là:

Nguồn tài nguyên không tái tạo được có nguy co cạn kiệt. Ở một số nước công nghiệp phát triển đã xuất hiện nguy cơ này về các loại tài nguyên dầu mỏ, thanh đá, quặng kim loại...

Nguồn tài nguyên có thể tái tạo được, do bi khai thác quá mức, đã mất khả năng tự phục hồi như: đất canh tác bị thoái hóa, hoang mạc hóa, một số lớn sinh vật biển, chim thú bị tuyệt chủng hoặc có nguy cơ tuyệt chủng, rừng nhiệt đới bị tàn phá nhanh gấp 10 lần tốc độ trồng mới và tự phục hồi.

Nguồn tài nguyên vô tận bị sử dụng lãng phí và bị ô nhiễm nặng do chất thải (công nghiệp, sinh hoạt) đã trở nên khan hiếm hoặc không sử dụng được (tình trạng thiếu nước sạch ở nông thôn, khan hiếm nước ở châu Phi, không khí bị ô nhiễm bụi và khí độc ở các thành phố triệu dân).

Tất cả mọi thành phần của môi trường tự nhiên đều bị tác động, biến đổi theo chiều hướng tiêu cực do sự phát triển ồ ạt của các khu công nghiệp tập trung và đô thị lớn, tình trạng sử dụng ngày càng nhiều hóa chất và phân hóa học trong nông nghiệp, tình trạng phá rừng nhiệt đới lấy gỗ, củi, làm bãi chăn thả và nương rẫy, tình trạng khai thác quy mô lớn khoáng sản trên mặt đất và dưới lòng đại dương gây biến đổi cảnh quan.

Nguồn nước mặt và nước ngầm bị ô nhiễm do nước thải công nghiệp, sinh hoạt, sử dụng hóa chất trong nông nghiệp, khai thác dầu khí ở đại dương.

Không khí bị ô nhiễm bởi tiếng ồn, bụi, khí độc hại từ khí thải công nghiệp, phương tiện giao thông, đốt rừng làm nương rẫy, làm tăng nhiệt độ trái đất, làm mỏng và thủng tầng ozone (do hiệu ứng nhà kính và các khí CFC - clorofluo carbon) gây nên những biến đổi bất thường của khí hậu.

Đất đai bị ô nhiễm bởi rác thải công nghiệp, sinh hoạt, hóa chất trong công nghiệp, bị xâm thực, xói mòn mất độ phì tự nhiên và thoái hóa, hoang mạc hóa do mất rừng và canh tác quá mức.

Sinh vật, cả động và thực vật bị ô nhiễm do việc sử dụng rộng rãi các loại thuốc trừ sâu, thuốc kích thích. Các chất này tích lũy trong cơ thể động thực vật gây ảnh hưởng xấu cho quá trình phát triển của chúng và có hại cho sức khỏe con người khi dùng chúng làm thực phẩm.

Đối với môi trường xã hội, gia tăng dân số quá nhanh trực tiếp làm suy giảm chất lượng cuộc sống, thiếu việc làm cho người lao động đang tăng nhanh (nhất là ở các đô thị lớn) là nguyên nhân cơ bản của tình trạng tội phạm, tệ nạn xã hội gia tăng, mất an ninh và đạo đức xã hội xuống cấp, môi trường xã hội xấu đi.

IV.4. Biện pháp giải quyết mối quan hệ dân số - môi trường và phát triển

Các vấn đề gắn liền với các xu hướng phát triển, suy thoái môi trường, tăng trưởng và phân bố dân số đã trở thành mối quan tâm lớn của nhiều quốc gia trên thế giới. Việc giải quyết khẩn trương và đồng bộ các vấn đề này đã trở nên cấp bách. Các hệ sinh thái và môi trường chỉ có thể đáp ứng đến một mức nào đó nhu cầu khai thác và sử dụng của con người. Khi các ngưỡng này đã đạt tới, các gián đoạn trong các động thái của môi trường sinh thái sẽ xảy ra và gây nên các hậu quả bất lợi cho cuộc sống của con người. Hơn thế nữa, gia tăng dân số nhanh thường làm giảm năng lực của xã hội trong việc tìm kiếm và thay dổi các công nghệ cũng như thiết chế nhằm đạt tới một môi trường sống tốt hơn.

Các tác động tiêu cực đến môi trường có thể giảm thiểu bằng cách kết hợp các chiến lược giảm mức gia tăng dân số, phân bố hợp lý dân dư, loại trừ hoặc ít nhất là giảm thiểu các xu hướng tiêu dùng có hại cho môi trường, áp dụng các công nghệ mới và các cơ chế quản lý mới. Các chính sách phát triển lành mạnh cần tích hợp các chiến lược đã được chọn để đạt được đồng bộ các mục tiêu.

Hội nghị Môi trường và Phát triển của Liên hợp quốc (United Nations Conference on Environment and Development) họp tại Rio de Janeiro tháng 6/1992 đã đưa ra chương trình hành động phát triển môi trường bền vững, gồm những nội dung:

Phân bổ viện trợ quốc tế cho các chương trình có sự thu hồi vốn cao để giảm nghèo khổ và làm lành mạnh môi trường; đáp ứng điều kiện vệ sinh và nước sạch, giảm bớt ô nhiễm không khí trong nhà và đáp ứng các nhu cầu cơ bản.

Đầu tư vào nghiên cứu và triển khai để làm giảm xói mòn đất và thoái hóa đất, áp dụng phương pháp canh tác trên cơ sở bền vững.

Phân bổ thêm nguồn vốn cho công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, giáo dục tiểu học và trung học, nhất là đối với nữ.

Giúp các Chính phủ có ý muốn tránh các lệch lạc và sự mất cân đối kinh tế vĩ mô gây tác hại đến môi trường.

Cung cấp tài chính để bảo vệ môi trường thiên nhiên và tính đa dạng sinh học.

Đầu tư vào nghiên cứu và triển khai các dạng năng lượng thay thế phi carbon để chống lại sự thay đổi khí hậu.

Chống lại các sức ép, bảo hộ và đảm bảo các thị trường quốc tế về hàng hóa và dịch vụ, kể cả tài chính và công nghệ được "mở cửa".

Chương 9

DỰ BÁO VÀ CHÍNH SÁCH DÂN SỐ

Chương 10

DÂN SỐ VIỆT NAM

I. TÌNH HÌNH GIA TĂNG

Việc thống kê dân số ở nước ta trong các triều đại phong kiến thường không chính xác. Nhìn chung, các triều đại phong kiến nắm dân số qua hệ thống quản lý hành chính từ tỉnh xuống huyện, phủ, tổng, xã, thôn theo số đinh (đàn ông từ 18 tuổi trở lên) để bắt lính, phu tạp dịch hoặc thu thuế. Sau ngày thống nhất đất nước (1975), dân số Việt Nam mới có được những số liệu khá chính xác thông qua các cuộc tổng điều tra dân số năm 1979, 1989, 1999.

Thời gian Dân số Thời gian Dân số

2000 năm TCN 1.000.000 1981 54.927.000

Gia Long (1802-1819) 4.290.000 1982 56.170.000

Minh Mạng (1820-1840) 5.023.000 1983 57.373.000

Thiệu Trị (1841-1847) 6.894.000 1984 58.653.000

Tự Đức (1848-1883) 7.171.000 1985 59.872.000

1901 10.000.000 1986 61.109.000

1926 16.308.000 1987 62.452.000

1930 17.582.000 1988 63.727.000

1936 18.000.000 1989 64.774.000

1945 25.000.000 1990 66.233.000

1956 23.500.000 1991 67.774.000

1960 30.172.000 1992 69.405.000

1965 34.929.000 1993 71.026.000

1970 41.063.000 1994 72.509.000

1976 49.160.000 1995 73.959.000

1979 52.462.000 1996 75.355.200

1980 53.720.000 1999 76.324.753

(Nguồn: Dân số học đại cương, Nguyễn Kim Hồng, nxb Giáo dục, 1998)

Dân số nước ta tăng rất nhanh, từ 1926 đến 1965 tăng gấp hai lần trong thời gian 30 năm với số dân tăng thêm khoảng 16 triệu người. Từ năm 1960 tới 1985, chỉ trong 25 năm dân số lại tăng gấp đôi với số dân tăng thêm khoảng 30 triệu người. Thời gian dân số tăng gấp đôi ngày càng rút ngắn và số lượng tuyệt đối cũng tăng lên đáng kể. Theo kết quả tổng điều tra, dân số Việt Nam vào 0 giờ ngày 01-04-1999 là 76.324.753 người. Như vậy, trong 73 năm, từ năm 1926 đến 1999, dân số nước ta đã tăng thêm 60 triệu người.

Về quy mô, dân số nước ta đứng hàng thứ hai trong khu vực Đông Nam Á, đứng thứ 7 châu Á và thứ 12 trên thế giới trong tổng số 200 quốc gia và vùng lãnh thổ.

II. CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH VÀ TUỔI

Việt Nam có cơ cấu dân số trẻ. Quan sát tháp tuổi cho thấy đáy tháp rất rộng thể hiện số lượng trẻ em trong lớp tuổi 0-14 tuổi là rất lớn (năm 1979 chiếm 42,55%, năm 1989 chiếm 39,18% so với tổng dân số), trong khi đó, càng lên các lớp tuổi cao, đỉnh tháp thu hẹp dần thể hiện số người già trên 60 tuổi chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dân số (năm 1979 là 7,07% và năm 1989 là 7,17%).

Tháp tuổi dân số của nước ta 1979 và năm 1989 cho thấy hậu quả của các cuộc chiến tranh diễn ra trong suốt 35 năm, từ năm 1945 đến năm 1979. Ở bảy nhóm tuổi đầu tiên, tháp có hình dáng bình thường, nhưng bị thu hẹp lại nhiều bắt đầu từ tuổi 35 trở lên.

Với dân số trẻ như thế, nước ta cần phải có thêm ngân sách để đầu tư cho nhu cầu y tế, thuốc chữa bệnh, giáo dục và nuôi dạy trẻ. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức rằng, tỷ trọng những người trẻ tuổi trong dân số cao là do ta có mức sinh cao trong nhiều năm qua, nhưng khi mức sinh đã giảm như mấy năm gần đây, thì dân số nước ta dần dần trở nên già hơn. Khi đó sẽ xuất hiện thêm những nhu cầu đặc trưng của người già cần được đáp ứng.

Một đặc điểm đáng chú ý của dân số trẻ là có một số khá đông trẻ em và người già sống dựa vào người khác. Mối quan hệ này được gọi là tỷ lệ phụ thuộc tuổi. Tuy tỷ lệ phụ thuộc tuổi đã giảm đáng kể từ 90% năm 1979 xuống 78% năm 1989, nhưng vẫn còn cao.

Đồng thời, với cơ cấu dân số trẻ như hiện nay, số dân nước ta vẫn còn tăng trong những năm tới vì lớp trẻ đông đảo hôm nay sẽ trưởng thành và sinh con đẻ cái trong tương lai.

Dân số thành thị có cơ cấu tuổi không giống với dân số nông thôn. Theo cuộc tổng điều tra dân số 1989, tỷ trọng trẻ em dưới 15 tuổi của khu vực thành thị là 34% nhưng ở nông thôn lên tới 41%. Ở thành thị, những người thuộc nhóm 15-64 tuổi chiếm 62% tổng số dân thành thị; ở nông thôn là 54%. Vì vậy, tỷ lệ phụ thuộc tuổi của khu vực thành thị là 61 còn nông thôn là 86.

Số liệu về trẻ em sinh trong 12 tháng trước thời điểm tổng điều tra dân số 1989 cho thấy tỷ số giới tính lúc sinh ở nước ta là 106, nghĩa là trong số trẻ em sinh trong năm, cứ 100 bé gái có 106 bé trai. Đây cũng là trường hợp bình thường so với các nước khác trên thế giới. Khi tuổi càng cao, mức tử vong của nam thường cao hơn nữ, nên tỷ số giới tính giảm dần theo tuổi và đến một độ tuổi nào đó sẽ nhỏ hơn 100.

Tỷ số giới tính của dân số nước ta năm 1979 là 94 nam trên 100 nữ, vào loại thấp nhất thế giới. Đó là do hậu quả của các cuộc chiến tranh đã diễn ra liên tiếp trong những năm từ 1940 đến năm 1979. Số liệu tổng điều tra dân số 1979 cho thấy ở nước ta, phụ nữ nhiều hơn nam giới tới 1,6 triệu người. Đến năm 1989, tỉ số giới tính vẫn không tăng lên nhưng nữ giới nhiều hơn nam giới tới 1,9 triệu người. Năm 1999, tỷ số giới tính tăng lên 96,7 và nữ vẫn nhiều hơn nam 1,3 triệu người.

Tỷ lệ giới tính của khu vực thành thị và nông thôn tính từ số liệu tổng điều tra dân số 1979 và 1989 không có nhóm điều tra theo kế hoạch riêng đã cho thấy của khu vực thành thị luôn cao hơn của nông thôn. Điều này là do có nhiều nam giới độc thân ở nông thôn đã chuyển vào làm việc ở khu vực thành thị để tìm việc làm và đi học. Một điều ghi nhận được là tỷ số giới tính ở cả hai khu vực thành thị và nông thôn đều tăng giữa hai cuộc tổng điều tra dân số.

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là sự khác nhau về tỷ số giới tính giữa hai khu vực đã thu lại dần. Vào năm 1979, khu vực thành thị có tỷ số giới tính là 91 so với của khu vực nông thôn là 86. Đến năm 1989, khoảng chênh lệch này chỉ còn 93 so với 92. Một trong những lí do dẫn đến hiện tượng này là có nhiều nam quân nhân sau khi hoàn thành nghĩa vụ đã xuất ngũ về quê ở vùng nông thôn sinh sống.

Số liệu tổng điều tra dân số năm 1989 cho thấy cao nguyên Trung bộ có tỷ số giới tính cao nhất nước, tiếp đến là miền núi Trung du Bắc bộ. Lí do cơ bản là ở các vùng này, số người chuyển đến nhiều hơn số người chuyển đi mà trong số người di chuyển, nam giới nhiều hơn nữ giới. Ở nước ta, những tỉnh có tỷ số giới tính cao như Đắc Lắc (100), Lâm Đồng (99), Vũng Tàu-Côn Đảo (99), Đồng Nai (98), đều là tỉnh có tỷ lệ nhập cư cao.

Tuy Quảng Ninh trong vòng 5 năm qua không có nhiều người chuyển đến định cư, nhưng lại có nhiều mỏ than lớn tập trung công nhân nam, nên có tỷ số giới tính cao nhất nước. Công nhân mỏ than phần đông từ các tỉnh Hải Hưng, Thái Bình, Hà Nam Ninh, đến sống và làm việc tại mỏ nhưng nhiều người vẫn để vợ con sống ở quê.

Độ tuổi Năm 1979 Năm 1989 Năm 1993

Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ

0-4 3.946 3.766 4.646 4.364 4.956 4.538

5-9 3.929 3.762 4.404 4.17 4.875 4.600

10-14 3.632 3.407 3.876 3.651 4.439 4.119

15-19 2.954 3.061 3.337 3.444 3.748 3.848

20-24 2.281 2.601 2.880 3.120 2.920 3.480

25-29 1.742 1.776 2.696 2.971 2.300 3.118

30-34 1.177 1.315 2.264 2.469 2.442 2.723

35-39 967 1.104 1.551 1.774 1.700 1.949

40-44 919 1.085 1.039 1.196 1.152 1.315

45-49 995 1.114 882 1.083 997 1.197

50-54 825 902 865 1.077 867 1.089

55-59 681 873 922 1.045 833 1.091

60-64 541 663 714 861 827 961

65-69 419 560 537 701 616 794

70-74 284 434 326 481 388 534

75-79 183 313 211 354 453 726

80-84 64 136 95 195 (năm 1993: 70+)

85+ 40 91 48 110

Tổng 25.579 27.163 31.333 33.072 33.513 36.084

III. PHÂN BỐ DÂN CƯ

Tính từ năm 1979 đến nay, mật độ dân số trung bình cả nước biến đổi nhanh chóng, từ 160 người/km2 (1979) tăng lên 195 người/km2 (1989), 225 người/km2 (1995) và đạt 230 người/km2 (1999). Mật độ này cao hơn 5 lần mật độ trung bình của thế giới và cao hơn nhiều nước trong khu vực.

Dân số nước ta phân bố không đồng đều giữa các địa phương và các vùng. Theo số liệu tổng điều tra năm 1999, sáu tỉnh thành đông dân nhất là thành phố Hồ Chí Minh (5.037.155 người), Thanh Hóa (3.467.609 người), Nghệ An (2.858.265 người), Hà Nội (2.672.122 người), Hà Tây (2.386.770 người) và An Giang (2.049.039 người).

Đồng bằng sông Hồng là vùng có mật độ dân cư cao nhất nước. Dân số của vùng tính đến 01.04.1993 là 13.756.982 người (chiếm 19,77% dân số cả nước), mật độ dân cư 1.105 người/km2. Vùng có thủ đô Hà Nội và các thành phố lớn là Hải Phòng, Nam Định. Đây là vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi, được khai thác từ lâu đời nên dân cư đông đúc.

Vùng đồng bằng sông Cửu Long, dân số tính đến 01.04.1993 là 15.454.369 người (chiếm 22,2% tổng dân số), mật độ 391 người/km2. Thành phố Cần Thơ là thành phố lớn nhất vùng. Đây là vùng có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi và quy mô dân số lớn nhất nước, nhưng mật độ dân cư chỉ đứng hàng thứ hai sau đồng bằng sông Hồng.

Vùng Đông Nam Bộ có 8.648.630 người năm 1993 (chiếm 12,43% tổng dân số), mật độ dân cư là 370 người/km2. Các thành phố lớn trong vùng có thành phố Hồ Chí Minh - thành phố đông dân nhất cả nước, thành phố Biên Hòa. Đông Nam Bộ đứng thứ ba cả nước về mức độ đông dân nhờ quá trình đô thị hóa mạnh mẽ và sự phân bố lại dân cư.

Vùng Bắc Trung Bộ có 9.473.236 người (1993), chiếm 13,61% tổng dân số), mật độ dân cư 185 người/km2. Hai thành phố lớn là Vinh và Huế. Điều kiện tự nhiên ít thuận lợi, kinh tế chậm phát triển nên quá trình đô thị hóa diễn ra chậm, đây cũng là vùng xuất cư.

Vùng duyên hải miền Trung có số dân 7.341.997 người (1993), chiếm 10,55% tổng số dân, mật độ dân cư 160 người/km2. Đà Nẵng, Nha Trang và Quy Nhơn là các thành phố lớn trong vùng. Đây cũng là vùng điều kiện tự nhiên ít thuận lợi, kinh tế chậm phát triển, quá trình đô thị hóa còn chậm, là vùng xuất cư.

Vùng núi và trung du Bắc Bộ với 12.041.257 người (1993), chiếm17,3% tổng số dân, mật độ dân cư 120 người/km2. Việt Trì, Thái Nguyên, Hạ Long là các thành phố lớn của vùng. Đây là vùng núi, kinh tế mang nặng tính tự nhiên, giao thông khó khăn, tỷ lệ phát triển dân số cao. Đây cũng là vùng xuất cư, đặc biệt là tình hình di cư tự do của đồng bào dân tộc vào Tây Nguyên.

Vùng Tây Nguyên với số dân 2.880.617 người, mật độ dân cư thấp nhất nước. Các thành phố của vùng là Đà Lạt, thành phố Buôn Ma Thuột, thành phố Pleiku. Đây là vùng đất rộng người thưa, kinh tế kém phát triển nhưng lại là vùng nhập cư lớn nhất nước. Từ 1979 đến 1993, quy mô dân số tăng gấp hai lần, phần lớn do nhập cư ngoại vùng.

Sự phân bố dân cư không đồng đều còn thể hiện ở một số khía cạnh sau:

Sự phân bố dân cư không đồng đều theo độ cao: với ¾ dân số tập trung sinh sống ở hai vùng đồng bằng châu thổ lớn, đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và dải đồng bằng hẹp ven biển miền Trung tính tới độ cao 200m; và ¼ dân số còn lại cư trú trên 70% diện tích có độ cao trên 200m.

Sự phân bố dân cư không đồng đều theo địa bàn cư trú. Sự phân bố dân cư giữa thành thị và nông thôn chênh lệch rất lớn. Tỷ lệ dân thành thị của caả nước năm 1999 chỉ chiếm 23,5% tổng dân số, chủ yếu tập trung ở ba thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh, trong khi có tới 76,5% dân số còn lại là dân cư nông thôn.

Một trong những chính sách quan trọng mà Đảng và nhà nước ta thi hành trong nhiều năm qua là phân bố lại lao động và dân cư trên phạm vi cả nước. Mục tiêu chủ yếu của chính sách này là:

Giảm áp lực dân số ở vùng đồng bằng sông Hồng và Duyên hải miền Trung.

Hạn chế mức gia tăng dân số của các thành phố, thị xã, đặc biệt là các thành phố lớn.

Điều hòa dân số trong nội bộ tỉnh, huyện và củng cố làng xã.

Gắn công tác điều lao động và dân cư với củng cố an ninh, quốc phòng.

IV. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN DÂN SỐ VIỆT NAM

Quy mô và tốc độ gia tăng dân số hiện nay đang là sức ép đối với sự phát triển kinh tế - xã hội dẫn đến nguy cơ tụt hậu của Việt Nam so với các nước trên thế giới. Do vậy Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm điều chỉnh sự phát triển dân số theo hướng hạn chế sự gia tăng dân số. Các chủ trương, biện pháp đó được cụ thể như sau:

Quy định tuổi kết hôn tối thiểu: 22 tuổi đối với nữ và 24 tuổi đối với nam ở khu vực thành thị; 19 tuổi đối với nữ và 21 tuổi đối với nam ở khu vực nông thôn.

Quy định về số con: tối đa là 2 con đối với phần lớn các nhóm dân tộc, trừ một vài dân tộc ít người.

Quy định về khoảng cách sinh: con thứ hai phải cách con thứ nhất từ 3 đến 5 năm.

Nâng cao vị trí của phụ nữ trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước.

Nâng cao dân trí, đặc biệt chú ý đến việc nâng cao trình độ văn hóa của các phụ nữ ở vùng nông thôn (vùng cao, vùng sâu).

Những biện pháp trên nhằm giảm mức sinh trung bình từ 0,4 - 0,6%/năm để đến sau năm 2000 tốc độ gia tăng dân số là 1,7%, tổng số dân cả nước đạt ở mức ổn định 80 triệu người.

Cũng giống như nhiều nước khác, dân số nước ta phân bố không đều giữa các vùng trong nước. Ở một số nơi, dân cư sống đông đúc, nhưng một số nơi khác dân cư rất thưa thớt. Có nhiều yếu tố tác động đến sự phân bố của dân số, trong đó đáng chú ý là các yếu tố địa lí như: khí hậu, đất đai, nguồn nước và tài nguyên...

Nước ta có mật độ dân số tương đối cao. Theo số liệu tổng điều tra dân số năm 1989, mật độ dân số nước ta là 195 người/km2, đứng thứ ba trong số 10 nước vùng Đông nam-Á, chỉ sau Singapore và Philippines, và thứ 13 trong số 42 nước thuộc khu vực châu Á và Thái Bình Dương.

Dân số nước ta tập trung chủ yếu ở hai vùng đồng bằng của hai con sông lớn là sông Hồng ở miền Bắc và sông Cửu Long ở miền Nam. Mặc dù hai vùng này chỉ chiếm 17% diện tích đất nhưng là địa bàn cư trú của gần một nửa (44%) số dân cả nước. Ngược lại, Miền núi Trung du Bắc bộ và Cao nguyên Trung bộ chiếm tới gần một nửa (47%) diện tích đất cả nước nhưng vào năm 1989, số dân của vùng chỉ chiếm 1/5 (20%) số dân cả nước.

Trong bảy vùng địa lý kinh tế, đồng bằng Bắc bộ là vùng có mật độ cao nhất, đạt 1.784 người/1km2 năm 1989. Đây cũng đồng thời là vùng có mật độ dân số tính theo diện tích đất có khả năng nông nghiệp cao nhất so với các vùng khác trong nước: năm 1979 là 1.214 người/km2, năm 1989 là 1.503 người/km2. Về mặt lịch sử, Đồng bằng sông Hồng chính là cái nôi của người Việt.

Vùng có mật độ dân số cao thứ hai là đồng bằng sông Cửu Long với mật độ dân số trung bình năm 1989 là 359 người/1km2. Về mặt địa lí, vùng này bằng phẳng và màu mỡ, có khí hậu ấm áp rất thích hợp cho việc trồng lúa. Hơn nữa, đồng bằng sông Cửu Long có tiềm năng đất nông nghiệp lớn. Năm 1989, mật độ tính theo đất có khả năng nông nghiệp là 453 người/1km2, tức chỉ bằng 1/3 mật độ đó của đồng bằng sông Hồng

Các vùng có dân cư trú thưa thớt nhất là Tây nguyên (mật độ dân số năm 1989 là 45 người/km2) và Miền núi Trung du Bắc bộ (103 người/km2). Đây chính là hai vùng có địa hình núi non hiểm trở của nước ta. Tuy vậy, cũng phải nhận thấy là Tây nguyên có mật độ dân số tính theo đất có khả năng nông nghiệp thấp nhất. Năm 1979, mật độ dân số là 99 người/km2 đất có khả năng nông nghiệp, đầu năm 1989 tăng lên 170 người/km2. Điều đó chứng tỏ tiềm năng nông nghiệp chưa khai thác còn lớn.

Không kể thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, mật độ dân năm 1989 của các tỉnh khác nhau đáng kể: từ tỉnh Lai Châu có mật độ dân số 26 người/km2 đến Thái Bình có mật độ dân số 1.065 người/km2. Các tỉnh có mật độ dân số cao đều nằm ven hai con sông lớn là sông Hồng và sông Cửu Long. Đó là các tỉnh Thái Bình, Hải Hưng, Hà Nam Ninh (ven sông Hồng) và An Giang, Bến Tre, Tiền Giang (ven sông Cửu Long). Các tỉnh giáp ranh với các tỉnh trên vào năm 1989 thường có mật độ dân số từ 300 đến 500 người/km2 như Vĩnh Phú, Hà Bắc, Hà Sơn Bình ở miền Bắc và Cửu Long, Đồng Tháp, Hậu Giang ở miền Nam. Các tỉnh ven biển có mật độ dân số từ 100 đến 200 người/km2. Các tỉnh miền núi có mật độ dân số dưới 100 người/km2.

Một trong những chính sách quan trọng mà Đảng và nhà nước ta thi hành trong nhiều năm qua là phân bố lại lao động và dân cư trên phạm vi cả nước. Mục tiêu chủ yếu của chính sách này là:

Giảm áp lực dân số ở vùng đồng bằng sông Hồng và Duyên hải miền Trung.

Hạn chế mức gia tăng dân số của các thành phố, thị xã, đặc biệt là các thành phố lớn.

Điều hòa dân số trong nội bộ tỉnh, huyện và củng cố làng xã.

Gắn công tác điều lao động và dân cư với củng cố an ninh, quốc phòng.

Tuy nhiên, bức tranh phân bố theo lãnh thổ của nước ta hầu như không thay đổi trong khoảng thời gian giữa hai cuộc tổng điều tra dân số năm 1979 và 1989. Ở cả hai thời điểm, các vùng thuộc miền Bắc đều chiếm trên 50% số dân của cả nước.

- Sinh sản: là một hiện tượng sinh vật học, đóng vai trò thay thế và duy trì về mặt sinh học của xã hội loài người, hay nói một các khác đó là quá trình tạo nên thế hệ mới trong dân số.

- Tử vong: là quá trình chết đi của những người ở những độ tuổi khác nhau không còn khả năng sống.

- Hôn nhân: là quá trình hình thành các vặp vợ chồng bao gồm việc kết hôn (lần đầu) và tái hôn (xây dựng lại gia đình sau khi ly dị hoặc tục huyền).

- Chấm dứt hôn nhân: là quá trình hôn nhân tan rã do một trong hai người bạn đời (vợ hay chồng) qua đời hoặc do li hôn.

- Di dân: là sự di chuyển của dân cư từ một đơn vị lãnh thổ này tới một đơn vị lãnh thổ khác nhằm thiết lập nơi cư trú mới trong một khoảng thời gian nhất định. Di dân bao gồm hai quá trình là nhập cư và xuất cư.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top