Untitled Part 1

1/ khái niệm ngôn ngữ. các đơn vị ngôn ngữ. các quan hệ cơ bản trong ngôn ngữ

*khái niệm ngôn ngữ

-ngôn ngữ là một hệ thống bao gồm các đơn vị như là âm vị, hình vị, từ, câu và những quy tắc để kết hợp các đơn vị này tạo thành lời nói trong giao tiếp

*các đơn vị ngôn ngữ

-ÂM VỊ: là đơn vị nhỏ nhất có chức năng khu biệt nghĩa và nhận diện từ. âm vị không có nghĩa, là đơn vị để cấu tạo nên các hình vị

VD: "màn" có âm thanh khác với "bàn" nhờ có sự đối lập giữa âm vị /b/ và âm vị /m/ do vậy chúng ta khu biệt được nghĩa của 2 từ này(bàn khác nghĩa với màn)

-HÌNH VỊ : là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa. Hình vị được chia ra làm 2 loại là hình vị thực và hình vị hư. Nghĩa của hình vị có thể mang ý nghĩa từ vựng hoặc mang ý nghĩa ngữ pháp. Hình vị là đơn vị để cấu tạo nên từ

VD: từ quốc gia gồm 2 hình vị là ''quốc" và "gia". Hai hình vị này đều biểu thị nghĩa "quốc" là nước và "gia" là nhà

-TỪ : là đơn vị nhỏ nhất có khả năng hoạt động độc lập. từ là đơn vị cấu tạo nên câu

VD: các từ bàn, tủ, ghế, đứng, cười, nói,....

-CÂU: là đơn vị nhỏ nhất có chức năng thông báo. Câu ít nhất phải có một từ, từ ít nhất phải có một hình vị, một hình vị ít nhất phải có một âm vịà k đúng

PHÂN BIỆT NGÔN NGỮ VÀ LỜI NÓI

Ngôn ngữ tồn tại ở 2 dạng tĩnh và động

NGôn NGữ

LỜi nói

TÍnh tập thể

Dạng tĩnh ,tiềm năng

Hữu hạn

TÍNh cá nhân

Dạng động,hiện thực

Vô hạn

* ngôn ngữ và lời nói là hai mặt của vấn đề trong thực tế không nên tách rời, quá rạch ròi và cực đoan

HỆ THỐNG NGÔN NGỮ

Hệ thống là thể thông nhất của hai hay nhiều mối quan hệ có quan hệ với nhau

=> Tổng thể các mối liên hệ trong mối quan hệ gọi là kết cấu

*các quan hệ cơ bản trong ngôn ngữ

-quan hệ tuyến tính(quan hệ ngang, quan hệ ngữ đoạn): + khái niệm: quan hệ tuyến tính là quan hệ nối kết các đơn vị ngôn ngữ thành chuỗi khi ngôn ngữ đi vào hoạt động

+cơ sở của quan hệ tuyến tính: là tính hình tuyến. các đơn vị phải nối kết với nhau một cách lần lượt trên trục nằm ngang. Trên trục này chỉ những đơn vị đồng hạng mới trực tiếp kết hợp với nhau (quan hệ giữa âm vị với âm vị, hình vị với hình vị, từ với từ,...). Không nhất thiết những đơn vị ở gần nhau thì phải có mối quan hệ với nhau

-quan hệ liên tưởng:

+khái niệm: quan hệ liên tưởng là quan hệ giữa các yếu tố có thể thay thế cho nhau trong một vị trí của chuỗi lời nói. Các yếu tố tham gia vào quan hệ liên tưởng phải nằm trong cùng một trường liên tưởng (cùng trường nghĩa, đồng nghĩa, trái nghĩa)

VD: nhân dân ta rất anh hùng

Từ "nhân dân" ta có thể thay bằng từ " quân đội", "thanh niên", "phụ nữ",....

+quan hệ liên tưởng giúp chúng ta lựa chọn trường từ một cách chuẩn xác trong lời nói

-quan hệ cấp bậc: là quan hệ giữa các đơn vị ở cấp độ khác nhau của hệ thống ngôn ngữ. quan hệ cấp bậc thể hiện ở hai quan hệ:

+quan hệ bao hàm: thể hiện giữa các đơn vị bậc cao với các đơn vị bậc thấp, câu bao hàm từ, từ bao hàm hình vị, hình vị bao hàm các âm vị

+quan hệ thành tố: quan hệ thành tố được xét từ thấp đến cao; âm vị là thành tố cấu tạo nên hình vị, hình vị là thành tố cấu tạo nên từ, từ là thành tố cấu tạo nên câu

Trong quan hệ bao hàm và quan hệ thành tố ta chỉ xét những đơn vị cùng loại

2.2: vấn đề nguồn gốc của ngôn ngữ

* điều kiện nảy sinh ra ngôn ngữ:

Tất cả những giả thuyết trên đây đều không giải thích được ngôn ngữ đã nảy sinh trong điều kiện nào. Người giải thích một cách khoa học, sâu sắc cái điều kiện tạo ra ngôn ngữ của loài người chính là Ăng ghen. Theo Ăng ghen thì lao động chính là điều kiện để nảy sinh ra ngôn ngữ

Nhờ lao động bằng công cụ mà tư duy của con người đã phát triển. Ăng ghen viết: dần dần với sự phát triển của bàn tay và với quá trình lao động, con người bắt đầu thống trị giới tự nhiên và sự thống trị đó, cứ mỗi lần tiến lên một bước, là nó mở rộng thêm tầm mắt của con người. trong các đối tượng tự nhiên, con người luôn luôn phát hiện ra được những đặc tính mới mà từ trước đến nay chưa từng đc biết đến

Chứng minh lao động là điều kiện để nảy sinh ngôn ngữ:

Rõ ràng, lao động quyết định sự ra đời của ngôn ngữ. Một mặt, lao động làm cho người ta cần thiết phải có ngôn ngữ để nói với nhau, mặt khác, lao động làm cho người ta cần phải có ngôn ngữ để tiến hành tư duy, hình thành tư tưởng, lấy nó làm nội dung giao tiếp với nhau.

Khi chưa có ngôn ngữ người nguyên thủy lúc đầu sống trên cây về sau rừng bị tàn phá họ bắt buộc phải xuống đất ở.ở dưới đất có rất nhiều nguy hiểm và để tránh thú dữ con người buộc phải tập đứng bằng hai chân điều này làm cho đôi tay của họ đc giải phóng.nhờ có đôi tay đc giải phóng, con người có thể chế tạo ra công cụ lao động. nhờ có công cụ lao động mà lao động của con người trở nên lao động có sáng tạo khác hẳn với lao động bản năng của con vật. nhờ có lao động mà tư duy của con người đã phát triển. họ chuyển từ ăn sống sang ăn chin, các bộ phận trong cơ thể cũng phát triển thêm một bước nữa. khi con người có nền tảng cấu âm, có bộ não phát triển dẫn đến họ nảy sinh nhu cầu giao tiếp và truyền lại cho con cháu của họ. nhu cầu giao tiếp ấy của con người cũng lại do lao động quyết định. Sự phát triển của lao động đã tạo ra rất nhiều trường hợp để cho con người giúp đỡ lẫn nhau, hợp tác với nhau và làm cho mỗi cá nhân ngày càng ý thức rõ rệt hơn đối với lợi ích của sự hợp tác ấy. những con người đang đc hình thành đó đã đạt đến mức đối với nhau họ có những điều cần phải nói mới được

ð kết luận:

+ lao động giúp hoàn thiện cơ quan phát âm của con người

+nhờ lao động bằng công cụ mà năng lực tư duy của con người phát triển.

+ ngôn ngữ nảy sinh là do sự cần thiết phải giao tiếp, mà nhu cầu giao tiếp này lại do lao động quyết định

*tiền thân của ngôn ngữ loài người: à bỏ

Mệnh đề ngôn ngữ bắt nguồn từ trong lao động thực ra chỉ mới khẳng định điều kiện nảy sinh ngôn ngữ chứ chưa nói rõ ngôn ngữ đã nảy sinh từ những cái gì

Ngôn ngữ với tư cách là hệ thống tín hiệu thứ hai phải bắt nguồn từ hệ thống tín hiệu thứ nhất ở con người. hệ thống tín hiệu thứ nhất là tất cả những ấn tượng, cmar giác và biểu tượng thu đc từ bối cảnh tự nhiên bên ngoài thông qua những phản xạ, kích thích ở dạng mọi cảm giác như thính giác, thị giác, xúc giác,...hệ thống tín hiệu thứ nhất tiến hành giao tiếp trong phạm vi tư duy trừu tượng, một mặt nó lấy hình tượng mà bộ máy cảm nhận được làm cái biểu hiện còn cái đc biểu hiện là tư duy trừu tượng

Nhưng không phải ngôn ngữ bắt nguồn từ tất cả hệ thống tín hiệu thứ nhất. vì ngôn ngữ lấy ngữ âm làm vật kích thích vật chất, lấy khái niệm làm nội dung chính của những vật kích thích ấy cho nên chit bộ phận hệ thống tín hiệu thứ nhất nào có tác dụng giao tiếp lấy âm thanh làm vật kích thích mới trở thành ngôn ngữ

VD: 2 tiếng hú của người nguyên thủy

- tiếng hú khi một con phát hiện ra thức ăn – đây là ngôn ngữ

- tiếng hú khi họ vui, cười, đùa khi có thức ăn

như vậy có thể một phần của sự bắt chước âm thanh là nguồn gốc của một số thành phần ngôn ngữ. nhưng phải là âm thanh mà con người mô phỏng âm thanh do sự vật phát ra để làm tín hiệu giao tiếp.

những bộ phận tiến kêu trong lao động, tiếng kêu cảm thán có tác dụng giao tiếp với tư cách là hệ thống tín hiệu thứ nhất, đề có thể trở thành những bộ phận cấu thành của ngôn ngữ sau này

3/ bản chất xã hội của ngôn ngữ

*những giả thuyết khác nhau về bản chất của ngôn ngữ à bỏ

Do ảnh hưởng của thuyết tiến hóa của Đacuyn, một số người cho ngôn ngữ cũng giống như một cơ thể sống, một động vật hoặc một thực vật. ngôn ngữ hoạt động và phát triển theo quy luật của tự nhiên nghĩa là tất cả các ngôn ngữ ở mọi nơi và mọi lúc đều phải trải qua các giai đoạn: nảy sinh, trưởng thành, hưng thịnh, suy tàn và diệt vong

Một số người khác lại đồng nhất ngôn ngữ với bản năng sinh vật của con người nghĩa là họ cho hoạt động nói năng cũng có tính chất bản năng như các hoạt động ăn, khóc, cười, chạy, nhảy,... của con người

Một biểu hiện nữa trong việc giải thích bản chất tự nhiên của ngôn ngữ là đồng nhất ngôn ngữ với những đặc trưng về chủng tộc. những đặc trưng chủng tộc như màu da, tỉ lệ thân thể,... có tính chất di truyền

Những người bảo vệ quan điểm sinh vật học đối với ngôn ngữ còn đồng nhất ngôn ngữ với tiếng kêu của động vật. trong khi phê phán quan điểm sinh vật học đối với ngôn ngữ, một số nhà bác học vẫn không thừa nhận bản chất XH của ngôn ngữ mà lại cho ngôn ngữ là hiện tượng cá nhân

ð tất cả các giả thuyết trên đều sai lầm. ngôn ngữ là một hiện tượng XH

*ngôn ngữ là một hiện tượng XH

Ngôn ngữ không thuộc các hiện tượng tự nhiên, cũng không phải là hiện tượng cá nhân, vậy thì nó phải là hiện tượng XH.

C.Mác đã viết: ngôn ngữ là ý thức thực tại, thực tiễn, ngôn ngữ cũng tồn tại cho cả những người khác nữa, như vậy là cũng tồn tại lần đầu tiên cho bản thân tôi nữa; và, cũng như ý thức, ngôn ngữ chỉ sinh ra là do nhu cầu, do cần thiết phải giao dịch với người khác

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, bản chất XH của ngôn ngữ thể hiện ở chỗ: nó phục vụ XH với tư cách là phương tiện giao tiếp; nó thể hiện ý thức XH; sự tồn tại và phát triển của ngôn ngữ gắn liền với sự tồn tại và phát triển của XH

Khẳng định ngôn ngữ là một hiện tượng XH cũng có nghĩa là thừa nhận ngôn ngữ tồn tại và phát triển theo quy luật khách quan của mình, không phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng của mỗi cá nhân con người

Ngôn ngữ luôn luôn kế thừa cái cũ và phát triển cái mới, không bao giờ bị hủy diệt hoàn toàn. Trong quá trình phát triển, ngôn ngữ luôn luôn tiếp thu các yếu tố mới (từ mới, nghĩa mới) để phong phú và hoàn thiện thêm

*ngôn ngữ là một hiện tượng XH đặc biệt

Khẳng định ngôn ngữ là một hiện tượng XH, chúng ta đồng thời phải vạch rõ vị trí của ngôn ngữ giữa các hiện tượng XH khác

Trong các hiện tượng XH, chủ nghĩa Mác đã chỉ rõ hiện tượng XH bao gồm có 2 loại đó là cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

Chứng minh ngôn ngữ là một hiện tượng XH đặc biệt:

-ngôn ngữ không thuộc cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

Mỗi kiến trúc thượng tầng đều là sản phẩm của một cơ sở hạ tầng trong khi đó ngôn ngữ không phải do cơ sở hạ tầng nào đẻ ra mà là phương tiện giao tiếp của tập thể XH, được hình thành và bảo vệ qua các thời đại. ở thời phong kiến cơ sở hạ tầng là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, còn kiến trúc thượng tầng là chế độ người bóc lột người. đến thời hiện đại cơ sở hạ tầng là chế độ bình đẳng về tư liệu sản xuất, còn kiến trúc thượng tầng là bình đẳng giữa con người với con người. khi cơ sở hạ tầng cũ bị thủ tiêu thì kiến trúc thượng tầng của nó cũng sụp đổ theo và thay thế vào đó là một kiến trúc thượng tầng mới tương xứng với cơ sở hạ tầng mới. ngôn ngữ biến đổi liên tục, không quan tâm đến tình trạng của cơ sở hạ tầng, nó không tạo ra một ngôn ngữ mới mà chỉ hoàn thiện cái đã có mà thôi

-kiến trúc thượng tầng luôn luôn phục vụ cho một giai cấp nào đó còn ngôn ngữ không có tính giai cấp

Ngôn ngữ ra đời cùng với XH loài người, nhưng XH loài người không phải ngay từ đầu đã phân chia thành các giai cấp. khi chưa có giai cấp thì ngôn ngữ đã có rồi. khi đã có giai cấp rồi tất cả các mặt trong XH đều đối lập chỉ có kinh tế là không đối lập. đấu tranh giai cấp không dẫn đến phân liệt XH, các giai cấp đối địch vẫn phải liên hệ về kinh tế với nhau, giai cấp tư sản vẫn phải dựa vào giai cấp vô sản để mà sống, giai cấp vô sản cũng phải bán mình cho giai cấp tư sản để kiếm miếng ăn. Như vậy, nếu không có ngôn ngữ chung cho các giai cấp thì XH sẽ ngừng sản xuất, sẽ tan rã và không tồn tại với tư cách là một XH nữa

-cơ sở hạ tầng phục vụ XH về mặt kinh tế,kiến trúc thượng tầng phục vụ XH bằng những ý niệm vè chính trị, pháp quyền và nhiều mặt khác nữa, và tạo cho XH những thiết chế tương đương về chính trị, pháp quyền và những mặt khác nữa. còn ngôn ngữ phục vụ XH với tư cách là một phương tiện giao tiếp giúp người ta hiểu biết lẫn nhau và cùng nhau hợp tác trên mọi lĩnh vực cả trên lĩnh vực sản xuất lẫn quan hệ sản xuất, cả trên lĩnh vực chính trị lẫn văn hóa, cả trên lĩnh vực sinh hoạt XH lẫn sinh hoạt thường ngày

4/ bản chất tín hiệu của ngôn ngữ

*các khái niệm:

-hệ thống: là một đối tượng toàn vẹn bao gồm nhiều yếu tố và những mối quan hệ liên hệ với nhau giữa các yếu tố

-kết cấu (cấu trúc) : là tổng hòa các mối quan hệ liên hệ giữa các yếu tố trong một hệ thống

-tín hiệu: là một thuộc tính vật chất tác động vào giác quan của con người làm chúng ta nghĩ đến một cái gì đó nằm ngoài thuộc tính vật chất

VD: cái đèn đỏ trong bảng đèn tín hiệu giao thông đường bộ là một tín hiệu bởi vì khi nó hoạt động (sáng lên) người ta thấy nó và suy diễn tới sự cấm đoán không được đi qua chỗ nào đó

*ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu:

Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu nó khác với những hệ thống vật chất khác không phải là tín hiệu chẳng hạn kết cấu của một cái cây, kết cấu của một cơ thể sống, một vật thể đá,....bản chất tín hiệu của ngôn ngữ thể hiện ở những điểm sau:

-Các yếu tố của những hệ thống vật chất không phải là tín hiệu có giá trị đối với hệ thống vì có những thuộc tính vật thể tự nhiên của chúng. Hệ thống tín hiệu cũng là hệ thống vật chất nhưng các yếu tố của nó có giá trị đối với hệ thống không phải do những thuộc tính vật thể tự nhiên của chúng mà do những thuộc tính được người ta trao cho để chỉ ra những khái niệm hay tư tưởng nào đó.

-tính 2 mặt của tín hiệu: Mỗi tín hiệu là cái tổng thể do sự kết hợp giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện mà thành. Cái biểu hiện trong ngôn ngữ là hình thức ngữ âm, còn cái được biểu hiện là khái niệm hay đối tượng biểu thị.

-tính võ đoán của tín hiệu: mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện là không có lý do gì có thể giải thích được đó là sự quy ước của cộng đồng

VD: khái niệm người đàn ông cùng mẹ sinh ra và sinh ra trước mình trong tiếng việt được biểu thị bằng âm [anh] nhưng trong tiếng Nga lại được biểu thị bằng âm [brat]. Khái niệm ấy được biểu thị bằng [anh] hay [brat] hoàn toàn là do sự quy ước của cộng đồng chứ không thể giải thích lý do

-giá trị khu biệt của tín hiệu: trong một hệ thống tín hiệu, cái quan trọng là sự khu biệt. đặc điểm này đủ để phân biệt nó với các tín hiệu vùng bên cạnh

VD: trong hệ thống đèn giao thông có 3 yếu tố: màu đỏ - chỉ sự cấm đi; màu vàng – chuẩn bị; màu xanh – có thể đi. Thực ra màu đỏ, màu vàng, màu xanh tự nó không có nghĩa gì cả. sở dĩ mỗi màu mang một nội dung như vậy hoàn toàn là do quy ước. chỉ đặt trong hệ thống đèn giao thông các màu mới có ý nghĩa như thế

*ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt: à Nên lấy VD cho mỗi đặc điểm

Cùng là hệ thống tín hiệu, ngôn ngữ khác với các hệ thống tín hiệu khác ở những đặc điểm sau:

-tính phức tạp, nhiều tầng bậc:

+ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu phức tạp bao gồm các yếu tố đồng loại và không đồng loại, với số lượng không xác định. Chẳng hạn, hệ thống đèn giao thông chỉ gồm ba yếu tố là đèn đỏ, đèn xanh và đèn vàng và tính chất của chúng là hoàn toàn như nhau. Ngôn ngữ có nhiều loại đơn vị khác nhau: âm vị khác với hình vị, hình vị khác với từ, từ khác với câu. Số lượng từ và câu trong một ngôn ngữ là vô số.

+vì ngôn ngữ bao gồm các yếu tố không đồng loại cho nên nó tạo ra nhiều hệ thống và hệ thống con khác nhau. Mỗi hệ thống con như vậy bao gồm những yếu tố tương đối đồng loại. Chẳng hạn, hệ thống âm vị bao gồm tất cả các âm vị, hệ thống từ vựng bao gồm tất cả các từ và đơn vị tương đương với từ, hệ thống hình vị bao gồm tất cả các hình vị v.v... Hệ thống âm vị lại có thể chia ra hệ thống nguyên âm và hệ thống phụ âm, hệ thống hình vị có thể chia ra hệ thống hình vị thực và hệ thống hình vị hư, hệ thống từ vựng có thể chia ra hệ thống từ đơn và hệ thống từ ghép v.v...

+ các đơn vị ngôn ngữ làm thành những cấp độ khác nhau. Thí dụ: câu bao gồm các từ, từ bao gồm các hình vị, hình vị bao gồm các âm vị. Ngược lại, âm vị nằm trong hình vị, hình vị nằm trong từ, từ nằm trong câu. Vì vậy, âm vị, hình vị, từ và câu là những cấp độ khác nhau.

-tính đa trị: Trong các hệ thống tín hiệu khác, mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện có tính chất đơn trị, nghĩa là mỗi cái biểu hiện chỉ tương ứng với một cái được biểu hiện. ở ngôn ngữ không hoàn toàn như vậy. trong ngôn ngữ có khi một cái biểu hiện tương ứng với nhiều cái được biểu hiện khác nhau, có khi nhiều cái biểu hiện khác nhau chỉ tương ứng với một cái được biểu hiện

-tính năng sản: ngôn ngữ có thể tạo ra cho tín hiệu của mình những tín hiệu mới dựa trên những tín hiệu đã có bằng cách phát triển từ mới hoặc cấu tạo từ

-tính hình tuyến: khi đi vào hoạt động các ngôn ngữ phải lần lượt nối tiếp nhau thành chuỗi theo trật tự trước sau trên trục nằm ngang

-tính độc lập tương đối: Các hệ thống tín hiệu nhân tạo khác thường được sáng tạo ra theo sự thoả thuận của một số người, do đó hoàn toàn có thể thay đổi theo ý muốn của con người. ngược lại, ngôn ngữ có tính chất XH, có quy luật phát triển nội tại của mình không lệ thuộc vào ý muốn cá nhân. Tuy nhiên con người vẫn có thể tạo điều kiện cho ngôn ngữ phát triển theo những hưỡng nhất định

-giá trị đồng đại và giá trị lịch đại của ngôn ngữ: Các hệ thống tín hiệu nhân tạo chỉ có giá trị đồng đại, tức là được sáng tạo ra để phục vụ nhu cầu nào đó của con người trong một giai đoạn nhất định. . Ngôn ngữ vừa có giá trị đồng đại vừa có giá trị lịch đại. Bất cứ ngôn ngữ nào cũng là sản phẩm của quá khứ để lại. Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp và tư duy của những người cũng thời mà còn là phương tiện giao tiếp và tư duy của những người thuộc các thời đại khác nhau, các giai đoạn lịch sử khác nhau.

5/ chức năng của ngôn ngữ

*chức năng giao tiếp của ngôn ngữ: à chưa ổn. Phần này cô đã hướng dẫn rất kĩ học những đoạn nào, học ra làm sao. Em xem lại trong GT- 17

- khái niệm giao tiếp: giao tiếp là một hoạt động tiếp xúc thường xuyên giữa con người với con người mà ở đó diễn ra sự trao đổi thông tin thông qua một phương tiện giao tiếp để đạt được một mục đích nào đó

Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của con người. ngoài ngôn ngữ con người còn có những phương tiện giao tiếp khác như cử chỉ, điệu bộ, các loại kí hiệu khác nhau,.... Nhưng tất cả đều không đáp ứng được mục đích giao tiếp tốt như ngôn ngữ vì các phương tiện giao tiếp này bị hạn chế bởi phạm vi biểu thị nội dung

VD: có những cử chỉ chỉ một số người hiểu với nhau nhiều khi ý nghĩa của các cử chỉ cũng không rõ ràng dẫn đến chỗ người tạo ra cử chỉ nghĩ một đằng, người tiếp thu hiểu một nẻo

Đèn tín hiệu giao thông thì chỉ được áp dụng trong phạm vi hạn chế chứ không phải là phương tiện giao tiếp toàn XH. Âm nhạc, hội họa, điêu khắc không thể truyền đạt khái niệm và tư tưởng mà chỉ khơi gợi chúng trên cơ sở những hình ảnh, cảm xúc đã gây ra được ở người nghe và người xem

Nhờ ngôn ngữ mà con người có thể hiểu nhau trong quá trình sinh hoạt và lao động, có thể truyền tải trí tuệ, tư tưởng từ thế hệ này sang thế hệ khác

Ngôn ngữ là một công cụ đấu tranh, sản xuất dù nó không sản xuất ra của cải vật chất nhưng nó giúp con người lĩnh hội những kiến thức mới, hợp tác cùng phát triển

Ngôn ngữ không có tính giai cấp nhưng lại là công cụ để đấu tranh giai cấp. các giai cấp khác nhau cùng sử dụng ngôn ngữ để đấu tranh với nhau. Dùng ngôn ngữ để tuyên truyền các đường lối, tư tưởng,...

*chức năng tư duy của ngôn ngữ

Chức năng thể hiện tư duy của ngôn ngữ biểu hiện ở cả 2 khía cạnh:

-ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. không có từ nào, câu nào mà lại không biểu hiện khái niệm hay tư tưởng. ngược lại, không có ý nghĩ, tư tưởng nào không tồn tại dưới dạng ngôn ngữ. ngôn ngữ là biểu hiện thực tế của tư tưởng

-ngôn ngữ trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành tư tưởng. mọi ý nghĩ, tư tưởng chỉ trở nên rõ ràng khi được biểu hiện bằng ngôn ngữ

Phân biệt ngôn ngữ và tư duy: à nên lấy VD phân tích cho mỗi điểm khác biệt

ngôn ngữ và tư duy là thống nhất, có ngôn ngữ thì có tư duy và có tư duy thì có ngôn ngữ nhưng ngôn ngữ và tư duy không đồng nhất

Ngôn ngữ

Tư duy

Ngôn ngữ là vật chất bởi vì tất vả các đơn vị của nó như từ, hình vị, âm vị,...đều là âm thanh, có những thuộc tính vật chất nhất định như độ cao, độ dài

Tư duy là tinh thần

Các đơn vị của ngôn ngữ không đồng nhất với các đơn vị của tư duy

Các đơn vị của tư duy không đồng nhất với các đơn vị của ngôn ngữ

Ngôn ngữ mang tính dân tộc

Tư duy mang tính nhân loại

Ngôn ngữ liên quan đến cộng đồng sử dụng ngôn ngữ

Tư duy liên quan đến lô gíc

6/ ngữ âm

*đơn vị đoạn tính

· âm vị: là đơn vị nhỏ nhất có chức năng khu biệt nghĩa và nhận diện từ

một số vấn đề xoay quanh âm vị:

+trong các ngôn ngữ các âm vị phân biệt với nhau nhờ những đặc trưng cấu âm và đặc trưng âm học cụ thể. Nhưng trong số những đặc trưng ấy chỉ có một hoặc một số đặc trưng được sử dụng để thực hiện chức năng mà âm vị đảm nhiệm. đặc trưng ấy được gọi là nét khu biệt âm vị

+ để ghi phiên âm âm vị người ta để trong kí hiệu / /

+ âm vị là những đơn vị trừu tượng được thể hiện ra bằng các âm tố

· âm tố: là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất của chuỗi lời nói mà người ta không thể phân chia được

+ âm tố là những đơn vị cụ thể và được thể hiện ra bên ngoài của âm vị. nói đến âm tố là chúng ta nói đến những âm được cảm nhận bằng thính giác

+ âm tố được đặt kí hiệu trong [ ]

+ âm tố được chia ra làm 2 loại là: nguyên âm và phụ âm

So sánh nguyên âm và phụ âm à bỏ

§ giống nhau: đều là 2 đơn vị của âm tố và cả nguyên âm và phụ âm đều không thể phân chia được nữa

§ khác nhau

Nội dung so sánh

Nguyên âm

Phụ âm

Bản chất âm học

Do thanh cấu tạo nên, nó có đường cong biểu diễn tuần hoàn

Phụ âm về cơ bản là tiếng động có đường cong biểu diễn không tuần hoàn

Mặt cấu âm

Nguyên âm được tạo nên bởi luồng hơi ra tự do

Phụ âm được tạo nên do sự cản trở không khí

Khả năng tự cấu thành âm tiết

Có khả năng tự cấu thành âm tiết

Không có khả năng tự cấu thành âm tiết

Cách thoát hơi từ phổi

Luồng hơi đi ra không bị cản trở, thoát ra ngoài một cách tự do.VD [e]

Luồng hơi bị cản trở bởi các bộ máy phát âm như môi, đầu lưỡi, lợi,...VD[t]

Cường độ của luồng hơi

Luồng hơi đi ra yếu

Luồng hơi đi ra mạnh

Sự rung động của dây thanh

Dây thanh rung nhiều, tạo cho nguyên âm nhiều tiếng thanh.VD: [a]

Dây thanh rung ít hoặc không rung, tạo cho phụ âm có nhiều tiếng động.VD: [k]

7/ ý nghĩa ngữ pháp. Phương thức ngữ pháp

*ý nghĩa ngữ pháp:

- khái niệm: ý nghĩa ngữ pháp là loại ý nghĩa chung cho hàng loạt các đơn vị từ và được thể hiện ra bên ngoài bằng những phương tiện ngữ pháp nhất định.

-ý nghĩa ngữ pháp mang tính chất chung, trừu tượng trong sự so sánh tương đối với ý nghĩa từ vựng

** các loại ý nghĩa ngữ pháp:

-ý nghĩa ngữ pháp tự thân và ý nghĩa ngữ pháp quan hệ:

+ ý nghĩa ngữ pháp tự thân là loại ý nghĩa xuất hiện trong mọi dạng thức của đơn vị từ. các ý nghĩa ngữ pháp khác như "giống cái", "giống đực", "số ít", "số nhiều" của danh từ hay "thời hiện tại", "thời tương lai" của động từ cũng thuộc vào loại s nghĩa tự thân

+ ý nghĩa ngữ pháp quan hệ là loại ý nghĩa ngữ pháp có được do những đơn vị từ đi kèm với nó.VD: trong câu mèo vồ chuột từ "mèo" biểu thị chủ thể của hoạt động vồ,còn từ "chuột" biểu thị đối tượng. nhưng trong câu chuột lừa mèo thì "chuột" mang ý nghĩa chủ thể và từ "mèo" mang ý nghĩa đối tượng của hoạt động. các ý nghĩa "chủ thể", "đối tượng" chỉ nảy sinh do những mối quan hệ giữa các từ trong các câu cụ thể

-ý nghĩa ngữ pháp thường trực và ý nghĩa ngữ pháp lâm thời:

+ ý nghĩa ngữ pháp thường trực là loại ý nghĩa ngữ pháp luôn luôn đi kè ý nghĩa từ vựng, có mặt trong mọi dạng thức của đơn vị

+ ý nghĩa lâm thời là loại ý nghĩa chỉ xuất hiện ở một số dạng thức nhất định của đơn vị

*phương thức ngữ pháp:

- khái niệm: phương thức ngữ pháp là những biện pháp hình thức chung nhất thể hiện ý nghĩa ngữ pháp

** các phương thức ngữ pháp: à Phải có ít nhất 2 VD cho mỗi pt

-phương thức dùng phụ tố: là phương thức dùng phụ tố để bổ sung ý nghĩa cho chính tố để làm thay đổi ý nghĩa của từ

-phương thức biến dạng chính tố: là phương thức biến đổi một bộ phận của chính tố để thể hiện sự thay đổi ý nghĩa ngữ pháp

-phương thức thay chính tố: là phương thức thay đổi hoàn toàn vỏ ngữ âm của từ để biểu thị sự thay đổi ý nghĩa ngữ pháp

-phương thức trọng âm: là phương thức sử dụng trọng âm để thể hiện sự phân biệt ý nghĩa từ vựng của các từ hay để phân biệt ý nghĩa ngữ pháp của các dạng thức từ

=> những phương thức trên đây được gọi là phương thức tổng hợp tính

-phương thức lặp: là phương thức mà lặp lại toàn bộ hay một bộ phận vỏ ngữ âm của chính tố để tạo nên một từ mới hoặc một dạng mới của từ

-phương thức hư từ: là phương thức sử dụng hư từ đi kem với các thực từ để làm thay đổi về mặt ý nghĩa ngữ pháp của từ

-phương thức trật tự từ: là phương thức sắp xếp trật tự các từ trong một câu để làm thay đổi ý nghĩa ngữ pháp của câu

-phương thức ngữ điệu: là phương thức sử dụng ngữ điệu để biểu thị ý nghĩa tình thái của các câu như tường thuật, nghi vấn, khẳng định, phủ định

=> những phương thức này được gọi là phương thức phân tích tính

8/ phân loại ngôn ngữ theo loại hình:

*phương pháp so sánh – loại hình

- khái niệm: phương pháp so sánh – loại hình hướng vào hiện tại, vào hoạt động của kết cấu ngôn ngữ

-nhiệm vụ: nhiệm vụ trung tâm của phương pháp so sánh này là tìm hiểu những cái giống nhau và khác nhau trong kết cấu của hai hoặc nhiều ngôn ngữ

-khi so sánh người ta có thể xuất phát từ các mặt khác nhau của ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp

-kết quả: bằng cách so sánh như vậy, người ta có thể rút ra đâu là những thuộc tính phổ quát còn được gọi là những phổ niệm ngôn ngữ, đâu là những thuộc tính riêng biệt và đâu là những thuộc tính loại hình

Căn cứ vào những thuộc tính loại hình người ta chia các ngôn ngữ thế giới thành các nhóm loại hình khác nhau

*loại hình ngôn ngữ đơn lập:

Tiêu biểu cho loại hình này là tiếng việt, tiếng hán, tiếng thái, các tiếng Môn – khmer,... đặc điểm chính của loại hình này là

-từ không biến đổi hình thái: hình thái của từ tự nó không chỉ ra mối quan hệ giữa các từ ở trong câu, không chỉ ra chức năng cú pháp của các từ. qua hình thái, tất cả các từ dường như không có quan hệ với nhau, chúng đứng ở trong câu tương tự như đứng biệt lập một mình

Phân tích Vd

-quan hệ ngữ pháp và ý nghĩa ngữ pháp được biểu thị chủ yếu bằng hư từ và trật tự từ

VD: dùng hư từ: cuốn vở - những cuốn vở

Đọc – sẽ đọc, đã đọc

Dùng trật tự từ: cửa trước – trước cửa

Nhà nước – nước nhà

-tính phân tiết: trong các ngôn ngữ này , các từ đơn tiết làm thành hạt nhân cơ bản của từ vựng. phần lớn những đơn vị được gọi là từ ghép, từ phái sinh được cấu tạo từ các từ đơn tiết này. Vì thế ranh giới các âm tiết thường trùng với ranh giới các hình vị, hình vị không phân biệt với từ và do đó ranh giới giữa đơn vị gọi là từ ghép và cụm từ cũng khó phân biệt

Phân tích Vd

-khó phân định về từ loại: những từ có ý nghĩa đối tượng, tính chất, hành động,... không phân biệt nhau về mặt cấu trúc. Tất cả đều được diễn đạt bằng các từ không biến đổi

VD: "cưa" dụng cụ dùng để xẻ gỗ và "cưa" hành động xẻ gỗ

9/ cấu tạo từ. ngữ cố định

*cấu tạo từ:

-đơn vị cấu tạo từ gọi là hình vị còn gọi là từ tố, nguyên vị

-hình vị là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa

-phân loại: căn cứ vào ý nghĩa người ta chia ra làm hai loại:

+chính tố: chính tố mang ý nghĩa từ vựng, có tính độc lập, có ý nghĩa cụ thể trong sự liên hệ logic với đối tượng

+ phụ tố: phụ tố mang ý nghĩa từ vựng bổ sung hoặc ý nghĩa ngữ pháp có tính phụ thuộc có ý nghĩa trừu tượng trong sự liên hệ logic với ngữ pháp

Nếu phụ tố đứng trước chính tố gọi là tiền tố, còn đứng sau chính tố là hậu tố

*các kiểu từ xét về mặt cấu tạo:

- từ đơn: được tạo bởi một hình vị chính tố và nó là kết quả của phương thức từ hóa hình vị

-từ ghép: được tạo bởi phương thức ghép chính tố và chính tố

-từ láy: được tạo bởi phương thức láy

-từ phái sinh: là từ được tạo bởi khi chúng ta ghép chính tố và phụ tố

*ngữ cố định:

- khái niệm: ngữ cố định là những đơn vị sẵn có trong ngôn ngữ được hình thành trong quá trình phát triển của lịch sử, xã hội, ngôn ngữ. nó thường gồm một tập hợp các từ đơn có kết cấu vững chắc, cố định, ổn định, bất biến và có ý nghĩa hoàn chỉnh để gọi tên sự vật, hiện tượng hoặc biểu thị khái niệm

-phân loại:

+ quán ngữ: là một ngữ cố định có đặc trưng gần với cụm từ tự do, là cách nói quen thuộc nhằm mục đích đưa đẩy, gây sự chú ý, tạo tình huống hoặc không khí giao tiếp

+ thành ngữ: là ngữ cố định mà các từ trong đó đã mất tính độc lập đến mức độ cao kết hợp thành một khối vững chắc, hoàn chỉnh

-đặc điểm:

+ được sử dụng tương đương với từ có chức năng tạo câu

VD: tôi đợi mãi mà nó không đến

Từ mãi có nghĩa gần với từ hết nước hết cái

+ nghĩa của ngữ cố định không phải là nghĩa của từng thành tố cộng lại mà là nghĩa chung có tính chất mới và toàn phối

VD: giật gấu vá vai -> chỉ khó khăn lấy chỗ nọ đắp chỗ kia

+ có kết cấu cố định, chặt chẽ

-giá trị:

+ tính biểu trung: nghĩa của ngữ cố định được suy luận thông qua các phép chuyển nghĩa

VD: ẩn dụ, so sánh, hoán dụ

+ tính hình tượng và cụ thể: ngữ cố định thường gây ra những hiện tượng mạnh mẽ, đột ngột, tính cụ thể của ngữ cố định được thể hiện ở việc bị quy định về phạm vi sử dụng hoặc sắc thái ngữ nghĩa

+ tính biểu cảm: ngữ cố định có giá trị biểu cảm rất cao. Các ngữ cố định thường kèm thái độ tình cảm đối với người hay vật được nói tới

+ tính dân tộc: được thể hiện ở các sự vât, hiện tượng, nội dung, đề tài được nói tới

Cơ bản là OK. Em chỉ cần lưu ý. Tất cả các ý khi nêu luôn luôn phải có VD đi kèm

hYfA>

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top