Dan Brown Pháo đài số C56-end

Chương 65

Brinkerhoff tiến đến phòng làm việc của Midge.

- Không ai có thể qua mặt được Gauntlet. Điều đó là không thể!

- Sai rồi - Midge phản bác. - Tôi vừa nói chuyện với Jabba. Ông ấy nói năm ngoái ông ấy đã lắp đặt một thiết bị chuyển mạch.

Ánh mắt người trợ lý đầy vẻ nghi ngờ.

- Tôi chưa từng nghe nói đến điều đó.

- Không ai biết. Đó là bí mật.

- Midge - Brinkerhoff phản đối - Jabba tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc an ninh! Ông ấy sẽ không bao giờ lắp vào một thiết bị chuyển mạch để qua mặt...

- Strathmore buộc ông ta làm điều đó - Midge ngắt lời.

Brinkerhoff có thể hiểu được hầu hết những ý nghĩ trong đầu bà ta.

- Anh còn nhớ năm ngoái không? - Midge hỏi - Khi Strathmore đang theo dõi nhóm khủng bố chống lại Xê-mít ở Califomia đó không?

Brinkerhoff gật đầu. Vụ đó được coi là một trong những việc làm táo bạo của Strathmore vào năm ngoái. Dùng TRANSLTR để giải một mật mã bị chặn, Strathmore đã lật tẩy âm mưu đánh bom một trường Do Thái ở Los Angeles. Ông ta đã giải mã được thông điệp của bọn khủng bố chỉ 12 phút trước khi quả bom phát nổ, và chỉ bằng một vài cuộc gọi nhanh, ông đã cứu được 300 em học sinh.

- Nghe này - Midge hạ thấp giọng - Jabba nói Strathmore bắt đầu giải mã thông điệp đó 6 giờ đồng hồ trưởc khi quả bom phát nổ.

Brinkerhoff há hốc miệng hỏi lại :

- Thế... lại sao ông ta phải đợi...

- Bởi vì ông ta không thể chuyển file cho TRANSLTR giải mã. Ông ta đã cố, nhưng Gauntlet từ chối lệnh. Mật mã đó được viết bằng một thuật toán chìa khóa công khai nào đó mà máy lọc chưa gặp bao giờ. Jabba đã phải mất gần 6 tiếng để điều chỉnh các máy lọc.

Brinkerhoff sững người khi nghe Midge nói ra điều này :

- Strathmore giận dữ. Ông ta đã bắt Jabba phải lắp đặt một thiết bị chuyển mạch vòng qua Gauntlet đề phòng trường hợp tương tự xảy ra - Midge nói thêm.

- Chúa ơi! - Brinkerhoff kêu lên - Sao tôi không hề biết gì hết? Ý bà là gì?

- Tôi nghĩ hôm nay Strathmore đã dùng thiết bị chuyển mạch đó để xử lý một file bị Gauntlet từ chối.

- Vậy ư? Đây chính là mục đích sử dụng cái thiết bị chuyển mạch ấy, đúng không?

Midge lắc đầu.

- Không đúng nếu file đang bị nghi ngờ là một virus?

Brinkerhoff dựng người.

- Virus? Không ai nói gì về virus cả!

- Đó là cách giải thích duy nhất - Midge tiếp lời. Jabba nói virus là lý do duy nhất khiến cho TRANSLTR vận hành lâu đến vậy, cho nên...

- Đợi đã! - Brinkerhoff làm ra vẻ bình thản - Strathmore nói mọi thứ đều ổn cả.-

- Ông ta nói dối.

Brinkerhoff hoang mang.

- Ý bà là Strathmore cố ý đưa virus vào TRANSLTR?

- Không - Midge phản bác - Tôi không nghĩ ông ta biết cái file đó chính là virus. Tôi cho rằng ông ta đã bị lừa.

Brinkerhoff không nói thêm được lời nào. Nhất định Midge Milken thật sự sai lầm rồi.

- Cách giải thích này rất có lý - Midge quả quyết.

- Nó lý giải tất cả những gì ông ta làm ở trong đó suốt đêm.

- Tự cấy virus vào máy tính của mình ư?

- Không! Cố gắng che giấu sai lầm của mình. Và bây giờ ông ta không thể hủy lệnh vận hành TRANSLTR và lấy lại nguồn điện dự trữ bởi vì virus đã làm tất cả các bộ xử lý bị khoá! - Midge tức giận nói.

Mắt Brinkerhoff mở thao láo. Trước kia Midge đã nhiều lần bị lú lẫn, nhưng chưa lần nào như thế này. Anh cố gắng trấn tĩnh Midge.

- Có vẻ như Jabba không hề lo lắng.

- Jabba là đồ ngu xuẩn - Midge rít lên.

Brinkerhoff vẻ mặt đầy kinh ngạc. Chưa có ai dám gọi Jabba là đồ ngu xuẩn- đồ con lợn thì có chứ đồ ngu xuẩn thì chưa bao giờ.

- Bà tin vào linh cảm phụ nữ hơn cả trình độ của Jabba về lập trình chống xâm nhập hay sao?

Midge nhìn Brinkerhoff đầy tức giận.

Brinkerhoff giơ tay đầu hàng.

- Thôi được rồi. Tôi rút lại lời vừa nói - Không cân nhắc, Brinkerhoff đã biết về khả năng linh cảm tai họa phi thường của Midge.

- Midge - anh ta hạ giọng - Tôi biết bà căm ghét Strathmore nhưng...

- Vấn đề không liên quan gì đến Strathmore! - Midge được đà lấn tới - Điều đầu tiên chúng ta cần làm là xác nhận xem Strathmore có qua mặt Gauntlet hay không. Sau đó chúng ta sẽ gọi điện cho ngài giám đốc.

- Được lắm - Brinkerhoff kêu lên.

- Tôi sẽ gọi Strathmore và yêu cầu ông ta gửi cho chúng ta bản báo cáo đã được ký xác nhận.

- Không - Midge đáp lại, lờ đi giọng chế nhạo của Brinkerhofí.

- Ngày hôm nay Strathmore đã lừa dối chúng ta một lần - Midge đưa mắt nhìn lên, tìm kiếm ánh mắt của Brinkerhoff.

- Anh có chìa khóa văn phòng của Fontaine không?

- Đương nhiên là có. Tôi là trợ lý riêng của ông ấy mà.

- Tôi cần chìa khóa đó.

Brinkerhoff nghiêm mắt nhìn đầy vẻ hoài nghi.

- Midge, tôi không thể để bà vào văn phòng của ngài Fontaine được.

- Anh phải làm điều đó! - Miđge lên giọng yêu cầu. Bà ta quay lại và gõ gõ vào bàn phím máy chủ.

- Tôi ra lệnh tìm đanh sách các tệp tin đợi giải mã bằng TRANSLTR. Nếu Strathmore điều khiển thủ công để qua mặt Gauntlet thì điều đó sẽ được hiển thị trong bản in.

- Điều đó thì có liên quan gì đến phòng làm việc của ngài Fontaine?

Midge quay người lại lườm Brinkerhoff.

- Danh sách các hoạt động lần lượt của TRANSLTR chỉ in được ở máy in của ngài Fontaine thôi. Anh biết rõ điều đó!

- Đó là vì nó đã được phân loại, Midge!

- Đây là trường hợp khẩn cấp. Tôi cần xem danh sách đó.

Brinkerhoff đặt tay lên hai vai Midge.

- Midge, bình tĩnh nào. Bà biết thừa tôi không thể...

Midge bực tức quay người trở lại phía bàn phím.

- Tôi đang ra lệnh in danh sách đó. Tôi sẽ chỉ đi vào, lấy bản in rồi đi ra. Đưa chìa khóa đây cho tôi!

- Midge....

Midge gõ lệnh xong rồi quay lại với Brinkerhoff.

- Bản báo cáo chỉ in trong có 30 giây. Chúng ta thỏa thuận. Anh đưa cho tôi chìa khoá. Nếu thực sự Strathmore đã qua mặt Gauntlet, chúng ta sẽ gọi ngay bảo vệ. Còn nếu tôi sai, tôi sẽ ra đi, và anh có thể làm gì thì làm - Mụ ta ném cái nhìn đầy thù hằn về phía Brinkerhoff và giơ tay ra chờ chìa khoá. Mụ ta nói - Tôi đang đợi đây.

Brinkerhoff rên rỉ, hối hận vì mình đã gọi Midge quay trở lại để kiểm tra bản báo cáo Crypto. Anh ta đưa mắt nhìn cánh tay đang chìa ra trước mặt.

Bà đang nói đến thông tin đã được phân loại trong máy chủ của ngài giám đốc. Thế bà không nghĩ ngộ nhỡ chúng ta bị bắt quả tang thì sao?

- Ngài giám đốc đang ở Nam Mỹ.

- Tôi xin lỗi. Tôi không thể - Brinkerhoff khoanh tay đi ra ngoài.

Midge lườm theo, đôi mắt như muốn bốc cháy.

- Ô không, anh có thể chứ - mụ ta lẩm bẩm. Nói rồi mụ quay lại với máy chủ và mở các file ghi hình ra xem.

Midge sẽ bình tĩnh lại, Brinkerhoff vừa ngồi xuống bàn vừa tự nhủ và kiểm tra cẩn thận nốt phần còn lại của bản cáo cáo. Anh ta không thể nào đưa chìa khóa phòng giám đốc cho Midge khi mụ ta đang trong cơn điên được.

Anh ta vừa mới bắt đầu công việc kiểm tra lỗi của COMSEC thì suy nghĩ bị cắt ngang bởi tiếng giọng nói vẳng ra từ phòng bên kia.

Brinkerhoff ngừng tay và đi ra phía cửa.

Cả dãy nhà chính chìm trong bóng tối - ngoại trừ một tia sáng xám đục, yếu ớt lọt ra từ phía cửa phòng mở hé của Midge. Anh ta lắng tai nghe. Giọng nói lại tiếp tục vang lên. Tiếng một vài người gọi to "Midge?"

Không ai trả lời.

Anh ta rảo bước xuyên qua bóng tối đi về nơi làm việc của Midge. Giọng nói nghe hơi quen quen. Brinkerhoff đẩy cửa vào.

Căn phòng trống rỗng. Ghế của Midge trống không. Âm thanh vọng ra từ phía trên. Brinkerhoff nhìn lên máy ghi hình và trong giây lát thấy lạnh buốt xương sống. Tất cả 12 màn hình đều chiếu cùng một hình ảnh - giống như một điệu múa ba lê đã được dàn dựng sẵn. Brinkerhoff lùi dần về phía ghế ngồi của Midge, vừa quan sát vừa hoảng sợ.

- Thế nào? - giọng nói cất lên ngay đằng sau.

Brinkerhoff quay phắt người lại và cố nhìn vào bóng tối. Midge đang đứng trong góc khuất phía bên kia khu vực lễ tân của dãy nhà chính đối diện với cửa đôi của phòng giám đốc. Bàn tay mụ ta chìa thẳng ra.

- Chìa khoá, Chad! - mụ hỏi Brinkerhoff.

Brinkerhoff phát hoảng. Anh quay lại phía máy chủ, cố gắng ngắt những hình ảnh trên máy phát nhưng vô hiệu. Hình ảnh của anh ta có trên tất cả các màn hình, đang rên rỉ trong hoan lạc, tay mơn trớn hai bầu vú của Carmen Huerta.

Xem tiếp chương 66

Chương 66

Becker đi qua phòng chờ của sân bay về phía dãy nhà vệ sinh nhưng chỉ nhìn thấy cánh cửa có khắc ở ngoài dòng chữ CABALLEROS [1] bị chặn bởi một cái tháp màu da cam và chiếc xe vệ sinh chất đầy chất tẩy rửa và giẻ lau sàn. Anh đưa mắt nhìn cánh cửa bên cạnh. DAMAS [2]. Anh tiến lại gần và gõ mạnh vào cửa.

- Có ai không? - anh gọi rồi hé mở cánh cửa phòng nữ - Cho phép tôi?

Không có tiếng trả lời. Im lặng.

Và anh bước vào.

Phòng vệ sinh, vuông vắn như phòng làm việc, và đúng kiểu Tây Ban Nha, gạch lát màu trắng, bóng đèn sáng rực ngay trên đầu.

Như mọi nhà vệ sinh khác, ở đây cũng có một bồn cầu và một bồn tiểu. Liệu những bồn tiểu trong phòng vệ sinh nữ có được người ta dùng đến hay không, không quan trọng - lắp cả hai bồn vào cùng một phòng góp phần làm giảm giá thành (người ta tiết kiệm được một phòng). Becker quan sát phòng vệ sinh vẻ ghê tởm. Căn phòng bẩn thỉu, dơ dáy. Bồn rửa bị tắc, nước bên trong nâu vàng, đục ngầu. Giấy chùi bẩn thỉu vung vãi khắp nơi. Dưới sàn ngập nước.

Chiếc máy làm khô tay treo trên tường đã cũ kl, rỉ hoen, đay dấu vân tay và hơi ngả màu xanh lục.

Becker đi đến trước gương và thở dài. Cặp mắt thường ngày luôn tinh anh, đêm nay không còn được như vậy nữa. Mình đã chạy đi chạy lại khắp nơi bao nhiêu lâu rồi nhỉ? Anh tự nhủ. Bài toán đã vuột khỏi tay anh. Quên hẳn thói quen của một giáo sư, anh hất chiếc cà vạt được thắt kiểu Windsor lên vai rồi quay lại bồn tiểu phía sau.

Vừa đứng anh vừa băn khoăn tự hỏi không biết Susan đã về nhà chưa. Cô ấy có thể đi đâu được nhỉ? Chẳng lẽ cô ấy đi Stone Manor mà không có mình đi cùng ư?

- Này! - Giọng của một phụ nữ phía sau anh vang lên giận giữ.

Becker khựng người lại.

- Tôi... Tôi đang... - Anh lắp bắp, vội vàng kéo khóa quần - Tôi xin lỗi... Tôi....

Becker quay người lại, đối diện với cô gái vừa bước vào. Cô gái còn trẻ, thuộc lớp người thời thượng, trông như vừa bước ra khỏi tờ tạp chí tuổi mười bảy. Cô ta mặc một chiếc quần kẻ sọc ô vuông, kín đáo và một chiếc áo cánh màu trắng, không có tay. Trên tay cô cầm một chiếc khăn len thô màu đỏ hiệu L. L. Bean. Mái tóc vàng của cô được chải sấy rất cẩn thận.

- Tôi xin lỗi! - Becker cài lại thắt lưng.

- Phòng nam bị... dù sao thì. Tôi đi ngay đây.

- Mẹ kiếp! Đồ dở hơi!

Becker giả bộ kinh ngạc. Những lời báng bổ, tục tĩu chui ra từ đôi môi cô gái có vẻ không hợp- như thể rác rưởi chui ra từ chiếc bình sạch sẽ, tao nhã. Nhưng khi Becker chăm chú quan sát cô ta, anh nhận thấy cô gái ấy không phải tao nhã và sạch sẽ như anh nghĩ lúc đầu. Đôi mắt cô ta sưng húp và đỏ ngầu, tay trái thì bị sưng tấy. Bên dưới vết tấy đỏ trên cánh tay, da thịt cô gái tái nhợt.

Lạy chúa, Becker nghĩ thầm. Tiêm chích ma túy chăng. Ai mà biết được?

- Ra khỏi đây! - cô ta quát hét lên - Đi ra ngay!

Trong giây lát, Becker bỗng quên đi tất cả, quên chiếc nhẫn, quên Cơ quan An ninh Quốc gia, tất cả mọi thứ. Tâm trí anh giờ đây chỉ tập trung vào cô gái trẻ kia. Có lẽ bố mẹ cô ta gửi cô ta sang đây với một khóa học dự bị nào đó và một thẻ VISA - còn cô ta ở đây, kết liễu cuộc đời bằng cách một mình trong phòng tắm giữa đêm khuya đế hút hít ma tuý.

- Cô không sao chứ - Anh vừa hỏi vừa lùi lại đằng sau về phía cửa.

- Tôi không làm sao hết - Giọng cô ta đầy vẻ ngạo mạn - Ông đi được rồi đấy!

Becker quay người lại để đi. Anh nhìn cánh tay cô gái lần cuối với ánh mắt đầy vẻ thương hại. David, mày chẳng giúp gì được đâu. Để mặc cô ta - Anh ta nghĩ.

- Đi ngay! - cô gái gào lên.

Becker gật đầu. Anh vừa đi vừa nở nụ cười thương hại.

- Hãy cẩn trọng.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Dành cho nam - tiếng Tây Ban Nha (Người dịch)

[2] Dành cho nữ - tiếng Tây Ban Nha (Người dịch)

Xem tiếp chương 67

Chương 67

- Susan? - Hale thở hổn hển, mặt cúi sát mặt cô.

Anh ta ngồi, một chân kẹp bên sườn cô còn cả người đè lên cơ thể cô Xương cụt của anh ta chọc mạnh vào xương mu xuyên qua lớp vải mỏng khiến cô đau đớn. Mũi Hale nhỏ máu lên khắp người cô Susan cảm thấy buồn nôn trong cổ họng. Hai tay anh ta đè mạnh lên ngực cô.

Susan vô cảm. Anh ta đang chạm vào cơ thể mình. Một lát sau Susan mới nhận ra Hale đang cài lại khuy áo ngực cho cô :

- Susan! - Hale hốn hển, giọng gần như tắc thở - Cô phải đưa tôi ra khỏi đây.

Susan đang trong tình trạng mê man, choáng váng. Cô không còn có cảm giác gì nữa.

- Susan, cô phải giúp tôi! Strathmore đã giết Chartrukian! Tôi đã tìm thấy!

Phải một hồi lâu sau những lời Hale nói mới lọt vào đầu Susan.

Strathmore giết Chartrukian ư? Rõ ràng Hale không hề biết Susan đã nhìn thấy anh ta ở dưới tầng hầm.

- Strathmore biết tôi đã nhìn thấy ông ta! - Hale khạc nhổ - Rồi ông ta cũng sẽ giết tôi!

Nếu như Susan không bị nghẹt thở vì sợ hãi thì cô đã cười vào mặt anh ta rồi. Cô nhận rõ đòn tâm lý chia cắt-và-chinh phục của anh ta, một cựu lính thủy. Bịa đặt, dựng chuyện khiến cho quân của đối phương tự chia rẽ, mâu thuẫn với nhau.

- Đó là sự thật! - Hắn gào lên - Chúng ta phải thoát khỏi đây! Tôi nghĩ cả hai chúng ta đều đang gặp nguy hiểm!

Cô không hề tin những lời Hale nói, dù chỉ một từ.

Đôi chân cơ bắp của Hale bị chuột rút, hắn gập người xuống, khẽ di chuyển cơ thể. Hale mở mồm, định nói điều gì đó nhưng không kịp.

Khi người Hale nhấc lên, Susan cảm thấy vòng kìm kẹp đã lùi xuống phía chân cô. Trước khi cô kịp nhận thấy chuyện gì đã xảy ra, phản xạ bản năng đã thình lình khiến Susan co chân đạp mạnh vào háng Hale. Cô cảm nhận thấy đầu gối mình đập mạnh vào hạ bộ của Hale.

Hale rên rỉ trong đau đớn và từ từ đổ gục. Anh ta gập người xuống một bên và cuộn tròn người lại đồng thời ôm lấy chỗ vừa bị Susan thúc phải. Susan xoay người thoát khỏi cái tấm thân bị thịt của Hale. Cô khập khiễng đi về phía cửa dù biết rằng mình không bao giờ đủ sức để đẩy cửa ra ngoài.

Quyết định trong giây lát, Susan cúi xuống, tì người vào sau bàn họp và ấn mạnh chân xuống thảm. May thay, chiếc bàn có chân. Cô dồn hết sức lực đẩy bàn về phía bức tường kính hình vòng cung. Chân bàn phát huy tác dụng và chiếc bàn chuyển động dễ dàng. Đấy được nửa đường, cô gắng hết sức chạy nước rút.

Cách bức tường kính chừng 16 mét, Susan gồng hết sức đẩy chiếc bàn và thả tay ra. Cô nhảy sang một bên rồi nhắm nghiền mắt lại. Sau tiếng kính đổ vỡ loảng xoảng, bức tường bị phá tung thành từng mảnh kính nhỏ. Lần đầu tiên kể từ khi xây dựng, mọi âm thanh của Crypto lọt được vào Node 3.

Susan ngước nhìn lên. Qua lỗ hổng lởm chởm toàn thủy tinh sắc nhọn, cô nhìn thấy chiếc bàn. Nó vẫn đang trượt. Chiếc bàn xoay tròn một vòng rộng, trượt trên sàn nhà trung tâm Crypto và cuối cùng biến mất trong bóng tối.

Susan dậm gót giày Ferragamo dưới chân, liếc nhìn Greg Hale đang quằn quại trên sàn và cô lao qua đống kính thủy tinh vỡ vụn, nhảy sang sàn Crypto.

Xem tiếp chương 68

Chương 68

- Thế này chẳng phải dễ hơn sao - Midge nhếch mép khinh bỉ khi Brinkerhoff đưa cho mụ ta chìa khóa phòng làm việc của Fontaine.

Brinkerhoff chán nản, quy xuống.

- Tôi sẽ xóa đoạn phim hay trước khi ra về. Trừ khi anh và vợ anh muốn giữ nó để đưa vào bộ sưu tập riêng - Midge hứa.

- Chỉ được lấy bản in chết tiệt đó thôi. Sau đó đi ra ngay! - Brinkerhoff giận dữ đáp lại.

- Vâng, thưa ngài! - Midge chọc tức bằng thứ giọng đặc chất Puerto Rico. Mụ nháy mắt và đi thẳng về phía dãy nhà dẫn đến phòng của ngài Fontaine.

Phòng làm việc riêng của Leland Fontaine trông chẳng có gì khác biệt so với những phòng còn lại trong khu nhà giám đốc. Ở đây không có tranh ảnh, không có ghế đệm, không cây cảnh, không có cả đồng hồ cổ. Không gian phòng của ông giám đốc được tố chức hợp lý và hiệu quả. Chiếc bàn kính và chiếc ghế da màu đen của ông được đặt ngay trước khung cửa sổ khổng lồ trông như một bức tranh. Ba chiếc tủ đựng tài liệu được dựng trong góc ngay cạnh một bàn nhỏ trên đãt một bình đựng cà phê ép của Pháp. Trăng đã lên cao quá nóc tòa Fort Meade. Ánh trăng dịu nhẹ xuyên qua ô cửa sổ làm nổi bật nét bình dị của cách bài trí và nội thất phòng ông giám đốc.

"Mình đang làm cái quái gì ở đây thế nhỉ?", Brinkerhoff băn khoăn tự nhủ.

Midge bước lại gần máy in và chộp lấy danh sách. Mụ liếc mắt trong bóng tối.

- Tôi không đọc được dữ liệu! - Midge phàn nàn.

- Bật điện lên đi.

- Bà ra ngoài rồi đọc. Nào đi thôi.

Nhưng rõ ràng Midge đang cố tình giễu cợt. Mụ đùa giỡn với Brinkerhoff, mụ tiến về phía cửa sổ và nghiêng nghiêng bản in để đọc cho rõ.

- Midge....

Mụ ta vẫn cứ đọc.

Brinkerhoff tức giận đi về phía cửa ra vào.

- Midge... đi thôi. Đây là khu vực riêng của ngài giám đốc.

- Nó chỉ ở đâu đấy quanh đây thôi! - Mụ lẩm bẩm cầm bản in ngó ngó xem xem.

- Strathmore đã qua mặt Gauntlet. Tôi biết mà - Midge tiến gần hơn về phía cửa sổ.

Brinkerhoff bắt đầu toát mồ hôi. Còn Midge thì vẫn cứ đọc.

Một vài phút sau mụ ta há hốc miệng nói :

- Tôi biết ngay mà! Strathmore đã làm điều đó! Chính ông ta đã làm! Đồ ngu! - Mụ giơ tờ giấy lên, lắc lắc - Ông ta đã qua mặt Gauntlet! Nhìn xem!

Brinkerhoff điếng người, lặng đi một hồi rồi sau đó chạy nhanh vào trong phòng ngài giám đốc đến bên cửa sổ nơi Midge đang đứng Midge chỉ vào cuối danh sách. Brinkerhoff nghi ngờ và đọc.

- Cái này là...?

Nội dung tờ giấy vừa in là danh sách của 36 file cuối cùng đã qua TRANSLTR để xử lý. Sau mỗi file đều có mã kiểm tra của Gauntlet gồm 4 số. Tuy nhiên file cuối cùng trên trang giấy không hề có mã kiểm tra - chỉ ghi mỗi dòng chữ. VẬN HÀNH THỦ CÔNG.

Chúa ơi, Brinkerhoff ngẫm nghĩ. Midge lại cáu kỉnh.

- Đúng là đồ ngu! - Midge sôi lên, giọng lắp bắp - Nhìn đây này?

Gauntlet từ chối file 2 lần! Chuỗi kí tự tuần hoàn! Nhưng rồi ông ta vẫn qua mặt! Ông ta đang nghĩ cái quái gì thế?

Brinkerhoff khuỵu gối. Anh ta băn khoăn không hiểu tại sao Midge luôn đúng. Cả hai người đều không để ý đến một bóng người chiếu từ đâu lại hiện trên cửa sổ bên cạnh họ. Một vóc dáng khổng lồ đang đứng ngay ở cửa ra vào phòng làm việc của Fontaine.

- Sao? - Brinkerhoff hụt hơi - Bà cho rằng chúng ta bị virus ư?

Midge thở dài :

- Còn bị gì được nữa đây.

- Bị gì thì cũng không phải việc của bà! - Giọng nói ồm ồm vang lên phía sau họ.

Midge lùi lại phía sau và bị đập đầu vào cửa sổ. Brinkerhoff lật ngược chiếc ghế giám đốc và xoay lại về phía giọng nói kia. Ngay lập tức anh ta nhận ra bóng đen ấy.

- Ngài giám đốc - Brinkerhoff thốt lên. Anh ta bước đến gần và đưa tay ra - Chào mừng ngài đã trở về nhà, thưa ngài.

Người đàn ông có vóc dáng to lớn lờ đi hành động vừa rồi của Midge và Brinkerhoff.

- Tôi... Tôi tưởng... - Brinkerhoff lắp bắp, rụt tay lại - Tôi tưởng ông đang ở Nam Mỹ.

Leland Fontaine nhìn chòng chọc vào người trợ lý của mình với ánh mắt như dao :

- Đúng thế... và giờ tôi đã trở về.

Xem tiếp chương 69

Chương 69

- Này ông!

Becker đã đi qua phòng chờ và tiến về phía bốt điện thoại tự động. Anh dừng bước và quay lại. Đằng sau anh chính là cô gái anh vừa bất ngờ gặp trong phòng vệ sinh. Cô gái vẫy tay ra hiệu cho anh đợi.

- Thưa ông, đợi đã!

Còn gì nữa đây? Becker rên rỉ. Cô ta muốn đòi tiền phạt vì tội xâm phạm quyền riêng tư của người khác ư?

Cô gái kéo chiếc khăn len về phía anh. Khi chạy tới nơi, cô gái nở một nụ cười thật tươi.

- Xin lỗi vì đã lớn tiếng với ông ở trong kia. Chỉ vì lúc đó ông làm tôi giật mình.

- Không sao - Becker giọng chắc chắn, có phần hơi bối rối.

- Tôi đã vào nhầm chỗ.

- Điều tôi sắp nói có vẻ hơi điên rồ - cô gái cất lời, hấp háy cặp mắt đỏ ngầu - Nhưng nếu ông có chút tiền, có thể cho tôi vay được không, thưa ông?

Becker chăm chú nhìn cô gái vẻ nghi ngờ.

- Cô cần tiền làm gì - anh gặng hỏi.

- Tôi không định cho cô tiền để cô mua ma tuý, nếu đó là thứ cô đang yêu cầu.

- Tôi đang tìm cách trở về nhà. - Cô gái tóc vàng giải thích - Ông có giúp tôi được không?

- Cô lỡ mất chuyến bay à?

Cô gái gật đầu.

- Tôi làm mất vé. Người ta không cho tôi lên máy bay. Bọn hàng không chết tiệt. Tôi không còn tiền để mua chiếc vé khác.

- Cha mẹ cô ở đâu - Becker hỏi - Cô có liên lạc được với họ không?

- Không. Tôi đã thử. Tôi nghĩ họ đang đi nghỉ cuối tuần trên một du thuyền nào đó.

Becker đưa mắt nhìn trang phục đắt tiền cô gái đang mặc trên người.

- Cô không có thẻ tín dụng à?

- Có, nhưng bố tôi đã khóa thẻ rồi. Ông ấy nghĩ tôi bị nghiện.

- Cô có nghiện không - Becker hỏi, mặt thần ra, mắt nhìn xuống cánh tay sưng đỏ của cô gái.

Cô gái nhìn lại anh chằm chằm, giận giữ.

- Tất nhiên là không!

Cô ta chợt nổi cáu với Becker nhưng có vẻ không muốn làm hại anh. Anh chợt có cảm giác mình đang bị lừa phỉnh.

- Thôi đi! - Cô gái nói - Trông ông có vẻ giàu có. Chẳng lẽ lại không thể cho tôi vay chút tiền đế đi về nhà hay sao? Tôi sẽ gửi trả lại ông sau.

Becker tưởng tượng ra cảnh tiền của anh đưa cho cô ta sẽ bị nướng hết vào tay một kẻ buôn bán ma tuý nào đó ở Triana.

- Thứ nhất - anh nói - Tôi không phải gã giàu có. Tôi chỉ là giáo viên. Nhưng tôi sẽ cho cô biết tôi sẽ làm gì bây giờ... Tôi sẽ không để cô lừa tôi, đó là điều tôi sẽ làm. Tại sao không để tôi trả tiền mua vé cho cô?

Cô gái tóc vàng nhìn anh chằm chằm, có vẻ bị sốc.

- Ông sẽ làm thế ư? - Cô ta lẩm bẩm, đôi mắt mở to đầy hy vọng - Ông sẽ mua vé cho tôi về nhà ư, ôi Chúa ơi, cảm ơn ông!

Becker không nói được gì nữa. Rõ ràng vừa rồi anh đã đánh giá nhầm.

Cô gái vòng tay quanh người anh.

- Mùa hè vừa qua thật kinh khủng - giọng cô bé tức tối, chực òa khóc - Ôi, cảm ơn ông! Tôi cần phải thoát khỏi nơi này!

Becker miễn cưỡng đáp lại cái ôm ghì chặt của cô bé. Cô gái buông anh ra, anh đưa mắt nhìn cánh tay cô.

Cô nhìn theo ánh mắt anh vào chỗ sưng tấy màu hơi ngả xanh.

- Mùi khó ngửi phải không?

Becker gật đầu.

- Tôi tưởng cô bảo không bị nghiện cơ mà.

Cô gái cười lớn.

- Đó là dấu ấn nhiệm màu! Tôi kỳ mạnh để cố xóa cái dấu đó đi. Mực này bẩn lắm.

Becker xem ra gần gũi hơn. Dưới ánh đèn huỳnh quang, anh có thể nhìn thấy lờ mờ phía dưới chỗ tấy đỏ trên cánh tay cô gái, một vài nét mờ mờ của dòng chữ gì đó được viết nguệch ngoạc trên da.

- Nhưng... nhưng còn mắt của cô - Becker cất tiếng, giọng anh trở nên lầm lì.

- Cả hai mắt của cô đều đỏ. Tại sao vậy?

Cô gái lại cười lớn.

- Tôi vừa khóc. Tôi đã kể với ông rồi mà, tôi lỡ mất chuyến bay.

Becker nhìn lại dòng chữ trên tay cô gái.

Cô gái cau mày, vẻ bối rối.

- Tiếc thật, nhưng mà ông vẫn đọc được dòng chữ này chứ?

Becker cúi xuống gần hơn. Anh vẫn đọc được dòng chữ đó. Bức thông điệp rõ như ban ngày. Khi anh đọc đến 4 chữ mờ mờ ký ức về 12 giờ đồng hồ vừa qua chợt loé lên.

David Becker nhớ lại lúc anh ở trong khách sạn Alfonso XllI.

Gã người Đức béo phì một tay che cánh tay còn lại của hắn, phát âm tiếng Anh bập bẹ: XÉO ĐI ĐỒ KHỐN.

- Ông không sao đấy chứ - cô gái hỏi, đưa mắt nhìn Becker.

Becker không rời mắt khỏi cánh tay cô gái. Anh hoa mắt choáng váng. Bốn chữ lốm đốm, nhem nhuốc trên da cô gái cũng mang một thông điệp tương tự. XÉO ĐI ĐỒ KHỐN.

Cô gái tóc vàng lại nhìn xuống, vẻ bối rối.

- Bạn tôi đã viết mấy chữ đó đấy... rõ là ngốc, phải không?

Becker không nói được lời nào. XÉO ĐI ĐỒ KHỐN. Anh không thể tin nổi. Gã người Đức đã không chửi anh, gã chỉ cố gắng kệu cứu mà thôi. Becker rời mắt khỏi cô gái. Dưới ánh sáng huỳnh quang của phòng chờ, anh có thể nhìn thắy vết mờ mờ màu đỏ và xanh trên mái tóc vàng của cô gái.

- Cô... cô.. - Becker lẩm bẩm, nhìn vào đôi tai chưa bấm lỗ khuyên của cô rồi hỏi - Cô có đeo khuyên tai không?

Cô gái nhìn anh vẻ lạ lùng, ngạc nhiên. Cô gái lôi từ trong túi ra, một vật nhỏ rồi giơ lên. Becker nhìn chằm chằm vào mặt dây chuyền hình đầu lâu lủng lẳng trên tay cô.

- Kẹp vào tai ư - Anh lẩm bẩm.

- Quái thật, đúng rồi - cô gái đáp lại.

- Tôi sợ những vật nhọn.

Xem tiếp chương 70

Chương 70

David Becker đứng lặng người giữa không gian hoang vắng, sự tĩnh lặng của phòng đợi nhà ga, làm hai chân anh như muốn khuỵ xuống. Anh nhìn cô gái đang đứng trước mắt anh và ngay lúc này anh hiểu cuộc kiếm tìm vất vả bấy lâu đã kết thúc. Hóa ra cô gái đã gội đầu và thay đổi trang phục - có lẽ cô hy vọng làm thế vận may sẽ đến với cô và cô sẽ bán được chiếc nhẫn - thế nhưng cuối cùng cô vẫn không thể đáp được chuyến bay đi New York.

Becker cố tỏ vẻ bình tĩnh, lạnh lùng. Chuyến công tác đầy phiêu lưu của anh đã đến lúc kết thúc. Anh đưa mắt nhìn ngón tay cô gái.

Mười ngón tay trống trơn. Anh liếc nhìn chiếc túi len cô cầm trên tay. Chiếc nhẫn ở trong đây rồi, anh nghĩ thầm. Chắc chắn nó đang ở trong đó!

Becker mỉm cười, vừa đủ để lộ rõ sự phấn khích của mình.

- Điều tôi sắp nói nghe có vẻ điên rồ - anh lên tiếng - Nhưng tôi nghĩ cô đang có một thứ mà tôi cần.

- Ồ! - Megan bỗng ngập ngừng nửa tin nửa ngờ.

Becker thò tay vào túi rút ví ra.

- Dĩ nhiên tôi sẵn sàng trả tiền cho cô để đổi lấy món đồ ấy - Anh cúi xuống và bắt đầu lục tìm đống tiền lẻ trong ví.

Nhìn Becker đếm tiền, Megan bỗng cảm thấy nghẹt thở, hơi lo lắng và giật mình, rõ ràng cô ta đang hiểu nhầm ý định của anh.

Ánh mắt đầy vẻ sợ hãi, cô liếc nhìn về phía cánh cửa xoay... áng chừng khoảng cách từ chỗ cô đứng đến đó. Khoảng 45 mét.

Tôi sẽ cho cô đủ tiền để mua vé máy bay về nhà nếu...

- Đừng nói nữa - Megan thốt lên, và cô cố nở một nụ cười gượng ép..Tôi biết thứ mà ông đang cần là gì rồi - Cô cúi xuống và thò tay vào chiếc túi len.

Becker đầy hy vọng. Đúng là cô ấy có nó! Anh tự nhủ. Cô ấy có chiếc nhẫn! Anh không hiểu làm thế nào mà cô gái ấy lại biết được nó là thứ anh đang cần, nhưng điều đó không quan trọng, lúc này anh đã quá mệt mỏi và không còn sức để bận tâm tới chuyện đó nữa. Xương thịt anh rã rời. Anh bắt đầu tưởng tượng ra viễn cảnh lúc anh cầm chiếc nhẫn đưa tới trước mặt ngài phó giám đốc NSA với nét mặt rạng rỡ, tươi cười. Rồi sau đó anh sẽ cùng Susan nằm trên một chiếc giường vòm lớn ở biệt thự Stone và bù đắp cho những giờ phút cả hai vừa đánh mất.

Cuối cùng cô gái cũng thấy thứ mà cô loay hoay tìm mãi từ nãy tới giờ - đó chính là hộp xịt hơi cay dùng để tự vệ - một loại vũ khí tấn công an toàn, không ảnh hưởng đến môi trường, làm bằng hỗn hợp ớt cay và hồ tiêu rất hiệu nghiệm. Nhanh như sóc, cô gái chạy một vòng quanh Becker và xịt thẳng hơi cay vào mắt anh. Rồi cô giật nhanh lấy cái túi và lao nhanh ra cửa. Khi cô ngoái lại thì Becker đã nằm trên sàn, hai tay ôm mặt quằn quại trong đau đớn.

Xem tiếp chương 71

Chương 71

Tokugen Numataka châm lửa đốt điếu thuốc thứ tư, vừa hút ông ta vừa đi đi lại lại quanh phòng. Nóng ruột, ông ta chộp lấy chiếc điện thoại và gọi tổng đài.

- Đã có tin tức gì về số điện thoại đó chưa - Ông ta lớn tiếng hỏi trong khi người trực tổng đài còn chưa kịp lên tiếng.

- Vẫn chưa có gì, thưa ông. Có lẽ sẽ phải lâu hơn một chút, số điện thoại này là số máy di động.

Số máy di động ư? Numataka kinh ngạc. Đúng là những con số bí ẩn luôn làm cho ta phải bận tâm.

Người trực tổng đài nói thêm :

- Mã vùng 202. Nhưng chúng tôi vẫn chưa nắm được số điện thoại.

- 202? Là vùng nào - Cái thằng North Dakota ấy đang trốn ở cái vùng khỉ ho cò gáy nào trên đất Mỹ?

- Một vùng nào đó gần thủ đô Washington, thưa ngài.

Numataka nhíu mày. Ông ra lệnh cho người trực tổng đài là phải gọi ngay cho ông khi tìm ra số điện thoại đó.

Xem tiếp chương 72

Chương 72

Susan Fletcher trượt trên sàn Crypto tối đen như mực hướng về phía lối đi dẫn đến phòng Strathmore. Phòng ngài chỉ huy cách xa chỗ Hale đang nằm quằn quại, vì vậy Susan có thể bước vào trong khu nhà đã bị khoá.

Khi Susan bước lên đến bậc cuối cùng của cầu thang hẹp dẫn đến phòng Strathmore, cô trông thấy cửa phòng ngài chỉ huy mở toang, khóa điện không hoạt động vì điện bị cúp. Cô lẻn vào bên trong.

- Ngài chỉ huy - ánh sáng duy nhất trong phòng là ánh sáng đỏ mực phát ra từ máy chủ của Strathmore.

- Ngài chỉ huy! - cô gọi lại lần nữa - Ngài chỉ huy!

Đột nhiên Susan nhớ ra rằng ngài chỉ huy vẫn đang ở trong phòng An ninh hệ thống. Cô quay người nhìn khắp căn phòng trống, nỗi kinh hoàng trong cô khi vừa đối mặt với Hale vẫn chưa nguôi. Cô phải ra khỏi Crypto. Pháo Đài Số hay không Pháo Đài Số không còn nghĩa lý nữa rồi, giờ là lúc cô phải hành động, hủy lệnh vận hành TRANSLTR và trốn khỏi nơi này. Cô đưa mắt nhìn đèn tín hiệu trên máy chủ đang sáng đỏ rồi lao tới bàn máy. Cô lóng ngóng đưa tay dò dẫm bàn phím. Hủy lệnh vận hành TRANSLTR!

Nhiệm vụ giờ rất đơn giản bởi cô đang sử dụng máy chủ được phép thực hiện lệnh. Susan nhấp chuột vào đúng cửa số điều khiển cô đang tìm và gõ :

HUỶ LỆNH VẬN HÀNH

Trong giây lát, ngón tay cô ngập ngừng khi ấn phím ENTER.

- Susan! - Một giọng nói vang lên như quát từ phía cửa. Susan hoảng sợ rụt tay lại, cô lo sợ đó là giọng của Hale. Nhưng không phải, đó là giọng của Strathmore. Ông đứng đó, mặt tái nhợt đầy căng thẳng dưới ánh sáng đỏ rực của đèn tín hiệu, lồng ngực phập phồng.

- Chuyện gì thế này?

- Ngài... ngài chỉ huy! - Susan giọng hổn hển.

- Hale đang ở trong Node 3! Anh ta vừa tấn công tôi!

- Cài gì? Không thể thế được! Hale bị nhốt ở dưới...

- Không! Anh ta đã trốn thoát! Chúng ta cần gọi ngay bảo vệ tới đây! Tôi đang hủy lệnh vận hành TRANSLTR! - Susan với tay đến bàn phím.

- ĐÙNG ĐỘNG VÀO ĐÓ! - Strathmore lao người đến bàn máy và giật mạnh tay Susan ra khỏi bàn phím.

Susan co người lại, sửng sốt. Cô nhìn ngài chỉ huy trân chối. Lần này là lần thứ hai, ông hành động thật kỳ quặc khiến cô không sao hiểu nổi. Susan bỗng cảm thấy đơn độc.

* * * * *

Strathmore chợt trông thấy máu trên áo cô và ngay tức khắc, ông ân hận vì hành động nổi cáu bột phát của mình.

- Lạy chúa, Susan. Cô không sao chứ?

Susan im lặng không trả lời.

Strathmore hối hận, giá như ông đừng quá đột ngột không cần thiết như vậy. Đầu óc ông xáo trộn. Ông đã nói dối Susan quá nhiều. Trong ông ngổn ngang bao điều - có những điều Susan không hay biết - có những điều ông chưa nói với cô và mong sao ông sẽ không bao giờ phải nói ra điều đó.

- Tôi xin lỗi - Ông nhẹ nhàng nói - Hãy kể cho tôi nghe chuyện gì đã xảy ra.

Susan quay đi.

- Tôi không sao. Vết máu này không phải là máu của tôi. Chỉ cần đưa tôi ra khỏi nơi này, vậy thôi.

- Cô bị thương à - Strathmore đặt một tay lên vai cô. Susan rụt người lại. Ông hạ bàn tay xuống và nhìn đi chỗ khác. Khi ông quay lại nhìn vào mặt Susan, ông nhận thấy hình như cô đang nhìn vào một vật gì đó ở trên tường đằng sau vai ông.

Ở đó trong bóng tối, một bàn phím nhỏ đã sáng đủ điện.

Strathmore nhìn theo ánh mắt cô và cau mày. Ông những tưởng Susan không nhìn thấy bảng điều khiển đang sáng đỏ đó. Bàn phím được chiếu sáng chính là bàn phím điều khiển thang máy riêng của ông. Strathmore và các vị quan khách có quyền thế vẫn dùng thang máy đó để ra vào Crypto mà mọi nhân viên khác đều không hay biết sự có mặt của họ. Thang máy này đi xuống sâu hơn tòa nhà Crypto 5 feet và di chuyển ngang 109 yard xuyên qua một đường hầm được xây dựng kiên cố, dẫn đến các tầng hầm của tòa nhà chính trong khu liên hợp NSA. Chiếc thang nối Crypto với NSA lấy nguồn điện từ tòa nhà chính của khu liên hợp; nó luôn có điện cho dù nguồn điện của Crypto đã bị cắt.

Strathmore thừa biết rằng thang máy này luôn có điện nhưng ngay cả lúc Susan bị đập mạnh vào cửa ra chính ở tầng dưới, ông cũng không hề đả động đến nó. Ông không thể để Susan thoát ra ngoài - chưa đến lúc phải chọn giải pháp ấy. Ông cân nhắc, không biết nên tiết lộ cho Susan biết nhũng gì đủ để níu chân cô ở lại nơi này.

Susan xô người qua mặt Strathmore và lao tới bức tường phía sau ông. Cô đập mạnh vào các nút đang sáng trên bàn phím.

- Mở ra đi - cô khẩn cầu. Nhưng cánh cửa vẫn không hề nhúc nhích.

- Susan.. - Strathmore lặng lẽ nói - Phải có mật khẩu mới mở được thang máy.

- Mật khẩu ư - cô tức tối nhắc lại. Nói rồi Susan quay lại nhìn kỹ bảng điều khiển. Phía dưới bàn phím chính có một bàn phím khác, nhỏ hơn với các nút bé li ti. Trên mỗi nút in một kí tự trong bảng chữ cái. Susan quay lại phía Strathmore.

- Mật khẩu là gì! - cô gặng hỏi.

Strathmore nghĩ ngợi hồi lâu rồi thở dài nặng nhọc.

- Susan, cô hãy ngồi xuống đã!

Susan không thể tin nổi vào tai mình nữa.

- Ngồi xuống đi - ngài chỉ huy nhắc lại, giọng ông kiên quyết hơn.

- Để tôi ra khỏi đây! - Susan ném cái nhìn bực tức về phía cánh cửa phòng đang mở của ngài chỉ huy.

Strathmore đưa mắt nhìn Susan Fletcher đang trong tâm trạng hoảng loạn. Ông bình tĩnh đi về phía cửa, bước ra ngoài lên phía đầu cầu thang rồi nhìn sâu vào bóng tối. Không thấy bóng dáng Hale đâu, ông quay lại và đóng cửa. Sau đó ông kéo chiếc ghế đặt ngay trước cửa để chặn rồi đến bên bàn làm việc của mình, ông kéo ngăn bàn, lấy ra thứ gì đó. Trong ánh sáng đỏ lờ mờ yếu ớt của đèn tín hiệu trên máy chủ, Susan nhận ra thứ ông đang cầm trên tay.

Mặt cô tái dại. Đó là một khẩu súng.

Strathmore kéo hai chiếc ghế ra giữa căn phòng. Ông xoay ghế đồi diện với cửa ra vào đang đóng kín rồi ngồi xuống. Ông cầm khẩu Beretta bán tự động bóng loáng và ngắm thẳng về phía cánh cửa. Một lát sau ông thu khầu súng lại rồi nghiêm giọng nói :

- Susan, giờ chúng ta an toàn rồi. Chúng ta cần phải nói chuyện. Nếu Greg Hale đột nhập qua cánh cửa này... - ông bỏ lửng câu nói.

Susan im lặng không nói lời nào.

Strathmore nhìn cô thật lâu trong ánh sáng mờ ảo của căn phòng. Ông vỗ nhẹ vào chiếc ghế bên cạnh mình rồi nói :

- Susan, ngồi đi. Tôi có chuyện cần nói với cô - Cô không động đậy khi mà tôi chưa nói xong - Ông tiếp tục nói - Tôi sẽ cho cô biết mật khẩu thang máy. Sau đó đi hay ở là tuỳ cô quyết định.

Cả hai cùng im lặng hồi lâu. Trong tâm trạng choáng váng, sững sờ, Susan bước tới và ngồi xuống bên cạnh Strathmore.

- Susan - Ông bắt đầu nói - Tôi đã không hoàn toàn thành thật với cô.

Xem tiếp chương 73

Chương 73

David Becker cảm thấy như mặt mình vừa bị tạt nhựa thông và anh thấy bỏng rát. Anh lăn lộn trên sàn và nheo mắt, lờ mờ nhìn cô gái đang đi đến lưng chừng cửa. Cô chạy gấp gáp lòng thấp thỏm đầy lo sợ, kéo lê chiếc túi len đằng sau trên sàn. Becker cố hết sức gượng dậy nhưng anh không thể. Anh không nhìn thấy gì vì hơi cay quá nóng làm mặt anh bỏng rát. Không thể để cô ấy chạy mất!

Anh nghĩ thế.

Anh cố gắng gọi với nhưng hụt hơi, phổi anh không còn chút không khí, chỉ toàn cảm giác đau đớn.

- Không! - Anh thở hắt ra. Âm thanh hầu như không thể thoát ra khỏi miệng anh.

Becker biết rằng một khi đã chạy qua cửa, cô gái sẽ biến mất vĩnh viễn. Anh cố gắng gọi với lần nữa nhưng họng anh chợt khô cứng lại.

Cô gái ấy đã chạy đến sát cửa quay. Becker khập khiễng lê chân, miệng thở dốc. Anh trượt chân ngã ngay sau cô. Cô gái va mạnh vào một góc của cửa quay, kéo theo sau chiếc túi len thô.

Cách đó 18 mét, Becker khập khiễng, mắt nhắm nghiền lao về phía cửa.

- Đợi đã! - Anh thở hắt ra - Đợi đã!

Cô gái giận dữ đẩy mạnh cửa vào trong. Cửa bắt đầu quay nhưng sau đó nó khựng lại. Cô gái hoảng sợ thu mình lại và nhìn vào vết rách do bị kẹt trên chiếc túi len. Cô cúi xuống và giật mạnh chiếc túi ra.

Đôi mắt cay xè, gần như không còn nhìn thấy gì của Becker dán vào phần túi thò ra qua cửa. Tất cả những gì anh có thể nhìn thấy chỉ là một mảng ni lông đỏ trồi ra từ vết rách. Anh lao về phía đó, tay chới với.

Khi David Becker ngã về phía cửa, hai bàn tay anh chỉ cách nó chừng vài chục centimét, miếng túi trượt ra khỏí chỗ kẹt và biến mất trước mắt anh. Anh, đưa tay chộp lấy nhưng bị hụt vì cửa bắt đầu quay. Cô gái và chiếc túi vội vã lao ra ngoài đường.

- Megan! - Becker vừa rên rỉ vừa đập mạnh vào cửa. Mắt anh bỗng nóng rát như lửa đốt. Anh không nhìn thấy gì nữa, một cảm giác buồn nôn lại trực trào lên. Tiếng Becker dội lại trong bóng tối.

- Megan!

David Becker không biết anh đã nằm đó được bao lâu trước khi anh tỉnh lại và nhận ra thứ mùi khó chịu như phát ra từ bóng đèn huỳnh quang ngay trên đầu. Mọi thứ xưng quanh đều tĩnh lặng.

Bỗng một giọng nói cất lên phá vỡ bầu không khí im lặng. Có ai đó đang gọi. Anh cố nhấc đầu khỏi sàn. Đầu óc anh quay cuồng.

Giọng nói lại cất lên. Anh liếc mắt xuống sàn và nhìn thấy một bóng người đứng cách đó khá xa.

- Này ông!

Becker nhận ra giọng nói này. Chính là cô gái đó. Cô đang đứng ở một lối ra khác thấp hơn sảnh phòng chờ, hai tay ôm chặt chiếc túi trên ngực. Trông cô giờ đây run rẩy sợ hãi hơn cả lúc trước.

- Này ông - Cô gái hỏi, giọng run run. - Tôi chưa nói tên cho ông. Vì sao ông lại biết tên tôi?

Xem tiếp chương 74

Chương 74

Ngài giám đốc Leland Fontaine đã 63 tuổi, ông có vóc dáng cao lớn, mái tóc cắt gọn gàng, tác phong cứng nhắc đúng dáng một quân nhân. Những lúc ông cáu giận, đôi mắt đen ánh lên như màu than. Lúc nào cũng vậy. Bởi chẳng có lúc nào ông không bực tức cả. Fontaine đã từng nắm giữ nhiều vị trí trong NSA và được thăng cấp dần dần, ông có được điều đó là nhờ sự cần cù, làm việc có kế hoạch và khoa học, và hơn hết, ông luôn được những người tiền nhiệm tôn trọng và kính nể. Ông là người Mỹ gốc Phi đầu tiên nắm giữ cương vị giám đốc của NSA nhưng sự khác biệt về nguồn gốc đó hầu như không ai để ý. Nhân viên cấp dưới thường lấy ngài giám đốc làm gương.

Fontaine để Midge và Brinkerhoff đứng đó rồi lặng lẽ đi vào, gương mặt ông cau lại và lạnh lùng trông hệt như một người Java đến từ Guatemala. Ông ngồi xuống bên bàn làm việc, mặc cho Midge và Brinkerhoff đứng đó, ông chất vấn họ như hiệu trưởng chất vấn học sinh.

Midge giải thích cho vị giám đốc nghe về một loạt những sự kiện bất thường khiến họ bất đắc dĩ phải vi phạm quy tắc và lén vào phòng ông.

- Virus ư? - Giám đốc lạnh lùng hỏi.

- Bà cho rằng chúng ta bị nhiễm virus?

Brinkerhoff cau mặt.

- Vâng thưa ngài. - Midge nói nhanh - Bởi vì Strathmore đã không chạy Gauntlet.

Fontaine nhìn bản in lấy ra từ máy fax.

- Vâng, còn một file nữa chạy hơn 20 tiếng đồng hồ mà vẫn chưa phá được - Midge tiếp lời.

Fontaine nhíu mày và hỏi :

- Dữ liệu bà có được nói lên điều đó ư?

Midge toan phản đối nhưng lại thôi. Mụ ta nói tiếp.

- Crypto bị mất điện.

Fontaine nhìn lên, không giấu nổi vẻ ngạc nhiên.

Midge gật đầu khẳng định lời mụ vừa nói.

- Tất cả các nguồn điện đều đã bị cắt. Jabba nghĩ có thể....

- Bà gọi cho Jabba ư?

- Vâng thưa ngài, tôi...

- Jabba - Fontaine đứng dậy, giọng giận dữ - Tại sao bà không gọi Strathmore?

- Chúng tôi đã gọi - Midge thanh minh - Ông ấy nói mọi chuyện đều ổn cả.

Fontaine đứng dậy, lồng ngực căng ra.

- Vậy thì chúng ta không có lí do gì để nghi ngờ ông ấy - Giọng ông dứt khoát. Ông ngừng lại nhấp một ngụm cà phê rồi tiếp tục - Bây giờ nếu không có gì nữa, tôi phải làm việc.

Midge sững người.

- Ngài vừa nói gì ạ?

Brinkerhoff đã lùi ra cửa tự lúc nào còn Midge thì chôn chân tại chỗ

- Tôi nói chúc ngủ ngon, bà Milken - Fontaine nhắc lại - Bà có thể đi được rồi.

- Nhưng... nhưng thưa ngài... - Midge lắp bắp - Tôi... tôi phải nói cho ra lẽ. Tôi nghĩ là....

- Bà phản đối ư? - Ông giám đốc lên giọng rồi đặt cốc cà phê xuống - Tôi phản đối! Tôi phản đối sự có mặt của bà trong căn phòng này, tôi phản đối những lời ngầm chỉ của bà rằng vị phó giám đốc cơ quan này đang nói dối. Tôi phản đối...

- Chúng ta bị nhiễm virus, thưa ngài! Trực giác của tôi mách bảo rằng....

- Ồ nếu vậy thì trực giác của bà sai rồi, bà Milken! Lần này trực giác của bà đã sai!

Midge vẫn đứng yên.

- Nhưng thưa ngài, Chỉ huy Strathmore đã không cho file chạy Gauntlet!

Fontaine tiến về phía mụ, cố kiềm chế cơn giận dữ.

- Đó là quyền của ông ta! Tôi trả lương cho bà để giám sát các phân tích viên và nhân viên phục vụ chứ không phải để theo dõi ông phó giám đốc. Nếu không có ông ta thì giờ chúng ta vẫn giải mật mã bằng bút chì và giấy đây này? Để tôi yên - Ông quay sang Brinkerhoff, nãy giờ vẫn đứng ở cửa, mặt tái nhợt, toàn thân run rẩy - Cả hai người.

- Dù thế nào, thưa ngài - Midge nói - Tôi cũng xin đề nghị chúng ta nên cử một nhóm nhân viên an ninh hệ thống tới Cryto để đảm bảo...

- Chúng ta sẽ không làm thế!

Căng thẳng một hồi, Midge đành gật đầu :

- Được thôi. Chúc ngài ngủ ngon.

Nói rồi mụ ta quay người và bỏ đi. Khi Midge đi ngang qua, Brinkerhoff có thể đọc được trong mắt mụ quyết tâm làm rõ mọi chuyện để thỏa mãn trực giác.

Brinkerhoff lại đưa mắt nhìn ông chủ đang tức tối sau chiếc ghế. Đó không phải là vị giám đốc mà anh ta biết. Vị giám đốc anh biết là người luôn muốn biết tường tận tất cả những chuyện bị che giấu. Ông luôn khuyến khích nhân viên làm rõ và giải quyết mọi sự thiếu nhất quán trong công việc hàng ngày cho dù việc đó có tốn bao nhiêu thời gian. Vậy mà giờ đây ông lại bảo họ bỏ qua một loạt những chuyện bất thường như vậy.

Rõ ràng giám đốc đang che giấu chuyện gì đó nhưng Brinkerhoff được trả lương để giúp việc ông chứ không phải để soi mói ông. Vả lại. Fontaine luôn quan tâm tới quyền lợi của tất cả mọi người; nếu như làm ngơ mọi chuyện lúc này là giúp ông ấy, hãy cứ làm như vậy - Brinkerhoff nghĩ vậy. Thật trớ trêu, vừa rồi Midge đã chất vấn ông Brinkerhoff e rằng giờ đây bà ta lại đang vội vã tới Crypto để làm rõ mọi chuyện.

- Đã đến lúc phải xem thực hư ra sao - Brinkerhoff nghĩ thầm rồi quay ra phía cửa.

- Chad! - đằng sau Brinkerhoff, Fontaine gầm lên. Ông đã nhìn thấy ánh mắt của Midge khi mụ ra khỏi căn phòng - Đừng để bà ta rời khỏi khu vực này - Fontaine ra lệnh.

Brinkerhoff gật đầu và hối hả theo sau Midge.

Fontaine ôm mặt thở dài, đôi mắt đen nặng trĩu. Cuộc trở về của ông thật dài và bất ngờ. Tháng qua ông đã khám phá ra biết bao nhiêu chuyện. Có những chuyện hiện đang xảy ra ngay tại NSA này làm thay đổi lịch sử và cũng là tình cờ Fontaine mới phát hiện ra chuyện đó.

Ba tháng trước, ông nhận được tin báo rằng vợ Strathmore bỏ ông ta. Ông cũng được nghe báo cáo về việc Strathmore thường hay làm quá thởi gian một cách kỳ lạ và có vẻ như ông ta sắp nổ tung lên vì làm việc quá sức và quá căng thẳng. Mặc dù có nhiều lời ra tiếng vào về Strathmore trong nhiều vấn đề nhưng Fontaine luôn tôn trọng vị phó giám đốc của mình. Strathmore là người thông minh, ông ta là nhân viên giỏi nhất ở NSA. Nhưng kể từ sau thất bại Skipjack, Strathmore luôn trong trạng thái căng thẳng. Điều này làm Fontaine cảm thấy bất an.

Fontaine đang cần tìm người nào đó để có thể theo dõi Strathmore, con người đôi lúc còn hay do dự này, và để đảm bảo rằng ông ta tuyệt đối trung thành với tổ chức - nhưng sự việc không đơn giản chỉ có thế. Strathmore là một người kiêu hãnh và đầy quyền lực; Fontaine phải tìm ra được một cách thức nào đó để kiểm tra vị phó của ông mà không xâm phạm đến tự do và lòng tự trọng của ông ta.

Fontaine đã quyết định. Ông giấu Strathmore, tự mình thực hiện nhiệm vụ này. Ông lắp đặt một thiết bị nghe trộm vô hình vào account của Chỉ huy Strathmore ở Crypto - thư điện tử, mọi trao đổi nội bộ trong cơ quan, sản phẩm nghiên cứu của ông ta,... tất cả đều bị kiểm soát. Nếu Strathmore có bất kỳ dấu hiệu gì bất thường trong công việc, Fontaine đều được báo động. Nhưng điều mà Fontaine phát hiện ra được lại không phải là dấu hiệu sa sút trong công việc như ông nghĩ mà là một trong những âm mưu tình báo nguy hại nhất mà ông đã từng biết. Vậy thì chẳng có gì ngạc nhiên khi Strathmore lao đầu như điên vào công việc như thế, nếu kế hoạch này của ông ta thành công thì nó sẽ bù đắp cả trăm lần cho thất bại Skipjack trước đây.

Fontaine từng nghĩ mọi công việc của Strathmore đều ổn cả, ông ta luôn làm việc với hiệu suất 110%, luôn tỉnh táo, thông minh và nhiệt huyết hơn bao giờ hết. Lúc này, điều tốt nhất Fontaine có thể làm là đứng ngoài và tiếp tục theo dõi vị phó của mình tiếp tục thực hiện kế hoạch của ông ta. Strathmore đã lập ra một kế hoạch... một kế hoạch mà Fontaine không hề có ý định can thiệp vào.

Xem tiếp chương 75

Chương 75

Strathmore giữ chặt khẩu Beretta bên mình. Ngay cả khi cơn giận dữ đang sôi sùng sục, ông vẫn luôn sắp đặt kế hoạch và suy nghĩ hết sức rõ ràng. Việc Greg Hale dám chạm đến Susan Fletcher khiến ông vô cùng bực tức, nhưng sự thực đó lại chính là lỗi của ông, điều đó còn làm ông giận giữ hơn bởi Susan đi vào Node 3 là làm theo ý ông. Strathmore đủ tỉnh táo để phân định rõ ràng tình cảm của mình- điều này sẽ không bao giờ ảnh hưởng đến kế hoạch thâu tóm Pháo Đài Số. Ông là phó giám đốc của NSA cơ mà. Và ngày hôm nay công việc của ông quan trọng hơn bao giờ hết.

Strathmore thở chậm lại.

- Susan! - giọng ông rõ ràng và đầy uy lực - Cô đã xóa sạch thư điện tử của Hale chưa?

- Chưa! - Susan bối rối trả lời.

- Cô có lấy được mã khóa không?

Cô lắc đầu. Strathmore nhíu mày và cắn môi. Đầu óc ông quay cuồng. Ông đang phải đối mặt với một tình thế khó xử. Ông có thể dễ dàng ấn mã khóa thang máy và để Susan đi, nhưng ông cần cô ở lại, ông cần cô giúp đỡ để tìm ra mã khóa của Hale. Strathmore vẫn chưa nói với cô về điều đó việc tìm ra mã khóa không đơn thuần là việc thích hay không thích- đó là việc tối cần thiết. Trước đây Strathmore nghĩ rằng ông có thể chạy chương trình tìm kiếm của Susan và tự tìm ra, nhưng khi ông chạy chương trình tìm kiếm đó của cô, ông đã gặp phải một số rắc rối và ông không muốn mạo hiểm một lần nữa.

- Susan! - Giọng ông kiên quyết. Tôi muốn cô giúp tôi tìm ra mã khóa của Hale.

- Sao cơ! - Susan đứng phắt dậy, ánh mắt cô hoảng loạn.

Strathmore cố gắng át đi lòng khao khát mãnh liệt khi đứng bên cô. Ông là người rất giỏi thuyết phục- nhờ thế mà vị thế quyền lực của ông luôn được giữ vững. Ông hi vọng Susan sẽ nghe theo lời ông. Nhưng cô đã không làm như vậy.

Ông yêu cầu :

- Susan, ngồi xuống!

Nhưng cô giả bộ làm ngơ.

- Ngồi xuống! - Strathmore ra lệnh.

Susan vẫn đứng yên và cô nói :

- Thưa Chỉ huy, nếu ông vẫn giữ cái khao khát cháy bỏng là muốn kiểm soát thuật toán của Tankado thì ông hãy làm điều đó một mình. Tôi không muốn dính líu vào chuyện này nữa.

Strathmore nghiêng đầu thở dài. Rõ ràng Susan đang cần một lời giải thích. Cô đáng được nghe một lời giải thích, ông nghĩ thầm.

Strathmore quyết định, ông sẽ nói cho Susan tất cả. Ông mong sao ông không phạm sai lầm khi làm việc đó.

- Susan! - Ông bắt đầu nói - Tôi không định để mọi chuyện đến nông nỗi này - Ông đưa tay vuốt tóc - Có một số việc tôi chưa nói với cô. Đôi khi một người ở vị trí như tôi... - Giọng ông ngập ngừng như đang thú nhận một điều gì đó thật tồi tệ - Đôi khi một người ở vị trí như tôi buộc phải nói dối những người anh ta yêu mến. Hôm nay là một trong những ngày như vậy!

Ông nhìn cô buồn bã :

- Điều tôi sắp nói với cô, tôi chưa hề có ý định... nói cho cô... hay cho bất kỳ ai.

Susan rùng mình. Nét mặt ngài chỉ huy nghiêm lại, lạnh lùng.

Rõ ràng còn có một điều gì đó trong kế hoạch của Strathmore mà cô chưa được biết. Susan ngồi xuống.

Strathmore đưa mắt nhìn thật lâu lên trần nhà, gom nhặt những từng suy nghĩa của ông và để lại giữa hai người một khoảng lặng mênh mông.

- Susan - cuối cùng ông cũng lên tiếng, giọng nặng trĩu - Tôi không có gia đình! - Nói rồi ông quay lại nhìn cô. Và tôi cũng chẳng có lấy một cuộc hôn nhân để kể ra đây. Cuộc sống của tôi là tình yêu dành cho đất nước này. Cuộc sống của tôi chính là công việc ở đây, ở NSA.

Susan yên lặng lắng nghe.

- Có lẽ cô cũng đoán được điều đó - Ông tiếp tục - Tôi định về hưu sớm. Nhưng tôi muốn được ngẩng cao đầu khi ra đi. Tôi muốn khi về hưu, tôi đã thực sự làm được một điều gì đó.

- Nhưng ông đã có được sự bứt phá rồi đấy thôi. Ông đã tạo ra được TRANSLTR. - Susan nghe thấy lời nói của cô vang lên.

Có vẻ như Strathmore không nghe thấy những điều cô nói.

- Những năm gan đây, công việc của chứng ta ở NSA càng ngày càng khó khăn. Chúng ta gặp phải những kẻ thù mà tôi chưa bao giờ hình dung tới. Tôi đang nói đến tới những công dân của chính đất nước này. Những tên luật sư, những kẻ cuồng tín quyền công dân, bọn EFF... tất cả bọn họ đều có khả năng chống lại chúng ta, nhưng không đơn giản chỉ có thế. Họ đang mất niềm tin, họ trở nên hoảng loạn. Bỗng nhiên họ nhìn chúng ta là kẻ thù. Những người như cô và tôi những con người thực sự coi trọng quyền lợi của đất nước thì lại phải đi đấu tranh để giành quyền phục vụ đất nước. Chúng ta không còn được coi là những người gìn giữ hòa bình nữa, chúng ta trở thành những kẻ phá hoại, tọc mạch, những kẻ xâm phạm quyền lợi riêng tư của người khác - Strathmore thở dài nặng nhọc. Trớ trêu thay, thế giới này vẫn có những người ngây thơ, không hình dung ra được những điều khủng khiếp họ sẽ gặp phải nếu không nhờ có sự can thiệp của chúng ta. Tôi tin rằng việc thức tỉnh những con người này phụ thuộc vào chính chúng ta..

Susan cố đợi để nghe điểm mấu chốt trong câu chuyện mà ông đang kể là gì.

Ngài chỉ huy cúi mặt nhìn thật lâu xuống sàn, ánh mắt mệt mỏi và kiệt sức, rồi ông ngước mắt lên :

- Susan, hãy nghe kỹ những lời tôi nói - Ông cất giọng, nở một nụ cười dịu dàng với cô - Cô sẽ không muốn nghe, nhưng hãy nghe cho kỹ. Suốt hai tháng nay, tôi đã cố giải mã thư điện tử của Tankado. Cô có thể thấy, tôi đã sốc ngay lần đầu tiên đọc thư anh ta gửi cho North Dakota về một thuật toán không thể giải được gọi là Pháo Đài Số. Tôi đã không tin điều đó là có thật. Nhưng mỗi lần đọc được một bức thư mới của anh ta tôi đều bị thuyết phục rằng điều đó là hoàn toàn có thể. Khi tôi phát hiện ra anh ta đã sử dụng dãy hoán vị để viết mật mã vòng, tôi nhận thầy anh ta đã đi trước chúng ta hàng năm ánh sáng, từ trước tới giờ ở đây chưa một ai dám thử thuật toán đó.

- Chúng ta thử làm gì? - Susan hỏi.

- Điều đó chẳng nghĩa lý gì hết.

Strathmore đứng dậy, ông đi đi lại lại, mắt hướng về phía cửa.

Ông bắt đầu nói :

- Vài tuần trưởc khi tôi nghe thông tin về cuộc bán đấu giá Pháo Đài Số, tôi đã phải thừa nhận rằng Tankado không hề nói chơi. Tôi biết anh ta đã rao bán thuật toán đó cho một công ty phần mềm của Nhật Bản. Chúng ta đang yếu thế. Vì vậy tôi cố nghĩ cách có thể chặn anh ta lại. Tôi đã nghĩ mình có thể giết anh ta nhưng nếu anh ta chết, với tất cả những gì đang được công khai quảng cáo về thuật toán cũng như những tuyên bố gần đây của anh ta về TRANSLTR thì chúng ta sẽ là những nghi phạm đầu tiên. Đó là những gì tôi nghĩ - Ông quay sang Susan - Tôi nhận thấy chúng ta không nên phá hỏng và kết thúc Pháo Đài Số ở đây.

Susan nhìn ông không chớp mắt, vẻ mặt cô bối rối, đờ đẫn.

Strathmore tiếp tục :

- Tôi bỗng nhận ra Pháo Đài Số là một cơ hội cả đời người. Tôi nghĩ chỉ với một vài thay đổi, Pháo Đài Số có thể phục vụ thay vì chống lại chúng ta.

Susan chưa từng nghe một điều ngược đời đến thế. Pháo Đài Số là một thuật toán không thể phá vỡ được, nó có thể hủy hoại sự nghiệp của họ. Strathmore nói tiếp :

- Nếu tôi có thể sửa thuật toán đó đôi chút... trước khi nó được công bố...

Ông ta nhìn Susan với ánh mắt ranh mãnh. Cái nhìn kéo dài trong giây lát.

Strathmore đọc được sự ngạc nhiên trong mắt Susan. Ông hào hứng giải thích cho cô nghe kể hoạch của mình.

- Nếu có mật khẩu, tôi có thể khóa bản sao của Pháo Đài Số mà chúng ta đang có rồi chèn phần sửa đổi vào đó.

- Một cổng hậu (Back door) [1]

Susan nói, cô quên rằng chỉ huy đã từng nói dối cô. Cô bắt đầu tò mò và đoán.

- Lại giống như Skipjack sao?

Strathmore gật đầu.

- Sau đó chúng ta có thể thay thế file mà Tankado đã phát tán trên mạng bằng phiên bản đã sửa đổi của chúng ta. Vì Pháo Đài Số là một thuật toán của Nhật Bản nên sẽ không ai nghi ngờ NSA có dính líu vào đó. Tất cả những việc chúng ta phải làm chỉ là tạo một thay đổi nhỏ.

Susan công nhận kế hoạch của ông khôn ngoan và ngoài sức tưởng tượng của cô. Nó hoàn toàn... đúng chất Strathmore. Ông định đưa ra công chúng một bản thuật toán mà NSA có thể phá hủy được!

- Truy cập toàn bộ - Strathmore nói.

- Pháo Đài Số sẽ trở thành tiêu chuẩn mật mã hóa chỉ qua một đêm.

- Chỉ qua một đêm? Làm sao ông có thể tính được điều đó? Thậm chí khi Pháo Đài Số ở đâu cũng có, không mất tiền để tải về thì người sử dụng máy tính cũng sẽ không dùng nó vì họ đã quen dùng phần mềm cũ, như vậy thuận tiện hơn. Họ chuyển sang dùng Pháo Đài Số làm gì - Susan chất vấn ông.

Strathmore mỉm cười.

- Rất đơn giản. Chúng ta đang nắm giữ một bí mật an ninh. Toàn thế giới biết chúng ta có TRANSLTR.

Susan sững người khi nghe điều này.

- Rất đơn giản, Susan, hãy để mọi người biết sự thật. Chúng ta nói với cả thế giới rằng NSA có một máy tính có thể phá hủy tất cả các thuật toán ngoại trừ Pháo Đài Số.

- Vậy là mọi người đổ xô mua Pháo Đài Số ... mà không biết rằng chúng ta có thể phá hủy nó! - Susan hết sức ngạc nhiên.

Strathmore gật đầu và khẳng định lời cô vừa nói là "chính xác".

Bầu không khí im lặng kéo dài bao trùm hai người. Ngài chỉ huy thốt lên :

- Tôi xin lỗi vì đã nói dối cô. Cố gắng viết lại Pháo Đài Số là một ván bài rủi ro lớn. Tôi đã không muốn cô dính líu vào.

- Tôi... hiểu.

Cô chậm rãi đáp lại, chưa hết choáng váng vì ngạc nhiên trước kế hoạch quá xuất sắc của Strathmore. Susan đã phải thừa nhận "ông nói dối cũng không tồi".

Strathmore cười thầm.

- Do tập luyện hàng năm trời đấy. Nói đối là cách duy nhất giúp người ta thoát khỏi vòng vây.

Susan gật đầu.

- Thế cái vòng vây ấy to nhường nào?

- Cô đang đối mặt với nó đấy thôi. - Strathmore trả lời.

Susan mỉm cười, việc đơn giản mà suốt một giờ đồng hồ qua cô không làm nổi.

- Tôi biết rằng ông sẽ nói thế.

Strathmore nhún vai. Ông phân bua với cô :

- Khi nào Pháo Đài Số đi vào hoạt động tôi sẽ thông báo cho giám đốc biết.

Susan rất ấn tượng với kế hoạch của Strathmore. Đó là một kế hoạch tình báo mang tính chất toàn cầu với quy mô chưa từng có.

Ông đã cố thực hiện nó một mình. Dường như ông sắp thành công. Mật khẩu ở dưới tầng hầm. Tankado đã chết. Bạn của hắn cũng đã bị lộ tung tích.

Susan ngừng suy nghĩ lại.

Tankado đã chết. Đây dường như là tin tốt lành cho kế hoạch của Strathmore. Cô nghĩ lại những lời nói dối của ông mà rùng mình. Cô đưa mắt nhìn chỉ huy và nói với giọng bất an.

- Ông có giết Ensei Tankado không?

Strathmore ngạc nhiên. Ông ta lắc đầu :

- Dĩ nhiên là không. Không cần phải giết Tankado. Trái lại, tôi mong anh ta còn sống. Cái chết của anh ta có thể làm người ta nghi ngờ Pháo Đài Số. Tôi muốn sự thay đổi diễn ra một cách yên ả, càng kín đáo càng tốt. Kế hoạch ban đầu là tạo ra sự thay đổi và để yên cho Tankado bán mật khẩu.

Susan phải thú nhận rằng điều đó hoàn toàn hợp lý. Tankado chẳng có lý do gì để nghi ngờ thuật toán trên mạng không phải là bản gốc. Chỉ có anh ta và North Dakota truy cập được Pháo Đài Số.

Trừ khi Tankado quay trở lại và kiểm tra phần lập trình sau khi Pháo Đài Số được công bố, còn nếu không, anh ta sẽ không bao giờ phát hiện ra cổng sau. Tuy nhiên thời gian anh ta mải miết với Pháo Đài Số đã quá đủ để anh ta chán ngán, không bao giờ muốn trở lại việc lập trình này lần nữa.

Susan hiểu dần mọi chuyện. Đột nhiên cô chợt hiểu tại sao chỉ huy lại cần nhiều thời gian làm thêm một mình ở Crypto đến thế.

Việc viết một cổng hậu giấu trong một thuật toán phức tạp như vậy và tạo ra sự thay đổi trên mạng mà không bị phát hiện là rất tốn thời gian và cần sự khéo léo. Quan trọng hơn nữa là làm thế nào để giấu kín được công việc đó. Chỉ cần một thông tin về việc Pháo Đài Số đã bị phá vỡ là toàn bộ kế hoạch của Strathmore sẽ bị phá hủy.

Đến bây giờ Susan mới thấu hiểu tại sao ông lại quyết định để TRANSLTR tiếp tục hoạt động. Một khi Pháo Đài Số trở thành sản phẩm mới của NSA thì Strathmore muốn nó là thuật toán không có thuật giải. - Giờ thì cô vẫn muốn đứng ngoài kế hoạch này chứ? - ông hỏi.

Susan nhìn lên. Vì lý do nào đó mà khi ngồi trong bóng tối với một người như Trevor Strathmore nỗi sợ hãi của cô không còn nữa. Viết lại Pháo Đài Số là cơ hội làm nên lịch sử, cơ hội để thực hiện điều kỳ diệu và Strathmore cần sự giúp đỡ của cô. Susan gắng một nụ cười gượng gạo và hỏi lại ngài chỉ huy.

- Vậy bước tiếp theo của chúng ta là gì?

Strathmore cười rạng rỡ. Ông tiến lại và đặt một tay lên vai cô.

- Cảm ơn cô - Ông cười rồi trở lại ngay vấn đề công việc.

- Chúng ta sẽ cùng xuống tầng hầm. Tôi sẽ đi cùng để bảo vệ cô.

Susan dựng đứng người vì với ý nghĩ sẽ phải đi xuống tầng hầm.

- Chúng ta không thể đợi David về cùng với phiên bản mật khẩu của Tankado hay sao>

Strathmore lắc đầu.

- Chúng ta làm càng sớm càng tốt. Chẳng có gì bảo đảm là David sẽ tìm được bản mật khẩu kia. Biết đâu vì một lý do nào đó chiếc nhẫn rơi vào tay kẻ xấu thì sao, tôi muốn chúng ta thay đổi được thuật toán trước khi có tin của David. Nếu chúng ta làm như vậy, bất kỳ một ai có được mật khẫu đều tải phiên bản thuật toán của chúng ta xuống.

Strathmore nắm lấy khẩu súng và đứng lên.

- Chúng ta cần phải lấy được mật khẩu của Hale! - Strathmore nói.

Susan im lặng. Cô hiểu điều chỉ huy nói là có lý. Họ cần mật khẩu của Hale và họ cần nó ngay bây giờ.

Khi Susan đứng dậy, chân cô bủn rủn. Cô ước mình đã đập Hale mạnh hơn thì tốt biết mấy. Cô đưa mắt nhìn khẩu súng của Strathmore và thấy nôn nao.

- Sự thật có phải ông đã bắn Greg Hale không? Cô hỏi ngài chỉ huy.

- Không - Strathmore nhíu mày, đi ra phía cửa - Nhưng hãy hi vọng rằng anh ta không biết điều đó.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Back door - một cổng hậu: một đoạn mã chèn thêm vào chương trình có thể truy cập bất hợp pháp vào một phần mềm, máy tính hay một website.

Xem tiếp chương 76

Chương 76

Đến ngoài khu sân bay Seville, một chiếc taxi đứng yên, đồng hồ đo cây số vẫn chạy. Qua cặp kính gọng kim và một lớp cửa kính, vị khách nhìn khu sân bay sáng đèn. Anh ta biết mình đã đến kịp giờ.

Từ bên ngoài, anh ta có thể thấy một cô gái tóc vàng đang giúp David Becker ngồi xuống ghế. Rõ ràng Becker đang bị đau. Hắn ta vẫn chưa biết thế nào là sự đau đớn đâu. Người khách nghĩ thầm.

Cô gái rút ra từ túi quần một vật nhỏ gì đó và đưa nó cho Becker.

Becker cầm lấy, giơ nó lên dưới ánh đèn rồi để nó trượt trên tay. Sau đó anh rút ra một xấp tiền đưa cho cô gái. Họ nói chuyện và một vài phút sau cô gái ôm anh tạm biệt. Cô vẫy tay chào, vắt chiếc túi lên cổ rồi hòa vào đám đông.

Hồi kết, vị khách trên chiếc taxi nghĩ, đã đến hồi kết.

Xem tiếp chương 77

Chương 77

Strathmore bước ra khỏi phòng làm việc đi tới đầu cầu thang, khẩu súng giắt bên hông. Susan đi ngay phía sau, cô băn khoăn không biết liệu Hale có còn ở trong Node 3 không.

Ánh sáng từ thiết bị kiểm tra của Strathmore đằng sau họ, phản chiếu hai cái bóng kỳ quái trên cầu thang gỗ. Susan đi gần chỉ huy hơn. Ánh sáng yếu dần khi họ ra xa cánh cửa. Và rồi họ khuất dần trong bóng tối. Ở Crypto lúc này chỉ có ánh sáng từ những vì sao và ánh sáng lờ mờ từ cánh cửa sổ đã rạn của Node 3.

Strathmore tiến về phía trước, tìm đường dẫn tới chiếc cầu thang hẹp. Chuyển khẩu Beretta sang tay trái, tay phải ông dò dẫm tìm lan can. Cánh tay trái của ông đã từng dính một viên đạn, ông phải dùng cả tay phải để hỗ trợ. Ngã xuống chiếc cầu thang này, người ta có thể bị liệt suốt đời, và trong kế hoạch về hưu của ông không được có mặt cùng chiếc xe lăn.

Bóng tối của khu Crypto làm Susan chẳng nhìn thấy gì cả. Cô bước xuống cầu thang, một tay bám vai Strathmore. Ngay cả khi hai người chỉ cách nhau chưa đầy một mét, cô cũng không thể nhìn thấy chỉ huy ở đâu. Bước trên cầu thang, cô phải dò dẫm từng bậc.

Susan bắt đầu cảm thấy e ngại về việc mạo hiểm đi xuống Node 3 để lấy mật khẩu của Hale. Chỉ huy cứ một mực cho rằng Hale sẽ không điên khùng đến mức làm gì để họ bị thương nặng nhưng Susan không hề chắc chắn về điều đó. Hale đang ở trong tình trạng tuyệt vọng. Hắn chỉ có hai sự lựa chọn: thoát khỏi Crypto hoặc bị tống giam.

Trong cô vọng lên một giọng nói mách bảo cô hãy chờ điện thoại của David rồi dùng mật khẩu anh mang về. Nhưng cô biết không có gì đảm bảo là David sẽ tìm ra nó. Cô băn khoăn tại sao David lại đi lâu thế. Cô dằn sự sợ hãi lại rồi tiếp tục bước đi.

Strathmore bước xuống nhẹ nhàng. Không cần thiết phải báo động cho Hale biết là họ đang tới gần. Khi gần xuống chân cầu thang, Strathmore đi chậm lại, dò dẫm những bước cuối cùng. Khi ông tìm thấy bậc thang đó, gót chân ông gõ nhẹ lên nền đá lát màu đen. Susan nhận thấy vai ông căng ra. Họ đang ở khu vực nguy hiểm. Hale có thể nấp ở bất cứ nơi nào xung quanh đây.

Xa xa, ngay phía sau TRANSLTR là nơi họ cần đến: Node 3. Susan mong sao Hale vẫn đang ở đó, nằm trên sàn nhà và rên rỉ vì đau đớn.

Strathmore đi qua khu rào chắn, ông chuyển khẩu súng sang tay phải. Lắng lặng, ông ta đi sâu vào trong bóng tối. Susan giữ chặt vai ông. Nếu cô bị lạc mất ông, cách duy nhất cô có thể tìm lại ông là lên tiếng. Mà nếu vậy thì Hale có thể nghe thấy họ. Khi họ an toàn và đã đi xa khu vực cầu thang, Susan nhớ lại trò rồng rắn lên mây mà hồi còn nhỏ cô hay chơi lúc nửa đêm- giờ cô đã trưởng thành, xa vòng tay bao bọc của gia đình, cô đã bước ra cuộc sống mênh mông rộng lớn và rất dẻ bị tổn thương.

TRANSLTR trông giống một hòn đảo cô độc nằm trên một biển bóng tối mênh mông. Cứ vài bước, Strathmore lại dừng lại, giữ chặt khẩu súng và nghe ngóng xung quanh. Tiếng động duy nhất là tiếng o o yếu ớt phát ra từ phía dưới. Susan muốn kéo ông quay lại trụ sở chính để được an toàn. Dường như có bóng người ở khắp nơi quanh cô.

Cách TRANSLTR chừng nửa đường, sự tĩnh lặng của Crypto bị phá vỡ. Đâu đó trong bóng tối, ngay bên phải họ, một âm thanh chói tai vang lên xé tan màn đêm. Strathmore lảo đảo. Susan lạc mất ông. Cô sợ hãi đưa tay ra mò mẫm tìm kiếm. Nhưng vị chỉ huy không còn ở đó nữa. Cô không còn thấy vai ông đâu nữa, tất cả chỉ là một khoảng không trống trải. Cô loạng choạng bước lên phía trước Tiếng còi vẫn tiếp tục kêu. Nó phát ra đâu đây. Susan đi một vòng trong bóng tối. Chỉ có tiếng xột soạt của quần áo. Đột nhiên tiếng còi dứt. Susan như hóa đá. Một giây sau, một bóng người, như thể từ trong những cơn ác mộng khủng khiếp nhất thời thơ ấu của cô xuất hiện. Một khuôn mặt xanh xao, ma quái hiện ra ngay trước mắt cô. Đó là gương mặt của một con quỷ với cái bóng nhọn phình ra phía trên và những phần méo mó biến dạng. Cô nhảy lùi về phía sau, toan quay người chạy nhưng cái bóng đó đã chộp lấy tay cô và ra lệnh.

- Không được cử động!

Trong giây lát cô nghĩ mình đang nhìn thấy Hale trong đôi mắt ghê gớm đó. Nhưng đó không phải là giọng nói của Hale, còn cử động thì quá nhẹ so với Hale. Đó là Strathmore. Dưới ánh đèn từ vật phát sáng Strathmore rút ra từ túi quần, Susan có thể nhìn thấy ông ta. Cô thở phào nhẹ nhõm. Vật trong tay Strathmore là loại LED điện tử, và nó phát ra ánh sáng màu xanh.

- Chết tiệt! - Strathmore chửi thầm - Máy nhắn tin của tôi - Ông nhìn chăm chăm một cách tức tối vào cái máy nhắn tin trong lòng bàn tay. Ông đã quên bật chế độ rung. Thật trớ trêu, ông đã phải ra tận cửa hàng điện tử để cài đặt thiết bị rung. Ông ta đã phải bỏ tiền ra để giấu không cho ai biết ông có cái máy này. Hơn ai hết, Strathmore hiểu rõ rằng NSA luôn theo dõi rất kỹ từng nhân viên.

Strathmore phải tuyệt đối giữ bí mật những tin nhắn điện tử gửi đến và gửi đi từ cái máy nhắn tin này.

Susan đưa mắt nhìn quanh, lòng bất an. Nếu vài phút trước Hale không hay biết họ đang ở đây thì hẳn bây giờ hắn đã phát hiện ra. Strathmore nhấn một vài phím và đọc tin nhắn vừa gửi đến. Ông khẽ rên lên. Lại thêm một tin xấu từ Tây Ban Nha, không phải từ David Becker mà từ một đối tác khác cũng do Strathmore cử đến Seville.

Cách đó ba ngàn dặm, một chiếc xe tải di động đang lướt đi trên các con đường vùng Seville chìm trong bóng tối. Nó đang thực hiện nhiệm vụ do NSA giao theo mật vụ Umbra từ một doanh trại quân đội ở Rota. Hai người ngồi trong xe có vẻ mặt rất căng thẳng.

Đây không phải là lần đầu tiên họ nhận được lệnh khẩn cấp từ Fort Meade (trụ sở chính của NSA), nhưng thông thường thì họ nhận được lệnh không trực tiếp do lãnh đạo cấp cao truyền thẳng xuống như lần này.

Người ngồi trên ghế lái với qua vai hỏi người bên cạnh.

- Có tín hiệu gì về anh chàng đó không?

Đôi mắt người còn lại ngồi trong xe không rời khỏi ống dẫn trên máy quan sát truyền hình góc rộng đặt trên nóc.

- Không. Cứ lái đi! - Người kia trả lời.

Xem tiếp chương 78

Chương 78

Dưới đống cáp cuốn, Jabba toát mồ hôi. Ông vẫn đang nằm ngửa với với chiếc đèn nhỏ kẹp chặt giữa hai hàm răng. Ông đã quen làm việc muộn như thế này vào các buổi cuối tuần. Thời gian làm việc ít sôi nổi nhất ở NSA là lúc ông có thể thực hiện công việc bảo dưỡng phần cứng của hệ thống máy móc. Trong khi ông đang kiểm tra những hợp chất sắt nóng đỏ qua rất nhiều đường dây phía bên trên, ông di chuyển có thể cực là cẩn thận vì chỉ cần chạm nhẹ vào bất cứ một cái ống đang đu đưa nào cũng có thể là một thảm hoạ.

Chỉ một vài inch nữa thôi, ông nghĩ. Thời gian thực hiện công việc kéo dài hơn ông nghĩ.

Ngay khi ông ráp đầu thanh sắt vào miếng hợp kim thô cuối cùng, điện thoại di động của ông kêu to. Jabba giật mình, tay ông chuyển động và một mảng lớn thiếc đang chảy kêu xèo xèo rơi xuống tay ông.

- Chết tiệt! - Jabba làm rơi thanh sắt, và gần như nuốt chiếc đèn nhỏ - Chết tiệt! Chết tiệt!

Ông lau chùi giọt hợp kim đang khô với thái độ giận dữ. Nó cuộn tròn, để lại một đường viền rất ấn tượng. Con chip ông đang cố hàn đúng vị trí văng ra và rơi vào đầu ông.

- Khỉ thật! - ông chửi thề.

Điện thoại của Jabba lại kêu. Ông mặc kệ nó. - Midge - Ông thầm nguyền rủa.

- Bà thật đáng ghét! Crypto ổn mà - Điện thoại vẫn reo. Jabba quay trở lại công việc và ông lại đặt một con chip mới vào hàn. Một phút sau, con chip đã ở đúng vị trí nhưng điện thoại của ông thì vẫn kêu.

- Vì Chúa, Midge. Thôi đi nào! - Jabba kêu lên.

Chiếc điện thoại kêu thêm 15 giây nữa rồi im hẳn. Jabba hít một hơi dài đầy tự tin. Sáu mươi giây sau, Jabba không nghe được tin nhắn trong điện thoại.

- Liệu mình có nên liên lạc với tổng đài về tin nhắn này không nhỉ? - ông nghĩ.

Jabba đưa mắt hoài nghi. Ông biết rằng bà ta sẽ không từ bỏ.

Ông phớt lờ tin nhắn.

Xem tiếp chương 79

Chương 79

Strathmore đặt lại cái máy nhắn tin vào túi quần và nhìn Node 3 qua bóng tối.

Ông ta quờ lấy tay Susan và giục cô :

- Đi nào!

Nhưng tay họ không chạm nhau.

Trong bóng tối, xuất hiện một âm thanh trong cổ họng kéo dài.

Một bóng người to lớn xuất hiện như chiếc xe tải của hãng Mack không có đèn chiếu. Một giây sau, có sự va chạm và Strathmore trượt qua sàn.

Đó là Hale. Cái máy nhắn tin đã làm họ bị lộ.

Susan nghe thấy tiếng khẩu Beretta rơi. Trong khoảnh khắc cô như chôn chân tại chỗ, không biết chắc mình phải chạy đi đâu, phải làm gì. Trực giác của cô mách bảo rằng cô cần phải trốn thoát khỏi nơi này nhưng cô không có mật khẩu thang máy. Trái tim cổ mách bảo cô cần giúp đỡ Strathmore, nhưng bằng cách nào? Trong khi cô đang quay cuồng trong tuyệt vọng, cô cứ mong nghe thấy tiếng vật lộn sống chết trên sàn nhưng chẳng có gì cả. Mọi vật bỗng nhiên trở nên tĩnh lặng như thể là Hale đâm phải chỉ huy rồi, sau đó lại biến mất trong bóng đêm.

Susan chờ đợi, căng mắt ra nhìn trong bóng tối, hi vọng rằng Strathmore không bị thương. Sau giây phút dài đằng đẵng, cô thì thầm kêu "Sếp ơi?". Ngay khi cô cất tiếng, cô nhận ra sai lầm của mình. Một tích tắc sau, mùi của Hale đã ở ngay phía sau cô. Cô quay người lại nhưng đã quá muộn. Không hề có sự cảnh báo, cô xoay lại, hổn hển hít không khí. Cô thấy mình bị kẹp chặt vào ngực của Hale, trong miếng võ phủ đầu quen thuộc của hắn.

Đầu gối Susan sụm xuống. Những ngôi sao bắt đầu quay cuồng trong mái vòm phía trên đầu cô.

Xem tiếp chương 80

Chương 80

Hale đè cổ Susan và hét lên trong bóng tối.

- Ngài chỉ huy, tôi đã bắt được cô gái bé nhỏ của ông rồi. Tôi muốn ra khỏi đây.

Đáp lại yêu cầu của anh ta là sự tĩnh lặng. Vòng tay của Hale khép chặt hơn.

- Tôi sẽ bẻ gẫy cổ cô ta!

Một khẩu súng đã lên cò chĩa thẳng phía sau họ. Giọng Strathmore bình tĩnh và đều đều :

- Hãy thả cô ấy ra.

Susan nhăn mặt đau đớn và phát tiếng :

- Sếp!

Hale xoay người Susan về phía có tiếng nói. Hắn ta thách thức ngài chỉ huy :

- Bắn đi, rồi ông sẽ bắn vào Susan quý giá của ông. Đã sẵn sàng nắm lấy cơ hội đó chưa?

Giọng Strathmore lại gần hơn.

- Hãy để cô ấy đi.

- Không đời nào. Ông sẽ giết tôi.

- Tôi sẽ không giết ai cả.

- Ồ vậy hả. Hãy nói điều ấy với Chartrukian!

Strathmore lại gần hơn.

- Chartrukian đã chết rồi.

- Không, chó chết thật. Ông đã giết anh ta. Tôi đã nhìn thấy!

- Thôi đi, Greg! - Strathmore bình tĩnh nói.

Hale giữ Susan và nói vào tai cô :

- Strathmore đã đẩy Chartrukian- Tôi thề đấy!

- Cô ấy sẽ không bị lừa bởi cái trò chia rẽ nội bộ của anh đâu. - Strathmore nói và tiến lại gần hơn một chút nữa - Hãy thả cô ấy ra.

Hale thở phì phì vào bóng tối.

- Lạy Chúa, Chartrukian chỉ là một đứa trẻ, tại sao ông lại làm thế với nó? Để bảo vệ cái bí mật nhỏ nhoi ấy của ông ư?

Strathmore đứng lặng im.

- Bí mật nhỏ ấy là cái gì?

- Ông biết thừa cái bí mật chết tiệt ấy là cái gì. Pháo Đài Số!

- Tôi... tôi... - Strathmore nói nhún nhường, giọng ông ta như một tảng băng. - Vậy là anh thực sự biết về Pháo Đài Số. Tôi đã bắt đầu nghĩ là anh cũng sẽ phủ nhận điều đó.

- Ông là đồ chết tiệt.

- Một sự tự vệ thông minh.

- Ông là kẻ ngu ngốc - Hale nhổ nước bọt xuống sàn - Vì thông tin của ông, TRANSLTR đang quá nóng.

- Thật sao - Strathmore cười khùng khục - Để tôi đoán nhé! Tôi nên mở cửa và gọi đội an ninh hệ thống?

- Chính xác! - Hale phản lại - Nếu không làm vậy ông thật ngu ngốc.

Lần này Strathmore cười to.

- Đó có phải là màn kịch lớn của anh không? TRANSLTR đang quá nóng nên phải mở cửa và để bọn tôi ra?

- Đúng vậy đấy! Đồ chết tiệt. Tôi vừa kéo nó xuống lưng chừng. Máy nguồn không thể kéo đủ chất làm lạnh! - Hale khẳng định.

- Cảm ơn vì lời gợi ý. - Strathmore nói - Nhưng TRANSLTR có phần tắt tự động, nếu nó quá nóng, Pháo Đài Số sẽ tự ngắt tất cả.

Hale cười gằn.

- Ông điên rồi. Tôi cần quan tâm làm quái gì việc TRANSLTR nổ hay không. Dù gì cái máy chết tiệt đó cũng nên bị cấm.

Strathmore thở dài.

- Tâm lí trẻ chỉ có tác dụng đối với bọn trẻ con, Greg. Hãy để cô ấy đi.

- Để ông có thể bắn tôi à?

- Tôi sẽ không bắn anh. Tôi chỉ muốn có mật khẩu.

- Mật khẩu nào?

Strathmore lại thở dài.

- Mật khẩu Tankado đưa cho anh.

- Tôi không biết ông đang nói cái gì.

- Nói dối! Tôi thấy thư của Tankado trong hòm thư của anh! - Susan cố khẳng định.

Hale bỗng cứng đờ. Anh ta quay Susan.

- Cô đã vào hòm thư của tôi à?

- Và anh đã dừng chương trình của tôi - Cô ngắt lời.

Hale thấy máu dồn lên tới tận mặt. Anh ta nghĩ là mình đã che giấu hết những dấu vết của mình. Hale không ngờ Susan lại biết được những gì hắn làm. Thật chẳng có gì mà phải ngạc nhiên, và anh đã hiểu lý do tại sao cô ta lại không coi trọng những gì anh ta nói. Hale thấy dường như mọi bức tường đang thu hẹp lại. Anh ta biết mình không thể nói tiếp theo cách này! Không phải lúc. Anh ta thì thầm vào tai cô trong tuyệt vọng :

- Susan, Strathmore đã giết Chartrukian!

- Hãy đễ cô ấy đi! - Chỉ huy nói điềm tĩnh - Cô ấy không tin anh.

- Tại sao cô ta lại tin ông chứ? Ông là kẻ nói dối chó chết. Ông đã tẩy não cô ta. Ông chỉ nói với cô ta những gì có lợi cho mình. Cô ta có biết thực sự ông dự định những gì với Pháo Đài Số không? - Hale cố phản lại.

Strathmore mỉa mai :

- Đó là gì vậy?

Hale biết rằng những gì sắp nói sẽ đem lại cho anh ta tự do hay mức án tử hình. Hale lấy một hơi dài rồi nói :

- Ông định viết một cửa hậu trong Pháo Đài Số.

Đáp lại lời Hale là một sự im lặng bối rối trong bóng tối. Hale biết anh ta đã nói đúng. Rõ ràng sự điềm tĩnh của Strathmore đang bị đem ra thử thách.

- Ai nói với anh điều đó? - Ông hỏi, giọng sắc lạnh.

- Tôi đã đọc thấy nó trong một công trình nghiên cứu của ông - Hale trả lời một cách đầy tự mãn, cố gắng nhấn mạnh sự thay đổi của tình hình.

- Không thể nào. Tôi không bao giờ in những công trình nghiên cứu của mình.

- Tôi biết. Tôi đã đọc ở hộp thư của ông.

Strathmore có vẻ nghi ngờ, anh ta hỏi lại :

- Anh đã vào văn phòng của tôi à?

- Không. Tôi theo dõi ông từ Node 3 - Hale cố dặn một nụ cười tự trấn an. Anh ta biết mình cần sử dụng tất cả những kỹ năng thương lượng đã học được khi phục vụ trong Hải quân để có thể thoát khỏi Crypto an toàn.

Strathmore tiến lại gần hơn, khẩu Beretta nằm im lìm trong bóng tối.

- Làm sao anh biết về cửa hậu? - Strathmore hỏi lại.

- Tôi nói với ông rồi. Tôi rình mò hộp thư của ông.

- Không thể nào như thế.

Hale rặn ra một nụ cười tự mãn.

- Một trong những vấn đề của việc thuê những người giỏi nhất, ngài chỉ huy ạ, đó là đôi khi họ thông minh hơn ông.

- Chàng trai trẻ - Strathmore tức tối - Tôi không biết anh lấy thông tin đó từ đâu, nhưng anh đã tưởng tượng nhiều quá rồi. Anh sẽ để cô Fletcher đi bây giờ hoặc là tôi sẽ gọi đội an ninh tới, để anh bị tống giam vào tù suốt đời.

- Ông sẽ không làm thế - Hale chỉ ra một sự thật - Nếu ông gọi đội an ninh sẽ làm kế hoạch của ông bị tiêu tan. Tôi sẽ nói với họ mọi chuyện - Đang nói anh ta dừng lại - Nhưng nếu để tôi đi khỏi nơi này một cách nhẹ nhàng, tôi sẽ không bao giờ nói một lời nào về Pháo Đài Số.

- Không đâu! - Strathmore phản pháo - Tôi muốn có mật khẩu.

- Tôi không có mật khẩu chết tiệt nào cả.

- Nói dối đủ rồi đấy! - Strathmore quát to - Nó ở đâu?

Hale bóp chặt cố Susan.

- Để tôi đi không thì cô ta sẽ chết.

Trong đời mình, Trevor Strathmore đã nếm trải nhiều những cuộc thương lượng rủi ro cao đủ để hiểu rằng tinh thần Hale lúc này cực kỳ nguy hiểm. Anh chàng giải mật khấu trẻ tuổi đang ở thế cùng đường mà một kẻ cùng đường bao giờ cũng là đối tượng nguy hiểm nhất-tuyệt vọng và không thể đoán trước được. Strathmore biết bước tiếp theo của mình rất quan trọng. Mạng sống của Susan và cả tương lai của Pháo Đài Số phụ thuộc vào đó.

Strathmore biết điều đầu tiên ông cần phải làm là giải tỏa sự căng thẳng của sự việc này. Sau một khắc dài ông thở dài một cách miễn cưỡng.

- Được rồi, Greg! Anh thắng rồi. Bây giờ anh muốn tôi phải làm gì?

Im lặng. Dường như Hale không biết chắc phải làm gì trước giọng điệu hợp tác của Strathmore. Anh ta hơi thả lỏng cổ Susan một chút.

- Ừm. - Anh ta lắp bắp, giọng hơi run nhưng rõ ràng. - Đầu tiên đưa cho tôi khẩu súng. Cả hai người cùng đi với tôi.

- Con tin à - Strathmore cười lạnh lùng - Greg, anh phải làm tốt hơn thế. Có hàng chục lính gác trang bị vũ khí ở quanh đây và nơi để xe.

- Tôi không phải là một thằng ngốc! - Hale chớp lời. - Tôi sẽ đi bằng thang máy của ông, Susan đi cùng tôi! Ông ở lại.

- Tôi ghét phải nói với anh điều này nhưng trong thang máy không có điện! - Strathmore trả lời.

- Nói dối! Thang máy hoạt động nhờ vào điện từ tòa nhà chính! Tôi đã nhìn thấy trong biểu đồ!

- Chúng tôi đã thử rồi. Nhưng thang máy đã ngưng hoạt động.

Giọng Susan bị nghẹn, cô cố làm biến chuyển tình hình.

- Không thể tin được, các người là một lũ chết tiệt.

Hale khép chặt tay của anh ta lại. Anh ta nói thêm :

- Nếu không sử dụng được thang máy, tôi sẽ xóa sổ TRANSLTR và phục hồi nguồn năng lượng.

- Thang máy có mật khẩu, Susan cố nói.

- Tuyệt lắm! - Hale cười.

- Tôi chắc rằng ngài chỉ huy đây sẽ nói cho chúng ta biết, phải không thưa ngài?

- Không đời nào! Strathmore rít lên.

Hale cũng rất điên tiết.

- Nào bây giờ nghe đây, lão già, đây là cơ hội của ông! Hãy để tôi và Susan ra ngoài bằng thang máy của ông, sau một vài giờ lái xe tôi sẽ để cô ta đi.

Strathmore thấy sự liều lĩnh của Hale đang gia tăng. Ông đã để Susan dính vào vụ này, ông cần phải để cô thoát ra. Giọng ông khô như đá :

- Thế còn kế hoạch với Pháo Đài Số của tôi thì sao?

Hale cười :

- Ông có thể viết cửa hậu của ông. Tôi sẽ không hề nói một lởi - Nhưng giọng anh ta lại trở nên đáng ngại. - Nhưng nếu một ngày tôi nghĩ là ông đang theo dõi tôi thì tôi sẽ nói chuyện này với báo chí. Tôi sẽ nói với họ rằng Pháo Đài Số bị hư hỏng và cả cái cơ quan chết tiệt này nữa.

Strathmore cân nhắc lởi đề nghị của Hale. Rất rõ ràng và đơn giản là phải chọn giải pháp. Susan được an toàn, còn Pháo Đài Số thì vẫn có cửa hậu. Chỉ cần Strathmore không đuổi bắt Hale, cửa hậu sẽ vẫn là một bí mật. Strathmore biết Hale sẽ không ngậm miệng được lâu. Nhưng... Pháo Đài Số vẫn là thứ bảo đảm duy nhất của Hale - có thể anh ta thông minh. Dù chuyện gì xảy ra,

Strathmore biết rằng nếu cần thiết Hale có thể bị khử sau.

- Quyết định đi lão già! - Hale chễ giễu. - Chúng ta sẽ đi hay không? - Tay Hale kẹp chặt cổ Susan như gọng kìm.

Strathmore biết nếu ông lấy điện thoại và gọi cho đội An ninh ngay bây giờ, Susan sẽ còn được sống sót. Ông đánh cuộc cả mạng sống của mình là như vậy. Ông có thể nhìn thấy cái cảnh đó rất rõ ràng. Cuộc gọi sẽ làm Hale ngạc nhiên. Anh ta sẽ hoảng sợ, và cuối cùng phải đối mặt với một đội quân nhỏ, anh ta sẽ không thể làm được gì. Sau một lúc điều đình ngắn ngủi, anh ta sẽ đầu hàng. Nhưng nếu mình gọi đội An ninh, Strathmore nghĩ, kế hoạch của mình sẽ tan thành mây khói.

Hale lại xiết chặt tay. Susan kêu lên đau đớn.

- Gì nữa đây? - Hale hét lên - Tôi sẽ giết cô ta chứ!

Strathmore cân nhắc các lựa chọn. Nếu ông để Hale mang Susan đi khỏi Crypto, sẽ không có gì để đảm bảo là an toàn cả. Anh ta có thể lái xe đi một quãng, đậu xe trong rừng... anh ta có một khẩu súng... Strathmore thấy lòng mình quặn lại... Chẳng thể nói trước được gì trước khi Hale thả tự do cho Susan. Mình phải gọi cho đội An ninh. Strathmore quyết định. Mình còn có thể làm được gì khác đây? Ông hình dung ra cảnh Hale ở trước toà, nói toàn bộ những gì hắn biết về Pháo Đài Số. Kế hoạch của mình sẽ tiêu tan mất. Chắc chắn phải có cách nào khác.

- Quyết định đi! - Hale hét lên, anh ta kéo lê Susan về phía cầu thang.

Strathmore không nghe. Nếu cứu Susan đồng nghĩa với việc kế hoạch của ông tiêu tan, thì hãy cứ để mọi việc như vậy. Chẳng có gì đáng giá một khi ông mất cô. Susan Fletcher là cái giá mà Trevor Strathmore từ chối phải trả.

Hale vặn tay Susan ra đằng sau lưng cô và ấn cổ cô về một phía.

- Đây là cơ hội cuối cùng đấy, lão già! Đưa súng đây!

Strathmore vẫn tiếp tục suy nghĩ để tìm một sự lựa chọn nào khác Luôn luôn phải có sự lựa chọn nào khác. Cuối cùng ông nói, lời nói thật nhẹ nhàng, buồn bã.

- Không, Greg. Tôi rất tiếc. Tôi không thể để anh đi.

Hale nghẹn lại vì sửng sốt quát :

- Cái gì?

Susan thở hổn hển và kêu lên :

- Sếp! Không!

Hale xiết chặt tay rồi tuyên bố :

- Ông gọi đội An ninh, còn cô ta sẽ phải chết!

Strathmore rút chiếc điện thoại ra khỏi hông và gõ nhẹ.

- Greg, anh đang lừa phỉnh chúng tôi đấy.

- Ông sẽ không bao giờ làm thế! - Hale gào lên. - Tôi sẽ nói. Tôi sẽ làm kế hoạch của ông ra tro! Ông chỉ còn vài tiếng nữa là thực hiện được giấc mơ của mình! Kiểm soát được hết thông tin dữ liệu trên toàn thế giới! Hoặc sẽ không còn TRANSLTR. Không còn các giới hạn, chỉ có thông tin tự do. Đó là cơ hội cả đời người. Ông sẽ không để nó trôi qua đâu.

Giọng Strathmore lạnh như thép.

- Hãy nhìn đây này!

- Nhưng... Nhưng còn Susan thì sao - Hale lắp bắp - Ông gọi điện và cô ta sẽ chết.

Strathmore vẫn giữ nguyên lập trường.

- Đó là cơ hội tôi sẵn sàng đón nhận.

- Chết tiệt! Ông mê cô ta hơn Pháo Đài Số! Tôi biết ông. Ông sẽ không mạo hiếm thế.

Susan bắt đầu phản ứng giận dữ nhưng Strathmore ra hiệu để cô biết.

- Chàng trai trẻ ạ, anh không hiểu tôi. Tôi sẽ mạo hiểm vì mạng người. Nếu anh muốn chơi trò bóng rổ, chúng ta hãy cùng chơi.

Ông bắt đầu ấn những phím điện thoại :

- Anh đã đánh giá sai về tôi! Không một ai đe dọa mạng sống nhân viên của tôi rồi có thể ra đi dễ dàng được! - Ông đưa điện thoại lên và nói với người cầm máy.

- Tổng đài, gọi cho tôi đội An ninh!

Hale bắt đầu vặn cổ Susan.

- Tôi... Tôi sẽ giết cô ta. Tôi thề đấy!

- Anh sẽ không bao giờ làm thế! - Strathmore tuyên bố - Giết Susan chỉ làm cho mọi chuyện tồi tệ hơn - Ông ngưng lại và đưa điện thoại lên miệng :

- Đội An ninh! Chỉ huy Travor Strathmore đây. Chúng tôi có một vụ bắt cóc con tin ở Crypto. Hãy cử một số người đến đây! Đúng rồi! Chết tiệt! Chúng tôi cũng gặp một số sự cố về máy phát. Tôi muốn điện từ tất cả các nguồn sẵn có từ bên ngoài được đưa vào đây. Tôi muốn tất cả hệ thống lại hoạt động trong vòng năm phút nữa. Greg Hale đã giết một nhân viên An ninh hệ thống của tôi và hiện đang bắt giữ một nhân viên mật mã của tôi làm con tin. Nếu Hale không hợp tác, hãy dùng những tay bắn tỉa để hạ hắn. Tôi sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn. Bây giờ hãy làm đi!

Hale đứng yên không nhúc nhích. Hắn như bị tê liệt vì không thể tin nổi những gì hắn vừa nghe. Vòng tay hắn trên cổ Susan hơi nới lỏng ra.

Strathmore đóng điện thoại lại và đặt nó lại vào hông.

- Đến lượt anh đó, Greg! - Ông nói.

Xem tiếp chương 81

Chương 81

Becker mệt mỏi, anh đang đứng cạnh bốt điện thoại ở khu sân bay đông đúc. Mặc dù mặt đỏ bừng bừng và hơi buồn nôn nhưng anh cảm thấy tinh thần rất phấn chấn. Vậy là đã kết thúc, kết thúc thật rồi. Anh đang trên đường trở về nhà. Chiếc nhẫn trên tay anh là vật mà mấy hôm nay anh tìm kiếm. Anh duỗi bàn tay ra dưới ánh sáng và liếc nhìn chiếc nhẫn. Lúc này anh không đủ tập trung để đọc ra hàng chữ nhưng rõ là lời đề tặng không phải bằng tiếng Anh. Ký tự đầu tiên là Q, O hay 0 gì đó, mắt anh đau đến mức anh không thể phân biệt nổi. Becker nhìn mấy kí tự đầu tiên, chúng chẳng có nghĩa gì cả. Liệu đó có phải là mật khẩu an ninh quốc gia không nhỉ?

Becker bước vào buồng điện thoại và gọi cho Strathmore. Trước khi anh ấn xong phần mã quốc tế, anh nghe thấy giọng nói trong điện thoại: "Hãy cúp máy và gọi lại sau" - Becker cau mày và gác máy. Anh quên mất rằng kết nối điện thoại quốc tế ở Tây Ban Nha giống y như trò cò quay. Rất tốn thời gian và phụ thuộc nhiều vào may rủi. Anh phải gọi lại một vài phút sau nữa.

Becker cố gắng quên đi những dấu hiệu làm mắt anh cay xè.

Megan đã dặn anh rụi mắt chỉ làm chúng đau hơn; anh ta đã không tưởng tượng được. Nóng lòng, anh lại gọi điện thoại. Vẫn không kết nối được. Becker không thể đợi thêm nữa. Mắt anh như có lửa, anh cần rửa mặt. Strathmore sẽ phải đợi thêm một hai phút nữa. Becker cảm thấy mình chẳng nhìn thấy gì nữa, anh đi về phía phòng tắm.

Anh lờ mờ thấy chiếc xe ngựa sạch sẽ vẫn đứng trước phòng dành cho đàn ông, anh quay sang phòng có chữ DAMAS. Anh nghĩ mình vừa nghe thấy tiếng động phía bên trong, anh gõ cửa và hỏi :

- Hola?

Im lặng.

Có thể là Megan, anh nghĩ. Cô còn năm tiếng nữa mới đến giờ bay. Và cô có nói cô sẽ đi rửa tay.

- Megan?

Becker lại gọi. Và anh gõ cửa. Không có tiếng đáp lại Anh đẩy cửa vào.

- Có ai ở đây không?

Anh vừa hỏi vừa đi vào. Phòng tắm trống trơn. Becker nhún vai rồi đi đến bồn rửa. Chiếc bồn rất bẩn thỉu nhưng nước thì lại mát lạnh. Becker thấy từng lỗ chân lông của mình co lại khi anh vốc nước lên mắt. Anh nhìn mình trong gương. Trông anh cứ như đã khóc rất nhiều ngày.

Anh lấy tay áo lau khô mặt, và bỗng dưng anh sực tỉnh. Trong lúc hào hứng anh chợt quên mất mình đang ở đâu. Anh đang ở sân bay. Ngay ngoài kia, tại một trong ba khu máy bay đỗ, một chiếc Learject 60 đang đợi đưa anh về nhà. Viên phi công đã nói rất rõ, tôi nhận được lệnh sẽ ở đây cho đến khi anh quay trở lại.

Thật khó mà tin được. Becker nghĩ, sau tất cả những chuyện này anh quay lại vạch xuất phát. Anh đang làm gì ở đây nhỉ? Anh cười. Mình chắc rằng viên phi công có thể nhắn cho Strathmore rồi.

Cười một mình, Becker nhìn vào gương, anh sửa cà vạt ngay ngắn. Anh toan bước đi thì qua gương anh thấy một vật gì ngay sau mình. Anh quay lại. Đó là một đầu chiếc khăn của Megan.

- Megan!

Anh gọi. Không có tiếng đáp lại.

- Có phải là Megan không nhỉ?

Becker bước đi. Anh nói một mình khi bước qua bên kia vách ngăn. Không ai trả lời lời nói của anh. Anh nhẹ nhàng đẩy cửa. Cửa mở toang.

Becker ghìm lại không hét lên hãi hùng. Megan đang ở trong nhà vệ sinh, mắt cô trợn ngược. Máu đang rỉ ra từ một lỗ đạn ngay ở giữa trán của cô.

- Ôi Chúa ơi! - Becker kêu lên sửng sốt.

- Está muerta! - một giọng rền rĩ thốt lên ngay sau Becker - Cô ấy chết rồi.

Như trong một giấc mơ, Becker quay lại.

- Senor Becker - Giọng kỳ quái hỏi.

Bối rối, Becker thấy người đàn ông đang đi vào phòng vệ sinh.

Trông hắn quen quen.

- Soy Hulohot- kẻ giết người nói - Tôi là Hulohot - Những lời nói phát ra như từ đáy dạ dày hắn. Hulohot chìa tay ra - El anillo. Chiếc nhẫn.

Becker thờ ơ.

Người đàn ông đưa tay vào túi, lấy ra khẩu súng. Hắn giơ vũ khí lên, nhắm vào trán Becker.

- El anillo.

Rõ ràng chỉ trong một giây, Becker thấy một cảm giác lạ mà trước kia anh chưa bao giờ biết đến. Bản năng sinh tồn trỗi dậy, tất cả các thớ thịt trên cơ thể anh căng lên tức thởi. Bay qua không khí khi viên đạn phát ra, anh ngã xuống gần đầu của Megan.Viên đạn làm bức tường phía sau nổ tung.

- Mierda! - Hulohot tức tối. Bằng cách nào đó, David Becker lao ra khỏi cửa ngay khoảnh khắc cuối cùng có thể. Tên giết người bám sát theo anh.

Becker băng qua cơ thể bất động của Megan. Có tiếng chân phía sau. Tiếng thở. Tiếng súng đang lên đạn.

- Tạm biệt! - người đàn ông nói nhỏ khi hắn ta nhào tới như con báo, hắn chĩa súng vào phía vách ngăn.

Súng nồ. Có ánh sáng màu đỏ. Không phải máu. Đó là một vật gì khác. Một vật hiện ra từ đâu vướng vào chân hắn, ngực hắn đập mạnh xuống đất làm súng nổ sớm hơn một khắc. Đó là chiếc khăn của Megan.

Becker nhảy ra từ vách ngăn. Anh dùng vai của mình đầy người đàn ông về phía bồn. Một cuộc va chạm đến rợn người. Chiếc gương vỡ tan. Khẩu súng rơi xuống. Hai người đàn ông đổ xuống nền nhà. Becker đẩy người mình ra, lao ra ngoài. Hulohot quờ quạng tìm khẩu súng, hướng theo Becker và bắn. Viên đạn găm vào cánh cửa phòng tắm vừa sập lại.

Khoảng không mở rộng của khu sân bay đông đúc đã lờ mờ hiện ra trước Becker như một sa mạc không thể vượt qua. Đôi chân guồng vội vã, nhanh hơn cả anh nghĩ.

Khi anh trượt qua cánh cửa xoay tròn, một tiếng đạn vang lên ngay phía sau anh. Mảng kính thủy tinh trước mặt vỡ vụn. Becker dùng vai đẩy mạnh khung cửa, chiếc cửa xoay tròn về phía trước.

Một khắc sau anh loạng choạng trên vỉa hè bên ngoài.

Một chiếc taxi đang đợi.

- Déjame entrar! - Becker hét lên, và anh đấm vào cửa kính, anh nói - Cho tôi vào!

Người lái xe lắc đầu: người khách kính gọng kim loại đã trả tiền để anh ta đợi ở đây. Becker quay lại và thấy Hulohot tay cầm súng, đang chạy rất nhanh qua đám đông. Becker nhìn thấy chiếc Vespa nhỏ của mình bên vệ đường. Mình tiêu rồi, anh nghĩ thế.

Hulohot đi qua cánh cửa đang quay tròn đúng lúc Becker đang đạp nổ chiếc Vespa của mình một cách tuyệt vọng. Hulchot mỉm cười và đưa súng lên.

- Chết tiệt! Becker lóng ngóng với cái cần khởi động. Anh lại đạp nổ lần nữa. Máy hộc lên rồi chết.

- Elanillo. Chiếc nhẫn - Giọng nói đã gần hơn.

Becker nhìn lên. Anh thấy nòng súng đang xoay. Anh lại đạp nổ.

Phát súng của Hulohot trượt qua đầu Becker khi chiếc xe của anh khởi động được và chồm lên phía trước. Becker ghì chặt chiếc xe lúc nó nảy lên xuống trên khu đường đắp cao đầy cỏ dành cho xe lửa và loạng choạng của khỏi góc tòa nhà vụt ra cầu tàu.

Hulohot tức giận chạy về phía chiếc taxi đang đợi mình. Vài giây sau, người lái xe nằm chỏng gọng trên vỉa hè, sững sờ nhìn chiếc xe của mình lao ra khỏi đám bụi.

Xem tiếp chương 82

Chương 82

Sau khi đã bớt choáng váng bởi những lời ám chỉ của ngài chỉ huy với đội An ninh, Greg Hale thấy mình trở nên yếu ớt vì sự sợ hãi. Đội An ninh đang đến. Susan bắt đầu trượt ra khỏi tay hắn.

Hale bừng tỉnh, anh ta bám chặt lấy hông cô, kéo cô lại.

- Để tôi đi! - Cô kêu lên, qua mái vòm giọng nói của cô vang vọng lại.

Đầu óc Hale trong trạng thái căng thẳng. Anh ta hoàn toàn ngạc nhiên vì cuộc điện thoại của ngài chỉ huy. Strathmore đã gọi cho đội An ninh! Ông ta chấp nhận hi sinh những kế hoạch của mình với Pháo Đài Số.

Có đến hàng triệu năm nữa thì Hale cũng không thể tưởng tượng nổi Strathmore để Pháo Đài Số trôi qua như thế. Cánh cửa sau cài vào Pháo Đài Số là cơ hội cả đời ông ta.

Khi sợ hãi, tâm trí Hale như đang chơi trò bịp bợm vớị chính anh ta. Hale thấy nòng khẩu Beretta của Strathmore ở mọi nơi. Anh ta bắt đầu quay cuồng, giữ chặt Susan, cố tránh phát bắn của Strathmore. Sợ hãi, Hale kéo lê Susan tới phía cầu thang. Chỉ năm phút nữa, nơi này sẽ tràn ngập ánh sáng, cửa sẽ mở, và đội SWAT sẽ tràn vào.

- Anh đang làm đau tôi! - Susan nghẹt thở kêu lên. Cô hổn hển, loạng choạng vấp phải những ngón chân xoay xở một cách tuyệt vọng của Hale.

Hale cân nhắc giữa việc thả Susan ra và việc lao điên cuồng vào chiếc thang máy của Strathmore, nhưng như thế là tự sát. Anh ta không có mật khẩu. Hơn nữa, một khi ra khỏi NSA mà không có con tin anh ta sẽ không làm được gì cả. Ngay cả chiếc Lotus của anh ta cũng không thể chạy thoát khỏi một đội máy bay của NSA.

Susan là người duy nhất sẽ giúp anh ta không bị Strathmore giết chết

- Susan! - Anh ta thốt lên, kéo lê cô về phía cầu thang. - Đi với tôi! Tôi sẽ không làm cô đau!

Khi Susan chống cự lại anh ta, Hale nhận ra hắn đang gặp thêm những rắc rối nữa. Ngay cả khi bằng cách nào đó đi chăng hắn có thể làm cho thang máy của Strathmore mở cửa, và kéo Susan đi với mình, chắc chắn cô ta sẽ chống cự lại suốt chặng đường họ đi ra khỏi tòa nhà. Và Hale biết rõ rằng thang máy của Strathmore chỉ dùng lại ở một điểm duy nhất: Khu cao tốc dưới tầng hầm. Đó là một đường dẫn bị cấm qua lại, chỉ có một số nhân viên của NSA được đi lại bí mật. Hale không muốn bị lạc trong hành lang của trụ sở NSA với một con tin chống cự. Đó quả là một cái bẫy chết người.

Ngay cả khi anh ta ra được bên ngoài, anh ta cũng không có một khẩu súng nào trong tay. Làm sao anh ta có thể đưa Susan qua chỗ đậu xe? Làm sao anh ta có thể lái xe được?

Và rồi anh ta đã tìm thấy câu trả lời khi nhớ lại câu nói của một trong những giáo sư chiến lược quân sự khi anh ta còn ở Hải quân. Đó là: "Ép buộc một người, người ta sẽ chống cự lại anh, nhưng thuyết phục một người nghĩ theo cách anh muốn, anh sẽ có một đồng minh".

- Susan - Hale nghe mình nói - Strathmore là một kẻ giết người. Cô đang gặp nguy hiểm ở đây!

Dường như Susan không nghe. Hale biết đó là điều kỳ cục vì dù gì Strathmore cũng sẽ không bao giờ làm Susan đau, và cô ấy biết điều đó.

Hale căng mắt trong bóng tối, băn khoăn không biết ngài chỉ huy đang trốn ở đâu. Bỗng nhiên Strathmore im lặng, điều này làm cho Hale thấy hoảng hốt hơn. Anh ta nhận thấy thời gian của mình đã hết. Đội An ninh có thể đến bất cứ lúc nào.

Với một sức mạnh dâng trào, anh ta vòng tay qua người Susan, kéo cô lên phía cầu thang. Cô móc gót giầy vào nấc thang đầu tiên và kéo người lại nhưng chẳng có tác dụng gì, Hale khoẻ hơn.

Anh ta cẩn thận lôi Susan lên cầu thang. Đẩy cô lên sẽ dễ dàng hơn nhưng đầu cầu thang được máy quan sát vi tính của Strathmore chiếu rọi. Nếu Susan đi trước, Strathmore sẽ bắn vào lưng Hale. Kéo Susan phía sau mình, anh ta có thể dùng cô đỡ đạn.

Leo đến một phần ba cầu thang, Hale thấy có sự chuyển động dưới cuối cầu thang. Strathmore đang di chuyển! Anh ta rít lên.

- Ngài chỉ huy, đừng cố! Ông sẽ chỉ làm cô ta chết thôi!

Hale chờ đợi. Nhưng chỉ có sự im lặng. Anh ta lắng nghe.

Không có gì cả. Phía dưới cầu thang hoàn toàn tĩnh lặng. Có phải là anh ta tự nghĩ ra không nhỉ? Điều đó không quan trọng.

Strathmore sẽ không bao giờ liều mạng bắn khi Susan đang ở giữa anh ta và tầng Crypto thế này.

Nhưng khi Hale dựa vào cầu thang kéo lê Susan thì có điều bất ngờ xảy ra. Có tiếng động phía trên đầu cầu thang phía sau. Anh ta dừng lại, mặt nóng lên. Liệu Strathmore có trượt trên tầng? Linh tính mách báo với Hale rằng Strathmore đang ở dưới cầu thang.

Nhưng khi đó, tiếng động lại vang lên. Lần này to tiếng động to dần lên. Tiếng bước đi rõ ràng trên phía đầu cầu thang.

Hale hoảng sợ nhận ra sai lầm của mình. Strathmore đang ở trên đầu cầu thang ngay phía sau mình. Ông ta ngắm trúng lưng mình. Anh ta tuyệt vọng quay lưng Susan lên phía trên và bắt đầu lùi lại phía dưới.

Khi xuống dưới cầu thang, anh ta nhìn đến man dại lên phía đầu cầu thang, hét lên.

- Lùi lại, ngài chỉ huy! Lùi lại nếu không tôi sẽ bẻ cổ cô ta...

Khẩu Berreta trượt qua không khí, xuống chân cầu thang và đập vào đầu Hale.

Khi Hale nẳm vật xuống dưới sàn. Susan đã thoát khỏi anh ta nhưng lúc này đầu óc cô lại quay cuồng bối rối. Strathmore chộp lấy Susan, ôm và vỗ về cơ thể đang run rẩy của cô.

- Suỵt! - Ông trấn tĩnh - Là tôi đây. Cô ổn rồi!

Susan vẫn run rẩy :

- Sếp... - Cô thở hổn hển - Tôi nghĩ... tôi đã nghĩ ông ở trên kia... tôi nghe thấy....

- Thư giãn đi nào! - Ông thì thầm. - Cô nghe thấy tôi kéo lê tên đó trên đầu cầu thang chứ?

Susan thấy mình trong tình thế khóc dở mếu dở. Strathmore đã cứu cô.

Đứng trong bóng tối, cô thấy tràn ngập cảm giác nhẹ nhõm.

Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là cô không cảm thấy có lỗi. Đội An ninh đang đến. Cô đã ngốc nghếch để cho Hale bắt mình, và anh ta đã dùng cô để chống lại Strathmore. Susan biết chỉ huy đã trả một giá đắt để cứu cô.

- Tôi rất tiếc - cô nói.

- Vì sao?

- Những dự định của ông với Pháo Đài Số ... chúng đã tan tành.

Strathmore lắc đầu.

- Không sao đâu.

- Nhưng... Nhưng đội An ninh thì sao? Họ sẽ ở đây ngay bây giờ. Chúng ta sẽ không có thời gian để..

- Đội An ninh không đến đâu, Susan. Chúng ta có thời gian để thực hiện công việc của mình.

Susan bối rối. Không đến. Nhưng ông đã gọi điện...

Strathmore cười khoái trá.

- Kế xưa nhất trong sách. Tôi giả vờ đấy!

Xem tiếp chương 83

Chương 83

Rõ ràng là chiếc Vespa của Becker là phương tiện nhỏ nhất đi với tốc độ như phá hỏng đường băng Seville. Nó đang đi với tốc độ lớn nhất- 93km/h, tiếng rền rĩ phát ra từ động cơ nghe giống tiếng cưa xích hơn là tiếng xe máy. Rủi ro là nó đang chạy dưới công suất cần thiết để đến được chiếc máy bay.

Qua gương chiếu hậu, Becker thấy chiếc taxi đã đi được hơn một trăm mét. Nó đánh võng ra khỏi khu đường băng tối tăm.

Ngay lập tức chiếc xe lấy lại thăng bằng. Becker nhìn về phía trước.

Dưới bầu trời đêm, anh thấy những bóng khu chứa máy bay ở phía xa, cách đó khoảng 900 mét. Anh tự hỏi không biết liệu từ đây đến đó thì chiếc taxi có vượt xe anh không. Anh biết Susan trong hai giây có thể làm phép toán cho anh. Đột nhiên Becker thấy sợ hãi, anh chưa bao giờ có cảm giác như vậy.

Anh cúi đầu, vặn hết ga. Chiếc Vespa đang đi hết tốc độ. Becker đoán chiếc taxi đang đi với tốc độ 170 km/h, gấp đôi xe anh. Anh nhìn ba khu chứa máy bay lờ mờ hiện ra ở phía xa. Chiếc Learjet ở khu thứ hai. Một phát đạn vang lên.

Viên đạn rơi xuống đường cách Becker một vài mét. Anh nhìn lại, kẻ ám sát đang thò đầu ra ngoài cửa, ngắm vào mục tiêu. Becker bất thình lình đổi hướng đi, chiếc gương xe của anh vỡ tan. Anh có thể thấy tác động của viên đạn trên phía tay cầm. Becker nằm sạt người xuống xe. Anh kêu lên: "Chúa hãy giúp con!"

Phần đường trước mặt Becker trở nên rõ hơn. Chiếc taxi đang tiến gần anh hơn. Ánh đèn taxi chiếu đường như những hình bóng ma quái. Lại một phát đạn nữa. Viên đạn trượt qua thân xe.

Becker cố không để xe bị đổ. Mình phải đến nơi để máy bay.

Anh tự hỏi không biết liệu viên phi công có thấy họ đang đến không Liệu anh ta có vũ khí không nhỉ? Anh ta có mở cửa đúng lúc không? Nhưng khi Becker tiến đến khu để máy bay, anh nhận thấy một vấn đề nghiêm trọng đang xảy ra. Anh không thấy chiếc Learjet nào cả. Anh nhìn mờ mờ và cầu nguyện rằng mình đang bị ảo giác. Nhưng không phải. Khu để máy bay trống trơn. Ôi lạy Chúa, chiếc máy bay!

Khi hai chiếc xe lao thẳng vào khu để máy bay trống trơn,

Becker tìm lối thoát một cách tuyệt vọng. Bức tường sau của tòa nhà làm bằng kim loại lượn sóng, chẳng có cửa hay cửa sồ nào cả.

Chiếc taxi gầm lên ngay bên cạnh Becker. Anh nhìn sang bên trái, thấy Hulohot đang giơ súng lên.

Phản xạ. Becker nhấn mạnh vào phanh xe. Anh đi chậm lại. Sàn khu để máy bay đầy dầu trơn. Chiếc Vespa trượt dài. Bên cạnh anh, tiếng taxi rít lên chói tai khi phanh và bánh xe trượt dài trên bề mặt trơn tuột. Chiếc xe quay tít quanh đám khói và những miếng cao su đang cháy lên chỉ cách chiếc Vespa vài mét.

Ngay bên cạnh nhau, hai chiếc xe ngoài sự kiểm soát lướt qua đề tránh đụng phải phía sau khu nhà. Becker tuyệt vọng dậm phanh nhưng chiếc xe không có khả năng bám đất, như là lái xe trên băng vậy. Trước mặt anh, bức tường kim loại hiện ra. Mọi chuyện xảy ra quá nhanh. Khi chiếc taxi quay tròn điên cuồng bên cạnh anh, Becker đối mặt với bức tường và chờ đợi hậu quả.

Có tiếng va chạm inh tai nhức óc giữa thép và bức tường kim loại Nhưng anh không cảm thấy đau đớn. Becker thấy mình vẫn cưỡi trên chiếc Vespa, nảy lên nảy xuống trên đồng cỏ. Cứ như thể là bức tường đã biến mất trước mắt anh. Chiếc taxi vẫn ở bên cạnh anh, lật nghiêng trên cánh đồng. Một màng kim loại khồng lồ từ phía sau bức tường khu nhà để máy bay đổ xuống mui chiếc taxi, mồi nảy lên lướt qua đầu Becker.

Tim đập mạnh, Becker rồ chiếc Vespa và biến mất trong đêm.

Xem tiếp chương 84

Chương 84

Khi hoàn thành những lỗ hàn cuối cùng, Jabba thở nhẹ nhõm.

Ông ta tắt mỏ hàn, đặt chiếc đèn nhỏ xuống và nằm một lát trong bóng tối dưới gầm chiếc máy chủ. Ông mệt mỏi. Cổ ông đau nhức.

Công việc bên trong các thiết bị luôn bị cản trở, đặc biệt là với khổ người của ông. Và họ thì cứ làm chúng ngày càng nhỏ hơn, ông nghĩ.

Khi Jabba nhắm mắt lại để tận hưởng giây phút thư giãn, nhưng có ai đó phía bên ngoài kéo ủng của ông.

Midge tìm thấy mình rồi. Ông rên rỉ.

- Jabba, ra đi!

Ông miễn cưỡng trượt ra.

- Chúa ơi, Midge! Tôi đã bảo với bà...

Nhưng đó không phải là Midge. Jabba nhìn lên ngạc nhiên.

- Soshi?

Soshi Kuta là một cô gái gầy nhẳng chỉ nặng 45kg. Cô ta là cánh tay phải của Jabba, một chuyên viên An ninh hệ thống giỏi, tốt nghiệp MIT [1]. Cô ta thường làm việc khuya cùng với Jabba và là nhân viên duy nhất không bị ông quát nạt. Cô ta nhìn thẳng vào ông, hỏi :

- Vì lí do quái quỷ gì mà ông không trả lời điện thoại hay tin nhắn của tôi?

- Tin nhắn của cô - Jabba nhắc lại.

- Tôi nghĩ đó là...

- Thôi đừng bận tâm, có điều gì rất lạ đang xảy ra trong cơ sở dữ liệu chính.

Jabba kiểm tra đồng hồ.

- Lạ à - Giọng ông trở nên quan tâm hơn đến lời của Sohsi Kuta.

- Cô nói cụ thể hơn xem nào? - Ông nói.

Hai phút sau, Jabba lao xuống sảnh đi về phía phòng dữ liệu.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] MIT học viện công nghệ Massachusett.

Xem tiếp chương 85

Chương 85

Greg Hale nằm cuộn tròn trên sàn nhà Node 3. Strathmore và Susan đã kéo hắn qua Crypto và trói chân tay hắn lại với những đoạn dây cáp 12 ly lấy từ các máy in trong Node 3.

Susan vẫn chưa hết bàng hoàng với những gì sếp vừa làm. Ông ấy đã giả cuộc gọi. Bằng cách nào đó Strathmore đã bắt được Hale, cứu Susan và có đù thời gian để viết lại Pháo Đài Số.

Susan nhìn kẻ vừa bắt cô đang bị trói một cách bất động. Hale đang thở nặng nhọc. Strathmore ngồi trên ghế với khầu Berreta được chống vụng về trên lòng, Susan lại để tâm vào máy tính của Hale và tiếp tục cuộc tìm kiếm các ký tự ngẫu nhiên của mình.

Cô tiến hành cuộc tìm kiếm thứ tư và vẫn không thấy gì.

- Vẫn chưa may mắn - Cô thở dài và nói với chỉ huy - Có lẽ chúng ta phải chờ David tìm bản copy của Tankado.

Strathmore nhìn cô với vẻ không hài lòng. Ngài chỉ huy đặt ra giả thiết xấu nhất :

- Nếu David không tìm được và mật mã của Tankado rơi vào tay kẻ xấu...

Strathmore không cần nói hết. Susan vẫn hiểu. Cho đến khi file Pháo Đài Số trên Internet được thay bằng phiên bản đã thay đổi của Strathmore thì mật khẩu của Tankado mới không còn nguy hiểm nữa.

- Sau khi chúng ta tạo ra sự thay đổi! - Strathmore nói thêm. - Tôi không cần quan tâm có bao nhiêu mật khẩu đang trôi nổi, càng nhiều càng thú vị - Ông ra hiệu cho Susan tiếp tục tìm kiếm - Nhưng từ giờ cho đến lúc đó, chúng ta đang chơi trò tính thời gian - Strathmore nói.

Susan há miệng như nuốt từng lời Strathmore vừa nói nhưng những lời đó trôi tuột ra ngoài bởi một âm thanh chói tai xuất hiện đột ngột. Sự tĩnh lặng của Crypto bị phá vỡ bởi tiếng còi báo động từ phía trên. Susan và Strathmore giật mình nhìn nhau.

- Cái gì thế - Susan hét lên khi có khoảng lặng giữa hai hồi tiếng nổ.

- TRANSLTR! - Strathmore trả lời, giọng lo lắng.

- Nó quá nóng.

Có lẽ Hale đã đúng khi nói về chiếc máy phát nguồn không đủ chất làm lạnh.

- Bộ phận hủy tự động thì sao?

Strathmore nghĩ một lát rồi kêu lên.

- Có cái gì đó vừa vỡ vụn.

Một luồng ánh sáng báo động màu vàng quay quanh sàn nhà khu Crypto và lướt qua khuôn mặt của chỉ huy.

- Ông nên hủy nó đi! - Susan nói.

Strathmore gật đầu. Chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu ba triệu con chíp xử lí silicon quá nóng và bốc cháy. Strathmore phải đi lên tầng, tới chỗ làm việc của mình và hủy bộ phận dùng để chạy Pháo Đài Số đặc biệt là trước khi có ai đó bên ngoài phát hiện thấy rắc rối này và gửi quân vào.

Strathmore nhìn qua Hale, anh ta vẫn đang nằm bất tỉnh. Ông đặt khẩu Berreta lên trên bàn và nói át tiếng còi báo động.

- Tôi sẽ quay trở lại ngay! - Khi biến mất qua cái lỗ trên tường Node 3, Strathmore nói với lại - Hãy tìm cho tôi cái mật khẩu đó!

Susan nhìn lại những kết quả tìm kiếm không hiệu quả của mình và cảm thấy thất vọng. Cô hi vọng Strathmore sẽ làm nhanh và trở lại đây. Tiếng động và ánh sáng ở Crypto lại phát ra nghe như cuộc phóng tên lửa.

Trên sàn, Hale bắt đầu cựa quậy. Cứ mỗi lần chiếc còi báo động rú lên, hắn ta lại nhăn mặt. Susan thấy ngạc nhiên với chính mình khi cô chộp lấy khẩu Berreta. Hale mở mắt nhìn Susan Fletcher đứng với khẩu súng chĩa vào đũng quần hắn.

- Mật khẩu đâu? - Susan hỏi, giọng ra lệnh.

Hale vẫn đang khổ sở với tư thế bị trói của mình. Anh ta hỏi cô :

- Chuyện gì đã xảy ra vậy?

- Anh đã ra tay. Đó là tất cả những gì đã diễn ra. Nào, mật khẩu đâu?

Hale cố di chuyển cánh tay nhưng rồi hắn nhận ra hắn đã bị trói Gương mặt hắn trở nên căng thẳng.

- Thả tôi ra! - hắn gào lên.

- Tôi cần mật khẩu - Susan nhắc lại.

- Tôi không có. Hãy thả tôi ra! - Vừa gào anh ta vừa cố đứng dậy nhưng hắn hầu như không thể lăn được.

Susan hét lên giữa hai tiếng rú của còi báo động.

- Anh là North Dakota và Ensei Tankado đã đưa bản sao mật khẩu của anh ta cho anh. Tôi cần nó ngay bây giờ.

- Cô điên rồi! - Hale thở hổn hển quát lại.

- Tôi không phải là North Dakota!

Hắn ta cố giãy giụa.

Susan giận dữ buộc tội hẳn ta.

- Đừng có nói dối tôi. Tại sao toàn bộ email của North Dakota lại ở trong hòm thư của anh?

Tôi đã nói với cô rồi! - Hale khẩn khoản thanh minh khi tiếng còi lại vang lên - Tôi đã theo dõi Strathmore! Những email trong hòm thư của tôi, tôi đã sao từ email của Strathmore - email COMIN lấy trộm từ Tankado!

- Chết tiệt! Anh không bao giờ có thể theo dõi hòm thư của ngài chỉ huy.

- Cô không hiểu - Hale hét lên - Trong hòm thư của Strathmore đã có cài máy theo dõi.- Hale nói trong lúc tạm ngưng ngắn ngủi giữa các hồi còi.

- Có ai đó đã đặt máy theo dõi ở đó. Tôi nghĩ đó là Giám đốc Fontaine. Tôi chỉ sao các email thôi. Cô phải tin tôi. Đó là lí do tại sao tôi phát hiện ra kế hoạch viết lại Pháo Đài Số của ông ta. Tôi đã đọc được các bản phần mềm BrainStorm của Strathmore.

BrainStorm? Susan ngưng lại suy nghĩ. Rõ ràng Strathmore đã viết kế hoạch của mình về Pháo Đài Số lên phần mềm BrainStorm. Nếu ai đó theo dõi hòm thư của ngài chỉ huy thì bây giờ thông tin hẳn đã lan rộng.

- Viết lại Pháo Đài Số là một công việc điên rồ! - Hale kêu lên - Cô biết thừa là điều đó có ý nghĩa như thế nào - NSA có thể truy nhập toàn bộ các máy tính!

Tiếng còi báo động lại kêu lên, như muốn át tiếng Hale đi nhưng hắn vẫn tiếp tục nói :

- Cô nghĩ là chúng ta đã sẵn sàng chịu trách nhiệm chưa? Cô nghĩ là ai sẽ chịu trách nhiệm đây? Cực kỳ thiển cận. Cô nói chính phủ quan tâm tới lợi ích của mọi người à? Tuyệt! Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu chính phủ trong tương lai không hề quan tâm đến quyền lợi của chúng ta. Công nghệ này sẽ tồn tại mãi mãi!

Hầu như Susan chẳng nghe thấy anh ta nói gì bởi tiếng động ở Crypto thật đinh tai nhức óc.

Hale bắt đầu cố xoay xở để thoát ra. Hắn nhìn vào mắt cô và lại tiếp tục hét lên.

- Làm sao mà những người dân có thể tự bảo vệ mình khỏi nhà nước, cảnh sát khi người đứng đầu có thể tiếp cận mọi đường dây liên lạc?

Susan đã nghe cái luận điệu này bao nhiêu lần rồi. Những chính phủ tương lai luôn là đề tài để EFF phàn nàn.

- Cần phải ngăn chặn Strathmore lại! - Hale hét lên khi tiếng còi rú - Tôi thề tôi sẽ ngăn chặn ông ta. Đó là những gì tôi đã và đang làm ở đây - theo dõi hòm thư của ông ta, chờ ông ta có bất kỳ nhất cử nhất động gì để tôi ghi lại việc tiến triển của việc thay đổi Pháo Đài Số. Tôi cần bằng chứng cho thấy ông ta đã viết cửa hậu. Đó là lí do tại sao tôi sao tất cả email của ông ta về hòm thư của tôi. Đó là bẳng chứng ông ta đã theo dõi Pháo Đài Số. Tôi dự định sẽ đưa thông tin này đến cho báo chí.

Tim Susan đập mạnh. Có đúng là cô đã nghe thấy thế không nhỉ? Có thể lắm chứ. Nếu Hale biết về kế hoạch của Strathmore sẽ phổ biến phiên bản Pháo Đài Số đã sửa đổi, hắn sẽ đợi đến lúc cả thế giới đang sử dụng phiên bản đó và đưa ra thông tin chết người này với đầy đủ chứng cớ.

Susan nghĩ đến cái tít trên báo: Nhân viên mật mã Greg Hale tiết lộ kế hoạch bí mật kiểm soát thông tin toàn cầu của Mỹ!

Đó chẳng phải là một vụ Skipjack nữa sao? Khám phá một "cửa hậu" khác của NSA lần thứ hai sẽ khiến Greg Hale trở nên nồi tiếng hơn cả trong những giấc mơ điên dại của anh ta. Điều này cũng có thể nhấn chìm NSA. Tự dưng Susan băn khoăn không biết những điều anh ta nói có thật không. Không! Cô quyết định. Dĩ nhiên là không rồi.

Hale tiếp tục năn nỉ.

- Tôi dừng chương trình của cô vì nghĩ là cô đang tìm tôi. Tôi nghĩ cô nghi ngờ Strathmore đang bị theo dõi. Tôi không muốn cô tìm ra chỗ hở và phát hiện ra tôi.

Điều đó nghe hay đấy nhưng có vẻ là không như vậy.

- Tại sao anh giết Chartrukian - Susan chớp lấy.

- Tôi không giết! - Hale gào lên át cả tiếng ồn. Strathmore đã đẩy cậu ta. Tôi nhìn thấy toàn bộ sự việc! Chartrukian định gọi cho đội An ninh hệ thống và phá hủy kế hoạch với cửa hậu của Strathmore!

Hale khá lắm. Anh ta có một mắt xích cho mọi chuyện.

- Thả tôi ra! - Hale van xin - Tôi không làm gì.

- Không làm gì à - Susan quát lên, cô tự hỏi không biết tại sao Strathmore lại lâu thế.

- Anh và Tankado đã bắt giữ con tin của NSA. Ít nhất anh đã chơi trò hai mặt với anh ta. Hãy nói đi - Cô nhấn mạnh - Tankado chết vì đau tim hay do anh đã cho người giết anh ta?

- Cô thật mù quáng! - Hale hét to - Cô không thấy là tôi chẳng có dính dáng gì đến việc đó à? Cởi trói cho tôi trước khi đội An ninh đến.

- Đội An ninh sẽ không đến đâu - Cô nói luôn.

Mặt Hale trắng bệch và gào lên :

- Cái gì?

- Strathmore giả cuộc gọi.

Mắt Hale trở nên điên dại. Anh ta như tê liệt trong giây lát. Sau đó anh ta nhăn nhó một cách khổ sở.

- Strathmore sẽ giết tôi! Tôi biết ông ta sẽ giết tôi. Tôi quá biết!

- Thoải mái đi nào, Greg!

Tiếng còi rú lên khi Hale hét.

- Nhưng tôi vô tội!

- Anh nói dối. Và tôi có bằng chứng! Anh có nhớ chương trình anh đã dùng không - Cô hỏi, và đi tới chỗ làm việc của mình.

- Tôi đã gửi nó lại! Chúng ta sẽ xem nó đã ở đây chưa.

Cô bấm chuột và mở tin nhắn. Dữ liệu này sẽ quyết định số phận của Hale, cô nghĩ thế. Hale là North Dakota. Hộp dữ liệu mở ra. Hale là...

Susan dừng lại. Chương trình dần hiện ra. Và Susan đứng lặng yên sững người. Không có nhầm lẫn. Chương trình đã phát hiện ra một kẻ khác - một người không ngờ nhất.

Susan đứng im gần bàn phím và đọc lại hộp dữ liệu trước mặt.

Đó vẫn là thông tin mà Strathmore đã nói với cô, ông nhận được khi cho chương trình hoạt động. Susan phát hiện Strathmore đã nhầm lẫn và cô biết mình sẽ làm cho chương trình hoạt động thật tốt. Thế nhưng thông tin hiện trên màn hình thật không thể ngờ được.

* * * * *

"ET" - Cô tự hỏi, đầu óc cô chới với - "Ensei Tankado là North Dakota?".

Thật không thể nào tin được. Nếu dữ liệu đúng, Tankado và đối tác của anh ta chỉ là một, những suy nghĩ của Susan bỗng nhiên đứt đoạn. Cô ước gì tiếng còi báo động tắt đi.

- Tại sao Strathmore không tắt cái thứ quái quỷ ấy đi? - cô thầm nghĩ.

Hale quay người trên sàn, căng mắt ra nhìn Susan.

- Dữ liệu nói gì thế hả Susan? Nói cho tôi biết!

Nếu Tankado là North Dakota, vậy thì anh ta tự gửi thư cho mình... điều đó có nghĩa là North Dakota không tồn tại. Đối tác của Tankado chỉ là một trò xỏ lá.

North Dakota là một bóng ma. Cô tự nói với bản thân. Tất cả chỉ là số không.

Cái mánh khoé này quả là xuất sắc. Rõ ràng, Strathmore chỉ nhìn trận đấu tennis từ một phía. Bởi vì quả bóng cứ quay trở lại nên ông ta cho rằng hẳn là bên kia lưới phải có người. Nhưng Tankado đang chơi với một bức tường. Anh ta tuyên bố những tính năng của Pháo Đài Số trong những bức thư anh ta gửi cho chính mình, gửi cho một hòm thư nặc danh trả lời tự động và vài giờ sau, hòm thư đó sẽ trả lời thư anh ta ngay.

Bây giờ thì Susan đã nhận ra. Mọi chuyện thật rõ ràng. Tankado muốn Strathmore theo anh ta... anh ta muốn ông ấy đọc được những bức thư anh ta gửi cho chính mình. Ensei Tankado đã tạo ra một cách bảo hiểm tưởng tượng mà không phải tin tưởng bất cứ ai có mật khẩu của mình. Dĩ nhiên để trò khôi hài trở nên giống thật hơn, anh ta đã lập nên một hòm thư mật... chỉ đủ bí mật để thuyết phục được những ai nghi ngờ rằng mọi chuyện chỉ là một sự sắp đặt. Màn độc diễn.

Bỗng dưng Susan có một ý nghĩ thật đáng sợ. Tankado có thể đã dùng sự trao đổi giả mạo của anh ta để thuyết phục Strathmore bất cứ chuyện gì.

Susan nhớ lại phản ứng của cô khi Strathmore nói với cô về một thuật toán không có thuật giải. Cô đã thề rằng điều đó là không thể. Dần dần Susan cũng hiểu được sự nguy hiểm của tình hình. Họ không có bằng chứng nào cho thấy Tankado thực sự tạo ra Pháo Đài Số. Tất cả chỉ là những thổi phồng lừa gạt trong email của anh ta. Và dĩ nhiên... TRANSLTR. Chiếc máy tính đã bị khóa trong một chiếc vòng bất tận suốt hai mươi giờ đồng hồ. Tuy nhiên Susan biết có những chương trình khác dễ chế tạo hơn nhiều so với một thuật toán không thể phá vỡ, có thể làm TRANSLTR hoạt động lâu thế.

Virus chăng?

Toàn thân cô ớn lạnh.

Nhưng làm thế nào mà virus có thể xâm nhập TRANSLTR được?

Giọng Phil Chartrukian như vọng lên từ dưới mồ: "Strathmore bỏ qua Gauntlet!"

Sau cảm giác nôn nao khi khám phá ra điều bí mật, Susan đã biết được sự thật. Strathmore đã tải file Pháo Đài Số của Tankado và cố gửi file này vào TRANSLTR để phá hủy nó. Nhưng Gauntlet đã từ chối file đó vì nó có nhiều đoạn mã nguy hiểm. Thường thì Strathmore sẽ rất quan tâm đến vấn đề này nhưng ông ta đã đọc những email của Tankado- đoạn mã chỉ là những những mánh khoé. Bị thuyết phục rằng Pháo Đài Số có thể được tải xuống một cách an toàn, Strathmore đã bỏ qua bộ lọc của Gauntlet và gửi file vào TRANSLTR.

Susan như câm lặng. Chẳng có Pháo Đài Số nào cả. Cô thấy nghẹn lại khi những tiếng còi hú vang lên. Chậm chạp, yếu ớt, cô dựa vào bàn phím. Tankado chỉ trêu chọc những kẻ ngốc... Và NSA đã dính mồi của anh ta.

Từ trên tầng, có tiếng kêu dài đau đớn. Đó là Strathmore.

Xem tiếp chương 86

Chương 86

Susan bước nhẹ nhàng qua cửa phòng, cô thấy Trevor Strathmore đang ngồi khòm người bên bàn. Đầu ông cúi gục, những giọt mồ hôi nhễ nhại khiến mái tóc của ông như có vẻ loáng nước dưới ánh sáng hắt ra từ màn hình vi tính. Còi báo động dưới tầng hầm vẫn rú inh ỏi.

Susan lao ngay tới bên bàn.

- Thưa chỉ huy? - Cô kêu lên.

Strathmore không nhúc nhích.

- Thưa chỉ huy! Phải tắt TRANSLTR thôi. Chúng ta bị...

Strathmore nói, đầu vẫn cúi gục :

- Hắn thắng rồi. Tankado đã biến tất cả chúng ta thành một lũ ngớ ngẩn....

Nghe giọng nói của chỉ huy cô biết ông đã hiểu ra sự việc.

Những lời khoác lác của hắn về một thuật toán không thể phá vỡ... về cuộc bán đấu giá mã khoá- rốt cục tất thảy chỉ là một trò chơi lừa bịp mà thôi. Tankado đã lừa NSA, để họ phải mở trộm hộp thư của hắn, đã lừa mọi người rằng hắn có một đối tác và lừa họ tải xuống một tệp chương trình vô cùng nguy hiểm.

- Mã tuần hoàn - Strathmore ngập ngừng - Tôi biết.

Ngài chỉ huy chậm chạp nhìn lên. Ông nói với Susan :

- Tệp chương trình mà tôi tải từ trên mạng xuống...chỉ là một....

Susan cố giữ bình tĩnh. Tất cả các con bài đều đã được lật ngửa.

Chưa bao giờ có thuật toán bất khả giải- trên đời này chẳng có Pháo Đài Số nào hết. Tệp chương trình Tankado tung lên mạng là một con virus đã được mã hoá, có thể chỉ là một trong số những thuật mã hóa đầy rẫy trên thị trường, một cái vỏ đủ mạnh để tránh cho mọi người khỏi hiếm họa - tất cả, trừ NSA. TRANSLTR đã phá vỡ lớp mã khóa bảo vệ ra và giải phóng con virus.

- Một loạt ký tự tuần hoàn - Ngài chỉ huy rên rỉ. - Tankado nói chúng chỉ là một phần của thuật toán này - Strathmore sụp xuống bàn.

Susan hiểu nỗi đau mà ngài chỉ huy đang phải nếm trải. Ông đã hoàn toàn bị lừa. Tankodo chưa bao giờ có ý định bán cho bất cứ công ty máy tính nào thuật toán của anh ta. Không hề có thuật toán nào ở đây cả. Tất cả sự việc này chỉ là một trò bịp bợm. Pháo Đài Số chẳng qua chỉ là một con ma, một trò hề, một thứ mồi nhử cho NSA sa bẫy. Mọi động thái của Strathmore đều do Tankado, kẻ bí mật chỉ đạo giật dây màn múa rối này.

- Tôi đã tắt Gauntlet! - giọng Ngài chỉ huy dằn xuống.

- Lúc ấy ông không biết là...

Strathmore đấm tay xuống bàn.

- Lẽ ra tôi phải nhận thấy điều đó chứ! Cái tên xỏ xiên của hắn. Chúa ơi! NDAKOTA! Nhìn xem!

- Chỉ huy nói vậy nghĩa là sao?

- Hắn ta đang cười nhạo chúng ta! Đây chỉ là một phép đảo chữ khốn khiếp!

Susan lặng đi trong giây lát. NDAKOTA là phép đảo chữ? Cô thật không ngờ.

Trong đầu cô hiện lên hình ảnh các chữ cái, và Susan bắt đầu sắp xếp lại Ndakota...Kado-tan...Oktadan...Tandoka... Đầu gối cô muốn quỵ xuống. Chỉ huy nói đúng. Mọi thứ đều rõ như ban ngày.

Làm sao họ lại có thể lú lẫn đến như thế cơ chứ? North Dakota không phải là tên một bang ở Mỹ - Quả là một lỗi đau gớm ghiếc.

Hắn ta thậm chí còn ngầm gửi lời cảnh báo cho NSA, đây là một manh mối rõ ràng rằng hắn ta chính là NDAKOTA. Khi ghép vần lại thì đúng là TANKADO. Ấy thế mà chính những chuyên gia mật mã giỏi nhất thế giới lại bỏ qua điều đó, và tệ nhất là ngay từ đầu hắn đã chủ tâm khiến họ rơi vào tình trạng lú lẫn này.

- Tankado đã lừa chúng ta - Strathmore nói. - Bây giờ phải tắt ngay TRANSLTR - Susan nói.

Strathmore đăm đăm nhìn bức tưởng trước mặt.

- Thưa chỉ huy. Hãy tắt máy đi! Chỉ có Chúa mới biết chuyện gì đang xảy ra ở đây!

- Tôi đã thử rồi - Strathmore rên rỉ với dáng vẻ của một người đang lả đi và sắp xỉu.

- Tôi không hiểu từ "Thử rồi" ở đây nghĩa là gì?

Strathmore xoay màn hình về phía cô. Màn hình chuyển về màu nâu sẫm. Ở phía dưới một hộp thoại hiện lên vô số những lần chỉ huy nhập lệnh tắt TRANSLTR. Lần nào cũng chỉ có một hàng chữ trả lời :

XIN LỖI. KHÔNG THỂ HUỶ BỎ.

XIN LỖI. KHÔNG THỂ HUỶ BỎ.

XIN LỖI. KHÔNG THỂ HUỶ BỎ.

Susan cảm thấy thật chua chát. Không thể hủy bỏ? Tại sao ư?

Cô e rằng mình đã tìm ra câu trả lời. Hay đây chính là hành động trả thù của Tankado? Phá hủy TRANSLTR! Suốt bao năm trời Ensei Tankado đã muốn cho cả thế giới này biết đến TRANSLTR, nhưng chẳng ai chịu tin anh ta. Vì vậy, anh ta đã tìm cách phá hủy nó. Anh ta đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng vì những gì anh ta tin tưởng, và đó là quyền cá nhân của mỗi người.

Dưới gác, còi báo động vẫn tiếp tục hú lên từng hồi.

- Chúng ta phải tắt tất cả hệ thống điện - Susan yêu cầu - Ngay bây giờ!

Susan biết nếu hành động khẩn trương, họ có thể cứu được bộ xử lý song song. Giống như mọi máy tính trên toàn thế giới - từ các máy tính truyền thông đơn lẻ cho đến các hệ thống kiểm soát vệ tinh của NASA - đều có một cơ chế nội tại có tác dụng đề phòng những tình huống như thế này. Đây không phải là thượng sách nhưng ít ra nó cũng giúp cho hệ thống không bị phá hủy. Như mọi người đều biết, việc đơn giản nhất là "rút phích cắm ra".

Bằng cách tắt nguồn điện bên trong Crypto, họ có thể tắt được TRANSLTR. Còn con virus thì họ có thể diệt sau. Vấn đề đơn giản chỉ là định dạng lại các ổ cứng của TRANSLTR. Làm như thế sẽ xóa sạch bộ nhớ của máy tính - dữ liệu, chương trình, virus và mọi thứ.

Trong những tình huống phải định dạng lại thế này, họ sẽ phải mất hàng nghìn tệp thông tin, đôi khi là tất cả công sức của một năm làm việc Nhưng TRANSLTR thì khác - người ta có thể cài đặt lại máy mà không mất nhiều dữ liệu. Bộ máy xử lý song song được thiết kế để suy nghĩ, chứ không phải để nhớ. Trên thực tế TRANSLTR không hề chứa gì trong bộ nhớ của nó. Một khi đã giải xong một thông điệp mã hoá, nó sẽ gửi kết quả cho ngân hàng dữ liệu rủa NSA để lưu giữ.

Susan thấy mình như hóa đá. Cô bất giác đưa tay lên ôm miệng và thét lên nghẹn ngào.

- Ngân hàng dữ liệu chính!

Strathmore trân trân nhìn bóng đêm, giọng ông nghe thật lạ. Ông đã nhận ra điều đó từ trước.

- Đúng rồi. Susan ạ. Ngân hàng dữ liệu chính...

- Susan ngây dại và gật đầu. Tankado đã sử dụng TRANSLTR để đưa một virus vào trong ngân hàng dữ liệu chính.

Strathmore đưa con mắt mệt mỏi nhìn màn hình máy tính.

Susan quay lại nhìn chằm chằm vào màn hình trước mặt cô và đọc hộp thoại. Ở đây hiện lên hàng chữ.

HÃY CHO CẢ THẾ GLỚI BIẾT VỀ TRANSLTR.

CHỈ CÓ SỰ THẬT MỚI CÚU ĐƯỢC CÁC NGƯỜI...

Susan thấy toàn thân lạnh toát. Hầu hết các thông tin đã được phân loại của quốc gia đều được lưu trữ tại NSA: những nghị định thư của quân đội, các mã số SIGINT, thông tin về các điệp viên nằm vùng ở nước ngoài, kế hoạch chi tiết về các loại vũ khí mới, các tài liệu đã được số hoá, các hiệp định thương mại - và còn vô số các thông tin quan trọng khác.

- Tankado không dám thế đâu! - cô quả quyết với ngài chỉ huy - Anh ta làm sao mà dám động đến các hồ sơ mật đã được phân loại của cả một quốc gia.

Susan không thể tin nối Ensei Tankado dám tấn công ngân hàng dữ liệu của NSA. Cô chằm chằm nhìn thông điệp của anh ta.

CHỈ CÓ SỰ THẬT MỚI CỨU ĐƯỢC CÁC NGƯỜI...

- Sự thật? - Cô tự hỏi - Sự thật về cái gì?

Strathmore thở một cách nặng nhọc.

- TRANSLTR - Ông càu nhàu - Sự thật về TRANSLTR.

Susan gật đầu. Đúng là một pha ngoạn mục. Tankado buộc NSA phải công bố cho cả thế giới biết về TRANSLTR. Rốt cục thì đây cũng là một kiểu tống tiền. Giờ anh ta bắt NSA phải lựa chọn - một là cho cả thế giới biết sự thật về TRANSLTR, hai là mất toàn bộ ngân hàng dữ liệu. Cô đờ đẫn nhìn thông điệp đó. Ở phía cuối màn hình, một dòng chữ llên tục nhấp nháy như muốn hăm dọa họ.

HÃY NHẬP MÃ KHOÁ...

Đọc những con chữ đang nhấp nháy này, Susan hiểu tất cả - con virus, chìa khóa mật khẩu, chiếc nhẫn của Tankado, một âm mưu tống tiền quả là ngoạn mục. Chìa mã khóa ở đây chẳng liên quan gì đến việc giải mã thuật toán, đó chỉ giống như một loại thuốc giải độc. Chìa mã khóa ấy sẽ chặn đứng con virus. Susan đã đọc rất nhiều về những virus thuộc dạng này - những chương trình phá hoại bao gồm một chương trình xử lý sẵn có ở bên trong, một chìa khóa mật để kích hoạt chương trình này sẽ chặn đứng hoạt động của con virus. Tankado chưa bao giờ chủ tâm phá hoại ngân hàng dữ liệu của NSA - anh ta chỉ muốn chúng ta công bố TRANSLTR cho công chúng biết? Sau đó anh ta mới đưa ra mã khóa để tiêu diệt con virus đó!

Kế hoạch của Tankado diễn ra không suôn sẻ. Anh ta đã không lên kế hoạch về cái chết của mình. Có lẽ con người này dự định sẽ ngồi ở một quán bar nào đó ở Tây Ban Nha để xem chương trình thời sự của đài CNN về một siêu máy tính gián điệp tuyệt mật mà chính phủ Hoa kỳ buộc phải tiết lộ cho công chúng, sau đó sẽ gọi điện cho Strathmore, đọc chìa khóa mã khắc trên chiếc nhẫn và kịp thời cứu nguy cho ngân hàng dữ liệu; rồi sau một trận cười no nê, người hùng của EFF sẽ dần chìm vào quên lãng.

Susan đấm bàn :

- Chúng ta cần chiếc nhẫn đó! Chỉ có duy nhất một mã khóa thôi! - Giờ đây cô đã hiểu không hề có North Dakota nào cả, không có mã khóa thứ hai. Thậm chí nếu NSA có công bố về TRANSLTR trước toàn thế giới thì Tankado cũng không thể nào xuất hiện để cứu nguy cho họ nữa.

Strathmore không nói lời nào.

Tình huống lúc này gay go hơn Susan tưởng lúc đầu rất nhíều.

Không ngờ Tankado dám đẩy sự việc đến nước này. Anh ta thừa hiểu sự thể sẽ thế nào nếu NSA không có chiếc nhẫn - và lúc ấy, vào những giây phút cuối đời, anh ta đã kịp quẳng chiếc nhẫn ấy đi.

Tankado đã cố tình giấu chiếc nhẫn đi. Susan tự nhủ không thể mong Tankado giữ chiếc nhẫn lại nếu như anh ta lầm tưởng bị NSA hãm hại.

Susan vẫn không thể ngờ Tankado chủ tâm gây ra tình thế này. Anh ta là một người theo chủ nghĩa hòa bình, và chắc hẳn không bao giờ muốn phá hỏng bất kỳ thứ gì, tất cả những gì anh ta muốn chỉ là làm NSA phải chịu cảnh bẽ bàng. Tất cả là vì TRANSLTR. Tất cả là để bảo vệ quyền riêng tư của mọi người. Tất cả là để cho cả thế giới biết rằng NSA đang nghe lén. Xóa ngân hàng dữ liệu của NSA là một hành động cực kỳ hiếu chiến, Susan vẫn không tin Ensei Tankado chủ ý gây ra chuyện tày trời này.

Tiếng còi báo động kéo cô về thực tại. Susan nhìn ngài chỉ huy lúc này rũ như một tàu lá và cô hiểu ông đang nghĩ gì. Kế hoạch về một cánh cửa sau lại một lần nữa bị đổ bể. Hơn thế nữa, sự thiếu cảnh giác của ông đã đẩy NSA vào một hoàn cảnh vô cùng trớ trêu - một hiểm họa về an ninh khủng khiếp nhất trong lịch sử nước Mỹ.

- Đây không phải là lỗi của chỉ huy - Giọng cô đầy kiên quyết, lẫn trong tiếng còi báo động inh ỏi - Nếu Tankado không chết, chúng ta đã có thể thương lượng yởi anh và đã có quyền chọn lựa!

Nhưng dường như Chỉ huy chẳng nghe thấy gì hết. Cuộc sống của ông giờ đã kết thúc. Ông đã cống hiến cho đất nước suốt ba mươi năm trời. Những tưởng sắp đến thời son vàng rực rỡ - một cánh cửa sau bí mật trong làng mật mã thế giới. Nhưng không, chính ông lại thả virus vào hệ thống ngân hàng dữ liệu của NSA.

Chẳng còn cách nào khác - không thể không ngắt tất cả các nguồn điện và xóa sạch hàng tỷ đơn vị dữ liệu. Phải có chiếc nhẫn mới cứu vãn được tình hình, và nếu đến bây giờ David vẫn chưa thấy chiếc nhẫn thì...

- Tôi sẽ tắt ngay TRANSLTR! - Susan tỏ ra cương quyết hơn - Tôi sẽ xuống ngay tầng hầm để ngắt cầu giao điện.

Strathmore uể oải quay lại nhìn cô như vừa từ cõi chết trở về.

- Để tôi! - ông gào lên bi thảm. Ông đứng lên và suýt ngã nhào khi định bước ra khỏi chỗ ngồi.

Susan ép ông ngồi lại.

- Không! Tôi sẽ đi - Giọng của Susan khiển ông hiểu giờ không phải là lúc tranh cãi.

Hai tay Strathmore ôm chặt.

- Thôi được. Ở tầng dưới cùng. Cạnh những chiếc máy bơm khí tản nhiệt.

Susan lao ra cửa. Được nửa đường, cô quay trở lại.

- Thưa chỉ huy - Cô nói - Mọi chuyện chưa chấm dứt đâu. Chúng ta vẫn chưa bị đánh bại mà. Nếu David kịp thời tìm thấy chiếc nhẫn thì chúng ta vẫn có cơ hội bảo vệ được ngân hàng dữ liệu!

Strathmore không nói gì.

- Hãy gọi cho bên ngân hàng dữ liệu! - Susan ra lệnh - Hãy cảnh báo họ về loại virus này! - Ông là phó giám đốc của NSA cơ mà. Ông phải là người điều hành chứ!

Strathmore chậm chạp ngẩng đầu lên. Với dáng vẻ của người đang đưa ra một quyết định có tính sống còn, ông quay sang cô và gật đầu đồng ý.

Lòng tràn đầy quyết tâm, Susan lao vào bóng tối.

Xem tiếp chương 87

Chương 87

Chiếc xe vespa loạng choạng lao ra khỏi ngõ hẻm Carretera de Huelva. Trời chưa sáng hẳn nhưng đường phố đã đông đúc - những cư dân trẻ tuổi của xứ Seville đang trở về sau cuộc chơi thâu đêm ngoài bãi biển. Một xe lớn chật cứng toàn thanh niên bấm còi inh ỏi rồi phóng vụt qua. Chiếc xe máy của Becker trông chẳng khác gì một món đồ chơi đang chạy trên đường..

Phía sau, cách anh khoảng một phần tư dặm, có một chiếc taxi bẹp dúm đã đi chệch đường cao tốc làm loé lên vô số các tia lửa điện. Nó tăng tốc và lao vào một chiếc Peugeot 504 làm chiếc xe này bắn ra bãi cỏ và nằm phơi gầm máy lên trời.

Becker phóng qua một tấm biển chỉ đường ghi dòng chữ Trung tâm Sevilla - 2 km. Chỉ cần đến được trung tâm của thị trấn là anh sẽ có cơ hội sống sót. Đồng hồ đo tốc độ chỉ 60km/giờ. Hai phút nữa là thoát. Nhưng anh biết mình không có đủ chừng ấy thời gian.

Đâu đó phía sau, chiếc taxi đang tăng tốc. Becker nhìn lên những chiếc đèn của thị trấn Seville trải dài trước mặt và cau nguyện có thể sống sót để tới được đó.

* * * * *

Khi anh chỉ còn cách đích nửa đường nữa thì đột nhiên một viên đạn réo ngay sau lưng. Anh gập người trên xe, vặn tay ga hết cỡ. Có tiếng súng giảm thanh và viên đạn bay sượt qua. Becker liên tiếp lạng sang trái rồi lại sang phải với hy vọng có thể kéo dài thời gian. Nhưng vô ích. Còn những ba trăm mét nữa mới hết con đường thoát hiểm gập ghềnh những dốc thì chiếc taxi đã lao lên chỉ còn cách anh có vài thân xe. Becker biết chỉ vài giây nữa anh sẽ bị bắn hoặc bị đâm. Anh phóng hết tốc lực với hi vọng có thể thoát thân. Hai bên đường cao tốc này chỉ toàn là những sườn đá dốc đứng. Một tiếng súng nữa vang lên. Becker đã quyết định anh phải làm gì.

* * * * *

Mặc tiếng lốp cao su mài chà xuống mặt dốc đá nghe đến ghê mợn và vô số những tia lửa do ma sát, anh nghiêng hẳn người sang bên phải và quẹo ra khỏi con đường. Lốp xe tiếp tục chà vào chân con đường để. Becker gồng mình giữ thăng bằng khi chiếc Vespa lao xuống vệ đường rải sỏi. Hai bánh xe quay điên cuồng, bám vào mặt đất xốp mềm. Động cơ xe rú lên như thể nó đang đào mặt đường. Becker tăng ga, hy vọng chiếc xe không bị chết máy. Anh khơng dám nhìn lại đằng sau. Bất cứ lúc nào chiếc taxi cũng có thể phanh lại và súng có thể nổ.

Nhưng chẳng có tiếng súng nào cả.

Xe của Becker đã vượt qua được đỉnh đồi, giờ đây anh đã nhìn thấy nó - trung tâm thị trấn. Ánh đèn thị trấn trải dài trước mắt anh như ngàn sao đang lấp lánh trên bầu trời. Anh đâm ngang qua mấy bụi rậm và ra đến mặt đường. Chiếc Vespa bỗng lao nhanh hơn. Có cảm giác như anh đang bay dọc đại lộ Luis Montoto. Chiếc xe lướt qua sân vận động bên trái đường. Anh đang đi trong một khung cảnh thật yên bình.

Ngay sau đó Becker nghe tiếng kim loại nghiến vào bê tông.

Anh nhìn lên. Trước anh mấy chục mét, chiếc taxi đang gầm rú chồm lên. Nó đã lao xuống đường Luis Montolo và đang tăng tốc phóng thẳng về phía anh.

Đáng ra Becker phải thấy vô cùng hốt hoảng. Nhưng không, anh biết rõ mình đang đi đâu. Anh lách sang bên trái chiếc xe Menendez Pelayo đang bám đuổi quyết liệt và nhả côn. Chiếc xe loạng choạng băng qua một công viên nhỏ và con đường Mateus Gago rải đầy sỏi cuội - con đường một chiều rất hẹp dẫn tới cổng khu Barrio Santa Cruz.

Chỉ còn một đoạn ngắn nữa thôi, anh nghĩ.

Chiếc taxi vẫn theo sau, tiếng rú của động cơ mỗi lúc một rõ hơn. Nó bám sát Becker qua cổng Santa Cruz, gương chiếu hậu vỡ vụn do va chạm với trụ chiếc cổng mái vòm nhỏ hẹp. Becker biết anh đã thắng. Santa Cruz là khu vực cổ kính nhất ở xứ Seville này.

Chẳng thể tìm thấy một con đường nào giữa các tòa nhà, chỉ có toàn những lối đi bộ nhỏ hẹp liên kết các tòa nhà xây từ thời La Mã với nhau. Những lối đi này chỉ đủ cho khách bộ hành và một vài chiếc mô tô hai bánh hiếm hoi. Becker đã từng bị lạc hàng tiếng đồng hồ trong cái mê cung nhỏ hẹp này.

Becker tăng tốc lao xuống con đường thẳng cuối cùng của Mateu Gago, và sừng sững như một ngọn núi, tòa thánh đường kiểu Gôtic xây từ thế kỷ XI hiện ra trước mắt. Ngay cạnh đó, với độ cao 419 thước Anh, tháp Gửalda thẳng tắp vươn lên trong áng bình minh. Đây chính là Santa Cruz, thánh đường lớn thứ hai trên thế giới, nơi hành lễ của những gia đình Thiên chúa giáo sùng đạo và danh tiếng nhất xứ Seville này.

Becker lao vút qua quảng trường đá. Một viên đạn vút tới nhưng đã quá muộn. Becker cùng chiếc xe đã mất hút trong một ngõ nhỏ có tên Callita de la Virge.

Xem tiếp chương 88

Chương 88

Chiếc đèn pha của chiếc Vespa rọi sáng những bức tường của con hẻm nhỏ. Becker chật vật đổi số, chiếc xe gầm lên giữa dãy phố có các tòa nhà sơn trắng, làm khuấy động buổi bình luận Chủ nhật yên tĩnh của những cư dân ngoan đạo xứ Santa Cruz.

Từ lúc Becker rời khỏi sân bay đến giờ mới chưa đầy ba mươi phút. Trong lúc phóng thục mạng, đầu anh luôn căng ra vì những câu hỏi chưa có lời giải đáp: Ai muốn sát hại mình? Chiếc nhẫn này có gì đặc biệt? Máy bay phản lực của NSA ở đâu? Nghĩ đến cái chết của Megan trong nhà vệ sinh công cộng, một cảm giác nôn nao lan tỏa khắp người anh.

Becker hy vọng có thể đi cắt ngang được con hẻm và thoát sang phía bên kia nhanh chóng, nhưng Santa Cruz là một một mê cung của những con hẻm lắt léo. Và càng rắc rối hơn nếu người ta bắt đầu điểm xuất phát sai rồi đâm đầu vào ngõ cụt. Becker bỗng bị mất phương hướng. Anh cố gắng tìm tòa nhà Giralda để làm mốc nhưng xung quanh tường quá cao, anh không thể thấy gì trừ vầng sáng nhàn nhạt của buổi bình minh phía trên đầu.

Becker phân vân không biết người đàn ông đeo kính gọng kim loại kia là ai, anh thừa hiểu rằng hắn không bỏ cuộc. Có thể hắn đang chạy bộ đuổi theo anh. Becker thận trọng lái chiếc Vespa vòng quanh những góc hẹp. Tiếng động cơ rú vang rền các ngõ hẻm.

Becker biết anh là một mục tiêu de tóm trong bầu không khí yên ắng nhường này của khu Santa Cruz. Vào lúc này tất cả những gì anh có thể làm là sử dụng tốc độ. Phải sang được bên kia!

Sau hàng loạt những của rẽ và tăng ga bạt mạng. Becker phanh gấp tại ngã ba đường Équina de los Reyes. Anh thấy mình đang lao vào ngõ cụt - con đường này anh vừa phóng qua rồi kia mà.

Ngồi tần ngần trên chiếc xe méo mó, Becker cố gắng tìm một lối rẽ, động cơ xe dường như đã tắt hẳn. Kứn đồng hồ xăng đã gần chạm vạch đỏ. Có điềm gở, một bóng người xuất hiện bên trái anh ở cuối ngõ hẻm.

Có thể nói bộ não của con người là chiếc máy tính nhanh nhất, không gì sánh bằng. Chỉ trong một tích tắc thôi mà bộ não của Becker đã phân tích và định dạng ngay hình ảnh của người đàn ông đeo kính, lục lại kí ức để kết nối, anh nhận ra, nguy hiểm gần kề đòi hỏi người ta phải quyết định ngay. Anh đã quyết định. Anh quẳng chiếc xe sang một bên và lấy đà chạy hết tốc lực.

Nhưng thật không may cho Becker, Hulchot bây giờ đang đứng trên nền đất cứng chứ không phải trong chiếc xe méo mó kia.

Hắn lạnh lùng nâng khẩu súng lên bắn.

Viên đạn trúng ngay người Becker đúng lúc anh vừa bị trượt chân ở một góc quẹo. Chạy thêm được vài mét nữa anh mới biết mình đã bị trúng đạn. Đầu tiên, cảm tưởng như cơ bắp bị bật tung, ngay phía trên hông. Sau đó, một thứ chất lỏng âm ấm chảy ra.

Nhìn thấy máu, anh biết mình đã bị thương. Anh không hề cảm thấy đau đớn, chỉ biết trước mắt vẫn còn một chặng đua ngay trong mê cung của khu Santa Cruz.

Hulohot lao tới con mồi. Thoạt đầu hắn ta định nện một cú nện vào đầu Becker, nhưng rồi lại đổi ý. Một sát thủ chuyên nghiệp không làm thế bao giờ. Becker là con mồi đang di chuyển. Ngắm: bắn vào giữa thân người kiểu này là một việc khó, hắn muốn thể hiện đẳng cấp của mình. Becker đã chuyển hướng vào tích tắc cuối cùng và thoát được một viên đạn nhằm vào đầu. Kẻ thích chơi trội đã phải trả giá. Becker bất thần chạy nhanh hơn hẳn và thoát chết.

Humhot kịp bắn trúng vào một bên mạng sườn anh. Dù viên đạn chỉ sượt nhẹ, nhưng tên sát thủ cũng đã đạt được mục đích.

Becker lao thục mạng. Rẽ, ngoặt, tránh những con đường thẳng. Tiếng chân chạy phía sau anh nghe rõ mồn một. Đầu Becker hoàn toàn trống rỗng. Anh chẳng còn suy nghĩ gì nữa - anh đã ở đâu, ai đang rượt đuối anh - tất cả còn lại bây giờ là hành động theo, bản năng, tự bảo vệ, không đau đớn, chỉ có nỗi sợ hãi đang bủa vây và phần năng lượng tiềm tàng trong cơ thể đang phát ra trên đôi chân của anh.

Một phát súng nữa vang lên, viên đạn trúng vào một mái nhà ngay sau lưng anh. Những mảnh kính vỡ văng đúng vào gáy Becker. Anh rẽ trái, sang một con hẻm khác. Anh không kịp kêu cứu ngoại trừ tiếng chán chạy và tiếng thở dốc, còn buổi bình minh hoàn toàn yên ắng.

Mạng sườn Becker nóng như lửa đốt. Sợ rằng vệt máu đỏ trên con đường trải sỏi trắng sẽ làm lộ tung tích của mình, anh tìm xung quanh xem có cánh cửa nào mở không, cửa nhà hay cống cũng được chỉ cốt sao để anh thoát khỏi con hẻm ngột ngạt này. Chẳng có gì hết. Con đường ngày một thu hẹp lại.

- Cứu tôi với! - Giọng Becker lạc hẳn đi - Ai cứu tôi với!

Con đường cứ hẹp dần. Đã hết đường chạy. Becker cố tìm ra một ngã rẽ, một lối thoát dù nhỏ bé nhất. Nhưng giờ con đường đã chuyển thành ngõ cụt. Mọi cánh cửa đều khóa im ỉm. Đường hẹp dần. Các cánh cổng cũng đã khóa hết cả. Bước chân như bị chặn đứng lại.

Chẳng phải anh đang đi trên đường thẳng hay sao? Đột nhiên con hẻm bắt đầu dồc lên. Becker thấy chân mình tê dại. Anh không thể chạy nhanh được nữa rồi.

Và anh nhìn thấy.

Giống như một con đường cao tốc đã đến đoạn không được thi công vì hết vốn đầu tư, con hẻm nhỏ này đột ngột chấm dứt. Trước mặt anh là một bức tường cao, một chiếc ghế băng gỗ, và chẳng còn gì khác nữa. Cùng đường rồi. Becker ngước nhìn qua ba tầng gác, nhìn lên tận nóc tòa nhà rồi quay trở lại con hẻm dài, nhưng đi được vài bước anh phải dừng gấp lại.

Dưới chân dốc một bóng người xuất hiện. Hắn lạnh lùng tiến về phía Becker. Trong tay hắn, khẩu súng ánh lên dưới ánh nắng sớm mai.

Becker bỗng cảm nhận được tình huống của mình rõ ràng hơn khi đi thụt lùi về phía bức tường. Vết thương bên mạng sườn chợt đau dội lên. Anh chạm vào chỗ đau và nhìn xuống. Máu chảy đầm đìa trên tay anh, chảy xuống cả những ngón tay và cả chiếc nhẫn vàng của Tankado. Choáng váng. Anh nhìn đăm đăm vào chiếc nhẫn, lòng rối bời. Anh không nhớ chiếc nhẫn đã ở trên tay mình từ khi nào. Anh cũng không nhớ được tại sao mình lại ở Seville.

Anh ngước mắt nhìn tên sát thủ đang tiến về phía mình, rồi cúi xuống nhìn chiếc nhẫn. Anh lại ngước nhìn lên một lần nữa, bắt gặp hình ảnh một người đang tiến về phía mình, rồi lại nhìn xuống chiếc nhẫn. Có phải vì chiếc nhẫn này mà Megan đã chết? Có phải cũng chỉ vì nó mà anh sắp phải lìa đời không?

Cái bóng bắt đầu bước lên con dốc. Becker thấy xung quanh chỉ là những bức tường. Cũng có một vài cánh cổng của những ngôi nhà trong ngõ, nhưng đã quá muộn, không kịp kêu cứu nữa rôi.

Becker tựa lưng vào tường. Đột nhiên anh cảm nhận được rõ ràng từng viên đã cuội dưới đế giày, mọi tiếng lạo xạo ở bức tường sau lưng. Những hình ảnh quá khứ chợt ùa về trong tâm trí, thời ấu thơ, cha mẹ anh và... Susan.

- Ôi! Chúa ơi!... Susan!

Lần đầu tiên kể từ khi trưởng thành, anh cầu nguyện. Anh không cầu cho bản thân mình thoát chết, anh không tin vào phép màu nhiệm. Anh cầu cho người phụ nữ của anh có thêm sức mạnh và luôn cảm nhận được tình yêu vô bờ anh dành cho cô. Anh nhắm mắt lại. Bao kỷ niệm chợt tràn về như một dòng thác lũ. Không phải kỷ niệm về những buổi họp khoa, không phải kỷ niệm về đời sinh viên, không phải những sự kiện quan trọng trong sự nghiệp của anh, mà là những kỷ niệm về cô. Những điều giản dị như dạy cô cách cầm đũa, hay chèo thuyền ở Cape Cod. Anh yêu em, anh thầm nói với lòng mình. Em hãy luôn nhớ là anh yêu em.

Dường như mọi sự che đậy, mọi vỏ bọc, mọi điều cường điệu về sự bất an trong anh chợt tan biến. Anh đang đứng đây, không vỏ bọc màu mè - hoàn toàn mộc mạc trước Chúa. Mình là một người đàn ông, anh tự nhủ. Và trong một khoảng khắc buồn bã anh nghĩ, anh là một người chân thành. Anh đứng đó, hai mắt nhắm nghiền trong lúc đó gã đeo kính đang tiếp tục tiến lại gần. Bỗng có tiếng chuông nhà thờ vang lên lảnh lót. Becker chờ đợi trong bóng tối chờ đợi thứ âm thanh sẽ kết thúc cuộc đời anh.

Xem tiếp chương 89

Chương 89

Mặt trời chiếu muôn ngàn tia nắng ban mai ấm áp xuống những mái nhà vùng Seville và rọi vào từng ngõ hẻm. Tiếng chuông nhà thờ từ tháp Giralda vang lên báo hiệu một ngày mới.

Đây là thời điểm mà mọi cư dân ở đây đều đón chờ. Ở mọi nơi trong thành phố cổ này, những cánh cổng bỗng rộng mở và người người đổ ra đường. Sự sống giống như dòng máu chảy đều khắp các mạch máu của vùng Santa Cruz, tất cả đều hướng về trung tâm trái tim của thị trấnt hướng về cốt lõi của lịch sử, hướng về Chúa, hướng về thánh đường linh thiêng nhất.

Đâu đó trong tâm trí Becker vang vọng tiếng chuông. Mình đã chết hay còn sống? Anh mở mắt một cách miễn cưỡng và hé nhìn tia nắng đầu tiên của buổi bình minh. Anh biết rõ mình đang ở đâu.

Anh quan sát xung quanh và tìm kiếm kẻ đang muốn sát hại mình.

Nhưng người đàn ông đeo kính gọng kim loại ấy đã biến mất. Thay vào đó là những gia đình người Tây Ban Nha trong những bộ trang phục lịch lãm, bước qua cổng rồi hòa vào dòng người trên đường, chuyện trò và cười nói.

Phía cuối hẻm, khuất tầm mắt Becker, Hulchot đang lầm rầm nguyền rủa đầy tức tối. Lúc đầu chỉ có một đôi vợ chồng ngăn cản hắn tiếp cận con mồi. Hulohot tin chắc họ sẽ đi khỏi. Nhưng tiếng chuông cứ liên tục vang lên và mọi người đua nhau đổ ra đường.

Lại một đôi nữa, lần này có thêm trẻ con. Họ chào nhau rồi trò chuyện, cười đùa, hôn má nhau ba lần. Lại một nhóm khác xuất hiện, và lần này Hulohot không còn quan sát được con mồi nữa.

Giận sôi lên, hắn cũng hòa vào dòng người lúc một đông đúc. Hắn phải tóm bằng được Becker!

Kẻ giết người cố lách xuống cuối ngõ. Nhưng hắn đang mắc kẹt giữa một biển người với nào áo khoác, cà vạt, nào váy đầm đen, nào áo choàng may đăng ten của những bà to quá khổ. Tất cả họ chẳng ai để ý đến sự hiện diện của Hulchot. Họ bước đi hối hả, tất thảy đều mặc đồ màu đen, tất thảy đều đi về một hướng và chặn mất đường của hắn. Hulohot cố lách qua đám đông và tiến nhanh đến cuối con hẻm, tay lăm lăm vũ khí. Nhưng ngay sau đó hắn gào lên như một con ác thú. David Becker đã biến mất tự lúc nào.

Becker hối hả lê một chân len qua đám đông. Hãy đi theo đám đông, anh nghĩ. Họ biết đường ra. Anh đến chỗ ngõ giao nhau và con hẻm dần mở rộng ra trước mắt. Mọi cánh cổng vẫn mở và mọi người tiếp tục đổ ra đường. Chuông nhà thờ vẫn gióng giả vang lên.

Một bên mạng sườn của Becker như đang bị thiêu đốt, nhưng anh cảm thấy máu đã ngừng chảy. Anh tiếp tục đi. Đâu đó phía sau anh là tên sát thủ đang lăm lăm khẩu súng trong tay.

Becker cúi đầu xuống thật thấp và len vào giữa những tốp người đang trên đường đến nhà thờ. Không còn xa nữa. Anh có thể cảm nhận được điều đó. Đám người lúc một đông hơn. Con hẻm rộng dần ra. Giờ không còn như một dòng suối nhỏ nữa, con đường mở ra như một dòng sông lớn. Khi đi vòng qua chỗ rẽ, Becker đột nhiên nhìn thấy, sừng sững trước mắt anh - thánh đường và tháp Giralda.

Tiếng chuông dội inh ỏi vào những bức tường cao của tòa tháp.

Mọi người dồn lại, tất cả đều mặc trang phục màu đen, đều băng qua quảng trường và hướng về cửa thánh đường Seville. Becker cố gắng chen ngang để hướng tới Mateu Gago, nhưng anh bị mắc kẹt.

Anh bị ép chặt, vai liền vai, từ đầu gối đến ngón chân đều bị mắc trong đám đông đang chen lấn xô đẩy. Cảm nhận của những người Tây Ban Nha về khoảng cách bao giờ cũng khác với mọi dân tộc khác. Becker bị ép chặt giữa hai bà béo, cả hai đều nhắm nghiền mắt và mặc cho đám đông đưa họ đi. Họ lầm rầm cầu nguyện, tay nắm chặt tràng hạt.

Khi đám đông hợp thành một khối chặt như nêm, Becker một lần nữa cố gắng rẽ phải, nhưng đám đông cản anh lại. Người thì đi nhanh, người thì xô đẩy, người thì nhắm mắt phó mặc và còn có người chỉ lầm rầm cầu nguyện. Anh cố xoay người lại, cố tạo một lực đẩy ngược lại đám đông đang xô đẩy. Nhưng vô ích. Chẳng khác nào bơi ngược dòng trên một khúc sông nước chảy xiết và sâu tới cả dặm. Anh vẫn cố xoay người. Những cánh cửa Thánh đường hiện ra lờ mờ trước mắt anh như điểm khởi đầu của một hành trình tăm tối mà anh không hề muốn dcm thân vào. David Becker nhận ra anh đang tiến vào nhà thờ.

Xem tiếp chương 90

Chương 90

Tiếng còi báo động từ trung tâm Cryto đang vang lên không ngớt. Strathmore không biết Susan đã đi được bao lâu. Ông ngồi một mình trong bóng tối, tiếng o o phát ra từ dòng chữ TRANSTR như đang nhắc nhở. Mình vẫn là người sống sót...mình vẫn là người sống sót...

Đúng vậy, ông nghĩ. Mình là người sống sót - nhưng là sự sống sót vô nghĩa chẳng có gì đáng tự hào cả. Thà chết còn hơn là sống trong bóng tối của sự ô nhục như thế này.

Nhục nhã- đó là những gì đang chờ đợi ông phía trước. Ông đã che dấu thông tin, đã cố tình không báo cáo giám đốc. Ông đã thả một con virus vào mạng máy tính an toàn nhất trên toàn liên bang!

Chẳng còn gì nghi ngờ nữa, ông sẽ bị nguyền rủa cho tới chết. Ông dự định thể hiện tinh thần ái quốc, nhưng sự việc tiến triển ngược lại hoàn toàn. Chỉ còn lại cái chết và tội phản quốc. Sẽ có những phiên toà, hình phạt, dư luận công chúng. Ông đã phục vụ quốc gia với tất cả tấm lòng và sự chính trực bao nhiêu năm trời, để rồi đến phút cuối là một số không to tướng.

"Mình là người sống sót", ông thầm nghĩ.

"Mày là kẻ nói dối". Cũng chính ông lại tự trả lời.

Đó là sự thực ông là một kẻ nói dối. Ông đã không trung thực hoàn toàn với mọi người. Susan Fletcher là một trong số những người đó. Có quá nhiều thứ ông đã không nói cho cô biết - những thứ giờ khiến ông cảm thấy xấu hổ với chính mình.

Bao nhiêu năm trời hình ảnh của Susan cứ ám ảnh ông không rời. Đêm đêm ông mơ thấy cô, rồi gọi tên cô trong giấc ngủ. Ông không thể không nghĩ về cô. Trong tâm trí ông Susan thật tuyệt vời, thông minh và xinh đẹp. Vợ ông đã cố chịu đựng và bỏ qua cho ông, nhưng bà ấy đã thực sự tuyệt vọng khi gặp Susan. Bà Strathmore không bao giờ lên án chồng vì những tình cảm ấy. Bao lâu nay bà đã cố kìm nén nỗi đau trong lòng, nhưng rồi nỗi đau ấy lớn dần vượt quá sức chịu đựng của con người. Bà tuyên bố li hôn vì không thể chung sống với cái bóng của một người đàn bà khác trong cuộc hôn nhân của họ.

Dần dần tiếng chuông báo động đã đánh thức Strathmore khỏi ảo tưởng. Ông cố gắng bật dậy để tìm cách thoát ra khỏi sự mê muội hiện tại. Bộ não của ông miễn cưỡng khẳng định những gì trái tim mình đã hoài nghi. Chỉ có một cách thực sự thoát khỏi tình trạng này, chỉ một cách mà thôi.

Strathmore chăm chú nhìn bàn phím và bắt đầu gõ. Không cần bật màn hình, ông biết rõ mình đang làm gì. Ông gõ từng phím chữ chậm chạm nhưng dứt khoát :

"Những người bạn thân mến của tôi, hôm nay tôi sẽ từ biệt cõi đời này"

Bằng cách này, sẽ chẳng còn ai nghi ngờ hay băn khoăn gì nữa.

Sẽ không có thẩm vấn. Sẽ không có buộc tội. Ông sẽ quét sạch những gì đã xảy ra. Rất nhiều người đã chết... nhưng còn một mạng sống cần phải giữ lấy.

Xem tiếp chương 91

Chương 91

Trong thánh đường, ánh ban mai bị thay dần bằng bóng tối. Hơi ấm mặt trời bị thay thế bởi sự giá lạnh đến ghê người. Tiếng xe cộ bên ngoài không thể vọng qua những bức tường đá granít dày.

Những cột đèn trong thánh đường không đủ sức xua tan bóng đêm dần ngự trị. Bóng tối bao phủ hầu khắp mọi nơi. Một miếng kính cũ đã ngả mầu ở trên cao thanh lọc những xấu xa, nhơ bẩn của trần gian ngoài kia thành những tia sáng màu xanh và đỏ yếu ớt.

Thánh đường Seville, giống như nhiều thánh đường khác ở châu Âu, được xây theo kiến trúc hình chữ thập. Nơi hành lễ và bàn thờ được đặt ở giữa và nối với điện thờ chính. Những chiếc ghế dài được xếp theo hàng dọc dài khoảng 113 yard tính từ điện thờ đến chỗ đặt thánh giá. Bên trái và bên phải của điện thờ là gian nhà ngang, phòng xưng tội, những nấm mồ thiêng và một vài dãy ghế phụ.

Becker thấy mình bị mắc kẹt giữa hai chiếc ghế giữa nhà thờ.

Trên đầu, một khoảng không cao vòi vọi, một lư hương cỡ bằng chiếc tủ lạnh treo lơ lửng đang tỏa hương trầm. Tiếng chuông tiếp tục vang lên từ thánh đường Giralda, âm thanh vang dội qua những bức tường đá. Ánh mắt Becker hướng vào bức tường được trang trí công phu sau điện thờ. Anh thầm cảm ơn Chúa. Anh đang thở Anh còn sống. Cứ như một phép màu.

Trong khi vị linh mục đang sửa soạn bài giảng mở đầu buổi lễ, Becker xem xét vết thương bên mạng sườn. Có một vệt máu trên áo sơ mi của anh, nhưng máu đã ngừng chảy. Vết thương nhỏ, giống một vết rách hơn là một vết đâm. Becker gập mép áo sâu vào trong và chỉnh lại cổ áo. Đằng sau anh, những cánh cửa đang từ từ khép lại. Anh biết nếu có kẻ bám theo anh thì giờ này chắc cũng bị mắc kẹt ở ngoài rồi. Thánh đường Seville chỉ có một lối đi chính, được thiết kế từ thời nhà thờ được sử dụng làm pháo đài, một nơi an toàn để tránh quân Moro xâm lược. Với một lối đi duy nhất như thế này, thì chỉ có một cửa cần bảo vệ. Ngày nay thì lối đi này còn có một chức năng khác - nó đảm bảo tất cả du khách đến thánh đường đều phải mua vé vào cửa.

Cánh cửa cũ kỹ cao khoảng bốn mét đã đóng lại. Becker đang ngồi đây, trong ngôi nhà của Chúa. Và chợt nhận thấy mình là người duy nhất trong nhà thờ không mặc đồ đen, anh nhắm mắt và cố khom lưng xuống. Dàn đồng ca bắt đầu hát.

Phía cuối nhà thờ, một bóng người đang di chuyển chậm chạp dọc theo hành lang, ẩn trong bóng tối. Hắn ta kịp len vào nhà thờ ngay trước khi những cánh cửa được đóng lại. Hắn mỉm cười một mình. Cảm giác hứng thú trong cuộc săn đuổi này đang mỗi lúc một tăng. Becker đang ở đây...Ta có thể cảm nhận thấy điều đó.

Hắn di chuyển một cách thận trọng, bước từng hàng một. Trên đầu, chiếc lư hương đung đưa đều đều tựa hồ như một quả lắc... Chết ở một nơi như thế nà y quả là lý tưởng. Hulohot nghĩ. Ta hy vọng ta về sau cũng sẽ được như vậy.

Becker quỳ gối xuống sàn thánh đường lạnh lẽo và cúi đầu để tránh bất cứ cái nhìn nào. Người đàn ông ngồi cạnh anh cúi xuống nhìn - đây là một hành vi bất thường trong ngôi nhà của Chúa.

- Xin lỗi - Becker nói - Tôi bị ốm.

Becker biết anh phải quỳ thật thấp. Anh vừa thoáng nhìn thấy cái bóng quen thuộc lướt qua hành lang. Chính là hắn! Hắn đang ở đây!

Mặc dù đang ở giữa đám đông khổng lồ này, Becker vẫn sợ rằng anh rất dễ bị phát hiện. Giữa đám đông toàn đồ đen này, chiếc áo anh đang mặc chẳng khác gì một tấm biến phủ sơn phản quang trên đường. Anh đã định cởi ra nhưng chiếc áo sơ mi trắng bên trong cũng không có gì khá khẩm hơn. Thay vào đó anh cúi thật thấp xuống. Ông già ngồi ghế bên cạnh có vẻ giận dữ.

- Sao vậy? - Ông ta gầm gừ. Sau đó ông ta thì thầm, nửa châm biếm - Tôi gọi bác sĩ nhé?

Becker ngước nhìn khuôn mặt đầy nốt ruồi của ông gia và đáp :

- Không, cảm ơn, tôi không sao.

Có vẻ càng giận dữ hơn ông ta nói: "Thế thì ngồi xuống!" Ai đó bên cạnh ra hiệu phải im lặng. Ông già mím môi và nhìn thẳng về phía trước.

Becker nhắm nghiền mắt và cúi xuống thật thấp, phân vân không biết buổi lễ sẽ kéo dài đến bao giờ. Becker, vốn là người theo đạo Tin Lành, luôn cho rằng đặc điểm của đạo Thiên Chúa là dông dài và chậm chạp. Anh thầm ước cho đó là sự thật, vì ngay sau khi buổi lễ này kết thúc, anh sẽ buộc phải đứng dậy và theo mọi người ra ngoài. Mặc chiếc áo kaki sáng màu này hẳn anh sẽ khó thoát khỏi tay tên sát thủ kia.

Becker biết anh không còn sự lựa chọn nào khác. Cách duy nhất bây giờ là quỳ gối trên sàn nhà lạnh ngắt của thánh đường rộng lớn này. Cuối cùng ông già nọ cũng chẳng buồn để ý đến anh nữa. Tất cả mọi người đều đã đứng dậy và đang hát thánh ca. Becker vẫn quỳ gối. Chân anh bắt đầu tê cứng như bị chuột rút. Chẳng có chỗ nào để duỗi chân ra cả. Hãy kiên nhẫn, anh nghĩ. Hãy kiên nhẫn.

Anh nhắm mắt lại và thở thật sâu.

Chỉ vài phút sau, Becker cảm thấy có người đang đá mình. Anh nhìn lên. Ông già nọ đang đứng đó, bên phải anh, tức tối, chờ anh tránh ra khỏi đãy ghế.

Becker hoảng hồn. Ông ta muốn ra về? Mình sẽ phải đứng dậy!

Becker ra hiệu bảo ông ta bước qua đầu anh. Ông già cố kiềm chế cơn giận của mình. Ông ta giật vạt áo, kéo chúng xuống đầy tức giận và ngả người về phía sau để cho anh thấy tất cả những người còn lại trong dãy ghế vẫn đang chờ ra khỏi đây. Becker nhìn sang trái và thấy người phụ nữ trước đó ngồi cạnh anh giờ không còn ở đó nữa. Những chiếc ghế bên trái hoàn toàn trống, người ta đã bước ra hành lang chính.

Buổi hành lễ chưa thể kết thúc được! Không thể như thế! Mọi thứ vừa mới đến xong cơ mà!

Nhưng khi Becker nhìn thấy cậu bé ở điện thờ đứng cuối hàng và hai hàng người đơn lẻ đang di chuyển trên hành lang chính hướng tới điện thờ anh hiểu điều gì đang diễn ra.

Lễ ban thánh thể. Anh rên rỉ. Những người Tây Ban Nha tiến hành nghi lễ này trước!

Xem tiếp chương 92

Chương 92

Susan theo lối cầu thang đi xuống tầng ham. Hơi nước dày đặc bao trùm TRANSLTR. Các tấm sàn ướt nhoèn vì hơi nước ngưng đọng. Cô suýt ngã vì để giầy không đủ độ bám. Cô phân vân không biết TRANSLTR còn duy trì hoạt động được bao lâu nữa. Còi báo động vẫn tiếp tục rú từng hồi. Hệ thống đèn báo động cứ hai phút lại nhấp nháy. Dưới đó ba tầng, những chiếc máy phát đang rung lên nặng nhọc. Susan biết công tắc mạch ở chỗ tận cùng của tòa nhà, chỗ đang bị hơi nước mờ mịt bao phủ. Cô cảm thấy thời gian đã gần hết.

Ở trên gác, Strathmore cầm khẩu Beretta trong tay. Ông đọc lại những gì vừa đánh máy và đặt tờ giấy xuống sàn nhà. Những gì ông sắp làm là một hành động hèn nhát, chắc chắn là thế. Ta là người sống sót, ông nghĩ. Ông nghĩ về con virus trong ngân hàng dữ liệu của NSA, về David Becker ở Tây Ban Nha, và về những kế hoạch cho cánh cửa hậu. Ông đã nói dối quá nhiều, và giờ thực sự cảm thấy hối lỗi. Ông biết đây là cách duy nhất để thoát khỏi trách nhiệm... cách duy nhất để thoát khỏi sự nhục nhã. Ông cẩn thận nâng khẩu súng, rồi nhắm mắt lại và bóp cò.

Susan xuống được khoảng sáu tầng thì nghe thấy tiếng súng.

Tiếng nổ vang lên từ khá xa và gần như bị tiếng máy phát át đi.

Chưa bao giờ nghe thấy tiếng súng, ngoại trừ trên tivi, nhưng cô biết chắc đó là tiếng súng.

Cô dừng lại một lúc, tiếng súng như vang lên trong tâm trí.

Hoảng hốt, cô nghĩ đến tình huống xấu nhất. Cô nhớ lại những ước mơ của ngài chỉ huy - cánh cửa hậu của Pháo Đài Số, nếu thành công sẽ là một kỳ tích. Trong tâm trí cô hiện lên hình ảnh con virus trong ngân hàng dữ liệu, cuộc hôn nhân đổ vỡ của ông, và cả cái gật đầu ủng hộ mà ông dành cho cô. Chân Susan loạng choạng, cô quay trở lên, tay không dám rời tay vịn cầu thang. Chỉ huy! Không!

Susan thấy toàn thân như tê dại, đầu óc trống rỗng. Tiếng súng dội lại một lần nữa khiến cô rối bời. Lý trí mách bảo cô phải xuống tiếp nhưng đôi chân thì cứ bước ngược lên.

- Chỉ huy! - Lập tức cô quay trở lên, quên hẳn những nguy hiểm đang rình rập.

Cô cố chạy thật nhanh, chạy mải miết rồi trượt ngã trên sàn kim loại. Phía trên đầu, hơi ẩm chẳng khác nào mưa phùn. Khi tới được đầu cầu thang và trèo lên, cô cảm thấy như bị đẩy lên trên bởi đám hơi nước khổng lồ đang bốc lên ngùn ngụt. Cô ngã lăn trên sàn Crypto, không khí lạnh giá như những mũi kim châm vào từng thớ thịt. Chiếc áo blu trắng của cô dính bết vào người, toàn thân ướt sũng.

Tối mịt mùng. Susan dừng lại, cố gắng chịu đựng. Tiếng súng vẫn tiếp tục vang vọng trong đầu. Hơi nước nóng bốc lên từ cánh cửa xếp giống như khí ga bốc ra từ miệng núi lửa và sắp sửa phun nham thạch.

Susan thầm nguyền rủa bản thân vì đã để khẩu Beretta lại bên Strathmore. Có phải trước đó cô đã để súng lại chỗ Strathmore? Hay ở trong Node 3? Khi mắt đã quen với bóng tối, cô nhìn thấy lỗ hổng tại Node 3 trên tường. Ánh sáng lờ mờ hắt ra từ màn hình máy tính, nhưng từ khoảng cách này cô nhìn thấy Hale vẫn nằm bất động trên sàn y như ban nãy. Và nơi Strathmore vẫn không có động tĩnh gì. Quá sợ hãi trước những gì vừa chứng kiến, cô quay về phòng ngài chỉ huy.

Chưa kịp cất bước, Susan chợt nhận thấy một điều lạ lùng. Cô quay lại vài bước và nhìn vào Node 3 một lần nữa. Trong ánh sáng mờ nhạt cô có thể nhìn thấy cánh tay Hale. Nó không xuôi theo người anh ta nữa. Anh ta không bị bó lại giống như một xác ướp nữa. Cánh tay anh ta gác qua đầu. Anh ta nằm chình ình trên sàn nhà. Hay ta anh ta đã tự cởi trói rồi? Chẳng có cử động nào. Hale đã chết từ bao giờ.

Susan ngước nhìn phòng Strathmore ở tầng trên.

- Ngài chỉ huy? - cô gọi.

Im lặng.

Cô từ từ tiến đến Node 3. Có một vật gì đó trong tay Hale. Vật đó le lói phản chiếu ánh sáng hắt ra từ màn hình vi tính. Susan đến gần hơn... gần hơn nữa. Đột nhiên cô nhận ra Hale đang cầm gì trong tay. Đó chính là khẩu Beretta.

Susan há hốc miệng. Cô nhìn cánh tay, rồi khuôn mặt của Hale.

Những gì cô thấy thật kinh khủng. Một nửa khuôn mặt Hale bê bết máu. Máu bắn tung toé trên thảm trải sàn.

Ôi lạy Chúa! Susan loạng choạng bước thụt lùi. Đó không phải là phát súng của ngài chỉ huy mà là của Hale.

Ngỡ ngàng, Susan đến bên cái xác. Rõ ràng là Hale đã tự giải thoát cho mình. Dây điện lúc trước được lấy ra từ máy in để dùng làm dây trói bị vứt ngổn ngang trên sàn, ngay bên cạnh thi thể to lớn của anh ta. Chắc mình đã để khẩu súng trên ghế, cô nghĩ. Vũng máu chảy ra từ vết đạn trong sọ anh ta giờ đã chuyển sang màu đen dưới ánh sáng xanh.

Trên sàn, cạnh Hale, có một mẩu giấy. Susan loạng choạng bước qua và nhặt lên. Đó là một bức thư.

"Gửi những người bạn của tôi, tôi phải từ biệt cõi đời này trong nhục nhã vì những tội lỗi sau..."

Susan không tin vào mắt mình, cô đang cầm trên tay một bức thư tuyệt mệnh. Susan đọc chậm chạp. Thật hoang đường - không hề giống Hale ngày thường một chút nào - tại sao lại là một danh sách các tội lỗi ở đây? Anh ta đã thú nhận tất cả, Hale thú nhận rằng NDAKOTA chỉ là một trò lừa đảo, chính anh ta đã thuê một kẻ hám tiền giết Ensei Tankado và lấy mất chiếc nhẫn, đẩy Phil Chartrukian rơi xuống tầng hầm, và cuối cùng lên kế hoạch bán Pháo Đài Số.

Susan nhìn dòng cuối cùng. Cô không muốn tin hai chữ ấy là có thật những con chữ cuối cùng khiến toàn thân cô tê dại.

"Trên hết, tôi thành thực xin lỗi David Becker. Hãy tha lỗi cho tôi, tôi đã mù quáng vì tham vọng".

Susan đứng run rẩy bên xác Hale. Có tiếng chân chạy phía sau.

Susan từ từ quay người lại.

Strathmore xuất hiện phía sau cửa sổ vỡ, mặt tái nhợt và thở không ra hơi. Ông nhìn xuống xác Hale, lặng người đi vì kinh ngạc.

- Chúa ơi! - Ông nói - Chuyện gì thế này?

Xem tiếp chương 93

Chương 93

Lễ ban thánh thể.

Hulohot xác định được Becker ngay lập tức. Chiếc áo kaki không thể lẫn vào đâu được, đặc biệt lại thêm cả vết máu khô ở một bên vạt áo. Kẻ mặc áo ka ki đang tiến dần vào giữa hành lang đông đúc. Hắn chẳng thế nào biết mình đang ở ngay đây.

Hulohot nhếch mép cười tinh quái. Hắn ta sắp tiêu rồi.

Hắn đẩy miếng kim loại nhỏ tiếp điểm trên những ngón tay, sẵn sàng báo cho kẻ chủ mưu ở Mỹ một tin vui. Sớm thôi, hắn nghĩ, sớm thôi mà.

Với điệu bộ y như con dã thú đang di chuyển ngược chiều gió, Hulohot tiến về phía cuối nhà thờ. Rồi bắt đầu đến gần lối đi giữa. Hulohot không có ý định tìm kiếm Becker lẫn trong đám đông đang rời khỏi nhà thờ. Con mồi đã bị mắc bẫy, vận may đã đến dù hơi muộn - Tên sát nhân nghĩ vậy. Hulohot có thể dễ dàng khử hắn một cánh kín đáo. Thiết bị giảm thanh của hắn là loại tốt nhất trên thị trường, và tiếng súng chỉ khẽ như tiếng hắng giọng. Mọi việc sẽ ổn cả.

Khi Hulohot đi gần sát đến chiếc áo kaki, hắn không thèm để ý những lời phàn nàn của những người hắn vừa chen qua. Đám đông có thể hiểu được sự phấn khích của người đàn ông này muốn nhận được lời ban phúc của Chúa, nhưng nguyên tắc là nguyên tắc, trong thánh đường này mọi người chỉ được đi theo hai hàng đơn.

Hulohot tiếp tục di chuyển. Hắn đang tiếp cận đối tượng rất nhanh. Hắn mở chốt khẩu súng giấu trong túi áo khoác.

Thời cơ đã đến. Từ đầu đến giờ, David đã may mắn nhiều rồi. Quá nhiều rồi.

Chiếc áo kaki lấp ló trong đám người đi trước, mặt hướng về phía trước, đầu vẫn cúi xuống. Hulohot mường tượng ra vụ ám sát. Mọi hình ảnh rất rõ ràng- bám theo Becker, hạ thấp súng, bắn hai phát vào lưng đối tượng, Becker sụp xuống, Hulohot đỡ lấy nạn nhân đưa vào chỗ ngồi như thế hắn là một người bạn.

Sau đó, Hulohot chạy nhanh ra phía sau nhà thờ như thể chạy đi gọi người giúp đỡ. Trong lúc hỗn loạn, hắn sẽ biến mất trước khi mọi người hiểu được chuyện gì đã xảy ra.

Năm người. Bốn. Ba.

Hulohot rút súng ra khỏi túi, hạ thấp nòng xuống. Hắn sẽ bắn từ hông dọc lên xương sống của Becker. Làm như vậy viên đạn sẽ trúng vào xương sống hoặc phối trước khi vào tim. Cho dù viên đạn không trúng vào tim thì Becker cũng chết. Bởi phổi đã bị thủng thì không thể cứu vãn được, trừ khi nơi nào đó y học tiến bộ. Nhưng ở Tây Ban Nha, thì không thể cứu sống được.

Hai người... một. Và Hulohot đã đến đích. Hắn lách sang phải khéo léo như một vũ công, đặt tay lên vai người mặc áo kaki, ngắm và... bắn, hai phát đạn.

"Áo kaki" cứng đờ. Rồi ngã xuống. Hulohot xốc nách nạn nhân. Rất nhanh chóng, hắn đưa cái xác vào ghế trước khi có bất cứ vết máu nào loang trên lưng. Mọi người xung quanh quay lại nhìn hắn.Không thèm để ý. Hulohot sẽ nhanh chóng tẩu thoát.

Hắn mò mẫm lần những ngón tay đã đờ của nạn nhân để tìm chiếc nhẫn. Không thấy đâu. Hắn thử lại. Trên những ngón tay chẳng có gì. Hắn tức tối xoay mặt người đàn ông lại. Thật kinh hoàng. Khuôn mặt ấy không phải là David Becker.

Rafael de la Maza, một nhân viên ngân hàng ở ngoại ô thành phố Seville, chết gần như ngay tức khắc. Tay anh ta vẫn đang cầm 50,000 pezơta, số tiền mà một người Mỹ lạ mặt đã trả để đổi lấy cái áo đen cộc tay rẻ tiền anh ta đang mặc trên người.

Xem tiếp chương 94

Chương 94

Midge Milken giận dữ đứng tại chỗ vòi nước lạnh gần lối ra vào của phòng họp. Fontaine đang làm cái quái gì không biết? Bà ta vò nhàu chiếc tách bằng giấy và ném thẳng vào thừng rác một cách không thương tiếc. Chắc hẳn có điều gì xảy ra bên trong Crypto rồi! Mình có thể cảm thấy điều đó! Midge biết rằng chỉ có một cách duy nhất để chứng minh rằng suy đoán của mình là đúng. Bà ta sẽ tự đến kiểm tra Crypto - theo dõi Jabba nếu cần thiết.

Midge quay gót và tiến tới cánh cửa.

Brinkerhoff đột ngột xuất hiện và chặn đường. Ông ta hỏi Midge :

- Bà định đi đâu?

- Về nhà! - Midge nói dối.

Nhưng Brinkerhoff không cho bà ta đi qua.

Midge quay sang nhìn thẳng Brinkerhoff :

- Fontaine bảo anh không cho tôi ra ngoài phải không?

Brinkerhoff nhìn tránh ra chỗ khác.

- Chad, tôi xin nói với anh rằng có chuyện gì đó xảy ra với Crypto rồi - một điều gì đó thật kinh khủng. Tôi không hiểu tại sao Fontaine lại câm lặng như thế, nhưng TRANSLTR đang gặp trục trặc. Tối nay có cái gì đó hỏng hóc ở dưới kia kìa?

- Midge - anh ta cố thuyết phục, đi qua mụ và hướng tới cánh cửa sổ phòng họp, anh nói với mụ hãy để giám đốc tự giải quyết chuyện đó.

Midge nhìn anh ta lạnh lùng.

- Anh có biết điều gì sẽ xảy ra với TRANSLTR nếu hệ thống tản nhiệt bị hỏng không?

Brinkerhoff nhún vai rồi tiến đến cửa sổ. Anh khẳng định với mụ ta là nguồn điện lại có ngay bây giờ thôi. Anh ta kéo nhẹ tấm rèm và nhìn sang.

- Sao vẫn tối om thế kia? - Midge hỏi.

Nhưng Brinkerhof không trả lời. Anh ta ngẩn ra như bị bùa mê.

Khung cảnh dưới mái vòm Crypto thật lạ lẫm. Khắp mái vòm bẳng kính, đèn báo động đang nhấp nháy liên hồi, và cả một cột hơi nước đang cuồn cuộn bên trong. Brinkerhoff sững sờ, nhìn tòa nhà dưới vòm kính không chớp mắt. Và trong trạng thái hoảng loạn, anh ta gào lên :

- Giám đốc! Giám đốc!

Xem tiếp chương 95

Chương 95

Máu. Máu của Chúa. Chúa ơi! Hãy cứu rỗi linh hồn này!

Đám đông xúm quanh người đang nằm trên ghế. Phía trên đầu, chiếc lư hương vẫn đung đưa theo nhịp. Hulohot lao như điên dại về phía hành lang giữa rồi xục xạo khắp nhà thờ. Chắc chắn Becker đang ở đây! Hắn lại lao lên phía điện thờ.

Cách đó ba mươi hàng ghế, lễ ban thánh thể vẫn tiếp tục diễn ra khiến Hulohot không tài nào lách vào được. Padre Gustaphes Herrera, vị linh mục chính đảm nhiệm việc bưng cốc rượu lễ, tò mò nhìn về phía đám đông náo loạn chỗ dãy ghế trung tâm. Tuy nhiên vẻ mặt ông ta hoàn toàn hờ hững. Đôi khi cũng có những kẻ quá sùng đạo đến mức điên rồ như vậy. Cũng có thể một phần là do không khí quá ngột ngạt.

Trong khi đó, Hulohot vẫn đang xục xạo như điên. Becker mất tăm. Có tới cả trăm người vẫn đang quỳ gối dọc theo điện thờ để nhận lễ ban thánh thể.

Hulchot phân vân không biết liệu Becker có trong trong đám người này không. Hắn tìm cẩn thận từng người một từ đằng sau lưng. Hắn ta định nhắm bắn từ cách xa khoảng mấy chục mét rồi sẽ lẩn ngay vào đám đông.

El cuerpo de Desus, el pan del cielo. [1]

Người thầy tu trẻ, người đang ban thánh thể cho Becker, nhìn anh đầy vẻ nghi ngờ. Cha có thể hiểu được vì sao người lạ mặt này háo hức muốn nhận lời ban phước của Chúa, nhưng anh ta không thể chen ngang được.

Berker cố gắng cúi đầu xuống và cố gắng nhai miếng bánh xốp.

Anh có cảm giác có điều gì đó đang xảy ra ngay sau mình, một sự hỗn loạn. Anh chợt nghĩ đến người đàn ông đã bán cho mình chiếc áo đen cộc tay và hi vọng anh ta đã nghe lời cảnh báo của anh là không nên mặc chiếc áo ka ki ấy. Berker muốn xoay người lại để nhìn, nhưng anh sợ gọng kính kim loại kia sẽ nhận ra anh. Anh hy vọng chiếc áo khoác đen sẽ che được chiếc quần kaki. Nhưng hoàn toàn vô ích.

Người bưng rượu đang đi nhanh qua bên phải anh. Mọi người đều đã uống rượu, làm động tác cầu nguyện rồi đứng dậy đi về.

Chậm lại! Becker không vội vàng gì rời điện thờ này. Nhưng với hai ngàn người đợi được làm lễ ban thánh thể trong khi chỉ có tám thầy tư thì xem ra buổi lễ này còn kéo dài cho đến khi hết rượu.

Người bưng rượu lễ gần đi tới phía bên phải Becker thì Hulohot chợt nhận ra chiếc quần kaki không đồng bộ với áo khoác ngoài màu đen. Hắn huýt sáo nhẹ, "Mày sắp chết rồi con ạ!". Hulohot di chuyển nhanh tới lối đi trung tâm. Thời gian dành cho sự thận trọng đã hết rồi. Chỉ cần hai phát súng; rồi sau đó hắn sẽ chộp lấy chiếc nhẫn và bỏ chạy. Điểm đỗ taxi lớn nhất Seville là Mateus Gago. Hắn luồn ngón tay vào cò súng.

Adios, Senor, Becker...

La sangre de Cristo, la copa de la salvacion [2]

Mùi rượu đỏ rất nặng xộc vào mũi Becker khi Padre Herrera hạ cốc rượu lễ bằng bạc xuống. Uống rượu giờ thì hơi sớm. Becker nghĩ thầm khi vươn người về phía trước. Nhưng chiếc cốc bạc vừa được đưa xuống cho anh thì từ đâu đến xuất hiện một bóng người đi rất nhanh, hình dáng của hắn hiện lên trên mặt chiếc cốc.

Becker thấy ánh kim loại của vũ khí. Ngay lập tức anh lao về phía trước như một vận động viên vừa nhận được phát súng báo hiệu bắt đầu chạy. Vị linh mục ngã ngửa về phía sau vì sợ hãi, làm cho cốc rượu lễ bật tung lên không trung, rượu đỏ đổ tung toé lên nền đá thạch trắng. Các linh mục khác và những tiểu đồng đã chạy xô vào nhau khi Becker cố gắng thoát khỏi đám đông. Kẻ sát nhân bắn một phát súng. Becker nằm rạp xuống một cách khó nhọc, viên đạn nổ ngay trên đá hoa cương sát bên cạnh. Ngay sau đó anh đã lê người xuống ba bậc cau thang đá dẫn vào trong một lối đi nhỏ mất hẹp dành cho các linh mục để họ có thể tiến thẳng ra điện thờ như có phép màu nhiệm.

Đến bậc thang cuối, anh sẩy chân ngã. Becker cảm giác như đang trượt tự do trên nền đá, các vết thương trên người anh đau dữ dội khi mạng sườn đập xuống nền. Một lát sau anh lại bị trượt xuống một lối có rèm che bên cánh gà, và tiếp tục lăn xuống một cầu thang gỗ.

Đau dữ dội, Becker cố chạy qua phòng thay đồ. Tối như hũ nút.

Ngoài điện thờ vọng lại những tiếng la hét. Bước chân của kẻ sát nhân vẫn đang rượt đuổi. Becker đâm sầm vào một cánh cửa đôi và ngã nhào vào phòng đọc sách. Căn phòng tối om nhưng anh vẫn lờ mờ thấy những tấm thảm dệt kiểu phương Đông và đồ gỗ bóng lộn Trên tường phía góc xa là cây thánh giá gắn hình Chúa Giê Su to bằng người thật. Becker bước lảo đảo rồi dừng lại. Đường cụt.

Anh đứng ngay cạnh cây thánh giá. Có thể nghe được tiếng Hulohot đang tới gần. Becker nhìn trân trối cây thánh giá và nguyền rủa vận rủi của mình.

- Chúa ơi! - anh gào lên.

Có tiếng chai đổ vỡ bên trái Becker. Anh xoay người ra. Một người đàn ông trong chiếc áo choàng đỏ đang thở hổn hển và hoảng sợ nhìn Becker. Giống như một con mèo bị bắt quả tang đang ăn vụng, con người thánh thiện nọ đang chùi mép, và cố che đi chai rượu lễ đã bị vỡ dưới chân mình.

- Cho tôi ra khỏi đây mau - anh yêu cầu - Cho tôi ra ngoài mau!

Linh mục Guena phản ứng lại ngay lập tức. Một con quỉ lao vào căn phòng bí mật của ông rồi lại gào lên đòi ra khỏi ngôi nhà của Chúa. Ông phải ban ân huệ đó cho anh ta ngay lập tức. Người lạ mặt này xuất hiện vào thời điểm không thích hợp chút nào.

Mặt tái nhợt, vị linh mục chỉ tay ra phía tấm rèm trên tường phía bên phải ông. Đằng sau tấm rèm đó chính là cửa ra vào. Ông đã cho đục cái của này cách đây ba năm. Cánh cửa thông trực tiếp với sân ngoài. Ông không thích vào nhà thờ qua cánh cửa chính giống như những con chiên đến xưng tội.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] [2] Tiếng Tây Ban Nha

Xem tiếp chương 96

Chương 96

Susan ướt sũng và run rẩy vì lạnh, ngồi co ro trên chiếc đi văng ở Node 3. Strathmore choàng chiếc áo khoác lên vai cô. Thi thể Hale nằm cách đó vài mét. Còi báo động lại tiếp tục rú. Như đá tan ra trên mặt ao đã đóng băng, TRANSLTR phát ra tiếng gãy rắc nghe thật khủng khiếp.

- Tôi sẽ xuống tắt nguồn, Strathmore nói và đặt tay lên vai động viên cô - Và tôi sẽ quay trở lại đây ngay!

Susan thẫn thờ nhìn chằm chằm phía sau ngài chỉ huy khi ông lao qua sàn Crypto. Ông không còn là người đàn ông khác thường của mười phút trước nữa. Ngài chỉ huy Travor Strathmore đã trở lại bình thường, sáng suốt, quyết đoán, làm mọi thứ để ổn định tình hình.

Những chữ cuối cùng trong bức thư tuyệt mệnh của Hale cứ chạy vùn vụt qua tâm trí cô như một đoàn tàu bị mất lái. "Trên hết, tôi thành thật xin lỗi anh, David Becker. Hãy tha thứ cho tôi, tôi đã mù quáng vì tham vọng".

Cảm giác lo lắng lại bao trùm tâm trí Susan. David đang gặp nguy hiểm...hay còn tồi tệ hơn thế nữa cũng nên. Có lẽ tất cả đã quá muộn mất rồi. "Tôi thành thật xin lỗi anh, David Becker".

Cô nhìn bức thư chằm chằm. Hale vẫn chưa hề ký tên - anh ta mới chỉ đánh máy tên ở cúối thư. Greg Hale. Anh ta nói thật những gì anh ta nghĩ, nhấn nút in, rồi sau đó tự vẫn - chỉ có vậy. Hale đã thề sẽ không quay lại nhà tù; anh ta đã giữ lời bằng cách chọn cái chết để thay thế.

- David... - cô thổn thức - David!

Lúc đó, ở độ cao 10 foot phía dưới sàn Crypto, ngài chỉ huy Strathmore bước xuống cầu thang đến tầng hầm thứ nhất. Quả là một ngày thảm bại. Những dự định đầy tinh thần yêu nước đều vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Ngài chỉ huy buộc phải đưa ra những quyết định khó khăn, tiến hành những hành động khủng khiếp - những hoạt động mà ông không bao giờ tưởng tượng là mình đủ khả năng để làm.

* * * * *

Đó là một lối thoát! Lối thoát duy nhất và đáng nguyền rủa! Chỉ có hai điều ông luôn nghĩ tới: Đất nước và danh dự.

Strathmore biết vẫn còn thời gian. Ông có thể tắt nguồn điện TRANSLTR. Ông có thể sử dụng chiếc nhẫn để bảo vệ cơ sở dữ liệu vô giá của quốc gia. Đúng, ông nghĩ, vẫn còn thời gian.

Strathmore xem xét quang cảnh hỗn độn xung quanh mình. Hệ thống phun hơi nước cứu hỏa của tòa nhà đã làm việc. TRANSLTR đang gầm gừ như một con mãnh thú bị trọng thương. Còi báo động rú lên liên tục. Những chiếc đèn xoay tít trông như những chiếc trực thăng đang hạ cánh trong màn sương dày đặc. Dò dẫm từng bước, tất cả những gì ông có thể nhìn thấy là Greg Hale - một chuyên gia giải mã trẻ tuổi đang ngước nhìn lên, ánh mắt như đang cầu xin và sau đó là một phát súng. Sự hy sinh của Hale là vì quốc gia và vì danh dự. NSA không thể chịu thêm một vụ tai tiếng nào nữa. Strathmore cần một vật hy sinh. Ngoài ra Greg Hale còn là một quả bom chưa được tháo ngòi.

Dòng suy nghĩ của Strathmore bị cắt ngang bởi tiếng chuông điện thoại di động, gần như bị át đi bởi tiếng còi rú và tiếng hơi nước phun phì phì. Ông thò tay vào thắt lưng trong khi vẫn sải bước.

- Nói đi. Mã khóa của tôi đâu? - một giọng quen thuộc vang lên.

- Ai đấy - Strathmore nói như hét vì lẫn trong tiếng ồn xung quanh.

- Là Numataka đây! - giọng nói kia trả lời lại giận dữ - Ông hứa bán mã khóa cho tôi cơ mà!

Strathmore vẫn tiếp tục đi.

- Tôi muốn sở hữu Pháo Đài Số! - Numataka rít lên.

- Chẳng có Pháo Đài Số nào cả! - Strathmore đốp lại.

- Cái gì?

- Chẳng có thuật toán nào không có thuật giải cả.

- Dĩ nhiên là có chứ! Tôi vừa thấy trên Internet mà! Mấy ngày nay nhân viên của tôi vẫn đang cố gắng giải mã đấy thôi.

- Nó chỉ là một con virus được mã hoá, may mà ông không giải mã được đấy.

- Nhưng mà...

- Chẳng mua bán gì nữa cả! - Strathmore hét lên. Tôi không phải là Dakota. Chẳng North Dakota nào ở đây cả! Hãy quên tất cả những gì tôi đã hứa hẹn đi!

Ông tắt điện thoại, nhét vào thắt lưng. Sẽ chẳng còn ai quấy rối ông nữa.

* * * * *

Cách đó khoảng 12 ngàn dặm, Tokugen Numataka đứng như trời trồng bên cửa sổ kính. Đlếu thuốc lá hiệu Umami suýt rơi khỏi miệng ông ta. Vụ làm ăn quan trọng nhất đời ông giờ chỉ còn là sương khói.

Strathmore vẫn tiếp tục đi xuống. Vụ mua bán thế là đã bị hủy.

Tập đoàn Numatech sẽ không bao giờ có được thuật toán không có thuật giải đó và NSA cũng sẽ không bao giờ cài được cửa hậu vào đó

Giấc mơ của Strathmore từ rất lâu đã nằm trong kế hoạch này ông đã cẩn thận khi chọn Numatech. Numatech là một tập đoàn mạnh và rất có thể thắng trong vụ đấu giá mã khóa này.

Sẽ chẳng ai nghi ngờ nếu tập đoàn này có được mã khoá. Hiển nhiên công ty này không đời nào chịu bắt tay hợp tác với chính phủ Hoa Kỳ. Tokugen Numataka là một người Nhật thực thụ - sẵn sàng chết vì danh dự. Ông ta ghét người Mỹ. Ông ta ghét cả đồ ăn, phong tục, và hầu như mọi thứ, ông ta cũng căm ghét cách người Mỹ thâu tóm thị trường phần mềm toàn cầu.

Ý tưởng của Strathmore vô cùng táo bạo. Ông định tạo ra một chuẩn mực về mật mã chung cho thế giới với một cửa hậu bí mật cho NSA. Từ lâu ông đã khát khao được chia sẻ mơ ước đó với Susan và cùng cô thực hiện nhưng ông biết rằng điều đó là không thể. Cho dù cái chết của Ensei Tankado có thể cứu được hàng ngàn người trên thế giới trong tương lai thì Susan cũng không bao giờ đồng ý, cô là người theo chủ nghĩa hòa bình. Mình cũng là một người yêu hòa bình, Strathmore nghĩ, mình chỉ không được phép hành động giống một cách hòa bình mà thôi.

Ngài chỉ huy không hề do dự khi chọn người khử Tankado. Tankado ở Tây Ban Nha - và ở đây có Hulchot, 42 tuổi, người Bồ Đào Nha, hắn là một tên thạo việc, một trong những cánh tay đắc lực của Ngài chỉ huy từ nhiều năm nay. Hulohot đã làm việc cho NSA trên toàn châu Âu. Chưa bao giờ những vụ giết người của hắn lại bị phản hồi về Fort Meade [1].

Duy một điều lạ lùng là Hulohot bị điếc, do đó không thể liên lạc qua điện thoại được. Gần đây Strathmore đã trang bị cho hắn một phương tiện hiện đại của NSA, một chiếc máy tính Monocle.

Strathmore đã mua cho mình một chiếc SkyPaper và đặt cùng tần số với chiếc Monocle của Hulchot. Kể từ đó trở đi ông có thể liên lạc trực tiếp với Hulchot mà không bị theo dõi.

Tin nhắn đầu tiên mà Strathmore gửi cho Hulohot đã có một chỗ không rõ ràng. Họ đã thảo luận về điều này. Hãy giết Ensei Tankado và lấy lại bằng được mã khoá.

Strathmore chưa bao giờ hỏi tại sao Hulohot có thể làm được những điều phi thường như thế. Nhưng dù sao thì hắn đã lại làm điều đó một lần nữa. Ensei Tankado đã chết và được bác sĩ pháp y chuẩn đoán là do đau tim. Một vụ giết người hoàn hảo ngoại trừ một điều: Hulohot đã chọn nhầm địa điếm. Rõ ràng Tankado chết nơi cộng cộng và điều đó có thể đánh lừa được mọi người. Nhưng một điều không thể tính trước là mọi người xuất hiện quá sớm.

Hulohot bắt buộc phải trốn đi rồi quay lại kiếm mã khóa trên xác nạn nhân sau. Trước khi được chôn cất, xác Tankado đã thuộc quyền của bác sĩ pháp y tại Seville.

Strathmore vô cùng tức giận. Lần đầu tiên Hulchot đã không hoàn thành sứ mệnh được giao - hắn ta đã không gặp may trong vụ này. Lấy được mật khẩu từ Tankado là rất quan trọng, nhưng Strathmore biết rằng cử một kẻ sát nhân bị điếc đến nhà xác của vùng Sevllle là quá mạo hiểm. Ông đã cân nhắc nhiều lựa chọn khác Kế hoạch thứ hai bắt đầu hình thành. Đột nhiên Strathmore nhìn thấy cơ hội đạt được hai mục đích - Hai thay vì chỉ một. Vào lúc sáu rưỡi sáng ông gọi điện cho David Becker.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Fort Meade: Cơ quan đầu não của NSA

Xem tiếp chương 97

Chương 97

Fontaine lập tức lao vào trong phòng hội nghị. Brinkerhoff và Midge theo sát gót ông.

- Nhìn kìa! - Midge nói không nên lời, tay run run chỉ về phía cửa sổ.

Fontaine nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy đèn báo động đang nhấp nháy liên hồi ở mái vòm Crypto. Ông mở to mắt. Đó dứt khoát không phải là một phần của kế hoạch.

Brinkerhoff lắp bắp.

- Sàn nhảy mắc dịch nào ở đó vậy!

Fontaie nhìn trân trối, cố nghĩ xem hiện tượng này là thế nào.

TRANSLTR đã hoạt động trơn tru suốt mấy năm nay, ông chưa thấy có hiện tượng này bao giờ. Máy bị nóng quá, ông nghĩ. Băn khoăn không hiểu tại sao Strathmore chưa tắt TRANSLTR đi, sau giây lát ông quyết định hành động.

Ông vồ lấy chiếc điện thoại trên bàn, bấm số tới Crypto. Chỉ có tiếng bíp bíp như thể đường dây này không hoạt động được.

Fontaine ném phịch ống nghe xuống. Ông rủa "Quỷ tha ma bắt!". Ngay lập tức ông lại nhặt điện thoại lên và bấm số điện thoại cá nhân của Strathmore. Lúc này điện thoại mới bắt đầu đổ chuông.

Sáu hồi chuông liên tiếp vang lên.

Brinkerhoff và Midge nhìn Fontaine kéo căng dây điện thoại đi đi lại lại y như một con hổ bị xích. Một phút sau, ông tái mặt đi vì giận giữ.

Ông lại ném ống nghe xuống.

- Không thể tin được! - Ông gầm lên.

- Crypto sắp nổ đến nơi mà Strathmore vẫn không buồn trả lời cái điện thoại chết tiệt của ông ta!

Xem tiếp chương 98

Chương 98

Lao từ phòng của linh mục Guerra ra một khoảng sân nắng chói chang, Hulohot giơ tay che mắt và lầm bẩm chửi rủa. Hắn đang đứng giữa khoảng sân nhỏ của thánh đường, bao quanh là một bức tường đá cao, phía Tây đối diện với tháp Giralda và hai hàng rào sắt Cổng mơ. Phía ngoài là một quảng trường. Ngoài đó chẳng có gì. Xa xa là những bức tường của Santa Cruz. Becker không có cách gì chạy nhanh đến thế được, hắn ta nghĩ. Hulohot quay lại và kiểm tra sân trong một lần nữa.

- Hắn vẫn còn ở đây. Chắc chắn vẫn ở đây. Hulohot nói.

Cái sân mang tên Jardin de los Naranjos vốn rất nối tiếng ở Seville vì có hai mươi cây cam rất sai quả. Những cây cam xứ Seville này được nhiều người coi là "tổ tiên" của mứt cam kiểu Anh. Vào thế kỷ 18, một thương nhân người Anh đã mua ba mươi sáu cân cam từ nhà thờ Seville để mang về nước Anh, về đến nơi mới biết rằng chúng chỉ có mỗi vị chát. Ông ta đành dùng vỏ cam làm mứt và cứ phải cho thêm đường mãi mới thấy vừa. Mứt cam ra đời từ đó.

Hulohot tiến qua những lùm cây, súng giương sẵn. Những cây cam này đã lâu đời lắm rồi, tán lá của chúng vươn cao, những cành thấp nhất cũng cao quá tầm tay với, và dĩ nhiên chúng không thể che phủ những gốc cây già cỗi. Hulohot nhanh chóng nhận ra rằng khoảng sân này trống trơn. Hắn ngước nhìn lên tháp chuông Giralda.

Lối vào cầu thang hình xoắn ốc của tháp chuông Giralda đã bị người ta chặn lại bằng dây thừng và một cái biển gỗ nhỏ. Chiếc dây thừng chăng ngang bất động. Hai mắt Hulohot nhìn dán vào tòa tháp 419 bậc và ngay lập tức hắn nhận thấy suy nghĩ của hắn thật nực cười. Becker không thể ngu ngốc đến mức ấy. Cầu thang hình xoắn ốc dẫn thẳng lên một phòng ngủ nhỏ xây bằng đá. Trên tường có những ô trổ hẹp cho phép người ta nhìn ra ngoài, tuyệt nhiên không có một lối thoát nào.

David Becker trèo lên những bậc thang dốc cuối cùng, vừa bước vừa thở hổn hển, anh bước vào một căn phòng chật hẹp. Trên bốn bức tường đều có những ô trổ nhỏ. Nhưng không có một lối thoát nào.

Sáng nay định mệnh đã không cho Becker gặp may. Khi lao từ nhà thờ ra sân, áo khoác của anh bị mắc vào cửa. Miếng vải áo khiến anh phải dừng lại và xoay mạnh về bên trái trước khi nó rách hẳn ra. Becker bị chói mắt vì ánh nắng, và trượt ngã. Khi ngẩng lên, anh thấy chân mình đã chạy lên một cái cầu thang. Anh đã kịp nhảy qua dây thừng và lao lên. Đến khi anh nhận ra cái cầu thang sẽ dẫn đến đâu thì đã quá muộn.

Giờ đây anh đứng trong căn phòng ngột ngạt và thở hổn hển.

Mạng sườn đau rát. Những tia nắng yếu ớt của buổi sáng chiếu rọi qua những chỗ trổ trên tường. Anh nhìn ra ngoài. Gã đeo kính đang ở dưới, hắn quay lưng về phía cầu thang và đang nhìn ra ngoài quảng.trường. Becker nghiêng người ra đằng trước khe tường nứt để nhìn rõ hơn. Ra khỏi quảng trường đi, anh nhủ thầm.

Bóng tháp chuông Giralda đổ dài xuống quảng trường như cây củ tùng khổng lồ bị đổ. Hulohot nhìn chằm chằm cái bóng hồi lâu.

Ba luồng sáng xuyên qua ba chỗ trố trên đỉnh tòa tháp tạo thành một hình tam giác trên nền sân rải sỏi phía dưới. Một trong những hình tam giác đó bị bóng một người đàn ông che lấp. Thậm chí không cần nhìn lên đỉnh, Hulohot chạy vụt tới cầu thang của tháp chuông Giralda.

Xem tiếp chương 99

Chương 99

Fontaine tự đấm vào tay mình. Ông đi đi lại lại trong phòng và nhìn chằm chằm vào những chiếc đèn báo động của Crypto đang xoay tít. Tắt đi! Quỷ tha ma bắt! Tắt mấy đi!

Midge xuất hiện ở lối vào, tay giơ lên một tờ fax :

- Thưa sếp! Strathmore không thể tắt được TRANSLTR!

- Cái gì? - Brinkerhoff và Fontaine đồng thanh kêu lên.

- Thưa ngài, ông ta đã cố tắt máy nhưng không được - Midge tiếp tục báo cáo - Đã bốn lần rồi. TRANSLTR đang bị khống chế bởi những vòng xoáy vô tận.

Fontaine lao đến bên cửa số và nhìn ra ngoài :

- Lạy chúa tôi!

Chiếc điện thoại trong phòng hội nghị đổ chuông, ngài giám đốc nghĩ: "Chắc là Strathmore! Chắc ông ta muốn giải thích vì sao chưa tắt TRANSLTR. Đúng lúc gớm!"

Brinkerhoff nhấc điện thoại lên, trả lời :

- Văn phòng giám đốc xin nghe!

Fomtain chìa tay ra đợi.

Brinkerhoff quay sang Midge vẻ khó chịu. Ông nói :

- Jabba đấy. Ông ta muốn gặp bà!

Giám đốc nhìn chằm chằm Midge, bà ta đã kịp đến bên điện thoại, mở loa ngoài và nói :

- Nói thẳng luôn đi, Jabba.

Chất giọng kim của Jabba vang lên trong phòng :

- Midge! Tôi đang ở ngân hàng dữ liệu chính đây. Chúng tôi vừa phát hiện những thứ bất thường ở đây. Tôi đang phân vân là...

- Thôi đi Jabba! - Midge giận dữ - Lúc nãy tôi bảo ông mà có chịu nghe đâu.

- Có thể là không có gì trầm trọng, nhưng...- Jabba rào đón - Nhưng mà...

- Bỏ cái giọng ấy đi! Có chuyện rồi đấy! Bất cứ điều gì xảy ra ở bên đó đều nghiêm trọng, rất nghiêm trọng. Tài liệu của tôi không hề sai, chưa bao giờ sai, và sẽ không bao giờ sai cả!

Mụ ngừng lại rồi nói thêm :

- Ô, Jabba này! Đúng là chẳng có gì đáng ngạc nhiên lắm đâu... Strathmore đã tắt Gauntlet.

Xem tiếp chương 100

Chương 100

Hulohot chạy ba bước một lên cầu thang. Nguồn sáng duy nhất trong chiếc cầu thang hình xoắn ốc này là những khung cửa sổ hẹp hiếm hoi. David Becker đã tự sa bẫy, hắn không thể thoát được nữa rồi. Hulohot khom người leo lên từng bậc một, súng giương sẵn. Hắn luôn đi sát vào bức tường phía ngoài để đề phòng David Becker dùng chân nến tấn công từ phía trên xuống. Những giá nến bằng sắt đặt ở các chiếu nghỉ cầu thang có thể trở thành một thứ vũ khí lợi hại nếu Becker biết cách sử dụng. Tránh xa bức tưòng bên trong, Hulohot sẽ phát hiện ra David kịp thời. Tầm súng của y chắc chắn phải dài hơn tầm sát thương của cây chân nến.

Hulohot di chuyển nhanh nhưng rất cẩn trọng. Cầu thang dốc đứng; nhiều khách khu lịch đã bỏ mạng vì nó. Đây không phải kiểu cầu thang ở Mỹ, không tay vịn, mà là kiểu Tây Ban Nha. Và nếu có ai bị ngã thì đó là do anh ta bất cẩn, người thiết kế chẳng liên quan gì hết.

Hulohot dừng lại và nhìn quanh. Hắn đang ở phía bắc tòa tháp và đã leo được nửa cầu thang.

Từ chỗ hắn đang đứng có thể thấy được ban công tầng cao nhất. Lối lên gian trên cùng trống trơn. Không thấy Becker có dấu hiệu chống cự nào. Hulohot đoán chắc David không nhìn thấy hắn lên cầu thang. Vậy là hắn nắm phần chủ động trong cuộc chạm trán này, mà chưa chắc Holuho đã cần đến thế chủ động ấy. Holuhot đang có quân chủ bài trong tay. Thậm chí cách bài trí trong tháp chuông này cũng có lợi cho Holuhot, bậc cầu thang giao nhau với ban công ngắm cảnh ở góc Tây Nam, Holuhot có thể tha hồ ngắm bắn mà không sợ bị tấn công từ sau lưng. Điều quan trọng nhất là Holuhot sắp bước từ chỗ tối ra chỗ sáng. Hắn trầm ngâm, "Thật đúng là tình huống chết người".

Hắn ước lượng khoảng cách từ chỗ bắn tới cửa, chừng bảy bước. Hắn mường tượng các bước để hạ sát David. Nếu hắn đứng nguyên ở bên phải cửa thì có thể bao quát phía trái căn lầu. Nếu David ở đó, hắn sẽ bắn. Nếu không hắn sẽ bò vào căn lầu và David chỉ còn ở bên phải. Hắn mỉm cười đắc chí và nghĩ đến kết quả :

MỤC TIÊU: DAVID BECKER - THANH TOÁN XONG

Thời cơ đã đến. Hulohot kiểm tra lại vũ khí.

Hắn lao như tên bắn về phía trước. Toàn bộ lầu ngắm cảnh nằm gọn trong tầm quan sát. Góc trái trống trơn. Đã lường trước tình huống, Hulohot di chuyển nhanh vào trong. Y bắn mấy viên đạn về phía cánh phải, đạn trúng vào tường và bật lại suýt nữa vào người hắn. Hulohot quay người và gầm lên. Không có ai cả.

David Becker đã biến mất.

Cách lầu ngắm cảnh ba nhịp cầu thang, David Becker đang treo lơ lửng phía bên ngoài Giralda, trên độ cao 325 foot, trông anh giống như người đang thực hiện động tác đứng bằng đầu trên bệ cửa sổ. Khi Hulohot chạy lên đến nhịp cầu thang trên cùng thì David Becker đã kịp tụt xuống ba nhịp cầu thang và núp phía ngoài một lỗ trổ trên tường, vừa kịp để hắn không nhìn thấy. Tên sát nhân vừa đi qua ngay cạnh David Becker mà không hay biết. Hắn quá vội vã nên không thể nhận thấy có người đang thở hổn hển ngay phía ngoài bức tường.

Treo người lơ lửng bên ngoài của sổ, David Becker thầm tạ ơn Chúa vì những buổi rèn luyện cơ bắp bằng máy Nautilus, dù mỗi lần tập chỉ kéo dài khoảng 20 phút. Oái ăm thay, dù có hai cánh tay rất chắc khoẻ, Becker lúc này không còn đủ sức để co người rồi lăn vào bên trong. Vai nóng ran, hai bên xương sườn mỏi rã mời. Cạnh đá thô ráp lại có pha thủy tinh cứa vào ngón tay, làm tay anh đau rát.

Becker biết chỉ lát nữa thôi tên sát nhân sẽ từ tầng trên lao xuống, và hắn sẽ dễ dàng nhìn thấy những ngón tay anh đang bám trên bệ cửa số.

Becker nhắm mắt và cố co người lại, thầm nghĩ phải có phép màu nhiệm thì anh mới thoát khỏi bàn tay tử thần. Các ngón tay đang mất dần sức đu bám. Becker liếc nhìn xuống phía dưới, một sân bóng rộng bao quanh là hàng cây cam.

Không thể sống sót nếu rơi xuống chỗ này. Mạng sườn David ngày càng đau ê ẩm. Anh không thể chịu đựng thêm được nữa.

Tiếng bước chân xuống cầu thang ngày càng to dần, rõ dần.

Becker nhắm mắt lại. Một là sống, hai là chết. Anh nghiến răng, cố co người. Mép đá sắc cứa vào cổ tay đau nhói. Tiếng bước chân xuống cầu thang ngày càng dồn dập hơn. Becker níu vào cạnh phía trong của hốc cửa, cố bám vào chỗ dựa. Anh đẩy chân vào tường làm điểm tựa để nâng người lên. Cơ thể anh nặng như chì vậy, như thể có ai đó đang kéo chân anh xuống.

Becker đu người lên chống được khuỷu tay lên bờ tường, tạo điểm tựa và dùng cơ tay kéo toàn bộ cơ thể lên. Anh đã nhìn thấy mọi thứ bên trong, nửa thân trên đã ngoi được lên bục cửa. Tiếng bước chân đang đi mỗi lúc một gần hơn. Anh vội tóm lấy bục cửa và trong nháy mắt đã lăng được toàn bộ cơ thể vào bên trong.

Hulohot nghe rõ tiếng người rơi trên sàn ngay phía tầng dưới.

Hắn nhảy nhẹ về phía trước rồi lên đạn. Hắn nhìn thấy cánh cửa sổ. Hắn đang ở đây! Nghĩ vậy, y di chuyển về phía bức tường bên ngoài và chĩa súng xuống dưới. Hắn nhìn thấy chân của Becker vừa thụt vào, khuất khỏi khúc uốn cầu thang. Hulohot xả đạn dữ dội, vỏ đạn văng rào rào xuống chân cầu thang.

Chạy xuống theo con mồi, hắn luôn bám sát bức tường bên ngoài để có góc nhìn rộng nhất. Vì đây là loại cầu thang hình xoáy ốc nên dường như Hulohot và David Becker luôn là hai điểm đối diện trên một hình tròn. Becker luôn ở phía trước và ngoài tầm ngắm của Hulohot. Becker nép vào sát tường để cắt góc nhìn. Anh nhảy bốn, năm bậc một. Hulohot đã theo kịp Becker, khoảng cách giờ chỉ còn bằng một làn đạn. Hắn đang cố rút ngắn khoảng cách.

Dù Becker có chạy được xuống dưới thì cũng không còn đường thoát thân. Hắn sẽ bắn từ đằng sau, khi Becker chạy qua hành lang lớn. Cuộc truy sát sinh tử diễn ra thật chóng vánh.

Hulohot di chuyển vào phía tâm cầu thang để chạy nhanh hơn. Hắn cảm thấy mục tiêu đã rất gần. Hắn luôn thấy bóng của Becker mỗi khi cả hai lao qua một ô cửa sổ trổ trên tường. Xuống, xuống tiếp, hình trôn ốc. Dường như hắn lúc nào cũng nhìn thấy David Becker vừa vụt qua chỗ ngoặt. Hulohot vừa dõi theo bóng Becker vừa để ý bậc cầu thang. Bỗng nhiên Hulohot thấy bóng của Becker vấp ngã. Cái bóng lảo đảo sang bên trái rồi bổ nhào xuống thềm cầu thang. Hulohot chạy nhanh về phía trước. Tóm được hắn rồi! Một vật kim loại vụt sáng loé lên trước mặt Hulohot. Hắn nhìn thấy cây chân nến và tránh sang bên trái nhưng không kịp nữa. Bị chân nến ngáng trúng vào giữa hai chân.

Khi hắn nhâc chân sau lên thì bị va mạnh vào thanh sắt, và bị đầu nhọn đâm sâu vào ống chân. Hắn chới với giang tay tìm chỗ vịn, nhưng trước và sau chỉ là khoảng không. Hulohot ngã nhào, lăn lông lốc trên cầu thang. Hắn lăn qua David đúng vào lúc anh cũng vừa ngã sấp, tay chới với. Cây chân nến trên tay Becker giờ đây đã găm luôn vào ống chân Hulhot khi tên này tiếp tục lông lốc lăn qua các bậc thang bằng đá cho đến khi xuống tận đến chân cầu thang. Khẩu súng trong tay Hulohot văng ra, rơi trên sàn, thân thể hắn vẫn lăn thêm năm sáu vòng nữa. Chỉ còn khoảng 12 bước chân nữa là y văng ra khỏi sân thượng của nhà thờ.

Xem tiếp chương 101

Chương 101

David Becker chưa bao giờ cầm súng, nhưng lúc này anh đang có một khẩu trong tay. Người Hulohot vẫn cuộn tròn trong bóng tối trên cầu thang Giralda. Becker dí nòng súng vào thái dương kẻ địch và cấn thận ngồi thấp xuống. Chỉ cần lên đạn và bóp cò.

Nhưng khẩu súng của Hulohot đã lên đạn sẵn. Trong nháy mắt, viên đạn đã kết liễu cuộc đởi Hulohot.

Becker buông súng rồi đổ vật xuống sàn. Bao lâu rồi mới có lúc anh lại muốn được khóc to lên. Nhưng phải cố ghìm lòng. Còn khối thời gian để làm điều đó. Đã đến lúc trở về nhà. Anh cố đứng lên, song chưa thể đi được vì quá mệt mỏi. Kiệt sức, David ngồi nghỉ một lúc lâu trên sàn cầu thang đá.

Lơ đãng, anh xem xét cái xác đang nằm cạnh đó. Đôi mắt của tên sát nhân bắt đầu đờ đẫn dần và như nhìn vào cõi vô định. Có vẻ cặp kính của hắn vẫn nguyên vẹn. Becker nghĩ đây là một cặp kính bất thường, có một dây kim loại nối từ tai mắt kính xuống một cái hộp nhỏ dắt ở thắt lưng. Anh thấy nó khác những chiếc kính bình thường, song cũng không còn đủ sức để xem xét thêm nữa.

Ngồi trên bậc cầu thang và miên man suy nghĩ, Becker đưa mắt nhìn chiếc nhẫn trên tay. Mắt anh vẫn đủ tinh tường để đọc dòng chữ khắc trên đó. Đúng như Becker suy đoán, chữ viết không phải là tiếng Anh. Nhìn chăm chú những ký tự được khắc trên mặt nhẫn một lát rồi ảnh chau mày nghĩ: Vật này có đáng để đổi lấy một sinh mạng không?

Khi Becker bước ra khỏi tháp chuông Giralda ánh nắng buổi trưa thật chói chang. Vết thương hai bên sườn không đau như trước nữa, thị lực cũng trở lại bình thường. Song anh vẫn choáng váng.

Becker đứng lại một lát và ngửi hương hoa cam. Rồi anh chậm rãi đi qua hành lang.

Khi Becker đang sải bước ra khỏi pháo đài, một chiếc xe tải thình lình tiến đến, đỗ lại bên cạnh anh. Hai người trong xe nhảy ra ngoài, họ đều mặc quân phục và còn rất trẻ. Họ tiến tới gần Becker với dáng vẻ cứng đơ như chiếc máy đã được gài sẵn chương trình hoạt động. Một người hỏi :

- Có phải David Becker không?

Becker dừng lại, ngạc nhiên vì họ biết tên anh. Becker hỏi :

- Các anh là ai?

- Hãy đi theo chúng tôi, ngay bây giờ!

Có điều gì đó khiến David Becker nghi ngờ cuộc gặp gỡ này.

Suy nghĩ ấy khiến đầu óc anh lại quay cuồng. Anh lùi lại. Người thấp hơn ném cho Becker một cái nhìn sắc lạnh. Anh ta nói :

- Lối này, ông Becker, đi ngay.

Becker quay đầu toan chạy, nhưng anh vừa nhấc chân thì một trong hai người đã rút súng ra. Becker cảm thấy ngực đau dữ dội, rồi cơn đau lan lên tận đỉnh đầu. Những ngón tay anh cứng đơ lại, mồi anh ngã xuống. Một giây sau, chỉ còn là mầu đen bao phủ.

Xem tiếp chương 102

Chương 102

Strathmore xuống đến nền tầng máy TRANSLTR, xuống khỏi chiếc thang hẹp và lội bì bõm trên nền nhà lõng bõng nước. Chiếc máy tính khổng lồ đang rung dữ dội. Hơi nước mù mịt, ngưng đọng thành những giọt lớn và rơi xuống như mưa. Còi báo động rú như sấm dậy.

Ông nhìn chiếc máy phát điện chính đã ngừng hoạt động. Xác của Phil vẫn đó, nằm vắt trên cánh quạt tản nhiệt. Quang cảnh nơi này chẳng khác gì một màn trình diễn dạ hội hóa trang.

Strathmore thấy tiếc về cái chết của Phil, nhưng đó chỉ là một tai nạn rủi ro. Chính anh ta đã buộc ông phải hành động như vậy.

Khi anh nhân viên An ninh hệ thống lao xuống cầu thang, luôn miệng khẳng định có virus xâm nhập, Strathmor đã chặn anh ta lại ở ngay chân cầu thang và cố giải thích mọi chuyện. Nhưng Phil nhất định không chịu tin: "Có virus, tôi sẽ gọi Jabba". Phil cố lao về phía trước, ngài chỉ huy cố chặn lại. Đầu cầu thang thì quá chật hẹp, mào chắn lại thấp. Mỉa mai thay, Phil đúng, đó chỉ là một con virus mà thôi. Cú ngã thật đáng sợ. Một tiếng thét kinh hoàng vang lên chỉ trong vòng một khoảnh khắc rồi lập tức im bặt. Nhưng cái mà ngài chỉ huy Strathmore nhìn thấy ngay sau đó còn hãi hùng hơn gấp nhiều lần. Từ một góc tối dưới chân cầu thang. Greg Hale đang ngước nhìn lên, vẻ mặt đầy kinh hãi. Đó chính là khoảnh khắc ông quyết định Greg Hale phải chết.

TRANSLTR kêu răng rắc. Strathmore bắt đầu quay ra xem xét cỗ máy. Phải cắt hẳn nguồn điện. Ông có thể thấy rất rõ thiết bị ngắt mạch vòng nằm ở bên kia máy bơm khí freon, bên trái thi thể của Phil. Strathmore biết chỉ cần kéo chiếc cần lên là mọi nguồn điện trong Crypto bị ngắt hoàn toàn. Vài giây sau những máy chính sẽ lại tiếp tục hoạt động, toàn bộ thiết bị làm lạnh sẽ trở lại bình thường và TRANSLTR sẽ an toàn.

Nhưng khi Strathmore định gạt cầu dao, ông nhận ra còn một trở ngại cuối cùng nữa: thi thể của Phil vẫn nằm vắt trên cánh quạt của một máy tản nhiệt. Tắt và bật lại máy chính chỉ gây thêm sự cố về điện nữa. Phải chuyển cái xác đó đi. Strathmore túm cổ tay Phil lôi ra. Xác Phil đã cứng đơ lại. Toàn bộ nước trong cơ thể đã bay hơi hết, cái xác lúc này đã khô đét lại. Ngài chỉ huy nhắm mắt lại, nắm lấy cổ tay xác chết rồi lôi ra. Cái xác xê dịch vài inch.

Strathmore cố hết sức lôi mạnh hơn nữa. Bỗng nhiên cái xác lộn về phía sau. Strathmore chới với rồi ngã nhào xuống cửa buồng máy.

Ông kinh hãi nhìn bàn tay mình. Trong tay ông là cánh tay của Phil đã long rời khỏi cơ thể.

Trên lầu, Susan vẫn tiếp tục chờ đợi. Cô ngồi trên ghế trong Node 3, người tê dại. Xác của Hale ngay dưới chân cô. Susan không thể tưởng tượng được ngài chỉ huy sẽ đi lâu như vậy. Cô cố gắng không nghĩ tới David nhưng vô ích. Lời của Hale như những lưỡi dao găm vào trái tim cô. "Tôi rất lấy làm tiếc về chuyện của David".

Susan nghĩ mình sắp phát điên mất.

Cô định chạy xuống Crypto thì Strathmore đã cắt nguồn điện.

Chỉ còn bóng đêm và sự im lìm bao trùm. Còi báo động im bặt và các màn hình trong Node 3 tắt ngấm. Trong bóng tối, không còn nhìn thấy xác của Greg Hale nữa, Susan sợ hãi co cả hai chân lên đi văng. Cô quấn chiếc áo khoác của Strathmore quanh mình.

Bóng tối tĩnh mịch bủa vây lấy cô.

Susan chưa bao giờ chứng kiến không khí tĩnh mịch đáng sợ như vậy ở Crypto. Thường thì luôn có tiếng máy kêu rền rĩ. Nhưng giờ đây dường như chỉ có tiếng thở dài thất vọng của một cỗ máy khổng lồ, tiếng lách tách nổ, tiếng quạt gió dần dần nhỏ đi. Susan nhắm mắt và cầu nguyện cho David. Cô cầu xin Chúa lòng lành che chở, bảo vệ người cô yêu.

Vốn không phải là một con chiên ngoan đạo, cô chưa bao giờ tin rằng Chúa sẽ nghe thấy lời cầu nguyện của mình. Nhưng lúc này, trong tâm trạng bất an, cô cần một chỗ dựa tinh thần. Bỗng nhiên cảm thấy có cái gì rung nhẹ ở ngực làm cô giật nảy mình.

Susan đặt tay lên ngực tự trấn an. Một lát sau cô hiểu ra đó không phải bàn tay của Chúa mà là vật gì đó trong túi áo khoác của ngài chỉ huy Strathmore. Ông đã đặt chế độ rung cho chiếc máy nhắn tin hiệu SkyPager. Có người vừa gửi cho Strathmore một tin nhắn.

Dưới đó 6 tầng nhà, Strathmore đang đứng cạnh thiết bị ngắt mạch vòng. Toàn bộ Crypto tối đen như mực. Ông tận hưởng bóng đêm một lúc. Có tiếng ống thoát nước đang chảy. Một cơn bão đã xảy lúc nửa đêm. Strathmore ngửa đầu ra sau cho nước mưa rơi xuống mặt để rửa trôi tội lỗi của mình. Mình sẽ không bị đánh bại,

Ông ta quỳ xuống và rửa thật sạch mùi thịt của Phil ám vào bàn tay.

Giấc mơ về Pháo Đài Số của Strathmore đã không thành, ông có thể chấp nhận thực tế đó. Thứ duy nhất quan trọng với Strathmore bây giờ là Susan. Lần đầu tiên trong đời, ngài chỉ huy nhận ra Tổ quốc và vinh quang không phải là tất cả. Tình yêu cũng là một phần tất yếu và không thể thiếu được. Ông đã hy sinh tuổi thanh xuân cho Tổ quốc, và danh dự. Ông đã sống khắc kỷ suốt bao nhiêu năm. Nhưng để được cái gì chứ? Để chứng kiến một gã giảng viên oắt con cướp đi giấc mơ của mình sao? Strathmore đã chăm sóc Susan, bảo vệ cô. Ông ta đã mong chinh phục được cô. Và bây giờ cuối cùng thì ông ta sẽ có được cô. Susan có thể cần đến bờ vai của ông. Khi Susan đau khố tột cùng, vô vọng vì mất mát, thì ông sẽ kịp thời xuất hiện để chứng minh cho cô thấy rằng tình yêu sẽ chữa lành mọi vết thương.

Danh dự, Tổ quốc, Tình yêu. David Becker sắp chết vì cả ba thứ đó.

Xem tiếp chương 103

Chương 103

Ngài chỉ huy chui lên từ cửa tang hầm như thể một người vừa từ cửa tử chui lên. Mặc dù quần áo sũng nước, nhưng bước chân ông vẫn rất nhẹ nhàng. Strathmore tiến đến Node 3, đến bên Susan tình yêu của ông, tương lai của ông.

Crypto đã sáng trở lại. Freon lại đang chảy xuống TRANSLTR như một dòng máu mang đầy dưỡng khí. Strathmore biết rằng chỉ vài phút nữa chất lỏng làm lạnh sẽ tràn xuống tầng hầm và những bộ vi xử lý ở bên dưới sẽ không bốc cháy. Cho rằng mình đã hành động kịp thời, Strathmore thở phào tự đắc, không hề biết rằng ông ta đã quá muộn mất rồi.

Ta là kẻ bất diệt, Strathmore nghĩ. Phớt lờ lỗ hổng ở Node 3.

Ông tiến tới cánh cửa điện, cánh cửa tự động mở ra. Strathmore bước vào phòng.

Susan đứng đó, mình vẫn khoác chiếc áo của ông, toàn thân ướt sũng, mái tóc rối bù. Trông cô như một nữ sinh năm thứ nhất vừa bị gặp mưa, còn Strathmore tưởng như mình là sinh viên năm cuối mang áo che mưa đến cho cô. Lần đầu tiên sau nhiều năm Strathmore thấy mình trẻ lại, và giấc mơ cửa ông giờ đang sắp thành hiện thực.

Nhưng khi tiến lại gần Susan, ông thấy mình đang nhìn vào ánh mắt của một người hoàn toàn xa lạ. Ánh mắt thật lạnh lùng, không còn thấy ánh nhìn trìu mến mọi khi nữa. Cô đứng bất động như một pho tượng, mắt đẫm lệ.

- Susan?

Một giọt nước mắt đang lăn xuống gò má run ray.

Strathmore hỏi gặng :

- Susan, chuyện gì vậy?

Máu của Hale đã chảy thành một vũng lớn trên sàn. Strathmore nhìn cái xác một cách lo lắng, rồi lại nhìn Susan. Liệu cô ấy có biết không? Không thể nào. Strathmore đã rất cấn trọng, không có gì sơ suất :

- Susan? - Ông tiến lại gần - Có chuyện gì vậy?

Susan vẫn không nhúc nhích.

- Em lo lắng cho David đúng không?

Môi cô mấp máy, nhưng vẫn chưa thể cất thành lời. Ông bước lại gần hơn, định chạm vào người cô, song lại do dự. Cái tên David rõ ràng đã tác động mạnh đến tâm trạng đau khổ của Susan. Đầu tiên chỉ là một cơn rùng mình, là sự run rẩy. Rồi dường như những đau khổ chợt trào lên trong lồng ngực của cô. Susan mấp máy môi muốn nói, nhưng không một âm thanh nào thoát ra khỏi cổ họng.

Không một lời nào.

Vẫn chằm chằm nhìn Strathmore với ánh mắt băng giá, cô rút từ trong túi áo ra một vật rồi giơ cho ông xem, cánh tay run rẩy.

Strathmore nhìn xuống, tưởng đó là khẩu Beretta. Khẩu súng vẫn ở trên sàn, nằm gọn trong tay Hale. Còn Susan đang cầm một vật nhỏ hơn. Ông nhìn nó và trong giây lát hiểu ra tất cả.

Strathmore nhìn trân trối. Thời gian nặng nề chậm chạp, không gian im lìm đến mức ông có thể nghe rõ tiếng tim mình đang đập.

Một vị anh hùng bao năm nay đã hạ gục vô số tên khổng lồ giờ chỉ trong chốc lát đã gục ngã. Ông đã bị hạ gục bởi chính tình yêu và chính sự ngu ngốc của mình. Ông đã nghĩa hiệp đưa chiếc áo khoác cho Susan, cùng với chiếc áo là thiết bị nhắn tin cá nhân của mình.

Giờ đến lượt Strathmore như hóa đá. Tay Susan run rẩy. Chiếc máy nhắn tin rơi xuống cạnh chân Hale. Mắt Susan mở to đầy kinh ngạc và ngỡ ngàng, một ánh mắt Strathmore không thể nào quên.

Gạt ông sang một bên, Susan lao ra ngoài.

Ngài chỉ huy không cản đường, cúi xuống và nhặt chiếc máy nhắn tin lên. Không có tin nhắn mới, vậy là Susan đã đọc hết.

Strathmore xem từng tin trên danh mục.

MỤC TIÊU: ENSEI TANKADO THANH TOÁN XONG.

MỤC TLÊU: PIERRE CLOUCHARDE- THANH TOÁN XONG.

MỤC TIÊU: HANS HUBER- THANH TOÁN XONG.

MỤC TIÊU: ROCIO EVA GRANADA- THANH TOÁN XONG.

Nhiều tin nhắn quá, ông ta bỗng thấy rùng mình. Mình sẽ giải thích, rồi Susan sẽ hiểu và tha thứ bởi tất cả cũng chỉ vì danh dự và Tổ quốc.

Nhưng vẫn còn một tin nữa ông chưa đọc - tin nhắn mà không lời lẽ nào có thể giải thích nổi. Run rẩy, ông đọc tin nhắn mới nhất MỤC TIÊU: DAVID BECKER - THANH TOÁN XONG.

Strathmore lắc đầu tuyệt vọng, giấc mơ đã tan thành mây khói.

Xem tiếp chương 104

Chương 104

Susan chạy ra khỏi Node 3.

MỤC TIÊU: DAVID BECKER - THANH TOÁN XONG

Như trong cơn ác mộng, Susan chạy về phía cửa chính. Giọng Hale vẫn văng vẳng bên tai: "Susan, Strathmore sắp giết tôi. Ông ta yêu cô tha thiết".

Chạy đến cửa chính, Susan đập tay tuyệt vọng lên bàn phím.

Cửa vẫn đóng, cô lần nữa cố gõ trên bàn phím nhưng cánh cửa quay vẫn không nhúc nhích. Susan gào lên trong câm lặng, mất điện nên mã số đã bị hủy. Cô vẫn không thể thoát ra được. Bỗng nhiên hai cánh tay từ đằng sau ôm quàng quanh thân thể rã rời của Susan. Một cảm giác quen thuộc nhưng thật ghê tởm.

Cánh tay này không có sức mạnh của một con thú như cánh tay của Hale, nhưng có có sức mạnh của sự tuyệt vọng, của một ý chí cứng như thép Susan quay lại. Khuôn mặt con người này đầy vẻ sợ hãi và tuyệt vọng. Một vẻ mặt cô chưa từng nhìn thấy.

Susan ông ôm lấy cô, van nài :

- Hãy để tôi giải thích.

Cô cố thoát ra khỏi vòng tay ấy thì ngài chỉ huy càng giữ chặt hơn.

Susan muốn kêu thét lên, nhưng không cất nối nên lời. Cô muốn chạy, nhưng bị hai cánh tay rắn như thép kìm giữ, níu cô lại.

Ông ta thì thầm :

- Tôi yêu em, tôi mãi yêu em.

Susan thấy lòng đau quặn thắt.

- Hãy ở lại với tôi.

Đầu óc quay cuồng bởi những hình ảnh ghê rợn: đôi mắt xanh của David nhắm lại lần cuối, thi thể Hale đẫm máu trên sàn, xác Phil gãy rời và bốc cháy dưới tầng hầm.

- Nỗi đau sẽ qua đi, rồi trái tim em sẽ ấm lại tình yêu thương.

Không một lời nào lọt được vào tâm trí Susan.

- Hãy ở lại với tôi - Giọng nói tiếp tục van nài - Tôi sẽ chữa lành vết thương lòng của em.

Cô cố dãy dụa, nhưng vô ích.

- Tôi làm vậy là vì hai ta, hai chúng ta sinh ra để yêu nhau, tôi yêu em - Những lởi ấy cứ tiếp tục tuôn trào như thể chúng đã bị kìm nén từ lâu lắm rồi - Tôi yêu em, yêu em.

Đúng lúc đó, cách họ ba mươi thước, có tiếng rít man rợ như thể muốn bác bỏ lời tỏ tình đầy tội lỗi của Strathmore. Ngay sau đó, TRANSLTR phát ra một âm thanh ghê rợn và khủng khiếp. Một thứ âm thanh họ chưa nghe thấy bao giờ, nghe như tiếng một con quái vật mình rắn đang phun phì phì dưới hầm. Chất freon dường như đã không xuống hầm kịp thời.

Ngài chỉ huy buông Susan ra, quay về phía chiếc máy tính trị giá 2 tỷ đô la. Mắt trợn tròn kinh hãi, ông ta vò đầu, hét to :

- Không! Không!

Cả tòa nhà sáu tầng bắt đầu rung chuyển, Strathmore loạng choạng từng bước tới gần rồi khuỵ gối xuống như kẻ tội đồ đang quỳ trước cơn thịnh nộ của Chúa Trời. Nhưng vô ích. Dưới tầng hầm, những bộ vi xử lý cấu tạo bằng chất Titan và Stronti bắt đầu bốc cháy.

Xem tiếp chương 105

Chương 105

Một quả cầu lửa phóng lên lướt qua 3 triệu con chip điện tử phát ra một thứ âm thanh kinh hoàng. Tiếng răng rắc của một khu rừng đang cháy, tiếng rít của bão lốc, tiếng la ó của một cô gái làng chơi đang giận giữ, tất cả đều bị nén lại trong thân máy. Giống như hơi thở của một con quái vật đang giãy dụa trong một cái hang bị bịt kín miệng, đang vùng vẫy tìm lối ra. Strathmore vẫn đang quỳ trên sàn, luồng âm thanh kinh khủng đó dội thẳng vào tai. Chiếc máy tính đắt nhất thế giới sắp trở thành đống sắt vụn cao tám tầng.

Chậm chạp, Strathmore quay lại nhìn Susan đang đứng như hóa đá cạnh cửa chính của Crypto. Ông nhìn chằm chẳm vào khuôn mặt đẫm nước mắt của Susan. Trong ánh sáng rực của lửa huỳnh quang, Susan dường như vẫn tỏa ra một thứ ánh sáng lung linh của riêng mình. Nàng đúng là một thiên thần, ông nghĩ. Ông cố kiếm tìm ánh sáng của thiên đàng trong đôi mắt ấy, nhưng chỉ nhìn thấy cái chết. Cái chết của niềm tin. Tình yêu thương và sự kính trọng đã biến mất hoàn toàn. Ngài chỉ huy biết nguồn động lực bấy lâu nay thúc đẩy mình phấn đấu giờ đây đã chết.

Strathmore sẽ không bao giờ giành được tình yêu của Susan. Không bao giờ nữa. Cảm giác cô đơn trống trải lúc này như muốn nuốt chửng toàn bộ con người ông.

Susan đờ đẫn nhìn về phía cỗ máy TRANSLTR. Cô biết rằng ngọn lửa bị hãm trong các bức tường xi măng sẽ vụt lên theo đường ống đó lan nhanh lên phía trên. Cô có cảm giác ngọn lửa đang tiến lại rất gần, càng ngày càng to hơn vì được tiếp thêm ôxy từ các con chip bốc cháy. Ngọn lửa đang cháy nhanh hơn. Chỉ trong chốc lát, toàn bộ Crypto sẽ bị thiêu rụi.

Ý trí Susan mách bảo cô chạy đi, nhưng ý nghĩ về cái chết của David vẫn tác động mạnh đến tâm trạng cô. Susan tưởng như mình đang nghe thấy giọng nói của David, giục cô thoát khỏi nơi kinh hoàng này, nhưng biết chạy đi đâu bây giờ. Crypto lúc này chẳng khác gì một ngôi mộ kín mít. Nhưng với Susan điều đó không đáng sợ nữa. Ngay cả cái chết cũng không thể làm cô sợ hãi. Chết đi rồi sẽ không thấy đau đớn nữa, và cô sẽ được ở bên David.

Toàn bộ Crypto bắt đầu rung chuyển mạnh như cơn giận dữ của con quái vật biển đang lồng lơn muốn thoát khỏi đại dương. Giọng David lại tiếp tục vang lên: "Chạy! Chạy đi Susan!"

Strathmore đang tiến về phía Susan, một khuôn mặt xa lạ, đôi mắt xám ánh lên sự chết chóc. Strathmore, vị anh hùng mà cô từng ngưỡng mộ chỉ là một kẻ sát nhân. Ông ta ôm chặt cô, hôn lên má Susan và van nài :

- Hãy tha thứ cho tôi!

Susan cố đẩy ra nhưng ông ta càng siết chặt hơn.

TRASNLTR bắt đầu rung chuyển như một quả tên lửa đang chuẩn bị lao vút ra khỏi bệ phóng. Mặt sàn của Crypto cũng rung lên, Strathmore giữ cô chặt hơn :

- Hãy ôm tôi đi! Susan, tôi cần em.

Susan bỗng cảm thấy một nguồn sức mạnh trỗi dậy trong từhg đường gân thớ thịt, giọng nói của David vẫn tiếp tục vang lên: "Em yêu, hãy ra khỏi đây mau". Cố hết sức bình sinh, cô vùng ra khỏi cánh tay của Strathmore. Tiếng gầm rú phát ra từ TRANSLTR đã trở nên đinh tai nhức óc. Ngọn lửa đã lan tới Crypto.

Giọng nói của David như đã truyền cho Susan một nguồn sức mạnh phi thường và đang dẫn đường chỉ lối cho cô. Susan lao qua sàn của Crypto, vụt qua lối đi hẹp dẫn tới cầu thang dành riêng cho Strathmore. Sau lưng cô, cỗ máy TRANSLTR gầm gào như sấm dậy.

Khi những con chip điện tử cuối cùng đã bị gãy rời ra, một nhiệt lượng lớn tỏa ra từ tầng hầm, bụi và mảnh gốm vụn bốc cao 30 foot. Ngay lập tức luồng ôxy ở Crypto tràn vào lấp đầy khoảng chân không rộng lớn.

Susan đã chạy lên đầu cầu thang và kịp túm vào tay vịn trước khi luồng hơi nóng cuồng nộ kịp cuốn cô vào. Cô loạng choạng, và nhìn thấy ngài phó giám đốc đang ngước lên nhìn cô từ tít phía dưới, bên cạnh TRANSLTR. Xung quanh ông ta là bão táp khủng khiếp nhưng sâu trong đôi mắt lại là một sự bình yên lạ kỳ. Môi ông mấp máy và thốt ra lời cuối cùng trong cuộc đời: "Susan".

Luồng khí trời thổi vào TRANSLTR khiến cho ngọn lửa bùng lên. Trong nháy mắt, ngài chỉ huy Trevor Strathmore chỉ còn là một cái xác cháy khô một huyền thoại.

Khi luồng hơi ập vào người Susan, cô bị đẩy về phía sau đến 15 foot, văng vào tận trong văn phòng của Strathmore. Tất cả những gì cô có thể nhớ được là một luồng khí nóng khủng khiếp.

Xem tiếp chương 106

Chương 106

Tại cửa sổ phòng họp của giám đốc phía trên mái vòm Crypto xuất hiện ba khuôn mặt, tất cả đều nín thở. Vụ nổ đã làm rung chuyển cả khu liên hợp NSA. Leland Fontaine, Chad Brinkerhoff và Midge Milken cùng nhìn trân trối, sững sờ, vẻ kinh hoàng hiện rõ trên khuôn mặt.

Phía dưới, cách bảy mươi feet. Crypto đang cháy hừng hực.

Mái vòm làm bằng polycacbonat vẫn chưa hề bị ảnh hưởng nhưng phía dưới mái vòm trong suốt đó, lửa đang bốc lên dữ dội. Khói đen cuộn xoáy mù mịt bên trong.

Cả ba cùng nhìn xuống, không nói một lời nào. Cảnh tượng này quá ghê rợn và hãi hùng. Fontaine đứng lặng một lúc. Cuối cùng ông ra lệnh, giọng nói hơi yếu nhưng vẫn vững vàng.

- Midge, hãy điều một đội xuống đó... ngay lập tức.

Trong phòng, điện thoại của Fontaine đổ chuông.

Đó là Jabba.

Xem tiếp chương 107

Chương 107

Susan không biết mình đã bất tỉnh bao lâu. Cảm giác bỏng rát ở cố họng đã khiến cô tỉnh lại. Hoàn toàn mất phương hướng, cô nhìn quanh. Cô thấy mình nằm trên tấm thảm, phía sau một cái bàn.

Nguồn ánh sáng duy nhất trong căn phòng là một tia sáng lạ lập loè màu da cam. Không khí sặc mùi nhựa cháy khét lẹt. Căn phòng này không còn là một căn phòng nữa, chỉ còn là một cái hộp bị phá hủy tan tành. Các tấm rèm đang bốc cháy và các bức tường chất dẻo Plexiglas cũng đang cháy âm ỉ.

Cô nhớ lại tất cả.

David.

Trong nỗi sợ hãi tột cùng, cô gắng đứng dậy. Cô cảm giác không khí đầy hơi độc đang ăn mòn khí quản. Cô loạng choạng lao ra cửa tìm đường ra. Khi vừa bước qua ngưỡng cửa, cô hụt chân xuống một khoảng không vô tận, may thay cô vừa kịp víu lấy khung cửa. Hành lang đã biến mất. Chỉ năm mươi feet phía dưới là một đống đổ nát và kim loại nóng chảy. Cô kinh hoàng liếc nhìn xuống sàn Crypto: Một biển lửa. Ba triệu con chíp silicon tan chảy khi TRANSLTR phát nổ tạo thành một khối nóng chảy như dung nham. Không khí sặc mùi axit cuộn lên. Susan biết đó là mùi cháy của silicon, một loại khí độc chết người.

Lùi lại phía phòng của Strathmore, cô bắt đầu cảm thấy mình yếu dần. Cổ họng cháy rát. Crypto đang chết, mình cũng thế, cô nghĩ.

Trông thoáng chốc, Susan nghĩ đến lối thoát duy nhất còn lại.

Thang máy riêng của Strathmore. Rồi cô hiểu điều đó là không thể; không thiết bị điện tử nào có thể hoạt động bình thường sau vụ nổ khủng khiếp đó.

Nhưng khi đang loạng choạng đi trong đám khói dầy đặc, Susan chợt nhớ đến câu nói của Hale: "Thang máy chạy bằng nguồn điện của tòa nhà bên cạnh! Tôi đã xem bản đồ điện rồi mà!". Và Susan tin đó là sự thật. Cô cũng biết rằng đường ống thang máy làm bằng bê tông cốt thép rất vững chắc.

Bị khói đen bủa vây tứ phía, Susan lao vội ra phía thang máy.

Nhưng khi tới nơi cô nhận thấy nút gọi của thang máy đã bị cháy đen. Susan đập tay lên bàn điều khiển đen sì và cánh cửa thang máy một cách tuyệt vọng.

Đột nhiên cô dừng lại, có tiếng vo vo phía sau cửa. Giật mình,

Susan ngước nhìn lên. Dường như chiếc thang máy đang ở ngay đó.

Susan nhấn nút lại lan nữa, và lại nghe thấy tiếng vo vo phía sau cánh cửa.

Và đột nhiên cô nhìn thấy.

Nút gọi không hề chết, nó chỉ bị phủ trong muội đen và bây giờ nó đang sáng lên yếu ớt ngay dưới các ngón tay nhọ nhem của cô.

Có điện!

Tràn đầy hy vọng, cô bấm nút, liên tục liên tục. Có cái gì đó đang hoạt động phía sau cánh cửa. Cô có thể nghe thấy tiếng cánh quạt thông gió bên trong thang máy. Thang máy đang ở đây. Sao cái cánh cửa chết tiệt này không mở ra nhỉ?

Nhìn qua lớp khói đen cô thấy các nút nhỏ của một bàn phím phụ, có đầy đủ các ký tự từ A đến Z. Susan chợt nhớ ra, tuyệt vọng: phải có mật khẩu.

Khói bắt đầu cuộn vào phòng qua khung cửa đã tan chảy. Cô lại tiếp tục đập thình thịch vào cánh cửa thang máy. Nó không chịu mở. Phải có mật khẩu, cô nghĩ, Strathmore không bao giờ nói với mình về mật khẩu này! Lúc này căn phòng đã dày đặc khói silicon.

Susan nghẹt thở, tựa vào cửa thang máy trong tuyệt vọng. Cánh quạt thông gió chỉ cách cô vài feet thôi. Cô đang đứng đó choáng váng cố gắng hít thêm không khí

Cô nhắm mắt lại, nhưng rồi tiếng gọi của David lại vang lên. "Chạy đi, Susan! Mở cửa ra! Chạy mau!". Cô mở mắt mong nhìn thấy khuôn mặt anh, đôi mắt xanh nồng nhiệt, nụ cười tinh nghịch.

Nhưng cô chỉ thấy những chữ cái từ A đến Z. Mật khẩu, Susan nhìn chằm chằm vào bàn phím. Cô không thể tập trung vào chúng được.

Màn hình phát quang ở dưới bàn phím có năm ô trống đang chờ nhập mật khẩu. Mật khẩu gồm năm ký tự, cô nghĩ. Và cô cũng ngay lập tức biết rằng đoán mò mật khẩu là việc không tưởng: hai mươi sáu mũ năm có nghĩa là sẽ có 1 1.881.376 khả năng xảy ra. Và giả sử cô có thể đoán được mỗi trường hợp trong một giây thì cô cũng phải mất mười chín tuần mới thử được hết.

Khi Susan Fletcher nằm trên sàn ngay phía dưới bàn phím, nghẹt thở, cô lại nghe thấy tiếng gọi tha thiết của ngài chỉ huy. Ông ta lại đang gọi: Tôi yêu em, Susan? Tôi đã yêu em từ lâu lắm rồi!

Susan! Susan! Susan!...

Cô biết, ông ta đã chết, nhưng giọng của ông ta vẫn còn văng vẳng bên tai. Cô nghe tên mình vang lên như một điệp khúc.

Susan... Susan...

Rồi, trong một thoáng ớn lạnh cô chợt nhận ra. Mật khẩu chính là tên mình. Run rẩy yếu ớt, cô cố gắng với lên bàn phím và nhập mật khẩu.

S U S A... N

Không đầy một giây sau, cánh cửa bật mở.

Xem tiếp chương 108

Chương 108

Thang máy của Strathmore lao xuống rất nhanh. Bên trong thang máy, Susan gắng sức hít sâu không khí trong lành vào lồng ngực. Choáng váng, cô dựa mình vào thành thang máy khi nó chuẩn bị dừng lại. Một lát sau, cô nghe thấy tiếng bánh răng chuyển động, thang máy lại hoạt động tiếp, lần này là theo chiều ngang. Susan cảm giác như chiếc thang máy đang đi lên khi nó bắt đầu đến khu trung tâm của NSA. Cuối cùng là một tiếng rít, thang máy dừng lại và cánh cửa mở ra.

Đang ho dữ dội, Susan Fletcher loạng choạng bước ra một hành lang xi-măng. Cô thấy mình đang ở trong một đường hầm thấp và hẹp. Hai đường màu vàng song song kéo dài trước mắt cô, chạy dài cho đến khi biến mất trong bóng tối.

Đó là đường cao tốc ngầm...

Cô lảo đảo bước đi theo đường hầm, tay lần theo tường để tìm lối Phía sau cô, cánh cửa thang máy đã đóng lại, bây giờ lại một lần nữa cô chìm trong bóng tối.

Yên lặng.

Chỉ còn nghe thấy tiếng máy rầm rập yếu ớt từ các bức tường dội lại.

Tiếng máy càng ngày càng rõ hơn.

Đột nhiên một luồng ánh sáng bừng lên như bình minh vừa ló rạng. Bóng tối bỗng chốc loãng dần ra thành một thứ ánh sáng xám mờ mờ. Các bức tường của đường hầm dần dần hiện rõ. Có một chiếc xe nhỏ đang rẽ ngoặt ở một góc của, đèn pha của nó làm cho cô lóa mắt. Susan tựa lưng vào tường và nhắm mắt lại. Một luồng gió tạt mạnh và chiếc xe vụt qua.

Một giây sau, cô nghe thấy tiếng phanh gấp. Tiếng động cơ lại quay trở lại nhưng lần này là đi giật lùi. Vài giây sau chiếc xe dừng lại ngay cạnh cô.

- Cô Fletcher! - Một giọng đầy ngạc nhiên thốt lên.

Susan chằm chằm nhìn vào khuôn mặt có vẻ quen thuộc trong chiếc xe đánh gôn.

- Lạy chúa tôi. Cô không sao chứ? Chúng tôi tưởng cô đã chết rồi! - một giọng đầy ngạc nhiên.

Susan vẫn ngơ ngác.

- Tôi là Chad Brinkerhoff, trợ lý của ngài giám đốc - anh chàng lắp bắp, quan sát cô, chuyên gia giải mã vẫn còn choáng váng.

Susan chỉ có thể nói yếu ớt :

- TRANSLTR...

Brinkerhofí khẽ gật đầu :

- Quên chuyện đó đi. Thôi, lên xe nào!

Ánh sáng đèn pha của chiếc xe gôn lướt trên tường xi măng.

- Có virus trong cơ sở dữ liệu chính - Brinkerhoff thốt ra.

- Tôi biết - Susan nói thều thào.

- Chúng tôi cần cô giúp đỡ.

Susan cố không để mình bật khóc.

- Strathmore... ông ấy....

- Chúng tôi biết, ông ấy đã bỏ qua vòng bảo vệ Gauntlet - Brinkerhoff nói.

- Đúng thế... và... - cô thấy cố họng mình cứng lại. Ông ta còn giết David!

Brinkerhoff đặt bàn tay lên vai cô an ủi :

- Sắp đến nơi rồi, cô Fletcher. Cố lên nào!

Chiếc xe gôn Kensington tốc độ cao vòng qua một góc của và phanh kít lại. Bên cạnh họ là một nhánh rẽ vuông góc với đường hầm, một hành lang được chiếu sáng bằng một thứ ánh sáng đỏ mờ hắt lên từ phía sàn.

- Nào - Brinkerhoff nói, đỡ cô ra khỏi xe.

Anh ta dẫn cô vào trong hành lang. Susan đi theo anh ta một cách vô thức như người mộng du. Hành lang bỗng trở nên dốc đứng Susan vịn lấy cầu thang và theo Brinkerhoff đi xuống. Không khí càng ngày càng lạnh hơn. Họ tiếp tục đi xuống sâu hơn.

Càng xuống sâu trong lòng đất, hành lang càng hẹp dần. Từ phía sau họ dội lại tiếng bước chân đi rất mạnh, bước chân của một người đang cố đuổi theo. Tiếng chân ngày càng rõ hơn. Cả Brinkerhoff và Susan cùng dừng lại và ngoái đầu lại.

Một người đàn ông da đen lực lưỡng sải bước về phía họ. Susan chưa nhìn thấy ông ta bao giờ. Bước đến gần, ông nhìn cô với ánh mắt thăm dò :

- Ai đây? - Ông ta hỏi.

- Cô Susan Fletcher - Brinkerhoff trả lời.

Người đàn ông to lớn rướn lông mày. Thậm chí ngay khi trong bộ dạng lem luốc và toàn thân ướt đầm, trông Susan Fletcher vẫn đẹp hơn nhiều so với những gì ông tưởng tượng.

- Còn ngài chỉ huy?

Brinkerhoff lắc đầu.

Ông không nói gì, cúi đầu hồi lâu, rồi quay lại phía Susan :

- Tôi là Leland Fontaine, rất vui vì cô đã an toàn - ông đưa tay bắt tay cô.

Susan nhìn ông chằm chằm. Cô luôn biết rằng, một ngày nào đó cô sẽ được diện kiến ngài giám đốc NSA nhưng cô không thể nào tưởng tượng nổi một tình huống gặp gỡ như thế này.

- Đi nào, cô Fletcher! - Fontaine nói và dẫn đường phía trước - Chúng tôi cần sự hỗ trợ của tất cả mọi người.

Trong lớp sương đỏ mờ ảo phía cuối hành lang, một bức tường thép chặn ngay trước lối đi. Fontaine tiến đến và nhập mật mã vào một hốc tường. Sáu đó ông đặt bàn tay phải lên một ô kính nhỏ.

Một luồng ánh sáng nhấp nháy trong giây lát và cánh cửa khổng lồ rung chuyển rồi trượt sang bên trái.

Chỉ có một phòng duy nhất trong NSA quan trọng hơn Crypto, và Susan Fletcher biết, cô đang chuẩn bị bước vào căn phòng đó.

Xem tiếp chương 109

Chương 109

Trung tâm điều khiển của ngân hàng dữ liệu của NSA trông giống như cơ quan đầu não NASA thu nhỏ. Hàng chục trạm máy tính đối diện với một màn hình ti vi cỡ lớn 30 và 40 feet trên bức tường phía cuối căn phòng. Trên màn hình là những con số, những biểu đồ liên tục xuất hiện và biến mất như ai đó đang đổi kênh vậy. Rất nhiều kỹ thuật viên vội vã chạy đi chạy lại từ trạm này sang trạm kia lôi theo các băng giấy in dài loằng ngoằng, miệng liên tục la hét đưa ra các lệnh. Một cảnh tượng hỗn loạn.

Susan nhìn chằm chằm đầy kinh ngạc vào đống thiết bị ấy.

Cô lờ mờ nhớ ra rằng trước đây người ta đã phải đào lấy đi 250 tấn đất để xây dựng trung tâm này. Nó được đặt sâu 214 feet dưới lòng đất, để được bảo vệ tuyệt đối chống được cả bom thông thường và bom nguyên tử.

Trên một trạm cao hơn hẳn nhô lên giữa phòng, Jabba đang đứng đó la hét, ra lệnh cho các trạm khác như thể một ông vua đang ra lệnh với các thần dân của mình. Màn hình ngay sau lưng ông ta sáng chói một dòng chữ. Một tin nhắn khá quen thuộc đối với Susan. Một dòng chữ lớn như treo ngay trên đầu Jabba :

BÂY GIỜ CHỈ CÓ SỰ THẬT MỚI CỨU CÁC NGƯỜI.

HÃY NHẬP MẬT KHẨU...???

Như đang bị rơi trong một cơn ác mộng kỳ quái, Susan đi theo Fontaine đến bục chỉ huy. Thế giới xung quanh cô dường như là một cuốn phim quay chậm lờ mờ.

Jabba nhìn thấy họ tiến đến và thét lên như một con bò điên.

- Tôi xây dựng hệ thống bảo vệ Gauntlet là có mục đích!

- Gauntlet đã chết rồi - Fontaine cũng quát lại với một giọng không kém.

- Tin cũ rồi, thưa giám đốc - Jabba làu bàu - Vụ nổ làm tôi điếng cả người. Thế cái lão Strathmore chết tiệt đâu rồi?

- Ngài Strathmore đã chết!

- Đáng kiếp.

- Bình tĩnh đi, Jabba, báo cáo tình hình cho chúng tôi xem nào. Hệ thống bị nhiễm virus nặng không? - ngài giám đốc ra lệnh.

Jabba nhìn tròng chọc vào ngài giám đốc hồi lâu rồi bỗng nhiên phá lên cười :

- Virus ư? - Tiếng cười hô hố của Jabba vang dội khắp tầng hầm - Có phải ông nghĩ nó chính là virus?

Fontaine giữ vẻ điềm tĩnh. Thái độ xấc láo của Jabba đã vượt quá giới hạn, nhưng Fontaine biết lúc này chưa cần phải vội vàng xử lý hành vi đó của Jabba. Ngồi xuống, Jabba vẫn tỏ ra trịnh thượng. Những vấn đề trầm trọng của máy tính đủ để ông ta bỏ qua những quy định về thứ tự trên dưới.

- Đấy không phải là virus hay sao? - Brinkerhoff kêu lên đầy hy vọng.

Jabba khịt mũi vẻ khó chịu :

- Những con virus luôn có một loạt chuỗi sao chép giống nhau, cậu bé đáng thương ạ! Đây không phải là virus!

Đầu óc Susan quay cuồng và cô không thể tập trung được.

- Thế thì vấn đề là gì nảo - Fontaine yêu cầu.

- Tôi tin là chúng ta đã bị nhiễm virus.

Jabba hít một hơi dài và hạ thấp giọng :

- Virus... - Những giọt mồ hôi rơi lã chã trên khuôn mặt ông. Jabba tiếp tục - Virus có khả năng tự sinh sản, chúng là loài sinh sản vô tính ngu xuẩn kiêu ngạo và ích kỷ. Sinh sản nhanh hơn cả thỏ. Nhưng đó lại là điểm yếu của chúng, ta có thể lai tạo chúng và cho chúng vào quên lãng. Không may là chương trình này không hề có đặc tính đó và không tái sinh. Nó rất nhạy bén và tập trung. Thực ra thì sau khi tiêu diệt được mục tiêu của mình nó sẽ tự phá hủy.

Jabba giơ hai tay hướng lên màn hình lớn đang dựng một viễn cảnh tàn phá thảm khốc, vẻ đầy tôn kính :

- Kính thưa quý vị! - Ông thở dài - Hãy chuẩn bị chào đón những anh hùng cảm tử trong đội quân tấn công máy tính, Con sâu!

- Con sâu ư? - Brinkerhoff lầm bầm - Cái tên thông tục này chẳng phù hợp với bọn xâm nhập quỷ quyệt ấy chút nào.

- Con sâu! - Jabba cố kìm giọng - Không có cấu trúc phức tạp, chỉ rất cơ bản, mẹ kiếp. Thế đấy, một sự đơn giản chết người. Nó chỉ thực hiện những gì nó được lập trình và rồi rút lui.

Fontaine nhìn Jabba nghiêm khắc.

- Và con sâu này được lập trình để làm cái gì? - Fontaine hỏi.

- Chịu chết! - Jabba trả lời - Hiện tại nó đang lan rộng và gắn vào các file dữ liệu mật của chúng ta. Sau đó nó có thể làm bất kỳ điều gì, nó có thể xóa toàn bộ dữ liệu, hoặc cũng có thể nó chỉ định in ra tất cả các hình mặt trời trên một số văn bản của Nhà Trắng.

Giọng của Fontaine vẫn giữ được vẻ bình tĩnh và tự chủ.

- Ông có thể dừng nó lại không?

Jabba thở dài và nhìn lên màn hình.

- Tôi không biết. Điều đó phụ thuộc vào việc tác giả của nó ghét chúng ta đến mức nào.

Ông chỉ tay lên màn hình :

- Có ai hiểu dòng chữ này có nghĩa gì không?

CHỈ CÓ SỰ THẬT MỚI CÓ THỂ CỨU CÁC NGƯỜI LÚC NÀY.

HÃY NHẬP MẬT KHẨU...???

Jabba chờ một hồi, không ai trả lời. Ông ta nói tiếp :

- Có vẻ như ai đó đang thách thức chúng ta, ngài giám đốc ạ. Một sự hăm dọa tống tiền. Đây đúng là một thông điệp tống tiền, nếu tôi không nhầm.

Giọng Susan thì thầm trống rỗng.

- Đó, đó là... Ensei Tankado.

Jabba quay sang phía cô. Ông ta nhìn cô hồi lâu, mắt mở to ngạc nhiên :

- Tankado?

Susan yếu ớt gật đầu.

- Anh ta muốn chúng ta thừa nhận... về cỗ máy... TRANSLTR và anh ta đã phải trả giá bằng...

- Thú nhận - Brinkerhoff cắt ngang, đầy kinh ngạc - Tankado muốn chúng ta thú nhận rằng chúng ta có TRANSLTR ư? Muộn rồi!

Susan định nói điều gì đó nhưng Jabba đã át đi.

- Có vẻ như Tankado có một mật mã hóa giải - Ông nói, ngước nhìn lên dòng tin trên màn hình.

Mọi người cùng quay ra.

- Mật mã hóa giải ư? - Brinkerhoff gặng hỏi.

Jabba gật đầu.

- Đúng vậy. Một mật khẩu có thể ngừng hoạt động của con sâu đó lại. Đơn giản là thế này, nếu chúng ta thừa nhận rằng chúng ta có TRANSLTR, Tankado sẽ cho chúng ta mã hóa giải. Chúng ta chỉ cần nhập nó và cứu được ngân hàng dữ liệu. Đó chính là một kiểu tống tiền công nghệ số.

Fontaine đứng chết lặng, nhưng không hề nao núng.

- Chúng ta còn bao nhiêu thời gian?

- Khoảng một giờ - Jabba nói.

- Cũng đủ thời gian để chúng ta tập hợp một cuộc họp báo và để cho họ biết hết sự thật.

- Ông có giải pháp gì không? - Fontaine hỏi.

- Ông nói xem chúng ta có thể làm gì?

- Giải pháp ư? - Jabba nói giọng đầy hoài nghi. - Ngài muốn một giải pháp à? Thì đây, ông hãy thôi cái trò đi đi lại lại ngu ngốc kia đi, giải pháp đấy!

- Bình tĩnh nào - Ông giám đốc cảnh cáo.

Ngài giám đốc - Jabba lắp bắp - Hiện Ensei Tankado đang kiểm soát ngân hàng dữ liệu này! Hãy cho anh ta bất kỳ thứ gì anh ta muốn. Nếu anh ta muốn cả thế giới này biết đến TRANSLTR, hãy gọi CNN và cho họ đưa tin. Đằng nào thì TRANSLTR bây giờ cũng chỉ là một cái hố sâu đổ nát dưới lòng đất thôi chúng ta còn sợ quái gì cơ chứ?

Mọi người cùng im lặng, Fontaine dường như đang cân nhắc quyết định của mình. Susan định lên tiếng, Jabba lại át cô đi.

- Ông còn chờ gì nữa, ngài giám đốc! Hãy gọi thằng Tankado! Nói với nó là ông sẽ chấp nhận cuộc chơi! Chúng ta phải có đoạn mã đó, không thì toàn bộ chỗ này sẽ không còn gì cả nữa!

Không ai nhúc nhích.

- Ông có mất trí không đấy - Jabba thét lên - Gọi cho Tankado đi! Nói với nó chúng ta chấp nhận rồi lấy đoản mã về cho tôi!

- Ngay bây giờ - Jabba lao ra cái điện thoại và bấm nút mở - Không sao, hãy cho tôi số của anh ta, tôi sẽ tự gọi.

- Vô ích thôi! - Susan thều thào - Tankado chết rồi.

Sau một hồi ngạc nhiên bối rối, cái tin làm cho Jabba choáng váng. Trông ông ta gần như quỵ ngã đến nơi.

- Chết rồi? Nhưng... như thế thì... chúng ta không thể...

- Có nghĩa là chúng ta phải có một kế hoạch mới - Fontaine bình tĩnh nói.

Mắt Jabba vẫn đờ đẫn trước cú sốc, một người từ phía cuối phòng gọi lớn.

- Jabba! Jabba!

Đó là Soshi Kuta, trợ lý kỹ thuật của ông ta. Cô chạy đến phía bục chỉ huy, lôi theo một dải giầy in loằng ngoằng. Vẻ mặt đầy lo lắng sợ hãi.

- Jabba! - cô thở hổn hển - Con virus... tôi vừa tìm ra nguyên tắc lập trình của nó! - Soshi giúi đống giấy vào tay Jabba.

- Tôi lôi cái này ra từ phần thăm dò hoạt động hệ thống. Chúng ta đã cô lập được lệnh thực hiện - hãy xem nó sẽ làm gì này?

Vẫn còn sửng sốt, viên trưởng An ninh hệ thống đọc và vội bám tay vào lan can cho khỏi quỵ xuống.

- Ôi, chúa ơi - Jabba thở dốc - Thằng chết treo khốn kiếp!

Xem tiếp chương 110

Chương 110

Jabba vẫn nhìn trân trân vào tờ giấy mà Soshi vừa đưa. Mặt tái đi lấy tay áo lau mồ hôi vã ra trên trán.

- Ngài giám đốc, chúng ta không còn cách nào khác. Phải ngắt nguồn ngân hàng dữ liệu ngay - Jabba nói.

- Không thể được, hậu quả sẽ rất thảm khốc... - Fontaine nói.

Jabba biết ngài giám đốc nói đúng. Có đến ba nghìn trạm kết nối ISDN trên toàn thế giới gắn với ngân hàng dữ liệu của NSA.

Hàng ngày các sỹ quan quân đội vẫn tải các hình ảnh liên tục về động thái của kẻ thù từ các vệ tinh. Các kỹ sư quân sự vẫn tải về các bản thiết kế các loại vũ khí tối tân. Các nhân viên điều phối của các ngành đang theo dõi tiến trình thực hiện nhiệm vụ. Ngân hàng dữ liệu của NSA là xương sống của hàng ngàn cơ quan chính phủ Hoa Kỳ. Tắt nguồn mà không báo trước sẽ ngưng toàn bộ hệ thống tình báo có tầm quan trọng sống còn trên toàn thế giới.

- Tôi biết hậu quả của nó, thưa ngài, nhưng chúng ta không còn lựa chọn nào khác!

- Hãy giải thích đi - Fontaine ra lệnh. Ông ta liếc nhìn Susan đứng bên cạnh trên bục chỉ huy. Trông cô như đang ở xa hàng đặm.

Jabba hít một hơi thật sâu và lại đưa tay lên lau trán. Cứ nhìn vào khuôn mặt ông ta lúc đó, mọi người trong phòng đều hiểu rằng những gì ông ta sắp nói ra sẽ thật khủng khiếp.

- Con sâu này không phải là một vòng suy diễn thông thường. Nó có khả năng lựa chọn, nói cách khác nó cũng có sở thích riêng.

Brinkerhoff định nói điều gì đó nhưng lại bị Fontaine chặn lại.

- Hầu hết các kiểu ứng dụng có tính năng hủy diệt sẽ xóa sạch dữ liệu trong ngân hàng dữ liệu - Jabba nói tiếp - Nhưng trường hợp này phức tạp hơn. Nó chỉ xóa một số tệp nằm trong một phạm vi nào đó.

- Có nghĩa là nó sẽ không tấn công toàn bộ ngân hàng dữ liệu? - Brinkerhoff hỏi, đầy hy vọng - Đó là tin tốt phải không?

- Không hề! - Jabba như muốn nổ tung. - Là tin xấu, rất xấu là khác mẹ kiếp!

- Bình tĩnh! - Fontaine ra lệnh và ông hỏi tiếp - Nó sẽ tấn công vào lĩnh vực nào? Quân sự? Hay tình báo?

Jabba lắc đầu. Rồi nhìn Susan, trông cô vẫn như đang ở tận đẩu tận đâu, và ngước nhìn lên, bắt gặp ánh mắt của ngài giám đốc :

- Ngài biết đấy, bất kỳ ai muốn truy nhập ngân hàng này từ bên ngoài phải đi qua một loạt các cồng an ninh trước khi được cho phép.

Fontaine gật đầu. Hệ thống cấp bậc cho phép truy cập ngân hàng dữ liệu cực kỳ chặt chẽ. Những người có nhiệm vụ sẽ truy cập thông qua mạng Internet trên toàn thế giới, tuỳ thuộc vào cấp bậc của người đó mà họ sẽ được phép truy nhập vào vùng của mình.

- Chính vì chúng ta gắn với hệ thống Internet toàn cầu - Jabba giải thích - Nên bọn tin tặc, chính phủ nước khác và EFF lúc nào cũng lởn vởn như lũ cá mập sẵn sàng thâm nhập ngân hàng này 24/24.

- Đúng thế! - Fontaine đáp - Và hệ thống lọc bảo vệ của chúng ta cũng làm việc 24/24 để ngăn chặn chúng. Anh định nói gì?

Jabba nhìn xuống tờ giấy và nói :

- Ý tôi là, Tankado không nhằm vào dữ liệu. - Ông nuốt nước bọt rồi nói tiếp - Mà nhằm vào hệ thống lọc bảo vệ của chúng ta.

Fontaine tái mặt. Dĩ nhiên là ông hiểu tác động của điều này rằng con sâu này đang nhằm vào hệ thống bảo mật của NSA.

Không có hệ thống này, tất cả các thông tin mật trong ngân hàng dữ liệư này sẽ trở thành thông tin miễn phí, ai cũng có thể truy cập và xem.

- Chúng ta phải tắt nguồn - Jabba nhắc lại - Trong khoảng một giờ nữa toàn bộ những người truy cập mạng nếu có một modem sẽ có được toàn bộ tin tối mật của chính phủ Mỹ.

Fontaine đứng chết lặng không nói được lời nào.

Jabba nóng lòng chờ đợi một hồi và cuối cùng quay lại ra lệnh cho Soshi.

- Soshi! VỀ NGAY BÂY GIỜ!

Soshi lao đi.

Jabba thường sử dụng VR. Trong hầu hết các hệ thống máy tính, VR có nghĩa là "thực tế ảo", nhưng ở NSA nó có nghĩa là trước khi được nhìn thấy trực tiếp. Trong một thế giới toàn các kỹ thuật viên, các chính trị gia với những trình độ kỹ thuật khác nhau, đôi khi chỉ có một biểu đồ như vậy mới có thể khiến tất cả mọi người cùng hiểu; một biểu đồ đơn giản gồm một đường đi xuống cũng thường tạo ra phản ứng thậm chí còn gấp 10 lần khả năng các con số trên bảng tính có thể tạo ra cho những người nhìn thấy chúng. Jabba biết rõ một lệnh VR trong trường hợp này sẽ rất hiệu quả.

- VR! - Soshi hét lên từ một khoang ở phía cuối phòng.

Một biểu đồ do máy tính tạo ra được quét lên màn hình trên tường phía sau họ. Susan nhìn lên một cách lơ đãng, như không hề biết đến sự nhốn nháo xung quanh cô. Mọi người trong phòng đều cùng nhìn về hướng Jabba đang nhìn.

Biểu đồ trước mặt họ có hình mắt bò. Tại giữa nó là một vòng tròn đỏ đánh dấu dữ liệu. Quanh tâm đỏ đó là năm vòng tròn đồng tâm khác có màu và độ dày khác nhau. Vòng tròn ngoài cùng gần như đã bị mờ gần như là trong suốt.

- Chúng ta còn năm lớp bảo vệ nữa, Jabba giải thích, gồm một máy chủ pháo đài phòng thủ chính, hai bộ lọc bảo vệ cho FTP và X-11 một khối đường ngầm và cuối cùng là một cửa sổ PEM (tiêu chuẩn cho việc bảo mật thư điện tử) ngay ở bên phải máy chiếu ấy. Vòng ngoài cùng đã biến mất, đó là các máy trạm đã bị xâm nhập. Chúng ta đã hoàn toàn mất chúng. Trong vòng một giờ nữa toàn bộ năm vòng còn lại cũng sẽ chung số phận. Khi đó cả thế giới sẽ đố xô vào và toàn bộ thông tin của NSA sẽ bị biến thành của chung.

Fontaine nhìn biểu đồ VR, mắt ông đỏ vằn lên.

Brinkerhoff rên rỉ yếu ớt :

- Con sâu này có thể mở ngân hàng dữ liệu của của chúng ta cho cả thế giới xem ư?

- Đây chỉ là một trò trẻ con thôi - Jabba ngắt lời - Gauntlet hoàn toàn có thể phát hiện ra, nhưng Strathmore đã tắt bộ lọc.

- Một hành động khiêu chiến - Fontaine thì thầm với giọng sắc lạnh. Jabba lắc đầu :

- Tôi cho rằng Tankado không chủ tâm đẩy sự việc đến nước này. Tôi cho rằng hắn định sẽ xuất hiện đúng lúc và chặn đứng con sâu lại.

Fontaine nhìn lên màn hình và nhận thấy vòng tròn hàng rào lửa ngoài cùng đã hoàn toàn biến mất.

- Vòng Bastion Host ngoài cùng đã bị nuốt chửng rồi! - một kỹ thuật viên từ phía cuối phòng thốt lên.

- Vòng tiếp theo đang bị tấn công kìa!

- Chúng ta phải tắt nguồn ngay - Jabba thúc giục - Theo biểu đồ VR thì chúng ta còn khoảng bốn mươi phút nữa. Tắt nguồn cũng là một quy trình phức tạp.

Đúng vậy. Hệ thống ngân hàng dữ liệu của NSA đã được thiết kế sao cho đảm bảo không bao giờ bị mất điện một cách vô tình hay khi bị tấn công. Các nút dự phòng phức tạp cho hệ thống điện thoại và điện được chôn trong các hộp thép chắc chắn sâu dưới lòng đất, và ngoài các đường dẫn trong khu tổ hợp của NSA, còn cố các chốt dự phòng phức tạp khác tách khỏi hệ thống dây chính.

Ngắt nguồn sẽ bao gồm nhiều quá trình khẳng định phức tạp và nghi thức khác, còn phức tạp hơn nhiều so với việc lắp đặt một trạm do thám nguyên tử ngầm dưới đại dương.

- Chúng ta còn thời gian - Jabba nói - Nếu chúng ta khẩn trương, có thể thực hiện tắt nguồn thủ công trong vòng khoảng 30 phút.

Fontaine tiếp tục nhìn lên biểu đồ VR, cân nhắc quyết định của mình.

- Ngài giám đốc! - Jabba hét lên - Khi những bức tường bảo vệ này bị tấn công, toàn bộ người sử dụng Internet trên thế giới sẽ tha hồ truy cập tin mật của ta. Và, tôi đang nói xa hơn nữa, tất cả những thông tin hoạt động tình báo của chúng ta, điệp viên đang ở nước ngoài, tất cả các tên địa chỉ của các nhân chứng trong chương trình bảo vệ nhân chứng liên bang, mã kiểm duyệt, tất cả, sẽ lộ hết. Chúng ta phải tắt nguồn ngay bây giờ, ngay lập tức!

Ông giám đốc dường như không hề lay chuyển :

- Phải có cách khác chứ? - Ông thì thầm.

- Có đấy! - Jabba gắt - Cái mật mã hóa giải đó! Nhưng cái thằng khốn duy nhất có nó đã chẳng may chết rồi còn gì!

- Thế còn nguyên tắc brute-force [1] thì sao? - Brinkerhoff đột nhiên thốt lên - Liệu chúng ta có thể đoán được đoạn mã này không?

Jabba khoát tay.

- Lạy chúa! Đoạn mã giống như việc mật mã hóa các phím ngẫu nhiên! Làm sao mà đoán được! Nếu cậu nghĩ có thể đánh 600 tỉ tỉ lần trong vòng 40 phút tới thì cứ đi mà đoán!

- Đoạn mã đang ở Tây Ban Nha - Susan yếu ớt cất tiếng.

Tất cả mọi người trong bục chỉ huy quay lại. Đó là câu đầu tiên của cô sau một hồi lâu im lặng.

Susan ngước nhìn lên, mắt nhoè đi. Cô nói :

- Tankado đã đem cho không đoạn mã ấy trước khi chết.

Tất cả đều thất vọng.

- Cái mật khẩu ấy... - Người Susan run lên khi cô cố gắng nói - Ngài chỉ huy Strathmore đã cho một người đi tìm nó.

- Và sao nữa - Jabba gặng hỏi - Người của Strathmore có tìm thấy không?

Susan cố kìm nén nhưng nước mắt cứ giàn giụa :

- Có, cô nghẹn ngào, tôi nghĩ là có.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Brute-force: phương pháp đoán mã bằng cách so sánh lần lượt tới khi tìm ra mã.

Xem tiếp chương 111

Chương 111

Một tiếng hét chói tai xé tan không khí căn phòng.

- Cá mập!

Đó là Soshi.

Jabba quay ngoắt lại phía màn hình VR. Hai đường mảnh nữa xuất hiện bên ngoài đường tròn đồng tâm trông chúng như một đám tinh trùng đang gắng sức thâm nhập quả trứng.

- Trong nước có mùi máu mà, thưa các vị! - Jabba quay lại phía ông giám đốc. - Tôi cần một quyết định. Hoặc là chúng ta bắt đầu tắt nguồn bây giờ hoặc là chúng ta sẽ chẳng có cơ hội để làm việc đó nữa. Ngay sau khi hai đường này phá được máy chủ Bastion Host, chúng sẽ gửi đi thông điệp kêu gọi cùng tấn công.

Fontaine không phán ứng gì. Ông đang chìm trong suy nghĩ.

Lời nói của Susan Fletcher về cái đoạn mã ở Tây Ban Nha dường như là một hy vọng đối với ông. Ông liếc nhìn Susan ở phía cuối phòng. Cô ấy dường như đang sống trong một thế giới khác của riêng mình, đổ gục trên ghế, đầu gối lên tay. Fontaine không biết chính xác điều gì đã khiến cô phản ứng như vậy, nhưng ông không còn thời gian để nghĩ cho chuyện đó nữa.

- Tôi cần một quyết định, ngay bây giờ! - Jabba gào lên.

Fontaine vẫn nhìn lên. óng nói giọng đầy vẻ bình tĩnh.

- Được, quyết định đây, chúng ta sẽ không tắt nguồn. Chúng ta sẽ đợi.

Giọng Jabba bỗng hạ xuống :

- Cái gì? Nhưng điều đó sẽ có nghĩa là....

- Một trò mạo hiểm! - Fontaine cắt ngang - Một trò mạo hiếm, chúng ta có thể sẽ thắng - Ông nhấc điện thoại của Jabba, bấm một số phím và nói.

- Midge à, tôi, Leland Fontaine đây. Hãy nghe cho kỹ này...

Xem tiếp chương 112

table border="0" width="100%" bgcolor="#FFD7CC" height="45"> Dan Brown

Pháo đài số

Chúc Linh dịch

Chương 112

- Ông có biết mình đang làm cái quái gì không ông giám đốc? - Jabba rít lên - Chúng ta đang mất dần khả năng tắt nguồn đấy!

Fontaine không hề trả lời.

Ngay lập tức cánh cửa phía sau mở, Midge lao vào. Bà ta chạy vội lên bục chỉ huy, thở dốc.

- Ngài giám đốc! Tổng đài sẽ kết nối ngay bây giờ!

Fontaine quay lại phía màn hình trên tường. Mười lăm giây sau màn hình bắt đầu xuất hiện.

Lúc đầu hình ảnh còn mờ và nhiễu rồi dần dằn trở nên nét hơn. Hình ảnh được truyền về qua hệ thống số QuickTime cho năm hình một giây. Trên màn hình là hai người đàn ông, một người trông tái mét, toàn thân đầy vết thương trầy xước, người kia là một người Mỹ tóc vàng. Họ cùng ngồi đối diện với màn hình máy quay trông như hai phát thanh viên đang chờ phát sóng.

- Cái quái gì thế? - Jabba hỏi.

- Ngồi yên! - Fontaine ra lệnh.

Hai người đàn ông có lẽ đang ngồi trong một chiếc xe tải. Đây cáp điện treo chằng chịt quanh họ. Âm thanh tiếp tục được kết nối.

Đột nhiên có tiếng tạp âm.

- Âm thanh được tải về - một giọng kỹ thuật viên vang lên từ phía sau - Năm giây nữa sẽ có âm thanh hai chiều.

- Ai vậy? - Brinkerhoff hỏi, vẻ khó chịu.

- Các đặc vụ của chúng ta - Fontaine trả lời, mắt nhìn lên hai nhân viên ông đã điều đi Tây Ban Nha. Đó là một sự đề phòng cần thiết. Fontaine hoàn toàn tin tưởng vào tất cả các bước trong kế hoạch của Strathmore - việc phải trừ khử Ensei Tankado là đáng tiếc song phải làm, viết lại Pháo Đài Số - một quyết định đúng đắn.

Nhưng chỉ còn một điều khiến ông băn khoăn đó là việc thuê Hulohot. Hulohot là một tay chuyên nghiệp nhưng chỉ là lính đánh thuê. Liệu hắn có đáng tin cậy không? Liệu hắn có giữ bí mật đoạn mã hóa giải không? Fontaine phải theo dõi mọi động thái của Hulohot, để đề phòng trường hợp xấu nhất có thể xảy ra.

Xem tiếp chương 113

Chương 113

- Không đời nào! - Một người hét vào màn hình. Chúng tôi đã có lệnh, chúng tôi chỉ báo cáo tình hình cho ngài giám đốc Leland Fontaine, chỉ Ngài Leland Fontaine thôi!

Fontaine có vẻ hơi buồn cười, ông hỏi lại :

- Thế các cậu không muốn biết tôi là ai à?

- Ông có là ai thì cũng thế cả thôi? - Người kia phản ứng dữ dội.

- Hãy để tôi giải thích - Fontaine xen vào - Để tôi giải thích cho các cậu ngay bây giờ.

Chỉ vài giây sau, cả hai người đàn ông đều đỏ mặt, lắp bắp báo cáo với ngài giám đốc Cơ quan An ninh Quốc gia.

- Thưa ngài giám đốc, người tóc vàng run run, tôi là đặc vụ Coliander, còn đây là đặc vụ Smith.

- Tốt - Fontaine nói - Hãy trình bày ngắn gọn!

Ở phía cuối phòng Susan Fletcher đang ngồi đó, cố chống chọi lại sự cô đơn đến nghẹt thở đang vây quanh mình. Mắt cô nhắm nghiền hai tay rung rung, cô khóc, toàn thân cô như tê cứng lại. Sự hỗn độn xung quanh dường như nhòa đi chỉ còn là những âm thanh mờ nhạt xa xôi.

Nhóm người tập hợp trên bục bồn chồn lắng nghe tin tức đặc vụ Smith báo về.

- Theo lệnh của ngài, thưa Giám đốc, chúng tôi đã ở Seville hai ngày lần theo dấu vết của Ensei Tankado.

- Hãy trình bày vụ ám sát! - Fontaine nóng lòng cắt ngang.

Smith gật đầu, anh bắt đầu nói :

- Chúng tôi đã quan sát được từ trong xe tải cách hiện trường khoảng năm mươi mét, vụ thủ tiêu đã diễn ra êm thấm. Hulohot đúng là một tay chuyên nghiệp. Nhưng sau đó kế hoạch của hắn bị thay đổi. Nhiều nhân chứng xuất hiện và hắn đã không lấy được vật đó.

Fontaine gật đầu. Hai đặc vụ đã liên lạc với ông khi ông đang ở Nam Mỹ, báo cáo rằng một số chi tiết đã không theo như kể hoạch. Chính vì tin này mà Fontaine đã rút ngắn thời gian chuyến đi của mình.

Coliander nói tiếp :

- Chúng tôi đã bám theo Hulohot như ngài đã ra lệnh. Nhưng hắn đã không bám theo mục tiêu mà lại bám theo một gã nào đó, có vẻ là việc riêng, rất kín đáo.

- Riêng ư? - Fontaine sửng sốt. Có vẻ như Strathmore đã gạt NSA ra ngoài cuộc rồi.

- Bộ lọc FTP đã bị xóa sổ! - Giọng một kỹ thuật viên.

- Chúng ta phải có vật đó! - Fontaine nhấn mạnh - Hulchot đâu?

Smith nhìn xuống phía vai của mình và trả lời :

- Hắn đang ở đây thưa ngài.

Fontaine thốt lên :

- Đâu?

Đó là tin tốt lành nhất ông nghe được trong ngày hôm đó.

Smith tiến về phía màn hình và di chuyển hướng máy quay.

Ống lính lướt sang phía hai thân thế mềm rũ dựa vào tường. Cả hai đều không cử động. Đó là một gã đàn ông to lớn đeo kính gọng kim loại xoắn, người còn lại là một chàng trai trẻ, tóc đen và người bê bết máu.

- Hulchot là gã bên trái - Smith giải thích.

- Hulohot chết rồi à? - Ngài chỉ huy hỏi.

- Vâng, thưa ngài.

Fontaine biết họ sẽ giải thích điều này sau. Ông nhìn lên vòng tròn bảo vệ mỏng manh trên biểu đồ. Và ra lệnh rất chậm và rõ ràng :

- Điệp viên Smith, tôi cần vật đó!

Smith nói đầy vẻ e ngại :

- Thưa ngài, chúng tôi vẫn chưa biết vật đó là cái gì.

Xem tiếp chương 114

Chương 114

S- Thế thì tìm lại đi! - Fontaine ra lệnh.

Ngài chỉ huy nôn nóng nhìn lên màn hình chờ đợi hai đặc vụ lục tìm hai cái xác mềm oặt trên xe, mong tìm thấy một mẩu ghi số hoặc chữ gì đó.

Jabba tái mặt và anh ta thốt lên :

- Ôi, lạy chúa tôi. Họ mà không tìm được nó thì chúng ta sẽ chết!

- Đã mất hoàn toàn bộ lọc bảo vệ FTP! - một giọng la lên - Vòng thứ ba bắt đầu bị tấn công ồ ạt!

Mọi người lại bắt đầu nhốn nháo.

Trên màn hình trước mặt, một đặc vụ giơ tay lên vẻ tuyệt vọng, anh ta nói :

- Thưa chỉ huy, đoản mã không có ở đây. Chúng tôi đã tìm khắp trên người cả hai, lục túi, quần áo, ví. Chẳng có dấu vết gì cả Hulohot còn đeo cả một máy nhắn tin, chúng tôi cũng đã kiểm tra nhưng không hề thấy một tin nhắn nào hắn gửi đi có dạng dãy số hay chữ gì cả, chỉ là danh sách những nạn nhân của hắn thôi.

- Mẹ kiếp! - Fontaine sôi lên, ông đột nhiên mất bình tĩnh - Nó phải ở đó chứ, tìm đi!

Jabba đã xem quá đủ, rõ ràng là Fontaine đã chơi trò mạo hiểm và đã thua. Bây giờ đến lượt Jabba ra lệnh. Vị lãnh đạo An ninh hệ thống bước xuống bục chỉ huy với dáng điệu của một cơn lốc đang tràn từ trên núi xuống. Ông ra lệnh cho đội quân lập trình viên phía dưới :

- Truy nhập các thao tác hỗ trợ! Bắt đầu tắt nguồn, ngay bây giờ!

- Không thể thực hiện được! - Soshi hét lên - Chúng ta cần nửa giờ để tắt nguồn! Đến khi tắt xong thì cũng đã quá muộn rồi!

Jabba toan nói điều gì đó thì bỗng nghe một tiếng thét đau đớn từ phía cuối phòng.

Mọi người quay lại. Susan Fletcher bỗng đứng bật dậy.. Mặt cô tái mét, mắt dán lên màn hình đang dừng lại ở David Becker, không động đậy, người bê bết máu nằm trên sàn xe.

- Các người đã giết anh ấy! - Cô thét lên - Các người đã giết anh ấy!

Cô nhao người về phía màn hình.

- David....

Mọi người đều bối rối ngước nhìn lên. Susan vẫn tiếp tục gọi tên David, mắt không rời khỏi màn hình.

- David - Cô thở gấp, lê người về phía trước.

- Ôi, David... làm sao chúng có thể...

Fontaine bối rối. Ông hỏi :

- Cô biết anh ta à?

Susan loạng choạng bước qua bục chỉ huy. Cô dừng lại cách màn hình vài feet và nhìn lên, bối rối và đờ đẫn, miệng không ngừng gọi tên người yêu.

Xem tiếp chương 115

Chương 115

Tâm trí David Becker đã hoàn toàn trống rỗng. Mình đã chết rồi.

Bỗng dưng anh nghe thấy một âm thanh, từ rất xa...

- David.

Anh cảm thấy đau nhói phía dưới cánh tay. Máu trong cơ thể nóng như có lửa. Cơ thể mình như không còn là của mình nữa rồi. Và anh lại nghe thấy tiếng gọi. Tiếng gọi thật xa, thật khẽ.

Nhưng nó như là một phần của chính anh. Rồi anh lại nghe thấy mấy giọng khác nữa, những giọng này không hề quen thuộc và không quan trọng. Cứ hỗn độn mãi. Anh cố gắng xua chúng đi.

Chỉ còn lại một giọng có ý nghĩa với anh, nó cứ chập chờn lúc rõ lúc yếu "David... em xin lỗi...".

Anh nhìn thấy đốm sáng, lúc đầu mờ, sau đó là một vệt xám. Cứ lớn dần lên. Becker cố gắng cử động, nhưng chỉ thấy đau đớn.

Anh cố nói nhưng không cất được thành lời. Giọng kia vẫn tiếp tục gọi.

Có ai đó ở bên cạnh anh, nâng anh dậy. Becker di chuyển dần về phía có tiếng gọi. Hay là anh được lôi đi? Vẫn tiếng gọi ấy. Anh ngơ ngác nhìn lên màn hình đang tỏa sáng. Anh nhìn thấy cô ấy trong một màn hình nhỏ. Một cô gái đang nhìn chằm chằm vào anh từ một thế giới khác. Có phải cô ấy thấy mình sắp chết?

- David....

Giọng nói quen thuộc quá. Cô ấy đúng là một thiên thần, thiên thần đang đến đón anh. Thiên thần lại nói: "David, em yêu anh".

Anh bỗng nhận ra.

Susan tiến gần hơn đến màn hình, gào khóc rồi lại cười đau đớn, điên dại. Cô lau nước mắt :

- David, em, em cứ tưởng...

Điệp viên Smith đỡ David Becker ngồi dậy hướng mặt lên màn hình.

- Cậu ấy chỉ hơi chóng mặt chút thôi, cô ạ. Chờ cậu ấy một chút - Smith nói.

- N... nhưng - Susan run lên, - Tôi đã đọc được dòng tin nhắn, rằng...

Smith gật đầu.

- Chúng tôi cũng vậy. Hulohot vẫn có tật báo tin trước khi hạ được mục tiêu.

- Thế còn máu...

- Chỉ bị thương phần mềm thôi - Smith trả lời.

- Chúng tôi đã băng bó rồi.

Susan không nói được gì.

Coliander xen vào màn hình.

- Chúng tôi đã làm cho anh ấy bất tỉnh bằng một khẩu súng gây mê tác dụng lâu dài hiệu J23 mới.

Chắc là đau lắm đấy, bọn tôi tìm thấy anh ấy trên phố.

- Cô đừng lo! - Smith an ủi - Cậu ấy sẽ khoẻ thôi.

David Becker nhìn chằm chằm lên màn hình TV trước mặt. Anh thấy mình mất phương hướng, đầu rỗng tuếch. Hình ảnh trên màn hình là một cán phòng, một căn phòng hỗn loạn. Susan đang ở đó, nàng đứng ở khoảng trống giữa phòng, đang nhìn anh.

Nàng đang khóc, cười trong nước mắt.

- Ôi David. Ơn chúa! Em cứ nghĩ đã mất anh rồi!

Anh lao đến phía màn hình, lôi cái micro sát gần miệng và gọi :

- Susan phải không?

Susan nhìn lên đầy bối rối. Hình ảnh của David vừa nãy nhỏ, giờ đây đã choán hết cả màn hình. Giọng của anh vang lên.

- Susan, anh muốn hỏi em một việc - Giọng của Becker vang vọng cả căn phòng và dường như làm ngưng lại hoạt động của cả cơ sở dữ liệu trong giây lát. Mọi người cùng dừng công việc và quay ra.

- Susan Fletcher! - giọng anh vang lên - Em sẽ lấy anh chứ?

Một sự im lặng bao trùm cả căn phòng. Một tập hồ sơ rơi xuống sàn chiếc bút chì lăn lông lốc. Không ai cúi xuống nhặt lên. Chỉ còn nghe thấy tiếng quạt gió trong máy và tiếng hơi thở dồn dập của David Becker trong microphone.

- D... David... - Susan run run, không hề nhận thức rằng có ba mươi bảy người đang chăm chú nhìn mình.

- Anh đã hỏi em rồi mà, anh nhớ chứ! Năm tháng trước. Và em đã nhận lời rồi.

- Anh nhớ - Anh mỉm cười. - Nhưng lần này... - anh giơ cánh tay trái lên màn hình và mọi người nhìn thấy một vệt vàng trên ngón áp út của anh - Nhưng lần này anh có nhẫn.

Xem tiếp chương 116

Chương 116

- Hãy đọc nó đi, Becker! - Fontaine ra lệnh.

Jabba ngồi xuống, người đẫm mồ hôi, tay đặt sẵn sàng trên bàn phím và nhắc lại:.

- Đúng rồi. Hãy đọc dòng chữ khắc trên chiếc nhẫn đi.

Susan Fletcher đứng cạnh họ, đầu gối bủn rủn. Mọi người trong phòng đã dừng làm việc và nhìn chằm chằm vào màn hình chiếu phim cỡ lớn có hình của David Becker.

Vị giảng viên xoay chiếc nhẫn trên tay mình trong khi chăm chú xem dòng chữ.

- Và hãy đọc cẩn thận! - Jabba yêu cầu - Chỉ một lỗi thôi là chúng ta tiêu đấy!

Fontaine ném một cái nhìn khó chịu về phía Jabba. Có một điều mà vị giám đốc của NSA biết rất rõ, đó là trong các tình huống căng thẳng thì không bao giờ nên tạo ra thêm áp lực.

- Thư giãn đi, Becker. Nếu sai, chúng ta sẽ nhập đi nhập lại cho đến khi đúng thì thôi!

- Đó là lời khuyên tồi đấy, Becker ạ! - Jabba cáu gắt - Hãy làm đúng ngay từ lần đầu tiên đi. Các mã của các vụ giết người thường không chấp nhận những mã giải có tính chất thử nghiệm và có sai sót đâu. Nếu một lần nhập không đúng thì nó sẽ gia tăng tốc độ phá hoại. Nếu nhập sai hai lần thì chúng ta sẽ bị khóa ở ngoài vĩnh viễn. Trò chơi sẽ chấm đứt.

Vị giám đốc cau mày và quay lưng lại màn hình và ông nói :

- Becker này. Nghe lại nhé. Hãy đọc cẩn thận, cực kỳ cẩn thận nhé.

Becker gật đầu và chăm chú nhìn kỹ chiếc nhẫn giây lát. Rồi bắt đầu bình tĩnh đọc: "Q...U...I...S...cách...C..."

Jabba và Susan đồng loạt ngắt lời :

- Cách? - Jabba ngừng đánh - Có một chỗ cách à?...

Becker nhún vai, kiểm tra chiếc nhẫn.

- Đúng thế... nhiều chỗ cách lắm.

- Tôi bỏ sót điều gì à? - Fontaine hỏi - Chúng ta đang chờ đợi cái gì?

- Thưa ngài... - Susan đáp, có vẻ lúng túng - Đó là...đó chỉ là...

- Tôi đồng ý! - Jabba nói.

- Thật kỳ lạ. Mã khóa hóa giải không bao giờ có chỗ cách cả.

Brinkerhoff nuốt nước bọt một cách khó nhọc.

- Vậy, anh đang nói gì?

- Anh ấy muốn nói... - Susan đột ngột chen vào - Rằng đây có thể không phải là đoạn mã hóa giải.

Brinkerhoff nói lớn :

- Tất nhiên đó là đoạn mã hóa giải. Còn có thể là gì khác được cơ chứ Tại sao Tankado lại cố tình đem cho đi? Ai lại khắc các chữ cái ngẫu nhiên lên chiếc nhẫn làm gì?

Fontaine yêu cầu Brinkerhoff im lặng bằng một cái nhìn sắc lạnh.

- À! - Becker chen vào, có vẻ lưỡng lự khi tham gia cuộc tranh cãi Các vị cứ nhắc đến một đoạn ký tự ngẫu nhiên. Tôi nghĩ nên báo cho các vị biết các chữ cái trên chiếc nhẫn này không phải là ngẫu nhiên.

Mọi người trong phòng cùng thốt lên :

- Cái gì?

Trông Becker có vẻ băn khoăn.

- Tôi xin lỗi, nhưng đây rõ ràng là các từ có nghĩa. Tôi công nhận chúng được khắc khá gần nhau, nhưng nếu nhìn thật gần sẽ thấy dòng chữ được khắc thực sự là... nó là chữ La tinh.

Jabba há hốc mồm :

- Anh nói cái gì nghe kinh thế?

Becker lắc đầu :

- Không. Dòng chữ này nghĩa là "Quis custodie ipsos custodie". Dịch đại khái là...

- Ai sẽ giám sát những giám sát viên - Susan ngắt lời David, nói nốt câu đó

Becker cũng ngắt lời Susan :

- Susan, anh cứ tưởng là em không biết...

- Trích trong Satires của Juvenal! - Cô thốt lên - Ai sẽ giám sát những giám sát viên? Ai sẽ giám sát NSA trong khi chúng ta giám sát thế giới? Đó là câu nói ưa thích của Tankado đấy.

- Vậy! - Midge hỏi - Nó có phải là chìa khóa giải mã hay không?

- Nó phải là chìa khóa giải mã - Brinkerhoff tuyên bố.

Fontaine đứng im lặng, rõ ràng là đang xử lý thông tin.

- Tôi không biết nó có phải là chìa khóa không. - Jabba trả lởi - Tôi không nghĩ là Tankado sẽ lấy một câu có nghĩa làm mã hóa giải.

- Cứ bỏ các chỗ cách đi! Brinkerhoff kêu lên - Và gõ cái mã chết tiệt kia vào.

Fontaine quay sang Susan :

- Đến lượt cô, Fletcher, cô nghĩ sao?

Susan suy nghĩ một lát. Không dám chắc lắm nhưng cô cảm thấy có cái gì đó không ổn. Susan hiểu Tankado tới mức cô biết rằng anh ta yêu thích sự đơn giản. Các phần mềm thử nghiệm và chương trình của anh ta luôn mạch lạc và hoàn hảo. Việc bỏ các chỗ cách có vẻ không rõ ràng. Đó chỉ là một chi tiết nhỏ, nhưng đó là một lỗi, rõ ràng là không hoàn hảo - không giống cách Ensei Tankado chuẩn bị cho một cuộc đột kích sinh tử.

- Có vẻ không đúng đâu. - Cuối cùng Susan lên tiếng - Tôi nghĩ đó không phải là mã hóa giải.

Fontaine thở dài, đôi mắt đen nhìn Susan thăm dò.

- Cô Fletcher, theo cô nếu nó không phải là chìa khóa thì tại sao Ensei Tankado lại trao tặng nó? Nếu anh ta biết là bị chúng ta giết, tại sao cô không giả sử là anh ta sẽ muốn trừng phạt chúng ta bằng cách làm cho chiếc nhẫn biến mất?

Bỗng một giọng nói lạ cắt ngang cuộc đối thoại.

- Thưa... ngài Giám đốc!

Tất cả các con mắt đều quay về phía màn hình. Đó là đặc vụ Coliander ở Seville. Anh ta như đang tựa vào vai Becker và nói vào micro.

- Thưa các quý vị, tôi cho là Tankado không biết anh ta đang bị ám sát.

- Anh nói lại xem nào? - Fontaine yêu cầu.

- Hulchot là một sát thủ chuyên nghiệp, thưa các vị. Chúng tôi chứng kiến vụ giết người - chỉ cách có năm mươi mét. Tất cả các bằng chứng đều thể hiện là Tankado không hề hay biết - Smith xen vào.

- Bằng chứng à - Brinkerhoff hỏi - Bằng chứng gì? Tankado đã đem cho chiếc nhẫn đi. Đó là bằng chứng đầy đủ nhất.

- Đặc vụ Smith! - Fontaine ngắt lời - Điều gì khiến anh nghĩ Ensei Tankado không biết anh ta đang bị ám sát?

Smith hắng giọng :

- Hulohot giết anh ta bằng một viên đạn không gây vết thương lan rộng. Đó là một viên đạn cao su bắn vào ngực và vùng xung quanh. Không một tiếng động! Rất sạch sẽ! Tankado sẽ chỉ cảm thấy một cú đấm mạnh trước khi tim ngừng đập.

- Một viên đạn gây chấn thương - Becker trầm ngâm - Điều đó giải thích cho các vết thâm tím.

- Không có lý do gì đế khẳng định rằng Tankado gắn cảm giác đau đớn đó với khả năng bị ám sát - Smith nói thêm.

- Ấy thế mà anh ta vẫn đem cho chiếc nhẫn? - Fontaine thận trọng.

- Đúng thế thưa ngài. Nhưng anh ta không hề tìm kẻ tấn công mình. Một nạn nhân luôn muốn biết kẻ nào đã giết mình khi anh ta đã bị bắn. Đó là bản năng.

Fontaine lúng túng :

- Và anh đang cho là Tankado không tìm kiếm Hulohot?

- Không, thưa ngài. Chúng ta sẽ xem phim nếu ngài muốn.

- Bộ lọc X-11 đang bị tấn công - Chuyên gia kỹ thuật lên tiếng - Con sâu đi được nửa đường rồi.

- Hãy quên cuốn phim đi! - Blinkerhoff tuyên bố - Hãy đánh mã vụ giết người đáng nguyền rủa đó và kết thúc nó.

Jabba thở một hơi dài rồi đột nhiên trở nên bình tĩnh :

- Thưa giám đốc, nếu chúng ta nhập mã sai...

- Đúng! - Susan ngắt lời - Nếu Tankado không nghi ngờ chúng ta giết anh ta thì có một số câu hỏi chúng ta phải trả lời.

- Jabba, còn bao nhiêu thời gian nữa? - Fontaine hỏi.

Jabba nhìn lên màn hình :

- Khoảng hai mươi phút. Tôi cho là chúng ta nên dùng thời gian một cách khôn ngoan.

Fontaine im lặng giây lát, rồi thở dài nặng nề :

- Được rồi. Cho chạy cuốn phim đi!

Xem tiếp chương 117

Chương 117

- Truyền hình ảnh trong vòng mười giây nữa. - Đặc vụ Smith lên tiếng - Chúng tôi đang tua qua tất cả các hình ảnh và âm thanh khác. Chúng tôi sẽ chiếu đúng đoạn anh ta bị giết!

Ai nấy trong phòng đều im lặng, xem và chờ đợi. Jabba gõ một số phím và điều chỉnh lại khung hình. Thông điệp của Tankado xuất hiện ở góc xa bên trái.

BÂY GIỜ CHỈ SỰ THẬT MỚI CỨU ĐƯỢC CÁC NGƯỜI

Phía bên phải của màn hình là quang cảnh bên trong của một chiếc xe tải đang đứng yên, Becker và hai người khác xúm lại quanh chiếc máy quay. Ở giữa, một hình ảnh mờ mờ xuất hiện. Nó chuyển về trạng thái tĩnh và rồi hình ảnh của một công viên hiện ra.

- Chuyển! - đặc vụ Smith thông báo.

Đoạn phim giống như một cuốn phim cũ. Việc cắt bớt hình đã mút đi một nửa lượng thông tin được chuyển tải và làm chậm tốc độ truyền đồng thời gây hiệu ứng nhảy hình.

Hiện lên trên màn hình cảnh một đường phố đông đúc gần mặt tiền của Seville Ayuntamiento. Nền của cảnh là những lùm cây. Công viên không một bóng người.

- Bộ lọc X-11 đã bị hạ! - Chuyên gia kỹ thuật nói to - Con sâu đang tiếp tục tấn công.

Smith bắt đầu tường thuật. Nhận xét của anh ta có vẻ khách quan của một điệp viên giàu kinh nghiệm :

- Đây là viên đạn bay ra từ chiếc xe tải. Cách vùng xảy ra án mạng khoảng năm mươi mét.

Tankado đang tiến đến từ phía bên phải. Hulohot ở trong các bụi cây bên trái!

- Chúng ta không còn nhiều thời gian đâu - Fontaine nhấn mạnh. - Hãy đi vào trọng tâm đi.

Đặc vụ Coliander bấm một số phím và tốc độ hình ảnh tăng lên. Mọi người đều nhìn lên màn hình khi người đồng sự cũ của họ, Tankado xuất hiện. Phím chạy nhanh làm cho toàn bộ hình ảnh như trong một bộ phim hoạt hoạ. Tankado lê chân cà nhắc bước tới ngã ba. Anh ta lấy tay che mắt và chăm chú nhìn con đường.

- Nó đấy! - Smith cảnh báo - Hulchot là một sát thủ chuyên nghiệp. Gã đã bắn viên đạn đầu tiên.

Smith đã đúng. Có một tia sáng loé lên từ phía sau đám cây phía trái màn hình: Sau đó ít giây Tankado ôm chặt lấy ngực. Anh ta loạng choạng trong chốc lát. Máy quay phim lướt nhanh về phía anh ta. Tankado đứng loạng choạng. Ông kính chuyển sang chế độ cận cảnh tập trung vào anh ta, nhưng không phải lúc nào cũng thu được hình anh ta vào đúng tâm điểm của khung hình. Trong khi đoạn phim yẫn chạy với tốc độ cao, Smith lạnh lùng tiếp tục công việc tường thuật :

- Như mọi người có thể thấy, Tankado ngay lập tức lâm vào tình trạng tim ngừng đập.

Susan cảm thấy mình không thể chịu đựng được những hình ảnh ấy. Tankado ôm ngực bằng bàn tay đị dạng, mặt đầy vẻ kinh ngạc và sợ hãi.

- Mọi người sẽ nhận thấy - Smith nói thêm - Đôi mắt của anh ta tập trung xuống phía dưới, vào chính anh ta. Chưa một lần anh ta nhìn xung quanh.

- Điều đó quan trọng lắm à? - Jabba nửa khẳng định nửa như muốn hỏi.

- Rất đúng! - Smith nói - Nếu Tankado nghi ngờ có bất kỳ trò bẩn thỉu nào thì anh ta sẽ quan sát khu vực xung quanh, theo bản năng. Nhưng mọi người cố thể thấy là anh ta không làm vậy.

Trên màn hình Tankado gục xuống đầu gối, tay vẫn ôm ngực. Anh ta chưa bao giờ nhìn lên. Ensei Tankado là một người cô đơn, và cái chết của anh ta cũng thật cô độc.

- Có một điều lạ lùng - Smith nói, lúng túng - Những viên đạn gây chấn thương thường sẽ không giết người nhanh chóng. Đôi khi, nếu mục tiêu đủ lớn, thậm chí chúng còn không giết được đối tượng.

- Một trái tim yếu ớt! - Fontaine khẽ nói.

Smith nhướng mày, nhấn mạnh :

- Nếu thế thì đấy là sự lựa chọn vũ khí thông minh.

Susan nhìn thấy Tankado quỳ thụp xuống, rồi ngã vật ra. Anh ta nằm đó, nhìn đăm dăm lên trời, ôm ngực. Đột nhiên máy quay chuyển trọng tâm từ anh ta về sau chòm cây nhỏ. Một người đàn ông xuất hiện. Người này đeo kính gọng kìm và cầm một chiếc cặp to quá cỡ. Khi hắn ta tiến gần tới ngã ba chỗ Tankado đang đau đớn, các ngón tay của hắn bắt đầu nhảy một vũ điệu không lời kỳ lạ trên chiếc máy gắn vào bàn tay.

- Anh ta đang dùng kính truyền tin đấy! - Smith thông báo - Gửi một thông điệp rằng Tankado đã chết.

Smith quay sang Becker và cười khùng khục :

- Có vẻ như Hulohot có thói quen xấu là luôn báo cáo về các vụ án mạng trước khi nạn nhân của hắn chết thật sự.

Coliander một lần nữa đẩy nhanh tốc độ phim và máy quay tiếp tục bám sát Hulchot khi hắn bắt đầu tiến về phía nạn nhân.

Đột nhiên một người đàn ông lớn tuổi chạy vội ra từ một khoảng sân nhỏ và quỳ xuống bên anh ta. Hulchot giảm tốc độ tiếp cận.

Sau đó giây lát, thêm hai người nữa xuất hiện từ sân nhỏ đó- một người đàn ông béo phị và một người đàn bà tóc đỏ. Họ cũng đến bên cạnh Tankado.

- Chọn khu vực giết người không thích hợp rồi! - Smith nói - Hulohot lầm tưởng chỉ có mỗi hắn ta và con mồi.

Trên màn hình, Hulohot quan sát một lát rồi rút về phía lùm cây, hình như là để đợi.

- Đây là cảnh anh ta đem cho chiếc nhẫn - Smith nhắc - Chúng ta đã bỏ qua lần đầu tiên.

Susan nhìn chằm chằm vào cơ thể đang yếu dần trên màn hình.

Tankado thở hổn hển, có vẻ đang cố gắng truyền đạt điều gì đó cho những người Samarita đang quỳ bên anh ta. Rồi, trong cơn tuyệt vọng anh ta nhấc cánh tay trái lên, gần chạm mặt người đàn ông lớn tuổi. Anh ta giơ bàn tay dị dạng ấy trước mặt ông già. Máy quay phim thu hẹp phạm vi, tập trung vào ba ngón tay bị biến dạng của Tankado, và trên một ngón tay, rõ ràng có một chiếc nhẫn vàng đang lấp lánh dưới ánh mặt trời Tây Ban Nha. Tankado tháo chiếc nhẫn ra. Người đàn ông nọ lùi lại vì ghê sợ. Tankado quay sang người đàn bà. Anh giơ ba ngón tay biến dạng ngay trước mặt bà ta như cầu xin bà ta hãy hiểu. Chiếc nhẫn loé sáng dưới ánh mặt trời.

Người đàn bà ngó đi nơi khác. Tankado, giờ đây đã nghẹn thở, không thể thốt lên lời, quay sang người đàn ông béo phị và cố gắng lần chót. Bất ngờ người đàn ông đứng tuổi đứng dậy và vội vã chạy đi, có vẻ muốn tìm kiếm sự trợ giúp. Tankado đang yếu dần nhưng vãn cố giơ chiếc nhẫn, trước mặt người đàn ông béo phị. Ông ta đỡ cổ tay Tankado. Tankado nhìn chằm chằm vào những ngón tay của mình, rồi nhìn chiếc nhẫn và rồi vào mắt người đàn ông kia. Và tựa như một lời cầu khẩn tha thiết lần cuối trước khi ra đi, Ensei Tankado gật đầu thật khẽ như để bảo ông ta hãy nhận lấy. Rồi Tankado lả đi.

- Lạy Chúa tôi! - Jabba rên rỉ.

Đột ngột máy quay quét qua nơi Hulchot đang ẩn náu. Tên sát nhân đã biến mất. Một chiếc xe cảnh sát xuất hiện, tiếng còi hụ xé tan bầu không khí tĩnh lặng của vùng Avenida Firelli. Máy quay hướng trở lại nơi Tankado đang nằm. Người phụ nữ đang ngồi bên anh ta hình như nghe thấy tiếng còi báo động của cảnh sát, cô ta liếc nhìn xung quanh với vẻ mặt đầy sự lo lắng và bắt đầu kéo ông bạn đồng hành béo ị, năn nỉ ông ta bỏ đi. Cả hai vội vàng cất bước.

Máy quay tập trung vào Tankado, đôi bàn tay đặt chéo trên ngực bất động. Chiếc nhẫn trên ngón tay anh ta không còn nữa.

Xem tiếp chương 118

Chương 118

- Đó chính là chứng cớ! - Fontaine quả quyết - Tankado bỏ chiếc nhẫn đi. Anh ta muốn nó ở xa bản thân mình, càng xa càng tốt cốt để chúng ta không thể tìm ra được.

- Nhưng thưa ngài giám đốc! - Susan lập luận - Điều đó không hợp lý. Nếu Tankado không hề biết anh ta bị giết, tại sao anh ta lại cho đi vật chứng của vụ giết người?

- Tôi đồng ý! - Jabba nói - Anh ta là một kẻ nổi loạn nhưng là kẻ nổi loạn có lương tâm. Việc chúng ta thừa nhận với TRANSLTR là một chuyện, việc tiết lộ ngân hàng dữ liệu của chúng ta lại là một chuyện khác.

Fontaine nhìn chằm chằm, không tin.

- Anh nghĩ Tankado muốn diệt con sâu này sao? Cậu nghĩ những ý nghĩ lúc hấp hối của anh ta là vì NSA đáng thương sao?

- Xuất hiện hiện tượng xâm nhập đường dẫn bí mật! - Chuyên viên kỹ thuật la lớn - Ngân hàng dữ liệu có thể bị xâm nhập trong vòng tối đa là mười lăm phút nữa.

- Tôi sẽ nói với các bạn điều này - Giám đốc lên tiếng - Trong vòng mười lăm phút nữa, tất cả các nước thuộc thế giới thứ ba trên hành tinh này sẽ học cách lắp đặt tên lửa đạn đạo liên lục địa. Nếu ai đó trong phòng này nghĩ mình tìm ra được vật chứng của vụ giết người thuyết phục hơn chiếc nhẫn thì tôi xin chăm chú lắng nghe.

Vị giám đốc chờ đợi. Không ai lên tiếng. Ông ta quay lại nhìn Jabba và nhắm mắt lại.

- Tankado bỏ chiếc nhẫn đó vì một lý do, Jabba ạ. Tôi thật sự không quan tâm việc anh ta đang cố gắng giấu nó đi hoặc giả anh ta nghĩ gã béo kia sẽ chạy đi gọi điện thoại thông báo cho chúng ta. Nhưng tôi vừa quyết định rồi. Chúng ta sẽ nhập dòng chữ đó. Ngay bây giờ.

Jabba hít một hơi dài. Ông biết Fontaine đã đúng. Không còn sự lựa chọn nào tốt hơn. Họ không còn thời gian nữa. Jabba ngồi xuống.

- Được rồi...Hãy làm như thế đi. - Anh cúi xuống bàn phím - Becker đâu? Đọc dòng chữ đi. Đọc cho rõ nhé!

David Becker đọc dòng chữ còn Jabba đánh máy. Sau khi nhập xong họ kiểm tra lại chính tả hai lần và bỏ tất cả các chỗ cách. Ở giữa màn hình, gần phía trên là các chữ cái :

QUISCUSTODIETIPSOSCUSTODES

- Tôi không thích việc này! - Susan lẩm bẩm - Không có gì rõ ràng cả.

Jabba lưỡng lự, ngập ngừng trên phím ENTER

- Cứ làm đi! - Fontaine ra lệnh.

Jabba ấn phím. Sau vài giây, và tất cả mọi người đều biết đó là một sai lầm chết người.

Xem tiếp chương 119

Chương 119

- Con sâu đang tăng tốc! - Soshi hét lên từ cuối căn phòng - Đoạn mã đó không đúng rồi!

Mọi người đứng im bất động trong nỗi sợ hãi tột cùng.

Trên màn hình trước mặt họ xuất hiện một thông điệp báo lỗi :

NHẬP KHÔNG ĐÚNG. CHỈ CHẤP NHẬN DÃY SỐ.

- Chết tiệt! - Jabba hét lên.

- Chỉ chấp nhận dãy số! Chúng ta phải tìm kiếm một con số chết dịch? Thật là ngu ngốc! Cái nhẫn này đúng là đồ chết tiệt!

- Tốc độ tàn phá đang tăng gấp đôi! - Soshi hét lên - Đòn trừng phạt đây!

Ở chính giữa màn hình, ngay dưới dòng tin nhắn báo lỗi, VR đã vẽ một hình ảnh trông thật khủng khiếp. Khi bức tưởng lửa bị phá, thì có khoảng sáu dòng màu đen, ký hiệu ám chỉ tin tặc, dâng lên, tiến tới trung tâm. Cứ một giây trôi qua thì lại xuất hiện một dòng mới.

- Chúng xuất hiện ngày càng nhiều hơn! - Soshi hoảng hốt.

- Càng ngày càng có nhiều tin tặc! - một kỹ thuật viên khác hét lên. Các vòng bảo vệ biến mất rồi!

Susan ngoảnh đi trước hình ảnh các bức tường lửa đang bị sụp đố, hướng ánh mắt tới cạnh màn hình. Hình ảnh về cái chết của Ensei Tankado xuất hiện liên tục không ngừng. Nó chính xác đến từng chi tiết - lúc Tankado ôm ngực, ngã xuống, và sợ hãi ném cái nhẫn của anh ta vào một đám khách du lịch... Điều đó chẳng nói lên điều gì cả, cô nghĩ. Nếu anh ta không biết chúng ta đã giết anh ta... Cô ngẩn người. Đã quá muộn. Chúng ta đã bỏ sót một cái gì đó

Tại VR, chỉ trong mấy phút vừa qua, số lượng tin tặc tấn công vào những cổng này đã tăng lên gấp đôi. Từ giờ trở đi, số lượng các số sẽ tăng theo cấp số nhân. Các tin tặc, giống như những con linh cẩu là một gia đình lớn, luôn sẵn sàng loan tin cho nhau trên phạm vi toàn thế giới về bất kỳ con mồi mới nào.

Leland Fontain thấy những gì họ vừa chứng kiến đã là quá đủ, liền ra lệnh :

- Đóng nó lại, đóng cái thứ chết tiệt đó lại.

Jabba căng mắt nhìn thẳng về phía trước cứ như là một vị thuyền trưởng đang phải chỉ huy một con thuyền sắp bị đắm.

- Thưa ngài, quá muộn rồi. Chúng ta sắp mất hết.

Xem tiếp chương 120

Chương 120

Người chỉ huy an ninh hệ thống nặng tới bốn trăm pound đứng im bất động, vò đầu bứt tai dường như không thể tin vào điều đang diễn ra. Lẽ ra ông phải ra lệnh từ hai mươi phút trước cỏn bây giờ thì quá muộn. Bất kỳ kẻ trộm nào mà có một modem tốc độ, cao sẽ có thể tải hàng đống thông tin bí mật từ cửa sổ lệnh đó. Soshi chạy ào vào phòng với một dữ liệu mới in ra từ máy fax khiến Jabba như choàng tỉnh khỏi cơn ác mộng.

- Thưa ngài, tôi vừa phát hiện ra một điều gì đó!

Cô nói giọng đầy phấn khích.

- Các dòng mồ côi ở trong nguồn này! Nhóm theo thứ tự abc. Tất cả đều bị xáo trộn!

Jabba tỏ ra thờ ơ, không mảy may quan tâm.

- Thật điên rồ! Chúng ta đang tìm một con số, chứ không phải là chữ cái. Mã số cần tìm là một con số!

- Nhưng chúng ta lại có các dòng mồ côi! Tankado rất giỏi, anh ta chẳng đời nào để để lại những dòng mồ côi này- nhất là lại nhiều thế này!

Thuật ngữ "dòng mồ côi" ám chỉ đến những dòng chương trình thừa, không phục vụ cho mục đích của chương trình. Chúng không có hại gì nhưng cũng chẳng có lợi gì và thường bị loại bỏ trong công đoạn sửa lỗi cuối cùng.

Jabba cầm tờ dữ liệu và đọc.

Fontaine đứng im lặng.

Susan nhòm qua vai Jabba để đọc tờ dữ liệu.

- Chúng ta đang bị tấn công bởi một loại sâu trong giai đoạn thử nghiệm của Tankado hay sao? - Susan hỏi.

- Thử nghiệm hay hoàn thiện thì khác gì nhau? - Jabba phản ứng - Nó đã hạ gục chúng ta rồi.

- Tôi không biết - Susan lên tiếng - Tankado là một người cầu toàn. Ông cũng biết điều đó. Chẳng có lý do gì khiến anh ta lại để lại lỗi một cách cẩu thả trong chương trình của mình.

- Có vô vàn! - Soshi hét lên. Cô giằng lấy tờ dữ liệu từ tay Jabba và dí vào mắt Susan - Cô nhìn đi!

Susan gật đầu, rõ ràng là như vậy, cách khoảng hai mươi dòng chương trình lại có bốn kí tự tự do. Susan nhìn lướt qua.

PFEE

SESN

RETM

- Mỗi nhóm gồm bốn kí tự? - Cô lúng túng - Chắc chắn chúng không phải là một phần của chương trình này.

- Quên thứ đó đi - Jabba càu nhàu - Cô đang quan tâm đến một thứ vớ vẩn.

- Chưa chắc! - Susan lên tiếng - Rất nhiều chương trình mã hóa sử dụng các nhóm gồm bốn kí tự. Đây có thể là mã số ta cần tìm.

- Ồ thật thế à? Nó nói rằng: Ha, ha. Cô quả là đồ ngốc - Jabba cau có, rồi ngẩng lên nhìn VR - Chỉ còn chín phút nữa.

Susan phớt lờ lời nói của Jabba và nhìn thẳng vào Soshi :

- Có tất cả bao nhiêu dòng mồ côi?

Soshi nhún vai. Cô dùng luôn máy tính của Jabba và gõ tất cả các nhóm kí tự đã tìm thấy. Làm xong, cô đứng dậy. Mọi con mắt đổ dồn về chiếc màn hình phía cô.

PFEE SESN RETM MFHA IRWE OOIG MEEN NRMA

ENET SHAS DCNS IIAA IEER BRNK FBLE LODI

Chỉ duy nhất một mình Susan là mỉm cười hài lòng.

- Trông rất quen! - Cô nói - Các khối bốn kí tự này rất giống với Enigma.

Vị giám đốc gật đầu. Enigma là một thiết bị mã hóa nổi tiếng nhất trong lịch sử ngành mật mã- đó là một con quỷ mã hóa nặng mười hai tấn của Đức Quốc xã. Nó đã mã hóa thành những khối gồm bốn kí tự.

- Tuyệt vời! - ông thốt lên sung sướng.

- Cô có tình cờ để quên cỗ máy Enigma nào gần đây không thế?

- Vấn đề không phải ở chỗ đó - Susan nói, cô chợt trở nên hoạt bát hẳn. Đây là chuyên môn của cô. - Vấn đề là đây là một mật mã. Tankado đã đề lại cho chúng ta một manh mối. Anh ta đang chế giễu chúng ta, thách ta kịp tìm được chìa khóa giải mã - Anh ta để lại những gợi ý nhưng chúng ta chưa hiểu được.

- Phi lý hết sức - Jabba ngắt lời.

- Tankado chỉ để lại cho chúng ta một lối thoát - công khai hóa TRANSLTR. Chỉ có thế thôi. Đó là lối thoát của chúng ta. Nhưng chúng ta đã tự làm hỏng việc mất rồi.

- Tôi buộc phải đồng ý với ông ấy! - Fontaine lên tiếng - Tôi cho rằng Tankado sẽ chẳng đời nào mạo hiểm đưa ra gợi ý về mã khóa hóa giải đâu.

Susan gật đầu lơ đãng, nhưng cô vẫn còn nhớ Tankado đã dẫn họ đến NDAKOTA như thế nào. Cô nhìn chằm chằm vào những con chữ và băn khoăn tự hỏi không biết có phải là anh ta đang chơi một trò chơi khác hay không.

- Đường hầm bảo vệ đã bị mất một nửa! - Một kỹ sư kêu lên.

Trên VR, hằng hà sa số những dòng màu đen khác, nối tiếp nhau tấn công vào hai tấm lưới bảo vệ còn lại.

Từ nãy giờ David vẫn lặng lẽ quan sát những sự cố xuất hiện trên màn hình, giờ mới lên tiếng :

- Susan! Anh có một ý tưởng thế này. Có phải là đoạn văn bản đó gồm mười sáu nhóm bốn kí tự?

- Ồ vâng, vì Chúa - Jabba thì thào.

- Bây giờ tất cả mọi người đều muốn thừ rồi à?

Susan phớt lờ Jabba và đếm các nhóm kí tự.

- Đúng thế. Có mười sáu nhóm.

- Xóa hết khoảng trống đi - giọng Becker rắn rỏi.

- Anh David - Susan run run.

- Em không nghĩ là anh hiểu vấn đề. Các nhóm gồm bốn kí tự này là...

- Xóa hết khoảng trống đi - Anh nhắc lại.

Susan do dự một lát rồi gật đầu ra hiệu cho Soshi. Soshi nhanh chóng xóa hết khoảng trống đi. Kết quả vẫn chẳng có gì sáng sủa hơn.

PFEESESNRETMPFHAIRWEOOIGMEENNRMAENETSHAS

DCNSIIAAIEERBRNKFBLELODI

- Đủ rồi! Không còn thời gian nữa đâu... Chúng ta đang bị tấn công nhanh gấp đôi. Chúng ta chi còn tám phút nữa thôi. Chúng ta đang tìm một con số, chứ không phải là các dòng chữ ngu ngốc! - Jabba tức tối.

- Bốn nhân mười sáu - David nói, giọng vẫn bình tĩnh.

- Làm phép toán đó đi, Susan.

Susan đưa mắt nhìn bóng của David in trên màn hình. Làm phép toán đó ư? Sao anh ta dốt toán thế không biết! Cô biết rằng David có thể nhớ được cách chia động từ và từ mới như là một chiếc máy hiệu Xerox vậy, thế nhưng còn phép toán thì...?

- Bảng cửu chương đâu?

- Bảng cửu chương à? Susan tự hỏi. Anh ấy đang nói về cái gì nhỉ?

- Bốn nhân mười sáu! - Vị giảng viên nhắc lại. - Tôi phải học thuộc bảng cửu chương của học sinh lớp bốn mới được.

Susan nhớ lại bảng cửu chương của học sinh tiểu học. Bốn nhân mười sáu.

- Sáu mươi tư? - cô trả lời chắc nịch.

- Nhưng thế thì sao chứ?

David dựa vào chiếc máy quay. Anh trông thật tâm trạng.

- Sáu mươi tư chữ....

Susan gật đầu.

- Đúng thế, nhưng chúng... - Susan bỏ lửng câu nói.

- Sáu mươi tư chữ cái. - David nhắc lại.

- Ôi, Chúa ơi! David, anh đúng là một thiên tài! - Susan sung sướng hét lên.

Xem tiếp chương 121

Chương 121

- Bảy phút nữa! - Người kỹ thuật viên lại hét lên.

- Tám dòng tám chữ! - Susan phấn khích.

Soshi liền gõ vào trong khi Fontaine im lặng không nói gì. Tấm lưới lọc bảo vệ cuối cùng đang bị tấn công dữ dội.

- Sáu mươi tư chữ cái! - Susan đã bình tĩnh trở lại.

- Nó là một hình vuông!

- Một hình vuông - Jabba hỏi lại - Thế thì sao?

Mười giây trôi qua, Soshi đã sắp xếp lại những chữ cái có vẻ lộn xộn trên màn hình thành tám dòng, mỗi dòng có tám chữ. Jabba nhìn những chữ cái, buông tay tuyệt vọng. Cách sắp xếp mới này cũng chẳng tiết lộ thêm điều gì so với cách cũ.

P F E E S E S N

R E T M P F H A

I R W E O OlG

M E E N N R M A

E N E T S H A S

D C N S I 1 A A

I E E R B R N K

F B L E L O D I

- Rõ với chả ràng! - Jabba hét lên.

- Cô Fletcher - Fontaine lên tiếng - Cô hãy giải thích đi - Mọi con mắt đều đổ don về Susan.

Susan chậm rãi gật đầu trong khi đưa mắt nhìn khối văn bàn.

Cô cười phá lên :

- David, em thật là ngốc!

Tất cả mọi người ở trong phòng đưa mắt nhìn nhau ngơ ngác.

David nhìn hình ảnh Susan in trên màn hình, nháy mắt tinh nghịch :

- Sáu mươi tư chữ cái. Julius Caesar lại ghi điểm nữa rồi.

Midge lúng túng thật sự.

- Anh ta nói cái gì thế?

- Chiếc hộp của Caesar! - Susan tươi cười. Và cô nói - Hãy đọc từ trên xuống dưới. Tankado đang gửi cho chúng ta một thông điệp.

Xem tiếp chương 122

Chương 122

- Còn sáu phút nữa! - Người kỹ thuật viên kêu lên.

- Hãy đánh lại từ trên xuống dưới! Đọc theo chiều dọc, không theo chiều ngang! - Susan ra lệnh.

Soshi luống cuống chuyển các cột xuống dưới, và đánh lại văn bàn.

- Julius Cacsar đã gửi mật mã theo cách này! - Susan lên tiếng - Ông ta luôn đếm chữ theo hình vuông! - Susan khằng định.

- Xong rồi! - Soshi hét lên.

Ai nấy đều ngẩng lên nhìn một dòng chữ mới được sắp xếp lại trên màn hình.

- Vẫn chỉ là đồ rác rưởi - Jabba khinh bỉ giễu cợt.

- Hãy nhìn này.

Nó chỉ là những bít hoàn toàn lộn xộn. Đột nhiên ông ta cứng họng và mở to mắt nhìn vào màn hình :

- Ôi...

Fontaine cũng đã nhìn thấy. Ông dụi mắt, rõ ràng là đã bị gây ấn tượng.

Cả Midge và Brinkerhoff đều đồng loạt kêu lên :

- Chúa ơi... quái quỷ thật! Sáu mươi tư chữ cái bây giờ được xếp thành như sau :

PRIMEDIFFERENCEBETWEENELEMENTSRESPONSlBLEFO

RHIROSHlMAANDNAGASAKI

- Ngắt chúng ra! - Susan ra lệnh.

- Chúng ta đang có một câu đố cần phải giải.

Xem tiếp chương 123

Chương 123

Một kỹ thuật viên mặt tái mét chạy vào phòng :

- Khối đường dẫn bí mật chuẩn bị ngừng hoạt động! - Anh ta kêu lên.

Jabba quay sang nhìn trên màn hình. Những kẻ tấn công đã dâng lên phía trên, chúng đã tấn công vào bức tường thứ năm, và chỉ chưa đầy gang tấc nữa là sẽ đến bức tường cuối cùng. Ngân hàng dữ liệu sắp bị tấn công.

Susan phác họa ra những sự hỗn độn đang xảy ra xung quanh.

Cô đọc đi đọc lại thông điệp kỳ quái của Tankado.

SỰ KHÁC NHAU CƠ BẢN GIỮA CÁC YẾU TỐ CẤU

THÀNH NÊN HIROSHIMA VÀ NAGASAKI.

- Đây thậm chí không phải là một câu hỏi! - Brinkerhoff hét lên - Thế thì làm sao mà có câu trả lởi được?

- Chúng ta cần một con số - Jabba nhắc lại.

- Đoạn mã chết tiệt phải là một con số?

- Trật tự - Fontaine lên tiếng rồi quay sang nói với Susan - Thưa cô Fletcher, cô đã đưa chúng ta đi quá xa. Tôi cần sự suy đoán chính xác nhất của cô.

Susan hít một hơi thở sâu rồi nói.

- Cổng vào chỉ chấp nhận con số mà thôi. Tôi đoán là đây có thể là một manh mối để dẫn đến con số cần tìm Thông điệp này có nhắc đến Hiroshima và Nagasaki - hai thành phố đã từng bị ném bom nguyên tử. Rất có thể mã số hủy diệt sẽ liên quan đến số người thương vong, hay số liệu thiệt hại theo dự đoán...

Cô dừng lại một lúc, đọc lại manh mối. Từ "khác nhau" ở đây dường như rất quan trọng. Sự khác nhau cơ bản giữa Nagasaki và Hiroshima. Rõ ràng là Tankado đã nhận thấy hai sự kiện này có một điểm gì đó khác nhau.

Nét mặt của Fontaine vẫn chẳng hề thay đổi. Tuy nhiên, tia hy vọng đã nhanh chóng tiêu tan. Có vẻ như là những vấn đề chính trị quanh hai vụ nổ nhiệt hạch khủng khiếp nhất trong lịch sử loài người phải được phân tích, mổ xẻ, so sánh và chuyến thành những con số thần kỳ... và tất cả phải hoàn thành chỉ trong vòng nãm phút đồng hồ.

Xem tiếp chương 124

Chương 124

"Màng lọc bảo vệ cuối cùng bị tấn công!"

Trên VR, chương trình PEM đang bị tấn công. Những dòng màu đen đã thâm nhập vào tấm lưới bảo vệ cuối cùng và bắt đầu mở đường tiến vào trung tâm của nó.

Từ khắp nơi trên thế giới, những tay tin tặc luôn rình mò giờ đây xuất hiện nhan nhàn. Cứ mỗi phút trôi qua, số lượng tin tặc lại tăng lên gấp bội. Chẳng bao lâu nữa, bất kỳ người nào sở hữu một chiếc máy vi tính - các trung tâm gián điệp, những nhà cấp tiến đến bọn khủng bố - đều có thề tiếp cận được những thông tin mật của chính phủ Hoa Kỳ.

Trong khi các kỹ thuật viên đang cố gắng một cách vô ích để ngắt nguồn điện, thì đội quân trong phòng đang nghiên cứu bức thông điệp. Ngay cả David và hai đặc vụ của NSA cũng đang cố gắng bẻ khóa mật mã từ chiếc xe tải của họ ở Tây Ban Nha.

SỰ KHÁC NHAU CƠ BẢN GIỮA CÁC YẾU TỐ GÂY RA VỤ HIROSHLMA VÀ NAGASAKI

Soshi nói to lên: "Những yếu tố gây ra vụ Hiroshima và Nagasaki... Trân Châu Cảng...? Việc Thiên hoàng Hirohito từ chối không chịu...."

- Chúng ta cần một con số - Jabba nhắc lại - Chứ không phải là các giả thuyết về chính trị. Chúng ta đang bàn về toán học, chứ không phải là lịch sử?

Soshi im lặng không nói gì.

- Thế còn lượng chất nổ thì sao? - Brinkerhoff đề nghị.

- Tỉ lệ thương vong? Thiệt hại về vật chất?

- Chúng ta đang tìm một con số chính xác tuyệt đối! Susan nhắc lại - Con số dự đoán thiệt hại thì rất đa dạng - Cô nhìn chằm chằm vào thông điệp, nói - Những yếu tố gây ra....

David Becker mở to mắt, nhìn xa xăm.

- Những yếu tố....

- Chúng ta đang nói về toán chứ không phải là lịch sử!

Mọi cái đầu dồn về phía màn hình vệ tinh.

- Tankado đang chơi chữ! - Becker hét lên - Từ "yếu tố" có rất nhiều nghĩa!

- Nói nhanh lên, ngài Becker - Fontaine sốt ruột cắt ngang.

- Anh ta đang nói về một nguyên tố hóa học- chứ không phải là những vấn đề chính trị xã hội.

Lời tuyên bố của Becker được đáp lại bằng những cái nhìn ngây dại.

- Nguyên tố! - anh phấn khích - Bảng tuần hoàn! Các nguyên tố hóa học! Không một ai trong số các bạn đã xem bộ phim "Người đàn ông to béo và cậu bé bé nhỏ", nói về một dự án Manhattan chưa? Hai quả bom nguyên tử này rất khác nhau. Chúng đã sử dụng những loại nhiên liệu khác nhau... những nguyên tố khác nhau!

Soshi vỗ tay. Cô ta thốt lên sung sướng :

- Ô, vâng! Anh ta nói đúng! Tôi đã đọc thông tin đó! Hai quả bom này được cấu tạo bằng những liệu khác nhau! Một quả sử dụng chất Uranium, còn quả kia sử dụng chất Plutonium! Hai nguyên tố hoàn toàn khác nhau!

Một không khí khẩn trương lan khắp phòng.

- Uranium và Plutonium! - Jabba hét lên, đột nhiên thấy tràn đầy hy vọng.

- Manh mối này nói lên điểm khác nhau giữa hai nguyên tố này! - Ông ta đâm bổ vào đám nhân viên.

- Điểm khác nhau giữa Uranium và Plutonium! Ai biết là gì không?

Tất cả mọi người ngơ ngác nhìn nhau.

- Cố lên! - Jabba thúc giục.

- Bọn trẻ nhà các anh không đi học sao? Ai nào! Bất kỳ ai! Tôi cần biết sự khác nhau giữa Plutonium và Uranium!

Không có tiếng trả lời.

Susan quay sang Soshi.

- Tôi cần vào một trang web. Máy tính này có cài trình duyệt nào không?

Soshi gật đầu.

- Netscape là chương trình tốt nhất.

Susan nắm chặt bàn tay.

- Cố lên. Chúng ta sắp đến đích rồi.

Xem tiếp chương 125

Chương 125

- Còn bao lâu nữa? - tiếng Jabba nói từ phía bục.

Không một kỹ thuật viên nào lên tiếng. Tất cả đều đang đứng yên, mắt không rời khỏi VR. Tấm lá chắn cuối cùng đang trở lên mỏng manh một cách đáng sợ.

Cách đó không xa, Susan và Soshi đang miệt mài với những kết quả tìm kiếm trên mạng.

- Các phòng thí nghiệm cấm - Susan hỏi.

- Chúng là cái gì vậy?

Soshi nhún vai và nói :

- Cô có muốn vào đây không?

- Được đấy - cô nói.

- 647 tài liệu tham khảo về các loại bom Uranium, Plutonium, và bom nguyên tử. Có vẻ như chúng ta gặp may rồi.

Soshi nhấn chuột vào liên kết. Một khuyến cáo của trang web hiện lên.

Những thông tin trong tệp tin này dủ được sử dựng cho các mục đích chuyên môn. Bất kỳ ai không có chuyên môn tiến hành việc chế tạo các thiết bị miêu tả trong tài liệu này sẽ có nguy cơ bị nhiễm độc phóng xạ hoặc tự phát nổ.

- Tự phát nổ ư? Chúa ơi! - Soshi nói.

Ông Fontain nói chen ngang từ phía sau:

- Bắt đầu tìm đi! Xem xem chúng ta có gì nào?

Soshi soi mắt vào từng dòng tài liệu. Cô đảo qua một công thức thực hiện urea nitrate, một chất có sức công phá nạnh hơn thuốc nổ dynamite đến 10 lần. Những dòng thông tin hiện lên đầy màn hình y như một ma trận.

- Pluton và Urani - Jabba nhắc lại.

- Hãy tập trung vào chỗ đó.

- Quay lại đi - Susan yêu cầu. Tài liệu dài quá. Xem phần mục lục đi.

Soshi nhấn chuột để quay lại trang mục lục.

I. Cấu tạo của bom nguyên từ

A) Dụng cụ đo độ cao

B) Lỗ thoát khí

C) Đầu phát nổ

D) Khối thuốc nổ phụ

E) Bộ làm chệch hướng Nơtron

F) Urani Pluton

G) Vỏ chì

H) Chốt an toàn

II. Phân rã hạt nhân/hợp nhất hạt nhân

A) Phân rã hạt nhân (Bom A) hợp nhất hạt nhân (Bom H)

B) U-235, U-238, và Pluton

Lịch sử phát triển các loại vũ khí hạt nhân

A) Quá trình phát triển (Dự án Manhattan)

B) Các vụ nổ 1) Hiroshima 2) Nagasaki 3) Hậu quả phụ của các vụ nổ hạt nhân 4) Phạm vi phá hủy...

- Phần hai! - Susan hét lên - Urani và pluton? Vào đó đi!

Tất cả mọi người chờ đợi trong khi Soshi quay ra tìm phần thích hợp.

- Đây rồi - cô nói - Dừng lại nào - Cô nhanh chóng lướt qua các dữ liệu.

- Có rất nhiều thông tin ở đây. Cả một biểu đồ rất chi tiết. Làm sao chúng ta tìm được điểm khác biệt mà chúng ta đang cần đây? Một cái thì xảy ra một cách tự nhiên, một cái là do con người tạo ra. Plutonium đã được phát hiện ra lần đầu tiên bởi....

- Một con số - Jabba nhắc.

- Chúng ta cần một con số.

Susan xem lại thông điệp của Tankado. Điểm khác biệt rõ rệt nhất giữa các nguyên tố... điểm khác biệt giữa...chúng ta cần một con số. Khoan đã! - cô nói - Từ "khác biệt" có rất nhiều nghĩa. Chúng ta cần một con số - do vậy chúng ta phải chú ý đến toán học. Đây chính là một trò chơi chữ khác của Tankado - từ "khác biệt" còn có nghĩa là phép trừ.

- Phải rồi! - Từ màn hình phía trên đầu Becker cũng đồng ý.

- Có thể các nguyên tố khác nhau ở số lượng proton hoặc một cái gì đó chăng? Nếu ta trừ....

- Cậu ta đúng rồi đấy! - Jabba nói với Soshi.

- Có bất kỳ con số nào trên cái biểu đồ đó không? Số Proton? Các chu kỳ nửa phân rã? Bất cứ cái gì chứng ta có thể thực hiện được phép trừ.

- Còn 3 phút! - một chuyên viên lên tiếng.

- Còn về khối lượng trên tớì hạn thì sao - Soshi đánh bạo hỏi.

- Nó cho biết khối lượng trên tới hạn của Pluton là 35.2 pound.

- Đúng rồi! - Jabba nói.

- Kiểm tra Urani đi! Khối lượng trên tới hạn của Urani là bao nhiêu?

Soshi tìm kiếm.

- Um... 110 pound.

- Một trăm mười - Jabba bỗng trở lên hi vọng.

- 110 trừ 35.2 còn bao nhiêu?

- Bẩy mươi tư phẩy tám - Susan bật ngón tay.

- Nhưng tôi không nghĩ đó sẽ là...

- Đừng có cãi lởi tôi - Jabba ra lệnh, chau mày nhìn về phía bàn phím.

- Chắc chắn đó là chìa khóa mật mã của chứng ta! Hiệu số của hai khối lượng tới hạn! Bảy mươi tư phẩy năm!

Bình tĩnh nào - Susan lên tiếng, đưa mắt về phía nhìn màn hình qua vai của Soshi.

- Còn nhiều thứ khác ở đây. Khối lượng nguyên tử tổng số Neutron, các kỹ thuật chiết - Cô đưa mắt lướt qua biểu đồ.

Uram sẽ tách ra thành Bari và Kripton, còn Pluton thì không như vậy. Urani có 92 proton và 146 neutron, nhưng....

- Chúng ta cần một điểm khác biệt dễ nhận thấy - Midge xen vào.

- Đầu mối của chúng ta là "điểm khác biệt cơ bản giữa 2 nguyên tố".

- Lạy chúa Jesus! - Jabba rủa - Làm sao chúng ta có thể biết Tankado coi cái gì là "điểm khác biệt căn bản" cơ chứ?

David ngắt lời. Thực ra thì manh mối mà chúng ta cần bám theo là "điểm khác biệt rõ rệt nhất" chứ không phải là "điểm khác biệt đầu tiên".

Lời gợi ý của David lập tức làm loé lên trong Susan một ý tưởng.

- Rõ rệt nhất! - cô reo lên.

- Rõ rệt nhất! - Cô đảo người về phía Jabba.

Mật mã chìa khóa là một số nguyên tố! Hãy bám vào điểm này! Rất hợp lý đấy!

Jabba ngay lập tức nhận ra rằng Susan đã đúng. Ensei Tankado đã tạo dựng sự nghiệp của mình bằng các số nguyên tố. Nền tảng cơ bản nhất của tất cả các thuật toán mã hóa chính là các số nguyên tố những số không chia hết cho bất kỳ số nào ngoài số 1 và chính nó. Số nguyên tố được ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực mật mã bởi với, phương pháp đặc trưng là phân tích số thành các cây thừa số, các máy tính không thể đoán ra được các mật mã là gì.

Soshi chen vào.

- Đứng rồi! Tuyệt quá! Các số nguyên đóng vai trò rất quan trọng trong văn hóa Nhật Bản! Các bài thơ Haiku. Mỗi bài ba dòng, mỗi dòng lại lần lượt có năm, bảy và năm âm tiết. Tất cả đều là số nguyên tố. Toàn bộ các ngôi đền ở Nhật Bản cũng đều có....

- Thôi đủ rồi! Jabba nói - Cứ giả sử mật mã chìa khóa là một số nguyên thì có gì khác đâu! Có vô số khả năng như thế!

Susan biết Jabba nói đúng. Vì dãy số chạy đến tận dương vô cùng nên chỉ cần mở rộng khoảng sẵn có thêm một chút là ta lại có thêm một số nguyên tố mới. Trong khoảng từ 0 đến 1 triệu đã có tới hơn 70.0000 khả năng. Như vậy tất cả đều phụ thuộc vào việc con số nguyên tố mà Tankado sử dụng lớn đến mức nào. Nó càng lớn thì việc lần ra nó sẽ càng vất vả hơn.

- Nó sẽ là một số lượng khổng lồ - Jabba làu bàu - Dù Tankado có chọn con số nào thì nó cũng sẽ là một thảm hoạ.

Tiếng báo hiệu vang lên từ phía sau căn phòng.

- Còn 2 phút!

Jabba nhìn chằm chằm vào VR trong tâm trạng hãi hùng. Lớp bảo vệ cuối cùng đã bắt đầu sụp đổ. Các kỹ thuật viên đi lại nhốn nháo khắp nơi.

Có điều gì đó trong con người Susan mách bảo cho cô biết họ đã gần tới đích.

- Chúng ta sẽ làm được điều này! - Cô tuyên bố với giọng quả quyết Trong tất các điểm khác biệt giữa urani và pluton tôi cá rằng sẽ chỉ có một điểm duy nhất là số nguyên! Đây chính là đầu mối cuối cùng của chúng ta. Con số chúng ta đang tìm là một số nguyên!

Jabba nhìn vào biểu đồ về Urani/Pluton trên máy vi tính rồi vung tay chán nản.

- Có đến cả trăm mục! Chứng ta sẽ không thể thực hiện tất cả các phép trừ và kiểm tra xem có phải là số nguyên không!

- Rất nhiều mục không ở dạng số. - Susan khích lệ - Chúng ta có thể bỏ qua chúng. Urani thì có trong tự nhiên, còn pluton thì do con người tạo ra. Urani sử dụng một ngòi nổ bằng nòng súng còn Plutonium sử dụng vụ nổ kích hoạt từ bên trong. Chúng không phải là các con số, do vậy chúng không thích hợp!

- Làm đi - Ông Fontaine ra lệnh. Trên màn hình lúc này bức tường cuối cùng giờ chỉ còn mỏng như vỏ trứng.

Jabba nhíu mày.

- Được thôi, điều sẽ này chẳng đi đến đâu cả. Bắt đầu nào. Tôi sẽ chọn một phần từ đầu tiên. Susan, phần giữa là của cô. Còn những người khác thì chia nhau phần còn lại. Chứng ta đang tìm một điểm khác biệt rõ rệt nhất.

Chỉ ngay sau vài giây họ đã hiểu rõ việc mình đang làm là không tưởng. Các con số thật khổng lồ và nhiều khi chứng không đồng nhất về bản chất.

- Chuyện này chẳng khác gì lấy táo so với cam, lấy các tia gamma để so sánh với các xung điện từ. Lấy những hạt nhân có thể phân rã so với những cái không thể phân rã. Một số là nguyên chất, số khác lại là tạp chất Đúng là một mớ hổ lốn!

- Chắc chắn nó phải nằm ở đây - Susan kiên quyết.

- Chúng ta cần phải nghĩ. Có một số điểm khác biệt giữa pluton và urani mà chúng ta đã bỏ qua! Một điểm nào đó đơn giản thôi!

- Ah...mấy cu cậu đây rồi ư? Soshi nói. Cô mở tiếp một cửa số tài liệu thứ nữa và đọc lướt tiếp qua phần còn lại trong tài liệu của phòng thí nghiệm cấm.

- Cái gì vậy - Ông Fontaine lên tiếng - Tìm thấy cái gì đó à?

- Ừ, có vẻ như vậy! - giọng cô có vẻ lo lắng.

- Mọi người có hiểu tại sao tôi lại nói rằng quả bom thả xuống Nagasaki là một quả bom pluton không?

- Có chứ! -, tất cả đồng thanh.

- Ôi - Soshi hít một hơi thật sâu - Có vẻ như tôi đã nhầm ở một chỗ nào đó.

- Cái gì! Sabba tức tối.

- Vậy cái chúng ta vừa tìm kiếm là sai à?

Soshi chỉ lên màn hình. Họ xúm lại và cùng đọc dòng chữ:

Người ta người thường nghĩ rằng quả bom tại Nagasaki là bom pluton nhưng thực ra nó cũng sử dụng Urani giống như quả bom tại Hiroshima.

- Nhưng... - Susan hổn hển thở - Nếu cả hai đều là urani thì làm sao hắn lại bảo chúng ta tìm ra sự khác biệt giữa chúng?

- Tankado có thể đã lầm - Ông Fontaine nói bừa.

- Có thể hắn không biết hai trái bom đó đều như nhau cả thôi.

- Không thể có chuyện đó được - Susan thở dài. Anh ta tàn phế cũng vì những quả bom đó nên chắc chắn phải hiểu rất rõ về chúng.

Xem tiếp chương 126

Chương 126

- Còn một phút!

Jabba không rời mắt khỏi hệ thống thực tại ảo.

- Hệ thống bảo mật PEM đang bị phá hủy rất nhanh. Chúng ta chỉ còn lớp bảo vệ cuối cùng. Một lũ tin tặc đang chầu chực ở ngoài chờ xâm nhập kia kìa.

- Tất cả tập trung vào việc nào! - Ông Fontaine ra lệnh.

Soshi ngồi trước màn hình và đọc to.

- ...Quả bom tại Nagasaki không sử dụng pluton mà sử dụng một nguyên tố nhân tạo - đồng vị bão hòa neutron của urani 238.

- Chết tiệt! - Brinkerhoff bực dọc - Cả hai quả bom đều sử dụng urani. Các nguyên tố sử dụng trong quả bom tại Hiroshima và Nagasaki đều là Urani. Chẳng có gì khác nhau cả!

- Chúng ta tiêu rồi - Midge rên rỉ.

- Khoan - Susan nói.

- Xem lại phần cuối đi!

Soshi đọc lại: "... nguyên tố nhân tạo, đồng vị bão hòa neutron của urani 238".

- 238 - Susan kêu lên - Chúng ta vừa thấy cái gì đó nói quả bom tại Hiroshima sử dụng một đồng vị khác của urani phải không?

Tất cả lúng túng nhìn nhau. Soshi nhanh chóng trở lại đoạn văn bản và phát hiện ra dấu vết.

- Phải! Nó nói rằng quả bom tại Hiroshima sử dụng một đồng vị khác của Urani!

Midge há hốc miệng ra trong kinh ngạc.

- Cả hai đều là urani - nhưng khác loại!

Jabba chúi mắt vào màn hình và kinh ngạc không kém :

- Cả hai cùng là urani à? Đúng là táo với táo rồi. Tuyệt quá.

- Hai đồng vị này khác nhau ở chỗ nào - Ông Fontaine hỏi.

- Chắc chắn đó phải là một cái gì đó rất cơ bản.

Soshi rà trên khắp đoạn văn bản.

- Bình tĩnh nào... đang tìm đây, được rồi....

- Bốn mươi lăm giây! - một giọng nói vang lên.

Susan nhìn lên. Tấm lá chắn cuối cùng lúc này đã gần như tan biến.

- Đây rồi! Soshi hét lên.

- Đọc đi! - Jabba toát mồ hôi.

- Điểm khác biệt là gì? Chắc chắn giữa chúng phải có điểm khác biệt nào đó!

- Đúng vậy! - Soshi chỉ tay lên màn hình vi tính.

- Nhìn này!

Tất cả chúi đầu vào dòng chữ... hai quả bom sử dụng hai nguyên liệu khác nhau... với các tính chất hóa học hoàn toàn giống nhau. Không một phương pháp chiết hóa thông thường nào có thể phân biệt được 2 đồng vị này. Ngoại trừ một sự khác biệt nhỏ về khối lượng, chúng giống nhau một cách hoàn hảo.

- Khối lượng nguyên tử - Jabba nói, giọng không giấu được vẻ phấn khích.

- Chính là nó! Sự khác biệt duy nhất chính là khối lượng nguyên tử của chúng! Đó chính là chìa khóa của chúng ta! Cho tôi biết khối lượng của chúng! Chúng ta sẽ tìm hiệu số của chúng!

- Khoan nào - Soshi nói, kéo chuột lên phần trên văn bản.

- Hình như là đây rồi! Phải rồi!

Tất cả cùng lướt qua dòng chữ trên màn hình. sự khác biệt về khối lượng giữa chúng rất nhỏ... phải dùng đến phương pháp khuếch tán ánh sáng ở dạng khí mới phân tách được chúng... 10,032498x10?134 và 19,39484x10?23.*

- Chúng đây rồi! - Jabba kêu lên.

- Đúng rồi! Đó chính là khối lượng nguyên tử của chúng!

- Còn ba mươi giây!

- Bắt đầu nào - Ông Fontaine thì thào.

- Tìm hiệu số của chúng đi! Mau lên!

Jabba cầm chiếc máy tính trong lòng bàn tay và bắt đầu bấm.

- Cái dấu hoa thị kia nghĩa là gì vậy - Susan hỏi - Đằng sau các con số có một dấu hoa thị!

Nnưng Jabba không để ý đến câu hỏi của cô. Ông bấm chiếc máy tính một cách điên loạn.

- Cẩn thận đó! - Soshi giục.

- Chứng ta cần một con số chính xác.

- Dấu hoa thị - Susan nhắc lại.

- Có một phần chú thích ở đây.

Soshi click chuột vào phần cuối trang.

Susan đọc phần chú thích cho dấu hoa thị. Mặt cô tái nhợt.

- Ôi lạy Chúa.

Jabba ngước lên. Ông hỏi :

- Chuyện gì vậy?

Tất cả hướng mắt vào màn hình rồi thở một cách bất lực. Phần chú thích nhỏ li ti ghi: ** Tỷ lệ sai số là 12%. Con số các phòng thí nghiệm khác nhau đưa ra có thể có chênh lệch ở mức độ nhỏ.

Xem tiếp chương 127

Chương 127

Sự im lặng đáng sợ đột nhiên bao trùm khắp căn phòng. Không khí lúc này chẳng khác gì cảnh mọi người ngắm nhật thực hay một trận phun trào của núi lửa - họ đang đứng trước một chuỗi các sự kiện lạ nằm ngoài tầm kiểm soát của mình. Thời gian nặng nhọc trôi từng bước.

- Chúng ta tiêu rồi! - Một kỹ thuật viên kêu lên - Những kẻ xâm nhập đang tiến vào, trên tất cả các đường truyền.

Trên màn hình phía góc trái đằng xa, David cùng hai đặc vụ Smith và Coliander thẫn thờ nhìn vào camera của mình.

Trên hệ thống thực tại ảo, bức tường lửa cuối cùng giờ chỉ còn mong manh như tờ giấy. Một màu đen kịt bao trùm xung quanh, hàng trăm đường kết nối đang nhăm nhe tiến vào. Bên phải hệ thống là hình ảnh của Tankado. Những đoạn phim về khoảnh khắc cuối cùng của hắn được chiếu đi chiếu lại. Vẫn một vẻ mặt tuyệt vọng - vẫn các ngón tay đang cố rướn ra với chiếc nhẫn lấp lánh dưới ánh mặt trời.

Susan chăm chú nhìn những hình ảnh chập chờn của đoạn phim. Cô nhìn thẳng vào mắt Tankado - dường như trong đó đang tràn đầy sự hối hận. Chính anh ta cũng chưa bao giờ muốn đẩy mọi chuyện đi xa đến mức này, cô tự nhủ với mình. Anh ta muốn cứu chúng ta.

Tankado hướng ngón tay về phía trước, giơ chiếc nhẫn lên trước mắt mọi người. Anh ta cố gắng nói ra một điều gì đó nhưng không thể. Anh chỉ có thể giữ ngón tay mình hướng ra phía trước.

Tại Seville, tâm trí Becker cũng đang rối bởi. Anh lẩm bẩm một mình.

- Họ nói hai đồng vị này là gì nhỉ? U238 và U... - Anh buông một tiếng thở dài nặng nhọc - nó chẳng có nghĩa gì cả. Anh là một giáo viên ngôn ngữ chứ không phải là một nhà hóa học.

Những kẻ xâm nhập đang chuẩn bị tiến vào!

- Chúa ơi! - Jabba thất vọng kêu lên.

- Hai cái đồng vị chết tiệt này khác nhau ở điểm nào vậy? Không có ai biết chúng khác nhau ở chỗ quái quỷ nào à?

Không một ai đáp lại. Các nhân viên kỹ thuật trong phòng đứng như trời trồng, bất lực nhìn lên hệ thống thực tại ảo. Jabba quay trở lại màn hình máy tính rồi giơ tay thất vọng.

- Lúc cần lại chẳng thấy thằng cha vật lý hạt nhân quái nào!

Susan vẫn không rời mắt khỏi đoạn phim trên màn hình gắn trên tường. Cô hiểu mọi chuyện đã kết thúc. Cô đã xem đi xem lại đoạn phim quay chậm cảnh Tankado hấp hối. Hắn đang cố nói, nhưng những từ ngữ như bị nghẹn lại, hắn đưa bàn tay tật nguyền của mình ra...cố gắng diễn đạt một điều gì đó. Anh ta đang cố gắng cứu ngân hàng dữ liệu, Susan tự nhủ. Nhưng chúng ta sẽ không bao giờ biết phải làm việc đó như thế nào.

- Những kẻ xâm nhập đã vào được bên trong!

Jabba nhìn chằm chằm vào màn hình.

- Tiêu thật rồi!

Mồ hôi túa ra trên mặt ông.

Trên màn hình trung tâm, phần sót lại của bức tường lửa cuối cùng đã gần như biến mất. Tập hợp những đường thẳng màu đen bao quanh trung tâm màn hình đang mờ dần và run rẩy trong cơn hấp hối. Midge ngoảnh mặt đi chỗ khác. Ông Fontaine đứng bất động, mắt nhìn thẳng về phía trước còn Brinkerhoff trông như người sắp phát ốm.

- Còn mười giây!

Susan không rời mắt khỏi hình ảnh Tankado. Sự tuyệt vọng và hối tiếc. Lần nào cũng vậy, bàn tay anh ta với ra giơ chiếc nhẫn lấp lánh trên những ngón tay dị dạng đang co quắp trước mặt những con người không quen biết. Anh ta muốn cho họ biết cái gì đó.

Nhưng là cái gì mới được chứ?

Ở màn hình phía trên, David đang miên man suy nghĩ.

- Sự khác biệt - anh lẩm bấm.

- Sự khác biệt giữa U238 và U235. Đó chắc hẳn chỉ là một điều hết sức đơn giản.

Một kỹ thuật viên bắt đầu đếm những giây cuối cùng.

- Năm! Bốn! Ba!

Không đến một phần mười giây, cái từ đó được truyền tới Tây Ban Nha.

- Ba... ba.

David Becker giật nẩy mình như bị trúng đạn gây tê. Anh bình tĩnh nghĩ lại. Ba...ba...ba. 238 trừ đi 235! Điểm khác biệt chính là con số 3! Anh chậm rãi với lấy chiếc microphone.

Cũng chính ngay lúc đó, Susan đang tập trung vào bàn tay của Tankado. Bất chợt, cô nhìn qua chiếc nhẫn... qua những chi tiết chạm khắc trên chiếc nhẫn... rồi dừng ở những ngón tay của hắn.

Ba ngón tay. Không phải là chiếc nhẫn. Không phải là phần thịt trên bàn tay. Không phải Tankado đang nói với họ. Anh ta đang chỉ cho họ. Anh ta đang tiết lộ bí mật của mình, tiết lộ mã số chìa khóa - và cầu xin người ta hiểu được mình... cầu cho bí mật của anh ta đến với NSA đúng lúc.

- Số 3 - Susan kinh ngạc thì thầm.

- Số 3! - Từ Tây Ban Nha, Becker đồng thời hét lên.

Tuy nhiên trong lúc hỗn loạn đó, chẳng có ai buồn nghe cả.

- Chúng ta tiêu rồi! - một nhân viên kỹ thuật hét lên.

VR bắt đầu nháy loạn xạ khi trung tâm dữ liệu bắt đầu không thể ngăn được các kết nối xâm nhập ồ ạt vào. Còi báo động rú lên phía trên đầu.

- Dữ liệu tràn ra ngoài!

- Chúng đang xâm nhập tốc độ cao vào tất cả các khu vực!

Nhanh như cắt, Susan xoay người về phía bàn phím của Jabba.

Cô dừng lại và nhìn thẳng vào vị hôn phu của mình, David Becker.

Một lần nữa giọng anh lại vang lên phía trên đầu.

Ba! Điểm khác biệt giữa U235 và U238 là con số 3!

Mọi người trong phòng đều ngước mắt lên.

- Số 3! - Susan hét lên, cố át mớ âm thanh hỗn độn của tiếng còi báo động lẫn với tiếng la ó của các nhân viên kỹ thuật. Cô chỉ tay lên màn hình trên tường. Tất cả các ánh mắt hướng theo cô, nhìn vào bàn tay của Tankado, nó cố vươn ra, ba ngón tay vẫy một cách tuyệt vọng trong ánh nắng của vùng Seville.

Jabba sững sờ.

- Ôi Chúa ơi! - Ông chợt hiểu, hóa ra từ nãy đến giờ anh chàng thiên tài tật nguyền này đã cho họ câu trả lời.

- 3 là số nguyên tố! - Soshi thốt lên.

- 3 là một số nguyên tố! - Ông Fontaine bàng hoàng - Đơn giản vậy sao?

- Dữ liệu đang bị tràn - Một nhân viên lã thuật kêu lên - Tràn rất nhanh!

Tất cả mọi người đổ xô về phía màn hình và bàn phím. Tất cả đều vươn tay ra. Susan, nhanh như một tiền đạo đang đua tốc độ với đối phương, vượt qua đám đông lao tới trước và ấn phím 3. Bây giờ thì mọi ánh mắt lại đổi hướng sang phía bức tường có gắn màn hình theo dõi. Trên màn hình, một dòng chữ hiện lên.

NHẬP MẬT KHẨU? 3

- Đúng rồi! - Ông Fontaine ra lệnh.

- Làm đi!

Susan nín thở hạ ngón tay xuống phím ENTER. Chiếc máy tính phát ra một tiếng "bíp".

Im lặng.

Ba giây nặng nề trôi qua song vẫn không có gì xảy ra.

Tiếng còi báo động vẫn tiếp tục vang lên. 5 giây, rồi 6 giây.

"Dữ liệu đang tràn"

- Chẳng có gì thay đối!

Bỗng nhiên Midge cuống cuồng chỉ lên trên màn hình.

- Nhìn kìa!

Trên màn hình, một thông báo xuất hiện.

MÃ HÓA GIẢI ĐÃ ĐƯỢC XÁC NHẬN

- Tải tường lửa lên! - Jabba ra lệnh.

Nhưng Soshi đã nhanh hơn ông một bước. Cô vừa nhập lệnh xong.

- Dữ liệu tràn đã bị chặn! - Một nhân viên kỹ thuật hét lên - Đã cắt đứt các kết nối xâm nhập.

Trên màn hình VR, bức tường lửa đầu tiên trong số năm bức tường đã bắt đầu xuất hiện trở lại, những đường truyền màu đen đang cố tấn công vào trung tâm hệ thống đã bị chặn lại ngay lập tức.

- Đang cài đặt lại! - Jabba kêu lên - Mấy thứ đồ khỉ gió này đang được cài lại rồi!

Lúc đầu mọi người có vẻ như chưa thể tin vào một chiến thắng bất ngờ đến vậy. Dường như mọi thứ có thể sụp đổ bất cứ lúc nào.

Nhưng rồi bức tường lửa thứ 2 bắt đầu xuất hiện... rồi đến cái thứ 3. Một lát sau toàn bộ hệ thống lọc đã xuất hiện trở lại. Ngân hàng dữ liệu đã được an toàn.

Căn phòng như muốn nổ tung lên trong vui sướng. Các nhân viên kỹ thuật ôm chặt lấy nhau, tung đầy giấy in lên cao để ăn mừng. Những tiếng còi báo động nhỏ dần. Brinkerhoff chộp lấy Midge và ôm ghì lấy bà ta, còn Soshi thì bật khóc.

- Jabba - Ông Fontaine lên tiếng - Chúng lấy được bao nhiêu rồi?

- Rất ít - Jabba kiểm tra lại máy tính của mình rồi nói - Rất ít, và chẳng có gì đầy đủ cả.

Ông Fontaine chậm rãi gật đầu với một nụ cười hiếm hoi bên khoé miệng. Ông nhìn xung quanh để tìm Susan Fletcher. Cô đã bước đến trước ống kính tự lúc nào. Trên bức tường phía trước cô, khuôn mặt của David Becker đang choán hết cả màn hình.

- David!

- Chào người đẹp - Anh mim cười.

- Anh về nhà đi - cô nói - Về đi, ngay bây giờ.

- Gặp em ở Stone Manor nhé? - Anh hỏi.

Cô gật đầu, những giọt nước mắt của cô đang trào ra.

- Anh hứa rồi đấy nhé!

- Đặc vụ Smith - Ông Fontaine gọi.

Smith xuất hiện trên màn hình sau Becker.

- Tôi đây, thưa ngài có chuyện gì ạ?

- Hình như anh bạn Becker của chúng ta có hẹn. Anh có thể đưa anh ấy về nhà ngay được không?

Smith gật đầu.

- Máy bay của chúng tôi đang ở Malaga - Anh vỗ nhẹ vào lưng Becker.

- Anh đáng được thưởng đấy, giáo sư. Đã bao giờ bay trên một chiếc Learjet 60 chưa?

Becker cười.

- Tính đến hôm qua thì chưa.

Xem tiếp chương 128

Chương 128

Susan tỉnh giấc khi nắng đã lên cao. Những tia nắng mềm mại luồn qua tấm màn cửa và trải đều trên chiếc giường trải đệm lông ngỗng. Cô vươn người ôm choàng lấy David. Mình đang mơ ư? Toàn thân cô vẫn mỏi nhừ, mệt lử và choáng váng từ sau đêm hôm trước.

- David à - Cô rên rỉ.

Không có tiếng trả lời. Cô mở mắt, da cô vẫn còn cảm giác như bị kim châm. Chỗ đệm bên cạnh cô lạnh ngắt. David đâu rồi?

Mình đang mơ, Susan nghĩ. Cô ngồi dậy. Căn phòng được bài trí theo kiểu cách thời Victoria với rất nhiều giải đăng ten và đồ cổ những đồ gỗ tốt nhất của Stone Manor. Túi ngủ của cô được đặt ở giữa sàn nhà gỗ cứng... còn trên chiếc ghế kiểu của nữ hoàng Anne bên cạnh giường là đồ ngủ của cô.

Có thực là David đang ở đây? Cô vẫn nhớ - thân thể của anh, nụ hôn nhẹ nhàng của anh đã đánh thức cô. Phải chăng tất cả những điều đó chỉ là một giấc mơ? Cô quay lại chiếc bàn, trên đó có một chai sâm-banh đã cạn, hai chiếc cốc và...một mẩu giấy nhỏ.

Đưa tay lên dụi mắt cho tỉnh ngủ, Susan vơ lấy tấm chăn, quấn quanh người và đọc mẩu giấy.

SUSAN YÊU QUÝ CỦA ANH,

ANH YÊU EM.

KHÔNG CÓ SÁP ONG, DAVID.

Cô áp mẩu giấy vào ngực mình, trông sắc mặt cô rạng rỡ hẳn lên. Phải rồi, đúng là David rồi. Không có sáp ong... đây chính là mật mã cô vẫn chưa giải được.

Có cái gì đó động đậy phía trong góc. Susa ngước lên. Trên chiếc trường kỷ bằng nhung lông chan hòa ánh nắng ban mai,

David Becker đang ngồi yên lặng ngắm cô, mình mặc một chiếc áo choàng tắm dày. Susan đưa tay vẫy, ra hiệu cho anh đến với cô.

- Không có sáp ong ư? Cô thì thầm khi đã kéo anh vào trong lòng.

- Không có sáp ong - Anh mỉm cười.

Cô hôn anh thật sâu.

- Nói cho em biết điều đó nghĩa là gì đi.

- Không bao giờ - Anh cười. - Một đôi tình nhân cần phải có những điều bí mật - điều bí mật này sẽ khiến chúng ta luôn cảm thấy thú vị.

Susan mỉm cười một cách duyên dáng.

- Chỉ cần thú vị hơn tối hôm qua một chút thôi là em sẽ không đi nổi nữa đâu đấy.

David ôm cô vào lòng. Anh cảm thấy lòng lâng lâng. Ngày hôm qua suýt nữa thì anh đã chết, vậy mà bây giờ anh đã ở đây, được tận hưởng cuộc sống một cách vô cùng trọn vẹn.

Susan gục đầu lên ngực anh và nghe từng nhịp đập nơi trái tim anh. Cô không thể tin nổi có lúc tưởng rằng sẽ mất anh mãi mãi.

- David - cô thở dài, đưa mắt nhìn mẩu giấy cạnh bàn.

- Cho em biết "không có sáp ong" là gì đi - Anh biết là em chúa ghét những mật mã giải được mà.

David vẫn im lặng.

Susan bĩu môi phụng phịu.

- Nói cho em biết hoặc là anh sẽ không bao giờ có được em nữa.

- Nói dối.

Susan lấy gối đánh David.

- Nói cho em mau! Ngay bây giờ!

Những David biết anh sẽ không bao giờ nói ra. Điều bí mật ẩn sau mật mã "không có sáp ong" quá ngọt ngào. Nó bắt nguồn từ thời xa xưa. Trong thời kỳ Phục hưng, những nghệ nhân điêu khắc Tây Ban Nha thường sử dụng gốm trộn sáp ong để khắc phục các lỗi trên những bức tượng cẩm thạch đắt tiền mà mình đang thực hiện. Một bức tượng không có vết nứt và không cần chắp vá gì sẽ được người ta gọi là "một tác phẩm điêu khắc không có sáp ong". Về sau, cụm từ này được sử dụng để chỉ bất cứ thức gì có nghĩa trung thực hay đích thực. Từ "chân thành" (1) trong tiếng Anh bắt nguồn từ từ "không có sáp ong" (2) trong tiếng Tây Ban Nha. Mật mã bí mật của David không phải là một điều quá bí ẩn - nó đơn giản chỉ là chữ "chân thành", anh ký ở cuối thư mà thôi. Anh nghĩ ra trò dùng mật mã kiểu này để khiến cô luôn vui.

Để thay đổi đề tài, David chuyển hướng :

- Em sẽ rất vui nếu biết được rằng trên đường bay về nhà, anh đã gọi cho ông hiệu trưởng trường đại học.

Susan ngước lên với vẻ hi vọng.

- Hãy nói với em là anh đã từ bỏ cái ghế trưởng khoa đi.

David gật đầu.

- Anh sẽ trở lại với bục giảng vào học kỳ tới.

Cô thở dài nhẹ nhõm.

- Đúng vị trí của anh lúc ban đầu.

David nở nụ cười dịu dàng.

- Phải rồi, anh nghĩ Tây Ban Nha đã cho anh biết điều gì là quan trọng.

- Lại trở về để cho các cô sinh viên ngưỡng mộ à - Susan hôn lên má anh.

- Ít nhất thì anh cũng có thời gian giúp em biên tập bản thảo của mình.

- Bản thảo ư?

- Đúng, em vừa quyết định sẽ cho xuất bản.

- Xuất bản? - David nhìn một cách nghi ngờ - Xuất bản cái gì?

- Một vài ý tưởng của em về các giao thức lọc biến thể và thặng dư bậc hai.

Anh lầm bẩm.

- Có vẻ sẽ là một cuốn sách ăn khách nhất đây?

Cô bật cười.

- Anh sẽ bất ngờ đấy.

David đưa tay vào túi chiếc áo choàng tắm của mình và lấy ra một vật nhỏ.

- Em nhắm mắt lại đi. Anh có cái này cho em.

Susan nhắm mắt.

- Để em đoán xem nhé: một chiếc nhẫn vàng với hoa văn cầu kỳ và chữ La-tinh vòng quanh?

- Sai rồi - David cười thầm - Anh đã nhờ ngài Fontaine trả lại nó vào số tài sản của Ensei Tankado.

Anh cầm lấy tay Susan và đeo nhanh một vật vào ngón tay cô.

- Đồ nói dối - Susan cười và mở mắt ra - Em biết rồi...

Nhưng Susan dừng lại ngay. Chiếc nhẫn trên ngón tay cô không hề giống của Tankado, đó là một chiếc nhẫn bạch kim được tô điểm bằng một viên kim cương lấp lánh.

Susan há hốc miệng vì kinh ngạc.

David nhìn sâu vào trong mắt cô.

- Em sẽ lấy anh chứ?

Hơi thở của Susan như nghẹn lại ở cổ họng. Cô nhìn anh rồi lại quay lại với chiếc nhẫn. Mắt cô bỗng cay xè.

- Ôi, David... Em không biết phải nói gì...

- Hãy nói em đồng ý đi! - David cầu xin.

Susan quay đi và không nói một lời.

David chờ đợi.

- Susan Fletcher, anh yêu em. Hãy lấy anh đi!

Susan ngước lên, mắt cô thấm đẫm lệ.

- David, em xin lỗi - cô thì thầm - Em... em không thế.

David mở to mắt trong sự bàng hoàng. Anh nhìn thẳng vào mắt cô, cố tìm trong đó một ánh mắt nghịch ngợm, song nó không có ở đó. Anh lắp bắp :

- Su..Susan, anh...anh không hiểu.

- Em không thể - cô nhắc lại - Em không thể lấy anh.

Cô quay đi chỗ khác. Hai bờ vai cô bắt đầu rung lên. Cô lấy tay bưng mặt mình.

David ngơ ngác.

- Nhưng, Susan... anh tưởng...

Anh ôm lấy bờ vai đang rung lên của cô và xoay cô lại phía anh. Ngay lúc đó anh nhận ra. Susan Fletcher không hề khóc; cô chỉ đang quá xúc động :

- Em sẽ không lấy anh đâu! - Cô bật cười rồi lại tiếp tục dùng gối tấn công anh - Cho đến khi nào anh chịu giải thích cho em về vụ "Không có sáp ong"! Anh đang làm em phát điên lên đây này!

Xem tiếp chương 129

Phần kết

Người ta nói rằng trước cái chết tất cả mọi thứ đều trở nên sáng tỏ. Bây giờ Tokugen Numataka đã hiểu điều đó là sự thật. Đứng trước bình đựng tro hỏa táng tại Sở hải quan Osaka, ông đang cảm thấy một sự thật cay đắng chưa bao giờ nếm trải trong đời. Tôn giáo dạy ông ta về luân hồi và về những mối liên kết của cuộc sống, tuy nhiên Numataka chưa bao giờ có thời gian cho tôn giáo của mình.

Các quan chức hải quan đưa cho ông ta một phong bì trong đó có giấy chứng nhận và các giấy tờ khai sinh đã ố vàng. Họ nói :

- Ông là người họ hàng duy nhất hiện còn sống của chàng trai này. Chúng tôi vất vả mãi mới tìm được ông.

Đầu óc Numataka quay cuồng với những hình ảnh của cái đêm mưa sũng nước 32 năm về trước, hình ảnh phòng bệnh viện nơi ông ta bỏ rơi đứa con tật nguyền cùng người vợ đang hấp hối của mình. Ông ta đã làm điều đó vì danh dự của mình - thứ giờ đây chỉ còn là một cái bóng vô nghĩa.

Trong tập giấy tờ còn có cả một chiếc nhẫn vàng. Trên đó có khắc những từ mà Numataka không hiểu được. Nhưng điều đó có nghĩa gì đâu cơ chứ! Những từ ngữ không còn có ý nghĩa gì đối với Numataka nữa. Ông đã vứt bỏ đứa con trai duy nhất của mình. Và giờ đây, định mệnh nghiệt ngã đã đưa hai bố con đến với nhau.

HẾT

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: