Dan Brown Pháo đài số C1-64

Lời tác giả

Dan Brown Pháo đài số Chúc Linh dịch

Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các biên tập viên ở Nhà xuất bản St. Marlin's Press: ông Thomas Dunne và bà Melisa Jacobs - một phụ nữ tài năng. Cảm ơn những người đã giúp tôi đọc bản thảo và đóng góp ý kiến trong suốt quá trình viết cuốn sách này. Và đặc biệt, xin cảm ơn, Blythe, người vợ nhiệt tình và kiên nhẫn của tôi.

Tác giả cũng xin gửi lời biết ơn chân thành nhất tới hai cưụ chuyên gia mật mã của NSA đã đóng góp cho tác phẩm qua thư mà không xưng tên.

Không có sự giúp đỡ của họ, tôi đã không thể hoàn thành cuốn sách này.

Phần mở đầu

PLAZA DE ESPANA SEVILLE

TÂY BAN NHA,

11:00 sáng.

Người ta thường nói, trước cái chết mọi việc đều trở nên sáng tỏ. Giờ đây, Ensei Tankado mới thấm nhuần nguyên lý tưởng chừng như đơn giản ấy. Hai tay siết chặt lồng ngực, ngã vật xuống đất trong đau đớn, Tankado chợt nhận ra hậu quả khủng khiếp từ những lầm lỗi của mình.

Một nhóm người xúm quanh anh ta, tìm cách giúp đỡ, song Tankado không cần nữa. Đã quá muộn mất rồi.

Lẩy bẩy, anh ta chìa bàn tay trái và giơ lên. "Hãy nhìn tay tôi đây, các vị". Những gương mặt xúm quanh nhìn anh ta chăm chú. Nhưng Tankado biết, họ chẳng hiểu gì cả.

Chiếc nhẫn vàng chạm khắc trên tay anh ta bỗng lóe lên phản chiếu dưới ánh mặt trời xứ Andalusia.

Với Ensei Tankado, đó là thứ ánh sáng cuối cùng anh ta nhìn thấy trên cõi đời này.

Xem tiếp chương 1

Chương 1

Hai người đang ở trong khách sạn mà họ hay lui tới ở vùng Smoky Mountains, David nhìn cô mỉm cười: "Em nghĩ thế nào, tình yêu của anh? Lấy anh nhé?".

Nằm trên giường, ngước nhìn David, cô hiểu rằng anh chính là người mình cần trong cuộc đời này. Mãi mãi. Nhìn sâu vào đôi mắt xanh thẫm, của anh, cô đột nhiên thấy đâu đó vọng lại một tiếng chuông chói tai. Tiếng chuông đột ngột cướp anh đi mất. Cô cố vươn tới, cố ôm lấy anh, song trong vòng tay chỉ là một khoảng không trống trải.

Tiếng chuông điện thoại réo vang kéo Susan ra khỏi giấc mơ.

Cô ngồi dậy, thở hổn hển, quờ quạng tìm chiếc điện thoại.

- A lô!

- Susan à, anh David đây. Anh có làm em thức giấc không?

Cô mỉm cười, nằm lăn xuống giường.

- Em vừa mơ thấy anh. Tới đây với em đi anh.

David bật cười.

- Còn quá sớm mà em.

- Ứ đâu! - Cô ầm ừ nũng nịu - Anh đến ngay đi. Chúng mình cùng vui một chút rồi lên đường.

David thở dài.

- Vì thế nên anh phải gọi cho em đấy. Chuyến đi của chúng mình phải hoãn lại thôi.

Susan bật dậy, cô tỉnh ngủ hẳn.

- Cái gì cơ?

- Anh xin lỗi. Anh phải đi ngay bây giờ. Sáng mai anh về. Rồi chúng ta sẽ lên đường từ sớm tinh mơ. Chúng mình vẫn có 2 ngày bên nhau mà.

- Nhưng em đặt chỗ trước rồi! - Susan nói, trong lòng hụt hẫng - Em đã đặt trước căn phòng quen thuộc của chúng mình ở khách sạn Stone Manor rồi.

- Anh biết, nhưng mà...

- Chúng mình đã định biến đêm nay thành một đêm đặc biệt - kỷ niệm sáu tháng chúng mình đính hôn, anh nhớ mà, phải không?

- Susan à. - Anh lại thở dài - Bây giờ anh thật sự không thể giải thích cho em hiểu được, họ đang chờ anh dưới xe. Khi nào lên máy bay anh sẽ gọi lại rồi giải thích mọi chuyện.

- Sao lại máy bay? - cô hoảng hốt. - Chuyện gì xảy ra thế? Tại sao trường đại học lại...?

- Không phải ở trường đâu. Anh sẽ gọi lại và giải thích sau. Anh phải đi ngay đây; họ đang gọi. Anh sẽ gọi lại ngay. Anh hứa mà.

- David! - Cô hét lên - Sao lại...

Nhưng đã quá muộn. David đã cúp máy.

Susan Fletcher nằm thao thức nhiều giờ đồng hồ chờ anh gọi lại nhưng chẳng có cuộc gọi nào cho cô cả.

* * * * *

Buổi chiều hôm đó Susan uể oải ngâm mình trong bồn tắm.

Thả lỏng cơ thể trong làn nước đầy bọt xà phòng, cô cố gắng quên đi hình ảnh khách sạn Stone Manor và những dãy núi ở vùng Smoky Mountains. Anh đang ở đâu nhỉ? Cô tự hỏi lòng mình. Sao mãi không thấy anh gọi lại?

Nước trong bồn tắm dần chuyển từ nóng sang âm ấm và cuối cùng thì lạnh ngắt. Cô đang chuẩn bị ra ngoài thì chiếc điện thoại đặt trên bồn rửa mặt đổ chuông. Susan đứng phắt dậy, lao ra, vồ lấy ống nghe, mặc cho nước bắn tung toé trên nền nhà.

- Anh à?

- Tôi, Strathmore đây - tiếng đầu dây bên kia trả lời.

Susan chán nản sụp xuống.

- Ôi. - Cô thốt lên không dấu nối sự thất vọng - Xin chào ngài chỉ huy.

- Đang chờ anh chàng nào trẻ trung hơn phải không - ông ta cười khùng khục.

- Dạ không, thưa sếp - Susan ngượng ngùng - Chỉ là...

- Nhầm một tí thôi hả - ông chỉ huy cười - Cái cậu David Becker ấy được đấy. Đừng bao giờ để mất nhé.

- Dạ vâng, cám ơn sếp.

Giọng ông chỉ huy đột nhiên trở nên rất nghiêm trọng.

- Susan, tôi gọi cho cô vì tôi muốn cô tới đây. Tới Pronto.

Susan cố gắng tập trung vào cuộc nói chuyện.

- Hôm nay là thứ Bảy mà sếp. Thường thì chúng ta...

- Tôi biết - Ông vẫn nói hết sức lạnh lùng - Đây là một trường hợp khẩn cấp.

Susan ngồi dậy. Khẩn cấp ư? Đã bao giờ cô thấy ngài chỉ huy Strathmore dùng tới từ này đâu. Ở trung tâm Crypto à? Cô không thể tưởng tượng được chuyện gì đã xảy ra.

- Vâ...âng, thưa sếp - Cô ngập ngừng - Tôi sẽ tới ngay.

- Càng nhanh càng tốt - Strathmore đập máy.

Quấn chiếc khăn tắm. Susan Fletcher đứng sững, mặc cho nước trên người nhỏ vào những bộ quần áo đã gấp gọn gàng từ đêm hôm trước chiếc quần soóc mặc đi dạo, chiếc khăn choàng cho những buổi tối se lạnh ở vùng núi, và chiếc váy ngủ cô mới mua cho những đêm tuyệt diệu. Thất vọng, cô đi tới phòng để đồ lấy ra một chiếc áo choàng và chiếc váy. Một trường hợp khẩn cấp ư? Ở Crypto ư?

Vừa bước xuống cầu thang. Susan vừa tự hỏi sao ngày hôm nay lại tồi tệ đến thế.

Chỉ lát nữa thôi, cô sẽ biết chuyện gì đã xảy ra.

Xem tiếp chương 2

Chương 2

Ở độ cao 9000 mét trên mặt đại dương phẳng lặng, David Becker khổ sở nhìn ra ngoài cửa sổ hình ô van của chiếc máy bay Leariet 60. Phi hành đoàn vừa thông báo điện thoại trên máy bay gặp trục trặc, và anh không thể gọi cho Susan.

- Mình đang làm gì ở đây thế này? - anh ta càu nhàu với chính bản thân mình. Nhưng câu trả lời thật đơn giản - có những người mà anh không thể nói không với họ.

- Thưa ông Becker - tiếng từ chiếc loa trên máy bay - Nửa giờ nữa chúng ta sẽ tới nơi.

Becker chán nản gật đầu với tiếng nói vô hình kia. Được! Anh kéo chiếc rèm che cửa sổ xuống và cố gắng ngủ một giấc. Nhưng giờ đây anh không thể nghĩ đến điều gì khác ngoài Susan.

Xem tiếp chương 3

Chương 3

Chiếc VOLVO của Susan dừng lại đưới hàng rào thép gai Cyclone cao tới hơn 3 mét. Một người gác cống trẻ tưối ra đặt tay lên mui xe.

- Xin cô cho xem thẻ chứng minh.

Susan đưa thẻ rồi chờ nửa phút như thông lệ. Người gác cổng đưa tấm thẻ của cô chạy qua một máy quét. Cuối cùng anh ta nhìn lên :

- Cảm ơn cô Fletcher - Anh ta đưa tay ra hiệu một cách kín đáo, cánh cửa từ từ mở ra. Đi tiếp nửa dặm, Susan lại phải dừng xe trước một hàng rào điện tử bề thế không kém hàng rào trước. Toàn bộ quy trình được lặp lại một lần nữa. Thôi nào, các anh bạn... Tôi mới chỉ tới đây có vài triệu lần thôi mà.

Tới trạm cuối cùng, một tay gác cổng lực lưỡng với súng máy và hai con chó dữ hỗ trợ, kiểm tra giấy tờ Susan, rồi vẫy tay ra hiệu cho cô đi vào. Theo đường Canine, cô đi tiếp 250 mét rồi tiến vào Khu làm việc C. Thật không thể tin nổi, 26 ngàn nhân viên và ngân sách 12 tỉ đô la, thế mà không thể sống sót qua nổi 2 ngày cuối tuần không có mình, cô thầm nghĩ. Susan cho xe lao vút vào chỗ đỗ dành riêng cho mình rồi tắt máy.

Sau khi đi hết những bậc cầu thang được trang trí cầu kỳ, vào khu nhà chính, cô đi qua hai trạm kiểm tra nữa và cuối cùng tới một đường hầm kín không cửa số dẫn tới một dãy nhà khác. Chắn ngay lối vào là một trạm kiếm tra giọng nói.

CƠ QUAN AN NINH QUỐC GIA (NSA)

TRUNG TÂM CRYPTO

KHÔNG NHIỆM VỤ MIỄN VÀO

Nhân viên canh gác được trang bị súng ngước nhìn lên.

- Xin chào, cô Fletcher.

Susan mệt mỏi cười gượng.

- Chào anh, John.

- Tôi không nghĩ lại gặp cô hôm nay.

- Vâng, tôi cũng thế - Cô vươn tới cái micro hình pa-ra-bôn đọc thật rõ ràng "Susan Fletcher". Ngay lập tức, máy tính xác nhận tần số giao động âm đặc trưng trong giọng nói của cô, và cửa được mở ra. Susan bước vào.

Anh nhân viên nhìn theo Susan đầy ngưỡng mộ khi cô bắt đầu đi xuống con đường lát xi măng. Anh ta nhận ra trong đôi mắt nâu sáng của cô hôm nay có cái gì xa xăm, gò má cô ửng hồng thật tươi tắn, và mái tóc nâu hình như vừa được sấy khô.

Thoảng theo mỗi bước chân là mùi hương phấn Johnson Baby dịu nhẹ. Ánh mắt anh lướt trên tấm thân mảnh dẻ của cô, đôi bầu ngực thon nhỏ ẩn trong chiếc áo sơ mi trắng giản dị, chiếc váy kaki dài chấm gối, và dừng lại ở đôi chân... đôi chân của Susan Fletcher.

Thật khó mà tin được thân hình ấy là của một bộ óc 170 điểm IQ, anh thầm nghĩ.

Anh nhìn theo cô hồi lâu, rồi cuối cùng lắc đầu khi Susan đã khuất bóng phía xa.

Đi hết đường hầm, Susan đứng trước một cánh cửa xoay lớn.

Bên trên có dòng chữ. TRUNG TÂM CRYPTO.

Thở dài, cô đặt tay lên hốc tường chứa hộp mật mã, nhập vào năm số PIN của mình. Vài giây sau cánh cửa thép nặng 12 tấn bắt đầu xoay. Cô đã cố gắng tập trung vào việc đang làm song vẫn không thể dứt khỏi những ý nghĩ về anh - David Becker, người đàn ông duy nhất cô yêu. Người trẻ tuồi nhất mang học hàm giáo sư ở trường Đại học Georgetown và một chuyên gia ngoại ngữ tài năng, thực sự là một người có tiếng trong giới trí thức hàn lâm.

Với một trí nhớ bẩm sinh tuyệt vời cộng thêm lòng đam mê ngôn ngữ, anh thông thạo sáu thứ tiếng của châu Á cùng với tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp, và tiếng Ý. Những giảng đường nơi anh giảng về từ nguyên học và ngôn ngữ học không bao giờ còn một chỗ trống. Lần nào cũng vậy, cứ sau mỗi buổi lên lớp anh lại phải ở lại rất lâu để trả lời cho hết hàng loạt câu hỏi của sinh viên. Anh luôn có giọng nói thật trầm ấm, đầy khích lệ, và dường như không để ý tới những ánh mắt đầy ngưỡng mộ của các cô nữ sinh nghịch ngợm trong trường.

Becker năm nay 35 tuổi - vóc người vạm vỡ, nước da sạm nắng, trẻ trung với đôi mắt xanh sắc sảo và trí thông minh tuyệt vời. Nhìn đôi quai hàm khoẻ mạnh và những đường nét cơ bắp hoàn hảo của anh, Susan thường liên tưởng tới một bức tượng khắc bằng đá cẩm thạch. Với chiều cao hơn l,8mét, Becker di chuyển trên sân bóng quần nhanh nhẹn hơn tất cả các đồng nghiệp khác. Sau khi đánh bại đối thủ, anh thường chúi đầu dưới vòi nước công cộng rồi vò ướt sũng mái tóc đen, dày của mình để xả hết sự nóng bức. Rồi vẫn để nước rỏ tong tong như thế, anh mời bạn chơi đi uống nước hoa quả và ăn bánh mỳ vòng.

Cũng giống như bao giáo sư trẻ tuồi khác, thu nhập từ đạy học của David hết sức khiêm tốn. Mỗi khi cần thêm tiền để gia hạn thẻ thành viên câu lạc bộ bóng quần hay để thay cước cho chiếc vợt hiệu Dunlop cũ của mình, anh lại kiếm thêm bằng cách nhận dịch tài liệu cho các cơ quan chính phủ ở Washington và các vùng lân cận. Và cũng chính từ một trong lần đi kiếm thêm như thế mà anh đã gặp Susan. Đó là một buổi sáng khô ráo và se lạnh giữa kỳ nghỉ thu ở trường đại học. Becker vừa chạy thể dục buổi sáng về tới căn hộ có ba phòng của mình thì thấy chiếc máy điện thoại trả lời tự động đang nhấp nháy đèn. Vừa uống hết một lít nước cam vắt anh vừa nghe lởi nhắn.

Cũng không khác gì những lời nhắn khác mà anh vẫn thường nhận được một cơ quan chính phủ muốn thuê anh dịch tài liệu trong vài giờ đồng hồ sáng hôm ấy. Điều duy nhất Becker thấy lạ là tên cơ quan đó, anh chưa nghe thấy bao giờ.

- Đó là Cơ quan An ninh Quốc gia - Becker gọi một số bạn đồng nghiệp để hỏi thêm thông tin về cơ quan này. Câu trả lời anh nhận được đều giống nhau.

- Hội đồng An ninh Quốc gia à?

Becker nghe lại lời nhắn.

- Không. Họ nói là Cơ quan cơ. Tên tắt là NSA.

- Tớ chưa nghe thấy bao giờ.

Becker kiểm tra trong Danh bạ của GA022 (Tổng cục Kế toán) song cũng chẳng tìm được manh mối gì. Không còn cách nào khác, Becker đành gọi cho một người bạn thân cùng chơi bóng quần trước đây một cựu chuyên gia phân tích chính trị đã giải nghệ và đang làm nhân viên nghiên cứu tại Thư viện Quốc hội. Anh bị bất ngờ trước những gì bạn mình nói.

NSA không chỉ tồn tại thật mà còn được coi là một trong những tổ chức chính phủ có ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới. Từ hơn nửa thế kỷ qua, nó đã thu thập các dữ liệu tình báo điện tử trên toàn cầu và bảo vệ thông tin tuyệt mật của Hoa Kỳ. Chỉ 3 phần trăm người dân Hoa Kỳ được biết tới sự tồn tại của tổ chức này.

- NSA - ông bạn của Becker đùa - tức là "No Such Agency" [1]

Một chút rụt rè cộng với tò mò, Becker nhận lời mời của cơ quan bí hiểm kia. Anh lái xe vượt 37 dặm đường để tới trụ sở làm việc rộng tới 86 mẫu và ẩn mình kín đáo trong khu rừng núi của Fort Meade, bang Maryland. Sau khi làm thủ tục ở hàng loạt trạm kiểm soát và được cấp một tấm giấy thông hành dành cho khách trong vòng 6 giờ có dán ảnh ba chiều, anh được hộ tống tới một cơ sở nghiên cứu bề thế và lộng lẫy. Các nhân viên nói anh sẽ ở đây cả buổi chiều để "hỗ trợ mà vẫn không biết gì về nội dung" cho Ban Mật mã - một nhóm gom toàn những bộ óc siêu phàm về toán học mà người ta vẫn gọi là các chuyên gia giải mã.

Trong một giờ đồng hồ đầu tiên, các chuyên gia giải mã dường như không hề để ý tới sự có mặt của Becker. Họ vây quanh một chiếc bàn khổng lồ và nói với nhau bằng một thứ ngôn ngữ mà Becker chưa nghe thấy bao giờ. Họ nói về các dòng mật mã, các cơ chế thập phân, các giao thức, các điếm đồng nhất. Becker theo dõi nhưng không thể hiểu được họ đang trao đổi điều gì. Họ nguệch ngoạc những ký hiệu trên tờ giấy vẽ biểu đồ, mải mê theo dõi những gì chiếc máy tính in ra, và liên tục nhìn lên những dòng chữ cái lộn xộn được chiếc máy chiếu hắt lên màn hình.

Cuối cùng thì cũng có một người trong số họ giải thích cho Becker điều mà anh cũng đã ngờ ngợ. Những chữ cái lộn xộn đó chính là một đoạn mã - "một văn bản mật mã" - những nhóm con số và chữ cái thể hiện những từ đã được mã hoá. Nhiệm vụ của các chuyên gia là phải nghiên cứu đoạn mã và tìm ra thông điệp ẩn chứa bên trong đoạn mã, còn gọi là "văn bản gốc" - Becker được mời tới đây bởi vì các chuyên gia nghi ngờ rằng thông điệp gốc được viết bằng tiếng Quan Thoại; và anh sẽ phải dịch từ những ký hiệu này sau khi chúng đã được các chuyên gia giải mã.

Trong vòng 2 tiếng, Becker đã dịch những chuỗi dài không dứt các ký hiệu của tiếng Quan Thoại. Nhưng lần nào cũng vậy, những gì anh dịch ra đều khiến họ lắc đầu thất vọng. Có vẻ như đoạn mã trên không có nghĩa gì. Rất mong muốn giúp được các chuyên gia giải mã, Becker nói với họ rằng tất cả các ký tự ở đây đều có một đặc điểm chung - chúng cũng là một phần của hệ thống ngôn ngữ Kanji.

Bầu không khí náo nhiệt trong căn phòng ngay lập tức lắng xuống. Người chịu trách nhiệm về công việc này, đó là một người đàn ông cao, gầy và liên tục đốt thuốc lá tên là Morante quay sang hỏi anh với giọng ngờ vực.

- Ý anh là những ký hiệu này có nhiều nghĩa phải không?

Becker gật đầu. Anh giải thích thêm rằng Kanji là một hệ thống chữ viết của tiếng Nhật dựa trên những chữ tiếng Trung đã có sửa đối đôi chút. Do đã được yêu cầu từ trước nên từ nãy tới giờ anh chỉ dịch bằng tiếng Quan Thoại chứ không nghĩ tới chữ Kanji.

- Lạy chúa Jesus - Morante ho lên - Hãy thử chữ Kanji đi.

Và rồi, như có một phép màu kỳ lạ, tất cả mợi thứ dần hiện ra trước mắt.

Rất vui mừng song các chuyên gia vẫn chỉ để cho Becker làm việc với từng chữ cái một, không theo một quy luật nào.

- Đó là vì sự an toàn của anh thôi - Morante nói - Làm thế này anh sẽ không biết được mình đang dịch cái gì.

Becker cười. Nhưng ngay sau đó anh nhận ra xung quanh mình chẳng có ai cười.

Sau khi đoạn mã đã được giải xong, Becker vẫn không hề có một ý niệm nào về điều bí mật mà anh vừa giúp họ tìm thấy. Tuy nhiên có một điều chắc chắn - NSA hết sức coi trọng việc giải mã; tấm séc trong túi anh còn nhiều hơn cả một tháng lương ở trường.

Trên đường quay ra, sau khi đã vượt qua một loạt các trạm gác, Becker bị một nhân viên canh gác cầm điện thoại chặn lại.

- Ông Becker, xin ông vui lòng chờ ở đây ạ.

- Có vấn đề gì vậy - Becker không nghĩ buổi làm việc lại dài thế, và anh đã trễ giờ tới xem trận đấu bóng quần chiều thứ Bảy.

Anh nhân viên nhún vai.

- Giám đốc Crypto muốn có vài lời với anh. Bà ấy sẽ tới bây giờ đây.

- Bà à? - Becker bật cười. Anh chưa từng nhìn thấy người phụ nữ nào bên trong NSA.

- Điều đó có làm phiền anh không - giọng một người phụ nữ vang lên từ phía sau lưng anh.

Becker quay lại và lập tức thấy mặt mình nóng ran lên. Anh liếc nhìn tấm thẻ nhân viên đeo trên áo choàng người phụ nữ. Giám đốc Ban Mật mã của NSA không phải là một người phụ nữ bình thường, mà là một người phụ nữ rất hấp dẫn.

- À không - Becker bối rối - Tôi chi....

- Tên tôi là Susan Fletcher - Người phụ nữ mỉm cười, chìa cánh tay mảnh dẻ ra bắt tay anh.

Họ siết tay nhau.

- Còn tôi là David Becker.

- Xin chúc mừng anh, Becker. Nghe nói hôm nay anh đã làm việc rất tốt. Tôi nói chuyện với anh một lúc được không?

Becker hơi e ngại.

- Thực ra, bây giờ tôi đang vội - Anh nghĩ có lẽ từ chối lãnh đạo của cơ quan tình báo quyền lực nhất thế giới là một hành động ngốc nghếch. Song chi còn 45 phút nữa là trận đấu bóng bắt đầu, và anh không muốn để danh tiếng của mình bị ảnh hưởng: David Becker chưa bao giờ tới muộn một trận bóng quần nào. Tới giảng đường muộn thì còn có thề chứ tới sân đấu muộn thì không bao giờ.

- Tôi sẽ nói ngắn gọn thôi - Susan Eletcher mỉm cười - Xin mời anh đi đường này.

Mười phút sau, Becker đã ở trong quầy căng tin của NSA thưởng thức món bánh vỏ sò và nước quả man việt quất cùng với nữ chuyên gia mật mã xinh đẹp của NSA, Susan Fletcher. David nhận ra rằng không phải nhờ may mắn mà vị quan chức NSA cao cấp 38 tuổi này được thăng chức - đây là một trong những người phụ nữ thông minh nhất mà anh từng gặp. Và khi hai người cùng thảo luận về mật mã và bẻ khóa mật mã, Becker đã phải hết sức cố gắng mới nắm bắt được những gì Susan nói - một chân trời kiến thức mới mẻ và thú vị đang mở ra trước mắt anh.

Một giờ sau, khi mà Becker đã không thể nào tới kịp giờ trận bóng quần nữa, và Susan thì rõ ràng cũng đã quên mất cả công việc chỉ huy thường ngày của mình, vì họ đều đang cười nói rất vui vẻ. Cả hai nhà trí thức - hai bộ óc có khả năng tư duy phân tích tuyệt vời, vẫn thường được xem là "miễn nhiễm" với những rung động đời thường - nay lại đang ngồi cùng nhau tán gẫu.

Cùng nhau nói chuyện về hình thái học trong ngôn ngữ hay các cỗ máy tạo ra những con số có vẻ ngẫu nhiên, họ tưởng như được quay lại thời niên thiếu của mình - cuộc đời bỗng trở nên thật tươi đẹp.

Susan không đề cập tới lý do thực sự cô muốn nói chuyện với David Becker - mời anh thử việc tại Ban Mật mã châu Á. Qua những lời kể say sưa của vị giáo sư trẻ tuổi, cô hiểu rằng anh sẽ không bao giờ từ bỏ giảng đường. Susan quyết định sẽ không bàn chuyện công việc vì sợ phá hỏng bầu không khí đang vui vẻ của buổi nói chuyện này. Cô cảm thấy mình như được trở lại làm một cô nữ sinh trẻ trung; không gì được phép làm hỏng điều này. Và cũng không có gì xảy ra thật.

Mối quan hệ giữa họ ngày càng trở nên lãng mạn - những lúc tranh thủ trốn đi chơi nếu lịch làm việc cho phép, những buổi đi bộ kéo dài trong khuôn viên trường Georgetown, những buổi tối khuya đi uống cà phê ở Merlutti, và đôi khi cả những giờ giảng bài, những đêm hòa nhạc. Chưa bao giờ Susan nghĩ mình có thể cười nhiều đến thế. Dường như chẳng có gì mà David lại không thể biến thành một câu chuyện đùa. Đây quả là những phút thư giãn vô giá cho cô sau những giờ làm việc căng thẳng tại NSA.

Một buổi chiều thu se lạnh, họ ngồi bên nhau, cùng xem đội bóng đá trường Georgetown bị đội Rutgers cho thua liểng xieng.

- Anh bảo là chơi môn gì ấy nhỉ - Susan trêu chọc - Zucchini à?

Becker rên lên.

- Tên nó là bóng quần.

Cô nhìn anh vẻ không hiểu.

- Nó cũng hơi giống với zucchini - anh giải thích - nhưng sân chơi của nó nhỏ hơn.

Susan đẩy nhẹ anh.

Cầu thủ chạy cánh trái của đội Georgetown vừa đá quả phạt góc đi trượt ra ngoài đường biên, đám đông khán giả ồ lên tiếc nuối. Các cầu thủ hậu vệ chạy nhanh về sân nhà.

- Thế còn em thì sao - Becker hỏi - Em chơi môn gì không?

- Em có đai đen môn Stairmaster đấy nhé.

Becker ra vẻ khúm núm.

- Anh thích những môn thể thao đối kháng cơ!

Susan cười :

- Cả hai chúng ta đều thật hiếu thắng.

Cầu thủ hậu vệ ngôi sao của Georgetown vừa chặn được một quả chuyền bóng của đối phương khiến khán giả đồng loạt vỗ tay tán thưởng. Susan nghiêng người qua, thì thầm vào tai David.

- Thưa ngài tiến sỹ.

Anh quay lại, nhìn cô đắm đuối.

- Thưa ngài tiến sỹ - cô lặp lại - Ngài hãy nói từ đầu tiên mình nghĩ tới nhé!

Becker nhìn cô vẻ nghi ngờ.

- Trò đoán tính cách qua từ ngữ à?

- Một thủ tục kinh điển của NSA đấy. Em muốn biết mình đang làm bạn với một người như thế nào - Cô nhìn lại anh đầy nghiêm nghị. "Ngài Tiến sỹ".

Becker nhún vai.

- Bắt đầu đi.

Susan nhíu mày.

- Ok, thử từ này xem... "nhà bếp"...

Anh nói luôn.

- Phòng ngủ.

Susan nhướn mắt duyên dáng.

- Được rồi, thế từ này thì sao...

- Mèo..

- Ruột - Becker trả lời.

- Ruột á?

- Ừ đúng rồi. Ruột mèo. Loại dây vợt bóng quần tốt nhất đấy.

- Tuyệt đấy - Cô khẽ nói.

- Em đang phân tích anh đấy à - Becker khẽ hỏi.

Nghĩ một phút, Susan trả lời.

- Anh ngây ngô và là một tay chơi bóng quần cừ khôi nhưng lại không có nhiều khả năng về chuyện ấy!

Becker nhún vai :

- Cũng có vẻ đúng đấy.

Cứ thế trong nhiều tuần lễ, lúc ăn tráng miệng sau những bữa tối kéo dài suốt đêm, Becker không ngừng hỏi Susan.

- Tại sao em lại học toán?

- Sao cuối cùng em lại làm cho NSA?

- Em có bí quyết gì mà quyến rũ thế?

Susan đỏ mặt thú nhận cô dậy thì rất muộn. Khi nhìn thấy vóc dáng cao gầy lêu đêu và vụng về thủa thiếu nữ của Susan; bà cô Clara của cô đã bảo rằng để bù lại cho thân hình khẳng khiu xấu xí cô được Chúa ban cho một bộ óc siêu việt. Quả là một sự đền bù không cần thiết, Becker thầm nghĩ..

Susan bắt đầu quan tâm tới ngành mật mã từ khi còn học cấp hai. Một học sinh xuất sắc học lớp 8 tên là Frank Gutmann - chủ tịch câu lạc bộ tin học của trường đã tặng cô một bài thơ tình trong đó các chữ cái đã được thay thế bằng các con số. Dù Susan đã vật nài Frank cho biết bài thơ nói gì nhưng anh chàng này cứ ỡm ờ tử chối không chịu nói. Cầm bài thơ mật mã về nhà, Susan đã thức trọn đêm đó dưới ánh đèn bàn để tìm hiểu cho tới khi cô đã phát hiện ra bí mật của bài thơ - mỗi một con số đều đại diện cho một chữ cái nào đó. Cô giải mã bức thư thật cân thận và sững sờ nhìn thấy những con số tưởng chừng như được sắp xếp ngẫu nhiên dần chuyên thành một áng thơ tuyệt đẹp. Ngay trong giây phút đó cô biết mình đã yêu - tình yêu với ngành mật mã. Các đoạn mã và việc viết mật mã đã trở thành một phần của cuộc đời cô.

Gần 20 năm sau, khi nhận bằng thạc sỹ toán học từ Đại học Johns Hopkins và vửa hoàn thành khóa học ngành lý thuyết số với một học bổng toàn phần của MITI, cô thực hiện đề tài nghiên cứu sinh của mình: Các Phương pháp viết mã, Giao thức và Thuật toán để ứng dụng Thủ công. Dường như vị giáo sư hướng dẫn không phải là người duy nhất đọc luận văn của cô; sau một thời gian ngắn Susan nhận được một cú điện thoại và một tấm vé máy bay từ NSA.

Bất cứ ai làm việc trong ngành mật mã đều biết tới NSA; đó là nơi tụ hội của những chuyên gia mật mã tài năng nhất thế giới. Hàng năm, vào mùa xuân, khi các công ty tư nhân muốn tìm kiếm những bộ óc tài năng nhất về làm việc cho mình với những mức lương và phương án cổ phiếu cực kỳ hấp dẫn, NSA luôn quan sát rất kỹ, lựa chọn người ưng ý rồi đơn giản là chen vào và đưa ra mức quyền lợi cao gấp đôi các công ty kia.

Run rẩy vì hồi hộp, Susan tới Sân bay Quốc tế Dulles từ Washington. Tại đây cô được một người lái xe của NSA đưa ngay tới Fort Meade.

Năm đó, 41 người khác cũng nhận được cùng một cuộc điện thoại như cô. 28 tuổi, Susan là người trẻ nhất và cũng là người phụ nữ duy nhất. Hóa ra lần này họ được gọi tới để được cung cấp thông tin và kiểm tra trí thông minh chứ không phải để kiểm tra các thông tin cá nhân. Một tuần sau, Susan cùng sáu người khác được mời quay lại. Hơi lưỡng lự đôi chút, Susan quyết định nhận lời. Ngay lập lức nhóm sáu người được chia ra rồi trải qua các bài kiểm tra sức khoẻ bằng máy ghi điện tâm đồ, tìm hiểu các thông tin cá nhân, phân tích chữ viết, rồi những cuộc phỏng vấn dài đằng đẵng, trong đó có cá các câu hỏi được ghi âm lại tìm hiểu về thói quen và xu hướng của họ trong sinh hoạt tình dục. Susan đã suýt bỏ đi ngay khi được hỏi đã bao giờ quan hệ với động vật chưa, tuy nhiên một sức mạnh bí ẩn nào đó - viễn cảnh được đắm mình trong môi trường nghiên cứu mật mã cực kỳ chuyên nghiệp, được bước vào "Lâu đài bí mật", và được trở thành thành viên của tổ chức bí ẩn nhất thế giới: Cơ quan An ninh Quốc gia - NSA - đã giữ chân cô lại.

Becker ngồi chăm chú lắng nghe câu chuyện của cô.

- Họ hỏi em là đã làm chuyện ấy với động vật chưa thật à?

Susan nhún vai.

- Thì đấy là một phần trong bài kiểm tra về thông tin cá nhân mà.

- Thế à... - Becker cố nhịn cười - Thế em trả lời thế nào?

Cô đá vào chân anh ở dưới gầm bàn.

- Em trả lời là chưa! - Rồi cô nói thêm - nhưng mà đến đêm qua thì rồi đấy.

* * * * *

Trong mắt của Susan, David gần như là hoàn hảo, chỉ trừ một điểm duy nhất cô không thích: lần nào họ đi chơi, anh cũng giành phần trả tiền cho bằng được. Susan ghét nhìn thấy cảnh anh phải dốc cả ngày lương vào bữa tối cho hai người nhưng không thể thay đổi được Becker. Susan biết mình không nên phản đối, song cô vẫn không thích như vậy. Em kiếm được nhiều tiền tới mức không biết tiêu vào đâu cho hết, cô nghĩ. Để em trả mới đúng chứ.

Tuy nhiên, Susan nghĩ rằng. ngoại trừ cung cách ga lăng đã lỗi thời này, David là một người hoàn hảo. Anh bao dung, thông minh, hài hước, và trên tất cả, anh thực sự quan tâm tới công việc của cô. Bất kể lúc nào bên cô: trong những chuyến đi chơi tới Smithsoniani, khi đi dạo bằng xe đạp, hay khi đang nấu món spaghetti ở nhà Susan, David luôn tỏ ra tò mò. Susan trả lời anh những câu hỏi nào có thể và cho David nghe những thông tin chung chung, không phải là tuyệt mật về Cơ quan An ninh Quốc gia - những điều khiến David say mê lắng nghe.

NSA được cố Tổng thống Truman thành lập lúc 12:01 trưa ngày 4 tháng 11 năm 1952 và đã trở thành cơ quan tình báo hoạt động bí mật nhất thế giới trong vòng gần 50 năm qua. Tôn chỉ thành lập của NSA dài bảy trang đề ra một nhiệm vụ rất rõ ràng: bảo vệ các thông tin liên lạc của chính phủ Hoa Kỳ và ngăn chặn các thông tin phá hoại của các thế lực nước ngoài.

Trên mái của tòa nhà trung tâm điều hành NSA được "trang trí" bằng hơn 500 chiếc ăng ten, trong đó có 2 mái che ăng ten giống như những quả bóng golf khổng lồ. Bản thân tòa nhà cũng khổng lồ không kém với hơn hai triệu feet vuông diện tích, rộng gấp đôi tổng hành dinh CIA. Bên trong cơ ngơi đồ sộ ấy là hệ thống đường dây điện thoại dài 8 triệu feet và 80 triệu feet vuông tổng diện tích các ô cửa sổ được gắn cố định.

Susan kể cho David nghe về COMINT- bộ phận do thám toàn cầu của NSA - nơi tập trung một con số không thể tưởng tượng nổi các trạm thu thập thông tin về đối tượng, các vệ tinh, các điệp viên và các điểm nghe lén điện thoại có mặt khắp nơi trên thế giới. Hàng ngày có hàng nghìn tài liệu chính thức của các cơ quan và các cuộc đàm thoại bị thu trộm. Toàn bộ chúng được chuyển tới cho các chuyên gia NSA giải mã. FBI, CIA, và cả các cố vấn chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ đều dựa rất nhiều vào hoạt động tình báo của NSA để đưa ra các quyết định của mình.

Becker say sưa lắng nghe câu chuyện.

- Thế còn việc giải mã? Vai trò của em trong đó là gì?

Susan giải thích với anh rằng các thông tin được thu lén đều xuất phát từ các chính phủ, đảng phái nguy hiểm, hiếu chiến, hay các nhóm khủng bố. Rất nhiều trong số này có căn cứ ngay tại Hoa Kỳ (Các thông điệp của họ đều được mã hóa nhằm đảm bảo bí mật trong trường hợp bị lọt ra ngoài, điều này thì lại thường xuyên xảy ra nhờ sự có mặt của COMINT). Susan nói với David rằng công việc của cô là nghiên cứu các đoạn mã, bẻ khóa chúng rồi chuyển cho NSA các văn bản gốc. Nhưng sự thực không hoàn toàn là như vậy.

Susan cảm thấy hơi áy náy vì đã nói dối người yêu, nhưng không thể làm khác. Một vài năm trước điều này là đúng, song giờ đây ở NSA mọi thứ đã thay đổi. Toàn bộ thế giới mật mã đã thay đổi. Giờ đây nhiệm vụ mới của Susan là tuyệt mật, ngay cả với nhiều người có quyền lực nhất.

- Các đoạn mã - Becker nói không dấu nổi vẻ tò mò - Làm sao em biết phải bắt đầu từ đâu? Ý anh là... làm sao em phá được chúng?

Susan mỉm cười.

- Ai cũng hỏi câu này. Nó cũng giống như việc học một ngoại ngữ thôi. Lúc đầu đoạn văn bản tưởng như chẳng đâu vào đâu cả. Nhưng khi đã học các quy luật để hiểu cấu trúc của nó rồi, anh sẽ bắt đầu hiểu được nghĩa đoạn văn.

Becker gật đầu có vẻ rất thán phục. Anh còn muốn biết nhiều hơn.

Rồi trong những lần đi ăn ở Merlutti và đi nghe hòa nhạc, Susan đã dành cho anh chàng giảng viên đại học đáng yêu của mình một khóa đào tạo nho nhỏ về ngành mật mã. Cô bắt đầu với câu chuyện về chiếc hộp mật mã "hình vuông tuyệt đối" của hoàng đế Caesar.

Theo Susan, Caesar chính là người đầu tiên trong lịch sử loài người phát minh ra mật mã. Sau khi những người đưa tin của ông bị địch mai phục và lấy đi những tài liệu mật, ông đã nghĩ ra một phương pháp thô sơ để mã hóa các chỉ thị của mình. Ông sắp xếp lại các chữ cái trong thông điệp của mình sao cho người khác nhìn vào tưởng như chúng không có nghĩa gì. Tất nhiên không phải vậy. Mỗi thông điệp của ông đều có số chữ cái là một số bình phương: 16, 25, hay 100 tuỳ theo độ ngắn dài của thông điệp mà ông muốn truyền tải. Sau đó Caesar bí mật báo cho thuộc hạ của mình biết khi họ nhận được một bức thư dưới dạng mật mã thì hãy xếp các chữ cái của nó lên một hình vuông. Nếu làm đúng như vậy rồi đọc từ trên xuống dưới, nội dung bức thư mật sẽ hiện ra như một phép màu.

Theo thời gian, ý tưởng của Caesar về việc sắp xếp lại các đoạn văn bản để mã hóa chúng đã được những người khác học tập và phát triển thêm sao cho khó phá hơn. Công nghệ giải mã không sử dụng máy tính đã đạt tới đỉnh cao trong thời gian Thế chiến II.

Phát xít Đức đã chế tạo được một cỗ máy chuyên mã hóa hết sức hiệu quả tên là Enigma. Thiết bị này trông giống một máy chữ kiểu cũ với rôto khóa liên trục bằng đồng quay theo các chiều hết sức phức tạp và chuyển một đoạn văn bản gốc thành những dòng ký tự lộn xộn. Phải dùng một cỗ máy Enigma khác và làm ngược lại thật chính xác quá trình mã hóa ban đầu, người nhận mới có thể đọc được thông điệp.

Becker chăm chú lắng nghe như hút hồn vào câu chuyện. Giảng viên đại học giờ đây lại trở thành sinh viên.

Một đêm, trong một buổi diễn kịch của sinh viên trường Georgetown, Susan đưa cho David đoạn mã đầu tiên để thử bẻ khoá. Trong suốt thời gian nghỉ giải lao, tay anh cầm bút, vắt óc suy nghĩ về đoạn mã có 17 chữ cái.

HL FKZC VD LDS

Cuối cùng, đúng lúc màn vừa kéo lên bắt đầu phần hai vở kịch, anh tìm được câu trả lời. Hóa ra Susan chỉ thay thế mỗi chữ cái trong đoạn mã bằng một chữ cái đứng trước nó trong bảng chữ cái.

Để giai mã, Becker chỉ việc làm ngược lại, chữ "A" thì thành "B" - "B" thì thành "C" - và cứ thế. Anh nhanh chóng giải mã toàn bộ bức thông điệp. David không thể tưởng tượng nổi chỉ mấy từ ngắn gọn lại có thể khiến anh vui mừng đến thế.

THẬT VUI ĐƯỢC GẶP ANH

Anh viết thật nhanh câu trả lời của mình và đưa lại cô :

YMG BTMH UYV

Susan đọc và cười thật rạng rỡ.

Becker cũng bật cười; anh đã 35 tuổi và trái tim của anh đã bắt đầu biết rung động. Chưa có người phụ nữ nào có sức cuốn hút với anh lớn đến thế. Những đường nét châu Âu duyên dáng và đôi mắt nâu thanh tao của cô làm anh nhớ tới một mẩu quảng cáo cho mỹ phẩm Estee Lauder.

Nếu như dáng người Susan hồi cô còn là thiếu nữ cao gầy tới mức vụng về thì bây giờ đã khác hẳn. Cô giờ đây mảnh mai, quyến rũ một cách yểu điệu với bầu ngực tròn đầy, căng chắc và một vòng eo thật mảnh mai. David vẫn đùa gọi cô là người mẫu áo tắm đầu tiên có bằng tiến sỹ về ngành toán ứng dụng và lý thuyết số.

Sau một thời gian, cả hai cùng nhận ra họ đã tìm thấy một thứ quý giá cho suốt quãng đời còn lại của mình.

Yêu nhau được gần 2 năm thì, thật bất ngờ, David ngỏ lời cầu hôn. Đó là vào một kỳ nghỉ cuối tuần ở vùng Smoky Mountains.

Họ đang ở khách sạn Stone Manor. Không có chiếc nhẫn nào để tặng cô, anh chỉ đột nhiên thốt ra lời cầu hôn. Đó chính là điều khiến cô yêu anh - anh luôn thực hiện ngay những ý tưởng của mình. Susan hôn anh thật lâu, thật say đắm. Anh ôm cô trong vòng tay, và cởi nút thắt chiếc váy ngủ của Susan.

- Anh coi đây là câu trả lời đồng ý đấy nhé - Anh nói.

Họ đã có một đêm thật mặn nồng bên lò sưởi ấm áp.

Đã sáu tháng trôi qua kể từ đêm tuyệt diệu đó - trước khi David đột ngột được đề bạt làm Trưởng Khoa Ngôn ngữ Hiện đại. Kể từ đó quan hệ của họ ngày càng xuống dốc.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] "Cơ quan không tồn tại" - Tiếng Anh (Người dịch)

Xem tiếp chương 4

Chương 4

Tiếng bíp của cánh cửa vào trung tâm Crypto kéo Susan về với thực tại. Cánh cửa đã mở hoàn toàn và sẽ đóng lại trong 5 giây nữa sau khi đã quay đủ 360o. Susan cố lấy lại thăng bằng và bước qua cửa. Một chiếc máy tính ghi lại việc cô đã bước vào.

Dù đã làm việc ở Crypto được 3 năm ngay từ ngày nó bắt đầu đi vào hoạt động, cô vẫn bị choáng ngợp bới sự bề thế của nó.

Chính tâm của Crypto là một gian phòng khồng lồ hình tròn có chiều cao tương đương với toàn bộ khu nhà năm tầng. Đỉnh vòm nhà trong suốt cao tới 120 feet. Vòm nhà làm bằng nhựa Plexiglas được bọc ngoài bằng tấm lưới polycarbonate - một loại lưới bảo vệ chịu được áp lực lên tới 2000 tấn. Qua những tấm kính lọc sáng, ánh nắng mặt trời trông như những viền đăng ten tưyệt đẹp dát trên các bức tường. Hệ thống chống ion hóa cực mạnh của vòm nhà làm những hạt bụi nhỏ li ti bị hút lên theo những đường xoắn trôn ốc.

Nằm giữa sàn nhà, là một cỗ máy mà để chứa nó người ta đã phải xây cái vòm này trông như đầu một quả ngư lôi khồng lồ. Lớp vỏ đen bóng của nó vươn cao tới 7 mét, chưa kể phần thiết kế chìm dưới sàn nhà không thể nhìn thấy được. Với vỏ ngoài mềm mại và hình dáng cong cong, trông nó hơi giống một con cá heo to lớn đang tung mình khỏi mặt đại dương giá lạnh thì đột nhiên bị đông cứng.

Đó chính là cỗ máy TRANSLTR, chiếc máy tính đặc biệt nhất và cũng là đắt tiền nhất trên thế giới - một cỗ máy mà NSA đã thề thốt với thế giới bên ngoài rằng nó không bao giờ tồn tại.

Giống như một táng băng, 90 phần trăm khối lượng và sức mạnh của cỗ máy được ẩn chứa bên dưới sàn nhà. Bí mật của nó được bao bọc trong một tòa tháp sứ cao tới 6 tầng chạy thẳng từ sàn nhà xuống - một kết cấu trông như quả rocket khổng lồ được bao quanh bằng một mê cung những lối đi nhỏ hẹp quanh co, những đường dây cáp, trong tiếng rít của hơi nước thoát ra từ hệ thống tản nhiệt dùng khí freon. Máy phát điện đặt bên dưới cỗ máy chỉ phát ra những âm thanh nhỏ, trầm và làm không gian bên trong Crypto luôn luôn tĩnh lặng đến rợn người.

Sự ra đời của TRANSLTR, cũng như các thành tựu công nghệ vĩ đại khác, xuất phát từ yêu cầu thực tế. Trong những năm 80 của thế kỷ XX, một cuộc cánh mạng to lớn trong ngành viễn thông đã diễn ra và có khả năng thay đổi hoàn toàn thế giới tình báo - sự bùng nổ của Internet. Cụ thể hơn, đó chính là sự xuất hiện của thư điện tử.

Bọn tội phạm, khủng bố, và các gián điệp ngày càng lo ngại hơn về khá năng những cuộc điện thoại của mình bị nghe lén và ngay lập tức đã chộp lấy loại phương tiện liên lạc toàn cầu này. Thư điện tử có độ bao mật ngang với thư tín thường và tốc độ truyền phát nhanh như điện thoại. Do các tín hiệu được truyền đi theo các đường ống cáp quang ngầm dưới đất chứ không phải theo các sóng trên không trung, chúng sẽ không bao giờ bị lấy cắp, hay ít nhất là người ta cũng nghĩ thế.

Trên thực tế, việc đánh cắp thông tin từ những bức thư điện tử truyền đi trên Internet chỉ là trò trẻ con đối với các chuyên gia công nghệ của NSA. Mạng Internet thật ra không phải là một phát minh về máy tính dùng cho mục đích gia đình như nhiều người vẫn nghĩ.

Ba thập kỷ trước, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã tạo ra nó - một mạng lưới máy tính khổng lồ được thiết kế đề đảm bảo việc liên lạc bí mật của chính phủ nếu chiến tranh hạt nhân nổ ra. Nhân viên của NSA chính là những chuyên gia Internet lõi đời. Những kẻ làm việc phi pháp dùng thư điện tử để liên lạc nhanh chóng hiểu ra những thông tin bí mật của chúng không được an toàn cho lắm. Cùng với sự giúp đỡ của các hacker đầy kinh nghiệm của NSA, FBI, DEA, IRS và các cơ quan quyền lực khác của Hoa Kỳ đã thực hiện thành công nhiều vụ bắt giữ và ngăn chặn kịp thời các âm mưu phạm tội. Tất nhiên khi những người sử dụng máy tính trên toàn thế giới phát hiện ra rằng chính phủ Hoa Kỳ có thể dễ dàng can thiệp vào việc trao đổi thư điện tử của họ, một làn sóng phản đối dữ dội đã nổi lên. Có những người chỉ dùng thư điện tử vào mục đích giải trí - kết bạn chẳng hạn - cũng cảm thấy sự riêng tư của họ bị đe doạ.

Trên toàn cầu, các nhà lập trình chuyên nghiệp bắt đầu tìm cách làm thư điện tử trở nên bí mật hơn. Và họ đã không mất nhiều thời gian để tìm ra một phương pháp - chìa khóa mật mã đã ra đời.

Chìa khóa mật mã công cộng là một phát kiến đơn giàn nhưng đầy tính trí tuệ. Đó chính là những phần mềm dùng cho máy tính gia đình, dễ sử dụng, có nhiệm vụ xáo trộn các chữ cái trong một bức thư điện tử thành một đoạn những ký tự sao cho người khác nhìn vào không thể đọc được. Người sử dụng chỉ cần viết một bức thư và cho chương trình xử lý. Sản phẩm đầu ra sẽ là một tập hợp những ký tự tưởng chừng được sắp xếp một cách ngẫu nhiên, hoàn toàn vô nghĩa - nói cách khác, nó đã trở thành một đoạn mã. Bất cứ ai lấy trộm được bức thư này cũng chi thấy trên màn hình hiện ra những dòng ký tự chẳng có ý nghĩa gì.

Chỉ có một cách duy nhất để người nhận đọc được bức thư đã mã hóa là nhập vào "chìa khóa mật mã" - một tập hợp các chữ cái có chức năng giống các con số trong mã PIN của máy rút tiền tự động ATM. Các chìa khóa mật mã thường khá dài và phức tạp, chúng mang đầy đủ các thông tin cần thiết để giúp thuật toán mã hóa hiểu được các phép toán cần thực hiện để tái tạo lại bức thư gốc.

Bây giờ. người dùng đã có thể tự tin gửi đi bức thư điện tử của mình. Kể cả người khác lấy cắp được bức thư thì họ cũng không thể đọc được thông tin bên trong nếu không có mật mã.

Ngay lập tức NSA nhận ra mối đe dọa từ những phần mềm như thế này. Những đoạn mã họ phải giải được không còn là những con số được thay thế một cách đơn giản, có thể giải quyết chỉ với bút chì và giấy trắng được nữa. Chúng bây giờ đã là những hàm số phức tạp được máy tính tạo ra với những quy luật hỗn độn và các dòng ký tự, ký hiệu dài lê thê nhằm biến các lá thư thành những chuỗi ký tự ngẫu nhiên tưởng như không có cách nào khôi phục được.

Thời gian đầu, những chìa khóa mật mã vẫn đủ ngắn để máy tính của NSA "đoán" được. Nếu chìa khóa có 10 con số, một chiếc máy tính đã được lập trình sẽ thử tất cả các khả năng từ 0000000000 tới 9999999999. Sớm hay muộn thì dãy số đó cũng sẽ được tìm ra.

Phương pháp đoán thử - và - lỗi này còn được gọi là "tấn công bằng vũ lực" Dù mất thời gian song về mặt lý thuyết nó đảm bảo sẽ có hiệu quả.

Khi mà thế giới đã phát triển hoàn thiện công nghệ bẻ khóa bằng phương pháp đoán thử này rồi thì các đoạn mã chìa khóa ngày càng trở nên dài hơn. Thời gian máy tính cần để đoán được chìa khóa tăng dần từ hàng tuần lên hàng tháng và cuối cùng là hàng năm trời.

Tới những năm 90, các chìa khóa mật mã đã dài quá 50 ký tự và sử dụng toàn bộ bảng mẫu tự ASCII có 256 ký tự gồm các chữ cái, con số và ký hiệu. Tồng số các khả năng máy tính phải thử lên tới khoảng 10120 - tức 10 và 120 số 0 đằng sau. Trên thực tế, việc đoán trúng đoạn mã mong muốn chẳng khác gì tìm đúng một hạt cát giữa bãi biển dài 3 dặm. Người ta đã tính toán rằng để đoán thành công một chìa khóa chuẩn có dung lượng 64 bit, chiếc máy tính nhanh nhất của NSA = chiếc máy tối mật mang tên Cray/Josephson II- phải chạy trong 90 năm liên tục. Với tốc độ này. khi đã được bẻ khóa rồi thì nội dung bức thư cũng đã chẳng còn giá trị gì nữa.

Trước tình hình hết sức u ám của các hoạt động tình báo. NSA đã ra một chỉ thị và được Tổng thống Hoa Kỳ phê chuẩn. Dưới sự hỗ trợ tài chính của ngân sách liên bang và được quyền làm tất cả những gì cần thiết để giải quyết vấn đề, NSA bắt tay vào thực hiện một điều không tưởng: thiết kế một cỗ máy giải mã toàn cầu đầu tiên trên thế giới.

Mặc dù vấp phải sự phản đối của nhiều kỹ sư cho rằng một cỗ máy như vậy là không thể chế tạo được, NSA vẫn tiến hành công việc với phương châm của mình: Không gì là không thể. Điều không thể chỉ làm mất thời gian hơn thôi.

Sau 5 năm làm việc với nửa triệu giờ công và ngân sách tiêu tốn trị giá 1,9 tỉ đô la, một lần nữa. NSA chứng minh được phương châm của mình là đúng. Cái cuối cùng trong tập hợp 3 triệu bộ vi xử lý nhỏ bằng con tem đã được gắn vào vị trí trong một lớp vỏ sứ.

TRANSLTR đã ra đời.

Mặc dù cơ chế hoạt động bí mật bên trong TRANSLTR là sản phẩm của nhiều bộ óc và không một mình người nào hiểu rõ được nó, nguyên tắc cơ bản của cỗ máy thì thật đơn giản: Nhiều người cùng làm thì công việc sẽ nhẹ nhàng.

Cả ba triệu bộ vi xử lý của cỗ máy cùng làm việc song song, kết quả của chúng được cộng dồn dần với một tốc độ chóng mặt để thử qua tất cả các tổ hợp gặp phải. Người ta hi vọng rằng kể cả những chìa khóa mật mã khổng lồ tới mức không tưởng nhất cũng phải chịu thua sự kiên trì của TRANSLTR. Kiệt tác điện tử trị giá hàng tỉ đô la này sử dụng sức mạnh của việc xử lý song song cùng với một số tiến bộ tối mật để phân tích văn bản gốc nhằm đoán ra chìa khóa mật mã và bẻ khóa bức thông điệp. Sức mạnh của nó không chỉ nằm ở con số khổng lồ các bộ vi xử lý mà còn ở những tiến bộ mới mẻ trong ngành máy tính lượng tử - một công nghệ đang phát triển cho phép thông tin được lưu trữ dưới dạng cơ khí lượng tứ chứ không chỉ ở dạng dữ liệu nhị phân.

Khoảnh khắc được mong đợi đã tới, đó là vào một buổi sáng thứ 5 của tháng 10.

Một ngày bão tố: Bài kiểm tra sát hạch đầu tiên. Dù chưa ai dám chắc cỗ máy sẽ xử lý nhanh tới mức nào, song tất cả các kỹ sư chế tạo đều nhất trí: nếu tất cả các bộ vi xử lý cùng hoạt động song song; TRANSLTR sẽ trở nên cực kỳ mạnh mẽ. Vấn đề là mạnh mẽ tới mức nào.

Mọi người đã có câu trả lời chỉ sau 12 phút. Tất cả lặng đi sững sờ khi chiếc máy in bắt đầu bắt đầu hoạt động và cho ra bức thông điệp hoàn chỉnh - chìa khóa mật mã đã được phá. TRANSLTR đã đoán thành công đoạn mã dài 64 ký tự trong vòng chưa tới 10 phút, nhanh gấp gần 1 triệu lần cỗ máy hiện đại nhất của NSA 2 thập kỷ trước.

Dưới sự chỉ đạo của phó tổng giám đốc điều hành, Trevor J. Strathmore - người được nhân viên dưới quyền gọi là "Ngài chỉ huy", Phòng sản xuất của NSA đã thành công rực rỡ. TRANSLTR là một thành tựu vĩ đại. Tuy nhiên, để giữ bí mật về thành công này, ngài chỉ huy ngay lập tức để "rò rỉ" thông tin ra ngoài rằng dự án đã hoàn toàn thất bại. Bây giờ tất cả các hoạt động của trung tâm Crypto là để cố gắng gỡ gạc lại 2 tỉ đô la đã phung phí. Chỉ có những nhân vật có vai vế trong NSA mới được biết sự thật: mỗi ngày TRANSLTR bẻ khóa hàng trăm bức thông điệp.

Với tin đồn rằng các đoạn mã do máy tính tạo ra là không thể bị phá vỡ, kể cả tồ chức quyền lực nhất là NSA cũng phải bó tay - dòng thông tin bí mật từ bên ngoài đổ vào NSA ngày càng lớn.

Những trùm buôn ma tuý, bọn khủng bố, bọn tham ô - tất cả những kẻ luôn luôn lo sợ cuộc nói chuyện qua điện thoại của mình có thể bị nghe lén - đều đổ xô vào sử dụng thư điện tử có mã hóa - công cụ liên lạc tức thì toàn cầu. Họ tưởng không bao giờ còn phải lo tới chuyện đối mặt với bồi thẩm đoàn, không bao giờ phải nghe lại giọng nói bị ghi lén của mình - bằng chứng của những cuộc đàm thoại bị thu lại bằng vệ tinh của NSA.

Hoạt động tình báo chưa bao giờ dễ dàng đến thế. Những đoạn mã hoàn toàn vô nghĩa thu được, được nhân viên NSA nhập vào và TRANSLTR cho ra những đoạn văn bản hoàn toàn đọc được chỉ trong ít phút sau. Không còn điều gì là bí mật nữa.

Để làm mọi người tin chắc hơn rằng mình đã thất bại, NSA phản đối một cách dữ dội sự ra đời của bất kỳ phần mềm mã hóa bằng máy tính mới nào. Lý do NSA đưa ra là những phần mềm này làm tê liệt các hoạt động của họ và khiến các nhà chức trách không thể bắt và truy tố những tên tội phạm. Các nhóm hoạt động nhân quyền hết sức vui mừng, tuyên bố rằng dù sao đi nữa NSA cũng không được phép xâm phạm thư tín của họ. Báo chí vẫn đưa tin đều đều về các phần mềm mã hoá. NSA đã thất bại - theo đúng cách mà họ mong muốn. Toàn bộ thế giới điện tử đã mắc lừa... hay ít ra thì cũng có vẻ như vậy.

Xem tiếp chương 5

Chương 5

"Mọi người đâu cả rồi nhỉ" - Susan vừa tự hỏi vừa bước trên sàn nhà trung tâm Crypto lúc này không một bóng người. Có việc khẩn cấp mà thế này đây.

Mặc dù hầu hết các phòng ban của NSA đều có đầy đủ nhân viên làm việc suốt 7 ngày trong tuần, song thứ Bảy thường vẫn là một ngày im ắng ở Crypto. Những nhà toán học mật mã vốn là những người cặm cụi làm việc tới mức căng thẳng, do đó có một luật bất thành văn là họ sẽ được nghỉ mọi thứ Bảy chỉ trừ trong trường hợp khẩn cấp. Đối với NSA, các chuyên gia bẻ khóa mật mã chính là những của quý mà họ không dám mạo hiểm đánh mất.

Khi Susan đi ngang qua sàn nhà, bóng dáng to lớn của TRANSLTR hiện ra ở bên phải cô. Ngày hôm nay, tiếng động phát ra từ máy phát điện nằm 8 tầng bên dưới vang lên một cách kỳ lạ như báo trước điềm gì không may. Chưa bao giờ Susan thích ở lại Crypto sau giờ làm việc. Cảm giác khi đó giống như bị nhốt trong một cái lồng với những con quái vật quý hiếm tới từ tương lai. Cô mảo bước qua phía phòng ngài chỉ huy.

Nằm trên đỉnh một hệ thống những cầu thang nhỏ ở phía sau Crypto, phòng làm việc có tường bằng kính của ngài Strathmore có biệt danh là "chậu cá" vì hình dáng của nó mỗi khi những tấm rèm được kéo lên. Vừa bước đi ken két trên cầu thang, cô vừa nhìn lên tấm cửa dày bằng gỗ sồi của căn phòng. Trên cánh cửa có hình con dấu của NSA - một con đại bàng trọc đầu dữ tợn quắp lấy chiếc chìa khóa kiểu ngày xưa. Ngòi đằng sau cánh cửa ấy là một trong những người đàn ông vĩ đại nhất mà cô từng biết.

Năm nay đã 56 tuổi, chỉ huy Strathmore đối với Susan cũng giống như một người cha vậy. Ông là người đã tuyển dụng cô, và cũng là người đã khiến NSA trở thành mái nhà của cô. Mười năm trước, khi Susan gia nhập NSA, Strathmore còn là giám đốc Phòng phát triển Crypto - nơi đào tạo những chuyên gia mật mã nam. Mặc dù Strathmore chưa bao giờ dung thứ sự lạm dụng với bất cứ ai, ông đặc biệt quan tâm tới sự an toàn của nhân viên nữ duy nhất của mình. Khi bị hỏi về sự thiên vị này, ông chỉ trả lời đơn giản bằng một sự thật: Susan Fletcher chính là nhân viên tài năng nhất mà ông từng có, và ông không muốn để bất cứ ai quấy rối cô. Vậy mà có lần một gã chuyên gia đã dại dột thử đùa với quyết tâm của ngài chỉ huy.

Một buổi sáng khi cô mới đi làm chưa được một năm, tình cờ Susan có việc phải ghé qua phòng của những anh chàng chuyên gia mật mã trẻ để lấy một số giấy tờ. Khi đi ra cô chợt nhìn thấy tấm ảnh của mình dán trên bảng tin cơ quan. Cô lập tức tái mặt đi vì xấu hổ. Bức ảnh chụp cô nằm trên giường thật khêu gợi với độc một chiếc quần lót.

Khi mọi chuyện được làm rõ, hóa ra một anh chàng chuyên gia đã scan lại một tấm ảnh trên cuốn tạp chí dành cho người lớn và dùng phần mềm đồ họa cắt dán phần đầu của Susan lên thân người của một cô gái nào đó. Kỹ thuật ghép ảnh của anh này quả là tuyệt đỉnh.

Không may cho anh chàng đó, ngài chỉ huy Strathmore không hề thấy trò đùa này có gì là đáng cười. Hai giờ sau, một thông báo được truyền ra:

"NHÂN VIÊN CARL AUSTIN BỊ BUỘC THÔI VIỆC VÌ ĐÃ CÓ HÀNH VI XẤU".

Kể từ đó trở đi, không còn ai dám chòng ghẹo gì cô nữa; Susan Fletcher đã trở thành cô gái vàng của ngài chỉ huy Strathmore.

Nhưng Ngài Strathmore không chỉ được những chuyên gia mật mã trẻ tuổi dưới quyền kính trọng; trước đó, ông đã từng được cấp trên để ý tới nhờ việc đề xuất những hoạt động tình báo chưa từng có ai thực hiện nhưng lại rất hiệu quả. Khi được cất nhắc, ngài Trevor Strathmore lại được biết tới với khả năng phân tích ngắn gọn đầy sức thuyết phục của mình trong những tình huống rắc rối. Dường như ông có một khả năng phi thường để vượt qua những vấn đề phức tạp về đạo đức xung quanh các quyết định khó khăn của NSA và hành động hết sức quyết đoán vì đại cục. Không ai có thể nghi ngờ lòng yêu nước của ngài Strathmore.

Đối với các đồng nghiệp, ông luôn được coi là một công dân trung thành với Tổ quốc và có tài nhìn xa trông rộng... một con người đứng đắn giữa thế giới đầy rẫy những lọc lừa.

Trong những năm kể từ khi Susan gia nhập NSA, ngài Strathmore đã thăng cấp nhanh chóng từ giám đốc Phòng phát triển Crypto lên vị trí cao thứ nhì của toàn NSA. Giờ đây trong NSA chỉ có một người duy nhất đứng trên Ngài chỉ huy Strathmore - Giám đốc Leland Fontaine, vị chúa tể huyền thoại của Puzzle Palace - người chưa ai từng gặp, ít ai từng nghe nói tới, nhưng tất cả mọi người đều nể sợ. Rất ít khi ông này và ngài Strathmore gặp gỡ trực tiếp. Và cuộc gặp mặt của họ, nếu xảy ra, giống như khi những người khổng lồ chạm trán nhau. Ông Fontaine là một người khổng lồ trong những người khổng lồ, nhưng ngài Strathmore có vẻ như không lưu tâm tới điều đó. Ông nêu những ý kiến của mình và tranh luận với giám đốc bằng tất cả sự cẩn trọng của một võ sỹ quyền anh đang say sưa chiến đấu.

Thậm chí tới Tổng thống Hoa Kỳ cũng không dám thách thức ông Fontaine theo cái cách mà ngài Strathmore đã thách thức. Để làm được điều này, một người phải có khả năng "trơ" với các đe dọa chính trị; hay trong trường hợp của ngài Strathmore: thái độ lãnh đạm với chính trị.

Susan đã tới đầu cầu thang. Cô chưa kịp gõ thì bộ khóa điện tử trên cánh cửa phòng ngài Strathmore đã kêu lên rì rì. Cửa bật mở, ngài chỉ huy vẫy tay gọi cô vào.

- Cám ơn cô đã đến, Susan. Tôi nợ cô một lần nhé.

- Không sao đâu ạ! - Cô cười và ngồi xuống đối diện bàn của ông.

Ngài Strathmore là một người đàn ông có dáng cao, khá to béo.

Những đường nét bên ngoài có thể khiến người ta không thể ngờ rằng ông luôn đòi hỏi hiệu quả làm việc và vươn tới sự hoàn thiện.

Đôi mắt xám của ông cho thấy sự tự tin và cẩn trọng có được từ kinh nghiệm làm việc, nhưng hôm nay sao trông chúng dại đi và thật bất ổn.

- Nhìn sếp mệt mỏi quá - Susan nói.

- Ừ, không thể tệ hơn được - Ngài Strathmore thở dài.

Câu ấy đáng lẽ phải để mình nói mới đúng chứ, cô nghĩ thầm.

Chưa bao giờ Susan thấy ngài Strathmore trong tình trạng tồi tệ đến thế. Mái tóc mỏng màu xám của ông rối bù; mồ hôi trên trán ông vẫn nhỏ thành từng giọt mặc dù phòng đang chạy máy lạnh. Bộ comple của ông nhàu nát như vừa bị dùng làm bộ đồ ngủ vậy.

Ông ngồi sau một chiếc bàn hiện đại với hai ngăn kéo bàn phím và một màn hình máy tính. Căn phòng trông như một bãi chiến trường với những tờ giấy in từ máy tính ra vứt bừa bãi.

- Tuần này vất vả vậy sao, thưa sếp? - cô hỏi.

Ngài Strathmore nhún vai.

- Cũng bình thuullg thôi. EFF lúc nào cũng vây quanh tôi với hàng đống giấy tờ về quyền riêng tư công dân.

Susan lặng lẽ cười. EFF, Quỹ Mặt trận Điện tử (Electronics Frontier Foundation), là một liên minh toàn cầu của những người sử dụng máy tính. Họ đã lập nên một liên minh đòi quyền tự do công dân hết sức mạnh mẽ nhằm ủng hộ quyền tự do ngôn luận trên mạng Internet và tuyên truyền những người khác về tình hình thực tế và những mối đe dọa khi sống trong một thế giới điện tử.

Tổ chức này liên tục vận động chống lại cái mà họ gọi là "khả năng nghe trộm thông tin trong một chế độ chuyên chế của các cơ quan chính phủ" - đặc biệt là NSA. Thực sự EFF là một cái gai cần nhổ trong mắt ngài Strathmore.

- Có vẻ cũng giống như thường lệ thôi mà - cô nói - Vậy cái vụ "cực kỳ khẩn cấp" mà sếp khiến tôi phải rời khỏi bồn tắm để tới đây là gì thế?

Ngài Strathmore im lặng, lơ đãng xoa xoa cái đế tròn của chiếc máy tính được gắn trên bàn làm việc. Hồi lâu, ông nhìn thẳng vào Susan và hỏi:

- Thời gian lâu nhất mà cô đã từng thấy TRANSLTR cần để bẻ khóa mật mã là bao nhiêu?

Câu trả lời hoàn toàn làm Susan bất ngờ. Nó có vẻ chẳng có nghĩa lý gì cả. Chẳng lẽ vì nó mà cô được gọi tới đây sao?

- Ồ - Cô ngập ngừng - Cách đây mấy tháng bên COMINT đã chuyển cho chúng ta một đoạn mã mà phải mất khoảng một giờ mới phá được. Nhưng đoạn mã đó dài tới mức hài hước - khoảng 10 nghìn bit gì đó.

Ngài Strathmore lẩm bẩm.

- Một giờ à? Thế còn một số khảo sát biên mà chúng ta đã thực hiện thì sao?

Susan nhún vai.

- À, nếu sếp tính cả quá trình khảo sát thì rõ màng là lâu hơn rồi.

- Lâu hơn là bao nhiêu?

Susan không thể tưởng tượng được Strathmore đang muốn đề cập tới vấn đề gì.

- Ồ, thưa ngài, tháng 3 năm ngoái tôi phải giải quyết một chìa khóa dài một triệu bit có phân đoạn. Dù nó gồm hàm lặp sai quy tắc, các cơ chế làm việc có nhiều lỗi song TRANSLTR vẫn phá được.

- Trong bao lâu?

- Ba giờ đồng hồ.

Ngài Strathmore nhướng mày.

- Ba giờ? Lâu thế cơ à?

Susan cau mặt hơi tự ái. Đã 3 năm nay, công việc của cô là tinh chỉnh cỗ máy bí mật nhất trên thế giới này; hầu hết các chương trình giúp TRANSLTR chạy nhanh tới như thế là do công của cô. Và trên thực tế thì chẳng mấy khi có đoạn mã dài một triệu bit xuất hiện.

- Thôi được - ngài Strathmore nói - Vậy là kể cả trong điều kiện khó khăn nhất, thời gian một đoạn mã trụ lại trong TRANSLTR tối đa là 3 giờ?

Susan gật đầu.

- Vâng, có thể xê dịch đôi chút.

Ngài Strathmore ngừng lại như thể sợ điều sắp nói ra sẽ làm ông phải hối tiếc. Cuối cùng ông nhìn lên.

- TRANSLTR đã gặp phải thứ gì đó... - ông không nói nữa.

Susan chờ đợi.

- Lâu hơn 3 giờ ư?

Ngài Strathmore gật đầu.

Cô nhìn có vẻ không quan tâm lắm.

- Một khảo sát mới à? Lại từ Phòng An ninh hệ thống phải không ạ?

Ngài Strathmore lắc đầu :

- Đó là một file từ bên ngoài.

Susan đợi ngài chỉ huy nói tiễp câu chốt của một câu chuyện cười nhưng ông chẳng nói gì hết.

- Một file từ bên ngoài à? Ngài có đùa không đấy?

- Đùa được thì đã tốt. TRANSLTR bắt đầu xử lý nó từ khoảng 11h rưỡi đêm qua mà đến giờ vẫn chưa phá được..

Susan như cứng lưỡi lại. Cô hết nhìn đồng hồ đeo tay rồi lại nhìn lên ngài Strathmore.

- Vẫn chưa phá được à? Hơn 15 giờ đồng hồ rồi?

Strathmore vươn người về phía trước xoay màn hình lại phía Susan. Trên nền màn hình chỉ có một màu đen ngòm trừ ô chữ nhỏ màu vàng nhấp nháy ở giữa.

THỜI GIAN XỬ LÝ: 15:09:33

CHÌA KHOÁ CẦN TÌM:...

Susan nhìn vào sửng sốt. Rõ ràng TRANSLTR đã làm việc liên tục hơn 15 giờ đồng hồ chỉ với một đoạn mã này. Cô biết chiêc máy tính có thể thử 30 triệu khóa trong vòng 1 giây - tức là 1 trăm tỷ mỗi giờ. Nếu TRANSLTR vẫn đang làm việc, có nghĩa là chìa khóa mật mã phải hết sức khổng lồ - dài tới hơn 10 tỷ số. Thật điên rồ.

- Không thể như thế được! - cô hét lên - - Sếp đã kiếm tra xem có lỗi không chưa? Hay TRANSLTR gặp trục trặc gì đó khi vận hành?

- Mọi điều kiện vẫn bình thường.

- Nhưng thế thì đoạn mã quá lớn...!

Ngài Strathmore lắc đầu.

- Một thuật toán thương mại chuẩn thôi. Chắc là 64 bit.

Không hiểu chuyện gì đang xảy ra, Susan nhìn qua cửa sổ xuống cỗ máy TRANSLTR bên dưới. Với kinh nghiệm của mình, cô biết rằng nó có thể giải quyết một đoạn mã 64 bit trong chưa đầy 10 phút.

- Phải tìm cách giải thích hiện tượng này thôi!

Ngài Strathmore gật đầu.

- Có rồi đấy. Nhưng chắc không làm cô ưng ý đâu.

Nhìn Susan có vẻ bực bội.

- TRANSLTR bị hỏng?

- TRANSLTR vẫn bình thường.

- Hay nó dính virus?

Ngài Strathmore vẫn lắc đầu.

- Không phải virus đâu. Hãy nghe tôi đây này.

Susan vẫn chưả hết sửng sốt. Chưa bao giờ TRANSLTR mất quá một giờ để giải quyết một đoạn mã. Thường thì đoạn văn bản sẽ được bẻ khóa hoàn chỉnh và đưa tới máy in của ngài Strathmore chỉ sau vài phút. Cô liếc nhìn về phía chiếc máy in tốc độ cao phía sau bàn ông. Chẳng có gì ở đó cả.

- Susan... - Ngài Strathmore khẽ nói - Điều này chắc là đầu tiên sẽ khó chấp nhận, nhưng cứ lắng nghe tôi một chút nhé - ông cắn môi - Đoạn mã mà TRANSLTR đang cố giải ấy, nó chỉ có một không hai. Nó không giống với bất kỳ đoạn mã nào chúng ta từng gặp trước đây - ông ngập ngừng, dường như không thể nói được những từ định nói. - Đoạn mã này là không thể phá vỡ...

Susan nhìn ông chăm chú và gần như cười phá lên. Không thế phá vỡ? KHÔNG THỂ nghĩa là sao? Trên đời này không có đoạn mã nào là không thể phá vỡ - có những đoạn có thể mất nhiều thời gian hơn, nhưng tất cả đều có thể phá được. Lý thuyết toán học đã chứng minh sớm hay muộn thì TRANSLTR cũng sẽ đoán trúng chìa khóa cần tìm.

- Sếp nói gì cơ ạ?

- Đoạn mã này là không thể phá được - Ông nhắc lại rõ ràng.

"Không thể phá được?" Susan không thế tin được những từ như thế vừa được phát ngôn từ một người đã có 27 năm kinh nghiệm phân tích mật mã.

- Không thể phá được ư, thưa sếp - cô nói vẻ bực bội - Thế còn Nguyên lý Bergofsky thì sao?

Ngay từ khi mới đi làm Susan đã được học về Nguyên lý Bergofsky. Đây là nền tảng của công nghệ đoán thử - và - lỗi. Nó đồng thởi cũng là động lực để ngài Strathmore chế tạo TRANSLTR. Nguyên lý này phát biểu rõ ràng rằng nếu một máy tính thử đủ số lượng chìa khóa có khả năng thì đảm bảo là về mặt toán học, nó sẽ tìm được chìa khóa cần tìm. Sự an toàn của một mật mã không phải ở chỗ người ta không tìm được chìa khóa của nó mà là hầu hết mọi người không có đủ thời gian và thiết bị để thử tất cả các khả năng.

Ngài Strathmore lắc đầu :

- Nhưng đoạn mã này thì khác.

- Khác à? - Susan nhìn ngài chỉ huy đầy vẻ ngờ vực. Về mặt toán học, không thế tồn tại một đoạn mã không thế phá vỡ mà! Ông ấy biết điều đó!

Ngài Strathmore đưa tay lau mồ hôi trên đầu.

- Đây là sản phẩm của một thuật toán mã hóa hoàn toàn mới - một thuật toán mà chúng ta chưa thấy bao giờ.

Bây giờ Susan nhìn có vẻ còn hoang mang hơn nữa. Các thuật toán mã hóa chỉ là các công thức toán học, các phương pháp biến một đoạn văn bản thành một đoạn mã. Ngày nào các nhà toán học và các lập trình viên cũng tạo ra những thuật toán mới. Số lượng chúng trên thị trường có tới hàng trăm loại: PGP, Diffie-Hellman, ZIP, IDEA, El Gamal. Công việc của TRANSLTR là bẻ khóa chúng hàng ngày, không có vấn đề gì cả. Đối với TRANSLTR tất cả các đoạn mã đều như nhau, bất kể chúng được viết bằng thuật toán nào.

- Tôi không hiểu - cô phân trần.

- Chúng ta không nói tới việc thiết kế đối chiếu một số hàm phức tạp, chúng ta nói về thử - và - lỗi. Tất cả các loại thuật toán PGP, Lucifer, DSA-không có vấn đề gì. Thuật toán cứ việc sản xuất ra những chìa khóa mà chúng nghĩ là an toàn, còn nhiệm vụ của TRANSLTR là kiên trì đoán cho tới khi ra thì thôi.

Ngài Strathmore trả lời với vẻ bình tĩnh của một ông thầy nhiều kinh nghiệm.

- Đúng rồi, Susan, TRANSLTR luôn tìm được chìa khóa - kể cả nó có lớn đến mấy đi nữa - ông ngừng một khoảnh khắc.. - Chỉ trừ khi...

Susan rất muốn chen vào, nhưng rõ ràng ngài Strathmore đang chuẩn bị nói một điều gì đó hết sức kinh khủng. Trừ khi gì?

- Trừ khi cỗ máy không biết khi nào đoạn mã đã được phá.

Susan choáng váng, suýt ngã khỏi ghế.

- Cái gì?

- Trừ khi máy tính đã đoán đúng chìa khóa song nó vẫn tiếp tục hoạt động bởi không biết rằng mình đã đoán đúng. - Nhìn ngài Strathmore thật thê thảm. - Tôi nghĩ thuật toán này đã tạo ra một văn bản gốc tuần hoàn.

Susan há hốc miệng.

Ý tưởng về văn bản gốc luân hồi lần đầu tiên xuất hiện trong một nghiên cứu rất khó hiểu thực hiện năm 1987 bởi một nhà toán học người Hungary tên là Josef Harne. Do các máy tính sử đụng phương pháp đoán thử - và - lỗi để phá mã bằng cách phân tích các đoạn văn bản gốc để tìm ra những tố hợp từ có nghĩa, Hame đã đề xuất một thuật toán mã hóa mà ngoài việc mã hóa còn có nhiệm vụ gắn đoạn văn bản gốc đã được bẻ khóa vào một biến số thời gian.

Trên lý thuyết, vòng tuần hoàn bất tận này đảm bảo máy tính tấn công sẽ không thể nhận ra các tổ hợp từ có nghĩa và do đó sẽ không biết được khi nào nó đã tìm đúng chìa khoá. Ý tướng này phần nào cũng giống với việc chinh phục sao Hỏa - có thể thực hiện về mặt lý thuyết nhưng còn vượt xa khả năng con người trong hiện tại.

- Sếp lấy thứ này ở đâu vậy? - cô hỏi.

Ngài chỉ huy chậm rãi trả lời.

- Một lập trình viên bên ngoài đã viết nó.

- Cái gì cơ - Susan lại ngồi phịch xuống ghế của mình.

- Chúng ta đã có những lập trình viên giỏi nhất thế giới làm việc dưới kia rồi. Tất cả chúng ta cùng làm việc và chưa có ai tiếp cận được phương pháp viết một đoạn văn bản gốc tuần hoàn cả.

- Có phải ngài định nói có một gã vớ vẩn nào đó với một chiếc máy tính đã tìm ra cách viết không?

Ngài Strathmore hạ giọng, nhằm cố gắng làm cô bình tĩnh trở lại :

- Tôi không định coi người này là vớ vẩn đâu.

Susan như không lắng nghe ông. Cô vẫn tin rằng phải có vấn đề gì đó đã xảy ra: máy móc bị trục trặc, một con virus, hay bất cứ thứ gì trừ một đoạn mã không thế phá vỡ.

Ngài Strathmore nghiêm nghị nhìn cô.

- Đoạn mã này được viết nên bởi một trong những tài năng mật mã thông minh nhất mọi thời đại.

Chưa bao giờ Susan hoang mang đến thế; tất cả những tài năng mật mã hóa thông minh nhất mọi thời đại đã và đang làm việc trong cơ quan cô, và cô rõ ràng là chưa bao giờ nghe nói tới một thuật toán nào như thế này.

- Ai vậy? - cô hỏi ngài chỉ huy.

- Tôi chắc là cô đoán được mà - Ngài Strathmore nói.

- Anh ta, không thích NSA lắm đâu.

- Ồ thế thì cũng ít thôi! - cô nói vẻ châm biếm.

- Anh ta đã từng làm việc cho dự án TRANSLTR. Chính tôi đã phải sa thải anh ta vì vi phạm nguyên tắc làm việc và gần như gây ra một cơn ác mộng cho ngành tình báo.

Khuôn mặt Susan trở nên vô cảm trong một tích tắc trước khi trắng bệch đi.

- Lạy Chúa tôi...

Ngài Strathmore gật đầu.

- Suốt ngày anh ta khoe khoang về công trình của mình nhằm tìm ra một thuật toán khống chế được phương pháp đoán thử - và - lỗi.

- Như... Nhưng mà... - Susan lắp bắp không nên lời. - Tôi nghĩ hắn chỉ khoác lác thôi. Hắn làm được thật ư?

- Anh ta đã làm được. Anh ta chính là người viết nên những đoạn mã mãi mãi không thể bị phá vỡ.

Susan lặng đi một lúc.

- Nhưng... thế nghĩa là...

Ngài Strathmore nhìn thẳng vào mắt cô lạnh lùng.

- Đúng thế. Chính Ensei Tankado đã vô hiệu hóa TRANSLTR.

Xem tiếp chương 6

Chương 6

Dù không sống trong thời gian của Thế chiến II, song Ensei Tankado vẫn nghiên cứu kỹ lưỡng về nó, nhất là sự kiện đỉnh điểm, quả bom nguyên tử được ném xuống khiến 100.000 người ở nước anh ta bị chết thiêu chỉ trong giây lát.

8h 15 phút sáng ngày 6 tháng 8 năm 1945 ở Hiroshima là thời điểm của một hành động tàn sát dã man. Một sự phô trương sức mạnh vô đạo lý của một đất nước trước đó đã giành thắng lợi trong cuộc chiến. Tankado chấp nhận tất cả những điều đó. Nhưng điều anh ta không thể chịu đựng được là quả bom đã làm cho anh ta không bao giờ được nhìn thấy khuôn mặt thân mẫu của mình. Bà đã chết khi sinh hạ anh ta do những biến chứng của sự nhiễm xạ mà bà phải hứng chịu nhiều năm trước đó.

Năm 1945, trước khi Ensei được sinh ra, mẹ anh ta, cũng giống như nhiều người bạn khác, đã tình nguyện tới Hiroshima làm việc trong các trung tâm hạt nhân. Chính tại nơi đây bà đã trở thành một trong những hibakusha - những người bị nhiễm xạ. 19 năm sau đó, khi nằm trong phòng đẻ và bị băng huyết ở tuổi 36, bà biết rằng mình đã sắp tới lúc tận mạng. Nhưng có một điều bà không biết là cái chết còn gieo cho bà một nỗi thống khổ cuối cùng nữa - đứa con duy nhất của bà đã bị dị tật ngay từ khi sinh ra.

Cha anh ta thậm chí còn chưa bao giờ nhìn mặt Ensei. Suýt phát điên vì mất vợ và tủi thẹn khi được y tá thông báo rằng con trai mình bị dị tật, khó sống qua đêm đó, ông bỏ đi khỏi bệnh viện và không bao giờ quay lại. Ensei Tankado đã được nuôi dạy trong một gia đình đỡ đầu.

Hàng đêm, chú bé Tankado lại nhìn xuống những ngón tay bị xoắn vào nhau của mình đang nắm chặt con búp bê hình Bồ đề bạt ma và thề rằng sau này sẽ trả thù - trả thù lại đất nước đã cướp đi mẹ anh ta và làm bố anh ta phải tủi hổ đến mức bỏ rơi anh ta. Nhưng anh ta không biết rằng định mệnh đã can thiệp vào cuộc đời mình.

Tháng 2 năm Ensei được 12 tuổi, một công ty sản xuất máy tính ở Tokyo gọi điện cho gia đình đỡ đầu anh ta và hỏi xem liệu đứa bé què quặt của họ có thế tham gia chương trình thử nghiệm một loại bàn phím mà công ty đã phát triển dành cho trẻ em tàn tật hay không. Gia đình đỡ đầu anh ta đã đồng ý.

Dù chưa nhìn thấy máy tính bao giờ, song dường như bản năng đã mách bảo Ensei Tankado biết cách sử dụng nó. Chiếc máy tính đã mở ra một thế giới mới lạ mà anh ta chưa từng biết tới. Và nó đã gắn chặt cuộc đời anh ta. Khi lớn lên, anh ta đi dạy, kiếm tiền, và cuối cùng giành được học bổng của Đại học Doshisha. Không lâu sau Ensei Tankado đã trở nên nổi tiếng toàn Tokyo là một thiên tài trong bộ dạng tàn tật.

Sau này, Tankado được đọc các tài liệu về trận Trân Châu Cảng và những tội ác chiến tranh của Nhật Bản. Lòng căm hờn đối với nước Mỹ của anh dần phai mờ, anh ta trở thành một tín đồ Phật giáo sùng đạo. Anh ta quên đi lời thề trả thù thủa thơ ấu; tha thứ là cách duy nhất để được siêu thoát.

Năm 20 tuổi, Ensei Tankado trở thành một hình mẫu lý tưởng của các chuyên viên lập trình. Hãng IBM cấp cho anh ta một tấm visa và một vị trí làm việc ở Texas. Lập tức Tankado đã nắm lấy cơ hội. Ba năm sau anh ta đã rời bỏ IBM, đến sống ở New York và tự viết phần mềm. Anh đã vẽ ra một hướng đi mới cho việc mã hóa bằng khóa công khai. Cũng chính anh đưa ra các thuật toán giải mã và trở nên phát tài.

Giống như đối với nhiều bậc thầy về thuật toán mật mã khác, đối với Tankado, NSA là một nỗi khao khát không thể cưỡng lại.

Thật trớ trêu đây lại chính là cơ quan đầu não của chính đất nước anh đã từng một thời căm ghét đến tận xương tuỷ. Anh ta quyết định đến phỏng vấn và mọi nỗi nghi ngờ đều tan biến ngay khi anh gặp chỉ huy Strathmore. Họ bộc bạch với nhau về thân thế của Tankado, về sự dị ứng của anh ta với chính phủ Mỹ, về những dự tính cho tương lai của anh. Tankado phải tham dự một bài thi về đồ thị đơn và trải qua năm tuần trắc nghiệm tâm lý hết sức căng thẳng và đã vượt qua tất cả. Lòng căm thù Mỹ trong anh từ lâu đã trở thành sự tận tâm đối với Đức Phật. Bốn tháng sau đó, Ensei Tankado bắt đầu làm việc tại phòng mật mã Cơ quan An ninh Quốc gia.

* * * * *

Dù đồng lương cũng ra tấm ra món, nhưng ngày ngày Tankado vẫn đi làm trên chiếc xe đạp cà tàng, và một mình ngốn cho hết hộp cơm mang theo, thay vì ăn sườn và súp khoai tây tại nhà ăn với mọi người. Những nhân viên mật mã khác tôn sùng anh ta. Trong con mắt họ, Tankado là lập trình viên xuất sắc nhất trên đời. Tử tế, chân thành trầm tĩnh,Tankado là một chuẩn mực đạo đức. Đối với Tankado sự toàn vẹn về tinh thần luôn là một điều rất quan trọng.

Cũng chính vì thế, việc anh bị sa thải và sau đó bị trục xuất khỏi NSA đã từng là một cú sốc đối với mọi người.

Giống như tất cả những nhân viên khác của phòng mật mã, Tankado hiểu rằng nếu dự án TRANSLTR thành công thì nó sẽ chỉ được sử dụng để giải mã thư điện tử nếu Bộ Tư pháp phê duyệt.

Điều này cũng giống như FBI cần giấy phép của tòa án liên bang để lắp đặt hệ thống nghe trộm điện thoại. TRANSLTR sẽ được cài đặt một phần mềm yêu cầu sử dụng các mật mã, được qui định theo thỏa thuận giữa Cục Dự trữ Liên bang và Bộ Tư pháp, để giải mã các tệp tin. Chương trình này sẽ ngăn chặn việc NSA nghe lén các cuộc nói chuyện riêng tư của những công dân luôn sống và làm việc theo pháp luật trên toàn cầu.

Tuy nhiên, khi bắt tay vào lập trình, các nhân viên lập trình TRANSLTR đã được thông báo rằng có một sự thay đối trong kế hoạch. Do sức ép thời gian của công việc chống khủng bố của NSA, TRANSLTR trở thành một thiết bị mã hóa nội bộ và chỉ duy nhất NSA điều tiết hoạt động của nó.

Việc này làm Ensei Tankado tức đến phát điên lên. Như thế, có nghĩa là NSA có thể mở bất kì một lá thư nào và sau đó đóng lại mà không ai phát hiện được. Như thế cũng giống như việc gắn một thiết bị nghe trộm vào mọi chiếc máy điện thoại trên thế giới.

Strathmore cố gắng hết sức thuyết phục Tankado tin rằng TRANSLTR là một thiết bị không vi phạm pháp luật, nhưng điều này chẳng ích gì, Tankado vẫn kiên quyết rằng đó là một sự vi phạm nhân quyền trắng trợn. Tankado bỏ việc ngay lập tức. Anh ta đã vi phạm qui tắc bảo mật của NSA khi cố gắng liên lạc với EFF trong vòng vài giờ sau khi bỏ việc. Tankado dự định gây sốc cả thế giới bằng thông tin về sự tồn tại của một hành động vi phạm nhân quyền trắng trợn của một chính. NSA không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải ngăn chặn anh ta.

Việc Tankado bị bắt giữ và trục xuất được thông báo liên tục trên các phương tiện trực tuyến, thực sự là một sự lăng mạ công khai. Trái với mong muốn của Strathmore, các chuyên gia xử lý tình huống của NSA vì lo ngại Tankado sẽ làm lộ bí mật về sự tồn tại của TRANSLTR đã tung nhiều tin đồn xấu nhằm phá hủy uy tín và danh tiếng của Tankado. Ensei Tankado bị cô lập với giới lập trình trên toàn cầu - không ai tin một lập trình viên quèn đang bị buộc tội làm gián điệp, nhất là khi anh ta đang ra sức mua lại sự tự do cho mình bằng cách rêu rao về một chiếc máy bẻ khóa mật mã bí mật của chính phủ Mỹ.

Điều kì quặc nhất là dường như Tankado hiểu rằng đó là một phần trong trò chơi tình báo này. Anh không hề tỏ ra giận dữ, mà đầy quyết tâm. Khi bị nhân viên an ninh giải đi, Tankado nói những lời cuối cùng với Strathmore với sự bình ớnh đến ớn lạnh.

- Tất cả chúng ta đều có quyền giữ bí mật. Một ngày nào đó tôi sẽ khiến chúng ta có thể có quyền đó.

Xem tiếp chương 7

Chương 7

Susan cảm thấy đầu óc đang quay cuồng, Ensei Tankado đã viết một chương trình phần mềm tạo ra các mật mã không thể bẻ khóa được. Cô không thể tin điều này là có thật..

- Pháo Đài Số - Strathmore lên tiếng.

- Đó là cái tên anh ta đặt cho nó. Đây là một vũ khí chống tình báo tối ưu. Nếu chương trình của anh ta được tung ra thị trường, thì chỉ cần có được nối mạng là một học sinh lớp 3 có thể gửi những mật mã mà NSA không thể giải mã được. Và mạng lưới tình báo của chúng ta sẽ bị bóp chết.

Nhưng điều mà Susan đang nghĩ lại không phải là những hệ luỵ mang tính chính trị của Pháo Đài Số. Cô vẫn đang cố vắt óc để lý giải sự tồn tại của nó. Cả đời làm công việc giải mã các mật mã, cô hoàn toàn phủ nhận sự tồn tại của một mật mã tối ưu. Nguyên tắc Bergofsky đã chỉ ra rằng: mọi mật mã đều có thể giải mã được! Cô thấy mình như một người theo thuyết vô thần đang chuẩn bị đối mặt với Chúa.

- Nếu mật mã này bị lộ ra - cô thì thào - thì ngành giải mã sẽ trở thành một ngành khoa học chết.

Strathmore gật đầu.

- Đó chỉ là vấn đề phụ thôi.

- Chúng ta có thể mua Tankado được không? Tôi biết anh ta căm ghét chúng ta, nhưng tại sao chúng ta không trả cho anh ta vài triệu đô la? Thuyết phục anh ta không phổ biến nó?

Strathmore cười váng lên.

- Vài triệu đô la? Cô có biết nó giá trị như thế nào không? Không một chính phủ nào trên thế giới này lại không sẵn sàng trả cả núi đô la để sở hữu nó. Cô có cho rằng chúng ta có thể báo cáo với Tổng thống rằng mình vẫn có thể can thiệp vào các bức điện tín của bọn khủng bố trong khi không thể xem các giao diện nữa ư, Nó không chỉ liên quan đến NSA mà còn liên quan đến toàn bộ giới tình báo. Thiết bị này có ích cho bất kì ai có nó và FBI, DEA, CIA, tất cả bọn họ sẽ như những kẻ mù dở. Các chuyến tàu vận chuyển ma tuý sẽ không thể bị phát hiện được, các công ty lớn có thể chuyển tiền mà không cần biên bản, giấy tờ và có thể tự xóa bỏ hệ thống lưu trữ dữ liệu IRS đi, các cuộc trao đổi của bọn khủng bố trở nên bí mật tuyệt đối - Mọi thứ sẽ bị đảo lộn.

- EFF sẽ tha hồ mà tồ chức biếu tình - Susan nói, mặt tái nhợt.

- EFF không hề biết một tí gì về cái chúng ta đang làm ở đây. - Strathmore phẫn nộ - Họ sẽ phải thay đổi thái độ nếu họ biết rằng sở dĩ chúng ta đã chặn được bao nhiêu cuộc tấn công của bọn khủng bố là do có thể giải được các mật mã.

Susan đồng ý, nhưng cô biết EFF sẽ chẳng bao giờ hiểu nổi được tầm quan trọng của TRANSLTR. TRANSLTR đã giúp chặn đứng được hàng chục vụ tấn công, nhưng đây là thông tin mật, và không bao giờ được phép tiết lộ ra ngoài. Lý do rất đơn giản là: Chính phủ không biết sẽ phải làm gì trước sự kích động của công chúng nếu sự thật bị tiết lộ; không một ai biết rằng công chúng sẽ phản ứng ra sao khi biết trong năm vừa qua, ở ngay trên đất nước Hoa Kỳ, đã có hai cuộc trao đối bí mật về vũ khí hạt nhân của các nhóm khủng bố.

Tuy nhiên, các cuộc tấn công bằng vũ khí hạt nhân không phải là mối hiểm họa duy nhất. Chỉ riêng trong tháng trước, TRANSLTR đã ngăn chặn được một trong những cuộc tấn công được coi là tinh vi nhất của bọn khủng bố trong lịch sử của NSA. Một tổ chức chống chính phủ đã lập ra một kế hoạch có mật mã là Sherwood Forest. Với ý đồ "phân chia lại tài sản", kế hoạch này đã nhắm vào Sở Giao dịch Chứng khoán New York. Trong vòng hơn sáu ngày, các thành viên của nhóm này đã đặt hai mươi bảy ngòi nổ hẹn giờ trong các tòa nhà bao quanh Sở Giao dịch.Việc phát nổ đồng thời cả hai mươi bảy ngòi nổ được cài đặt một cách cẩn thận này sẽ tạo ra một từ trường mạnh đến nỗi có thể phá hỏng tất cả các thiết bị từ tính của Sở Giao dịch Chứng khoán - như ổ cứng máy vi tính, hàng loạt các ngân hàng lưu trữ dữ liệu không truy xuất, băng từ, thậm chí cả đĩa mềm. Hồ sơ về mọi tồ chức, cá nhân sẽ bị phá hủy vĩnh viễn.

Do việc định giờ chính xác rất quan trọng đối với việc phát nỏ hàng loạt các thiết bị này, các ngòi nổ đã được kết nối với nhau trên Internet qua các đường dây điện thoại. Trong thời gian hai ngày chờ nổ, đồng hồ tính giờ bên trong sẽ liên tục nhận được các dòng dữ liệu đồng hồá đã được mật mã. NSA đã phát hiện các loạt xung dữ liệu, một điều bất bình thường của mạng lưới, nhưng lại lơ là coi chúng chỉ là những câu viết sai ngữ pháp vô nghĩa, vô hại. Nhưng sau khi TRANSLTR giải mã được các xung dữ liệu, các chuyên gia phân tích ngay lập tức đã phát hiện ra chuỗi dữ liệu này chính là thời gian chờ nồ. Các ngòi nổ được phát hiện và tháo bỏ chỉ đúng ba tiếng đồng hồ trước khi Sở Giao dịch nghỉ.

Susan biết rằng nếu không có TRANSLTR thì NSA đành phải bó tay trước chủ nghĩa khủng bố cao cấp thời đại số hoá. Cô đưa mắt nhìn chiếc màn hình chủ. Vẫn là con số chỉ ra hơn mười lăm tiếng đồng hồ. Thậm chí nếu ngay bây giờ tệp tin của Tankado được giải mã thì NSA vẫn sụp đổ ngay tức thì, trung tâm Crypto chỉ có thể giải mã hai mật mã trong một ngày. Thậm chí với tốc độ hiện giờ là 150 mật mã một ngày thì đã tồn đọng cả núi các tệp dữ liệu cần được giải mã.

- Tháng trước Tankado có gọi cho tôi - Strathmore nói, cắt ngang dòng suy nghĩ của Susan.

Susan ngẩng đầu lên, hỏi lại :

- Tankado gọi cho ngài?

- Để cảnh báo tôi - Strathmore gật đầu.

- Cảnh báo ngài? Anh ta căm ghét ngài cơ mà.

- Anh ta gọi để thông báo cho tôi biết anh ta đang hoàn thiện một thuật toán về những mật mã không thể bẻ khóa được. Nhưng tôi đã không tin.

- Nhưng tại sao anh ta lại nói điều đó với ngài? - Susan gặng hỏi.

- Anh ta muốn ngài mua nó à?

- Không, mà là tống tiền.

Mọi thứ đột nhiên trở nên rối tinh rối mù đối với Susan.

- Tất nhiên rồi - Susan nói giọng đầy ngạc nhiên.

- Anh ta muốn ngài xóa tên anh ta đi mà.

- Không phải thế! - Strathmore nhăn mặt.

- Tankado muốn TRANSLTR.

- TRANSLTR?

- Đúng thế. Anh ta ra lệnh cho tôi phải công khai thông báo cho cả thế giới biết rằng chúng ta đang sở hữu TRANSLTR. Anh ta nói rằng nếu chúng ta thừa nhận rằng việc có khả năng đọc được tất cả e-mail của bất kì ai, anh ta sẽ phá hủy Pháo Đài Số.

Nhìn vẻ mặt hồ nghi của Susan, Strathmore nhún vai nói :

- Đằng nào thì cũng đã quá muộn. Anh ta đã tung một phiên bản thử nghiệm của Pháo Đài Số lên mạng và bất kỳ ai cũng có thể tải nó xuống.

Mặt Susan bỗng trở nên trắng bệch.

- Anh ta làm cái quái gì thế!

- Để gây sốc thôi. Chẳng có gì phải lo lắng cả. Phiên bản anh ta tung lên đã được mã hoá. Ai cũng có thể tải xuống, nhưng không ai có thể mở được nó. Quả là tinh vi hết sức. Mật mã gốc của Pháo Đài Số đã được mã hóa và không ai có thể giải mã được.

Với vẻ mặt đầy kinh ngạc, Susan thốt lên :

- Đúng rồi! Vì thế mà ai cũng có một phiên bản, nhưng không ai có thể mở được!

- Chính xác. Tankado đang thả mồi đấy.

- Ngài đã từng nhìn thấy thuật toán đó chưa?

Nét mặt của vị chỉ huy trông đầy sự lo lắng :

- Chưa, tôi chả nói là nó bị mã hóa là gì.

Susan kinh ngạc :

- Nhưng mình đã có TRANSLTR, tại sao không giải mã nó.

Nhưng vẻ mặt của Strathmore đã khiến Susan nhận ra rằng các quy tắc đã bị xáo trộn.

- Ôi, chúa ơi! - Cô kêu lên, dường như đã hiểu vấn đề - Pháo Đài Số được mã hóa bởi chính nó sao?

- Cô đã hiểu ra rồi đấy.

Đối với Susan điều này đúng là ngoài sức tưởng tượng.

Công thức của Pháo Đài Số đã được mã hóa bằng chính Pháo Đài Số. Tankado đã tung lên trên mạng một công thức toán học vô giá, nhưng phần viết của nó lại được mã hóa để không ai đọc được Và nó phải sử dụng chính bản thân nó mới có thế đọc được.

- Đó là nguyên lý an toàn của Biggleman - Susan lắp bắp.

Strathmore gật đầu. Nguyên lý an toàn của Biggleman là một kịch bản mang tính giả thuyết về mặt mã, theo đó một chương trình bảo mật lập ra một cơ chế bảo mật tuyệt đối. Để giữ bí mật, người ta lập ra một cái két an toàn để giấu cơ chế đổi.

Tankado cũng làm như thế với Pháo Đài Số. Anh ta đã bảo vệ cái két của mình bằng cách mã hóa nó theo công thức được cất giữ trong chính cái két ấy.

- Và tệp tin TRANSLTR đang giải mã là...

- Tôi đã tải nó xuống từ trang Web của Takado giống như tất cả mọi người. NSA bây giờ vô cùng tự hào là người sở hữu thuật toán Pháo Đài Số. Chúng ta chỉ không thể mở được thôi.

Susan lấy làm kinh ngạc trước sự tài tình của Ensei Tankado. Anh ta đã chứng minh cho NSA thấy thuật toán đó là không thể bẻ khóa được mà vẫn không cần tiết lộ nó.

Strathmore đưa cho cô một mẩu báo. Đó là một bài giới thiệu sách dịch từ tạp chí Nikkei Shimbun, một kiểu Nhật báo Phố Wall xuất bản bằng tiếng Nhật. Nói rằng lập trình viên người Nhật Bản Ensei Tankado đã hoàn thiện một công thức toán học mà anh ta tưyên bố là có thế viết được các mật mã không thể hóa giải. Thuật toán đó có tên là Pháo Đài Số và ai cũng có thể xem ở trên mạng. Lập trình viên này sẽ bán đấu giá nó cho người trả tiền cao nhất. Bài báo đó còn nói mặc dù giới tin học Nhật bản rất quan tâm, nhưng những công ty phần mềm Hoa Kỳ đã nghe nói đến Pháo Đài Số thì chỉ coi lời tuyên bố của Tankado là một trò bịp bợm, giống như chuyện biến chì thành vàng. Họ nói rằng công thức này chỉ là một trò lừa bịp vớ vẩn.

- Bán đấu giá? - Susan ngẩng đầu hỏi.

Strathmore gật đầu.

- Ngay bây giờ, mọi công ty phần mềm Nhật bản đều đã tải phiên bản mã hóa của Pháo Đài Số và đang cố gắng bẻ khóa nó. Cứ mỗi giây họ thất bại, thì giá của nó càng lên cao.

- Ngớ ngẩn! - Susan phản đối - Tất cả những file đã mã hóa này sẽ không giải mã được trừ phi có TRANSLTR. Pháo Đài Số có thể sẽ chỉ là một thuật toán công khai không hơn không kém mà thôi, và không một công ty nào trong số họ có thể bẻ khóa được.

- Đó là một mánh quảng cáo rất thông minh - Strathmore lên tiếng.

- Hãy nghĩ tới điều này - trong khi tất cả các hãng kính chắn đạn đều chắn được đạn, nhưng nếu có một công ty thách anh bắn đạn xuyên qua sản phẩm kính của họ, vẫn có rất nhiều người muốn thử đấy.

- Và người Nhật thực sự tin rằng Pháo Đài Số là khác biệt xa? Tốt hơn bất cứ thuật toán nào có trên thị trường?

- Mọi người có thể xa lánh Tankado, nhưng ai cũng biết rằng anh ta là một thiên tài. Thực ra mà nói, anh ta là bá chủ trong giới tin tặc. Nếu anh ta nói thuật toán đó không thể bẻ khóa được thì nó hẳn là không bẻ khóa được.

- Ít nhất là cho đến khi công chúng biết.

- À, ừ - Strathmore đăm chiêu - - Ít nhất là vào lúc này.

- Điều đó có nghĩa gì chứ?

Strathmore thở dài :

- Hai mươi năm trước, không một ai dám nghĩ là chúng ta sẽ giải được các mã chuỗi mười hai bit. Nhưng công nghệ không ngừng tiến bộ. Các nhà sản xuất phần mềm đã cho rằng một lúc nào đó, các thiết bị điện tử như TRANSLTR sẽ xuất hiện. Công nghệ sẽ phát triển theo cấp số nhân, và kết quả là những thuật toán công khai sẽ mất tính bảo mật. Sẽ cần phải có những thuật toán tốt hơn để phù hợp với các thiết bị máy tính trong tương lai.

- Đó là Pháo Đài Số?

- Chính xác... Một thuật toán có khả năng chống lại phương pháp giải mã kiểu cưỡng bức thì sẽ không bao giờ trở nên lỗi thời, cho dù thiết bị giải mã có tinh vi đến đâu đi nữa. Và trong nháy mắt, nó sẽ trở thành một chuẩn mực trên toàn thế giới.

Susan hít một hơi dài, thì thầm :

- Chúa phù hộ chúng ta. Có thể làm được gì không?

Strathmore lắc đầu.

- Tankado đã cho chúng ta một cơ hội. Anh ta đã nói rõ. Dù sao như thế cũng rất mạo hiểm; nếu bị phát hiện, thì chẳng khác là tự thừa nhận mình lo sợ về thuật toán của anh ta. Như thế nghĩa là chúng ta tự thú với công chúng rằng mình đang sở hữu TRANSLTR, và rằng Pháo Đài Số vẫn là bất khả xâm phạm.

- Ta còn bao nhiêu thời gian?

Strathmore nhăn nhó :

- Tankado định trưa mai sẽ thông báo người trả giá cao nhất.

Susan thấy cố họng nghẹn lại.

- Sau đó thì sao?

- Theo kế hoạch anh ta sẽ trao cho người trả tiền cao nhất chìa khóa giải mã.

- Chìa khóa giải mã?

- Đây là một phần trong âm mưu của anh ta. Sau khi mọi người đã có thuật toán này, Tankado sẽ bán đấu giá chìa khóa giải mã.

- Đúng rồi - Susan kêu lên. Thật là hoàn hảo. Đơn giản và gọn nhẹ. Tankado đã mã hóa Pháo Đài Số và chỉ duy nhất anh ta mới có chìa khóa để mở. Cô cảm thấy khó có thể tìm thấy một chìa khóa giải mã gồm 64 kí tự, điều đó có thế đặt dấu chấm hết cho khả năng xem trộm thư điện tử của ngành tình báo Hoa Kỳ. Nó đang ở một nơi nào đó, có thể là một tờ giấy nhét trong túi quần của Tankado chăng?

Susan đột nhiên cảm thấy choáng váng đầu óc khi nghĩ tới kế hoạch này. Tankado có thể sẽ trao chìa khóa giải mã cho người trả tiền cao nhất, và công ty đó sẽ mở được Pháo Đài Số.

Sau đó có thể họ sẽ gắn thuật toán này vào một loại mạch điện tử siêu nhỏ, và trong vòng năm năm, bất kì chiếc máy vi tính nào cũng có thể được cài sẵn mạch điện tử Pháo Đài Số.. Xưa nay không một nhà sản xuất vì lợi nhuận nào nghĩ đến việc tạo ra một loại mạch điện tử mã hóa bởi vì các thuật toán mã hóa thông thường nhanh chóng trở nên lỗi thời. Nhưng Pháo Đài Số sẽ không bao giờ lỗi thời; với chức năng xóa văn bản liên tục, không một nỗ lực từ bên ngoài nào có thể tìm ra mật mã đúng. Một chuẩn mực mới về kỹ thuật mã số hoá. Mọi mật mã đều là bất khả xâm phạm. Từ bây giờ và mãi mãi về sau. Giám đốc ngân hàng, kẻ môi giới, bọn khủng bố, gián điệp. Mỗi một ngành có một thuật toán riêng.

Hỗn loạn.

- Sự lựa chọn ở đây là gì? - Susan thăm dò. Cô biết chắc rằng trong những lúc nguy kịch thì cần phải có những biện pháp liều lĩnh thậm chí ở NSA.

- Chúng ta không thể thủ tiêu anh ta, nếu đó là cái mà cô định hỏi.

Đó chính là cái mà Susan định hỏi. Trong suốt thời gian làm việc tại NSA, cô đã nghe đồn về những mối quan hệ ngầm của NSA với những sát thủ chuyên nghiệp nhất trên thế giới. Những gã này được thuê đế làm những công việc đen tối trong giới tình báo.

Strathmore lắc đầu.

- Tankado quá thông minh nên chúng ta không thể làm như thế.

Susan cảm thấy bớt căng thẳng một cách kỳ lạ.

- Anh ta đã phòng bị?

- Không hẳn là thế.

- Hay là đi trốn?

Strathmore nhún vai.

- Tankado đã rời Nhật Bản. Anh ta định kiểm tra cuộc đấu thầu qua điện thoại. Nhưng chúng ta biết anh ta đang ở đâu.

- Và ngài không định có động tĩnh gì sao?

- Không. Anh ta đã mua bảo hiểm. Tankado đã đưa bản copy của chìa khóa giải mã cho một người thứ ba nặc danh...trong trường hợp có chuyện gì xảy ra.

Đương nhiên là Susan cảm thấy hết sức kinh ngạc. Một thiên thần hộ mệnh.

- Và tôi cho rằng nếu có chuyện gì xảy ra với Tankado, thì kẻ bí ẩn đó sẽ bán chìa khóa giải mã?

- Còn tồi tệ hơn thế. Nếu ai đó giết Tankado, thì người đó công khai hóa chìa khoá.

Susan có vẻ lúng túng.

- Cộng sự của anh ta sẽ công bố chìa khóa giải mã?

Strathmore gật đầu :

- Tung nó lên mạng, trên báo, trên các bảng quảng cáo. Nói nôm na là đem cho không.

Susan trợn mắt kinh ngạc :

- Tải miễn phí ư?

- Chính xác. Tankado đã nói rằng nếu anh ta chết, anh ta sẽ không cần tiền - tại sao không ban cho thế giới này một món quà vĩnh biệt nho nhỏ chứ!

Cả hai im lặng một hồi lâu. Susan thở sâu cứ như là chuẩn bị đón nhận một sự thật khủng khiếp. Ensei Tankado đã phát minh ra một thuật toán không thể giải mã được. Anh ta giữ chúng ta làm con tin.

Bỗng nhiên cô đứng bật dậy, quả quyết :

- Chúng ta phải liên lạc với Tankado! Phải có cách nào đó để thuyết phục anh ta không bán chìa khóa giải mã! Chúng ta có thể trả cho anh gấp ba lần số tiền của người trả cao nhất! Chúng ta có thể trả lại thanh danh cho anh ta! Bất cứ điều gì!

- Quá muộn - Strathmore lên tiếng. Hít một hơi thở sâu, ông nói - Sáng nay người ta đã phát hiện Ensei Tankado chết ở Seville, Tây Ban Nha.

Xem tiếp chương 8

Chương 8

Chiếc máy bay Learjet 60 hạ cánh xuống dải đường băng nóng như thiêu đốt. Bên ngoài cửa sổ, khung cảnh hoang vu của vùng chiêm trũng Extremadura, Tây Ban Nha hiện ra mờ mờ, ảo ảo..

- Thưa ông Becker - một giọng nói vang lên - Chúng ta đến nơi!

Becker đứng dậy, vươn vai. Sau khi mở ngăn đựng đồ, anh sực nhớ ra là mình không có hành lý. Anh đã chẳng có thời gian để chuẩn bị hành lý. Nhưng chẳng sao cả - họ đã hứa với anh là chuyến đi này rất gọn nhẹ, đến rồi đi ngay.

Khi động cơ tiếp đất, chiếc máy bay đậu khuất bóng mặt trời dưới tán râm của rừng cây đối diện với cảng chính. Một lúc sau, viên phi công xuất hiện và đập cửa. Becker ném bình nước man việt quất cuối cùng ra sau, đặt chiếc cốc lên quầy bar ẩm ướt, rồi giũ tung chiếc áo choàng.

Viên phi công lôi từ chiếc áo bay ra một chiếc phong bì dày cộp.

- Tôi được lệnh đưa cho ông cái này - Anh ta đưa nó cho Becker. Bên ngoài phong bì là dòng chữ viết nguệch ngoạc bằng mực xanh :

"HÃY GIỮ SỐ TIỀN NÀY"

Becker giở một tập giấy bạc đo đỏ dày cộp.

- Cái này là...?

- Tiền địa phương - Viên phi công tỏ ra hiểu biết.

- Tôi biết nó là cái gì - Becker lắp bắp.

"Nhưng thế này là... quá nhiều. Tất cả những gì ta cần chỉ là vé taxi mà thôi" Becker tự nghĩ trong đầu.

- Ở đây làm gì có cái gì đáng giá hàng nghìn đôla cơ chứ!

- Đó là nhiệm vụ của tôi, thưa ngài - Viên phi công quay người và quay lại cabin. Cánh cửa đóng sập lại sau lưng anh.

Becker hết nhìn trân trối vào chiếc máy bay rồi lại nhìn xuống xấp tiền trên tay anh. Sau một hồi đứng trong khu rừng hoang vắng, anh nhét chiếc phong bì vào túi áo ngực, vắt áo khoác lên vai, và đi khỏi đường băng. Một khởi đầu lạ lùng. Becker cố gắng xua đuổi ý nghĩ ấy ra khỏi đầu. Với một chút may mắn, anh có thể kịp quay về để đi Stone Manor với Susan.

Đến rồi đi ngay, anh tự nhủ. Đến rồi đi ngay.

Anh không biết phải làm gì hơn.

Xem tiếp chương 9

Chương 9

Kỹ thuật viên an ninh hệ thống Phil Chartrukian chỉ định vào Crypto một phút để lấy tờ giấy phân công công việc mà hôm kia anh bỏ quên. Nhưng mọi chuyện không đơn giản chỉ có thế.

Sau khi băng qua Crypto, vào phòng An ninh - Hệ thống, đột nhiên anh phát hiện có một điều gì đó không ổn. Không có ai điều khiển thiết bị đầu cuối, thiết bị thực hiện chức năng giám sát liên tục sự vận hành của TRANSLTR và bộ kiểm tra đã tắt.

Chartrukian gọi to :

- Xin chào, có ai ở đây không?

Không có tiếng trả lời. Căn phòng sạch bóng cứ như là chưa có ai đặt chân đến trong nhiều tiếng đồng hồ.

Mặc dù mới chỉ hai mươi ba tuổi và là lính mới trong kíp nhân viên An ninh - Hệ thống, nhưng Chartrukian được đào tạo khá bài bản, và anh biết được kỷ luật của phòng thí nghiệm. Phải luôn có một nhân viên An ninh hệ thống trực ở Crypto, đặc biệt là vào thứ Bảy khi tất cả các mật mã viên đều nghỉ.

Không một phút chần chừ, anh khởi động bộ kiểm tra và ngước nhìn bảng phân công trực trên tường.

- Ai trực hôm nay - Anh gào to lên trong khi liếc nhìn danh sách nhân viên. Theo kế hoạch thì Seidenberg, một nhân viên trẻ mới vào nghề lẽ ra đã phải bắt đầu ca trực đúp từ nửa đêm hôm kia. Chartrukian đảo mắt nhìn quanh căn phòng trống rỗng. cau có :

- Hắn ở nơi chết dẫm nào không biết?

Trong khi nhìn bộ điều khiến khởi động, Chartrukian tự hỏi không biết Strathmore có biết là không có ai trực không. Lúc vào đây anh đã nhận thấy cửa rèm phòng làm việc của Strathmore đã đóng, điều đó có nghĩa là sếp đã ra ngoài - một điều không phải là không bình thường cho một ngày thứ Bảy: mặc dù cho phép các mật mã viên nghỉ ngày thứ Bảy, nhưng Strathmore dường như làm việc cả 365 ngày trong năm.

Nhưng Chartrukian biết chắc chắn là nếu Strathmore phát hiện thấy không có ai trực ở phòng An ninh - Hệ thống thì anh chàng mới vào nghề đó sẽ bị mất việc. Chartrukian nhìn chằm chằm vào chiec điện thoại, băn khoăn không biết có nên gọi tên kỹ thuật viên trẻ tuổi đó và giúp anh ta hay không. Có một nguyên tắc ngầm giữa các nhân viên an ninh hệ thống là họ phải tương trợ lẫn nhau. Ở Crypto, nhân viên an ninh hệ thống đều là những công dân hạng hai. Các nhân viên mật mã luôn luôn là người đứng đầu trong số những người giàu có, nhân viên an ninh hệ thống được cảm thông chỉ bởi vì họ phải giữ cho đống đồ chơi này hoạt động liên tục.

Chartrukian quyết định nhấc chiếc điện thoại lên. Nhưng chiếc ống nghe chưa kịp chạm tới tai anh. Anh lập tức dừng lại ngay, nhìn như chọc thủng bộ điều khiển đang ở đúng tầm nhìn. Anh từ từ đặt máy điện thoại xuống, và há hốc mồm nhìn chằm chằm vào nó...

Suốt tám tháng làm nhân viên an ninh hệ thống, Phil Chartrukian chưa bao giờ nhìn thấy Bộ điều khiển chính của TRANSLTR hiển thị bất kì một cái gì khác ngoài hai con số không, chỉ giờ. Hôm nay là lần đầu tiên :

THỜI GIAN SỬ DỤNG: 15:17:21

- Mười lăm giờ mười bảy phút ư? - Anh cảm thấy nghẹt thở. - Không thể nào!

Vừa khởi động lại màn hình, anh vừa cầu chúa cho đó chỉ là lỗi màn hình hỏng. Nhưng sau khi khởi động lại xong thì những cơn số ấy lại hiện ra như cũ...

Chartrukian rùng mình. Nhân viên an ninh hệ thống của Crypto chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là giữ TRANSLTR "sạch" - không bị nhiễm virus.

Chartrukian biết rằng việc TRANSLTR đã vận hành mười lăm tiếng đồng hồ sẽ đồng nghĩa với việc nó đã bị nhiễm virus. Ai đó đã để quên một file bị nhiễm virus ở trong TRANSLTR và nó đang phá hủy các chương trình. Ngay lập tức, anh quên cả mục đích ban đầu của mình; việc không có ai trực phòng thí nghiệm hay bộ điều khiến đã ngắt bây giờ không còn là điều quan trọng nữa. Không chần chừ anh tập trung ngay vào vấn đề chính - TRANSLTR. Ngay lập tức anh tra tìm danh sách các file đã lưu vào TRANSLTR trong vòng bốn mươi tám tiếng vừa qua. Liếc nhìn danh sách các file anh tự hỏi, chẳng lẽ có một tệp tin bị nhiễm virus đã thâm nhập vào ư? Chẳng lẽ bộ lọc an toàn bỏ sót một cái gì?

Để đề phòng virus, tất cả các file thâm nhập vào TRANSLTR đều phải đi qua Gauntlet một loạt các cổng nối mạch, bộ lọc gói tin, và các chương trình diệt virus. Các file chứa các chương trình "lạ" sẽ bị bộ lọc Gauntlet loại ra ngay lập tức. Chúng phải được các nhân viên an ninh hệ thống kiểm tra. Đôi khi bộ lọc Gauntlet từ chối những file hoàn toàn vô hại vì những file này chứa những chương trình mà nó chưa bao giờ gặp. Trong trường hợp đó, các nhân viên an ninh hệ thống phải tự kiểm tra hết sức cẩn thận, và chỉ khi khẳng định được file đó hoàn toàn sạch thì họ mới đưa nó qua bộ lọc Gauntlet, rồi chuyển vào TRANSLTR...

Virus vi tính cũng phong phú chẳng kém gì vi khuẩn. Cũng giống như những người anh em sống trên cơ thể con người, virus vi tính chỉ có một mục đích duy nhất là bám chặt vào hệ thống máy chủ và sinh sôi nảy nở. Ở đây, máy chủ chính là TRANSLTR.

Chartrukian cảm thấy rất ngạc nhiên vì từ trước đến nay NSA chưa bao giờ bị nhiễm virus. Tuy Gauntlet là một người lính gác tốt, nhưng NSA là bộ phận cuối cùng, nhận hằng hà sa số thông tin điện tử từ tất cả các hệ thống trên thế giới. Việc nhận hàng núi dữ liệu như vậy cũng giống như việc quan hệ giới tính bừa bãi hay không cẩn trọng, không sớm thì muộn cũng sẽ bị nhiễm phải một cái gì đó.

Chartrukian đã kiểm tra xong danh sách các file hiển thị trước mặt. Anh cảm thấy lúng túng hơn bao giờ hết. Tất cả các file đều được kiểm tra, và thiết bị loại - Gauntlet không phát hiện được điều gì bất thường. Điều này có nghĩa là file trong TRANSLTR hoàn toàn sạch.

"Thế thì tại sao nó chạy lâu vậy" - Anh gào lên trong căn phòng vắng lặng. Chartrukian vã mồ hôi. Anh băn khoăn không biết, có nên quấy rầy Strathmore vì chuyện này hay không.

- Diệt virus - Chartrukian nói một cách kiên quyết, cố gắng trấn tĩnh lại - Mình nên diệt virus.

Chartrukian biết thế nào Strathmore cũng yêu cầu diệt virus trước tiên. Liếc nhanh cả Crypto trống hơ trống hoác, Chartrukian quyết định làm ngay. Anh tải phần mềm diệt virus và cho chạy.

Phải mất mười lăm phút phần mềm này mới chạy xong.

- Sạch lại đi bé yêu - anh thì thầm - Sạch sành sanh, bé yêu nhé. Hãy nói với anh là bé không sao cả.

Nhưng Chartrukian cảm nhận thấy có một cái gì đó không phải là "không sao". Bản năng nói với anh rằng có một cái gì đó bất thường đang xâm nhập vào bên trong con quái vật giải mã khổng lồ này.

Xem tiếp chương 10

Chương 10

- Ensei Tankado chết rồi ư? - Susan cảm thấy buồn nôn - Ngài đã thủ tiêu anh ta ư? Tôi tưởng ngài đã nói rằng...

- Chúng ta không hại anh ta - Strathmore an ủi - Anh ta chết vì một cơn đau tim. COMINT đã gọi điện cho tôi sáng sớm hôm nay.

Máy vi tính của họ đã phát hiện tên Tankado trong quyển sổ nhật kí cảnh sát thông qua Interpol.

- Đau tim? - Susan nghi ngờ - Anh ta mới ba mươi tuổi.

- Ba mươi hai - Strathmore sửa lại - Anh ta bị suy tim bẩm sinh.

- Tôi chưa hề nghe nói đến điều đó.

- Hãy chú ý đến sức khỏe của anh ta khi ở NSA, chứ không phải là những điều anh ta khoe khoang, khoác lác.

Susan cảm thấy khó có thể chấp nhận được sự tình cờ khéo sắp đặt này. "Một quả tim suy yếu có thế giết chết anh ta - chỉ đơn giản vậy thôi sao?" Thật là tiện lợi.

Strathmore nhún vai.

- Yếu tim... cộng với cái nắng khắc nghiệt của Tây Ban Nha, sự căng thẳng của việc gửi thư tống tiền NSA...

Susan im lặng giây lát. Dù là do nguyên nhân gì đi chăng nữa thì cô vẫn cảm thấy dằn vặt trước cái chết của một nhân viên mật mã tài ba như thế. Giọng nói trang nghiêm của Strathmore cắt ngang dòng suy nghĩ của cô.

- Tuy nhiên trong cái rủi có cái may: Tankado đã đi du lịch một mình. Có nhiều khả năng cộng sự của anh ta vẫn chưa phát hiện ra cái chết của Tankado. Các quan chức Tây Ban Nha cho biết họ sẽ cố che giấu thông tin này càng lâu càng tốt. Chúng ta biết được tin đó là nhờ COMINT rất thạo tin - Strathmore dịu mắt lại - Chúng ta phải tìm ra người cộng sự trước khi anh ta phát hiện ra cái chết của Tankado. Đó là lí do tôi cho gọi cô. Tôi cần sự giúp đỡ của cô.

Susan thấy khá bối rối. Đối với cô thì cái chết đúng lúc của Ensei Tankado đã giải quyết hết vấn đề của họ.

- Thưa sếp - cô phản đối - Nếu các nhà chức trách nói anh ta chết vì bệnh tim thì chúng ta làm gì còn trở ngại nào. Cộng sự của anh ta sẽ biết chúng ta không có trách nhiệm trong vụ này.

- Không có trách nhiệm ư?- Strathmore trợn mắt kinh ngạc - Một người đã gửi thư tống tiền tới NSA và vài ngày sau anh ta chết, thế mà cô bảo chúng ta không có trách nhiệm? Tôi cá với cô cả trăm triệu đô la là người bạn bí ẩn của anh ta sẽ không nghĩ như thế đâu. Bất cứ chuyện gì xảy ra thì chúng ta có chạy đằng trời cũng không thoát tội được. Rất có khả năng đó là một vụ đầu độc, một cuộc khám nghiệm tử thi giả, hay bất cứ thứ gì - Strathmore ngập ngừng - Thế cô còn nhớ lúc đầu cô đã phản ứng như thế nào khi tôi thông báo về cái chết của Tankado không: "Tôi đã nghĩ NSA thủ tiêu anh ta".

- Chính xác. Nếu NSA có thế đặt năm chiếc vệ tinh Rhyolite trong quỹ đạo quanh khu vực Trung Đông, tôi nghĩ việc giả định chúng ta đã mua chuộc mấy viên cảnh sát Tây Ban Nha là điều không thể tránh khỏi.

Susan thở hắt ra. Ensei Tankado đã chết. Người ta sẽ đồ tội cho NSA.

- Liệu ngài có kịp tìm ra người cộng sự đó không?

- Chắc là được. Chúng ta đang có một manh mối thuận lợi. Tankado đã rất nhiều lần công khai về việc phối hợp với một cộng sự. Tôi nghĩ anh ta hi vọng thông tin đó sẽ làm các hãng phần mềm từ bỏ ý định hãm hại anh ta hay cố gắng đánh cắp chìa khóa giải mã. Anh ta dọa rằng chỉ cần một ai đó chơi xấu, thì người cộng sự sẽ công khai chìa khóa giải mã, và tất cả các hãng phần mềm bỗng nhiên sẽ phải cạnh tranh với một phần mềm miễn phí.

- Thông minh! - Susan gật gù công nhận.

Strathmore tiếp tục nói.

- Đã nhiều lần phát biểu trước công chúng. Tankado đã nhắc đến tên của người cộng sự đó. Anh ta gọi gã là North Dakota.

- North Dakota? Rõ ràng đó là một kiểu bí danh.

- Đúng thế, nhưng để cho chắc ăn, tôi đã điều tra trên mạng với từ khóa là North Dakota. Tôi đã nghĩ là sẽ chẳng tìm được cái gì ra hồn. Nhưng cuối cùng tôi đã tìm thấy địa chỉ thư điện tử - Strathmore ngập ngừng - Tất nhiên cứ cho đó không phải là gã North Dakota mà chúng ta đang tìm kiếm, nhưng tôi đã kiểm tra địa chỉ thư điện tử này chỉ để cho chắc mà thôi. Cô có biết tôi đã ngạc nhiên như thế nào khi thấy địa chỉ đó chứa đầy các lá thư điện tử từ Ensei Tankado không? - Strathmore nhướng mày - Và tất cả những tin nhắn đó đều ám chỉ đến Pháo Đài Số và những kế hoạch tống tiền NSA của Ensei Tankado.

Susan nghi ngờ nhìn Strathmore. Cô thực sự thấy ngạc nhiên khi thấy một người chỉ huy tài giỏi như thế mà lại dễ bị rơi vào tròng đến vậy.

- Thưa sếp - cô phản đối - Tankado chắc chắn biết rằng NSA có thể đọc trộm thư điện tử trên mạng; anh ta sẽ không bao giờ sử dụng thư điện tử để gửi những thông tin bí mật. Đó là một cái bẫy. Ensei Tankado đã cố tình để ông tìm ra North Dakota. Anh ta biết thế nào ông cũng điều tra trên mạng nên bất kì thông tin nào gửi đi, anh ta đều muốn ông tìm thấy. Rõ ràng anh ta muốn đánh lạc hướng..

- Khá lắm - Strathmore độp lại - ngoại trừ một vài thứ. Tôi đã không thể tìm được thứ gì khi sử dụng từ khóa North Dakota, nên tôi đã ngắt các kí tự tìm kiếm ra. Địa chỉ thư điện tử mà tôi ớm thấy có tên hơi khác một chút, đó là - NDAKOTA.

Susan lắc đầu.

- Cách hoán đổi vị trí các ký tự là một thao tác thông thường. Tankado biết thế nào ông cũng thử hoán đổi vị trí các kí tự cho đến khi nào vỡ vạc ra một điều gì đó. NDAKOTA là một cái tên quá dễ phát hiện.

- Cũng có thể - Strathmore nói, rồi viết nguệch ngoạc mấy chữ lên một mẩu giấy đưa cho Susan - Nhưng cô hãy nhìn cái này đã.

Susan đọc mảnh giấy và chợt hiểu được người chỉ huy này đang nghĩ gì. Trên mảnh giấy có ghi địa chỉ thư điện tử của North Dakota.

[email protected].

Chính ba chữ ARA của địa chỉ này đã làm Susan chú ý tới.

ARA là chữ viết tắt của những người viết thư nặc danh, một máy chủ nặc danh nối tiếng.

Các nhà cung cấp nặc danh không xa lạ với những người sử dụng Internet muốn giấu tên truy cập. Để nhận tiền dịch vụ, những công ty này bảo vệ bí mật của những người gửi thư điện tử, với tư cách là người trung gian. Điều này cũng giống như là các hòm thư lưu ký ở bưu điện - người ta có thể gửi và nhận thư mà không cần tiết lộ tên và địa chỉ thật của mình. Công ty đó sẽ nhận các lá thư điện tử ghi sẵn bí danh và gửi thẳng vào điạ chỉ thư điện tử thật của khách hàng. Công ty chuyển tiếp thư điện tử bắt buộc phải tuân theo hợp đồng không được tiết lộ tên và địa chỉ thật của người sử dụng.

- Đó không phải là bằng chứng - Strathmore công nhận - Nhưng rất đáng ngờ.

Susan gật đầu, thấy thuyết phục hơn.

- Vì vậy mà ngài liên tục nói rằng Tankado không để ý đến việc có ai đó tìm kiếm tên North Dakota vì đã được ARA bảo vệ tên và địa chỉ.

- Chính xác!

Susan suy nghĩ một lát rồi nói :

- ARA chủ yếu phục vụ các địa chỉ thư điện tử của Mỹ. Ngài cho là North Dakota có thể đang quanh quẩn ở đâu đó?

Strathmore nhún vai :

- Có thể lắm chứ. Với một người cộng sự người Mỹ, Tankado có thể giữ hai chiếc chìa khóa giải mã ở hai vùng khác nhau. Đó có thể là một hành động thông minh.

Susan suy ngẫm. Cô nghi ngờ không biết liệu Tankado có giao chiếc chìa khóa cho bất kì ai hay không. nếu như đó không phải là bạn thân của anh ta. Và theo như cô biết thì Ensei Tankado không có nhiều bạn ở Mỹ.

- North Dakota - Susan đăm chiêu, bộ óc chuyên gia mật mã của cô nghiền ngẫm về tất cả ý nghĩa có thể của bí danh này - Lá thư anh ta gửi cho Tankado sẽ như thế nào nhỉ?

- Làm sao tôi biết được. COMINT chỉ tìm thấy những lá thư mà Tankado đã gửi đi. Tại thời điểm này tất cả những gì chúng ta chẳng biết gì về North Dakota, ngoại trử đó là một địa chỉ nặc danh.

Susan suy nghĩ một lát rồi nói.

- Có khả năng là một cái bẫy không?

Strathmore nhíu mày.

- Như thế nào?

- Tankado có thể sẽ gửi một lá thư ma đến một địa chỉ thư điện tử chết với hi vọng là chúng ta sẽ đọc trộm nó. Chúng ta sẽ nghĩ là anh ta đã được bảo vệ, và sẽ không bao giờ mạo hiểm chia sẻ chiếc chìa khóa giải mã. Anh ta có thể hành động một mình.

Strathmore mỉm cười công nhận.

- Một ý tưởng tinh quái, ngoại trừ một điều. Anh ta sẽ không sử dụng bất kỳ một account gia đình hay công việc nào cả. Anh ta sẽ ghé qua Trường Đại học Doshisha và đăng nhập vào máy tính chủ. Dường như anh ta có một địa chỉ thư điện tử bí mật ở đó. Đó là một địa chỉ được giấu rất kỹ và tôi chỉ tình cờ phát hiện ra mà thôi - Strathmore ngập ngừng - Vì vậy... nếu Tankado muốn chúng ta đọc trộm thư của anh ta, tại sao anh ta lại sử dụng địa chỉ thư điện tử bí mật đó để gửi thư?

Sau một hồi suy ngẫm, Susan lên tiếng :

- Có thể anh ta đã sử dụng một địa chỉ thư điện tử bí mật vì vậy ngài sẽ không nghi ngờ về âm mưu này? Có thể Tankado chỉ giấu địa chỉ này với ý đồ để ngài có thể tìm ra và nghĩ rằng đó là do may mắn? Điều đó sẽ làm anh ta tin tưởng hơn về lá thư của mình.

Strathmore cười mỉm :

- Lẽ ra cô phải là một trinh thám. Đó là một ý tưởng thông minh. Nhưng thật không may, mọi lá thư Tankado gửi đi đều được trả lời. Tankado viết thư và cộng sự của anh ta trả lời.

Susan nhăn mặt.

- Cũng đúng. Vì vậy mà ngài nói rằng North Dakota là có thật?

- Tôi sợ là thế. Và chúng ta phải tìm ra anh ta. Và bí mật. Nếu anh ta nghe phong phanh biết ý định của chúng ta, mọi thứ sẽ hỏng bét.

Bây giờ Susan biết chính xác tại sao Strathmore che gọi cô đến.

- Để tôi đoán xem - Ngài muốn tôi đọc trộm dữ liệu mật của ARA và tìm ra tên thật của North Dakota?

Strathmore cười gượng.

- Cô Fletcher, cô luôn đi guốc trong bụng tôi.

Về khả năng dò tìm Internet, không ai có thể sánh với Susan Fletcher. Năm ngoái, một thượng sĩ của Nhà Trắng đã nhận liên tục nhận được những lá thư đe dọa nặc danh. NSA được giao nhiệm vụ phải tìm ra kẻ chủ mưu. Mặc dù NSA thừa sức yêu cầu công ty cung cấp dịch vụ thư điện tử tiết lộ tên của người sử dụng, nhưng nó đã chọn một giải pháp tinh vi hơn - đó là "phần mềm tự dò tìm".

Thực ra phần mềm này đã tạo ra một dấu hiệu chỉ đường được nguỵ trang dưới dạng thư điện tử. Cô có thể gửi thư này đến địa chỉ ma, và công ty cung cấp dịch vụ thư điện tử, theo đúng hợp đồng đã kí, sẽ gửi nó đến địa chỉ thật của người sử dụng. Ngay lập tức chương trình này sẽ lưu lại địa chỉ trên mạng của người gửi và gửi nó về NSA. Tiếp đến chương trình này sẽ tự phân hủy mà không để lại một dấu vết nào. Từ đó trở đi, đối với NSA, những kẻ gửi thư nặc danh chỉ là muỗi.

- Cô có thể tìm ra anh ta không - Strathmore hỏi.

- Chắc chắn. Tại sao mãi đến bây giờ ngài mới gọi cho tôi?

- Thực ra thì... - Strathmore cau mày - Tôi đã không hề có ý định gọi cho cô. Tôi không muốn bất kì ai dính vào cái mớ thòng lọng này. Tôi đã thử gửi phiên bản dò tìm của cô, nhưng vì cô đã sử dụng thứ ngôn ngữ quái quỉ gì đó nên tôi không thể vận hành nó được. Nó liên tục gửi về những dữ liệu vô nghĩa. Cuối cùng tôi đành phải ngậm đắng nuốt cay và lôi cô vào cuộc.

Susan cười khúc khích. Strathmore là một lập trình viên mật mã tài giỏi, nhưng ông ta rất hạn chế về các công việc liên quan đến thuật toán, ông ta không thể nào đánh bại nổi các chương trình được bảo vệ vô cùng kỹ lưỡng. Hơn thế nữa, Susan đã viết phần mềm dò tìm của cô bằng một ngôn ngữ lập trình mới, được tạo ra từ hai ngôn ngữ khác, mà cô gọi là LIMBO. Cô hiểu rằng Strathmore đã gặp phải vấn đề khó khăn.

- Tôi sẽ lo chuyện đó! - Cô vừa cười vừa đi về phòng - Tôi sẽ tìm bằng ra thì thôi.

- Mất khoảng bao lâu?

Susan ngập ngừng :

- À... điều đó phụ thuộc vào tốc độ chuyển thư nhanh hay chậm của ARA. Nếu như anh ta đang ở đây, ở chính bang này và sử dụng AOL hay Compuserve, tôi sẽ đọc trộm được thẻ tín dụng và tìm được địa chỉ thanh toán của anh ta trong vòng một tiếng đồng hồ. Nếu anh ta đang ở một trường đại học hay một công ty nào đó, sẽ mất nhiều thời gian hơn - Cô cười gượng - Sau đó, phần còn lại là do ngài giải quyết, thưa ngài Strathmore.

Susan biết rõ "phần còn lại" sẽ là một đội đột kích của NSA, cắt điện nhà gã đó và đột nhập vào nhà qua cửa so với những khẩu súng to đùng. Có thể cả đội sẽ cho rằng mình đang chuẩn bị khám xét một hang ổ ma tuý. Chắc chắn ngài Strathmore sẽ đàng hoàng sải bước trên đám sỏi để nhặt chiếc chìa khóa gồm sáu mươi tư kí tự. Sau đó, ông sẽ phá hủy nó. Pháo Đài Số sẽ bị hủy bỏ hoàn toàn, vĩnh viễn.

- Cần phải rất cẩn trọng! - Strathmore căn dặn - Nếu North Dakota biết là đang bị chúng tra truy tìm, hẳn anh ta sẽ lo sợ, và đội quân của chúng ta sẽ không thể kịp tới đó trước khi anh ta biến mất cùng với chìa khóa giải mã.

- Chạy và phân hủy - cô quả quyết.- Ngay sau khi tìm ra địa chỉ thư điện tử của anh ta, nó sẽ tự phân hủy. Anh ta sẽ không bao giờ biết là chúng ta đã lần ra địa chỉ.

Người chỉ huy gật đầu vẻ mệt mỏi.

- Cảm ơn.

Susan mỉm cười dịu dàng. Cô luôn cảm thấy ngạc nhiên về khả năng giữ bình tĩnh của ngài Strathmore những lúc đối mặt với nguy hiểm. Cô tin rằng khả năng đó chính là thế mạnh đã giúp ông nắm giữ chức phó giám đốc NSA..

Khi Susan tiến ra cửa, cô cúi xuống nhìn TRANSLTR một hồi lâu. Sự tồn tại của một thuật toán không thể giải mã được là điều mà cô vẫn đang vắt óc để lý giải. Cô cầu chúa giúp mình tìm ra North Dakota.

- Nhanh lên - Strathmore giục - và cô sẽ có mặt ở dãy núi Smoky Mountain trước hoàng hôn.

Susan thấy cứng đờ cả người. Cô chưa bao giờ tiết lộ với Strathmore về chuyến đi này.

- Có phải NSA đã cài máy nghe lén điện thoại của tôi - Susan mấp máy.

Strathmore mỉm cười hối lỗi.

- Sáng nay David đã kể cho tôi về chuyến đi này.

Susan cảm thấy vô cùng lúng túng.

- Sáng nay ngài đã nói chuyện với David?

- Đương nhiên - Strathmore dường như rất lúng túng trước phản ứng của Susan - Tôi đã phải chỉ dẫn cho anh ta rất tận tình.

- Chỉ dẫn cho anh ấy? - Cô kêu lên - Về cái gì kia chứ?

- Về chuyến đi của anh ấy. Tôi đã cử David tới Tây Ban Nha.

Xem tiếp chương 11

Chương 11

"Tây Ban Nha. Tôi đã cử David tới Tây Ban Nha". Những lời của vị chỉ huy cứ nhảy múa trong đầu Susan.

- David đang ở Tây Ban Nha? - Susan nói vẻ đầy hoài nghi - Ngài đã cử anh ấy đến Tây Ban Nha - Đột nhiên cô chuyển giọng giận dữ - Tại sao chứ?

Strathmore sững người. Rõ ràng ông không hề quen với việc bị người khác la ó, ngay cả đó là nhân viên mật mã đắc lực nhất. Ông bối rối đưa mắt nhìn Susan. Cô xù lông cứ như con hồ mẹ đang bảo vệ đứa con bé nhỏ của mình.

- Susan à! Cô đã nói chuyện với anh ấy rồi, đúng không? David đã giải thích rồi chứ?

Cô bị sốc đến nỗi không để ý đến những gì Strathmore nói. Tây Ban Nha? Đó là lý do tại sao David lại trì hoãn chuyến đi đến Stone Manor của hai người?

- Sáng nay tôi đã gửi đến cậu ta một chiếc ô tô. Anh chàng nói rằng sẽ gọi cho cô trước khi đi. Tôi rất tiếc. Tôi tưởng...

- Tại sao ngài lại cử David đến Tây Ban Nha?

Strathmore ngập ngừng, nhìn thẳng Susan nói.

- Để lấy một chiếc chìa khóa giải mã khác.

- Chiếc chìa khóa khác nào cơ?

- Phiên bản của Tankado.

Susan cảm thấy thật sự lúng tứng.

- Ngài đang nói về cái gì vậy?

Strathmore thở dài :

- Tankado chắc chắn đã giữ một phiên bán của chìa khóa giải mã khi anh ta chết. Tôi chắc như đinh đóng cột rằng anh ta không muốn để nó trôi nổi ở một nhà xác ở xứ Seville.

- Vì vậy ngài đã cử David Becker - Susan đã vượt qua cơn sốc. Mọi thứ đều vô nghĩa - David thậm chí không làm việc cho ngài cơ mà!

Strathmore giật mình. Từ trước đến nay không một ai dám nói bằng cái giọng như thế với phó giám đốc của NSA.

- Susan! - ông nói trong khi cố gắng trấn tĩnh - Đó chính là mấu chốt vấn đề. Tôi cần!

Susan chợt trở nên dữ dằn.

- Ông đã có hai mươi nghìn nhân viên sẵn sàng làm theo mệnh lệnh của ông. Ai cho phép ông cử chồng chưa cưới của tôi?

- Tôi cần một thường dân làm giao liên, một ai đó hoàn toàn không dính líu đến chính quyền. Nếu tôi chọn các cách thông thường, thì có người sẽ chộp được tin này.

- Và David Becker là người dân thường duy nhất mà ông biết?

- Không! David Becker không phải là người dân thường duy nhất mà tôi biết. Nhưng 6 giờ sáng nay, mọi thứ diễn ra nhanh như chớp! David biết tiếng Tây Ban Nha, cậu ta vô cùng thông minh, Tôi tin tưởng và đã ban cho anh chàng một đặc ân!

- Một đặc ân... - Susan lắp bắp - Cử anh ấy đi Tây Ban Nha là một ân huệ hay sao?

- Đúng thế! Tôi sẽ trả anh ta mười nghìn đô la chỉ cho một ngày làm việc. Anh ta sẽ lấy tất cả đồ đạc của Tankado và bay về nhà. Đó là một đặc ân!

Susan im lặng và chợt hiểu ra tất cả. Đó là vì tiền.

Cô nhớ lại 5 tháng trước đây, vào cái đêm mà hiệu trưởng Trường Đại học Georgetown đã đề nghị thăng chức cho David, giữ ghế chủ nhiệm khoa ngôn ngữ. Hiệu trưởng đã cảnh báo anh là anh sẽ bị giảm giờ lên lớp và sẽ phải làm nhiều công việc giấy tờ hơn, nhưng không được tăng lương. Susan đã muốn gào to lên, David, đừng làm điều đó. Anh sẽ chẳng sung sướng gì đâu! Chúng ta có nhiều tiền - do ai làm ra cũng thế cả thôi mà! Nhưng cô không có quyền. Cuối cùng, cô đành phải chấp nhận quyết định của anh.

Đêm đó, trước khi chìm vào giấc ngủ, cô đã cố gắng bắt mình phải mừng cho anh, nhưng vẫn có một cái gì đó không ngừng mách bảo cô rằng đó sẽ là một tai hoạ. Cô đã đúng - không tin nổi là linh cảm của mình lại đúng đến mức này.

- Ông đã trả cho anh ấy mười nghìn đô la. Đó là một cái bẫy bẩn thỉu!

Bây giờ đến lượt Strathmore nổi giận đùng đùng.

- Bẫy à? Đó không phải là một cái bẫy chết tiệt nào hết! Thậm chí tôi đã không nói với anh ta về số tiền đó. Tôi đã yêu cầu anh ta làm cho tôi một việc dưới danh nghĩa cá nhân. Anh ta đã đồng ý đi.

- Tất nhiên là anh ta đồng ý? Ông là sếp của tôi! Ông là phó giám đốc của NSA! Làm sao anh ấy dám từ chối cơ chứ?

- Cô nói đúng! - Strathmore ngắt lời - Đó là lí do tại sao tôi gọi anh ta. Tôi không có nhiều lựa chọn.

- Giám đốc có biết ông cử một người dân thường đi hay không?

- Susan! - Strathmore cố tỏ ra kiên nhẫn - Giám đốc không liên quan đến vụ này. Ông ta không biết gì hết.

Susan nhìn Strathmore kinh ngạc, không thể nào tin được.

Dường như cô không còn hiểu nổi con người này nữa. Ông ta đã gửi chồng chưa cưới của cô - một giáo viên, đi làm nhiệm vụ của NSA và không thông báo với giám đốc về cuộc khủng hoảng lớn nhất trong lịch sử NSA.

- Ngài Leland Fontaine không được thông báo?

Strathmore không thể chịu được nữa, hét lên :

- Nghe này, Susan! Tôi gọi cô đến đây là vì tôi cần một đồng minh, chứ không phải một điều tra viên. Tôi đang sống cảnh địa ngục trần gian đây. Đêm qua, tôi đã tải file của Tankado và ngồi hàng giờ ở đây, bên chiếc máy in, cầu nguyện TRANSLTR có thể giải mã được. Sáng sớm nay, tôi đã dẹp lòng tự ái và gọi điện cho giám đốc - nói cho cô biết tôi rất muốn nói ra chuyện này. Xin chào ngài giám đốc. Tôi xin lỗi vì đã đánh thức ngài. Tại sao tôi lại gọi điện à? Tôi vừa mới phát hiện ra rằng TRANSLTR đã lỗi thời rồi. Chỉ có một thuật toán thôi mà toàn bộ ê kíp ăn lương cao ngất ngưởng tại Crypto không thể lập trình nổi! - Strathmore đập mạnh tay xuống bàn.

Susan đứng im bất động. Mười năm nay, cô đã từng thấy Strathmore mất bình tĩnh một vài lần, nhưng chưa bao giờ ông nổi giận với cô.

Mười giây trôi qua, cả hai không nói với nhau một lời nào.

Strathmore ngồi xuống và Susan có thể nghe thấy ông cố nén thở bình thường trở lại. Cuối cùng ông nói, giọng đã bình tĩnh trở lại.

- Thật không may - Strathmore nói chậm rãi - Giám đốc đang tham dự một cuộc họp với Tổng thống của Columbia ở Nam Phi. Bởi vì ông ấy không thể làm được điều gì từ bên đó, cho nên tôi chỉ có hai giải pháp - thứ nhất, yêu cầu giám đốc rút ngắn thời gian ở bên đó và sớm quay về - thứ hai, tự mình giải quyết.

Cả hai im lặng một hồi lâu. Rốt cuộc, Strathmore ngầng lên và ánh mắt mệt mỏi của ông chạm phải ánh mắt Susan. Ngay lập tức ông hạ giọng.

- Xin lỗi Susan. Tôi kiệt sức mất. Cơn ác mộng này đang biến thành sự thật. Tôi biết cô buồn về chuyện của David. Tôi không định nói với cô chuyện ấy theo kiểu này. Tôi tưởng cô đã biết rồi.

Susan cảm thấy vô cùng ân hận.

- Tôi đã phản ứng quá dữ dội. Xin lỗi ngài. David quả là một sự lựa chọn tốt.

Strathmore lơ đãng gật đầu.

- Tối nay anh ta sẽ quay về.

Susan nghĩ đến những thứ mà vị chỉ huy này đang phải trải qua - áp lực của việc giám sát TRANSLTR, làm việc, rồi họp hành liên tục không có thì giờ nghỉ ngơi. Người ta đồn rằng người vợ chung sống đã ba mươi năm cũng đang định bỏ ông mà đi. Bây giờ lại thêm chuyện Pháo Đài Số - hiểm họa đáng sợ đối với ngành tình báo trong lịch sử của NSA. Ấy vậy mà người đàn ông khốn khổ này đang phải đơn thương độc mã gánh chịu. Chẳng trách lúc nào ông ta cũng có vẻ như sáp nồ tung ra vậy.

- Trong những trường hợp thế này - Susan lên tiếng - Tôi nghĩ có lẽ ngài nên gọi cho giám đốc.

Strathmore lắc đầu, một giọt mồ hôi nhỏ xuống bàn.

- Tôi sẽ không thông báo cho giám đốc về một cuộc khủng hoảng mà ông ta không làm gì được. Để tránh làm hại đến sự an toàn của ông giám đốc hay làm rò rỉ thông tin này.

Susan biết rằng ngài chỉ huy đã đúng. Ngay cả trong những giờ phút khó khăn như thế này, Strathmore vẫn giữ được tỉnh táo.

- Ngài đã nghĩ tới việc gọi điện cho Tồng thống chưa?

Strathmore gật đầu.

- Có. Tôi vừa quyết định không làm điều đó.

Susan hiểu. Cấc quan chức hàng đầu của NSA có quyền giải quyết các trường hợp tình báo được xác nhận là khấn cấp mà không phải thông báo cho cơ quan hành pháp. NSA là tồ chức tình báo duy nhất của Mỹ được hưởng quyền miễn hoàn toàn tất cả các hình thức giải trình trách nhiệm trước Tòa án Liên bang.

Strathmore thường tận dụng đặc quyền này để tự mình giải quyết các công việc.

- Thưa sếp! Việc này quá phức tạp và không thể giải quyết một mình. Ngài cần phải tìm ai đó để cùng giải quyết.

- Susan, sự tồn tại của Pháo Đài Số liên quan mật thiết đến tương lai của NSA. Tôi không hề có ý định báo cáo với Tổng thống khi giám đốc đi vắng. Chúng ta đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng, và tôi sẽ tự giải quyết - ông trầm ngâm đưa mắt nhìn cô - Tôi là phó giám đốc ở đây - Một nụ cười mệt mỏi hiện lên khuôn mặt ông - Và ngoài ra, tôi không phải đơn thương độc mã. Tôi đã có cô - Susan Fletcher - làm hậu thuẫn.

Vào giây phút đó. Susan chợt thấy vô cùng kính trọng Strathmore. Mười năm qua, dù thuận lợi hay khó khăn, ông luôn là người chỉ đường vạch lối cho cô. Vững vàng, kiên định, trước sau như một. Sự tận tuy của ông làm cô thấy kinh ngạc - lòng trung thành không gì lay chuyển đối với những nguyên tắc, đối với Tổ quốc và lý tưởng. Dù chuyện gì xảy ra, chỉ huy Trevor Strathmore luôn là ngọn đuốc soi đường trong một thế giới đầy rẫy những quyết định dường như không thể.

- Cô đứng về phía tôi, đúng không?

Susan mỉm cười :

- Vâng, thưa ngài. Một trăm phần trăm.

- Tốt. Bây giờ chúng ta tiếp tục công việc được chứ?

Xem tiếp chương 12

Chương 12

Đây không phải là lần đầu David Becker đi dự tang lễ và chứng kiến xác chết, nhưng lần này có một cái gì đó khiến anh cảm thấy vô cùng khó chịu. Đây không phải là một xác chết được vận bộ đồ sang trọng, sạch sẽ nằm yên nghỉ trong chiếc quan tài bọc lụa. Cơ thể này trần truồng, nằm chềnh ềnh trên chiếc bàn nhôm. Anh ta chết mà không nhắm mắt. Thay vì đó, cặp mắt nhìn thẳng lên sàn nhà lộ vẻ tiếc nuối và kinh hoàng.

- Tư trang của anh ta đâu - Becker hỏi bằng tiếng Tây Ban Nha khá sõi.

- Kia kìa - viên trung uy hé môi trả lời, để lộ ra hàm răng vàng khè. Anh ta chỉ đống quần áo và những tư trang cá nhân khác.

- Tất cả đây sao?

- Đúng thế!

Becker hỏi xin một cái thùng giấy. Viên trung úy vội vã đi tìm.

Đó là tối thứ Bảy, và nhà xác Seville đã sắp tới giờ đóng cửa.

Viên trung uý trẻ được lệnh trực tiếp của giám đốc phòng xác dẫn đường cho Becker - dường như vị khách người Mỹ này là người rất có vai vế.

Becker đưa mắt nhìn đống quần áo. Có một hộ chiếu, một cái ví một cặp kính mắc vào chiếc giầy. Còn có thêm một miếng vải len thô mà người bảo vệ đã lấy từ khách sạn nơi người đàn ông này đã ở.

Becker được hướng dẫn khá rõ ràng, cụ thể: Không sờ vào bất kỳ cái gì. Không đọc một cái gì. Chỉ mang tất cả chúng về Mỹ. Mọi thứ. Không được để sót một thứ gì.

Becker quan sát đống quần áo, cau mày nhăn nhó. NSA định làm gì với đống rác rưởi này chứ?

Viên trung uý trẻ tuổi mang lại về một chiếc hộp nhỏ, và Becker nhanh chóng nhét quần áo vào trong.

Anh ta chọc vào chân tử thi và hỏi :

- Quienes? Gã này là ai?

- Không biết.

- Trông giống người Trung Quốc.

Người Nhật chứ, Becker nghĩ.

- Tội nghiệp gã. Đau tim à?

Becker gật đầu lơ đãng.

- Tôi thấy họ nói vậy - Viên trung uý thở dài, lắc đầu đầy vẻ cảm thông - Nắng ở Seville rất khắc nghiệt. Ngày mai khi đi ra ngoài, anh hãy cẩn thận nhé!

- Cảm ơn! Nhưng tôi sẽ về nhà luôn.

- Anh vừa mới đến cơ mà - Viên trung uý vô cùng ngạc nhiên.

- Tôi biết, nhưng người đàn ông mua vé máy bay cho tôi đang chờ những vật này.

Viên trung uý dường như thấy bị xúc phạm theo đúng kiểu người Tây Ban Nha.

- Ý anh là anh sẽ không chiêm ngưỡng Seville sao?

- Năm ngoái tôi đã đến đây rồi. Quả là một thành phố xinh đẹp. Tôi rất thích ở lại.

- Vậy anh đã thăm La Girilda chưa?

Becker gật đầu. Thực ra anh chưa bao giờ đặt chân lên tòa tháp của người Marốc cổ xưa này, nhưng anh đã nhìn thấy nó.

- Thế còn Alcazar?

Becker vừa gật đầu vừa nhớ lại buổi tối anh được thưởng thức điệu nhạc Flamenco của Pacode Lucia ở sân, dưới ánh sao hiền dịu ở một pháo đài được xây từ thế kỷ XIX. Anh ước giá mà đã gặp Susan từ ngày ấy.

- Và tất nhiên cả Christopher Columbus nữa cũng ở đó! - anh thanh niên tươi cười - Ông ấy được chôn cất tại nhà thờ của chúng tôi.

Becker ngửng lên.

- Thật không? Tôi tưởng người ta lưu giữ thi hài của Columbus ở Cộng hòa Domini chứ?

- Chúa ơi! Đồn nhảm đấy! Thi hài của Columbus hiện đang được lưu giữ ở đây, trên đất nước Tây Ban Nha xinh đẹp này. Tôi tưởng anh nói anh đã đi học đại học.

Becker nhún vai.

- Chắc tôi đã để lỡ giờ giảng đó.

- Nhà thờ Tây Ban Nha rất tự hào được bảo quản thi hài của ông ấy.

Nhà thờ Tây Ban Nha. Berker biết ở Tây Ban Nha chỉ có một kiểu nhà thờ duy nhất - đó là nhà thờ của người theo đạo Thiên chúa giáo La mã. Nhà thờ Thiên chúa giáo La mã ở đây thậm chí còn hùng mạnh hơn cả ở thành phố Vantican.

- Tất nhiên chúng tôi không được vinh dự bảo quản - viên trung uý nói thêm - Chỉ một phần thôi.

Becker ngừng xếp đồ, nhìn chằm chằm viên trung uý. Chỉ một phần thôi sao? Anh cố nhịn cười.

- Chỉ một phần thôi sao?

Người sĩ quan gật đầu đầy vẻ tự hào.

- Vâng. Khi nhà thờ lưu giữ thi hài của một người vĩ đại như thế, họ tấn phong ông là thánh và chia sẻ thi hài đó cho các nhà thờ khác vì vậy mà ai cũng có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp đặc biệt của những nhà thờ này.

- Và ở đây các anh có... - Becker cố nén cười.

- Ô! Đó là một phần rất quan trọng! Không giống như việc chúng tôi có một giẻ xương sườn hay một đốt ngón tay như những nhà thờ khác ở Galicia. Anh nên ở lại đây để chiêm ngưỡng.

Becker gật đầu cho phải phép.

- Có thể trên đường về tôi sẽ ghé qua.

- Tiếc quá - Viên trung uý thở dài. Đến tận bình minh nhà thờ mới mở cửa.

- Thế thì lần khác vậy - Becker mỉm cười, nhấc chiếc hộp lên.

- Có lẽ tôi nên đi. Máy bay đang chờ tôi - Nói xong, anh đưa mắt nhìn căn phòng lần cuối.

- Anh có muốn tôi đưa đến sân bay không? Tôi có xe môtô Guzzi ở ngoài cửa.

- Ồ không cảm ơn. Tôi sẽ đi ta-xi.

Becker đã từng lái xe môtô một lần khi anh còn là sinh viên, và suýt chết. Từ đó trở đi, anh không có ý định đi môtô thêm một lan nào nữa, bất kể do ai cầm lái.

- Cho dù anh nói gì đi chăng nữa - viên trung uý vừa nói vừa bước về phía cửa ra vào - Tôi cũng phải tắt đèn.

Becker vòng tay ôm chiếc thùng giấy. Mình đã có hết mọi thứ chưa nhỉ? Anh nhìn lần cuối vào xác chết đang nằm trên bàn. Dưới ánh đèn huỳnh quang, một thân hình trần như nhộng, không một mảnh vải che thân lồ lộ trước mắt anh. Đôi tay biến dạng đã thu hút ánh mắt của Becker. Anh cúi xuống nhìn nó chằm chằm.

Viên trung uý tắt đèn, căn phòng chìm vào bóng tối.

- Khoan đã!

- Bật đèn lên! - Becker ra lệnh.

Đèn nhấp nháy rồi sáng trở lại.

Becker đặt chiếc hộp xuống sàn và tiến lại gần xác chết. Anh cúi xuống và nhìn không chớp mắt vào cánh tay trái của người đàn ông xấu số.

Viên trung uý nhìn theo Becker, nhận xét :

- Rất xấu, đúng không?

Nhưng cái mà Becker chú ý đến không phải là việc cánh tay bị biến dạng. Anh đã phát hiện ra một thứ khác. Quay sang viên trung uý, anh nói :

- Có chắc là mọi thứ đều ở trong hộp chứ?

Người trung uý gật đầu.

- Vâng. Đúng thế.

Becker chống tay vào hông. Một lát sau anh nhặt chiếc hộp lên, mang nó quay lại, và đặt phịch xuống đất. Rất cẩn thận anh giũ tung đống quần áo ra. Sau đó anh dốc ngược đôi giày xuống rồi bóp nó như thể là đang cố gắng vất bỏ một hòn sỏi trong giầy ra.

Sau khi làm xong lần thứ hai, anh bước lại chỗ viên trung uý, cau mày :

- Có chuyện gì chăng?

- Đúng thế - Becker nói.

- Chúng ta đã để sót một thứ gì đó...

Xem tiếp chương 13

Chương 13

Tokugen Numataka đang ở văn phòng sang trọng của mình trên tầng cao nhất của một tòa nhà chọc trời ở Tokyo. Tất cả nhân viên và đối thủ cạnh tranh đều biết rõ ông ta, một sakuta same - một con cá mập nguy hiểm. Trong vòng ba thập kỷ qua, ông ta luôn vượt trội so với tất cả các đối thủ cạnh tranh ở Nhật Bản; và bây giờ sắp trở thành một người khổng lồ trên thị trường thế giới.

Ông ta đang hoàn tất cuộc làm ăn lớn nhất trong đời - một cuộc làm ăn có thể tạo dựng tương lai cho Tập đoàn Numatech trở thành một Microsoft của tương lai. Mạch máu của ông sôi lên như có thuốc kích thích. Thương trường là chiến trường - Và chiến trường thì luôn sôi động.

Mặc dù ba hôm trước, Tokugen Numataka nghi ngờ về cuộc gọi đó, nhưng hôm nay ông biết đó chính là sự thật. Tự dưng ông ta được món hời trên trời rơi xuống. Chúa đã chọn ông ta.

* * * * *

- Tôi có một phiên bản chìa khóa giải mã của Pháo Đài Số - Một giọng Mỹ - Ông có muốn mua không?

Numataka suýt bật cười thành tiếng. Ông ta biết đó là một âm mưu. Tập đoàn Numatech đã bỏ ra một khoản tiền khồng lồ để có được thuật toán mới của Ensei Tankado, và bây giờ một đối thủ cạnh tranh với Numatech đang giở trò, hòng biết được số tiền mà Numatech trả cho cuộc đấu giá này.

- Anh có chìa khóa giải mã - Numataka giả vờ quan tâm.

- Tôi có. Tôi là North Dakota.

Numataka nén cười. Ai mà chẳng biết North Dakota. Tankado đã nhiều lần tiết lộ với cánh báo chí về một cộng sự bí mật.

Tankado quả là rất khôn ngoan khi có một người cộng sự, bởi vì ngay cả ở Nhật Bản, giới kinh doanh cũng sẵn sàng giở đủ mọi trò đê tiện. Ensei Tankado không thể an toàn. Chỉ cần một hành động thái quá của một hãng phần mềm đang khao khát có chìa khóa giải mã, ngay lập tức nó sẽ được công khai, và không một hãng phần mềm nào trên thế giới không bị tổn thất.

Numataka hít một hơi thuốc xì gà Umani và định chơi xỏ lại.

- Anh đang muốn bán chiếc chìa khóa giải mã? Thú vị đây. Thế Ensei Tankado có ý kiến gì không?

- Lòng trung thành của tôi không dành cho ngài Tankado. Ông ấy thật là ngốc vì đã tin tưởng tôi. Chiếc chìa khóa giải mã này đáng giá gấp hàng trăm lần cái giá mà tôi được trả để giữ nó cho ông ta.

- Tôi rất tiếc - Numataka nói - Chỉ riêng chiếc chìa khóa giải mã của anh thì chẳng có nghĩa lý gì với tôi. Khi phát hiện ra hành động của anh, Tankado chỉ việc công bố phiên bản mà anh ta giữ, và nó sẽ tràn ngập trên thị trường.

- Ông sẽ nhận được cả hai chiếc - giọng nói đầu dây bên kia lên tiếng - Của Tankado và cả của tôi..

Numataka bịt ống nghe và cười phá lên. Ông ta không thể không hỏi :

- Anh muốn bao nhiêu cho cả hai chiếc chìa khoá?

- Hai mươi triệu đôla Mỹ.

Hai mươi triệu đôla Mỹ. Gần bằng cái giá mà Numataka đã đưa ra trong cuộc đấu giá.

- Hai mươi triệu? - Ông ta giả vờ thở kinh ngạc - Điên rồ!

- Tôi đã trông thấy thuật toán đó. Tôi cá là nó đáng giá như thế.

Mẹ kiếp, Numataka nghĩ. Nó đáng giá gấp mười lần số tiền đó ấy chứ.

- Nhưng thật không may - Ông ta nói giọng mệt mỏi vì trò đùa này - Cả tôi và anh cùng biet là ngài Tankado sẽ không bao giờ tán thành việc này. Hãy nghĩ đến những hậu quả nếu vụ việc này được đưa ra pháp luật.

Người gọi ngập ngừng :

- Thế nếu ngài Tankado không còn sống nữa?

Numataka suýt cười phá lên, nhưng lại gật đầu đầy quyết đoán :

- Nếu Tankado không còn sống nữa - Numataka suy nghĩ - Thì tôi và anh sẽ có một cuộc mua bán.

- Tôi sẽ liên lạc lại! - giọng nói lên tiếng, rồi máy bị cúp.

Xem tiếp chương 14

Chương 14

Becker cúi nhìn xác chết. Thậm chí nhiều giờ sau khi chết, gương mặt của một người châu Á này vẫn hằn các vệt hồng hồng do bị cháy nắng. Các phần khác đều tái nhợt, xám xịt, trử một phần vết thâm tím trên ngực anh ta.

Có lẽ là CPR (phương pháp hồi sức cho tim), Becker ngẫm nghĩ. Đáng tiếc là không có tác dụng.

Anh lại tiếp tục nghiên cứu đôi bàn tay tử thi. Lần đầu tiên anh gặp đôi bàn tay thế này. Mỗi bàn tay chỉ gồm ba ngón xẹo và vặn xoắn. Tuy nhiên, sự dị dạng này không phải là cái mà Becker để mắt tới.

- Hừm, tôi sẽ... - Tử góc bên kia vườn, viên trung uý làu bàu - Anh ta là người Nhật đấy, không phải người Trung Quốc đâu.

Becker ngẩng đầu lên. Anh ta đang cầm hộ chiếu của người đã chết.

- Tốt hơn là anh không nên xem nó - Becker yêu cầu. Đừng, đừng đọc bất cứ thử gì.

- Ensei Tankado... sinh tháng Một...

- Làm ơn đi mà - Becker lịch sự nói - Hãy để nó lại chỗ cũ.

Viên sĩ quan nhìn chằm chằm vào quyển hộ chiếu một hồi rồi ném nó về đống quần áo.

- Gã này có chiếc visa loại 3. Anh ta có lẽ đã ở đây hàng năm trời rồi.

Becker lấy bút chọc vào tay nạn nhân.

- Có thể anh ta đã sống ở đây.

- Không. Tuần trước anh ta mới đến đây.

- Có thể anh ta đang chuẩn bị chuyến đến đây - Becker sẵng giọng.

- Vâng, có thể lắm. Tuần đầu bận rộn nên say nắng rồi đau tim. Khổ thật.

Becker phớt lờ lời nói của viên sĩ quan và quan sát kỹ bàn tay.

- Anh có cho rằng anh ta đã không đeo bất kỳ một loại trang sức nào khi chết không?

Viên sĩ quan ngấng đầu thảng thốt.

- Trang sức ư?

- Đúng thế. Hãy nhìn đây!

Viên sĩ quan tiến lại gần.

Da tay trái của Tankado chứng tỏ rằng anh ta đã bị cháy nắng, mọi chỗ trừ một vòng thịt nhỏ quanh ngón út.

Becker chỉ vào vòng thịt tái nhợt.

- Hãy nhìn này. Tại sao chỗ này không bị cháy nắng? Có vẻ như là anh ta đã đeo một chiếc nhẫn.

Viên sĩ quan tỏ vẻ vô cùng ngạc nhiên.

- Một chiếc nhẫn ư? - Đột nhiên anh ta lúng tứng. Sau một hồi nghiên cứu ngón tay của tử thi, anh ta thẽ thọt thốt lên - Lạy Chúa! Câu chuyện này có thật sao?

Becker đột nhiên thấy rất nôn nao.

- Anh vừa nói cái gì?

Viên sĩ quan lắc đầu.

- Lẽ ra tôi phải nói từ trước... nhưng tôi tưởng gã đó chỉ là một gã gàn gàn dở dở.

- Gã nào - Becker nghiêm mặt.

- Gã đã gọi điện trong trường hợp rất khẩn cấp. Một khách du lịch người Canada nào đó. Luôn mồm nhắc đến chiếc nhẫn. Lão nói tiếng Tây Ban Nha dở kinh khủng.

- Ông ta nói rằng ngài Tankado có đeo một chiếc nhẫn?

Viên trung uý gật đầu, lôi từ túi áo ra một điếu Ducado, nhìn thấy biển cấm hút thuốc lá, anh ta do dự rồi cuối cùng vẫn châm lửa.

- Lẽ ra tôi nên nói một điều gì đó, nhưng thằng cha đó điên rồ không chịu được.

Becker nhăn mặt. Những lời nói của Strathmore vang vọng trong tai anh: "Tôi muốn tất cả mọi thứ Ensei Tankado mang theo bên mình. Tất cả. Không để sót bất kỳ một cái gì, thậm chí là một mẩu giấy thừa bé tẹo".

- Chiếc nhẫn bây giờ ở đâu? - Becker hỏi.

Viên sĩ quan thả một hơi thuốc :

- Đó là một câu chuyện dài.

Có một điều gì đó mách bảo Becker rằng đây không phải là một tin tốt lành.

- Dù gì anh cũng phải kể cho tôi.

Xem tiếp chương 15

Chương 15

Susan Fletcher ngồi trước máy ở Node 3. Node 3 là một phòng kín, cách âm, khuất sau tầng một, nơi các nhân viên mật mã làm việc. Một lớp kính dày hai inch với một mặt cong cho phép các nhân viên mật mã có được bức tranh toàn cảnh đại sảng trung tâm Crypto, đồng thời ngăn không cho ai nhìn từ ngoài vào trong phòng.

Ở phía cuối Node 3 đặt mười hai chiếc máy vi tính được đặt quây thành hình tròn. Mục đích là để khuyến khích các nhân viên mật mã trao đối ý kiến, và để nhắc rằng họ là một phần của một êkíp lớn - giống như là các hiệp sĩ giải mã ngồi Bàn Tròn.

Vậy mà, mỉa mai thay, ngay trong Node3 vẫn có những điều được coi là bí mật.

Được mệnh danh là cái cũi. Node 3 không giống với tất cả các phòng khác của Crypto, được thiết kế để đem lại cảm giác khoan khoái giống như ở nhà, những chiếc thảm trải nhà sang trọng, hệ thống âm thanh công nghệ cao, chiếc tủ lạnh chất đầy đồ ăn, thức uống, một gian bếp nhỏ, sân bóng rổ Nerf. Lãnh đạo NSA am hiểu rất tường tận về Crypto, đừng có bao giờ đổ vài tỷ đô la vào một chiếc máy vi tính giải mã nếu không dụ được những người thông minh nhất trong những người thông minh theo dõi và sử dụng nó.

Nhón chân trên đôi giày Salvatore Ferragamo đế bằng, Susan rón rén đặt chân lên những tấm thảm dày cộp để bước ra ngoài.

Nhưng viên chức nhà nước được hưởng lương cao đều được khuyến khích không nên khoa trương sự giàu có của mình. Điều này chẳng bao giờ làm Susan phải bận tâm - cô luôn cảm thấy hài lòng với căn hộ nhỏ bé, chiếc ô tô hiệu Volvo và chiếc tủ quần áo khiêm nhường. Nhưng giày dép lại là một vấn đề khác. Thậm chí hồi còn là sinh viên, cô sẵn sàng mua những đôi đắt nhất chỉ đơn giản chỉ vì cô thích chúng.

Chân đau thì chẳng thế mơ leo lên được đến trời, dì cô đã từng nói thế. Và một khi đã đến được nơi cần đễn, chúng ta thực sự được mãn nguyện.

Susan cho phép mình nghỉ một lúc rồi lại lao vào công việc. Cô tìm phần mềm dò tìm và chuẩn bị định dạng nó, mắt liếc nhìn địa chỉ e-mail mà Strathmore đã đưa.

[email protected]

Người đàn ông tự xưng là North Dakota có một địa chỉ thư điện tử nặc danh, nhưng Susan chắc chắn nó sẽ nhanh chóng không còn là nặc danh nữa. Phần mềm dò tìm sẽ xâm nhập vào ARA, gửi đến North Dakota, rồi sau đó sẽ gửi lại những thông tin liên quan đến địa chỉ Internet thật của anh ta.

Nếu như mọi thứ suôn sẻ, phần mềm sẽ nhanh chóng xác định được vị trí của North Dakota, và Strathmore sẽ có thể lấy được chìa khóa giải mã. Khi David tìm ra phiên bản của Tankado thì cả hai chiếc chìa khóa có thể sẽ đều bị phá hủy, quả bom hẹn giờ của Tankado sẽ trở nên vô dụng như một khối thuốc nổ không có ngòi.

Susan kiểm tra hai lần địa chỉ hiện ra trước mặt cô và nhập thông tin vào phần kiểm tra dữ liệu đúng. Cô thích thú cười thầm khi thấy Strathmore không thể tự gửi phần mềm dò tìm này được.

Rõ ràng là ông ta đã gửi đi hai lần, nhưng cả hai lần đều nhận được địa chỉ e-mail của Tankado chứ không phải của North Dakota. Đó là một sai lầm rất dễ hiểu; có thể Strathmore đã thay đổi trường dữ liệu, vì vậy phần mềm dò tìm đã tìm không đúng account cần tìm.

Susan nhập xong thông tin một lát thì chiếc máy vi tính kêu lên một tiếng bíp.

PHẦN MÊM DÒ TÌM ĐÃ ĐƯỢC GỬI.

Bây giờ thì chỉ việc ngồi chờ.

Susan bỗng nhiên thở dài, cô thấy có lỗi vì đã phản ứng quá mạnh đối với chỉ huy của mình. Nếu có một ai đó đủ năng lực để một mình giải quyết vấn đề, thì người đó không thể là ai khác ngoài Trevor Strathmore. Ông thực sự là một thiên tài trong việc thu phục những người thách thức mình.

Sáu tháng trước, khi EFF khui ra vụ một tàu ngầm mà NSA dùng để cài máy nghe trộm vào hệ thống đường dây điện thoại dưới nước, Strathmore đã khôn ngoan tung thông tin rằng chiếc tàu ngầm đó thực ra đang chở chất thải độc hại phi pháp. Ngay lập tức, EFF và các nhà bảo vệ đại dương đã mất nhiều thời gian tranh luận xem thông tin nào là đúng đến nỗi cuối cùng các phương tiện thông tin đại chúng trở nên mệt mỏi và bỏ qua toàn bộ vụ việc. Trước bất kỳ hành động nào, Strathmore đều lên kế hoạch kỹ lưỡng, tỉ mỉ.

Cũng giống những nhân viên khác của NSA, Strathmore đã sử dụng một phần mềm do NSA xây dựng, được gọi là BrainStorm- một phần mềm chương trình máy tính có khả năng nêu ra tất cả các khả năng diễn biến của sự việc nhằm bảo mật sự tồn tại của TRASTLR.

BrainStorm là tên một thử nghiệm tình báo nhân tạo mà các tác giả của nó đã dựa trên nguyên lý nhân quả. Lúc đầu nó được chế tạo để phục vụ cho các cuộc vận động chính trị như là một phương pháp tạo ra các mô hình xử lý thông tin trong "một môi trường chính trị cụ thể". Được nạp một khối lượng dữ liệu khổng lồ, chương trình này đã tạo ra một môi trường ảo - một mô hình giả thuyết về sự tương tác giữa các biến cố chính trị, bao gồm các nhân vật chính trị lỗi lạc, nhân viên của họ, những mối quan hệ cá nhân với nhau, những vấn đề nóng bỏng, những động cơ cá nhân được tính toán dựa trên những tiêu chí khác nhau như giới tính, tính cách, sắc tộc, tiền bạc và quyền lực. Sau đó người sử dụng có thể nhập một sự kiện mang tính giả thuyết vào và BrainStorm sẽ dự đoán những ảnh hưởng của sự kiện đó đối với môi trường này.

Là một thiết bị TFM (Time-Line, Flowchart, Mapping) nó là một công cụ hữu ích để vạch ra những chiễn lược phức tạp và dự đoán những điểm yếu của chiến lược đó. Và đó chính là lý do tại sao chỉ huy Strathmore thường xuyên sử dụng BrainStorm. Susan cho rằng bên trong máy tính của Strathmore có thể có những kế hoạch có khả năng làm biến đổi cả thế giới.

Mình đã không phải với ông ấy, Susan tự nhủ.

Tiếng mở cửa Node 3 làm cô giật mình.

Strathmore thình lình xuất hiện.

- Susan! David vừa gọi điện về. Đã có một manh mối.

Xem tiếp chương 16

Chương 16

- Một chiếc nhẫn ư? - Susan hoài nghi.

- Tankado bị mất một chiếc nhẫn?

Đúng thế. May mà David đã tìm thấy. Màn kịch đã kết thúc.

- Nhưng ông đang tìm chìa khóa giải mã chứ có tìm đồ trang sức đâu.

- Tôi biết, nhưng cũng thế cả thôi mà.

Susan lúng túng.

Đó là một câu chuyện dài.

Susan đưa tay chỉ màn hình vi tính và nói :

- Vẫn chưa đâu vào đâu cả!

Strathmore thở dài, đi tới đi lui.

- Như chúng ta biết một số người đã chứng kiến cái chết của Tankado. Theo lời viên trung uý phụ trách nhà xác, sáng nay một du khách người Canada đã hốt hoảng gọi cảnh sát và báo rằng một người Nhật Bản đang bị cơn đau tim hành hạ trong công viên. Khi viên trung uý ấy đến thì Tankado đã chết, vị du khách Canada vẫn còn ở đó, anh ta đã gọi các nhân viên y tế. Trong khi các nhân viên y tế đưa xác Tankado đi anh ta đã cố gắng yêu cầu vị du khách tường thuật lại toàn bộ sự việc. Điều duy nhất ông già Canada đó có thể làm là bập bẹ nói về một chiếc nhẫn mà Tankado đã đem cho trước khi chết.

Susan đưa mắt nhìn một cách đầy nghi ngờ.

- Tankado đã đem cho chiếc nhẫn?

- Đúng thế. Rõ ràng là khi anh ta dúi nó vào tay gã này, anh ta đã năn nỉ hắn cầm lấy. Có vẻ như người Canada này đã kịp quan sát chiếc nhẫn - Strathmore đột nhiên dừng lại, quay đầu về Susan - Ông ta nói rằng trên chiếc nhẫn có khắc một kiểu chữ nào đó.

- Chữ ư?

- Đúng thế, và còn cho biết đó không phải là tiếng Anh. - Strathmore nhướng mày chờ phản ứng của Susan.

- Hay là tiếng Nhật?

Strathmore lắc đầu :

- Lúc đầu tôi cũng nghĩ thế. Nhưng ông ta nói rằng không thể đánh vần được những chữ cái đó. Ông ta không thể nhầm chữ Nhật với các con chữ Latinh. Ông ta còn thấy những hình chạm khắc đó giống mèo cào cơ...

Susan cười phá lên.

- Thưa sếp, ngài không thực sự cho rằng...

Strathmore ngắt lời cô :

- Susan, mọi chuyện đã rõ như ban ngày.

Tankado đã khắc chìa khóa Pháo Đài Số lên chiếc nhẫn. Vàng là thứ kim loại tốt. Bất kể khi ngủ, tắm hay ăn, thì chiếc chìa khóa giải mã luôn ở bên anh ta, sẵn sàng cho giây phút đem ra công bố.

Susan dường như vẫn còn hoài nghi.

- Trên ngón tay? Lộ liễu như thế kia à?

- Tại sao không? Tây Ban Nha không phải là thế giới của các chuyên gia giải mã. Không một ai biết những chữ đó hàm ẩn điều gì. Hơn thế nữa, nếu chiếc chìa khóa đó là một bit 64 chữ cái thì thậm chí giữa ban ngày cũng chẳng ai nhớ được tất cả sáu mươi tư kí tự như thế.

- Và Tankado đã đưa chiếc nhẫn đó cho một người hoàn toàn xa lạ trước khi chết - Susan thắc mắc - Tại sao chứ?

Strathmore nheo mắt :

- Theo cô thì tại sao nào?

Chỉ một tích tắc Susan đã hiểu ra vấn đề. Mắt cô mở to.

Strathmore gật đầu.

- Tankado cố gắng vứt nó đi. Anh ta biết mình sắp chết và có thể cho rằng chúng ta có trách nhiệm trong việc này. Thời điểm của cái chết giống như trời định. Anh ta có thể cho rằng chúng ta đã truy tìm anh ta, một người đang bị rối loạn tim chỉ chờ ngày chết, để đầu độc hay làm gì đó tương tự. Điều duy nhất anh ta biết chắc chắn là nếu tìm được North Dakota, chúng ta sẽ thủ tiêu anh ta.

Susan cảm thấy ớn lạnh.

- Đương nhiên - cô thì thầm.

- Tankado nghĩ rằng biện pháp tự vệ của anh ta đã bị chúng ta vô hiệu hoá, thì đương nhiên là anh ta sẽ bị tiêu diệt.

Bây giờ Susan đã rõ tất cả. Thời điểm xảy ra bệnh đau tim có vẻ có lợi cho NSA đến nỗi Tankado cho rằng NSA dính líu trong vụ này. Mục đích cuối cùng của anh ta là trả thù. Ensei đã đem cho chiếc nhẫn để công bố chìa khóa giải mã. Và hiện giờ một du khách Canada lại đang nắm giữ trong tay thuật toán giải mã vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại.

Susan hít một hơi thở dài và hỏi tiếp.

- Vậy bây giờ du khách Canada đó ở đâu?

Strathmore nhăn mặt.

- Vấn đề chính là ở chỗ đó.

- Viên trung uý không biết ông ta ở chỗ nào à?

- Không. Lời khai của du khách đó khó tin đến mức anh ta cho rằng đó là đo ông ta bị sốc hoặc là do tuổi già. Vì vậy anh ta đã lấy xe máy chở ông ta về khách sạn. Nhưng ông già đó không biết ngồi sau xe máy, kết quả là chưa đi đầy 1 mét, ông ta đã bị ngã vỡ đầu và gẫy tay.

- Cái gì cơ! - Susan cảm thấy ngạt thở.

- Viên trung uý muốn đưa ông ta đến bệnh viện, nhưng ông ta đã rất tức giận - nói rằng phải quay về Canada và nhất định không leo lên xe máy lần nào nữa. Vì vậy tất cả những gì mà viên cảnh sát có thể làm là dìu ông ta đến một trạm xá gần đó và để cấp cứu ông ta ở đó.

Susan cau mày.

- Tôi cho rằng chúng ta không cần hỏi David đang đi đến đâu.

Xem tiếp chương 17

Chương 17

David Becker bước vào tòa nhà Plaza de Espana nóng như thiêu như đốt. Đằng sau anh là tòa thị chính thành phố cố kính El Ayuntamiento với những vòm mái màu xanh dương và trắng ẩn sau những rặng cây, tọa lạc trên vùng đất rộng ba héc ta. Những chóp mái kiểu Ảrập và mặt tiền được chạm trố tinh vi khiến cho tòa nhà trông giống như một lâu đài hơn là một văn phòng làm việc.

Mặc dù ở đây đã xảy ra những vụ bạo động, hỏa hoạn, treo cố tự vẫn, nhưng khách du lịch vẫn đến vùng đất này vì những cuốn hướng dẫn du lịch luôn so sánh nó với một trung tâm quân sự trong phim Lawrence xứ Ảrập. (Hãng phim Columbia Pictures làm phim tại Tây Ban Nha vì chi phí rẻ hơn nhiều lần so với ở Ai Cập. Và những ảnh hưởng của phong cách Bắc Phi trong lối kiến trúc ở Seville cũng đủ sức thuyết phục mọi khán giả xem phim là họ đang chiêm ngưỡng Cairo.)

Becker chỉnh đồng hồ theo thời gian địa phương: 9:10 tối, giờ này vẫn được dân địa phương coi là buổi chiều. Một người Tây Ban Nha chính gốc không bao giờ dùng bữa tối trước khi mặt trời lặn, mà ông mặt trời lười nhác ở vùng Andalusia thì chỉ khuất núi sau mười giờ tối.

Mặc cho không khí nóng bức của buổi chiều tà, Becker vẫn rảo bước nhanh qua công viên. Sáng ngày hôm đó, mệnh lệnh của ngài Strathmore trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Yêu cầu của ông ta rất rõ ràng: tìm tay người Canada, lấy chiếc nhẫn. Làm bất cứ điều gì, chỉ cần lấy được chiếc nhẫn.

Becker tự hỏi có gì quan trọng ở chiếc nhẫn có khắc chữ đó chứ. Nhưng Becker không hỏi. NSA, anh tự nghĩ, nghĩa là không được hỏi gì hết.

Ở phía bên kia của tòa nhà Avenida Isabela Catolica, phòng khám chữa bệnh hiện rõ trong ánh hoàng hôn. Trên nóc nhà phấp phới lá cờ chữ thập đỏ trong hình tròn trắng. Nhân viên cảnh sát Guardia đã đưa tay người Canada đến đây vài tiếng trước, cổ tay bị gẫy, đầu bị vỡ. Không còn nghi ngờ gì nữa, nạn nhân đã được sơ cứu và đưa vào đây. Becker hy vọng bệnh viện sẽ cung cấp thông tin về một khách sạn địa phương hay một số điện thoại nào đó nơi tìm thấy người đàn ông này. Với chút xíu may mắn, Becker nghĩ mình có thể tìm thấy tay người Canada, lấy chiếc nhẫn và trở về nhà mà không chút rắc rối nào cả.

Ngài Strathmore nói với Becker: "Dùng mười nghìn đô tiền mặt để mua chiếc nhẫn đó, nếu cần thiết. Tôi sẽ hoàn trả lại anh sau".

"Điều đó không cần thiết" Becker nói. Anh định sẽ trả lại tiền. Anh đến Tây Ban Nha không phải vì tiền, mà là vì Susan. Ngài Trevor Strathmore là người thầy, người giám hộ của Susan. Susan nợ ông ta rất nhiều, những gì Becker có thể làm chỉ là một chuyến đi kéo dài một ngày.

Thật không may, mọi thứ vào sáng nay đã không hoàn toàn như kế hoạch của Becker. Anh hy vọng sẽ gọi cho Susan từ máy bay và giải thích mọi thứ. Becker đã cố gọi cho Susan ba lần. Trước tiên từ bốt điện thoại nhỏ gần ngay trạm điện thoại của sân bay nhưng nó đã bị hỏng. Một lần từ nhà xác. Nhưng Susan không nhấc máy.

David băn khoăn không biết cô đã đi đâu. Anh chỉ nghe thấy tiếng máy trả lời tự động, nhưng anh không để lại lời nhắn gì cả. Những gì anh muốn nói không thể như tin nhắn cho chiếc máy trả lời tự động được.

Khi ra đến đường, anh đến trạm điện thoại gần lối vào công viên. Anh bước vào, vồ lấy ống nghe, cắm thẻ điện thoại vào gọi.

Một khoảng khá lâu đợi máy kết nối. David nghe thấy tiếng chuông đổ.

Thôi nào, nhấc máy đi..

Sau năm hồi chuông đổ

- Xin chào! Đây là số điện thoại của Susan Fletcher. Xin lỗi tôi không có nhà, nếu bạn để lại tên...

Becker nghe tin nhắn và tự hỏi, cô ấy đi đâu nhỉ? Lúc này nhất định Susan đang rất lo lắng. Liệu cô ấy đến Stone Manor mà không có anh không? Sau đó có một tiếng bíp.

- Chào em, David đây! - Anh dừng lại, không biết phải nói gì.

Điều anh ghét nhất ở máy trả lời tự động là nếu dừng lại để nghĩ thì nó sẽ cắt cuộc gọi ngay.

- Xin lỗi vì anh đã không gọi cho em.

Anh thốt ra vừa kịp lúc. Không biết có nên nói cho cô ấy biết chuyện gì đang xảy ra hay không? Nhưng anh nghĩ tốt hơn hết là gọi cho ngài Strathmore. Ông ấy sẽ giải thích cho Susan. Tự nhiên trái tim anh thót lên, "Thật là ngu xuẩn" "Anh yêu em" David nói nhanh và cúp máy.

Becker đợi xe đến Avenida Borbolla. Anh nghĩ chắc Susan sẽ nghĩ đến điều tồi tệ nhất. Cung cách này không giống anh chút nào. Không gọi điện như đã hứa.

Becker bước trên đại lộ bốn làn đường và tự nhủ "Tiếp tục hay thoái lui?". Anh chợt thấy lo lắng khi thấy một người đàn ông đeo kính gọng kim loại đang quan sát suốt dọc đường phố.

Xem tiếp chương 18

Chương 18

Đứng sau tấm cửa sổ kính rộng rãi của một căn phòng tại cao ốc của mình ở Tokyo, Numataka rít một hơi xì gà và mỉm cười. Ông ta không thể tin nối mình lại may mắn đến thế. Ông ta đã nói chuyện với tên người Mỹ, nếu mọi chuyện theo đúng kế hoạch Ensei Tankado đã bị trừ khử, và ông ta sẽ có bản sao mật khẩu.

Thật nực cười, Numataka tự nghĩ, là mình lại có được mật khẩu của Ensei Tankado. Tokugen Numataka gặp Tankado nhiều năm về trước. Một lập trình viên trẻ tuổi mới ra trường đã đến tìm việc tại công ty Numatech Corp. Numataka đã từ chối người đó. Không có gì nghi ngờ là Tankado rất thông minh, nhưng vào thởi gian đó, có nhiều sự lựa chọn khác nữa. Mặc dù nước Nhật đang phát triển, nhưng Numataka lại được đào tạo trong một ngôi trường kiểu cũ, ông ta sống theo luật menboko - trọng danh dự và thể diện. Ông ta không thể chấp nhận bất cứ điều gì không hoàn hảo. Nếu ông ta thuê một kẻ tàn tật, điều này là không thể chấp nhận được ở công ty của ông ta. Cho nên ông ta vứt ngay sơ yếu lý lịch của Tankado mà không thèm xem qua.

Numataka kiểm tra đồng hồ một lần nữa. Đáng ra tên người Mỹ, North Dakota, đã phải gọi cho ông ta rồi. Numataka cảm thấy hơi bồn chồn. Hy vọng không có điều gì xấu xảy ra.

Nếu mật khẩu hoạt động như lời đảm bảo thì họ có thể bẻ khóa một chương trình đang được săn lùng nhất hiện nay trong kỷ nguyên máy tính, một chương trình mã hóa không thể giải mã được. Numataka có thể giữ chương trình mã hóa này trong con chíp đóng dấu VSLI chống giả mạo và rao bán rộng rãi cho cho các nhà sản xuất máy tính, chính phủ các nước, các ngành công nghiệp, và có lẽ cả thị trường đen... thị trường của bọn khủng bố.

Numataka mỉm cười. Như thường lệ, ông ta lại được hưởng sự may mắn do thần Shichigosan ban tặng. Công ty Numatech Corp sẽ kiểm soát bản sao duy nhất của Pháo Đài Số. Hai mươi triệu đô la là một khoản tiền lớn, nhưng nếu đem so với chương trình mã hóa này thì đó quả là vụ trộm béo bở nhất trong thế kỷ.

Xem tiếp chương 19

Chương 19

- Nếu như cũng có ai đó đang tìm kiếm chiếc nhẫn thì sao? - Susan tự hỏi và bỗng nhiên cảm thấy lo lắng. - Có thể David đang gặp nguy hiểm.

Ngài Strathmore lắc đầu :

- Không ai biết rằng chiếc nhẫn đó tồn tại. Vì thế mà tôi đã cử David đi. Tôi muốn làm như vậy. Những kẻ quan tâm sẽ chẳng buồn theo đuôi một thầy giáo đâu.

- Anh ấy là một giáo sư - Susan chữa lại, nhưng lại cảm thấy hối tiếc Giáo sư David cũng chẳng là gì đối với ngài chỉ huy, và ông ta nghĩ dù sao thì cô cũng làm tốt hơn một thầy giáo - Thưa sếp! - Susan nói - nhỡ có ai biết được là sáng nay ngài chỉ dẫn cho David bằng điện thoại trên ô tô thì sao?

- Cơ hội ngàn năm có một. - Ngài Strathmore cắt ngang lởi cô, giọng ông làm cô yên lòng - Bất cứ kẻ nghe trộm nào trong những tình huống cụ thể sẽ phải biết mình sẽ phải lắng nghe cái gì - Ông đặt bàn tay của mình lên vai cô và nói - Tôi không bao giờ cử David đi nếu có nguy hiểm - Ông cười với cô. - Hãy tin tôi. Nếu có bất cứ dấu hiệu nguy hiểm nào, tôi sẽ cử một chuyên gia đi hỗ trợ.

Những lời nói của ông bị ngắt quãng do tiếng ai đó đập mạnh vào Node 3. Susan và Strathmore cùng quay lại.

Nhân viên Phil Chartrukian đang in mặt mình trên tấm kính đối diện và đang đụng rất mạnh vào tấm cửa, khuôn mặt căng thẳng và anh ta đang cố nói qua cửa kính. Nhưng họ không thể nghe thấy anh ta đang cố nói gì qua tấm cửa kính cách âm. Trông anh ta kinh hoàng như vừa nhìn thấy ma.

- Chartrukian đang làm cái quái gì ở đây vậy nhỉ? - Strathmore lẩm bẩm - Anh ta có phải trực hôm nay đâu cơ chứ?

- Hình như anh ta có van để rồi - Susan nói.

- Có thế anh ta đã nhìn thấy màn hình vi tính đang chạy bên kia.

- Quái quỷ thật! - Strathmore rít lên - Tôi đã nói những nhân viên an ninh hệ thống phải trực không được đến đây cơ mà.

Susan không hề thấy ngạc nhiên. Hoãn lịch làm việc của nhân viên là điều bất thường, nhưng ngài Strathmore muốn được ở một mình trong tòa nhà này. Điều ông lo sợ là những nhân viên này sẽ hoảng sợ và tiết lộ thông tin về Pháo Đài Số.

- Tốt hơn hết là chúng ta nên dừng TRANSLTR - Susan nói.

- Chúng ta chỉnh lại màn hình chạy và nói cho Phil biết cái gì đang xảy ra.

Strathmore xem xét điều Susan nói, nhưng ông lắc đầu.

- Không được máy TRANSLTR đã chạy được 15 tiếng rồi. Tôi muốn nó chạy giải mã trong 24 tiếng, để đảm bảo thật chắc chắn.

Điều này tác động đến Susan. Pháo Đài Số lần đầu tiên sử dụng chức năng giải mã văn bản gốc tuần hoàn. Biết đâu Tankado bỏ qua điều gì đó, có thể máy TRANSLTR sẽ bẻ khóa được trong vòng 24 tiếng. Tuy nhiên Susan vẫn nghi ngờ khả năng đó.

- TRANSLTR vẫn đang chạy - Strathmore quyết định - Tôi cần biết chắc chắn rằng mật mã đó là không thể giải mã được.

Chartrukian vẫn tiếp tục dộng vào cánh cửa.

- Thật chả ra làm sao cả - Strathmore rên rỉ - Giúp tôi nhé.

Ngài chỉ huy hít một hơi thật sâu, sau đó vươn tay ấn nút. Đĩa áp suất trên cánh cửa hoạt động va đẩy cánh cửa mở ra.

Chartrukian lập tức bị ngã ngay xuống phòng.

- Thưa ngài,... Tôi xin lỗi vì làm phiền, nhưng màn hình chạy... Tôi đã cho chạy phần mềm chống virus và...

- Phil, Phil, Phil...- Strathmore đặt tay lên vai anh ta và nói từ tốn - Bình tĩnh, có chuyện gì vậy?

Nghe giọng nói bĩnh tĩnh ấy, không ai có thể nghĩ là thế giới như đang sụp đổ quanh ông. Ông đứng sang một bên và đưa Chartrukian đến bên cửa kính Node 3. Chàng nhân viên miễn cưỡng bước tới, giống như một con chó đã được rèn luyện kỹ và biết điều gì là tốt hơn cho mình.

Cái nhìn kinh ngạc trên khuôn mặt của Chartrukian cho thấy rõ ràng anh ta chưa bao giờ thấy cái gì bên trong căn phòng đó cả.

Dường như nỗi sợ hãi của anh biến mất trong giấy lát. Anh quan sát bên trong căn phòng, đường dẫn riêng, những chiếc đi văng, giá sách, đèn chiếu sáng. Khi ánh mắt bắt gặp nữ hoàng của Crypto, Susan Fletcher, anh vội nhìn sang chỗ khác. Susan như đang đe dọa anh. Cô làm việc theo một cách khác. Trước vẻ đẹp của cô, những lời nói của anh trở nên vụng về lắp bắp. Bầu không khí quanh cô càng khiến anh cảm thấy choáng ngợp.

- Có vấn đề gì vậy, Phil? - Strathmore hỏi rồi mở tủ lạnh - Uống chút gì nhé!

- Không, à - không, thưa ngài - Anh cảm thấy lưỡi mình như cứng lại, không biết ngài chỉ huy có hoan ngênh sự xuất hiện của mình không - Thưa ngài,... Tôi nghĩ máy TRANSLTR có vấn đề.

Strathmore đóng tủ lạnh và nhìn Chartrukian không mảy may ngạc nhiên.

- Ý của anh là màn hình chạy...?

- Vâng, thưa ngài. Nó đã chạy được 16 tiếng rồi. Tôi chắc không nhìn lầm, thưa ngài - Chartrukian rất ngạc nhiên - Vâng, thưa ngài, 16 tiếng. Nhưng không chỉ có vậy. Tôi đã cho chạy phần mềm chống virus. Nhưng có một điều hết sức kỳ lạ đang diễn ra.

- Thế sao - Strathmore không có vẻ quan tâm - Điều kỳ lạ gì vậy?

Susan nhìn ông và thực sự ngưỡng mộ vẻ bình tĩnh của ngài chỉ huy.

Chartrukian bắt đầu run.

- TRANSLTR đang giải mã cái gì đó rất siêu việt mà bộ lọc chưa bao giờ gặp phải. Tôi e rằng máy TRANSLTR bị nhiễm một loại virus gì đó.

- Virus - Strathmore cười thầm và hơi cúi xuống - Phil, tôi đánh giá cao sự quan tâm của anh. Thật đấy. Nhưng cô Fletcher và tôi đang thử một phương pháp mới, một phần mềm hết sức ưu việt. Đáng ra tôi phải nói cho anh biết điều đó, nhưng hôm nay có phải phiên trực của anh đâu.

Chàng nhân viên đã chống đỡ hết sức tài tình.

- Tôi đổi ca làm với một đồng nghiệp mới. Tôi làm ca cuối tuần của anh ấy.

Strathmore nheo mắt lại.

- Thật vô ý, tôi đã nói với anh ta tối qua rồi mà. Anh ta không cần phải đến ngày hôm nay. Và anh ta cũng không nói gì về chuyện đổi ca làm cả.

Chartrukian cảm thấy cổ họng anh như tắc lại. Một bầu không khí căng thẳng bao trùm.

Cuối cùng Strathmore thở dài và nói.

- Có vẻ như có chuyện nhầm lẫn ở đây - Ông đặt tay lên vai chàng trai trẻ và đẩy anh về phía cửa - Nhưng một tin tốt là anh không phải ở đây nữa. Cô Fletcher và tôi sẽ ở đây cả ngày. Chúng tôi sẽ trực chiến ở đây. Và anh hãy tận hưởng ngày nghỉ cuối tuần của mình đi.

Chartrukian cảm thấy miễn cưỡng.

- Thưa sếp, tôi nghĩ là chúng ta nên kiểm tra....

- Phil! - Strathmore nhắc lại vẻ nghiêm nghị - TRANSLTR vẫn hoạt động tốt. Nếu phần mềm của anh thấy có gì lạ, là do chúng tôi đã cài vào trong đó. Bây giờ thì đừng bận tâm nữa...

Strathmore bước lại, và Chartrukian hiểu rằng đã hết thời gian dành cho anh.

- Một phương pháp mới, quái quỷ! - Chartrukian lẩm bẩm khi bước vào phòng An ninh hệ thống - Loại phương pháp nào mà làm cho bộ xử lý trị giá ba triệu đô la hoạt động suốt 16 tiếng đồng hồ.

Chartrukian băn khoăn không biết có nên báo cho lãnh đạo phòng An ninh hệ thống hay không.

- Những kẻ viết mật mã chết tiệt! - Anh nghĩ - Họ chẳng hiểu an ninh là cái quái gì cả.

Lời thề của Chartrukian khi anh gia nhập lực lượng An ninh hệ thống đã trỗi dậy trong anh. Anh đã thề dùng hết kiến thức chuyên môn, kỹ năng và bản năng tự nhiên của mình để bảo vệ khoản đầu tư trị giá nhiều tỷ đô la cho trung tâm NSA.

"Phải vận dụng giác quan!" - Chartrukian bướng bỉnh nghĩ. Ta không cần quan tâm xem chương trình quái nào đang được vận hành!

Chartrukian quay lại phòng chỉ huy và bật toàn bộ hệ thống phần mềm xử lý của TRANSLTR.

- Thưa sếp. hệ thống của chúng ta có vấn đề - Anh lầm bầm - Ngài không tin vào bản năng sao? Tôi sẽ chỉ cho ngài thấy!

Xem tiếp chương 20

Chương 20

La clinica de salud Publia giống như một trường tiểu học hơn là một bệnh viện. Đó là một ngôi nhà một tầng dài lợp ngói, với những ô cửa sổ to và một chiếc xích đu phủ đầy bụi ở đằng sau.

Becker bước lên bậc tam cấp.

Phía trong tòa nhà rất tối và ồn ào. Phòng đợi có dãy ghễ gấp bằng kim loại chạy dọc theo hành lang. Một biển chỉ dẫn trên giá ghi OFICINA với một mũi tên chỉ xuống phía hội trường.

Becker đi bộ dọc theo hành lang tối mờ mờ trông như một cảnh rùng rợn trên bộ phim của Hollywood. Không khí bốc mùi khó chịu như mùi nhà vệ sinh. Ánh sang yếu ớt hắt lại từ phía đằng xa cho thấy trong khoảng cách 15 đến 20 mét nữa chẳng có gì ngoài những cái bóng câm lặng. Một phụ nữ đang bị chảy máu... một cặp đang khóc... một bé gái đang cầu nguyện... Becker bước đến cuối căn phòng. Cánh cửa phía tay trái anh hơi hé mở, anh đẩy cửa bước vào. Căn phòng trống trơn, duy chỉ có một bà già tiều tuỵ trần truồng trên chiếc bô vệ sinh dành cho bệnh nhân.

Thật tuyệt nhỉ! - Becker rít lên. Anh đóng cửa lại - Văn phòng ở nơi quỷ tha ma bắt nào đây?

Xung quanh góc tối nhỏ trong phòng, anh nghe thấy có tiếng nói. Anh đi theo âm thanh đó và đến bên một cánh cửa kính mờ, hình như có tiếng cãi nhau phía bên trong. Becker miễn cưỡng đẩy cánh cửa bước vào. Chính là văn phòng. Cực kỳ hỗn độn. Đúng những gì anh tưởng tượng.

Có khoảng mười người đang xô đẩy, quát tháo nhau. Người Tây Ban Nha không được nổi tiếng về hiệu quả làm việc cho lắm, nhưng Becker sẵn sàng đợi ở đây cả đêm để lấy thông tin về người Canada kia. Duy nhất chỉ có một nữ thư ký phía sau bàn đang làm việc. Cô ta đang cố sức đối phó với những bệnh nhân hết sức cáu kỉnh. Becker đứng ở phía cửa một lúc và nảy ra một ý. Có cách hay hơn.

- Tôi chịu hết nổi rồi! - một ông già hét lên. Đám đông dãn ra khi ông ta lao ra khỏi phòng.

Becker vội chạy theo ông ta và hỏi :

- Ở đây có điện thoại không ạ?

Ông già chỉ tay về phía vào cánh cửa đôi mà không thèm quay lại nhìn và biến mất sau một góc quanh. Becker bước đến và đẩy cửa bước vào.

Căn phòng trước mặt anh thật rộng lớn - một phòng tập thể dục cũ Sàn nhà màu xanh nhạt loang lổ dưới ánh sáng huỳnh quang yếu ớt. Một cái lưới tròn để chơi bóng rổ được gắn trên tường. La liệt khắp phòng là những chiếc giường bệnh cũ kỹ. Ở góc xa của căn phòng, ngay dưới bảng ghi tỷ số, có một máy điện thoại trả tiền xu đã cũ. Becker hy vọng nó còn hoạt động được.

Vừa đi ngang qua sàn nhà, anh vừa lần tìm tiền xu trong túi áo Chỉ còn thấy 75 pesetas loại đồng xu cinco-duros, tiền thừa khi đi taxi, thế cũng đủ cho hai cuộc điện thoại nội hạt. Anh mỉm cười lịch sự với cô y tá ở đó và bước đến chỗ máy điện thoại. Chụp lấy ống nghe, Becker quay số trợ giúp danh bạ. Ba mươi giây sau anh đã có số điện thoại văn phòng chính của bệnh viện.

Ở đâu cũng vậy, các nhân viên văn phòng luôn có một thói quen. Đó là cứ chuông reo thì phải trả lời điện thoại. Dù cho có bao nhiêu khách hàng đang chờ đợi đi chăng nữa thì người thư ký vẫn cứ dừng công việc lại và nhấc máy trả lời.

Becker bấm sáu con số. Ngay lúc đó anh đã nối máy với văn phòng bệnh viện. Không nghi ngờ gì nữa, chỉ có duy nhất một người Canada bị gẫy cố tay và chấn thương não nhập viện ngày hôm nay, cho nên thông tin về người này rất dễ tìm thấy. Becker biết rằng văn phòng không muốn cung cấp tên và địa điểm của nạn nhân cho người lạ, nhưng anh đã có cách.

Chuông điện thoại bắt đầu đổ. Becker đoán chỉ reo khoảng năm chuông, nhưng chuông reo những 19 lần.

- Đây là trạm y tế công cộng - cô thư ký cáu giận nói.

Becker nói bằng giọng người Mỹ gốc Pháp nặng.

- Tôi là David Becker. Tôi ở đại sứ quán Canada. Một công dân của chúng tôi đã được cứu chữa trong bệnh viện ngày hôm nay. Tôi muốn biết thông tin về anh ta để đại sứ quán có thể trả chi phí.

- Được thôi! - Cô thư ký trả lời - Tôi sẽ gửi đến đại sứ quán vào thứ hai.

- Thựrc ra - Becker nhấn mạnh - Điều này rất quan trọng, tôi muốn có ngay lập tức.

- Không thể được! - Cô thư ký ngắt lời. - Chúng tôi đang rất bận.

Becker càng tỏ vẻ trịnh trọng.

- Đây là một vấn đề rất cấp bách. Một người đàn ông bị gãy cổ tay và chấn thương đầu. Anh ta được cứu chữa sáng nay. Vậy thông tin của anh ta phải ở ngay phía trên cùng.

Becker nói giọng Tây Ban Nha, đủ rõ để đạt được yêu cầu của mình, nhưng cũng đủ gây bực tức. "Bị chọc tức, cô thư ký sẽ bỏ qua quy định để cung cấp thông tin cho xong chuyện", anh nghĩ.

Nhưng không, cô thư ký chửi thề tên Bắc Mỹ tự cao tự đại và ném phịch ống nghe xuống.

Becker nhăn mặt và bỏ ống nghe xuống bước ra ngoài. Viễn cảnh phải chờ đợi suốt nhiều giờ trong căn phòng ấy khiến anh thấy hơi nản. Kim đồng hồ vẫn đang quay. Và tay người Canada kia có thể đang ở bất cứ nơi đâu. Có thế hắn đã quyết định quay trở về Canada. Cũng có thể hắn đã bán chiếc nhẫn. Becker không có thời gian để chờ đợi hơn nữa. Anh quyết định nhấc máy và quay số một lần nữa. Anh áp chặt ống nghe vào tai và dựa lưng vào tường. Chuông bắt đầu đổ. Becker nhìn ra phía ngoài phòng. Một chuông... hai chuông... ba...

Bỗng nhiên một niềm phấn khích trào dâng trong anh.

Becker quay lại và đặt mạnh ống nghe xuống máy. Sau đó anh quay trở ra và nhìn chằm chằm vào căn phòng yên ắng đó. Trong phòng, trên chiếc giường ngay trước mặt anh là một ông già cổ tay băng trắng toát đang nẳm trên những chiếc gối cũ kỹ.

Xem tiếp chương 21

Chương 21

Giọng tên người Mỹ trên đường dây riêng của Tokungen Numataka nghe có vẻ rất tức giận.

- Ông Numataka, tôi chỉ có một phút thôi.

- Tồt, tôi tin anh có cả hai mật khẩu chứ.

- Có một chút chậm trễ - Tên người Mỹ trả lời.

- Không thể được! - Numataka rít lên. - Anh đã nói chậm nhất là hết ngày hôm nay sẽ có cơ mà!

- Nhưng có một điểm sơ hở vào phút cuối.

- Tankado đã chết chưa?

- Hắn chết rồi! - tên người Mỹ trả lời. - Người của tôi đã giết Tankado, nhưng hắn lại không lấy được mật khẩu. Trước khi chết Tankado đã cho một khách du lịch mật khẩu đó.

- Khốn nạn! - Numataka gầm lên. - Thế mày đã hứa thế nào về...

- Bình tĩnh đã nào! - Tên người Mỹ nói. - Ông sẽ có hàng ngay. Tôi đảm bảo như vậy. Ngay khi mật khẩu còn lại được tìm thấy thì Pháo Đài Số sẽ thuộc về ông.

- Nhưng mật khẩu đó có thế bị sao chép?

- Bất cứ ai ngửi thấy mật khẩu đó đều bị tiêu diệt.

Một lúc im lặng trôi qua. Cuối cùng Numataka nói :

- Mật khẩu đó đang ở đâu?

- Tất cả những gì ông cần biết là nó sẽ được tìm thấy.

- Làm sao anh có thể biết chắc chắn như vậy.

- Bởi vì tôi không phải là người duy nhất đang tìm nó. Tình báo Mỹ đã đánh hơi thấy mã khóa này. Vì nhiều lý do họ phải ngăn chặn việc phát tán Pháo Đài Số. Họ đã cử một tên đi tìm mã khoá. Tên hắn là David Becker.

- Làm thế nào mà anh biết được điều đó?

- Câu hỏi không thích hợp rồi thưa ông.

Numataka ngừng lại một chút.

- Nếu tên Becker tìm được mã khóa đó?

- Người của tôi sẽ lấy mã khóa từ hắn.

- Và sau đó?

- Ông không cần phải quan tâm - Tên người Mỹ lạnh lùng nói - Khi nào Becker tìm được, anh ta sẽ được mã khóa trọng thưởng.

Xem tiếp chương 22

Chương 22

David Becker bước đến và nhìn chăm chú nhìn ông già đang ngủ trên giường. Cổ tay phải của ông ta quấn đầy băng. Ông ta khoảng 60 hay 70 tuổi gì đó. Mái tóc bạc phơ của ông ta được chải gọn gàng sang một bên. Ở giữa trán có một vết khâu bầm tím kéo dài xuống gần mắt phải..

Một vụ va chạm nhẹ ư? Becker nghĩ thầm, nhớ lại lời kể của viên tnmg uý, và kiểm tra những ngón tay của ông ta. Không hề có chiếc nhẫn vàng nào cả. Anh chạm nhẹ vào cánh tay của ông già không cử động.

- Thưa ông! - Xin lỗi cho tôi hỏi...?

Becker thử lại một lần nữa, nói to hơn.

- Thưa ông!

Ông già cựa mình.

- Mấy giờ rồi?

Ông ta từ từ mở mắt và nhìn Becker. Rõ ràng ông ta tức giận vì bị làm phiền.

- Anh muốn gì?

Đúng rồi, Becker nghĩ, một người Canada nói tiếng Pháp! Anh mỉm cười với ông già.

- Tôi có thể phiền ông vài phút không ạ?

Mặc đù tiếng Pháp của anh rất hoàn hảo, nhưng anh nói bằng thứ tiếng mà anh cho là ông ta không giỏi lắm, tiếng Anh. Thuyết phục một người lạ cho mượn một chiếc nhẫn vàng thì phải khôn khéo một chút! Becker có thể làm bất cứ điều gì có thể.

Sự im lặng bao trùm khá lâu trước khi ông già lấy lại được tỉnh táo ông ta quan sát xung quanh và dùng những ngón tay dài vuốt bộ ria mép bạc phơ. Cuối cùng ông ta lên tiếng, đó là thứ tiếng Anh giọng mũi the thé.

- Anh muốn gì?

- Thưa ngài! - Becker nói thật to như đang nói chuyện với người điếc - Tôi muốn hỏi ngài vài câu.

Ông già ngạc nhiên trừng trừng nhìn David.

- Anh có bị làm sao không đấy?

Becker tức giận, tiếng Anh của ông già không chê vào đâu được. Ngay lập tức anh vứt bỏ vẻ mặt trịnh thượng.

- Tôi xin lỗi vì làm phiền ngài, nhưng hôm nay ngài có tình cờ có mặt tại Plaza de Espana không?

Ông già nheo mắt lại.

- Anh là người của Hội đồng thành phố hả?

- Không ạ, thực ra tôi....

- Hay từ văn phòng du lịch?

- Không, tôi....

- Này, tôi biết vì sao anh đến đây đấy! - Ông già gượng ngồi dậy. - Tôi không dễ bị hăm dọa đâu! Tôi đã nói rồi, tôi đã nói hàng nghìn lần - Pierre Cloucharde luôn viết về cuộc đời này theo đúng cái cách mà ông ta sống ở đời. Mấy quyển sách hướng dẫn du lịch tạp nham của các anh thì thế nào cũng được. Nhưng tờ Montreal Times không phải để cho thuê! Tôi từ chối!

- Tôi xin lỗi, thưa ngài. Tôi không dám coi thường...

- Đồ rác rưởi! Tôi hiểu lắm chứ! - Ông già hươ hươ bàn tay xương xẩu về phía Becker, miệng nói oang oang - Anh không phải là người đầu tiên! Moulin Rouge, bọn chúng cũng làm thế ở lâu đài Brown, cả Golfigno ở Lagos cũng thế! Nhưng cái gì đã được đăng trên báo chí? Sự thật! Đó là món Wellington kinh tởm tôi chưa bao giờ ăn. Đường hầm bẩn thỉu nhất mà tôi được nhìn thấy! Và bãi biển đầy đá lởm chởm nhất mà tôi đã từng bước chân tới! Bạn đọc của tôi không thể cần sự thật!

Các bệnh nhân ở các giường gần đó bắt đầu ngồi dậy để xem cái gì đang diễn ra. Becker nhìn xung quanh sợ một cô y tá nào đó có thế xuất hiện. Anh không hề muốn bị người ta tống cổ ra khỏi chỗ này chút nào.

Cloucharde tiếp tục la hét ầm ĩ.

- Điều tồi tệ nhất là nhân viên cảnh sát ở đây! Hắn bắt tôi trèo lên chiếc xe máy của hắn! Anh nhìn xem tôi có còn ra người nữa không? - Ông ta cố giơ bên cổ tay bị thương lên. - Bây giờ thì ai viết các bài cho tôi đây?

- Thưa ngài, tôi...

- Đi đây đi đó suốt 43 năm trời tôi chưa bao giờ cảm thấy khó chịu như bây giờ! Nhìn chỗ quái quỷ này xem! Anh có biết là chuyên đề tôi phụ trách rất...

- Thưa ông! - Becker giơ cả hai tay làm dấu tạm ngừng - Tôi không quan tâm đến chuyên đề báo của ông; tôi là nhân viên Lãnh sự Canada. Tôi đến đây để giúp ông.

Bỗng nhiên cả căn phòng trở nên im lặng. Ông già nhìn người thanh niên lạ mặt đầy ngờ vực.

Becker nói khẽ.

- Tôi đến đây để xem có giúp gì được không. Chẳng hạn như lấy cho ông một chút Valium.

Sau một lúc im lặng, người Canada nói.

- Lãnh sự quán? - Giọng của ông ta trở nên mềm mỏng hơn.

Becker gật đầu.

- Vậy ra anh không đến đây vì bài báo của tôi?

- Không, thưa ngài.

Dường như cơn giận dữ bỗng bùng lên trong con người Pierre Cloucharde. Nhưng ông từ từ nằm xuống đống gối. Trông cực kỳ đau khổ.

- Tôi tưởng anh là nhân viên Hội đồng thành phố... định thuyết phục tôi đến... - Đầy vẻ thất vọng, ông ta ngước nhìn lên - Nếu không phải vì bài báo của tôi thì tại sao anh lại đến đây?

Một câu hỏi hay, Becker nghĩ thầm và lại mơ tưởng về Smoky Mountains.

- Chỉ là một cuộc viếng thăm ngoại giao thân mật thôi. - Anh nói dối.

Ông già ngạc nhiên :

- Một cuộc viếng thăm ngoại giao?

- Đúng vậy thưa ngài, tôi chắc rằng ngài hiểu vấn đề ở đây. Chính phủ Canada làm hết sức mình để bảo vệ công dân của mình không phải chịu bất cứ phiền toái nào ở những quốc gia, à, nên dùng từ gì nhỉ, những quốc gia không được phát triển cho lắm.

Cặp môi mỏng dính của Cloucharde hé mở trông giống như một điệu cười mỉm.

- Nhưng mà... rất thú vị.

- Ông là một công dân Canada đúng không?

- Tất nhiên rồi. Tôi thật ngốc. Hãy tha lỗi cho tôi. Những người ở vị trí như tôi thường được đối xử một cách... tôi nghĩ là anh hiểu.

- Vâng, thưa ngài, tôi hiểu. Đó là cái giá phải trả cho sự nổi tiếng.

- Đúng vậy - Cloucharde thở dài. Ông là một kẻ tử vì đạo bất đắc dĩ nay buộc phải tha thứ cho số đông.

- Anh có tin nổi rằng một nơi ghê tởm như thế này lại có ở trên đời không - Ông đưa mắt nhìn xung quanh. - Thật là một sự báng bổ. Thế mà người ta định để tôi ở đây suốt đêm nay đấy.

Becker nhìn xung quanh.

- Tôi hiểu. Ở đây thật kinh khủng. Rất tiếc tôi đã không thể đến sớm hơn.

Cloucharde có vẻ bối rối.

- Tôi không nghĩ là anh sẽ tới.

Becker thay đổi chủ đề.

- Hình như ông bị một vết toạc rất lớn ở đầu. Có đau lắm không?

- Không, không đau lắm. Sáng nay tôi đã uống thuốc rồi - Đúng là làm phúc phải tội. Cổ tay tôi đau quá. Tên cảnh sát ngu xuẩn! Bắt một người ở tuổi tôi ngồi xe môtô. Không thể thông cảm được.

- Tôi có thể giúp gì cho ông không?

Cloucharde nghĩ một lúc, có vẻ hài lòng vì được quan tâm.

- Ô! thực ra... - ông nghẹo đầu sang phải rồi sang trái - Tôi có thể dùng chiếc gối khác được không?

- Không thành vấn đề - Becker lấy một chiếc gối ở giường gần đó và giúp ông già cảm thấy thoải mái hơn.

Ông già rất vừa ý.

- Tốt hơn rồi... Cảm ơn!

Becker nói :

- Pas du tout. (tiếng Pháp - Có gì đâu ạ)

- Ah! - Ông già mỉm cười thân thiện :

- Vậy ra anh biết nói ngôn ngữ của thế giới văn minh.

- Chỉ chút ít thôi ạ - Becker cười ngượng.

- Không vấn đề gì. - Cloucharde nói - Chuyên mục của tôi nói về nước Mỹ, tôi nói tiếng Anh tốt lắm đấy.

- Tôi biết - Becker cười nói. Anh ngồi xuống mép giường của ông già. - Bây giờ, nếu mấy câu hỏi của tôi không làm phiền ông, thưa ông Cloucharde, tại sao một người như ông lại đến một nơi như thế này? Ở Seville có những bệnh viện tốt hơn nhiều.

Cloucharde bực mình.

- Tên cảnh sát đó... Hắn kéo tôi lên xe máy rồi bỏ mặc tôi máu me như thế trên đường y như một con vật vậy. Tôi phải tự lết đến đây.

- Anh ta không đưa ngài đến một bệnh viện tốt hơn sao?

- Trên chiếc xe khủng khiếp đó à? Không, cảm ơn.

- Vậy sáng nay điều gì đã xảy ra vậy?

- Tôi kể hết cho viên trung uý rồi.

- Tôi vừa nói với anh ta và...

- Tôi hy vọng anh sẽ kỷ luật hắn! - Ông già cắt ngang.

Becker gật đầu.

- Theo những điều luật nghiêm khắc nhất. Cơ quan của tôi sẽ xem xét vấn đề này.

- Tôi cũng hy vọng là như vậy.

- Monsieur Cloucharde - Becker mỉm cười và lấy một chiếc bút trong túi áo của anh ra.

- Tôi sẽ gửi một kiến nghị lên thành phố. Ông giúp tôi chứ? Một người như ông sẽ là một nhân chứng tốt.

Cloucharde trông như chết đuối vớ được cọc khi thấy có người định ghi lại lời nói của mình. Ông ta ngồi dậy.

- Tại sao, ồ... tất nhiên rồi. Tôi rất lấy làm vinh dự.

Becker lấy ra một cuốn số ghi chép nhỏ và bắt đầu.

- Được rồi, bắt đầu từ sáng nay. Xin ông kể về vụ tai nạn.

Ông ta thở dài.

- Đó là một chuyện buồn. Có một người châu Á đáng thương bị ngã quỵ xuống. Tôi cố giúp anh ta, nhưng không kịp.

- Ông đã sơ cứu tim cho anh ta?

Cloucharde trông ngượng ngùng.

- Tôi e rằng tôi không biết cách. Tôi đã gọi xe cấp cứu.

Becker nhớ đến vết thương trên ngực của Tankado.

- Có phải các nhân viên y tế đã ép tim anh ta?

- Lạy chúa, không phải vậy - Cloucharae cười to - Không có lý do gì để cứu một con ngựa chết. Người đàn ông đó đã chết trước khi xe cấp cứu đến. Họ kiểm tra mạch đập và chở ông ta đi, bỏ lại tôi với tên cảnh sát kinh khủng đó.

Thật kỳ lạ. Becker nghĩ, và anh băn khoăn không hiểu vết bầm đó từ đâu ra. Anh gạt nó ra khỏi đầu và tập trung vào vào vấn đề chính.

- Thế còn chiếc nhẫn? - Anh nói với giọng lãnh đạm hết sức có thể.

Cloucharde ngạc nhiên.

- Viên trung uý nói với ông về chiếc nhẫn?

- Đúng anh ta có nói.

Cloucharde thực sự ngạc nhiên.

- Thật sao? Tôi nghĩ hắn ta không tin câu chuyện của tôi. Hắn quá lỗ mãng, có thể hắn cho rằng tôi nói dối. Nhưng chuyện đó có thật. Tôi xin cam đoan như vậy.

- Chiếc nhẫn bây giờ ở đâu? - Becker nhấn mạnh.

Cloucharde dường như không nghe thấy. Ông ta đờ đẫn nhìn vào khoảng không.

- Một vật trông rất lạ, những chữ viết trên đó không giống bất cứ ngôn ngữ nào mà tôi đã từng biết.

- Có thể là tiếng Nhật - Becker phỏng đoán.

- Hoàn toàn không phải.

- Vậy ông nhìn thấy dòng chữ đó?

- Lạy chúa, đúng thế! Khi tôi quỳ xuống định giúp anh ta, anh ta cứ dúi bàn tay vào người tôi. Anh ta muốn cho tôi chiếc nhẫn đó.

Thật khủng khiếp, đôi bàn tay của anh ta bị dị dạng.

- Và ông đã lấy chiếc nhẫn đó?

Cloucharde mở to mắt.

- Gì? Tên trung uý đó nói với anh như thế sao? Rằng tôi lấy chiếc nhẫn?

Becker hơi bối rối.

Cloucharde quát to :

- Tôi biết là hắn ta không hiểu tôi nói gì mà! Lại tai nọ xọ tai kia. Tôi nói với anh ta rằng người Nhật đó đã đưa chiếc nhẫn, nhưng tôi không nhận. Tôi không muốn lấy bất cứ thứ gì của một người đang hấp hối. Chúa ơi, chỉ ý nghĩ đó thôi...

Becker bắt đầu thấy căng thẳng.

- Vậy ông đã không lấy chiếc nhẫn đó?

- Lạy chúa, không!

Becker thấy bụng đau nhói.

- Vậy thì ai đã lấy chiếc nhẫn?

Cloucharde bực bội nhìn Becker.

- Tên người Đức! Tên người Đức đã lấy chiếc nhẫn. Tên người Đức ở trong công viên! Tôi đã nói với cảnh sát về hắn! Tôi từ chối chiếc nhẫn nhưng tên phát xít đó lại lấy.

Becker viết vào cuốn sổ. Trò chơi đã kết thúc. Có một vấn đề ở đây.

- Vậy tên người Đức đã lấy chiếc nhẫn đó?

- Đúng vậy!

- Ông ta đã đi đâu?

- Tôi không biết. Tôi chạy đi báo cảnh sát. Khi tôi trở lại hắn đã đi mất.

- Ông có biết hắn là ai không?

- Một khách du lịch.

- Ông có chắc không?

- Cả đời tôi nghiên cứu về du lịch mà - Cloucharde ngắt lời.

- Nhìn thoáng qua là tôi biết ngay. Hắn và bạn gái hắn đang đi dạo trong công viên.

Becker càng thấy bối rối hơn.

- Bạn gái sao? Có một người đi cùng tên người Đức đó?

Cloucharde gật đầu.

- Một cô gái gọi, tóc đỏ tuyệt đẹp, lạy Chúa! Rất xinh đẹp.

- Gái gọi - Becker sửng sốt - Tức là gái điếm à?

Cloucharde nhăn mặt.

- Đúng, nếu anh thích cái từ thô tục đó.

- Nhưng... viên trung uý kia không nói gì về...

- Ồ tất nhiên là không rồi! Tôi không nhắc đến cô gái đó.

Cloucharde xua tay.

- Họ không phải là tội phạm... Thật vô lý nếu họ bị coi như những tên trộm.

Becker vẫn chưa hết bàng hoàng.

- Có ai ở đó nữa không?

- Không, chỉ có ba chúng tôi thôi. Trời rất nóng.

- Và ông cho rằng cô gái đó là gái điếm?

- Đúng vậy. Không một phụ nữ nào đẹp như vậy lại đồng ý cặp với tên đó, trừ khi cô ta được trả cao! Chúa ơi! Hắn trông quá béo! Một tên người Đức mồm rộng, béo phì và đáng ghét - Cloucharde nhăn mặt lại khi ông thay đổi tư thế. Nhưng ông nén cơn đau và tiếp tục nói - Tên người Đức đó trông giống như một con thú, nặng ít nhất 135 kg. Hắn ghì cô gái đáng thương như thế sợ cô ta chạy mất. Tôi không đổ lỗi cho cô gái. Ý của tôi là, hắn vòng tay ôm chặt cô ta, cứ như thể hắn bao cô ta cả tưần với giá 300 đô la. Chính hắn là kẻ đáng phải chết chứ không phải là người châu Á đáng thương kia - Cloucharde hít lấy hơi, và Becker liền hỏi :

- Ông có biết tên của hắn không?

Cloucharde nghĩ một lúc rồi lắc đầu.

- Tôi không biết - Ông ta lại nhăn mặt vì đau và nằm lại xuống gối.

Becker thở dài. Chiếc nhẫn vừa bốc hơi trước mắt anh. Ngài Strathmore hẳn sẽ không vui khi biết tin này.

Cloucharde vỗ nhẹ vào trán. Sự nhiệt tình của ông đã hết.

Trông ông rất mệt mỏi.

Becker cố gắng theo cách khác.

- Ông Cloucharde, tôi muốn biết về tên người Đức và cô gái đó. Theo ông thì họ ở đâu?

Cloucharde nhắm mắt lại, không còn chút sức lực nào, hơi thở yếu dần.

- Bất cứ điều gì - Becker nhấn mạnh - Tên của cô gái?

Nhưng chỉ có sự im lặng kéo dài.

Cloucharde day nhẹ thái dương bên phải. Trông ông thực sự kiệt sức.

- À,... không, tôi không chắc... - Giọng ông ta phều phào.

Becker cúi xuống phía ông.

- Ông ổn chứ?

Cloucharde hơi gật đầu.

- Ổn thôi...chỉ một chút... có lẽ do phấn khích quá... - ông nói.

- Hãy nghỉ đi ông Cloucharde - Becker hối thúc. - Điều này rất quan trọng.

Cloucharde nhăn mặt.

- Tôi không biết... cô gái đó... tên kia gọi cô ta là... - ông nhắm mắt lại và rên rỉ.

- Tên cô ta là gì?

- Tôi không nhớ nổi... - Cloucharde uể oải.

- Hãy nghĩ xem? - Becker thúc giục. - Quan trọng lắm đấy. Tài liệu của lãnh sự quán càng đầy đủ càng tốt. Tôi cần dẫn chứng câu chuyện của ông bằng những câu nói của các nhân chứng khác. Bất cứ thông tin nào của ông cũng giúp tôi tìm ra họ....

Nhưng Cloucharde không nghe thấy gì hết. Ông ta đang dùng khăn chấm nhẹ lên trán của mình.

- Tôi xin lỗi... có lẽ ngày mai....

Trông ông như đang buồn nôn.

- Ông Cloucharde, điều này rất quan trọng. Nếu ông nhớ được ngay bây giờ thì rất tốt - Becker đột nhiên nhận thấy minh đang nói quá to. Mọi người ở các giường gần đó vẫn đang quan sát cả hai người. Ở phía góc xa, cô y tá xuất hiện, bước qua cửa và sải bước đến chỗ họ.

- Bất cứ điều gì... - Becker nhấn mạnh.

- Tên người Đức gọi cô gái là...

Becker lắc nhẹ ông già, cố gắng làm cho ông ta tỉnh lại.

Đôi mắt của Cloucharde loé sáng một chút.

- Tên cô gái... Ở lại với anh, fella... Dew...

Cloucharde lại nhắm mắt. Cô y tá đã đến, trông rất giận dữ.

- Dew - Becker lắc cánh tay ông già.

Ông ta rên rỉ.

- Hắn gọi cô gái là... - Cloucharde lẩm bẩm, rất khó nghe rõ.

Cô y tá chỉ còn hơn 3 mét nữa là đến nơi, và đang giận dữ réo gọi Becker bằng tiếng Tây Ban Nha. Becker không nghe thấy gì cả.

Mắt của anh còn đang nhìn chằm chằm vào môi của ông già. Anh lắc ông ta một lần cuối khi cô y tá túm lấy anh.

Cô y tá nắm lấy vai Becker. Cô kéo anh ra ngay khi đôi môi của ông già hé mở.

Một từ thoát ra khỏi miệng của ông già, nhưng không hẳn được phát âm. Đó là một tiếng thở dài. Giống như hồi tưởng xa xăm...

- Dewdrop...

Tiếng la rầy kéo Becker đi ra.

Dewdrop? Becker nghĩ. Cái tên quái quỷ gì thế nhỉ? Anh tránh khỏi cô y tá và quay xuống hỏi Cloucharde một lần cuối.

- Dewdrop? Ông có chắc không?

Nhưng Pierre Cloucharde đã lịm đi.

Xem tiếp chương 23

Chương 23

Susan ngồi một mình trong Node 3 sang trọng. Vừa uống trà chanh vừa nhìn màn hình chờ đợi.

Là một chuyên gia cao cấp về mật mã, Susan được bố trí một căn phòng ở vị trí đẹp nhất. Nó ở phía sau dãy vi tính, đối diện với Crypto. Từ căn phòng này, cộ có thể quan sát toàn bộ Node 3.

Không những thế cô có thể nhìn thấy phía bên kia của tấm kính quan sát một chiều, TRANSLTR ngay giữa trung tâm của Crypto.

Susan nhìn đồng hồ. Cô đã đợi được một tiếng. Trung tâm kiểm tra thư tín nặc danh (American Remailers Anomymous) rõ ràng đã kiểm tra thư từ của Dakota. Cô thở dài nặng nhọc. Mặc dù đã cố quên cuộc nói chuyện với David sáng nay, nhưng những lời nói vẫn cứ hiện ra trong đầu cô. Cô biết mình đã quá khắt khe với anh. Mong rằng anh sẽ không sao khi ở Tây Ban Nha.

Những ý nghĩ của cô bị ngắt quãng bởi một tiếng động lớn phía cửa kính. Nhân viên mật mã Greg Hale đang đứng ở ngưỡng cửa.

Cao to lực lưỡng, tóc vàng dầy, Greg Hale có chiếc cằm chẻ sâu. Anh ta thích diện quá mức, luôn phô trương những bắp thịt. Đồng nghiệp đặt cho anh biệt danh là "Halite"- một chất muối khoáng.

Hale cứ nghĩ rằng biệt danh này là một chất quý hiếm, tương xứng với trí thông minh và cơ thể cường tráng của mình. Chỉ khi tra tên đó trong bách khoa toàn thư, anh mới phát hiện ra rằng nó chỉ là chất muối cặn còn lại khi nước biển rút đi.

Giống như các nhân viên mật mã khác. Hale cố mức lương cao. Tuy nhiên, anh ta không thể giữ kín thu nhập của mình. Anh ta lái chiếc xe Lotus mui trần, với một dàn âm thanh chói tai. Trông anh ta giống như một tay chơi ngông, và chiếc ô tô của anh ta đầy vẻ phô trương với hệ thống vi tính định vị toàn cầu, cửa xe khóa điều khiển bằng tiếng nói, máy làm nhiễu năm điểm sóng ra đa, và một máy fax, điện thoại di động để không bao giờ bị mất liên lạc. Một đĩa đọc MEGABYTE hảo hạng được đặt trong khung có ánh nê-ông tím.

Greg Hale được Tập đoàn hàng hải Mỹ cứu thoát khỏi một tuổi thơ đầy tội phạm. Năm ba tuổi anh ta học vi tính. Anh ta là một trong những lập trình viên giỏi nhất của Cục Hàng hải, trên con đường sự nghiệp quân sự đầy vinh quang của mình. Nhưng hai ngày trước khi hoàn thành chuyến công tác ba ngày của mình, tương lai của anh ta bỗng nhiên thay đổi. Hale chẳng may giết chết một đồng nghiệp ở Cục Hàng hải trong cơn say. Môn võ tự vệ của Hàn Quốc, Taekwondo, đã không thể giúp anh ta tự bào chữa. Và nhanh chóng, Hale bị đuổi khỏi ngành.

Sau một thời gian ngồi bóc lịch trong nhà tù, Hale bắt đầu tìm kiếm công việc ở các công ty tư nhân với tư cách là một lập trình viên. Bị tai tiếng do vụ tai nạn ở Cục Hàng hải, Hale luôn phải thuyết phục các ông chủ bằng một tháng làm việc không lương để chứng tỏ tài năng. Không thiếu người thuê anh ta và ngay khi họ thấy anh ta có thể làm việc với cái máy tính, họ đã không bao giờ để anh ta đi mất.

Khi trình độ vi tính của mình đã nâng cao, Hale bắt đầu kết nối toàn cầu qua mạng Internet. Anh ta lập ra trào lưu mới của những người say mê mạng máy tính cùng với những người bạn qua thư điện tử trên khắp thế giới, đăng tải những tuần thư điện tử vớ vẩn hoặc các nhóm chát chít ở châu âu. Anh ta đã bị hai ông chủ đuổi việc do lợi dụng công việc để đăng tải những hình ảnh khiêu dâm cho bạn bè mình.

- Cô đang làm gì ở đây vậy? - Hale hỏi, dừng ở ngưỡng cửa và nhìn chằm chằm Susan. Rõ ràng anh ta không muốn gặp ai ở Node 3 ngày hôm nay.

Susan cố gắng tỏ vẻ bình thường.

- Hôm nay là thứ 7, Greg. Tôi cũng muốn hỏi anh câu đó!

Nhưng Susan thừa biết Hale làm gì ở đây vào ngày này. Anh ta là kẻ nghiện vi tính nặng. Mặc dù là thứ bảy nhưng anh ta vẫn đến Crypto để sử dụng mạng vi tính siêu việt ở đây đế chạy thử những chương trình mới của mình.

- Để ngắt một số đường dây và kiểm tra hòm thư mà thôi - Hale nói - Đó không phải là những gì cô đang làm đấy chứ?

- À tôi thì không - Susan trả lời.

Hale nhướn lông mày ngạc nhiên.

- Không có gì phải xấu hổ cả. Trong Node 3 không ai giữ bí mật chuyện gì đúng không nào? Một người vì mọi người, mọi người vì một người.

Susan nhấp một ngụm trà và không chú ý đến Hale nữa. Hale nhún vai và đi về phía tử đồ uống. Tủ đồ uống bao giờ cũng là điểm dừng chân đầu tiên của anh ta. Khi Hale đi ngang qua phòng, anh ta nuốt nước bọt và nhìn chằm chằm vào cặp chân của Susan đang duỗi dài dưới gầm bàn. Susan không thèm nhìn lên, co chân lại và tiếp tục làm việc. Hale cười khẩy.

Susan đã quen với việc bị Hale cố tình đụng chạm. Cô quá kiêu hãnh nên không phàn nàn với Strathmore về Hale. Tốt nhất là không nên để ý đến anh ta.

Hale đến tử đồ uống, mở mạnh tấm cửa mắt cáo. Anh ta với hộp đậu phụ, ngoạm một miếng rồi đứng dựa vào cái lò sưởi, kéo thẳng chiếc quần Bellvience màu xám bị chùng và chiếc áo sơ mi được hồ cứng.

- Cô ở đây lâu không?

- Cả đêm. - Susan nói.

- Hmm... - Halite vừa nhai vừa nói - Một ngày thứ Bảy tuyệt đẹp ở đây chỉ có hai chúng ta.

- Ba chúng ta - Susan chữa lại - Ngài Strathmore đang ở trên gác. Anh nên biến đi trước khi ông ta nhìn thấy.

Hale nhún vai.

- Ông ấy không bận tâm khi cô ở đây sao? Chắc hẳn ông ấy cũng thích cô đến đây thế này rồi.

Susan cố gắng im lặng.

Hale cười khục khục và bỏ bịch đậu phụ xuống. Sau đó anh ta lấy một hộp dầu ô-liu, và tợp vài hụm. Anh ta là một người rất chăm lo cho sức khoẻ, và cho rằng dầu ô-liu sẽ rửa sạch ruột. Khi nào không thuyết phục các nhân viên khác uống nước cà rốt thì anh ta lại thao thao về tác dụng của vitamin.

Hale đặt hộp dầu ô-liu xuống và ngồi xuống bên chiếc vi tính của mình đối diện với Susan. Mặc dù cách xa, nhưng Susan vẫn có thể ngửi thấy mùi nước hoa Cologne của anh ta. Cô nhăn mũi.

- Mùi nước hoa Cologne cũng thơm đấy nhỉ, Greg. Anh dùng hết cả lọ đấy à?

Hale nhổm lên khỏi chỗ và nói :

- Chỉ dành cho riêng em thôi, em yêu.

Khi anh ta ngồi xuống chỗ của mình đợi máy tính khởi động.

Susan chợt có một ý nghĩ. Nếu như Hale truy cập vào màn hình chạy của TRANSLTR thì sao? Không có lý do hợp lý nào khiến anh ta làm như vậy, tuy nhiên Susan biết rằng anh ta sẽ không bao giờ tin một câu chuyện ngớ ngẩn về một mật mã làm cho TRANSLTR xử lý trong 16 tiếng. Hale có thể muốn biết sự thật, và Susan không có ý định cho anh ta biết. Cô không tin Greg Hale. Anh ta không phải là nhân viên của NSA. Cô đã phản đối việc thuê anh ta ngay từ đầu, nhưng NSA không có lựa chọn nào khác. Anh ta là một món nợ mà NSA phải gánh sau một phi vụ.

Dự án Skipjack đã thất bại.

Bốn năm trước đây, trong một nỗ lực nhằm tạo ra một tiêu chuẩn mã hóa chung, đơn giản, Quốc hội đã thuê những nhà toán học giỏi nhất trong nước, những người làm tại NSA, viết một siêu thuật toán. Kể hoạch này sẽ được sử dụng cho Quốc hội trong việc thông qua một điều luật về một thuật toán chuẩn trong nước, do vậy các tập đoàn sẽ không phải chịu những rắc rối do sử dụng cac thuật toán khác nhau.

Tất nhiên khi yêu cầu NSA giúp một tay trong kế hoạch phát triển tiêu chuẩn mã hóa chung là một yêu cầu như thể yêu cầu một người tự xây chiếc quan tài cho mình vậy. TRANSLTR lúc đó chưa ra đời, và một tiêu chuẩn mã hóa chỉ giúp đẩy mạnh việc sử dụng mã hoá, điều này sẽ làm cho công việc khó khăn của NSA lại càng khó khăn hơn.

EFF hiểu rõ sự mâu thuẫn quyền lợi này và loan tin NSA sẽ tạo ra một thuật toán kém chất lượng, có thể bị giải mã một cách dễ dàng. Để đối phó với tình huống này, Quốc hội tuyên bố rằng khi nào NSA tạo ra thuật toán, thì công thức đó sẽ được những nhà toán học trên thế giới kiểm tra chất lượng.

Một cách miễn cưỡng, nhóm giải mã của NSA, do ngài Strathmore lãnh đạo, đã tạo ra một thuật toán và họ đặt tên là Skipjack. Skipjack được đưa cho Quốc hội thông qua. Các nhà toán học trên khắp thế giới kiểm tra Skipjack và đã hoàn toàn bị chinh phục. Họ kết luận đó là một thuật toán không thể bẻ khoá, và nó có thể tạo ra một tiêu chuẩn mã hóa siêu việt. Nhưng chỉ ba ngày trước khi Quốc hội bỏ phiếu thông qua, thì một lập trình viên trẻ tại phòng thí nghiệm Bell, Greg Hale đã gây sốc cho toàn thế giới khi thông báo rằng anh ta đã tìm ra lỗ hổng cổng hậu của thuật toán đó. Lỗ hổng này bao gồm một vài dòng mã lệnh hết sức tinh xảo mà Strathmore đã cài vào trong thuật toán đó. Và phải nói thêm rằng, không một ai ngoại trừ Greg Hale phát hiện ra nó. Và trong lời thú nhận của mình, Strathmore đã nói rằng bất cứ mật mã nào viết bằng chương trình Skipjack đều bị bẻ khóa thông qua một mật khẩu bí mật chỉ có NSA biết. Strathmore sắp biến tiêu chuẩn mã hóa quốc gia trở thành một phương tiện tình báo lớn nhất trong lịch sử NSA; NSA cũng nắm giữ mật khẩu của các mã hóa khác trên nước Mỹ.

Những người hiểu biết về máy tính đều cảm thấy bị xúc phạm.

EFF coi NSA là kẻ trục lợi, chế nhạo sự khờ khạo của Quốc hội và tuyên bố NSA là mối đe dọa lớn nhất cho một thế glới tự do sau kỷ nguyên Hit-le. Dự án tiêu chuẩn mã hóa bị phá sản.

Một điều ngạc nhiên là chỉ hai ngày sau đó. NSA đã thuê Greg Hale. Strathmore thấy để anh ta làm việc cho NSA thì tốt hơn để anh ta ở ngoài và tìm cách phá hoại nó.

Strathmore phải đối mặt với vụ xì căng đan. Ông đã bảo vệ cho hành động của mình. Một cách đầy thuyết phục trước Quốc hội.

Ông tranh luận rằng chính yêu cầu đòi quyền riêng tư của người dân sẽ chống lại chính họ. Ông khăng khăng rằng dân chúng cần một ai đó đứng ra bảo vệ họ; và dân chúng cần NSA bẻ khóa mật mã nhằm duy trì hòa bình. Những nhóm chống đối như EFF lại nghĩ khác, và họ tiếp tục phản đối từ đó đến nay.

Xem tiếp chương 24

Chương 24

David Becker đứng trong buồng điện thoại ven đường La Clinica de Salud Publica; anh vừa bị tống ra khỏi bệnh viện vì đã làm phiền bệnh nhân số 104, ông Cloucharde.

Mọi chuyện dường như phức tạp hơn rất nhiều so với suy đoán của anh. Yêu cầu nhỏ của ngài Strathmore, tìm vài vật dụng cá nhân, nay đã biến thành cuộc truy lùng một chiếc nhẫn kỳ quái.

Anh vừa gọi cho ngài Strathmore và thông báo cho ông biết về vị khách du lịch người Đức. Tin tức của anh khiến ông ta có vẻ không vui. Sau khi yêu cầu anh kể chi tiết sự việc, Strathmore im lặng một lúc lâu.

- David! - Strathmore cuối cùng cũng nói, rất nghiêm trọng Tìm chiếc nhẫn là vấn đề an ninh quốc gia. Tôi giao nhiệm vụ này cho anh. Đừng làm tôi thất vọng.

Và David nghe tiếng cúp máy.

David đứng trong buồng điện thoại và thở dài. Anh bắt đầu lật tìm những trang vàng trong cuốn danh bạ điện thoại Guia Telefonica tả tơi.

- Chẳng đi đến đâu cả - Anh lẩm bẩm một mình - Ở đó chỉ có ba số điện thoại của "dịch vụ bạn đồng hành", và anh cũng không có nhiều thông tin lắm. Tất cả những gì anh biết là bạn gái của tên người Đức đó có mái tóc đỏ, màu tóc thuộc loại hiếm ở Tây Ban Nha. Ông Cloucharde mê sảng đã gọi tên cô gái là Dewdrop. Becker rùng mình - Dewdrop? Nghe giống như tên một con bò hơn là một cô gái đẹp. Đây không phải là tên của người theo đạo thiên chúa. Cloucharde chắc đã nghe nhầm.

Becker quay số đầu tiên.

- Cơ quan dịch vụ xã hội Sevilla... - một giọng phụ nữ nhẹ nhàng cất lên.

Becker nói tiếng Tây Ban Nha với giọng Đức nặng.

- Chào, có nói được tiếng Đức không?

- Không. Nhưng tôi nói được tiếng Anh - Có tiếng đáp lại.

Becker giả vờ nói tiếng Anh một cách khó khăn :

- Cảm ơn, không biết cô có thể giúp tôi được không?

- Chúng tôi rất sẵn lòng - Người phụ nữ nói chậm nhằm giúp đỡ khách hàng của mình.

- Có lẽ anh cần một người bạn đồng hành?

- Vâng, đúng vậy. Hôm nay anh trai tôi Klaus có một cô gái rất đẹp Tóc đỏ. Tôi cũng muốn một cô như vậy vào ngày mai, làm ơn!

- Anh trai anh đã đến đây - Giọng cô gái đột nhiên trở nên sôi nổi, như thể họ đã là bạn từ lâu.

- Vâng, anh ta rất béo, cô có nhớ anh ta không? Không à? Anh nói là anh ta đến đây hôm nay?

Becker nghe thấy tiếng cô gái đang kiểm tra sổ sách. Có thể không có tên Klaus, nhưng Becker biết rằng khách hàng ít để lại tên thật của mình.

- Hmm, xin lỗi! - Cô gái nói. - Tôi không thấy anh ta đến đây. Thế tên cô gái mà anh trai anh đi cùng là gì?

- Tóc đỏ. - Becker có né tránh câu hỏi.

- Tóc đỏ - Cô gái nhắc lại. Ngừng một chút - Đây là Cơ quan dịch vụ xã hội Sevilla. Ông có chắc là anh trai ông đã đến đây?

- Chắc chắn.

- Senor, chúng tôi không có ai tóc đỏ cả, Chúng tôi chỉ có vẻ đẹp Andalusian thuần khiết thôi.

- Tóc đỏ - Becker nhắc lại, cảm thấy thật ngu xuẩn.

- Tôi xin lỗi, chúng tôi không có ai tóc đỏ cả. Nhưng nếu ông...

- Tên cô ta là Dewdrop - Becker thốt ra, cảm thấy ngu xuẩn hơn.

Cái tên buồn cười này chẳng có nghĩa gì với cô gái cả. Cô ta xin lỗi và nói rằng Becker đang nhầm lẫn cô ấy với một dịch vụ khác.

Cô gái lịch sự cúp máy.

Cuộc gọi một.

Becker nhăn mặt và quay số tiếp theo. Đường được nối ngay lập tức :

- Xin chào Hội những cô gái Tây Ban Nha, tôi có thể giúp gì cho ngài?

Becker diễn lại vở kịch. Một người Đức sẵn sàng trả nhiều đô la cho một cô gái tóc đỏ, người đã đi cùng với anh trai mình ngày hôm nay.

Lần này, giọng trả lời là một giọng Đức lịch sự, nhưng cũng không tìm thấy ai tóc đỏ cả.

- Keine Rotkopfe, tôi xin lỗi - Người phụ nữ cúp máy.

Cuộc gọi hai.

Becker nhìn xuống danh bạ điện thoại. Chỉ còn một số điện thoại cuối cùng. Cái phao cứu tinh cuối cùng đây.

Anh bấm số.

- Escortes Belen - giọng đàn ông trơn tru trả lời.

Một lần nữa Becker kể lại câu chuyện bịa của mình.

- Si, si senor. Tôi tên là Senor Roldan. Tôi rất vui được giúp ngài. Chúng tôi có hai cô gái tóc đỏ. Những cô gái xinh đẹp.

Tim Becker đập rộn lên.

- Rất đẹp - Anh hỏi lại bằng giọng Đức.

- Tóc đỏ?

- Vâng, thế tên anh trai ông là gì - Tôi sẽ nói cho anh biết ai là người bạn đồng hành của anh ấy trong ngày hôm nay. Và ngày mai tôi có thể sẽ cử cô ấy đến chỗ anh.

- Klaus Schmidt - Becker thốt ra cái tên mà anh nhớ có trong một quyển sách cũ. Sau một lúc.

- Thưa ngài, chúng tôi không thấy có tên Klaus Schmidt trong danh sách đăng ký, nhưng có lẽ anh trai ngài muốn giữ bí mật, vì có một bà vợ ở nhà chăng? - Anh ta cười một cách vô duyên.

- Đúng vậy, Klaus đã lập gia đình. Nhưng anh ấy béo quá. Vợ anh ta không ngủ với anh ta nữa - Becker nháy mắt với bóng của mình trong tấm kính trước mặt. Nhỡ bây giờ Susan nghe thấy câu này thì sao? Anh nghĩ, "Dù có béo và cô đơn, mình vẫn muốn ngủ với cô ấy. Dù phải trả thật nhiều tiền".

Becker đã tạo một ấn tượng quá mạnh, nhưng anh đã đi quá xa. Gái điếm là bất hợp pháp ở Tây Ban Nha. Và Senor Roldan là một người cẩn thận. Anh ta đã bị một nhân viên điều tra thẩm tra về những khách du lịch quá nhiều ham muốn. Tôi muốn ngủ với cô ta. Roldan biết đây là một vụ sắp đặt. Nếu anh nói có, anh có thể bị phạt rất nặng, và phải cung cấp những cô gái thông minh nhất cho những tên cảnh sát miễn phí cho những ngày cuối tuần.

Khi Roldan trả lời. Giọng của anh không còn thân thiện nữa.

- Thưa ngài, đây là Escortes Belen. Tôi có thể hỏi là ai đang gọi vậy?

- Aah... Sigmund Schimidt - Becker nói yều ớt.

- Làm thế nào ngài có số điện thoại của chúng tôi?

- La Guia Telefonica, những trang vàng.

- Vâng thưa ngài, bởi vì chúng tôi là dịch vụ bạn đồng hành.

- Đúng tôi cần một người bạn đồng hành - Becker cảm thấy có điều gì không ổn.

- Thưa ngài, Escortes Belen là một dịch vụ cung cấp bạn đồng hành cho các thương gia, cùng đi ăn trưa, ăn tối. Đó là lý do vì sao chúng tôi có trong danh bạ điện thoại. Công việc của chúng tôi là hợp pháp. Cái ngài muốn tìm đó là một gái điếm - Từ đó được anh ta nói với vẻ kinh tởm.

- Nhưng anh trai tôi...

- Thưa ngài, nếu anh trai ngài hôn một cô gái trong công viên, thì cô gái đó không phải là người của chúng tôi. Chúng tôi có những quy định nghiêm ngặt về quan hệ giữa khách và người đồng hành.

- Nhưng....

- Ngài đã nhầm chúng tôi với công ty nào khác rồi. Chúng tôi chỉ có hai cô gái tóc đỏ, Inmaculada và Rocio, không ai trong số họ cho phép đàn ông ngủ với họ dù vì tiền. Đó là làm điếm, và việc này là bất hợp pháp ở Tây Ban Nha. Chúc ngài một buổi tối tốt lành.

- Nhưng....

Cúp máy.

Becker chửi thề và ném cuốn danh bạ về chỗ cũ. Cuộc gọi thứ ba. Anh chắc chắn rằng Cloucharde đã nói tên người Đức thuê cô gái đó trong suốt những ngày nghỉ cuối tuần.

Becker bước ra khỏi bốt điện thoại ở khu nối giữa đường Calle Salado và Averủda Asuncion. Mặc dù xe cộ nườm nượp, nhưng mùi hương cam ngọt ngào của Serville vẫn bao quanh anh. Giờ là hoàng hôn, thời điểm lãng mạn nhất. Anh lại nghĩ đến Susan.

Những lời trở lại trong tâm trí anh. Hãy tìm chiếc nhẫn. Becker đau khổ ngồi xuống chiếc ghế băng và cân nhắc hành động tiếp theo.

Làm gì tiếp theo đây?

Xem tiếp chương 25

Chương 25

Trong bệnh viện Clinica de Salud Publica, giờ vào thăm đã hết. Ánh sáng trong phòng tập thể dục đã tắt. Pierre Cloucharde đang ngủ. Ông không nhìn thấy một bóng người đang cúi xuống phía ông. Chiếc kim tiêm loé sáng trong bóng tối. Sau đó nó được cắm vào tĩnh mạch ngay trên cổ tay của ông. Mũi tiêm dưới da chứa 30 cc chất lỏng được ăn cắp trong xe thuốc của người trông coi. Một cách thô bạo, một ngón tay cái ấn đầu kim xuống và tiêm chất lỏng màu xanh vào ven của người bệnh. Cloucharde chi tỉnh dậy sau đó vài giây, nhưng không thể hét lên đau đớn đang bịt chặt miệng ông. Ông đã bị mắc bẫy trên chính giường bệnh của mình, bị trói chặt bởi một sức nặng dường như không thể chống cự được. Ông cảm thấy một luồng lửa đang thiêu đốt dọc cánh tay. Cơn đau tột cùng đang lan truyền khắp cánh tay, ngực, rồi giống như hàng triệu mảnh thủy tinh đang ghim vào não ông. Cloucharde nhìn thấy một ánh sáng loé lên... và sau đó tối đen.

Người khách đến thăm nới lỏng tay, qua bóng tối, nhìn soi mói vào tên ông ghi trên bệnh án treo ở đầu giường. Sau đó hắn nhẹ nhàng chuồn đi.

Trên đường phố, có một người đàn ông đeo kính gọng kim loại với một thiết bị nhỏ gắn vào dây lưng. Một vật hình chữ nhật to bằng chiếc thẻ tín dụng. Đó là một một cìiếc máy tính Monocle mới nhất do Hải quân Mỹ chế tạo để giúp các kỹ thuật viên kiểm tra điện áp của ắc qui trong những khu vực nhỏ chật trong tàu ngầm.

Chiếc máy đắt tiền này được gắn một modem siêu nhỏ và những công nghệ siêu nhỏ tiên tiến nhất. Còn gồm có một màn hình tinh thể lỏng trong suốt, được gắn trên mắt trái của người sử dụng.

Chiếc máy Monocle cho thấy một thời đại hoàn toàn mới của máy tính cá nhân. Người sử dụng có thể xem số liệu trong khi vẫn liên lạc với môi trường xung quanh.

Mặc dù vậy hoạt động của máy Monocle không phải là màn hình thu nhỏ, mà là hệ thống nhập dữ liệu của máy. Người sử dụng có thể nhập dữ liệu thông qua bộ phận tiếp xúc siêu nhỏ được gắn ở đầu ngón tay. Người sử dụng ấn ngón tay vào bộ phận tiếp xúc theo kiểu liên lạc bằng điện đài trong thế chiến thứ nhất. Máy tính sẽ dịch những tín hiệu tốc ký đó sang tiếng Anh.

Kẻ giết người ấn một nút nhỏ, cặp kính của hắn lập loè. Tay của hắn cử động khéo léo bên cạnh sườn. Hắn bắt đầu ấn những đầu ngón tay khác nhau rất nhanh. Thông điệp xuất hiện trước mắt hắn.

MỤC TIÊU: P. CLOUCHARDE -THANH TOÁN XONG

Hắn cười thầm. Chuyển những thông báo về các vụ giết người là công việc của hắn. Nhưng việc nêu tên nạn nhân...đối với gã đàn ông đeo kính gọng kim loại này, thì lại là một thú tao nhã. Ngón tay của hắn lại loé sáng lên lần nữa. Modem siêu nhỏ được kích hoạt.

TIN NHẮN ĐÃ ĐƯỢC GỬI

Xem tiếp chương 26

Chương 26

Ngồi trên một chiếc ghế băng trước cổng bệnh viện công cộng, Becker băn khoăn không biết phải làm gì bây giờ. Các cuộc gọi của anh đến các trung tâm cung cấp bạn đồng hành chẳng đem lại kết quả gì. Còn ngài chỉ huy có vẻ không hài lòng trong cuộc nói chuyện vừa rồi, không tin tưởng các máy điện thoại công cộng, đã yêu cầu anh không gọi lại cho đến khi nào tìm thấy chiếc nhẫn.

Becker định đến gặp cảnh sát địa phương nhờ giúp đỡ, có thể họ sẽ có các báo cáo về một gái điếm tóc đỏ. Nhưng ngài Strathmore đã đưa ra một quy định hết sức nghiêm ngặt.

- Anh không được để mình bị phát hiện. Không ai được biết về sự tồn tại của chiếc nhẫn.

Becker lưỡng lự không biết có nên lang thang đến khu nghiện ngập Triana để tìm cô gái lạ mặt đó không. Hay có nên kiểm tra tất cả các khách sạn để tìm tên người Đức phì nộn đó không. Cách nào cũng chỉ tốn thời gian vô ích mà thôi.

Các câu nói của Strathmore lại vang lên tâm trí anh: "Đây là vấn đề an ninh quốc gia... anh phải tìm bằng được chiếc nhẫn".

Từ sâu thẳm trong lòng anh cảm thấy mình đang thiếu một cái gì đó một thứ rất quan trọng - nhưng anh không thể gọi tên nó một cách chính xác. Mình là giảng viên, chứ không phải một điệp viên ngầm! Và anh tự hỏi tại sao Strathmore không cử một người chuyên nghiệp.

Becker đứng dậy thơ thẩn đi dọc phố Calle Delicas nghĩ xem mình nên làm gì. Những viên đá rải đường hiện ra lờ mờ dưới mắt anh. Màn đêm đang buông xuống.

Dewdrop.

Cái tên này có gì thật kỳ lạ. Dewdrop. Giọng nói trơn tuột của gã Senor Roldan ở Escortes Belen cứ vang lên trong tâm trí anh: "Chúng tôi có haì cô gải tóc đỏ... Hai cô tóc đỏ, lnmaculada và Rocio... Rocio... Rocio...".

Becker dừng lại, tìm ra rồi. Mình là một chuyên gia ngôn ngữ cơ mà! Anh không thể tin nổi mình lại bỏ sót chi tiết đó.

Rocio là một cái tên con gái phổ biến nhất ở Tây Ban Nha. Nghĩa là một cô gái thiên chúa giáo thuần khiết, trinh tiết, với vẻ đẹp tự nhiên. Theo nghĩa rộng của từ thuần khiết đều bắt nguồn từ nghĩa đen của tên - Drop of Dew! (Giọt sương Mai)

Giọng ông già người Canada vang vọng bên tai Becker. "Dewdrop". Rocio đã dịch tên mình sang thứ tiếng mà cả hai cùng biết, tiếng Anh. Quá phấn khích, Becker chạy vội đi tìm bốt điện thoại.

Gã đàn ông đeo kính gọng kim loại bên qua đường biến mất.

Xem tiếp chương 27

Chương 27

Trên sàn nhà Crypto, bóng nắng trải dài và mờ dần. Phía trên đầu hệ thống chleu sáng tự động dần dần sáng lên vẫn ở chỗ của mình, Susan im lặng chờ đợi tin từ phần mềm tìm địa chỉ. Không ngờ lại mất nhiều thời gian thế này. Cô suy nghĩ miên man - nhớ David và mong Greg Hale ra về. Mặc dù Hale không gây tiếng động, ơn chúa anh ta chỉ im lặng, mê mải công việc đang làm. Susan chẳng cần biết anh ta đang làm gì, miễn là không truy cập màn hình chạy Run Monitor. Rõ ràng là anh ta đã không làm thế. "16 tiếng" có thể gây ra một tiếng kêu kinh ngạc.

Susan đang nhấm nháp tách trà thứ ba thì có chuyện xảy ra - cuối cùng máy tính của cô kêu một tiếng bíp. Tim cô đập nhanh hơn. Một biểu tượng lá thư hiện ra trên màn hình thông báo cô có thư, Susan vội liếc nhìn Hale. Anh ta vẫn chúi mũi vào công việc.

Cô hít sâu và kích đúp vào biểu tượng lá thư.

- North Dakota... - Cô thì thầm - Để xem ngươi là ai?

Trong thư chỉ có một dòng chữ duy nhất. Susan đọc đi đọc lại lần nữa.

ĂN TỐI TẠI NHÀ HÀNG ALFREDO? 8PM?

Đi ngang qua phòng, Hale cố giấu một nụ cười. Susan kiểm tra tên người gửi.

Từ... [email protected]

Susan rất tức giận nhưng cô cố kìm nén. Cô xóa bức thư.

- Ấn tượng đấy, Greg ạ!

- Họ làm món gỏi cá ngừ tuyệt lắm - Hale mỉm cười - Cô thấy thế nào? Sau đó chúng ta có thể...

- Quên giấc mơ ấy đi, Greg.

- Thật hợm hĩnh - Hale thở dài và quay trở về chỗ của mình. Đó là lần thứ 89 với Susan Fletcher. Người phụ nữ thông minh của Crypto luôn cuốn hút anh ta. Hale thường tưởng tượng cảnh mình ghì chặt Susan vào vỏ TRANSLTR và cả hai cùng ân ái ngay trên nền gạch đen của tòa nhà. Nhưng Susan chẳng bao giờ thèm ngó ngàng gì tới anh ta. Trong suy nghĩ của Hale, điều tồi tệ hơn cả là cô ta đang yêu một giảng viên đại học, suốt ngày cắm mũi vào cuốn sách. Thật đáng tiếc là Susan không đem nguồn gen quý của mình kết hợp với những người thông minh khác - đặc biệt là với Greg. Chúng ta sẽ có những đứa con hoàn hảo. Anh ta nghĩ thầm.

- Cô đang làm gì vậy - Hale hỏi, đang cố tiếp cận theo cách khác.

Suran không trả lời.

- Liệu tôi có hy vọng nào không Susan? - Hale đứng dậy và tiến về phía Susan.

Susan thấy rằng sự tò mò của Hale có thể gây ra nhưng vẫn đề nghiêm trọng trong lúc này. Cô quyết định nhanh chóng.

- Một cách giải mã mới đây - Cô bắt chước cách nói dối của ngài chỉ huy.

Hale dừng lại.

- Cách giải mã - Anh ta nghi ngờ - Cô dùng cả ngày thứ bảy chỉ để chạy thử chương trình giải mã mới thay vì đi chơi với chàng giáo sư của cô?

- Tên là gì chả được! - Susan lườm anh ta - Anh không có việc gì khác để làm à?

- Cô đang đuổi tôi sao - Hale bĩu môi.

- Thực ra là đúng như thế.

- Thôi nào, Sue, tôi buồn đấy!

Susan Fletcher nheo mắt lại. Cô ghét bị gọi là Sue. Cô không ghét cái tên đó. Nhưng chỉ có Hale là người duy nhất gọi cô như vậy.

- Tại sao tôi lại không giúp cô nhỉ - Hale đề nghị. Bỗng nhiên anh ta lại đi về phía cô.

- Tôi giỏi về giải mã lắm đấy. Hơn nữa tôi rất tò mò, cách giải mã nào có thể bắt một nhân viên tài giỏi như Susan Fletcher đi làm vào thứ bảy đây?

Susan lo cuống lên. Cô nhìn xuống chương trình đang chạy trên màn hình. Cô biết không thể để Hale nhìn thấy được. Anh ta sẽ hỏi hết câu này đến câu khác.

- Vừa xong rồi, Greg! - Susan nói.

Nhưng Hale vẫn bước tới. Cô biết mình cần phải hành động ngay. Chỉ còn vài bước chân nữa thôi. Cô đứng dậy chắn ngay trước thân hình lực lưỡng của Hale. Mùi nước hoa Cologne của anh ta càng ngào ngạt.

Cô nhìn thẳng vào mắt anh ta.

- Tôi nói không!

Hale nghển cổ, rõ ràng ngạc nhiên vì cô tỏ ra bí mật. Anh ta tinh nghịch bước tới. Greg Hale không chuẩn bị cho điều gì có thể xảy ra tiếp theo.

Với vẻ mặt nghiêm nghị, cô ấn ngón tay trỏ vào bộ ngực cứng như thép của Hale, ngăn không cho anh ta bước đến.

Hale ngớ người ra, dừng lại và quay trở về chỗ của mình. Rõ ràng Susan Fletcher rất nghiêm túc, cô ấy chưa bao giờ chạm vào anh ta. Thế này không giống tưởng tượng của Hale về sự gần gũi giữa hai người; nhưng đây có thể là điểm mở đầu. Anh ta nhìn cô một lúc lâu không khỏi kinh ngạc, rồi quay trở về chỗ của mình và ngồi xuống, có một điều rất rõ ràng: Susan Fletcher đang làm một điều gì đó rất quan trọng, chứ không phải là cách giải mã quái quỷ gì đó.

Xem tiếp chương 28

Chương 28

Senor Roldan ngồi sau chiếc bàn làm việc của mình ở trung tâm Escortes Belen, đang rất hài lòng với bản thân vì đã khôn khéo chặn một âm mưu đáng khinh bỉ của cảnh sát nhằm bẫy anh ta. Một nhân viên giả mạo giọng Đức để yêu cầu một cô gái cho một đêm, đúng là một cái bẫy. Không biết bọn họ còn nghĩ ra trò gì nữa đây.

Điện thoại trên bàn bỗng reo chuông. Senor Roldan tự tin cầm lấy ống nghe.

- Buenas noches, Escortes Belen.

- Xin chào buổi tối - Người bên kia đáp lại bằng một giọng Tây Ban Nha hơi nhanh. Anh ta nói giọng mũi, giống như hơi bị cúm - Đây có phải là khách sạn không?

- Không, thưa ngài, số điện thoại ngài vừa gọi là số nào thưa ngài - Senor Roldan không muốn rơi vào một cái bẫy lần nữa trong tối hôm nay.

- 34 62-10 - người bên kia trả lời.

Roldan tức giận. Giọng nói này nghe rất quen. Anh ta đang cố nhớ xem - có thể là người vùng Burgos chăng?

- Ngài đã bấm đúng số thưa ngài - Roldan tò mò - Nhưng đây là dịch vụ bạn đồng hành.

Bên kia ngừng một lúc.

- Ồ... tôi hiểu. Tôi xin lỗi. Có ai đó viết số điện này xuống, tôi nghĩ đó là số điện khách sạn. Tôi đang thăm quan khu vực này, từ Burgos đến. Xin lỗi đã làm phiền anh. Chúc buổi tối...

- Espere! Xin đợi một lát - Senor Roldan không thể ngăn mình được; bản năng săn tiền trong anh ta trỗi dậy. Đây có thể là người mới đến? Một khách hàng từ miền Bắc? Anh ta không thể để sự hoài nghi của mình làm tụt doanh số kinh doanh.

- Anh bạn - Roldan nói - Tôi nhận ra giọng vùng Burgos của anh bạn rồi. Tôi cũng từ Valentica đây. Cái gì đã đưa anh bạn đến với Seville vậy?

- Tôi bán đồ trang sức. Ngọc trai Majorica.

- Majorica! Thật chứ! Chắc anh đi rất nhiều nơi?

Giọng bên kia ho hung hắng.

- Ô, vâng, đúng thế.

- Anh đến Seville vì công việc à - Roldan nhấn mạnh. Không còn nghi ngờ gì nữa, người này không phải là cảnh sát. Anh ta còn là khách sộp chẳng biết chừng - Để tôi đoán xem - một người bạn đưa cho anh số của chúng tôi? Anh ta nói với anh hãy gọi cho chúng tôi. Đúng vậy không?

Giọng bên kia rõ ràng hơi bối rối.

- Ô, thực ra không hẳn là như thế.

- Không có gì phải ngượng cả, Senor. Chúng tôi là dịch vụ bạn đồng hành. Không có gì xấu hổ cả. Những cô gái đáng yêu, bữa tối, chỉ vậy thôi. Ai đưa cho anh số điện thoại của chúng tôi vậy? Có lẽ anh ta là khách hàng thường xuyên. Tôi có thể giảm giá cho anh khá đấy!

Giọng bên kia hơi bối rối.

- Ah... thực ra không có ai đưa cho tôi số điện thoại này cả. Tôi nhìn thấy nó trong một tấm hộ chiếu. Tôi đang cố tìm chủ nhân của nó.

Tim Roldan trùng xuống. Người đàn ông này không phải là khách hàng.

- Anh vừa nói là anh tìm thấy số điện thoại này phải không?

Đúng vậy, tôi tìm thấy trong công viên. Số của anh được viết trong một tờ giấy kẹp bên trong. Tôi nghĩ có thể đó là số điện thoại khách sạn của anh ta. Tôi định trả lại hộ chiếu cho anh ta: Xin lỗi. Tôi sẽ gửi chuyển cho cảnh sát trên đường đến...

- Perdon - Roldan ngắt lời ngay - Tôi có một ý hay hơn - Roldan rất tự hào về sự nhanh nhạy của mình. Đến cảnh sát ở Guardia có nghĩa là anh ta bị mất một khách hàng.

- Thử cách này xem - Anh ta gợi ý - Vì người chủ tấm hộ chiếu đó có có điện thoại này nên anh ta chắc là khách hàng ở của chúng tôi. Có lẽ anh sẽ khỏi phải đến đồn cảnh sát.

Giọng bên kia lưỡng lự.

- Tôi không biết. Có lẽ tôi nên...

- Đừng vội vàng anh bạn. Tôi thật xấụ hổ phải thú thật với anh rằng cảnh sát ở Seville không hoạt động hiệu quả như ở miền Bắc đâu. Cho tôi tên của anh ta đi. Tôi có thể giúp anh ta lấy lại được hộ chiếu ngay lập tức.

- Vâng,... Tôi nghĩ là không có vấn đề gì... - Tiếng vài tờ giấy được lật, và giọng nói cất lên - Đó là tên tiếng Đức. Tôi không biết phát âm từ đó... Gusta... Gustafson?

Roldan không nhận ra cái tên đó. Nhưng khách hàng của anh ở khắp nơi trên thế giới. Họ không bao giờ để lại tên thật.

- Ông ta trông như thế nào, trong ảnh ấy? Có lẽ tôi có thể nhận ra ông ta chăng?

- Oh...- Giọng nói cất lên - Khuôn mặt ông ta rất rất béo.

Roldan lập tức nhận ra ngay người này. Anh vẫn nhớ khuôn mặt phì nộn đó. Đó là người cặp với Rocio. Thật tồi tệ. Có hai cuộc gọi về tên người Đức này trong một đêm.

- Ông Gustafson - Roldan cố cười mỉm.

- Tất nhiên, tôi biết rất rõ người này. Nếu anh mang hộ chiếu đến đây, tôi sẽ chuyển cho anh ta.

- Tôi không có xe ô tô - Giọng nói cắt ngang - Hay là anh nên đến chỗ tôi?

- Thực ra... - Roldan nói nước đôi - Tôi không thể rời máy điện thoại được. Nhưng nếu không quá xa, nếu anh có thể...

- Tôi xin lỗi, muộn quá rồi. Có một sở cảnh sát ở gần đây. Tôi sẽ ghé vào đó. Vậy nếu anh gặp ông Gustafson, nhờ ông nhắn lại cho ông ấy tên đồn cảnh sát cũng được.

- Không, xin đợi một chút! - Roldan kêu lên - Cảnh sát không can phải tham gia vào việc này. Anh nói là anh đang trên đường vào thành phố đúng không? Anh có biết khách sạn Alfonso XIII không? Đó là khách sạn xịn nhất thành phố.

- Có, tôi biết - Giọng nói trả lời - Tôi biết khách sạn Alfonso XIII. Gần đây thôi!

- Tuyệt vời! Tối nay ông Gustafson là khách ở đó. Có thể ông ta vẫn còn ở đó.

Giọng nói lưỡng lự.

- Tôi hiểu,... tôi cho là không vấn đề gì.

- Tuyệt vời! Ông ấy đang dùng bữa với một trong những người đồng hành của chúng tôi trong nhà hàng của khách sạn đó - Roldan biết có thể bây giờ hai người đó đang ở trên giường. Nhưng anh ta cần phải cẩn thận không làm mất lòng khách hàng phật ý - Chỉ cần đưa hộ chiếu cho nhân viên bảo vệ, tên anh ta là Manuel. Nói với anh ta là tôi cử anh đến. Yêu cầu anh ta chuyển nó cho Rocio. Tối nay Rocio là bạn đồng hành của ông Gustafson. Cô ấy sẽ đưa hộ chiếu cho ông ta. Anh có thể ghi lại tên và địa chỉ - có lẽ ông Gustafson sẽ gửi lởi cảm ơn đến anh.

- Một ý kiến hay. Khách sạn Alfonso XllI. Rất tốt. Tôi sẽ đến đó ngay bây giờ. Cảm ơn anh đã giúp đỡ!

David Becker gác máy - Alfonson XIII. - Anh cười thầm - Chỉ cần biết cách hỏi thôi.

Một lúc sau, một bóng đen lặng lẽ theo sau Becker trên đường Calle Delicias hòa mình vào ban đêm tĩnh lặng ở Andalusian.

Xem tiếp chương 29

Chương 29

Vẫn còn thấy khó chịu vì cuộc chạm trán với Hale, Susan đưa mắt qua những bức tường kính của Node 3. Crypto vắng trơn, Hale giờ đã chịu yên và có vẻ rất chăm chú với công việc của mình. Susan ước gì không phải nhìn thấy mặt anh ta ở đây.

Cô tự hỏi có nên gọi cho Strathmore hay không. sếp có thể sẽ giúp cô tống cổ anh ta đi, dẫu sao thì rõ ràng anh ta cũng chẳng có lý do gì mà lại có mặt ở đây vào ngày thứ bảy cả. Tuy nhiên, Susan cũng hiểu nếu như bị đuổi ra ngoài vô cớ chắc chắn Hale sẽ nghi ngờ. Và anh ta có thể sẽ dò hỏi các mật mã viên khác xem có chuyện gì. Cuối cùng cô quyết định cứ mặc kệ Hale, cô nghĩ nếu không có việc gì quan trọng chắc anh ta cũng sẽ sớm rời khỏi chỗ này.

Một thuật toán không giải nối. Susan thở dài, cô lại nghĩ đến Pháo Đài Số. Đến giờ cô vẫn không tin được rằng con người có thể nghĩ ra một thuật toán phức tạp đến thế, nhưng bằng chứng đã rõ ràng, TRANSLTR hoàn toàn vô hiệu trước Pháo Đài Số.

Susan chợt nghĩ đến Strathmore, ông đối mặt với thảm họa này một cách thật can trưởng. Làm tất cả những gì cần thiết và vẫn rất bình tĩnh.

Đôi khi Susan cảm nhận được một phần tính cách của David trong con người Strathmore, họ đúng là có nhiều điểm tương đồng, cả hai đều rất kiên trì, sống hết mình, và thông minh. Đã có lúc Susan nghĩ rằng nếu không có cô có lẽ Strathmore đã đi chệch hướng, chính niềm say mê thuần khiết mà cô dành cho ngành mật mã đã giúp ông giữ vững được con đường mà mình đang đi, giúp ông vượt lên trên những cám dỗ của đời sống chính trị đầy sóng gió và luôn gợi cho ông nhớ về những ngày đầu tiên khi ông còn là một nhân viên giải mã.

Bù lại, Susan cũng nhận thấy cô có thể trông cậy vào Strathmore, ông che chở cho cô trong cái thế giới mà con người như phát điên phát cuồng vì quyền lực này, ông nâng đỡ cô trong công việc, bảo vệ cô và, như chính ông vẫn thường đùa: biến những giấc mơ của cô thành hiện thực. Cô không đơn thuần coi đó là những lời nói đùa, cô biết đó là sự thật, chẳng phải ông chính là người đã gọi điện mời David Becker đến với NSA vào buổi chiều định mệnh đó sao? Ý nghĩ của cô lại hướng về David, một cách bản năng, cô đưa mắt nhìn cái giá nhỏ bên cạnh bàn phím vi tính. Có một bản fax nhỏ được đính ở đó.

Bản fax này được đính vào đó từ khoảng bảy tháng trước, đó là bản mật mã duy nhất mà cho đến nay Susan vẫn chưa tài nào giải được. Bản fax đó là của David, cô đã đọc đi đọc lại cả trăm lần.

PLEASE ACCEPT THE HUMBLE FAX

(Xin em hãy nhận bản fax này như lời xin lỗi)

MY LOVE FOR YOU IS WITHOUT WAX

(Tình yêu anh dành cho em sẽ không có chỗ cho bất cứ sự giận dỗi nào nữa)

Anh gửi cho cô bản fax này sau khi hai người có một trận cãi nhau nho nhỏ. Trong suốt mấy tháng ròng, cô đã xin anh giải mã ý nghĩa của nó, nhưng anh đều từ chối. Without Wax (không có chỗ cho bất cứ sự giận dỗi nào nữa), rõ ràng là anh đang trêu lại cô.

Trước đây, Susan đã hướng dẫn cho David khá nhiều về việc giải mãi và để trêu anh cô đã dùng các phương pháp đơn giản để mã hóa tất cả những thông điệp giữa hai người từ danh mục hàng hóa khi đi chợ cho đến những lời lê yêu đương. Và dần dần, David đã trở thành một mật mã viên khá xuất sắc. Rồi David quyết định đáp lễ cho Susan, anh bắt đầu bằng cách ký dưới tất cả các bức thư anh gửi cho cô dòng chữ đó: "Without Wax (không có chỗ cho bất cứ sự giận dỗi nào nữa), David". Susan nhận được rất nhiều những bức thư như vậy của David, chúng đều được kết thúc theo cùng một cách như vậy. Mặc cho cô gạn hỏi ra sao anh cũng không giải thích, khi nào cô thắc mắc anh chỉ cười và nói: "Em là một chuyên gia mật mã mà".

Cô, một chuyên gia hàng đầu của NSA, đã thử mọi cách có thể từ các phép thế, các hộp mã hóa đến các phép đảo chữ cái. Cô đã thử cho cụm từ "Without Wax" (không có chỗ cho bất cứ sự giận dỗi nào nữa) vào chạy trong máy vi tính, đặt lệnh tái sắp xếp các chữ cái nhằm tạo ra các cụm từ mới. Nhưng tất cả những gì cô nhận được là dòng chữ "TAXI HUT WOW" (xe taxi-Túp lều- Oa). Bây giờ thì cô tin chắc là không chỉ có Ensei Tankado mới có thể viết ra những dòng mã không thể giải nổi.

Ý nghĩ của cô bị gián đoạn bởi tiếng mở cửa, Strathmore bước vào.

- Susan này, đã tìm được điều gì chưa? - Strathmore nhìn thấy Greg Hale, ông dừng ngay lại.

- Ô, chào anh Hale! - ông cau mày, đôi mắt hơi nhíu lại - Làm việc vào thứ Bảy? Lý do của hành vi đáng biểu dương này là gì thế?

Hale cười :

- Tôi chỉ cố gắng hoàn thành phần việc của mình thôi!

- Tôi thấy rồi! - Strathmore hạ giọng, rõ ràng là ông đang cân nhắc cái gì đó. Chỉ sau một thoáng, ông như đã quyết định sẽ không đả động gì đến Hale nữa, quay sang Susan ông nói - Cô Fletcher, tôi có thể nói chuyện với cô một lát ở ngoài không?

Susan hơi bối rối.

- À... vâng, thưa sếp! - Cô liếc mắt qua màn hình vi tính của mình rồi rảo bước đi qua chỗ Greg Hale - Sếp đợi một chút.

Chỉ với một vài thao tác trên bàn phím, cô đã khởi động chương trình Screenlock (Khóa màn hình), đây là một tiện ích bảo mật trên máy vi tính. Tất cả các máy tính tại Node 3 đều được cài đặt tiện ích này. Do các máy tính tại đây luôn phải hoạt động liên tục cả ngày,

Screenlock giúp các mật mã viên có thể yên tâm rời máy mà không sợ bị ai đụng đến các file được lưu trên máy của họ. Susan nhập một mật mã gồm 5 ký tự và ngay lập tức màn hình máy tính của cô chuyển sang màu đen. Nó sẽ chỉ có thể trở lại hoạt động như cũ nếu Susan quay lại và nhập đúng mật mã mà cô đã cài đặt.

- Anh ta làm cái quái gì ở đấy thế - Strathmore hỏi ngay khi Susan vừa bước ra khỏi Node 3.

- Như thường lệ, chẳng làm gì cả - Susan trả lời.

Strathmore trông có vẻ khá lo ngại :

- Anh ta có thắc mắc gì về TRANSLTR không?

- Không đâu, nhưng nếu anh ta tiếp cận Run-Monitor và phát hiện ra con số 17giờ thì nghĩ kiểu gì cũng sẽ thắc mắc.

Strathmore cân nhắc :

- Anh ta không có lý do gì để tiếp cận Run Monitor cả!

Susan nhìn sếp.

- Ông muốn tống Hale khỏi đây à?

- Không, cứ mặc anh ta! - Strathmore liếc mắt về phía phòng An ninh hệ thống - - Chartrukian đã về chưa?

- Tôi không rõ, tôi không thấy anh ta đâu cả!

- Lạy chúa! - Strathmore bực bội - Chẳng khác gì một gánh xiếc.

Ông đưa tay lên xoa cằm, sau mấy chục giờ không cạo râu khuôn mặt ông bây giờ như sạm đi râu ria lởm chởm.

- Chương trình tìm địa chỉ có phát hiện được gì không? Tôi như ngồi trên đống lửa rồi đấy!

- Chưa có gì cả, ông có tin của David không?

Strathmore lắc đầu :

- Tôi đã yêu cầu cậu ấy không liên lạc gì cho đến khi lấy được chiếc nhẫn.

Susan ngạc nhiên :

- Tại sao lại không? Nhỡ ra anh ấy cần được giúp đỡ thì sao?

Strathmore nhún vai :

- Tôi không thể ngồi đây mà giúp cậu ta được cậu ta phải tự xoay sở thôi, mà tôi cũng không muốn nói chuyện qua điện thoại vì rất dễ bị nghe trộm.

Susan mở to mắt chú ý :

- Nghĩa là sao ạ?

Strathmore cảm thấy mình đã nhỡ mồm, ông cười xòa an ủi Susan. David vẫn ổn mà, tôi chỉ muốn cẩn thận một chút thôi.

Cách chỗ hai người nói chuyện khoảng vài chục bước chân, sau bức tường kính mầu của Node 3, Greg Hale đang đứng cạnh máy vi tính của Susan. Màn hình vẫn toàn một màu đen. Hale để mắt chú ý theo dõi Strathmore và Susan, rồi anh ta đưa tay vào ví rứt ra một tấm thẻ và đọc nó.

Nhìn lại, biết chắc Strathmore và Susan vẫn đang nói chuyện Hale cẩn thận gõ năm ký tự trên bàn phím máy tính của Susan, chỉ thoáng một lát màn hình hoạt động trở lại.

- Chuyện nhỏ! - Hale cười thầm.

Việc ăn trộm mật khẩu của các máy tính trong Node 3 thực sự quá đơn giản với Hale. Tại Node 3, tất cả các máy tính đều được trang bị cùng một loại bàn phím có thể dễ dàng tháo lắp. Một buổi tối Hale đã mang bàn phím của mình về nhà và cài vào đó một con chip điện tử có khả năng lưu lại tất cả các thao tác trên bàn phím.

Sáng hôm sau, anh ta chỉ cần đến sớm một chút, tráo đổi bàn phím của mình và bàn phím trên máy người khác và chờ đợi. Hết ngày làm việc, Hale lắp lại như cũ và xem xét những dữ liệu con chip ghi lại. Mặc dù có đến hàng triệu thao tác trên bàn phím đã được lưu lại nhưng việc tìm ra mật mã truy nhập thực sự rất đơn giản. Thông thường, thao tác đầu tiên của bất cứ mật mã viên nào cũng là nhập mật khẩu để truy cập máy tính của họ. Việc này hiển nhiên giúp công việc còn lại của Hale vô cùng nhàn hạ, mật khấu chính là 5 ký tự đầu tiên được lưu lại.

Buồn cười thật, Hale nghĩ vậy khi nhìn vào màn hình của Susan. Anh ta ăn cắp mật khẩu của cô chỉ để cho vui, nhưng bây giờ sau khi đã thành công anh ta cảm thấy rất vui, chương trình đang chạy trên máy của Susan có vẻ khá là quan trọng.

Hale trải qua một thoáng lúng túng, chương trình này được viết bằng ngôn ngữ lập trình LIMBO - thứ này anh ta không am hiểu cho lắm. Nhưng chỉ cần nhìn thoáng qua là Hale đã có thể chắc chắn một điều - đây không phải là một chương trình chẩn đoán.

Anh ta nhận ra điều đó chỉ nhờ có hai từ, hai từ là quá đủ.

TRACER SEARCHING

(Chương trình đang tìm kiếm)

- Tracer (Phần mềm tìm kiếm) à - Hale tự hỏi - Nó đang tìm kiếm cái gì vậy nhỉ - Anh ta đột nhiên cảm thấy khó hiểu. Sau khi ngồi một lát quan sát thật kỹ những gì hiện trên màn hình của Susan anh ta quyết định hành động.

Kiến thức vừa đủ của Hale về ngôn ngữ lập trình LIMBO giúp anh ta hiểu rằng nó được cấu thành từ hai ngôn ngữ lập trình khác- C và Pascal, cả hai ngôn ngữ này Hale nắm chắc như lòng bàn tay.

Ngoái đầu lại kiểm tra, sau khi biết chắc Strathmore và Susan vẫn đang nói chuyện ở ngoài, Hale bắt đầu thế hiện. Anh nhập một vài lệnh viết bằng ngôn ngữ Pascal rồi bấm phím RETURN (phím TRỞ LẠI). Cửa sổ trạng thái của Tracer phản hồi ngay, đúng như mong muốn.

TRACER ABORT?

(Hủy chương trình?)

Anh ta nhanh chóng đánh: YES (Đồng ý)

ARE YOU SURE?

(Bạn có chắc chắn không?)

Anh ta đánh lại một lần nữa: YES (đồng ý)

Chỉ một thoáng sau, máy vi tính kêu một tiếng Bíp.

TRACER ABORTED

(Chương trình đã bị hủy)

Hale mỉm cười: máy tính đã phát ra thông điệp yêu cầu chương trình Tracer mà Susan đang chạy phải ngưng hoạt động giữa chừng và thế là cho dù Susan có tìm kiếm cái gì thì cô cũng sẽ phải đợi.

Cẩn thận không muốn để lại dấu vết, rất chuyên nghiệp, Hale truy nhập vào bản ghi nhớ các thao tác trên máy của Susan, xóa toàn bộ các lệnh anh ta đã nhập, sau đó nhập lại mật khẩu bảo vệ cho máy tính.

Màn hình máy tính lại chuyển sang toàn một màu đen.

Khi Susan Fletcher trở lại Node 3, Greg Hale đã yên vị tại máy vi tính của mình.

Xem tiếp chương 30

Chương 30

Alfonso XIII là một khách sạn 4 sao tương đối nhỏ, nằm lọt thỏm phía sau khách sạn Puerta de Jerezl. Bao quanh khách sạn là một hàng rào sắt khá kiểu cách nhưng hơi dày với những bụi câỵ đinh hương. David bước lên bậc thềm lát đá cẩm thạch của khách sạn.

Khi anh đến cửa ra vào, cửa tự mở như có phép màu, rồi một nhân viên xuất hiện.

- Thưa ngài, tôi có thể mang giúp hành lý cho ngài không?

- Không, cảm ơn, tôi muốn gặp người phụ trách.

Anh chàng phục vụ thoáng tự ái, dường như giây gặp gỡ vừa qua với vị khách này làm anh ta cảm thấy không hài lòng cho lắm.

- Phía này, thưa ông! - Anh chàng liền dẫn David vào tiền sảnh, chỉ tay về chỗ người phụ trách rồi nhanh chóng quay ra ngoài.

Tiền sảnh của khách sạn được xây dựng khá kiểu cách, tuy hơi nhỏ nhưng thiết kế rất trang nhã. Đúng là thời kỳ hoàng kim của đất nước Tây Ban Nha này chỉ còn là dĩ vãng, nhưng ai cũng biết vào giữa năm 1600, đất nước nhỏ bé này đã từng thống trị gần như cả thế giới. Khu vực tiền sảnh mà chúng ta đang nói đến đây có thể được coi như một minh chứng hùng hồn của thời kỳ rực rỡ đó với những bộ giáp trụ, những bức phù điêu mang phong cách nhà binh và cả một tủ trưng bày những thỏi vàng được mang về từ Tân Thế Giới.

David tiến lại một chiếc quầy với dòng chữ nhân viên PHỤC VỤ, trước mặt anh là một nam nhân viên gọn gàng chải chuốt, anh ta cười vô cùng thân thiện :

- Tôi cố thể giúp gì cho quý ông?

Giọng của anh chàng này có vẻ hơi ngọng một chút, nhưng anh ta cũng đã tranh thủ ngắm kỹ một lượt từ đầu đến chân Becker.

Becker trả lời bằng tiếng Tây Ban Nha.

- Tôi muốn nói chuyện với anh Manuel.

Khuôn mặt cháy nắng của anh chàng này trở nên rạng rỡ hơn.

- Vâng, thưa ông. Vâng, tôi là Manuel đây, tôi có thể biết quý ông cần gì không?

- Ông Roldan ở Escortes Belen có nói với tôi rằng anh sẽ...

Người phục vụ liền đưa tay ra hiệu cho David im lặng, anh ta đưa mắt thận trọng quan sát lại toàn bộ tiền sảnh.

- Ông đi ra đây với tôi! - Anh ta dẫn Becker ra phía cuối quầy và tiếp tục nói nhưng giọng chỉ thì thà thì thầm - Nào, bây giờ thì tôi giúp được gì cho ông?

Becker hạ giọng nói :

- Tôi cần nói chuyện với một người quen của ông ấy mà tôi biết chắc là người đó đang ăn tối ở đây, tên cô ta là Rocio.

Anh chàng phục vụ thở phào khoan khoái :

- À, Rociol cô nàng xinh đẹp.

- Tôi cần gặp cô ta ngay lập tức.

- Nhưng ông ạ, cô ta đang đi khách!

Becker lắc đầu không khoan nhượng :

- Việc này rất hệ trọng, anh nên biết, đây là vấn đề an ninh quốc gia.

Người phục vụ từ chối :

- Không thể được, có lẽ ông nên để lại...

- Việc này chỉ một lát là xong thôi mà, có phải cô ta đang trong phòng ăn không?

Người phục vụ lắc đầu :

- Chúng tôi đóng cửa phòng ăn nửa tiếng rồi, tôi sợ là cô nàng và khách đang vui vẻ rồi. Nếu ông để lại một lời nhắn, tôi chắc chắn sẽ chuyển đến tay cô nàng vào sáng mai. - Anh chàng liền đưa tay về phía mấy chiếc hộp có đánh số ở sau lưng.

- Liệu tôi có thể gọi phòng cô ta và...

- Tôi rất tiếc! - Người phục vụ cứng giọng, sự lịch thiệp ban đầu như tan biến - Khách sạn Anfonso XIII chúng tôi luôn rất tôn trọng chuyện riêng tư của khách hàng.

Becker bực mình, rõ ràng là anh không có ý định sẽ ngồi lại đây 10 tiếng đồng hồ chờ cho đến khi gã béo và con điếm đó xuống ăn sáng.

- Tôi hiểu! - Anh nói - Xin lỗi đã làm phiền anh!

Anh quay lại tiền sảnh, bước thẳng đến chiếc bàn nắp cuộn xinh xắn mà anh bắt gặp lúc đi vào. Trong chiếc bàn có đựng rất nhiều thiệp của khách sạn Anfonso XIII, có cả bút và phong bì thư. Becker cho vội một tấm thiệp vào bì thư và viết bên ngoài mấy chữ. "ROCIO". Sau đó anh trở lại chỗ người phục vụ.

- Xin lỗi làm phiền anh lần nữa! - Becker nói tỏ vẻ hơi ngượng ngùng - Tôi biết anh có thể cho là tôi không bình thường, nhưng tôi chỉ muốn tâm sự mấy câu với cô nàng về những khoảnh khắc vui vẻ khó quên mấy hôm trước thôi mà. Có lẽ tôi đành phải để lại lời nhắn vậy! - Becker liền đặt chiếc phong bì lên quầy.

Anh chàng phục vụ nhìn chiếc phong bì và cười thầm. Lại một gã si tình, đúng là rỗi hơi. Anh ta ngước lên và mỉm cười - Tất nhiên rồi thưa ông...?

- Buisan! - Becker đáp lại - Miguel Buisan.

- Tôi bảo đảm cô nàng sẽ nhận được lời nhắn của ông vào sáng mai.

- Cảm ơn! - Becker mỉm cười và quay trở ra.

Sau khi đã chắc chắn là Becker đã quay lưng đi ra, người phục vụ liền nhặt phong bì lên và quay lại phía những chiếc hộp có đánh số ở trên tường. Đúng lúc người phục vụ đưa phong bì vào chiếc hộp cần thiết, Becker ngoái lại thăm dò lần cuối.

- Tôi có thể kiếm một chiếc taxi ở đâu được nhỉ?

Người phục vụ quay lại trả lời nhưng Becker đâu có để ý đến lời nói của anh ta. Khoảnh khắc đó quá đủ để Becker nhận ra anh chàng vừa dời tay ra khỏi chiếc hộp có dòng chữ Phòng 301.

Becker cảm ơn anh chàng phục vụ rồi thong thả rảo bước tìm đến chỗ thang máy.

Vào nhanh rồi ra nhanh, anh lẩm bẩm với chính mình.

Xem tiếp chương 31

Chương 31

Susan quay trở lại Node 3. Cuộc trò chuyện với Strathmore làm cô cảm thấy mỗi lúc một lo lắng cho sự an toàn của David. Những suy nghĩ vu vơ làm cô cảm thấy rất bất an.

Ái chà, ông Strathmore muốn gì đấy? Chắc là một buổi tối lãng mạn với cô nhân viên xuất sắc nhất của mình rồi, đúng không nào?

Susan bỏ ngoài tai lời bình phẩm đó của Hale và ngồi xuống bên cạnh chiếc máy vi tính của mình. Cô nhập mật khấu và chiếc màn hình sáng trở lại. Chương trình tìm kiếm Tracer đã hiện ra, vẫn chưa có thông tin gì về North Dakota.

- Chán quá, Susan nghĩ, sao lại lâu thế nhỉ?

- Sao bực bội thế - Hale giả vờ ngây ngô - Chương trình chẩn đoán có trục trặc à?

Không có gì - Susan trả lời, nhưng cô hoàn toàn không chắc chắn một chút nào, rõ ràng là Tracer chạy quá chậm. Cô tự hỏi không biết mình có mắc lỗi nào khi viết chương trình này không.

Susan đưa mắt dọc theo những dòng lệnh của ngôn ngữ lập trình UMBO đang hiện trên màn hình, cố tìm xem có thấy gì bất ổn không Hale lén lút để ý xem cô đang làm gì.

- Này, tôi muốn hỏi... - anh ta thăm dò - Liệu cô có biết gì về thuật toán không có thuật giải mà Ensei Tankado nói rằng anh ấy đang viết không?

Giật mình, Susan ngước lên hỏi lại :

- Thuật toán không có thuật giải - Cô nói dối - À, tôi nghĩ là đã nghe thấy ở đâu đó rồi.

- Một điều không tưởng đúng không?

Susan tự hỏi tại sao tự nhiên Hale lại đề cập đến chuyện này.

- Ai cũng biết một thuật toán không có thuật giải là điều không thể có thật trên đời.

Hale cười :

- À ừ...Theo định lý Bergofsky chứ gì.

- Đó là điều hiển nhiên - cô đáp lời.

- Ai mà biết được... - Hale thở dài - Cả thiên đàng làm đều phức tạp hơn ta tưởng!

- Anh nói gì vậy?

- Trích Shakespeare - Hale đáp - Kịch Hamlet đấy!

- Lúc ngồi tù chắc anh đọc không ít nhỉ?

Hale cười khừng khục :

- Nghiêm tức nhé Susan, cô có bao giờ nghĩ chuyện đó là thật không? Có thể Tankado đúng là đã viết ra một thuật toán không có thuật giải lắm chứ.

Susan có vẻ cảm thấy hơi bí trước những lời này :

- À, chúng ta còn không thể làm được việc đó nữa là?

- Biết đâu Tankado giỏi hơn chúng ta thì sao?

- Ừ cũng không thể - Susan nhún vai giả bộ không quan tâm.

- Chúng tôi ngày trước hay viết thư cho nhau lắm - Hale nói có vẻ vu vơ - Takando và tôi, cô biết chứ?

Susan ngước lên, cô cố gắng che giấu sự kinh ngạc của mình.

- Thế hả?

- Ừ, sau khi tôi giải mã được thuật toán Skipjack, anh ta có viết thư cho tôi, anh ta nói thế này: "Chúng ta là những chiến hữu trong trận tuyến duy trì tính bảo mật trong thế giới kỹ thuật số".

Suýt nữa Susan không giấu nổi vẻ ngờ vực của mình. Hale có quan hệ cá nhân với Tankado! Cô cố hết sức tỏ vẻ không quan tâm.

Hale nói tiếp :

- Anh ta chúc mừng tôi vì đã chứng minh được Skipjack có lỗ hổng - anh ta cho rằng đó là một chiến công phi thường củng cố quyền lợi bảo mật của người dân trên toàn thế giới. Cô cũng sẽ thừa nhận điều đó đúng không Susan? Kẽ hở của Skipjack thực ra là một trò ba que xỏ lá.

- Có kẻ nào đó muốn đọc thư điện tử của cả thế giới này ư?

- Nếu cô hỏi thì tôi sẽ nói thẳng, Strathmore đáng bị tống vào tù.

- Greg! - Susan bất chợt lên tiếng giận dữ - Anh nên biết kẽ hở đó tồn tại là vì nó giúp NSA có thể giải mã những bức thư điện tử có khả năng đe dọa an ninh của đất nước này.

- Vậy à? - Hale thở dài rồi ra vẻ ngây thơ hỏi lại - Vậy chuyện nhúng mũi vào những thông tin cá nhân của người khác chỉ là việc tình cờ thôi sao?

- Chúng ta không động chạm gì vào thông tin cá nhân của người khác, chắc anh biết rõ điều đó. Như bên FBI chẳng hạn, họ có thể nghe trộm điện thoại, nhưng điều đó không có nghĩa là họ đã nghe hết tất cả các cuộc gọi của người dân.

- Nếu họ có đủ người, tôi dám chắc họ sẽ không từ chối đâu.

Susan bỏ qua lời bình phẩm đó.

- Mọi chính phủ đều được quyền thu thập những thông tin có thể gây ảnh hưởng đến lợi ích của số đông công dân của mình.

- Lạy chúa! - Hale thở dài - Hình như cô bị Strathmore tẩy não thực sự rồi. Cô thừa biết ngay cả FBI cũng không thể thích nghe trộm cái gì thì nghe, họ cần phải có giấy phép. Nhưng một hệ thống mã hóa có lỗ hổng sẽ đồng nghĩa với việc NSA có thể nghe trộm bất cứ ai, bất cứ lúc nào và bất cứ chỗ nào mà họ muốn.

- Đúng, và nên như thế - Giọng nói của Susan trở nên gay gắt - Nếu như không phải anh tiết lộ lỗ hổng của Skipjack thì chúng ta đã có thể giải mã được mọi thứ rồi, đâu phải dựa vào TRANSLRT như bây giờ.

- Nếu như tôi không tìm được lỗ hổng - Hale biện minh - thì ai đó khác cũng sẽ tìm ra, việc tôi tiết lộ chuyện đó cũng chỉ vì không muốn mọi người tiếp tục sai lầm mà thôi. Cô đã bao giờ nghĩ xem hậu quả sẽ ra sao nếu tin tức đó lọt ra ngoài khi Skipjack đã được tung ra thị trường chưa?

- Đằng nào cũng thế thôi! - Susan đáp trả - Bây giờ chúng ta đang bị một lũ hoang tưởng EFF nào đó chỉ trích là cố tình tạo ra các kẽ hở trong tất cả các thuật toán mà chúng ta viết ra.

Hale hỏi lại một cách tự mãn :

- À, thế sự thực không phải vậy sao?

Susan nhìn anh ta lạnh lùng.

- Này! - anh ta thêm vào - cô đã chế tạo TRANSLTR, bây giờ chẳng phải cô đã có được một nguồn thông tin vô tận sao? Cô có thể đọc được bất cứ thứ gì tại bất cứ thời điểm nào cô muốn mà không sợ kẻ nào thọc mạch. Cô thắng rồi còn gì nữa.

- Anh phải nói là chúng ta đã thắng chứ. Tôi vừa nghe anh nói rằng anh cũng là người của NSA mà.

- Không lâu nữa đâu! - Hale nói nhỏ nhẹ.

- Ôi, nói trước bước không qua đâu! - Susan nói kháy.

- Tôi nói thật đấy. Một ngày nào đó tôi cũng sẽ đi khỏi chỗ này.

- Thế cơ à.

Lúc này, Susan chỉ muốn nguyền rủa Hale về tất cả mọi chuyện không hay đã xảy ra, từ chuyện về Pháo Đài Số cho đến những vấn đề giữa cô và David rồi cả chuyện cô nhỡ chuyến đi đến Smokys, nhưng tất cả rõ ràng đâu phải lỗi của anh ta. Lỗi duy nhất của Hale là anh ta thực đáng ghét. Susan thấy mình cần phải bao dung độ lượng hơn. Là trưởng nhóm, cô cần duy trì được mối quan hệ và phải biết cách dẫn đạo người khác, đúng là Hale còn trẻ và quá ngây ngô.

Susan nhìn Hale, thật đáng tiếc, cô nghĩ. Rõ ràng Hale là một nhân tài tại Crypto, thế mà anh ta lại không thông suốt được những sứ mạng quan trọng mà NSA phải gánh vác.

- Greg này! - cô nói giọng đã nhẹ nhàng và điềm tĩnh trở lại. Hôm nay hình như tôi hơi căng thẳng một chút, vừa rồi tôi rất buồn khi nghe anh nói về NSA cứ như thể chúng ta là những kẻ chuyên sử dụng công nghệ cao để làm trò tồi tệ. Tổ chức của chúng ta được thành lập ra với một mục đích mà tôi nghĩ anh cũng biết đó là bảo vệ an ninh quốc gia. Công việc của chúng ta rõ ràng sẽ có lúc phải soi xét người này người kia, can thiệp vào những thông tin cá nhân của họ. Nhưng tôi nghĩ đa số người dân sẽ tán thành việc chấp nhận hy sinh một vài sự riêng tư nho nhỏ để tránh lọt lưới những thông tin nguy hiểm.

Hale im lặng.

- Sẽ có những lúc - Susan tiếp tục - những người dân của cái đất nước này cảm thấy họ cần phải đặt niềm tin của họ vào một nơi nào đó. Rõ ràng xã hội của chúng ta đa số là người tốt, nhưng anh cũng sẽ thấy không ít kẻ xấu lẩn khuất đâu đó. Phải có ai đó hiểu rõ được điều này và đứng ra gánh vác công việc tách bạch giữa cái xấu và cái tốt. Đó là nhiệm vụ của chúng ta, đó là trách nhiệm của chúng ta. Dù muốn hay không, chúng ta luôn phải thừa nhận một điều là chỉ có một ranh giới rất mong manh giữa tình trạng dân chủ và sự vô chính phủ, và chính NSA sẽ đóng vai trò như một giám sát viên đứng ở giữa ranh giới đó và đảm bảo sự tồn tại của ranh giới đó.

Hale gật đầu vẻ rất trầm tư.

- Quis custodiet ipsos custodies?

Susan bối rối.

- Tiếng La tinh đấy! - Hale tiếp lời - Có nghĩa là: Ai sẽ giám sát những giám sát viên đó?

- Tôi không hiểu? - Susan nói - Thế nghĩa là sao?

- Vâng, thế này nhé, chúng ta tự nhận mình là những người bảo vệ xã hội trước những kẻ nguy hiểm, vậy thì ai sẽ là người giám sát chúng ta và đảm bảo rằng chính chúng ta sẽ không trở thành những kẻ nguy hiểm?

Susan gật đầu, không biết nên trả lời ra sao.

Hale mỉm cười :

- Đó là câu nói mà Takando thường viết trong những bức thư anh ta gửi cho tôi. Đây là câu nói mà anh ta rất thích.

Xem tiếp chương 32

Chương 32

David Becker đứng ở hành lang trước cửa phòng 301. Anh biết chắc đâu đó sau cánh cửa bí mật kia là chiếc nhẫn mà anh đang tìm.

Vấn đề an ninh quốc gia.

Becker có thể nghe được tiếng động trong phòng. Có tiếng nói chuyện nhỏ dần nhỏ dần. Anh quyết định gõ cửa. Một thứ giọng Đức đặc sệt vọng ra.

- Ai đấy?

Becker im lặng.

- Ai đấy?

Cánh cửa mở ra và một khuôn mặt Đức phì nộn hơi cúi xuống nhìn anh.

Becker cười nhã nhặn. Anh không hề biết tên gã người Đức này.

Anh hỏi :

- Ông có phải người Đức không?

Người đàn ông gật đầu, hơi hoang mang.

Becker tiếp tục nói với một giọng Đức chuẩn hoàn hảo.

- Tôi có thể nói chuyện với ông một lát được không?

Người đàn ông tỏ vẻ khó chịu.

- Anh cần gì?

Becker bây giờ mới nhận ra đáng nhẽ anh phải nghĩ đến tình huống này trước: không có lý do gì mà lại gõ cửa một người không quen biết. Anh cố tìm ra những lời thích hợp.

- Ông đang giữ một vật mà tôi cần.

Rõ ràng là những lời này của anh chẳng phù hợp chút nào. Mặt gã người Đức nhăn lại.

- Ông đang giữ một cái nhẫn.

- Cút ngay! - gã người Đức gầm lên. Hắn đóng cửa lại. Không kịp suy nghĩ, Becker đưa bàn chân vào giữa khe cửa, cánh cửa không khép lại được. Ngay lập tức anh thấy tiếc vì đã hành động như vậy.

Mắt gã người Đức trợn trừng. Hắn gào lên :

- Làm cái gì thế hả?

Becker biết hắn đã phát điên rồi. Anh liếc mắt thật nhanh xem xét lại hành lang. Trước kia, anh đã từng bị người ta ném ra ngoài khi đang ở phòng khám bệnh. Anh không có ý định sẽ đọ tay đôi với hắn ta chút nào.

- Gã rống lên :

- Nhấc chân mày ra ngay!

Becker nhìn thoáng qua những ngón tay mập mạp của gã tìm xem có thấy chiếc nhẫn không. Không thấy.

- Chiếc nhẫn! - Becker nhắc lại đúng lúc cánh cửa đóng sầm lại trước mặt anh.

David Becker đứng như trởi trong một lúc lâu trong cái hành lang trang nhã trước căn phòng 301 đó. Bên cạnh anh là một bức tranh chép lại của tác giả Salvador Dali.

- Trùng hợp thật! - Becker lầm bầm. Đúng là siêu thực. Mình đang có một giấc mơ kỳ dị thì phải. Anh thức giấc trên chiếc giường của mình vào buổi sáng hôm đó vậy mà không hiểu sao bây giờ anh lại ở đây, ở giữa Tây Ban Nha, đập cửa làm phiền một kẻ hoàn toàn xa lạ trong khách sạn chỉ để tìm kiếm một chiếc nhẫn quái quỷ nào đó.

Lời của Strathmore đưa anh về với thực tại: "Cậu phải tìm thấy chiếc nhẫn đó".

Becker hít một hơi thật dài rồi phác họa ra những gì cần phải làm. Anh muốn về nhà. Nhìn lại cánh cửa phòng 301, Anh biết tấm vé giúp anh trở về nằm sau cánh cửa đó - cái nhẫn vàng. Tất cả những gì anh cần làm bây giờ là lấy được nó.

Anh thở mạnh ra, rồi rảo bước trở lại trước căn phòng 301. Anh gõ cửa thật mạnh, đến lúc phải thể hiện rồi đây.

Gã người Đức mở cửa, ngay khi hắn định phản kháng Becker đã chặn đứng hành động đó. Anh giơ ra thật nhanh tấm thẻ Hội viên câu lạc bộ Bóng Quần Maryland rồi hét lên :

- Polizei! Cảnh sát đây! - Tiếp đó, không chờ đợi, Becker đẩy cửa xông vào.

Ngạc nhiên, gã người Đức tròn mắt đứng như trời trồng lắp bắp :

- Thế này là...

- Im mồm! - Becker chuyển sang nói tiếng Anh.

- Anh đang chứa gái điếm trong phòng đúng không - Becker đảo mắt quan sát căn phòng. Nó cũng sang trọng như bất cứ căn phòng khách sạn nào anh đã từng nhìn thấy. Những bông hồng, sâm panh, một chiếc giường to có mái. Không thấy bóng dáng Rocio đâu. Cửa phòng tắm đang đóng kín.

- Gái điếm - Gã người Đức liếc mắt sợ sệt về phía cánh cửa phòng tắm đóng kín. Trông gã to hơn so với những gì Becker tưởng tượng. Dưới cái cổ ba ngấn của hắn là một bộ ngực đầy lông và dưới nữa là một cái bụng phệ ngoại cỡ. Đây lưng trên chiếc áo choàng tắm bằng vải bông của khách sạn Anfonso XIII đúng là cũng không đủ dài để có thể buộc quanh cái bụng ngoại cỡ của gã.

Becker lườm gã khổng lồ bằng một cái nhìn đầy đe doạ.

- Ông tên gì?

Một vẻ sợ hãi hiện ra trên khuôn mặt to béo của gã.

- Ông muốn gì vậy?

- Tôi là cảnh sát phụ trách khách du lịch ở Seville. Ông đang chứa gái điếm trong phòng phải không?

Gã người Đức nhìn một cách sợ sệt về phía cánh cửa phòng tắm. Gã lưỡng lự rồi thừa nhận :

- Vâng.

- Ông có biết đây là hành vi bất hợp pháp ở Seville không?

- Nein - Không... - Gã nói dối - Tôi không hề biết điều đó. Bây giờ tôi sẽ bảo cô ta về nhà ngay.

- Quá muộn rồi ông bạn ạ - Becker nói vẻ trịnh thượng - - Tôi có một đề nghị dành cho ông đây.

Gã người Đức hổn hển :

- Một đề nghị...

- Phải, hoặc là sẽ đưa ông về trụ sở cảnh sát ngay bây giờ...

Becker đột nhiên dừng lại, anh bẻ từng đốt ngón tay răng rắc.

- Hoặc là sao - Gã người Đức hỏi, mắt gã đầy vẻ sợ hãi.

- Hoặc là chúng ta sẽ làm một vụ trao đổi.

- Ông muốn trao đổi như thế nào - Gã đã từng được nghe vô khối chuyện về lũ cảnh sát tham nhũng ở Tây Ban Nha.

- Ông đang có một thứ mà tôi cần - Becker nói.

- À vâng, tất nhiên rồi! - gã thở pháo, nở một nụ cười gượng gạo. Ngay lập tức hắn với chiếc ví trên bàn ngủ.

- Thế ông muốn bao nhiêu?

Becker làm ra vẻ khinh bỉ :

- Ông định hối lộ người đang thi hành công vụ hả?

- Không! Tất nhiên là không rồi! Tôi cứ nghĩ là... - Gã béo nhanh chóng cất ví đi - Tôi...tôi... - Gã trở lên lúng túng. Hắn ngồi xụp xuống góc giường, vò hai bàn tay lo lắng. Chiếc giường như oằn xuống trước sức nặng của gã.

- Tôi xin lỗi.

Becker chậm rãi rút ra một bông hồng từ chiếc bình hoa đặt ở giữa phòng, anh đưa lên mũi ngửi thật thoải mái trước khi đột nhiên thả bông hoa rơi xuống sàn nhà. Anh đột nhiên chuyển hướng.

- Ông có thể cho tôi biết gì về vụ án mạng?

Mặt gã người Đức trở lên trắng bệch.

- Vụ án mạng ư?

- Phải, ông còn nhớ người đàn ông châu Á hồi sáng chứ? Ở trong công viên ấy, đó là một vụ ám sát - Ermordung!

Becker cảm thấy thích từ vụ ám sát trong tiếng Đức. Ennordung, nghe mới rùng rợn làm sao.

- Ermordung? Ông ta...ông ta đã bị...?

- Phải!

- Nhưng... không thể nào - Gã người Đức như nghẹn ứ trong cố họng. Tôi đã ở đó mà. Ông ta hình như chỉ bị một cơn đau tim thôi, chính tôi đã thấy, không có máu cũng chẳng có đạn.

Becker lắc đầu lạnh lùng.

- Mọi thứ không phải lúc nào cũng đúng như vẻ bề ngoài của chúng.

Mặt gã người Đức tái mét.

Becker cười thầm trong bụng. Câu chuyện anh bịa ra đã thực sự có tác dụng. Gã người Đức đáng thương sợ đến mức vã hết cả mồ hôi.

- A...a...anh muốn gì - Gã lắp bắp - Tôi có biết gì đâu.

Becker bắt đầu đi qua đi lại quanh gã.

- Người đàn ông bị giết lúc đó có đeo một chiếc nhẫn. Tôi muốn có chiếc nhẫn đó.

- Tôi... tôi không có chiếc nhẫn đó.

Becker tỏ vẻ bề trên, anh hất hàm ra phía cửa phòng tắm.

- Thế còn Rocio? Còn Dewdrop thì sao?

Khuôn mặt gã người Đức chợt chuyển từ tái mét sang trắng nhợt

- Ông biết Dewdrop - Gã liền đưa tay lên lau trán, chiếc tay áo bằng vải bông thấm đẫm mồ hôi. Gã đang định trả lời thì cánh cửa phòng tắm đột nhiên hé mở.

Hai người đàn ông đưa mắt nhìn.

Rocio Eva Granada đứng ở bệ cửa. Một mái tóc đỏ dài bồng bềnh, một làn da Iberian không chê vào đâu được, đôi mắt nâu sâu thăm thẳm, một gò trán cao tuyệt đẹp. Cô nàng mặc chiếc áo khoác tắm bằng vải bông cùng một loại với gã người Đức đang mặc. Sợi giải rút buộc khít bên hông, cổ áo trễ đễ lộ ra bộ ngực rám nắng.

Cô nàng bước vào phòng, đầy vẻ tự tin.

- Tôi giúp gì được anh nhỉ - cô nàng thốt ra một thứ tiếng Anh hơi khàn khàn.

Becker nhìn người đàn bà trước mặt không chớp mắt.

- Tôi cần chiếc nhẫn - Anh nói giọng lạnh lùng.

- Thế anh là ai - cô nàng vặn lại.

Becker chuyển sang dùng tiếng Tây Ban Nha với một âm giọng Andulusian đặc sệt.

- Cảnh sát.

Cô nàng bật cười rồi trả lời bằng tiếng Tây Ban Nha.

- Không thể nào.

Becker cảm giác cứng lưỡi. Rõ ràng Rocio cứng cơ hơn nhiều so với gã khách hàng của cô ả.

- Không thể - Anh nhắc lại, cố giữ thái độ lạnh nhạt - Liệu tôi có cần đưa cô về đồn để giúp cô tin không?

Rocio cười tự mãn.

- Tôi sẽ không làm khó cho anh như vậy đâu. Nào, nói xem anh là ai?

Becker vẫn kiên trì với vở kịch của mình.

- Cảnh sát Seville.

Rocio bước lại phía anh đầy hăm doạ.

- Tôi không lạ gì mấy gã cảnh sát vùng này. họ đều là những khách hàng tuyệt vời nhất của tôi..

Becker cảm giác cái nhìn của cô ả như xuyên thấu tim gan anh.

Anh liền thay đổi vở diễn đôi chút.

- Tôi thuộc bên cảnh sát đặc nhiệm chuyên trách vấn đề về khách du lịch. Cô đưa chiếc nhẫn ra đây nếu không tôi sẽ đưa cô về đồn và...

- Và gì nào - Cô nàng nhếch cặp lông mày lên vẻ mỉa mai thách thức.

Becker đột nhiên im lặng. Anh gần như điên lên, kế hoạch của anh xem ra đã thất bại. Tại sao cô ta lại không tin nhỉ?

Rocio tiến lại gần hơn nữa.

- Tôi không biết anh là ai và anh muốn gì nhưng nếu anh không biến khỏi đây, tôi sẽ gọi bảo vệ khách sạn và chắc chắn những nhân viên cảnh sát thực sự sẽ tống anh vào tù vì dám mạo danh họ.

Becker biết rằng trong tình huống đó, Strathmore sẽ chỉ cần khoảng 5 phút thôi là có thể đưa anh ra khỏi xà lim, nhưng anh nhận thức rõ rằng chuyện này nhất thiết cần phải được giải quyết một cách bí mật. Nếu bị tống giam thì chẳng còn gì để nói nữa.

Rocio dừng lại cách Becker vài bước chân và lườm anh chằm chằm.

- Thôi được rồi - anh thở dài, giọng nói nặng nề như thừa nhận thất bại. Anh nói tiếng Tây Ban Nha bằng giọng chuẩn của mình.

- Đúng là tôi không phải cảnh sát ở Seville này. Chính phủ Mỹ phái tôi qua đây tìm chiếc nhẫn. Đó là toàn bộ những gì tôi có thể cho cô biết. Tôi muốn mua lại chiếc nhẫn của cô.

Không gian yên lặng một hồi lâu.

Rocio đột nhiên hé môi nở một nụ cười quỷ quyệt.

- Bây giờ thì dễ nói chuyện hơn rồi - Cô nàng ngồi xuống một chiếc ghế vắt chéo chân lên hỏi - Thế anh có thể trả tôi bao nhiêu?

Becker cố che đậy sự hài lòng của mình. Anh nhanh chóng bắt đầu cuộc mặc cả.

- Tôi sẽ trả cô 750 000 pesetas. 5000 đô đấy - Số tiến này chỉ là một nửa số tiền anh hiện có nhưng có lẽ phải gấp đến 10 lần giá trị thực của chiếc nhẫn.

Rocio nhếch lông mày lên.

- Cũng khá nhiều đấy?

- Đúng vậy, cô đồng ý chứ?

Rocio lắc đầu.

- Ước gì tôi có thể nói có.

- 1.000.000 pesetas. - Becker thốt lên - Tôi chỉ có từng đó thôi.

- Úi chà! - cô nàng mỉm cười - Mấy người Mỹ các anh đúng là chẳng biết mặc cả gì thật. Sống ở đây mà thế thì...

- Tiền mặt, trao tay luôn - Becker vừa nói vừa định rút chiếc phong bì trong túi áo ra. Mình chỉ muốn được về nhà.

Rocio lắc đầu.

- Tôi không thể.

Becker gần như phát khùng.

- Tại sao không?

- Tôi không còn giữ chiếc nhẫn nữa! - cô nàng nói giọng thương cảm - Tôi đã bán đi rồi.

Xem tiếp chương 33

Chương 33

Tokugen Numataka nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ rồi đi đi lại lại vô cùng bực bội. Vẫn chưa nhận được tin tức gì từ đối tác của ông ta, North Dakota. Mấy thằng Mỹ chết tiệt, chẳng đúng giờ chút nào!

Đáng nhẽ ông ta đã chủ động gọi cho Dakota nhưng lại không có số điện thoại. Numataka không thích làm việc theo kiểu này chút nào, và không muốn bị phụ thuộc vào bất cứ ai trong công việc. Ngay từ đầu ông ta đã nghi ngờ rằng những cuộc gọi của North Dakota có thể chỉ là một trò lừa bịp - có thể một đối thủ cạnh tranh người Nhật đang cố ý chơi khăm. Giờ đây, những ý nghĩ đó lại quay trở lại trong tâm trí. Numataka cảm thấy cần có thêm nhiều thông tin hơn nữa.

Ông ta lao ra khỏi phòng rồi rẽ trái đi xuống đại sảnh của công ty Numatech. Thấy chủ tịch đi qua, mấy nhân viên liền cúi đầu chào. Numataka biết rằng những nhân viên đó thực sự tôn trọng và quý mến ông mặc dù hình thức cúi đầu chào chỉ là một cử chỉ xã giao không hơn không kém.

Numataka đến thẳng tổng đài chính của công ty. Tất cả các cuộc gọi đến và đi đều được kiểm soát bằng một chương trình phần mềm chạy trên hệ máy chủ Corenco 2000, đây là một máy chủ có khả năng đồng thời kết nối với 12 đường dây điện thoại khác nhau.

Người phụ nữ trực máy dù đang rất bận nhưng vẫn đứng dậy, cúi chào khi thấy Numataka đi vào.

- Ngồi đi! - Ông nói nhanh.

Cô ta liền ngoan ngoãn ngồi xuống.

- Hôm nay tôi có nhận được một cuộc gọi vào khoảng 4 giờ 45 phút tới máy điện thoại của tôi. Cô có thể kiểm tra xem cuộc gọi đó từ đâu đến không - Numataka tự trách mình sao không hỏi việc này sớm hơn.

Người phụ trách phòng máy tỏ vẻ sợ sệt.

- Thưa ông, chúng ta không lưu lại thông tin về người gọi trên máy chủ. Nhưng nếu ông can tôi sẽ liên hệ ngay với công ty điện thoại. Tôi chắc chắn họ sẽ giúp được chúng ta.

Numataka không hề nghi ngờ việc công ty điện thoại sẽ đồng ý giúp đỡ. Trong thời đại kỹ thuật số này, vấn đề bảo mật thông tin xem ra đã chỉ còn là chuyện của ngày xửa ngày xưa. Họ luôn luôn ghi chép lại tất cả các thông tin. Các công ty điện thoại có thể nói cho bạn biết một cách chính xác ai đã gọi cho bạn và cuộc gọi đó kéo dài trong bao lâu.

- Cô hãy làm đi - Ông ra lệnh.

- Có thông tin thì báo tôi ngay.

Xem tiếp chương 34

Chương 34

Susan ngồi một mình tại Node 3 chờ đợi kết quả tìm kiếm của Tracer. Trước đó một lát, Hale vừa quyết định ra ngoài để hít thở không khí trong lành. Không có anh ta cô cảm thấy thật dễ chịu.

Nhưng thật kỳ quặc, chính sự vắng vẻ lúc này tại Node 3 như sắp biến nó thành một nhà thương điên. Susan cứ thắc mắc mãi về mối quan hệ mà cô vừa biết giữa Tankado và Hale.

"Thế ai giám sát các giám sát viên". Cô tự nhắc lại. Lời trích này cứ lởn vởn mãi trong đầu cô. Susan cố tống khứ nó khỏi tâm trí mình.

Cô lại hướng suy nghĩ của mình về David, hi vọng rằng anh sẽ bình an vô sự. Cô vẫn khó có thể tin được giờ này anh đang ở mãi tận Tây Ban Nha. Càng sớm tìm thấy mật khẩu và kết thúc chuyện này sớm bao nhiêu thì sẽ càng tốt bấy nhiêu.

Susan hoàn toàn không thể ước lượng được cô đã ngồi ở đây bao lâu để chờ đợi kết quả tìm kiếm của Tracer. Hai giờ đồng hồ? hay là ba nhỉ? Cô đưa mắt nhìn toàn bộ trung tâm, bây giờ Crypto hoàn toàn vắng lặng, cô chờ một tiếng bíp sẽ phát ra từ chiếc máy vi tính của mình nhưng vô vọng. Không gian xung quanh hoàn toàn im ắng. Phía bên ngoài kia, mặt trời mùa hè đã sắp lặn. Trên trần nhà những chiếc bóng đèn huỳnh quang đã được bật lên tự bao giờ. Susan thực sự hiểu rằng cô không còn nhiều thời gian nữa.

Cô nhăn mặt khi quay lại nhìn chiếc máy vi tính.

- Nhanh nữa lên nào - Cô càu nhàu - Mày đã ngốn của tao quá nhiều thời gian rồi đấy!

Cô di chuột và bấm để hiển thị cửa sổ trạng tháị của chương trình Tracer.

- Không biết máy đã chạy được bao lâu rồi?

Cửa sổ trạng thái đã hiển thị - Susan có thể trông thấy một chiếc đồng hồ giống hệt như trong chương trình TRANSLTR, nhìn vào đó cô có thể nắm được chương trình đã được chạy trong bao lâu. Cô dán mắt vào màn hình hy vọng sẽ biết được bao nhiêu thời gian đã trôi qua, nhưng những thứ hiện ra trên màn hình như làm tứn cô ngừng đập.

TRACER ABORTED

(Chương trình đã ngừng chạy)

- Tracer đã ngưng chạy! - Cô như nghẹt thở.

- Tại sao thế này?

Quá sợ hãi, Susan nhìn chằm chằm vào màn hình, cố gắng tìm kiếm xem liệu có một lệnh bị lỗi đã được nhập hay không, có thể chính nó đã khiến cho Tracer ngưng hoạt động. Nhưng những cố gắng của cô hoàn toàn vô hiệu. Có vẻ như chương trình đã tự động tắt Susan hiểu rằng chuyện này chỉ có thể do một nguyên nhân duy nhất - chính chương trình của cô đã bị lỗi lập trình.

Susan coi những lỗi lập trình là một trong những vấn đề đau đau nhất trong các chương trình máy tính. Do các máy vi tính luôn tuân theo một trật tự hoạt động chính xác tuyệt đối, chỉ cần một lỗi rất nhỏ trong khi lập trình cũng có thể sẽ làm hỏng toàn bộ chương trình. Các lỗi cú pháp chẳng hạn - ví dụ như khi lập trình viên chỉ cần sử dụng nhầm dấu phẩy thay cho dấu chấm - có thể khiến cho toàn bộ chương trình sụp đổ. Susan biết từ "lỗi" (bug) trong lĩnh vực công nghệ thông tin có nguồn gốc khá ly kỳ.

Nó bắt nguồn từ một trục trặc xảy ra với chiếc máy vi tính đầu tiên trên thế giới - chiếc Mark 1- chiếc máy này được làm ra vào năm 1944 tại phòng thí nghiệm của Đại học Harvard, nó có kích cỡ bằng cả một căn phòng với chằng chịt các bảng mạch cơ điện. Đột nhiên một hôm chiếc máy này chạy rất chập chờn, không ai hiểu nguyên nhân tại sao. Sau nhiều giờ tìm kiếm một nhân viên trong và gây ra hiện tượng đoản mạch. Từ đó trở đi, những hiện tượng kiểu đó thường được gọi là lỗi (bug).

- Mình không đủ thời gian để giải quyết vấn đề này! - Susan bực bội. Tìm kiếm một lỗi bất kỳ trong một chương trình máy tính có thể phải mất đến mấy ngày. Sẽ phải xới tung hàng ngàn lệnh của chương trình để tìm một sai sót có thể là rất nhỏ - Việc này tương tự như việc tìm một lỗi in ấn của một cuốn từ điển bách khoa toàn thư.

Susan hiểu mình không còn lựa chọn nào nữa, chỉ còn cách cho Tracer chạy lại từ đầu. Cô cũng biết chắc chương trình sẽ gặp phải lỗi đó một lần nữa và sẽ lại tiếp tục ngưng hoạt động. Nhưng việc sửa lỗi lập trình cho Tracer sẽ cần rất nhiều thời gian, mà thứ đó thì cả cô và sếp đều không có vào lúc này.

Nhưng ngay khi Susan nhìn lại Tracer một lần nữa, thắc mắc không hiểu nó đã bị lỗi gì thì cô chợt cảm thấy có cái gì đó không bình thường. Tháng trước chính cô đã từng chạy chương trình này mà đâu có gặp trục trặc nào. Tại sao hôm nay đột nhiên nó lại dở chứng như vậy?

Đang hoang mang, chợt một câu nói trước đây của Strathmore chợt vang lên trong đầu cô. "Susan này, tôi đã thử tự mình gửi chương trình Tracer nhưng những số liệu nó truyền về hoàn toàn vô nghĩa".

Susan nhớ lại. Những số liệu nó truyền về...

Cô đưa tay lên gõ đầu mình, liệu có thể hay không? Số liệu nó truyền về ư?

Nếu như Strathmore đã từng nhận được số liệu từ Tracer thì rõ ràng là lúc đó chương trình vẫn hoạt động tốt. Những số liệu mà ông ấy nhận được vô nghĩa có thể là do ông ấy đã nhập không chính xác các chuỗi ký tự cần tìm kiếm, cô phán đoán. Nhưng hiển nhiên là chương trình vẫn hoạt động.

Susan ngay lập tức nhớ ra rằng có thể còn có một cách giải thích khác cho trục trặc xảy đến với chương trình tìm kiếm của cô.

Những lỗi lập trình không phải là nguyên nhân duy nhất khiến các chương trình máy tính ngưng hoạt động. Đôi khi còn có những tác nhân bên ngoài nữa - nguồn điện, bụi bám vào bảng mạch điện tử, dây cáp bị lỗi. Từ trước đến nay, do các thiết bị phần cứng ở Node 3 hoạt động rất ổn định nên Susan chưa hề bao giờ nghĩ rằng chuyện đó có thể xảy ra.

Susan đứng dậy và sải bước thật nhanh ngang qua Node 3 đến chỗ có đặt một cái giá sách lớn toàn các cuốn sổ tay hỗ trợ kỹ thuật.

Cô vội lấy xuống một cuốn có tên gọi SYS-OP và bắt đầu tìm kiếm.

Dường như cô đã phát hiện ra thứ mình cần tìm, cô liền mang cuốn sổ tay đến chỗ máy vi tính của mình và gõ một vài dòng lệnh. Tiếp theo cô chỉ còn việc ngồi chờ máy vi tính tìm kiếm lại tất cả các lệnh đã được thực hiện trên máy trong suốt ba giờ qua. Susan hi vọng máy sẽ tìm ra được những tác động từ bên ngoài - một lệnh ngừng chạy phát ra do trục trặc về nguồn điện hay do lỗi của con chíp nào đó chẳng hạn.

Một vài giây sau, máy vi tính của Susan kêu bíp một tiếng. Tìm cô như đập nhanh hơn. Cô nín thở nhìn lên màn hình.

ERROR CODE 22 (LỖI 22)

Susan cảm thấy có một tia hi vọng. Một tin tốt lành đây. Việc máy tính tìm ra một mã lỗi có nghĩa là Tracer vẫn ổn. Quá trình tìm kiễm của phần mềm rõ ràng đã bị cắt ngang bởi một trục trặc từ bên ngoài, chắc chắn nếu được phát hiện và khắc phục nó sẽ không lặp lại nữa.

LỖI 22 à? Susan đánh vật với bản thân cố gắng nhớ xem đây là lỗi gì. Các lỗi về phần cứng rất hiếm khi xảy ra ở Node 3 do vậy việc này quá khó khăn. Các ngón tay của Susan lại lướt thoăn thoắt trên các trang của cuốn sổ tay tìm kiếm phần danh sách các mã lỗi.

19: HỎNG Ổ CỨNG

20: CHƯƠNG TRÌNH KHÔNG TƯƠNG THÍCH

Khi tìm được mã lỗi 22 cô bỗng nhiên dừng lại, mắt nhìn đăm đăm một hồi lâu. Hoàn toàn mất phương hướng, cô kiểm tra lại màn hình cho chắc chắn.

ERROR CODE 22 (LỖI 22)

Susan nhăn mặt quay trở lại nhìn vào cuốn SYS-OP. Cô không hiểu mình đang nhìn thấy cái gì nữa. Cuốn sổ tay đơn giản chỉ ghi một dòng :

22: NGƯNG HOẠT ĐỘNG DO THAO TÁC BẰNG TAY

Xem tiếp chương 35

Chương 35

Becker nhìn Rocio chằm chằm, anh hoàn toàn bị sốc.

- Cô đã bán cái nhẫn rồi sao?

Cô ta gật đầu, mái tóc đỏ đổ xòa xuống vai.

Becker không muốn tin chuyện này là có thực.

- Pero... Nhưng...

Cô nàng nhún vai rồi nói bằng tiếng Tây Ban Nha :

- Cho một con bé ở gần công viên.

Becker cảm thấy chân anh mềm ra như sắp khuỵ đến nơi.

- Không thể nào!

Rocio nở một nụ cười ướt át rồi chỉ về phía gã người Đức :

- Ông ta muốn giữ chiếc nhẫn ấy nhưng tôi bảo không nên. Tôi mang trong lòng dòng máu Gitana, dòng máu của dân Gypsy; những người Gitana như chúng tôi luôn có mái tóc đỏ và rất mê tín. Một chiếc nhẫn từ tay một kẻ sắp chết chắc chắn sẽ chẳng mang lại điều tốt lành nào.

- Thế cô có biết cô gái đó không - Becker xen vào.

Rocio cong đôi lông mày.

- Anh cần chiếc nhẫn đó đến thế sao?

Becker gật đầu lạnh lùng :

- Cô đã bán nó cho ai?

Gã béo người Đức ngơ ngác ngồi trên giường. Buổi tối lãng mạn của gã thế là đi tong, và rõ ràng là hắn không tài nào hiểu nổi họ đang nói gì với nhau. Gã hỏi vẻ sợ sệt :

- Chuyện gì đang xảy ra vậy?

Becker không thèm để ý đến hắn.

- Thực ra tôi không bán nó - Rocio nói - Tôi đã thử ra giá, nhưng cô gái đó chỉ là một đứa trẻ và nó chẳng có đồng nào cả. Thế là tôi đành cho không nó cái nhẫn. Tôi mà biết trước là anh sẽ đưa ra một lời đề nghị hào phóng thế này thì chắc chắn tôi đã để nó lại cho anh.

- Thế tại sao cô lại rời khỏi công viên - Becker thăm dò - Có người chết, tại sao cô không đợi cảnh sát đến rồi nộp cho họ chiếc nhẫn?

- Ông Becker ạ, tôi không muốn mua dây buộc mình. Vả lại, lúc ấy ông già đó dường như kiểm soát được tình hình.

- Người đàn ông Canada?

- Đúng rồi, ông ta gọi xe cứu thương, thế là chúng tôi quyết định bỏ đi, tôi chẳng muốn dính líu tới mấy tên cớm chút nào.

Becker gật đầu vẻ thẫn thờ. Anh đang cố gắng chấp nhận sự thật phũ phàng này. Cô ả đã đem cho người khác!

- Tôi cũng định giúp - Rocio giải thích - Nhưng có vẻ ông ta không cần. Ông ta cứ giơ chiếc nhẫn lên rồi dúi vào mặt chúng tôi, mấy ngón tay của ông ấy duỗi thẳng ra. Ông ấy cứ liên tục dúi bàn tay về phía chúng tôi như thể muốn chúng tôi lấy chiếc nhẫn đó. Tôi không hề muốn vậy, nhưng cuối cùng anh bạn đây đã lấy thật. Rồi ông ta chết.

- Và cô đã thử hồi sức cấp cứu cho ông ta - Becker đoán.

- Chúng tôi không hề chạm vào ông ta. Anh bạn tôi cảm thấy sợ. Anh ta trông to con thế thôi nhưng nhát gan lắm - Cô nàng cười vẻ đưa đẩy với Becker.

- Anh đừng lo, anh chàng này không biết tí tiếng Tây Ban Nha nào đâu.

Becker cau mày. Anh đang nghĩ về vết tím trên ngực của Tankado.

- Có phải mấy nhân viên y tế đã làm hồi sức cấp cứu không?

- Tôi không rõ. Như tôi vừa nói với anh, chúng tôi đi trước khi họ đến.

- Tức là sau khi cô ăn trộm cái nhẫn đó - Becker gằn giọng.

Rocio trừng mắt.

- Chúng tôi không ăn cắp. Ông ta sắp chết. Rõ ràng ông ta có ý tặng chúng tôi. Chúng tôi chỉ đơn giản đã thực hiện ước nguyện cuối cùng của ông ta thôi.

Becker dịu xuống. Cô ả Rocio này nói đúng: trong tình huống ấy chắc cũng sẽ làm như vậy.

- Cô đem cái nhẫn ấy cho một cô gái nào đó à?

- Tôi đã nói rồi. Cái nhẫn làm tôi thấy sợ. Tôi thấy cô gái đó lúc ấy đeo rất nhiều đồ trang sức do vậy tôi mới nghĩ chắc con bé sẽ thích.

- Và cô bé không cảm thấy kỳ lạ hay sao? Sao tự nhiên lại có người cho không cô ta cái nhẫn được?

Không hề, tôi bảo tôi nhặt được nó trong công viên. Tôi cứ nghĩ con bé sẽ trả cho tôi vài đồng, nhưng không. Tôi cũng chẳng thèm quan tâm, tôi chỉ muốn tống khứ nó đi cho nhanh.

- Cô cho cô bé vào lúc nào?

Rocio nhún vai.

- Chiều nay. Khoảng một giờ sau khi chúng tôi nhận nó.

Becker nhìn đồng hồ của mình: 11 giờ 48 phút tối. Vậy là chuyện đó xảy ra đã 8 tiếng rồi. Mình đang làm cái quái gì ở đây thế này? Đáng nhẽ mình đang ở Smokys rồi chứ. Anh thở dài và hỏi câu duy nhất có thể nghĩ ra lúc này :

- Cô gái đó trông như thế nào?

- Nó ăn mặc kiểu Punk. - Rocio trả lời.

Becker ngước nhìn bối rối.

- Kiểu punk?

- Vâng, đúng thế!

Cô nàng đáp lại bằng thứ tiếng Anh không trôi chảy lắm, và ngay lập tức chuyển sang tiếng Tây Ban Nha.

- Con bé đeo rất nhiều đồ trang sức. Nó đeo một cái hoa tai khá kỳ dị. Hình đầu lâu thì phải.

- Ở Seville mà cũng có người ăn mặc kiểu Punk ư?

Rocio mỉm cười.

- Mmọi thứ trên đời. Đó là khẩu hiệu quảng cáo của Sở Du Lịch Seville.

- Cô bé có cho cô biết tên không?

- Không!

- Cô ta có nói đang đi đâu không?

- Không, tiếng Tây Ban Nha của con bé rất kém.

Cô bé không phải người Tây Ban Nha sao - Becker hỏi.

- Không, Tôi nghĩ con bé là người Anh. Nó có mái tóc loè loẹt lắm, đỏ, trắng rồi còn xanh nữa chứ.

Becker nhau mày trước hình ảnh quái dị vừa được vẽ ra.

- Có lẽ cô ta là người Mỹ.

- Tôi không nghĩ vậy - Rocio nói - Con bé có mặc một cái áo phông có hình quốc kỳ nước Anh.

Becker gật đầu trong im lặng.

- Được rồi, tóc đỏ, trắng và xanh, áo phông có cờ của nước Anh, một khuyên tai hình đầu lâu, còn gì nữa nào?

- Chẳng có gì. Nó giống hệt những người ăn mặc kiểu Punk điển hình.

Kiểu Punk điển hình? Becker đã quen sống trong một môi trường với các cô cậu sinh viên quần áo chỉnh tề đầu tóc gọn gàng. Anh thậm chí không thể mường tượng ra hình ảnh của cô gái mà Rocio vừa nhắc tới.

- Cô còn nghĩ ra điều gì nữa không - Anh hối thúc Rocio nghĩ ngợi một lát.

- Không, chỉ có thế thôi.

Đúng lúc đó, tiếng kẽo kẹt từ chiếc giường vang lên. "Thượng đế" của cô nàng Rocio vừa xoay người một cách không thoải mái cho lắm. Becker quay sang chỗ gã, nói một câu tiếng Đức chuẩn.

- Còn gì nữa không? Ông có biết gì thêm về cô gái đang cầm chiếc nhẫn không?

Im lặng kéo dài. Có vẻ như gã khổng lồ có gì đó muốn nói nhưng hắn không biết nói ra như thế nào. Môi hơi run run, hắn ngập ngừng và cuối cùng cũng chịu nói. Gã thốt ra bốn từ tiếng Anh nhưng do cái giọng Đức đặc khịt, mấy từ đó trở nên rất khó hiểu.

- Fock off und die.

Becker há hốc mồm ngạc nhiên.

- Ông nói gì?

- Fock off und die!

Gã vừa nhắc lại vừa đưa lòng bàn tay trái vỗ nhẹ lên cẳng tay phải mập mạp của gã. Hành động đó na ná như một từ thô tục trong ngôn ngữ cử chỉ của dân Italia có nghĩa "Mẹ kiếp".

Becker quá mệt mỏi, anh chẳng buồn nổi giận vì những từ ngữ xúc phạm vừa hiểu ra. Fuck off and die? Cút xéo ngay ư? Gã nhút nhát này đang sinh chuyện đây? Anh quay về phía Rocio và nói bằng tiếng Tây Ban Nha.

- Có vẻ như tôi đã lạm dụng quá đáng lòng tốt của anh bạn cô rồi thì phải?

- Anh đừng ngại! - cô nàng cười.

- Anh ta đang thất vọng một chút ấy mà. Lát nữa anh ta sẽ có cái mà anh ta muốn - Cô nàng đưa tay vuốt tóc rồi nháy mắt với Becker.

- Cô còn biết thêm gì nữa không - Becker hỏi - Bất cứ điều gì có thể giúp tôi?

Rocio lắc đầu.

- Hết rồi, nhưng anh chẳng thể tìm thấy con bé đó đâu. Thành phố Seville này rất lớn, sẽ rất khó tìm đấy.

- Tôi sẽ làm hết sức có thể. Vấn đề an ninh quốc gia mà...

- Nếu anh không gặp may - Rocio vừa nói vừa nhìn vào chỗ cái phong bì phồng to trong túi áo Becker - thì nhớ quay lại đây nhé. Tôi dám chắc anh bạn tôi đây lát nữa sẽ ngủ say như chết. Anh cứ gõ cửa nhẹ nhàng thôi. Tôi sẽ kiếm cho hai ta một căn phòng khác. Tôi sẽ chỉ cho anh xem một phần của đất nước Tây Ban Nha này, đảm bảo anh sẽ khó mà quên được - Cô nàng trề môi với Becker đầy vẻ khêu gợi.

Becker cười gượng lịch thiệp.

- Có lẽ tôi nên đi - Anh quay sang xin lỗi gã người Đức vì đã quấy rầy buổi tối vui vẻ này.

Gã khổng lồ mỉm cười.

- Không vấn đề gì.

Becker bước ra khỏi phòng. Không vấn đề gì? Chẳng phải mày vừa văng tục đó sao?

Xem tiếp chương 36

Chương 36

"Ngưng hoạt động do thao tác bằng tay" - Susan chết lặng nhìn vào màn hình.

Cô biết mình chưa hề gõ một dòng lệnh nào có thể khiến chương trình ngưng chạy - Ít nhất là một cách có ý thức. Cô tự hỏi không biết mình có vô tình đánh nhầm một dòng lệnh nào đó hay không - Không thể nào - Cô lẩm bẩm. Những gì cô đọc được trên màn hình giúp cô khẳng định chắc chắn lệnh đó đã được nhập cách đây khoảng 20 phút trước. Susan nhớ rất rõ thứ duy nhất cô nhập vào máy vi tính trong khoảng thời gian đó là mật khẩu của Screenlock (chương trình bảo vệ màn hình) lúc cô bước ra ngoài nói chuyện với sếp. Thật ngu ngốc nếu nghĩ rằng những ký tự mật khẩu đó lại có thể bị máy vi tính hiểu nhầm là lệnh ngưng hoạt động chương trình Tracer.

Biết rằng mình đang phí phạm thời gian, Susan nhanh chóng khởi động lại chương trình Screenlock và nhập mật mã đến hai lần để chắc chắn rằng cô không mắc bất cứ lỗi nào khi tiến hành thao tác này. Và quả thật không có bất cứ trục trặc nào.

Cô giận dữ.

- Vậy thì Tracer đã nhận lệnh ngưng hoạt động từ đâu chứ...

Susan cau mày bực mình và đóng cửa sổ chương trình Screenlock. Nhưng thật kỳ lạ, ngay lúc cửa sổ chương trình còn chưa kịp đóng lại hoàn toàn, dường như cô đã kịp phát hiện ra điều gì đó. Susan liền mở lại chương trình và nhìn đăm đăm vào những dòng dữ liệu. Chúng hoàn toàn vô nghĩa. Chương trình còn ghi lại thời điểm cô thao tác khóa máy tính khi Susan rời khỏi Node 3, nhưng có cái gì đó không bình thường liên quan đến thời điểm máy tính bị truy nhập lại. Hai thao tác này được chương trình ghi lại cách nhau chưa đến một phút. Susan chắc chắn rằng cô đã đứng nói chuyện ở ngoài với sếp lâu hơn một phút rất nhiều.

Susan di chuyển về phía dưới màn hình xem còn gì khác lạ nữa không. Những thông tin trên màn hình làm cô thực sự choáng váng. Chương trình Screenlock còn ghi lại một thao tác khóa máy và một thao tác truy nhập khác nữa. Thao tác truy nhập cuối cùng được ghi lại cách thời điểm hiện tại khoảng 3 phút. Vậy là đã rõ!

Susan hiểu ngay ra rằng đã có người truy cập lén lút vào máy của cô trong khi cô đang ở bên ngoài.

- Không thể nào! - Susan như nghẹn thở. Kẻ đáng ngờ duy nhất là Greg Hale nhưng Susan chắc chắn rằng cô chưa bao giờ cho Hale biết mật khẩu. Tuân thủ những quy tắc của một mật mã viên, Susan đã chọn ngẫu nhiên mật khẩu của mình và chưa bao giờ ghi nó ra cả. Việc Hale có thể đoán chính xác 5 kỹ tự mật khẩu của cô là chuyện không tưởng vì 5 ký tự đều nằm trong bảng chữ cái la tinh và điều đó đồng nghĩa với việc sẽ có đến 36 mũ 5 tương đương với trên 60 triệu khả năng xảy ra.

Nhưng việc có người truy nhập lén lút vào máy của cô qua chương trình Screenlock đã rõ như ban ngày. Susan không hiểu chuyện gì đang xảy ra nữa. Có lẽ Greg Hale bằng cách nào đó đã truy nhập được vào máy của cô khi cô đi ra ngoài và chính anh ta đã nhập lệnh yêu cầu Tracer ngưng hoạt động.

Bây giờ Susan chuyển sang thắc mắc không hiểu tại sao Hale lại làm vậy? Anh ta đâu có động cơ nào để đột nhập vào máy của cô. Anh ta thậm chí còn không biết cô đang chạy chương trình Tracer mà. Ngay cả khi nếu có biết đi nữa, Susan nghĩ, thì tại sao anh ta lại muốn phá rối việc cô tìm kiếm gã North Dakota này?

Những câu hỏi không có lời đáp liên tục nảy sinh trong đầu cô.

- Phải giải quyết việc quan trọng nhất trước đã - Cô buột miệng nói ra thành lời. Cô quyết định sẽ giải đáp những thắc mắc về Hale sau.

Susan khởi động lại chương trình Tracer, cô nhấn vào phím ENTER, máy tính kêu một tiếng bíp.

CHƯƠNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC GỬI ĐI

Susan biết phải mấy tiếng đồng hồ nữa Tracer mới gửi thông tin trở về. Cô nguyền rủa Hale, không hiểu làm thế quái nào mà anh ta lại có được mật khẩu của cô, không hiểu anh ta muốn gì khi làm Tracer ngừng hoạt động chứ?

Susan liền đứng dậy và ngay lập tức cô bước đến bên máy vi tính của Hale. Màn hình tối đen nhưng cô nhận ra ngay là nó không bị khóa - vẫn có thể nhận thấy những điểm sáng mờ mờ bên các mép màn hình. Các lập trình viên rất hiếm khi khóa máy vi tính của mình, trừ khi họ kết thúc công việc và rời khỏi Node 3 về nhà. Thay vào đó họ thường chỉ đơn giản giảm độ sáng của màn hình - đây được coi là một thông báo ngầm mà ai cũng hiểu đó là: đừng đụng vào máy của tôi.

Susan ngồi cạnh máy của Hale :

- Sao lại để máy thế này mà ra ngoài chứ? - Cô nói - Có ai bắt anh phải làm thế đâu?

Nhìn thoáng qua không gian vắng lặng của Crypto, Susan tăng độ sáng màn hình của Hale lên. Màn hình đã chạy bình thường nhưng trên đó hoàn toàn trống trơn. Susan cau mày trước màn hình trống rỗng không biết nên làm gì tiếp đây, cô quyết định chạy chương trình tìm kiếm và bắt đầu gõ :

TÌM KIẾM: "CHƯƠNG TRÌNH TRACER"

Việc tìm kiếm này xem ra rất khó có thể mang lại kết quả.

Nhưng nếu tồn tại bất cứ thông tin gì về phần mềm Tracer của Susan trên máy của Hale, việc tìm kiếm sẽ cho kết quả. Nó có thể sẽ giúp hé mở nguyên nhân tại sao Hale lại tắt chương trình Tracer khi nó đang hoạt động. Một vài giây sau, màn hình xuất hiện dòng chữ..

KHÔNG TÌM THẤY

Susan ngồi thẫn thờ một lát, cô cũng không biết là mình đang tìm gì nữa. Cô thử lại lần nữa.

TÌM KIẾM: "CHƯƠNG TRÌNH SCREENLOCK"

Màn hình thay đổi trạng thái và hiển thị một loạt những thông tin vô bố - rõ ràng là không có dấu vết nào chứng tỏ Hale đã sao chép mật khẩu của Susan và lưu trên máy của mình.

Susan thở dài thành tiếng. Vậy hôm nay anh ta ta đã chạy những chương trình gì nhỉ? Cô liền truy cập vào danh mục những ứng dụng gần thời điểm hiện tại nhất trên máy của Hale để tìm xem anh vừa chạy chương trình gì. Đó là chương trình Email - thư điện tử. Susan kiểm tra ngay ổ cứng của máy, cuối cùng cô cũng tìm được danh mục Email được dấu kín sau hàng loạt các thư mục khác nhau. Cô mở danh mục đó ra và một loạt doanh mục khác cùng lúc hiện ra, có vẻ như Hale sử dụng nhiều địa chỉ Email khác nhau. Susan không mấy khó khăn phát hiện ra một địa chỉ không ghi tên cụ thể. Cô mở danh mục đó ra, bấm vào một trong số những lá thư gửi đến và đọc.

Ngay lập tức cô cảm thấy nghẹn thở. Nội dưng bức thư như sau :

Người nhận: [email protected]

Người gửi: [email protected]

MỘT BƯỚC TIẾN LỚN! CHƯƠNG TRÌNH PHÁO ĐÀI SỐ ĐÃ GẦN XONG.

VÀI THẬP KỶ NỮA NSA MỚI THEO KỊP!

Susan không tin vào mắt mình nữa. Cô đọc đi đọc lại bức Email, rồi sau đó run rẩy mở bức khác.

Người nhận: [email protected]

Người gửi: [email protected]

CHỨC NĂNG XOÁ VĂN BẢN LIÊN TỤC ĐÃ CÓ TÁC DỤNG! NHỜ CÓ CÁC CHUỖI KÝ TỰ HOÁN CHUYỂN!

Không tài nào tưởng tượng nổi, nhưng đó là sự thực. Đây là những bức thư điện tử của Ensei Tankado. Cả hai đã liên lạc và làm việc với nhau một thời gian rồi. Susan nhìn màn hình chết lặng.

Geg Hale chính là NDARKOTA sao?

Susan dán mắt vào màn hình. Cô cố nghĩ xem liệu còn có cách lý giải nào khác nữa không, nhưng không, bằng chứng quá rõ ràng, quá bất ngờ và không thể chối cãi được: Tankado đã sử dụng các chuỗi ký tự hoán chuyển nhằm tạo ra chức năng xóa văn bản liên tục, và Hale đã đồng loã với anh ta nhằm cản bước NSA.

- Điều này...- Susan lắp bắp - Điều này...là không thể.

Lúc đó những lời nói trước đây của Hale như vang lên trong tâm trí Susan, chống lại nhưng phán đoán vừa rồi của cô. "Tankado có vài lần viết cho tôi... Strathmore đúng là thật quá mạo hiểm khi thuê tôi làm việc... Một ngày nào đó tôi sẽ ra đi".

Nhưng Susan vẫn không thể tin được những điều cô thấy là sự thật Đúng, Hale là một kẻ đáng ghét và ngạo mạn - nhưng anh ta không thể là kẻ phản bội đữợc. Hale thừa hiểu tầm quan trọng của Pháo Đài Số đối với NSA, không có lý nào anh ta lại tham gia vào một âm mưu nhằm tiết lộ nó ra ngoài được!

Nhưng Susan cũng phải công nhận không có lý do gì ngăn cản anh ta cả - ngoại trừ danh dự và sự chính trực trong con người anh ta. Cô nghĩ lại chuyện xảy ra với thuật toán Skipjack. Rõ ràng Greg Hale đã từng làm hỏng các kế hoạch của NSA một lần, vậy thì chẳng có lý do gì mà anh ta lại không lặp lại chuyện đó một lần nữa.

- Nhưng Tankado... - Susan thắc mắc - Tại sao một người thận trọng như Tankado lại đi tin một kẻ khó lường như Hale chứ?

Cô chợt nhận ra tất cả những thứ đó bây giờ không còn quan trọng nữa. Việc cần phải làm ngay bây giờ là gặp ngay Strathmore.

Susan không thể hiểu nổi, trời xui đất khiến thế nào mà đối tác của Tankado lại ở ngay tnrớc mũi họ thế này. Susan lại tự hỏi không hiểu Hale biết chuyện Tankado đã chết hay chưa.

Susan nhanh chóng tắt hết các thư điện tử mình vừa mở, nhằm để máy tính trở về với trạng thái ban đầu như trước khi cô truy nhập Hale sẽ không nghi ngờ gì - chưa thể. Đột nhiên cô nghĩ ra rằng có thể mật khẩu của chương trình Pháo Đài Số có cất giấu đâu đó trong chiếc máy vi tính này.

Ngay khi Susan vừa đóng xong file cuối cùng, một bóng người đi ngang qua cửa sổ của Node 3. Susan giật thót nhìn ra ngoài và trông thấy Greg Hale đang quay trở lại. Lượng hoóc môn adrenalin trong người Susan đột nhiên tăng vọt - cô hoảng sợ. Anh ta đã gần đến cửa rồi.

- Chết tiệt! - Cô vừa nghĩ vừa ước lượng khoảng cách từ chỗ này đến chỗ bàn làm việc của mình. Cô hiểu rằng mình sẽ không thể kịp về chỗ. Hale đã sắp vào đến nơi rồi.

Lo lắng, Susan đảo mắt thật nhanh quanh Node 3 để tìm đường rút lui Có tiếng mở cửa phát ra sau lưng cô. Cánh cửa từ từ hé mở.

Susan cảm thấy mọi hành động của mình như bị bản năng chế ngự.

Cô đột nhiên tăng tốc, sải những bước nhanh và dài về phía phòng ăn. Khi cánh cửa được mở ra Susan đã kịp dừng lại ngay trước chiếc tủ lạnh và giật mạnh cánh cửa. Bình nước thủy tinh đặt trên nóc tủ chòng chành như muốn đổ, nhưng rồi nó cũng dần thăng bằng trở lại và không có chuyện gì xảy ra.

- Cô đói à? Hale hỏi khi vừa ló mặt vào trong Node 3. Anh ta đi lại chỗ Susan, giọng bình thản và châm chọc - Cùng nhau làm chút đậu hũ chứ?

Susan thở phào nhẹ nhõm, cô quay mặt lại.

- Không, cảm ơn! - cô nói - Tôi nghĩ sẽ chỉ...

Đột nhiên cô như nghẹn ứ trong cổ họng. Mặt Susan chuyển sắc trắng bệch.

Hale nhìn cô thắc mắc :

- Có chuyện gì vậy?

Susan cắn môi nhìn anh ta.

- Không! - Cô cố gắng kiếm soát tình hình. Nhưng đó chỉ là một lời nói dối. Từ bên này gian phòng, Susan vẫn nhận ra màn hình vi tính của Hale đang hoạt động.

Susan đã quên không giảm độ sáng của nó.

Xem tiếp chương 37

Chương 37

Bước xuống lầu dưới khách sạn Anfonso XIIl, Becker uế oải lê bước đến quầy bar. Một anh chàng phục vụ trông không khác gì một chú lùn tiến lại đặt trước mặt anh một cái khăn ăn.

- Ông muốn dùng gì ạ?

- Không, cảm ơn anh - Becker trả lời.

- Tôi định hỏi xem liệu anh có biết trong thành phố này có câu lạc bộ Punk không?

Người phục vụ nhìn anh ngạc nhiên.

- Câu lạc bộ Punk ư?

- Phải, ở thành phố này có chỗ nào mà họ hay tụ tập không?

- Không thưa ông, tôi không rõ lắm, nhưng chắc chắn không phải là ở đây rồi - Anh ta mỉm cười - Ông uống chút gì nhé?

Becker cảm thấy hình như mình vừa làm anh chàng phục vụ ngạc nhiên và hơi thất vọng. Có vẻ không giống những gì anh ta đã lên kế hoạch từ trước.

- Ông dùng rượu nhé - Anh chàng nhắc lại - Fino? Hay Jerez?

Một giai điệu nhẹ nhàng vang lên. Bản công xéc tô Brandenburg, Becker nghĩ, Số 4. Năm ngoái, anh và Susan đã được xem dàn nhạc của Học Viện St. Martin chơi bản công xéc tô này tại trường đại học. Đột nhiên anh ước gì lúc này Susan ở đây bên anh.

Hơi mát tỏa ra từ chiếc máy điều hòa phía trên đầu khiến anh hình dung ra nhiệt độ ở bên ngoài khách sạn. Anh nghĩ đến cảnh mình sắp phải lê bước trên những con phố nóng nực và vắng ngắt ở Triana tìm kiếm một con bé mặc chiếc áo phông có hình quốc kỳ Anh. Anh lại nghĩ về Susan một lần nữa.

- Zumo de arandanol - Anh nói.

- Nước quất Cranberry.

Người phục vụ quầy bar ngạc nhiên.

- Một thôi ư?

Nước quất Cranberry rất phổ biến ở Tây Ban Nha nhưng anh chàng này chưa thấy ai dùng thứ đồ uống đó một mình bao giờ.

- Ừ! - Becker nói - Một thôi.

Người phụ vụ dỗ dành.

- Pha thêm một chút xíu Vodka nhé?

- Không, cảm ơn!

- Chúng tôi không tính tiền đâu - Anh chàng ngon ngọt - Miễn phí.

Đầu nhức như búa bổ, Becker vẫn mường tượng được cảnh những con phố bẩn thỉu và ngột ngạt ở Triana và cả một đêm dài ở trước mắt. Đúng là địa ngục. Anh gật đầu.

- Ừ thì thêm tí vodka vậy!

Anh chàng phục vụ có vẻ đã thoải mái trở lại, bắt đầu pha chế đồ uống.

Becker ngắm nhìn quầy bar trang nhã anh đang ngồi và lại tự hỏi xem mình có nằm mơ không nhỉ? Không gì có thể thật hơn sự thực trần trụi này được. Mình là một giảng viên đại học, anh nghĩ, đang thực thi một nhiệm vụ tối mật.

Anh chàng phục vụ mang cho Becker đồ uống anh vừa gọi.

- Nước quất Cranberry ới một chút xíu vodka của ông đây!

Becker cảm ơn anh ta. Anh đưa lên miệng nhâm nhi một ngụm, nhưng ngay lập tức khạc ra. Một chút xíu mà thế này à?

Xem tiếp chương 38

Chương 38

Hale đứng gần phòng ăn của Node 3, anh ta nhìn Susan chằm chằm.

- Sao vậy Sue? Trông cô không được khoẻ thì phải.

Susan cố gắng vật lộn với lỗi lo lắng đang tăng dần. Cách chỗ họ đứng chỉ khoảng 10 bước chân, màn hình của Hale vẫn sáng.

- Tôi... Tôi không sao - Cô gắng gượng, tim cô đang như muốn nhảy khỏi lồng ngực.

Hale nhìn cô vẻ mặt lúng túng.

- Này, cô uống chút nước nhé?

Susan không còn trả lời được nữa. Cô tự nguyền rủa mình, sao mình lại có thể quên không giảm độ sáng cái màn hình chết tiệt ấy chứ, Susan biết chắc ngay khi Hale nghi ngờ cô lén lút truy nhập anh ta sẽ nghĩ rằng cô đã biết được thân phận thực sự của anh ta, North Dakota. Cô sợ anh ta sẽ làm tất cả để che dấu thân phận đó.

Susan đang cân nhắc xem liệu mình có nên lao ngay ra phía cửa hay không. Nhưng cô không kịp làm việc đó. Đột nhiên có một tiếng đập mạnh vào thành tường kính. Cả Hale và Susan đều giật thót Đó là Chartrukian. Anh ta liên tục giơ cánh tay ướt nhoèn mồ hôi lên đập liên hồi vào bức tường. Vẻ mặt anh ta như vừa mới thấy ma hiện hình.

Hale quắc mắt nhìn anh chàng nhân viên an ninh như đang động kinh ngoài cửa sổ rồi quay lưng lại phía Susan.

- Tôi sẽ quay lại ngay. Cô uống chút gì đi, trông cô nhợt nhạt lắm đấy!

Hale đi ra ngoài.

Susan cố gắng lấy lại dũng khí rồi nhanh chóng chạy đến bên máy tính của Hale. Cô cúi xuống và điều chỉnh độ sáng của màn hình. Màn hình đã tối đen.

Đầu óc Susan chao đảo. Cô cố gắng quay lại và theo dõi cuộc đối thoại đang diễn ra ở phía ngoài Crypto. Chartrukian vẫn chưa chịu về nhà Trông anh chàng rất hoảng sợ, hình như anh ta như đang nói với Hale điều gì đó. Susan không còn quan tâm đến chuyện đó nữa - Hale đã biết hết những gì Chartrukian định nói.

Mình phải gặp Strathmore, cô nghĩ ngay lập tức.

Xem tiếp chương 39

Chương 39

Trong phòng 301. Loã thể, Rocio Eva Granada đứng trước tấm gương trong phòng tắm. Giây phút đáng ghét nhất đã tới. Gã người Đức đang ở trên giường chờ đợi. Gã đúng là tên đàn ông to lớn nhất mà cô từng phục vụ.

Lưỡng lự một lát, cô đưa tay với lấy một cục đá để trong chậu nước gần đó rồi từ từ xoa lên ngực mình. Bộ ngực dần cứng lại. Đây là bí quyết riêng của Rocio - để khiến bọn đàn ông thèm khát. Và khiến chúng phải quay lại tìm cô. Rocio đưa hai bàn tay xoa khắp tấm thân đầy đặn và mềm mại thầm hi vọng mình sẽ còn giữ được phong độ thêm ba bốn năm nữa, khi đã kiếm đủ để có thể giải nghệ. Mặc dù bị Roldan ăn chặn mất phần lớn thu nhập nhưng Rocio thừa hiểu nếu không có hắn thì cô cũng sẽ chỉ như những con điếm hạ đẳng khác ở Triana suốt ngày chỉ phục vụ mấy thằng say rượu ít ra mấy gã khách này còn có nhiều tiền. Bọn chúng cũng không bao giờ đánh đập cô và thực ra cũng dễ chiều. Cô ta mặc bộ đồ ngủ, hít một hơi thật dài rồi mở của phòng tắm.

Vừa thấy Rocio bước ra, gã người Đức sáng mắt lên. Cô nàng diện một bộ đồ ngủ màu đen. Nước da nâu đẹp như ánh lên dưới ánh đèn mờ ảo, đôi bầu vú thật khiêu gợi dưới làn vải mỏng.

- Hãy lại đây nào - Gã thốt lên háo hức trong khi cởi phanh chiếc áo choàng và nằm xuống giường.

Rocio cố gắng nở một nụ cười và tiến lại phía chiếc giường. Cô nàng cúi xuống nhìn gã người Đức to béo. Đưa mắt vào giữa hai đùi gã cô nàng cười thầm nhẹ nhõm: cái ấy của gã không to lắm.

Không thể đợi thêm nữa, gã vồ lấy Rocio, chiếc áo ngủ bị xé toạc trong nháy mắt. Những ngón tay mập mạp không bỏ xót một centimet nào trên thân thể Rocia. Cô nàng không ngớt rên rỉ và quằn quại trong cơn khoái lạc giả tạo. Gã chồm dậy rồi nằm đè lên Rocio, Tưởng như mình sắp bị đè bẹp đến nơi. Rocio thở hốn hển cố gắng cưỡng lại cái cổ bè bè trắng bệch như trát ma tít của gã. Cô nàng cầu nguyện sao cho gã kết thúc việc này sớm.

- Nữa! Nữa! - Rocio hổn hển sau mỗi lần gã dập xuống.

Những ý nghĩ lộn xộn ùa vào tâm trí Rocio, khuôn mặt của vô khối những gã đàn ông mà cô đã chiều chuộng, hình ảnh những cái trần nhà đã từng dán mắt vào nhiều giờ đồng hồ trong bóng tối, rồi cả những mơ ước về con cái...

Đột nhiên, thân thể gã người Đức cong lên, cứng ngắt và gần như ngay lập tức đổ sụp xuống đè lên người Rocio. Chỉ có vậy thôi sao? Cô nàng tự hỏi, ngạc nhiên và nhẹ nhõm.

Rocio cố gắng lách ra khỏi tấm thân đang đè cứng lên mình.

- Anh yêu! - Rocio khàn giọng - Cho em lên trên nào?

hưng gã không nhúc nhích.

Rocio cố gắng ngồi dậy, cô lấy hết sức đẩy đôi vai kềnh càng của gã.

- Anh yêu, em... em không thở được! - Cô như sắp ngất đến nơi, Rocio cảm thấy mấy rẻ xương sườn của mình như sắp gãy đến nơi.

- Lạy chúa! - Một cách bản năng cô đưa mấy ngón tay tóm lấy tóc gã và bắt đầu giật - Tỉnh dậy nào!

Đúng lúc đó, Rocio cảm thấy tay mình sờ vào một chất lỏng âm ấm và nhơm nhớp. Chất lỏng đỏ bết trên tóc của gã người Đức - nó đang từ từ chảy xuống má và trôi vào miệng cô. Cô giãy giụa như điên dại dưới thân hình kềnh càng đó. Một tia sáng ma quái lóe lên giúp Rocio nhìn thấy trước mặt cô là khuôn mặt méo mó vô thần của gã người Đức. Máu của gã đang phun ra tung toé từ một lỗ đạn nằm ngay thái dương. Rocio cố gắng hét lên nhưng vô vọng, trong phổi cô lúc này không còn chút không khí nào cả. Gã đang đè bẹp cô.

Hoảng loạn, Rocio điên cuồng quờ tay che nguồn sáng chiếu đến từ phía cánh cửa. Cô trông thấy một cánh tay. Một khẩu súng và ống giảm thanh. Một luồng sáng lóe lên. Và Rocio không còn nhìn thấy gì nữa.

Xem tiếp chương 40

Chương 40

Phía bên ngoài Node 3, Chartrukian trông có vẻ tuyệt vọng. Anh chàng đang cố gắng thuyết phục Hale rằng TRANSLTR đang gặp trục trặc. Susan đi qua chỗ họ với một suy nghĩ duy nhất trong đầu: tìm Strathmore.

Anh chàng nhân viên Phòng An ninh hệ thống chụp ngay lấy tay Susan khi cô đi ngang qua.

- Cô Fletcher! Chúng ta đang bị virus tấn công! Chắc chắn đấy! Cô phải...

Susan giật ngay tay mình lại và nhìn anh ta bực tức.

- Tôi tưởng sếp đã yêu cầu anh về nhà rồi cơ mà.

- Nhưng cái màn hình đang chạy! Nó đã đăng nhập những 18...

- Sếp đã yêu cầu anh phải ra về!

- Mặc xác lão Strathmore ấy đi! - Chartruklan gào lên, tiếng của anh chàng này vang vọng khắp tòa nhà.

Bỗng một giọng nói trầm trầm vọng xuống từ đâu đó trên cao.

- Chartrukian!

Cả ba nhân viên của Crypto lặng gắt.

Ngay trên đầu họ, Strathmore đang nhìn xuống từ ban công phòng làm việc của ông.

Không gian như chết lặng trong giây lát, âm thanh duy nhất họ nghe thấy là tiếng vo vo phát ra từ chiếc máy phát điện đặt ở bên dưới tòa nhà. Susan cố nhìn thẳng vào mắt Strathmore. Sếp! Hale chính là North Dakota!

Nhưng ánh mắt của Strathmore lúc này chỉ tập trung vào một điểm duy nhất, anh chàng nhân viên an ninh hệ thống trẻ tuổi. Chỉ mất mấy giây, ông đi xuống cầu thang, ngang qua Cypto, và dừng lại. Cách anh chàng kỹ thuật viên tội nghiệp đúng một bước chân.

- Anh vừa nói cái gì đấy?

- Dạ thưa sếp... - Chartrukian nghẹn ứ trong họng - TRANSLTR đang có trục trặc ạ.

- Thưa sếp! - Susan cắt ngang.

- Liệu tôi...

Strathmore xua tay, ông không muốn nghe cô nói. Mắt ông vẫn không rời anh chàng nhân viên an ninh hệ thống.

Phil thốt lên từng lời :

- Thưa sếp, chúng ta đang bị virus tấn công, tôi chắc chắn như vậy!

Mặt Strarthmore tím bầm lại.

- Chartrukian, chúng ta đã nói chuyện này rồi, TRANSLTR không gặp phải vấn đề nào cả, hiểu chưa!

- Thưa, có đấy ạ! - Anh chàng thốt lên.

- Và nếu như con virus đó mà xâm nhập được vào cơ sở dữ liệu chính...

- Con virus đó chui từ chỗ quái quỷ nào ra vậy - Strathmore gầm lên - Anh thử chỉ cho tôi xem nào!

Chartrukian lưỡng lự.

- Tôi không thể.

- Tất nhiên, anh không thể, nó đâu có tồn tại!

Susan nói :

- Thưa sếp, tôi cần...

Một lần nữa Strathmore khiến cô im lặng bằng một cái xua tay bực bội.

Susan nhìn Hale lo lắng. Trông anh ta đầy vẻ tự mãn và không một chút quan tâm. Quá rõ ràng rồi, cô nghĩ, Hale chẳng cần phải lo lắng gì về con virus đó, anh ta biết quá rõ điều gì đang diễn ra với TRANSLTR.

Chartrukian vẫn cứ khăng khăng.

- Con virus đó có thực thưa sếp, nhưng chương trình Gauntlet không phát hiện được nó.

- Nếu như Gauntlet không phát hiện ra - Strathmore tức giận - thì làm thế quái nào anh biết là có nó chứ?

Chartrukian đột nhiên có vẻ tự tin hơn.

- Các chuỗi ký tự hoán chuyển, sếp ạ, tôi đã chạy một chương trình phân tích tổng hợp, và kết quả là đã phát hiện ra một chuỗi ký tự hoán chuyển!

Bây giờ thì Susan đã hiểu tại sao Chartrukian lại lo lắng đến vậy. Các chuỗi ký tự hoán chuyển, cô trầm ngâm. Cô biết đó là những đoạn chương trình có thể phá hủy dữ liệu theo những phương thức rất phức tạp. Những đoạn chương trình này rất phổ biến trong các chương trình virus máy tính, đặc biệt là những loại virus thường phá hủy những khối dữ liệu lớn. Nhưng qua những bức thư của Ensei Tankado, Susan thừa biết những các chuỗi ký tự hoán chuyển mà Chartrukian phát hiện được là hoàn toàn vô hại - nó chỉ đơn thuần là một phần của chương trình Pháo Đài Số.

Anh chàng nhân viên an ninh hệ thống tiếp tục.

- Thưa sếp, khi thoạt trông thấy những chuỗi các ký tự hoán chuyển đó, tôi đã nghĩ rằng bộ lọc virus của Gauntlet có trục trặc. Nhưng sau đó tôi đã cho chạy kiểm tra vài lần và phát hiện ra rằng... - Anh chàng dừng lại có vẻ khó chịu - Tôi đã phát hiện rằng có người nào đó đã cố tình tắt bộ lọc virus của Gauntlet.

Tuyên bố của Chartrukian tạo ra một sự im lặng đột ngột.

Gương mặt của Strathmore lúc này càng tím bầm hơn. Ai cũng hiểu anh chàng Chartrukian đang buộc tội ai - tại Crypto chỉ có máy tính của Strathmore là có khả năng tắt bộ lọc virus Gauntlet.

Strathmore lên tiếng, giọng lạnh như băng.

- Chartrukian, đúng là chính tôi đã tắt Gauntlet nhưng đấy không phải là việc của anh.

Ông tiếp tục :

- Tôi đã nói với anh rồi, tôi đang chạy một chương trình chẩn đoán rất mới, những chuỗi ký tự hoán chuyển mà anh thấy trên TRANSLTR là một phần của chương trình đó, chúng tồn tại là vì chính tôi đã để chúng ở đó. Chương trình Gauntlet đã ngăn cản tôi tải chương trình đó về máy, do vậy chính tôi đã tắt bộ lọc virus của Gauntlet đi - Strathmore nhìn Chartrukian nghiêm khắc. - Nào, anh còn gì thắc mắc trước khi bước khỏi đây không?

Susan chợt thấy mọi chi tiết trở nên sáng tỏ. Những chuỗi ký tự hoán chuyển đã bị bộ lọc virus của Gauntlet giữ lại khi Strathmore tải thuật toán Pháo Đài Số đã được mã hóa từ trên mạng Internet về máy và cố sử dụng TRANSLTR để giải mã. Do nôn nóng muốn giải mã Pháo Đài Số cho nên ông đã chủ động tắt chế độ lọc virus đi. Thông thường, việc tắt chương trình Gauntlet là việc không thể chấp nhận được. Nhưng trong tình huống này thì khác, ngài chỉ huy biết một cách chính xác nội dung và nguồn gốc của file được tải về.

- Với toàn bộ sự kính trọng của tôi, thưa sếp - Chartrukian dấn thêm - Thú thực là tôi chưa bao giờ nghe nói đến một chương trình chẩn đoán nào mà lại có chuỗi ký tự hoán chuyển...

- Thưa sếp - Susan cắt ngang, cô không thể đợi thêm được nữa - Tôi rất cần...

Cô chưa kịp nói thêm gì thì điện thoại di động của Strathmore đột nhiên đổ chuông. Viên chỉ huy lập tức nghe máy.

- Cái gì? - Ông gắt lên. Sau đó ông im lặng và lắng nghe.

Trong giây lát, Susan quên mất Hale. Cô cầu nguyện người gọi chính là David. "Hãy nói rằng anh ấy bình an". Cô ước. "Hãy nói rằng anh ấy đã tìm được chiếc nhẫn!"

Strathmore như đọc được ánh mắt của Susan, ông liền cau mày.

- Không phải David.

Susan cảm giác như hơi thở của mình như gấp gáp hơn. Lúc này cô chỉ muốn được biết rằng người đàn ông cô yêu được an toàn.

Susan biết chắc Strathmore đang sốt ruột vì những lý do khác; nếu David không thể tìm được chiếc nhẫn sớm, sếp bắt buộc sẽ phải gửi tiếp viện đến cho anh - các đặc vụ của NSA. Đó là một canh bạc liều lĩnh mà chắc chắn sếp muốn tránh.

- Thưa sếp - Chartrukian thúc giục - tôi cho rằng chúng ta cần kiểm tra...

- Đợi máy nhé! - Strathmore nói với người gọi cho ông. Ông đưa bàn tay lên che ống nói và nhìn anh chàng nhân viên trẻ người non dạ với ánh mắt nảy lửa.

- Anh Chartrukian! - Strathmore gầm gừ - Chúng ta dừng cuộc nói chuyện ở đây. Anh hãy rời khỏi Crypto, ngay bây giờ, đó là mệnh lệnh.

Chartrukian đứng như trời trồng.

- Nhưng thưa sếp, còn chuỗi ký tự hoán chuyển...

- NGAY BÂY GIỜ! - Strathmore gào lên.

Chartrukian chết sững một lúc không nói lên lời. Rồi đột nhiên anh ta bước thẳng về phòng An ninh hệ thống.

Strathmore quay lại, ông nhìn Hale thắc mắc. Susan có thể hiểu được sếp đang thắc mắc điều gì. Hale đã im lặng từ nãy đến giờ - quá im lặng. Hale biết rõ không thể có một chương trình chẩn đoán nào lại sử dụng các chuỗi ký tự hoán chuyển, vả chắc chắn cũng có rất ít chương trình nào có thể làm khó cho TRANSLTR suốt 18 giờ qua. Biết thế nhưng Hale không hề thốt ra một lời. Anh ta hoàn toàn dửng dưng trước những diễn biến vừa qua. Chính vì vậy mà Strathmore đang thắc mắc tại sao. Susan đã có câu trả lời.

- Thưa sếp - cô cố gắng xen vào - Liệu tôi có thể nói...

- Một lát nữa - Ông vừa từ chối vừa nhìn Hale đầy ngờ vực - Tôi cần nhận cuộc gọi này đã - Nói xong ông quay lưng và rảo bước về văn phòng của mình.

Susan đã mở mồm định nói nhưng những lưỡi cô như đờ ra.

Hale chính là North Dakota! Cô đứng như trời trồng đó, thẫn thờ, thở không ra hơi. Susan có cảm giác Hale đang quan sát mình, cô liền quay lại. Hale bước tới ngay cạnh cô, anh ta đưa tay phác cử chỉ lịch thiệp hướng về phía cửa của Node 3.

- Sue, mời.

Xem tiếp chương 41

Chương 41

Trong một căn phòng trên tầng ba khách sạn Alfonso XlII, một cô hầu phòng nằm bất động trên sàn nhà. Gã đàn ông với cặp kính gọng thép đang nhét trả lại chiếc chìa khóa vạn năng vào túi áo của cô. Hắn không hề nghe thấy một tiếng động nào lúc ra tay với cô gái, nhưng thực ra hắn cũng không chắc - hắn bị điếc từ năm 12 tuổi.

Hắn đưa tay xuống chiếc hộp đeo dưới thắt lưng, từng cử chỉ cẩn trọng đến mức sùng kính. Đây là món quà hắn nhận được từ một khách hàng, chiếc máy này đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống của hắn. Bây giờ chỉ cần ngồi một chỗ hắn cũng có thể nhận được hợp đồng từ khắp nơi trên thế giới. Mọi liên lạc có thể được tiến hành ngay tức thì và không để lại dấu vết nào.

Hắn háo hức bật công tắc. Cặp kính của hắn lập tức phát sáng.

Một lần nữa những ngón tay của hắn lại quờ quạng trong không khí chúng bắt đầu phát ra những tiếng lách cách. Như thường lệ, hắn đã ghi lại tên những nạn nhân mới của mình - để làm điều đó, hắn chỉ cằn đơn giản kiểm tra ví của họ. Các tiếp điểm trên những ngón tay của hắn chạm vào nhau, rồi đột nhiên những chữ cái xuất hiện trên tròng kính của hắn một cách ma quái.

ĐỐI TƯỢNG: ROCIO EVA GRANADA - THANH TOÁN XONG

ĐỐI TƯỢNG: HANS HUBER - THANH TOÁN XONG

Dưới đó ba tầng, David Becker thanh toán hóa đơn và đi thơ thẩn qua hành lang, tay cầm cốc rượu đã vơi đến nửa. Anh đi về phía sân thượng của khách sạn hóng gió.

"Đến rồi về ngay", anh lơ mơ nghĩ. Mọi việc có vẻ không diễn ra như dự kiến. Lúc này anh cằn phải quyết định. Liệu anh có nên từ bỏ và quay trở lại sân bay hay không? Vấn đề an ninh quốc gia! Thế thì tại sao họ lại giao cho một giảng viên chứ?

Ra khỏi tầm mắt của người phục vụ quầy rượu, Becker đổ phần rượu còn lại vào một chậu hoa nhài. Rượu vodka đã làm anh hơi choáng váng. Susan thường gọi anh là gã say rượu rẻ tiền nhất thiên hạ. Sau khi lấy nước đầy chiếc cốc thủy tinh lớn ở vòi nước,

Becker tu một hơi dài.

Vặn người mấy lần để rũ bỏ cảm giác chuếnh chuáng, anh đặt chiếc cốc xuống rồi đi qua hành lang.

Khi anh đi ngang qua thang máy, cửa thang chợt mở. Bên trong có một người đàn ông. Tất cả những gì Becker có thể nhìn thấy là cặp kính gọng thép dày cộp. Người đàn ông dùng khăn tay để xì mũi. Becker cười xã giao và đi tiếp... hòa mình vào đêm tối Seville ngột ngạt.

Xem tiếp chương 42

Chương 42

Node 3, Susan căng thẳng đi đi lại lại. Cô ước gì mình có thể vạch mặt Hale khi có cơ hội.

Hale đang ngồi bên chiếc máy của anh ta.

- Sự căng thẳng chính là một sát thủ đấy, Sue ạ. Cô có muốn trút điều gì ra khỏi lồng ngực không thế?

Susan miễn cưỡng ngồi xuống. Cô tưởng Strathmore kết thúc cuộc điện thoại và quay lại nói chuyện với cô, nhưng vẫn chẳng thấy ông đâu cả. Susan gắng giữ bình tĩnh. Cô nhìn chằm chằm vào màn hình vi tính. Biểu tượng "đang tải về" trên màn hình vẫn đang chạy - lần thứ hai như thế rồi. Bây giờ, màn hình đang ở trạng thái chờ. Susan biết là màn hình sẽ hiện lên địa chỉ của ai :

[email protected]

Susan lại nhìn về phía phòng làm việc của Strathmore và biết rằng mình không thể đợi lâu hơn được nữa. Đã đến lúc phải chen ngang vào cuộc gọi của ngài chỉ huy. Cô đứng dậy và tiến thẳng về phía cửa ra.

Hale dường như thấy bất ốn và chú ý đến hành động bất thường của Susan. Anh ta bước thật nhanh qua phòng và đứng chặn ở cửa. Anh ta khoanh tay và đứng chắn trước mặt cô.

- Nào, hãy nói cho tôi biết đã có chuyện gì - anh ta gặng hỏi - Chắc chắn đã có điều gì đó xảy ra ở đây. Việc gì thế?

- Hãy để tôi ra - Susan cố gắng nói giọng đều đều, bất chợt cô cảm thấy một nguy cơ đe dọa nào đó.

- Thôi nào - Hale thúc ép - Strathmore thực tế đã đuổi việc Chartrukian vì anh ta đã làm phận sự của mình. Điều gì đang diễn ra bên trong TRANSLTR? Chúng ta chẳng có chương trình chẩn đoán nào kéo dài đến 18 tiếng cả. Đúng là chuyện nhảm nhí. Cô biết như thế mà. Hãy nói cho tôi biết chuyện gì đang diễn ra đi.

Susan nheo mày. Anh ta biết quá rõ rồi còn gì!

- Tránh ra, Greg - cô yêu cầu - Tôi cần vào nhà vệ sinh.

Hale cười. Tiếp tục đứng trơ ra đó một lúc lâu rồi mới tránh sang một bên.

- Xin lỗi nhé, Sue. Đùa chút thôi mà.

Susan lao ra khỏi Node 3. Đi qua bức tường kính, cô vẫn cảm thấy ánh mắt của Hale đang chằm chằm nhìn cô từ phía trong.

Miễn cưỡng, cô đi vòng về phía khu vệ sinh. Cần phải đánh lừa được Hale trước khi gặp ngài Strathmore. Như thế, Greg Hale mới không nghi ngờ gì.

Xem tiếp chương 43

Chương 43

Tuổi 45 sung mãn, Chad Brinkerhoff là một người ăn mặc chải chuốt, và thạo tin. Bộ trang phục mùa hè lạ và làn da rám nắng không cho thấy bất kỳ dấu hiệu nào của sự mệt mỏi. Mái tóc dày màu hung, đôi mắt màu xanh nhạt ánh lên sau cặp kính áp tròng.

Anh ta nhìn quanh văn phòng ốp gỗ và biết mình đã thăng tiến hết mức tại Cơ quan An ninh Quốc gia. Anh ta đang ở tầng thứ chín Mahogany Row- Văn phòng 9A197, dãy phòng dành cho Giám đốc.

Đêm thứ bảy, khu văn phòng giám đốc vắng nặng. Các giám đốc đều vắng mặt - họ đang tận hưởng những giây phút rỗi rãi của riêng mình. Mặc dù Brinkerhoff luôn mong ước có được một địa vị "thực sự đáng nể" trong cơ quan nhưng dường như anh chỉ có thể là một "quân hầu" - một vị thế chẳng có gì đáng tự hào trong giới chính trị. Được làm việc cận kề với một trong những người quyền uy nhất trong ngành tình báo Mỹ chẳng khiến anh được an ủi nhiều. Brinkerhoff tốt nghiệp hạng ưu trường Andover and Williams, vậy mà cho đến bây giờ, dù đã ở tuổi trung tuần, anh vẫn chưa có một địa vị nào đáng kể. Anh vẫn chỉ là người sắp xếp thời gian biểu, lịch làm việc cho người khác.

Là trợ lý riêng của giám đốc, Brinkerhoff cũng có những lợi thế nhất định. Anh có cả phòng làm việc riêng trong dãy phòng dành cho giám đốc, anh cũng có quyền ra vào tất cả các phòng ban của Cơ quan An ninh quốc gia, và được nhiều người vị nế. Anh thực hiện những công việc lặt vặt cho các cấp lãnh đạo cao nhất. Từ đáy lòng, anh biết mình sinh ra để làm trợ lý - anh đủ nhanh nhẹn, tháo vát để ghi chép ngắn gọn, có vẻ ngoài ưa nhìn, phù hợp với việc tổ chức các cuộc họp báo nhưng lười biếng, không chịu tiến thủ đế an phận với vị trí này.

Chiếc đồng hồ trên mặt lò sưởi điểm chuông êm dịu báo hiệu một ngày nhàm chán, vô vị nữa của anh dần kết thúc. Mẹ kiếp, anh nghĩ thầm: 5 giờ ngày thứ Bảy, mình đang làm cái quái gì đây?

- Chad à - Một người phụ nữ xuất hiện trước cửa phòng anh.

Brinkerhoff ngước nhìn lên. Đó là Midge Milken, chuyên gia phân tích An ninh nội bộ của Fontaine. Bà ta khoảng 60 tuổi, dáng dấp trông khá nặng nề, tuy nhiên Brinkerhoff bối rối khi nhận ra rằng bà ta vẫn khá quyến rũ. Midge là tay già đời trong chuyện tán tỉnh tình và đã qua ba đời chồng. Có vẻ như bà ta luôn biết điểm mạnh của mình. Sắc sảo, tinh tế, cần mẫn, và bà ta biết về nội bộ Cơ quan An ninh Quốc gia nhiều hơn cả Chúa.

Quái quỷ thật, Brinkerhoff vừa nghĩ vừa ngắm chiếc váy bằng len Cashmire của Midge. Hoặc là mình đã già mất rồi, hoặc là bà ta trẻ lại.

- Những bản tin tuần - Mụ mỉm cười, tay phe phẩy một tập báo cáo - Anh cần phải kiểm tra cho kỹ.

Brinkerhoff lại nhìn chằm chằm vào thân hình của mụ :

- Những chi tiết và hình ảnh ở đây đã rõ nét lắm rồi.

- Thật hả Chad - mụ cười to - Tôi đủ tuổi để làm mẹ của anh đấy.

Ai chả biết, anh ta nghĩ.

Midge bước vào trong và đi từ từ đến ghế của Brinkerhoff :

- Tôi đang định đi nghỉ thì giám đốc gọi về nói là ông ấy muốn đống tài liệu này được xử lý xong trước khi ông ta từ Nam Mỹ về. Tức là vào sáng sớm thứ Hai - Bà ta thả tập tài liệu xuống trước mặt Brinkerhoff.

- Là cái gì đấy? Kế toán viên chắc?

- Không đâu, chàng trai, anh là cánh tay phải của giám đốc mà. Tôi tưởng là anh biết điều đó chứ?

- Tôi phải làm gì với những con số khô khan này?

Bà ta lùa tay vào tóc Chad.

- Thì anh muốn gánh vác nhiều trách nhiệm hơn mà. Nhiệm vụ mới đấy còn gì?

Brinkerhoff buồn bã.

- Midge à...Tôi còn biết sống vào lúc nào đây?

Mụ gõ nhẹ ngón tay lên tờ giấy.

- Đây chính là cuộc sống của anh đấy, Chad Brinkerhoff - Mụ nhìn xuống Brinkerhoff và dịu dàng - Tôi có thể làm gì cho anh trước khi tôi đi không?

Anh ta nhìn mụ với ánh mắt năn nỉ và lúc lắc cổ đang bị đau :

- Vai của tôi mỏi nhừ ra.

Nhưng Midge không hưởng ứng.

- Vậy thì uống thuốc đi.

- Không phải là đấm lưng à?

Mụ lắc đầu.

- Người ta nói rằng hai phần ba các cuộc đấm lưng kết thúc trong tình dục.

Brinkerhoff bực bội nhìn mụ.

- Nhưng chúng ta sẽ không làm thế mà!

- Đúng rồi - Mụ nháy mắt.

- Đó mới là vấn đề.

- Ôii, Midge...

- Ngủ ngon nhé, Chad - Mụ đi thẳng về phía cửa.

- Bà định đi đấy à?

- Anh biết là tôi có thể ở lại - Midge nói và dừng lại ở lối ra - Nhưng mà tôi cũng có tự trọng. Tôi không thể chịu được việc mình chỉ là người thứ hai sau một đứa trẻ con đang tuổi lớn.

- Vợ tôi không phải là một đứa trẻ đang tuổi lớn đâu nhé! - Brinkerhoff chống chế - Bà ấy chỉ hành động giống như thế thôi.

Midge ngạc nhiên nhìn anh :

- Tôi có nói về vợ anh đâu - Mụ chớp mắt một cách ngây thơ - Tôi đang nói về Cannen đấy chứ?

Mụ phát âm cái tên với chất giọng Puerto Rico đặc sệt.

- Ai cơ? - giọng Brinkerhoff vỡ ra.

- Carmen? Cái cô ở bên hậu cần chứ còn ai?

Brinkerhoff đỏ bừng mặt. Carmen Huerta là bếp trưởng làm bánh. Cô nàng mới 27 tuổi và làm việc ở bộ phận hậu cần của Cơ quan An ninh Quốc gia. Brinkerhoff bí mật tán tỉnh cô trong nhà kho nhiều lần sau giờ làm việc.

Mụ nháy mắt giảo quyệt.

- Hãy nhớ đấy, Chad... Anh Cả biết tất cả.

- Anh Cả ư? - Brinkerhoff nuốt nước bọt và không thể tin được - Anh Cả cũng theo dõi cả nhà kho nữa ư?

Anh Cả, hay "Anh Trai" như Midge vẫn thường gọi là một tổng đài hiệu Centrex 333 được đặt trong một khoảng không gian bằng một phòng nhỏ ở bên ngoài phòng trung tâm của dãy phòng dành cho giám đốc. Anh Cả là thế giới riêng của Midge. Thiết bị này nhận dữ liệu từ 148 máy quay ghi hình sát nhau, 399 cửa điện tử, 377 điểm mắc rẽ nghe trộm điện thoại, và 212 máy ghi âm không cố định trong khu liên hợp của Cơ quan An ninh Quốc gia.

Những người đứng đầu của NSA cho rằng 26.000 công nhân viên của mình không chỉ là một tài sản lớn mà cũng là một mối nguy hiểm tiềm tàng. Những vụ xâm phạm an ninh trong lịch sử của NSA đều bắt nguồn ngay nội bộ cơ quan. Midge là một nhà phân tích an ninh nội bộ, chuyên xem xét mọi việc diễn ra bên trong NSA...bao gồm cả nhà kho lương thực.

Brinkerhoff đứng lên định biện hộ cho mình nhưng Midge đã đi ra ngoài rồi.

- Cư xử đường hoàng đấy - mụ nói vọng lại - Đừng có làm trò sau khi tôi đi. Tường ở đây có mắt đấy.

Brinkerhoff ngồi xuống và lắng nghe tiếng gót giầy của mụ vang xa dần ngoài hành lang. Ít nhất thì Midge sẽ không nồi ra điều này. Mụ không phải là không có điểm yếu. Midge cũng từng vài lần lả lơi khi đấm lưng cho Brinkerhoff.

Tâm trí anh ta lại quay trở về với Carmen, mường tượng ra tấm thân mềm mại, cặp đùi rám nắng của cô, và... cảnh cô lắc mình trong điệu nhảy Saniuan rực lửa. Anh ta mỉm cười. Có thể mình sẽ ghé qua ăn một bữa nhẹ khi làm việc xong.

Brinkerhoff mở trang dữ liệu đầu tiên.

CRYPTO- SẢN PHẨM/GIÁ THÀNH.

Thật nhẹ nhõm. Midge đúng là đã đưa thức ăn đến tận miệng anh ta và viết báo cáo của Crypto là trò dễ ợt. Về mặt chuyên môn, anh ta phải đọc báo cáo thống kê về mọi thứ, nhưng số liệu duy nhất mà giám đốc luôn hỏi là MCD - chi phí trung bình cho việc giải mã. MCD cho biết phí tổn để TRANSLTR gỉải một mật mã. Nếu con số là dưới 1.000 đôla thì Fontaine không lo ngại. Một ngàn đôla. Brinkerhoff cười thầm.Tiền thuế của dân!

Khi anh bắt đầu xem xét đống tài liệu và kiểm tra các MCD hàng ngày, những hình ảnh về Carmen với nước da bánh mật và thân hình bốc lửa cũng bẳt đầu hiện lên trong đầu anh. Ba mươi giây sau, anh ta hầu như đã hoàn thành công việc. Các dữ liệu của Crypto luôn hoàn hảo như mọi khi.

Nhưng đúng lúc định lật sang trang báo cáo tiếp theo thì anh ta nhìn thấy. Ở phía cuối của bảng, MCD cuối cùng bị lệch cột. Con số lớn đến mức nó chiếm cả cột tiếp theo và làm cho trang dữ liệu hỗn độn cả lên. Brinkerhoff choáng váng nhìn chằm chằm vào con số: 999.999.999 ư? Anh há hốc miệng. Một tỷ đô la? Hình ảnh của Carmen đã biến mất. Một mật mã giá một tỷ đô la cơ à?

Brinkefhoff ngồi đờ ra có đến một phút. Hoảng quá, anh lao ra phía hành lang.

- Midge! Quay lại ngay!

Xem tiếp chương 44

Chương 44

Phil Chartrukian hậm hực đứng trong phòng An ninh hệ thống. Những lời nói của Strathmore vẫn còn vang vang trong đầu anh ta: "Về ngay! Đây là lệnh của tôi!". Anh ta đá cái thùng rác và chửi thề trong phòng thí nghiệm vắng lặng.

- Chẩn đoán cơ đấy, lũ đần độn! Không biết là phó giám đốc tắt bộ lọc Gauntlet từ khi nào nhỉ!?

Những nhân viên an ninh hệ thống được trả lương hậu để bảo vệ hệ thống máy vi tính ở NSA, và Chartrukian biết rằng công việc này chỉ có hai yêu cầu đối với những người thực hiện nó: cực kỳ giỏi và cực kỳ hoang tưởng.

- Quỷ tha ma bắt! - anh càu nhàu - Đây không phải là điều hoang tưởng! Cái máy chủ khốn kiếp đã đọc đến 18 tiếng rồi!

Chắc chắn là có virus. Chartrukian có thể cảm thấy điều đó.

Anh đã hơi nghi ngờ những gì đang diễn ra: có thể Strathmore đã phạm phải sai lầm khi bỏ qua Gauntlet, và bây giờ ông ta đang cố gắng che đậy sai lầm bằng cách bịa ra một câu chuyện chết tiệt về một cuộc chẩn đoán nào đó.

TRANSLTR không phải là mối bận tâm duy nhất của Chartrukian khiến anh có thể nổi đóa như vậy. Bởi vì cỗ máy giải mã này không tồn tại một mình... Dù các chuyên gia giải mật mã tin rằng Gauntlet được thiết kể ra chỉ để bảo vệ những sản phẩm đã được giải mã thì các nhân viên an ninh hệ thống vẫn biết rõ được một sự thật là những máy quét Gauntlet còn phục vụ cho một thế lực khác cao hơn, đó là ngân hàng dữ liệu chính của NSA.

Lịch sử đằng sau việc xây dựng ngân hàng dữ liệu này luôn cuốn hút Chartrukian. Vào cuối năm 1970, mặc dù Bộ Quốc phòng đã có nhiều nỗ lực nhằm giữ riêng mạng Internet trong tay mình, nhưng vì mạng này quá hữu dụng cho nên người ngoài bắt đầu dòm ngó. Đầu tiên là các trường đại học. Không lâu sau đó, các doanh nghiệp kinh doanh cũng vào cuộc. Khi những cổng mạng được mở ra, người dân lao vào khai thác mạng này. Vào đầu những năm 90, mạng "Internet" một thời được chính phủ bảo vệ đã trở thành một bãi rác thải ngồn ngộn những thư rác và tranh ảnh khiêu dâm.

Sau nhiều vụ thâm nhập máy tính ở Cục tình báo Hải quân gây thiệt hại lớn, dù không được công bố, người ta ngày càng thấy rõ rằng các bí mật của chính phủ không còn được an toàn ở những máy vi tính kết nối với mạng Internet nữa. Tổng thống cùng với Bộ Quốc Phòng đã thông qua một sắc lệnh thành lập một mạng mới, hoàn toàn bảo mật để làm đường dây liên lạc giữa chính phủ với các cơ quan tình báo Mỹ nhằm thay thế cho mạng Internet đã không còn đảm bảo. Tất cả những dữ liệu nhạy cảm được lưu giữ tại một nơi có tính an toàn cao - một ngân hàng dữ liệu mới được thiết lập của NSA - pháo đài bảo vệ dữ liệu Fort Knox của tình báo Mỹ nhằm ngăn ngừa các vụ trộm cắp các bí mật của chính phủ từ máy vi tính.

Hàng triệu hình ảnh, băng ghi âm, tài liệu và băng hình vào loại tối mật đã được số hóa và được chuyển đến những kho khổng lồ, còn bản gốc thì bị xoá. Ngân hàng dữ liệu được bảo vệ bằng một rơ-le điện ba tầng và một hệ thống dự phòng kỹ thuật số nhiều lớp.

Ngân hàng cũng được đặt sâu dưới đất 65 mét nhẳm tránh từ trường và các vụ nổ có thể xảy ra. Tại ngân hàng dữ liệu, mọi hoạt động diễn ra trong phòng điều khiển đều được coi là tối mật và được bảo vệ ở mức cao nhất. Chưa bao giờ các bí mật quốc gia lại được bảo vệ an toàn như thế. Ngân hàng dữ liệu bất khả xâm phạm này giờ đây là nơi lưu giữ những bản thiết kể các loại vũ khí tối tân, các danh sách bảo vệ nhân chứng, mật danh của các trinh thám trên chiến trường, những bản phân tích và kế hoạch chi tiết cho các hoạt động bí mật. Danh sách này dài vô kể. Dường như không một hoạt động ăn cắp nào có thể làm phương hại đến ngành tình báo Mỹ.

Tất nhiên, những quan chức của NSA cũng nhận ra rằng những dữ liệu được cất giữ sẽ chỉ có giá trị nếu như chúng có thể sử dụng được. Nhiệm vụ thực sự của ngân hàng dữ liệu không phải là giấu biến những dữ liệu mật đi mà là cho phép những người thích hợp được sử dụng chúng. Tất cả các thông tin lưu trữ đều có một mức độ bảo mật riêng. Tuỳ vào mức độ cần bảo mật của dữ liệu mà các quan chức chính phủ được sử dụng theo nhiệm vụ của họ. Một sĩ quan chỉ huy tàu ngầm có thể quay số đăng nhập và kiểm tra những hình ảnh gần đây nhất chụp từ vệ tinh về các hải cảng ở Nga, nhưng ông ta sẽ không thể tiếp cận được với các kế hoạch về nhiệm vụ chống ma tuý ở Nam Mỹ. Các phân tích viên của CIA có thể tiếp cận và sử dụng những thông tin về lai lịch của những tên sát nhân nổi tiếng nhưng họ không tiếp cận với các mật mã được lưu về tổng thống.

Tất nhiên, các nhân viên an ninh hệ thống không có quyền sử dụng thông tin trong ngân hàng dữ liệu, nhưng họ phải chịu trách nhiệm bảo vệ an toàn cho chúng. Cũng giống như tất cả các ngân hàng dữ liệu lớn khác - từ các công ty bảo hiểm cho đến các trường đại học - ngân hàng dữ liệu của NSA thường xuyên đứng trước nguy cơ bị các tin tặc tấn công nhằm đánh cắp những bí mật bên trong. Nhưng các lập trình viên bảo mật của NSA thuộc vào hàng giỏi nhất thế giới và chưa từng có ai có thể thâm nhập vào ngân hàng của NSA - và bản thân NSA cũng chẳng có lý do gì để nghĩ đến khả năng có ai đó sẽ có thể làm được việc này.

Trong phòng An ninh hệ thống, Chartrukian đang vã mồ hôi xem xét xem có nên bỏ đi hay không. Rắc rối với máy TRANSLTR cũng có nghĩa là đã có rắc rối xảy ra với ngán hàng dữ liệu. Sự bất cẩn của Strathmore đã gây nên sự hoang mang lớn.

Mọi người đều biết rằng TRANSLTR và ngân hàng dữ liệu chính của NSA có sự gắn kết chặt chẽ. Mỗi lần có một mật mã mới được giải ra, Crypto sẽ gửi mật mã đó qua 450 thước cáp quang đến ngân hàng dữ liệu của NSA để bảo mật. Kho dữ liệu chắc chắn này của NSA có một vài cổng vào giới hạn - và TRANSLTR nằm trong số ít các điểm ấy. Máy quét Gauntlet có nhiệm vụ là pháo đài bảo vệ bất khả xâm phạm. Và Strathmore lại phớt lờ nỏ đi.

Chartrukian có thể nghe rõ tim mình đang đập thình thịch. TRANSLTR đã bị nghẽn 18 tiếng đồng hồ rồi! Việc TRANSLTR bị nhiễm virus và hoạt động không theo chương trình trong hệ thống của NSA đã trở nên quá rõ ràng.

- Mình phải báo cáo việc này ngay! - anh thốt lên thành lời. '

Trong tình huống như thế này, Chartrukian biết rằng chỉ có một người mình nên gọi: đó là quan chức an ninh hệ thống cao cấp của NSA, một chuyên viên máy tính, người nặng 400 pound và dễ nổi nóng, và là người đã thiết kế Gauntlet. Biệt hiệu của ông ta là Jabba. Ông ta là một á thần ở NSA - thét lác dọc hành lang, dập tắt các tường lửa ảo, chửi rủa những người kém thông minh, không đủ sức thực hiện nhiệm vụ và cả những người thiếu hiểu biết.

Chartrukian hiểu ngay khi Jabba biết được rằng Strathmore đã phớt lờ máy quét Gauntlet, ông ta sẽ phát điên lên mất. Tệ thật, anh nghĩ, có việc để làm rồi đây. Anh vồ lấy điện thoại và quay số máy cầm tay của Jabba.

Xem tiếp chương 45

Chương 45

David Becker lang thang trên phố Avenida del Cid và cố gắng sắp xếp lại những ý nghĩ trong đầu mình. Những cái bóng im lặng đang nhảy múa trên những viên đá cuội dưới chân anh. Hơi men rượu Vodka vẫn còn trong anh. Không thể tập trung suy nghĩ. Tâm trí anh lại quay trở về với Susan. Tự hỏi không biết cô đã nhận được tin nhắn qua điện thoại chưa.

Ở phía trườc, một chiếc xe buýt Seville Transit phanh rít lên trước bến đỗ. Becker ngước nhìn lên. Các cánh cửa xe mở ra, nhưng không có ai xuống xe cả. Động cơ diesel của chiếc xe lại gầm lên và bắt đầu hoạt động, nhưng ngay khi chiếc xe bắt đầu chuyển bánh, có ba thanh thiếu niên chạy ra từ trong một quán bar và đuổi theo xe, gào thét và vẫy tay. Chiếc xe đi chậm lại, ba người này đuổi kịp và vội vã lên xe.

Ở phía sau họ khoảng 30 thước, Becker nhìn theo với vẻ ngờ vực ánh mắt anh đột nhiên nhìn thấy một điều mà anh không thể tin được. Một sự việc hiếm thấy.

Mình đang gặp ảo giác.

Nhưng khi những cánh cửa xe mở ra, và những đứa trẻ đứng quanh cửa lên xuống, Becker lại nhìn thấy sự việc này. Lần này thì anh chắc chắn là thật. Rõ ràng là dưới ánh sáng mờ mờ của đèn đường nơi góc phố, anh đã nhìn thấy cô gái ấy.

Những người khách đã leo lên xe, và động cơ xe lại khởi động chuyển bánh. Becker chạy thật nhanh, son môi màu đen, ánh mắt hoang dại và mái tóc đỏ... Với ba màu riêng biệt: đỏ, trắng và xanh.

Ngay khi chiếc xe buýt bắt đầu chuyển bánh, Becker lao xuống đường phố trong làn khói đầy khí carbon dioxyt.

- Đợi đã nào! - anh gọi và đuổi theo xe.

Đôi giày da thuộc mềm của Becker lướt nhanh trên vỉa hè. Mặc dù vậy, sự linh hoạt thường có ở anh lúc này không còn nữa; anh bị mất thăng bằng. Não bộ của anh không kiểm soát được đôi chân.

Anh thầm nguyền rủa người phục vụ quầy rượu và cảm giác chuếnh choáng này.

Chiếc xe buýt chạy bằng động cơ đời cũ, và may mắn cho Becker là thời gian sang số đầu tiên của chiếc xe khá lâu và nặng nhọc. Khoảng cách giữa anh và chiếc xe đã được thu hẹp dần. Anh cần phải bắt kịp chiếc xe trước khi nó sang số!

Cặp ống bô của xe xả ra một đám khói dày đặc khi người lái xe chuẩn bị sang số hai. Becker cố gắng gia tăng tốc độ. Khi anh chạy đến ngang với thanh chắn an toàn phía sau của xe, Becker nhoài người về bên phải, chạy đến sát chiếc xe. Anh trông thấy các cửa sau của chiếc xe - và giống như tất cả các xe của hãng Seville, các cửa này đều được mở rộng: một kiểu điều hòa rẻ tiền.

Becker tập trung nhìn vào phía các cánh cửa mở và không chú ý đến cảm giác nóng bỏng ở chân mình. Lốp xe chạy ngay bên cạnh anh, cao bằng vai anh và rít lên mỗi lúc một lớn. Anh nhào mình về phía cửa xe, nhưng bị trượt tay nắm và gần như mất thăng bằng.

Anh cố lao mình mạnh hơn nữa. Ở phía dưới gầm xe, các khớp ly hợp kêu lạo xạo khi người lái xe chuẩn bị sang số.

Anh ta đang sang số! Không kịp mất rồi!

Nhưng khi các khớp nối động cơ bắt đầu tách rời để chuyển sang số lớn hơn thì chiếc xe bỗng nhiên dừng lại nhẹ nhàng. Becker bị lao lên theo đà dừng. Ngay khi các đầu ngón tay của anh đang cuộn tròn quanh tay nắm cửa xe thì các khớp động cơ lại nối với nhau. Vai của Becker gần như bị rời ra khi chiếc xe đi tiếp, hất anh lên sàn xe.

David Becker nằm bẹp ngay bên trong ô cửa của xe. Vỉa hè lúc này lao vụt đi ở phía dưới, cách anh có vài inch. Anh đã tỉnh hẳn cơn say. Chân và vai đau nhừ. Chới với, anh đứng dậy, cố gắng giữ thăng bằng và leo vào bên trong chiếc xe đã đông người. Trong đám đông kia, cách đó vài ghế ngoi là ba thứ màu tớc nổi bật: đỏ, trắng, và xanh. Tìm thấy rồi!

Tâm trí Becker giờ chỉ còn hình ảnh của chiếc nhẫn, chiếc máy bay Learjet 60 đang đợi sẵn phía cuối của những hình ảnh ấy là Susan. Khi Becker đến gần chỗ cô gái ngồi và đang phân vân không biết nên nói gì thì chiếc xe đi vào vùng ánh sáng của một ngọn đèn đường. Khuôn mặt của cô gái trong khoảnh khắc hiện lên.

Becker lặng người. Mặt của người này có râu rậm. Đấy không phải là một cô gái, mà là một gã thanh niên. Môi trên của gã có đính một cái khuyên bạc, gã mặc áo khoác ngoài bằng da màu đen và không mặc áo sơ mi.

- Muốn gì hả? - gã khàn giọng hỏi, giọng New York.

Sững sờ, Becker nhìn vào đám hành khách trên xe buýt. Tất cả bọn họ đều ăn mặc kiểu Punk. Ít nhất một nửa trong số họ đều có mái tóc đỏ, trắng và xanh.

- Anh kia! - Người lái xe hét lên.

Becker quá choáng váng đến mức chẳng nghe thấy ông ta gọi.

- Này anh kia! - người tài xế rít lên - Ngồi xuống đi!

Becker đờ đẫn quay mặt về phía gương mặt đang giận dữ kia trong gương chiếu hậu. Nhưng ông ta đợi đã quá lâu rồi.

Điên tiết, người tài xế dậm mạnh phanh xe. Becker bị hất tung người lên. Anh định ngồi vào ghế nhưng không kịp. Ngay lập tức, anh bị hất văng người lên trên không rồi ngã sóng xoài ra sàn xe cứng nhắc.

Trên đường phố Avenida del Cid, một người bước ra từ bóng râm. Hắn ta chỉnh lại cặp kính gọng kim loại và theo chiếc xe đã rời bến. David Becker đã trốn thoát, nhưng sẽ không trốn được lâu.

Trong số tất cả những xe buýt ở Seville, Becker đã lên chiếc xe tồi tàn số 27.

Xe số 27 chỉ có một điểm đến.

Xem tiếp chương 46

Chương 46

Phil Chartrukian dập mạnh ống nghe xuống. Máy của Jabba báo bận; và báo tín hiệu chờ. Các cuộc gọi chờ là một mánh lới quảng cáo do ATKT đưa ra để tăng lợi nhuận bằng cách kết nối tất cả mọi cuộc gọi; dòng nhắn đơn giản "Tôi đang bận với một đường dây khác, tôi sẽ gọi lại cho bạn sau" mang lại cho các công ty điện thoại hàng triệu đôla mỗi năm. Việc Jabba từ chối các cuộc gọi chờ là cách ông ta phản đối trong im lặng yêu cầu của NSA đề nghị ông luôn mang bên mình chiếc điện thoại di động đề phòng trường hợp khẩn cấp...

Chartrukian quay lại và nhìn về phía Crypto vắng lặng. Tiếng máy phát điện ở phía dưới mỗi lúc một lớn hơn. Anh cảm thấy thời gian dường như trôi nhanh quá. Anh biết mình có lệnh phải đi về, nhưng ngoài tiếng ồn dưới tầng nhà Crypto, trong đầu anh còn văng lên phương châm hành động của nhân viên an ninh hệ thống :

Hành động trước, giải trình sau.

Trong thế giới bảo mật vi tính đầy biến động này, chỉ cần một giây chậm chễ cũng can hệ đến việc bảo vệ được các bí mật của mạng vi tính hoặc để các bí mật ấy bị xâm phạm. Hiếm khi người ta có thời gian giải thích cho một phương cách phòng vệ trước khi thực hiện phương cách ấy. Các nhân viên an ninh hệ thống được trả lương hậu hĩnh nhờ, chuyên môn nghiệp vụ và bản năng nghề nghiệp này của họ.

Hành động trước, giải trình sau. Chartrukian đã biết mình phải làm gì. Anh cũng đã biết là khi mọi chuyện đã kết thúc, hoặc là anh sẽ là một người hùng của NSA, hoặc là anh sẽ gia nhập vào đội quân thất nghiệp.

Cỗ máy giải mã vĩ đại này đã nhiễm virus rồi - về điều này, anh chắc chắn. Và trong hoàn cảnh này, chỉ có một cách khả thi. Đó là tắt nó đi.

Chartrukian cũng biết là chỉ có hai phương án để tắt TRANSLTR đi. Phương án thứ nhất là tắt hết bị cuối ở phòng ngài chỉ huy đi. Nhưng phòng này đã bị khóa mất rồi, có vẻ không khả thi lắm. Còn cách thứ hai là dùng công tắc tắt - mở bằng tay ở tầng ngầm phía dưới tầng Crypto.

Chartrukian nuốt nước miếng một cách khó khăn. Anh ghét tầng hầm. Anh mới xuống đó có một lần vào thởi gian thực tập ở đây. Nó giống như một thế giới hoàn toàn khác với hằng hà sa số những mê cung lối đi, những ống dẫn khí Freon và nằm ở độ cao chóng mặt: Hơn 40 mét thẳng xuống các máy phát điện ở phía dưới.

Đấy là nơi không hề muốn tới, và cũng không muốn đối mặt với Strathmore. Nhưng công việc là công việc. Ngày mai họ sẽ phải cảm ơn mình, anh vẫn phân vân không dám chắc làm thế có đúng không.

Hít một hơi thật sâu, Chartrukian mở chiếc tủ dùng khóa kim loại của người chỉ huy. Trên giá để các bộ phận vi tính chưa lắp ráp, ở đằng sau một bộ truyền thông và thiết bị kiểm tra mạng nội bộ (LAN) có giấu một cái chén của nam sinh trường Stanford. Anh không đụng đến chiếc chén này mà với vào phía trong và lôi ra một chiếc chìa khóa Medeco.

- Hay ho thật - Anh làu bàu - Quan chức bảo mật hệ thống mà không cần biết đến bảo mật.

Xem tiếp chương 47

Chương 47

- Một mật mã một triệu đô la á? - Midge cười khi đi cùng Brinkerhoff quay trở lại hành lang - - Hay đấy chứ nhỉ?

- Tôi thề với bà đấy! - anh nói.

Mụ nhìn anh ngờ vực.

- Anh đừng có mà lấy cớ để lừa lột quần áo tôi ra đấy?

- Ôi! Midge, Tôi không bao giờ làm vậy cả! - Anh nói một cách nghiêm túc.

- Thôi, tôi tin rồi, Chad. Đừng nói nữa.

Nửa phút sau đó, Midge đã ngồi lên ghế của Brinkerhoff và đọc bản báo cáo Crypto.

- Thấy chưa - Anh nói, nhoài về phía bà ta và chỉ vào con số đáng ngờ - Số tiền chi phí cho giải mã này? Một triệu đôla đấy!

Midge cười tủm tỉm.

- Có vẻ con số này hơi cao nhỉ?

- Ừ đúng rồi - Brinkerhoff rên rỉ - Chỉ hơi cao thôi.

- Có vẻ như là một phép chia cho 0 thì phải.

- Cái gì cơ?

- Phép chia cho 0 - bà ta nói và rà soát lại phần còn lại của trang dữ liệu - Số tiền chi phí cho việc giải mã được tính theo kiểu phân số - các mật mã đã được giải ra chia cho tổng...

- Thì tất nhiên là thế - Brinkerhoff gật đầu một cách vô thức và cố gắng không nhìn vào giữa hai đùi của Midge.

- Khi mẫu số bằng không - Midge giảng giải - thương số là vô cực. Các máy vi tính rất kỵ vô cực, cho nên chúng đánh bằng một dãy các số chín - Mụ chỉ vào một cột khác - Anh thấy chưa?

- Vâng, rồi - Brinkerhoff nhìn vào tờ giấy một lần nữa.

- Đây là dữ liệu thô sản phẩm của ngày hôm nay. Hãy xem số mã được giải.

Brinkerhoff cẩn thận nhìn theo ngón tay của mụ đặt vào cột số :

SỐ MÃ ĐƯỢC GIẢI = O

Midge gõ gõ vào con số.

- Đúng như là tôi nghi ngờ. Mẫu số là 0.

Brinkerhoff nhíu mày.

- Thế có nghĩa là mọi việc vẫn ổn cả à?

Mụ nhún vai :

- Như thế chỉ có nghĩa là chúng ta đã chưa giải được mật mã nào trong ngày hôm nay cả. TRANSLTR có lẽ đang trong thời gian tạm nghỉ.

"Tạm nghỉ" - Brinkerhoff nhìn với vẻ ngờ vực. Anh ta đã ở bên cạnh giám đốc đủ lâu để biết là "tạm nghỉ" không nằm trong vốn từ ưa thích của ông ta - đặc biệt là với TRANSLTR. Fontaine đã chi 2 tỷ đô la cho cỗ máy giải mã vĩ đại này, và ông ta tất nhiên muốn được trả công xứng đáng với số tiền đã bỏ ra. Mỗi một giây phút TRANSLTR tạm ngừng hoạt động là tiền của ông ta đang bị phung phí.

- À, nhưng Midge ơi. - Brinkerhoff nói - TRANSLTR không có quãng tạm nghỉ nào cả. Nó hoạt động suốt ngày đêm mà. Bà biết điều đó chứ.

Bà ta nhún vai.

- Có thể Strathmore đêm qua không ở lại chuẩn bị cho máy chạy vào cuối tuần cũng nên. Ông ta chắc biết Fontaine đi vắng nên chuồn đi câu cá rồi.

- Thôi nào, Midge - Brinkerhoff nhìn mụ với ánh mắt phẫn nộ - Để ông ta yên.

Việc Midge Milken không thích Trevor Strathmore là hoàn toàn rõ ràng. Strathmore từng cố gắng thực hiện một hành động vận động quân sự xảo quyệt nhẳm viết lại chương trình Skipjack, nhưng ông ta đã thất bại. Mặc dù Strathmore đã có ý định liều lĩnh như thế, NSA vẫn đối xử không tệ với ông ta. Phía EFF đã nắm được phần lợi thế. Fontaine đã mất đi sự tín nhiệm của Quốc hội, và tệ hại nhất là nhiều hoạt động nặc danh của NSA đã không còn được giữ bí mật. Bỗng nhiên có rất nhiều người nội trợ ở Minnesota than phiền với America Online and Prodigy - một tổ chức cung cấp dịch vụ mạng là NSA có thể đã lén đọc thư điện tử của họ - vì NSA đã từng chê bai một công thức bí mật về cách làm khoai lang tẩm đường.

Sai lầm ngớ ngắn của Strathmore đã khiến NSA phải trả giá, và Midge thấy mình cũng phải chịu trách nhiệm - không phải vì đáng ra bà ta phải biết trước ngài chỉ huy sẽ phải chịu hậu quả; mà vì một hành động trái phép đã được thực hiện sau lưng giám đốc Fontaine, và Midge lại được trả lương để ngăn chặn điều đó.

Chính thái độ thờ ơ, không can thiệp của Fontaine khiến ông ta dễ bị nghi ngờ và vì thế làm Midge lo lắng. Nhưng ông giám đốc cũng đủ khôn ngoan và kinh nghiệm để trọng dụng nhân tài và đó cũng chính là cách mà ông ta trọng dụng Trevor Strathmore.

- Midge, bà biết rõ là Strathmore không phải là ngưởi bê trễ công việc mà? - Brinkerhoff nói - Ông ta điều hành TRANSLTR cực kỳ cần mẫn đấy.

Midge gật đầu. Từ trong đáy lòng, mụ cũng biết là buộc tội Strathmore trốn tránh công việc là vô lý. Ông ta cũng tỏ ra rất cần mẫn như bọn họ - cống hiến hết mình. Ông ta chịu đựng tất cả mọi tai họa trên thế gian này như một nỗi thống khổ của bản thân.

Kế hoạch Skipjack của NSA chính là phát kiến của Strathmore - một nỗ lực lớn lao nhằm thay đổi thế giới. Nhưng chẳng may, cũng giống như bao cuộc thập tự chinh thần thánh khác, chiến dịch này của ông đã kết thúc trên cây thập giá.

- Được rồi - mụ đồng ý - Có vẻ tôi hơi khắt khe với ông ta một chút.

- Hơi thôi à - Brinkerhoff nhíu mày lại - Strathmore có cả một đống file dữ liệu dài hàng dặm. Ông ta chắc chắn không có ý định cho TRANSLTR nghỉ cả đợt cuối tuần đâu.

- Được rồi, được rồi - Midge thở dài - Là lỗi của tôi - Mụ nhíu mày và bối rối không hiểu vì sao TRANSLTR cả ngày rồi mà không giải được một mật mã nào.

- Để tôi kiểm tra thật tỉ mỉ mọi thứ xem sao? - mụ nói, và bắt đầu xem lại bản báo cáo. Mụ xác định vị trí các dữ liệu cần tìm và xem xét các con số. Sau một lúc, mụ gật đầu - Anh đúng rồi, Chad ạ. TRANSLTR vẫn hoạt động bình thường. Những số liệu thậm chí vẫn còn lưu lại trong máy. Từ nửa đêm hôm qua, cái máy đã chạy với công suất nửa triệu kilowat- giờ.

- Thế con số đó mang đến cho chúng ta những gì?

Midge lúng túng :

- Tôi cũng không biết. Lạ thật đấy.

- Bà có muốn xem lại dữ liệu không?

Mụ chằm chằm nhìn Brinkerhoff với vẻ không bẳng lòng. Có hai điều không bao giờ nên hỏi Midge. Một trong hai điều ấy là về dữ liệu của mụ ta. Brinkerhoff đợi chờ trong khi Midge xem xét các con số.

- Hừ - Cuối cùng mụ lắm bẩm - Thống kê của ngày hôm qua có vẻ ổn: 237 mật mã được giải. MCD là 874 đôla. Thời gian trung bình để giải một mật mã là khoảng hơn sáu phút. Các nguyên liệu tiêu dùng ở mức trung bình. Mật mã cuối cùng được đưa vào TRANSLTR - Mụ dừng lại.

- Cái gì thế?

- Vui thật. Mụ nói - File dữ liệu cuối cùng trong hàng dữ liệu của ngày hôm qua chạy vào lúc 11:37 đêm.

- Thì sao?

- Thế thì, TRANSLTR cứ sáu phút giải một mật mã hoặc hơn thế. File dữ liệu cuối cùng của ngày hôm ấy thường thường chạy gần với thời điểm nửa đêm hơn. Chắc chắn file lần này không như vậy. - Midge bỗng nhiên dừng lại và thở gấp.

Brinkerhoff giật mình.

- Cái gì cơ?

Midge dán mắt nhìn vào những gì đọc được mà không thể tin nổi.

- File này, file mà được đưa vào TRANSLTR đêm qua ấy?

- Ừ, sao?

Nó vẫn chưa được giải mã. Thời gian được đưa vào máy của nó là 23:37:08 - nhưng nó không nhập thời gian giải mã - Midge vò chiếc khăn mùi xoa - Cả hôm qua hoặc hôm nay!

Brinkerhoff nhún vai.

- Biết đâu bọn họ đang chạy một chương trình chẩn đoán khó?

Midge lắc đầu.

- Mười tám tiếng đồng hồ đằng đẵng ư - Mụ dừng lại - Không phải đâu. Ngoài ra, dữ liệu hàng còn cho biết rẳng đó là một file từ bên ngoài. Chúng ta nên gọi cho Strathmorre thôi.

- Gọi về nhà - Brinkerhoff nuốt khan - Vào đêm thứ Bảy như thế này à?

- Không - Midge nói - Nếu đúng như tôi biết về Strathmore, thì ông ta là người giỏi trong lĩnh vực này. Tôi đánh cuộc là ông ta ở đây. Tôi linh cảm thế. - Những linh tính của Midge cũng là điều thứ hai mà không ai nên nghi ngờ - Nào - mụ nói và đứng dậy - Chúng ta hãy thử xem liệu tôi có đúng không?

* * * * *

Brinkerhoff đi theo Midge đến phòng làm việc của mụ. Đến nơi, mụ ngồi xuống và bắt đầu gõ bàn phím của Anh Cả giống như một nghệ sỹ đánh đàn ống tài ba.

Brinkerhoff dán mắt vào các màn hình video quay cận cảnh trên tường, tất cả các màn hình đều bị đóng khung với cùng dấu niêm phong của NSA.

- Bà định nhúng mũi vào Crypto à? - Anh lo lắng hỏi mụ.

- Không - Midge trả lời.

- Giá mà tôi làm được thế, nhưng Crypto hoạt động kín. Không ghi hình, không ghi âm, chẳng gì cả. Ngoài mệnh lệnh của Strathmore. Tất cả những gì tôi có là số liệu thống kê tiếp cận và cỗ máy TRANSLTR về cơ bản. May mà chúng ta còn có được bấy nhiêu đấy. Strathmore muốn rằng tất cả về Crypto đều được biệt lập, nhưng Fontaine kiên quyết bảo vệ những nguyên tắc cơ bản.

Brinkerhoff lúng túng nhìn.

- Crypto không có ghi hình à?

- Để làm gì - mụ hỏi mà vẫn nhìn vào màn hình - Không lẽ anh và Carmen muốn làm chuyện vụng trộm?

Brinkerhoff lầu bầu trong mệng.

Midge gõ thêm một vài phím khác.

- Tôi đang kéo khối thang máy trước cửa phòng Strathmore lên - Mụ xem xét màn hình một lúc và sau đó gõ nhẹ đốt tay lên bàn. - Ông ta đang ở đây - Mụ nói một cách đơn giản - Ông ta đang ở ngay trong Crypto vào lúc này. Hãy nhìn này. Hãy nói về những tiếng đồng hồ vừa qua - Ông ta đi vào sáng sớm ngày hôm qua, và từ lúc đó, cái thang máy của ông ta vẫn không hề nhúc nhích.Tôi không thấy thẻ từ của ông ta ở cửa chính. Do đó, chắc chắn ông ta đang ở đây.

Brinkerhoff thở phào nhẹ nhõm.

- Vậy thì, nếu Strathmore đang ở đó tức là mọi chuyện vẫn ổn cả à, đúng không?

Midge đăm chiêu một lúc.

- Có lẽ vậy - Cuối cùng mụ quả quyết - Có lẽ thôi à? Chúng ta nên gọi ông ta và kiểm tra lại thật kỹ càng.

Brinkerhoff rên rỉ :

- Midge à, ông ta là phó giám đốc đấy. Tôi chắc chắn là ông ta có thể kiểm soát tình hình mà. Chúng ta không cần phải lo bò trắng răng.

- Ồ thôi nào, Chad! Đừng có trẻ con thế. Chúng ta chỉ là đang làm việc của mình thôi mà. Chúng ta phát hiện thấy sự bất bình thường trong bảng thống kê và chúng ta đang bám theo nó. Hơn nữa - mụ nói thêm - Tôi muốn nhầc nhở Strathmore rằng anh Cả luôn dõi theo ông ta. Và muốn ông ta phải thật thận trọng trước khi dự định làm gì liều lĩnh và nguy hiểm để bảo vệ thế giới này.

Midge nhấc ống nghe lên và quay số.

Brinkerhoff lo lắng :

- Bà thực sự cho là quấy rầy ông ta à?

- Không phải tôi sẽ quấy rầy ông ta - Midge nói và quăng ống nghe về phía Brinkerhoff - Mà là anh.

Xem tiếp chương 48

Chương 48

- Gì cơ... - Midge nói lắp bắp với vẻ ngờ vực - Strathmore bảo là dữ liệu của chúng ta là sai à?

Brinkerhoff gật đầu và gác máy.

- Strathmore phủ nhận là TRANSLTR chỉ giải mã một tệp mật mã trong suốt 18 tiếng đồng hồ à?

- Ông ta tỏ ra khá bình thản với mọi việc - Brinkerhoff tươi cười và thấy hài lòng vì mình là người đã nghe máy - Ông ta đảm bảo với tôi là TRANSLTR vẫn làm việc bình thường. Ông ta cũng nói là cái máy vẫn cứ sáu phút giải xong một mật mã như chúng ta đã nói và cám ơn tôi vì đã kiểm tra giúp ông ta.

- Ông ta nói dối đấy - Midge ngắt lời - Tôi quản lý những con số thống kê Crypto này hai năm rồi. Chưa bao giờ sai cả.

- Thì điều gì cũng có thể xảy ra mà - anh nói vu vơ.

Ánh mắt bà ta có vẻ không bằng lòng.

- Tôi đã chạy thử tất cả các dữ liệu hai lần rồi đấy.

- Thì bà cũng biết người ta nói gì về máy vi tính rồi đấy. Một khi đã sai là sai có hệ thống.

Midge xoay người lại mặt đối mặt với anh.

- Không phải trò đùa đâu, Chad ạ! Phó giám đốc nói dối một cách trắng trợn. Và tôi muốn biết lý do!

Brinkerhoff đột nhiên ước gì mình đã không gọi bà ta quay lại. Cú điện của Strathmore đã gợi lên tính hiếu thắng trong mụ. Kể từ vụ Skipjack, bất cứ khi nào Midge linh cảm rằng có một điều đáng ngờ nào đó đang diễn ra, mụ sẽ chuyển từ nửa đùa nửa thật thành rất nghiêm túc. Không có gì có thể ngăn cản mụ tìm ra căn nguyên của sự việc.

- Midge à, rất có thể dữ liệu của chúng ta sai mà - Brinkerhoff nói quả quyết - Ý tôi là làm sao tưởng tưởng nổi một tệp tin được xử lý suốt mười tám tiếng đồng hồ cơ chứ, chưa từng có. Thôi đi về đi. Muộn rồi đấy.

Mụ nhìn anh với ánh mắt ngạo mạn và ném bản báo cáo lên bàn.

- Tôi tin vào dữ liệu. Linh tính mách tôi bảo rằng dữ liệu là đúng.

Brinkerhofí cau mày. Thậm chí cả giám đốc cũng không còn nghi ngờ linh tính của bà ta nữa - Bà ta có một thói quen kỳ lạ luôn cho mình là đúng.

- Có chuyện gì rồi - Mụ khẳng định - Và tôi định tìm hiểu xem nó là cái gì.

Xem tiếp chương 49

Chương 49

Becker cố nhấc mình khỏi sàn xe buýt và ngồi sụp xuống một ghế còn trống.

- Hay đấy! - Một thằng bé với thứ tóc ba màu nhếch mép cười.

Becker nheo mắt vì sáng quá. Đó chính là đứa trẻ mà anh đã đuổi theo lên đến tận xe buýt. Anh buồn bã nhìn những mái tóc lẫn lộn màu đỏ, trắng và xanh.

- Tóc kiểu gì đấy - Becker lẩm bẩm và nhìn sang cả những người khác.

- Tất cả đều...

- Đỏ, trắng, và xanh hả - Thằng bé hỏi ướm.

Becker gật đầu và cố gắng không nhìn vào lỗ xuyên đã bị nhiễm trừng nơi môi trên của thằng bé.

- Của Judas Taboo đấy - thằng bé trả lời thành thật.

Becker nhìn nó với vẻ bối rối.

Thằng bé nhổ bọt xuống lối đi, rõ ràng tỏ ra khinh bỉ sự quê mùa của Becker.

Judas Taboo ư? Ca sĩ nhạc Punk vĩ đại nhất kể từ thời Sid Vicious? Anh ấy chém bay đầu mình vào ngày này cách đây đúng một năm à? Hôm nay là ngày giỗ của anh ấy.

Becker lơ đãng gật đầu, rõ ràng anh đã mất phương hướng.

- Judas đã nhuộm tóc như thế này vào ngày anh ấy ra đi - Thằng bé lại nhổ nước bọt - Mọi người hâm mộ đều nhuộm tóc màu đỏ, trắng và xanh ngày hôm nay để tưởng nhớ anh ấy.

Một lúc lâu. Becker không nói gì. Thật chậm rãi, như thế đã bị tiêm thuốc an thần, anh quay lại và nhìn thẳng về phía trước. Anh nhìn đám người trên xe buýt. Tất cả đều là những người ăn mặc kiểu Punk. Hầu hết đều nhìn anh chẳm chằm.

Hôm nay, tất cả trong bọn họ đều để màu tóc đỏ, trắng và xanh.

Becker đứng dậy và ấn công tắc báo dừng trên thành xe. Đã đến lúc phải xuống. Anh ấn công tắc một lần nữa. Vẫn chẳng thấy gì.

Anh ấn thêm lần thứ ba, xe vẫn chạy.

- Người ta đã ngắt điện ở công tắc báo dừng trên chuyến xe 27 - Thằng bé lại nhổ nước bọt - Bởi thế, anh không xuống xe được đâu.

Becker quay lại.

- Ý cậu là tôi không thể xuống xe ở đây được à?

Thằng bé cười to.

- Không xuống được, cho đến bến cuối.

Năm phút sau, chiếc xe đi vào một con đường nông thôn Tây Ban Nha tối tăm. Becker quay xuống chỗ thằng bé ngồi sau anh.

- Có phải xe chuẩn bị dừng lại không?

Thằng bé gật đầu :

- Vài dặm nữa thôi.

- Thi chúng ta đang đến đâu đây?

Thằng bé bỗng nhiên bật cười to :

- Anh không biết mình đang đi đâu à?

Becker nhún vai.

Thằng bé bắt đầu cười như điên.

- Ôi, trời ạ! Anh sẽ thích chỗ đó cho mà xem.

Xem tiếp chương 50

Chương 50

Cách thân máy TRANSLTR có vài thước, Phil Chartrukian đứng trên một tấm biển có ghi dòng chữ đặt ở sàn Crypto,

TẦNG NGẦM CRYPTO

KHÔNG PHẬN SỰ MIỄN VÀO

Anh ta biết là mình không có phận sự. Anh ta quan sát thật nhanh phòng làm việc của Strathmore. Rèm cửa vẫn được vén lên.

Chartrulcan đã trông thấy Susan Fletcher đi vào nhà vệ sinh, cho nên anh ta biết là cô sẽ không gây khó khăn gì cho mình. Người mà anh ta lo ngại là Hale. Anh ta liếc nhìn vào Node 3 và tự hỏi không biết chuyên viên mật mã này có trong đó không.

- Mẹ kiếp! - anh ta càu nhàu.

Dưới chân anh ta, đường nét chiếc cửa sập ở trong tầng nhà hiện lên khá rõ ràng. Chartrukian sờ vào chiếc chìa khóa vừa lấy từ trong phòng bảo mật hệ thống.

Anh quỳ xuống, ấn chìa khóa vào ổ và xoay. Chốt khóa khẽ kêu lách cách. Sau đó, anh mở then cửa tai hồng bên ngoài cửa, quay đầu lại kiểm tra một lần nữa rồi ngồi xổm xuống và kéo cửa. Ván cửa rất nhỏ, chỉ dài khoảng 3 foot và rộng chừng ấy nhưng rất nặng. Cuối cùng, khi đã mở được cửa ra, anh khựng lại.

Một luồng khí nóng ập thẳng vào mặt anh. Luồng khí này mang theo khí freon buốt giá, cuốn thẳng ra ngoài theo cánh cửa mở máy phát điện hiện ra phía dưới trong thứ ánh sáng đỏ. Tiếng ồn nhỏ của nó lúc này trở thành tiếng nổ ầm vang. Chartrukian đứng dậy và nhìn sâu xuống bên dưới cánh cửa mở. Trông có vẻ giống như lối đi xuống địa ngục hơn là lối vào dành cho nhân viên phục vụ đến chỗ máy vi tính. Một chiếc thang nhỏ, hẹp dẫn xuống dưới phía xa mấy cầu thang, nhưng tất cả những gì mà anh ta trông thấy được là một màn mù sương màu đỏ cuộn xoáy.

* * * * *

Greg Hale đứng đằng sau một tấm kính ở Node 3. Hắn dõi theo Phil Chartrukian tụt từ trên thang xuống tầng hầm. Từ nơi Hale đứng nhìn lên, đầu của Chartrukian trông giống như lìa khỏi cổ và ở lại phía trên tầng Crypto. Sau đó, dần dần, cái đầu cũng chìm dần vào đám hơi cuồn cuộn.

"Hành động dũng cảm chưa!" - Hale thì thào. Hắn biết Chartrukian đang đi đến đâu. Tìm kiếm nơi tắt TRANSLTR khẩn cấp bằng tay là một hành động đúng theo logic nếu như anh ta cho rằng chiếc máy đã bị nhiễm virus. Thật không may nếu điều đó được được thực hiện thì sau 10 phút các nhân viên an ninh hệ thống sẽ kéo đến kín đặc Crypto. Sẽ hiện các cờ hiệu báo động ở tổng đài chính. Một cuộc tổng kiểm tra bảo mật hệ thống ở Crypto là cái mà Hale không thể đương đầu nổi. Hale rời Node 3 và tiến về phía cửa sập. Nhất định phải ngăn Chartrukian lại.

Xem tiếp chương 51

Chương 51

Jabba trông giống như một con nòng nọc khổng lồ. Đúng như đặc tính của sinh vật mà ông ta được đặt tên hiệu, ông ta bị hói đầu. Với vai trò là một thiên thần bảo vệ cho tất cả các hệ thống máy tính của NSA, Jabba đến tất cả các phòng ban thúc ép, ra lệnh và liên tục khẳng định nguyên tắc hành động của mình: "Phòng ngừa là biện pháp hữu hiệu nhất". Chưa bao giờ có một máy tính nào rủa NSA bị nhiễm virus dưới thời của Jabba; và ông ta quyết giữ vững thành tích này.

Nhà của Jabba là một trạm làm việc cũ được nâng cấp, tầng ngầm của NSA, ngân hàng dữ liệu tuyệt mật. Đây chính là nơi mà nếu virus có thể xâm nhập thì hậu quả sẽ khủng khiếp, và đây cũng chính là nơi mà Jabba dành phần lớn thời gian của mình. Tuy thế, vào lúc này, Jabba lại đang nghỉ ngơi và thưởng thức xúc xích bò và heo rắc thêm tiêu ở khu hậu cần phục vụ thâu đêm của NSA. Ông ta đang định ăn xuất thứ ba thì chuông điện thoại phòng làm việc reo.

- Đi nghe đã vậy - Ông nói, ho sặc sụa khi đang nuốt một miệng đầy xúc xích.

- Jabba à? - Một giọng phụ nữ nhỏ nhẹ vang lên - Tôi, Midge đây.

- Ôi nữ hoàng dữ liệu của tôi! - Jabba thốt lên đầy tình cảm. Ông luôn dành cho Midge Milken một tình cảm dịu dàng. Mụ là người sắc sảo và cũng là người đàn bà duy nhất Jabba từng gặp tán tỉnh với ông.

- Cô thế nào, khoẻ không?

- Tôi bình thường, không có gì đặc biệt.

Jabba lau miệng.

- Cô đang ở cơ quan à?

- Vâng!

- Cô có muốn ăn xúc xích với tôi không?

- Tôi muốn lắm, Jabba ạ, nhưng mà tôi đang làm việc.

- Thật hả - Ông cười khúc khích.

- Cô có phiền không nếu tôi cùng cô làm việc?

- Ôi, ông bậy bạ quá.

- Nếu cô không muốn...

- Có chứ, may mà gặp ông - mụ nói - Tôi cần một số lời khuyên của ông.

Jabba nuốt một miếng xúc xích khá to.

- Cứ nói đi.

- Có khi chẳng làm sao đâu - Midge nói - Nhưng bản thống kê Crypto của tôi có gì lạ lắm. Tôi hy vọng là ông có thể giải quyết khúc mắc này cho tôi.

- Thế cô thấy gì? - Ông nhớp một ngụm nước.

- Tôi có một bản báo cáo nói rằng TRANSLTR đã chạy giải mã một file trong vòng 18 tiếng mà vẫn chưa giải xong.

Jabba phun hết cả xúc xích lên chiếc bánh trên bàn ăn.

- Cô bảo sao cơ?

- Ông có ý kiến gì không?

Ông dùng khăn ăn phe phẩy lên bàn.

- Thế nó là bản báo cáo về cái gì?

- Báo cáo về sản xuất. Phân tích chi phí cơ bản thôi. - Midge nhanh chóng giải trình những gì mà mụ và Brinkerhoff đã phát hiện được.

- Cô đã gọi cho Strathmore chưa?

- Rồi. Ông ta nói là mọi thứ ở Crypto vẫn đều ốn cả. Ông ta còn nói là TRANSLTR vẫn hoạt động với tốc độ tối đa. Và ông ta còn cho rằng dữ liệu của chúng tôi là sai.

Jabba nhăn cái trán củ hành của mình lại.

- Như thế thì có chuyện gì đâu? Bản báo cáo của cô không đúng.

Midge im lặng, không trả lời. Jabba hiểu ý của mụ. Ông nghiêm nghị hỏi.

- Cô cho là bản báo cáo của cô không sai à?

- Vâng!

- Thế tức là cô cho rằng nghĩ là Strathmore nói dối?

- Không phải thế - Midge nói một cách xã giao, vì mụ biết chưa có gì chắc chắn.

- Chỉ vì thống kê của tôi chưa bao giờ sai. Tôi sẽ xem xét lại vậy.

- Ồ! - Jabba nói - Tôi không muốn là người đầu tiên nói điều này với cô nhưng thực sự là dữ liệu của cô có vấn đề đấy.

- Ông nghĩ thế thật à?

- Tôi cá cả sự nghiệp của mình đấy - Jabba ngoạm cả một miếng xúc xích ướt to và nhồm nhoàm nói - File dữ liệu dài nhất cũng chỉ ở bên trong TRANSLTR được ba tiếng đồng hồ. Thời gian ấy bao gồm cả chẩn đoán, khảo sát ngoại biên và mọi thứ. Thứ duy nhất có thể giữ nó lại trong 18 tiếng chắc chắn liên quan đến virus. Không còn thứ gì có thể làm được điều này.

- Liên quan đến virus à?

- Ừ một thứ gì đó thuộc chu kỳ dư. Nó xâm nhập vào bộ máy xử lý vi tính tạo nên một vòng luân chu, và về cơ bản làm hệ thống tê liệt không hoạt động được.

- À. - Midge đánh bạo nói - Strathmore đã ở Crypto 36 tiếng liên tục Liệu ông ta có gặp virus không nhỉ?

Jabba cười phá lên.

- Strathmore đã ở đó 36 tiếng rồi cơ à? Tội nghiệp quá. Vợ ông ta có lẽ sẽ không cho ông ta về nhà nữa đâu. Tôi nghe nói bà ấy đã đá vào mông ông ta rồi đó.

Midge nghĩ ngợi một lúc. Bà ta đã nghe kế chuyện đó và cứ tưởng mình bị hoang tưởng.

- Midge à - Jabba thở nặng nhọc và uống một ngụm lớn - Nếu như mấy thứ đồ chơi của Strathmore nhiễm virus, ông ta sẽ gọi cho tôi ngay. Strathmore là người nhanh nhạy, nhưng ông ta chẳng biết cái quái gì về virus cả. TRANSLTR là tất cả những gì ông ta có. Nếu phát hiện được bất cứ dấu hiệu rắc rối nào, ông ta sẽ ấn vào nút báo động ở quanh đấy thôi, khi đó đã có tôi mà! - Jabba mút một thanh Mozzarella dài - Hơn nữa, chẳng có kẽ hở nào khiến cho TRANSLTR có thể nhiễm virus cả. Gauntlet là bộ máy lọc tốt nhất mà tôi từng chế tạo ra. Không gì có thể đi qua được nó đâu.

Im lặng một lúc lâu, Midge thở dài.

- Còn gì nữa không?

- À, dữ liệu của cô có vấn đề.

- Ông vừa nói thế đấy nhé.

- Thật sự là thế.

Bà ta cau mày.

- Ông vẫn không nghe phong thanh được chuyện gì à? Không nghe được bất cứ điều gì à?

Jabba cười cay lớn.

- Midge... nghe này. Vụ bê bối Skipjack. Chính Strathmore đã gây ra. Nhưng mà thôi đi, vụ đó qua rồi mà.

Đường dây bên kia im lặng thật lâu, và Jabba biết mình đã hơi quá.

- Xin lỗi cô Midge. Tôi biết cô đã cực kỳ giận dữ với vụ đó. Strathmore có lỗi. Tôi biết cô nghĩ gì về ông ta mà.

- Việc lần này không có dính dáng gì đến vụ Skipjack cả - Bà ta cả quyết.

- Ừ chắc chắn rồi - Jabba nghĩ - Nghe nhé, Midge. Tôi không có cảm tình riêng gì với ông ta cả. Ý tôi là ông ta là một người viết mật mã. Tất cả những người viết mật mã về cơ bản là những kẻ tự phụ. Mà họ cũng rất quan trọng đấy. Mỗi file dữ liệu của họ có thể cứu nguy cho cả thế giới.

- Ý ông là sao?

Jabba thở dài :

- Ý tôi nói là Strathmore cũng giống như những chuyên gia mật mã khác. Nhưng tôi còn muốn nói thêm nữa là ông ta còn yêu quý TRANSLTR hơn cả vợ ông ta. Nếu có rắc rối nào, nhất định ông ta đã gọi cho tôi rồi.

Midge im lặng một lúc khá lâu. Cuối cùng, mụ buông một tiếng thở dài miễn cưỡng.

- Tức là ông cũng cho rằng dữ liệu của tôi là sai?

Jabba mỉm cười.

- Thôi nào đừng có lo lắng không cần thiết nữa?

Mụ bật cười.

- Chú ý này. Midge. Hãy gửi một tin nhắn vào máy tôi đi. Thứ hai tôi sẽ kiểm tra máy của cô thật tỉ mỉ. Trong khi chờ đợi hãy chuồn khỏi đấy đi. Bây giờ là đêm thứ Bảy đấy. Hãy đi nằm hoặc là làm gì đó thư giãn đi.

Mụ thở dài.

- Tôi đang gắng đây, Jabba. Tin tôi đi, tôi sẽ cố mà.

Xem tiếp chương 52

Chương 52

Câu lạc bộ Embrujo - nghĩa là "Thầy phủ thủy" trong tiếng Anh - nằm trong một khu ngoại ô ở cuối tuyến xe buýt số 27. Trông giống một pháo đài hơn là một câu lạc bộ khiêu vũ, tòa nhà này được bao quanh tứ phía bởi những bức tường thành có gắn rất nhiều mảnh chai bia vỡ - một hệ thống bảo vệ thô sơ ngăn không cho bất cứ ai xâm phạm bất hợp pháp mà không để lại một phần cơ thể tươi nguyên nào đó.

Trong suốt chuyến đi, Becker chắc mẩm rằng mình đã thất bại.

Đến lúc gọi cho Strathmore thông báo về tin tức tồi tệ kia - cuộc tìm kiếm đã vô vọng. Anh đã cố gắng hết sức mình, bây giờ đến lúc quay về nhà.

Nhưng giờ đây, khi nhìn vào đoàn người đang chen lấn xô đẩy qua lối vào của câu lạc bộ, Becker không dám chắc là lương tâm mình cho phép anh bỏ cuộc. Anh chưa bao giờ thấy đám đông ăn vận kiểu Punk lớn thế này, những mái tóc ba màu đỏ, trắng và xanh có ở khắp mọi nơi.

Becker thở dài, cân nhắc lựa chọn của mình. Anh nhìn kỹ đám đông và nhún vai. Cô ta còn có thể ở đâu vào một đêm như thế này đây? Thầm nguyền rủa vận đen của mình, Becker nhảy xuống xe.

Lối đi vào Câu lạc bộ Embrujo là một hành lang đá chật hẹp. Khi Becker tiến vào, anh nhận thấy mình ngay lập tức bị cuốn vào lớp sóng người cuồng nhiệt đang hướng vào.

- Tránh ra nào, anh bạn! - Một giọng người chói tai nói với anh và thúc khuỷu tay vào sườn anh.

- Cà vạt đẹp đấy. Có ai đó giật mạnh cà vạt của Becker.

- Anh muốn làm tình không - Một cô bé tuổi thiếu niên nhìn anh trân trối một cách vô hồn.

Bóng tối của hành lang dẫn đến một phòng lát xi măng nồng nặc mùi rượi và mùi người. Một cảnh tượng kỳ quái hiện ra - một hang động lớn với hàng trăm người cử động giống hệt nhau. Họ nhào lên, sụp xuống, tay ấn chặt vào mạng sườn, đầu lắc lư giống như những chiếc bóng đèn vô hồn gắn trên xương sống. Những kẻ cuồng dại lao mình khỏi một cái bệ và nhào vào biển cánh tay người. Những thân người được chuyền qua chuyền lại giống như những quả bóng chuyền bãi biển. Trên đầu, những chiếc đèn nhấp nháy đung đưa khiến toàn cảnh giống như một bộ phim câm thời xưa.

Ở bức tường phía xa, những chiếc loa thùng to bằng những chiếc xe tải mi ni đập mạnh đến mức mà ngay cả những người nhảy cuồng nhiệt nhất cũng không thể đến gần hơn 13 mét.

Becker bịt tai lại và dò tìm trong đám đông. Nhưng đâu đâu anh cũng chỉ thấy một màu tóc đỏ, trắng và xanh. Những thân người gần sát nhau đến nỗi anh không thể nhìn rõ họ đang mặc quần áo gì. Anh cũng không nhìn thấy bất cứ dấu hiệu nào của lá cờ Anh Quốc. Rõ ràng là anh không bao giờ có thể hòa vào đám đông mà không chen lấn xô đẩy. Gần đấy, có ai bắt đầu nôn mửa.

Hay thật. Becker lầm bầm. Anh đi khỏi đám đông và tiến xuống một hành lang phun sơn.

Hành lang này sau đó trở thành một đường hầm chật hẹp có gương soi rồi dẫn đến một sận trời bày nhiều bàn ghế. Trong sân có nhiều người ăn vận kiểu Punk. Đối với Becker, nó giống như lối vào xứ sở hạnh phúc trong tưởng tượng - một bầu trời mùa hè hiện ra trên đau anh và tiếng nhạc mờ dần đi.

Becker phớt lờ đi những ánh nhìn tò mò xung quanh và anh tiến vào. Anh nới lỏng cà-vạt và thả mình xuống một chiếc ghế ở một cái bàn trống gần nhất. Dường như cả thế kỷ đã trôi qua từ sau gọi lúc sáng sớm của Strathmore.

Sau khi gạt những chai bia rỗng ở trên bàn, Becker nằm gối đầu lên tay. Vài phút thôi, anh nghĩ.

Cách đó năm dặm, người đàn ông đeo kính gọng thép đang ngồi trong một chiếc taxi Fiat đi dọc theo con đường dẫn đến vùng nông thôn.

- Đến Embrujo! - Gã càu nhàu, nhắc nhở người lái xe về điểm đến.

Người tài xế gật đầu, liếc nhìn vị khách mới đầy khó hiểu qua gương chiếu hậu.

- Embrujo - Anh ta lẩm bẩm - Đêm nào cũng một lũ người kỳ quặc.

Xem tiếp chương 53

Chương 53

Tokugen Numataka nằm trần truồng trên chiếc bàn xoa bóp ở phòng làm việc trên tầng thượng. Cô gái chuyên xoa bóp riêng cho ông ta đang mát-xa phần cổ bị đau cho ông. Cô chà xát lòng bàn tay vào vùng thịt giữa hai bả vai, từ từ nắn bóp xuống tới vừng có khăn che ở mông. Tay cô trườn xuống dưới thấp hơn... dưới chiếc khăn tắm. Numataka tỏ ra dửng dưng. Tâm trí của ông ta đang ở chỗ khác ông ta đang đợi điện thoại đổ chuông. Cho đến lúc này nó vẫn không có tín hiệu gì.

Có tiếng gõ cửa.

- Mời vào - Numataka làu bàu.

Cô gái vội kéo tay ra khỏi phía dưới tấm khăn.

Người trực tổng đài tiến vào và cúi người.

- Thưa ngài chủ tịch!

- Nói đi! - Numataka ra lệnh.

Người trực tổng đài cúi người lần thứ hai.

- Tôi muốn nói về việc trao đổi điện thoại. Cú gọi từ nước có mã 1 - Hoa Kỳ.

Numataka gật đầu. Đây là tin tốt lành. Cú gọi từ Mỹ. Ông mỉm cười. Chính xác là như thế.

- Ở nơi nào bên Mỹ - Ông hỏi.

- Họ đang tìm kiếm, thưa ngài.

- Tốt lắm. Hãy cho tôi biết khi họ có thêm thông tin mới.

Người trực tổng đài cúi đầu chào và xin phép đi ra.

Numataka cảm thấy gân cốt mình được thư giãn. Nước có mã số 1. Thực sự đây là một tin tốt lành.

Xem tiếp chương 54

Chương 54

Tại tầng Crypto. Susan Fletcher lòng như lửa đốt, cô đi lại trong nhà vệ sinh, vừa đi vừa đếm từng số từ một đến năm mươi. Đầu cô đang căng ra. Chỉ một lúc nữa thôi, cô tự nhủ. Hale chính là North Dakota?

Susan tự hỏi không biết Hale định làm gì. Liệu hắn có tiết lộ mật khẩu không? Liệu hắn có tham lam và đem bán thuật toán đó không? Susan không thể đợi chờ thêm một phút nào nữa. Đã đến lúc cô phải báo cáo việc này với Strathmore.

Cô thận trọng mở cửa và nhìn vào bức tường phản chiếu ở phía xa Crypto. Không có cách nào biết được liệu Hale có đang theo dõi không. Cô phải nhanh chóng đến văn phòng của Strathmore.

Nhưng không được vội vã quá, tất nhiên là thế - cô không thể để cho Hale nghi ngờ là cô đã biết hắn là ai. Cô tiến đến cửa và đang đưa tay định kéo cửa thì cô nghe thấy âm thanh gì đó. Tiếng nói.

Tiếng nói của nhiều người.

Những giọng nói phát ra từ đường ống thông gió gần cánh cửa.

Cô bỏ tay ra khỏi cửa và tiến về phía ống thông gió. Những lời nói vọng lên hòa lẫn trong tiếng kêu rền ùng ục của máy phát điện phía dưới. Cuộc đối thoại nghe như phát ra từ phía lối đi ở tầng ngầm.

Một giọng nói the thé và giận dữ. Hình như là giọng của Phil Chartrukian.

- Anh không tin tôi à?

Người có giọng nói thuyết phục lên tiếng.

- Máy bị nhiễm virus!

Sau đó người có giọng nói chói tai kia gào lên.

- Chúng ta cần phải gọi cho Jabba!

Rồi có tiếng tranh cãi.

- Buông tôi ra!

Sau đó, bỗng có tiếng gào lên kinh sợ như tiếng của một con vật giãy chết. Chắc chắn đó là tiếng gào của một người. Bên ống thông gió, Susan lạnh người đi vì sợ hãi. Tiếng gào tắt ngấm đột ngột cũng như khi nó xuất hiện. Tiếp đó chỉ còn lại sự yên lặng đến ghê sợ.

Một lát sau, ánh đèn trong nhà vệ sinh dằn dần tắt ngấm giống như trong một màn kịch rùng rợn rẻ tiền. Đèn sau đó sáng loé lên rồi tắt hẳn. Susan Fletcher nhận ra mình đang đứng trong bóng tối mịt mùng.

Xem tiếp chương 55

Chương 55

- Ông đang ngồi trên ghế của tôi đấy, ông bạn.

Becker ngầng đầu lên.

- Không ai nói tiếng Tây Ban Nha ở cái đất nước chết tiện này hay sao?

Một thằng nhóc thấp bé, mặt đầy mụn với cái đầu cạo trọc đang trừng trừng nhìn anh. Một nửa da đầu nó nhuộm đỏ, nửa còn lại màu tía. Trông nó giống như một quả trứng Phục Sinh.

- Tôi nói là ông đang ngồi trên ghế của tôi đấy, đồ chết giẫm.

- Tôi mới nghe thấy giọng cậu lần đầu đấy - Becker nói và đứng dậy. Anh không có hứng thú đánh nhau lúc này. Đã đến lúc phải đi rồi.

- Ông để mấy cái chai của tôi đâu rồi? - Thằng bé gầm gừ. Trên mũi nó có một cái ghim.

Becker chỉ vào đống vỏ chai bia anh để dưới sàn.

- Hết sạch rồi còn gì.

- Đống chai kia là của tôi!

- Tôi xin lỗi - Becker nói và quay lại định đi.

Thằng bé chặn đường anh.

- Hãy nhặt chúng lên ngay!

Becker hấp háy mắt khó chịu.

- Cậu đang đùa phải không?

Anh cao hơn thằng bé hẳn một foot và nặng hơn nó đến 50 pound.

- Trông tôi có giống như là đang đùa không?

Becker im lặng.

- Hãy nhặt lên ngay! - Thằng bé gào lên.

Becker cố gắng bước đi, nhưng thằng bé vẫn chặn đường anh :

- Mẹ kiếp, tôi nói là anh nhặt chúng lên cơ mà!

Những người đã ngà ngà say ở các bàn gần đó bắt đầu chú ý đến cuộc ẩu đả.

- Cậu bé, cậu không muốn nói thế chứ? - Becker điểm đạm nói.

- Tôi cảnh cáo ông đấy! - Thằng bé giận dữ - Đây là bàn của tôi! Đêm nào tôi cũng đến đây. Bây giờ ông hãy nhặt chúng lên đi!

Becker đã chịu hết nổi. Lẽ ra anh đã ở Smokys với Susan rồi sao? Thế mà anh lại đang ở Tây Ban Nha và cãi nhau với một thằng nhóc con dở hơi!

Bất ngờ, Becker kẹp chặt thằng oắt con vào nách, nhấc nó lên và đặt nó ngồi phịch lên bàn.

- Nghe này, thằng ranh con vắt nước mũi chưa sạch. Mày có cút ngay đi không thì bảo, nếu không tao sẽ giật cái ghim kia ra khỏi mũi mày và ghim chặt cái mồm mày lại đấy.

Thằng bé tái mặt lại.

Becker ghìm người nó một lúc rồi lỏng tay ra. Anh cúi xuống, nhặt những cái chai lên và để chúng lại trên bàn trong khi mắt vẫn nhìn chằm chằm vào thằng bé đang xanh mặt sợ hãi.

- Mày nói cái gì? - Anh hỏi.

Thằng bé câm như hến.

- Xong rồi nhé! Becker nói. Thằng bé này là một bản tuyên truyền di động về sinh đẻ có kế hoạch.

- Đồ quỷ tha ma bắt! - Thằng bé gào lên, nó đã biết những người bạn của nó đang cười nó - Đồ con lừa ngu ngốc!

Becker chẳng phản ứng gì. Trong những điều thằng bé đã nói, có một điều khiến anh để ý. "Đêm nào tôi cũng đến đây". Becker tự hỏi liệu thằng bé có giúp gì được anh không.

- Xin lỗi - Becker dịu giọng - Tôi chưa biết tên cậu.

- Hai Máu (Two-Tone) - thằng bé rít lên cứ như thể nó đang thi hành án tử hình vậy.

- Hai Máu à - Becker mơ màng nghĩ.

- Để tôi đoán xem nhé... có phải vì màu tóc của cậu không nhỉ?

- Không, mẹ kiếp. Tên tôi là Sherlock.

- Ồ cái tên hay đấy. Cậu tự đặt tên cho mình hả?

Thực ra, thằng bé huyệnh hoang :

- Tôi đang định xin cấp bằng sáng chế cho cái tên này đấy.

Becker chữa lại.

- Ý cậu là đăng ký độc quyền nó?

Thằng bé có vẻ bối rối.

- Người ta đăng ký thương hiệu cho một cái tên chứ không xin cấp bằng sáng chế đâu! - Becker nói.

- Gì chả thế! - Thằng bé gào lên chán nản.

Những gã mê nhạc rock ngấm thuốc và say rượu ở các bàn gần đó đã bắt đầu lên cơn cuồng loạn. Hai Máu đứng lên và cười nhếch mép với Becker.

- Ông muốn cái quái gì ở tôi?

Becker trầm ngâm một lúc. Chú mày hãy gội đầu cho sạch, ăn nói cho tử tế và hãy klếm cho mình một việc làm. Becker nghĩ có vẻ như thế là quá nhiều trong lần gặp đầu tiên :

- Tôi muốn biết một số thông tin - anh nói.

- Mẹ kiếp.

- Tôi đang tìm một người.

- Tôi sẽ chẳng thấy ai cả.

- Chưa từng thấy ai chứ! - Becker chữa lại, anh ra dấu cho một cô bồi bàn đi ngang qua. Anh gọi hai cốc bia Aguila và đấy một cốc về phía Hai Máu. Thằng bé có vẻ ngạc nhiên. Nó tợp một ngụm bia và nhìn Becker với ánh mắt cảnh giác.

- Ông đang định chộp tôi đấy à?

Becker mỉm cười.

- Tôi đang tìm kiếm một cô gái.

Hai Máu cười ré lên.

- Ông cứ làm như không ai biết tìm gái để làm gì ấy!

Becker cau mặt.

- Tôi không phải tìm để làm việc ấy.

- Tôi chỉ muốn nói chuyện với cô ấy. Có thể cậu sẽ giúp tôi tìm được cô ấy.

Hai Máu đặt cốc bia xuống.

- Ông là cớm à?

Becker lắc đầu.

Thằng bé nheo mắt lại.

- Trông ông giống cớm lắm.

- Chú bé này, tôi từ Maryland đến. Nếu là cớm, thì hình như tôi không có quyền hạn ở địa phận này, cậu có nghĩ thế không?

Câu hỏi này có vẻ khiến thằng bé bối rối.

- Tên tôi là David Becker - Becker mỉm cười và đưa tay qua bàn về phía thằng bé.

Thằng bé lùi lại tỏ vẻ ghê tởm.

- Tránh xa ra, đồ đồng tính.

Becker thu tay về.

Thàng bé nhếch mép cười.

- Tôi sẽ giúp ông, nhưng ông phải trả thù lao đấy.

Becker hỏi luôn.

- Bao nhiêu?

- 100 đô.

Becker nhíu mày.

- Tôi chỉ có tiền pêzơta.

- Gì cũng được! Vậy thỏa thuận là 100 pêzơta nhé.

Rõ ràng là Hai Máu không sành về hoán đổi ngoại tệ; 100 pêzơta chỉ đáng giá khoảng 87 xu.

- Được - Becker nói, gõ chai bia xuống bàn.

Lần đầu tiên thằng bé mỉm cười.

- Cứ thế nhé.

- Rồi - Becker tiếp tục với giọng trầm tĩnh.

- Tôi sẽ tả dáng người của cô gái mà tôi đang tìm, có thể cô ta đang ở đâu đó quanh đây thôi. Cô ấy có tóc màu đỏ, trắng và xanh.

Hai Máu khịt khịt mũi.

- Hôm nay là ngày mất của Judas Taboo. Ai chả để màu tóc đó.

- Cô ấy còn mặc một chiếc áo phông có cờ Anh Quốc và một bên tai có đeo hoa tai hình đầu lâu.

Một ánh mắt nhận ra thoáng hiện trên khuôn mặt của Hai Máu. Becker trông thấy điều này và anh tràn lên một niềm hy vọng.

Nhưng một lát sau, Hai Máu bỗng tỏ ra lạnh lùng. Nó ném cái chai xuống và túm áo Becker.

- Con bé đấy là của thằng Eduardo, đồ ngu ạ! Tôi cho ông biết điều này! Nếu ông chạm đến nó, thằng đó sẽ giết ông đấy!

Xem tiếp chương 56

Chương 56

Midge Milken tức giận đi qua phòng làm việc của mình và vào phòng họp. Ngoài chiếc bàn bằng gỗ gụ cao 1,5 mét khảm lôgô của NSA màu đỏ sẫm anh đào và màu óc chó, phòng họp còn có ba bức tranh màu nước của Marion Pike, một cây dương xỉ Boston, một bàn bằng cẩm thạch, và tất nhiên là một máy làm lạnh hiệu Sparklett. Midge rót một cốc nước và hy vọng khi uống nó có thể xoa dịu thần kinh của mình.

Vừa uống, mụ vừa nhìn ra ngoài qua cửa sổ. Ánh trăng xuyên qua cửa chớp và đùa nghịch trên bàn. Mụ luôn cho rằng chọn phòng này làm văn phòng giám đốc thì đẹp hơn phòng làm việc hiện tại của Fontaine. Phòng họp trông sang một dãy kiến trúc khá ấn tượng và quy mô của NSA - bao gồm khu mái vòm Crypto, một hòn đảo công nghệ cao nằm tách biệt tòa nhà chính trên ba cánh đồng nhiều cây chứ không trông xuống khu đỗ xe như phòng làm việc của ngài Fontaine. Được xây dựng một cách cố ý ở đằng sau vòm che tự nhiên của cánh rừng gỗ thích nhỏ nhắn, Crypto rất khó bị phát hiện ở góc nhìn từ các cửa sổ của NSA, nhưng tầm nhìn từ dãy phòng dành cho giám đốc thì lại khá hoàn hảo.Theo Midge, phòng họp dường như là cao điểm khống chễ hoàn hảo cho một ông vua cai trị lãnh địa của mình. Mụ ta đã một lần đề nghị Fontaine thay đổi phòng làm việc nhưng ngài giám đốc chỉ đáp lại rằng, "Không thể đặt ở đằng sau được", Fontaine không muốn mình đứng sau bất cứ điều gì.

Midge kéo các tấm mành che ra và nhìn về phía những ngọn đồi. Mụ thở dài buồn bã và đưa mắt nhìn về nơi Crypto ngự trị.

Midge luôn cảm thấy rất thoải mái khi trông thấy mái vòm Crypto một cột mốc dẫn đường nối bật bất chấp thời gian. Nhưng đêm nay, khi nhìn về phía đó, cảm giác ấy không còn nữa. Thay vào đó, mụ ta thấy mình như đang nhìn vào chỗ hư không. Khi dí sát mặt vào kính, mụ cảm thấy một nỗi sợ hãi hoang dại. Bên dưới chẳng có gì ngoài một màu đen thăm thẳm. Crypto toàn bộ biến mất!

Xem tiếp chương 57

Chương 57

Khu vệ sinh của Crypto không có cửa sổ, và bóng tối mịt mùng bao trùm lấy Susan Fletcher. Cô đứng chết lặng một lúc và cố gắng thoát khỏi nỗi ám ảnh, một nỗi sợ hãi mà cô cảm nhận thật rõ ràng đang lớn dần lên trong cô. Tiếng kêu ghê rợn phát ra từ ống thông gió dường như đang lẩn quất quanh cô. Cho dù cô đã cố gắng kìm nén nỗi khiếp đảm đang lớn dần lên nhưng nỗi sợ hãi vẫn cứ lớn lên trong cô và rồi thắng thế.

Hoảng sợ, Susan dò dẫm lung tung để tìm cửa ra vào nhưng cô đã mất phương hướng trong bóng tối, hai tay cô quờ quạng đằng trước và cố gắng định hình căn phòng. Cô đá trúng một thùng đựng rác và lại va vào một bức tường. Mò mẫm đi theo bức tường, cô bò về phía lối ra và lần mò được tay nắm cửa. Cô kéo cửa ra và ngã sõng xoài trên nền nhà.

Ở đó lần thứ hai cô cảm thấy toàn thân ớn lạnh.

Crypto không có gì khác so với lúc trước đó. TRANSLTR là một bóng đen xám xịt trước thứ ánh sáng tờ mờ của buổi sớm chiếu vào qua mái vòm. Phía trên, tất cả đèn đều tắt ngấm. Ngay cả những phím điện tử trên cửa cũng không còn sáng.

Khi mắt của Susan đã thích nghi với bóng tối, thứ ánh sáng duy nhất mà cô nhìn thấy là ánh sáng rọi qua cửa chớp - một tia sáng đỏ yếu ớt từ phía dưới rọi lên. Cô đi về phía có ánh sáng đó. Phảng phất trong không khí là mùi khí Ozon.

Khi cô đến chỗ cửa chớp, cô nhìn vào khe cửa. Các ống dẫn khí freon vẫn xả hơi mù cuộn xoáy lẫn trong làn ánh sáng đỏ, và từ tiếng ồn vang vọng của các máy phát điện, Susan biết rằng Crypto vẫn đang hoạt động nhờ nguồn điện dự phòng. Qua màn mù sương. Susan đã nhận ra Strathmore đang đứng ở bục phía dưới.

Ông đang dựa người vào rào chắn và nhìn chằm chằm vào ống thông kêu ầm ì sâu thẳm của TRANSLTR.

- Thưa sếp!

Không có tiếng trả lời.

Susan thả lỏng người trên chiếc thang. Luồng khí nóng từ phía dưới xộc thẳng vào dưới váy của cô. Bậc thang trở nên trơn tuột vì hơi nước đọng lại. Cô đi xuống chỗ chân thang.

Strathmore không quay lại. Ông vẫn nhìn xuống bằng ánh mắt vô cảm, như thể bị thôi miên. Susan đi theo hướng nhìn của ông trên lan can cầu thang. Một lát sau, cô chẳng còn nhìn thấy gì ngoài hơi nước mịt mù. Bất chợt cô nhìn xuống và thấy cảnh tượng ở tòa nhà sáu tầng bên dưới. Cảnh tượng xuất hiện rất nhanh trong màn hơi nước cuồn cuộn bốc lên. 30 mét phía dưới, Phil Chartrukian nằm sõng xoài trên gờ thép sắc cạnh của máy phát điện chính. Cơ thể cháy đen. Chính cú ngã này của anh đã làm máy phát điện chính bị chập mạch.

Nhưng điều khiến Susan thấy ớn lạnh nhất không phải từ Chartrukian mà từ một người khác ở lưng chừng cầu thang, người này đang ẩn mình trong bóng tối. Dáng người vạm vỡ đó không thể lẫn vào đâu được. Đó chính là Greg Hale.

Xem tiếp chương 58

Chương 58

Thằng nhóc mê nhạc rock ấy hét vào mặt Becker :

- Megan là của bạn tôi, Eduardo? Ông hãy tránh xa con bé đó ra?

- Con bé ấy đang ở đâu - Becker không giữ nổi bình tĩnh.

- Mẹ kiếp?

- Có việc khẩn cấp! - Becker gắt lên. Anh túm lấy tay áo thằng bé - Con bé đang cầm một chiếc nhẫn của tôi, tôi muốn chuộc lại! Với số tiền lớn!

Hai Máu khựng lại rồi bỗng nổi khùng.

- Ông bảo cái thứ bằng vàng xấu xí ấy là của ông ư?

Becker mở to mắt.

- Mày đã nhìn thấy cái nhẫn rồi à?

Hai Máu lặng lẽ gật đầu.

- Nó ở đâu - Becker gặng hỏi.

- Không biết - Hai Máu cười thầm - Megan đã mang nó lên đây và định cầm đồ.

- Con bé định bán cái nhẫn ư?

- Ông đừng lo, con bé không bán được cái nhẫn đâu. Khiếu thẩm mỹ của ông quá tồi.

- Mày chắc không ai thèm mua nó chứ?

- Ông đang đùa tôi đấy à? 400 đô cho cái nhẫn ư? Tôi bảo nó là tôi trả 50 thôi nhưng nó muốn nhiều hơn. Để nó mua một vé máy bay dự trữ.

Becker cảm giác như máu đang chảy ròng ròng trên mặt anh.

- Vé máy bay đi đâu?

- Mẹ kiếp, Connecticut - Hai Máu cáu gắt - Thằng Eddie đang điên lên.

- Connecticut ư?

- Đúng, mẹ kiếp. Nó về biệt thự của bố mẹ nó ở ngoại ô. Nó ghét cái gia đình nó đang sống cùng ở Tây Ban Nha. Bởi ba anh em thằng người Nam Mỹ nói tiếng Tây Ban Nha toàn bắt nạt nó.

Becker cảm thấy như có cái gì đang chặn trong cổ họng.

- Bao giờ con bé đi?

Hai Máu ngước mắt nhìn.

- Bao giờ ư? - Thằng nhóc cười phá lên.

- Giờ thì con bé ấy đi xa rồi. Ra sân bay cách đây hàng tiếng đồng hồ. Chỗ tốt nhất để bán cái nhẫn mà -toàn khách giàu, mẹ kiếp! Cầm được tiền là nó biến luôn.

Một cơn buồn nôn sực lên trong bụng Becker. Đây có phải một trò đùa ngu ngốc? Anh đứng lặng một hồi lâu.

- Họ con bé là gì?

Hai Máu ngẫm nghĩ rồi nhún vai tỏ ý không biết.

- Con bé bay chuyến nào? - Becker hỏi tiếp.

- Nó nói cái gì đấy liên quan đến Roach Coach.

- Roach Coach?

Phải rồi. Seville-mắt-đỏ cuối tuần, Madrid, La Guardia. Người ta gọi nó thế. Bọn học sinh hay đi chuyến ấy vì rẻ tiền. Chắc chúng nó lại ngồi đằng sau để hít cần sa.

Được Becker lầm bầm, đưa tay vuốt tóc.

- Mấy giờ bay?

- Đúng 2 giờ sáng, đêm thứ Bảy nào cũng có. Giờ đây nó đang lơ lửng giữa Đại Tây Dương rồi.

Becker liếc nhìn đồng hồ. Đồng hồ chỉ 1h45 sáng. Anh quay sang Hai Máu, vẻ bối rối.

- Mày bảo đó là chuyễn 2h sáng, đúng không?

Thằng nhóc gật đầu cười.

- Đúng là ông già lẩm cẩm.

Becker tức giận chỉ vào đồng hồ.

- Nhưng bây giờ mới 2h kém.

Hai Máu liếc đồng hồ, vẻ lúng túng.

- Ừ thì tôi nhầm - thằng nhóc cười - Tôi thường không đến chốn ầm ĩ này trước 4 giờ sáng!

- Có cách nào đến sân bay nhanh nhất? - Becker cáu gắt.

- Taxi ngay ngoài cửa - Hai Máu thản nhiên đáp.

Becker rút vội tờ 1000 peseta và giúi vào tay Hai Máu.

- Cảm ơn nhé!

Thằng nhóc nói với theo :

- Nếu ông gặp Megan, cho tôi gửi lời hỏi thăm nhé!

Nhưng Becker đã đi mất.

Hai Máu thở dài rồi quay lại sàn nhảy. Thằng nhóc say quá nên không để ý có một người đàn ông đeo kính gọng sắt đang theo dõi nó. Ở bên ngoài. Becker chạy khắp bãi đậu xe để tìm chiếc taxi. Không có chiếc nào. Anh chạy đến chỗ gã bảo kê to con và gọi Taxi.

Gã bảo kê lắc đầu.

- Sớm quá.

Sớm quá à? Becker nguyền rủa. 2h sáng rồi.

- Gọi cho tôi một xe!

Gã rút bộ đàm ra, nói vài câu rồi tắt máy.

- Veinte minutos - gã nói với Becker.

- 20 phút ư? - Becker gặng hỏi.

- Thế còn xe buýt thì sao?

Gã bảo kê nhún vai.

- 45 phút.

Becker giơ nắm đấm;

- Tuyệt thật!

Bỗng có tiếng kêu của một động cơ nhỏ khiến Becker quay đầu lại Nghe như tiếng xích kêu. Một thằng nhóc to con cùng bồ của nó cưỡi trên một chiếc chiếc mô tô Vespa 250 cũ lượn vào bãi xe. Chiếc váy ngắn cũn cỡn của cô ta bị gió tốc ngược lên. Cô ta có vẻ không để ý tới điều đó. Becker lao tới. Không tin nổi mình phải làm thế này, anh nghĩ thầm. Mình ghét lái xe mô tô. Anh hét to với tên lái xe :

- Tôi sẽ cho cậu 10 nghìn peseta, cậu đưa tôi đến sân bay nhé?

Thằng nhóc lờ đi và rú ga.

- 20 nghìn! - Becker buông lời - Tôi cần phải đi đến sân bay!

Thằng nhóc ngước nhìn.

- Scusi? [1] Nó là người Ý.

- Aeroporto! Per favore. Sulla Vespa! Venti mille pesete! [2]

Thằng nhóc người Ý đưa mắt nhìn chiếc xe nhỏ thó nhếch nhác của mình rồi cười.

- Venti mille pesete? La Vespa. [3]

- 50 nghìn! - Becker trả giá. Số tiền này tương đương với khoảng 400 đô la.

Thằng nhóc người Ý cười vẻ nghi ngờ.

- Tiền đâu?

Becker rút trong túi ra 5 tờ 10 nghìn peseta rồi giơ ra. Thằng nhóc nhìn số tiền rồi đưa mắt về phía bạn gái nó. Con bé giật lấy số tiền rồi đút và trong áo.

- Cảm ơn!

Thằng nhóc hoan hỉ. Nó tung chìa khóa của chiếc Vespa cho Becker rồi kéo tay bạn gái, chúng vừa cười vừa chạy vào trong tòa nhà.

Becker hét lên.

- Đợi đã! Tôi muốn cậu chở tôi đi!

--------------------------------------------------------------------------------

[1] [2] [3] Tiếng Ý (Người dịch)

Xem tiếp chương 59

Chương 59

Susan với tay về phía chỉ huy Strathmore, ông giúp cô trèo lên thang vào Crypto. Hình ảnh Phil Chartruklan nằm xõng xoài bên cỗ máy cứ ám ảnh trong tâm trí cô. Ý nghĩ Hale vẫn đang lẩn trốn trong Crypto làm cô hoảng sợ. Hale đã đẩy ngã Chartrukian. Rõ ràng điều này là sự thật.

Susan loạng choạng đi quá bóng TRANSLTR, về phía cửa chính của Crypto - cái cửa mà cô đã đi qua hàng giờ trước đó. Cú đấm mạnh của cô vào bàn phím giờ tối om, cũng không giúp cô lay chuyển được cánh cửa khổng lồ. Cô bị nhốt ở trong, Crypto giờ đây như nhà tù. Cả tòa nhà trông giống một vệ tinh nhân tạo, cách khu trung tâm của NSA 109 yard, chỉ có thể xâm nhập vào qua cửa chính. Vì Crypto dùng đường điện riêng nên có lẽ tổng đài không biết rằng ở đây đang có biến cố.

Đường điện chính đã bị cắt - Strathmore nói rồi đi đến bên Susan - Chúng ta... còn nguồn dự trữ.

Nguồn điện dự phòng ở Crypto được thiết kế ưu tiên trước hết cho TRANSLTR và hệ thống làm mát của máy trước khi cung cấp điện cho các hệ thống khác, trong đó có hệ thống chiếu sáng và cửa ra vào. Như vậy việc thiễu điện sẽ không ảnh hưởng đến TRANSLTR khi máy đang chạy chương trình quan trọng. Điều đó cũng có nghĩa là TRANSLTR sẽ không hoạt động nếu không có hệ thống làm mát bằng freon; vì nếu không có hệ thống làm mát, hơi nóng tỏa ra từ 3 triệu bộ xử lý sẽ làm giảm độ chính xác của máy, thậm chí còn làm cháy các con chíp silicon và dẫn đến hiện tượng phát hỏa phóng xạ. Đó là viễn cảnh không một ai dám nghĩ tới.

Susan phải cố gắng hết sức giữ bình tĩnh. Suy nghĩ của cô bị choán hết bởi hình ảnh nhân viên An ninh mạng nằm trên hệ thống máy phát điện. Cô lại đập mạnh vào bàn phím. Vẫn không có phản ứng.

"Dừng vận hành", cô yêu cầu. Nếu TRANSLTR ngừng tìm kiếm mật khẩu của Pháo Đài Số thì nó sẽ làm ngắt tất cả các mạch điện trong máy và giải phóng đủ điện năng dự trữ để kích hoạt lại hệ thống cửa.

- Dễ thôi Susan! - Strathmore nói và đặt cánh tay vững vàng, điểm tĩnh của mình lên vai Susan.

Cánh tay vững chãi của ngài chỉ huy đã kéo Susan ra khỏi nỗi sợ hãi. Cô bỗng nhớ ra tại sao cô đi tìm ông. Cô nhắc lại: "Ngài chỉ huy! Greg Hale chính là North Dakota!"

Một khoảnh khắc im lặng dường như vô tận trong bóng tối kéo đến. Giọng ông bối rối và bàng hoàng :

- Cô nói cái gì?

- Hale... - Susan thì thầm - Anh ta chính là North Dakota.

Lại một hồi im lặng, Strathmore suy nghĩ về những lời Susan vừa nói.

- Phần mềm tìm địa chỉ à? - Ông có vẻ bối rối.

- Nó chỉ rõ hắn là Hale?

- Máy dò chưa có câu trả lời. Hale đã hủy lệnh!

Susan tiếp tục giải thích cho Strathmore biết Hale đã dừng lệnh tìm kiếm như thế nào và cô đã tìm được thư điện tử của Tankado trong hộp thư điện tử của Hale ra sao. Im lặng một hồi lâu.

Strathmore lắc đầu không tin vào tai mình nữa.

- Không lẽ nào Hale lại là đồng bọn của Tankado! Thật vô lý?

Tankado không bao giờ tin Hale cả.

- Thưa sếp! Susan nói tiếp - Trước đây Hale đã từng dìm chúng ta một lần - vụ Skipjack. Tankado tin tưởng anh ta.

Strathmore dường như không nói được lời nào.

- Hãy hủy lệnh chạy TRANSLTR - Susan van xin Strathmore.

- Chúng ta đã bắt được North Dakota. Hãy gọi bộ phận an ninh của tòa nhà. Ra khỏi đây thôi.

Strathmore giơ tay ngắt lời rồi suy nghĩ.

Susan nhìn về phía cửa ra đầy vẻ lo lắng. Lối thoát khỏi nơi này ở ngay đằng sau TRANSLATR, thế nhưng để ánh sáng le lói ấy loé ra từ bức tường gạch tăm tối kia chẳng khác nào làm cho lửa loé lên từ tảng băng.

- Thôi nào, gọi bảo vệ đi, sếp! Hãy hủy lệnh của TRANSLTR! Để chúng ta thoát ra ngoài!

Strathmore đột nhiên tìm ra cách hành động.

- Theo tôi - Ông bảo Susan. Nói rồi ông sải bước tiến về phía cửa lật.

- Thưa sếp! Hale rất nguy hiểm! Hắn...

Nhưng Strathmore đã biến mất trong bóng tối. Susan vội vã rảo bước theo bóng ông. Ngài chỉ huy chạy quanh TRANSLTR đến lỗ hổng trên sàn. Ông ghé mắt nhìn sát vào lỗ xả hơi đang tạo thành xoáy. Rồi ông lặng lẽ nhìn quanh toàn khu Crypto đang chìm trong bóng tối. Sau đó, ông cúi người xuống và ráng hết sức kéo cánh cửa nặng trình trịch kia. Cửa quay được một góc nhỏ. Nhưng khi ngài chỉ huy bỏ tay ra, nó đóng sầm lại, dập tắt mọi hy vọng. Một lần nữa Crypto chìm trong bóng tối không một tiếng động. Hình như North Dakota cũng bị nhốt ở trong này.

Strathmore quỳ xuống. Ông cố xoay cái chốt cửa nhưng nó đã trở về vị trí cũ. Tầng hầm đã bị bịt kín.

Cả ngài chỉ huy và Susan đều không nghe thấy tiếng bước chân đi rất nhẹ ở phía Node 3.

Xem tiếp chương 60

Chương 60

Hành lang dẫn Hai Máu đi từ sân trong vào sàn nhảy được treo kín gương. Nó dừng lại trước gương để chỉnh lại cái ghim trên mũi, bỗng nó linh cảm có bóng người lờ mờ đi theo sau mình. Lập tức quay đầu lại nhưng đã quá muộn với nó. Hai cánh tay cứng như đá kẹp chặt và ghì đầu nó vào gương.

Thằng nhóc cố gắng xoay người lại.

- Eduardo? Này, phải chú mày không?

Hai Máu cảm thấy có một cánh tay lướt qua ví của nó trước khi bóng đen kia đè mạnh vào lưng nó.

- Eddie? - thằng nhóc gào to - Đừng đùa nữa! Vừa nãy có một gã đến tìm Megan.

Bóng đen kẹp chặt lấy thằng nhóc.

- Này, Eddie, thằng điên, bỏ ra ngay! - Thế nhưng khi Hai Máu nhìn vào trong gương, nó chợt nhận ra bóng đen đang ghì lấy nó không phải là bạn nó.

Khuôn mặt rỗ và đầy sẹo. Đôi mắt chết chóc nhìn chòng chòng từ sau cặp kính râm. Gã nghiêng người về phía trước, ghé sát miệng vào tai Hai Máu. Một giọng nói xa lạ đầy tức tối cất lên.

- Hắn đi đâu? - Câu chữ vang lên méo mó.

Thằng nhóc cứng đờ người, tê liệt vì sợ hãi.

- Hắn đi đâu - giọng nói ấy lại cất lên.

- Thằng người Mỹ?

- Sân... sân bay - Hai Máu lắp bắp.

- Sân bay - Gã nhắc lại, cặp mắt tối sầm nhìn chằm chằm vào miệng Hai Máu trong gương.

Hai Máu gật đầu.

- Hắn có chiếc nhẫn không?

Quá sợ hãi, Hai Máu lắc đầu.

- Không.

- Mày có nhìn thấy cái nhẫn không? Mày có nhìn thấy cái nhẫn không?

Hai Máu ngập ngừng. Nên trả lời thế nào cho phải đây?

- Có hay không - Giọng nói nghẹt tiếng ấy lại cất lên.

Hai Máu gật đầu quả quyết, hy vọng sự thật thà của mình sẽ được tha. Nhưng không. Chỉ vài giây sau Hai Máu ngã sấp xuống sàn, cổ bị bẻ gẫy.

Xem tiếp chương 61

Chương 61

Jabba nằm ngửa dưới gầm chiếc máy tính lớn đã bị ông ta tháo vỏ để sửa chữa. Nửa người trên của ông ta thò ra ngoài, miệng ngậm đèn soi, tay cầm mỏ hàn và bụng đỡ một bản vẽ lớn, ông vừa gắn xong một bộ thiết bị trở kháng vào bảng mạch chủ bị lỗi thì chuông điện thoại reo.

- Mẹ kiếp - Ông quờ tay mò lấy cái ống nghe nằm trên đống cáp - Jabba nghe đây.

Ông bừng tỉnh. "Hai lần trong một đêm? Mọi người sẽ xì xào về chuyện này cho mà xem".

- Crypto có sự cố rồi - Giọng người phụ nữ ở đầu dây bên kia căng thẳng.

Jabba cau mày :

- Chúng ta đã từng gặp phải chuyện tương tự. Nhớ không?

- Đây là vấn đề liên quan đến điện.

- Tôi không phải thợ điện. Hãy gọi bộ phận kỹ thuật.

- Cả tòa nhà chìm trong bóng tối.

- Cô vẫn nhìn được đấy thôi. Về nhà đi - Nói rồi ông quay lại với đống biểu đồ của mình.

- Tối đen như mực! - Bà ta hét lên.

Jabba thở dài và đặt cái đèn soi xuống và nói :

- Midge, thứ nhất, ở đó chúng ta có điện năng dự trữ không bao giờ bị mất điện hoàn toàn được. Thứ hai, ngay lúc này Strathmore nắm tình hình Crypto rõ hơn tôi. Tại sao không gọi cho ông ấy?

- Bởi vì chính ông ta liên quan đến chuyện này. Ông ta đang che giấu điều gì đó.

Jabba nheo mắt.

- Midge thân yêu, tôi đang ngập đầu ngập cổ trong đống cáp ở đây. Nếu cô muốn hẹn hò, tôi sẽ bỏ ngay mọi thứ. Còn nếu không, cô phải gọi bộ phận kỹ thuật.

- Jabba, đây là chuyện rất nghiêm trọng. Tôi cảm thấy điều đó.

- Bà ta linh cảm thấy điều đó ư? Chuyện nghiêm trọng rồi đây,

Jabba nghĩ, chắc Midge chỉ hoảng loạn một chút thôi.

- Nếu Strathmore không lo lắng gì thì tôi đâu cần phải bận tâm.

- Toàn bộ Crypto tối đen như mực, mẹ kiếp!

- Thế thì có lẽ Strathmore đang mơ màng ngắm trăng.

- Jabba! Tôi không đùa đâu!

- Được rồi, được rồi - Jabba càu nhàu, ông chống khuỷu tay xuống sàn - Có lẽ một máy phát điện bị hết nhiên liệu. Xong việc ở đây tôi sẽ chạy qua Crypto ngay và...

- Còn nguồn điện dự trữ thì sao - Midge gặng hỏi - Nếu một máy phát điện hỏng thì tại sao không dùng nguồn điện dự trữ?

- Tôi không biết. Có thể Strathmore đang chạy TRANSLTR nên nguồn điện tạm thời bị khóa.

- Thế sao không hủy lệnh vận hành máy đi? Hay máy nhiễm virus.

- Thôi đi Midge! - Jabba tức giận - Tôi đã nói rồi, làm gì có virus ở Crypto! Đừng có ngốc nghếch nữa.

Phía đầu dây bên kia im lặng hồi lâu.

- Ô kìa, Midge - Jabba xin lỗi - Để tôi giải thích - Giọng ông kiềm chế lại - Thứ nhất, chúng ta đã có Gauntlet, không virus nào có thể xâm nhập được. Thứ hai, nếu mất điện, đó là chuyện liên quan đến phần cứng, virus không thể làm mất điện được, chúng chỉ tấn công phần mềm và dữ liệu thôi. Bất cứ cái gì xảy ra ở Crypto bây giờ đều không thể do virus.

Im lặng.

- Midge? Cô còn đó không?

Midge đáp lại lạnh lùng.

- Jabba, có vấn đề nên tôi phải tìm cách giải quyết. Tôi không đáng bị quát nạt vì điều đó. Khi tôi gọi để hỏi tại sao cả một khối trị giá hàng tỉ đô la kia lại chìm trong bóng tối, nghĩa là tôi mong muốn nhận được một lời giải thích hợp lý từ ông.

- Vâng, thưa quí bà.

- Chỉ cần nói có hay không. Có khả năng vấn đề Crypto gặp phải có liên quan đến virus hay không?

- Midge... Tôi đã nói với cô rồi...

- Có hay không. TRANSLTR có thể bị nhiễm virus không? - Midge hỏi lại.

Jabba thở dài.

- Không đâu, Midge. Hoàn toàn không thể.

- Cảm ơn ông.

Jabba cố cười thật lớn để làm dịu tâm trạng căng thẳng của Midge.

- Trừ trường hợp em cho rằng Strathmore tự tạo ra virus và virus đó lọt qua được bộ lọc của chúng ta.

Đầu dây bên kia im lặng sửng sốt. Khi Midge cất tiếng, giọng mụ có phần sợ sệt, bán tín bán nghi.

- Strathmore có thể qua mặt được Gauntlet hay sao?

Jabba thở dài :

- Chỉ đùa thôi mà, Midge!

Nhưng ông biết mọi chuyện đã quá muộn rồi.

Xem tiếp chương 62

Chương 62

Ngài chỉ huy và Susan đứng bên cửa lật đóng chặt và tính xem việc tiếp theo phải làm là gì.

Vẫn còn xác của Phil Chartrukian dưới kia - Strathmore suy tính.

- Nếu chúng ta kêu cứu, Crypto sẽ loạn ngay!

- Thế thì phải làm gì - Susan gặng hỏi. Cô chỉ muốn rời khỏi nơi này ngay lập tức.

Strathmore suy nghĩ một hồi rồi nói với Susan :

- Đừng hỏi tôi tại sao mọi chuyện lại xảy ra như thế. - Ông nói rồi liếc xuống cánh cửa lật đang bị khóa chặt - Bù lại chúng ta đã tình cờ phát hiện ra và đã vô hiệu hóa North Dakota - Ông lắc đầu trong vô vọng. Ngài chỉ huy dường như vẫn còn choáng váng vì ý nghĩ Hale có dính líu vào kế hoạch của Tankado - Tôi đoán là Hale giấu mật khẩu đâu đây trong máy của anh ta - có lẽ anh ta còn một bản sao ở nhà. Dù sao đi nữa, giờ anh ta cũng đang bị nhốt..

- Thế thì tại sao không gọi bảo vệ vào bắt anh ta đi?

- Chưa đến lúc, nếu nhân viên của phòng An ninh mạng để lộ thông tin về sự vận hành không có điểm dừng này của TRANSLTR, chúng ta sẽ gặp phải một loạt rắc rối mới. Tôi muốn xóa mọi dấu vết của Pháo Đài Số trước khi chúng ta mở cửa - Strathmore nói.

Susan gật đầu miễn cưỡng. Chỉ còn cách này thôi. Cuối cùng khi bảo vệ kéo Hale ra khỏi tầng hầm và buộc tội anh ta gây ra cái chết của Chartrukian thì anh ta có thể đe dọa sẽ cho toàn thế giới biết về Pháo Đài Số. Nhưng nếu chúng bị xóa sạch thì Strathmore có thể phủ nhận hết. Một lệnh vận hành không có điểm dừng ư? Một thuật toán không thể phá vỡ ư? Nhưng điều đó thật điên rồ! Hale chưa bao giờ nghe đến định lý Bergofsky sao?

- Đây chính là điều chúng ta cần làm - Strathmore bình tĩnh lên kế hoạch - Chúng ta xóa sạch mọi liên lạc giữa Hale và Tankado. Xóa sạch mọi file "qua mặt" Gauntlet của tôi, mọi phân tích về An ninh hệ thống của Chartrukian, mọi hồ sơ thông tin về Run-Monitor, tất cả mọi thứ. Pháo Đài Số biến sẽ mất. Nó chưa bao giờ tồn tại ở đây. Chúng ta sẽ chôn vùi mật khẩu của Hale và cầu Chúa cho David tìm bản sao mật khẩu của Tankado.

David, Susan nghĩ. Cô cố đẩy anh ra khỏi tâm trí. Cô cần tập trung giải quyết vấn đề trước mắt.

- Tôi sẽ lo chuyện ở phòng An ninh hệ thống - Strathmore nói - Dữ liệu của máy chủ, dữ liệu về hoạt động hoán chuyến, các công trình nghiên cứu. Cô lo chuyện Node 3. Xóa tất cả thư điện tử của Hale. Bất kỳ chứng cứ nào về mối quan hệ của hắn với Tankado, bất kỳ thông tin gì liên quan đến Pháo Đài Số.

- Được! - Susan đáp lại, giọng rất tập trung - Tôi sẽ xóa toàn bộ ổ cứng của Hale. Định dạng lại mọi thứ.

- Không! - Strathmore phản ứng gay gắt - Đừng làm thế. Rất có khả năng Hale có bản sao mã khóa trong đó. Tôi muốn có nó.

Susan há hốc mồm kinh ngạc.

- Ngài muốn có mã khoá? Tôi tưởng điều duy nhất chúng ta phải làm bây giờ là phá hủy tất cả các mật khẩu chứ!

- Đúng thế. Nhưng tôi muốn có một bản sao. Tôi muốn hủy cái file chết tiệt này và tìm hiểu chương trình của Tankado.

Susan cũng tò mò về chương trình đó như Strathmore nhưng bản năng mách bảo cô rằng việc giải mã thuật toán Pháo Đài Số là không nên. Cho dù việc đó hấp dẫn đến mức nào. Giờ đây, chương trình chết đó đã bị khóa an toàn trong hàng rào.

- Sếp chúng ta chỉ nên...

- Tôi muốn có mã khoá! - ông ta nhắc lại.

Susan buộc phải tuân lệnh, kể từ khi nghe nói đến Pháo Đài Số, cô đã cảm thấy mình bị thôi thúc bởi một sự tò mò khoa học để tìm hiểu làm thế nào mà Tankado viết được chương trình này. Sự tồn tại của nó phủ nhận tất cả những quy tắc cơ bản của toán mật mã.

Susan đưa mắt nhìn ngài chỉ huy.

- Ông sẽ xóa sạch thuật toán đó ngay khi chúng ta nhìn thấy nó chứ?

- Không còn một dấu vết.

Susan cau mày lại. Cô biết rằng việc tìm ra mã khóa của Hale không thể làm trong chớp mắt được. Định vị được một mã khóa ngẫu nhiên trên một trong số các ổ cứng của Node 3 giống như mò kim đáy bể. Các công cụ tìm kiếm của máy tính chỉ hiệu quả khi bạn biết bạn đang tìm cái gì; mật khẩu này lại là một mật khẩu ngẫu nhiên. Nhưng may mắn thay, vì Crypto đã từng gặp và phải xử lý rất nhiều tài liệu ngẫu nhiên như vậy, Susan và một số người khác đã xây dựng một quy trình xử lý phức tạp gọi là công cụ tìm kiếm không theo lối mòn. Công cụ tìm kiếm này buộc máy tính phải rà lại tất cả các chuỗi kí tự trong ổ cứng, so sánh mỗi chuỗi với một đại từ điển, và đánh dấu vào bất kỳ chuỗi kí tự nào không có nghĩa hoặc ngẫu nhiên. Việc chọn lọc liên tục các tham số quả là một việc làm đánh đố, nhưng không phải là không thực hiện được.

Susan biết cô chính là lựa chọn hợp lý để tìm ra mật khẩu. Cô thở dài, hy vọng sẽ không phải hối hếc vì điều đó.

- Nếu mọi chuyện suôn sẻ, tôi sẽ chỉ mất khoảng nửa giờ.

- Thế thì làm ngay đi thôi - Strathmore nói, ông đặt tay lên vai cô và đưa cô qua chỗ tối để lên Node 3.

Trước mắt họ, một bầu trời đầy sao bao tòa nhà. Lúc này, Susan lại băn khoăn trong đầu, liệu David có thấy được những vì sao này ở Seville hay không.

Khi cả hai tiến đến cửa kính lớn của Node 3, Strathmore nín thở, bàn phím ở Node 3 không sáng, cửa không hoạt động.

- Mẹ kiếp - Ông nguyền rủa - Làm gì có điện. Tôi quên mất.

Strathmore kiểm tra tất cả các cửa kéo. Ông đặt lòng bàn tay lên: cửa kính rồi dựa vào thành cửa, cố kéo cánh trượt ra. Hai tay ông đẫm mồ hôi và bị trượt ra. Ông lau tay vào quần rồi thử lại. Lần này, cửa hé ra được một chút.

Susan, thấy có tiến triển, đến cạnh Strathmore và cả hai người cùng đẩy. Cửa trượt ra được khoảng 2,5cm. Cả hai cùng đẩy nhưng áp lực quá lớn nên cửa bị sập lại.

- Đợi đã! - Susan nói, chuyển tư thế đứng về phía đối diện với Strathmore. - Được rồi, bây giờ thử lại.

Họ cố hết sức. Cửa lại tiếp tục mở được khoảng 2,5cm. Một luồng sáng xanh yếu ớt hiện ra từ bên trong Node 3; hệ thống máy tính vẫn đang hoạt động; chúng được tính toán kỹ càng để hỗ trợ cho TRANSLTR và vẫn đang nhận điện năng dự trữ.

Susan bấm ngón chân đi giày Ferragamo xuống sàn và đẩy mạnh hơn. Cửa bắt đầu dịch chuyển. Strathmore chuyển tư thế để lấy đà tốt hơn. Tập trung hai lòng bàn tay vào cửa trượt bên trái, ông đẩy ngược trở lại. Susan đẩy cửa trượt bên phải về phía ngược lại. Từ từ, khó nhọc, cửa bắt đầu tách ra. Bây giờ hai cánh cửa đã cách nhau chừng 30cm.

- Đừng bỏ cuộc - Strathmore vừa nói vừa thở dốc sau cú đẩy mạnh - Chỉ cần chút xíu nữa.

Susan đổi tư thế, đặt lưng vào giữa chỗ tách nhau của 2 cánh cửa. Cô lại tiếp tục đẩy, lần này góc đứng tốt hơn. Cửa đẩy lại đập vào cô.

Trước khi Strathmore kịp chặn cô lại, Susan đã lọt cả thân hình mảnh mai vào giữa khe hở. Strathmore không đồng ý cho cô làm như vậy nhưng Susan kiên quyết. Cô muốn thoát khỏi Crypto nhưng vì Strathmore, cô quyết định không đi đâu cho đến khi tìm ra được mã khóa của Hale.

Cô đặt cả người vào giữa khe hở và dùng hết sức lực để đẩy nó ra. Cửa có xu hướng đẩy ngược trở lại thì đột nhiên Susan mất tư thế đứng. Cửa đập lại vào người cô. Strathmore cố hết sức để ghì nó lại nhưng lực đẩy quá lớn. Ngay trước khi cửa đóng sập lại thì Susan kịp len qua và ngã vềphía bên kia.

Ngài chỉ huy cố hết sức để đấy cửa hé ra một chút. Ông ghé sát mặt vào khe cửa và hỏi :

- Lạy chúa tôi, cô vẫn ổn chứ, Susan?

Susan đứng dậy phủi sạch người :

- Tôi không sao.

Cô nhìn quanh. Node 3 không một bóng người, chỉ có ánh sáng duy nhất phát ra từ phía máy chủ. Bóng sáng xanh mờ mờ tạo cho nơi đây một không khí ma quái. Cô quay về phía Strathmore ở khe cửa. Mặt ông trông xanh xao, ốm yeu trong ánh sáng xanh ấy.

- Susan - Ông gọi - Cho tôi 20 phút để xóa sạch các file trong phòng An ninh hệ thống. Khi tất cả mọi dấu vết đã biến mất, tôi sẽ quay về hệ thống máy của tôi và hủy lệnh hoạt động của TRANSLTR.

- Ông nên làm như vậy - Susan nói rồi đưa mắt nhìn về phía cửa kính đồ sộ. Cô biết rằng cô sẽ bị giam trong Node 3 cho đến khi TRANSLTR ngừng chạy.

Strathmore thả cánh cửa ra và chúng sập kín lại như cũ. Susan nhìn qua cửa kính, dõi theo bóng ngài chỉ huy khuất dần trong bóng tối của Crypto.

Xem tiếp chương 63

Chương 63

Chiếc xe vespa mà Becker mới mua lăn bánh khó nhọc trên con đường dẫn đến sân bay Sevilla. Các khớp ngón tay của anh trắng bệch, rã rời suốt đoạn đường. Kim đồng hồ của anh chỉ quá số 2 giờ sáng một chút theo giờ địa phương.

Khi anh đến sảnh đợi chính ở sân bay, anh phi xe lên hè và lao ra khỏi xe trong khi nó vẫn đang rồ ga. Chiếc xe trượt loảng xoảng trên vỉa hè, tiếng ga vẫn kêu cho đến khi dừng hẳn. Becker va mạnh vào miếng cao su khi đi qua cửa quay. Lần duy nhất trong đời, anh tự thề.

Sảnh đợi vắng tanh và sáng trưng. Nếu không có người quét dọn đang đi lau sàn thì nơi này hoàn toàn không một bóng người.

Phía bên kia phòng đợi, một nhân viên bán vé đang cất biển bán vé của hãng hàng không Iberia. Anh cảm thấy đây là một điều xấu.

Anh chạy tới :

- Tôi muốn bay sang Mỹ?

Người phụ nữ Ardaluxia quyến rũ đằng sau quầy thu ngân nhìn lên và mỉm cười đay vẻ hối tiếc.

- Ông vừa lỡ mất chuyến bay.

Câu nói của cô bán vé lơ lửng hồi lâu trên không trung.

Mình đã lỡ mất chuyến bay. Hai vai Becker sụp xuống.

- Còn chỗ trống nào trên chuyến bay không?

- Còn rất nhiều. - Người phụ nữ trả lời - Hầu hết các chỗ đều bỏ trống. Nhưng chuyến 8 giờ sáng ngày mai cũng có.

- Tôi muốn biết một người bạn của tôi có bay chuyến vừa rồi không. Cô ấy mua vé dự trữ.

- Xin lỗi ngài. Đêm nay có một vài hành khách đi vé dự trữ nhưng theo điều khoản về giữ bí mật của chúng tôi thì... - Người phụ nữ cau mày trả lời.

- Chuyện này rất quan trọng - Becker cố thuyết phục - Tôi chỉ cần biết người bạn của tôi có đi hay không thôi. Tất cả chỉ có thế.

Người phụ nữ gật đầu tỏ vẻ cảm thông.

- Anh cãi nhau với bạn gái à?

Becker suy nghĩ một hồi rồi cười ngượng ngùng.

- Cô thấy rõ điều đó mà!

Cô bán vé nháy mắt thông cảm với Becker.

- Tên cô ấy là gì?

- Megan - anh buồn bã trả lời.

Người bán vé mỉm cười.

- Bạn gái anh có họ không?

Becker thở dài nặng nhọc.

- Có chứ, nhưng tôi không biết - Sự thực thì chuyện rất rắc rối. Cô vừa nói máy bay gần như trống. Hay là cô có thể...

- Nếu không có họ thì tôi không thể....

- Thực ra - Becker ngắt lời, anh chợt nảy ra một ý và hỏi - Cô đã bao giờ làm việc suốt đêm chưa?

Người phụ nữ gật đầu.

- Tôi đã từng làm việc từ 7 giờ tối đến 7giờ sáng.

- Thế thì có thể cô nhìn thấy cô ấy. Cô ấy còn rất trẻ. Chỉ khoảng 15 hoặc 16 tuổi gì đó. Tóc cô ấy...

Trước khi thốt ra những lời còn lại Becker mới nhận ra sai lầm của mình.

Mắt người bán vé nheo lại.

- Người yêu của anh mới 15 tuổi ư?

- Không! Becker thốt lên.

- Ý tôi là... Mẹ kiếp. Cô có thể giúp tôi được không, việc này rất quan trọng.

- Xin lỗi anh - người phụ nữ lạnh lùng đáp.

- Sự thực không phải như cô tưởng đâu. Liệu cô có thể...

- Xin chào anh - người phụ nữ kẻo mạnh lưới sắt xuống quầy thu ngân và đi mất vào phòng trong.

Becker rên rỉ và ngước mắt lên trời. Được lắm, David. Được lắm. Anh đưa mắt nhìn quanh phòng chờ. Chẳng còn gì. Chắc hẳn cô bé đã bán chiếc nhẫn đã lên máy bay. Anh chạy vội về phía người bảo vệ. Anh gọi với qua bức tường đệm và hỏi :

- Ông có nhìn thấy một cô bé ở đây không?

Ông lão đưa tay tắt máy.

- Sao?

- Một cô bé - Becker nhắc lại - Mái tóc màu đỏ, trắng và xanh.

Ông bảo vệ cười vang :

- Cô ta xấu thế ư? - Ông lắc đầu và quay lại tiếp tục làm việc.

David Becker đứng lặng giữa phòng đợi sân bay hoang vắng không một bóng người. Buổi tối hôm nay đúng là một tấn hài kịch, toàn những sai lầm. Lời nói của Strathmore lại vang lên trong đầu anh: Đừng gọi điện cho tôi đến khi nào anh tìm được chiếc nhẫn. Một sự suy sụp hoàn toàn bao phủ lấy con người anh.

Nếu Megan đã bán chiếc nhẫn, không cách gì biết được ai đang giữ chiếc nhẫn ấy.

Becker nhắm mắt lại và cố gắng tập trung suy nghĩ. Mình phải làm gì bây giờ? Anh cân nhắc một lát. Trước hết, cần phải nghỉ ngơi sau chuyến đi dài và mệt mỏi.

Xem tiếp chương 64

Chương 64

Susan đứng đó một mình trong Node 3. Node 3 được bao phủ bởi sự yên ắng và một thứ ánh sáng xanh mờ ảo. Nhiệm vụ hiện tại của cô rất đơn giản: Truy cập vào máy của Hale, tìm mã khóa rồi sau đó xóa sạch mọi liên lạc của hắn với Tankado. Và như thế sẽ không còn dấu vết của Pháo Đài Số ở bất kỳ đâu.

Nỗi lo sợ ban đầu của Susan về việc lấy mật khẩu và giải mã Pháo Đài Số lại quấy rầy tâm trí cô. Thật khó tin kết cục lại đơn giản như thế; cô và những đồng sự ở Crypto thật may mắn. North Dakota đột nhiên xuất hiện một cách thần kỳ ngay trước mắt họ và rồi bị nhốt. Vấn đề duy nhất còn lại là David; anh phải tìm ra được mật khẩu còn lại. Susan hy vọng công việc của anh tiến triển tốt đẹp. Đi sâu hơn vào Node 3, Susan cố gắng không suy nghĩ lung tung. Thật kỳ lạ, cảm giác bồn chồn lo lắng lại xuất hiện khi bước tới một nơi đã quá quen thuộc với cô. Mọi thứ ở nơi này trở nên thật lạ lẫm nhưng còn có một điều gì đó khác thường hơn. Susan chợt ngần ngừ và quay lại, nhìn về cánh cửa không hoạt động. Không có lối thoát 20 phút, cô nghĩ thầm.

Khi đến máy của Hale, cô bỗng cảm thấy có mùi gì đó rất kỳ lạ nhất định đây không phải mùi quen thuộc của Node 3. Cô băn khoăn tự hỏi không biết có phải máy khử ion bị hỏng không.

Nhưng thứ mùi thơm này cũng hơi quen quen, gợi cho Susan một cảm giác ớn lạnh và đầy lo lắng. Cô hình dung ra cảnh Hale bị nhốt ở phía dưới trong lò hơi khổng lồ. Liệu anh ta có đốt cái gì dưới đó không nhỉ? Cô đến gằn của thông gió và ngửi thử. Nhưng mùi không phải từ dưới ấy bay lên.

Susan liếc về phía cửa lưới mắt cáo của ngăn bếp nhỏ. Cô chợt nhận ra mùi hương đó. Nó chính là nước hoa Cologne và... mùi mồ hôi.

Bản năng mách bảo, cô chùn lại, định thần trước những gì cô nhìn thấy Sau lớp lưới mắt cáo kia là một cặp mắt đang chằm chằm nhìn cô Trong giây lát, sự thật kinh hoàng làm cô choáng váng.

Greg Hale không hề bị nhốt dưới tầng hầm- hắn đang ở đây, ngay trong Node 3! Hắn đã kịp trốn lên trước khi Strathmore đóng cửa sập. Hắn đủ khoẻ để có thể tự mình mở mọi cánh cửa.

Susan từng nghe nói sự kinh hãi có thể khiến người ta đờ ra... nhưng ngay lúc này cô biết điều đó hoàn toàn không đúng. Trong khi đang suy nghĩ để hiểu ra mọi chuyện thì cô cũng có thể đồng thời phản ứng được. Cô lùi về phía sau trong bóng tối với một ý nghĩ duy nhất trong đầu: trốn thoát.

Tiếng đổ vỡ loảng xoảng vang lên đằng sau cô. Hale đã lặng lẽ ngồi trên lò sưởi tự bao giờ, hai chân duỗi dài như hai phiến gỗ nặng trịch. Cánh cửa bị giật tung khỏi bản lề. Hắn nhảy vào phòng và hùng hổ sải bước về phía Susan.

Susan giật vội cây đèn bàn đằng sau, định ngáng chân Hale khi hắn tiến gần về phía cô. Nhưng cô thấy hắn nhảy qua nhẹ như không. Hale đang nhanh chóng tiến lại gần cô.

Khi cánh tay phải của hắn vòng qua eo cô từ phía sau, Susan cảm thấy như bị kẹp bởi một thanh sắt. Cô thở hắt ra trong đau đớn. Bắp tay hắn co lại ghì chặt lấy lồng ngực cô.

Susan kháng cự và bắt đầu giãy giụa điên cuồng. Khuỷu tay cô đập mạnh vào xương sụn ở mũi Hale. Hắn buông cô ra, hai tay ôm lấy mũi. Hắn quỳ gối xuống, bàn tay khum lại che hết khuôn mặt.

- Cái đồ... - Hắn hét lên trong đau đớn.

Susan lao về phía thanh chắn cửa, cầu nguyện trong vô vọng rằng đúng lúc này Strathmore sẽ khôi phục lại được nguồn điện và cửa sẽ bật mở. Nhưng không, cô va mạnh vào cửa kính.

Hale lết lại gần cô, mũi hắn bê bết máu. Tức khắc, hai bàn tay hắn lại ghì lấy cô, một tay đè chặt lên ngực trái còn tay kia tóm vào hông. Hắn giật mạnh cô ra khỏi cửa.

Susan hét lên, bàn tay giơ lên cố gắng chặn hắn lại nhưng vô ích. Hắn kéo cô về phía sau, khóa thắt lưng của hắn chọc vào xương sống cô, không thể tin nổi hắn lại khoẻ đến thế. Hắn kéo lê Susan trên thảm khiến giầy bị tuột ra khỏi chân cô. Chỉ cần một động tác, Hale nhấc bổng cô lên và ném mạnh cô xuống sàn ngay cạnh máy tính của hắn.

Lưng của Susan bị đập đột ngột xuống sàn, váy cô bị kéo xô lên đến tận hông. Khuy áo trên cùng bị bật hmg, lồng ngực phập phồng trong ánh sáng xanh le lói. Susan ngước mắt nhìn Hale chòng chọc trong nỗi sợ hãi vì bị hắn ngồi đè lên người. Cô không giải mã nổi cái nhìn trong ánh mắt hắn. Ánh mắt ấy như một nỗi sợ hãi. Hay một cơn tức giận? Cặp mắt của hắn dán chặt vào người Susan. Một nỗi sợ hãi, hoảng loạn mới lại ập đến với cô.

Hale ngồi xuống, dận mạnh xuống hông Susan, nhìn cồ chằm chằm với ánh mắt băng giá. Tất cả những ngón đòn Susan từng được học để tự vệ loé lên trong đầu cô. Cố gắng chống cự, nhưng cơ thể cô không thể nào nhúc nhích nổi. Toàn thân của cô đã bị hắn làm cho tê liệt. Susan nhắm mắt.

- Ôi Chúa ơi. Không!

Xem tiếp chương 65

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: