Dam thien 2

QUAN HỆ GIỮA CHA MẸ VÀ CON CÁI QUA NĂM SINH:

1. CHA MẸ TUỔI TÝ MÀ CON CÁI TUỔI:

Tý: Một nhà hoà thuận.

Sửu: Rất tốt, bởi tuổi Sửu rất hiếu thuận.

Dần: Không hoà thuận lắm bởi quan niệm bất đồng.

Mão: Con cái thường không thích ở nhà, hay cãi lại ý cha mẹ.

Thìn: Con cái quá tài giỏi nên đôi khi khiến cha mẹ buồn lòng.

Tỵ: Con cái có cơ hội phát triển tự do.

Ngọ: Con cái thường tìm cách thoát ly gia đình sớm.

Mùi: Không hoà thuận lắm.

Thân: Luôn được cha mẹ nuông chiều dẫn tới hư hỏng.

Dậu: Luôn có nhiều ý kiến trái ngược song vẫn nghe lời cha mẹ.

Tuất: Luôn bất đồng về quan niệm nhưng tuổi Tuất rất hiếu thuận.

Hợi: Quan hệ trong gia đình rất tốt, luôn hoà thuận, đầm ấm.

2. CHA MẸ TUỔI SỬU MÀ CON CÁI TUỔI:

Tý: Không hoà thuận lắm bởi cha mẹ quá nghiêm khắc.

Sửu: Con cái luôn làm trái ý cha mẹ.

Dần: Con cái sẽ tìm cách thoát ly khỏi gia đình sớm.

Mão: Con cái chỉ nghe lời bề ngoài, trong lòng ngấm ngầm phản kháng.

Thìn: Con cái không phục tùng cha mẹ ra mặt.

Ngọ: Con cái có tính độc lập quá cao, sẽ thoát ly gia đình sớm.

Mùi: Gia đình ít hoà thuận, vui vẻ.

Thân: Quan hệ rất tốt.

Dậu: Con cái sẽ nghe lời nếu cha mẹ đừng quá nghiêm khắc.

Tuất: Tuy con cái hiếu thảo nhưng vẫn ngầm có ý phản đối.

Hợi: Con cái luôn phụ giúp cha mẹ, nhưng đôi lúc sẽ có ý kiến bất đồng.

3. CHA MẸ TUỔI DẦN MÀ CON CÁI TUỔI:

Tý: Con cái được quan tâm chăm sóc kỹ.

Sửu: Con cái làm trái ý cha mẹ.

Dần: Cả nhà luôn xung khắc, không yên ổn, đầm ấm.

Mão: Con cái ngấm ngầm làm trái ý cha mẹ dù bề ngoài luôn tỏ vẻ hiếu thuận.

Thìn: Gia đình luôn hạnh phúc, con cái khiến cha mẹ tự hào.

Tỵ: Cha mẹ và con cái không hiểu nhau.

Ngọ: Tuy có xung đột, song mọi người vẫn yêu thương đùm bọc lẫn nhau.

Mùi: Con cái thường hay bị cha mẹ la rầy.

Thân: Con cái luôn xung khắc với cha mẹ.

Dậu: Con cái luôn muốn thoát ly gia đình.

Tuất: Gia đình đầm ấm, yên vui.

Hợi: Con cái luôn chiều lòng cha mẹ.

4. CHA MẸ TUỔI MÃO MÀ CON CÁI TUỔI:

Tý: Không được thuận hoà cho lắm.

Sửu: Mối quan hệ lạnh nhạt, luôn đưa tới chỗ bế tắc.

Dần: Quan hệ bình thường, song con cái tuổi Dần có tính tự ái rất mạnh.

Mão: Gia đình luôn tràn ngập tiếng cười.

Thìn: Gia đình hạnh phúc.

Tỵ: Gia đình hoà hợp.

Ngọ: Cha mẹ nên để con cái phát triển tự nhiên, không nên quá nghiêm khắc.

Mùi: Gia đình hoà thuận, cùng giúp đỡ hiểu biết và thông cảm lẫn nhau.

Thân: Con cái hay nói dối nhưng vẫn bị cha mẹ phát hiện.

Dậu: Cha mẹ không có điều kiện chăm lo đầy đủ cho con cái.

Tuất: Cuộc sống bình lặng, hạnh phúc nhất là mẹ tuổi Mão rất cưng chiều con trai tuổi Tuất.

Hợi: Quan hệ bình thường.

5. CHA MẸ TUỔI THÌN MÀ CON CÁI TUỔI:

Tý: Cha mẹ có yêu cầu quá cao với con cái.

Sửu: Con cái dù cố gắng hết sức vẫn không làm cha mẹ hài lòng.

Dần: Cha mẹ hài lòng với sự tài giỏi của con cái.

Mão: Cha mẹ thất vọng song vẫn thương yêu con cái.

Thìn: Đôi bên cùng tự hào về nhau.

Tỵ: Khá tốt vì con cái thông minh.

Ngọ: Tuy con cái bướng bỉnh, song vẫn nên người.

Mùi: Cha mẹ hài lòng vì con cái có máu nghệ thuật.

Thân: Quan hệ khá tốt.

Dậu: Con cái phải làm theo mọi yêu cầu của cha mẹ dù muốn hay không.

Tuất: Không hoà hợp, luôn xung khắc.

Hợi: Khá tốt, cha mẹ chăm sóc con cái chu đáo.

6. CHA MẸ TUỔI TỴ MÀ CON CÁI TUỔI:

Tý: Quan hệ đôi bên đều tốt.

Sửu: Cha mẹ luôn quan tâm chăm sóc con cái.

Dần: Sẽ xảy ra xung đột.

Mão: Quan hệ khá tốt.

Thìn: Cha mẹ luôn hiểu con cái.

Tỵ: Luôn có xung đột, tranh chấp.

Ngọ: Con cái muốn thoát ly gia đình sớm khiến cha mẹ phiền lòng.

Mùi: Gia đình luôn thuận hoà.

Thân: Đôi bên khác về quan niệm sống nên có nhiều xung đột.

Dậu: Hai bên cùng hiểu nhau, cha mẹ luôn quan tâm đến con cái mà con cái cũng nghe lời cha mẹ.

Tuất: Gia đình luôn xung đột, không ấm êm.

Hợi: Cha mẹ quá nghiêm khắc với con cái.

7. CHA MẸ TUỔI NGỌ MÀ CON CÁI TUỔI:

Tý: Luôn xảy ra xung đột, tranh cãi.

Sửu: Không hợp nhau, tuy con cái vẫn hiếu thuận.

Dần: Cha mẹ để con cái được tự chủ, tự do phát triển.

Mão: Cha mẹ ít có thời gian chăm sóc con cái.

Thìn: Gia đình hoà thuận, êm ấm.

Tỵ: Con cái luôn có ý bất mãn.

Ngọ: Đôi bên cùng hiểu biết thông cảm lẫn nhau.

Mùi: Quan hệ tốt.

Thân: Quan hệ bình thường.

Dậu: Con cái có ý bất mãn.

Tuất: Con cái phải tự lo cho mình.

Hợi: quan hệ khá tốt đẹp.

8. CHA MẸ TUỔI MÙI MÀ CON CÁI TUỔI:

Tý: Luôn xung khắc, khó hoà hợp.

Sửu: Có khoảng cách lớn giữa hai bên.

Dần: Con cái có ý bất mãn.

Mão: Quan hệ bình thường.

Thìn: Gia đình hạnh phúc.

Tỵ: Cha mẹ có thể hy sinh tất cả cho con cái.

Ngọ: Khá hợp nhau.

Mùi: Quan hệ bình thường.

Dậu: Hai bên khó dung nhau bởi quan niệm sống khác nhau.

Tuất: Con cái muốn thoát ly gia đình sớm.

Hợi: Con cái hiếu thảo, luôn gánh vác trách nhiệm trọng yếu trong gia đình.

9. CHA MẸ TUỔI THÂN MÀ CON CÁI TUỔI:

Tý: Quan hệ tốt đẹp.

Sửu: Cha mẹ hiểu và thông cảm con cái.

Dần: Khó hoà thuận, luôn xung khắc.

Mão: Gia đình hạnh phúc yên vui.

Thìn: Gia đình êm ấm.

Tỵ: Con cái giúp đỡ cha mẹ rất nhiều.

Ngọ: Không được hoà thuận lắm.

Mùi: Con cái luôn tin tưởng cha mẹ.

Thân: Mọi sự trong nha đều được quyết định chung.

Dậu: Con cái có ý bất mãn.

Tuất: Luôn xung khắc, khó gần và hợp nhau.

Hợi: Cha mẹ luôn cưng chiều con cái và dạy dỗ chúng nên người.

10. CHA MẸ TUỔI DẬU MÀ CON CÁI TUỔI:

Tý: Khó hoà hợp, luôn bất đồng ý kiến.

Sửu: Con cái biết giúp đỡ cha mẹ.

Dần: Con cái luôn chống đối cha mẹ.

Mão: Con cái không nghe lời cha mẹ.

Thìn: Quan hệ khá tốt.

Tỵ: Con cái luôn tranh cãi với cha mẹ.

Ngọ: Cái chỉ muốn thoát ly gia đình.

Mùi: Con cái khiến cha mẹ thất vọng.

Thân: Cha mẹ tự hào về con cái.

Dậu: Gia đình luôn bất ổn, lúc nào cũng có việc để tranh cãi nhau.

Tuất: Cha mẹ không hiểu được con cái.

Hợi: Con cái chỉ biết làm theo ý mình.

11. CHA MẸ TUỔI TUẤT MÀ CON CÁI TUỔI:

Tý: Cha mẹ không có nhiều thời gian chăm sóc con cái.

Sửu: Khó hoà thuận với nhau.

Dần: Rất toot, cha mẹ hy sinh tất cả cho con.

Mão: Gia đình hoà thuận, êm ấm.

Thìn: Con cái có ý bất mãn vì cha mẹ quá nghiêm khắc.

Tỵ: Quan hệ bình thường.

Ngọ: Con cái độc lập, lại không nghe lời khiến cha mẹ thất vọng.

Mùi: Khó hoà hợp với nhau.

Thân: Gia đình thiếu hoà thuận yên vui.

Dậu: Con cái không nghe lời cha mẹ.

Hợi: Gia đình êm ấm, an bình.

12. CHA MẸ TUỔI HỢI MÀ CON CÁI TUỔI:

Tý: Quan hệ rất tốt.

Sửu: Cha mẹ cưng chiều con cái.

Dần: Gia đình thuận hoà.

Mão: Rất tốt nhưng cha mẹ phải bận lòng vì con cái ít khi quan tâm đến gia đình.

Thìn: Khá tốt, cha mẹ cưng chiều con cái.

Tỵ: Con cái hay làm cha mẹ phiền lòng.

Ngọ: Con cái muốn thoát ly gia đình sớm khiến cha mẹ buồn phiền, thất vọng.

Mùi: Đôi bên hiểu biết và thông cảm lẫn nhau, cùng chung sức vun đắp gia đình yên vui.

Thân: Con cái thông minh tài giỏi.

Dậu: Con cái được yêu vì, chiều chuộng.

Tuất: Cha mẹ hy sinh tất cả cho con cái.

Hợi: Quan hệ rất tốt.

Biết nhân sự

Thuật dự đoán theo bát quái (Bát quái thần toán tâm thuật)

A. Phương pháp sử dụng và gieo quẻ.

Bát quái thần toán tâm thuật là một cách nhanh chóng gieo quẻ và dự đoán theo Kinh Dịch mỗi khi ta cần biết kết quả cát hung của một việc gì đó.

Việc gieo quẻ vốn có nhiều cách, chẳng hạn căn cứ vào thời gian (ngày, giờ, tháng, năm), vào kích thước của đồ vật, vào số chữ, số tiếng, vào màu sắc quần áo, vào giới tính nam nữ, vào hướng tới ... ở đây giới thiệu cách tiện dụng hơn cả là căn cứ vào số lượng vật phẩm hoặc số người.

Chẳng hạn ta đang đáp tàu hoả đi xa, muốn dự đoán chuyến đi lành dữ ra sao, thì có thể gieo quẻ bằng cách căn cứ vào số song cửa toa tàu, số người đang làm việc trên một thửa ruộng ở bên đường tàu, số trái cam quít đặt ở trên bàn, số cây số ghi trên cột cây số ven đường mà ta vừa nhìn thấy ...

Ta phải chọn số lượng hai loại vật phẩm hoặc người khác nhau, để làm quẻ thượng và quẻ hạ. Hai con số ấy nếu nhỏ hơn 8 hoặc bằng 8 thì để nguyên, nếu lớn hơn 8 thì phai trừ đi 8, chỉ lấy số dư.

Số 1 sẽ là quẻ Càn,

Số 2 sẽ là quẻ Đoài.

Số 3 sẽ là quẻ Ly,

Số 4 sẽ là quẻ Chấn.

Số 5 sẽ là quẻ Tốn,

Số 6 sẽ là quẻ Khảm.

Số 7 sẽ là quẻ Cấn,

Số 8 sẽ là quẻ Khôn.

Lập xong quẻ thượng và quẻ hạ, bạn sẽ đối chiếu với đáp án ở bên dưới để biết kết quả.

Muốn biết kết quả cuối cùng của sự việc sẽ như thế nào, ta còn cần lập quẻ biến. Muốn lập quẻ biến, ta hãy cộng số quẻ thượng với số quẻ hạ rồi cộng với thời gian ta lập quẻ là giờ thứ mấy (giờ Tý số 1, giờ Sửu số 2, giờ Dần số 3 ... giờ Hợi số 12), rồi trừ đi 6, số dư sẽ là Hào biến. Hào biến thì dương thành âm, âm thành dương. Qua đó sẽ lập quẻ biến và lại đối chiếu với đáp án.

B. Đáp án 64 quẻ.

11 Càn

Vận thế: Trước mắt tuy tốt, nhưng vì muốn mau chóng đạt mục đích mà dễ đi tới thất bại, vậy hãy kiên nhẫn chờ thời cơ, chớ quá nóng ruột và quá tự tin.

Hy vọng: Có thể được như ý, nhưng tin tức sẽ đến chậm, nôn nóng sẽ hỏng việc. Khi sự việc đã như ý, lại phải đề phòng hậu quả xấu.

Tái vận: Phải nỗ lực mới có thể được lợi. Điều tối cần thiết là phải dựa vào bề trên.

Sự nghiệp: Hiện tại vô cùng khó khăn, nhưng tương lai có thể thành công.

Nhậm chức: Chưa thể thực hiện ngay, phải chờ cơ hội mới có thể đạt tới chức nghiệp tốt đẹp.

Chuyển nghề: Hiện tại chưa thể, phải chờ thời cơ.

Tình yêu: Nam có duyên phận, tuy có thể gặp đối tượng tranh giành. Nữ không có duyên phận.

Hôn nhân: Giữa chừng có thể bị hỏng, riêng với nữ thì tốt.

Đợi người: Đến muộn.

Đi xa: Không thể, nên chờ cơ hội khác.

Sự việc: Đừng lao tâm khổ tứ, chỉ cần hợp chính nghĩa thì sẽ không bị ngăn trở.

Bệnh tật: ốm nặng.

Thi cử: đạt kết quả tốt.

Mất của: Khó tìm. Có thể tìm ở bên dưới một vật khác, phải lâu mới thấy.

Xuất hành: Sẽ tới phương xa.

88 Khôn

Vận thế: Vì nóng vội mà làm hỏng cả khí vận của mình, nếu yên tâm ở nghề nghiệp cũ thì không sao. Nên lắng nghe ý kiến của người trên, nên cũng hành động với số đông.

Hy vọng: Vì mê muội mà không thể thành công. Hãy hạ bớt yêu cầu và mục tiêu.

Tài vận: Chưa đến. Phải đợi thời cơ hoặc thay đổi sách lược.

Sự nghiệp: Hiện tại chưa có thời cơ. Hãy tạm ngừng nghỉ. Có thể chung vốn với mọi người.

Nhậm chức: Tạm thời chưa như ý, phải có sự trợ giúp của bề trên hoặc bạn hữu.

Chuyển nghề: Không thể. Hãy yên tâm với công việc hiện đang làm.

Tình yêu: Nữ có thể thành công, nhưng phía nam có nhiều bạn gái, nên đừng nóng vội. Là nam thì phải tốn nhiều thời gian mới hy vọng thành công.

Hôn nhân: Không nên nôn nóng. Phải tốn thời gian quan sát, tìm hiểu mới tốt đẹp.

Đợi người: Không đến, có đến cũng chẳng lợi ích gì.

Đi xa: Nên bỏ ý định đi xa thì hơn.

Kiện tụng: Bất lợi, nên hoà giải, đừng tranh tụng.

Sự việc: Mơ hồ, nếu kiên trì giữ ý kiến cũ thì khó giải quyết, nên uỷ nhiệm cho người khác giải quyết.

Bệnh tật: Bệnh nặng, phải hết sức chú ý.

Thi cử: Kết quả không được như ý muốn.

Mất của: Bị mất những vật khác nhau, khó bề tìm thấy.

Xuất hành: Đi gần, nếu sử dụng quan hệ với nữ giới thì có thể tới nơi.

64 Truân

Vận thế: Hiện đang là thời kỳ khó khăn nhất, tiến thoái lưỡng nan, nhẫn nại là cách tốt hơn cả. Cần dựa vào bề trên và an tâm với nghề nghiệp cũ.

Hy vọng: Khó đạt tới.

Tài vận: Khó có.

Sự nghiệp: Hiện đầy gian khổ, nếu nhẫn nại thì sau này mới có thể thành công, nhưng thường là sẽ bỏ dở giữa chừng.

Nhậm chức: Chưa thể như ý.

Chuyển nghề: Không thể, hãy cố gắng làm việc cũ.

Tình yêu: Chẳng thể như ý.

Hôn nhân: Tranh chấp lâu dài.

Đợi người: Không tới.

Đi xa: Tuyệt đối không nên, sẽ gặp rắc rối.

Kiện tụng: Khó hoà giải.

Sự việc: Nôn nóng chỉ làm cho sự việc dây dưa phức tạp thêm.

Bệnh tật: ốm nặng.

Thi cử: Chưa đủ thực lực.

Mất của: ở ngay trong nhà, vật cầm tìm bị đè dưới vật khác.

Xuất hành: Muốn đi nơi khác, nhưng khó được như ý.

76 Mông

Vận thế: Hiện tại mọi việc còn mơ hồ, chưa biết xoay sở cách nào. Vận thế mờ mịt.

Hy vọng: Vô vọng, phải chờ thời cơ, nếu miễn cưỡng sẽ chỉ chuốc lấy thất bại.

Tài vận: Khó cầu, chỉ lãng phí thời gian và tiền của.

Sự nghiệp: Chưa gặp thời.

Nhậm chức: Khá như ý. Phải dựa vào bề trên.

Chuyển nghề: Chưa nên, có chuyển được, cũng chưa đem lại kết quả tốt.

Tình yêu: Đôi bên đều chưa thương yêu chân thành, nặng về lợi dụng lẫn nhau.

Hôn nhân: Đối tượng còn do dự bất định, khó thành.

Đợi người: Người mà ta chờ thay đổi ý định hoặc có việc gấp, chưa thể tới.

Đia xa: Chưa yên tâm đi xa. Có thể xảy ra bất trắc.

Kiện tụng: Khó xong, dù ta có lý.

Sự việc: Do nghi ngại nên khó giải quyết, nên hỏi ý kiến mọi người.

Bệnh tật: Lâu ngày không thuyên giảm, đừng cho là bệnh nhẹ mà coi thường.

Thi cử: Không đạt.

Mất của: Phần lớn do để quên, ở ngay trong nhà, phía dưới một vật nào đó.

Xuất hành: Không thể trở về ngay, cũng khó tới đích.

61 Nhu

Vận thế: Mọi việc tiến triển thuận lợi, sẽ được như ý.

Hy vọng: Đừng nóng vội sẽ thành công.

Tài vận: Sẽ tới, cứ an tâm chờ đợi.

Sự nghiệp: Chưa phải thời cơ thích hợp, chờ thêm một chút nữa.

Nhậm chức: Chờ một thời gian nữa, sẽ có địa vị tốt.

Chuyển nghề: Chưa nên, giữ việc hiện tại có lợi.

Tình yêu: Cảm tình tiến triển quá nhanh, nên bình tĩnh trở lại đôi chút để tránh đổ vỡ.

Hôn nhân: Tuy có nhân duyên, nhưng chưa chín muồi. Đợi một thời gian nữa.

Đợi người: Sẽ đến, nhưng muộn một chút.

Đi xa: Tạm thời chưa nên, chờ lúc thuận lợi hơn.

Kiện tụng: Nhẫn nại chờ đợi, nhất định ta sẽ thắng kiện.

Sự việc: Chớ nôn nóng, cứ để sự việc diễn biến tự nhiên sẽ đem lại kết quả tốt đẹp.

Bệnh tật: Thời gian dài sẽ thuyên giảm.

Thi cử: Kết quả tốt.

Mất của: Không dễ tìm thấy.

Xuất hành: Chưa thể về ngay.

16 Tụng

Vận thế: Suy yếu, mọi việc dễ phạm sơ hở, sai sót khó bề giải quyết, chớ tranh hơn thua, chớ nói xấu người khác, phải cẩn thận trong hành động và lời lẽ.

Hy vọng: Vô ích, nên thay đổi mục tiêu.

Tài vận: Không có, đừng mong có.

Sự nghiệp: Chưa đến thời cơ.

Nhậm chức: Phải kiên nhẫn chờ thời.

Chuyển nghề: Giữ công việc đang làm là thượng sách, nhưng có nhiều khả năng chuyển nghề.

Tình yêu: Khó được như ý.

Hôn nhân: Khó có duyên phận, dù có cũng không phải là nhân duyên hài hoà. Tính cách đôi bên quá khác nhau, thân phận cũng vậy.

Đợi người: Không đến.

Đi xa: Không nên.

Kiện tụng: Tuy ta có lý, nhưng thua kiện, hoà giải là hơn.

Sự việc: Nếu không hoà giải, sự tranh chấp sẽ ngày một tăng.

Bệnh tật: Dễ bị ngộ độc thức ăn, bị bệnh có thể gặp thầy thuốc chẩn đoán sai.

Thi cử: Không đạt, lạc đề.

Mất của: Không tìm được.

Xuất hành: Vì tức giận mà đột ngột bỏ nhà ra đi, dễ phát sinh sự cố bất trắc.

86 Sư

Vận thế: Hiện đang ở thời kỳ khó khăn nguy hiểm, nên nhẫn nại, chịu đựng gian khổ.

Hy vọng: Nhất thời chưa thành công. Phải cố gắng lớn.

Tài vận: Phải chờ lâu mới có.

Sự nghiệp: Trước mắt khổ cực, nỗ lực lớn thì về sau mới thành, nhưng dễ bỏ dở giữa chừng.

Nhậm chức: Đừng trông mong nhiều.

Chuyển nghề: Hỏi ý kiến bề trên hoặc thân quyến rồi hãy quyết định.

Tình yêu: Kiên nhẫn chờ thái độ của đối tượng. Nếu là nữ, hẳn có tình địch.

Hôn nhân: Khó kết hợp. Nếu thành, về sau sẽ dẫn tới bất hạnh. 

Đợi người: Đến muộn.

Đi xa: Chỉ nên đi một chuyến ngắn hạn và tương đối gần.

Kiện tụng: Dây dưa rắc rối, nên tìm kiếm cơ hội hoà giải.

Sự việc: Tranh chấp lớn, khó giải quyết, do vậy phải hết sức thận trọng trong hành động.

Bệnh tật: Có thể thuyên giảm, nhưng lại tái phát bệnh cũ.

Thi cử: Thừa khả năng đạt kết quả tốt, nhưng vì chủ quan mà hỏng.

Mất của: Khó tìm.

Xuất hành: Tạm thời không nên.

68 Tỉ

Vận thế: Thuận lợi.

Hy vọng: Thành tựu như ý.

Tài vận: Hanh thông, nên bàn bạc với vợ.

Sự nghiệp: Nhờ người khác ủng hộ mà thành công, nếu cứ giữ cách suy xét của mình sẽ thất bại.

Nhậm chức: Nhờ bề trên sẽ có địa vị tốt.

Chuyển nghề: Đổi nghề sẽ tốt hơn.

Tình yêu: Quan hệ đã tới lúc cầu hôn.

Hôn nhân: Có thể thành lương duyên, tuy gặp sự đàm tiếu.

Đợi người: Đến sớm, người đến còn đem theo bạn cùng đi.

Đi xa: Đi du ngoai thì tốt.

Kiện tụng: Nên hoà giải thì hơn.

Sự việc: Nên tiếp xúc bàn bạc.

Bệnh tật: Thuyên giảm.

Thi cử: Kết quả tốt đẹp.

Mất của: Tìm thấy dễ dàng.

Xuất hành: Đến nhà bạn thân.

51 Tiểu Súc

Vận thế: Bề ngoài tưởng chừng thuận lợi, thực ra có nhiều trắc trở. Nên suy tính chu đáo mới giải quyết được.

Hy vọng: Chưa thực hiện được vì có người ngăn trở.

Tài vận: Chưa giải quyết được.

Sự nghiệp: Chưa phải lúc thành.

Nhậm chức: Chưa thể như ý, phải chờ một thời gian nữa.

Chuyển nghề: Nên suy tính lại.

Tình yêu: Quan hệ chưa tiến triển, dù có qua lại cũng khó như ý.

Kết hôn: Bị ngăn trở, khó kết hợp.

Đợi người: Không đén, có đến cũng vô ích.

Đi xa: Dự định bị đảo lộn.

Kiện tụng: Bị kéo dài dây dưa, nhưng cuối cùng sẽ xong.

Sự việc: Mở rộng, nhưng chưa thể giải quyết được.

Bệnh tật: Không nghiêm trọng, nhưng dây dưa khó dứt.

Thi cử: Chưa thể đạt kết quả như ý.

Mất của: Chưa tìm được.

Xuất hành: Nhất thời chưa thể về ngay.

12 Lý

Vận thế: Đang ở giai đoạn vô cùng nguy ngập, phải hết sức thận trọng, nên dựa vào bề trên, giữ lễ cho chu đáo.

Hy vọng: Khó thực hiện vì đầy rẫy khó khăn và chưa cố gắn đủ mức.

Tài vận: Không thể như ý.

Sự nghiệp: Vất vả mà không xong.

Nhậm chức: Khó như ý, phải chờ thời.

Chuyển nghề: Chưa thật thích hợp, nhưng cuối cùng cũng xong.

Tình yêu: Tình cảm đôi bên chưa chín muồi.

Hôn nhân: Tưởng chừng thuận lợi, thực ra khó thành.

Đợi người: Chờ chán chê mới tới.

Đi xa: Nên bỏ ý định đi xa để khỏi gặp chuyện bất trắc.

Kiện tụng: Cố tránh để khỏi thất bại.

Sự việc: Đầy rẫy khó khăn không dễ giải quyết.

Bệnh tật: Nguy hiểm hoặc có biến chứng.

Thi cử: Không đỗ.

Mất của: Bị vật khác che lấp.

Xuất hành: Trước mắt chưa thể.

81 Thái

Vận thế: Tương đối thuận lợi, nhưng tình trạng này kéo dài không lâu, nên suy tính đối sách thích ứng.

Hy vọng: Như ý, nhưng vào phút chót dễ thất bại do chủ quan hoặc bất mãn.

Tài vận: Khá hanh thông, có thu nhập từ nhiều nguồn.

Sự nghiệp: Thàn công, nhưng mau chóng suy vi.

Nhậm chức: Có chức vị hoặc chức nghiệp tốt, nhưng sau đó dễ bị thất bại.

Chuyển nghề: Được.

Tình yêu: Đôi bên tiếp xúc gần gũi, nhưng dễ nảy sinh tuỳ tiện.

Hôn nhân: Có nhân duyên tốt.

Đợi người: Đang tới.

Kiện tụng: Thắng kiện, nhưng hoà giải vẫn hơn.

Sự việc: Chỉ cần tiếp xúc bàn bạc sẽ giải quyết được ngay.

Bệnh tật: Thuyên giảm dần.

Thi cử: Đạt kết quả tốt.

Mất của: Tìm được.

Xuất hành: Sẽ trở về, khỏi lo.

18 Bĩ

Vận thế: Lúc này là thời kỳ tối nghịch cảnh, mọi việc nếu không thuận lợi, phải gắng sức chịu khổ cực và vượt qua, thì không lâu sau sẽ có chuyển biến tốt.

Hy vọng: Khó thành, phạm sai lầm viển vông.

Tài vận: Không có.

Sự nghiệp: Không thành vì không đắc thời hoặc sai phương pháp.

Nhậm chức: Trước mắt không có.

Chuyển nghề: Tình thế xem ra phải chuyển nghề, nhưng không chuyển lại có lợi hơn.

Tình yêu: Đôi bên sắp đến hồi chia tay.

Hôn nhân: Khó thành lương duyên.

Đợi người: Không đến.

Đi xa: Không nên, vô ích.

Kiện tụng: Thu kiện.

Sự việc: Khó bề dự liệu, giải quyết.

Bệnh tật: Khá nguy kịch.

Thi cử: Phạm nhiều sai sót, không đạt.

Mất của: Bán rẻ cho người khác.

Xuất hành: Có đi không về.

13 Đồng nhân

Vận thế: Vận đang vượng, được người khác tín nhiệm, có danh tiếng tốt, mọi việc dễ thành.

Hy vọng: Nhiều khả năng được người ủng hộ, đề bạt mà thành tựu.

Tài vận: Dồi dào.

Sự nghiệp: Được thiên thời, địa lợi, nhân hoà.

Nhậm chức: Được tín nhiệm, có địa vị tốt.

Chuyển nghề: Có thể chuyển.

Tình yêu: Đối tượng hoàn toàn ưng ý với ta.

Hôn nhân: Kết thành lương duyên.

Đợi người: Người đến, mang theo tin lành.

Đi xa: Vui vẻ, càng có nhiều người đi càng tốt.

Kiện tụng: Không thua, nhưng nên hoà giải.

Sự việc: Dễ dàng giải quyết bằng cách ôn hoà.

Bệnh tật: Nhẹ, nên thường xuyên khám bệnh.

Thi cử: Đạt kết quả tốt.

Xuất hành: Đến thăm người thân hoặc cùng xuất ngoại với bạn hữu.

31 Đại hữu

Vận thế: Vận đang cực vượng, sắp sửa suy thoái. Quá thuận lợi là lúc phải đề phòng thất bại.

Hy vọng: Hoàn toàn như ý, nhưng chớ tự mãn mà phạm sai lầm.

Tài vận: Hanh thông, chớ tham.

Sự nghiệp: Hưng vượng, sau đó kém dần.

Nhậm chức: Địa vị cao hơn cả ý muốn.

Chuyển nghề: Đổi nghề bước sang vận mới.

Tình yêu: Đôi bên thuận lợi, nếu đi quá xa sẽ bị người ta để ý.

Hôn nhân: Có thể kết thành lương duyên.

Đợi người: Chắc đến, mang theo tin quan trọng.

Đi xa: Như ý, song tốn kém.

Kiện tụng: Tưởng chừng thắng kiện, nhưng tốn phí nhiều.

Sự việc: Giải quyết được, nhưng tốn kém lớn.

Bệnh tật: hiện tại đang là lúc bệnh nặng nhất.

Thi cử: Đạt kết quả.

Mất của: Tìm thấy, ở chỗ cao.

Xuất hành: Có thể sẽ đi xa, nhưng luôn được tin tức qua lại.

87 Khiêm

Vận thế: Hiện tại bình ổn vô sự.

Hy vọng: Chưa thể thực hiện ngay. Chớ nôn nóng, sẽ đến lúc như ý.

Tài vận: Chờ lâu ắt có, nôn nóng chỉ được một nửa.

Sự nghiệp: Càng ngày càng tốt, không nên nôn nóng.

Nhậm chức: Tuần tự nhi tiến, dục tốc bất đạt. Nên nhờ bề trên trợ giúp.

Chuyển nghề: Giữ việc làm cũ là tốt nhất.

Tình yêu: Tôn trọng lẫn nhau, không nên bức ép nhau.

Hôn nhân: Có thể kết thành lương duyên, nhưng phải chờ thời gian dài.

Đợi người: Đến chậm.

Đi xa: Bình an, vui vẻ.

Kiện tụng: Nên hoà giải và nhượng bộ, tranh chấp kéo dài chỉ bất lợi.

Sự việc: Khiêm nhường mới có thể giải quyết.

Bệnh tật: Không nặng nhưng dây dưa lâu khỏi.

Thi cử: Bình thường.

Mất của: Mơ hồ khó đoán.

Xuất hành: Đi gần, bình an vô sự.

48 Dự 

Vận thế: Đang ở vận thế cực thịnh, mọi việc như ý.

Hy vọng: Nhiều khả năng thực hiện.

Tài vận: Có thể được, chú ý đừng chủ quan vào phút chót, chớ ham chơi mà hết tiền.

Sự nghiệp: Phát triển mạnh, song có nguy cơ thất bại vào phút chót.

Nhậm chức: Có thể được đề bạt vào địa vị cao.

Chuyển nghề: Không nên.

Tình yêu: Đừng cố chấp thì có triển vọng.

Hôn nhân: Có thể đi tới kết quả tốt đẹp, tuy cuối cùng gặp sự ngăn trở.

Đợi người: Đang tới.

Đi xa: Vui vẻ.

Kiện tụng: Có lợi cho phía ta.

Sự việc: Chân thành giải quyết thì sẽ không tốn nhiều thời gian vô ích.

Bệnh tật: Bệnh nhẹ nhưng chớ chủ quan mà lâu khỏi.

Thi cử: Không như ý muốn chớ chủ quan mà lâu khỏi.

Mất của: Đã vào tay kẻ khác, không tìm được.

Xuất hành: Đi xa.

24 Tuỳ

Vận thế: Đang tốt, nhưng vì không tiếp thu ý kiến của người khác nên thất bại.

Hy vọng: Nếu chịu lắng nghe ý kiến của người khác thì có thể thực hiện được điều mong mỏi.

Tài vận: Chưa cách gì có được ngay, phải nhẫn nại chờ đợi.

Sự nghiệp: Tiến hành thuận lợi, nhất là những việc chung vốn đầu tư.

Nhậm chức: Nhờ bạn hữu, có thể có công việc tốt.

Chuyển nghề: Chưa phải lúc, sau nhờ bạn hữu sẽ có chức vị tốt.

Tình yêu: Đôi bên đều đang thăm dò thái độ của nhau. Cần có thái độ và hành động dứt khoát.

Hôn nhân: Nếu không nóng vội, sẽ có lương duyên.

Đợi người: Đến chậm.

Đi xa: Bình thường vô sự.

Kiện tụng: Dây dưa, tuỳ thái độ của người khác mà giải quyết.

Sự việc: Dựa vào bề trên mới giải quyết được.

Bệnh tật: Bệnh không nặng, nhưng lâu khỏi.

Thi cử: Bình thường.

Mất của: Bị lẫn trong các đồ vật.

Xuất hành: Có người rủ đi cùng.

75 Cổ

Vận thế: Vốn bình thường, do chủ quan sơ suất mà lâm vào tình thế nguy hiểm, phải thay đổi ngay sách lược thì sẽ trở lại bình thường.

Hy vọng: Tưởng chừng dễ thực hiện, song thực ra có nhiều trở ngại, khó đạt.

Tài vận: Không có.

Sự ngiệp: Dễ đổ vỡ, nên tạm dừng.

Nhậm chức: Có trở ngại, khó như ý.

Chuyển nghề: Sau khi chuyển nghề tạm thời sút kém, rồi sẽ chuyển biến tốt.

Tình yêu: Đối tượng chưa thực sự muốn gắn bó, còn đứng núi này trông núi nọ.

Hôn nhân: Không thành.

Đợi người: Chưa đến, còn phải đợi lâu.

Đi xa: Có trở ngại, nên bỏ ý định.

Kiện tụng: Nên hoà giải, vì phía ta chưa đủ chứng cứ và lý lẽ.

Sự việc: Giải quyết ngay thì ổn, kéo dài sẽ bất lợi.

Bệnh tật: Dây dưa lâu khỏi. Đừng chủ quan cho là bệnh nhẹ.

Thi cử: Không đạt.

Mất của: Bị đè dưới vật khác, đã bị biến dạng.

Xuất hành: Vì người khác giới mà bỏ nhà ra đi, chưa biết nương náu nơi nào.

82 Lâm

Vận thế: Đang ở vận thế tốt, chớ chủ quan.

Hy vọng: Sắp tới lúc thực hiện, hãy nỗ lực đến cùng.

Tài vận: Gần được như ý muốn.

Sự nghiệp: Thành công, càng về cuối càng phát triển tốt.

Nhậm chức: Sau một thời gian tương đối dài sẽ như ý.

Chuyển nghề: Hiện chưa phải lúc, phải chờ thêm ít lâu.

Tình yêu: Có khả năng tiến triển tốt đẹp. Nếu thành tâm, đối phương sẽ vui lòng chấp nhận.

Hôn nhân: Sẽ thành lương duyên, nhưng phải sau một thời gian tương đối lâu.

Đợi người: Đến hơi muộn.

Đi xa: Vui vẻ, tới đích.

Kiện tụng: Được kiện, nhưng chẳng có lợi gì.

Sự việc: Sau một thời gian mới giải quyết xong, đừng nóng vội.

Bệnh tật: Kéo dài, nhưng sẽ đỡ dần.

Thi cử: Phải nỗ lực lớn mới có kết quả tốt.

Mất của: Khó tìm thấy.

Xuất hành: Có ra đi và trở về, bình thường.

58 Quán

Vận thế: Hiện đang ở giai đoạn đầy biến động với rất nhiều vấn đề phát sinh. Nếu hành động thoải mái không vụ lợi, thì có thể lập tức chuyển sang vận tốt.

Hy vọng: Tuy có thể thành tựu, nhưng phải trải qua nhiều vấn đề rắc rối.

Tài vận: Có tài vận, nhưng phải tìm thời gian.

Sự nghiệp: Tuy có thành công, nhưng phải trải qua gian khổ.

Nhậm chức: Không thật thuận lợi, muốn như ý thì đừng nóng vội.

Chuyển nghề: Tuy bị bức bách phải chuyển nghề, nhưng cố tránh việc đó thì hơn.

Tình yêu: Đôi bên còn chưa quyết định dứt khoát.

Hôn nhân: Nên suy nghĩ kỹ rồi hãy quyết định kết hợp.

Đợi người: Có thể tới, có thể không.

Đi xa: Mục đích chuyến đi thay đổi do nhiều nguyên nhân, nên đổi sang ngày khác.

Kiện tụng: Dây dưa, nên sớm hoà giải.

Sự việc: Giải quyết sớm chừng nào tốt chừng ấy.

Bệnh tật: Biến động bất thường, khi tốt lên, khi xấu đi.

Thi cử: Thực hiện lúc đúng lúc sai, khó xác định.

Mất của: Giao vật cho người khác.

Xuất hành: Đi xa.

34 Phệ Hạp

Vận thế: Hiện đang gặp rất nhiều trở ngại, rắc rối. Cần có ý chí kiên cường và nỗ lực cao để khắc phục.

Hy vọng: Phải vượt qua trở ngại mới có thể thực hiện được.

Tài vận: Không có. Hao tổn.

Sự nghiệp: Không thể như ý.

Nhậm chức: Không thể thành tựu.

Chuyển nghề: Không hài lòng với công việc đang làm, nên chuyển đổi. Nhưng sau khi chuyển đổi, khó khăn vẫn như cũ.

Tình yêu: Đôi bên không thể tiếp xúc, rốt cuộc chia tay nhau.

Hôn nhân: Khó thành vì nhiều trở ngại.

Đợi người: Không đến.

Đi xa: Nên bỏ ý định đi xa thì hơn.

Kiện tụng: Phải hành động quả quyết mới hy vọng thắng kiện.

Sự việc: Khó giải quyết.

Bệnh tật: ốm nặng, có thể phải phẫu thuật.

Thi cử: Khó đạt kết quả tốt.

Mất của: Khó tìm.

Xuất hành: Bất lợi.

73 Bí

Vận thế: Đang ở giai đoạn đầy gian nan vất vả và đau khổ. Phải hành động đúng với thân phận để vượt qua.

Hy vọng: Chớ hy vọng gì nhiều.

Tài vận: Tuy có, nhưng chưa đến ngay.

Sự nghiệp: Ban đầu huy hoàng, càng về sau càng sa sút, hữu danh vô thực.

Nhậm chức: Không hoàn toàn như ý.

Chuyển nghề: Giữ nguyên việc cũ là hơn.

Tình yêu: Đôi bên không ưa nhau.

Hôn nhân: Khó kết hợp, đừng tin lời người môi giới.

Đợi người: Sắp đến nơi.

Đi xa: Đạt mục đích, tốn kém nhiều hơn hẳn dự tính ban đầu.

Kiện tụng: Hoà giải là tốt nhất, miễn cưỡng tranh chấp sẽ thất bại.

Sự việc: Khó xong vì đôi bên chỉ bằng mặt chứ không bằng lòng.

Bệnh tật: Tưởng chừng nhẹ, nhưng phải đặc biệt đề phòng.

Thi cử: Tưởng là đạt kết quả cao, không ngờ chỉ bình thường.

Mất của: Khó tìm.

Xuất hành: Giận dữ bỏ nhà đi, nhưng sẽ trở về ngay.

78 Bác

Vận thế: Cực kỳ gian khổ, bế tắc. Phải rán sức chịu đựng.

Hy vọng: Đừng hy vọng gì hết.

Tài vận: Toàn là những việc hao tốn.

Sự nghiệp: Thất bại, nên dừng lại ngay.

Nhậm chức: Khó xong.

Chuyển nghề: gặp thất bại.

Tình yêu: Không thành, phía nam bị thiệt thòi vì phía nữ.

Hôn nhân: Không thành.

Đợi người: Không tới.

Đi xa: Nên bỏ ý định đi chơi xa, vì giữa đường sẽ gặp chuyện bất trắc.

Kiện tụng: Thua kiện, phải chịu án phí.

Sự việc: Ngày một thêm vất vả.

Bệnh tật: Vô cùng nguy hiểm, đặc biệt với người già.

Thi cử: Không đạt.

Mất của: Khó tìm.

Xuất hành: Gặp nguy hiểm đến tính mệnh.

85 Phục

Vận thế: Bắt đầu tốt dần, nhưng hiện thời có cảm giác ngược lại, vậy hãy kiên nhẫn, để khỏi làm cho tình thế xấu đi.

Hy vọng: Có nhiều khả năng thành hiện thực, song phải tốn thời gian, không thể nôn nóng.

Tài vận: Tuy có, nhưng chưa có ngay.

Sự nghiệp: Công việc ngày một bớt dần khó khăn vất vả, kết quả khá dần.

Nhậm chức: Nếu kiên nhẫn sẽ có chức vị tốt.

Chuyển nghề: Chuyển hay không cũng vậy.

Tình yêu: Cứ để quan hệ diễn biến một cách tự nhiên thì có thể thành công.

Hôn nhân: Có thể thành, khi gặp trở ngại hãy kiên nhẫn khắc phục.

Đợi người: Vì trở ngại sẽ đến chậm, nhưng chắc chắn sẽ tới.

Đi xa: Được, nhưng giữa chừng có thể sẽ quay về vì có chuyện gấp cần giải quyết.

Kiện tụng: Kéo dài, cuối cùng có nhiều khả năng giành phần thắng.

Sự việc: Cứ từ từ giải quyết.

Bệnh tật: Dây dưa, bệnh nhẹ nhưng vì bất cẩn có thể sẽ tái phát.

Thi cử: Có thể đạt kết quả tốt.

Mất của: Có thể tìm lại.

Xuất hành: Đi rồi trở về sớm.

14 Vô Vọng

Vận thế: Bế tắc, mọi việc đều không như ý, dễ xảy ra những chuyện bất trắc.

Hy vọng: Không có hy vọng gì, phải chờ thời.

Tài vận: Hiện thời không có.

Sự nghiệp: Chưa phải thời cơ, nên tạm ngừng.

Nhậm chức: Không thể như ý.

Chuyển nghề: Nên cố gắng làm công việc cũ, chuyển nghề bất lợi.

Tình yêu: Hiện tại thuận lợi, sau đó bất lợi.

Kết hôn: Không phải lương duyên, khó thành.

Đợi người: Không đến.

Đi xa: Giữa chừng dừng lại.

Kiện tụng: Phía ta bất lợi, nên hoà giải.

Sự việc: Đừng nôn nóng, cứ để sự việc tiến triển một cách tự nhiên.

Bệnh tật: Nguy hiểm, người già phải thật thận trọng giữ gìn.

Thi cử: Kết quả xấu.

Mất của: Không tìm được.

Xuất hành: Không nên.

71 Đại Súc

Vận thế: Đã qua nhiều gian khổ, vận thế đang tốt dần, nhưng chưa thật sự tốt, hành sự phải thận trọng.

Hy vọng: Một thời gian nữa mới như ý.

Tài vận: Sắp tới có thu nhập cao, nhiều nguồn.

Sự nghiệp: Thoạt đầu nhiều khó khăn vất vả, dần dần tốt đẹp, cuối cùng thành công.

Nhậm chức: Một thời gian sau sẽ có chức vị tốt.

Chuyển nghề: Phải chờ đợi ít lâu hãy chuyển.

Tình yêu: Nôn nóng thì có thể như ý, nhưng sau đó sẽ hỏng.

Kết hôn: Có thể thành lương duyên, nhưng phải tốn thời gian, giữa chừng có thể sẽ đoạn tuyệt.

Đợi người: Đến muộn vì có chuyện.

Đi xa: Vui vẻ.

Kiện tụng: Thắng kiện, nhưng tốn nhiều thời gian, hoà giải là hơn.

Sự việc: Đừng nóng vội mới giải quyết xong.

Bệnh tật: Tình trạng bệnh tật lúc đỡ lúc nặng.

Thi cử: Có thể đạt kết quả tốt.

Mất của: Tìm ở bên dưới vật khác.

Xuất hành: Nhất thời chưa biết đi đâu.

74 Di

Vận thế: Tưởng chừng tốt đẹp, thực ra không phải vậy.

Hy vọng: Khó được như ý.

Tài vận: Không có.

Sự nghiệp: Giữa chừng có nhiều trở ngại, hợp tác với nhiều người thì có khả năng thành công.

Nhậm chức: Khó được như ý.

Chuyển nghề: Nên chờ thời cơ.

Tình yêu: Đôi bên chưa thể tiến tới.

Kết hôn: Khó thành vì chưa chín muồi.

Đợi người: Chưa đến.

Đi xa: Nên bỏ ý định đi chơi xa.

Kiện tụng: Nên hoà giải vì thế lực đôi bên ngang nhau.

Sự việc: Chưa thể giải quyết được.

Bệnh tật: Không đến mức nặng.

Thi cử: Không đạt.

Mất của: Nhầm lẫn hoặc để quên.

Xuất hành: Chưa biết tới đâu.

25 Đại Quá

Vận thế: Đang ở thời điểm đầy khó khăn trở ngại, hậu quả của việc chủ quan, cậy mình có tài.

Hy vọng: Hy vọng quá lớn, không thể như ý.

Tài vận: ít thì có, nhiều thì không.

Sự nghiệp: Đề ra mục tiêu sai lầm, không thể thành công.

Nhậm chức: Không đạt như ý.

Chuyển nghề: Kết quả tốt đẹp.

Tình yêu: Không thành.

Hôn nhân: Khó thành, có thành cũng không thể xây dựng gia đình đầm ấm.

Đợi người: Không đến.

Đi xa: Bất lợi.

Kiện tụng: Dây dưa kéo dài.

Sự việc: Không thể giải quyết vì đôi bên không nhượng bộ nhau.

Bệnh tật: Nặng dần.

Thi cử: Kết quả khác hẳn dự kiến.

Mất của: Khó tìm, có tìm thấy cũng chẳng còn nguyên vẹn.

Xuất hành: Vì tranh giành mà bỏ nhà ra đi, khó trở về.

66 Khảm

Vận thế: Mọi sự đều chưa thể như ý, sự tình có chiều hướng ngày một xấu thêm, đề phòng bệnh tật, trộm cướp.

Hy vọng: Khó bề như ý.

Tài vận: Không có, đề phòng hao tổn.

Sự nghiệp: Chưa gặp thời, miễn cưỡng vô ích.

Nhậm chức: Khó được như ý.

Chuyển nghề: Không nên.

Tình yêu: Đôi bên chưa chân thành.

Hôn nhân: Có thể thành lương duyên.

Đợi người: Chưa đến.

Đi xa: Nên bỏ ý định đi chơi xa.

Kiện tụng: Nên hoà giải, miễn cưỡng chỉ thua.

Sự việc: Dù tốn kém cũng cần cố giải quyết.

Bệnh tật: Bệnh tình nghiêm trọng.

Thi cử: Không đạt.

Mất của: Không tim thấy.

Xuất hành: Nguy hiểm đến tính mạng.

33 Ly

Vận thế: Bề ngoài tưởng chừng tốt đẹp, thực tế khó giải quyết. Có sự bất hoà giữa nam và nữ.

Hy vọng: Nôn nóng thì không thể như ý.

Tài vận: Chưa đến.

Sự nghiệp: Thất bại vì kế hoạch phù phiếm.

Nhậm chức: Không thể như ý.

Chuyển nghề: Chưa được, bất lợi.

Tình yêu: Có thể thành, nhưng lại chia tay.

Hôn nhân: Tưởng xong, sau lại tan vỡ.

Đợi người: Nửa đường bỏ dở, không đến nữa.

Đi xa: Nên chọn thời gian khác.

Kiện tụng: Bất lợi, nên hoà giải.

Sự việc: Nôn nóng thì không giải quyết xong.

Bệnh tật: Nguy ngập.

Thi cử: Có thể đạt kết quả tốt.

Mất của: Tìm ngay có thể thấy, để lâu thì mất.

Xuất hành: Bất lợi, nguy hiểm.

27 Hàm

Vận thế: Bình ổn, nhất là đối với người trẻ tuổi thì rất tốt đẹp.

Hy vọng: Như ý.

Tài vận: Đầy đủ, vì sẵn tiền mà có xu hướng ăn chơi.

Sự nghiệp: Hợp tác với một số tương đối đông người sẽ thành công.

Nhậm chức: Có chức vị như mong muốn.

Chuyển nghề: Nên bàn bạc với thân bằng cố hữu mà quyết định.

Tình yêu: Đôi bên đều vui vẻ tiến tới.

Hôn nhân: Kết thành lương duyên.

Đợi người: Sắp đến.

Đi xa: Đi chơi một chuyến vui vẻ.

Kiện tụng: Nếu hoà giải, hai bên đều có lợi.

Sự việc: Có thể giải quyết ngay nếu thành tâm thành ý.

Bệnh tật: Sẽ thuyên giảm.

Thi cử: Đạt kết quả tốt.

Mất của: Tìm thấy.

Xuất hành: Thường đi cùng với người khác giới.

45 Hằng

Vận thế: Hết sức yên ổn, càng lúc càng tốt đẹp.

Hy vọng: Như ý, nếu không có nhiều kỳ vọng.

Tài vận: Có tài vận nhỏ.

Sự nghiệp: Thành công tương xứng với thơi gian bỏ ra.

Nhậm chức: Như ý.

Chuyển nghề: Hoàn toàn không nên.

Tình yêu: Thành công và giữ được lâu dài.

Hôn nhân: Kết thành lương duyên, tiến triển thuận lợi.

Đợi người: Sắp đến.

Đi xa: Có chuyến đi chơi thú vị.

Kiện tụng: Nên hoà giải là hơn.

Sự việc: Cần có sự tiếp xúc thường xuyên.

Bệnh tật: Thuyên giảm dần.

Thi cử: Kết quả tương đương thực lực.

Mất của: Chưa tìm thấy.

Xuất hành: Bình thường.

17 Độn

Vận thế: Tình thế tốt đẹp cứ ngày một giảm dần, nên tránh khởi đầu công việc mới, cứ duy trì việc cũ thì hơn.

Hy vọng: Có trở ngại, khó thực hiện.

Tài vận: Không có, chỉ hao tốn.

Sự nghiệp: Chưa gặp thời.

Nhậm chức: Khó như ý vì có kẻ ngăn cản.

Chuyển nghề: Không nên.

Tình yêu: Đơn phương.

Hôn nhân: Khó thành lương duyên.

Đợi người: Không đến.

Đi xa: Bất lợi.

Kiện tụng: Thua kiện.

Sự việc: Sớm giải quyết chừng nào tốt chừng nấy.

Bệnh tật: Nguy hiểm, nhất là với cha già.

Thi cử: Không đạt.

Mất của: Khó tìm.

Xuất hành: Đi xa, nguy hiểm.

41 Đại Tráng

Vận thế: Hiện đang rất vượng, nếu ỷ vào đó mà triển khai đại qui mô thì sẽ thất bại.

Hy vọng: Chủ yếu là đạt sở nguyện, nhưng nếu chủ quan sẽ gặp nhiều điều nhỏ trái ý.

Tài vận: Hữu danh vô thực.

Sự nghiệp: Tốt đẹp ban đầu, chung cuộc thất bại.

Nhậm chức: Vì nôn nóng mà không được như ý.

Chuyển nghề: Không nên.

Tình yêu: Không thành.

Hôn nhân: Tưởng chừng kết hợp được, cuối cùng tan vỡ.

Đợi người: Giữa chừng họ bỏ ý định đến với ta.

Đi xa: Không nên.

Kiện tụng: Bất lợi.

Sự việc: Nên sớm giải quyết, để lâu sẽ rắc rối.

Bệnh tật: Nặng dần lên, đặc biệt với người già.

Thi cử: Thất bại không ngờ.

Mất của: Chưa tìm thấy.

Xuất hành: Sẽ đi xa.

38 Tấn

Vận thế: Cực thịnh, được bề trên hỗ trợ, mọi việc như ý, thanh danh tăng tiến, nhưng đừng chủ quan tự mãn mà phạm sai lầm.

Hy vọng: Đạt được, nhờ người có địa vị cao thì sớm như ý.

Tài vận: Đầy đủ.

Sự nghiệp: Đại phát triển.

Nhậm chức: Có địa vị tốt.

Chuyển nghề: Giữ việc đang làm sẽ phát triển mạnh mẽ.

Tình yêu: Đôi bên mãn nguyện.

Hôn nhân: Có thể thành lương duyên.

Đợi người: Chắc đến.

Đi xa: Có chuyến đi chơi thú vị.

Kiện tụng: Thoạt đầu lợi thế thuộc về ta, sau đó càng dây dưa ta càng bất lợi.

Sự việc: Có thể giải quyết nếu dựa vào bề trên.

Bệnh tật: Bệnh mãn tính.

Thi cử: Đạt kết quả tốt.

Mất của: Tìm được.

Xuất hành: Tốt.

83 Minh Di

Vận thế: Hiện tại tình thế hết sức khó khăn, mọi việc trục trặc, may mà tình trạng này sẽ kéo dài không lâu, sắp chuyển sang vận tốt, vậy hãy gắng chịu đựng, giữ gìn.

Hy vọng: Khó thành, đừng nản lòng sẽ được như ý.

Tài vận: Không có.

Sự nghiệp: Thất bại nặng nề.

Nhậm chức: Trước mắt khó được như ý.

Chuyển nghề: Bất lợi.

Tình yêu: Đôi bên đều giả dối.

Hôn nhân: Khó kết thành lương duyên.

Đợi người: Không thể đến sớm.

Đi xa: Dừng lại giữa chừng.

Kiện tụng: Thua kiện.

Sự việc: Phải tốn nhiều thời gian mới giải quyết xong.

Bệnh tật: Nguy hiểm, chưa cách gì làm thuyên giảm.

Thi cử: Không đạt.

Mất của: Bị lẫn trong các đồ vật, chưa tìm ra.

Xuất hành: Nguy hiểm.

53 Gia nhân

Vận thế: Bình an vô sự, gia đạo êm ấm.

Hy vọng: Đạt thành.

Tài vận: Đầy đủ, thương lượng với thân quyến được như ý.

Sự nghiệp: Thành công.

Nhậm chức: Được đề bạt vào chức vụ tốt.

Chuyển nghề: Không thật tốt.

Tình yêu: Thuận lợi, đôi bên cùng thành tâm.

Hôn nhân: Có thể kết thành lương duyên.

Đợi người: Không đến.

Đi xa: Đi chơi xa cùng với người nhà vui vẻ.

Kiện tụng: Hoà giải thì hơn.

Sự việc: Bàn bạc với gia đình thì sau đó có thể một mình giải quyết.

Bệnh tật: Thuyên giảm.

Thi cử: Đạt kết quả tốt.

Mất của: Tìm thấy ở nhà.

Xuất hành: Bình thường.

32 Khuê

Vận thế: Khó khăn do phán đoán hoặc tính toán sai lầm. Không nên tranh chấp.

Hy vọng: Khó thành hiện thực.

Tài vận: Không có.

Sự nghiệp: Sai lầm dẫn đến thất bại.

Nhậm chức: Khó được như ý.

Chuyển nghề: Giữ công việc cũ thì hơn.

Tình yêu: Đôi bên không hợp tâm ý.

Hôn nhân: Khó thành, không phải lương duyên.

Đợi người: Không đến.

Đi xa: Giữa đường gặp trở ngại.

Kiện tụng: Thất bại, nên hoà giải.

Sự việc: Tính toán kỹ sự được mất mà giải quyết.

Bệnh tật: Cách chữa trị sai lầm, nên theo thầy thuốc khác sẽ đỡ.

Thi cử: Kết quả xa hẳn dự kiến.

Mất của: Chưa tìm thấy.

Xuất hành: Chưa biết đi đâu, cũng chưa tính chuyện trở về.

67 Kiển

Vận thế: Suy bại, mọi việc trắc trở, bệnh tật triền miên, chán nản.

Hy vọng: Khó thành.

Tài vận: Tiền bạc thiếu thốn, không kiếm ra nổi.

Sự nghiệp: Thất bại.

Nhậm chức: Không xong.

Chuyển nghề: Càng bất lợi hơn.

Tình yêu: Giữa chừng tan vỡ.

Hôn nhân: Khó thành lương duyên.

Đợi người: Không đến vì trở ngại.

Đi xa: Bất lợi.

Kiện tụng: Thất bại.

Sự việc: Chưa biết cách giải quyết ra sao.

Bệnh tật: Bệnh nặng.

Thi cử: Không đạt.

Mất của: Khó tìm.

Xuất hành: Nguy hiểm đến tính mạng.

46 Giải

Vận thế: Khó khăn đang được giải quyết dần, tình hình ngày một yên ổn, đừng nôn nóng.

Hy vọng: Đạt được gần như ý muốn, nhưng cuối cùng do sơ suất mà hỏng việc.

Tài vận: Tạm đủ, nhưng khó dự liệu trước.

Sự nghiệp: Thành công.

Nhậm chức: Có thể thành công.

Chuyển nghề: Có lợi.

Tình yêu: Có chuyển biến rõ rệt, nếu trước thân mật, thì nay chán chường; nếu trước còn xa cách, thì nay trở nên thân mật.

Hôn nhân: Có thể thành lương duyên, nhưng có nguy cơ tan vỡ.

Đợi người: Đến hơi muộn.

Đi xa: Đi chơi vui vẻ.

Kiện tụng: Nên hoà giải vui vẻ.

Sự việc: Có thể sớm giải quyết.

Bệnh tật: Thuyên giảm hẳn.

Thi cử: Đạt kết quả tốt.

Mất của: Chưa tìm thấy.

Xuất hành: Bình thường.

72 Tổn

Vận thế: Hiện đang suy vi, tổn thất, nhưng sắp chuyển sang vận tốt, có cơ sở hoạt động cho tương lai.

Hy vọng: Không lâu sau sẽ được như ý, chớ nên nóng vội.

Tài vận: Hiện chưa có, nếu an tâm chờ đợi, sẽ như ý.

Sự nghiệp: Chưa gặp thời cơ.

Nhậm chức: Dần dần sẽ có địa vị cao.

Chuyển nghề: Chưa thể, nên làm việc cũ.

Tình yêu: Không được đối tượng chấp nhận.

Hôn nhân: Khó thành.

Đợi người: Đến muộn.

Đi xa: Bình thường.

Kiện tụng: Bất lợi, nên hoà giải.

Bệnh tật: Lâu khỏi.

Thi cử: Kết quả không như ý.

Mất của: Không tìm được.

Xuất hành: Nếu bỏ đi, sẽ có tin báo về.

54 ích

Vận thế: Vô cùng thuận lợi, mọi việc đều trôi chảy, nhưng chớ vì thế mà chủ quan dễ phạm sai lầm.

Hy vọng: Được như ý.

Tài vận: Có đủ.

Sự nghiệp: Thành công, nên tính cách duy trì cho lâu dài.

Nhậm chức: Được người trợ giúp nên có địa vị cao.

Chuyển nghề: Có chiều hướng tốt.

Tình yêu: Có thể thành công.

Hôn nhân: Có thể thành lương duyên.

Đợi người: Sẽ tới.

Đi xa: Đạt được mục tiêu.

Kiện tụng: Thắng kiện.

Sự việc: Nên nhờ người trung gian giải quyết.

Bệnh tật: Thuyên giảm.

Thi cử: Kết quả tốt.

Mất của: Có thể tìm thấy.

Xuất hành: Chưa biết đi đâu.

21 Quải

Vận thế: Chỉ một sai lầm sẽ lâm vào tình thế nguy ngập, vậy phải hết sức thận trọng trong hành động.

Hy vọng: Khó thành, nên rút ra bài học từ những lần thất bại trước đây.

Tài vận: Không có.

Sự nghiệp: Khó thành.

Nhậm chức: Không thể như ý, nguy hiểm.

Chuyển nghề: Bình thường.

Tình yêu: Chia tay vì đôi bên quá khác biệt.

Hôn nhân: Khó thành, có thành cũng chỉ dẫn tới bất hạnh.

Đợi người: Không đến.

Đi xa: Không nên.

Kiện tụng: Thất bại.

Sự việc: Một thời gian sau mới có thể giải quyết.

Bệnh tật: Rất nguy hiểm, nhất là nếu điều trị đã lâu.

Thi cử: Khó đạt kết quả tốt.

Mất của: Khó tìm.

Xuất hành: Không biết người bỏ nhà đi đâu.

15 Cấu

Vận thế: Gặp tai nạn bất ngờ, khó giải quyết vấn đề hậu quả với người khác giới.

Hy vọng: Không thể thực hiện được.

Tài vận: Không có.

Sự nghiệp: Thất bại về phương diện quan hệ con người.

Nhậm chức: Chưa đem lại ngay kết quả tốt.

Chuyển nghề: Hiện chưa phải lúc.

Tình yêu: Chưa xác định rõ ràng, chưa biết chọn ai vì có nhiều đối tượng.

Hôn nhân: Có thể kết hợp, nhưng không thật tốt đẹp.

Đợi người: Chắc đến.

Đi xa: Thay đổi mục đích chuyến đi.

Kiện tụng: Tranh chấp bất lợi.

Bệnh tật: Không nặng, nhưng có biến chứng.

Sự việc: Tiến triển bình thường, sau một thời gian sẽ được giải quyết xong.

Thi cử: Bình thường.

Mất của: Khó tìm, thường rơi vào tay nữ giới.

Xuất hành: Bị người rủ rê bỏ nhà ra đi.

28 Tuỵ

Vận thế: Do thanh danh của mình và được sự đề cao, tín nhiệm của người khác mà đang ở vận khí tốt đẹp.

Hy vọng: Được thực hiện.

Tài vận: Có đủ.

Sự nghiệp: Thành đạt.

Nhậm chức: Có chức vị ngon lành.

Chuyển nghề: Nhờ chuyển nghề sẽ có chức vị tốt hơn.

Tình yêu: Đôi bên ý hợp tâm đầu, xứng đôi vừa lứa.

Hôn nhân: Sẽ thành lương duyên.

Đợi người: Đang tới.

Đi xa: Viễn du lý thú.

Kiện tụng: Hoà giải là hơn, chỉ có lợi cho ta.

Sự việc: Ta tích cực chủ động mà giải quyết.

Bệnh tật: Thuyên giảm.

Thi cử: Kết quả tốt.

Mất của: Tìm thấy.

Xuất hành: Bình thường.

85 Thăng

Vận thế: Từ nay trở đi sẽ dần dần phát triển, năng lực bản thân được phát huy, có sự trợ giúp của bề trên.

Hy vọng: Chưa thực hiện được ngay, nhưng sau một thời gian cố gắng, chắc chắn thành hiện thực.

Tài vận: Đầy đủ.

Nhậm chức: Sắp tới sẽ có chức vị cao.

Chuyển nghề: Chưa phải cơ hội.

Tình yêu: Cần duy trì quan hệ một thời gian dài sẽ thành công.

Hôn nhân: Sẽ thành lương duyên sau một thời gian khá dài.

Đợi người: Đến muộn.

Đi xa: Vui vẻ.

Kiện tụng: Sau một thời gian sẽ thắng.

Sự việc: Đừng nôn nóng, sẽ được giải quyết.

Bệnh tật: Sau một thời gian chắc thuyên giảm.

Thi cử: Đạt kết quả tốt.

Mất của: Tìm được.

Xuất hành: Bình thường.

26 Khốn

Vận thế: Đang ở tình thế bế tắc, tiến thoái lưỡng nan, không nên triển khai thêm hoạt động, phải chờ thời cơ.

Hy vọng: Khó thành, cần thay đổi mục tiêu và phương pháp tiến hành.

Tài vận: Không có, trong khi rất cần tiền bạc chi dùng, nợ nần gia tăng.

Sự nghiệp: Chưa gặp thời, phương pháp lại chưa thích hợp, cần thay đổi.

Nhậm chức: Vô ích.

Chuyển nghề: Bất lợi vì chẳng hơn gì công việc đang làm.

Tình yêu: Chỉ là chuyện vui đùa.

Hôn nhân: Khó thành, bị cự tuyệt.

Đợi người: Không đến.

Đi xa: Không xong.

Kiện tụng: Thua kiện tốn kém.

Sự việc: Chưa thể giải quyết được.

Bệnh tật: Nguy hiểm, nếu bệnh nhẹ thì sẽ nặng dần.

Thi cử: Khó đạt kết quả.

Mất của: Khó tìm lại.

Xuất hành: Chưa biết đi đâu.

65 Tỉnh

Vận thế: Tình trạng đình đốn, phải chờ thời.

Hy vọng: Sẽ có quí nhân phù trợ.

Tài vận: Có nhờ tích luỹ.

Sự nghiệp: Lấy cần mẫn làm đầu.

Nhậm chức: Chờ người tiến cử.

Chuyển nghề: Không thể hành động tuỳ tiện, cần suy tính kỹ.

Tình yêu: Hãy xem lại bản thân, tự hoàn thiện mình, kẻo không được đáp ứng.

Hôn nhân: Có thể thành.

Đợi người: Còn phải chờ lâu.

Đi xa: Bất lợi.

Kiện tụng: Nên hoà giải, vì tranh chấp sẽ kéo dài rất lâu.

Sự việc: Cứ để diễn biến một cách tự nhiên.

Bệnh tật: Không đến nỗi nặng.

Thi cử: Bình thường.

Mất của: Có thể tìm thấy.

Xuất hành: Người ra đi phải sau một thời gian mới biết đang ở đâu.

23 Cách 

Vận thế: Tình thế sự việc hoặc ý muốn đi đến thời kỳ phải thay đổi hết thảy. Chú ý đừng đi quá khả năng của chính mình.

Hy vọng: Suy xét lại mục tiêu một cách toàn diện.

Tài vận: Có đủ, nhưng phải thay đổi biện pháp mới được sử dụng.

Sự nghiệp: Thay đổi phương châm mới có thể đi tới thành công.

Nhậm chức: Phải chuyển đến nơi khác mới có chức vị tốt.

Chuyển nghề: Có lợi.

Tình yêu: Có thể tiến tới.

Hôn nhân: Phải tìm đối tượng khác.

Đợi người: Không đến, vì người ta mà ta chờ đợi giữa đường phải quay trở lại nơi cũ.

Đi xa: Có thể đi xa, giữa chừng sẽ thay đổi mục đích.

Kiện tụng: Thay đổi luật sư, có thể thắng.

Sự việc: Phải hành động kiên quyết.

Bệnh tật: Bệnh có biến chứng hoặc đột phát.

Thi cử: Kết quả ngược với mong đợi.

Mất của: Khó tìm, đã biến dạng.

Xuất hành: Người ra đi luôn thay đổi địa chỉ, khó biết ở nơi nào.

35 Đỉnh

Vận thế: Đang dần dần tốt lên, hoặc nhờ bề trên đề bạt, hoặc do tự mình thay đổi cách thức.

Hy vọng: Thoạt đầu tưởng khó thực hiện, nhưng nếu nhờ bề trên, có thể thành công.

Tài vận: Bình thường.

Sự nghiệp: Hiện đang khó khăn, sau sẽ phát triển mạnh.

Nhậm chức: Nhờ bạn hữu tiến cử, có địa vị tốt.

Chuyển nghề: Đổi nghề sẽ gặp khó khăn vất vả lúc đầu.

Tình yêu: Đối tượng đang còn chọn lựa.

Kết hôn: Có thể thành lương duyên.

Đợi người: Sắp đến.

Đi xa: Chuyến đi chơi thú vị.

Kiện tụng: Thời gian kéo dài, nhưng ta thắng kiện.

Sự việc: Có người trung gian sẽ dễ giải quyết.

Bệnh tật: Nên đổi phương thuốc sẽ có hiệu quả.

Thi cử: Kết quả tốt.

Mất của: Có thể tìm thấy.

Xuất hành: Có thể tìm được nơi người nhà bỏ đi.

44 Chấn

Vận thế: Tuy đang vượng, nhưng chớ phù phiếm.

Hy vọng: Đừng kỳ vọng thì sẽ như ý.

Tài vận: Hữu danh vô thực.

Sự nghiệp: Đang phát triển mạnh, nhưng nếu không tương xứng với nội lực, sẽ thất bại.

Nhậm chức: Có thể có chức vị khác, nhưng đừng dựa dẫm vào người khác.

Chuyển nghề: Không nên.

Tình yêu: Sẽ phải chia tay vì chưa thực tâm.

Hôn nhân: Khó thành, đừng huênh hoang.

Đợi người: Sẽ tới sớm.

Đi xa: Bình thường.

Kiện tụng: Nên hoà giải thì hơn.

Sự việc: Tưởng chừng nghiêm trọng, thực ra dễ dàng giải quyết.

Bệnh tật: Chỉ nguy hiểm tạm thời.

Thi cử: Đạt kết quả tốt.

Mất của: Có thể tìm thấy.

Xuất hành: Đi xa, có liên lạc.

77 Cấn

Vận thế: Đang tạm thời đình đốn, phải hết sức vất vả. Nếu kiên nhẫn sẽ chóng chuyển sang vận tốt.

Hy vọng: Khó bề như ý, nên thay đổi mục tiêu.

Tài vận: Không có.

Sự nghiệp: Chưa đến thời cơ.

Nhậm chức: Khó có chức vị tốt.

Chuyển nghề: Không được.

Tình yêu: Đôi bên không hợp tâm ý.

Hôn nhân: Không có duyên phận với nhau.

Đợi người: Không tới.

Đi xa: Bất lợi.

Kiện tụng: Dây dưa, tốn kém.

Sự việc: Nên tạm thời án binh bất động.

Bệnh tật: Lâu khỏi.

Thi cử: Khó đạt kết quả tốt.

Mất của: Khó tìm.

Xuất hành: Người bỏ đi không rõ tới đâu.

57 Tiệm

Vận thế: Từ nay mọi việc sẽ bắt đầu tốt dần lên, nếu định rõ năng lực của bản thân, cẩn thận hành sự, thì sẽ thành tựu.

Hy vọng: Trước mắt chưa thể thực hiện, phải kiên trì.

Tài vận: Dần dần mới có, chớ nôn nóng.

Sự nghiệp: Ban đầu gian khổ, sau mới thành công.

Nhậm chức: Sau này sẽ có chức vị tốt.

Chuyển nghề: Không nên, việc hiện tại sẽ tốt dần.

Tình yêu: Quan hệ đôi bên sẽ thắm thiết dần.

Hôn nhân: Kiên nhẫn sẽ thành lương duyên.

Đợi người: Đến chậm.

Kiện tụng: Tốn nhiều thời gian, nhưng có lợi cho ta.

Sự việc: Cứ từ từ sẽ giải quyết xong.

Thi cử: Có thể đạt kết quả tốt.

Mất của: Kiên trì tìm kiếm có thể sẽ thấy.

Xuất hành: Người bỏ đi phương xa.

42 Qui Muội

Vận thế: mê muội cầu lợi mà bị thất bại, bị người khác giới dẫn dụ vào vòng tai nạn, phải thận trọng hành động và có ý chí.

Hy vọng: Thoạt đầu tưởng được như ý, sau thất vọng.

Tài vận: Không có. Khoản tiền trông chờ có được bị mất tiêu.

Sự nghiệp: Cố gắng duy trì công việc đang làm.

Nhậm chức: Tưởng là tốt, thực tế không xong.

Tình yêu: Đôi bên còn đang tính toán thiệt hơn.

Hôn nhân: Có thể kết hợp, nhưng sau đó sẽ luôn luôn lục đục.

Đợi người: Nam không tới, nữ có thể tới.

Đi xa: Bất lợi.

Kiện tụng: Bất lợi, nên hoà giải.

Sự việc: Nếu chỉ cầu lợi thì khó giải quyết.

Bệnh tật: Rất nguy hiểm, dù tạm thời có chuyển biến tốt, sau sẽ tái phát.

Thi cử: Trái hẳn với dự tính.

Mất của: Khó tìm.

Xuất hành: Người nhà bỏ đi vì thất tình, khó biết chỗ tìm.

43 Phong

Vận thế: Tình thế đang hết sức thuận lợi, mọi việc đều trôi chảy, nhưng chớ chủ quan.

Hy vọng: Nếu không quá tham, sẽ được như ý.

Tài vận: Đầy đủ.

Sự nghiệp: Vô cùng phát triển.

Nhậm chức: Tuy như ý, cuối cùng thất vọng.

Chuyển nghề: Không nên.

Tình yêu: Sẽ chia tay nhau.

Hôn nhân: Có thể thành lương duyên, nhưng gặp nhiều điều tiếng.

Đợi người: Đang tới.

Đi xa: Có chuyến đi chơi vui vẻ.

Kiện tụng: Thoạt đầu có lợi cho ta, sau ngược lại.

Sự việc: Có thể giải quyết êm đẹp.

Bệnh tật: Thuyên giảm.

Thi cử: Đạt kết quả tốt.

Mất của: Khó tìm.

Xuất hành: Có tin tức về người bỏ đi.

37 Lữ

Vận thế: Đầy  rẫy khó khăn trắc trở, tình thế biến động bất an liên tục.

Hy vọng: Khó được thực hiện.

Tài vận: Không có.

Sự nghiệp: Chưa dến thời cơ thuận lợi.

Nhậm chức: Không được như ý.

Chuyển nghề: Chuyển hay không cũng vậy.

Tình yêu: Cả thèm chóng chán.

Hôn nhân: Có thể kết hợp, nhưng không phải lương duyên.

Đợi người: Tới liền.

Đi xa: Đạt được mục đích.

Kiện tụng: Hoà giải là thượng sách.

Sự việc: Không dễ giải quyết hậu quả.

Bệnh tật: ốm nặng.

Thi cử: Khó đạt kết quả tốt.

Mất của: Khó tìm.

Xuất hành: Đã đi xa.

55 Tốn

Vận thế: Không ổn định, nhiều mê hoặc. Cần bình tĩnh hỏi ý kiến bề trên và chớ nôn nóng.

Hy vọng: Tham vọng khó bề như ý.

Tài vận: Có nhưng nhỏ.

Sự nghiệp: Chưa gặp thời.

Nhậm chức: Chưa phải lúc.

Chuyển nghề: Bình thường.

Tình yêu: Đôi bên nóng vội, cuối cùng chia tay.

Hôn nhân: Khó thành.

Đợi người: Không đến hoặc đến rất muộn.

Đi xa: Giữa chừng thay đổi mục tiêu.

Kiện tụng: Dây dưa tốn kém, nên hoà giải.

Sự việc: Cần hành động kiên quyết.

Bệnh tật: Bệnh kéo dài, không thuyên giảm.

Thi cử: Kết quả kém.

Mất của: Vật cần tìm bị đè lấp bên dưới vật khác.

Xuất hành: Khó tìm thấy người bỏ nhà ra đi.

22 Đoài

Vận thế: Tình thế thuận lợi, bình ổn vô sự, được người khác giới quí mến, nhưng cần thận trọng về mặt tửu sắc.

Hy vọng: Có thể đạt, nhưng đừng chủ quan sơ ý mà hỏng.

Tài vận: Đầy đủ.

Sự nghiệp: Phát triển thuận lợi.

Nhậm chức: Được người khác giúp đỡ, có chức vị tốt.

Chuyển nghề: Tốt.

Tình yêu: Được người ái mộ.

Hôn nhân: Có thể thành lương duyên.

Đợi người: Đến muộn.

Đi xa: Một chuyến đi chơi thú vị.

Kiện tụng: Hoà giải là hơn.

Sự việc: Đương sự phải trực tiếp đứng ra thương lượng.

Thi cử: Đạt kết quả tốt.

Bệnh tật: Bệnh nặng

Mất của: Khó tìm.

Xuất hành: Người bỏ đi không biết đang ở đâu.

56 Hoán

Vận thế: Tình trạng gian khổ kết thúc, từ nay chuyển sang giai đoạn tốt đẹp.

Hy vọng: Chưa như ý, cần tiếp tục cố gắng.

Tài vận: Khó có ngay.

Sự nghiệp: Phải một thời gian nữa mới thành công.

Nhậm chức: Sẽ có chức vị tốt ở nơi khác.

Chuyển nghề: Đổi nghề là hay nhất.

Tình yêu: Thay đổi thái độ với đối tượng vì nghi ngờ thành ý của họ.

Hôn nhân: Khó thành.

Đợi người: Không tới.

Đi xa: Vui vẻ.

Kiện tụng: Nóng vội sẽ thất bại.

Sự việc: Nên nhờ người khác hoà giải.

Bệnh tật: Nguy hiểm.

Thi cử: Kết quả ngoài dự kiến.

Mất của: Khó tìm, có tìm thấy cũng không còn nguyên dạng.

Xuất hành: Người bỏ nhà đi xa, không ở cố định một chỗ, khó tìm.

62 Tiết

Vận thế: Nhiều việc thuận lợi, từ đó sinh ra chủ quan nóng vội, hành động quá năng lực của bản thân. Rất cần chừng mực.

Hy vọng: Nôn nóng kỳ vọng thì khó bề như ý.

Tài vận: Có đủ, một thời gian sau sẽ có nhiều tiền của.

Sự nghiệp: Sau một thời gian sẽ phát triển mạnh.

Nhậm chức: Hiện chưa như ý, sau sẽ có chức vụ cao.

Chuyển nghề: Không nên.

Tình yêu: Đôi bên chưa thực sự gắn bó.

Hôn nhân: Phải một thời gian sau mới thành lương duyên.

Đợi người: Đến muộn.

Đi xa: Thuận lợi.

Kiện tụng: Hoà giải là hơn.

Sự việc: Cứ từ từ, chừng mực sẽ giải quyết xong.

Bệnh tật: Kéo dài không thuyên giảm.

Thi cử: Kết quả bình thường.

Mất của: Tìm thấy vật bỏ quên.

Xuất hành: Chưa biết người bỏ đi đang ở đâu.

52 Trung Phù

Vận thế: Đang yên ổn, nhưng nếu hành sự thiếu thận trọng, sẽ xấu đi, đặc biệt trong quan hệ nam nữ.

Hy vọng: Phải gắng sức mới có thể như ý.

Tài vận: Có khoản tiền nhỏ.

Sự nghiệp: Kiên trì và thành thực là yếu tố quyết định thành công.

Nhậm chức: Có địa vị tốt.

Chuyển nghề: Bất lợi.

Tình yêu: Đôi bên chân thành, gắn bó.

Hôn nhân: Có thể thành lương duyên.

Đợi người: Đang tới.

Đi xa: Thuận lợi, trở về bình an.

Kiện tụng: Hoà giải là hơn.

Sự việc: Chỉ cần có thiện chí là giải quyết xong.

Bệnh tật: Chóng thuyên giảm.

Thi cử: Kết quả tốt.

Mất của: Tìm được.

Xuất hành: Biết chỗ tới của người bỏ nhà ra đi.

47 Tiểu Quá

Vận thế: Thất bại vì quá tự phụ. Phải lắng nghe ý kiến bề trên.

Hy vọng: Khó bề như ý.

Tài vận: Không có.

Sự nghiệp: Thất bại.

Nhậm chức: Không thành.

Chuyển nghề: Bất lợi.

Tình yêu: Đôi bên không hoà hợp, cuối cùng chia tay.

Hôn nhân: Không thành.

Đợi người: Không đến.

Đi xa: Bất lợi.

Kiện tụng: Bất lợi.

Sự việc: Tốn nhiều thời gian giao dịch.

Bệnh tật: Bệnh nặng.

Thi cử: Kết quả trá với dự kiến.

Mất của: Khó tìm.

Xuất hành: Người bỏ nhà đã đi xa, không biết ở đâu.

63 Ký Tế

Vận thế: Mọi việc thuận buồm xuôi gió, sau đó có xu hướng sa sút, khi ấy nên dừng lại.

Hy vọng: Ước mong nhỏ sẽ thành hiện thực.

Tài vận: Tạm đủ.

Sự nghiệp: Hiện thời tốt, sau đó suy vi.

Nhậm chức: Khó xong.

Chuyển nghề: Thoạt đầu bình thường, sau đó sẽ tốt.

Tình yêu: Sau một thời gian gắn bó, đến bước chia tay.

Hôn nhân: Bình thường, không thật tốt đẹp.

Đợi người: Chưa đến.

Đi xa: Nên thay đổi thời gian đi chơi xa.

Kiện tụng: Hoà giải là hơn.

Sự việc: Có thể giải quyết.

Bệnh tật: Châm thuyên giảm.

Thi cử: Bình thường.

Mất của: Khó tìm.

Xuất hành: Người bỏ đi chưa biết ở đâu.

36 Vi Tế

Vận thế: Hiện tại đang khó khăn, nhưng dần dần chuyển biến tốt. Cứ bình tĩnh hành sự.

Hy vọng: Sau một thời gian sẽ được như ý.

Tài vận: Chưa có.

Sự nghiệp: Còn nhiều khó khăn trở ngại.

Nhậm chức: Hiện tại còn khó thành.

Chuyển nghề: Chưa phải thời cơ.

Tình yêu: Đôi bên chưa hoà hợp, phải tốn thời gian, công sức.

Hôn nhân: Tốn thời gian mới có lương duyên.

Đợi người: Đến muộn.

Đi xa: Nên tạm hoãn.

Kiện tụng: Dây dưa, nên hoà giải.

Sự việc: Nhẫn nại mới có thể giải quyết.

Bệnh tật: Ngày một giảm dần, nhưng lâu.

Thi cử: Kết quả tạm được.

Mất của: Có thể tìm thấy.

Xuất hành: Người bỏ đi, sau một thời gian, có thể lần ra địa chỉ.

BIẾT TÍNH NGƯỜI

TÍNH CÁCH CỦA NGƯỜI TUỔI TÝ:

Người tuổi Tý rất bộc trực, thành thật nhưng mọi cử chỉ, lời nói của họ đều khiến ta có cảm giác đó là người cẩn thận chặt chẽ. Họ nỗ lực làm việc, sống tiết kiệm, họ không cho ai bất cứ thứ gì trừ phi đó là người họ rất quí mến. Giá như bạn có thể lấy được của người tuổi Tý một vật quí giá, thì sự đánh giá của họ với bạn ắt phải tương đương với giá trị của vật đó. Về bề ngoài, người tuổi Tý luôn lộ vẻ trầm mặc ít lời, nhưng sự thực lại trái ngược, họ rất dễ bị kích động, song họ lại khả năng tự chủ rất cao. Người tuổi Tý thường là người phóng khoáng, vui vẻ, thích và giỏi giao thiệp. Họ thích kết bạn, thích hội hè, thích những nơi đông vui náo nhiệt. Họ rất quí trọng những mối quan hệ của mình với người. Một ông chủ, lãnh đạo tuổi Tý luôn quan tâm đến nhân viên của mình, họ quan tâm xem nhân viên có làm việc hăng say không, quan tâm xem nhân viên có ăn uống và nghỉ ngơi hợp lý hay không. Khi nhân viên của họ ốm đau, bệnh tật, họ sẽ ân cần thăm hỏi. Nhưng khi nói đến chuyện tăng lương hoặc giờ nghỉ cho nhân viên hoặc người làm công, thì một ông chủ tuổi Tý sẽ khéo léo né tránh hoặc phớt lờ rồi quên luôn. Muốn ký kết hợp đồng với người tuổi Tý thì bạn sẽ phải bàn bạc, đàm phán nhiều lần mới có thể đi đến thoả thuận. Dưới quyền một ông chủ tuổi Tý, không nhân viên nào có thể trễ nải hoặc trốn việc được. Ông chủ tuổi Tý luôn năng động, luôn tìm ra được một việc làm vào bất kỳ lúc nào cho nhân viên. Một người nữ tuổi Tý luôn khiến bạn bè ngạc nhiên về tính chi ly, tiết kiêm, đôi lúc hà tiện của họ, nhưng nếu đó là vật thực sự cần thiết thì họ cũng không hề tiếc tiền để mua. Bản tính người nữ tuổi Tý là luôn giữ kín bí mật của mình, song họ lại là chuyên gia trong lĩnh vực tìm tòi bí mật của người khác. Họ có thể sử dụng những bí mật đó để đưa người khác vào chỗ chết. Tóm lại họ không hề bỏ qua bất kỳ cơ hội thăm dò tin tức nào dù là nhỏ nhất. Đối với mọi vấn đề họ luôn cố nắm bắt và hiểu biết khá sâu sắc, tinh tế. Vì người tuổi Tý là người rất chăm chỉ và tiết kiệm nên họ không ưa những kẻ lười biếng và hoang phí. Họ còn là người luôn ra sức kiềm chế không biểu lộ tình cảm ra ngoài, cho nên khi nào bạn thấy họ dễ nổi nóng hay vô lễ thì hẳn là lúc ấy họ đang rất buồn bực. Người tuổi Tý thích phê phán, châm biếm người khác, đôi lúc họ lại quá nhiều lời, khi mua bán họ là người hay “ cò kè bớt một thêm hai”. Người tuổi Tý có trí nhớ rất tốt, họ ghi nhớ từng con người, từng sự kiện xung quanh họ, họ thích đặt câu hỏi và tự trả lời cho câu hỏi đó, đây cũng là một thú vui trong cuộc sống của họ. Do đó, người tuổi Tý dễ trở thành một nhà văn, nhà báo giỏi. Người tuổi Tý làm bất kỳ nghề gì, việc gì cũng đều gặt hái được thành quả nhất định. Họ có khả năng khắc phục khó khăn, sáng tạo, tuỳ cơ ứng biến cao. Họ là người có trực giác bén nhạy, có tầm nhìn xa trông rộng, có năng khiếu kinh doanh buôn bán. Với người tuổi Tý, khó khăn khiến họ càng trưởng thành hơn. Trong bất kỳ tình huống nguy hiểm nào, người tuổi Tý cũng có một đường rút lui tối ưu. Họ là người thận trọng, thường chọn những phương án ít mạo hiểm nhất. Người tuổi Tý có một điểm yếu là quá tham công tiếc việc nên dễ dẫn tới tình trạng suy nhược về sức khoẻ. Tuy vậy họ lại là người có năng lực dự đoán nguy hiểm, nên họ sẽ biết dừng đúng lúc trước khi tình trạng tồi tệ nhất xảy ra. Người tuổi Tý là người luôn kính trên nhường dưới, họ luôn quan tâm, chăm sóc trẻ nhỏ, và luôn tin tưởng những người trên mình. Một người con tuổi Tý luôn đáp ứng những điều mong muốn và khoan dung những sai lầm của cha mẹ. Một người mẹ tuổi Tý rất nuông chiều con cái của mình. Một người vợ tuổi Tý luôn quan tâm giúp đỡ chồng trong mọi việc. Một người chồng tuổi Tý rất thích làm những việc giúp đỡ vợ, con trong gia đình. Người tuổi Tý dễ bị người tuổi Sửu hấp dẫn, họ thấy người tuổi Sửu là chỗ dựa đáng tin cậy của mình. Họ thấy người tuổi Thì là người hoà nhã, họ phát hiện người tuổi Tỵ còn đa nghi hơn chính họ và thấy người tuổi Tỵ có thể là người hợp tác tốt, người tuổi Tý luôn có xung đột với người tuổi Ngọ bởi người tuổi Ngọ luôn cô độc. Người tuổi Tý cũng không ưa người tuổi Dậu bởi tính thiếu thực tế.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI SỬU:

Người tuổi Sửu tượng trưng cho sự cần cù, phải luôn nỗ lực vượt bực mới gặt hái được thành công. Họ là người nhẫn nại, làm việc không biết mệt. Rất khó làm họ thay đổi quan điểm, ý kiến của mình, bởi họ là người rất cố chấp, bảo thủ. Người tuổi Sửu luôn bình ổn, thận trọng, họ thường được lãnh đạo tín nhiệm. Nhưng họ có điểm yếu là dễ ngủ quên trong chiến thắng. Tuy bề ngoài mềm mỏng, chất phác song họ là người rất cứng rắn và rất thông minh, nhanh nhẹn. Dù là người hướng nội nhưng khi cần thiết họ vẫn có thể trở thành một nhà hùng biện xuất sắc, trong lúc hỗn loạn, họ luôn bình tĩnh xử lý và lập lại trật tự. Người tuổi Sửu tôn trọng quan niệm truyền thống, kiên trì giữ một mẫu mực cố định nào đó nên người khác dễ dàng đoán được hành động của họ. Khi làm một việc gì, họ đều dựa vào ý chí và tinh thần xả thân để hoàn thành việc đó. Người tuổi Sửu là người trọng chữ tín và không thích bỏ dở việc gì nửa chừng. Vì người tuổi Sửu là người theo chủ nghĩa truyền thống nên quá trình tìm hiểu dẫn tới hôn nhân của họ chắc chắn sẽ rất dài. Quan hệ của họ, phải rất lâu sau người khác mới biết, và tới lúc ấy đôi bên mới có thể biểu hiện cảm tính chân thực của mình. Người tuổi Sửu nói được là làm được, họ không ưa việc nợ nần. Khi buộc phải thiếu nợ hay cho vay, họ luôn nhớ chính xác con số, thời hạn trả nợ và yêu cầu người khác cũng vậy. Trong gia đình họ là người gia trưởng, biết phải hạ lệnh thế nào và làm sao để khiến người khác phải tuân theo. Dù họ rất yêu mến và tự hào về gia đình mình, song họ lại có yêu cầu rất cao đối với các thành viên trong nhà. Người tuổi Sửu rất thực tế, không để tình cảm xen vào công việc, họ cũng là người năng khiếu chỉ huy, lãnh đạo, biết dùng kỷ luật để trói buộc người khác, thường có phong độ của một quân nhân nên họ không thích hợp với công tác ngoại giao hay những công việc có quan hệ tế nhị. Là người thẳng thắn, công bình, người tuổi Sửu không hề muốn dùng thủ đoạn để đạt mục đích. Một người chủ gia đình tuổi Sửu sẽ rất gia trưởng, võ đoán, họ đặt ra qui củ và không cho ai phản đối. Do bản tính nghiêm túc, họ sẽ dạy con cái đến nơi đến chốn và là một người cha gương mẫu không rượu chè, cờ bạc. Một người vợ tuổi Sửu sẽ luôn quan tâm chăm sóc từng miếng cơm manh áo cho chồng, đó là người vợ lý tưởng. Một người bạn tuổi Sửu luôn trung thành, hay giúp đỡ người khác. Người tuổi Sửu không ưa những nơi hội hè đình đám nên họ có khuynh hướng kết bạn với những người tuổi Tuất, Hợi. Tóm lại người tuổi Sửu luôn dựa vào ý chỉ và nỗ lực của bản thân để làm việc, họ là người có tính kỷ luật và nguyên tắc cao nên không thích lối sống thực dụng phóng túng.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI DẦN:

Người tuổi Dần tượng trưng cho sự quyền uy và tính liều lĩnh, thích mạo hiểm, họ luôn là trung tâm khiến mọi người phải chú ý. Họ thích làm những việc động trời để khiến mọi người phải chú ý tới. Người tuổi Dần có tính tập trung cao, khi họ đã làm việc gì thì họ quên hết mọi thứ xung quanh, và luôn đem hết cả sức lực và tinh thần ra mà hành sự. Người tuổi Dần tình cảm phong phú nên khi còn trẻ họ thường có lối sống khá lập dị, ưa thích hoạt động, ham bay nhảy, du lịch đó đây. Một người nữ tuổi Dần là người rất có duyên, họ hoạt bát linh lợi, có thiện ý, thanh lịch, cử chỉ và lời nói của họ đều được người khác yêu mến, tán thưởng. Người nữ tuổi Dần có năng lực biểu đạt cao, họ thích sáng tác, thích mặc đẹp. Khi một ai đó làm trái ý hay gây hại cho một người tuổi Dần thì người đó hãy cẩn thận, bởi người tuổi Dần có tính thù dai, lòng oán hận có thể khiến họ làm bất kỳ việc gì, dùng bất kỳ thủ đoạn nào để đạt mục đích. Cuộc đời người tuổi Dần khá thăng trầm khi lên voi lúc xuống chó, bởi lúc nào họ cũng cảm thấy bất mãn, không vừa ý với chính mình. Người tuổi Dần kết bạn với một người tuổi Hợi chắc chắn sẽ tốt, bởi người tuổi Hợi luôn điềm đạm từ tốn, họ sẽ bổ túc và kiềm chế bớt tính nóng nảy và đem lại sự quân bình an ổn cho người tuổi Dần. Người tuổi Dần sẽ cảm thấy tâm đầu ý hợp với người tuổi Tỵ bởi cả hai đều rất đa nghi, song người tuổi Tỵ lại ôn hoà và thận trọng trong khi người tuổi Dần nóng nảy và liều lĩnh. Đối nghịch với họ là người tuổi Thân, người tuổi Thân nhanh nhẹn, tháo vát, thông minh, lắm mưu kế khiến người tuổi Dần khó lường được hậu quả, nên họ thường phải nếm mùi đau khổ khi đối đầu với người tuổi Thân.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI MÃO:

Người tuổi Mão ôn hoà, mềm mỏng, chuộng hoà bình, cử chỉ và lời nói luôn nhã nhặn thanh lịch. Với bề ngoài hoà nhã, nên người ta dễ hiểu lầm về bản chất của người tuổi Mão, thực ra họ là người có ý chí kiên cường bất khuất, lòng tin kiên định bất di bất dịch. Người tuổi Mão đã theo đuổi điều gì thì theo đuổi tới cùng, họ có năng khiếu về khoa học xã hội và chính trị. Một phụ nữ tuổi Mão luôn hiền dịu, đảm đang, thông minh, thích giúp đỡ người khác mà không chút tư lợi. Họ luôn thông cảm được với nỗi đau khổ ấy. Người nữ tuổi Mão rất thích ăn diện, họ có thể ngồi hàng giờ để trang điểm. Người tuổi Mão nói chung không thích tranh đấu, họ ưa lối sống an nhàn, bình ổn, ít thăng trầm. Tuy họ đối xử khá tốt với bạn bè và đồng sự, nhưng họ lại giữ khoảng cách khác xa với người thân, đôi khi không thích có gia đình, không thích gánh vác trách nhiệm trong gia đình. Người đàn ông tuổi Mão rất ân cần, lịch sự, lời nói và cử chỉ luôn hoà nhã, người ta luôn khâm phục sự thông minh cơ trí và nghe theo lời khuyên bảo của người tuổi Mão. Vì rất tự tin nên họ luôn cho mình là đúng, đôi khi dẫn tới tình trạng chủ quan quá mức. Vì là người an phận, không thích mâu thuẫn, xung đột cho nên đôi lúc họ sẽ trở thành kẻ nhu nhược, cơ hội. Trong cuộc sống họ không có lý tưởng cao lắm, chỉ cần lúc nào mình cũng an toàn là được. Người tuổi Mão sẽ là một người bạn rất tốt nếu như bạn không quá xen vào chuyện riêng của họ. Họ không thích người tuổi Dần, bởi tính bạo động ưa tranh đấu, không ưa người tuổi Dậu bởi tính khoác lác, khoe khoang, không tán thưởng người tuổi Ngọ bởi tính hay thay đổi. Tóm lại, người tuổi Mão sẽ vượt qua mọi trở ngại trên đường đi để vươn tới đích. Họ là người không thích cuộc sống gia đình, nhưng khi cần họ vẫn có thể hoà nhập với mọi người. Trong cuộc sống họ luôn tìm mọi cách né tránh xung đột, mâu thuẫn, nhưng trong trường hợp bất đắc dĩ họ vẫn có biện pháp thích đáng để bảo vệ quyền lợi của mình. Người tuổi Mão cũng là người rất tự tin vào năng lực cùng trí tuệ của mình. Họ là người dễ dàng tìm được hạnh phúc và sự đầy đủ.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI THÌN:

Người tuổi Thìn nóng nảy, gấp gáp, cuồng nhiệt và luôn chứa đầy khát vọng cao xa. Họ rất thích làm những việc lớn, quan trọng, họ luôn coi mình là nhân vật trung tâm, dù họ có võ đoán, yêu cầu quá cao, nhưng vẫn có nhiều người tôn sùng họ. Tuy là người tự cao tự đại, song với người trên họ luôn hiếu thuận. Bất luận họ có xung đột gì với gia đình, chỉ cần gia đình cần có sự giúp đỡ thì họ sẽ giúp đỡ ngay, bởi người tuổi Thìn ít khi để tình cảm xen vào công việc. Họ rất thẳng thắn, luôn đi thẳng vào vấn đề mà chẳng cần rào trước đón sau, công khai biểu lộ quan điểm của mình, họ là người không bao giờ ân hận về những gì mình đã làm. Người nữ tuổi Thìn thích tranh đấu, thích tham gia hoạt động trong những lĩnh vực không hợp với nữ giới, họ luôn đòi quyền bình đẳng nam nữ. Người nữ tuổi Thìn ít khi xem trọng việc ăn mặc đẹp đẽ, họ không cần hình thức đẹp đẽ mà chỉ cần nội dung, tâm hồn phong phú. Tuy người tuổi Thìn võ đoán, nóng nảy, cứng rắn và có yêu cầu quá cao, nhưng họ lại rất độ lượng khoan dung, khi không vừa ý họ liền nói thẳng, chứ không để bụng hại ai cả. Người tuổi Thìn là con người của công việc, họ thích sống độc thân, không thích sự ràng buộc trong bất kỳ phương diện nào. Người tuổi Thìn rất tự tin, trong cuộc sống họ luôn tỏ ra là người có khả năng gánh vác những trách nhiệm to lớn. Người tuổi Thìn nếu quan hệ với người tuổi Thân, Tý thì họ sẽ là một liên minh thành công rực rỡ và bất khả chiến bại. Người tuổi Thìn kết hợp vớ người tuổi Tỵ sẽ rất có lợi bởi người tuổi Tỵ luôn làm việc bằng đầu óc, trí tuệ và giúp ích nhiều trong việc giúp người tuổi Thìn tu tâm.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI TỴ:

Người tuổi Tỵ có thể trở thành một nhà triết học hoặc thần học, hoặc một nhà chính trị lớn. Họ thường dựa vào trí tuệ và sự phán đoán chính xác của mình để hành sự, không chấp nhận bất kỳ lời khuyên của bất cứ ai khác. Người tuổi Tỵ là người rất đa nghi dù bề ngoài luôn tỏ vẻ tin tưởng tuyệt đối. Họ còn là người bất chấp thủ đoạn để đạt được mục đích. Người tuổi Tỵ vốn thông minh nên họ rút kinh nghiệm rất nhanh và không bao giờ bị thất bại đến lần thứ hai. Tuy vậy, họ lại là người cực đoan, điều gì họ đã cho là đúng thì họ sẽ không nhường một ai cả. Trong quan hệ xã hội, họ luôn biểu hiện ý muốn chiếm hữu và yêu cầu rất cao đối với người khác. Người tuổi Tỵ rất thích lối thể hiện ngược, đó là dù trong lòng cực kỳ giận dữ nhưng ngoài mặt lại rất thản nhiên, lạnh lùng. Họ thích biểu lộ sự bất mẵn bằng thái độ, cử chỉ lạnh nhạt hơn là dùng lời nói chua cay, họ sẽ âm thầm chờ đợi thời cơ để báo thù. Tóm lại, người tuổi Tỵ là người thông minh kiệt xuất, luôn thích lối thể hiện ngược với cảm xúc trong lòng, họ còn là người có ý chí kiên cường, tham vọng to lớn, một khi đã theo đuổi việc gì thì họ sẽ làm tới cùng và đôi khi bất chấp mọi thủ đoạn để đạt mục đích của mình. Người tuổi Tỵ có thể kết hợp với người tuổi Sửu mạnh mẽ, người tuổi Dậu can đảm hoặc người tuổi Thìn dũng mãnh. Họ cũng nên tránh xung đột với người tuổi Dần hoặc tuổi Ngọ. Người tuổi Thân thì nên quan hệ vừa phải, bởi người tuổi Thân chính là khắc tinh của người tuổi Tỵ. Với trí tuệ bẩm sinh và lý tưởng cao xa, người tuổi Tỵ có thể đạt được quyền lực tối cao.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI NGỌ:

Người tuổi Ngọ thích phóng khoáng, đầu óc nhanh nhẹn, dễ đam mê và cũng mau chán. Họ là người sớm rời xa gia đình. Họ là người có tinh thần độc lập cao nên sớm lập được sự nghiệp cho riêng mình. Họ có lòng tự tinh cao, đối nhân xử thế tốt. Người tuổi Ngọ thích cách hoạt động rèn luyện về trí tuệ và thể chất. Nhược điểm của người tuổi Ngọ là tính tình nóng nảy, gấp gáp, cố chấp, họ khó lòng nhận ra sai lầm và sửa chữa sai lầm đó trong thời gian ngắn. Người tuổi Ngọ luôn mưu cầu sự tự do và hạnh phúc trong cuộc sống và họ sẽ cố gắng hết sức mình để đạt được điều đó mà chẳng cần nhờ cậy vào ai, vào cái gì? Người tuổi Ngọ dễ đam mê và cũng mau chán, khi hành sự họ thường dựa vào trực giác bén nhạy của mình, nên đôi khi họ đi ngược với lẽ thường tình, người không hiểu thì nói rằng họ là người tiền hậu bất nhất. Người tuổi Ngọ rất khó thích ứng với thời gian biểu cố định, họ thiếu tính nhẫn nại khi phải theo một khuôn khổ nào đó, do vậy người tuổi Ngọ hợp với những công việc có tính năng động, bất thường. Trong những công việc khó khawc, họ luôn tìm ra phương cách tối ưu, đạt hiệu quả cao nhất. Người tuổi Ngọ giao thiệp rộng, nhiều bạn bè, song họ ít khi cần hoặc nhờ vào sự giúp đỡ của bạn bè. Người nữ tuổi Ngọ là người ham hoạt động và cùng một lúc thực hiện nhiều hoạt động khác nhau, họ là người lúc nào cũng bận rộn vì công việc. Tóm lại người tuổi Ngọ là người ưa thích sự đổi mới, ham hoạt động, thích độc lập, khó thích ứng với công việc có tính vô định và nhàm chán.

TÍNH CÁCH CỦA NGƯỜI TUỔI MÙI:

Người tuổi Mùi chính trực, hiền lành và dễ cảm thông được với nỗi khổ của người khác. Họ thường là những nhà nghệ thuật và làm những việc có tính sáng tạo. Là người vị tha, độ lượng nên họ dễ tha thứ cho sai lầm của người khác, hiểu và thông cảm cái lý của người khác. Họ không thích sự bó buộc, và cũng ít khi phê bình người khác. Người tuổi Mùi là người đa sầu đa cảm nên khi gặp phải khó khăn họ luôn bị quan và đau khổ. Họ sợ trách nhiệm nên ít khi dám quyết đoán một việc gì, hay trù trừ do dự nên có thể để vuột cơ hội, dịp may hơn. Người nữ tuổi Mùi thích ăn mặc đep, họ có thể tốn hàng giờ để trang điểm hoặc chọn lựa y phục. Họ là một người nội trợ đảm đang, khéo léo. Người tuổi Mùi có thể dùng sự thông minh khéo léo để bổ khuyết nhược điểm yếu đuối, nhu nhược của họ. Họ giỏi sử dụng những phương cách uyển chuyển kheó léo, chiến thuật mềm dẻo khiến người khác mềm lòng. Là người có bản chất lương thiện và luôn chia sẻ cảm thông với nỗi khổ của người khác nên người tuổi Mùi vẫn được mọi người yêu mến. Người tuổi Mùi không thích sự thay đổi và sự xung đột nên họ luôn né tránh những cuộc tranh luận, giữ quan hệ tốt với mọi người. Người tuổi Mùi khó thích ứng với công việc có tính trách nhiệm cao, hoặc việc cần có sự quyết đoán, giải quyết nhanh chóng. Tính cách của người tuổi Mùi hợp với tính thẳng thắn của người tuổi Hợi, và tính ôn hoà, nho nhã của người tuổi Mão. Họ khó chịu với tính cố chấp bảo thủ và quan niệm truyền thống của người tuổi Sửu, tính cặn kẽ, chi li của người tuổi Tý, tính cuồng nhiệt của người tuổi Dần, tính lạnh lùng của người tuổi Tỵ.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI THÂN:

Người tuổi Thân thông minh, nhanh nhẹn, tháo vát, hoạt bát, bất cứ hoạt động trong lĩnh vực nào họ cũng đều đạt được những thành quả to lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực phát minh, ngôn ngữ học. Và họ ít khi gặp đối thủ ngang sức ngang tài. Nhược điểm của người tuổi Thân là họ luôn cảm thấy mình tài giỏi, ưu việt hơn người nên đôi khi dẫn đến chủ quan thái quá và gặp phải thất bại cay đắng. Người tuổi Thân ưa tranh đấu nhưng họ lại giỏi che giấu suy nghĩ cùng kế hoạch hành động của mình, khiến đối phương thường bị bất ngờ. Người tuổi Thân đa tài đa nghệ, họ có thể làm được bất cứ ngành nghề gì như diễn viên, nhà văn, nhà ngoại giao, luật sự, vận động viên... Họ là những nhà hoạt động xã hội xuất sắc. Tính cách đặc trung của người tuổi Thân là tính kiên định, dù có phải đối mặt với tình thế khó khăn nguy hiểm tới đâu họ cũng không hề dao động và luôn giải quyết nhanh chóng và hợp lý. Người tuổi Thân luôn tìm những việc tốn ít sức lực, tiền của nhất mà lại thu lợi được nhiều nhất để làm, họ để lộ những ý kiến quá thông minh xuất sắc mà thiếu phần khéo léo khiến người ta nghi ngờ rằng họ có ý đồ vụ lợi. Đôi khi họ cũng thừa nhận điều này, nói chung họ là người sòng phẳng. Người tuổi Thân hợp với người tuổi Tý, Thìn. Người tuổi Tỵ lại không ưa họ bởi tính cách người tuổi Thân khá giống, người tuổi Dần cũng không thích người tuổi Thân, họ luôn xung đột nhau.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI DẬU:

Người tuổi Dậu bảo thủ, câu nệ, cố chấp. Họ có bề ngoài đẹp đẽ nên luôn cao ngạo về điều này. Ưu điểm của người tuổi Dậu là người tài giỏi, chịu khó, có năng lực tổ chức cao, thẳng thắn, trung thực, làm việc dứt khoát quyết đoán. Nhược điểm của người tuổi Dậu la ưa tranh luận mà bất chấp người khác có cảm giác thế nào. Họ luôn cho rằng mình đúng và không thừa nhận bất kỳ một khuyết điểm nào. Song dù như thế nào thì mọi người vẫn yêu mến họ bởi tính cần cù, chịu khó. Trong lĩnh vực kinh tế họ là nhà quản lý có tài, họ biết làm sao để cân đối các khoản thu chi một cách đúng đắn nhất. Người tuổi Dậu là người cầu toàn, luôn mưu cầu sự tân thiện tân mỹ. Họ khá nhạy cảm với các vấn đề có tính lý luận, khi xử lý, giải quyết một vấn đề nào đó họ luân hành động theo một khuôn khổ định sẵn. Cũng chính vì thế mà khi gặp bất kỳ một điều gì ngoài dự định họ đều lúng túng, thậm chí không thể xử lý được. Phụ nữ tuổi Dậu luôn là người thực tế, cần cù chăm chỉ, chịu khó và hay giúp đỡ mọi người, họ là người vợ đảm đang, người mẹ dịu hiền. Người tuổi Dậu thích được người ta khen ngợi, khoa trương. Khi bị một ai đó phê bình, họ sẽ dùng đủ mọi cách phản bác, không thừa nhận sai lầm của mình. Người tuổi Dậu hợp với người tuổi Tý, tuổi Sửu, xung khắc với người tuổi Mão, đối nghịch với người tuổi Tỵ.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI TUẤT:

Người tuổi Tuất là người thẳng thắn, trung thực công bằng hào hiệp, cần cù hiếu học. Khi có việc xung đột mâu thuẫn họ thường có thái độ muốn giải quyết vấn đề chứ không hận thù. Họ không phải là người theo chủ nghĩa thực dụng, vật chất, họ luôn dung hoà được hai sự việc sự vật mâu thuẫn, đối lập nhau, trong bất kỳ việc gì họ vẫn vừa có thể thực hiện lý tưởng vừa có thể thu hoạch lợi ích vật chất. Họ là người có tinh thần tập thể cao, luôn đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân. Họ cũng là người khá đa nghi nhưng họ sẽ không tuỳ ý phê phán mà không có căn cứ vững chắc. Người tuổi Tuất không chú trọng đến tiền bạc nhưng khi họ cần thiết không một ai có đủ năng lực kiếm tiền như họ. Người tuổi Tuất thoát ly gia đình rất sớm, họ dựa vào sự phấn đấu không ngừng và tài năng của chính mình để đạt được mục đích. Một khi họ đã quyết định thì khó có một ai, một thế lực nào có thể ảnh hưởng được tới họ. Phụ nữ tuổi Tuất có năng lực tư duy cao, thông minh hoạt bát. Họ ưa thích các hoạt động xã hội. Họ đối đãi nhiệt tình, luôn quan tâm đến người khác, hy sinh lợi ích của mình cho lợi ích chung. Người tuổi Tuất là người biết kiềm chế mình, điều này khiến họ luôn đạt được thành công trong các công việc như cố vấn, nhà tâm lý hoặc mục sư. Người tuổi Tuất luôn phát sinh mâu thuẫn với người tuổi Dậu và luôn đối đầu với người tuổi Thìn.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI HỢI:

Người tuổi Hợi không thích sự gò bó, câu thức; tính họ trầm ổn, cương nghị, lương thiện, chất phác; họ không nề hà, ngại khó và luôn dốc hết sức mình để hoàn thành công việc, do vậy họ luôn được mọi người tín nhiệm và giao phó cho những công việc quan trọng. Người tuổi Hợi là người an phận không thích tranh đấu, chỉ khi bị bức bách đến đường cùng, họ mới phản kháng. Họ luôn trân trọng tình bạn, trung thành với bạn dù có thể họ bị thiệt hại. Họ thích các cuộc vui, các buổi tiệc tùng náo nhiệt. Người tuổi Hợi khá chú trọng đến hình thức bên ngoài dù không lấy đó là mục đích chính. Một người bạn tuổi Hợi luôn muốn giúp đỡ tương trợ khi bạn gặp khó khăn, dù cho đó là sai lầm của bạn thì người tuổi Hợi vẫn không hề có ý trách cứ mà vẫn dốc sức giúp đỡ, và còn tìm thêm nhiều người khác giúp đỡ bạn thoát khỏi cảnh khó khăn. Phụ nữ tuổi Hợi là người dịu dàng, mềm mỏng, họ luôn sắp đặt nhà cửa gọn gàng, sạch sẽ. Tuy vậy họ là người có cá tính mạnh, luôn tôn trọng mình. Họ luôn giúp đỡ người khác mà không cần người trả ơn. Người tuổi Hợi cũng là người dễ tin vào lời nói và việc làm của người khác. Do vậy họ dễ bị kẻ xấu lừa gạt, lợi dụng. Trong thực tế, người tuổi Hợi là người theo chủ nghĩa vật chất, song họ luôn thích chia sẻ những gì mình có cho người khác. Bề ngoài tuy họ dễ bị lừa, nhưng trên thực tế họ lại thông minh hơn người ta tưởng. Họ luôn bảo vệ được lợi ích của mình mà không làm mếch lòng ai cả. Người tuổi Hợi có thể chung sống hoà mình và hạnh phúc với người tuổi Mão, tuổi Mùi, có thể hợp tác với người tuổi Tý, Sửu, Thìn, Ngọ, Tuất, và luôn thua kém, thất bại, chịu thiệt thòi trước người tuổi Tỵ, Dần, Thân.

BIẾT TÍNH NGƯỜI

TÍNH CÁCH CỦA NGƯỜI TUỔI TÝ:

Người tuổi Tý rất bộc trực, thành thật nhưng mọi cử chỉ, lời nói của họ đều khiến ta có cảm giác đó là người cẩn thận chặt chẽ. Họ nỗ lực làm việc, sống tiết kiệm, họ không cho ai bất cứ thứ gì trừ phi đó là người họ rất quí mến. Giá như bạn có thể lấy được của người tuổi Tý một vật quí giá, thì sự đánh giá của họ với bạn ắt phải tương đương với giá trị của vật đó. Về bề ngoài, người tuổi Tý luôn lộ vẻ trầm mặc ít lời, nhưng sự thực lại trái ngược, họ rất dễ bị kích động, song họ lại khả năng tự chủ rất cao. Người tuổi Tý thường là người phóng khoáng, vui vẻ, thích và giỏi giao thiệp. Họ thích kết bạn, thích hội hè, thích những nơi đông vui náo nhiệt. Họ rất quí trọng những mối quan hệ của mình với người. Một ông chủ, lãnh đạo tuổi Tý luôn quan tâm đến nhân viên của mình, họ quan tâm xem nhân viên có làm việc hăng say không, quan tâm xem nhân viên có ăn uống và nghỉ ngơi hợp lý hay không. Khi nhân viên của họ ốm đau, bệnh tật, họ sẽ ân cần thăm hỏi. Nhưng khi nói đến chuyện tăng lương hoặc giờ nghỉ cho nhân viên hoặc người làm công, thì một ông chủ tuổi Tý sẽ khéo léo né tránh hoặc phớt lờ rồi quên luôn. Muốn ký kết hợp đồng với người tuổi Tý thì bạn sẽ phải bàn bạc, đàm phán nhiều lần mới có thể đi đến thoả thuận. Dưới quyền một ông chủ tuổi Tý, không nhân viên nào có thể trễ nải hoặc trốn việc được. Ông chủ tuổi Tý luôn năng động, luôn tìm ra được một việc làm vào bất kỳ lúc nào cho nhân viên. Một người nữ tuổi Tý luôn khiến bạn bè ngạc nhiên về tính chi ly, tiết kiêm, đôi lúc hà tiện của họ, nhưng nếu đó là vật thực sự cần thiết thì họ cũng không hề tiếc tiền để mua. Bản tính người nữ tuổi Tý là luôn giữ kín bí mật của mình, song họ lại là chuyên gia trong lĩnh vực tìm tòi bí mật của người khác. Họ có thể sử dụng những bí mật đó để đưa người khác vào chỗ chết. Tóm lại họ không hề bỏ qua bất kỳ cơ hội thăm dò tin tức nào dù là nhỏ nhất. Đối với mọi vấn đề họ luôn cố nắm bắt và hiểu biết khá sâu sắc, tinh tế. Vì người tuổi Tý là người rất chăm chỉ và tiết kiệm nên họ không ưa những kẻ lười biếng và hoang phí. Họ còn là người luôn ra sức kiềm chế không biểu lộ tình cảm ra ngoài, cho nên khi nào bạn thấy họ dễ nổi nóng hay vô lễ thì hẳn là lúc ấy họ đang rất buồn bực. Người tuổi Tý thích phê phán, châm biếm người khác, đôi lúc họ lại quá nhiều lời, khi mua bán họ là người hay “ cò kè bớt một thêm hai”. Người tuổi Tý có trí nhớ rất tốt, họ ghi nhớ từng con người, từng sự kiện xung quanh họ, họ thích đặt câu hỏi và tự trả lời cho câu hỏi đó, đây cũng là một thú vui trong cuộc sống của họ. Do đó, người tuổi Tý dễ trở thành một nhà văn, nhà báo giỏi. Người tuổi Tý làm bất kỳ nghề gì, việc gì cũng đều gặt hái được thành quả nhất định. Họ có khả năng khắc phục khó khăn, sáng tạo, tuỳ cơ ứng biến cao. Họ là người có trực giác bén nhạy, có tầm nhìn xa trông rộng, có năng khiếu kinh doanh buôn bán. Với người tuổi Tý, khó khăn khiến họ càng trưởng thành hơn. Trong bất kỳ tình huống nguy hiểm nào, người tuổi Tý cũng có một đường rút lui tối ưu. Họ là người thận trọng, thường chọn những phương án ít mạo hiểm nhất. Người tuổi Tý có một điểm yếu là quá tham công tiếc việc nên dễ dẫn tới tình trạng suy nhược về sức khoẻ. Tuy vậy họ lại là người có năng lực dự đoán nguy hiểm, nên họ sẽ biết dừng đúng lúc trước khi tình trạng tồi tệ nhất xảy ra. Người tuổi Tý là người luôn kính trên nhường dưới, họ luôn quan tâm, chăm sóc trẻ nhỏ, và luôn tin tưởng những người trên mình. Một người con tuổi Tý luôn đáp ứng những điều mong muốn và khoan dung những sai lầm của cha mẹ. Một người mẹ tuổi Tý rất nuông chiều con cái của mình. Một người vợ tuổi Tý luôn quan tâm giúp đỡ chồng trong mọi việc. Một người chồng tuổi Tý rất thích làm những việc giúp đỡ vợ, con trong gia đình. Người tuổi Tý dễ bị người tuổi Sửu hấp dẫn, họ thấy người tuổi Sửu là chỗ dựa đáng tin cậy của mình. Họ thấy người tuổi Thì là người hoà nhã, họ phát hiện người tuổi Tỵ còn đa nghi hơn chính họ và thấy người tuổi Tỵ có thể là người hợp tác tốt, người tuổi Tý luôn có xung đột với người tuổi Ngọ bởi người tuổi Ngọ luôn cô độc. Người tuổi Tý cũng không ưa người tuổi Dậu bởi tính thiếu thực tế.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI SỬU:

Người tuổi Sửu tượng trưng cho sự cần cù, phải luôn nỗ lực vượt bực mới gặt hái được thành công. Họ là người nhẫn nại, làm việc không biết mệt. Rất khó làm họ thay đổi quan điểm, ý kiến của mình, bởi họ là người rất cố chấp, bảo thủ. Người tuổi Sửu luôn bình ổn, thận trọng, họ thường được lãnh đạo tín nhiệm. Nhưng họ có điểm yếu là dễ ngủ quên trong chiến thắng. Tuy bề ngoài mềm mỏng, chất phác song họ là người rất cứng rắn và rất thông minh, nhanh nhẹn. Dù là người hướng nội nhưng khi cần thiết họ vẫn có thể trở thành một nhà hùng biện xuất sắc, trong lúc hỗn loạn, họ luôn bình tĩnh xử lý và lập lại trật tự. Người tuổi Sửu tôn trọng quan niệm truyền thống, kiên trì giữ một mẫu mực cố định nào đó nên người khác dễ dàng đoán được hành động của họ. Khi làm một việc gì, họ đều dựa vào ý chí và tinh thần xả thân để hoàn thành việc đó. Người tuổi Sửu là người trọng chữ tín và không thích bỏ dở việc gì nửa chừng. Vì người tuổi Sửu là người theo chủ nghĩa truyền thống nên quá trình tìm hiểu dẫn tới hôn nhân của họ chắc chắn sẽ rất dài. Quan hệ của họ, phải rất lâu sau người khác mới biết, và tới lúc ấy đôi bên mới có thể biểu hiện cảm tính chân thực của mình. Người tuổi Sửu nói được là làm được, họ không ưa việc nợ nần. Khi buộc phải thiếu nợ hay cho vay, họ luôn nhớ chính xác con số, thời hạn trả nợ và yêu cầu người khác cũng vậy. Trong gia đình họ là người gia trưởng, biết phải hạ lệnh thế nào và làm sao để khiến người khác phải tuân theo. Dù họ rất yêu mến và tự hào về gia đình mình, song họ lại có yêu cầu rất cao đối với các thành viên trong nhà. Người tuổi Sửu rất thực tế, không để tình cảm xen vào công việc, họ cũng là người năng khiếu chỉ huy, lãnh đạo, biết dùng kỷ luật để trói buộc người khác, thường có phong độ của một quân nhân nên họ không thích hợp với công tác ngoại giao hay những công việc có quan hệ tế nhị. Là người thẳng thắn, công bình, người tuổi Sửu không hề muốn dùng thủ đoạn để đạt mục đích. Một người chủ gia đình tuổi Sửu sẽ rất gia trưởng, võ đoán, họ đặt ra qui củ và không cho ai phản đối. Do bản tính nghiêm túc, họ sẽ dạy con cái đến nơi đến chốn và là một người cha gương mẫu không rượu chè, cờ bạc. Một người vợ tuổi Sửu sẽ luôn quan tâm chăm sóc từng miếng cơm manh áo cho chồng, đó là người vợ lý tưởng. Một người bạn tuổi Sửu luôn trung thành, hay giúp đỡ người khác. Người tuổi Sửu không ưa những nơi hội hè đình đám nên họ có khuynh hướng kết bạn với những người tuổi Tuất, Hợi. Tóm lại người tuổi Sửu luôn dựa vào ý chỉ và nỗ lực của bản thân để làm việc, họ là người có tính kỷ luật và nguyên tắc cao nên không thích lối sống thực dụng phóng túng.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI DẦN:

Người tuổi Dần tượng trưng cho sự quyền uy và tính liều lĩnh, thích mạo hiểm, họ luôn là trung tâm khiến mọi người phải chú ý. Họ thích làm những việc động trời để khiến mọi người phải chú ý tới. Người tuổi Dần có tính tập trung cao, khi họ đã làm việc gì thì họ quên hết mọi thứ xung quanh, và luôn đem hết cả sức lực và tinh thần ra mà hành sự. Người tuổi Dần tình cảm phong phú nên khi còn trẻ họ thường có lối sống khá lập dị, ưa thích hoạt động, ham bay nhảy, du lịch đó đây. Một người nữ tuổi Dần là người rất có duyên, họ hoạt bát linh lợi, có thiện ý, thanh lịch, cử chỉ và lời nói của họ đều được người khác yêu mến, tán thưởng. Người nữ tuổi Dần có năng lực biểu đạt cao, họ thích sáng tác, thích mặc đẹp. Khi một ai đó làm trái ý hay gây hại cho một người tuổi Dần thì người đó hãy cẩn thận, bởi người tuổi Dần có tính thù dai, lòng oán hận có thể khiến họ làm bất kỳ việc gì, dùng bất kỳ thủ đoạn nào để đạt mục đích. Cuộc đời người tuổi Dần khá thăng trầm khi lên voi lúc xuống chó, bởi lúc nào họ cũng cảm thấy bất mãn, không vừa ý với chính mình. Người tuổi Dần kết bạn với một người tuổi Hợi chắc chắn sẽ tốt, bởi người tuổi Hợi luôn điềm đạm từ tốn, họ sẽ bổ túc và kiềm chế bớt tính nóng nảy và đem lại sự quân bình an ổn cho người tuổi Dần. Người tuổi Dần sẽ cảm thấy tâm đầu ý hợp với người tuổi Tỵ bởi cả hai đều rất đa nghi, song người tuổi Tỵ lại ôn hoà và thận trọng trong khi người tuổi Dần nóng nảy và liều lĩnh. Đối nghịch với họ là người tuổi Thân, người tuổi Thân nhanh nhẹn, tháo vát, thông minh, lắm mưu kế khiến người tuổi Dần khó lường được hậu quả, nên họ thường phải nếm mùi đau khổ khi đối đầu với người tuổi Thân.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI MÃO:

Người tuổi Mão ôn hoà, mềm mỏng, chuộng hoà bình, cử chỉ và lời nói luôn nhã nhặn thanh lịch. Với bề ngoài hoà nhã, nên người ta dễ hiểu lầm về bản chất của người tuổi Mão, thực ra họ là người có ý chí kiên cường bất khuất, lòng tin kiên định bất di bất dịch. Người tuổi Mão đã theo đuổi điều gì thì theo đuổi tới cùng, họ có năng khiếu về khoa học xã hội và chính trị. Một phụ nữ tuổi Mão luôn hiền dịu, đảm đang, thông minh, thích giúp đỡ người khác mà không chút tư lợi. Họ luôn thông cảm được với nỗi đau khổ ấy. Người nữ tuổi Mão rất thích ăn diện, họ có thể ngồi hàng giờ để trang điểm. Người tuổi Mão nói chung không thích tranh đấu, họ ưa lối sống an nhàn, bình ổn, ít thăng trầm. Tuy họ đối xử khá tốt với bạn bè và đồng sự, nhưng họ lại giữ khoảng cách khác xa với người thân, đôi khi không thích có gia đình, không thích gánh vác trách nhiệm trong gia đình. Người đàn ông tuổi Mão rất ân cần, lịch sự, lời nói và cử chỉ luôn hoà nhã, người ta luôn khâm phục sự thông minh cơ trí và nghe theo lời khuyên bảo của người tuổi Mão. Vì rất tự tin nên họ luôn cho mình là đúng, đôi khi dẫn tới tình trạng chủ quan quá mức. Vì là người an phận, không thích mâu thuẫn, xung đột cho nên đôi lúc họ sẽ trở thành kẻ nhu nhược, cơ hội. Trong cuộc sống họ không có lý tưởng cao lắm, chỉ cần lúc nào mình cũng an toàn là được. Người tuổi Mão sẽ là một người bạn rất tốt nếu như bạn không quá xen vào chuyện riêng của họ. Họ không thích người tuổi Dần, bởi tính bạo động ưa tranh đấu, không ưa người tuổi Dậu bởi tính khoác lác, khoe khoang, không tán thưởng người tuổi Ngọ bởi tính hay thay đổi. Tóm lại, người tuổi Mão sẽ vượt qua mọi trở ngại trên đường đi để vươn tới đích. Họ là người không thích cuộc sống gia đình, nhưng khi cần họ vẫn có thể hoà nhập với mọi người. Trong cuộc sống họ luôn tìm mọi cách né tránh xung đột, mâu thuẫn, nhưng trong trường hợp bất đắc dĩ họ vẫn có biện pháp thích đáng để bảo vệ quyền lợi của mình. Người tuổi Mão cũng là người rất tự tin vào năng lực cùng trí tuệ của mình. Họ là người dễ dàng tìm được hạnh phúc và sự đầy đủ.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI THÌN:

Người tuổi Thìn nóng nảy, gấp gáp, cuồng nhiệt và luôn chứa đầy khát vọng cao xa. Họ rất thích làm những việc lớn, quan trọng, họ luôn coi mình là nhân vật trung tâm, dù họ có võ đoán, yêu cầu quá cao, nhưng vẫn có nhiều người tôn sùng họ. Tuy là người tự cao tự đại, song với người trên họ luôn hiếu thuận. Bất luận họ có xung đột gì với gia đình, chỉ cần gia đình cần có sự giúp đỡ thì họ sẽ giúp đỡ ngay, bởi người tuổi Thìn ít khi để tình cảm xen vào công việc. Họ rất thẳng thắn, luôn đi thẳng vào vấn đề mà chẳng cần rào trước đón sau, công khai biểu lộ quan điểm của mình, họ là người không bao giờ ân hận về những gì mình đã làm. Người nữ tuổi Thìn thích tranh đấu, thích tham gia hoạt động trong những lĩnh vực không hợp với nữ giới, họ luôn đòi quyền bình đẳng nam nữ. Người nữ tuổi Thìn ít khi xem trọng việc ăn mặc đẹp đẽ, họ không cần hình thức đẹp đẽ mà chỉ cần nội dung, tâm hồn phong phú. Tuy người tuổi Thìn võ đoán, nóng nảy, cứng rắn và có yêu cầu quá cao, nhưng họ lại rất độ lượng khoan dung, khi không vừa ý họ liền nói thẳng, chứ không để bụng hại ai cả. Người tuổi Thìn là con người của công việc, họ thích sống độc thân, không thích sự ràng buộc trong bất kỳ phương diện nào. Người tuổi Thìn rất tự tin, trong cuộc sống họ luôn tỏ ra là người có khả năng gánh vác những trách nhiệm to lớn. Người tuổi Thìn nếu quan hệ với người tuổi Thân, Tý thì họ sẽ là một liên minh thành công rực rỡ và bất khả chiến bại. Người tuổi Thìn kết hợp vớ người tuổi Tỵ sẽ rất có lợi bởi người tuổi Tỵ luôn làm việc bằng đầu óc, trí tuệ và giúp ích nhiều trong việc giúp người tuổi Thìn tu tâm.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI TỴ:

Người tuổi Tỵ có thể trở thành một nhà triết học hoặc thần học, hoặc một nhà chính trị lớn. Họ thường dựa vào trí tuệ và sự phán đoán chính xác của mình để hành sự, không chấp nhận bất kỳ lời khuyên của bất cứ ai khác. Người tuổi Tỵ là người rất đa nghi dù bề ngoài luôn tỏ vẻ tin tưởng tuyệt đối. Họ còn là người bất chấp thủ đoạn để đạt được mục đích. Người tuổi Tỵ vốn thông minh nên họ rút kinh nghiệm rất nhanh và không bao giờ bị thất bại đến lần thứ hai. Tuy vậy, họ lại là người cực đoan, điều gì họ đã cho là đúng thì họ sẽ không nhường một ai cả. Trong quan hệ xã hội, họ luôn biểu hiện ý muốn chiếm hữu và yêu cầu rất cao đối với người khác. Người tuổi Tỵ rất thích lối thể hiện ngược, đó là dù trong lòng cực kỳ giận dữ nhưng ngoài mặt lại rất thản nhiên, lạnh lùng. Họ thích biểu lộ sự bất mẵn bằng thái độ, cử chỉ lạnh nhạt hơn là dùng lời nói chua cay, họ sẽ âm thầm chờ đợi thời cơ để báo thù. Tóm lại, người tuổi Tỵ là người thông minh kiệt xuất, luôn thích lối thể hiện ngược với cảm xúc trong lòng, họ còn là người có ý chí kiên cường, tham vọng to lớn, một khi đã theo đuổi việc gì thì họ sẽ làm tới cùng và đôi khi bất chấp mọi thủ đoạn để đạt mục đích của mình. Người tuổi Tỵ có thể kết hợp với người tuổi Sửu mạnh mẽ, người tuổi Dậu can đảm hoặc người tuổi Thìn dũng mãnh. Họ cũng nên tránh xung đột với người tuổi Dần hoặc tuổi Ngọ. Người tuổi Thân thì nên quan hệ vừa phải, bởi người tuổi Thân chính là khắc tinh của người tuổi Tỵ. Với trí tuệ bẩm sinh và lý tưởng cao xa, người tuổi Tỵ có thể đạt được quyền lực tối cao.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI NGỌ:

Người tuổi Ngọ thích phóng khoáng, đầu óc nhanh nhẹn, dễ đam mê và cũng mau chán. Họ là người sớm rời xa gia đình. Họ là người có tinh thần độc lập cao nên sớm lập được sự nghiệp cho riêng mình. Họ có lòng tự tinh cao, đối nhân xử thế tốt. Người tuổi Ngọ thích cách hoạt động rèn luyện về trí tuệ và thể chất. Nhược điểm của người tuổi Ngọ là tính tình nóng nảy, gấp gáp, cố chấp, họ khó lòng nhận ra sai lầm và sửa chữa sai lầm đó trong thời gian ngắn. Người tuổi Ngọ luôn mưu cầu sự tự do và hạnh phúc trong cuộc sống và họ sẽ cố gắng hết sức mình để đạt được điều đó mà chẳng cần nhờ cậy vào ai, vào cái gì? Người tuổi Ngọ dễ đam mê và cũng mau chán, khi hành sự họ thường dựa vào trực giác bén nhạy của mình, nên đôi khi họ đi ngược với lẽ thường tình, người không hiểu thì nói rằng họ là người tiền hậu bất nhất. Người tuổi Ngọ rất khó thích ứng với thời gian biểu cố định, họ thiếu tính nhẫn nại khi phải theo một khuôn khổ nào đó, do vậy người tuổi Ngọ hợp với những công việc có tính năng động, bất thường. Trong những công việc khó khawc, họ luôn tìm ra phương cách tối ưu, đạt hiệu quả cao nhất. Người tuổi Ngọ giao thiệp rộng, nhiều bạn bè, song họ ít khi cần hoặc nhờ vào sự giúp đỡ của bạn bè. Người nữ tuổi Ngọ là người ham hoạt động và cùng một lúc thực hiện nhiều hoạt động khác nhau, họ là người lúc nào cũng bận rộn vì công việc. Tóm lại người tuổi Ngọ là người ưa thích sự đổi mới, ham hoạt động, thích độc lập, khó thích ứng với công việc có tính vô định và nhàm chán.

TÍNH CÁCH CỦA NGƯỜI TUỔI MÙI:

Người tuổi Mùi chính trực, hiền lành và dễ cảm thông được với nỗi khổ của người khác. Họ thường là những nhà nghệ thuật và làm những việc có tính sáng tạo. Là người vị tha, độ lượng nên họ dễ tha thứ cho sai lầm của người khác, hiểu và thông cảm cái lý của người khác. Họ không thích sự bó buộc, và cũng ít khi phê bình người khác. Người tuổi Mùi là người đa sầu đa cảm nên khi gặp phải khó khăn họ luôn bị quan và đau khổ. Họ sợ trách nhiệm nên ít khi dám quyết đoán một việc gì, hay trù trừ do dự nên có thể để vuột cơ hội, dịp may hơn. Người nữ tuổi Mùi thích ăn mặc đep, họ có thể tốn hàng giờ để trang điểm hoặc chọn lựa y phục. Họ là một người nội trợ đảm đang, khéo léo. Người tuổi Mùi có thể dùng sự thông minh khéo léo để bổ khuyết nhược điểm yếu đuối, nhu nhược của họ. Họ giỏi sử dụng những phương cách uyển chuyển kheó léo, chiến thuật mềm dẻo khiến người khác mềm lòng. Là người có bản chất lương thiện và luôn chia sẻ cảm thông với nỗi khổ của người khác nên người tuổi Mùi vẫn được mọi người yêu mến. Người tuổi Mùi không thích sự thay đổi và sự xung đột nên họ luôn né tránh những cuộc tranh luận, giữ quan hệ tốt với mọi người. Người tuổi Mùi khó thích ứng với công việc có tính trách nhiệm cao, hoặc việc cần có sự quyết đoán, giải quyết nhanh chóng. Tính cách của người tuổi Mùi hợp với tính thẳng thắn của người tuổi Hợi, và tính ôn hoà, nho nhã của người tuổi Mão. Họ khó chịu với tính cố chấp bảo thủ và quan niệm truyền thống của người tuổi Sửu, tính cặn kẽ, chi li của người tuổi Tý, tính cuồng nhiệt của người tuổi Dần, tính lạnh lùng của người tuổi Tỵ.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI THÂN:

Người tuổi Thân thông minh, nhanh nhẹn, tháo vát, hoạt bát, bất cứ hoạt động trong lĩnh vực nào họ cũng đều đạt được những thành quả to lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực phát minh, ngôn ngữ học. Và họ ít khi gặp đối thủ ngang sức ngang tài. Nhược điểm của người tuổi Thân là họ luôn cảm thấy mình tài giỏi, ưu việt hơn người nên đôi khi dẫn đến chủ quan thái quá và gặp phải thất bại cay đắng. Người tuổi Thân ưa tranh đấu nhưng họ lại giỏi che giấu suy nghĩ cùng kế hoạch hành động của mình, khiến đối phương thường bị bất ngờ. Người tuổi Thân đa tài đa nghệ, họ có thể làm được bất cứ ngành nghề gì như diễn viên, nhà văn, nhà ngoại giao, luật sự, vận động viên... Họ là những nhà hoạt động xã hội xuất sắc. Tính cách đặc trung của người tuổi Thân là tính kiên định, dù có phải đối mặt với tình thế khó khăn nguy hiểm tới đâu họ cũng không hề dao động và luôn giải quyết nhanh chóng và hợp lý. Người tuổi Thân luôn tìm những việc tốn ít sức lực, tiền của nhất mà lại thu lợi được nhiều nhất để làm, họ để lộ những ý kiến quá thông minh xuất sắc mà thiếu phần khéo léo khiến người ta nghi ngờ rằng họ có ý đồ vụ lợi. Đôi khi họ cũng thừa nhận điều này, nói chung họ là người sòng phẳng. Người tuổi Thân hợp với người tuổi Tý, Thìn. Người tuổi Tỵ lại không ưa họ bởi tính cách người tuổi Thân khá giống, người tuổi Dần cũng không thích người tuổi Thân, họ luôn xung đột nhau.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI DẬU:

Người tuổi Dậu bảo thủ, câu nệ, cố chấp. Họ có bề ngoài đẹp đẽ nên luôn cao ngạo về điều này. Ưu điểm của người tuổi Dậu là người tài giỏi, chịu khó, có năng lực tổ chức cao, thẳng thắn, trung thực, làm việc dứt khoát quyết đoán. Nhược điểm của người tuổi Dậu la ưa tranh luận mà bất chấp người khác có cảm giác thế nào. Họ luôn cho rằng mình đúng và không thừa nhận bất kỳ một khuyết điểm nào. Song dù như thế nào thì mọi người vẫn yêu mến họ bởi tính cần cù, chịu khó. Trong lĩnh vực kinh tế họ là nhà quản lý có tài, họ biết làm sao để cân đối các khoản thu chi một cách đúng đắn nhất. Người tuổi Dậu là người cầu toàn, luôn mưu cầu sự tân thiện tân mỹ. Họ khá nhạy cảm với các vấn đề có tính lý luận, khi xử lý, giải quyết một vấn đề nào đó họ luân hành động theo một khuôn khổ định sẵn. Cũng chính vì thế mà khi gặp bất kỳ một điều gì ngoài dự định họ đều lúng túng, thậm chí không thể xử lý được. Phụ nữ tuổi Dậu luôn là người thực tế, cần cù chăm chỉ, chịu khó và hay giúp đỡ mọi người, họ là người vợ đảm đang, người mẹ dịu hiền. Người tuổi Dậu thích được người ta khen ngợi, khoa trương. Khi bị một ai đó phê bình, họ sẽ dùng đủ mọi cách phản bác, không thừa nhận sai lầm của mình. Người tuổi Dậu hợp với người tuổi Tý, tuổi Sửu, xung khắc với người tuổi Mão, đối nghịch với người tuổi Tỵ.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI TUẤT:

Người tuổi Tuất là người thẳng thắn, trung thực công bằng hào hiệp, cần cù hiếu học. Khi có việc xung đột mâu thuẫn họ thường có thái độ muốn giải quyết vấn đề chứ không hận thù. Họ không phải là người theo chủ nghĩa thực dụng, vật chất, họ luôn dung hoà được hai sự việc sự vật mâu thuẫn, đối lập nhau, trong bất kỳ việc gì họ vẫn vừa có thể thực hiện lý tưởng vừa có thể thu hoạch lợi ích vật chất. Họ là người có tinh thần tập thể cao, luôn đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân. Họ cũng là người khá đa nghi nhưng họ sẽ không tuỳ ý phê phán mà không có căn cứ vững chắc. Người tuổi Tuất không chú trọng đến tiền bạc nhưng khi họ cần thiết không một ai có đủ năng lực kiếm tiền như họ. Người tuổi Tuất thoát ly gia đình rất sớm, họ dựa vào sự phấn đấu không ngừng và tài năng của chính mình để đạt được mục đích. Một khi họ đã quyết định thì khó có một ai, một thế lực nào có thể ảnh hưởng được tới họ. Phụ nữ tuổi Tuất có năng lực tư duy cao, thông minh hoạt bát. Họ ưa thích các hoạt động xã hội. Họ đối đãi nhiệt tình, luôn quan tâm đến người khác, hy sinh lợi ích của mình cho lợi ích chung. Người tuổi Tuất là người biết kiềm chế mình, điều này khiến họ luôn đạt được thành công trong các công việc như cố vấn, nhà tâm lý hoặc mục sư. Người tuổi Tuất luôn phát sinh mâu thuẫn với người tuổi Dậu và luôn đối đầu với người tuổi Thìn.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI HỢI:

Người tuổi Hợi không thích sự gò bó, câu thức; tính họ trầm ổn, cương nghị, lương thiện, chất phác; họ không nề hà, ngại khó và luôn dốc hết sức mình để hoàn thành công việc, do vậy họ luôn được mọi người tín nhiệm và giao phó cho những công việc quan trọng. Người tuổi Hợi là người an phận không thích tranh đấu, chỉ khi bị bức bách đến đường cùng, họ mới phản kháng. Họ luôn trân trọng tình bạn, trung thành với bạn dù có thể họ bị thiệt hại. Họ thích các cuộc vui, các buổi tiệc tùng náo nhiệt. Người tuổi Hợi khá chú trọng đến hình thức bên ngoài dù không lấy đó là mục đích chính. Một người bạn tuổi Hợi luôn muốn giúp đỡ tương trợ khi bạn gặp khó khăn, dù cho đó là sai lầm của bạn thì người tuổi Hợi vẫn không hề có ý trách cứ mà vẫn dốc sức giúp đỡ, và còn tìm thêm nhiều người khác giúp đỡ bạn thoát khỏi cảnh khó khăn. Phụ nữ tuổi Hợi là người dịu dàng, mềm mỏng, họ luôn sắp đặt nhà cửa gọn gàng, sạch sẽ. Tuy vậy họ là người có cá tính mạnh, luôn tôn trọng mình. Họ luôn giúp đỡ người khác mà không cần người trả ơn. Người tuổi Hợi cũng là người dễ tin vào lời nói và việc làm của người khác. Do vậy họ dễ bị kẻ xấu lừa gạt, lợi dụng. Trong thực tế, người tuổi Hợi là người theo chủ nghĩa vật chất, song họ luôn thích chia sẻ những gì mình có cho người khác. Bề ngoài tuy họ dễ bị lừa, nhưng trên thực tế họ lại thông minh hơn người ta tưởng. Họ luôn bảo vệ được lợi ích của mình mà không làm mếch lòng ai cả. Người tuổi Hợi có thể chung sống hoà mình và hạnh phúc với người tuổi Mão, tuổi Mùi, có thể hợp tác với người tuổi Tý, Sửu, Thìn, Ngọ, Tuất, và luôn thua kém, thất bại, chịu thiệt thòi trước người tuổi Tỵ, Dần, Thân.

116

LUẬN NHÂN

BIẾT HỌ TÊN NGƯỜI

    Khổng tử nói “ Danh bất chính tắc ngôn bất thuận” ( Danh không chính thì lời nói chẳng thuận). Từ đó, ta có thể thấy họ tên đối với con người là rất quan trọng. Phàm một đứa trẻ mới sinh ra, điều mà người cha người mẹ quan tâm nhất chính là việc đặt một cái tên đẹp cho con mình, họ đặt cái tên đẹp cho con là mong muốn đứa trẻ sẽ có một cuộc đời bình an, tươi đẹp, phú quí vinh hoa. Nhưng những người cha người mẹ đầy ắp những mong muốn, hy vọng này lại rất ít người biết phải đặt cái tên nào cho con để lột tả hết mong muốn của mình. Họ tên chính là một dạng phù hiệu đại diện cho con người, vì vậy phù hiệu này có thể ảnh hưởng đến vận mệnh con người. Có những người nỗ lực phấn đấu rất nhiều mà chung cuộc chẳng thành đạt, hoặc có người đang sống hạnh phúc, mỹ nãn bỗng dưng gặp tai hoạ, thất bại, chết chóc. Tên họ những người này ắt bị khuyết hãm. Người đã có cái tên hung thì dù đang ở địa vị, nhân cách, học vấn thế nào ắt cũng gặp cản trở, khó khăn. Họ tên hung đến vận hung ắt sẽ gặp hoạ vậy. Nay có người hỏi rằng, nếu họ tên ảnh hưởng đến vận mệnh con người thì những người cùng họ tên chẳng lẽ cũng có vận mệnh giống nhau hay sao? Xin thưa rằng ngoài ảnh hưởng của họ tên ra còn có các yếu tố khác như tuổi tác, gia đình, quê quán... Song họ tên thì như tinh thần, còn các điều kiện kia thì như thân thể con người vậy. Tinh thần mạnh mẽ thì thân thể khoẻ mạnh, tinh thần suy nhược thì thân thể bệnh tật, yếu đuối, đương nhiên ta cũng phải hiểu rằng nếu không có thân thể thì cũng chẳng có tinh thần. Họ tên có tiềm lực đủ để chi phối vận mệnh con người, cho nên người có họ tên thuộc số dữ thì thường mang bệnh tật, yếu đuối, làm việc gì cũng thất bại, đời sống thăng trầm vất vả. Những người này hãy mau chóng lấy một cái tên thuộc số lành, tốt để tăng may giảm rủi, có thể gặp dữ hoá lành. Song tên vốn có tuy thuộc số dữ, mà tên thường dùng hoặc biệt hiệu thuộc số tốt lành, thì cũng có tác dụng giảm bớt rủi ro, tai hoạ. Do đó cũng không nhất thiết phải đổi họ tên vốn có của mình làm gì. Khảo sát các tên tuổi biệt hiệu thường dùng, đa phần đều do người ta thích sao đặt vậy mà không hề căn cứ vào Lý, Số của môn Tính Danh (họ tên) học. Có người lại hỏi rằng: nếu có người họ tên thuộc số chẳng lành, sau khi đổi tên thì sự nghiệp tăng tiến mạnh mẽ, vậy ta có thể lấy cái tên đã đổi mà làm tên của mình chăng? Xin thưa rằng: hoàn toàn không thể, nếu cách này dùng được thì từ xưa tới nay có rất nhiều lãnh tụ, thiên tài, nay ai ai cũng lấy đó làm tên mình, thì khắp thế giới này người người đều là lãnh tụ, là thiên tài hay sao? Người nghiên cứu môn Tính Danh học mà chỉ câu nệ vào một phương diện, không có sự tổng hợp, đối chiếu với nhiều yếu tố, dữ liệu khác nhau thì thực tai hại lắm thay!

PHƯƠNG THUẬT ĐẶT TÊN NGƯỜI

    A- Điều kiện và ý chính:

1. Họ là đại biểu của Tiên Thiên, tên là đại biểu của Hậu Thiên.

2. Trước tiên phải phân tích kỹ ý nghĩa của họ và tên xem có liên quan về Lý, Khí hay không. Sau đó mới tổng hợp ý nghĩa của họ và tên để xem chúng có quán thông hay không?

3. Nghiên cứu ý nghia của họ và tên xem chúng là tương sinh, tương khắc, bình hoà...

4. Đối chiếu họ tên với lành dữ của năm cách phối hợp của Âm Dương và năm, tháng, ngày, giờ sinh.

5. Nghiên cứu Số, Lý, nghĩa chữ, hình chữ và âm vận của họ tên.

6. Nghiên cứu sự phối hợp của Ngũ hành và sự xếp đặt của Tam Tài: Thiên, Địa, Nhân.

7. Phải phân tích theo lối chữ phồn thể (chữ Hán), chữ quốc ngữ Việt Nam có thể dùng số nét viết cũng được.

    B- Vài điểm cần lưu ý:

1. Không nên chọn những chữ thô tục. Nguyên danh (tên chính) và Nhũ danh (tên mụ) vốn khác nhau. Nhũ danh sử dụng khi còn nhỏ, thời gian sử dụng cũng ít, nên không cần lưu tâm quá nhiều. Nguyên danh thì phải dùng cả đời, nên cần thận trọng khi chọn chữ. Nừu chọn những chữ, tên quá thô thiển, dung tục dễ khiến người ta có ấn tượng không hay. Do đó nên thận trọng khi đặt tên cho trẻ, càng không thể dùng Nhũ danh để thay thế cho Nguyên danh.

2. Nên đặt tên theo đúng phong tục, tập quán của từng dân tộc, đất nước.

3. Không nên đặt tên, chọn chữ quá tối nghĩa, xa lạ, nên dùng những tên dễ đọc, viết, dễ nhớ, ý nghĩa rõ ràng, tốt đẹp.

CÁC VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN TỚI CÁCH CHỌN TÊN:

Họ tên được chia làm 5 cách, đó là: Thiên, Địa, Nhân, Tổng, Ngoại. Ngoài Thiên cách là bất di bất dịch ra, các cách còn lại nên chọn dùng số tốt lành, tốt đẹp. Thiên cách là vận thành công của Nhân cách. Nhân cách là nền tảng cơ bản của Địa cách, chúng nên tương sinh lẫn nhau.

    A- Phân loại năm cách:

Thiên thuộc Dương, Địa thuộc Âm, trời đất âm dương giao hoà sinh vạn vật, đây là Lý của trời đất, tạo hoá. Tên của con người không chỉ là ý nghĩa của người mà còn bao hàm cả Lý của trời đất tạo hoá, điều này giải thích nguyên nhân vì sao họ tên lại chia thành Thiên, Địa, Nhân. Vạn vật đã có trong ắt phải có ngoài, đã có chia rời ắt có tụ hợp, đây là cơ sở để định Tổng và Ngoại cách. Họ là Thiên cách, tên là Địa cách, chữ cuối cùng của họ, và chữ đầu tiên của tên là Nhân cách, tổng cộng các nét của cả họ lẫn tên là Tổng cách, lấy số nét Tổng cách trừ đi số nét của nhân cách thì được Ngoại cách. Tam Tài: Thiên, Địa, Nhân là nền tảng của 5 cách.

    B- Giải thích năm cách:

Thiên cách: Họ từ hai chữ trở lên (họ phức) thì tính cả số nét của họ và tên. Họ thường thì thêm một số giả vào để làm Thiên cách, cách này do người xưa truyền lại. Số lý của nó không ảnh hưởng trực tiếp, mà có thể xem nó như mối quan hệ giữa mình với cha mẹ và người trên, số lý của Thiên cách vốn không có tốt xấu vậy

Nhân cách: Còn gọi là “ Chủ Vận”, là trung tâm điểm của họ tên. Vận mệnh của cả đời người đều do Nhân cách chi phối, ảnh hưởng, đưa đẩy tới. Phép tính Nhân cách là lấy số nét chữ cuối cùng của họ cộng với số nét chữ đầu tiên của tên. Muốn dự đoán vận mệnh của người thì nên lưu tâm nhiều tới cách này thì từ từ coà thể phát hiện ra đặc điểm vận mệnh và có thể biết được tính cách, thể chất, năng lực của họ. Số lý của Nhân cách liên quan tới Thiên cách, Địa cách, biến hoá vô cùng, nên bất kỳ thế nào cũng nên chuyên tâm học hỏi, lý giải, tổng hợp các mối quan hệ này.

Địa cách: Còn gọi là “ Tiền Vận” (trước 30 tuổi), nó liên quan lớn tới vận mệnh, kết hợp cùng Thiên cách, Nhân cách ảnh hưởng tới đời người. Cách tính Địa cách là tính tổng số các nét của tên. Địa cách được xem như là mối quan hệ giữa mình với con cái, bạn bè và thuộc hạ.

Tổng cách: Còn gọi là “Hậu Vận” (sau 30 tuổi),nó liên quan tới chủ vận mệnh từ trung niên về sau. Cộng tất cả các nét của họ và tên lại thì được Tổng cách.

Ngoại cách: Còn được gọi là: “ Phó Vận”, lấy số nét của Tổng cách trừ đi số nét của Nhân cách thì có Ngoại cách. Cách này chỉ về mối quan hệ giữa mình với xã hội, còn có thể xem phúc đức dầy hay mỏng.

Lấy số nét đã hình thành từ 5 cách này đối chiếu với các vận 81 số thì có thể biết một cách khái quát cát hung, lành dữ, hay dở của nó. Năm cách này dùng lý luận tượng số của Kinh Dịch để phân tích, dựa vào số nét và qui tắc nhất định để thiết lập số lý, cùng mối quan hệ của 5 cách, và vận dụng đạo lý Âm Dương Ngũ hành sinh khắc để suy đoán các vận thế của con người. Nội dung của phép phân tích 5 cách này như sau:

+ Từ mối quan hệ số lý của Nhân cách và Ngoại cách, ta có thể đoán được tính cách và tình hình chung cả cuộc đời.

+ Từ số lý của Địa cách ta có thể đoán được quá trình thời thanh niên của con người ( Tiền Vận) cùng mối quan hệ của họ với con cái, thuộc hạ, bạn bè và đồng nghiệp.

+ Từ số lý của Tổng cách ta có thể biết được thời vận từ tuổi trung niên về sau ( Hậu Vận).

+ Từ mối quan hệ số lý của 3 cách Thiên, Địa, Nhân ta có thể đoán được tình trạng sức khoẻ và cuộc sống có thuận lợi hay không.

+ Từ mối quan hệ số lý của 2 cách Thiên và Nhân ta có thể xét được mức độ thành công trong sự nghiệp của con người.

+ Từ mối quan hệ số lý của 2 cách Địa và Nhân ta có thể đoán được vận cơ bản của người có vững chắc hay không.

+ Từ mối quan hệ số lý của Nhân cách và Ngoại cách ta còn có thể biết được tình hình giữa người với xã hội cùng phúc đức dày mỏng của họ.

    C- Các vận mà số lý biểu thị:

Số biểu thị may mắn: 1, 3, 5, 6, 7, 8,11, 13, 15, 16, 17, 21,24, 25, 31, 32, 33, 35, 37, 39, 41, 45, 47, 48, 52, 57, 61, 63, 65, 67, 81.

Số biểu thị rủi ro: 2, 4, 9, 10, 12, 14, 19, 20, 22, 26, 28, 30, 34, 40, 42, 43, 44, 46, 50, 53, 54, 55, 56, 58, 59, 60, 62, 64, 66, 69, 70, 72, 74, 75, 76, 77, 78, 79, 80.

Số biểu thị trung bình: 27, 29, 36, 38, 49, 51, 55, 58, 71, 73.

Số biểu thị Tiền Vận: 1, 3, 5, 6, 11, 13, 15, 16, 23, 24, 25, 31, 32, 33, 45, 52, 61, 63, 68.

Số biểu thị Hậu Vận: 7, 8, 17, 29, 37, 41, 48, 57, 58, 67, 68.

Số biểu thị tự động vận: 1, 13, 31, 37, 48, 52, 57, 67, 71.

Số biểu thị tha vận động: 3, 5, 6, 7, 8, 15,16, 24, 32, 35, 38, 41, 45, 47, 58, 68.

Số biểu thị vận làm quan: 16, 21, 33, 23, 39.

Số biểu thị vận tình yêu: 7, 17, 18, 27, 25, 37, 47.

Số biểu thị vận gặp nạn: 9, 10, 14, 19, 20, 22, 28, 30, 34, 44, 50, 54, 56, 58, 59, 60, 70.

Số biểu thị vận cô đơn: 4, 10, 12, 14, 22, 28, 34.

Số biểu thị vận khó khăn, gian khổ: 3, 4, 6, 8, 9, 10, 12, 14, 17, 18, 19, 20, 23.

Số biểu thị vận giàu có: 15, 16, 24, 32, 33, 41, 52.

Số biểu thị vận đào hoa: 4, 12, 14, 15, 16, 24, 26, 28, 35, 37, 45.

Sô biểu thị tính ôn hoà: 5, 6, 11, 15, 16, 31, 32, 35, 54.

Số biểu thị tính đam mê tửu sắc: 17, 23, 24, 27, 33, 37, 43, 52, 62.

Số biểu thị người goá chồng, quả phụ: 21, 23, 26, 28, 33, 39.

Số biểu thị người con gái hiền lành: 5, 6, 15, 16, 35.

Số biểu thị người 2 vợ: 5, 6, 15, 16, 32, 39, 41.

Số biểu thị hôn nhân muộn màng: 9, 10, 12, 17, 22, 28, 34, 35, 38, 40.

Số biểu thị người xinh đẹp: 15, 19, 21, 24, 28, 32, 33, 42, 4, 13, 14, 24, 31, 37, 41.

Số biểu thị vận phá sản: 2, 4, 9, 10, 12, 14, 19, 20, 22, 26, 30.

Số biểu thị vận thừa kế gia sản: 3, 5, 6, 11, 13, 15, 16, 21, 24, 32, 35.

Số biểu thị vận phá tán, hao tổn: 14, 20, 36, 40, 50, 80.

Số biểu thị vận có con: 11, 13, 39, 41.

Số biểu thị hiếm muộn con: 10, 34.

TỔNG HỢP PHÁN ĐOÁN BỐN ĐẠI VẬN:

Trước tiên nên phân tích kỹ đặc tính của năm cách cùng mối quan hệ phối hợp của chúng, sau đó hãy tổng hợp phán đoán thì mới có thể có được kết luận chính xác. Ví như bản thân Thiên cách tuy không ảnh hưởng lớn lắm tới vận mệnh, song nó vẫn có vai trò riêng cùng sự phối hợp với Nhân cách.

    A- Sự ảnh hưởng của chủ vận ( Nhân cách):

Nhân cách có ảnh hưởng lớn tới vận mệnh cả đời người. Trong 5 cách, nó đóng vai trò chính. Người có số lý biểu thị may mắn thì dễ có được giàu sang hạnh phúc, kẻ không may mắn gặp phải số lý biểu thị rủi ro, ắt gặp nhiều tai hoạ. Song mức độ may rủi, lành dữ của nó còn có quan hệ mật thiết với các cách khác. Phàm người có họ và tên đều có số lý biểu thị may mắn, nhưng Nhân cách của họ thuộc số lý biểu thị tai hoạ, rủi ro thì người ấy vẫn gặp hoạ như thường. Còn người có họ tên thuộc số lý biểu thị tai hoạ, nhưng Nhân cách lại là số lý biểu thị may mắn, phối hợp cùng Thiên cách, Địa cách tốt đẹp thì người đó vẫn gặp may mắn, sống hạnh phúc... Căn cứ vào thống kê, thì Nhân cách có số lý biểu thị may mắn bao gồm các số: 3, 5, 6, 11, 13, 15, 16, 21, 23, 24, 25, 31, 32, 37. Nhân cách có các số này thì ý chí kiên cường, có quyết tâm, dũng khí vượt mọi gian nan thử thách. Nhân cách có các số: 27, 28 thì chủ về tai hoạ, bệnh tật, vất vả, thường bị người khác phỉ báng... Nhân cách có các số: 2, 12, 14, 22 thì chủ tính tình nhu nhược, phúc mỏng, sự nghiệp tầm thường, khổ vì con cái. Cho nên, bất luận có họ tên thế nào, nếu Nhân cách thuộc số rủi ro, tai ách thì họ tên đó chẳng phải là tốt đẹp. Với các số 4, 9, 19, 20 có trong Nhân cách thì đó là điềm báo hung hoạ vô cùng, nếu không sớm đổi tên chỉ e khó tránh tai hoạ rủi ro, dẫn đến chết người nhà tan.

    B- Sự ảnh hưởng của phó vận ( Ngoại cách):

Phó vận phụ trợ cho chủ vận, nó cũng có một vai trò khá quan trọng trong việc ảnh hưởng tới vận mệnh của con người. Chủ vận tuy có số lý biểu thị may mắn, nhưng nếu phó vận gặp số lý hung thì cũng không được may mắn hoàn toàn, sẽ gặp bất trắc rủi ro tiêm ẩn trong may mắn. Nếu chủ vận và phó vận đều là số lành, cát, lại thêm Tổng cách và Địa cách không khuyết hãm thì mới là hạnh phúc, may mắn toàn vẹn. Nhân cách và Ngoại cách của họ tên tự như một hệ thống tổ chức trong và ngoài cơ thể con người, chúng có mối quan hệ rất mật thiết, vi diệu. Nếu Nhân cách thuộc số lý hung, thì người đó dễ bị bệnh tật về nội tạng hoặc bệnh về đường hô hấp. Nếu Ngoại cách thuộc số hung, thì dễ mắc bệnh ngoài da hoặc ngoại thương. Về gia đình thì chủ vận tượng trưng cho chủ nhà, phó vận thì cai quản vận mệnh của vợ con và thân quyến.

    C- Sự ảnh hưởng của tiền vận ( Địa cách):

Nhân cách và Ngoại cách có thể ví như quan hệ giữa trong và ngoài, còn Địa cách và Tổng cách thì lại như mối liên hệ trước sau vậy. Địa cách hay còn gọi là tiền vận, có ý nghĩa như một nền tảng cơ bản, vững chắc đối với Nhân cách. Tiền vận cai quản vận mệnh con người từ khi mới sinh ra cho đến năm 30 tuổi, nó cũng có vai trò khá lớn trong cuộc đời con người, song nó chỉ đặc biệt ảnh hưởng mạnh cho tới năm 30 tuổi và sau đó giảm dần tiềm lực. Cho nên tiền vận thuộc số cát thì thuở niên thiếu ắt được sung sướng và ngược lại. Nếu tiền vận tuy là số cát mà chủ vận, phó vận là số hung, thì vẫn khó đạt được thành công và hạnh phúc lâu bền. Sau khi đã biết tiền vận thế nào rồi, ta còn phải xem xét hậu vận có phối hợp thích đáng hay không thì mới có thể đoán định vận mệnh một cách chính xác.

    D- Sự ảnh hưởng của hậu vận ( Tổng cách):

Hậu vận được tính bằng cách lấy tất cả số nét viết của họ và tên cộng lại với nhau, nó cũng là Tổng cách trong 5 cách. Hậu vận cai quản vận mệnh từ sau năm 30 tuổi trở đi. Nếu chủ, phó vận đều là số hung, thì cả đời nhiều tai hoạ, gian nan, cực khổ, nhưng hậu vận có số cát thì lúc tuổi già cũng được hưởng vài phần hạnh phúc. Tóm lại, tiền vận ảnh hưởng mạnh tới con người từ khi sinh ra cho tới năm 30 tuổi, hậu vận thì chi phối vận mệnh sau năm 30 tuổi. Nhưng nếu có người sau năm 30 tuổi thay đổi họ tên, thì tiền vận của họ tên mới đổi cũng có ảnh hưởng tới hậu vận. Không chỉ riêng tiền vận, hậu vận mới có mối liên hệ như vừa nêu trên, mà tất cả 5 cách, 4 vận đề có mối tương quan tác động ảnh hưởng lẫn nhau, không thể tách rời.

    E- Phương pháp phân tích 5 cách và phán đoán Ngũ hành:

Chỉ cần chiếu theo các bước sau đây là ta có thể nhanh chóng hiểu và vận dụng thuần thục phương pháp phân tích năm cách.

Bước 1: Nên hiểu và ghi nhớ học thuyết Âm Dương Ngũ hành. Nội dung cơ bản của Âm Dương và Ngũ hành như sau:

- Kỳ là số thuộc Dương, Ngẫu là số thuộc Âm.

- Sự tương sinh tương khác của Ngũ hành dựa vào số lý để nhận biết các hành Thổ, Kim, Thuỷ, Mộc, Hoả.

Bước 2: Nên nắm vững cách tính chính xác số nét của họ và tên. Năm cách Thiên, Địa, Nhân, Ngoại, Tổng căn cứ vào số nét chữ viết ra mà lập nên quan hệ số lý, do đó việc tính số nét chính xác rất quan trọng. Chỉ cần tính sai một nét thì việc luận đoán sẽ không còn chính xác.

Bước 3: Xác định số lý của 5 cách:

Thiên cách: Chia làm 2 trường hợp:

- Họ kép ( từ hai chữ trở lên) như Âu Dương, Tư Mã, Trường Cốc Xuyên... thì cộng tất cả các nét lại với nhau để có số lý của Thiên cách.

- Họ đơn ( họ chỉ có một chữ) như Triệu, Chu, Lưu, Hoàng, Lý... thì đem tất cả các nét của chữ cộng thêm 1 để có số lý của Thiên cách.

Mối quan hệ giữa Thiên cách và Nhân cách biểu thị vận thành công, nên nó đóng vai trò khá quan trọng, chớ nên coi thường.

Nhân cách: Cộng số nét chữ cuối cùng của họ với số nét chữ đầu tiên để có số lý của Nhân cách. Nhân cách là trung tâm điểm, chi phối toàn bộ đời người của họ tên. Nhân cách biểu hiện các phương diện như tính cách, thể chất, năng lực, sức khoẻ, hôn nhân của con người.

Địa cách: Lấy tổng số nét của tên làm số lý của Địa cách, nếu không có tên đệm thì cộng số nét của tên với 1 để có số lý của Địa cách.

Tổng cách: Lấy tổng số nét của họ và tên làm số lý của Tổng cách (bất kể họ tên là đơn hay kép).

Ngoại cách: Lấy tổng số nét của họ và tên trừ đi số của Nhân cách thì có số của Ngoại cách.

Bước 4: Nhận biết Ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ từ số lý:

- Khi phân biệt thuộc tính của Ngũ hành, chỉ tính số từ 1 đến 10, nếu đó là số lớn hơn 10 thì lấy số đó trừ đi 10 và tính số dư còn lại ở hàng đơn vị, nếu không có số dư thì tính số đó là 10.

- Số lý của các hành như sau: 1 và 2 thuộc Mộc, 3 và 4 thuộc Hoả, 5 và 6 thuộc Thổ, 7 và 8 thuộc Kim, 9 và 10 thuộc Thuỷ với số lẻ là Dương, số chẵn là Âm. Ví dụ như 1 là Dương Mộc, 2 là Âm Mộc, 5 là Dương Thổ, 6 là Âm Thổ...

Bước 5: Tra bảng xem vận thế: 

Sau khi xác định xong năm cách và thuộc tính Ngũ hành thì có thể tra cứu các bảng, danh mục chỉ dẫn về số lý cát hung, vận thế lành dữ, may rủi, hay dở... Lần lượt theo thứ tự như sau:

a) Đối chiếu mục “ Số lý của Nhân cách biểu thị tính cách, phẩm chất của con người”.

b) Đối chiếu mục “ Mối quan hệ lành dữ của 3 cách Thiên, Địa, Nhân”. Xem xét tình trạng sức khoẻ và hôn nhân gia đình.

c) Đối chiếu mục “ Dự đoán năng lực xã giao”. Xem xét mối liên hệ sinh khắc cùng sự phối hợp về số lý của Nhân cách và Ngoại cách.

    F- Vì sao nên chọn tên?

Theo lý luận của môn Tính Danh học, họ tên không chỉ là phù hiệu đại biểu cho một con người, mà nó còn là những mong muốn, ước vọng của những người làm cha làm mẹ và của cả chính chúng ta nữa. Tục ngữ Trung Quốc có câu “ Cho con ngàn vàng chẳng bằng dạy con một nghề, dạy con một nghề chẳng bằng đặt cho con một cái tên tốt đẹp”. Như vậy có thể thấy rằng từ xưa tới nay việc chọn một cái tên cho con cái có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với người làm cha làm mẹ. Nhưng phải làm sao để chọn một cái tên tốt đẹp cho con cái, hậu duệ của chúng ta? Căn cứ vào kinh nghiệm của người xưa và qua thực tiễn xin đưa ra một vài ý kiến để chúng ta có thể tham khảo:

1. Bất kể là tên gì cũng nên tránh những cái tên có số lý biểu thị sự hung ác, rủi ro, bất hạnh.

2. Nên tham khảo thêm ( nếu được) về thuộc tính Ngũ hành của Can Chi năm, tháng, ngày, giờ sinh. Nếu có sự thiếu hụt ( như thiếu Kim, Thuỷ, Hoả...) thì khi chọn tên nên cố gắng chọn những số mà trong Tiên Thiên có sự thiếu hụt. Ví dụ trong Ngũ hành của Can Chi năm, tháng, ngày, giờ sinh thiếu Thuỷ, thì khi chọn tên nên chọn những số lý bao hàm có số lý của Thuỷ, chứ không nên thêm số lý của Thổ ( bởi Thổ khắc Thuỷ), nếu vẫn không tìm được số thích hợp thì nên chọn những số lý có hàm chứa số lý của Kim ( vì Kim sinh Thuỷ).

3. Nếu là tên con gái, nên tránh những số biểu thị sự cô độc như: 21, 23, 27, 29, 33, 39... Nếu trong Ngũ hành Tiên Thiên không thiếu hụt hành Kim thì tốt nhất đừng chọn những số thuộc hành Kim chỉ về tính cách ngang ngạnh, cứng rắn, thiếu ôn hoà, mềm dẻo, đặc biệt là trong Nhân cách và Địa cách có số này thì càng xấu.

4. Sự phối hợp Tam Tài Thiên, Địa, Nhân của họ tên cũng rất quan trọng. Nếu sau khi đặt tên, phân tích thấy các cách đều là số lành, nhưng phối hợp Tam Tài lại là số dữ, thì cũng ảnh hưởng đến vận mệnh cả đời người ( chủ yếu về mặt sức khoẻ, bệnh tật). Tóm lại, số lý, Ngũ hành của Tam Tài cần tương sinh, tránh tương khắc.

5. Khi đặt tên, nên chú ý đến cách tính các nét cho thực chính xác. Hay nhất là xem mục “ Họ của trăm nhà” và “ Những chữ thường dùng để đặt tên” nhằm tránh khỏi sai lầm đáng tiếc. Sau đây là một vài hạng mục của số cất hung, lành dữ, hay dở:

Số biểu thị đại cát ( hạnh phúc, giàu sang): 1, 3, 5, 8, 11, 13, 16, 21, 23, 24, 25, 29, 31, 33, 35, 37, 39, 41, 45, 48, 52, 57, 63, 65, 67, 68, 81.

Số biểu thị thứ cát ( nhiều ít vẫn gặp trở ngại, song vẫn thành công): 6, 8, 17, 18, 27, 30, 38, 51, 55, 61, 75.

Số biểu thị hung hoạ ( gặp nhiều nghịch cảnh khó khăn, tai họa thăng trầm, trôi nổi): 2, 4, 9, 10, 12, 14, 19, 20, 22, 26, 27, 28, 34, 36, 42, 44, 46, 49, 50, 53, 54, 56, 58, 59, 60, 62, 64, 66, 69, 70, 71, 72, 73, 74, 76, 78, 79, 80.

Số biểu thị cô độc ( muộn vợ chồng, gia đình bất hoà, vợ chồng xung khắc, đổ vỡ, ly tán): 21, 23, 26, 28, 29, 33, 39.

Số biểu thị đức hạnh ( phụ nữ có tính ôn hoà mềm dẻo, vượng phu ích tứ): 3, 5, 6, 11, 13, 15, 16, 24, 31, 32, 35.

Số biểu thị nhà cửa suy bại ( họ hàng thân thuộc đơn bạc, lạnh nhật): 2, 4, 9, 10, 12, 14, 19, 20, 22, 26, 38.

Số biểu thị người có tài lãnh đạo, trí dũng song toàn, nhân đức gồm đủ: 3, 13, 16, 21, 23, 31, 33, 41.

TÍNH DANH DỰ ĐOÁN HỌC:

1. Dự đoán tính cách theo họ tên:

Dự đoán tính cách theo họ tên là một trong những công dụng của phép phân tích 5 cách Thiên, Địa, Nhân, Ngoại, Tổng. Trong họ tên, Nhân cách biểu hiện tính cách của con người nên ta chỉ xét về Nhân cách mà thôi. Tục ngữ có câu: “Cha mẹ sinh con, trời sinh tính”, “trời” ở đây chúng ta có thể hiểu là các yếu tố thuộc về Ngũ hành vậy. Chúng có đặc điểm sau:

- Người thuộc Mộc: Chủ về Nhân, tính tình ngay thẳng, khiêm nhường.

- Người thuộc Hoả: Chủ về Lễ, tính tình gấp gáp, nóng nảy.

- Người thuộc Thổ: Chủ về Tín, tính tình nghiêm trang mà bình ổn.

- Người thuộc Kim: Chủ về Nghĩa, tính tình cứng rắn, hành sự quyết đoán.

- Người thuộc Thuỷ: Chủ về Trí, tính thông minh, hay xét đoán.

Số lý biểu hiện tính cách của Nhân cách như sau: Nhân cách chỉ tính các số từ 1 đến 10 ( nếu số nét hơn 10 thì lấy số đó 10 và chỉ dùng số dư ơ hàng đơn vị)

BẢNG 1: SỐ LÝ CỦA NHÂN CÁCH BIỂU THỊ TÍNH CÁCH PHẨM CHẤT CON NGƯỜI.

Nhân cách là số 1: thuộc Dương Mộc.

Người này tính tình an tịnh, giàu lý trí , ôn hậu, hoà nhã. Có tinh thần kiên cường bất khuất. Bề ngoài chậm chạp mà bên trong ẩn chứa năng lực hoạt động rất lớn. Sự thành công trong cuộc đời thuộc mô hình tiệm tiến, nhưng vững chắc, lâu bền.

Nhân cách là số 2: thuộc Âm Mộc.

Tính ẩn nhẫn, trầm lặng, ý chí mạnh, có nghị lực vượt khó khăn gian khổ. Bề ngoài ôn hoà, mà trong nóng nảy, có tính cố chấp, bảo thủ. Tính cao ngạo đa nghi, có lòng đố kỵ ghen ghét lớn.

Nhân cách là số 3: thuộc Dương Hoả.

Tính nóng, gấp; khí huyết thịnh vượng; chân tay linh hoạt, ham thích hoạt động. Thích quyền lợi danh tiếng, có mưu lược tài trí hơn người, song hẹp lượng, không khoan nhượng. Có thành công rực rỡ song khó bền.

Nhân cách là số 4: thuộc Âm Hoả.

Tính nóng ngầm chứa bên trong, bề ngoài bình thường lạnh lẽo, có nhiều nguyện vọng, ước muốn song không dám để lộ. Có tài ăn nói, người nham hiểm không lường. Sức khoẻ kém, hiếm muộn con cái, hôn nhân gia đình bất hạnh.

Nhân cách là số 5: thuộc Dương Thổ.

Tính tình thiện lương, giản dị dễ gần, ôn hoà trầm lặng, luôn hiểu biết và thông cảm với người khác, trọng danh dự, chữ tín. Lòng trượng nghĩa khinh tài, song không bao giờ để lộ. Tính xấu là hay lãnh đạm với mọi sự.

Nhân cách là số 6: thuộc Âm Thổ.

Ngoài mặt hiền hoà mà trong lòng nghiêm khắc giàu lòng hiệp nghĩa, người nhiều bệnh tật, sức khoẻ kém. Giỏi về các lĩnh vực chuyên môn, kiến thức chỉ có chiều sâu, không thích chiều rộng. Khuyết điểm là đa tình hiếu sắc, dễ đam mê.

Nhân cách là số 7: thuộc Dương Kim.

Ý chí kiên cường, tự ái mạnh, ưa tranh đấu, quả cảm quyết đoán, sống thiếu năng lực đồng hoá. Thích tranh cãi biện luận, dễ có khuynh hướng duy ý chí, có khí phách anh hùng, cuộc đời nhiều thăng trầm.

Nhân cách là số 8: thuộc Âm Kim.

Tính cứng rắn, ngang ngạnh, cố chấp, bảo thủ, sức chịu đựng cao, ưa tranh đấu, nếu tu tâm dưỡng tính tốt ắt thành người quang minh lỗi lạc. Cách này không hợp với phái nữ.

Nhân cách là số 9: thuộc Dương Thuỷ.

Ham thích hoạt động, xã giao rộng, tính hiếu động, thông minh, khôn khéo, chủ trương sống bằng lý trí. Người háo danh lợi, bôn ba đây đó, dễ bề thoa hoang đàng.

Nhân cách là số 10: thuộc Âm Thuỷ.

Tính thụ động, ưa tĩnh lặng, đơn độc, nhạy cảm, dễ bị kích động. Người sống thiên về cảm tính, có tham vọng lớn về tiền bạc, công danh.

2. Dự đoán sức khoẻ theo họ tên:

Mối quan hệ nội tại của sức khoẻ với số lý của họ tên chủ yếu thông qua sự biểu hiện tương sinh tương khắc của 3 cách Thiên, Địa, Nhân. Vì thế nếu số lý của họ tên không, sự phối hợp của Tam Tài không hay, thì sức khoẻ sẽ yếu kém, mắc nhiều bệnh tật, nặng hơn nữa thì tàn phế, yểu chiết. Vì sao số lý của tên họ lại ảnh hưởng đến sức khoẻ con người? Bởi vì trong số lý của họ tên đã tiềm ẩn Âm Dương, Ngũ hành, và từ Âm Dương Ngũ hành ta có thể tìm ra mối liên hệ giữa số lý của họ tên và tạng phủ của cơ thể con người. Theo lý luận của y học dân tộc Trung Quốc ( ta thường gọi là Đông Y) thì Ngũ tạng của con người là Tâm, Can, Tì, Phế, Thận hoà hợp với Ngũ hành là Hoả, Mộc, Thổ, Kim, Thuỷ. Chúng ta có được bảng liệt kê mối quan hệ giữa số lý họ tên và ngũ tạng của con người như sau:

    Số   Hành        Âm Dương      Ngũ tạng

     1.

     2.    Mộc      Dương Mộc

          Âm Mộc   Can ( gan)

     3.

     4.    Hoả       Dương Hoả

          Âm Hoả   Tâm ( tim)

     5.

     6.    Thổ        Dương Thổ

           Âm Thổ   Tì ( dạ dày)

     7.

     8.    Kim       Dương Kim

          Âm Kim    Phế ( phổi)

     9.

   10.   Thuỷ       Dương Thuỷ

          Âm Thuỷ       Thận

Bảng 2: Mối quan hệ lành dữ của Tam Tài ( phối hợp số lý của 3 cách Thiên, Địa, Nhân ảnh hưởng tới sức khoẻ con người)

Thiên cáchNhân cáchĐịa cáchCác loại bệnh

9 hoặc 10

5 hoặc 6

9 hoặc 10

3 hoặc 4

5 hoặc 6

3 hoặc 45 hoặc 6

9 hoặc 10

3 hoặc 4

9 hoặc 10

3 hoặc 4

5 hoặc 69 hoặc 10

5 hoặc 6

9 hoặc 10

3 hoặc 4

9 hoặc 10

9 hoặc 10Hở van tim, bệnh cấp tính, các loại tai hoạ bệnh tật liên quan đến thần kinh, thậm chí có thể dẫn tới tự sát.

7 hoặc 8

4 hoặc 5

7 hoặc 8

1 hoặc 23 hoặc 4

7 hoặc 8

2

67 hoặc 8

3 hoặc 4

7 hoặc 8

1 hoặc 2Suy nhược thần kinh, viêm phổi, hen, suyễn, thậm chí ho lao.

7 hoặc 8

7 hoặc 8

9 hoặc10

5 hoặc 6

3 hoặc 4

7 hoặc 85 hoặc 6

7 hoặc 8

9 hoặc 10

9 hoặc 10

7 hoặc 8

3 hoặc 49 hoặc 10

9 hoặc 10

3 hoặc 4

9 hoặc 10

9 hoặc 10

9 hoặc 10Hay gặp các tai nạn chân tay, dễ bị thương, bị các bệnh ngoài da.

3. Dự đoán quan hệ xã hội qua họ tên: Sử dụng bảng “ Dự đoán năng lực xã giao”, lấy mối quan hệ sinh khắc Ngũ hành và sự phối hợp về số lý của Nhân cách, Ngoại cách.

BẢNG 3: DỰ ĐOÁN NĂNG LỰC XÃ GIAO

Nhânh cách là số 1 ( Dương Mộc )

    Ngoại cách                                 Dự đoán

1. Dương Mộc.Tính cách ôn hoà, thẳng thắn, sống thiên về lý trí, đa mưu, ưa tĩnh lặng, ham tài lợi. Tính đa nghi, có năng lực xã giao. Cát.

2. Âm Mộc.Tính ẩn nhẫn, nói ít làm nhiều, ngoài mềm trong cứng. Tính đa nghi, hợp tác bất lợi. Cát.

3. Dương Hoả.Hay gặp người tốt giúp đỡ, quan hệ xã hội tốt, thích xã giao, được mọi người tôn trọng. Ham tài lợi, cần kiệm, tay trắng làm nên sự nghiệp.

4. Âm Hoả.Tính nhẫn nại, chu đáo, khảng khái, ưa cô độc nhưng khi cần vẫn có thể xã giao tốt.

5. Dương Thổ.Tính cố chấp, không thích giao tiếp, trọng chữ tín, có nhiều cơ hội thành công. Nhưng không nên coi thường người khác. Cát.

6. Âm Thổ.Trọng chữ tín nhưng khó tính, thâm trầm ít lời, không thích giao tiếp.

7. Dương Kim.Bề ngoài nhã nhặn, trong lòng cứng rắn, giàu lý trí, tính đa nghi, thíc giao tiếp. Bình hoà.

8. Âm Kim.Khiêm tốn, nhân hậu, giỏi giao tế, xã giao rộng lòng vị tha, tính độc lập, không thích hợp tác.

9. Dương Thuỷ.Giỏi giao tiếp, quan hệ rộng, được người tôn trọng, trọng nghĩa khinh tài. Đại cát.

10. Âm Thuỷ.Giàu lý trí, kiên cường bất khuất, có thực tài song không thích giao tế, ít bạn thân.

Nhân cách là số 2 ( Âm Mộc )

  Ngoại cách                                    Dự đoán

1. Dương Mộc.Người mưu lược, ngoài mềm trong cứng, nhân từ. Tam tài không tốt thì người tính quá cứng rắn cố chấp. Cát.

2. Âm Mộc.Giỏi chịu đựng, biết cách thay đổi căn cứ của bản thân, trong ôn hoà tiềm ẩn lòng đố kỵ, ham tài lợi, thích yên tĩnh, thành công nhưng không lớn.

3. Dương Hoả.Năng nổ, hoạt bát, đa nghi, khá thành công. Trung bình.

4. Âm Hoả.Có khả năng giao tế cao, được người trên giúp đỡ, tính khảng khái, có thể thành công rực rỡ. Cát.

5. Dương Thổ.Ngoài nhu hoà trong cương nghị, ham danh tiếng, tính hay thay đổi. Lòng đố kỵ cao, cuộc sống bình thường. Trung bình.

6. Âm Thổ.Khá bảo thủ, đa nghi, khinh thường người, nhưng có lòng hiệp nghĩa, nếu tu tâm dưỡng tính thì ít gặp hoạ. Hung.

7. Dương Kim.Ngoài ôn hoà, trong tức tối, lòng vị tha cao, thường bị người lợi dụng. Nếu Tam tài đều tốt thì ít gặp hoạ. Hung.

8. Âm Kim.Thâm trầm, hat gặp tai hoạ, không thích giao tế, khó thành công. Hung.

9. Dương Thuỷ.Giàu lòng nhẫn nại, duy ý chí, bất chấp thực tế, trọng chữ tín, có tinh thần trách nhiệm, thành công vừa. Trung bình.

10. Âm Thuỷ.Giàu lý trí, quá đa nghi, đa mưu túc trí, song dễ gặp hoạ về tiền bạc, khó thành công lớn. Hung.

Nhân cách là số 3 ( Dương Hoả )

    Ngoại cách                                Dự đoán

1. Dương Mộc.Nhạy cảm, giỏi giao tế, có khả năng cải tạo căn cơ, có năng lực, khá thành công. Trung bình.

2. Âm Mộc.Thích giao tiếp, khảng khái, ham hư danh, tính hoang phí, thành công nhỏ. Trung bình.

3. Dương Hoả.Nhạy cảm, đa tình, dễ nóng giận, tuy có khả năng giao tế, nhưng thiếu dứt khoát, ham danh lợi. Hung.

4. Âm Hoả.Bề ngoài trầm tĩnh mà trong nóng nảy, tính hiếu động, cuộc đời gian nan vất vả. Hung.

5. Dương Thổ.Lạc quan, chu đáo, thành thực. Trầm tĩnh, thành công. Cát.

6. Âm Thổ.Giàu lòng nghĩa hiệp, đa tình, thành thực song dễ bị hiểu lầm, khá thành công. Trung bình.

7. Dương Kim.Thích tranh luận, thường chiến thắng khiến người ganh ghét, ưa độc lập, không thích hợp tác. Trung bình.

8. Âm Kim.Háo hư danh, hay thay đổi, lãnh đạo, dễ bị kích động. Trung bình.

9. Dương Thuỷ.Đối xử chu đáo song không khéo, khiến người phiền lòng, không thành công lắm. Trung bình.

10. Âm Thuỷ.Tuy tốt bụng nhưng bị hiểu lầm, dễ bị hại, bị cướp bóc, làm cho người khác hưởng. Hung.

Nhân cách là số 4 ( Âm Hoả )

     Ngoại cách                                   Dự đoán

1. Dương Mộc.Có sức hấp dẫn, được người giúp đỡ, thành công rực rỡ, giàu có . Đại cát.

2. Âm Mộc.Nhiệt tình, tốt bụng, bề ngoài lạc quan mà trong bi quan. Tay trắng làm nên sự nghiệp. Cát.

3. Dương Hoả.Thông minh hoạt bát, đa lễ song lại thất tín, khó thành công. Hung.

4. Âm Hoả.Ngoài trầm tĩnh, trong nóng nảy, tốt bụng nhưng dễ bị kẻ xấu lợi dụng. Hung.

5. Dương Thổ.Thủ tín, cấp tiến, đa mưu nhưng tính dễ nóng giận, trọng quyền chức, háo danh. Trung bình.

6. Âm Thổ.Thành thực, khảng khái, tốt bụng nhưng dễ bị lợi dụng, hiểu lầm, khó thành công. Trung bình.

7. Dương Kim.Quá câu nệ, cố chấp, dễ bị người ganh ghét, hành sự thiếu suy tính, thành công ngắn ngủi. Hung.

8. Âm Kim.Cương trực, vị tha, thương hao tài tốn của, dễ bị hãm hại, khó thành công. Hung.

9. Dương Thuỷ.Khiêm tốn giản dị, tốt bụng nhưng thường bị kẻ xấu hãm hại, lợi dụng. Đại hung.

10. Âm Thuỷ.Khảng khái tốt bụng nhưng không khéo léo, khiến người hiểu lầm, làm cho người khác hưởng. Hung.

Nhân cách là số 5 ( Dương Thổ )

     Ngoại cách                                  Dự đoán

1. Dương Mộc.Nhiệt tình, thiếu quyết đoán, nói ít làm nhiều, ngũ hành của Thiên cách là Kim thì thành công lớn. Cát.

2. Âm Mộc.Thành thực, tốt bụng, hay giúp người, không ngại khó khăn, trầm mặc ít nói, sống khép kín. Trung bình.

3. Dương Hoả.Ôn hoà chu đáo, giỏi giao tế, thiếu tinh thần hy sinh. Nếu tu tâm dưỡng tính thì thành công rực rỡ. Đại cát.

4. Âm Hoả.Nhân nghĩa bác ái, được người kính trọng, dễ thành công. Cát.

5. Dương Thổ.Trung hậu, làm việc có hiệu quả, có chí lớn song hay bị chi phối, có thiên kiến. Nếu tu tâm thì thành công. Cát.

6. Âm Thổ.Rộng lượng, thiếu quyết đoán, dễ bỏ dở giữa chừng, nếu tu tâm dưỡng tính thì thành công. Trung bình.

7. Dương Kim.Độc lập, bảo thủ, có thực tài, có khả năng lãnh đạo, thành công lớn. Đại cát.

8. Âm Kim.Khảng khái, cương trực, ưa tranh đấu, giao tế rộng nhưng ít bạn thân. Khá thành công. Cát.

9. Dương Thuỷ.Làm việc nhanh chóng nhưng không chắc chắn, thiếu sáng suốt, không có tài ăn nói nên dễ bị hiểu lầm, khó thành công. Hung.

10. Âm Thuỷ.Cô độc, lời nói sỗ sàng, dễ bị người khinh thường, không có cơ hội thành công. Hung.

Nhân cách là số 6 ( Âm Thổ )

      Ngoại cách                                 Dự đoán

1. Dương Mộc.Sức chịu đựng cao, quá đa nghi, nếu chịu khó rèn luyện thì khá thành công. Trung bình.

2. Âm Mộc.Ôn hoà, tốt bụng, nhưng thường bị hiểu lầm, khinh thường, làm cho người hưởng. Hung.

3. Dương Hoả.Khảng khái, hào phóng, trí dũng song toàn, dễ đạt được thành công, được mọi người trọng vọng. Cát.

4. Âm Hoả.Khảng khái tốt bụng, thích giúp kẻ yếu, được trọng vọng, khá thành công. Cát.

5. Dương Thổ.Trung hậu thành thực, lời nói và việc làm luôn được cân nhắc thận trọng, bảo thủ, thiếu quyết đoán, khá thành công. Cát.

6. Âm Thổ.Hào hiệp, vị tha, nhưng rất bảo thủ, thiếu lượng bao dung, khó thành công. Trung bình.

7. Dương Kim.Luôn giúp kẻ yếu, có lòng vị tha nhưng thiếu chí tiến thủ thích bôn ba đây đó. Trung bình.

8. Âm Kim.Ôn hoà nhưng dũng cảm, giỏi chịu đựng, đa mưu túc trí, ứng biến tông quyền, thành công. Cát

9. Dương Thuỷ.Cương trực, trầm tĩnh song có tính đố kỵ, ganh ghét quá đa nghi, thâm hiểm, dễ thành công nhưng khó bền. Hung.

10. Âm Thuỷ.Tự tin, không thích phê bình, dễ bực tức nóng nảy, làm cho người hưởng. Hung.

Nhân cách là số 7 ( Dương Kim )

      Ngoại cách                                    Dự đoán

1. Dương MộcCó thực tài, nhưng tính gấp gáp, dễ bị người ganh ghét, dễ bực bội trước việc không đâu, vì nóng nảy mà có hành vi thô bạo. Hung.

2. Âm Mộc.Khảng khái hào hiệp, nhưng dễ bị kích động, làm cho người khác hưởng lại còn bị chê cười. Hung.

3. Dương Hoả.Có chí tiến thủ, tính cố chấp; có lòng hào hiệp, song tự cao tự đại, dễ chuốc thất bại. Hung.

4. Âm Hoả.Tính bảo thủ, nhưng lòng thiện lương, có lòng vị tha, song thường bị lấy oán trả ân. Hung.

5. Dương Thổ.Có năng lực xã giao, tài trí hơn người, thành thực, làm việc có trách nhiệm, không cẩu thả, óc phán đoán cao. Cát.

6. Âm Thổ.Ôn hoà mà có chí lớn, sức chịu đựng cao, trọng nghĩa, tính trầm tĩnh, chất phác, có thể thành công. Cát.

7. Dương Kim.Có chí lớn, nghị lực phấn đấu cao, ngoài mềm dẻo mỏng mà trong cứng rắn, không ngại đấu tranh. Cát.

8. Âm Kim.Lòng hào hiệp, có thể lập nghiệp lớn nếu luôn chú ý tu tâm dưỡng tính. Cát.

9. Dương Thuỷ.Tài trí hơn người, có thần uy, tính thanh cao, có thể thành đạt trong cuộc sống. Cát.

10. Âm Thuỷ.Có tài, giỏi ăn nói nhưng thiếu chí tiến thủ, dễ mất cơ hội. Hung.

Nhân cách là số 8 ( Âm Kim )

       Ngoại cách                                    Dự đoán

1. Dương Mộc.Tính cương cường, cố chấp nên dễ gặp thất bại, nếu tu luyện tâm tính, nỗ lực phấn đấu thì có thể thành đạt. Trung bình.

2. Âm Mộc.Hành sự thiếu tính toán, dễ chuốc hoạ vào thân. Nếu suy nghĩ trước khi làm thì có thể hoà giải tai hoạ. Hung.

3. Dương Hoả.Nhiệt tình, dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài, song không khéo léo, nên dễ bị hiểu lầm, chuốc lấy thất bại. Hung.

4. Âm Hoả.Kiên nhẫn, có chí làm việc lớn, sáng sốt, tuy gặp nhiều khó khăn song vẫn thành công. Cát.

5. Dương Thổ.Kiên cường bất khuất, dám làm dám chịu, xử sự trước sau như một, thành công rực rỡ. Đại cát.

6. Âm Thổ.Nhân từ, hào hiệp, làm nhiều hơn nói, có nghị lực song thiếu quyết đoán. Có thể thành công. Cát.

7. Dương Kim.Trọng tình nghĩa, tinh thần phấn đấu mạnh, thích tranh đấu, có thể thành công. Cát

8. Âm Kim.Kiên nhẫn, biết kiềm chế bản thân, có thể thành công. Cát.

9. Dương Thuỷ.Thông minh tài trí, có óc phán doán cao, thích giúp đỡ kẻ yếu, được người tôn trọng. Cát.

10. Âm Thuỷ.Trọng nghĩa khinh tài, cương nghị quyết đoán, xả thân vì người, dễ bị kẻ xấu lợi dụng. Hung.

Nhân cách là số 9 ( Dương Thuỷ )

       Ngoại cách                                     Dự đoán

1. Dương Mộc.Ôn hậu, có tài, có năng khiếu trong lĩnh vực kỹ nghệ, nếu nỗ lực phấn đấu thì ắt thành công lớn, có tài giao tiếp. Đại cát.

2. Âm Mộc.Túc trí đa mưu, giao tiếp rộng, thành thực, có chí vượt khó, thích giúp đỡ người. Thành công. Cát.

3. Dương Hoả.Tài trí hơn người, tự tin cao độ, cố chấp, hay thay đổi, khá thành công. Trung bình.

4. Âm Hoả.Có năng lực, óc phán đoán cao, nhưng quá hiếu thắng. Có lòng khoan dung độ lượng, giúp đỡ kẻ yếu. Trung bình.

5. Dương Thổ.Có chí tiến thủ, nhưng luôn gặp trở ngại, nếu cố gắng phấn đấu thì vẫn thành công. Trung bình.

6. Âm Thổ.Có năng lực hoạt động, thẳng thắn, sơ tài trọng nghĩa, dễ bị người lợi dụng, hãm hại. Trung bình.

7. Dương Kim.Có tài ăn nói, thông minh, giỏi biện luận, không cam chịu thua kém, thành công rực rỡ. Đại cát.

8. Âm Kim.Có trí tuệ và lòng độ lượng, mềm mỏng mà vẫn có uy, thiếu dũng khí nên chấp nhận thua thiệt, khá thành công. Cát.

9. Dương Thuỷ.Đa mưu túc trí, có tài ăn nói, tính hướng nội. Nếu cố gắng tu dưỡng thì có thể thành công. Trung bình.

10. Âm Thuỷ.Thông minh hơn người, có chí làm việc lớn, không ngại khó khăn, xử thế mềm dẻo, được lòng người. Cát.

Nhân cách là số 10 ( Âm Thuỷ )

       Ngoại cách                                     Dự đoán

1. Dương Mộc.Tài trí hơn người, suy tính kỹ mới làm việc, nhưng có chút cố chấp, cứng rắn, khá thành công. Cát.

2. Âm Mộc.Hữu dũng vô mưu, dễ đam mưu, nên biết tu tâm dưỡng tính thì có thể thành đạt. Trung bình.

3. Dương Hoả.Thông minh, dễ gặp nguy hiểm, có lòng tự tin, không thích bị sai khiến, dễ bị ganh ghét. Hung.

4. Âm Hoả.Lưu lạc cùng khổ. Nếu làm việc không nỗ lực, chịu đựng khó khăn gian khổ thì chẳng những thất bại mà còn chuốc hoạ vào thân. Hung.

5. Dương Thổ.Tính ẩn nhẫn, đa nghi. Nếu tu tâm dưỡng tính thì vẫn có thể thành đạt. Trung bình.

6. Âm Thổ.Tuy thông minh nhưng thiếu quyết đoán, trọng nghĩa khinh tài, không giỏi ứng biến, dễ bị khích động, làm cho người hưởng. Hung.

7. Dương Kim.Có tài trí hơn người, giao tế rộng, hiếu thắng, nếu hành sự thận trọng, công bình thì mới có thể thành công.

8. Âm Kim.Ôn hậu, có chí lớn, nhưng dễ hành sự theo cảm tính, cần tu dưỡng, nỗ lực phấn đấu. Trung bình.

9. Dương Thuỷ.Trí dũng song toàn, dễ thành công nhưng không rực rỡ. Trung bình.

10. Âm Thuỷ.Có tài biện luận, khảng khái hào hiệp, cứu khốn phò nguy nhưng dễ bị kẻ xấu lợi dụng, hãm hại. Hung.

4. Sự ảnh hưởng đến vận thế của số lý:

Nguồn gốc của vạn vật là số, vũ trụ cũng là số. Số bắt đầu từ 1, kết thúc ở 10, kết thúc rồi lại bắt đầu luân chuyển mãi không ngừng mà không loạn thứ tự, đây cũng là chân lý vận động của vũ trụ. Số 10 còn được gọi là “ doanh số”, tương đồng với số 0, trong triết học tức là thời gian. Với thời gian đó thì có không gian đó, đó cũng là giới tự nhiên. Vạn vật trong trời đất đều vận động theo sự sinh thành hoá diệt của giới tự nhiên, đều là cơ sở phát động của sinh thần hoá diệt, tức là sự ly hợp tụ tán của các số từ 1 đến 9. Do đó 81 là bội số của 9, là số của lý, chứ không phải số của số mục. Cũng vì thế các số có hàm chứa lực tự nhiên của vũ lực. Lực tự nhiên này cũng có cát hung, tốt xấu như trời đất có Âm Dương, vật có cứng mềm, trong ngoài. Do vậy những văn tự tổ hộp thành tên, đều có nét chữ, mà số nét chính là lực tự nhiên hàm chứa vậy. Nó có thể sinh cát hung mà chi phối đời người. Mà họ tên có 81 số là lực hàm chứa, cũng chính là các số lý của Ngũ cách, chúng tác động hoà hợp, tương khắc lẫn nhau mà sinh biến hoá. Nhưng chẳng thể phán đoán chỉ từ một hay hai cách. Mà cần phải khảo sát số lý của các cách cùng toàn bộ các số mới có thể dự đoán. Số lý từ 1 đến 81 thích ứng với bất kỳ cách nào trong Ngũ cách, nhưng cần phải tổng hợp, kiểm tra các số lý của Nhân, Địa, Tổng cách là chính, đồng thời còn phải phối hợp tra bảng “ Quan hệ cát hung của Tam tài”

BẢNG 4: SỰ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VẬN THẾ CỦA SỐ LÝ

Các số có hình # là số lý biểu thị vận thế hung dữ

1. Vũ Trụ Khởi Nguyên: Số biểu thị Thái cực

- Tính cách, sự nghiệp: Thông minh, hiếu học, thành công lớn, giàu sang.

- Gia đình: Nhà cao cửa rộng, cha mẹ sống lâu, con cái hiếu thuận.

- Sức khoẻ: Khoẻ mạnh, sống lâu.

- Hàm ý: Số này là số cơ bản của vạn vật, biểu thị điều rất tốt đẹp, thuộc về số lý biểu thị thành công rực rỡ, sống lâu, giàu sang, hạnh phúc. Được hưởng sung sướng cả đời. Chỉ hiềm số lý quá tốt mà người thường chẳng được hưởng.

# 2. Nhất Thân Cô Tiết: Số biểu thị phân ly, cô độc.

- Cơ nghiệp: Nghèo khốn, lưu lạc, tai hoạ cướp bóc.

- Gia đình: Họ hàng xa cách, vợ chồng ly biệt.

- Sức khoẻ: Bệnh tật, khó sống lâu, hay bị bệnh ngoài da, ngoại thương.

- Hàm ý: Số này chỉ sự hỗn độn chưa thành hình, hàm chứa sự hung ác cùng cực, không có khí lực độc lập, tiến thoái mất tự do, trong ngoài đối nghịch, thường khổ vì bất an. Dao động, bệnh hoạn, tai hoạ, thậm chí bị tàn phế. Nếu các cách khác là số lý biểu thị tốt lành thì không bị yểu chiết. Song vẫn vất vả cơ cực cả đời, khó đạt ước nguyện, sống trả nợ đời, nghiệp chướng đầy rẫy.

3. Cát Tường: Số biểu thị thành đạt như ý.

- Nghề nghiệp; năng khiếu: Học thuật, kỹ nghệ, độc lập, hưng thịnh, quan chức.

- Gia đình: Lục thân hoà thuận, vợ hiền con ngoan.

- Sức khoẻ: Khoẻ mạnh, có thể sống lâu.

- Hàm ý: Số này tượng trưng cho Âm Dương được phân rõ, vạn vật hình thành, hàm chức phúc lộc song toàn, thành công phát đạt. Tính cách: thông minh sáng suốt, giỏi nghề thủ công, có tư chất lãnh đạo, được hưởng phúc lành. Danh lợi song toàn, thành công rực rỡ.

# 4. Hung Biển: Số biểu thị tai hoạ.

- Cơ nghiệp: Bần cùng khốn khổ, tai hoạ cướp bóc.

- Gia đình: Họ hàng lạnh nhạt, anh em bất hoà, thiếu sự ủng hộ của người thân.

- Sức khoẻ: Bệnh tật, ngoại thương, bệnh da liễu, yểu chiết, điên cuồng.

- Hàm ý: Số này biểu thị tai hoạ, phá hoại, diệt vong. Thiếu năng lực, gặp nhiều tai hoạ, khó khăn. Gặp vận xấu sẽ phát điên cuồng, yểu chiết hoặc phóng đãng, cuối cùng thành phế nhân. Nhưng đây cũng là số có người con có hiếu, phụ nữ trinh liệt...

5. Chủng Trúc Thành Lâm: Số biểu thị phúc lộc, trường thọ.

- Ngề nghiệp, gia sản: Học giả phúc lộc, quan chức.

- Gia đình: Trên dưới thuận hoà, con cái hiếu thuận.

- Sức khoẻ: Mạnh khoẻ, sống lâu.

- Hàm ý: Số này là biểu tượng cho sự hoà hợp của Âm Dương, chỉ sự thành công rực rỡ. Người có số này thông minh tài giỏi, thân thể khoẻ mạnh, phúc lộc trường thọ, phú quí vinh hoa, muốn gì được nấy. Hoặc sẽ làm rạng làm rạng rỡ tổ tông, hoặc lập nghiệp và nổi tiếng nơi đất khách quê người.

6. An Ổn: Số của người hào kiệt.

- Tính cách, nghề nghiệp: Học giả, quan võ, hào kiệt khảng khái.

- Sức khoẻ: Gặp bệnh tật, tai hoạ đều được người giúp đỡ, có thể sống lâu.

- Hàm ý: Số này biểu thị sự viên mãn, tròn đầy, hưng thịnh. Song đầy quá thì sẽ vơi, tròn quá sẽ khuyết, nếu các cách khác không tốt lành thì là biểu tượng của vui quá hoá buồn. Số này bao hàm sự tốt đẹp trong trời đất, có thể sống yên ổn suốt đời.

7. Tính Hãn: Số của người cương nghị quyết đoán, có chí tiến thủ.

- Tính cách, nghề nghiệp: Độc lập, cương cường, có chí, kỹ nghệ, chức tước bổng lộc.

- Gia đình: Thiếu đồng lòng, trong ngoài chẳng hợp.

- Sức khoẻ: Thể chất và tinh thần đều mạnh mẽ, có thể sống lâu.

- Hàm ý: Số này là biểu tượng cho quyền uy, độc lập. Người có số này thì vì quá cương cường mà thiếu đi sức đồng hoá. Nếu nắm quyền quá cứng rắn sẽ khiến trong ngoài bất hoà. Tuy vậy đay cũng là người có dũng khí dám làm dám chịu, không nản lòng trước bất kỳ trở ngại nào. Phụ nữ có số này, chỉ e nam tính quá nhiều không lợi cho chồng con.

8. Kiên Cường: Số của người ý chí kiên cường, nỗ lực phấn đấu.

- Nghề nghiệp: Mỹ thuật, học giả, thầy giáo, bác sĩ.

- Gia đình: Gia cảnh trước khó khăn, sau thuận lợi.

- Hàm ý: Ý chí sắt đá, có chí tiến thủ, vượt mọi gian nan đi đến mục đích, nhẫn nại khắc kỷ, danh thực song toàn, nếu các cách khác xấu thì dễ gặp tai hoạ.

# 9. Phá Chu Nhập Hải: Số của người cùng khổ khốn đốn.

- Nghề nghiệp: Quan chức bị giáng, phú ông phá sản.

- Gia đình: Họ hàng bất hoà, xích mích, cố gắng tu dưỡng thì được bình an.

- Sức khoẻ, tai hoạ: Nữ có số này thì yếu đuối, bệnh hoạn, dễ thành ca kỹ, vợ chồng ly tán, nam nữ đều muộn màng về hôn nhân, làm nhiều việc thiện thì có thể tránh được tai hoạ lớn.

- Hàm ý: Số này biểu thị sự đau khổ, nghèo khó, yểu chiết, làm cho người hưởng. Hoặc từ nhỏ đã mồ côi, hoặc luôn bị bệnh tật, tai hoạ tàn phế, cô độc, thậm chí bị tra tấn đánh đập. Luôn gặp tai hoạ bất ngờ. Chủ vận có số này thì đại hung, dù có bảo đảm tính mệnh thì cũng khó tránh nạn mất vợ lìa con. Đây cũng là số của cường hào, quái kiệt.

# 10. Linh Ám: Số biểu thị vạn sự đều có kết cục bi thảm.

- Cơ nghiệp: Quan văn, phá tán.

- Gia đình: Họ hàng thờ ơ lạnh nhạt với nhau, vợ ( chồng ) lục đục, con cái bất hiếu, biết nhẫn nhục chịu đựng thì có thể bình an.

- Sức khoẻ, bệnh tật: Bị tra tấn, nhiều bệnh, tai hoạ, nữ dễ phong tình, ca kỹ, tâm tính hay thay đổi.

- Hàm ý: Số này là số cùng hung cực ác, là số cáo chung của vạn vật. Người mà chủ vận có số này thì yểu chiết, nghèo khó, làm việc gì cũng hỏng, gia đình ly tán, tai hoạ luôn giáng xuống. Từ nhỏ đã xa gia đình, bệnh tật triền miên. Tam tài đều xấu cả thì sẽ chết sớm.

11. Hạn Miêu Phùng Vũ: Số biểu thị vãn hồi được gia nghiệp suy tàn.

- Cơ nghiệp: Nhiều ruộng đất, kỹ nghệ, quan văn, tài lộc.

- Gia đình: Họ hàng ôn hoà, người người hoà thuận.ơ

- Sức khoẻ: Luôn mạnh khoẻ, sống lâu.

- Hàm ý: Âm Dương mới lại, hưởng phúc trời ban, vạn sự tuần tự phát triển, an ổn vững chắc. Số này cũng hàm chưa phú quí vinh hoa, rạng rỡ tổ tông, vực lại gia nghiệp.

# 12. Quật Tỉnh Vô Tuyền: Số của người ý chí bạc nhược, gia đình lạnh lẽo.

- Cơ nghiệp: Hung tình, tai ách, hay bị cướp bóc.

- Gia đình: Họ hàng lạnh lẽo, hờ hững, lấy oán báo ân.

- Sức khoẻ: Cây khô chờ xuân tới, tinh thần bạc nhược, dễ bị bệnh đau dạ dày. Tam tài tốt thì an toàn.

- Hàm ý: tượng trưng cho kẻ mù quáng, không tự lượng sức mình, làm việc quá sức mình khiến tự chuốc thất bại. Hoặc là ngại khó ngại khổ, chưa làm đã chán. Gia đình bạc bẽo, cô độc, bệnh tật, khốn đốn. Các vận khác đều xấu thì hay bị trở ngại, ngăn cản hoặc bị thất bại không ngờ, thậm chí dẫn tới yểu mệnh.

13. Xuân Nhật Mộu Đơn: Số của người tài trí mưu lược, thành công rực rỡ.

- Cơ nghiệp: Thiên quan, văn xương, kỹ nghệ, học sĩ, điền sản, tiền của.

- Gia đình: Thừa hưởng phúc ấm của tổ tiên, con cháu hiếu thuận.

- Sức khoẻ: Mạnh khoẻ sống lâu.

- Hàm ý: Đa tài đa nghệ, trí dũng hơn người, hưởng hạnh phúc, phú quí vinh hoa.

# 14. Phá Triệu: Số của người lưu lạc góc bể chân trời, bất đắc chí.

- Cơ nghiệp: Mỹ thuật, xinh đẹp, bạc mệnh, bôn ba.

- Gia đình: Cốt nhục chia, lìa, tha phương lập nghiệp, anh em bất hoà.

- Sức khoẻ: Nam nữ đều là người tài hoa, dễ bị cảm mạo, phong tà, Tam tài tốt thì mạnh khoẻ.

- Hàm ý: Số của những người khắc cha mẹ, người thân; huynh đệ tương tàn, vợ chồng ly tá, con cái hiếm muộn. Cô độc, bất đắc chí, hay gặp tai hoạ, trôi nổi vô định. Số của người làm cho người khác hưởng. Các vận khác đều xấu thì chết sớm.

15. Phúc Thọ: Số lập thân sáng nghiệp tổ tông, phúc thọ song toàn.

- Cơ nghiệp: Thiên quan, quí nhân, phúc tinh, quan lộc, được thừa hưởng sản nghiệp.

- Gia đình: Họ hàng thân thiết, con cháu đông vui.

- Sức khoẻ: Mạnh khoẻ, sống an vui.

- Hàm ý: Số này là biểu tượng của phúc thọ viên mãn, người thuận hoà, ôn hậu, nhã nhặn. Được người trên cất nhắc, đức cao vọng trọng, tự thành nghiệp lớn là số của phú quí vinh hoa, đạo đức hơn người.

16. Hậu Trọng: Số của người có quí nhân phò trợ.

- Cơ nghiệp: Quí nhân, hào kiệt, văn nhân học sĩ.

- Gia đình: Đầm ấm vui vẻ, đàn ông có vợ hiền, nữ nên muộn chồng.

- Sức khoẻ: Sẽ chìm đắm trong sắc tính, tu dưỡng thì được khỏe mạnh sống lâu.

- Hàm ý: Số biểu tượng gặp hoạ thành phúc. Người hào hiệp, đa mưu túc trí, có tài hoà giải. Thành công lớn, phú quí song toàn.

17. Cương cường: Số của người đột phá, vượt mọi gian khổ.

- Cơ nghiệp ( Căn cơ ): Nghệ thuật, văn xướng, uy võ, tướng tinh, thiên quan.

- Gia đình: Đàn bà nên tu dưỡng đức hạnh thì gia đình mới hạnh phúc.

- Sức khoẻ: Mạnh khoẻ, sống lâu.

- Hàm ý: Quyền uy cương cường, biết có mình chẳng biết người, dễ xung đột. Ý chí kiên định, có ưu điểm vượt mọi khó khăn gian khổ, song nếu quá cứng rắn chỉ e bị thất bại. Phụ nữ có số này thì không hợp, nếu tu dưỡng nữ tính thì có thể an toàn. Nhưng nếu phụ nữ có điều kiện Tiên Thiên quá yếu thì có thể dùng số này để quân bình.

18. Thiết Kính Trùng Ma: Số của người hữu chí cánh thành.

- Căn cơ: Tướng tinh, văn xương, thái cực, kỹ nghệ, chăn nuôi.

- Gia đình: Hưởng phúc âm của tổ tiên, lòng thiện miệng ác, nên giữ hoà thuận thì có thể toàn vẹn.

- Sức khỏe: Mạnh khoẻ, sống lâu.

- Hàm ý: Ý chí sắt đá, đa mưu túc trí, nhưng quá tự tin nên thiếu lực đồng hoá, nên tu dưỡng tâm tính mới thành công toàn vẹn.

# 19. Đa Nạn: Số của người gặp nhiều tai hoạ.

- Căn cơ: Quan chức, hồng nhan, mưu trí, hung hoạ.

- Gia đình: Gia đình bất hoà, anh em thù nghịch, vợ chồng ly tán.

- Sức khoẻ: Bệnh hoạn, hình ngục chết sớm. Tiên Thiên Ngũ hành nhiều Kim thì có thể an toàn.

- Hàm ý: Người có tố chất thông minh, thích hoạt động, tuy có thành công lớn, có thực lực nhưng luôn có tai họa bất ngờ giáng xuống. Nếu chủ vận có số này mà các vận khác đều xấu thì sức khoẻ luôn bị đe doạ bởi bệnh tật, tàn phế, cô độc, thậm chí chết sớm, vợ chồng con cái tử biệt sinh ly. Song nếu Tiên Thiên Ngũ hành chủ yếu là Kim và Thuỷ thì có thể thành vĩ nhân, quái kiệt.

# 20. Ốc Hạ Tàng Kim: Số biểu thị thất bại.

- Căn cơ: Quan tinh, mỹ thuật, hung nguy.

- Gia đình: Họ hàng xa lánh, anh em bất hoà, xa quê lập nghiệp, phàm việc gì cũng nhẫn nhục thì gia đình mới êm ấm.

- Sức khoẻ: Suy nhược, yếu đuối, Tam tài đều xấu thì yểu chiết, tàn phế. Người có Tiên Thiên Ngũ hành chủ Kim hay Mộc thì vô sự.

- Hàm ý: Số này là số tượng trưng cho vật sắp bị huỷ hoại, là vận đại hung chủ cả đời không được bình an, tai hoạ trùng trùng, luôn gặp nghịch cảnh. Hoặc bệnh tật yếu đuối, chết yểu, tàn phế. Hoặc thuở nhỏ sớm xa gia đình, luôn bị khốn đốn, hoặc vợ chồng ly biệt, vạn sự chẳng lành.

21. Minh Nguyệt Trung Thiên: Số của người thành công.

- Căn cơ: Thiên quan, thái cực, văn xương, mỹ thuật, triết học, phúc loocj, lãnh tụ, phú ông.

- Gia đình: Họ hàng hoà thuận, nếu là nữ thì lại hung, là vận sát phu.

- Sức khoẻ: Mạnh khoẻ sống lâu.

- Hàm ý: Số biểu tượng thành công rực rỡ như trăng sáng giữa trời. Thế của vạn vật đã xác lập hình thức. Chủ quyền uy độc lập, vận của lãnh tụ. Phát triển từ từ, đường đi gian khổ, từng bước mà lên. Đây cũng là số cát lợi, lập thân hưng thịnh gia nghiệp, danh lợi song toàn. Vì thuộc về cách của lãnh tụ nên phụ nữ có cách nay thì lại không hay, là vợ lấn át chồng, âm dương xung khắc, hai hổ đánh nhau ắt chẳng toàn vẹn.

# 22. Thu Thảo: Số của vận tranh đấu.

- Căn cơ: Thiên Ất, tướng tinh, kiếp sát, hao tài.

- Gia đình: Họ hàng bất hoà, tự thân lập nghiệp.

- Hàm ý: Vạn sự chẳng như nguyện, giữa đường đổ vỡ, thường là người bạc nhược, ý chí kém cỏi, như cây cỏ mùa thu gặp sương vậy. Khổ cực, yếu đuối, cô độc, luôn gặp nghịch cảnh. Đây cũng là số của vĩ nhân, hào kiệt, song thường là bất đắc chí.

23. Tráng Lệ: Số của vận thịnh vượng.

- Căn cơ: Lãnh tụ, văn xương, học sĩ, ám lộc.

- Gia đình: Nam viên mãn, nữ lưu lạc. Nhân cách có số này chủ đàn bà khắc chồng con.

- Sức khoẻ: Nam mạnh khoẻ, nữ cô độc.

- Hàm ý: Số biểu thị vận hưng thịnh, uy thế ngất trời. Xuất thân nghèo hèn, từ từ tiến lên, kết quả lừng lẫy, uy quyền thịnh vượng, công danh hiển đạt, chí lớn nghiệp lớn có thể thành, nhưng bình thời khí huyết cương mãnh, lâm sự chỉ e quá độ mà ân hận. Phụ nữ có số này thì rất xấu, khó tránh cô độc.

24. Quật Tàng Đắc Kim: Số của sự giàu sang.

- Căn cơ: Thiên quan, phúc tinh, văn xương, công thương nghiệp.

- Gia đình: Độc lập thành danh, gia đình hạnh phúc, anh em hoà thuận.

- Sức khoẻ: Mạnh khoẻ sống lâu.

- Hàm ý: Số của người tài trí mưu lược xuất chúng, tay trắng làm nên sự nghiệp, tiền của sung túc, con cháu đầy nhà.

25. Anh Tuấn: Số của người cương nghị, tư chất thông tuệ.

- Căn cơ: Lãnh tụ, phúc tinh, văn xương, kỹ nghệ.

- Gia đình: Mạnh khoẻ, ít bệnh tật.

- Hàm ý: Đây là số của người thông minh, cương nghị nhưng bị nhiều thiên kiến, lời nói nghe mềm mỏng nhưng sự thực lại rất cứng rắn, là người có tính khí quái lạ. Nếu không chịu khó, nỗ lực tu dưỡng thì thường là người thiếu khiêm tốn, hành sự theo cảm tính, ngạo mạn khinh người, e khó thành công lớn.

# 26. Biến Quái: Số của người tính tình kỳ dị.

- Căn cơ: Hào hiệp, quan lộc, hung nguy.

- Gia đình: Họ hàng bất nghĩa, vợ con bơ vơ.

- Sức khoẻ: Bệnh tật đau ốm liên miên, người mà Tiên Thiên thiếu Kim thì bình an, nam 2 đời vợ.

- Hàm ý: Số của người vất vả suốt đời, tính nết kỳ dị, giàu lòng hiệp nghĩa, nhưng hay gặp biến động, nhiều sóng gió bị cuốn hút, đẩy đưa, chìm đắm mà tan cửa nát nhà. Hoặc các cách khác đều xấu thì hạng người phóng đãng, dâm loạn, chết yểu, vợ chết, con hư. Đây còn là số của quái kiệt, liệt sĩ, vĩ nhân.

# 27. Tăng Trưởng: Số của người có lòng tham không đáy.

- Căn cơ: Tướng lĩnh, học sĩ, phái tài, tàn phế.

- Gia đình: Họ hàng nghèo hèn, anh em chia lìa.

- Sức khoẻ: Hay bị các bệnh tim, phổi, bị tra tấn hình phạt, người có Tiên Thiên Ngũ hành là Thuỷ Thổ thì an toàn.

- Hàm ý: Số của người u mê, bị người phỉ báng, công kích, kiện cáo. Thường là hình ảnh gãy đổ giữa chừng. Thuở nhỏ thành đạt sớm, càng về già càng sa sút, dù có nhẫn nhục cũng khó tránh miệng tiếng chê cười.

# 28. Khoát Thuỷ Phù Bình: Số của người trôi nổi lênh đênh.

- Căn cơ: Thiên quan, tướng tinh, học sĩ.

- Gia đình: Họ hàng đố kỵ nhau, anh em tranh giành, vợ con ly biệt.

- Sức khoẻ: Tam tài đều xấu thì bệnh tật nhiều, hay bị thương, tàn phế, nặng thì chết.

- Hàm ý: Người khảng khái nhưng bôn ba, chìm nổi nhiều, khắc sát vợ chồng, con cái, từ nhỏ đã rời xa gia đình, cả đời khó nhọc. Phụ nữ có số này thì cô độc, khó thành gia, có chồng cũng như không.

# 29. Bất Bình: Số của người lập công lớn.

- Căn cơ: Thiên quan, tướng tinh, văn xương.

- Gia đình: Họ hàng nghèo hèn, nếu Địa cách thuộc Hoả thì hiếm con.

- Sức khỏe: Tiên Thiên Ngũ hành là Kim, Mộc mà Tam tài tốt thì mạnh khoẻ, Tiên Thiên thuộc Thổ Hoả thì bệnh tật ốm yếu.

- Hàm ý: Số của người mưu trí, lập công lớn, nhưng là người không biết đủ, mặc sức hoành hành, dễ chuốc họa vào thân. Phụ nữ có số này, quá nhiều nam tính, dễ bị goá chồng, cô độc đến già.

# 30. Phi Vận: Số của người bất mãn.

- Căn cơ: Quan tinh, văn xương, tai ách.

- Gia đình: Họ hàng bất hoà, vợ chồng ly tán.

- Sức khoẻ: Hay bị tra tấn, bị thương, tàn phế, Tiên thiên Ngũ hành là Kim, Mộc thì bình an.

- Hàm ý: Chìm nổi lênh đênh, khó phân tốt xấu. Các vận khác tốt thì thành công lớn, vận xấu thì luôn thất bại. Đặc điểm chung là hay gặp tai hoạ bất ngờ, cô độc, chết yểu.

31. Xuân Nhật Hoa Khai: Số của người trí dũng song toàn.

- Căn cơ: Thái cực, tướng tinh, học sĩ, văn tinh.

- Gia đình: Hạnh phúc, đông con.

- Sức khoẻ: Mạnh khoẻ, ít bệnh.

- Hàm ý: Người gặp nhiều may mắn, được người trên nâng đỡ nên thành công rực rỡ. Tính người ôn hậu, có lòng vị tha.

32. Bảo Mã Kim Yên: Số gặp may mắn không ngờ.

- Căn cơ: Thiên đức, nguyệt đức, quan văn, học sĩ.

- Gia đình: Hạnh phúc viên mãn, nam 2 đời vợ.

- Sức khoẻ: Mạnh khoẻ, ít bệnh.

- Hàm ý: Người gặp nhiều may mắn, được người trên nâng đỡ nên thành công rực rỡ. Tính người ôn hậu, có lòng vị tha.

33. Thăng Thiên: Số của người tài đức song toàn.

- Căn cơ: Thiên quan, văn xương, học giả.

- Gia đình: Hạnh phúc, cương cường, phụ nữ cô độc.

- Sức khoẻ: Khá tốt, nếu tam tài xấu thì nhiều bệnh.

- Hàm ý: Số này có tượng của loan phượng sum vầy, chỉ người tài đức vẹn toàn, cương nghẹ quyết đoán, danh vang thiên hạ. Nhưng quá cương cường tất sẽ hỏng việc, quá sang giàu ắt sẽ nghèo hèn, cần tu tâm dưỡng tính mới mong lâu bền được.

# 34: Phá Gia: Số của người gặp nhiều tai hoạ.

- Căn cơ: Văn xương, phá tài, hung nguy.

- Gia đình: Họ hàng lưu lạc, duyên phận bạc bẽo.

- Sức khoẻ: Hay bị các tai hoạ về đâm chém, đánh đập, xung huyết, bại liệt, điên cuồng.

- Hàm ý: Số này có tượng đại hung hiểm, đại loạn ly, tai họa liên tiếp giáng xuống, vạn sự thất bại, các cách khác đều xấu thì lắm bệnh nhiều tai, vợ chồng con cái ly tán, khiến phải phát điên.

35. Ca Lâu Vọng Nguyệt: Số của vận phát triển về nghệ thuật.

- Căn cơ: Học giả, văn chương, mỹ thuật, điền sản.

- Gia đình: Gia cảnh ấm no.

- Sức khoẻ: Khá tốt, nhưng nếu bị Thiên cách khắc thì xấu.

- Hàm ý: Người có số này tính tình ôn hoà, lương thiện, trí dũng song toàn, nổi tiếng trong lĩnh vực nghệ thuật. Số này hợp với nữ giới hơn. Nam giới có số này dễ là người bất mãn, có tư tưởng tiêu cực.

# 36. Ba Đào: Số của người chìm nổi lênh đênh.

- Căn cơ: Học giả, văn xương, hung sát.

- Gia đình: Họ hàng nghèo hèn, vợ chồng ly tán.

- Sức khoẻ: Nhiều bệnh tật, bị thương, tàn phế.

- Hàm ý: Số này có hình ảnh sóng gió dập dồn lênh đênh chìm nổi. Đây là cách của những nhà cách mạng, cuộc đời khó khăn gian khổ. Các cách khác đều xấu thì cô độc, bệnh tật, tai hoạ luôn quấy nhiễu.

37. Mãnh Hổ Xuất Lâm: Số của người hiển đạt.

- Căn cơ: Tướng tinh, quan lộc, quyền uy.

- Gia đình: Họ hàng hoà thuận, nữ giới có số này thì tính tình cứng rắn, cương cường, khó tránh đổ vỡ.

- Sức khoẻ: Mạnh khoẻ sống lâu, Tiên thiên Ngũ hành thuộc Hoả hoặc Nhân cách bị khắc thì dễ bị bệnh đường hô hấp và tim mạch.

- Hàm ý: Người độc lập, trung thực, uy dũng, lập nên nghiệp lớn, suốt đời giàu sang, nhưng vì tính cô độc nên khó tránh đổ vỡ trong hôn nhân. Cần tu dưỡng tâm tính mới được an toàn.

38. Ma Thiết Thành Châm: Số của người kiên trì nhẫn nại hơn người.

- Căn cơ: Học giả, thần đồng, kỹ nghệ, hung sát.

- Gia đình: Họ hàng lạnh nhạt, anh em xa cách.

- Sức khoẻ: Không tốt lắm, dễ bị bệnh phổi.

- Hàm ý: Người có số này tuy có chí lớn song thiếu tài chỉ huy, hợp với cách cố vấn, quân sự. Phát triển về văn học hoặc kỹ nghệ thì có thành quả tốt. Đây cũng là số của người thành công về nghệ thuật.

39. Phú Quý: Số của người vinh hoa phú quí.

- Căn cơ: Văn xương, nghệ thuật, mưu trí.

- Gia đình: Họ hàng bình an, càng về sau càng thịnh.

- Sức khoẻ: Khá tốt.

- Hàm ý: Số này chủ về uy quyền, giàu có, sống lâu, nhưng trong sự giàu sang tột cùng có ẩn tàng tai hoạ hung hiểm. Nữ giới có số này thì không tốt cho hôn nhân.

# 40. Thoái An: Số của người an phận thủ thường.

- Căn cơ: Tướng tinh, hào kiệt, đảm lượng, hung hoạ.

- Gia đình: Họ hàng lạnh nhạt, anh em chia rẽ.

- Sức khoẻ: Bệnh ác tính, dạ dày, ngoại thương, tàn phế. Tam tài tốt thì có thể giảm bớt xấu xa.

- Hàm ý: Nhiều mưu mẹo, có đảm lược, nhưng kiêu ngạo, thiếu chí lớn, dễ bị công kích. Các vận khác xấu thì dễ bị tù đày, chết yểu. Nên an phận thủ thường.

41. Hữu Đức: Số của người luôn gặp may mắn.

- Căn cơ: Thái cực, văn nhân, học giả, tướng tinh.

- Gia đình: Hạnh phúc, ấm êm, con cháu đầy nhà.

- Sức khoẻ: Mạnh khoẻ sống lâu.

- Hàm ý: Số của người có tài, trí dũng song toàn, lại được hưởng phúc đức của tổ tiên để lại, nên làm gì cũng gặt hái thành công.

# 42. Hàn Thiền Tại Liễu: Số của người nghèo khổ.

- Căn cơ: Kiếp sát, tai ách, hung hoạ.

- Gia đình: Họ hàng nghèo khổ, vợ chồng bội bạc.

- Sức khoẻ: Nhiều bệnh tật, duy người có Tiên thiên Ngũ hành thuộc Hoả thì bình an.

- Hàm ý: Người thông minh tài giỏi nhưng ý chí bạc nhược, không làm tới cùng việc gì, suốt đời nghèo hèn. Nếu tu tâm dưỡng tính có thể thành công.

# 43. Tán Tài: Số của vận đề phòng tai hoạ.

- Căn cơ: Tương tinh, nghệ thuật, học giả, hung tinh, tai hoạ, tàn phế.

- Gia đình: Bệnh tật, yếu đuối, yểu chiết.

- Hàm ý: Số của vận phá sản, người tuy có tài nhưng thiếu chí lớn. Bề ngoài hạnh phúc mà trong khốn khổ. Phụ nữ không nên có số này.

# 44. Phiền muộn: Số của người lực bất tòng tâm.

- Căn cơ: Văn xương, học sĩ, tán tài, hung hoạ.

- Gia đình: Cốt nhục tương tàn, anh em chia rẽ.

- Sức khoẻ: Nhiều bệnh tật, tai hoạ về tù đày, tra tấn, thậm chí điên cuồng. Người có Tiên thiên Ngũ hành thuộc Mộc thì an toàn.

- Hàm ý: Số này tối hung hiểm, hình ảnh loạn ly, bi thảm, vạn sự chẳng như ý, luôn gặp nghịch cảnh, lao khổ, tai hoạ. Đây cũng là số của anh hùng, liệt sĩ, vĩ nhan, tu sĩ...

45. Thuận Phong: Vạn sự như ý.

- Căn cơ: Văn chương, nghệ thuật, học giả.

- Gia đình: Hạnh phúc, con cháu đầy nhà.

- Sức khoẻ: Mạnh khoẻ, ít bệnh.

- Hàm ý: Người tài giỏi, có chí lập nghiệp lớn, vượt mọi khó khăn để đạt mục đích; nhưng nếu các cách khác xấu thì dễ gặp tai hoạ, thất bại.

# 46. Lăng Lý Đào Kim: Số của người phá tán tổ nghiệp.

- Căn cơ: Tướng tinh, hào kiệt, hung tinh, hao tài.

- Gia đình: Nhiều vợ mà hiếm con.

- Sức khoẻ: Luôn đau ốm, bị bệnh kín.

- Hàm ý: Đây là số của người phá tán sự nghiệp của cha ông để lại, bôn ba lưu lạc khắp nơi, các cách khác đều xấu thì dễ bị hoạ tù ngục, tra tấn đánh đập.

47. Điểm Thiết Thành Kim: Số của người làm quan to.

- Căn cơ: Tướng tinh, văn chương, quan lộc.

- Gia đình: Hạnh phúc, vợ chồng con cái hoà thuận.

- Sức khoẻ: ít bệnh tật, mạnh khoẻ.

- Hàm ý: Số này có hình ảnh là khai hoa kết quả người sẽ được hưởng phúc của cha ông để lại, có thể làm rạng rỡ tổ tông.

48. Khô Tùng Lập Hạc: Số của người tài đức vẹn toàn.

- Căn cơ: Thiên quan, phúc đức, quí nhân.

- Gia đình: Vợ chồng hạnh phúc, con cháu có hiếu.

- Sức khoẻ: Khá tốt.

- Hàm ý: Người có tài, mưu lược, đức độ, hợp với cách của người làm quân sư, cố vấn, thầy giáo, bác sĩ.

# 49. Chuyển Biến: Cát hung lành dữ khôn lường.

- Căn cơ: Tướng tinh, hung tinh, học sĩ.

- Gia đình: Họ hàng nghèo hèn, con cái hiếm muộn.

- Sức khoẻ: Hay bị thương, bệnh tật, đau yếu.

- Hàm ý: Số này có hình ảnh trong hoạ có phúc, trong phúc có hoạ, thành công rực rỡ ắt sẽ có thất bại to lớn, cuộc sống luôn bấp bênh khó ổn định.

# 50. Tiểu Chu Nhập Hải: Số của người liều lĩnh.

- Căn cơ: Hung hoạ, tai ách, tán tài.

- Gia đình: Họ hàng xa cách không giúp đỡ lẫn nhau.

- Sức khoẻ: Dễ bị tra tấn, cướp bóc, nhiều tai hoạ bất ngờ. 

- Hàm ý: Số của người làm việc gì cũng liều lĩnh bất chấp hậu quả, ban đầu có thể thành công rực rỡ, càng về sau lại càng suy bại, về già cô độc, nhà tan cửa nát, vợ chồng con cái ly biệt.

# 51. Phu Trầm: Số của người đông thành tây bại.

- Căn cơ: Kiếp sát, bại tinh, học sĩ.

- Gia đình: Họ hàng, vợ chồng luôn bất hoà.

- Sức khoẻ: Lắm bệnh nhiều tật.

- Hàm ý: Số này có hình ảnh thịnh suy tiếp nối, người làm việc không bao giờ được như ý, đông thành tây bại, về già nghèo hèn, cô độc, thậm chí phải đi ăn mày.

52. Đạt Miên: Số của người có lý tưởng cao cả.

- Căn cơ: Nguyên soái, bác sĩ.

- Gia đình: Hạnh phúc, con cái hiếu thuận.

- Sức khoẻ: Tốt, sống lâu.

- Hàm ý: Người có số này thông minh kiệt xuất, đa mưu túc trí, có thể lập thành nghiệp lớn.

# 53. Khúc Quyển Thôi Xa: Số của người yếu thế, luôn buồn bã chán chường.

- Căn cơ: Kiếp sát, sĩ tử, tai ách.

- Gia đình: Thân quyến bạc bẽo, hiếm con.

- Sức khoẻ: Nhiều bệnh tật, tai hoạ.

- Hàm ý: Số này có hình ảnh như một quả chín bề ngoài đẹp đẽ mà trong mục rỗng, số của người trước giàu sau nghèo, trước thịnh sau suý, về già nghèo hèn, cô độc.

# 54. Thạch Thương Tài Hoa: Số của người hay bị tai nạn, khó có thành công.

- Căn cơ: Hung tinh, kiếp sát, kỹ nghệ.

- Gia đình: Cha mẹ mất sớm, anh em bất hoà, vợ chồng ly tán.

- Sức khoẻ: Dễ bị đánh đập, tàn phế, yểu chiết.

- Hàm ý: Số này rất xấu, người sống để trả nợ, luôn bị tai nạn, khiến phải tàn phế.

# 55. Thiện Ác: Ngoài ngọt trong đắng.

- Căn cơ: Hung tinh, học giả, kỹ nghệ.

- Gia đình: Họ hàng đố kỵ, cha mẹ bất hoà.

- Sức khoẻ: Nhiều tật bệnh, kém.

- Hàm ý: Người có số này, ý chí bạc nhược, làm việc gì cũng không xong, bỏ dở giữa chừng, nên tu tâm dưỡng tính thì có thể bình an.

# 56. Lăng Lý Hành Chu: Số của người chịu nhiều gian khổ.

- Căn cơ: Hào kiệt, thượng thọ, tai ách.

- Gia đình: Họ hàng bất hoà, nên lập nghiệp nơi đất khách quê người.

- Sức khoẻ: Hay bị ngoại thương, tàn phế, yểu chiết.

- Hàm ý: Người có số này là người thiếu chí tiến thủ, ngại khó ngại khổ, hay gặp thất bại, về già nghèo hèn.

57. Nguyệt Chiếu Thanh Tung: Số của người vươn lên từ gian khổ, ý chí quật cường.

- Căn cơ: Văn chương, nghệ thuật, học giả.

- Gia đình: Cha mẹ nghiêm khắc, có lúc bất hoà.

- Sức khoẻ: Sức chịu đựng cao, có thể sống lâu.

- Hàm ý: Số này chỉ người có tính tình cương nghị, quật cường, ý chí sắt đá, tuy có được vinh hoa, phú quí song cuộc đời gặp nhiều tai nạn, trắc trở. Mà tai hoạ càng lớn thì hưởng phúc càng nhiều.

58. Văn Hành Ngộ Nguyệt: Số của người trước khổ sau sướng.

- Căn cơ: Quan lộc, văn tinh, học giả.

- Gia đình: Họ hàng lạnh nhạt, anh em xa cách.

- Sức khoẻ: Không tốt lắm. Tam tài tốt thì trường thọ.

- Hàm ý: Người có số này cuộc đời trải nhiều gian truân, lúc về già mới thành công và phải rời bỏ quê hương, lập nghiệp phương xa.

# 59. Hàn Thiền Bi Phong: Số của người bất tài.

- Căn cơ: Hung tinh, tật bệnh, hao tài.

- Gia đình: Vợ chồng bất hoà, con cái ly tán.

- Sức khoẻ: Hay bị tai hoạ về hình ngục, tra tấn, thậm chí yểu chiết.

- Hàm ý: Người thiếu nhẫn nại, ý chí bạc nhược, bất tài vô dụng, cuối đời nghèo hèn.

# 60. Vô Mưu: Số của người tranh danh đoạt lợi, hãm hại người khác.

- Căn cơ: Kiếp sát, hung tinh, tai hoạ, tàn phế.

- Gia đình: Tổ tiên thiếu đức, họ hàng vô tình, anh em bất hoà.

- Sức khoẻ: Dễ bị tai hoạ về hình ngục, tra tấn, sát thương, yểu chiết.

- Hàm ý: Số này chỉ vận hung hoạ, chỉ người không lương thiện, hãm hại người khác để tranh giành quyền lợi.

# 61. Mẫu Đơn Phù Dung: Hưởng phúc mà được danh lợi song toàn.

- Căn cơ: Phúc tinh, tướng tinh, kỹ nghệ.

- Gia đình: Tự lập sự nghiệp, no ấm đầy đủ.

- Sức khỏe: Khá tốt.

- Hàm ý: Số chỉ người được hưởng nhiều may mắn, phúc đức do tổ tiên để lại mà có danh có lợi. Nhưng vì tính ngạo mạn mà bị chiết giảm ít nhiều, cần tu tâm dưỡng tính để được hưởng phúc bền lâu.

# 62. Suy Bại: Số của người hay gặp tai hoạ.

- Căn cơ: Hung tinh, tật ách.

- Gia đình: Họ hàng lạnh nhạt, cốt nhục phân ly.

- Sức khoẻ: Dễ bị các tai hoạ về đâm chém, đánh đập, tù tội.

- Hàm ý: Số chỉ người ý chí bạc nhược, dễ đam mê tửu sắc, hay bị tai hoạ bất ngờ, suốt đời nghèo hèn.

63. Chu Qui Bình Phố: Số của người phú quí song toàn.

- Căn cơ: Quan lộc, tướng tinh.

- Gia đình: Vợ chồng con cái hoà thuận.

- Hàm ý: Số này chỉ người không phải lo nghĩ nhiều mà mọi sự như ý, cả đời sung sướng.

# 64. Phi Mệnh: Số của người khắc cha mẹ.

- Căn cơ: Kiếp sát, hung tai.

- Gia đình: Vợ chồng con cái bất hoà, ly biệt.

- Sức khoẻ: Dễ bị các tai hoạ về chết đuối, tra tấn.

- Hàm ý: Số chỉ người khắc cha mẹ, từ nhỏ sớm rời xa gia đình, hay gặp các tai hoạ bất ngờ, chết nơi đất khách quê người.

65. Cự Lưu Qui Hải: Số của người có chí lớn.

- Căn cơ: Tướng tinh, quan lộc.

- Gia đình: Trên thuận dưới hoà, vợ chồng hạnh phúc.

- Sức khoẻ: Khá mạnh khoẻ.

- Hàm ý: Số chỉ người tài giỏi, có chí tiến thủ, lập nên sự nghiệp vẻ vang.

# 66. Nham Đầu Bộ Mã: Số của người đa sầu đa cảm, hay gặp thất bại.

- Căn cơ: Tướng tinh, hao tài.

- Gia đình: Họ hàng lãnh đạm, anh em bất hoà.

- Sức khoẻ luôn đau ốm, bệnh tật.

- Hàm ý: Số chỉ người đa sầu đa cảm, hat nhụt chí trước khó khăn, khó có thành công trong đời.

67. Thông Đạt: Số của người có chí khí kiên cường.

- Căn cơ: Tướng tinh, học giả, văn chương, nghệ thuật.

- Gia đình: Cha mẹ sống lâu, gia đình hạnh phúc.

- Sức khoẻ: Người có Tiên thiên Ngũ hành thuộc Hoả thì dễ bị bệnh đường hô hấp.

- Hàm ý: Số này chỉ người có tài, có chí tiến thủ, vượt mọi gian nan để lập nghiệp lớn.

68. Thuận Phong Xuy Phàm: Số của người gặp nhiều may mắn.

- Căn cơ: Lộc Tồn, tướng tinh, quan lộc.

- Gia đình: Trên thuận dưới hoà.

- Sức khoẻ: Mạnh khoẻ sống lâu.

- Hàm ý: Số chỉ người tài giỏi mưu lược, nỗ lực phấn đấu không ngừng, lại gặp nhiều may mắn, được hạnh phúc ấm của tổ tiên.

# 69. Phi Nghiệp: Số của người suốt đời nghèo khó.

- Căn cơ: Văn chương nghệ thuật, song hao, kiếp sát.

- Gia đình: Họ hàng lãnh đạm, anh em xa cách.

- Sức khoẻ: Luôn ốm đau bệnh tật, nếu người có Tiên thiên Ngũ hành thuộc Mộc thì bình thường.

- Hàm ý: Số chỉ người luôn quẫn bách, khốn khổ vì miếng cơm manh áo, hay gặp tai hoạ về tù đày, tra tấn.

# 70. Tàn Cúc Phùng Sương: Số của người cô độc.

- Căn cơ: Kiếp sát, tật ách, tướng tinh.

- Gia đình: Cha mẹ bất hoà, muộn vợ muộn chồng, hiếm con cái.

- Sức khoẻ: Dễ bị các tai hoạ về đâm chém, tàn phế, người có Tiên thên Ngũ hành thuộc Kim, Mộc thì bình thường.

- Hàm ý: Số chỉ người cô độc, khắc cha mẹ, vợ chồng ly biệt, về già nghèo hèn, cô đơn.

# 71. Thạch Thượng Kim Hoa: Số của người thiếu nhẫn nại.

- Căn cơ: Văn xương, học sĩ, hao tài.

- Gia đình: Không hoà thuận lắm.

- Sức khoẻ: Bình thường.

- Hàm ý: Số chỉ người vốn được hưởng phúc đức, nhưng vì thiếu kiên nhẫn, hay bỏ dở nửa chừng nên khó có thành công lớn.

# 72. Lao Khổ: Số của người trước giàu sau nghèo.

- Căn cơ: Tài tinh, kỹ nghệ, công thương.

- Gia đình: Họ hàng lãnh đạm, vợ chồng con cái bất hoà.

- Sức khoẻ: Trung bình.

- Hàm ý: Số của người thực dụng, sống không cần biết đến người khác, bất chấp hậu quả, về già nghèo hèn.

# 73. Vô Dũng: Số của người hèn yếu.

- Căn cơ: Hung tinh, kiếp sát.

- Gia đình: Vợ chồng bất hoà, hiếm con.

- Sức khoẻ: Trung bình.

- Hàm ý: Số chỉ người thiếu chí tiến thủ, ngại khó ngại khổ, may được hưởng phúc ấm của tổ tiên nên cũng bình an.

# 74. Tàn Hoa Kinh Sương: Số của người luôn gặp nghịch cảnh.

- Căn cơ: Kiếp sát, văn xương.

- Gia đình: Thiếu hoà thuận.

- Sức khoẻ: Bệnh tật đau ốm triền miên, người có Tiên thiên Ngũ hành thuộc Thổ thì bình an.

- Hàm ý: Số của người luôn gặp khó khăn trở ngại, tuy có chí lớn nhưng vì không tự lượng sức mà gặp thất bại.

75. Tiến Thủ: Số của người hay tranh đấu.

- Căn cơ: Tướng tinh, hào kiệt.

- Gia đình: Khá hạnh phúc.

- Sức khoẻ: Mạnh khoẻ.

- Hàm ý: Số này chỉ người không chùn bước trước khó khăn, luôn nỗ lực phấn đấu nhưng vì quá cương cường mà thường gặp thất bại, nên tu tâm dưỡng tính mới có thể thành công rực rỡ.

# 76. Ly Tán: Số của người làm cho kẻ khác hưởng.

- Căn cơ: Kiếp sát, hao tài.

- Gia đình: Họ hàng xa cách, vợ chồng ly tán, con cái bất hiếu.

- Sức khoẻ: Dễ bị họa đâm chém, tàn phế, người có Tiên thiên Ngũ hành thuộc Kim thì bình thường.

- Hàm ý: Số chỉ người khắc cha mẹ, cốt nhục phân ly, hay gặp nghịch cảnh, tán gia bại sản, về già cô độc.

# 77. Bán Cát: Số của người sướng khổ khó phân.

- Căn cơ: Tướng tinh, tài tinh, kiếp sát.

- Gia đình: Bình thường.

- Sức khoẻ: Dễ bị bệnh đường hô hấp, người có Tiên thiên Ngũ hành thuộc Thuỷ thì mạnh khỏe.

- Hàm ý: Trong hung có cát, được hưởng phúc ở tiền vận, về già gặp nhiều đau khổ, nếu thuở nhỏ khổ cực thì về già sung sướng.

# 78. Bán Hung: Như số 77 nhưng kém hơn.

# 79. Vân Đầu Vong Nguyệt: Số của người nghèo khổ.

- Căn cơ: Kiếp sát, phá bại, hao tài.

- Gia đình: Họ hàng lạnh nhạt, anh em bất hoà.

- Sức khoẻ: Dễ bị ngoại thương, nếu Tiên thiên Ngũ hành thuộc Kim, Mộc thì bình thường.

- Hàm ý: Số chỉ người luôn nghèo khổ, cơ hàn, cuộc đời không có ngày vui.

# 80. Hung Hoạ: Số của người luôn gặp tai hoạ.

- Căn cơ: Hung tinh, phá bại, tai ách.

- Gia đình: Họ hàng bất hoà, ly tán.

- Sức khoẻ: Luôn bệnh tật đau ốm.

- Hàm ý: Số chỉ người cả đời luôn gặp tai hoạ, dễ bị tù đay, tra tấn, sống để trả nợ đời, về già cô độc nghèo hèn.

Ghi chú: Số 81 là số trở về gốc, giống như số 1, số 82 giống như số 2 các số sau cũng vậy.

4. Sự phối hợp cát hung của Tam tài:

SỰ CHI PHỐI CỦA SỐ LÝ.

               Tam tài                              Ý nghĩa

ThiênNhânĐịa

 1-2

Mộc 1-2

 Mộc1-2

 MộcThành công thuận lợi, nền tảng vững chắc, gia đình hoà thuận, mạnh khoẻ sống lâu, phú quí song toàn.

 1-2

 Mộc1-2

 Mộc3-4

 HoảThành công thuận lợi, phát triển nhanh chóng, cả đời sung sướng. Tốt.

 1-2

 Mộc1-2

 Mộc5-6

 ThổThành công, phát triển thuận lợi, cả đời bình an. Tốt.

 1-2

 Mộc1-2

 Mộc7-8

 KimTuy có thành công nhưng gặp nhiều nghịch cảnh, khó khăn cản trở, bị người dưới phản bội, bị bệnh tật về đầu óc. Xấu.

 1-2

 Mộc1-2

 Mộc9-10

 ThuỷĐôi lúc thành công nhờ may mắn, nhưng thường là thất bại, người suốt đời bôn ba lưu lạc. Xấu.

 1-2

 Mộc3-4

 Hoả1-2

 MộcĐược người trên nâng đỡ, kẻ dưới ủng hộ mà thành công, nền tảng vững chắc, con cháu đông đúc, mạnh khoẻ, sống lâu. Tốt.

 1-2

 Mộc3-4

 Hoả3-4

 HoảKhá thành công nhưng thiếu lâu bền, tính tình nhu nhược, thiếu quyết đoán nên khó có thành công lớn. Sức khoẻ bình thường. Trung bình khá.

 1-2

 Mộc3-4

 Hoả5-6

 ThổĐược người trên nâng đỡ, dễ thành công, nền tảng vững chắc, mạnh khoẻ hạnh phúc. Tốt.

 1-2

 Mộc3-4

 Hoả7-8

 KimTuy có thành công nhưng nền tảng, gia đình không vững chắc, dễ bị bệnh về đường hô hấp và não. Xấu.

 1-2

 Mộc3-4

 Hoả9-10

 ThuỷKhó thành công, nếu có cũng không bền, hay bị tai hoạ bất ngờ, bệnh tật ốm đau nhiều. Xấu.

 1-2

 Mộc5-6

 Thổ1-2

 MộcKhông thể thành công, cảnh ngộ bất an, dễ bị động, dễ bị bệnh đường hô hấp. Xấu.

 1-2

 Mộc5-6

 Thổ3-4

 HoảÍt thành công, thường không hài lòng, bất mãn, dễ bị bệnh đường hô hấp và tiêu hoá, nhưng nhiều cơ hội phát triển. Nửa tốt.

 1-2

 Mộc5-6

 Thổ5-6

 ThổKhó thành công, thường bất mãn,gia đình bất hoà hoặc bất hạnh, bệnh đường hô hấp và tiêu hoá. Xấu.

 1-2

 Mộc5-6

 Thổ7-8

 KimKhông thể thành công, cảnh ngộ khó yên, khó tránh bệnh tì vị và não. Xấu.

 1-2

 Mộc5-6

 Thổ9-10

 ThuỷKhông thể thành công hoặc phát triển. Dễ bị đột biến hoặc chết thảm. Rất hung.

 1-2

 Mộc7-8

 Kim1-2

 MộcKhó thành công, khổ sở, vất vả, thần kinh và não tổn thương, gia đình bất hạnh hoặc tai nạn. Hung.

 1-2

Mộc7-8

 Kim3-4

 HoảKhó thành công, cơ sở không vững, dễ bị thần kinh suy nhược và đường hô hấp, thậm chí phát điên, tự sát, hoặc gặp tai hoạ lớn. Xấu.

 1-2

 Mộc7-8

 Kim5-6

 ThổThành công nhỏ, nhưng có cố gắng bao nhiêu sẽ thành công bấy nhiêu, vất vả đến mức gặp bệnh tật khó chữa, nhưng hoàn cảnh yên ổn. Nửa xấu.

 1-2

 Mộc7-8

 Kim7-8

 KimKhó thành công vì quá cương cường, dễ binh bất hoà tranh chấp, gia đình tan vỡ, về già cô độc. Xấu.

 1-2

 Mộc7-8

 Kim9-10

 ThuỷKhó thành công, thường gặp những điều phiền não, bất ổn, dễ bị các bệnh về não hoặc chết bất đắc kỳ tử. Xấu.

 1-2

 Mộc9-10

 Thuỷ1-2

 MộcThành công lớn, hoàn cảnh yên ổn, nếu số lý kết hợp đều xấu thì hay bị bệnh, chết sớm hoặc tan vỡ gia đình. Tốt.

 1-2

 Mộc9-10

 Thuỷ3-4

 HoảCó thành công nhưng không lâu bền, nền tảng không ổn định, dễ gặp tai hoạ bất ngờ, lại khắc vợ chồng, con cái. Xấu.

 1-2

 Mộc9-10

 Thuỷ5-6

 ThổTiền vận thành công, hậu vận suy bại, hoàn cảnh bất ổn, dễ bị ốm đau và các tai hoạ bất ngờ giáng xuống. Xấu.

 1-2

 Mộc9-10

 Thuỷ7-8

 KimTuy có thành công nhưng nền tảng không vững chắc, số lý hung thì dễ sinh bất mãn, bệnh về não. Xấu.

 1-2

 Mộc9-10

 Thuỷ9-10

 ThuỷTuy thành công nhưng dễ đổ vỡ, hay ốm đau, gia đình bất hoà, khá giàu. Trung bình khá.

 3-4

 Hoả1-2

 Mộc1-2

 MộcCó cơ hội phát triển mạnh, dễ thành công lớn, cơ sở, hoàn cảnh đều tốt đẹp, sống lâu hạnh phúc. Tốt.

 3-4

 Hoả1-2

 Mộc3-4

 HoảThành công, nền tảng vững, hoàn cảnh tốt, khoẻ mạnh sống lâu. Tốt.

 3-4

 Hoả1-2

 Mộc5-6

 ThổDễ thành công, nền tảng vững, sức khỏe tốt. Tốt.

 3-4

 Hoả1-2

 Mộc7-8

 KimThành công nhỏ, hoàn cảnh bất ổn, nhiều tai hoạ, dễ bị bệnh về não, hao tiền vì bệnh tật. Xấu.

 3-4

 Hoả1-2

 Mộc9-10

 ThuỷThành công nhưng không bền, gia đình không hạnh phúc, hay gặp tai nạn. Xấu.

 3-4

 Hoả3-4

 Hoả1-2

 MộcThành công lớn, nền tảng vững, sức khoẻ tốt giàu sang sống lâu. Tốt.

 3-4

 Hoả3-4

 Hoả3-4

 HoảTuy thành công nhanh và lớn nhưng khó bền, thiếu ý chí nên dễ thất bại về sau. Trung bình khá.

 3-4

 Hoả3-4

 Hoả5-6

 ThổThành công quá nhanh, dễ sinh chủ quan mà chuốc lấy thất bại, sức khoẻ kém. Xấu.

 3-4

 Hoả3-4

 Hoả7-8

 KimThành công ít, hoàn cảnh bất ổn, lao tâm lao lực quá nhiều, dễ bị bệnh về não và hô hấp, khắc vợ chồng, con cái bất hiếu. Xấu.

 3-4

 Hoả3-4

 Hoả9-10

 ThuỷKhông thể thành công, hay gặp tai hoạ bất ngờ, dễ bị chết sớm, bệnh về não, xơ cứng động mạch. Xấu.

 3-4

 Hoả5-6

 Thổ1-2

 MộcTuy được người trên nâng đỡ mà có thành công song không bền, nhiều thay đổi, bệnh về đường tiêu hoá. Trung bình khá.

 3-4

 Hoả5-6

 Thổ3-4

 HoảĐược hưởng phúc tổ tiên để lại, gặp nhiều may mắn dễ thành công, sống lâu hạnh phúc. Tốt.

 3-4

 Hoả5-6

 Thổ5-6

 ThổĐược hưởng hạnh phúc lớn, dễ thành công, cơ sở vững chắc, sống lâu hạnh phúc. Tốt.

 3-4

 Hoả5-6

 Thổ7-8

 KimĐược người trên nâng đỡ mà thành công nhưng vì thiếu chí lớn mà dễ chuốc thất bại, hay bệnh tật, vợ chồng con cái ly tán. Xấu.

 3-4

 Hoả5-6

 Thổ9-10

 ThuỷThành công nhỏ, thất bại lớn, hay bệnh tật. Xấu.

 3-4

 Hoả7-8

 Kim1-2

 MộcThiếu may mắn, khó thành công, dễ khắc vợ chồng, bị bệnh đường hô hấp hoặc điên cuồng, thường gặp tai hoạ bất ngờ. Xấu.

 3-4

 Hoả7-8

 Kim3-4

 HoảNền tảng không vững, khó thành công, bị bệnh về não, dễ điên cuồng, chết bất đắc kỳ tử. Xấu.

 3-4

 Hoả7-8

 Kim5-6

 ThổKhó thành công, hay gặp trở ngại, quá lao lực mà sinh bệnh tật, hoàn cảnh tương đối bình ổn.

 3-4

 Hoả7-8

 Kim7-8

 KimKhó thành công dễ bất mãn, về già cô độc. Xấu.

 3-4

 Hoả7-8

 Kim9-10

 ThuỷKhó thành công, hay đau ốm, dễ bị bệnh tim, não, phổi, gia đình ly tán. Xấu.

 3-4

 Hoả9-10

 Thuỷ1-2

 MộcKhông thành công, dễ ly tán, đau khổ về hôn nhân, về già cô độc, nghèo hèn. Xấu.

 3-4

 Hoả9-10

 Thuỷ3-4

 HoảBất ổn mọi mặt, hay gặp tai hoạ, gia đình đổ vỡ, bệnh tật triền miên, dễ dẫn tới tự sát. Xấu.

 3-4

 Hoả9-10

 Thuỷ5-6

 ThổKhông thành công, hay buồn phiền, không chết sớm cũng nhiều bệnh. Xấu.

 3-4

 Hoả9-10

 Thuỷ7-8

 KimKhông thành công, hay bệnh tật, đau ốm, nhiều tai hoạ, gia đình ly tán. Xấu.

 3-4

 Hoả9-10

 Thuỷ9-10

 ThuỷBất ổn mọi mặt, dễ thất bại, bệnh tật, tai hoạ, gia đình đổ vỡ. Xấu.

 5-6

 Thổ1-2

 Mộc1-2

 MộcTiền vận khá tốt, hậu vận xấu, khó có thành công lớn. Trung bình khá.

 5-6

 Thổ1-2

 Mộc3-4

 HoảTuy thành công nhưng phải chịu nhiều gian khổ, số lý kết hợp rất tốt mới được bình yên. Khá.

 5-6

 Thổ1-2

 Mộc5-6

 ThổKhó thành công, nhiều gian nan, hoàn cảnh tuy ổn nhưng nhiều bệnh tật, suy nhược thần kinh. Xấu.

 5-6

 Thổ1-2

 Mộc7-8

 KimÍt có hy vọng, nhiều đau khổ, bệnh về thần kinh, hô hấp, hoàn cảnh bất ổn. Xấu.

 5-6

 Thổ1-2

 Mộc9-10

 ThuỷKhó thành công, dễ đổ vỡ, bệnh tật nhiều, hao tốn tiền của vì bệnh. Xấu.

 5-6

 Thổ3-4

 Hoả1-2

 MộcNền tảng vững, dễ thành công, khoẻ mạnh ít bệnh, sống lâu hạnh phúc. Tốt.

 5-6

 Thổ3-4

 Hoả3-4

 HoảTuy dễ thành công nhưng thiếu ý chí, nền tảng không vững dễ chuốc thất bại. Trung bình khá.

 5-6

 Thổ3-4

 Hoả5-6

 ThổRất dễ thành công lớn, nền tảng vững chắc, sức khoẻ tốt, có thể sống lâu hạnh phúc. Tốt.

 5-6

 Thổ3-4

 Hoả7-8

 KimThành công tuy lớn song quá lao lực mà bị ốm đau hoặc gia đình bất hoà ly tán. Trung bình khá.

 5-6

 Thổ3-4

 Hoả9-10

 ThủyThành công nhưng không bền, nền tảng yếu, dễ bị bệnh đường tiêu hoá, thần kinh. Xấu.

 5-6

 Thổ5-6

 Thổ1-2

 MộcTuy thành công lớn nhưng không bền, dễ phát sinh biến đổi, hay gặp tai nạn. Xấu.

 5-6

 Thổ5-6

 Thổ3-4

 HoảDanh lợi phú quí song toàn, hoàn cảnh an ổn, mạnh khỏe sống lâu.

 5-6

 Thổ5-6

 Thổ5-6

 ThổThành công lớn, hoàn cảnh tốt, số lý hung thì hay gặp tai nạn. Nữ không nên có số này. Tốt.

 5-6

 Thổ5-6

 Thổ7-8

 KimThành công dễ dàng, nhiều may mắn, sức khoẻ tốt, sống lâu, giàu sang hạnh phúc. Tốt.

 5-6

 Thổ5-6

 Thổ9-10

 ThuỷThành công nhưng không bền, dễ phá sản, hay gặp tai nạn. Xấu.

 5-6

 Thổ7-8

 Kim1-2

 MộcTuy được người trên nâng đỡ nhưng ý chí bạc nhược nên khó thành công, khắc vợ chồng. Xấu.

 5-6

 Thổ7-8

 Kim3-4

 HoảĐược thừa hưởng tài sản lớn nhưng hoàn cảnh xấu nên khó bền lâu, dễ bị bệnh hô hấp. Xấu.

 5-6

 Thổ7-8

 Kim5-6

 ThổNhiều may mắn, dễ thành công, nền tảng vững, hoàn cảnh tốt, giàu sang hạnh phúc. Tốt.

 5-6

 Thổ7-8

 Kim7-8

 KimThành công lớn nhưng quá cương cường, dễ bị kiện cáo thị phi, bị công kích. Tốt.

 5-6

 Thổ7-8

 Kim9-10

 ThuỷCó cơ hội thành công, phát triển, nhưng hay gặp tai hoạ bất ngờ, dễ bị ngoại thương, chết sớm. Xấu.

 5-6

 Thổ9-10

 Thuỷ1-2

 MộcKhó thành công, làm cho người hưởng, lao lực mà sinh bệnh, hay bất mãn, gia đình không hạnh phúc. Xấu.

 5-6

 Thổ9-10

 Thuỷ3-4

 HoảKhông thành công, thường bị người đè nén áp bức, hôn nhân xấu, tai hoạ bất ngờ. Xấu.

 5-6

 Thổ9-10

 Thuỷ5-6

 ThổKhông thể thành công, làm cho người hưởng, hoàn cảnh không an ổn, dễ bị bệnh tim, thần kinh. Xấu.

 5-6

 Thổ9-10

 Thuỷ7-8

 KimKhông thể thành công, luôn bất mãn, vợ chồng chia lìa, nhiều bệnh tật. Xấu.

 5-6

 Thổ9-10

 Thuỷ9-10

 ThuỷKhông thể thành công, nhiều đổ vỡ trong cuộc sống, lắm bệnh tật, có thể giàu nhanh nhưng không bền. Xấu.

 7-8

 Kim1-2

 Mộc1-2

 MộcKhông thể thành công, nhiều việc bất mãn, bị bệnh thần kinh, hôn nhân đổ vỡ. Xấu.

 7-8

 Kim1-2

 Mộc3-4

 HoảGặp nhiều tai hoạ, vì bất đắc chí mà phát điên chết sớm. Xấu.

 7-8

 Kim1-2

 Mộc5-6

 ThổGặp nhiều tai hoạ, luôn bất mãn, bị bệnh thần kinh, hô hấp, gia đình bất hoà, đổ vỡ. Xấu.

 7-8

 Kim1-2

 Mộc7-8

 KimKhông thành công, quá vất vả mà sinh bệnh tật về thần kinh, luôn bất mẵn, buồn phiền. Xấu.

 7-8

 Kim1-2

 Mộc9-10

 ThuỷKhông thể thành công, hay gặp trở ngại, bệnh tật triền miên, thậm chí bị bệnh nan y mà yếu chết. Xấu.

 7-8

 Kim3-4

 Hoả1-2

 MộcKhông thể thành công, luôn bất mãn, bị bệnh thần kinh dẫn tới tự sát. Xấu.

 7-8

 Kim3-4

 Hoả3-4

 HoảKhông thể thành công, luôn gặp trở ngại, bị bệnh phổi, thần kinh thậm chí phát điên. Xấu.

 7-8

 Kim3-4

 Hoả5-6

 ThổKhông thành công, hoàn cảnh tuy yên ổn nhưng bệnh tật đau ốm triền miên. Xấu.

 7-8

 Kim3-4

 Hoả7-8

 KimKhông thành công, gia đình ly tán, dễ bị bệnh lao phổi, điên. Xấu.

 7-8

 Kim3-4

 Hoả9-10

 ThuỷKhông thể thành công, bị bệnh thần kinh, điên cuồng chết yểu. Xấu.

 7-8

 Kim5-6

 Thổ1-2

 MộcTuy có thành công nhưng không bền, dễ bị bệnh đường tiêu hoá, vợ chồng bất hoà. Trung bình kém.

 7-8

 Kim5-6

 Thổ3-4

 HoảCó thành công bất ngờ do may mắn, hoàn cảnh an ổn nhưng hay bệnh tật ốm đau. Trung bình khá.

 7-8

 Kim5-6

 Thổ5-6

 ThổThành công lớn, phát triển thuận lợi, phú quí song toàn, sức khoẻ tốt, sống lâu. Tốt.

 7-8

 Kim5-6

 Thổ7-8

 KimNhiều may mắn, thành công lớn, sức khoẻ tốt, gia đình thuận hoà hạnh phúc. Tốt.

 7-8

 Kim5-6

 Thổ9-10

 ThuỷThành công nhưng không bền, dễ gặp tai hoạ, hay bị thương. Xấu.

 7-8

 Kim7-8

 Kim1-2

 MộcTuy thành công nhưng hay bị kiện tụng, thị phi, thường bị tai hoạ bất ngờ, hôn nhân đổ vỡ. Xâu.

 7-8

 Kim7-8

 Kim3-4

 HoảThành công nhưng tính quá cứng rắn, dễ bị bệnh tim, thần kinh suy nhược, gặp hoạ chia ly. Xấu.

 7-8

 Kim7-8

 Kim5-6

 ThổNhiều may mắn, dễ thành công, sức khoẻ tốt, sống lâu hạnh phúc. Tốt.

 7-8

 Kim7-8

 Kim7-8

 KimTuy thành công nhưng tính quá cứng rắn dễ bị kiện tụng, gia đình bất hoà, chia rẽ, nhiều tai hoạ. Xấu.

 7-8

 Kim7-8

 Kim9-10

 ThuỷKhá thành công, hoàn cảnh thuận lợi, vì quá cương cường nên dễ bị công kích, về già cô độc. Xấu.

 7-8

 Kim9-10

 Thuỷ1-2

 MộcĐược hưởng phúc của tổ tiên nên dễ thành công, nhưng hôn nhân trục trặc hoặc dễ chết sớm. Xấu.

 7-8

 Kim9-10

 Thuỷ3-4

 HoảChỉ thành công trong thời gian ngắn, khắc vợ chồng, con cái bất hiếu, chết vì bệnh cấp tính. Xấu.

 7-8

 Kim9-10

 Thuỷ5-6

 ThổThành công nhanh, thất bại sớm, bệnh tật nhiều, tai hoạ lắm, chết sớm. Xấu.

 7-8

 Kim9-10

 Thuỷ7-8

 KimĐược nhiều người giúp đỡ, gặp nhiều may mắn dễ thành công, gia đình hạnh phúc. Tốt.

 7-8

 Kim9-10

 Thuỷ9-10

 ThuỷTuy nhờ may mắn mà thành công, nhưng không ổn định, khó bền lâu, hay biến đổi, nhiều tai hoạ. Xấu.

 9-10

Thuỷ1-2

 Mộc1-2

 MộcĐược nhiều người giúp đõ, thành công lớn, phú quí vinh hoa, sống lâu hạnh phúc. Tốt.

 9-10

Thuỷ1-2

 Mộc3-4

 HoảKhá thành công nhưng hôn nhân đổ vỡ, bệnh tật đau ốm triền miên. Trung bình khá.

 9-10

Thuỷ1-2

 Mộc5-6

 ThổĐược người trên nâng đỡ, gặp nhiều may mắn dễ thành công lớn, sống lâu, hạnh phúc. Tốt.

 9-10

Thuỷ1-2

 Mộc7-8

 KimTuy có thành công nhưng hoàn cảnh bất ổn, dễ gặp tai hoạ, lao tâm lao lực mà sinh bệnh. Xấu.

 9-10

Thuỷ1-2

 Mộc9-10

 ThuỷTuy thành công sớm nhưng về sau thất bại, nhiều bệnh tật, tai hoạ. Xấu.

 9-10

Thuỷ3-4

 Hoả1-2

 MộcKhông thành công, gặp nhiều tai hoạ, bị bệnh tim, thần kinh, bại liệt, chết sớm. Xấu.

 9-10

Thuỷ3-4

 Hoả3-4

 HoảKhông thể thành công, dễ gặp tai hoạ, vợ chồng ly tán. Xấu.

 9-10

Thuỷ3-4

 Hoả5-6

 ThổKhông thể thành công, luôn gặp bất hạnh, bệnh tật nhiều, gia đình ly tán. Xấu.

 9-10

Thuỷ3-4

 Hoả7-8

 KimKhông thể thành công, quá vất vả mà sinh bệnh khắc vợ ( chồng) con cái bất hiếu. Xấu.

 9-10

Thuỷ3-4

 Hoả9-10

 ThuỷKhông thể thành công, gặp nhiều trở ngại, dễ bị bệnh tim thần kin, thậm chí chết vì phát điên. Rất xấu.

 9-10

Thuỷ5-6

 Thổ1-2

 MộcKhó thành công, vất vả nhiều, hoàn cảnh bất ổn, dễ bệnh về phổi, dạ dày. Gia đình ly tán. Xấu.

 9-10

Thuỷ5-6

 Thổ3-4

 HoảTuy có thành công nhưng nhiều khó khăn, hoàn cảnh tốt, song sức khỏe kém, gia đình bất hoà. Xấu.

 9-10

Thuỷ5-6

 Thổ5-6

 ThổThường gặp nhiều trở ngại suốt cuộc đời, hoàn cảnh an ổn, bệnh về dạ dày hoặc tai hoạ nhanh chóng.

 9-10

Thuỷ5-6

 Thổ7-8

 KimKhông thể thành công, quá vất vả mà sinh bệnh tật nhiều tai hoạ bất ngờ. Xấu.

 9-10

Thuỷ5-6

 Thổ9-10

 ThuỷKhó thành công, hoàn cảnh xấu, tai hoạ nhanh chóng, thường bị bệnh cấp tính. Xấu.

 9-10

Thuỷ7-8

 Kim1-2

 MộcTuy có thể phát triển thuận lợi, nhưng không bền, khắc vợ chồng hoặc bị thương, nguy đến tính mạng. Xấu.

 9-10

Thuỷ7-8

 Kim3-4

 HoảThành công nhưng không bền, quá vất vả mà bị lao lực, lao tâm. Xấu.

 9-10

Thuỷ7-8

 Kim5-6

 ThổThành công dễ dàng nhưng dễ bị kiện tụng, nói xấu, công kích, vì tính tình cố chấp mà chuốc hoạ vào thân.

 9-10

Thuỷ7-8

 Kim7-8

 KimThành công nhưng không bền, ý chí bạc nhược. Xấu.

 9-10

Thuỷ7-8

 Kim9-10

 ThuỷCó thể gặp thành công nhưng không bền, thường gặp tai hoạ khôn lường. Xấu.

 9-10

Thuỷ9-10

 Thuỷ1-2

 MộcThành công lớn nhưng dễ rơi vào cảnh sa hoa phung phí quá độ, gia đình bất hoà, sức khoẻ kém. Xấu.

 9-10

Thuỷ9-10

 Thuỷ3-4

 HoảNgười phóng đãng, bệnh tật đau ốm, tai hoạ bất ngờ, cuối đời cô độc nghèo hèn, chết sớm. Xấu.

 9-10

Thuỷ9-10

 Thủy5-6

 ThổThành công ngắn ngủi, vì quá phóng túng mà thất bại, hoàn cảnh xấu, tai hoạ bất ngờ, hôn nhân đổ vỡ. Xấu.

 9-10

Thuỷ9-10

 Thuỷ7-8

 KimThành công lớn, có đủ danh lợi song thường chết sớm hoặc suốt đời bôn tẩu không lúc nào an ổn. Xấu.

 9-10

Thuỷ9-10

 Thuỷ9-10

 ThuỷNgười phóng đãng luôn dịch chuyển, tính tình thất thường, cô độc, bệnh tật. Xấu.

Đặc điểm của người có Số Lý, Ngũ hành, Tam tài đồng nhất:

Tam tài Thiên, Địa, Nhân cách cùng là:

Âm – Dương Mộc:

Người tính tình ôn hoà, bình dị, có quan hệ tốt với mọi người, có tinh thần quật cường bất khuất, nỗ lực phấn đấu không ngừng. Tiên thiên Ngũ hành không nên có Mộc. Nữ có số này dễ cô độc. Người có số này nên có Tiên thiên Ngũ hành là Kim thì rất tốt.

Âm – Dương Hoả:

Người tính tình nóng nảy, hiếu động, thiếu nhẫn nại, tài trí mưu lược nhưng thiếu kiềm chế. Luôn cố chấp, ngang ngạnh, bất mãn nên dễ chuốc thất bại; sức chịu đựng kem. Nếu có Tiên thiên Ngũ hành là Thủy thì tốt.

Âm – Dương Thổ:

Người có tính tình hay thay đổi, thất thường, dễ thân mật mà cũng dễ xa cách. Nếu có Tiên thiên Ngũ hành là Mộc thì tốt.

Âm – Dương Kim:

Người có tính cương cường, háo danh, cố chấp, cuộc đời gặp nhiều tai hoạ. Nếu có Tiên thiên Ngũ hành là Hoả thì tốt.

Âm – Dương Thuỷ:

Người thiếu ổn định, thích đi lại, hoạt động nhiều, có thể lập sự nghiệp lớn, có thể là vĩ nhân, anh hùng nhưng đa số là bất mãn, bất đắc chí, tai hoạ bệnh tật. Nếu có Tiên thiên Ngũ hành là Thổ thì tốt.

BIẾT TÍNH NGƯỜI

TÍNH CÁCH CỦA NGƯỜI TUỔI TÝ:

Người tuổi Tý rất bộc trực, thành thật nhưng mọi cử chỉ, lời nói của họ đều khiến ta có cảm giác đó là người cẩn thận chặt chẽ. Họ nỗ lực làm việc, sống tiết kiệm, họ không cho ai bất cứ thứ gì trừ phi đó là người họ rất quí mến. Giá như bạn có thể lấy được của người tuổi Tý một vật quí giá, thì sự đánh giá của họ với bạn ắt phải tương đương với giá trị của vật đó. Về bề ngoài, người tuổi Tý luôn lộ vẻ trầm mặc ít lời, nhưng sự thực lại trái ngược, họ rất dễ bị kích động, song họ lại khả năng tự chủ rất cao. Người tuổi Tý thường là người phóng khoáng, vui vẻ, thích và giỏi giao thiệp. Họ thích kết bạn, thích hội hè, thích những nơi đông vui náo nhiệt. Họ rất quí trọng những mối quan hệ của mình với người. Một ông chủ, lãnh đạo tuổi Tý luôn quan tâm đến nhân viên của mình, họ quan tâm xem nhân viên có làm việc hăng say không, quan tâm xem nhân viên có ăn uống và nghỉ ngơi hợp lý hay không. Khi nhân viên của họ ốm đau, bệnh tật, họ sẽ ân cần thăm hỏi. Nhưng khi nói đến chuyện tăng lương hoặc giờ nghỉ cho nhân viên hoặc người làm công, thì một ông chủ tuổi Tý sẽ khéo léo né tránh hoặc phớt lờ rồi quên luôn. Muốn ký kết hợp đồng với người tuổi Tý thì bạn sẽ phải bàn bạc, đàm phán nhiều lần mới có thể đi đến thoả thuận. Dưới quyền một ông chủ tuổi Tý, không nhân viên nào có thể trễ nải hoặc trốn việc được. Ông chủ tuổi Tý luôn năng động, luôn tìm ra được một việc làm vào bất kỳ lúc nào cho nhân viên. Một người nữ tuổi Tý luôn khiến bạn bè ngạc nhiên về tính chi ly, tiết kiêm, đôi lúc hà tiện của họ, nhưng nếu đó là vật thực sự cần thiết thì họ cũng không hề tiếc tiền để mua. Bản tính người nữ tuổi Tý là luôn giữ kín bí mật của mình, song họ lại là chuyên gia trong lĩnh vực tìm tòi bí mật của người khác. Họ có thể sử dụng những bí mật đó để đưa người khác vào chỗ chết. Tóm lại họ không hề bỏ qua bất kỳ cơ hội thăm dò tin tức nào dù là nhỏ nhất. Đối với mọi vấn đề họ luôn cố nắm bắt và hiểu biết khá sâu sắc, tinh tế. Vì người tuổi Tý là người rất chăm chỉ và tiết kiệm nên họ không ưa những kẻ lười biếng và hoang phí. Họ còn là người luôn ra sức kiềm chế không biểu lộ tình cảm ra ngoài, cho nên khi nào bạn thấy họ dễ nổi nóng hay vô lễ thì hẳn là lúc ấy họ đang rất buồn bực. Người tuổi Tý thích phê phán, châm biếm người khác, đôi lúc họ lại quá nhiều lời, khi mua bán họ là người hay “ cò kè bớt một thêm hai”. Người tuổi Tý có trí nhớ rất tốt, họ ghi nhớ từng con người, từng sự kiện xung quanh họ, họ thích đặt câu hỏi và tự trả lời cho câu hỏi đó, đây cũng là một thú vui trong cuộc sống của họ. Do đó, người tuổi Tý dễ trở thành một nhà văn, nhà báo giỏi. Người tuổi Tý làm bất kỳ nghề gì, việc gì cũng đều gặt hái được thành quả nhất định. Họ có khả năng khắc phục khó khăn, sáng tạo, tuỳ cơ ứng biến cao. Họ là người có trực giác bén nhạy, có tầm nhìn xa trông rộng, có năng khiếu kinh doanh buôn bán. Với người tuổi Tý, khó khăn khiến họ càng trưởng thành hơn. Trong bất kỳ tình huống nguy hiểm nào, người tuổi Tý cũng có một đường rút lui tối ưu. Họ là người thận trọng, thường chọn những phương án ít mạo hiểm nhất. Người tuổi Tý có một điểm yếu là quá tham công tiếc việc nên dễ dẫn tới tình trạng suy nhược về sức khoẻ. Tuy vậy họ lại là người có năng lực dự đoán nguy hiểm, nên họ sẽ biết dừng đúng lúc trước khi tình trạng tồi tệ nhất xảy ra. Người tuổi Tý là người luôn kính trên nhường dưới, họ luôn quan tâm, chăm sóc trẻ nhỏ, và luôn tin tưởng những người trên mình. Một người con tuổi Tý luôn đáp ứng những điều mong muốn và khoan dung những sai lầm của cha mẹ. Một người mẹ tuổi Tý rất nuông chiều con cái của mình. Một người vợ tuổi Tý luôn quan tâm giúp đỡ chồng trong mọi việc. Một người chồng tuổi Tý rất thích làm những việc giúp đỡ vợ, con trong gia đình. Người tuổi Tý dễ bị người tuổi Sửu hấp dẫn, họ thấy người tuổi Sửu là chỗ dựa đáng tin cậy của mình. Họ thấy người tuổi Thì là người hoà nhã, họ phát hiện người tuổi Tỵ còn đa nghi hơn chính họ và thấy người tuổi Tỵ có thể là người hợp tác tốt, người tuổi Tý luôn có xung đột với người tuổi Ngọ bởi người tuổi Ngọ luôn cô độc. Người tuổi Tý cũng không ưa người tuổi Dậu bởi tính thiếu thực tế.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI SỬU:

Người tuổi Sửu tượng trưng cho sự cần cù, phải luôn nỗ lực vượt bực mới gặt hái được thành công. Họ là người nhẫn nại, làm việc không biết mệt. Rất khó làm họ thay đổi quan điểm, ý kiến của mình, bởi họ là người rất cố chấp, bảo thủ. Người tuổi Sửu luôn bình ổn, thận trọng, họ thường được lãnh đạo tín nhiệm. Nhưng họ có điểm yếu là dễ ngủ quên trong chiến thắng. Tuy bề ngoài mềm mỏng, chất phác song họ là người rất cứng rắn và rất thông minh, nhanh nhẹn. Dù là người hướng nội nhưng khi cần thiết họ vẫn có thể trở thành một nhà hùng biện xuất sắc, trong lúc hỗn loạn, họ luôn bình tĩnh xử lý và lập lại trật tự. Người tuổi Sửu tôn trọng quan niệm truyền thống, kiên trì giữ một mẫu mực cố định nào đó nên người khác dễ dàng đoán được hành động của họ. Khi làm một việc gì, họ đều dựa vào ý chí và tinh thần xả thân để hoàn thành việc đó. Người tuổi Sửu là người trọng chữ tín và không thích bỏ dở việc gì nửa chừng. Vì người tuổi Sửu là người theo chủ nghĩa truyền thống nên quá trình tìm hiểu dẫn tới hôn nhân của họ chắc chắn sẽ rất dài. Quan hệ của họ, phải rất lâu sau người khác mới biết, và tới lúc ấy đôi bên mới có thể biểu hiện cảm tính chân thực của mình. Người tuổi Sửu nói được là làm được, họ không ưa việc nợ nần. Khi buộc phải thiếu nợ hay cho vay, họ luôn nhớ chính xác con số, thời hạn trả nợ và yêu cầu người khác cũng vậy. Trong gia đình họ là người gia trưởng, biết phải hạ lệnh thế nào và làm sao để khiến người khác phải tuân theo. Dù họ rất yêu mến và tự hào về gia đình mình, song họ lại có yêu cầu rất cao đối với các thành viên trong nhà. Người tuổi Sửu rất thực tế, không để tình cảm xen vào công việc, họ cũng là người năng khiếu chỉ huy, lãnh đạo, biết dùng kỷ luật để trói buộc người khác, thường có phong độ của một quân nhân nên họ không thích hợp với công tác ngoại giao hay những công việc có quan hệ tế nhị. Là người thẳng thắn, công bình, người tuổi Sửu không hề muốn dùng thủ đoạn để đạt mục đích. Một người chủ gia đình tuổi Sửu sẽ rất gia trưởng, võ đoán, họ đặt ra qui củ và không cho ai phản đối. Do bản tính nghiêm túc, họ sẽ dạy con cái đến nơi đến chốn và là một người cha gương mẫu không rượu chè, cờ bạc. Một người vợ tuổi Sửu sẽ luôn quan tâm chăm sóc từng miếng cơm manh áo cho chồng, đó là người vợ lý tưởng. Một người bạn tuổi Sửu luôn trung thành, hay giúp đỡ người khác. Người tuổi Sửu không ưa những nơi hội hè đình đám nên họ có khuynh hướng kết bạn với những người tuổi Tuất, Hợi. Tóm lại người tuổi Sửu luôn dựa vào ý chỉ và nỗ lực của bản thân để làm việc, họ là người có tính kỷ luật và nguyên tắc cao nên không thích lối sống thực dụng phóng túng.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI DẦN:

Người tuổi Dần tượng trưng cho sự quyền uy và tính liều lĩnh, thích mạo hiểm, họ luôn là trung tâm khiến mọi người phải chú ý. Họ thích làm những việc động trời để khiến mọi người phải chú ý tới. Người tuổi Dần có tính tập trung cao, khi họ đã làm việc gì thì họ quên hết mọi thứ xung quanh, và luôn đem hết cả sức lực và tinh thần ra mà hành sự. Người tuổi Dần tình cảm phong phú nên khi còn trẻ họ thường có lối sống khá lập dị, ưa thích hoạt động, ham bay nhảy, du lịch đó đây. Một người nữ tuổi Dần là người rất có duyên, họ hoạt bát linh lợi, có thiện ý, thanh lịch, cử chỉ và lời nói của họ đều được người khác yêu mến, tán thưởng. Người nữ tuổi Dần có năng lực biểu đạt cao, họ thích sáng tác, thích mặc đẹp. Khi một ai đó làm trái ý hay gây hại cho một người tuổi Dần thì người đó hãy cẩn thận, bởi người tuổi Dần có tính thù dai, lòng oán hận có thể khiến họ làm bất kỳ việc gì, dùng bất kỳ thủ đoạn nào để đạt mục đích. Cuộc đời người tuổi Dần khá thăng trầm khi lên voi lúc xuống chó, bởi lúc nào họ cũng cảm thấy bất mãn, không vừa ý với chính mình. Người tuổi Dần kết bạn với một người tuổi Hợi chắc chắn sẽ tốt, bởi người tuổi Hợi luôn điềm đạm từ tốn, họ sẽ bổ túc và kiềm chế bớt tính nóng nảy và đem lại sự quân bình an ổn cho người tuổi Dần. Người tuổi Dần sẽ cảm thấy tâm đầu ý hợp với người tuổi Tỵ bởi cả hai đều rất đa nghi, song người tuổi Tỵ lại ôn hoà và thận trọng trong khi người tuổi Dần nóng nảy và liều lĩnh. Đối nghịch với họ là người tuổi Thân, người tuổi Thân nhanh nhẹn, tháo vát, thông minh, lắm mưu kế khiến người tuổi Dần khó lường được hậu quả, nên họ thường phải nếm mùi đau khổ khi đối đầu với người tuổi Thân.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI MÃO:

Người tuổi Mão ôn hoà, mềm mỏng, chuộng hoà bình, cử chỉ và lời nói luôn nhã nhặn thanh lịch. Với bề ngoài hoà nhã, nên người ta dễ hiểu lầm về bản chất của người tuổi Mão, thực ra họ là người có ý chí kiên cường bất khuất, lòng tin kiên định bất di bất dịch. Người tuổi Mão đã theo đuổi điều gì thì theo đuổi tới cùng, họ có năng khiếu về khoa học xã hội và chính trị. Một phụ nữ tuổi Mão luôn hiền dịu, đảm đang, thông minh, thích giúp đỡ người khác mà không chút tư lợi. Họ luôn thông cảm được với nỗi đau khổ ấy. Người nữ tuổi Mão rất thích ăn diện, họ có thể ngồi hàng giờ để trang điểm. Người tuổi Mão nói chung không thích tranh đấu, họ ưa lối sống an nhàn, bình ổn, ít thăng trầm. Tuy họ đối xử khá tốt với bạn bè và đồng sự, nhưng họ lại giữ khoảng cách khác xa với người thân, đôi khi không thích có gia đình, không thích gánh vác trách nhiệm trong gia đình. Người đàn ông tuổi Mão rất ân cần, lịch sự, lời nói và cử chỉ luôn hoà nhã, người ta luôn khâm phục sự thông minh cơ trí và nghe theo lời khuyên bảo của người tuổi Mão. Vì rất tự tin nên họ luôn cho mình là đúng, đôi khi dẫn tới tình trạng chủ quan quá mức. Vì là người an phận, không thích mâu thuẫn, xung đột cho nên đôi lúc họ sẽ trở thành kẻ nhu nhược, cơ hội. Trong cuộc sống họ không có lý tưởng cao lắm, chỉ cần lúc nào mình cũng an toàn là được. Người tuổi Mão sẽ là một người bạn rất tốt nếu như bạn không quá xen vào chuyện riêng của họ. Họ không thích người tuổi Dần, bởi tính bạo động ưa tranh đấu, không ưa người tuổi Dậu bởi tính khoác lác, khoe khoang, không tán thưởng người tuổi Ngọ bởi tính hay thay đổi. Tóm lại, người tuổi Mão sẽ vượt qua mọi trở ngại trên đường đi để vươn tới đích. Họ là người không thích cuộc sống gia đình, nhưng khi cần họ vẫn có thể hoà nhập với mọi người. Trong cuộc sống họ luôn tìm mọi cách né tránh xung đột, mâu thuẫn, nhưng trong trường hợp bất đắc dĩ họ vẫn có biện pháp thích đáng để bảo vệ quyền lợi của mình. Người tuổi Mão cũng là người rất tự tin vào năng lực cùng trí tuệ của mình. Họ là người dễ dàng tìm được hạnh phúc và sự đầy đủ.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI THÌN:

Người tuổi Thìn nóng nảy, gấp gáp, cuồng nhiệt và luôn chứa đầy khát vọng cao xa. Họ rất thích làm những việc lớn, quan trọng, họ luôn coi mình là nhân vật trung tâm, dù họ có võ đoán, yêu cầu quá cao, nhưng vẫn có nhiều người tôn sùng họ. Tuy là người tự cao tự đại, song với người trên họ luôn hiếu thuận. Bất luận họ có xung đột gì với gia đình, chỉ cần gia đình cần có sự giúp đỡ thì họ sẽ giúp đỡ ngay, bởi người tuổi Thìn ít khi để tình cảm xen vào công việc. Họ rất thẳng thắn, luôn đi thẳng vào vấn đề mà chẳng cần rào trước đón sau, công khai biểu lộ quan điểm của mình, họ là người không bao giờ ân hận về những gì mình đã làm. Người nữ tuổi Thìn thích tranh đấu, thích tham gia hoạt động trong những lĩnh vực không hợp với nữ giới, họ luôn đòi quyền bình đẳng nam nữ. Người nữ tuổi Thìn ít khi xem trọng việc ăn mặc đẹp đẽ, họ không cần hình thức đẹp đẽ mà chỉ cần nội dung, tâm hồn phong phú. Tuy người tuổi Thìn võ đoán, nóng nảy, cứng rắn và có yêu cầu quá cao, nhưng họ lại rất độ lượng khoan dung, khi không vừa ý họ liền nói thẳng, chứ không để bụng hại ai cả. Người tuổi Thìn là con người của công việc, họ thích sống độc thân, không thích sự ràng buộc trong bất kỳ phương diện nào. Người tuổi Thìn rất tự tin, trong cuộc sống họ luôn tỏ ra là người có khả năng gánh vác những trách nhiệm to lớn. Người tuổi Thìn nếu quan hệ với người tuổi Thân, Tý thì họ sẽ là một liên minh thành công rực rỡ và bất khả chiến bại. Người tuổi Thìn kết hợp vớ người tuổi Tỵ sẽ rất có lợi bởi người tuổi Tỵ luôn làm việc bằng đầu óc, trí tuệ và giúp ích nhiều trong việc giúp người tuổi Thìn tu tâm.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI TỴ:

Người tuổi Tỵ có thể trở thành một nhà triết học hoặc thần học, hoặc một nhà chính trị lớn. Họ thường dựa vào trí tuệ và sự phán đoán chính xác của mình để hành sự, không chấp nhận bất kỳ lời khuyên của bất cứ ai khác. Người tuổi Tỵ là người rất đa nghi dù bề ngoài luôn tỏ vẻ tin tưởng tuyệt đối. Họ còn là người bất chấp thủ đoạn để đạt được mục đích. Người tuổi Tỵ vốn thông minh nên họ rút kinh nghiệm rất nhanh và không bao giờ bị thất bại đến lần thứ hai. Tuy vậy, họ lại là người cực đoan, điều gì họ đã cho là đúng thì họ sẽ không nhường một ai cả. Trong quan hệ xã hội, họ luôn biểu hiện ý muốn chiếm hữu và yêu cầu rất cao đối với người khác. Người tuổi Tỵ rất thích lối thể hiện ngược, đó là dù trong lòng cực kỳ giận dữ nhưng ngoài mặt lại rất thản nhiên, lạnh lùng. Họ thích biểu lộ sự bất mẵn bằng thái độ, cử chỉ lạnh nhạt hơn là dùng lời nói chua cay, họ sẽ âm thầm chờ đợi thời cơ để báo thù. Tóm lại, người tuổi Tỵ là người thông minh kiệt xuất, luôn thích lối thể hiện ngược với cảm xúc trong lòng, họ còn là người có ý chí kiên cường, tham vọng to lớn, một khi đã theo đuổi việc gì thì họ sẽ làm tới cùng và đôi khi bất chấp mọi thủ đoạn để đạt mục đích của mình. Người tuổi Tỵ có thể kết hợp với người tuổi Sửu mạnh mẽ, người tuổi Dậu can đảm hoặc người tuổi Thìn dũng mãnh. Họ cũng nên tránh xung đột với người tuổi Dần hoặc tuổi Ngọ. Người tuổi Thân thì nên quan hệ vừa phải, bởi người tuổi Thân chính là khắc tinh của người tuổi Tỵ. Với trí tuệ bẩm sinh và lý tưởng cao xa, người tuổi Tỵ có thể đạt được quyền lực tối cao.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI NGỌ:

Người tuổi Ngọ thích phóng khoáng, đầu óc nhanh nhẹn, dễ đam mê và cũng mau chán. Họ là người sớm rời xa gia đình. Họ là người có tinh thần độc lập cao nên sớm lập được sự nghiệp cho riêng mình. Họ có lòng tự tinh cao, đối nhân xử thế tốt. Người tuổi Ngọ thích cách hoạt động rèn luyện về trí tuệ và thể chất. Nhược điểm của người tuổi Ngọ là tính tình nóng nảy, gấp gáp, cố chấp, họ khó lòng nhận ra sai lầm và sửa chữa sai lầm đó trong thời gian ngắn. Người tuổi Ngọ luôn mưu cầu sự tự do và hạnh phúc trong cuộc sống và họ sẽ cố gắng hết sức mình để đạt được điều đó mà chẳng cần nhờ cậy vào ai, vào cái gì? Người tuổi Ngọ dễ đam mê và cũng mau chán, khi hành sự họ thường dựa vào trực giác bén nhạy của mình, nên đôi khi họ đi ngược với lẽ thường tình, người không hiểu thì nói rằng họ là người tiền hậu bất nhất. Người tuổi Ngọ rất khó thích ứng với thời gian biểu cố định, họ thiếu tính nhẫn nại khi phải theo một khuôn khổ nào đó, do vậy người tuổi Ngọ hợp với những công việc có tính năng động, bất thường. Trong những công việc khó khawc, họ luôn tìm ra phương cách tối ưu, đạt hiệu quả cao nhất. Người tuổi Ngọ giao thiệp rộng, nhiều bạn bè, song họ ít khi cần hoặc nhờ vào sự giúp đỡ của bạn bè. Người nữ tuổi Ngọ là người ham hoạt động và cùng một lúc thực hiện nhiều hoạt động khác nhau, họ là người lúc nào cũng bận rộn vì công việc. Tóm lại người tuổi Ngọ là người ưa thích sự đổi mới, ham hoạt động, thích độc lập, khó thích ứng với công việc có tính vô định và nhàm chán.

TÍNH CÁCH CỦA NGƯỜI TUỔI MÙI:

Người tuổi Mùi chính trực, hiền lành và dễ cảm thông được với nỗi khổ của người khác. Họ thường là những nhà nghệ thuật và làm những việc có tính sáng tạo. Là người vị tha, độ lượng nên họ dễ tha thứ cho sai lầm của người khác, hiểu và thông cảm cái lý của người khác. Họ không thích sự bó buộc, và cũng ít khi phê bình người khác. Người tuổi Mùi là người đa sầu đa cảm nên khi gặp phải khó khăn họ luôn bị quan và đau khổ. Họ sợ trách nhiệm nên ít khi dám quyết đoán một việc gì, hay trù trừ do dự nên có thể để vuột cơ hội, dịp may hơn. Người nữ tuổi Mùi thích ăn mặc đep, họ có thể tốn hàng giờ để trang điểm hoặc chọn lựa y phục. Họ là một người nội trợ đảm đang, khéo léo. Người tuổi Mùi có thể dùng sự thông minh khéo léo để bổ khuyết nhược điểm yếu đuối, nhu nhược của họ. Họ giỏi sử dụng những phương cách uyển chuyển kheó léo, chiến thuật mềm dẻo khiến người khác mềm lòng. Là người có bản chất lương thiện và luôn chia sẻ cảm thông với nỗi khổ của người khác nên người tuổi Mùi vẫn được mọi người yêu mến. Người tuổi Mùi không thích sự thay đổi và sự xung đột nên họ luôn né tránh những cuộc tranh luận, giữ quan hệ tốt với mọi người. Người tuổi Mùi khó thích ứng với công việc có tính trách nhiệm cao, hoặc việc cần có sự quyết đoán, giải quyết nhanh chóng. Tính cách của người tuổi Mùi hợp với tính thẳng thắn của người tuổi Hợi, và tính ôn hoà, nho nhã của người tuổi Mão. Họ khó chịu với tính cố chấp bảo thủ và quan niệm truyền thống của người tuổi Sửu, tính cặn kẽ, chi li của người tuổi Tý, tính cuồng nhiệt của người tuổi Dần, tính lạnh lùng của người tuổi Tỵ.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI THÂN:

Người tuổi Thân thông minh, nhanh nhẹn, tháo vát, hoạt bát, bất cứ hoạt động trong lĩnh vực nào họ cũng đều đạt được những thành quả to lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực phát minh, ngôn ngữ học. Và họ ít khi gặp đối thủ ngang sức ngang tài. Nhược điểm của người tuổi Thân là họ luôn cảm thấy mình tài giỏi, ưu việt hơn người nên đôi khi dẫn đến chủ quan thái quá và gặp phải thất bại cay đắng. Người tuổi Thân ưa tranh đấu nhưng họ lại giỏi che giấu suy nghĩ cùng kế hoạch hành động của mình, khiến đối phương thường bị bất ngờ. Người tuổi Thân đa tài đa nghệ, họ có thể làm được bất cứ ngành nghề gì như diễn viên, nhà văn, nhà ngoại giao, luật sự, vận động viên... Họ là những nhà hoạt động xã hội xuất sắc. Tính cách đặc trung của người tuổi Thân là tính kiên định, dù có phải đối mặt với tình thế khó khăn nguy hiểm tới đâu họ cũng không hề dao động và luôn giải quyết nhanh chóng và hợp lý. Người tuổi Thân luôn tìm những việc tốn ít sức lực, tiền của nhất mà lại thu lợi được nhiều nhất để làm, họ để lộ những ý kiến quá thông minh xuất sắc mà thiếu phần khéo léo khiến người ta nghi ngờ rằng họ có ý đồ vụ lợi. Đôi khi họ cũng thừa nhận điều này, nói chung họ là người sòng phẳng. Người tuổi Thân hợp với người tuổi Tý, Thìn. Người tuổi Tỵ lại không ưa họ bởi tính cách người tuổi Thân khá giống, người tuổi Dần cũng không thích người tuổi Thân, họ luôn xung đột nhau.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI DẬU:

Người tuổi Dậu bảo thủ, câu nệ, cố chấp. Họ có bề ngoài đẹp đẽ nên luôn cao ngạo về điều này. Ưu điểm của người tuổi Dậu là người tài giỏi, chịu khó, có năng lực tổ chức cao, thẳng thắn, trung thực, làm việc dứt khoát quyết đoán. Nhược điểm của người tuổi Dậu la ưa tranh luận mà bất chấp người khác có cảm giác thế nào. Họ luôn cho rằng mình đúng và không thừa nhận bất kỳ một khuyết điểm nào. Song dù như thế nào thì mọi người vẫn yêu mến họ bởi tính cần cù, chịu khó. Trong lĩnh vực kinh tế họ là nhà quản lý có tài, họ biết làm sao để cân đối các khoản thu chi một cách đúng đắn nhất. Người tuổi Dậu là người cầu toàn, luôn mưu cầu sự tân thiện tân mỹ. Họ khá nhạy cảm với các vấn đề có tính lý luận, khi xử lý, giải quyết một vấn đề nào đó họ luân hành động theo một khuôn khổ định sẵn. Cũng chính vì thế mà khi gặp bất kỳ một điều gì ngoài dự định họ đều lúng túng, thậm chí không thể xử lý được. Phụ nữ tuổi Dậu luôn là người thực tế, cần cù chăm chỉ, chịu khó và hay giúp đỡ mọi người, họ là người vợ đảm đang, người mẹ dịu hiền. Người tuổi Dậu thích được người ta khen ngợi, khoa trương. Khi bị một ai đó phê bình, họ sẽ dùng đủ mọi cách phản bác, không thừa nhận sai lầm của mình. Người tuổi Dậu hợp với người tuổi Tý, tuổi Sửu, xung khắc với người tuổi Mão, đối nghịch với người tuổi Tỵ.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI TUẤT:

Người tuổi Tuất là người thẳng thắn, trung thực công bằng hào hiệp, cần cù hiếu học. Khi có việc xung đột mâu thuẫn họ thường có thái độ muốn giải quyết vấn đề chứ không hận thù. Họ không phải là người theo chủ nghĩa thực dụng, vật chất, họ luôn dung hoà được hai sự việc sự vật mâu thuẫn, đối lập nhau, trong bất kỳ việc gì họ vẫn vừa có thể thực hiện lý tưởng vừa có thể thu hoạch lợi ích vật chất. Họ là người có tinh thần tập thể cao, luôn đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân. Họ cũng là người khá đa nghi nhưng họ sẽ không tuỳ ý phê phán mà không có căn cứ vững chắc. Người tuổi Tuất không chú trọng đến tiền bạc nhưng khi họ cần thiết không một ai có đủ năng lực kiếm tiền như họ. Người tuổi Tuất thoát ly gia đình rất sớm, họ dựa vào sự phấn đấu không ngừng và tài năng của chính mình để đạt được mục đích. Một khi họ đã quyết định thì khó có một ai, một thế lực nào có thể ảnh hưởng được tới họ. Phụ nữ tuổi Tuất có năng lực tư duy cao, thông minh hoạt bát. Họ ưa thích các hoạt động xã hội. Họ đối đãi nhiệt tình, luôn quan tâm đến người khác, hy sinh lợi ích của mình cho lợi ích chung. Người tuổi Tuất là người biết kiềm chế mình, điều này khiến họ luôn đạt được thành công trong các công việc như cố vấn, nhà tâm lý hoặc mục sư. Người tuổi Tuất luôn phát sinh mâu thuẫn với người tuổi Dậu và luôn đối đầu với người tuổi Thìn.

TÍNH CÁCH NGƯỜI TUỔI HỢI:

Người tuổi Hợi không thích sự gò bó, câu thức; tính họ trầm ổn, cương nghị, lương thiện, chất phác; họ không nề hà, ngại khó và luôn dốc hết sức mình để hoàn thành công việc, do vậy họ luôn được mọi người tín nhiệm và giao phó cho những công việc quan trọng. Người tuổi Hợi là người an phận không thích tranh đấu, chỉ khi bị bức bách đến đường cùng, họ mới phản kháng. Họ luôn trân trọng tình bạn, trung thành với bạn dù có thể họ bị thiệt hại. Họ thích các cuộc vui, các buổi tiệc tùng náo nhiệt. Người tuổi Hợi khá chú trọng đến hình thức bên ngoài dù không lấy đó là mục đích chính. Một người bạn tuổi Hợi luôn muốn giúp đỡ tương trợ khi bạn gặp khó khăn, dù cho đó là sai lầm của bạn thì người tuổi Hợi vẫn không hề có ý trách cứ mà vẫn dốc sức giúp đỡ, và còn tìm thêm nhiều người khác giúp đỡ bạn thoát khỏi cảnh khó khăn. Phụ nữ tuổi Hợi là người dịu dàng, mềm mỏng, họ luôn sắp đặt nhà cửa gọn gàng, sạch sẽ. Tuy vậy họ là người có cá tính mạnh, luôn tôn trọng mình. Họ luôn giúp đỡ người khác mà không cần người trả ơn. Người tuổi Hợi cũng là người dễ tin vào lời nói và việc làm của người khác. Do vậy họ dễ bị kẻ xấu lừa gạt, lợi dụng. Trong thực tế, người tuổi Hợi là người theo chủ nghĩa vật chất, song họ luôn thích chia sẻ những gì mình có cho người khác. Bề ngoài tuy họ dễ bị lừa, nhưng trên thực tế họ lại thông minh hơn người ta tưởng. Họ luôn bảo vệ được lợi ích của mình mà không làm mếch lòng ai cả. Người tuổi Hợi có thể chung sống hoà mình và hạnh phúc với người tuổi Mão, tuổi Mùi, có thể hợp tác với người tuổi Tý, Sửu, Thìn, Ngọ, Tuất, và luôn thua kém, thất bại, chịu thiệt thòi trước người tuổi Tỵ, Dần, Thân.

BIẾT ĐỊA CHÍ

BÍ QUYẾT HOẠ PHÚC THỜI GIAN CHÀO ĐỜI:

Người xưa cho rằng ai sinh ra vào thời gian nào thì có liên quan mật thiết đến đặc tính của một loài động vật nhất định, hẳn là xuất phát từ chỗ con người cũng là một loài động vật, nhưng đã là động vật cao cấp nhất. Từ đó xuất hiện khái niệm mà dân gian vẫn gọi là “cầm tinh”. Có thể nói bất kỳ một người nào cũng đều biết mình cầm tinh con gì, bởi lẽ một đứa bé khi vừa có trí nhớ, người lớn đã nói cho biết nó cầm tinh con gì, nghĩa là sinh ra vào năm, tháng, ngày, giờ nào. Song cầm tinh con gì, có ý nghĩa ra sao, mạng vận thế nào, thì không mấy ai hiểu rõ.

NGƯỜI SINH NĂM TÝ ( Cầm tinh con chuột):

HOẠ PHÚC CỦA NGƯỜI SINH NĂM TÝ TUỲ THEO NĂM:

Tuổi Tý gặp năm Tý, tài lợi hưng vượng, công việc gặp nhiều may mắn, thắng lợi vang dội.

Tuổi Tý gặp năm Sửu, vui vẻ, may mắn.

Tuổi Tý gặp năm Dần, có việc đi xa.

Tuổi Tý gặp năm Mão, sinh thêm con, nhà thêm người.

Tuổi Tý gặp năm Thìn, tài lợi tốt đẹp, nhiều việc như ý, đi thi dễ đỗ, nên đề phòng tiểu nhân, chú ý trong việc kết giao bằng hữu.

Tuổi Tý gặp năm Tỵ, dễ bị bệnh nặng, hao tài tốn của, may có sao Nguyệt Đức chiếu.

Tuổi Tý gặp năm Ngọ, cẩn thận trong quan hệ nam nữ, dễ có biến động tình cảm.

Tuổi Tý gặp năm Mùi, sự nghiệp thành tựu, nhiều sự như ý, có thể gặp chuyện bất công.

Tuổi Tý gặp năm Thân, nặng tình với người, khó bề dứt tình, tình cảm tan vỡ đôi bên đều đau khổ.

Tuổi Tý gặp năm Dậu, dễ sinh con, gia đình vui vẻ, nhiều phúc thọ.

Tuổi Tý gặp năm Tuất, đề phòng kẻ xấu làm hại.

Tuổi Tý gặp năm Hợi, chú ý giữ gìn sức khoẻ, kẻo mắc bệnh nặng.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI TÝ TUỲ THEO THÁNG SINH:

Tuổi Tý sinh tháng Giêng, thuộc tiết Lập Xuân, hay ăn biếng làm, tính ỷ lại, đầu óc lắm khi hồ đồ, mất phương hướng.

Tuổi Tý sinh tháng Hai, thuộc tiết Kinh Trập, nhút nhát, dễ được người mến, văn nhã ôn hoà, đầu óc minh mẫn, chức tước cũng khá, dù gian khổ vẫn lạc quan.

Tuổi Tý sinh tháng Ba, thuộc tiết Thanh Minh, tuy đủ ăn, nhưng cảm thấy vạn sự giải không ( hết thảy chẳng còn gì).

Tuổi Tý sinh tháng Tư, thuộc tiết Lập Hạ, suốt đời nghèo khổ, khó khăn.

Tuổi Tý sinh tháng Năm, thuộc tiết Mang Chủng, vất vả ngược xuôi, chăm chỉ cần cù, có thể giàu có, không sợ gian khổ, đủ tự mình tay trắng làm nên, được mọi người kính nể, càng về già càng sung sướng.

Tuổi Tý sinh tháng Sáu, thuộc tiết Thiểu Thư, trời nóng bức, dễ sinh bệnh, ưa sống ở gần sông biển, nguồn nước, tài giỏi hơn người.

Tuổi Tý sinh tháng Bảy, thuộc tiết Lập Thu, ngũ cốc dư dả, đề phòng kẻ xấu hãm hại, đối xử khoan dung độ lượng, có mưu vọng cao xa, dù thất bại, cũng có đời sống dư dả, không phải lo thiên tai nhân hoạ.

Tuổi Tý sinh tháng Tám, thuộc tiết Bạch Lộ, chẳng những cuộc đời sung túc, mà còn được hưởng hạnh phúc gia đình êm ấm, thông minh, có tài văn chương, được nhiều quý nhân yêu vì, ắt sẽ thành công vang dội.

Tuổi Tý sinh tháng Chín, thuộc tiết Hàn Lộ, tính nết ổn trọng, không ưa giao du, thích cô độc.

Tuổi Tý sinh tháng Mười, thuộc tiết Lập Đông, lương thực đều được cất giữ trong kho, thành thử đều được cất giữ trong kho, thành thử chuột khó kiếm ăn. Cuộc đời nghèo khó, gian nan.

Tuổi Tý sinh tháng Mười Một, thuộc tiết Đại Tuyết, chuột chỉ quẩn quanh trong nhà, loay hoay tìm cách qua ngày.

Tuổi Tý sinh tháng Chạp, thuộc tiết Tiểu Hàn, suốt đời nó đủ.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI TÝ TUỲ THEO NGÀY SINH:

Tuổi Tý sinh ngày Tý, mệnh có tướng tinh, có cơ hội làm việc xuất chúng.

Tuổi Tý sinh ngày Sửu, gia đình êm ấm, thuận hoà.

Tuổi Tý sinh ngày Dần, là ngựa trạm, thường bôn tẩu tứ phương, xa rời quê hương.

Tuổi Tý sinh ngày Mão, vợ chồng đầm ấm, cả đời an hưởng phúc lộc.

Tuổi Tý sinh ngày Thìn, có sao Hoa Cái, thông minh mãn tiệp hơn người, đỗ đạt cao.

Tuổi Tý sinh ngày Tỵ, cuộc sống gian nan, khó khăn.

Tuổi Tý sinh ngày Ngọ, Tý Ngọ chính xung, gặp nhiều hoạn nạn, bất lợi.

Tuổi Tý sinh ngày Mùi, Mùi Thổ khắc Tý Thuỷ, tự mình lo liệu.

Tuổi Tý sinh ngày Thân, Thân Kim sinh Tý Thuỷ, được nhiều người giúp đỡ.

Tuổi Tý sinh ngày Dậu, mệnh có Đào Hoa, say sưa với ca vũ, phong lưu tài tử.

Tuổi Tý sinh ngày Tuất, phải tự mình lo liệu.

Tuổi Tý sinh ngày Hợi, nhiều gian nan trắc trở.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI TÝ TUỲ THEO GIỜ SINH:

Tuổi Tý sinh giờ Tý, sớm thành hôn để tránh cô đơn, sự nghiệp thuận buồm xuôi gió.

Tuổi Tý sinh giờ Sửu, hợp với nữ không hợp với nam.

Tuổi Tý sinh giờ Dần, hợp với nam không hợp với nữ.

Tuổi Tý sinh giờ Mão, táo bạo dũng cảm, tuy sự nghiệp không hiển hách, song cũng được kính nể.

Tuổi Tý sinh giờ Thìn, không thuỷ chung như nhất.

Tuổi Tý sinh giờ Tỵ, sự nghiệp đổ vỡ.

Tuổi Tý sinh giờ Ngọ, hay bị miệng tiếng.

Tuổi Tý sinh giờ Mùi, lúc thành lúc bại, khi lên khi xuống như sóng nước.

Tuổi Tý sinh giờ Thân, cuộc đời thanh cao, không sợ hoạ hại.

Tuổi Tý sinh giờ Dậu, nhiều điều tốt đẹp.

Tuổi Tý sinh giờ Tuất, nhiều bất lợi, gian nguy, nên phải giữ mình.

Tuổi Tý sinh giờ Hợi, nên thận trọng giữ gìn thân thể.

NGƯỜI SINH NĂM SỬU ( CẦM TINH CON TRÂU)

HOẠ PHÚC CỦA NGƯỜI SINH NĂM SỬU TÙY THEO NĂM:

Tuổi Sửu gặp năm Tý, nhiều sự may mắn, vui vẻ, dù có bệnh cũng tự khỏi, gặp hung hoá cát.

Tuổi Sửu gặp năm Sửu, khó tránh chuyện đau lòng, bất lợi.

Tuổi Sửu gặp năm Dần, nhiều tin vui, dễ đi xa.

Tuổi Sửu gặp năm Mão, nhiều sự bất lợi, có thể bị mổ xẻ.

Tuổi Sửu gặp năm Thìn, nhiều sự bất lợi, phải lưu tâm đề phòng.

Tuổi Sửu gặp năm Tỵ, tiền tài dư dả, đừng tham lợi mà bị kiện tụng, thận trọng với bạn bè.

Tuổi Sửu gặp năm Ngọ, vui vẻ về tình cảm, gặp hung hoá cát.

Tuổi Sửu gặp năm Mùi, hao tài tốn của đề phòng tiểu nhân.

Tuổi Sửu gặp năm Thân, đại cát, vui vẻ, lợi cho hôn nhân, sinh nở, đề phòng tiểu nhân gây rối.

Tuổi Sửu gặp năm Dậu, nhiều hung hiểm, bất lợi.

Tuổi Sửu gặp năm Tuất, công việc thuận lợi, đi xa, may nhiều hơn rủi.

Tuổi Sửu gặp năm Hợi, bất lợi, buồn phiền.

HỌA PHÚC TUỔI SỬU TUỲ THEO THÁNG SINH:

Tuổi Sửu sinh tháng Giêng, thuộc tiết Lập Xuân, phải lao động khá vất vả ngày sau mới được hưởng.

Tuổi Sửu sinh tháng Hai, thuộc tiết Kinh Trập, tâm tư thay đổi thất thường, hấp tấp nóng vội, táo bạo.

Tuổi Sửu sinh tháng Ba, thuộc tiết Thanh Minh, tự do tự tại, dù có gian khó cũng quyết vượt qua.

Tuổi Sửu sinh tháng Tư, thuộc tiết Tiểu Mai, bôn ba đây đó, vất vả cực nhọc.

Tuổi Sửu sinh tháng Năm, thuộc tiết Mạng Chủng, gian nan cực nhọc vô cùng.

Tuổi Sửu sinh tháng Sáu, thuộc tiết Tiểu Thử, có tri thức tài năng, sự nghiệp như ý, dữ ít lành nhiều, được người hỗ trợ, về già sung sướng.

Tuổi Sửu sinh tháng Bảy, thuộc tiết Lập Thu, cuộc sống dư dả, gặp nhiều vận may, hanh thông mọi sự.

Tuổi Sửu sinh tháng Tám, thuộc tiết Bạch Lộ, danh lợi bình thường, có tay nghề vững.

Tuổi Sửu sinh tháng Chín, thuộc tiết Hàn Lộ, vạn sự như ý.

Tuổi Sửu sinh tháng Mười, thuộc tiết Lập Đông, tuy vất vả cực nhọc, nhưng có chí tiến thủ, rồi thành đạt.

Tuổi Sửu sinh tháng Mười Một, thuộc tiết Đại Tuyết, cuộc sống bình an hạnh phúc.

Tuổi Sửu sinh tháng Chạp, thuộc tiết Tiểu Hàn, công danh khó thành, cuộc sống bình thường.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI SỬU TUY THEO NGÀY SINH:

Tuổi Sửu sinh ngày Tý, Tý Sửu tương hợp, có hạnh phúc gia đình, ít bệnh tật.

Tuổi Sửu sinh ngày Sửu, đi khắp đó đây, cả lo cả nghĩ.

Tuổi Sửu sinh ngày Dần, có hạnh phúc gia đình.

Tuổi Sửu sinh ngày Mão, Mộc Mão khắc Thổ Sửu, cuộc đời gian nan cực nhọc.

Tuổi Sửu sinh ngày Thìn, ít được yên ổn vì tham vọng giàu sang.

Tuổi Sửu sinh ngày Tỵ, Hoả Tỵ sinh Thổ Sửu, giàu có dư dả.

Tuổi Sửu sinh ngày Ngọ, nhiều may mắn.

Tuổi Sửu sinh ngày Mùi, tuy nhiều tiền của, song cuộc đời nhiều hoạn nạn.

Tuổi Sửu sinh ngày Thân, tài lộc dư dả.

Tuổi Sửu sinh ngày Dậu, khó tránh tai ương vì mệnh có tướng tinh, có thể thành công lớn.

Tuổi Sửu sinh ngày Tuất, tha phương cầu thực.

Tuổi Sửu sinh ngày Hợi, Dễ đi vào nơi binh đao khói lửa.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI SỬU TUỲ THEO GIỜ SINH:

Tuổi Sửu sinh giờ Tý, sản nghiệp vững vàng, mưu sự tất thành, con cháu đông đúc, về già sung sướng.

Tuổi Sửu sinh giờ Sửu, thông minh đa tài, văn chương cái thế, dễ gặp chuyện buồn thương.

Tuổi Sửu sinh giờ Dần, ít được tự do, oán trời trách người, gặp nạn được cứu.

Tuổi Sửu sinh giờ Mão, nhiều tai hoạ, phải hành sự thận trọng.

Tuổi Sửu sinh giờ Thìn, lành ít dữ nhiều, âm khí nặng nề, lắm điều phiền muộn.

Tuổi Sửu sinh giờ Tỵ, tiền tài dư dả, bạn bè không thuỷ chung.

Tuổi Sửu sinh giờ Ngọ, đào hoa tại mệnh, đa mang tình cảm.

Tuổi Sửu sinh giờ Mùi, phạm cách xung Sửu Mùi, nhiều tai nạn, tranh giành.

Tuổi Sửu sinh giờ Thân, được nhiều may mắn phúc lộc, luôn luôn thuận lợi.

Tuổi Sửu sinh giờ Dậu, bệnh tật hao tài, nhiều gian nan.

Tuổi Sửu sinh giờ Tuất, hay bị tai tiếng, lưu lạc quê người, xa quê có thể thành công.

Tuổi Sửu sinh giờ Hợi, nhiều tài năng, nay đây mai đó.

NGƯỜI SINH NĂM DẦN ( CẦM TINH CON HỔ)

HOẠ PHÚC CỦA NGƯỜI SINH NĂM DẦN TUỲ THEO NĂM:

Tuổi Dần gặp năm Tý, bất lợi, nhiều tai nạn, có làm không hưởng, mất chỗ dựa.

Tuổi Dần gặp năm Sửu, đại cát, nhiều điều vui mừng, có chỗ dựa chắc chắn.

Tuổi Dần gặp năm Dần, thăng trầm bất định, nhiều sự phiền muộn trái ý.

Tuổi Dần gặp năm Mão, có chuyện chẳng lành, nhưng được giải cứu.

Tuổi Dần gặp năm Thìn, rồng hổ giao đấu, nhiều điều rủi ro bất hạnh.

Tuổi Dần gặp năm Tỵ, mưu tính việc lớn khó thành, dễ bị ốm đau.

Tuổi Dần gặp năm Ngọ, vạn sự hanh thông, mọi việc như ý, cầu gì được nấy.

Tuổi Dần gặp năm Mùi, đi xa, hao tài, ốm nhẹ, nên cẩn thận.

Tuổi Dần gặp năm Thân, Dần bị Thân đối xung, gặp tai hoạ, thắng lợi nhưng không vững chắc.

Tuổi Dần gặp năm Dậu, gặp hung hoá cát, gặp nạn được cứu.

Tuổi Dần gặp năm Tuất, tiền tài khá đủ, dễ đi xa, dễ bị tai tiếng.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI DẦN TUỲ THEO THÁNG SINH:

Tuổi Dần sinh tháng Giếng, tiết Lập Xuân, đại cát, nổi danh xa gân, có ý chí mạnh, danh lợi kiêm toàn, phú quí tốt đẹp, con cháu hiếu thảo.

Tuổi Dần sinh tháng Hai, tiết Kinh Trập, có kỳ tài, lập đại nghiệp, trí lược quyền mưu hơn người.

Tuổi Dần sinh tháng Ba, tiết Thanh Minh, có uy quyền, nhiều tài năng, lập công lớn, công danh thăng tiến.

Tuổi Dần sinh tháng Tư, tiết Lập Hạ, vạn sự hanh thông, gia đạo hưng vượng, thân ái, con cháu hiếu thảo, sung sướng đề huề.

Tuổi Dần sinh tháng Năm, tiết Mang Chủng, văn võ kiêm toàn, tay trắng lập nên cơ nghiệp, tính khí cương cường, dễ gặp trắc trở.

Tuổi Dần sinh tháng Sáu, tiết Xử Thử, gặp nhiều gian nan trắc trở, dễ bị nghèo túng, tài lực đều thiếu, khó khăn triền miên.

Tuổi Dần sinh tháng Bảy, tiết Lập Thu, phải có ý chí vượt mọi khó khăn thì mới có thể thành công.

Tuổi Dần sinh tháng Tám, tiết Bạch Lộ, được hưởng phúc lộc, có uy quyền lớn. Văn chương cái thế, nổi danh bốn biển, vạn sự như ý.

Tuổi Dần sinh tháng Chín, tiết Hàn Lộ, gian nan trắc trở, mưu sự không thành, luôn có cảm giác sinh bất phùng thời, đành cầu an tự thủ, lấy trúc mai làm bạn.

Tuổi Dần sinh tháng Mười, tiết Lập Đông, rất nhiều gian nan trắc trở, bôn ba vất vả, mưu sự khó thành.

Tuổi Dần Sinh tháng Mười Một, tiết Đại Tuyết, luôn gặp trở ngại, buồn thương lo lắng, lành ít dữ nhiều, rất cần thận trọng.

Tuổi Dần sinh tháng Chạp, tiết Tiểu Hàn, vạn sự trắc trở, dễ gặp hiểm nguy, cuộc sống bần hàn khổ cực.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI DẦN TUỲ THEO NGÀY SINH:

Tuổi Dần sinh ngày Tý, phạm sao Thiên Cốu, chớ làm điều ác.

Tuổi Dần sinh ngày Sửu, sao Hồng Loan chiếu mạng, hung.

Tuổi Dần sinh ngày Dần, phạm sao Thái Tuế, thân thể bất an.

Tuổi Dần sinh ngày Mão, sao Thái Dương chiếu mạng, tính nết bồng bột, có lúc trắng tay.

Tuổi Dần sinh ngày Thìn, Mộc khắc Thổ, đầu voi đuôi chuột.

Tuổi Dần sinh ngày Tỵ, Sao Thái Dương chiếu mạng, ham muốn nhiều, dễ bị cô đơn.

Tuổi Dần sinh ngày Ngọ, mệnh có Tướng tinh, dễ bị tiểu nhân ám hại.

Tuổi Dần sinh ngày Mùi, sao Nguyệt Đức chiếu mạng, gặp nhiều may mắn.

Tuổi Dần sinh ngày Thân, bị xung khắc, nhiều gian nan, hành sự phải thận trọng.

Tuổi Dần sinh ngày Dậu, sao Tử Vi chiếu mạng, có thể thành đạt.

Tuổi Dần sinh ngày Tuất, hưởng phúc lộc.

Tuổi Dần sinh ngày Hợi, bôn ba đây đó, thất bại nhiều hơn thành công.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI DẦN TUỲ THEO GIỜ SINH:

Tuổi Dần sinh giờ Tý, hành sự nên thận trọng.

Tuổi Dần sinh giờ Sửu, nhiều vui vẻ.

Tuổi Dần sinh giờ Dần, thông minh hơn người, ham học cầu tiến.

Tuổi Dần sinh giờ Mão, vui vẻ, đa tình.

Tuổi Dần sinh giờ Thìn, bình thường.

Tuổi Dần sinh giờ Tỵ, gian nan trắc trở.

Tuổi Dần sinh giờ Ngọ, tài trí hơn người, có công với nước, dựng thành nghiệp lớn.

Tuổi Dần sinh giờ Mùi, danh lợi đều khá, tuy phải vượt qua khó khăn hiểm nghèo.

Tuổi Dần sinh giờ Thân, nay đây mai đó, một lòng báo quốc.

Tuổi Dần sinh giờ Dậu, thành công, thăng tiến, người người kính nể.

Tuổi Dần sinh giờ Hợi, Thăng trầm bất định, thành công không vững chắc.

NGƯỜI SINH NĂM MÃO ( CẦM TINH CON MÈO)

HOẠ PHÚC CỦA NGƯỜI SINH NĂM MÃO TUỲ THEO NĂM:

Tuổi Mão gặp năm Tý, vạn sự như ý, nhiều chuyện vui mừng, có thể bị tai tiếng nhỏ.

Tuổi Mão gặp năm Sửu, đề phòng ốm nặng, có chuyện bất trắc.

Tuổi Mão gặp năm Dần, cần đề phòng ốm đau, tai tiếng, phải thận trọng khi hành sự.

Tuổi Mão gặp năm Mão, mưu sự dễ thành, nhiều việc thuận lợi, danh lợi song thu, có thể ốm nhẹ.

Tuổi Mão gặp năm Thìn, bất lợi, gia đạo bất an.

Tuổi Mão gặp năm Tỵ, dễ đi xa, công việc thuận lợi.

Tuổi Mão gặp năm Ngọ, gặp nhiều quý nhân, có thêm bạn mới, gặp chuyện phiền toái nhẹ.

Tuổi Mão gặp năm Mùi, lợi cho việc học nghề, suy nghĩ, nghiên cứu.

Tuổi Mão gặp năm Thân, nhiều bệnh tật.

Tuổi Mão gặp năm Dậu, bị chính xung, lành ít dữ nhiều, nên cẩn thận đề phòng hao tốn.

Tuổi Mão gặp năm Tuất, mưu sự dễ thành, được hưởng may mắn.

Tuổi Mão gặp năm Hợi, dễ bị tai hoạ, cẩn thận đề phòng.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI MÃO TUỲ THEO THÁNG SINH:

Tuổi Mão sinh tháng Giêng, tiết Lập Xuân, bôn ba vất vả, làm nhiều hưởng ít.

Tuổi Mão sinh tháng Hai, tiết Kinh Trập, nhiều vui mừng, tiền đồ đầy triển vọng.

Tuổi Mão sinh tháng Ba, tiết Thanh Minh, nhiều năng lực, uy thế mạnh mẽ, mưu trí quyền biến, dễ lập nghiệp lớn, cuộc đời hạnh phúc lâu bền.

Tuổi Mão sinh tháng Tư, tiết Lập Hạ, vạn sự hanh thông, danh lợi như ý, tinh thông nghề nghiệp, gia đạo an khang, con cháu đề huề.

Tuổi Mão sinh tháng Năm, tiết Mang Chủng, hết sức tốt đẹp, sự nghiệp phát đạt, kinh doanh thuận lợi, được nhiều người hỗ trợ, quí trọng.

Tuổi Mão sinh tháng Sáu, tiết Tiểu Thử, danh lợi đều có, vạn sự hanh thông, phú quý an khang, gia đạo đề huề, vợ hiền con ngoan.

Tuổi Mão sinh tháng Bảy, tiết Lập Thu, thông minh, thanh cao, tiêu dao tự tại, có chí hướng lớn, dễ được xứng ý.

Tuổi Mão sinh tháng Tám, tiết Bách Lộ, nhu mì đức hạnh, thông minh ứng biến, xử thế hiệp nghĩa, trung thực.

Tuổi Mão sinh tháng Chín, tiết Hàn Lộ, sự nghiệp thuận tiến, nhưng nếu lười nhác, không lập chí thì suốt đời chỉ trông chờ vào may mắn.

Tuổi Mão sinh tháng Mười, tiết Lập Đông, thích sống nhà tản yên ổn, không đua tranh, chịu đựng thanh bần.

Tuổi Mão sinh tháng Mười Một, tiết Đại Tuyết, cuộc đời gian nan vất vả, nghèo khổ.

Tuổi Mão sinh tháng Chạp, tiết Tiểu Hàn, nghèo khổ cơ hàn.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI MÃO TUỲ THEO NGÀY SINH:

Tuổi Mão sinh ngày Tý, thích đèo bòng, có cả con chung lẫn con riêng.

Tuổi Mão sinh ngày Sửu, Mộc Mão khắc Thổ Sửu, cô độc lênh đênh, nhiều việc không toại nguyện.

Tuổi Mão sinh ngày Dần, phạm sao Quan Phù, dễ bị tai tiếng.

Tuổi Mão sinh ngày Mão, mệnh có Tướng tinh, làm quan giàu có.

Tuổi Mão sinh ngày Thìn,  mệnh có sao Thái Dương, mưu sự dễ thành, nhiều việc thuận lợi.

Tuổi Mão sinh ngày Tỵ, mệnh có Dịch Mã, xa rời quê hương mới dễ thành công.

Tuổi Mão sinh ngày Ngọ, sao Thái Dương chiếu mạng, vợ hiền con ngoan, cuộc đời khá thuận lợi.

Tuổi Mão sinh ngày Mùi, thăng trầm bất định, thông minh, có tài văn chương.

Tuổi Mão sinh ngày Thân, sức khoẻ kém, may có sao Nguyệt Đức nên được cứu giải.

Tuổi Mão sinh ngày Dậu, gian nan vất vả, dễ gặp bất hạnh.

Tuổi Mão sinh ngày Tuất, nhiều thuận lợi nhờ sao Tử Vi chiếu mạng.

Tuổi Mão sinh ngày Hợi, thành công trong khó khăn bất hạnh.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI MÃO TUỲ THEO GIỜ SINH:

Tuổi Mão sinh giờ Tý, thích thay đổi, ham vui chơi.

Tuổi Mão sinh giờ Sửu, xa rời quê hương, hay gặp chuyện rắc rối.

Tuổi Mão sinh giờ Dần, nóng nảy hấp tấp, khó nên sự nghiệp.

Tuổi Mão sinh giờ Mão, tài cao được trọng dụng, nổi danh xa gần.

Tuổi Mão sinh giờ Thìn, gian khổ, khó ngóc đầu dậy.

Tuổi Mão sinh giờ Tỵ, bôn ba khắp chốn, khó nên chuyện gì.

Tuổi Mão sinh giờ Ngọ, gia đạo thuận hào, gặp khó khăn, nguy hiểm đều được cứu giải.

Tuổi Mão sinh giờ Mùi, thông minh đa tài, dễ gặp chuyện bất trắc.

Tuổi Mão sinh giờ Thân, Kim Thân khắc Mộc Mão, bị bệnh tật khó chữa.

Tuổi Mão sinh giờ Dậu, bị khắc nặng, gian nan khốn khổ.

Tuổi Mão sinh giờ Tuất, gặp hung hoá cát.

Tuổi Mão sinh giờ Hợi, sao Bạch Hổ ở mệnh, khó khăn gian khổ.

NGƯỜI SINH NĂM THÌN ( Cầm tinh con rồng)

HOẠ PHÚC CỦA NGƯỜI SINH NĂM THÌN TUỲ THEO NĂM:

Tuổi Thìn gặp năm Tý, vượng tài, kinh doanh thuận lợi, cuối năm hao tốn lớn.

Tuổi Thìn gặp năm Sửu, mọi việc tốt đẹp, mưu sự dễ thành, chỉ bị tai tiếng nhẹ.

Tuổi Thìn gặp năm Dần, rồng hổ giao tranh, đi xa cầu danh lợi.

Tuổi Thìn gặp năm Mão, bất lợi, buồn phiền.

Tuổi Thìn gặp năm Thìn, thuận cho việc học nghề, mọi việc bình thường.

Tuổi Thìn gặp năm Tỵ, bình thường.

Tuổi Thìn gặp năm Ngọ, bất lợi, thăng trầm bất định.

Tuổi Thìn gặp năm Mùi, dễ đi tới hôn nhân.

Tuổi Thìn gặp năm Thân, dễ bị bạn bè phản bội.

Tuổi Thìn gặp năm Dậu, nhiều chuyện hiếu hỉ, bệnh nhẹ, hao tốn vừa phải.

Tuổi Thìn gặp năm Tuất, mưu sự bất lợi. 

Tuổi Thìn gặp năm Hợi, thuận lợi, vạn sự như ý.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI THÌN TUỲ THEO THÁNG SINH:

Tuổi Thìn sinh tháng Giêng, tiết Lập Xuân, có tài không đất dụng võ, luôn luôn phiền muộn.

Tuổi Thìn sinh tháng Hai, tiết Kinh Trập, mưu sự dễ thành, nhiều việc như ý, nổi danh uy quyền, được người kính nể.

Tuổi Thìn sinh tháng Ba, tiết Thanh Minh, có tài được trọng dụng, nhiều cơ hội may mắn, như rồng gặp mây, dể thăng tiến.

Tuổi Thìn sinh tháng Tư, tiết Lập Hạ, có chí lớn, danh lợi song thu, lập nên công trạng.

Tuổi Thìn sinh tháng Năm, tiết Mang Chủng, như Giao Long xuống biển tha hồ vùng vẫy, lập công, danh lợi thăng tiến, vạn sự hanh thông.

Tuổi Thìn sinh tháng Sáu, tiết Tiểu Thử, khốn khổ, thành bại bất định, tiến thoái lưỡng nan, khó bề như ý.

Tuổi Thìn sinh tháng Bảy, tiết Lập Thu, mưu sự dễ thành, có tài trí, chăm chỉ hành nghề, biết tiến biết thoái.

Tuổi Thìn sinh tháng Tám, tiết Bạch Lộ, nhiều tài trí, thích giao du, nuôi chí lớn, táo bạo, nhiều cơ may thành đạt.

Tuổi Thìn sinh tháng Chín, tiết Hàn Lộ, mưu sự như ý, tính cương trực nóng nảy, không chịu bị khinh thương, ít được bình an.

Tuổi Thìn sinh tháng Mười, tiết Lập Đông, có năng lực nhưng lười biếng, không kiên tâm bền chí, khó thành sự nghiệp.

Tuổi Thìn sinh tháng Mười Một, tiết Đại Tuyết, có chí nhưng không thể vùng vẫy, có làm không hưởng, nhiều khi bế tắc.

Tuổi Thìn sinh tháng Chạp, tiệt Tiểu Hàn, có tên tuổi chí khí, nhưng cuộc sống thanh cao là chính.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI THÌN TUỲ THEO NGÀY SINH:

Tuổi Thìn sinh ngày Tý, mệnh có Tướng tinh, sự nghiệp thuận lợi, nhiều cơ hội thăng tiến.

Tuổi Thìn sinh ngày Sửu, có Phúc tinh chiếu mệnh, hưởng phúc tổ tiên.

Tuổi Thìn sinh ngày Dần, mệnh có Dịch Mã, ắt làm ăn ở phương xa.

Tuổi Thìn sinh ngày Mão, thăng trầm bất định, buồn nhiều hơn vui.

Tuổi Thìn sinh giờ Thìn, mệnh có sao Hoa Cái, dễ thành thợ giỏi, thông hiểu cổ kim, tính tình kín đáo.

Tuổi Thìn sinh giờ Tỵ, có sao Thái Dương chiếu mệnh, mưu sự dễ thành, dễ được quí nhân giúp đỡ.

Tuổi Thìn sinh giờ Ngọ, thành bại bất định, gặp nhiều khó khăn trắc trở.

Tuổi Thìn sinh giờ Mùi, gặp nhiều gian nan nguy hiểm.

Tuổi Thìn sinh giờ Thân, mưu sự dễ thành.

Tuổi Thìn sinh giờ Dậu, bình thường.

Tuổi Thìn sinh giờ Tuất, nghèo khó vì Thìn, Tuất đối xung.

Tuổi Thìn sinh giờ Hợi, vợ hiền đảm đang, mưu sự dễ thành, gặp hung hoá cát.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI THÌN TUỲ THEO GIỜ SINH:

Tuổi Thìn sinh giờ Tý, tam hợp Thân, Tý, Thìn, sự nghiệp, danh lợi đều khá, tuy có đổ vỡ, nhưng cuối cùng thành công.

Tuổi Thìn sinh giờ Sửu, mưu sự dễ thành, vui tươi mỹ mãn, biết tiến thoái.

Tuổi Thìn sinh giờ Dần, sao Dịch Mã ở mệnh, nay đây mai đó, hành sự phải thận trọng.

Tuổi Thìn sinh giờ Mão, Mộc Mão khắc Thổ Thìn, nhiều bệnh, thăng trầm bất định.

Tuổi Thìn sinh giờ Thìn, gia đạo đề huề, no đủ, mưu sự dễ thành.

Tuổi Thìn sinh giờ Tỵ, Hoả Tỵ sinh Thổ Thìn, mọi sự thuận lợi, tai hoạ không đáng kể, dễ sinh đèo bòng.

Tuổi Thìn sinh giờ Ngọ, tính nôn nóng, thăng trầm bất định, hành sự thận trọng mới hy vọng thành công.

Tuổi Thìn sinh giờ Thân, Thổ Thìn sinh Kim Thân, kinh doanh phát đạt, tiền tài dư dả, thận trọng với bạn hàng.

Tuổi Thìn sinh giờ Dậu, sao Đào Hoa ở mệnh, tài lợi đều khá, dễ sinh đèo bòng.

Tuổi Thìn sinh giờ Tuất, nhiều trắc trở.

Tuổi Thìn sinh giờ Hợi, đại cát đại lợi.

NGƯỜI SINH NĂM TỴ ( CẦM TINH CON RẮN)

HOẠ PHÚC CỦA NGƯỜI SINH NĂM TỴ TUỲ THEO NĂM SINH:

Tuổi Tỵ gặp năm Tý, năm này có nhiều việc đáng mừng, đễ thăng tiến công danh, gặp tai hoạ lớn cũng được hoá giải.

Tuổi Tỵ gặp năm Sửu, hao tài, đề phòng tai nạn.

Tuổi Tỵ gặp năm Dần, dễ bị tai tiếng, làm ăn sa sút, nhưng gặp hung hoá cát, gặp nguy được cứu.

Tuổi Tỵ gặp năm Mão, bất lợi, bôn ba đây đó.

Tuổi Tỵ gặp năm Thìn, dễ bị tai tiếng, gặp hung hoá cát.

Tuổi Tỵ gặp năm Tỵ, bất lợi, đề phòng bạn bè phản bội, thăng trầm bất định.

Tuổi Tỵ gặp năm Ngọ, bất lợi, dễ có chuyện bất trắc.

Tuổi Tỵ gặp năm Mùi, bất lợi, hao tốn.

Tuổi Tỵ gặp năm Thân, nhiều thay đổi, có tốt có xấu.

Tuổi Tỵ gặp năm Dậu, nhiều việc thuận lợi, tốt đẹp.

Tuổi Tỵ gặp năm Tuất, dễ đi xa, có cơ hội may mắn.

Tuổi Tỵ gặp năm Hợi, bình thường, nửa tốt nửa xấu.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI TỴ TUỲ THEO THÁNG SINH:

Tuổi Tỵ sinh tháng Giêng, tiết Lập Xuân, gian nan vất vả, khó thay đổi cảnh ngộ.

Tuổi Tỵ sinh tháng Hai, tiết Kinh Trập, lười biếng, ỷ lại, nên nghèo khổ, phiền não.

Tuổi Tỵ sinh tháng Ba, tiết Thanh Minh, tài năng khéo léo, có chí lớn, có thể mưu nghiệp lớn, lập công to với đất nước.

Tuổi Tỵ sinh tháng Tư, tiết Lập Hạ, tài năng nổi danh, phú quí cao sang, được người kính nể, vạn sự hanh thông.

Tuổi Tỵ sinh tháng Năm, tiết Mang Chủng, tài năng chí khí hơn người, phúc lộc lâu bền, gia đạo an khang, gặp nhiều may mắn.

Tuổi Tỵ sinh tháng Sáu, tiết Tiểu Thử, vạn sự như ý, được hưởng thiên lộc có ngày thành công, có người giúp đỡ, ý chí kiên trung, đức độ cao thượng, vợ hiền con ngoan.

Tuổi Tỵ sinh tháng Bảy, tiết Lập Thu, tiêu dao tự tại, trí dũng song toàn, có tài kinh doanh, đức độ cao thượng, tay trắng làm nên.

Tuổi Tỵ sinh tháng Tám, tiết Bạch Lộ, đức độ khiêm nhường, tính tình hiền hoà, có tài lập nghiệp, cuộc đời sung sướng.

Tuổi Tỵ sinh tháng Chín, tiết Hàn Lộ, càng nhiều tuổi càng sung sướng, có làm có hưởng, dĩ hoà vi quý, có ngày thành công.

Tuổi Tỵ sinh tháng Mười, tiết Lập Đông, nghèo khổ, vất vả mưu sự khó xong.

Tuổi Tỵ sinh tháng Mười Một, tiết Đại Tuyết, khổ cực bế tắc, vất vả gian nan.

Tuổi Tỵ sinh tháng Chạp, tiết Tiểu Hàn, tình cảm bế tắc, phiền muộn, khó có hạnh phúc, phải dày công tu đức.

Hoạ phúc người tuổi Tỵ tuỳ theo ngày sinh:

Tuổi Tỵ sinh ngày Tý, sao Tử Vi chiếu mệnh, mọi việc hanh thông, gặp nhiều may mắn.

Tuổi Tỵ sinh ngày Sửu, sao Hoa Cái ở mệnh, giỏi nghề, trong đời khó tránh lao lực.

Tuổi Tỵ sinh ngày Dần, tài lợi dư dả, mưu sự dễ thành, thân thể cường tráng, giao hữu bất lợi.

Tuổi Tỵ sinh ngày Mão, nhiều phiền muộn, vất vả, mưu sự khó thành.

Tuổi Tỵ sinh ngày Thìn, gặp nhiều may mắn, khó tránh bệnh tật.

Tuổi Tỵ sinh ngày Tỵ, thăng trầm bất định, bạn hữu phản bội, nhẫn nại mới có thể thành công.

Tuổi Tỵ sinh ngày Ngọ, thích đèo bòng, gia đạo khó yên, giữ đức độ thì gặp hung hoá cát.

Tuổi Tỵ sinh ngày Mùi, nhiều gian nan trắc trở, gia đạo bất an.

Tuổi Tỵ sinh ngày Thân, dễ bị tai tiếng.

Tuổi Tỵ sinh ngày Dậu, có quyền lực, tiền của dư dả, biết kinh doanh.

Tuổi Tỵ sinh ngày Tuất, bôn ba đây đó, gặp nạn được cứu.

Tuổi Tỵ sinh ngày Hợi, gian nan vất vả, bôn ba khặp chốn.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI TỴ TUỲ THEO GIỜ SINH:

Tuổi Tỵ sinh giờ Tý, Thuỷ Tý khắc Hoả Tỵ, ắt gặp nguy nan, nhưng được cứu giải.

Tuổi Tỵ sinh giờ Sửu, Hoả sinh Thổ, phàm mưu sự tất thành, tuy gian nan nhưng cuối cùng như ý.

Tuổi Tỵ sinh giờ Dần, Mộc sinh Hoả, nhiều triển vọng, còn tuỳ nỗ lực bản thân.

Tuổi Tỵ sinh giờ Mão, Mộc sinh Hoả, nay đây mai đó, xa quê không nghèo.

Tuổi Tỵ sinh giờ Thìn, Hoả sinh Thổ, nhiều may mắn thuận lợi, bạn hữu đông đảo.

Tuổi Tỵ sinh giờ Tỵ, thăng trầm bất định.

Tuổi Tỵ sinh giờ Ngọ, nhiều bạn, cuộc sống bình thường.

Tuổi Tỵ sinh giờ Mùi, Hoả sinh Thổ, bình thường, khoẻ mạnh.

Tuổi Tỵ sinh giờ Thân, Hoả khắc Kim, nhiều điều trái ý, nhưng có sao Quý nhân tại mệnh, vẫn vững vàng tiến bước.

Tuổi Tỵ sinh giờ Dậu, Hoả khắc Kim, tiền của dư dả.

Tuổi Tỵ sinh giờ Tuất, Hoả sinh Thổ, hay đi xa, nhưng không nghèo khổ.

Tuổi Tỵ sinh giờ Hợi, Thuỷ khắc Hoả, bôn ba tứ xư, vất vả gian truân.

NGƯỜI SINH NĂM NGỌ ( CẦM TINH CON NGỰA)

HOẠ PHÚC CỦA NGƯỜI SINH NĂM NGỌ TUỲ THEO NĂM:

Tuổi Ngọ gặp năm Tý, dễ bị tai tiếng, khó khăn trùng trùng, có làm không hưởng.

Tuổi Ngọ gặp năm Sửu, mưu sự như ý, gặp hung hóa cát, hành sự cẩn trọng để tránh điều xấu.

Tuổi Ngọ gặp năm Dần, tài lợi không thuận, chú ý bạn bè, nửa xấu nửa tốt.

Tuổi Ngọ gặp năm Mão, có chuyện vui mừng, tài lộc dồi dào, dễ có dịp đi xa, mưu sự dễ thành.

Tuổi Ngọ gặp năm Thìn, phù trầm bất định, đi xa làm lành ít dữ nhiều.

Tuổi Ngọ gặp năm Tỵ, bôn ba vất vả mà chẳng xong việc, khó khăn bất an.

Tuổi Ngọ gặp năm Ngọ, sự nghiệp thuận lợi, có cơ hội thăng tiến, tài lộc dồi dào, kinh doanh đắc ý, chú ý tuân thủ pháp luật.

Tuổi Ngọ gặp năm Mùi, có sự dịch chuyển về nơi ăn chốn ở, đi xa, vất vả, bất lợi.

Tuổi Ngọ gặp năm Thân, mưu sự như ý, có thể phát mạnh, song mã gặp nhau, dễ đi nhiều.

Tuổi Ngọ gặp năm Dậu, nhiều tin vui.

Tuổi Ngọ gặp năm Tuất, Hoa Cái trực niên, vất vả, khó tránh Quan Phù ( kiện cáo)

Tuổi Ngọ gặp năm Hợi, mưu sự khó thành, may có sao Nguyệt Đức, nên bĩ cực thái lai.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI NGỌ TUỲ THEO THÁNG SINH:

Tuổi Ngọ sinh tháng Giêng, tiết Lập Xuân, nhanh nhẹn hoạt bát, đức hạnh đoan chính, giao du rộng rãi, tính tình vui vẻ.

Tuổi Ngọ sinh tháng Hai, tiết Kinh Trập, tính cách thanh cao, nhưng gặp nhiều gian nan, thông tuệ hơn người, tự do tự tại.

Tuổi Ngọ sinh tháng Ba, tiết Thanh Minh, nhiều tài năng, có chí lớn, mưu sự tất thành, đầy triển vọng thăng tiến, được người kính nể.

Tuổi Ngọ sinh tháng Tư, tiết Lập Hạ, nay đây mai đó, lúc đầy đủ lúc thiếu thốn, gian nan vô cùng, ít cơ hội thành công.

Tuổi Ngọ sinh tháng Năm, tiết Mang Chủng, tay trắng lập nghiệp, gian nan vất vả, gia đạo đề huề, phúc lộc trường sinh.

Tuổi Ngọ sinh tháng Sáu, tiết Tiểu Thử, suốt đời lao lực, gian khổ.

Tuổi Ngọ sinh tháng Bảy, tiết Lập Thu, thông minh, hoà nhã, có tay nghề cao, nhiều khả năng thành đạt, ít tai nạn khó khăn.

Tuổi Ngọ sinh tháng Tám, tiết Bạch Lộ, tài trí hơn người, văn võ song toàn, nhẫn nại sẽ thành công, dễ bị tai tiếng.

Tuổi Ngọ sinh tháng Chín, tiết Hàn Lộ, dễ nản lòng thoái chí, khó thành sự nghiệp.

Tuổi Ngọ sinh tháng Mười, tiết Lập Đông, thuở nhỏ nhiều tai hoạ, cuối đời sung sướng, thăng trầm biến động, đức độ hiệp nghĩa, có chí khí sẽ thành nhân vật hào kiệt anh hùng, không có chí khí thì chỉ là người bình thường.

Tuổi Ngọ sinh tháng Mười Một, tiết Đại Tuyết, bôn ba lao lực, gặp nhiều gian nan, khó bề thành đạt.

Tuổi Ngọ sinh tháng Chạp, tiết Tiểu Hàn, rất nhiều gian khổ, có chí mới khả dĩ vững vàng.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI NGỌ TUỲ THEO NGÀY SINH:

Tuổi Ngọ sinh ngày Tý, nhiều tai hoạ, tai tiếng.

Tuổi Ngọ sinh ngày Sửu, dễ thành công, ít khó khăn, có quyền lực, khi gặp khó khăn thì nản lòng thối chí.

Tuổi Ngọ sinh ngày Dần, vất vả gian nan, khó bề như ý, bạn hữu hay phản bội.

Tuổi Ngọ sinh ngày Mão, mưu sự tất thành, nhiều điều thuận lợi, dễ bị tai tiếng.

Tuổi Ngọ sinh ngày Thìn, thăng trầm bất định, sự nghiệp khó bền, dễ bị cô đơn.

Tuổi Ngọ sinh ngày Tỵ, sức khoẻ kém, hay ngả nghiêng, nằm ngồi không yên, vất vả.

Tuổi Ngọ sinh ngày Ngọ, dễ có quyền lực lớn, tiền tài dư dả, khó tránh vất vả.

Tuổi Ngọ sinh ngày Mùi, đi xa nhiều dịp, rong ruổi đó đây, gặp nhiều thuận lợi.

Tuổi Ngọ sinh ngày Thân, đi nhiều thế mạnh, dễ bề cô đơn.

Tuổi Ngọ sinh ngày Dậu, thích đèo bòng, dễ chuốc phiền toái vì chuyện trai gái.

Tuổi Ngọ sinh ngày Tuất, thiên về học vấn văn chương dễ nổi tiếng, dễ bị tiểu nhân ghen ghét.

Tuổi Ngọ sinh ngày Hợi, nhiều điều trái ý, kinh doanh thua lỗ.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI NGỌ TUỲ THEO GIỜ SINH:

Tuổi Ngọ sinh giờ Tý, Thủy khắc Hoả, sức khoẻ kém, khó giàu.

Tuổi Ngọ sinh giờ Sửu, Hoả sinh Thổ, mệnh gặp sao Tử Vi, mưu sự tất thành, suốt đời sung sướng.

Tuổi Ngọ sinh giờ Dần, Mộc sinh Hoả, tuy gian nan, không ai trợ giúp, nhưng cuối cùng vẫn thành công.

Tuổi Ngọ sinh giờ Mão, Mộc Mão sinh Hoả Ngọ, thuận lợi may mắn, vui vẻ.

Tuổi Ngọ sinh giờ Thìn, Hỏa sinh Thổ, thăng trầm bất định, gian nan trắc trở, nghèo khổ.

Tuổi Ngọ sinh giờ Tỵ, hai Hoả tỷ hoà, chăm chỉ cần mẫn, sự nghiệp bình thường.

Tuổi Ngọ sinh giờ Ngọ, hai Hoả tỉ hòa, gia đạo êm ấm, giàu có dư dả, trường thọ.

Tuổi Ngọ sinh giờ Mùi, Hoả sinh Thổ, tiền tài dư dả, có chức quyền nhưng vất vả.

Tuổi Ngọ sinh giờ Thân, Hoả khắc Kim, có tốt có xấu, bình thường, hao tài.

Tuổi Ngọ sinh giờ Dậu, Hoả khắc Kim, gia đạo yên vui, đông con đông cháu.

Tuổi Ngọ sinh giờ Tuất, Hoả sinh Thổ, có tài văn chương, dễ bị tiểu nhân ghen ghét, dễ sinh kện tụng.

Tuổi Ngọ sinh giờ Hợi, Thuỷ khắc Hoả, hay bệnh tật, dễ bị điếc.

NGƯỜI SINH NĂM MÙI ( CẦM TINH CON DÊ)

HOẠ PHÚC CỦA NGƯỜI SINH NĂM MÙI TUỲ THEO NĂM:

Tuổi Mùi gặp năm Tý, kinh doanh có lời, cơ hội may mắn, bệnh nhẹ và hao tài nhỏ.

Tuổi Mùi gặp năm Sửu, dễ bị tai tiếng, không thật thuận lợi.

Tuổi Mùi gặp năm Dần, nhiều khó khăn, ít được như ý.

Tuổi Mùi gặp năm Mão, mưu sự như ý, tiền tài hanh thông, kinh doanh có thể bị thua lỗ, lên xuống bất ngờ.

Tuổi Mùi gặp năm Thìn, dễ đi xa, gặp nạn được cứu.

Tuổi Mùi gặp năm Tỵ, đi xa, mọi việc như ý, thêm quyền hạn.

Tuổi Mùi gặp năm Ngọ, cơ hội thăng tiến, mưu sự tất thành.

Tuổi Mùi gặp năm Mùi, có cơ hội thuận lợi, cần suy xét kỹ để khỏi phạm sai lầm.

Tuổi Mùi gặp năm Thân, vạn sự hanh thông, nhiều tin vui.

Tuổi Mùi gặp năm Dậu, bình thường.

Tuổi Mùi gặp năm Tuất, kinh doanh bất lợi, đại hao tài, có thể bị trộm cướp.

Tuổi Mùi gặp năm Hợi, dễ mất chức, đổi chức, lao đao.

Hoạ phúc người tuổi Mùi tuỳ theo tháng sinh:

Tuổi Mùi sinh tháng Giêng, tiết Lập Xuân, thông minh hoạt bát, tuy không giàu và gặp nhiều biến đổi, nhưng có thể thành sự nghiệp.

Tuổi Mùi sinh tháng Hai, tiết Kinh Trập, tính ôn hoà, biết xử thế, giàu có, thuận lợi.

Tuổi Mùi sinh tháng Ba, tiết Thanh Minh, thông tuệ hơn người, vạn sự hanh thông, danh lợi song toàn, dễ thành nghiệp lớn.

Tuổi Mùi sinh tháng Tư, tiết Lập Hạ, nhiều rủi ro, biến đổi thất thường, cuối đời sẽ hưởng phúc, giàu lòng hiệp nghĩa.

Tuổi Mùi sinh tháng Năm, tiết Mang Chủng, quyền cao chức trọng, tài trí hơn người, xuất khẩu thành chương, có tài chỉ huy, được người kính nể.

Tuổi Mùi sinh tháng Sáu, tiết Tiểu Thử, tài năng hơn người, đức độ cao thượng, gia vận êm ấm, cuộc đời sung sướng.

Tuổi Mùi sinh tháng Bảy, tiết Lập Thu, trí dũng song toàn, kiên trung bất khuất, thời vận sẽ đến, vạn sự như ý, dù gian nan nhưng sự nghiệp sẽ thành công.

Tuổi Mùi sinh tháng Tám, tiết Bạch Lộ, đức độ, ham học, cuối cùng sẽ có địa vị vững vàng, tốt đẹp.

Tuổi Mùi sinh tháng Chín, tiết Hàn Lộ, chăm chỉ, gian nan, tay trắng làm nên.

Tuổi Mùi sinh tháng Mười, tiết Lập Đông, giỏi nghề, giao du rộng, cuộc đời ngày một thuận lợ, sung sướng.

Tuổi Mùi sinh tháng Mười Một, tiết Đại Tuyết, gian nan vất vả, bế tắc, khó toại nguyện

Tuổi Mùi sinh tháng Chạp, tiết Tiểu Hàn, nghèo khổ, kém cả danh lẫn lợi.

Hoạ phúc người tuổi Mùi tuỳ theo ngày sinh:

Tuổi Mùi sinh ngày Tý, phạm hao tài và bệnh nhẹ, dễ đam mê tửu sắc.

Tuổi Mùi sinh ngày Sửu, dễ bị trắng tay và tai tiếng, phải hành sự thận trọng.

Tuổi Mùi sinh ngày Dần, mệnh có sao Tử Vi, mọi sự đều tốt, nhiều vui vẻ, nếu gặp hung hoá cát, kiện tụng thị phi được cứu.

Tuổi Mùi sinh ngày Mão, sao Bạch Hổ ở mệnh thì gia sản lung lay, mưu sự khó thành, khó tránh bệnh tật. Nếu có tướng tinh có thể làm quan to.

Tuổi Mùi sinh ngày Thìn, phúc tinh chiếu mệnh, có tài chỉ huy, kinh doanh, dễ bị tai tiếng.

Tuổi Mùi sinh ngày Tỵ, sao Thiên Mã ở mệnh, dễ đi xa, được quí mến, đã phát thì phát mạnh mẽ cả danh lẫn lợi.

Tuổi Mùi sinh ngày Ngọ, nhiều thuận lợi, vui mừng, bình an sung sướng.

Tuổi Mùi sinh ngày Mùi, thông minh quí hiển, văn chương cái thế, miệt mài dụng công.

Tuổi Mùi sinh ngày Thân, sao Thái Dương chiếu mệnh, mọi việc đều thuận lợi, mưu sự ắt thành, kinh doanh có thể thắng hoặc thua.

Tuổi Mùi sinh ngày Dậu, khó tránh tai hoạ.

Tuổi Mùi sinh ngày Tuất, nhiều gian khổ, mưu sự khó thành.

Tuổi Mùi sinh ngày Hợi, dễ bị kiện tụng, địa vị bấp bênh.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI MÙI TUỲ THEO GIỜ SINH:

Tuổi Mùi sinh giờ Tý, Thổ Mùi khắc Thuỷ Tý, hao tài, gặp nguy được cứu.

Tuổi Mùi sinh giờ Sửu, hai Thổ tỉ hoà, bình thường.

Tuổi Mùi sinh giờ Dần, Mộc khắc Thổ, sao Tử Vi chiếu, sự nghiệp khá, có tai hoạ được cứu.

Tuổi Mùi sinh giờ Mão, Mộc khắc Thổ, mệnh có tướng tinh, có thế lực nhưng không bền vững.

Tuổi Mùi sinh giờ Thìn, hai Thổ tỉ hoà, phúc tinh chiếu mệnh, làm ăn ở quê người.

Tuổi Mùi sinh giờ Tỵ, Hoả sinh Thổ, Thiên Mã tại mệnh, nay đây mai đó.

Tuổi Mùi sinh giờ Ngọ, Hoả sinh Thổ, vui vẻ, sung sướng, khỏe mạnh.

Tuổi Mùi sinh giờ Mùi, hai Thổ tỉ hoà, sao Hoa Cái ở mệnh, thông minh hiền năng, phạm sao Thái Tuế thì bệnh nặng.

Tuổi Mùi sinh giờ Thân, Thổ sinh Kim, sao Thái Dương chiếu mệnh, hỉ sự trùng trùng, mưu sự dễ thành, dù cô đơn nhưng không khổ sở.

Tuổi Mùi sinh giờ Dậu, Thổ sinh Kim, dễ bị tai tiếng, kiện tụng.

Tuổi Mùi sinh giờ Tuất, hai Thổ tỉ hoà, hôn nhân bất lợi.

Tuổi Mùi sinh giờ Hợi, Thổ khắc Thuỷ, dễ bị tai tiếng, kiện tụng.

NGƯỜI SINH NĂM THÂN ( CẦM TINH CON KHỈ)

HOẠ PHÚC CỦA NGƯỜI SINH NĂM THÂN TUỲ THEO NĂM:

Tuổi Thân gặp năm Tý, kinh doanh phát đạt, mọi việc tốt lành.

Tuổi Thân gặp năm Sửu, năm nay có sao Thiên Hỷ và Nguyệt Đức chiếu tới, dễ đi xa, thuận lợi, tuy có hao tài nhỏ.

Tuổi Thân gặp năm Dần, vận có Dịch Mã, bôn ba đây đó, mưu lợi nhưng khó thành công, chỉ thêm hao tổn.

Tuổi Thân gặp năm Mão, sao Tử Vi chiếu tới, mọi việc thuận buồm xuôi gió, tuy có vất vả hao tốn phần nào.

Tuổi Thân gặp năm Thìn, sao Bạch Hổ, hao tài, sao Hoa Cái ở mệnh, cẩn thận chuyện văn chương.

Tuổi Thân gặp năm Tỵ, có phúc tinh chiếu tới, được quí nhân giúp đỡ, khó tránh tai tiếng.

Tuổi Thân gặp năm Ngọ, có Dịch Mã, phạm sao Thiên Cốu, nhiều khó khăn trắc trở.

Tuổi Thân gặp năm Mùi, nhiều gian nan, một mình chống chọi.

Tuổi Thân gặp năm Thân, nhiều chuyện vui mừng, nhưng bạn bè có kẻ xấu, bị bệnh nhẹ.

Tuổi Thân gặp năm Dậu, sao Đào Hoa, có chuyện vui vẻ, chớ ham đèo bòng.

Tuổi Thân gặp năm Tuất, bất lợi, khó khăn.

Tuổi Thân gặp năm Hợi, dễ đi xa một mình.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI THÂN TUỲ THEO THÁNG SINH:

Tuổi Thân sinh tháng Giêng, tiết Lập Xuân, tinh thần sảng khoái, dễ đi xa, bệnh nhẹ khó tránh.

Tuổi Thân sinh tháng Hai, tiết Kinh Trập, nhiều bất lợi, chức vụ khó bền.

Tuổi Thân sinh tháng Ba, tiết Thanh Minh, tài năng hơn người, hôn nhân tốt đẹp, cả đời sung sướng, mọi việc như ý.

Tuổi Thân sinh tháng Tư, tiết Lập Hạ, chăm chỉ, tài hoa nổi tiếng, bạn hữu giúp đỡ, no ấm dư dả.

Tuổi Thân sinh tháng Năm, tiết Mang Chủng, tự lực tự cường, bôn ba đây đó có chí tiến thủ, biết đường xử thế, cuộc sống tạm no đủ.

Tuổi Thân sinh tháng Sáu, tiết Tiểu Thử, tính khí ôn hoà, vô tư lự, tạm no đủ, cát hung hoạ phúc quân bình, hôn nhân tốt đẹp, con cháu hiếu thảo.

Tuổi Thân sinh tháng Bảy, tiết Lập Thu, bình thường, có làm có hưởng, bình an tự tại.

Tuổi Thân sinh tháng Tám, tiết Bạch Lộ, sự nghiệp hanh thông, nhiều triển vọng, gia đạo hoà hợp, khá giả.

Tuổi Thân sinh tháng Chín, tiết Hàn Lộ, có năng lực, quyết tâm, nhưng sự nghiệp giữa chừng gãy đổ, khả năng thành công và thất bại ngang nhau.

Tuổi Thân sinh tháng Mười, tiết Lập Đông, hiểu biết rộng, thạo nghề, nhưng không bền chí, khó thành công như ý, sinh hoạt tạm đủ.

Tuổi Thân sinh tháng Mười Một, tiết Đại Tuyết, nhiều buồn phiền, tính khí cương cường nên thăng trầm bất định, kém chí tiến thủ.

Tuổi Thân sinh tháng Chạp, tiết Đại Hàn, mưu sự khó thành, thắng lợi khó bền, kinh doanh bất lợi, cuối đời bình an.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI THÂN TUỲ THEO NGÀY SINH:

Tuổi Thân sinh ngày Tý, mệnh có tướng tinh, dễ bị kiện tụng, khó bề làm quan.

Tuổi Thân sinh ngày Sửu, Nguyệt Đức chiếu mệnh, xa quê hương, hao tài, nhưng có chí kiên định thì sẽ thành công.

Tuổi Thân sinh ngày Dần, có sao Dịch Mã, dễ gặp xui xẻo, thành bại khó phân.

Tuổi Thân sinh ngày Mão, Tử Vi chiếu mệnh thì chức quyền cao sang, không sợ bất cứ tai hoạ nào.

Tuổi Thân sinh ngày Thìn, Bạch Hổ ở mệnh, gặp rất nhiều rủi ro, nhưng có đủ cơ trí đối phó nhờ tài năng văn chương.

Tuổi Thân sinh ngày Tỵ, sao Thiên Đức chiếu mệnh, gặp hung hoá cát.

Tuổi Thân sinh ngày Ngọ, dễ lâm nghịch cảnh, tình thế bất lợi.

Tuổi Thân sinh ngày Mùi, ốm yếu, dễ gặp xui xẻo, cô đơn.

Tuổi Thân sinh ngày Thân, sung sướng, phúc thọ, đông con cháu.

Tuổi Thân sinh ngày Dậu, Đào Hoa nếu ở mệnh thì dễ thay lòng đổi dạ, vạn sự giai không.

Tuổi Thân sinh ngày Tuất, thăng trầm bất định, khó bề yên thân.

Tuổi Thân sinh ngày Hợi, chuốc phiền não vì thích đèo bòng.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI THÂN TUỲ THEO GIỜ SINH:

Tuổi Thân sinh giờ Tý, Kim sinh Thuỷ, sự nghiệp tất vượng, nhưng khó làm quan.

Tuổi Thân sinh giờ Sửu, Thổ sinh Kim, đi đâu cũng gặp thuận lợ, uy danh.

Tuổi Thân sinh giờ Dần, Kim khắc Mộc, có thể làm quan, nhưng hữu danh vô thực.

Tuổi Thân sinh giờ Mão, Kim khắc Mộc, nhiều vui vẻ, gặp hung hoá cát.

Tuổi Thân sinh giờ Thìn, Thổ sinh Kim, tài năng hơn người, nhưng Thì là Thiên La, dễ bị phá hại.

Tuổi Thân sinh giờ Tỵ, Hoả khắc Kim, hay bị tai tiếng, nhưng được quý nhân giúp đỡ.

Tuổi Thân sinh giờ Ngọ, Hoả khác Kim, gian nan vất vả.

Tuổi Thân sinh giờ Mùi, Thổ sinh Kim, Âm lấn Dương, khó tránh bệnh tật, không được nhân hoà.

Tuổi Thân sinh giờ Thân, hai Kim tỉ hoà, lành nhiều dữ ít, bạn bè dễ phản.

Tuổi Thân sinh giờ Dậu, bình thường.

Tuổi Thân sinh giờ Tuất, Âm lấn Dương, nhiều phiền não, khó khăn.

Tuổi Thân sinh giờ Hợi, Kim sinh Thủy, tuy có thể bị tai tiếng kiện tụng, nhưng được nhiều người giúp đỡ.

NGƯỜI SINH NĂM DẬU ( CẦM TINH CON GÀ)

HOẠ PHÚC CỦA NGƯỜI SINH NĂM DẬU TUỲ THEO NĂM:

Tuổi Dậu gặp năm Tý, có hao tốn vào việc hiếu hỉ, tiếp đãi bạn bè.

Tuổi Dậu gặp năm Sửu, được giao quyền, nhưng lên xuống bất định.

Tuổi Dậu gặp năm Dần, kinh doanh thuận lợi phát đạt, hao tốn nhỏ.

Tuổi Dậu gặp năm Mão, hao tốn lớn hoặc gặp rủi ro.

Tuổi Dậu gặp năm Thìn, được giao quyền hành, vất vả bận bịu.

Tuổi Dậu gặp năm Tỵ, có cơ hội làm quan, nhưng hao tài, hữu danh vô thực.

Tuổi Dậu gặp năm Ngọ, có thể bị tai tiếng, mất chức.

Tuổi Dậu gặp năm Mùi, cơ hội thắng tiến về chức vụ, sự nghiệp.

Tuổi Dậu gặp năm Thân, bất lợi cho việc kinh doanh, bế tắc.

Tuổi Dậu gặp năm Dậu, kinh doanh bất lợi.

Tuổi Dậu gặp năm Tuất, cơ hôi thăng tiến, dễ đi xa, có chuyện buồn phiền.

Tuổi Dậu gặp năm Hợi, nhiều bất lợi về chức quyền, hành sự phải thận trọng.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI DẬU TUỲ THEO THÁNG SINH:

Tuổi Dậu sinh tháng Giêng, tiết Lập Xuân, tuy Xuân về nhưng tuyết chưa tan, tiến thoái lưỡng nan, khoẻ mạnh trường thọ.

Tuổi Dậu sinh tháng Hai, tiết Kinh Trập, sinh khí sung mãn, mưu sự thuận lợi.

Tuổi Dậu sinh tháng Ba, tiết Thanh Minh, thông minh linh lợi, hưởng thiên lộc, một đời vinh hoa.

Tuổi Dậu sinh tháng Tư, tiết Lập Hạ, có tài năng, nhưng chớ kiêu ngạo, mà chỉ được một thời, sự nghiệp khó lâu bền.

Tuổi Dậu sinh tháng Năm, tiết Mang Chủng, thời trẻ sung sướng, về già khổ sở.

Tuổi Dậu sinh tháng Sáu, tiết Tiểu Thử, mưu sự thuận lợi, gặp hung hoá cát.

Tuổi Dậu sinh tháng Bảy, tiết Lập Thu, thông minh chăm chỉ, bền chí vươn lên, có nhiều triển vọng.

Tuổi Dậu sinh tháng Tám, tiết Bạch Lộ, có quyền mưu trí tuệ, thế ngày một mạnh, lâm sự linh hoạt, được người kính nể.

Tuổi Dậu sinh tháng Chín, tiết Hàn Lộ, mưu sự thuận lợi, cuộc sống sung sướng.

Tuổi Dậu sinh tháng Mười, tiết Lập Đông, tính khí cương cường, khó tránh tai ương, biết mềm dẻo thì đỡ phiền não.

Tuổi Dậu sinh tháng Mười Một, tiết Đại Tuyết, dễ lâm nghịch cảnh, mưu sự khó thành.

Tuổi Dậu sinh tháng Chạp, tiết Tiểu Hàn, Gian nan vất vả, yếu về nhiều mặt.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI DẬU TUỲ THEO NGÀY SINH:

Tuổi Dậu sinh ngày Tý, cuộc đời bình thường, kinh doanh bất lợi, chớ ham đèo bòng.

Tuổi Dậu sinh ngày Sửu, lành ít dữ nhiều, lúc thắng lúc thua, không được nhân hoà.

Tuổi Dậu sinh ngày Dần, nhiều bệnh tật, lâm nguy được cứu.

Tuổi Dậu sinh ngày Mão, nhiều rủi ro, hao tổn, gia đạo nhiều sóng gió, có thể trắng tay.

Tuổi Dậu sinh ngày Thìn, Tử Vi chiếu mệnh, mưu sự dễ thành, có nạn được cứu.

Tuổi Dậu sinh ngày Tỵ, sóng gió thất thường, cơ nghiệp khó bền.

Tuổi Dậu sinh ngày Ngọ, phúc tinh chiếu mệnh, nhiều điều thuận lợi.

Tuổi Dậu sinh ngày Mùi, cuộc sống thanh bần, dễ bị cô đơn.

Tuổi Dậu sinh ngày Thân, thành bại thất thường, hành sự phải mềm dẻo, thận trọng.

Tuổi Dậu sinh ngày Dậu, sung sướng, danh lợi kiêm toàn, ôn hoà trung tín.

Tuổi Dậu sinh ngày Tuất, thích hư danh, ưa phù phiếm, cần thực tế.

Tuổi Dậu sinh ngày Hợi, trọng nghĩa khinh tài, thăng trầm bất định, thắng lớn thua to.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI DẬU TUỲ THEO GIỜ SINH:

Tuổi Dậu sinh giờ Tý, Kim sinh Thuỷ, khó đảm đương đại sự, dễ bị tiểu nhân hãm hại, gia đạo bình thường.

Tuổi Dậu sinh giờ Sửu, Thổ sinh Kim, được người kính nể, đề phòng tiểu nhân hãm hại.

Tuổi Dậu sinh giờ Dần, Kim khắc Mộc, bình thường, lúc thắng lúc bại.

Tuổi Dậu sinh giờ Mão, Kim khắc Mộc, thông minh, cô độc, dễ bị miệng tiếng, hao tổn.

Tuổi Dậu sinh giờ Thìn, Thổ sinh Kim, tính nết trung hậu, chức quyền cao, cuối đời gãy đổ.

Tuổi Dậu sinh giờ Tỵ, Hoả khắc Kim, nhiều gian nan thử thách, có chí vươn lên mới thành tài.

Tuổi Dậu sinh giờ Ngọ, Hoả khắc Kim, thông minh đa năng, dễ ham tửu sắc, chuốc phiền não tai tiếng, sự nghiệp có thể thành.

Tuổi Dậu sinh giờ Mùi, Thổ sinh Kim, tính tình hung bạo, ắt chuốc hoạ.

Tuổi Dậu sinh giờ Thân, nhiều bất lợi, khoẻ mạnh nhưng nghèo túng.

Tuổi Dậu sinh giờ Dậu, hai Kim tỉ hoà, phú quí dư dả, lúc thắng đề phòng biến cố, đề phòng bệnh tật.

Tuổi Dậu sinh giờ Tuất, Thổ sinh Kim, cả đời làm ăn nơi xa, hôn nhân dang dở.

Tuổi Dậu sinh giờ Hợi, Kim sinh Thuỷ, rời xa quê hương, tài lợi như ý, nhưng cuối đời cô đơn.

NGƯỜI SINH NĂM TUẤT ( CẦM TINH CON CHÓ)

HOẠ PHÚC CỦA NGƯỜI SINH NĂM TUẤT TUỲ THEO NĂM:

Tuổi Tuất gặp năm Tý, niên vận chính Tài, kinh doanh mưu sự khá thuận, nhưng cát hung chia đều, lúc thắng lúc bại.

Tuổi Tuất gặp năm Sửu, niên vận Kiếp Tài, kinh doanh bất lợi, tài lộc sa sút, gặp nhiều khó khăn.

Tuổi Tuất gặp năm Dần, niên vận Thất Sát, bất lợ, bạn hữu phản bội, tiểu nhân ghen ghét, nhưng không có tai nạn lớn.

Tuổi Tuất gặp năm Mão, niên vân Chính Quan, chức quyền không cao, có khi nguy hại, sao Nguyệt Đức có thể cứu giải.

Tuổi Tuất gặp năm Thìn, niên vận tỉ hoà, nếu cố tranh tài lợi ắt bị tai tiếng.

Tuổi Tuất gặp năm Tỵ, niên vận Thiên Ấn, có thăng chức, nhưng hãy giữ thanh liêm, thì mọi việc đều tốt.

Tuổi Tuất gặp năm Ngọ, nien vận Chính Ấn, tài lợi đại cát, có hao tốn nhỏ.

Tuổi Tuất gặp năm Mùi, niên vận Kiếp Tài, kinh doanh bất lợi, hao công tổn sức.

Tuổi Tuất gặp năm Thân, niên vận Thực Thân, tạm no đủ, nhưng tất cả ngược xuôi.

Tuổi Tuất gặp năm Dậu, niên vận Thương Quan, dễ mất chức, bệnh nặng.

Tuổi Tuất gặp năm Tuất, tỉ hoà, Hoa Cái toạ vị, lợi về văn chương, vất vả tốn sức.

Tuổi Tuất gặp năm Hợi, niên vận Thiên Tài, có cơ hội kinh doanh, có tin mừng.

Hoạ phúc người tuổi Tuất tuỳ theo tháng sinh:

Tuổi Tuất sinh tháng Giêng, tiết Lập Xuân, đời sống dư dả, nếu hại người thì gặp hoạ lớn.

Tuổi Tuất sinh tháng Hai, tiết Kinh Trập, tính nết hung bạo, chuốc lắm tai hoạ.

Tuổi Tuất sinh tháng Ba, tiết Thanh Minh, thông minh tài năng, tinh thần sảng khoái, gặp nhiều cát lợi.

Tuổi Tuất sinh tháng Tư, tiết Lập Hạ, tuy không phú quí, nhưng ít hiểm ác phong ba.

Tuổi Tuất sinh tháng Năm, tiết Mang Chủng, gian nan vất vả, hay đau ốm. Tuổi Tuất sinh tháng Sáu, tiết Tiểu Thử, bình thường, cầu lợi ít được.

Tuổi Tuất sinh tháng Bảy, tiết Lập Thu, nhiều phiền não, khó thành sự nghiệp, thăng trầm bất định.

Tuổi Tuất sinh tháng Tám, tiết Bạch Lộ, thông minh, xuất khẩu thành chương, giữ được chừng mực thì về già sung sướng.

Tuổi Tuất sinh tháng Chín, tiết Hàn Lộ, tính quả đoán nhưng quả quyết liệt, dễ chuốc tai vạ bất ngờ.

Tuổi Tuất sinh tháng Mười, tiết Lập Đông, sóng gió gian truân, khó đạt danh lợi, nếu rèn đức độ, có cơ hội thành công.

Tuổi Tuất sinh tháng Mười Một, tiết Đại Tuyết, gian khổ phiền muộn, suốt đời vất vả.

Tuổi Tuất sinh tháng Chạp, tiết Tiểu Hàn, vạn sự thuận lợi, gia đạo ấm êm, công thành danh toại.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI TUẤT TUỲ THEO NGÀY SINH:

Tuổi Tuất sinh ngày Tý, thăng trầm bất định, hôn nhân khó như ý, nhiều việc khó khăn.

Tuổi Tuất sinh ngày Sửu, mưu sự bất lợi, gia đạo bất hoà.

Tuổi Tuất sinh ngày Dần, làm ơn mắc oán, nhiều việc không như mong muốn.

Tuổi Tuất sinh ngày Mão, đễ được người khác phải chiếu cố, tai tiếng, tốn tiền.

Tuổi Tuất sinh ngày Thìn, nhiều sóng gió, nguy hiểm, hao tốn.

Tuổi Tuất sinh ngày Tỵ, thất bại được cứu, cuộc sống bình thường.

Tuổi Tuất sinh ngày Ngọ, tiền tài, địa vị đều được hơn người, nhưng có khi thất bại nặng.

Tuổi Tuất sinh ngày Mùi, sức khoẻ kém, dễ bị tai tiếng, gặp hoạ được cứu.

Tuổi Tuất sinh ngày Thân, nay đây mai đó, xa rời quê hương.

Tuổi Tuất sinh ngày Dậu, gian nan trắc trở, nhiều rủi ro đau buồn.

Tuổi Tuất sinh ngày Hợi, kinh doanh bất lợi, nhưng lạc quan yêu đời.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI TUẤT TUỲ THEO GIỜ SINH:

Tuổi Tuất sinh giờ Tý, Thổ khắc Thuỷ, mưu sự bất lợi, thắng bại bất định.

Tuổi Tuất sinh giờ Sửu, hai Thổ tỉ hoà, tại hoạ không đáng kể, nhưng nhiều phiền muộn, song được quí nhân giúp đỡ.

Tuổi Tuất sinh giờ Dần, Mộc khắc Thổ, bệnh hoạn hao tài, nhưng đều qua khỏi.

Tuổi Tuất sinh giờ Mão, Mộc khắc Thổ, nhiều điều trái ý, hành xử cần thận trọng.

Tuổi Tuất sinh giờ Thìn, hai Thổ tỉ hoà, tiền của vào ra đều đặn.

Tuổi Tuất sinh giờ Tỵ, Hoả sinh Thổ, tuy có thất bại, nhưng không nặng nề.

Tuổi Tuất sinh giờ Ngọ, Hoả sinh Thổ, có chức quyền, nổi danh, nhưng gặp nhiều trắc trở, không giàu.

Tuổi Tuất sinh giờ Mùi, hai Thổ tỉ hoà, mưu sự dễ thành, tuy cô đơn nhưng có phúc tinh chiếu mệnh.

Tuổi Tuất sinh giờ Thân, Thổ sinh Kim, dễ đi xa làm khách, nhiều việc như ý.

Tuổi Tuất sinh giờ Dậu, Thổ sinh Kim, sức khoẻ kém, nhiều bệnh tật.

Tuổi Tuất sinh giờ Tuất, giỏi nghề, nếu phạm Thái Tuế thì khó yên vui.

Tuổi Tuất sinh giờ Hợi, Thổ khắc Thuỷ, lưu lạc quê người, nhưng về già an nhà.

NGƯỜI SINH NĂM HỢI ( CẦM TINH CON HEO)

HOẠ PHÚC CỦA NGƯỜI SINH NĂM HỢI TUỲ THEO NĂM:

Tuổi Hợi gặp năm Tý, niên vận Kiếp Tài, kinh doanh khi có lời thì tai hoạ liền tới, nhưng được sao Thái Dương cứu giải.

Tuổi Hợi gặp năm Sửu, niên vận Chính Tài, làm ăn phát đạt, tiền của dồi dào, tốt đẹp.

Tuổi Hợi gặp năm Dần, niên vận Thực Thân, tiền tài hao tổn, nhiều điều bất trắc.

Tuổi Hợi gặp năm Mão, niên vận Thực Thân nhưng đắc cách, tiền tài dư dả, chức quyền có biến động, đề phòng tiểu nhân hãm hại.

Tuổi Hợi gặp năm Thìn, niên vân Chíng Quan, rong ruổi phương xa hiển hách uy quyền, nhưng bệnh và hao tài nhẹ.

Tuổi Hợi gặp năm Tỵ, niên vận Thiên Tài, phát càng mạnh thì hao tổn càng lớn.

Tuổi Hợi gặp năm Ngọ, niên vận Chính Tài, kinh doanh mưu lợi đều tốt đẹp, tiền của hanh thông, tuy gặp tai biến nhưng có sao Tử Vi, Long Đức hoá giải.

Tuổi Hợi gặp năm Mùi, niên vận Chính Quan, có cơ hội thăng tiến, nhưng lưn chức thì hao tài.

Tuổi Hợi gặp năm Thân, niên vận Thiên Ấn, tài lợi kém sút, buôn bán ế ẩm, tai tiếng, nhưng có lợi về chức quyền.

Tuổi Hợi gặp năm Dậu, niên vận Chính Ấn, có quyền hành, nhưng kém lợi lộc, kinh doanh bất lợi.

Tuổi Hợi gặp năm Tuất, niên vận Thất Sát, bất lợi, bệnh hoạn.

Tuổi Hợi gặp năm Hợi, tỉ hoà, phạm Thái Tuế, bạn bè bất lợi, sự nghiệp, kinh doanh bất lợi, mưu sự khó thành.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI HỢI TUỲ THEO THÁNG SINH:

Tuổi Hợi sinh tháng Giêng, tiết Lập Xuân, thông minh quý hiển, có thể dựng nghiệp lớn, phúc cao trường thọ.

Tuổi Hợi sinh tháng Hai, tiết Kinh Trập, nhiều triển vọng tốt đẹp, có thể nên nghiệp lớn, nhờ tài cao, đức độ.

Tuổi Hợi sinh tháng Ba, tiết Thanh Minh, thể chất cương cường, chí khí cao thượng, được người kính nể.

Tuổi Hợi sinh tháng Tư, tiết Lập Hạ, rất tốt đẹp, tài đức song toàn, sự nghiệp như ý.

Tuổi Hợi sinh tháng Năm, tiết Mang Chủng, tính nết ôn hoà, an nhàn sung sướng.

Tuổi Hợi sinh tháng Sáu, tiết Tiểu Thử, thăng trầm bất định, kém chí tiến thủ.

Tuổi Hợi sinh tháng Bảy, tiết Lập Thu, nhiều triển vọng thành đạt, cuộc đời no đủ.

Tuổi Hợi sinh tháng Tám, tiết Bạch Lộ, tay trắng dựng nghiệp, được người quí mến, nhưng vất vả.

Tuổi Hợi sinh tháng Chín, tiết Hàn Lộ, cuộc sống no đủ, nhưng phải nhẫn nại thì mới có thể phú quí.

Tuổi Hợi sinh tháng Mười, tiết Lập Đông, an nhàn đức độ, được người quý mến, càng về già càng dư dả.

Tuổi Hợi sinh tháng Mười Một, tiết Đại Tuyết, tốt đẹp phúc hậu, danh lợi lưỡng toàn, an nhàn no đủ.

Tuổi Hợi sinh tháng Chạp, tiết Tiểu Hàn, bình thường, tuy đủ ăn, nhưng không có quyền hành, năng lực gì.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI HỢI TUỲ THEO NGÀY SINH:

Tuổi Hợi sinh ngày Tý, có sao Thái Dương chiếu mệnh, gặp hung hoá cát, đừng ham ăn chơi mà chuốc phiền não.

Tuổi Hợi sinh ngày Sửu, sao Thái Âm chiếu mệnh, gặp nạn có quí nhân cứu giúp.

Tuổi Hợi sinh ngày Dần, khó tránh tai tiếng, phiền não.

Tuổi Hợi sinh ngày Mão, một đời sung sướng, của cải như núi, nhưng dễ bị tiểu nhân hãm hại, lâm vào kiện tụng.

Tuổi Hợi sinh ngày Thìn, sao Nguyệt Đức chiếu mệnh, nhiều việc vui mừng, bệnh nhẹ, hao tốn không đáng kể.

Tuổi Hợi sinh ngày Tỵ, Dịch Mã tại mệnh, nay đây mai đó, có thời phát đạt, khó tránh thất bại.

Tuổi Hợi sinh ngày Ngọ, Tử Vi chiếu, Long Đức ở mệnh, mọi việc tốt đẹp, gặp nạn được hoá giải.

Tuổi Hợi sinh ngày Mùi, mệnh có Bạch Hổ, phá bại vài lần, tài nghệ hơn người.

Tuổi Hợi sinh ngày Thân, nhiều tai tiếng, nếu có Thiên Đức chiếu mệnh thì an nhàn.

Tuổi Hợi sinh ngày Dậu, nếu có sao Phá Toái, bị tai tiếng xấu khó rửa.

Tuổi Hợi sinh ngày Tuất, bệnh tật, cô đơn.

Tuổi Hợi sinh ngày Hợi, thăng trầm bất định, sự nghiệp khó thành, gian nan trắc trở.

HOẠ PHÚC NGƯỜI TUỔI HỢI TUỲ THEO GIỜ SINH:

Tuổi Hợi sinh giờ Tý, hai Thủy tỉ hoà, diện mạo thanh tú, thông minh tài năng, dễ luỵ vì chuyện trai gái.

Tuổi Hợi sinh giờ Sửu, Thổ khắc Thuỷ, trọng tài khinh nghĩa, triển vọng mờ mịt.

Tuổi Hợi sinh giờ Dần, Thuỷ sinh Mộc, tính nết hung bạo, mưu sự khó xong.

Tuổi Hợi sinh giờ Mão, Thuỷ sinh Mộc, tiền của dư dả, thuận lợi.

Tuổi Hợi sinh giờ Thìn, Thổ khắc Thuỷ, vui vẻ, thích hư danh, vinh hoa.

Tuổi Hợi sinh giờ Tỵ, Thuỷ khắc Hoả, Dịch Mã ở mệnh, có lúc phát đạt mạnh, về già bình thường.

Tuổi Hợi sinh giờ Ngọ, Thuỷ khắc Hoả, làm quan nhưng nghèo.

Tuổi Hợi sinh giờ Thân, Kim sinh Thuỷ, tài nghệ hơn người, nổi danh xa gần.

Tuổi Hợi sinh giờ Dậu, Kim sinh Thủy, tương đối khá giả.

Tuổi Hợi sinh giờ Tuất, Thổ khắc Thuỷ, cô đơn, ưa tự do phóng khoáng.

Tuổi Hợi sinh giờ Hợi, hai Thuỷ tỉ hoà, mệnh phạm sao Thái Tuế, sự nghiệp bấp bênh, bạn bè dễ phản bội.

BIẾT NHÂN HOÀ

LỰA CHỌN BẠN ĐỜI THEO NĂM SINH:

NỮ TUỔI TÝ MÀ PHỐI HÔN VỚI:

Nam tuổi Tý: Hôn nhân tốt đẹp, tình cảm đằm thắm.

Nam tuổi Sửu: Hôn nhân mĩ mãn, chung sống hoà thuận.

Nam tuổi Dần: Chỉ cần tuổi Tý dung nạp được tinh thần phiêu lưu mạo hiểm của tuổi Dần thì có thể sống dài lâu.

Nam tuổi Mão: Người nam tuổi Mão thích chơi bời, nhậu nhẹt với bạn bè mà ít khi chăm sóc cho vợ con.

Nam tuổi Thìn: Hôn nhân hạnh phúc vì tuổi Tý có thể giúp tuổi Thìn phát triển về sự nghiệp.

Nam tuổi Tỵ: Hay khắc khẩu, dễ dẫn tới cảnh bằng mặt chẳng bằng lòng.

Nam tuổi Mùi: Đây không phải là cuộc hôn nhân lý tưởng, kết quả thường là chia ly.

Nam tuổi Thân: Hôn nhân hạnh phúc.

Nam tuổi Dậu: Luôn tranh cãi, gia đình ít khi yên ấm, đồng sàng dị mộng.

Nam tuổi Tuất: Hôn nhân lý tưởng, tuổi Tý sẽ giúp tuổi Tuất hài hoà giữa lý tưởng và thực tế.

Nam tuổi Hợi: Hôn nhân tốt đẹp.

NỮ TUỔI SỬU MÀ PHỐI HÔN VỚI:

Nam tuổi Tý: Hôn nhân tốt đẹp.

Nam tuổi Sửu: Hôn nhân tốt đẹp, sống đến đầu bạc răng long.

Nam tuổi Dần: Khó chung sống lâu dài.

Nảm tuổi Mão: Có thể kết hợp với điều kiện tuổi Mão phải nhường nhinj tuổi Sửu.

Nam tuổi Thìn: Không hạnh phúc trong đời sống tình cảm, ai cũng muốn làm chủ gia đình.

Nam tuổi Tỵ: Hôn nhân mỹ mãn.

Nam tuổi Ngọ: Khó lâu bền.

Nam tuổi Mùi: Không nên xe duyên kết tóc.

Nam tuổi Thân: Hôn nhân tốt đẹp.

Nam tuổi Dậu: Hôn nhân hạnh phúc.

Nam tuổi Tuất: Khó có cuộc sống hạnh phúc, trừ phi tuổi Sửu an phận làm nội tướng chăm sóc gia đình con cái.

Nam tuổi Hợi: Không hạnh phúc lắm.

NỮ TUỔI DẦN MÀ PHỐI HÔN VỚI:

Nam tuổi Tý: Không có kết quả.

Nam tuổi Sửu: Hôn nhân thiếu hạnh phúc.

Nam tuổi Dần: Khó hoà hợp.

Nam tuổi Mão: Hôn nhân mỹ mãn.

Nam tuổi Thìn: Hôn nhân hạnh phúc, tuy có thăng trầm.

Nam tuổi Tỵ: Khó kết hợp vẹn toàn.

Nam tuổi Ngọ: Có thể sống hạnh phúc.

Nam tuổi Mùi: Hôn nhân không thành, dễ tan vỡ.

Nam tuổi Thân: Người tuổi Thân sẽ gây nhiều đau khổ cho người tuổi Dần.

Nam tuổi Dậu: Khó kết hợp hài hoà.

Nam tuổi Tuất: Có thể kết hợp, song khó lâu bền.

Nam tuổi Hợi: Hôn nhân tốt đẹp.

NỮ TUỔI MÃO MÀ PHỐI HÔN VỚI:

Nam tuổi Tý: Không hạnh phúc lắm, dễ dẫn tới tình trạng “ ông ăn chả bà ăn nem”.

Nam tuổi Sửu: Có thể cùng chung sống, tuy không hợp lắm, nhưng tuổi Mão có tính nhẫn nại.

Nam tuổi Dần: Sẽ có mâu thuẫn, song kết cục tốt đẹp.

Nam tuổi Mão: Hôn nhân mỹ mãn, hạnh phúc.

Nam tuổi Thìn: Hôn nhân hạnh phúc, người vợ tuổi Mão có thể giúp chồng thăng tiến trong sự nghiệp.

Nam tuổi Tỵ: Sẽ rất hạnh phúc nếu người tuổi Mão biết dùng gia đình để quản lý, bó buộc người tuổi Tý.

Nam tuổi Ngọ: Hôn nhân tốt đẹp.

Nam tuổi Mùi: Có thể chung sống.

Nam tuổi Thân: Hôn nhân khá thuận lợi.

Nam tuổi Dậu: Khó có hạnh phúc.

Nam tuổi Tuất: Hôn nhân hạnh phúc.

Nam tuổi Hợi: Hôn nhân mỹ mãn.

NỮ TUỔI THÌN MÀ PHỐI HƠN VỚI:

Nam tuổi Tý: Hôn nhân lý tưởng.

Nam tuổi Sửu: Gặp nhiều xung đột, khó hoà hợp.

Nam tuổi Dần: Hôn nhân tốt đẹp, vợ chồng tin tưởng lẫn nhau.

Nam tuổi Mão: Có thể lâu bền nếu người tuổi Thìn biết nhường nhịn.

Nam tuổi Thìn: Khó tránh khỏi đổ vỡ.

Nam tuổi Tỵ: Khó hoà hợp lâu dài.

Nam tuổi Ngọ: Hôn nhân không tốt lắm.

Nam tuổi Mùi: Không nên kết hợp.

Nam tuổi Thân: Có thể cùng chung sống.

Nam tuổi Dậu: Hôn nhân khá tốt đẹp.

Nam tuổi Tuất: Không nên kết hợp.

Nam tuổi Hợi: Có thể chung sống lâu dài.

NỮ TUỔI TỴ MÀ PHỐI HÔN VỚI:

Nam tuổi Tý: Khó hoà thuận.

Nam tuổi Sửu: Có thể kết hợp với điều kiện người nữ đừng quá lấn quyền chồng.

Nam tuổi Dần: Khó chung sống lâu dài bởi không ai nhường ai.

Nam tuổi Mão: Có thể kết hôn.

Nam tuổi Thìn: Rất tốt.

Nam tuổi Tỵ: Có thể sống hạnh phúc nhưng phải phân rõ quyền hạn.

Nam tuổi Ngọ: Có thể cùng chung sống.

Nam tuổi Mùi: Kết cục sẽ là chia ly.

Nam tuổi Thân: Hôn nhân thuận lợi.

Nam tuổi Dậu: Có thể chung sống lâu dài.

Nam tuổi Tuất: Có thể chung sống hạnh phúc nếu người nữ đừng quá nhiều lời.

Nam tuổi Hợi: Có thể kết hôn nếu người nam chấp nhận thiệt thòi.

NỮ TUỔI NGỌ MÀ PHỐI HÔN VỚI:

Nam tuổi Tý: Luôn xung khắc, kết cục chia ly.

Nam tuổi Sửu: Rất khó sống chung.

Nam tuổi Dần: Hôn nhân lý tưởng.

Nam tuổi Mão: Khó hoà thuận.

Nam tuổi Thìn: Khó lâu bền.

Nam tuổi Tỵ: Khó lâu bền, hạnh phúc.

Nam tuổi Ngọ: Hôn nhân thuận lợi.

Nam tuổi Mùi: Khó hạnh phúc.

Nam tuổi Thân: Hôn nhân trục trặc.

Nam tuổi Dậu: Có thể hạnh phúc nếu người nữ chịu thiệt thòi.

Nam tuổi Tuất: Hôn nhân tốt đẹp, hạnh phúc dài lâu.

Nam tuổi Hợi: Gây đau khổ cho nhau, không nên kết hợp.

NỮ TUỔI MÙI MÀ PHỐI HÔN VỚI:

Nam tuổi Tý: Thuận lợi, song người chồng sẽ không được tự do.

Nam tuổi Sửu: Xung khắc, khó hoà thuận.

Nam tuổi Dần: Thường khắc khẩu, khó lâu bền.

Nam tuổi Mão: Hôn nhân tốt đẹp.

Nam tuổi Thìn: Có thể kết hợp.

Nam tuổi Tỵ: Có thể kết hợp.

Nam tuổi Ngọ: Khá tốt đẹp.

Nam tuổi Mùi: Có thể hoà hợp.

Nam tuổi Thân: Có thể kết hợp.

Nam tuổi Dậu: Không nên kết hợp.

Nam tuổi Tuất: Không có hạnh phúc.

Nam tuổi Hợi: Có thể kết hợp.

NỮ TUỔI THÂN MÀ PHỐI HỢP:

Nam tuổi Tý: Hôn nhân tốt đẹp.

Nam tuổi Sửu: Hôn nhân thuận lợi.

Nam tuổi Dần: Khó thuận hoà, hay khắc khẩu.

Nam tuổi Mão: Hôn nhân hạnh phúc.

Nam tuổi Thìn: Có thể hoà hợp.

Nam tuổi Tỵ: Khó có kết quả tốt đẹp.

Nam tuổi Ngọ: Không nên kết hôn.

Nam tuổi Mùi: Khó có hạnh phúc.

Nam tuổi Thân: Có thể kết hợp.

Nam tuổi Dậu: Có thể kết hôn, tuy không tốt lắm.

Nam tuổi Tuất: Có thể chung sống dài lâu.

Nam tuổi Hợi: Hôn nhân tốt đẹp.

NỮ TUỔI DẬU MÀ PHỐI HÔN VỚI:

Nam tuổi Tý: Có thể chung sống dài lâu.

Nam tuổi Sửu: Hôn nhân tốt đẹp.

Nam tuổi Dần: Không nên kết hợp.

Nam tuổi Mão: Không nên kết hợp.

Nam tuổi Thìn: Nên kết hợp.

Nam tuổi Tỵ: Kết quả tốt đẹp.

Nam tuổi Ngọ: Khó chung sống dài lâu.

Nam tuổi Mùi: Không nên kết hợp.

Nam tuổi Thân: Không có hạnh phúc, khó hoà thuận.

Nam tuổi Dậu: Không nên kết hôn.

Nam tuổi Tuất: Có thể kết hợp với điều kiện người tuổi Dậu chịu thiệt thòi.

Nam tuổi Hợi: Hôn nhân thuận lợi.

NỮ TUỔI TUẤT PHỔI HÔN VỚI:

Nam tuổi Tý: Hôn nhân tốt đẹp.

Nam tuổi Sửu: Không nên kết hôn.

Nam tuổi Dần: Có thể hoà hợp.

Nam tuổi Mão: Có thể kết hợp.

Nam tuổi Thìn: Luôn xung khắc, khó có hạnh phúc.

Nam tuổi Tỵ: Có thể kết hợp.

Nam tuổi Ngọ: Hôn nhân thuận lợi.

Nam tuổi Mùi: Không có hạnh phúc.

Nam tuổi Thân: Khó chung sống lâu dài.

Nam tuổi Dậu: Khó có hạnh phúc.

Nam tuổi Tuất: Có thể kết hợp tuy không hoà thuận lắm.

Nam tuổi Hợi: Hôn nhân hạnh phúc.

NỮ TUỔI HỢI MÀ PHỐI HÔN VỚI:

Nam tuổi Tý: Hôn nhân thuận lợi.

Nam tuổi Sửu: Hôn nhân tốt đẹp.

Nam tuổi Dần: Có thể kết hợp tuy không hạnh phúc lắm.

Nam tuổi Mão: Hôn nhân hạnh phúc.

Nam tuổi Thìn: Hôn nhân thuận hoà.

Nam tuổi Tỵ: Không nên kết hợp.

Nam tuổi Ngọ: Khó có hạnh phúc lâu bền.

Nam tuổi Mùi: Không nên kết hợp.

Nam tuổi Thân: Có thể chung sống lâu bền.

Nam tuổi Dậu: Không nên kết hợp.

Nam tuổi Tuất: Hôn nhân hạnh phúc.

Nam tuổi Hợi: Hôn nhân mỹ mãn, hạnh phúc dài hạn.

CHỌN BẠN THEO NĂM SINH:

Tục ngữ có câu “ Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, nhưng làm sao ta có thể đoán biết được ai tốt ai xấu, người nào cần tránh, nên tin tưởng ai, ai là bạn tốt?

Tuổi Tý với tuổi Tý: Không hay lắm, cả hai sẽ luôn tìm cách lợi dụng đối phương.

Tuổi Sửu với tuổi Tý: Khó thành bạn thân bởi không cùng quan điểm.

Tuổi Sửu với tuổi Sửu: Cả hai sẽ tranh đoạt quyền lợi lẫn nhau, không ai nhường ai.

Tuổi Dần với tuổi Tý: Khó thành bạn thân bởi trái ngược quan điểm sông.

Tuổi Dần với tuổi Sửu: Có thể là bạn đồng nghiệp tốt.

Tuổi Mão với tuổi Tý: Khó thể thành bạn thân.

Tuổi Mão với tuổi Sửu: Có thể thành bạn thân.

Tuổi Mão với tuổi Mão: Có thể thành tri kỷ.

Tuổi Thìn với tuổi Tý: Có thể thành bạn thân, luôn tôn trọng nhau.

Tuổi Thìn với tuổi Sửu: Khó thành bạn thân.

Tuổi Thìn với tuổi Dậu: Có thể thành bạn thân, cả hai đối xử tốt với nhau.

Tuổi Thìn với tuổi Mão: Có thể thành bạn tốt vì tính cách tương đồng.

Tuổi Thìn với tuổi Thìn: Cả hai sẽ luôn đố kỵ, đấu đá với nhau.

Tuổi Tỵ với tuổi Tý: Có thể thành bạn tốt.

Tuổi Tỵ với tuổi Sửu: Tuy tính cách có nhiều điều trái ngược, nhưng vẫn có thể là bạn tốt của nhau.

Tuổi Tỵ với tuổi Dần: Khó thành bạn thân.

Tuổi Tỵ với tuổi Tỵ: Có thể thành tri kỷ.

Tuổi Ngọ với tuổi Tý: Luôn cạnh tranh, đối đầu như lửa với nước.

Tuổi Ngọ với tuổi Sửu: Quan niệm sống bất đồng, khó thành bạn bè.

Tuổi Ngọ với tuổi Dần: Cả hai thường tranh luận, phê phán lẫn nhau, song có thể dung được nhau.

Tuổi Ngọ với tuổi Thìn: Khó thành bạn thân bởi cùng có yêu cầu quá cao.

Tuổi Ngọ với tuổi Tỵ: Có thể kết bạn với nhau.

Tuổi Ngọ với tuổi Ngọ: Quan hệ bình thường.

Tuổi Mùi với tuổi Sửu: Cả hai thường khinh miệt lẫn nhau.

Tuổi Mùi với tuổi Dần: Khá hoà thuận với nhau.

Tuổi Mùi với tuổi Mão: Cả hai tâm đầu ý hợp, có thể thành tri kỷ.

Tuổi Mùi với tuổi Thìn: Quan hệ tốt đẹp đôi bên cùng coi trọng lẫn nhau.

Tuổi Mùi với tuổi Tỵ: Có thể kết bạn với nhau.

Tuổi Mùi với tuổi Ngọ: Có thể là bạn thân, đối xử đầy đặn.

Tuổi Mùi với tuổi Mùi: Quan hệ bình thường.

Tuổi Thân với tuổi Tý: Quan hệ rất tốt, song người tuổi Thân thường lợi dụng người tuổi Tý.

Tuổi Thân với tuổi Sửu: Có thể thành bạn bè.

Tuổi Thân với tuổi Dần: Luôn đối nghịch, xung khắc, tốt nhất chỉ nên quan hệ sơ giao.

Tuổi Thân với tuổi Mão: Không nên kết bạn với nhau.

Tuổi Thân với tuổi Thìn: Có thể thành bạn thân.

Tuổi Thân với tuổi Tỵ: Khó thành tri kỷ, chỉ nên là quan hệ xã giao.

Tuổi Thân với tuổi Ngọ: Người tuổi Ngọ sẽ luôn nghi ngờ người tuổi Thân.

Tuổi Thân với tuổi Mùi: Cả hai đều muốn lợi dụng, qua mặt nhau.

Tuổi Thân với tuổi Thân: Quan hệ sòng phẳng.

Tuổi Dậu với tuổi Tý: Quan hệ bạn bè xã giao.

Tuổi Dậu với tuổi Sửu: Có thể trở thành bạn tri kỷ.

Tuổi Dậu với tuổi Dần: Không nên kết bạn với nhau.

Tuổi Dậu với tuổi Mão: Khó thành bạn bè, luôn đối nghịch nhau.

Tuổi Dậu với tuổi Thìn: Khó thành bạn thân.

Tuổi Dậu với tuổi Tỵ: Có thể thành bạn thân.

Tuổi Dậu với tuổi Ngọ: Chỉ nên là bạn sơ giao.

Tuổi Dậu với tuổi Mùi: Khó kết bạn với nhau bởi tính cách bất đồng.

Tuổi Dậu với tuổi Thân: Khó làm bạn lâu dài.

Tuổi Dậu với tuổi Dậu: Cả hai luôn chỉ trích, đối đầu với nhau.

Tuổi Tuất với tuổi Tý: Khó thành bạn thân.

Tuổi Tuất với tuổi Sửu: Khó thành bạn bè bởi tính cách khác nhau.

Tuổi Tuất với tuổi Dần: Có thể thành tri kỷ.

Tuổi Tuất với tuổi Mão: Có thể kết bạn, cả hai luôn hiểu và thông cảm lẫn nhau.

Tuổi Tuất với tuổi Thìn: Luôn xung đột với nhau.

Tuổi Tuất với tuổi Tỵ: Khó thành bạn tốt, chỉ nên là quan hệ xã giao.

Tuổi Tuất với tuổi Ngọ: Có thể là bạn tốt của nhau.

Tuổi Tuất với tuổi Mùi: Khó kết bạn với nhau được bởi không dung nhau.

Tuổi Tuất với tuổi Thân: Có thể kết bạn với nhau.

Tuổi Tuất với tuổi Dậu: Khó kết bạn với nhau.

Tuổi Tuất với tuổi Tuất: Quan hệ tốt đẹp, có thể thành tri kỷ.

Tuổi Hợi với tuổi Tý: Chỉ nên là quan hệ xã giao.

Tuổi Hợi với tuổi Sửu: Có thể kết bạn với nhau song nên ít gặp nhau.

Tuổi Hợi với tuổi Dần: Khó thành bạn thân bởi người tuổi Dần luôn tìm cách lợi dụng đối phương.

Tuổi Hợi với tuổi Mão: Có thể kết bạn với nhau, nhưng không nên kết hợp làm ăn chung bởi hai người tuổi Hợi có tính háo thắng.

Tuổi Hợi với tuổi Thìn: Quan hệ bình thường, không thân chẳng sơ.

Tuổi Hợi với tuổi Tỵ: Khó thành bạn thân.

Tuổi Hợi với tuổi Ngọ: Có thể kết bạn với nhau.

Tuổi Hợi với tuổi Mùi: Cả hai luôn đối xử tốt với nhau.

Tuổi Hợi với tuổi Thân: Luôn tôn trọng lẫn nhau.

Tuổi Hợi với tuổi Dậu: Khó kết thành bạn bè.

Tuổi Hợi với tuổi Tuất: Luôn thông cảm, hiểu biết và trung thành với nhau.

Tuổi Hợi với tuổi Hợi: Có thể thành tri kỷ bởi tính cách tương đồng.

LỰA CHỌN ĐỒNG NGHIỆP VÀ BẠN LÀM ĂN THEO NĂM SINH:

Tục ngữ của Trung Quốc có câu “ Hợp thì đến, không hợp thì đi”, trong việc lựa chọn đồng nghiệp và bạn làm ăn thì phương pháp dùng năm sinh để xác định cũng mang lại kết quả khả quan.

NẾU BẠN LÀ NGƯỜI TUỔI TÝ:

Tý với Tý: Kết quả không hay lắm, làm ăn dễ thất bại, kết cục xấu.

Tý với Sửu: Người tuổi Sửu không có đầu óc làm ăn buôn bán lớn, nhưng bù lại họ rất cần cù, chịu khó, không ngại việc.

Tý với Dần: Người tuổi Dần thường gặp may, kết quả tốt.

Tý với Mão: Không nên hợp tác.

Tý với Thìn: Mối quan hệ hợp tác lý tưởng nhưng phải để người tuổi Thìn chỉ huy.

Tý với Tỵ: Không nên hợp tác.

Tý với Ngọ: Không nên hợp tác.

Tý với Mùi: Người tuổi Mùi luôn tiêu xài hoang phí, không nên hợp tác.

Tý với Thân: Có thể hợp tác, nhưng đừng quá tin tưởng người tuổi Thân.

Tý với Dậu: Rất mạo hiểm, không nên hợp tác.

Tý với Tuất: Hợp tác không tốt, người tuổi Tuất tuy thức tế nhưng đôi lúc lại lý tưởng hoá mọi vấn đề.

Tý với Hợi: Người tuổi Tý sẽ chiếm nhiều lợi hơn, nhưng người tuổi Hợi luôn gặp may mắn.

NẾU BẠN LÀ NGƯỜI TUỔI SỬU:

Sửu với Sửu: Hợp tác rất tốt, kết quả tốt đẹp.

Sửu với Dần: Không nên hợp tác vì cả hai đều trái ngược nhau.

Sửu với Mão: Đôi bên lợi dụng lẫn nhau, nghi ngờ lẫn nhau, không nên hợp tác.

Sửu với Thìn: Cả hai không ai nhường ai, ai cũng muốn làm ông chủ, không nên kết hợp.

Sửu với Tỵ: Không nên hợp tác làm ăn huôn bán cũng như làm cùng việc gì.

Sửu với Ngọ: Cả hai đều chịu khó, cần cù, hợp tác có kết quả tốt.

Sửu với Mùi: Không nên hợp tác bởi cả hai luôn xung khắc nhau.

Sửu với Thân: Không nên hợp tác bởi người tuổi Sửu sẽ bị thiệt thòi.

Sửu với Dậu: Làm nhiều được ít, không nên.

Sửu với Tuất: Không nên hợp tác.

Sửu với Hợi: Nên hợp tác bởi người tuổi Hợi luôn tin tưởng vào năng lực của người tuổi Sửu.

NẾU BẠN LÀ NGƯỜI TUỔI DẦN:

Dần với Dần: Khó kết hợp làm ăn.

Dần với Mão: Có thể hợp tác, song người tuổi Mão nên cảnh giác đề phòng tham vọng của người tuổi Dần.

Dần với Thìn: Kết hợp rất tốt.

Dần với Tỵ: Không nên hợp tác, ý kiến thường trái ngược và luôn có xung đột, mâu thuẫn.

Dần với Ngọ: Có thể hợp tác, tuy quan hệ khá phức tạp nhưng kết quả vẫn tốt.

Dần với Mùi: Không nên hợp tác với người tuổi Mùi quá nhút nhát.

Dần với Thân: Tuổi Dần nên đề phòng sự giảo trá của người tuổi Thân; Thân cũng phải đề phòng dã tâm của người tuổi Dần.

Dần với Dậu: Không nên hợp tác.

Dần với Tuất: Cả hai có thể cùng làm chung bất kỳ việc gì trừ việc buôn bán.

Dần với Hợi: Người tuổi Dần luôn lợi dụng, uy hiếp người tuổi Hợi

NẾU BẠN LÀ NGƯỜI TUỔI MÃO:

Mão với Mão: Chỉ nên là đông nghiệp với nhau.

Mão với Thìn: Người tuổi Mão sẽ nhường Thìn quyết định nhưng lại luôn góp rất nhiều ý kiến.

Mão với Tỵ: Có thể chung vốn kinh doanh với điều kiện người tuổi Mão nên ít nói.

Mão với Ngọ: Có thể hợp tác.

Mão với Mùi: Có thể hợp tác.

Mão với Thân: Không nên hợp tác.

Mão với Dậu: Người tuổi Dậu nên thận trọng vì người tuổi Mão có ý đồ khác khi hợp tác.

Mão với Tuất: Nên hợp tác, kết quả tốt.

Mão với Hợi: Có thể kết hợp làm ăn lớn.

NẾU BẠN LÀ NGƯỜI TUỔI THÌN:

Thìn với Thìn: Không nên hợp tác, bởi ai cũng muốn phần lợi hơn về mình.

Thìn với Tỵ: Có thể hợp tác song phải phân rõ trách nhiệm và quyền lợi.

Thìn với Ngọ: Có thể hợp tác theo thời vụ, chớ làm ăn lâu dài.

Thìn với Mùi: Có thể kết hợp trong lãnh vực nghệ thuật mà người tuổi Thìn làm chủ.

Thìn với Thân: Mối liên hệ lý tưởng, có thể thành công rực rỡ.

Thìn với Dậu: Có thể hợp tác với điều kiện người tuổi Thìn làm chủ.

Thìn với Tuất: Luôn đối đầu, mâu thuẫn nên khó làm ăn lâu dài.

Thìn với Hợi: Mối liên hệ tốt.

NẾU BẠN LÀ NGƯỜI TUỔI TỴ:

Tỵ với Tỵ: Có thể cùng mưu tính chứ không nên cùng hành động.

Tỵ với Ngọ: Có thể hợp tác.

Tỵ với Mùi: Có thể hợp tác.

Tỵ với Thân: Cả hai cùng tài giỏi nên không ai nhường ai, dễ dẫn tới thất bại.

Tỵ với Dậu: Không nên làm ăn chung.

Tỵ với Tuất: Có thể hợp tác làm ăn nhỏ và vừa.

Tỵ với Hợi: Xung khắc, khó hợp tác.

Nếu bạn là người tuổi Ngọ:

Ngọ với Ngọ: Cả hai đều tự tư tự lợi, không nên hợp tác.

Ngọ với Mùi: Có thể hợp tác.

Ngọ với Thân: Không thể kết hợp làm ăn.

Ngọ với Dậu: Có thể hợp tác, nhưng tuổi Dậu không nên quá ỷ lại vào tuổi Ngọ.

Ngọ với Tuất: Hợp tác rất tốt cho công việc và lợi ích chung.

Ngọ với Hợi: Khó hợp tác bởi quan điểm thường bất đồng.

NẾU BẠN LÀ NGƯỜI TUỔI MÙI:

Mùi với Mùi: Không nên kết hợp làm ăn buôn bán.

Mùi với Thân: Có thể hợp tác, thành công với điều kiện tuổi Mùi không sợ thiệt thòi.

Mùi với Dậu: Có thể hợp tác vì khó thông cảm lẫn nhau.

Mùi với Tuất: Không nên hợp tác vì tuổi Tuất luôn cho mình có nhiều công lao hơn.

Mùi với Hợi: Có thể hợp tác.

NẾU BẠN LÀ NGƯỜI TUỔI THÂN:

Thân với Thân: Không nên kết hợp bởi ai cũng cho rằng mình giỏi hơn người kia.

Thân với Dậu: Phần thiệt thòi tuổi Dậu phải gánh chịu hoàn toàn.

Thân với Tuất: Khó có kết quả tốt.

Thân với Hợi: Có thể mang lại kết quả tốt, đôi bên đều có lợi.

NẾU BẠN LÀ NGƯỜI TUỔI DẬU:

Dậu với Dậu: Không nên hợp tác.

Dậu với Tuất: Không nên hợp tác.

Dậu với Hợi: Có thể làm ăn chung.

NẾU BẠN LÀ NGƯỜI TUỔI TUẤT:

Tuất với Tuất: Có thể kết hợp làm việc.

Tuất với Hợi: Kết hợp làm ăn rất tốt.

NẾU BẠN LÀ NGƯỜI TUỔI HỢI:

Hợi với Hợi: Có thể hợp tác làm ăn lớn.

QUAN HỆ GIỮA CHA MẸ VÀ CON CÁI QUA NĂM SINH:

1. CHA MẸ TUỔI TÝ MÀ CON CÁI TUỔI:

Tý: Một nhà hoà thuận.

Sửu: Rất tốt, bởi tuổi Sửu rất hiếu thuận.

Dần: Không hoà thuận lắm bởi quan niệm bất đồng.

Mão: Con cái thường không thích ở nhà, hay cãi lại ý cha mẹ.

Thìn: Con cái quá tài giỏi nên đôi khi khiến cha mẹ buồn lòng.

Tỵ: Con cái có cơ hội phát triển tự do.

Ngọ: Con cái thường tìm cách thoát ly gia đình sớm.

Mùi: Không hoà thuận lắm.

Thân: Luôn được cha mẹ nuông chiều dẫn tới hư hỏng.

Dậu: Luôn có nhiều ý kiến trái ngược song vẫn nghe lời cha mẹ.

Tuất: Luôn bất đồng về quan niệm nhưng tuổi Tuất rất hiếu thuận.

Hợi: Quan hệ trong gia đình rất tốt, luôn hoà thuận, đầm ấm.

2. CHA MẸ TUỔI SỬU MÀ CON CÁI TUỔI:

Tý: Không hoà thuận lắm bởi cha mẹ quá nghiêm khắc.

Sửu: Con cái luôn làm trái ý cha mẹ.

Dần: Con cái sẽ tìm cách thoát ly khỏi gia đình sớm.

Mão: Con cái chỉ nghe lời bề ngoài, trong lòng ngấm ngầm phản kháng.

Thìn: Con cái không phục tùng cha mẹ ra mặt.

Ngọ: Con cái có tính độc lập quá cao, sẽ thoát ly gia đình sớm.

Mùi: Gia đình ít hoà thuận, vui vẻ.

Thân: Quan hệ rất tốt.

Dậu: Con cái sẽ nghe lời nếu cha mẹ đừng quá nghiêm khắc.

Tuất: Tuy con cái hiếu thảo nhưng vẫn ngầm có ý phản đối.

Hợi: Con cái luôn phụ giúp cha mẹ, nhưng đôi lúc sẽ có ý kiến bất đồng.

3. CHA MẸ TUỔI DẦN MÀ CON CÁI TUỔI:

Tý: Con cái được quan tâm chăm sóc kỹ.

Sửu: Con cái làm trái ý cha mẹ.

Dần: Cả nhà luôn xung khắc, không yên ổn, đầm ấm.

Mão: Con cái ngấm ngầm làm trái ý cha mẹ dù bề ngoài luôn tỏ vẻ hiếu thuận.

Thìn: Gia đình luôn hạnh phúc, con cái khiến cha mẹ tự hào.

Tỵ: Cha mẹ và con cái không hiểu nhau.

Ngọ: Tuy có xung đột, song mọi người vẫn yêu thương đùm bọc lẫn nhau.

Mùi: Con cái thường hay bị cha mẹ la rầy.

Thân: Con cái luôn xung khắc với cha mẹ.

Dậu: Con cái luôn muốn thoát ly gia đình.

Tuất: Gia đình đầm ấm, yên vui.

Hợi: Con cái luôn chiều lòng cha mẹ.

4. CHA MẸ TUỔI MÃO MÀ CON CÁI TUỔI:

Tý: Không được thuận hoà cho lắm.

Sửu: Mối quan hệ lạnh nhạt, luôn đưa tới chỗ bế tắc.

Dần: Quan hệ bình thường, song con cái tuổi Dần có tính tự ái rất mạnh.

Mão: Gia đình luôn tràn ngập tiếng cười.

Thìn: Gia đình hạnh phúc.

Tỵ: Gia đình hoà hợp.

Ngọ: Cha mẹ nên để con cái phát triển tự nhiên, không nên quá nghiêm khắc.

Mùi: Gia đình hoà thuận, cùng giúp đỡ hiểu biết và thông cảm lẫn nhau.

Thân: Con cái hay nói dối nhưng vẫn bị cha mẹ phát hiện.

Dậu: Cha mẹ không có điều kiện chăm lo đầy đủ cho con cái.

Tuất: Cuộc sống bình lặng, hạnh phúc nhất là mẹ tuổi Mão rất cưng chiều con trai tuổi Tuất.

Hợi: Quan hệ bình thường.

5. CHA MẸ TUỔI THÌN MÀ CON CÁI TUỔI:

Tý: Cha mẹ có yêu cầu quá cao với con cái.

Sửu: Con cái dù cố gắng hết sức vẫn không làm cha mẹ hài lòng.

Dần: Cha mẹ hài lòng với sự tài giỏi của con cái.

Mão: Cha mẹ thất vọng song vẫn thương yêu con cái.

Thìn: Đôi bên cùng tự hào về nhau.

Tỵ: Khá tốt vì con cái thông minh.

Ngọ: Tuy con cái bướng bỉnh, song vẫn nên người.

Mùi: Cha mẹ hài lòng vì con cái có máu nghệ thuật.

Thân: Quan hệ khá tốt.

Dậu: Con cái phải làm theo mọi yêu cầu của cha mẹ dù muốn hay không.

Tuất: Không hoà hợp, luôn xung khắc.

Hợi: Khá tốt, cha mẹ chăm sóc con cái chu đáo.

6. CHA MẸ TUỔI TỴ MÀ CON CÁI TUỔI:

Tý: Quan hệ đôi bên đều tốt.

Sửu: Cha mẹ luôn quan tâm chăm sóc con cái.

Dần: Sẽ xảy ra xung đột.

Mão: Quan hệ khá tốt.

Thìn: Cha mẹ luôn hiểu con cái.

Tỵ: Luôn có xung đột, tranh chấp.

Ngọ: Con cái muốn thoát ly gia đình sớm khiến cha mẹ phiền lòng.

Mùi: Gia đình luôn thuận hoà.

Thân: Đôi bên khác về quan niệm sống nên có nhiều xung đột.

Dậu: Hai bên cùng hiểu nhau, cha mẹ luôn quan tâm đến con cái mà con cái cũng nghe lời cha mẹ.

Tuất: Gia đình luôn xung đột, không ấm êm.

Hợi: Cha mẹ quá nghiêm khắc với con cái.

7. CHA MẸ TUỔI NGỌ MÀ CON CÁI TUỔI:

Tý: Luôn xảy ra xung đột, tranh cãi.

Sửu: Không hợp nhau, tuy con cái vẫn hiếu thuận.

Dần: Cha mẹ để con cái được tự chủ, tự do phát triển.

Mão: Cha mẹ ít có thời gian chăm sóc con cái.

Thìn: Gia đình hoà thuận, êm ấm.

Tỵ: Con cái luôn có ý bất mãn.

Ngọ: Đôi bên cùng hiểu biết thông cảm lẫn nhau.

Mùi: Quan hệ tốt.

Thân: Quan hệ bình thường.

Dậu: Con cái có ý bất mãn.

Tuất: Con cái phải tự lo cho mình.

Hợi: quan hệ khá tốt đẹp.

8. CHA MẸ TUỔI MÙI MÀ CON CÁI TUỔI:

Tý: Luôn xung khắc, khó hoà hợp.

Sửu: Có khoảng cách lớn giữa hai bên.

Dần: Con cái có ý bất mãn.

Mão: Quan hệ bình thường.

Thìn: Gia đình hạnh phúc.

Tỵ: Cha mẹ có thể hy sinh tất cả cho con cái.

Ngọ: Khá hợp nhau.

Mùi: Quan hệ bình thường.

Dậu: Hai bên khó dung nhau bởi quan niệm sống khác nhau.

Tuất: Con cái muốn thoát ly gia đình sớm.

Hợi: Con cái hiếu thảo, luôn gánh vác trách nhiệm trọng yếu trong gia đình.

9. CHA MẸ TUỔI THÂN MÀ CON CÁI TUỔI:

Tý: Quan hệ tốt đẹp.

Sửu: Cha mẹ hiểu và thông cảm con cái.

Dần: Khó hoà thuận, luôn xung khắc.

Mão: Gia đình hạnh phúc yên vui.

Thìn: Gia đình êm ấm.

Tỵ: Con cái giúp đỡ cha mẹ rất nhiều.

Ngọ: Không được hoà thuận lắm.

Mùi: Con cái luôn tin tưởng cha mẹ.

Thân: Mọi sự trong nha đều được quyết định chung.

Dậu: Con cái có ý bất mãn.

Tuất: Luôn xung khắc, khó gần và hợp nhau.

Hợi: Cha mẹ luôn cưng chiều con cái và dạy dỗ chúng nên người.

10. CHA MẸ TUỔI DẬU MÀ CON CÁI TUỔI:

Tý: Khó hoà hợp, luôn bất đồng ý kiến.

Sửu: Con cái biết giúp đỡ cha mẹ.

Dần: Con cái luôn chống đối cha mẹ.

Mão: Con cái không nghe lời cha mẹ.

Thìn: Quan hệ khá tốt.

Tỵ: Con cái luôn tranh cãi với cha mẹ.

Ngọ: Cái chỉ muốn thoát ly gia đình.

Mùi: Con cái khiến cha mẹ thất vọng.

Thân: Cha mẹ tự hào về con cái.

Dậu: Gia đình luôn bất ổn, lúc nào cũng có việc để tranh cãi nhau.

Tuất: Cha mẹ không hiểu được con cái.

Hợi: Con cái chỉ biết làm theo ý mình.

11. CHA MẸ TUỔI TUẤT MÀ CON CÁI TUỔI:

Tý: Cha mẹ không có nhiều thời gian chăm sóc con cái.

Sửu: Khó hoà thuận với nhau.

Dần: Rất toot, cha mẹ hy sinh tất cả cho con.

Mão: Gia đình hoà thuận, êm ấm.

Thìn: Con cái có ý bất mãn vì cha mẹ quá nghiêm khắc.

Tỵ: Quan hệ bình thường.

Ngọ: Con cái độc lập, lại không nghe lời khiến cha mẹ thất vọng.

Mùi: Khó hoà hợp với nhau.

Thân: Gia đình thiếu hoà thuận yên vui.

Dậu: Con cái không nghe lời cha mẹ.

Hợi: Gia đình êm ấm, an bình.

12. CHA MẸ TUỔI HỢI MÀ CON CÁI TUỔI:

Tý: Quan hệ rất tốt.

Sửu: Cha mẹ cưng chiều con cái.

Dần: Gia đình thuận hoà.

Mão: Rất tốt nhưng cha mẹ phải bận lòng vì con cái ít khi quan tâm đến gia đình.

Thìn: Khá tốt, cha mẹ cưng chiều con cái.

Tỵ: Con cái hay làm cha mẹ phiền lòng.

Ngọ: Con cái muốn thoát ly gia đình sớm khiến cha mẹ buồn phiền, thất vọng.

Mùi: Đôi bên hiểu biết và thông cảm lẫn nhau, cùng chung sức vun đắp gia đình yên vui.

Thân: Con cái thông minh tài giỏi.

Dậu: Con cái được yêu vì, chiều chuộng.

Tuất: Cha mẹ hy sinh tất cả cho con cái.

Hợi: Quan hệ rất tốt.

BIẾT MƯU NGƯỜI

QUỶ CỐC ĐẤU PHÁP TÂM THUẬT:

Quỷ Cốc tử là một bậc kỳ nhân thời Xuân Thu Chiến Quốc. Ở đất Dương Thanh thuộc địa phận nhà Chu có một cái hang giữa chốn núi cao rừng rậm, đầy lam sơn chướng khí, người thường khó ở được, nên gọi là Quỷ Cốc ( hang Quỷ). Có vị đạo sĩ sống trong hang này, đạo cao đức trọng, vừa tu luyện, vừa dạy học trò, nên người đời gọi ông là Quỷ Cốc tử hoặc Quỷ cốc tiên sinh. Quỷ Cốc tử rất tinh thông Nho, Y, Lý, Số đã mở rộng và phát triển Dịch học, lại còn sáng lập các môn như Số học ( Nhật Nguyệt tương vĩ, thu cả trong bàn tay,xem việc trước, đoán việc sau khá linh nghiệm), Bình học ( Cách hành binh, bày trận khôn khéo tài tình), Du thuyết học ( Biết rộng, nghe nhiều, hiểu rõ địch ta, lý lẽ mạnh yếu, thời và thế của mình, buông lời hùng biện, thuyết phục và cảm hoá người nghe), Xuất thế học ( Bảo toàn chân tính, luyện thuốc và nuôi mình, đắc đạo thành tiên). Tương truyền học trò của Quỷ Cốc tử có những người tài giỏi như: Tô Tấn, Trương Nghi, Tôn Tẫn, Bàng Quyên, Quản Lộ, Dã Hạc, đều là những kỳ nhân của các triều đại. Người đời có 36 kế, Quỷ Cốc tử đưa ra 72 biến ( phép, cách) để phá vỡ 36 kế, người ta gọi là Quỷ Cốc đấu pháp tâm thuật. 

Bảy mươi hai phép này, trong tĩnh có động, trong động có tĩnh. “ Biến sinh ra sự, sự sinh mưu, mưu sinh kế, kế sinh nghị, nghị sinh thuyết, thuyết sinh tiến, tiến sinh thoái, thoái sinh chế ( chế ngự sự việc).

PHÉP THỨ 1: DƯƠNG MƯU ÂM MƯU.

“ Mưu kế trí lược mỗi cái có hình dạng của nó, hoặc vuông hoặc tròn, hoặc âm hoặc dương”. Mưu kế có âm mưu và dương mưu. Trong bất kỳ tình huống nào, người ta đều không được coi thường đối phương, bởi vì sự việc có những sự việc giả mà đối phương cố ý tạo ra, hoàn cảnh có những hoàn cảnh giả mà đối phương cố ý tạo ra, tình báo cũng có tình báo giả. Cho nên, thánh nhân phải làm cho đối phương không thể dò biết thực hự, như nhà buôn phải giấu kín như không có gì. Âm mưu ở đây không phải là thứ thủ đoạn của kẻ tiểu nhân, mà là âm mưu của thánh nhân. Mưu việc ở âm mà thành sự ở dương. Mục đích là nhằm làm cho dân giàu nước mạnh. Cho nên Quỷ Cốc tử lại nói: “ Thánh nhân mưu ở âm nên gọi là Thần, Thánh ở dương nên gọi là Minh, chủ sự thánh tức là tích đức vậy”.

PHÉP THỨ 2: XOAY CHUYỂN CÀN KHÔN.

“ Giữ vững ý chí, tinh thần, thì sẽ có uy lực. Có uy lực, ắt bên trong mạnh, bên trong mạnh, thì không ai địch nổi”. Quỷ Cốc tử cho rằng, khi hình thế bất lợi cho ta, ta phải dùng trăm phương ngàn kế để hàm dưỡng sức mạnh tinh thần, vì chỉ khi nào sức mạnh tinh thần của ta hùng hậu thì mới có thể xoay chuyển càn khôn.

PHÉP THỨ 3: ĐÁNH BẠI LẦN LƯỢT.

“ Phân tán được uy thế của đối phương thì ta mạnh như thần”. Muốn phân tán uy lực của đối phương, ta phải phục sẵn, chờ cơ hội xuất hiện mà lần lượt đánh đối phương.

PHÉP THỨ 4: ỨNG BIẾN THẦN TÌNH.

“ Tiến thoái, xoay trở, xuất quỉ nhập thần, khiến người không biết đâu mà lần”. Khí tác chiến, ta phải tuỳ cơ ứng biến, không hề cố định, xoay chuyển tuỳ ý muốn, khiến đối phương chẳng thể biết thực hư.

PHÉP THỨ 5: GIÀNH HẾT THIÊN CƠ.

“ Thánh nhân ở giữa trời đất, lập thân, tạo nhiệp, lên tiếng, tuyên truyền đều phải quan sát tượng trời để chớp đúng thời cơ”. Một người cao minh trước sự biến đổi mau lẹ của sự vật, sẽ biết nắm lấy thời cơ, vận hội một cách kịp thời mà thực thi hoặc điều chỉnh kế hoạch của mình.

PHÉP THỨ 6: HOẠ PHÚC TUỲ LỜI.

“ Lời lẽ của thánh nhân rất huyền diệu, có thể chuyển nguy thành an, cứu cả mạng sống”. Thế gian có câu: “ Một lời nói ra, ngựa giỏi chẳng đuổi kịp”. Hàn Phi tử nói: “ Cái tâm của kẻ vô mưu, lời lẽ của kẻ có mưu, đều là nguy!”. Ngụ ý người ta phải thận trọng trong lời ăn tiếng nói. Ngôn ngữ là tiếng lòng, là biểu hiện tư tưởng. Tục ngữ Trung Quốc có câu: “ Muốn biết việc trong bụng, hãy nghe lời cửa miệng”. Hoạ phúc là tuỳ ở lời nói vậy.

PHÉP THỨ 7: CHÚNG BẤT ĐỊCH QUẢ.

Quỷ Cốc tử nói: “ Xuân sinh, hạ trưởng, thu thu, đông tàng, đạo trời là vậy, chẳng thể làm trái”. Lại nói: “ Làm trái, dù thịnh ắt suy”. Trời đất có bốn mùa thay đổi, nhân sự cũng có qui luật biến hoá của nó, mỗi người nếu hành động trái ngược với qui luật phát triển của sự vật, thì dù thế lực lớn mạnh đến mấy, cuối cùng cũng sẽ thất bại. Một người nếu hành động đúng theo qui luật phát triển của sự vật, thì dù hiện thời còn đơn thương độc mã, nhưng rồi vẫn có thể lấy ít thắng nhiều.

PHÉP THỨ 8: TRĂM PHƯƠNG NGÀN KẾ.

“ Vạn sự trên thế gian biến hoá vô cùng, tình hình lúc thế này lúc thế khác. Người đời cũng trăm phương ngàn kế. Một vị chủ soái ắt phải nắm vững nhiều loại mưu kế để đối phó với tình huống không ngừng thay đổi”.

PHÉP THỨ 9: THIÊN ĐỊA VÔ THƯỜNG.

“ Trời đất luôn thay đổi, há có gì trường cửu”. Một cái lý chung xuyên suốt giữa trời và người. Khi trời luôn đổi, nhân sự làm sao bất biến. Một người chỉ một mục theo đuổi truyền thống mà không đổi mới, ắt sẽ bị lạc hậu so với thời cuộc.

PHÉP THỨ 10: THAY CŨ ĐỔI MỚI.

“ Uốn lượn thì toàn vẹn, cong ắt sẽ qua, đầy ắt tràn, rách nát sẽ đổi mới, ít rồi đủ, nhiều ắt giảm”. Thay cũ đổi mới là qui luật phát triển của vạn vật trong vũ trụ. Song sáng tạo cái mới bao giờ cũng đều dựa trên cơ sở truyền thống sẵn có. Không kế thừa truyền thống thì đừng nói gì đến sáng tạo cái mới. Phải hiểu thấu đáo truyền thống, mới có thể tiếp nhận tinh hoa và gạt bỏ cặn bã, từ đó mà phát huy thêm tinh hoa của truyền thống.

PHÉP THỨ 11: NHÌN XA TRÔNG RỘNG.

“ Bậc đại trí dùng cái mà mọi người không hay biết, cũng dùng cái mà mọi người không nhìn thấy”. Cái mà mọi người không hay biết, không nhìn thấy, thì chỉ bậc đại trí mới thấy rõ như vậy gọi là biết nhìn xa trông rộng.

PHÉP THỨ 12: XỬ LÝ LINH HOẠT.

“ Lợi hay thiệt, được hay mất, nhiều hay ít, đều dùng âm dương chế ngự. Dương động mà vẫn hành, âm tĩnh mà thu tàng. Dương động mà hiện ra, âm theo mà nhập vào. Dương cực sinh âm, âm cực sinh dương” Vạn vật trong thiên hạ luôn luôn thay đổi, khí hậu có bốn mùa xuân hạ thu đông luôn đổi thay. Đời người có sống chết. Đủ thấy biến đổi là quy luật phát triển của vạn vật. Ta phải linh hoạt, chứ không máy móc, xử lý sự việc, mới có thể thắng không kiêu, bại không nản.

PHÉP THỨ 13: MƯU THÂM THÍCH HỢP.

“ Phàm theo hay bỏ, thuận hay nghịch, phải tuỳ hoàn cảnh. Hợp ở mưu, ắt thành ở sự. Bỏ ta theo người, bỏ người theo ta, ấy là do mưu thuật có toàn vẹn hay không. Dùng thiên hạ, có mưu kế này, dùng một nước, có mưu kế khác, dùng một phái, có mưu kế nọ, dùng một người, có cách dùng riêng. Lớn, nhỏ, tiến, thoái... đều phải có cách thích hợp. Xưa nay kẻ giỏi xoay trở, theo hay bỏ, giúp được bốn biển, chi phối được chư hầu, đều trải qua lắm phen chuyển hoá, theo hay bỏ, mới tìm ra chỗ thích hợp. Cho nên Y Doãn mấy bận theo vua Thang, mấy bận theo vua Kiệt, cuối cùng mới theo vua Thang. Lã Vọng ba lần theo Văn Vương, ba lần nhập điện, vẫn chưa thật rõ, cuối cùng mới hợp với Văn Vương”.

PHÉP THỨ 14: HÀNH ĐỘNG BÍ MẬT.

“ Đạo âm của thánh hiền, đạo dương của kẻ ngu, đạo của thánh nhân ẩn giấu rất kỹ”. Tướng soái khôn ngoan thường tạo nên những cái giá để mê hoặc đối phương, ngấm ngầm hành động để giáng cho đối phương những đòn trí mạng.

PHÉP THỨ 15: ĐỘT PHÁ ĐIỂM YẾU.

“ Từ ngoài chế ngự bên trong, sự việc có điểm cốt lõi, phải nhắm vào đó”. Muốn khống chế nội tâm kẻ khác, phải nắm chắc đâu là điểm mấu chốt, đâu là chỗ yếu mà chĩa mũi nhọn vào đó.

PHÉP THỨ 16: NHỎ MÀ THẤY LỚN.

“ Quan sát sự việc, luận về văn sự, chớ tranh hơn thua. Phải biết nhìn cái tuy nhỏ, mà thấy nó lớn lao”. Người thông minh chỉ căn cứ vào triệu chứng nhỏ bé mà biết nó tiềm ẩn sự kiện trọng đại.

PHÉP THỨ 17: ĐỔI VAI CHỦ KHÁCH.

“ Mạnh tích tụ từ yếu, có tích tụ từ không. Yừu muốn thắng mạnh, mềm muốn thắng cứng, phải tích yếu, tích mềm”. So sánh thế giữa chủ và khách, để đổi vai chủ khách, đó là cả một nghệ thuật.

PHÉP THỨ 18: CHIÊU NẠP NGƯỜI HÀNG.

“ Cự tuyệt là bịt kín lối vào, đề phòng quá kỹ thì chẳng ai thep”. Một vị chủ soái thông minh phải có khí phách của một chính trị gia vĩ đại, sẵn sàng chiêu nạp bất kể ai muốn chạy về với mình.

PHÉP THỨ 19: ỨNG ĐỊCH HÀNH ĐỘNG.

“ Tuỳ động mà ứng, việc gì cũng xong”. Ứng nghĩa là chuyển động sau người, bất đắc dĩ mới động, “ Ứng” ở đây không phải là thái độ tiêu cực, bất đề kháng, mà làm dùng “ vô vi” để đạt tới cảnh giới “ vô bất vi”. Một cá nhân nếu ở đâu cũng hiếu thắng, tranh giành hơn thua, thì thể lực và tinh thần sẽ bị hao tổn rất nhanh, tuổi thọ sẽ chẳng thể lâu bền. Ngược lại, nếu hiểu rõ lẽ “ ứng địch nhi động” thì sẽ không vọng động cách khinh suất, mà không ngừng rèn luyện thể lực và ý chí, đến khi hoàn toàn có khả năng thắng địch mới hành động. Không làm thì thôi, đã làm thì không gì cản nổi. Đã đánh là thắng.

PHÉP THỨ 20: TAM GIÁO CỬU LƯU.

“ Tìm kiếm nhân tài, phải tìm khắp gần xa, phải có những người tài về từng phương diện, để khi cần sẽ sử dụng”. Một người muốn dựng nghiệp lớn, phải chiêu nạp nhiều tài năng. Tử Nghiêm là người nước Trịnh rất biết chọn và dùng người. Công Tôn Huy am tường tình hình bốn nước. Tỳ Thâm  giỏi bày mưu kế, Phùng Giản Tử có tài phán đoán đại sự. Tử Đại Thúc văn hay chữ tốt. Gặp sự việc liên quan giữa các nước, Tử Nghiêm hỏi Công Tôn Huy, sau đó bàn mưu tính kế với Tỳ Thâm, đoạn để Phùng Giản Tử phán đoán khả năng diễn biến. Sau khi xong việc, để Tử Đại Thúc soạn lời văn ứng đối với quan khách các nước.

PHÉP THỨ 21: BỔ DỌC CHEN NGANG.

Quỷ Cốc tử nói: “ Dùng cách phân tán uy quyền để chuyển quyền”. Người tài giỏi phải biết phá vỡ sự liên minh của các đối thủ, phân tán uy lực của chúng mà tăng cường uy thế của mình.

PHÉP THỨ 22: TRÓI BUỘC CHI PHỐI.

“ Lập thế tạo thế, phải quan sát, nghe ngóng, xác định mức độ, khả năng của người và việc mà định kế an nguy; xem thiên thời thịnh suy, địa hình rộng hẹp của các nước, tài sản của dân chúng, quan hệ giữa các chư hầu mà dùng thiên hạ. Xem tài năng, khí thế, sức vóc mà dùng người. Xem cái gì, người nào cần giấu giếm hay phô bày, cần dung nạp hay mời chào, xem đông tây, ngó nam bắc, rồi dùng mọi biện pháp khả dĩ chi phối, trói buộc một cá nhân, một tập đoàn hay một nước phải làm theo ý muốn của ta mà không thể làm khác”.

PHÉP THỨ 23: LIỆU ĐỊCH NHƯ THẦN.

“ Ngồi một chỗ mà nắm biết mọi chuyện trong thiên hạ”. Bậc đại trí có thể qua diễn biến phức tạp, chằng chịt, qua hiện tượng mà nhận biết phương hường hành động thật sự của đối phương.

PHÉP THỨ 24: KHÔNG LỪA NỔI AI.

“ Kế sách dù có muôn ngàn kiểu, cuối cùng vẫn không nằm ngoài tâm lý con người”. Người thông minh tỉnh táo từ triệu chứng nhỏ nhặt, tưởng như không đáng kể mà nắm bắt được sự kiện trọng đại để phá vỡ âm mưu của đối phương.

PHÉP THỨ 25: YẾU THẮNG ĐƯỢC MẠNH.

“ Mạnh tích tụ từ yếu, có tích tụ từ không. Đó là cả một nghệ thuật”. Yếu muốn thắng mạnh, mềm muốn thắng cứng, phải tích yếu, tích mềm. Yếu và mạnh chỉ là nói một cách tương đối, trong tình huống nhất đinh, yếu cũng có thể thắng mạnh.

PHÉP THỨ 26: BIẾN KHÔNG THÀNH CÓ.

“ Thần đạo hỗn thuần vi nhất, dù đạo trời phức tạp đến mấy, cũng có thể duy diễn bất tận”. Bậc quân chủ hoặc thống soái có thể suy luận ngàn vạn lý lẽ biến hoá trên thế gian để lý giải các bí ẩn vô cùng vô tận.

PHÉP THỨ 27: UỐN BA TẤC LƯỠI.

“ Lời lẽ khôn khéo, giả dối, lợi hại khôn tả”. Người khôn ngoan giỏi lợi dụng ngôn từ để vẽ ra lâu đài trên cát, kích thích người ta hăng hái hoặc dẫn dụ đối phương mắc lừa. Muốn được vậy, phải tô điểm cho thật khéo và nói năng phải hùng hồn, đầy sức thuyết phục và dẫn dụ.

PHÉP THỨ 28: THU PHỤC NHÂN TÂM.

“ Dùng tâm hệ trọng hơn dùng binh”. Dùng binh vẫn phải lấy việc dùng tâm làm nguyên tắc cao nhất. Chỉ dùng binh mà không dùng tâm thì rất nguy hiểm. Bởi lẽ dùng binh vốn là để giết địch, nếu ta thất bại, địch sẽ giết ta, cho nên, dùng binh cũng có thể đem lại hậu quả tự giết mình. Dùng binh hoàn toàn không chỉ giới hạn ở việc dùng mệnh lệnh hay kỷ luật bắt người ta phục tùng, mà còn phải làm cho người ta “ tâm phục”. Lòng người đã phục, thì dù hành động, động tác, có thể chệch choạc, song hết thảy, đồng lòng như một.

PHÉP THỨ 29: MỘT CÔNG ĐÔI VIỆC.

“ Vừa lợi cho mình vừa lợi cho người, trên hay mà dưới cũng tốt”. Một mưu kế phải đem lại nhiều hiệu quả thì mới là kế hay, kiểu như một mũi tên bắn trúng hai con chim.

PHÉP THỨ 30: BỐN LẠNG NGÀN CÂN.

“ Lượng quyền là gì? Là đo lường lớn nhỏ, xác định nhiều ít” Tướng soái phải biết mình biết người, mới có thể dùng sức bốn lạng mà khôn khéo thắng sức ngàn cân. Thông thường, sức ngàn cân sẽ đè bẹp sức bốn lạng. Nhưng nếu sức bốn lạng thoạt tiên khôn khéo né tránh sức ngàn cân, sau đó sẽ giáng đòn, thì hoàn toàn có thể thắng sức ngàn cân.

PHÉP THỨ 31: NGÀN VÀNG PHÁ ĐỊCH.

“ Mọi sự đều có sự cố kết bên trong. Có thể dùng tiền tài, nhan sắc để phá vỡ sự cố kết ấy”. Dùng nhiều tiền của để mua chuộc, ly gián nội bộ đối phương, có thể thu được thắng lợi mà chiến trường không tài nào giành được.

PHÉP THỨ 32: CHỦ ĐỘNG QUYỀN BIẾN.

“ Sự việc quý ở chỗ mình chủ động, nếu để người giành chủ động, thì hỏng”. Người chủ động mới giành được quyền hành, quyền biến. Đã bị động thì khó thắng lợi, khi lâm sự phải sáng suốt, cân nhắc lợi hại, bỏ mối lợi nhỏ mà tránh cái hại lớn; nhận cái hại nhỏ, để giành mối lợi lớn.

PHÉP THỨ 33: TUYỆT ĐỐI BÍ MẬT.

“ Giữ kín mưu đồ, sự việc mới thành”. Một vị thống soái hoặc tướng lĩnh muốn giành thắng lợi, phải giữ bí mật tuyệt đối.

PHÉP THỨ 34: KÍCH ĐỘNG VUA CHÚA.

“ Tiếp xúc, phán đoán có nhiều cách, hoặc dùng bình, hoặc dùng chính, hoặc dùng hỉ, hoặc dùng nộ... Dùng nộ là kích động”. Người khôn ngoan chẳng những dùng lời lẽ thuyết phục chư hầu, mà còn dùng cách kích động, nói khích vua chúa.

PHÉP THỨ 35: KẾ SÁCH LÂU DÀI.

“ Người thông minh nhìn cái rất xa mà kiểm nghiệm”. Người khôn ngoan phải nhìn xa trông rộng, sẽ không tham mối lợi nhỏ mà để mất cái lớn, tham cái lợi trước mắt mà quên kế sách lâu dài. Người có đảm lược thật sự thì biết tính toán sâu xa, chu đáo, không chỉ thấy cái trước mắt, không chấp nê tập quán thông thường.

PHÉP THỨ 36: BIẾT TRƯỚC THỜI THẾ.

“ Dự đoán thời thế để quyết định lợi hại, quyền biến”. Một thống soái hoặc tướng lĩnh nắm được thời thế là điều trọng yếu. Họ phải hành động lặng lẽ một khi hết thảy chưa ai chú ý, đến lúc thời cơ chín muồi thì họ ra ty là lập tức làm nên chuyện lớn.

PHÉP THỨ 37: KHÔNG ĐÁNH VẪN OAI.

“ Người cầm quân không cần đánh trận mà làm chủ được thiên hạ, đáng gọi là thần minh”. Bậc đại trí không cần hao tốn binh lực, vẫn khiến đối phương phải bãi binh cầu hoà, thiên hạ nể phục, đủ sánh với thần minh.

PHÉP THỨ 38: NẮM QUYỀN BÁ CHỦ.

“ Chư hầu chống nhau nhiều không kể xiết. Khi quốc gia bước vào thời điểm sinh tử tồn vong, bậc vĩ nhân xuất chúng phải xuất đầu lộ diện, nắm lấy cơ hội kiến lập nghiệp vương bá”.

PHÉP THỨ 39: THAY THÙ THÀNH BẠN.

“ Trên đời không có gì quý mãi, không có ai làm thống soái vĩnh viễn”. Thế sự biến hoá vô cùng, hôm nay họ là kẻ thù của ta, ngày mai có thể họ sẽ thành bạn của ta, hoặc ngược lại, đó là cả một nghệ thuật chuyển hoá.

PHÉP THỨ 40: CHỈ DẪN CHO NGƯỜI.

“ Tình mà hợp thì vật cũng tụ lại với nhau. Đống củi gần lửa, khúc khô dễ bén, nước rót xuống chỗ đất bằng, nơi nào ẩm thì nước dừng”. Lòng người cũng vậy. Một thống soái muốn thuyết phục hoặc lợi dụng tướng sĩ của đối phương, phải làm sao để họ cảm thấy chịu ân huệ của mình.

PHÉP THỨ 41: CHIỀN ĐÃI SĨ.

“ Dùng mưu kế, cũng không bằng tử, tử không bằng kết, kết sao cho được”. Có nhiều cách “ kết”, có nội kết, ngoại kết, sinh kết, tử kết. Trương Lương kết thân với Hạng Bá, đó là nội kế. Trương Nghi, Tô Tần kết giáo, ấy là ngoại kết. Lấy đức và ân huệ đãi người mưu phúc cho dân, mưu lợi cho nước, ấy là sinh kết. Tuyên dương người chết, uỷ lạo người thân thuộc của người đã hi sinh, ấy là tử kết.

PHÉP THỨ 42: ÁP ĐẶT CHỦ QUAN.

“ Chớ áp đặt sở thích của mình cho người”. Cái mình thích, có thể người không thích; cái mình ghét, có thể người lại yêu. Chớ nên suy bụng ta ra bụng người. Cùng một sự việc, hai người sẽ nhìn nhận khác nhau, kẻ cho là lợi, người cho là hại. Nếu chủ quan áp đặt, dễ phạm sai lầm, gây hậu quả đáng tiếc.

PHÉP THỨ 43: MÂU THUẪN THỐNG NHẤT.

“ Cao mà hoá thấp, lấy mà hoá cho, mất mà hoá được”. Sự vật bao giờ cũng có hai mặt đối lập nhau. Có những việc bề ngoài tưởng như bất lợi cho ta, thực ra lại làm chứa ích lợi to lớn đối với ta.

PHÉP THỨ 44: THỦ TRƯỚC CÔNG SAU.

“ Đối phương hùng mạnh, ta tạm lui chờ thời chuyển biến”. Một quốc gia, một quân đội hùng mạnh sẽ có lúc sơ hở, suy yếu. Một quốc gia, quân đội yếu ít, nếu biết tích luỹ thực lực, nín chờ thời thế, có thể trở nên hùng mạnh. Bờy giờ có thể chuyển từ thế thủ sang thế công.

PHÉP THỨ 45: KIÊN TÂM BỀN CHÍ.

“ Anh hùng có lúc sa cơ. Khôn tới cùng ắt biến”. Người có chí lớn thật sự, gặp bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào cũng kiên trì theo đuổi mục tiêu của mình, có thể chịu đựng, nếm trải những nỗi đau khổ mà người đời không mấy ai chịu nổi. Chỉ như vậy mới có thể làm nên sự nghiệp lớn lao.

PHÉP THỨ 46: LẤY TĨNH CHẾ ĐỘNG.

“ Trong thiên hạ, con cái thường lấy tịnh thắng con đực, con cái lấy tịnh nên ở dưới”. Hoàn cảnh luôn biến động, nhân sự thường có đua tranh hơn kém. Trong cuộc đua tranh, phải bình tĩnh thì mới giữ được tỉnh táo, không bị mê loạn về thần chí. Phàm người cương gặp kẻ cương thì sẽ tranh chấp không ngừng, nhưng gặp người nhu thì lại trở nên nhu hoà. Cho nên mới có câu “ lạt mềm buộc chặt”. Kẻ cương rất dễ bộc lộ chỗ yếu, ta chỉ cần bình tĩnh quan sát, đợi khi chỗ yếu ấy lộ ra, ắt sẽ chế ngự được.

PHÉP THỨ 47: QUYẾT GIỮ CHÍNH NGHĨA.

“ Bậc quân chủ có đức hạnh mới chiêu mộ được người hiền tài”. Ta phải là chính đạo, mới thu phục được lòng người theo về.

PHÉP THỨ 48: ĐÁNH VÀO CHỖ YẾU.

“ Người đời có người thích yên tĩnh, có kẻ thích hành động, có người hám danh, có kẻ hám lợi, có người chính trực, có kẻ xiểm nịnh, có người thích sáng sủa, có kẻ ưa tăm tối”. Người khôn ngoan phải hiểu rõ chỗ yếu của đối phương mà đánh vào đó.

PHÉP THỨ 49: GHI CÔNG QUÊN LỖI.

“ Bậc trí giả không dùng sở đoản, mà dùng sở trường của người ngu, không chú ý đến lỗi lầm, mà sử dụng công lao của họ, nên không bị khốn”. Bậc quân chủ đối với quần thần phải luôn khoan dung độ lượng như thế, quần thần mới cảm kích mà đền đáp.

PHÉP THỨ 50: HẠ CHIẾU CẦU HIỀN.

“ Thánh nhân dùng vô vi đãi người có đức”. Bậc thánh minh phải nghĩ mọi cách, phải dùng lời lẽ thế nào để thu phục người hiền tài, đức độ.

PHÉP THỨ 51: LƯU DANH MUÔN THUỞ.

“ Bậc hiền sĩ dù đã qua đời, vẫn được mọi người luôn luôn nhắc đến như có tình sâu nghĩa nặng”. Có những kẻ sống trên đời chỉ biết tranh đoạt danh lợi, tàn sát hung hãn hơn cả mãnh thú. Có kẻ đạt được danh lợi thì kiêu căng tự mãn, bị tiền của và nữ sắc làm mê muội tâm trí, dù có sung sướng hưởng lạc vài chục năm, nhưng chết đi sẽ để lại tiếng xấu ngàn thu.

PHÉP THỨ 52: THOÁI BINH CHẾ BINH.

“ Có thuật lui binh, có phép chế binh”. Ngụ ý một người bình tĩnh, thận trọng, luôn làm điều thiện, đức độ cao cả, thì dù một thân một mình đi vào hang ổ đối phương, cũng có thể làm cho đối phương phải kính nể, không dám tàn hại. Một người như vậy thì nơi nào cũng là đất sống, không có gì đáng gọi là hiểm nguy.

PHÉP THỨ 53: ĐẠI HIỀN VÔ ĐỊCH.

“ Người giỏi quyền biến là người trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, sai khiến được quỉ thần, tuỳ thời tiết từng mùa mà biến hoá, khiến vạn vật trong thiên hạ phục vụ cho mình”.

PHÉP THỨ 54: TIẾN CÔNG NƯỚC, NGƯỜI.

“ Chế ngự người thì nắm được quyền. Đồng thời với việc tiến công nước địch phải chế ngự người của địch”.

PHÉP THỨ 55: GIỮ THẾ CÂN BẰNG.

“ Ít rồi sẽ nhiều, thiều rồi sẽ đủ”. Vạn vật trên đời vừa đối lập vừa thống nhất. Lão tử cũng nói: “ Đạo trời giống như chỗ cao tì dựa vào chỗ thấp, chỗ thừa thì bù vào chỗ thiếu”. Giữ cho cân bằng, hài hoà là điều tối cần thiết.

PHÉP THỨ 56: ẨN NÁU CHỜ THỜI.

“ Dụng chi hữu đạo, dụng chi tất ẩn”. Lại nói: “ Có đạo của tiên vương, có mưu của thánh trí, thảy đều không lộ liễu”. Người thông tuệ thường thường ít bộc lộ sở trường của mình ở tất cả mọi nơi, mà luôn luôn nhường nhịn người khác. Nhưng sự ẩn giấu này chỉ là để chờ thời cơ chín muồi sẽ hiển lộ.

PHÉP THỨ 57: SỬ DỤNG NỘI GIÁN.

“ Con gấu trước khi vồ mồi, giấu mình rồi mới xông ra. Muốn hành động, hãy dùng nội gián trước đã”. Người khôn ngoan chẳng những giỏi dùng binh trên chiến trường, mà còn biết cài gián điệp vào hàng ngũ đối phương để hoạt động.

PHÉP THỨ 58: UỐN NẮN SỬA GANG.

“ Thánh nhân vừa thấy cong, liền uốn lại cho thẳng. Tuỳ mức độ lệch lạc mà có cách trị thích đáng”. Khi nền chính trị quốc gia xuất hiện nguy cơ, phải dùng quốc pháp bổ cứu, nếu nguy cơ nghiêm trọng, tất phải dùng hình phạt nghiêm khắc.

PHÉP THỨ 59: LÙI ĐỂ TIẾN TỚI.

“ Người giỏi dùng thiên hạ xưa nay tất phải lượng định quyền trong thiên hạ, phải phân biệt nặng nhẹ, mạnh yếu”. Bậc hiền minh thường tránh kẻ mạnh, tạm lùi để tìm cách tiến công.

PHÉP THỨ 60: CHO RỒI MỚI LẤY.

“ Muốn chiếm lĩnh được cái gì của đối phương, trước hết hãy đáp ứng phần nào ý muốn của đối phương, rồi mới lấy được cái mình cần”.

PHÉP THỨ 61: QUAN SÁT GIÁN TIẾP.

“ Thẩm định hư thực, căn cứ vào thị hiếu mà biết ý chí”. Muốn xem xét một người, ta hãy xem thường ngày họ bộc lộ ý thích gì mà phán đoán tính tình.

PHÉP THỨ 62: ĐÁNH RẮN DẬP ĐẦU.

“ Kẻ mạnh khi chiến thắng mà choáng váng vì thắng lợi, không tiến công giành thắng lợi trọn vẹn, sớm thoả mãn, thì sẽ chuốc lấy tai hoạ”. Kẻ yếu bị thất bại, nếu biết bình tĩnh suy xét, rút ra bài học, phục hồi lực lượng, thì có thể lật ngược thế cờ.

PHÉP THỨ 63: CHỦ QUAN HẠI MÌNH.

“ Hợp mà không kết, dương thân mà âm sơ, sự chẳng thành”. Có những việc tưởng chừng vô cùng thuận lợi, thực ra hết sức khó khăn. Phải đi sâu vào cuộc sống, nghiên cứu điều tra, nắm chắc thực tế, mới không phạm sai lầm chủ quản, đã hại cho mình, còn hại cho cả người.

PHÉP THỨ 64: DẪN DỤ ĐỐI PHƯƠNG.

“ Những điều dẫn dụ của thánh nhân, kẻ ngu lẫn kẻ trí đều không nghi hoặc”. Bậc đại trí có thể khôn khéo dẫn dụ được hết thảy mọi người mà đối phương không thể hay biết.

PHÉP THỨ 65: LỢI DỤNG KẺ ĐỊCH.

“ Thả mồi sâu, bắt cá lớn”. Bậc đại trí không chỉ biết sử dụng những người hiền tài ở phe mình, mà còn biết lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ đối phương mà sử dụng người của đối phương phục vụ lợi ích của mình.

PHÉP THỨ 66: MỘT CÂY THÀNH RỪNG.

“ Đơn thương độc mã vẫn có thể ra vào tuỳ ý, chẳng ai ngăn nổi”. Đông người chưa nhất định giành phần thắng. Một bàn tay cũng có thể tạo nên tiếng vỗ. Chỉ cần chân lý thuộc về ta, thì ta vẫn thành vô địch trong thiên hạ.

PHÉP THỨ 67: TƯƠNG QUAN LỢI HẠI.

“ Dùng lời lẽ để thuyết phục đối phương nhận ra phải trái”. Muốn đối phương hành động theo ý muốn của ta, phải biết khôn khéo thuyết phục, chỉ rõ điều lợi hại.

PHÉP THỨ 68: HÌNH DUNG CÓ ĐỊCH.

“ Nghĩ rằng có địch, để mình nỗ lực”. Muốn lập sự nghiệp lớn, phải hình dung những thế lực mạnh ngăn cản bước tiến của mình, từ đó mình sẽ cố gắng không ngừng vươn tới mục đích.

PHÉP THỨ 69: HỌC HỎI KẺ THÙ.

“ Muốn chiến thắng, hãy học hỏi ở hết thảy mọi người”. Bậc đại trí mưu nghiệp lớn, chẳng những học hỏi các bậc tiên hiền, mà còn học cái hay của chính kẻ thù.

PHÉP THỨ 70: NÓI MÃI PHẢI TIN.

“ Lời nói của số đông có thể biến không thành có”. Giỏi tung tin có thể đánh lạc hướng đối phương.

PHÉP THỨ 71: LUỒN SÂU LEO CAO.

“ Phái gián điệp luồn sâu vào đầu não đối phương mà hành động, có thể giành thắng lợi lớn lao bất ngờ”. Gián điệp của ta luồn sâu leo cao vào bộ chỉ huy của địch, thì thắng lợi gần như cầm chắc.

PHÉP THỨ 72: KHÔNG MÀNG DANH LỢI.

“ Bậc chân nhân hợp với đạo trời”. Một người kinh qua tu luyện lâu dài, đạt tới cảnh giới thoát tục thì gọi là chân nhân. Người ta sinh ra, hầu như ban đầu chẳng khác nhau, do sự tu luyện nhiều ít mà thành những hạng người khác nhau. Người nào chìm đắm trong danh lợi, ắt chuốc họ sát thân. Người nào gác bỏ danh lợi thế tục, sẽ thanh thản sung sướng.

“ Sự vật đắc khí thuần và thâm hậu thì triệu chứng hiển minh, đắc khí phức mà mỏng manh thì triệu chứng lẫn lộn pha tạp. Chỉ có sự vật khó mà nói lý, không có sự vật vô lý. Không phải người uyên bác, chẳng thể lý giải, mà người uyên bác cũng chẳng thể lý giải đến cùng. Ta từng đọc bao nhiêu loại sách, nhiều lần phải thốt lên những lời thán phục các khoa chiêm tinh, độn giáp phong thuỷ địa lý dựa trên học thuyết Âm Dương Ngũ hành. NHƯNG MẤY AI ĐỦ TÀI BÌNH TĨNH QUAN SÁT VẠN SỰ VẠN VẬT, QUY VỀ MỘT MỐI, VƯỢT QUA ĐƯỢC CÁT HUNG HOẠ PHÚC, THẤU HIỂU HẾT SỰ ẢO DIỆU CỦA ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH???????????”

Cơ sở lý luận dựa vào: Thứ nhất là quan niệm “ Thiên nhân cảm ứng”. Thứ hai là quan niệm “ Túc mệnh”, nghĩa là quan niệm con người có số kiếp. Thứ ba là quan niệm sùng bái sức mạnh siêu nhiên và hoài nghi sức mạnh của bản thân. Có nhiều lý do dẫn tới sự hoài nghi này, nhưng chủ yếu là do khoa học kỹ thuật còn lạc hạu, do trong xã hội có nhiều sự bất công và do mỗi người nhận thấy bản thân mình có không ít khuyết điểm. Ngày xưa người ta gặp nhau, dù là thứ bậc cao thấp khác nhau hay là bạn hữu, thân quyến, xóm giếng, ai cũng tỏ ra khiêm nhường theo kiểu phong thái quân tử, tự hạ thấp mình so với người tiếp kiến. Sự khiêm nhường này không phải để lấy lòng người khác, mà từ trong thâm tâm họ vốn hoài nghi vào sức lực của bản thân mình. Đó cũng là hoàn cảnh nhân văn của xã hội thời xưa. Trong hoàn cảnh ấy không ít người giấu kín tài năng, trí tuệ, vì để lộ ra, dễ chuốc hoạ thị phi hoặc mất mạng. Còn khiêm nhường thì lại được mọi người đồng tình mà sống yên ổn. Có lẽ đó là lý do khiến người ta càng ngày càng thiếu tự tin, càng ngày càng sùng bái các lực lượng thần bí.

Lóo Tử Thỡ Thầm.

Lời Dịch Giả

"Ôn cố tri tân" đó là mục đích của sự tỡm tũi học hỏi của chỳng ta mong rỳt tỉa những điều hay lẽ phải của những hiền triết xưađặc biệt là của những triết gia Đông - Phương như Khổng -Tử, Mạnh -Tử và Lóo -Tử...

Cũng giống như phần lớn các bạn trẻ ở thời hiện đại, dịch giả không được cái may mắn học sách Thánh hiền, nhưng chúng ta lại thường được nghe đến những tên tuổi các triết gia nổi tiếng như Khổng -Tử , Trang Tử và Lóo -Tử v.v.

Dịch giả may mắn được đọc cuốn "Lóo Tử Thỡ Thầm" tức cuốn "The Tao Speaks" về cách xử thế, nguyên tác bằng Anh Ngữ, của Đại-Chí Chung- (Tsai-Chih-Chung), Ông Chung là một nhà chuyên vẽ hí họa nổi tiếng, người Đài Loan. Ông có vào khoảng trên 200 cuốn sách hí họa và rất nhiều bài đăng trên các tạp chí. "Lóo Tử Thỡ Thầm", về cách xử thế, là một trong số các tác phẩ m bán chạy nhất của ông được dịch ra Anh Ngữ. Sau khi tũ mũ đọc cuốn "The Tao Speaks", dịch giả nảy sinh ra ý định chuyển dịch cuốn này ra Việt Ngữ với mục đích:

Thứ nhất, muốn ôn lại Anh Văn và tiếng Việt của mỡnh, 

Thứ hai, muốn biết Lóo Tử núi gỡ và khuyờn gỡ chỳng ta. 

Bởi khi làm việc này, dịch giả hy vọng giỳp ớch phần nào cho sự hiểu biết, của chớnh mỡnh cũng như các bạn trẻ, về triết lý Đông Phương. Và biết đâu khi đọc giải trí cuốn sách này, chúng ta lại chẳng có cái cơ duyên gặp Lóo Tử ở trong tư tưởng của ông, để rồi chẳng ít thỡ nhiều, chỳng ta cũng sẽ gặt hỏi được một ít "hoa thơm cỏ lạ" ở trong rừng tư tưởng của Lóo Tử vậy.

Nhật Vũ 

May 10, 1999 

Phần Giới Thiệu

Ông Đại Chí Chung, người Đài Loan, sáng tác cuốn "Lóo Tử Thỡ Thầm", tức cuốn "The Tao Speaks", trên chuyến bay từ Đài Loan đến Tokyo, Nhật Bản, dựa theo cuốn Đạo Đức Kinh, (nguyên bản được viết vào khoảng 250 BC). Phần lớn các học giả ngày nay cho rằng cuốn sách Đạo Đức Kinh được sưu tập từ những văn chương truyền khẩu nên nguyên tác không có chủ đề và tên tác giả.

Theo văn kiện lịch sử, Lóo Tử sinh khoảng thế kỷ thư sáu, tại hương Lệ, huyện Hỗ, nước Sở; họ Lí, tên là Nhĩ, tự Đam, làm quan sử, giữ kho sách của nhà Chu, tại thủ đô Lưỡng Quảng, nhờ vậy ông có dịp đọc vô số sách quý ở đây và đó thõu thập được những kiến thức uyên thâm của thời đó để ứng dụng vào đời sống.

Cũng theo chuyện kể lại thỡ Lóo Tử sinh cựng thời với Khổng Tử( 550-480). Lần đầu tiên Khổng Tử đến thăm Lóo Tử tại Lưỡng Quảng, Khổng Tử có biếu Lóo Tử một con ngỗng để làm quà ra mắt. Hai ông đàm đạo rất tương đắc liên tục trong ba ngày. Khi ra về, Khổng Tử cảm thấy rất sảng khoỏi và rất khõm phục Lóo Tử. Sau này, khi trở về quờ, ụng đó kể cho cỏc đệ tử của ông rằng: "

Chim thỡ ta biết nú cú thể bay, cỏ thỡ ta biết nú cú thể lội được, giống thú thỡ ta biết nú cú thể chạy được. Chạy, bay, lội ta có thể giăng lưới mà bắt được; cũn như con rồng thỡ ta biết nú cưỡi gió, cưỡi mây biết bay lên trời lúc nào. Hôm nay ta thấy Lóo Tử chẳng phải rồng đó sao."

Tụng chỉ của Lóo -Tử khỏc với Khổng -Tử. Lóo -Tử chủ trương tu tiên, không muốn can dự vào chính sự, chỉ muốn tự tỡm lấy sự thoải mái cho tâm hồn. Người đời gọi "Vô Vi" là tông chỉ của đạo Lóo. Trong khi đó, Không Tử chủ trương một xó hội phải cú "Tụn ti trật tự", nờn ụng đó bỏ cụng ra nghiờn cứu nho học và dạy cho mọi người biết sống xứng với bổn phận của mỡnh. ễng là người sáng lập ra Khổng Giỏo.

Việt nam nói riêng và các nước Á Châu nói chung, chúng ta chịu ảnh hưởng rất nhiều tư tưởng của hai vĩ nhân trên.

THUẬT XỬ THẾ:

Người xưa nói rằng: Hãy chứng tỏ sức mạnh và sự thông minh của ta. Đừng để kẻ khác khinh thường ta.

Tuy nhiên có một học giả rất uyên thâm xuất hiện tên là Lão tử: “Đừng để kẻ khác biết mình mạnh và thông minh. Hãy khiêm nhường, an nhiên. Đừng tự phụ và tham lam. Hãy trầm tĩnh và bình dị”

- Hầu hết mọi người cho rằng hễ mạnh thì là tốt. 

- Nhưng vật cứng dễ gãy, vật mềm thì còn

- Thí dụ: cái gì cứng nhất trong thân thể ta, và cái gì mềm nhất?

- Răng của tôi thì cứng nhất, và lưỡi của tôi thì mềm nhất

- Hãy coi tôi già rồi, và răng của tôi đã rụng hết.

- Có phải hễ cây to thì mạnh đúng không? Dạ đúng.

- Vậy mà khi gặp bão lớn cây to thì đổ, còn cỏ chỉ ngả nghiêng thôi.

- Tuy gió vô hình vậy mà nó có thể thổi bay nhà, tróc gốc cây.

- Nước tuy là vật mềm thế mà nó có thể làm lở núi, xoi mòn vách đá. Vởy không nhất thiết vật cứng là mạnh, còn vật mềm là yếu.

- Hầu hết thiên hạ cho rằng: Thông minh tốt, nhưng người biết lại thường ít nói.Người giàu không khoe của.

- Không, không, tôi đâu có tiền

- Cái thùng kêu là cái thùng rỗng

- Hừ.. khoe khoang

- Nếu muốn thành công ta phải tập trung hết năng lực và ý - chí vào một việc, coi nhẹ các việc khác.

- Xin lỗi, ông có giỏi về các môn như vẽ, viết văn hay nhạc không?

- Xin lỗi, tôi chỉ biết đi thôi

- Ha! Ha!.. tôi giỏi về mọi môn

- Và môn nào anh hay nhất

- ah… tôi thật sự … chẳng có

- Ông là đại sư phụ làng bên

- Tôi nghĩ tôi chỉ là kẻ buôn bán tầm thường, chẳng sư phụ gì cả…

- Nếu ta gặp thứ gì cũng học, kết cuộc sẽ chẳng đi tới đâu.

Lão tử tin rằng sự nhu mềm cho phép ta khiêm tốn và sống bình dị, và giúp ta tránh được sự hợm hĩnh, tôn trọng sự thật, sống tự nhiên. Phần lớn mọi người chỉ có thể thấy được bề mặt của sự việc, còn Lão tử có thể thấy được mặt sau của sự việc. Phần lớn người ta chỉ có thấy được bề mặt của sự việc, nhưng Lão tử có thể thấy được cả bên trong của sự việc. “Lưỡi dao thì sắc, đúng, nhưng bên sống dao thì cùn” ni-niơng của Lão ni thì bao la không hạn hữu, tồn tại mãi mãi, có thể thích ứng và điều chỉnh được trong mọi hoàn cảnh, nếu gặp trở ngại sẽ tuỳ nghi ứng biến. Lão tử chống lại dục vọng, thiên về tinh thần hướng thượng… tránh những hành động không thiết, chủ trương theo lẽ tự nhiên, ông chú trọng đến tinh thần trên mọi vật chất.

LÃO TỬ CÓ GIỐNG NHƯ RỒNG KHÔNG:

Khoảng 2500 năm trước công , triết lý đã phát triển trên một số các quốc gia trên thế giới. Những văn hoá này đã cung ứng cho thế giới một số triết gia nổi tiếng, bên Hy Lạp có các ông như Thaes và Heralius, bên Ấn Độ có Phật Thích Ca lập ra Đạo Phật, ở Trung Hoa trong thời Xuân Thu Chiến Quốc vô số các trường về dạy triết học mọc lên như nấm để cạnh tranh nhau(Khổng giáo, Đạo, Thiên Địa, Canh nóng…). Nhưng môn phái có nhiều ánh nhất là: Khổng Giáo, Đạo Tiên, Thiền Tông…. Người có công lớn nhất lập ra Đạo Tiên là Lão Tử. Theo sử liệu thì Lão Tử tự là Lý, tên gọi là Huê. Về sau có tên là Đam, ông sinh vào thế kỷ thứ 6 TCN tại làng Quế Sơn, huyện Hứa nhà Chu. Tục truyền rằng ông được giao cho trông coi thư viện tại thủ đô Lưỡng Quảng, thời vua Vũ nhà Chu. Tại đây Lão tử có cơ hội đọc sách và thâu thập kiến thức đương thời và đem áp dụng vào đời sống, và nhờ đó Lão Tử trở nên nhà hiền triết. Khi Khổng Tử đến thăm, Lão Tử cỡi trâu ra tận đầu làng đón tiếp. Theo phép xã giao thời đó, Khổng Tử xuống ngựa trao cho Lão Tử một con ngỗng làm quà ra mắt. Khổng Tử ở lại với Lão Tử tại Lưỡng Quảng vài ngày học được nhiều điều hay. Trước khi chia tay Lão Tử bàn với Khổng Tử hai điều: Điều thứ nhất, những điều mà chúng ta đang học đều là những tư tưởng của người xưa, nay xương họ đã mục, tuy lời của họ vẫn còn song cũng không quá coi trọng về điều họ nói. Điều thứ hai, những người chân chính rất giản dị, loại bỏ tự kiêu và dục vọng, sự hào nhoáng và cao vọng, vì những thứ đó sẽ chẳng ích lợi gì cho ta. Khổng Tử rời Lưỡng Quảng trong lòng sảng khoái và khi về lại nước Lỗ lòng vẫn còn kính nể Lão Tử.

- Ta vốn biết chim có thể bay, ta cũng biết cá có thể lội, ta biết cọp có thể đi, nhưng mà rồng thì ở tận trên mây, ở trên trời không đụng nó được, không với tới nó được, Lão Tử chẳng phải rồng đó sao?

 Trong năm thứ hai mươi ba thời vua Vũ Vương, chứng kiến cảnh xuống dốc của nhà Chu, Lão Tử bỏ Lưỡng Quảng và đi về miền Tây qua Vạn Lý Trường Thành. Người giữ cổng Yên Chi rất hâm mộ Đạo Lão và xin Lão Tử viết vài chữ về Đạo Lão. Thế rồi Lão Tử viết một cuốn ngắn gồm hai phần, ước chừng trên năm ngàn chữ. Sau khi viết xong cuốn sách với hai phần ông đi qua Vạn Lý Trường Thành và không bao giờ nghe về ông nữa.

PHẦN I: CHÁNH ĐẠO

ĐẠO KHÔNG THỂ NÓI RA:

Đạo như thế này… Đạo làm như vầy… Đạo không như thế này… Đạo hướng dẫn nguyên lý vạn vậu, nó không hình dáng, lặng thinh, và đời đời bất biến. Nguyên tắc này không thể giải thích bằng lời được. Bạn đã hiểu lắm, nhưng nếu có thể giải thích về Đạo một cách rõ ràng thì đó ắt chẳng phải là Đạo. Vậy gọi cái gì là nguyên động lực điều hợp vạn vật? Ta không thể nào đặt tên nó. Vì nếu ta đặt tên nó là A thì nó không phải là B, nếu ta gọi là trắng thì nó không là đen. Nếu muốn hiểu về Đạo thì phải quên đi từ ngữ và tên, ta phải hiểu nó bằng trực giác, nếu không ta sẽ đi lạc hướng. Đến khi ta hiểu điều này thì ta có thể nói về sự khai thiên lập địa và vạn vật. Từ khởi thuỷ, không có hình hài vật chất, tất cả là không không, cái không không là nguyên uỷ của trời đất, là nguồn gốc của Vũ trụ. Khi tạo hoá sinh vạn vật từ đó vạn vật mới có. Trước đó không có gì hết, ta nói Vũ trụ huyền bí là vậy. Khi ta hiểu được vạn vật từ đâu mà có thì ta biết được sự bao la không giới hạn của Vũ trụ. Hữu thể và Vô thể, một đằng là Tĩnh thể và một đằng là Động thể, ta có thể nói chúng cùng đến từ Đạo, chỉ bởi chúng có tên khác mà thôi. Cả hai có thể được gọi là huyền bí, hơn cả huyền bí nữa. Đó là Đạo, nguồn gốc sinh hoá của Vũ trụ và Vạn vật. Tính chất của Vũ trụ là Không, từ Không đến Có trời đất, từ trời đất có vạn vật, cuối cùng có thế giới mà ta biết đó.

THUYẾT TƯƠNG ĐỐI:

Khi người ta thấy cái đẹp là đẹp thì quan niệm về cái xấu cũng theo đó mà có. Khi người ta quan niệm về sự tốt thì người ta cũng quan về sự xấu. Có và Không đi với nhau, có Dễ thì có Khó, Dài Ngắn đối nhau, Cao Thấp hỗ trợ lẫn nhau, Âm thanh,Trước Sau hoà hợp nhau. Kẻ sĩ hành động không lỗ mãng, dậy không quá lời. Trời khiến vạn vật di động, nhưng trời không kiểm soát chúng. Trời tạo dựng vạn vật, nhưng trời không giữ làm của riêng. Trời dinh dưỡng vạn vật, nhưng trời không tư lợi. Trời thành công nhưng lại không ở lại để hưởng thụ. Và vì không màng đến địa vị do thành công mang lại nên không bị ràng buộc khó xử. Tất cả ý kiến và giá trị được đặt ra bởi con người, và sự phê phán qua sự so sánh. Nhưng cái nhìn về sự việc liên tục thay đổi, vì vậy giá trị phê phán cũng thay đổi. Do đó, khi ta xử sự về xấu tốt, có không, dài ngắn, dễ khó… đừng quá câu nệ tránh phiền phức.

SỞ THÍCH:

Giá trị? ai cũng muốn có giá trị, ai cũng muốn có danh giá, ai cũng háo danh, điều này dẫn đến chỗ tranh danh. Bằng cách không ham danh lợi, ta tránh được cạnh tranh. Vàng, bạc và các báu vật là những thứ khó tới gần, ai cũng muốn chiếm hữu vật quí giá, đó là lý do tại sao có trộm cướp. Bởi chẳng đặt giá trị trên vật hiếm quí, ta có thể tránh được trộm cướp. Bởi không thường công danh, ta tránh được người ta bon chen. Bởi thế kẻ sĩ có bổn phận giúp dân chúng giữ cho tâm hồn trong sáng, tránh xa tham vọng, tránh bon chen, đố kỵ, tranh dành danh lợi. Bởi hành động theo lẽ phải và phục vụ bất vụ lợi, thiên hạ được bình trị. Danh vọng và địa vị khiến người ta tranh dành, còn sự giáu có khiến con người động lòng tham, vì thế sự lừa dối đảo điên đã xẩy ra trong xã hội.

ĐẠO VÔ VI:

Tính tĩnh của Đạo là không, nhưng động tính của Đạo thì vô tận. Cái bao la đã sinh ra vạn vật, là nguồn gốc của vạn vật, nó Vô hình dáng, dường như Vô Hữu, tuy nhiên nó hiện diện. Ta không biết nó đến từ đâu, nhưng nó dường đã có trước cả trời. Cái vô vi của Đạo không có là trống rỗng, nó đã ẩn chứa vô số mầm mống sự sáng tạo, và đó là động tính vô biên, cái không này của Đạo là nguồn gốc của vạn vật.

CON CHÓ RƠM:

Thiên nhiên không kỳ thị, săn sóc vạn vật như nhau, nó coi mọi vật như nhau, như những con chó rơm không thương, không ghét. Kẻ sĩ không kỳ thị, coi mọi người ngang nhau như những con chó rơm không thương cũng không ghét. Khoảng cách giữa trời và đất cũng giống như cái ống thổi lửa, mặc dù nó trống rỗng, nhưng chính vì chỗ trống rỗng nó sinh ra vạn vật. Từ chỗ này chúng ta thấy rằng làm nhiều quá, lấy nhiều quá có thể dẫn đến chỗ lầm lẫn hoặc thất bại. Tốt hơn là hãy giữ yên lặng, bất bạo động. Đạo sinh vạn vật, để vạn vật đi theo hướng của nó, không tự tôn và kỳ thị. Vua nên theo mẫu mực này để lãnh đạo, bất bạo động, yên lặng, sống trong hoà hoãn với dân, như vậy chung cuộc sẽ có một xã hội yên ổn.

THẾ GIỚI BẤT TỬ CỦA TA:

Trời và đất thì vĩnh cửu, bởi chúng không hiện hữu cho chúng. Mọi việc ta làm, kẻ sĩ ưu tiên cho tha nhân và vì tha nhân, hậu nhiên ta sẽ được dân yêu mến. Tuy không màng đến hơn thiệt nhưng phúc lợi lại từ đó mà có. Bởi không vụ lợi ta có thể hoàn thành điều tốt nhất theo ý ta. Sự khiêm tốn sẽ được mến mộ, bởi phục vụ tha nhân ta có thể hoàn thành lý tưởng của ta.

ĐẶC TÍNH CỦA NƯỚC:

Đặc tính của con người giống như nước. Nước có ba đặc tính: Thứ nhất, nó nuôi vạn vật. Thứ hai, nó uyển chuyển tự nhiên- nó chảy xuôi giòng. Thư ba, nó ở nơi thấp- chỗ mà người ta coi thường. Nước ở nơi thấp, đặc tính của người là hạ mình trước kẻ khác. Nước ở sâu và yên lặng, đặc tính của người là trầm tĩnh. Nước cung ứng cho vạn vật, đặc tính của người là hy sinh cho kẻ khác không kể công. Nước phản chiếu vạn vật, đặc tính của người là thành thật và không lừa dối cả trong lời nói lẫn việc làm. Nước thì mềm, thích ứng trong mọi hình dáng. Ta nên học theo nước là không đố kỵ,khiêm nhường, làm được điều đó ta có thể tiến gần tới Đạo.

ĐẦY THÌ ĐỔ:

Bất kể đồ chứa nước loại nào hễ đầy thì đổ. Đủ rồi, bằng đó đủ rồi, vừa dưới miệng ly là được. Con dao hữu dụng khi nó sắc, nhưng nếu mài sắc quá… nó dễ gãy. Nếu một người có quá nhiều của, sẽ khích động lòng ghen tị của mọi người. Sống xa hoa quá độ, tiền bạc rồi sẽ tiêu tan. Một khi thành công, ta nên nhã nhặn bước sang một bên, điều này hợp với lẽ Đạo. Cũng như trời tạo nên muôn vật nhưng không làm chủ thứ gì, nuôi nhưng không cầu lợi, khi thành công không tham quyền cố vị.

HỒN VÀ XÁC:

Việc theo Đạo và việc cho phép tinh thần và thể xác trở nên Một, có thể nào phân ly ta? Hãy dùng trực giác thay cho trí óc, ta có thể thấy sự việc như trẻ thơ. Thanh tẩy trí óc của ta, để khỏi vẩn đục. Bằng cách yêu quê hương và an tộc hết mình, ta có thể tiến tới bất bạo động. Tiếp xúc với thế giới bên ngoài, làm sao ta có thể tĩnh tâm cho đươc? Để ý tất cả mọi việc xung quanh, làm sao ta có thể thông suốt được tường tận? Đời là một việc của cả Hồn lẫn Xác, nếu ta có thể giữ được Đạo thì ta có thể điều hợp được Hồn và Xác.

LY CẠN:

Người ta dường như chỉ hiểu lợi ích của sự Có, không chú ý đến cái tiện ích của sự Không. Không có gì thực sự có nhiều công dụng hơn là Có. Hai chục cái tâm qui tụ lại tâm của bánh xe, nhưng cái tâm không cho bánh xe hữu dụng. Bởi giữa cái ly cạn cho nên có thể châm nước nên nó hữu dụng. Cái hữu dụng của cửa sổ là ở cái trống không. Và ở chỗ không là cái phòng hữu dụng. Như ta thấy, ta có thể có được cái tiện ích của sự có qua tác dụng của cái không. Sự có một mình thì vô dụng, nó chỉ hữu dụng khi nó đi đôi với cái không. Sự hữu dụng của mọi vật đều tuỳ thuộc vào cái không của nó. Đạo, tức trời, không có hình dáng, tuy vậy thiên đàng và trái đất cũng như muôn vật đều được tạo dựng bởi trời.

LÒNG THAM VÔ ĐÁY:

Nhu cầu của con người có giới hạn, nhưng lòng tham vô đáy. Tập trung nhãn lực quá độ sẽ làm hại đến mắt. Khi bị ồn quá sẽ có hại đến thính giác của ta, vì quá ồn ta không thể nghe. Nếm nhiều đồ ăn quá đưa đến chỗ mất vị giác. Vui chơi quá độ sẽ dẫn đến suy nhược. Chạy theo tiền tài sẽ phương hại đến đức độ của ta. Vì vậy kẻ sĩ hiểu Đạo sống giản dị, ăn vừa đủ no, không theo chạy theo thú vui, vui thú điền viên, không xa hoa, hoà nhoàng. Lòng tham vô đay nếu ta không dứt bỏ tham vọng, ta sẽ bị chìm đắm, một người nuôi tham vọng không những không thoả mãn hoặc thoải mái, nhưng ngược lại, sẽ đau khổ và phương hại đến tinh thần tự trọng.

KHEN CHÊ:

Bởi vì người ta chú trọng quá nhiều đến danh lợi, họ luôn quan tâm đến khen chê. Họ liên tục sợ tham hoạ và tự hại họ về việc này, vậy bởi lý do nào? Đó bởi vì họ tin rằng thưởng là một vinh dự, được kẻ khác kính nể là trưởng gia, căn cứ vào việc này họ sợ mất danh dự. Chê thì hờn tủi, thế nên sợ hãi. Lý do chúng ta có cái thảm trạng này là vì ta lo sợ quá đáng về ta. Nếu ta quên đi cái ta ta đâu còn chi phải sợ? Do vậy, nếu một người hy sinh cho nhân loại, người đó đáng cho thế giới tin tưởng. Con người nên có lòng vị tha, biết quên mình; nếu ta có thể gạt cái sinh tử sang một bên và nếu ta không màng tới sự khen chê, hên xui, may rủi, thì chẳng còn gì phải sợ hãi nữa.

GIỮ YÊN TĨNH:

Cái Tâm của con người nguyên thuỷ ở thể Không và Yên tĩnh. Nhưng bằng cách nào đó, chúng ta bị mù quáng bởi dục vọng. Kết quả, chúng ta hành động thiếu bình tĩnh. Vì thế, chúng ta phải trở lại trống vắng yên tĩnh, bằng cách này chúng ta có thể chứng kiến cảnh sinh hoá của vạn vật và sự tuần hoàn của vũ trụ. Vạn vật có nhiều thứ khác nhau nhưng cuối cùng chúng đều trở về cội. Đây gọi là Tĩnh cũng còn được gọi là tuần hoàn. Hiểu được sự tuần hoàn gọi là Giác Ngộ, người không hiểu được sự tuần hoàn còn bị ngoại vật chi phối cuối cùng sẽ gặp đại hoạ. Kẻ hiểu được lẽ tuần hoàn của Đạo thì được hướng dẫn, được soi sáng, tiến tới hiểu được vũ trụ và thiên địa và cuối cùng hiểu được Đạo. Ở trong Đạo, chúng ta tìm được trường thọ, trường thọ có nghĩa là đời sống không bị hiểm nguy. Qua việc tĩnh tu, ta sẽ tiễn tới thấu hiểu nguyên lý của thế gian và thông suốt sự chuyển biến của vạn vật, ta sẽ cảm nhận được sự chủ đạo của thiên nhiên và trở nên làm Một với Đạo.

VUA TÀNG HÌNH:

Có bốn loại vua: Loại thứ nhất trị dân không cần lời, để dân thoải mái với nếp sống và lối sống riêng của họ, đó là ông vua tốt vì đã làm những điều lợi cho dân. Kế tới là vua dùng lẽ phải để lãnh đạo và cảm hóa dân. Kế đến là loại cua cai trị dân bằng những luật lệ nghiêm khắc với những hình phạt nặng nề, đó là ông vua hà khắc và tàn bạo đối với dân. Vua tệ lậu là hạng dùng hết quyền binh của mình để bóp nghẹt và lừa dối dân chúng với những kế hoạch gian trá, đó là ông vua đàn áp dân và làm cho dân làm cách mạng. Cách tốt nhất lãnh đạo dân chúng là bất bạo đông cho phép dân sông theo lối sống của họ. Khi mọi việc được hoàn thành tốt đẹp, đến cả dân cũng không được chú ý điều chính phủ đã làm cho họ, lúc đó ta có thể nói rằng bình trị. Chính phủ có thể được ví như lá phổi của ta. Lá phổi của ta được kể là tốt khi ta không để ý đến nó đang giúp ta thở. Một khi ta liên tục để ý đến hoạt động của nó là ta đã ngã bệnh.

SỰ SUY VI ĐẠO ĐỨC:

Trong thời kỳ sơ khai, con người sống giản dị và thành thật, họ không biết đọc cũng chẳng biết nhiều nhưng có điều họ không biết giả dối. Về sau con người càng ngày càng ranh mãnh hơn, kết cuộc quan lại phải nghĩ cách kiểm soát dân chúng, bằng cách dùng cái đầu để khiến dân không thể trốn thuế, dân thì nghĩ cách trốn thuế, đây là lúc sinh ra lừa lọc. Lúc khởi đầu, gia đình vui vẻ hoà thuận với nhau, không lý đến quan niệm răn dạy, sửa phạt. Nhưng đến khi sự liên hệ gia đình lỏng lẻo, thì biện pháp này cần đến hãy đàng hoàng, tử tế với người lớn. Khi đất nước còn yên ổn, các bộ trưởng làm bổn phận họ phải làm, không cần đặt thành vấn đề có trùng thành hay không. Nhưng khi quốc gia rối loạn và các quan lại lạm quyền thế thì viên chức trung thành cần dùng đến. Sự công chính và đức độ, kiến thức và thông minh, ngoan ngoãn, trung thành, những quan niệm này đều đến khi Đạo đã lung lay, khi sự giản dị đã bị huỷ diệt. Sự hiện diện của chúng là dấu chỉ sự phá sản về tinh thần, của sự suy thoái lương tâm con người, chúng là bằng chứng của sự thoái hoá thay vì một xã hội tiến bộ.

SỐNG ĐẠO:

Kiến thức và học hỏi là căn nguyên của phiền não, hãy vất bỏ nó và ta sẽ thoát khỏi rắc rối và lo âu. Con người tìm kiếm khen chê, tốt xấu, nhưng thực ra đâu có gì khác biệt giữa khen với chê và tốt với xấu, hoặc là cao với thấp đâu? Tuy ta chẳng hiện hữu riêng ta hoặc phơi bầy ra cái nhất quán của ta, vậy cái gì người sợ và ta phải sợ? Đạo tuy bao la va vô biên. Nhưng có gì khác biệt giữa nó và cái thế giới của ta đang sống. Quần chúng trong họ hồ hởi và vui vẻ như là họ đang dự tiệc hoặc như đang đứng trên tháp cao ngắm cảnh mùa xuân vậy. Chỉ riêng ta an nhiên tự tại như trẻ thơ chưa hề học mỉm cười, trông ta như kẻ không nhà. Tất cả mọi người có dư giả, chỉ riêng ta dường như thiếu, ô! ta khờ quá, giống như ta hoang mang bối rối. Ai ai cũng không ngoan sắc sảo, còn ta ngu ngơ, khờ khạo. Ai cũng thông minh có tài, còn riêng ta hoàn toàn như vô tài vậy. Ai cũng dường như có tài tháo vát, còn ta như là người khờ khạo vậy, ta khác với mọi người vì ta sông với Đạo. Cao thấp, tốt xấu, phải quấy, xấu đẹp… đây chỉ là giá trị phê phán có tính cách tương đối thay vì thực chất. Nó có tính cách tương đối và thay đổi theo thời gian và cách sử dụng. Con người quá chú trọng đến danh tiếng, phái tính, và lợi ích của đồ vật, nhưng có lẽ chúng ta nên vui với sự yên tĩnh, sống đời giản dị và tìm sự thăng tiến tinh thần.

CONG KHÔNG GÃY:

Uốn để khỏi gẫy. Yên để khỏi lật. Cạn để được đầy. Rách để được mới. Kiếm ít thì được nhiều. Kiếm được quá nhiều thì hoa mắt. Vì thế, kẻ sĩ giữ Đạo trở nên mẫu mực cho thế gian. Khi thành công không khoe khoang, kiêu căng, tự đắc. Bởi vì kẻ sĩ không tự cao tự đại cho rằng không ai sánh được mình. Người xưa có câu: “Uốn cong để khỏi bị gẫy” đó há chẳng phải sao? Thiên hạ luôn theo đuổi cái bề ngoài của sự vật, chạy theo cái đầy đủ, bởi vậy họ đã khơi dậy dục vọng, ta nên khiêm nhu tránh xa dục vọng.

THẮNG KHÔNG KIÊU:

Vũ khí sắc bén là dụng cụ bất hạnh, những thứ đó Đạo lánh xa. Thông thường thì nhân vật quan trọng được xếp ngồi bên trái (cấp nhỏ bên phải, cấp lớn bên trái), trong thời chiến nhân vật quan trọng được xếp ngồi bên phải (cấp lớn bên phải, cấp nhỏ bên trái). Vũ khí là dụng cụ của bất hạnh, vật mà người lịch lãm không dùng đến. Nếu lực lượng cần thiết nên để dự phòng, nếu thắng, không nên hãnh diện, vì nếu hãnh diện ta là kẻ hiết sát, kẻ hiếu sát không thành công ở đời. Khi thịnh thì phe Tả được trọng dụng, khi suy thì phe Hữu được trọng dụng. Sự giết chóc nên coi là chuyện buồn đau, ngay cả chiến thắng trong chiến tranh cũng nên như là đám tang. Lực lượng quân sư mang thảm hoạ, nếu vì bắt buộc phải dùng đến mục tiêu chính đáng thì cũng nên giới hạn, không nên lạm dụng quá lố.

TỰ CHẾ:

Hiểu được cái xấu tốt ở kẻ khác là thông minh, trong khi hiểu được chính mình mới là thực Giác Ngộ. Để có thể chinh phục được kẻ khác là sức mạnh, nhưng có thể chinh phục được chính mình mới thực là mạnh. Viên mãn, không ước muốn nhiều quá là phúc cho ta, ta hài lòng với cuộc sông hiện tại. Người hiểu và theo hành Đạo là người có lòng tin. Người có thể giữ được Đạo là người có lòng bền vững. Và khi ta chết, tinh thần ta còn tồn tại mãi, đây gọi là trường sinh. Ai cũng vi kỷ và tư dục, nếu ta muốn dứt bỏ tư dục, trước hết ta phải tự kiểm và thanh tẩy, vứt bỏ cái tôi. Nếu ta có thể hiểu được ta, tự chế lấy ta, tự tại và dốc lòng lúc đó ta có thể hành Đạo.

GIỮ ĐẠO:

Nếu giữ được Đạo, thì thế giới này sẽ đến với ta. Nếu không có những xung khắc bất thường, thì ắt có hoà bình. Âm nhạc hay và đồ ăn ngon thu hút khách qua lại. Đạo không có hương vị và tiếng tăm, mặc dù ta không thể thấy và nghe nó, nhưng nó hữu dụng vô tận. Một chính phủ liêm công chính cũng giống như âm nhạc hay và đồ ăn ngon, nó cung ứng quần chúng về vật chất, còn Đạo cung ứng cho ta về tinh thần.

SỨC MẠNH CỦA SỰ NHU:

Để làm co rút lại một vật, hãy làm cho nó dãn ra. Muốn làm yếu đi một vật, hãy làm cho nó mạnh trước. Muốn loại bỏ một vật, hãy làm cho nó rực rỡ trước. Muốn có, hãy cho đi. Điều này thật rõ ràng, nhu luôn thắng cương. Nếu cá rời khỏi nước nó sẽ chết. Nhu là nền tảng của chính phủ, và nếu nó không được dùng đến sẽ mất nước. Sự cưỡng bách và trừng phạt là hạ sách không nên áp đặt lên trên người dân. Mọi vật sẽ đi ngược lại hướng của nó khi tới cùng đích và mạnh sẽ trở thành yếu là câu nói của người xưa. Nếu ta hiểu và áp dụng nó, ta có thể lấy nhu thắng cương.

PHẦN II: CHÍNH TÂM

DÙNG TÂM KHÔNG PHẢI LÀ CHÂN TÂM:

Kẻ chân nhân không dụng tâm, và vì vậy họ chân thật, được gọi là chân tâm. Kẻ phàm phu có dụng tâm và vì thế không thật tâm, được gọi là hảo tâm. Kẻ hành sự trượng nghĩa bất vụ lợi là thánh nhân. Kẻ hành sự thẳng thắn và làm việc có chủ tâm, gọi là công tâm. Kẻ quá cẩn trọng, và nếu không quan tâm… Mời gọi và buộc kẻ khác đáp ứng, khiếm nhã. Vì thế khi mất đạo thì thấy có chân nhân; khi vắng chân nhân thì có thánh nhân; khi vắng thánh nhân thì có kẻ công chính; và khi vắng kẻ công chính thì có đại nhân. Khi xã hội cần đến sự nghiêm chỉnh là lúc sự gian trá và thảm hoạ đã đến với dân gian. Việc hoàn trả kiến thức và việc sử dụng kiến thức vào cái mánh khóe đắc dụng là nguồn gốc của sự khờ hồn nhiên. Ta nên giữ sự giản dị của Đạo, và không dùng đến xảo thuật hoặc lệ thuộc vào những câu thức ước lệ thay vì cái chân thực của Đạo. Những yếu tố tinh thần là: chân tâm, đức độ, công chính, mẫu mực, và hiểu biết. Trong một xã hội có Đạo thì mọi việc được ổn định, một khi thiếu vắng Đạo thì…

TỪ KHÔNG ĐẾN CÓ:

Đạo di chuyển trong một vòng tròn đóng liên tục, không ngưng, bằng cách này đã cho sinh hoá tuần hoàn vô tận. Động thể của Đạo là Nhu và Khiêm tốn. Vạn vật dưới trời được điều hợp bởi cơ hữu (hiện hữu). Và hiện hữu tới từ vô hữu. Vô vi là cơ bản của Đạo, Hiện hữu là động thể của Đạo. Để có thể hành Đạo ta phải tự hoà giải với bất bạo động, không tham dự vào thế sự, không tư dục, không kiêu căng ích kỷ.

VŨ TRỤ HOÀ HỢP:

Đạo là nguyên lý đằng sau sự sáng tạo của vạn vật, thứ tự tạo dựng vạn vật bắt đầu bằng lực sinh hoá. Lực này chia thành hai lực âm và dương. Sự tương khắc dẫn đến việc cân bằng điều hợp, từ đó vạn vật sinh ra lực. Vạn vật có âm đằng sau và dương đằng trước, qua sự hoà hợp âm dương một tương hợp mới được tạo thành. Đạo sinh vạn vật, và sau sự tạo dựng của chúng, chúng phải giữ mãi tính của Đạo, và hoà đồng với Đạo; ta cũng vậy, nên ưu tiên và sống theo thiên nhiên.

NHU THẮNG CƯƠNG:

Vật mềm nhất có thể xoi thủng vật cứng nhất. Cái không hình thể lại có thể xuyên thấu vất cứng (nước chọc thủng đá). Đây là điều ta biết về bất bạo động. Không gì tốt hơn là dậy mà không cần đến lời và tiện ích của bất bạo động. Nước thì mềm nhất trong các vật vậy mà nó có thể xói mòn núi đá và lở đất, vậy nhu thắng cương là điều hiển nhiên.

SỰ MẠO HIỂM CỦA VIỆC TÌM KIẾM DANH VỌNG TIỀN TÀI:

Ta nên chọn bên nào, danh vọng hay đời sống? Bên nào có giá trị hơn, của cải và tiền tài hay đời sống? Cái nào hay cho ta hơn, được danh lợi hay đánh mất bản thân ta? Phải trả giá thật mắc để đoạt danh vọng (hạng nhất, nổi tiếng, bằng cấp, thượng hạng). Và cất giữ châu báu mang đến sự mất mát lớn. Nói một cách khác, hiểu được dục vọng sẽ không bị mê hoặc, và biết khi nào ngưng sẽ khỏi bị nguy hiểm. Chúng ta nên bảo trọng thân xác và đời sống của ta, có thực sự đáng để ta mạo hiểm chạy theo danh lợi đến nỗi đánh mất mình không?

KHÔNG CÓ ĐẠI TRỌNG PHẠM:

Khi có Đạo ở thế gian, con người viên mãn và hài lòng, xứ sở sống trong thái bình. Không có chiến tranh, thay vì ngựa trước kia ra trận nay đem ra cầy ruộng. Khi thế giới thiếu vắng Đạo, con người chạy theo danh lợi. Khi xứ sở chiến tranh liên tục, tất cả ngựa phải ra trận, có khi để ở chiến trường. Nước ta quá nhỏ, nước láng giềng quá lớn. Nước ta đủ rồi, không nên phân tranh, không nước ta nhỏ quá. Không có thảm hoạ nào lớn hơn thảm hoạ tham lam, không tội nào lớn hơn tội xâm lấn. Chỉ có sự hài lòng lâu dài là khi nhận thấy đủ là đủ. Nếu mọi người đều biết viên mãn thì thiên hạ thái bình.

ĐỪNG RA NGOÀI:

Câu trả lời cho mọi việc huyền bí chẳng phải ở đâu xa, trái lại nó nằm ngay trong tim ta. Nếu ta có thể tự kiểm tra lòng ta, loại bỏ sự ích kỷ và tư dục thì ta sẽ có thể hiểu được những nguyên tắc đằng sau mọi việc. Không cần bước ra khỏi cửa nửa bước, ta có thể hiểu được luật thiên nhiên không cần nhìn ra cửa sổ một giây. Ta càng đi xa, ta càng hiểu ít. Vì vậy kẻ sĩ hiểu việc mà không cần phải đi xa. Ta chẳng cần phải hành động phi thường, thiên nhiên tự nó triển nở. Hồn ta trong sáng như gương, lau cho sạch bụi bặm, tự nhiên ta có thể nhìn và thấu hiểu được mọi việc xung quanh ta.

VIỆC THEO ĐUỔI BẤT BẠO ĐỘNG:

Khi theo đuổi kiến thức, kinh nghiệm ta sẽ gia tăng (ô! ta học nhiều quá). Nhưng khi theo Đạo, những kinh nghiệm hàng ngày sẽ giảm, đến lúc đạt tới mức bất bạo động (ô, tư dục của ta giảm nhiểu!). Qua việc loại bỏ những hành động không cần thiết, mọi việc sẽ được chu toàn. Việc trị dân, cần sự trầm tĩnh hơn là việc xen vào việc của dân. Việc theo đuổi kiến thức chỉ là để gia tăng dục vọng của ta, vì thế nó tạo ra nhiều phiền toái và là nguyên nhân phiền não; trong khi theo Đạo loại bỏ được cái trí và giảm đi dục vọng, bên trong ta vô vi, bên ngoài ta an nhiên tự tại, không tham dự vào việc của thiên hạ.

NHÀ LÃNH ĐẠO LÝ TƯỞNG:

Kẻ sĩ không tỵ hiềm, ông tôn trọng ý kiến của kẻ khác như ý kiến của chính ông. Tôi tốt với kẻ tốt, và xấu với kẻ xấu, như vậy sẽ làm cho người ta trở nên tốt. Tôi tin kẻ đáng tin, như vậy khiến người ta đàng hoàng hơn. Khi một kẻ sĩ cai trị dân, ông tư chế tư dục, giúp dân sống giản dị và vô tư, nghe và làm trong yên lặng, bảo vệ họ như trẻ thơ. Vua lý tưởng biết tự chế tư dục, không tự đặt ra mục tiêu riêng hoặc phải, trái và đối xử với mọi người tử tế và thân thiện.

CON HỔ CÓ THỂ CÓ TẬT:

Trong số người sinh, 1/3 sống lâu và sống khoẻ, 1/3 chết yểu, 1/3 sống lâu nhưng không thọ. Bởi vì họ vui chơi quá sức và tự làm độc họ. Ta có lần đã nghe có người tu luyện có thể đi qua rừng giữa bầy cọp và tê giác. Và ông ta có thể đi qua vùng chiến một cách an toàn. Tê giác có sừng nhọn nhưng làm hại được ông. Con hổ có thể dữ tợn, nhưng nanh vuốt của nó không thể đụng đến ông ta. Gươm giáo tuy sắc nhưng không đụng đến da thịt ông ta. Tại sao vậy? Bởi vì một người biết rõ cách bảo trọng sẽ chẳng bao giờ tự đặt mình trong tình hình nguy hiểm. Biết bao nhiêu sừng tê giác và móng vuốt sắc bén vô hình của cọp và những vũ khí nguy hiểm trong đời sống của ta như là tự kiêu, hào nhoáng, xa hoa phù phiếm, tham lam, hối lộ… nếu ta vô ý, sơ sẩy tai hoạ, sơ sẩy tai hoạ sẽ xẩy đến ngay. Vậy ta nên trầm tĩnh cẩn trọng lời nói cũng như việc làm, không tư dục có thế ta mới khỏi bị hại.

NGƯỜI NÓI THÌ KHÔNG BIẾT:

Một nhà thông thái thấu hiểu sự thật và sự huyền bí của Đạo, cẩn trọng khi hành Đạo, không dám nói nhiều. Những kẻ ba hoa không biết chi về Đạo. Đừng tuyên bố những sở trường của mình; loại bỏ tất cả sự phức tạp, giữ lại cái sáng giá của ta, dũ bỏ cái thế tục bụi bặm, đây đích thực là chân tướng của huyền bí. Bởi tránh xa thế giới vật chất và giữ yên lặng, không ai có thể tới quá gần ta, để dụ dỗ ta, phỉnh gạt ta, tuyên dương ta, làm hại ta bằng tiền-tiền-danh vọng. Đây là cao điểm của chân thực mà mọi người có thể tham dự vào. Bởi khiêm nhường và không gây rắc rối, ta có thể kiểm soát tình trạng của riêng ta, không ai có thể làm ly gián ta được.

CÓ QUÁ NHIỀU LUẬT LỆ:

Trị dân qua sự yên lặng. Lực lượng đặc biệt, chiến tranh xảo trá. Được lòng dân bằng cách không xen vào đời sống của dân. Tại sao ta biết? Bởi các điều sau đây: Nhiều cấm luật chừng nào thì dân khổ chừng nấy. Nhiều vũ khí chừng nào, thì nhiều chống đối, nhiều kẻ ranh ma quỷ quyệt chừng nấy. Càng nhiều luật, càng nhiều đạo tặc. Vì thế kẻ sĩ nói: Tôi không hành động lỗ mãng và người dân tuỳ nghi sửa đổi, tôi yên lặng và dân tư giữ trật tự, tôi không làm phiền đến họ và họ được thịnh vượng, tôi không tị hiềm và dân sống đơn sơ giản dị. Kẻ làm chính trị tưởng rằng họ đã đóng một vai trò đặc biệt trong xã hội, làm ra đủ các luật lệ và áp đặt lên mọi người phải theo. Nhưng nếu nhà cầm quyền có thể áp dụng bất bạo động, yên lặng, không tư dục thì thiên hạ được thái bình.

CÁ CHIÊN:

Trị một nước rộng lớn cũng như chiên một con cá nhỏ, ta không thể lật nó quá nhiều lần. Nếu lật nó quá nhiều lần nó sẽ nát hết ra. Trị dân qua đường lối yên lặng và bất bạo động, thần linh và các thánh ngự trị nơi họ, vì thần không làm hại họ. Và thánh cũng vậy. Kẻ sĩ cũng không gì làm đến họ. Nếu vua và dân không làm hại lẫn nhau, thiên hạ sẽ được thái bình. Nếu vua trị dân qua đường lối để yên không can dự vào đời sống dân chúng, cũng như giữ mãi sự thần thiên và bất bạo động, thì dân chúng sẽ được thái bình thịnh vượng.

DẪN THUỶ:

Đại dương là vua của các giòng sông, và là nguyên nhân khiến các nhánh sông phải chảy về, bởi vì nó khôn khéo nằm chỗ thấp. Vì thế trong việc lãnh đạo nhân dân, kẻ sĩ phải tư hạ mình xuống, để được là thủ lãnh thì phải ở đằng sau. Do đó, khi kẻ sĩ ở trên dân, dân không cảm thấy khó chịu, và khi ở đằng trước dân không cảm thấy hăm doạ. Trong cách này, họ sẽ kính trọng yểm trợ người lãnh đạo của họ và không tìm cách loại bỏ ông ta. Bởi ông không tranh dành thì không ai tranh dành với ông ta. Nếu một người lãnh đạo lạm dụng quyền thế, ông ta là người lợi dụng dân. Một người lãnh đạo tốt nên nhớ rằng mình là công bộc của dân.

ĐẠI TƯỚNG TỐT:

Đại tướng tốt không quá hung hăng, binh lính tốt không dễ giận dữ quá đáng. Một nhà chinh phục giỏi giáp trân vội vàng. Một người điều khiển giỏi là người tự đặt mình dưới kẻ khác. Loại ôn hoà và bình tĩnh này được coi là không háo thắng. Nếu ta có thể hoàn thành những điều trên, ta sẽ sống hoà hợp với nguyên lý tự nhiên. Sự quá khích và tức giận là hành động của thù nghịch, trong khi hoà hoãn và bình tĩnh thích hợp vớ nguyên lý tự nhiên.

CÁI GÌ CŨNG BIẾT:

Điều tốt nhất là nhận ra cái điều ta chưa biết ( xin lỗi, tôi không rành về đề tài đó). Không nhận ra sự tự quên mình của ta là một khuyết tật ( tôi hiểu về mọi lĩnh vực: thi ca, âm nhạc, hội hoạ… ông cứ hỏi, tôi trả lời). Do đó, cái lý do một kẻ sĩ không khuyết tật đó là ông ta nhận ra khuyết tật. Có một số người chỉ thấy được cái bề mặt của sự việc, và với một ít kiến thức họ nghĩ họ biết tất cả. Kẻ khôn ngoan biết tự quên minh, và kẻ không biết điều ấy là khờ.

VIÊN MÃN CHỨ ĐỪNG TỰ PHỤ:

Người quá tin ở sức mạnh thì sẽ chết, người mà uyển chuyển sẽ tồn tại. Đây là hai lối sống một đằng có ích, một đằng có hại. Tại sao thiên đằng không giống như kẻ tự phụ? Ai biết lý do? Cách của thiên nhiên thắng là không tự phụ, tự nhiên đáp ứng, tự nhiên mà đến, an nhiên tự tại. Vạn vật thì bao la, tuy vậy lưới trời thì lồng lộng, không có gì thoát khỏi lưới trời. Luật thiên nhiên uyển chuyên tự nhiên không kiêu căng tự phụ, ta nên noi theo thiên nhiên loại bỏ kiêu căng tự phụ.

CÂY ĐẤU VỚI CỎ:

Khi con người còn sống, thân xác họ mềm mại, khi chết trở nên cứng đơ. Cây cỏ khi sống cũng mềm mại dẻo dai, nó trở nên khô héo khi chết. Khô và cứng thuộc về sự chết, trong khi sự mềm mại thuộc về sự sống. Do đó có quân lực mạnh đã phải… bỏ xác nơi chiến địa, giống như một cây cao lớn… bị chặt ngã xuống. Kẻ mạnh sẽ bị hạ xuống, để kẻ yếu sẽ được nâng lên. Khi cơn gió lớn thổ tới cây lớn luôn bị thổi đổ gẫy, còn lau sậy và cỏ chỉ bị ngả nghiêng thôi. Xem như thế hiển nhiên nhu đã thắng cương.

NƯỚC CHỌI VỚI ĐÁ:

Không gì mềm như nước. Và không gì mạnh và tấn công hữu hiệu bằng nước ( nước có thể xuyên qua tảng đá). Yếu thắng mạnh, mềm thắng cứng, ai cũng biết thế, nhưng không có ai có thể áp dụng được. Thế nên kẻ sĩ nói: “ Chỉ có kẻ dám coi thường sự khinh chê và thảm hoạ của sứ sở mới thích hợp với vai trò lãnh đạo”. Đặc tính của nước là mềm mại, tuy nhiên không vật rắn chắc nào lại không xuyên thủng, và thắng chế, chúng ta có thể học hỏi ở nước?

CHO ĐI TỐT HƠN NHẬN:

Sau khi cãi lộn, thì khó mà giảng hoà và những bực bội đôi khi còn lại, vậy làm thế nào để tránh khỏi? Do đó, kẻ làm quan cho mượn tiền và giữ biên nhận, không đòi trả. Kẻ có đức đối xử với tha nhân giống như kẻ giữ khế ước, ông ta cho đi mà không lấy lại. Kẻ thiếu đức, ngược lại, giống như kẻ thâu thuế, chỉ lấy và không bao giờ cho. Kẻ lãnh đạo không nên hà khắc với dân, họ không nên khai thác dân qua việc thâu thuế hoặc cưỡng ép dân. Cách hay nhất là cảm hoá dân chúng bằng cách phụ giúp dân, cho dân và không bao giờ lấy của dân cũng như không phiền nhiễu họ. Như tục ngữ có câu “ Ông trời bao dung luôn luôn là người tốt”.

HỄ CHO NHIỀU THÌ ĐƯỢC NHIỀU:

Lời thật thì mất lòng, và lời hay thì không thật. Người tốt thì không cãi, người cãi thì không tốt. Người khôn hiểu rằng thiên lý nằm ở ngay chính tâm của mình và thấy là không cần thiết phải chạy đi kiếm ở đâu bên ngoài. Người có kiến thức rộng không nhất thiết hiểu được Đạo. Kẻ sĩ không ích kỷ, không vụ lợi, hy sinh cho tha nhân nhiều chừng nào vui chừng nấy. Càng làm cho tha nhân chừng nào, ta càng được nhiều chừng nấy. Ông trời không ích kỷ, trái lại, trời chỉ có ích cho vạn vật chứ không hại chúng. Kẻ sĩ làm việc theo thiên lý, không vụ lợi. Kẻ sĩ có “ích, không có hại” và làm việc bất vụ lợi. Và chung cuộc, không ai có thể lợi dụng được ta. Câu nói “ Cho thì tốt hơn nhân” đã chứng tỏ tính chất bất vụ lợ và tinh thần của Đạo vậy.

  CÁC TRIẾT GIA XƯA BÀN VỀ ĐẠO

“ NẾU TRỜI CÓ THỂ GIẢI THÍCH ĐƯỢC THÌ HẲN KHÔNG PHẢI LÀ TRỜI”

Ngày xưa có một người mù chưa bao giờ thấy mặt trời:- ông làm ơn cho tôi biết mặt trời trông giống cái gì?- ơ… nó tròn- như cái cồng này- ờ nhỉ… vậy mặt trời kêu giống như cái cồng này, bong… bong- tôi hiểu rồi, cám ơn nhiều lắm. Và rồi người mù nghe tiếng “ boong boong” tận chân trời thì nói – ê… đó chắc hẳn là mặt trời đang kêu. Có người lại nói- mặt trời cho ánh sánh như cái này ( ngọn đèn hoặc cây đuốc)- hừ… đây là hình dáng của mặt trời ( người mù cầm ngọn đuốc), cám ơn bây giờ tôi đã hiểu, ông ta cầm một cây sáo lên và nói, ê… đây có phải là mặt trời khác không?. 

Không phải bất cứ cái gì cũng có thể dùng lời để giải thích được. Một người hiểu Đạo khó có thể giải thích cho kẻ chưa hiểu Đạo, cũng giống kẻ sáng khó có thể mô tả về mặt trời cho một kẻ mù vậy.

“ NẾU MỘT TÊN CÓ THỂ ĐẶT, ĐÓ CHẲNG PHẢI LÀ TÊN”

Có một chà sư tên Chu Can nói với đệ tử thiền gia- xin ngài chỉ dùm cho đoạn kinh phật này,- xin lỗi, tôi không biết đọc, ngài đọc dùm cho rồi sẽ giải thích- Nếu ông ấy không thể đọc, làm sao lại có thể giải thích được những nguyên tắc ở trong đó?- Sự thật là từ ngữ độc lập, từ ngữ là như ngón tay, ta có thể dùng nó để chỉ mặt trăng, nhưng nó không phải là mặt trăng, và người ta không cần chỉ mặt trăng để thấy nó. Ngôn ngữ giống như là ngón tay nêu ra sự thật, nhưng khốn nỗi nhiều người chỉ thấy có ngón tay, chú ý về hướng của ngón tay chỉ.

“ ĐẠI ĐẾ, TA CHẲNG HAY CÓ ÔNG Ở ĐÓ”

Trang Tử gặp Lão Tử- ngài nghĩ sao về quân vương tài giỏi có khả năng quán xuyến công việc – khi một kẻ có tài khéo, chung cuộc sẽ bị kẻ khác sai vặt; khi một người hoàn thành công việc một cách khéo léo, họ tự phí sức mình và càng ngày càng xa Đạo- hổ và báo được chú ý bởi cái rằn ri của chúng, còn khi bởi chúng tinh nghịch, ngài nghĩ thế nào về sự không ngoan của chúng?- thế nào được gọi là vua tốt? – trong việc trị nước, một minh quân không chủ ý đóng góp một cách lớn lao nào cho dân, và tuy vậy việc làm của ông tự nhiên có ích cho dân không ai nhận ra, vua không can dự vào việc của dân được coi là vua tốt- phần lớn dân không chú ý đến sự hiện hữu của vua, không có áp lực từ trên, người dân được tự do thoải mái.

“ NGƯỜI THEO ĐẤT, ĐẤT THEO THIÊN ĐẰNG, THIÊN ĐẰNG THEO TRỜI, TRỜI THEO THIÊN NHIÊN”

- tôi nghe ông là một học giả, nên tôi đã từ ngàn dặm đến để thăm ông,- nhưng bây giờ thấy ông tôi thất vọng quá!- sĩ chấn nghĩ đáng lẽ ông có ý tưởng về thượng thừa đằng sau sự thành thật của ông, thay vì ông cảm thấy trống rỗng…- hôm qua tôi cảm thấy tôi đã xúc phạm ngài, sau đó tôi thấy lòng mình trống rỗng, tại sao vậy?- khi ông đến ngay hôm qua, ông đã có định kiến tranh cãi với người khác.- ông giống con ngựa hoang trong rừng săn bắn, bỗng dưng bị bắt, và tim nó nhảy khi nó mất tự nhiên. – dạ vâng, vậy tôi có thể làm cái gì bây giờ? – một người đã làm mất cái tính tự nhiên là cưỡng đoạt thiên lý, nếu ta muốn tu tâm theo Đạo ta phải trở lại tính trời sinh tức thiên tính. Đạo theo thiên lý, đặc tính của nó là thiên nhiên.

“ NHỮNG CAO NHÂN THƯỜNG KHÔNG CÂU NỆ VÀ VÌ THẾ HỌ LÀ CHÂN NHÂN. KẺ PHÀM TỤC CÂU NỆ NÊN KHÔNG ĐƯỢC COI LÀ CHÂN NHÂN”

Đại Đế nhà Lương là kẻ sùng Đạo Phật, mặc áo Phật, ăn chay niệm Phật. Một ngày kia có một nhà truyền giáo Thiền Tông tên Bố Nhĩ Ma đến nghe Đại Đế giảng Phật.- Kể từ khi tôi bước xuống ngai vàng, tôi đã cung ứng cho chư tăng nam nữ và tôi đã xây chùa, in sách Phật, đắp tượng Phật, vậy bao nhiêu ân thưởng tôi sẽ nhận được về việc tôi đã làm?- Không có gì đáng kể. – Cái gì? Không được thưởng ư? – Những việc làm của bệ hạ có chút công đức, nhưng hành động rập theo của bệ hạ lẫn lộn và thiếu tính cách tự nguyện, tuy có ý định tốt nhưng chưa phải là Phật.- Khi làm việc bố thí, nếu chỉ vì để được khen thưởng hay để được đền đáp thì điều đó chưa phải là đức độ.

“ Không thảm hoạ nào lớn bằng hoạ tham lam. Không tội nào lớn bằng tội ích kỷ”

Bùi Hử, một đệ tử của Lão Tử- Đệ tử sắp đi vân du để học hỏi kinh nghiệm quí giá.- Nơi nào con đi trước.- Đệ tử đi nước Quí trước… Ngay Bùi Hủ băng qua ranh giới nước Quí, điều trước hết ông ta thấy là những xác chết- Ô hô! ông thật tội nghiệp quá, ông đã gặp đại hoạ. - Luật đã nói không được cướp của giết người, vậy ai đã cướp của giết người đây?- Các vua chúa đã cai trị dân theo tư dục của họ, việc đó đã dẫn đến việc xâm lấn lân bang và gây ra chem giết đôi bên.

“ NGƯỜI NÓI KHÔNG BIẾT, NGƯỜI BIẾT KHÔNG NÓI”

Một ngày kia Bất Hoan đi thăm nhà triết gia Liezi, ngay khi ông ta thấy nhiều giầy dép xếp ngoài cửa thì ông đi về thì có người trông thấy- Thưa thầy có khách.- Sư phụ, đi từ xa đến sao không vào chỉ giáo đệ tử.- Thôi bỏ đi, ta đã bảo con là hãy dấu cái khôn của mình đừng để kẻ khác thấy.- Con đã thâu đệ tử thay vì giải tán họ con đã làm điều phô trương… Một cách lý tưởng, người ta nên che đậy sự khôn ngoan sắc sảo của mình, xa lánh sự phiền toái bụi bặm của trần thế, đằng này Liezi đã phô trương cái khôn ngoan sắc sảo của hắn thay vì cất giấu đi.

“ CẤM ĐOÁN CHỪNG NÀO, DÂN NGHÈO CHỨNG NẤY. NHIỀU VŨ KHÍ CHỪNG NÀO, PHÂN TRANH CHỪNG ẤY. NGƯỜI KHÔN CHỪNG NÀO, RANH MA CHỪNG ẤY”

Như những mũi tên bắn lên trời sẽ chỉ làm cho chim bay rối loạn. Như lưới quan xuống nước, cá sợ chạy tán loạn. Như có nhiều cạm bẫy, các loài thú sẽ sợ hãi chạy tán loạn. Khi con người quá khôn sinh ra quỉ quái tranh tụng. Khi con người biết xử dụng cái khôn đó, họ sẽ gây ra nhiều chiến tranh trong thế giới. Luật pháp quân lực là phương tiện để kiểm soát con người, là phương tiện áp đặt dân phải tùng phục. Nhưng càng bảo dân đừng làm thì họ càng làm, và vì thế sinh ra nhiều rối loạn.

“ MỘT TƯỚNG TÀI KHÔNG NÊN TỎ RA HUNG HĂNG, MỘT LÍNH TỐT KHÔNG TỎ RA GIẬN DỮ, MỘT KẺ XÂM LĂNG KHÔNG TỎ RA THÙ NGHỊCH”

Có một người tên Lý Phen nuôi gà chọi cho vua.- Nó đã sẵn sàng chọi chưa?- Dạ chưa, nó còn hung hăng lắm, đá giò hoài ( lúc đó là gà đã chọi được rồi). Mười ngày sau đó…- Dạ, chưa, nó còn đá bóng đá giò gà khác. Thêm mười ngày nữa…- Dạ, nó vẫn chưa sẵn sàng, nó lồng lộn đá giò như khùng vậy. Mười ngày sau đó…- Dạ, được rồi, nó không có phản ứng gì hết khi gà khác gáy nó đứng ngay đơ như gà gỗ vậy.- Tuyệt. Vua chọn con gà này cho cuộc thi tới, và khi các con gà khác thấy nó đứng không nhúc nhích, chúng hoảng sợ bỏ chạy… Nếu chúng ta an nhiên tự tại, thì thế giới xung quanh ta bất chiến tự nhiên thành, không mất công tìm kiếm.

Trang Tử Thỡ Thầm.

Dẫn Nhập

Trang Tử là một trong số những hiền triết lớn nhất của Trung Hoa mà tư tưởng của ông đó ảnh hưởng thật sâu đậm đến đời sống cũng như văn hóa của người Trung Hoa và cũn vượt qua ranh giới lan sang các nước Á Châu và cả thế giới Tây Phương nữa.

Trang Châu, thường gọi là Trang Tử, sống khoảng 369-298 trước Công Nguyên, có lẽ là nhà Lóo học cao nhất trong cỏc nhà Lóo học cổ nhất ở Trung Hoa. Theo Tư Mó Thiờn và Lưu Hướng, thỡ Trang Tử là người xứ Mông, nước Tống.

ễng sinh nhằm vào thời kỳ hỗn loạn nhất của Trung Hoa: thời Chiến-quốc. Bởi vậy có người cho rằng trước một hoàn cảnh xó hội nhiễu nhương mà phải trái rối bời, thật giả không phân, chúng ta không lấy chi làm lạ mà thấy Trang Tử chủ trương tư tưởng siêu nhiên, đem cặp mắt bỡnh thản lạnh lựng mà nhỡn xem xó hội sự vật.

Lóo Tử soạn quyển éạo éức Kinh là cho cỏc nhà cầm quyền trị nước thời bấy giờ; ông đề xướng giải pháp (vô-vi nhị-trị). Tư tưởng của Lóo học được truyền bá trong thời kỳ tiền Hán, cũn tư tưởng của Trang học thỡ mói đến thời hậu Hán mới được đề cập đến và phổ biến.

Cỏi học của Trang Tử, tuy do Lóo Tử mà ra, nhưng biệt lập ra một phái riêng: phái Trang-học. Theo Tư Mó Thiờn thỡ: "triết lý của Trang Tử khỏc với Lóo Tử, lại muốn siờu thoỏt khỏi vấn đề nhân gian thế sự".

Chỗ tương đồng của Lóo Tử và Trang Tử là cả hai đều cùng một quan niệm éạo và éức, và cả hai đều chống đối tư tuởng truyền thống và chế độ đương thời. Và, vỡ vậy mà Tư Mó Thiờn đặt tên học phái này là éạo éức Gia, vỡ ụng cho hai quan niệm éạo và éức là nền tảng chung cho Lóo học.

Nhật Vũ 

Arlington, Texas - USA 

November 04, 2002 

Anh hùng của chúng ta là Trang Châu, như tên một người Tàu, tên họ trước, tên riêng sau. Để tỏ lòng cung kính, ta thêm đàng trước tên họ chữ “ Tử” như Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử… Trang Tử sinh vào khoảng thế kỷ thứ 4 trước công nguyên, nhằm thời tạo loạn ở Trung Hoa. Cuộc chiến phân hoà, tranh giành quyền lực và đất đai, đem đến tàn phá và nhiều thương vong. Trang Tư thấy cảnh tao loạn, nhiễu nhương mà ngán ngẩm. Để tìm ra một lối thoát, Trang Tử đã chuyển cái nhìn hữu hạn của thế giới sang cái vô hạn của thới gian và không gian. To- nhỏ, giầu- nghèo, trẻ- già… Đứng nhìn thế sự qua khái niệm quá khứ và tương lai. Đứng nhìn sự việc với ý niệm có giá trị và không giá trị. Đứng vẽ ranh giới xung quanh chỗ không ranh giới. Đứng phác hoạ cuộc sống từ cái chết, chỉ bằng cách này ta có thể tìm thấy tự do vô tận. Triết lý của Trang Tử là triết lý về tự do, triết lý mang đời sống hoà nhập vào thời gian và không gian vô tận để tìm sự viên mãn. Theo Trang Tử, cái thế giới bị trói buộc bởi “ Đời sống nhiễu nhương”, vì thế ông theo đuổi cuộc sống tiêu diêu, phóng khoáng, không tù túng.

CON VE SẦU VÀ CON RÙA:

Người ta nói rằng ngày xưa có ông Bành Tổ sống thọ đến tám trăm năm…- ông ta thọ quá nhỉ. Có con côn trùng tên là sâu sáng bởi nó sinh buổi sáng và chết lúc vừa tối. Nó không biết tháng là gì… Có con côn trùng khác tên là ve sầu, sinh vào mùa xuân và chết vào mùa hè. Nó không biết bốn mùa là gì… Tuy vậy, ở miền nam nước Chu có con rùa khổng lồ, sống đã năm trăm năm. Ngày xưa, có cây đại thụ tên là cây Gô sống tới tám ngàn năm. Con sâu buổi sáng và con ve mùa hè được gọi là “ chết yểu”, trong khi con rùa khổng lồ và cây gỗ Gô được kể là “ sống thọ” sẽ chẳng bao giờ hiểu “ Thọ là gì…”. Con rùa khổng lồ và cây gỗ Gô không phải là Bành Tổ mà chỉ là những “ yểu tử” khác. Người ta gọi Bành Tổ là trường thọ, nhưng thật ra ông cũng chỉ là một loại yểu tử so với kẻ khác.

CON CHIM SẺ NHỎ VUI VẺ:

Con chim đại bàng bay cao 9 ngàn dặm, và có con chim sẻ đậu ở cành cây.- Ha, ha! Nhìn gã đó kìa! Hắn đã công sức bay thật cao để làm gì vậy?- Tôi thì sỗng dễ dàng muốn hót cứ nhảy nhót lên cành cây.- Muốn ẩn cư sâu cứ liệng xuống đất chẳng khó khăn chi. Sự khác biệt giữa chim đại bàng và chim sẻ là cách chúng bay và điều chúng biết. Không nên coi thường con chim sẻ bé nhỏ, cũng không nên ganh tỵ với chim đại bàng trong chỗ bao la.

VỎ BẦU CỦA HỒNG SƠN:

Hồng Sơn là bạn cũ của Trang Tử- Có một hôm nhà vua ban cho tôi vài hạt bầu, tôi đã trồng chúng và chúng cho nhiều quả lớn, có quả lớn chứa tới 5 lít nước.- Nhưng chúng rất dễ bể, nếu ta chứa đầy nước.- Và chúng cũng không thể xẻ đôi để làm gáo nước.- Trái bầu tuy lớn, nhưng chúng quá lớn, lại vô dụng nên tôi đã vứt bỏ chúng.- Tiếc quá, tại ông không biết dùng vật lớn.- Những vỏ bầu này quá lớn, ta bỏ chúng vô trong lưới, rồi ta cột chúng lại thành bè dùng để qua sông, có phải hay không, tại sao phải dùng làm bình chứa nước?. Vô dụng và hữu dụng đều có nghĩa tương đôi. Hồng Sơn đã dùng vỏ bầu chứa nước, chẳng hề nghĩ đến dùng nước làm nổi vỏ bầu. Khi nghĩ cách không được ta tìm cách khác, cái này gọi là “ Biến Vô dụng thành Hữu dụng”.

CÔNG THỨC CỦA GIA ĐÌNH HỌ TRƯƠNG:

Ở tỉnh Luống có một gia đình biết bào chế thuốc đặc biệt. Loại thuốc này giúp khỏi bị nứt nẻ gia trong mùa đông. Họ giữ thuốc này lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, trong khi cả họ Trương làm nghề nhuộm vải. Rồi ngày kia, một du khách phát giác ra công thức thuốc và chịu mua với giá một trăm lượng vàng (- phen này giàu to rồi). Ông ta mang về trình lên vua và giải thích về công dụng của thuốc. Gặp lúc hai nước Vệ và Chu thù nghịch, sau khi có được công thức thuốc bí truyền, vua nước Chu tung ra cuộc tấn trên nước. Quân bên Chu được thuốc che chở không bị lạnh nứt da; trái lại, quân bên Vệ không có thuốc chống đỡ nên thua trận thảm bại. Sau khi đánh bại quân nước Vệ, người lái buôn dâng cho vua toa thuốc bí truyền, được vua nước Chu trọng thưởng và trở nên giàu có. Cùng một toa thuốc, có người không biết dùng nó nên cả đời làm nghề nhuộm vải; nhưng khi một người biết linh động dùng nó đã trở nên giàu có.

CÂY SỒI VÔ DỤNG:

Huệ Tử có lần nói với Trang Tử:- Tôi có cây một cây đại thụ tên cây Sồi, da nó sần sùi, thân của nó cong queo.- Cành của nó xiêu vẹo ngả nghiêng, xoắn tít lại với nhau nên chẳng bao giờ dùng vào đồ mộc.- Nó mọc ngay bên đường, và thợ mộc chẳng bạo để ý đến nó.- Những lời mà ông nói lúc sau nay cũng giống như cây nay, lớn mà vô dụng, ai sẽ nghe ông?- Huệ Tử, có bao giờ ông con chồn hoặc con mèo rừng không?- Để bắt mồi, chúng luôn chạy nhảy đây đó qua mọi nơi mặc dù chính chúng dễ bị sa cơ, cuối cùng chúng sẽ bị sa bẫy và chết.- Như con bò mộng, mặc dầu to như áng mây treo lơ lửng trên trời, nó chẳng thể bắt được con chuột nhắt, cho dù nó muốn bắt.- Ông có cây lớn mà con than nó vô dụng, tại sao không ngồi nghỉ ngơi dưới bóng mát của nó?- Vì cây vô dụng nên không ai tới chặt nó xuống, thế nên nó tự nhiên ở chẳng phải lo gì.- Cây sồi chẳng thể dùng làm gì nên nó không bị chặt, riêng phần cây sồi dùng cái vô dụng làm cái lợi thế.

NGƯỜI NƯỚC VỆ XÂM MÌNH:

Một hôm, người Quảng Đông đi sang miền nam nước Vệ bán nón và áo nghĩ có thể kiếm được nhiều tiền.- Mại vô! áo và mũ đẹp hạ giá. Điều người bán rong chẳng hiểu là người nước Vệ có tập quán cắt tóc ngắn và xâm mình nên không cần mặc áo.- Đồ vô dụng. Hữu dụng và Vô dụng, Thành công và Thất bại đều là tương đối. Không có gì là vĩnh cửu, cái danh thành bai của các vua Nghiêu, Thuấn cũng giống như Hữu dụng và Vô dụng của người bán rong kia.

ÂM NHẠC TRẦN GIAN:

Một hôm, Đặng Sĩ đang tựa vào bàn đầu ngả ra sau thả hồn vào thế giới Vô ngã.- Sư phụ, sao sư phụ trông khác thường, sao vậy?- Hở, hỏi hay, Sĩ Tế, ta vừa đi vào thế giới nói ta quên bản ngã của ta.- Ngươi biết không, ngươi đã nghe âm nhạc của nhân gian, nhưng ngươi chưa bao giờ được nghe nhạc của thế giới.- Và ngay cả khi được nghe nhạc trần gian, ngươi cũng chưa bao giờ được nghe nhạc của trời.- Nhạc nhân gian phải luôn luôn đến từ nhạc cụ.- Nhưng nhạc của trái đất đến từ gió… gió là hơi thở của đất… khi gió bắt đầu thổi thì tất cả đều vọng lại. Ngươi có thể tưởng gió thổi mạnh cỡ nào không? Khi gió thổi tất cả lỗ hổng từ thân cây trên núi, dưới thung lũng, trong hang động, đều vang vọng như sấm. Đồng loạt, các khoảng trống đều phát ra âm thanh. Như sóng trào, như mưa tên, như gầm thét… Có những âm thanh vũ bão, có loại dịu êm, có thứ xa, có thứ gần… Tất cả cùng nhau hợp xướng. Sau khi gió qua đi, tất cả không gian yên tĩnh trở lại, các nhánh cây đong đưa nhẹ nhàng qua lại, đây là âm nhạc trần gian. Âm thanh tự nó không có xúc cảm, đó chỉ là do quan điểm của con người về âm nhạc. Nếu một người nghe nhạc từ trạng thái tự nhiên, nhạc không cảm xúc, vì thế, cảm xúc là một cảm nhận không cá biệt.

HỒ HUỆ THÔI ĐÀN TRANH:

Xưa có một người tên Hồ Huệ chơi đàn tranh giỏi bằng… Cuối cùng ông ta nhận thấy rằng, nếu chỉ chơi một loại âm thanh, thì sẽ không chú ý đến âm thanh khác. Bỗng dưng ông ta bỏ không đàn nữa. Chỉ khi nào không đàn, thì ông ta mới có thể nghe được tất cả âm thanh hoà tấu. Nguyên tắc về âm nhạc và chạm gỗ giống nhau. Khi chạm trổ ta đục bỏ đi rất nhiều gỗ để hoàn thành tác phẩm nghệ thuật, duy chỉ âm nhạc tự nhiên mới đầy đủ và không lãng phí.

QUAN DI HIỂU KHÔNG?

Tiểu Quế hỏi Quan Di:- Có tiêu chuẩn nào áp dụng cho mọi kiến thức không?- Làm sao tôi biết được?- Thật chán quá!- Đừng vội thất vọng.- Làm sao ông biết khi tôi nói “ Biết” tôi thực sự không ám chỉ “ Không biết” chưa hẳn nghĩa là “ Biết”.- Để tôi hỏi ông này nhé, một người ngủ nơi ẩm ướt hắn dễ bị phong thấp phải không? Nhưng con cá trê thì sao? Nếu một người có ý ngủ trên cây cao sẽ sợ té… nhưng con khỉ có sợ không?- Người, cá trê, khỉ mỗi nơi riêng rẽ, đâu có tiêu chuẩn.- Phải, ha! Mỗi người có mẫu mực riêng…- Đúng thế.- Người ăn thịt, con rít khổng lồ ăn rắn, nai ăn cỏ, quạ ăn chuột.- Bốn sinh động vật vừa kể ăn đồ ăn khác nhau, ai bảo đúng sai?. Chuẩn tiêu đều khác cho tất cả, vì thế tiêu chuẩn cho người là phi lý. Nếu ta ngộ nhận giữa tương đối với tuyệt đối là rời xa Đạo.

CÓ PHẢI NÀNG TIỂU HUỆ THẬT SỰ ĐẸP?

Nếu từ đầu ta gọi trời xanh là “ Ngựa”, và gọi đất là “ Mũi tên”. Thế là trời thành ngựa và đất là mũi tên. Khi con người nghĩ về điều gì “ Sai”, người ta nói “ Sai”, khi người ta nghĩ về điều “ Đúng”; nhưng cái gì là tiêu chuẩn của “ Đúng” và “ Sai”? Ta bảo Tiểu Huệ đẹp, nhưng cá sẽ nghĩ sao? Có thể khi thấy Tiểu Huệ cá sẽ sợ bơi trốn mất tiêu… Khi tạo ra ý thức hệ là con người đã tự đặt mình trong một thế giới có giới hạn.

NƯỚC MẮT LỆ CƠ:

Lệ Cơ được cha mẹ gả cho hoàng tử Dĩ An nước Tần, Trong ngày cưới, nàng khóc như mưa…- tôi không lấy hắn. Nhưng sau ngày cưới, nàng tìm thấy hạnh phúc vì được sống trong lụa, ai hay nàng đã khóc trong ngày cưới. Ai cũng sợ chết, nhưng biết đâu chết là hạnh phúc thật vì sẽ chẳng còn ưu phiền thế tục.

GIẤC MƠ TRƯƠNG VŨ:

Trương Vũ nói với Tử Huệ:-Có người mơ sự việc xẩy ra như thật, chỉ đến khi tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ…- Chỉ có kẻ giác ngộ mới nhận biết đời là một giấc mơ, và nhiều người tự nhận họ là kẻ giác ngộ.- Ông và tôi đều mơ, khi tôi nói ông mơ đó chỉ là nói mơ. Chỉ có những người cảnh tỉnh mới thật sự giác ngộ, còn kẻ khờ lúc nào cũng cho rằng mình là giác ngộ, cuối cùng họ là kẻ khờ.

CÁI BÓNG NÓI:

Quang Lương là cái bóng của bóng mình.- Anh thử tự làm các động tác như đi, đứng lại, rồi ngôi được không?- Coi, tôi không tự chủ, cứ phải làm hắn.- Con rắn nhờ bò được nhờ cái vây của nó, con ve bay được nhờ vào cánh.- Nhưng khi chúng chết tuy vây và cánh vẫn còn nhưng không bò và bay được. Sở dĩ con người được sống bình đẳng là nhờ có tự do, cưỡng ép con người phải sống theo một khuôn mẫu tư tưởng là làm trái với tự nhiên, làm mất tự do của con người.

Giấc mơ của bướm:

Một tối kìa Trang Tử nằm mơ hoá thành bướm. Ông vẫy cánh bay một cách khoan khoái, quên mất ông là Châu. Chợt tỉnh giấc, không biết Châu chiêm bao là buớm, hay bướm chiêm bao là Châu? Có thể Trang Tử chiêm bao hoá bướm, và cũng có thể bướm chiêm bao hoá Trang Tử!

Ba sáng bốn chiếu:

Một sáng kia, người huấn luyện khi bưng một rổ đầy hạt giẻ cho khỉ ăn, ông nói với chúng:- Mỗi đứa 3 hạt buổi sáng, bốn hạt buổi tối.- Rồi sau đó bốn hạt buổi sáng, ba hạt buổi tối. Thật sự, không có khác biệt giữa “ Ba hạt buổi sáng, bốn hạt buổi tối” và “ Bốn hạt buổi sáng ba hạt buổi tối” nhưng điều thay đổi giản dị kia nhằm kiểm soát sự vui va giận của khỉ. Có bao giờ con người lầm lẫn như loài khỉ không?

HUỆ TỬ NGỒI TỰA CÂY:

Huệ Tử có tài hùng biện, vì thế ông dành thời giờ tranh luận với kẻ khác. Sau một ngày tranh cãi mệt mỏi, ông ngồi tựa gốc cây nghỉ ngơi. Ngay kia, khi ngồi nghỉ nơi gốc cây, ông bỗng nhận ra nguyên tắc không tranh luận. Sau đó, ông không bao giờ tranh cãi với bất cứ ai nữa. Dựa vào tài hùng biện để thủ thắng trong việc tranh luận thực sự có được kể là chiến thắng không? Nếu nghĩ thế, ta đã là kẻ chiến bại rồi.

ĐẦU BẾP MỔ BÒ:

Đầu bếp hoàng cung hè nhau mổ bò làm con cho vua Hán, dao sắc bén của họ lạng giữa thớ thịt và xương nghe ngọt xớt, khi xong con bò không hay biết mình chết.- Tâu bệ hạ chuyện nhỏ ạ.- Không ngờ đầu bếp khéo tay thế.- Việc hạ thần làm không tài giỏi, mà là quen tay, là Đạo. Khi hạ thần chưa ra tay mổ thì hạ thần thấy nguyên con bò. Một con dao mỗi tháng vì thái và chặt thịt. Đầu bếp gỏi chỉ thay dao năm một lần, bởi vì hắn không chặt mà chỉ lóc thịt thôi. Sau vài năm quen tay, hạ thần không nguyên con bò nữa, mà chỉ thấy bộ xương. Và kể từ đó hạ thần dùng đầu óc thế cho mắt để mổ bò. Dao hạ thần lách qua lại những khớp xương bò ngọt xớt, tới khi chết con bò không hề cảm thấy đau đớn.- Tuyệt hảo, điều nhà ngươi nói đã dậy ta nhiều về cách dưỡng sinh. Cái phức tạp của đời sống cũng tựa như bộ xương con bò, ai không thấu hiểu để tiến tới, chạy lanh quanh sẽ chỉ phung phí sức lực.

LỬA CHÁY TIẾP:

Khi dầu được dùng đốt đèn khi dầu cạn ngọn lửa có thể cháy chuyển sang nhiên liệu khác và cháy mãi. Thân xác ta có thể một ngày kia sẽ chết, nhưng linh hồn ta sẽ tồn tại mãi. Chăm sóc đời sống không nhằm chỉ lo cho thân xác, nhưng nhằm nuôi dưỡng tinh thần sống đời đời.

CHIM LỒNG:

Kiếm ăn không phải đối với gà rừng, đi cả mười bước mới mổ được con sâu. Nhiều khi phải đi cả hàng trăm bước để uống nước, vậy mà vẫn thích hơn bị nhốt trong lồng. Chim lồng được ăn, được uống và bộ lông óng ả, nhưng vẫn muốn được tự do ở bên ngoài. Người biết sống phải Đạo không bao giờ chạy theo vật chất, bỏ mất tự do, biết điều ấy có mấy ai?

Tương kế tựu kế:

Xưa có người là Giang đi sứ thuyết phục hoàng tử Phu thay đổi tật xấu trước khi đi, tham kiến Quản Hứa.- Có người tính hung dữ, nếu không can ngăn hắn sẽ gây tai hoạ cho quốc gia.- Và nếu ai dám ngăn cản, hắn sẽ gây hại cho kẻ đó.- Người này mù quáng, không phân biệt thị phi, phải trái.- Đối với hang người này, ta phải mềm dẻo, tương kế tựu.- Nếu tính hắn là con nít, ta làm như con nít. Nếu hắn như kẻ khờ, ta giả bộ khờ.- Trước tiên, hãy để hắn tưởng ông và hắn đồng thuyền, cùng phe.- Cớ chi tôi phải thân thiện lúc đầu?- Ông đã bao giờ thấy con Châu Chấu nổi dận chưa? Nó có thể không liều mạng đá xe đó…- Giờ nếu ông không liệu sưc mình, đi đương đầu với người này, có khác chi châu chấu đá xe. Khi khuyến cáo cho ai, hãy mềm mỏng, chớ cứng rắn quá chỉ làm cho sự việc rối thêm. Thật nguy hiểm khi dùng cả thế thượng phong của ta để thuyết phúc kẻ khác làm điều gì.

NGƯỜI MÊ NGỰA:

Có người kia rất yêu quí con ngựa của hắn… Hắn rình khi ngựa bĩnh ra thì hứng lấy phân, và lấy chậu để hứng nước tiểu của nó. Một hôm hắn vỗ mông con ngựa, con ngựa lồng lên đá hắn chết quay. Ta có thể yêu người, nhưng không nhất thiết người đó hiểu được tình yêu của ta.

CÂY THẦN ĐẤT:

Có người thợ mộc dẫn học trò của mình sang nước quế làm nhà. Trên đường đi ngang qua cái miếu có cái cây thần đất to cao ngất ngưỡng đụng mây xanh.- Sư phụ.- Này, cây cổ thụ to chưa từng thấy, ngừng xem đã.- Đi thôi, cây đó vô dụng.- Nó vô dụng dừng lại nhìn làm gì, nếu dùng làm thuyền thì nó chìm, nó quá yếu nếu dùng làm đồ dùng. Đêm đó những người thợ mộ nằm mơ.- Này các người nói ta vô dụng hả?- Theo cây thì Vô dụng là nhất, Hữu dụng là đại hoạ.- Nếu Hữu dụng thì ta bì chặt từ lâu rồi.- Xin lỗi ngươi là Khôn cây.

TUỔI THỌ CỦA CÂY RỪNg:

Sở là nơi thích hợp để trồng các loại cây sồi, cây trắc tới mùa người ta đốn làm nhà. Cây to dùng làm nhà cao. To hơn nữa dùng đóng quan tài. Không có cây nào được sống thọ.- Tội nghiệp cây Hữu dụng. Ngày xưa, trong khi Tề Hà Bá pháp sư không bao giờ chọn bò đầu có đốm trắng, hay heo mỏ nhọn để tế… Đẹp xấu mỗi cái có đặc điểm riêng không nên phân biệt giữa tốt xấu.

Quái đản:

Ngày xưa có người tên Lý Chữ nhân dáng xấu xí, bụng ỏng, lưng còng gần sát đất, nhô lên khỏi vai, tóc thì dựng đứng tua tủa như chông. Hắn kiếm ăn bằng nghề giặt mướn. Và bằng nghề bói sống qua ngày. Trong thời chiến mọi người bị đinh lính, nhưng không ai ngó ngàng tới hắn. Khi chính phủ phủ phát chẩn bần, hắn là người đứng hàng đầu. Người khôn không mấy chú ý tới cái mã hay tướng thô kệnh, điều này có thể giúp qua khỏi thời kỳ khó khăn.

DẦU TỰ CHÁY CẠN:

Cánh cây dùng làm cán búa, cuối cùng nó tự chặt nó tự chặt nó. Dầu dùng châm lửa, cuối cùng nó tự cháy cạn. Cây quế bị người ta níu xuống ăn tiêu tùng. Vỏ cây che chở thân cây khỏi hư thối, bị dao rạch. Phần lớn người ta biết tiện ích cái Hữu dụng, ít người hiểu sự tiện ích cái Vô dụng. Dương Quang, Vu Quí, Đặng Hỉ ( tất cả đều giỏi về binh pháp) là những người thông minh, nhưng không ai chết lành. Đôi khi thông minh còn có nghĩa tự diệt thân.

NGƯỜI CHĂN CỌP:

Chăn cọp là rất nguy hiểm, người biết nghệ thuật huấn luyện cọp sẽ không bao giờ cho chúng ăn thịt súc vật còn sống. Bởi như thế chúng sẽ quen với tính hiếu sát. Khi đã quen tính hiếu sát sẽ khó sưa trị nó. Vì thế, người chăn chúng luôn luôn cẩn trọng cắt thịt súc vật ra từng miếng nhỏ. Nhờ vậy cọp lớn lên hiền khô như mèo con. Một con cọp cũng có cá tính, nếu nó được chăm sóc tử tế, nó rất dễ thương và không còn đáng sợ nữa.

CHÂN KHÔNG NGÔN:

Xưa có người bên nước Lỗ có biệt hiệu Tư cụt, Tư Ấn bị chặt ngón chân vì liên can trọng tội. Một hôm, hắn lê lết tới thăm Khổng Tử.- Bởi ông thiếu tự trọng nên bị phạt chật ngón chân, giờ đã quá trễ để thay đổi.- Tuy tôi mất ngón chân nhưng phần khác của thân xác vẫn còn, tôi tới đây để chứng tỏ điều này.- Xin tạ lội, ngài là nhà thông thái xin chỉ giáo đệ tử của tôi. Nhưng Tư Ấn đã quay gót bỏ đi. Tư Ấn có đức độ cao, khiến Khổng Tử nể vì người khuyết tật không hẳn đã là táng tật.

THIÊN NHIÊN ANH HÙNG VĨ ĐẠI:

Thiên nhiên giống như anh hùng vĩ đại. Thiên nhiên cho tôi thân xác, cho tôi sức lực để làm việc, cho tôi tuổi thọ, cho tôi sự chết để tôi được yên nghỉ. Thiên nhiên thay đổi liên tục, ta phải biết để thích ứng, bằng cách này giúp ta loại bỏ ý niệm thích hay không thích sự chết, và sự phân biệt sống chết không thành vấn đề nữa.

QUÊN ĐẠO:

Tử Đống hỏi Khổng Tử:- Sư phụ, tại sao sống ở đời phải tuân luật pháp.- Nếu con muốn sống không bị ràng cũng được.- Cách nao? Cá chỉ sống thoải mái trong nước. Con người trong Đạo. Tự do bơi lội trong sông hồ, cá quên là sống trong nước.- Ta ở nước.- Nước là gì?- Ta ở trong Đạo.- Đạo là gì?. Ta mất đi lẽ sống hồn nhiên bởi phân chia đầu óc ta làm nhiều khối đầy ắp kiến thức, ta nên phá bỏ ranh giới và đả thông tư tưởng.

TỬ SANG MUỐN BIẾT ĐỊNH:

Tử Sang và Tử Vũ là bạn thân. Một hôm trời mưa Tử Vũ mang đồ ăn sang Tử Sang.- Trời ơi! Cha mẹ ơi! Tôi là ai!- Gì vậy?- Tôi bịnh và mấy bữa nay tôi nghĩ…- Ai sinh tôi ra khổ thế này? Do cha mẹ, hay do trời?- Không ai muốn tôi như thế này, vậy đây có phải là định mệnh không? Sự việc xẩy ra ngoài ý muốn gọi là định mệnh. Sinh nhằm Hoàng tử hay kẻ bất hạnh là điều khó thể tự chủ; vậy ta nên chấp nhận và tìm an ủi nơi bạn bè và nơi Đạo.

ĐÀO KÊNH ĐÁY BIỂN:

Một hôm Trương Huệ tới thăm Quản Nhiêu, Quản Nhiêu hỏi:- Lý Hồng nói gì vậy?- Ông ta nói chỉ có nhà cầm quyền đề xướng luật lệ và văn minh.- Phương pháp đó giống như đào kênh đáy biển.- Hoặc như con muỗi cõng trái núi. Luật của con người chỉ là tạm thời, hoặc ít nhất là chuyển tiếp, nếu muốn thế giới có hoà bình, ta phải theo luật của thiên nhiên hoặc của Đạo.

CÓ PHẢI CHÂN VỊT QUÁ NGẮN?

Một cách tự nhiên, dài không thể dài quá, ngắn không thể ngắn quá… Mặc dầu chân vịt rất ngắn, nhưng nó không muốn dài hơn… Và chân cò thì dài, nó không muốn ngắn hơn… Chân vịt ngắn, nhưng cổ nó dài,- Có tiện không? Và chân Hiệc thì dài, cổ ngắn, chung cuộc mọi thứ như đã định. Không nên phân biệt dài ngắn, theo tiêu chuẩn con người. Thay vì quan sát cái đức tự nhiên của mỗi người, ta sẽ không còn thấy dài quá hay ngắn quá.

MẤT DÊ:

Có hai kẻ chăn dê tên Dương và Hứa, ngày kia:- Tôi mất dê.- Tôi cũng thế.- Nó biến mất khi tôi ngồi đọc sách.- Nó đi mất khi tôi đang đánh bạc. Dương và Hứa làm hai việc khác nhau, nhưng cùng mất dê.- Có người lãng phí đời mình vì Danh, có người vì Lợi.- Kẻ xả thân cứu nước, kẻ vì nhân loại.- Mục đích khác nhau nhưng chung cuộc phí đời họ. Bất kể biện minh cách nào, làm mất lẽ sống tự nhiên chỉ tạo ra phiền toái.

THẢO KHẤU CŨNG CÓ NGUYÊN TẮC:

Ngày xưa có một gã thảo khấu tên Di,- Đại ca, xin hỏi.- Thảo khấu mình có luật lệ không?- Có chứ. Tìm ra nơi cất dấu châu báu “ Bí Quyết”( vàng)… Khi cướp nhà, tiên phong là “ Can Đảm”( Tôi sẽ đi trước và quan sát). Sau khi cướp của, đi sau gọi là “ Đoạn Hậu”( Các người đi trước ta đoạn hậu). Có thể bình phẩm thành công của kẻ khác là “ Khôn”( Hôm nay không phải ngày tốt, ta ở nhà ). Chia chác đồng đều gọi là “ Sòng Phẳng”( Để coi: 20 thỏi vàng, mỗi người 5 thỏi…).- Đó là 5 điều phải tuân theo. Kẻ tốt không nghe và làm theo kẻ sĩ… Kẻ xấu không làm theo kẻ sĩ… Theo cách này thì có nhiều kẻ xấu hơn người tốt, luật có hại hơn người tốt. Luật lệ luôn nhắm đến chung cuộc xấu, có thể vì thế không bao giờ tồn tại, kẻ xấu không có khả năng tác hại nhiều.

RƯỢU NGON, RƯỢU DỞ:

Ngày kia, nhà Chu mở tiệc khoản đãi hàng quý tộc cả nước. Nước Lỗ và nước Sở mang rượu quý của nước họ đến làm quà.- Tôi nghe nói rượu nước Sở ngon lắm, cho tôi nếm thử.- Không. Bị từ chối viên quan bèn đánh tráo rượu dở của nước Lỗ thế rượu ngon của nước Sở.- Bẩm bệ hạ, nước Sở cống hiến rượu dở.- Phạm thượng. Sau bữa tiệc, vua nhà Chu cho xuất chinh đánh chiếm nước Sở. Rượu không chắc mang hạnh phúc cho ta và vui thú, trái lại nó có thể mang tử vong và huỷ diệt.

HOÀNG ĐẾ CHẤT VẤN DƯƠNG QUẢNG:

Sau khi trị vì được 19 năm, Hoàng đế mang lại thanh bình cho xứ sở, nhà vua nghe đồn có một chân nhân, tò mò nhà vua đi thăm.- Trẫm muốn áp dụng sự huyền diệu của thuyết âm dương để giúp dân của trẫm.- Bệ hạ làm thế không những có lợi mà còn tệ thêm. Nghe thế nhà vua bỏ thiên hạ sang bên, đi tìm sự an bình nơi căn nhà lá trong 3 tháng.- Thưa làm sao để có thể trường sinh?- Đạo không phân sáng – tối. Không nhìn bằng mắt, không nghe bằng tai, không nghĩ bằng óc, Vô tri, Vô ngã thuận theo thiên nhiên, ắt được trường sinh.

BẠN THIÊN NHIÊN:

Có một số kẻ sĩ mà trí tuệ họ được thông đạt nhờ thiên nhiên, phương pháp truyền thụ của họ giống như sự liên hệ giữa hình dáng và bóng… Âm thanh, và tiếng vọng… Khi có câu hỏi, là có tiếng trả lời, hễ có hành động… là có phản ứng… Thể xác và tinh thần hài hoà. Khi nghỉ ngơi không có âm vang. Khi họ di chuyển, không để lại dấu vết, vì thế mang những kẻ sa lầy, hay lầm lẫn trở lại chính Đạo. Những người tin rằng thể xác là đền thờ của linh hồn có là coi là người tốt. Những người có khả năng vượt thoát xa hơn trên thể xác mới thực hài hoà với thiên nhiên. Chỉ ở con người Vô ngã mới sống đạt tới tiêu chuẩn của thiên nhiên. Bởi thân xác ta chỉ là nhà tạm trong vũ trụ, thay đổi không ngừng. Tự kỷ là đeo theo cái ta đang có.

BÁNH XE CŨ:

Một hôm Hán Đế đang ngồi trong dinh đọc sách, bên ngoài có ông thợ già đang sửa bánh xe.- Thưa bệ hạ đọc gì vậy?- Cổ học tinh hoa.- Danh nhân còn sống?- Không, chết lâu rồi.- Vậy cái mà ngài đang đọc chỉ là trang phục của kẻ chết để lại.- Nhà ngươi nói gì, muốn chết hả?- Tâu bệ hạ, để thảo dân giải thích đã.- Thảo dân là kẻ làm bánh xe, xin được dùng thí dụ nghề này.- Đục nhanh đỡ tốn sức, nhưng bánh xe không tròn, đục chậm bánh xe hoàn hảo.- Bí quyết của người thợ làm bánh xe là đục thật khéo, không nhanh không chậm.- Thần có thể giải thích cho thằng con, nhưng không thể trao tay nghề cho được.- Cái khôn của người xưa chẳng thể truyền xuông, vì thế thần mới ví sách cổ học của bệ hạ đang đọc chẳng khác chi áo quần người chết. Người thợ có thể giảng cho học sinh ông ta hiểu thế nào là tròn, là vuông, nhưng ông ta không thể trao tay nghề cho họ. Một người có trí nhớ tốt, không nhất thiết là kẻ biết cách học.

Đất với trời:

- Bầu trời có di chuyển không?- Trái đất có đứng yên không?- Mặt trời và mặt trăng có thay nhau chiếu sáng không?- Cái gì điều hợp chúng?- Mây làm mưa hay mưa làm mây? Tất cả đều do thiên nhiên.

CON QUẠ VÀ HẢI ÂU:

Một hôm Khổng Tử ghé thăm Lão Tử và bàn về đạo đức học. Trong khi đàm Đạo Lão Tử nói:- Hải âu chẳng phải trắng bởi chúng tắm mỗi ngày…- Quạ chẳng phải đen bởi chúng nhúng mực mỗi ngày…- Trắng đen là đặc tính tự nhiên, không thể cho cái này hơn cái kia.- Đối với người hiểu biết Đạo Đức, phân biệt tốt xấu đều sai.

KHỔNG TỬ THẤY RỒNG:

Sau khi đàm đạo với Lão Tử, Khổng Tử trở về nhà không nói 3 ngày.- Sư phụ, khi đi thăm Lão Tử, sư phụ đã chỉ giáo ông ta thế nào?- Um, um, um…Ta thấy rồng, bay theo âm dương, vận chuyển không ngừng, ta há hốc miệng không thốt thành lời, làm sao ta có thể chỉ giáo ông ta? Khổng Tử hiểu rằng Lão Tử thấu hiểu thiên nhiên, và vận chuyển không ngừng của Vũ trụ. Đứng trước một người một người thấu hiểu đậo lý, lời nói không cần và không cần thiết.

ĐỪNG ĐEO VÒNG CHO MŨI TRÂU:

Một hôm chúa tể sông Hoàng hỏi Thần biển:- Cái gì là thiên nhiên và cái gì là nhân tạo?- Bốn chân của ngựa và bò là thiên nhiên.- Yên ngựa… Và khoen của trâu là nhân tạo… Kiến thức con người, nhân nghĩa và lề luật tất cả nghịch với thiên nhiên, giống hệt yên ngựa và khoen mũi của trâu.

GIÓ VÀ RA RẮN.

Chim khêu là loài một giò, con rết là loại có trăm chân.-Thật tiện cho tôi đi đứng một giò, còn anh sao lắm chân thế?- Đi tự nhiên như thế này, không khó khăn chi cả. Rết thấy rắn bò lại hỏi:- Tại sao không có chân mà anh đi mau hơn tôi có quá nhiều chân.- Tôi di chuyển theo cấu trúc tự nhiên, tôi đâu cần chân làm gì?- Ngay như gió không có thân xác, vậy mà di chuyển tới lui dễ dàng, nhặm lẹ. Gió nói:- Tối có thể di chuyển mau, nhưng mắt còn mau hơn.- Khi mắt nhìn thấy gì thì nó đã ở đó rồi. Mắt lại nói: Trí óc còn lẹ hơn, khi nó nghĩ gì thì nó đã ở đó rồi. Và gió có thể thổi gẫy cây và đổ nhà. Mỗi vật đều có tác riêng, không phân biệt to nhỏ, tốt xấu.

KẺ SĨ CAN ĐẢM:

Một hôm Khổng Tử cùng với đệ tử qua nước Chu, bị quân lính chặn lại vì tình nghi chống lại Hạng Vũ.- Đừng sợ, ngồi yên tiếp tục nghe ta giảng.- Sư phụ không sợ sao?- Dĩ nhiên có, nhưng nghe này…- Đừng sợ nước, vì rồng cũng là ngư phủ can đảm.- Thợ săn không sợ hổ dữ.- Lính không sợ chiến trường.- Trong đời ta gặp cả thành công lẫn thất bại, do vậy đừng sợ phải đương đầu với nghịch cảnh. Đây là sự can đảm của kẻ sĩ. Sau khi cấp chỉ huy đến xin lỗi, quân sĩ giải tán- Xin lỗi, chúng tôi tưởng quí vị là hạng vô. Cuộc sống có lúc thịnh suy, khi gặp vận hạn, hãy kiên nhẫn chờ thời cơ mới đến.

CÓC NẰM ĐÁY GIẾNG:

Một hôm con rùa từ biển lên, đi qua ngang cái giếng nước có một con cóc gọi- Mời ngồi chơi.- Anh sống ở đây sao?- Vâng, và sống như vua nơi đây.- Khi tôi nhảy xuống nước, nước nâng tôi nổi…- Khi tôi lặn, tôi thoải mái để bùn mơn trớn chân tôi…- Và buổi chiều, nếu thích tôi lên đây chơi ( thành giếng).- Tôi nằm dài trên miệng giếng ngủ mơ màng.- Buổi sáng tôi nhảy xuống giếng chơi vui suốt ngày.- Tôi cũng thấy của và tôm tép trong giếng, nhưng tôi nghĩ chúng không vui như tôi.- Này, vô xem nha.- Giếng nhỏ quá, tôi vô không lọt.- Giếng rộng lắm mà, sao anh bảo nhỏ?- Nếu anh muốn nói lớn, nói tới biển đông.- Biển đông rộng hàng ngàn dặm, và sâu đến hàng ngàn thước.- Anh biết không, ngày xưa mưa 9 năm liền, biển vẫn đủ sức chứa nước.- Và có lần hạn hán 7 năm liền, nhưng biển đông không cạn nước.- Biển lớn thật đấy.- Láo khoét. Con cóc sống giới hạn trong giếng, cũng giống như sự hiểu biết hữu hạn của con người. Kiến thức làm ta vĩ đại, nhưng trí thức cũng đồng thời làm ta nhỏ bé; vì thế ta phải vượt qua trí thức hạn hẹp.

HỌC CÁCH ĐI Ở HÀM DƯƠNG:

Có lần cậu bé Tử Yên tới Hàm Dương học cách đi của cư dân nơi đây. Nhưng chẳng những cậu không học được cách đi ở đó, cậu quên mất tất cả cách đi.- A! Ta không thể đi. Vì thế cậu phải bò. Từ xưa, con người học hỏi tìm tòi về thiên nhiên, nhưng rồi bị lạc vào rừng sách không biết cách ra.

QUẠ ĂN CHUỘT CHẾT:

Một hôm, Trang Tử đi thăm Huệ Tử là thừa tướng nước Lương.- Trang Tử nói đến thăm bạn kỳ thật hắn muốn tiếm vị ngươi đó.- Nếu ông đến đây với ý đồ đó, hãy về đi.- Huệ Tử ông có bao giờ nghe về chim đại bàng từ biển nam bay về biển bắc, khi nghỉ dọc đường chọn cây quí mà đậu. Và chỉ ăn mằng tre. Và chỉ uống nước suối trong. Ngày kia, đại bàng thấy con quạ ăn chuột chết. Thấy đại bàng, nó tưởng đại bàng đến ăn ké, nó ngẩng đầu cất tiếng la lớn…- Có phải ông sắp cư xử như thế với tôi không? Người quyền thế có thể cần giao dịch, nhưng dưới con mắt của người khôn cho rằng không đáng lui tới thường xuyên.

NGƯƠI KHÔNG PHẢI CÁ:

- Trông kìa, cá bơi thật vui vẻ dưới sông…- Ngươi không phải là cá, làm sao biết chúng vui?- Ngươi không phải là ta, sao biết ta không biết?- Dĩ nhiên ta không phải ngươi, và không biết ngươi nghĩ gì, nhưng ta biết ngươi không phải là cá, có thể ngươ cũng không biết cá vui hay không?- Khi ngươi hỏi ta, sao ta biết cá vui hay không, là ngươi đã biết ta biết cá vui rồi. Huệ Tử ráng dùng Tam đoạn luận để đi đến kết luận nhưng không để ý ông đã đi vòng vo.

TRANG TƯ MƠ THẤY BỘ XƯƠNG:

Trên đường qua nước Chu, Trang Tử gặp bộ xương người.- Có phải người chết vì bịnh, hay chết vì bom đạn trong thời tao loạn, hay đã tự tử vì hổ người bởi đã làm điều xấu xa.- Hay đã chết vì đói, hoặc vì nằm chết già nơi đây. Đêm đến Trang Tử gối đầu lên sọ người mà ngủ.- Nghe ông nói hôm nay, ông giống như bộ thật sự.- Những điều ông nói chỉ liên đến sự sống, nhưng khi chết chẳng ăn nhằm gì.- Không còn vua, không thủ tướng, và không người già, tất cả vui trong một thế giới.- Cái thế giớ đó vui thú hơn cả vua chúa.- Ta không tin, vui đến thế, để ta qua thế giới bên kia mang ngươi về đây.- Ta sẽ mang cha mẹ, vợ con ngươi trở lại và gởi người về quê.- Đừng, xin đừng. Sinh tư là lẽ thường, cái gì đến sau cái chết? Nghĩ về điều đó, không nên quá coi trọng sinh tử.

CHIM BIỂN KHÔNG THÍCH ÂM NHẠC:

Có con chim biển thật lớn tên Giang Điểu trông đẹp tựa chim đại bàng vậy.- Giang Điểu ở quan ngoại.- Cho người bắt về thành ngay.- Để mừng Giang Điểu, hãy chuẩn bị liên hoan yến tiệc.- Đây là giàn nhạc hay nhất của nước ta.- Còn tất cả ( thức ăn ) đây phần ngươi, mổ ăn đi.- Uống đi, rượu ngon. Sau ba ngày không ăn uống, Giang Điểu lăn ra chết tốt.- Tại sao ngươi không ăn, ta cho ngươi toàn thứ hảo hạng. Cài mà ta tin rằng âm nhạc hay nhất, đồ ăn ngon nhất, chưa hẳn là cần thiết cho mọi người, nuôi chim tuỳ cái chim thích. Câu: “ Làm cho người khác như ta muốn người khác làm cho mình”… Thật sự không bao giờ áp dụng được.

Hành khách say rượu:

Một hôm trên đường về nhà, một hành khách say rượu té rớt khỏi xe bị thương nặng nhưng không chết. Trong lúc đó, hắn chẳng hề biết hắn đã đi xe và bị té xe. Vì vậy hắn đã chẳng hề biết sợ lần té xe suýt chết đó. Say rượu cũng giống như tự quên, nếu ta có thể tự quên thì ta sẽ được che chở bởi thiên nhiên.

ĐỒNG HÀNH VỚI ĐẠO:

Ngày kia trên đường tới nhà bạn, Trang Tử đi ngang qua chân núi có nhiều cây cổ thụ nhưng các tiều phu gần đó chẳng màng đến chúng.- Sao các ông không đốn chúng.- Tại chúng lớn quá cỡ, không dùng được. Trang Tử xuống núi ghé nhà bạn.- Đi giết ngỗng làm cơm.- Sư phụ, mình có 2 con, một con có thể kêu, con kia không, mình giết con nào?- Giết con không kêu.- Dạ.- Tôi thiệt không hiểu ( Cây vô dụng, ngỗng vô dụng ).- Cây đại thụ có thể sống lâu bởi vô dụng, còn con ngỗng bị giết vì nó vô dụng, đó là chỗ chúng hành xử sao?- Tôi ráng sống giữa Hữu dụng và Vô dụng, nhưng khó khăn không thể tránh.- Do đó chúng phải thích ứng, bất kể Hữu dụng hay Vô dụng.- Vô dụng và Hữu dụng chỉ là tương đối kẻ thức thời nên biết điều đó. Cách duy nhất để hành xử là theo luật tự nhiên.

Nước ngọt hết trước:

Trong khi Khổng Tử đang du thuyết cho các quan chức trong nước bỗng bị kẹt giữa hai đội quân của Yên và Tề, bị đói và khát trong 7 ngày liền. Sau đó có người quí tộc tên Trương tiến tới chỗ Khổng Tử:- Dường như có người bị thương.- Dạ.- Có phải tôi đã nói ông biết làm sao tránh nguy hiểm? Có loài chim biển bắc tên Hải Âu thoạt nhìn nó chẳng có tài bay, luôn cần con đầu đàn. Khi nghỉ, nó xen vào giữa bầy. Khi ăn, nó không giành nên không bị con khác mổ.- Cây thẳng bị chặt trước, nước ngọt hết trước.- Ông, ngược lại đã dùng cái nhặm lẹ của mình chỉ trích lỗi người khác vì thế họ không chấp nhận ông. Khổng Tử cảm nghiệm ra điều này vô rừng qui ẩn học Đạo. Đừng khoe tài năng kẻo người khác tìm cách tránh ta.

ĐINH HUÊ BỎ CỦA:

Khi nước Sở bị xấm lăng.- Nước ta bị chiếm, chạy thôi.- Bỏ đi, chạy mau. Đinh Huê vội dắt con chạy, bỏ lại của cải. Trong thời tao loạn, châu báu thường mang hoạ, tránh hiểm nguy là ưu tiên tối thượng.

CHIM ÉN LÀM TỔ DƯỚI MÁI NHÀ:

Chim én là một loại chim khôn, khi nó biết chỗ không nên tới, nó không tới. Khi đánh rớt mồi trong lúc bay, không đáp xuống lượm lên. Tuy sợ người, nhưng chúng không sợ làm tổ dưới mái nhà.- Đây là cách khôn ngoan của một người sống giữa đời.- Phần lớn các loài chim sợ người nên làm tổ trên núi hay trên cây cao để tránh bị hại. Nhưng chim én thì khác, chúng sống giữa kẻ chúng sợ. Hãy nghĩ về cách chim én tránh bị hại ra sao.

Bọ ngựa bắt ve:

- Sư phụ, tại sao kẻ sĩ trông buồn vậy?- Con người thường quên sự nguy hiểm đưa đến từ tham vọng. Hôm qua khi tôi dạo trong rừng hạt dẻ, bị con chim bay chạm vào đầu:- Ta sẽ bắn mi. Bỗng thấy con ve trên cành cây nó tưởng an toàn… Nào ngờ ngay phía sau con bọ ngựa sắp chộp bắt. Trong khi con bọ ngựa mải mê bắt con ve nó đâu ngờ con chim sắp bắt nó.- Con đang nghĩ gì?( ông bố đi đâu về tức giận hỏi tôi).- Trong khi mải mê bắn chim, con quên mất nguy hiểm cho bản thân, và bị đổ vạ ăn cắp hạt dẻ, kỳ lạ chưa.- Khi theo đuổi cao vọng, ta thường nhìn tới trước và quên mất nguy hiểm rình ta phía sau lưng.

Hán không bao giờ bị tiêu diệt:

Mấy viên chức nhà Hán bàn bạc với vua nhà Chu khi …- Hán bị xâm lăng.- Cám ơn đủ rồi…- Dạ.- Ngài không quan tâm?- Tại sao tôi phải lo chứ, sự tồn vong của Hán không bao giờ đảm bảo sự tồn vong của tôi.- Và nước của ngài cũng sẽ như thế, nên ta có thể nói rằng Hán không bao giờ bị diệt và Chu không bao giờ tồn vong. Điều quan trọng là sự tồn tại của con người, cớ gì phải lo ngại về sự thay đổi quanh ta?

KIẾN THỨC VÀ ĐẠO:

“Kiến thức” và  “Không thể nói”.- Xin lỗi, ông có thể nói cho biết cách nào để hiểu về Đạo, làm sao sống yên bình trong Đạo và làm thế nào theo Đạo?- Tôi không thể nói, tôi không thể nói và tôi không thể nói. Không kiếm được câu trả lời nhà trí thức đi về phía nam sông Hoàng nơi ông ta trầm mặc.- Xin lỗi, trả lời tôi thêm vài câu?.- Cho biết cách nào để hiểu về Đạo, làm sao sống yên bình trong Đạo và làm thế nào theo Đạo?Phi lý nói:- Tôi biết và tôi muốn nói cho ông… nhưng phức tạp quá, tôi quên không biết phải nói gì. Vẫn chưa tìm được câu trả lời nên trí thức đi gặp Hoàng thượng.- Đừng suy tư thái quá ta sẽ hiểu Đạo, đừng hành động máy móc, ta sẽ yên bình trong Đạo, đừng cố gắng thái quá, ta sẽ tìm thấy Đạo.- Vâng bây giờ tôi hiểu điều này, nhưng tại không thể nói và phi lý không biết?- ồ! Đó là ông lầm lẫn. Họ rất hiểu! Không thể nói là một với Đạo, và Phi lý không xa mấy, ông và tôi con đường trước mặt còn dài. Gã tên Trí thức là thế giới hiện thực, trong khi trừu tượng là sinh ngữ Vô ngôn, và Không thể nói là thế giới Vô trí, Vô ngôn. Đạo không cảm nhận bằng lời nói suông.

HOÀNG ĐẾ VÀ CHÚ CHĂN TRÂU:

Trên đường đến thăm nhà hiền triết Tạ Quang trên núi Thiếu Sơn. Hoàng đế và toán tuỳ tùng lạc đường, gặp chú bé chăn trâu.- Xin hỏi, chú có biết núi Thiên Sơn đâu không?- Dạ biết.- Có biết chỗ ở của Tạ Quang không?- Lạ thật, chú không những biết Thiên Sơn mà cả Tạ Quang nữa.- Vởy ngài có biết ngài làm vua thiên hạ không?- Dạ biết.- Làm vua cũng giống như chăn ngựa, tránh không để bất cứ gì hại tới chúng.- Cám ơn thật nhiều, nhà ngươi thật thông minh. Nghe chú mục đồng nói thế, hoàng đế nhận ra rằng họ đã tới nơi và gã mục đồng kia là ai.

NGƯỜI THỢ NỀ VÀ NGƯỜI DƯƠNG THÀNH:

Sau khi Huệ Tử mất, Trang Tử thương tiếc vô vàn. Có lần người thợ trong Dương thành sửa dinh thự một mẩu đá rớt trên mũi hắn.- Làm ơn chặt mẩu đá trên mũi dùm tôi.- Sẵn sàng chưa.- Sẵn sàng. Người Dương thành đứng yên trong nhát búa phang tới cắt bay mẩu đá khỏi mũi hắn.- Hoàn hảo. Vua nước Sở nghe nói rất đỗi tò mò.- Cho triệu tên thợ tạc đá vào.- Trẫm bỏ lên mũi trẫm mẩu đá để coi ngươi chặt thử cho trẫm xem.- Dạ thần thường làm trò đó, nhưng bây giờ bạn của thần chết rồi.- Xin lỗi. Khi Huệ Tử chết đồng nghiệp của tại hạ cũng chết. Ta chẳng còn ai để tranh  luận. Đối thủ là đối nghịch và tranh đua, nhưng không có đối thủ thì quạnh quẽ cô đơn.

HAI NƯỚC TRÊN ANTEN CỦA CON SÊN:

Chẳng bao lâu hai nước Chu và Man từng là đồng minh trở nên ngờ vực nhau.- Tấn công.- Xin bệ hạ hãy khoan, hẳn là bệ hạ đã nghe loài côn trùng nhỏ gọi sên…- Hiển nhiên.- Xưa có người tên Chu lập quốc trên Anten của con sên, lại có người tên Man lập quốc trên anten bên kia của con sên, hai bên can qua liên tục, khiến nhiều người bị giết.- Chuyện kỳ cục, ngươi lấy ở đâu?- Bệ hạ đã có giang sơn rộng lớn rồi?- Không chưa đủ.- Xưa có nước Yên và trong nước Yên có thành Lương có cung vua, vậy có gì khác biệt giữa nước Chu và Man trên hai anten của con sên không?. Đối với người hiểu Đạo, những kẻ tranh danh lãnh thổ hay vật gì giống như hai nước can qua trên anten của con sên vậy.

TRANG TỬ VAY GẠO:

Trang Tử có lần đến một gia đình rất nghèo vay gạo.- Làm ơn cho tôi vay ít vàng có việc cần.- Hiện tôi không có tiền, chờ tôi thâu thuế xong, sẽ cho ông mượn ba trăm lạng vàng, được chứ?- Trên đường qua đây có chuyện thật nực cười, tôi nghe như có ai gọi tôi, quay lại hoá ra con cá chết vì khát nước.- Làm ơn cho tôi nước.- Được, hiện ta không có nhưng để ta xin vua đổi hướng sông Tây Ngạn để nó đưa ngươi ra biển.- Được ngày mai tìm tôi trên sạp bán cá khô ngoài chợ. Lớn hơn chưa hẳn là tốt hơn, thứ gì cũng nên vừa phải, đôi khi nhiều quá cũng giống như chưa đủ.

Kẻ thông minh thấy cái người không thấy, còn người thông thái hiểu biết nhưng kín đáo.

THÔNG DỤNG:

Có lần Trang Tử thuết hàng giờ với Huệ tử về Đạo…- Vô lý, không hợp lý, điều ông nói đều Vô dụng. Được, bây giờ ông đã hiểu cái Vô dụng, ta hãy bàn tới cái Hữu dụng.- Thí dụ bây giờ ông chỉ cần chút xíu đất để đứng phải không?- Và nếu chúng ta vất bỏ chỗ còn lại… và ông không còn chỗ đứng thì sao?...- Thế nào , nó Hữu dụng chứ? Vì thế cái hữu dụng được xây trên nên tảng cái vô dụng, vậy nếu không có cái vô dụng thì chẳng có cái hữu dụng.

ĐƯỢC CÁ QUÊN LỜ:

Có người bắt cá bằng cái lờ, khi đã bắt được cá thì bỏ lờ… Cũng giống như việc bẫy thỏ, khi bắt được thỏ thì bỏ bẫy… Ngôn từ cũng vậy, khi được ý thì quên lời. Ngôn từ chỉ là phương tiện dùng chuyển đạt ý, chứ không phải cùng đích. Không nên chú trọng thái quá đến những điều ước lệ, lỗi thời trong sách vở.

ĐẶNG VŨ HỌC ĐẠO:

Một ngày kia, Đặng Vũ và Lão Tử gặp nhau giữa đàng…- Thưa sư phụ Lão Tử, tôi muốn học Đạo.- Tôi nghĩ các hạ đã biết nhiều rồi, trông các hạ khinh thị mọi người.- Có lẽ chúng ta ở chung cùng quán trọ để sư phụ có thể chỉ giáo tôi.- Được, để xem. Khi Đặng Vũ vừa bước vào quán trọ, hắn hạch sách đủ thứ khiến mọi người sợ và ngồi xa hắn… Khi rời quán hắn thay đổi hoàn toàn, hắn trở nên tử tế và lịch lãm, người ta không còn sợ hắn nữa, có người còn cả gan chọc ghẹo hắn. Người muốn vào Đạo, trước hết phải vứt bỏ bản ngã, nếu đầu óc ta chứa đầy cái tôi, thì còn đâu chỗ chứa Đạo?

BỘ ĐỒ TRẮNG CỦA ĐÔNG DI:

Trần Xuân và Đông Di học về Khổng Tử. Trần Xuân rất nghèo, nhà ở dột nát và tường lủng lỗ lớn nhưng chẳng quan tâm. Đông Di có tài hùng biện nên có chức phận cao, một hôm ghé thăm Trần Xuân.- Bẩm quan, đường hẹp xe ngựa qua không được. Đông Di phải đi bộ vào nhà của Trần Xuân,- Anh vẫn còn nghèo quá?- Phải.- Sức khoẻ anh ra sao?- Vẫn bình thường, cảm ơn.- Vẫn biết cơ hàn thì không phải là nhất, nhưng tôi vẫn nghĩ tốt hơn là bỏ cả lý tưởng đổi lấy công danh, lợi lộc.- Tốt hơn kẻ ăn mặc trong trắng nhưng lại là người lừa dối, giả nhân giả nghĩa. Người ăn mặc sang trọng chưa hẳn là người trong sạch, nghèo tốt hơn là kẻ giầu làm ăn bất chính.

KẺ CƯỚP NÓI CHUYỆN:

Lưu Tri Dĩ là bạn của Khổng Tử và có người em tên Luỹ một tên thảo khấu, có đến chín ngàn đệ tử hoành hành khắp chốn.- Cha mẹ nên dậy con cái và anh nên dậy bảo em… ông có người em hư hỏng chẳng hay ông có cách can ngăn?- Tôi biết làm gì đây?- có người chẳng biết nghe lời.- Được, để tôi thử…- Coi, em tôi nóng tính nếu ông gặp nó, không biết chuyện gì sẽ xẩy ra… Khổng Tử bất chấp lời cảnh cáo đã tới gặp Sĩ và bọn cướp.- Đại ca có Khổng Tử tới gặp.- Tới bảo ông ấy ngưng can dự việc phải quấy.- Nói ông ngưng lừa dối dân chúng bằng lời đạo đức giả để vụ lợi, bảo ông mau xuống núi kẻo ta bắt.- Nếu không ta sẽ dùng tim gan của ông ấy cho bữa ăn trưa.- Dạ.- Đại ca nói không muốn gặp ngài.- Cảm phiền nói dùm tôi lần nữa được không?- Tôi là bạn của anh trại chủ, Lưu Tri Dĩ, tôi nghe danh trại chủ nên vượt đường xa ghé thăm.- Trại chủ, hãy cho tôi vài phút.- Nếu có điều gì muốn nói, nói đi, nếu tôi nghe không vừa lòng, đừng hòng xuống núi…- Có ba điều đức tính mỗi đại nhân nên có: Một, cao lớn, đẹp trai và dũng mãnh. Hai, khôn ngoan, thông thái. Ba, nên là nhà lãnh đạo dũng cảm và tự tin...- Ngài có những đức tính này không, thưa trại chủ, hay chỉ là tướng cướp?- Nếu trại chủ muốn, để tôi tâu với chúa thượng và cả hoàng gia phong trại chủ công hàm khanh tướng và bảo đảm cho trại chủ.- Kẻ nào bị mua chuộc bởi tiền tài danh vọng là kẻ tầm thường.- Ông định mua chuộc tôi bằng tiền tài danh vọng ư?- Dù ông cho tôi thành phố lớn cũng không lớn bằng cả giang san.- Nghiêu Thuấn một thời làm vua cả nước nhưng hậu duệ của họ ngày nay đâu?, còn hậu duệ của nhà Đường, nhà Hán nữa… nay họ đâu?- Vâng tôi là thảo khấu giết người nhưng giới hạn, nhưng sẽ tệ hại hơn nếu tôi giết vì danh nghĩa người quyền quý và công chính.- Thôi, hãy mang những lời khuyến dụ về và xuống núi, tôi thèm nghe đâu, Đạo nghĩa giả.- Trời, trời, trời…- Em tôi không làm hại ông chứ?- Tôi dám vuốt râu cọp và suýt bị cọp ăn thịt. Cách hành xử của Khổng Tử thật ra ông không tự gian dối, nhưng đã có không biết bao người đã lạm dụng danh nghĩa danh gia vọng tộc, công chính và luật pháp để làm chuyện xấu xa.

TRANG TỬ BA KIẾM:

Vua nước sở là người thích đấu kiếm nên rất nhiềm kiếm khách tìm đến nước Sở, có đến ba ngàn kiếm khách trong dinh. Ngày qua ngày, trong ba năm nhà vua bắt họ giao đấu khiến họ bị thương hoặc tử vong vô số. Song song với việc vua mải mê đấu kiếm, các lãnh chúa tự tung tự tác. Thái tử nghe chuyện rất đỗi lo lắng.- Có một người có thể can vua.- Ai?- Trang Tử.- Tại hạ nghe thái tử điện hạ lo lắng về việc đấu kiếm.- Vâng.- Cho tôi tham kiến bệ hạ.- Tôi đồng ý, nhưng vua không tiếp ại ngoài kiếm khách.- Không sao, tôi biết múa kiếm chút đỉnh.- Nhà vua chỉ thích những kẻ hung hăng tóc tai bờm xờm giọng khàn đục, ông phải hạng đó.- Hãy mạng cho tôi áo giáp, chuyện khác tôi lo.- Sẽ bị tôi hạ thủ trước 10 bước.- Ông có giỏi về kiếm không?- Tôi rất giỏi, chưa có ai trong vòng ngàn dặm có thể địch lại tôi, họ đều bị đánh bại.- Ngươi vô địch sao?- Đúng vậy, người giỏi kiếm trước hết biết dụ địch.- Và khi địch tấn công, ta phản công bằng kiếm cùng thân người cùng lúc, nhanh như gió khiến địch té lăn chiêng.- Nếu bệ hạ muốn xem cho hạ thần thử.- Không ngươi hãy chờ 7 ngày nữa. Những ngày tiếp đó, vua mở trận đấu kiếm để tuyển người đấu với Trang Tử, nhiều người chết hoặc bị thương trong trận đấu. Sau hết, có sáu người được chọn để đấu kiếm với Trang Tử.- Hôm nay trẫm muốn thưởng thức tài nghệ của các hạ.- Hạ thần đang chờ dịp này.- Các hạ muốn kiếm dài cỡ nào?- Ô! Không thành vấn đề, thần có ba cây kiếm dài ngắn khác nhau.- Đế vương kiếm, công khanh kiếm, dân giả kiếm, hoàng thượng có thể chọn lựa.- Đế vương kiếm là gì?- Mũi kiếm được làm bằng đá Tràng An, sống kiếm bằng núi Quảng, Yên và Tề dùng làm lưỡi kiếm, Chu và Sở dùng làm chắn tay, cán làm bằng Hán và Tần, giây đeo làm bằng vịnh Đông Hải, và bao kiếm được bao bọc bởi bốn nước.- Tuốt kiếm ra khỏi vỏ, kiếm bay lên trời, nó có thể xuyên sơn phá thạch, thế gọi là Đế vương kiếm.- Và Công hầu kiếm.- Và công hầu kiếm thì khác, cán của nó bằng kể có tài năng, cái cán làm bằng kẻ trung, kẻ có đức là lưỡi, kẻ công chính là sống kiếm, mũi kiếm bằng kẻ trí tuệ và can đảm.- Tuốt kiếm ra khỏi vỏ Đông Tây, Nam Bắc ổn định.- Và Kiếm thường.- Kiếm thường có tóc bù xù, giọng khàn, mắt cá chết.- Khi tuốt kiếm ra, nó tìm chặt cổ và chọc lủng tim đối thủ, kẻ dùng kiếm loại này chẳng khác chi gà chọi, khi chết là hết.- Tiếc thay, bệ hạ thích loại kiếm thường này.- Cuộc đấu kiếm xong, các khanh có thể ra về.- Tâu bệ hạ, cuộc đấu kiếm xong rồi, thần xin cáo lui.- Dĩ nhiên.- Cảm ơn Trang Tử đã chỉ giáo.- Vua đã lui vô cung điện suốt ba tháng, sau đó không hề đề đến việc đấu kiếm nữa. Có nhiều điều nguy hiểm bên cạnh việc đấu kiếm như… tiền tài, danh vọng và quyền thế.

Khổng Tử trong khu rừng chàm:

Một hôm Khổng Tử và đồ đệ của ngài nghỉ ngơi bên khu rừng chàm, Khổng Tử ngồi đàn hát trên một tảng đá, còn các đệ tử ngồi học kế bên.- Ai hát đó vây?- Ông là người nước Lỗ.- Ông tên gì?.- Ông là Khổng Tử.- Và ông làm gì vậy.- Ngài dậy dân về Đạo làm người, cái học của ông cống hiến cho dân và xứ sở hoà bình và tôn tri, trật tự.- Vởy ông là học si?- Không phải.- Ông là thủ tướng hả?- Không phải.- Tội nghiệp ông ấy làm việc quá sức, nếu ông ấy tiếp tục làm như thế sẽ càng ngày càng xa Đạo!- Bài học từ gã ngư, gã ngư phủ thật khôn.- Chờ chút.- Dạ.- Nghe điều ông vừa nói, tôi muốn biết thêm.- Hãy nhìn xem những điều sau bàn: Làm điều không nên làm gọi là Gian Dối. Nói điều mà người chẳng muốn nghe gọi là Kiêu Căng. Gây bất hoà gọi là Chia Rẽ. Theo người mà không cần đắn đo gọi là Mù Quáng. Khinh chê, miệt thị kẻ khác gọi là Kỳ Thị. Chỉ nói điều mà người thích nghe để trục lợi gọi là Nịnh Bợ. Thích nói về chuyện người khác gọi là Noi Hành. Hành xử không phân biệt thị phi gọi là Hồ Đồ.- Những điều vừa kể tác hại thật không tốt cho nhân phẩm, người khôn không màng đến.- Còn điều kia là gì?- Tham lam danh lợi gọi là Tham Vọng.- Hành động cố chấp bất kể đến người khác gọi là Ích Kỷ.- Biết lỗi không sửa, nghe nhưng không theo kẻ khác gọi là Ngoan Cố.- Ai thuận với mình cho là phải, còn ai trái với mình thì cho là sai gọi là Độc Tài.- Thật khó mà bàn về Đạo với những người có những điều kể trên. Khổng Tử mặt tái xanh vái bái vái trước khi bỏ đi. Kẻ trí thức chân chính không nên để bị mặc cảm bởi những điều như gian dối, kiêu căng, nịnh bợ, mù quáng, kỳ thị, chia rẽ, hành xử hồ đồ, hoặc dính dáng đến tham vọng, ích kỷ, độc tài, ngoan cố.

GÃ CHẠY TRỐN DẤU CHÂN MÌNH:

Có một gã ghét dấu chân của chính mình. Để trốn dấu chân của mình, hắn chạy thật nhanh. Càng chạy nhanh chừng nào, hắn để lại nhiều dấu chân chừng nấy… cuối cùng, hắn chạy tới chết…- Khùng.

GÃ GHÉT CÁI BÓNG CỦA HẮN:

Xưa có gã ghét cái bóng của mình, khi hắn đi bỗng thấy cái bóng ngay sau lưng hắn, nên hắn bắt đầu đi cành lúc càng nhanh. Nhưng càng chạy nhanh, cái bóng càng gần, thế nên hắn chạy như điên cho tới chết.

Người không thấu hiểu Đạo cũng giống kẻ ghét cái bóng của mình. Thật ra rất dễ loại bỏ cái bóng của mình…chỉ việc ngồi nghỉ dưới tàng cây và cái bóng của ta tự nhiên biến mất. Nhưng nhiều người cứ chạy loạn cả lên, không chịu ngồi nghỉ ngơi.

Thiền minh hoạ

Lời Dịch Giả

Sau khi chuyển dịch cuốn “Lóo Tử Thỡ Thầm”, tụi đó tự in ra một số cuốn để tặng bạn be,ø và đồng thời bỏ lên trang nhà để cho bạn bè xa gần cùng chia sẻ lời hay ý đẹp của người xưa, nhất là những tư tưởng của những triết gia nổi tiếng Đông -Phương như: Khổng - Tử, Mạnh -Tử và Lóo –Tử v.v.

Bởi làm việc này, chỉ có tính cách giải trí, không ngờ được bạn bè ưa thích. Với sự cổ vừ của bạn bố, tụi nảy sinh ý định dịch thêm cuốn Thiền Minh Họa, Zen Speaks, cùng  một tác giả Tsai Chih Chung, mong được chia sẻ với những ai cùng sở thích, và cũng để giới thiệu đến độc giả cuốn sách này. Vậy trước hết, tôi xin sơ lược qua vài dũng về tỏc giả cũng như xuất xứ của cuốn sách.

Ông Tstai Chih Chung, người Đài Loan, là một chuyên gia vẽ hí họa rất thành công và nổi tiếng ở Đài Loan và cả vùng Đông-Á. Một số sách của ông đó được dùng để giảng dạy trong các trường công tại Nhật Bổn. Ông Chung bắt đầu nghề nghiệp của ông rất sớm ở tuổi 16, đó xuất bản khoảng trờn 200 cuốn sỏch hớ họa. Sau đó ông đó bước vào lónh vực vẽ hoạt họa và đó lónh nhận giải thưởng rất lớn của Trung Hoa, tương đương với giải Oscar, trong khi đó, ông vẫn tiếp tục  bành trướng công ty vẽ hoạt họa lớn nhất ở Đài Loan. Trong khi nhàn rỗi, ông quay sang vẽ hí họa để đăng tải trên các nhật báo ở Đài - Loan. 

Nhân chuyến bay sang Nhật Bổn, ông Chung bắt đầu vẽ phác họa từ cuốn sách ông đang đọc, cuốn sách được viết có trên hai ngàn năm trước đây, bởi một Đạo sĩ nổi tiếng tên Trang Tử, việc làm này đó phỏt sinh một loại sỏch mới trong trong tủ sỏch thế giới-một loạt sách hí họa được áp dụng để khai triển một chủ đề. Mục tiêu của ôâng không để làm giản dị, mà làđể làm sáng tỏ. Sinh ngữ cổ Trung Hoa rất khó hiểu đối với người đương thời, vỡ thế, để trợ giúp cho việc minh họa, ông đó biờn soạn cỏch viết mới cho Hoa Ngữ hiện đại. Ngay khi cuốn Trang Tử Thỡ Thầm (Zhuangzi Speaks) phỏt hành ở Đài Loan,  vị  giám đốc công ty xuất bản đó nhận ra cuốn sỏch cú tầm vúc quốc tế. Hiện nay ụng Chung đó bỏ ngành hoạt họa để chuyển qua vẽ hí họa cho các nhật báo.

Thiền đó được mô tả như một môn phái lớn, không có tính cách tôn giáo, ở thế giới ngày nay. Phát nguồn từ Trung Hoa, Thiền đó hũa nhập vào đời sống truyền thống cho những người có tinh thần phóng khoáng hiểu đời là mọi sự và là hư vô.

Zen Speaks, Thiền Minh Họa, là một minh họa tập hợp từ nhiều môn phái Thiền tông của Phật Giáo cổ xưa, được góp nhặt và phổ thông hóa bởi cuốn sách bán chạy hàng đầu của ông Tstai Chih Chung, gồm trên trăm chuyện lý thú kể cho độc giả ngày nay, hàm chứa tinh thần và triết lý của Thiền, nội dung của nó, hé mở cho thấy cái vẻ đẹp phong phú của tinh thần và sự thanh thản an nhiên tự tại, và đồng thời cũng đề cập đếùn lối sống bỡnh dị và đời sống thường nhật.

Qua nhiều thế kỷ, Thiền đó ăn sâu trong tư tưởng của người Trung Hoa, phản ảnh trong nghệ thuật và văn hóa, tôn giáo, và nếp sống hàng ngày.

Ông Tstai Chih Chung đó làm sỏng tỏ điểm chủ yếu của triết lý Thiền một cách sinh động cho đời sống trong cách giải trí này và thành cụng mỹ món trong việc kể lại cõu chuyện về Thiền cổ tớch.

Nhật Vũ 

Arlington, Texas 

Jan.12-2001 

Thiền là: Không dựa vào văn tự. Một sự tâm truyền đặc biệt riêng rẽ từ kinh kệ. Hướng trực chỉ nơi tâm thức ta. Thấy rõ bản ngã ta, trở thành Phật.

THIỀN LÀ GÌ?

Một hôm cá nhỏ hỏi cá lớn:- Tôi thường nghe người ta gọi cái gì là biển, vậy biển là gì?- Biển là cái bao quanh ta.- Nhưng sao tôi không thấy?- Biển ở trong ta và xung quanh ta, ta sinh trong biển và ta sẽ chết trong biển, biển bọc ta như da bọc thân xác ta vậy. Khổng Tử nói: “ Cá quên rằng chung sống trong hồ; con người quên rằng ta sống trong thế giới ảo diệu của Đạo”. Con người sống trong biển Thiền, tuy vậy họ không biết Thiền là gì, thế ta có muốn biết Thiền là gì không?

SỰ GIÁC NGỘ CỦA SÓNG:

- Ồ, sao tôi khổ thế! Làn sóng kia lớn quá, mà tôi lại nhỏ xíu, có làn thật yên tĩnh mà tôi lại ồn quá.- Đó tại bởi anh không thấy bộ mặt nguyên thuỷ của anh nên anh đau khổ.- Tôi không phải là sóng, vậy tôi là gì?- Sóng chỉ là hình tạm thời của anh, thực ra anh là nước.- Nước?- Khi ta cảm nhận ra rằng căn tính chính của ta là nước, ta sẽ không bị bối rối thấy mình là sóng, và sự đau khổ của ta sẽ biến đi.- Ồ, tôi đã hiểu!, tôi là anh và anh là tôi, cả hai ta đều là phần của một đại thể. Con người ích kỷ nghĩ rằng họ chỉ thuộc về họ, vì thế họ đã so sánh họ với kẻ khác, và rồi họ nghĩ rằng họ đau khổ. Thật ra, mỗi người là một phần của thiên thể, hãy nghĩ về điều đó…

MỘT LY TRÀ THIỀN:

Có lần một học giả đến thăm một thiền sư tên Trương Dẫn tham khảo về Thiền. Trương Dẫn đãi bạn một ly trà thiền. Ông rót trà vào ly, và khi ly đầy, ông vẫn tiếp tục rót, ông vẫn tiếp tục rót.- Thưa sư phụ, đầy rồi ạ!- Ông giống hệt ly trà này, đầy thành kiến. Nếu ông không bỏ thành kiến đi, làm sao tôi dạy ông về Thiền được.- Dạ, tôi hiểu rồi. Nếu đầu óc ta chứa đầy thành kiến, thì ta không thể nghe được sự thật kẻ khác nói. Khi đàm thoại, phần nhiều người dành phát biểu ý kiến của mình, và kết quả là họ không thể nghe được tiếng nói của chính họ.

VIỆC XUẤT HÀNH CỦA KẺ GIÁC NGỘ:

Thời xưa, nhiều người đã xuất gia và bỏ lại người thân để vào cổng chùa nghiên cứu Thiền học. Họ bỏ ra thật nhiều công sức chuyên cần tập luyện, nhưng chung cuộc họ được những gì?- Nếu câu hỏi này đặt ra cho một thiền sư Đắc Đạo thì chắc sẽ có câu trả lời thoả đáng.- Chẳng được gì cả… Khi ta ngưng so sánh, tránh cực đoan, từ bỏ những tạp niệm, hai trở ngại là mạc cảm hơn thua sẽ được hoá giải, và tâm trí ta sẽ được an nhiên, sẽ chẳng còn điều gì khó hiểu. Nếu kẻ tu hành muốn dứt bỏ sự cố chấp và những tạp niềm, ngoài việc tịnh tâm loại bỏ những điều liên - hệ đến kiến - giải như: Tư - kiến, kiến thức, định - kiến, thành - kiến và tà kiến… Ta cũng còn phải theo đuổi học hỏi cái hay cái đẹp trong sự chiêm nhiệm từ những thăng tiến của đời sống, khác với đời phàm tục. Trong chánh giác đó, cả thế giới được thấy từ một phối cảnh, không có sự phân biệt; đó là thế giới thực nơi mà cái ngã và vô ngã, cái tốt và cái xấu không phân biệt theo lối Nhị- Nguyên. “ Trong U- Minh tam can hiện hữu; khi chánh giác mười phương là không”. Nhưng làm sao ta ngộ được cái vô vi và hư không?- Không.

TRUYỀN THỤ THIỀN:

Một ngày kia trên ngọn núi cao, Đức Đạt- Ma chuẩn bị thuyết pháp. Bất ngờ, ngài lấy ra một bông hoa, quan sát phản ứng của các đệ tử, không hiểu ngụ ý của ngài, họ chỉ ngồi yên lặng. Chỉ riêng có Kasyapa mỉm cười.- Phương pháp giác ngộ của ta là thấy rõ mọi sự, đón nhận chúng và tiến tới chúng với lòng hân hoan, thấy một cách rõ ràng chân tướng nguyên thuỷ của chúng.- Diệu pháp này của Đạt Ma thoát vượt trên cả ngôn ngữ và nguyên tắc.- Biện luận không có thể được dùng để đạt tới giác ngộ, trái lại ta phải chiêm nghiệm.- Đến đây, Kasyapa chứng tỏ đã hiểu, vậy ta sẽ truyền thụ Thiền cho hắn. Thiền là: sự giác ngộ liên tục những cảm thức giữa vũ trụ tinh tuyền và tâm thức tinh ròng, giúp tâm linh tiếp tục an nhiên tự tại.

HÃY VUI SỐNG:

Thích Ca Mâu Ni hỏi các đệ tử:- Người ta sống được bao lâu?- Bảy mươi.- Sáu mươi.- Không.- Năm mươi.- Sai.- Người ta sống được bao lâu?- Đời sống như hơi thở. Đừng bám víu lấy thế giới hôm qua và ngày mai, hãy sống cho hôm nay, vui với những cái đang có và thưởng ngoạn những cái đẹp xung quanh ta.

KASYAPA VÀ TRỤ CỜ: 

Trong khi các phật tử tập trên đỉnh núi cao, Phật Thích Ca Mâu Ni trao áo cà sa và tô khất thực cho Kasyapa. Ananda hỏi Kasyapa:- Ngoài cái áo cà sa, đức Phật còn trao ông gì nữa không?- Ananda?- Có?- Trễ rồi, ra phía trước hạ cột cờ xuống. Đầu óc chân thật là Đạo, ta không cần bon chen trong thế giới lý lẽ Phật học, chỉ việc chú tâm cặn kẽ về đời sống một cách chân thật là đủ.

CÕNG ĐÀN BÀ QUA SÔNG:

Một hôm thiền sư Tân- Đản và chú tiểu trẻ đang đi bỗng gặp một thiếu phụ trẻ đẹp chán đời đứng bên bờ sông.- Để tôi bồng cô qua sông.- Cảm ơn nhiều…tạm biệt!- Cả hai tiếp tục đi hơn nửa ngày đàng…- Tôi nghĩ chúng ta là người tu hành không nên va chạm đàn bà, cớ sao sư phụ làm vậy?...- Hở! í con nói người đàn bà đó trở lại hả?- Ta đã nói bỏ nàng xuống từ lâu rồi, có phải con vẫn cõng nàng?...- Tân- Đản bồng bế người ta qua sông, song trong trí óc của ông không mang hình bóng người đàn bà; ông đã dứt khoát bỏ và không vấn vương, người còn vấn vương chính là chú tiểu, phải không?...

CỬA THIÊN ĐÀNG:

Có một lần vị đại tướng hỏi thiền sư Hải Đăng:- Thưa thiền sư, có thực là có Thiên đàng và Hoả ngục không?- Ông làm nghề gì?- Tôi là đại tướng.- Kẻ nào ngốc lại đi ái mộ đại tướng như ông?ông trông giống như gã đồ tể.- Cái gì?- Tôi chặt ông ra trăm mảnh.- Đấy chính là địa ngục.- Xin thứ cho tội thất lễ.- Đấy chính là Thiên đang… Thiên đàng và Hoả ngục không phải bỗng nhiên xuất hiện sau khi chết mà chúng hiện hữu ngay ở trần gian này. Thiện Ác liên hệ đến ngay khi ta nghĩ và của Thiên đàng và cửa Hoả ngục sẵn sàng mở cho ta ngay bất cứ lúc nào.

ĐẦU ÓC THIÊN VỊ:

Thiền sư Dayu và Yutang nhận lời mời để hướng dẫn một viên quan nghiên cứu Thiền học…- Ngài tự nhiên dễ tánh, tôi nghĩ ngài sẽ là một đệ tử Thiền tốt.- Thiền sư không nói giỡn chứ?, viên quan này tuy có chức tước cao, nhưng sẽ không hiểu và tiến xa về Thiền…- Sau khi nghe chư vị chỉ giáo, tôi đã quyết định về điều sẽ làm. Cuối cùng viên quan đã chẳng xây chùa cho Yutang, trái lại ông ta xây chùa và thọ giáo với thiền sư Dayu. Coi thường viên chức cao cấp, Daiyu nói thẳng ý nghĩ trong đầu ra, và kết quả là có thành kiến về nó. Khi Nhi- Nguyên tốt và xấu được xoá bỏ trong đầu ta, là khi ta gần tới Thiền.

TRE ĐEN TRE ĐỎ:

Có lần một hoạ sĩ được yêu cầu vẽ bức tranh tre.- Tuyệt tác!- Nhưng dường như có hơi sai về màu, ông đã vẽ tre màu đỏ?- Vậy ông muốn nó màu gì?- Dĩ nhiên mà đen…- Ai đã thấy tre màu đen bao giờ? Khi ta chỉ trích sai lầm của kẻ khác, thì những sai lầm thực sự đã có thể có trong quan niệm sai của ta.

THỨ TỰ GIỮA SỐNG VÀ CHẾT:

Có lần kia một người giầu có yêu cầu thiền sư Thế- Hải vẽ liễn cho ông ta… “ Cha chết, con chết, cháu chết_ Thế- Hải”- Tôi muốn thiền sư viết những gì Phúc Lộc!, ông làm gì vậy?- Đây là Phúc Đức.- Nếu con ông chết trước ông, hoặc nếu cháu ông chết trước con ông thì ông quả là người bất hạnh nhất.- Nếu mọi người trong gia đình ông sống từ thế hệ này qua thế hệ kia chết theo thứ tự như thế còn gì hạnh phúc hơn?. “ Sống thì bôn ba, chết thì thoải mái”- Trang Tử. Chết giống kẻ lữ hành mệt mỏi trở về nhà, phải không? Hạnh phúc nhất cho ai chết.

CAM ĐOAN IM LẶNG:

Bốn nhà sư giao hẹn nhau: Họ sẽ tụng niệm trong im lặng 7 ngày liền, trong suốt thời gian đó không ai được nói một tiếng…Khuya đêm thứ nhất, bỗng cây đèn cầy của họ muốn tắt…- Ô, không xong rồi, cây đèn cầy sắp tắt!- Hãy nhớ nhé, chúng ta không được nói đó.- Tại sao các ông cứ nói vậy?- A ha, chỉ mình tôi là người không nói câu nào!. Khi phê bình kẻ khác, ta thường quên rằng ta có thể có khuyết điểm giống như họ vậy.

MỌI SỰ LÀ HƯ VÔ:

Có một nhà sư tên Thế- Hạnh vân du khắp nơi giao tiế với những thiền sư nổi tiếng. Ngày kia, ông lang thang vô chùa Cốc- Sơn và gặp nhà sư chùa Cốc- Sơn. Tại đây, ông hãnh diện tuyên bố trình độ giác ngộ của ông ta.- Trí tuệ, Phật, và tất cả đều là Hư Không…- Đặc tính của vạn vật là Hư Không, không giác ngộ, không tư dục, không kẻ sĩ, không phàm phu, không thưởng phạt… Nhà sư chùa Cốc- Sơn gõ dùi gõ mõ vào đầu của Thế- Hạnh:- Bong!- Đau, ông làm gì vậy?- Nếu tất cả là Không, vậy sự nổi nóng đó từ đâu đến?. “Không có tốt và xấu, không vui hoặc khổ, vạn vật Vô Vi” ngay cả câu này cũng này cũng không đáng nói cho bất cứ ai, Thế- Hạnh chỉ là hiểu sai về Thiền.

PHẬT Ở NHÀ:

Ngày xưa, có chàng trẻ tuổi tên Hoàng- Vũ bỏ nhà tới Tứ Xuyên thăm đại sư Vô- Vi.- Cởu đi đâu đó?- Tôi đến học với đại sư Vô- Vi.- Thay vì tìm kiếm Bồ Tát, hay là cậu đi tìm Phật đi?- Vậy tôi phải đi đâu tìm Phật?- Khi cậu trở về nhà, người choàng mền và mang dép trá sẽ ra đón cậu, người đó chính là Phật.- Thật sao? Hoàng- Vũ vội trở về nhà khuya hôm đó, trong sự vui sướng khôn tả đón người con trai trở về…mẹ Hoàng- Vũ vội quàng mền và mang lộn dép, Hoàng- Vũ nhìn mẹ và đột nhiên giác ngộ. Có vô số giác tính có thể giúp ta phá vỡ cái “ Cái tôi” cố chấp cứng nhắc để tìm thấy kiến tánh và giác ngộ.

CHỈ MẶT TRĂNG:

Ngày nọ, ni cô Huệ- Năng hỏi đại sư Thiện- Giác:- Tôi đã học Phật pháp nhiều năm, nhưng vẫn con nhiều điều chưa được tỏ tường, thiền sư nghĩ có cách nào chỉ điểm cho tôi không?- Xin lỗi, tôi không biết đọc, nếu cô đọc cho tôi nghe thử xem tôi có thể giúp cô hiểu không.- Nếu ông không đọc được chữ, làm sao ông có thể hiểu sự thật?- Sự thật và chữ nghĩa không liên hệ nhau, sự thật có thể ví như mặt trăng.- Và chữ có thể ví như ngón tay.- Ta có thể dùng ngón tay để chỉ trăng, nhưng ngón tay ta không phải trăng, và cô không cần ngón tay để thấy trăng, phải không? Ngôn ngữ được dùng để giải nghĩa sự thật, nó là phương tiện giúp ta giác ngộ. Hiểu lắm chữ nghĩa là sự thật thì chẳng khác chi cho ngón tay là mặt trăng vậy…

NGƯỜI HỌC SINH LẠC:

Một hôm trong khi thiền sư Bành- Khuê thuyết- pháp, một đệ tử bỗng dưng đứng lên và la lớn…- Ah, ha!bắt được quả tang anh móc túi.- Nhóc con…- Tha cho hắn!- Không được, chúng tôi đã tha cho hắn nhiều lần rồi, nhưng hắn cứ tái phạm.- Nếu thầy không đuổi hắn, chúng tôi sẽ nghỉ học.- Các anh đều là những học sinh sáng suốt và biết phân biệt phải quấy, hắn là người duy nhất không hiểu ngay cả việc này, nếu ta không dậy hắn thì còn ai vào đây?- Ta sẽ để hắn ở lại đây, dẫu cho các anh có bỏ đi. Tức thời, người học sinh móc túi quì mọp và hứa hối cải, bỗng hiểu phải trái, tốt xấu. Nếu ta có trăm con chiên và một con bị lạc, chẳng lẽ ta lại không bỏ bầy con chiên 99 con để tức tốc kiếm con chiên bị lạc? Điều quan trọng là giúp đỡ kẻ cần ta nhất.

TÊN CƯỚP GIÁC NGỘ:

Một hôm có tên cướp đến nhà thiền sư Shichiri- Trao hết tiền cho tôi kẻo tôi lấy mạng ông.- Tiền của tôi ở trong ngăn kéo kia, anh tự nhiên, nhớ để lại cho tôi chút để mua đồ ăn nha.- Khi nhận cái gì của ai anh nên nói lời cám ơn.- Cám ơn. Vài bữa sau, tên cướp bị bắt…- Có phải tên này đã lấy tiền của ông?- Ô, không, hắn không lấy, là tôi đã cho hắn, hắn còn cám ơn tôi kia mà. Sau hạn tù vì một tội trạng khác, tên cướp tức khắc trở lại với thiền sư Shichiri để xin làm đệ tử. “ Bỏ đao đồ tể xuống, hắn trở thành Phật”. Đây là điều khó làm nhất, và điều gì có thể khiến người ta bỏ đao xuống? Đó là tình thương.

KHÔNG THỂ NÓI RA:

Có một người sau khi đánh đàn xong hỏi- Ông nghĩ gì.- Ông có thể giả thích cho tôi không? Lúc này, người nhạc công chơi lại bản nhạc tự đầu.- Nó nghĩa là vậy đó.- Bất cứ lúc nào ta dùng ngôn ngữ để giải thích việc gì, sẽ là điều khiếm khuyết.

SỰ LẶNG THINH VÀ CON KÉT:

- Ông gọi thế nào về một người hiểu nhưng không thể nói ra?- Người im lặng ăn mật ong.- Và ông nói thế nào về người hiểu chưa tới đâu, lại nói thao thao bất tận?- Một con vẹt đang gọi ai. Trong việc tu luyện Thiền, ta nên như người trầm lặng, tu dưỡng tâm linh, không nên kiến giải với kẻ khác. Một điều chẳng mấy hay khi một người chỉ biết nói như con vẹt, đi thuyết giảng cho kẻ khác những điều hiểu sai lệch về Thiền.

THIỀN TRONG LY:

Thiền sư Quan- Ích có tiếng là thông minh. Khi còn là chú tiểu, ông lỡ tay đãnh vỡ cái ly trà rất quí của sư phụ.- Hừm…- Thưa sư phụ, tại sao ngươi ta phải chết?- Lẽ tự nhiên, con, vạn vật ở thế gian này đều phải trải qua vòng sinh tử.- Thưa sư phụ, cái ly trà của sư phụ đã tới số. Nếu có sống, thì tự nhiên sẽ có chết. Nếu ta có thể thấy qua cái chết của ta, thì ta hẳn có thể thấy qua cái chết của sự vật.

KHÔNG LƯU TÂM TƯỚC VỊ:

Một hôm, có vị đại tướng Trần- Hoán đến thăm bạn cũ, là trụ trì chùa Quảng- Lâm.- Thưa có đại tướng tới thăm sư phụ.- Ta không quen ai là đại tướng.- Sư phụ nói sư phụ không thể gặp ông, vì sư phụ không quen bất cứ đại tướng nào.- Ô, xin lỗi, vui lòng vô trình lại, có Trần- Hoán tới thăm.- Vâng, tôi trình lại.- À, Trần- Hoán, xin mời vô. Danh hiệu, chức tước và sự giàu sang thường che khuất lấp cái tâm, khiến ta cảm thấy như kẻ lạc lối không tìm ra được lối về.

Biết mưu người

Quỷ Cốc đấu pháp tâm thuật

Quỷ Cốc tử là một bậc kỳ nhân thời Xuân Thu Chiến Quốc. ở đất Dương Thành thuộc địa phận nhà Chu có một cái hang giữa chốn núi cao rừng rậm, đầy lam sơn chướng khí, người thường khó ở được, nên gọi là Quỷ Cốc (hang Quỷ). Có vị đạo sĩ sống trong hang này, đạo cao đức trọng, vừa tu luyện, vừa dạy học trò, nên người đời gọi ông là Quỷ Cốc tử hoặc Quỷ Cốc tiên sinh.

Quỷ Cốc tử rất tinh thông Nho, Y, Lý, Số, đã mở rộng và phát triển Dịch học, lại còn sáng lập các môn như Số học (gọi là Nhật Nguyệt tương vĩ, thu cả trong bàn tay, xem việc trước, đoán việc sau khá linh nghiệm), Binh học (Cách hành binh, bày trận khôn khéo tài tình), Du thuyết học (Biết rộng, nghe nhiều, hiểu rõ địch ta, lý lẽ mạnh yếu, thời và thế của mình, buông lời hùng biện, thuyết phục và cảm hoá người nghe), Xuất thế học (Bảo toàn chân tính, luyện thuốc nuôi mình, đắc đạo thành tiên).

Tương truyền học trò của Quỷ Cốc tử có những người tài giỏi như: Tô Tần, Trương Nghi, Tôn Tẫn, Bàng Quyên, Quản Lộ, Dã Hạc, đều là những kỳ nhân của các triều đại.

Người đời có 36 kế, Quỷ Cốc tử đưa ra 72 biến (phép, cách) để phá vỡ 36 kế. Người ta gọi 72 phép đó là Quỷ Cốc đấu pháp tâm thuật.

Bảy mươi hai phép này, trong tĩnh có động, trong động có tĩnh. “Biến sinh ra sự, sự sinh mưu, mưu sinh kế, kế sinh nghị, nghị sinh thuyết, thuyết sinh tiến, tiến sinh thoái, thoái sinh chế (chế ngự sự việc)”. Quỷ Cốc tử cho rằng thiên hạ vốn không có việc gì khó, mọi chuyện toàn là do người ta bày đặt, bố trí mà thôi. Chỉ cần không ngừng nghiên cứu thực tiễn, thì có thể đạt được mục đích của mình.

Phép thứ 1: Dương mưu âm mưu

“Mưu kế trí lược mỗi cái có hình dạng của nó, hoặc vuông hoặc tròn, hoặc âm hoặc dương”.

Mưu kế có âm mưu và dương mưu. Trong bất kỳ tình huống nào, người ta đều không được coi thường đối phương, bởi vì sự việc có những sự việc giả mà đối phương cố ý tạo ra, hoàn cảnh có những hoàn cảnh giả mà đối phương cố ý tạo ra, tình báo cũng có tình báo giả. Cho nên, thành nhân phải làm cho đối phương không thể dò biết thực hư, như nhà buôn phải giấu kín như không có gì. Âm mưu ở đây không phải là thứ thủ đoạn của kẻ tiểu nhân, mà là âm mưu của thánh nhân. Mưu việc ở âm mà thành sự ở dương. Mục đích là nhằm làm cho dân giàu nước mạnh. Cho nên Quỷ Cốc tử lại nói: “Thánh nhân mưu ở âm nên gọi là Thần, thành ở dương nên gọi là Minh, chủ sự thành tức là tích đức vậy”

Phép thứ 2: Xoay chuyển càn khôn

“Giữ vững ý chí, tinh thần, thì sẽ có uy lực. Có uy lực, ắt bên trong mạnh, bên trong mạnh, thì không ai địch nổi”.

Quỷ Cốc tử cho rằng, khi hình thể bất lợi cho ta, ta phải dùng trăm phương ngàn kế để hàm dưỡng sức mạnh tinh thần, vì chỉ khi nào sức mạnh tinh thần của ta hùng hậu thì mới có thể xoay chuyển càn khôn.

Phép thứ 3: Đánh bại lần lượt

“Phân tán được uy thế của đối phương thì ta mạnh như thần”.

Muốn phân tán uy lực của đối phương, ta phải phục sẵn, chờ cơ hội xuất hiện mà lần lượt đánh bại đối phương.

Phép thứ 4: ứng biến thần tình

“Tiến thoái, xoay trở, xuất quỉ nhập thần, khiến người không biết đâu mà lần”.

Khi tác chiến, ta phải tuỳ cơ ứng biến, không hề cố định, xoay chuyển tuỳ ý muốn, khiến đối phương chẳng thể biết thực hư.

Phép thứ 5: Giành hết thiên cơ

“Thánh nhân ở giữa trời đất, lập thân, tạo nghiệp, lên tiếng, tuyên truyền đều phải quan sát tượng trời để chớp đúng thời cơ”.

Một người cao minh trước sự biến đổi mau lẹ của sự vật, sẽ biết nắm lấy thời cơ, vận hội một cách kịp thời mà thực thi hoặc điều chỉnh kế hoạch của mình.

Phép thứ 6: Hoạ phúc tuỳ lời

“Lời lẽ của thánh nhân rất huyền diệu, có thể chuyển nguy thành an, cứu cả mạng sống”.

Thế gian có câu: “Một lời nói ra, ngựa giỏi chẳng đuổi kịp”. Hàn Phi tử nói: “Cái tâm của kẻ vô mưu, lời lẽ của kẻ có mưu, đều là nguy!”. Ngụ ý người ta phải thật thận trọng trong lời ăn tiếng nói.

Ngôn ngữ là tiếng lòng, là biểu hiện tư tưởng. Tục ngữ Trung Quốc có câu: “Muốn biết việc trong bụng, hãy nghe lời cửa miệng”. Hoạ phúc là tuỳ lời nói vậy.

Phép thứ 7: Chúng bất địch quả

Quỷ Cốc tử nói: “Xuân sinh, hạ trưởng, thu thu, đông tàng, đạo trời là vậy, chẳng thể làm trái”. Lại nói: “Làm trái, dù thịnh ắt suy”.

Trời đất có bốn mùa thay đổi, nhân sự cũng có qui luật biến hoá của nó, mỗi người nếu hành động trái ngược với qui luật phát triển của sự vật, thì dù thế lực lớn mạnh đến mấy cuối cùng cũng sẽ thất bại. Một người nếu hành động đúng theo qui luật phát triển của sự vật, thì dù hiện thời còn đơn thương độc mã, nhưng rồi vẫn có thể lấy ít thắng nhiều.

Phép thứ 8: Trăm phương ngàn kế

“Vạn sự trên thế gian biến hoá vô cùng, tình hình lúc thế này lúc thế khác. Người đời cũng trăm phương ngàn kế. Một vị chủ soái ắt phải nắm vững nhiều loại mưu kế để đối phó với tình huống không ngừng thay đổi.

Phép thứ 9: Thiên địa vô thường

“Trời đất luôn thay đổi, há có gì trường cửu”.

Một cái lý chung xuyên suốt giữa trời và người. Khí trời luôn đổi, nhân sự làm sao bất biến. Một người chỉ một mực theo đuổi truyền thống mà không đổi mới, ắt sẽ bị lạc hậu so với thời cuộc.

Phép thứ 10: Thay cũ đổi mới

“Uốn lượn thì toàn vẹn, cong ắt sẽ qua, đầy ắt tràn, rách nát sẽ đổi mới, ít rồi đủ, nhiều ắt giảm”.

Thay cũ đổi mới là qui luật phát triển của vạn vận trong vũ trụ. Song sáng tạo cái mới bao giờ cũng đều dựa trên cơ sở truyền thống sẵn có. Không kế thừa truyền thống thì đừng nói gì đến sáng tạo cái mới. Phải hiểu thấu đáo truyền thống, mới có thể tiếp nhận tinh hoa và gạt bỏ cặn bã, từ đó mà phát huy thêm tinh hoa của truyền thống.

Phép thứ 11: Nhìn xa trông rộng

“Bậc đại trí dùng cái mà mọi người không hay biết, cũng dùng cái mà mọi người không nhìn thấy”.

Cái mà mọi người không hay biết, không nhìn thấy, thì chỉ bậc đại trí mới thấy rõ, như vậy gọi là biết nhìn xa trông rộng.

Phép thứ 12: Xử lý linh hoạt

“Lợi hay thiệt, được hay mất, nhiều hay ít, đều dùng âm dương chế ngự. Dương động mà vận hành, âm tĩnh mà thu tàng. Dương động mà hiện ra, âm theo mà nhập vào. Dương cực sinh âm, âm cực sinh dương”.

Vạn vật trong thiên hạ luôn luôn thay đổi, khí hậu có bốn mùa xuân hạ thu đông luôn đổi thay. Đời người có sống chết. Đủ thấy biến đổi là quy luật phát triển của vạn vận. Ta phải linh hoạt, chứ không máy móc, xử lý sự việc, mới có thể thắng không kiêu, bại không nản.

Phép thứ 13: Mưu thâm thích hợp

“Phàm theo hay bỏ, thuận hay nghịch, phải tuỳ hoàn cảnh. Hợp ở mưu, ắt thành ở sự. Bỏ ta theo người, bỏ người theo ta, ấy là do mưu thuật có toàn vẹn hay không. Dùng thiên hạ, có mưu kế này, dùng một nước, có mưu kế khác, dùng một phái, có mưu kế nọ, dùng một người, có cách dùng riêng. Lớn, nhỏ, tiến, thoái, ... đều phải có cách thích hợp. Xưa nay kẻ giỏi xoay trở, theo hay bỏ, giúp được bốn biển, chi phối được chư hầu, đều trải qua lắm phen chuyển hoá, theo hay bỏ, mới tìm ra chỗ thích hợp. Cho nên Y Doãn mấy bận theo vua Thang, mấy bận theo vua Kiệt, cuối cùng theo vua Thang. Lã Vọng ba lần theo Văn Vương, ba lần nhập điện, vẫn chưa thật rõ, cuối cùng mới hợp với Văn Vương”.

Phép thứ 14: Hành động bí mật

“Đạo âm của thánh hiền, đạo dương của kẻ ngu, đạo của thánh nhân ẩn giấu rất kỹ”.

Tướng soái khôn ngoan thường tạo nên những cái giả để mê hoặc đối phương, ngấm ngầm hành động để giáng cho đối phương những đòn trí mạng.

Phép thứ 15: Đột phá điểm yếu

“Từ ngoài chế ngự bên trong, sự việc có điểm cốt lõi, phải nhắm vào đó”.

Muốn khống chế nội tâm kẻ khác, phải nắm chắc đâu là điểm mấu chốt, đâu là chỗ yếu mà chĩa mũi nhọn vào đó.

Phép thứ 16: Nhỏ mà thấy lớn

“Quan sát sự việc, luận về vạn sự, chớ tranh hơn thua. Phải biết nhìn cái tuy nhỏ, mà thấy nó lớn lao”.

Người thông minh chỉ căn cứ vào triệu chứng nhỏ bé mà biết nó tiềm ẩn sự kiện trọng đại.

Phép thứ 17: Đổi vai chủ khách

“Mạnh tích tụ từ yếu, có tích tụ từ không. Yếu muốn thắng mạnh, mềm muốn thắng cứng, phải tích yếu, tích mềm”.

So sánh thế giữa chủ và khách, để đổi vai chủ khách, đó là cả một nghệ thuật.

Phép thứ 18: Chiêu nạp người hàng

“Cự tuyệt là bịt kín lối vào, đề phòng quá kỹ thì chẳng ai theo”.

Một vị chủ soái thông minh phải có khí phách của một chính trị gia vĩ đại, sẵn sàng chiêu nạp bất kể ai muốn chạy về với mình.

Phép thứ 19: ứng địch hành động

“Tuỳ động mà ứng, việc gì cũng xong”.

ứng nghĩa là chuyển động sau người, bất đắc dĩ mới động, “ứng” đây không phải là thái độ tiêu cực, bất đề kháng, mà là dùng “vô vi” để đạt tới cảnh giới “vô bất vi”. Một cá nhân nếu ở đâu cũng hiếu thắng, tranh giành hơn thua, thì thể lực và tinh thần sẽ bị hao tổn rất nhanh, tuổi thọ sẽ chẳng thể lâu bền. Ngược lại, nếu hiểu rõ lẽ “ứng địch nhi động” thì sẽ không vọng động một cách khinh suất, mà không ngừng rèn luyện thể lực và ý chí, đến khi hoàn toàn có khả năng thắng địch mới hành động. Không làm thì thôi, đã làm thì không gì cản nổi. Đã đánh là thắng.

Phép thứ 20: Tam giáo cửu lưu

“Tìm kiếm nhân tài, phải tìm khắp gần xa, phải có những người tài về từng phương diện, để khi cần sẽ sử dụng”.

Một người muốn dựng nghiệp lớn, phải chiêu nạp nhiều tài năng. Tử Nghiêm là người nước Trịnh rất biết chọn và dùng người. Công Tôn Huy am tường tình hình bốn nước. Tý Thâm giỏi bày mưu, Phùng Giản tử có tài phán đoán đại sự, Tử Đại Thúc văn hay chữ tốt. Gặp sự việc liên quan giữa các nước, Tử Nghiêm hỏi Công Tôn Huy, sau đó bàn mưu tính kế với Tỳ Thâm, đoạn để Phùng Giản tử phán đoán khả năng diễn biến. Sau khi xong việc để Tử Đại Thúc soạn lời văn ứng đối với quan khách các nước.

Phép thứ 21: Bổ dọc chen ngang

Quỷ Cốc tử nói: “Dùng cách phân tán uy quyền để chuyển quyền”. Người tài giỏi phải biết phá vỡ sự liên minh của các đối thủ, phân tán uy lực của chúng mà tăng cường uy thế của mình.

Phép thứ 22: Trói buộc chi phối

“Lập thế tạo thế, phải quan sát, nghe ngóng, xác định mức độ, khả năng của người và việc mà định kế an nguy; xem thiên thời thịnh suy, địa hình rộng hẹp của các nước, tài sản của dân chúng, quan hệ giữa các chư hầu mà dùng thiên hạ. Xem tài năng, khí thế, sức vóc mà dùng người. Xem cái gì, người nào cần giấu giếm hay phô bày, cần dung nạp hay mời chào, xem đông tây, ngó nam bắc, rồi dùng mọi biện pháp khả dĩ chi phối, trói buộc một cá nhân, một tập đoàn hay một nước phải làm theo ý muốn của ta mà không thể làm khác”.

Phép thứ 23: Liệu địch như thần

“Ngồi một chỗ mà nắm biết mọi chuyện trong thiên hạ”.

Bậc đại trí có thể qua diễn biến phức tạp, chằng chịt, qua hiện tượng mà nhận biết phương hướng hành động thật sự của đối phương.

Phép thứ 24: Không lừa nổi ai

“Kế sách dù có muôn ngàn kiểu, cuối cùng vẫn không nằm ngoài tâm lý con người”.

Người thông minh tỉnh táo từ triệu chứng nhỏ nhặt, tưởng như không đáng kể mà nắm bắt được sự kiện trọng đại để phá vỡ âm mưu của đối phương.

Phép thứ 25: Yếu thắng được mạnh

“Mạnh tích tụ từ yếu, có tích tụ từ không. Đó là cả một nghệ thuật”.

Yếu muốn thắng mạnh, mềm muốn thắng cứng, phải tích yếu, tích mềm. Yếu và mạnh chỉ là nói một cách tương đối, trong tình huống nhất định, yếu cũng có thể thắng mạnh.

Phép thứ 26: Biến không thành có

“Thần đạo hỗn thuần vi nhất, dù đạo trời phức tạp đến mấy, cũng có thể suy diễn bất tận”. Bậc quân chủ hoặc thống soái có thể suy luận ngàn vạn lý lẽ biến hoá trên thế gian để lý giải các bí ẩn vô cùng vô tận.

Phép thứ 27: Uốn ba tấc lưỡi

“Lời lẽ khôn khéo, giả dối, lợi hại khôn tả”.

Người khôn ngoan giỏi lợi dụng ngôn từ để vẽ ra lâu đài trên cát, kích thích người ta hắng hái hoặc dẫn dụ đối phương mắc lừa. Muốn được vậy, phải tô điểm cho thật khéo và nói năng phải hùng hồn, đầy sức thuyết phục và dẫn dụ.

Phép thứ 28: Thu phục nhân tâm

“Dùng tâm hệ trọng hơn dùng binh”.

Dùng binh vẫn phải lấy việc dùng tâm làm nguyên tắc cao nhất. Chỉ dùng binh mà không dùng tâm thì rất nguy hiểm. Bởi lẽ dùng binh vốn là để giết địch, nếu ta thất bại, địch sẽ giết ta, cho nên, dùng binh cũng có thê đem lại hậu quả tự giết mình.

Dùng binh hoàn toàn không chỉ giới hạn ở việc dùng mệnh lệnh hoặc kỷ luật bắt người ta phục tùng, mà còn phải làm cho người ta “tâm phục”. Lòng người đã phục, thì dù hành động, động tác có thể chệch choạc, song hết thảy đồng lòng như một.

Phép thứ 29: Một công đôi việc

“Vừa lợi cho mình vừa lợi cho người, trên hay mà dưới cũng tốt”.

Một mưu kế phải đem lại nhiều hiệu quả thì mới là kế hay, kiểu như một mũi tên bắn trúng hai con chim.

Phép thứ 30: Bốn lạng ngàn cân

“Lượng quyền là gì? Là đo lường lớn nhỏ, xác định nhiều ít”.

Tướng soái phải biết mình biết người, mới có thể dùng sức bốn lạng mà khôn khéo thắng sức ngàn cân.

Thông thường, sức ngàn cân sẽ đè bẹp sức bốn lạng. Nhưng nếu sức bốn lạng thoạt tiên khôn khéo né tránh sức ngàn cân, sau đó sẽ giáng đòn, thì hoàn toàn có thể thắng sức ngàn cân.

Phép thứ 31: Ngàn vàng phá địch

“Mọi sự đều có sự cố kết bên trong. Có thể dùng tiền tài, nhan sắc để phá vỡ sự cố kết ấy”.

Dùng nhiều tiền của để mua chuộc, ly gián nội bộ đối phương, có thể thu được thắng lợi mà chiến trường không tài nào giành được.

Phép thứ 32: Chủ động quyền biến

“Sự việc quý ở chỗ mình chủ động, nếu để người giành chủ động, thì hỏng”.

Người chủ động mới giành được quyền hành, quyền biến. Đã bị động thì khó thắng lợi, khi lâm sự phải sáng suốt, cân nhắc lợi hại, bỏ mối lợi nhỏ mà tránh cái hại lớn; nhận cái hại nhỏ, để giành mối lợi lớn.

Phép thứ 33: Tuyệt đối bí mật

“Giữ kín mưu đồ, sự việc mới thành”.

Một vị thống soái hoặc tướng lĩnh muốn giành thắng lợi, phải giữ bí mật tuyệt đối.

Phép thứ 34: Kích động vua chúa

“Tiếp xúc, phán đoán có nhiều cách, hoặc dùng bình, hoặc dùng chính, hoặc dùng hỉ, hoặc dùng nộ, ... Dùng nộ là kích động”.

Người khôn ngoan chẳng những dùng lời lẽ thuyết phục chư hâu, mà còn dùng cách kích động, nói khích vua chúa.

Phép thứ 35: Kế sách lâu dài

“Người thông minh nhìn cái rất xa mà kiểm nghiệm”.

Người khôn ngoan phải nhìn xa trông rộng, sẽ không tham mối lợi nhỏ mà để mất cái lớn, tham cái lợi trước mắt mà quên kế sách lâu dài. Người có đảm lược thật sự thì biết tính toán sâu xa, chu đáo, không chỉ thấy cái trước mắt, không chấp nê tập quán thông thường.

Phép thứ 36: Biết trước thời thế

“Dự đoán thời thế để quyết định lợi hại, quyền biến”.

Một thống soái hoặc tướng lĩnh nắm được thời thế là điều trọng yếu. Họ phải hành động lặng lẽ một khi hết thảy chưa ai chú ý, đến lúc thời cơ chín muồi thì họ ra tay là lập tức làm nên chuyện lớn.

Phép thứ 37: Không đánh vẫn oai

“Người cầm quân không cần đánh trận mà làm chủ được thiên hạ, đáng gọi là thần minh”.

Bậc đại trí không cần hao tổn binh lực, vẫn khiến đối phương phải bãi binh cầu hoà, thiên hạ nể phục, đủ sánh với thần minh.

Phép thứ 38: Nắm quyền bá chủ

“Chư hầu chống nhau nhiều không kể xiết. Khi quốc gia bước vào thời điểm sinh tử tồn vong, bậc vĩ nhân xuất chúng phải xuất đầu lộ diện, nắm lấy cơ hội kiến lập nghiệp vương bá”.

Phép thứ 39: Thay thù thành bạn

“Trên đời không có gì quý mãi, không có ai làm thống soái vĩnh viễn”.

Thế sự biến hoá vô cùng, hôm nay họ là kẻ thù của ta, ngày mai có thể họ sẽ thành bạn của ta, hoặc ngược lại, đó là cả một nghệ thuật chuyển hoá.

Phép thứ 40: Chỉ dẫn cho người

“Tình mà hợp thì vật cũng tụ lại với nhau. Đống củi gần lửa, khúc khô dễ bén, nước rót xuống chỗ đất bằng, nơi nào ẩm thì nước dừng”.

Lòng người cũng vậy. Một thống soái muốn thuyết phục hoặc lợi dụng tướng sĩ của đối phương, phải làm sao để họ cảm thấy chịu ân huệ của mình.

Phép thứ 41: Chiêu hiền đãi sĩ

“Dùng mưu kế, công không bằng tư, tư không bằng kết, kết sao cho chặt”.

Có nhiều cách “kết”, có nội kết, ngoại kết, sinh kết, tử kết: Trương Lương kết thân với Hạng Bá, đó là nội kết. Trương Nghi, Tô Tần kết giao, ấy là ngoại kết. Lấy đức và ân huệ đãi người, mưu phúc cho dân, mưu lợi cho nước, ấy là sinh kết. Tuyên dương người chết, uý lại thân thuộc của người đã hi sinh, ấy là tử kết.

Phép thứ 42: áp đặt chủ quan

“Chớ áp đặt sở thích của mình cho người”.

Cái mình thích, có thể người không thích; cái mình ghét, có thể người lại yêu. Chớ nên suy bụng ta ra bụng người. Cùng một sự việc, hai người sẽ nhìn nhận khác nhau, kẻ cho là lợi, người cho là hại. Nếu chủ quan áp đặt, dễ phạm sai lầm, gây hậu quả đáng tiếc.

Phép thứ 43: Mâu thuẫn thống nhất

“Cao mà hoá thấp, lấy mà hoá cho, mất mà hoá được”.

Sự vật bao giờ cũng có hai mặt đối lập nhau. Có những việc bề ngoài tưởng như bất lợi cho ta, thực ra là hàm chứa ích lợi to lớn đối với ta.

Phép thứ 44: Thủ trước công sau

“Đối phương hùng mạnh, ta tạm lui chờ thời chuyển biến”.

Một quốc gia, một quân đội hùng mạnh sẽ có lúc sơ hở, suy yếu. Một quốc gia, quân đội yếu ít, nếu biết tích luỹ thực lực, nín chờ thừoi thế, có thể trở nên hùng mạnh. Bấy giờ có thể chuyển từ thế thủ sang thế công.

Phép thứ 45: Kiên tâm bền chí

“Anh hùng có lúc sa cơ. Khốn tới cùng ắt biến”.

Người có chí lớn thật sự, gặp bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào cũng kiên trì theo đuổi mục tiêu của mình, có thể chịu đựng, nếm trải những nỗi đau khổ mà người đời không mấy ai chịu nổi. Chỉ như vậy mới có thể làm nên sự nghiệp lớn lao.

Phép thứ 46: Lấy tĩnh chế động

“Trong thiên hạ, con cái thường lấy tịnh thắng con đực, con cái lấy tịnh nên ở dưới”.

Hoàn cảnh luôn biến động, nhân sự thường có đua tranh hơn kém. Trong cuộc đua tranh, phải bình tĩnh thì mới giữ được tỉnh táo, không bị mê loạn về thần chí. Phàm người cương gặp kẻ cương thì sẽ tranh chấp không ngừng, nhưng gặp người nhu thì lại trở nên nhu hoà. Cho nên mới có câu “lạt mềm buộc chặt”. Kẻ cương rất dễ bộc lộ chỗ yếu, ta chỉ cần bình tĩnh quan sát, đợi khi chỗ yếu ấy lộ ra, ắt sẽ chế ngự được.

Phép thứ 47: Quyết giữ chính nghĩa

“Bậc quân chủ có đức hạnh mới chiêu mộ được người hiền tài”.

Ta phải là chính đạo, mới thu phục được lòng người theo về.

Phép thứ 48: Đánh vào chỗ yếu

“Người đời có người yêu thích yên tĩnh, có kẻ thích hành động, có người hám danh, có kẻ hám lợi, có người chính trực, có kẻ xiểm nịnh, có người thích sáng sủa, có kẻ ưa tăm tối”.

Người khôn ngoan phải hiểu rõ chỗ yếu của đối phương mà đánh vào đó.

Phép thứ 49: Ghi công quên lỗi

“Bậc trí giả không dùng sở đoản, mà dùng sở trường của người ngu, không chú ý đến lỗi lầm, mà sử dụng công lao của họ, nên không bị khốn”.

Phép thứ 50: Hạ chiếu cầu hiền

“Thánh nhân dùng vô vi đãi người có đức”.

Bậc thánh minh phải nghĩ mọi cách, phải dùng lời lẽ thế nào để thu phục người hiền tài, đức độ.

Phép thứ 51: Lưu danh muôn thuở

“Bậc hiền sĩ dù đã qua đời, vẫn được mọi người luôn luôn nhắc đến như có tình sâu nghĩa nặng”.

Có những kẻ sống trên đời chỉ biết tranh đoạt danh lợi, tán sát hung hãn hơn cả mãnh thú. Có kẻ đạt được danh lợi thì kiêu căng tự mãn, bị tiền của và nữ sắc làm mê muội tâm trí, dù có sung sướng hưởng lạc vài chục năm, nhưng chết đi sẽ để lại tiếng xấu ngàn thu.

Phép thứ 52: Thoái binh chế binh

“Có thuật lui binh, có phép chế binh”.

Ngụ ý một người bình tĩnh, thận trọng, luôn làm điều thiện, đức độ cao cả, thì dù một thân một mình đi vào hang ổ đối phương, cũng có thể làm cho đối phương phải kính nể, không dám tàn hại. Một người như vậy thì nơi nào cũng là đất sống, không có gì đáng gọi là hiểm nguy.

Phép thứ 53: Đại hiền vô địch

“Người giỏi quyền biến là người trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, sai khiến được quỉ thần, tuỳ thời tiết từng mùa mà biến hoá, khiến vạn vật trong thiên hạ phục vụ cho mình”.

Phép thứ 54: Tiến công nước, người

“Chế ngự người thì nắm được quyền. Đồng thời với việc tiến công nước địch phải chế ngự người của địch”.

Phép thứ 55: Giữ thế cân bằng 

“ít rồi sẽ nhiều, thiếu rồi sẽ đủ”.

Vạn vật trên đời vừa đối lập vừa thống nhất. Lão tử cũng nói: “Đạo trời giống như chỗ cao tì dựa vào chỗ thấp, chỗ thừa thì bù vào chỗ thiếu”. Giữ cho cân bằng, hài hoà là điều tối cần thiết.

Phép thứ 56: ẩn náu chờ thời

“Dụng chi hữu đạo, dụng chi tất ẩn”. Lại nói: “Có đạo của tiên vương, có mưu của thánh trí, thảy đều không lộ liễu”.

Người thông tuệ thường thường ít bộc lộ sở trường của mình ở tất cả mọi nơi, mà luôn luôn nhường nhịn người khác. Nhưng sự ẩn giấu này chỉ là để chờ thời cơ chín muồi sẽ hiển lộ.

Phép thứ 57: Sử dụng nội gián

“Con gấu trước khi vồ mồi, giấu mình rồi mới xông ra. Muốn hành động, hãy dùng nội gián trước đã”.

Người khôn ngoan chẳng những giỏi dùng binh trên chiến trường, mà còn biết cài gián điệp vào hàng ngũ đối phương để hoạt động.

Phép thứ 58: Uốn nắn sửa sang

“Thánh nhân vừa thấy cong, liền uốn lại cho thẳng. Tuỳ mức độ lệch lạc mà có cách trị thích đáng”.

Khi nền chính trị quốc gia xuất hiện nguy cơ, phải dùng quốc pháp bổ cứu, nếu nguy cơ nghiêm trọng, tất phải dùng hình phạt nghiêm khắc.

Phép thứ 59: Lùi để tiến tới

“Người giỏi dùng thiên hạ xưa nay tất phải lượng định quyền trong thiên hạ, phải phân biệt nặng nhẹ, mạnh yếu”.

Bậc hiển minh thường tránh kẻ mạnh, tạm lùi để tìm cách tiến công.

Phép thứ 60: Cho rồi mới lấy

“Muốn chiếm lĩnh được cái gì của đối phương, trước hết hãy đáp ứng phần nào ý muốn của đối phương, rồi mới lấy được cái mình cần”.

Phép thứ 61: Quan sát gián tiếp

“Thẩm định hư thực, căn cứ vào thị hiếu mà biết ý chí”.

Muốn xem xét một người, ta hãy xem thường ngày họ bộc lộ ý thích gì mà phán đoán tính tình.

Phép thứ 62: Đánh rắn dập đầu

“Kẻ mạnh khi chiến thắng mà choáng vàng vì thắng lợi, không tiến công giành thắng lợi trọn vẹn, sớm thoả mãn, thì sẽ chuốc lấy tai hoạ”.

Kẻ yếu bị thất bại, nếu biết bình tĩnh suy xét, rút ra bài học, phục hồi lực lượng, thì có thể lật ngược thế cờ.

Phép thứ 63: Chủ quan hại mình

“Hợp mà không kết, dương thân mà âm sơ, sự chẳng thành”.

Có những việc tưởng chừng vô cùng thuận lợi, thực ra hết sức khó khăn. Phải đi sâu vào cuộc sống, nghiên cứu điều tra, nắm chắc thực tế, mới không phạm sai lầm chủ quan, đã hại cho mình, còn hại cả cho người.

Phép thứ 64: Dẫn dụ đối phương

“Những điều dẫn dụ của thánh nhân, kẻ ngu lẫn kẻ trí đều không nghi hoặc”.

Bậc đại trí có thể khôn khéo dẫn dụ được hết thảy mọi người mà đối phương không thể hay biết.

Phép thứ 65: Lợi dụng kẻ địch

“Thả mồi sâu, bắt cá lớn”.

Bậc đại trí không chỉ biết sử dụng những người hiền tài ở phep mình, mà còn biết lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ đối phương mà sử dụng người của đối phương phục vụ lợi ích của mình.

Phép thứ 66: Một cây thành rừng

“Đơn thương độc mã vẫn có thể ra vào tuỳ ý, chẳng ai ngăn nổi”.

Đông người chưa nhất định giành phần thắng. Một bàn tay cũng có thể tạo nên tiếng vỗ. Chỉ cần chân lý thuộc về ta, thì ta vẫn thành vô địch trong thiên hạ.

Phép thứ 67: Tương qua lợi hại

“Dùng lời lẽ để thuyết phục đối phương nhận ra phải trái”.

Muốn đối phương hành động theo ý muốn của ta, phải biết khôn khéo thuyết phục, chỉ rõ điều lợi hại.

Phép thứ 68: Hình dung có địch

“Nghĩ rằng có địch, để mình nỗ lực”.

Muốn lập sự nghiệp lớn, phải hình dung những thế lực mạnh ngăn cản bước tiến của mình, từ đó mình sẽ cố gắng không ngừng vươn tới mục đích.

Phép thứ 69: Học hỏi kẻ thù

“Muốn chiến thắng, hãy học hỏi ở hết thảy mọi người”.

Bậc đại trí mưu nghiệp lớn, chẳng những học hỏi các bậc tiên hìên, mà còn học cái hay của chính kẻ thù.

Phép thứ 70: Nói mãi phải tin

“Lời nói của số đông có thể biến không thành có”.

Giỏi tung tin có thể đánh lạc hướng đối phương.

Phép thứ 71: Luồn sâu leo cao

“Phái gián điệp luồn sâu vào đầu não đối phương mà hành động, có thể giành thắng lợi lớn lao bất ngờ”.

Gián điệp của ta luồn sâu leo cao vào bộ chỉ huy của địch, thì thắng lợi gần như cầm chắc.

Phép thứ 72: Không màng danh lợi

“Bậc chân nhân hợp với đạo trời”.

Một người kinh qua tu luyện lâu dài, đạt tới cảnh giới thoát tục thì gọi là chân nhân.

Người ta sinh ra, hầu như ban đầu chẳng khác nhau là mấy. Chỉ sau đó, do môi trường hoàn cảnh khác nhau, do sự tu luyện nhiều ít mà thành những người khác nhau. Người nào chìm đắm trong danh lợi, ắt chuốc hoạ sát thân. Người nào gác bỏ danh lợi thế tục, sẽ thanh thản sung sướng.

Thiên Mệnh Tùng Đàm

Chiêm bốc một nền văn hoà đặc biệt

Chiêm bốc đoán mệnh là một hiện tượng văn hoá cổ xưa, có căn cứ chứ không phải là do chủ quan tuỳ tiện. Theo truyền thuyết, nó đã xuất hiện sớm từ thời Tam hoàng Ngũ đế, song đó chỉ là truyền thuyết, đời sau dù ghi lại, vẫn không đáng tin. Nhưng có một điền khả dĩ khẳng định, là thuật chiêm bốc xuất hiện vào thời kỳ Ân Chu. “Kinh Thi”, “Thượng Thư”, “Tả Truyện” ... trong thư tịch trước đời nhà Tần đã ghi chép những việc liên quan đến thuật chiêm bốc, chiêm tinh, giải mộng, tướng thuật, Kham Dư thuật (tức thuật phong thuỷ). Đến “Kinh Dịch” đúc kết nhận thức và kinh nghiệm của nhân dân thời thượng cổ về các phương diện thiên văn, địa lý và xã hội ..., được coi là kinh điển về thuật chiêm bốc cổ đại. Đặc điểm của thuật chiêm bốc trước triều Tần là phần lớn liên quan đến thiên văn, công việc nhà nông, chiến tranh và các hoạt động trọng đại, liên quan đến sự hưng vong của quốc gia cũng như của các cá nhân. Thời kỳ này thuật chiêm bốc thể hiện ảo tưởng của con người muốn chinh phục tự nhiên và thông hiểu các lực lượng siêu nhiên, phản ánh khát vọng của con người muốn dự báo sự vận hành của lịch sử, dẹp bỏ sự rối loạn trong xã hội. Thuật chiêm bốc mang sắc thái thần thoại học và dân tộc học. Từ thời Lưỡng Hán trở đi, cùng với việc con người nhận thức, phát hiện giá trị tự thân của mình, cùng với tiến bộ của khoa học nhân thể, thuật chiêm bốc bắt đầu chuyển hướng sang cá nhân. Thuật chiêm bốc và các kiểu dự báo số mệnh, tiền đồ cá nhân do đó phát triển cực nhanh. Trong cuộc sống hàng ngày, con người ai mà chẳng quan tâm tha thiết tới biểu hiện nhân sinh và mạng vận. Thuật chiêm bốc chính là đáp ứng nhu cầu tâm lý đó. Nó lấy cá thể con người làm đối tượng quan sát, phán đoán và đánh giá, nhằm dự đoán mạng vận của từng người để biết cát hung, hoạ phúc, quý tiện, thọ yểu, cùng đạt, hưng suy, sinh tử, thông qua các phương pháp hoặc kỹ xảo khác nhau, mà giải đpá câu hỏi của từng người. Con đường phát triển của thuật chiêm bốc, bói toán, đoán số mệnh, chính là như vậy.

Các kiểu chiêm bốc đoán mệnh đều có cơ sở lý luận nhất định, nhưng xét về bản chất, các thứ lý luận ấy đều chỉ là kinh nghiệm, chưa qua, chưa từng được kiểm nghiệm. Dù áp dụng vào chính sự quốc gia hay vào một cá nhân, đều dựa trên kiến thức văn hoá tâm lý của song phương là người đoán (chiêm bốc) và người hỏi (vấn bốc).

Thứ nhất là quan niệm “Thiên Nhân cảm ứng”. Tư tưởng “Thiên Nhân cảm ứng” tuy mãi đến thời Tây Hán Đổng Trọng Thư mới chính thức đề xuất, nhưng sớm đã thâm nhập ý thức văn hoá của mọi người. Hoạt động chiêm bốc thời cổ, thiên tử tế trời tế đất, đều xuất phát từ nhận thức về quan hệ Thiên - Nhân: nhân thế chịu sự chi phối toàn diện của Trời, sự chế ước của Địa. Người có cát hung (“hưu cữu”) , Trời ắt chỉ ra. Cho nên “Dịch” có phép “Thiên thuỳ tượng, kiến cát hung”. Đời Hán, Đổng Trọng Thư mới minh xác hoá nhận thức về quan hệ giữa người với Trời của người xưa mà đưa ra thuyết “Thiên Nhân cảm ứng”, một thuyết có ảnh hưởng sâu xa tới nền văn hoá Trung Quốc, đề cao đến mức tuyệt đối “Thiên mệnh” (Mệnh Trời), “Thiên ý” (ý Trời). Thiên Nhân cảm ứng in dấu ấn đậm nét trong ý thức văn hoá của mọi người tới mức, mỗi khi gặp một biến cố bất ngờ, người ta không kịp trở tay, đều bất giác thốt lên hai tiếng “Trời ơi!”, nghĩ đến ông trời ở tít trên cao xanh sao lại để xảy ra sự bất công nhường này. Từ chỗ tin rằng có ông Trời tồn tại, thừa nhận Trời là chúa tể, con người phải thần phục ông Trời, nên không ít người muốn thông qua các điềm triệu Thiên Nhân cảm ứng để đoán biết ý của Trời. Thuật chiêm bốc đáp ứng đúng ngay nhu cầu đó.

Thứ hai là quan niệm “Túc mệnh”, nghĩa là quan niệm con người có số kiếp. Các trường phái chủ yếu của văn hoá truyền thống Trung Quốc giải thích mệnh vận không giống nhau. Theo Nho giáo, mệnh vận là thể hiện của ý Trời. Cho nên Khổng Tử coi “Uý thiên mệnh” là khởi đầu của “Tam uý” (ba điều kỵ). Phật giáo tin rằng linh hồn bất diệt, mệnh vận là nhân quả báo ứng. Đạo giáo có cao kiến khác, cho rằng mệnh vận là sự vận động của “đạo”. “Trang tử, Đức Thí Phù” viết: “Sinh tử, tồn vong, cùng đạt, bần phú, hiền dữ, vinh nhục, đói khát, nóng lạnh, là biến của sự, là hành của mệnh”. Tuy các phái luận thuận khác nhau, nhưng đều thừa nhận “mệnh” có “định phận”. Thời cổ ở Trung Quốc, trên từ thiên tử, dưới đến thứ dân, nhắc đến số mệnh, ai cũng phải thốt lên: “Số nó như thế!” hoặc: “Sinh tử do mệnh, phú quý tại Thiên”, hoặc: “Chỉ có 8 chữ gói gọn số mệnh” (Tám chữ đây là giờ, ngày, tháng, năm sinh, gồm đủ can, chi để lập lá số Tử Vi hoặc lập quẻ), hoặc “Mệnh chẳng thể muốn mà được”. Quan niệm số kiếp như vậy có ảnh hưởng rất lớn tới việc hình thành văn hoá Trung Quốc, tới hành vi và tính cách của người Trung Quốc. Có người tin vào số kiếp quá mức, cam phận hèn mọn, hoặc an phận thủ thường. Có người tuy tin số mệnh, nhưng cho rằng “ý Trời xưa nay khó biết”, hơi đâu mà bận tâm. Có nhiều người hy vọng biết rõ mệnh vận tiền đồ của mình trong hết thảy mọi phương diện, để rồi quyết định hành động sau đó. Có người không mấy khi xem bói, hoặc nghe giải đoán chỉ mỉm cười, bán tín bán nghi. Có người nghe gì tin nấy, làm y như lời thầy dặn. Có người nghe rồi bỏ đó. Cũng có người hoàn toàn phủ nhận quan niệm mệnh vận, số kiếp.

Thứ ba là quan niệm sùng bái sức mạnh siêu nhiên và hoài nghi sức mạnh của bản thân. Các nền văn hoá dân tộc dù có trình độ khác nhau, song đều tồn tại các hiện tượng sùng bái quỷ thần, sùng bái các sức mạnh siêu nhiên, thờ cúng tổ tiên. Chính sự sùng bái các sức mạnh siêu nhiên này đã dẫn tới hình thành các tôn giáo, như Cơ Đốc giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Hồi giáo. Chúa Jê su, thánh Ala, Thích Ca Mầu Ni (Phật Như Lai), Trương Đạo Lăng, đâu phải là những người phàm phu tục tử? Họ là hoá thân của các lực lượng siêu nhiên, đức độ vạn năng. Một số người không tin vào sức mạnh siêu nhiên, thì chính họ cũng tin vào một lực lượng nào đó. Cả hai loại người ấy đều hoài nghi sức mạnh của chính bản thân họ. Có nhiều lý do dẫn tới sự hoài nghi này, nhưng chủ yếu là do khoa học kỹ thuật lạc hậu, do trong xã hội có nhiều sự bất công và do mỗi người tự nhận thấy bản thân mình có không ít khuyết điểm. Ngày xưa người ta gặp nhau, dù là thứ bậc cao thấp khác nhau hay là bạn hữu, thân quyến, xóm giềng, ai cũng tỏ ra khiêm nhường theo kiểu phong thái quân tử, tự hạ thấp mình so với người tiếp kiến. Sự khiêm nhường này không phải để lấy lòng người khác, mà từ trong thâm tâm họ vốn hoài nghi vào sức lực của bản thân mình. Đó cũng là hoàn cảnh nhân văn thời xưa ở Trung Quốc. Trong hoàn cảnh nhân văn ấy, không ít người giấu kín tài năng, trí tuệ, vì để lộ ra, dễ chuốc hoạ thị phi hoặc mất mạng. Còn khiêm nhường thì lại được mọi người đồng tình mà sống yên ổn. Có lẽ đó là lý do khiến người Trung Quốc thời trước càng ngày càng thiếu tự tin, càng ngày càng sùng bái các lực lượng thần bí.

Do tác dụng của quan niệm và tâm lý nói trên, trong các triều đại, các thuật chiêm bốc đều rất thịnh hành đối với mọi tầng lớp xã hội. Trên từ thiên tử, dưới đến lê dân, hết thảy mọi việc, như chính sự quốc gia, đến đường công danh khoa cử, gia trạch, hôn nhân, thọ yểu, ... người ta đều nhờ đến các bốc sư, khiến cho thuật chiêm bốc phát triển mạnh mẽ. Trước thời Tần Hán đã có Minh Quy Kỳ bốc, Bốc Phệ (bói bằng cỏ thi), chiêm tinh, chiêm mộng (giải đoán giấc mơ), Dịch quái, tướng thuật, Phong Thuỷ thuật, ...

Sau Tần Hán, vào triều đại Tuỳ, nổi lên thuật Ngũ Hành, Can Chi kỷ niên pháp, Cửu Cung, Lục Nhâm, Thái ất, Kỳ Môn Độ Giáp, Kiến Trừ, Tùng Thần, Lịch Gia, Thiên Nhân ... “Sử Ký, Nhật giả Liệt truyện” có ghi trường hợp Hán Võ đế mời các bốc sư đến hỏi ngày nào có thể kết hôn. Bốc sư thường là các bậc đạo sĩ, thái học sĩ, tăng đồ.

Thời kỳ Đường Tống, lại xuất hiện thêm các thuật số khác như Phù Kỵ, Tử Bình, Quỹ Hoạch Quái ảnh, rồi Chiết Tự, Sấm Ngũ cũng được các thuật sĩ thần bí hoá để dự đoán cát hung. Lý luận tướng thuật phát triển mạnh. Bộ sách “Ma Y tướng pháp” xuất hiện chính vào giai đoạn này.

Đời Minh, hai bộ sách “Thiết Quán lâu” của Trương Trung và “Liễu Trang tướng pháp” của Viên Củng được lưu truyền rộng rãi.

Đến đời Thanh, không ít thuật số đã tuyệt tích, hoặc còn tồn tại nhưng cũng không còn diện mạo như ban đầu nữa. Các thuật số có ảnh hưởng lớn trong tầng lớp văn nhân sĩ phu và dân gian.

Tiết lộ mệnh trời

Ngày trước ở Trung Quốc có quá nhiều thuật chiêm bốc, được lưu truyền rất rộng rãi, có ảnh hưởng rất mạnh mẽ, ngoài nguyên nhân tâm lý văn hoá, nhân tố xã hội cũng đóng vai trò quan trọng. Suốt từ triều Ân Chu cho đến Minh, Thanh, triều đại nào cũng có chức quan chuyên trách việc chiêm bốc, quan sát sự biến đổi của trời đất, của âm dương, dự báo quốc sự, nhân sự. Trong bộ “Sử ký” có hai phần “Nhật giả liệt truyện” và “Thiên Quan thư” chuyên ghi lại những người và việc trọng yếu có liên quan với thuật chiêm bốc. “Phương Kỹ truyện” có kể tỉ mỉ về tướng thuật gia nổi danh thời Tam Quốc là Chu Kiến Bình, cao nhân giải mộng Chu Tuyên và bậc kỳ tài về bói có thi (bốc thệ) là Quản Lộ.

Giai cấp thống trị đề xướng và coi trọng các thuật chiêm bốc, sĩ phu và dân gian thì lưu truyền, thực hành và tuyên dương, cho nên các thuật chiêm bốc ngày một hưng thịnh. Vai trò chính trong việc lưu truyền các thuật chiêm bốc là thuộc về giới văn nhân sĩ phu, với nhiều tên tuổi lừng lẫy như Trần Đoàn với Tử Vi, Tử Bình với số Định Chân (hoặc thuật Tử Bình), Lý Thuần Phong với “Thôn Bối Đồ”, Trần Đoàn với “Ma y tướng pháp”. Tạ Thạch với “Chiết Tự”, Phi Lý Tiên với “Quỹ Hoạch quái ảnh”, Trương Cảnh Hoa với “Thiết Quán lâu”, Viên Liễu Trang với “Liễu Trang tướng pháp”, rồi Tăng Nhất Hạnh, Tang Đạo Mậu, Lý Hư Trung (đời Đường), Lâm Hiếu Công ... đều thâm thuý về chiêm bốc, đoán số mệnh. Lại có những sĩ phu tuy không hành nghề chiêm bốc, nhưng lại bỏ công ghi chép mọi sự việc và con người liên quan đến thuật chiêm bốc, hoặc dùng thơ phú để diễn giải, giải thích, tổng kết lý luận chiêm bốc, cho dễ hiểu, dễ nhớ, có lúc nâng lên tới mức nghệ thuật, như một hoạt động nghệ thuật, càng làm cho dân gian coi chiêm bốc như một lĩnh vực thần thánh và huyền bí, các bốc sư, pháp sư như những người có khả năng giao tiếp với các lực lượng siêu nhiên, nên rất đáng kính.

Không thể không nói tới ảnh hưởng của chế độ khoa cử đối với thuật chiêm bốc. Xã hội phong kiến coi hoàng quyền là chí tôn, lấy tông pháp thông trị làm đặc trưng của đẳng cấp xã hội, địa vị xã hội và sự giàu nghèo, quý tiện của mỗi thành viên xã hội đã được định sẵn từ bên trên. Vương hầu khanh tướng nếu không vi phạm vương pháp, xúc phạm hình luật, thì sau khi chết đi vẫn còn truyền lại tước vị, quan chức cho các con cháu đời đời. Còn dân chúng phải ở địa vị bần tiện, trừ phu lập đại công mới mong thay đổi địa vị. Quy chế ấy đạt tới đỉnh điểm vào thời đại Nam Bắc triều. Chỉ có hai đại gia tộc họ Vương và họ Tạ là tôn quý.

Nhà Tuỳ bắt đầu mở chế độ khoa cử, mở ra con đường tiến thân cho kẻ sĩ. Học giỏi, thi đỗ cao sẽ được làm quan, thay đổi hẳn địa vị bần tiện. Thế là dân chúng hy vọng liệu có ngày mình sẽ thành danh. Họ quan tâm đến mạng vận của mình. Đến đời Đường, các thuật chiêm bốc bắt đầu chú trọng chủ yếu tới phương diện mạng vận của các cá nhân, nên được lưu hành rất rộng rãi trong tầng lớp sĩ phu và dân gian. Vậy là chế độ khoa cử tiến bộ hơn chế độ tông pháp thế tập, đã đem lại hy vọng và ảo tưởng cho nhiều người, là cơ sở cho sự phát triển mạnh mẽ các thuật chiêm bốc. Những người đi học đều xem bói để biết vận mạng của mình. Một nhà khoa học Mỹ tên Lessa đã thử thống kê phân tích các trường hợp xem tướng đời nhà Đường, được ghi lại trong “Thần tướng Hội Thiên” thì thấy trong 546 trường hợp xem mạng vận về mọi mặt, có tới 20,9% hỏi về đường công danh và 18,2% hỏi về hoạn lộ. Đấy mới chỉ trong lĩnh vực tướng pháp, chưa nói đến các thuật chiêm bốc khác, như Dịch quái, Chiêm tinh, Chiết tự, Lục Nhâm độn ...

Tất cả các thuật chiêm bốc, tuy tên gọi khác nhau, nhưng đều xuất phát từ các tin tức, dữ liệu hoặc phù hiệu mà tìm ra quan hệ tương ứng với nhân sự (người và việc). Chiêm tinh thuật căn cứ vào sự thay đổi vị trí của các ngôi sao. “Dịch” là thứ phù hiệu mà thuật sĩ thông qua tượng quẻ để giải đoán. Thông thường có năm loại phù hiệu là văn tự, ngôn ngữ, đồ hình, đường vạch, màu sắc. Khi một dữ kiện chưa đủ giải quyết vấn đề, thuật sĩ có thể chọn lấy phù hiệu mới để giải đoán cho xong mới thôi. Có thể nói các dữ kiện và phù hiệu sẽ được lập thành một phương trình có vô số lời giải khác nhau tuỳ theo nhu cầu cụ thể, mà người không phải là thuật sĩ sẽ không sao hiểu nổi.

Chẳng hạn, từ giờ, ngày, tháng, năm sẽ lập nên phương trình tám chữ (như Nhâm Tý, Quý Tỵ, Kỷ Mão, Bính Thân, chẳng hạn). Tám chữ này có liên quan tới ngũ hành Kim Mộc Thuỷ Hoả Thổ. Tuỳ theo người xem bói muốn bói về lĩnh vực hoặc phương diện gì (công danh, hoạn lộ, thọ yểu, giàu nghèo, hôn nhân, gia trạch, cầu tài, càu mưa, kiện tụng, ăn uống, ...), thuật sĩ sẽ đưa ra những lời giải khác nhau về người và việc đã xảy ra, đang diễn biến hoặc dẫn tới kết cục thế nào. Sự linh nghiệm sẽ phụ thuộc vào hai yếu tố chính là dữ kiện, tin tức ban đầu có chính xác hay không và tài nghệ của thuật sx cao minh đến mức nào. Một thuật sĩ cao minh hoàn toàn có thể điều chỉnh những dữ kiện thiếu chính xác ban đầu, để đưa ra những lời giải xác đáng, đáp ứng đúng nhu cầu của người xem bói.

Các danh gia bàn về mệnh

“Khổng Tử Tập Ngữ” có viết:

“Khổng Tử nói: Ngày xưa các bậc thánh nhân quân tử uyên bác mà không gặp cơ hội tốt thì có nhiều thú vị, đâu phải riêng một Khổng Khâu này? Hiền với dữ là chỉ về tài, vi với bất vi là chỉ về người, ngộ với bất ngộ là chỉ về thời, tử với sinh là chỉ về mệnh. Còn tài năng mà không gặp thời cơ tốt, thì dù có tài cũng vô dụng. Nếu gặp cơ hội tốt, thì có gì ngăn trở nổi ta?

Trong “Khổng Tử Tập Ngữ” lại kể:

“Lỗ Ai Công hỏi Khổng Tử: “Có trí tuệ thì trường thọ phải không?” Khổng Tử đáp: “Người có ba cái chết không phải do mệnh chủ định, mà là do người tự chuốc lấy. Người nghỉ ngơi không đúng lúc, ăn uống không tiết chế, làm lụng quá độ, thì bệnh tật sẽ kéo đến sát hại là một cái chết. Người ở địa vị thấp mà cứ phạm thượng, ham dục quá độ, yêu sách không ngừng, thì sẽ bị hình phạt kéo đến sát hại, là hai cái chết. Người ít mà xâm phạm chỗ người đông, nhỏ yếu mà khinh khi lớn mạnh, giận dữ mà không tự lượng sức mình, thì sẽ bị binh khí ập đến sát hại, là ba cái chết. Ba cái chết kiểu ấy là không phải do mệnh, mà la do người ta tự chuốc lấy”.

“Liệt Tử. Lực Mệnh thiên” có viết:

Lực hỏi Mệnh: Công lao của người làm sao sánh nổi với ta?

Mệnh đáp: Vậy ngươi có công lao gì đòi sánh với ta?

Lực nói: Thọ yểu, khốn cùng, thành đạt, bần tiện, phú quý, đều là những việc Lực ta có thể làm.

Mệnh đáp: Trí tuệ của Bành Tổ chẳng hơn gì Nghiêu, Thuấn, mà thọ đến tám trăm tuổi; tài năng của Nhan Hồi không thua gì ai, vậy mà chỉ sống được đến tuổi ba mươi hai.Đức độ của Trọng Ni không thua gì các chư hầu mà bị khốn ở Trần Thái; Kiệt, Trụ bạo ngược mà lại làm vua. Lý Trát không được làm quan ở đất Ngô, Điền Hoàng Chuyên lại có nước Tề. Bá Di, Thúc Tề chết đói ở núi Thủ Dương. Nếu đây là do Lực nhà người làm được, vì sao lại khiến người này trường thọ, kẻ kia yểu tử? Vì sao để thánh nhân khốn cùng, mà nghịch tặc lên ngôi? người thiện nghèo khổ, mà kẻ ác lại giàu sang?

Lực nói: Ngươi nói như vậy, thì ta không có công lao gì? Có phải sự vật vốn thế, hay là do Mệnh đã an bài mà thành như vậy?”

Lư Trụng Nguyên đời Đường giải thích: “Mệnh là phần tất định, không có lực bất thành mệnh, lực là lực tiến thủ, không có mệnh bất thành lực. Có mệnh đó, ắt nhờ lực đó. Có lực đó, hoặc giả phù trợ với mệnh đó, hoặc giả khong thể với tới, thì gọi là vô mệnh (nghĩa là có mệnh nhưng cũng chẳng khác gì vô mệnh). ỷ vào mệnh mà không cần lực, gọi là đợi thời. Tin mệnh mà không tin lực, là sai lầm lớn. Tin lực mà không tin mệnh, cũng sai lầm nốt”.

“Thân Giám” viết:

Có người hỏi: “Tại sao người nhân nghĩa thì trường thọ?”.

Ta đáp: “Người nhân nghĩa bên trong không làm tổn hại tính, bên ngoài không làm tổn hại vật, trên không phạm điều trời, dưới không phạm đến người, giữ đúng chừng mực, hoà khí, nên tai hoạ không đến, mà gặp toàn những điều tốt đẹp. Đó là bí quyết trường thọ”.

Lại hỏi: “Chuyện Nhan Hồi thì sao?” (Nhan Hồi có tài mà bị chết sớm).

Ta đáp: “Đó là mệnh. Lúa mạch không phải chỉ chín rũ vào mùa hạ, hoa đẹp không chỉ nở bừng vào mùa xuân. Hoà khí thế nào mệnh như thế ấy, tuy nói là đoản, nhưng trong có trường”.

Vương Xung trong “Tụng Hành” viết:

“Phàm người ta gặp mọi chuyện hay dở đều do mệnh quyết định. Có mệnh tử sinh thọ yểu, có mệnh phú quý bần tiện. Từ vua chúa đến thường dân, từ thánh hiền đến hạ ngu, hễ có đầu, có mắt, có máu, ắt đều có mệnh. Định mệnh nghèo khốn thì dù đang phú quý, cũng sẽ gặp tai hoạ. Định mệnh phú quý, thì dù đang nghèo khốn, cũng sẽ gặp phúc thiện. Cho nên người có quý mệnh, khả dĩ từ tiện thành quý, người có tiện mệnh, từ giàu ắt sẽ thành nguy. Phú quý giống như thần trợ, bần tiện giống như quỷ hoạ”.

Vương Xung còn viết trong “Luận Hành”:

“Tống, Vệ, Trần, Trịnh, bốn nước cùng bị diệt vong một ngày. Nhân dân bốn nước còn chưa đến nỗi lộc bị suy bại, nhưng cùng bị tai hoạ huỷ diệt. Đó là vì đất nước bị xâm lăng, bị quốc hoạ. Cho nên quốc mệnh thắng (hơn) nhân mệnh, thọ mệnh thắng (hơn) lộc mệnh”.

Dương Hùng trong “Pháp Ngôn” viết:

“Có người hỏi mệnh, ta đáp: Mệnh là do trời định, không phải do người tạo ra. Người tạo ra, không phải là mệnh. Lại hỏi: Thế nào là do người tạo ra? Ta đáp: Làm cho sống mà như chết, chết mà như sống, đó không phải mệnh, mà là do người tạo ra. Mệnh thì không thể né tránh, mệnh là tất định. Đối với cát nhân, hung cũng là cát; đối với hung nhân, cát cũng là hung. Thời gian cứ trôi đi, đến thì quá chậm, đi thì quá nhanh, cho nên quân tử rất quý thời gian!”.

Lý Tiêu Viến trong “Đới dương truyện” viết:

“Bằng vào tài năng của Khổng Trọng Ni (tức Khổng Tử) mà hai nước Lỗ, Vệ không được giáo hoá toàn vẹn, bằng vào tài hùng biện của Khổng Trọng Ni mà lại không được Lỗ Định Công và Ai Công tin phục, bằng vào sự khiêm nhượng của Khổng Trọng Ni mà còn bị Tử Tây đố kỵ, bằng vào trí tuệ của Khổng Trọng Ni mà còn bị nguy khốn ở Đông Thái, bằng vào đức hạnh của Khổng Trọng Ni mà còn bị Thúc Dã phỉ báng. Đạo đủ để cứu khắp thiên hạ, mà lại không thể khiến cho một người thành quý nhân; ngôn (lời nói) đủ để luận vạn đời, mà đương thời chẳng được tin dùng; đức hạnh đủ để cảm động thần linh, mà lại không thể kinh phò một người trần tục; ứng phó được với mấy chục quốc gia mà lại không được quân vương trọng dụng, phải bôn ba khắp nơi, chịu nhục chốn công khanh, Khổng Tử không gặp thời là như thế. Đến đời con cháu của Khổng Tử hoàn toàn chẳng hoàn mỹ như cha ông, vậy mà lại được phong đất rất rộng, chu du khắp các chư hầu. Học trò của Khổng Tử chẳng buồn làm quan, ngồi nghỉ ở nhà mà được Nguỵ Văn hầu bái làm sư (thầy), người khắp nơi vô cùng tôn kính, trong khi về mọi phương diện không thể so với Khổng Tử. Cho nên trị loạn là mệnh, khốn cùng hay thành đạt là mệnh, quý tiện là thời. Quân tử bất đắc ý, mới thốt lên chê trách triều đại không tốt. Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, Giả Nghị phẫn nộ cũng là vì lẽ đó. Cho nên thánh nhân sở dĩ là thánh nhân, vì biết mệnh mà vui”.

Lưu Hiệp trong “Tân Luận” viết:

“Mệnh là căn bản của một đời. Tướng là trợ thủ cho mệnh mà thành. Mệnh đã có, khỏi cần hiện hình, tướng thì phải hiện hình. Có mệnh, nhất định có tướng. Có tướng, nhất định có mệnh. Tướng mệnh của người, hiền ngu quý tiện, trường đoản cát hung, kết thai chế khí, tiếp khí hậu mà sinh ra, hoặc cảm nhận ngũ đế tam quang, hoặc ứng với long tích khí mộng giáng lạc xuống trần gian, cho nên tướng mệnh phải vâng theo trời và tinh tú. Gặp cát tinh thì cát lợi, gặp hung tinh thì hung hiểm. Vì thụ khí ban đầu, nên tướng mệnh đã định sẵn, quỷ thần hay thánh nhân cũng không thể cải biến”.

Trương Sùng Lan trong “Hối Lư Văn Sao” viết:

“Có người hỏi: Nói định mệnh là thế nào? Ta đáp: Cứ xem thánh hiền thời xưa nghèo khổ bần tiện, còn bọn tiểu nhân lại phú quý trường thọ, thì khắc hiểu. Nếu không phải là định mệnh an bài, tại sao lại bất công đến như thế? Lại hỏi: Nếu vậy, thì có cần nỗ lực tu dưỡng đức hạnh, miệt mài làm lụng không tiếc sức nữa chăng? Ta đáp: Cái đó gọi là giữ Đạo mà đợi mệnh. Giống như phải ăn để mà sống, dù biết thọ yểu là định mệnh, nhưng không thể bỏ việc ăn uống. Mà sự thọ yểu khác nhau hoàn toàn không phải vì sự ăn uống no đủ hay thiếu thốn. Cho nên người hiểu mệnh sẽ không bỏ sự nghiệp đang làm, không quan tâm nhiều đến phú quý bần tiện. Kẻ tiểu nhân thì ngày nào cũng chăm chăm tìm đủ mọi cách để đoạt lấy tiền tài bất nghĩa, đoạt được thì dương dương tự đắc, cho là nhờ tài năng của mình, chứ không hiểu đó cũng là định mệnh. Lại hỏi: Nay có kẻ trộm cướp tài sản của người khác, chẳng lẽ trộm cướp cũng là định mệnh? Ta đáp: Làm trộm cướp không phải là định mệnh, nhưng trộm cướp có lấy được tiền của hay không thì là do mệnh. Phàm những sự có thể tự làm chủ thì không liên quan đến mệnh, tại sao không thể tự chấm dứt việc trộm cướp? Hơn nữa trộm cướp không phải lần nào cũng lấy được tiền của, điều này đã rõ ràng. Cây cỏ nở hoa cũng phải có thời gian nhất định. Nếu đem vào trồng trong nhà, chăm sóc tưới bón đúng cách, thì hoa xuân có thể nở giữa mùa đông, hoa mùa thu có thể nở giữa mùa hạ. Nhưng đến một lúc nhất định sẽ không thể nở nữa. Hoa chỉ nở sớm hay muộn, chứ không thể cưỡng bách loài không có hoa phải nở hoa. Nghĩa là chỉ cưỡng bách những gì không thuộc về căn bản, thì may ra còn được. Không thể bỏ việc học hành, làm như vậy tức là không giữ mệnh, là trái lẽ tự nhiên, thì ắt nguy khốn.

Sử Niệm Tổ trong “Du Du Trai Văn Cảo” viết:

“Học thuyết Ngũ hành sinh khắc, bậc quân tử tin vào nó, nhưng không tin đến mù quáng, mà chỉ nên coi đó là thứ lý luận tham khảo. Những người quá sa đà vào học thuyết ấy cho câu nói của Tống Nhân Tông “Phía tây của nhà bên đông là hướng đông của nhà bên tây” là một câu đầy trí tuệ. Kỳ thực đó chỉ là thứ ngôn luận ngu muội. Thiên địa rộng lớn, vạn vật ở trong đó làm gì có phương hướng. Con rận không bỏ về phía nam, kim nam châm không chỉ về hướng đông tây. Nhưng người đi về phía nam, con rận trên thân người ấy chẳng hề chết. Cầm la bàn chạy theo hướng đông tây, hướng mũi kim không đổi. Nếu muốn bàn đến độ gần xa trên đại địa mênh mông, thì Thái Sơn không nhất định ở phương đông, Hoa Sơn không nhất định ở phương tây, việc tế lễ không nhất định phải cử hành ở đàn Nam Giao, cũng chẳng thể nói có phương bắc. Viên Giản Trai của bổn triều cho rằng thiên can địa chi không có ý nghĩa, những chữ số 1, 2, 3, 4 chẳng khác gì nhau. Nếu đây là chữ số đại diện, thì bát quái cũng là chữ số, chữ số thành thì nghĩa lý thể hiện, nghĩa lý thể hiện thì cát hung sinh, cầu sinh con trai mà gặp số 1 và số 3, cầu lấy vợ mà gặp số 2, số 4, sao bảo đó không phải là điềm triệu? Huống hồ khí ngũ hành là mẹ của vạn vật, đơn thuần hay phức tạp, dày hay mỏng, biến hoá vô cùng tận. Tích tụ dầu quá nhiều thì sẽ tự đốt cháy mình, tích tụ thuỷ quá nhiều thì sẽ sinh rêu, tích hoả quá nhiều thì sẽ thành tro. Thuỷ có chứa Kim thì sẽ không khô hạn, sẽ tự ngấm vào Thổ (đất) mà chảy. Chứa ngũ kim liền với nhau trên núi cao sẽ không mọc một ngọn cỏ. Cỏ mọc bám vào tường thành, thì tường thành kiên cố rồi cũng sẽ sạt lở. Thuỷ trùng né tránh chỗ đất khô hạn, mộc trùng e sợ gió tây. Gà (là Dậu thuộc Kim) cất tiếng gáy vào giờ Mão. Chuột (Tí thuộc Thuỷ) rời hang vào giờ Sửu. Heo cái (Hợi, Thuỷ) sinh lần thứ hai ăn rắn giun đỏ (Tỵ, Hoả), cóc sợ lửa (Hoả), giao ly sợ Kim, có khi cường tráng mà e sợ nhược tiểu, lớn mà sợ nhỏ, mềm mà phá được cứng. Đại khái là sự vật đắc khí thuần mà thâm hậu thì triệu chứng hiển minh, đắc khí phức mà mỏng manh thì triệu chứng lẫn lộn pha tạp. Chỉ có sự vật khó nói lý, không có sự vật vô lý. Không phải người uyên bác cũng chẳng thể lý giải đến cùng. Ta từng đọc bao nhiêu loại sách, nhiều lần phải thốt lên những lời thán phục các khoa chiêm tinh, độn giáp, phong thuỷ địa lý dựa trên học thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Nhưng đáng sợ thay, những người vận dụng học thuyết ấy như Khoái Thông, Hoa Đà, Thịnh Phác, Lý Hư Trung ... lại toàn chuốc hoạ vào thân. Mấy ai đủ tài bình tĩnh quan sát vạn sự vạn vật, quy về một mối, vượt qua được cát hung hoạ phúc, thấu hiểu hết sự ảo diệu của âm dương ngũ hành?”.

Bài “Từ” của Mông Chính viết:

“Văn chương cái thế như Không Tử mà còn khốn ách ở nước Sài, vũ lực siêu quần như Lã Vọng đành ngồi câu cá nơi sông Vị. Thầy Nhan Hồi chết yểu đâu phải vì thầy là kẻ hung bạo. Bọn đầu trộm đuôi cướp lại sống lâu, chúng nào có lương thiện gì. Vua Nghiêu, vua Thuấn là đấng minh quân, sinh ra lũ con vô lại. Cổ Tấn tâm tính ngang ngược thì con cái toàn người hiếu thuận. Cam La mười hai tuổi làm thừa tướng. Mãi Thần năm mươi tuổi được công khanh. án Anh thấp bé vua Tề phong cho chức Tể tướng. Hàn Tín trói gà không chặt lên ngôi vị thống soái Hán triều. Lúc chưa gặp thời, cơm không đủ ngày hai bữa, khi vận hanh thông đoạt tam ấn Tề vương. Triệu Xong nắm giữ hùng binh nhiều nước, một sớm một chiều hết thời chết trong bụi cỏ. Lý Quảng tay không đánh chết hổ, suốt đời không tước lộc. Phùng Đường tài an bang tế thế, đến già vẫn chẳng chỗ dung thân.

Thượng cổ thánh hiền, chẳng ai trốn thoát vòng số mệnh âm dương”.

Độc Dịch lão nhân thời Tiền Đường nói: “Thánh nhân đã dạy: Không biết mệnh chẳng thể làm quân tử”.

Ký Sự

Sách “Đào Yên tùng đàm” ghi:

“Tương truyền Khổng Tử sinh ngày 17 tháng Tám, mất ngày 18 tháng Hai. ít ai biết can chi. Ta đã tra ra được 8 chữ là Canh Tuất, ất Dậu, Canh Tý, Giáp Thân. Chu lịch lấy tháng mười làm chính nguyệt”.

Sách “Thông Hội” của Viên Thụ San ghi Khổng Tử sinh tháng Mậu Tý, chứ không phải tháng ất Dậu”.

“Nguỵ thư. Tôn Thiệu truyện” viết: “Tôn Thiệu cùng các quan vào triều, cửa cung chưa mở, thế là đứng ngoài cửa chờ trời sáng. Tôn Thiệu kéo quan Lại bộ lang trung Tân Hùng ra khỏi chỗ đông, nói nhỏ với Tân Hùng: “Những người kia không lâu nữa sẽ chết hết, chỉ có tôi và ông còn được hưởng phú quý mà thôi”. Tân Hùng kinh hãi, chưa hiểu sẽ có chuyện gì. Quả nhiên không lâu sau xảy ra tai nạn Hà Âm, đúng như lời Tôn Thiệu. Tài đoán mệnh của Tôn Thiệu ai biết cũng lấy làm kinh dị”.

Sách “Hàn xương Lê văn tập” ghi:

Điện trung thị vệ Lý Hư Trung, tự Thường Khách. Thế tổ Lý Xung sống vào thời Thá Phát Nguỵ rất hiển hách. Phụ thân của Lý Hư Trung tên Lý Huy, làm huyện uý huyện Ôn, tỉnh Hà Nam, lấy con gái thái thú Trần Lưu, sinh được sáu người con, Lý Hư Trung là út, rất được cha mẹ yêu vì. Đến tuổi trưởng thành, Lý Hư Trung miệt mài học tập, việc gì cũng tinh thông, đọc các loại sách dịch lý hiểu rất sâu xa, nghiên cứu ngũ hành sinh khắc áp dụng vào năm tháng ngày giờ sinh của mọi người mà đoán mệnh cho họ về thọ yểu, hiền ngu, cát hung, đoán đâu trúng đó, vô cùng linh nghiệm.

Sách “Đông hiên bút lục” của Nguỵ Thái ghi:

Vào thời kỳ Khánh Lịch, Chương Tuân Công bị bãi chức tể tướng, đi làm tri châu ở Trần Châu. Trương Phương Bình, Tống Tử Kinh là hai học sĩ cùng đến bái kiến, họ Chương nói “Đời người sang hèn đều có số mệnh cả. Ta xem ngày giờ tháng năm sinh của người ta, nếu có ba điểm tương hợp về can chi, thì không làm tể tướng ắt cũng làm khu mật phó sứ”.

Hai vị Trương, Tống ra về, liền theo cách đó đoán mệnh cho mọi người, trong đó chỉ có hai người là Lương Thích và Lã Đoan Bật có ba điểm can chi tương hợp, thì thở dài, vì khi ấy Lương, Lã chỉ là hai vị quan nhỏ trong triều. Nhưng đến năm Hoàng Thạch, Lương Thích được làm tể tướng, năm Hi Vũ, Lã Đoan Bật được làm khu mật sứ, ứng với lời Chương Tuân Công ngày trước.

Sách “Kiến Quang tiền lục” của Thiệu Kiện Ôn ghi:

Thông Diễn đã 80 tuổi, giỏi thuật đoán mệnh, giao du rộng rãi với các bậc sĩ đại phu. Đầu năm Thiệu Thánh, ta làm quan ở Trường An, có hỏi Thông Diễn về mệnh của Phạm Tuyên Công. Thông Diễn đáp: “Mệnh của Phạm thừa tướng chỉ làm đến chức tham tri chính sự là cùng. Nhưng hiện thời mạng của những người giúp việc trong triều đình đều tương đối kém, nên Phạm Tuyên Công mới giữ được chức tể tướng”. Thông Diễn còn nói: “Mệnh cách thời cổ không thể áp dụng cho hiện tại. Thời cổ quý nhân ít, phúc nhân nhiều. Hiện tại quý nhân nhiều, phúc nhân ít”. Ta hỏi giải thích điều đó thế nào, Thông Diễn đáp: “Ngày xưa, người có mạng đúng cách thì làm tể tướng, kém hơn thì làm lưỡng chế, kém nữa thì làm khanh giám trông coi một châu quận, thụ hưởng an nhà khoái lạc, con cháu đông đúc, điền trạch đề huề, tuy không tôn quý bằng chức lưỡng chế, nhưng phúc thì chẳng kém. Cho nên nói là phúc nhân nhiều, quý nhân ít. Hiện tại, trong triều đình chức lưỡng chế chỉ làm một thời gian không lâu đã chuyển cho người khác, cũng chỉ là một chức quan bình thường trong triều, không thể truyền lưu con cháu, bởi vì chức này phát đạt nhờ vào sự hình sát, không lâu sẽ chuốc hoạ. Cho nên nói quý nhân nhiều mà phúc nhân thì ít”.

Sách “Đông Ba chí lâm” ghi:

Tứ Xuyên có một vị tên là Dương Cấn, giỏi về đoán mệnh, tuy mù loà nhưng rất uyên bác, giao du rộng với các vị công khanh ở miền đông nam. Dương Cấn chỉ dựa vào ngũ hành mà đoán cát hung, lời lẽ vô cùng sắc bén. Năm Tân Dậu đời Hỷ Thái, Dương Cấn đến Cửu Giang, thái thú Dịch Văn Xương lưu ông lại khoản đãi, đưa các vị quan trong quận đến gặp ông. Vừa hay ta cũng gặp Chu Mộng Dư ở đó. Bấy giờ Hàn Bình Nguyên đang được nhà vua sủng ái, quyền lực chấn động thiên hạ. Chu Mộng Dư bèn hỏi Dương Cấn về mệnh của Hàn Bình Nguyên. Dương Cấn bảo những người khác ra ngoài, rồi lo ngại đáp: “Người này sẽ gặp nạn. Năm sinh Nhâm Thân thuộc Kim, Thân cũng là Kim, có Khôn thổ ở đó bồi đắp, nên Kim trở nên cứng rắn vô tỉ. Do đó người này là Kiếm Phong Kim. Kim này không sợ lửa (Hoả), chỉ có Bính Dần mới khắc chế được nó. Bởi vì can chi Bính Dần khi nạp âm sẽ là Hoả, mà là hoả mạnh nhờ có Dần mộc sinh cho Bính Hoả, thành thử Hoả bốc rất mạnh, không hề bị tắt, đủ nung chảy mọi thứ Kim. Giờ sinh của người ta chủ về vãn niên (lúc tuổi già), hiện tại đã ứng vào tuổi của Hàn Bình Nguyên. Huống hồ ông ta sinh vào tháng Tân Hợi, ngày Kỷ Tỵ, tương hợp với giờ sinh Bính Dần và năm sinh Nhâm Thân, có đủ Tứ mạnh (Tứ mạnh là tên của bốn tháng đầu mỗi quý, như Mạnh Xuân là tháng Giêng (Dần), Mạnh Hạ là tháng Tư (Tỵ), Mạnh Thu là tháng Bảy (Thân), Mạnh Đông là tháng Mười (Hợi), nhị khí giao chiến, tuy nhờ đó mà thành đại phúc, nhưng cũng vì thế mà gặp đại hoạ. Điều này những người đoán mệnh đều biết. Song họ cho rằng ông ta sẽ bị bệnh chết vào năm Bính Dần, thì lại chưa đúng. Bởi vì Hoả viêm, Kim bị nung chảy, ngoài cương trong khô, cương gặp liệt, cả thiên địa thành một chiếc lò rừng rực, vạn vật đều tiêu rụi, còn ai dám đến gần? Đến năm Mão, Hoả là Mộc Dục, khí nhỏ mà hại, tro bụi tan hoà, không thể thừa thụ được nữa. Những vật thừa tải (mệnh) quá lớn, không thể không tận dụng. Nhất dwong sẽ nảy sinh (chỉ tháng 12) chắc là thời gian ông ta qua đời”.

Chu Mộng Dư nghe vậy thì thất sắc, đem lời nói của Dương Cấn ghi lại thành sách, không dám nói ra.

Sau quả đúng như vậy.

Đời nhà Đường, có tướng thuật gia nổi danh tên Viên Thiên Cương. Mẹ của Võ Tắc Thiên dắt đứa con gái còn nhỏ (Võ Tắc Thiên) mà bà cho nó giả làm trai, đến nhờ Viên Thiên Cương xem tướng. Họ Viên nhìn mắt và dáng đi của nó, ngạc nhiên nói: “Mắt rồng, cổ phượng, cực quý hiển, nếu nó là con gái, nhất định sẽ lên ngôi thiên tử”.

Quả nhiên về sau Võ Tắc Thiên làm vua.

Lịch sử còn ghi vô số người và việc đã được khoa tướng số dự đoán trước nhiều năm và sau đó diễn biến đúng như vậy. Thử hỏi, người đời có mệnh hay không?

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #saddevil