DAI VIET THONG SU 2
Đại Việt Thông Sử
LIệT TRUYệN
Thần Đôn soạn
NGHỊCH THẦN TRUYỆN
PHÚC NGUYÊN
[tờ 49a] Phúc Nguyên là con trai trưởng Phúc Hải, tiếm ngôi vào tháng 5 niên hiệu Nguyên hòa
thứ 14 (1546), đổi năm Đinh Tỵ sau (1547) làm niên hiệu Vĩnh Định thứ nhất.
Lúc này Phúc Nguyên còn nhỏ tuổi, chưa biết quyết đoán việc gì, bao nhiêu công việc lớn nhỏ,
đều ủy cả vào thúc phụ là Khiêm Vương Kính Điển phân xử.
Ngụy tôn tổ mẫu họ Phạm làm "Thái hoàng Thái hậu ".
Khi Phúc Hải chết, Tướng là Tứ Dương Hầu Phạm Tử Nghi bàn rằng:
"Hiện trong nước đương lúc nhiều nạn, nên lập [tờ 49b] vua lớn tuổi. Con Đăng Dung ngụy
Hằng Vương Chánh Trung đã nhiều phen cầm quân, và thường thắng trận. Vậy xin dựng lên nối ngôi ".
Nhưng các tôn vương họ Mạc, và đại thần là bọn Kính Điển, Nguyễn Kính đều không theo, bàn
định dựng Phúc Nguyên lên ngôi. Bởi thế Tử Nghi không toại nguyện, bèn ngầm sinh lòng khác, bí mất
tụ hợp các Tướng Bộ khúc, rồi cùng với Thành quốc công khởi loạn. Phúc Nguyên phải qua sông chạy về
Đông vào ban đêm, bọn Kính Điển, Nguyễn Kính và Trần Phỉ xuất quân đón cứu Phúc Nguyên.
Tử Nghi bèn đem Chánh Trung chiếm cứ Ngự Thiên ở Hoa Dương, rồi tiếm xưng tôn hiệu, ngụy
lập triều đình. Các bầy tôi văn võ nhiều người theo.
Phúc Nguyên sai Kính Điển và Nguyễn Kính phát binh đánh Tử Nghi, nhưng Tử Nghi vốn là một
kiện tướng, lại thêm quân sĩ đều gắng sức, bởi thế Kính Điển đánh mấy trận đều bị thua.
[tờ 50a] Tử Nghi đưa tờ bố cáo cho các Trấn, kể tội phản nghịch của Nguyễn Kính, lại kể cả
chiến công nơi sông1
... và bến Lục. Tuyên ngôn là sẽ đánh thẳng vào Đông Kinh. Làm cho phương Đông
Nam rung động! tờ bố cáo rằng:
"Thuận đức thì thịnh, đó là lẽ của trời; vì nghĩa động binh, để dương oai vô địch. Tội kẻ nghịch
tặc không thể dong tha, người trong thiên hạ ai cũng được hỏi. Giết Hàn Trác để thờ tôn miếu họ Hạ.
Tướng binh nhờ kế Thần mỹ2
, diệt giặc Hồ để phục kinh đô nhà Đường, xuất Tướng nhờ sức Phần
dương3
. Hội đồng không sai, xưa nay cùng hợp.
Vua Thái Tổ mở nền, thực trời cao sinh đức, được danh, được vị và được lộc, lịch số ưng truyền;
cùng văn cùng lối lại cùng hàng, xuân thu tổng quát. Kẻ nào không phục, [tờ 50b] liền đánh dẹp ngay;
1
Chữ này là tên con sông, nhưng chính bản bỏ trắng khoảng một chữ, vậy không biết là sông gì ? Xét văn dưới, chép
đến khi tiến quân tới con sông này, cũng bỏ trắng khoảng một chữ như đây.
2
Hàn Trác bầy tôi vua Hậu Nghệ, giết Nghệ tự lập làm vua. Thiếu Khang giết Hàn Trác khôi phục nhà Hạ.
3
Quách Tử Nghi Tướng nhà Đường, phong tước Phần dương vương, dẹp giặc Hồ khôi phục nhà Đường. 56 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
Giặc Như Bích dong ruỗi phương Nam, quan quân kéo đến, thế như sét đánh; giặc Văn Uyên xưng hùng
phương Bắc, thần vũ dương oai, mạnh tựa sấm vang. Các châu Khâm Liêm, sợ hải không dám liên can;
các nước Đồ Bàn, xưng thần mà tới cống hiến. Việc định công thành sự, được nước tựa ba đời trước;
thánh truyền thần nối, hưởng ngôi tôn hơn hai mươi năm. Mưu mô không thiếu, quốc gia thái bình. Triều
đình tôn thế chẳng can liên, bầy tôi sợ thẩy đều tuân mệnh.
Tên nghịch Kính kia, vốn là Tướng giặc. Nhờ vua Thái Tổ, lòng nhân trời che đất chở, coi như
đứa con; được các vua sau, tỏ đức bể bọc xuân nuôi, [tờ 51a] ân thêm cố kết. Nào là cho đổi họ lại cho
ruộng vườn; phong tước cho con trai lại phong con gái.
Đáng lẽ y phải ghi dạ khắc xương, tỏ tình khuyển mã; thế mà y lại tạo ra hung ác, như hổ vào
nhà. Lật lọng trái nghĩa bầy tôi, ngấm ngầm rặt lòng phản nghịch. Hấn khích rõ ràng, khi vua quá đáng.
Đánh vào Kinh Quyết, ngầm manh dạ Lộc Sơn1
; hộ giá tuyên ngôn, vờ theo thói Châu Tỵ2
. Chúng khoe
công lại hung hãn, đương báo oán trả thù riêng. Triều đình đáng tôn, mà y chuyên quyền như bỡn; lão
thần đáng trọng, mà y lại dám khinh nhờn. Mũ giày đảo lộn, [tờ 51b] phép tắc đổi thay. Những việc y
làm, không lòng sợ hãi. Giặc Khải Khang chưa ráo máu đầu, y tựa làm tay tả hữu; giặc Hữu mệnh mồm
có hơi sửa, y dùng làm binh cha con. Hữu Trảo một tên thất phu, y đồng đảng cho giữ nơi xung yếu; Tử
Nha như kẻ thất phụ, y viện binh để làm thế phô trương. Thậm chí hành quân vô kỷ luật, chỉ tàn bạo để
dương oai; Coi người như cỏ rác, quân kéo qua dân chết hết trơn; bạo ngược hơn nước lửa, quân đến
đâu nhà đốt hết sạch. Những việc đó y nỡ lòng làm, thì ai cũng có quyền đánh.
Hiện nay Thánh thượng lòng hưng, chính ngôi nam diện, [tờ 52a] mưu mô hùng đoán, quyết kế
tây chinh.
Tôi, tự thẹn tài ngu, nhờ ơn vua mến. Vì nước bỏ nhà, tỏ chút lòng trung Tướng Hán; tập binh
nhiều trí. thẹn với tài giỏi tôiTề. Kế mưu đều theo thành toán, hiên ngang xin nhận tiền phong. Thủy bộ
tiếp liên, bày ra trận đường chính; can qua thẳng chỉ, dương oai vũ huy hoàng. Ba quân như tự trời
xuống thắng trận tựa cuốn chiếu đi. Thuyền binh tới bến Lục, quân giặc vỡ tan; binh sĩ tới sông... quân
giặc hãi sợ. Chúng tuy nhiều quân và dũng mãnh, thẩy đều nghiêng giáo xin đầu hàng. Đã bắt Kình (giặc
) dựng quán, [tờ 52b] dân trở lại vui tươi. Đó là, trời giúp thì nên, đúng với kỳ thịnh trị; binh hòa thì
thắng, đã định kế vạn toàn. Sẽ thấy nhật nguyệt sáng choang, giáp binh rữa sạch, nước nhà thịnh
vượng, cơ nghiệp vững bền ".
Mạc Kính Điển hợp binh đánh Tữ Nghi, hẹn với Phụng quốc công Lê Bá Ly giúp sức. Bá Ly bèn
sai con trai giữ việc trong Phủ, sai Phổ quận công Khắc Thận truyền hịch cho Quảng quận công Nguyễn
Khải Khang, và Phú quận công Mạc hữu mệnh ở phương Tây; Khổng toàn hầu và Khang phụ hầu ở
phương Bắc, hợp các đạo quân, cả thủy bộ đều tiến, đánh phá tàn quân của Chính Trung ở Ngự thiên.
Hữu Mệnh là con trai Nguyễn Kính. [tờ 53a] và là anh Ngọc Liễn.
Tử Nghi đem Văn Minh, Chánh Trung, và Ngụy Định vương Phúc Sơn chạy, chiếm cứ An Quảng.
Phúc Nguyên lại trở về Đông Kinh.
Lúc này, xứ Hải Dương bị nạn binh hỏa luôn luôn, rất nhiều người phải lưư vong.
Mùa xuân, năm Nguyên Hòa thứ 15 (1547) mở khoa thi cử nhân, lấy bọn Dương Phúc Tư cộng
30 người trúng tuyển.
Phúc Nguyên thưởng văn thần có công trong việc Cần vương, thăng cho Trần Phỉ lên tước Đông
lai hầu.
Mùa hạ, tháp Báo Thiên không vì cớ gì tự nhiên đổ lở.
Mùa thu, tháng 7, Trần Phỉ xin về trí sĩ, Phúc Nguyên không ưng, bèn thăng cho chức Thiếu phó.
1
Lộc Sơn bầy tôi vua Huyền Tông nhà Đường, cướp ngôi, tự xưng Đại yên Hoàng đế.
2
Châu Tỵ bầy tôi vua Đức Tông nhà Đường, nhân gặp loạn, loạn quân suy tôn làm chủ, rồi xưng Đế. 57 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
Sau khi Mạc Chánh Trung thất thế, bèn cùng Văn Minh và Phúc Sơn đem các gia quyến chừng
hơn trăm người chạy sang Khâm châu, vào cửa quân lưỡng Quảng tố cáo; Kể hết tội trạng Nguyễn kính
chuyên quyền và ruồng đuổi các vị cựu thần quốc thích. Đề đốc quân vụ Trương Nhạc, [tờ 53b] bèn tâu
về triều Minh, xin cứu trợ cho bọn Chánh Trung, vua nhà Minh bèn ra lệnh quan phủ Thiều châu và Thiệu
Khánh thu xếp cho bọn Chánh Trung an cư vào xứ Thanh Viễn, và hàng năm phát gạo cho, chiếu theo
cấp bậc.
Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 16 (1548), vua Trang Tông dụ Hoàng đế thăng hà, vua Trung Tông
lên nối ngôi ở xứ Thanh Hoa, đổi năm sau1
.
Sau khi Tử Nghi đã chạy, giữ xứ Yên Quảng, y lại vào đaị phận nước Tàu, khua dụ các dân Man
ở ven biển nổi loạn cướp phá, làm tao nhiễu Khâm châu và tỉnh Quảng Đông, nhà Minh không chịu nổi,
bèn truyền thư cho Phúc Nguyên rằng:
"Nhà ngươi vô lễ! Dong túng cho đảng nghịch cướp phá nơi biên thùy thượng quốc, ngươi phải
đem quân dẹp ngay. Nếu không thì đại quân sẽ đến hỏi tội ngươi ".
Phúc Nguyên nhận thư trên, xiết đổi sợ hãi, bèn sai Kính Điển dẫn quân đến An Quảng đánh Tử
Nghi. Kính Điển mật sai tên tiểu tốt dụ bắt được Tử Nghi, [tờ 54a] đem chém, rồi đưa thủ cấp tới tỉnh
Quảng Đông.
Phúc Nguyên phong Trần Phỉ chức Binh bộ Thượng thư Đô ngự sử. Tháng 4, lại gia thêm cho
Trần Phỉ Tri quán cục, tham dự triều chính. Sau thăng tước Lai quận công.
Phong Phạm Quỳnh tước Vinh quận công, phong con trai Quỳnh là Dao tước Phú xuyên hầu.
Phạm Quỳnh nguyên quán ở làng ở làng Đặng Xá, huyện Thanh Lâm, đến ngụ cư tại Thôn Bùi
Tây xã Thịnh Liệt, nhà nghèo làm nghề bán trà. Khi Kính Điển lên 2 tuổi, thường đau ốm quặt quẹo luôn,
muốn tìm người vú nuôi, Lê Bá Ly bèn sai vợ Phạm Quỳnh vào cung làm vú sữa nuôi Kính Điển. Đến đây,
Kính Điển giữ chính quyền, nghĩ tới nghĩa bảo dưỡng của vợ Quỳnh, cho nên trọng dụng cả hai cha con
Phạm Quỳnh: Sai Phạm Quỳnh giữ quyền tiết chế đông đạo; cho Phạm Dao trấn thủ xứ Sơn Nam, rồi
thăng đến tước Văn quận công.
Mùa thu, Phúc Nguyên sai bầy tôi, bọn Lê Quang Bí [tờ 54b] sang nhà Minh dâng cống hiến
thường niên.
Thời vua Trung Tông, niên hiệu Thuận Bình thứ nhất (1549), nhằm niên hiệu Gia Tĩnh thứ 28
triều Minh, Mạc Chính Trung đã chạy vào nước Tàu, bèn đến viện Đốc phủ nhà Minh, tố cáo tội trạng
Nguyễn Kính chuyên quyền, bức hiếp đuổi bọn Chính Trung. Người nhà Minh ngờ Phúc Nguyên không
phải là dòng dõi Đăng Dung, bèn truyền văn thư tra khám. Lúc này là thời kỳ Kính Điển vừa dẹp dư đảng
của Tử Nghi xong, nên xứ Hải Dương và xứ Sơn Nam được tạm yên. Kính Điển bèn hộ vệ Phúc Nguyên
đến cửa quan Trấn nam, bảo Phúc Nguyên giả tên Hoằng Dực làm tờ trạng cam kết không có giả dối, xin
được tập phong chức Đô thống sứ. Lại sai kỳ mục bọn Lê Bá Ly đi theo cùng, và cùng làm tờ văn biện
bạch rõ rệt, xin chiếu theo lệ trước, tâu đạt lên triều đình, cho Phúc Nguyên được tập phong. Quan quân
môn Lưỡng Quảng [tờ 55a] bằng lòng nhận.
Mùa hạ, ngày 11, tháng 4, giờ tỵ, các Phủ: Nam Sách, Thượng hạ tầng, Lý Nhân, Khoái Châu và
Trường An, đương lúc ban ngày, trời bỗng tối sầm, không gian liền nổi tiếng ầm ầm, rồi mưa đá đổ
xuống sầm sập! Có hạt mưa to bằng hòn đạn, có hạt to bằng cái hột gà, cũng có hạt to bằng cái đấu
hoặc hộc đá, làm hư hại lúa ngoài đồng; cây dâu trong vườn; phá hoại nhà ở; chết chim ngoài đồng;
người và súc vật bị thương rất nhiều.
Thượng thư Văn dương bá Tạ Đình Quang dâng tờ sớ rằng:
"Kính xét sách "Xuân thu khảo dị "và sách "Văn hiến thông khảo ", điều nói rằng: "Mưa đá là cái
tượng khí âm hiếp khí dương ". Đó là ứng về sự bầy tôi có thế lực chuyên quyền, và cũng bởi những sự;
1
Câu này chính bản chép "cải minh niên " (đổi năm sau ". Như vậy chưa đủ nghĩa. Hoặc chép sót mấy chữ "vi thuận bình
nguyên niên " (làm niên hiệu Thuận bình thứ nhất ) chăng ? 58 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
Người hiền bị che kín; chỉ dùng người gian; nghe lời gièm, sưu cao thuế nặng; pháp lệnh đổi thay, cho
nên mới có tai dị đó.
Nay bệ hạ tuy đã lớn tuổi, [tờ 55b] nhưng chưa đích thân điều khiển chánh sự, thì cái tai dị
mưa đá kia, chưa có thể đổ cả vì lỗi của vua. Vị Hoàng thúc thân vương, không thể coi viêc này làm
thường được, và các vị đại thần cùng bá quan văn võ, há không tự nhận lỗi m à tìm phương cứu chữa ru
? Kính mong bệ hạ, ngày ngày chăm học thánh để tiến công thánh; lúc nào cũng tôn mệnh trời và sợ oai
trời.
Về phần Khiêm Vương, nên tận thành tự xét mình...1
. Đừng lấy thiên hạ tạm định tạm yên làm
đáng mừng; nên lấy công việc khó thành dể bại làm đáng sợ. Xử quyết công việc, thăng giáng các quan
liêu, đừng sợ mếch lòng người mà không quyết đoán; chọn lọc cấm binh, nén hãm kẻ quyền quý, đừng
cho là việc khó mà chỉ thờ ơ. [tờ 56a] Những kẻ gièm pha có hại đến người hiền tài, và những kẻ siểm
nịnh, chỉ chực cầu ơn, đều nên ruồng bỏ hết thẩy, để cho tà không can chính, âm khỏi xâm dương. Sẽ co
thể chuyển tai họa thành điềm lành ".
Phúc Nguyên nhận tờ sớ này, nhưng không theo nổi.
Mùa thu, Phúc Nguyên phong tước Quốc công cho viên Tướng Đông đạo mỗ; đổi phong tước
Khiên quốc công của Mạc Đình Khoa ra tước Gia Quốc Công; bổ chức Thái úy cho hai Tướng Tây đạo Tây
quốc công Nguyễn Kính và Đoan quốc côngNguyễn Khải Khang, đều cho đổi sang họ Mạc; thăng tước
Nam đạo Phụng quốc công Lê Bá Ly lên chức Thái tể; ra lệnh duyệt tuyển quân 4 Vệ nội ngoại.
Bá Ly là một vị lão tướng trọng thần, chuyên giữ binh quyền, tham dự triều chính ai cũng tôn
phục. Sau khi đánh phá Phạm Tử Nghi, uy danh càng thêm lừng lẫy! [tờ 56b] Con trai là Phổ quận công
Khắc Thận, lấy trưởng công chúa Cẩm Hương, lại giữ quyền Tiết chế Lộ Sơn Nam, và giữ việc trong phủ;
con rể là Văn phái hầu Nguyễn Quyện giữ vệ Cẩm y; con trai thứ là Thuần Lương Hầu cũng quản đốc đội
cấm binh; nhân gia là, Thư quận công thiến, chức Thượng thư Bộ lại, Đổng giang hầu Bùi Trụ chức Tán
lý quân vụ. Thân đảng kết liên, khí thế rực rỡ, bao nhiêu hùng binh các Trấn, đều nắm trong tay, bao
nhiêu bầy tôi văn võ, đều ra bởi cửa. Phạm Quỳnh, và Phạm Dao, nguyên trước xuất thân trong hàng
đầy tớ nhà Bá Ly, bây giờ chúng được hiển đạt, lại đem lòng oán ghen, muốn tính sự hãm hại Bá Ly.
Mùa xuân, niên hiệu Thuận Bình thứ 2 (1550), Phúc Nguyên mở khoa thi Cử nhân, [tờ 57a] lấy
bọn Trần Văn Bảo cộng 25 người trúng tuyển.
Tháng 10, Trần Phỉ xin trí sĩ, Phúc Nguyên phong cho hàm Thiếu sư, cho về làng.
Năm Tân Hợi, niên hiệu Thuận Bình thứ 3 (1551), lúa này con trai Thái tể Bá Ly là Khắc Thận
trấn thủ xứ Sơn Nam, đóng Đồn ở Văn Sàng, Thận đương tuổi thanh niên, chỉ ham chơi bời ca hát, ít khi
làm việc, lại cất nhà cửa lộng lẫy, sắm kiệu son, lộng vàng. Phạm Quỳnh và Phạm Dao bèn gièm với Kính
Điển, bảo Khắc Thận có dị mưu (phản nghịch ). kính Điển ngạc nhiên mà rằng:
"Quốc gia trông cậy vào Tướng phụ (Bá Ly ) như quả núi cao, các ông không nên nói những lời
như vậy ".
Phạm Quỳnh, Phạm Dao lại đem ý trên gièm pha với Phúc Nguyên.
Ngày 12, tháng 2, Phạm Quỳnh, Phạm Dao tự ý sai quân vây Bá Ly ở trại Giang mai vào lúc nửa
đêm, lại ngờ là nhân gia Đô ngự sử Nguyễn Thiến đồng mưu, bèn sai quân bắt úp. Nhưng lúc ấy Thiến
đương đi dự họp, Bá Ly thì ở trong trại quân, cho nên đều không bắt được. [tờ 57b] Đến lúc gà gáy
sáng, người đầy tớ nhà Bá Lý ra ngoài, thấy có quân vây, vội trở vào báo, Bá Ly bèn thu thập người nhà
và các quân sĩ, đóng cửa cố thủ, để chờ con em đến cứu viện. Một lát, Vạn an hầu, Văn phái hầu, và Tả
vệ hầu, mỗi người mang 3.000 cấm binh tới hộ vệ, giao chiến ác liệt với quân Quỳnh , Dao. Quỳnh, Dao
thua chạy, Vạn an hầu bèn đem quân đón Bá Ly về đóng tại Thịnh Liệt, rồi Khắc Thận cũng tự đồng Văn
Sàng tới hội.
1
Câu chữ Hán này gồm 5 chữ, nhưng chép bõ trắng, mỗi khoảng một chữ, chỉ có 3 chữ cách quãng nhau. Như vậy
không đủ nghĩa dịch. 59 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
Bá Ly cùng các tộc thuộc bèn dẫn quân chiếm giữ cửa quan Châu tước, Kinh thành cựa kỳ náo
loạn! Phúc Nguyên thấy thế bức bách, hoảng sợ, bỏ thành chạy qua sông, di cư đến Bồ Đề, rồi sai sứ
thần dụ Bá Ly bãi binh, Bá Ly không nghe, bảo phải bắt cha con Quỳnh, Dao, giải đến đây sẽ bãi binh.
[tờ 58a] Phúc Nguyên bèn sai Tướng Sơn Tây: Vạn đôn hầu, Anh duệ hầu, Phù long hầu, và
Văn giáp hầu, hợp binh tiến đánh Bá Ly. Bá Ly chia quân chống cự, cố thủ, rồi sai tướng dưới trướng Văn
tế bá đem thư cầu Thụy quốc công Nguyễn Khải Khang cứu viện. Thụy quốc công nhận lời, liền sai gia
thần Đông Khang Hầu dẫn quân giúp Bá Ly, Bá Ly bèn đánh Phúc Nguyên, quân Phúc Nguyên thua chạy,
Bá Ly bèn tiến quân đến Cấu Hà, rồi lạy vọng sang và tuyên ngôn rằng:
"Cha con hạ thần thực không dám mưu tính sự gì, chẳng qua chỉ vì kẻ gian thần bức bách, ghép
hạ thần là phản nghịch, chúng định hãm hại, cho nên hạ thần phải dùng binh tự vệ. Xin bệ hạ bắt cha
con Quỳnh, Dao, giải đến để úy dụ ba quân, hạ thần xin bãi binh ngay ".
Phúc Nguyên không nghe lời yêu cầu của Bá Ly, liền dẫn quân đi về Phương Đông, Bá Ly nổi
giận, mắng nhiếc Phúc Nguyên, [tờ 58b] rồi trở về kinh thành. Bảo các Tướng rằng:
"Ta chút tài mọn, nguyên thờ Quang thiệu Hoàng đế, nhân bất đắc dĩ bèn làm bầy tôi họ Mạc,
chính tay dựng 4 đời vua, hao phí biết bao tâm lực. Nay gặp hôn quân, không biết minh đoán, chỉ nghe
lời kẻ gièm pha, khiến cho bao nhiêu nghĩa biển tình non, đều thành băng tang ngói trút! sự thế đã như
vậy, thôi lại còn nói gì.
Ta nghe vua Lê, chính vị ở xứ Thanh Hoa, có Thái sư họ Trịnh là một vị anh hùng tài lược,
chuyên y tá phò, ra quân có danh, 4 phương quy phụ. Đó thực là vị chúa trung hưng vậy.
Nay ta muốn dẫn quân quy thuận, tiễu trừ giặc nghịch tán trợ triều Lê, dựng nên nghiệp lớn, để
rửa tội lội trước, mà cũng không mất sự giàu sang. Các ông nghĩ thế nào ? "
Tất cả các Tướng đồng thanh thưa:
"Kính theo tôn mệnh! ".
Bá Ly được các Tướng đồng ý, rất là mừng rỡ. [tờ 59a] Lúc ấy đang thời kỳ hiếm gạo, bèn mở
kho thóc phát chẩn cho dân nghèo, rồi sai nội thần Văn ấp hầu cùng với Tán Lý Đông giang hầu Bùi Trụ,
đem văn thư đến hành điện Ngạc Khê xin hàng, kèm theo bức họa địa hình tiến dâng. Vua Lê nhận rồi
ban tờ sắc khen ngợi Bá Ly.
Tháng 2, Bá Ly xuất 14.000 quân các đạo Tây Nam cùng với Nguyễn Thiến, Nguyễn Quyện và
con trai là Khắc Đôn, Khắc Thận tới bái kiến nơi cửa quyết, rồi đón vua Lê tới đóng tại sách Vạn Lại.
Hoàng đế xiết đổi mừng rỡ! Úy lạo và nhận cho hàng, thăng Bá Ly chức Thái tể tước Diễn quốc
công.
Lúc này, Bá Ly đã 70 tuổi, một vị kỳ lão trọng thần, bày tôi trong triều, ai cũng tôn kính. Khi vào
yết kiến Thái sư Lương quốc công Trịnh Kiểm, Bá Ly giữ hết lễ, rất cung kính, [tờ 59b] Thái sư tiếp đãi
cũng rất là kính cẩn tận lễ.
Sau khi Bá Ly quy thuận, thì bao nhiêu mưu thần mãnh tướng đều ùa theo, kéo cả vào Phương
Tây, cháu rể Bá Ly là Khổng Lý và Đặng Huấn, người xã Lương Xá huyện Chương Đức, cũng theo vào bái
yết Thái sư ở cửa quân, Thái sư đều hậu đãi; tướng Tây đạo Đại úy Đoan quốc công Nguyễn Khải Khang,
khi trước sai tướng đem quân giúp Bá Ly, đến đây cũng xuất 3.000 quân dưới trướng quy thuận, tới yết
Hoàng đế ở hành điện Vạn Lại. Hoàng đế úy lạo ban thưởng, cho nhưng theo chức tước cũ.
Khi Khải Khang tới bái yết Thái sư, Thái sư kính nể tước vị cao, nên tiếp đãi rất nồng hậu.
Con trai người cậu Khải Khang là Nguyễn Hữu Liêu, quán làng Tây đam phủ Từ Liêm, là một
người tài dũng siêu quần, Hoàng đế triệu kiến, và đem cho binh lệ vào doanh chánh, theo Thái sư đánh
giặc.
[tờ 60a] Tự đây, thanh thế quân nhà vua rất là lừng lẫy! Phúc Nguyên thấy vậy, lấy làm lo sợ,
bao nhiêu binh quyền ủy cả cho Kính Điển, để tính kế bảo thủ Trường An cho tới các xứ miền Đông. 60 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
Tháng 4, Hoàng đế cho là Phúc Nguyên hiện bị bầy tôi lìa bỏ, ngoài phản bạn trong tan rã, bèn
bàn nên thừa lúc địch suy, xuất quân tiến đánh liền ban tờ chiếu đốc các tướng đánh Phúc Nguyên: Sai
Phụng quốc công Lê Bá Ly xuất đường Sơn Nam; Đoan quốc công Nguyễn Khải Khang xuất đường Sơn
Tây; Gia quốc công Vũ Văn Mật tại Tuyên Quang xuống, hội đồng tại Đông Kinh. Bá Ly làm tờ quốc thư
(bằng quốc âm ) để chiêu dụ các tướng nhà Mạc rằng:
"Các chức văn võ ở Sơn Nam, Sơn Tây, kính đạt tới dưới cờ các Tướng quân Kinh Bắc:
Từng mảng rằng: Rất trị có loạn, xét cổ kim biết thửa phế hưng; trở nguy làm yên, hay thời thế
[tờ 60b] bởi chưng tuấn kiệt. Lý Thông chẳng mất, gương để khá soi. Vua nhà ta, tự Đinh Lê Lý Trần
dựng có phong cương, cùng Hán Đường Tống Nguyên đều làm quân trưởng. Đến nhìn Nhuận Hồ mạt
vận, 13 thu ngược chánh phiền hà; cho nên ngoại quốc cất binh, hơn 2 kỷ châu thành chiếm cứ. Nước Sa
phải mỗi khi truân bĩ, trời đốc sinh có chúa thánh minh. Vua Thái Tổ dấy nghì dẹp loạn, dân được thoát
cơn đồ thán; vua Liệt Tổ lấy nhân ra đức, người đều nhuận ở cơ phu. Số truyền ước quá lịch Chu, gặp
biến phúc nhân ách Hán. Thác thiện nhường mà lấy thiên hạ, sự chẳng bình tai mặt khôn che; còn duy
trì bởi đức tiên vương, dân đoái cảm tơ hào nỡ phụ. [tờ 61a] Xem nhân tâm khá hay thiên ý, suy thiên ý
thực ở nhân tâm.
Chúng ta nay, chịu vóc trượng phu, tắm ơn Đại Việt. Có kẻ tự tài tướng súy, lảu lộc thao cầm; có
người dựng nghiệp thi thư, ra đường khoa mục. Văn vũ tài dùng há mượn, kinh quyền đạo phải chẳng
nề. Hoặc đẹp duyên gặp phải Lê Triều, có quan có lộc; hoặc đội nghĩa phò nhà Mạc thị, chịu tước chịu
ơn. Hướng minh tuy nhẫn chẳng cùng, xử biến cho hay có khác. Như thuở trước, thầy tớ Tử Nghi làm dữ,
ta đã cùng lòng cùng sức dẹp yên; đến khi giờ, cha con Phạm Quỳnh mọc gian, nó lại đổi sách đổi lèo
gây loạn. Làm uy phúc muốn [tờ 61b] về ở nghĩ, kết tội danh hòa hãm ép người. Sai ác đảng luôn thổi
phù ngôn, vu chưởng phả mong lòng tự lập. Đô dài làm quan nhĩ mục, ở doanh thành mà đón bắt làm
sao; Thái tể bàn việc miếu đường, về kẻ chợ nỡ khua vây mà dám. Phiêu vị sự làm nhẫn bế, đày triều ai
có tỏng đâu. Chúa Cảnh Lịch luống giữ giống hư, chước nào khả chế; vua Khiêm Vương dể nghe lời siểm,
trách ấy khôn từ. Phép quốc gia chưa sáng hình chương, loài gian ác càng dông bạo ngược. Kinh ấp hai
phường phố xá, đốt hết lâng lâng; quan cư mọi chốn nha môn, cướp không thảy thảy. Hàm đồ tịch đày
vơi hoại hết, của kho hàng [tờ 62a] nhiều ít chở đi. Nữ phù không dãy quế buồng tiêu, nào kinh danh
phận; tư dời hiếp xe rồng liễn phượng, bỏ lẽ thành trì. Thống tốt đồ dấy việc can qua, để sinh linh tới
nàn thủy hỏa. Những thói chuột quen nương xã, xã đã mất khôn nương; nào cốc nước đày lấp thuyền,
thuyền chẳng ngự dễ lấp. Ếch dưới giếng ngo ngoe xưng lớn, yến trên lương lọc lạch còn ăn...1
nó lấy
làm chơi, biến cả ai hầu chịu thác. Âu cây nát ắt là bỏ rễ, thương vay tệ Mạc mau đời; đến vận lành thực
hệ ở trời, mừng lấy chúa Lê lại dấy. Vua Thuận Bình thực dòng Đế Trụ, dưỡng đức Lam Sơn. Nối dấu
Thiếu Khang, bởi Luân ấp Ngu ấp [tờ 62b] đặng đồ tái tạo; ắt nghe thần mỹ, có Lương quốc Gia quốc
phò vận trung hưng. Được thời được chúa được tôi, có đất có người có của. Cõi Hoan châu cõi Ô Lý,
trông đức giáo thuyền bể vượt thông; trấn Thuận Hóa, trấn Tuyên Quang, mang ngọc bạch qua non sum
hợp. Binh ứng viện đã dẹp tan Ninh Sóc, thư qui phụ này ngày thấy Lạng Sơn, Quận Huyện đòi chốn
khua trừ, thủy bộ hẹn ngày thẳng tới. Ngựa làm cơ, voi làm trận, sáu quân đua khí mãnh hơn hơn; bầu
đem nước, giỏ đem cơm, muôn họ dốc lòng về thố thố. Quan nghi cũ người đều mừng thấy, anh hùng
nhiều ai chẳng phục đòi. Đây đã biết sở hướng minh, đấy khá toan bề qui thuận. [tờ 63a] Chớ cậy
trường giang, có phân nam bắc, mà lấy làm ràng; dù mất đông ngu, còn thu tang du, nào rằng đã muộn.
Gặp cơ hội đã đành chẳng lỡ, luận công danh chỉn thực phải thâu. Nhược lo nghĩa cả tòng quân, bao
chẳng tòng quân, noi thuở Quang Thiệu, thuở Thống Nguyên cho phải nghĩa; tu ắt học xưa trạch chúa,
bao chẳng trạch chúa, bằng ngươi Lý Thông ngươi Mã Viện mới nên hiền. Khuyên chớ hồ nghi, kíp nên
quyết đoán. Kìa Trương Lương làm tôi Cao Tổ, bút lại thần tay chép còn khen; nọ Phạm Chất lại thờ
Nghệ Tổ, nhân Cơ tử ai rằng có kém. Nhìn thư diển chẳng toan noi trước, dù việc nào ai trách chưng sao.
Oai sấm dậy bởi trời, binh khỏe nỡ hùng bi ai địch; ngọn lửa lan [tờ 63b] khắp núi, thế cháy âu ngọc
thạch đâu phân. Nhớ nghĩa xưa cũng muốn về lành, ngỏ lòng thực xá tin nhắn bảo "2
.
1
Khoảng này chính bản bỏ trắng chừng 3 chữ.
2
Bài văn này, bắt đầu tự câu "từng mảng rằng ", đến câu "ngỏ lòng thực xá tin nhắn bảo "này, chính bản chép bằng chữ
Nôm. Đây là phiên âm, chứ không phải dịch vănn chữ Hán. 61 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
Tháng 5, Thái sư xuất quân tự Hưng Hóa qua đò sông Thao đến An Lạc, cùng với Vân Mật tiến
đóng tại núi...1
, rồi đánh phá quân Kính Điển, bèn thẳng tới Xuân canh Lâm hạ, thắng luôn mấy trận nữa.
Bá Ly, Khải Khang2
và Văn Mật chia làm ba đường tiến đánh, cũng đều phá được các Tướng họ Mạc
khác. Thế quân rất mạnh, Phúc Nguyên sợ hãi, đang đêm bỏ Kinh chạy tới Kim Thành, gọi nơi trụ sở là
Biện Đăng Long, chỉ Lưu Kính Điển ở lại làm Tướng Đô đốc, chống giữ bờ Bắc sông Bồ Đề. Quân vua Lê
bèn khôi phục Đông Kinh, sĩ dân hào kiệt nối tiếp qui phụ. Thái sư cùng các Tướng hội cả ở Kinh Sư, [tờ
64a] mở đại yến khao thưởng Tướng Tá, tùy theo cấp bậc.
Lúc này vương sư thắng trận luôn luôn, một dãy núi phía Tây Nam, và các Phủ: Thường ứng, Lý
quốc và Quảng Oai, đều đã thuộc về bên ta. Về bên giặc Mạc chỉ có 2 đạo Đông Bắc, chúng bắt dân các
làng lệ thuộc vào các doanh trai, tự sông Bồ Đề trở lên phía Bắc, chúng đắp lũy đất, đặt thuyền chiến,
quân thủy quân bộ đóng xen kẻ nhau, phòng thủ rất nghiêm nhặt!
Bọn Bá Ly và Nguyễn Khải Khang tính rằng: Hiện Phúc Nguyên đã chạy lên Kim Thành, thì khí
thế đã xuống lắm, dù có lưu quân phòng thủ, cũng không đáng làm lo ngại cho ta. Nến bây giờ đón
Hoàng thượng tiến ngự tại Kinh thành, thì nhân tâm rất hưởng ứng, hào kiệt sẽ đều qui phụ, nhân giữ
trung châu mà hiệu lệnh bốn phương, để quét hết bọn giặc tàn, [tờ 64b] thì công khôi phục, sẽ có thể
tính từng ngày. Bèn sai người tâu báo thắng trận, và dâng tờ biểu đón Hoàng đế ra ngự Đông Kinh.
Thái sư thì tính rằng: Hiện đảng giặc hãy còn khá nhiều, chúng có thể kêu viện binh các nơi đến
đông đảo. nếu quân ta vào sâu nơi trọng địa, ngộ chúng đón đánh chặn ngang, thì dù có lấy được Đông
Kinh, cũng khó lòng giữ nổi. Vả chăng lúc này nhân tâm cũng chưa hết thẩy hướng về mình. Chi bằng
hãy giữ vững nơi căn bản đã, chưa nên khinh động. Bởi thế Thái sư không ký tên vào tờ biểu trên.
Khi Hoàng thượng xem tờ biểu của các Tướng, không thấy tên ký của Thái sư, ngài biết ngay
Thái sư tất có ý kiến khác, bèn hạ tờ chiếu cho các Tướng kéo quân về.
Trước khi ta lui binh, Phúc Nguyên đã sai tướng Khánh quốc công, dẫn thủy quân tự Đông Nam
ngược dòng tiến lên, đóng sẵn tại núi Công, định đánh ngang vào hậu quân ta. Nhưng Thái sư hồi binh
tiến đánh, phá tan rồi cùng bọn Bá Ly trở về Thanh Hoa, Văn Mật công thì trở về Tuyên Quang.
[tờ 65a] Sau khi ta đã lui binh, Phúc Nguyên lại chiếm thành Đông Kinh, nhưng còn ở Bồ Lộc.
Kính Điển sai bộ binh đóng đồn tại Yên Mô, thủy binh đóng đồn ở Thần Phù. Các xứ Sơn Nam Sơn Tây lại
thuộc về họ Mạc.
Mùa xuân, năm Thuận Bình thứ 5 (1553), Thái sư lập hành tại ở An Trường.
Phúc Nguyên mở khoa thu Cử nhân, lấy bọn Nguyễn Lượng Thái cộng 20 người trúng tuyển.
Tháng 6 năm này, bày tôi Phúc Nguyên: Trấn thảo doanh Tổng đốc Hưng quận công Nguyễn
Quý Liêm, và Hùng tiệp doanh Hiệu Lý Nguyễn Ngạn Hoằng dâng tờ sớ rằng:
"Quốc gia phải có kỷ cương, kỷ cương có nghiêm thì thiên hạ mới định. Thời xưa, vua nhà Chu
chấn chỉnh kỷ cương mà nên danh trung hưng, vua nhà Đường chấn cử kỷ cương mà nên nghiệp trung
thiên. Đó là do trên vua giữ kỷ luật, cho nên bầy tôi không dám chuyên quyền vậy.
[tờ 65b] "Gần đây , gặp lúc quốc gia có biến, Tướng ngạo binh kêu, không tuân hiệu lệnh, triều
đình hờ hững, chẳng chịu hỏi tra. Nay kỷ cương đã phấn chấn, như việc binh việc ngục tụng, là việc lớn
đều có thống giữ, nếu người không phải phận sự, thì không được thiện tiện. Thế mà hạ thần thấy: Các
Phủ Huyện lấy lính, tuy đã chiếu đủ số, mà mỗi khi sai làm việc gì, thì người nọ lừa cho người kia, cố ý
lánh việc, Tướng quân không cấm nổi, để cho cái tệ quấy nhiễu càng ngày càng nhiều. Đến như việc
ngục tụng, là trách nhiệm của quan Hữu Ty, thế mà các Nha Phủ, các quan trong doanh trại, và các quan
Đô Ty vệ sở, đều lập sở hỏi kiện trong nhà, có người kiện về việc hộ, việc giá thú, điền sản và các việc
khác, [tờ 66a] các nơi trên đều tự tiện nhận đơn, rồi bắt tới tra khảo, hạch sách tiền của, tự ý phân xử,
1
Chữ này là tên quả núi. Nhưng chính bản bỏ trắng. Vậy không biết là núi gì ?
2
Chữ này chính bản chép "khải hoàn " (dẫn quân thắng trận trở về ). Xét không hợp nghĩa câu văn. Hoặc do chữ "khải
khang " chép lộn ra chăng ? Khải Khang là tên người, tức Đoan quốc công Nguyễn Khải Khang. Xin dịch theo chữ "khải khang ". 62 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
mà các quan Hữu Ty cũng không can thiệp. Thậm chí có viên đích thân đem thuyền đi bắt con gái lương
dân! Những tệ đoan như vậy, mà bỏ qua không hỏi tới, thì còn lấy gì để đè nén người quyền quý, chấn
chỉnh kỷ cương triều đình.
Hạ thần Quý Liêm, lạm giữ việc binh, tuy không phải chức ngôn quan. Nhưng nếu biết mà không
nói, sợ thiếu nghĩa kẻ bầy tôi.
Vậy xin giao triều thần họp bàn, rồi thông sức cho các quan Phủ Doanh và Đô Tư, không được
nhiễu dân như trước, để cho trên dưới được yên, kỷ cương lại chỉnh ".
Phúc Nguyên cho sớ này là phải.
Bọn Thái bảo Hồng quốc công Nguyễn Phú Xuân, và Chung mỹ hầu Đoàn duy hưu xin sao tờ sớ
của Quý Liêm trên, gửi cho các Doanh, truyền lệnh: Nếu kẻ nào vẫn dám [tờ 66b] làm bậy như trước
thì; cho các viên Tán lý, Ký lục và bản đạo Thừa hiến doanh ấy, được xét tâu để trị tội. Lại truyền lệnh
cho toàn dân thiên hạ; Như có ai đến Doanh môn, nộp đơn kiện, mà nhân viên không phải là người có
trách nhiệm về ngục tụng của nha môn, lại thiện tiện đòi hỏi tra xét thì, nên xét tâu để trị tội.
Niên hiệu Thuận Bình thứ 6 (1554) Phúc Nguyên đổi niên hiệu Cảnh Lịch thứ 7 làm niên hiệu
Quang Bảo thứ nhất.
Thái sư Trịnh Kiểm lập hành danh tại Biện thượng. Lúc này khí thế quân sĩ đang lên, bèn sai các
Tướng kinh lược Hóa châu, Đàm Bá và Hoàng Bôi, chiếm cứ đầu nguồn nước, chống cự cố thủ. Quan
quân bình định các Huyện, các thổ hào và các quan tự Đông Kinh bổ nhiệm, tới đâu đều hàng phục, cả
Hương dương bá Nguyễn Đức Trung cũng qui thuận, liền thêm binh đánh gấp, phá tan quân chống cự,
[tờ 67a] giết chết Phạm Bôi, bình định cả hai xứ Thuận, Quảng. Tham Tướng Phạm Khắc Khoan lại xuất
quân chống cự quân ta, nhưng cũng bị thua và chết trận. Sau khi bình định hai xứ này, Thái sư thu nhập
các hào mục và sinh viên trong xứ, bổ nhiệm vào các công chức. Phương này được yên.
Hoàng đế bắt đầu mở khoa thi, cho Đinh Bạt Tụy trúng tuyển hạng "xuất thân ". Tự đấy nhân tài
các phương, không ngại đường xa ngàn dặm, đều đua nhau vào Thanh Hoa ứng thi, mong để hiệu dụng
Hoàng đế bèn tùy tài từng người, bổ nhiệm các chức. Quốc gia càng trở nên thịnh vượng.
Tháng 6, Thiếu sư trí sĩ Trần Phỉ chết, thọ 76 tuổi. Vì lúc này quốc gia đang nhiều biến cố, cho
nên Phúc Nguyên không sắm lễ nghi đầy đủ, chỉ cấp tiền phúng điếu 20 quan, và 57 mẫu ruộng "thế
nghiệp ".
Niên hiệu Thuận Bình thứ 7 (1555), Lúc này Phúc Nguyên đã dàn đủ Tướng sĩ [tờ 67b] chống
cự quân ta, phòng thủ các nơi yếu hại, trong nước tạm yên, bèn khiến thúc phụ Kính Điển đem quân vào
đánh cướp Thanh Hoa, sai Thọ quận công tiết chế quân Nam Đạo dẫn 300 chiến thuyền làm quân tiền
phong, thẳng tới cửa biển Thần Phú. Ngày hôm sau, Kính Điển hội quân ở sông Đại Nại, sai Thọ quân
công tiến quân đóng tại Kim Sơn.
Bên ta, Thái sư đã đặt phục binh trước ở núi Bạch Thạch phía Bắc sông, lại tuyển binh tượng
hùng mạnh mai phục dưới Kim Sơn; sai Trung quan Thái úy Đinh Công, Thượng tể Lê Bá Ly, và Thái úy
Nguyễn Khải Khang, phục binh ở phía Nam sông; còn tự núi An Định cho tới núi Quân An, thì sai Phạm
Đốc và Nguyễn Quyện, dẫn thủy quân chiếm cứ thượng lưu sông Hữu Chấp đến sông Kim Bôi, để làm
thế "ỷ giác " [tờ 68a] Khi binh thuyền họ Mạc đi qua Kim Sơn, đến chợ Ông Tập, tự thị hùng mạnh,
không đề phòng, trong quân nổi tiếng đàn sáo ca hát, như vào chỗ không có người.
Đinh Công và Bá Ly đem quân và voi ngựa tự hạ lưu qua sông, đánh chặn ngang vào hậu quân
bên địch; quân ở thượng lưu thì đánh vào mặt tiền; rồi 4 mặt quân dồn đánh ập cả vào, phá tan quân
Mạc, Thọ quận công phải nhảy xuống sông, bị quân ta bắt được, còn Vạn đồn hầu và hơn mười Tướng
Tá khác, đều bị chết đuối. Kính Điển thu thập tàn binh chạy về Kinh Sư.
Mùa xuân, niên hiệu Thuận Bình thứ 8 (1556) Phúc Nguyên mở khoa thi Cử nhân, lấy bọn Phạm
Trấn cộng 14 người trúng tuyển.
Năm này, vua Trung Tông Hoàng đế thăng hà, Thái sư đón cháu huyền tôn của Giám quốc công
là Thự nhàn sự Mai Sơn Hầu Duy Bang, ở làng Bố vệ xứ Đông Sơn vào lên ngôi vua. Đó là vua Anh Tông. 63 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
[tờ 68b] Năm Đinh Tỵ, niên hiệu Thiên Hựu thứ nhất (1557), nhằm niên hiệu Quang Bảo thứ 4
triều Phúc Nguyên, mùa xuân, Phúc Nguyên dùng Kính Điển kiêm chức Tông nhân lệnh.
Lê Bá Ly sau khi đem con em họ hàng về Thanh Hoa qui thuận, lần thăng tới chức "Khai phủ
bình chương quân quốc trọng sự, chưởng triều đường chánh ", đến ngày 1, tháng 4 năm này chết,
hưởng thọ 82 tuổi, triều đình ban tờ chiếu tặng tước Nghĩa huân công, và ban tên thụy là Trung Hựu.
Mùa thu, tháng 7, Phúc Nguyên sai Kính Điển vào đánh cướp Thanh Hoa; Phạm Quỳnh và Phạm
Dao đánh cướp Nghệ An. Kính Điển đến địa phương Tống Sơn, Nga Sơn nơi sông Thần Phù, đốt phá hết
cầu nổi của ta. Thái sư sai thuộc tướng Thanh quận công đóng đồn quân tại Nga Sơn; Thụy quân công
Hà Thọ Tường đóng đồn quân tại Tống Sơn để chống cự, nên quân giặc không dám tiến. Thái sư đích
thân đốc xuất binh tượng, [tờ 69a] đi ngầm theo chân núi Yên Mô thẳng tới cửa biển, phóng quân đánh
vào sau lưng quân địch, lại sai thuộc tướng Vũ lăng hầu Phạm Đức Kỳ người ở Hoằng Hóa, vượt thuyền
xung kích trước, Đức Kỳ gặp thuyền Kính Điển, liền nhảy vọt sang, tuốt gươm chém tên vác dù đứt làm
hai đoạn, rơi xuống sông! Kính Điển không kịp trở tay, liền nhảy xuống sông trốn. Quân đều tan rã chạy
vào rừng núi, quan quân ta bắt được rất nhiều thuyền và khí giới.
Sau khi Kính Điển nhảy xuống sông, trốn vào ẩn núp tại hang núi Dân sơn xã Trị nội, trong 3
tháng rất đói khát. Một đêm, nhân thấy cây chuối trôi qua cửa lạch, bèn ôm vào cây chuối tìm lối bơi về,
mấy tháng mới tới bến Trinh nữ hạt Yên Mô, gặp người đánh cá ở xã Tràn Tu, dùng thuyền chở cho được
thoát nạn. [tờ 69b] Khi Kính Điển về tới Kinh, bảo cử người đánh cá lên tước Phù nghĩa hầu.
Sau khi Thái sư đã đánh phá quân Kính Điển, liền dùng ngay chiến thuyền của Kính Điển chở tinh
binh, cắm cờ hiệu của bên địch trên thuyền, rồi sai Phạm Đốc dẫn chiến thuyền tới cửa biển Đan Giai.
Phạm Quỳnh và Phạm Dao đang đóng đồn ở Tả Ao hạt Nghi Xuân, trông thấy chiến thuyền, tưởng là
quân tiếp ứng của mình, nên không đề phòng, Phạm Đốc thẳng tới đánh úp, phá tan quân địch! Bọn
Phạm Quỳnh bỏ thuyền chạy về.
Tháng 8, Thượng thư bộ Lại Thư quận công Nguyễn Thiến chết ở Thanh Hoa, con trai là Quyện
và Miễn đều trốn đi, trở về hàng Phúc Nguyên, Phúc Nguyên úy lạo, phục tước Văn phái hầu cũ cho
Nguyễn Quyện; tước Phù hưng hầu cho Nguyễn Miễn và gả con gái tôn thất cho. Sai hai anh em xuất
binh chống cự quân vua ta.
Tháng 9, Thái sư đem 50.000 thủy lục quân đánh họ Mạc, [tờ 70a] ra trung lộ xứ Sơn Tây, đến
sông Phượng Sí, tạo cầu nổi để quân qua sông, rồi tiến đánh phá tan quân giặc, bắt được Tướng là
Khánh Quốc Công, quân giặc tan vỡ, ta thu được khá nhiều chiến thuyền.
Sau khi Khánh Quốc Công bị bắt, Thái sư cho ngồi lên lưng voi để theo quân hiến kế. Nhưng y lại
mưu phản, bị tiết lộ, bèn đem giết chết.
Quan quân lược định hạ lộ xứ Sơn Nam, đến hạt Cao Thủy, thì họ Mạc sai Nguyễn Quyện xuất
quân chống cự ở sông Hổ Trì.
Nguyễn Quyện nguyên là hàng tướng, ở Thanh Hoa đã lâu, nên biết rõ tình hình binh tướng, và
sự thực hư về sức mạnh yếu của ta, vả chăng y lại mới hàng họ Mạc, muốn lập công để chuộc tội, cho
nên đánh rất hăng. Thái sư nghe biết tên Quyện ở trong trận này, thì giận lắm! Liền đích thân cầm quân,
sai bọn Phạm Đốc quản đốc thủy binh; sai Vũ Lăng Hầu [tờ 70b] tiến đánh Nguyễn Quyện. Đang khi
Nguyễn Quyện và Đức Kỳ ác chiến kịch liệt, Đức Kỳ vươn mình nhảy sang thuyền Nguyễn Quyện1
, chém
người vác dù hầu, rồi quát lớn rằng:
"Có Vũ lăng hầu ta đây! Chúng mày đâu có địch nổi ta ".
Quân giặc nghe đều tan vỡ, bỏ thuyền chạy cả lên bờ.
1
Chữ này chính bản chép "Đức kỳ thuyền " (thuyền Đức Kỳ ). Có lẽ lầm, vì Đức Kỳ đang ở trong thuyền của mình, sao lại
còn nhảy sang thuyền Đức Kỳ để giết giặc. Hoặc do chữ "Nguyễn Quyện thuyền " (thuyền Nguyễn Quyện ) chép lộn ra chăng ? Xin
dịch theo chữ "Nguyễn Quyện ". 64 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
Thái sư vội ra lệnh thu quân trở về, sai Hoàng Đình Ái cầm đạo quân "điến hậu ". Nhưng bị quân
giặc đánh chặn lối đường về, quan quân phải hết sức chiến đấu, mới qua được, bị chết mất hơn chục
Tướng Tá, bao nhiêu thuyền mảng khí giới phải bỏ hết! Tự đây, các huyện xứ Sơn Nam lại thuộc về họ
Mạc. Phúc Nguyên bèn phong tước Thạch quận công cho Nguyễn Quyện.
Năm Mậu Ngọ niên hiệu Chánh trị thứ nhất (1558), Thái sư dẫn quân ra trung lộ xứ Sơn Nam,
đánh bất thình lình khi quân địch không để ý, bắt được Tướng bên địch Anh nhuệ hầu, giết chết.
Tháng 9, Thái sư lại xuất quân đánh thượng lộ xứ Sơn Nam [tờ 71a] lược định vài Huyện, rồi
về, Lưu Thái úy Nguyễn Khải Khang trấn thủ các Huyện, để chiêu tập dân địa phương.
Ngụy Đà quận công Mạc Ngọc Liễn là con trai Nguyễn Kính, và là cháu gọi Khải Khang bằng cậu,
sai thổ dân Mỹ Lương trá hàng Khải Khang, rồi lừa bắt Khải Khang giải về triều Mạc, Phúc Nguyên bèn xử
tử Khải Khang bằng cực hình: dùng xe kéo xé xác. Triều đình ta nghe được tin này, Thái sư thương Khải
Khang là người có nhiều công lao, bèn tâu xin truy tặng cho tước Hiến trung công, và bổ dùng cháu nội
họ ông là bọn Hữu Liêu.
Tháng 10, Thái sư triều Hoàng đế ở nơi hành tại, bàn về kế sách đánh giặc Mạc, phát biểu ý kiến
rằng:
"Xứ Thuận Hóa là một kho tinh binh trong thiên hạ, thời xưa, quốc triều ta bắt đầu gây dựng cơ
nghiệp, cũng đã dùng dân xứ ấy để dẹp giặc Ngô. Xứ ấy, địa hình hiểm trở, dân khí cương cường, lại có
rất nhiều nguồn lợi trên rừng núi và dưới bể sông. Về phương diện trọng yếu [tờ 71b] không có xứ nào
có thể hơn. Gần đây, quan quân kinh lược hàng mấy chục năm mới lấy được. Vậy nên hết sức bảo thủ,
để làm như một bức bình phong vững chắc.
"Còn như lối đường tự xứ Nghệ An vào, thì vì đường thủy đường bộ xa cách, có thể khỏi phải để
ý lo ngại.
Duy tự Hải Dương và xứ Quảng Yên, khi nhân thuận chiều gió Nam, giặc phóng thuyền ra biển,
thì chỉ vài ngày có thể đến địa phận ta, sợ binh giặc dễ thừa cơ xâm lược ta bằng nẻo đường này.
Hạ thần xét thấy con trai thứ của Chiêu huân Tĩnh công là Nguyễn Hoàng, một người trầm tĩnh
cương nghị, lại có mưu lược, đối với quân sĩ có độ lượng, khoan dung giản dị. Vậy xin bổ ông làm Trấn
thủ, để trị an nơi biên thùy và chống giặc phương Đông; và lại cùng với Trấn quận công ở xứ Quảng
Nam, cùng làm binh cứu viện lẫn nhau. Hết thẩy các việc to nhỏ ở địa phương ấy, xin đều để cho ông
được tùy nghi định đoạt; lại xin ủy ông thu các sắc thuế, nộp về triều đình đúng kỳ hạn, để thêm vào sự
chi tiêu trong nước. [tờ 72a] Như vậy, thì một khoảng xứ Ô Châu, khỏi phải để ý lo tới, hạ thần sẽ khỏi
phải phân tâm, mà chỉ dốc hết ý chí về việc đông chinh; Bắt đầu kinh lý xứ Sơn Nam và xứ Sơn Tây, rồi
thứ đến khôi phục Kinh đô cũ, tiễu trừ thoán nghịch. Nghiệp trung hưng sẽ có thể sớm thành công ".
Vua Anh Tông thi hành theo ý kiến này, tự đấy Phúc Nguyên không dám nhòm ngó tới 2 xứ
Thuận, Quảng.
Mùa xuân, niên hiệu Chánh Trị thứ 2 (1559), Phúc Nguyên mở khoa thi Cử nhân, lấy bọn Đặng
Thời Thố cộng 19 người trúng tuyển.
Lúc này, quân vua ta ra đánh liên miên, năm này qua năm khác, quân họ Mạc bị thua luôn, bởi
thế Phúc Nguyên sợ, không dám ở trong kinh thành, bèn tự Bồ đề di cư vào phía ngoài cửa Nam kinh
thành, dựng điện lợp tranh để triều quần thần.
Cũng thời kỳ này, Thái sư đã trị an nhân dân, luyện tập quân sĩ, thu dụng nhân tài, tích trữ đầy
đủ khí giới lương thực, muốn mở một trận tấn công đại qui mô ra Đông, để khôi phục cơ đồ, bèn mật
bàn với các Tướng rằng:
[tờ 72b] "Con đường xứ Sơn Nam, mỗi khi quan quân ta đông chinh, đều đi lối này, cho nên
Phúc Nguyên đem nhiều tinh binh, cả thủy lục quân bố trí các chỗ hiểm yếu. Ta khó bề tung hoành.
Chỉ có thượng lộ xứ Sơn Tây, và các xứ Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái Nguyên, vùng này phần
nhiều rừng rậm bao la, đường hẻm quanh quất, chúng không để ý phòng bị. Vả nơi đó có Tướng doanh 65 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
An bắc Gia quận công Trấn thủ Đại Đồng, vẫn hết lòng trung thành với vua ta. Một khi ta tới đấy hội hợp
với Quận công, thì khi tiến quân có thể đánh phá, khi lui quân sẽ có lối về.
Vậy nay nên xuất quân lối Thiên Quan, đi qua xứ Hưng Hóa; qua đò sông Thao, hội hợp với Gia
quốc công1
, thu dụng các Phiên mục Thổ tù nơi đó, để tăng cường tế quân, rồi đi theo đường chân núi,
lược định 2 xứ Thái Nguyên và Lạng Sơn, phủ dụ dân biên thùy, chiêu tập các hào kiệt, để cắt vây cánh
quân giặc, [tờ 73a], rồi sau mới dẫn quân xuống xứ Kinh Bắc, chia quân đánh vào Hải Dương, Sơn
Nam, làm cho rung cành lá vá lay cỗi rễ quân địch, thì thiên hạ sẽ dao động, thế giặc sẽ xuống ngay. Lúc
ấy Phúc Nguyên chỉ còn giữ 4 bức tường kinh thành mà thôi, ta sẽ đem đại quân đánh vào 3 mặt, còn lo
gì không thắng ".
Trong Tướng Tá có vị thưa rằng:
"Xuất quân con đường ấy, thì sự vận tải lương thực sẽ chậm trễ, vả lại cách với nội địa quá xa,
nếu bị chúng đánh chặn, thì sự lui quân cũng rất khó khăn ".
Thái sư rằng:
"Đâu phải thế! Nơi đó 4 xứ: Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái Nguyên và Lạng Sơn, nhân dân giàu
có, tiền thóc dư thừa, ta đến đâu sẽ có lương thực ngay nơi đó, còn lo hì về sự thiếu ăn. Vả đấy có dãy
núi quanh co dài hàng ngàn dặm, ta đem tinh binh và voi ngựa hùng mạnh, rải vào những khoảng rừng
rậm đó, thì còn ai có thể lường được là nhiều ít hư thực thế nào. Một khi ta đánh chiếm được một xứ
nào, thì ta lưu một viên mãnh tướng lại, rồi dùng thêm phiên thần cùng trấn thủ các nơi yếu hại. Như vậy
thì đầu đuôi liên lạc, cứu viện tiếp liên, tức là cái thế "Thương sơn xà " (con rắn núi Thương sơn ) đó.
Nếu chúng đánh chặn, chỉ tổ cho ta bắt hết.
Ta chỉ lo về xứ Thanh Hoa, các cửa biển đều là cái then khóa cốt yếu của nội kỳ, cần phải canh
phòng rất cẩn mật, để quân giặc khỏi nhòm ngó. Chỉ cốt giữ cho nội kỳ vô sự, thì đại sự sẽ thành ".
Bàn định xong, bèn dâng biểu lên Hoàng đế, xin xuất quân đông chinh. Bảo cử viên Tướng trong
họ Phong quận công Trịnh Quang làm Đề thống ngự doanh, Phù quận công Lê Chủng làm Trấn thủ đạo
Thanh Hoa, Trào quận công Vũ sư thước và An quận công Lại thế khanh, cùng lãnh tinh binh trấn thủ
cửa biển. Dặn 2 viên Tướng này; Phải kiên cố đập lũy; cẩn thận dọ thám, liên lạc mau chóng, để phòng
quân giặc đến đánh.
[tờ 74a] Mùa đông, ngày Giáp Tuất tháng 10, Thái sư cùng Tướng sĩ thân xuất 60.000 đạo
quân bắc phạt, trương thanh thế là 120.000 quân, dùng Hoàng Đình Ái làm Tướng đạo quân tiên phong,
do Thiên Quan tiến ra các huyện Sơn Tây, Mỹ Lương và Bất Bại, quân đi qua nơi nào đều không lấy của
dân một mảy may, nhân dân các nơi ấy đều được yên ổn như thường. Khi quân tới Hưng Hóa, thì Tướng
Tây đạo Định quận công dẫn binh lại hội, các đồn quân giặc đều bị phá và đều ra hàng. Khi lược địa đến
địa giới Tuyên Quang, thì Vũ Văn Mật ra đón, Thái sư nhân bàn tiến binh qua sông, để lược định các đạo
Thái Nguyên, Lạng Sơn và Kinh Bắc, bèn sai Văn Mật trấn thủ Đại Đồng như cũ, Định quận công thì trấn
thủ An Tây, để giữ nơi xung yếu, rồi đem dân phu nơi dọc đường đi theo, để khai phá đường lối, tự
Thiên Quan liền tới [tờ 74b] Kinh Bắc, để tiện vận tải lương thảo; sai các Tướng chia đi đánh các Phủ:
Phú Bình, Trường Khánh. Châu Huyện nào cũng tan vỡ ra hàng. Thái sư bèn đích thân xuất đại binh tự
Lạng Sơn xuống, đóng quân tại Doanh Thuận, cùng cầm cự với quân Phúc Nguyên. Sau lại đóng đồn
quân trên núi Tiên Du.
Tháng 11, Thái sư đem quân đánh các Phủ: Siêu Loại, Văn Giang và Khoái Hồng, binh kéo đến
đâu quân giặc đều tan chạy.
Tháng 12, Thái sư sai Tướng khác đánh phá các Phủ Huyện hạt Khoái Châu và Nam Sách, quân
địch trông thấy bóng quân ta đều thua chạy.
1
Cũng là một người và chỉ trong một thời gian ngắn, mà văn trên chép "Gia quận công ", đây chép "Gia quận công ". Vậy
không biết văn trên hay văn dưới chép lộn. 66 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
Niên hiệu Chánh Trị thứ 3 (1560), tháng giêng, Thái sư lại chia quân do Khoái hồng tiến về Nam,
đánh phá hạt Tiên hưng, một đạo do Nam sách tiến về Đông, đánh phá hạt Kinh Môn, hạ hết các Huyện:
Đông Triều, Giáp Sơn, Chí Linh, và An Dương. Phúc Nguyên kinh sợ, bèn khiến thúc phụ [tờ 75a] Kính
Điển đóng đồn tại Kinh Bắc, để chống cự đại quân ta; sai các Tướng chia giữ Đông Kinh, đóng đồn binh
khắp phía ngoài thành. Một dãy sông về phía Tây, trên tự Bạch hạc, dưới xuống đến Nam sang, đều
đóng doanh trại liền liền, thuyền mỏng san sát, trại nọ liên lạc với trại kia, ban ngày thì bằng ngọn cờ
tiếng trống, về ban đêm thì bằng bó đuốc cây đèn. Phúc Nguyên thì di cư về huyện Thanh Trì.
Tháng 3, Thái sư sai Hoàng Đình Ái trấn thủ Lạng Sơn, Lê Khắc Thận trấn thủ Thái Nguyên, Vũ
Văn Mật trấn thủ Tuyên Quang, 3 trấn này liên lạc để đều làm binh cứu viện lẫn nhau, ngày đêm đánh
phá các Châu Huyện chưa hạ được ở hạt Phú Bình và Văn lan; lại sai Định quận công trấn thủ Hưng Hóa,
để chiêu tập nhân dân các châu Mai mộc và Hoa việt, cung cấp lương thực cho quân lính. Tự Thiên Quan
tới Kinh Bắc, ta đóng rất nhiều đồn trại liên tiếp. Binh uy lừng lẫy!
[tờ 75a] Tháng 4, Thái sư đóng quân tại Phía Nam Lãm Sơn, sai các Tướng chia nhau tiến về
phía Đông, đánh phá các Huyện: Đường an, Đường hào, Thanh miện và Gia cốc, các đồn binh ở các nơi
đây đều tan vỡ.
Tháng 10, Kính Điển dẫn quân qua sông, tiến tới huyện Vũ Ninh, để chống đại quân ta. Có viên
Tướng khác của Thái sư sai là Đặng Huấn, thừa tiện lẻn tiến đánh quân kính Điển, bị Kính Điển đánh cho
bại trận, dưới cờ chỉ còn lại chừng hơn hai trăm quân, Đặng Huấn thu thập tàn quân, dẫn lên đồi cao
nghĩ ngơi, sai quân sĩ bỏ yên ngựa và tắm cho voi, tỏ ra vẽ nhàn hạ ung dung. Quân giặc kéo vây khắp
cả đồi dày 3 vòng, Đặng Huấn truyền lệnh quân sĩ; không được huyên náo! Chờ đến khi thấy quân địch
vó vẻ trể nải, lúc ấy mới dồn quân ùa xuống, hết thẩy đều hết sức chiến, chạy lọt ra ngoài mấy vòng vây,
[tờ 76a] quân giặc đều tơi bời rạt cả ra, không tên nào dám gần, Đặng Huấn bèn dẫn quân về Lãm Sơn,
hội với đại quân Thái sư.
Năm này, gặp vụ lúa trúng mùa, Thái sư sai thổ dân đã qui thuận ở các Huyện, cung cấp lúa
mùa để thêm quân nhu.
Tháng 3, niên hiệu Chánh Trị thứ 4 (1561), có người hiến kế với Phúc Nguyên rằng:
"Vương sư xâm lấn ta rất gắt! Ta sở dĩ kiên thành cố thủ, để cầm cự lâu dài, là có ý muốn chờ
khi Vương sư thiếu lương sẽ bại. Nhưng hiện nay đường vận tải của Vương sư rất thuận tiện, tiếp tế
lương thảo liên tiếp đầy đủ, bàn cứ đã 2 năm nay, thanh thế rất mạnh. Thì còn chờ đến lúc nào để thừa
cơ đánh phá. Chi bằng đánh xuất kỳ bất ý, ngầm dẫn quân đánh thẳng vào Thanh Hoa, đánh ngay vào
nơi tâm phúc, thì đạo quân vây nơi Kinh Bắc và Hải Dương, ta không cần đánh cũng sẽ tự giải. Đó là cái
kế "đánh nước Ngụy để cứu nước Hàn "1
của Tôn Tử vậy ".
Phúc Nguyên nghe theo lời trên, bèn sai viên Tướng khác thay Kính Điển trấn thủ Kinh Bắc, rồi
ngầm vời Kính Điển về Kinh Sư.
[tờ 76b] Tháng 7, Kính Điển dùng chiến thuyền vào cướp Thanh Hoa, đánh vào các cửa biển.
Các Tướng trấn thủ cửa biển là Vũ Sư Thước và Lại Thế Khanh không có phòng bị, trong khi hoảng hốt,
vội lui quân về giữ sách Vạn Lại. Thái sư được tin trên, bèn gấp truyền lệnh cho Hoàng Đình Ái ngầm dẫn
quân về trấn thủ Thanh Hoa.
Tháng 9, Kính Điển đánh vào cửa quan An Tràng, tiến tới sách Vạn Lại, sách sắp bị hãm, thì phục
binh của Sư Thước chỗi dậy, cố sức chiến đấu, đánh bại đạo quân tiền phong của địch, chém đầu hơn
trăm tên. Kính Điển lại được tin viện binh của Đình Ái sắp đến, bèn lui quân về Kinh ấp.
1
Câu này chính bản chép "công Hàn cứu Hàn " (đánh nước Hàn để cứu nước Hàn ). Đó là do chữ "công Ngụy cứu Hàn "
chép lộn ra . Điển này như sau:
Thời chiến quốc, vua nước Ngụy sai Bàng Quyên dẫn quân đánh nước Hàn, Hàn bị nguy cấp, cầu nước Tề cứu, nước Tề
sai Tôn Tẫn làm quân sư dẫn quân cứu nước Hàn. Nhưng Tôn Tẫn không đến nước Hàn để giải vây, hạ lệnh quân sĩ tiến thẳng vào
đường tới nước Ngụy, tuyên ngôn sẽ đánh vào kinh đô nước Ngụy. Bàng Quyên được tin cấp báo, vội vàng kéo quân về cứu bản
quốc. Thế là nước Hàn được thoát nạn 67 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
Thái sư cũng triệt hết quân ở các doanh, lui về Thanh Hoa, dâng công chiến thắng lên Hoàng đế
ở nơi hành tại, rồi dừng quân tại phía Nam thành Tây đô, thăng thưởng cho các Tướng sĩ có công chiến
thắng, lại dùng mưu thần là Phùng Khắc Khoan [tờ 77a] làm Ngự doanh ký lục tri tứ vệ.
Tháng 12, Phúc Nguyên sai Thái bảo Nguyễn Phú Xuân và Lại bộ Tả thị lang Giáp Trưng, dẫn
quân đánh xứ Lạng Sơn. Lúc này, Tướng giữ thành Lạng Sơn Hoàng Đình Ái, đã theo đường núi trở về
Thanh Hoa trước rồi, viên Tướng do Đình Ái lưu lại giữ thành bị thua trận, tan vỡ. Phú Xuân bèn chiếm
cứ thành, rồi đưa thư sang nhà Minh, tiếp lĩnh người qua Bắc về. Nhà Minh hỏi: Quân chiếm thành Lạng
Sơn vừa rồi, là quân họ Mạc hay quân họ Lê ? Giáp Trưng phúc đáp: quân chiếm thành Lạng Sơn vừa rồi
là quân giặc.
Năm Nhâm Tuất
1
, niên hiệu Chánh Trị thứ 5 (1562), Phúc Nguyên mở khoa thi Cử nhân, lấy bọn
Phạm Duy Quyết cộng 18 người trúng tuyển.
Tháng 2, vua Anh Tông sai Lộc quận công, Nhân khê hầu đem quân lược định 10 châu xứ Hưng
Hóa.
Tháng 3, Phúc Nguyên bổ Giáp Trưng chức Thượng thư bộ lại [tờ 77b] phong tước Tô khê hầu.
Tháng 9, Thái sư xuất binh ra Sơn Nam, đi tuần các địa phương hạt Thanh Trì và Thượng Phúc,
lập đại doanh tại Sơn Minh.
Tháng 11, Vương sư trở về.
Tháng 2, niên hiệu Chánh Trị thứ 6 (1563), vợ Phúc Nguyên là Bùi Thị sinh hạ Mậu Hợp.
Ngày mồng... tháng 2 niên hiệu Chánh Trị thứ 7 (1564)2
.
1
Chữ "Nhâm tuất " chính bản chép lộn ra chữ "Nhâm mậu ".
2
Đoạn văn này chính bản chép tới đây là hết, như vậy chưa đủ nghĩa. Xét văn dưới chép: "Mậu Hợp tiếm ngôi tháng 2
năm Giáp Tý niên hiệu Chánh Trị thứ 7 ". Vậy có thể phỏng đoán là chính bản chép sót mấy chữ "Phúc Nguyên tử " (Phúc Nguyên
chết ) chăng ? 68 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
Đại Việt Thông Sử
LIệT TRUYệN
Thần Đôn soạn
NGHỊCH THẦN TRUYỆN
Mạc Mậu Hợp
Mạc Mậu Hợp, con trai trưởng Phúc Nguyên, tiếm ngôi tháng 2 năm Giáp Tý, niên hiệu Chánh Trị
thứ 7 (1564), lúc này Mậu Hợp mới lên 2 tuổi, các việc đều do ông chú bọn Kính Điển và Đôn Nhượng
phụ tá, đổi năm sau làm niên hiệu Thuần Phúc thứ nhất.
Thái sư sai biệt Tướng Đặng Huấn ra núi Hoài An, năm sau1
sai Đặng Huấn thôi đốc các dân đã
hàng trong hạt Trường An và Thiên Quan, tu sửa con đường tự Phố Cát tới Bình Lương, để tiện sự vận
tải lương thảo. [tờ 79b] Tự đây, các huyện về phía Tây hạ lưu sông Xương Giang trong xứ Sơn Nam đều
bình.
Tháng 9, Thái sư xuất quân ra trung lộ xứ Sơn Nam, đánh các Huyện thuộc Phủ Trường An, đến
tháng 11 mới dẫn quân về.
Niên hiệu Chánh Trị thứ 8 (1565), Mậu Hợp mở khoa thi Cử nhân, lấy bọn Phạm Quang Tiến,
cộng 16 người trúng tuyển.
Tháng 4, Thái sư xuất quân đánh phủ Trường An, phá hết các Huyện trong Phủ.
Mùa thu, tháng 9, Thái sư lại đốc đại binh đánh thượng lộ xứ Sơn Nam, đánh nơi nào thẩy đều
thắng trận.
Kính Điển bảo các Tướng dưới quyền rằng:
"Lúc này binh sĩ của chúng (chỉ Thái sư Kiểm ) rất tinh nhuệ, khó lòng đối địch, nếu đánh nhau
với chúng, sợ không thắng nổi. Hiện chúng đang thân đốc đại binh đến đây đánh phá vùng Sơn Nam,
nhưng chưa dể gì đã qua được sông mà thẳng tiến đâu. Thanh Hoa là nơi căn bản của chúng, dù có lưu
binh ở lại chia giữ các nơi, chẳng qua cũng chỉ một vài Tướng Tá thôi. [tờ 80b] Vậy ta nên sai một vài
đại Tướng, đem binh cầm cự với chúng ở đây, để cầm chân chúng, rồi sai đem vài vạn quân, do đường
thủy ngày đêm tiến gấp tới địa phận Thanh Hoa, xuất kỳ binh bắt lấy những Tướng phòng thủ nơi đấy.
Đó là kế "xã kiên công hà, xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị " (bỏ nơi kiên cố đánh vào nơi sơ hở; đánh bất
thình lình vào nơi đối phương không phòng bị ), mà là yếu điểm tất thắng đấy ".
Tháng 11, Kính Điển bèn xuất chiến thuyền vượt biển vào cửa biển Linh Tràng, đánh phá các
Huyện Thuần Hựu và Hoằng Hóa. Tướng phòng thủ nơi đây là bọn Vũ Sư Thước cấp báo với Thái sư,
Thái sư bèn sai Lộc quận công đem binh về cứu, hợp sức với binh Tướng phòng thủ, đánh nhau với quân
Kính Điển ở Du Tràng. Kính Điển đặt phục binh vào nơi hiểm yếu, rồi xuất đạo kỳ binh khiêu chiến, vờ
1
Câu này chính bản chép "minh linh thôi đốc " người chấm sách cho nghĩa là "nhà Minh sai thôi đốc ". Có lẽ lầm, vì đây
không phải là việc của triều đình nhà Minh. Hoặc chép sót một chữ "niên " (năm ) chăng ? Xin dịch theo nghĩa "minh niên linh thôi
đốc ". 69 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
thua chạy, quan quân đuổi theo,gặp ổ phục binh chổi dậy, bị thua tơi bời! bọn Sư Thước chạy thoát, Lộc
quận công [tờ 80b] thì tử trận.
Thái sư được tin báo bại trận, bèn dẫn quân về, khi đến Thạch thành, Kính Điển nghe tin, cũng
dẫn quân lui về Đông Kinh.
Mùa xuân, niên hiệu Chánh Trị thứ thứ 9 (1556)1
, vua Thế Tông nhà Minh thăng hà, vua Mục
Tông lên ngôi Hoàng đế.
Mậu Hợp đổi năm Thuần Phúc thứ 2 (1566) làm năm Sùng Khang thứ nhất. Năm này, Mậu Hợp
di cư vào quán Bồ Đề, sai Giáp Hải cùng Đông Cát Hiệu thư Phạm Duy Quyết đi đến biên giới tỉnh Lạng
Sơn, đón tiếp sứ thần Lê Quang Bí về.
Quang Bí đi sứ sang nhà Minh về việc cống hiến thường niên, tự năm Mậu Thân, niên hiệu Gia
Tĩnh thứ 27 (1548), khi đến Nam Ninh, triều Minh ngờ là quan giả mạo, bắt phải chờ để tra xét minh
bạch đã, mới cho dâng lễ phẩm. Thế rồi gởi văn thư đi tra xét, nhưng chẳng có hồi âm, Quang Bí cứ phải
lưu tại sứ quán chờ mệnh lệnh Phúc Nguyên thì, vì lúc ấy trong nước nhiều nạn, bỏ khiếm khuyết việc
cống hiến đã mấy năm liền, nên cũng không dám tâu xin. [tờ 81a] Đến năm Quý Hợi, niên hiệu Gia
Tĩnh thứ 42 (1563), quan quân Lưỡng Quảng nhà Minh mới sai người đưa Quang Bí tới Bắc Kinh. Nhân
dịp Phúc Nguyên cũng sai hầu mệnh gửi cho Quang Bí 25 lạng bạc để thưởng lạo. Khi Quang Bí tới Kinh
Đô, lại bị lưu ở sứ quán. Đến lúc này, viên Đại học sĩ triều Minh Lý Xuân Phương thương hại Quang Bí ở
trong nước nhà Minh đã 18 năm2
. Quang Bí lúc ra đi tóc mây xanh mướt, khi trở về râu tuyết bạc phơ!
Người Tàu ví ông như ông Tô Vũ đi sứ đến lúc bạc đều mới được trở về3
.
Khi Quang Bí trở về tới Đông Kinh, Phúc Nguyên tỏ lời an ủi, thấy sứ sự của ông giống hệt Tô Vũ,
bèn phong cho tước Tô quận công.
Tháng 9, Thái sư lại ra đánh xứ Sơn Nam, đánh đến hạt Gia Viễn và Phụng Hóa, thì dẫn quân về.
năm Đinh Mão, niên hiệu Chánh Trị thứ 10 (1567) [tờ 81b] nhằm niên hiệu Long Khánh thứ
nhất triều vua Mục Tông nhà Minh, lúc này Thái sư xuất quân bình định phương Tây Nam, quân Mậu Hợp
bị thua luôn luôn.
Mùa xuân, niên hiệu Chánh Trị thứ 11 (1568), Mậu Hợp mở khoa thi Cử nhân, lấy bọn Vũ Hữu
Chánh cộng 17 người trúng tuyển.
Tháng 3, Quận công trấn thủ xứ Quảng Nam chết, Hoàng đế bổ nhiệm Nguyên Súy Công Nguyễn
Bá Quýnh thay.
Tháng 4, Thái sư gấp rút xuất quân ra đánh xứ Sơn Nam, phá các Huyện: An Mô, An Khang, Gia
Viễn và Phụng Hóa, thu lúa thóc các nơi này, rồi dẫn quân về.
Tháng 2, niên hiệu Chánh Trị thứ 12 (1569), Hoàng đế gia phong Thái sư lên tước "Thượng phụ
Thượng tướng Thái quốc công ".
Tháng 10, ngày Giáp Tý, ban đêm có động đất, làm cho núi lở.
Lúc này, Thượng tướng Thái quốc công Trịnh Kiểm đau bệnh đã lâu, bèn xin trao lại binh quyền,
Hoàng đế ưng cho, ngài bèn hạ chiếu mệnh con trai Thượng tướng là Tuấn đức hầu [tờ 82a] Trịnh Cối
đốc lĩnh quân thủy bộ các doanh; Phúc lương hầu Trịnh Tùng chức Bình đông Đại tướng quân, nối trọng
nhiệm Thái quốc công, để đánh dẹp Mậu Hợp.
1
Câu này chính bản chép "cửu nguyệt xuân " (chín tháng xuân ". Hoặc do chữ "cửu niên xuân " chép lộn ra chăng ? Xin
dịch theo chữ "cửu niên xuân ".
2
Đoạn văn này chép như vầy chưa đủ nghĩa, hoặc chép sót câu gì, đại khái nói: bèn tâu xin v.v... chăng ?
3
Tô Vũ tên tự Tử Khanh, chức Trung Lang Tướng thời vua Hán Vũ Đế, phụng mệnh đi sứ sang nước Hung Nô, bị lưu lại
phải đi chăn dê, 19 năm mới được về nước. 70 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
Năm Chánh Trị thứ 13 (1570), Hoàng đế triệu Nguyễn Bá Quýnh về giữ chức Trấn thủ xứ Nghệ
An, và sai Nguyễn Hoàng kiêm chức Trấn thủ cả 2 xứ Thuận và Quảng.
Tháng 2, Thượng tướng Thái quốc công chết. Con trai trưởng của Quốc công là Tuấn đức hầu
Trịnh Kiểm1
, làm nhiều sự thất nhân tâm, Phúc Lương hầu cùng các Tướng bèn tới cửa quyết tâu tội trên
của Trịnh Cối. Khi Hoàng đế dời tới quan ải Vạn Lại, thì Trịnh Cối đem binh đánh vào cửa Quyết, Phúc
lương hầu dẫn quân chống cự, vài ngày sau, Trịnh Cối lui quân về Biện Thượng, và đóng doanh tại Bố
Chính.
Tương lập quận công thấy tình thế bên ta Tướng sĩ không hòa, bèn dẫn con em đầu hàng họ
Mạc, và đem hết tình hình quân sự bên ta báo cáo cho họ Mạc biết. Kính Điển rất lấy làm mừng, bèn
phong tước Tiên quận công cho Tương lập quận công, [tờ 82b] và sai lĩnh quân đi trước, làm đạo quân
hướng đạo, rồi Kính Điển khởi 100.000 binh trong 4 trấn và 700 chiến thuyền. Ngày 16 tháng 8, Kính
Điển đốc các vị tôn thân, và Tướng Tá sĩ tốt các Đạo, vượt biển vào đánh cướp xứ Thanh Hoa, khi tới
cảnh thổ Thanh Hoa, Kính Điển chia quân: Sai Mạc đôn Nhượng cùng với Tướng đạo bắc là Thái bảo Gia
quốc công Mạc Đình Khoa, và Phó tướng Mậu quận công lĩnh quân giữ các bể Thần Phù, còn các đạo
quân khác tiến theo thứ tự: Tướng Bắc đạo Hoằng quận công làm đội quân thứ nhất; Tướng Nam đạo
Thạch quận công Nguyễn Quyện làm đội quân thứ nhì; Tướng Tây đạo Sầm quận công Mạc Ngọc Liễn
làm đội quân thứ ba; Tướng Đông đạo Hoa quận công làm đội quân thứ bốn; Kính Điển thân tự đốc quân
Trung doanh [tờ 83a] làm đội quân thứ năm; các vị Tôn vương thống lĩnh quân vệ Triều đông và quân
các đội Nội vệ làm đội thứ sáu, chia ra các ngả, vào các cửa bể Linh Tràng, Chi Long và Hội Triều, cùng
hội đồng ở nơi Bút cương, rồi đóng doanh trại tại 2 bên bờ sông Hà Trung, khói lửa trong các trại bốc lên
nghi ngút khắp mười dặm hơn. Trịnh Kiểm2
tự liệu không thể đương nổi, bèn dẫn hơn vạn quân cùng các
bộ Tướng: Lại Thế Mỹ, Nguyễn Sư Doãn, Trương Quốc Hoa, Vương Trân và Vũ Sư Thước cùng gia quyến
ra hàng họ Mạc, Kính Điển thu nạp, phong tước Trung lương hầu cho Trịnh Cối, phong tước Hương quận
công cho Thế Mỹ, phong tước Lý quận công cho Sư Doãn, phong tước Sơn quận công cho Vương Trân,
Phong tước Thủy quận công cho Sư Thước, và sai các ông đều dẫn quân thuộc bộ của mình tiến đánh.
Ngày 25, Kính Điển tổng động binh, các Đạo đều tiến [tờ 83b] con sông Mã Giang tự bến Úng
trở xuống; sông Lam Giang tự bến Bổng trở xuống, khói bốc ngất trời, bóng cờ rợp đất! Nhân dân xứ
Thanh Hoa cõng già dắt trẻ, chạy trốn lưu ly, ngoài đường vang tiếng kêu khóc! Kính Điển đánh vào lũy
An Tràng rất gấp, ngày đêm không ngừng.
Lúc này vua Anh Tông đã phong tước Trưởng quận công cho Phúc lương hầu, trọn quyền điều
khiển tất cả các doanh. Trưởng quận công đặt yến thiết đãi các Tướng, và úy lạo quân dân. Võ thần thì
có Vinh quận công Hoàng Đình Ái, Tấn quận công Trịnh Mô, Nghĩa quận công Trịnh Huấn và Dương quận
công Nguyễn Hữu Liêu, tất cả 30 viên. Văn thần thì có bọn Thượng thư bộ Lại Hưng lễ hầu Nguyễn Đĩnh
gồm 12 viên. Các quan văn võ dung hòa sum họp, ngày đêm bàn định kế sách, chia quân giữ các đồn
trại, đào hào đắp lũy, làm kế cố thủ. [tờ 84a] Bọn ông Lê Cập Đệ dùng kế sách, sai quân lính đắp thêm
một bức thành giả, tại vòng đai ngoài bức thành chính, vào lúc ban đêm, bao quanh hơn mười dặm:
Dùng thanh tre kên thành hình bức thành, rồi tô bùn đất bên ngoài, trên mặt thành thì cắm chông bằng
tre vót nhọn, chỉ trong một đêm mà hoàn thành một cái thành giả. Ngày hôm sau, Kính Điển trông thấy,
ngở là bức thành thực, xiết đổi kinh ngạc! Không dám tới gần. Bảo các Tướng rằng:
"Không ngờ binh sĩ nhà Lê, ngày nay vẫn còn có kỷ luật, pháp lệnh rất nghiêm minh! Chỉ đắp
trong một đêm, mà hoàn tất một bức thành đồ sộ! Tất là còn có nhiều binh sĩ thù tử hiệu lực, cho nên
công tác mới mau chóng như vậy, khiến lòng ta không yên. Chuyến này mà không thành công, thì sau
đây chưa dể gì bình định được. Nếu không đánh gấp, quyết kế tiễu trừ, tất sẽ lưu lại một mối lo về sau ".
1
Chữ "Trịnh Kiểm " "Trịnh Cối " mới phải, nguyên bản đã chép lộn ? Thái quốc công Trịnh Kiểm đã chết, đây Tuấn đức
hầu Trịnh Cối là con trai trưởng của Trịnh Kiểm.
2
Chữ "Trịnh kiểm " này hoặc do chữ "Trịnh cối " chép lộn ra chăng ? 71 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
Kính Điển bèn thân tự đốc Tướng sĩ ngày đêm tiến đánh. Miền Giang tả tự [tờ 84b] châu Gia,
châu Tàm trở xuống; miền Giang hữu tự đầu nguồn huyện Lôi Dương huyện Nông Cống, đều thành chiến
trường. Nhân dân các huyện trong xứ Thanh Hoa đều chạy trốn, rất nhiều người chết đói.
Tháng 10, Kính Điển xuất quân tiếp chiến với quân nhà vua ta, hai bên chống nhau ở sông Long
Sùng hạt Bảo Lạc. Các Tướng bên ta dùng kỳ binh: Ban ngày thì cố thủ trong thành, ban đêm thì dẫn
quân cướp trại, làm cho quân giặc không được yên nghĩ. Phủ Tiết chế ra lệnh: Người nào chém đầu một
tên giặc, sẽ được thưởng một hốt bạc. Bởi thế binh sĩ phần nhiều xả thân chiến đấu! Quân giặc nôn nao
sợ hãi, bỏ trốn rất nhiều.
Kính Điển thấy đánh mãi mà không thắng lợi, bèn lui quân đóng doanh tại Hà Trung, và cấm các
người buôn muối, không được chở muối lên mạn đầu sông để bán. Đó là có ý định chống cự cầm chừng,
dằng dai lâu ngày, để cho quân ta phải mỏi mệt.
Lúc này nhân có viên Tướng cũ của ta là Vũ Sư Thước, nguyên đã hàng họ Mạc, ngầm sai người
tâu xin trở về triều đình qui chính, [tờ 85a] vua Anh Tông bèn đại hội các Tướng, quyết kế tiến binh,
chia quân làm 3 đạo: Lại Thế Khanh xuất quân ra đường bên tả, tiến về huyện An Định, đánh vào huyện
Tống Sơn; Hoàng Đình Ái xuất quân ra đường bên hữu, tiến về huyện Lôi Dương, đánh vào huyện Quảng
Xương; phong Trưởng quận công Trịnh Tùng chức Tả Tướng, có quyền điều khiển tất cả các Tướng sĩ
thủy quân và lục quân các xứ; Hoàng đế tự làm chức Đô tướng, thống lĩnh đại quân ra trung lộ, tiến về
huyện Thụy Nguyên, huyện An Định.
Khi Hoàng đế tiến quân đến đóng tại huyện Đông Sơn, thì Vũ Sư Thước dẫn 500 quân bản bộ tới
hàng, quân ta lại trở nên hùng mạnh. Kính Điển bèn lui quân về giữ sông Bút Cương. Hoàng đế bèn sai
tạo cầu nổi, rồi cùng với Tả Tướng vượt qua sông An Lưu, đến huyện Kim Tử, qua huyện Thuần Hựu,
đánh vào các đồn họ Mạc. Ngài sai Vũ Sư Thước dẫn hơn nghìn quân bản bộ1
làm đạo quân tiên phong,
[tờ 85b] giao chiến với binh họ Mạc ở huyện Lôi Trạch, thu được chút ít thắng lợi. Lại Thế Khanh và Lê
Cập Đệ, đánh lấy được huyện Tống Sơn và huyện Nga Sơn. Quan quân kéo đến đâu, quân giặc đều bỏ
chạy tán loạn.
Tháng 12, Kính Điển thấy đánh mãi không được, bèn bảo các Tướng rằng:
"Chúng ta đánh dẹp bọn giặc mạnh, đã trải qua 9 tháng trời, mà không thu được thành công.
Hiện nay là mùa đông, khí trời rét lạnh, nước sông cạn nông, lại thêm những khí độc lam chướng sắp bốc
lên, mà lương thực cho binh sĩ của ta không được đầy đủ, lòng người mất tin tưởng, thì còn ai đồng tâm
hết sức cùng ta đánh giặc. Binh sĩ ta đã trễ nải rời rạc. Chi bằng hãy tạm lui quân, để sẽ tính chuyến sau
".
Kính Điển bèn bỏ các trại sách, dẫn quân về. Trịnh Cối nghiệp dĩ đã đầu hàng họ Mạc, nên cùng
với Lại Thế Mỹ, Trương Quốc Hoa, dẫn hơn nghìn quân bản bộ cùng các gia quyến, theo Kính Điển tới
Đông Kinh. Nguyễn Sư Doãn cũng đầu hàng với Mậu Hợp.
[tờ 86a] Niên hiệu Chánh Trị thứ 14 (1571), Hoàng đế thăng Tả Tướng Trưởng quận công Trịnh
Tùng lên chức Thái úy, hàm Trưởng quốc công, các Tướng khác cũng đều được thăng thưởng theo thứ
tự, để cùng dốc lòng đánh giặc.
Hoàng đế sai Phùng Khắc Khoan đi các nơi chiêu tập những nhân dân lưu tán.
Mậu Hợp mở khoa thi Cử nhân, lấy bọn Nguyễn Miễn gồm 17 người trúng tuyển.
Tháng 10, Mậu Hợp sai Kính Điển dẫn quân đánh cướp xứ Nghệ An, quan quân bên ta vì xa cách
nên không cứu được, bởi thế những khu từ sông Đại hà trở về phương Nam, đều thuộc về quân giặc
chiếm cứ. Viên Thổ tướng là Nguyên Quận công Nguyễn Bá Quýnh, vừa nghe tin quân giặc kéo đến, đã
vội vàng chạy trốn trước. Xứ Thuận Hóa và xứ Quảng Nam cũng dao động. Nhưng viên tướng trấn thủ 2
xứ này là Nguyễn Hoàng, sẵn có danh vọng uy tín, lại nhiều mưu lược quyền biến, khống chế trong hạt,
1
Chữ này chính bản chép "bản huyện quân " hoặc do chữ "bản bộ quân " chép lộn ra chăng ? Xin dịch theo chữ "bản bộ
quân ". 72 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
quân luật rất nghiêm nhặt, có viên Bộ tướng nào định hàng giặc, ông đều bắt giết hết. [tờ 86b] Bởi thế
quân họ Mạc không thể phạm tới 2 xứ này.
Tháng 9, Tấn quận công Trịnh Mô và Lại quận công Phan Công Tích, dẫn quân đến cứu viện xứ
Nghệ An. Kính Điển phải lui quân, xứ Nghệ An lại bình định.
Niên hiệu Hồng Phúc thứ nhất (1572), mùa thu, tháng 7 Kính Điển lại xuất quân đánh cướp xứ
Thanh Hoa và xứ Nghệ An, cướp phá các Huyện ven sông, nhân dân các nơi này phải lưu tán, làng xóm
trống không.
Tướng xứ Hải Dương là ngụy Lập quận công, xuất thủy quân hơn 7 nghìn chiến thuyền, dùng
ngụy Cửu quận công làm hướng đạo, do đường biển vào đánh cướp xứ Thuận Hóa và xứ Quảng Nam,
thổ dân nhiều người ra hàng. Viên trấn thủ là Nguyễn Hoàng, lập kế dụ Lập quận công tới, ông liền chém
đầu y ngay giữa sông, quân họ Mạc liền tan vỡ, theo đường biển chạy trở về, đều bị chết đuối. Tiên quận
công thì trốn chạy về châu Bố Chánh, rồi lại trở vvề với Mậu Hợp.
[tờ 87a] Tự đây, quân họ Mạc không dám nhòm ngó tới 2 xứ Thuận và Quảng.
Thái phó Vị quận công Lê Khắc Thận, lại vượt lũy ra đầu hàng Mậu Hợp.
Tháng 9, Lại Thế Khanh, Lê Mô, và Phan Công Tích, dẫn binh ra giữ xứ nghệ An, binh họ Mạc
bèn rút về.
Vua Anh Tông thăng hà, vua Thế Tông lên ngôi Thiên tử.
Năm Quí Dậu, niên hiệu Gia Thái thứ nhất (1573), Hoàng đế phong Tả Tướng Trưởng Quốc công
chức "Đô tướng tiết chế các xứ thủy lục chư doanh, kiêm tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự
", phong Nhân quốc công Vũ Văn Kỷ là con trai Gia quận công Vũ Văn Mật chức Hữu tướng; các vị công
thần và các Tướng khác đều được thăng cấp theo thứ tự, trên dưới đồng tâm hiệp lực, để vấn tội quân
tiếm nghịch, và tu sửa thành quách hào lũy, để phòng quân Mậu Hợp nhòm ngó.
Tháng 7, Kính Điển lại dẩn quân đánh cướp xứ Thanh Hoa, khi chúng đánh vào doanh An Tràng,
[tờ 87b] thì quan quân ta rút cả vào bên trong lũy, để tỏ cho chúng tưởng là binh lực ta kém yếu.
Chúng lại tiến vào lũy Phúc Bồi, đang sắp qua sông Đoạn Trạch, thì quan Tiết chế đốc suất thủy quân cỡi
chiến thuyền chia đánh các ngả, phá tan quân giặc. Kính Điển bèn dẫn quân rút lui.
Mùa đông năm này, Hoàng đế bàn với quan Tiết chế, sai Vũ Văn Kỷvề trấn thủ đồn Đại Đồng ở
xứ Tuyên Quang, để vững phên giậu phương Tây và đề phòng quân của Mậu Hợp.
Tháng 10, lúc này Mậu Hợp 12 tuổi, bèn tự bến Bồ Đề qua sông về Đông Kinh, đắp bức thành ở
phía bên ngoài cửa Nam, rồi dựng ngôi điện lợp tranh để ở.
Niên hiệu Gia Thái thứ 2 (1574), Mùa xuân, Mậu Hợp mở khoa thu Cử nhân, lấy bọn Vũ Khắc
Khuê gồm 24 người trúng tuyển.
Tháng 6, Mậu Hợp sai Nguyễn Quyện dẫn quân vào đánh cướp xứ Nghệ An, các thành bên ta từ
sông Đại Hà trở về Bắc, đều bị chúng hạ. Chúng bắt được viên Tướng trấn thủ là Hoằng quận công.
Tháng 7, Phan Công Tích và Trịnh Mô, dẫn quân cứu viện xứ Nghệ An, Nguyễn Quyện chống cự
với các Tướng này vài tháng, rồi thu quân trở về.
[tờ 88a] Mậu Hợp phong tước Hưng lễ vương cho Mạc Kỳ là con trai Lý vương Mạc Lý Tốn.
Niên hiệu Gia Thái thứ 3 (1575), ngày 6 tháng giêng, Kính Điển đem quân đánh cướp xứ Thanh
Hoa; Nguyễn Quyện đem quân đánh cướp xứ Nghệ An. Lúc này, họ Mạc quân nhiều thế mạnh, cho nên
chúng kéo đến đâu, nhân dân ta đều như cỏ lướt.
Khi Kính Điển đánh đồn Thụy Nguyên huyện An Đình, chia quân cho Mạc Ngọc Liễn đánh núi
Đông Sơn huyện Lôi Dương.
Tháng 8, phủ Tiết chế sai Hoàng Đình Ái dẫn quân cứu đồn Lôi Dương, núi Mộc Sơn, quan Tiết
chế thì đích thân thống lĩnh đại quân, đóng tại núi Chiêu Sơn, chống cự với quân Kính Điển. 73 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
Khi Kính Điển giao chiến với quan quân ta ở Đông Lý hạt An Đình, thì bọn Vũ Sư Thước và
Nguyễn Hữu Liêu, xuất các đạo kỳ binh đánh cho Kính Điển phải bỏ chạy.
Bọn Lại Thế Khanh, Trịnh Mô và Phan Công Tích, dẫn quân cứu các xứ Nghệ An, cùng với quân
Nguyễn Quyện cầm cự chừng vài tháng [tờ 88b] Nguyễn Quyện đặt phục binh trước, rồi dẫn quân ra
đánh, thắng luôn mấy trận, bắt được Phan Công Tích giải về Kinh Sư, bị giết chết.
Mùa đông, Kính Điển kéo quân trở về.
Niên hiệu Gia Thái thứ 4 (1576), tháng 7, Kính Điển lại dẫn quân vào đánh cướp xứ Thanh Hoa,
đánh vào núi Lam Sơn thuộc huyện Thụy Nguyên, sai Ngọc Liễn đánh vào sông Đồng Cổ thuộc huyện An
Định, lại chia quân cho Nguyễn Quyện đi đánh cướp xứ Nghệ An. Nguyễn Quyện đánh nhau với quân
Trịnh Mô ở đây chừng vài tháng, Trịnh Mô thua luôn mấy trận, trốn về xứ Thanh Hoa, trong khi ấy,
Nguyễn Quyện tự nghĩ rằng:
"Trịnh Mô thua trận, phải kéo quân trở về, thì đang khi "quân hồi vô lệnh ", ta quyết bắt cho
bằng được ".
Bèn dẫn quân đuổi theo, đuổi theo tới núi Ngọc Sơnm, bắt được Trịnh Mô giải về Kinh Sư.
Tự đây, uy danh của Nguyễn Quyện càng thêm lừng lẫy! Thời xưng là một vị danh Tướng.
Niên hiệu Gia Thái thứ 5 (1577), mùa xuân, Mậu Hợp mở khoa thi Cử nhân, lấy bọn Vũ Giới gồm
18 người trúng tuyển.
Tháng 4, Mậu Hợp sai thu binh các Huyện, tất cả hạng nhất hạng nhì và hạng ba, người nào
cũng phải dự đủ lương thực đủ ăn trong 3 tháng, để dự bị vào xâm lược xứ Thanh Hoa.
[tờ 89a] Về phần phủ Tiết chế ta, cũng tính rằng: Mậu Hợp thường cậy sở trường về thủy quân,
mà nay là mùa thu, nước sông dâng cao đầy dẫy, tất nhiên chúng sẽ tới xâm lược. Cho nên cũng dự tản
cư các nhân dân ở nơi ven sông, bắt dem theo hết cả tài vật đã tích trữ vào các nơi rừng núi, để chờ
nghinh chiến quân Mậu Hợp.
Tháng 7, Kính Điển dẫn quân vào cướp.
Tháng 8, Kính Điển đánh vào hạt Đồng Cổ, quan Tiết chế đích thân xuất đại quân ra cửa lũy
Khoái Lạc chống cự.
Kính Điển đánh phá doanh Thượng hội, Hoàng Đình Ái xuất đạo kỳ binh khiêu chiến; Nguyễn
Hữu Liêu dẫn quân đánh chặn ngang, quân Kính Điển phải chạy lui.
Kính Điển lại tiến quân đến sông Hà Đô, sai Nguyễn Quyện phục binh ở bên ngoài đê bờ sông,
rồi sai Hoằng quận công, cùng với viên hàng tướng Lại Thế Mỹ làm đội quân tiên phong ra khiêu chiến,
đánh sát tới cửa lũy Khoái Lạc. Quan quân bên ta dùng súng bắn chết Lại Thế Mỹ trước mặt trận, các
quân ta trong trận đều lấy làm hả, tiếng hoan hô vang lừng dậy đất! [tờ 89b] quân họ Mạc bèn tan vỡ.
Tháng 9, Kính Điển dẫn quân trở về.
Tháng này có tuệ tinh hiện ở tọa độ sao Cơ, sao Ngưu và sao Nữ, xuất hiện trong 10 ngày mới
tắt.
Viên Thượng thư Bộ hộ giữ việc Đô ngự sử là Giáp Trưng, bèn dâng tờ sớ lên Mậu Hợp rằng:
"Hạ thần xét trong truyện có chép rằng:
Tuệ tinh là một loại sao yêu quái! Khi nó xuất hiện vừa to vừa dài, thì trong nước sẽ có tai biến
nặng nề mà thời kỳ ứng nghiệm còn xa ngày, trái lại, nếu hình nó nhỏ và ngắn, thì trong nước sẽ có sự
tai biến xoàng thôi, mà thời kỳ ứng nghiệm rất gần ".
"Hiện nay chánh sự càng ngày càng suy đồi, mà suy đồi không phải một điểm mà thôi. Kinh thư
có câu rằng: "Dĩ thừa Thượng đế thần kỳ, võng bất chí túc " (Lễ vật dùng dâng tế Thượng đế, các Thần
nơi Xã Tắc, Tổ Tông nhà Tôn Miếu, không nơi nào là không thành kính rất mực ). Thế mà những lễ phẩm 74 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
dùng để tế lễ ngày nay, thì con lợn cỗ xôi quá đơn giản, đồ lễ cẩu thả không kính. Đó là điểm đáng sợ
thứ nhất vậy.
Sách Mạch Tử có câu: "Quân nhân mạc bất nhân " (nếu vua có lòng nhân, thì bề dưới không kẻ
nào không nhân ). Nay những kẻ cận thần ở bên nhà vua, chỉ toàn nịnh nọt, dẫn sự chơi bời, [tờ 90a]
mong thỏa chí vua. Trong cung là nơi rất nghiêm nhặt, thế mà chúng thường ra vào tự do không cấm;
tuyên nạp là việc thận trọng, thế mà chúng làm bế tắc trên dưới không thông. Đó là điểm đáng sợ thứ 2
vậy.
Sách Mạnh Tử lại có câu: "Thượng hạ giao chinh lợi, tắc quốc nguy hĩ " (nước nào, tất cả vua tôi
trên dưới, đều xu hướng về mối lợi, thì nước ấy sẽ nguy vong ). Nay các quan cấp trên cũng như cấp
dưới, những người không ham lợi, chỉ chừng 2, 3 phần 10, ngoài ra hết thẩy đều đăm đăm về lợi, quan
tước nhũng lạm, Phiên Trấn trưng cầu, những sự đặt quan bán tước, không việc gì là không làm. Đó là
điểm đáng sợ thứ 3 vậy.
Tả truyện có câu: "Quốc gia chi bại do quan tà dã " (Quốc gia mà đến suy bại, là do các quan
chức đều quắt quéo vậy ). Nay các bầy tôi trong triều đình cùng ngoài Quận Huyện, những người ngay
thẳng chỉ độ 1, 2 phần 10 mà thôi, ngoài ra đều là hạng tà tâm quắt quéo. Sắc chỉ tống đạt cho các Ty
quan; quan lại trưng tiến cấp lớn nhỏ. Việc từ tụng sách nhiễu hối lộ, không cách nào là không dùng. Đó
là điểm đáng sợ thứ 4 vậy.
[tờ 90b] "Đường sử có câu: "Quốc y ư dân " (nước nương tựa vào dân ). Nay việc công việc tư,
sách nhiễu dân phụ, làm cho nhân dân vất vả khốn khổ về sự sống, thì nước còn nương tựa vào đâu ?
Đó là điểm đáng sợ thứ 5 vậy.
Truyện có câu rằng: "Sư khắc tại hòa " (Việc quân mà được thắng trận là bởi có điềm hòa ). Nay
Tướng Súy ngang trái với nhau, cùng nhau tranh giành, thì quân sự còn lấy gì để thắng. Đó là điểm đáng
sợ thứ 6 vậy.
Ngoài ra còn rất nhiều điều trái lẽ và phương hại đến nền đạo đức, không thể kể xiết. Bởi thế
cho nên trời ra tai biến, có tuệ tinh hiện, không phải là sự ngẫu nhiên.
Vậy kính mong bệ hạ, tự răn mình lo sợ, thay đổi hết thẩy chánh sự thối nát. Một khi lòng người
đã hòa, thì ý trời sẽ hợp. Nếu cứ vui thỏa theo ý muốn, mà không hối cải, thì thời kỳ nguy vong chưa dễ
gì lánh được ".
Mậu Hợp không thể làm theo ý tờ sớ này.
Niên hiệu Quang Hưng thứ nhất (1578) triều ta, nhằm niên hiệu Sùng Khang thứ 13 triều Mậu
Hợp. Lúc này, quan Tiết chế Trưởng quốc công [tờ 91a] giúp chính thống giữ binh quyền, chăm lo tiến
thủ, Vua tôi hòa thuận, chánh sự chỉnh đốn, quân sĩ tinh nhuệ, khí thế đang lên, mà Mậu Hợp thì chỉ ham
chơi bời, say đắm tửu sắc, không để ý tới việc nước.
Ngày 21 tháng 2, Mậu Hợp ở trong cung, bị sét đánh vào cung, thành chứng "bán thân bất toại
", sau chữa thuốc lại khỏi, bèn đổi niên hiệu năm này làm niên hiệu Duyên Thánh thứ nhất, và phong
thêm hàm Thiếu bảo cho Thượng thư bộ Lại Luân quận công Giáp Trưng, Giáp Trưng cố từ không nhận,
nhưng Mậu Hợp không cho từ.
Tháng 7, Mậu Hợp sai Kính Điển lĩnh quân vào đánh cướp các Huyện men sông trong xứ Thanh
Hoa. Khi giao chiến với quan quân ta ở cầu Phụng Công, gặp ổ phục binh, bị thua trận, bèn kéo quân trở
về Kinh ấp.
Tháng 10, Tướng Tây đạo Mạc Ngọc Liễn dẫn quân đánh vào châu Thu Vật trong tỉnh Tuyên
Quang [tờ 91b] cũng bị viên trấn thủ châu này là Nhân quốc công Vũ Công Kỷ đánh bại.
Niên hiệu Quang Hưng thứ 2 (1579), tháng 3 Mậu Hợp tiến Giáp Trưng lên chức Binh bộ Thượng
thư, có quyền giữ tất cả các việc trong 6 Bộ.
Tháng 7, Mậu Hợp sai Kính Điển dẫn quân vào đánh cướp xứ Thanh Hoa, phá nhiễu các Huyện ở
men sông, khi chúng đến sông Tống Sơn, đánh vào cửa Chương Quyết, thì Phủ Tiết chế sai Đặng Huấn 75 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
dẫn quân chống cự. Đặng Huấn sai Diễn quận công Trịnh Văn Hải xuất quân giao chiến với chúng tại núi
Kim Âu, Đặng Huấn thì dẫn quân tự Tống Sơn đi tới Hòa Bình Mục Sơn, đánh tập hậu, phá tan quân Kính
Điển. Kính Điển bèn dẫn quân trở về.
Niên hiệu Quang Hưng thứ 3 (1580), mùa xuân, Mậu Hợp mở khoa thi Cử nhân, lấy bọn Đỗ Củng
gồm 24 người trúng tuyển.
Tháng 7, Mậu Hợp lại sai Nguyễn Quyện Mạc Ngọc Liễn và hàng tướng là Hoành quận công dẫn
quân vào đánh xứ Thanh Hoa, chúng cướp bóc tài sản của nhân dân các miền ven sông, rồi kéo quân trở
về.
[tờ 92a] tháng 10 Kính Điển chết.
Kính Điển là ông chú Mậu Hợp, tước vị gồm cả chức Tướng văn và Tướng võ, giữ binh quyền
trong hơn 20 năm. Ông tiếp đãi quan liêu có lễ độ, đối với quân sĩ có ân nghĩa, từng trải qua biết bao sự
gian hiểm, mà vẫn cần lao trung thành, thời bấy giờ tựa vào ông làm trọng. khi ông chết, lòng người
trong nước đều dao động!
Mậu Hợp bèn dùng ông chú là Ứng vương Đôn Nhượng thay Kính Điển làm chức "Trung doanh
đốc súy ".
Tháng 12, ngày mồng 3, Mậu Hợp sai Lương Phùng Thời, Nguyễn Nhân An, Nguyễn Uyên,
Nguyễn khắc Tuy, Trần Đạo Vịnh, Nguyễn Kính, Đỗ Uông, Vũ Hoàng, Nhữ Tống, Lê Đĩnh Tú, Vũ Cẩn và
Vũ Tĩnh, chia làm 4 Bộ đi sang sứ triều Minh, để nộp bổ túc cống phẩm còn thiếu trong mấy năm qua.
Niên hiệu Quang Hưng thứ 4 (1581), ngày 27 tháng 6, Đô cấp sự trung trong 6 khoa bên ngụy
là: [tờ 92b] Nguyễn Phong, Nguyễn Tự Cường, Phạm Như Giao, Nguyễn Ích Trạch, Lê Viết Thảng và
Nguyễn Quang Lượng, cùng ký tên vào tờ sớ dâng lên Mậu Hợp rằng:
"Hiện nay thời sự gian nguy, có nhiều điểm đáng lo: Kỷ cương rối loạn, chánh sự hững hờ; hình
ngục oan uổng; pháp lệnh sai lầm; Tướng chưa hòa thuận; binh chưa chỉnh nghiêm, khi quân địch hùng
mạnh kéo đến đánh phá phương Tây Nam, nhân dân địa phương bị khốn khổ, tao nhiễu cả đến Kinh
thành. Thế mà lúc ấy, triều đình không đặt một phương lược hoặc một kế hoạch gì để chống địch, mặc
cho chúng tự do tiến tự do lui, tha hồ thi thố hết các cách tính hại ta, khiến cho nhân dân ta ở miền chân
núi rất là khốn đốn, không được yên ổn. Lại thêm trời ra tai biến luôn luôn. Ôi! Thời sự như vậy, thiên ý
như vậy, thật là quá đổi nguy ngập! [tờ 93a] Nếu ngay bây giờ biết nghĩ phương để cải cách tệ chánh,
biết sợ cơn giận của trời, chỉnh đốn binh bị để chinh phạt giặc thù, cũng chưa muộn, vẫn có thể kịp.
Khốn nổi vua tôi trên dưới, cứ vui chơi ngạo nghễ, vẫn hơn hớn tự cho là thái bình vô sự. Về phần bệ hạ,
hiện nay chưa thân xét đến các chánh sự, các bản tấu chương của đình thần, hết thẩy đều ủy cho Phụ
chánh Ứng vương quyết đoán, mà Ứng vương lại thường về Dương kinh luôn. Bởi thế các chánh sự trong
triều đều bỏ bê bối, quân sự cũng theo đà đó mà trễ nải; quan bản doanh có việc đến yết kiến thường
không được gặp, vị tướng các doanh không biết bẩm lệnh vào đâu. Bậc công bảo đại thần như Lễ quận
công Trần Thời Thầm thì e sợ hiềm nghi, thường né lánh không chịuu quyết đoán; Luân quận công Giáp
Trưng, thì lấy sự quá thịnh làm răn, [tờ 93b] thường luôn luôn xin giải chức; Đốc phủ trưởng quan Ngạn
quận công Mạc Ngọc Liễn, và Thạch quận công Nguyễn Quyện, thì hoặc thoái thác không tới công
đường, hoặc từ tốn không chịu bàn việc, cho nên các quan tả hữu không dám bàn nói; văn thần trọng
trách như Nghĩa sơn bá Trần Văn Tuyên, Vịnh kiều bá Hoàng Sĩ Khải, An khê bá Mai Công Đam và Xuyên
bá Nguyễn Triệt, thì đều giữ vẻ trọng hầu, không cần nghĩ tới việc sâu xa. Bởi thế các liêu thuộc nhân đó
mà trễ nải, hoặc có viên về thăm quê hương đến hàng tuần, hoặc có cuộc bàn luận mà chỉ có một viên
họp, hoặc có viên hiện có mặt ở Kinh mà không tới họp, hoặc có viên dự họp mà không phát biểu ý kiến.
Ngày nay thảo luận, ngày mai bàn tán, chỉ toàn những việc lặt vặt ở các nha môn [tờ 94a] còn việc
chánh trị trọng đại của triều đình, không hề nói tới. Như vậy, việc nước sẽ một ngày một suy đồi, đó là
cái cơ nguy loạn không thể không cấp cứu. Những người giữ việc nước, biết mà không chịu nói, hoặc nói
mà không hết lời, một khi triều đình đã thất kế, thì thiên hạ quốc gia sẽ như thế nào ? "
Mậu Hợp khen những lời này rất thiết đáng. Nhưng rốt cuộc vẫn không thay đổi được những tệ
chánh. 76 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
ngày mồng 9 tháng 7, Đô ngự sử Đặng Vô Cạnh xin từ chức, Mậu Hợp không cho.
Đêm hôm 21, có trận mưa bảo rất dữ! mà tại kinh đô càng mạnh hơn, tự cung điện trong triều,
đến giao đàn, thái miếu và đàn Xã Tắc, cả đến nhà cửa cùng dinh thự, thẩy đều đổ nát gần hết! Về
hương thôn các xứ thì, cây bốc rễ, lúa ngả rạp, nhà đổ thuyền đắm, người chết rất nhiều!
[tờ 94b] Ngày 27 Mậu Hợp triệu Trần Văn Tuyên làm Thượng thư bộ Lại vào hầu kinh diên. Lúc
này Giáp Trưng vào triều yết kiến xin hoàn sư.
Thiêm đô Ngự sử Lại Mẫn dâng tờ sớ lên Mậu Hợp, cực lực nói về thời sự tệ hại, lược rằng:
"Sự thế hiện nay, chính là thời tiết cực bĩ! Kỷ cương bỏ bê mà không chấn hưng, chánh sự thối
nát mà không tu sửa; trộm cướp hoành hành, giặc ngoài xâm lấn; lòng người nao núng, thế nước lung
lay. Như muốn chuyển bĩ làm thái, thì phải trên dưới hợp chí đồng tâm, mới có thể được. Thế mà nay chỉ
trang sức hư văn, mà không vụ thực sự, trên dưới trong ngoài đều nhưng theo thói cũ, các sớ tấu của
triều thần, hoặc chỉ phê như trước. như thế không có thể gọi là ngăn được con đường tư tình vậy [tờ
95a] Các Điện Phủ giám môn, Bộ Tự Khoa Đạo nội vệ tam ty, Đô Thừa Hiến tam ty, hết thẩy các tệ
đoan chưa cải cách hết. ngoài ra còn nhiều việc trái lẽ hại đạo, khác thường loạn tục, không thể kể xiết.
Hạ thần thiết nghĩ: Lúc này bệ hạ chính nên thân cận người hiền, đồng tâm phụ tá, tu sửa cải
cách các chính trị, ngỏ hầu có thể cứu vãn cơ nguy loạn trước khi phát xuất.
Tại sao Phụ chánh Ứng vương vẫn yên vui ngạo nghễ, nhân nhu trễ nải, không cứu sửa chánh sự
thiên tư, không chỉnh đốn quân sự phân tán, đến nổi các vị đại thần đều muốn trốn lánh, không chịu
quyết đoán lẽ phải, các vị trọng thần, nối tiếp xin từ chức, triều đình trễ nải như vậy, việc nước nhân thế
mà bề bộn, trăm việc rối ren, [tờ 95b] lòng dân tan rã, một khi họa loạn xẩy tới còn có thể cứu được ru
?
Thời xưa Y Doãn dạy vua Thái Giáp có câu: "Vô an quyết vị duy nguy ": (Đừng ngồi yên ngôi
vua, phải nên nghĩ tới sự nguy ). Ôi! Cổ nhân đang lúc thịnh trị, mà còn tha thiết lấy điều nghĩ tới sự
nguy làm răn. Huống chi hiện nay là thời kỳ rất nguy, mà không biết nghĩ tới sự nguy, hạ thần sợ nguy
vong sẽ tới ngay vậy.
Kinh Thi có câu: "Thiên chi giáng nạn, vô nhiên hiến hiến " (gặp khi trời giáng tai nạn, đừng nên
hơn hớn yên vui ).
Kinh Thi lại có câu: "Đa tương cao cao, bất khả cứu dược " (Vui chơi nồng nhiệt như lửa, không
còn phương thuốc cứu chữa ). Há không lấy đó làm răn ru ?
Kính mong bệ hạ, chăm lo chính trị, săn sóc thời cơ, ban sắc lệnh cho Ứng vương phải: Để ý về
nền tôn xã, đảm nhiệm lấy việc thiên hạ, về việc tu chính trị bên trong, tất phải xử công bằng, các đạo
tán chiếu như: Quyền ban tước lộc, truất phế hay bổ nhiệm, cho được sống hay giết chết, [tờ 96a] cần
phải biết rõ người chánh kẻ tà, phân biệt người có công kẻ có lỗi, khiến cho thưởng phạt đúng mức, thì
còn công việc gì mà không làm nổi. Về quân sự bên ngoài, tất phải có tiết chế, sai bản doanh và các
doanh Đông Tây Nam Bắc, phải tuyển dụng những người dũng cảm, luyện tập chiến đấu đều đều, khiến
cho binh sĩ hùng mạnh, thì còn lo gì về đánh dẹp không thắng trận.
Trách cứ Thiếu bảo Lễ quận công Trần Thời Thầm phải: Kính theo đoán xét cũ, chủ trương về
công luận trong nước, chấn cử kỷ cương, đừng có hiềm nghi mà lánh quyền sợ việc.
Lại ban chỉ dụ cho Thiếu bảo Luân quận công Giáp Trưng, phải tham bàn chánh sự trong triều,
giúp quyết cơ mưu quân sự, cần để ý tới việc yêu nước quên nhà.
Lại ban sắc dụ cho Hộ bộ Thượng thư, Đô ngự sử Miện dương bá Đặng Vô Cạnh. [tờ 96b] phải
tuân theo chức vụ, duy trì công luận, kính cẩn mọi việc, để cho phong thái triều đình được tôn nghiêm.
Đó đều do vài ba vị chấp chánh đại thần cùng các quan công bảo, ngày đêm bàn tính ở trên triều đình,
hiệp sức cùng mưu, để cải cách tệ chánh, khiến cho các nha môn trong ngoài, có chỗ tuân theo làm qui
thức, ai ai đều làm tròn chức vụ, thì mới có thể mong tới trị bình thiên hạ. 77 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
Nếu đang thời kỳ nguy ngập, mà vẫn cho là bình yên, đang lúc có tai biến, mà vẫn ung dung, chỉ
thỏa thích những cuộc vui có thể đem đến sự bại vong. Hạ thần sợ một khi biến loạn xảy tới ngoài sự
tưởng tượng, lúc ấy thì dù có bậc trí giả cũng không có thể vãn hồi được ".
Trong bài sớ có tới ngàn câu, Mậu Hợp xem xong phê rằng:
"Những lời này rất thiết đáng, đáng được thi hành ".
Nhưng vẫn không làm theo.
[tờ 97a] Thiếu bảo Giáp Trưng dâng tờ sớ lên Mậu Hợp rằng:
"Trận mưa bảo vừa rồi, là một tai biến lạ thường! Ôi! Tai biến xảy ra, đều do nhân sự xui nên.
Hiện nay giặc giả chưa yên, quân dịch nặng nề, cả đến việc thu thuế và cho dân vay thóc cũng rất phiền
phức, nay phóng mai đã thôi thúc, suốt năm không ngày nào yên, cứ điếm đầu người mà thu, rồi lại tính
lời từng phân từng ly. Tự niên hiệu Sùng Khang tới nay, trong khoảng 9 năm đó, những nơi thu vét sưu
thuế, chỉ đòi hỏi lũ dân nghèo; cả đến trong Điện cũng chỉ đòi hỏi đám dân ấy. Ngoài ra còn có khi tăng
gấp đôi số thuế đã định, làm cho dân phải phá sản. Dân tình ngao ngán, không còn muốn sống !
Kinh Thi có câu: "Vô viết cao cao tại thượng, trắc giáng quyết thổ " (Đừng tưởng trời quá cao xa.
Vẫn thường lên xuống soi xét dưới đất ). Dưới đất tức là nhân sự vậy.
Kinh Thư có câu: "Thiên thông minh tự ngã dân thông minh, thiên minh uy tự ngã dân minh uy "
(thông minh của trời cũng là thông minh của dân, uy sách của trời cũng là uy sách của dân ). Đó là nói:
Lòng dân xu hướng vào đâu, tức đấy là lẽ trời vậy.
[tờ 97b] Nay nhân sự đã suy đồi đến như thế, nhân dân đã khốn đốn đến như thế, cho nên
trời ra tai biến trận bảo để cảnh cáo vậy.
Kinh Dịch có câu: "Chấn lai khích khích, hậu tiếu ngôn ách ách. Cát " (Động tới ngầm ngập run
sợ, rồi sau nói cười sằng sặc. Tốt ). Lời tiểu tượng trong quẻ Chấn này giải rằng: Đó là lo sợ mà được
phúc vậy.
Nay muốn dẹp tai biến, mà không lo sợ tu tỉnh, thì làm sao có thể được phúc.
Vậy kính mong bệ hạ, coi thiên tai là điểm tất phải sợ, coi nhân sự là điểm tất phải sửa. Kính cơn
giận của trời, không nên vui vhơi, kính cơn biến của trời, không nên dong ruỗi; không nghe kẻ hầu nịnh,
không mưu cầu tài lợi. Dạy bảo trăm quan, chấn hưng trăm việc, ban sắc cho triều thần nghị luận ban
hành những điều luật thương dân, rộng ban ân đức, tha thứ kẻ vô tội oan uổng. Những dân bị nạn lụt,
thì ra lệnh cho quan sở tại nâng đỡ vỗ về, [tờ 98a] ngõ hầu ân huệ nhà vua, thấm nhuần xuống dưới.
Một khi lòng người đã vui thỏa, thì thiên tai tự dẹp hết.
Hạ thần lại nghe có câu: "Thiên hạ tuy an, vong chiến tắn nguy ": (Mặc dù trong thiên hạ bình
an mà quên lãng về quân sự chiến trận, tất sẽ nguy vong ). Huống chi hiện nay là lúc nguy cập, thế mà
không có vũ bị, thì sao có thể giữ nước được.
Hiện nay, những lính mới tuyển vào doanh, phần nhiều khí giới chưa tinh nhuệ, kỹ nghệ chưa
thuần thục, thuyền bè chưa chỉnh đốn, lại gặp thiên tai cảnh cáo, chính là lúc đáng lo sợ nhất. Cho nên
những chánh sách trị an và tu chỉnh, không thể không rất cẩn thận. Nên nghiêm minh pháp lệnh, thu vén
kỷ cương, giữ vững nơi bờ cõi, tu sửa các thành quách, luyện tập binh mã, chỉnh bị khí giới, đóng thuyền
dựng trại, định phiên canh gác, đúng mức kỳ hẹn, ban hiệu lệnh, hằng ngày tập luyện [tờ 98b] chờ thời
sẽ phát động. Lại cần đôn sùng căn bản quốc gia, cố kết nhân tâm, hậu đãi dân mà không bắt dân khốn,
giúp đỡ dân mà không bắt dân mệt, không nên dùng hết nhân dân, nên giảm bớt sức phục dịch của
nhân dân. Đó là kế sách trị bình vậy ".
Mậu Hợp xem xong tờ sớ này, liền ban lời úy dụ Giáp Trưng, và triệu tới kinh sư để làm việc triều
đường.
Ngày 3 tháng 8, Hộ bộ Thượng thư Miện dương bá Đặng Vô Cạnh dâng tờ sớ lên Mậu Hợp rằng: 78 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
"Hạ thần là một kẻ hèn, mong ơn nhà nước, lạm dự cấp bậc quan cao, lại được bồi hầu kinh
diên. Tự xét gí nông tài mọn, không đủ xứng chức, cho nên đã hai lần khẩn thiết xin được giải chức vụ
nặng nề, mà vẫn chưa được bệ hạ ưng cho.
Hiện nay, đạo trời chưa thuận, gió bão ra tai, chính là lúc trên dưới hợp chí tu tỉnh, để đáp phúc
trời, [tờ 99a] cho nên hạ thần không dám lánh né, kính xin vâng giữ chức cũ. Hạ thần thiết nghĩ; Nhân
sự sai lầm ở bên dưới, thì trên trời thiên biến phát hiện. Năm ngoái có những thiên biến như: Núi tự
nhiên lở, sắc nước hóa đỏ; tuệ tinh phát hiện; và thường mưa đá. Năm nay cũng núi tự nhiên lỡ, mưa
xuống nước như tro than, và sấm động trái mùa. Bao nhiêu tai biến xảy ra luôn luôn, đó là nhân sự sai
lầm, cho nên hoàng thiên đem lòng nhân ái mà ân cần cảnh cáo vậy. Bệ hạ thấy thế, lấy làm sợ hãi tu
tỉnh, đốc thúc quần thần cùng bàn luận, để cải cách những kỷ cương không hợp lý. Hạ thần không biết
lòng quả cảm đã thực thi chưa ? Hay chỉ là mớ văn suông thôi. Tại sao những tờ sớ tâu các điều trước
đây, hoặc có điều bệ hạ cho là phải mà vẫn không làm theo, hoặc có điều bệ hạ nghe theo mà vẫn
không cải cách, hoặc có sớ bệ hạ cự không nạp. Các vị đại thần cùng các quan Công Khanh, đều chưa
thể tất ý bệ hạ, không tu chỉnh chức nghiệp, không cải cách tệ chánh, không giữ đạo trung bình [tờ
99b] Bởi thế trời lại cảnh báo bằng trận gió bảo vừa rồi. Cái đó không gì là lạ vậy.
Cúi mong bệ hạ, trên kính mệnh trời, trong sửa đức vua, quyền binh tất phải tự trên ban, chánh
lệnh chớ để trong cung phát; quyết nghe lời can gián trung trực, ngăn lấp mọi đường tà vẹo, ban sắc
lệnh cho Tổng sư phụ chánh Ứng vương, phải hằng ngày tới triều, để cùng các vị đại thần và công khanh
đại phu cùng bàn chánh trị, tu chỉnh việc quân. Biết việc gì là trái, nên bỏ ngay đi, đừng bảo rằng cái đó
cũng không hại gì1
; biết việc gì la phải, nên làm tức khắc, đừng cho rằng điều đó rất là nhỏ mọn. Mỗi khi
bàn luận tất phải sửa sai, đừng tự cho mình phải cả; mỗi khi can ngăn tất phải theo lẽ, đừng cam chịu là
nịnh thần. Như vậy trên giữ đạo ngay, dưới giữ pháp luật, tự nhiên tai qua phúc lại, sẽ chuyển loạn
thành trị, chuyển nguy làm yên. Nếu trên dưới vẫn cứ nhân tuần cẩu thả [100a] tự cho việc thiên hạ là
không thể làm gì được nửa; không thể cứu vãn được nữa, thì nguy vong sẽ tới ngay tức khắc.
Kinh Dịch có câu: "Kỳ vong kỳ vong, hệ vu bào tang " (Lời hào cửu ngũ quẻ "thiên địa bĩ " vừa
đắc trung (vì ở chính giữa quẻ trên ) vừa đắc chính (hào dương ở ngôi dương ), cho nên bậc đại nhân
quân tử, mặc dầu gặp vận bĩ vẫn được tốt lành (đại nhân cát ), duy vẫn giữ vững đức trung chinh, như
thể bám chặt lấy rễ cây dâu (hệ vu bào tang ), kẻo thất bại đấy (kỳ vong kỳ vong ).
"Hạ thần xin lấy câu kinh dịch này làm gương cho ngày nay ".
Mậu Hợp ngợi khen những lời trong sớ này, nhưng vẫn không thể dùng theo.
Ngày... Lại bộ Thượng thư Nghĩa sơn bá Trần Văn Tuyên, tới triều yết cáo xin về cố hương, cũng
dâng tờ sớ lên Mậu Hợp để tự hạch mình và từ mệnh mới
2
, đại lược tờ sớ rằng:
"Trong khoảng trời với người giao cảm, đều ứng vào cùng loại với nhau, như nhân sự hay thì trời
ứng điềm lành, nhân sự dở thì trời ứng điềm dữ.
Chánh sự thời nay, rất nhiều việc hại đạo trái lẽ, không thể kể xiết.
Những tờ sớ của các vị đình thần trước sau đã tâu bày, đều nói thẳng những sự sai lầm, có thể
như những liều thuốc hay, rất đáng cứu xét để tu tỉnh. Bệ hạ tuy đã ban chỉ dụ khen ngợi, [tờ 100b]
mà vẫn chưa thấy mở rộng lượng theo lời can gián, như bệ hạ dạy rằng: Lời này có thể làm theo, mà vẫn
chưa thấy thi hành thực sự; như việc mỗ, kinh luân rất nên châm chước thi hành, mà vẫn không thi
hành; như bản mỗ lưu ở trong cung, rất nên truyền ra, mà vẫn chưa phát ra. Không biết có phải tự ý
định của bệ hạ, hay là hoặc có kẻ làm ám tế thông minh của bệ hạ chăng ?
Những việc như thế, rất trái với thể làm chánh trị. Cho nên thể thống triều đình, ngày càng rối
loạn, những lời công luận, ngày càng bế tắc. Trong nước không có chánh trị hay, cho nên trời ứng điềm
1
Câu này chính bản chép "vô nhật hồ hại " (không ngày sao hại ). Xét không hợp văn lý. Xin dịch theo nghĩa câu "vô viết
hồ hại ".
2
Ngày 23 tháng này, Mậu Hợp với Trần Văn Tuyên làm Lại bộ Thượng thư, và bồi hầu kinh diên. Mệnh mới tức là mệnh
này. 79 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
dữ để cảnh tỉnh, như là tuệ tinh xuất hiện; núi tự nhiên lở, cùng là nhật thực nguyệt thực. Nay lại phạt
bằng trận mưa bão dữ dội ngay tại Kinh sư, đó là tai dị rất lớn.
[tờ 101a] Thời xưa vua Cảnh Tông chỉ nói một lời thiện, mà tuệ tinh phải lui; nước Trịnh vì có
chánh trị hay, mà khỏi tai họa về sau. Đó điều là điểm đã nghiệm về người thắng trời, đức khỏi tai, mà
cũng đủ làm tấm gương soi tỏ cho ngày nay.
Kính mong bệ hạ, sợ oai trời, sửa đức minh, ban sắc lệnh cho phụ chánh Ứng vương phải hết sức
tu tỉnh, giúp việc triều đình, để tâm vào việc giữ yên Hoàng gia, nằm gai nếm mật, lấy việc diệt quốc thù
làm trách nhiệm của mình. Lại cần trách nhiện các vị đại thần, tín dụng các người trung trực; cải cách
các điều lỗi, sắp đặt hết mọi việc. Như vậy là nhân sự đã hoàn thiện, thì thiên ý tự khắc vãn hồi, và thiên
hạ quốc gia sẽ một ngày một thịnh vượng thái bình. Nếu không thì thời kỳ bại vong, chưa dễ gì lánh
khỏi.
Hạ thần không xứng chức, tự hạch xin miễn chức, và tới trước cửa quyết để đợi tội, hoặc biếm
hoặc truất, kính theo mệnh bệ hạ ".
[tờ 101b]Mậu Hợp xét xong tờ sớ này, liền ban sắc lệnh úy dụ Trần Văn Tuyên, và buộc phải
nhận chức.
Ngày 16, Đông các học sĩ Đạo phái bá Nguyễn Năng Nhuận, dâng tờ sớ bày tỏ rằng:
"Hiện nay khí âm khí dương không hòa, cho nên phát sinh tai dị. Trận gió bão tháng trước, Kinh
sư bị tai hại nhất, mà nơi triều điện lại càng hại hơn. Đó không phải là một tai dị tầm thường.
Ngôi điện lợp tranh dựng lên, là để hành lễ vào ngày rằm và ngày mồng một hàng tháng, nay bị
trời mưa bão, làm cho trong triều ban ướt át, đó là cái triệu chứng khí âm cực thịnh đã phát hiện vậy.
Vậy nên định ngay nơi Ngự sở, không nên cố chấp theo những ý kiến tầm thường, và theo những lời bàn
nông cạn. Vua tôi trên dưới nên cùng nhau hết sức tu tỉnh, nghĩ phương pháp dẹp tai biến.
Hiên nay các việc bỏ bê, trăm tệ phát sinh. Nói ngay như trách nhiệm bộ Lại của hạ thần, mỗi khi
thăng chức cho quan lại, [tờ 102a] trừ những người được lệnh chỉ nhà vua truyền cho, ngoài ra chỉ toàn
những người có thân tính và có thế lực, còn những kẻ hàn sĩ viễn thần, thì chỉ độ một hai phần trăm
được dự mà thôi. Việc này cả thiên hạ ai ai cũng biết, không thể bưng được công luận. Chức nhiệm của
hạ thần, biết là bậy đấy, mà vẫn cứ làm, đã cam chịu tội không xứng chức vụ. Xin trình bày mấy điểm rất
quan hệ và chiêm vọng thiên hạ.
Thiếu bảo Phong quận công Trần Thời Thầm, là một vị Chưởng phủ đại thần, có bổn phận quyết
đoán mệnh lệnh đã bao năm. Thế mà gần đây, những lời ông tấu đối bệ hạ, thường cứ dụt dè từ tốn hai
ba lần. Như vậy không phải vị thể quốc đại thần được né lánh. Ôi! Chức phận vị đại thần, là cầm đầu các
thuộc hạ, đem sự chinh trực can ngăn Vua. Nếu chính mình né lánh không chịu nhận việc, thì còn sau có
thể đôn đốc các quan hạ cấp tới đức ngay thẳng ru ?
Luân quận công Giáp Trưng, là một vị văn thần trọng trách, tiên triều cũng đã trọng dụng. [tờ
102b] Thế mà gần đây, chỉ vì có sự trắc trở của con cái trong gia đình, mà mấy lần ông dâng sớ xin ở
nhà. Như vậy là không phải là một vị đại thần lịch duyệt thế sự đáng làm. Ôi! Các vị lão thần thường
chung vui chung lo với quốc gia, nước còn thì thân còn, nước nguy thì thân nguy. Đâu có thể cứ ở nhà
mà không biết tới việc triều đình ru ?
Nghĩa sơn bá Trần Văn Tuyên, nguyên là chức Bộ trưởng, mới được mệnh triều vào Kinh diên.
Thế mà khi nhận được mệnh lệnh, không chịu tới nhận chức, lại còn dâng sớ tự hạch.
Miện dương bá Đặng Vô Cạnh, được cất đặt lên đầu hàng đài các, đã từng tham dự phòng kinh
sách. Thế mà thường từ tạ là không tài, hàng tháng không chịu đến giảng kinh sách hầu Vua.
Sự thế hiện nay như vậy. Các vị ấy đều có ngôi tước, mà không chịu làm tròn nhiệm vụ. Hay là
bảo thời nay không thể làm gì được chăng ?
Hạ thần dại nghĩ: Việc thờ trời chỉ cần thực, chứ không dùng văn; [tờ 103a] việc can vua cũng
cần thực không dùng văn; việc động người cũng cần thực không dùng văn. Nếu mọi việc, việc gì cũng 80 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
không có một sứ thực, mà chỉ chuộng hư văn, hạ thần sợ việc trong thiên hạ sẽ dồn cả tới số không hết
thẩy, mà không còn cứu vãn được nữa.
Cúi mong bệ hạ kính sợ mệnh trời, không nên yên vui, dong nạp lời can ngay thẳng, ngăn lấp
mọi đường tà tắt.
Về phần phụ chánh Ứng vương, nên đốc suất các vị công bảo đại thần, Đô đốc 5 Phủ, Thượng
thư sáu Bộ, cùng các vị Ngự sử trọng thần, nhận lời can gián của mọi người để can gián Vua; ngay thẳng
mình trước để làm gương cho kẻ khác, cùng nhau cứu giúp việc nước, cho hết chức phận bầy tôi. Như
vậy nhân sự ở dưới đã hoàn hảo, sẽ vãn hồi được tai biến tự trời ra.
Hạ thần lại nghĩ: Một đạo Thanh Hoa, thế bên địch rất mạnh, mà chúng rất giỏi về môn bộ binh.
Hiện nay là thời gian tháng 7 tháng 8, quân ta vẫn im lặng, dưỡng uy sức [tờ 103b] để chờ thời sẽ
động, cái đó cũng là phải. Nhưng hạ thần nghe tình báo cho biết; Bên địch trồng cọc gỗ vào các lòng
sông cửa sông, đã tập thủy chiến, lại luyện bộ binh. Đó là chúng phòng bị bên ta vậy. Không biết về
phần bên ta phòng bị chúng, thì quân sĩ đã chỉnh tề chưa ? Khí giới đã tinh nhuệ chưa ? Hai đạo Tây
Nam xung yếu, đã lập thêm giậu lũy để phòng thủ chưa ?
Cúi mong bệ hạ trách nhiệm các Tướng Tổng soái, phải chú ý về việc binh, ban hiệu lệnh không
tuyển nhiều những binh lính non yếu, các cấp quan không được dùng những người không xứng đáng. Bệ
hạ lại ra lệnh cho 2 vị Đại tướng 2 Đạo Tây Nam, là Ngạn quận công Mạc Ngọc Liễn và Thạch quận công
Nguyễn Quyện, phải xét những phương pháp chiến thủ, để làm dụng cụ đánh phá, khiến cho quân địch
không vượt tới đuợc, mà bên ta đánh sẽ thắng. Lúc ấy mới đại cử hùng binh [tờ 104a] thẳng tiến thành
lũy bên địch, xuất đạo kỳ binh tiến đánh, sẽ thu được thành công chiến thắng vạn toàn ".
Mậu Hợp cho lời sớ này là phải.
Tháng 9, thự Cẩm y vệ Mạc Kính Trực thự Kim ngô vệ Đinh quận công Vũ Nhân Hậu cho là
nhũng lời trình bày về tệ đoan trong tờ sớ của Lại Mẫn tâu hồi trước, có ý chỉ trích các ông, bèn cùng
nhau làm tờ trạng tự biện bạch dâng lên Mậu Hợp.
Binh khoa Cấp sự trung Nguyễn Tự Cường, thấy Lại Mẫu tâu bày tệ đoan về sự tuyển dụng quan
lại, cũng làm tờ tâu lên Mậu Hợp để tự giải.
Lại Mẫn thấy các người nghị luận huyên đằng, nên cũng làm tờ sớ trình bày lý do tâu lên Mậu
Hợp đại lược rằng:
"Hồi trước hạ thần có dâng lên bệ hạ một bản sớ "tự nguy ", nói về đức nhà vua và chánh sự
hiện thời, trình bày hết thẩy mọi tệ đoan của các nha môn trong triều cũng như ngoài quận, là có ý muốn
các vị quan liêu đồng tâm hiệp lực, cùng làm việc nước, để cải cách hết sạch các tệ đoan ngày trước. [tờ
104b] Không ngờ nghị luận đình thần quá nghiêm, phỉ báng sôi nổi! Nếu bây giờ hạ thần chỉ rõ tên các
viên nhũng lạm ở các Ty đã kê trình trước, và nói rõ viên nào ở Vệ nào, đã nhận của người nào bao
nhiêu tiền, để làm bằng chứng cụ thể, sẽ lụy đến những viên đã nhận biếu, và các viên phụng mệnh tra
xét, lại liên lụy cả đến người đã nói cho biết. Như vậy không phải là đạo trung hậu của người bầy tôi
trong triều đình. Bởi vậy, hạ thần đành cam chịu cái lỗi nói không hết lời. Nay xin bày tỏ ý nghĩa về tờ sớ
của hạ thần tâu bày tệ đoan hồi trước ".
Mậu Hợp trao tờ sớ này xuống các vị trong triều. Không khiển trách Lại Mẫn, cũng không cứu xét
về việc của bọn Kính Trực có sự thực hay không. Ấy đại để hàm hồ không quyết đoán, đều như vậy cả.
Ngày 10, tháng 9, Mậu Hợp sai phụ chánh Ứng vương Mạc Đôn Nhượng, hợp quân các đạo vào
đánh xứ Thanh Hoam [tờ 105a] dẫn quân vượt biển tiến tới núi Đường Nang, giao chiến với Hoàng
Đình Ái, bị thua nặng, trốn về. Trận này Đôn Nhượng tổn thất rất nhiều Tướng sĩ.
Năm này, Mậu Hợp bị chứng "thanh mai ", mắt mờ không trông rõ, cầu các thầy danh y thiên hạ,
chữa thuốc, trong khoảng thời gian vài năm, con mắt lại được bình phục như thường.
Niên hiệu Quang Hưng thứ 5 (1582), ngày 29, tháng giêng, Mậu Hợp dựng một ngôi điện thường
gọi là điện giảng học, nhưng kỳ thực là để làm nơi yến tiệc chơi bời. Vừa mới hoàn thành, thì tối hôm ấy
bị hỏa hoạn cháy tiêu! Trần Văn Tuyên bèn dâng tờ sớ rằng: 81 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
"Kinh Thư có câu: "Duy cát hung bất tiếm tại nhân, duy thiên giáng tai tường tại đức " (Sự lành
dữ xảy ra không lộn, tại người, trời giáng tai ương hay điềm lành, đều bởi đức ).
Nay bệ hạ mới ngự ngôi điện mới dựng, đáng lẽ là lúc bắt đầu ban bố chánh sự và giáo hóa, thế
mà lại tới đấy để thỏa vui yến tiệc, không có đề phòng, đến nổi ngôi điện bị cháy, việc này không thể đổ
cả cho trời được, đó chính là bởi nhân sự xui nên vậy. Nếu người không có sơ hở, thì tai biến đâu có xảy
ra. [tờ 105b] Ý trời răn bảo đã rõ ràng như vậy, chính là lúc bệ hạ nên lo sợ cần cù. Kính mong bệ hạ
kính cẩn oai trời, nghĩ tới vương đạo, đừng cho lời nói của hạ thần là viễn vong .
Đến như sự sửa sang lại kinh thàh, trù hoạch qui cũ, dự định dựng ngôi điện, để bệ hạ tới ngự,
cũng là một cơ hội trung hưng thứ nhất. Vậy nên mong bệ hạ quyết đoán; giữa mong Ứng vương tán
trợ; dưới mong tất cả văn võ bá quan hòa mục, để cùng bàn tính kinh doanh, dựng lên một ngôi điện
nguy nga giữa trời ".
Mậu Hợp khen lời này là thiết đáng, và phán rằng:
"Trẫm đang suy nghĩ ".
Tháng 2, Mậu Hợp thăng Giáp Trưng lên tước Sách quốc công. Giáp Trưng kháng sớ hết sức từ
rằng:
"Hạ thần là một kẽ thư sinh, chưa từng có công lao đời này đời khác, thế mà lạm dự tước Quận
công, cũng đã là quá vọng, [tờ 106a] trong lòng lúc nào cũng tự lấy làm bẽn lẽn, huống chi là tước
Quận công to lớn, hạ thần đâu có thể kham nổi ".
Mậu Hợp cố khuyên dụ Giáp Trưng, không nghe lời thỉnh cầu từ chối.
Ngày 26, Mậu Hợp sai Hộ bộ Thượng thư, kiêm Quốc tử giám Tế Tửu, Vịnh Kiều Bá, Hoàng Sĩ
Khải, cùng với bọn Nguyễn Năng Nhuận, Nguyễn Phong và Vũ Văn Khuê, đi ra biên giới xứ Lạng Sơn để
đón mệnh thiên triều, và nghinh tiếp Sứ thần là bọn Lương Phùng Thời tự Trung Hoa trở về nước.
Ngày 5 tháng 3, Trần Văn Tuyên xin từ chức Lại bộ Thượng thư, để nhường cho các vị Sứ thần
vừa đi Sứ nước Trung Hoa trở về. Mậu Hợp không cho từ.
Tháng 4, Đặng Vô Cạnh viện lý do đau yếu, xin đình 2 nhiệm vụ Ngự sử và Kinh diên. Mậu Hợp
cũng không cho.
Ngày 6 tháng 5, Đề điệu Quốc tử Thiếu bảo Thao quận công Trần Thời Thầm tâu rằng:
[tờ 106b] "Quốc gia lấy nhân tài làm trọng, mà cầu nhân tài lấy khoa mục làm vinh. Nước Việt
Nam ta, tự khi dựng nước tới nay, thường yêu chuộng nhân tài, và long trọng khoa mục. Các triều đại
trước đây, mỗi khi mở khoa thi xong, đem tên các vị trúng tuyển khắc vào bia đá, dựng tại Hấn cung, lại
ghi chép vào Quế lục, để lưu truyền phương danh lâu dài về sau. Đó là một phép tốt của quốc gia vậy.
Đến bản triều ta, cũng theo cổ điển, phô diễn phép hay, niên hiệu Minh Đức thứ 3 (1529), sau
khoa thi tuyển, khắc tên các vị trúng tuyển vào bia đá, dựng ở cửa nhà Thái Học. Pháp hay chỉ thấy có
môt lần này thôi, mà cũng chưa có chép tên vào Quế lục.
Tự thời Đại chánh Quảng hòa, cho tới thời Vĩnh lịch Cảnh lịch, tuy là thời kỳ lắm việc, mà vẫn
thường thường mở khoa thi tuyển nhân tài. Nhưng 2 thịnh điển kể trên, cũng đều chưa tính tới.
[tờ 107a] Hiện nay, chính là thời kỳ đáng nên khôi phục thịnh điển ấy, và sửa sang cho tốt đẹp
thêm. Vậy xin bệ hạ, ra lệnh cho các vị triều thần bàn định, bắt đầu tự năm nay trở đi, mỗi khi mở khoa
thi xong, liền sai bộ Công tạo bia đá, khắc tên các vị trúng tuyển; các vị văn thần thì soạn bài Ký ca tụng,
khắc luôn vào bia đó. Lại chiếu xét những khoa thi trước, khoa nào chưa có bia thì lập bia, hoặc còn
thiếu sót thì điền bổ cho đầy đủ. Lại sai các vị văn thần biên chép tất cả tên trúng tuyển các vị trúng
tuyển vào quế tịch. Như vậy không những mỹ quan một thời, mà còn để đời sau xem xét, những tên các
vị khoa mục, sẽ lưu thơm tới ức nghìn vạn năm! Không phải chỉ là thịnh sự của các vị tấn thân, mà thực
là một sự hiển vinh của quốc gia vậy. Văn hóa thịnh vượng; thế đạo thịnh vượng; thiên hạ thịnh vượng.
Hạ thần rất hân hạnh được đích thân trông thấy ". 82 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
Mậu Hợp cho là hiện lúc này trong nước đang thời kỳ lắm việc, nên chưa thi hành.
Triều nhà Minh đưa tờ công văn tới, nói về ranh giới nước ta và Trung Hoa tại địa phận xứ Lạng
Sơn. [tờ 107b] Mậu hợp sai Đô ngự sử Đặng Vô Cạnh tới đó hội khám định đoạt.
Ngày 26, Mậu Hợp sai sứ tới nhà Giáp Trưng, triệu Giáp Trưng đi phúc định lại ranh giới. Giáp
Trưng trước đây đã hết sức xin từ chức để về hưu, mà chưa được y cho. Nay lại dâng sớ xưng bệnh, cố
từ không đi.
Tháng 6, Tướng của Mậu Hợp là Phù nghĩa hầu Nguyễn Đình Luân qui thuận triều ta, vua Thế
Tông phong cho Tướng này tước Trù quận công.
Ngày 18, Đặng Vô Cạnh dâng sớ viện lý do tật bệnh, xin từ chức. Mậu Hợp khuyên dụ không cho
từ.
Tháng 8, Giáp Trưng lại dâng sớ bày tỏ gia sự, xin vẫn giữ chức hàm như cũ, nhưng được ở nhà,
khi nào có nghị luận về chánh sự trọng đại, sẽ phụng chỉ dụ tới triều đình, ngoài ra xin được tự do lúc tới
lúc lui. Mậu Hợp không nghe, vời tới Kinh sư làm việc tại dinh thự.
Niên hiệu Quang Hưng thứ 6 (1583), mùa xuân, ngụy triều Mậu Hợp mở khoa thi Cử nhân, [tờ
108a] lấy bọn Nguyễn Tuấn Ngạn cộng 18 người trúng tuyển.
Tháng 7, Mậu Hợp sai Tướng dẫn quân xâm lược các Huyện ven sông thuộc xứ Thanh Hoa. Phủ
Tiết chế điều binh đánh phá ở nơi cửa biển, quân Mậu Hợp thua chạy. Tự đây Mậu Hợp mới dẹp ý Tây
xâm, nhân dân các xứ Thanh Hoa, Nghệ An được thảnh thơi yên ổn.
Tháng 10, Phủ Tiết chế xuất quân ra xứ Sơn Nam đánh vào các Huyện An mô và An khang, thu
thóc lúa nơi đây, rồi kéo quân về.
Tướng Đông đạo của Mậu Hợp là Kỳ quận công Nguyễn Nhật Kính qui thuận triều ta, được
Hoàng đế ban cho tước Đông quận công.
Niên hiệu Quang Hưng thứ 7 (1584), tháng giêng, Phủ Tiết chế lại xuất quân đánh vào Phủ
Trường An, và các xứ Thiên Quan, Thuận Hóa rồi dẫn quân về.
Ngày 4, tháng 9 Trịnh Cối chết.
Trịnh Cối tự khi ra hàng họ Mạc, bắt đầu được trao tước Trung lương hầu, sau tiến lên chứ Trung
quận công, đến đây chết. Mậu Hợp sai người tới phúng tế, [tờ 108b] và sai quân hộ tống linh cữu, cho
thân mẫu là Thái vương phu nhân và vợ con được đưa linh cữu về xứ Thanh Hoa an táng. Đó là muốn tỏ
thiện ý để thông hảo. Về phần phủ Tiết chế, cũng dâng biểu lên xin Hoàng đế tha tội cho ông, và truy
tặng tước Thái phó Trung quận công, rồi sai người tới núi Nga Sơn tiếp đón linh cữu, đưa về an táng tại
núi Quân An.
Mậu Hợp thăng tước An quốc công cho Trung quan Hào quận công, thăng tước Thường quốc
công cho Thạch quận công Nguyễn Quyện, thăng tước Hoằng quận công, và chức Tây quân Tả đô đốc
cho Miện quận công Nguyễn thông.
Tháng 10, Tướng Nam đại của Mậu Hợp là Nam dương hầu Trần Mỗ qui thuận triều ta, Hoàng đế
phong cho tước Bàn quận công.
Mậu Hợp sai bầy tôi là bọn Nguyễn Doãn Khám, Nguyễn Vĩnh Thác, Đặng Hiển, Nguyễn Năng
Nhuận, Vũ Sư Thước, Nguyễn Phong sang triều Minh cống hiến thường lệ hàng năm.
[tờ 109a] Niên hiệu Quang Hưng thứ 8 (1585), tháng giêng, phủ Tiết chế xuất quân ra Thiên
quan, đánh phá các Huyện Mỹ Lương, Thạch thất, và An Sơn, dẫn quân tới núi Sài Sơn rồi trở về, để viên
Tỳ tướng là Chiêu quận công lưu lại, đóng quân ở chợ Hoàng xa. Quân Mậu Hợp đuổi kịp, bắt Chiêu quận
công và một con voi.
Tháng 3, ngụy triều Mậu Hợp dùng Vũ Đảng làm chức Tả thị lang bộ hình. Vũ Đảng từ không
nhận. 83 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
Tự tháng 2 tới tháng 6, không có trận mưa nào, làm cho lúa đồng héo khô, nhân dân đói kém.
Viên Đề hình Nguyễn Thọ Xuân, bèn dâng tờ sớ trình bày các việc hại tới nhân dân, và xin thi hành
chánh trị thương dân.
Lại Mẫu cũng dâng sớ cực lực trình bày về hình ngục oan lạm, và sưu thuế nặng nề. Xin cải cách
các tệ đoan cũ, và săn sóc tới sự đau khổ của dân.
Mậu Hợp đều khen những lời này là thiết đáng. Nhưng chánh sự hết thẩy vẫn như cũ.
Lúc này, Mậu Hợp muốn vào ở tại kinh thành, [tờ 109b] bèn bàn việc tu sửa Kinh thành, kiến
trúc công tác vĩ đại. Nung gạch ngói, sai hạt An Bang và hạt Ninh sóc vận tải tre gỗ về. Bắt đầu khởi
công từ năm Quang Hưng thứ 7, đến đây mới hoàn thành.
Ngày 19, tháng 6, Tả đô đốc Đông quân là Đàm quận công Nguyễn Nghi Lộc xin về hưư trí, Mậu
Hợp cố khuyên lưu lại.
Ngày 28, Mậu Hợp chỉnh đốn xe ngựa vào Đông Kinh, tiếm ngự nơi chánh điện, mở ban triều các
ban văn võ, đổi năm sau làm niên hiệu Thụy Thái thứ nhất. Thăng Giáp Trưng, Mạc Ngọc Liễn, và
Nguyễn Quyện lên chức Thái Bảo; thăng Nguyễn Thông lên chức Tả đô đốc Nam quân. Ngọc Liễn xin từ,
không nhận chức.
Tả thị lang bộ Lại Tây khê bá Vũ Tĩnh, và Thượng thư bộ Lễ Đạm châu hầu Nguyễn Triệt, đều
dâng sớ xin từ chức. [tờ 110a] Mậu Hợp cho Vũ Tĩnh từ, không cho Nguyễn Triệt từ..
Tháng 12, Phủ Tiết chế xuất quân ra xứ Sơn Nam, đánh các huyện Gia Viễn và Phụng Hóa, rồi
dẫn quân về.
Niên hiệu Quang Hưng thứ 9 (1586), Mùa xuân, Mậu Hợp mở khoa thi Cử nhân, lấy bọn Nguyễn
Giáo Phương cộng 27 người trúng tuyển.
Mùa thu, ngày 27 tháng 7, Thái bảo Thao quốc công Trần Thời Thầm viện lý do đã 70 tuổi, xin
về hưu trí. Mậu Hợp khuyên dụ lưu lại.
Ứng vương Mạc Đôn Nhượng dâng sớ lên Mậu Hợp nói rằng:
"Hạ thần vâng mệnh phụ chánh đã lâu ngày, mà không có công hiệu gì. Vậy xin giải nhiệm
chánh trị trong triều. Về chức phiên thần, giữ nguyên một việc binh, dốc toàn lực vào quân sự, để báo ơn
nước ".
Mậu Hợp úy dụ Ứng Vương, không theo lời thỉnh cầu.
Đôn Nhượng lại dâng tờ sớ rằng:
"Cầu công giúp đỡ của bầy tôi, đó là lòng mong trị bình tha thiết của đấng vương giả; giúp việc
không thành công thì nghĩ, đó là lòng thờ vua chí thành của kẻ bầy tôi.
[tờ 110b] Hạ thần miễn cưỡng theo việc, tới nay cũng đã lâu năm. Thế mà chưa chấn chỉnh
được kỷ cương trong nước, chưa dẹp hết được giặc thù bên ngoài. Đó là bởi tài của hạ thần không đũ
làm chánh trở nên hay; vũ của hạ thần không đũ ra oai cho địch sợ. Nếu sức không đũ mà cứ miễn
cưỡng làm mãi, sợ sẽ đắc tội thêm với thiên hạ nhiều lần.
Vậy kính xin bệ hạ, tha thứ điểm bất lực bất tài của hạ thần, cho hạ thần được giải nhiệm chánh
trị, về chức phiên thần, ngỏ hầu khỏi tội lệ.
Mong bệ hạ giữ vững quyền trên, trị an trong cung, còn như về chánh sự thì giao phó cho các vị
đại thần trong triều, cần cải cách gấp các tệ chánh, việc quân sự thì giao phó cho các vị Tướng soái,
cùng hiệp lực về sự dẹp giặc làm cần. Hạ thần tuy không có tài năng, cũng xin tới chỗ hành doanh, đốc
chiến cùng với các Tướng tiến quân đánh quân địch, để khôi phục lãnh thổ có hạn, [tờ 111a] giữ vững
cơ nghiệp vô cùng ".
Mậu Hợp đáp rằng:
"Xem tờ biển này, lời rất khẩn thiết! tiểu tử đem lòng kính phục. 84 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
Hiện nay, kỷ cương nhà nước chưa phấn chấn, cơ nghiệp tổ tông chưa vững bền, mà tiểu tử thì
chưa có nhiều từng trải, chính là lúc cần nhờ đến sức cần lao của thúc phụ, sớm hôm cứu giúp, trong thì
sửa sang kỷ cương nhà nước, ngoài thì đánh dẹp giặc thù, để sáng tỏ trị công đấng Tiên vương; khôi
phục cảnh thổ tiên triều.
Thúc phụ đối với tiểu tử, nghĩa tuy là vua tôi, nhưng ân như cha con. Việc quốc gia trọng đại, rất
cần ỷ lại vào thúc phụ, kính mong thúc phụ cố gắng giữ trách nhiệm, cho thỏa lòng chí thành của tiểu tử
".
Đôn Nhượng lại tổng quát triều chánh.
Thái bảo Giáp Trưng dâng tờ sớ lên Mậu Hợp rằng:
"Thời xưa nước An Nam ta, họ Triệu dựng nước [tờ 111b] triều Hán phong cho tước Vương, sau
đó đến họ Đinh, họ Lê, họ Lý, họ Trần dựng nước, thì các triều Tống, triều Nguyên và triều Minh bên
Tàu, cũng đều phong tước Vương cho cả.
Đến bản triều ta, cách mệnh thành công, thì nước Minh lại đặt nước ta là Ty đô thống sứ, mà
phong cho vua ta chức Chưởng ty với quan hàm nhị phẩm.
Tự đấy tới đây, đã 44 năm qua, vẫn giữ hiệu ấy, nhân tuần việc cũ, xưng hô quá hèn, mà vẫn
chưa xin phong phục quốc hiệu. Mỗi khi đến dưới cửa quân nước Minh, hoặc nha môn Ty Bố chánh Án
sát và Thủ tuần nước MInh có văn thư tới nước ta, đều phê chữ "chuẩn thư ". Như vậy là nhục quốc thể
không gì bằng.
Kính mong bệ hạ, ra lệnh các triều thần hợp bàn, quan Đông các thì soạn tờ quốc thư xin phong,
và tờ công văn xin phong của các kỳ lão quan thuộc trong nước , đệ sửa sang cửa quân lưỡng Quảng,
[tờ 112a] chiếu xét rồi chuyển dâng lên vua Minh. Còn phẩm vật nghi lễ về cầu phong, thì tra xét đúng
lệ, và chỉnh bị một vài Sứ thần, chờ khi có mệnh thiên triều, lập tức tiến hành.
Quốc thể sẽ long trọng; nhân dân và nhà nước sẽ vinh quang, đều là tự việc này vậy ".
Mậu Hợp cho lời này là phải. Nhưng vì lúc này đang bối rối về quân sự, mà tài nguyên cũng còn
thiếu kém, cho nên chưa thi hành.
Ngày 2, tháng 8, Giáp Trưng dâng tờ sớ rằng:
"Cổ nhân lấy câu: "tri túc bất nhục" (Biết đũ sẽ không nhục ) làm răn; tiên hiền thường tự xử
theo câu: "Niên chí tiện qui " (Đến tuổi già thì về hưu ).
Nay hạ thần đã 70 tuổi, đáng nên về hưu, môt niềm mong muốn, không nói gì khác, kính mong
bệ hạ, xét lòng chí thành của hạ thần, cho hạ thần trí sĩ, để toàn tiết muộn, và giữ hơi tàn của hạ thần.
Đó là hạ thần rất mong vậy.
Hiện nay, các quan trong triều đình, thẩy đều là các bậc hiền tài, thi thố việc nước, đã có thành
toán. [tờ 112b] Nhưng hạ thần lo ngại về điều; Đang lúc thịnh trị cũng nên nghĩ tới sự nguy vong. Đó là
lòng chí thành của bầy tôi già này cần bầy tỏ.
Kính mong bệ hạ, tính việc trị an, cung kính phép trước, chuyên về chính học, thân cận người
ngay, thực ý ngay lòng, phòng sai ngăn dục, không gần sắc đẹp hát hay, không gây lợi về tiền của,
không ham rượu, không mê nhạc, ngăn kẻ nịnh nọt, răn sự dong chơi. Khiến cho chánh trị giáo hóa trở
nên hay, nhân dân nhà nước đều yên vui, để tiến tới môt nền thịnh trị.
Hạ thần lại nghĩ. Việc dụng binh là một việc rất cần thiết hiện nay. Kính mong bệ hạ, sùng
thượng kiệm ước, giảm sự tiêu bừa, tích của để dùng vào việc binh. Ủy cho phụ chánh Ứng vương phải
nghiêm hiệu lệnh, đặt Tướng Tá trong các doanh, phải chọn bậc anh dũng; quân sĩ phải tuyển hạng tinh
nhuệ; sắm thuyền bè, duyệt thủy quân, luyện voi ngựa, khí giới, súng ống, và cung nỏ, [tờ 113a] để
làm kế sách đánh quân địch.
Về phương Tây Nam, những chỗ xung yếu giáp giới bên địch, thì nên đắp lũy cao, đào hào sâu,
đặt bẫy nỏ, nghiêm phòng bị, và đặt thêm đồn trại, chia quân giữ nơi yếu hại. 85 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
Thành Đại La tự cửa Nam Ông Mạc đến Nhật Chiêu, những lũy đất nên đắp cao thêm, và khai
sâu thêm những con hào ở đây.
Thành Thượng hoàng, tự cửa Nam đến cửa Bắc, nên tu sửa những bức tường "bễ nghễ " trên
mặt Thành cho thật cao, để bảo hiểm trong Thành.
Môt khi chiến cụ đã đầy đũ, phòng vệ trong ngoài đã chu đáo, thì giữ sẽ vững, đánh sẽ thắng.
Giặc ngoài đã dẹp, trong nước tự yên. Hạ thần tuy hưu dưỡng tại nơi điền viên, cũng được dự hưởng
phúc thái bình ".
Mậu Hợp đáp rằng:
"Ông lá bầy tôi kỳ cựu, đã từng khó nhọc, [tờ 113b] đối với lễ, đáng nên về hưu. Nhưng hiện
nay đang cần hiền tài giúp việc nước, ông là bậc lão thành am luyện, đối với nghĩa chưa nên đi vội. Vậy
phiền ông hãy ngồi lại làm việc tại dinh, giữ công luận, tán thành chánh trị, chính lại quốc phong. Đến lúc
ấy sẽ về hưu cũng không muộn ".
Ngày 9 tháng 9, Giáp Trưng lại dâng biểu xin về hưu trí. Mậu Hợp vẫn cố lưu, không cho hưu.
Viên Trung quân Tả đô đốc, chưởng phủ sự, tham dự triều chánh là Thái bảo Thao quận công
Trần Thời Thầm lại xin trí sĩ. Mậu Hợp ưng cho.
Tháng 11, Giáp Trưng lại dâng sớ xin trí sĩ, lời lẽ rất là khẫn thiết. Mậu Hợp bất đắc dĩ nghe theo.
Khi Giáp Trưng đã về quê nhà làng Kế hương, Mậu Hợp tưởng nhớ, lại triệu về kinh sư, nhưng Giáp
Trưng tạm đến liền xin về ngay, rồi qua đời.
[tờ 114a] Lại bộ Thượng thư Nghĩa sơn hầu Trần Văn Tuyên xin tu sửa trường Quốc học, 2 giải
vũ ở điện Đại Thành, và nghi môn, tiền nghi môn ở các giảng đường. Định lễ nhạc để tỏ sự tôn thầy
trọng đạo, và rộng nền văn hóa thành nhân. Mậu Hợp không dùng.
Ngày 11, tháng 11, Mậu Hợp gia thêm chức Trung quân Tả đô đốc Chưởng phủ sự, hàm Thái
bảo cho Thiếu bảo Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn.
Niên hiệu Quang Hưng thứ 10 (1587), tháng giêng, Mậu Hợp sai tu sửa ngoại thành Thăng Long,
và chỉnh trang các đường phố.
Tháng 2, Mậu Hợp sai xứ Tây và xứ Nam đắp bức lũy bằng đất, trồng cây gai lên trên, tự sông
Hát giang xuống tới sông Hoa đình thuộc xứ Sơn Minh, dài chừng vài trăm dặm, để phòng ngoại binh.
Tháng 9, ngày mồng một thuộc ngày Đinh Hợi có nhựt thực.
[tờ 114b] Tháng 10, phủ Tiết chế xuất quân đánh phá các Phủ: Trường An, và Thiên Quan. Khi
đi đến chợ Đế, sai quân tạo cầu nổi qua sông, đánh phá tan doanh của Tướng bên địch là Tân quận
công.
Tháng 11, phủ Tiết chế xuất quân ra biên giới Tây Nam, khi đi đến hạt Mỹ lương, thì Mậu Hợp sai
Mạc Ngọc Liễn dẫn quân ra hạt Ninh Sơn, để đánh vào cánh quân bên Tả của ta; Nguyễn Quyện dẫn
quân ra hạt Chương đức, rồi qua sông Do lễ, để đánh vào cánh quân bên hữu của ta.
Khi Nguyễn Quyện dẫn quân đến sông Xú Giang, chia một đạo binh mai phục ở dưới con đường
nhỏ nơi chân núi, định để đánh chặn đạo quân vận tải lương thảo của ta. Quan Tiết chế biết được, dự
phòng bị trước, bèn sai Hà Thọ Lộc và Ngô Cảnh Hựu, dẫn quân bảo vệ đạo quân lương; sai Hoàng Đình
Ái dẫn quân về xứ Thanh hoa; sai bọn Nguyễn Hữu Liêu xuất quân cầm cự với Mạc Ngọc Liễn, để chia
thế quân địch. Quan Tiết chế thì đích thân đốc xuất đạo binh, giao chiến với Nguyễn Quyện. Quan quân
bên ta hăng hái xung đột, quân Nguyễn Quyện không đương nổi [tờ 115a] tan vỡ chạy trốn, đạo quân
mai phục của chúng cũng phải bỏ chạy, thảy đều tranh nhau qua sông, bị chết đuối vô kể! Quan quân
chém được mấy trăm đầu quân địch, rồi đánh đuổi theo đến nửa ngày mới dừng quân.
Tự đấy, Nguyễn Quyện rất sợ binh uy phủ Tiết chế, mỗi khi gặp trận, thường né lánh không dám
xung phong. 86 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
Mạc Ngọc Liễn được tin Nguyễn Quyện bại trận, cũng dẫn quân trốn xa. Quan Tiết chế bèn tiến
quân đóng doanh tại núi Hoàng Sơn, đánh phá các hạt; An Sơn và Thạch Thất, bắt sống rất nhiều quân
địch. Đến tháng 12 mới dẫn quân về.
Năm này, Mậu Hợp đổi niên hiệu Minh Đức làm niên hiệu Hưng Trị thứ nhất.
Niên hiệu Quang Hưng thứ 11 (1588), tháng 2, Mậu Hợp thấy quân bên ta ngày càng cường
thịnh, mới nghĩ tới kế sách chiến thủ của Giáp Trưng tâu bày hồi trước, bèn sai dân quân các Huyện
trong 4 Trấn, đắp thêm 3 bức lũy đất ở bên ngoài thành Đại La, tự Nhật Chiêu qua Tây Hồ, và Cầu Gia
Cầu Giền, đến thành Thanh Trì [tờ 115b] bề cao hơn thành Thăng Long cũ là 2 trượng, bề rộng 25
trượng, lại đào 3 lần hào, trồng chông gai, dài chừng vài chục dặm, bao la bên ngoài thành, rất là hiếm
cố.
Tháng 5, phủ Tiết chế xuất quân đánh các Huyện: An Mô và An Khang, lược định nhân dân các
nơi đây, rồi dẫn quân về.
Tháng 11, phủ Tiết chế lại xuất quân ra lối Phố Cát đánh các Huyện: Trường An và Thiên Quan,
thu được rất nhiều tài vật, rồi dẫn quân qua sông Chánh Đại, đóng doanh trại ở Dương vũ. Đóng tại đây
một tuần, giả bộ kéo quân về, nhưng mai phục đạo kỳ binh và voi ngựa ở đằng sau doanh, phóng lửa
đốt nhà cửa ở đấy để dụ quân địch.
Tướng của Mậu Hợp là bọn Tân quận công và Quỳnh quận công thấy vậy, tưởng là Tiết chế kéo
quân về thật, liền tranh nhau đuổi đánh, gặp ổ phục binh nổi dậy, đánh cho thua trận tơi bời! Chém giết
hàng mấy trăm tên, bọn Tân quận công chỉ chạy thoát thân lấy mình, không còn tưởng đến binh sĩ.
Vương sư bèn trở về.
[tờ 116a] Niên hiệu Hưng thứ 12 (1589), ngày 16, tháng 7 có nguyệt thực.
Tháng 10, phủ Tiết chế lại xuất quân đánh Huyện An Khang. Mậu Hợp định cử đại binh để đánh
một trận quyết liệt, bèn sai Ứng vương Đôn Nhượng, thống lĩnh quân 4 Vệ, và binh mã 4 Trấn đều tiến.
Khi chúng tiến tới giới phận Huyện An Mô, thì phủ tiết chế bàn với các Tướng rằng:
"Hãy lui binh để dụ địch, mà ngầm đặt phục binh để đánh tập hậu ".
Bèn sai Nguyễn Hữu Liêu phục đạo quân tinh nhuệ vào trong chân núi trước, rồi sai Ngô Cảnh
Hựu lĩnh binh hộ vệ đạo quân vận lương lui vào núi Tam Điệp, quan Tiết chế thì đích thân thống dẫn đại
binh từ từ kéo lui.
Đôn Nhượng sai quân lên trên núi xem xét, được báo tình hình như trên, bèn cười mà rằng:
"Chúng thấy quân ta tiến tới, tự biết là ít quân không thể địch nổi với nhiều quân, cho nên phải
lui binh trước, mà tất là lưu Hoàng Đình Ái làm đội quân đoạn hậu.
[tờ 116b] "Hỡi các Tướng sĩ ta! Có kẻ nào vươn mình cố sức đuổi kịp quân địch, bắt được một
Tướng Tá, hoặc một con voi, ta sẽ phong cho chức Thượng tướng, rồi khi trở về nước, sẽ tâu xin Hoàng
thượng thăng trật và hậu thưởng ".
Các Tướng Tá được lệnh trên, đều vui vẻ hớn hở tranh nhau đuổi đánh. Khi chúng đã lọt vào
vùng hiểm địa, phục binh đều trỗi dậy, cả đại quân cũng thúc trống quay cờ trở lại, 4 mặt đều hăng say
đánh ập cả vào, phá tan quân địch, chém đầu hơn nghìn tên, bắt sống hơn 600 người. Đôn Nhượng thu
thập tàn quân, chạy về Đông kinh, quan quân cũng trở về Thanh Hoa.
Tháng này, Mậu Hợp mở khoa thi Cử nhân, lấy bọn Phạm Y Toàn cộng 17 người trúng tuyển. 87 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
Niên hiệu Quang Hưng thứ 13 (1590)1
, vợ của ngụy triều Đường an vương Mạc Kính Chỉ, tư
thông với viên Tướng dưới trướng là Hoằng quận công, rồi ẩn trốn tại nhà Quận công, việc vỡ lở, đều bị
giết chết.
Mồng một tháng 7 có nhật thực, và sao Thái bạch phạm vào mặt trăng.
[tờ 117a] Niên hiệu Quang Hưng thứ 14 (1591), mùa xuân, Mậu Hợp đổi năm này làm niên
hiệu Hồng Ninh thứ nhất.
Tháng 3 có tuệ tinh hiện ở phương Đông.
Ngày 13, tháng 3 nhuận, có cầu vòng đỏ bắc ngang trời; mặt trời quầng, có 2 vòng khí trắng
vòng quanh bên ngoài vầng quầng.
Ngày 15, tháng 5 là ngày Bính Tuất, có nguyệt thực, mặt trăng bị đen gần hết.
Lúc này, chính trị của triều đình Mậu Hợp nát bét, binh lực thì suy yếu, lại tai dị luôn luôn, nhân
tâm đều lấy làm nguy ngập.
Tháng 12, quan Tiết chế Trưởng quốc công cử đại binh đánh Mậu Hợp, điều động 60.000 quân.
Nguyễn Hữu Liêu điều khiển đội quân thứ nhất, Hoàng Đình Ái điều khiển đội quân thứ nhì, Trịnh Đỗ
điều khiển đội quân thứ ba, Hà Thọ Lộc điều khiển đội quân thứ tư, phát xuất tự Tây Đô ra miền Quảng
Bình, đi qua Thiên Quan, đến giới phận Tây núi Mã Yên, [tờ 117b] dừng quân đóng doanh trại tại đây,
rồi tiến quân qua núi Mang Mộng thuộc hạt Thanh Châu lược định các Huyện: An Sơn, Thạch thất, Phúc
Lộc và Tân Phong. Lại đóng quân tại đất Tốt lâm.
Mậu Hợp được tin quân nhà vua ta tiến đánh bức bách đến nơi, cũng muốn đại cử binh mã đánh
một trận quyết liệt, để định được thua. Bèn đốc thúc điều động binh mã trong 4 Trấn 4 Vệ và 5 Phủ,
cộng 10 vạn quân. Ra lệnh ngày 16 tháng này, tất cả binh sĩ kể trên, phải tề tựu tại Hiệp thượng, Hiệp
hạ, để tiến đánh. Sai Mạc Ngọc Liễn đốc binh mã Tướng sĩ Tây đạo; Nguyễn Quyện đốc binh mã Tướng
sĩ Nam đạo; Ngạn quận công và Thủy quận công lĩnh binh mã Tướng sĩ Đông đạo; Phú quận công và
Xuyên quận công lĩnh binh mã Tướng sĩ Bắc đạo; Khuông quận công và Tân quận công lĩnh binh mã
Tướng sĩ 4 Vệ. Mậu Hợp đích thân đốc binh mã Chánh doanh; [tờ 118a] các vị tôn vương và các tướng
Túc vệ Đông đạo đốc quân hậu đội. Chia đường cùng tiến.
Ngày 27, quân Mậu Hợp đi đến Phấn thượng, dàn thành mặt trận, đối diện với mặt trận quan
quân bên ta. Mậu Hợp sai Khuông quận công2
và Tân quận công đốc binh 4 Vệ, làm đội quân tiên phong;
Mạc Ngọc Liễn làm đội quân Hữu dực; Nguyễn Quyện làm đội quân Tả dực; binh mã 2 đạo Đông và Bắc
kế tiếp theo sau, tất cả 4 Đội đều tiến. Mậu Hợp thì đích thân đốc chiến.
Phủ Tiết chế được tin trên, lập tức chia công; Sai các viên danh tướng hữu khu là bọn Nguyễn
Hữu Liêu, đều dẫn quân bản bộ tiến lên trước để khiêu chiến; lại tuyển 400 tên lính kỵ mã vượt lên để
trợ chiến. Ra lệnh: Các doanh các Cơ đều phải y theo Tiết chế mà chiến đấu. Các binh sĩ đều hăng hái
xông đánh, chém đầu Khuông quận công và Tân quận công ngay trước mặt trận [tờ 118b] Tỳ Tướng là
Hoàng Nghĩa Cước cũng chết tại mặt trận. Mậu Hợp thấy thế không địch nổi, bèn ra lệnh ngừng chiến,
án binh bất động.
Đến lúc mặt trời đứng bóng, vào khoảng giữa trưa, phủ Tiết chế nhân thấy quân địch có vẻ uể
oải, bèn đích thân đốc thúc ba quân thừa thế tiến đánh. Phát ba tiếng pháo lệnh, các Tướng sĩ đều xung
đột vào trận địch, khiến cho quân Mậu Hợp hoảng sợ chạy lùi, cánh quân bên tả không kịp chiếu cố tới
cánh quân bên hữu; đạo quân sau không kịp chiếu cố tới đạo quân trước, cờ trận sai lạc; hàng ngũ rối
loạn, xô nhau mà chạy. Quân bên ta thừa thắng đuổi dài, đuổi đến đất Giang Cao, chém đầu hơn vạn
1
Xét thứ tự, thì năm này là niên hiệu Quang Hưng thứ 13, vì trên năm này có chép niên hiệu Quang Hưng thứ 12, và
dưới năm này có chép năm thứ 14. Thế mà chính bản chỉ chép hai chữ "tam niên " (năm thứ 3 ). Có lẽ chép sót một chữ "+ thập "
(mười ) chăng ? Xin dịch theo nghĩa chữ "+ thập tam niên ".
2
Câu này chính bản chép "Khuông định công ". Có lẽ chép lộn chữ "quận " ra chữ "định " chăng ? Xét trang trên chép
"khuông quận công ". 88 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
quân địch, máu chảy khắp nội, thây chất thành non! Bắt được lừa ngựa và khí giới không kể xiết. Mậu
Hợp chỉ một mình một ngựa chạy xuống thuyền, rồi chạy về Kinh ấp. Bọn tàn quân tranh nhau lên
thuyền, người trong thuyền sợ quá đông người sẽ đắm thuyền, [tờ 119a] nên dùng gươm chém bừa
vào cánh tay, làm cho bọn tàn quân rơi xuống nước mà chết đến quá nữa, ngoài ra đều tự chạy trốn
thoát thân. Riêng có đạo quân của Nguyễn Quyện đã xa lánh, cho nên được toàn vẹn không mất tên
nào.
Ngày này, phủ Tiết chế tiến quân đóng tại Hiển Sơn.
Ngày 30, phủ Tiết chế tiến quân đóng tại hoàng xá, rồi qua đò Sông cầu, phá hủy bức lũy bên
giặc.
Đến đêm hôm ấy, phủ Tiết chế sai Nguyễn Hữu Liêu, dẫn 5.000 quân tinh nhuệ, và quân voi
ngựa đánh thẳng vào đại phường cầu Giác cao phía Tây Bắc Kinh thành. Bắn 7 phát súng lửa, đốt cháy
nhà cửa nơi đây, khói lửa bốc mù trời, trong thành hổn loạn. Mậu Hợp sợ hãi, bỏ thành chạy trốn, qua đò
sông Bồ Đề. Nhân dân trong thành, già trẻ gái trai, tranh nhau xuống thuyền để qua sông, bị chết đuối
chừng hơn nghìn người. Đến khi trời đã sáng rõ, tức là sáng ngày hôm sau, Hữu Liêu lại dẫn quân về nơi
hành doanh.
[tờ 119b] Năm Nhâm Thìn, niên hiệu Quang Hưng thứ 15 (1592), mùa xuân, tháng giêng, ngày
mồng 3 thuộc ngày Giáp tý, phủ Tiết chế tiến quân đóng tại Ninh Giang, ngày mồng 5, tiến tới chùa
Thiên Xuân. Khi quân ta sắp tiến tới cầu Nhân mục, thì Mậu Hợp đã quá sợ! Bỏ kinh đô trốn về quán Thổ
khối ở, lưu các đại Tướng ở lại giữ Kinh thành; Mạc Ngọc Liễn lĩnh quân bản bộ giữ tự cửa Bảo khánh trở
về phía Tây cho tới cửa Nhật chiêu; Bùi Văn Khuê và Trần Bách Niên lĩnh quân 4 Vệ, giữ tự Cầu gia đến
cầu mộng thẳng tới cầu giền. Chia quân đóng từng doanh, đóng cửa thành chống giữ; Nguyễn Quyện
lĩnh quân giữ tự Mạc xá trở về phía Đông, và làm quân cứu viện cho các đạo binh khi nguy cấp. Binh sĩ 2
đạo Đông và Bắc đều thuộc quyền Nguyễn Quyện. Mậu Hợp thì giữ thủy quân ở sông Nhĩ hà, dàn hàng
trăm chiến thuyền, để làm thanh thế cứu viện.
[tờ 120a] Khi Nguyễn Quyện đến doanh liền đặt phục binh ở bên ngoài cửa Cầu Giền, để nhữ
quân ta, lại dàn hàng trăm cổ súng lớn, để phòng quân bên ta.
Ngày mồng 6, phủ Tiết chế tiến quân tới sông Tô Lịch, rồi tới cầu Nhân mục, đóng quân tại Xạ
đôi, bày trận chia công, ra lệnh: Hạn trong một ngày hôm nay, phải đánh phá thành thăng long cho bằng
được! Sai Nguyễn Hữu Liêu đánh vào Cầu gia, thẳng tiến cửa Tây; Hoàng Đình Ái đánh vào Cầu Giền
thẳng tiến cửa Nam; Trịnh Đỗ đánh vào cầu Mộng thẳng tiến cửa Mộc Kiều. Quan Tiết chế thì đích thân
đốc đại quân kế tiếp đằng sau, đóng đồn tại làng Hồng Mai.
Các Tướng tiến đánh, tự giờ Tỵ (khoảng 11 giờ ) cho tới giờ Vị (khoảng 15 giờ chiều ), chưa
phân được thua, quan Tiết chế bèn đích thân cầm cờ lệnh, phất cờ chỉ huy. Tự đây khí dũng cảm của
Tướng sĩ trổi lên gấp trăm lần, hăng say xung đột, tranh nhau vượt lên trước làn tên đạn, xuyên qua bức
lũy, nhảy lên mặt thành, liền phá cửa lũy [tờ 120b] Bùi Văn Khuê và Trần Bách Niên, không đủ sức
chống cự, quân sĩ tan vỡ bỏ chạy tán loạn, Ngọc Liễn cũng bỏ lũy chạy trốn. Quan quân thừa thắng đuổi
dài, phóng lửa đốt các cung điện và nhà của dân gian, khói lửa mù trời. Quân phòng thủ 4 mặt đều tan
vỡ. Quan Tiết chế dẫn binh tự Cầu Giền tiến thẳng vào, phục binh của Nguyễn Quyện đã đặt trước không
kịp trỗi dậy, đều bị loạn quân giết chết, Nguyễn Quyện kế cùng sức kiệt, trong ngoài đều vướng quan
quân; cửa lũy bị lấp; con trai y là Bảo Trung và Nghĩa Trạch cùng lính thủ hạ cũng đều tử trận. Quyện
bèn chạy trở về bản doanh, liền bị quan quân bắt được, đem nộp vào cửa doanh. Trong kinh thành xác
chất chồng lên nhau, Tướng Tá chết chừng vài chục viên, sĩ tốt chết đến hơn nghìn người, [tờ 121a] khí
giới bỏ ngổn ngang cao như quả núi, lâu đài cung điện nhà cửa sạch không!
Mậu Hợp sợ hãi, bèn thu thập tàn quân, chiếm cứ dãi sông dài để tự bảo vệ.
Quan Tiết chế dẫn quân tới bên sông, toan qua sông tiến đánh. Nhưng lại bảo các Tướng rằng:
"Căn bản của Mậu Hợp ở phương Đông Bắc. Nay tuy bại trận ở đây, nhưng viện binh tại các nơi
hãy còn nhiều. Quân ta thì thuyền bè chưa đủ, âu là hãy để chuyến sau, Cổ nhân có câu rằng: "Thắng
địch chi dư, nhuệ khí bách bội, bại quân chi khí, một thế bất chấn " (sau khi thắng trận, thì nhuệ khí tăng 89 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
gấp trăm lần, một khi bại trận, thì khí thế quân sĩ suốt đời không thể trỗi ). Nay ta hãy kéo quân về, để sĩ
tốt được nghĩ ngơi, chờ thời cơ, sẽ tự Trường An xuất quân, cả thủy quân lẫn bộ binh, đều tiến như cuốn
chiếu, lúc ấy mạn sông đại hà trở về Bắc, sẽ không còn thành trì nào kiên cố nữa ".
Quan Tiết chế bàn đóng quân lại tại chánh doanh , sai sang phẳng các bức lũy bằng đất chung
quanh thành Đại La, và lấp các hào rãnh, san thành bình địa.
Tháng 3, phủ Tiết chế hạ lệnh kéo quân trở về, [tờ 121b] đi đến hạt Chương Đức, tạm đóng
quân lại, sai tạo cầu nổi, để quân qua sông Lễ giang, rồi chia quân đi tuần các Huyện: Thanh Hà, Thượng
Phúc và Phú Xuyên; lược định các Huyện: Từ Liêm, Đan Phượng, Ma Nghĩa, An Sơn và Thạch Thất. Rồi
do đường Thanh quan trở về Thanh Hoa.
Mậu Hợp thấy quân nhà vua ta đã trở về, bèn trở lại thu thập tro tàn, sai các Tướng chia giữ
những nơi xung yếu.
Mùa hạ năm này, Mậu Hợp mở khoa thi Cử nhân ở bến Bồ Đề, lấy bọn Phạm Hữu Năng cộng 17
người trúng tuyển.
Mồng một tháng 8 thuộc ngày Mậu Tý, có sao sa xuống, sắc đỏ, dài chừng 5 trượng, loè sáng
như luồng điện, chiếu sáng rực vào nóc nhà, rơi xuống đất có tiếng ầm ầm như tiếng sấm! Mậu Hợp
không biết lấy đó làm đáng sợ, vẫn hoang dâm chơi bời, ngoài thì các thế gia chuyên chánh, trong thì
hoạn quan chuyên quyền. [tờ 122a] Vợ viên Trấn thủ Nam đạo Sơn quận công Bùi Văn Khuê là Nguyễn
Thị Niên, tức là con gái Nguyễn Quyện, mà người chị gái của Thị Niên là Hoàng hậu của Mậu Hợp, vì thế
Thị Niên thường được ra vào trong cung. Mậu Hợp thấy Thị Niên, đem lòng yêu mến, bèn ngầm tính kế
giết Văn Khuê để cướp vợ y. Văn Khuê biết tình, bèn dẫn quân bản bộ về giữ hạt Gia Viễn, không theo
mệnh lệnh của triều đình. Mậu Hợp mấy lần vời cũng không tới, bèn sai Tướng dẫn quân tới hỏi tội Văn
Khuê.
Tháng 10, Văn Khuê trưng binh chống giữ, và sai con trai chạy tới hành doanh, yết kiến phủ Tiết
chế, khóc lóc cáo tố sự tình, xin đầu hàng và xin cho quân cứu viện. Phủ Tiết chế rất mừng, bèn họp các
Tướng mà rằng:
"Quân địch lập đồn binh ở Gia Viễn, chặn đường tiến binh của ta, đã mấy lần ta đánh đồn này,
mà chưa phá được. Năm trước đấy, ta xuất quân do đường Thiên quan, ra hạt Mỹ lương Thạch Thất,
đánh phá Đông kinh, [tờ 122b] mà phải kéo quân về ngay, là vì sợ thủy quân đạo Đông và Nam của
địch, hoặc vượt biển vào đánh, hoặc ngược dòng sông lên phía Bắc, đều có thể làm nguy hại cho ta. Nay
là mùa đông rét lạnh, nước sông cạn nông, ta đang tính động binh để trừ giặc ấy, thế mà Tướng biên
thùy của giặc lại qui hàng ta. Đó là trời giúp cho ta thành công vậy.
Trước đây ta thường thắng trận bằng bộ binh, đó chỉ có thể dùng về phía Tây Bắc thôi. Nếu
muốn đánh về phương Đông Nam, phi thủy quân không thể dẹp nổi. Nay được thủy quân của Văn Khuê,
ta sẽ dùng ngay, do đường Trường An ra mạn Duy Tân Phú Xuyên, rồi tiến binh theo đại lộ, thì không
còn lẽ gì là không thắng. Sẽ có thể định ngày khôi phục đất đai vậy ".
Phủ Tiết chế lập tức tâu Hoàng đế xin khởi binh, và sai Hoàng Đình Ái dẫn một đạo quân đi
trước, để cứu Văn Khuê.
Khi quân ta tới Bái Đinh, Văn Khuê ra nghinh tiếp, phủ Tiết chế sai đem quân bản bộ giữ sông
Đàm Giang, [tờ 123a] thì quân Mậu Hợp lui về giữ sông Thiên Phái.
Sau khi úy lạo Văn Khuê, phủ Tiết chế sai Văn Khuê lĩnh thủy quân bản bộ làm đạo quân tiền bộ.
Mậu Hợp sai tôn thất là Nghĩa quốc công giữ quyền Tiết chế Nam đạo, dẫn quân tới sông Thiên
Phái thuộc hạt Đàm xá, chia đóng từng Đồn, giữ bến đò Đoan Vĩ, bắt dân đinh huyện Đại An và huyện Ý
Yên đắp lũy đất chạy theo bờ sông, trồng chông gai lên trên mặt lũy, để chống quân ta.
Phủ Tiết chế sai Văn Khuê đem thủy quân ra cửa sông, đánh vào thượng lưu; cơ súng Tả Hữu
bắn theo dọc sông, đánh vào hạ lưu; phủ Tiết chế đích thân sang đò qua sông, đánh vào trung lưu.
Quân Mậu Hợp thua chạy, ta thu được 70 chiến thuyền, và rất nhiều khí giới, Nghĩa Quốc Công lui quân
về giữ châu Tự nhiên, quan quân ta thì tiến đóng tại Cầu Tái. 90 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
[tờ 123b] Tướng của Mậu Hợp là Định quận công Trần Bách Niên sang hàng bên ta, phủ Tiết
chế sai Bách Niên làm Tướng doanh Tiền thủy quân; Văn Khuê làm Tướng doanh Tả thủy quân. Tiếp đây
có hơn 10 Tướng Nam đạo sang hàng bên ta.
Phủ Tiết chế bảo các Tướng Tá rằng:
"Thủy quân ngoi ngược dòng sông, thì lui dể mà tiến rất khó. Sông Đại hà rộng mênh mông,
không có cứ điểm. Vậy thủy quân ta nên do con sông Kim bảng nhỏ hẹp mà tiến, kèm theo bộ binh vào
2 bên bờ sông, tất cả thủy quân bộ binh đều tiến, đầy khắp dưới sông trên cạn, trên liền dưới tiếp, theo
con sông Ninh Giang đến sông Xương Giang, rồi buông thuyền mà xuôi, thì còn kẻ nào đương nổi ".
Ngày 4 tháng 12 quân ta tiến đóng tại châu Tinh Thần, đến ngày 14, do cửa sông Xương Giang,
cả thủy quân lục quân đều tiến.
Mạc Ngọc Liễn dàn chiến thuyền chống cự, trồng cột gỗ dưới sông, và đắp lũy đất trên bở để cố
thủ, đều bị quan quân ta phá hủy. Ngọc Liễn phải bỏ thuyền [tờ 124a] chạy về dưới núi Tam Đảo, quân
sĩ đều tan vỡ.
Phủ Tiết chế đích thân đốc bộ binh, thừa thế đuổi dài, thủy quân cũng thuận dòng xuôi xuống,
tới cửa Nam Kinh thành, đóng tại bến Sa thảo, bắt được hơn nghìn chiến thuyền, kể cả lớn nhỏ.
Đêm hôm này, Mậu Hợp bỏ kinh thành chạy trốn, các tôn tộc cũng tìm đường trốn lánh. Tướng sĩ
thì nối tiếp ra hàng. Tự đây, quân của Mậu Hợp hết phần chiến đấu, tự sông Nhĩ hà trở về Bắc, quân sĩ
kéo nhau ra qui thuận.
Ngày 15 phủ Tiết chế tiến quân lên xứ Hải Dương, để đuổi dẹp cho hết quân địch, đóng quân tại
Phù dung liễu kính, sai Tướng doanh Tả thủy là Thái quận công Nguyễn Thất Lý đốc bọn Văn Khuê và
Bách Niên, đem 300 chiến thuyền cùng quân các Cơ Nội thủy, đánh vào huyện Kim thành. Mậu Hợp trốn
chạy, quan quân thu được rất nhiều [tờ 124b] vàng bạc của cải, đồ dùng và con gái, bắt Thái hậu giải
về Kinh sư, khi đến sông Bồ Đề, Thái hậu vì quá sợ mà chết.
Mậu Hợp dựng con trai là Toàn làm vua, để giữ việc nước, đổi niên hiệu là Vũ An thứ nhất.
Tháng 12, phủ Tiết chế chia quân đánh các ngả, phá tan quân của Kính Chỉ ở Tân Mỹ thuộc xứ
Thanh Hà, thu được 50 chiến thuyền, và rất nhiều khí giới lừa ngựa. Nhà cửa tại các Phủ Hạ Hồng, Nam
Sách và Kinh Môn, đều bị đốt cháy gần hết. Dư đảng là bọn Phố quận công, Hào quận công, Thụy quận
công, Lương quận công, Nghĩa quận công, và Lại bộ Thượng thư Phúc quận công Đỗ Uông, Lễ bộ
Thượng thư Hồng khê hầu Nhữ Tống, Công bộ Thượng thư Đồng Hãng, Lại bộ Tả thị lang Ngô Tháo, [tờ
125a] Đông các học sĩ Ngô Củng, Tự khanh Nguyễn Cận, Sơn nam Thừa chánh sứ Đàm Văn Tiết, và Hải
dương Thừa chánh sứ Phạm Như Giao, đều đến cửa quân xin hàng, quan Tiết chế Trịnh Tùng đều ngỏ
lời an ủi, và viết tờ biểu đưa về nơi hành tại tâu Hoàng đế, xin cho các người kể trên được giữ nguyên
chức tước cũ.
Khi quan Tiết chế tự sông Tranh về Kinh thành, nghe có người báo: "Mậu Hợp ẩn ở chùa Mô
Khuê hạt Phượng Nhỡn ". Bèn sai Trà quận công Nguyễn Đình Luận, và Liêm quận công Lưu Chản, dẫn
quân đi tìm bắt. Dân địa phương cho biết: "Hôm nọ Mậu Hợp giả làm ông sư, đến ẩn ở đây, đến nay đã
11 ngày ". Sĩ tốt bèn đến chùa, thấy Mậu Hợp nghiễm nhiên ngồi xếp bằng bằng, gạn hỏi thì Mậu Hợp
ấm ớ đáp rằng:
"Bần tăng tu hành từ hồi còn trẻ tuổi ở am mây này [tờ 125b] chén muối, đĩa rau hàng ngày
trai dưỡng; thắp hương thờ phật, công đức chuyên làm ".
Quân sĩ thấy nhà sư nói hoạt bát khiêm tốn, biết là Mậu Hợp, bèn bắt giữ. Mậu Hợp tự liệu không
thể thoát được, bèn thú thực và nói rằng:
"Mấy ngày trước đây, tôi chạy trốn ẩn núp trong rừng rậm, đã quá đói khát, dám xin cho một
bình rượu uống cho đã ".
Quân sĩ bèn cho bình rượu. Sau khi Mậu Hợp uống thỏa thích, ngậm ngùi than rằng: 91 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)
"Nghiệp chướng quá sâu! Nay cầu làm một người dân thường, cũng không thể được. Tội lỗi chỉ vì
tổ tiên đã làm sự giết vua cướp ngôi, đến nổi con cháu ngày nay phải mắc tội nặng như vầy. Mong
Tướng sĩ dẫn tôi đến trước Hoàng đế, để bầy tỏ thực tình. Đó là lòng tôi rất mong muốn ".
Các Tướng sĩ bèn sai dùng voi chở Mậu Hợp và 2 tên kỹ nữ, giải về Kinh sư.
Khi Mậu Hợp hiến trước hành doanh, phủ Tiết chế sai dành binh mã cực kỳ uy nghiêm, rồi mới
cho dẫn Mậu Hợp vào yết kiến. Mậu Hợp lễ dập đầu phủ phục ở ngoài sân, phủ Tiết chế truyền hỏi tới 3
lần, mà Mậu Hợp vì quá sợ, cứ ấm ớ không thể đáp được, phủ Tiết chế bèn sai dẫn ra ngoài cửa quân,
giam tù tại đây.
Tất cả các quan văn võ đều bàn:
"Chiếu điều luật, những kẻ phạm tội thoán thí (giết vua cướp ngôi ), thì xử theo luật "lăng trì"
(tùng xẻo), để làm gương cho mọi người, và đúng phép nước; lại đem thủ cấp tế cáo nhà Tôn miếu, để
rửa sỉ nhục của Tiên vương, và bớt cơn giận của thần nhân ".
Quan Tiết chế không nỡ gia cực hình, bèn sai đem treo sống Mậu Hợp 3 ngày, rồi chém đầu tại
bãi cát Bồ Đề, đem thủ cấp hiến Hoàng đế tại hành tại Vạn Lại xứ Thanh Hoa, đem đóng đinh vào 2 con
mắt, rồi bêu ra ngoài chợ.
Con trai Mậu Hợp là Toàn tiếm hiệu xưng là Vũ An, nhưng nhân tâm không qui phụ, thế cô ngầm
trốn, cũng bị quan quân bắt được, đem chém đầu tại bến Thảo Tân.
Mậu Hợp chiếm ngôi vua cộng 29 năm.
MAC KÍNH ĐIỂN
Mạc Kính Điển là con trai Đăng Doanh và em trai Phúc Hải, tính nhân hậu, linh mẫn, dũng cảm
có thừa. Ngụy triều phong tước Khiêm vương.
Khi Phạm Tử Nghi khởi loạn, Phúc Nguyên phải bỏ Kinh thành chạy lánh. Kính Điển xuất tướng sĩ
rước về, rồi đem quân dẹp hết các đồ đảng giặc.
Khi 2 đại tướng Lê Bá Ly và Nguyễn Khải Khang, đem toàn đạo binh Tây Nam về qui thuận bản
triều ta, Phúc Nguyên phải bỏ Kinh thành chạy đến Kim thành, nhân tâm trong nước lìa tan. Độc một
mình Kính Điển thu thập quân dân vùng Đông Bắc, giữ sông Nhĩ hà trở về Bắc, chống cự quân bên ta,
trong nước lại bình định trở lại.
Ông giữ chức Tổng soái Trung doanh, cầm quyền chánh trị khắp trong triều ngoài quận. Mậu
Hợp tiến phong tước Khiêm đại vương.
Sau khi ông qua đời,có 9 con trai: Con trưởng là Kính Chỉ, ngụy triều [tờ 126a] phong tước
Đường an vương, chức Phó đức soái; con thứ là Kính Trực, được phong tước Trung cẩn công, chức Cẩm
y vệ Chưởng vệ sự; Kính Phu được phong tước Đoan lượng công, chức Hưng quốc vệ Chưởng vệ sự;
Kính Giản được phong tước Huệ thành công, chức Chiêu vũ vệ Chưởng vệ sự; Kính Tuân được phong
tước Đạt lễ công ; Kính Cung được phong tước Đôn hậu công; Kính Lễ được phong tước Khuông phụ
công; Kính Bang chưa được phong tước. Và 9 con gái.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top