Đại Việt duy tân ký ( 大越維新記)
Quyển 1
Chương I
Nến lờ mờ soi những khuôn mặt rịt mồ hôi. Gian phòng thoạt nhìn thì thật rộng nhưng bị những bức trướng che rũ và khói trầm xông ra từ cái lư đặt giữa phòng làm cho ngột ngạt đến khó thở. Giữa phòng kê một cái giường lớn, cạnh bên là cái tràng kỷ thấp, khuất trong lớp trướng làm người bên ngoài chỉ có thể lờ mờ nhận ra hình dạng một thiếu phụ đang tựa người vào chồng gối.
_Thái tử hiện thời ra sao ?
Giọng nói nhỏ nhẹ nhưng vẫn đầy quyền uy bất chợt phát ra từ sau bức trướng làm Đại sử cảm thấy sợ hãi đến mức quỳ sụp xuống mà run rẩy. Đám thuộc hạ phía sau ông cũng không khá hơn gì, bọn chúng sợ đến mức tiếng cầu xin chực gào ra lại nghẹn ứ trong cổ họng.
_Có chuyện chi thì cứ trình cho bản cung rõ, ông nào có tội chi mà phải hoảng hốt như vậy ?
Lời nói như có một sức mạnh kỳ diệu nào đó kéo Đại sử ngẩng thẳng đầu lên, cất giọng run run.
_Khải Đức Bà. Thái tử xưa nay thể trạng vốn yếu ớt, mấy ngày qua lại thiên địa bất thường khiến tâm thần bất an, cộng thêm hàn tà xâm nhập nên phổi ứ, khó thở, hàn khí chế dương. Vì vậy cho nên...Thứ tội cho chúng thần vô dụng.
Lời vừa ra hết thì dũng khí cũng theo đó mà tiêu tan. Đại sử chỉ biết cuối đầu chờ đợi cơn thịnh nộ của bề trên đổ xuống. Thời gian như kéo dài đến vô tận. Gian phòng vẫn lặng im như vậy, không hề có một trận mắng chửi hay trừng phạt nào, chỉ có tiếng thở dài nỉ non khẽ khàng phát ra.
****
Hoàng gia tự cổ bất khứ chân tình. Ngọc Hân bơi lặn từ nhỏ trong cái bể khổ hoàng tộc nên chuyện này đã là dĩ nhiên với bà, thế nhưng, bà vẫn phải thở dài. Bà biết, biết hết. Bà biết rõ hoàng tử Thịnh chỉ là vật tế cho Lễ bộ Thị lang Bùi Đắc Tuyên trong cuộc đấu một mất một còn với các tướng**. Và thằng bé nằm đây chẳng phải do phong hàn hay bệnh tật chi chi cả. Nghĩ thế nào thì chuyện cũng vô lý vô cùng. Một đứa nhỏ vốn sinh ở làng quê, lớn lên ngày ngày ra đồng chăn trâu, da đen nhẻm khỏe mạnh, nụ cười lại lanh lợi, đầy vẻ hoạt bát, làm Ngọc Hân mới gặp đã mến, nào phải đám công tử vốn quen lầu son gác tía, trướng rủ màn che, sao lại có chỉ trong mấy năm mà đã trở nên yếu ớt, bạc nhược, nắng mưa không chịu được. Tất cả chỉ có một câu trả lời. Nó nằm đây là do bị chính bác ruột của nó hạ độc thủ nhằm đổ vấy cho phe các tướng và nhất là triệt hạ bà, đối thủ duy nhất tranh giành sự sủng ái với em gái hắn, mẹ ruột Thái Tử, Chính Cung Bùi Thị Nhạn. Trên cả vậy, chuyện này còn là cú đánh cuối cùng ép Chính Cung nhận con trai hắn là Đắc Bình làm con nuôi, rồi từ đó dùng thủ đoạn mà đưa con rối ấy lên ngôi để hắn mặc sức mà điều khiển. Bà biết hết nhưng không làm sao ngăn cản được cái sự thật nghiệt ngã ấy nó sờ sờ ngay trước mắt. Ngoài trời, mưa rả rít rơi như khóc giùm cho người đã cạn khô nước mắt. Đất Phú Xuân đón tiếp bà, đứa con Đông Đô, bằng những cơn mưa dai dẳng. Ngồi nhìn miên man ra cửa sổ, Ngọc Hân không nhận ra rằng Nguyễn Huệ đã đứng trước cửa, lặng lẽ ngắm vợ tự lúc nào.
Bà về với ông như một vật trao đổi nhầm giữ mạng của hoàng tộc nhà Lê, nhưng bà lại là người phụ nữ mà ông muốn tìm về nhất sau những ngày chinh chiến đằng đẵng. Bà không nói, ông cũng không hỏi, nhưng ông rõ hơn ai hết những ưu tư trong lòng vợ. Trong bà ông tìm thấy được cả tất cả những con người ông cần, một quân sư khôn ngoan, một bằng hữu tri kỉ, một người vợ diệu hiền. Bên bà ông không cảm thấy cần phải làm một Long Nhương Tướng quân oai phong lẫm liệt hay một Quang Trung Hoàng đế uy nghi quyền lực, ông đơn giản chỉ là Huệ còn bà chỉ là Ngọc Hân yêu kiều của ông.
_Bệ hạ ngự giá mà thần thiếp lại lơ là, chậm trễ nghênh đón, xin bệ hạ trách tội.
Nhìn dáng tiều tụy cả vợ vội vàng chạy ra, lòng Nguyễn Huệ nhưng có cái gì đó thắc lại.
_Không cần đa lễ, thằng nhỏ sao rồi ?
Vừa đỡ bà dậy, Nguyễn Huệ vừa bước nhanh tới vén màn giường bệnh.
_Bẩm bệ hạ, hoàng tử vẫn còn chưa nghỉ ngơi chưa dậy.
_Cứ để cho nó ngủ, hậu theo trẫm sang đây một chút.
Biết ý chồng, Ngọc Hân phất tay cho bọn hầu lui, rồi đi theo Nguyễn Huệ ra hậu viên. Nhà Tây Sơn lập quốc chưa lâu, nên Nguyễn Huệ và gia quyến vẫn ở trong phủ Chúa Nguyễn cũ mà chưa xây cung riêng. Phủ Chúa Nguyễn tuy rộng lớn, nhưng chung quy vẫn chỉ là phủ, vẫn xây theo quy cách của phủ quý tộc, phòng ốc bố trí theo hình chữ viên, có vườn rộng ở giữa chứ không xây Ngự Hoa Viên riêng như trong hoàng cung. Khẽ khàng đặt chén trà lên trường kỷ, Ngọc Hân se sẽ ghé người một bên chờ Nguyễn Huệ thức dậy. Ông có thói quen buổi trưa nhắm mắt một lúc, thường là một mình, khi nào căng thẳng thì gọi bà theo để tâm sự. Hai người cứ lặng im như vậy một lúc lâu mặc cho gió mang những hạt mưa lất phất rơi vào hiên.
_Trẫm biết hậu đang nghĩ gì.
Mắt vẫn nhắm, người vẫn nằm gác chân chữ ngũ, nếu bỏ long bào ra thì Nguyễn Huệ nhìn không khác mấy một lão nông an nhàn đang nằm nghỉ trưa bên bụi tre làng là mấy.
_Họ làm thế là quá đáng, nhưng hậu cũng hiểu cho trẫm. Đất nước đang trong cơn loạn lạc, nếu bây giờ trẫm ra tay thanh trừ thì chắc chắn không khỏi xảy ra đổ máu. Hắn dù độc ác nhưng vẫn là người tài, trẫm cần hắn giữ Phú Xuân, cần Sở giữ Bắc Hà để có cơ sở mà diệt cho sạch họ Nguyễn. Mấy năm nay anh Hai với chú Tư ra sao thì hậu cũng đã rõ, chú Tư buồn bỏ đi tu, anh Hai cũng giận mà đóng cửa không màn chính sự, đất Trấn Biên thằng Ánh nó không ngày nào là không tìm cách đánh ra Quy Nhơn nên bằng mọi giá trẫm phải giữ cho triều đình ngay ngắn. Thằng Toản số khổ thì đành cầu tổ tiên Trời Phật phù hộ mà cho nó tai qua nạn khỏi. Người làm cha này quả thật là hết cách rồi.
Biết chồng đang buồn nên Ngọc Hân chỉ im lặng. Trong lòng bà lúc này chỉ có sự xót xa đang giày vò mà không sao nói ra thành lời cho được. Người ngoài không biết, chứ đầu ấp má kể, bà sao mà không rõ, ông chưa tới tứ thập mà tóc đã hoa râm gần hết, nếp chân chim xuất hiện ngày càng nhiều. Ông là người có hùng tâm tráng chí, mà chính những điều đó lại đang bòn rút sức ông từng tí một.
_Thần thiếp vô dụng, không thể ưu tư cho bệ hạ.
Ngọc Hân nghẹn ngào khe khẽ nói. Lời bà nói hoàn toàn không phải là sáo ngữ, mà là lời thật lòng. Sống chung nhiều năm, bà chỉ mong cùng ông san sẻ được chút nào hay chút ấy nhưng lực bất tòng tâm.
_Được rồi, mấy câu đó nói chi cho buồn. Tình hình gần đây ở phía Nam hậu đã nghe, hậu tính ra làm sao, nói cho trẫm rõ.
Thấy ánh mắt trìu mến của Nguyễn Huệ chợt trở nên nghiêm túc, Ngọc Hân cũng ngồi thẳng lưng lại, lúc này là quân đang vấn kế thần, không phải là vợ chồng trò chuyện nên bà cũng phải gạt tình ra mà bàn quốc sự.
_Trình bệ hạ. Thần thiếp có được biết là hoàng huynh tuy mang tiếng là đóng cửa không màn chính sự, nhưng thật ra thì thuộc hạ của hoàng huynh vẫn còn hoạt động ở bên ngoài, nguy cơ biến loạn thật không thể nào loại trừ hoàn toàn được, thế nhưng vẫn chưa phải là trọng yếu cho ta. Trọng yếu lúc này là phải bình cho bằng được Gia Định để triệt đường Bắc Tiến của Nguyễn Ánh, đồng thời dùng thủy quân bao vây, khóa chặt các cửa biển để ngăn không cho Ánh cầu viện bên ngoài. Tin từ Chân Lạp báo về thì có vẻ gần đây Xiêm La đang có ý xâm lấn, khẩn xin bệ hạ điều quân trấn giữa để yên lòng dân chúng.Thần thiếp cũng có nghe được Ánh đang nhờ một tên đạo trưởng đạo Gia Tô mà chúng gọi là cố Lộc xuất dương mua súng ống, đạn dược, phải cho người theo sát ngay lập tức.
_Còn việc Bắc Hà, hậu có cao kiến gì chăng ?
_Trình bệ hạ, Hồng Chấn** là người tài, việc Bắc Hà thì ta có thể yên lòng giao cho ông ta, thế nhưng thần thiếp xin bệ hạ gấp rút đem chuyện dời đô trở về Đông Đô ra cho triều đình nghị bàn. Sĩ phu Bắc Hà tuy ngoài mặt thì đã thuần phục, nhưng không thiếu người còn e sợ ta, cũng như cũng có người lòng còn nặng tình tới tiền triều. Dời đô về Đông Đô là kế nhất tiễn hạ song điêu, trước để dễ bề thanh sát, phòng tránh phiến loạn, sau là để bọn sĩ phu được gần thánh giá, dễ bề mà tỏ được đức độ của bệ hạ, nhờ vậy mà cũng dễ dàng thu phục nhân tâm, nhanh chóng ổn được long người.
Ngọc Hân dịu dàng hớp ngụm trà rồi nói tiếp.
_Người Thanh sau hồi đầu năm thì sức cùng lực kiệt, muốn đánh sang thì cũng phải chờ ít nhất vài năm nữa thì nguyên khí mới tạm coi là phục hồi. Có điều cẩn tắc vô ưu, dụng binh chú ở công kỳ vô bị xuất kỳ bất ý*, bệ hạ nên lệnh cho sứ đoàn ta chú trọng việc lấy lòng các trọng thần Thanh triều nhầm cản bước phe chủ chiến. Càn Long Đế vốn là kẻ kiệt ngạo, nhưng tính nết lại ham hư vinh, nếu ta khéo lấy lòng thì sẽ bớt được chuyện binh đao là chuyện không khó. Còn chuyện Thị lang thì hiện thời thiếp cũng tán đồng với bệ hạ, có điều cần phải kín đáo dần dần triệt hạ vây cánh của y ở trong triều, đồng thời theo dõi chặt mọi động tĩnh, chuyện của Thái tử cũng phải phong bế không cho lọt ra khỏi cung, cũng không được cho lọt tới tai Chính Cung. Mấy lời ngu muội, xin bệ hạ đừng trách phạt.
Dù đã quen, nhưng đôi khi Nguyễn Huệ vẫn bất ngờ với sự sắc sảo của vợ mình. Lời bà nói cũng là điều ông có nghĩ qua nhưng không được rõ ràng và khúc chiết như bà nói.
_Cứ theo ý hậu mà làm. Dạo gần đây trẫm phải thường xuyên đi bình loạn đảng, hậu ở nhà giúp trẫm để ý bọn Văn Dũng, Quang Diệu. Diệu là người trung nghĩa, nhưng tính tình bộc trực, hậu nhớ nhắc nhở Thị Xuân để mà để mà tránh cho chông nó bị hại. Còn Văn Dũng thì nhớ cho người theo dõi sát, nó tuy bề ngoài có vẻ phớt lờ, nhưng tâm địa nó thì trẫm rõ, không phải hạng chịu cho người sai khiến đâu. À, chú ý các chị với thím Tư một chút, anh Hai với chú Tư có nói sao thì mình cũng phải giữ đạo nghĩa. Đại kế của ta có thành hay không là trọng ở nhà ta phải hòa thuận, triều ta phải vững vàng. Hậu nên nhớ kỹ.
Nói rồi, Nguyễn Huệ liền ngồi dậy, uống một hơi cạn chén trà rồi đi một mạch ra ngoài. Còn lại một mình, Ngọc Hân cũng không ngồi yên mà nhanh chóng gọi bọn tì nữ cho triệu ngay các phu nhân khác để chuẩn bị cho kế hoạch hành động vừa vạch ra ban nãy.
-----------
Ngoại thành Phú Xuân là những căn nhà lá san sát nhau, tọa thành một bức tường dày đặc. Mưa như trút nước xuống những mái hiên thấp lè tè làm những căn nhà vốn ngèo túng càng thêm phần tội nghiệp. Ngoài bìa khu làng nhỏ, ngôi nhà nhỏ nằm lọt thỏm giữa một khu vườn đầy cỏ cao tới thắt lưng người. Trong nhà, ánh đèn dầu tối om không soi rõ mặt người mờ mờ khắc một cái bóng cao lớn lên vách.
_Kính thầy dùng trà.
Người đàn ông trung niên cẩn trọng đặt nhẹ chén trà nghi ngút khói lên tấm chõng tre cung kính khoanh tay đứng nép mình sang một bên.
_Anh đã ra tràng giúp nước thì anh với thầy là cùng giai cùng bậc, lễ tiết phải giữ, nhưng đừng quá câu nệ. Anh lại đây ngồi xuống với thầy.
Người đàn ông cao lớn hớp một ngụm trà rồi cười nói, một giọng nói đầy trìu mến nhưng vẫn uy nghiêm của kẻ sĩ.
_Dạ thưa thầy con không dám.
Người đàn ông trung niên vẫn đứng, đầu cuối gầm cung kính trả lời.
_Đã là người đọc sách, giữ lễ nghĩa là việc phải làm, song không được quá câu nệ. Kinh Dịch có dạy, quân tử chung nhật càn càn, tịch dịch nhược, lệ vô cửu1. Người sống trên trời phải biết tấn thoái thì mới làm nên đại nghiệp, mới giải được ân oán trong lòng.
Thầy đồ vẫn ngồi im, mắt nhìn mông lung ra ngoài màn mưa trước sân. Người đàn ông mắt chợt sáng lên nhưng trẻ con gặp quà, rồi bỗng dưng quỳ sụp xuống mà lạy.
_Tạ ơn thầy đã khai cho con được quang đạo. Con theo thầy bao năm mà sở học non yếu, tài hèn đức mỏng, làm thầy phải nhọc công, xin cho con được lấy lạy này mà tạ tội.
Tiếng khóc run rẩy vang lên trong đêm vắng. Thầy đồ đứng dậy đỡ học trò mình lên ghế, thuận tay lấy luôn ấy trà, tự rót cho mình, rồi rót cho trò.
_Thầy không uống rượu được, thì thôi, đành dùng trà thay rượu, mừng anh đốn ngộ. Lần này thầy vào đây, trước là thăm anh chị, sau là có việc chị nhờ thầy.
_Thưa thầy, phải chăng là...
Người trung niên đang nói thì dừng lại khi đụng ánh mắt thâm sâu của thầy đang nhìn mình.
_Thiên cơ thì đừng nên lộ. Quốc gia có nạn, thầy xuất sơn phò vua là chuyện thiên kinh địa nghĩa.
_Nhưng mà...
_Dạ thưa cậu, thưa mình, cơm canh đã xong, mời cậu với mình dùng cho nóng
Người trung niên có vẻ vẫn chưa phục, muốn nói tiếp nhưng bị mâm cơm vợ ông mang ra, vô tình hay cố ý, cắt ngang lời làm chữ đã định ra phải nuốt ngược trở lại.
_Thôi, có thực mới vực được đạo. Anh vào ăn cơm với thầy, cơm no rượu say rồi thầy trò mình bàn tiếp.
Lệnh thầy đã ra, người trung niên chỉ biết cung cút tuân theo dù vẫn còn khuất tất điều chi trong lòng. Người phụ nữ dịu dàng xới cơm cho cậu và chồng rồi nhẹ nhàng đứng dậy định lui ra sau nhưng lại bị tiếng thầy đồ giữ lại.
_Chị vào trong, lấy thêm cái bát với đôi đũa, rồi cùng ăn với cậu và anh cho vui.
_Dạ thưa cậu con nào dám ạ.
_Cậu cho phép, chị cứ vào lấy đi.
Giọng thầy đồ tuy vẫn mềm mỏng nhưng cứng rắn đến không lay chuyển nồi. Sống với ông từ nhỏ, không lạ gì tính cậu nên chị cũng đành dạ nhẹ một tiếng rồi lui ra sau lấy chén bát, rồi khẽ khàng ngồi ghé sát vào một bên chõng.
_Chuyện chị muốn nhờ, cậu cũng đã hiểu. Có điều, chị không lo Đức Bà có dị nghị sao ?
Thầy đồ lặng lẽ hớp nhẹ một hớp nước rồi hỏi.
_Thưa thầy, chúng ta là kẻ sĩ, phải lấy trung làm đầu, sao lại có thể theo bọn ngụy triều đó được.
Người trung niên đột nhiên hỏi, giọng nói tuy vẫn cung kính nhưng lại kiên định đến mức sắt đá.
_Anh nói thầy nghe, cái gì là ngụy mà cái gì là chân.
_Thưa thầy, Lê triều là do Thái Tổ Cao Hoàng Đế gian lao mà lập nên, về sau tuy có suy vong, gian thần lấn áp nhưng rốt cuộc vẫn là dòng chính thống, Ngụy Tây thân là thần tử mà không biết phò vua giúp nước, ngược lại còn giả danh phù Lê diệt Trịnh, phế vương lập thân, tự mình xưng đế, trước không còn phép tắc, sau không còn đạo nghĩa. Vậy thì há không phải ngụy triều hay sao thưa thầy ?
_Anh đã nói, chúng ta là kẻ sĩ, sĩ tử chi đạo, trung đạo vi tiên. Vậy anh nói thầy nghe, Lê triều đã làm gì mà ta phải trung với Lê triều ?
Thầy đồ hớp một ngụm trà nhỏ rồi nhìn người trung niên, khuôn miệng nhếch khẽ một nụ cười.
_Thưa thầy, kẻ sĩ chỉ biết trung há cần lý do.
Người trung niên khuôn mặt đỏ bừng, giọng nói cố kiềm chế nhưng vẫn chỉ ra được, ông ta đang giận dữ đến tột độ. Con rồng nào cũng có nghịch lân, con người nào cũng có điểm cố kị, với người trung niên, lòng trung với nhà Lê là thứ mà ông không thể nào từ bỏ.
_Đúng, kẻ sĩ chỉ biết trung há cần lý do. Nhưng quan trọng, trung với ai. Thầy, không trung với Lê triều cũng không trung với Tây Sơn, chỉ trung với dân.
_Trung với dân ?!!!
Người trung niên mở to mắt, trong đời mình, đó là lần đầu tiên ông nghe được điều kỳ lạ đến dường ấy. Với ông, xưa nay chỉ có lòng trung với quân mới gọi là trung, dân có là ai, làm sao mà trung cho được.
_Đúng. Thầy chỉ có lòng trung với dân.
_Nhưng mà thưa thầy...
Nhẹ nhàng cười cười đưa tay ra cản, thầy đồ thoải mái bưng chén chiêu một ngụm nước cho thông cổ họng rồi nhẹ nhàng.
_Dân có là gì mà phải trung, anh muốn nói vậy, đúng không ?
Người đàn ông trung niên chỉ nuốt nước bọt, ánh mắt sáng lên, đầy vẻ chờ đợi.
_Dân không là gì nhưng dân cũng là tất cả. Quân không dân có còn là quân hay không. Trị quốc chi đạo, dân sinh vi bản, làm quân một nước trước phải lo cho dân, dân có ấm no, nước mới được thái bình, nước có thái bình thì triều đại mới được lâu dài. Sử sách còn ghi rõ, làm vua, ngoại xâm không đáng lo bằng nội loạn. Trần triều nhờ trên dưới đồng lòng, vua hiền tôi sáng, vạn dân kính yêu, mới thắng được Thát Đát hùng mạnh. Tống triều thì ngược lại, quốc lực tuy dồi dào, nhưng lòng dân ly tán, quan ép dân phản, bị Liêu, Kim bắt cắt đất xưng thần, hằng nằm đều phải cống nạp để được yên thân, cuối cùng bị Thát Đát diệt quốc. Vậy, theo anh vì lẽ gì Tống triều hùng mạnh mấy trăm năm mất nhưng Trần triều nhỏ bé lại còn?
Chiêu một hớp nước, thầy đồ vẫn cười nhìn học trò. Người trung niên ngồi lặng yên, chân mày nhíu lại thành một đường thẳng.
_Nhưng thưa thầy, chẳng lẽ làm vua chẳng phải là do mệnh trời sắp đặt hay sao ?
Người trung niên vừa nói xong thì thầy đồ bất cười ha hả, tiếng cười lớn của ông làm cảm hai vợ chồng trợn to mắt mà nhìn.
_Nói hay, nói rất hay...
Chiêu vội hớp nước, thầy đồ nén nụ cười.
_Mệnh trời ở đâu, mệnh trời tại lòng dân. Quân biết mệnh trời thông qua lòng dân. Năm xưa Khương Thái công câu cá chờ thời, thật ra chính là chờ lòng dân, lòng dân chán ghét nhà Thương, tức mệnh nhà Thương đã tận, nhờ đó mà Cơ Xương với nắm được thiên hạ. Thời nay cũng vậy, Tây Sơn Tam Kiệt, vốn chỉ là trại chủ một sơn trại, nhờ đâu mà được làm vua, chính là nhờ biết nương tựa lòng dân. Đức Thánh Trần đã có dạy, khoan thứ sức dân là kế sâu rễ bền gốc, há là hí ngôn hay sao?
Giọng nói thầy đồ vẫn còn vẻ trào phúng, nhưng vẫn đủ uy nghiêm khiến người nghe không nghe không được.
_Nhưng thưa thầy, dân đen vô học làm sao mà lại có thể đi so sánh với thiên mệnh cho được?
_Anh nhớ câu, quốc gia nguyên khí chi hiền tài, khí thịnh quốc thịnh, khí suy quốc suy chớ? Theo anh câu đó nghĩa là chi.
_Thưa thầy, câu đó nhắc hậu thế phải kính trọng hiền tài, vì quốc gia mà bồi dưỡng hiền tài để phò vua giúp nước.
_Vậy hiền tài từ đâu mà ra?
Đang vểnh lên đắc ý, khuôn mặt người trung niên bỗng cứng lại. Thầy đồ chỉ im lặng cười, đánh mắt sang Ngọc Liên đang ngồi khép nép một bên.
_Ngọc Liên, chị nói cậu nghe, hiền tài từ nơi nao mà ra?
Ánh mắt Ngọc Liên từ từ chuyển lên chồng. Người trung niên không nói gì, chỉ khẽ gật nhẹ đầu một cái. Thân nhau từ thủa thiếu thời, nên ông biết rõ sở học của vợ không kém gì mình, có khi còn hơn.
_Cậu đã lệnh thì con xin thưa. Thưa cậu, thưa mình, theo ngu ý của con, thì kẻ sĩ đều là dân gian mà ra, hiền nho các đời đều từ cơ hàn, nhờ tài học hơn người mà được vinh hiển.
_Đúng, rất đúng. Hiền tài đều từ dân gian mà ra, mà hiền tài là nguyên khí quốc gia, vậy há lòng dân không phải là nguyên khí, là thiên mệnh của quốc gia ư? Chính Bình ơi Chính Bình, anh mang tiếng là kẻ sĩ học hết nửa bồ chữ của thiên hạ, nhưng về sáng suốt, anh còn phải theo vợ anh mà học nhiều.
Chính Bình im lặng nhìn thầy, ánh mắt như còn muốn nói nhưng lại không thốt ra lời. Dạy Chính Bình bao năm, đã rõ tính trò, nên thầy đồ cũng không nói gì, xoay sang Ngọc Liên mà hỏi.
_Cậu vào cung, Đức Bà có dặn dò gì chăng ?
_Thưa cậu, Thái Tử đang đau nặng, Đức Bà ngày đêm lo lắng, con là nhũ mẫu, lòng cũng khó mà yên. Nhớ cậu có y thuật cao minh, Đức Bà mới cậy con vời cậu lai kinh, được chăng làm cho Thái Tử lành trở lại.
_Nhưng chị cũng rõ, y thuật cậu học không phải y thuật nước Nam ta. Cậu chỉ e, Đức Bà sẽ lo ngại mà không cho cậu dụng thuật thôi.
_Thưa cậu, con cũng đã trình qua với Đức Bà về điều này, Đức Bà cũng đã có dụ, chỉ cần cậu trị được cho Thái Tử, thì dù là dụng thuật chi, Đức Bà cũng hết lòng giúp đỡ, không một lời dị nghị.
_Thế thì tốt, vậy sáng mai ta vào cung sớm. Y trọng thần tốc, càng để lâu, trường dạ đa mộng.
_Thưa thầy...
Chính Bình đang im lặng bỗng dưng mở miệng.
_Thưa thầy, xin thầy cho con được đưa thầy vào cung ngày mai..
Thầy đồ không nói gì, chỉ liếc nhìn Chính Bình. Cái liếc sắt lẻm, như muốn nhìn thấy tâm phế của Chính Bình.
_Thưa thầy, con biết là thầy còn nhớ đến mối thù nhà của con, nhưng nghe được thầy dạy, lòng con tuy đã dứt nợ cũ nhưng với kim triều, con vẫn không thể nào chấp thuận được. Tuy vậy, con vẫn muốn được hầu thầy vào cung để tròn lễ sư đồ.
_Anh đã nói vậy thì thầy cũng không cấm. Thôi, cơm canh nguội hết rồi, chị đọc kinh đi rồi ta cùng ăn cho nhanh rồi đi nghỉ sớm, mai còn phải vào cung.
Dạ nhẹ một tiếng, Ngọc Liên lần trong người ra một chuỗi tràng Mân Côi, khẽ chấp tay lại rồi thành kính lầm bầm đọc.
_Lạy Cha chúng con ở trên trời.
Chúng con nguyện danh Cha cả sáng,
Nước cha được đến, ý Cha được nên...
Quyển 1
Chương II
Mặt trời yếu ớt không sao xua đuổi được không khí ẩm thầp, bệnh hoạn. Khuất trong nhưng tấm trướng, Quang Toản nằm im, mắt he hé nhìn ngang, thấy Bắc Cung đang gối đầu lên tay trên cái trường kỷ cạnh giường, tự nhiên, mắt nó hoe hoe đỏ.
Ngày nhỏ, nó sinh ra trong rừng núi, lớn lên cùng bầy trâu và đám trẻ quê, rồi theo cha mẹ ra chiến trường, mẹ nấu cơm cho các chú bác, nó lon ton theo sau phụ giúp. Tới một ngày mẹ con nó được người đón vào cung. Cung vàng điện ngọc làm nó cứ ngẩn ngơ, dù chỉ là phủ phiên vương nhưng thật chất vẫn quá sức tưởng tượng với một đứa trẻ thôn quê như nó. Chuỗi ngày sau đó là chuỗi ngày trong mơ, nó được ăn ngon, được mặc đẹp, được người người tôn kính. Nhưng cũng từ đó, nó cũng ít thấy mẹ hơn, nhưng lần được sà vào lòng mẹ như ngày xưa dần thưa đi, họa hoằn lắm nó mới thấy mẹ lướt qua một hành lang nào đó.
Bắc Cung xuất hiện ngay thời lúc nó thấy mình cô đơn nhất. Mới đầu, tất cả những gì nó nghĩ chỉ là nó rất thích người phụ nữ dịu dàng, sang trọng này. Từ con người bà, Quang Toản cảm thấy một hấp lực khiến nó cứ phải quấn quít bên bà mãi. Mà đáp lại không phải là lễ nghi thông thường mà là tình thương vô bờ. Vắng mẹ, bà là người hằng đêm dỗ giấc cho nó bằng những câu ru nghe lạ lùng nhưng lại rất dễ chịu. Vắng mẹ, nó hay sang cung của bà chơi, được bà tự tay nấu cho ăn những món quê bà, được bà dạy cho học, được bà chải tóc, rồi khe khẽ hát cho nó nghe. Có bà, Quang Toản như có thêm một người mẹ nữa.
Rồi khi nó nằm đây, cơ thể như tan ra từng mảnh một, mẹ cũng chỉ vào được có một lần cùng cậu, hỏi han vài câu, rồi lại rời đi. Chỉ có Bắc Cung còn ở lại, chiều theo mọi sự nũng nịu dầu là vô lý nhất của nó.
_Thái Tử nghỉ ngơi có được an khang chăng?
Tiếng Bắc Cung nhẹ nhàng vang lên ngoài trướng.
_Mạ ơi, con đói lắm.
Cơn mơ màng của Quang Toản bất giác đưa thằng bé trở về chất giọng thôn quê của nó trong vô thức để tích tắc sau, khi nó tỉnh lại, Quang Toản thấy cả nó và Bắc Cung đều ngớ người ra.
_Xin Bắc Cung thứ cho con tội vô lễ.
Biết mình thất thố, Quang Toản cuống quít cố sửa giọng mình lại cho giống thứ giọng Bắc Cung thường dùng để dạy nó học cung nghi.
_Thái tử nào có lỗi chi. Là bản cung đường đột, làm kinh động Thái Tử.
Bắc Cung cũng nhanh chóng lấy lại tư thế, sai thị tì đi vén màn lên rồi bước vào, mang theo một chén cháo nóng hổi.
_Có chén cháo trắng, Thái Tử dùng nóng cho lại sức.
_Tạ Bắc Cung quan tâm.
------
Chén cháo vừa được Quang Toản nhận thì một tì nữ đến bên Ngọc Hân thì thầm nho nhỏ làm lòng bà đột nhiên như muốn nhảy lên vì vui mừng. Quay người một lần nữa để chắc là Thái Tử vẫn ngon miệng, Ngọc Hân vội vàng chạy ra sau hậu viên. Vừa quay ra, bà đã thấy được người tì thiếp thiết thân đang cung kính đứng chờ, bên cạnh là một người đàn ông cao lớn, chòm râu bạc làm người khác nghĩ ông đã gìa, nhưng mái tóc lốm đốm búi củ hành gọn gàng sau đầu làm người khác lại nghĩ ông chỉ khoảng bốn, năm mươi tuổi.
_Ngọc Liên, ta cứ đợi em mãi.
Chưa cần người phụ nữ chào trước, Ngọc Hân đã vội vàng chạy đến nắm chặt lấy tay người phụ nữ. Với bà, Ngọc Liên không chỉ là tì nữ, mà còn là bạn tri giao, là người duy nhất bà có thể trút hết nỗi lòng ra ngoài.
_Xin Bắc Cung thứ cho tiện tì tội chậm trễ.
Người phụ nữ nhẹ nhàng khụy gối xuống, dáng điệu vô cùng cung kính. Lúc này, ánh mắt Ngọc Hân lại chuyển trở lại trên người đàn ông. Từ người ông ta, Ngọc Hân cảm giác được cái oai nghiêm của bậc đại nho, thứ mà bà, dù sinh trong hoàng tộc, nhưng cũng hiếm khi nào được cảm nhận. Ánh mắt của ông ta hiền từ mà sắc bén, oai nghiêm mà lại độ lượng, khiến kẻ khác khi nhìn vào cam lòng chịu phục.
_Còn tiên sinh đây là...?
_Thảo dân Trần Ngạn, xin ra mắt Bắc Cung.
Người đàn ông phát ra một chất giọng trầm ấm, như tiếng chuông nhà Phật thấm vào lòng người.
_Khải Bắc Cung, đâu là người cậu trước đây em đã tâu với Bắc Cung. Lần này cậu em tiện dịp vào Phú Xuân, nên em cố ý mời cậu đến thăm bệnh cho Thái Tử, xin Bắc Cung thứ cho em tội không báo trước.
Nghe đến đây, mắt Ngọc Hân sáng lên như gặp vàng. Trước đây khi còn ở Đông Đô, bà có nghe được về một thần y có y thuật cao minh, từng xuất dương du học. Người này y thuật tuy thần bí, khác với người thường nhưng lại có rất mát tay, trị đây hết đó. Bà cất công cho người tìm nhưng lại bất lực, không ngờ thần y đó lại là cậu ruột của Ngọc Liên. Với bà, đây chính là hy vọng cuối cùng để cứu sống Quang Toản.
_Tạ tiên sinh đã có lòng cứu giúp. Đây thật sự là phúc cho hoàng gia cũng là phúc cho bá tánh.
_Xin Bắc Cung đừng nói thế, trước ta đi xem mạch Thái Tử đã.
Trần Ngạn giọng nói vẫn bình hòa, nói thẳng muốn đi xem bệnh mà không thèm quanh co như những kẻ khác làm Ngọc Hân rất bất ngờ nhưng cũng rất vui mừng, ít ra thầy thuốc này cũng sẽ không hùa một phe với bọn ăn không ngồi rồi ngoài kia.
Trần Ngạn vừa theo gót Ngọc Hân vào phòng Thái Tử thì từ xa, một tiếng hô vang lên.
_Thái y viện Đại sử cùng chư vị thái y cầu kiến.
Tiếng hô làm Ngọc Hân nhíu khẽ mày liếc nhẹ sang bên Trần Ngạn. Trần Ngạn vẫn vậy, mắt im lặng quan sát xung quanh, mặt không lộ chút thất thố.
_Cho họ vào.
Ngọc Hân phất tay ra lệnh rồi dẫn Trần Ngạn ra tiền sảnh. Vừa chia ngôi thứ ngồi xong thì bọn thái y cũng lục tục đi vào.
_Chúng thần kính thỉnh an Bắc Cung.
Bọn Thái y vừa thấy Ngọc Hân thì vội vàng quỳ xuống nhưng mắt vẫn không quên liếc Trần Ngạn, mắt lóe lên một tia thâm độc, tuy chỉ thoáng qua nhưng sao lại có thế qua mặt được Ngọc Hân.
_Chư vị Thái y hôm nay đến đây, chẳng hay có chuyện chi.
_Khải Bắc Cung, chúng thần đến xem bệnh cho Thái Từ.
Đại sử vội vàng trả lời, mắt vẫn như cũ, không ngừng láo liên.
_Nếu vậy thì hôm nay phiền các ông một chuyến rồi. Vị Trần tiên sinh đây là do đích thân bản cung mời từ Bắc Hà vào xem mạch cho Thái Tử, nên không phiền đến các thái y.
Ngọc Hân là người có tính tình nhu mì, dịu dàng. Thường ngày thì không thích tỏ ra mình là hoàng hậu hay công chúa chi cả. Với bà, bà đơn thuần chỉ là một người vợ bình thường như bao bà vợ khác, nên với bất kỳ ai, kể cả thị nữ trong cung, bà cũng hết mực giữ lễ phép, họa hoằn lắm thì bà mới nhẹ nhàng quở trách cung nữ nào đó sai phép tắc. Nhưng có đôi khi, cơn giận của bà nổi lên thì cái bản chất của một công chúa kim chi ngọc diệp, quyền uy tột đỉnh lại quay trở lại trong bà. Không may cho bọn thái y, thái độ hèn mọn của bọn chúng là thứ Ngọc Hân bình sinh ghét nhất. Đánh mắt sang Trần Ngạn, Bắc Cung dù không bất ngờ nhưng cũng hơi giật mình vì sự bình tĩnh của ông lúc này. Dường như những ánh mắt ghen ghét kia không tạo cho ông được một mảy may chú ý.
_Khải Bắc Cung, chẩn trị cho Thái Tử là chuyện lớn, bệ hạ đã giao cho Thái Y Viện chúng thần phụ trách, nếu có gì bất trắc, quả thật tội này chúng thần không sao gánh được.
Ánh mắt lom lom của bọn Thái y đang chiếu vào Trần Ngạn làm Ngọc Hận cực kỳ khó chịu. Bọn chúng cứ như đám chó săn đang chực chờ cắn một phát vào đối thủ của chúng.
_Đến cả bản cung các ông cũng không tin hay sao?
Câu nói của Ngọc Hân là Đại sử lóe lên một tia tức giận. Dù đã được dặn dò không được thất thố nhưng xưa nay văn vô đệ nhất võ vô đệ nhị, thân là Thái y viện Đại sử, ông ta không thể nào chịu đựng nổi.
_Khải Bắc Cung, hạ thần được Thị Lang cùng Chính Cung lệnh cho hạ thần chăm lo cho Thái tử, hạ thần thực sự không có lá gan nào mà dám cãi mệnh.
Hóa ra là vậy, lòng Ngọc Hân tự cười lạnh. Biết trước nhưng Ngọc Hân vẫn không kềm nổi cơn giận đang nổi lên trong lòng.
_Trần tiên sinh có ân với bản cung, bản cung cũng đã từng kinh qua y thuật của Trần tiên sinh mới dám mời Trần tiên sinh vào đây trị cho Thái tử, lẽ nào các ông lại khi bản cung không biết nhìn người.
_Chúng thần không dám, nhưng khải Bắc Cung, chúng thần là thần tử chỉ biết nghe lệnh trên sai bảo, nếu Bắc Cung có điều chi dị nghị, xin hãy đến thỉnh lệnh từ Chính Cung thì chúng thần sẽ tuân theo ngay lập tức.
Mím môi vì giận, Ngọc Hân lúc đó chỉ giận mình quá nhân từ với bọn tham sống sợ chết này. Khuôn mặt vênh váo đánh giá Trần Ngạn thì bà đã muốn tự tay trừng trị chúng rồi, nhưng buộc phải nhịn vì ngại thế lực sau lưng bọn chúng. Cảm giác đó thì không hề dễ chịu đựng chút nào.
_Vậy thì lệnh của trẫm có được hay không
Tiếng Nguyễn Huệ sang sảng vọng thẳng từ sân vào làm bọn thái y đang vểnh râu ngạo nghễ đánh gia, cái theo chúng, tên lang băm mới đến, run rẩy như cầy sấy, vội vàng quỳ sụp xuống. Ngọc Hân tuy bị bất ngờ, nhưng cũng nhanh chóng phất tay cho thị nữ đi chuẩn bị trà bánh rồi vội vàng ra sân nghênh tiếp.
_Thần thiếp không biết bệ hạ giá lâm, chậm trễ nghênh đón, xin bệ hạ trách phạt.
Nguyễn Huệ đã sớm nghe về Trần Ngạn ngay từ khi ông ta đến Phú Xuân. Thời gian ở Bắc Hà, Nguyễn Huệ vốn đã có ý một gặp con người thú vị này nhưng ông ta lại như giao long, thấy được đầu thì không thấy đuôi, Nguyễn Huê có phái bao nhiêu người đi tìm mà vẫn không thể gặp. Không ngờ, Bắc Cung của ông lại có thể mời được Trần Ngạn đến tận Phú Xuân xem bệnh cho Quang Toản. Với Nguyễn Huệ, đó chính là cái phúc khả ngộ bất khả cầu.
_Các khanh bình thân. Trần tiên sinh, xin hãy đứng dậy, lễ của Trần Tiên sinh Huệ không dám to gan mà nhận. Bây đâu, mau lấy ghế mời Trần tiên sinh an tọa.
Nguyễn Huệ tiến lên đỡ Trần Ngạn dậy rồi mới lệnh bình thân, lại còn ban cho ghế ngồi. Tất cả điều đó làm bọn thái y chầu chực xung quanh tức đến mức hộc máu. Chúng không biết Nguyễn Huệ lúc này cũng đang tự sỉ vả mình tại sao lại không dốc lòng tìm kiếm cao thủ như Trần Ngạn sớm hơn. Chỉ cần đỡ Trần Ngạn lên thì ông đã nhận ra được người thầy thuốc này là một đại sư võ công, sức Trần Ngạn thì dù cả ba anh em ông hợp sức cũng đánh không lại. Lần này không ngờ lại tự thân tới, đúng là đạp phát thiết hài vô mịch xứ, đắc lai toàn bất phí công phu.
_Huệ nghe Trần tiên sinh nể mặt Bắc Cung mà chịu cực nhọc vào Phú Xuân chẩn bệnh cho con nhỏ. Thật Huệ không biết lấy gì mà đền đáp tiên sinh cho được.
Nguyễn Huệ vừa an tọa đã ôm quyền cảm tạ, thái độ hết sức cung kính. Nguyễn Huệ vốn là nông dân, dù cũng được học ít nhiều nhưng ông biết rõ, với rất nhiều sĩ phu chỉ coi ông là một tên vũ dũng thất phu không hơn không kém, không có chân mạng đế vương, vì vậy khi gặp bất kỳ sĩ phu nào, ông cũng không bao giờ xưng trẫm mà chỉ xưng là Huệ để tỏ lòng tôn kính
_Xin bệ hạ thứ cho Ngạn vô lễ, nhưng bệ hạ dùng húy đối với Ngạn, mà Ngạn to gan dám nhận, thì quả thật, tội làm thần biết quân sai mà không biết can gián Ngạn không gánh nổi.
Câu nói của Trần Ngạn làm Nguyễn Huệ giật mình trong phút chốc, nhưng nhanh chóng lấy lại vẻ tươi cười.
_Tiên sinh đã nói vậy thì trẫm cũng đành tuân lời dạy vậy. Tiên sinh đi đường có được bình an chăng?
_Bẩm bệ hạ, Ngạn vốn vào đây thăm cháu là Ngọc Liên, tì nữ của Bắc Cung. Chẳng ngờ nghe Ngọc Liên thưa chuyện, mới biết Bắc Cung có ý ưu ái, vời thảo dân vào cung xem mạch cho Thái Tử, làm thảo dân thụ sủng nhược kinh, thật sự không sao dám.
Trần Ngạn nói mấy câu khách sáo nhưng giọng nói vẫn bình hòa, ánh mắt hiền từ nhìn thẳng, không hể có chút sợ sệt, nhưng cũng không hề kiêu ngạo. Nhìn cách Trần Ngạn nói chuyện, Nguyễn Huệ chợt nhớ đến ông giáo Hiến, thầy mình. Cả Trần Ngạn và giáo Hiến đều giống nhau ở đôi mắt hiền từ nhưng vẫn đầy đủ sự uy nghiêm của bậc uy thâm.
_Xin tiên sinh đừng nói lời ấy làm trẫm cảm thấy tội lỗi nặng thêm...
_Bẩm bệ hạ, Thái Tử đang cơn khó nhọc, xin phép bệ hạ cho Ngạn được được xem mạch trước rồi sẽ hầu chuyện bệ hạ sau.
Trần Ngan không thèm quanh co, nói thẳng là muốn xem bệnh, làm cho Nguyễn Huệ lòng kính trọng của ông với Trần Ngạn càng tăng lên hơn. Gật đầu ra hiệu cho Ngọc Hân, Nguyễn Huệ đưa tay mời Trần Ngạn vào phòng bệnh. Trần Ngạn vừa đi, vừa quan sát, thi thoảng lại khịt nhẹ mũi một cái.
Nguyễn Huệ lặng lẽ nhìn Trần Ngạn thăm khám. Từ động tác đều được thực hiện một cách chính xác đến kì lạ,. Ánh mắt được tôi luyện trong chiến trận của Nguyễn Huệ nhìn ra được cách Trần Ngạn làm việc chứng tỏ ông ta từng vào là lính, mười phần hết chín là quân túc vệ.
Trần Ngạn im lặng bắt mạch, chân mày nhíu chặt lại, ánh mắt ngưng trọng quan sát kỹ lưỡng từng phân một trên người Quang Toản. Thi thoảng, ong lại nhè nhẹ lắc đầu, thở nhẹ một tiếng ra chiều cảm thán. Tiếng thở dài tuy nhẹ nhưng với Ngọc Hân lớn lên trong cung, tiếng thở kiểu đó nào có thể làm khó dễ thính lực của bà, nên dù không dám biểu hiện ra mặt, nhưng mỗi tiếng thở là mỗi lần tim bà nhảy lên vì lo lắng. Bên ngoài trướng, ánh mắt đỏ quạch, chứ đầy thâm thù của bọn thái y chiếu thẳng vào như muốn moi móc từng hành động dù nhỏ nhất để tìm dịp mà tấu lên, giết đi con kỳ đà cản đường công danh này.
Chậm rãi rời tay Quang Toản, Trần Ngạn đứng dậy rồi bất chợt quỳ xuống trước mặt Nguyễn Huệ, đầu không ngẩn lên. Ánh mắt kinh hoàng của Ngọc Hân làm tim vị dũng tướng cũng run lên vì lo sợ.
_Xin tiên sinh đừng làm vậy mà tội cho trẫm. Phải chăng Thái Tử...
Trong cung kỵ điềm xấu, Nguyễn Huệ hiểu nhưng chỉ nói đến đó thì khuôn mặt Ngọc Hân và thị nữ bên cạnh đã trắng bệt ra như giấy, từng ngón tay thon nhỏ run run nắm chặt lấy đùi như để kềm chế mình không nhảy dựng lên mà quên đi thân phận để chạy lại ôm con.
_Xin bệ hạ cùng Bắc Cung thứ cho Ngạn tội vô năng.
_Tiên...Tiên sinh, Quang Toản, nó...
Giọng Ngọc Hân đứt quãng nặng nề chứa đầy nước mắt.
_Khải Bắc Cung, Bắc Cung vời Ngạn vào để chữa bệnh, nhưng bệnh nhân không có bệnh nên Ngạn chỉ biết cầu xin bệ hạ cùng Bắc Cung thứ cho Ngạn tội vô năng.
Trần Ngạn vừa dứt lời, ánh mắt lo lắng của Ngọc Hân chợt chuyển thành ánh nhìn kỳ lạ. Không hẹn mà gặp, ánh mắt Nguyễn Huệ cũng gặp ánh mắt của bà, cả hai cùng như thấu hiểu điều chi mà khóe mắt ánh lên niềm vui khó tả.
_Trần tiên sinh có điều chi xin cứ dạy, Ngọc Hân không dám có lời dị nghị.
Được cái gật đầu của Nguyễn Huệ, Ngọc Hân nhẹ nhàng cất tiếng.
_Khải Bắc Cung, minh thương dễ tránh, ám tiễn khó phòng. Nơi này làm Ngạn e, chỉ có một đi không trở lại.
Ánh mắt Nguyễn Huệ sáng rực lên. Sĩ phu hiếm người nào được như Trần Ngạn. Nguyễn Huệ tuy ít học nhưng cả đời ông thì đã gặp vô số hạng người, thượng vàng hạ cám đủ cả. Dĩ nhiên, ông gặp không ít sĩ phu, và ấn tượng duy nhất của ông là hầu hết họ chỉ là bọn cáo mượn oai hùm, bề ngoài thì tỏ ra thanh cao tiết khí, nhưng bên trong thì hèn mọn nhỏ nhen, khinh kẻ dưới nịnh người trên. Trần Ngạn khác. Từ người ông ta toát ra thứ ngạo khí thâm tàn của một con lão hổ sống lâu ngày trong chốn triều ca.
Gật nhẹ đầu ra hiệu, Nguyễn Huệ liền đứng dậy đi ra sau hậu viên, theo sát là Ngọc Hân và Trần Ngạn. Ba người đi vòng vèo xung quang khu hậu viên mênh mông một lúc lâu rồi bước vào một gian thư phòng nhỏ. Khoát tay cho thị vệ và cung nữ đi ra ngoài, Nguyễn Huệ ngồi xuống một cái ghế thái sư bày ở góc phòng, rồi ra dấu mời Trần Ngạn ngồi xuống đối diện. Ngọc Hân biết ý chồng, nhẹ nhàng lui ra ngoài pha trà. Trong lòng bà lúc này, tảng đá đè chặt tim đã được cất lên tự lúc nào.
Trong phòng, hai người đàn ông đang ngồi đối diện nhau, mắt không rời đối phương. Nguyễn Huệ vốn là người thích đấu trí. Ông thích cảm giác như con hổ rình mổi, lặng lẽ qua sát đối phương, nhất là khi đối phương cũng là một con hổ già đời tinh ranh. Ánh mắt Trần Ngạn vẫn lặng yên như nước, nhưng từ khóe mắt lóe lên nhưng tia sáng mà nếu không phải là kẻ chui từ đống xác ra như Nguyễn Huệ thì khó có cơ mà nhận ra được.
_Tiên sinh thích chơi cờ tướng chớ? Trẫm vốn là kẻ ít học hành, cờ vây với trẫm quá khó học, nên chỉ biết chơi môn cờ tướng bình dân, mong tiên sinh đừng chê trách.
Nguyễn Huệ cười khà khà, bưng bàn cờ tướng đặt giữa hai người. Gian thư phòng này là nơi Nguyễn Huệ dùng để suy nghĩ và hội họp bí mất với các tướng nên lúc nào cũng được lau chùi sạch sẽ, trà nước đầy đủ, ngoài ra bộ cờ ông thích từ quê nhà cũng được đặt sẵn để quân vương giải sầu.
Trần Ngạn trầm ngâm, cầm quân cờ lên ngắm nghía. Quân cờ này rất bình thường, là loại cờ bằng sừng trâu mà người bình dân hay dùng. Bàn dùng để chơi cũng không có gì đặc biệt mà chỉ là cái bàn gỗ thường được kẻ bàn, loại bàn này ở bất kỳ nhà nào khá giả một chút đều có thể tìm thấy. Miệng cười cười, Trần Ngạn thích thú mân mê một quân sĩ. Sĩ, chính là ông, sĩ chỉ là quân thí, nhưng là người gần tướng nhất, nếu sĩ mà phản, tướng chỉ còn đường chết. Thời gian ở nước ngoài, ông từng thấy một loại cờ tương tự của người Tây Dương, nhưng thay vì tướng, thì là vua. Khác tên, nhưng bản chất chúng hoàn toàn giống nhau, chỉ cần sĩ muốn phản, thì vua khó lòng mà chạy thoát. Liếc mắt thấy Nguyễn Huệ đang châm chú nhìn mình, Trần Ngạn chỉ cười. Đây chính là quân vương mà ông mong muốn. Từng gặp qua Duy Kỳ, Trịnh Minh và Nguyễn Ánh, ai ông cũng thấy chỗ mình cần nhưng không có ai đầy đủ được Nguyễn Huệ. Biết tấn biết thoái, đủ khiêm tốn nhưng ngạo khí cũng không thua ai, Nguyễn Ánh tuy cũng là hào kiệt một đời, nhưng so với tử thù Nguyễn Huệ, thì Ánh còn phải cố nhiều nữa mới có thể lật được Tây Sơn.
_Trần tiên sinh có điều chi không được vừa ý hay sao.
_Bẩm bệ hạ, Ngạn chỉ đang suy nghĩ.
Ánh mắt Nguyễn Huệ lại một lần nữa sáng lên. Thần tử thông minh, ai cũng thích, nhưng khôn quá hóa vụng, Trần Ngạn là một con cáo già nên biết rõ, khi nào nên để cái tài lộ ra lúc nào nên thu lại. Hai người đàn ông lại nhìn nhau, không để ý tiếng chân Ngọc Hân đi vào. Ngọc Hân nhẹ nhàng rót hai chén trà đặt lên bàn rồi lui vào một góc phòng có tràng kỷ mà ngồi xuống.
Hai người đàn ông vẫn không thèm nói lời nào mà chỉ chăm chú vào bàn cờ. Càng đánh càng hăng, đánh đến cờ tàn, thì Trần Ngạn đột nhiên tráo con tướng của mình với Nguyễn Huệ. Ánh mắt Nguyễn Huệ không có bất ngờ, chỉ càng chuyên chú hơn.
_Bệ hạ, thế cờ tàn này, ta đánh thế nào đây.
_Huệ ngu muội, mong tiên sinh day cho một hướng quang đạo.
Trần Ngạn không nói mà chỉ vuốt râu cười cười, cầm con sĩ gõ lên con tướng. Nguyễn Huệ ngẩn đầu lên nhìn Trần Ngạn, ánh mắt cười tuơi rồi bước ra khỏi ghế, bước ra rồi cuối người xuống, dáng điệu cung kính như học trò đang thỉnh ý thầy.
_Vậy Ngạn có mấy lời muốn hỏi bệ hạ, không biết có vô lễ quá chăng?
Trần Ngạn không thèm để ý, tiếp tục vuốt râu cười.
_Xin Trần tiên sinh cứ hỏi, Huệ nhất quyết không dám nói sai lòng.
Nguyễn Huệ vẫn cung kính trả lời, ánh mắt cương nghị nhìn thằng vào Trần Ngạn.
_Mời bệ hạ an tọa trước đã. Chúng ta là người đọc sách thánh hiền, chủ không ngồi mà khách lại ngồi là vô lễ, bệ hạ không muốn Ngạn thất lễ đó chớ?
Nguyễn Huệ nghe tới đó, cũng cười cười ngồi xuống. Đấu trí cả nửa ngày, hai người rốt cuộc cũng quyết định hạ bài, còn việc có ù không thì tính sao.
_Bệ hạ khởi nghĩa là vì cái gì?
Trần Ngạn vừa châm trà vừa nhìn Nguyễn Huệ mà hỏi. Nguyễn Huệ trầm ngâm hồi lâu rồi mở lời.
_Chẳng hay Trần tiên sinh có nhã hứng nghe Huệ dài dòng hay không?
_Thỉnh bệ hạ giảng giải, Ngạn cung kính nghe.
Nguyễn Huệ sửa người cho ngay ngắn rồi bắt đầu lục lọi trí nhớ của mình.
_Tiên sinh cũng biết, Huệ vốn sinh ở Tây Sơn thượng đạo, là nơi thâm sơn cùng cốc. Vốn, Huệ cũng chỉ là kẻ ít học hành, từ nhỏ say mê võ nghệ nên học đòi chút ít làm vui, nào có nghĩ tới phản loạn chi chi. Nhưng có một chuyện khiến Huệ nghĩ lại. Chuyện là, khi Huệ vừa tuổi niên tráng, năm đó mất mùa, Tây Sơn thượng đạo may nhờ xưa nay vốn sống dựa vào rừng núi nên dàu có cực khổ hơn đôi chút nhưng cũng không khổ ải như dưới xuôi. Nhưng, năm đó, chúa Nguyễn cho người lên Tây Sơn thu thuế. Năm đó Huệ còn ít tuổi, chưa hiểu nhiều, nhưng Huệ cũng cảm được cái khổ cái tủi của kẻ dân đen, kêu trời, trời không thấu, gọi đất, đất chẳng nghe. Nhà Huệ tui không giàu có, nhưng dù sao cũng đủ ăn đủ mặc. Vậy mà, sau đợt đó, nhà cửa trống không, cả con gà rách sau vườn cũng bị trưng.
Ánh mắt Nguyễn Huệ trở nên xa xăm. Những ngày đói khổ đó làm ông mãi mãi không quên.
_Đến giờ, Huệ vẫn chưa quên được cơn đói ngày đó. Trần tiên sinh, theo Huệ, không có chết nào tức tưởi bằng chết đói. Mà nhất là khi lúa chất đầy đồng mà không vẫn đói tới chết. Lúa trồng ra mười phần thì hết chín đã bị trưng, phần làm tô cho chủ điền, phần là thuế cho nhà chúa. Ngoài ra thì còn phải đi đắp đường làm nhà, xây dựng đình đài cho nhà chúa. Cái khổ đó, cả đời Huệ không thể nào mà quên. Đôi khi nhớ lại cảnh xưa, song thân bị đày đọa mà nước mắt không kềm nổi.
Ánh mắt đau khổ của Nguyễn Huệ làm cả Trần Ngạn và Ngọc Hân giật mình. Nhất là Ngọc Hân. Sống với ông chừng ấy năm, biết tính ông tiết kiệm nhưng đến giờ bà mới biết nguyên nhân của nó. Sống cả đời trong vàng ngọc lụa là, những cái Nguyễn Huệ kể Ngọc Hân không hiểu nhưng bà cảm được cái đau của Nguyễn Huệ. Trần Ngạn thì khác, cái Nguyễn Huệ trãi qua cũng là cái ông cũng từng trãi. Ánh mắt ẩng ậng nước làm ông tin tưởng hơn vào đánh giá của chính mình về Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ là người có tình có nghĩa, làm quân vương nhưng thấu được đau khổ của nhân tình thế thái nên mười phần chắc bảy phần là bậc minh quân, đáng cho ông theo hầu.
_Chính vì cái lý đó mà Huệ phải phản.
Giọng Nguyễn Huệ đang ưu thương đột ngột chuyển sang kiên định. Ánh mắt rực lửa nhìn thẳng vào Trần Ngạn làm Trần Ngạn bất giác cảm thấy hoảng sợ.
_Huệ không muốn phản, nhưng thời thế ép Huệ phải phản. Huệ phản không phải mưu nghiệp lớn lao chi nhưng chỉ để con cháu Huệ sau này không phải chịu cái Huệ từng chịu, bá tánh khắp nơi cũng sẽ không còn chịu cái Huệ từng chịu. Huệ làm vua không phải là Huệ muốn nhưng cũng là thời thế ép Huệ. Huệ một lòng cầu hiền cũng vì bá tánh mà cầu, vì quốc gia. Đức Thánh Tôn nhà Lê có dạy, hiền tài là nguyên khí quốc gia. Huệ nhận mệnh lèo lái quốc gia, nhục mình hèn kém, chỉ cầu anh tài thiên hạ thương cho kẻ thất phu này mà ghé tay giúp sức. Tâm tư của Huệ thanh thiên minh chứng, xin Trần tiên sinh hiểu cho lòng Huệ.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top