Hồi thứ mười hai: Vu nhân hộ quốc
Không biết bao lâu sau, Quyết chợt tỉnh dậy, hắn nghe từ xa vọng lại tiếng rì rầm, như thể tiếng nói chuyện. Rồi hắn nghe láng máng có giọng nói:
- Kỳ lạ!
Giọng thứ hai hỏi lại:
- Sao lại kỳ lạ?
Giọng nói thứ hai này, so với giọng nói trước thì trẻ hơn. Giọng già đáp:
- Ngươi xem, cách quấn bọc thế này, hai lớp vải lót đan tréo nhau, quấn lấy toàn bộ thi thể, lớp nọ chồng lên lớp kia đúng một phần ba chiều rộng của băng quấn rồi mới đến áo quan. Mặc dù dường như thiếu vải nên không quấn được trọn vẹn nhưng cách khâm liệm thế này rất quen.
Giọng trẻ nói:
- Phải chăng ông muốn nói đến người đó?
Giọng già đáp:
- Chính phải.
Giọng trẻ lại nói:
- Không đúng, chẳng phải nhà ấy đã...
Giọng già chợt ngắt lời:
- Đâu mất hai bàn tay rồi?
Tiếp theo có tiếng lục đục, dường như hai người kia đang tìm kiếm gì đó. Qua độ nửa tuần hương, giọng già cất lên, lần này trong tiếng nói lộ rõ vẻ hoang mang:
- Mất rồi, mất rồi! Biết làm thế nào đây?
Giọng trẻ lại nói:
- Lẽ nào do bọn trộm mộ?
Giọng già đáp:
- Ta đã làm rất kín đáo, không ai biết được chỗ chôn cất thật sự cả.
Bấy giờ Quyết hiểu ra, rằng ba người đang ở rất gần lối ra. Chiếc quan tài hẳn là đã ở chỗ hai người kia. Cứ theo hai người ấy nói thì họ chủ tâm khiến cỗ quan tài tự chui vào lòng đất, xuyên qua cả sông Nhị Hà để đến đây. Có điều, chuyện này xét ra có phần kỳ dị, Quyết vẫn thấy mơ hồ chưa hiểu rõ.
Quyết thầm nghĩ, không rõ ý đồ của bọn chúng ra sao, nhưng những kẻ làm việc khuất tất với người đã mất như thế, hiển nhiên không thể là người tốt. Hắn lại nghe thấy chúng dường như nhắc đến nhà mình. Quyết được cha dạy rằng riêng trong giai đoạn thực hiện liệm thuật thì phải đuổi hết tất cả thân nhân ra, quây màn kín mà hành sự. Phần việc này có thể được coi như bí mật gia truyền, tuyệt kỹ để đời nhà họ Phạm. Vậy mà những người kia lại có vẻ biết được ít nhiều.
Bấy giờ cơ thể Quyết rất mệt mỏi, cơ hồ không thể động đậy được tay chân, mỗi lần thử cố gắng đều thấy đau nhức khắp nơi. Quyết lại thầm lo hai người ngoài kia là kẻ gian, nếu hắn kêu lên, không biết chúng có cứu hắn hay là đem thủ tiêu luôn.
Đang nghĩ ngợi như thế, đột nhiên hắn nghe có tiếng kêu từ sâu trong hang:
- Cứu, cứu!
Thì ra lúc này, Đàn đã tỉnh dậy. Hắn thấy có tiếng người nói chuyện, không nghe rõ đầu đuôi thế nào, liền mở miệng kêu cứu.
Quyết cả kinh, có muốn ngăn Đàn lại cũng không kịp nữa. Tên béo này, miệng cũng to không kém thân thể, mở mồm kêu cứu, hiển nhiên vận hết mười phần công lực. Cả bọn đang ở trong hang sâu, thanh âm vọng ra nghe rõ mồn một.
Đàn kêu cứu được một lúc thì Quyết thấy có tiếng động, dường như có người đang bò vào hang tối. Rồi hắn thấy một bàn tay lớn chụp lấy bả vai mình, lôi ra. Bấy giờ Quyết toàn thân không thể tự chủ, đành để cho người ta muốn làm gì thì làm.
Quyết vừa ra khỏi miệng hang thì thấy thân thể mình nhé hẫng, trong phút chốc hắn rơi đánh bịch một tiếng, đầu chạm đất trước. Hắn vốn đã đau đớn sẵn, chịu thêm cú va đập này, hồn phách lên mây, lập tức ngất đi.
Không biết sau bao lâu, Quyết tỉnh dậy. Hắn thấy chân tay không tài nào cử động được. Mất một lúc hắn mới nhận ra mình đang nằm trong một không gian tối tăm, chỉ có ánh sáng vàng vọt phát ra từ ngọn đèn dầu trên cao.
Quyết nhìn xung quanh thấy có hai bóng đen đang nằm trên đất, chính là Ngọc và Đàn. Cả ba người đã bị trói nghiến, không tài nào cử động được.
Lúc này cả Ngọc và Đàn đã tỉnh nhưng miệng bị nhét đầy giẻ, thành ra cả bọn không thể nói chuyện với nhau.
Có tiếng bước chân xa xa, rõ ràng là của nhiều người. Một người nói:
- Thưa cụ, việc cụ dặn chúng tôi e là đã làm hỏng mất rồi. Không hiểu ở đâu ra mấy tên trộm mộ, cắt đi đôi bàn tay. Cái xác đưa về còn dẫn theo ba tên không rõ lai lịch thế nào. Có lẽ chính là lũ trộm ấy. Chúng tôi tạm trói chúng lại, đang giam ở phòng bên. Xin cụ thứ lỗi cho, không biết liệu có thời gian nữa không, để chúng tôi thử cố gắng lại.
Đây chính là giọng già mà Quyết đã nghe thấy khi vừa tới đây. Lại có tiếng đáp:
- Việc này cũng cần nhưng thời gian không quá gấp, nhanh được ngày nào thì hay ngày đấy. Có điều các vị có nói đến việc cái xác có cách khâm liệm giống nhà họ Phạm là sao?
Một tiếng nói khác đáp:
- Quả đúng như vậy, nếu cứ nhìn vào cách bó xác thì đúng là liệm thuật, có điều làm hơi cẩu thả.
Giọng kia nói:
- Nhà họ Phạm có liên quan rất hệ trọng đến Trấn Quốc Hội, cách đây mấy ngày ta còn được gặp một người.
Bấy giờ Quyết giật mình nghĩ:
- Nghe chuyện người này nói thì không phải là nhà mình rồi. Nhà mình không có quan hệ gì với Trấn Quốc Hội, trước nay chưa thấy cha nhắc tới. Chẳng lẽ có một nhà họ Phạm nào nữa cũng làm nghề khâm liệm hay sao? Nhưng giọng nói vừa rồi...
Lại có tiếng động, Quyết thấy cánh cửa gỗ cách hắn không xa mở ra. Cửa gỗ nặng nề, lại ở nơi ẩm mốc, tiếng kêu vừa đục và rền vang.
Trước mắt Quyết xuất hiện ba người, một người cao lớn, vạm vỡ, tay cầm đèn dầu, một người khác chắc đã tầm bốn năm mươi tuổi, mái tóc hoa râm, râu cũng bạc một phần. Người còn lại, là một cụ già tóc râu đen nhánh nhưng da dẻ nhăn nheo. Quyết vừa nhìn thấy mặt người ấy liền giật mình kinh ngạc. Trước mặt hắn, chính là cụ Tả Ao.
Gã thanh niên vạm vỡ quay qua cụ Tả Ao nói:
- Thưa cụ, đây là mấy tên chúng tôi tìm được trong hầm, còn quan tài ở đằng kia, mời cụ qua xem.
Quyết nhìn kỹ đúng là cụ Tả Ao, bèn la lớn:
- Cụ Tả Ao!
Gã thanh niên thấy hắn gọi cụ Tả Ao, liền xông đến đạp vào ngực hắn một cái, đau đến nghẹt thở, khiến hắn phải ho sặc sụa một hồi. Gã thanh niên mắng:
- Chưa đến lúc hỏi tội mày.
Cụ Tả Ao thấy Quyết gọi đúng tên mình, bèn kéo gã thanh niên sang một bên rồi hỏi Quyết:
- Khoan đã, sao ngươi biết ta?
Quyết đáp:
- Cháu đây, cháu đây, cụ không nhận ra cháu sao? Cháu là Quyết đây.
Cụ Tả Ao giật mình, giờ đèn soi cho rõ, rồi sai gã thanh niên lấy lại một xô nước lớn. Gã thanh niên kia đối với cụ Tả Ao có thái độ rất cung kính, nghe cụ sai thì vâng dạ rồi lật đật đi ngay.
Một lúc sau, gã thanh niên chạy về, mang theo một xô lớn đầy nước. Cụ Tả Ao bèn hắt một ít nước lên mặt Quyết, lại lấy tay áo lau mặt hắn thật kỹ để nhìn cho rõ. Thì ra vì cả ba người vừa ở trong hang tối đầy bùn đất, mặt mũi đều lấm lem, không nhận rõ được khuôn mặt. Đến khi bị bắt trói, cũng không ai quan tâm đến việc cả bọn dơ dáy hay sạch sẽ, thành ra khi mới nhìn sơ qua, cụ Tả Ao không nhận ra được Quyết ngay.
Cụ Tả Ao thấy rõ đấy là Quyết thì giật mình, kêu gã vạm vỡ lập tức cởi trói cho cả ba người. Cụ nắm lấy tay hắn nói:
- Làm sao cậu lại ở đây? Mà khoan, khoan hẵng kể, mau thay quần áo tắm rửa, ăn cơm, nghỉ ngơi đi đã. Ta xem cậu mệt mỏi lắm rồi.
Gã thanh niên vạm vỡ lập tức hiểu ý, đưa ba người đi ngay. Tắm rửa xong xuôi, mấy người được ăn một bữa no nê. Lúc này Quyết có rất nhiều hoài nghi, thành ra hắn ăn không được ngon, nhưng theo thói quen, hễ được ăn là hắn vẫn phải ăn cho no rồi mới tính đến những chuyện khác.
Ăn xong gã vạm vỡ đưa ba người đến ba căn phòng, sắp xếp cho ai nấy ấm chỗ rồi mới toan bỏ đi. Gã vừa quay lưng, Quyết vội gọi với theo:
- Tôi chưa muốn ngủ, tôi muốn gặp cụ Tả Ao. Lần này gã vạm vỡ tỏ thái độ rất cung kính, nói:
- Được, nếu cậu muốn vậy, để tôi dẫn đi.
Gã vạm vỡ đưa Quyết qua một hành lang dài, rẽ qua rẽ lại một hồi rồi mới đến phòng cụ Tả Ao. Khi Quyết bước vào, thấy cụ đang ngồi cặm cụi viết. Quyết vốn cũng biết chữ, thấy trên bàn có mấy cuốn sách xếp thành chồng cao ngất. Trên cùng là một cuốn có viết ngay ngắn mấy chữ Tả Ao chân truyền tập.
Cụ Tả Ao thấy hắn thì mừng lắm, vì trong lòng cụ cũng chưa hết băn khoăn tại sao hắn lại ở trong hang tối. Cụ nói:
- Đây rồi, cậu bé, lại đây, lại đây.
Giọng điệu cụ Tả Ao rất nhẹ nhàng, trìu mến, giống như giọng ông gọi cháu khiến Quyết cảm thấy rất gần gũi, thân thuộc. Hắn mặc dù vẫn nghĩ những người liên quan đến chuyện cỗ quan tài đều không tốt đẹp gì, mà cụ Tả Ao lại có liên quan đến chúng nhưng hắn vẫn tin cụ là người tốt. Hắn nhất thời hắn chưa hiểu rõ nội tình, trong thâm tâm rất hiếu kỳ muốn biết cho rõ.
- Cụ ơi, cụ kể cho cháu nghe chuyện cỗ quan tài kia đi.
Cụ Tả Ao nói:
- Ta cũng đang muốn biết chuyện lưu lạc của cậu đây, kể cho ta nghe trước được không? Việc cỗ quan tài dài dòng, thư thả ta sẽ cho cậu biết.
Quyết rất kính phục và tin tưởng cụ Tả Ao, hắn cho rằng nghi vấn trong lòng mình chẳng sớm thì muộn cũng được cụ giải tỏa. Nghĩ thế, Quyết bèn đem mọi chuyện ở nhà Cao Tiến kể cho cụ nghe một lượt, không sót chi tiết nào.
Cụ Tả Ao ngồi trầm ngâm lắng nghe Quyết kể rất cẩn thận, chỗ nào chưa rõ cụ lại hỏi cho kỹ lưỡng, cặn kẽ. Từ khi bắt đầu đến lúc hắn kể xong xuôi, chén trà trước mặt cụ đã nguội lạnh. Bấy giờ cụ nói:
- Tên Cao Tiến này thực là nguy hiểm. Giờ đến lượt ta kể chuyện cháu nghe. Bởi việc này đầu đuôi có căn nguyên sâu xa, nên ta cần kể cho cháu nghe cặn kẽ, cháu cũng cần biết cẩn thận.
Quyết thấy cụ Tả Ao nói giọng nghiêm trang, đoán là bên trong có nội tình phức tạp, bèn đáp:
- Vâng, thưa cụ.
Cụ Tả Ao nói:
- Cháu có biết ai là thủy tổ của dân tộc Việt không?
Quyết đáp:
- Thưa cụ, cháu nghe các cụ trong làng kể lại thì đó là Kinh Dương Vương ạ.
Cụ Tả Ao nói:
- Hay lắm, hay lắm! Kinh Dương Vương ngài tên húy là Lộc Tục, làm vua cả một vùng đất rộng lớn, phía bắc tới sông Dương Tử đến cả vùng hồ Động Đình, phía nam tới nước Hồ Tôn, phía đông đến Đông Hải, còn phía tây đến Ba Thục. Ngài sinh hạ được một người con, tục gọi là Lạc Long Quân. Theo truyền thuyết thì Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, sinh ra bọc trăm trứng, nở ra trăm người con. Trong số này, năm mươi người theo cha xuống biển, năm mươi người theo mẹ lên núi. Lạc Long Quân xưng là Hùng Hiền Vương. Về sau đời nọ nối tiếp đời kia, hậu duệ của ngài truyền qua đến mười tám đời, lấy Phong Châu làm nơi trọng yếu của nước nhà, hùng cứ một phương rộng lớn, gọi tên nước là Văn Lang.
Quyết tuy không biết rằng Kinh Dương Vương có tên húy là Lộc Tục, nhưng hắn biết chuyện về Lạc Long Quân và Âu Cơ. Truyền thuyết ấy hắn được nghe kể đi kể lại nhiều lần, cho nên đã thuộc nằm lòng. Có điều hắn chưa hiểu vì sao Kinh Dương Vương lại liên quan đến cỗ quan tài di động.
Nhìn sắc mặt ngơ ngác của Quyết, cụ Tả Ao hiểu ý, cười lớn, nói:
- Chuyện cỗ quan tài hãy cứ từ từ, chúng ta nói chuyện này cái đã. Rồi cụ nói tiếp:
- Thời kỳ đó gọi là thời kỳ Hồng Bàng. Lúc đó, nước Văn Lang của chúng ta là một quốc gia hùng mạnh, dân tộc Việt ta, việc trồng lúa, săn bắt, đánh cá, đi thuyền, đi biển đều giỏi giang. Chẳng những thế, chúng ta có nền văn hiến rất phát triển. Việt tộc chúng ta có thứ chữ viết gọi là "khoa đầu". Việc có chữ viết rất quan trọng vì ta có thể tự ghi chép lại lịch sử nước nhà, có thể lưu lại những kinh nghiệm trong sản xuất, chiến đấu... Về triết học chúng ta có "vạn vật thuyết", thuyết này dựa trên tấm đồ hình gọi là "vạn vật đồ" mà người Tàu khi lấy mang về thêu dệt nên thành Hà đồ và Lạc thư. Chẳng những thế, quân đội Văn Lang là một đội quân hùng mạnh thời bấy giờ. Chúng ta tuy không đông nhưng binh lính thiện chiến, lại được trang bị vũ khí đồng thau tốt. Ta còn chế được loại nỏ liên hoàn có thể bắn được nhiều phát một lượt, gọi là "nỏ liên châu". Ưu thế từ thứ thần tiễn này đã tạo nên mối kinh hoàng cho giặc phương Bắc mỗi khi xâm lấn. Ngay đến nước Tần hùng mạnh, đã thống nhất các chư hầu thành một đế quốc Trung Hoa đồ sộ cũng không thể tiêu diệt được tộc người Giao Chỉ chúng ta.
Nói đến đây thì gã thanh niên vạm vỡ gõ cửa, mang tới một ấm trà mới còn đương bốc khói nghi ngút. Hương trà thoang thoảng ngọt dịu, chỉ ngửi mùi hương, cũng có thể biết là hạng cực phẩm. Cụ Tả Ao chậm rãi rót hai chén, một chén đặt trước mặt Quyết. Cụ nâng chén trà còn lại, uống một hớp, chẹp một tiếng thật sảng khoái như muốn thưởng cho hết cái đậm đà rồi mới tiếp:
- Chuyện xa xưa, tóm lược lại là như thế. Con có biết, sử Tàu ghi thế nào về việc nước ta lập quốc hay không?
Quyết biết cụ hỏi vậy chỉ để nói tiếp nhưng vẫn trả lời:
- Cháu không biết ạ.
Cụ Tả Ao gật gật đầu rồi nói:
- Nguyên văn sử Tàu chép là: "Ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang".
Cụ Tả Ao lại hỏi:
- Con có biết tại sao có từ "dùng ảo thuật" không?
Thấy Quyết khẽ lắc đầu, cụ Tả Ao bèn đáp:
- Đó chính là để ám chỉ huyền thuật hay là pháp thuật. Dù sử Tàu chỉ nhắc đến "ảo thuật" của "người lạ" nhưng thực ra, từ đời Kinh Dương Vương, Việt tộc đã có trình độ huyền thuật cực kỳ cao thâm. Tổ tiên ta, từ khi khai thiên lập địa đã trú ngụ trên vùng linh địa. Nhưng đất linh cũng lại là đất dữ. Vùng ấy vốn ma quỷ rất nhiều, sông ngòi cuồn cuộn, thiên nhiên khắc nghiệt. May mắn thay, đất địa linh sinh nhiều nhân kiệt. Chẳng những dân tộc ta có lắm tướng tài, mà còn có nhiều người sinh khả năng áp ma chế quỷ, có phép thuật dời núi lấp sông. Những vu nhân - tức là các phù thủy theo cách gọi xưa - nước ta từ thời đó đã có pháp thuật cao thâm khó lường. Thuở ấy chúng ta đã biết dùng phép luyện âm binh, những chuyến đi mây về gió, điều thủy khiển sơn, hô mưa gọi gió, chế bùa luyện ngải đều thông tường cả. Việc ấy về sau được lưu lại trong rất nhiều truyền thuyết như chuyện Kinh Dương Vương đánh đuổi thần Xương Cuồng hay Lạc Long Quân ngài bản thân cũng là một phù thủy đệ nhất phẩm, thậm chí có thể điều khiển, sai khiến được quỷ Dạ Xoa. Theo truyền thuyết, ngài sai Dạ Xoa thủy phủ cấm hải thần nổi sóng, nhờ đó mà tiêu diệt được ngư tinh tại biển Đông. Vào thời ấy, có rất nhiều các Lạc Vu, chính là những vu nhân cao tay ấn được Hùng Vương thu nạp, phong tước hiệu. Họ tập hợp lại cùng nhau dùng pháp thuật để bảo vệ đất nước. Những Lạc Vu này rất quan trọng trong việc vệ quốc, bởi thời bấy giờ, trong sự chiến tranh, nếu chỉ có binh hùng tướng mạnh mà không có vu nhân trợ lực thì thành sự giảm bớt đi rất nhiều. Số lượng vu nhân dưới thời Hùng Vương có đến vài nghìn. Dù được phong tước hiệu nhưng các Lạc Vu hoạt động cực kỳ bí mật. Họ dù đắc lực trợ giúp vua, nhưng tên tuổi của họ không bao giờ được ghi vào sử sách, âu đó cũng là những thiệt thòi của các Lạc Vu vậy. Pháp thuật của những Lạc Vu nước ta bấy giờ cao hơn hẳn pháp thuật của các phù thủy bên Tàu, vì thế mà người Hán mặc dù người đông thế mạnh, nhưng mỗi khi có ý muốn đánh chiếm Văn Lang thì một là ngại quân lực thiện chiến nước ta, hai là sợ thần tiễn liên châu, giáo sắc đồng tốt, ba là e ngại pháp lực cao cường của các Lạc Vu, cho nên đều chùn bước. Vu nhân Lạc Việt có thể dễ dàng điều khiển lửa, nước, muông thú, hô phong hoán vũ, dời núi lấp bể. Nhờ có những pháp thuật ấy, phần bất lợi thường nghiêng về phía người Hán.
Quyết hỏi:
- Tại sao những Lạc Vu nước ta lại giỏi hơn những nước khác ạ?
Cụ Tả Ao nói:
- Tố chất tự nhiên là một phần quan trọng của huyền thuật. Nhiều người sinh ra đã là một phù thủy cao tay rồi, thứ tự này, từ khi sinh ra, mười phần đã định được tám, hai phần còn lại, là do phấn đấu tu luyện mà thành. Như con cũng vậy thôi, con sinh ra đã là vu nhân, phẩm hạng cao hơn hẳn ta, thành ra không cần luyện tập hay hiểu biết gì cũng có thể khiến ma quỷ không dám lại gần, cũng không dám ám hại. Con thử nghĩ xem, nếu không vì thế thì sau khi con thấy âm binh của Cao Tiến, liệu cái mạng con có còn được hay không?
Cụ Tả Ao nói tiếp:
- Lại nói, tố chất này mạnh hay yếu là tùy vào thời điểm khi mình sinh ra tức là "thiên", sinh khí trong mạch đất tức là "địa" và huyết thống của người đó, tức là "nhân". Vùng đất của dân tộc Việt chính nằm ngay trong địa thế "long vĩ" cực thịnh. Từ đỉnh Hy Mã Lạp Sơn, nơi hội tụ linh khí từ trời xuống, hình thành đường long mạch, đi từ cao nguyên Tây Tạng dọc theo biên giới Thiên Trúc, đến cao nguyên Vân Nam. Sau đó, đường long mạch này chạy đến dãy Hoàng Liên Sơn rồi tỏa ra trên vùng sông nước và hạ thủy ở vùng Hạ Long. Thăng Long xưa và Đông Kinh nay quy tụ được thế núi chầu sông tụ, bao gồm tám dãy núi tập trung hướng về, lại có sông ngòi dẫn chuyển khiến sinh khí tập trung, thực là: "Thiên sơn vạn thủy triều lai, Can chi bát quái trong ngoài tôn nghinh". Nằm trên mảnh đất quý ấy, sinh khí quy tụ, huyệt kết tụ nhiều nơi, toàn là loại huyệt trân quý. Sinh trưởng trong hình thế phong thủy đẹp như thế, người Đại Việt ta chẳng những có thể xây dựng đất nước phồn thịnh mà văn tài võ lược uy chấn chư hầu. Kể về pháp năng, chúng ta so với các dân tộc láng giềng được xếp vào hạng thượng thừa. Cái từ "dùng ảo thuật" trong sử Tàu kia chẳng qua là do e sợ nên phải nói tránh đi. Ta đã nói, người Việt cổ ta vốn có chữ viết, nhờ đó ghi lại lịch sử từ rất sớm. Bộ sử đó gọi là Văn Lang sử ký. Khi Mã Viện đánh nước ta, chẳng những đã tịch thu hết sản vật như đồi mồi, chim trĩ, bào ngư, tổ yến... mà còn thu thập quốc bảo là trống đồng, đem về nước đúc tượng dâng vua. Nhưng điều ác độc nhất, ấy chính là chúng đốt tất cả những sử sách của ta. Chúng còn cấm không cho dùng chữ khoa đầu, khiến cho chúng ta cũng mất luôn loại chữ viết này, có chăng chỉ còn lưu lại trên con bài tổ tôm là không thể xóa được mà thôi.
Cụ Tả Ao ánh mắt lộ vẻ xót xa, xúc động, giọng nói vừa hùng tráng vừa bị ai. Ngậm ngùi một lúc, cụ tiếp:
- Sau này Thục Phán, chúa Tây Vu lên nắm quyền, lại khiến cho nước nhà xảy ra một biến động. Từ ấy các Lạc Vu bị phân tán đi nhiều. Nói đến chuyện này, phải kể đến một người cực kỳ quan trọng đối với Văn Lang. Người ấy nguyên là thống lãnh các Lạc Vu, gọi là "Đại Lạc Vu". Đại Lạc Vu là chức vụ giống như nguyên soái, chỉ huy các Lạc Vu tại các châu, huyện trong cả nước. Người này chịu trách nhiệm lập tuyến phòng thủ, chống lại thù xâm lược. Ngoài ra, khi có mất mùa hạn hán hay thiên tai lụt lội thì Đại Lạc Vu chính là người chủ lễ, lập đàn tế trời đất, cầu mưa, ngăn lụt. Thời kỳ ban đầu, người ta thi tuyển Đại Lạc Vu, vua Hùng chọn từ hàng ngàn người trong nước mới tìm ra được một người tài phép nhất. Đến thời Hùng Duệ Vương, Đại Lạc Vu là Đào Lạp. Người này và một Lạc Vu khác tên là Phạm Tôn đều xin Hùng Vương gả con gái cho. Bấy giờ Đào Lạp mặc dù pháp năng cao thâm nhưng đã sáu mươi tuổi, mà Mỵ Nương mới mười sáu. Trong khi đó, Phạm Tôn vốn sinh ra từ đất thiêng Tản Viên, tương truyền rằng ông được thần linh nơi ấy dạy cho vu thuật, là một vu nhân trẻ nhất trong nước được phong tước Lạc Vu, chẳng những pháp thuật cao cường mà văn tài võ lược đều xuất chúng, nếu so với Mỵ Nương thì thực là trai tài gái sắc. Hiển nhiên, vua Hùng muốn chọn Phạm Tôn làm rể. Đào Lạp biết ý ấy nên rất đố kỵ. Hắn cậy vào phép thuật của mình để mưu phản. Cuối cùng Phạm Tôn đã đấu một trận sống mái với Đào Lạp. Đào Lạp vốn xuất thân từ nơi sông nước nên thông thạo thủy pháp, dựa vào thế nước Đà Giang mà tranh tiên. Phạm Tôn lại nhờ vào núi tổ Tản Viên để phản kích. Trận ấy kéo dài đến một tháng, trong một tháng này, đôi bên giao tranh ác liệt, phân bì từng li từng tí. Cuối cùng Phạm Tôn chiến thắng. Đào Lạp trước khi bị áp chế, giải vào ngục còn lập một lời nguyền, rằng: "Nam nhân bất thọ ngũ bách niên, Việt tộc bất khả hàng cuồng thủy". Lời nguyền ấy có nghĩa là người nước Việt từ giờ về sau, nếu không có ai sống được năm trăm năm thì các pháp thuật trị thủy không còn linh nghiệm nữa. Đây là lời nguyền hết sức độc địa bởi thuật trị thủy là một trong những thành tựu cực kỳ quan trọng chẳng những đối với giới vu nhân mà còn đối với sự tồn vong của nước nhà. Trước kia, Việt tộc dựa vào các pháp lực khiển thủy mới dễ dàng tồn tại được trên vùng đất sông ngòi chằng chịt này. Sau khi có lời nguyền, trên lãnh thổ nước ta, đê điều đều phải củng cố hằng năm, tiêu tốn không biết bao nhiêu tiền bạc, nhân mạng. Trận chiến năm ấy, Đào Lạp dùng sức mạnh Đà Giang mà công kích, Phạm Tôn vận dụng uy lực Tản Viên Sơn mà chống chọi, bởi vậy nên tất cả các con sông đều hướng về đông mà chảy, riêng có con sông Đà cuồn cuộn dữ dội là bị núi Tản chặn lại, cho nên nó phải ngược mạn bắc rồi mới chảy ra biển được. Về sau trong truyền thuyết, Đào Lạp được gọi là Thủy Tinh, còn Phạm Tôn là Sơn Tinh, chính là câu chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh mà ai cũng biết đó.
Quyết kinh hãi:
- Thì ra chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh là có thật! Cụ Tả Ao nói:
- Truyền thuyết, chính là sử miệng đó con à. Rồi cụ lại từ tốn tiếp:
- Lại nói, Hùng Duệ Vương là người hiền lành, nhân nghĩa, ngài thấy Đào Lạp đã thua nên chỉ cho bắt giam lại rồi hãm yểm chứ không giết. Tiếp đó, ngài phong cho Phạm Tôn làm Đại Lạc Vu. Đào Lạp làm Đại Lạc Vu được mấy chục năm, trong lòng từ lâu đã có ý cướp ngôi vua Hùng, vậy nên hắn thường xuyên dùng tiền bạc mua chuộc, dùng pháp năng yểm hãm các Lạc Vu, Lạc Hầu, Lạc Tướng. Ảnh hưởng của hắn trong triều rất lớn. Hùng Duệ Vương không hay biết điều này. Một hôm, Đào Lạp được thủ hạ cũ lén thả ra. Chỉ trong một thời gian ngắn, Đào Lạp đã tập họp tay chân, dùng mưu giết được Phạm Tôn. Bấy giờ lại ngay lúc Tần quốc phương Bắc hùng mạnh, thống lĩnh là Đồ Thư đem quân đánh tộc Âu Việt, tiến sâu vào đất Lạc Việt. Thủ lĩnh Âu Việt bị giết chết, các tù trưởng Nam Cường, Mường Một, Na Hang, Đại Man, Bản Ti hội binh lập ra thủ lĩnh mới là Thục Phán. Người Lạc Việt vốn không phục Đào Lạp nên đã giết chết hắn, cùng nhau tôn Thục Phán lên làm vua. Âu Việt và Lạc Việt cùng hợp sức kháng Tần, sau đổi tên nước là Âu Lạc.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top