chuong 16-30

CHƯƠNG 16


Ngũ đại công tử Phong thành không ngờ đến Lâm Nam lại gặp ngay chàng công tử lọt lướt kia. Cố Thiên Tường có vẻ ngoài lạnh lùng cố hữu, trong lúc nói chuyện vui vẻ vẫn không ngừng thăm dò về mình, rất cảnh giác, nói chuyện cởi mở, nhưng không phải là người dễ nịnh. Lưu Giác được phong Bình Nam tướng quân cũng đóng ở Lâm Nam, hai người, một thống lĩnh thủy quân, một thống lĩnh lục quân, bao giờ mình gặp Lưu Giác? Ba năm nay chàng thay đổi có nhiều không? Từ lúc chia tay Cố Thiên Tường ra về, A La luôn trầm tư.

Ra khỏi Phong thành chưa lâu, trên đường đi được nghe rất nhiều lời đồn về Lưu Giác. Dân chúng bên đường nhắc đến chàng với vẻ vừa kính nể vừa sợ hãi, họ đồn chàng diệt sơn tặc trừ họa cho dân, đồn là chàng mặt sắt không nương tay, giết người không chớp mắt. Nhưng lời khen vẫn nhiều hơn, chàng chấn chỉnh Nam quân đâu vào đấy, hết sức nghiêm minh. A La nghe dân chúng bàn tán, nghĩ đến quân đội hiện đại, nàng không hiểu lắm về quân đội, chỉ có ấn tượng đó là đội quân rất tốt với nhân dân. Nhưng nghĩ đến Lưu Giác, nàng lại thở dài, lờ mờ cảm thấy từ sâu trong lòng nỗi mong ngóng muốn gặp lại chàng, nhưng lại không dám đối diện. Nàng không dám đối diện với hiện thực rủi ro nhỡ chàng vẫn chưa hết giận áp tải nàng trở về tướng phủ.

Thất phu nhân và Tiểu Ngọc từng lo lắng hỏi nàng, nếu gặp Lưu Giác liệu có bị bắt đưa về không? A La cười hì hì: “Tướng phủ lẽ nào không có ai đi tìm? Tử Ly chắc cũng thế. Lưu Giác tính khí kiêu ngạo, chàng ta muốn đưa chúng ta về, nếu ta ngoan ngoãn nghe theo, đảm bảo chàng ta sẽ cảm thấy vô vị, mà với tính cách chàng ta, nếu không thích sẽ tuyệt đối không làm. Chúng ta cứ thong thả du sơn ngoạn thủy rong ruổi đến thành Lâm Nam, bị chàng ta tóm trước khi đến đó, là do số chúng ta đen đủi, muộn một chút thì chúng ta cũng đã rong chơi đủ rồi. Chuyện này khoan nghĩ vội, gặp người rồi hẵng hay, chẳng lẽ chúng ta trốn chạy cả đời? Đến nước khác nếu xảy ra chuyện lại trốn hay sao? Đành phải đối diện thôi”.

Thất phu nhân than thở: “Tam Nhi, con đã cứng rắn trưởng thành hơn nhiều, chỉ có điều có những lúc dù có mạnh đến mấy cũng không làm gì được”.

“Sẽ có cách, chúng ta sẽ vẫn đi về phía nam, đợi kiếm đủ bạc sẽ đến Trần quốc xem sao, không biết nơi miền quê yên bình liệu có chỗ nào để chúng ta dung thân. Mẹ nói cũng phải, mạnh cũng chẳng ích gì, chúng ta có gì nào? Tiền bạc không, quyền lực không, con đánh cược, mấu chốt vẫn là ở thái độ của Lưu Giác. Chỉ cần qua cửa ải chàng ta, phía tướng phủ cũng dễ đối phó. Huống hồ, chuyện qua đã lâu, làm gì có ai cố chấp như thế, chỉ có người không bình thường”. Nói xong câu đó, A La nghẹn giọng, nghĩ đến vẻ thành tâm của Lưu Giác một lòng một dạ muốn bảo vệ nàng suốt đời suốt kiếp. Lại thở dài, gạt những ý nghĩ đó sang một bên, miệng cười thật tươi: “Đằng nào bây giờ chúng ta cũng chưa có bạc, cứ thong thả hẵng hay, mọi người đừng lo. Mẹ à, dù thế nào A La cũng hiếu thuận với mẹ, Tiểu Ngọc à, tướng công sẽ nuôi nàng”.

Với tâm thái như vậy họ sống qua hai năm trên đường đến Lâm Nam. Trong những năm này, Lưu Giác không tìm được nàng, Tử Ly và người của tướng phủ cũng không tìm được nàng, không biết là số may mắn hay là còn ẩn tình gì khác, nhưng họ đã sống những ngày thực sự vui vẻ.

A La cau mày thở dài. Suy nghĩ theo hướng tích cực là một chuyện, nếu thực sự gặp lại, e sẽ là chuyện khác. Nếu Lưu Giác nổi giận lôi đình thì sao? Nếu chàng vẫn ôm hận thì sao? Nếu chàng nhất định đưa thất phu nhân và nàng trở về tướng phủ thì sao?
Mặc dù từ ngày quen nhau đến giờ, luôn là nàng khiến chàng bực mình, nhưng cũng không thấy chàng tỏ ra thực sự muốn báo thù. Có điều, nàng thoái hôn khiến Lưu Giác mất mặt, chàng ta sẽ phản ứng ra sao, A La không dám khẳng định. Nàng hơi hối hận, hay là mình quá tự tin?

Lúc này vú Trương báo, đã tìm được một chỗ ở khác, theo yêu cầu của A La, đó là một nơi gần dãy núi phía tây thành. Thất phu nhân hiếu kỳ hỏi: “Tại sao phải ở gần núi?”.

A La không muốn để thất phu nhân lo lắng. Khó khăn lắm mới ra khỏi tướng phủ, mấy năm nay thất phu nhân lòng đã nhẹ nhõm, vui lên rất nhiều. Nếu gặp chuyện căng thẳng, nỗi lo lắng ám ảnh, bà sẽ không chịu nổi. Vậy là nàng cười, nói: “Ở đó vắng vẻ yên tĩnh”.

A La quyết định tạm thời không nghĩ đến chuyện có gặp phải Lưu Giác hay không. Đã đến đây, bây giờ chưa gặp, cứ làm theo kế hoạch đã, sau này nếu gặp hẵng hay. Nàng dự định ngày hôm sau sẽ chuyển khỏi quán rượu của vú Trương.

Sáng sớm hôm sau, tiếng cười trong vắt của Tiểu Ngọc vang khắp sân: “Tiểu thư, tuyết rơi rồi”.

A La khoác áo dài, tóc vẫn để xõa bước ra ngoài. Thật vậy, những bông tuyết bay trắng trời, phủ một lóp mỏng trắng xóa lên những mái nhà xa gần trên sườn núi. Những ngọn cây xanh thẫm và những mái cong đen sì thấp thoáng lộ ra trong biển tuyết. Cảnh sắc này trông giống gì nhỉ? Tranh thủy mặc! A La mỉm cười thốt lên, thành Lâm Nam đẹp thật.

“Tiểu thư, không sợ nhiễm lạnh sao!”. Tiểu Ngọc phủi tuyết trên vai nàng, khoác cho nàng chiếc áo gió, ân cần khẽ trách. A La nhìn Tiểu Ngọc, cười nói: “Đi lên núi dạo chơi không?”.

“Ồ, tiểu thư, tiểu thư vẫn chưa rửa mặt chải đầu”.

“Không hề gì, Tiểu Ngọc rửa mặt, chải đầu là được rồi, đi thôi!”. A La cười vung chân vung tay sải những bước dài, cải tạo Tiểu Ngọc chỉ thành công một nửa, người ở đây tư tưởng thâm căn cố đế, khó mà thay đổi.

Sáng sớm, trên con đường mòn giữa chừng núi, thỉnh thoảng họ gặp một lão tiều phu khoác bó củi hoặc sọt than hoa to đi vào thành, từ khu nhà dân thoảng hoặc vọng ra tiếng chó sủa. Qua một con đường nhỏ, đã nghe thấy tiếng thác chảy. A La dắt tay Tiểu Ngọc thận trọng vòng qua mặt thác. Đứng ở đây, có thể nhìn thấy quán rượu của vú Trương bên dưới, có thể nhìn rõ vú Trương cùng thất phu nhân đang đứng trên sân ngắm tuyết. Ở khu nhà giữa những làn khói mỏng cuộn lên, bức tranh thủy mặc vậy là có sinh khí, sinh động hẳn lên.

A La cúi người, cầm lên một phiến băng mỏng, bóp nát, giơ lên cho từng giọt nước nhỏ xuống mặt, lạnh run người, nhưng lại rất dễ chịu, cả người như được kích hoạt tỉnh táo, sảng khoái vô cùng. Nàng từ từ đứng dậy, hít căng một hơi không khí trong lành, vươn người. Tiểu Ngọc nheo mắt xuýt xoa: “Tiểu thư, tiểu thư chưa rửa mặt mà sao vẫn đẹp như thế!”.

A La lòng tràn trề vui sướng, hân hoan, cất tiếng cười giòn tan.

Trong khu rừng ở một mé sườn núi, Lưu Giác mình khoác áo choàng đen, im lặng ngồi trên lưng ngựa, mấy binh sĩ Ô y kỵ cũng im lặng như chàng. Lưu Anh nhìn về phía trước, tam tiểu thư thay đổi thật rồi, trước đây nhỏ nhắn xinh xẻo, bây giờ đã là một đại mỹ nhân đẹp rực rỡ khiến người ta hồn siêu phách lạc, y thầm thở dài, người như vậy, chẳng trách chúa thượng quyến luyến không thể nào quên.

Lén nhìn Lưu Giác, thấy chàng mím môi, không biểu cảm, toàn thân tựa hồ biến thành tảng đá im lìm. Lưu Anh lại thở dài, sáng sớm tinh mơ cưỡi ngựa lên núi, đứng đến hơn nửa canh giờ, không nói không rằng, cứ nhìn như vậy, là có ý gì, rõ ràng lòng rất muốn, lại không chịu đi gặp nàng ta.

Lưu Giác trầm mặc như một cái đầm sâu hút, ánh mắt phân vân. Sau khi A La ra đi, không chỉ một lần chàng tự hỏi, rút cục mình đang tức giận điều gì? Nghĩ đến A La không cần mình, lòng chàng hận đến muốn bóp chết nàng; nghĩ đến những lúc ở bên A La, dẫu nàng làm cho mình tức giận, lòng chàng lại tràn ngập âu yếm, vấn vương, lại buồn man mác.

Ba ngày sau khi được phong Bình Nam tướng quân, chàng liền rời kinh, đi về phương nam. Chàng phóng ngựa đến biệt uyển của Hộ Quốc công chúa, thơ thẩn trong rừng đào cả một ngày. Sơn cốc tiết cuối hạ, cỏ vẫn xanh như thế, nhưng đào đã không còn nở hoa. Ngọn lửa âm ỉ trong lòng bùng cháy, người nóng bừng, chàng nhảy xuống suối. Làn nước lạnh ngắt ôm ấp chàng, hỏa khí tiêu tan, chàng bất giác cười đau khổ, dạo đó nếu chàng không lang thang tới đây, nếu cứ để A La ngã xuống suối, thì đã không có mọi vấn vương về sau, tất cả đều là ý trời.

Chàng đến tướng phủ, Lý tướng đưa chàng đi thăm Đường viên. Khóm hải đường cành đã xum xuê, xòe ra che nửa sân, Lý tướng ngậm ngùi nói, Đường viên tất cả vẫn y nguyên, chỉ đợi chàng đưa thất phu nhân và A La trở về. Nghĩ đến lần A La ăn cơm trên thuyền hoa bữa đó, nàng hầu như chỉ ăn thịt không ăn rau, lại nhìn Đường viên lạnh lẽo tiêu sơ và khuôn mặt đẫm nước mắt của Lý tướng, người chàng bỗng run lên. Nếu Lý gia không đối xử nghiệt ngã với A La, tuổi còn nhỏ như vậy làm sao nàng dám hành động to gan đến thế! Cho dù không muốn lấy chàng, cũng không đến mức đưa mẹ và tỳ nữ bỏ trốn! Nghe nhắc đến câu thơ A La đọc lúc sáu tuổi, lòng chàng càng đau thắt, điều gì khiến một đứa trẻ sáu tuổi làm ra những vần thơ bi ai như vậy!

Năm đó, do cáo thị khắp nước thông báo A La bị bắt cóc, bản thân chàng gần như cũng tưởng thật, đem tất cả nỗi tức giận, đau đớn trong lòng trút lên đầu bọn sơn tặc, nhưng lại bất ngờ giành được sự kính trọng của tướng sĩ Nam quân, về sau, để thu phục cánh quân này, chàng ngày đêm trăn trở, suy nghĩ, muốn loại bỏ thế lực của họ Vương không phải chuyện dễ. Chàng buộc phải học cách tự kìm chế, thận trọng, suy tính trước sau. Bây giờ, A La đã đến Lâm Nam, chàng thầm nghĩ, nếu là trước đây, chàng đã chặn A La ngay từ khi nàng xuất hiện ở cổng thành. Còn bây giờ, điều chàng mong muốn là, nếu hỏi lại câu đó, có muốn cùng chàng đồng cam cộng khổ, nàng sẽ không do dự cho chàng một câu trả lời khiến chàng hài lòng.

Lưu Giác từ xa lặng lẽ đứng nhìn, A La đang đứng trên triền núi, chiếc áo choàng rộng bao bọc thân hình mảnh dẻ, mái tóc dài xõa đến eo, giữa thảm tuyết trắng xóa bên dòng thác bạc dáng phiêu diêu tự tại, tiếng cười trong vắt hồn nhiên. Ba năm nay nàng thay đổi không ít, khuôn mặt đã nở nang đầy đặn, không còn nét vụng về trẻ con ngày trước, chiếc cằm nhọn xinh, làn da như bạch ngọc phớt hồng, càng khỏe mạnh, tràn trề sức sống. Đôi mắt đó không thay đổi, vẫn trong veo như nước nguồn, lóng lánh tinh nghịch, hễ cười là sóng sánh mê ly. Mới sáng sớm chưa chải đầu A La lại vẫn đẹp đến thế!

Chàng nên xả hận, nên trừng phạt người đó mới phải, nhưng lòng chàng bây giờ tràn ngập hình ảnh người đó, chỉ muốn ngắm nhìn mãi, ngắm vẻ linh lợi như con chim yến đó. Một nỗi êm dịu từ từ dâng lên trong đáy mắt chàng, triền miên vấn vít, như những con sóng ngầm lặng lẽ từ cơ thể tỏa ra, Ô y kỵ đứng phía xa trong rừng cũng cảm nhận được, bất giác thở phào.

Tiếng cười trong vắt của A La vọng lại, như tiếng chim lảnh lót văng vẳng giữa rừng, như tiếng thác bạc đổ ào trên đá, vỡ vụn tung lên, lan tỏa trong tầng không buổi sớm tinh sương, vấn vương trên triền núi. Nàng không hề áy náy gì ư ? Không hề day dứt tí nào sao? Mất tích mấy năm liền mà vẫn ung dung sung sướng như vậy, trong khi khiến bao người khổ công tìm kiếm, người ngựa rối ren. Nỗi giận lại trào lên, Lưu Giác “hừ” một tiếng, ngồi thẳng trên mình ngựa, sát khí lại trùm lên cả khu rừng, hàn khí lại ngưng tụ trong đáy mắt. Con tuấn mã bên dưới có vẻ bồn chồn, không ngừng giậm vó một cách bất an, chàng cơ hồ lập tức thúc ngựa lao lên, bàn tay xiết chặt dây cương nổi hằn những đường gân xanh.

Đột nhiên, phía nam thành phụt lên một đám khói đen. Lưu Giác cau mày, thủy quân Trần quốc động binh ư? Chàng liếc nhanh A La lúc đó cũng đang ngẩng nhìn đám khói trên trời, lặng lẽ quay đầu ngựa phi xuống núi, Ô y kỵ lẳng lặng đi theo.

Đám khói ngưng đọng trên không mãi chưa tan, lại có tiếng chuông dồn dập nối nhau. Tiểu Ngọc kêu lên “Có chuyện rồi?”. Cùng với tiếng chuông, dân chúng đổ ra đường, ai nấy mặt mày hốt hoảng.

A La nói: “Về nhà xem sao”.

Hai người trở về tửu quán, vú Trương hốt hoảng chạy ra: “Tiểu thư, hai người đã về, không được ra khỏi nhà, hai nước khai chiến rồi”.

A La, thất phu nhân và Tiểu Ngọc nhìn nhau. Thất phu nhân luống cuống: “Chẳng phải đã mấy chục năm không đánh nhau cơ mà? Sao bây giờ nói đánh là đánh ngay?”.

A La thấy vú Trương cũng không biết gì hơn, bèn nói: “Con vào thành nghe ngóng tình hình. Tiểu Ngọc, ở nhà với mẹ và vú Trương, đóng cửa lại, không được đi đâu”.

Thất phu nhân không chịu: “Con đưa Tiểu Ngọc đi cùng. Chúng ta ở đây, không đi đâu hết, con đi một mình, sao mẹ yên lòng?”.

Tiểu Ngọc cũng đồng tình. A La bất lực, vội vào thay áo cùng Tiểu Ngọc đi ra.

Các cửa hiệu trong thành vẫn mở cửa. Trên phố có rất nhiều người tụ tập sốt ruột ngóng tin. Cổng thành đã đóng, A La kéo một người hỏi: “Bên ngoài có chuyện gì vậy?”.

“Nghe nói thủy quân Trần quốc đánh lén, Cố tướng quân đã tập hợp đội thuyền chuẩn bị nghênh chiến”.

“Ở đâu có thể nhìn thấy tình hình trên sông?”.

“Sườn dãy Tây Sơn. Bao nhiêu người đang đi đến đó”.

A La và Tiểu Ngọc hỏi đường đến dãy Tây Sơn.


Lưu Giác lên thẳng thành môn lầu, tri phủ Lâm Nam vội đi đến chắp tay bẩm báo: “Bẩm tướng quân! Cổng tây đã đóng, thủy quân nước Trần đã có chuẩn bị, sáng sớm nay đột nhiên tấn công, binh sĩ đi tuần trên bờ bên này bị trúng tên thiệt mạng, thi thể vừa mới phát hiện, khi lính gác dùng ống nhòm quan sát, quân Trần đã đến giữa sông”.

“Chém!”. Lưu Giác lạnh lùng ra lệnh.

Tri phủ sững người. Một quân sĩ được cử thi hành mệnh lệnh , nửa khắc sau đã đưa đầu tên lính gác về.

Tri phủ toát mồ hôi lạnh, Bình Nam tướng quân này sao nói chém là chém, còn không thèm liếc nhìn một lần.

Ánh mắt Lưu Giác lướt qua mặt các binh sĩ trên thành môn lầu, nói dõng dạc: “Hai nước Ninh, Trần đã ngừng chiến mười năm, biên cương yên bình, thông thương phồn thịnh. Nay Trần quốc đột nhiên xâm phạm Lâm Nam, có ý đồ xâm chiếm giang sơn chúng ta, bọn lang sói dã tâm, tất bị trời phạt! Nuôi binh ngàn ngày, chính là đợi lúc này, xả thân báo quốc, bảo vệ giang sơn, là chí hướng của nam nhi chúng ta”.

Quân sĩ rầm rầm hưởng ứng: “Nguyện cùng tướng quân bảo vệ Lâm Nam, đánh bại quân Trần!”.

Lưu Giác quyết đoán hạ lệnh cho tri phủ và quan thủ thành Lâm Nam, thực hiện triệt để quản chế quân sự, đồng thời trấn an thương khách và dân chúng. Một loạt mệnh lệnh như pháo nổ, liên tiếp từ miệng chàng ban ra, thấy chúa thượng điềm tĩnh xử trí, thái độ bình thản, quân sĩ hết lòng tin tưởng, từng người nhận lệnh răm rắp thi hành.

Lưu Giác đứng trên tường thành, nhìn về mặt sông, khi thủy binh của quân Trần cách thành Lâm Nam không quá năm chục trượng liền bị đội chiến thuyền của Ninh quốc chặn đánh, tên bắn như mưa, đã có thuyền áp sát thuyền địch, binh sĩ nhảy lên thuyền đánh giáp lá cà, tiếng hô “giết” động trời, Lưu Giác quan sát tình hình, biết thủy binh của Nam quân đã đến muộn, mặc dù vẫn còn chiến thuyền tiếp tục từ thủy trại đi đến, nhưng cục diện diễn ra vẫn không có trật tự bằng quân Trần.

Lúc đó đột nhiên trên mặt sông, một tiếng động vang như sấm, định thần nhìn ra, thấy Cố Thiên Tường mình vận áo bào trắng, chiến giáp, đứng trên lầu chiến thuyền lao vào thủy binh quân Trần, chiến thuyền phía trước và hai bên bố trí theo hình mũi tên, xông thẳng vào chiến thuyền địch. Tiếng trống dồn dập, không kịch liệt, nhưng sục sôi khiến người ta hồn bay phách lạc, sát khí hừng hực.

Cố Thiên Tường vô cùng phẫn nộ. Năm ngoái đã biết quân Trần muốn gây chiến, có dấu hiệu điều binh, chàng đã ngày đêm theo dõi, nhưng vẫn bị tập kích bất ngờ, để địch tiến gần Lâm Nam như vậy thủy quân mới triển khai thế trận nghênh chiến. Chàng phẫn nộ đích thân thúc trống cổ vũ tinh thần quân sĩ. Thấy thuyền đã vào khoảng cách có thể bắn tên, chàng giơ tay, cờ hiệu, biểu ngữ lập tức phất cao, trận mưa tên dày đặc bắn ra, hai bên bắt đầu giao chiến ở cự ly gần.

Thủy binh được cổ vũ bởi tiếng trống trận, chiến đấu rất anh dũng. Lưu Giác đứng trên tường thành nhìn rõ, lần tập kích bất ngờ này quân Trần đã có chuẩn bị, với thực lực của nước Trần, có thể huấn luyện được đội thủy quân binh lực ngang ngửa thủy quân của Ninh quốc, quân Trần tất đã âm thầm chuẩn bị từ lâu. Quân Trần tiến đánh bất ngờ, thủy quân của ta rõ ràng ở vào thế bất lợi. Chàng nhìn Cố Thiên Tường lúc này không đánh trống nữa, trực tiếp chỉ huy trận đánh, ngoài đội thuyền của chàng ta vẫn chưa rối loạn, các đội khác bắt đầu bị chọc thủng, đội hình sắp rối loạn.

Lưu Giác thét to: “Thiên Tường rút lui!”. Giọng chàng dùng hết nội lực, Cố Thiên Tường ở cách hơn trăm mét sững người, mắt sáng lên, một tay giật cờ hiệu trong tay binh sĩ, bắt đầu truyền lệnh.

Lưu Giác đứng trên tường thành, giang thẳng hai tay, tiếp ngay đó là tiếng trống “thùng thùng” dồn dập, quyết liệt hào sảng, nối nhau, dân chúng đứng trên triền núi phía xa, cảm động rơi nước mắt. A La đứng từ xa nhìn về phía thành môn lầu, thấp thoáng thấy một bóng người vận áo choàng đen, tay vung dùi trống mạnh mẽ và quyết liệt, khí thế tựa con rồng đen vùng vẫy, nàng bỗng giật mình, là Lưu Giác sao? Dáng chàng dũng mãnh kiêu hùng, mỗi động tác hừng hực toát ra khí phách nam nhi. Nghe tiếng trống hùng tráng, A La nghĩ đến lúc chàng ra tay cứu mình trong bữa tiệc ở Đông cung, nước mắt trào ra tự lúc nào.

Lúc này, dưới cờ hiệu của Cố Thiên Tường, chiến chuyền Nam quân rào rào di chuyển vào bờ, quân Trần lại tiến thêm hơn hai chục trượng về phía bờ. Trong khúc nhạc trống với sứ mệnh vĩnh hằng, hừng hực sinh khí không bao giờ cạn kiệt. Nam quân bình tĩnh nhanh chóng chấn chỉnh đội hình, tiếng hô “giết” chìm nghỉm trong tiếng trống.

Quân Trần thấy Nam quân nhanh chóng thay đổi thế trận, thấy sắp tiến đến gần thành môn lầu, vội vẫy cờ ra hiệu tiến nhanh hơn. Toán quân sĩ đứng trên thành môn lầu đang chán nản, bỗng nghe thấy một tiếng thét vang trời: “Đừng hòng chạy thoát!”.

Lưu Giác quẳng dùi trống, vung tay ra hiệu, trận mưa tên từ các cửa khẩu dưới chân tường thành bắn ra như mưa, như một con rồng đen điên cuồng vun vút xông vào đội thuyền của quân Trần. Chiến thuyền của Nam quân từ hai phía ven sông như đôi cánh khổng lồ giương lên bắt đầu phản kích. Đội tiên phong của quân Trần lại biến thành hậu ứng, lập tức rút về bờ bên kia, một số thuyền bị kẹt trong vòng vây không kịp trở tay, nhằm hướng bờ xông tới. Khi cách tường thành chỉ mười trượng, bị những tảng đá lớn trên thành lao xuống đập nát, từ phía chiến thuyền Nam quân dậy lên những tiếng hoan hô vang trời.

Trong trận này hai bên đều có tổn thất, thương vong tương đối, được cổ vũ bởi lần đầu xuất chiến thắng lợi, sĩ khí Nam quân dâng cao vạn trượng!

Lưu Giác nhìn chiến trường bên dưới, lộ vẻ mệt mỏi, nhưng lại lập tức che giấu. Chàng lấy lại tinh thần, nói to: “Tối nay tướng phủ mở tiệc khao quân!”.

Tướng sĩ phấn khởi, từ trên thành đi xuống, dân chúng tưng bừng nổi trống hoan hô, có thương hội cử người gõ trống khua chiêng mang rượu thịt đến mừng ba quân.

Vẫn còn sớm chưa đến giờ mở tiệc, Cố Thiên Tường bố trí xong thủy quân, không kịp cởi chiến giáp đi ngay đến phủ tướng quân. Lưu Giác thay chiếc áo chùng rộng màu xanh sẫm nằm trên sập, có hai lính hầu xoa bóp chân tay. Cố Thiên Tường hăm hở ngồi xuống ghế, lính hầu lập tức đưa khăn ấm, chàng đón lấy lau mặt. Lính hầu dè dặt hỏi: “Tướng quân có cần cởi giáp nghỉ ngơi một chút?”.

Cố Thiên Tường liếc nhìn chàng, sát khí trên người vẫn chưa tan, lính hầu lập tức ngậm miệng lui ra.

Lưu Giác hé mắt, lính hầu dâng trà, chàng đón lấy uống hai ngụm, chậm rãi nói: “Khó chịu hay sao?”.

Cố Thiên Tường trầm giọng hỏi: “Huynh nhận định thế nào?”.

“Nếu là huynh, huynh sẽ không ngốc đến mức chỉ dùng thủy quân tấn công chính diện, nếu như thế này đã có thể thành công, nước Trần đã khai chiến từ mấy năm trước. Để lâu như vậy, đột nhiên tập kích, họ không ngốc đến mức lại đến lần nữa, chúng ta có thể chờ thời cơ tốt hơn”.

Mắt Cố Thiên Tường dịu lại: “Huynh còn nhớ trò chơi thuở nhỏ của chúng ta không?”.

Lưu Giác tròn mắt nhìn chàng ta: “Lại đây bóp vai cho huynh, mỏi chết được!”.

Cố Thiên Tường không nói gì, đứng dậy, Lưu Giác phát hoảng: “Thôi được rồi, đệ mà bóp không khéo nát vai huynh mất”. Thiên Tường tiến đến bên Lưu Giác, chàng lại phát hoảng, nhưng thấy chàng ta đã nằm trên sập nói với lính hầu: “Thay trà, bóp chân! Đệ ngủ một lát, huynh tự thu xếp”. Đoạn nhắm mắt như ngủ.

Lưu Giác dở khóc dở cười, lát sau mỉm cười thật sự, tinh thần phấn chấn đi ra khỏi phòng.

Cố Thiên Tường nhắm mắt, ý nghĩ quay trở về nhiều năm trước, khi Lưu Giác và chàng chơi trò đánh trận. Lúc đó chàng đã dùng chiêu này để ăn quá nửa binh kỳ của Lưu Giác. Chàng hét: “Thiên Tường rút đây, mặc cho huynh liều mạng tấn công!”. Lưu Giác suy nghĩ hai ngày, khi gặp lại, chàng ta đã phá được chiêu này của chàng, chia hai cánh quân bao vây, chặn đường rút, đắc ý nói: “Huynh chặn chân đệ, để cho đệ phải lăn lộn trên đất!”. Nghĩ đến đây, nét mặt chàng đã dịu lại, nhắm mắt ngủ thiếp.


Mọi người trong Thường Lạc tửu quán cũng rất vui, thất phu nhân nói: “Nếu thành Lâm Nam dễ bị phá như thế, thì đã đánh nhau từ mười mấy năm trước rồi”. Hổ Tử líu lo: “Hổ Tử cũng muốn làm tướng quân”.

Mọi người vui vẻ cười ồ.

“Phu nhân à, già thấy mọi người không nên chuyển đi. Có chuyện gì cả nhà cùng ở một chỗ mới có thể giúp nhau”. Vú Trương nói.

A La thở dài. Hôm đi chơi quan sát bên sông, phát hiện dãy Tây Sơn địa thế hiểm trở, mà lại không ở vị trí tiền tiêu, có đường rút lui, vốn định chuyển đến đó, nhỡ xảy ra chuyện biết đâu có thể lén chạy trốn. Bây giờ chiến sự xảy ra, mặc dù đã đánh lui thủy quân của nước Trần, không biết liệu có trận thứ hai, trận thứ ba, lúc đầu ở phân tán là sợ liên lụy đến gia đình vú Trương, bây giờ ở chung mới dễ giúp nhau. Nàng mỉm cười tán thành: “Đương nhiên, chúng ta ở chung”.

Trở về phòng, lại không ngủ được, cũng không đốt đèn sợ ảnh hưởng đến thất phu nhân và Tiểu Ngọc, nàng khoác áo ngồi dậy thẫn thờ. Trước mắt lại vụt hiện bóng dáng kiêu hùng của Lưu Giác lúc đánh trống trận. Bắt đầu từ phút đó cho đến lúc rời đi, mắt nàng không hề rời khỏi Lưu Giác trên thành môn lầu. A La cảm thấy, lúc đó nàng thực sự có cảm giác sùng bái người anh hùng ấy, chợt mỉm cười, trước đây nàng còn không quan tâm Lưu Giác là người thế nào.

Ngũ đại công tử Phong thành đều ngoại hình tuấn tú, dáng vẻ quý phái: Tử Ly tuấn tú an nhiên, nụ cười bất biến trên môi, trông thân thiện dễ gần nhất, nhưng luôn phảng phất buồn; Thành Tư Duyệt trẻ tuổi đã sớm thành danh, phong lưu mã thượng; Cố Thiên Tường có vẻ đẹp lạnh lùng, thâm trầm như tảng băng, thỉnh thoảng mới thấy cười, dù có nói nhiều cũng không thay đổi được ấn tượng này.

Còn Lưu Giác, vừa gặp đã biết là người tự mãn, cao ngạo, ham hố báo thù, là kiểu công tử được nuông chiều chơi bời bạt mạng. Chính chàng ta lệnh cho người khiêng kiệu giở trò khiến nàng nôn thốc tháo, lại còn ép nàng học đàn, bắt nàng đánh khúc “Bội lan”, vậy mà trong bữa tiệc ở Đông cung, lại có gan đứng ra cứu nàng, dù không trực tiếp đối đầu với thái tử, nhưng ngữ khí cứng rắn hàm ý bất luận thế nào cũng sẽ bảo vệ nàng đến cùng. Đêm hôm đó, A La dường như nhìn nhận lại con người chàng, để cho chàng cưỡi ngựa hộ tống về phủ. Lại còn sau lần gặp sát thủ giữa đường, chàng một lòng chân tình hứa suốt đời suốt kiếp che chở bảo vệ nàng, lúc đó A La đã muốn buông mình trong vòng tay chàng. Ba năm trước, khi đốt cầu phao, từ xa nàng nhìn thấy Lưu Giác ở bờ bên kia, khoảng cách lớn như vậy, nhưng nàng vẫn cảm nhận được nỗi đau đớn phẫn nộ của chàng, khiến nàng không dám nhìn sang. Về sau lại nghe nói chàng dẹp sơn tặc, chỉnh đốn Nam quân cứng rắn, quyết đoán. Lưu Giác tựa hồ thiên biến vạn hóa, khiến nàng nhìn không thấu, đoán không ra.

A La mơ màng nghĩ, ba năm nay hình như mình chưa hề quên chàng, rồi khép áo từ từ đi vào giấc ngủ.


Ban đêm vào dịp tuyết đầu mùa và bắt đầu có sương mù, trăng thanh sao thưa thớt. Từ vách đá dãy Tây Sơn trên sông Hán Thủy gần thành Lâm Nam đột nhiên ló ra mấy bóng đen, nhìn hành động rõ ràng là cao thủ, họ lặng lẽ lần xuống chân núi, đầu nhấp nhô, sau vài động tác đã bò lên tới mặt tường thành.

Tên cầm đầu vừa vung tay, một lưỡi đoản kiếm lóe ra, cơ thể nhẹ nhàng như một con mèo bước êm ru đến sau lưng một lính gác, vừa vung tay đã kết thúc tính mệnh người lính như cắt một miếng đậu phụ. Lưỡi kiếm đen bóng, đường kiếm sắc lẹm như rạch trên giấy, binh sĩ kia đáng thương kinh hoàng chưa kịp kêu, yết hầu đã bị cắt đứt, máu chưa kịp phun, người đã đổ ập xuống.

Một tên khác nhanh chóng lột y phục trên người binh sĩ, một tên khác kéo thi thể giấu sang một bên, giây lát sau, trên tường thành đã xuất hiện một lính gác mới. Mấy bóng đen chờ thêm hai khắc, không thấy động tĩnh gì, mới thả những cái móc câu có dây đu đầu kia của tường, lính gác nhìn về bên này, hành động của những bóng đen đã bị vách đá che khuất, họ chỉ nhìn thấy tên lính giả đứng thẳng như thanh kiếm dưới trăng.

Không lâu sau, có mười tên từ vách núi Tây Sơn lọt vào thành. Tên cầm đầu làm mấy động tác tay ra hiệu, mười tên lẹ làng từ đỉnh núi bắt đầu thâm nhập xuống dưới. Gặp người, không biết chúng dùng pháp thuật gì, ngay cả chó cũng không kêu một tiếng, chúng lặng lẽ đột nhập vào khu dân cư, người dân đang ngủ bị điểm huyệt, rơi vào giấc ngủ li bì, dù tỉnh lại không có bất kỳ nghi ngờ gì.

Trên núi đã có hơn hai chục thi thể. Bọn chúng hành động mau lẹ thận trọng, lần theo đường mòn xuống núi, gặp dân thường đều nhất loạt xử lý như vậy. Không lâu sau chúng đã mò được vào trong quán rượu của vú Trương, tên cầm đầu phục ở sườn núi quan sát bên dưới, nhìn khuôn viên gồm ba dãy nhà của vú Trương, xung quanh không có nhà liền kề, sau lưng là rừng núi, rất tiện để ẩn giấu binh mã, mắt sáng lên, lẳng lặng dùng tay ra hiệu cho đồng bọn, những bóng đen bay qua tường vọt vào bên trong nhẹ nhàng như những con dơi.

Cùng lúc, trong khu rừng gần đó, ba binh sĩ Minh tổ thuộc Ô y kỵ phụng mệnh Lưu Giác bảo vệ A La. Do trời lạnh họ lần lượt nhảy lên cây, sau khi cử một người canh gác, mỗi người chọn một vị trí thích hợp tranh thủ chợp mắt. Người lính gác bỗng dỏng tai, căng mắt nhìn, kinh ngạc nhận ra những bóng đen nhảy vào trong quán, nhìn thân thủ biết không phải thuộc hạ của mình. Y nhanh chóng nhận định tình hình, đối phương có khoảng hơn mười tên, bên này chỉ có ba, nên không dám manh động, chỉ khẽ đánh thức hai người kia. Ba người cùng quan sát, hợp tác lâu ngày họ lập tức có phương án, để một người quay về tướng phủ báo tin, hai người lặng lẽ áp sát quán rượu.

Khi những bóng đen bay vào sân, A La vừa khép áo, nằm xuống, đang mơ màng chưa ngủ, đột nhiên nghe tiếng then cửa “cạch” một tiếng. A La mở mắt mơ màng liếc về phía đó, trên rèm giấy cửa sổ in hình một bóng đen, then cửa nhẹ nhàng di chuyển. Nàng hoảng sợ toát mồ hôi, theo phản xạ định nhảy xuống giường, nhưng lại nghĩ như thế không được, then cửa bị mở, chứng tỏ bên trong có người, chăn chiếu vẫn còn hơi ấm, bọn đột nhập nhất định phát hiện ra nàng. Trong lúc cấp bách, nàng vội vàng trèo qua đầu giường, nấp vào cạnh tủ, thuận tay vớ được cái kéo tỉa cành cây.

Thấy cửa bị đẩy nhè nhẹ, một bóng đen lao đến giường, A La không kịp nghĩ, tay cầm kéo xông ra đâm. Không đợi tên này kịp kêu, nàng dùng tay xỉa mạnh một nhát, đánh ngất tên đó. Tim đập thình thịch, tay nhanh nhẹn lột mạng che mặt, không phải Lưu Giác. Là một người đàn ông lạ. A La thở hổn hển, không biết người này có phải do Lưu Giác sai đến bắt mình hay không. Lại nhìn ra ngoài cửa sổ lờ mờ thấy mấy bóng đen di chuyển.

A La giật thót người, nàng ít nhiều cũng biết vài miếng võ, tuy không sánh được với cao thủ võ lâm ở đây, nhưng vẫn có thể xuất vài chiêu. Nhưng thất phu nhân, Tiểu Ngọc và vú Trương không biết gì, tay trói gà không chặt. Lòng nóng như lửa đốt, nàng lột quần áo của tên này mặc vào người, nhắm mắt, lại xỉa thêm nhát nữa. Nàng không biết rằng, tên bịt mặt dễ dàng từ trên núi lọt vào đây, cho rằng khu này chỉ toàn dân thường, nên không cảnh giác, lại thêm A La ra tay rất nhanh, vì vậy vừa rồi nàng mới dễ dàng đánh gục.

A La bịt mặt ra khỏi phòng, mấy bóng đen bên ngoài không nói gì, chỉ nhìn nàng, A La vội gật đầu, nhìn về phía phòng của thất phu nhân và Tiểu Ngọc, thấy hai bóng đen vác họ ra. Lòng đau đớn, không kìm nổi, muốn ra tay, nhưng đối phương có bốn người, nàng tuyệt đối không phải là đối thủ của chúng. Chỉ thấy tim đập dữ dội, mồ hôi túa đầy tay. Lặng lẽ theo chúng đi ra giữa sân, A La giật mình, có tới mười bóng đen bịt mặt trong sân. Chúng vứt thất phu nhân, Tiểu Ngọc và bốn nhân khẩu nhà vú Trương trên nền, lại quay vào nhà, để lại hai tên đứng trông, không đốt đèn. Trong ánh trăng mờ, một tên nói: “Còn mười canh giờ nữa mới đến giờ hành động, xử trí thế nào?”.

Tên cầm đầu nghĩ một lát, nói: “Đôi vợ chồng có lẽ là chủ quán, để lại, còn lại, giết!”.

A La hốt hoảng, lại nghe một tên nói: “Có hai đứa rất đẹp”.

Tên cầm đầu sẵng giọng: “Đừng quên thân phận và nhiệm vụ của ngươi ở đây!”.

Tên bịt mặt quỳ sụp, A La chân mềm nhũn, cũng quỳ theo. Ngay sau đó hai tên đi đến cạnh thất phu nhân và mấy người nằm ngổn ngang, vung đoản kiếm định đâm, A La không kịp nghĩ, tung chân đá chặn, miệng hô: “Cứu với!”.

Giọng nàng lanh lảnh, hai binh sĩ Ô y kỵ bên ngoài nhìn nhau, vọt tường nhảy vào. Mấy tên bịt mặt trong sân kinh ngạc tột cùng, xông vào A La, nàng vừa đánh vừa né, thầm nghĩ như thế này ít nhất bọn chúng cũng không kịp giết thất phu nhân và mọi người. Nàng chỉ đá mấy nhát, xỉa mấy nhát rồi chạy vụt ra ngoài.

Lúc đó hai binh sĩ của Minh tổ đã bắn pháo hiệu, bọn áo đen túm tụm lại một chỗ. A La nghe thấy tiếng gió đằng sau lưng, né người tránh, một binh sĩ lao đến đứng chắn bảo vệ nàng.

Bọn áo đen kinh ngạc không biết cao thủ ở đâu xuất hiện, nhìn thấy khói hoa màu xanh tím nổi bật trên bầu trời đêm, tên cầm đầu vẫy tay ra hiệu, bọn người áo đen ra tay càng mạnh.

CHƯƠNG 17



Trong phủ tướng quân thành Lâm Nam, các tướng lĩnh ăn uống nói cười rôm rả. Một người nâng cốc rượu nói: “Mạt tướng kính tướng quân một chén, khúc trống trận của tướng quân hôm nay quả thực chấn động đất trời! Khiến quân Trần sợ vãi ra quần!”.

Mọi người tới tấp đứng dậy, nâng cốc, nói: “Nhờ diệu kế của tướng quân mà đánh lui kẻ địch. Mạt tướng khâm phục!”.

Lưu Giác cười, uống hết chỗ rượu trong cốc. Đột nhiên có người hỏi: “Sao không thấy Thiên Tường tướng quân? Mạt tướng đang muốn chúc rượu tướng quân”.

“Thiên Tường tướng quân hôm nay mất sức nhiều, đã đi nghỉ rồi”. Lưu Giác cười giải thích, nâng cốc rượu trong tay, nói: “Quân Trần không biết lượng sức dám đánh lén chúng ta, đến một lần chúng ta tiêu diệt một lần, để chúng biết uy danh của Nam quân! Nào, ta kính chư vị một chén!”.

Mọi người cùng cười uống cạn.

Khi tiệc tàn, Lưu Giác trở về thư phòng, đột nhiên cảm thấy tâm thần bất an. Phàm những nơi có thể tập kích chàng đều đã bố trí canh gác, định để cho quân Trần tiến vào Lâm Nam, để chúng đánh lén suôn sẻ, nhân đó dụ địch vào bẫy, đồng loạt phản công, giáng đòn chí mạng. Kế sách chàng đã nghiền ngẫm nhiều lần, lại đàm luận tỉ mỉ với Cố Thiên Tường, đảm bảo không có kẽ hở, lúc đó mới yên tâm mở tiệc. Nhưng tại sao lòng đột nhiên bồn chồn bất an, nghĩ mãi không hiểu do đâu.

Chàng bước ra sân, hải đường vẫn đang nở rộ. A La, A La! Lòng chàng đau như cắt, bất chợt nhìn về dãy Tây Sơn, lúc đó Lưu Anh vội đi vào: “Chúa thượng, tam tiểu thư xảy ra chuyện rồi!”.

Lưu Giác cảm thấy trong đầu “ầm” một tiếng. Lưu Anh nói: “Người của Minh tổ cấp báo, có mười lên bịt mặt nhảy vào quán trọ của tam tiểu thư, đoán là do thám của quân Trần, nghe nói đều là cao thủ”.

Giữa trời trên đỉnh Tây Sơn phụt lên một đám khói màu xanh tím, ngưng tụ trong đêm, giống lưỡi dao đâm nhói vào tim chàng, nếu không khẩn cấp, Minh tổ sẽ không phát tín hiệu đó. Mỗi kỵ binh của Ô y kỵ đều được trang bị pháo hiệu, tín hiệu có tin cấp báo và cứu viện khẩn cấp khác nhau. Ba binh sĩ của Minh tổ được chàng phái đi bảo vệ A La đều là những cao thủ hàng đầu. Nhìn thấy màu sắc tín hiệu, chàng thậm chí không dám nghĩ đến tình hình bên đó. Lòng như lửa thiêu, phủ tạng như bị dao đâm. Đối mặt với trận tập kích bất ngờ của địch, chàng vẫn mỉm cười, bình tĩnh chỉ huy, nhưng bây giờ, Lưu Giác cố không nghĩ, lập tức mang theo binh lính và Ô y kỵ nhằm dãy Tây Sơn lao đi.

Lúc đó, ba tử sĩ của Minh tổ đang giao đấu ác liệt với mười ba tên áo đen để bảo vệ A La, hai người đã bị thương. Bọn áo đen võ công cao cường, nhưng không ngờ, hai người mới đến lại liều chết kháng cự, giao chiến lâu như vậy mà vẫn có thể phản kích. Tên cầm đầu tính thời gian, có vẻ sốt ruột, nếu trong hoàn cảnh khác, thời điểm khác, chưa biết chừng do tiếc cho tài của họ hắn sẽ thả họ đi. Nhưng bây giờ cần tốc chiến tốc thắng. Hắn xoáy người bay vào vòng chiến, đoản kiếm nhằm tử sĩ Minh tổ vung lên, lưỡi kiếm giữa chừng lại đổi hướng, đâm xéo về phía A La.

Lưỡi kiếm đen sì, trong đêm chỉ có tiếng gió rít, không hề thấy phản quang. Sự đổi hướng đột ngột của đường kiếm khiến A La tránh không kịp, lúc đó một tử sĩ Minh tổ lấy thân chắn trước mặt A La, đoản kiếm “phật” một nhát trúng ngực anh ta, tử sĩ đó nghiến răng chịu đau, trở tay đẩy A La, thét xé họng: “Bảo vệ tam tiểu thư, chạy đi!”.

Tử sĩ kia ánh mắt phẫn nộ, không kịp nhìn huynh đệ bị thương, vội nắm tay A La bay vọt qua tường bao. Người áo đen “hừ” một tiếng, tay cầm kiếm lao theo. Hai bên giao chiến trên không, tử sĩ Minh tổ không còn sức để tránh, A La bị kéo bay lên chỉ cảm thấy mắt hoa, không thể nhận ra lưỡi kiếm phía sau phi đến. Trong thời khắc ngàn cân treo sợi tóc, một mũi tên bắn trúng lưỡi kiếm đang phi tới, “choang” một tiếng, lưỡi kiếm rơi xuống nền đá.

Tử sĩ Minh tổ đưa A La nhảy xuống bên ngoài tường viện, nhìn thấy Lưu Giác và Ô y kỵ đã đến, thở phào, rồi ngất đi. A La ngơ ngác, cũng không nhìn Lưu Giác, quay người chạy vào trong sân.

Lưu Giác thấy A La bằng xương bằng thịt đứng trước mặt, lòng nhẹ nhõm, nỗi lo lắng thắt gan thắt ruột vừa rồi bỗng tiêu tan. Lại thấy A La bỏ chạy, chàng cau mày, nhún người vọt lên, đứng chắn trước mặt nàng. A La ngẩng đầu nhìn chàng, nước mắt ứa ra: “Mẹ ta và mọi người vẫn còn trong đó”.

Lưu Giác dịu dàng: “Đừng lo, nàng nghỉ đi”.

A La dừng chân, lau nước mắt, thấp thỏm nhìn vào trong tường.

Lưu Giác thầm rên, cố kìm nỗi khát khao ôm nàng vào lòng, nói to: “Những người trong kia nghe đây, ta là Lưu Giác Bình Nam tướng quân của Ninh quốc, đã đợi các người từ lâu, bỏ kiếm đầu hàng, sẽ được tha mạng!”.

“Phịch!”. Bên trong ném ra một xác chết, chính là xác tử sĩ Minh tổ trúng kiếm. A La kinh hoàng kêu lên, vội bịt miệng, binh lính và Ô y kỵ mắt vằn phẫn nộ, nhất loạt tuốt kiếm. Lưu Giác đến bên xác chết, cởi áo xem vết thương, khi đứng lên sát khí đã bừng bừng toàn thân, mắt lóe lên làn sương màu đỏ uất hận. Chàng quay đầu nói với Lưu Anh: “Hộ tống tam tiểu thư về phủ”.

A La kinh ngạc kêu lên: “Ta không đi, ta đợi mẹ và mọi người!”.

Lưu Giác không muốn nàng chứng kiến cảnh máu đổ, nói: “Nàng cùng Lưu Anh về trước, ta sẽ đưa mẹ nàng và mọi người về sau”.

A La tạm yên lòng, vẫn đứng yên giọng kiên quyết: “Hôm nay nếu chàng không để ta nhìn thấy mẹ và mọi người an toàn trở về, ta sẽ hận chàng suốt đời!”. Nàng biết đứng đây cũng chẳng làm gì, nhưng vẫn không yên lòng, đành ép Lưu Giác.

Lưu Giác đang định nói thì cổng sân bật mở, mười ba người áo đen đi ra, thất phu nhân và mọi người bị điểm huyệt đứng ngây một bên.

A La không kìm nổi kêu lên: “Mẹ!”.

Thất phu nhân đứng yên không mở miệng được, nước mắt ứa ra, A La lòng như dao cắt. Lưu Giác cười đau khổ, bọn chúng thật khéo tìm, bắt đúng thất phu nhân của tướng phủ, chàng thở dài.

Toán áo đen ra khỏi sân, thấy quán rượu đã bị bao vây, đốt đuốc sáng trưng như ban ngày, lại thấy viên tướng trẻ tuổi đứng đầu đoàn quân, nụ cười trên môi, ánh mắt lạnh hơn nước sông Hán Thủy, bất giác rùng mình, tên cầm toán áo đen mắt trừng trừng nhìn trả, bỗng cười ha hả: “Sớm nghe đại danh Bình Nam tướng quân thủ đoạn lợi hại, hôm nay diện kiến, quả nhiên khí độ phi phàm. Không biết bọn ta nên hối hận đã vào nhầm nhà hay là nên mừng vì bắt được nhân vật được Bình Nam tướng quân coi trọng”.

Lưu Giác kinh ngạc, không ngờ ánh mắt tên cầm đầu lợi hại đến thế, lại dám nhìn thẳng vào mình, nhưng miệng vẫn cười: “Đầu hàng đi! Khai kế hoạch của bọn bay, vẫn là câu đó, ta sẽ tha tội chết”.

Bọn áo đen cười sằng sặc: “Các ngươi tưởng chúng ta ham sống sợ chết ư? Chúng ta đã đến là không mong sống trở về!”.

Lưu Giác vung tay, quân sĩ xung quanh soàn soạt tra tên vào cung, chỉ chờ lệnh là bọn người trước mặt sẽ bị tên găm, trở thành những con nhím, A La kinh hãi, trợn mắt nhìn Lưu Giác, hét thất thanh: “Đừng!”.

Lưu Giác cau mày, nhìn thấy vẻ đắc ý trong mắt bọn áo đen, thầm than thở, đúng là ném chuột sợ vỡ bình quý. Chàng hít mạnh, ép ra sát khí trên người, lớn tiếng quát A La: “Nàng im ngay, thả hổ về rừng để bọn chúng phá kế hoạch của ta, thà để chúng chết ở đây! Lẽ nào vì mấy mạng sống này mà hại bách tính toàn thành rơi vào hỏa chiến? Lẽ nào nàng vì mấy người thân của mình khiến ngàn vạn tướng sĩ của ta bỏ mạng?”.

A La bị ánh mắt thúc ép của chàng, liên tục lùi về sau. Lưu Giác không nói sai, nước Trần tuyệt đối không vì bị thua một trận mà không đánh tiếp. Mấy người này chắc là kỵ binh được phái đến công phá thành Lâm Nam, giữ họ lại, làm theo mưu kế đã định, là có thể dụ quân Trần rơi vào bẫy của quân ta. Chỉ cần đại phá quân Trần, làm tổn thương nguyên khí của họ, mới có thể tránh được họa chiến tranh, A La rơi nước mắt, nhưng sao nàng đành lòng nhìn Lưu Giác hạ lệnh bắn chết thất phu nhân và mọi người, nếu để cho họ chết như vậy, suốt cả đời nàng cũng không thể tha thứ cho bản thân, làm sao nàng có thể chỉ giữ mạng sống cho mình! Nàng phải liều một phen, nếu thua thì cùng chết, nếu thắng có thể cứu được họ! A La đã quyết, nhanh tay rút thanh kiếm của binh sĩ đứng bên, kề vào cổ mình, đi giật lùi vào sân.

Lưu Giác hét lên: “A La nàng định làm gì?!”.

“Ta hiểu, là không thể thả người đi, ta đảm bảo không để cho bá tính toàn thành chịu cảnh binh đao, nhưng, ta cũng không đành nhìn người thân chết trước mặt. Ta không trách chàng, thật sự không trách chàng. Ta phải cùng chết với mọi người!”.

Lưu Giác vừa lo lắng, tức giận vừa bất lực nhìn A La chầm chậm đi giật lùi vào sân. Nàng đột nhiên nháy mắt cười với chàng, dưới ánh trăng, nụ cười như hoa nở, đẹp đến mê mẩn, tim chàng đập lỡ một nhịp, hơi thở như ngừng lại, cơ toàn thân co rúm, không dám chớp mắt, đăm đăm nhìn người chàng yêu dấu dịch chuyển từng bước.

A La từ từ đi đến trước mặt tên cầm đầu toán áo đen, nhìn thẳng mắt hắn, chĩa mũi kiếm về phía hắn, thản nhiên cất tiếng cười: “Giải huyệt cho mẹ ta và mọi người, đằng nào bọn ta và các ngươi cũng chết cùng nhau!”.

Tên này kinh ngạc nhìn con cá lọt lưới, thầm nghĩ, chính người này làm hỏng mưu kế của bọn ta, còn giết một cao thủ của ta, bây giờ lại lựa chọn cùng chết với người thân! Mắt hắn vô tình lộ vẻ tán thưởng.

Lúc này A La vươn tay cởi dải băng quấn trên đầu, mái tóc dài óng ả sổ tung, xõa đến thắt lưng, ánh mắt long lanh đăm đăm nhìn tên thủ lĩnh.

Hóa ra y là con gái! Tên áo đen lộ vẻ kinh ngạc, loại đàn bà quyết liệt như thế này, hắn chưa từng gặp. Sức chú ý của hắn bỗng chốc bị phân tán vài phần.

A La nhẹ nhàng cởi chiếc áo đen bên ngoài, làn áo mỏng bên trong lập tức tung bay. Nàng biết chỉ cần gió thổi, gió lùa vào áo, cảnh tượng sẽ đẹp đến thế nào. Nàng nhoẻn miệng cười, toàn thân giống như nữ chúa sơn thần rực rỡ tỏa hào quang, lại như một bóng ma mê hoặc trong đêm.

Tên áo đen hoàn toàn sững sờ, sao nàng ta lại đẹp đến thế! Nàng ta cười với hắn, tim hắn đột nhiên giật thót, hắn ngây ngất nhìn tấm thân mảnh dẻ thướt tha trong làn áo mỏng bay bay.

Hắn chớp chớp mắt, muốn xua đuổi sức cám dỗ trước mặt. Nhưng chính trong tích tắc hắn thất thần, Lưu Giác vận hết nội lực giương cung bắn vào tên cầm đầu, Lưu Anh và những binh sĩ khác vọt người xông lên. Tên áo đen lắc đầu tránh mũi tên, A La lập tức cầm kiếm lao đến đứng chắn trước mặt thất phu nhân và mọi người.

Lưu Giác lao đến như tia chớp, kịp thời chặn đòn của tên cầm đầu đang muốn tiếp tục khống chế A La và mấy người nhà. Tử sĩ của Minh tổ theo sát chàng, lập tức tách họ ra, vây chặt bọn áo đen. Toán lính vòng ngoài giương cung, nhằm thẳng bọn chúng.

Tên cầm đầu sững người, cười chua chát: “Thôi được, chỉ trách ta tâm trí không kiên định, lại bị mê hoặc bởi nụ cười của người đàn bà kia”. Nói đoạn, hắn liếc nhìn A La.

A La giật mình, ánh mắt tên này như dã thú hung bạo không thể thuần phục.

“Còn không mau đầu hàng?”. Lưu Giác cười khẩy.

Quán rượu nhỏ bỗng yên lặng khác thường. Tên cầm đầu đột nhiên cười sằng sặc: “Vậy ra tay đi!”. Lời chưa dứt, mười hai tên kia lập tức đứng quây lấy hắn.

Lưu Giác thở dài, với bọn liều chết này, chàng biết sẽ không moi được gì từ chúng, bèn khẽ ra lệnh: “Bắn”.

Các tử sĩ tay vừa buông, tên vun vút như mưa bay vào toán áo đen. Mười hai tên khua kiếm gạt tên, bảo vệ tên cầm đầu. Hắn đột nhiên hét một tiếng. Bốn tên nhảy lên vai những tên khác, tạo thành bức tường sống chắn làn mưa tên. Lưu Giác kinh ngạc, xúc động, tên cầm đầu sau vài động tác nhún người, vận nội công bay vọt qua bức tường ra ngoài như một bông tuyết, còn kịp quay đầu chém phăng đầu những tên vừa đứng làm bức tường sống, chạy vút về phía cánh rừng. Trên không vọng lại tiếng cười điên dại: “Sẽ còn gặp lại!”. Những kẻ khác bị trúng tên, khi thấy tên cầm đầu bỏ chạy lập tức nuốt thuốc độc tự vẫn.

Lưu Giác kinh ngạc nhìn cảnh tượng trước mắt, không biết tên áo đen võ công không thua kém mình đó lai lịch thế nào, mà đáng để mười hai cao thủ xả thân cứu. Không lâu sau, binh sĩ đuổi theo quay về bẩm báo: “Người đó nhảy xuống sông Hán Thủy ở quãng vách đá Tây Sơn”.

Lưu Giác trầm ngâm hồi lâu, rồi ra lệnh: “Về phủ! Mời Thiên Tường tướng quân tối nay tăng cường cảnh giới, cho quân chốt ở cả ba cổng thành đông, tây, nam sẵn sàng đợi lệnh”.

Binh sĩ rút khỏi quán rượu, trong sân chỉ còn Lưu Giác và Ô y kỵ.

Thất phu nhân và mọi người đã được giải huyệt, khóc như mưa, A La cảm thấy chân tay mềm nhũn, ngồi phịch xuống sân. Đột nhiên cảm thấy người ấm sực, Lưu Giác đã cởi áo bào khoác lên người nàng.

A La ngước nhìn, khuôn mặt tuấn tú của Lưu Giác thâm u như nước lạnh, mắt đăm đăm nhìn nàng. Lúc đó nàng mới cảm thấy lạnh, xốc áo bào trên vai, thầm nghĩ, ba năm không gặp chàng đã được tôi luyện trở thành một người đàn ông thực thụ. Lưu Giác cúi nhìn thân người run run của A La, bất giác nghiến răng, mắt hằn lên sự tức giận.

A La buồn bã cúi đầu, nhưng vẫn không chịu tỏ ra yếu thế, nói khẽ: “Ta chỉ lo lắng mà thôi”.

“Lo lắng? Lo lắng đến mức để cho chúng biết giá trị của mình?”.

Giọng Lưu Giác trở nên lạnh lùng vô tình như vậy từ bao giờ? A La từ từ đứng lên, nhìn thẳng chàng: “Ta không thể sai khiến thuộc hạ như chàng, cũng không thể ở trong quân doanh bàn mưu tính kế khi quân địch đến đàng hoàng ứng phó như chàng? Làm sao ta không lo lắng? Ta có bình tĩnh đến mấy cũng không phải là người máu lạnh! Đúng, chàng có dự định của chàng, nếu ta không lên tiếng, có lẽ chúng không biết người bị bắt quan trọng thế nào, nhưng nếu chàng cho rằng ta có thể giấu kín ý đồ, nước đến chân vẫn không vội, thì tiểu vương gia chàng đã đánh giá ta quá cao! Nhưng, tóm lại là ta không đủ bình tĩnh, phá hỏng kế hoạch của chàng, cho nên ta làm vậy, xấu nhất cũng chỉ là muốn phân tán sự chú ý của bọn chúng để chàng khỏi bắn chết tất cả mà thôi!”.

Lưu Giác nghe đến câu cuối cùng, lòng run run, người co rúm, đau nhói tâm can, cố hít mấy hơi dằn lại. Không phải chàng trách nàng không bình tĩnh, khi thấy nàng dùng kiếm uy hiếp, đi giật lùi về phía bọn áo đen, lòng chàng thắt lại, khen cho nàng còn nói thẳng ra, nếu không được thì để chàng ra lệnh bắn chết cả nàng! Lưu Giác đau đớn nhìn nàng, nhưng A La lại không hiểu lòng chàng, nàng không biết ba năm nay tình cảm của chàng đối với nàng đã sâu nặng thế nào, nhớ nhung điên cuồng thế nào, nàng lại còn cho rằng chàng có thể ra tay giết nàng! Hai mắt chàng bốc lửa, lúc này chàng hận là đã không thể giết nàng.

A La cảm thấy từ người chàng tỏa ra từng trận khí lạnh, ánh mắt như muốn nuốt sống nàng, tự dưng thấy sợ thần thái này của chàng. Nàng khép chặt tà áo bào, nàng không để giọng phát run: “Ta không trách chàng nửa câu, thật đấy, dù lúc đó chàng ra lệnh bắn chết ta, ta cũng không trách chàng. Nếu là ta, ta cũng sẽ làm như vậy. Chàng không sai. Nhưng cho ta làm lại, ta vẫn làm như thế”.

Lưu Giác càng thêm hận. A La không trách chàng, nhưng sao nàng không chịu hiểu lòng chàng? Nếu lúc đó nàng có mệnh hệ gì, chàng lắc lắc đầu, quả thật không dám nghĩ tiếp. Sao nàng dám dọa chàng như vậy. Chàng giơ tay điểm huyệt, bế nàng nhảy lên ngựa, nói với đám binh sĩ: “Đưa thất phu nhân và a đầu về phủ”. Nói đoạn thúc ngựa phóng đi.

A La không thể động đậy, miệng không thể nói, trợn mắt nhìn Lưu Giác, thấy mặt chàng sa sầm, không thèm nhìn mình, nàng thở dài. Đúng là nàng không trách chàng, trái lại rất cảm động, có lẽ Lưu Giác đã biết tung tích nàng ngay từ khi nàng mới đến Lâm Nam. Hai tử sĩ liều chết bảo vệ nàng, một người đã mất mạng, nếu chàng không cử người bảo vệ, chắc là nàng đã chết trong tay bọn áo đen. Nàng cũng đâu có ngốc mà không hiểu rằng, nếu Lưu Giác không có lệnh, sao hai người đó chịu xả thân cứu nàng!

Trở về phủ tướng quân, chàng ôm A La vào phòng, cũng không giải huyệt cho nàng, sai bảo hầu nữ: “Cho nàng ấy tắm, thu xếp một chút!”.

A La giương mắt nhìn chàng đặt mình xuống rồi bỏ đi, sau đó mấy hầu nữ đến cởi áo cho nàng, A La đỏ mặt, nhắm mắt, bắt đầu chửi thầm Lưu Giác, mình đã nói không trách chàng ta, còn nói rõ nguyên nhân vậy mà vẫn chơi xấu như thế! Đằng nào nàng cũng không động đậy được, cứ để bọn họ làm gì thì làm.

Nàng dần dần bĩnh tĩnh trở lại, mọi sự việc diễn ra trong đêm lần lượt diễu qua trước mắt như đèn cù. Bọn người áo đen này lén đột nhập vào thành có lẽ là chuẩn bị phối hợp với quân Trần bên ngoài, thấy địa thế quán rượu thích hợp muốn nghỉ chân, đợi đến giờ hẹn sẽ hành động. Bọn chúng đã nói còn hơn mười canh giờ là đến thời điểm hành động ngày mai, mười canh giờ! A La lo lắng, nhẩm tính thời gian, chẳng phải là giờ Hợi tối mai sao? Nếu tên cầm đầu chạy về, quyết định hành động sớm hơn, thời gian càng gấp. Nàng không biết huyệt đạo khi nào có thể giải, khi nào Lưu Giác quay lại, chỉ có thể nhắc mình phải bình tĩnh. Nàng không biết thái độ Lưu Giác thế nào, xem ra chàng rất bực. Vốn dĩ chuyện hai nước giao chiến nàng không quan tâm, nhưng khi chiến sự xảy ra, nàng không muốn Lưu Giác bại trận.

Hầu nữ thay quần áo xong đặt A La lên giường. Nàng tiếp tục thầm ôn lại quá trình sự việc, nhắm mắt, mỉm cười. Chàng quan tâm tới mình ư?

Lưu Giác nghị sự xong vội trở về phòng, thấy A La dường như không còn sức lực, yếu ớt nằm trên giường, khuôn mặt vừa tắm táp trở nên hồng hào, chàng ngây người giây lát. Ba năm không gặp, A La đã đẹp hơn nhiều, càng trở nên hấp dẫn, chàng lặng lẽ đứng nhìn, thấy miệng nàng động đậy rồi bật cười. Nỗi bực kìm nén bấy lâu lại bốc lên, không kìm được, chàng lạnh lùng cất tiếng: “Lại còn cười được?!”.

A La mở mắt, nhìn kỹ Lưu Giác. Mấy năm không gặp, ban đêm trên núi vừa rồi không kịp nhìn chàng, bây giờ nhìn kỹ, vẫn khuôn mặt với đường nét rõ ràng, có phần trầm tĩnh hơn, chỉ có điều bây giờ sắc mặt đã sắt lại sắp thành tảng băng. Nàng chớp mắt, càng thấy buồn cười.

Không cựa quậy được còn cười kiêu kỳ như thế? Lưu Giác càng phẫn nộ: “Nàng còn cười hả, võ công như mèo ba chân của nàng, không bị người ta chẻ ra thật là mệnh lớn!”.

A La lườm chàng. Thầm nghĩ, điều nàng muốn lúc đó không chỉ là để cho tên áo đen trở tay không kịp. Mãi không được động đậy, đã rất khó chịu, giờ lại chỉ có thể nằm thế này nghe chàng nói, càng thấy bực mình nên nàng dứt khoát nhắm mắt.

Thấy A La cười, lườm mình, Lưu Giác tiếc là không thể đánh cho nàng một trận. Đứng trước bọn áo đen, thần kinh chàng đã căng thẳng tột độ, đến khi thấy nàng mỉm cười, mới đột nhiên nghĩ A La dám phóng hỏa đốt cầu phao, bố trí mê trận trốn thoát mấy năm liền, tất không chịu bó tay bị bắt. Chàng chuẩn bị ra tay, đến khi nàng xõa mái tóc, lại cởi áo ngoài, lòng đã biết nàng định phân tán chú ý của đối phương, thắng thì thắng rồi, nhưng thắng một cách thót tim.

“Lại còn dám nhắm mắt tỏ ra bất cần?”. Giọng Lưu Giác trở nên nguy hiểm, tiếng nói rít qua kẽ răng, tay tóm lấy cằm A La.

Chàng định làm gì? A La giật thót mình, vội mở mắt, thấy nộ khí trong mắt Lưu Giác sục sôi như sóng. Thầm nghĩ, không cho cựa quậy, không cho nói, ta còn biết làm gì!

Thấy nàng mở mắt, Lưu Giác buông tay, tay trượt xuống chạm vào cổ nàng, chiếc cổ thon mảnh đến nỗi một tay chàng cũng bóp gẫy. Chàng dừng lại, ngón tay chạm làn da trên cổ, cảm giác mịn như ngọc khiến chàng không thể buông, nghĩ đến thân thể nàng trong làn áo mỏng manh trước gió, lại tức sôi người, nàng dám cởi xiêm y trước bao con mắt trơ tráo! Càng nghĩ chàng càng tức, vừa trở tay, thắt lưng trên eo nàng đã tuột ra, mắt A La cuối cùng lộ vẻ sợ hãi, tiếp đó là phẫn nộ, rồi đột nhiên có ánh nước.

Lưu Giác dừng tay, cơ mặt run run, chàng đứng lên, trở tay giải huyệt cho nàng.

A La không ngờ đã có thể nói được, kêu “a” một tiếng. Cảm thấy huyệt đạo được giải, liền vùng dậy, khép tà áo, tức giận mắng: “Dâm tặc!”.

Lưu Giác thấy buồn cười, nghĩ đến lần đầu gặp ở Đào hoa yến, nàng cũng mắng chàng như vậy, lòng vừa buồn vừa xót xa. Ba năm trước, khi A La bỏ trốn chàng đã hận nàng, tức nàng, nhưng nỗi nhớ và tình cảm lưu luyến ba năm qua đã khiến tim chàng mềm lại. Khó khăn lắm mới lại có được A La ở bên, vậy mà lại khiến nàng sợ gần chết.

Chàng quay người nhìn ra ngoài sân, những bông hoa hải đường chàng đã vì nàng mà đốt lửa sưởi ấm để ra hoa, đang cháy đỏ lung linh trong màn đêm xanh lam mờ ảo. Tim chàng cũng như bị hun đốt trong giá rét, khi nóng khi lạnh. Chàng đột nhiên hít một hơi thật sâu, chầm chậm thở ra, điềm tĩnh nói: “A La, lẽ nào nàng không hiểu lòng ta?”.

A La nhìn tấm lưng thẳng tắp của chàng, bắp thịt chàng co rút, toàn thân như không thể không chế nỗi tức giận đối với nàng. Lòng nàng lại thầm thở dài, há miệng, nhưng lại không thể nói ra. Lưu Giác không dám quay đầu, sợ nhìn thấy nét mặt khiến chàng thất vọng. A La cúi đầu, lòng ngổn ngang trăm mối.

Cuối cùng Lưu Giác thở dài. Lúc này A La sực nhớ có tin cần báo, không đợi Lưu Giác mở miệng, nàng nói: “Ta nghe bọn áo đen nói giờ Hợi tối mai sẽ hành động”.

Lưu Giác sửng sốt, quay người hỏi: “Sao nàng biết?”.

“Ta đánh ngất một tên, đổi y phục của hắn đi vào nhà cùng bọn chúng, nghe thấy chúng nói vậy!”. A La vội kể lại tình hình lúc đó, Lưu Giác càng nghe tim càng đập nhanh, chàng nghiến răng, nói: “Nàng to gan thật!”. Lòng thầm mừng, cũng may mình cho người đi theo, nếu không, mình còn chưa kịp đến nàng đã chết ở đâu cũng không biết.

Lúc này không phải là lúc trách móc A La, đánh bại quân Trần mới là chuyện lớn. Chàng cố nén cơn giận đang bùng phát, lạnh lùng buông một câu: “Nàng nghỉ ở đây chờ đợi”.

A La biết chàng bận đi lo công việc, nhưng vẫn không nén nổi hỏi: “Mẹ ta và mọi người đâu?”.
Lưu Giác không quay đầu, lạnh giọng nói: “Nàng vẫn còn quyền quyết định hay sao? Nếu muốn gặp mẹ thì nên thật thà cho ta nhờ”. Nói xong vội vàng bỏ đi.

Khi chàng đi khỏi, A La nghĩ, Lưu Giác đúng là quá giận. Nàng cũng thấy mệt, không muốn nghĩ chàng sẽ làm gì mẹ mình, bây giờ phải ngủ một giấc đã.

CHƯƠNG 18



Nỗi mỏi mệt do căng thẳng, do đánh nhau khiến A La ngủ một mạch đến giờ Ngọ. Mở mắt ra, bên ngoài tuyết trắng long lanh dưới ánh mặt trời hắt vào trong phòng, cả phòng sáng bừng lên. Nàng xuống khỏi giường, một nữ tỳ bê nước ấm đến cho nàng rửa mặt, A La ngồi trước gương, nữ tỳ định vấn tóc cho nàng, A La ngăn lại: “Để búi kiểu nam giới”.

Nữ tỳ e dè trả lời: “Tướng quân đã ra lệnh vứt mọi đồ cải trang của tiểu thư đi rồi, sắm toàn đồ mới”.

A La bất lực, nói: “Vậy thì tết bím, không búi nữa”.

Lâu lắm không mặc đồ nữ giới, thay xong trang phục, A La ngắm nghía bản thân, quần áo Lưu Giác đem đến rất vừa vặn, chỉ có chiếc váy hơi dài tới tận mắt cá chân, đi lại không tiện bằng bộ cánh đàn ông. Nữ tỳ lại bê lên mấy món ăn và một bát cháo nóng, A La không khách sáo, ăn no căng.

Ăn uống xong xuôi, nàng hài lòng đứng dậy đi ra ngoài. Nữ tỳ ngần ngại nhắc: “Tướng quân đã dặn, nếu tiểu thư ra ngoài đừng nghĩ chuyện gặp phu nhân”.

A La ngớ người, thầm mắng Lưu Giác dùng thất phu nhân để ép nàng, nhưng không có người để xả giận, mặt lại tươi cười: “Ở mãi trong phòng buồn chết được, ta đi dạo ngoài sân, nếu ngươi không yên tâm cứ đi theo ta”.

Nữ tỳ lắc lắc đầu: “Tướng quân đã dặn, tiểu thư không được ra ngoài nửa bước. Bên ngoài còn có người của Ô y kỵ đứng gác”.

A La bất lực, nghĩ một lúc, nói: “Tìm cho ta mấy cuốn sách viết về Lâm Nam, giới thiệu phong tục tập quán hoặc dư địa chí địa phương, viết về Trần quốc cũng được”.

Nữ tỳ thấy A La không còn ý định ra ngoài, vội gật đầu lia lịa, đi ra, lúc lâu sau, ôm một đống sách đi vào, cười nói: “Tướng quân hình như cũng sợ tiểu thư buồn, đã dặn trước, chỉ cần tiểu thư không ra ngoài muốn ăn gì chơi gì cũng được”.

A La thở dài, xem chừng Lưu Giác nhất quyết giam lỏng mình, lần này quả thật chạy không nổi. Nhưng lại nghĩ, chàng ta chăm sóc mình, cho ăn cho ngủ, cần gì đáp ứng, lại đảm bảo an toàn, xem ra tạm thời sẽ không áp giải mình và mẹ quay về tướng phủ ở Phong thành. Bây giờ đang mải đánh trận, mình sẽ ở đây chờ đợi, chỉ có chiến sự kết thúc, chàng mới có thời gian để ý đến mình. Hiện nay cũng không cần hỏi thất phu nhân và mọi người ở đâu, chỉ cần biết tất cả vẫn an toàn là được. Nàng yên tâm bắt đầu đọc sách.

Ngồi dựa vào giường xem dư địa chí của năm nước, sách viết: “Vào ngày Đại Tuyết, sông Hán Thủy sương mù dày đặc. Từ tây sang đông, mặt sông sương mù cuồn cuộn như con rồng vùng vẫy, cách sông ba trượng không nhìn thấy, mấy nước ven sông thả xuống sông những đồ hiến tế”. Nàng chau mày nhìn ra ngoài trời, tuyết rơi càng dày. Lòng xao động, đi đến bên cửa sổ, kinh ngạc nhìn thấy dưới trời tuyết giá, khóm hải đường trước sân nở đầy hoa, những bông hoa thắm đỏ, cháy rực nổi bật trong tuyết trắng, lung linh chói lòa. Hải đường ở đây có thể nở vào tháng chạp hay sao?

Nữ tỳ thấy A La ngắm nhìn hải đường trước sân, mau mồm khoe: “Hai tháng trước tướng quân ra lệnh dùng giấy gấm trùm lên khóm hải đường, bên dưới đặt những lồng sưởi, do đó những bông hoa này thực ra là được sưởi ấm ngày đêm mới nở được, tiểu thư nhìn xem, những lồng sưởi bên dưới còn chưa tàn”.

“Nhưng hôm nay là ngày Đại Tuyết cơ mà?”. A La nhìn khóm hải đường, nụ cười dịu dàng nở trên khuôn mặt.

“Phải, tiểu thư nên biết từ giờ Tý, sông Hán Thủy bắt đầu có sương mù dày đặc, cao tới mười mấy trượng. Nếu ngày mai đến núi Thiên Long cách thành Lâm Nam mười dặm nhìn xuống, cả dòng sông giống như một con rồng trắng vùng vẫy trong tuyết, đẹp vô cùng. Năm nào vào thời gian này kiệu xe nườm nượp đến núi Thiên Long, náo nhiệt cực kỳ”.

“Bây giờ quân Trần tấn công, cổng thành đã đóng, có còn người lên núi Thiên Long không?”.

“Không có ai dám vượt sông vào những ngày này. Sương mù dày đặc trên sông cách ba thước đã không thấy mặt nhau, quân Trần không thể đến được”.

A La thầm nghĩ, nhất định quân Trần sẽ nghĩ ra cách nào đó, nhân lúc sương mù mà qua sông, khi binh lính áp sát chân thành, sẽ là một trận ác chiến. Mặt sông sương mù dày đặc, làm thế nào để phòng ngự? Nàng buột miệng lại hỏi: “Hán Thủy có đóng băng không?”.

“Hán Thủy không đóng băng, nhưng ven sông sẽ có lớp băng mỏng, thời tiết này cóng lắm”.

“Ngươi đi lấy giấy cứng làm một cái hộp đưa đến đây”. A La ra lệnh.

Lát sau, nữ tỳ mang đến chiếc hộp đã dán xong, A La nhìn chiếc hộp lại nói: “Ngươi hái giúp ta một bông hải đường”.

Sau đó nàng rót nước trà còn ấm vào hộp, dùng sợi chỉ buộc cuống bông hoa hải đường bỏ vào hộp, nói với hầu nữ: “Ngươi để cái hộp này ra sân, trông chừng khi nào đóng băng thì gọi ta”.

A La đọc sách đã thấm mệt, thấy trên cái bàn thấp có đặt cây đàn, chợt bật cười. Lâu lắm rồi không chơi đàn, không biết tay đã cứng chưa. Nàng lướt nhẹ phím đàn, thong thả đánh một khúc, miệng khẽ hát: “Chim bay mỏi cánh chạm chân sông, rồng quẫy chán nằm ngang lưng núi, non non nước nước muôn trùng gấm, hải đường thắm sắc nhớ chàng mà say”. Hát xong mặt hớn hở, lòng lâng lâng. Đẩy cây đàn đứng dậy, đi đến trước bàn trang điểm, ánh mắt cười sóng sánh, nàng thong thả gỡ bím tóc, nói với nữ tỳ: “Vấn tóc giúp ta, lâu rồi chưa chải đầu cho tử tế”.

Nữ tỳ nói: “Tiểu thư mà trang điểm không biết còn đẹp đến đâu”.

A La ngắm mình trong gương: “Không cần quá cầu kỳ, chỉ cần không để mái bờm là được!”.

Nữ tỳ gật đầu, khéo léo vén gọn mái bờm trước trán A La, dùng tinh dầu hoa vuốt cứng, kẹp hắt lên trên, lại dùng thoa cài gọn tóc mai, cuốn thành búi, lấy trâm cài chặt. Cái gáy tròn đầy đặn mịn màng hoàn toàn lộ ra, nàng ngắm nghía, càng ngắm càng vui, lại cười: “Ngắm nữa, có khi tự yêu mình mất thôi”.

Nữ tỳ vui sướng nhìn khuôn mặt rỡ ràng của A La, ánh mắt ngơ ngẩn giống như Tiểu Ngọc hôm nào: “Tiểu thư, đừng cười nữa, như thế này em đã không thể rời mắt được rồi”.

A La lại nổi máu đùa, đưa mắt lúng liếng, lại mỉm cười khiến nàng ta ngây người ra. A La nói nhỏ: “Ra sân xem thế nào”.

Nữ tỳ vội gật đầu.

A La cố nín cười, đi ra mở cửa phòng, mắt nhìn thẳng vào hai binh sĩ Ô y kỵ đứng ngoài cửa, hai người này cũng giật mình, tròn mắt sững sờ. A La bước ra ngoài hai bước họ mới hoàn hồn, cúi đầu nói: “Mời tiểu thư về phòng, tướng quân có lệnh không được để tiểu thư ra ngoài nửa bước!".

Nàng thở dài, thì ra nụ cười chỉ giúp nàng tiến được hai bước, vậy mà tiểu thuyết lại viết, binh sĩ nhìn thấy mỹ nhân thì gươm dao trên người rơi rào rào xuống đất. Mỹ nữ có thể khiến những người lính đứng ngây như khúc gỗ, không biết phải đẹp đến mức nào, nàng lẩm bẩm, chợt một binh sĩ giọng nhẹ nhàng nói: “Đợi tướng quân trở về, tiểu thư xin tướng quân bãi bỏ cấm lệnh là được”.

A La cười quay về phòng, lúc này nữ tỳ đã bê chiếc hộp đi vào: “Tiểu thư, đóng băng rồi!”.

Nàng đón lấy chiếc hộp, bóc lớp giấy, nhấc sợi dây, giữa một mảnh băng trong suốt long lanh nổi lên một đóa hải đường đỏ thắm đóng băng, tuyệt đẹp. Nữ tỳ tấm tắc không ngớt: “Một mảnh ngọc băng tuyệt đẹp”.

A La cười nói: “Ngươi đưa cái này cho tướng quân nhà ngươi được không? Nói là ta thấy hay hay nên làm tặng tướng quân, một tiếng đồng hồ là làm xong. Mang ngay bây giờ, không được chậm trễ”.

Nữ tỳ mặt hớn hở đón mảnh ngọc băng, thận trọng như nâng báu vật.

Lưu Giác cùng Cố Thiên Tường và tướng lĩnh nghị đàm quân sự. Bây giờ đã là giờ Dậu, nếu A La không nghe nhầm, quân Trần sẽ lợi dụng lúc sương mù để vượt sông, nhưng bọn chúng làm thế nào vượt sông trong sương mù thì hiện vẫn chưa biết. Cố Thiên Tường trầm ngâm nói: “Nếu quân Trần vượt sông an toàn, tất sẽ chia quân bao vây thủy trại, chia hai mũi tấn công vào thành”.

“Thiên Tường tướng quân nói chí phải. Hiện nay trong thành chỉ có bốn vạn binh sĩ, các châu phụ cận điều binh chi viện Lâm Nam chí ít cũng phải ba ngày, hơn nữa Yến thành gần nhất cũng chỉ có một vạn binh mã, viện binh từ các thành trì phía xa cũng phải mấy ngày sau mới đến được, trong khi quân Trần dốc toàn lực tấn công. Mặc dù hôm qua, khi bắt đầu giao chiến, chúng ta đã cử người phi ngựa về Phong thành cấp báo, nhưng cũng phải mười ngày nữa Phong thành mới nhận được tin. Sương mù trên sông dày đặc, quân Trần lại bất chấp thời tiết, quyết vượt sông tấn công, cho dù ta huy động thủy binh, triển khai trận địa trên sông, quân địch tất đã có kế ứng phó, thủy quân của ta trong sương mù ắt bị hao tổn vô ích. Cục thế như vậy không biết chư tướng có kiến giải gì?”. Lưu Giác phân tích sơ lược tình hình.

Trong quân doanh, chư tướng nhìn nhau. Quân Trần bất ngờ tấn công, giờ Tý đêm nay lại vượt sông đúng lúc có sương mù khiến họ không thể tin nổi. Sương mù dày đặc như vây, dù thuyền địch đi ngay sát chiến thuyền của ta, quân ta cũng chưa chắc phát hiện ra. Trần quốc tuy nhỏ, binh lực kém xa Ninh quốc, nhưng đã có chuẩn bị sẵn, cũng có thể huy động được hai, ba chục vạn đại quân. Như vậy, nếu quân Trần tiến sát chân thành, binh lực gấp mấy lần Lâm Nam. Không biết họ có trấn thủ được ba ngày hay không.
Cố Thiên Tường trầm ngâm hồi lâu mới trả lời: “Thủy quân sẽ bỏ trống doanh trại, mai phục trên sông trước khi có sương mù. Nếu quân Trần vượt sông an toàn trước khi sương tan, sự an nguy của thành Lâm Nam đành trông chờ vào Bình Nam tướng quân và chư tướng".

“Chỉ có thể như vậy, thủy binh của Nam quân chỉ đảm nhiệm tấn công quân địch sau khi sương mù tan, lục quân giữ trách nhiệm thủ thành, bất luận thế nào cũng phải trụ đến sau giờ Tý ngày mai là lúc sương mù tan”. Lưu Giác và Cố Thiên Tường phân công.

Cố Thiên Tường vội trở về thủy trại điều binh. Khi ra khỏi quân doanh không nén nổi, liếc nhìn Lưu Giác, ánh mắt hai người gặp nhau, đều lộ vẻ quan tâm. Lưu Giác trầm ngâm: “Quân Trần dám vượt sông trong sương mù, Thiên Tường phải cẩn thận!”.

Cố Thiên Tường không trả lời, ánh mắt kiên định tự tin nhìn Lưu Giác, quay người sải bước đi ra.

Lưu Giác bồi hồi, mỗi lần gặp tình huống thế này, luôn là chàng không kìm chế nổi đã lên tiếng trước. Chàng xua đuổi ý nghĩ, hỏi các tướng lĩnh trước mặt: “Chư vị có kế hay nào để thủ thành?”.

Một viên tướng trả lời: “Thành Lâm Nam lưng tựa vào núi, thành trì kiên cố, nếu có thủy quân hợp lực, quân Trần muốn đến được chân thành cũng không phải chuyện dễ. Nếu thủy binh trên sông không chống cự được, quân Trần người đông, e là phòng tuyến dễ bị chọc thủng”.

Một viên tướng khác tiếp lời: “Quân ta đã thu thập cung tên, con lăn và đá tảng trong toàn thành, tập hợp được hai vạn phu trai tráng trong dân chúng. Lâm Nam là nơi thương nhân qua lại, dân bản địa vốn không nhiều, hơn nữa cần đề phòng gian tế của địch đóng giả thương nhân thâm nhập vào thành, nội công ngoại kích”.

Lưu Giác ngồi yên, ngón tay lại khẽ gõ trên bàn. Toán cao thủ quân Trần phái đến tối qua, tên cầm đầu thân thủ không đơn giản. Bọn chúng thông thuộc địa hình dãy Tây Sơn, tất đã có gian tế cung cấp cho bản đồ nội thành. Lâm Nam lưng tựa vào núi, tường thành kiên cố, trận địa dàn trải trên một tuyến dài, tất phải phân tán binh lực thủ thành. Có địa thế hiểm trở để lợi dụng cũng là lợi thế, nhưng xét từ góc độ khác lại trở thành điểm khó trong thủ thành.

Lúc này Lưu Anh đón cái hộp đựng đóa hải đường đóng băng từ tay nữ tỳ, có phần dở khóc dở cười. Đây là lúc nghị đàm quân cơ, vậy mà nàng ta còn đưa đến một thứ đồ chơi trẻ con. Nếu lúc khác, chúa thượng nhất định hào hứng thưởng thức, nhưng lúc này làm thế nào đưa vào được? Lưu Anh bồn chồn đi lại, nghe nữ tỳ truyền lời của A La, lại thêm sốt ruột, tiến thoái lưỡng nan. Ngẫm nghĩ hồi lâu, cuối cùng quyết định đi vào trướng, trong soái trướng không khí căng thẳng, mấy chục năm không giao chiến, các tướng lĩnh đều không dám chắc. Ngoài ý chí quyết tử thủ thành, nhất thời cũng chưa có kế hay nào khác.

Lưu Giác thấy Lưu Anh đi vội vào, ánh mắt chợt đanh lại, lúc này tiểu tử kia vào đây làm gì? Binh sĩ Ô y kỵ đến Lâm Nam chỉ là thân binh của chàng, không được tham dự luận bàn quân sự, Lưu Anh đi vào, thầm nghĩ nếu không có chuyện khẩn cấp sẽ bị phạt đánh bốn chục roi. Các tướng lĩnh nhìn Lưu Giác có vẻ không hài lòng.

Lưu Anh đi vào trong trướng, nói dõng dạc: “Có người hiến kế, xin chúa thượng ra ngoài, tiểu nhân sẽ trình bẩm rõ”.

Nét mặt chư tướng chợt giãn ra, lộ vẻ chờ đợi. Lưu Giác lẳng lặng đứng dậy đi ra, cười khẩy: “Có chuyện gì phải dùng cớ này? Nếu không có kế thật, ngươi định để chủ ngươi giấu mặt vào đâu!”.

Lưu Anh toát mồ hôi hột, quỳ sụp xuống, hai tay nâng cái hộp: “Tam tiểu thư sai nữ tỳ đưa vật này đến, nữ tỳ nói tam tiểu thư nhắn là không được chậm trễ. Lưu Anh nghĩ, chúa thượng, chúa thượng...”.

Lưu Giác tung chân đá y, sẵng giọng: “Ngươi tưởng chúa thượng ngươi bây giờ vẫn còn tâm trạng vui chơi?”.

Lưu Anh dập đầu lia lịa: “Lưu Anh lỗ mãng, tự đi lĩnh roi phạt!”. Tay vẫn giữ khư khư cái hộp.

Đóa hoa băng lấp lánh dưới ánh nắng nhạt, màu hải đường đỏ chói. Lưu Giác động lòng: “Khoan, mang lại đây ta xem”.

Chàng cầm lên nhìn ngắm hồi lâu, đột nhiên hỏi: “Nguyên văn lời tam tiểu thư thế nào?”.

Lưu Anh đáp: “Tam tiểu thư nói, thấy hay hay, bèn làm tặng tướng quân, nói một canh giờ là làm xong, sai lập tức đưa tận tay tướng quân, không được chậm trễ!”.

Nụ cười hiện dần trên mặt, lòng chàng lâng lâng, A La đã nhìn thấy những bông hải đường chàng ủ vì nàng rồi ư? Cuối cùng đã hiểu lòng chàng rồi ư? Chàng giơ bông hải đường đóng băng lên ánh mặt trời ngắm nhìn hồi lâu, ánh mắt ngưng lại trên đóa hải đường màu đỏ, thầm lặp đi lặp lại lời A La, một ý nghĩ lóe lên trong đầu, chàng bước nhanh vào trong trướng, ngoái đầu, nghiêm giọng nói với Lưu Anh: “Không phải phạt roi, để sau sẽ tính sổ với ngươi!”.

Lưu Anh băn khoăn nhìn chủ nhân, giọng Lưu Giác tuy nghiêm khắc nhưng lại như cười. Y lau mồ hôi, bụng nghĩ, mọi người đều bị tam tiểu thư làm cho phát điên.

Lưu Giác trở vào trướng, cầm lên miếng ngọc băng nói: “Mọi người nhìn kỹ mảnh ngọc băng này, có nghĩ đến điều gì không?”.

Chư tướng ngây người, giữa mảnh băng kẹp một đóa hoa đỏ, giống đồ chơi mùa đông của trẻ con. Thời tiết thế này một lát sẽ thành băng, hơn nữa băng đóng rất chắc, không khí trong trướng ấm như vậy mảnh ngọc băng cũng không thấy tan hơi.

Lưu Giác dõng dạc: “Lệnh cho binh sĩ toàn thành huy động nồi to trong dân, đun nước sôi chuyển lên tường thành, bắt đầu từ bây giờ đổ nước lên tường thành, nhất định phải biến cả thành Lâm Nam trở thành một tòa băng thành. Như vậy ít nhất cũng kéo dài được ít thời gian”.

Các tướng lĩnh ồ lên, vui mừng ra mặt, nhận lệnh giải tán, triển khai thực thi.

Ba cổng thành mở rộng, quân sĩ cùng với dân chúng bắt đầu đổ nước lên dải đất cách chân tường thành Lâm Nam ba mươi trượng. Nước sôi được vận chuyển lên trên mặt tường thành, đến giờ Tuất, bên ngoài chân tường thành đã có một lớp băng dày, rộng hai thước. Có binh sĩ đã thử giẫm lên lớp băng, ngã oạch trượt từ đông sang tây, xung quanh dậy lên từng trận cười rộ.

Lưu Giác mỉm cười, có bức tường băng này, kéo dài thời gian được một ngày sẽ không thành vấn đề.

Tuyết vẫn không ngừng rơi, trên mặt tường thành Lâm Nam được phủ lên một lớp cỏ dày, cách ba mươi trượng lại đốt một lò than sưởi, lính gác tụ tập bên lò sưởi, lòng thầm cảm kích sự quan tâm của Bình Nam tướng quân. Lưu Giác hạ lệnh, những nhà dân ở trên núi cao không được thắp đèn, trên mặt tường thành Lâm Nam cũng không có một ngọn đèn. Dưới ánh trăng, nhìn ra xa, thành Lâm Nam phía bắc sông Hán Thủy chỉ là một vùng đen ngòm, không phân biệt đâu là núi, đâu là thành.

Vừa đến giờ Tý, mặt sông Hán Thủy bắt đầu nổi lên một lớp sương mù. Hai khắc sau, sương mù đã dày đặc, lúc đầu còn nhìn thấy ánh lửa lập lòe bên bờ kia, về sau tầm nhìn dần dần bị lớp mù trắng cuồn cuộn che khuất, trước mặt chỉ là khoảng không bao la. Lưu Giác đã bố trí xong xuôi, trở về phủ nghỉ ngơi. Nếu quân Trần vượt sông vào giờ Tý, ít nhất có thể nghỉ ngơi hai canh giờ. Chàng sẽ nghỉ một lát, nhân tiện cũng muốn thăm A La.

A La nhẩm tính thời gian, nàng không ngủ, đang tần ngần suy nghĩ quân Trần sẽ vượt sông như thế nào, ánh mắt dừng lại trên hàng chữ “các nước bên sông thả đồ hiến tế”. Thả đồ ư? Nàng lẩm bẩm”thả đồ”..., nếu dùng mảng tre, thả trên thượng nguồn, người dưới hạ lưu đứng đón, có mảng tre dẫn đường, sẽ không bị mất phương hướng. Nếu có người đốt đống lửa to ở Lâm Nam chính là ngọn đuốc dẫn đường toán người áo đen vốn định đốt lửa ở trong thành”.

Vừa lúc đó Lưu Giác đi vào phòng, nghe tiếng A La lẩm bẩm, buột miệng nói: “Chúng ta cũng có thể vượt sông bằng cách đó!”.

A La quay đầu, mắt hai người gặp nhau, Lưu Giác ngây người, tim đập rộn ràng. A La đứng dưới ánh đèn, một quầng sáng nhạt tỏa trên đầu nàng, mắt long lanh, nét mặt trong ngần dịu dàng, ánh sáng như tụ cả lên người nàng. Chàng đứng ngây hồi lâu, rồi thong thả đi đến, giơ tay khẽ chạm vào mặt A La, lại vội thu về, sợ đó chỉ là ảo ảnh.

A La bật cười. Chàng bỗng thấy tức ngực, trấn tĩnh lại, bật hỏi: “Ai bảo nàng ăn vận thế này?”.

Sao? A La hơi xấu hổ, giống như tâm địa bị vạch trần trước mặt mọi người, nàng ngoảnh mặt sang bên, nói dỗi: “Chàng không đi chỉ huy giữ thành, chạy đến đây làm gì?”.

Lưu Giác bối rối đứng ngây người ra, không biết nói gì, chỉ khẽ nhếch môi: “Đến xem nàng có thật thà hay không. Nàng đừng gây chuyện gì cho ta!”.

“Nhìn thấy rồi đó! Chàng có thể đi được rồi! Ta muốn ngủ!”. A La không dám nhìn chàng, leo lên giường nằm, tiện tay kéo rèm, xoay lưng lại.

Bị tấm rèm lụa màu vàng nhạt ngăn cách, chàng bực tức nhìn thân hình lờ mờ của nàng trên giường, nghĩ ngày mai còn phải đối phó với trận chiến quyết liệt, thầm nhủ, đánh xong trận này ta nhất định sẽ xử lý nàng! Chàng thổi đèn, quay ra.

Cố Thiên Tường nhận được tin báo của Lưu Giác liền điều động thủy binh triển khai theo kế hoạch.

Chính vào lúc cả thành Lâm Nam đang ráo riết phòng bị, trên khúc sông phía thượng nguồn Hán Thủy đoạn chảy qua Trần quốc, một đoàn chiến thuyền mang theo mảng tre dàn hàng một, từ từ chèo về phía bờ bên kia. Dòng sông chảy xiết, sương dày đặc, thống soái quân Trần đang sốt ruột chờ đợi. Ba canh giờ sau, một con bồ câu đưa tin đỗ vào tay ông ta, lúc này miệng ông ta mới nở nụ cười.

Giờ Thìn, chiến thuyền Trần quốc ba mươi vạn đại quân nối nhau xuất phát, đội thuyền hùng hậu được những mảng tre dẫn đường, từ từ tiến về phía Ninh quốc ở bờ bên kia.
Giờ Tỵ sáu khắc, quân Trần tiến đến ven sông, tốp binh sĩ đầu tiên xuống thuyền tập kết. Thành Lâm Nam im lìm như chết, trên vọng lầu chiến thuyền của thống soái quân Trần, một âm thanh trầm đục vang lên: “Thả neo công thành!”.

Một giọng khác bên cạnh, vừa mạnh mẽ vừa kiêu ngạo: “Vương huynh yên tâm, lính trong toàn thành Lâm Nam cộng thêm bá tính không quá năm, sáu vạn binh mã, không đáng một pha tấn công. Sở Nam lần này sẽ dùng máu rửa thành Lâm Nam!”. Giọng nói quen quen, đó chính là tên thủ lĩnh áo đen đột nhập vào thành đêm qua.

Hướng cổng nam thành Lâm Nam, lính gác trên tường thành bỗng phát hiện những bóng đen lố nhố nhô ra từ trong sương mù, một tiếng chuông vang lên, viên tướng thủ thành chờ đợi đã lâu, lập tức phất cờ hiệu, hàng ngàn mũi tên từ trên mặt thành bay ra, ánh chớp vun vút, lao về phía những bóng đen, tiếp đó là những tiếng kêu thảm thiết. Sau loạt tên thứ nhất, quân Trần từ các chiến chuyền tràn ra càng nhiều, tiếng hô “giết” chấn động mặt sông, thành Lâm Nam vẫn im lìm như chết.

Quân Trần giương cao lá chắn dàn thế trận, không lâu sau các chiến thuyền ngoài cổng thành phía nam đã triển khai thế trận. Chiến thuyền ẩn hiện trong sương mù, cách sông mấy chục trượng lại là ánh mặt trời rạng rỡ, ánh nắng chiếu lên bức tường băng bao bọc thành Lâm Nam, phản ra những tia sáng lóng lánh ngũ sắc. Lưu Giác đứng trên tường thành, trầm ngâm nhìn đại quân Trần cách thành hai dặm.

Sở Nam nhìn bóng đen trên tường thành, ánh mắt hận thù lóe lên, ra lệnh vẫy cờ hiệu, binh sĩ ào lên như thủy triều, giẫm lên lớp băng cách chân tường thành ba mươi trượng, trượt ngã dồn thành đống, ngay lập tức trận mưa tên trên tường thành nã vào, cứ như vậy hết loạt này đến loạt khác. Sở Nam cau mày, dùng ốc biển thổi tín hiệu thoái binh, quân Trần nhanh chóng lui binh.

Lưu Giác thấy vậy hô to: “Chuẩn bị con lăn!”.

Mấy khắc sau, quân Trần dùng lá chắn đỡ tên, nhanh chóng trải lên mặt băng lớp cỏ dày, lại bị đá tảng từ mặt thành hất xuống tiêu diệt.

Cứ như vậy, đến giờ Mùi quân Trần mới tiến được sát chân thành. Sở Nam lòng như lửa đốt, hai canh giờ mới tiến được đến chân thành, đã tiêu hao mất mấy ngàn quân, trên tường thành Lâm Nam đóng một lớp băng dày, bò lên được đâu có dễ. Hắn dần hiểu ra Ninh quốc đang kéo dài thời gian, đợi sương mù tan, thủy quân sẽ đến, quân Trần lưng bụng đều có địch, vội vàng ra lệnh bắn đá.

Dưới thành Lâm Nam những cỗ máy bắn đá xếp thành hàng, những tảng đá lớn với xung lực cực mạnh bắn về phía tường thành. Một lớp băng vừa bị phá, trên thành lập tức dội nước sôi xuống. Nhân lúc nước chưa kịp đóng băng, đội tiên phong quân Trần quăng móc câu, bắc thang dây trên tường. Một tốp binh sĩ địch ngã xuống, tốp khác lại xông lên.

Lưu Giác lo lắng, bức tường băng chỉ có thể ngăn cản nhất thời, nhưng đối phương người đông, sớm muộn cũng trèo lên được tường thành.

Sở Nam cười sằng sặc: “Truyền lệnh, ai trèo lên được tường thành bất luận sống chết mỗi người thưởng mười lạng vàng”.

Tình hình vô cùng căng thẳng, quân Trần trùng trùng dâng lên, mặt tường băng đã nhuộm máu đỏ, dưới chân thành xác chết ngổn ngang, dưới ánh chiều tà, bức tường băng thấm máu lóe lên những tia sáng kỳ dị, cả chiến trường ảm đạm như địa ngục.

Nam quân cũng tổn thất nghiêm trọng. Sau bốn canh giờ giao chiến, tên không còn nhiều, con lăn và đá tảng cũng gần hết, đá được từ trên núi xuống, gỗ dỡ từ nhà dân gần như sắp không đủ tiếp tế được nữa, quân sĩ đã tỏ ra mệt mỏi.

Mặt trời đã lặn, trăng đã lên cao. Quân Trần ỷ thế quân đông, luân phiên tấn công, không nghỉ ngơi. Lưu Giác nhìn về phía tây, ánh mắt xuyên qua mặt sông phủ kín sướng mù. Cuối cùng đã có những lính Trần đầu tiên trèo lên được tường, chém chết lính thủ thành. Lưu Giác mắt vằn đỏ, xông lên phía trước, kiếm vung lên như chớp, nhanh chóng bịt lỗ hổng vừa bị chọc thủng.

Sở Nam nhìn Lưu Giác vung kiếm ngang dọc, lòng bừng bừng phẫn uất, miệng gầm lên, lao ra khỏi đội quân, giang tay vận khí, tung thân vọt lên mặt tường như một chiếc cầu vồng, quyết đấu với Lưu Giác.

Võ công hai bên ngang ngửa, nhưng Lưu Giác đã bị tiêu hao không ít sức lực, trong khi Sở Nam khí thế như thủy triều, thanh đoản kiếm như con trăn bám riết Lưu Giác, miệng thét to: “Hôm nay ta quyết rửa nhục!”.

Lưu Giác nhìn trời, nói dõng dạc: “Không kịp nữa rồi! Thủy quân của ta đã vượt Hán Thủy, phá thủy trại của ngươi!”.

Sở Nam kinh ngạc, lưỡi kiếm trong tay càng khát máu, một nhát đâm trúng ngực phải đối phương. Lưu Giác lập tức cùng Ô y kỵ xông tới, lưỡi gươm của Sở Nam vung đúng lúc, hai cao thủ đổ xuống, nhưng Ô y kỵ vẫn bám riết Sở Nam. Lưu Giác nhổ ra một ngụm máu, cười lớn: “Ngươi nhìn xem, sương mù đã tan!”.

Gần tới giờ Tý, sương mù trên sông Hán Thủy bắt đầu tan, lộ ra những bóng thuyền dày đặc. Trên mặt sông đột nhiên dậy lên tiếng trống trận, tiếng hô “giết” vang trời.

Sở Nam nhìn chòng chọc vào mặt Lưu Giác, mặt chàng vẫn tươi cười, dường như không phải vừa trúng nhát gươm. Sở Nam lo ngại tình hình trên sông, không muốn đánh tiếp liền bay người nhảy xuống .

Không lâu sau, thế tấn công của quân Trần giảm dần. Lưu Giác đẩy Lưu Anh ra, đứng thẳng người, lớn tiếng hạ lệnh: “Chư vị tướng sĩ, thủy quân của ta đã đột nhập vào đại bản doanh của đối phương, hãy mở cổng thành, hai mũi tiền, hậu phối hợp giáp công!”.
Một vạn binh mã đã chờ sẵn ở cổng thành, thấy trên tường thành cảnh giao chiến khốc liệt, nhưng vẫn phải đợi trong thành, không được manh động, ai nấy đều nóng lòng không yên, giờ đã được lệnh, lập tức hò nhau xông vào đánh quân Trần.


Sử Ninh quốc ghi: Niên hiệu Khánh Nguyên năm thứ ba mươi ba, Trần quốc tập kích, vào Ngày Đại Tuyết, bốn vạn lục quân Ninh quốc thủ thành, ba vạn thủy quân, nhân lúc sương mù vượt sông, phá tan thủy trại của thủy binh Trần quốc kéo dài ba mươi dặm, mười vạn binh mã đại bại dưới chân thành Lâm Nam. Thủy quân Trần quốc tổn thất nghiêm trọng. Trần vương cầu hòa, bồi thường bốn mươi vạn lạng bạc, hàng năm triều cống.

Ánh trăng trải trên thành Lâm Nam ngập máu, tiếng kêu rên thảm thiết vang vọng trong đêm. Cố Thiên Tường vội vã vào thành, Lưu Giác nhìn thấy chàng mỉm cười. Chàng xúc động chạy đến ôm chầm Lưu Giác.

Một tiếng kêu thất thanh, chàng đẩy Lưu Giác ra nhìn, thấy áo giáp của mình thấm đầy máu tươi, cau mày hỏi: “Huynh bị thương sao?”.

Lưu Anh và binh sĩ Ô y kỵ quỳ sụp cầu khẩn: “Xin chúa thượng trở về phủ!”.

Lưu Giác mỉm cười, khuôn mặt tuyệt đẹp lúc đó mới giãn ra, chàng nháy mắt với Cố Thiên Tường: “Huynh ghét nhất thu dọn tàn cuộc, đệ hãy giúp huynh rửa sạch thành!”. Nói xong ngã nhào vào lòng Cố Thiên Tường.

“Khốn kiếp! Các ngươi bảo vệ chủ nhân thế nào vậy?”. Cố Thiên Tường tức giận quát.

Lưu Anh không dám nói gì, ôm Lưu Giác chạy về hướng tướng phủ, binh sĩ Ô y kỵ lên ngựa đi theo. Cố Thiên Tường vẫn chưa hết giận: “Bọn khốn mắt mọc trên đầu!”. Nói đoạn hạ lệnh thu dọn chiến trường.

Trong phủ tướng quân, thấy Lưu Anh ôm Lưu Giác đi vào, mọi người hoảng sợ chân tay mềm nhũn. Đại phu đã chờ sẵn trong phủ, Lưu Anh cởi áo giáp của chủ nhân, phát hiện chiếc áo bên trong đầm đìa máu, nửa thân người như ngâm trong máu, mắt bỗng đỏ hoe.
Đại phu thận trọng cắt lần áo trong, ngực phải lộ ra vết thương mảnh sắc lẹm, máu vẫn đang chảy. Lưu Anh hét lên: “Cầm máu ngay! Chảy thế này hết máu bây giờ!”.

Đại phu giật nảy người, đã quen nhìn thấy máu, lại thêm người bị thương là Bình Nam tướng quân, cho nên đại phu đã dùng những loại thuốc tốt nhất. Cầm máu, băng bó xong, ông ta mới nói: “Vết kiếm không vào chỗ hiểm, cũng không nghiêm trọng lắm, chỉ là mất máu quá nhiều”.

Lưu Anh nói như rên: “Thế là thế nào? Rút cục là sao?”.

“Chẳng thế nào hết, với thể lực của tướng quân, nằm mười ngày nửa tháng là lại khỏe như voi. Bây giờ tướng quân hôn mê là do mất máu nhiều, bồi bổ là không sao”.

Lúc này Lưu Anh mới thở phào, quay đầu thấy sự lo âu căng thẳng trong mắt binh lính và Ô y kỵ đã dịu đi, mọi người lục tục tản ra, ai làm việc nấy.

Cố Thiên Tường xử lý xong công việc cũng đến tướng phủ. Nghe Lưu Anh nói lại tình hình, liếc nhìn Lưu Giác nằm trên giường, mới tạm yên tâm: “Thì ra không chết được!”.

Lưu Anh đã quen thái độ của Cố Thiên Tường, nói: “Chúa thượng sao có thể chết được, còn phải uống Ly nhân túy với Cố tướng quân chứ”.

Ánh mắt Cố Thiên Tường lướt trên mặt Lưu Anh: “Học gì không học, lại đi học cái lối bông phèng của chủ nhân ngươi!”.

Lưu Anh mỉm cười: “Đa tạ tướng quân quá khen, có thể học chủ nhân ít nhiều là phúc của tiểu nhân!”.

Cố Thiên Tường ngoảnh lại, thầm nghĩ, có lẽ cũng phải tìm ngày lành tháng tốt cưới Doanh Tú thôi, để khỏi bị chủ tớ nhà này suốt ngày trêu chọc.

Lúc đó, một mỹ nhân tóc xõa từ ngoài cửa lao vào, tay nâng chiếc váy quét đất, vẻ cuống cuồng hốt hoảng càng đáng yêu, Cố Thiên Tường sững người, phủ tướng quân giấu tuyệt thế mỹ nhân này từ bao giờ vậy?

Lưu Anh bước lên thưa: “Tam tiểu thư, ngực chúa thượng bị thương, mất nhiều máu...”.

A La cũng lo lắng tình hình chiến sự, nàng không hề ngủ, đang mệt mỏi thiu thiu thì nghe tiếng ồn ào, tiếng bước chân gấp gáp bên ngoài, lập tức tỉnh ngủ. Chạy ra cửa hỏi mới biết Lưu Giác bị thương đã được đưa về phủ, nàng thất kinh, chạy vội ra ngoài. Hai kỵ binh Ô y kỵ ngoài cửa cũng không ngăn cản, cùng theo nàng đến phòng của Lưu Giác.

Nàng ngắt lời Lưu Anh: “Liệu có chết không?”. Thấy Lưu Giác nằm trên giường, mặt trắng nhợt, hôn mê bất tỉnh, như không biết gì nữa. Nàng bỗng nói to: “Rút cục vương gia thế nào?”.

Từ lúc A La chạy vào, Cố Thiên Tường vẫn sửng sốt đứng ngây, thì ra Trình Tinh chính là tam tiểu thư tướng phủ! Chàng công tử phong lưu mã thượng có khuôn mặt đẹp như ngọc tạc, hiểu nhiều biết rộng, chính là tam tiểu thư tướng phủ mà thiên hạ đồn là bị bắt cóc. Chàng nhớ lại lần đầu gặp tam tiểu thư này, dáng vẻ quý phái, đôi mắt lóng lánh, hồn nhiên ứng đối những câu hỏi thăm dò, xóa tan nghi ngờ của chàng, lại nhìn A La, rồi nhìn Lưu Giác, vừa giận vừa buồn cười.

Thảo nào Lưu Giác phái binh mã đi theo nàng ta, thảo nào chàng vừa ra khỏi tửu quán đã bị Lưu Giác mời đến phủ, thảo nào chàng tiểu vương gia kiêu ngạo này ba năm nay lưu luyến không quên, thú vị thật! Cố Thiên Tường thấy A La vừa hốt hoảng lo âu vừa nôn nóng, hình như không kiên nhẫn được nữa, lời nói đã có phần bực bội, chàng nhìn sang chỗ khác, giọng đau buồn: “Mất máu quá nhiều!”.

Lòng A La đột nhiên trống rỗng, ngồi phịch xuống giường. Nàng chậm rãi quay đầu, nhìn nét mặt đau đớn của Cố Thiên Tường, nhìn xung quanh, lính hầu, nữ tỳ mắt đều đỏ hoe, như vừa khóc. Lại quay nhìn đại phu, thấy ông ta cúi mặt dường như đang lắc đầu, Lưu Anh đã quay mặt đi, người run run, hình như đang khóc. Mất máu quá nhiều? Cô hét lên: “Vậy mau truyền máu!”.

Mọi người ngớ ra, đại phu hỏi: “Truyền máu thế nào?”.

A La há miệng, lập tức định thần, ở đây làm gì có thiết bị truyền máu, không thể truyền máu cho Lưu Giác được. Mắt nóng ran, nàng hận mình sao không học ngành y, đầu óc trống rỗng, nghĩ mãi không biết làm gì cứu chàng. Không cứu được sao? Lòng nàng đau thắt từng cơn.

Không nhìn mọi người trong phòng, nàng ngơ ngẩn nhìn khuôn mặt tuấn tú của Lưu Giác, khuôn mặt không sắc máu, đờ đẫn bất động. Bàn tay run run giơ ra chạm vào mặt chàng, cảm giác lạnh ngắt khiến nàng giật mình, quay đầu nói gắt: “Sao không đốt thêm mấy lò sưởi?!”.

Mọi người giật mình, nữ tỳ vội chạy ra ngoài bê thêm lò sưởi đi vào. Lưu Anh hình như đã hiểu ý của Cố Thiên Tường, dụi mắt nghẹn ngào nói: “Tam tiểu thư, tiểu thư ở đây với chúa thượng một lát”. Nói xong đưa mắt ra hiệu, mọi người cúi đầu lui ra ngoài.

Ra khỏi phòng, Lưu Anh cúi chào Cố Thiên Tường. Chàng khẽ lắc đầu thấy trời đã rạng, tuyết vẫn đang rơi, bèn nói với Lưu Anh: “Lấy cho ta cái ô, ta muốn đi uống chén rượu nóng”.


Trong phòng yên tĩnh, A La nhìn Lưu Giác không chớp, rồi không nén nổi, vỗ nhẹ mặt chàng: “Chàng tỉnh lại đi? Chàng đừng như thế này nữa được không?”. Cổ họng nghẹn đắng, nàng bật khóc: “Mất máu quá nhiều sẽ bị chết, chàng biết không! Thiếp rất sợ người chết! Chàng đừng chết trước mặt thiếp được không?”.

Lưu Giác không động đậy, chàng đã rơi vào trạng thái hôn mê do mất nhiều máu. Chàng không nghe được mình nói nữa sao? Chàng không thể đứng dậy nói chuyện với mình, đấu lý với mình ư? A La cảm thấy trong lòng có một lỗ thủng đang lớn dần, nước mắt chảy thành dòng xuống má, những chuyện cũ lần lượt hiện ra trước mắt. Vì sao mình lại quan tâm thế này? Vì sao chỉ mới nghĩ chàng không thể dậy được nữa mình lại buồn thế này?

Nàng vuốt nhẹ mặt chàng, lẩm bẩm: “Thực ra chàng rất tuấn tú!”. Ngón tay xuống sống mũi, “Thực ra chàng rất ghê gớm!”. Lại lướt đến môi chàng, “Chàng mới là người khẩu xà tâm Phật!”. Đột nhiên nghĩ mình đến nơi này một cách lạ lùng, suốt ngày lo lắng, nàng bỗng tủi thân òa khóc.

Mi mắt Lưu Giác bỗng động đậy, đầu chàng u u mê mê, trong lúc mê sảng chàng nhìn thấy A La, thấy khuôn mặt như hoa lê dầm mưa trước mắt. Chàng mê sảng nói: “Có phải ta đang mơ không?”.

A La giật mình, không để ý đến chàng, hét to: “Người đâu, bác sĩ! Đại phu! Lưu Anh!”.

Nghe tiếng gọi thất thanh, Lưu Anh và mọi người chạy vào, luống cuống hỏi: “Sao thế?”.

A La không nói được gì, tay chỉ Lưu Giác: “Tiểu vương gia...”.

Lưu Anh bước hai bước đến cạnh chủ nhân, ngoái lại hỏi: “Thuốc đâu?”.

Nữ tỳ vội chạy đi lấy thuốc, Lưu Anh bê bát thuốc bón từng thìa vào miệng Lưu Giác. A La nhìn vậy sốt ruột, hỏi: “Có tác dụng không? Thuốc này có tác dụng không? Có phải tiểu vương gia đang hấp hối”.

Một ngụm thuốc trôi vào cổ họng, hơi đắng, nước làm trơn cổ họng, lại thấy dễ chịu, cuối cùng Lưu Giác nhìn rõ người trước mặt. Giọng chàng yếu ớt nhưng rõ ràng: “Ta chết thì nàng sẽ được tự do!”.

A La ngớ người, quay nhìn Lưu Anh: “Tiếu vương gia sẽ không chết chứ?”.

Lưu Anh ngần ngại cúi đầu: “Mất quá nhiều máu mê sảng thôi!”.

Lưu Giác bỗng giơ tay nắm tay A La, mắt vẫn nhắm, miệng lẩm bẩm: “Không được đi đâu!”.

A La cảm thấy tay chàng khá mạnh, lòng bỗng nhẹ bẫng, mừng quýnh, nghĩ ngay là Cố Thiên Tường cố ý lừa mình, nói giọng giận dỗi: “Không đi!”. Nàng nhìn Lưu Anh: “Thì ra vừa rồi là ngươi cười phải không?”.

Lưu Anh đỏ mặt: “Là... là mừng quá phát khóc đấy mà! Tiểu nhân... tiểu nhân xuống bếp xem sao!”.

“Khoan, bảo nhà bếp, bắt đầu từ hôm nay, mỗi bữa đều cho tướng quân ăn gan lợn, nấu cháo hay hầm canh đều được, dùng táo đỏ, cẩu khởi hãm nước mang đến đây”. Những thứ bổ máu cô biết chỉ có ngần ấy, vội dặn dò Lưu Anh.

Lưu Giác đầu vẫn choáng váng u mê, nghe thấy tiếng nói nhưng không thể mở miệng. Môi chàng nở nụ cười nhợt nhạt.

CHƯƠNG 19


Lưu Giác vừa tỉnh giấc, tinh thần đã phục hồi bảy, tám phần, chàng cử động chân tay chỉ thấy ngực phải rất đau, lại vận nội khí, hầu như đã không còn trở ngại lớn, bèn mở mắt, thấy mình vẫn đang nắm tay A La. Nàng gục đầu vào mép giường, đang ngủ, trên người chỉ khoác tấm chăn, may mà lò sưởi lửa vẫn cháy rất đượm, trong phòng ấm như mùa xuân. Thấy mí mắt nàng hoe đỏ, mòng mọng, ánh mắt chàng trở nên dịu dàng, chợt nảy ý định, miệng la to: “Ôi trời, đau quá!”.

A La sực tỉnh, thấy chàng nhăn nhó kêu đau, bỗng nhớ lại sự việc tối qua, vội nói: “Chàng sẽ không chết đâu!”.

“Đau quá!”.

“Bị kiếm đâm đương nhiên là đau rồi, lại còn không có thuốc tê nữa”. A La không biết làm gì, gọi to: “Người đâu! Tướng quân các ngươi tỉnh rồi!”.

Nữ tỳ chạy vào, mang theo nước hãm táo đỏ và cẩu khởi, vui mừng reo lên: “Tướng quân tỉnh rồi! Đại phu báo cũng không nặng lắm, nghỉ ngơi chục ngày vết thương lành miệng là không sao”.

Nữ tỳ đưa bát nước cho Lưu Giác, đúng lúc chàng đang khát, uống liền một hơi, lại rên rỉ: “Đau quá!”.

Mắt A La vụt đỏ, nhòe nước: “Làm thế nào bây giờ?”. Nàng ngoái đầu nhìn nữ tỳ, nói: “Đi hỏi đại phu xem có thuốc giảm đau không!”.

Lòng Lưu Giác lâng lâng: “Thì ra nàng quan tâm đến ta như vậy”.

Mặt A La đỏ bừng, tươi thắm mơn mởn. Mắt vẫn mờ ướt, dịu dàng như làn nước. Lưu Giác nhìn không chớp, đột nhiên lại cau mày: “Thiên Tường đến chưa?”.

A La hơi tươi tỉnh gật đầu.

“Nhìn thấy nàng như thế này à?”.

“Ồ? Sao thế?”.

“Chẳng phải ta đã nói nàng không được ra khỏi phòng nửa bước cơ mà?”. Lưu Giác không hài lòng.

A La phát bực: “Chẳng phải thấy chàng sắp chết hay sao!”. Nàng giận dỗi rút tay về.

Lưu Giác vẫn nắm chặt không buông, mắt nhắm lại: “Ta đã cho phép nàng đi ra ngoài chưa?”.

A La lườm chàng, không biết làm thế nào, lát sau giận dỗi nói: “Nếu không nể chàng đang bị thương, thiếp đã đánh cho chàng rụng răng rồi!”.

“Ta muốn ăn món nàng nấu, không làm món chay!”. Lưu Giác lại nói.

“Vậy chàng bỏ tay ra!”. A La vừa tức vừa buồn cười, thầm nghĩ, sao chàng ta cũng biết làm nũng thế?

“Của ta, ta không buông!”. Lưu Giác không chịu.

“Có muốn thiếp lấy chàng không?”. A La hỏi khẽ.

“Không phải là muốn, vốn đã thế mà!”.

“Vậy chàng buông thiếp ra, thiếp đi nấu cho chàng ăn!”.

Lưu Giác từ từ mở mắt, buông tay A La. Nàng đứng đậy, chống tay vào eo cười: “Thiếp sẽ nấu cho chàng. Muốn thiếp lấy chàng, tốt nhất nên biết điều một chút, hừ!”. Nói xong nàng ngẩng cao đầu đi ra.

Lưu Giác nghiến răng nhổm dậy, chạm vào vết thương đau nhói, bụng nghĩ, a đầu này thật ngang bướng.

A La phấn khởi đi tìm Lưu Anh hỏi: “Mẹ ta và Tiểu Ngọc đâu?”.

Lưu Anh cung kính trả lời: “Chúa thượng đã đồng ý cho tiểu thư gặp họ rồi ư?”.

A La trợn mắt: “Chúa thượng ngươi còn đang mong tâm trạng ta vui vẻ mới nấu đồ ăn cho chàng, bây giờ người nằm im trên giường không thể động đậy là chàng ta chứ không phải ta!”.

Lưu Anh nén cười, đưa A La đi gặp thất phu nhân và Tiểu Ngọc. Qua một cái sân, xuyên qua ô cửa hình bán nguyệt, họ nhìn thấy thất phu nhân và Tiểu Ngọc đang ngồi trong sân. Thấy A La đi đến, thất phu nhân cười vui vẻ: “Tam Nhi, tiểu vương gia có tốt với con không?”.

“Mẹ có khỏe không?”. A La rảo bước đến ôm chầm lấy bà.

Thất phu nhân vỗ vỗ tay nàng, rõ ràng bà đã biết mọi chuyện. Tiểu Ngọc bĩu môi lườm Lưu Anh: “Ngươi lại đến đây làm gì?”. Lưu Anh cười nhăn nhó: “Chẳng phải thuộc hạ đã đưa tam tiểu thư đến rồi sao”.

Tiểu Ngọc hừ một tiếng, không thèm để ý anh ta, ôm chầm A La mắt đỏ hoe: “Tiểu thư, em lo cho tiểu thư quá!”.

A La tươi cười nhìn Tiểu Ngọc, lại nhìn Lưu Anh đang mặt đỏ tía tai. Xem ra mấy ngày nay hai người này đã có chuyện rồi. Nàng mỉm cười: “Mẹ à, tiểu vương gia bị thương, con đi nấu vài món cho chàng ăn. À, Tiểu Ngọc, ta viết giấy em và Lưu Anh đi mua mấy thứ về đây”.

Mặt Lưu Anh sáng lên, ngạc nhiên, sung sướng, Tiểu Ngọc liếc anh ta, mặt thoáng đỏ, lẩm bẩm: “Việc gì phải đi với anh ta, đáng ghét, lúc nào cũng ngăn cản, không cho em và phu nhân gặp tiểu thư!”.

A La cười ha ha: “Không liên quan đến y, có trách thì trách Lưu Giác. Muốn ăn món ta nấu, còn phải xem thái độ chàng ta thế nào”.

Lưu Anh ngẩn người, cúi đầu thở dài, sao chúa thượng lại khổ thế chứ!

Sau khi Tiểu Ngọc và Lưu Anh đi khỏi, trong sân chỉ còn nàng và thất phu nhân. A La không cười nữa, ngồi nép vào thất phu nhân, gối đầu lên đùi bà, hỏi nhỏ: “Làm thế nào đây? Mẹ?”.

“Tam Nhi, con cũng lớn rồi, mẹ thấy tiểu vương gia đúng là rất tốt với con, trong lòng chàng ta có con!”.

“Nhưng phải quay về Phong thành. Mẹ à, khó khăn lắm chúng ta mới thoát khỏi đó”.

Nếu lấy Lưu Giác, nàng sẽ phải ngoan ngoãn ở bên chàng. Nhưng như vậy có nghĩa phải đối mặt với bao phiền toái của triều đình Ninh vương ở Phong thành, cuộc sống tự do bay lượn như chú chim chắc là sẽ khó mà có được, A La bất giác thở dài.

Thất phu nhân cúi đầu nhìn nàng, lại ngẩng đầu nhìn ra xa: “Tam Nhi, mẹ ở trong bốn bức tường tướng phủ, hy vọng duy nhất là con, mẹ chỉ mong con sống vui vẻ. Ngoài nhớ con, khi buồn mẹ luôn nhớ lại những tình cảm tốt đẹp đã từng có. Hiếm hoi mới có người một lòng một dạ với con như tiểu vương gia, con đừng bỏ qua. Có lúc mẹ đã nghĩ, đời người ngắn ngủi, nhiều khổ đau, được chung sống với người mình yêu, mọi nỗi khổ sẽ vơi đi nhiều. Nếu con bỏ qua, trên đời này tìm đâu ra người có thể che chở bảo vệ con, một lòng với con? Hãy đối xử tốt với tiểu vương gia, đừng nên vì bướng bỉnh nhất thời mà hối hận cả đời”.

Từ lúc gặp gỡ gây oán ban đầu, đến rắp tâm thách thức “thủy hỏa bất tương dung”, mọi biểu hiện sinh động của Lưu Giác lần lượt hiện lên trong đầu A La, dường như từ trước đến giờ đều là nàng không tin chàng. Nàng kỳ công mưu tính tìm cách rời bỏ Phong thành, thoái hôn trốn tránh chàng mới đến đây. Nhưng ba năm xa cách, khi gặp lại nàng không hề cảm thấy xa lạ. Chàng quan tâm nàng như vậy, gặp lại mới mấy ngày, nàng đã thấy như ở bên nhau rất lâu.

Nàng cảm động, cảm động mối tình sâu nặng của chàng, cũng không thể xua đi mối tình sâu nặng ấy trong lòng. Trong những ngày này, Lưu Giác luôn khiến nàng cảm thấy an toàn, đó là sự an toàn trước giờ chưa từng có. Từ bao giờ chàng đã trở thành người đàn ông thật sự trong lòng nàng? Cảm giác an toàn, bình yên đáng tin cậy nơi chàng khiến nàng muốn dừng chân, không muốn phiêu bạt nữa.

Lấy chàng, nàng phải đối điện với tướng phủ và cung đình mà nàng căm ghét; nhưng nếu không lấy chàng, lẽ nào lại bỏ trốn? Nghĩ đến vẻ đau đớn tuyệt vọng của Lưu Giác, nỗi chua xót dâng trào khiến nàng tức ngực, trong lòng nàng, trong mắt nàng chỉ có hình bóng chàng. Rời xa chàng nàng sẽ day dứt đau khổ biết bao!

Bao ý nghĩ chồng chéo quay cuồng trong đầu, lòng phân vân bấn loạn. Nàng nghĩ, nếu thật sự yêu một người, yêu đến khắc cốt ghi tâm, sẽ không nhiều đắn đo như vậy. Nàng yêu chàng, từ lúc thấy chàng bị thương nằm bất động nàng đã hiểu, nhưng khi thực sự phải từ bỏ mọi thứ đã có để đi theo chàng, không hiểu sao nàng lại đắn đo như thế.

Thất phu nhân nói: “Hai năm nay đi ra ngoài, mới nhận thấy đất trời thật rộng lớn. Mẹ đã nghĩ thông suốt rồi, nửa đời còn lại mẹ muốn nương nhờ cửa Phật”.

A La kinh ngạc, ôm riết lấy bà: “Nhưng con không muốn để mẹ sống một mình. Bao năm nay mẹ là người thân thiết nhất của con”.

Nàng ngẩng đầu nhìn thất phu nhân, đôi mắt đẹp của bà ánh lên vẻ hiền hậu. A La xúc động, một người đã sớm nguội lòng trần như thất phu nhân, ra khỏi tướng phủ lại cảm thấy đất trời mênh mông, tự tìm được chút niềm vui thanh thản, nếu lại phải quay về chốn cũ sẽ vô cùng phiền muộn. Nếu mình lấy Lưu Giác, trở về Phong thành, Lý tướng nhất định không cho thất phu nhân đi. Ông ta sẽ giữ bà trong tướng phủ như một con bài để khi cần gây sức ép với nàng. Đón thất phu nhân đi cũng không ổn, đây là Ninh quốc, là thời cổ đại, bao luật lệ khuôn phép cũng không dung cho thất phu nhân rời tướng phủ lâu dài. Lòng trăm mối tơ vò, nàng nói: “Mẹ à, mẹ vì con đúng không? Mẹ không muốn quay trở về tướng phủ, nhưng nếu con lấy Lưu Giác, mẹ phải quay về”.

Thất phu nhân dịu dàng nhìn nàng: “Tam Nhi, con thật thông minh, mẹ không muốn quay về, cũng không thể quay về. Nhưng, mẹ muốn quy y cũng là thật. Trải qua bao nhiêu năm như vậy, bây giờ mẹ chỉ muốn bầu bạn với ngọn đèn xanh, siêu độ cho người đã thác oan vì mẹ. Ông ấy ở trong lòng mẹ, luôn ở trong lòng mẹ. Có ông ấy ở bên, mẹ đâu còn sợ cô đơn? Hơn nữa, con vẫn có thể thường xuyên đến thăm mẹ”.

Thất phu nhân lại cười tinh nghịch: “Mẹ sẽ tu ngay tại hậu viên của vú Trương!”.

A La vùi đầu vào lòng thất phu nhân: “Để con nghĩ đã. Bây giờ con vẫn chưa quyết định”.

Một binh sĩ Ô y kỵ đi đến cúi chào hai người: “Tam tiểu thư, chúa thượng mời tiểu thư đến đó”.

A La lúc này mới sực nhớ, nàng mải nói chuyện với Thất phu nhân, con mèo ốm kia sốt ruột rồi. Nàng cười: “Mẹ à, con đi xem chàng ta thế nào”.

Lưu Giác ngủ một lát, uống thuốc xong, nằm thêm lát nữa, ăn mấy món gan lợn, được biết là do A La bảo làm cũng thấy khá ngon miệng. Xong xuôi lại không ngủ được, chờ mãi không thấy A La quay về, mặt sa sầm sai người đi tìm, tự dưng thấy sốt ruột, không nén nổi bèn khoác áo ngồi đậy.

A La đi vào, thấy Lưu Giác đang ngồi tựa đầu giường đọc sách: “Sao đã dậy rồi? Nằm xuống cho thiếp!”.

“Chưa cưới đã quản thúc tướng công rồi? ”.Lưu Giác không nhúc nhích, nhướn mày nói đùa.

“Nói nhảm gì thế? Trông thần sắc chàng tốt lên nhiều rồi! Vậy mặc kệ chàng, thiếp đi đây. Không phải thiếp bị thương, sao thiếp phải lo chứ”. A La nghe chàng nói vậy, ngẩn ra, nói không khách khí, quay người như định bỏ đi.

Lưu Giác hoảng hốt nhảy lên kéo nàng lại. Ngực đau nhói, chàng cũng mặc vẫn cố kéo A La, cả hai cùng ngã ra giường. A La vừa va vào người, chàng vờ đau đớn nhăn nhó: “Bắt đầu từ bây giờ, nàng sẽ ở lại đây, không được rời một bước”.

A La xúc động, Lưu Giác hít một hơi nói tiếp: “Nếu còn cựa quậy vết thương của ta lại toác ra”.

A La không dám động đậy, khẽ nép vào lòng chàng. Lòng chàng ấm áp như lòng thất phu nhân và mẹ nàng ở thế giới hiện đại. Nàng khao khát, lưu luyến cảm giác ấm áp như thế này. Nhưng, thật sự phải quay trở về nàng lại không muốn. A La nhắm mắt cảm nhận hơi thở của chàng, cũng không muốn nói, cứ như thế này một lát thôi.

Nàng cứ ngồi yên như thế. Lòng Lưu Giác chợt nôn nao, nghĩ đến mấy năm qua chàng đã vì nàng đau đớn không biết bao phen, buồn bao nỗi, bây giờ cuối cùng có thể ôm nàng vào lòng, cảm thấy vừa xúc động vừa xót xa. Chàng xiết tay, ôm chặt A La, chỉ sợ buông lơi nàng lại biến mất. Vết thương ở ngực chàng không mấy bận tâm, thậm chí còn thấy tiếc không trúng một nhát kiếm sớm hơn, nếu không A La đâu có ngoan ngoãn nằm trong vòng tay chàng như thế này.

Mắt chàng dừng lại trên miếng ngọc băng đặt ở bệ cửa sổ, nói nhỏ: “Mảnh ngọc băng nàng tặng ta rất đẹp, sao nàng lại nghĩ ra kế để cho tường thành đóng băng như vậy?”.

A La không thừa nhận: “Chẳng qua thấy chàng quá si tình, còn kỳ công đốt lửa sưởi cho hải đường ra hoa, thiếp tặng chàng món quà nhỏ cho công bằng”.

Lưu Giác cười đau khổ, nàng vẫn không chịu thừa nhận tình cảm đối với chàng, bỗng nhiên hoảng hốt, nói lạnh lùng: “Nàng đừng nghĩ lại bỏ trốn, trước đây có thể trốn được là do Lý phủ có sơ hở. Bây giờ tốt nhất nàng từ bỏ ý định đó đi, ngay cả trong ý nghĩ cũng không nên”. Chàng lại thở dài, dịu giọng: “Ngẩng mặt lên nhìn ta, A La”.

A La ngẩng đầu, nhìn chàng đăm đăm, mắt lại nhòe ướt. Trong thế giới này nàng quả thực không có sức mạnh. Lúc này, nghĩ đến những tên áo đen bịt mặt hôm trước, cảm thấy mình thực yếu đuối, không nơi nương tựa. Lưu Giác nhẹ nhàng lau nước mắt cho nàng: “Trừ phi ta chết, hãy tin ta, A La! Ta sẽ che chở bảo vệ nàng suốt đời suốt kiếp”.

Nàng nhắm mắt, nước mắt lại ứa ra: “Thiếp không biết, đừng hỏi thiếp, bây giờ đừng hỏi”.

Vết thương trên ngực lại nhói đau, chàng cúi đầu nhìn nàng. Nhắm mắt, lòng đã quyết, từ giờ không thể để cho A La quyết định.

Những tia nắng đầu tiên hiện ra sau những trận mưa tuyết, thành Lâm Nam trở lại cảnh tượng thuyền bè tấp nập như trước, chiến sự đã qua. Nỗi đau của những gia đình có binh sĩ tử trận cũng dần nguôi ngoai, những vết máu xối chưa hết trên tường thành cũng mờ dần.

Vết thương của Lưu Giác bình phục rất nhanh, chàng ở trong phủ dưỡng thương, A La ở bên chàng không rời một bước. Chàng tuyệt nhiên không đả động đến chuyện cưới xin, A La cũng không nhắc đến quan hệ giữa hai người, họ rất thoải mái, chuyện trò cũng thân mật hơn.

Sáng sớm mỗi ngày, nàng vẫn luyện võ như thường, động tác nhanh nhẹn, Lưu Giác không vận nội lực đấu với nàng, có lúc cũng có thể ra mấy chiêu phối hợp. A La nói: “Chẳng phải chàng luôn muốn biết quyền cước đó gọi là gì, học với ai sao?”.

Lưu Giác chưa bao giờ nhìn thấy loại võ công chủ yếu dùng chân đá, tay chém, xỉa chẳng có quy tắc gì hết như vậy. Chàng cố nén tính hiếu kỳ, mỉm cười nhìn A La.

“Đó là...”, A La nghĩ đến thế giới mà cô được đưa đến này bối cảnh tương tự lịch sử trước thời nhà Hán, nhưng thời kỳ sau đã khác, bèn cười nói: “... Đó là một loại võ công thời thượng cổ truyền đến từ Nhật Bản, phát triển ở Nhật Bản, sau đó trở nên thịnh hành. Thực ra so với võ công ở đây hầu như tác dụng không lớn, nhưng có thể đối phó với tiểu tặc và rèn luyện sức khỏe. Từ lúc năm tuổi thiếp đã bắt đầu học”.

“Nhật Bản ở đâu?”.

“Là một quốc đảo ngoài biển, không tìm được đâu. Sư phụ em ở đó, bây giờ cũng không gặp được. Có lúc em nghĩ, qua nhiều năm như vậy, giờ đây tất cả giống như một giấc mơ. Chàng có tin là có thần linh không? Thiếp kể cho chàng nghe chuyện một vị thần trong truyền thuyết nhé?”.

A La cười hồn nhiên, co người, dựa vào lòng Lưu Giác: “Vị thần đó gọi là Thượng đế, mọi chúng sinh đều là con của Người, thần dân của Người. Người tạo ra loài người, những người này có kẻ làm vua, có kẻ bán hàng, có kẻ là binh lính, thân phận của mỗi người trong thế gian rất khác nhau. Có lần, một người phẫn nộ hỏi Thượng đế, tại sao lại phân biệt như thế? Tại sao có người suốt đời hưởng thụ giàu sang phú quý, cuộc sống bình yên, còn tôi quanh năm vất vả, lăn lộn mưu sinh? Thượng đế từ bi nói: “Phú quý sang hèn đều là phù vân, ta ban cho các con mỗi người có tư tưởng, có linh hồn. Khi sinh mệnh trên đời của các con kết thúc, khi linh hồn các con đứng trước ta, tất cả đều bình đẳng như nhau, ta coi các con như nhau”.

“Hiểu rồi, ý nàng nói giữa người với người kỳ thực đều bình đẳng, chỉ có điều thân phận khác nhau mà thôi?”. Lưu Giác nói thản nhiên.

“Chàng thông minh lắm!”. A La lòng như nở hoa, không ngờ Lưu Giác lại hiểu biết như vậy, vừa nói đã thông.

“Được, vậy nàng cứ đợi sinh mệnh ở đời này kết thúc hãy nói chuyện bình đẳng. Bây giờ, ở Ninh quốc Ninh vương vẫn là chủ, ở phủ tướng quân ta là chủ!”. Mắt lóe lên ánh nhìn ranh mãnh, Lưu Giác nhẹ nhàng ôm A La, bụng nghĩ, muốn bình đẳng, sao có thể?

A La cúi đầu ủ rũ, người ở đây tư tưởng phong kiến thâm căn cố đế, không thể cải tạo. Có điều, cũng phải tìm cách gì có lợi cho mình chứ? Nàng lấy lại tinh thần, nói tiếp: “Truyền thuyết kể rằng, ở một đất nước, mọi gia đình đều phải tuân theo chế độ một vợ một chồng. Nếu người chồng vụng trộm với người đàn bà khác ở bên ngoài, theo hình pháp bị xử phạt một trăm roi và bị bôi đen lên mặt. Nếu người chồng cưới thêm vợ khác về nhà, sẽ bị khép vào tội đa thê tống giam vào ngục, như Lý tướng... cha của em đó, đủ để ngồi tù mười mấy năm”.

“Ô? Đàn ông ở đó chẳng phải quá đáng thương hay sao? Nếu lấy một người vợ không thể sinh con trai, mà mình lại không yêu, cũng không thể nạp thiếp sao?”. Lưu Giác lắc đầu, cảm thấy không thể tin được.

“Có thể ly hôn! Nghĩa là đàn ông có thể bỏ vợ, người phụ nữ nếu không hài lòng có thể bỏ chồng, đi tìm người mình yêu”.

“Làm gì có chuyện đó! Ai nhồi vào đầu nàng những thứ xằng bậy như thế?”. Lưu Giác bực mình, lấy chàng mà vẫn không hài lòng, không vui, muốn bỏ chồng? Hừ! Chàng bỗng nghiêm giọng: “Ta muốn cưới tất sẽ cưới người ta yêu, cả đời không xa lìa!”. Chàng véo mũi A La cười: “Không ngờ nàng là người bảo vệ những phận nữ nhi”.

A La hoàn toàn tiêu tan ý tẩy não cho anh chàng, nên nàng cũng nghiêm giọng: “Nếu cưới thiếp, chàng chỉ được có một mình thiếp, nếu chàng nạp thiếp, thiếp sẽ bỏ đi để cho chàng toại nguyện!”.

Lưu Giác nhìn nàng nói: “Cho nên nàng không muốn ở bên Tử Ly phải không?”.

A La ngây người, đứng dậy đi đến bên cửa sổ. Tử Ly... Tử Ly với nụ cười bất biến trên môi, nhưng nét mặt đượm buồn, Tử Ly đứng ngoài tướng phủ thổi những khúc tiêu da diết, Tử Ly say mê cùng nàng cưỡi ngựa bay như cơn lốc trên thảo nguyên... nàng lại thở dài.

Nhìn bóng dáng mảnh dẻ thở dài trước mặt, trong lòng nàng ấy cũng có Tử Ly ư? Lưu Giác nhảy từ giường xuống, ôm chặt A La, nghe thấy nàng khẽ hát: “Thuở thiếu thời chàng thích nói vui, thiếp thơ ngây thích hát hay cười, bao ước mộng theo thiếp vào giấc ngủ, cánh hoa rơi tan tác giấc thần tiên...”. A La cúi đầu, “Tử Ly và thiếp gặp nhau không đúng lúc, cuối cùng vô duyên”.

Thì ra còn có một nỗi đau mang tên đố kỵ. Chàng hận sao nàng không sinh ra ở chốn thâm sơn, không quen ai mà chỉ biết mỗi chàng. Lòng chàng dồn dập từng cơn sóng, giơ tay nâng cằm A La, nhìn vào đôi mắt lung linh ánh nước, nhìn mãi nhìn mãi, đến khi đôi đồng tử đó chỉ in mỗi bóng chàng, mới nhè nhẹ thở một hơi dài, tim lại đập xốn xang, một tay che mắt A La rồi ghé môi hôn.

Mùi hương nhàn nhạt vấn vương nơi đầu lưỡi, A La đầu hơi ngửa ra sau, chàng ép tới, nhìn hàng mi dài thảng thốt, run run, má dậy hồng. Chàng xúc động nhấc bổng nàng, tung lên cao, A La nhắm mắt, cảm giác mất trọng lượng khiến nàng hoảng sợ, hét to, rơi vào đôi cánh tay chắc rắn của chàng. Lưu Giác tung lần nữa, sau mấy lần như vậy, chàng sung sướng cười ngất.

A La ôm chặt cổ chàng phẫn nộ: “Thì ra vết thương của chàng đã khỏi hẳn rồi!”.

“Thì ra lòng nàng nghĩ một đằng miệng nói một nẻo! Ha ha, A La của ta! Của ta!”. Chàng cười vang.

A La vùi đầu vào ngực chàng nói: “Mẹ thiếp muốn đi tu, thiếp không nỡ. Mẹ sẽ không trở về tướng phủ, thiếp cũng không muốn, chàng không được đưa thiếp trở về!”.

Lưu Giác đặt nàng xuống, nói nghiêm túc: “A La, trước sau nàng vẫn là tam tiểu thư của tướng phủ, không thể vô danh vô phận đi theo ta. Nàng muốn lấy ta nhất định phải đường hoàng từ tướng phủ gả cho ta”.

“Nếu như chàng cưới Trình Tinh, không phải tam tiểu thư của tướng phủ?”.

“Người đính hôn với ta là tam tiểu thư tướng phủ, ngay từ khi ta cầu hôn, An Thanh vương phủ coi như đã thông gia với Lý tướng. Cuối cùng nàng vẫn phải trở về Phong thành, không thể né tránh”.

“Ở Lâm Nam không được sao? Cách xa Phong thành, cách xa vương cung và triều đình”.

Lưu Giác nhìn sâu vào mắt A La, nàng sợ trở về Phong thành, trước sau A La vẫn chưa hoàn toàn tin mình, A La hoài nghi mình không bảo vệ được nàng hay sao? “A La, nàng phải biết, ta là Bình Nam tướng quân của Ninh quốc, là tiểu vương gia của An Thanh vương phủ, cháu ruột của Ninh vương, anh em họ của thái tử và tứ hoàng tử. Có một số chuyện không thể làm theo ý mình, ta có bổn phận của ta. Nếu ta từ bỏ tất cả cùng nàng cao chạy xa bay, chưa nói Ninh quốc sẽ thế nào, các nước khác cũng coi là cơ hội, nếu họ cử cao thủ bắt ta, một hoàng thân của Ninh quốc cho dù không uy hiếp được cả vương quốc cũng có thể hạ nhục hoàng thất Ninh quốc. Hơn nữa, nàng cũng không còn lựa chọn nào khác, cho dù ta không lấy nàng, về danh phận nàng đã là thê tử có hôn ước của Lưu Giác này”. Chàng nhẹ nhàng phân tích mọi chuyện, “Nay vương thượng đã nghỉ triều hai tháng, bão táp ở Phong thành sắp nổi lên, hươu chết trong tay ai cũng chưa nói được, thắng làm vua thua làm giặc là chuyện thường tình. Khi vương thượng băng hà, cũng là lúc ta đưa quân trở về Phong thành”.

A La ngây người, nếu theo Lưu Giác, chắc chắn sau này nàng sẽ bị cuốn vào những cuộc đấu đá tranh giành. Nàng lắc đầu một cách vô thức, Lưu Giác giữ chặt đầu nàng không cho lắc: “Ta hiểu, nàng rất ghét cuộc sống đó, nhưng đừng nghĩ tới chuyện bỏ trốn, sao có thể trốn được? Cho dù trốn khỏi đây cũng sẽ rơi vào tay nước khác nàng bảo ta phải làm thế nào? Theo ta, A La nàng chỉ cần theo ta”.

Lúc này A La cảm thấy rất mệt mỏi. Nàng có thể theo chàng, cùng sống bên chàng, nhưng cứ nghĩ đến những người ở tướng phủ và cung đình Ninh quốc, nỗi mệt mỏi chán ngán từ trong tiềm thức lại trào lên. Nàng nói nhỏ: “Chàng có biết, trong bữa tiệc ở Đông cung hồi đó tại sao ngón tay Thanh Lôi bị thương không? Bởi vì khúc “Thu thủy” ở Đào hoa yến là do thiếp chơi. Chỉ vì một khúc đàn mà gây ra sóng gió như vậy, kết quả khiến thái tử phi được lợi. Vương Yến Hồi đúng là một nhân tài”.

Lưu Giác sững người: “Cho nên nàng mới không chơi đàn nữa, cho dù ta nói thế nào nàng cũng không chịu, trong dạ yến ở Đông cung bất đắc dĩ mới đánh khúc “Quảng lăng tán”. Tử Ly có biết không?”.

A La lắc đầu: “Một tỳ nữ ở tướng phủ biết chuyện thì đã biến mất rồi. Thiếp rất sợ, nếu không học thổi sáo, e là phụ thân đại nhân kia sẽ phế bàn tay của thiếp để trừ hậu họa. Chàng không nên đưa thiếp quay về, quả thật thiếp rất sợ!”.

Lưu Giác cầm bàn tay A La lên, những ngón tay thon đài, lòng bàn tay hơi thô do luyện công. Đôi tay này chơi khúc “Thu thủy” nức tiếng Phong thành, tác thành một vị lương đệ của thái tử. Đôi tay này tạo ra tiếng sáo làm động lòng Ly Thân vương. Chàng nhẹ nhàng vuốt ve những ngón tay đó, đưa lên miệng hôn: “Ta biết rồi”.

Chưa đầy mấy ngày sau, Phong thành cho ngựa cấp tốc truyền thánh chỉ của Ninh vương. Thành Lâm Nam đại thắng quân Trần, tin vui bay đến kinh thành, Ninh vương phong cho Lưu Giác làm Bình Nam vương, Cố Thiên Tường là Trung Dũng nhất đẳng công, lại nghe nói đã tìm thấy tam tiểu thư của tướng phủ, liền ban xe kiệu đón về kinh thành. Cùng đến với thánh chỉ còn có mấy gia tướng của Lý phủ.

Trong dạ tiệc ở phủ tướng quân, Lưu Giác hỏi quan khâm sai truyền thánh chỉ về tình hình Phong thành, quan khâm sai nói: “Lão vương gia nhắn lời đến tiểu vương gia, nguyên văn là: “Thăng quan, phong vương lần nữa cũng vẫn là con trai lão phu. Lão phu nói phải nghe”.

Mọi người trong phủ cúi đầu cười, Lưu Giác đỏ mặt, lòng chàng sáng như gương, xem ra chỉ có thể để A La một mình quay trở về Phong thành. A La... Lưu Giác lại đau đầu. A La xưa nay không ưa Phong thành, biết nói với nàng thế nào đây?


Tiếng cười nói ồn ào của quan khâm sai và đám tùy tùng trước sân truyền qua lớp lớp sân tường, tan dần trong không trung. Gian phòng nhỏ ở hậu viên của tướng phủ sáng ánh nến, không khí vô cùng tĩnh mịch. Thất phu nhân toàn thân vận áo xanh, xõa tóc ngồi trước gương. Năm tháng đã để lại những dấu ấn lờ mờ trên mặt bà, nhưng dung nhan không hề suy giảm. Bà bỗng mỉm cười, giống như đóa hoa trắng trên núi rùng mình bừng nở, kết tụ mọi thanh khí của linh sơn, kiều mỵ dịu dàng và yếu ớt. Khuôn mặt thất phu nhân chợt lay động bởi nụ cười, bà dịu dàng cất tiếng: “Trông hai người kìa, đây là chuyện tốt, có gì phải khóc!”.

Tiểu Ngọc thận trọng chải mớ tóc dài của thất phu nhân, nghe vậy không kìm được nữa, quẳng chiếc lược bật khóc: “Phu nhân, sao phu nhân đành lòng...!”.

Không đành cũng phải đành! Thất phu nhân nói: ”Đức Phật đã dạy có mất mới có được, ta nghĩ, sống ở chỗ vú Trương, tự do tự tại, lại còn có Hổ Tử láu lỉnh đáng yêu cũng không buồn”. Không phải xuất gia mới có thể tu hành, nhưng nếu ba ngàn sợi tơ xanh này mà không cắt, Lý tướng sao có thể cho qua? Chỉ cần không phải quay về bốn bức tường kín mít của Đường viên tướng phủ, suốt ngày đối diện với đám người đáng ghét, cắt đi mái tóc có gì quan trọng? Duy nhất không đành là A La. Mười bảy năm nay nàng chưa hề xa bà, con đường về sau đành để nàng đi một mình.

Thất phu nhân cười dịu dàng, kiên định. Âm thanh dịu dàng này trong mỗi ngày mười năm qua sẽ mãi vang bên tai A La: “Tam Nhi đói chưa... Tam Nhi, mẹ dạy con đánh đàn, âm này lướt nhẹ một chút...”. Thanh âm cuối cùng từ phím đàn vang vọng mãi không tan. Xua đi những ý nghĩ đau buồn. Chỉ là cắt tóc, chuyện nhỏ mà! A La cầm cây kéo lên, tự nói với mình, không thể giả chết, làm ni cô là cách tốt nhất. Nàng trầm ngâm vuốt những sợi tóc đen thanh mảnh của thất phu nhân, ngắm nhìn, tay cầm kéo.

Tiểu Ngọc lao đến giữ chặt tay nàng: “Tiểu thư...”.

“Bỏ ra! Không còn thời gian nữa!”. A La nói, đã là sự lựa chọn tốt nhất, do dự nữa chỉ là sự yếu đuối đàn bà. Thị vệ của Lý tướng đã đến Lâm Nam cùng với quan khâm sai. Nàng, thất phu nhân và Tiểu Ngọc xuất hiện ở Lâm Nam không còn là điều bí mật. Nếu chỉ mình nàng quay về, cho dù thoái hôn hay phải đối diện cũng sẽ đơn giản hơn nhiều. Thất phu nhân một khi đã quay về, vĩnh viễn đừng bao giờ nghĩ đến chuyện rời tướng phủ. Chỉ một câu nói êm ru của Lý tướng, không muốn xa thất phu nhân, thì cho dù Ninh vương cũng không tiện để thất phu nhân rời phủ, dẫu rời phủ bà vẫn mang danh là phu nhân Tả tướng. Chỉ có xuất gia, tuyên bố đoạn tuyệt hồng trần mới là cách tốt nhất.

A La dằn lòng cầm một nắm tóc, cắt xoẹt. Ngơ ngẩn nhìn món tóc trên tay, nước mắt nàng ứa ra: “Mẹ, mẹ có đau không? A La xin lỗi”.

Xưa nay đâu có nghĩ cắt tóc lại buồn đến thế, giống như cầm dao cắt vào da thịt thất phu nhân, tay nàng hơi run, tóc lại quá mềm, nhát kéo thứ hai nàng không cắt được. Nàng buồn vì phải cắt đi suối tóc này hay là buồn vì một quyết định bất lực như thế, A La cũng không biết.

“Ngốc quá, tóc làm gì biết đau. Mẹ rất thích, con cứ cắt đi!”.

Phải, chỉ là tóc thôi mà, nếu có thể đổi lấy tự do cho mẹ, thì có là gì? Chỉ cần mẹ yên lòng, mình sẽ làm không cần đắn đo. Nàng nhắm mắt, gạt đi giọt nước mắt cuối cùng, khi mở ra, ánh mắt đã kiên cường như đá, nhanh chóng, gọn gàng từng lớp, từng lớp, nàng cắt hết mái tóc dài của thất phu nhân, sau đó dùng dao cạo lại cẩn thận.

A La cười: “Thì ra mẹ không có tóc vẫn rất đẹp! Lấy pháp hiệu là gì đây?”.

Thất phu nhân cười: “Tất nhiên là Vong Trần”.

Vong Trần ư? Hai người nhìn nhau cười. A La liếc nhìn những lọn tóc dài đen mướt trên bàn, mái tóc đẹp thế này mà làm bộ tóc giả, đội lên nhất định sẽ đẹp. Trong mắt nàng đã sáng lên nụ cười, như tia nắng mặt trời rọi vào tướng phủ yên tĩnh, “Mẹ à, mẹ cứ an tâm nghỉ ngơi, đợi con đến đón”.

CHƯƠNG 20



A La lặng lẽ ngắm nhìn khóm hải đường trước sân, những bông hoa trĩu nặng, nở đã lâu vậy mà vẫn đỏ tươi. Có thể chịu gió rét không chỉ có mai, phẩm chất “Khi rụng thành bùn hóa bụi bay, vẫn có hương như cũ”(*) không phải là nàng.

Sau khi sắp xếp xong cho thất phu nhân, nàng không còn lo lắng gì nữa. Lưu Giác đang ở Lâm Nam, chàng tất sẽ bảo vệ nàng. Theo hiểu biết của nàng về chàng, cho dù nàng làm ra những chuyện khiến chàng đau lòng, Lưu Giác cũng sẽ không làm khó thất phu nhân. A La bất giác bật cười, ở trong thế giới dị thường này mười năm, mình trở thành ngươi cổ đại thật rồi!

Người bỗng thấy ấm lên, Lưu Giác đã khoác lên vai nàng chiếc chiến bào, thấy nét mặt nàng bình thản, miệng mỉm cười, chàng nhướn mày: “Nàng không sợ trở về Phong thành nữa sao?”.

Sợ gì chứ? Cũng không hoàn toàn là thế, chẳng qua là chán ghét không muốn nhọc công toan tính. Triều đình Ninh quốc chẳng liên quan đến nàng, ai làm vua cũng chẳng can gì. Nàng đến thế giới dị thường này, chỉ muốn có một cuộc sống bình yên. Những vấn vương đối với thất phu nhân là do mối thâm tình mười năm gắn bó, nàng không thể không quan tâm, không lo lắng. Những cái khác còn có gì? Bình Nam vương trẻ tuổi hào hoa tình sâu như biển, chàng đã làm nàng cảm động, khiến nàng có ý nghĩ muốn dựa vào chàng trong không gian xa lạ này, liệu có thể cùng chàng sống cuộc đời hạnh phúc yên ổn hay không? Chỉ có điều, hạnh phúc ấy xem chừng vẫn còn xa lắc. Chàng có những bổn phận của chàng, gia tộc của chàng, không cho phép chàng tùy tiện hành xử.

“Sợ thì sao? Chàng đâu dám kháng chỉ không cho thiếp về?”.

Giọng nàng bình thản, nhưng lại tựa lưỡi dao đâm vào lòng Lưu Giác, trái tim bằng máu thịt trong lồng ngực như bị lôi ra, quăng lên, chơi vơi, rồi quật xuống, tơi bời trên mặt đất. “Nàng trách ta? Biết là nàng đã khổ công tìm cách chạy khỏi Phong thành, bây giờ lại đưa nàng quay về?”.

Trách chàng ư? Có lẽ! Bởi vấn vương nên mới trách chàng. Bởi động lòng, cho nên mới trút giận. Biết rõ là không còn cách nào khác nhưng vẫn không kìm chế được, nên mới dùng những lời thản nhiên nhưng ngấm ngầm hờn trách nói với chàng, cái tính ngang bướng, bất chấp lễ nghĩa này cũng chỉ dám tỏ ra với chàng mà thôi. A La thở dài: “Chàng có thể giúp thiếp chăm sóc mẹ không? Còn Tiểu Ngọc, tuổi cũng đã lớn, thiếp thấy Lưu Anh người cũng tốt, liệu có thể tác thành cho bọn họ?”.

Tại sao lời nói cứ như dặn dò chuyện hậu sự như vậy? Lưu Giác giật mình, giơ tay nắm vai nàng: “Nàng định làm gì?”.

Nàng có thể làm gì? Trong mắt A La ánh lên vẻ buồn thảm, bây giờ không thể, không có nghĩa là sau này không thể. Nét mặt trở lại tươi cười: “Một mình mẹ ở đây, có chàng thiếp mới yên tâm. Tiểu Ngọc xem chừng cũng thích Lưu Anh, nàng ấy theo thiếp nhiều năm, không nên để nàng ấy lỡ làng tuổi xuân”.

Lưu Giác vẫn hồ nghi, chàng luôn không dám tin A La chịu ngoan ngoãn quay về tướng phủ. Nếu trở về Phong thành, cho dù ở đó có lão gia của mình đầy quyền thế, nhưng nếu nàng không còn gì vấn vương lại bỏ chạy, chàng biết tìm ở đâu? Ý nghĩ vừa xuất hiện, chàng đã ra tay như gió điểm huyệt, đỡ người A La đang từ từ sụp xuống, “Ta không thể để nàng bỏ chạy biệt vô âm tín! Xin lỗi, A La! Nàng quá thông minh, biết mẹ ở đây đã có ta bảo vệ, không còn vấn vương, chuyện gì nàng cũng làm được. Ta không dám mạo hiểm”.

Chàng - A La thầm than thở, chàng quan tâm mình vậy sao? Khống chế để mình không thể bỏ trốn. Lưu Giác ôm nàng vào phòng, ngồi trên giường nhìn nàng, “Nàng có giận, ta cũng làm như thế. Đưa nàng về Phong thành ta tất có suy tính chu toàn. Ta cho Lưu Anh và Tiểu Ngọc cùng về với nàng, từ giờ Lưu Anh sẽ là hộ vệ của nàng, không còn là Ô y kỵ nữa”.

Tay nhẹ nhàng vén những sợi tóc vương trên trán A La, sao không thấy vẻ sợ hãi trong mắt nàng, không thấy nàng nổi giận mà lại bình thản như vậy? Lưu Giác đứng lên: “Nàng có giận ta không? Không ngờ ta khống chế nàng, không cho nàng cơ hội chạy trốn đúng không? Nhưng, A La nàng không hiểu. Lúc đầu tình cảm của ta với nàng không sâu nặng như vậy. Trong Đào hoa yến ta rung động bởi khúc “Bội lan” của Cố Thiên Lâm, ta vốn tưởng ta thích kiểu thục nữ thanh tao thoát tục như hoa lan. Nhưng trong bức vẽ chân dung nàng ta, ta lại vẽ đôi mắt nàng, ta ngày đêm ngắm nhìn, về sau cũng không biết là ngắm nàng ta hay ngắm đôi mắt nàng trong đó. Ta thừa nhận, lúc đầu ta đã xen vào giữa nàng và Tử Ly, bám lấy nàng, là muốn trêu chọc, nhưng rồi về sau, ta dần dần si mê, không làm chủ được nữa”.

“Không biết ta đã yêu vẻ láu lỉnh như con én nhỏ của nàng, tiếng đàn bi thương của nàng trong dạ tiệc ở Đông cung, hay vẻ bí hiểm không hợp lứa tuổi của nàng... Tất cả, trong lòng ta chỉ có nàng. Lâu dần, nỗi tức giận chuyển thành nỗi nhớ, từng nụ cười của nàng không chút nào phôi phai trong ta. A La dù nàng có giận ta bao nhiêu vì đã làm thế này với nàng, ta cũng sẽ không để nàng rời xa ta, nàng có thích hay không thì hãy cứ đợi ta quay về Phong thành. Đến lúc đó ta... ta sẽ chuộc tội với nàng được không?”.

Hai hàng nước mắt A La trào ra, nàng thầm mắng chàng không cho nàng mở miệng, đáng ghét! Thấy chàng đưa tay lau nước mắt cho nàng, liền mở mắt nhìn, nét mặt chàng nghiêm nghị u buồn, nàng giận dỗi nhắm mắt.

Đột nhiên bị chàng xốc lên, chàng ôm nàng nói nhỏ: “Chờ ta trở về Phong thành lại ôm nàng, nàng đồng ý không?”. Tay chàng bóp miệng nàng, đưa một vật gì có mùi thơm trượt vào cổ họng nàng: “Chỉ là để người nàng mềm một chút, nàng ngủ một giấc, tỉnh dậy đã ở trên đường rồi”.

Nếu được tự do hành động, chắc nàng đã lao vào đánh chàng. Con người này đúng là tự làm tự chịu, tự chuốc khổ vào thân, A La rất muốn trong mắt mình có dao đâm muôn ngàn nhát vào chàng, nhưng chỉ trong chốc lát, ý thức nàng dần tan biến, bóng chàng mờ dần.

Khi tỉnh lại, cơ thể đang lắc lư, nàng thấy Tiểu Ngọc lo lắng nhìn mình. A La thở dài: “Đến đâu rồi?”.

“Sắp đến Cốc thành rồi, tiểu thư”.

A La cựa mình, cơ thể đúng là mềm oặt. Nàng dựa vào Tiểu Ngọc ngồi dậy, như là đang ốm nặng, toàn thân không còn sức lực. Cử động không có gì trở ngại, nhưng nếu giơ tay đánh chắc là Tiểu Ngọc cũng đỡ được. Lưu Giác này tệ thật! Sực nhớ ra Lưu Anh, liền hỏi: “Lưu Anh đâu?”.

“Huynh ấy cưỡi ngựa đi bên ngoài”. Mặt Tiểu Ngọc thoáng đỏ.

Tiểu Ngọc đúng là đã thích Lưu Anh. Cũng tốt, Lưu Anh rất được. Có điều, Tiểu Ngọc, ta đành có lỗi với em. A La vén rèm xe, Lưu Anh cưỡi ngựa hình như có gì không vui, nàng gọi: “Lưu Anh!”.

“Tiểu thư, có việc gì?”. Lưu Anh cung kính.

Tối qua Lưu Giác nói với y, y đã bị xóa tên khỏi Ô y kỵ, kể từ nay là hộ vệ của tam tiểu thư. Lưu Anh không kìm được hỏi: “Nếu là mệnh lệnh của chúa thượng, thuộc hạ sẽ hết lòng bảo vệ tiểu thư, nhưng tại sao nhất định phải xóa tên khỏi Ô y kỵ?”.

Lưu Giác nhìn y: “Ta muốn ngươi sau này coi nàng ấy là chủ nhân của ngươi”.

Mặc dù theo tam tiểu thư, chúa thượng có lẽ ngầm cho phép y ở bên Tiểu Ngọc, nhưng lòng Lưu Anh vẫn rất khó chịu.

“Ta đói rồi, nghe nói Cốc thành có món bánh hoa mai nổi tiếng, đằng nào cũng sắp tới Cốc thành, ngươi đi trước mua về cho ta! Để nguội ăn không ngon, nếu ngươi chê ngựa đi chậm, thì chạy bộ mà đi”. A La thủng thẳng nói.

Lưu Anh trầm giọng: “Việc tiểu thư sai bảo thuộc hạ đã nhớ, bánh hoa mai mua về đến tay tiểu thư đảm bảo vẫn nóng”. Y thúc ngựa phóng đi, nửa canh giờ sau, cung kính dâng lên bánh hoa mai.

A La ngó nhìn, cầm lên một miếng định đưa vào miệng, bỗng lại kêu “Ai da” như nhớ ra điều gì: “Nghe nói, ăn bánh hoa mai này phải uống với trà nhụy hoa ở đây mới hợp. Lưu Anh à, lại phiền ngươi đi một chuyến”.

Lưu Anh không nói một câu, lại phi ngựa đi. Khi quay về, mở cái bọc ra, trà vẫn nóng, A La nhìn bình trà, trề môi: “Đói quá!”, buông rèm đánh “xoạch”, không buồn nhìn y.

Lưu Anh tức giận quay đầu, không nhìn cỗ xe nữa, tủi thân than thở: “Chúa thượng, nỗi phiền toái chúa thượng gây ra, bây giờ trút hết lên đầu tiểu nhân rồi!”.

Cứ như vậy, A La hành hạ Lưu Anh suốt dọc đường, cuối cùng họ cũng bình an trở về bên sông Đô Ninh, Phong thành đã ở ngay trước mặt.


Gió lạnh đem theo bụi tuyết, rơi ràn rạt trên áo bông. Lão Trương kéo chiếc mũ da dê đội lên đầu, thắt lại quai mũ, bịt chặt hai tai, hai tay giấu trong ống tay áo, xốc lại cái gùi trên vai tiến về phía dịch trạm. Trên mái ngói của các ngôi nhà ven đường, tuyết đọng thành những dải nhũ so le, cái dài cái ngắn rủ xuống, tuyết rơi xuống đường hòa với nước mưa và đất tạo thành lớp bùn nhão nhoét, khi ủng giẫm lên đường phát ra những tiếng lép nhép.

Trong thời tiết này, ngồi trong nhà uống chén rượu nóng mới phải. Nhìn sắc trời, lão Trương rảo bước, không lâu sau đã tới dịch trạm. Lão vén bức mành bằng vải bố dày, hơi nóng xông ra, lão rũ bụi tuyết dính trên bộ râu, nước rơi từng giọt, mặt ướt đẫm. Lão phủi bụi tuyết trên người, “Ai dà, thật biết hưởng thụ!”.

Đám lính ở dịch trạm đang ngồi quây quần quanh đống lửa giữa phòng uống rượu, nghe tiếng nói, nhìn ra, có người cười xởi lởi: “Trương đại ca đã đến ư? Mau vào đây sưởi, làm chén rượu nóng! Thời tiết tệ quá!”.

Lão Trương cũng không khách sáo, hình như đã quen nhau, lão bước đến, có người đứng dậy nhường chỗ. Rót một bát rượu, một hơi uống cạn, lão xoa râu cười: “Hôm nay ta dậy muộn, việc của vương gia không được chậm trễ. Đồ đâu?”.

Dịch quan cười: “Vương gia nhà ông khẩu vị đến là quái, ngày nào cũng bắt lính vượt ngàn dặm mang đến món canh cải trắng! Ăn suốt ba năm vẫn chưa chán!”.

Lão Trương cau mày, nói khẽ: “Câu này mà ngươi cũng dám nói bừa!”. Vẻ hiền hậu ngay lập tức biến thành nghiêm khắc.

Dịch quan giật mình, vội chuyển câu chuyện, gọi to: “A Tứ, mau chuẩn bị đồ đưa cho lão Trương!”, rồi lại tươi cười: “Uống thêm bát rượu nữa, vừa rồi tôi nói bừa, nói bừa!”.

Lão Trương thở dài kéo y sang bên, nghiêm mặt nói: “Họa từ miệng mà ra, quản nghiêm thuộc hạ, đừng có nói bừa, vương gia nhà ta...”. Ánh mắt lão đầy phân vân không biết là sợ hay là than vãn.

Dịch quan rụt cổ, trong phòng ấm áp, vậy mà lưng y toát mồ hôi.

Lão Trương nhìn cái bao A Tứ vừa đưa, bên trong lớp bọc bằng chăn dày có chục cây cải trắng tươi mơn mởn, xanh ngắt. Biên thành mùa đông rất hiếm rau xanh, chỗ cải trắng này ngày nào cũng chuyển đến, chưa từng gián đoạn, thực là kỳ công, trăm lạng bạc một cây cũng đáng, lão bỏ vào gùi, khoác lên lưng, chỉnh lại mũ áo, gật đầu cười chào mọi người, cắm cúi đi trong gió lạnh.

Hậu viên của soái phủ Hữu quân ở Biên thành, không khí vắng vẻ hiu quạnh, không hề thấy màu xanh, tuyết đọng dày từng lớp trên những hòn non bộ và cành cây khô, tuyết trùng trùng giăng khắp nơi, quả là một thế giới được tạo khắc từ băng tuyết. Người lính hầu thận trọng bê chiếc liễn có nắp bạc rẽ vào một hành lang, rảo bước về phía hậu thất. Vừa đến cửa, đã có người đứng chờ đón lấy cái liễn rồi vén rèm đi vào.

Bên trong mấy lò sưởi đang cháy, không khí ấm áp như mùa xuân, Tử Ly mình vận chiếc áo bông nhẹ, rộng rãi đang đọc thư tín vừa chuyển đến. Mỗi tháng, vương phi trong phủ Ly thân vương ở Phong thành đều viết thư đến, trong thư kể rõ tình hình vương phủ và những câu thăm hỏi đúng nghi thức. Tử Ly xem xong cười lớn, nhấc bút viết mấy chữ hồi âm. Gạt thư của Cố Thiên Lâm sang một bên, mắt chàng chuyển sang phong thư mật. Đây là tin mật thứ một trăm bảy mươi tư. Ba năm trước chỉ có mấy chục tin, hai tháng gần đây tăng đột ngột, ánh mắt u ám của chàng nhìn ra ngoài, tuyết đọng long lanh trên cành cây, một cảm xúc dịu nhẹ mơ hồ từ từ nhen trong lòng, chàng bất chợt lẩm bẩm: “Phong thành mùa đông chắc không lạnh thế này”.

Người hầu thận trọng để chiếc liễn lên bàn, khẽ thưa: “Mời vương gia dùng bữa!”.

Tử Ly quay đầu lại, nụ cười vẫn trên môi: “Không biết hôm nay mùi vị thế nào?”. Rồi chàng thong thả đi đến ngồi bên bàn.

Người hầu múc một bát nhỏ, chìa trước mặt chàng. Tử Ly nhìn bát canh trong vắt, chàng múc một thìa nếm thử, vị thanh, ngọt, thơm mát, nuốt xuống cổ, lại như uống phải ngụm thuốc đắng, đắng đến mức bao tử như sôi lên.

Người hầu e ngại liếc nhìn chủ nhân, nụ cười vẫn còn nhưng đông cứng trên mặt như mọi khi, y bất giác thở dài, nấu canh cải trắng suốt ba năm, không lần nào khiến chúa thượng hài lòng, nhưng không ngày nào dám ngừng lại, khiến đầu bếp chạy như đèn cù. Bỏ bao nhiêu bạc thuê đầu bếp giỏi đến Biên thành, vẫn không nấu được mùi vị khiến chúa thượng hài lòng. Canh không ăn hết bê ra, có đầu bếp không nén nổi nếm thử, kinh ngạc kêu lên: “Quả là ngon!”. Nhưng không hợp khẩu vị của vương gia, thay loạt đầu bếp khác cũng vậy. Cũng không thấy chúa thượng nổi nóng, vậy là món canh cải trắng ngày nào cũng nấu.

Tử Ly lại tự tay múc một bát canh, người hầu ngạc nhiên quỳ sụp xuống: “Nô tài không chú ý, hầu hạ chúa thượng không chu đáo!”.

“Đứng dậy đi, mùi vị rất ngon, từ nay không phải nấu món này nữa!”. Tử Ly nheo mắt nói, không biết là chàng vui hay bực.

Người hầu thấp thỏm không yên. Sao đột nhiên lại ghét món canh đó? Nhưng y lại không dám hỏi, cúi đầu đi ra.

Sau bữa trưa, Tử Ly đĩnh đạc bước ra ngoài, người hầu vội khoác lên vai chàng chiếc áo lông chồn.

(*) Nguyên văn: “Linh lạc thành nê niễn tác trần, chỉ hữu hương như cố”, trích trong bài từ Vịnh mai, điệu Bốc toán tử của Lục Du, bản dịch của Nguyễn Xuân Tào 

Tuyết rơi rất mau, lát sau trên vai chàng đã đọng lớp tuyết dày, chàng giơ tay phủi, không bao lâu tuyết lại rơi đầy. Nụ cười đau khổ hiện trên mặt chàng, Tử Ly lẩm bẩm: “Bên thềm tuyết bay như mai rụng, phủi vơi lại đầy”. Thế giới băng tuyết lóng lánh như thủy tinh trước mặt bỗng khiến chàng mê đắm, một lúc sau, thoáng liếc thấy chóp mũi của thị vệ đứng gần đỏ ửng vì cóng, chàng mỉm cười: “Vào nhà đi, ta muốn nghỉ một lát”.

Nhắm mắt, tâm tư chàng lại rối bời như mưa tuyết. Phụ hoàng e là khó qua khỏi. Đại thắng của Lâm Nam như liều thuốc kích thích khiến người muôn phần phấn chấn, lên điện dự được hai buổi chầu sớm, cơn phấn khích qua đi, bệnh càng trầm trọng. Tháng trước trong cung báo tin: “Bệ hạ uống một bát thuốc nhỏ, chỉ ăn đồ loãng”. Mấy ngày sau lại báo: “Phải đổ từng thìa thuốc, không ăn được gì”. Lòng chàng như lửa đốt, nhưng lại chỉ có thể ở yên tại Biên thành, không dám manh động. Công sức chuẩn bị ba năm, chỉ chờ đợi một đạo thánh chỉ.

Trước đây Cố tướng truyền tin nói, phương nam không có gì đáng ngại. Nhưng nửa năm nay, lại xuất hiện tình trạng lương thảo quân dụng không vận chuyển đúng thời hạn. Bộ binh viện lý do phương nam có chiến sự, lời lẽ giải trình rất khiêm nhường, đến khi bị hối thúc lại nói đang trên đường vận chuyển, dù sao cũng sẽ muộn vài tháng. Cố tướng nói với chàng, thượng thư bộ binh cáo bệnh nằm nhà, mọi công việc do Thành thị lang xử trí. Lòng chàng như bừng sáng, nhắm mắt thầm nghĩ, không lâu nữa là có thể trở về Phong thành rồi.


Núi non hùng vĩ bao bọc chắn luồng khí lạnh từ phương bắc tràn về, gió tây bắc thổi đến dịu đi nhiều, cho nên Phong thành những ngày cuối đông vẫn có thể nhìn thấy sắc xanh trên cành cây. Một đoàn xe ngựa rầm rập tiến vào Phong thành, quan khâm sai tươi cười, tiến đến trước cỗ xe ngựa, giọng khẽ khàng: “Vương thượng đã có ý chỉ, tam tiểu thư đi đường vất vả, không cần vào cung tạ ơn. Lý tướng bấy lâu ngày đêm mong nhớ, nên sớm về tướng phủ đoàn tụ”.

A La ngồi trong xe nhỏ nhẹ cảm tạ: “Đại nhân đi đường vất vả. Thanh La bái tạ ở đây”.

Cỗ xe ngựa rẽ ở ngã ba đường, thị vệ của tướng phủ hộ tống cỗ xe đưa A La về phủ, lúc này nàng mới gọi: “Lưu Anh!”.

“Tiểu thư có gì sai bảo?”. Lưu Anh đi đến trước xe.

“Đến Phong thành rồi, thuốc giải đâu?”.

Lưu Anh đỏ mặt lấy trong người ra một cái hộp bằng ngọc, dâng bằng hai tay. Rèm xe vén lên, Tiểu Ngọc liếc nhìn y với vẻ giận dỗi, đón chiếc hộp, đưa cho A La, khẽ quở trách: “Biết ngay là do chủ của huynh ấy mà! Hành hạ cho đáng đời!”.

“Thôi, ta cũng không định chạy trốn, sau này sẽ hỏi tội bọn họ!”. A La uống thuốc, một luồng hơi nóng lan tỏa đến tận tứ chi, khí lực dần dần khôi phục.

“Tiểu thư, ta quay về thế này, lão gia liệu có...”. Tiểu Ngọc bắt đầu lo lắng.

Quay về phủ, Lý tướng sẽ thế nào? A La lơ đãng nghĩ, ông ta không nước mắt lã chã cũng sẽ hiền hậu ân cần. Ta bây giờ chẳng phải là vương phi mà Bình Nam vương Lưu Giác đã chọn hay sao, ông ta không đối xử tốt với ta sao được? Mắt liếc nhanh xung quanh, nàng nói nhỏ với Tiểu Ngọc. Mắt Tiểu Ngọc dần dần sáng lên, mặt đỏ hồng phấn khởi.

Cỗ xe ngựa từ từ dừng lại trước cổng tướng phủ. Khi A La ngẩng đầu đã thấy tấm biển cao ngất trên cổng, mặt nở nụ cười, đã có gia nô chạy vào trong nhà báo tin. Lý tướng và các phu nhân đã chờ từ lâu trong đại sảnh.

Lý tướng thật lòng khâm phục nha đầu này, chạy trốn ba năm vẫn khiến cho tiểu vương gia, à không Bình Nam vương hồn siêu phách lạc. An Thanh vương vừa trở về Phong thành đã cho mời ông ta đến vương phủ, lão vương gia cả đời trên lưng ngựa, tính tình cương trực, vuốt râu mắng ông: “Mau vẽ chân dung con gái ông đưa ta coi thử, xem mặt mũi thế nào mà khiến tiểu tử ngốc nhà ta si mê đến thế! Nhất định không được nói nó giống ông đấy nhé!”.

Lý tướng dở khóc dở cười: “Tiểu nữ nhà hạ thần không có tranh họa, có điều, nhìn người cũng nhẹ nhõm hoạt bát, biết chơi đàn thổi sáo mà thôi”.

Có lẽ An Thanh vương đang sốt ruột chờ đợi. Không ngờ đứa con gái thứ ba này lại hợp ý ông nhất. Bất luận thái tử hay tứ điện hạ ai lên ngôi, địa vị của An Thanh vương đều không suy chuyển, A La được gả vào đó, đảm bảo tướng phủ không có gì phải lo lắng. Chỉ có điều thất phu nhân đã xuất gia, hơi đáng tiếc, nhưng chỉ cần Thanh La quay về, chịu lấy chồng, ông cũng không tính toán làm gì.

Lý tướng ngồi giữa phòng lớn vừa cười ha hả vừa chờ A La, các bà phu nhân cũng dài cổ trông ngóng, không biết con bé ấy chạy trốn ba năm sẽ xuất hiện với diện mạo thế nào?

Đang mải nghĩ, bên ngoài có tiếng ồn ào, mấy thị vệ cùng hai thân hình mảnh mai đi đến. Tiểu Ngọc thận trọng dìu A La bước qua bậc cửa, vừa vào trong, Tiểu Ngọc đã quỳ sụp xuống đất khóc lóc: “Xin lão gia trách phạt! Thất phu nhân một lòng thờ Phật, đã xuất gia rồi! Tiểu Ngọc có tội, không chăm sóc phu nhân chu đáo!”.

A La quỳ lạy, mắt đỏ hoe: “Thưa cha, A La bất hiếu, ham chơi còn lừa đem mẫu thân đi, để bây giờ mẫu thân một mình cô đơn với ngọn đèn xanh”.

Lý tướng và mấy phu nhân ngây ra nhìn, mỹ nhân này là A La sao? A La hôm nay toàn thân xiêm y trắng muốt, đầu tóc không trâm vàng thoa ngọc, mặt không son phấn, mộc mạc giản đơn mà đài các cao sang.

Hai người quỳ trước chính đường khóc thảm thiết, các phu nhân cũng không khỏi thở dài lau nước mắt. Con người ấy vừa đi, họ chẳng còn ai để so đo ghen ghét, bây giờ tam tiểu thư lại trở thành quả cân quan trọng của tướng phủ để ganh đua với thế lực triều đình, chỉ có thể nể trọng, không thể đắc tội. Không đợi Lý tướng mở miệng, họ đã ríu rít chạy lại, nhẹ nhàng dìu hai người đứng lên, than thở một thôi một hồi những là nhớ nhung lo lắng, mong ngóng thế nào. Đại phu nhân cười to: “Trở về là tốt rồi, Đường viên đã thu xếp đâu vào đấy, Tiểu Ngọc ngươi đi xem thế nào!”.

Lý tướng lúc này mới bừng tỉnh, cười hiền hậu, nói: “Quay về là tốt, quay về là tốt”. Mắt ông ta bất chợt liếc sang Lưu Anh.

Lưu Anh mỉm cười chắp tay cung kính: “Tiểu nhân là Lưu Anh trước đây là binh sĩ Ô y kỵ của vương phủ, nay phụng mệnh Bình Nam vương, bảo vệ tam tiểu thư, mong tướng gia chiếu cố”.

Dùng tinh binh Ô y kỵ làm lính hộ vệ cho A La? Xem ra Bình Nam vương này đúng là chết mê chết mệt con bé rồi. Lý tướng cười ha hả: “Đứa con gái yêu của ta sau này phiền Lưu thị vệ trong nom. Để lão phu lệnh cho thị vệ bản phủ thu xếp chỗ ở, ngươi đi xem nếu thiếu gì cứ nói. Tướng phủ từ nay là nhà của ngươi”.

Lưu Anh cười: “Vương gia đã có lệnh, tiểu nhân phải ở cận kề hộ vệ tam tiểu thư, tướng gia đã thương tình xin thu xếp cho tiểu nhân một phòng trong Đường viên”. Nói xong nháy mắt với Lý tướng.

Lý tướng vỡ lẽ, thầm khâm phục Bình Nam vương suy tính chu toàn, có người của chàng bảo vệ, Thanh La còn chạy đi đâu? Cho dù có chạy, cũng không phải trách nhiệm của mình, vậy là ông ta lập tức tán thành.

Sau khi Lưu Anh và Tiểu Ngọc đi về phía Đường viên, Lý tướng cười khà khà vuốt râu nói với A La: “A La, đúng thật là con gái vừa tròn mười tám! Không ngờ con lưu lạc bên ngoài mà lại đẹp thế này, người làm cha đây cũng được an ủi lắm thay”.

A La mắt đỏ hoe: “Con gái ngang bướng ham chơi, trốn khỏi nhà, để cha lo lắng. May có Bình Nam vương giúp đỡ, mới bình an trở về phủ”. Nàng cười thầm trong bụng, diễn trò cha hiền con hiếu có gì khó, tôi còn muốn ăn hết tiêu hết sạch vốn liếng của ông cơ.

Lý tướng lại nhìn kỹ A La, thấy nàng không đeo đồ trang sức gì, than thở: “Ra ngoài sao bằng ở nhà, nhìn con kìa, thiên kim của tướng phủ mà lại ăn vận đơn sơ thế này! Đại phu nhân, bà sai quản kho đánh vài đồ trang sức, mấy bà cũng nên sắm cho con mấy bộ váy áo”.

Đại phu nhân tươi cười: “Cái đó là đương nhiên. A La à, thái tử phi và đại tỷ của con đã hỏi thăm mấy hôm nay nói nhớ con lắm, nhắn là khi nào con về nhất định vào cung thăm họ”.

A La cười thầm, sao mà nhanh thế! Nàng còn chưa có thời gian để thở, đã phải chạy khắp nơi thăm hỏi. Nàng mỉm cười nhẹ nhàng nói: “Mấy năm không gặp đại tỷ, A La cũng nhớ lắm”.

Đúng lúc đó gia nhân mang vào một phong thư, Lý tướng mở xem, cười ha hả: “A La, con nghỉ ngơi đi, An Thanh vương mời con ngày mai vào phủ dự tiệc”.

An Thanh vương? Cha của Lưu Giác? A La nghĩ thấy buồn cười, nàng đã trở thành bảo bối thật rồi, vừa về đến phủ ngồi chưa ấm chỗ, đã phải chạy khắp nơi phô trương. Nghe đồn An Thanh vương khí độ phi phàm, được trao giữ Xích long lệnh của tiên đế nắm trọng trách đảm bảo sự bình an của vương thất, thống lĩnh Hữu quân, uy danh vang khắp Biên thành, khiến mấy nước lân bang mấy chục năm không dám nhòm ngó Ninh quốc. Lưu Giác còn nói, cha chàng cũng là người rất si tình. A La cảm thấy tràn đầy hiếu kỳ đối với ông ta, An Thanh vương là người như thế nào?

Bất luận ông ta là người thế nào, Lưu Giác, chàng cứ đợi thiếp thu phục cha chàng, xem chàng hối hận như thế nào vì đã dám “giải” thiếp về đây.

Đường viên không thay đổi, khóm hải đường vẫn nhẫn nại trước sân, những đồ đạc trong phòng đã được thay mới hết, bày biện toàn đồ dùng quý báu, không khó nhận ra ý đồ nịnh nọt lộ liễu của Lý tướng. Lưu Anh nhìn thấy khóm hải đường, ngẩn người nhìn A La, bụng nghĩ, thì ra là thế, rồi y cũng chẳng câu nệ phép tắc, tự chuyển về phòng mình. Tiểu Ngọc đuổi theo mắng: “Làm gì có chuyện nam nữ chẳng quan hệ gì lại ở chung nhà? Không biết xấu hổ!”.

Lưu Anh cười hì hì: “Chúa thượng đã có lệnh, không được rời tam tiểu thư nửa bước. Có ta ở đây bảo vệ, cái sân này con ruồi cũng đừng hòng lọt vào”.

A La cũng chẳng sợ mang tiếng, vẫn ở gian phòng cũ của mình, trong khu nhà vẫn còn hai gian bỏ trống, nàng cười: “Sống cùng nhà thích thật, tối nay chúng ra lại chơi bài”.

Lưu Anh lòng lại bất yên, thầm nghĩ, chơi bài là trò gì? Chẳng lẽ tam tiểu thư đùa giỡn mình chưa đủ? Mặt y nhăn nhó khổ sở, khiến Tiểu Ngọc cười ngặt nghẽo, vỗ tay hoan hô: “Tốt quá, lâu lắm không chơi bài, em cũng đang muốn chơi. Ăn tối xong chúng ta bắt đầu nhé!”. Nàng ta vừa cười khoái chí vừa liếc nhìn Lưu Anh.

A La mỉm cười nhìn hai người họ, nàng đẩy cửa vào phòng, chợt nhìn thấy trên chiếc bàn thấp để một cây đàn, nhìn kỹ đó chính là cây đàn mà nàng đã chơi khúc “Quảng lăng tán” ở Đông cung dạo nào. Nàng cau mày, ai đưa cây đàn đến đây? Lý Thanh Lôi ư? Có vẻ không phải. Nếu là Vương Yến Hồi đem tặng tất có ý nịnh nọt lôi kéo. Nàng ta biết bí mật đó hay sao? Sự việc này ngầm đánh tiếng Vương Yến Hồi đã biết bí mật đó hay là nịnh bợ nàng? Nếu là khả năng thứ nhất, mình nhất quyết không thừa nhận là xong, chơi đàn ư, chơi hay dở thế nào vẫn do mình quyết định. Nếu là khả năng thứ hai lại càng đơn giản, mọi chuyện cứ để Lưu Giác quyết.

Nhưng nếu là chủ ý của thái tử? A La nghĩ, bây giờ thái tử tuyệt đối không làm như vậy, thái tử vẫn còn nhiều việc cần dựa vào cha con An Thanh vương. Nghĩ đi nghĩ lại, A La cảm thấy ngày mai nhất định phải thể hiện thật tốt trước mặt An Thanh vương.

CHƯƠNG 21



Mới sáng sớm A La đã bị đánh thức bởi những tiếng lao xao bên ngoài. Đi một mạch từ Lâm Nam đến Phong thành, ngồi xe ngựa đến phát ngấy, đang tiết Đại hàn, chăn ấm đệm êm nàng ngủ một giấc thoải mái chẳng mộng mị gì, đang muốn nằm nán thêm lát nữa thì bị đánh thức.
Lắng nghe tiếng nói bên ngoài, hình như là giọng a hoàn của đại phu nhân và ngũ phu nhân, hình như còn có người mang quần áo nào đó đến. A La vươn vai, hít một hơi thật sâu, giọng chỉ trích: “Mới sáng sớm sao lắm ruồi thế, Lưu Anh?”.
Trong sân, Lưu Anh và Tiểu Ngọc đau đầu nhìn một đám nữ tỳ tay bê đồ, miệng liến thoắng so bì. Nghe tiếng A La, Lưu Anh rút thanh kiếm sáng loáng ra, mặt sa sầm nói nhỏ: “Dám vô lễ với vương phi tương lai của Bình Nam vương? Chẳng biết phép tắc gì hết!”.
Tiếng nói im bặt.
A La nhìn qua bức màn, thế mới phải, vẫn tưởng ta là cái túi để các ngươi xả giận như xưa chắc? Rồi nàng lại lười biếng nằm xuống.
Lưu Anh cố nhịn cười, tra kiếm vào bao, y nháy mắt với Tiểu Ngọc. Tiểu Ngọc vui vẻ, nói giọng từ tốn: “Các vị, tam tiểu thư của chúng tôi ghét nhất đông người, các vị nhỏ tiếng thôi, từng người đưa lên”.
A hoàn của đại phu nhân liếc nhìn Lưu Anh, bê lên một hộp nữ trang, nhẹ nhàng nói: “Phu nhân chúng tôi nói, tam tiểu thư cần trang điểm sang trọng một chút, đây là nữ trang phu nhân đưa tặng”.
“Ồ, tôi thay mặt tam tiểu thư cảm ơn Đại phu nhân đã kỳ công chuẩn bị quà quý như vậy! Tam tiểu thư đã dặn ý tốt của các phu nhân nhất định phải nhận, phải cảm tạ”. Tiểu Ngọc mở ra xem, toàn là đồ châu báu lóng lánh vô cùng quý giá.
“Ta về bẩm báo phu nhân đã”. Nữ tỳ nói xong chạy thẳng.
Lát sau, Tiểu Ngọc bận rộn thu xếp xong, mỉm cười với Lưu Anh, chạy vào tìm A La: “Tiểu thư, nhiều thứ đẹp lắm!”.
A La lật chăn nhảy khỏi giường: “Đi hết rồi à? Nào ra xem của nả thế nào”.
Không lâu sau, A La vẫn xõa tóc kéo Tiểu Ngọc ra gian chính. Hai người vừa giở ra xem, cười khanh khách: “Tốt quá, không trả lại một thứ nào hết, tất cả là của chúng ta! Tiểu Ngọc, thích gì cứ lấy, không tiện giữ thì mang đi đổi ngân phiếu”.
Tiểu Ngọc lanh lảnh đáp lời. Lưu Anh đang ngạc nhiên, tam tiểu thư này sao lại xõa tóc chạy ra ngoài như thế? Sao nàng ta cư xử như vậy? Lẽ nào nàng ta chỉ nhằm vào đống tài sản của chúa thượng?
A La lại vỗ vai Lưu Anh: “Cả ngươi cũng thế, thích gì cứ lấy, không tiện giữ thì đem đi đổi ngân phiếu!”.
Lưu Anh giật mình, sao nàng ta chẳng kiêng kỵ gì thế?
A La cũng không thèm để ý đến y nữa, cùng Tiểu Ngọc lựa ra mấy tấm vải màu sắc nhã nhặn và ít châu báu đặt trước mặt Lưu Anh: “Những thứ này đem đổi ra ngân phiếu rồi sai người đưa đến cho mẹ ta. Nhớ đấy, chủ ngươi đã trao ngươi cho ta, bây giờ ta là chủ của ngươi, nếu ngươi phản bội ta, suốt ngày báo tin cho chủ cũ như vậy là bất trung!”. Nói xong nàng cùng Tiểu Ngọc ôm những thứ mình thích đi vào.
Lưu Anh đứng ngây hồi lâu, nhìn đống đồ bị xáo trộn bừa bãi, thở dài, thu dọn lại từng thứ. Câu tam tiểu thư vừa nói, nàng ta là chủ mới của mình, Lưu Anh vẫn chưa kịp phản ứng.
A La ngồi trước gương, Tiểu Ngọc chải đầu cho nàng, cười híp cả mắt: “Tiểu thư, hôm nay đi đến An Thanh vương phủ, tiểu thư định trang điểm thế nào?”.
An Thanh vương là người thế nào? A La suy nghĩ, không tiện nói ra, dù sao ông ta cũng không phải là nhân vật đơn giản.
“Bình thường, không biết thì cứ trang điểm bình thường, đơn giản một chút. À, gọi Lưu Anh vào đây, ta suýt quên mất là có thể hỏi anh ta”.
Lưu Anh đứng trước mặt A La, nét mặt thản nhiên: “Lão vương gia là người tốt!”.
“Hết rồi à?”. A La không hài lòng. Chỉ có chút thông tin như thế thôi sao? Nàng trợn mắt nhìn Lưu Anh: “Ngươi đừng quên, nếu ta không nắm được cha Lưu Giác, ồ, nếu An Thanh vương không thích ta, chủ của ngươi sẽ thế nào?”. A La mặt cười cười nhìn Lưu Anh, thầm nghĩ, ta không tin là thông tin chỉ có thế.
Suốt dọc đường Lưu Anh đã bị A La hành hạ, quay như chong chóng, mãi mới có cơ hội được nàng yêu cầu giúp đỡ, vốn định làm khó một chút đỉnh, thấy A La nói vậy lại mềm lòng: “Lão vương gia thích rượu! Cũng ít khi trở về vương phủ, cứ trở về là thích chấn chỉnh tiểu vương gia, thích trêu chọc tiểu vương gia”.
“Chấn chỉnh thế nào?”. A La thấy hứng thú.
Lưu Anh đỏ mặt: “Đấu võ, ồ, hai người... hai người đùa vui lắm”. Lưu Anh đánh chết cũng không chịu nói thêm, nghĩ bụng, nếu sau này Bình Nam vương phát hiện đã tự tay trao cho tam tiểu thư tên nội gián hạng nhất là mình đây, chắc là mình sẽ chết khó coi lắm.
A La nghi hoặc nhìn Lưu Anh, cũng không muốn làm khó y, rút cục y vẫn là tâm phúc của Lưu Giác, nàng cười nhạt: “Biết rồi, không muốn nói, ta cũng không làm khó ngươi. Chỉ có điều, đã theo ta, tốt nhất sớm quên chủ cũ đi, nếu không đừng theo ta”.
Lưu Anh quỳ sụp xuống, trả lời dứt khoát: “Lưu Anh là hộ vệ của tam tiểu thư, không có can hệ gì với Bình Nam vương nữa! Cái mạng này là của tam tiểu thư, tiểu thư không tin cứ việc lấy đi bất kỳ lúc nào!”.
A La dở khóc dở cười, lòng cũng hơi hơi cảm động. Thời cổ đại cái gì cũng dở, chỉ có điểm này là tốt, đó là sự ngu trung của người ở đây! Nàng mỉm cười: “Đã là người của ta, vậy ta lệnh cho ngươi hãy chăm sóc Tiểu Ngọc, đối xử tốt với nàng ấy, bảo vệ nàng ấy suốt đời suốt kiếp, ngươi làm được không?”.
Lưu Anh mặt đỏ rần rật, mắt không dám nhìn Tiểu Ngọc, nói khẽ: “Lưu Anh tuân lệnh”.

A La vận một chiếc váy liền màu xanh bạc, tóc tết bím đi ra cửa. Các phu nhân của Lý tướng ngó nghiêng phải trái một hồi, cảm thấy trai không ra trai gái không ra gái, nhưng cũng không dám nói gì, xem ra A La tâm trạng rất tốt, trang điểm mặc dù chẳng đâu vào đâu, nhưng trông nàng vẫn rất đẹp. Nhất là bím tóc gắn những hạt minh châu óng ánh, làm cho mái tóc đen tuyền càng óng ả, rất hợp với đôi mắt long lanh như thủy tinh.
Đại phu nhân âm thầm tiếc của, chuỗi ngọc minh châu của bà bị nàng tháo ra làm đồ trang sức cho bím tóc? Bà vốn tưởng A La dùng xong sẽ trả lại, liền buột mồm: “A La à, chuỗi ngọc đó...”.
“À phải rồi! Cảm ơn chuỗi ngọc của mẹ cả, A La rất thích. Còn nhớ lúc nhị tỷ xuất giá, mẹ cả còn không nỡ đưa ra, vậy mà lại tặng A La, mẹ cả tốt quá!”.
Đại phu nhân cười gượng, không nói gì.
Ra khỏi tướng phủ, A La mới bật cười. Đại phu nhân đã im miệng, đồ của các phu nhân kia cũng đừng nghĩ chuyện lấy về. Nàng đắc ý nghĩ thầm, trở về Phong thành, có bao nhiêu người nịnh bợ, không cần mở quán kinh doanh cũng giàu to.
Tại vương phủ, An Thanh vương bồn chồn đi đi lại lại. Ông đang tò mò muốn gặp tam tiểu thư của Lý gia. Cô nương mà tiểu tử ngốc của ông si mê là người thế nào? Thông gia với Lý tướng không phải là chuyện vui, ông vốn không ưa Lý tướng, trưởng nữ của ông ta đã gả cho thái tử, Lý tướng đương nhiên ủng hộ thái tử kế vị, còn Ninh vương lại muốn truyền ngôi cho tứ hoàng tử Lưu Phi. Còn tiểu tử Doãn Chi này lại thích đứa con gái thà bỏ trốn chứ không chịu lấy nó, ông đã hình dung nỗi khổ sau này của con trai! Ông đã mật báo nếu Ninh vương chưa băng hà Lưu Giác nhất định không được quay về Phong thành, nhưng Lưu Giác lại vội vàng sai cao thủ Ô y kỵ chuyển mật thư khẩn cầu ông chăm sóc tam tiểu thư này, lại còn điều tổ trưởng Thanh tổ Lưu Anh bảo vệ nàng ta.
An Thanh vương có chút lo ngại, không gặp tam tiểu thư kia ông quả thực không yên lòng. Ý ông đã quyết, nếu Lý Thanh La và Lý tướng thông đồng mưu lợi, cùng một giuộc với nhau thì ông nhất quyết không để Lưu Giác thỏa nguyện. Ông có cách khiến hôn sự không thành.
A La đàng hoàng đi vào phủ An Thanh vương, gia nhân dẫn nàng đi vào đại sảnh, Tiểu Ngọc và Lưu Anh đi theo sát. Lưu Anh tuyệt nhiên không dám liếc ngang. Y đã ở trong phủ này hai mươi mấy năm, đã thông thuộc từng gốc cây ngọn cỏ, nhưng lúc này phải giữ bổn phận, chỉ coi mình là người lạ.
An Thanh vương uy nghi ngồi đó, A La vừa bước vào, ông ta đã thầm khen. Tiểu tử kia cũng có con mắt, a đầu này đích thực là tuyệt thế mỹ nhân, hơn nữa lại không có vẻ e ấp ngượng ngùng như các nàng thiếu nữ khuê các, ăn vận trang điểm thanh thoát nhẹ nhàng, cũng rất đặc sắc. Nàng cúi chào tự nhiên, mỉm cười chờ ông lên tiếng. An Thanh vương đưa mắt nhìn Lưu Anh. Lưu Anh quỳ xuống: “Lưu Anh thỉnh an vương gia!”. Thi lễ xong y lại lui về đứng sau lưng A La.
An Thanh vương nghĩ, mình cứ nhằm Lưu Anh khai chiến. Ông hừ một tiếng: “Nuôi ngươi ngần ấy năm, chủ chưa có lời ngươi đã xa bay? Học thói vô lối ấy từ bao giờ?”.
A La nghĩ, được rồi, giết gà cho khỉ xem đây. Nàng không giận, mỉm cười: “Nếu y vẫn coi lão vương gia là chủ, như vậy là bất trung với tiểu nữ. Bình Nam vương là do vương gia dạy dỗ, lẽ nào lời nói của tiểu vương gia không có giá trị?”.
Nha đầu nay thật to gan, dám bênh vực Lưu Giác, chĩa mũi tên lên đầu lão già này? Lại còn ẩn ý nói rằng, dạy con không tốt là lỗi của cha, nha đầu bảo lời Lưu Giác không có giá trị, chẳng phải đang trách lão già này? An Thanh vương thầm tán thưởng, nhướn mày nói: “Lưu Anh, đã ra khỏi phủ An Thanh vương, sau này không cần làm đại lễ như vậy”.
Lưu Anh chắp tay cúi đầu: “Tạ ơn vương gia!”.
An Thanh vương thay đổi nét mặt: “Nha đầu kia, lại đây ngồi!”.
A La nhẹ nhàng đi đến ngồi bên ông ra, hơi ngửa mặt tươi cười nhìn ông. An Thanh vương và Lưu Giác có nhiều nét giống nhau. Nàng đột nhiên phát hiện, không chỉ Lưu Giác mà cả Tử Ly và thái tử cũng có nhiều nét giống ông ta, mũi đều rất thẳng, môi rõ nét. An Thanh vương nhìn rất uy nghiêm, nhưng đôi mắt lại rất đỗi hiền hòa, có phải ông ta cũng như Lưu Giác tâm địa đều tốt? Lát sau nghe tiếng An Thanh vương hỏi: “Nhìn đủ chưa? Nói xem trong mắt ngươi, ta là người thế nào?”.
A La đỏ mặt: “Rất xin lỗi, nhìn vương gia như thế này quả là thất lễ. Tiểu nữ chỉ hiếu kỳ muốn biết Lưu Giác có một người cha như thế nào?”.
Sự thật thà và bạo dạn của A La khiến An Thanh vương thêm yêu mến, có lẽ tiểu tử kia cũng thích tính thật thà của nàng ta. “Nói thật xem, ngươi thấy vương gia ta là người thế nào?”.
A La thầm nghĩ, liệu có phải do có tình cảm với Lưu Giác, cho nên đến phủ An Thanh vương nàng không có tâm lý đề phòng? Nàng bỗng nảy sinh thiện cảm và thân thiết tự nhiên đối với An Thanh vương, quyết định khai chiến: “Lão vương gia là người tốt!”.
“Nói vậy là có ý gì?”.
A La nhìn ông với vẻ lạ lùng: “Con người Lưu Giác rất tốt, ít nhất cũng tâm địa lương thiện, có phải là được vương gia dạy dỗ từ nhỏ?”.
“Lão phu chinh chiến sa trường giết người như giết kiến, cũng là người tốt sao?”.
A La nghiêm trang nói: “Trên chiến trường bậc tôi nào cũng vì chủ, bảo vệ muôn dân lưỡi gươm vô tình, có người từng làm thơ rằng “Sống làm bậc hiền nhân, thác làm ma anh hùng”. Vì xã tắc muôn dân bao năm đồn trú nơi biên ải xa xôi chẳng phải là người đáng kính hay sao?”. A La nghĩ, nếu ở đây có Trường Thành, mình sẽ hát “Trường Thành ca” cho ông ta nghe.
Câu nói nịnh khiến An Thanh vương rất đẹp lòng, ông cười tươi rói: “Hay cho câu “Sống làm bậc hiền nhân, thác làm ma anh hùng” còn gì nữa?”.
“Lão vương gia cũng là con cáo già!”.
Lưu Anh nghe vậy phát hoảng, tam tiểu thư này! Vừa rồi còn nịnh như thế, sao lại đổi giọng ngay?
“Lão vương gia rắp tâm muốn biết con trai vương gia thích điều gì ở tiểu nữ, tìm mọi cách để thăm dò tiểu nữ!”.
An Thanh vương vểnh râu: “Nói như vậy ngươi không sợ ta nổi cơn thịnh nộ hay sao?”.
A La cười hồn nhiên: “Tiểu nữ rất sợ, nhưng lão vương gia là người thế nào? Thống lãnh thiên binh vạn mã, nếu tiểu nữ nói dối, vương gia sẽ biết ngay. Còn nữa, lão vương gia cũng sẽ không chấp tiểu nữ chứ?”.
Đã nịnh rồi thì phải nịnh tiếp. Quả nhiên, An Thanh vương cười ha hả: “Coi như ngươi đang khen ta! Còn gì nữa?”.
“Lão vương gia, lão vương gia lại cũng là tiểu nhân!”. A La thay đổi sắc mặt.
Lưu Anh lại hoảng hồn, toát mồ hôi, tam tiểu thư này đúng là chưa làm người ta tức chết thì chưa chịu yên!
An Thanh vương đùng đùng giận dữ, sao nha đầu này càng nói càng khó nghe thế? Ông sa sầm nét mặt: “Ngươi dám nói bản vương là kẻ tiểu nhân?”.
A La đứng lên, đi mấy bước: “Thứ lỗi cho tiểu nữ mạo muội, theo vương gia, thế nào là tiểu nhân?”.
“Gian trá, xảo quyệt, hẹp hòi, ích kỷ, nhỏ nhen!”.
A La cười: “Đó là tiểu nhân theo quan niệm của vương gia, là những kẻ suốt ngày nhăn nhở xun xoe, khiến người ta cười khẩy khinh thường. Có điều, tuyệt chiêu đó tuy không dễ bắt chước, nhưng lại có vô số người bất chấp sự khinh rẻ của người đời vẫn lao vào. Loại người như vậy tiểu nữ không làm được, lão vương gia càng không phải nghĩ, nếu bắt người làm vậy, người cũng không làm được”.
An Thanh vương cảm thấy hơi thuận tai, sắc mặt dịu đi.
A La lại tiếp: “Tiểu nhân mà tiểu nữ nói ở đây là kiểu người khác. Trong thế gian phức tạp không ai có thể trong sạch siêu phàm, chỉ có những người trốn tránh cuộc đời. Nhưng phàm những nơi có con người đều không thể trốn tránh, ẩn dật cũng không trốn tránh được, cố theo đuổi sự trong sạch hoàn hảo là không tưởng, là lừa mình dối người! Chúng ta đều là những tiểu nhân tương đối, coi vua là cha, ăn lộc của vua, lo thay nỗi lo của vua. So với cái lớn lao của đức vua, chúng ta là bé nhỏ”.
An Thanh vương trầm tư, A La tiếp tục: “Chúng ta là con người, không phải muôn thú, không phải thần thánh, bản tính con người chính là nhân tính, vốn không khác nhau quá nhiều. Nhiều lúc trong cuộc sống của chúng ta có bao điều hạn chế, không gian để tự do hít thở, tự do bay nhảy bị bó hẹp đến mức khiến ta không thể thở, không thể giương cánh, vậy là đành phải làm cho bản thân trở nên nhỏ bé đi, chỉ có làm cho mình trở nên nhỏ bé đi mới hy vọng khiến không gian sinh tồn của mình lớn hơn chút nữa. Nhưng tiểu nhân cũng là đại trượng phu, thân sinh ra giữa đất trời, có những điều cần làm có những điều không làm!”.
Mặt nàng sáng bừng: “Vương gia chính là kiểu tiểu nhân mà A La vừa nói, có thể tiến, có thể lùi, có thể cười, có thể giận đều là tiểu nhân, nhưng ung dung đường hoàng, quang minh lỗi lạc!”.
Lưu Anh thở phào, ánh mắt nhìn A La muôn phần kính trọng. Nếu lúc đầu y đi theo A La là do mệnh lệnh của chúa thượng, thì giờ đây y đã xúc động sâu sắc trước kiến giải mới mẻ của nàng. Ai chẳng muốn đường đường chính chính làm người? Cuộc sống gian khó buộc người ta phải nép dưới bờ rào làm một tiểu nhân. Nhưng điều đó không ngăn cản người ta có tấm lòng, tâm hồn của đấng trượng phu chân chính! Lưu Anh bất giác đứng thẳng lưng.

An Thanh vương kinh ngạc nhìn A La. Một tiểu cô nương mười bảy tuổi, đứng giữa phòng, người như tỏa sáng, đôi mắt hồn hậu, thẳng thắn. Phải, mọi người đều là tiểu nhân, chẳng qua ai cũng đang giành lấy không gian lớn hơn cho mình và người thân. Người có kiến giải như thế, đứa con trai của ông quả không nhìn nhầm. Ông cười ha hả: “Bày rượu, lão phu phải uống vài chén mới được!”.
A La không nói triết lý nữa, ngoan ngoãn thưa: “Nghe đồn lão vương gia thích rượu, không biết vương gia có hiểu về rượu?”.
An Thanh vương trợn mắt: “Rượu có gì phải cầu kỳ? Lão phu chỉ muốn uống cho đã!”.
A La cười không trả lời. Lát sau nữ tỳ mang rượu và thức ăn lên, A La cầm một chén lên uống, ngẫm nghĩ rồi hỏi: “Đây là rượu mà lão vương gia thích nhất sao?”.
An Thanh vương đắc ý: “Lão phu thích nhất loại rượu ở Biên thành, đủ cay đủ mạnh!”.
Loại rượu nước hai này cũng gọi là rượu? A La thầm nghĩ, nếu có một bình Mao Đài ở đây, có lẽ ông ta sẽ khoái đến nỗi đêm ngủ cũng ôm trong lòng? Kỹ thuật cất rượu, nàng cũng không hiểu lắm nhưng có thể thử, bèn nói: “Hôm nào tiểu nữ có thể đem loại rượu này chế lại một chút được không?”.
Nha đầu này còn biết ủ rượu nữa sao? An Thanh vương đã thấy bụng ngứa ngáy vô cùng, thằng con trai mình đúng là bắt được báu vật. Hai người vừa ăn vừa nói chuyện, A La kể cho ông nghe những kiến thức về rượu mà nàng biết được. Những là bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi, uống rượu nho phải dùng ly thủy tinh; rượu trắng phải dùng chén gốm lam, rượu tinh phải uống vào tiết hoa lê nở... khiến lão vương gia dỏng tai, trố mắt ngồi nghe mặt mũi phừng phừng phấn khích, xuýt xoa tiếc không được nếm thử từng loại rượu đó: “Ngươi đều biết nấu cả chứ?”.
A La cười, lắc đầu: “Tiểu nữ không biết!”.
An Thanh vương bực mình: “Thế ngươi nói nhiều như vậy làm gì? Có uống được đâu!’’.
Đúng thế, chưa được uống, không uống được mới khen hay! A La lim dim mắt nói: “Hình như tiểu nữ nhớ có một cách chế rượu gọi là chưng cất, tiểu nữ sẽ cố nhớ lại”. Nàng không dám chắc, nhưng có thể thử.
Mắt An Thanh vương sáng lên, nhìn nàng không chớp: “Vậy ngày mai thử?”.
“Ngày mai tiểu nữ phải vào cung. Tiểu nữ còn chưa trở về, đại tỷ đã giục gọi vào cung. Nhắc đến loại rượu này, tiểu nữ cũng định chế thử chơi, nếu trong cung giữ lại, biết làm thế nào?”. Nàng làm bộ phiền não.
“Thì cứ nói vương phủ của ta có việc”. An Thanh vương vỗ đầu chủ động đứng ra làm lá chắn.
Điều nàng muốn không phải là câu đó. A La vừa rồi nói một thôi một hồi, làm tiểu nhân quả thật không đơn giản như vậy. Muốn vào cung muộn một chút, trước tiên phải nắm được An Thanh vương! Bây giờ ông chính là giấy thông hành đặc biệt! Nàng bất giác cười thầm.
An Thanh vương ngồi trong thư phòng nhìn A La không chớp mắt. Nàng đang vắt óc nhớ lại: “Muốn nấu rượu, phải nấu chín cao lương hoặc gạo, rồi ủ cho lên men, tiểu nữ nghĩ lão gia cũng sốt ruột lắm rồi. Chúng ta sẽ làm đơn giản một chút, ta sẽ đem rượu có sẵn chưng cất lại, dụng cụ chưng cất này...”. A La nghĩ một hồi, rồi vẽ ra dụng cụ giống như phin pha cà phê với hai nửa hình cầu trên có nắp đậy, lại có thêm ống dẫn. A La nhìn An Thanh vương đang nghe rất chăm chú.
“Tiểu nữ cũng không biết có được không, chúng ta phải thử đã”.
Nàng giải thích: “Lão vương gia thích rượu mạnh, rượu này chưa đủ mạnh, chúng ta sẽ làm cho nó mạnh hơn, thông qua chưng cất, tinh chất rượu bốc lên, biến thành hơi nước, dùng dụng cụ thu lại hơi nước đó sẽ được một loại rượu khác”.
An Thanh vương ngẫm nghĩ, bật cười: “Có phải chính là phân tách rượu nguyên chất?”.
A La vỗ tay khen: “An Thanh vương thật anh minh, chính là thế, chúng ta thử xem sao”.
An Thanh vương tươi cười nhìn A La, ánh mắt cực kỳ tinh anh: “A La nói đi, trong đầu con sao lại chứa nhiều thứ như vậy? Chưa bao giờ nghe nói, không tin được, ngay đến kiến giải của con về tiểu nhân cũng thật mới mẻ khiến lão phu sửng sốt bần thần!”
A La nghĩ, cáo già đã bắt đầu nghi ngờ. Nàng cười sảng khoái: “Theo đạo lý, tiểu nữ là tam tiểu thư của tướng phủ, được nuôi dưỡng ở chốn thâm khuê, không ra khỏi cửa ba bước, không thể biết những thứ không phù hợp với nữ nhi như vậy. Nhưng, lúc A La năm tuổi đã có một cuộc kỳ ngộ. Một người không biết tại sao bị thương, nhảy vào rừng trúc phía sau hậu viên tướng phủ, tiểu nữ cho ông ta ăn uống, cũng nhận lời giữ bí mật cho ông ta, cho nên hàng ngày ông ta dạy tiểu nữ tập võ công, còn kể cho tiểu nữ nghe bao nhiêu chuyện ly kỳ. Tiểu nữ cũng không biết thật giả thế nào, cũng chẳng có dịp nào để thử, bây giờ dần nhớ lại, một số điều cũng thấy có lý, một số điều cũng thấy có lợi ví như cách ủ rượu”.
An Thanh vương mặt nghiêm túc: “Con cho ta là đứa trẻ lên ba hay sao?“.
A La nghiêm mặt: “Khi chưa gặp lão vương gia, tiểu nữ còn hành sự tùy tiện, gặp rồi liền bỏ ý định. Lưu lạc ba năm bên ngoài, tiểu nữ đã không còn là tam tiểu thư yểu điệu yếu mềm. Vốn đã rất mệt mỏi, lẽ nào vương gia cho rằng tiểu nữ cố tình ra vẻ, đối phó với vương gia?”.
Nói đến đây mắt nàng nhìn thẳng An Thanh vương. Phải hoàn toàn thu phục ông, để ông trở thành chỗ dựa của nàng ở Phong thành, không mạo hiểm dùng độc chiêu sao có thể đạt mục đích?
An Thanh vương cố bộc lộ uy vũ của một võ tướng nhiều năm cầm quân, nhưng nàng vẫn đứng thản nhiên, nụ cười tươi viên mãn như hoa: “Vương gia, tiểu nữ đã nói, tiểu nữ chỉ đang cố sức tự bảo vệ bản thân mình trong không gian hạn hẹp, chỉ cầu sống yên ổn như một tiểu nhân mà thôi”.
An Thanh vương thu lại sát khí của một võ tướng, mắt chớp một cái, khẽ cười: “Nghe nói lúc đầu con tháo hôn, khiến con trai lão phu suýt chút nữa phát điên?”.
A La chớp mắt: “Nghe đồn tiểu vương gia nói An Thanh vương phủ cha truyền con nối, cả đời chỉ lấy một vợ?”.
“Con thích nó ở điểm này ư?”. An Thanh vương không trả lời, hỏi lại.
“Không, không phải tiểu nữ chỉ thích tiểu vương gia ở điểm đó!”. A La lắc đầu.
“Ồ, còn gì nữa”.
A La bỗng cười tươi: “Tiểu nữ còn thích tính quyết đoán của tiểu vương gia, nói được làm được, một lòng chân tình với tiểu nữ, quan trọng nhất là tiểu vương gia không chỉ là Bình Nam vương mà còn có một người cha lão luyện quyền thế, có thể làm được mọi chuyện như lão gia đây! Có hai vị vương gia làm chỗ dựa, món hời như thế ai chẳng muốn!”.
An Thanh vương cười ha hả: “Bản vương rất thích tính cách bộc trực này của con!”. Đột nhiên ông vỗ đầu,“Suýt thì quên, tiểu tử đó hình như còn gửi cho con một bức thư. Đi! Ta vào xem thế nào!”.
Lòng A La ngọt ngào, nhưng mặt lại tỏ ra bất cần: “Không xem!”.
An Thanh vương phấn khởi nhìn nàng, mặt A La ửng hồng vẻ e thẹn.
“Thế nào? E thẹn ư? Khi đến gặp ta, có thấy con e thẹn gì đâu?”.
A La cúi đầu ngồi im, lát sau mới nói: “Tiểu nữ vẫn chưa quyết lấy tiểu vương gia, việc gì phải hồi âm, cứ để vương gia sốt ruột”.
“Ha ha, tốt, cứ để nó sốt ruột!”. Nàng ta có kiến giải đặc sắc, ý chí vững như núi, khi yếu đuối khiến người ta thương cảm, lúc kiên quyết lại khiến người ta khâm phục. Kỳ nữ này, đừng nói tiểu tử ngốc kia, ngay lão gia ta cũng thật lòng thích thú.
“Cứ thử đọc xem sao!”. A La chớp mắt, bỗng nảy ra ý nghĩ khác.
An Thanh vương cười đưa nàng vào thư phòng, trao cho nàng một phong thư. A La mở ra xem, bên trong chỉ có mấy chữ: “Vẫn còn giận phải không?”. Ở giữa ép một bông hải đường.
A La nhìn An Thanh vương, cười ranh mãnh: “Lão vương gia, chúng ta bàn xem hồi âm thế nào để tiểu vương gia tức điên được không?”.
An Thanh vương thầm nghĩ, tiểu tử ngốc, giấu ta ấn định hôn ước, may mà ta cũng thích con bé, nếu không, ta sẽ tức muốn chết. Tự dưng ông cũng nảy sinh tính trẻ con, cười: “Nên hồi âm thế nào?”.
A La nghĩ một lát: “Tam tiểu thư tướng phủ đích thân đến phủ thoái hôn, đại sỉ đại nhục! Nếu còn nhắc lại chuyện này, lão phu đánh gẫy chân!”.
An Thanh vương ngẩn người, nhe răng cười: “Tốt, cứ làm thế! Đợi tiểu tử ngốc về đây, xem nó cầu xin ta thế nào!”.
A La cười khúc khích, chìa ngón tay ngoắc coi như thỏa thuận: “Đây là bí mật của hai chúng ta!”.
An Thanh vương cười cũng chìa tay ngoắc, đột nhiên nói: “Nghe nói ngón đàn của con hơn cả tỷ tỷ?”.
A La giật mình, chuyện này lão cáo già cũng biết sao! Nghĩ một lát trả lời: “Ý tứ tiếng đàn của tiểu nữ trội hơn, chứ không phải ngón đàn giỏi hơn!”.
“Nhưng khúc “Thu thủy” lại khiến thái tử xiêu lòng! Có điều thải tử phi là người không đơn giản, thuở nhỏ đã tinh thông binh pháp, lão phu cũng rất mực khâm phục”.
Đúng thế, Vương Yến Hồi đích thực là một người đàn bà lợi hại! A La nghĩ, thực ra mình hiểu binh pháp rất nửa vời. Ba mươi sáu kế nàng còn chưa thuộc hết, sực nhớ Lưu Giác đã nói, Ninh vương băng hà chàng sẽ dẫn quân về Phong thành, vậy An Thanh vương rút cục sẽ ủng hộ ai? Lại còn Tử Ly đang nắm binh quyền, ba năm đủ dài để chàng vạch xong mọi mưu kế. Về chuyện ai sẽ kế vị A La không nghĩ nhiều, dường như ai làm cũng không can hệ đến nàng, nhưng phủ An Thanh vương thì khác. Lão cáo già suy nghĩ thế nào chắc sẽ không nói với mình, bây giờ Lưu Giác ở Lâm Nam đang rất sốt ruột, vào lúc này lão cáo già hỏi đến chuyện đánh đàn là có ý gì?
“Ngày mai tiểu nữ vào cung thăm Thanh Lôi, vương gia có muốn dặn dò tiểu nữ điều gì chăng?”.
“Chẳng phải đã nói sẽ viết thư cho tiểu tử nói là con đích thân đến phủ từ hôn rồi thôi, trò phải diễn đủ, tiểu tử đó mới không nghi ngờ!”. An Thanh vương mặt cười như hoa.
A La nghĩ, trong đầu “bung” một tiếng, tuyên bố như vậy mình sẽ sống ra sao? Không những Lý tướng sẽ đến tận Đường viên hỏi tội, thái tử, thái tử phi và Thanh Lôi cũng sẽ điên tiết, cái mạng nhỏ nhoi của mình liệu có giữ được không? Cây đại thụ An Thanh vương này chưa dựa được mấy ngày, ông đã đẩy mình vào vòng xoáy hay sao?
An Thanh vương vẫn cười nhìn nàng. A La lẩm bẩm: “Cha tiểu nữ sẽ đánh chết tiểu nữ mất! Không đùa nữa!”.
An Thanh vương cười khà khà: “Tiểu nha đầu sợ rồi hả?”.
“Đương nhiên, cái mạng nhỏ của A La phải thận trọng”.
Đúng, đẩy A La vào vòng xoáy như vậy là hơi tàn nhẫn, An Thanh vương cũng thấy không nỡ, buột miệng nói: “Thoái hôn đâu có dễ thế? Nhưng con cũng không thích nó, tiểu tử nhà ta đâu có xứng với con!”.
Ý ông thế nào? A La không hiểu. Nếu nàng nói không thích Lưu Giác... Nàng cười, nhìn An Thanh vương: “Vương gia đúng là cáo già! Ngay con trai mình mà cũng đưa vào toan tính!”.
“Như con nói, ta đương nhiên là cáo già. Nhưng vị hôn thê của tiểu tử kia không thích nó, lại gây chuyện muốn thoái hôn, nó không sốt ruột sao được! Nếu nó sốt ruột, ha ha, người làm cha này, đương nhiên cũng đành bất lực!”. An Thanh vương cười tỏ vẻ vô can.
A La kéo áo ông làm nũng: “Nếu cha tiểu nữ mắng tiểu nữ chưa biết chừng tiểu nữ sợ quá bỏ trốn khỏi tướng phủ, lần này không biết đi đâu, lão vương gia nên chuẩn bị một sơn trang biệt uyển để cho tiểu nữ nương náu! Còn nữa, nếu Đông cung trở mặt với tiểu nữ, tiểu nữ tủi thân muốn ra phố mua sắm cho hả giận, không có bạc không xong!”.
Nói mãi nói mãi hai người cười khe khẽ.
Lúc sắp rời phủ, An Thanh vương cho A La ba cây pháo hoa: “Nếu tâm trạng không vui, thì đốt pháo hoa mà chơi, đẹp lắm".
A La mỉm cười giơ tay đón nhận, ánh mắt lay động lóng lánh: “Một mình đốt pháo hoa thì buồn lắm, tiểu nữ thích chen trong đám đông xem pháo hoa, như thế mới vui”.
Phong thành sắp tới chắc không bình yên, bản thân mình chắc cũng không tránh khỏi bị cuốn vào dòng xoáy, đã vậy phải khuấy cho đục ngầu mới không uổng sống một đời ở đây. Lưu Giác, hai cha con chàng là những con cáo thật sự, còn ta, nàng nghĩ, ta sẽ nhân cơ hội này chơi thỏa thích một trận. Có hai con cáo một già một trẻ bảo vệ tốt bao nhiêu.

Sau khi A La đi khỏi, An Thanh vương trở về thư phòng, đi đi lại lại suy nghĩ, thái y mật báo, Ninh vương đã hoàn toàn tê liệt, có thể ra đi bất cứ lúc nào, ông nhẩm tính thời gian, lệnh cho thái y bất luận thế nào cũng cố duy trì mạng sống cho Ninh vương thêm nửa tháng nữa.
Ngay từ ba năm trước, khi Ninh vương triệu ông trở về Phong thành, ngài đã khẩn thiết nói với ông: “Vương đệ, Ninh quốc sóng yên biển lặng cả trăm năm nay, ta bản tính yếu mềm, lại bình yên ngự trị trên ngai. Nhưng họ Vương lòng lang dạ sói, thế lực ngoại thích đã len vào triều đình. Đệ ở xa mãi tận Biên thành, những năm qua Ninh quốc không xảy ra chuyện gì lớn, nhưng triều chính đa phần đều làm theo ý họ Vương, ta cũng đành mắt nhắm mắt mở cho qua. Thái tử vốn cũng rất tốt, nhung nó rất thân với họ Vương, để nó kế vị e là thế lực vương tộc họ Lưu chúng ta ngày càng suy yếu. Nếu lúc thái tử chọn thái tử phi, hoàng hậu không một mực tiến cử con gái Vương thái úy thì ta cũng thôi, bây giờ nếu thái tử kế vị, lưỡng cung hoàng hậu đều do con gái họ Vương nắm giữ, ta thực lòng không yên. Ta cũng đã nghĩ đến chuyện phế thái tử, hiềm nỗi một là Lưu Giám cũng là con trai ta, nó không mắc sai sót lớn, không có cớ gì để phế truất; hai là, họ Vương nhất định không phục. Họ Vương nắm đại quyền thống lĩnh cánh quân phía đông, nếu dấy binh, Ninh quốc đại loạn, e là cơ nghiệp mấy trăm năm của tổ tiên hủy bại trong tay ta!”.
An Thanh vương chứng kiến thái tử Lưu Giám và Ly Thân vương Lưu Phi từ nhỏ lớn lên. Hai vị hoàng tử đều là những người xuất sắc trong các vị hoàng tử, đều có khả năng kế vị. An Thanh vương hiểu, sau khi Trần hoàng hậu qua đời, Ninh vương rất lo lắng cho tứ hoàng tử, nhưng do thế lực họ ngoại rất lớn, đành lập Lưu Giám làm thái tử. Để bảo tồn thực lực của hoàng tộc, bản thân An Thanh vương đã nắm quyền cai quản Hữu quân đồn trú tận Biên thành xa xôi, coi như phân chia một phần binh lực, nhưng đại đa số quân quyền vẫn nằm trong tay Vương thái úy. Nếu thái tử kế vị, binh quyền, hoàng quyền họ Vương đều có, vận mệnh sau này của hoàng tộc họ Lưu rất khó lường.
An Thanh vương thận trọng lên tiếng: “Ý của vương huynh là...”.
Ninh vương trịnh trọng lấy ra di chiếu, trao vào tay ông, lạy ông một lạy: “Để bảo vệ gia tộc họ Lưu, ta đã làm khó vương đệ rồi”.
Khuôn mặt dày dạn gió sương của An Thanh vương trở nên cực kỳ trang nghiêm, ông quỳ xuống thề: “Quyết không phụ sự ủy thác của vương huynh!”. Khi đứng dậy, một khí phách oai nghiêm dũng mãnh lạ thường toát lên từ con người ông.
Ninh vương khẽ than: “Nếu ngày xưa đệ dịu tính một chút, ngôi báu này do đệ làm chủ, Ninh quốc đâu có nhiều rắc rối như thế!”.
An Thanh vương lắc đầu: “Câu này của vương huynh rất sai, đệ tính khí bạo liệt, không làm được đế vương, chính vương huynh nhẫn nhịn ôn hòa, đại độ khoan dung mới giữ Ninh quốc mấy chục năm phồn thịnh an khang. Phụ hoàng ngày xưa có con mắt tinh đời, đã sớm nhìn ra điểm yếu của đệ, đệ có thể nắm binh quyền trụ cột quốc gia, nhưng làm đế vương lại không xứng, cho nên phụ hoàng mới ban Xích long lệnh cho đệ”.
Khuôn mặt gầy yếu của Ninh vương tỏ ra xúc động: “Huynh đệ chúng ta một lòng giữ vững cơ nghiệp của họ Lưu, không làm hổ danh tổ tiên! Nhưng e là ta không đợi được đến ngày đó, đành trao đống đổ nát này cho vương đệ. Chỉ mong Tử Ly sớm trưởng thành, không phụ kỳ vọng của ta, nghiền ngẫm mưu tính mấy năm nay, chắc cũng đã có thể lẳng lặng quăng mồi thanh trừng ngoại thích, tránh cho triều đình khỏi nạn binh đao”.
Sau khi trở về Phong thành, An Thanh vương mới giật mình phát hiện cho dù trong tay ông nắm Xích long lệnh, có thể tiếp quản Phong thành lúc có nguy biến, nhưng thế lực họ Vương âm thầm xây dựng mấy chục năm, muốn suôn sẻ khống chế cục diện cũng không dễ. Dù Hữu quân hay Nam quân đều cách Phong thành quá xa, đáng ngại nhất là khi mọi mưu kế còn chưa hoàn tất, Ninh vương đã băng hà. Thái tử danh chính ngôn thuận kế vị, nếu không có sơ suất lớn, bản di chiếu của Ninh vương cũng khó thuyết phục được quần thần. Không có cớ động binh, tứ hoàng tử động binh là phạm tội mưu phản. Lúc đó triều đình sẽ chia thành hai phái, Ninh quốc đứng trước nguy cơ chia rẽ ly tán. Nếu Trần quốc dám dấy binh xâm lược tất sẽ liên minh với Hạ quốc, hơn nữa dã tâm của Khởi quốc đã rõ ràng. Khi Ninh vương lâm trọng bệnh, Trần quốc đang nôn nóng động binh, nếu lúc này hai vị hoàng tử tranh giành đế vị, sẽ là cơ hội hiếm có để mấy nước kia ra tay.
Ba năm nắm binh quyền vừa rồi, Tử Ly tất đã có chuẩn bị chu toàn, đã đến lúc cần trở về. Hiện giờ họ Vương đã có đề phòng, trong đại bản doanh ở ngoại ô phía đông cách Phong thành gần nhất, hai mươi vạn quân đã ém sẵn, mắt hau háu hướng về Phong thành, ông đã lệnh cho Lưu Giác không được khinh suất trở về Phong thành, chính là không cho họ Vương kia có cớ ngăn cản, để Lưu Giác hoàn toàn nắm chắc Nam quân trong tay. Còn bây giờ, từ Lâm Nam trở về, đi suốt ngày đêm cũng phải mất mười ngày, muộn hơn làm lỡ kế hoạch đã định thì quả thực có thể phải động binh đao.
An Thanh vương nhìn bức thư hồi âm viết theo ý A La, chợt nảy ra một ý, sửa lại: “Tam tiểu thư tướng phủ rất không hài lòng về con, làm loạn đòi thoái hôn, An Thanh vương phủ không biết giấu mặt vào đâu. Thái tử được tin lại muốn nạp nàng ta làm thứ phi, con không định để cha đi cướp vợ cho con chứ?”.
Ông lại viết cho Tử Ly: “Nội trong vòng mười lăm ngày lập tức trở về Phong thành”.
Gắn si niêm phong xong, An Thanh vương cho gọi một tử sĩ Ô y kỵ đến truyền lệnh: “Xích Phong nghe đây, ngươi lập tức dẫn thêm ba người bí mật ra khỏi thành, nhất định phải trao tận tay Ly Thân vương. Nếu gặp cản trở, lập tức hủy thư. Dẫu chỉ còn một người cũng phải đích thân nói với Ly Thân vương, bản vương ra lệnh trong vòng mười lăm ngày phải gặp được thân vương!”.
Xích Phong quỳ sụp xuống, trả lời dõng dạc: “Vương gia yên tâm!”.
Xích Phong đi khỏi, An Thanh vương gọi: “Ám Dạ”.
Một bóng đen bay vào thư phòng: “Xin vương gia sai bảo!”.
“Ngươi có thân thủ tốt nhất trong Ô y kỵ, đây là ấn tín của bản vương, ngươi cầm thứ này đến gặp Ly Thân vương, nói là bản vương ra lệnh trong vòng mười lăm ngày dẫn quân trở về Phong thành. Còn lý do cứ nói là về phục tang phụ vương”.
Ám Dạ hơi ngạc nhiên: “Vương gia không tin Xích Phong?”.
“Không phải không tin, việc trọng đại, không thể sơ suất. Cho dù Xích Phong xảy ra chuyện, cũng phải đảm bảo Ly Thân vương được báo tin”. An Thanh vương hạ giọng.
Ám Dạ không hỏi nữa, nhận ấn tín, lẳng lặng lui ra.
Khi Lưu Giác đi Lâm Nam mang theo tử sĩ của Huyền tổ và Minh tổ của Ô y kỵ, trong phủ hiện chỉ còn lại ba kỵ đội. An Thanh vương nhìn bức thư viết cho Lưu Giác, gọi một binh sĩ Cáp tổ: “Nội trong vòng ba ngày đưa thư này đến tay thiếu chủ”.
Mọi việc xong xuôi, An Thanh vương có phần ngơ ngẩn, Phong thành mùa đông này cuối cùng đã nổi gió. Lại nghĩ đến Thanh La, nha đầu thông tuệ này ngay từ đầu đã hiểu ý của ông. Nhưng theo ông, Lý Thanh La mặc dù thích tiểu tử Lưu Giác, nhưng nàng gây sóng lớn như vậy cũng không hoàn toàn vì Lưu Giác. Ông đột nhiên cảm thấy thương cho con trai, nhưng rồi dường như hiểu ra, lại đắc ý: Cha si tình, con đương nhiên cũng thế.
Trở về tướng phủ, Lý tướng gọi A La vào thư phòng: “Đi gặp An Thanh vương thế nào?”.
A La rất bình tĩnh trả lời: “Lão vương gia rất tốt với con, Bình Nam vương đúng là chỗ dựa tốt”.
Nhìn vẻ mặt tươi cười của Lý tướng, A La chuyển hướng câu chuyện: “Có điều Ly Thân vương cũng không tồi!”.
Lý tướng kinh ngạc, con bé này có quan hệ với Ly Thân vương từ bao giờ? Tư tưởng sớm nắng chiều mưa như thế nếu An Thanh vương biết, lão già đó dễ chừng dám đánh ông trước mặt quần thần lắm.
“Đừng quên, con đã định hôn với Bình Nam vương, đã ra khỏi khuê phòng, bị lỡ mất ba năm! Ngày mai ta sẽ đến bàn với An Thanh vương chọn ngày thành hôn!”.
A La cười: “Cha à, cha hồ đồ hay sao? Ninh vương đang bệnh nặng, sao cha dám gả con vào lúc này?”.
Đúng, vương thượng bệnh nặng, bây giờ mà gả con gái là không thỏa đáng. Lý tướng nghiến răng lẩm bẩm, đứa con gái này bỏ đi ba năm, khi trở về đã không còn nhút nhát như trước, lời lẽ xem chừng có ý từ hôn, nếu không sớm gả đi, đêm dài lắm mộng. Đầu ông lóe lên bao toan tính.
Nhìn ánh mắt liếc đảo bất định của Lý tướng, A La bồi thêm một câu: “Ly Thân vương nắm trọng binh trong tay, ngộ nhỡ...”.
Lý tướng kinh ngạc, phải rồi, Ly Thân vương là cá trong ao, hai con hổ đấu nhau, bản thân mình quả thực đã đem châu báu đặt cả vào thái tử, nhưng nếu ngộ nhỡ? Đằng nào ba đứa con gái hy sinh đứa nào cũng không quan trọng, quan trọng là mình phải kín kẽ, không được phép sơ sẩy! Bình Nam vương cũng tốt, nhưng nếu Ly Thân vương chiến thắng thái tử, kế vị ngôi báu, gả A La cho y, mình chẳng phải càng hời hay sao? Nhưng nếu hủy hôn, mình biết ăn nói thế nào với lão già An Thanh vương? Lý tướng lại đau đầu.
“Cha khỏi cần phiền não, bây giờ con chưa đồng ý lấy ai là được chứ gì? Để mọi chuyện rõ ràng rồi tính cũng chưa muộn!”.
Mặt Lý tướng tươi tắn lại ngay lập tức, nghĩ đến Bình Nam vương đang ở Lâm Nam chưa về, Ly Thân vương cũng ở tận Biên thành, lúc này chưa cần lo vội. Ông thầm khen A La mưu kế: “Ý hay lắm, thật không hổ là con gái ngoan của ta! Ngày mai vào cung thăm tỷ tỷ, con nhớ trang điểm thật đẹp đấy!

CHƯƠNG 22



Thanh Lôi rất không muốn gặp mặt Thanh La, nhưng lại không thể không gặp.
Tại Đông cung, thái tử mỉm cười hỏi: “Tiểu muội này ba năm rồi không gặp, Lôi Nhi không muốn cùng hàn huyên chuyện cũ hay sao? Nàng ta là vương phi tương lai của Bình Nam vương đấy”.
Vuơng Yến Hồi xen lời: “Không biết ba năm nay tiểu muội Thanh La thay đổi thế nào, tiếng đàn năm xưa, Yến Hồi quả thực khó quên”.
Mắt thái tử thoáng một tia mơ hồ, nhưng lập tức lại trong veo như nước.
Lúc đó một cung nữ đi vào quỳ bẩm: “Tam tiểu thư tướng phủ cầu kiến!”.
“Mau mời vào!”.
A La bước từng bước ngắn, thong thả vào cung, nàng cởi chiếc áo choàng, quỳ phục xuống nền: “Thái tử điện hạ thiên tuế, thỉnh an thái tử phi, thỉnh an lương đệ!”. Chiếc váy màu xanh nhạt xòe như cánh bướm, vóc dáng thanh mảnh như mầm lộc biếc đầu cành lúc xuân về. Hôm nay nàng đã cất công trang điểm, không biết người ở Đông cung nhìn thấy sẽ phản ứng thế nào?
Thái tử cười: “Đều là người nhà, không cần đa lễ, đứng lên đi!”.
A La đứng dậy, khi vừa ngước mắt, sắc thu ba sóng sánh, nụ cười diễm lệ như đóa mai bừng nở trong nắng xuân, khiến ba người trong điện giật mình. Thanh Lôi bất giác nắm chặt nắm tay, trong lòng như có tiếng thầm thì: “Đã sớm biết mà, có một người mẹ như vậy, ả ta lớn lên tất sẽ là giai nhân khuynh thành!”. Ánh mắt như bốc hỏa, liếc nhanh thái tử, chỉ thấy Lưu Giám đứng ngây người. Thanh Lôi ngẩn ngơ, cũng phải thôi, một giai nhân như vậy, đàn ông nào chẳng động lòng?
Vương Yến Hồi là người định thần nhanh nhất, mỉm cười nói: “Không ngờ tiểu muội Thanh La lưu lạc mấy năm trở về lại đẹp đến thế, quả thật khiến chúng ta nhìn không muốn rời, Yến Hồi này tự hổ thẹn không bằng!”.
Thái tử cũng sực tỉnh, cười nói: “Bình Nam vương thật có phúc!”.
A La cất tiếng: “Anh rể trêu đùa A La rồi, ai bảo muội sẽ lấy huynh ấy? Muội không thích kiểu người lỗ mãng như vậy!”.
Nói đoạn, đi đến bên Thanh Lôi, “Hai vị nương nương, một người cao sang quý phái, một người tuyệt sắc vô song, A La đâu sánh được”.
Vương Yến Hồi nói đùa: “Chẳng phải thái tử có chuyện cần đi sao? Không nên quấy rầy chị em thiếp hàn huyên”.
Lưu Giám có vẻ nấn ná không muốn đi, mối hoài nghi trong lòng bao năm cuối cùng đã nghĩ ra lời đáp, nhưng bây giờ chưa phải lúc hỏi chuyện đó. Nụ cười lại hiện trên khuôn mặt tuấn tú của chàng: “Đã đến đây, cứ ở lại Đông cung chơi ít ngày, Lôi Nhi nhớ muội lắm đó”.
Thái tử giữ nàng ở trong cung là có ý gì? Muốn chứng thực khúc “Thu thủy” kia hay là định dùng nàng làm con tin? A La thầm cảnh giác, nét mặt vẫn tươi cười.
Trong đầu Vương Yến Hồi đang suy nghĩ rất lung, cảm thấy Thanh La nói không lấy Bình Nam vương có gì không thật. Nếu không lấy Bình Nam vương, thì người trong lòng nàng ta là ai? Bình Nam vương Lưu Giác người tuấn tú hào hoa, trẻ măng đã được phong vương, uy quyền sáng chói, một trang nam nhi hoàn hảo, là giấc mộng của bao tú nữ danh gia. Sắc đẹp của A La khiến ba người ở đây kinh ngạc như thế, lẽ nào nàng ta muốn địa vị cao hơn? Hay là người trong lòng nàng ta là...
Thanh Lôi nắm tay A La, hỏi Vương Yến Hồi: “Ba chúng ta đến nhà thủy tạ chơi được không?”.
Vương Yến Hồi cười nhạt: “Được, ta đang muốn chuyện phiếm với tiểu muội Thanh La”.
Nhìn thấy nhà thủy tạ, A La ngây người ra. Đây quả là cảnh thần tiên. Hơi nóng từ mặt hồ sen bốc nghi ngút mịt mờ như sương khói, giống như người ta đào hầm đốt than dưới đáy hồ. Ai nói tiền bạc quyền thế không tốt? Để làm nên cảnh quan thế này cần bao nhiêu nhân công, bao nhiêu tiền của?
Thị tỳ bưng trà và đồ điểm tâm lên, ba người an tọa, nhàn tản thưởng lãm cảnh sắc. A La thầm nghĩ, khung cảnh thần tiên thế này không mảy may gợn lên không khí căng thẳng gươm đao tuốt trần trong ngoài cung đình.
Đột nhiên bên nhà ngoài thủy tạ có tiếng bước chân, A La ngoái đầu, nhìn thấy một khuôn mặt trẻ con ửng hồng, đôi mắt đen láy, cái cằm nhỏ xinh. Nàng quay sang nhìn Thanh Lôi, Thanh Lôi cười dịu dàng: “Tâm Nhi, sao lại chạy đến đây?”.
“Tiểu công chúa? Con của tỷ tỷ sao?” .
“Đúng thế. Thái tử bây giờ mới có mỗi tiểu công chúa này. Chàng nâng niu như ngọc báu đấy”. Vương Yến Hồi cười.
Hai nữ tỳ lo lắng theo sau Tâm Nhi, đi vào nhà thủy tạ, quỳ xuống thỉnh an ba người bọn họ. Vương Yến Hồi lơ đãng nói: “Đứng dậy đi, mùa đông rét thế đừng để tiểu công chúa bị lạnh”, rồi nhìn Tâm Nhi, mặt đã cười rạng rỡ, “Tiểu công chúa của ta, sao hôm nay lại chạy đi tìm mẫu phi?”.
Tâm Nhi hai tuổi, mắt chớp chớp thỏ thẻ đáp: “Nghe nói di nương hôm nay đến, Tâm Nhi muốn gặp di nương”.
Lòng A La êm dịu như hơi ấm bên ngoài nhà thủy tạ. Nàng đi đến ôm Tâm Nhi vào lòng, vuốt ve khuôn mặt nhỏ bé, mỉm cười nói với Thanh Lôi: “Tâm Nhi lớn lên chắc cũng sẽ đẹp như tỷ tỷ!”.
Thanh Lôi dịu dàng sai cung nữ: “Đưa tiểu công chúa về điện, bên ngoài này gió to lắm”.
Cung nữ đi đến bế Tâm Nhi, cô bé nhệch môi, nước mắt ứa ra nhưng không dám khóc, đôi mắt đen láy nhìn Vương Yến Hồi, lại nhìn mẹ, miệng thỏ thẻ: “Tâm Nhi đi đây, buổi tối lại đến thỉnh an mẫu phi”.
A La thầm than thở, trẻ con trong cung ngay cả khóc cũng không dám. Ánh mắt chuyển đến Vương Yến Hồi, thấy nàng ta thần sắc nhàn tản như không, lại lướt đến Thanh Lôi. Đáy mắt Thanh Lôi thâm u, thấm buồn. A La vội nói: “Làm mẹ thích thật, nhìn Tâm Nhi kìa, ngoan chưa”.
Vương Yến Hồi cười: “Tiểu muội lấy Bình Nam vương rồi cũng được làm mẹ”.
A La cúi đầu làm bộ xấu hổ: “Đã nói không lấy người đó, nương nương lại còn đùa A La!”.
"Trong lòng muội có người khác sao? Là ai vậy, người đó hơn cả Bình Nam vương ư?”.
Vương Yến Hồi lại đùa.
A La e thẹn, cúi đầu, tay mân mê cốc trà, dáng vẻ như thầm công nhận. Lòng Vương Yến Hồi trầm lại, nếu Lý Thanh La không lấy Lưu Giác, với tính khí Lưu Giác y tuyệt đối không bỏ qua. Năm xưa nghe nói Lưu Giác càn quét hơn ba trăm ngọn núi phía nam, nàng đã đoán ngay Lý Thanh La là con đường ngắn nhất chế phục Lưu Giác. Bây giờ An Thanh vương nhàn tản tại gia, con người này dù có mưu cao đến mấy trong tay cũng chỉ có ba trăm binh sĩ Ô y kỵ. Lão vương gia đó tính nóng như lửa, muốn dùng ông ta để ép Lưu Giác, chỉ e ông ta thà chết cũng không chịu, nhưng Lý Thanh La thì khác, nàng ta là gái mơn mởn như hoa. Nói đến chết ai chẳng sợ, nàng ta cũng không ngoại lệ. Nhưng nếu Thanh La không lấy Lưu Giác, giữ nàng ta phỏng có ích gì?
Ánh mắt Vương Yến Hồi dừng trên người Thanh Lôi, thấy Thanh Lôi quay lưng về phía kia, đang nhìn hoa sen trong hồ, bèn cười: “Tiểu muội trong lòng có người khác, lương đệ hẳn đã sớm biết?”.
Thanh Lôi giật mình, quay đầu mỉm cười: “Thanh Lôi cũng rất ngạc nhiên, đang thầm nghĩ, liệu còn có ai có thể khí phách anh hùng hơn Bình Nam vương?”.
A La hơi sốt ruột, giả bộ e thẹn không đáp, trong đầu nhanh chóng phân tích tình hình: An Thanh vương muốn tạo cho Lưu Giác một cái cớ để quay trở về kinh thành, muốn mình nói dối là thoái hôn, nhưng lại không bàn bạc với mình nên nói người mình thích là ai. Ai thích hợp nhất? Là thái tử, Tử Ly hay là Cố Thiên Tường? Người này phải không kém Lưu Giác mới làm cho thái tử tin. Cố Thiên Tường đứng về phía Tử Ly, nhưng anh ta không có ảnh hưởng gì lớn đối với Tử Ly, cũng không có vai trò gì lắm trong cuộc đấu giữa An Thanh vương và Cố tướng. Rất nhiều người đều biết Lưu Giác và Cố Thiên Tường là bằng hữu thân thiết, dù Lưu Giác trút giận lên đầu Cố gia cũng không ảnh hưởng đến Tử Ly.
Hay là nói thái tử, bản thân chàng ta chẳng những có quyền hành, ảnh hưởng đối với Vương Yến Hồi và Thanh Lôi, lại còn có thể khiến họ sợ hãi gây mâu thuẫn với Lưu Giác, lúc này Đông cung sẽ hoàn toàn không đối đầu với Lưu Giác. Nếu nói người đó là thái tử, chỉ có một cái hay đó là rất có thể làm thái tử động lòng, khiến Lưu Giác có cớ khỏi binh.
Nếu nói người đó là Tử Ly, như vậy Đông cung chỉ cần nhận định Tử Ly có tình ý với nàng là sẽ coi nàng là một quân cờ, nếu có chuyện xảy ra, nàng sẽ trở thành con tin. Cái hay chính là khiến họ cho rằng Lưu Giác vì thế sẽ trở mặt với Tử Ly, không thể cùng lúc ủng hộ hai phía, sẽ chỉ đứng về phía Đông cung.
Rút cục nên nói là ai? A La hơi do dự, thầm mắng An Thanh vương không chịu nói rõ. Nàng đột nhiên tỉnh ngộ, lão vương gia cáo già kia bề ngoài tỏ vẻ bất cần nhưng thực lòng rất yêu Lưu Giác, bây giờ để cho nàng lựa chọn, dù lựa chọn ai, Lưu Giác đều có lý do dấy binh.
Trong lúc A La cúi đầu trăn trở, Vương Yến Hồi và Thanh Lôi cũng đang suy nghĩ, rút cục người đó là ai? Có thể đối địch với Lưu Giác, hơn nữa lại có gan cướp vị hôn thê của chàng ta, khắp vương triều hiện cũng chỉ có mấy người. A La cuối cùng ngẩng đầu, mặt mày tươi tỉnh: “Ôi, A La vô duyên quá. Cũng muộn rồi, tiểu muội xin cáo từ về phủ, lúc khác lại đến thăm hai nương nương”. Chưa nghĩ ra được thì tạm gác lại, chính là kế hoãn binh.
Vương Yến Hồi mỉm cười: “Mấy khi tiểu muội vào cung, thái tử cũng đã có lời, nếu tiểu muội nhất định ra về, điện hạ quay trở lại không thấy người thì làm thế nào? Cứ lưu lại đây vài ngày, tỷ tỷ còn muốn nghe muội chơi đàn”.
“Phải đấy, A La tối nay ở lại chơi. Mấy khi vào cung, ở chơi vài ngày hãy về”.
Thanh Lôi vội nói, rồi gọi cung nữ đến tướng phủ truyền lệnh.
A La đành nhận lời, bụng nghĩ, xem ra nếu mình không nói rõ người đó là ai thì chắc không thể ra khỏi cung.
Bái biệt Vương Yến Hồi, Thanh Lôi dắt tay A La với vẻ rất thân thiết song lại có phần lo lắng đưa nàng về tẩm cung. A La để cho nàng ta dắt đi, bụng cười thầm, cuối cùng có thể trút bỏ cái mặt nạ tỷ muội tình thâm rồi!
Thanh Lôi buông tay A La, lệnh cho cung nữ lui hết. A La nói: “Đuổi hết cung nữ ra ngoài, Thanh Lôi lần này tỷ lại định chơi trò gì?”.
Trên khuôn mặt xinh đẹp lạnh lùng của Thanh Lôi dần dần như thấm nỗi buồn thê lương, nàng từ từ quỳ trước mặt A La. A La ngớ người, nhìn nàng ta rồi vội giơ tay đỡ: “Định nói gì cứ nói, sao phải làm thế. Chuyện lần trước muội đã quên từ lâu rồi”.
“Tỷ cầu xin muội, không phải vì chuyện lần trước”. Hai hàng nước mắt đã ròng ròng trên mặt Thanh Lôi. “Tỷ xin muội nếu có ngày, nếu có ngày tỷ mệnh hệ gì, xin muội thay tỷ chăm sóc Tâm Nhi, được không?”.
A La kinh ngạc thất sắc: “Tỷ nói thế là có ý gì? Tỷ đứng dậy đi”.
Thanh Lôi vẫn quỳ: “Muội phải nhận lời với tỷ, nếu tỷ có bất trắc, muội nhất định phải chăm sóc Tâm Nhi”.
A La thở dài: “Tâm Nhi ngoan như thế, ai chẳng yêu. Nó mới hai tuổi thôi mà”.
Mặt Thanh Lôi thoáng mừng, từ từ đứng lên, thở phào một hơi, nói khẽ: “Không biết tại sao, tỷ tin là muội sẽ chăm sóc tốt cho Tâm Nhi”.
Thanh Lôi nhìn A La đăm đăm: “Muội đẹp thật. Thật ra thất phu nhân tính tình hiền dịu, đối với tỷ cũng rất tốt, nhưng tỷ và Thanh Phỉ đều không thích muội. Có lẽ từ nhỏ bọn tỷ đã cùng có ý nghĩ, sau này lớn lên muội nhất định sẽ đẹp hơn bọn tỷ, vì vậy luôn khó chịu mỗi khi nhìn thấy muội”.
Thanh Lôi lại cười buồn: “Trước đây tỷ có một gánh nặng trong lòng, bởi vì tỷ yêu điện hạ, sợ chàng vì khúc “Thu thủy” mới thích tỷ, mỗi lần nghĩ đến chuyện đó tỷ vừa hận vừa ghen với muội, trong lòng nơm nớp lo âu. Chỉ một cái liếc mắt của Vương Yến Hồi là tỷ đã run lên, phấp phỏng lo lắng. Trong dạ tiệc hồi đó, thái tử bảo tỷ chơi đàn hầu Tứ điện hạ. Trong lúc bối rối hoảng sợ tỷ đã làm tay mình bị thương, thực ra trong lòng rất hận muội, hận muội đã khiến tỷ phải đến nước này, cho nên mới đem tiền đồ của Thành Tư Duyệt ra để ép Thanh Phỉ, để muội ấy đổ tội cho muội. Làm như vậy thực xuẩn ngốc, nhưng tỷ không hối hận, nếu lặp lại, với tâm trạng tỷ lúc đó tỷ vẫn làm thế. Mặc dù không hại được muội, cũng để Vương Yến Hồi chứng thực mối hoài nghi trong lòng ả. Có điều, không phải tỷ không có được điều tỷ mong muốn. Thanh Lôi không thể đánh đàn, điện hạ sẽ đối xử ra sao? Tỷ luôn muốn biết lòng điện hạ, chính trong buổi tối hôm đó chàng đã rất mực dịu dàng với tỷ, nhưng không dám ở lại cùng tỷ, tỷ càng hiểu, chàng không yêu Vương Yến Hồi, nhưng cần sự giúp đỡ của ả. Lúc đó tỷ chỉ cầu mong muội có thể suôn sẻ lấy Bình Nam vương, có người em rể như vậy, địa vị của tỷ ở Đông cung mới vững bền. Cũng chính bởi vì Bình Nam vương một lòng chân tình với muội, thái tử cũng sẽ chăm sóc tỷ, Vương Yến Hồi cũng đối xử rộng rãi với tỷ”.
A La lại thầm than thở, thương cho Thanh Lôi: “Tỷ cũng có vị trí trong lòng thái tử, đây chỉ là sự lựa chọn bất đắc dĩ của thái tử đối phó với tình thế mà thôi, có thể thông cảm. Nếu thái tử yên vị trên ngôi báu, chàng tất sẽ thương tỷ. Chẳng phải thái tử rất yêu Tâm Nhi sao? Cớ gì không thương mẹ nó?”.
“Nhưng muội lại không muốn lấy Bình Nam vương! Người trong lòng muội là tứ hoàng tử đúng không? Trước khi muội quen Bình Nam vương, muội đã quen Ly Thân vương rồi!”.
Sao nàng ta biết? Lúc đó ngay bản thân nàng cũng không biết Tử Ly là tứ hoàng tử Lưu Phi. Cô thầm nghĩ.
“Muội đừng phủ nhận! Trong dạ yến ở Đông cung ba năm trước, khi tứ hoàng tử lên tiếng định giải vây cho muội, muội mới nhân cơ ứng phó, tỷ liền biết muội quen chàng ta! Sự bi phẫn ai oán trong tiếng đàn của muội không phải trút lên đầu người chị này, mắt muội nhìn về phía tứ hoàng tử, muội giận chàng ta không thể bảo vệ muội!”. Thanh Lôi nói từng câu từng chữ.
Cha mẹ ơi, sao người ở đây lại tinh ma đến thế, ngay một ánh mắt cũng không bỏ qua? Thanh Lôi hạ giọng rất thấp: “Tỷ đoán là tứ hoàng tử, nhưng chưa bao giờ mở miệng nói với ai, kể cả thái tử. Ninh vương không qua khỏi được, chỉ có Ly Thân vương mới có thể tranh giành với thái tử. Tỷ là người của thái tử, đương nhiên sống chết cho chàng, tỷ cũng mong thái tử có thể yên ổn lên ngôi, nhưng nếu thất bại, có muội chăm sóc Tâm Nhi, tỷ cũng yên lòng, ra đi không vương vấn! Muội muốn thoái hôn. Tỷ thấy cha cũng không phản đối lắm, câu cửa miệng của ông ta là bảo toàn quyền thế, ba đứa con nếu trong các phe đối lập, bất luận ai thắng ông cũng là người thắng lớn”.
Thanh Lôi thật đáng thương, nàng có nên nhận lời không? Nếu vậy thực sự nàng đã tự đẩy mình vào chỗ đầu sóng ngọn gió, một khi Tử Ly khởi binh chẳng phải nàng trở thành tế phẩm hàng đầu hay sao? Liệu họ có đem đầu nàng treo ở cổng thành để uy hiếp Tử Ly không? A La lòng đau nhói.
Nghĩ đến Tử Ly, hình ảnh Lưu Giác lại hiện lên, ánh mắt nàng trở nên dịu dàng, khuôn mặt nặng tình của chàng đã in vào lòng nàng không thể xua được. Nàng cười đau khổ, đã hoàn toàn hiểu cục diện trước mắt. Nàng tuyên bố không thích Lưu Giác, muốn thoái hôn, An Thanh vương phủ không thể mất con dâu, Bình Nam vương đương nhiên cũng không thể mất vị hôn thê đã bỏ chàng một lần, lại định bỏ lần nữa? Lưu Giác đương nhiên có cớ trở về kinh thành. Tình hình hiện nay có hai người để nàng lựa chọn nói ra, bất luận nàng nói ai, mũi kiếm đều hướng vào Đông cung.
Nếu nói là thái tử, nàng sẽ phải dùng mỹ nhân kế. Nhưng cho dù mê hoặc được thái tử, bây giờ thái tử cũng sẽ không thể đắc tội An Thanh vương và Lưu Giác đang nắm giữ Nam quân. Cho nên nàng chỉ có một lựa chọn.

Tại sao An Thanh vương lại tỏ ra trở mặt với Tử Ly, nàng hiểu nhưng ông cũng không cần nàng phải hiểu. E rằng cho dù nàng không nghĩ ra trò viết bức thư đùa bỡn Lưu Giác, thì An Thanh vương cũng sẽ viết như thế. Đó là con cáo già! Có lẽ ông đã sớm nghĩ ra ý đó, nhưng không tiện nói mà thôi.
Nghĩ đến đó A La thấy buồn cười, lão cáo già vẫn còn tốt, không ép mình, càng không nói cho mình đáp án này. Chỉ cần An Thanh vương mở miệng, nàng tự khắc sẽ làm theo, Lưu Giác có thể danh chính ngôn thuận liên minh với thái tử, có tay trong hỗ trợ là cách dễ nhất để giúp Tử Ly. Kỳ thực Nam quân và Hữu quân kết hợp đã đủ binh lực, An Thanh vương làm như vậy, chỉ là không muốn dấy binh gây ra nội chiến ở Ninh quốc! A La than thở: “Tỷ thật tinh mắt! Khi còn ở tướng phủ muội đã hòa tấu với Tử Ly ở trong rừng trúc, đã có lời đính ước với chàng. Cho nên ba năm trước, sau khi Bình Nam vương cầu hôn, muội liền bỏ trốn”.
Nàng nói liền một mạch trơn tru, bản thân nghe cũng thấy hết sức bình thường, tự nhiên. A La bất giác nghĩ, thì ra trong thâm tâm mình vốn đã đồng ý giúp Lưu Giác, vì chàng mà mình có thể nói dối trơn tru như thế. Vốn định trở về Phong thành chỉ muốn dựa vào cây đại thụ An Thanh vương để sống yên ổn, đàng hoàng, ai ngờ không tránh khỏi bị cuốn vào dòng xoáy. Chỉ có điều lần này là mình tình nguyện.
A La thận trọng nhìn Thanh Lôi. Lời A La vừa nói, nàng ngầm đính ước với Tử Ly, vốn đã nằm trong dự đoán của Thanh Lôi, nhưng vẫn khiến Thanh Lôi không nén nổi kinh ngạc: “Muội đã ngầm đính ước suốt đời với Ly Thân vương? Hai bên đã có đính ước, tại sao lúc đầu không đến Biên thành?”.
“Tử Ly đâu dám đắc tội với Cố tướng? Bây giờ muội cũng dâu dám đi Biên thành tư tình với huynh ấy, tỷ hồ đồ hay sao?”. A La cười nhạt, “Có điều, tỷ đã ủy thác Tâm Nhi cho muội, có lẽ cũng không nói ra chuyện của muội và Tử Ly cho thái tử và thái tử phi chứ?”.
“Tử Ly? Muội gọi chàng ta thân mật như vậy, e là vương phi của Ly Thân vương cũng chưa dám gọi như thế?”. Thanh Lôi than thở, “Thật không ngờ Ly Thân vương cũng có lòng với muội, thì ra tiếng tiêu trong phủ hồi nào là của Ly Thân vương, tỷ còn tưởng là muội và thất phu nhân hòa tấu, chúng ta đúng là không có mắt. Tỷ sẽ không nói ra, nhưng với đầu óc của Vương Yến Hồi, e là ả đã nghĩ đến chuyện này”.
Có cung nhân đi vào truyền lời, nói thái tử phi mời hai người dùng bữa, A La nghĩ cục diện đã bố trí xong, không còn do mình làm chủ nữa. Hiện nay vẫn chưa có gì nguy hiểm, sau này thế nào cũng khó nói. Điều bây giờ nàng rất muốn biết là Vương Yến Hồi sẽ ứng phó ra sao. Đột nhiên, A La cảm thấy bản thân nàng giống như liều thuốc thử, thông qua thái độ của Vương Yến Hồi để thăm dò ý tứ của Đông cung.
Trong bữa, A La ăn rất tự nhiên, ăn xong uống trà, tươi cười nói: “Chẳng phải nương nương luôn muốn nghe A La chơi đàn sao? Thực ra ba năm nay A La rất ít động đến cây đàn, tiện đây không nên để nương nưong thất vọng mới được”.
Đánh bài gì? Mắt khẽ chớp, khúc “Thu thủy” đã lạnh lùng vang lên dưới những ngón tay, không mấy liên quan với lần chơi đàn ở Đào hoa yến, thêm vài phần dào dạt lâm ly, bớt vài phần hào sảng cao ngạo, Vương Yến Hồi vỗ tay khen: “Bao năm rồi, cuối cùng đã được nghe khúc “Thu thủy” lừng danh! Bình Nam vương ắt hẳn xiêu lòng”.
Vẫn đang thăm dò sao? A La lẩm bẩm: “Chàng ta hiểu gì? Đâu có sành âm luật như Tử Ly?”. Lời vừa dứt, nàng vội “ôi” một tiếng, lấy tay bịt miệng, mắt hốt hoảng.
Vương Yến Hồi khẽ cười: “Ly Thân vương ư, tiếng tiêu đích thực là tuyệt tác vô song, đêm đêm vẳng ra từ Ly cung khiến người ta mủi lòng. Thì ra người trong lòng tiểu muội là tứ hoàng đệ!”.
Ba người mải chuyện không chú ý, thái tử đã đứng ngoài cửa từ lúc nào, tâm trạng đang ngơ ngẩn bàng hoàng, oán hờn, đau buồn, thất vọng đan xen. Chàng đứng đó thanh tú trong màn đêm, muốn cười mà không thể.
Thì ra là nàng ta? Hai mắt chàng sâu như đêm tối, ẩn chứa nỗi buồn không gì hóa giải. Năm xưa trong dạ yến thấy Cố Thiên Lâm thanh khiết như hoa lan, cảm thấy đó là một thanh nữ tao nhã, nhưng khi nghe khúc “Thu thủy” chàng lại bị hấp dẫn bởi khí phách hào sảng, tâm hồn lộng gió, chí gửi bốn phương của người chơi đàn, thầm nghĩ chỉ có người con gái hồn nhiên, lòng không toan tính như vậy mới xứng là tri âm của mình. Chàng lặng lẽ bước từng bước nhỏ, lòng xiết bao kinh ngạc, ngay từ thuở ấu thơ chàng đã học cách tự kim chế, văn võ đều gắng sức chuyên cần, không ai biết sâu trong lòng, thực ra chàng muôn phần ngưỡng mộ không khí đầm ấm gia đình. Hồi đó chàng đã nghĩ, nếu có một người con gái như vậy làm bạn, cuộc sống vương cung của chàng tuy căng thẳng nặng nề với bao trọng trách, bổn phận nhưng cũng sẽ có niềm vui.
Càng tự khắc chế thì lại càng khao khát được tự do cất cánh. Cho nên chàng không do dự chọn ngay Thanh Lôi. Thanh Lôi xinh đẹp, dịu hiền, đối với chàng luôn một khối tình sâu, tuy nhiên, Thanh Lôi lại không chơi khúc “Thu thủy” nữa. Nàng bảo, Thanh Lôi giờ không còn tâm trạng năm xưa, chơi nhiều sẽ nhàm khiến điện hạ thất vọng.
Chàng hiểu, tiếng đàn là thế, đâu phải lúc nào cũng một tâm trạng. Cho dù mẫu hậu một mực muốn chàng lấy Vương Yến Hồi cháu mình, con gái Vương thái úy làm chính phi, chàng cũng chấp nhận. Chàng nghĩ, ngôi báu tất sẽ thuộc về chàng, nếu không nỗ lực bao năm sẽ thành uổng công, hùng tâm tráng chí khó bề thực hiện. Muốn được vương vị chàng phải dựa vào nhà họ Vương. Nhưng đồng thời chàng cũng lấy Thanh Lôi và rất sủng ái nàng.
Nhưng hôm nay chàng mới nhận ra, người con gái say mê thu thủy trường thiên, đắm say bầu trời biển khoáng đạt bao la thì ra là nàng ấy.
Nàng ấy đẹp đến độ khiến chàng thất kinh sững sờ, tiếng đàn của nàng khiến tim chàng rung động, bồi hồi. Tuy nhiên, lần nào chàng cũng đều bị lỡ. Hôm nay, nàng ấy không chỉ không muốn lấy Bình Nam vương mà lòng nàng ấy còn hướng về tứ hoàng đệ của chàng.
Chàng từ từ nắm chặt nắm đấm, nỗi hận bùng lên. Chàng là thái tử, đương nhiên sẽ là hoàng đế tương lai, vậy mà cho dù mọi việc triều chính chàng làm tốt đến đâu, tuy được khen ngợi, nhưng ánh mắt phụ hoàng nhìn chàng vẫn không chút ấm áp. Tử Ly chẳng qua là vương tử nhàn nhã, chính sự quan trọng không hề tham gia, chỉ làm những việc lặt vặt, nhưng chỉ cần Tử Ly làm được một chút việc cỏn con, phụ hoàng dù không khen, nhưng ánh mắt chan chứa ân tình. Không phải phụ hoàng không yêu chàng, nhưng tình thương yêu tràn trề trong lòng chưa bao giờ dành cho chàng. Ngay chuyện hôn nhân Tử Ly cũng được ngự ban ái nữ của một trọng thần, danh thế không kém chàng.
Chàng kém Tử Ly ư? Luận ngoại hình đều tuấn tú, lịch lãm, luận tài năng, các đại thần đều nhất loạt hài lòng về chàng, luận tài hoa, cầm kỳ thi họa chàng đều tinh thông. Người con gái đánh đàn trong phòng kia tại sao dùng tiếng đàn lừa chàng, nhưng mắt lại hướng về Tử Ly? Nếu chàng biết người chơi đàn trong Đào hoa yến là nàng ấy, nàng ấy đã sớm là chính phi của chàng!
Chàng vừa từ Ngọc Long cung trở về, Ninh vương bệnh trọng, chàng ngày đêm hầu phục bên long sàng. Tử Ly làm gì? Không nói cũng biết, y đang ra sức thu phục Hữu quân, một khi phụ hoàng băng hà sẽ khởi binh tranh đế vị với chàng. Mối hận lại sôi lên trong lòng chàng. Đợi ta lên ngôi xem Lưu Phi ngươi lấy gì để tranh giành với ta! Nếu ngươi định cướp người của Lưu Giác, trận chiến này ngươi thua là chắc. Thái tử cười sang sảng, cất bước đi vào điện: “Có chuyện gì mà vui thế?”.
Ba người vội đứng dậy hành lễ. Thái tử xua tay: “Người nhà cả, không cần đa lễ!”.
Vương Yến Hồi che miệng cười: “Chuyện này tính sao đây? Tiểu muội của chúng ta không muốn lấy Bình Nam vương, mắt lại hướng về tứ hoàng đệ”.
Thái tử nhướn mày tỏ vẻ ngạc nhiên: “Ô chà, Bình Nam vương có nuốt được mối hận này không?”.
A La cúi đầu, không nói, sắc mặt khổ não.
Thái tử trầm ngâm một hồi: “Dưa chín ép không ngọt, để người anh rể này đứng ra cầm trịch cho muội. Ấy, chuyện này gay go lắm đây”.
Vương Yến Hồi cười: “Khó đến mấy cũng phải tác thành cho tứ hoàng đệ và tiểu muội mới được”.
Thái tử cau mày: “Vừa rồi ta gặp Cố tiểu thư, nghe nói tiểu muội đang làm khách ở đây, liền có lời mời tiểu muội đến Ly Thân vương phủ chơi một chuyến, nàng ấy cũng muốn xem mặt tiểu muội”.
Cố Thiên Lâm? Thái tử vì sao muốn để mình đến phủ Ly Thân vương? Có phải là muốn chứng thực quan hệ giữa mình và Tử Ly? A La cười: “Mấy năm không gặp Thiên Lâm tỷ tỷ, không biết tỷ ấy liệu có vẫn đẹp như xưa”.

Đêm, trong điện của thái tử phi, Vương Yến Hồi trầm ngâm tư lự, rất lâu mới lên tiếng: “Nếu Lý tướng đồng ý cho con gái thoái hôn, như vậy sẽ trở mặt với An Thanh vương, ông ta không sợ thật sao? Thiếp vẫn thấy hồ nghi!”.
Thái tử nói: “Vừa rồi ta ghé qua chỗ Thanh Lôi, nàng ấy bảo chuyện này là có thực. Ngày xưa, trước khi vào cung Thanh Lôi thường nghe trong tướng phủ tiếng tiêu sáo hòa tấu, hôm nay mới biết tiếng tiêu là của Tử Ly. Lý Thanh La ba năm trước thoái hôn cũng là giả. Với tính cách Lý tướng ông ta có thể không thoái hôn, nhưng cũng không nóng vội gả con gái, con cáo này muốn đợi xem kết quả, muốn trước sau không có kẽ hở”.
Vương Yến Hồi đột nhiên hỏi: “Hôm nay phụ hoàng thế nào?”.
“Nôn ra máu, nửa hôn mê”.
“Điện hạ, thiếp đã bàn bạc với phụ thân, theo dõi chặt chẽ động tĩnh các nơi. Tứ hoàng đệ tất sắp trở về Phong thành, đại quân Đông lộ và đội quân bảo vệ Phong thành phải luôn chuẩn bị sẵn sàng. Theo thiếp, cũng chỉ nội trong mười ngày tới”.
Thái tử thở dài: “Thế lực tương đương, trận này không dễ đánh”.
Vương Yến Hồi cười nhẹ nhàng: “Chàng đừng quên, An Thanh vương mặc dù mưu cao, nhưng trong tay không có binh lực, khác gì hổ bị bẻ nanh? Chỉ cần chứng thực quan hệ giữa tứ hoàng tử và Lý Thanh La, Bình Nam vương và lão vương gia sao có thể nuốt trôi mối nhục lớn này, đâu còn ủng hộ Tử Ly? Không cần ông ta giúp, chỉ cần ông ta án binh bất động là chúng ta đã thắng. Nếu Bình Nam vương muốn ra tay, cứ để y và tứ hoàng đệ đấu với nhau. Chỉ có điều lòng thiếp vẫn thấy không yên, Lý Thanh La thoái hôn vào lúc này, trước sau vẫn không làm thiếp yên tâm”.
Thái tử tức giận nói: “Bất luận thật giả thế nào, đều phải giữ nàng ta trong cung, với ai cũng tốt”.
“Không, để nàng ta đến phủ Ly Thân vương. Thiếp rất muốn xem Lý Thanh La và Thiên Lâm tỷ tỷ của nàng ta chạm mặt nhau thế nào, cho người theo dõi chặt, cơ hội xuất cung thế này về sau không còn nhiều, chờ xem động tĩnh của nàng ta”. Vương Yến Hồi không biết chắc thái độ của A La. Câu chuyện này xem ra là thật, quan hệ nhân quả, lý giải của nàng nghe cũng thuận tai. Vẻ đẹp khác thường của Lý Thanh La sau ba năm mất tích vốn đã như không thật, nếu có những cái không thật nào khác cũng không có gì là lạ. Ngơ ngẩn suy tính hồi lâu, cuối cùng Vương Yến Hồi ra một quyết định.

Ra khỏi cung trở về tướng phủ, A La lần lượt điểm lại từng sự việc vừa diễn ra ở Đông cung. Có lẽ họ bảy phần tin ba phần ngờ. Vậy thì khi nàng đến gặp Cố Thiên Lâm, cũng không thể để Thiên Lâm phát hiện ra điều gì, càng không thể tiếp xúc với An Thanh vương. Tốt nhất sau khi đến Ly Thân vương phủ nàng sẽ trở về nhà và ngoan ngoãn chờ đợi.
Nhưng ngộ nhỡ họ triệu vào cung làm thế nào để từ chối? A La nghĩ, sự hy sinh lần này quá lớn, không cẩn thận mất mạng như chơi. Nàng rất hận, Lưu Giác, nếu thiếp có mệnh hệ gì, chàng cùng lão vương gia cáo già đập đầu vào tường chết cho xong!
Nàng trang điểm qua loa, ra cửa, không cho Lưu Anh đi cùng: “Lưu Anh, chủ ngươi bây giờ đi gặp tình địch, ngươi không cần đi theo, tốt nhất nên giúp ta vẽ sơ đồ trong cung, sau này biết đâu có lúc dùng đến”.
Lưu Anh đã được nghe A La kể chuyện vừa xảy ra trong Đông cung, cúi đầu cười: “Vâng, chúc tiểu thư và Ly Thân vương phi hòa khí, sau này tỷ muội tình thâm!”.
A La trợn mắt: “Ngươi không sợ Bình Nam vương ghen hả?”.
“Chủ của tiểu nhân bây giờ là tiểu thư! Huống hồ tiểu vương gia ức hiếp tiểu nhân suốt hơn hai chục năm, để vương gia ghen một chút cũng tốt cho sức khỏe!”. Lưu Anh cười nói, bụng nghĩ, Lưu Giác sao có thể ghen, tiểu vương gia tuyệt đối không ghen, chỉ có đau, đau lòng! Không biết sau khi trở về sẽ trút giận lên đầu lão gia như thế nào?
Người hầu đưa A La vào phủ Ly Thân vương, vừa bước vào chính đường đã ngẩn người.
“Đây là bức họa vương gia cất giữ mà ta lén lấy xem”. Cố Thiên Lâm nhìn bức tranh ngơ ngẩn: “Mới thoạt nhìn, ta vô cùng sung sướng, tưởng là chàng nặng tình với ta như vậy. Nhìn lại lần nữa, ta như rơi xuống đáy vực. Tam tiểu thư, người trong bức họa hóa ra là muội”.
Thiên Lâm quay người nhìn A La: “Tiểu a hoàn của tướng phủ trong Đào hoa yến lần đó, cô gái nhỏ thông minh đã nhận ra ta khi ta cũng đóng giả a hoàn thì ra chính là tam tiểu thư tướng phủ”. Một tiếng thở dài rất nhẹ tựa hồ không thể nhận ra, “Ta suy nghĩ mãi, mới biết trong bức họa Bình Nam vương vẽ ta, đôi mắt lóng lánh như thủy tinh chính là đôi mắt của tam tiểu thư tướng phủ”.
A La nhất thời không biết nói sao. Lưu Giác từng nói chàng vẽ bức họa Cố Thiên Lâm, nhưng lại vô tình vẽ mắt nàng trong đó. Chàng ngày đêm ngắm đôi mắt này ư? Khi nghe chàng kể không nhận ra, bây giờ nhìn nàng mới thấy lòng đau nhói từng cơn, cảm động rưng rưng.
Cố Thiên Lâm đã đi đến trước mặt nàng: “Mắt nàng rất đẹp, thực ra không chỉ đôi mắt, cả con người nàng đều rất đẹp. Hồi xưa mái bờm che lấp nửa mặt, dung mạo thế nào cũng khó nhận ra, nhưng chỉ như vậy đã khiến vương gia say mê điên đảo. Ba năm rồi, muội biết không? Chàng đi Biên thành ba năm, không hề trở về nhìn ta một lần!”. Cố Thiên Lâm cố giữ bình tĩnh, nhưng không sao kìm nổi, giọng vẫn run run.
“Thiên Lâm tỷ tỷ, bức họa này là do Bình Nam vương vẽ, về sau, về sau tỷ với Tử... à với tứ hoàng tử thành thân, Bình Nam vương cảm thấy không tiện lưu giữ trong phủ, mới đưa đến đây, chứ không phải tứ hoàng tử muốn ngắm... đôi mắt kia”. A La nói như một phản xạ, nàng không muốn để Thiên Lâm buồn như thế.
“Phải, vốn là do Bình Nam vương vẽ. Cứ coi Ly Thân vương muốn ngắm nhìn ta, nhưng tại sao khi ta đứng trước mặt chàng, bằng xương bằng thịt, chàng dịu dàng bao nhiêu ta cũng không cảm thấy tấm lòng của chàng?”. Cố Thiên Lâm buồn bã nói.
A La không nói gì. Lúc này hoàn toàn không cần nàng nói gì, quan hệ giữa nàng và Tử Ly đã được chứng thực. Có một số chuyện bây giờ không phải lúc giải thích, có một số điều bây giờ cũng không tiện nói cho nàng ấy nghe. Mục đích của nàng đã đạt được, nán lại thêm nữa Cố Thiên Lâm nhìn thấy nàng sẽ càng khó chịu, “Thiên Lâm tỷ tỷ, con người tứ hoàng tử rất tốt, tỷ phải tin chàng, chàng sẽ đối xử tốt với tỷ. Muội đi đây”.
Cố Thiên Lâm cười nhạt: “Chàng sắp trở về, nếu muội muốn, ta cũng không phản đối muội vào phủ”.
A La trầm ngâm hồi lâu, cười nói: “Muội rất thích tỷ, Thiên Lâm tỷ tỷ. Cũng rất thích đại ca!”. Nàng không dám ngồi lâu, sợ nán thêm có khi không nén nổi lại nói ra những điều không nên nói. Lúc ra về nàng nghĩ, cả hai đều sắp trở về rồi sao? Vậy thì Phong thành mỗi ngày càng thêm náo nhiệt rồi.

CHƯƠNG 23



Ám Cửu, binh sĩ của Cáp tổ quỳ một chân trước Lưu Giác. Từ lúc anh ta trình lên bức thư của An Thanh vương, chúa thượng vẫn ngồi thừ không nói một câu. Lòng Lưu Giác cuộn như sóng bể, chàng tin A La có thể làm chuyện đó, đến tận phủ thoái hôn, nàng giận đến thế sao? Nỗi đau trong lồng ngực nhói lên theo từng nhịp đập trái tim, mỗi nhịp đó lại khiến từng sợi thần kinh trong đầu chàng căng giật, chàng cố nghiến chặt hàm răng, mới kìm được từng cơn sóng phẫn hận trong họng khỏi trào ra đầu lưỡi, khỏi biến thành những lời nói cay độc nhất. Nỗi phẫn hận không được giải tỏa lại vòng trở lại, như va đập điên cuồng, gào thét dữ dội muốn phá tung những bức tường giam hãm nó, phẫn hận và đau đớn giằng xé trong cơ thể, làm chàng run lên, người vã mồ hôi, lúc nóng lúc lạnh, dồn nén bức bối, tùng sợi thần kinh trong đầu như rung lên bần bật, rồi bật thành những âm thanh có nghĩa: “Nàng không cần mình! Nàng không cần mình!”.
Cuối cùng chàng đấm mạnh vào chiếc bàn bằng gỗ xoan, chiếc bàn kêu rầm vỡ toác, Ám Cửu cảm thấy nhẹ người, tâm trạng nặng nề của chúa thượng đã được giải tỏa, hóa thành nắm đấm tan đi.
Trong đầu Lưu Giác xuất hiện từng mảng trắng, đứng ngây như thân gỗ. Vốn chàng đã tưởng A La ít nhiều hiểu được lòng chàng, vốn đã tưởng hai người có thể tâm đầu ý hợp, cùng nhau đối diện tất cả... nàng nhõng nhẽo tí chút cũng không sao, nhưng lại còn thoái hôn! Nàng coi mình là gì chứ, là đồ vật trong tay để thỏa sức dày vò? Có người đàn ông nào có thể dung thứ lối tùy tiện như thế!
Chàng bắt đầu hối hận, hối hận đã không sớm chặt đứt cánh nàng, vặt sạch lông nàng, bẻ vuốt nàng! Sao chàng lại sủng ái nuông chiều một con sói mắt trắng nhe nanh không biết xấu tốt là gì! Lưu Giác hận đến đau nhức từng cơn, khuôn mặt tuấn tú sắt lại: “Còn gì nữa?”.
Ám Cửu khẽ nhíu mày, nói tiếp: “Trên đường đi thuộc hạ được báo phía Đông cung có tin mới, xác nhận tam tiểu thư chơi lại khúc “Thu thủy”.
Chơi khúc “Thu thủy”? Nàng định làm gì? Đưa thân đến miệng thái tử hay sao? Nàng không sợ thái tử nảy sinh tình ý với nàng sao? Lưu Giác hoảng hốt, bật hỏi: “Thái tử định nạp nàng làm thứ phi thật chứ?”.
Ám Cửu ngây người, cúi đầu không dám nhìn chủ nhân: “Tam tiểu thư... đã nói rõ Ly Thân vương vẫn là tri âm”. Lời vừa nói ra đã biết sự không hay.
Lưu Giác cảm thấy tim mình sắp không chịu nổi. Nàng rút cục định làm gì? Rõ ràng cố tình mê hoặc thái tử, nhưng lại lôi kéo Ly Thân vương Lưu Phi, nàng đúng là yêu tinh! Sao thái tử có thể nạp nàng làm phi trong lúc này, dính với Lưu Phi, nàng càng tự tìm cái chết! Lưu Giác bừng bừng nộ khí: “Khốn thật, ông già đang làm gì?”.
“Lão vương gia... lão vương gia rất giận, đổ bệnh rồi, nói phủ An Thanh vương không còn mặt mũi nào nữa, nếu chúa thượng không quay về Phong thành trước ngày mùng ba tháng hai, đợi gạo đã nấu thành cơm, sau này mọi người đừng mong ở lại Phong thành. Lão vương gia còn nói...”. Ám Cửu nhắm mắt nhắc lại lời nhắn của An Thanh vương. Lòng thầm nghĩ, lão vương gia làm vậy chẳng phải đổ thêm dầu vào lửa sao?
Lưu Giác xé nát bức thư, trợn mắt nhìn Ám Cửu, tung chân đá anh ta một nhát: “Còn tưởng chủ ngươi chưa đủ giận? Lại giúp ông già quạt thêm gió vào lửa!”. Chàng biết rõ chuyện này có ẩn tình chi đây, nhưng không tìm ra lời giải rõ ràng, bao dự đoán hỗn loạn trong đầu, chàng hận không mọc cánh để bay về Phong thành: “Truyền lệnh, quân đồn trú ở Lâm Nam án binh bất động, các cánh quân trấn thủ ven đường cũng bất động, binh mã còn lại lập tức tập kết tại Cốc thành, chờ lệnh bản vương! Ám Cửu, chuyển thư cho tướng quân Thiên Tường, nói bản vương trở về Phong thành gấp cướp vương phi! Mọi việc ở Lâm Nam mong tướng quân lưu tâm!”.
Lưu Giác tức thì dẫn Ô y kỵ phóng về Phong thành.

Tiễn Xích Phong đi rồi, Tử Ly đăm đăm nhìn bức mật thư của An Thanh vương. Phụ hoàng sắp không trụ được nữa sao? Ký ức của chàng bay về một buổi chiều rực nắng xa vời nhiều năm trước, chàng và mẫu hậu quấn quýt bên phụ hoàng, đầm ấm vui vẻ. Phụ hoàng âu yếm nói: “Tử Ly sau này lớn lên sẽ làm hoàng đế được không?”. Chàng nũng nịu trả lời: “Tử Ly chỉ cần ở bên phụ hoàng và mẫu hậu”. Những ngày đó đã là mảnh hồi ức xa xăm, mẫu hậu đã ra đi, bây giờ đến lượt phụ hoàng sắp bỏ lại chàng. Tử Ly nhắm mắt, lòng quặn đau.
Cận vệ Trần An theo tứ hoàng tử đến Biên thành, con người tuấn lãm tự tại, trên môi luôn phảng phất nụ cười, nhưng sâu trong đáy mắt vời vợi nỗi ưu tư không sao khỏa lấp. Mấy ngày nay, thư báo từ Phong thành gửi đến không ngớt, mỗi ngày càng thêm gấp gáp, ngay bản thân Trần An cũng nhận thấy sự căng thẳng của cục diện, vội quỳ sụp thưa: “Chúa thượng, xin người lập tức quay về!”.
Tử Ly khép lại ký ức, nói: “Ngươi lui đi!”.
Trần An thở dài, rời khỏi thư phòng.
Tử Ly thảng thốt nghĩ, e là mình không kịp gặp phụ hoàng. Thời gian mười ngày cùng đi với đại quân, không thể đến Phong thành. Khóe miệng chàng hiện lên nụ cười đau khổ: “A La, câu chuyện thần kỳ mà nàng nói chỉ cần một canh giờ bay trên trời là có thể đến được nơi cách xa ngàn dặm có thật không? Ở đâu mới tìm thấy?”.
Tiềm thức chàng đột nhiên cảnh giác, không ngoảnh đầu, chàng bĩnh tĩnh hỏi: “Ngươi là ai?”.
Ám Dạ cười khanh khách: “Vương gia quả nhiên có con mắt tinh tường!”.
Nét mặt Tử Ly trở lại bình thường, chàng từ từ ngoái lại, cách vài thước có một bóng đen đang đứng, người đó che mặt, đôi mắt tinh anh liếc đảo như phát sáng.
“Nếu ngươi ra tay, ta chắc chắn không thắng được ngươi. Nếu ngươi muốn ám hại ta, tất không yên lặng đứng đó”.
Tiếng cười lại vang lên, tay Ám Dạ vừa vung, lóe ra ấn tín của An Thanh vương, chắp hai tay nói: “Phủ An Thanh vương Ô y kỵ, lão vương gia truyền lời...”.
Vương thúc quả là người thận trọng, phái liền hai cao thủ đề phòng bất trắc. Tử Ly cười phá lên: “Trở về bẩm báo vương thúc, Tử Ly cho dù phải đi suốt ngày đêm, cũng quyết quay về trước mồng ba tháng hai”.
Ám Dạ khẽ cười: “Trước khi đi lão vương gia lại nói, nếu Ly Thân vương không kịp quay về trước ngày đó cũng không sao, ngày mười tám tháng ba là ngày lành. Ám Dạ cáo từ!”. Bóng người vừa nhúc nhích, đã vụt bay ra ngoài không một tiếng động.
Một màn sương mỏng hiện lên trong mắt Tử Ly, phụ hoàng, Tử Ly nhất định không phụ ủy thác của phụ hoàng, quyết loại trừ thế lực ngoại thích họ Vương, chấn hưng Ninh quốc! Ngày mười tám tháng ba! Vương thúc, những ngày này phiền thúc vất vả rồi!

Tiếng chuông đột ngột trầm trầm vang lên, kinh động bầy quạ co ro tránh rét, chúng bay liệng trên vương cung, kêu những tiếng thê lương. Tiếng chuông trầm vang vọng trong Ninh vương cung dưới chân núi Ngọc Tượng truyền đến khắp nẻo Phong thành. Sớm xuân năm Khánh Nguyên thứ ba mươi tư, mồng hai tháng hai Ninh vương băng hà.
Đôi mắt hổ của An Thanh vương đẫm lệ, nhìn đăm đăm Ninh vương trên long sàng. Vương hoàng hậu, thái tử và các đại thần đã khóc không thành tiếng. Những tiếng khóc chập chùng trong Ngọc Long cung hóa thành lớp lớp những lá phướn trắng, trên cây mầm nụ đầu cành còn chưa kịp hé màu xanh đã bị phủ trắng những tờ tiền giấy, tiền bay trắng trời ngập đất. An Thanh vương sau khi an ủi hoàng hậu, lấy danh nghĩa và thái tử hạ chỉ ban bố quốc tang, đồng thời triệu Ly Thân vương trở về Phong thành.
Cố tướng nước mắt chứa chan: “Xin thái tử nhanh chóng đăng cơ, nước không thể một ngày không có vua!”.
Vương hoàng hậu ngây người liếc nhìn thái tử, lúc này sao lại là Cố tướng đứng ra nói chuyện đó? Thái tử nước mắt đầm đìa: “Theo lệ Ninh quốc, có thể đến mười tám tháng ba mới chính thức đăng cơ, bây giờ quả vương đang đau buồn, việc triều chính lớn nhỏ phiền hai vị tướng gia lo liệu”.
An Thanh vương không đợi hai người mở miệng, bèn nóỉ: “Thái tử ngọc thể ngàn vàng, nên lấy quốc sự làm trọng, hiện tại phiền hai vị tướng gia lo lắng quốc sự, ta sẽ lo liệu chuẩn bị lễ đăng cơ”.
Thái tử ngớ người, các đại thần nhao nhao: “Xin thái tử cai quản quốc sự, lo liệu hậu sự của vương thượng!”.
Một loạt mệnh lệnh được truyền đi, Lưu Giám lần đầu tiên cảm nhận sức hấp dẫn của vương quyền, cảm nhận quyền uy tối thượng của đấng chí tôn.
Các đại thần lục tục giải tán thực thi mệnh lệnh, hoàng hậu nức nở: “Mọi sự trông cậy vào vương gia”.
An Thanh vương nói: “Xin hoàng hậu đừng quá lo lắng, thần tận mắt chứng kiến thái tử phương trưởng nên người, tài năng xuất chúng, được cả triều đình tôn kính ngưỡng mộ”. Sau đó nét mặt sa sầm lẩm bẩm: “Phí công ta chăm sóc Lưu Phi, nghịch tử không coi trưởng bối ra gì, cướp vợ của huynh đệ! Chuyện ô nhục như vậy cũng dám làm!”.
Ông chán nản ngồi xuống: “Lại còn Lưu Giác thằng con bất hiếu của ta, chỉ vì một đứa con gái mà dám bỏ bê việc quân quay về, khiến ta tức chết! Cũng do mẹ nó qua đời từ sớm, ta ở xa, không dạy dỗ nó tử tế! Ôi chao!”.
Thái tử vội nói: “Vương thúc chớ nóng giận ảnh hưởng sức khỏe, khỏi nói Bình Nam vương, ai có thể nuốt nổi mối hận này! Đợi tứ hoàng đệ trở về, đại ca này sẽ dạy cho nó một trận! Hoàng tộc không thể xảy ra chuyện xấu xa như thế!”.
Hôm đó A La dậy sớm, đã nghe thấy tiếng khóc ầm ĩ trong phủ, và tiếng chuông trầm buồn từ vương cung vẳng ra. Nàng nhảy khỏi giường kêu lên: “Ninh vương băng hà rồi! Nói đoạn gọi to: “Lưu Anh! Tiểu Ngọc!”.
Hai người nghe tiếng gọi chạy vào phòng, A La rất nóng ruột, sau khi hạ quyết tâm, nàng nói với hai người: “Lưu Anh, ta gửi gắm Tiểu Ngọc cho ngươi, bây giờ ngươi lập tức đưa Tiểu Ngọc rời khỏi đây, đến Trình phủ phía đông thành tìm chú Phúc”.
Tiểu Ngọc vội nói: “Không cần, tiểu thư, đã xảy ra chuyện gì vậy, tại sao bọn em phải đi?”.
A La hét lên: “Không đi mau, lát nữa sẽ không đi nổi, các người phải đi mới có cách giúp ta!”.
Lưu Anh hạ giọng: “Ý tiểu thư là tứ hoàng tử sắp trở về Phong thành tranh đế vị với thái tử?”.
“Không chỉ có thế. Tử Ly cũng sẽ có phản ứng đối với chuyện của ta, chủ của các người sắp trở thành con tin rồi! Các ngươi mau đi đi, thêm một người ở lại là thêm một phần vướng bận! Còn nữa, nếu chưa đến lúc vạn bất đắc dĩ, các ngươi nhất định không được có bất kỳ tiếp xúc nào với phủ An Thanh vương, nếu không mọi công sức coi như đi tong!”. A La nói nhanh.
“Nhưng, bọn em sao yên tâm để mình tiểu thư ở lại?”. Tiểu Ngọc sụt sùi.
“Lưu Anh, ngươi đưa Tiểu Ngọc đi ngay cho ta! Nhanh! Không đầy hai canh giờ nữa, ở đây một con ruồi e cũng không lọt ra được”.
Lưu Anh đăm đăm nhìn A La rồi kéo tay Tiểu Ngọc chạy đi.
Hai người đi khỏi, A La đứng trong sân trầm tư. Thái tử muốn giam lỏng mình ở đây hay là ở trong cung? Phần nhiều là bắt vào cung. Trong thời gian hơn một tháng này, đành phải một mình tùy cơ ứng biến.
Quả nhiên không ngoài dự đoán, Lý tướng lập rức xám mặt đi vào Đường viên: “Chuyện mi làm hay ho lắm! Ly Thân vương phen này bất lực rồi, thái tử sắp đăng cơ. Bây giờ có lấy Bình Nam vương hay không, không còn do mi định đoạt nữa, lão vương gia kia đã tức đến nổ con ngươi rồi, vương phủ đâu thèm cần mi nữa!”.
A La nghĩ thầm, đúng vậy, An Thanh vương tức giận còn chưa xong, đâu còn cần đứa con dâu đã làm ông ta bẽ mặt? Nhưng chỉ sợ ông thà để Lưu Giác giết mình cũng không nhường mình cho Tử Ly! Bây giờ còn chờ phản ứng của Tử Ly, hai bên bắt đầu tranh giành thì sẽ có thời gian hòa hoãn xung đột. Sao mình lại khổ thế, lại còn phải mạo hiểm cái mạng bé tí của mình nữa.
Nàng nói vẻ kiên định: “Cha à, nói thực với cha, ba năm trước con với Tử Ly đã có thề ước suốt đời, nếu không lấy chàng cả đời con không lấy ai! Lần con bỏ trốn đó, cũng là do Tử Ly giúp, nếu không sao có thể chạy thoát nhanh gọn êm thấm như thế!”.
Lý tướng tức đến toàn thân run bần bật, vung tay xông tới, A La nhẹ nhàng chặn lại: “Đừng đánh, con ra tay rất mạnh không cẩn thận sẽ làm tổn thương cha!”
Lát sau, trong cung truyền chỉ, đón A La vào cung.

Lưu Giác phóng ngựa như điên suốt dọc đường, cuối cùng ngày mồng ba tháng hai đã đến Cốc thành, mười vạn Nam quân dựng trại ở ngoại ô Cốc thành. Tại địa điểm cách Phong thành ba canh giờ đường bộ, Nam quân đã ém sẵn, chặn đứng con đường yết hầu phía nam Phong thành từ Cốc thành đến trấn Thuận Hà phía bắc. Cáp tổ mật báo, hai mươi vạn đại quân Đông lộ của Vương thái úy đã rời đại bản doanh ở ngoại ô phía đông, di chuyển cắm trại ở khu vực cách cổng thành phía đông Phong thành chỉ mười dặm.
Lưu Giác cau mày, theo lý Nam lộ quân thực lực mạnh hơn nhiều so với Đông lộ quân, nhưng chàng đã để lại một lực lượng nhất định trấn thủ ở mỗi thành trì phía nam dọc đường đi, đề phòng quân Trần lại đến xâm phạm, còn Đông lộ quân lại không suy tính chuyện về sau, rời sạch cả đại bản doanh. Như vậy binh lực Nam lộ quân không mạnh bằng Đông lộ quân. Sau khi ra một loạt mệnh lệnh, chàng dẫn năm ngàn thiết vệ và Ô y kỵ nhằm Phong thành lao đi.

Sông Đô Ninh vẫn rộng và trong vắt, chỉ có cổng thành phía nam đóng chặt. Đội quân thúc ngựa xuống cầu phao, tiến đến chân cổng thành, trên tường thành cung rào rào giương lên, Lưu Giác nhàn tản ngồi trên lưng ngựa, một binh sĩ lấy giọng hô to: “Bình Nam vương đến!”.
Một chủ tướng trên thành ló ra, cười: “Thái tử có chỉ, vào thời điểm đặc biệt này, xin Bình Nam vương chỉ mang theo Ô y kỵ vào thành”.
Lưu Giác vẫy tay, năm ngàn thiết vệ lùi về bờ kia sông Đô Ninh. Cổng thành từ từ mở ra, Lưu Giác cùng Ô y kỵ từ từ tiến vào, chủ tướng trấn thành tươi cười, đứng nghiêm dưới cổng nghênh đón: “Hạ quan phụng chỉ hành sự, vương gia thứ lỗi”.
Lưu Giác khinh bỉ liếc một cái, lấy trong người Xích long lệnh, ném cho y, thủ thành kinh ngạc, giơ hai tay đón, nhưng không biết báu vật này là thế nào, hai chân mềm nhũn khụy xuống. Lưu Giác cười: “Nhìn rõ chưa, đó là gì?”.
“Xích long lệnh, có thể nắm... nắm...”. Chủ tướng thủ thành sợ run nói lắp bắp.
Roi ngựa Lưu Giác vừa vung lên, đoạt lại Xích long lệnh, giơ cao nói dõng dạc: “Tiên hoàng tổ ngự ban Xích long lệnh, nắm quyền trấn thủ Phong thành khi tình thế nguy cấp, kẻ nào chống lệnh tiền trảm hậu tấu”.
Tướng sĩ thủ thành nhất loạt quỳ sụp, một bộ phận khác lại đứng yên bất động, có viên tướng rút kiếm khỏi bao: “Vương thượng vừa băng hà, thái tử giám quốc, Bình Nam vương muốn làm phản hay sao?”.
Lời vừa dứt, Lưu Giác vung kiếm, cái đầu của người vừa nói đã rơi bịch xuống đất. Mọi người run sợ, Bình Nam vương này khét tiếng mạnh tay, hành sự quyết liệt, không chút đắn đo, dường như muốn nói nếu không tuân phục, đại chiến sẽ diễn ra ngay tại đây.
Lưu Giác sắc mặt không đổi, ngạo mạn cười khẩy: “Dám bất kính với tiên hoàng tổ? Bản vương cũng vì cần vương bảo giá đến đây, kẻ nào dám gây hiềm khích giữa bản vương với thái tử sẽ có kết cục như thế!”. Ánh mắt lạnh như ánh thép quét qua mặt đám tướng sĩ không tuân phục, uy vũ toát ra khiến họ quỳ mọp xuống đất.
Lau Giác nháy mắt với binh sĩ Ô y kỵ, năm ngàn thiết vệ quân từ bên kia bờ vượt cầu phao sang bên này, nhanh chóng trấn thủ cổng nam kinh thành, triệt để đảm bảo Nam lộ quân hanh thông trở về Phong thành. Bố trí công mọi việc xong xuôi, chàng dẫn Ô y kỵ trở về phủ An Thanh vương.
Chính lúc Lưu Giác chém tướng thị uy ở cổng thành phía nam, chiếc xe ngựa của Đông cung đi đón A La ra khỏi tướng phủ không lâu bất ngờ bị một toán người áo đen chặn lại, thị vệ trong cung hoàn toàn không ngờ đoàn xe bị chặn ngay dưới chân vương cung. Bọn người này võ công cao cường, bắt cóc A La xong lập tức giải tán, không để lại mảy may manh mối ở hiện trường. Thị vệ sợ hãi về cung trình báo.
An Thanh vương nghe bẩm báo nói Lưu Giác đang bừng bừng phẫn nộ đi vào phủ, vội nhảy lên giường nằm, lấy khăn ẩm đắp lên trán, bắt đầu rên hừ hừ.
Lưu Giác vừa vào trong nhà thì nhìn thấy ngay An Thanh vương đổ bệnh nằm bẹp trên giường. Chàng cười khẩy: “Đổ bệnh rồi ư? Tức quá đổ bệnh hay sao?”.
An Thanh vương đầu bốc hỏa, tiểu tử ngu ngốc này không thông cảm cho ông già này một chút, khẩu khí gì vậy! Hóa ra A La vẫn ngoan. Ông hừ một tiếng, nói thều thào: “Nghịch tử! Cũng không biết quan tâm lão phu một chút, cô nương kia không cần ngươi, đáng đời!”.
“Cha còn nói thế? Lúc đầu con đã ngọt nhạt cầu xin cha chăm sóc nàng? Sao bây giờ lại xảy ra chuyện thế này?”. Lưu Giác tức sôi người, bụng nghĩ, con đây còn chưa đổ bệnh, cha đã phải nằm bẹp rồi!
An Thanh vương vẫy tay, người hầu thận trọng dìu ông ngồi dậy: “Tiểu tử, tam tiểu thư kia hình như đối với con chẳng ra sao”.
“Nói chuyện chính! Chuyện thế nào?”.
“Hình như ba năm trước cô nương ấy không phải bị bắt cóc, mà là tháo hôn thì phải?”. An Thanh vương thong thả nói.
“Hừm, sau đó?”.
“Hình như nghe nói nàng ta ngầm đính ước với Ly Thân vương, cho nên mới tháo hôn. Bây giờ Ly Thân vương sắp trở về, nói là sẽ lấy nàng ta, cho nên nàng ta không cần con!”. An Thanh vương nói liền một mạch, mắt liếc trộm Lưu Giác.
“Chuyện xảy ra lúc nào? Sao con không biết? Lưu Phi muốn cưới nàng ư? Ba năm vừa rồi không cưới, sao lại cưới đúng lúc này?”. Theo trực giác, Lưu Giác không tin.
An Thanh vương nghĩ, nếu nó không tin, chuyện này khoan cho nó biết. Với tính cách của nghịch tử này, nếu biết nó chắc chắn sẽ đưa A La đi, ván bài sẽ không thể tiếp tục.
Ông vỗ vào đầu chàng, giậm chân mắng: “Ai bảo ngươi tự tiện quyết định hôn sự này? Lão phu cả đời lẫm liệt uy phong bây giờ thành trò cười cho bá quan văn võ! Ngươi có điểm nào kém Lưu Phi, sao lại bị người ta phóng uế lên đầu như vậy, vợ sắp cưới còn bị người ta cướp mất?! Còn Lý Thanh La kia nữa, không biết liêm sỉ là gì, ngang nhiên tuyên bố không lấy Lưu Phi thì suốt đời không lấy ai! Nó, ngươi... Trời ơi, ta tức chết mất, cái đầu của ta!”. An Thanh vương ôm đầu nằm xuống, bộ râu rung rung giận dữ.
Luu Giác thấy mặt cha đã xám xanh như ánh thép, lúc này mới hốt hoảng vội vã chạy lại: “Cha, cha có sao không?”.
An Thanh vương đẩy tay chàng: “Ngươi, ngươi đi đi, nói với Lý tướng, ông ta có giết con gái, ta cũng không cần nữa! Loại nghịch nữ đó giữ lại chỉ tổ mất mặt, thắt cổ chết đi!”.
A? Lưu Giác nghĩ, hỏng rồi, ông già không phải chỉ hơi tức thôi. Lòng chàng tan nát, vừa buồn vừa đau, A La, nàng đúng là kẻ gây họa! Sao nàng có gan làm chuyện động trời như thế. Nàng làm vương phủ ta biết giấu mặt vào đâu!
“Cha, cha cứ nghỉ đi, con đến phủ Lý tướng một chuyến, phải ba mặt một lời hỏi cho rõ!”.
Không nghe chính miệng A La nói ra, Lưu Giác trước sau vẫn còn hy vọng. Chàng cảm thấy rất lạ. Nếu A La thích Tử Ly, tại sao ba năm nay nàng không đi Biên thành. Ở Biên thành, núp dưới đôi cánh của Tử Ly ai dám động đến nàng? Chàng hồi nhớ cảm giác ấm áp khi hai người bên nhau, nghĩ đến lúc A La tặng chàng đóa hải đường đóng băng, nghĩ đến cảm giác ngọt ngào khi họ hôn nhau... Chàng lắc đầu thật mạnh, không! Chàng không tin, chàng phải đi tìm A La! Lưu Giác đứng dậy đi ra.
Đột nhiên một binh sĩ Ô y kỵ từ bên ngoài xông vào: “Bẩm chúa thượng, chiếc xe ngựa trong cung phái đi đón tam tiểu thư tướng phủ bị chặn lại ở ngã ba phía đông, tam tiểu thư hiện không rõ tăm tích!”.
An Thanh vương thất kinh, ngồi dậy thét: “Kẻ nào dám làm chuyện đó?! Dám chặn xe ngựa của hoàng cung!”.
Đầu Lưu Giác “hừ” một tiếng, vừa trở về đã xảy ra chuyện, rút cục là chuyện gì! Chàng một tay túm lấy binh sĩ vừa báo tin, quát to: “Kẻ nào to gan như thế?”.
Binh sĩ bị chàng túm áo, nghẹt thở, nhưng vẫn thận trọng nói: “Hình như là tứ hoàng tử ra tay, hành động vô cùng chuẩn xác táo bạo!”.
“Dựa vào đâu nói là tứ hoàng tử?”.
“Thuộc hạ xem kỹ mấy thị vệ bị trúng kiếm, có một người vết kiếm trên cổ rất khác thường, giống như vết kiếm của bộ kiếm pháp Tuyết Sơn Phiêu Ngọc, thuộc hạ của tứ hoàng tử có chừng mười người chuyên luyện kiếm pháp này!”.
Lưu Giác buông tay, nghiến răng vọt ra một câu: “Lưu Phi, nỗi nhục này, ta quyết không đội trời chung. Cổng thành bốn phía đã đóng, bọn họ không thể ra khỏi thành, hãy lục soát từng nhà cho ta, dù phải đào tung ba thước đất cũng tìm bằng được người về đây!”.
An Thanh vương vừa nghe, lòng nở hoa nhưng ông vẫn đổ thêm dầu vào lửa: “Nghe nói, tiểu tử Lưu Phi đã từ Biên thành trở về, rắp tâm tranh giành đế vị”.
“Hừ, con sẽ vào cung gặp thái tử, Lưu Phi kia muốn có vương vị còn phải hỏi cha con ta có đồng ý không!”.
Lưu Giác đi rồi, một binh sĩ Ô y kỵ trở về phủ khẽ bẩm báo: “Đám tướng sĩ theo phe cánh họ Vương ở cổng nam thành đã xử lý xong”.
An Thanh vương gật đầu, miệng hé cười: “Điều binh chiếm hai cổng thành khác, kẻ nào chống cự, chém!”.

A La xuống ngựa, người áo đen quỳ mọp xuống: “Chúa mẫu bảo trọng.
A La dở khóc dở cười: “Đừng gọi bừa, nghe ghê chết”.
Ánh mắt người áo đen lộ vẻ kính trọng: “Quý tiểu thư là phận nữ nhi cũng dám vì chúa thượng mạo hiểm như vậy, Ô y kỵ cảm kích rơi lệ! Từ nay Ô y kỵ chúng tôi trên dưới đều do chúa mẫu sai bảo! Lão vương gia đã dặn, có thể sẽ phải phiền chúa mẫu chịu tủi một phen!”.
A La nhếch môi, lẩm bẩm: Chuyển lời ta đến con cáo đó, sau này ta sẽ tìm ông ta tính sổ! Nếu ta bị thiếu một sợi tóc, ta sẽ nhổ trụi từng sợi râu ông ta!
A La ngẩng đầu nhìn, đẩy cửa đi vào Tố tâm trai. Đây là sản nghiệp của Tử Ly, người ở đây chắc biết miếng ngọc bội chàng đưa cho nàng.

Người ở Đông cung sau khi biết tin Lưu Giác giết người thị uy ở cổng nam thành thì bồn chồn không yên, Vương hoàng hậu nói: “Bình Nam vương này ra tay cũng quá táo tợn tàn nhẫn, lại dám giết người của ta, trấn giữ cổng nam thành, liệu có đúng chỉ vì Ly Thân vương cướp người đàn bà của hắn? Hắn ta hoàn toàn không coi chúng ta ra gì!”.
“Theo tin tình báo, Ly Thân vương đang trên đường trở về Phong thành. Mặc dù chỉ đem theo hai vạn binh mã, số còn lại chia ra trấn thủ các thành trì, nhưng Hữu quân đâu phải khúc xương dễ gặm?”. Một mưu thần nói.
Thái tử sẵng giọng: “Hắn định lấy danh nghĩa gì khởi binh? Ta ít nhất cũng là thái tử danh chính ngôn thuận! Đừng quên vương phi của hắn vẫn ở Phong thành!”.
“Điện hạ bớt giận, tứ hoàng tử có lẽ đã tiên liệu điện hạ sẽ không dám động đến Cố gia. Hiện chỉ còn một tháng là đến ngày mười tám tháng ba, vả lại Cố tướng là nguyên lão hai triều, môn sinh vô số, chỉ e Cố Thiên Tường trong lúc phẫn nộ có thể bỏ mặc cho quân Trần tiến vào, Ninh quốc sẽ nguy hiểm!”. Vương Yến Hồi lạnh lùng phân tích tình hình, “Thiếp nghĩ Ly Thân vương không dám khởi binh, tài giỏi mấy hắn cũng không phải là thái tử, nếu dấy binh thì sẽ danh không chính ngôn không thuận. Hắn đem theo hai vạn binh mã, nhưng nhiều nhất chỉ có thể vào thành năm ngàn, chỉ cần không mang thêm binh mã vào thành, khi vào triều phục chịu tang ai dám nói gì hắn. Cho dù biết hắn có ý tạo phản, nhưng khi hắn chưa động binh cũng chỉ có thể theo dõi, phòng bị. Mà Xích long lệnh trong tay cha con An Thanh vương, chúng ta không cho ông ta tiếp quản, ông ta giết người lập uy, cướp quyền trấn thủ cổng nam thành, chúng ta cũng không thể nói gì. Bất luận thế nào, quan trọng nhất bây giờ là tìm được Lý Thanh La về đây! Nàng ta rất quan trọng đối với cả hai người đó! Có nàng ta trong tay, chúng ta đã có một con tin đáng giá”.
“Bẩm nương nương, điện hạ, Bình Nam vương cầu kiến!”. Cung nhân khẽ bẩm báo.
Vương hoàng hậu nói: “Truyền cho vào!”.
Lưu Giác sải những bước lớn vào điện, cúi chào hoàng hậu và thái tử. Người chàng còn lấm bụi đường, thoáng nhìn đã biết từ xa vừa về.
“Bình Nam vương yên ngựa vất vả. Nghe nói An Thanh vương cũng bệnh mệt, mấy ngày vào triều phải ngồi kiệu đến tận nơi. Ái khanh vội vã như vậy là vì chuyện gì?”. Hoàng hậu từ từ mở miệng.
“Thần xin được ban chỉ cho thần giao chiến với Ly Thân vương để rửa nỗi nhục bị cướp thê tử!”. Giọng Lưu Giác căm phẫn.
Vương hoàng hậu và thái tử nhìn nhau. Thái tử nói: “Vừa nghe báo tam tiểu thư bị bọn áo đen nào đó bắt đi, chuyện này...”.
“Ô y kỵ của vương phủ nhận ra, đó là thủ pháp của thuộc hạ dưới trướng Ly Thân vương! Thần biết vương thượng vừa băng hà, không tiện manh động, nhưng thần quả không nuốt được mối hận này, đã lệnh cho lục soát khắp thành! Thần biết Ly Thân vương từ Biên thành trở về phục tang, nhưng thần muốn giao chiến cùng y với tư cách cá nhân, mong nương nương và thái tử cho thần được toại nguyện!”. Sắc mặt Lưu Giác rắn đanh, xám xịt, phẫn nộ của chàng lên đến tột cùng.
“Bình Nam vương bớt giận, đợi tìm được tam tiểu thư chúng ta mới dễ bề định luận. Nếu không phải do tứ hoàng đệ làm, chẳng phải oan cho tứ hoàng đệ hay sao?”. Thái tử nói.
“Thần xin chỉ lệnh tiếp quản ba cổng thành, chỉ cần người còn trong thành, thần ắt sẽ tìm ra!”.
Hoàng hậu nghĩ bụng, ngươi đã tiếp quản cổng nam thành, còn xin lệnh gì nữa? Nhưng miệng lại nói: “Bình Nam vương nguôi giận, ai gia chuẩn tấu!”.
Lưu Giác vừa đi khỏỉ, hoàng hậu lại tiếp: “Không chuẩn y cũng không được, Bình Nam vương đã tiếp quản cổng nam thành, nhưng chuẩn y rồi, nếu y không đứng về phía chúng ta, chúng ta sẽ không thể khống chế Phong thành!”.
“Hoàng hậu chớ sốt ruột, đại quân Đông lộ của đại ca này đã lập trại ở cách phía đông thành mười dặm, lúc nào cũng có thể vào thành. Ta thấy cầu giữa An Thanh vương, Bình Nam vương và tứ hoàng tử đã lộ hình”. Vương thái úy cười.
“Nhưng cha à, không tìm thấy Lý Thanh La, lòng con trước sau vẫn không yên!”. Vương Yến Hồi nói, “Thực ra Bình Nam vương và tứ hoàng tử đánh nhau cũng không phải là chuyện không hay, cứ để họ đấu với nhau. Nếu không con sao có thể yên tâm!”. Lời vừa nói ra, Vương Yến Hồi cũng có phần kinh ngạc, tại sao bây giờ mình cứ quẩn quanh không quên Lý Thanh La? Lẽ nào... nàng ta cắn môi, trong mắt lộ vẻ quyết liệt.

Bố trí quân cơ xong, Tử Ly đưa hai vạn binh mã phi gấp về Phong thành. Bây giờ đang đêm, đội quân dựng trại nghỉ trên thảo nguyên. Chàng rời doanh trướng, buông tay đứng giữa trời, ngẩng đầu nhìn vòm đêm đầy sao, miệng bất giác mỉm cười. Cái đêm chàng lặng lẽ lọt vào tướng phủ, đón A La đến thảo nguyên dựng trại bầu trời cũng mê ly như thế này, cũng có gió mang chút hơi lạnh. Thảo nguyên này lưu giữ bao tiếng cười nói vui tươi của họ.
Ba năm rồi, A La có khỏe khóng? Dạo đó khi nàng thoái hôn, lòng chàng trào lên niềm vui không thể nào che giấu, chỉ cần nàng không bị Lưu Giác tìm thấy, chỉ cần có thể tìm ra A La trước đưa về bên chàng che chở cho nàng. Nhưng cuối cùng A La vẫn bị Lưu Giác đưa về Phong thành. A La, nàng sẽ lấy anh ta sao? Ngực Tử Ly lòng đau nhói từng cơn, nỗi hận lại len lỏi từ đáy lòng. Ánh mắt chàng nhìn sâu vào thảo nguyên, cỏ cao mơn mởn đen thẫm trải ra vô tận. Giống như những đêm gặp ác mộng, một mình chàng đi trong đêm không ánh đèn, chỉ có thể kiên trì đi tiếp, mà không biết bao giờ mới có thể đi qua con đường thăm thẳm mịt mùng không ánh sáng.
Ám Dạ đã đến được một lát, Ly Thân vương mình vận áo tang trắng đứng trong gió lạnh, dáng phiêu diêu u buồn, hào quang vương giả tỏa ra từ người chàng, khiến Ám Dạ có cảm giác con người này là chúa tể của thảo nguyên. Mỗi lần Ám Dạ xuất hiện đều rất khéo, đúng lúc tứ điện hạ tâm thần phiêu diêu, không nhận ra. Mắt Ám Dạ lóe cười, khẽ thốt lên: “Đêm trăng mê ly thế này, điện hạ vì ai mà một mình đứng giữa bao la gió lạnh?”.
Tử Ly giật mình, lần này Ám Dạ xuất hiện, chàng cơ hồ không hề hay biết. Nụ cười ôn dịu trên miệng nhạt dần: “Lần nào ngươi đến dường như cũng đều chọn đúng lúc?”.
Ám Dạ chắp tay: “Lão vương gia ủy thác Ám Dạ chuyển lời, xin điện hạ nhất thiết phải giao chiến với thiếu chủ một trận, nguyên nhân vì nghe đâu tam tiểu thư tướng phủ tuyên bố không lấy được tứ điện hạ cả đời sẽ không lấy ai. Lão vương gia nói, tứ điện hạ ba năm không về Phong thành thăm vương phi, trong lòng tất đã có nơi chốn, nam nhi mà, đánh nhau vì người trong lòng có gì lạ. Đây cũng là trò hay mà hoàng hậu và thái tử muốn xem”.
Tử Ly quay phắt đầu lại, ánh mắt giễu cợt: “Bình Nam vương chịu để A La rơi vào nguy hiểm? Anh ta đối với nàng ấy cũng chỉ có thế hay sao! Giao chiến ư? Hừ, bản vương không thích!”.
Ám Dạ khâm phục lão vương gia từ tận đáy lòng, mũi tên này, không biết xuyên trúng bao nhiêu con chim. Đôi mắt lộ ra ngoài khăn bịt mặt chớp chớp: “Thiếu chủ không biết nội tình, xin điện hạ ra tay có chừng mực! Ám Dạ cáo từ!”.
Tử Ly ngẩn người, không nén nổi, bật cười ha hả: “Lưu Giác, lần này ngươi thảm rồi, bản vương thông tỏ nội tình, còn ngươi bị giấu kín như bưng!”. Ý nghĩ đột nhiên chuyển hướng, A La, nàng có biết nội tình hay không, A La, lòng nàng có ta thật không? Ý nghĩ vừa đến, lòng đã rộn lên bao xao xuyến, tiếc là không thể lập tức phóng ngựa trở về gặp mặt A La.

CHƯƠNG 24



Toàn Phong thành bị giới nghiêm, từng tốp lớn binh sĩ lùng sục từng đường phố, con ngõ, phạm vi hẹp dần như thu lưới bắt cá, chưởng quầy của Tố tâm trai lòng như lửa đốt. Từ khi A La bước vào, chìa ra miếng ngọc bội của Tử Ly, ông đã hiểu tầm quan trọng của người này đối với chúa công. Nhưng bây giờ bốn cổng thành đã bị bịt chặt, quan binh nhan nhản, tuần tiễu khắp thành, làm sao bình an đưa tiểu thư ra khỏi Phong thành? Chúa công không nhận được tin, tất muôn phần lo lắng, kế hiện nay có thể làm là giấu thật kỹ.
A La nhắm mắt nghĩ, xem ra chỉ cần là cửa hiệu của Tử Ly, miếng ngọc bội này chính là tấm thẻ hội viên kim cương, ăn uống miễn phí, hầu hạ chu đáo. Duy có điều nàng không hài lòng là mấy hôm nay ăn thanh đạm chán rồi, bắt đầu hối hận ngày xưa mở nhà hàng chủ yếu phục vụ các món thanh đạm này! Nàng muốn ăn nhiều thịt cá! Lưu Giác sao vẫn chưa tìm đến chỗ này, đúng là đầu lợn! Nàng cười khúc khích, nghĩ đến vẻ mặt xanh xám vì tức giận của chàng, nàng dùng đũa chấm nước chè vẽ một cái mặt lợn trên bàn, lẩm bẩm: “Thiếp chưa bao giờ tham dự lớp diễn kịch, chàng không được làm thiếp bật cười, thiếp sợ đau, sợ chết, chàng không được đánh thiếp”. Nàng than thở, chống cằm nhìn ra ngoài, còn phải đợi bao lâu mới qua cơn sóng gió xung quanh vương quyền này?
Tiếng bước chân nện gấp trên cầu thang, chưởng quầy cuống quýt bước vào: “Tam tiểu thư, quan binh đến rồi, mau theo tôi!”.
A La mình vận đồ nam nhi, lập tức đi theo ông ta xuống lầu, vào kho chứa củi ở hậu viên. Chưởng quầy dịch chuyển một đống củi, lộ ra một gian gác xép nhỏ, A La né người đi vào, gian gác xép rất tối, chỉ có chút ánh sáng lờ mờ hắt qua một viên ngói trong trên mái. A La nằm lên giường, dỏng tai nghe ngóng động tĩnh bên ngoài.
Không lâu sau Tố tâm trai đã chật ních quan binh, chưởng quầy cười nịnh: “Quan gia, tiểu quán xưa nay luôn tuân thủ phép công”. Vừa nói vừa nhét vào tay viên đội một thỏi vàng.
Người này vội nhét vàng vào tay áo, tay vẫn vẫy ra lệnh: “Lục soát thật kỹ, không được bỏ qua bất kỳ xó xỉnh nào!”.
Chưởng quầy cười nịnh tưởng là bọn họ chỉ tìm kiếm qua loa rồi rút đi, không ngờ thấy binh lính lục soát rất kỹ, lòng bắt đầu lo lắng. Hai tay buông xuôi, một lưỡi đoản kiếm từ trong ống tay đã trượt xuống, nằm gọn trong tay.
Một lát sau thấy lính bẩm báo với viên đội không tìm thấy người. Chưởng quầy thở phào, mặt hớn hở tiễn khách ra cửa, đang định cài then, thì thấy bên ngoài một toán kỵ binh chạy đến.
Lưu Giác nghe quan binh báo cáo, ngẩng đầu nhìn biển hiệu Tố tâm trai, suy nghĩ giây lát, rồi xuống ngựa đi vào trong quán: “Mang những món đặc sắc nhất của các ngươi lên đây, ta muốn ngồi đây nghỉ một lát”.
Chưởng quầy sững người, sắc mặt vẫn tươi cười: “Vương gia, mấy ngày nay nhà bếp chúng tôi nghỉ, ngài xem quán chúng tôi đóng cửa...”.
Lưu Giác cười nhạt “Ông xuống nhà bếp xem còn gì nấu được thì nấu, có rượu là được!”. Nói xong đi thẳng vào trong quán.
Chưởng quầy vâng dạ liên hồi, quay người đi vào nhà bếp. Bụng thầm kêu khổ, vương gia này sao sớm không đến, muộn không đến lại đến đúng lúc này.
Lưu Giác quan sát Tố tâm trai, hình dung cảnh A La từng đến đây dạy Tử Ly nấu ăn, khẽ rên một tiếng, đầu chợt nảy ý nghĩ, qua khóe mắt liếc thấy bóng chưởng quầy. Chàng trầm tư, sau một cái liếc mắt binh sĩ Huyền tổ Ô y kỵ đã chia nhau tiến vào trong quán, không lâu sau, một binh sĩ xuống lầu, nói nhỏ điều gì vào tai Lưu Giác.
Lưu Giác cười khẩy đi lên lầu, đạp tung cửa phòng, đến bên chiếc bàn, trên bàn vẫn còn bộ ấm chén vừa uống trà, trên mặt bàn vẫn lờ mờ nhìn thấy chiếc mặt lợn được vẽ bằng nước trà còn chưa khô. Chàng vừa xuống lầu ngồi, chưởng quầy đã bê rượu và đồ ăn bày lên, cười xun xoe: “Tay nghề mọn không bằng đại sư phụ, vương gia không chê, xin mời dùng tạm”.
“Toàn thành giới nghiêm, các ngươi cũng khó làm ăn đấy nhỉ!”. Lưu Giác buột miệng hỏi.
“Đa tạ vương gia quan tâm, bản quán đâu dám mở cửa, vương thượng vừa băng hà, Phong thành không được náo nhiệt ồn ào, nhà bếp mới tạm nghỉ”. Chưởng quầy e dè trả lời.
“Mấy ngày nay không có khách hàng nào ư?”
“Phải, quan binh đi lại tứ phía, ai còn dám ra khỏi cửa. Chắc là phải qua ngày mười tám tháng ba, tân vương đăng cơ, Phong thành mới náo nhiệt trở lại”.
Lưu Giác “ờ” một tiếng, mắt lóe sáng: “Vậy người uống trà trong kia là ai?”.
Chưởng quầy trấn tĩnh: “Tiểu nhân trông nhà cảm thấy vô vị pha trà uống chơi”.
Một tay Lưu Giác đột nhiên vung lên, chưởng quầy theo phản xạ né tránh, lòng biết đã bại lộ, tay vừa động đậy, một lưỡi đoản kiếm đã đâm về phía Lưu Giác, người vọt ra ngoài, nhưng trong chớp mắt một đám đen sì lố nhố trước mặt, Ô y kỵ đã vây chặt ông ta, chưởng quầy cười khẩy: “Bình Nam vương nhãn lực như thần, tiểu nhân khâm phục, nói thực, tiểu nhân đã đưa người đi rồi”. Nói xong xuất chiêu, tung hoành chiến đấu với đám người vây quanh.
Một binh sĩ khẽ cười, trường kiếm lóe lên, nháy mắt đã công phá thế phòng thủ của chưởng quầy, một mũi kiếm đâm trúng đùi ông ta. Chưởng quầy nghiến răng, nhưng vẫn gắng sức đấu lại, máu trào ra như suối, hai mắt bắt đầu đổ ngầu. Cuối cùng trước khi cạn sức gục xuống, ông ta ngửa cổ cười ngất: “Chúa công, quyết không chết nhục!”. Nói đoạn cắt đứt mạch máu mà chết.
Mọi người kinh hoàng, thủ hạ của Ly Thân vương can trường dũng mãnh, khinh thường sống chết, có thể thấy chủ nhân quản giáo thuộc hạ nghiêm thế nào.
Nghe tiếng đấu đá bên trong, quan binh chạy vào. Lưu Giác liếc nhìn viên đội vừa bẩm báo tình hình ở đây không có gì khác, lạnh lùng ra lệnh: “Dỡ nhà, lục soát!”.
Lát sau quan binh tràn vào hậu viên, A La nghe thấy bên ngoài có tiếng dỡ củi, bụng nghĩ, cuối cùng chàng đã đến. Nàng chỉnh lại xiêm y, vận động chân tay, nấp sau cửa chờ đợi.
Đột nhiên bên ngoài có tiếng nói: “Ở đây có cái cửa bí mật!”.
A La nhắm mắt, mở cửa, xông ra, chân tay xuất chiêu không nể tình, nháy mắt đã đánh gục mấy quan binh. Nàng chạy khỏi kho củi, ngẩng đầu nhìn thấy Lưu Giác. Đồng tử trong mắt chàng lay động không biết là thần sắc gì, miệng hé nụ cười châm biếm: “Nàng tưởng chạy thoát được sao?”.
“Ta chạy hay không can hệ gì đến chàng? Ta đâu có vi phạm vương pháp, chẳng qua muốn đến đây ăn chút đồ mà thôi”. Nhìn thấy chàng, tim nàng bỗng đập rất nhanh, nhưng mặt vẫn tỏ vẻ bất cần.
Những đường gân xanh hằn lên hai bên trán của Lưu Giác, nụ cười thê lương trên môi: “Ha ha, không can hệ đến ta ư? Vương phi của ta!”.
“Ta vẫn chưa lấy chàng, bây giờ ta đổi ý rồi, không thấy ai mặt dày như chàng. Hừ!”. A La lòng đau ngấm ngầm, thầm kêu khổ, lão vuơng gia cáo già, lẽ ra ông phải hiểu tính khí con trai, giày vò chàng ấy thế này, ta là người chịu tội lớn nhất.
Nàng bị người của Lưu Giác mang đi, lòng nàng thật sự rất nhớ chàng. Nỗi đau như những lưỡi câu móc vào tim chàng, đau đến không bước nổi. Lưu Giác phẫn nộ, ngửa mặt cười: “Nàng tưởng nàng là ai? Nàng tưởng có thể tùy tiện chà đạp lên sự tôn nghiêm của vương phủ ta như vậy, nói không lấy là không lấy? Lại còn định tư thông với người khác bỏ trốn, đừng mơ!”.
A La ngang nhiên đứng đó: “Đánh chết ta cũng không về cùng chàng! Có bản lĩnh chàng ra tay đi, không cần khinh công, không cần điểm huyệt?”. Nàng thủ thế, ngang nhiên thách thức Lưu Giác.
Lưu Giác tức khí hét lên: “Lui hết cho ta!” Chàng vừa xoay người, không dùng khinh công đấu với nàng. A La người nhẹ như chim yến, né tránh như tia chớp mọi phản kích của chàng, hai người đấu khoảng chục chiêu, sức nàng yếu dần, lưng đau nhức, bị chàng trở tay đánh ngã trên nền.
A La rủa thầm, sao ra tay mạnh thế, nàng bị đánh đến suýt tắc thở. Nàng thở hổn hển gắng gượng đứng dậy, Lưu Giác nhìn nàng, dáng ương ngạnh, tóc mai xõa bên tai, nhưng không hề bơ phờ khó coi. Mối thâm tình chất chứa bao năm dồn cho nàng, bỗng chốc như hoa tuyết bay xuống sông, hòa vào nước tan biến không vết tích. Uổng công chàng bảo vệ nâng niu như ngọc trên tay. Vậy mà nàng trả ơn như thế! Tim nàng làm bằng thép hay sao? Không! Còn cứng hơn thép, lạnh hơn băng, trong huyết quản nàng ta chỉ có dòng máu vô tình và phản bội! Hận thù sục sôi trong lòng chàng, mặt đen sạm như ngạ quỷ, mối thâm hận trong ánh mắt khốc liệt không thể hóa giải.
A La run rẩy trước uy thế đáng sợ của chàng, lòng thắt lại, ngoảnh mặt, không dám nhìn chàng. Bên tai bỗng có tiếng gió rít, tay nàng đã bị Lưu Giác xiết giữ, chàng trói rất chặt. A La nghiến răng không kêu, thầm tức giận, nhất định có ngày chàng cầu xin ta cũng không tha thứ!
Lưu Giác một tay cắp nàng ra khỏi Tố tâm trai, vừa lên ngựa, phía trước đã thấy một đội thị vệ chạy đến, đi đầu là Chung Hữu Sơn thống lĩnh của đội thị vệ trong cung. Y thấy Lưu Giác liền mỉm cười: “Thái tử nghe nói vương gia đã tìm thấy tam tiểu thư tướng phủ, xin mời vương gia đưa tam tiểu thư vào cung”.
A La dựa vào lòng Lưu Giác, nghe người khác nói muốn chàng đưa nàng vào cung, vội hé mắt nhìn chàng. Khuôn mặt chàng vẫn trầm ngâm, chắc vẫn đang giận. Nàng lại thầm thở dài, bụng nghĩ, lần này vào cung e lành ít dữ nhiều.Tử Ly sao vẫn chưa đến, nếu trò này còn diễn tiếp, mình không chết cũng mất nửa mạng.
“Thông báo cho Lý tướng, nói tam tiểu thư bị bắt cóc trúng thương, bản vương đưa về vương phủ chữa trị”. Lưu Giác không thèm để ý lời của thị vệ trong cung, sai một binh sĩ Ô y kỵ đi đến Lý phủ.
“Ngươi là Chung Hữu Sơn phải không?”. Lưu Giác lúc này mới thong thả nói với Chung Hữu Sơn.
“Chính là tiểu nhân, Bình Nam vương trí nhớ như thần”. Chung Hữu Sơn tươi cười, chắp tay hành lễ.
“Tặc tử bắt tam tiểu thư đã tự vẫn, tam tiểu thư bị thương, rất hoảng sợ, ngươi về bẩm báo thái tử điện hạ, bản vương đưa về phủ xem xét vết thương, đợi chữa trị xong sẽ vào cung tạ ơn”.
“Chuyện, chuyện này...”. Chung Hữu Sơn vô cùng bối rối. Tam tiểu thư tướng phủ lúc này bị Lưu Giác dùng chiến bào trùm kín, co ro trong lòng chàng không động đậy, không nhìn ra bị thương ở đâu, y quay về phải bẩm báo thế nào?
Lưu Giác bỏ mặc y, giật nhẹ dây cương, đi đến dừng bên cạnh y: “Bản vương đưa vương phi tương lai về phủ trị thương, thế nào Chung thống lĩnh muốn làm thay bản vương sao?”.
Chung Hữu Sơn sợ run cầm cập: “Vương gia đi từ từ, tiếu nhân sẽ quay về bẩm báo”.
Lưu Giác ‘‘hừ” một tiếng, nói tiếp: “Nghe nói đây là sản nghiệp của Ly Thân vương, không biết bọn tặc tử trà trộn vào từ lúc nào, cảm phiền Chung chị vệ niêm phong cẩn thận”. Nói đoạn, vòng qua Chung Hữu Sơn, đi về vương phủ.
Trên đường đi, lòng chàng vừa chua xót vừa thống hận, sao mình vẫn bảo vệ nàng ta? Chàng biết sau khi A La vào cung, chỉ cần vẫn dám quan hệ với Ly Thân vương, thì đừng nghĩ chuyện rời cung nửa bước, chỉ có thể ngồi đợi làm vật tế khi Lưu Phi tranh vương vị. Tử Ly đối với A La thế nào chàng không phải không biết, một khi để người của Đông cung biết tình cảm của anh ta đối với A La, cái mạng nhỏ của nàng hẳn là khó giữ. Lưu Giác thầm hạ quyết tâm, dù thế nào cũng sẽ không để A La hy sinh tính mạng. Nhưng sao nàng không hiểu mà lại cứ nói rằng người trong lòng nàng chỉ có Tử Ly? Nàng nói nàng hối hận, lại còn đánh nhau với chàng, nói rằng đánh chết cũng không theo chàng. Hỏa khí trong lòng Lưu Giác lại bùng lên, chàng thúc ngựa chạy nhanh, phi thẳng vào Tùng phong đường.
Chàng ôm A La đi vào tẩm thất, nói với Thanh Ảnh: “Lệnh cho Thanh tổ cảnh giới nghiêm mười hai canh giờ, bất cứ kẻ nào chưa xin phép dám vào Tùng phong đường, giết!”.
Thanh Ảnh là tổ trưởng Thanh tổ sau khi Lưu Anh ra đi, nghe vậy có phần do dự: “Thế còn, lão vương gia...”.
“Cũng ngăn lại, ngăn không được, cứ để ông già bước qua xác ngươi mà vào!”. Lưu Giác nghĩ, nếu để ông già xông vào, không chừng sẽ giết chết A La, vẫn nên đề phòng một chút, rồi lại ra lệnh: “Huyền Y, ngươi đi dò xem tại sao Đông cung biết tin nhanh như vậy?”.
“Thuộc hạ tuân mệnh!”. Thanh Ảnh và Huyền Y đồng thanh trả lời.
Lưu Giác ôm A La đi vào nội thất, ném nàng lên giường, A La bị ngã, đầu nhức mắt hoa, lúc lâu sau mới định thần, hét to: “Cởi trói ra, đau quá!”.
“Đau? Như thế này là đau? Nàng có biết đau là gì không? Hả?”. Lưu Giác nâng cằm nàng lên, ánh mắt dữ dằn: “Nàng có biết lòng ta đau thế nào không?”.
A La bất giác co người lùi về sau, Lưu Giác tóm chặt cằm nàng không cho nàng nhúc nhích: “Ồ, ta quên mất, ba năm trước lẽ ra ta phải hiểu, nàng là kẻ không tim, nàng trước sau bất nhất, chưa bao giờ cho ta một câu trả lời khẳng định, ngay một câu nói dối thích ta nàng cũng không nói! Bây giờ ta mới hiểu, nàng nhớ Tử Ly đúng không? Chàng ta với nàng quả thật tình sâu nghĩa nặng biết mấy, đêm tân hôn còn bỏ mặc tân nương chạy đến phủ tìm nàng! Chàng ta cần ngôi báu, chàng ta không thể làm khác, nàng thương chàng ta nên đã chấp nhận để chàng ta toại nguyện đúng không? Nhưng nàng lại không thể quên được chàng ta đúng không? Thì ra trong lòng nàng đúng là có chàng ta!”.
Giọng Lưu Giác cao dần, nỗi đau đớn trong lòng nặng dần, trong mắt nổi lên một làn máu màu đỏ, phẫn nộ khôn cùng: “Sao ta lại quên, quên là trong đêm nàng lén trốn khỏi tướng phủ chạy đến thảo nguyên ngắm sao với chàng ta, thản nhiên ngủ trong lòng chàng ta! Sao ta có thể quên cảnh hòa tấu sáo tiêu, hai lòng đồng điệu! Thậm chí sau khi chạy trốn nàng cũng không đến Biên thành, nàng sợ liên lụy đến chàng ta phải không? Nàng sợ làm hỏng đại mưu đại kế của chàng ta đúng không?”.
A La kinh ngạc, lắc đầu thật mạnh: “Không phải như thế!”. Trong mắt trào ra hàng lệ, như đá quý ngâm trong nước, lóng lánh lung lỉnh.
“Vậy là thế nào?”. Lưu Giác thét lên.
Nếu chàng tin thiếp, sao lại trách, hỏi thiếp như vậy? Nếu như không vì giúp chàng hoàn thành trách nhiệm, không vì đại kế của chàng, sao thiếp phải khổ thế này? Sự tủi thân vô hạn, hai hàng nước mắt ứa ra, nhưng nàng không nói được.
“Uổng cho ta ba năm ngày đêm thương nhớ, uổng cho ta lo lắng ưu phiền, nàng báo đáp ta như thế sao? Hóa ra sự dịu dàng của nàng ở Lâm Nam, tỉ mẩn chế ra mảnh ngọc băng tặng ta chỉ là đối phó phải không?”. Lưu Giác càng nói càng giận, mắt trừng trừng nhìn A La nước mắt như mưa, không nói nên lời. Nàng còn khóc vì Tử Ly? Chàng gào to, tay vung lên.
A La chỉ cảm thấy một luồng gió mạnh ghê gớm tạt vào mặt, vội vàng nhắm mắt thầm nghĩ, chàng cứ đánh chết thiếp đi. Ai ngờ bàn tay chệch hướng đấm nát mấy thứ trên giường! Nàng vùng vẫy tức giận, mở mắt: “Cởi trói ra, ta sẽ nói rõ với chàng, cứ trói thế này ta sẽ tàn phế mất!”.
“Tàn phế thì tốt! Ta đã hối hận không chặt chân nàng, để nàng không đi đâu được nữa!”. Luu Giác đã tức tới mức không thể kìm chế, A La chớp mắt, thôi mặc chàng ta, dù gì cũng đã về được phủ An Thanh vương, lão vương gia cáo già khắc có cách giải vây cho mình.
Nàng không biết thái độ đó càng khiến Lưu Giác nổi đóa. Ý nghĩ vừa lóe lên, chàng vung tay cởi trói cho nàng. A La xoa xoa hai cổ tay, có một vết bầm lớn trên đó. Nàng tức giận nghĩ, nếu không phải chàng làm ta cảm động, ta đã không thèm giúp chàng, lại còn phải chịu tội này nữa? Tính chàng như thế chẳng trách ông già giấu chàng. Nàng đang nghĩ, bỗng thấy người nhẹ bỗng, Lưu Giác đã ôm nàng đi vào phía hậu đường: “Chàng làm gì vậy? Bỏ ta ra!”.
Lưu Giác không động lòng, vòng qua bức bình phong, phía sau lớp lớp những bức trướng rủ, bên trong hơi nước mờ mịt, Lưu Giác ném nàng xuống bể, A La hét lên rồi chìm nghỉm trong nước. Khi ngoi đầu lên, đã thấy Lưu Giác mặt lạnh tanh đang cởi y phục, nàng sợ hãi kêu thất thanh: “Chàng chớ làm bừa, Lưu Giác! Đừng làm ta hận chàng!”.
“Hận à? Tùy thôi, ta quá nuông chiều nên mới khiến nàng sớm nắng chiều mưa!”. Lưu Giác thong thả cởi áo choàng, rồi cởi áo trong.
A La bơi thục mạng sang đầu bể bên kia, xiêm áo ướt đẫm quấn chặt lấy người, vô cùng khó chịu. Tháng hai trời còn lạnh, chiếc áo hai lớp ngấm nước vừa ướt vừa nặng trĩu. Nàng đảo mắt nhìn quanh, cả gian phòng thênh thanh chỉ có mỗi cái cửa Lưu Giác vừa ôm nàng đi vào, “Lưu Giác, chàng cứ hỏi...”. Lời chưa nói hết, Lưu Giác đã áp đến, A La quẫy đạp dữ đội, chân đá ra, tay chém. Lưu Giác né người tránh, tay vươn ra vừa tóm lấy vạt áo nàng, ra sức kéo lại. A La tõm một tiếng lặn xuống nước.
Vuốt nước trên mặt, vồng ngực rắn chắc của Lưu Giác đã ở ngay trước mắt. A La ngẩng đầu nhìn, ánh mắt chàng lóe lên cái nhìn nguy hiểm, nước ròng ròng từ mặt chảy xuống, ngũ quan rõ nét như tạc, đẹp ngời ngời. A La thoáng đỏ mặt, bực mình lắc đầu, bụng nghĩ, đây là lúc nào, sao mình còn tâm tư ngắm nhìn chàng ta như một kẻ si tình. Lưu Giác giơ tay kéo nàng lại gần, A La hai tay chắn đỡ ngực chàng, nghiêng đầu, trấn tĩnh nói: “Không phải bây giờ, bây giờ không nên, chàng cứ thế này làm sao ta nói rõ được”.
Lưu Giác “hừ” một tiếng, nắm tay nàng kéo giật về sau, vừa vận công nhấc nàng lên khỏi mặt nước, A La cố vùng vẫy. Chàng bất chợt cúi đầu ép miệng vào môi nàng, nước tràn lên, A La cuống quýt há miệng thở, môi chàng đã vít chặt miệng nàng, đắc ý nhìn nàng tham lam cố hít, nhưng đành bất lực để cho chàng truyền cho chút không khí để thở.
Đầu nàng nặng dần, tứ chi cũng mất dần sức lực, Lưu Giác nhìn khuôn mặt kiều diễm đỏ hồng mê ly kề sát, không thể buông ra. Cảm giác ép vào nhau thực tuyệt vời, khiến chàng không thể buông tay, ham muốn bùng lên mãnh liệt, “soạt” một tiếng, tay chàng đã xé toạc áo ngoài của nàng. Tiếng xé áo đập thẳng vào tai, A La bừng tỉnh, ánh mắt cầu khẩn, đẫm nước nhìn chàng.
Lưu Giác sững người, nhấc nàng lên, chàng buông tay, tỳ người vào bờ thở gấp: “A La, tại sao? Tại sao?”.
A La kiệt sức do bị hôn đến nghẹt thở, dựa vào chàng khẽ nói: “Không phải như vậy”.
Hai mắt Lưu Giác vằn đỏ, đột nhiên đập tay lên mặt nước, nước vọt bắn tung tóe. Chàng thở dài nhảy lên bờ, không kịp khoác áo, lao ra ngoài.
A La cuối cùng đã thở phào, ngã nhào xuống làn nước ấm áp. Cuối cùng Lưu Giác không làm tổn thương nàng. Nàng thở dài, cởi áo ngoài, tắm một trận thoải mái.

Lưu Giác cầm kiếm xông khỏi Tùng phong đường, lao vào rừng vung gươm múa. Ánh kiếm loang loáng, hoa bay tơi tả theo từng nhát kiếm, An Thanh vương hoa mắt đứng nhìn, thở dài từng cơn.
Cảm xúc trong lòng Lưu Giác không thể nào tả xiết, chàng hận bản thân, hận mình cho dù sự thể đã đến nước này chàng vẫn không thể nào ra tay. Chàng muốn tác thành cho nàng hay sao? Nhưng ý nghĩ vừa nảy sinh đã khiến chàng đau như xé tâm can, yêu nàng là phải chịu giày vò như thế này ư? Chàng vận đủ nội lực ném thanh gươm về phía An Thanh vương, hét lên một tiếng bi phẫn, như con sói mùa đông trúng thương, cô đơn không nơi bấu víu.
An Thanh vương giật nảy mình né tránh, lưỡi gươm “phập” một tiếng cắm sâu vào thân cây bên cạnh, rung bần bật. Ông vừa nhảy dựng vừa mắng: “Nghịch tử, định mưu sát cha đẻ hay sao?”.Chân vội di chuyển về phía rừng cây. Mới được hai bước, Thanh Ảnh nhảy ra: “Vương gia, chúa thượng có lệnh...”.
“Lệnh con khỉ, ta giẫm lên ngươi hay là ngươi nằm im giả chết! Tiểu tử kia chẳng phải lo sợ lão phu giết người của nó hay sao!”. An Thanh vương xua tay, trợn mắt.
Thanh Ảnh nén cười, nằm ra đất, giả đò chết thật. An Thanh vương đá anh ta một cái, vòng qua người anh ta đi vào rừng.
Lưu Giác nằm thẳng trên đất, hai hàng nước mắt chảy xuống má.
“Chà chà, con trai ta còn khóc cơ đấy”.
Chàng vùng dậy, ôm chầm lấy ông: “Cha, lòng con đau lắm, đau lắm cha ơi!”.
Bao nhiêu năm nay, ngay từ khi con còn nhỏ ông đã để nó lại trong vương phủ cho Ô y kỵ trông nom, mình ông dấn thân đến tận Biên thành xa xôi, không thăm hỏi, để nó sống tự lập. Mắt ông mờ ướt, lòng xót xa. Con trai đã lớn, cuối cùng đã tìm được người nó yêu thương. Ông rất tự hào về nó, Lưu Giác là đứa trẻ nồng nhiệt, đã yêu là yêu hết lòng, chí tình chí nghĩa, thật quá giống ông!
“Con trai, con là con trai của An Thanh vương ta, là Bình Nam vương lừng danh của Ninh quốc, con có hiểu bổn phận của con không?”.
“Cha, con làm chưa tốt hay sao?”.
“Rất tốt, đến bây giờ, con đã làm rất tốt, khỏi cần giấu con thêm nữa. Đứa con dâu này cha rất hài lòng”. An Thanh vương cười khe khẽ.
Lưu Giác sững người: “Cha nói gì?”.
An Thanh vương nhảy ra hai bước, nói giọng nghiêm túc: “Con đi theo cha!”.
Lưu Giác theo ông đi vào thư phòng. Khuôn mặt ông toát lên một vẻ trang nghiêm, trịnh trọng khác thường, không hiểu sao khiến chàng bất an, lòng lờ mờ đoán ra chuyện gì, nhưng không thể nào nói rõ được.
“Xích Phong, ngươi đứng gác ngoài thư phòng, trong vòng năm chục thước, một con thỏ lọt vào cũng chém cho ta. Kẻ nào liếc mắt tò mò, giết!”. An Thanh vương dõng dạc truyền lệnh.
Lưu Giác kinh ngạc đứng nghe ông truyền lệnh, buột miệng nói: “Cha!”.
An Thanh vương chốt cửa thư phòng, vặn sang phải xoay sang trái, dùng tay đẩy, án thư trên tường dịch sang trái, lộ ra một cái ngăn bí mật. Ông thận trọng lấy ra một đạo thánh chỉ màu vàng cuộn thành hình thoi: “Bình Nam vương Lưu Giác tiếp chỉ”.
Lưu Giác sững người, vội vàng hất áo quỳ xuống. An Thanh vương mở đạo thánh chỉ, nhưng không tuyên đọc, chỉ đưa cho con trai. Lưu Giác đón xem, miệng há, mắt mở càng to. Chàng mỉm cười trả lại cho cha, trong lòng lớp lớp sục sôi như sóng bể. Bão táp chưa đến gió đã quay cuồng, thánh chỉ của Ninh vương không chỉ viết rõ tứ hoàng tử là người kế vị ngai vàng, mà còn liệt ra bao tội ác tày trời của hoàng hậu và thế lực họ Vương, ngay cả nguyên do cái chết của Trần hoàng hậu cũng viết rõ ràng. Đạo chỉ này sẽ bật tung triều đình Ninh quốc, uy hiếp thái tử, nhưng nếu bại lộ ra trước khi Lưu Phi yên ổn lên ngôi, sẽ dẫn đến thảm họa khôn lường.
“Tại sao tiên vương không trực tiếp phế thái tử? Chúng ta vẫn ủng hộ Tử Ly như vậy”. Lưu Giác băn khoăn.
An Thanh vương thở dài: “Ba năm trước, tiên vương đã trao Hữu quân cho Tử Ly, giao Nam quân cho con và Cố Thiên Tường, nhưng Nam quân và Hữu quân cách Phong thành quá xa, hơn nữa không thể đưa toàn bộ binh mã trở về Phong thành tranh giành vương vị. Một khi Đông cung bị bức ép, hơn hai mươi vạn Đông quân trong tay Vương Thái đồn trú gần Phong thành nhất sẽ ra tay trước chiếm Phong thành. Hai bên khai chiến, Ninh quốc đại loạn, bốn nước kia sẽ thừa cơ nhảy vào, cơ nghiệp mấy trăm năm của Ninh quốc... Đây là kết cục chúng ta không muốn nhìn thấy!”.
“Con xin tuân lệnh cha”. Lưu Giác nói.
An Thanh vương hạ giọng: “Ly Thân vương hiện cách Phong thành không quá một trăm dặm, đem theo hai vạn binh mã, nhưng vào thành phục tang nhiều nhất chỉ được mang năm ngàn cận vệ. Nếu hai bên khai hỏa ở Phong thành, một là trăm họ khốn khổ, hai là vương thành đại loạn, đây là điều mấy nước kia trông đợi”.
“Cho nên, cha muốn con tỏ ra có chung mối thù với thái tử, cố gắng giảm thiểu thương vong, để Ly Thân vương thuận lợi đăng cơ?”.
“Phải, lẽ nào thật sự phải dùng mười vạn Nam quân, hai vạn Hữu quân và hai mươi vạn đại quân Đông lộ khai chiến? Theo tin tình báo của An Thanh vương phủ và Ly Thân vương phủ, trong tay họ Vương vẫn giấu một đội tinh binh. Trong khu rừng Hắc sơn phía đông mấy năm nay có những dấu hiệu kỳ lạ, chúng ta nghi ngờ đội quân này ẩn náu trong đó, quân binh bao nhiêu, sức chiến đấu thế nào vẫn chưa làm rõ. Hơn nữa, địa thế vương cung dễ thủ khó công, nếu họ Vương chiếm cung đình, chúng ta buộc phải tấn công mạnh, thương vong khó lường, chưa biết chừng Ninh quốc vì thế sẽ suy yếu, đây là điều vương thượng và cả Lưu tộc không muốn nhìn thấy”.
“Vậy ý cha là...”.
“Ta đã liên hệ với Ly Thân vương, phải nắm chắc và khống chế cục thế trước lễ đăng cơ ngày mười tám tháng ba, tuyên đọc thánh chỉ của vương thượng, loại bỏ thế lực họ Vương, triệt tiêu hậu họa! Hiện chỉ còn hai mươi ngày nữa là đến ngày mười tám tháng ba, chúng ta không chỉ phải hoàn toàn khống chế cục diện Phong thành, đồng thời còn phải thâm nhập vào vương cung, nắm được động tĩnh của họ Vương, nhất cử thành công. Trước ngày đó, không thể để bọn họ mảy may phát hiện, nếu không chỉ còn cách tấn công trực diện!”.
An Thanh vương nói rõ tình hình trước mắt, ánh mắt tinh anh nhìn con trai. Bây giờ Lưu Giác là nguyên soái thống lãnh thiên binh vạn vã, không còn vẻ vương tôn an nhàn hưởng lạc nữa.
“Con hiểu ý cha, trước khi chuyện kia xảy ra con phải tìm cớ giao chiến với Ly Thân vương một trận, loại bỏ nghi ngờ của Đông cung đối với vương phủ chúng ta”.
“Không chỉ có thế. Cuộc chiến giữa con và Ly Thân vương là riêng tư, hoàn toàn chỉ có hai người, nhưng như thế cũng có nghĩa sẽ đặt con và Tử Ly vào vòng nguy hiểm. Đông cung hoàn toàn có thể thừa cơ ra tay trước, bắt cả hai người. Mặc dù có Nam quân khống chế, hai mươi vạn Đông quân không thể tất cả vào Phong thành, nhưng đội quân bí mật trong tay Vương thái úy mà chúng ta chưa nắm rõ lại hoàn toàn có khả năng xuất hiện. Cho nên, trận đấu này giữa hai người có tác dụng lớn nhất là quăng mồi, nhử đội quân bí mật của họ Vương lộ diện!”.
Lưu Giác trầm ngâm một lát: “Tại sao không thể bất ngờ tập kích Vương cung và phủ thái úy, giam lỏng Vương hoàng hậu, thái tử và Vương thái úy?”.
“Thế lực họ Vương đã củng cố nhiều năm, không tuyên đọc tội trạng của họ trước bàn dân, thiên hạ sẽ không tin, quần thần khó phục. Đừng quên, thái tử vẫn danh chính ngôn thuận là người kế vị ngôi báu! Tử Ly đăng cơ, phải có nguyên cớ xác đáng, chỉ có để thái tử ra tay trước. Vả lại nếu động binh nhưng lại không tiêu diệt hết thế lực họ Vương, không biết chúng ta phải mất bao nhiêu năm mới dẹp hết phản nghịch. Trần quốc đang nôn nóng, sở dĩ lần trước dám tấn công Lâm Nam, chính là đã nhìn thấy Ninh quốc mấy chục năm không có chiến tranh, quân đội mặc dù hùng hậu nhưng không có kinh nghiệm thực chiến. Từ đó có thể thấy mấy nước đang hau háu nhòm ngó nước ta, chỉ chờ chúng ta xảy ra nội chiến để ra tay”.
“Nhưng nếu đội quân này không xuất hiện?”. Lưu Giác nghi ngờ.
“Thái tử muốn diệt Ly Thân vương, tất phải chờ sau khi Ly Thân vương trở về Phong thành phục tang mới có thể ra tay, tang lễ hoàn tất chỉ cách lễ đăng cơ không quá năm, sáu ngày. Ba ngày trước lễ đăng cơ, con phải hẹn Tử Ly giao chiến, đối với vương gia, đây là thời cơ tốt nhất, thái tử hoàn toàn có thể mượn đội kỳ binh này tiêu diệt con và Ly Thân vương mà thần không biết quỷ không hay, hơn nữa lại có thể phủi sạch trách nhiệm. Cho nên, đội quân này nhất định sẽ lộ diện”.
“Cho nên, ba ngày trước đại lễ, con hẹn tư đấu với Ly Thân vương, chính là cố ý cho Đông cung một cơ hội, để đội quân bí mật kia hoàn toàn lộ mặt, sau đó triệt để tiêu diệt?”.
“Đội quân này nếu không loại trừ, một khi thái tử tẩu thoát, sẽ trở thành nòng cốt để thái tử tái dựng cơ nghiệp, cũng chính là mầm họa lớn nhất gây rối loạn Ninh quốc!”.
Lưu Giác khâm phục nhìn cha, ông đã suy tính mọi bề chu đáo, tiên lượng trước mọi hậu họa về sau. Nhưng “Phụ thân, Đông cung hoàn toàn có thể ra tay trước khống chế chúng con, cho dù chúng con tìm mọi cách để họ tin. Bán tin bán nghi, chi bằng dứt khoát tiêu diệt chẳng phải càng yên tâm sao?”.
An Thanh vương cười ha hả: “Con trai à, nên biết hiện ba cổng thành đều do chúng ta trấn giữ, Đông cung không dám ra tay trước, binh lực Nam quân nằm trong tay con và Cố Thiên Tường, binh lực Tây quân nằm trong tay Ly Thân vương, họ cũng không muốn va chạm trực diện, sợ cá chết lưới rách. Ngộ nhỡ Tử Ly cầu viện binh hai nước Khởi, Trần đánh trực tiếp, thái tử cho dù lên ngôi cũng khó ứng phó. Nếu chúng ta làm cho Đông cung tin, họ Vương sẽ tưởng rằng Cố Thiên Tường chỉ nắm thủy quân của Nam quân, mười vạn binh mã trong tay con, thái tử có thể dùng, như vậy, Nam quân vào cuộc sẽ là một đòn chí mạng. Huống hổ...”. An Thanh vương cười, “Cho dù họ không tin hoàn toàn, cũng không thể không dựa vào chúng ra, mười vạn binh mã này quá mê hoặc thái tử, nếu thật sự có thể đứng về phía Đông cung, Ly Thân vương cầm chắc đại bại!”.
Mọi sắp đặt đều là để Lưu Phi đăng cơ, vì tương lai ổn định của Ninh quốc. A La nói thích Lưu Phi, e cũng là mưu kế để Lưu Giác chiếm được niềm tin của Đông cung, Lưu Giác bỗng thấy lòng nhẹ nhõm, mọi đau buồn phẫn uất mấy ngày qua bỗng chốc tiêu tan, chàng liếc nhìn cha, nghĩ tới A La, được lắm, cả hai liên thủ giỡn chàng! Tấm lưng thẳng cứng của chàng mềm lại, trở lại vẻ bông lơn không thể kìm chế, mặt tươi như hoa, hai đồng tử bắt đầu bốc hỏa: “Con hiểu rồi, cha! Cha được lắm, cha làm thế nào thuyết phục A La tuyên bố thoái hôn, tạo ra mối thù giữa con và Ly Thân vương?”.
An Thanh vương đảo mắt, tính đường rút lui, ánh mắt tinh tường nhấp nháy, nói: “Cha chỉ nhắc một chút, nó đã hiểu, nó đối với con, ha ha đúng là rất tốt!”.
“Đúng thế, không tồi, kế hay lắm! Sao con có thể chịu để hôn thê của con làm mất mặt vương phủ chúng ta, hai người quả thực quá hiểu con!”.
“Ha ha, con trai à, qua chuyện này cũng có thể thử xem lòng A La đối với con thế nào? Cha chẳng qua cũng chỉ muốn tốt cho con!”. An Thanh vương cười, trong lòng cũng có chút băn khoăn.
Lưu Giác bỗng hét lên: “Vì con, cha để nàng làm bia hứng mũi giáo đường tên? Cha có biết như vậy, nếu hai bên giao chiến, nàng sẽ trở thành con tin để uy hiếp Ly Thân vương, thực chất uy hiếp ai? Uy hiếp Lưu Phi hay chính con trai cha?!”.
“Cái này, cũng đành hy sinh một chút, không phải sao? Huống hồ, nếu không phải vạn bất đắc dĩ, không nguy cấp đến tính mạng A La. Cha nó chẳng phải vẫn đang là tả tướng đương triều hay sao!”. An Thanh vương không dám nhìn con trai.
“Lại còn giấu con? Hả? Ai đã xúi nàng ấy to gan dám làm chuyện đó? Chẳng phải chính là cha hay sao! Nói cho cha biết, không thể lôi nàng ấy vào cuộc! Đây là cuộc đấu giữa đàn ông với nhau, chuyện này đủ rồi, không cần A La làm thêm gì nữa”.
An Thanh vương mặt hơi biến sắc: “Nếu Đông cung đòi người?”.
“A La là vương phi của con, con hoàn toàn có thể từ chối, cứ coi A La không bằng lòng, con cũng sẽ lấy nàng ấy, không ai được phép đưa nàng ấy đi!”.
“Con phải hiểu, nếu A La không đứng trước mặt họ, tuyên bố trở mặt với con, Đông cung có thể dễ dàng tin sao?”.
Lưu Giác ngớ người, đúng thế, nghe đồn A La tuyên bố suốt đời gắn bó với Tử Ly, hai người đã có thệ ước thủy chung, bản thân mình đã nổi giận đùng đùng trước mặt những người ở Đông cung. Nhưng nếu tưởng chỉ cần như vậy họ đã tin, tức là quá coi thường người của Đông cung. Muốn để họ tin, không chỉ cần Tử Ly phối hợp, còn cần diễn tốt vở kịch trước mặt họ. Nhưng, diễn thế nào? Phản ứng của một người đàn ông bình thường sẽ là hận đến mức giết chết người mình yêu? Giết là không thể? Nhưng lúc phẫn nộ không thể không ra tay, làm sao chàng có thể ra tay? Biết rõ A La vì mình đã dấn thân vào nguy hiểm, lại còn muốn mình ra tay với nàng?
“Con phải làm thế nào? Tỏ ra tức giận trước mặt họ? Chẳng phải cũng còn nể mặt tả tướng hay sao?”.
“Hừ, e là lúc đó người ra tay trước chính là tả tướng! Lúc đó ông ta còn không dám ra tay dạy con, sau này còn nói được ai?”.
Lưu Giác lại nổi đóa: “Ai bảo cha nghĩ ra trò này? Nếu A La có mệnh hệ gì, con sẽ cho vương phủ tuyệt tử tuyệt tôn!”.
An Thanh vương tức giận rung râu: “Nghịch tử! Những lời như vậy cũng dám nói với cha ngươi sao? Con ngốc thế? Sao không biết thể hiện một chút truyền thống của vương phủ? Con che giấu điểm yếu một chút không được sao? Mặc kệ A La thích ai, đằng nào con cũng đã đính ước, ai dám nôn nóng với ai. Mặc nó khóc lóc cự tuyệt, con mặc kệ, cướp người về phủ hẵng hay! Sao ta lại sinh ra đứa con ngốc thế chứ?!”.
Lưu Giác lại ngây ra, mãi mới bình tĩnh trở lại: “Hình như con đã làm A La tức giận, hôm nay còn đánh nàng một chưởng!”.
“Vậy còn đứng ngây ra đó làm gì? Nếu bây giờ A La không thèm để ý đến con, con cướp về cũng chẳng ích gì!”. An Thanh vương đá vào mông Lưu Giác.
Lưu Giác xoa mông, nói dỗi: “Ai bảo hai người giấu con, không hề thương con tí nào! Để mọi chuyện xong xuôi, con sẽ tính sổ với hai người!”.
“Bây giờ ta hối hận vì đã nói với con, với tính cách của con, liệu có làm hỏng chuyện không? Con cần diễn tốt tấn trò này, nếu để cho Đông cung sinh nghi, hỏng việc lớn của ta, lão phu sẽ tự tay quất nát mông con!”.
Lưu Giác lại thở dài, không biết là vui hay buồn. Vui vì A La đã vì chàng mà dám mạo hiểm tính mạng, tuy không nói ra, nhưng rất nặng tình với chàng. Buồn vì không muốn A La chịu khổ, sợ nàng nguy hiểm. Chàng bỗng hối hận, nếu không biết thì tốt, biết rồi thật khó diễn. Chợt nghĩ đến sự lỗ mãng vừa rồi đối với nàng ở Tùng phong đường, đột nhiên không dám quay về đối mặt với nàng.
Gió lạnh thổi từng cơn, Tùng phong đường ẩn hiện trong rừng, ánh đèn thấp thoáng, Lưu Giác lặng lẽ đứng trong rừng, nhìn ánh đèn chập chờn. Ở đó có một người, người chàng yêu, thương nhớ bao nhiêu? Chàng không đong đếm được, nhớ nhung cơ hồ tự nhiên như hít thở, tình yêu của chàng như thấm vào không khí đi vào phổi trở thành một phần dưỡng khí nuôi sống sinh mệnh chàng, mất đi tựa hồ bóp cổ họng chàng, chàng sẽ ngạt thở mà chết. Chàng ngửa đầu nhắm mắt, cảm nhận hơi gió đêm như bàn tay ấm ve vuốt mặt chàng, khiến cho nỗi xúc động căng tràn dào dạt dịu đi. A La tại sao nàng không nói với ta? Tại sao không dùng đôi mắt lóng lánh như thủy tinh của nàng mách bảo ta? Sao lại khiến ta đau khổ, khiến ta băn khoăn, khiến ta bất an như vậy. Nàng tự nhiên như nhiên bước vào cuộc tranh giành quyền lực giữa những người đàn ông, chỉ là vì ta. Nàng khiến ta lấy tình nào bù đắp cho đặng? Lưu Giác thẫn thờ không dám quay về.
Xưa nay chàng luôn cho rằng, chỉ có tình yêu của chàng là sâu đậm, tưởng là chỉ có bản thân chàng đang cho đi, còn A La chỉ thụ động nhận về, bây giờ mới biết nàng đã vì chàng tự nguyện dấn thân vào vòng xoáy hiểm nguy, tận đáy lòng bỗng xúc động run run. Lưu Giác trấn tĩnh, vẻ kiên nghị nặng dần trong ánh mắt, cuối cùng chàng trở bước.
Chàng nhẹ nhàng đẩy cửa tẩm thất, A La mặc áo choàng của chàng, nằm cuộn tròn ngủ trên giường. Lưu Giác đứng cách vài bước, mắt nhìn nàng không chớp. A La gầy đi chút ít, cằm nhòn nhọn, những ngày trốn ở Tố tâm trai chắc hẳn ăn uống kém. Hàng mi dài rủ bóng, giống như con bướm dừng cánh nghỉ, đẹp đến nỗi khiến chàng không dám thở, sợ kinh động làm con bướm bay đi, giấc mộng sẽ tan biến. Ánh mắt chàng dừng trên tay nàng để trên chiếu, vết tím nơi cổ tay nổi bật giữa làn da ngọc. Nỗi xót xa tràn ứ khiến chàng tự đánh vào mình, sao ra tay mạnh thế?

A La nghe thấy tiếng động, hé mắt mơ màng, nhìn thấy Lưu Giác đứng cạnh giường, sắc mặt rất xấu. Nàng bỗng giật mình, tự nhiên co người lùi vào trong.
Nhìn thấy động tác của nàng, tim chàng run lên, mình làm nàng sợ ư? Mình khiến nàng sợ hãi hay sao? Chàng không kìm được nữa, bước tới.
“Chàng định làm gì?”. A La hoảng hốt nhảy lên, vô ý thức kéo chặt áo ngoài rộng thùng trên người.
Lưu Giác không trả lời, kéo tay nàng, xoa nhẹ chỗ vết trói: “Ta ra tay mạnh quá, đau không?”.
A La nghiêng mặt: “Không đau!”.
Xoay mặt nàng lại, Lưu Giác nói: “Ta quá giận mới ra tay mạnh thế, nàng... ai bảo nàng liên thủ với cha lừa ta?”.
A La nghi ngờ nhìn chàng: “Chàng đang xin lỗi hay đang trách?”. 
“Cả hai?”.
“Ồ, vậy thì thôi, khỏi cần xin lỗi, thiếp tự làm tự chịu. Trách ư, cũng không cần, vốn giấu chàng là sợ chàng diễn không tốt”. A La từ từ giải thích.
“Ta... hôm nay... hôm nay, chuyện đó, nàng còn trách ta không?”. Nghĩ đến chuyện ban sáng, mặt chàng lập tức bay qua một vệt đỏ hoài nghi.
“Trách chàng gì cơ? Là chàng trách thiếp mới phải, thiếp đã phụ chàng, người trong lòng thiếp là Tử Ly!”. A La nói cứng, nàng vẫn chưa hết giận.
“Nói nhảm, rõ ràng nàng tốt với ta”. Nụ cười ngọt ngào vụt hiện trên miệng chàng.
“Chàng tưởng chàng là ai? Nói thật, người thiếp thích là Tử Ly. Dẫu thiếp không thích Tử Ly thiếp cũng sẽ không lấy chàng!”. A La rút tay về, nằm xoay lưng lại.
“Không được nói thích Tử Ly, ta nghe rất khó chịu!”.
“Chàng khó chịu là không cho thiếp nói sao? Những điều thiếp khó chịu nhiều lắm! Dựa vào đâu hai người tranh giành đế vị lại cuốn thiếp vào? Thiếp chỉ muốn vui vẻ sống bên mẹ, là ai đã một mực bắt thiếp về Phong thành?”.
“Nàng là vương phi của ta, những gì cần đối diện, không nên né tránh, đi đâu tránh được phân tranh? Ví như những kẻ áo đen ở thành Lâm Nam, nàng có làm gì bọn chúng không, vậy sao vẫn bị dao kề cổ, họa đến nhà!”.
“Thiếp không lấy chàng không được sao? Nếu lại gặp bọn áo đen áo trắng nào nữa thì đó là số thiếp không tốt, thiếp xui xẻo!”. A La bắt đầu giở trò, bất chấp lễ nghĩa! Việc gì phải lễ nghĩa? Chàng tưởng thiếp thích đến đây sao, thiếp đang muốn mơ một giấc là trở về thế giới của thiếp.
“Nàng nói không lấy là không lấy ư?”. Chàng lại bị nàng chọc tức, nhưng lời vừa ra đã thấy hối hận, tại sao mới nói vài câu, đã lại nặng lời.
“Thiếp không lấy, thì sao nào?”. A La ấm ức, bụng nghĩ, nhận lỗi chưa xong còn uy hiếp người ta.
Lưu Giác lại tức phát điên, đột nhiên bật cười: “Nếu đúng là lòng nàng không có ta, sao lại cùng ông già vạch mưu? Hả?”.
A La đỏ mặt: “Thiếp ra điều kiện. Từ bây giờ, muốn thiếp giúp hai người thực thi mưu kế, lão vương gia phải đồng ý với thiếp, khi mọi chuyện kết thúc, sẽ hủy hôn, thả cho thiếp đi!”.
“Đừng mơ!”. Lưu Giác cười khẩy, “Không lớn hơn chuyện ta động binh tấn công, ta không tin trận đánh này đánh không nổi! Nói thật, nếu sớm biết đó là mưu kế của ông già, ta tuyệt nhiên không chấp nhận!”.
A La ngây người, tức giận vô cùng: “Bất luận chàng nói thế nào, từ bây giờ hủy hôn, thiếp và chàng không liên can!”.
Lưu Giác tự nhủ phải nhẫn nhịn nhường nàng, gặp chuyện như thế, A La bực tức muốn trút giận thế nào tùy ý. Chàng đổi giọng nhẹ nhàng: “Vậy phải thế nào nàng mới chịu nguôi giận? Hả? A La? Là ta đã sai, ta không nên bị cuốn vào mưu kế của nàng và cha mà không biết, lại còn nghi ngờ nàng, ra tay không nhẹ. Là ta đã sai, nàng đừng giận nữa được không?”. Quả thực, cả đời chàng, Lưu Giác chưa bao giờ hạ mình như vậy. Chàng đã dùng ánh mắt da diết nhất, chân thành nhất để nhìn nàng. Còn nhớ trước đây, đào nương Hồng Ngọc nổi danh nhất Vân hoa lâu đã hát cho chàng nghe một khúc tuyệt vời, chàng động lòng, cũng nhìn người ta với ánh mắt như thế, Hồng Ngọc lúc đó đã thở dài nói, giai nhân trong thiên hạ không một ai không nghiêng ngả bởi ánh mắt thâm tình như thế của tiểu vương gia.
A La nhìn Lưu Giác đang định nói gì, lại khẽ ngáp. Nàng dùng tay che miệng, mắt chớp chớp: “Thôi, xin lỗi là không sao, không tính toán với chàng nữa, thiếp buồn ngủ rồi”. A La thật sự không muốn nói nhiều. Nếu Lưu Giác nhận ra, màn kịch này chàng sẽ diễn không thật, để chọc tức chàng nàng buộc phải nói như thế. Nhìn Lưu Giác đang cố nén tức giận, nàng dịu giọng: “Thôi cho qua!”. A La nói xong, lại ngáp.
Lưu Giác tức điên xông lại: “Ta thật lòng xin lỗi nàng, vậy mà nàng nghe lại buồn ngủ?”.
A La lườm: “Vậy chàng muốn thiếp làm gì? Cảm động khóc lóc hay sao? Thiếp biết tâm tư của chàng, tha lỗi cho chàng rồi”.
Nói xong nàng làm ra vẻ buồn ngủ. Lưu Giác dở khóc dở cười, những lời nói chuẩn bị sẵn hoàn toàn trái ngược với những gì diễn ra, nhưng chàng vẫn không cam lòng rời đi, mặt sa sầm nói: “Được, chuyện cũ không nhắc lại nữa, không biết ai cho nàng cái gan làm chuyện này. Nàng không biết nguy hiểm hay sao? Tự đẩy mình vào mũi tên ngọn giáo!”.
Nhìn thấy vẻ mặt sa sầm của Lưu Giác, nỗi bực trong lòng A La lại bùng phát: “Chàng vẫn còn nói thế? Nếu người ta không vì...”.
“Cái gì? Vì cái gì?”. Lưu Giác hỏi dồn. Hôm nay không nhân cơ hội này ép nàng nói ra, với tính cách A La, e là có thể chết vì chàng nàng cũng không chịu nói là nàng thích chàng.
“Vì Tử Ly đại ca đăng cơ làm hoàng đế!”.A La nghiêng mặt sang một bên nói, tránh ánh mắt Lưu Giác.
“Thật không? Vậy nàng nói ra thế này chẳng phải hại huynh ấy hay sao? Nàng đang giúp huynh ấy hay hại huynh ấy”. Lưu Giác hỏi vẻ thản nhiên.
“Khỏi cần chàng quan tâm! Đây là chuyện giữa thiếp và Tử Ly đại ca, khỏi phiền Bình Nam vương bận lòng!”.
Lưu Giác kéo mặt nàng quay lại, A La đẩy tay chàng: “Đừng động chân động tay làm hại thanh danh của thiếp!”. Nàng cúi rèm mi, trong lòng không hiểu tại sao thấy ngượng vô cùng.
Lưu Giác đột nhiên buồn cười, A La không biết vẻ ương ngạnh của nàng lúc này rất trẻ con, đâu có giống người đang nổi giận. Rõ ràng vịt chết còn cứng mỏ! Bây giờ chàng có rất nhiều thời gian và lòng kiên nhẫn, bụng nghĩ, lần này quyết không để nàng bỏ trốn. Chàng một tay ôm A La lên: “Ta thích nàng động thủ. Nếu làm hại thanh danh của nàng, nàng sẽ lấy ta, chủ ý này rất hay!”. Chàng cười ha hả, ôm A La đi về phía bể tắm.
A La kinh ngạc: “Xấu xa! Chàng lại định...”.
“Nói đúng rồi, hôn thê của ta thay lòng đổi dạ, bản vương mừng lắm, muốn ra tay trước để tỏ rõ uy phong. Một khi nàng trở thành người của ta, để xem Tử Ly đại ca của nàng có cần nàng nữa không? Hình pháp Ninh quốc sẽ tuyên phạt thế nào? Kẻ tư thông với người khác thích chữ vào mặt, đánh đòn, chà chà!”.
A La giơ tay chém lên cổ chàng, chưa kịp chạm vào, cả người nàng đã bay về trước, nàng hoảng hốt kêu lên nhưng đã rơi tõm xuống nước: “Lưu Giác, nói cho chàng biết chàng chớ làm bừa. Thiếp, thiếp với chàng vẫn chưa hết!”.
Lưu Giác khoanh tay đứng trên bờ, khoái trá nhìn A La cả người ướt sũng: “Áo của ta, nàng mặc quá rộng, để lộ như vậy lại càng mê ly”.
A La cúi đầu nhìn, quả nhiên chiếc cổ rộng hoác lộ ra một mảng ngực lớn, nàng vòng hai tay che lại, chui người xuống nước, thò mặt lên mắng: “Dâm tặc!”.
Lưu Giác cười ha hả: “Hình như đây là lần thứ ba nàng mắng ta là dâm tặc, cũng phải, để cho nàng chứng kiến một chút dâm tặc là thế nào!”. Nói xong chàng làm động tác cởi y phục.
A La cuống quýt: “Đừng, chàng đừng thế!”.
“Đừng cũng được, nhưng nói đi, tại sao nàng muốn giẫm lên vũng lầy này? Nói xong ta sẽ không động đến nàng!”
A La lườm chàng một cái, ngâm mình trong bể, bối rối vô cùng. Thấy Lưu Giác đứng trên cao nhìn xuống, ung dung đùa giỡn mình để giải khuây. Nàng tức giận hai tay đập nước, miệng nhệch ra, òa khóc: “Chàng bắt nạt thiếp, thiếp muốn về nhà! Thiếp muốn cha, muốn mẹ! Thiếp không muốn sống với chàng và những người ở đây”. Nàng vừa khóc vừa đập nước tung tóe, mặc cho cổ áo rộng để lộ xuân quang. A La khóc vì không hiểu tại sao bị đẩy đến đây, lại bị giày vò bởi người đàn ông này. Nàng càng khóc càng tủi thân.
Kinh ngạc đau đớn cùng với tiếng khóc xoáy vào lòng, Lưu Giác không kịp nghĩ lao xuống nước, ôm chặt A La. “Đừng khóc, A La đừng khóc!”. Lòng chàng xót xa, đau nhói từng cơn: “Ta không ép nàng, không ép nàng nữa, nàng muốn về nhà, ta sẽ đưa nàng về tướng phủ!”.
“Thiếp không muốn về tướng phủ, thiếp không muốn nhìn người cha bán con cầu vinh ấy. Cha thiếp tốt hơn ông ta nhiều, cha thiếp là quan thanh liêm, thiếp ghét ông ta! Rất ghét!”. A La nước mắt nước mũi chan hòa, nói như mê sảng, khiến Lưu Giác không hiểu thế nào: “Được rồi, được rồi, không về thì không về! Đừng khóc nữa!”.
A La đã khóc to hết cỡ, mặc cho Lưu Giác dỗ dành, nàng càng khóc to hơn. Lưu Giác không biết làm thế nào, đành nâng mặt nàng lên hôn. A La khóc tắc cả mũi, miệng lại bị bịt chặt, không thở được, khó chịu cố vùng vẫy thoát ra. Lưu Giác luống cuống, sợ nàng thoát khỏi tay mình, hai tay càng xiết mạnh, ôm riết nàng vào người. A La bị ép chặt, mặt đỏ lựng, không thoát ra được, trợn mắt nhìn chàng, không duy trì được bao lâu, không thở được một hơi, người nàng đã nhũn ra, ngất đi.
Lưu Giác thấy người nàng mềm ra, vội vàng dùng tay dìu nàng, thấy nàng đã ngất. Sao A La lại bị ngất như thế? Chàng lo lắng đứng trong nước một lát, thở dài, ôm nàng lên bờ đi vào phòng ngủ. Chàng cởi chiếc áo rộng thùng ướt đẫm, da thịt A La non nớt như đứa trẻ sơ sinh hiện ra trước mắt chàng. Lưu Giác mỉm cười, trong lòng không một gợn dục vọng, lấy khăn khô lau người cho nàng, dùng tấm mền bọc lại cẩn thận, xong xuôi mới đi thay y phục.
A La tỉnh lại, cảnh tượng đầu tiên nhìn thấy là Lưu Giác khoác chiếc áo ngoài rộng, lộ nửa vồng ngực, tủm tỉm nhìn nàng. A La cựa quậy, lập tức hét lên: “Chàng muốn gì?”. Nàng co người lủi trong chăn, chỉ thò đầu ra.
Lưu Giác phục bên cạnh nàng, cách tấm chăn ép chặt người vào nàng: “Yên tâm, ta không làm gì nàng đâu”.
Ánh mắt sâu thẳm của chàng bám riết ánh mắt nàng: “A La, ta biết... ta chỉ rất muốn nghe nàng nói một câu, nàng thích ta đúng không?”.
A La cảm thấy mắt chàng như có nam châm, hút hết mọi ánh sáng vào đó, tàng ẩn tình yêu máu thịt, dập dồn giông bão như biển cả. Một màn ánh nước hiện lên bên trong mắt nàng.
“Chúng ta phải ở bên nhau, bất luận thế nào cũng ở bên nhau”. Lưu Giác khẽ nói. Chàng cúi đầu hôn nhẹ vào má nàng, ôm nàng vào lòng. A La nhắm mắt, thoáng mỉm cười, từ từ ngủ thiếp đi.
Đêm khuya dần. Ánh hồng bừng lên, một ngày sắp tới. A La mở mắt, mặt trời đã chan hòa trong phòng. Nàng cựa mình, Lưu Giác cũng tỉnh giấc, lúc này chàng mới nhận ra mình đã ôm A La trong lòng ngủ suốt đêm. Ánh mắt hai người gặp nhau, lại né tránh, A La nói khẽ: “Lấy quần áo cho thiếp!”.
Lưu Giác ngây người nhìn khuôn mặt đỏ hồng ngượng nghịu của nàng: “Nàng đẹp lắm!”. Chàng in nhanh nụ hôn lên mặt nàng, nhảy khỏi giường, ngoái đầu nhìn nàng: “Ta thấy nàng cứ như thế này là tốt nhất”.
A La đỏ mặt, không chấp.
Lát sau, Tư Họa bê một chồng quần áo mỉm cười bước vào: “Chúa thượng sai Tư Họa đến hầu tiểu thư!”.

CHƯƠNG 25



Ngày mồng bốn tháng ba Ly Thân vương Lưu Phi dẫn năm ngàn thiết vệ từ Biên thành trở về Phong thành, chỉ mang hai thị vệ vào cung phục tang Ninh vương.
Mọi thứ vẫn như cũ, chỉ thêm trùng trùng điệp điệp những bức phướn trắng như tuyết phất phơ trong gió lạnh. Tử Ly nước mắt chứa chan, chàng đã trở về, giờ đây chàng không còn là vị vương tử chỉ nơm nớp đề phòng Vương hoàng hậu và luôn nhẫn nhịn trước thái tử của ba năm trước. Chàng sải những bước dài hùng dũng, mắt sáng quắc như ánh gươm, đi thẳng vào Ngọc Long cung.
Nhìn thấy cửa cung, lòng chàng thổn thức, chân bỗng khuỵu xuống, miệng kêu lên một tiếng bi thương, chấn động uy nghiêm, vang vọng khắp vương cung.
Quần thần và cung nhân phục ở trong ngoài cửa cung môn bỗng bật khóc hu hu, tiếng khóc trập trùng. Cố tướng, Lý tướng cùng các đại thần nức nở khuyên chàng: “Tứ điện hạ xin bớt đau buồn!”.
Vương hoàng hậu và thái tử nghe thấy tiếng khóc của Tử Ly không hiểu nguyên cớ gì một trận hàn khí đột ngột dâng trong lòng, sự bi thương trong tiếng khóc đó thấm vào phủ tạng khiến họ hốt hoảng, đầu óc bấn loạn.
Thái tử Lưu Giám bước ra ngoài cung, nhìn thấy tứ hoàng đệ xa cách ba năm, mình vận tang phục trắng toát, gục khóc trước thềm cung. Hắn, cuối cùng đã trở về, có tin báo, hai vạn binh mã của hắn đang đồn trú ở khe núi Hoàng Thủy ngoài cổng tây kinh thành, tám vạn Hữu quân có dấu hiệu điều động. Hắn sắp khởi binh giao tranh với chàng. Thu lại ánh mắt căm ghét, Lưu Giám bước từng bước vững chãi xuống thềm, nghẹn ngào: “Tứ hoàng đệ, đệ về muộn rồi”.
Tử Ly trấn tĩnh, chắp tay thi lễ với thái tử: “Hoàng huynh...”, nói đoạn từ từ đứng lên, “Đệ đi gặp phụ hoàng”, rồi thong thả bước vào Ngọc Long cung.
Ba năm trong quân ngũ đã rèn rũa nên một tứ hoàng đệ với khí chất khác hẳn, vẻ nho nhã thư sinh vốn có dường như bị xóa sạch trơn, thay vào đó sát khí lạnh lùng của kẻ chinh chiến chốn sa trường. Nếu Lưu Phi ngày trước là con dao bạc sang trọng chỉ có thể dùng để bổ dưa, cắt thịt nướng trên yến tiệc, thì Tử Ly bây giờ là một thanh gươm từng nhuốm máu, rút khỏi vỏ là máu chảy đầu rơi! Thái tử nhìn phong độ đại tướng toát ra từ tấm lưng thẳng vút và bước chân đĩnh đạc của Tử Ly, bàn tay bất giác nắm thành nắm đấm.
Tử Ly nhìn Ninh vương yên vị trong quan tài thần sắc như còn sống, nghĩ đến từ nay về sau, tia sáng ấm áp cuối cùng trong vương cung đã tắt, hai hàng lệ tuôn như mưa. Chàng lắp bắp: “Phụ hoàng” rồi từ từ phục xuống, hai mắt nhắm nghiền, lưu giữ trong đáy mắt mình khuôn dung hiền hậu đó, tựa hồ cái nhìn ngưng tụ này đã khắc tình yêu thương của phụ thân thành bức tranh vĩnh hằng trong lòng chàng. Mở mắt ra, hai mắt chàng đỏ máu, không thấy nước mắt. Một rừng những bức phướn trắng chạm vào lòng giống như băng tuyết ngàn năm không tan trên đỉnh Ngọc Tượng, đóng băng tim chàng, từ đó mỗi nhịp đập của trái tim đều vùng vẫy trong băng phong, chầm chậm không nhìn thấy vết băng vỡ.
“Hoàng huynh, có thể đóng quan tài lại rồi!”. Tử Ly nói giọng bình thản, mắt không chịu nhìn về phía đó nữa.
“Ừ”. Thái tử nói, lập tức nhận ra có gì không ổn, khẩu khí của tứ hoàng đệ cơ hồ như ra lệnh cho chàng. Lưu Giám tiếp cao ngạo truyền lệnh: “Đóng quan tài, đại tế bảy ngày!”.
Theo phong tục Ninh quốc, Ninh vương băng hà, chỉ cần đợi vị hoàng tử cuối cùng nhìn long nhan là có thể đóng quan tài, các hoàng tử cúng tế bảy ngày, không thấm dầu thơm. Bảy ngày sau, di thể của Ninh vương được đưa vào an nghỉ trong vương lăng trên đỉnh Ngọc Tượng. Ngày thứ mười tám đầu tiên sau khi đại tế hoàn tất có thể tiến hành đại lễ đăng cơ của tân vương.
Một toán cung nhân từ từ đóng nắp quan tài bằng ngọc, “phập” một tiếng, đoạn tuyệt mọi vấn vương của Ninh vương với nhân thế. Tiếng khóc than tràn ngập Ngọc Long cung, Tử Ly nghĩ, tiếng khóc này vừa tống biệt phụ hoàng vừa khóc cho những người sẽ chết trong cuộc tranh giành vương vị sắp tới.
Lễ phong quan hoàn tất, Vương hoàng hậu lau nước mắt: “Hoàng nhi, ba năm không về, hoàng huynh con mong nhớ khôn nguôi. Đường trường vất vả, hoàng nhi nên sớm về vương cung nghỉ ngơi, ngày mai vào cung huynh đệ hội ngộ”.
Tử Ly bái biệt hoàng hậu nhưng chưa quay ra ngay, ánh mắt lạnh lùng dừng trên người Lưu Giác: “Bình Nam vương, nhiều năm không gặp, ngày càng oai phong!”.
Lưu Giác sắc mặt trầm ngâm đứng sau An Thanh vương, nghe vậy, miệng nhếch lên, lộ ra nụ cười nhạt: “Nhờ phúc của Ly Thân vương, tiểu vương đã tìm được tam tiểu thư, vài ngày nữa sẽ thành hôn”.
Tử Ly mặt trầm như nước, cười khẩy: “Bình Nam vương chắc vẫn nhớ định ước trên thảo nguyên ba năm trước? Bản vương khâm phục nhất câu “dưa chín ép không ngọt” của Bình Nam vương!”, nói đoạn vái chào thái tử: “Thần đệ xin hồi phủ trước!”.
Lưu Giác mặt đầy nộ khí, An Thanh vương “hừ” một tiếng, lẩm bẩm: “Không biết phép tắc là gì!”, cũng phẩy tay áo bỏ đi. Khi ngang qua Lý tướng, An Thanh vương đột nhiên ngoái đầu, trợn mắt: “Ông dạy con giỏi lắm! Hừ!”.
Lý tướng bị chỉ trích trước mặt bá quan, mặt hết đỏ lại tái, cúi đầu nói khẽ: “Lão vương gia giáo huấn chí phải, lão thần sẽ dạy bảo nghịch nữ thật nghiêm!”.
Các đại thần đều cúi đầu im lặng. Cố tướng tức giận phẩy tay áo bỏ đi.
Ngọc Long cung thênh thang yên tĩnh hẳn, thái tử đột nhiên nói: “Tiểu muội Thanh La nên trở về tướng phủ mới phải, lưu lại phủ An Thanh vương e thiên hạ chê cười, còn ra thể thống gì”.
Thanh Lôi ngoan ngoãn đáp: “Thiếp thấy tiểu muội còn nhỏ chưa hiểu chuyện, trước hai vị vương gia anh tuấn phong lưu, nhất thời bị mê hoặc, chi bằng đón vào cung, để chị em thiếp tâm sự. Đều là người một nhà, không nên để tiểu muội quá đau buồn”.
Thái tử tán thưởng nhìn Thanh Lôi. Vương Yến Hồi tiếp lời: “Xem ra phủ An Thanh vương sắp không thái bình rồi, chi bằng điện hạ cùng thiếp đích thân đến đón tiểu muội được không? Không thể để cho tứ hoàng đệ và Bình Nam vương chỉ vì tiểu muội mà quay lưng trở mặt thành thù”.
Lưu Giác từ trong cung trở về vương phủ liền vào Tùng phong đường. A La nhìn thấy chàng, mặt đỏ cúi đầu, vội vàng lật giở cuốn sách trong tay.
“A La, nếu ngày mai... ngày mai Tử Ly và cha em cùng đến đòi người, em sẽ theo ai?”. Trong lòng rõ ràng đã biết nhưng Lưu Giác vẫn không cầm lòng, hỏi lại.
A La thầm nghĩ, chuyện này còn phải nói sao, không theo Tử Ly thì phải theo Lý tướng, nàng ngẩng đầu nhìn Lưu Giác: “Đi với Tử Ly, về tình có thể tha thứ, đi với cha thiếp, là hợp đạo lý, tóm lại thiếp vẫn phải đi”.
Lưu Giác vòng ngoắt như mũi tên, ôm lấy nàng: “Không ai có thể đưa nàng đi, nàng không được đi đâu!”.
“Chàng ngốc quá, thiếp vẫn không thể nói... thiếp... chàng đã quên lão vương gia cáo già của chàng đã dặn chàng thế nào ư?”. A La cười khúc khích.
Trong cung khi Tử Ly nhắc đến cái đêm trên thảo nguyên ba năm trước, Lưu Giác càng hiểu, Tử Ly nói như vậy cũng không hẳn là diễn kịch. Nhưng bây giờ, vẫn phải để A La diễn cùng Tử Ly, còn mình lại trở thành một vai bất lực, chen vào giữa họ. Hình dung phải diễn thế nào cho đủ, lòng chàng rất khó chịu: “Tử Ly đúng là thật lòng với nàng!”.
A La nhìn chàng, thấy buồn cười, cảm giác chàng ghen vì mình thật dễ chịu. Tự dưng lại muốn trêu chàng: “Phải rồi, Tử Ly vừa tuấn tú vừa dịu dàng, lại rất thật lòng với thiếp, người như thế đâu dễ tìm!”.
Lưu Giác hôn nàng một cách chiếm hữu, không muốn nghe nàng nói. Lát sau chàng nói trong hơi thở gấp: “Muốn để ta nhìn thấy cảnh hai người đắm say tình tứ. Hừ, ta phải đắm say trước đã”. Nói xong chàng lại hôn thật sâu.
A La thầm than thở, nhiệt thành hưởng ứng chàng. Mãi khi nghe tiếng An Thanh vương ho một tiếng, hai người mới như đôi chim kinh động, rời nhau ra. Lưu Giác giấu A La sau lưng, nhìn ông già đang cười híp mắt, gọi to: “Thanh Ảnh!”.
“Lão vương gia đã bước qua người thuộc hạ để vào!”. Ngoài cửa sổ vang lên giọng nói nghiêm túc của Thanh Ảnh.
An Thanh vương xua tay ngồi xuống: “Được rồi, tiểu tử, đi vào chuyện chính! Ngày mai xem chừng vương phủ chúng ta náo nhiệt lắm đây!”.
A La thò đầu ra, kéo áo Lưu Giác: “Lão vương gia cáo già của chàng ép thiếp! Nói là nếu không giúp, ông ấy sẽ không cho thiếp lấy chàng!”.
Lưu Giác xoa đầu nàng: “Ta quyết định mọi chuyện, mặc kệ ông già! Ngày mai bất luận ai đến, nàng đều cáo ốm không ra”.
“Làm phản rồi! Nghịch tử!” Nhìn thấy A La ngang nhiên khiêu khích mình, An Thanh vương vừa bực vừa buồn cười.
“Lưu Giác, chàng thấy cha chàng hung dữ như thế, nếu thiếp lấy chàng, chẳng phải thiếp sẽ là cái túi để trút giận hay sao? Tử Ly tốt biết mấy, chưa bao giờ mắng thiếp một câu!”. A La bất chấp, lại chọc tức An Thanh vương.
Lưu Giác hiểu ra, hừ một tiếng: “Tử Ly tốt bao nhiêu thì sao nào, nàng là của ta, ta không tốt thế nào nàng cũng phải chịu!”.
“Chàng là đồ đầu gỗ! Thiếp không lấy chàng nữa, đằng nào hai người cũng muốn tìm cớ trở mặt với Tử Ly, thiếp sẽ làm cho giả biến thành thật!”. Nàng giận dỗi nói.
“Được lắm, được lắm, quá tốt!”. An Thanh vương cười híp mắt vỗ tay, thứ ông cần chính là điều đó.
“Tốt cái gì?”Lưu Giác cả giận, sao nàng lại thay đổi như chong chóng thế? “Ta cho nàng biết, từ bây giờ, nàng đừng hòng ra khỏi Tùng phong đường một bước!”.
“Lão vương gia, vương gia lên tiếng đi!”. A La bắt đầu chỉ huy An Thanh vương đối phó Lưu Giác.
“Tiểu tử à! Đại cục, lấy đại cục làm trọng! Con cần ta nói bao nhiều lần nữa?”.
Lưu Giác vẫn bực, ngồi phịch xuống, nghĩ thế nào cũng không bình thường được. Chàng dần dần ngồi thẳng người, ngẩng đầu nhìn vẻ mặt cười ranh mãnh của A La, bất giác cũng cười theo: “Trò cướp dâu, bản vương diễn được. Huống hồ đông người, càng đông vui náo nhiệt, càng hoành tráng!”.
An Thanh vương và A La nhìn nhau, hơi lo lắng nhìn Lưu Giác.
“A La, thực ra ta biết, ngay từ đầu nàng đã có tình cảm với Tử Ly, chỉ là hồi đó nàng còn nhỏ, chỉ muốn rời bỏ tướng phủ, rời bỏ Phong thành. Tử Ly đúng lúc lại được ban hôn”. Lưu Giác chậm rãi nói, mắt lóe sáng, cằm vênh lên: “Đã lỡ thì lỡ luôn, Lưu Phi đừng nghĩ còn có cơ hội. Nếu là trước kia có thể ta sẽ buông tay, bây giờ, huynh ấy hối hận cũng vô ích”.
“Chàng mới cần hiểu rõ, người quyết định là thiếp, chính thiếp không cho Tử Ly cơ hội!”. A La thấy buồn cười, nói.
“Nàng mới cần hiểu rõ, bây giờ người quyết định là ta, chính ta không để nàng cho huynh ấy cơ hội!”. Lưu Giác trợn mắt, sửa lại lời A La.
“Ồ, thế sao? Vậy ngày mai thiếp sẽ cho huynh ấy cơ hội, chàng xem xong nếu tức giận thì một mình đi hóng mát nhé!”. A La trả lời đầy khí thế.
An Thanh vương cười khùng khục: “A La bảo bối, loại rượu lần trước con dùng dụng cụ kỳ quái gì chưng cất ra ấy, uống đã lắm, cùng lão phu đi uống thử một chén!”.
“Được thôi!”. A La cười.
Lưu Giác né người kéo nàng vào lòng, khinh miệt nói: “Thái độ bây giờ nàng thể hiện là không thích ta phải không? Là ta cố níu kéo nàng phải không? Nàng hớn hở cùng lão gia đi uống rượu, vở kịch ta diễn làm sao giống được? Định làm ta tức chết, đừng hòng! Thanh Ảnh, tiễn lão gia, không được ta cho phép, bây giờ thực sự một con ruồi cũng không được vào! Cha, mọi sự đều phải lấy đại cục làm trọng, đúng không?”.
An Thanh vương cười xảo quyệt: “Đúng thế, đúng thế, bây giờ đúng là A La không thể đi uống rượu với lão phu, ôi chà, dê đã vào hang sói rồi! Chà chà, ta đi uống rượu đây”.
“Không hề gì, ngày mai đại ca Tử Ly của thiếp đến đón thiếp rồi”. A la cố vùng khỏi chàng, mắt liếc đảo, bắt đầu thấy tức Lưu Giác.
“Lão vương gia nhà ta vừa rồi nói gì nhỉ? Dê vào hang sói! Thịt này tươi non quá, không ăn không được!”. Lưu Giác cười khúc khích, lại cúi hôn nàng.
Đêm đặc dần trong Tùng phong đường, dần dần hiện lên hai bóng người tựa vào nhau. Lưu Giác thầm thì: “Quả thật ta rất lo. A La, Tử Ly sẽ cướp nàng đi”.

Sáng sớm hôm sau, An Thanh vương và Lưu Giác trang phục gọn gàng, ngồi đợi tại trung đường.
“Lý tướng quốc cùng phu nhân đến!”. Người hầu cao giọng báo.
Lý tướng cùng đại phu nhân mặt mày tươi tỉnh đi vào phủ An Thanh vương, thi lễ an tọa đâu vào đấy xong xuôi, Lý tướng mỉm cười khiêm nhường: “Tiểu nữ ương bướng làm phiền vương gia bấy lâu, lão vương gia, ngài...”.
An Thanh vương trợn mắt, ngắt lời ông ta: “Lời này của thân gia sai rồi, nếu ba năm trước, tặc tử không bắt cóc A La, tiểu nhi đã sớm cưới nó vào phủ. Bây giờ A La bình yên trở về Phong thành, vương phủ là nhà của nó, khách khí làm chi!”.
“Phải phải phải, vương gia đối với tiểu nữ quả là ưu ái, Lý mỗ cảm kích vô cùng”. Lý tướng thấy thái độ An Thanh vương như vậy, nhẹ nhõm như cất được gánh nặng trong lòng.
Lưu Giác bước vái chào: “Thanh La sức khỏe yếu, đợi ít hôm nàng bình phục trở lại, nhạc phụ hãy đến đón về phủ, nhân tiện chuẩn bị hôn sự được không?”.
Lý tướng cả mừng, cười ha hả: “Bình Nam vương tâm ý chân thành, chính là nên như thế, nên như thế”.
“Ly Thân vương đến!”. Lại một tiếng bẩm báo.
Lưu Giác nhủ thầm, đến nhanh thế! Vừa nghĩ vậy, đã thấy Tử Ly nhàn tản bước vào: “Thỉnh an vương thúc! Tướng gia cũng ở đây ư?”.
Da đầu Lý tướng phát tê, cười khì khì hai tiếng, thấy cha con An Thanh vương thần sắc bình thản như không, bụng nghĩ, cứ để các người đấu với nhau, ai thắng thì thắng. Có cả lão vương gia ở đây làm chủ, ta chỉ việc ngồi xem kịch là xong.
Tử Ly cung kính đến trước mặt Lý tướng vái chào, khiến ông ta hoảng hốt bật dậy khỏi ghế: “Tứ điện hạ, như thế này sao được!”.
“Vốn định đến tướng phủ cầu thân, tướng gia đã ở đây, Bình Nam vương cũng ở đây, bản vương xin nói thẳng, A La là người bản vương chọn!”.
“Lưu Phi, ngươi ức hiếp người ta quá đáng!”. Hàn khí bốc lên mặt Lưu Giác.
“Tứ điện hạ, vương thúc của ngươi đây còn chưa chết! Phụ hoàng ngươi cũng chưa từng như vậy, ngươi dám mạo phạm ta như thế! Ngươi muốn ta tức chết phải không!”. Lời vừa dứt, An Than vương cởi giày ném về phía Tử Ly.
Tử Ly nghiêng đầu tránh: “Vương thúc! Tử Ly từ nhỏ đã mồ côi mẹ, khó khăn lắm mới yêu thích một cô nương, xin thúc tác thành cho con được không?”.
Bên ngoài có tiếng “ối a”, một người xông vào. Lúc đó người hầu mới lắp bắp: “Cố... Cố tướng quốc đến!”.
“Lưu Phi, ngươi giỏi lắm! Cưới con gái lão phu, ba năm trời không nhòm ngó! Vừa trở về đã định nạp thiếp? Thiên Lâm có chỗ nào không tốt? Có chỗ nào mắc lỗi với ngươi? Một đứa con gái ngoan như vậy, ngươi... ngươi làm lão phu tức chết rồi!”. Cố tướng mới rồi nghe phong thanh tin đồn Ly Thân vương bất chấp lễ nghĩa, định cướp hôn thê của Bình Nam vương. Sáng sớm nay đến phủ Ly Thân vương mới biết, tối qua Ly Thân vương đã trở về Phong thành, nhưng lại không về vương phủ gặp Thiên Lâm. Đầu đã bốc hỏa không thể kìm chế, ông hạ quyết tâm phải đến phủ An Thanh vương nhìn mặt đứa con gái Lý tướng đã mê hoặc hai vị vương gia. Không ngờ vừa đến cửa đã nghe thấy Ly Thân vương mở mồm định cầu hôn con gái Lý tướng, lại bị An Thanh vương ném giày trúng người. Cố tướng tức xanh mặt, bất chấp lễ nghĩa thân phận, tiện tay cầm lấy chiếc giày của An Thanh vương, ném về phía Ly Thân vương.
Tử Ly cau mày, nghiêng người tránh, vừa tránh vừa thong thả nói: “Cố tướng quên dạy con gái không nên đố kỵ hay sao? Nam nhi năm thê bảy thiếp có gì lạ? Ta và A La tâm đầu ý hợp, Thiên Lâm nên ủng hộ mới phải!”. Tử Ly không gọi nhạc phụ mà gọi tên quan chức, có ý nhắc Cố tướng chú ý thân phận.
Cố tướng chạy tới được hai bước, khí huyết bừng bừng, nghe vậy ngất xỉu.
An Thanh vương giậm chân chạy đến, gọi gấp: “Người đâu, nhanh lên!”.
Mấy người hầu từ ngoài chạy vào, vội dìu Cố tướng, rồi cuống quýt ấn huyệt Nhân Trung, rồi bón nước vào miệng, lát sau Cố tướng mới từ từ hồi tỉnh thở dài, ngồi tựa vào ghế thở hổn hển.
Lý tướng thấy vậy ngây người, bụng nghĩ, may mà chưa hứa gả A La cho Ly Thân vương, nếu không, không chỉ đắc tội với cha con An Thanh vương, mà cũng kết oán với Cố gia.

Lưu Giác cười thầm, bụng nghĩ, cho dù diễn kịch, cũng khiến Lưu Phi nếm đủ cực khổ, cũng may bản vương có lời trước với Lý tướng. Miệng chàng thoáng cười đắc ý.
Bên ngoài lại có tiếng hô: “Thái tử điện hạ, thái tử phi nương nương giá đáo!”.
Ánh mắt Lưu Giác và Tử Ly gặp nhau, chính chủ đã đến rồi!
Có tiếng châu báu vang lên lanh canh, thái tử và Vương Yến Hồi khoan thai bước vào đại đường. Thái tử cười: “Vương thúc, hôm nay quý phủ thực đông vui”.
Mọi người rào rào đứng dậy thi lễ. An Thanh vương xỏ chiếc giày vào chân: “Thái tử đến đúng lúc, hoàng đệ bất hiếu của thái tử, dám cướp con dâu của lão phu! Sao lại có chuyện như thế!”.
“Câu này của vương thúc sai rồi, năm xưa trên thảo nguyên Doãn Chi và Tử Ly đã có ước định, nếu A La không thích Doãn Chi, Doãn Chi sẽ không làm khó! Lẽ nào, Bình Nam vương đã hối hận nuốt lời?”. Nói câu này ánh mắt Tử Ly đã lóe ra hàn khí.
Lưu Giác cả giận cười lớn: “Ha ha! Ly Thân vương thật biết nói chơi! Bản vương tam thư lục lễ cầu thân, A La đã là người của vương phủ, ngươi cướp vợ người khác, lại còn xơi xơi nói chuyện lễ nghĩa liêm sỉ?”.
Hai người trừng mắt nhìn nhau, một người sắc mặt như thép, một người khí lạnh như băng, đột nhiên đồng thanh nói: “Lý tướng gia, ngài nói thế nào?”.
Lý tướng thầm kêu khổ, Bình Nam vương đã cầu thân trước, nhưng Ly Thân vương ngộ nhỡ, nếu như... chuyện này biết nói thế nào? Ông ta liếc nhìn Cố tướng: “Ôi chao, cái đầu, bệnh đau đầu của lão sao lại tái phát thế này!”.
Đại phu nhân vội đỡ ông ra: “Lão gia đau lắm không? Hai, hai vị vương gia còn đang chờ lão gia trả lời”.
Vương Yến Hồi nhìn Tử Ly, mặt tươi cười: “Tứ hoàng đệ đừng buồn, Bình Nam vương chớ sốt ruột, ta thấy nên để hai vị tướng gia hồi phủ nghỉ ngơi, được không?”.
Được lời, Lý tướng và đại phu nhân vội vàng bái tạ, nói gấp: “Tiểu nữ xin nhờ lão vương gia chăm sóc!”. Hai người lập tức chuồn mất. Cố tướng thở dài tự an ủi, con gái xuất giá như bát nước đổ đi, lẽ nào có thể thật sự không để Ly Thân vương nạp thiếp? Thân hình liêu xiêu đứng lên vái chào, quay ra.
Lưu Giác tận mắt chứng kiến, nghĩ lại lời A La mà thấy đau lòng. Có người cha như thế, chẳng trách A La ghét tướng phủ như vậy! Chàng cười lạnh lùng: “Tiểu tế nhất định không phụ ủy thác của nhạc phụ!”.
“Hừ, có người cha như thế, chuyện hôn sự này chi bằng thôi đi. Đằng nào A La cũng không bằng lòng lấy con, con cưới một đứa con gái không thích con có nghĩa lý gì?”.
“Tứ hoàng đệ, đây chính là cái sai của đệ. Nói thế nào Bình Nam vương cũng là người đã có lời trước, đệ như thế này chẳng phải cướp vợ người ta sao?”. Thái tử nghiêm khắc lên tiếng.
“Hoàng huynh! Không phải thần đệ không tuân lễ pháp, quả thực Bình Nam vương mới là kẻ đi cướp! Đệ và A La tâm đầu ý hợp, Lưu Giác kia trắng trợn chen vào, nếu không phải thế, A La đâu dám bạo gan thoái hôn!”. Tử Ly nói đến đó, nghĩ đến A La, lòng bỗng thấy đau, vẻ sầu não trên mặt chàng hoàn toàn không phải giả tạo.
“Ngươi nói bừa! A La đâu phải loại người sớm nắng chiều mưa như ngươi nói, người trong lòng nàng là ta, nếu không sao lại đi Lâm Nam tìm ta!”. Lưu Giác tự hào nói.
“Đó là bởi vì đi Biên thành phải vượt qua bình địa rộng lớn, nếu A La đi đến đó, chưa ra khỏi Phong thành trăm dặm e là đã bị ngươi chặn lại bắt về! Không ngờ ngươi bắt nàng ấy đem đến Lâm Nam, rồi lại giả bộ đưa về Phong thành, ngươi còn nói nàng ấy đi tìm ngươi!”.
An Thanh vương nghe vậy trợn mắt há mồm, đột nhiên quát: “Đi mời tam tiểu thư tướng phủ lại đây, loại con dâu này An Thanh vương ta không thể chấp nhận!”. Ông tức run ngươi, khuôn mặt già đỏ lựng lên.
“Cha!”. Lưu Giác vội nói.
“Ngươi sợ gì? Sợ A La vạch mặt ngươi nói dối hay sao?”. Tử Ly khinh bỉ nhìn Lưu Giác.
Lưu Giác phẫn nộ rút kiếm: “Ta đã có lời trước, A La là người của ta! Ngươi nói gì cũng vô ích!”.
Thái tử vội khuyên Lưu Giác: “Ở đây đều là người một nhà, Thanh La cũng coi là tiểu muội của ta, mọi người nghe A La nói một câu được không?”.
Lát sau, bên ngoài bước vào một bóng người mảnh mai. Tử Ly bàng hoàng quay đầu, sững người. Chàng đã sớm biết, A La sẽ đẹp đến mức khiến chàng kinh ngạc thảng thốt, nhưng khi nhìn thấy nàng, vẻ đẹp đó lại hóa thành kiếm sắc mang lại từng trận đau đớn cho chàng. Nỗi nhớ mỗi ngày ba năm qua, khiến chàng không thể hình dung ra nhan sắc chân thực của nàng. Chàng biết, chàng không cần diễn kịch cho ai xem, lòng chàng chỉ có nàng. Nàng đẹp, đáng yêu, thông tuệ lanh lợi, như ánh mặt trời xua tan bóng đen trong lòng chàng. Hơn ba năm, cuối cùng nàng xuất hiện trước mặt chàng, không phải trong tranh, không phải trong mơ, A La lúc này bằng xương bằng thịt trước mặt chàng.
Nét mặt nàng cũng lộ vẻ bàng hoàng, đôi mắt như vẫn thấy trong mơ, lóng lánh thủy tinh, mặt hơi gầy, dáng tội nghiệp giống như trước đây mỗi lần nàng khẩn cầu chàng dạy nàng cưỡi ngựa, dạy nàng đánh xe. Tử Ly lòng đau như xé, tay bất giác chìa ra: “A La, đại ca ở đây, đừng sợ!”.
A La nhìn thấy Tử Ly, lòng xốn xang. Trong khoảnh khắc chàng nhìn thấy nàng, ánh mắt bừng sáng nhưng đau đớn ẩn chứa nỗi ưu tư và mong đợi. Chàng chính là Tử Ly đã hòa tấu với nàng, cùng nàng phi như bay trên thảo nguyên, sủng ái nàng, cưng chiều bảo vệ nàng. Nếu chưa bao giờ nàng quen chàng thì tốt biết mấy. Giống như lần đó khi thấy chàng mất hút trong màn đêm, nỗi đau lại cuộn lên trong lòng. Nàng biết nàng đành phụ chàng. Một giọt nước mắt thấm bờ mi, long lanh trĩu nặng, miệng nàng khẽ gọi: “Đại ca!”.
Tử Ly bước tới, giọt nước mắt vừa rơi, chàng vội đón lấy, nước mắt nóng bỏng thấm vào tâm can. Bất chấp mọi người xung quanh, chàng ôm nàng vào lòng.
Vương Yến Hồi giật mình, mắt lóe sáng. Thần sắc này lại xuất hiện trên mặt Tử Ly chứng tỏ nỗi đau buồn không thể xua tan trong tiếng tiêu réo rắt thê lương đêm đêm vọng ra từ Ngọc Ly cung quả thật hướng về A La, thì ra chàng yêu nàng ta thật. Ý nghĩ chợt thay đổi, mắt Vương Yến Hồi đã hướng sang Lưu Giác.
Lưu Giác nhìn Tử Ly ôm A La vào lòng, thấy biểu hiện trên mặt hai người hoàn toàn không phải giả tạo, nỗi phẫn nộ khiến trán chàng hằn lên những đường gân xanh, một tiếng vút chói tai, lưỡi kiếm dài đã đâm tới người Tử Ly.
Tử Ly kéo A La tránh, áo đã bị Lưu Giác phạt rách một miếng. Chàng chằm chằm nhìn Tử Ly nói dằn từng từ: “Lần này ta quyết không buông tay!”.
An Thanh vương chợt lo lắng, có phải đang diễn kịch cho thái tử xem hay không? Sao nhìn hai người giống như có tình ý thật?
A La kinh ngạc, hiểu ý câu nói, nhưng không dám thể hiện hơn nữa, lòng lo lắng, nước mắt túa ra: “Hai người đừng đánh nhau được không?”.
“A La có đại ca ở đây, không ai bức ép được muội!”. Giọng Tử Ly kiên định, tay nắm chặt tay A La.
An Thanh vương đảo mắt: “Thật... thậc làm ta tức chết! Đứa con dâu như vậy ta dứt khoát không cần! Tiểu tử, thoái hôn!”.
Khuôn mặt tuấn tú của Lưu Giác đỏ lựng, thần sắc kiên định: “Cha, tha tội cho con bất hiếu, Lưu Giác thề, kiếp này chỉ lấy Lý Thanh La!”. Nói đoạn, mũi kiếm hướng vào Tử Ly, không hề run tay.
“Mày, mày, đồ nghịch tử! Sao ta lại có đứa con như thế!”.
“Cha, năm xưa cha đối với mẫu thân chẳng cũng như thế hay sao?”. Lưu Giác không ngoái đầu, mắt chòng chọc nhìn Tử Ly.
Thái tử và Vương Yến Hồi nhìn nhau, Vương Yến Hồi thong thả bước tới, kéo A La ra: “Tiểu muội Thanh La, muội nói xem, người trong lòng muội là ai? Tỷ tỷ sẽ đứng ra làm chủ cho muội!”. Từ đầu chí cuối, Vương Yến Hồi vẫn nguyên nụ cười như thế, tựa hồ nàng ta và thái tử đến thật sự chỉ là để hòa giải tranh chấp trong nội bộ vương thất, chỉ có bản thân nàng ta biết, cảm giác trong lòng thế nào, họng lưỡi đắng chát, một nỗi xót xa ập đến.
Mắt A La lay động, lòng bối rối, như thế này đâu có giống diễn kịch! Nàng cúi đầu khẽ nói: “Muội... đại ca!”. Mắt nàng né tránh ánh mắt Vương Yến Hồi, đau khổ nhìn về phía Tử Ly.
Âm thanh khẽ như tiếng muỗi, nhưng mọi người trong phòng đều nghe rất rõ. Tử Ly tinh thần phấn chấn, cười ha hả: “Nghe rõ chưa, Bình Nam vương? Có cần tiếp tục nữa không?”.
Lưu Giác không phân biệt được đây là diễn kịch hay là sự thật, sắc mặt đột nhiên trắng bệch, nỗi đau đớn mất A La tràn dâng trong lòng, mắt chàng đã vằn đỏ, sát khí bừng bừng. Chàng khoát mạnh tay, Ô y kỵ xông lên. Thái tử hét to: “Bình Nam vương, sao ngươi dám bất chấp như vậy!”.
Lưu Giác ngang nhiên: “Bản vương một khi đã có lời, không bao giờ hủy hôn, muốn ta ngoan ngoãn khoanh tay nhường người đàn bà của mình, ta không làm được! Thái tử, xin tha tội, Doãn Chi thất lễ”.
Chàng đến bên Vương Yến Hồi nói với A La: “Bất luận người trong lòng nàng là ai, nàng sống là người của ta, chết là ma của vương phủ ta!”. Bàn tay như gọng kìm đã xiết chặt cánh tay A La, kéo giật về phía mình.
A La cảm thấy tay đau nhức, hét to: “Đau quá!”.
Bóng Tử Ly lay động, Ô y kỵ đã vây chặt lấy chàng. Nhìn A La đứng ngoài vòng vây, tựa như Lưu Giác vừa cắt một miếng thịt trên cơ thể chàng, toàn thân chàng đau đớn co rút. Nhưng nỗi đau lại khiến chàng bình tâm trở lại. Nụ cười nhạt hiện ra: “A La, hãy đợi ta, ta sẽ đón nàng đi! Lưu Giác, đừng nói ta không cho ngươi cơ hội, ngày mười lăm tháng ba, ở khe núi Hoàng Thủy phía tây ngoại thành, ta và ngươi giao đấu, nếu ngươi thất bại dưới lưỡi gươm của ta, từ nay đừng hòng làm khó A La! Bây giờ ngươi buông tay cho ta, ngươi định xiết đứt tay A La hay sao?”. Nói đến câu sau, Tử Ly đã nghiến răng kèn kẹt, nỗi đau trong lòng đã hóa thành hành động.
Tử Ly nhìn A La đăm đăm, cúi gập người trước An Thanh vương và thái tử: “Đây là tranh chấp cá nhân giữa thần đệ và Bình Nam vương, hoàng huynh không cần khuyên can”. Nói đoạn phẩy tay áo bỏ đi.
A La òa khóc. Nỗi áy náy đau buồn giằng xé trong lòng. Nàng không định cố ý, nàng cũng không muốn nhìn thấy Tử Ly buồn như vậy, nàng hiểu, Tử Ly không đóng kịch, mối thâm tình của chàng đối với nàng, sao nàng không biết. Nàng bắt đầu hối hận tại sao mình lại giẫm lên vũng lầy này, nghĩ đến ánh mắt bi thương của Tử Ly. Nàng thấy nghẹt thở, mình còn đưa đến cho chàng bao đau khổ nữa!
Thái tử thở dài: “Tiểu muội đừng quá đau buồn, nếu muội không muốn lưu lại đây, thì có thể vào cung cho khuây khỏa”.
Lưu Giác đã định thần trở lại, lập tức trả lời: “Điện hạ khỏi cần lo lắng, ta tuyệt đối không để A La rời phủ nửa bước, Ly Thân vương đừng hòng mong gặp lại nàng”.
Vương Yến Hồi lo lắng nói: “Ngươi và tứ hoàng đệ cũng là máu mủ tình thâm, hà tất phải khổ như thế”.
“Câu này của nương nương sai rồi, Ly Thân vương đã ra chiến thư, Lưu Giác tất phải nghênh chiến!”.
Thái tử nói: “Vương thúc đừng giận, năm xưa thúc cũng như thế mà...”.
“Hừ, con trai của An Thanh vương ta, lẽ nào đến một đứa con gái cũng không cướp về được? Sự quan tâm của thái tử và thái tử phi bản vương xin nhận. Hôm nay bị giày vò cũng mệt rồi, xin sớm hồi cung nghỉ ngơi!”. An Thanh vương vẫn đang thịnh nộ, trợn mắt rung râu.
Vương Yến Hồi cười dịu dàng: “Tiểu muội bảo trọng, ta thấy Bình Nam vương cũng thật ý thật lòng”. Nàng ta nhìn Lưu Giác ý tứ sâu xa, “Chữ tình này, luôn khiến người ta khó lý giải!”.
Hai người cáo từ rời đi, A La vẫn thổn thức không nguôi. Lưu Giác hét: “Là kịch hay là thật, ta không phân biệt được, đây là chủ ý của ai?”.
An Thanh vương gãi đầu: “Hôm nay người đông quá, khiến ta nhức cả đầu. Thanh Ảnh, dìu bản vương đi nghỉ. Ôi chao, đau đầu quá!”.
Mọi người đi hết, Lưu Giác mặt giận phừng phừng nhìn A La đứng đó, lòng càng thêm giận, bế thốc nàng đi về Tùng phong đường.
A La vẫn ủ rũ, Lưu Giác đứng bên cửa sổ, lòng cũng rối như tơ vò. Ai cũng nhìn ra sự chân tình trong đáy mắt Tử Ly, Lưu Giác nghĩ, nếu không phải tiên vương có chỉ, ông già ra lệnh trợ giúp Tử Ly, chưa biết chừng họ sẽ thật sự đánh nhau một trận vì A La. Nghĩ lại cảnh tượng vừa xảy ra, chàng muốn mắng Tử Ly, khốn kiếp! Thật chẳng ra gì, mình và ông già tương trợ hắn là thế, hắn còn nhẫn tâm đẩy A La vào chỗ nguy hiểm, hình như hắn thực sự muốn có A La. Hắn không sợ làm mình tức giận đứng về phe thái tử thật? Còn A La nữa, nghĩ đến đây chàng quay đầu, A La vẫn ngồi ủ dột trên ghế, nước mắt chưa khô, chàng xông đến hét lên: “Lại còn khóc! Thật rồi chứ gì?”.
A La giật mình, nàng cũng buồn khổ vì thái độ vừa rồi của Tử Ly, hình dung lại bao chuyện cùng nhau. Từ lúc quen biết đến sự bộc bạch của Tử Ly đêm hôn lễ, nghĩ mãi vẫn không cảm thấy mình đã cho Tử Ly lời hứa hay hy vọng gì, cũng không tỏ ra bất kỳ dấu hiệu nào là đã yêu chàng. Bị Lưu Giác quát, nàng bỗng tủi thân vô cùng: “Khóc thì sao? Tử Ly là người đàn ông ưu tú như vậy, lại một lòng chân thật với thiếp, thiếp cảm động có gì lạ!”.
Câu nói như lửa đổ thêm dầu, Lưu Giác sải hai bước đến trước mặt nàng, trợn mắt: “Nàng, nàng, nàng là hạng đàn bà gì thế?”.
“Hạng đàn bà gì? Sáng nắng chiều mưa, sớm Sở tối Tần? Thiếp cũng là con người, sao không cảm động? Tử Ly đối với thiếp tình sâu như thế, thiếp không cảm động chút nào mới được hay sao?”. A La giọng đã hơi bực. Nàng chỉ cảm động một chút, nghĩ đến Tử Ly trước sau sẽ hiểu đây là tấn trò bày ra để giúp chàng, niềm si mê của chàng đối với nàng rút cục sẽ hụt hẫng, lại nghĩ đến những tình cảm ngày xưa, lòng buồn khôn tả, vậy mà Lưu Giác lại hét toáng như thế, tựa hồ nàng tư tình với người khác thật.
“Được, hắn đối với nàng tình sâu như biển, nàng cảm động, thế còn ta? Tấm lòng của ta với nàng, nàng đã quẳng xuống sông Đô Ninh rồi sao?”. Ghen tuông bùng lên trong lòng Lưu Giác, lời vừa nói ra lòng đã đau khôn xiết.
A La nhìn chàng, đau thương lắng đọng trong đôi mắt ấy nặng ngàn cân, khiến nàng lặng người. Nàng nhảy lên ôm lấy chàng, đây là lần đầu tiên A La chủ động ôm chàng, tim chàng đập rất nhanh, A La vùi mặt vào ngực chàng, hai tay ôm riết vồng ngực rắn chắc và mạnh mẽ, cơ hồ chỉ có ôm chàng như vậy mới có thể nén lại nỗi đau trong đó, không cho nó lan ra.
A La khẽ nói: “Thiếp thích chàng”.
Trong khoảnh khắc A La lao vào lòng chàng, Lưu Giác sững người, hai tay buông thõng, toàn thân cứng đờ, bên tai chỉ có tiếng tim đập, từng nhịp, từng nhịp. Ngực chàng phập phồng dữ dội, muốn nói câu gì. Nghe thấy giọng nói thanh thanh, đẹp như tiếng chim của nàng, chàng rùng mình, đẩy nàng ra.
Loạng choạng mấy bước, A La nhìn chàng, Lưu Giác trân trân nhìn nàng. Chàng không tin ư? Mắt hoa lên những quầng đỏ, A La cắn môi cố không bật khóc, cúi đầu chạy ra ngoài.
Lưu Giác đã sực tỉnh, vươn tay túm lấy vòng eo mảnh dẻ của nàng, A La hét một tiếng, đã bị chàng ép xuống giường, Lưu Giác phục người lên trên, hôn như cuồng phong vũ bão, không cho nàng thở, thế như chẻ tre chiếm cứ mọi tư tưởng của nàng... cuối cùng gió giảm mưa dừng, A La lúc này mới có thể hít thở, hai tay chống lên ngực chàng thở từng cơn, Lưu Giác cười gian tà, kéo tay nàng ra, khi nàng còn chưa kịp hét lên thì môi chàng đã lại vít chặt môi nàng. Ba bốn lần như vậy, môi A La mọng đỏ, cuối cùng chàng thỏa mãn gục mặt vào cổ nàng cười.
Tỉnh táo lại, A La tức giận nghiêng đầu nhìn: “Dậy đi, nặng như hùm ấy!”.
“Không! Không chịu!”.
“Có tin không thiếp sẽ một chân đá bay chàng!”.
“Chân nàng còn động đậy được sao?”.
A La thầm mắng mình bất lực, từ từ đặt tay lên eo chàng, hít một hơi, ra sức cù thật mạnh, Lưu Giác nhột quá nhảy dựng lên: “A La, nàng...”.
“Ha ha, nhột không, sợ rồi chứ!”. Mẹo nhỏ thành công, A La đắc ý cười.
Lưu Giác không nhịn được cười: “Trò này mà nàng cũng dám làm?”. Chàng dịu dàng vén những sợi tóc xõa trên mặt nàng: “A La, nàng nói lại câu vừa rồi một lần nữa được không?”.
“Cù nhột chàng?”.
“Không phải câu đó, nàng nói lúc ôm ta ấy”.
“Thiếp đói rồi”.
“Cái gì?”.
“Sáng sớm từ lúc ngủ dậy đến giờ đã quá trưa, thiếp chưa ăn gì, thiếp đói rồi”.
Lưu Giác nghe vậy, bụng hình như cũng thấy đói, bèn nói to: “Tư Họa, ta đói!”.
Có tiếng Tư Họa cười bên ngoài: “Tiểu tỳ đã hâm thức ăn hai lần rồi, nhưng không dám quấy rầy chúa thượng”.
A La nghe vậy đỏ mặt tía tai. Nàng đẩy Lưu Giác ra, mím môi, lườm chàng, Lưu Giác cười khe khẽ, tiếp tục truy hỏi: “Nói lại lần nữa đi, thế nào?”.
“Thiếp quên rồi, đi ăn thôi!”.

CHƯƠNG 26



Trong đại điện của Đông cung thái tử, Lưu Giám và các mưu sĩ đang phân tích cảnh tượng diễn ra ở phủ An Thanh vương.
Trong mắt Lưu Giám lóe sáng, vui mừng: “Ta thấy tứ hoàng đệ nhất định là tẩu hỏa nhập ma, hắn thật sự si mê Lý Thanh La!”.
Một mưu sĩ nói: “Tấn trò này, thần luôn cảm thấy rất kỳ lạ. Với tư cách con người của tứ hoàng tử, nhất định không thể ngang nhiên cướp hôn thê của Bình Nam vương ngay lúc vương thượng vừa băng hà, chuyện này, không đúng!”.
“Nhưng quả nhân đã tận mắt chứng kiến, biểu hiện đó của Lưu Phi không thể là giả!”.
Một người khác nói: “Điện hạ, thần cho rằng, cứ coi hai người đó cùng thích tam tiểu thư nhà Lý tướng, nhưng tám vạn binh mã ở Biên thành có dấu hiệu điều động, chứng tỏ tứ hoàng tử định tranh vương vị”.
“Hắn và Lưu Giác có tư thù, hôm nay lại bị hạ nhục trước mặt mọi người, An Thanh vương nhất định không đứng về phía Lưu Phi!”. Lưu Giám một mực tin Tử Ly và Lưu Giác trở mặt, những lời như vậy, cũng không mấy để tâm.
Vương Yến Hồi thong thả bước vào đại điện, nghĩ tới vẻ xúc động bất thường không thể kìm chế của Tử Ly khi nhìn thấy A La, thở dài: “Điện hạ, điện hạ cảm thấy tứ hoàng đệ liệu có đứng ra tranh giành vương vị?”.
“Ta đã nhận ra từ lâu hắn sẽ tranh giành với ta! Lần này trở về, thái độ của hắn với ta khác hẳn trước đây”.
“Vậy thì đúng rồi, vào lúc này sao Lưu Phi có thể gây thù địch với cha con An Thanh vương?”. Vương Yến Hồi nói.
Thái tử nghĩ một lúc, hơi băn khoăn: “Nhưng hôm nay trong phủ, hai người đó quả thật không phải là diễn kịch!”.
Vương Yến Hồi thong thả đứng lên, nhìn những chồi non vừa nhú trên đầu cành, những lá cờ tang hưu hắt cũng không che được sức xuân đang trỗi dậy, màu xanh của mùa xuân cuối cùng đã tìm được không gian đâm chồi nảy lộc trong mênh mông màu trắng lạnh của đất trời. Tử Ly chính là làn xuân xanh đó, cuối cùng đã giành được không gian và địa vị của mình với tâm thái thực mạnh mẽ. Nàng khẽ cười: “Chỉ có hai khả năng, một là tứ hoàng đệ đã có mưu kế chu toàn chờ chàng thay đổi thái độ, cũng không sợ thế lực của cha con An Thanh vương. Hai là, họ đã liên thủ với nhau. Bất luận là khả năng nào đều bất lợi đối với chúng ta. Nếu là khả năng thứ nhất, không biết sâu nông thế nào, muốn tránh cũng không tránh đuợc; nếu là khả năng thứ hai, trong tay bọn họ nắm trọng binh, tình hình sẽ hết sức gay go. Hơn nữa, Phong thành đã do An Thanh vương khống chế”.
Các mưu sĩ trong đại điện nghe Vương Yến Hồi phân tích như vậy, ghé tai nhau bàn luận. Một vị nói: “Thần cho rằng, như thái tử phi vừa nói, nếu là khả năng thứ nhất, trong tay tứ hoàng tử tất có chuẩn bị mà chúng ta không biết. Còn nếu là khả năng thứ hai, nếu An Thanh vương và tứ hoàng tử liên thủ thì đây sẽ là một cuộc chiến gay go”.
Lưu Giám hơi cau mày: “Các ái khanh có đối sách gì?”.
Bên dưới lần lượt lên tiếng.
“Thần cho rằng, nếu nghĩ theo hướng tốt, có thể được sự ủng hộ của An Thanh vương, ắt là nắm phần thắng!”.
“Đúng, nếu được An Thanh vương ủng hộ, tứ hoàng tử tất bại”.
“Điện hạ, mặc dù thế, cũng không nên tin hoàn toàn! Nếu bọn họ liên thủ với nhau thật thì cục thế Phong thành vô cùng nguy cấp!”.
“Thần cho rằng điện hạ trị quốc anh minh, An Thanh vương và điện hạ xưa nay quan hệ tốt, chưa hẳn đã đứng về phía tứ hoàng tử!”.
“...”.
Lưu Giám đã hiểu, các mưu sĩ đều mong có được sự ủng hộ của cha con An Thanh vương. Chàng trầm tĩnh nói: “Tình cảnh quả nhân chứng kiến hôm nay, mặc dù có hoài nghi, nhưng vẫn thấy không giống diễn trò, bất luận thế nào ta không thể khinh suất bỏ qua sự ủng hộ của cha con An Thanh vương!”.
“Điện hạ anh minh! Được sự ủng hộ của cha con họ, cuộc chiến này, phần thắng của chúng ra càng chắc chắn. Chỉ có điều thần cho rằng, ta không nên tin hoàn toàn”. Một mưu sĩ trầm ngâm.
Thái tử cau mày: “Phải tin, muốn mượn sức của họ, lại không tin họ hoàn toàn biết xử trí thế nào?!”.
Vương Yến Hồi cười nhạt: “Điện hạ chớ lo, cha thiếp đã định xong kế hoạch, thay hết thị vệ trong cung. Bình Nam vương khống chế được Phong thành, nhưng không khống chế được vương cung, nếu có biến, vương cung sẽ là tuyến phòng thủ cuối cùng của chúng ta. Chuyện này thần thiếp đã giao cho Thành thị lang đích thân lo liệu. Tấn công vương cung mãi không thành, Ninh quốc tất đại loạn. Như vậy, binh mã bố trí ở các nơi cũng sẽ chia thành hai phái, một ủng hộ chàng, một ủng hộ tứ hoàng đệ, lúc đó ai chết trong tay ai, đành dựa vào bản lĩnh của mỗi người”.
Nỗi do dự băn khoăn trong mắt Vương Yến Hồi dần dần thay bằng vẻ dứt khoát kiên định: “Ngày mười lăm tháng ba, nếu tứ hoàng tử và Bình Nam vương giao chiến thật, chính là cơ hội chúng ta quăng mẻ lưới bắt gọn, nếu bọn họ liên thủ, chắc chắn đã có bố trí, như vậy bất luận là khả năng nào, chúng ta cũng phải khiến bọn họ không thể thoát khỏi thung lũng”.
Thái tử trầm ngâm một lát: “Nàng đừng quên, mười lăm vạn đại quân Nam lộ của Bình Nam vương đang đợi chúng ta ra tay trước, chính là cho bọn họ cái cớ dấy binh, cách đại lễ đăng ca chỉ có ba ngày, tiêu diệt tứ hoàng đệ và Bình Nam vương, quần thần trong triều ai phục?”.
“Điện hạ quên rồi sao, muốn xuất binh, tất phải điều động hai vạn Bắc quân của thiếp ẩn trong rừng Hắc sơn. Đội quân này không có quân chế, tra soát cũng không ra, thắng bại đều không can hệ gì tới Đông cung và vương thất”. Nét mặt Vương Yến Hồi lộ vẻ tự hào, “Hơn nữa, có thể đấu với tứ hoàng đệ và Bình Nam vương cũng là vinh hạnh của Yến Hồi!”.
Mưu sĩ vui mừng thần phục: “Thái tử phi nói chí phải”.
Lưu Giám thở phào: “Vậy cứ làm như kế đã định, lui cả đi!”.
“Chúng thần cáo lui!”. Các mưu sĩ thi lễ rời đi.
Thanh Lôi đi đến ngoài cửa điện, cung nhân vào báo thái tử và Vương Yến Hồi. Vương Yến Hồi cười cười nói với thái tử: “Lý lương đệ đối với điện hạ tình sâu nghĩa nặng, điện hạ chớ phụ nàng”. Nói đoạn quay người tựa tràng kỷ, tươi cười chờ Thanh Lôi.
Ánh mắt thái tử lay động, ý tứ sâu xa: “Kỳ thực có được tấm chân tình của Yến Hồi cùng Thanh Lôi, Lưu Giám này đã mãn nguyện rồi”.
Thanh Lôi thong thả bước vào, hành lễ xong đứng sang một bên: “Không biết tỷ tỷ gọi Thanh Lôi đến có việc gì?”.
“Lôi Nhi chắc không biết...”. Thái tử kể lại chi tiết sự việc nhìn thấy trong phủ An Thanh vương, lại thở dài, nói: “Ta đang bàn với Yến Hồi, nên hóa giải thế nào?”.
Thanh Lôi kinh ngạc: “Sao A La lại gây ra phiền phức lớn như thế! Phụ thân thiếp nói thế nào?”.
“Lý tướng chỉ kêu đau đầu, phủ An Thanh vương không chịu thả Thanh La về nhà, ôi chà chà!’’.
“Ý điện hạ là...”. Thanh Lôi dè dặt hỏi.
Vương Yến Hồi giọng khoan thai: “Theo thiếp, tốt nhất đón Thanh La vào cung, đợi qua lễ đăng cơ, điện hạ đích thân ban tú cầu, ném tú cầu chọn rể là xong”.
Thanh Lôi cười khúc khích: “Tỷ tỷ thực thú vị, chưa biết chừng hai vị vương gia tranh giành, làm hỏng tú cầu cũng nên”.
“Còn không ư? Hôm nay nếu không có mặt điện hạ, hai vị đó suýt phá tan phủ An Thanh vương. Ta thấy tiểu muội Thanh La rất không muốn lưu lại phủ An Thanh vương, nhưng không cưỡng được Bình Nam vương, về nhà lại sợ nghe Lý tướng phàn nàn, thà vào cung chơi với Tâm Nhi cho khuây khỏa”. Vương Yến Hồi giọng vui vẻ, nhưng ánh mắt nhìn Thanh Lôi lạnh như băng, thầm nghĩ, nhất định phải khống chế Lý Thanh La trong tay.
Thanh Lôi hơi run, gượng cười: “Tỷ tỷ và điện hạ cũng suy nghĩ cho A La, thật là phúc của muội ấy. Tâm Nhi sau khi gặp A La, suốt ngày hỏi bao giờ được gặp di nương. Thiếp nghĩ, A La chắc cũng muốn gặp Tâm Nhi”.
Vương Yến Hồi cười tươi như gió xuân: “Muội nghĩ rất chu toàn, Bình Nam vương là tổ kiến lửa, đừng chọc giận y. A, ngày mười lăm tháng ba y còn giao đấu với tứ hoàng đệ. Chiến đấu vì hồng nhan, thật nghĩa hiệp!”.
Thanh Lôi cười: “Có hai vị vương gia như vậy chăm sóc, Thanh La cũng thực may mắn”. Mắt bất giác liếc trộm thái tử, thấy chàng vẫn trầm tư, thầm thở dài, miệng vẫn tươi cười, “Thanh Lôi cáo lui trước, còn đi báo tin vui với Tâm Nhi”.
Thanh Lôi cúi chào lui ra, thái tử ngồi trong điện, mắt nhìn thái tử phi. Vương Yến Hồi lơ đãng nói: “Yến Hồi hơi mệt, điện hạ đến thăm Tâm Nhi đi”.
Thái tử nắm tay nàng ta, nhưng trên khuôn mặt tuấn tú của chàng không giấu nổi vẻ chán ghét, chàng mỉm cười nói: “Ái phi nghỉ sớm đi!”.
Vương Yến Hồi cười cười. Chàng đâu phải ý trung nhân của ta, lần này coi như ta giúp chàng ta lần cuối, nếu chàng không thắng được, ta cũng hết cách.

Tại Thành phủ phía tây Phong thành, Thanh Phỉ đang khâu áo sơ sinh. Thành Tư Duyệt đẩy cửa vào, Thanh Phỉ ngẩng đầu, dịu dàng nhìn chàng, lại cúi đầu khâu tiếp: “Tướng công hôm nay về sớm vậy, còn mấy mũi nữa, chờ thiếp một lát!”.
Thành Tư Duyệt đi đến ngồi trước mặt Thanh Phỉ, chớp mắt nhìn nàng. Thanh Phỉ sắp làm mẹ mà vẫn đẹp như vậy. Chàng nhẹ nhàng đưa tay, vuốt ve cái bụng đang nhô lên của nàng, còn năm tháng nữa, chàng sẽ làm cha: “Hôm nay tình hình vẫn tốt chứ?”.
Thanh Phỉ thoáng đỏ mặt, mắt long lanh cười nũng nịu: “Vâng, vẫn tốt”. Nói đoạn cúi đầu cắn sợi chỉ, trải chiếc áo bé xíu ra, “Xinh không?”.
“Tốt, mọi thứ Phỉ Nhi làm đều đẹp, sau này bảo bối chúng ta mặc không biết sẽ đẹp thế nào!”.
Thanh Phỉ dẩu môi, “Nhưng chàng luôn bận rộn, mấy ngày không về nhà. Sau này nếu chàng cứ thế, bảo bối của chúng ta sẽ không nhận cha đâu”.
Thành Tư Duyệt cười dịu dàng: “Ta hứa với nàng, đợi ta bận rộn qua lễ đăng cơ, nhất định sẽ ở bên mẹ con nàng”.
Thanh Phỉ mãn nguyện dựa vào lòng chàng, những việc trong nhà nàng cũng đã nghe nói. Đại tỷ Thanh Lôi từ nhỏ đã thân với nàng, nàng hiểu nỗi khổ của tỷ ấy, còn đối với tiểu muội Thanh La tuy không thân, những cũng chẳng có ác ý. Trong bữa tiệc ở Đông cung, vì đại tỷ, cũng vì Thành Tư Duyệt, nàng đã làm chứng đổ tội cho Thanh La, lòng vẫn áy náy không yên, may mà Thanh La cũng không xảy ra chuyện gì, mọi chuyện cũng đã qua.
Đại tỷ ở trong cung, mặc dù đắc sủng, thực tế có trăm nỗi khổ, tiểu muội Thanh La bị hai vị vương gia tranh giành đến giờ vẫn chưa ngã ngũ. Chỉ có bản thân, từ ngày được gả vào Thành phủ, không hề bước chân ra ngoài, cùng với Thành Tư Duyệt ngâm thơ họa vần, sống rất hạnh phúc.
“Phỉ Nhi, nàng có biết, từ nhỏ ta là trẻ mồ côi, có gia đình như ngày nay, tình cảm trong lòng khác với mọi người. Nàng là thiên kim tướng phủ, lấy ta nàng sẽ khổ”. Thành Tư Duyệt than thở.
“Tướng công nói gì vậy, bất luận tướng công làm gì, thiếp đều ủng hộ. Chàng tốt với thiếp như thế, bây giờ chúng ta lại sắp có con, ngày xưa sống trong tướng phủ thiếp cũng không thấy thoải mái như bây giờ. Phỉ Nhi rất biết tự bằng lòng”.
Thành Tư Duyệt cười: “Ta biết vì ta, bảo nàng cầm dao giết người nàng cũng sẽ làm”.
Thanh Phỉ sung sướng, giơ tay bịt miệng chàng: “Nói gì thế, không được làm con chúng ta sợ”.
Thành Tư Duyệt đỡ nàng đứng dậy: “Ta đưa nàng đi dạo, đi bộ nhiều mới tốt”.
Trong sân nhỏ, mấy nhành nghênh xuân ra hoa rất đẹp, Thành Tư Duyệt hái một bông, nhẹ nhàng cài lên tóc Thanh Phỉ: “Phỉ Nhi đẹp thật, sắp làm mẹ rồi, mỗi lần nhìn nàng ta đều thấy hình như nàng lại đẹp hơn”.
“Ba chị em thiếp, đại tỷ là đẹp nhất”. Thanh Phỉ cười.
“Theo ta, luận về nhan sắc có lẽ Thanh La đẹp nhất”. Thành Tư Duyệt nói.
“Sao? Ba năm thiếp không gặp A La, bây giờ A La còn đẹp hơn đại tỷ hay sao?”. Thanh Phỉ kinh ngạc.
Thành Tư Duyệt cười: “Đúng thế. Có điều ta chỉ yêu một mình Phỉ Nhi của ta”. Chàng dừng lại, ánh mắt thâm trầm nhìn nàng, mỉm cười, “Bởi vì Phỉ Nhi đã vì ta mà vứt bỏ cả lương tâm của mình”.
Thanh Phỉ biết chàng đang nói chuyện xảy ra trong bữa tiệc ở Đông cung ba năm trước, bất giác vừa buồn vừa hối hận: “Chàng còn gợi chuyện cũ trêu thiếp!”.
Thành Tư Duyệt ôm nàng vào lòng, “Lúc đó ta đã biết có ẩn tình, nhưng Phỉ Nhi có thể vì ta bất chấp lương tâm để nói dối, mặc dù người khác chê cười nàng, nhưng trong lòng ta nàng vẫn là người hiếm có. Bắt đầu từ lúc đó ta đã quyết lấy nàng làm vợ”.
Thanh Phỉ bỗng đỏ mặt, bẽn lẽn: “Làm gì có lối thích người khác như thế!”.
“Ta khác người thường. Phỉ Nhi, nàng là vợ ta, một lòng một dạ với ta, như vậy ta đã mãn nguyện rồi”. Thành Tư Duyệt trang nghiêm nói, chần chừ một lát, lại tiếp: “Phỉ Nhi, sắp tới tình hình rất căng thẳng, ta muốn nàng hứa với ta, không được rời phủ nửa bước. Bất luận là ai, cho dù mẹ nàng đích thân đến đón, nàng cũng tuyệt đối không được rời phủ!”.
Sắc mặt trầm lặng, chàng nhìn Thanh Phỉ, vẻ rất nghiêm túc. Thanh Phỉ cười: “Thiếp hiểu, tướng công cần làm gì cứ đi, thiếp biết, lúc này càng gần lễ đăng cơ, tình hình càng căng thẳng”.
Mắt Thành Tư Duyệt lóe sáng: “Nhất thiết không được vào cung, bất luận là đại tỷ cầu khẩn thế nào, nàng đều không được đi. Trong cung rất nguy hiểm, không được giẫm vào vũng lầy đó, càng không nên vì ta làm bất cứ chuyện gì. Chỉ cần mẹ con nàng bình an, là ta không lo gì hết”.
Thanh Phỉ gật đầu, cười: “Tướng công, căng thẳng như vậy sao? Bình thường chàng bận đến đâu, mấy ngày không về nhà, cũng không thấy chàng nghiêm túc như vậy”.
“Con người ta luôn có điểm yếu, bây giờ điểm yếu của ta là mẹ con nàng”. Thành Tư Duyệt nói nhỏ. “Ta đã thu xếp người bí mật bảo vệ nàng, ngộ nhỡ có biến cố, sẽ đón nàng đi. Nhớ kỹ trừ phi có người đưa mảnh ngọc bội giống như mảnh nàng mang trong người, nếu không nhất định không được tin ai. Cho dù cha nàng đến đón, nàng cũng không được đi”.
Thanh Phỉ không nén nổi, bắt đầu lo lắng: “Chàng có gặp nguy hiểm không, tướng công? Thiếp sợ lắm!”.
Thành Tư Duyệt trầm giọng: “Phỉ Nhi của ta là người cứng rắn, cho dù ta có bất trắc gì, vì con của chúng ta nàng phải kiên cường sống tiếp, hiểu không?”.
Thanh Phỉ đỏ mặt, Thành Tư Duyệt khẽ thở dài, “Không có đâu, trên đời chẳng ai cần cái mạng của tướng công nàng”. Chàng lấy lại tinh thần, tươi tỉnh hẳn, ngây người nhìn Thanh Phỉ, cảm giác bình yên lại dâng trong lòng.

Theo bố trí của An Thanh vương, Thành Tư Duyệt bắt đầu tráo đổi người vào cung. Tương ứng, những quần thần trung thành với Tử Ly cũng bố trí tai mắt trong cấm vệ quân.
Ngày mồng mười tháng ba, Cố tướng lấy cớ chăm con gái, sải bước dài đi vào phủ Ly Thân vương. Tổng hợp các nguồn tin ở Phong thành, điều động binh mã ở Biên thành khiến Tử Ly bận tối mắt, khi Cố tướng đến, chàng đang xem bản đồ địa hình khe núi Hoàng Thủy.
“Nhạc phụ đại nhân!”. Tử Ly cúi người hành lễ, bình tĩnh đỡ Cố tướng an tọa, “Chuyện ở An thanh vương phủ đã làm nhạc phụ không vui”.
“Ôi dào, đàn ông năm thê bảy thiếp chuyện thường, huống hồ sau này con...”. Cố tướng thở dài, không muốn nhắc lại chuyện đó, nói đến là đau đầu, quên cả thân phận của Tử Ly.
Tử Ly nói thẳng: “Nhạc phụ hiểu lầm rồi, đó là mưu kế của Tử Ly và vương thúc, dù thái tử có tin hay không, cũng ít nhiều mê hoặc thái tử. Sau này bất luận thế nào Thiên Lâm đều là chính thê kết tóc xe tơ của con, con sẽ đối xử tốt với nàng”.
“Lão cáo già đó, ngay cả ta cũng giấu!”. Miệng nói vậy mà lòng nở hoa, Cố tướng nói, “Có An Thanh vương hỗ trợ, chuyện này sẽ thuận lợi vô cùng. Danh tính trong tờ kê này là người của chúng ta trong cung, điện hạ hãy thu nạp”.
Tử Ly trịnh trọng tiếp nhận: “Con và Bình Nam vương đã suy nghĩ kỹ, giao đấu ở khe núi Hoàng Thủy nên như thế nào, nhạc phụ có cao kiến gì không?”.
“Thế nào? Đánh cho Đông cung xem ư?
Tử Ly trầm ngâm rất lâu: “Vương thúc từng trải qua trăm trận, ý của vương thúc là, đây là kế trong kế, chúng ta định ra kế này, nhưng cũng đề phòng Đông cung tương kế tựu kế. Nghe đồn Vương Yến Hồi mưu lược hơn người, hành quân bố trận đều tinh thông, Vương thái úy từng nói, có đứa con gái này có thể địch với mười vạn tinh binh, không biết thủ pháp của nàng ta thế nào”.
“Thiên Tường thống lãnh thủy quân Nam quân đã lâu, khi luận đàm binh pháp với thống lãnh lục quân Nam quân, người này từng nói, Vương Yến Hồi tiểu thư bài binh bố trận đều thích lưu lại một nước cờ bất ngờ, trong mọi tình huống đều có một chiêu sau cùng, thông thường chính chiêu này mới là tinh binh tối hậu”. Cố tướng suy nghĩ rồi trả lời.
“Lời của nhạc phụ cũng tương tự dự đoán của vương thúc và Bình Nam vương, đây là khe núi Hoàng Thủy, phía bắc là phần kéo dài của dãy Ngọc Tượng, giấu binh ở thảo nguyên không thích hợp, muốn phục binh ở khe núi cũng rất khó, bỏi vì trên đó chắc chắn có binh mã của chúng ta mai phục, cho nên họ đành từ bên này núi đánh sang khe núi đó. Nhưng cách này rất ngốc, bởi vì chỗ cao là người của chúng ta, từ trên cao nhìn xuống, đối phương nằm gọn trong tầm mắt chúng ta, họ bại là chắc. Chúng ta mai phục chặn cửa khẩu vào khe núi cũng dễ, cái khó là làm thế nào để dụ địch vào trong hẻm núi đó”.
Ngoài cửa có tiếng cười khẽ: “Ám Dạ cầu kiến”.
Tử Ly hơi bực mình, mỗi lần Ám Dạ đến đều nhẹ như cái bóng, chàng hạ giọng: “Mời vào!”.
Ám Dạ từ cửa sổ vọt vào, chắp tay chào Cố tướng nhưng không lên tiếng, lôi ra từ trong người một vật để lên án thư, nói khẽ: “Bản đồ bố trận chủ nhân giao cho”. Nói đoạn, chắp tay hành lễ, lại vọt ra ngoài.
Cố tướng kinh ngạc: “Ô y kỵ của An Thanh vương phủ ư? Sao ta chưa bao giờ biết bên cạnh Tử Ly cũng có Ô y kỵ?”.
Tử Ly cười: “Vương thúc rất tín nhiệm người này, con cũng coi trọng y”. Nói đoạn mở bản đồ bố trận, hít một hơi, cười phấn khởi: “Đúng là diệu kế, vương thúc bản lĩnh thực cao cường! Tử Ly khâm phục!”.
Cô tướng nghiêng đầu nhìn, vuốt chòm râu bạc trắng, cười khà khà: “Nếu kế này mà thành, sau trận này, Đông cung không còn khả năng tranh giành với chúng ta nữa. Lão cáo già đúng là cáo già”.
Tử Ly đốt tấm bản đồ, quay người hành lễ: “Như vậy, ngày mười lăm tháng ba mọi sự trong vương cung xin trông cậy vào nhạc phụ và quần thần tâm phúc. Nhạc phụ đừng lo cho Thiên Lâm, con đã để năm trăm thiết vệ quân trong vương phủ, binh mã còn lại đều giao cho vương thúc, An Thanh vương sẽ đích thân chỉ huy trấn thủ Phong thành, khống chế cục diện trong thành”.
Sau khi Cố tướng đi ra, Tử Ly mở cửa sổ, trong gió đêm vẳng lại tiếng đàn thấp thoáng, trong đó hàm ẩn một chút trách móc nhẹ nhàng. Sau khi trở về Phong thành, chàng chỉ gặp Cố Thiên Lâm hai lần, những ngày này luôn một mình trong thư phòng, nàng... Tử Ly thở dài, lặng lẽ đóng cửa sổ, tiếng đàn bị chặn lại bên ngoài, yếu dần rồi tắt hẳn.
Chàng lấy ra bình rượu từ Biên thành mang về, thong thả uổng, cố gắng gạt đi những suy nghĩ lan man. Chàng tự nhủ, việc quan trọng lúc này không phải là tình cảm nam nữ, tuy nhiên khuôn mặt A La cứ hiện lên trước mặt chàng không thể khống chế, đôi đồng tử lóng lánh, sinh động. Chàng ngửa cổ tu cạn bình rượu, cuối cùng đầu hơi chếnh choáng. Chàng mỉm cười, như thế này có thể ngủ được rồi.
Mùa xuân bước nhanh chân, bảy ngày đại tế đã qua, quan tài bằng ngọc của Ninh vương được chuyển lên táng trên đỉnh núi, những lá phướn trắng trong cung được hạ xuống, núi Ngọc Tượng lộ ra một màu xanh nhung, dần dần khôi phục sinh khí ngày xưa. Cùng với lễ đăng cơ của tân vương đang tới, không khí cảnh giác trong vương cung càng tăng. Vương cung đồ sộ vắng tiếng tơ trúc do Ninh vương băng hà, đêm vừa xuống càng trở nên vắng lặng, im lìm.
Trong Ngọc Phượng cung, Vương hoàng hậu, thái tử, Vương Yến Hồi và Vương thái úy tề tựu tại chính đường. Ngày mai đã là ngày mười lăm, không khí bức bối trước cuộc giao chiến khiến thái tử nóng ruột, nhưng lại khấp khởi mừng thầm. Chàng hạ giọng hỏi: “Mẫu hậu, tại sao phụ hoàng vừa ra đi, tứ hoàng đệ cơ hồ biến thành một người khác hẳn? Không có phụ hoàng che chở, sao hắn dám to gan như vậy?”.
Vương hoàng hậu suy nghĩ hồi lâu nói: “Thực ra mẫu hậu luôn muốn trừ khử Lưu Phi, ai dè hắn ta bề ngoài cơ hồ chỉ có một mình, lại luôn có thị vệ lẩn quất xung quanh, bao nhiêu năm, chưa một lần đắc thủ. Chúng ta cũng không thấy di chiếu của phụ hoàng con, liệu có phải đã âm thầm hạ chiếu muốn truyền ngôi cho hắn?”.
“Lo lắng của muội không hẳn không có lý, thái tử còn nhớ chứ, khi tuyển lập thái tử phi, vương thượng một mực muốn ban con gái Cố tướng cho Ly Thân vương? Cố tướng là nguyên lão hai triều, môn sinh vô số, đích tử là Cố Thiên Tường nhiều năm trong quân ngũ, uy tín rất cao, Tử Ly nếu được Cố tướng ủng hộ, tất sẽ như hổ mọc cánh. Ta thấy lúc đó vương thượng đã có ý bồi dưỡng thế lực cho Tứ điện hạ”. Vương thái úy nói.
Thái tử quay sang Vương Yến Hồi: “Lúc đầu nếu không phải nghe kiến nghị của nàng, trong tay Lưu Phi đâu có binh quyền? Khống chế hắn trong thành, giết hắn dễ như giết kiến!”. Khẩu khí đã thoáng ý chỉ trích.
Vương Yến Hồi giật mình, nhưng vẫn bình tĩnh nói: “Nếu không tước Hữu quân trong tay An Thanh vương, cha con cùng dấy binh, chàng và tứ điện hạ đều không có cơ hội. Hiện nay ít nhất An Thanh vương bề ngoài tỏ ra ủng hộ Đông cung chúng ta, cho dù ông ra liên thủ với tứ hoàng đệ, lực lượng của bọn họ và chúng ta cũng tương đương! Nên biết Hữu quân trên danh nghĩa là do Ly Thân vương thống lĩnh, Ly Thân vương khi sử dụng cũng đâu có thuận lợi như An Thanh vương? Vì vậy sức chiến đấu cũng sẽ yếu vài phần. Nam quân trong tay Bình Nam vương cũng vậy, lực lượng của họ Vương chúng ta, cho dù bị bọn họ diệt bảy tám phần, cũng vẫn còn hai ba phần trong tay”.
Nàng từ từ liếc nhìn mọi người xung quanh, nhìn phụ thân Vương thái úy. Vương thái úy cười hà hà, thần sắc ngạc nhiên: “Nội ứng của chúng ta ở Nam quân cho biết, Nam quân trấn giữ bên ngoài cổng nam thành, ba vạn binh mã đã chia ra trấn thủ các cổng của Phong thành, không thể khinh suất điều động, vì vậy chỉ có một vạn quân sĩ điều về Phía tây. Tin từ Biên thành cho biết, Ly Thân vương chỉ mang hai vạn Hữu quân, hai vạn quân này lập trại ở khe núi Hoàng Thủy”.
“Có nghĩa là có hai khả năng, một là hai người đó định giao chiến một trận thật sự, hai là hai người họ liên thủ bày trận định nuốt chửng một phần binh mã chúng ta. Nếu là khả năng thứ nhất, đợi hai người đánh nhau một chặp, chúng ta tiện thể cất một mẻ lưới bắt giết Ly Thân vương! Nếu là khả năng thứ hai, họ cũng giả bộ đánh một hồi, chúng ta cũng nhân lúc tình hình rối loạn mà ra tay. Hai người binh lực hợp lại cũng không quá ba vạn binh mã, đến lúc đó điện hạ lấy cớ sợ hai tiểu đệ bị tổn thương, mang năm vạn binh mã Đông quân của chúng ta đến, còn hai vạn tinh binh Bắc quân sẽ nấp phía sau, đợi lúc bọn họ không đề phòng sẽ ra tay”. Vương Yến Hồi thong thả nói kế hoạch.
Mắt thái tử sáng bừng, phấn khởi, không kìm được nắm tay Vương Yến Hồi: “Có ái phi định kế, coi như yên tâm”. Bất chợt lại lo lắng: “Nhưng nếu vậy, ta đi khỏi, chẳng phải vương cung bỏ trống sao?”.
Vương thái úy cười: “Thái tử yên tâm, binh sĩ cấm vệ quân trong cung, ta đã nắm trong tay tám, chín phần, Thành thị lang theo lệnh của ta đã sớm bố trí đâu vào đó. Bọn họ không động binh, không có nghĩa chúng ta không động, chỉ cần nhận được tin báo từ phía tây, Đông quân của ta lập tức từ cổng đông thành nghênh đón thái tử vào Phong thành. Binh sĩ thủ thành không quá ba vạn, cứ coi cộng thêm sáu vạn Nam quân, sao có thể địch nổi mười lăm vạn đại quân của ta? Hơn nữa, lại có Yến Hồi trấn thủ trong cung”.
“Chẳng lẽ sáu vạn Nam quân còn lại không có động tĩnh gì?”. Vương hoàng hậu hỏi.
Vương Yến Hồi đáp: “Mẫu hậu có lẽ không biết, sáu vạn Nam quân kia hiện đã rất khó điều động, họ còn lo đối phó mười lăm vạn Đông quân của ta đồn trú tại ngoại ô phía đông. Chỉ riêng binh lực, họ đã không bằng Đông quân. Nhưng chúng ta cũng không thể khẳng định Ly Thân vương đã liên thủ với cha con An Thanh vương, cho nên chỉ có thể phòng không thể đánh. Chúng ta biết hai người họ sẽ thực chiến ở khe núi Hoàng Thủy, nhưng họ lại không biết chúng ta có đến hay không, đến lúc này, chúng ta đã nắm chắc ưu thế”. Trong lòng Vương Yến Hồi thầm nghĩ, thực ra thái tử không đi mới là cách hay nhất, đã biết Nam quân và Hữu quân cộng lại vẫn chưa mạnh bằng Đông quân, đợi bọn họ thực sự tấn công Phong thành, triển khai chiến trận mới là kẻ hay. Chỉ có điều... nàng thở dài, ai bảo nàng là người đưa ra quyết định?
Thái tử nghĩ một lát, nở nụ cười thỏa mãn, chuyển hướng suy nghĩ, nói: “Bất luận hai người liệu có phải đánh nhau vì Lý Thanh La thật không, Lý Thanh La cũng là con bài vô cùng quan trọng đối với cục diện này, chúng ta phải nghĩ cách đưa nàng ta vào cung trước ngày mười lăm tháng ba”.
Vương Yến Hồi cười: “Điều đó còn phải xem thái tử có nỡ hay không!”.
Thái tử nghi hoặc nhìn nàng. Vương Yến Hồi nói: “Theo thiếp quan sát, Lý Thanh La cũng chẳng mấy thân thiết với đại tỷ và cả nhà Lý tướng, nhưng thiếp thấy cô ta thực lòng thích Tâm Nhi”.
“Không được! Tâm Nhi còn nhỏ, không được đưa vào chỗ nguy hiểm!”. Thái tử nói như đinh đóng cột.
Vương Yến Hồi vẫn tươi cười: “Thiếp biết điện hạ không nỡ mà, cho nên, thiếp chỉ đưa tỳ nữ của nàng ta vào cung. Thị vệ của nàng ta võ công cao cường, đả thương hơn mười cao thủ của thiếp, cũng được, để bọn họ trở về đưa thư”.
“Như vậy, chẳng phải rút dây động rừng hay sao?”.
“Thiếp thấy hai người đó có tình ý, thiếp chỉ nói với anh ta, chuyện này chỉ cần cho Lý Thanh La biết, thêm một người biết, coi như chờ nhận thêm một cái xác”.
Khi Vương Yến Hồi nói ra câu đó. Lưu Anh người đầy máu quỳ trước mặt Lưu Giác, kể lại chi tiết sự việc. Lưu Giác cau mày, hỏi: “Vậy tại sao ngươi không nói cho một mình A La biết?”.
Lưu Anh cười: “Chúa thượng đã dặn, nhất định phải bảo vệ tiểu thư, nói cho tiểu thư biết, tiểu thư không xông vào cung mới lạ. Lưu Anh đã trung thành với tiểu thư, sao có thể để tiểu thư biết mà hại tiểu thư!”.
Mắt Lưu Giác lộ vẻ cảm động: “Ngươi yên tâm, bản vương sẽ trả Tiểu Ngọc nguyên vẹn cho ngươi”.
“Tạ ơn chúa thượng, Lưu Anh không dám lộ mặt trước tiểu thư, bây giờ sẽ tìm chỗ dưỡng thương”.
“Nếu vết thương không quá nặng, ngươi hãy đến chỗ của Cáp tổ. Ám Dạ đang có việc phải làm, thời gian này Ô y kỵ do ngươi phụ trách”. Lưu Giác nói, ném cho Lưu Anh lọ thuốc trị thương.
Lưu Giác nhắm mắt chậm rãi suy nghĩ. Đông cung không thật sự tin mình và Tử Ly trở mặt, nhưng lại không thể khẳng định hai bên liệu có liên thủ hay không. Tình hình này đã nằm trong suy đoán của ta, mọi bố trí đều nỗ lực theo hướng này. Ngày mai đã là mười lăm tháng ba, tất thảy mọi thứ đều sẽ kết thúc trong ngày này. Chàng đột nhiên thấy hoang mang, đứng dậy đi về phía phòng ngủ.
Trong phòng, A La đang chơi đàn, miệng khẽ hát khúc hát đã hát ở Lâm Nam: “Chim bay mỏi cánh chạm chân sông, rồng vẫy chán vắt ngang lưng núi, non non nước nước muôn trùng gấm, hải đường diễm sắc nhớ chàng mà say”.
Lưu Giác đứng ngoài cửa ngây người nghe. Lúc này, trong lòng A La đã có chàng. Nụ cười ấm áp trên môi, chàng đẩy nhẹ cửa nói đùa: “Ta cũng say đây!”.
A La đỏ mặt, dừng tay. Hôm nay nàng đặc biệt bảo Tư Họa chải tóc cho mình thật kỹ, những sợi tóc mai bay bay, như sương như khói, đôi mắt lóng lánh thủy tinh, chan chứa tình cảm mà chàng không biết, Lưu Giác đột nhiên đứng ngây ra. A La mỉm cười nói khẽ: “Chàng đang định nói, ai bảo thiếp ăn vận thế này chứ gì? Không đẹp sao?”.
Lưu Giác hơi bất lực, vẻ sôi nổi bông lơn ngày xưa đã bay biến đi đâu, chàng ấp úng: “Không đâu, rất... rất đẹp mà”.
A La lườm chàng: “Đàn ông khi yêu đều rất ngốc!”.
Lưu Giác vẫn ngơ ngẩn, bất giác gật đầu. Lát sau mới định thần, nói: “Ý ta là nàng chỉ được mặc cho mình ta ngắm!”.
“Vậy, sau này thiếp ra ngoài cũng khỏi cần mặc trang phục nữa hay sao?”. A La nghĩ, đấy là nàng còn chưa mặc mấy kiểu hở hang, e rằng như vậy sẽ khiến chàng chết khiếp!
“Hả, nàng dám! Những lời thương phong bại tục như vậy mà nàng cũng dám nói?”. Lưu Giác mặt đỏ bừng, nha đầu này trở nên to gan như vậy từ lúc nào?
“Thiếp không chỉ nói được, mà còn làm được!”. A La từ từ kéo giải áo, chiếc áo choàng bên ngoài tuột xuống, bên trong chỉ có chiếc váy mỏng và yếm ngực màu xanh nhạt, lộ ra đôi tay và bờ vai trần.
Lưu Giác hoảng hốt nhảy đến, nhặt chiếc áo choàng bọc lấy nàng: “Nàng làm gì vậy!”.
“Chàng không muốn sao? Chẳng may ngày mai chàng có mệnh hệ gì... thiếp không muốn hối hận!”. A La bình tĩnh nói. Nàng không có tư tưởng bảo thủ như người xưa, lại sợ nhỡ có chuyện gì sẽ không gặp được người đàn ông như Lưu Giác nữa.
“Không có chẳng may nào hết! Ta nhất định bình an trở về, đợi mọi sự hoàn tất, ta sẽ cưới nàng về phủ, ta muốn là của nàng vào đêm động phòng!”. Lưu Giác nói.
A La thở dài, hết cách. Người ở đây đầu óc bảo thủ, khi người ta không muốn lại dường như chỉ muốn ăn tươi nuốt sống, đến khi người ta muốn cho lại nghĩa hiệp chối từ. Xem ra mình vẫn đánh giá cao thân xác mình rồi, tưởng là chàng nhìn thấy là lập tức ngất xỉu.
Lưu Giác khẽ khàng giúp nàng sửa lại trang phục, kéo nàng vào lòng: “A La, nàng phải hứa với ta, ở trong vương phủ đợi ta quay về. Bên ngoài rất loạn, không nên đi đâu. Hãy tin ta, được không?”.
A La nhìn chàng, khuôn mặt đó nàng càng nhìn càng thấy đẹp. Tất cả kể cả con người chàng và những thứ đang có đều đẹp đến nỗi khiến nàng bất giác hoài nghi, không biết sau này liệu còn gì trắc trở? Liệu có thể suốt đời sống yên ổn cùng chàng? Mặc dù Lưu Giác không nói với nàng tình hình chuẩn bị cho cuộc chiến ở khe núi Hoàng Thủy, nhưng nhìn vẻ bận rộn những ngày vừa qua của chàng, A La cũng đoán ra tình hình căng thẳng nguy hiểm trong đó. Đây là cuộc chiến tranh giành vương vị, chiến tranh thời kỳ vũ khí lạnh vô cùng thảm khốc, nghĩ đến cảnh chiến trường đầy xác chết, máu chảy thành sông, nàng bất giác tim đập chân run. Cũng muốn hỏi chàng tình hình, đưa ra chút ít kiến nghị, nhưng lại sợ mình không có tri thức quân sự, ngộ nhỡ nói sai làm hỏng việc, nhưng không hỏi lại không yên tâm: “Có thể cho thiếp biết tình hình ở khe núi Hoàng Thủy không?”.
Lưu Giác vốn không muốn cho nàng biết, sợ nàng lo lắng, chàng cảm thấy đánh trận là việc của đàn ông. Nghe nàng hỏi, chàng nghĩ một lát, nhân tiện rà soát lại lộ trình lần nữa, sau đó lấy bút vẽ tình hình đại khái, giảng cho nàng nghe.
A La nghe đến đoạn Lưu Giác nói, trên thảo nguyên chỉ có cỏ thấp, không có cách nào ẩn náu mai phục, đột nhiên nghĩ tới bộ phim từng xem, hỏi: “Nếu binh sĩ vận trang phục như màu cỏ, lấy cỏ làm y phục, bôi mặt màu xanh và màu đất, không mang theo cờ, mai phục trên thảo nguyên, chắc sẽ không bị phát hiện?”.
Lưu Giác ngẩn người, rồi kinh ngạc mừng rỡ: “Nàng luôn nghĩ ra kế vặt gì đó, nhưng lại rất hữu dụng”. Hôn nàng thật kêu rồi chàng quay người chạy đi.

CHƯƠNG 27



Tại đại bản doanh ở ngoại ô phía đông Phong thành, thái tử điểm quân rồi dẫn năm vạn binh sĩ, đi về hướng khe núi Hoàng Thủy. Năm vạn Đông quân đều vận chiến giáp màu vàng, đi vào thảo nguvên chớm xuân xanh mởn, nhìn xa như một đóa hướng dương vàng rực. Thái tử mình vận giáp mềm khóa vàng, ánh nắng ban mai chiếu vào khiến thân hình chàng phát ra muôn ngàn tia óng ánh. Chàng đi rất thư thả, ung dung, như không phải đi đánh trận mà đang du xuân thưởng ngoạn, nhưng trong huyết quản chàng máu đang cuộn trào, sôi réo. Mắt chàng lướt về phía đội quân chỉnh tề, bước đều tăm tắp, chiến giáp màu xám phía sau lưng, lại nhìn sâu vào thảo nguyên phía trước, lần đầu tiên cảm nhận sự uy phong của tướng cầm quân ra trận, lần đầu cảm thấy nam nhi nên tòng quân, lần đầu tiên khao khát khoái cảm vung đao giết người. Nếu không phải Vương thái úy và Vương Yến Hồi mấy lần nhắc nhở nhất định phải hành sự theo kế hoạch thì chàng đã vung trường kiếm, năm vạn binh sĩ xông lên, cảnh tượng mới tráng lệ làm sao!
Hôm nay, mới sáng sớm thái tử đã rời cung, lát sau đã đến phủ An Thanh vương, sau khi lo lắng một hồi, chàng nói: “Hai bên cộng lại có ba vạn binh mã, chẳng may tứ hoàng tử và Doãn Chi đánh nhau thật, tình hình này... ôi chao, nên thế nào đây!”.
An Thanh vương đầy tin tưởng, vuốt râu: “Thái tử chớ lo, tiểu tử nhà ta khi cướp vợ chắc chắn không nương tay! Còn tứ hoàng tử...”.
“Vương thúc! Đây không phải là kịch, không phải là lúc giấu giếm bao che! Hai người đó đều là rường cột của Ninh quốc, sao có thể tàn sát lẫn nhau như vậy?!”. Thái tử buồn rầu.
An Thanh vương ngây người, thái tử chắp tay sau lưng đi đi lại lại: “Hoàng huynh ta tuyệt đối không để bọn họ huynh đệ tương tàn như thế... Vương thúc đừng khuyên nữa, thúc đương nhiên phải hiểu nỗi khổ của quả vương!”.
Nói xong những lời đại nghĩa ấy, thái tử liền mang năm vạn binh mã đi khuyên can. Khi qua cổng nam thành, An Thanh vương đích thân hạ lệnh cho lính thủ thành nhường đường, ông thân chinh đứng trên thành, trịnh trọng nói với thái tử: “Điện hạ đi chuyến này nhất định phải khuyên can được hai người đó”.
Cách Cốc thành năm dặm, tướng sĩ áp tai xuống mặt đất nghe ngóng, lát sau hồi báo, phía trước có dấu hiệu bất thường, cơ hồ binh mã đang giao chiến. Thái tử cười hài lòng, đánh nhau thật sao? Chàng hạ lệnh: “Toàn quân nghỉ giải lao nửa canh giờ, sau đó tiếp tục cùng quả vương đi lên khuyên can!”. Năm vạn quân dừng lại trên thảo nguyên.
Khe núi Hoàng Thủy cách dó năm dặm được hình thành do những ngọn cuối cùng của dãy Ngọc Tượng kéo dài đến thảo nguyên. Tương truyền ngày xưa, trời và quỷ đánh nhau, một vị tướng nhà trời bị trọng thương, loạng choạng đi đến đây ngã gục mà chết, khe núi Hoàng Thủy là dấu chân cuối cùng của vị tướng đó. Tướng nhà trời mới giẫm ra một cái hố sâu rộng trên thảo nguyên đồng thời chia ranh giới mặt đất, vậy là chỗ hẹp nhất giữa hai đầu khe núi chỉ rộng có hai, ba trượng, bên trong khe lại bằng phẳng như bãi luyện binh, xung quanh vách đá sừng sững, nếu chặn hai đầu hẻm, chim cũng khó bay qua.
Hữu quân của Tử Ly giáp bạc sáng lóa, Nam quân của Lưu Giác giáp xám đen sì, hai quân chia nhau chặn hai đầu hẻm, trắng đen nổi bật. Hai người lúc này đều ngồi trên mình ngựa, nhìn bốn ngàn binh mã luyện tập chiến đấu. Tin thái tử dừng chân lập trại ở cách đó năm dặm, không lâu sau được báo lên, mắt Lưu Giác nhìn về dãy Ngọc Tượng một dải rừng xanh um tĩnh mịch phía xa. Chàng nhẩm thời gian, rút kiếm khỏi bao, mũi kiếm hướng về Tử Ly, thét lên sang sảng: “Mọi người nghe đây, hôm nay bản vương và tứ điện hạ giao chiến, không ai được xen vào!”.
Bốn ngàn binh mã bên dưới dừng đấu, mỗi bên tự quay về hàng ngũ, chừa ra một khoảng trống ở giữa. Tử Ly vận áo bào trắng giáp bạc, mang rọ che mặt, chỉ lộ ra hai mắt sáng quắc, vẻ giễu cợt, khinh khi nhìn Lưu Giác. Lưu Giác hét to, kiếm ra khỏi tay, trong chớp mắt đã thấy hai thân hình một đen một trắng quấn lấy nhau. Hai người lúc sáp gần, lúc lùi xa, rất đẹp mắt! Trong thung lũng giữa hai vách núi, ánh kiếm lóe loang loáng, tiếng va chạm xoang xoảng, khoảng hết hai tuần nhang, từ trên đỉnh vách núi vang lên một tiếng hô lớn: “Dừng tay!”.
Hai người đang hăng máu, ngẩn ra một lát, rồi lại lao vào nhau như không nghe thấy.
Thái tử nhếch mép cười lạnh lùng, hô to: “Các người sao có thể vì một người đàn bà mà bất chấp đại nghiệp tổ tiên? Huynh đệ tương tàn, chẳng phải cớ hay cho lân bang ra tay! Nếu không dừng lại, quả vương sẽ không khách khí, quyết không để hai người u mê thêm nữa!”.
Lời vừa nói ra, bên dưới đội quân hai bên lại xông ra, hai nghìn binh mã giao chiến ác liệt trong thung lũng, hoàn toàn không coi lời Lưu Giám ra gì.
Mắt thái tử dõi theo hai bóng đen trắng ở giữa, quả quyết vẫy tay, ba hàng binh sĩ tay giương cung xuất hiện trên đỉnh núi, trong nháy mắt tên bắn như mưa xuống thung lũng. Hai quân bên dưới dùng lá chắn che đỡ, nhưng vẫn có người trúng tên, bắt đầu vang lên những tiếng kêu thảm thiết. Lưu Giác phẫn nộ, hét to: “Chư quân tướng sĩ đều chứng kiến rồi đó! Thái tử điện hạ đâu đến để khuyên can, rõ ràng muốn dồn ta và tứ điện hạ vào chỗ chết. Lưu Giám! Ngươi rắp tâm tàn sát huynh đệ, đạo trời không dung!”. Nói đoạn trong tay “phù” bắn ra một đám khói, tiếng nổ giòn tan, trong không trung nở ra một đóa hoa màu đỏ.
Thái tử sững người, cười lớn: “Không dừng tay đầu hàng, thung lũng này sẽ là nơi lấy mạng hai ngươi! Các ngươi đừng hòng thoát khỏi đây!”.
Lưu Giác nhìn thái tử, ánh mắt kỳ dị, khẽ lắc đầu thở dài. Thái tử chưa bao giờ ra trận, thật sự rất ấu trĩ, sao Vương Yến Hồi mưu lược lại bày kế cho thái tử như vậy?
Tên từ trên đỉnh núi lại bay xuống như mưa, cộng thêm đá tảng lăn xuống ầm ầm. Lưu Giác không động đậy, tên bay đến chỗ chàng, sức mạnh đã giảm, binh sĩ Ô y kỵ giương lá chắn chặn đỡ. Thái tử nhìn hai đội quân đen trắng bên dưới, bụng nghĩ mình chỉ có năm vạn binh mã, chỉ có thể trấn giữ hai đầu hẻm núi, vây chặt họ nhưng lại không thể tiêu diệt hết. Lúc này từ phía sau những tiếng hô “giết” vang lên, chàng ngây người, ngoái đầu nhìn thấy trận mưa tên từ phía xa bay đến, trong chớp mắt quân hậu vệ đã đổ rạp cả loạt.
Thái tử nhìn hẻm núi sâu trước mặt, hét lớn: “Hậu ứng trở thành tiên phong, xông lên!”. Năm vạn Đông quân quay lưng về sau, như nước thủy triều màu vàng trào bên bãi biển, không lâu sau lại bị trận mưa tên đen sì ép quay lại.
Thái tử ánh mắt trân trối, một lá cờ lớn màu trắng tung lên, lính cung tên tấn công đội quân của thái tử từ phía sau chính là Hữu quân của Tử Ly. Thái tử cuối cùng đã hiểu, hai người kia quả nhiên câu kết với nhau, bây giờ không thể trách chàng nhẫn tâm, chàng trầm giọng nói: “Dàn trận!”.
Trấn giữ hai đầu hẻm núi, Đông quân ỉ vào ưu thế địa hình, nhanh chóng triển khai thế trận. Không lâu sau trên thảo nguyên trước mặt tràn ra những đốm trắng màu bạc, rồi nhanh chóng quy tụ, tựa hồ những đám mây trắng, vây chặt đóa hoa hướng dương màu vàng. Tử Ly thúc ngựa xông ra: “Hoàng huynh, quả nhiên ta không đoán nhầm! Huynh đâu phải đến khuyên can, rõ ràng là đến giết ta!”.
Lưu Giám nhìn đăm đăm vào thung lũng, lúc này mới hiểu bóng người vừa rồi đấu với Lưu Giác không phải là Tử Ly. Thái tử sang sảng hét: “Ta là thái tử Ninh quốc, người kế vị ngôi báu, nhưng ngươi thèm muốn ngôi báu đó, âm thầm chuẩn bị binh mã, phụ hoàng nếu biết ngươi âm mưu sát hại huynh đệ ruột thịt, soán ngôi, dưới cửu tuyền cũng không yên!”.
Tử Ly cười ngất: “Di chiếu của phụ hoàng trong tay ta, họ Vương lũng đoạn triều cương, ta nhất định không phụ ủy thác của phụ hoàng, quyết trừ ngoại thích, chấn hưng Ninh quốc, chấn hưng vương tộc Lưu thị! Ngươi tưởng có thể dễ dàng phong tỏa hai cửa cốc, dồn chúng ta vào trong thung lũng tiêu diệt gọn hay sao?”.
Thái tử vừa nhìn hẻm núi sâu phía sau mình, trong đó chỉ có một vạn Nam quân của Lưu Giác, phía trước là thảo nguyên, Hữu quân của Lưu Phi cũng không quá hai vạn người, chàng đột nhiên cười ha hả ra lệnh: “Quân đâu, chúng ta người đông, dàn trận xông lên!”.
Vạn người bên dưới đồng thanh: “Nguyện cùng thái tử điện hạ!”.
Nghe thấy tiếng trống thúc dồn dập, tiếng hô giết rợp trời. Năm ngàn quân tiên phong của hai bên rời đội ngũ xông lên, những ánh chớp vàng chói sáng xông vào những đám mây trắng, tựa như ánh mặt trời xuyên qua tầng mây, những quả cầu lửa lăn trên thảo nguyên, tiếng kêu thảm thiết chấn động không trung. Lưu Giác thét to: “Xông lên công phá hậu tuyến của Đông quân! Tiền hậu giáp công!”.
Nam quân áo giáp đen như mây đen cuồn cuộn vùng vẫy tung hoành rợp trời rợp đất, binh sĩ trùng trùng điệp điệp tràn về cửa thung lũng.
Thái tử sau lưng trước mặt đều có địch, Đông quân mặc dù quân đông, nhưng không tinh nhuệ bằng Nam quân và Hữu quân. Đông quân rúc cục mấy năm không đánh trận, còn Nam quân của Lưu Giác đã qua trận chiến Lâm Nam, đã được rèn luyện thực tiễn. Lưu Giám nhìn thấy những đám mây trắng phiêu động, nuốt dần từng chút ánh mặt trời vàng rực, mắt chàng lộ vẻ lo lắng. Chính lúc đó, mặt đất rung chuyển, trên thảo nguyên phía khu rừng Hắc Sơn xuất hiện một đám đen, lao đến như một cơn lốc xoáy. Thái tử thở phào, vẫy cờ cười lớn: “Giờ chết của các người đã điểm!”.
Tử Ly căng mắt nhìn từ xa, chỉ thấy tiếng vó ngựa rậm rịch, giống như búa tạ nện xuống mặt đất. Khi cơn lốc xoáy màu đen đến gần, sau khi thái tử nhìn rõ, thất kinh, thì ra đó là hàng ngàn con bò đang kích động xông vào đội quân như chớp giật sấm rền. Thái tử lúc này đã chỉ huy Đông quân lui lên cao, Hữu quân hoàn toàn trơ trọi trên thảo nguyên. Trong chớp mắt, đội quân bị đàn bò húc tan tác, những binh sĩ không kịp tránh bị húc ngã, dưới móng bò đã được bịt sắt, máu thịt tơi bời, hàng vạn binh sĩ chưa kịp vung kiếm đã bị giẫm nát, kêu la thảm thiết. Thảm nhất là đội quân trong thung lũng, đàn bò bị kích nộ xông đến, nhưng phía trước lối ra hẹp, chúng không thoát ra được, quay trở lại xông vào trong thung lũng.
Lưu Giác tức sôi người, hét to: “Bắn tên, đội khiên dài đi trước, đội lá chắn đi sau!”. Bản thân chàng vận công lao lên, kiếm vung đến đâu máu vọt đến đó, đầu bò bị chém đứt ngổn ngang. Ô y kỵ tới tấp làm theo, tinh thần Nam quân đã phấn chấn trở lại, miệng hô vang, tay cầm khiên dài, xông lên, trong thung lũng mấy trăm con bò chết la liệt. Lưu Giác thở gấp, nhìn thấy đuôi bò bị buộc mồi lửa, chửi to: “Vương Yến Hồi, khốn kiếp! Ngươi không phải là đàn bà!”.
Chàng tập họp đội ngũ điểm quân, quân của hai bên trong thung lũng tổng cộng hai vạn binh đã tiêu hao mất ba, bốn nghìn.
Phía Tử Ly tập hợp đội ngũ, hai vạn người cũng mất gần sáu nghìn, lòng vừa phẫn nộ vừa khâm phục Vương Yến Hồi. Mưu tính của người đàn bà này quả thực ngoài sức tưởng tượng, lúc này còn nghĩ ra sử dụng độc chiêu này, không mất một sĩ tốt đã có thể đả thương nghiêm trọng nguyên khí hai quân.
Những con bò kinh sợ đau đớn vì lửa đốt dưới đuôi, trong chớp mắt đã chạy sâu vào thảo nguyên. Hai quân chưa kịp hoàn hồn, đội quân giáp vàng chói lọi như ánh mặt trời lại xông ra. Lần này đấu giáp lá cà, trong những đám mây trắng dày đặc chen lẫn những điểm vàng lấp lánh, mây đen cuồn cuộn. Trong vạn dặm không hoàn toàn là ánh mặt trời, mây cũng không che được đến chân trời. Nụ cười trên mặt Tử Ly đã trầm xuống, chàng băn khoăn không hiểu ý Vương Yến Hồi. Nhìn chiến trường, sát khí tỏa ra, biến đám mây bên cạnh chàng ngưng thành băng lạnh. Chàng biết, đàn bò kinh động vừa xông ra. quân của chàng đã tổn thất nặng nề, hai quân chống cự vất vả, nếu lại không dẫn dụ ra được đội quân bí mật, trận này tất bại.
Lưu Giác lòng như lửa đốt, quân sĩ đều đỏ mắt, sĩ khí và số lượng Nam quân đều tổn thương nghiêm trọng, chỉ dựa vào hận thù trong lòng để thêm tinh thần đấu với Đông quân. Chàng nghiến răng, thúc ngựa lao về chỗ thái tử đứng, nếu bắt sống thái tử, chắc chắn đội quân bí mật kia phải lộ diện. Ba đội Ô y kỵ rời đội ngũ đi theo chàng, giống như con rồng đen phẫn nộ rùng rùng lắc mình xông vào đội quân của thái tử. Đội quân lao đến đâu sắc vàng tản ra đến đó, từ xa nhìn tựa như những đám máy đen được viền vàng, từ từ bay về chỗ ánh vàng chói mắt nhất. Lá quân kỳ ở phía thái tử vội phất lên, thế của Ô y kỵ như chẻ tre, loạt tên lao về trái tim của mặt trời - chỗ thái tử đứng.

Trong khu rừng sâu phía xa, cuối cùng bắt đầu có động tĩnh. Như tuyết mùa đông lặng lẽ buông trên thảo nguyên, không một tiếng hô giết, không thấy cờ hiệu, cả đội quân lao đến với tốc độ như cuồng phong.
Thái tử hưng phấn, vung thanh trường kiếm trong tay cười lớn: “Lần này cho các ngươi chứng kiến sự lợi hại của Bắc quân Ninh quốc!”. Đông quân thấy có viện binh phía sau, sĩ khí dâng cao, Nam quân đã ra khỏi thung lũng hợp với Hữu quân, vừa đánh vừa rút về hướng Phong thành. Thái tử thét lên: “Tăng tốc truy đuổi! Giết!”.
Hai đám mây hợp một, đen trắng đan xen, vô cùng kỳ dị. Đông quân giáp vàng tỏa ánh sáng rực, Bắc quân giáp xanh bay đến tỏa ra bảo vệ, giống như đóa hoa hướng dương nở xòe, cành lá xanh bay bay. Khi xông vào đám mây, chỉ thấy đám mây đen trắng đan xen kia đột nhiên phân tách, biến thành một sợi dây thừng xiết lấy đóa hoa, mặc cho đóa hoa lắc lư trên thảo nguyên.
Cờ trắng của hai quân đột nhiên phất lên, lá cờ đen bay phần phật. Thảo nguyên tựa hồ một bàn cờ bày sẵn bị một quả đấm mạnh, quân cờ nhảy lên, rùng lắc; lại như mặt biển đột nhiên dậy sóng, từng cơn sóng trồi lên, ầm ầm chuyển động.
Thái tử dụi mắt, khi đã nhìn rõ mới phát hiện trước mặt không phải là thảm cỏ lay động mà là binh sĩ mai phục. Đội quân này trên người trùm áo cỏ, tay cầm cung, bao vây chặt Đông quân. Bắc quân rõ ràng đã phát hiện có phục binh, hoảng sợ, hô to “Giết!” rồi thục mạng xông lên.
Mắt Tử Ly đanh sắt khác thường, nhìn vào mắt Lưu Giác, lá cờ lệnh phất xuống phía dưới, binh sĩ lắp tên vào cung. Ba vạn phục binh, dùng cung tên ngắn, cự ly gần độ sát thương lớn, bắn từng loạt, không nương tay, bắn nát từng cánh đóa hoa hướng dương. Hai quân xông lên, ánh đao lóe sáng chém đứt cành hoa màu xanh, các mũi tấn công đều hướng về đóa hoa đang bị bắn nát.
Thái tử không cam tâm nhìn bóng người dưới lá cờ trắng phía trước. Bảy vạn quân, chớp mắt mất sạch, tình thế đảo ngược nhanh chóng. Thì ra bọn họ lợi hại hơn, ba vạn người chống lại năm vạn Đông quân, lại bí mật mai phục ba vạn quân. Kế hoạch sắp đặt chu toàn như thế mà Đông cung hoàn toàn không hay biết, hơn nữa lại rất kìm chế: Khi chiến sự bắt đầu để cho Đông quân chiếm ưu thế, đưa ba vạn quân làm mồi nhử, sau khi dẫn dụ ra hai vạn Bắc quân, phục binh mới lộ diện. Lưu Phi, ngươi, ngươi thật lợi hại!
Vòng vây càng xiết chặt, thân binh và quân tinh nhuệ bên cạnh thái tử chỉ còn không quá tám nghìn. Tử Ly và Lưu Giác lạnh lùng nhìn chàng, lúc này, thái tử cười sằng sặc, chàng cười bản thân mình chưa một lần cầm quân ra trận, chí khí nam nhi nỗi gì! Chàng cũng cười phụ hoàng thiên vị, nếu không có ý chỉ của phụ hoàng, cha con An Thanh vương tuyệt đối không sống chết giúp đỡ Lưu Phi. Chàng cười đến chảy nước mắt: “Lưu Phi! Ngươi ra tay đi, hạ lệnh giết đại ca vô dụng của ngươi đi!”.
Thái tử và Tử Ly rút cục là huynh đệ, Lưu Giác không đành lòng, ngồi trên mình ngựa không động đậy, khóe mắt liếc qua Tử Ly. Người đó sắp trở thành hoàng đế Ninh quốc, mọi việc hôm nay là để chuẩn bị cho người đó đăng cơ, người đó sẽ quyết định. Lòng thầm thở dài, huynh đệ tương tàn, mặc dù chàng không muốn, nhưng thả hổ về rừng, chắc rằng không một đế vương nào làm vậy.
Tử Ly nhìn thái tử, nụ cười quen thuộc lại hiện lên: “Ta sẽ không giết huynh, huynh đầu hàng đi”.
Khuôn mặt như ngọc của thái tử co rúm, đầu hàng? Đầu hàng kẻ xưa nay luôn cúi đầu cung kính trước mình? Muốn mình phục dưới chân hắn, gọi hắn là vương thượng? Nỗi nhục sôi lên. Chàng mới là thái tử Ninh quốc, là người kế vị danh chính ngôn thuận! Chàng nhắm mắt, gió từ phía bắc thổi tới, thảo nguyên mùa xuân gió cát càng lớn, lúc này thổi lên mặt, rát rạt như tát vào mặt chàng. Chiến bào bay phần phật, mồ hôi vã lại khô, khô lại vã, chỉ lưu lại cái lạnh thấu tim. Chàng mở to hai mắt, ánh mắt lóe lên trong cái nhìn kiêu ngạo: “Thắng làm vua thua làm giặc! Ngươi âm thầm nhẫn nhịn bấy lâu, ta không còn gì để nói, xuống ngựa lại đây!”.
Tử Ly ngơ ngẩn nhìn chàng. Hoàng huynh đối với chàng thực ra vẫn tốt, chỉ có điều, đáng tiếc thân mẫu hoàng huynh vì muốn ngôi hoàng hậu đã hạ độc giết chết mẫu thân chàng, đáng tiếc huynh cũng là con cháu của hoàng tộc! Đáng tiếc... thù hận trong lòng lớn dần bao năm, tích tụ trong một góc sâu nhất, lạnh lẽo nhất, chàng đã lao tâm khổ tứ bao năm, mới từng ngày từng ngày xây được bức tường cao ngăn cản những dây leo tanh mùi máu trườn lên? Bao nhiêu năm cũng vì thời khắc này! Chàng thở dài, tự tay đẩy đổ bức tường, mắt nhìn những dây leo uốn khúc nhanh chóng lan ra trong không gian mới, mối hận chiếm cứ mọi ngóc ngách, mọi không gian. Chàng hét to: “Ta phải trả thù cho thân mẫu ta! Giết!”.
Cùng với tiếng hô, đội binh mã xông về phía tàn binh của thái tử.
Kiếm vung lên, xương tan thịt nát, lưỡi kiếm rút ra khỏi thân thể để lại những hố đen sì. Tám nghìn binh sĩ liều chết bảo vệ thái tử rút lui về lối vào thung lũng, những đám mây trắng mây đen quái dị cuồn cuộn, màu vàng len lỏi trong màu xanh ít dần. Chính lúc này, một luồng khói lớn từ phía bắc tràn đến, Lưu Giác kinh ngạc, lập tức nheo mắt, chỉ thấy lửa gặp gió bùng lên cột khói cao mấy trượng ập tới trong nháy mắt. Chàng hét to: “Bịt mặt ngay!”. Khói mang mùi hương lạ cay tức mũi, đó là loại cây sau khi cháy sản sinh ra khói có thể gây hôn mê.
Một binh sĩ vận giáp xanh bên cạnh thái tử phấn khởi lấy ra khẩu trang đưa cho thái tử: “Chúa thượng, cuối cùng chúng ta cũng đợi được lúc gió xoay chiều! Chúng ta sẽ thắng!”.
Thái tử kinh ngạc, thì ra chiêu sau cùng của Vương Yến Hồi là đây, chàng vội đeo khẩu trang lên mặt. Tuy nhiên Đông quân không hề phòng bị, có binh sĩ nhanh tay xé áo bịt mặt, người chậm trễ bắt đầu từ từ gục xuống.
Tình trạng Hữu quân và Nam quân cũng tương tự, đến khi khói tan, trên thảo nguyên rộng lớn chỉ còn lại không đầy một vạn binh sĩ. Lưu Giác và Tử Ly người lạnh toát. Không chỉ binh sĩ, bản thân họ cũng chân tay bủn nhủn, lẽ nào phải bỏ mạng ở hẻm núi này thật sao? Ánh mắt Tử Ly thâm trầm, Vương Yến Hồi! Vương Yến Hồi! Trong đầu chàng không ngừng lặp lại cái tên đó, lát sau bật cười: “Ta không tin ông trời đối xử với Lưu Phi ta như vậy! Bao nhiêu năm nhẫn nhịn, sao có thể đại bại trong chỉ một ngày!”.
Lưu Giác lấy ra trong người một bình rượu, uống một ngụm lớn rồi đưa cho Tử Ly, quay đầu hét lên với Ô y kỵ và Nam quân: “Ninh vương có di chiếu, loại bỏ ngoại thích, nay thái tử vô đạo, dựa vào họ Vương, lẽ nào chúng ta đứng nhìn một người đàn bà tiếm quyền, buộc đàn ông chúng ta phục dưới váy ả ta?!”.
Vạn binh sĩ phẫn nộ, đồng thanh nói: “Thề chết kháng cự!”.
Ánh mắt lạnh lùng của Tử Ly lướt đến đám quân sĩ: “Trận hôm nay dù phải chết cũng không thể làm mất uy danh của Hữu quân Ninh quốc!”. Chàng hướng mũi kiếm về phía trước, phía đó lại xuất hiện hai vạn quân vận giáp xanh từ từ đi đến, thái tử nhanh chóng ẩn sau phía đội quân. Bắc quân của Vương Yến Hồi quân số bốn vạn chứ không phải hai vạn! Sau một hồi tình thế lúc lên lúc xuống, tâm trạng lúc vui lúc buồn, lòng Lưu Giám phấn khởi cực độ, chàng cao giọng nói: “Lưu Phi, huynh đệ chúng ta lần đầu giao chiến, đầu hàng đi, ta tha chết cho!”.
Tử Ly cười lớn: “Chết có gì đáng sợ! Ngay từ khi mẫu thân ta bị đầu độc chết, Lưu Phi này đã trăm ngàn lần đối diện cái chết, hôm nay vẫn chưa bị các ngươi hại chết! Ngươi tưởng ngươi đã thắng thật ư?”.
Hai vạn binh mã mới xuất hiện của Bắc quân cộng thêm tàn binh của thái tử tổng cộng gần ba vạn là đội quân vừa xuất chiến, lại được chuẩn bị từ lâu chỉ chờ cơ hội ra tay, trái lại lực lượng của Lưu Giác và Tử Ly quân số không đến một vạn, binh sĩ ai nấy binh phục thấm máu, lại mệt mỏi thương tích, thế mạnh yếu đối lập hoàn toàn.
Lá cờ xanh phất lên, năm nghìn binh mã Bắc quân xông đến. Tử Ly lặng lẽ đếm cự ly, hai trăm thước, một trăm thước, năm mươi thước, chàng hô: “Bắn!”.
Tên bay ra, bắn ngã một loạt, đội binh mã vẫn dâng lên không chùn bước. Lưu Giác nghiến răng, dẫn Ô y kỵ và cận vệ quân nghênh chiến. Một vạn người địch năm vạn, trong ánh gươm đao, Tử Ly nghe thấy màng nhĩ kêu ù ù. Đánh từ giờ Ngọ đến giờ Dậu, tiếng hô “giết” vang vọng trên không, bao trùm trên thảo nguyên, chấn động màng nhĩ vẫn chưa dừng lại.
Màn đêm dần buông, thảo nguyên dưới ánh trăng không phải là cỏ mà mọc lên những bông hoa tanh mùi máu và thù hận phiêu bạt những oan hồn, ngâm nga khúc bi thương! Xác chết và người bị thương dày đặc, thảo nguyên như được phủ một lớp đất khác, đây không phải là thảo nguyên màu xanh mà là hoang mạc được tạo nên bởi hai màu đen trắng, nở ra những cánh hoa vàng, sắc màu quái dị đến từ thế giới ma quỷ, đây là vườn hoa chết chóc mở ra trong địa ngục trần gian!
Sau khi Bắc quân xông lên mấy đợt, vội vàng phát lệnh thu binh, bỏ lại ba nghìn xác chết trở về quân doanh. Phía Lưu Giác binh sĩ còn lại không quá năm nghìn, Tử Ly mặt lặng như nước, miệng lại hé cười.
Cờ xanh lại phất lên, không có đội tiên phong, Bắc quân dàn đội ngũ hình vuông từ từ áp lại, bao vây bên này. Thái tử cười, nhìn tàn binh phía trước, lấy ra một ống pháo hiệu trong người bắn lên không, tín hiệu phát ra đám khói đặc, ngưng tụ trên không, lẩn quẩn mãi chưa tan.
Những con lăn lớn bằng đá từ phía Bắc quân tràn đến, lừ lừ lăn về trước, dường như coi mấy ngàn người phía đó như kiến, muốn một lần nghiến nát bọn họ.
Huyền Y và Minh Âm của Ô y kỵ đồng thanh nói: “Chúng thuộc hạ hộ tống chúa thượng rời khỏi đây!”.
Lưu Giác thở dài nhìn Tử Ly. Biểu hiện trên nét mặt của Tử Ly vẫn rất bình tĩnh, nhưng cơ má co giật dữ dội. Lưu Giác biết, người còn thì của còn, chuồn là thượng sách. Nhưng Tử Ly không đi, bất luận thế nào cũng không thể bỏ đi. Chính lúc đó, một tiếng sét vang lên, phía Phong thành và Biên thành đồng thời truyền đến tiếng hô dậy trời: “Giết! Xông lên!”.
Đội quân giáp xanh dừng lại, giật mình nhìn quanh. Thái tử sửng sốt, chỉ thấy phía chân trời cuộn lên một luồng khói bụi, không cần áp tai xuống đất cũng có thể nghe được tiếng vó ngựa rậm rịch lao đến.
Đội giáp xanh rõ ràng được huấn luyện chu đáo, không nghĩ ngợi, vội hộ tống thái tử di chuyển về phía rừng sâu. Thái tử đại nộ thét: “Bắt lấy bọn chúng!”.
Bắc quân thái độ vẫn tỏ vẻ kính trọng, nhưng không để ý mệnh lệnh của thái tử: “Thái tử tôn quý không thể dấn thân vào chốn nguy hiểm, chủ nhân đã dặn, giết tứ hoàng tử và Lưu Giác sau, sự an nguy của điện hạ mới là trước hết”.
Nhưng chưa đi được bao xa, phía trước đã hiện ra đội quân giáp bạc, một rừng đốm lửa rung rinh bát ngát, người cầm đầu cười ha hả: “Lão vương gia lệnh cho chúng ta chặn đường rút của Bắc quân, chúng ta đã chờ lâu rồi. Xông ra!”.
Một lát sau, phía sau Bắc quân cũng ló ra Hữu quân giáp bạc, bao vây Bắc quân. Lưu Giác kinh ngạc nhìn cảnh tượng đó, lại nhìn Tử Ly: “Huynh đã điều về toàn bộ Hữu quân?”.
Môi Tử Ly hiện lên nụ cười nhạt: “Ta thích lấy nhiều địch ít!”.
“Biên thành không có người trấn giữ?”.
“Vương vị tranh không được, Biên thành không phải quốc thổ của ta, ta vội gì?”. Tử Ly cuối cùng thở phào, nháy mắt với Lưu Giác: “Khi ở Biên thành ta đã bí mật điều quân, thực hiện nghi binh, Khởi quốc cũng không dám đến xâm phạm, đây là chủ ý của vương thúc!”.
Lưu Giác tức giận, vậy mà đã để mình lo lắng vô ích. Bỗng lại hỏi: “Tại sao giờ mới xuất hiện, khiến ta chém mỏi tay!”.
“Nếu đội quân tinh nhuệ của họ Vương vẫn ẩn nấp không chịu lộ diện, thì chỉ có chuốc lấy cái chết. Hơn nữa, ta đã sớm tiên liệu thái tử sẽ phát tín hiệu, tín hiệu phát ra, vương cung và Phong thành mới dễ ra tay!”. Tử Ly lơ đãng nói, “Bản vương cũng giết mỏi tay! Trên đất vẫn còn người bị ngất, tỉnh lại thương vong cũng không nhiều”. Nói xong thúc ngựa phóng lên phía trước.
Lưu Giác phía sau nói to: “Ở đây xin giao cho huynh, ta về Phong thành hỗ trợ ông già!”.
Tử Ly không ngoái lại, nụ cười trên mặt biến mất, khoát tay ra hiệu đồng ý.
Thương vong không nhiều ư? Vương Yến Hồi! Nàng là kẻ hại nước hại dân! Thâm tâm Tử Ly không biết là hận hay phục con người đó.

CHƯƠNG 28



Không lâu sau khi thái tử rời phủ An Thanh vương đưa năm vạn Đông quân đi về khe núi Hoàng Thủy “khuyên can”, An Thanh vương cũng trang phục chỉnh tề ra chỉ huy trấn giữ Phong thành, giám sát động tĩnh của Đông quân ở ngoại ô.
Không lâu sau, mấy chục bóng đen lẩn vào vương phủ. Thanh tổ được lệnh lưu lại bảo vệ phủ, sau khi nhận được ám hiệu, giao đấu ác liệt với đám người đột nhập ngay trước Tùng phong đường. Những người mới đến rất đông lại toàn cao thủ, nhân lúc giao chiến hỗn loạn, một bóng đen lẩn vào nội đường.
Nghe bên ngoài có tiếng gươm đao, Tư Họa tay thủ trường kiếm, hộ tống A La, chốt chặt cửa phía trong. Đột nhiên “rầm” một tiếng, cửa phòng bị đạp đổ, một toán người áo đen tràn vào: “Tam tiểu thư tướng phủ phải không? Chủ nhân chúng ta có lời nhắn, muốn Tiểu Ngọc sống, phải theo chúng tôi vào cung”.
A La kinh ngạc, sắc mặt vẫn không đổi: “Một đứa a hoàn có là gì, chủ ngươi là ai? Muốn giết cứ việc!”.
Người áo đen ngạc nhiên, cười: “Chủ nhân ta nói, một a hoàn không đủ, nên đã phải thêm tiểu công chúa”.
A La lại cười: “Có phải Vương Yến Hồi hồ đồ không? Tâm Nhi đâu phải con ta, cứ việc giết!”.
Người áo đen cả giận: “Sao tiểu thư nhẫn tâm như thế? Ngay đứa trẻ hai tuổi cũng không cứu? Tiểu thư không đi cũng phải đi!”. Trường kiếm tức thì chĩa lại.
Tư Họa vung kiếm chặn: “Tiểu thư chạy mau!”.
A La hét to: “Ngươi bảo trọng!”. Nàng vọt qua cửa sổ như con thỏ, lòng giật thót từng cơn, đầu bấn loạn một câu hỏi. Vương Yến Hồi bắt Tiểu Ngọc từ lúc nào? Lưu Anh chạy đi đằng nào rồi? Nhanh chóng chạy về phía cánh rừng, thầm nghĩ, tìm chỗ trốn tạm đã, đột nhiên nhìn thấy một người ăn vận giống Thanh tổ, phấn khởi chạy đến. Người đó quay đầu không bịt mặt, A La quay phắt người cắm đầu chạy, lòng thầm mắng Thanh tổ toàn đồ óc lợn, không biết chết hết ở chỗ nào. Nàng vừa chạy vừa hô cứu, người đó cười khẩy, tung người mấy cú đã đuổi kịp A La, giơ tay điểm huyệt. A La cứng người, khuỵu xuống, người đó ôm nàng, huýt sáo ra hiệu, nhanh như sóc rời khỏi vương phủ.
A La khóc không ra nước mắt. Thầm nghĩ, mình không muốn vào cung làm con tin. Lưu Giác chàng ngốc hơn lợn! Sao lại để đám người vô dụng này trong phủ vậy! Đang nghĩ, phía trước đột nhiên lóe ra một thanh kiếm: “Bỏ tiểu thư ra!”.
Nàng mừng thầm, mở mắt nhìn, Thanh Ảnh! Mặc dù người của Ô y kỵ thường bịt mặt, nhưng sống lâu trong Tùng phong đường, nàng cũng nhận ra giọng nói và dáng người Thanh Ảnh.
Lúc này những người áo đen và binh sĩ Thanh tổ cũng đến. Gươm của người bịt mặt vừa lay động, đã kề vào cổ A La, khẽ nhích, một vệt máu ứa ra. A La cảm thấy trên cổ hơi buốt, sợ hãi nhìn Thanh Ảnh.
“Chủ nhân ta nói, không đưa được người về thì giết. Cho dù thất bại, cũng phải để hai vị vương gia đau đớn suốt đời”.
Thanh Ảnh nhìn đăm đăm vào người đó, từ cổ A La vọt ra tia máu, người đó vẫy tay, mọi người chừa ra một lối đi: “Chủ ta cũng nói, nếu tam tiểu thư bị mất một sợi tóc, chủ nhân các ngươi sẽ bị một nhát đao”.
Người đó cười ha hả: ”.Vậy còn phải xem chủ ngươi có giữ được mạng trở về hay không!”.
A La kinh hoàng, Lưu Giác sẽ xảy ra chuyện sao? Trong lúc lo lắng thầm nghĩ, người áo đen đã đưa nàng đi.
Thanh Ảnh chứng kiến A La bị đưa đi ngay trước mắt, uất ức vung tay chém gẫy gốc cây bên cạnh, than thở: “Chúa thượng trở về, ta chết chắc!”.
Quân sĩ ở cổng phía tây Phong thành phi ngựa cấp báo đã nhìn thấy khói hoa màu đỏ, mắt An Thanh vương bừng sáng, quay đầu hỏi Xích Phong: “Người bị bắt đi rồi sao?”.
“Vương gia vừa đi khỏi, bọn họ đến”. Xích Phong nhẹ nhàng nói, lòng băn khoăn, không nén nổi lại hỏi: “Thanh Ảnh chỉ sợ bị chúa thượng lấy mạng!”.
“Hừ, không trách hắn được, có ngươi làm nội gián báo tin, bọn họ phá vỡ phòng thủ của Thanh tổ là bình thường”. An Thanh vương nén cười, nét mặt bình thường, tiếp tục hạ lệnh, “Bao vây phủ thái úy, phong tỏa tin tức, ta muốn Vương hoàng hậu và toàn bộ người của Đông cung trở thành câm điếc! Để lọt người nào ta sẽ tìm ngươi hỏi tội!”.
“Vâng, vương gia yên tâm. Tin của Cáp tổ rất chuẩn xác, ngoài thái úy tối qua đã vào quân doanh ở đông ngoại ô, người của phủ thái úy và của Đông cung đều bị giam lỏng trong phủ”. Xích Phong do dự, “Thuộc hạ không hiểu, tại sao nhất thiết phải để người của thái tử phi bắt cóc tiểu thư?”. 
“Bởi vì đêm qua trong cung đột nhiên tăng thêm năm nghìn binh mã của thái tử phi, ba cổng thành đã bị phong tỏa, những người này từ trên trời rơi xuống hay sao? Vương cung chúng ta có lịch sử ba trăm năm, trên đỉnh núi có lăng mộ của liệt tổ liệt tông hoàng thất Ninh quốc, sao có thể để Vương Yến Hồi chó cùng dứt giậu, phá hủy vương lăng của chúng ta?”.
Xích Phong vẫn chưa hiểu, lại hỏi: “Nhưng, tiểu thư đi thế này, chẳng phải lành ít dữ nhiều sao?”.
Mạo hiểm là tất yếu, nhưng như vậy có thể khiến Vương Yến Hồi tưởng rằng tam tiểu thư mới là quân bài quan trọng mà bỏ qua những cái khác. Lúc đầu để Lưu Giác và Tử Ly trở mặt mục đích là muốn chứng tỏ tầm quan trọng của A La trong lòng hai người đó”.Mắt An Thanh vương lộ vẻ phức tạp: “Ta muốn vương cung nguyên vẹn, không suy suyển dù chỉ một ly! Đi đi, làm theo lệnh cho ta!”.
“Vâng!”.
Mắt An Thanh vương nhìn về phía xa. Không biết tình hình chiến sự thế nào, mặt trời đã tới đỉnh đầu, trưa rồi.

Tại đại bản doanh ở đông ngoại ô, Vương thái úy cũng sốt ruột chờ tin đại thắng từ phía thái tử ở khe núi Hoàng Thủy, chỉ cần nhận được tín hiệu mong đợi, ông ta sẽ lập tức dẫn quân về cổng đông thành, bụng nghĩ Nam quân mất chủ tướng, chỉ dựa vào một mình An Thanh vương chắc chắn đành bó tay chịu trói. Hơn nữa, An Thanh vương đứng về phía nào hiện vẫn chưa chắc chắn. Một binh sĩ từ ngoài vào cấp báo: “Báo! Đã nhìn thấy tín hiệu của vương cung!”.
Mắt Vương thái úy sáng lên, vui mừng, bước vội ra ngoài bản doanh, nhìn về phía bắc, trên bầu trời phía vương cung đám khói hoa màu xanh vừa bay lên. Ông ta thở phào, con gái đã bắt được tam tiểu thư tướng phủ vào cung.

Giờ Mùi sáu khắc, trên bầu trời phía tây cuối cùng vọt lên một làn khói xanh, ngưng tụ trên không, luẩn quẩn mãi chưa tan.
Vương thái úy bụng vui như mở cờ, vội hạ lệnh: “Thái tử điện hạ đã đại thắng ở khe núi Hoàng Thủy! Đông quân hãy theo ta vào cổng đông thành!”.
Đông quân được lệnh, mười lăm vạn binh mã khẩn trương vào đội hình hành quân về cổng đông thành, tay giương cao những bó đuốc cháy rực, như con rồng khổng lồ rùng mình trườn đi.
Lúc này, tại cổng đông thành, Nam quân đã dày đặc, An Thanh vương cũng nhìn thấy làn khói xanh đó, lòng nhẹ nhõm như trút được hòn đá tảng. Ông trầm giọng ra lệnh: “Áp giải Vương tộc và gia quyến tướng lĩnh Đông quân lên tường thành cho ta, Nam quân sẵn sàng đợi lệnh!”.
Vương thái úy ngồi trên lưng ngựa, nhìn cổng đông thành đóng chặt, trên mặt tường thành vọng ra tiếng khóc om sòm. Ông ta trấn tĩnh nhìn kỹ, ức đến nổ mắt: “Lão già này quá độc ác!”.
Trên mặt tường thành mấy nghìn con tin bị trói, An Thanh vương tươi cười, từ xa đã lên tiếng: “Thái úy! Bản vương sợ ông quân doanh buồn tẻ, nên để họ Vương tề tựu đông đủ tại đây!”.
“Lão vương gia hà tất phải làm vậy? Dùng đàn bà con trẻ họ tộc ta để gây khó dễ, đâu phải là phong độ đại trượng phu!”. Từng câu nói của Vương thái úy đã hừng hực căm hận.
“Chẳng lẽ thái úy muốn binh sĩ Ninh quốc tàn sát lẫn nhau? Để bảo toàn thực lực quốc gia, bản vương cảm thấy cách này là đơn giản nhất!”. An Thanh vương cười khẩy.
“Lão vương gia chớ quên, thái tử cũng là con cháu của vương gia! Là người kế vị danh chính ngôn thuận! Vương gia cấu kết với tứ hoàng tử mưu phản!”.
“Tiên hoàng có di mệnh, tứ điện hạ đăng cơ kế vị, kẻ nào kháng cự, nhất loạt quy tội mưu phản! Muốn xem thánh chỉ ư?”. An Thanh vương chậm rãi trả lời, khuôn mặt già đột nhiên nở nụ cười, “Nhân tiện cho thái úy biết, thái tử đã đầu hàng!”.
Vương thái úy hét vang như sấm: “Không thể! Thái tử đã phát tín hiệu chiến thắng!”.
“Ồ, vậy chúng ta chờ ở đây, đợi thêm một canh giờ nữa, ta và thái tử cùng đến đây gặp thái úy!”. Không đợi Vương thái úy trả lời, An Thanh vương hô: “Chư vị Đông quân tướng sĩ nghe đây, vương thượng có di mệnh, tứ điện hạ kế vị, niệm tình các ngươi không biết, ai buông đao kiếm đầu hàng sẽ không truy cứu, kẻ nào chống lại tru di chín họ!”.
Tiếng khóc thút thít trên thành truyền đến, những gia quyến bị trói, bị bức ép không dám khóc to. Chỉ thấy tướng sĩ Đông quân phẫn nộ chửi: “An Thanh vương dùng gia quyến ép chúng ta, thật quá bỉ ổi!”.
An Thanh vương nói: “Nếu một binh sĩ vì quốc gia, vì quân vương, vì bách tính chết trên sa trường là anh hùng, chết có gì đáng sợ? Hãy nghĩ tới Ninh quốc chúng ta mấy trăm năm quốc thái dân an, khiến mấy nước lân bang thèm thuồng nhòm ngó, lẽ nào chư vị còn chần chừ? Muốn người mình tàn sát lẫn nhau, để cho ngoại địch thừa cơ nhảy vào? Bây giờ bản vương sẽ thả người, các người suy nghĩ cho kỹ, vương thưọng đã có di chiếu cho tứ điện hạ kế thừa vương vị!”.
Lời nói xong, gia quyến tướng sĩ Đông quân tức thì được phóng thích, cửa thành mở toang, gia quyến bị trói trước Quỷ môn quan vừa quay người đã được tự do, òa khóc chạy về phía người thân đứng trong hàng ngũ Đông quân. Trong chớp mắt, ngoài cổng đông thành không hề có không khí chiến trường, tướng sĩ và thân nhân ôm nhau khóc ầm ĩ.
Vương thái úy giận sôi máu, nhấc gươm định chém một binh sĩ đang ôm mẹ già, suy nghĩ một lát lại dừng tay, ngẩng đầu gầm lên: “Lão vương gia thật lợi hại! Cái trò vừa đấm vừa xoa này, binh lính còn đâu sĩ khí!?”.
“Thái úy chớ buồn, đều là tướng sĩ Ninh quốc, hà tất phải tàn sát lẫn nhau?”. An Thanh vương ung dung nói.
“Ngươi! Truyền lệnh ta, chuẩn bị công thành!”. Vương thái úy hét to. Quân lệnh như sơn, dồn gia quyến về phía sau, tướng sĩ Đông quân chuẩn bị tấn công vào thành.
“Thái úy bất chấp tính mệnh của họ Vương hay sao?”.
Vương thái úy khẳng khái nói: “Chúng ta trung thành với thái tử điện hạ, sẽ giết sạch bè lũ phản nghịch các ngươi, lấy thủ cấp an ủi binh sĩ họ Vương chết oan!”.
Lúc này Lưu Giác vừa đến, vội đi lên lầu thành: “Đông quân chư tướng nghe đây, thái tử đã đầu hàng, tứ điện hạ ba ngày nữa sẽ đăng cơ!”. Đông quân tức thì ồn lên như vỡ chợ, sĩ khí vừa dâng, lại lập tức tiêu tan.
Nhìn bóng người Lưu Giác dưới ánh lửa trên lầu thành, Vương thái úy run người, lại nghe lời vừa nói, suýt ngã từ lưng ngựa xuống, nước mắt lã chã: “An Thanh vương, lão quá hiểm độc! Lão giả bộ ủng hộ Đông cung, nhưng sau lưng lại âm thầm cấu kết với tứ điện hạ!”. Nói đoạn lại cười: “Yến Hồi đã nói, nếu chẳng may thái tử bại trận, cơ nghiệp họ Vương ta xây dựng trăm năm nay đâu dễ phá hủy, dẫu phải chiến đấu đến người cuối cùng, Vương tộc ta cũng quyết không đầu hàng!”. Nói xong nhìn Đông quân đã mất hết sĩ khí, thái úy thở dài não ruột, lại bất chấp tất cả mang đội thân binh đi về phía đông.
Lưu Giác luống cuống, định cho quân truy đuổi. An Thanh vương ngăn chàng: “Trước hết hãy an ủi binh sĩ Đông quân, Vương thái úy nhất định vào vương cung”.
“Vương cung có mật đạo hay sao?”. Lưu Giác ngây người.
“Đường hầm bí mật ba trăm năm nay không ai biết”. An Thanh vương nói nhỏ.
Đến giờ Hợi, Tử Ly mới dẫn năm nghìn Hữu quân áp giải thái tử vào thành. Lệnh cho hai vạn Hữu quân đóng bên ngoài cổng tây thành, số binh mã còn lại quay trở về trấn giữ Biên thành. Nam quân vẫn đồn trú ở ngoài cổng nam thành, Đông quân đã được vỗ về, trở về đại doanh ở ngoại ô phía đông Phong thành. Phong thành đêm nay giới nghiêm hoàn toàn, trên đường khắp nơi đều có lính. Đuốc lốm đốm lập lòe vây chặt vương cung, cổng vương cung đóng chặt, trong đêm tối giống như con thú ngủ phục dưới chân dãy Ngọc Tượng.
Mọi việc đã xử lý hoàn tất, Tử Ly cùng Cố tướng, Lý tướng và quần thần tâm phúc nghị bàn việc quân thâu đêm.
Lưu Giác dìu An Thanh vương trở về vương phủ. An Thanh vương thở dài: “Đúng là ta già rồi, vô dụng mất rồi, bận rộn suốt ngày, chưa vào cuộc chiến đã mệt mỏi không trụ được nữa!”. Ông vừa nói, trọng lượng toàn thân đã chuyển dần lên vai con trai.
Lưu Giác thận trọng dìu cha, vừa vào cửa đã thấy Thanh Ảnh và binh sĩ Thanh tổ quỳ sụp xuống. Chàng giật mình, bỗng có dự cảm không lành, miệng cười mắng: “Biết chủ nhân các ngươi thắng trận, cũng đâu cần long trọng như vậy!”.
Thanh Ảnh cúi đầu khẽ nói: “Chúa thượng sao có chuyên thua!”.
Lưu Giác đá anh ta một cái: “Vậy còn quỳ đó làm gì? Bản vương hôm nay mệt muôn chết, mau tìm người hầu hạ! Đi!”.
Nói đoạn vừa cởi áo giáp vừa sải bước vào trong. Đi hai bước, thấy sau lưng vẫn không có động tĩnh, chàng ngoái đầu: “Nói! Rút cục có chuyện gì! Người đâu?”.
“Tư Họa bị thương! Tiểu... tiểu...”. Thanh Ảnh dập đầu xuống đất, nghẹn ngào, “Thanh Ảnh bảo vệ không tốt, bọn họ không chỉ võ công cao cường, còn... còn phá được tuyến phòng ngự của Thanh tổ”.
“Tiểu thư rút cục thế nào? Sao ngươi ấp úng thế! Nói ngay!”. Lưu Giác như bị rơi xuống hố băng, lạnh toát từ đầu xuống chân.
Thanh Ảnh đã dập đầu đến chảy máu, vội trả lời: “Tiểu thư đã bị bắt đưa vào cung. Thanh Ảnh sẽ lấy cái chết để tạ tội!”.
Lưu Giác bật cười, ánh mắt dữ tợn: “Giỏi lắm, Thanh tổ một trăm bảy ba nhân mạng, không bảo vệ được một người? Đối phương có mấy trăm người?”.
“Sáu, bảy chục!”. Thanh Ảnh đầu càng cúi thấp.
“Soạt”. Lưu Giác rút kiếm: “Thể diện vương phủ ta đã mất hết trong tay các ngươi! Sáu, bảy chục người, ha ha đối phương có đến sáu, bảy chục người!”.
“Hơn nữa mọi bố trí của Thanh tổ cơ hồ không bị suy chuyển, cuối cùng đến khi bọn họ vào nội đường, mới phát hiện ra!”. Thanh Ảnh không biết sống chết lại tự nhận tội.
Lưu Giác cau mày: “Gọi Huyền Y đến đây, các người ai làm việc nấy cho ta!”.
“Tuân lệnh!”.
Huyền Y quỳ trước mặt Lưu Giác, “Bẩm chúa thượng, Đông cung có thể biết bố trí của chúng ta, tìm được tam tiểu thư, thuộc hạ nghi ngờ là do Xích Phong”.
“Hả?”.
“Lúc vào Tố tâm trai, chỉ có anh ta không đi theo, chúa thượng vừa nói, thuộc hạ mới chú ý”.
“Tại sao mãi không báo?”. Lưu Giác đấm tay vào bàn.
“Là cha không cho hắn báo”. An Thanh vương không giấu được nữa, cảm thấy chuyện này nên nói cho con trai biết vẫn hơn, để Lưu Giác khỏi trách Ô y kỵ, “Là cha cố ý để Xích Phong đứng về phía Vương hoàng hậu tiết lộ tin tức, bao gồm... ai chà, lần này Thanh tổ thất thủ, bố trí của Tùng phong đường cũng là ta bảo hắn tiết lộ”. Nói xong quay đầu đi thẳng không dám nhìn con trai.
“Tại sao? Cha? Tại sao phải đưa A La vào cung? Vương Yến Hồi sao có thể tha cho nàng ấy?”. Lưu Giác đau đớn nhìn An Thanh vương.
Ông vẫy tay ra hiệu cho Thanh Ảnh và Huyền Y lui, “Cha nói rõ ra vậy, lúc đầu bày ra tấn trò con và Tử Ly vì A La trở mặt với nhau có thể khiến Đông cung bán tín bán nghi, nhưng mục đích thực sự là để cho họ biết tầm quan trọng của A La đối với con và Tử Ly. Chỉ có như thế, Vương Yến Hồi mới chú ý đến A La, mới coi A La là con bài có thể uy hiếp hai người. A La trong tay bọn họ, cô ta sẽ không tìm con bài khác. Phải biết, nếu chẳng may Vương Yến Hồi phá hủy hoàng lăng Ninh quốc, phá hủy vương cung chúng ta, dẫu cuối cùng có thể loại trừ được họ Vương, chúng ta cũng không còn mặt mũi nào đi gặp tổ tiên!”.
An Thanh vương thở dài nói tiếp: “Để A La vào cung còn một mục đích nữa, ta muốn hai đứa bọn con dẫn dụ khiến Vương Yến Hồi phân tâm, kỳ binh của ta mới có thể giành được vương cung với thương vong nhỏ nhất! Cáp tổ đêm qua mật báo, trong cung có thêm năm nghìn binh mã, con có hiểu ý nghĩa của tin này không?”.
Lưu Giác buột miệng: “Cô ta muốn tử thủ vương cung!”.
“Đừng quên, nguồn nước sinh hoạt của dân chúng toàn thành, đa phần đều chảy từ thác Túy Ngọc, nếu mấy vạn dân Phong thành chen nhau ra sông Đô Ninh lấy nước, Phong thành chắc chắn đại loạn!”.
“Nhưng, A La...”.
“Yên tâm, không chết được đâu!”. An Thanh vương an ủi con trai.
“Thế là thế nào? Thế nào là không chết được đâu? Nghĩa là A La có thể bị thương? Phải không?”. Lưu Giác lập tức giãy nảy.
“Ôi dào... Cũng chỉ thế thôi, con lo lắng, lo thì ích gì? Chẳng lẽ con định giết lão phu?!”.
An Thanh vương tức giận, hất tay áo đi thẳng.
Lưu Giác trợn mắt nhìn ông, nghĩ một lát, vội đi đến phủ Ly Thân vương.
Tử Ly đã thay đồ, vừa ngả lưng, đã thấy Lưu Giác mình vẫn mang chiến bào đầy vết máu, chàng cau mày: “Có chuyện gì gấp thế?”.
“A La đang trong tay Vương Yến Hồi!”. Lưu Giác buồn bã, mắt nhìn chàng.
Tay Tử Ly khẽ run: “Biết rồi. Vương thúc đã cho người báo tin, ngày mai chúng ta tấn công vào cửa cung, một bộ phận binh mã sẽ vào theo mật đạo”.
Lưu Giác ngồi xuống: “Điện hạ bình tĩnh hơn đệ”.
Tử Ly nhìn chàng, mắt sâu thẳm, bụng nghĩ, ta giả bộ bình tĩnh hơn đệ, vừa nghe tin đó ta đã hận đến muốn giết vương thúc, lão cáo già!
Bên ngoài cửa sổ vẳng lại tiếng đàn, trong trẻo uyển chuyển, nhưng lại như hân hoan chúc mừng. Lưu Giác bất giác bật cười: “Muộn thế này vương phi vẫn đợi điện hạ, tiểu vương không làm phiền nữa, điện hạ cũng nên nói rõ cho vương phi hiểu, nếu không ngày mai cả Phong thành đều biết vương phi ghen...”. Lưu Giác cười ha hả cáo lui.
Tử Ly bị nghẹn một hồi không nói được. Có phải Lưu Giác kia đang nhắc chàng lần nữa, chàng đã cưới Cố Thiên Lâm? Chàng hừ một tiếng, nét mặt lại chuyển sang tươi cười.

Đám người áo đen đưa A La vào cung, nàng nhìn quanh, nhận ra đây chính là Đông cung. Sau khi vào cung, họ đưa nàng vào thẳng một gian hậu thất, giải huyệt cho nàng rồi bỏ đi.
A La nhìn xung quanh, có lẽ đây là một gian mật thất dành cho cung nhân trong Đông cung, trông rất giống gian gác xép bí mật ở Tố tâm trai, không có cửa sổ, ánh sáng lọt vào qua một viên gạch trong suốt trên đỉnh. Góc phòng có một người ngồi gục đầu A La chạy đến lật mặt, kêu lên: “Tiểu Ngọc!”.
Bị giam trong phòng tối lâu ngày Tiểu Ngọc người rất yếu, nghe giọng nói, chỉ lắp bắp: “Tiểu thư!”.
A La đau buồn ôm chầm Tiểu Ngọc, hận Vương Yến Hồi đến thấu xương: “Là ta đây Tiểu Ngọc, em sao thế, đau ở đâu?”.
Tiểu Ngọc tức thì nước mắt như mưa: “Đúng là tiểu thư rồi!”. Nói đoạn bật khóc.
A La vuốt ve dỗ dành, thấy Tiểu Ngọc không bị thương, mới yên tâm, ngồi sát Tiểu Ngọc: “Không bị thương là tốt rồi!”.
“Em tuyệt thực, không thả ra cũng không để ả ta dùng em để uy hiếp tiểu thư!”. Tiểu Ngọc nức nở.
Tuyệt thực? A La choáng váng, may mà mình đến kịp, nếu không Tiểu Ngọc sẽ nhịn đói đến chết.
A La nhìn quanh, trong phòng chẳng có thứ gì, phía trước chỉ có chấn song, nàng gọi to: “Người đâu? Có ai không?”.
Cửa mở tức thì, Vương Yến Hồi thong thả bước vào: “Tiểu muội Thanh La muốn gì?”. Một cung nữ đưa ghế đến cho nàng ta ngồi.
A La nhìn nàng ta: “Tỷ tỷ không định giết muội chứ?”.
“Sao có thể! Cưỡng ép tiểu muội đến đây, ta thật không phải, Thanh La đừng giận”. Vương Yến Hồi tươi cười nhìn A La, dịu dàng nói.
“Thái tử điện hạ và Tử Ly tranh giành vương vị, trong cung đương nhiên nguy hiểm, Thanh La không muốn vào, cũng là chuyện thường. Tỷ tỷ cưỡng bức muội vào, cũng là bình thường, muội không giận”. Ta đương nhiên không giận, ta chỉ sợ thôi, ta sợ chết, sợ bị thương. A La thầm nghĩ.
Vương Yến Hồi dường như thở phào: “Đã không giận, vậy cứ ở Đông cung vài ngày chơi với ta”.
“Được, muội rất thích nhà thủy tạ ở Đông cung, à lần trước món ăn tỷ mời muội cũng rất ngon”. A La cười nói.
“Muội không sợ bị đầu độc ư?”.
“Đầu độc muội thì ích gì? Hơn nữa, tỷ thông minh tuyệt đỉnh, trò đầu độc thật vô vị”. 
“Muốn ăn gì muội cứ nói”. Vương Yến Hồi vẫn tươi cười.
“À, bữa sáng, sữa bò, trứng gà; bữa trưa bốn món xào một món canh, đừng xào chay, canh đậu xanh thì tốt; bữa tối cháo gan lợn và mấy món rau, trước khi đi ngủ uống sữa bò. Không cần quá cầu kỳ”. A La thản nhiên nhìn Vương Yến Hồi, dường như nàng đến Đông cung làm khách thật.
Sao nàng ta có thể bình tĩnh đến thế? Vương Yến Hồi ngẫm nghĩ lại cười: “Được, nhưng a hoàn của muội không chịu ăn, chuẩn bị một suất cho muội thôi chứ?”.
A La trợn mắt nhìn Tiểu Ngọc: “Nàng ta dám không ăn? Hai suất, định lượng phải đủ, muội ăn rất nhiều, đặc biệt thích uống sữa bò và canh đậu xanh”.
Vương Yến Hồi sai cung nữ: “Nhớ chưa? Nhất định phải để tam tiểu thư hài lòng, sống thật thoải mái”. Cung nữ vâng lời, lui ra.
Vương Yến Hồi nhìn A La, trong ánh sáng lờ mờ, khuôn mặt đó vẫn rạng ngời xinh đẹp, không hề thấy một chút lo sợ hoảng hốt, bất giác nhẹ giọng: “Khí độ bình tĩnh của Thanh La, Yến Hồi rất khâm phục. Muội quả thực mạnh mẽ hơn đại tỷ mình nhiều, chẳng trách khiến hai vị vương gia điên đảo”.
“Tỷ sai rồi, nếu luận bình tĩnh, luận khí độ, luận mưu lược Thanh La có cưỡi ngựa cũng không theo kịp tỷ. Chỉ có điều đàn ông thích ba thứ, quyền lực, tiền bạc và đàn bà. Đàn bà không nên quá mạnh mẽ, mạnh mẽ quá đàn ông sẽ hổ thẹn không bằng, không dám theo đuổi”.
“Ồ? Theo ý muội đàn ông đều thích tiểu nữ nhân?”. Vương Yến Hồi thầm nghĩ, thảo nào thái tử mặc dù luôn muốn dựa vào mình, nhưng ánh mắt nhìn mình không hề âu yếm như nhìn Thanh Lôi. Thảo nào Tử Ly hùng tâm tráng chí nhưng tình cảm lại chỉ dành cho Thanh La. Nàng bất giác khẽ thở dài.
“Đó là bởi vì bọn họ quá kiêu ngạo, kiêu ngạo đến mức không để đàn bà mạnh hơn mình”. A La ánh mắt long lanh, bắt đầu du thuyết, “Có điều, theo muội, kỳ nữ như tỷ đây chỉ có kỳ nam thế gian mới xứng. Nếu như tỷ làm nữ hoàng, tuyệt đối không thua kém đàn ông”.
Thế gian có nữ nhân làm hoàng đế sao? Vương Yến Hồi càng nghĩ trong lòng càng thấy bức bách, sắc mặt trầm lại: “Muội đùa ta ư?”.
A La nói tiếp: “Xin cho cốc trà, Thanh La sẽ kể cho tỷ nghe chuyện nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Đằng nào cũng nhàn rỗi không có việc làm”. Nàng lập tức đem chuyện Võ Tắc Thiên từ một tài nhân trở thành nữ hoàng đế như thế nào, trị vì thiên hạ khiến bốn bể thái bình ra sao, thao thao bất tuyệt như rồng bay phượng múa, lá rụng hoa rơi, khiến Vương Yến Hồi ngồi nghe thần trí cao bay.
A La thầm quan sát ánh mặt trời lọt qua viên gạch trên đỉnh, tính thời gian, kể đến đoạn Thái Bình công chúa muốn học theo Võ Tắc Thiên muốn kế vị ngai vàng bị xử đánh roi liền dừng lại nói: “Tỷ tỷ, muội đói rồi, ăn xong lại kể hầu tỷ được không?”.
Vương Yến Hồi trong lòng đầy tâm tư. Thầm nghĩ bản thân từ nhỏ đã thấy bất bình, tại sao đàn ông có thể ra trận giết giặc, thống lĩnh giang sơn, còn mình học bao nhiêu thứ, bản lĩnh đầy người lại chỉ có thể ngồi trong thâm cung. Võ Tắc Thiên kia quả là hợp tâm ý mình, không biết vương triều do bà lập nên sau này thế nào. Lý Thanh La thật có tài kể chuyện, nếu mình không bận suy tính mọi sự chắc sẽ bị mê hoặc bởi câu chuyện của nàng ta. Vương Yên Hồi lại mỉm cười, thấy A La đăm đăm nhìn mình, tay ôm bụng nhăn nhó, bỗng thấy thương tình, vội sai cung nữ dọn bữa, đoạn khoan thai đứng lên, nhìn A La: “Lát nữa tỷ lại đến nghe muội kể chuyện!”.
Cơm đưa đến, A La bón cho Tiểu Ngọc, “Không hồi phục tinh thần, làm sao chúng ta trốn được?”. Nàng ra sức uống sữa bò, nghe nói sữa bò có thể giải độc trong dạ dày, đành dùng tạm vậy.
Ăn uống no nê, nhìn kỹ bức chấn song phía trước, nàng cười khì khì, chấn song to thế này, cũng không ngăn được mình. Lại nhìn Tiểu Ngọc thở dài.
“Tiểu thư, nếu tiểu thư có thể bẻ được chấn song, thì đi một mình đi. Tiểu Ngọc không đi, em chỉ làm vướng tiểu thư”.
“Ngốc quá, nếu bẻ chấn song là có thể thoát ra khỏi cung, ta đã đi rồi. Chính là lo ra khỏi đây nhưng không ra được vương cung, chắc chắn Vương Yến Hồi đã tăng cường cảnh giới. Chi bằng ta cứ yên lặng chờ thời cơ. Ta tin là qua tối nay Lưu Giác sẽ đưa người đến, lúc đó ngoại công nội ứng chẳng phải càng tốt sao?”.
Lưu Giác nhất định sẽ đến, nàng không hề nghi ngờ điều này. Vương Yến Hồi kiêu ngạo hơn trời, coi thường đàn ông tầm thường, nhưng trong thời đại cổ hủ thế này nàng ta lại càng bất lực, kể câu chuyện hoàng đế Võ Tắc Thiên là cho nàng ta một ước vọng. Các nhà tâm lý học nói, liên tục ám thị sẽ dần dần trở thành thôi miên tâm lý, mình sẽ liên tục dùng ám thị này để thỏa mãn ước vọng của nàng ta. Vương Yến Hồi cần loại ám thị đó, trong thời gian này nàng ta sẽ không hãm hại mình. Kể hết Võ Tắc Thiên lại kể Từ Hy, khiến hai người đàn bà cùng thân phận cung cấm như nàng ta lại từng bước vươn tới quyền lực cao nhất trở thành thần tượng của nàng ta. A La thầm nghĩ, nếu hai người này chưa làm nàng ta thỏa mãn, thì sẽ kể chuyện nữ hoàng Anh quốc.
Về mưu lược A La chắc chắn không bằng Vương Yến Hồi, về quyền lực, nàng bây giờ là tù nhân. Chỉ có lôi kéo Yến Hồi, chơi trò tâm lý với nàng ta. Những thứ khác không nói, mọi lý luận nàng biết đều hơn Vương Yến Hồi, chỉ cần kể bừa một chuyện là đã khiến nàng ta suy nghĩ cả ngày. Đương nhiên phải là chuyện hợp ý nàng ta.
Trời tối dần, A La ôm Tiểu Ngọc ngủ. Đột nhiên nghe thấy bên ngoài có tiếng động, nàng lặng lẽ mở mắt, trong ánh sáng lờ mờ, có một bóng người, đó là Thanh Lôi. A La ngồi dậy.
Nàng nhìn thấy Thanh Lôi thần sắc hoảng loạn, đi đến bên chấn song, khẽ nói: “Thái tử đêm khuya vẫn chưa về, e là bại trận rồi, tỷ thấy Vương thái úy vào cung, mặt lạnh như sắt, nghị sự với Vương Yến Hồi trong tẩm cung đến khuya. Muội nên sớm trốn đi, muộn chút nữa e là sẽ bị giải đến cổng làm con tin”.
A La kinh ngạc, những suy tính từ trước của nàng giờ không thể thực hiện được nữa. Thái tử bại trận, Phong thành tất nằm trong tay Lưu Giác, sau đây chắc chắn chàng sẽ tấn công vương cung, mình không bị đẩy ra làm con tin mới lạ!
“Tỷ mạo hiểm đến báo cho muội...”. Mắt Thanh Lôi rầu rĩ u ám, “Hãy nhớ chăm sóc Tâm Nhi”. Nói xong quay người toan bỏ đi. Bất chợt cánh cửa đẩy ra, từ bên ngoài vọng vào tiếng cười của Vương Yến Hồi: “Đúng là tỷ muội tình thâm! Sao trước đây ta không nhận ra nhỉ?”.
Thanh Lôi sợ hãi lùi hai bước, người co rúm dựa vào chấn song. A La thở dài, không nói gì mà chỉ nhìn Vương Yến hồi đang đi đến. Trong ánh nến Vương Yến Hồi cười nửa miệng: “Đêm lạnh, đưa lương đệ về cung nghỉ ngơi, cẩn thận kẻo bị cảm!”.
Lúc đó hai thị vệ đi đến kéo Thanh Lôi đi, Thanh Lôi run run, đã không còn sức giãy giụa nữa, đột nhiên nàng hét to đến xé ngực: “Vương Yến Hồi, ngươi đố kỵ ta được thái tử sủng ái, nhân lúc thái tử đi vắng, dám giam lỏng ta!”.
“Ta muốn tốt cho muội, trong cung sắp loạn, lương đệ tốt nhất ở trong tẩm cung mới an toàn”. Vương Yến Hồi nhìn Thanh Lôi, ánh mắt đầy giễu cợt, “Đố kỵ ư? Ngươi đáng hay sao, thái tử đáng hay sao?”.
Thanh Lôi ngây người. Vương Yến Hồi nhìn nàng chằm chằm: “Ta không giết ngươi, ngươi chẳng qua là nhi nữ đáng thương một lòng yêu thái tử. Ngươi cứ việc ngoan ngoãn ngồi trong cung của ngươi”.
Thị vệ đưa Thanh Lôi đi, Vương Yến Hồi nhìn A La: “Tiểu muội có biết, họ Vương chúng ta từ khi Ninh quốc dựng nước đã là thế gia đại tộc, năm xưa từng lập nhiều công lớn với Ninh quốc. Mấy chục năm nay Ninh quốc quốc thái dân an, hữu hảo với các nước lân bang, cha ta thống lãnh binh mã toàn quốc, cô ruột ta làm hoàng hậu, thế lực họ Vương ta lên như diều gặp gió. Theo sắp đặt của cha ta, một ngày nào đó ta trở thành hoàng hậu sinh hạ hoàng tử, là có thể dần dần làm suy yếu thế lực họ Lưu, cuối cùng họ Vương ta sẽ làm chủ giang sơn này. Cha ta nóng lòng động binh, muốn thống nhất thiên hạ, có binh quyền trong tay càng dễ hành sự. Nhưng Ninh vương mặc dù tính tình nhu nhược, riêng chuyện xuất binh chinh phạt các nước láng giềng thì nhất quyết không nhượng bộ. Còn ta, ta không mấy quan tâm quyền thế giang sơn, từ nhỏ ta chỉ muốn có thể chinh phục cả bốn nước, thể hiện hùng tài đại lược”.
“Bây giờ thái tử đã bại trận, binh quyền e là đã rơi vào tay tứ điện hạ, giấc mộng của vương phi không thành rồi”. A La thản nhiên nói.
“Thái tử?”. Ý giễu cợt trong mắt Vương Yến Hồi càng rõ. “Thái tử xử lý chính sự còn có thể, nhưng hoàn toàn không có kinh nghiệm cầm quân. Thái tử bại trận cũng nằm trong dự liệu của ta”.
A La kinh ngạc, không hiểu ý Vương Yến Hồi: “Ngươi là thái tử phi, ngươi đưa thái tử, một người không hề có kinh nghiệm cầm quân đi giao chiến với Tử Ly và Lưu Giác, thái tử thất bại, ngươi... ngươi...”.
“Ta chẳng qua muốn thấy tứ điện hạ... nhận ra, chỉ có ta, mới có tư cách sánh cùng tứ điện hạ hùng bá thiên hạ! Trận này ta lại thực lòng mong cho Tử Ly thất bại. Đáng tiếc, bọn họ bất chấp Biên thành nguy hiểm, âm thầm điều toàn bộ Hữu quân về. Lưu Giác cũng hành sự bí mật, bí mật điều binh, che được tai mắt chúng ta, ta đoán trước ngày mười lăm hai người đó đã điều quân bố trí ở khe núi Hoàng Thủy”. Những lời của Vương Yến Hồi khiến người ta kinh hãi.
“Ngươi đã lấy thái tử, thiên hạ đều biết!”. A La nhìn Vương Yến Hồi cảm thấy không thể nào tin nổi nàng ta.
Vương Yến Hồi cười nhẹ: “Ninh vương muốn ta lấy thái tử, cô ruột ta cũng muốn ta lấy thái tử, nhưng một người bản tính hiền lành, chưa từng trải qua cuộc sống quân doanh, chưa từng chinh chiến như thái tử đâu có xứng với ta? Ninh vương bất bình trước dã tâm tạo lập quyền thế, khuynh đảo triều đình của gia tộc ta, cha ta đã hết lời khuyên ta sau khi thái tử đăng cơ, sẽ khống chế thái tử, không cần binh đao vẫn có thực quyền”.
A La thận trọng hỏi: “Vậy tại sao không hỗ trợ thái tử đăng cơ, ngươi làm hoàng hậu sẽ có thực quyền?”.
“Có thực quyền ư? Quyền lực của vương cung không mấy hấp dẫn ta. Ninh quốc chưa có tiền lệ nữ nhi ra trận! Cho dù ta khống chế được thái tử, ta cũng chỉ có thể ở trong hậu cung. Trong cung thật buồn tẻ!”. Vương Yến Hồi hạ giọng rất thấp, lát sau lại khồi phục thần thái bình thường: “Khi Ninh vương ban Cố Thiên Lâm cho Tử Ly ta đã biết, ý vương thượng muốn Tử Ly kế vị. Nhưng ta nghĩ, có lẽ Tử Ly không biết. Ninh vương chắc sẽ trao di chiếu cho An Thanh vương, không cho Tử Ly biết. Khi Tử Ly cần giúp đỡ nhất, ta và chàng ta đã có minh ước. Nếu ta hỗ trợ giúp chàng lên ngôi, chàng sẽ lập ta làm hoàng quý phi, một ngày nào đó nếu cần chinh chiến, sẽ phong ta làm quân sư”.
A La chấn động bởi tiết lộ của Vương Yến Hồi. Nàng ta và Tử Ly đã có minh ước? An Thanh vương có biết không? Những gì mình trải qua mấy ngày nay Vuơng Yến Hồi đều nắm trong lòng bàn tay hay sao? Đầu nàng choáng váng bởi quan hệ vòng vo rối ren này.
Vương Yến Hồi tiếp tục: “Ta giúp Tử Ly nắm quyền thống lĩnh Hữu quân, lại có Cố tướng tương trợ, rời khỏi Phong thành là chàng hóa rồng. Lúc đó ta đã biết, trận này dù đánh hay không, thái tử đều thua. Trận Hoàng Thủy ta giúp thái tử vạch định kế sách, coi như giúp chàng lần cuối, nếu chàng thắng cũng là ý trời, ý trời không muốn Tử Ly lên ngôi!”.
“Nhưng thiên hạ đều biết ngươi là thái tử phi!”.
Vương Yến Hồi cười, chìa cánh tay ra, trong ánh nến, dấu thư cung sa đỏ chói in trên cánh tay, đỏ đến kinh người: “Cố Thiên Lâm cứ việc làm hoàng hậu. Sau khi ta và Tử Ly có minh ước, Tử Ly cũng không hề gặp Cố Thiên Lâm. Thái tử phi thì sao, đợi khi Tử Ly đăng cơ, chàng sẽ hạ chỉ bố cáo thiên hạ, Vương Yến Hồi đã vì chàng mà nhẫn nhịn gánh vác trọng trách, giữ thân như ngọc. Cái đó là minh chứng rõ nhất. Khi đại lễ tế tổ, lễ quan sẽ kiểm chứng”.
A La quả thật không dám tin, nàng ta làm thái tử phi đã ba năm vậy mà không phải người của thái tử. Vương Yến Hồi nhìn thấy vẻ băn khoăn trong mắt nàng: “Điều này có gì khó, thái tử vốn không thích ta, trước mặt ta, chàng không dám nói nặng một câu. Một người đàn ông như vậy sao ta phải trở thành người của hắn?”. Nàng ta cười ha hả, nhưng ánh mắt nhìn A La lại đầy oán hận, “Nhưng hôm đó tại phủ An Thanh vương, ta đã nhận ra Tử Ly thực lòng yêu ngươi. Ta có thể nhẫn nhịn để Cố Thiên Lâm làm hoàng hậu, nhưng không thể dung thứ ngươi ở bên Tử Ly”.
“Ta sẽ không ở bên Tử Ly, người ta thích là Bình Nam vương Lưu Giác!”. A La lập tức đề phòng, người đàn bà đố kỵ sẽ bất chấp đạo lý.
“Ta biết, ta cũng thực lòng hy vọng hai người ở bên nhau, chỉ có điều”, mũi nhọn lại nhằm sang hướng khác, “Ta phải dùng ngươi để buộc Tử Ly thực hiện lời chàng đã hứa với ta!”.
“Ngươi không sợ cha con An Thanh vương phản đối Tử Ly lập ngươi làm quý phi?”.
“Cha con An Thanh vương chỉ trung thành với Ninh quốc. Chỉ cần Tử Ly đăng cơ làm hoàng đế, chỉ cần Ninh quốc cường thịnh, sao họ có thể oán ta? Đây cũng là cách tốt nhất bảo toàn thế lực họ Vương chúng ta!”. Vương Yến Hồi tự tin trả lời.
Vương Yến Hồi, ngươi sai rồi, mọi quân vương của mọi triều đại đều tối kỵ ngoại thích can dự triều chính, lộng quyền, Tử Ly muốn lợi dụng ngươi để lên ngôi, nhưng sẽ không dung thứ họ Vương khuếch trương thế lực, nắm đại quyền. A La lặng lẽ nhìn Vương Yến Hồi: “Vậy hà tất phải đánh trận này?”.
“Thắng là tốt nhất, ta sẽ lập đại công với Tử Ly. Dẫu thất bại cũng để Tử Ly nhìn rõ, dã tâm của chàng chỉ có Vương Yến Hồi này hỗ trợ mới thực hiện được. Huống hồ, nếu không làm thế, sao Tử Ly có thể danh chính ngôn thuận đăng cơ xưng vương! Chỉ có để thái tử ra tay trước...” Vương Yến Hồi cười, “Những gì ngươi nghĩ, Yến Hồi đều biết, ngày mai trận chiến trong cung đình, ta sẽ hy sinh hoàng hậu, cô ruột của ta, ta sẽ để cho cha ta dâng biểu từ quan, ta sẽ làm cho mọi thế lực của họ Vương tan rã, Tử Ly khỏi lo ngoại thích lộng quyền. Hành động vì nghĩa diệt thân này, quần thần trên dưới phải khen ta hiền thục sáng suốt, sao còn cản trở tiền đồ của ta? Còn nàng, đợi khi đại sự hoàn tất, ta sẽ đứng ra xin Tử Ly đích thân chủ hôn, để nàng và Bình Nam vương toại nguyện. Chúng ta không thù không oán, thứ nàng cần chỉ là một người tình suốt đời chung thủy, thứ ta cần là thống nhất thiên hạ, lưu danh sử xanh! Có lẽ ta còn tham vọng vì thế Tử Ly sẽ nhìn ta bằng con mặt khác”.
Vương Yến Hồi đi rồi, A La nghiêm mặt nói với Tiểu Ngọc: “Tiểu Ngọc, ta đối với em thế nào?”.
Tiểu Ngọc ngớ người, quỳ sụp trước mặt A La, tủi thân nói: “Tiểu thư, sao tiểu thư nói vậy? Chuyện này, chuyện này còn phải hỏi sao? Tiểu Ngọc dám chết vì tiểu thư”.
A La thở dài: “Ta không cần em chết vì ta, ta sợ Vương Yến Hồi vì những lời vừa tiết lộ mà hãm hại em, nhưng...”. Mắt tỏ vẻ quả quyết, “Ta tuyệt đối không hy sinh em! Em phải hứa với ta, sau này dù đối với người chồng em tin tưởng nhất, cũng tuyệt đối không nhắc nửa câu những điều vừa nghe thấy”.
“Tiểu Ngọc hiểu, Tiểu Ngọc xin thề, nếu tiết lộ nửa câu, sẽ không chết yên thân, bị người thân lìa bỏ!”. A La dìu Tiểu Ngọc đứng dậy, đột nhiên ôm Tiểu Ngọc, hít một hơi dài, nói: “Tiểu Ngọc, lòng ta rối bời rất muốn giết người. Để bảo vệ tính mạng của chúng ta, ta muốn giết Vương Yến Hồi, nếu Tử Ly phát hiện chúng ta đã biết minh ước giữa chàng và Vương Yến Hồi, ta không dám chắc liệu chàng có... chàng không còn là Tử Ly năm xưa nữa. Ta rất sợ, giết người, xưa nay ta chưa từng nghĩ, sẽ bị trừng phạt, có thể bị tử hình, thật đáng sợ!”.
Tiểu Ngọc nhẹ nhàng vuốt vai nàng: “Bất luận tiểu thư làm gì Tiểu Ngọc đều đứng về phía tiểu thư”
Tối hôm đó A La gần như thức trắng. Tử Ly, chàng giữ bí mật này bao lâu rồi? Tại sao Vương Yến Hồi lại nói chuyện này với mình? Tử Ly có thật sẽ cưới nàng ta? Vương Yến Hồi có thật lấy mình làm điều kiện trao đổi? Tử Ly đã thay đổi đến mức tâm địa không thể lường rồi ư? Liệu chàng có ra tay với cha con An Thanh vương, tước binh quyền, thậm chí hãm hại họ? A La căng thẳng suy nghĩ, đầu đau muốn vỡ, nhắm mắt muốn ngủ một lát, cho dù thế nào nàng cũng phải trốn khỏi nơi đây.

CHƯƠNG 29



Trời vừa sáng, Lưu Giác đã dẫn Nam quân bao vây vương cung, Tử Ly cũng đưa năm nghìn Hữu quân đến trước cửa cung. Hai người nhìn nhau, một tướng lĩnh dưới trướng bước ra khỏi hàng, nói vọng vào vương cung: ‘‘Thái tử tàn sát huynh đệ, đạo trời không dung, nay đã cúi đầu nhận tội, các người mau mở cổng nghênh đón Ly Thân vương vào cung!”.
Vương thái úy xuất hiện trên tường thành vương cung, trầm giọng nói: “Thái tử là người kế vị chính thống, lão phu sao biết không phải các ngươi mưu phản, muốn ép vương cung?”.
An Thanh vương thong thả cưỡi ngựa đến, Cố tướng, Lý tướng đã dẫn bá quan văn võ đứng ở trước cổng cung, An Thanh vương trịnh trọng tay nâng một đạo thánh chỉ màu vàng, nói to: “Tiên hoàng có di chỉ, bá quan quỳ tiếp chỉ!”.
Mọi người bên ngoài cung môn nhất loạt quỳ xuống, Vương thái úy và cấm quân trên tường thành cũng quỳ theo. An Thanh vương giọng trầm trầm đĩnh đạc đọc: “... tứ hoàng tử Lưu Phi hiền năng thông đạt, xứng đáng kế thừa vương vị... Vương hoàng hậu rắp tâm mưu hại tiên hoàng hậu Hiếu Hiền(1), nay phế làm thường dân, ban cho lụa trắng... Thái tử giáng xuống làm Thanh vương, chuyển ngụ ở biệt viện đông thành suy nghĩ sai lầm của bản thân... Vương thái úy tuổi cao chuẩn y cáo lão hồi hương... Khâm thử!”.
Đọc xong thánh chỉ, Cố tướng, Lý tướng và chúng quan lần lượt truyền tay nhau đọc rồi quỳ phục trước ngựa của Tử Ly, miệng hô: “Vương thượng vạn tuế!”.
Cha con An Thanh vương và các tướng sĩ tức thì hưởng ứng, đồng thanh hô: “Vương thượng vạn tuế!”.
Tử Ly dõng dạc nói: “Các ái khanh bình thân!”. Ngữ khí toát lên phong độ của bậc đế vương. Chàng ngẩng đầu hướng lên tường thành hét to: “Vương thái úy còn nghi ngờ gì nữa?”.
Vương thái úy miệng hấp tấp nói: “Ý chỉ của tiên vương, hạ thần không biết, xin vương thượng tha tội!”.
“Không biết thì không có tội! Ngay tại đây quả vương tuyên hứa, tuyệt đối không truy cứu những người từng theo thái tử!”. Tử Ly trịnh trọng nói, tay rút gươm báu, ngón tay vừa vuốt nhẹ, máu tươi ứa ra: “Nếu ta nuốt lời, sau khi chết không được vào hoàng lăng trên đỉnh Ngọc Tượng!”.
Lời vừa thốt ra, không ít quan viên thở phào nhẹ nhõm. Bởi có rất nhiều người không biết di chiếu của Ninh vương, nhiều quan lại trong triều bấy lâu trung thành phò tá thái tử Lưu Giám. An Thanh vương cũng thở phào, lúc này đế vị vừa lập, nếu thanh trừng những người khác phe sẽ khiến triều đình rối loạn. Thực ra thái tử cũng không có tội gì lớn, nhưng bị liên đới bởi tội của mẫu thân, hơn nữa việc này Ninh vương đã quyết, trong tay họ cũng không có chứng cứ.
Cửa cung từ từ mở ra. Tử Ly chầm chậm tiến vào, đây là nơi chàng lớn lên từ nhỏ, bao nhiêu năm, hôm nay cuối cùng chàng mới trở thành chủ nhân của nó. 
Một cuộc chiến tử thủ vương cung vốn được suy tính kỹ càng, bố trí chu toàn lại thành ra diễn biến hòa bình. An Thanh vương lặng lẽ không nói gì, Lưu Giác tròn mắt kinh ngạc. Cục thế thuận lợi bất ngờ khiến họ rất mực bất an, người họ Vương dễ dàng chịu từ bỏ như vậy sao? Nếu sớm biết suôn sẻ như vậy, đâu cần bỏ thời gian ba năm nghiền ngẫm bố trí? Chàng nhìn cha tư lự không nói, nhìn cánh cửa cung mở rộng và Tử Ly đang được bá quan nghênh tiễn vào cung, tạm thời dẹp bỏ bất an đó, thầm nghĩ, đợi Tử Ly và văn võ bá quan cùng năm nghìn thiết binh của Tử Ly vào cung yên ổn, chàng sẽ đi tìm A La.
An Thanh vương nhận ra tâm tư của con trai, một tay nắm lấy tay chàng, nghiêm giọng: “Không được đi đâu!”.
“Cha! Tại sao?”. Lưu Giác sốt ruột.
“Ngoan ngoãn đến đại điện đứng chầu cho ta, A La ta sẽ tự sắp đặt, không thiếu một sợi tóc! Chuyện này có uẩn khúc, con trai nghe cha một lần đi!”. An Thanh vương trầm giọng.
Lưu Giác vừa bực vừa sốt ruột, dòng suy nghĩ lại quay trở lại. Vốn tưởng người trong cung sẽ tử thủ đến cùng, nhưng hóa ra lại đấm vào chỗ trống, quả là bất thường. Xem ra suy nghĩ của ông già cũng giống mình, chàng liếc An Thanh vương, kìm chế nỗi bồn chồn trong lòng.
Sau khi vào cung, năm nghìn thiết binh nhanh chóng thay thế cấm quân bảo vệ vương cung, công việc hoán đổi diễn ra nghiêm túc trật tự. Tất cả đều thuận lợi.
Vương Yến Hồi chỉnh lại dung nhan, ung dung ngồi trong chính điện Đông cung, mặc cho lớp lớp thiết vệ bao vây bên ngoài. Tất cả cung nhân của Đông cung đều quỳ trước cửa cung.

Tử Ly đứng cạnh ngai vàng trên Kim điện, dõng dạc nói với bá quan: “Còn hai ngày nữa mới là đại lễ đăng cơ, bây giờ quả nhân chưa dám ngồi lên ngai báu. Các khanh vẫn nên ai làm việc nấy theo chức trách, quốc sự mấy ngày này vất vả, phiền Cố tướng, Lý tướng quan tâm”. Nói xong chàng cúi chào quần thần bá quan.
Bá quan vội quỳ đáp lễ, Lý tướng lên tiếng trước: “Mặc dù hai ngày nữa mới là đại lễ, nhưng tân vương Ninh quốc đã định, bệ hạ hà tất phải thoái từ?”. Chúng thần vội vàng hưởng ứng.
Tử Ly vẫn không chịu, cuối cùng mới nhượng bộ nói: “Vương cung vừa ổn định, triều đình cũng đã phiền hà trăm họ nhiều ngày, các khanh hãy vỗ về dân chúng trước đã...”. Rồi chàng ban một loạt mệnh lệnh chính sự, bố trí tuần tra trị an Phong thành, cảnh giới vương cung.
Lưu Giác nhậm chức thống lãnh cai quản nội ngoại Phong thành, chàng tạ ơn xong nhận lệnh rời khỏi vương cung. An Thanh vương sắc mặt mệt mỏi, luôn miệng kêu đau đầu, trở về vương phủ nghỉ ngơi. Ra khỏi cung, đã thấy Lưu Giác đứng đợi bên ngoài: “Cha, A La...”.
An Thanh vương bực mình lườm chàng: “Nó không sao đâu!”.
Lưu Giác buồn rầu, không gặp được người, sao có thể không sốt ruột? Bực mình vì ông già không chịu nói, chàng ấm ức thúc ngựa bỏ đi. An Thanh vương liếc nhìn vương cung, mắt cười hấp háy, lắc đầu, rồi cũng quay về phủ.
Tử Ly xử trí xong công việc, được cung nhân dẫn vào Đông cung. Trong khoảnh khắc cánh cửa đại điện từ từ mở ra, Vương Yến Hồi chợt thảng thốt, ngây người bất động.
Đến khi người đã đến trước mặt, nàng ta mới sực tỉnh, khoan thai bước đến quỳ trước mặt Tử Ly. Tử Ly nhìn nàng ta rất lâu, cuối cùng nhẹ nhàng nói: “Cảm ơn nàng!”.
Vương Yến Hồi muốn cười, không ngẩng đầu, cũng không trả lời. Tựa hồ nàng ta đang đợi, đợi Tử Ly đỡ nàng dậy, đợi chàng thực hiện lời hứa.
“Nếu không có nàng, ta không nắm được binh quyền, ít nhất cũng không thể nắm binh quyền nhanh như vậy, không có được ba năm mưu hoạch luyện binh. Cho dù đấu với thái tử, được cha con An Thanh vương ủng hộ, được Cố tướng và nhiều trọng thần ủng hộ, cũng sẽ không thuận lợi như vậy, nhanh như vậy!”. Tử Ly nói rất thành thực, “Thậm chí, nàng bảo tồn vương cung, không tốn một sĩ tốt, một mũi tên của ta, càng tránh cho Ninh quốc không rơi vào nội chiến tranh giành vương vị”.
Vương Yến Hồi vẫn không lên tiếng, trong lòng đột nhiên dội lên trận trận cay đắng. Vì chàng nàng đã cãi nhau một trận kịch liệt với cha, tình thế bức bách, Vương thái úy đành bất lực lựa chọn con đường do nàng sắp đặt, chỉ thở dài than thở: “Rút cục con vẫn là đàn bà!”. Tối đó, nàng quỳ phục bái biệt phụ thân, lòng đầy hối hận tủi hổ, hôm nay nàng chỉ có một lựa chọn cuối cùng.
Tử Ly nói tiếp: “Thông tuệ như nàng, có lẽ đã sớm tiên liệu rồi?”.
Vương Yến Hồi cuối cùng ngẩng đầu, đúng, nàng đã sớm tiên liệu. Sắc mặt điềm tĩnh, nàng từ từ đứng lên, chỉnh lại xiêm y: “Cho dù vì người trong lòng chàng, chàng cũng không chịu để thiếp toại nguyện?”. Vương Yến Hồi đã thành công, nhìn thấy đồng tử trong mắt Tử Ly co mạnh, thầm thở dài, mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, mùa xuân đến thật rồi, những mầm lộc xanh đầu cành trổ ra mơn mởn, nhưng đã không phải là mùa xuân của nàng nữa.
Tử Ly trầm giọng hỏi: “A La ở đâu?”.
Nét mặt Vương Yến Hồi tươi trở lại: “Là bởi vì thiếp quá mạnh mẽ phải không? Thanh La nói, nữ nhi quá mạnh mẽ đàn ông sẽ sợ, không dám yêu. Thiếp vốn tưởng rằng, chỉ có chàng là người duy nhất có thể hiểu lòng thiếp”.
“Phải, ta thừa nhận, hai vạn Bắc quân tinh nhuệ do nàng đưa đến để trở thành Bắc quân của ta, lễ này quá hậu khiến ta hổ thẹn! Nàng là bậc kỳ nữ, kỳ nữ thực thụ, rất xứng với ta! Thiên Lâm với cốt cách thanh cao như lan, khoan hậu dịu hiền, xứng danh mẫu nghi thiên hạ. Nhưng nàng có hoài bão lớn, có thể giúp ta tranh bá thiên hạ, cao ngạo như tùng bách, sánh vai với ta, đối với ta là sự lựa chọn tốt nhất!”.
“Nhưng, đều không bằng Thanh La, nàng ta không có tư chất làm quốc mẫu, cũng không có tài sánh với chàng, cùng chàng chinh chiến, thống nhất thiên hạ, nhưng nàng ta lại là người chàng yêu nhất”. Vương Yến Hồi tiếp lời.
“Nàng đã biết vậy sao còn dùng nàng ấy uy hiếp ta?”. Tử Ly thản nhiên nói.
“Nếu thiếp dùng Thanh La để ép chàng, liệu chàng có giữ lời hứa?”. Vương Yến Hồi nhếch mép cười.
Tử Ly cười: “Thử đi, nàng sẽ biết!”.
“Được! Đi theo thiếp”. Vương Yến Hồi quay người đi về phía tẩm cung.
Nàng vén bức họa trên tường, ngón tay ấn nhẹ mấy cái, một phiến đá trên mặt đất di chuyển, lộ ra một bậc thang. Vương Yến Hồi thong thả bước xuống bậc thang đó: “Sáng sớm nay thiếp đã đưa nàng ấy xuống địa cung. Tòa địa cung này thiếp đã bỏ ra ba năm để xây, bên trong có vô số cạm bẫy, chàng đã nghĩ xong chưa?”.
“Cứ đi trước dẫn đường!”. Tử Ly bình thản nói, theo chân Vương Yến Hồi đi xuống địa cung. Địa đạo quanh co như mê cung, Tử Ly thầm ghi nhớ đường đi. Vương Yến Hồi khẽ cười: “Sao Tử Ly bạo gan như vậy? Không sợ thiếp giết sao?”.
“Nàng sẽ không làm thế!”.
“Ồ, sao chàng lại khẳng định như vậy?”. Vương Yến Hồi ngoái đầu nhìn Tử Ly, thấy nụ cười thoáng trên mặt chàng, chính khí độ cao ngạo đó, khiến chàng vượt xa thái tử. Nàng lại thở dài, quay đầu đi tiếp, không nói gì thêm nữa.
Đi qua mấy khúc ngoặt, phía trước hiện ra một một gian phòng nhỏ hình vuông bằng đá. A La bị treo rút trên cao, hình như đã rất lâu, đầu nàng ngoẹo sang một bên, rơi vào hôn mê. Tử Ly lòng đau thắt, nhìn Vương Yến Hồi: “Nàng thắng rồi!”.
Lời vừa dứt, tuyến phòng thủ cuối cùng trong lòng Vương Yến Hồi đột nhiên sụp đổ. Nàng nhìn A La, từ từ nhắm mắt, hai hàng nước mắt ứa ra nhưng không quay đầu, giọng nhỏ nhẹ: “Tại sao? Rõ ràng chàng biết người nàng ta yêu là Bình Nam vương!”.
“Nàng không hiểu yêu là gì!”. Tử Ly ngắt lời nàng.
“Chàng hiểu ư? Rút cục chàng yêu nàng ta cái gì? Nói cho thiếp biết!”
“Nàng ấy giống như ánh nắng, xua tan u ám trong lòng ta, không cần nàng ấy lập công, không cần nàng ấy hiền thục đoan trang, chỉ cần nàng ấy như bây giờ là đủ”.
Vương Yến Hồi bật cười: “Dùng ngôi báu của chàng đổi mạng nàng ta, chàng có bằng lòng không?”.
“Lấy mạng ta cũng được!”. Tử Ly không do dự.
“Ha ha ha, chàng... chàng nói thật hay nói chơi? Chàng không đùa ta chứ! Một người mưu đồ bá chủ thiên hạ như chàng, ha ha, vì một nữ nhi dám từ bỏ vương quyền, từ bỏ tính mệnh?”. Vương Yến Hồi cười đến trào nước mắt. Nàng đã khiến cho họ Vương rơi vào thảm cảnh không còn đường lui, không đầu hàng tất bị tàn sát. Tất cả những điều đó... nàng mâu thuẫn bao nhiêu, rõ ràng biết một nửa phần thắng cũng không có hy vọng, vậy mà vẫn tình nguyện đánh bạc. Vậy mà chàng lại không phải là tri âm của nàng! Vương Yến Hồi đột nhiên nói: “Thiếp không có được, sẽ không ai có được! Thiếp sẽ không giết chàng, thiếp muốn chàng suốt đời không thể quên nàng ta chết thảm trước mặt chàng thế nào!”. Suốt đời chàng sẽ không quên được thiếp! Nàng tự nhủ.
Thân người Tử Ly vừa động, Vương Yến Hồi hét: “Chớ động đậy, chân thiếp giẫm lên bẫy, dù chàng võ công cao cường, cũng không nhanh hơn ngàn mũi tên đang nhằm vào người nàng ta!”.
Tử Ly nhìn nàng, giọng mềm hẳn: “Nàng hà tất phải làm vậy? Ta đã hứa sẽ giữ lời, nàng còn muốn gì?”.
“Tử Ly, ngay từ đầu thiếp đã không nghĩ chàng sẽ giữ lời. Ngay từ đầu thiếp đã hiểu sẽ có ngày hôm nay. Thiếp đã sắp đặt xong mọi kế hoạch, nhưng bây giờ thiếp đổi ý, thiếp sẽ để chàng chứng kiến nàng ta chết thế nào”. Tay Vương Yến Hồi vừa động, từ trong ống tay trượt ra một lưỡi đoản kiếm, nhằm vào thân mình: “Khi thiếp ngã xuống là sẽ chạm vào chốt bẫy, nàng ta sẽ bị ngàn mũi tên cắm vào người như con nhím, không ai cứu được!”. Nói xong thúc kiếm sắc vào bụng, máu đỏ vọt ra.
Tử Ly sải hai bước đến ôm lấy nàng, mắt liếc về phía A La, mặt hốt hoảng.
“Phải... chàng chỉ có như thế, ôm như thế... cứ ôm thiếp như thế... một bước... một bước không rời... mới không chạm vào chốt bẫy”. Vương Yến Hồi nói nặng nhọc, ngắt quãng, sắc mặt tựa như cười, “Tử Ly, nếu chàng yêu thiếp... thiếp có thể giúp chàng... thống nhất thiên hạ, nhưng đáng tiếc...”.
Chính trong lúc đó, từ cửa gian mật đá một bóng người phi vào, bay vọt lên chém đứt sợi dấy thừng, ôm lấy A La nhảy xuống đất. Tử Ly và Vương Yến Hối sững sờ nhìn, người đó cúi chào: “Vương thượng, thần Thành Tư Duyệt cứu giá chậm trễ! Xin tha tội cho thần không thể hành lễ”.
Tử Ly thở phào, buông tay, Vương Yến Hồi rơi xuống, chỉ nghe tiếng gió “sì sì”, nhưng không thấy tên bắn ra, Vương Yến Hồi trợn mắt kinh ngạc nhìn Thành Tư Duyệt nói: “Ngươi... ngươi là...”. Nhưng mắt lại nhìn Tử Ly, trên môi nở nụ cười vô cùng bí hiểm, “Ninh... Ninh quốc... đại loạn...”. Giọng nàng đứt quãng, rồi tắt hẳn, Vương Yến Hồi cuối cùng tắt thở.
Tử Ly lùi hai bước, sững người, thở dài nhìn Thành Tư Duyệt: “Ngươi đến bao lâu rồi?”.
“Vương thượng tha tội, thần đã tìm thấy lối vào, nhưng loanh quanh không biết bao lâu mới tìm thấy gian phòng này, thấy thái tử phi mình đầy máu, Thanh La bị treo rút trên cao, không kịp thỉnh an Vương thượng, phải cứu muội ấy trước đã”. Thành Tư Duyệt cẩn thận đáp.
“Ngươi chẳng phải là thần tử trung thành của Đông cung sao?”. Tử Ly bình thản hỏi.
Thành Tư Duyệt nhìn chàng: “Thần chỉ trung thành với hoàng đế Ninh quốc”.
Tử Ly cười: “Lui ra đi!”.
“Xin vâng!”. Thành Tư Duyệt ôm A La đi trước dẫn đường, hai người ra khỏi địa cung.
Tử Ly không đón A La từ tay Thành Tư Duyệt. Thành thị lang là anh rể A La, còn chàng là hoàng đế Ninh quốc. Ra khỏi địa cung, Tử Ly khẽ ra lệnh: “Phá hủy!”. Chàng nhìn A La vẫn thiêm thiếp trong tay Thành Tư Duyệt, lòng lo lắng vô hạn, nhưng không dám thể hiện trước mặt thần tử, đành ra lệnh: “Tìm thái y khám, nếu không có gì nghiêm trọng đưa tam tiểu thư trở về tướng phủ điều dưỡng”.
Thành Tư Duyệt cúi đầu nhận lệnh. Chàng thầm nghĩ, con người này đã kìm chế mọi tình cảm trong lòng, người ta nói bụng vua khó dò, tâm thái ấy không phải tự nhiên mà có, mà từng chút được bồi nên trong cuộc sống luôn căng thẳng đề phòng.
Thái y sau khi xem xét kỹ nói: “Tam tiểu thư chỉ do quá mất sức, không có trở ngại lớn, nghỉ ngơi vài ngày là khỏi”.
Thành Tư Duyệt thở phào, chàng đã bắt mạch cho nàng, biết là thế, lúc này nghe thái y chẩn đoán, nét mặt mừng rỡ. Nữ chủ này nếu có mệnh hệ gì chàng sẽ phiền phức to: “Ông đi bẩm báo Ly... vương thượng”. Thành Tư Duyệt chữa lại, thầm nhắc bản thân, Lưu Phi bây giờ không còn là Ly Thân vương, chàng đã là tân vương Ninh quốc, đại lễ đăng cơ hai ngày sau chỉ là nghi thức mà thôi.
A La vẫn chưa tỉnh. Thành Tư Duyệt cau mày, rõ ràng là mạch bình ổn, tại sao đến giờ vẫn chưa tỉnh? Chàng theo xe ngựa đích thân đưa nàng về tướng phủ. Lý tướng vẫn chưa về, đại phu nhân sai một a hoàn đưa A La đến Đường viên, chăm sóc cẩn thận.

Đại phu nhân tươi cười đón Thành Tư Duyệt vào đại sảnh, Thành Tư Duyệt cúi chào: “Các nhạc mẫu xin chớ lo lắng, cục thế trong cung đã định, nhạc phụ là hữu tướng quốc, bận rộn quốc sự, lát nữa sẽ về thôi”.
Các phu nhân thở phào, tam phu nhân nước mắt lưng tròng: “Không biết Thanh Lôi nhà ta thế nào, cô gia có biết không?”.
Thành Tư Duyệt nghĩ, Thanh Lôi chắc là đã bị giam lỏng cùng thái tử ở ngoại thành phía đông rồi. Chàng thở dài: “Tính mạng không sao, phu nhân yên tâm!”.
Chàng lại nói với tứ phu nhân: “Những ngày này Tư Duyệt việc nhiều, Phỉ Nhi lại đang mang thai... liệu có thể đón thân nương đến đó?”. Mắt nhìn sang đại phu nhân.
Đại phu nhân sao có thể không cho đi, thái tử bị đổ, Thành Tư Duyệt này hình như lại không hề hấn gì. Anh ta là rể nhà này, Thanh Phỉ đang mang thai, muốn để mẹ ruột đến chăm sóc cũng phải, bà cười: “Tứ muội à, tướng phủ nhiều việc, ta không lúc nào rời đi được, muội đến đó chăm sóc A Phỉ. Tư Duyệt một mình xoay sở sao được?”.
Tứ phu nhân phấn khởi, chạy đi sắp đồ. Lúc ngang qua Thành Tư Duyệt, bà chợt nghe thấy tiếng nói nhỏ như tiếng muỗi kêu: “Sau này phu nhân không phải quay về tướng phủ nữa”. Tứ phu nhân ngây người, nhìn ánh mắt tươi cười của Thành Tư Duyệt, lòng bà khấp khởi, phải rồi, có thể sống cùng con gái và cháu ngoại, việc gì phải ở trong tướng phủ chịu sự ức hiếp của mấy phu nhân kia. Bà phải nhân cơ hội chăm sóc Thanh Phỉ, rời khỏi chốn thị phi này.

Trong vương phủ, Lưu Giác đứng ngồi không yên, ngược lại An Thanh vương ngồi uống trà, ung dung nhàn tản. Lưu Giác đi đi lại lại mấy vòng, mắt liếc nhìn cha, cũng ngồi xuống, thong thả uống trà, còn gọi người hầu: “Hôm nay ta cũng mệt rồi, chuẩn bị vài món ăn, kiếm bình rượu mang đến đây”. Chàng lại nhìn An Thanh vương, nói: “Đại cục đã định, cha có muốn uống vài chén?”.
An Thanh vương nhìn con trai, bụng nghĩ, sao không thấy tiểu tử này sốt ruột nhỉ? Ta sẽ không nói, nhất định có lúc mi sẽ sốt ruột cho coi. Hai cha con ngồi trong nhà hóng mát, ngắm sắc xuân đầy vườn, vừa ăn vừa uống rượu, không ai nhắc tới A La.
Lưu Giác lòng đã sốt ruột phát điên. Ông già chắc chắn đã có thu xếp, lại có âm mưu gì đó, chẳng qua không nói cho chàng biết, muốn khiến chàng sốt ruột phát điên. Chàng cười nhạt hỏi: “Cha, cha nói xem, sau khi Tử Ly đăng cơ, huynh ấy sẽ ra tay diệt trừ họ Vương chứ?”.
An Thanh vương tinh thần phấn chấn, tiểu tử, cuối cùng không nhịn nổi rồi sao? Ông đắc ý vuốt râu: ‘‘Con muốn hỏi họ Vương hay hỏi A La?”.
“Đương nhiên là họ Vương, việc quốc gia đại sự như vậy đương nhiên con phải quan tâm”. Lưu Giác trả lời.
“Ồ, không đâu, chưa thấy Vương hoàng hậu bị ban dải lụa trắng thắt cổ, chỉ có Vương thái úy đã cáo lão về quê, Vương Yến Hồi đã tự vẫn...”. Nói đến Vương Yến Hồi, ông bỗng dừng lại.
“Vương Yến Hồi tự vẫn? Nàng ta giống người tự vẫn hay sao? Trong trận khe núi Hoàng Thủy, nếu Tử Ly không điều đến hầu hết Hữu quân, con trai cha suýt không còn mạng mà về! Loại nữ tử như vậy có thể tự vẫn sao!”. Lưu Giác không tin, nghi hoặc nhìn An Thanh vương. Trước đây chàng chỉ nghe nói Vương Yến Hồi thông minh mưu lược, sau trận Hoàng Thủy chàng mới tin.
Chàng còn tưởng Vương Yến Hồi sẽ bố trí vô số cạm bẫy trong cung, đợi chàng và Tử Ly tấn công sẽ một lần nữa khiến họ thương vong thảm hại.
An Thanh vương nhìn con trai đăm đăm, ý tứ sâu sa: “Nàng ta không chết sao được? Nếu không tự vẫn, Tử Ly sẽ tha cho nàng ta ư? Tử Ly sao có thể giữ lại người đàn bà như vậy, nuôi hổ để rước họa? Cho dù Tử Ly mềm lòng tha cho nàng ta, nàng ta có cam lòng chịu cuộc sống giam lỏng cùng thái tử không? Người tự vẫn, bảo toàn vương cung, Vương thái úy cha nàng ta và các đại thần họ Vương cùng lắm chỉ cần rút khỏi triều đình, nếu quyết tử một trận trong vương cung, kết quả sẽ thế nào? Chắc chắn tru di chín họ!”.
Khi An Thanh vương nói đến tru di chín họ ngữ khí vô cùng nghiêm trọng, Lưu Giác hoàn toàn có thể tưởng tượng ra số phận những người họ Vương và các quan đứng về phía thái tử sau khi vương cung bị phá. Bao nhiêu người chết? Máu ở ngoài Ngọ Môn sẽ chảy thành sông, dao quằn trong tay đao phủ. An Thanh vương bỗng thở dài: “Có thể dùng tính mạng của mình đổi lấy cơ hội sống cho họ Vương, không thể không khiến người ta khâm phục!”.
Lưu Giác ngẫm nghĩ những lời cha mình vừa nói, mắt lóe sáng: “Binh pháp có câu: Người biết có thể đánh và không thể đánh là người thắng cuộc, Vương Yến Hồi biết không thể đánh, người mặc dù tự vẫn, nhưng cũng khó nói nàng ta thất bại”.
“Ha ha, phải lắm!”. An Thanh vương phấn khởi, con trai ông càng ngày càng trưởng thành, đã dần dần biết rút ra bài học kinh nghiệm, đang đủ dần lông cánh, có thể thả cho bay rồi. Sau này... mắt bỗng nhòa ướt, ông cúi đầu uống cạn chén rượu: “Con trai, hôm nay là lần cuối cùng. Sau này phải nhớ Tử Ly là hoàng đế, không phải là Ly Thân vương đã cùng con đồng cam cộng khổ chiến đấu”.
Lưu Giác miệng cười rạng rỡ: “Con hiểu”.
“Nếu Tử Ly hỏi đến A La thì sao?”. An Thanh vương sốt ruột không nén nổi.
“Với say tính và tính cách của Tử Ly, liệu huynh ấy có làm chuyện đại nghịch quân vương tranh cướp thê thiếp của thần tử không? Con thấy chắc chắn Tử Ly không làm chuyện đó, thâm tâm huynh ấy cũng không cho phép mình làm vậy”. Lưu Giác nói thẳng.
An Thanh vương cười nheo mắt nhìn con trai, tiểu tử này, rõ ràng sốt ruột đến phát điên, lòng đang thầm chửi lão phu, vậy mà còn kìm chế mãi như thế, thật đã làm khổ con rồi. Ông cười khà khà: “Lão phu không làm khó con nữa, nói cho con biết, ta đâu muốn làm tổn thương nha đầu đó, con thử nghĩ xem, trong cung có người của chúng ta. À, con luôn muốn làm quen với người đó, hôm nay có thể gặp y”.
“Ám Dạ?!”. Lưu Giác hào hứng nói.
Ô y kỵ của An Thanh vương có năm tổ, là Huyền tổ, Xích tổ, Minh tổ, Thanh tổ, Cáp tổ. Huyền tổ chuyên phụ trách tấn công, Xích tổ phòng thủ, Minh tổ chuyên lo ám sát, vạch định mưu kế, Thanh tổ bảo vệ, Cáp tổ đảm trách thông tin liên lạc. Huyền Y, Xích Phong, Minh Âm, Thanh Ảnh và Lưu Anh đều là những tổ trưởng sống trong vương phủ chỉ có Ám Dạ - tổ trưởng Cáp cổ không ở trong phủ, phụ trách truyền đạt thông tin, thực hiện các mệnh lệnh, bố trí điều vận đội quân bí mật cài cắm theo dõi các nơi, lực lượng của người này mạnh nhất Ô y kỵ, nắm lực lượng bí mật nhất của phủ An Thanh vương. Vậy mà Lưu Giác lại chưa gặp bao giờ. An Thanh vương không cho anh ta lộ mặt trước Lưu Giác, thỉnh thoảng trong phủ hoặc sau lưng ông, chàng cảm thấy hơi hướng của Ám Dạ, đó là một khí trường đặc biệt khác người.
Trước khi đi Biên thành xa xôi, An Thanh vương giao Ô y kỵ cho Lưu Giác, nhưng chàng vẫn chưa gặp Ám Dạ lần nào, hỏi An Thanh vương đều được một câu trả lời giống nhau: “Thời cơ chín muồi khắc biết”.
Lúc này ông già chủ động nhắc đến Ám Dạ, khiến chàng không khỏi cảm thấy tò mò.
An Thanh vương chậm rãi nói: “Ô y kỵ của ta từ khi được thành lập theo lệnh tiên tổ vương, người xung quanh đã không dám coi thường. Ô y kỵ ngoài Lưu Anh tất cả đều bịt mặt, mục đích là đến một ngày nào đó sau khi giải tán vẫn có thể trở thành lực lượng hữu dụng. Bây giờ tứ điện hạ đã đăng cơ thuận lợi, Ô y kỵ đã đến lúc giải tán được rồi”. 
Lưu Gỉác bỗng chốc hiểu ra, đây là chuyện sớm muộn, một vương phủ lưu giữ lực lượng như vậy, có quân vương nào có thể để yên? Khi tiên vương còn tại thế, do tình hình đặc biệt, bởi tiên vương tính khí ôn hòa, là huynh đệ ruột thịt với An Thanh vương, trong khi họ Vương lộng hành chuyên quyền sự tồn tại của Ô y kỵ là tất yếu. Tử Ly vốn trị bề tôi rất nghiêm cẩn, bản thân đã tận mắt chứng kiến, sau khi chàng đăng cơ, Ô y kỵ tiếp tục tồn tại sẽ là một cái gai trong mắt Tử Ly.
An Thanh vương rất hài lòng trước biểu hiện của con trai, con ông không hề tỏ ra kinh ngạc, xem ra đã hiểu sự tình: “Nhiều năm trước cha đã bảo Ám Dạ âm thầm sắp xếp chuyện này. Lực lượng kiên trung của Ô y kỵ đã ẩn vào dân gian, Ô y kỵ bây giờ có thể bỏ mặt nạ, công khai trước thiên hạ. Nhìn rõ rồi cũng có thể làm quen”.
Nhận rõ rồi, khi muốn loại bỏ cũng tiện chứ gì? Lưu Giác muốn cười lại nhịn, lúc này chính hai cha con cũng nói mập mờ như vậy! Chàng lơ đãng liếc An Thanh vương, nói tiếp: “Ám Dạ này bản lĩnh khá được, bao nhiêu năm nay không phải con không tra soát y, mà là không tra ra tin tức gì, y...”. Giọng chàng bỗng lạnh lùng: “Đến rồi sao còn không vào?!”.
Ngoài cửa sổ một bóng đen bay vào, trong mắt Ám Dạ lóe lên vẻ ấm áp và tán dương: “Chúa thượng không tồi, phát hiện ra Ám Dạ nhanh hơn Lưu Phi nhiều”.
Lưu Giác bước lên trước, ngắm nghía Ám Dạ. Anh ta uể oải đứng đó, dáng dong dỏng cao, đôi mắt lấp lánh lộ ra ngoài mạng che. Bàn tay với những ngón dài trắng nõn, đầu ngón giữa hơi nhô ra, có nốt chai nhẹ, anh ta vốn là người cầm bút hoặc vẽ tranh hay sao? Ám Dạ vừa đổi giọng, nghe quen quen: “Giọng nói này, chúa thượng có nhận ra không?”.
Lòng Lưu Giác trào lên cảm giác vô cùng quen thuộc, nhưng lại giống như bị cách một bức rèm che, nhất thời không nắm bắt được. Đúng rồi, giọng nói này chàng đã từng nghe, hơn nữa người này có lẽ chàng đã quen, là ai nhỉ? Chàng trợn mặt nhìn Ám Dạ, khóe mắt liếc An Thanh vương, như một tia chớp lóe, đáp án tức thì bật ra, chàng nhìn An Thanh vương: “Chính là y!”.
An Thanh vương và Ám Dạ nhìn nhau cười.
Ám Dạ bước lên quỳ thi lễ chính thức: “Cáp tổ Ô y kỵ Ám Dạ từng gặp chúa thượng, tam tiểu thư đã được đưa về tướng phủ, thuộc hạ đã gặp Lưu Anh, bố trí y ở lại tướng phủ chăm sóc tiểu thư. Xung quanh tướng phủ đã bố trí người theo dõi, tiểu thư rất an toàn”.
Lưu Giác nhấc chân, nhanh như chớp đá Ám Dạ một cái. Ám Dạ ngạc nhiên, cơ thể bay trượt ra xa ba thước, nhưng vẫn giữ nguyên tư thế quỳ. Lưu Giác cười lớn: “Nghe nói trong Ô y kỵ ngươi thân thủ tốt nhất, so với bản vương thế nào?”.
Rất tốt, không lập tức hỏi tình hình tiểu thư, chúa thượng như vậy mới xứng đáng thống lĩnh Ô y kỵ. Ám Dạ kính cẩn đáp: “Ngang ngang với chúa thượng, nhưng nếu chúa thượng luyện thành công tầng thứ bảy Phi tuyết công, Ám Dạ không phải là đối thủ”.
Lưu Giác kinh ngạc, Phi tuyết công này ngay cả cha chàng cũng không biết nội tình, sư phụ truyền dạy cho chàng đã chết ở Tuyết Sơn, Ám Dạ sao biết được?
Mắt Ám Dạ ánh lên vẻ ấm áp: “Xin cho thuộc hạ đứng lên nói”. Chàng đứng dậy, hai cánh tay vòng trước mặt, kết ra một chuỗi thủ ấn. Chính là khởi thức của tuyệt chiêu Phi tuyết công mà Lưu Giác chưa từng sử dụng. Ám Dạ dừng lại nói ngay: “Sư phụ là do lão vương gia tìm. Ông ấy cũng thu nhập thuộc hạ làm đệ tử”.
Lòng Lưu Giác băn khoăn, cha đi Biên thành xa xôi, giao chàng mới được mấy tuổi cho những người trong phủ trông nom, lúc đó chàng đã tưởng cha không quan tâm đến chàng. Về sau sư phụ đột nhiên xuất hiện, xưng là võ sư kỳ tài, đến truyền dạy tuyệt chiêu cho chàng. Sau khi lớn lên, An Thanh vương mỗi năm trở về một lần, lần nào cũng thích trêu đùa vui chơi với chàng. Tình cảm cha con mới dần dần sâu đậm.
Lưu Giác nhìn cha, lòng cảm kích vô hạn. Cha đã thu xếp tất cả mọi việc, bao gồm cả A La. Không nói với chàng cũng do sợ chàng sốt ruột. Chàng đáp lễ với Ám Dạ: “Đây là lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng ta thi lễ với binh sĩ Ô y kỵ. Nói đi, sau này ngươi trở thành thuộc hạ hay sư đệ của ta?”.
“Ám Dạ chính là Ám Dạ, Ô y kỵ trước sau vẫn là Ô y kỵ, sinh tử đều không thể xa rời”. Ám Dạ trang nghiêm nói.
“Nếu ngươi muốn...”.
Ám Dạ ngắt lời chàng: “Chúa thượng không muốn hỏi tình hình vương cung?”.
“Tình hình vương cung thế nào?”. Lưu Giác hạ giọng hỏi. Ám Dạ rõ ràng hiểu ý chàng, nhưng lại không muốn rời bỏ Ô y kỵ, từ bỏ thân phận Ám Dạ, sống cuộc sống hoàn toàn dưới ánh mặt trời. Mắt tràn ngập quyết tâm trung thành với vương phủ. Nỗi xúc động dâng trào trong lồng ngực Lưu Giác, đây là thuộc hạ, cũng là huynh đệ của chàng!
“Vương Yến Hồi và Lưu Phi có minh ước, chính là lý do vương cung không đánh cũng hàng. Nhưng Lưu Phi rõ ràng không thể thực hiện minh ước, Vương Yến Hồi tự vẫn, có lẽ muốn cầu khẩn Lưu Phi khai ân cho họ Vương thoát nạn tru di, đúng là một kỳ nữ. Nhưng nàng ta dùng tam tiểu thư để ép... Lưu Phi”.
Ám Dạ liếc nhanh Lưu Giác: “Theo thuộc hạ cảm thấy, Lưu Phi tâm địa khó dò, nhưng với tam tiểu thư thì tình cảm sâu nặng. Còn nữa, sau khi chúa thượng đi Hoàng Thủy không lâu, Cáp tổ hồi báo, hơn hai vạn tinh binh của Vương Yến Hồi đã lọt vào tay Lưu Phi”.
Lưu Giác và An Thanh vương ngồi nghe, trầm ngâm rất lâu. Tử Ly và Vương Yến Hồi có minh ước, điều này thực sự nằm ngoài dự liệu của họ. Lưu Giác đột nhiên cười: “Con phải đi thăm A La, cha à, sau khi Tử Ly đăng cơ, vương phủ chúng ta cũng nên tổ chức hỷ sự thôi. Cha có muốn bế cháu không?”.
An Thanh vương cười ha hả: “Phải lắm, cưới A La về, bế cháu, ha ha!”. Ông mỉm cười nghĩ đến nha đầu đó, tâm trạng cũng vui lên.
Ám Dạ cúi chào: “Thuộc hạ cáo lui!”. Nói đoạn nhún người bay vọt ra.
Sau khi Ám Dạ đi khỏi, Lưu Giác bĩu môi với An Thanh vương: “Cứ tưởng cái gì tốt là dành cho con, không ngờ cha còn giữ riêng một bảo bối lợi hại như thế”.
An Thanh vương trừng mắt: “Bảo bối à? Nếu là con, một hạt trân châu rơi trước mặt, con có nhặt không. Lúc nhặt được Ám Dạ nó đang cướp đồ bố thí, người bé tý như vậy mà chen chúc rất hăng trong đám ăn xin đông đúc, vừa may có bọc bánh, bọc thịt gì đó ném ra. Hầy, nó nhảy cao nhất! Khi nó quay đầu lại ta đã nhìn thấy mắt nó, chà chà, một đôi mắt sáng quắc, vừa kiên cường vừa không biết sợ. Hừ, giống hệt con khi cướp A La!”.
Lưu Giác tức mình, cười: “A La là miếng thịt sao? Con nhớ rồi, nàng ấy sẽ thù cha cho coi!”.
An Thanh vương giơ tay, cốc một cái rõ mạnh vào đầu chàng: “Nghe ta nói hết đã! Lúc đó nó thấy cha nhìn nó, liền ngây ra, mồm cắn miếng thịt, thỏa mãn vô cùng, cha không kìm nổi, bảo thị vệ đưa nó đến. Cha hỏi tuổi, nó giơ ngón tay, ra hiệu năm tuổi. Ta sai thị vệ mua mấy cái bánh cho nó, tiện thể hỏi chuyện gia cảnh, mắt nó ngấn nước, nhưng không khóc, lát sau bỗng nó quỳ xuống cầu xin ta, hỏi có thể bán thân cho ta không, chỉ cần một lượng bạc. Ta hỏi dùng bạc làm gì nó nói, muốn mua đồ ăn cho cha nó, cha hiếu kỳ theo nó về nhà...”.
An Thanh vương đột nhiên dừng lại nhìn ra ngoài cửa sổ, rất lâu không nói. Lưu Giác muốn hỏi, há miệng lại thôi. Chắc chắn là cảnh ngộ khiến An Thanh vương chấn động. Là cảnh ngộ gì không quan trọng, quan trọng câu nói tiếp theo của An Thanh vương: “Sau này khi điều kiện chín muồi, Ám Dạ sẽ tự mất tích, như chưa bao giờ tồn tại”. Rồi đột nhiên chuyển chủ đề: “Nhìn hai đứa, ta cảm thấy nó còn tốt hơn con, tính cách cũng tốt, lại hiếu thuận đâu có như con?”.
“Hừ, con còn chưa nói ra đấy, làm gì có người cha nào như cha? Rắp tâm để con trai lo lắng! Cha nói đi, bây giờ con không vội, con sẽ cưới A La về để nàng ấy đấu với cha!”. Lưu Giác nói, cười một hồi rồi nhảy ra khỏi nhà hóng mát, lòng đã vô cùng sốt ruột, chàng muốn gặp A La thật nhanh.

Tử Ly bồi hồi đi lại trong Ngọc Long cung. Mọi thứ ở đây chàng đều quen thuộc, nhưng lại thấy xa lạ. Chàng không ngừng nói thầm trong lòng: Phụ hoàng, Tử Ly đã làm được rồi! Phụ hoàng, phụ hoàng sẽ yên tâm chứ? Phụ hoàng đã gặp được mẫu hậu chưa? Mẫu hậu đã chờ đợi người lâu lắm rồi. Nghĩ tới đó chàng lấy ra cây ngọc tiêu, lặng lẽ thổi một khúc. Tiếng tiêu phiêu diêu, tựa như lòng chàng lơ lửng trên không, trên không tới trời, dưới không chạm đất, không bến đỗ, không tìm được chốn quay về.
Cuối cùng đã trở thành chủ nhân của Ngọc Long cung, nhưng lòng chàng bỗng trống rỗng, chơi vơi như trên đời chỉ còn lại đơn độc một mình. Tiếng tiêu nghẹn dần, chàng dừng tay, khẽ vuốt mặt, những ngón tay ươn ướt, là nước mắt sao? Ngừng lại tiếng tiêu, ngừng lại lòng mình, nỗi niềm miên man cùng tình thân ấm áp hòa trong nước mắt rơi xuống long bào. Chàng lặng lẽ đứng, đợi giọt nước mắt cuối cùng rơi xuống, nhưng nó lại ngưng trong mắt, rồi khô dần, không còn sức rơi xuống nữa.
Tử Ly giơ tay quệt khô nước mắt, trước mắt không còn nhập nhòe bóng nước, mọi vật trở nên rõ ràng, đến mức có thể nhìn rõ những sợi màng nhện trên xà nhà. Chàng nhẹ nhàng vọt lên, ngón tay chạm vào sợi tơ nhện đó, chàng nhảy xuống đưa ra ánh sáng nhìn, những sợi tơ mảnh mà dai, nhẹ bẫng. Tơ tình cũng thế, bắt đầu chỉ là một sợi mắc trong lòng, chú ý đến rồi giơ tay chạm vào, thổi nhẹ một cái, có thể lập tức tan biến vô hình vô ảnh. Nhưng lâu dần, tơ tình mới giăng mắc lan man chằng chịt, trái tim vừa vùng vẫy, cựa động đã không còn sức lực, đành để mặc cho tơ tình cùng lớn dần, đến cuối cùng đã không còn nhận rõ đâu là tim đâu là tơ nữa.
Tử Ly phủi màng nhện trên tay, dưới khuôn mặt trầm tĩnh ấy suy nghĩ của chàng đang như sóng trào từng lớp. Chàng bất giác nhắm mắt, lòng không ngừng gọi tên phụ hoàng và mẫu hậu, hít thật sâu hết hơi này đến hơi khác, nét mặt càng kiên định. “Hãy tin tưởng nhi thần, mỉm cười nhìn nhi thần trị vì Ninh quốc cường thịnh thế nào!”. Tử Ly thầm thì.
Chàng chậm rãi đi vào đại điện, ngồi trên ngai vàng. Làn gió mát thổi vào trong điện, ánh mặt trời dừng lại bên ngoài, Tử Ly nhìn ra, dưới ánh mặt trời vương cung lộng lẫy biết bao. Đây là cuộc đời chàng sao? Ngồi một chỗ sâu hút giữa tầng tầng lớp lớp trướng rủ màn che nắm trong tay thế giới bên ngoài chói lòa ánh nắng. Tất cả mọi người đều sống dưới ánh mặt trời, cho dù một lúc không có ánh nắng, chỉ cần bước hai bước là có thể tự do cho thể xác và tâm hồn tắm trong ánh nắng. Chỉ có chàng ở trên ngai vàng không thể di dời là mãi mãi trầm luân, bọc chặt trái tim máu thịt trong giáp sắt, quẳng trong lửa thiêu, ném vào nước lạnh, đến khi luyện thành tấm giáp cứng như thép, mà mọi mưu đồ toan tính, mọi công kích đả phá không thể nào chọc thủng.
Ánh mắt chàng dần dần trầm lắng, nhìn xuyên qua tường cung, từ từ nhắm lại, bản đồ bốn bề Ninh quốc hiện lên trước mắt, chàng đột nhiên cảm thấy coi thường thiên hạ. Thế lực hắc ám mạnh hơn quang minh nhiều, bởi vì nhìn không xuyên, sờ không thấu; thế lực hắc ám an toàn nhất, bởi vì không biết ra tay từ đâu. Đó chính là đế vương!
Chàng nghĩ tới Vương Yến Hối, khóe miệng hiện lên nụ cười giễu cợt. Minh ước ư? Có một nội ứng để dễ nắm binh quyền, sao không thể? Vương Yến Hồi cũng như cha nàng ta, chưa từng chinh chiến, tinh thông trận pháp thì sao? Chiến trường thiên biến vạn hóa, sao có thể chỉ dựa vào một cái đầu rỗng là có thể thắng trận? Thật nực cười, đó chỉ là trò đánh trận trên giấy không hơn!
Nàng ta còn không bằng Lưu Giác và Cố Thiên Tường, dựa vào mấy cuốn binh thư là đã muốn khai thiên lập địa, muốn thay đổi thân phận, còn muốn ngồi sánh ngang với mình, cùng xuất chinh bốn bể, e là nàng ta điên rồi! Sao mình có thể để nàng ta toại nguyện, chỉ dựa vào công trạng làm nội ứng cho mình là có thể thành hoàng quý phi của mình! Đưa chính phi thái tử đến bên hoàng huynh làm gian tế, một minh quân thánh chúa sao có thể liên quan tới những chuyện bỉ ổi như vậy? Nàng ta muốn trở thành kỳ tài thiên hạ, chỉ có điều hiểu biết quá ít về lòng người.
Dù có ôm mộng bá chủ, thống nhất năm nước, chàng cũng sẽ không tùy tiện xuất binh. Vô cớ xuất binh sẽ khiến các nước lân bang phẫn nộ, muốn tiêu diệt quân đội có sĩ khí cao ngạo được thống lĩnh bởi những tướng soái có chung mục đích chống phi nghĩa, cho dù cuối cùng giành được thắng lợi cũng làm tổn thương nặng nề nguyên khí của Ninh quốc.
Điều đáng tiếc duy nhất là, một nữ nhi có hùng tâm tráng chí như thế quả thật hiếm hoi, vậy mà đã chết.
Bản thân chàng không thích nàng ư? Thích, nhưng không phải bởi vì nàng mạnh mẽ, nàng có thể sánh ngang với chàng là có thể trao nàng trái tim. Chàng đã trao trái tim cho người khác, đối với nàng, chàng chỉ có thể thở dài.
Lúc bước vào đại điện Đông cung, chàng đã cảm thấy nàng đã sớm nghĩ ra, cho nên đã thông minh dùng hai vạn Bắc quân cộng với tính mạng bản thân để bảo vệ cả họ Vương. Tử Ly mỉm cười, chàng đương nhiên không tru di chín họ họ Vương, càng không truy cứu bất kỳ viên quan từng theo thái tử. Thái tử, lương đệ, tiểu công chúa, chàng sẽ đối đãi tử tế, để họ phải tạ ơn, để thái tử khâm phục, trong thiên hạ còn gì được lòng người hơn thế? Chỉ có điều việc đầu tiên phải làm sau lễ đăng cơ là hạ một đạo thánh chỉ, mọi nữ tử họ Vương vĩnh viễn không được vào cung làm phi tần, nam tử vĩnh viễn không được làm quan.

CHƯƠNG 30



Lưu Giác vui vẻ đi vào tướng phủ đã thấy Lý tướng ra đón. Dù chàng không thích ông ta, về danh nghĩa Lý tướng vẫn là nhạc phụ đại nhân của chàng, thấy Lý tướng mặt mày hớn hở, chàng cũng mỉm cười thi lễ, chàng được nghênh đón vào chính đường tướng phủ, hàn huyên mấy câu.
Lý tướng lòng thấp thỏm không yên. Địa vị của Cố tướng đã nâng một bậc, trở thành quốc trượng, còn trưởng nữ Thanh Lôi của ông lại bị giam lỏng cùng thái tử, không lâu nữa sẽ chuyển đến biệt uyển ở ngoại ô phía đông; thứ nữ Thanh Phỉ gả cho Thành Tư Duyệt không cao không thấp. Duy có đứa thứ ba, cơ hồ có nhiều vương vấn tình cảm với tân vương và Bình Nam vương. Cảnh diễn ra ở phủ An Thanh vương ông vẫn còn nhớ.
Nếu Thanh La có thể gả cho vương thượng, không được làm hoàng hậu thì cũng làm quý phi, lại là quý phi được sủng ái nhất, địa vị của ông ta và Cố tướng sẽ ngang nhau. Sau này biết đâu có thể A La hạ sinh hoàng tử, nhờ mẫu thân được sủng ái mà hoàng tử được lập làm thái tử.
... Nhưng, cha con An Thanh vương... Trong đầu ông bao ý nghĩ xáo trộn, nhanh chóng đưa ra phán đoán mới. Vừa đăng cơ, tân vương quyết không gây ra chuyện cướp vợ của đại thần, hơn nữa, đại thần này lại không phải là người bình thường, mà là con ruột của lão vương thúc, là Bình Nam vương đại thắng quân Trần ở Lâm Nam, uy chấn thiên hạ, có công đắc lực phò tá tứ điện hạ lên ngôi! Hôn sự với Bình Nam vương đã chắc như đinh đóng cột, không còn nghi ngờ gì nữa.
Lúc này Lưu Giác đã vào đến cửa, chắc là đang lo lắng cho A La của chàng, nên ngữ khí của Lý tướng càng thêm thân mật và phỉnh nịnh: “Hiền tế à, con quả là tỏ rõ thần uy, trong trận Lâm Nam đã uy phong hiển hách, nghe nói quân Trần mới nghe danh đã tháo chạy! Lần này đôi mắt tinh tường lại lựa chọn đúng minh chủ, vương gia quả thực là phúc của Ninh quốc! Tiểu nữ có thể được đấng phu quân như thế, là phúc ba đời nhà ta!”.
Lưu Giác vừa nghe khắp người đã nổi da gà, nhe răng cười: “Tướng gia quá khen, đó là do vương thượng anh minh, dụng binh như thần! Lại thêm nhạc phụ đại nhân và quần thần cúc cung tận tụy, mới sáng suốt vạch trần ác tâm cùng mưu đồ của họ Vương, để không khiến vương thượng ta rồng ẩn biển khơi!”.
Lý tướng giật mình, cười gượng, Bình Nam vương này thật có tài ăn nói.
Lại hàn huyên chuyện trên trời dưới bể một hồi, Lý tướng cuối cùng nhìn ra tâm trạng nôn nóng trong vẻ bề ngoài lịch duyệt cung kính của Lưu Giác, mới gõ vào đầu làm bộ nhớ ra: “Ôi chao, đầu óc ta, A Vân, mau đưa Bình Nam vương đến Đường viên thăm tam tiểu thư. Tiểu thư đã tỉnh chưa?”.
“Vâng, lão gia! Nhưng tam tiểu thư... tiểu thư...”. A Vân ấp úng, ngẩng đầu liếc Lưu Giác.
Lưu Giác bật dậy khỏi ghế, mắt nhìn Lý tướng. Lý tướng lòng thầm rên ‘‘ô chà”, bụng nghĩ, sao mình lại quên đi thăm A La? Rồi ông ta vội hỏi: “Rút cục thế nào, nói mau!”. Tay ông đã bắt đầu run.
”A Vân cô nương, xin đi trước dẫn đường”. Lưu Giác không chờ nghe nàng ta trình bày, lời vừa nói đã sải bước ra ngoài.
A Vân vẫn còn đứng chần chừ, Lý tướng sực tỉnh, vội đích thân dẫn đường đến Đường viên: “Đi thăm A La, trời ơi hôm nay trong cung nhiều việc, khi Thành Tư Duyệt đưa A La về, biết là không có chuyện gì lớn, lão phu sơ suất quá!”.
Lưu Giác trấn tĩnh, cười nói: “Tướng gia là trọng thần của Ninh quốc, hôm nay việc nhiều, Thành Tư Duyệt đã nói không có chuyện gì, chắc là ổn thôi!”.
Vào Đường viên, Lưu Anh chắp tay hành lễ với Lý tướng và Lưu Giác: “Tiểu thư vẫn chưa tỉnh, nhưng mạch vẫn bình ổn”. Ánh mắt nhìn Lưu Giác lộ vẻ lo lắng.
Lưu Giác theo Lý tướng vào phòng, A La nằm thiêm thiếp trên giường, như đang chìm trong giấc mộng, sắc mặt hơi xanh, hơi thở nhè nhẹ. Chàng vội đi đến cầm tay xem mạch, quả nhiên mạch bình ổn, không có bất kỳ biểu hiện khác thường. Chàng khẽ gọi: “A La tỉnh dậy đi, là ta đây, A La!”.
Dường như nàng không nghe thấy. Lưu Giác khẽ hỏi: “Thành Tư Duyệt đưa về phủ lúc nào?”.
Một nữ tỳ đáp: “Giờ Ngọ ba khắc. Lúc đó Thành thị lang nói, thái y đã xem rồi, tiểu thư chỉ bị mất sức, không có gì lớn”.
Mất sức? Bây giờ đã là giờ Dậu, ngủ liền hơn ba canh giờ vẫn chưa tỉnh? Lưu Giác thầm rên, hỏng rồi, không biết Vương Yến Hồi đã giở trò gì trên người A La. Chàng nhìn Lưu Anh, nói với Lý tướng: “Tướng gia xin cứ về nghỉ ngơi, ta sẽ vận công thử xem”.
Lưu Anh vội gọi Lý tướng và hai nữ tỳ ra ngoài, cẩn thận đóng cửa, đứng canh bên ngoài.
Lưu Giác nhẹ nhàng đỡ A La dậy, cả người nàng cũng như đang ngủ, dựa vào người chàng, toàn thân như không chút sức lực, như không hề có cảm giác. Chàng lặng lẽ vận huyền công, truyền chân khí vào cơ thể nàng, cảm thấy nội kinh mạch bình thường, chân khí sau khi lọt vào hồi lâu không có dấu hiệu gì bất thường.
“A La! Nàng có nghe thấy không? Nàng có cảm thấy không?”. Lưu Giác lại nhẹ nhàng hỏi.
A La không có phản ứng, Lưu Giác hoảng hốt, bất giác ôm nàng thật chặt. Tiếng tim đập và thân nhiệt áp vào khiến chàng hơi yên tâm, mới cảm thấy nàng vẫn còn sống. Lưu Giác hít nhẹ hơi ấm từ cơ thể nàng, nói nhỏ: “Đừng dọa ta, A La, nàng ngủ đủ rồi, dậy đi, tỉnh đi, nghe tiếng tim ta đập này, tim ta đập rất dữ, lòng ta rất bối rối, nàng tỉnh lại đi!”. Nói đến câu cuối chàng dường như đã lắc người nàng. Nhưng chỉ có mấy sợ tóc mai lay động, khuôn mặt ngọc của A La vẫn bất động.
Lưu Giác giật mình, lại lo sợ ôm nàng vào lòng, đầu óc đã rối loạn, tình trạng bây giờ của A La ngoài hơi thở, nhịp tim và nhiệt độ, hoàn toàn giống một người đã chết. Chàng không cam lòng, lại ép ra chân khí một lần nữa thăm dò kinh mạch trong cơ thể A La, vẫn không phát hiện có gì khác.
Chàng từ từ đặt nàng nằm xuống, nhìn một hồi lâu. A La rút cục bị làm sao? Chàng cau mày, khẳng định có chỗ nào đó không ổn. Chàng nhảy ra kéo cửa, Lưu Anh nhìn thấy sắc mặt chàng, giật mình hỏi:“Tam tiểu thư...”.
“Ngươi không được rời nửa bước, không được cho ai đến gần!”. Lưu Giác lạnh lùng lệnh cho Lưu Anh rồi đi đến đại sảnh nói với Lý tướng: “A La không phải đang ngủ, tình trạng nàng ấy rất giống trúng tà. Ta đã lệnh không được ai đến gần, tướng gia đừng lo, ta sẽ tìm được câu trả lời”. Nói xong chàng vội vã bỏ đi.
Trong Tùng phong đường, Tiểu Ngọc vẫn yếu ớt nằm trên giường, nghe thấy tiếng động bên ngoài, vội lấy gối kê người ngồi dậy.
Lưu Giác bước vào, trầm giọng hỏi: “Sức khỏe Tiểu Ngọc đang phục hồi tốt chứ?”.
“Đa tạ vương gia quan tâm, Tiểu Ngọc không bị gì nghiêm trọng, nghỉ ngơi vài ngày là khỏe. Tiểu thư thế nào rồi ạ?”. Tiểu Ngọc mỉm cười nhìn chàng, nàng biết Lưu Anh đã đến Đường viên bảo vệ A La nên cũng yên tâm.
“A La vẫn chưa tỉnh, tình:trạng rất lạ, trông thì như đang ngủ. Nhưng nếu đúng như thái y nói, nàng chỉ bị mất sức thì không thể ngủ liền bốn canh giờ không tỉnh mà lay gọi cũng không tỉnh. Cho nên, Tiểu Ngọc, ta muốn ngươi kể lại chi tiết mọi chuyện xảy ra khi Vương Yến Hồi đưa A La đi!”. Chàng nhìn Tiểu Ngọc vẻ nghiêm túc.
Tiểu Ngọc kinh hoàng thất sắc: “Sao có thể như vậy? Khi Vương Yến Hồi gọi thị vệ đưa tiểu thư đi, không có gì khác lạ!”. Nàng bắt đầu nhớ lại tình hình lúc đó, “Khi trời sắp sáng, một tốp thị vệ xông vào mật thất. Vương Yến Hồi nói “Muốn chuyển chỗ khác cho tiểu thư, không biết tiểu thư có đồng ý không?”. Tiểu thư trả lời “Được, ở đây cũng có thói quen uống trà sáng!”. Khi tiểu thư đi ra không hề nhìn Tiểu Ngọc một cái. Sau đó lại qua hai canh giờ, có người vào xưng là người của Ô y kỵ, đưa Tiểu Ngọc ra, hỏi tình hình của tiểu thư, rồi giao cho một người đưa Tiểu Ngọc ra khỏi cung, thật là không có gì khác thường!”.
“Ngươi đừng khóc, Tiểu Ngọc! Khóc cũng chẳng ích gì, nghỉ ngơi vài ngày, khỏe rồi, lại đi thăm A La”.
Lưu Giác không có được tin gì hữu ích, từ chỗ Ám Dạ cũng không, lòng như lửa đốt.
An Thanh vương trầm tư suy nghĩ: “Ở địa cung của Vương Yến Hồi có manh mối gì không?”.
Lưu Giác mắt sáng lên: “Trong cung đột nhiên có thêm năm nghìn binh mã, liệu có phải họ vào qua đường mật đạo?”.
“Rất có khả năng, ta gọi Ám Dạ cùng đi với con”. An Thanh vương quyết đoán, “Nhất thiết không được để ai phát hiện hai người, bây giờ là thời khắc đặc biệt, lúc này phát hiện hai người bí mật vào Đông cung, không khéo lại bị nghi là thích khách, khiến quân vương nghi ngờ, không phải chuyện hay”.
Việc không thể chậm trễ, Lưu Giác và Ám Dạ dùng khăn bịt mặt như nhau, lặng lẽ từ phía đông thâm nhập vào Đông cung. Vừa hạ xuống tường cung, họ đã phát hiện có một người đang đứng ở Ngọc Ly cung cách đó không xa. Hai người nín thở, Lưu Giác ra hiệu cho Ám Dạ, hai ngày nữa Tử Ly mới đăng cơ, bây giờ vẫn chưa vào Ngọc Long cung, vẫn ở Ngọc Ly cung.
Hai người lặng lẽ lui ra, nhờ bóng cây và bóng đêm, dựa vào trí nhớ âm thầm lọt vào Đông cung.
Đông cung lúc này không còn chút gì không khí phồn hoa náo nhiệt của ngày trước, mà im lìm như ngủ trong đêm, chỉ có hai thị vệ đứng gác, bên trong tĩnh lặng không một bóng người. Ám Dạ bay đến như một làn khói, Lưu Giác thầm thán phục khinh công của chàng ta cao hơn mình một bậc, thân thủ như thế rất thích hợp với nhiệm vụ của Cáp tổ. Thấy chàng ta bám lấy một góc mái hiên, lộn người nhảy xuống dưới với góc độ không thể tưởng tượng, quan sát bên trong nội điện từ kẽ hở của cửa. Nhờ ánh trăng lờ mờ, Ám Dạ thận trọng quan sát khung cảnh tĩnh mịch xung quanh, sau khi tin chắc không có người, mới ra hiệu với Lưu Giác. Lưu Giác nhón chân, lướt tới như con chim, nhanh nhẹn vọt đến. Sau đó một người quan sát động tĩnh, một người khẽ mở cửa sổ, cả hai né người lách vào tẩm điện của Đông cung thái tử phi.
Ám Dạ rõ ràng đã biết bố trí bên trong, mở lối vào địa cung một cách thành thạo, hai người theo bậc thềm đi sâu xuống dưới, sau khi vào bên trong, họ đóng cửa lối vào, tất cả lại trở về tĩnh lặng như chưa bị ai xâm phạm. Nền và mặt tường địa cung đều lóng lánh huỳnh quang, rõ ràng được xây bằng loại đá lân tinh. Hai người lướt nhanh về phía trước như bóng ma trong ánh lân tinh, suốt dọc đường không ai nói một câu, chỉ dùng tay ra hiệu, Ám Dạ liên tục đưa ra tín hiệu tay phức tạp, nói với Lưu Giác các loại bố trí khắp nơi. Hệ thống bẫy ở đây rất phức tạp, chỉ cần đi nhầm sẽ bị trúng bẫy mất mạng, khiến Lưu Giác vô cùng kinh sợ.
Vòng đông rẽ tây, không lâu sau hai người đã tìm được lối vào ngôi điện đá đó. Lưu Giác đại khái hiểu ra, địa đạo bên ngoài chằng chịt quanh co tựa mê cung bao bọc tòa điện, nếu không có người dẫn đường, những con đường lấp lánh lân tinh giống hệt nhau không thể phân biệt được, chỉ có thể quanh co chán chê rồi lại trở về vị trí ban đầu, chàng bất giác khâm phục Ám Dạ.
Ám Dạ cười nhìn chàng, nhẹ nhàng làm mấy động tác tay, ra hiệu bảo chàng, chàng ta ở Cáp tổ, phải thăm dò nắm tin tức, loại bỏ cạm bẫy là một trong những kỹ năng cơ bản.
Lưu Giác đứng trong ngôi điện đá, đưa mắt quan sát, thấy cách lối vào mấy trượng có một vũng máu lớn đã đông cứng, nhưng không thấy thi thể Vương Yến Hồi, liền ngoái đầu nhìn Ám Dạ. Ám Dạ cũng kinh ngạc, lẽ nào có người đã vào đây? Chàng lẳng lặng ra hiệu cho Lưu Giác dừng bước, cổ tay khẽ vẫy đã bắn ra sợi dây mảnh đến mức mắt thường không nhìn thấy, trong nháy mắt đã quấn vào cây cột đá đối diện lối vào ngôi điện, Ám Dạ khẽ giật dây thăm dò.
Lưu Giác đột nhiên cảm giác cách mười trượng có người đi đến, liền khẽ vỗ Ám Dạ. Ám Dạ vẫy tay thu lại sợi dây, hai người vọt lên như hai con dơi, không tiếng động lui khỏi tòa điện, ép chặt người vào một góc địa đạo.
Bên ngoài có năm người đi đến, hình như họ đều biết võ công, sau khi đi vào, họ kiếm khắp trong tòa điện. Hai người nín thở, vận nội công duy trì hơi thở. Một lát nghe thấy tiếng nói: “Vương thượng, không phát hiện địa cung có cửa ra”.
Hai người kinh ngạc, không ngờ người đến lại là Lưu Phi.
Tử Ly xem xét kỹ bên trong tòa điện, ngoài ba cây cột hai chiếc ghế đá thì không có vật dụng nào khác. Chàng thẫn thờ đứng gần vũng máu khô, ngẩng đầu nhìn sợi dây thừng lủng lẳng từ trên đỉnh trần, hình ảnh A La lúc đó lại hiện lên trong đầu. Lúc chàng nhìn thấy nàng, A La đã hôn mê, không còn sinh khí. Lòng chàng đau nhói, chỉ hận rằng người bị treo ở đó sao không phải là mình nhưng chàng không dám bước nửa bước đến gần, cuối cùng vẫn không thể không ôm người con gái đang sắp chết trong lòng mình, bây giờ muốn đi thăm A La, nhưng lại không thể ra khỏi cửa cung một bước. Nghĩ đến tình cảnh này, lòng chàng bừng bừng mối hận, trừng trừng nhìn vũng máu khô trên nền. Đột nhiên nhớ tới đôi mắt lưu luyến đau đớn của Vương Yến Hồi trước lúc chết, bất giác thở dài: “Thi thể của thái tử phi đã thu xếp chưa?”.
“Đã đưa về am Từ Thiện ở ngoại thành phía đông, chờ an táng”.
“Truyền chỉ, hậu táng, đưa vào phi lăng!”. Tử Ly thản nhiên hạ chỉ, “Đã không có lối ra, thì bịt chỗ này lại, hủy bẩy, san bằng lối vào mười trượng”.
“Tuân lệnh!”.
Tử Ly lại ngoái nhìn đoạn dây thừng lủng lẳng trên không, nói tiếp: “Vốn đã lệnh cho Thành thị lang thu xếp chuyện này, ngày mai Thành thị lang đến, nói với y, ở đây đã được niêm phong”. Nói đoạn chàng hất tay áo quay ra.

Nghe thấy tiếng chân xa dần rồi mất hẳn, Lưu Giác và Ám Dạ mới dám thở bình thường. Lưu Giác bỗng hốt hoảng, ở đây không có lối ra, Tử Ly muốn niêm phong địa cung, họ làm thế nào ra được? Hai người nhìn nhau nhảy lên, nhanh chóng vọt ra phía lối vào. Vừa rẽ khỏi địa đạo, Lưu Giác kéo Ám Dạ, trên bậc đá trước mặt, những sọt đất đá đã đổ xuống ầm ầm, lối ra sẽ bị bịt kín ngay tức khắc, rõ ràng trước khi vào địa cung Tử Ly đã cho chuẩn bị đất đá lấp lối vào.
Lưu Giác nhún vai, cười: ‘‘Được, có thể nói được rồi”.
Trong mắt Ám Dạ cũng không thấy sợ hãi, khẽ cười: “Thuộc hạ không tin, Vương Yến Hồi đã bỏ thời gian ba năm chỉ xây được mỗi cái hang đá này. Chúa thượng, xin mời đi theo Ám Dạ”.
Ám Dạ thận trọng đi vào trong địa đạo, tay rắc bột đen, rẽ mấy chỗ ngoặt, rồi lại trở về cửa vào tòa điện. Chàng lại từ một đầu khác đi ra, rắc bột màu đỏ đánh dấu, mấy lần như thế, cuối cùng họ vẫn quay trở về cửa tòa điện đó, mắt Ám Dạ đầy nghi hoặc: “Chúa thượng, địa đạo vòng vo, nhưng lại chỉ thông đến tòa điện đá này không hề có cửa ngầm khác”.
Lưu Giác cười sang sảng: “Ta cũng không tin Vương Yến Hồi kỳ công xây tòa điện đá như vậy, mà bên trong lại chẳng có thứ gì!”. Nói đoạn chàng quay trở vào nhà đá.
Tám cây cột chắc chắn trong tòa điện, không hoa mỹ, hai chiếc ghế đá có thể di chuyển, Ám Dạ gõ từng viên đá lát nền. Đến vũng máu của Vương Yến Hồi, chàng chợt nhún chân, trên hai bức tường phía sau mở ra hai cửa động đen ngòm, từ đó phát ra những tiếng gió “sì sì”, Lưu Giác hốt hoảng nhảy dựng, rồi vọt lên không, nhưng không thấy mũi tên nào bay ra, bất giác trợn mắt nhìn Ám Dạ.
“Đã làm chúa thượng kinh động, Lưu Phi dám ngang nhiên bước vào, hệ thống bẫy trong địa cung tất đã bị dở bỏ”. Ám Dạ nén cười.
Lưu Giác nhìn về hướng mũi tên nhằm vào, chính là vị trí chính giữa bức tường phía trái tòa điện đá, phía trên có một đoạn dây thừng lủng lẳng vẫn còn đung đưa bởi gió hút từ cửa động trên tường do vừa rồi Ám Dạ chạm vào chốt bẫy.
“Hình như là vết kiếm chặt đứt,” Lưu Giác vừa quan sát vừa lẩm bẩm, chợt hiểu ra: “Vương Yến Hồi đã treo A La trên đó, định dùng bẫy tên giết nàng ấy?”.
Ám Dạ cụp mi mắt: “Đằng nào người cũng đã được cứu, lão vương gia sợ chúa thượng lo lắng, bảo thuộc hạ không cần nói kỹ”.
Lưu Giác ngẩng đầu nhìn sợi dây thừng, vừa hận vừa đau. Không biết A La bị treo bao lâu mới kiệt sức như thế, không biết nàng còn trải qua những gì mà đến giờ vẫn hôn mê bất tỉnh.
Chàng thở dài một tiếng, tung người vọt lên, nắm lấy sợi đây thừng, chàng muốn biết A La bị treo ở đây, cảm giác thế nào. Cơ thể chàng vừa buông lỏng, đu đưa theo sợi dây thừng, gió hun hút từ những cửa động dày đặc đen ngòm trước mặt phả vào mặt giống như những con rắn đang phun độc khiến chàng lạnh người.
Lúc đó A La sợ hãi tuyệt vọng thế nào? Nếu Ám Dạ không đến kịp, trận mưa tên dày đặc bắn ra từ những cửa động trên tường... Lưu Giác rùng mình, không dám nghĩ tiếp.
Ám Dạ thở dài nhìn thân hình Lưu Giác treo lơ lửng, có lẽ do quá yêu thành ra loạn trí. Chỗ sơ suất duy nhất trong kế hoạch tính toán chu toàn của lão vương gia là không biết Vương Yến Hồi đã giở trò với A La lúc nào. Chàng cúi đầu, lai tiếp tục gõ tìm trên nền đá xem có manh mối gì có thể giúp họ thoát ra địa đạo đã bị bịt kín này.
Lưu Giác đột nhiên“a” một tiếng. Ám Dạ ngẩng đầu, nhìn thấy Lưu Giác tay nắm sợi dây thừng, mắt nhìn phía trước, sau đó vọt lên, lao thẳng đến phía trên khung cửa tòa điện đá, thò tay lấy ra một cây tiêu nhỏ. Lưu Giác cầm lên quan sát, một cây tiêu rất bình thường, không có gì đặc biệt. Nghĩ một lúc đưa lên miệng thổi, một mũi tên không đầu bay ra, bên trên buộc một mảnh lụa mỏng.
Ám Dạ cẩn thận cầm mũi tên, giở mảnh lụa ra xem, bên trong có mấy hàng chữ nét thanh thoát: “Đặt thân vào vị trí của nàng ta, trải nghiệm nỗi đau đớn của nàng ta, tất là trân trọng nàng ta, yêu nàng ta hết mực. Thanh La bị trúng Thất hồn ngọc dẫn hương của thiếp, cần được ngâm mình một canh giờ trong suối băng ở hoàng lăng trên đỉnh Ngọc Tượng mới có thể tỉnh lại. Bây giờ chỉ có mình chàng mới cứu được nàng ta, thiết nghĩ, trải qua kiếp nạn đó, Lưu Giác ắt không dám tranh giành với Tử Ly nữa”.
Ám Dạ đọc xong, lặng lẽ đưa cho Lưu Giác.
Lưu Giác đọc xong tái mặt vò mảnh lụa trong tay. Vương Yến Hồi giỏi lắm, đến trò này mà cũng nghĩ ra.
Muốn giải Thất hồn ngọc dẫn hương chỉ có dùng nước suối băng trong hoàng lăng, suối băng trong suốt, bắt nguồn từ sông băng vạn năm không tan. Di thể các đời hoàng đế Ninh quốc đều được quản ở hoàng lăng, diện mạo vẫn bảo tồn muôn năm không đổi. Hoàng lăng do các thủ lăng nhân(2) truyền đời canh giữ, chỉ có Ninh vương được vào hoàng lăng, trừ khi băng hà được đưa vào hoàng lăng yên nghỉ, mỗi năm Ninh vương cũng chỉ được một lần vào thăm dung nhan liệt tổ liệt tông. Lúc này chỉ có Tử Ly có thể đưa A La vào tắm ở suối băng để giải Thất hồn ngọc dẫn hương. Như vậy, A La chắc chắn phải là phi tử của hoàng đế Ninh quốc. Nếu muốn Tử Ly đưa A La vào tắm ở suối băng, nhất thiết phải trao A La cho Tử Ly, trở thành hoàng phi của Ninh vương? Như vậy chẳng phải cố tình đẩy chàng và Tử Ly vào nghịch cảnh tranh giành một cô gái sao?
Ám Dạ thấy Lưu Giác toàn thân run rẩy, bất giác thở dài: “Chúa thượng, trên mảnh lụa còn có sơ đồ đường ra phải không?”.
Lưu Giác tức giận ngây người hồi lâu, mới nói: “Theo sơ đồ chỉ dẫn thoát ra ngoài hẵng hay!”. 
Hai người theo ký hiệu trên sơ đồ, ấn vào một chốt bẫy, quả nhiên thấy một chiếc cột di chuyển, lộ ra một bậc thang. Ám Dạ né người nhảy xuống thăm dò trước, Lưu Giác theo sát sau, đi hai canh giờ mới đến một cái cửa bằng đá dày nặng trịch. Họ đẩy cửa bước ra, bên ngoài ánh trăng trong vắt như nước, dãy núi sừng sững nguy nga, có tiếng suối chảy rì rào, sau khi đi ra, cửa đá tự động đóng lại, đẩy lần nữa đã không hề nhúc nhích, thì ra cửa chỉ có thể mở từ bên trong. Sau khi cửa đã đóng lại, hoàn toàn lẫn vào núi, không hề nhìn thấy dấu vết cửa hang đâu.
Lưu Giác quay đầu nhìn, có thể thấp thoáng nhìn thấy cổng thành phía đông, thì ra họ đã ở ngoại thành phía đông. Chàng nhìn dòng suối, đột nhiên nghĩ đến có lần đã cùng A La cưỡi ngựa đến đây, bất ngờ bị đánh lén. Lúc đó chàng đã cảnh giác bố trí, đánh lui những sát thủ bịt mặt, đã nói với A La hãy tin vào chàng, trừ phi chàng chết, chàng sẽ bảo vệ che chở nàng suốt đời suốt kiếp. A La mở to mắt nhìn chàng, như ngây ngất, như cảm động, thời khắc đó... Lại nghĩ đến những lời viết trên mảnh lụa, lòng chàng đau như cắt. A La của chàng! Đôi mắt đó không bao giờ mở ra được nữa sao? Phải trao nàng cho Tử Ly ư?
Chàng không chịu nổi, lập tức nhảy xuống suối trầm mình trong nước. Nước suối mùa xuân vẫn còn lạnh khiến chàng nổi da gà, nghĩ đến lần đầu gặp A La cũng ở bên suối trong Đào hoa yến. Gió thổi tung mái bờm lộ ra đôi mắt lóng lánh như thủy tinh, nghĩ đến lúc nàng bỏ trốn, chàng buồn bã, cũng trầm mình xuống như thế này. Nhưng bây giờ, nước suối đầu xuân buốt thấu xương cũng không lạnh bằng trái tim chàng, cái buốt giá chích vào da thịt đau đến mấy cũng không bằng cơn đau từng trận vò xé lòng chàng.
Tử Ly lưu luyến không quên A La, sao có thể bỏ qua cơ hội này, cho nên chàng ta nhất định sẽ cứu A La. Nhưng nếu cứu được A La, nghĩa là nàng sẽ trở thành hoàng phi của chàng ta! Hiện thực này quá tàn khốc! A La biết làm sao? Mình biết làm sao? Lưu Giác đằm mình trong nước suối, hai tay nắm chặt. Chàng mở mắt, cách làn nước trong xanh, ánh trăng trên đầu bàng bạc tròng trành như lòng chàng. Lần đầu tiên chàng thấy khó khăn như vậy, lần đầu tiên chàng bất lực như vậy.
Lưu Giác không chịu nổi, từ dưới nước nhảy lên, hai tay đấm mạnh vào mặt nước, đập nát ánh trăng. Hai tay chàng vẫn điên cuồng đấm, khuôn mặt tươi trẻ hồn nhiên của chàng thấm nỗi bi thương khôn xiết. Dần dần chàng kiệt sức, toàn thân bải hoải, ngồi rũ trong nước.
Ám Dạ quay đi không thể nhìn thêm nữa, ánh mắt chứa chan mối đồng cảm sâu sắc, lặng lẽ xoay lưng lại, đứng bên bờ suối, chờ đợi Lưu Giác bình tâm.
Không biết bao lâu, phía sau vọng đến giọng nói bình tĩnh của Lưu Giác: “Về thôi, Ám Dạ, không nên để cha ta lo lắng”.
“Cổng thành chưa mở, thuộc hạ nghĩ ta tìm chỗ nào hơ khô quần áo trước đã!”. Ám Dạ cung kính trả lời như không nhìn thấy mọi chuyện vừa rồi, lòng khâm phục Lưu Giác đã nhanh chóng bình tâm.
“Được!”.
Ám Dạ giơ tay bắn một ống pháo hiệu: “Sẽ có người báo bình an với lão vương gia”.
Trời đã tang tảng sáng, cổng thành mở ra, hai người trở về vương phủ.
An Thanh vương đã chờ rất lâu, nghe nói lại tình hình, ngồi lặng trầm ngâm.
“Cha, không còn cách nào ư?”.
“Có, chỉ có điều...”. An Thanh vương muốn nói lại thôi. Biện pháp chỉ có một, đó là Tử Ly chỉ cần lấy nước ở suối băng ra, dẫn đến nơi tích tuyết vạn năm trên đỉnh Ngọc Tượng, để A La ngâm mình ở đó. Chỉ e Tử Ly không chịu. An Thanh vương nhìn con trai.
Ánh mắt Lưu Giác kiên định: “Cha cứ nói đừng ngại, khó mấy con cũng làm được!”.
An Thanh vương quay lưng lại: “Nếu Tử Ly không đưa A La vào tắm ở suối băng trong hoàng lăng thì không cần phải nạp con bé làm phi, tiên hoàng tổ cũng từng lấy nước ở thác băng cứu người, nhưng theo tổ chế phải chịu hình phạt long biện(3), chuyện này con cũng biết”.
Hình phạt long bỉện... Lưu Giác giật mình. Hình phạt nặng nhất đối với người trong hoàng tộc phạm tội chính là long biện. Chiếc roi bện bằng gân giảo long, được chôn sâu nhiều năm trong suối băng, hấp thụ đủ âm khí, hàn khí. Ba roi quất ra, người không có nội công, huyết mạch ngũ tạng lập tức đông kết, nếu người ra roi dùng nội lực, nội tạng có thể sẽ bị dập nát chết tại chỗ. Người có nội công mặc dù không chết, nhưng hàn khí thấm vào kinh mạch, mỗi độ mưa gió, trở lạnh hay tuyết rơi sẽ đau đớn cùng cực, mọi thuốc thang đều vô hiệu!
Long biện nhiều năm ngâm trong suối băng tỏa ra hàn khí người thường không chịu nổi, không cầm nổi roi... Tử Ly muốn lấy nước ở suối băng thì phải chịu ba roi của thủ lăng nhân võ công thâm hậu. Dù người chịu hình phạt có nội công tốt đền mấy, huyết mạch cũng bị tổn thương nặng nề mà sinh bệnh. Cho dù hoàng tộc có linh dược trị thương, không đến nỗi để hoàng đế bị hành hạ đau đớn vào mỗi độ đông hàn tuyết rơi, nhưng mỗi năm vào dịp Đại tuyết, người chịu hình phạt long biện nhất thiết phải được xông hơi kháng hàn, nghe nói, tiếng kêu thảm thiết của tiên hoàng tổ trong ngày hôm đó vang vọng khắp trong ngoài cung, xuyên thấu tâm can, không ai chịu nổi. Tình trạng thủy hỏa tương khắc, nóng lạnh ép nhau, chỉ nghĩ cũng đã rùng mình.
Giọng An Thanh vương đầy hối hận: “Trăm thứ chu toàn vẫn không tránh khỏi một thứ sơ suất, nếu cha biết hai người đó có minh ước, dù nói gì cha cũng sẽ không đưa A La vào cung, cho dù vào cung, cũng sớm cứu nó ra, không đến nỗi xảy ra chuyện này. Tại cha đã dặn Ám Dạ lựa đúng thời cơ mới cứu người, không cần quá vội vàng. Đều là lỗi của cha”.
Lưu Giác trầm lặng rất lâu, An Thanh vương giục: “Con đi thăm A La đi!”.
Sau khi Lưu Giác đi khỏi, An Thanh vương cho gọi Xích Phong: “Thất hồn ngọc dẫn hương là thuốc bí truyền của vương thất Hạ quốc phía tây nam, làm sao Vương Yến Hồi có được? Ngươi mau đi tra rõ”.

Lý tướng và các phu nhân đang tụ tập ở Đường viên, đứa con gái thứ ba này hiện là hy vọng của cả nhà, vậy mà giờ lại dở sống dở chết thế này. Nữ tỳ lo lắng bẩm báo: “Chỉ làm ướt môi tiểu thư, không bón được thuốc vào miệng”.
Tiếng than, khóc lại ào lên.
Lưu Giác nghe vậy lòng như lửa đốt, sầm mặt nói: “Tướng gia cùng các vị phu nhân xin mời về phòng nghỉ ngơi, bản vương tự có cách”.
Nghe thấy thế tim Lý tướng cơ hồ nảy lên, Bình Nam vương sắc mặt đã sạm đen! Ông mếu máo gượng cười: “A La đành giao phó cho vương gia!”.
Trong phòng A La vẫn đang thiêm thiếp ngủ, sắc mặt càng trắng nhợt. Nếu cứ tiếp tục ngủ nữa, không ăn không uống, nàng chắc chắn sẽ đói khát chết dần chết mòn trong hôn mê.
Lưu Anh bưng lên một bát nước trắng, Lưu Giác đón lấy, hớp một ngụm, mở miệng A La đẩy vào, một tay vận nội công đẩy nước trôi xuống cổ họng, một bát nước nhỏ bón nửa canh giờ mới hết. Chàng nhẹ nhàng lau những giọt nước rớt bên khóe miệng nàng, chỉ bón nước như vậy nàng cũng không thể trụ được mấy ngày.
Lưu Anh lặng lẽ thu dọn bát, đóng cửa đi ra, nhìn Lưu Giác anh ta không chịu nổi.
Lưu Giác ngồi bên mép giường, khẽ khàng vuốt ve khuôn mặt A La, chàng cầm tay nàng lên. Khuôn mặt này từng bướng bỉnh thách thức chàng, đôi tay này từng gảy khúc “Nhớ chàng mà say”. Đôi tay này cũng từng ôm chàng rất chặt, A La mới chủ động ôm chàng có một lần. Nghĩ đến đây chàng cảm thấy như có mũi kim chích vào lòng. Chàng không muốn trao nàng cho Tử Ly, A La đã nói nàng thích chàng, chàng cũng chỉ được nghe một lần. Nhưng sao đành ngồi nhìn nàng chết.
Lưu Giác thì thầm nói với nàng: “A La nếu nàng tỉnh lại, người nàng nhìn thấy là Tử Ly, nàng có thất vọng không? Nếu khi tỉnh lại, nàng đã trở thành vương phi của Tử Ly nàng có hận ta không? Ta không thể không cứu nàng, không thể để nàng tiếp tục ngủ thế này, nàng sẽ yếu dần rồi khô héo. A La, tha lỗi cho ta, nếu nàng tỉnh lại, nhất định phải tha lỗi cho ta!”.
Chàng vùi đầu vào tay nàng, miệng chạm vào lòng bàn tay âm ấm của nàng. Bàn tay mới ấm áp làm sao! Chàng cầm không được, buông không nỡ: “A La, chỉ cần nàng sống, chỉ cần nàng sống, ta sẽ bất chấp tất cả. Cho dù phải trải qua những gì, chỉ cần nàng không muốn, ta nhất định không để nàng tủi thân! Nếu không chúng ta sẽ chạy trốn, ta sẽ đưa nàng đi, cha sẽ tha thứ cho ta, Ô y kỵ sẽ hiểu ta, ta sẽ đưa nàng đi!”.
Chàng thì thầm nói xong, giọng đã nghẹn ứ. Thật bất lực, thật không đành! Nhưng trên đời luôn có bao nhiêu ngang trái bất lực cản trở những kẻ hữu tình. Người đời thường mong cho những kẻ hữu tình cuối cùng được sống bên nhau, chỉ có điều những kẻ hữu tình thường quá khó khăn để được bên nhau! Lưu Giác từ từ đứng lên, đắp chăn cẩn thận cho A La, ngơ ngẩn nhìn nàng, nhìn mãi cũng không đủ. Khuôn mặt xinh đẹp này luôn có ma lực hấp dẫn chàng, luôn khiến chàng hút mắt: “A La nàng cũng không nỡ xa ta phải không? Nhưng ta đành xa nàng... Ta sẽ không bỏ nàng mãi mãi, ta nói được làm được. Nếu có ngày đó, nếu nàng quả thực không chịu được, cho dù phạm tội đại nghịch, cho dù nếu bị bắt chắc chắn chịu tội chém đầu, ta cũng nhất định đưa nàng đi!”.
Lại nhìn lần nữa, không, không thể nhìn thêm nữa! Lưu Giác quả quyết đứng lên, không ngoảnh lại, đẩy cửa bước ra.
“Trông nom cẩn thận!”.
“Chúa thượng!”. Lưu Anh lo lắng.
“Ta đã nói rồi, ngươi có một chủ nhân, chính là nàng ấy”. Lưu Giác trầm giọng nói, rồi bước nhanh ra khỏi Đường viên.


(2) Thủ lăng nhân: người canh lăng (BTV).
(3) Long biện: Nghĩa là roi rồng, chỉ việc chịu hình phạt đánh roi

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #leehom