cuoi doi duc phat - pain
Tác Giả: Tịnh Minh
Lời Tựa
CUỘC ÐỜI ÐỨC PHẬT đây không phải là một tác phẩm hư cấu, và tôi
nghĩ tốt hơn là nên đề cập đến những cuốn sách mà xưa nay tôi thường
tham khảo nhất.
Tôi đã phần lớn dựa vào tác phẩm LALITA VISTARA. Ðó là một tuyển tập
ghi chép lộn xộn về những truyền thuyết và những thiên khảo luận có tính
cách kinh viện; tuy nhiên, nhiều truyền thuyết quí báu nói về nguồn gốc,
về tuổi thơ và tuổi xuân của Phật vẫn được duy trì trong những trang sách
này, và ở đây, cũng vậy, chúng ta còn biết thêm về việc giáo dục và những
việc hành xử ban đầu của Ngài.
Tôi cũng đã phần lớn sử dụng thi phẩm trác tuyệt BUÐHACARITA của
Asvaghosa, ở một vài chương tôi đã trích lại hầu như nguyên văn từng
dòng từng chữ. Thi phẩm BUDDHACARITA do E. B. Cowell xuất bản.
Về CUỘC ÐỜI ÐỨC PHẬT, tôi đã ghi thêm vài truyện bổn sanh
(Jatakas). Ðây là những truyện mà Phật nhớ lại những tiền kiếp xa xưa
của Ngài. Một số truyện như thể cũng sẽ được tìm thấy trong tuyển tập
bao quát AVADANASATAKA.
Hai tác phẩm hiện nay: cuốn Ðức Phật (LE BOUÐHA) của H. Oldenberg,
do A. Fourcher dịch, và cuốn Lịch Sử Phật Giáo Ấn Ðộ (HISTOIRE DU
BOUÐHISME DANS L'INDE) của H. Kern, do Gédéon Huet dịch, cũng
như những khảo luận khác được đăng tải trong các tạp chí khoa học đã
giúp ích cho tôi rất nhiều. Vì thế, khi động đến truyện Visvantara, tôi lại
nhớ đến bài Sogdian của R. Gauthiot được đăng trong tạp chí Á Châu
(JOURNAL ASIATIQUE).
Cuối cùng, tôi thật là đắc tội vong ân bội nghĩa sâu dày nếu tôi không bày
tỏ lòng biết ơn anh bạn cố tri Sylvain Lévi của tôi, người đã rộng lượng và
đã tận tình khích lệ tôi rất nhiều.
Cuộc Ðời Ðức Phật 3
Ước mong độc giả sẽ cảm thấy thích thú khi đọc tự truyện tuyệt diệu về
hoàng tử Tất Ðạt Ða, người, qua thiền định, có thể đạt đến trí tuệ tối
thượng này.
A. F. HEROLD
Cuộc Ðời Ðức Phật 4
LỜI NÓI ÐẦU
Phật tử chúng ta xưa nay thường học hỏi tu tập theo giáo pháp của
Ðức Thích-Ca Mâu-Ni nhưng hình như ít khi tìm hiểu cặn kẽ về quá
trình tu chứng và giáo hóa của Ngài, phần lớn là vì thiếu tài liệu.
Các nhà luận sư học giả hầu như chỉ chú trọng đến việc nghiên cứu
và triển khai hệ thống giáo điển chứ ít khi trình bày đầy đủ cuộc đời
vị tha vô ngã mà Ngài đã hiến trọn cho nhân thế. Họ thường tóm
lược phần tiểu sử Ngài đại khái như:
Ðức Phật Thích-Ca tên thật là Tất-đạt-đa, con vua Tịnh-Phạn và
hoàng hậu Ma-da, sinh ngày trăng tròn tháng vơ xắc, tức tháng 5
trước tây lịch 623 năm, tại vườn Lâm-tỳ-ni, xứ Ca-tỳ-la-vệ, thuộc
miền bắc Ấn Ðộ. Năm 16 tuổi, Ngài kết hôn với công chúa Da-duđà-
La và sinh được một trai đặt tên là La-hầu-La. Năm 29 tuổi, sau
3 lần du ngoạn ngoài thành, chứng kiến cảnh sanh già bệnh chết,
Ngài quyết định từ bỏ hoàng cung, vào núi Hy-mã-lạp-sơn tu tập.
Suốt 6 năm dài tu hành khổ hạnh, Ngài chứng đắc vô thượng bồ đề,
tức thành Phật. Sau đó Ngài hóa độ chúng sanh ròng rã trong 45
năm, cuối cùng Ngài đến xứ Câu-thi-na và nhập niết bàn tại đó.
Ngài thọ 80 tuổi.
Tác phẩm CUỘC ÐỜI ÐỨC PHẬT đây được diễn đạt tương đối đầy
đủ, mạch lạc, khúc chiết và đặc biệt là được trình bày dưới dạng
truyện dài gồm 3 phần và 58 hồi. Ðộc giả nhờ thế có thể dễ dàng tìm
hiểu nguồn gốc gia đình, nguyên nhân xuất gia, quá trình tu chứng
và cuộc đời hóa độ chúng sanh cao quí kỳ diệu của Ngài. Ngài ra
đời giữa hoa lá, lớn lên trên nhung lụa, tu hành trong núi rừng,
chứng đạo dưới gốc cây, hoằng hóa từ vườn này đến đồi nọ, và rồi
cuối cùng, giữa hai cây tha-la, Ngài nhập Niết bàn. Cuộc đời của
Ngài là kết tinh của một quá trình thơ mộng và phấn đấu không
Cuộc Ðời Ðức Phật 5
ngừng cho hạnh nguyện tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn.
Ngài dung nhiếp và cứu độ tất cả các loài hữu tình. Ngài dang tay
đón nhận tất cả những tâm hồn đau thương khốn nạn. Ngài yêu quí
sự sống. Ngài ca ngợi sự sống. Chính vì trái tim từ ái, bao dung, vị
tha và bình đẳng của Ngài mà chế độ phân chia giai cấp của xã hội
Ấn Ðộ bấy giờ bị phá vỡ. Uy đức của Ngài như thế nhưng quí vị
cũng sẽ thấy nghịch cảnh rợn người trên bước đường tu chứng và
vân du hành hóa của Ngài. Ngài nhẫn nhục, chịu đựng và hóa giải
tất cả. Ðọc CUỘC ÐỜI ÐỨC PHẬT chúng ta sẽ thấy lòng dạ của
chúng sanh được phơi bày ra nhiều màu nhiều vẻ: cao thượng-đê
hèn, nhân từ-độc ác, chân chính-hư vọng, thật thà-man trá..., tất cả
đều có đủ trong một con người muôn thuở.
Mục tiêu hóa độ của Ðức Phật là Ngài chỉ cho chúng sanh thấy rõ
tính giác hằng hữu của mình. Ngài trình bày cho nhân loại thấy đâu
là vô minh và đâu là trí tuệ, đâu là khổ đau và đâu là giải thoát.
Ngài không phải là đấng quyền năng cứu rỗi. Ngài là bậc Ðạo Sư,
Ngài hướng dẫn đường tốt cho người, còn đi hay không không phải
là lỗi của người dẫn đường. Ngài là vị lương y, bắt bệnh và cho
thuốc, còn uống hay không, không phải là lỗi của vị lương y. Giáo
pháp của ngài do đó có tính cách tự do khai phóng chứ không câu
thúc hẹp hòi.
Bản dịch CUỘC ÐỜI ÐỨC PHẬT đây được thành tựu phần nào là
nhờ sự khuyến khích và giúp đỡ chân tình của Thầy Phước Sơn. Xin
cảm ơn thiện ý và tấm lòng thiết tha vì đạo của Thầy.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Thầy Nguyên Hồng, người đã dành
thì giờ đọc đối chiếu bản Anh bản thảo và góp ý cho tôi.
Thật ra, bản dịch Việt ngữ này được dịch từ bản dịch Anh ngữ của
Paul C. Blum chứ không phải từ nguyên tác Pháp ngữ của A.
Cuộc Ðời Ðức Phật 6
Ferdinand Herold, do đó khó mà tránh khỏi nạn "tam sao thất bản".
Kính mong các bậc tôn đức cao minh, quí vị tinh tấn học đạo chỉ
giáo và hỷ xả cho những chỗ còn thiếu sót, chưa chỉnh.
Ngoài ra, người dịch cũng xin mạn phép lược bớt một vài chỗ để cho
khí văn được nhẹ hơn.
Ước mong độc giả sẽ cảm nhận được ít nhiều lời hay ý đẹp trong
bản dịch này.
Phật Ðản 2528-1984
TỊNH MINH
Cuộc Ðời Ðức Phật 7
VUA TỊNH-PHẠN VÀ
HOÀNG HẬU MA-DA
Thành phố thanh tịnh lộng lẫy nầy chính là nơi mà xưa kia đại ẩn sĩ Catỳ-
la (Kapila) cư ngụ. Nó hình như được xây dựng bằng những mảnh trời:
tường vách trông như những áng mây bạc trắng, nhà cửa vườn tược tỏa
ra màu sắc rực rỡ huy hoàng. Ngọc ngà châu báu lấp lánh khắp nơi. Dân
cư trong thành ít biết đến cảnh nghèo khổ tối tăm. Ban đêm, khi ánh trăng
vằng vặc soi sáng trên mỗi tháp canh, thành phố nhìn như một ao huệ;
ban ngày, khi những dãy nhà nối tiếp tắm mình trong ánh nắng vàng,
thành phố trông như một dòng sông đầy sen.
Vua Tịnh-Phạn (Suđhodana) trị vì tại thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu);
chính nhà vua là sự trang hoàng rực rỡ nhất của kinh thành. Ngài nhân
từ; phúc hậu, khiêm tốn và công bình. Ngài đã truy quét những kẻ thù gan
dạ nhứt và họ phải qui. ngã trước ngài giữa trận chiến như những thớt voi
bị thần sấm (Indra) hạ gục. Vẻ huy hoàng rực rỡ của ngài đã khuất phục
kẻ ác như tia nắng mặt trời làm tan biến màn đêm. Ngài đã mang ánh
sáng đến cho đời và vạch đúng đường cho những ai gần gũi với ngài. Trí
tuệ cao quí của ngài đã thu phục được nhiều thân hữu can trường, sáng
suốt, và chính sự can trường sáng suốt của họ đã góp phần vào sự huy
hoàng của ngài như ánh sao làm tăng thêm độ sáng của mặt trăng vậy.
Tịnh-Phạn, quốc vương của dòng tộc Thích-Ca (Sakya) đã kết hôn với
nhiều hoàng hậu. Trong số những hoàng hậu mà ngài yêu quí nhất là Mada
(Maya).
Bà đẹp lắm, đẹp như chính nữ thần Hạnh phúc (Laksmi) lạc vào dương
thế. Mỗi khi bà nói, giọng bà ngọt ngào, dễ mến như tiếng chim hót mùa
xuân. Tóc bà đen huyền như màu sắc ong bầu, trán bà trắng trong như hạt
ngọc kim cương, mắt bà mát rợi như chồi sen xanh biếc, và chưa bao giờ
có nếp nhăn nào làm hỏng đôi mày vòng nguyệt sắc sảo của bà.
Cuộc Ðời Ðức Phật 8
Bà là người có đức hạnh. Bà mong cầu hạnh phúc cho thần dân. Bà rất
quan tâm đến những lời huấn thị chân thành của các bậc tôn sư. Bà thật
thà. Ðức hạnh của bà là tấm gương sáng cho mọi người noi theo.
Vua Tịnh-Phạn và hoàng hậu Ma-da sống êm đềm hạnh phúc tại thành
Ca-tỳ-la-vệ.
Một hôm, hoàng hậu tắm xong, trang điểm phấn hương, khoác lên người
một chiếc áo choàng the rực rỡ, và đeo vào tay nhiều châu báu ngọc ngà;
những chiếc vòng vàng chạm nhau kêu leng keng ở hai bên mắt cá, và,
vừa thấy bóng quốc vương, mặt bà đã sáng lên niềm hạnh phúc.
Tịnh-Phạn ngồi trong một đại điện. Nhạc điệu du duơng từ từ trổi lên, nhè
nhẹ ru người vào cảnh giới mộng ảo êm đềm. Ma-da ngồi về phía bên
phải của ngài. Bà lên tiếng tâu:
"Tâu hoàng thượng, xin hoàng thượng lắng nghe, xin hoàng thượng ban
cho thiếp một đặc ân, hỡi đấng che chở của địa cầu!"
Tịnh-Phạn đáp: "Nói đi, hoàng hậu của trẫm. Ái khanh muốn đặc ân gì?"
"Tâu hoàng thượng, có nhiều nỗi thống khổ trên thế gian này. Với lòng từ
mẫn, thiếp thấy tất cả chúng sanh đều nhận chịu khổ đau. Thiếp muốn
giúp đỡ nhân loại. Thiếp muốn loại trừ những tư tưởng xấu. Vì vậy, thiếp
sẽ không làm ác, thiếp sẽ không nghĩ ác. Thiếp yêu thương thân thiếp thế
nào thì thiếp cũng giúp đỡ và thương yêu kẻ khác thế đó. Thiếp sẽ bỏ tính
kiêu ngạo, thiếp sẽ không theo tiếng gọi của dục vọng xấu xạ Thiếp sẽ
không bao giờ nói lời đê hèn vô bổ. Từ nay về sau, tâu hoàng thượng,
thiếp sẽ sống một cuộc đời khổ hạnh. Thiếp sẽ chay tịnh. Thiếp sẽ không
bao giờ có ý xấu hay làm ác; mang phiền não hay hận thù; biết sân hận
hay tham lam. Thiếp sẽ hài lòng với số phận của thiếp. Thiếp sẽ từ bỏ tâm
gian xảo đố kỵ. Thiếp sẽ trong trắng. Thiếp sẽ đi theo chánh đạo. Thiếp sẽ
tu tập đức hạnh. Chính vì thế mà giờ đây mắt thiếp rực lên ánh tươi vui,
môi thiếp bừng lên niềm hoan hỷ."
Cuộc Ðời Ðức Phật 9
Bà dừng lại giây lát. Quốc vương nhìn bà bằng ánh mắt âu yếm thán
phục. Bà tiếp:
"Tâu hoàng thượng, xin hoàng thượng cho thiếp sống đời khổ hạnh. Ðừng
vào rừng núi âm u của dục vọng, xin cho thiếp sống theo trai giới thánh
thiện. Thiếp muốn sửa lại những gian nhà trên tầng tột cùng của cung
điện, nơi chim thiên nga thường làm tổ. Xin dọn cho thiếp một chiếc
giường con có tẩm hương lót nệm. Thị nữ sẽ giúp thiếp những gì cần yếu,
và hoàng thượng có thể thải hồi các quan thái giám, những vệ binh và tất
cả các nô bộc khác. Thiếp không muốn nhìn thấy cảnh tượng xấu xa, âm
thanh cuồng loạn và mùi vị của những gì khó chịu."
Bà dứt lời, quốc vương đáp:
"Ðược rồi! Trẫm chấp nhận hạnh nguyện của ái khanh."
Vua hạ lệnh:
"Hãy để cho hoàng hậu rực rỡ trong ánh vàng bạc ngọc ngà, an dưỡng
trên một chiếc giường con có cài kết danh hoa với nhạc điệu du dương
ngày đêm giao hưởng trên những tầng tột cùng của cung điện mà lúc nào
cũng có tiếng chim thiên nga hòa vang theo gió. Thị nữ sẽ túc trực hầu hạ
bên cạnh hoàng hậu. Bà sẽ giống như ngọc nữ của chư thiên ở một vườn
địa đàng nào đó! "
Hoàng hậu đứng lên. Bà nói: "Tốt lắm! nhưng, hỡi hoàng thượng của
thiếp, xin nghe thiếp thưa tiếp. Xin hoàng thượng hãy trả tự do cho tù
nhân. Hãy rộng lượng cấp phát y phục vật thực cho người nghèo. Hãy
mang lại hạnh phúc cho già trẻ gái trai! Tâu hoàng thượng, hãy mở rộng
tình thương và đem nguồn hỷ lạc đến cho nhân thế. Xin hoàng thượng hãy
là cha lành của tất cả chúng sanh!"
Bà rời khỏi đại điện và đi thẳng lên đỉnh hoàng cung.
Cuộc Ðời Ðức Phật 10
Mùa xuân đã đến, chim chóc vui lượng quanh các tầng lầu, ca hót líu lo
rộn rã cành cây. Hoa nở đầy vườn, sen vươn bừng nụ trên khắp mặt hồ.
Hoàng hậu đã tìm được nơi an dưỡng với nhịp sáo cung đàn hòa điệu
vang vang, một cảnh huy hoàng lộng lẫy khắp kinh thành, huy hoàng lộng
lẫy đến nỗi ánh sáng mặt trời cũng phải ngã màu râm mát.
Cuộc Ðời Ðức Phật 11
MA-DA NẰM MỘNG
Cùng lúc với mùa xuân năm đó bắt đầu, một giấc mộng đã đến với
hoàng hậu Ma-da khi bà nằm ngủ. Bà thấy một con voi tơ từ trời cao
đi xuống. Nó có 6 ngà lớn và trắng như tuyết pha đầu núi. Ma-da
thấy nó đi vào dạ bà và hàng ngàn thiên thần đột nhiên xuất hiện
trước mặt. Họ tán dương bà bằng những lời ca bất tử. Ma-da hiểu là
bà sẽ không bao giờ biết phiền não, hận thù hay sân nhuế nữa.
Bà thức dậy. Bà cảm thấy sung sướng, một cảm giác sung sướng mà
trước kia bà chưa bao giờ có. Ðứng lên, bà mặc y phục sặc sỡ, theo
sau là hầu hết những thị nữ diễm kiều nhất, bà đi qua các cổng
hoàng cung, tản bộ trong các hoa viên và dừng lại tại một chỗ râm
mát trong khu vườn nhỏ. Bà phái hai thị nữ đến trình vua Tịnh-Phạn
một điệp văn với lời lẽ như sau: "Xin mời hoàng thượng đến khu
vườn nhỏ; hoàng hậu mong gặp ngài tại đó."
Quốc vương chấp nhận ngay. Ngài rời khỏi hoàng cung, nơi quốc
vương đã và đang ban bố công lý cho dân chúng khắp thành với sự
trợ giúp của nhiều cận thần trung chính. Ngài đi thẳng đến khu vườn
nhỏ, nhưng, khi ngài sắp bước vào, một cảm giác kỳ lạ bao trùm cả
toàn thân. Chân đi lảo đảo, tay run cầm cập, nước mắt ràn rụa; ngài
nghĩ:
"Ngay cả khi chiến đấu ác liệt với quân thù gan dạ nhất giữa trận
tiền ta cũng chưa bao giờ cảm thấy hốt hoảng trầm trọng như lúc
này. Tại sao ta không thể vào chỗ hoàng hậu đang chờ tả Ai có thể
giải thích được nỗi bàng hoàng xao xuyến của tả"
Ngay lúc đó, ngài nghe từ trời cao vang lên một giọng nói lớn:
Cuộc Ðời Ðức Phật 12
"Lành thay, hỡi quốc vương Tịnh-Phạn, xứng đáng thay với dòng tộc
Thích-Ca! Người đi tìm tri kiến tối thượng sắp ra đời. Người đã
chọn vợ của hoàng thượng, hoàng hậu Ma-da, người phụ nữ cao quí
nhất làm mẹ. Người đã chọn gia đình của hoàng thượng làm gia
đình của mình là vì danh tiếng và phước đức của gia đình hoàng
thượng. Lành thay, hỡi quốc vương Tịnh-Phạn! Người đi tìm tri kiến
tối thượng muốn làm hoàng tử của Ngài!"
Vua cho đó là lời của thiên thần, ngài phấn khởi hẳn lên. Lấy lại
bình tĩnh, ngài đi thẳng vào khu vườn mà Ma-da đang chờ ngài.
Thấy bà, vua vẫn bình thản, không tỏ vẻ cao sang, ngài lên tiếng
hỏi:
"Ái khanh mời trẫm có việc chi? Ái khanh cần gì?"
Hoàng hậu kể lại giấc mơ của mình cho vua nghe, rồi bà thưa tiếp:
"Tâu hoàng thượng, có nhiều giáo sĩ Bà-la-môn giỏi nghề chiêm tinh
đoán mộng, hãy triệu họ đến. Họ sẽ coi xem hoàng cung của ta có
điều tốt xấu thế nào, chúng ta vui buồn ra sao.”
Vua chấp thuận và triệu các giáo sĩ Bà-la-môn quen nghề chiêm tinh
đoán mộng đến ngay hoàng cung. Vừa nghe qua câu chuyện của
Ma-da, họ liền tâu:
"Tâu quốc vương và hoàng hậu, một nguồn vui lớn sẽ đến với các
ngài. Nhờ ân đức của thiên thần, các ngài sẽ hạ sanh một hoàng tử.
Nếu ngày kia hoàng tử từ bỏ vương quyền, giã biệt hoàng cung, cắt
đứt ái ân; nếu vì lòng xót thương nhân thế, hoàng tử phải sống cuộc
đời đó đây của một sa môn, ngài sẽ được tôn vinh kỳ diệu và hưởng
Cuộc Ðời Ðức Phật 13
thọ phẩm vật cúng dường tuyệt vời. Ngài sẽ được cả thế giới tôn thờ,
vì ngài sẽ mang lại cho họ những gì mà họ khao khát. Tâu quốc
vương và hoàng hậu, con trai của quí ngài sẽ là một đức Phật!"
Các giáo sĩ Bà-la-môn xin cáo lui. Vua và hoàng hậu đưa mắt nhìn
nhau với vẻ mặt sáng lên niềm an lành hạnh phúc. Tại thành Ca-tỳ-
la-vệ, vua Tịnh-Phạn ra lệnh cấp phát phẩm vật cho người nghèo,
thức ăn cho người đói, nước uống cho người khát, hương hoa cho
phụ nữ. Ma-da trở thành đối tượng tôn thờ của họ. Những kẻ tật
bịnh tập trung chen chúc hai bên lối đi của bà, và bà chỉ cần duỗi
cánh tay phải của bà ra là họ cảm thấy hết bịnh ngay. Người mù có
thể thấy, người điếc có thể nghe, người câm có thể nói, kẻ hấp hối sờ
vào lá cỏ bà hái là bình phục sức lực liền. Từ trên không trổi lên một
điệu nhạc du dương dặt dìu theo gió, mưa hoa sặc sỡ giăng mắc
khắp trời, nhạc khúc tạ từ vang khắp thành đô.
Cuộc Ðời Ðức Phật 14
TẤT-ÐẠT-ÐA RA ÐỜI
Ngày tháng trôi qua, rồi một hôm, hoàng hậu biết sắp đến kỳ mãn
nguyệt khai hoa, bà đến tâu vua Tịnh-Phạn:
"Tâu hoàng thượng, thiếp muốn du ngoạn trong vườn ngự uyển.
Thiếp muốn nghe tiếng chim hót trên cây và ngắm phấn hoa xõa
trắng trên không. Thiếp muốn du ngoạn trong vườn ngự uyển."
Tịnh-Phạn đáp: "Nhưng ái khanh sẽ mệt; hoàng hậu, ái khanh
không ngại sao? "
"Hài nhi thiếp đang ôm ấp trong lòng phải được ra đời giữa cảnh
hồn nhiên của hoa thơm hé nụ. Không, thiếp sẽ đi! Tâu hoàng
thượng, thiếp sẽ vào hoa viên."
Chiều lòng Ma-da, vua sai các thị vệ:
"Hoàng hậu sắp du ngoạn qua vườn ngự uyển. Các ngươi hãy đem
vàng bạc châu báu vào vườn trang hoàng, làm cho các loại cỏ cây
rực rỡ thêm lên."
Ngài khuyên Ma-da:
"Này Ma-da, hôm nay ái khanh nên ăn mặc thật sang trọng. Các thị
nữ diễm kiều nhất của ái khanh sẽ đưa ái khanh du ngoạn trong một
chiếc kiệu lộng lẫy. Lệnh các thị nữ của ái khanh dùng toàn phấn
hương kỳ diệu, bắt chúng đeo chuỗi ngọc vòng vàng, mang theo đàn
trống tiêu sáo và tấu lên những khúc nhạc du dương xưng tán chư
thiên".
Cuộc Ðời Ðức Phật 15
Lệnh của vua Tịnh-Phạn được mọi người kính cẩn tuân hành.
Hoàng hậu vừa ra tới cổng hoàng cung, các vệ binh đều hân hoan
cất tiếng chào bà. Hoa lá reo vui, công xòe lộng thắm, từng đàn
chim thiên nga tung cánh hót ca vang vọng trên không.
Họ đến một vườn cây đang độ nở hoa, Ma-da bảo họ đặt kiệu xuống.
Bà bước ra khỏi kiệu và bắt đầu thư thả dạo quanh. Bà cảm thấy
thoải mái. Xem kìa! Bà thấy một cây hoa hy hữu, hoa trĩu đầy cành.
Bà bước tới, vừa vương tay nhẹ kéo một cành thì bỗng nhiên bà
đứng khựng lại. Bà im lặng, miệng mỉm cười, các thị nữ hầu quanh
bà đưa tay bế một hài nhi diễm tuyệt. "
Lúc đó cả thế giới đều hân hoan rúng động. Trái đất rung chuyển.
Lời ca nhịp vũ vang dội khắp không gian. Cây cảnh bốn mùa bừng
rộ nở hoa, trái chín thơm ngon đu đưa đầy cành. Cả bầu trời rực lên
một màu sáng tinh khiết. Nười bệnh hết khổ. Người đói được no.
Người say lại tỉnh. Người khùng hồi trí. Người yếu thêm sức. Người
nghèo có tiền. Ngục tù mở cửa. Người ác sạch tội.
Một trong những thị nữ của Ma-da hớn hở, vội đến tâu vua Tịnh-
Phạn:
"Tâu hoàng thượng, tâu hoàng thượng. Hoàng hậu đã sanh cho
hoàng thượng một hoàng tử. Hoàng tử này sẽ mang vinh quang cao
quí đến cho hoàng gia!"
Quốc vương im lặng. Nhưng gương mặt của ngài rực lên niềm hoan
hỷ, ngài biết rõ nguồn hạnh phúc cao quí đó.
Bấy giờ ngài triệu tập tất cả dòng tộc Thích-Ca, lệnh họ theo ngài
vào vườn hoàng tử ra đời. Họ tuân lệnh; với nhiều giáo sĩ bà la môn
tháp tùng, họ tạo một đoàn người quí tộc nghiêm trang theo sau
Cuộc Ðời Ðức Phật 16
quốc vương.
Khi đến gần hoàng tử, vua trịnh trọng cúi đầu và nói:
"Các khanh hãy chào hoàng tử như ta, người mà ta sẽ đặt tên là Tấtđạt-
đa (Siđhartha) đó."
Tất cả đều cúi đầu. Các giáo sĩ bà la môn, như được thiên thần giúp
sức, cất tiếng hát:
"Hết thảy chúng sanh đều được an vui hạnh phúc, nhân loại không
còn phải đi trên những nẻo đường gồ ghề lởm chởm; vì Ngài ra đời,
Ngài ban hạnh phúc: Ngài sẽ mang hạnh phúc đến cho đời. Ánh
hồng quang đã rực sáng trong đêm, mặt trời mặt trăng giống như
những đóm than tàn sắp tắt, Ngài ban ánh sáng: Ngài sẽ mang ánh
sáng đến cho đời. Người mù có thể thấy, người điếc có thể nghe,
người khùng được hồi trì; vì Ngài ra đời, Ngài phục hồi cái thấy, cái
nghe, cái biết: Ngài sẽ mang cái thấy nghe hay biết đến cho đời.
Những làn gió hiu hiu thơm ngát xoa được nỗi đau thương của nhân
thế, vì Ngài ra đời, Ngài ban sức khỏe: Ngài sẽ mang sức khỏe đến
cho đời. Lửa dữ hết bừng cháy, sông ngòi đã ngừng trôi, trái đất nhẹ
rung chuyển: Ngài sẽ là người thấy được chân như.
Cuộc Ðời Ðức Phật 17
LỜI TIÊN TRI CỦA A-TƯ-ÐÀ
Ðạo sĩ A-tư-đà (Asita), một ẩn sĩ khổ hạnh đến thiên thần phải cảm
kích, được tin hoàng tử ra đời, người có thể cứu nhân loại thoát khỏi
khổ đau sanh tử. Với lòng khát khao chánh pháp, đạo sĩ đến cung
vua Tịnh-Phạn và trịnh trọng tới gần khuê phòng của các cung phi
mỹ nữ. Tuổi tác và học thức của đạo sĩ đã đem lại cho ngài một
nhân cách cao quí.
Vua tiếp đón đạo sĩ rất trọng hậu theo lễ nghi tập tục và thật lòng
bày tỏ với ngài:
"Thật vậy, trẫm sung sướng biết bao! Ðúng rồi, con trẫm sẽ hưởng
được cái ân đức thù thắng này.
Ðạo sĩ A-tư-đà đến thăm trẫm hẳn có mục đích. Xin báo cho trẫm
biết. Trẫm phải làm gì? Trẫm là môn đệ của đạo sĩ, là đồ chúng của
đạo sĩ mà! "
Mắt sáng lên niềm hoan hỷ, đạo sĩ trịnh trọng tâu:
"Muôn tâu bệ hạ cao quí, độ lượng và hiếu hòa, sự thể đã đưa đến
cho ngài chính vì ngài coi trọng nghĩa vụ, hậu đãi các bậc hiền tài
và tôn kính các vị tôn túc. Sự thể đã đưa đến cho ngài chính vì tổ
tiên ngài lắm đất nhiều vàng nhưng vẫn dư thừa đạo đức. Tâu bệ hạ,
hãy biết tại sao bần đạo đến đây. Hãy vui lên! Bần đạo đã nghe trên
không có tiếng thiên thần mách bảo: "một hoàng tử đã ra đời cho
dòng tộc Thích-Ca. Ngài ấy sẽ đạt thành chánh giác' Bần đạo đến
đây là vì bần đạo đã nghe rõ những lời đó. Mắt bần đạo giờ đây có
thể nhìn thấy ánh huy hoàng của dòng tộc Thích-Ca".
Cuộc Ðời Ðức Phật 18
Lòng tràn ngập hân hoan, quốc vương đi bế hoàng tử đang say sưa
trên ngực nhũ mẫu đem trình cho đạo sĩ A-tư-đà.
Ðạo sĩ nhận thấy hoàng tử có nhiều dấu hiệu vạn năng. Ngài chăm
chú nhìn hoàng tử rồi bất giác thở dài, ngước mắt nhìn trời với đôi
mi chứa chan lệ thắm.
Thấy A-tư-đà khóc, quốc vương đâm ra lo ngại cho con mình. Ngài
hỏi đạo sĩ:
"Bạch đạo sĩ, ngài nói hình tướng của con trẫm chỉ khác nhau đôi
chút với hình tướng của một thiên thần, rằng hoàng tử ra đời là việc
phi thường, rằng trong tương lai hoàng tử sẽ được tôn vinh tối
thượng; nhưng nhìn hoàng tử sao đạo sĩ lại khóc. Mạng sống của
con trẫm mong manh lắm sao? Hoàng tử ra đời chỉ để mang lại
buồn khổ cho trẫm sao? Cành non này phải héo tàn trước khi nó
đơm hoa kết trái sao? Xin nói cho, hỡi thánh nhân, xin nói mau cho
trẫm biết. Hẳn ngài đã hiểu tình thương bao la mà người cha dành
trọn cho đứa con trai của mình."
Ðạo sĩ đáp: "Tâu bệ hạ, xin đừng buồn. Ðiều bần đạo tâu với bệ hạ
là sự thật. Hoàng tử sẽ thấy rõ sự vinh quang cao quí đó. Bần đạo
khóc là khóc cho bần đạo. Ðời bần đạo sắp tàn thì hoàng tử ra đời,
ngài sẽ diệt trừ khổ đau sanh tử. Ngài sẽ chế ngự tham dục, ngài sẽ
liễu ngộ chân lý, và mê vọng trên đời sẽ tan biến trước ánh sáng
giác ngộ của ngài như tia nắng mặt trời làm tan biến màn đêm. Ngài
sẽ cứu vớt thế giới khổ đau khỏi biển tử sinh ác trược, khỏi cảnh tật
bịnh khốn cùng, khỏi cơn ba đào suy lão, khỏi đợt sóng dữ tử vong.
Ngài sẽ chuyên chở tất cả trên một con tàu tri kiến vĩ đại. Ngài sẽ
biết dòng sông nghĩa vụ, từ ái, kỳ diệu và thao thao cuồn cuộn bắt
nguồn từ đâu. Ngài sẽ chỉ rõ ngọn ngành của nó cho những ai bị đói
khát dày vò đến đó uống nước. Ngài sẽ chỉ đường cho những ai bị
Cuộc Ðời Ðức Phật 19
sầu đau ray rức, bị dục lạc bủa vây, mãi lang thang trong núi rừng
sanh diệt như khách lạc lối đi đến giải thoát. Ngài sẽ là mây lành đổ
mưa trong mát cho những ai bị lửa dục đốt thiêu. Ngài sẽ võ trang
chánh cháp, thẳng đến ngục tù dục vọng, phá vỡ cổng tường tội ác
cho chúng sanh hết khổ. Bởi vì ai có tri kiến siêu việt, người đó sẽ
giải thoát cho thế nhân. Vậy thì đừng buồn, tâu bệ hạ. Kẻ đáng
thương hại chính là người không nghe được âm hưởng của con ngài.
Bần đạo khóc là vì thế. Bần đạo dù khổ hạnh và thiền định đến đâu
cũng không bao giờ ngộ đạt được giáo pháp của Ngài. Thật đáng
xót thương ngay cho những ai lên đến cõi trời Ðâu suất.
Cuộc Ðời Ðức Phật 20
TẤT-ÐẠT-ÐA TẠI ÐỀN THẦN
Tịnh-Phạn trước hết rất hài lòng về những lời tiên tri của A-tư-đà.
Ngài trầm ngâm suy nghĩ: "Thế là con ta sẽ sống và sống một cách
vinh hiển." Nhưng ngài lại âu lo, vì người ta bảo hoàng tử sẽ từ bỏ
vương quyền, sẽ sống đời ẩn sĩ, và điều đó không có nghĩa là một khi
hoàng thượng thăng hà thì gia tộc của Tịnh Phạn phải tuyệt diệt
sao?
Ấy thế nhưng nhà vua chỉ lo ngại trong ít lâu, vì rằng từ khi Tất-đạtđa
ra đời, nhà vua không làm điều gì mà không thành tựu phát đạt.
Của cải mỗi ngày rót vào kho lẫm của ngài nhiều như nước của
trăm ngòi ngàn rạch đổ vào một dòng sông to. Ngựa voi người ta
dâng hiến nhiều không chỗ chứa, và bạn hiền lúc nào cũng sẵn sàng
hỗ trợ quanh ngài. Vương quốc có nhiều ruộng đất phì nhiêu, trâu
bò béo tốt gặm cỏ đầy đồng, phụ nữ sanh con không chút khổ đau,
bà con láng giềng sống chung êm đẹp, một cảnh êm đềm hạnh phúc
ngự trị trên mảnh đất Ca-tỳ-la-vệ.
Nhưng một niềm vui êm dịu ngọt ngào đã đến với hoàng hậu Ma-da,
ngọt ngào đến độ bà không chịu nổi. Cả địa cầu đều biết bà làm mẹ
chỉ được bảy ngày rồi qua đời và được chư thiên rước lên cõi trời.
Ma-da có một em gái Ma-ha-ba-xà-ba-đề (Mahaprajapati), người
cũng xinh đẹp và đức hạnh như bà. Hoàng tử được giao cho Ma-haba-
xà-ba-đề chăm sóc. Bà thương yêu âu yếm hoàng tử như con
ruột. Tất-đạt-đa mỗi ngày một khỏe mạnh cao lớn như lửa gặp gió,
như trăng sao vằng vặc trên bầu trời rực sáng, như nắng ấm ban
mai sưởi khắp rừng núi đông phương.
Ai cũng hoan hỷ đem vật quý đến tặng hoàng tử. Họ đem các thứ đồ
Cuộc Ðời Ðức Phật 21
chơi mà một em bé cùng tuổi với hoàng tử sẽ lấy làm thích thú:
những con vật bé tí như hươu, nai, voi, ngựa, bò, chim, cá, và cả
những chiếc xe tí xíu nữa. Những thứ này không phải làm bằng gỗ
hay đất sét mà bằng vàng bạc ngọc ngà. Họ mang cho hoàng tử rất
nhiều kiềng vòng châu báu.
Một hôm, trong lúc hoàng tử đang nô đùa trong một khu vườn gần
thành Ma-ha-ba-xà-ba-đề nghĩ: "Ðây chính là lúc ta tập cho hoàng
tử biết đeo kiềng vòng."Bà bảo thị nữ đem châu báu đến. Bà đeo
chúng vào tay vào cổ hoàng tử nhưng hình như hoàng tử không đeo
gì cả. Vàng ngọc dường như lu mờ tẻ nhạt trước ánh hào quang rực
sáng của hoàng tử. Một phụ nữ diễm kiều từ hoa viên đến gặp Maha-
ba-xà-ba-đề, nói:
"Nếu như cả trái đất này là vàng thì chỉ một tia hào quang của cậu
bé này, đấng đạo sư tương lai của nhân thế, cũng đủ làm cho ánh
vàng rực rỡ lu mờ. Hào quang của hoàng tử làm mờ hẳn độ sáng
của trăng sao và ngay cả độ sáng của mặt trời nữa. Ngươi muốn cho
hoàng tử đeo các thứ châu báu tầm thường do những tay thợ vàng
thợ bạc đúc nặn một cách thô kệch ấy sao? Này bà, hãy cởi hết
kiềng vòng đó ra. Chúng chỉ hợp với bọn nô lệ. Cậu bé này sẽ có
những ý nghĩ riêng, chúng là châu ngọc của một loại nước tinh khiết
hơn"
Theo lời người phụ nữ, Ma-ha-ba-xà-ba-đề cởi hết kiềng vòng và bà
ngắm mãi hoàng tử không chán.
Ðã đến lúc Tất-đạt-đa đến lễ đền thần. Quốc vương ra lệnh trang
hoàng đường phố công viên cực kỳ rực rỡ. Chiêng trống rền vang
vui nhộn khắp nơi. Trong lúc Ma-ha-ba-xà-ba-đề mặc y phục sang
trọng nhất cho hoàng tử thì cậu hỏi:
Cuộc Ðời Ðức Phật 22
"Thưa nhũ mẫu, nhũ mẫu đưa con đi đâủ"
"Ðến lễ đền thần con ạ!" bà đáp.
Hoàng tử mỉm cười và lặng lẽ theo nhũ mẫu đến gặp phụ vương.
Một quang cảnh đi lễ rất oai nghiêm, đi đầu là các giáo sĩ bà la môn
ở kinh thành, kế đó là võ tướng và tất cả các bậc trưởng giả trọng
yếu, sau cùng là dòng tộc Thích-ca vây quanh chiếc xe chở hoàng tử
và phụ vương. Phố xá ngào ngạt hương thơm, hoa rải đầy đường,
dân chúng phất cờ vẫy phướn chào đón đoàn lễ đi qua.
Tới nơi, quốc vương dắt tay Tất-đạt-đa đến thẳng chánh điện thờ
thần. Hoàng tử vừa bước vào ngưỡng cửa thì tất cả các tượng Hủydiệt,
Công-đức, Sinh-thành, Tài-vật, Ðế-thích, Phạm-thiên (Siva,
Skanda, Vishnu, Kuvera, Indra, Brahma) đều cúi đầu tác bạch:
"Hỡi núi Tu-di, xin sơn vương đừng lễ hạt lúa mì; xin đại dương
đừng lạy ao nước đọng; xin mặt trời đừng bái loài đom đóm: ai đạt
ngộ chánh giác, người ấy khỏi lễ thiên thần. Thần nhân nào kiêu
mạn ngông cuồng, kẻ ấy như hạt lúa mì, như ao nước đọng, như loài
đo đóm; ai chứng đắc vô thượng bồ đề, người ấy như núi tu di, như
biển cả đại dương, như hồng quang rực sáng. Thế nhân xin kính lễ
Ngài. Thế nhân sẽ được giải thoát."
Cuộc Ðời Ðức Phật 23
TẤT-ÐẠT-ÐA THIỀN ÐỊNH
LẦN ÐẦU
Hoàng tử mỗi ngày một khôn lớn và đến lúc cho hoàng tử theo học
với Tỳ-xa-bà-mật-đa-la (Visvamitra), bậc tôn sư chuyên dạy nghệ
thuật tác văn cho các vương tôn công tử của dòng tộc Thích-ca.
Tất-đạt-đa được giao cho thầy chăm sóc. Họ trao cho hoàng tử một
miếng gỗ bạch đàn có mạ vàng và viềng ngọc chung quanh để viết.
Cầm miếng gỗ trên tay, hoàng tử thưa:
"Bạch thầy, thầy định dạy con học thứ chữ nàỏ"
Kể qua một loạt sáu mươi tư loại chữ khác nhau, hoàng tử lại thưa:
"Bạch thầy, trong sáu mươi tư loại chữ đó, thầy định dạy con học
thứ chữ nàỏ"
Tỳ-xa-bà-mật-đa-la không đáp được, thầy sững sờ kinh ngạc, cuối
cùng thầy nói:
"Thưa hoàng tử, ta thấy ta không có gì để dạy hoàng tử. Trong số
những loại chữ mà hoàng tử vừa kể, ta chỉ biết tên một vài loại, số
còn lại ta chưa hề nghe nói bao giờ. Chính ta phải ngồi học dưới
chân hoàng tử. Không! thưa hoàng tử, ta không có gì để dạy hoàng
tử."
Thầy mỉm cười và hoàng tử cũng đáp lễ bằng một cái nhìn trìu mên.
Từ giã Tỳ-xa-bà-mật-đa-la, hoàng tử đi về miền quê và bắt đầu
Cuộc Ðời Ðức Phật 24
nhắm đến một ngôi làng. Trên đường đi, chàng dừng lại để ngắm
một số nông phu đang lao động dưới ruộng; rồi, vì trời mưa và nắng
gắt, chàng phải ghé vào một khóm cây hấp dẫn giữa đồng để nghỉ
mát. Hoàng tử đến ngồi dưới một bóng cây; chàng bắt đầu suy tư và
không mấy chốc chàng đã mất hút vào cảnh giới thiền định.
Năm du sĩ đi ngang qua cánh đồng cỏ, thấy hoàng tử đang thiền
định, họ hỏi sau:
"Phải chăng ngài ngồi nghỉ kia là một thiên thần? Có thể Ngài là
thần tài hay thần tình ái? Có thể Ngài là thần sấm Indra hay thần
mục đồng Krishna không chừng?"
Nhưng rồi họ nghe có giọng người nói:
"Ánh rực rỡ của thiên thần cũng phải phai nhạt trước hào quang
của hoàng tử Thích-Ca đang ngồi trầm tư về những sự thật cao quí
dưới cội cây kia!"
Bấy giờ tất cả họ đều lên tiếng ca ngợi:
"Ðúng thế, Ngài ngồi thiền định dưới cội cây kia có những dấu hiệu
vạn năng, Ngài ấy chắc chắn sẽ thành Phật!"
Họ tán dương hoàng tử, người thứ nhất cất tiếng hát: "Trần gian bị
lửa dữ tàn phá, Ngài đến như hồ nước trong xanh. Giáo pháp của
Ngài sẽ tắm mát nhân thế."
Người thứ hai: "Trần gian bị vô minh bao phủ, Ngài đến như ngọn
đuốc sáng ngời. Giáo pháp của Ngài sẽ mang ánh sáng đến cho
nhân thế."
Cuộc Ðời Ðức Phật 25
Người thứ ba: "Trên biển khổ đau, thuyền bè khó bề qua lại, Ngài
đến như một con tàu. Giáp pháp của ngài sẽ đưa nhân thế vào bến
an lành."
Người thứ tư: "Những ai bị khổ đau xiềng xích, Ngài đến như đấng
cứu đời. Giáo pháp của Ngài sẽ giải thoát cho nhân thế."
Người thư năm: "Những ai bị lão bịnh thúc bách, Ngài đến như vị
cứu tinh. Giáo pháp của Ngài sẽ giải thoát sanh tử."
Họ đảnh lễ hoàng tử ba lần rồi tiếp tục lên đường.
Trong khi đó, vua Tịnh-Phạn lo ngại không biết chuyện gì đã xảy
đến cho hoàng tử, ngài phái nhiều cận thần đi tìm chàng. Thấy
chàng đang nhập định, một cận thần tiến đến gần, rồi bỗng dưng
đứng lại, trố mắt thán phục. Các bóng cây đã đổ dài trừ bóng cây
chỗ hoàng tử ngồi. Nơi đây bóng cây đứng yên; nó vẫn che mát
hoàng tử.
Cận thần chạy về hoàng cung tâu vua:
"Tâu bệ hạ, hạ thần đã thấy hoàng tử; chàng đang nhập định dưới
một cội cây mà bóng mát vẫn đứng yên trong khi những bóng cây
khát thì đổ dài.
Tịnh-Phạn rời hoàng cung, theo quan cận thần đến nơi hoàng tử
đang nhập định. Sung sướng đến bật khóc, ngài tự nhủ:
"Con ta đẹp như một ngọn lửa trên đỉnh núi cao. Hoàng tử làm ta
chói mắt. Thấy hoàng tử nhập định, tay chân ta bủn rủn. Hoàng tử
sẽ là ngọn đèn sáng của thế nhân."
Cuộc Ðời Ðức Phật 26
Cả vua quan không dám lên tiếng hay cử động. Nhưng có vài em bé
đang kéo một chiếc xe nhỏ băng ngang qua đó, chúng nói cười ầm ỹ,
quan thần nói nhỏ với chúng:
"Các em không được làm ồn."
"Sao vậỷ" chúng hỏi.
"Thấy ai nhập định dưới cội cây kia không? Hoàng tử Tất-đạt-đa đó.
Bóng cây không rời hoàng tử thấy chưa. Các em không được quấy
phá hoàng tử, các em không thấy hào quang của hoàng tử sáng như
mặt trời sao? "
Hoàng tử xả thiền, đứng dậy, đến gần phụ vương tâu:
"Tâu phụ vương, chúng ta nên nghỉ canh tác dưới ruộng. Chúng ta
phải tìm ra những sự thật cao quí."
Hoàng tử trở về thành Ca-tỳ-la-vệ.
Cuộc Ðời Ðức Phật 27
HÔN LỄ CỦA TẤT-ÐẠT-ÐA
Tịnh-Phạn mãi suy nghĩ về những điều mà A-tư-đà đã nói với ngài.
Không muốn gia đình bị tắt ngúm, ngài tự nhủ:
"Ta sẽ khơi dậy trong lòng con ta một sự ham mê dục lạc; có lẽ rồi
ta sẽ có cháu nội và chúng sẽ kế thừa phát đạt."
Vì thế, quốc vương cho triệu hoàng tử đến, ngài tâm sự với chàng:
"Con ơi! con đã đến tuổi lập gia đình, nếu con thấy hài lòng với cô
nào, hãy báo cho cha biết."
"Tâu phụ vương, cho phép con suy nghĩ bảy ngày. Bảy ngày nữa
con sẽ tâu lại phụ vương."
Chàng suy nghĩ:
"Ta biết nỗi khổ đau bất tận bắt nguồn từ dục vọng. Cây cối mọc
trong rừng dục vọng sẽ kết rễ trong khổ đau xung đột, và cành lá
của chúng là độc tố. Dục vọng cháy như lửa, tai hại như một lưỡi
gươm. Ta không phải là hạng người kiếm tìm phụ nữ. Số kiếp của ta
là sống giữa núi rừng u tịch. Ở đó, qua thiền định, tâm hồn ta sẽ yên
tĩnh êm đềm, ta sẽ có hạnh phúc. Nhưng hoa sen không nảy nở và
phát triển ngay giữa đám hoa đồng cỏ nội sao? không ai có vợ con
mà vẫn đạt đến trí tuệ siêu việt sao? Những ngài chứng đắc vô
thượng bồ đề trước ta đều trải qua nhiều năm kết duyên với phụ nữ.
Và đến lúc từ giã họ để được niềm an vui của thiền định thì việc ra
đi là nguồn hỷ lạc to lớn hơn. Ta sẽ theo gương các ngài"
Cuộc Ðời Ðức Phật 28
Hoàng tử chỉ nghĩ đến những phẩm hạnh mà chàng đánh giá là cao
nhất ở một phụ nữ. Ðến ngày thứ bảy, chàng đến gặp phụ vương và
tâu rằng:
"Tâu phụ vương, người mà con sẽ kết hôn phải là một phụ nữ tài đức
hiếm có. Nếu phụ vương thấy ai có tài năng thiên phú theo con kể thì
phụ vương có thể cưới người ấy cho con!
Chàng tâu:
"Con sẽ kết hôn với cô nào đang độ thanh xuân và đẹp như hoa;
nhưng nét trẻ đẹp của cô ấy không làm cho cô ấy vô dụng và kiêu
ngạo. Con sẽ kết hôn với ai có tình thương yêu âu yếm của một
người chị và một người mẹ đối với tất cả chúng sanh. Nàng sẽ ngọt
ngào chân thật và không biết đố kỵ. Nàng sẽ không bao giờ nghĩ đến
ai ngoài chồng ngay cả trong mơ. Nàng sẽ không bao giờ nói lời
kiêu căng ngạo mạn. Nàng sẽ khiêm tốn. Nàng sẽ hiền hòa nhẫn
nhục như một kẻ nô lệ. Nàng sẽ không tham lam tài vật của kẻ khác.
Nàng sẽ không có những đòi hỏi vô ý thức. Nàng sẽ hài lòng với số
phận của nàng. Nàng sẽ mặc nhiên với rượu ngon kẹo ngọt. Nàng sẽ
dửng dưng với âm nhạc phấn hương. Nàng sẽ lạnh nhạt với tiệc tùng
ca vũ. Nàng sẽ mến thương thị vệ của con và thị nữ của nàng. Nàng
sẽ đi ngủ sau cùng và dậy trước hơn ai. Con sẽ kết hôn với cô nào
thanh tịnh thân khẩu ý."
Chàng tiếp:
"Tâu phụ vương, nếu phụ vương biết cô nào có đủ những đức hạnh
đó, xin phụ vương cưới cô ấy cho con."
Vua triệu vị đạo sĩ hoàng gia đến và kể tất cả những đức tính của
người phụ nữ mà hoàng tử muốn kết hôn, ngài phán:
Cuộc Ðời Ðức Phật 29
"Này đạo sĩ Ba-la-môn, hãy đi đi! hãy viếng hết mọi nhà ở Ca-tỳ-lavệ;
hãy thăm dò các cô thanh nữ. Nếu ngài thấy ai có đức hạnh cần
thiết như thế thì đưa đến gặp hoàng tử dù cho hắn thuộc giai cấp
bần cùng. Con ta không tìm người giàu sang đẳng cấp mà tìm người
đức hạnh vẹn toàn."
Ðạo sĩ đi khắp kinh thành Ca-tỳ-la-vệ, nhà ai người cũng vào, gặp
cô nào người cũng dò hỏi một cách khéo léo nhưng chả tìm đâu ra
một người tương xứng với hoàng tử Tất-đạt-đa. Cuối cùng, người
đến nhà của Thiện-giác (Dandapani) thuộc dòng tộc Thích-Ca, và
thấy Da-du (Gopa), ái nữ của Thiện-giác, là đạo sĩ hoan hỷ liền.
Nàng xinh xắn, thùy mị. Vừa trao đổi với nàng vài lời là đạo sĩ
không còn gì phải nghi ngờ nữa.
Ðạo sĩ trở về tâu vua Tịnh-Phạn:
"Tâu bệ hạ, bần đạo đã tìm được một kiều nữ rất tương xứng với
hoàng tử."
Vua hỏi: "Người thấy nàng ở đâủ"
Ðạo sĩ Bà-la-môn tâu: "Nàng là ái nữ dòng Thích-Ca của Thiệngiác."
Dù vua Tịnh-Phạn rất tín cẩn vị gia sư nhưng ngài vẫn cho vời Giadu
và Thiện-giác đến gấp. Ngài nghĩ: "Ngay cả những nhà thông
thái nhất cũng có thể phạm phải lỗi lầm. Biết đâu đạo sĩ chẳng vì
cảm tình thái quá với nàng. Ta phải tìm hiểu thêm ái nữ của Thiệngiác
và cũng để xem ý con ta.
Vua truyền làm nhiều loại trang sức bằng châu báu và phái một sứ
Cuộc Ðời Ðức Phật 30
thần đi thông báo khắp thành Ca-tỳ-la-vệ rằng:
"Trong bảy ngày nữa, hoàng tử Tất-đạt-đa, con vua Tịnh-phạn, sẽ
tặng phẩm vật cho các tiểu thư ở kinh thành. Vậy mong tất cả các vị
có mặt tại hoàng cung vào ngày thứ bảy!"
Ðúng ngày ấn định, hoàng tử ngồi trên một ngai vàng trong đại điện
của hoàng cung. Tất cả các tiểu thư ở kinh thành đều có mặt và sắp
hàng trước hoàng tử. Chàng tặng mỗi cô một bảo vật, nhưng khi họ
đến gần ngai vàng, vẻ đẹp kỳ diệu của chàng làm họ run sợ đến nỗi
phải cúi đầu quay mặt. Họ vội đi không kịp nhận tặng phẩm. Một số
cô vội quá nên vừa chạm mấy đầu ngón tay vào tặng phẩm là nó rơi
ngay xuống sàn.
Da-du là người đến sau cùng. Nàng thản nhiên bước tới với đôi mắt
tươi tỉnh tròn xoẹ Hoàng tử không còn một tặng phẩm nàọ Nàng
tươi cười nói với chàng:
"Thưa hoàng tử, tiểu thiếp đã làm phiền hoàng tử chăng?"
Tất-đạt-đa đáp: "Qúi nương chả làm gì phiền ta cả."
"Thế sao hoàng tử xử tệ với tiểu thiếp?"
Chàng đáp: "Ta không xử tệ với quí nương. Quí nương là người đến
sau cùng nên ta không còn ngọc để tặng."
Bỗng nhiên chàng nhớ trên tay đang đeo một chiếc nhẫn quí, chàng
cởi ra và tặng nàng.
Không nhận nhẫn, nàng nói:
Cuộc Ðời Ðức Phật 31
"Thưa hoàng tử, tiểu thiếp có thể nhận chiếc nhẫn này của hoàng tử
sao? "
Hoàng tử đáp: "Nhẫn này của ta, quí nương hãy nhận lấy. "
Nàng nói: "Không! tiểu thiếp không muốn tước đoạt bảo vật của
hoàng tử. Ðúng hơn là tiểu thiếp tặng hoàng tử một bảo vật."
Nàng cáo từ.
Nghe được câu chuyện bất ngờ này, quốc vương rất lấy làm hoan
hỷ.
Ngài nghĩ: "Chỉ có Da-du là có thể đối diện với con ta. Chỉ có Dadu
là tương xứng với hoàng tử. Da-du không nhận chiếc nhẫn con
cởi từ tay của con, hỡi con yêu quí của cha, Da-du sẽ là bảo vật của
con đó."
Quốc vương cho mời phụ thân của Da-du đến hoàng cung, ngài nói:
"Thưa ngài, đã đến lúc hoàng tử Tất-đạt-đa của ta phải kết hôn. Ta
tin là công chúa yêu quí của ngài đã hợp với ý con ta. Ngài có bằng
lòng gả công chúa cho con ta chăng?"
Thiện-giác còn do dự không trả lời ngay, quốc vương lại hỏi:
"Ngài có bằng lòng gả công chúa cho con ta chăng?"
Thiện-giác đáp: "Thưa ngài, hoàng tử của ngài chỉ được dưỡng dục
trong lộng lẫy cao sang; chưa bao giờ chàng ra ngoài cổng thành;
khả năng vật chất và tinh thần của hoàng tử chưa được chứng tỏ.
Như ngài đã biết, dòng tộc Thích-Ca chỉ gả con cho ai có đầy đủ tài
Cuộc Ðời Ðức Phật 32
năng, sức lực, dũng cảm và khôn ngoan. Làm sao ta có thể gả con
cho hoàng tử, người mà cho đến giờ phút này vẫn còn tỏ ra ham mê
lười biếng?"
Lời lẽ của Thiện-giác đã làm cho vua Tịnh-Phạn u uất. Ngài đòi gặp
hoàng tử. Tất-đạt-đa đến ngay.
Chàng nói: "Tâu phụ vương, phụ vương trông buồn lắm! Có việc gì
đã xảy ra?"
Quốc vương không làm sao kể lại cho chàng biết những điều mà
Thiện-giác đã bộc lộ một cách thẳng thắn không e ngại. Ngài im
lặng.
Hoàng tử lại tâu:
"Tâu phụ vương, phụ vương trông buồn lắm! Có việc gì đã xảy ra?"
"Ðừng hỏi ta", Tịnh-Phạn đáp.
"Tâu phụ vương, phụ vương buồn lắm! Có việc gì đã xảy rả"
"Một vấn đề đau buồn, ta không muốn nói ra điều đó."
"Tâu phụ vương, xin phụ vương nói chọ Sự việc rõ ràng thì lúc nào
cũng tốt đẹp."
Quốc vương cuối cùng quyết định thuật lại cuộc hội kiến với Thiệngiác.
Kể xong, hoàng tử phì cười, tâu rằng:
"Tâu phụ vương, xin phụ vương đừng bận tâm. Phụ vương tin là có
ai ở xứ Ca-tỳ-la-vệ này mà sức lực và trí tuệ siêu hơn con? Hãy triệu
Cuộc Ðời Ðức Phật 33
tập tất cả các tay quán quân về bất cứ lãnh vực nào, cho họ so tài
với con và chừng đó phụ vương sẽ thấy rõ khả năng của con."
Yên tâm, vua hạ lệnh thông báo khắp thành:
"Trong bảy ngày nữa, hoàng tử Tất-đạt-đa sẽ so tài với tất cả những
ai điêu luyện về bất cứ lãnh vực nào.”
Ðến ngày ấn định, tất cả những người tài ba lỗi lạc về các lãnh vực
nghệ thuật, khoa học đều có mặt tại hoàng cung. Thiện-giác cũng có
mặt tại đó và hứa gả công chúa cho ai thắng cuộc dù người đó thuộc
dòng quí tộc hay thường dân.
Ðầu tiên là một thanh niên nắm vững các qui luật tác văn ra thách
thức với hoàng tử, nhưng đại sĩ Tỳ-xa-bà-mật-đa-la bước ra trước
công chúng nói:
"Này cậu, đừng so tài vô ích. Cậu bại rồi. Hoàng tử đã được ta
chăm sóc từ bé. Ta đã dạy hoàng tử nghệ thuật tác văn. Nhưng
hoàng tử đã am tường 64 thể văn tự! Hoàng tử đã thấu hiểu các tự
thể mà ta chưa hề nghe nói đến tên!"
Qua lời xác quyết của Tỳ-xa-bà-mật-đa-la, hoàng tử đã thắng trong
cuộc so tài nghệ thuật tác văn.
Rồi để thử xem kiến thức toán học của hoàng tử, họ cho Ác-giu-na
(Arjuna), dòng Thích-Ca, người đã chuẩn bị thời gian giải được
những bài toán hiểm hóc nhất làm giám khảo cuộc thi.
Một thanh niên được coi là tay toán học cự phách, nhưng Tất-đạt-đa
chỉ hỏi một câu là anh ta không đáp được.
Cuộc Ðời Ðức Phật 34
Hoàng tử nói: "Ðó là bài toán dễ. Ðây là bài toán dễ hơn và ai có
thể giải được?"
Không ai giải được bài toán thứ hai.
Hoàng tử nói: "Giờ thì đến lượt các bạn hỏi ta."
Họ hỏi chàng những bài toán xem ra khó thật nhưng hoàng tử đã
giải đáp ngay trước khi họ ra xong đề.
Quần chúng la lên tứ phía: "Hãy để cho Ác-giu-na thử hoàng tử!"
Ác-giu-na ra những bài toán khó nhất nhưng không lần nào Tất-đạtđa
không đáp đúng.
Tất cả mọi người đều sững sờ ngạc nhiên về kiến thức toán học của
hoàng tử và cho rằng tài trí của hoàng tử đã đạt đến ngọn nguồn
của các ngành khoa học. Họ quyết định thử tài điền kinh của chàng
nhưng hoàng tử chả cần phải dụng sức cũng đủ thắng cuộc đua chạy
nhảy, và đến lượt đô vật thì hoàng tử chỉ để nhẹ một ngón tay là đối
thủ lăn quay xuống đất.
Họ mang cung ra, những tay cũng lỗi lạc đã bắn tên trúng vào các
tiêu điểm xa tít. Ðến lược hoàng tử bắn, thể lực của chàng khỏe đến
nỗi chàng lên giây cung nào là gãy cung đó. Rốt cuộc, vua phái vệ
binh đem ra một cây cung rất xưa, rất quí được tàng trữ trong đền,
và theo họ thì xưa nay chưa có ai lên giây hoặc nhấc nổi nó. Tấtđạt-
đa tay trái cầm cung và lên giây chỉ bằng một ngón tay phải.
Chàng nhắm đích một thân cây xa đến nỗi chỉ một mình chàng thấy.
Mũi tên xuyên qua thân cây, cắm xuống đất và biến mất. Mũi tên đã
đi vào lòng đất, tạo thành một cái giếng gọi là giếng tên.
Cuộc Ðời Ðức Phật 35
Mọi việc hình như tạm kết thúc, họ dẫn đến một thớt voi trắng khổng
lồ cho người thắng cuộc hãnh diện ngồi trên lưng voi diễn qua kinh
thành Ca-tỳ-la-vệ. Nhưng một công tử dòng Thích-Ca, tên Ðề-bàđạt-
đa (Devadatta), rất tự hào về sức lực của mình, tóm lấy thân voi,
đấm chơi một cú, thế là con voi khổng lồ lăn đùng xuống đất.
Hoàng tử nhìn cậu thanh niên bằng ánh mắt khiển trách, nói:
"Ðề-bà-đạt-đa, cậu đã làm một việc quái ác."
Chàng lấy chân đụng con voi, nó đứng lên và sụp lạy trước chàng.
Mọi người lên tiếng hoan hô cuộc thắng vinh quang của hoàng tử.
Tịnh-Phạn vương vô cùng sung sướng. Thiện-giác cũng hân hoan
đến tràn nước mắt tuyên bố:
"Da-du, Da-du yêu quí của cha, hãy hãnh diện là vợ của một người
như thế."
Cuộc Ðời Ðức Phật 36
TẤT-ÐẠT-ÐA SỐNG
ÐỜI KHOÁI LẠC
Hoàng tử Tất-đạt-đa sống êm đềm hạnh phúc với công chúa. Tình
thương của vua đối với hoàng tử giờ đây gần như đến mực tôn thờ.
Ngài hết lòng chăm sóc hoàng tử, không để hoàng tử trông thấy bất
cứ điều gì ưu phiền. Ngài xây cho hoàng tử ba cung điện nguy nga:
một cho mùa đông, một cho mùa hè và một cho mùa mưa; và cấm
chàng không được rời khỏi ba cung điện này.
Bên trong cung điện trắng tinh như mây mùa thu và sáng rực như
những cỗ xe trời của thiên thần thánh mẫu; hoàng tử đã tận hưởng
hương vị của lạc thú trần gian. Chàng đã sống một cuộc đời khoái
lạc. Chàng đã trải qua hàng giờ mê mải lắng nghe công chúa và thị
nữ của nàng tấu nhạc. Chàng đã thích thú ngắm nhìn các vũ công
tươi vui xinh đẹp trình diễn trống vàng, đu đưa uốn éo, duyên dáng
yêu kiều mà ngay cả tiên nữ cũng khó bề diễn xuất.
Các cô lén nhìn chàng bằng ánh mắt mạnh dạn dâng hiến hoặc ranh
mảnh khẩn cầu, những hàng mi lim dim đờ đẫn của họ là cả một sự
hứa hẹn ngây ngất không tả nên lời. Các trò giải trí và sức quyến rủ
của họ đã làm cho chàng say mê đắm đuối, hài lòng an hưởng trong
những cung điện mà lúc nào cũng vang vọng giọng hát tiếng cười.
Chàng chả biết gì về cảnh già nua, bịnh tật và chết chóc cả.
Tịnh-Phạn rất hoan hỷ về cuộc sống của hoàng tử mặc dù ngài rất
khắt khe phán xét phẩm hạnh của mình. Ngài cố giữ cho tâm hồn
mình được trong sạch. Ngài tránh làm điều ác. Ngài cấp phát rộng
rãi phẩm vật cho những ai có đức hạnh. Ngài không bao giờ buông
xuôi lười biếng hay chạy theo thú vui. Ngài không bao giờ bị thiêu
Cuộc Ðời Ðức Phật 37
đốt bỡi độc tố tham dục. Ngài đã chế ngự lòng ham muốn như ngựa
hoang bị bắt phải kéo cày. Nhờ đức hạnh mà ngài đã được lòng bà
con thân hữu. Ngài đã đem kiến thức học hỏi ra phục vụ nhân dân.
Ngài chỉ nghiên tầm những gì có ích cho tất cả chúng sanh. Ngài
không những tìm hạnh phúc cho dòng tộc riêng tư mà còn muốn đem
hạnh phúc đến cho cả thế giới. Ngài đã tắm gội thân thể bằng nước
ao thiêng liêng, gạn lọc tâm tư bằng nước thánh đức hạnh. Ngài
không bao giờ nói lời đùa bỡn vu khoát. Ngài luôn luôn nói thật
nhưng không bao giờ gây xúc phạm đau buồn. Ngài cố tạo công
bình, và chính nhờ đạo đức chứ không phải sức mạnh mà ngài đã
đánh bại lòng kiêu hãnh của kẻ thù. Ngài không bao giờ đánh đập,
ngay cả cái nhìn giận dữ với tù nhân đáng tội tử hình ngài cũng
không bao giờ có. Ngài chỉ khuyên nhủ họ và cho họ tự dọ
Hoàng thượng là tấm gương sáng cho thần dân noi theo và Ca-tỳ-lavệ
là xứ hạnh phúc và đạo đức nhất trong các vương quốc.
Da-du xinh đẹp đã sinh cho hoàng tử một trai và lấy tên là La-hầula
(Rahula). Vua Tịnh-Phạn sung sướng thấy gia đình mình phát đạt,
hãnh diện có cháu nội như đã hãnh diện thấy hoàng tử ra đời.
Quốc vương vẫn tiếp tục con đường đạo đức. Ngài sống và sinh hoạt
thánh thiện như một đạo sĩ nhưng ngài vẫn đưa đẩy con trai yêu quí
của mình đến những lạc thú mới lạ. Ngài rất lo sợ thấy hoàng tử từ
bỏ hoàng thành để rồi tìm nơi ẩn cư kham khổ trong chốn rừng
thiêng.
Cuộc Ðời Ðức Phật 38
BA LẦN CHỨNG KIẾN
Một hôm, có người nói trước mặt hoàng tử là cỏ xanh mơn mởn đã
dàn trải khắp công viên, chim chóc đón xuân rộn rã cành cây, sen
nở tưng bừng khắp các mặt hồ. Thiên nhiên đã bẻ gãy những xiềng
xích ảm đạm của mùa đông; và, các cô thanh nữ giờ đây nhởn nhơ
thưởng ngoạn trong các hoa viên tươi thắm quanh thành. Thế là,
như một thớt voi bị giam giữ lâu ngày trong chuồng, hoàng tử dứt
khoát rời khỏi hoàng cung.
Vua biết điều ước nguyện của hoàng tử nhưng không có cách nào
ngăn cản.
Ngài suy nghĩ: "Nhưng ta sẽ không cho Tất-đạt-đa nhìn thấy bất cứ
điều gì có thể làm đảo lộn tâm hồn trong trắng của chàng. Con ta sẽ
không bao giờ được nghi ngờ là trên đời này có những điều xấu xa
đau khổ. Ta sẽ truyền lệnh không cho những kẻ hành khất hay đau
yếu tật nguyền lang thang khốn đốn trên đường."
Kinh thành phải được trang hoàng cờ hoa rực rỡ; một cổ xe lộng lẫy
đã được chuẩn bị để hoàng tử du ngoạn; và, không một kẻ tàn tật,
già nua, hành khất nào được phép lảng vảng trên phố chàng qua.
Ðến giờ du ngoạn, vua cho triệu hoàng tử đến, ngài ôm hôn trán con
với hai hàng nước mắt ròng ròng; ngài âu yếm nhìn con và nói: "Ði
đi con!" chấp thuận cho con du ngoạn nhưng trong lòng ngài lại
nghĩ khác.
Cổ xe chở hoàng tử được làm bằng vàng do một phu xe cầm cương
vàng điều khiển bốn con ngựa mặc giáp vàng kéọ Chỉ những ai đẹp
Cuộc Ðời Ðức Phật 39
đẽ, trẻ trung, sang trọng mới được phép xuất hiện trên đường phố.
Họ dừng lại để ngắm chàng qua và ca ngợi chàng đủ cách. Số thì ca
ngợi chàng có ánh mắt hiền hòa, số thì tán thán chàng có đường
đường phong cách, số thì xưng dương chàng có vẻ đẹp tuyệt vời, số
thì hết lời với chàng về sinh lực sung mãn... Họ cuối đầu thi lễ
hoàng tử như những lá cờ nhấp nhô phất phới trước mặt tượng thần.
Nghe tiếng bàn tán vui vẻ ngoài phố, các cô phụ nữ trong nhà thức
dậy, bỏ dãi công việc gia đình, chạy vội đến các cửa sổ hay leo
thẳng lên sân thượng. Họ đua nhau ngắm chàng bằng ánh mắt tôn
vinh thán phục và nói nhỏ với nhau: "Làm vợ một người như thế thì
hạnh phúc biết bao!"
Nhìn vẻ huy hoàng rực rỡ của kinh thành, vẻ giàu sang sung túc của
dân chúng, vẻ đẹp đẽ yêu kiều của phụ nữ, hoàng tử cảm thấy một
niềm vui mới lạ tràn ngập tâm hồn.
Nhưng rồi có một cụ già chống gậy xuất hiện, người ngợm rách rưới
lụ khụ, gân suốc bày ra cùng mình, miệng răng lắp bắp, da thịt nhăn
nheo, trên đầu loe hoe vài sợi tóc bạc nhớp nhúa, hai mắt đỏ ngầu
không có lông mi, đầu cổ tay chân đều bị phong giật.
Thấy lão khác với mọi người chung quanh, hoàng tử nhìn lão bằng
ánh mắt đau buồn và hỏi người xà ích:
"Lão già tóc bạc, thân thể co quắp kia là ai? Sao lão lại tì hai tay
xương xẩu của lão vào một khúc cây, hai mắt lão mờ đục, tay chân
lão run rẩy, lão là quái vật ư? Thiên nhiên đã hủy hoại lão như thế
hay đó là việc ruổi rọ!"
Người xà ích lẽ ra không được trả lời nhưng anh bỗng dưng rối loạn
tâm trí, không biết lỗi lầm, anh đáp:
Cuộc Ðời Ðức Phật 40
"Cái tàn phá sắc đẹp, tiêu hao sinh lực, gây khổ đau, hoại lạc thú,
giảm trí nhớ, diệt cảm giác, đó là cái già. Nó đã tóm lấy lão, bẻ gãy
lãọ Lão cũng một thời là em bé say sưa trên vú mẹ; cũng một thời bò
chơi lổm ngổm trên sàn nhà; rồi lớn lên, khỏe mạnh, trẻ đẹp; rồi đến
bóng chiều xế hoàng hôn của tuổi tác; và bây giờ, hoàng tử nhìn lão
xem, sức tàn hại chính là cái già."
Bị xúc động mãnh liệt, hoàng tử hỏi:
"Số phận của ta cũng sẽ như thế sao? "
Người xà ích đáp:
"Tâu hoàng tử, một ngày nào đó tuổi xuân cũng sẽ giã từ hoàng tử,
và cái già chắc chắn sẽ mang khổ đau đến cho hoàng tử. Thời gian
sẽ làm hao mòn sinh lực và cướp mất vẻ đẹp của chúng ta.”
Giật mình như con bò mộng nghe sét đánh, hoàng tử lắc đầu, thở
phàọ Ðảo mắt nhìn từ lão già bất hạnh đến quần chúng tươi vui,
chàng thốt ra những lời nghiêm trọng:
"Cái già làm hại trí nhớ, sắc đẹp và sinh lực con người như thế mà
nhân loại vẫn chưa khiếp sợ! Xà ích, hãy quay ngưạ, chúng ta về.
Làm sao ta có thể vui thú trong hoa viên khi mắt ta chỉ nhìn thấy cái
già, tâm ta chỉ nghĩ đến cái già?"
Hoàng tử trở về hoàng cung nhưng chàng không tìm đâu ra sự an
lành. Chàng lang thang qua các cung điện với tâm tư khắc khoải u
buồn, chàng lẩm bẩm: "Cái già! Ồ, cái gìa!"
Tuy nhiên, hoàng tử quyết định du ngoạn một lần nữa.
Cuộc Ðời Ðức Phật 41
Lần này, Tất-đạt-đa thấy một người bịnh gớm guốc đứng lù lù giữa
đường, chàng chăm chăm nhìn người bịnh và hỏi xà ích:
"Ngừơi bụng phình to kia là ai? Hai tay hắn khô đét buông thỏng,
thân hình tái nhợt, Miệng mồm thều thào thê thảm. Hắn thoi thóp;
xem kìa! hắn lảo đảo chen lấn với người qua đường; hắn té kìa! Xà
ích, xà ích, người ấy là aỉ"
Người xà ích đáp:
"Tâu hoàng tử, người đó đang bị tật bịnh dày vò đau đớn. Hắn mắc
bịnh hiểm nghèọ Hắn là hiện thân của sự suy nhược. Hắn cũng một
thời khỏe mạnh cường tráng!"
Hoàng tử nhìn hắn với lòng thương hại, chàng hỏi người xà ích:
"Nỗi đau khổ này đặc biệt dành riêng cho người ấy hay tất cả chúng
sanh đều bị bịnh tật hành hạ?"
Người xà ích đáp:
"Chúng ta cũng có thể bị khốn khổ như thế. Tật bịnh đe dọa khắp
hoàn cầu."
Nghe sự thật đau đớn này, hoàng tử rùng mình như ánh trăng lung
linh phản chiếu trên mặt sóng đại dương. Chàng thốt lên những lời
xót xa cay đắng:
"Nhân loại thấy khổ đau bịnh tật nhưng không bao giờ đánh mất
lòng tự phụ! Ồ, kiến thức của họ cao siêu biết bao! Họ thường xuyên
bị tật bịnh khống chế nhưng vẫn nói cười vui vẻ! Xà ích, hãy quay
Cuộc Ðời Ðức Phật 42
ngựa. Cuộc du ngoạn thú vị của chúng ta đã kết thúc. Chúng ta hãy
về hoàng cung đi thôi. Ta đã biết lo sợ bịnh tật. Ta muốn tránh xa
lạc thú, tâm hồn ta giờ đây đã khép kín như đóa hoa thiếu ánh sáng
mặt trời."
Hoàng tử trở về hoàng cung với tâm tư gói niềm đau đớn.
Nhận ra vẻ u buồn của con, vua Tịnh-Phạn hỏi sao hoàng tử không
du ngoạn nữa, người xà ích kể lại những gì đã xảy ra. Vua đau
buồn; ngài tự thấy người con yêu quí nhất đời của ngài đã bỏ ngài.
Mất hẳn tính điềm đạm sẵn có, ngài lên tiếng giận dữ trừng phạt kẻ
có bổn phận làm sạch đường phố, nhưng vì bản chất hiền hòa của
vua nên lệnh phạt được ân giảm. Người có trách nhiệm làm sạch
đường phố cũng ngạc nhiên thấy mình bị phạt, vì anh không thấy lão
già người bịnh nào cả.
Lo lắng hơn bao giờ hết, vua không biết làm sao ngăn ngừa hoàng
tử khỏi từ bỏ hoàng cung. Ngài đem đến cho hoàng tử nhiều lạc thú
hy hữu, nhưng hình như không có gì làm xiêu lòng Tất-đạt-đa. Vua
nghĩ: "Ta sẽ đưa hoàng tử du ngoạn một lần nữa xem sao! Có lẽ con
ta sẽ lấy lại niềm vui đã mất."
Ngài nghiêm cấm tất cả những kẻ tật nguyền, đau yếu, già nua ra
phố. Ngài còn thay luôn người xà ích của hoàng tử. Ngài cảm thấy
chắc chắn là lần này sẽ không có gì làm đảo lộn tâm hồn của Tấtđạt-
đa.
Nhưng lần này chàng lại thấy cảnh bốn người khiêng một xác chết
với nhiều người khác theo sau khóc than thảm thiết. Chỉ có hoàng tử
và người xà ích là thấy cảnh thê lương đó.
Hoàng tử hỏi:
Cuộc Ðời Ðức Phật 43
"Bốn người kia đang khiêng ai lại có kẻ mặc đồ đen theo sau khóc
than thê thảm thế?"
Người xà ích lẽ ra phải giữ niềm an tịnh cho hoàng tử, nhưng một
sức mạnh nào đó buộc anh phải trả lời:
"Tâu hoàng tử, người ấy không còn trí khôn, cảm giác hay hơi thở
nữa. Hắn ngủ vùi vô tri vô thức như cỏ cây gỗ đá. Khoái lạc và khổ
đau đối với hắn giờ đây trở thành vô nghĩa. Bạn cũng như thù, tất cả
đã vĩnh biệt hắn."
Hoàng tử hoảng hốt hỏi: "Ðây là trường hợp đặc biệt cho người ấy
hay chung cuộc như thế đang chờ đón tất cả chúng sanh?"
Người xà ích đáp: "Chung cuộc như thế đang chờ đón tất cả chúng
sanh. Mọi người sống trên đời, dù sang hay hèn, tất yếu đều phải
chết."
Hoàng tử Tất-đạt-đa giờ đây mới hiểu cái chết là gì. Thay vì bình
tĩnh, chàng rùng mình. Chàng phải tựa vào cổ xe và thốt lên những
lời u buồn chua xót:
"Vận số đưa đẩy cái chết đến với tất cả chúng sanh như thế mà loài
người vẫn không sợ, vẫn tự mua vui trong muôn ngàn cách khác
nhau! Cái chết sắp đến nơi mà con người vẫn thênh thanh trên
đường nhân thế với lời ca khúc nhạc trên môi. Ồ, ta nghĩ tâm hồn
của loài người đã biến thành chai đá! Xà ích, hãy quay ngựa, đây
không phải là lúc nhởn nhơ du hý qua các hoa viên. Làm sao một
người nhạy cảm, biết rõ cái chết, lại có thể tìm kiếm thú vui trong
giờ phút thống khố?"
Cuộc Ðời Ðức Phật 44
Nhưng người xà ích vẫn theo lệnh vua, tiếp tục đưa hoàng tử đến
hoa viên, và cũng theo lệnh của Tịnh-Phạn, Ưu-đà-di (Udayin), con
trai của vị đạo sĩ hoàng triều và là bạn thân của Tất-đạt-đa từ nhỏ,
đã tập hợp nhiều mỹ nữ có tài ca múa xướng hát và nghệ thuật làm
tình tại đó.
Cuộc Ðời Ðức Phật 45
DA-DU NẰM MỘNG
Cỗ xe chở hoàng tử tiến vào hoa viên. Hoa nở tưng bừng trên các
cành lá sum suê mơn mởn. Từng đàn chim tung cánh bay lượn nhởn
nhơ như thể say sưa ngây ngất giữa bầu trời trong sáng êm đềm. Và,
những cánh hoa sen đã nở bừng trọn vẹn, đu đưa uống trọn bầu
không khí mát lành trên mặt hồ aọ
Tất-đạt-đa miễn cưỡng đến hoa viên như một đạo sĩ non trẻ mới
phát lòng thệ nguyện, còn sợ sức cám dỗ lôi cuốn lên thiên cung,
cảnh giới của những tiên nữ yêu kiều thường vũ ca xướng hát. Các
mỹ nữ hiếu kỳ cùng nhau kéo đến như thể đón chào một tráng sĩ hôn
phu. Mắt họ sáng lên niềm thán phục với những cánh tay vươn dài
như bông hoa rực rỡ dâng hiến Tất-đạt-đa. Họ nghĩ: "Ðây đích thị
là thần Tình-ái (Kama) giáng thế." Nhưng vì e thẹn trước mặt hoàng
tử nên họ chẳng dám nói cười.
Ưu-đà-di gọi những kẻ bạo dạn xinh đẹp nhất đến nói:
"Tại sao hôm nay các ngươi làm ta hỏng việc? Các ngươi là những
người được ta tuyển chọn để thu hút hoàng tử, bạn ta kia mà? Việc
gì các ngươi phải rụt rè e thẹn như trẻ con thế? Vẻ đẹp, nét hấp dẫn
và tính bạo dạn của các ngươi có thể làm xiêu lòng ngay cả một phụ
nữ nữa kìa, thế mà các ngươi lại run sợ trước mặt một thanh niên!
Các ngươi làm ta bực mình. Ði, đứng dậy! hãy sử dụng sức quyến rũ
hấp dẫn của các ngươi! Hãy làm cho hoàng tử say mê yêu mến!"
Một trong những mỹ nữ thưa lớn:
"Thưa ngài, hoàng tử làm chúng em sợ, vẻ huy hoàng đường bệ của
Cuộc Ðời Ðức Phật 46
hoàng tử làm chúng em sợ."
Ưu-đà-di đáp: "Ừa! đường bệ cao quí như thế nhưng các ngươi
không có gì phải sợ; sức mạnh của phụ nữ kỳ diệu lắm! Hãy cố gợi
cho hoàng tử nhớ lại hình bóng của các ngươi năm xưa đã đón chào
hoàng tử bằng những ánh mắt kính yêu triều mến. Ðạo sĩ Vi-a-xa
(Vyasa) xưa kia đã từng được thiên thần tôn kính cũng bị Ái-mỹ
(Belle), một ả làng chơi ở Ba-la-nại (Benares) đá nhưng vẫn cảm
thấy hài lòng. Man-tha-la-gô-ta-ma (Manthalagotama) nổi tiếng là
một đạo sĩ khổ hạnh lâu năm cũng trở thành kẻ giúp việc cho một
trưởng đoàn âm công để được lòng Lệ-hà (Jangha), một thiếu phụ
giang hồ thuộc giai cấp cùng đinh. Kiều-da (Santa) đã khéo léo
chinh phục Ri-si-a-rin-ga (Rishyasringa) một trí giả chưa bao giờ
quen biết phụ nữ. Còn Vis-va-mi-tra (Visvamitra), nhà đạo hạnh
sáng chói, một hôm trong rừng, cũng bị mê mệt vì sức cám dỗ của
tiên nữ Gờ-ri-ta-ki (Ghritaki). Và, ta có thể kể thêm nhiều trường
hợp bị điêu đứng vì phụ nữ như các người. Này các mỹ nữ! hãy đi đi,
không có gì phải sợ hoàng tử cả. Hãy tươi cười đon đả với chàng, và
thế là chàng sẽ say mê đắm đuối các ngươi. "
Lời lẽ của Ưu-đà-di đã khích lệ được các mỹ nữ. Chúng cười vui nhí
nhảnh, liếc mắt đưa tình, dần dần tạo thành một vòng tròn vây
quanh hoàng tử.
Chúng dùng đủ trò khêu gợi để gần gũi Tất-đạt-đa, để lân la va
chạm hay để trộm tìm một cảm giác vuốt vẹ Có ả giả vờ vấp té để
được bám vào giây lưng của chàng. Có ả đến gần rồi lén nói nhỏ
vào tai chàng: "Tâu hoàng tử, xin lắng nghe điều bí mật của em".
Có ả giả vờ chuếnh choáng, từ từ cởi miếng vải xanh che ngực, đến
tựa lưng chàng. Có ả từ trên một cành xoài nhảy xuống, cười ha hả,
cố chận không cho chàng qua. Nhưng có ả lại tặng chàng một hoa
sen. Có ả lại cất tiếng hát:
Cuộc Ðời Ðức Phật 47
Xem này!
Hỡi người yêu quí của em ơi,
Từng cánh hoa xinh trải khắp cây,
Hương hoa thoang thoảng quyện đâu đây,
Chim reo vui nhộn vang cành lá,
Như trong lồng vàng hót ngất ngây.
Từng cánh ong vờn hoa nhởn nhơ,
Ðê mê hút trọn nhụy hoa mơ,
Kìa những giây leo ôm cổ thụ,
Vươn gió hờn ghen động phất phơ.
Giữa cánh rừng xanh đẹp ý thơ,
Ơi hồ nước bạc lặng như tờ,
Như nụ cười tình duyên thiếu phụ,
Mừng đón trăng về thỏa ước mơ. "
Nhưng hoàng tử không thể hoan hỷ vui chơi, chàng đang đau khổ.
Chàng đang suy tư về cái chết.
Chàng nghĩ: "Không ai thấy tuổi trẻ của các mỹ nữ này đang trôi
qua và cái già sẽ đến cướp mất vẻ đẹp thanh xuân của họ! Họ không
thấy nạn đe dọa của bịnh tật dù nó đã trở thành chúa tể của trần
gian! Họ không biết gì về cái chết, cái chết thúc bách, cái chết làm
hủy hoại mọi thứ! Vì thế mà họ có thể vui cười thoải mái!"
Cố ngăn chận dòng tư tưởng của Tất-đạt-đa, Ưu-đà-di nói: "Sao
hoàng tử thờ ơ lạnh nhạt với các mỹ nữ thế? Có lẽ chúng không làm
vui lòng hoàng tử chăng? Lạ thật! Xin hoàng tử niềm nở với chúng
dù chỉ là vài lời vu vơ giả dối. Xin hoàng tử đừng làm chúng cảm
thấy xấu hổ bị cự tuyệt. Sắc đẹp của hoàng tử chả có ích gì nếu
hoàng tử không từ ái hân hoan? Hoàng tử sẽ như rừng núi trơ vơ
không cỏ cây hoa lá."
Cuộc Ðời Ðức Phật 48
Hoàng tử đáp: "Giả dối có ích gì? Tâng bốc có ích gì? ta không
muốn lường gạt phụ nữ. Cái già và cái chết đang nằm chờ đón ta.
Ưu-đà-di, đừng cố thuyết phục ta, đừng mời ta tham dự vào bất cứ
một cuộc vui tầm thường nào cả. Ta đã thấy rõ cái già, cái bịnh và
cái chết đang sờ sờ ra đó. Không có gì giờ đây có thể mang lại niềm
an bình cho tâm trí ta. Bạn muốn ta chạy theo tình yêu ư? Con người
sắt thép đã nhận diện cái chết lại còn tìm kiếm tình yêu sao? Hung
thần độc ác đang đứng chờ tại cửa, hắn không còn kêu gào than
khóc gì được nữa!"
Mặt trời đang từ từ khuất dạng. Các mỹ nữ cũng chấm dứt cuộc vui
múa hát. Hoàng tử chả dòm ngó gì đến những vòng hoa trang sức và
ngọc ngà châu báu của chúng. Cảm thấy son phấn mặn mà, vũ ca
uyển chuyển của mình chả có ích gì, các ả từ từ lên đường trở về
thành đô.
Về đến hoàng cung, vua Tịnh-Phạn nghe Ưu-đà-di tâu lại rằng
hoàng tử đã tránh xa mọi lạc thú, và thế là quốc vương không sao
ngủ được trọn đêm hôm đó.
Da-du đang chờ đợi hoàng tử. Chàng cố tình lánh nàng. Nàng cảm
thấy xao xuyến trằn trọc cả đêm, đến khi vừa chợp mắt thì mơ thấy:
Cả trái đất và những ngọn núi cao chót vót đều đu đưa rung chuyển,
rồi một cơn gió man rợ thổi lên, làm cây cối gãy đổ trốc gốc. Mặt
trời, mặt trăng và các hành tinh đã lặn hẳn về phía bên kia trái đất.
Nàng, Da-du, bị lột hết y phục và đồ trang sức, mất cả vành khăn
công chúa, nàng trần truồng. Tóc nàng bị cắt sạch. Chiếc giường
hôn lễ bị gãy nát. Y phục may thêu bằng ngọc ngà châu báu của
hoàng tử cũng bị vung vãi tung tóẹ Những vệt sáng xoẹt ngang qua
bầu trời trên một kinh thành tối đen, và cả núi tu di đều chuyển động
Cuộc Ðời Ðức Phật 49
mãnh liệt.
Quá kinh hãi, Da-du thức dậy, chạy đến chồng kêu lớn:
"Hoàng tử yêu quí của em, hoàng tử ơi, có việc gì sẽ xảy đến? Em
vừa nằm mơ thấy khủng khiếp! Em khóc òa sợ quá!"
Hoàng tử đáp: "Mơ thế nào cho anh biết."
Da-du thuật lại rõ ràng đầu đuôi giấc mơ, hoàng tử mỉm cười nói:
"Da-du em, hãy vui lên, hãy phấn khởi lên. Em mơ thấy trái đất rung
chuyển ư? Thế là một ngày nào đó thiên thần phải đích thân đảnh lễ
em. Em thấy mặt trăng, mặt trời lặn hẳn về phía bên kia trái đất?
Vậy là chẳng bao lâu nữa em sẽ hàng phục được khổ đau tội ác, em
sẽ được tán thán vô biên. Em thấy cây cối trốc gốc? Thế là em sẽ
thấy đường ra khỏi núi rừng dục vọng. Tóc em bị cắt sạch? Vậy là
em sẽ thoát khỏi mạng lưới tham dục, khỏi bị chúng vây bắt làm tù
nhơn. Y phục và châu báu của anh bị vung vãi tung tóẻ Thế là anh
đang trên đường đi đến giải thoát. Những vệt sáng xoẹt ngang qua
bầu trời trên một kinh thành tối đen? Thế là anh sẽ mang ánh sáng
trí tuệ đến cho thế giới vô minh đen tối, và ai tin theo lời anh sẽ
được an vui hạnh phúc. Da-du, hãy vui lên, đừng buồn nữa; em sẽ
sớm được tôn vinh hy hữụ Da-du, ngủ đi, ngủ đi em. Em đã mơ thấy
một giấc mơ tuyệt diệu.
Cuộc Ðời Ðức Phật 50
TẤT-ÐẠT-ÐA KHAO KHÁT
VỀ NHỮNG SỰ THẬT CAO QUÍ
Tất-đạt-đa không còn tìm đâu ra cảnh êm đềm hạnh phúc. Chàng đi
vội qua các lâu đài cung điện như một con sư tử bị mũi giáo độc.
Chàng đau khổ vô cùng.
Một hôm, vì hết lòng mong muốn dạo ngắm những cánh đồng cỏ bao
la xanh tươi mơn mởn, chàng rời khỏi hoàng cung, tản bộ qua một
cánh đồng quê và trầm ngâm suy nghĩ:
"Loài người thật đáng xót thương. Suy nhược bịnh tật, già nua, chết
chóc là điều hiển nhiên không thể tránh khỏi; vậy mà vẫn ôm ấp thói
vô minh kiêu ngạo, khinh miệt những kẻ tật bịnh, già nua, chết chóc.
Nếu như ta cũng khinh khi ruồng rẫy họ thì hóa ra ta bất công,
không xứng đáng liễu ngộ giáo pháp tối thượng."
Trong khi miệt mài suy nghĩ về nỗi thống khổ của thế nhân, hoàng tử
đã đánh mất cái ảo tưởng vô dụng về sinh lực, tuổi trẻ và cuộc đờị
Chàng không còn hay biết gì về sự hoan lạc hay khổ đau, hoài nghi
hay mệt mỏi, dục vọng hay yêu đương, hận thù hay khinh miệt.
Bỗng nhiên, chàng, và chỉ có chàng nhìn thấy một người tựa kẻ hành
khất từ xa đi lại.
Hoàng tử hỏi: "Xin cho ta biết ngươi là aỉ"
Ðạo sĩ đáp: "Một tráng sĩ. Vì sợ sinh tử nên ta đã trở thành một đạo
sĩ khổ hạnh. Ta đang tìm sự giải thoát. Thế giới phải chịu sự hủy
diệt. Ta không suy nghĩ như người khác. Ta lánh xa lạc thú. Ta
Cuộc Ðời Ðức Phật 51
không biết gì về tham dục. Ta tìm cảnh cô đơn. Có lúc ta ở dưới gốc
cây, có khi ta sống trong núi sâu rừng rậm. Ta không có gì cả. Ta
không mong gì cả. Ta lang thang đây đó, sống nhờ vào bá tánh thập
phương, chỉ tìm ra sự an lạc tối thượng."
Tất-đạt-đa sung sướng. Thấy được vị thế của nghĩa vụ mình, chàng
quyết định giã từ hoàng cung và làm một sa môn.
Trở về hoàng thành, gần đến cổng, hoàng tử đi ngang qua một thiếu
nữ đang cúi đầu thi lễ chàng và thưa rằng: "Tâu hoàng tử cao quí,
ai là hôn thê cửa hoàng tử hẳn phải biết niềm hạnh phúc tối
thượng." Nghe giọng nàng nói, tâm hồn chàng tràn ngập niềm hạnh
phúc êm đềm: ý nghĩ an vui hạnh phúc và cứu cánh niết bàn đã đến
với chàng.
Ðến gặp phụ vương, hoàng tử cúi đầu thi lễ tâu:
"Tâu phụ vương, xin phụ vương chấp thuận lời thỉnh nguyện của
con, xin đừng cự tuyệt, con đã quyết định. Con muốn từ giã hoàng
cung. Con muốn lên đường giải thoát. Tâu phụ vương, con phải ra
đi."
Bị xúc động tê tái, quốc vương nghẹn ngào rơi lệ nói với con:
"Con à, hãy bỏ ý định đó đi. Con còn trẻ lắm, chưa có thể đi theo
tiếng gọi của tôn giáo đâụ Những ý nghĩ trong tuổi thanh xuân của
chúng ta thường bất định, thay đổi. Ngoài ra, tuổi trẻ mà tu tập khổ
hạnh là một lỗi lầm nghiêm trọng. Cảm quan của chúng ta luôn luôn
khao khát về những lạc thú mới lạ. Những quyết tâm kiên cố nhất
cũng chẳng ăn nhằm gì nếu ta biết cái giá của sự cố gắng. Thể xác
của chúng ta lang thang trong rừng dục vọng nhưng tư tưởng của
chúng ta không vướng mắc là được. Tuổi trẻ thiếu kinh nghiệm. Ðể
Cuộc Ðời Ðức Phật 52
cha xuất gia tu hành thì đúng hơn. Ðã đến lúc cho cha từ giã hoàng
cung. Con ơi, cha thoái vị. Hãy thay thế cha mà giữ gìn xã tắc. Hãy
cứng rắn, cam đảm; hoàng tộc đang cần con. Cha mong con hãy
nếm đủ lạc thú của tuổi xuân và khoái lạc của những năm tháng sau
này trước khi con vào rừng làm ẩn sĩ."
Hoàng tử tâu:
"Tâu phụ vương, xin phụ vương hứa cho con bốn điều thì con sẽ
không từ giã hoàng cung để vào rừng"
"Bốn điều gì? quốc vương hỏi.
"Hứa là mạng sống của con sẽ không kết thúc bằng cái chết, bịnh tật
sẽ không tàn hại sức khỏe của con, cái già sẽ không theo sau tuổi
xuân của con, và tai họa sẽ không hủy diệt sự phồn vinh của con."
Quốc vương đáp: "Con đòi hỏi nhiều quá. Hãy bỏ ý định đó đi.
Hành động theo tiếng gọi ngu xuẩn chả có ích gì đâu con."
Uy nghi như núi tu di, hoàng tử tâu:
"Tâu phụ vương, nếu phụ vương không thể hứa cho con bốn điều đó
thì xin phụ vương đừng giữ con lại. Khi một người đang cố thoát
khỏi căn nhà hực lửa thì chúng ta không nên ngăn cản họ. Ngày ấy
đến thì tất yếu chúng ta phải giã biệt trần thế thôi, nhưng ra đi trong
cưỡng bức thì có giá trị gì? Thiện chí ra đi thì tốt đẹp hơn. Cái chết
sẽ lôi con ra ngoài trần thế trước khi con đạt đến mục tiêu, trước khi
con thõa lòng nhiệt huyết. Thế gian là một ngục tù: làm sao con có
thể giải thoát những chúng sanh tù nhân của dục vọng! Thế gian là
một hố thẳm đầy dẫy những kẻ vô minh mù tối thất thểu lang thang:
làm sao con có thể đốt lên ngọn đèn giác ngộ, con có thể lột bỏ tấm
Cuộc Ðời Ðức Phật 53
màn che mờ ánh sáng trí tuệ! Thế gian đã giương cao ngọn cờ mê
vọng, ngọn cờ kiêu mạn: làm sao con có thể hạ nó xuống và xé nát
tan tành! Thế gian nằm trong trạng thái nhiễu nhương rối loạn, thế
gian là một vòng lửa khổng lồ: làm sao, với chánh cháp, con có thể
mang hòa bình hạnh phúc đến cho nhân loại!"
Hoàng tử trở về cung điện với hai hàng nước mắt ròng ròng. Bạn
hữu của Da-du đang vui cười ca hát trong đại sảnh đường. Chàng
chả ngó ngàng gì đến họ. Thế rồi màn đêm buông xuống và họ cũng
lặng lẽ kết thúc cuộc vui.
Họ lăn ra ngủ. Hoàng tử đứng ngắm họ.
Vẻ duyên dáng yêu kiều đầy dụng tâm của họ đã biến mất, những đôi
mắt long lanh quyến rủ của họ cũng đi luôn. Ðầu tóc rối bù, miệng
mồm há hốc, ngực vú lép xẹp, tay chân dang ra cứng đờ hoặc vặn
vẹo thô kệch chồng gác lên nhau, hoàng tử cất tiếng than:
"Chết! Họ chết rồi! ta đang đứng trong một nghĩa địa!"
Rời khỏi cung điện, hoàng tử đi thẳng đến tàu ngựa của hoàng gia.
Cuộc Ðời Ðức Phật 54
TẤT-ÐẠT-ÐA GIÃ TỪ
CUNG ÐIỆN CỦA PHỤ VƯƠNG
Hoàng tử gọi Xa-nặc (Chandaka), người xà ích nhanh nhẹn đến.
Chàng ra lệnh! "Xa-nặc, hãy đem ngựa kiền-trắc (Kanthaka) của ta
đến ngay. Ta muốn lên đường tìm nguồn hạnh phúc bất diệt. Ta cảm
thấy hân hoan sung sướng và không một sức mạnh phi thường nào
giờ đây có thể ngăn cản được ý chí của ta. Ta đoan chắc rằng dù
sống một mình ta vẫn có người che chở. Tất cả những dự kiện đó
cho ta thấy là ta sắp đạt đến mục tiêu. Giờ khởi hành đã đến, đưa ta
lên đường giải thoát đi thôi."
Nhớ lệnh vua, nhưng Xa-nặc cảm thấy có một sức mạnh siêu việt
nào đó đang thôi thúc anh bất tuân mệnh lệnh. Anh đi tìm ngựa quí.
Kiền trắc là một con tuấn mã kỳ diệu; nó khỏe mạnh và hiền ngoan.
Tất-đạt-đa lặng lẽ vuốt ve, âu yếm nói với nó:
"Hỡi tuấn mã yêu quí, nhiều lần phụ vương ta đã cỡi ngươi đánh bại
biết bao kẻ thù gan góc giữa trận tiền. Hôm nay, ta ra đi tìm nguồn
hạnh phúc tối thượng, hỡi kiền trắc! hãy giúp ta lên đường. Bạn bè
khổ sướng bên nhau không phải khó tìm và chúng ta không bao giờ
thiếu bạn khi chúng ta đi tìm giàu sang phú quí, nhưng một khi
chúng ta dấn thân theo đường hướng thánh thiện thì bạn bè thân
thích lại xa lánh ta. Tuy nhiên, ta tin chắc một điều là ai giúp kẻ
khác làm thiện hay làm ác, người ấy sẽ gặt hái thành quả thiện ác
tương xứng. Này kiền trắc, hãy biết rằng chính động cơ đạo hạnh
thúc đẩy ta. Hãy dùng sức lực và vận tốc của ngươi giúp ta lên
đường. Sự giải thoát của thế nhân và của chính ngươi là điều hiển
Cuộc Ðời Ðức Phật 55
nhiên chắc thật."
Hoàng tử nói với con kiền trắc như thể tâm sự với một người bạn.
Chàng dũng mãnh lên yên ngựa và trông chàng như vầng thái
dương trên một áng mây mùa thu bạc trắng.
Bầu trời đêm trong vắt. Con tuấn mã cẩn thận không gây tiếng động.
Chưa có ai thức dậy ở hoàng cung hay ở kinh thành Ca-tỳ-la-vệ.
Những thanh sắt nặng nề bảo vệ cổng thành tự động lặng lẽ mở ra
cho hoàng tử đi qua, những cửa sắt mà một thớt voi khó khăn lắm
mới nhấc chúng lên được.
Từ giã phụ vương, hài nhi và dân chúng, Tất-đạt-đa lên đường xa
hẳn thành đô. Không còn gì ân hận, chàng quả quyết tuyên bố:
"Ta sẽ không trở về thành Ca-tỳ-la-vệ cho đến khi ta tìm ra cứu cánh
của cuộc đời và cái chết.
Cuộc Ðời Ðức Phật 56
ẨN SĨ TẤT-ÐẠT-ÐA
Con kiền-trắc dũng cảm chở hoàng tử đi được một đoạn xa. Cuối
cùng, khi mặt trời sắp bắt đầu phá tan màn đêm, các vị hoàng gia
tôn thất thấy chàng gần tới một cánh rừng có nhiều ẩn sĩ tâm thành
cư ngụ. Hươu nai nằm ngủ êm đềm dưới những tàng cây. Chim
chóc tha hồ nhởn nhơ bay lượn. Tất-đạt-đa cảm thấy tạm ổn, khỏi
cần phải đi xa nữa. Chàng xuống ngựa, vuốt ve âu yếm con tuấn mã.
Ánh mắt và giọng nói của chàng hiện rõ nét hân hoan sung sướng,
chàng tâm sự với Xa-nặc:
"Quả thật con tuấn mã có sức lực và vận tốc của một thiên thần.
Còn bạn, người bạn thâm tình quí mến đã hộ tống ta, đã cho ta thấy
thiện cảm và lòng can trường của bạn cao quí biết chừng naọ Ðó là
một nghĩa cử cao cả. Bạn đã làm ta hài lòng. Mấy ai tổng hợp được
năng lực và lòng tận tụy như bạn, hiếm lắm! Bạn đã chứng tỏ là bạn
quí của ta và không mong cầu ở ta một ân huệ gì. Nhưng vị tha vô
ngã chính là yếu tố đưa người xích lại gần nhau. Ta tin chắc là bạn
đã mang lại cho ta rất nhiều hạnh phúc. Giờ đây, mong bạn đưa
giùm con tuấn mã này trở về hoàng thành. Ta đã tìm ra cánh rừng
mà ta mong muốn."
Tráng sĩ Tất-đạt-đa cởi hết đồ châu báu và trao lại cho Xa-nặc.
Chàng nói: "Mong bạn cầm giùm xâu chuỗi này về trao lại cho phụ
vương ta. Tâu với phụ vương ta là hãy tin tưởng vào ta và đừng
buồn khổ gì cả. Ta vào rừng ẩn cư tu tập không phải vì thiếu tình
cảm bạn bè hay vì kẻ thù gây hấn, cũng không phải vì ta tìm ra nơi
an ổn tu hành với các chư thiên. Việc ra đi của ta có một ý nghĩa
xứng đáng hơn, cao cả hơn. Ta sẽ diệt trừ cái già và cái chết. Vì thế
Cuộc Ðời Ðức Phật 57
cho nên, này Xa-nặc, đừng buồn rầu, đừng để cho phụ vương ta phải
khổ đau. Ta từ giã hoàng gia là để nhổ sạch gốc rễ đau khổ. Ðau
khổ bắt nguồn từ tham dục, và mỗi người là một tên nô lệ cho chính
lòng tham dục của mình, thật đáng thương thay! Khi một người qua
đời, những kẻ thừa kế sản nghiệp thì lúc nào cũng có, nhưng những
kẻ kế thừa đức hạnh thì thật là hiếm hoi, hầu như không bao giờ có.
Nếu phụ vương ta nói với bạn:"Nó vào rừng chưa đúng lúc" thì bạn
sẽ đáp rằng mạng sống quả thật mong manh, còn việc tu tập đức
hạnh thì không bao giờ có chuyện sớm trễ. Này bạn quí của ta, hãy
tâu lại với phụ vương ta như thế. Hãy hết lòng giúp phụ vương ta
chóng quên ta. Tâu giùm với phụ vương ta rằng ta chả có đức hạnh
gì cả. Kẻ nào không đức hạnh, kẻ ấy không được người khác kính
yêu; và ai chả bao giờ được người khác kính yêu, người ấy cũng chả
bao giờ bị đau khổ. "
Nước mắt ràn rụa, Xa-nặc đáp:
"Ồ, những người yêu quí hoàng tử sẽ khóc than thương nhớ biết
bao! Hoàng tử còn trẻ lắm, đẹp lắm, lâu đài cung điện của chư thiên
phải là nhà cửa của hoàng tử, vậy mà hoàng tử nỡ sống trong rừng
sâu, nỡ ngủ trên cỏ xót sao? Lão biết quyết định tàn nhẫn của
hoàng tử rồi. Lão lẽ ra không tìm con tuấn mã kiền trắc, nhưng một
năng lực siêu nhiên nào đó đã xúi giục lão, nên lão đã đem ngựa
đến cho hoàng tử. Lão biết làm thế nào bây giờ? Ðau buồn giờ đây
sẽ tìm đường dẫn lối vào thành Ca-tỳ-la-vệ. Tâu hoàng tử, phụ
vương yêu quí hoàng tử biết bao, xin đừng bỏ phụ hoàng! Còn Maha-
ba-xà-ba-đề nữả Mẫu hậu chưa có tình ngĩa gì với hoàng tử sao!
Mẫu hậu là dưỡng mẫu của hoàng tử, xin đừng vô ơn bội nghĩa! Và
không còn một phụ nữ nào khác vô vàn yêu quí hoàng tử à? Xin
đừng bỏ Da-du trung hậu! Hãy giúp người dưỡng dục hài nhi để rồi
mai kia con hoàng tử sẽ mang vinh quang đến cho hoàng tử!
Cuộc Ðời Ðức Phật 58
Xa-nặc khóc sướt mướt. Tráng sĩ Tất-đạt-đa đứng lặng yên. Xa-nặc
thưa tiếp:
"Hoàng tử sẽ vĩnh viễn giã từ hoàng gia! Ồ, nếu hoàng tử phải gây
khổ đau cho hoàng tộc thì xin hoàng tử ít ra cũng thương tình lão,
thương nỗi thống khổ của người mang tin buồn! Phụ hoàng sẽ nói gì
với lão khi thấy lão trở về không thấy hoàng tử? Nhũ mẫu của hoàng
tử sẽ nói gì với lãỏ Da-du sẽ nói gì với lãỏ Và khi lão đứng trước
mặt phụ hoàng thì hoàng tử lại bảo lão phủ nhận đức hạnh của
hoàng tử! Trời ơi! Lão biết làm sao bây giờ? Lão không thể nói láo,
và dù cho lão phải nói thì ai có thể tin lão, ai là người tin rằng mặt
trăng có những tia nắng gay gắt?"
Xa-nặc nắm tay tráng sĩ nói:
"Xin đừng ruồng bỏ chúng tôi! Hãy trở về! Ồ, hãy trở về!"
Tất- đạt-đa vẫn đứnglặng yên. Cuối cùng, chàng nghiêm giọng nói:
"Xa-nặc, chúng ta phải tạm biệt nhau thôi. Ðã đến lúc những ai bị
dây yêu thương ràng buộc hẳn phải đi theo đường hướng riêng biệt
của mình. Nếu vì tình yêu thương gia đình mà ta không nỡ ra đi thì
dù gì chăng nữa cái chết cũng sẽ chia cách chúng ta. Giờ đây, ta là
gì với nhũ mẫu tả Và nhũ mẫu ta là gì với tả Chim chóc tá túc qua
đêm trên cùng một lùm cây, nhưng bình minh vừa ló dạng thì mỗi
con một hướng, tứ tản khắp bốn phương trời. Có những cơn gió làm
mây hợp lại và cũng có những cơn gió làm mây tan ra. Ta không thể
sống trong một thế giới hoàn toàn ảo mộng nữa. Bạn à, chúng ta
phải tạm biệt nhau thôi! Nói giùm với dân thành Ca-tỳ la- vệ là ta
chưa làm gì đáng trách, bảo giùm với họ là hãy tạm quên ta, chẳng
bao lâu nữa họ sẽ gặp lại ta, người chinh phục lão tử, trừ phi ta thất
bại và chết thảm thương."
Cuộc Ðời Ðức Phật 59
Con kiền-trắc le lưỡi liếm chân tráng sĩ Tất-đạt-đa. Chàng âu yếm
vuốt ve con tuấn mã và nói với nó như tâm tình với một người bạn:
"Ðừng đau buồn than khóc. Ngươi đã chứng tỏ là một tuấn mã trung
thành. Hãy nhẫn nại. Công việc nặng nhọc của ngươi gần đến lúc
được thưởng rồi."
Ðoạn chàng lấy cây kiếm trên tay của Xa-nặc, cây kiếm sắc bén có
cán khảm ngọc châu và cẩn vàng, chàng đưa một nhát cắt tiện mái
tóc rồi quăng kiếm lên không trung, nó lóe sáng như một hành tinh
mới lạ và biến mất.
Nhưng trên người tráng sĩ vẫn còn khoác chiếc cẩm bào sặc sỡ.
Chàng đang cần một chiếc áo bình dị, phù hợp với cuộc đời ẩn sĩ
hơn. Ngay lúc đó, có một thợ săn mặc chiếc áo vải thô màu ngà ngà
xuất hiệt, Tất-đạt-đa nói với gã:
"Chiếc áo êm đềm bình dị của bạn trông giống như y phục của các
vị ẩn sĩ, nó trái hẳn với cây cung tàn bạo của bạn. Cho ta đổi chiếc
áo của ta cho bạn, nó sẽ phù hợp với bạn hơn."
Gã thợ săn nói: "Xin cảm ơn bộ y phục này, ta có thể đánh lừa được
dã thú trong rừng. Chúng sẽ hết sợ ta, và ta có thể hạ chúng trong
gang tấc. Thưa ngài, nếu ngài cần, ta bằng lòng đổi y phục của ta
cho ngài."
Tất-đạt-đa sung sướng mặc bộ y phục bằng vải thô, màu ngà ngà
của gã thợ săn, và gã thợ săn kính cẩn mặc bộ y phục của tráng sĩ
rồi đi mất. Tất-đạt-đa vui mừng được bộ y phục của ẩn sĩ trong khi
Xa-nặc đứng ngạc nhiên sững sờ.
Cuộc Ðời Ðức Phật 60
Khoác bộ y phục màu ngà lên người, tráng sĩ thánh thiện lẫm liệt lên
đường thẳng đến nơi ẩn cư. Chàng trông như núi tu di giữa những
áng mây hoàng hôn phủ kín.
Và Xa-nặc, với cõi lòng đau buồn nặng trĩu, thất thểu lên đường trở
lại kinh thành Ca-tỳ-la-vệ.
Cuộc Ðời Ðức Phật 61
NỖI ÐAU BUỒN CỦA
DA-DU VÀ VUA TỊNH-PHẠN
Da-du đã thức dậy trong đêm dày sâu thẳm. Một cảm giác bứt rứt
khó chịu bao trùm lấy nàng. Nàng cất tiếng gọi hoàng tử Tất-đạt-đa
yêu quí nhưng không ai đáp lại. Nàng đứng lên. Nàng chạy qua các
cung điện của hoàng gia nhưng cũng không thấy chàng đâu cả.
Hoảng hốt, nàng quay nhìn các thị nữ đang thiếp ngủ và buộc miệng
than dài:
"Ồ, tàn nhẫn, tàn nhẫn! Các ngươi đã phản bội ta! Các ngươi đã để
người yêu của ta đi mất!"
Các thị nữ thức dậy, chúng tìm khắp các phòng. Không còn gì nghi
ngờ nữa: hoàng tử đã giã biệt hoàng cung rồi. Da-du lăn nhào
xuống đất, đấm đầu, bứt tóc, bao nhiêu nét đau buồn thê thảm đều
hiện rõ trên khuôn mặt nàng.
"Có lần hoàng tử nói với ta là hoàng tử sẽ ra đi, đi xa, hoàng tử là
quốc vương của mọi người mà! Ta không bao giờ nghĩ cảnh chia ly
tàn nhẫn lại xảy ra sớm thế. Ồ, hoàng tử yêu quí của em ơi, anh đi
đâu?Anh đi đâu?Em không thể nào quên anh được. Em khổ lắm, khổ
lắm! Anh ở đâu?Anh ở đâu?Anh đẹp lắm mà! Vẻ đẹp của anh không
ai sánh bằng mà! Ðôi mắt của anh long lanh mà! Anh đẹp lắm mà!
Anh yêu của em mà! Anh yêu quí của em mà! Anh không thấy hạnh
phúc sao? Ồ, anh ơi, anh yêu quí của em ơi, anh nỡ bỏ em đi đâu
vậỷ"
Bạn bè thân thích của nàng cố khuyên giải nàng nhưng vô ích.
Cuộc Ðời Ðức Phật 62
"Từ nay về sau ta chỉ ăn uống để cầm hơi, để đỡ đói khát. Ta sẽ ngủ
trên sàn đất, bện tóc như ẩn sĩ. Ta sẽ không tắm nước hoa, ta sẽ chế
ngự dục lạc. Vườn tược cằn cỗi, cây trái tiêu điều, hoa giăng úa tàn,
bám đầy bụi đất. Cung điện vắng vẻ u buồn, không còn giọng hát êm
đềm tươi sáng như ngày hôm qua.”
Ma-ha-ba-xà-ba-đề được tin Tất-đạt-đa ra đi do một thị nữ của Dadu
kể lại, bà vội đến gặp Da du, cả hai ôm nhau khóc nức nở.
Hay tin đau buồn, quốc vương Tịnh-Phạn hỏi nguyên dọ Một cận
thần đến nơi tìm hiểu và trở về báo rằng:
"Tâu bệ hạ, hoàng tử không còn ở hoàng cung nữa.”
Quốc vương quát lên: "Hãy đóng chặt các cổng hoàng thành lại.
Hãy tìm khắp các phố thị, hoa viên, nhà cửa thế nào cho ra con ta.”
Mọi người răm rắp tuân hành mệnh lệnh của vua nhưng không tìm
đâu ra hoàng tử. Quốc vương khóc rống lên:
"Con ơi, con yêu quí nhất đời của cha ơi! Quốc vương vừa nức nở
vừa lăn nhào xuống đất bất tỉnh. Lát sau, nhờ mọi người chăm sóc,
ngài hồi tỉnh ra lệnh:
"Các kỵ binh hãy đi khắp mọi hướng, tìm được con ta và đưa về đây
gấp!"
Ngay lúc đó, Xa-nặc và tuấn mã kiền trắc đang từ rừng khổ hạnh
chậm chạp trở về hoàng thành. Gần đến hoàng cung, cả người lẫn
ngựa đều ngẩng đầu lộ vẻ đau buồn. Một số kỵ binh vừa trông thấy,
họ reo lên:
Cuộc Ðời Ðức Phật 64
là em đang nghe khúc tình ca thánh thoát êm đềm. Khi tựa vào anh,
em lại được hưởng trọn hương thơm của muôn ngàn hoa lá. Giờ
đây, xa anh rồi, em chỉ biết khóc thôi. Anh là đạo sư của em, nay
anh đi rồi, việc gì sẽ xảy đến cho em? Em đã mất sạch kho tàng châu
báu, em sẽ nếm mùi nghèo khổ. Anh là đôi mắt của em, em không
còn nhìn thấy ánh sáng nữa, em mù lòa rồi. Ồ, khi nào anh về hỡi
anh là nguồn vui, nguồn hạnh phúc của em? "
Thấy những châu báu do Xa-nặc mang về, Ma-ha-ba-xà-ba-đề đứng
nhìn chúng một hồi lâu rồi òa lên khóc. Bà lấy hết châu báu và rời
khỏi hoàng cung.
Vừa đi vừa khóc, bà băng ngang qua hoa viên, đến một khu hồ, bà
dừng lại ngắm các châu báu một lần nữa rồi vất hết xuống nước.
Con tuấn mã kiền trắc đã về đến tàu cũ, những con ngựa khác mừng
rỡ hý vang nhưng hắn chả nghe thấy gì. Hắn khắc khoải đau buồn,
thống thiết hý lên vài tiếng rồi lăn đùng ra chết.
Cuộc Ðời Ðức Phật 65
GIÁO THUYẾT CỦA ÐẠO SĨ A-LA-LAM
Tất-đạt-đa vào rừng khổ hạnh, nơi đạo sĩ A-la-lam (Arata Kalama)
dạy thuyết khổ tu cho một số đông đệ tử. Ngài xuất hiện ở đâu là
được mọi người tán dương ở đó, ngài đi đến đâu là hào quang rực
sáng đến đó. Mỗi khi ngài nói, các đạo sĩ khác đều thích thú lắng
nghe, giọng ngài ngọt ngào và đầy khí lực. Ngài thu hút tất cả mọi
người. Một hôm, A-la-lam nói với ngài:
"Ngươi đã hiểu rõ giáo pháp như ta hiểu. Tất cả những gì ta biết,
ngươi đều biết. Từ nay về sau, nếu ngươi muốn, ta sẽ nhường việc
cho ngươi, hai ta cùng giáo hóa môn đệ."
Tráng sĩ tự hỏi: "Giáo pháp A-la-lam giảng dạy phải chăng là chánh
pháp? Nó có đưa đến giải thoát không?"
Ngài suy nghĩ: "A-la-lam và đồ chúng sinh sống cực kỳ khổ hạnh.
Họ từ chối thực phẩm do người làm ra. Họ chỉ ăn trái cây hoặc rễ
lá. Họ chỉ uống nước lạnh. Họ ăn uống đạm bạc sơ sài hơn cả chim
muông mổ vài hạt đậu li ti, hơn cả hươu nai cắn vài lá cỏ, hơn cả
rắn rít hít thở khí trời. Họ ngủ dưới tàng cây, mặc cho hơi nóng mặt
trời thiêu đốt. Họ phơi mình ra gió rét. Họ quì trên sỏi đá ngoài
đường đến bầm cả gối chân. Họ cho đức hạnh bắt nguồn từ đau khổ.
Họ nghĩ là họ sẽ được hạnh phúc. Họ tin là càng luyện tập khổ hạnh
khắt khe bao nhiêu, họ càng được lên thiên đàng bấy nhiêu! Vâng,
họ sẽ lên thiên đàng! nhưng nhân loại vẫn tiếp tục chịu khổ đau lão
tử! Tu tập khổ hạnh mà không biết gì về nỗi thống khổ thường xuyên
của sanh tử thì chỉ tạo thêm khổ khổ gia tăng. Nhân loại run sợ
trước cái chết nhưng vẫn nổ lực để được ra đời. Họ càng lúc càng
lao sâu xuống chính cái hố thẳm mà họ lo sợ. Nếu hành hạ xác thân
Cuộc Ðời Ðức Phật 66
là việc dâng hiến chân thành thì ham mê dục lạc hẳn phải là điều tội
ác ghê gớm, nhưng đọa đày thân xác ở kiếp này để được hưởng
hoan lạc ở kiếp sau thì hóa ra thành quả của hiến dâng đích thị là
tội ác. Nếu ăn uống qua loa đạm bạc để được thành thánh thì hươu
nai sẽ thành thánh cả, và những kẻ khốn nạn từ bỏ giai cấp đó cũng
thành thánh hết. Ðối với họ, ai vướng vào dục lạc thì không thể
thành thánh. Họ cho chủ tâm đọa đày thân thể là yếu tố tăng trưởng
đạo hạnh. Chính chủ tâm đó! Chúng ta có thể chủ tâm hưởng thọ
dục lạc cũng như chúng ta có thể có chủ tâm chấp nhận khổ đau, và
nếu chủ tâm hưởng thọ dục lạc chả có ý nghĩ gì thì tại sao chủ tâm
chấp nhận khổ đau phải có giá trị?"
Ngài trầm ngâm suy nghĩ như thế tại rừng khổ hạnh của A-la-lam.
Thấy đạo sĩ giảng dạy giáo thuyết hão huyền, ngài đáp:
"Thưa đạo sĩ A-la-lam, ta không thể giảng dạy giáo thuyết của ngài.
Ai tu tập theo đó, người ấy sẽ không thấy sự giải thoát. Ta sẽ từ giã
cánh rừng khổ hạnh của ngài. Ta sẽ tìm kiếm pháp môn đích thực
mà ta phải theo trước khi chúng ta có thể dấn thân vào con đường
khổ tu ép xác."
Tráng sĩ lên đường thẳng đến nước Ma-kiệt-đà (Magadha). Ngài tu
tập thiền định một mình trên một triền núi gần thành Vương-xá
(Rajagriha).
Cuộc Ðời Ðức Phật 67
TẤT-ÐẠT-ÐA VÀ VUA TẦN-BÀ-SA-LA
Một buổi sáng nọ, tráng sĩ ôm bình vào thành Vương-xá khất thực.
Dân chúng qua lại trên đường đều tấm tắc thán phục sắc diện và
phong thái đẹp đẽ cao sang của ngài. Họ tự hỏi: "Người này là ai?
trông như một thiên thần, giống như ngài Ðế-thích (Sakva) hay đấng
Phạm-thiên (Brahma) vậy. " Chẳng mấy chốc họ đồn ầm lên rằng có
một nhân vật kỳ diệu đang vào thành khất thực. Mọi người muốn
gặp mặt tráng sĩ; họ theo ngài đi quanh cùng khắp và các cô phụ nữ
đổ xô đến các cửa sổ đứng ngắm chàng qua. Ngài vẫn đi nghiêm
trang từng bước dọc theo đường lộ trong khi khắp thành rực lên một
ánh hào quang kỳ lạ.
Có người đến báo tin cho quốc vương hay là một đạo sĩ như thiên
thần đang khất thực trên đường phố. Vội lên sân thượng của hoàng
cung, quốc vương Tần-ba-sa-la (Vimbasara) nhìn thấy tráng sĩ. Nét
rực rỡ của ngài làm vua chói cả mắt. Quốc vương dâng ngài phẩm
vật và cho người theo dõi, tìm hiểu tông tích của ngài. Nhờ thế mà
quốc vương biết được vị khất sĩ kỳ đặc kia ẩn dật trên triền núi gần
thành Vương-xá.
Ngày hôm saụ Tần-bà-sa-la xuất thành thẳng đến triền núi. Quốc
vương xuống xe, một mình đi bộ đến chỗ tráng sĩ ngồi dưới một tàng
cây râm mát. Gần đến cội cây, quốc vương dừng lại, yên lặng, ngạc
nhiên, cung kính ngắm nhìn vị khất sĩ tự tại.
Khiêm tốn cúi đầu, quốc vương nói:
"Trẫm đã gặp ngài và rất lấy làm hoan hỷ! Ðừng ẩn dật trên triền
núi hiu hắt này nữa, đừng ngủ nghỉ trên mặt đất khô cằn này nữa.
Cuộc Ðời Ðức Phật 68
Ngài đẹp lắm, tuổi xuân của ngài còn huy hoàng lắm, hãy theo ta về
thành. Trẫm sẽ dâng ngài một cung điện, và rồi ngài muốn gì sẽ
được đó."
Tráng sĩ khiêm tốn thưa: "Tâu quốc vương, tâu quốc vương, chúc
quốc vương vạn tuế! Dục lạc chả có nghĩa gì đối với tôi. Tôi sống
đời ẩn sĩ, tôi chỉ biết an lành."
Quốc vương nói: "Ngài còn trẻ, đẹp, nhiệt huyết và phong phú lắm.
Ngài sẽ được nhiều mỹ nữ diễm kiều ở nước trẫm hầu hạ. Ðừng đi
đâu nữa. Hãy ở lại đây và hãy là bạn tâm phúc của trẫm."
Tráng sĩ thưa: "Tôi đã từ bỏ giau sang phú quí."
"Trẫm sẽ hiến cho ngài nửa vương quốc của trẫm."
"Tôi đã từ bỏ vương quốc lộng lẫy nhất."
"Ở đây, ngài có thể thỏa mãn mọi điều mong ước."
"Tôi đã hiểu rõ giá trị trống rỗng của mọi điều mong ước. Dục vọng
như thuốc độc. Người khôn ngoan trí tuệ phải biết khinh bỉ từ bỏ
chúng. Tôi đã vất chúng như người ta vất một bó rạ khô. Dục vọng
dễ hư như trái đậu trên cây. Chúng ngỗ ngáo như mây bay trên trời,
chúng gian dối đổi chiều như gió mưa bất định! Ðau khổ phát sanh
từ dục vọng, bởi vì không ai thỏa mãn hết dục vọng của mình.
Nhưng những ai tìm kiếm trí tuệ, ôm ấp chánh pháp, người ấy sẽ
thấy an lạc hạnh phúc. Kẻ nào uống nước muối, người ấy khát mãi
thôi; kẻ nào bỏ dục vọng, người ấy hết khao khát. Tôi không còn biết
dục vọng là gì. Tôi đang kiếm tìm chánh pháp."
Quốc vương nói:
Cuộc Ðời Ðức Phật 69
"Bạch khất sĩ, trí tuệ của ngài cao quí thay! Cho trẫm biết quê
hương của ngài là gì? Phụ mẫu của ngài ở đâu?Ngài thuộc giai cấp
nàỏ"
"Tâu quốc vương, có lẽ ngài đã nghe nói đến kinh thành Ca-tỳ-lavệ?
Ðó là một hoàng thành trù phú, sầm uất. Quốc vương Tịnh-Phạn
là phụ thân của tôi. Tôi đã từ giã phụ vương tôi để lên đường đó đây
khất thực."
Quốc vương đáp:
"Xin chúc ngài gặp nhiều may mắn! Trẫm rất sung sướng được gặp
ngài. Gia đình ngài và gia đình trẫm giờ đây có thêm mối tình thâm
giao bền chặt. Bạch tôn giả, xin thương trẫm, khi nào ngài chứng
đắc vô thượng bồ đề, xin ngài thương tình mà truyền đạt cho trẫm
với."
Quốc vương đảnh lễ tráng sĩ ba lần rồi quay về kinh thành Vươngxá.
Tráng sĩ nghe gần thành Vương-xá có một ẩn sĩ lừng danh tên là
Uất-đầu-lam-phất (Rudraka), con trai của Ra-ma (Rama). Ẩn sĩ này
đã trao truyền giáo pháp cho nhiều môn đệ. Tráng sĩ đến nghe giảng
thuyết nhưng cũng như A-la-lam, Uất-đầu-lam phất không biết gì về
chánh pháp cả. Tráng sĩ lại lên đường, không chịu ở lại. Lát sau,
ngài đến bờ sông Ni-liên-thuyền (Nairanjana). Năm môn đệ của
Uất-đầu-lam-phất là Kiều-trần-như (Kaundinaya), A-xả-bà thệ, còn
gọi là Át-bệ hay Mã-thắng (Asvajit), Thập-lực-ca-diếp (Vashpa),
Ma-ha-nam-câu-lỵ (Mahanaman) và Bạt-đề (Bhadrika) đều xin theo
ngài
Cuộc Ðời Ðức Phật 70
CÁC ÐỆ TỬ ÐẦU TIÊN TỪ BỎ TẤT-ÐẠT-ÐA
Dòng sông Ni-liên-thuyền trong xanh chảy qua một vùng đất phì
nhiêu trù mật. Làng mạc nhỏ bé ẩn hiện trong mơ màng dưới những
tàng cây xinh xinh, và những cánh đồng cỏ bao la trải dài bát ngát.
Tráng sĩ, ngẫm nghĩ: "Nơi đây đẹp lắm, thú vị lắm! Cảnh trí êm
đềm, phù hợp cho việc tu tập thiền định biết bao! Có lẽ, ở đây, ta sẽ
tìm ra con đường dẫn đến trí tuệ. Ta sẽ ở lại đây. "
Ngài đã mất hút vào thiền định. Ngài nhập định đến độ ngừng thở,
và rồi một hôm, ngài té nhào bất tỉnh. Bỗng dưng ngài thấy các
thiên thần đang theo dõi ngài từ thiên giới la lên:
"Cậu bé dòng Thích-ca kia chết rồi, hoàng tử đã vĩnh biệt trần thế
khốn khổ rồi sao? "
Và Ma-da, mẫu thân của tráng sĩ, sống với thiên thần, nghe tiếng
kêu la thương tiếc, bà đâm ra lo sợ cho mạng sống của con trai
mình. Cùng với một số đông tiên nữ theo hầu, bà hiện xuống bờ sông
Ni-liên-thuyền, nhìn Tất-đạt-đa cứng đờ, bất động, bà khóc òa, than
thở:
"Con ơi! khi con ra đời ở hoa viên, mẹ quyết chắc là con thấy được
sự thật. Và sau này, A-tư-đà cũng tiên đoán rằng con sẽ giải thoát
cho nhân thế. Nhưng tất cả đều sai hết. Con chưa được vinh hiển
bằng một cuộc chinh phục lừng lẫy nào, con chưa chứng đắc vô
thượng bồ đề! Vậy mà con đành chết một cách tội nghiệp cô quạnh
thế này! Con ơi, ai có thể giúp con? Ai sẽ cứu được mạng sống của
con? Mẹ đã mang con mười tháng nhọc nhằn, con yêu quí của mẹ
ơi, tất cả chỉ là sự đau đớn!"
Cuộc Ðời Ðức Phật 71
Bà vừa rải hoa lên thân thể của con trai mình thì ngài liền cử động
và từ tốn thưa rằng:
"Mẹ ơi, đừng sợ! Việc mang nặng đẻ đau của mẹ không vô ích đâu;
A-tư-đà không nói dối mẹ đâu. Dù trái đất có tan thành tro bụi, núi
tu di có chìm xuống biển sâu, trăng sao có rơi rụng như mưa tuôn
trên mặt đất, con vẫn sẽ không chết. Dù cho loài người và thế giới
có bị tàn rụi đi nữa! Sắp đến lúc con chứng đắc vô thượng bồ đề
rồi."
Ma-da hoan hỷ vui cười theo lời con, bà ba lần vái chào Tất đạt đa
rồi cáo biệt về trời, về với điệu thiên nhạc êm đềm, du dương bất
tuyệt.
Trong sáu năm dài, tráng sĩ đã lưu lại trên bờ sông và tu tập thiền
định. Ngài không hề tìm kiếm chỗ trú nắng che mưa, mặc cho gió
bão gào thét, mặc cho muỗi mòng rắn rít tha hồ đốt cắn. Trẻ em
nam nữ, những bọn chăn cừu, những lão tiều phu, mỗi khi đi qua
thường quấy phá ngài, có lúc họ ném cả đất bùn vào người ngài,
ngài vẫn thản nhiên. Ngài hạn chế ăn uống đến mức tối đa: mỗi
ngày chỉ ăn một trái cây hay vài ba hạt gạo hạt mè. Ngài mỗi lúc
một gầy hẳn đi, bao nhiêu xương xẩu hiện rõ ra ngoài. Nhưng bên
dưới vầng trán gầy gò hốc hác ấy, đôi mắt tinh anh của ngài vẫn
sáng quắc như trăng saọ
Tuy thế, ngài vẫn chưa thành tựu chánh giác. Ngài cảm thấy bị suy
nhược trầm trọng. Ngài ý thức rằng nếu tiếp tục phí phạm sinh lực
như thế thì chắc chắn sẽ không bao giờ đạt đến mục tiêu đã đặt.
Ngài quyết định ăn uống trở lại.
Gần nơi tu tập thiền định hằng giờ của Tất-đạt-đa có một ngôi làng
Cuộc Ðời Ðức Phật 72
gọi là Ưu-lâu-tần-loa (Uruvilva). Viên xốm trưởng của làng này có
mười người con gái, tất cả đều quí trọng tráng sĩ. Họng mang mè
gạo và trái cây đến dâng hiến ngài. Ngài ít khi động đến những
phẩm vật cúng dường đó. Nhưng, một hôm, các cô thấy ngài đã
dùng hết những phẩm vật mà họ hiến cúng. Ngày hôm sau, họ mang
đến một đĩa cơm to đầy ắp, ngài dùng hết đĩa cơm đó. Ngày hôm sau
nữa, mỗi cô mang đến một món ăn quí khác nhau và tráng sĩ cũng
dùng hết. Ngài bắt đầu khỏe mạnh, có da có thịt trở lại; và ít lâu
sau, ngài lại vào làng khất thực. Dân làng tranh nhau cúng dường.
Không mấy chốc, ngài đã lấy lại sức lực và vẻ đẹp như xưa.
Năm vị đệ tử theo ngài thọ giáo bàn với nhau;
"Lối khổ tu của ông ấy không đưa ông ấy thực hành đúng chánh
giác. Ông ấy hết giữ khổ hạnh rồi. Ông ấy ăn uống sung sướng. Ông
ấy mưu cầu tiện nghi thoải mái. Ông ấy không còn nghĩ đến việc tu
tập thánh thiện nữa. Làm sao ông ấy giờ đây có thể chứng thành đạo
quả? Chúng ta đã coi ông ấy là một hiền giả thông thái, chúng ta
lầm; hắn là một thằng điên, một thằng khùng."
Họ bỏ ngài và đi thẳng đến thành Ba-la-nại (Benares).
Cuộc Ðời Ðức Phật 73
TẤT-ÐẠT-ÐA DƯỚI CÂY ÐẠI GIÁC
Sáu năm mặc một bộ đồ, y phục của tráng sĩ đã trở nên bạc màu sờn
rách. Ngài ngẫm nghĩ:
"Nếu như ta có một bộ đồ mới thì hay hơn, bằng không thì ta sẽ phải
đi đứng lõa lồ thôi; và như thế thì bất lịch sự quá."
Bấy giờ Tu-xà-đa (Sujata), cô bé thuần thành nhất trong mười cô
thiếu nữ đã mang thực phẩm dâng ngài, có một tên nô lệ vừa chết.
Nàng quấn thi thể bằng một tấm vải ngà và sai người đưa đi tống
táng. Xác nô lệ nằm chình ình trên mặt đất. Tráng sĩ đi qua, nhìn
thấy tử thi, ngài ghé đến, nhẹ nhàng cởi lấy tấm vải bọc xác đó.
Tấm vải dính đầy bụi đất và tráng sĩ lúng túng không biết tìm đâu ra
nước để giặt. Một tảng đá và một hồ nước trong xanh bỗng nhiên
hiện ngay trước mặt thánh nhân.
Một cụ già đầu tóc bạc phơ từ xa đi đến thưa:
"Bạch tôn giả, tôn giả đưa tấm vải đó cho ta, ta sẽ giặt nó cho tôn
giả."
Tôn giả đáp: "Không, không. Ta biết công việc phải làm của một
đạo sĩ. Chính ta phải giặt lấy tấm vải này. "
Giặt xong ngài xuống hồ tắm, sau đó ngài ngồi dưới một tàng cây và
bắt đầu khâu tấm vải thành một chiếc y mới.
Màn đêm buông xuống, ngài thiếp ngủ và mơ thấy năm điều:
Cuộc Ðời Ðức Phật 74
Trước hết, ngài thấy mình nằm trên một chiếc giường rộng lớn bằng
cả trái đất; chiếc gối dưới đầu là rặng Hy mã lạp sơn; tay phải gác
trên biển đông, và hai chân duỗi tới biển nam hải.
Kế đó, ngài thấy một cây lau từ rốn ngài mọc ra, mọc nhanh đến nỗi
chỉ trong tích tắc đã vươn tới trời xanh.
Rồi ngài thấy sâu bọ bò phủ đầy lên hai chân ngài.
Ngài thấy chim muông từ mọi nơi ào ào bay đến và khi gần tới đầu
ngài thì chúng hình như toàn vàng.
Cuối cùng, ngài thấy mình ở dưới một chân núi nhớp nhúa đầy dẫy
phân tro; ngài trèo lên tới đỉnh núi rồi trèo xuống lại nhưng ngài
không bị phân tro nhớp nhúa làm ô uế.
Thức dậy, kiểm nghiệm lại giấc mơ, ngài biết là ngày giác ngộ đã
đến, và một khi đạt đến tri kiến tối thượng thì ngài sẽ thành một đức
Phật.
Tu-xà-đa vừa lấy sữa xong tám con bò sữa tuyệt diệu của riêng
nàng. Sữa có nhiều dầu mỡ và hương vị rất ngọt ngàọ Nàng trộn
chung cả sữa, mật ong và bột gạo vào một cái nồi mới và bắt nấu
trên một cái lò mới. Bột sữa bắt đầu tạo thành những bọt bong bóng
to tướng nổi lềnh bềnh về phía bên phải chứ không như nước dâng
lên hoặc tràn ra ngoài từng giọt. Chiếc lò không có một tí khói. Tuxà-
đa ngạc nhiên, nói với tỳ nữ Buộc-na (Purna) rằng:
"Buộc-na, hôm nay thiên thần sẽ ban ơn huệ cho chúng ta, ra xem
thử có vị thánh nhân nào sắp đến nhà đó."
Cuộc Ðời Ðức Phật 75
Buộc-na, từ ngưỡng cửa, nhìn thấy tráng sĩ đang tiến bước về hướng
nhà của Tu-xà-đa, khắp người tỏa ra một ánh hào quang sáng chói,
Buộc-na lóe cả mắt, chạy vào báo với cô chủ:
"Thưa cô, ngài ấy sắp đến! Ngài ấy sắp đến! Ánh hào quang rực rỡ
của ngài sẽ làm cô chói mắt kìa!"
Tu-xà-đa nói: "Ồ, mong ngài đến! mong ngài đến! Chính vì ngài mà
ta đã sửa soạn nồi sữa tuyệt diệu này. "
Nàng rót sữa khuấy với mật ong và bột gạo vào một cái bát bằng
vàng rồi chờ tráng sĩ đến.
Ngài vừa bước vào, cả phòng sáng rực lên. Ðể tỏ lòng tôn kính, Tuxà-
đa đảnh lễ ngài bảy lần. Ngài ngồi xuống. Tu-xà-đa quì rửa chân
ngài bằng một loại nước hoa thơm ngát; xong, nàng dâng ngài chiếc
bát vàng đựng đầy sữa pha bột gạo và mật ong đó. Ngài nghĩ:
"Người ta bảo rằng chư Phật ở quá khứ, trước khi chứng đắc vô
thượng bồ đề đều được cúng dường và thọ trai lần cuối trong một
cái bát bằng vàng. Nay Tu-xà-đa dâng ta sữa mật đựng trong bát
bằng vàng thế này chắc là thời điểm đã đến cho ta thành Phật."
Ngài hỏi thiếu nữ:
"Cô nương, ta phải làm gì với chiếc bát bằng vàng nàỷ"
Nàng đáp: "Nó là của ngài."
Ngài nói: "Ta không biết dùng vào việc gì với chiếc bát như thế này.
"
Cuộc Ðời Ðức Phật 76
Tu-xà-đa nói: "Thế thì ngài làm gì tùy ý. Cúng dường thực phẩm mà
không cúng luôn cả bát thì thật là không phải cho con."
Tay cầm bình bát, ngài cáo lui và đi thẳng đến bờ sông. Tắm xong,
ngài dùng hết bát sữa, rồi ném bát xuống nước và nguyền rằng:
"Nếu ta có thể thành Phật chính ngày hôm nay thì nguyện xin chiếc
bát này trôi ngược dòng nước; bằng không thì cứ tự nhiên xuôi
dòng."
Chiếc bát nổi bềnh bồng ra đến giữa sông rồi bắt đầu phăng phăng
trôi ngược dòng nước và biến mất tại một chỗ nước xoáy.
Tráng sĩ đi bộ từ từ dọc theo bờ sông. Màn đêm dần dần buông
xuống. Hoa lá xếp gọn cánh cành, một mùi hoa ngọt ngào thoang
thoảng tỏa khắp ruộng vườn và từng đàn chim e thẹn tấu lên những
khúc nhạc đều đều theo gió vang xa.
Tráng sĩ rảo bước về hướng cây Trí giác.
Con đường phủ đầy phấn vàng với những cây thốt nốt hy hữu máng
đầy ngọc thạch đứng dài ở hai bên. Ngài đi dọc theo một bờ hồ ngạt
ngào hương thơm thánh thủy. Những đóa sen xanh vàng đỏ trắng
bừng nở trên khắp mặt hồ như thể khoe sắc khoe màu với đàn chim
thiên nga đang cất tiếng líu lo vang vọng trên không. Gần hồ, dưới
bóng cây thốt nốt, các tiên nữ đang hân hoan vũ múa, trong khi từ
thiên giới, chư thiên đang hết lời thán phục vị tráng sĩ anh hùng.
Ngài tiến đến gần cây Trí-giác và gặp Cát-tường (Savastika), một gã
cắt cỏ bên lề đường.
"Cát-tường, cỏ bạn đang cắt mơn mởn lắm! cho ta xin một ít. Ta
Cuộc Ðời Ðức Phật 77
muốn làm một chỗ ngồi và ta sẽ ngồi lên đó cho đến khi đạt thành
chánh giác. Cát-tường, cỏ bạn đang cắt xanh tươi lắm! cho ta xin
một ít, rồi ngày kia bạn sẽ hiểu được chánh pháp. Ta sẽ truyền
chánh pháp cho bạn, và bạn có thể truyền lại cho nhiều người khác."
Gã cắt cỏ dâng cho tôn giả tám nắm cỏ.
Cây Trí-giác đứng sừng sững. Tráng sĩ vòng sang phía đông vái cây
ấy bảy lần. Ngài vừa trải cỏ lên mặt đất, một chỗ ngồi trang nghiêm
đột nhiên xuất hiện. Những nắm cỏ mơn mởn mềm mại trải đều lên
chỗ ngồi như một tấm thảm êm ái xinh xinh.
Tráng sĩ ngồi xuống, đầu vai thẳng đứng, mắt ngó về phương đông,
rồi dũng mãnh trịnh trọng phát thệ nguyện rằng:
"Dù da nám, tay khô, xương tan thành cát bụi, nếu không đạt đến
chánh giác, ta quyết không rời khỏi chỗ này. "
Phát nguyện xong, ngài ngồi kiết già nhập định.
Cuộc Ðời Ðức Phật 78
CẢNH THẤT BẠI CỦA MA-VƯƠNG
Hào quang khắp châu thân của tráng sĩ phóng xa đến tận thành lũy
của tên ác quỉ Ma vương. Hắn chói mắt. Hắn hình như đã nghe
được một giọng nói văng vẳng đâu đây báo nguy;
"Tráng sĩ, hoàng tử của Tịnh-phạn, đã từ bỏ vương quyền, giờ đây
ngồi yên dưới cây đại giác. Ngài đang tập trung tinh thần. Ngài
đang tập trung nổ lực. Chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ mang đến cho tất
cả chúng sanh sự giúp đỡ cần thiết. Con đường ngài đi, người khác
sẽ theọ Một khi giải thoát, ngài sẽ giải thoát cho kẻ khác. Một khi
tìm được thanh bình, ngài sẽ manh thanh bình đến cho mọi người.
Ngài sẽ vào niết bàn. Ngài sẽ tìm ra trí tuệ hạnh phúc, và ngài sẽ
mang trí tuệ hạnh phúc đến cho tất cả chúng sanh. Vì ngài, lâu đài
cung điện của chư thiên sẽ mỗi ngày một gia tăng; vì ngài, thành lũy
của Ma-vương sẽ dần dần bị tiêu diệt. Còn mi, này Ma vương, một
tư lệnh mà không có quân, một vì vua mà không có trung thần tá sứ,
rồi đây sẽ không biết tá túc vào đâu.”
Ma-vương đâm ra lo sợ. Hắn cố ngủ, nhưng ác mộng cứ chập chờn
quấy phá. Hắn thức dậy và triệu tập tất cả tướng sĩ đến. Vừa trông
thấy hắn, các tướng sĩ đều kinh hãi. Xát-tha-va-ha (Sarthavaha),
một trong những người con trai của hắn, lên tiếng thưa.
"Tâu phụ vương, trông phụ vương xanh xao khổ sở lắm! Phụ vương
đã nghe thấy gì mà tim phụ vương đập mạnh, tay chân phụ vương
run rẫy thế này. Xin phụ vương cho con biết."
Ma-vương đáp: "Con ơi, những ngày tháng kiêu kỳ hống hách của
cha sắp tàn rồi. Có kẻ cho cha biết là hoàng tử dòng Thích-Ca đang
Cuộc Ðời Ðức Phật 79
ngồi dưới cây bồ đề. Cha đã thấy những ác mộng khủng khiếp. Một
đám mây đen bụi đất tấp vào mặt cha. Vườn tược của cha hết sạch
hoa quả, trơ trụi cành lá. Ao hồ của cha khô cạn. Chim thiên ngà và
đàn công của cha bị cắt trụi cánh. Cha cảm thấy trơ trọi một mình
giữa cảnh hoang tàn đổ nát. Tướng sĩ và các con đều từ bỏ cha.
Mẫu hậu của con thì đấm ngực bứt tóc như thể bị ân hận ám ảnh
dày vò. Con gái chủa cha thì khóc than thê thảm, còn các con, con
trai của cha, thì sụp lạy trước người nhập định dưới cội bồ đề! Cha
muốn chiến đấu với kẻ thù của cha, nhưng cha không thể tuốt gươm
ra khỏi vỏ. Tất cả thần dân của cha đều hãi hùng trốn hết. Màn đêm
dày đặc trùm phủ lên cha, và cha nghe thấy cung điện của cha sụp
đổ tan tành trên mặt đất."
Xát-tha-va-ha thưa:
"Tâu phụ vương, thất trận thì nản lắm! nếu phụ vương đã thấy
những điềm bất tường như thế thì xin phụ vương hãy chờ dịp thuận
tiện, đừng chạy theo liều lĩnh mà thất bại ô nhục."
Nhưng Ma-vương, thấy các đoàn quân đã tập trung quanh mình, lại
hăng hái bảo con:
"Con người nghi. lực phải kết thúc trận chiến trong thắng lợi huy
hoàng. Chúng ta có thừa dũng cảm; chúng ta chắc chắn sẽ thắng.
Tên đó tài cán sức lực gì? Hắn một mình. Ta sẽ tiến đánh hắn với
một đoàn quân hùng hậu, và sẽ quật cổ hắn xuống gốc cây. "
Xát-tha-va-ha thưa: "Số binh sĩ đó chưa đủ để tạo thành sức mạnh
của một đoàn quân. Mặt trời có thể phóng ra hằng hà sa số tia sáng.
Nếu trí tuệ là nguồn năng lực của hắn thì chỉ một tráng sĩ đó thôi
cũng đủ sức đánh bại muôn ngàn hùng binh."
Cuộc Ðời Ðức Phật 80
Không nghe theo lời con, Ma-vương ra lệnh đoàn quân tiến ngay.
Xát-tha-va-ha ngẫm nghĩ:
"Kẻ điên cuồng kiêu ngạo sẽ không bao giờ hồi tỉnh."
Ðoàn quân của Ma-vương trông dễ sợ. Gươm giáo cung tên chỉa lên
tua tủa; kẻ cặp xà mâu tổ bố, người vác côn chùy nặng nề. Binh tốt
xanh vàng đen đỏ đủ loại, mặt mày trông khủng khiếp. Mắt chúng
phóng lửa dữ, miệng chúng khạc máu độc. Số thì vểnh tai dê, số thì
bành tai voi tai lợn. Nhiều tên thân hình tròn vo như cái lụ Một tên
đầu lừa, vuốt hổ, bứu lạc đà; một tên khác kỳ sư tử, sừng tê giác,
đuôi khỉ đột. Nhiều tên có hai, bốn hay năm đầu; nhiều tên có mười,
mười hai hay hai mươi tay. Chúng trang sức bằng những bộ xương
hàm, xương sọ và những đốt ngón tay khô đét đeo lủng lẳng cùng
mình. Chúng vừa ồ ạt xông tới vừa lắc lư những cái đầu lâu lông lá
gớm guốc với giọng hò reo man rợ kinh hồn:
"Ta có thể bắn mỗi phát một trăm mũi tên, ta sẽ tóm được thân mạng
của gã sa môn đó. Bàn tay ta có thể bóp nát mặt trời, mặt trăng và
muôn ngàn tinh tú. Nghiền nát hắn và cây bồ-đề sẽ là chuyện dễ
dàng không đáng kể. Ðôi mắt ta chứa đầy độc tố: chúng có thể đốt
cạn cả biển khơi. Ta chỉ nhìn hắn là hắn sẽ cháy thành tro bụi."
Xát-tha-va-ha đứng một mình. Vài ba tên bạn khác vây quanh hắn
nói:
"Ðồ ngu! Ngài nghĩ xem, hắn điên là vì hắn nhập định, hắn im lặng
là vì hắn hèn nhát. Chính bọn bay điên, chính bọn bay là những tên
hèn nhát. Bọn bay không biết năng lực của tôn giả đó. Chính vì trí
tuệ cao quí của ngài mà ngài sẽ đánh bại tất cả bọn bay. Dầu chúng
bay có hằng hà sa số tướng sĩ như cát trên bờ sông Hằng, chúng bay
cũng không thể xúc phạm đến một sợi tóc trên đỉnh đầu ngài. Bay tin
Cuộc Ðời Ðức Phật 81
là bay có thể giết được ngài ư! Ồ, hãy về đi! đừng ra sức hãm hại
người vô ích, hãy cung kính quì lễ trước mặt ngài. Thời điểm ngự trị
của ngài đã đến. Chó sói tru trong rừng chỉ khi nào vắng sư tử,
nhưng một khi sư tử gầm lên thì chó sói khiếp hồn trốn lẹ. Ðồ ngu!
đồ ngu! Bọn bay gào thét kiêu hãnh trong lúc tôn giả lặng lẽ ngồi
yên, đến khi sư tử gầm lên thì bọn bay lại chạy không bén gót."
Ðoàn quân lắng nghe Xát-tha-va-ha và bạn hắn nói về trí tuệ cao
quí của tôn giả, nhưng chúng vẫn khinh thị, tiến tới.
Trước khi tấn công tráng sĩ, Ma-vương tìm cách làm cho ngài kinh
hoàng. Hắn khiêu khích ngài bằng những trận cuồng phong khủng
khiếp. Gió dữ từ xa ầm ầm thổi tới, làm bật gốc cây cối, tàn phá
làng mạc, rung động núi rừng, nhưng tráng sĩ không hề nao núng,
không hề dao động đến cả một nếp y.
Tên ác quỉ gọi mưa. Mưa tuôn ào ào xối xả, ngập chìm thành thị, vỡ
mặt địa cầu, nhưng tráng sĩ vẫn thản nhiên bất động, một đường chỉ
may y cũng còn nguyên không ẩm ướt.
Tên ác quỉ lại tạo ra những khối đá cháy đỏ ném vào tráng sĩ. Ðá
bay vèo vèo trên không nhưng khi gần đến cây bồ đề, chúng rơi
xuống và biến thành hoa tươi.
Sau đó, Ma-vương hạ lệnh binh tốt xả tên bắn vào kẻ thù, nhưng tên
bắn cũng biến thành hoa tươi. Ðoàn quân đánh ập đến tráng sĩ,
nhưng hào quang từ thân ngài tỏa ra chính là mộc khiên giáp trụ
che chở quanh ngài; gươm dáo gãy ngang, búa đao mẻ sứt, và khi
một binh khí nào rơi xuống đất là nó biến thành hoa tươi liền.
Thấy những cảnh tượng huyền diệu đó, binh lính của Ma-vương đâm
ra kinh hãi và đột nhiên biến mất.
Cuộc Ðời Ðức Phật 82
Ma-vương đau đớn, vò tay đấm đầu than thở:
"Ta phải làm gì nếu như tên đó đánh bại tả Ta đã ban phát đủ thứ
cho mọi tướng sĩ chứ đâu phải riêng ai! Ta đã từng bày tỏ lòng nhân
từ độ lượng với chúng biết bao! Những tên hèn nhát kia đã thấy rõ
điều đó, vậy mà chúng vẫn bỏ ta chạy trốn."
Ðoàn quân yên lặng, lắng nghe, rồi lên tiếng đáp rằng:
"Vâng, ngài nhân từ độ lượng lắm! Chúng tôi đã thấy rõ điều đó."
Ma vương nói tiếp: "Còn hắn, hắn đã thể hiện chút gì độ lượng?
Hắn đã làm gì được gọi là hy sinh? Ai có thể thấy lòng nhân ái của
hắn?"
Ngay lúc đó, một giọng nói từ dưới đất vọng lên:
"Ta có thể thấy lòng độ lượng của tôn giả."
Ma vương sững sờ, hoảng hốt. Giọng nói thuật tiếp:
"Vâng, ta là địa nương, ta là thánh mẫu của tất cả chúng sanh, ta đã
thấy rõ lòng nhân từ độ lượng của tôn giả. Ở những tiền kiếp xa xưa,
tôn giả đã hàng trăm ngàn lần hy sinh cả tay, mắt, đầu, mình cho kẻ
khác. Và ngay ở kiếp này, ngài sẽ tận diệt lần cuối cùng sanh, già,
bịnh, chết. Này Ma-vương, ngài không những hơn hẳn ngươi về sức
lực mà còn bỏ xa ngươi về lòng nhân từ độ lượng nữa.”
Tên ác quỉ thấy một phụ nữ cực kỳ diễm lệ từ dưới đất hiện lên nửa
người. Nàng chấp tay quì lễ tráng sĩ và thưa rằng:
Cuộc Ðời Ðức Phật 83
"Bạch tôn giả, thần xin làm chứng cho lòng quảng đại của ngài."
Nói xong, nàng biến mất.
Ma-vương, tên ác quỉ, khóc rống lên, hắn đã bị thảm bại cay đắng.
Cuộc Ðời Ðức Phật 84
TẤT-ÐẠT-ÐA THÀNH PHẬT
Ðoàn quân của tên ác quỉ đã biến hết vào lúc màn đêm buông
xuống. Tráng sĩ giờ đây yên tĩnh nhập định, không còn bị Ma-vương
quấy phá nữa. Canh một, Ngài chứng túc mạng thông, trực nhận
mọi điều xảy ra ở những tiền kiếp xa xưa. Canh hai, Ngài ngộ tha
tâm thông, rõ biết trạng thái tâm ký hiện hữu của vạn loại. Canh ba,
Ngài chứng lậu tận thông, thấu triệt chuỗi nhân quả rốt ráọ
Bấy giờ Ngài thấy tất cả chúng sanh đều bị luân hồi sanh tử liên tục;
dù cao hay thấp, dù sang hay hèn, ở vị thế nào Ngài cũng thấy
chúng quay tròn theo vòng sanh diệt. Ðộng lòng bi mẫn trước duyên
nghiệp của chúng sang, tráng sĩ ngẫm nghĩ:
"Trần gian này chịu cảnh sanh già bịnh chết rồi lại sanh già bịnh
chết trôi lăn miên tục thống khổ xiết bao! nhân loại chả biết đường
nào ra khỏi:"
Trong lúc nhập đại định, Ngài tự nhủ:
"Lão tử do đâu mà có? Có lão tử là vì có sanh. Lão tử do sanh mà
có. Sanh do đâu mà có? Có sanh là vì có hữu. Sanh do hữu mà có.
Hữu do đâu mà có? Có hữu là vì có thủ. Hữu do thủ mà có. Thủ do
đâu mà có? Có thủ là vì có ái. Thủ do ái mà có. Ái do đâu mà có?
Có ái là vì có thọ. Ái do thọ mà có. Thọ do đâu mà có? Có thọ là vì
có xúc. Thọ do xúc mà có. Xúc do đâu mà có? Có xúc là vì có lục
nhập. Xúc do lục nhập mà có. Lục nhập do đâu mà có? Có lục nhập
là vì có danh sắc. Lục nhập do danh sắc mà có. Danh sắc do đâu mà
có? Có danh sắc là vì có thức. Danh sắc do thức mà có. Thức do đâu
mà có? Có thức là vì có hành. Thức do hành mà có. Hành do đâu
Cuộc Ðời Ðức Phật 85
mà có? Có hành là vì có vô minh. Hành do vô minh mà có."
Ngài suy nghĩ:
"Vì thế cho nên chính vô minh là gốc rễ của ưu bi khổ não và lão tử.
Diệt vô minh là diệt hành. Diệt hành là diệt thức. Diệt thức là diệt
danh sắc. Diệt danh sắc là diệt lục nhập. Diệt lục nhập là diệt xúc.
Diệt xúc là diệt thọ. Diệt thọ là diệt ái. Diệt ái là diệt thủ. Diệt thủ là
diệt hữu. Diệt hữu là diệt sanh. Diệt sanh là diệt lão và tử. Hiện hữu
là khổ đau. Ái dẫn dắt từ sanh đến tái sanh, từ khổ đến khổ khổ.
Ðoạn ái, chúng ta tránh được sanh; đoạn ái, chúng ta ngăn được
khổ. Sống đời thánh thiện là ái bị tiêu trừ, và thế là chúng ta hết chịu
sanh diệt đau khổ."
Khi bình minh vừa ló dạng, bậc vô thượng sĩ đó đã hiển nhiên là một
đức Phật. Ngài tuyên bố:
"Ta đã trải qua vô lượng kiếp luân hồi sanh tử. Ta đã hoài công tìm
kiếm kẻ xây nhà. Ồ, vòng tái sanh miên viễn đau thương khốn nạn
biết bao! Nhưng, hỡi kẻ xây nhà, rốt cuộc ta đã nhận ra ngươi.
Ngươi không còn xây nhà được nữa. Rui mè, tường vách đều bị sụp
đổ tan tành. Núi rừng cổ xưa tan vỡ; tâm trí đạt đến niết bàn; sanh
không còn thì ái cũng diệt."
Cả trái đất rung chuyển mười hai lần, cả trần gian giống như một
đóa hoa vĩ đại. Chư thiên tán thán:
"Ngài mang ánh sáng cho nhân thế đã đến; Ngài che chở cho nhân
gian đã đến! Con mắt mù lòa lâu đời của thế nhân nay được khai
sáng, con mắt của nhân gian nay được hào quang rọi sáng từ đây.
Hỡi đấng chinh phục vinh quang, Ngài đã mang lại cho vạn loại hữu
tình những điều mà chúng khao khát. Nhờ ánh sáng tối thượng của
Cuộc Ðời Ðức Phật 86
chánh pháp soi đường, tất cả chúng sanh sẽ đến bờ giải thoát. Xin
Ngài hãy cầm đèn trí tuệ, hãy dũng mãnh lên đường xua tan hắc ám
vô minh.
Cuộc Ðời Ðức Phật 87
ÐỀ-LÊ-PHÚ-BÀ VÀ BẠT-LÊ-CA
Ðức Phật ngồi kiết già an nhiên bất động dưới cây đại giác. Ngài
tận hưởng nguồn hỷ lạc mà Ngài vừa chứng ngộ hoàn toàn. Ngài
suy gẫm: "Ta đã tìm ra sự giải thoát." Suốt tuần Ngài kiết già bất
động dưới cội bồ đề.
Tuần thứ hai, Ngài làm một cuộc hành trình thật xa, ngài dạo khắp
tam thiên đại thiên thế giới.
Tuần thứ ba, Ngài lại an nhiên bất động dưới cội bồ đề và chưa một
lần nào chớp mắt.
Tuần thứ tư, Ngài thực hiện một cuộc hành trình tương đối gần, chỉ
từ biển đông sang biển tây.
Thế rồi Ma-vương, tên ác quỉ đại bại, đã tủi nhục bỏ đi lại đến gặp
Phật và thốt lên những lời quái đãn:
"Bạch Ðức Thế Tôn, Ngài ở lại đây làm gì, Ngài biết đường đến giải
thoát rồi? Hãy tắt đèn, dập lửa; bạch đức Thế Tôn, hãy vào niết bàn
đi, đến giờ rồi."
Ðức Thế Tôn đáp:
"Không, này Ma vương, ta sẽ không dập lửa, ta sẽ không vào niết
bàn. Trước hết là ta phải thâu nhận nhiều đệ tử để rồi đến lượt họ
đem giáo pháp của ta ra hóa độ người khác. Bằng ngôn ngữ và hành
động, ta phải khuất phục kẻ thù của ta. Không, này Ma-vương, ta sẽ
Cuộc Ðời Ðức Phật 88
không vào niết bàn cho đến khi Ðức Phật được tôn vinh khắp thế
giới, đến khi giáo pháp từ bi của Ngài được công nhận khắp thế
giới.
Ma-vương bỏ đi, Hắn chán nản, và hình như hắn thoáng nghe trên
không có tiếng thiên thần trêu tức:
"Này Ma-vương, mi đã bị thất bại rồi. Mi đứng co ro tư lự như một
con cò già. Ma-vương, mi bất lực như một con voi già bị sa lầy. Mi
tưởng mi là một anh hùng cái thế, mi còn hèn yếu hơn cả một bịnh
nhân bị lạc lõng trong rừng. Lời lẽ hỗn xược của mi có ích gì
chăng? Chúng léo nhéo như tiếng quạ kêu, chả có lợi gì cả!"
Hắn nhặt một miếng gỗ khô và vẽ những hình người lên cát. Ba ái
nữ: Ra-ti (Rati), A-ra-ti (Arati) và Trí-na (Trishna) của hắn nhìn
thấy hắn. Chúng được triệu về để hiểu rõ nỗi khổ đau tê tái của phụ
vương chúng.
Ra-ti thưa: "Tâu phụ vương, sao phụ vương trông khốn khổ thế?"
Ma-vương đáp: "Cha đã bị một thánh nhân đánh bại. Hắn đã bẻ gãy
năng lực và quỉ kế của cha.”
Trí-na nói: "Tâu phụ vương, chúng con đẹp lắm. Chúng con có cách
quyến rũ."
A-ra-ti tiếp lời: "Chúng con sẽ đến gặp hắn; chúng con sẽ trói gọn
hắn bằng những mắc xích ái ân. Chúng con sẽ mang hắn về cho phụ
vương, đồ đốn mạt, hèn hạ!"
Chúng đến gặp Phật và cất tiếng hát:
Cuộc Ðời Ðức Phật 89
"Bạn ơi, mùa xuân đến rồi, mùa của tình tự yêu đương, của phấn
hương tú lệ. Thảo mộc đang bừng rộ nở hoa; chúng ta phải vui lên
nàọ Ðôi mắt của bạn đẹp làm sao, chúng lung linh như ánh đèn
huyền diệu; bạn có nhiều biểu hiện vạn năng. Hãy ngắm chúng em:
chúng em được sinh ra đời để mang lại nguồn vui, nguồn hạnh phúc
cho cả nhân loại và chư thiên. Bạn ơi, hãy đứng lên, hãy cùng với
chúng em tô điểm tuổi xuân rực rỡ nhất cho bạn. Hãy loại hết mọi ý
tưởng nghiêm nghị ra khỏi tâm tư của bạn. Hãy nhìn mái tóc của
chúng em, chúng mềm mại làm sao; chúng thoang thoảng hương
hoa từ những sợi đen huyền óng mượt. Hãy ngắm đôi mắt của chúng
em, nơi ấp ủ nồng nàn của những giấc ngủ say ngọt ngào tình ái.
Hãy ngắm làn môi ấm áp của chúng em, chúng đỏ mọng như trái
chín trên cây dưới ánh mặt trời. Hãy ngắm những bộ ngực căng tròn
của chúng em. Chúng em múa những vũ điệu uyển chuyển nhịp
nhàng như chim thiên nga; chúng em biết hát những khúc nhạc tình
đê mê say đắm, và khi chúng em vũ, nhịp tim và mạch máu lại đập
mạnh nhanh hơn. Bạn ơi, xin đừng ruồng rẫy chúng em; chỉ có kẻ
ngu si đần độn, thật vậy, mới ruồng bỏ một kho tàng hiếm có. Hỡi
người yêu dấu, hãy nhìn ngắm chúng em; chúng em đều là nô lệ hầu
thiếp của người."
Ðức Thế Tôn chả hề xúc động theo lời hát. Ngài quắc mắt nhìn các
thiếu nữ và chúng liền biến thành những mụ phù thủy gớm guốc.
Thất vọng ê chề, chúng quay về gặp phụ vương.
Ra-ti than khóc: "Tâu phụ vương, hắn đã mạt sát tuổi trẻ và sắc đẹp
của chúng con."
Trí-na nói: "Ái ân sẽ không bao giờ làm xiêu lòng hắn, vì hắn có thể
cự tuyệt hương sắc của chúng con."
Cuộc Ðời Ðức Phật 90
A-ra-ti thở dài: "Ồ, hắn đã hành hạ chúng con một cách tàn nhẫn."
Trí-na cầu khẩn: "Tâu phụ vương, xin phụ vương chữa cho chúng
con khỏi cái vóc dáng già nua xấu xí này. "
Ra-ti kêu khóc: "Trả lại tuổi xuân cho chúng con."
A-ra-ti cũng kêu khóc: "Trả lại tuổi xuân cho chúng con."
Ma-vương đáp: "Các con khốn nạn của cha, cha vô cùng đau đớn
cho các con. Vâng, Người ấy đã dập tắt ái ân, Người ấy đã hàng
phục uy lực của cha, cha đau buồn lắm! Các con bắt cha trả lại tuổi
xuân và sắc đẹp cho các con, nhưng làm sao cha có thể trả lại điều
đó? Chỉ có Phật là có thể tẩy xóa những gì mà Phật đã làm. Các con
hãy quay lại gặp ngài; hãy thú nhận với Ngài là các con thật có tội
đáng trách; các con hãy ăn năn sám hối người ấy, và có lẽ nhờ thế
mà người ấy sẽ trả lại sắc đẹp cho các con."
Chúng đến cầu Phật:
"Bạch Ðức Thế Tôn, xin tha tội cho chúng con. Chúng con có mắt
mà không thấy ánh hào quang rực rỡ. Chúng con đần độn lắm, xin
tha tội cho chúng con!"
Ðức Thế Tôn đáp: "Vâng, các ngươi ngu xuẩn lắm, các ngươi dùng
móng tay mà ra sức phá vỡ núi rừng, các ngươi dùng răng mà cố
cắn nát gang sắt. Nhưng các ngươi đã nhận ra lỗi lầm, đó là biểu
hiện của trí tuệ. Này các thiếu nữ, ta hỷ xả cho các ngươi."
Ba ái nữ của Ma-vương xin tạ Phật ra về và đẹp hơn bao giờ hết.
Tuần thứ năm, Ðức Thế tôn vẫn ngồi dưới cội bồ đề. Nhưng, bỗng
Cuộc Ðời Ðức Phật 91
nhiên, một cơn gió thê lương thổi lên và một trận mưa buốt giá đổ
xuống. Thế là Mu-xi-linh-đa (Mucilinda), một mãn xà vương, bạch
Ngài: "Ðức Thế Tôn không hề bị gió mưa buốt giá đâu.”
Mãn xà rời tổ ấm, bò đến quấn quanh đức Phật bảy vòng rồi phùng
mang che trên đầu Ngài. Ðức Phật nhờ thế không bị gì cả trong suốt
thời gian mưa gió tơi bời.
Tuần thứ sáu, Ngài đến chỗ có cây sung, nơi bọn chăn dê thường tới
lui gặp gỡ. Tất cả đều cung kính cúi đầu khi Ngài đến gần. Ngài nói:
"Hỷ xả là sự tươi mát cho ai hiểu biết giáo pháp; từ bi là sự tươi mát
cho ai thấy rõ giáo pháp; hỷ xả là sự tươi mát cho tất cả chúng
sanh; từ bi là sự tươi mát cho tất cả chúng sanh. Ở đời ai không dục
vọng là có hạnh phúc; ai hàng phục được tội lỗi là có hạnh phúc; ai
thoát khỏi sự dày vò ray rứt của cảm giác là có hạnh phúc; ai hết
khao khát sinh tồn là có hạnh phúc!"
Tuần thứ bảy, Ngài lại kiết già bất động dưới cây đại giác.
Hai anh em Ðề-lê-phú-bà (Trapusha) và Ðạt-lê-ca (Bhalika) đang
trở về các nước phương bắc. Họ là những thương gia đem theo 500
cổ xe ngựa. Khi họ đến gần cây bồ-đê, các cổ xe đều dừng lại. Bọn
phu xe cố thúc ngựa kéo xe tiến lên, nhưng vô ích, chúng không thể
tiến thêm một bước. Các bánh xe đều lún sâu đến giữa trục. Ðề lêphú-
bà và Bạt-lê-ca hoảng hốt, một lão ông từ đâu xuất hiện và ôn
tồn trấn an họ:
"Này các thương gia, hãy đi tới tí nữa là các ngươi sẽ gặp một đạo
sư mà các ngươi phải kính lễ, tôn thờ."
Ðề-lê-phú-bà và Bạt-lê-ca nhìn thấy Ðức Thế Tôn, mặt Ngài rực lên
Cuộc Ðời Ðức Phật 92
ánh hào quang sáng chói.
Họ tự hỏi: "Ðó là thần sông hay thần núi? Có thể là đấng Phạmthiên
không chừng?"
Nhưng khi nhìn kỹ y phục, họ lại nghĩ:
"Ngài ấy hẳn là một đạo sĩ. Có lẽ Ngài muốn có gì để ăn."
Ðề-lê-phú-bà và Bạt-lê-ca đến xe chở lương thực, họ lấy bột, mật
ong và bánh đựng trong một cái bát đem dâng Phật.
Họ vừa dâng bánh vừa thưa: "Bạch thánh nhân, xin Ngài dùng bánh
và độ chúng con."
Ngài nhận bánh của các thương gia cúng dường. Khi dùng xong,
Ngài nói:
"Này các thương gia, nguyện cầu chư thiên gia hộ cho các ngươi
được phát đạt hạnh phúc!"
Ðề-lê-phú-bà và Bạt-lê-ca cúi đầu đảnh lễ, và nghe trên không có
tiếng thiên thần vọng xuống:
"Ngài ngồi trước mặt các ngươi đã đạt đến tri kiến tối thượng. Ðây
là bữa ăn đầu tiên kể từ khi ngài mở đường đi đến giải thoát, và
niềm vinh dự cúng dường đặc thù này đã dành hẳn cho các ngươi.
Giờ đây Ngài sẽ lên đường thuyết giảng chánh pháp qua khắp thế
giới." Ðề-lê-phú-bà và Bạt-lê-ca cảm thấy hân hoan sung sướng, họ
là những tín đồ qui y Phật qui y Pháp đầu tiên.
Cuộc Ðời Ðức Phật 93
PHẬT CHUẨN BỊ THUYẾT PHÁP
Ðức Phật bắt đầu phân vân không biết làm sao truyền bá tri kiến.
Ngài tự nhủ:
"Ta đã khám phá một sự thật vô cùng thậm thâm vi diệu. Ðây là một
sự thật khó nhận, khó hiểu; chỉ có bậc trí giả mới lãnh hội được.
Trong một thế giới tràn đầy hỗn loạn, cuộc sống con người luôn
luôn bất an xao xuyến, nhưng họ lại thích sống như vậy! Làm sao họ
có thể hiểu nổi vòng xích nhân quả? Làm sao họ có thể hiểu nổi giáo
pháp? Họ sẽ không bao giờ chế ngự được dục vọng của họ; họ sẽ
không bao giờ vất bỏ lạc thú trần gian; họ sẽ không bao giờ thể
nhập niết bàn. Nếu ta thuyết pháp, họ sẽ không hiểu ta; có lẽ họ
không thèm nghe ta nữa là khác. Công bố cho nhân loại biết sự thật
mà ta phải chiến đấu mới đạt được thì có ích gì? Sự thật không dính
dáng đến những ai bị dục vọng và hận thù sai khiến. Sự thật khó
thấy lắm. Chân lý vẫn còn là một sự huyền diệu. Tâm tính phàm phu
ô trược sẽ không bao giờ nắm bắt được chân lý. Kẻ nào đầu óc chìm
ngập trong vô minh đen tối, kẻ nào tâm trí khổ đau ray rứt vì dục
vọng trần gian, người ấy sẽ không bao giờ hiểu được sự thật."
Ðức Thế Tôn không dự định truyền bá giáo pháp.
Thế rồi, nhờ thần thông diệu lực, hiểu được những hoài nghi đang
vây hãm đức Thế Tôn, Phạm-thiên lo sợ tự nhủ: "Thế giới sẽ bị tiêu
ma, thế giới sẽ bị hủy diệt nếu đức Phật, đấng Ðại Giác Thế Tôn
đứng riêng lẻ một mình, không chịu cùng giữa dòng nhân thế để
thuyết giảng giáo pháp, truyền bá tri kiến."
Phạm-thiên rời khỏi cung trời, tức tốc giáng trần, xuất hiện trước
Cuộc Ðời Ðức Phật 94
mặt Thế Tôn nhanh như cánh tay co dãn của một lực sĩ. Ðể tỏ lòng
tôn kính sâu sắc, Phạm-thiên trịch một vai áo, rồi quì gối, chấp tay,
cúi đầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn, bạch rằng:
"Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài thuyết minh giáo pháp; bạch Ðức Thế
Tôn, xin Ngài truyền đạt tri kiến. Ở đời có những người rất thanh
tịnh trang nghiêm, những người chưa từng bị nhiễm ô phiền não,
nhưng nếu họ không được trao truyền tri kiến, làm sao họ có thể tự
thấy giải thoát? Những người này phải được cứu độ; bạch Ngài, xin
Ngài hãy cứu họ! Họ sẽ nghe theo Ngài; họ sẽ là môn đệ của Ngài."
Phạm-thiên tác bạch như thế nhưng Ðức Thế Tôn vẫn im lặng.
Phạm-thiên thưa tiếp:
"Ác pháp hiện nay đang dọc ngang thắng thế trên đời. Ác pháp đã
lôi kéo nhiều người vào vòng tội lỗi. Sứ mạng của Ngài là tiêu diệt
ác pháp. Bạch Ðấng Ðại Giác, xin Ngài hãy mở cửa bất diệt cho
chúng con; xin cho chúng con biết Ngài đã tìm ra những gì, hỡi
Ðấng cứu tinh của nhân loại! Ngài là người leo núi, Ngài đứng trên
đỉnh đá tuyệt vời. Ngài thấy rõ nhân loại cùng khắp. Bạch Ðấng cứu
độ, xin thương xót chúng con; xin nghĩ đến những kẻ bất hạnh thống
khổ vì sinh tồn già lão tác hại. Hỡi tráng sĩ chiến thắng, hãy lên
đường, lên đường đi thôi! Hãy đi khắp thế giới, hãy là ngọn đèn
sáng, hãy là đấng Ðạo Sư. Hãy thuyết giảng, hãy truyền đạt; sẽ có
nhiều người lãnh hội ngôn ngữ của Ngài."
Ðức Thế Tôn đáp:
"Giáo pháp mà ta đạt được thì vô cùng thậm thâm hy hữu, vi diệu
khó hiểu và siêu việt hẳn các luận lý thông thường. Thế gian không
hiểu sẽ nhạo báng; chỉ có một vài trí giả nào đó may ra nắm được ý
nghĩa và dốc lòng qui ngưỡng mà thôi. Nếu ta lên đường, nếu ta
Cuộc Ðời Ðức Phật 95
thuyết giảng và rồi không ai hiểu ta, thế là ta tự chuốc lấy sự thất
bại nhục nhã. Này Phạm-thiên, ta sẽ ở lại đây, nhân loại ham vui
lười dốt lắm."
Phạm-thiên lại bạch:
"Hỡi vầng thái dương lồng lộng, Ngài đã đạt đến trí tuệ siêu việt;
ánh hào quang rực rỡ của Ngài tỏa sáng khắp vũ trụ, vậy mà Ngài
vẫn thờ ơ lãnh đạm! Không, thái độ như thế không phù hợp với
Ngài; sự im lặng của Ngài là điều thật đáng trách; Ngài phải nói lên
mới được. Xin Ngài hãy đứng lên! Hãy đánh trống dộng chuông!
hãy làm cho giáo pháp huy hoàng như ngọn đuốc sáng ngời, như
cơn mưa ngọt ngào tắm gội mặt đất cằn khô. Hãy cứu độ những ai
bị khổ đau hành hạ; hãy mang lại hòa bình cho những ai bị lửa dữ
đốt thiêu! Ngài là vì sao giữa dòng nhân thế; Ngài, chỉ có Ngài là
nhổ sạch gốc rễ tử sinh. Ngài hãy xem, nhân danh Phạm-thiên, ta
quì lạy dưới chân Ngài, xin nguyện cầu Ngài thương nhận lời ta!"
Ðức Thế Tôn Ngẫm nghĩ:
"Giữa đám hoa sen xanh trắng bừng nở trong hồ, có số thì còn ở
dưới nước, có số thì trồi hẳn lên trên mặt nước, có số thì vươn cao
đến độ cành hoa không còn dính nước. Trên đời cũng thế, ta thấy có
kẻ ác, người hiền; người thì tâm trí sắc sảo, kẻ thì đầu óc đần độn;
người thì cao sang, kẻ thì hèn mọn; có số sẽ không hiểu; nhưng ta sẽ
xót thương tất cả. Ta sẽ coi sen nở dưới nước và sen nở tươi đẹp trên
cao như nhau.”
Ngài nói với Phạm-thiên:
"Nguyện cầu cánh cửa bất diệt mở ra cho tất cả chúng sanh! Nguyện
cầu những ai có tai nghe được âm hưởng và tín nhận. Ta đang lo
Cuộc Ðời Ðức Phật 96
ngại là sự cố gắng của ta sẽ không được gì, chỉ nhọc xác vô ích;
nhưng lòng từ bi của ta có giá trị hơn những đắn đo suy tính đó. Này
Phạm-thiên, ta đứng lên đây, ta sẽ trao truyền giáo pháp cho tất cả
chúng sanh."
Cuộc Ðời Ðức Phật 97
PHẬT ÐẾN BA-LA-NẠI
Ðức Thế Tôn phân vân không biết ai là người đầu tiên đáng được
tiếp nhận ngôn ngữ giải thoát.
Ngài tự hỏi: "Ở đâu có người đức hạnh thông minh, nghị lực, tính
tình hiền thục, dứt hẳn hận thù, tâm trí thanh tịnh, không bo bo ôm
giữ tri kiến như khư khư ôm ấp một âm mưu đen tối nào đó để ta có
thể trao truyền giáo pháp?"
Ngài nghĩ đến Uất-đầu-lam-phất, con trai của Ra-ma. Ngài nhớ
Uất-đầu-lam-phất không còn hận thù và đã cố gắng hướng dẫn một
cuộc sống đức hạnh; Uất-đầu-lam-phất không phải là hạng người vẽ
vời tô điểm sự bí mật của tri kiến. Ngài định trao truyền giáo pháp
cho Uất-đầu-lam-phất. Ngài tự hỏi: "Uất-đầu-lam-phất hiện giờ ở
đâủ" Sau đó Ngài biết Uất-đầu-lam-phất, con trai của Ra-na, đã qua
đời cách đó bảy ngày. Ngài nói:
"Thương thay! Uất-đầu-lam-phất, con trai của Ra-ma, chưa nghe
được giáo pháp thì đã qua đời. Uất-đầu-lam-phất có thể lãnh hội
giáo pháp và rồi có thể truyền đạt giáo pháp."
Ngài nghĩ đến A-la-lam. Ngài nhớ lại trí óc minh mẫn và cuộc sống
đức hạnh của người. Ngài đinh ninh là A-la-lam sẽ hân hoan truyền
bá giáo pháp. Ngài lại tự hỏi: "A-la-lam hiện giờ ở đâủ Sau đó Ngài
biết A-la-lam đã qua đời cách đó ba ngày. Ngài nói:
"A-la-lam chưa nghe được giáo pháp thì đã qua đời; A-la-lam mất
đi là một sự thiệt hại to lớn."
Cuộc Ðời Ðức Phật 98
Ngài suy đi nghĩ lại và nhớ ra năm đệ tử của Uất-đầu-lam-phất,
những vị đã một thời xin theo Ngài thọ giáọ Họ có đức hạnh; họ có
nghị lực; họ chắc chắn sẽ thông hiểu giáo pháp. Ðức thế Tôn, nhờ
trí tuệ, biết năm môn đệ của Uất-đầu-lam-phất đang sinh sống trong
vườn lộc-uyển tại thành Ba-la-nại. Thế là Ngài lên đường thẳng đến
Ba-la-nại.
Tại núi Dà-da (Gaya), Ngài gặp đạo sĩ U-ba-ca (Upaka). Vừa trông
thấy Ðức Thế Tôn, U-ba-ca liền tỏ lời thán phục.
U-ba-ca nói: "Ngài kỳ diệu làm sao! Khuôn mặt của Ngài ôi rạng
rỡ! Trái cây đã chín mộng dưới ánh mặt trời thì hoa nụ hẳn phải
thưa dần. Ngài là vẻ đẹp của cả một mùa thu trong sáng. Bạch Ngài,
cho con xin hỏi đạo sư của Ngài là ai?"
Ðức Thế Tôn đáp: "Ta không có đạo sư. Không ai như ta cả. Chỉ có
ta là trí tuệ, tịch tịnh, bất hoại."
U-ba-ca nói: "Ngài hẳn là một đạo sư tôn quí tuyệt vời!"
"Vâng, ta là đạo sư duy nhất trên cõi đời này; không thể tìm đâu ra
người như ta trên trái đất này hoặc ngay trên thiên giới."
U-ba-ca hỏi: "Ngài định đi đâ?"
Ðức Thế Tôn đáp: "Ðến Ba-la-nại. Ta sẽ đốt lên ngọn đèn tại đó và
nó sẽ tỏa sáng khắp nhân gian, nó sẽ mang lại nguồn sáng ngay cho
những ai bị mù mắt. Ta sẽ đến Ba-la-nại, tại đó, ta sẽ gióng lên
những hồi trống thức tỉnh nhân loại, những hồi trống rềnh vang khai
thông thính giác cho cả những người điếc tai. Ta sẽ đến Ba-la-nại,
ta sẽ thuyết giảng giáo pháp tại đó."
Cuộc Ðời Ðức Phật 99
Ngài tiếp tục lên đường và đến bờ sông Hằng (Gange). Nước sông
dâng cao, Ðức Thế Tôn tìm đò qua sông. Vừa thấy ông đò, Ngài nói:
"Này bạn, cho ta sang sông được chăng?"
Ông đò đáp: "Ðược chứ, nhưng phải trả tiền trước."
Ðức Thế Tôn đáp: "Ta không có tiền." và rồi Ngài lội qua bờ bên
kia như đi trên mặt đất.
Ông đò đau khổ, kêu gào: "Ta không đưa Ngài sang sông. Ngài
đúng là bậc thánh mà! Ồ, ta ân hận quá!" Ông đò lăn nhào xuống
đất với cõi lòng ray rứt dày vò.
Cuộc Ðời Ðức Phật 100
PHẬT GẶP LẠI CÁC ÐỆ TỬ TRƯỚC KIA
Ðức Thế Tôn vào đại thành Ba-la-nại. Ngài khất thực qua các
đường phố, và sau khi thọ trai xong, Ngài thẳng đến vườn lộc-uyển.
Ngài biết là Ngài sẽ tìm ra các đệ tử trước kia của Uất-đầu-lamphất.
Năm môn đệ thấy Ngài từ xa đi lại, họ nhận ra Ngài và nói với
nhau:
"Chúng ta không biết người đang đi về hướng chúng ta kia là ai
sao? Người ấy không phải là vị đạo sư khổ hạnh mà xưa kia từng
làm ta sửng sốt để rồi một hôm dứt khoát chống lại pháp môn cực kỳ
khắc khổ ấy sao? Nếu sự khổ tu của người ấy không phải là đường
hướng đích thực cho người ấy đi đến vô thượng bồ đề thì làm sao
ngày nay tư tưởng của người ấy có thể giúp ích chúng ta trong khi
người ấy vẫn bị tham dục, hèn nhát tác động? Chúng ta không cần
phải ra đón người ấy hoặc đứng lên khi người ấy đến; chúng ta
không cần phải ôm y bát cho người ấy; chúng ta không cần phải
nhường chỗ cho người ấy. Chúng ta sẽ nói với người ấy: "Ở đây hết
chỗ rồí. Chúng ta sẽ không mời người ấy ăn uống gì cả."
Họ quyết định như vậy. Nhưng Ðức Thế Tôn mỗi lúc một tiến đến
gần, Ngài đến gần bao nhiêu thì họ lại càng nao nao bấy nhiêu. Họ
tự nhiên muốn đứng lên. Họ quýnh quáng như bầy chim cố thoát
khỏi lồng đang bị lửa đốt bên dưới. Họ cảm thấy bất an; họ bồn
chồn như thể họ bị ngã bịnh. Cuối cùng, họ từ bỏ ý định, họ đồng
loạt đứng lên và ùa chạy đến Ðức Thế Tôn. Người thì cầm bình bát,
người thì ôm y phục, người thì bày chỗ ngồi. Họ đem nước đến rửa
chân Ngài và đồng thanh cất tiếng chào mừng:
Cuộc Ðời Ðức Phật 101
"Xin hân hạnh chào bạn. Xin mời bạn ngồi giữa anh em chúng tôi."
Ðức Thế Tôn ngồi xuống rửa chân. Sau đó Ngài ngỏ lời với năm ẩn
sĩ:
"Này các đạo sĩ, đừng gọi ta bằng bạn. Ta là Thánh Nhân, là đấng
Toàn Giác, là Phật Ðà vô thượng. Này các đạo sĩ, hãy lắng nghe, ta
đã tìm ra đường dẫn đến giải thoát. Ta sẽ chỉ đường cho các ngươi.
Hãy lắng nghe, các ngươi sẽ giác ngộ sự thật cao quí."
Họ đáp"
"Xưa kia dù tu khổ hạnh đến đâu Ngài cũng không đạt đến quả vị
toàn giác, nay sống buông lung phóng dật, làm sao Ngài có thể
chứng đắc vô thượng bồ đề?"
Ðức Thế Tôn đáp: "Này các đạo sĩ, ta không sống buông lung phóng
dật; ta chưa hề từ bỏ một công đức nào mà ta khao khát. Ta là
Thánh Nhân, là Ðấng Toàn Giác, là Phật Ðà vô thượng. Này các
đạo sĩ, hãy lắng nghe, ta đã tìm ra đường dẫn đến giải thoát. Ta sẽ
chỉ đường cho các ngươi; ta sẽ truyền đạt giáo pháp cho các ngươi.
Hãy lắng nghe, các ngươi sẽ giác ngộ sự thật cao quí."
Ngài dạy tiếp: "Này các đạo sĩ, các ngươi có nhận thấy là trước đây
ta chưa bao giờ nói với các ngươi như vậy phải không?"
"Bạch đạo sư, chúng tôi nhận thấy điều đó."
"Ta nói với các ngươi: ta là Thánh Nhân là Ðấng Toàn Giác, là
Phật Ðà vô thượng. Này các đạo sĩ, hãy lắng nghe, ta đã tìm ra
đường dẫn đến giải thoát. Hãy lắng nghẹ"
Cuộc Ðời Ðức Phật 102
Năm đạo sĩ lắng nghe, Ngài dạy:
"Có hai thái cực mà người khôn ngoan trí tuệ phải tránh. Một hạng
người đắm say dục lạc; cuộc sống của họ là cả một vòng tròn say
sưa phóng đãng; họ chỉ tìm thú vui để thõa mãn cảm giác. Hạng
người đó bần tiện lắm; phẩm hạnh của họ đê hèn, lếu láo; người
như thế không làm sao có được khôn ngoan trí tuệ. Hạng người khác
thì dấn thân vào khổ hạnh, họ từ bỏ các thứ; phẩm hạnh của họ ưu
sầu, vô dụng; người như thế cũng không làm sao có được khôn
ngoan trí tuệ. Này các đạo sĩ, Ðấng Toàn Giác vượt ngoài hai thái
cực đó. Ngài đã khám phá ra con đường Trung Ðạo, con đường khai
tâm mở mắt, con đường dẫn đến tịch tịnh, giác ngộ, niết bàn. Này
các đạo sĩ, con đường cao quí này có tám nhánh: Chánh Tín, Chánh
Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn,
Chánh Niệm, Chánh Ðịnh. Này các đạo sĩ, đây là con đường Trung
Ðạọ Con đường mà ta, Ðấng Toàn Giác, đã khám phá; con đường
dẫn đến tịch tịnh, giác ngộ, Niết bàn."
Năm môn đệ như nín thở hân hoan theo dõi Ngài. Ngài dừng lại giây
lát rồi giảng tiếp:
"Này các đạo sĩ, ta sẽ truyền đạt cho các ngươi sự thật về khổ. Sanh
là khổ, già là khổ, bịnh là khổ, tử là khổ, bị ràng buộc vào những gì
các ngươi không ưa là khổ, bị tách biệt với những gì các ngươi yêu
quí là khổ, không đạt được điều các ngươi mong ước là khổ, bám trụ
vào sắc, thọ, tưởng, hành thức là khổ khổ.
Này các đạo sĩ, ta sẽ truyền đạt cho các ngươi sự thật về nguồn gốc
của khổ. Khao khát sinh tồn là mãi mãi luân hồi sanh tử; dục vọng,
lạc thú cũng theo đó mà ra. Chỉ có uy quyền là thỏa mãn dục vọng.
Khao khát uy quyền, khao khát lạc thú, khao khát sinh tồn; này các
đạo sĩ, đó là nguồn gốc của khổ.
Cuộc Ðời Ðức Phật 103
Này các đạo sĩ, ta sẽ truyền đạt cho các ngươi sự thật về sự diệt khổ.
Hãy dập tắt tham dục bằng cách tiêu trừ dục vọng. Hãy loại bỏ dục
vọng. Hãy triệt tiêu dục vọng. Hãy hủy diệt dục vọng. Hãy giết sạch
dục vọng.
Này các đạo sĩ, ta sẽ truyền đạt cho các ngươi sự thật về con đường
dẫn đến sự diệt khổ. Ðó là Thánh Ðạo, là Bát Chánh Ðạo: Chánh
Tín, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng,
Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Ðịnh.
Này các đạo sĩ, các ngươi đã biết sự thật cao quí về khổ. Chưa có ai
trước ta khám phá ra nó; mắt ta mở ra là thấy khổ liền. Ta đã hiểu
rõ sự thật về khổ; này các đạo sĩ, các ngươi giờ đây phải nhận ra
nó.
Này các đạo sĩ, các ngươi đã biết sự thật cao quí về nguồn gốc của
khổ; chưa có ai trước ta khám phá ra nó; mắt ta mở ra là thấy ngay
nguồn gốc của khổ. Ta đã hiểu rõ sự thật về nguồn gốc của khổ; này
các đạo sĩ, các ngươi giờ đây phải nhận ra nó.
Này các đạo sĩ, các ngươi đã biết sự thật cao quí về sự diệt khổ;
chưa có ai trước ta khám phá ra nó; mắt ta mở ra là thấy ngay sự
diệt khổ. Ta đã hiểu rõ sự thật về sự diệt khổ; này các đạo sĩ, các
ngươi giờ đây phải nhận ra nó.
Này các đạo sĩ, các ngươi đã hiểu sự thật cao quí về con đường dẫn
đến sự diệt khổ; chưa có ai trước ta khám phá ra nó; mắt ta mở ra là
thấy ngay con đường dẫn đến sự diệt khổ. Ta đã hiểu rõ sự thật về
con đường dẫn đến sự diệt khổ; này các đạo sĩ, các ngươi giờ đây
phải nhận ra nó.
Cuộc Ðời Ðức Phật 104
Năm đệ tử hân hoan lắng nghe lời dạy của Ðức Thế Tôn. Ngài tiếp:
"Này các đạo sĩ, trong khi ta chưa giác ngộ hoàn toàn về bốn sự thật
này, ta biết rằng không phải ở tại nhân gian hay ở thế giới của chư
thiên, thế giới của Ma-vương, thế giới của Phạm-thiên; ta biết rằng
giữa chúng sanh, nhân loại, thiên thần, ẩn sĩ hay bà-la-môn, ta chưa
đạt đến quả vị vô thượng Phật Ðà. Nhưng, này các đạo sĩ, giờ thì ta
có được sự giác ngộ hoàn toàn về bốn sự thật này, ta biết rằng trên
cõi đời này cũng như ở thế giới của chư thiên, thế giới của mavương,
thế giới của phạm-thiên; ta biết rằng giữa chúng sanh, nhân
loại, thiên thần, ẩn sĩ hay bà-la-môn, ta đã đạt đến quả vị vô thượng
Phật Ðà. Ta vĩnh viễn giải thoát: ta không còn sinh tử luân hồi
nữa.”
Ðức Thế Tôn thuyết giảng như thế và năm đạo sĩ hoan hỷ tín nhận,
tôn vinh kính lễ Ngài.
Cuộc Ðời Ðức Phật 105
TRUYỆN ẨN SĨ VÀ THỎ RỪNG
Kiều-trần-như (Kaundinya) là một trong năm vị đạo sĩ đầu tiên đến
gần Ðức Thế Tôn và bạch rằng:
"Bạch Ðức Thế Tôn, con xin lắng nghe, nếu Ngài thấy con có ít
nhiều duyên phước, con xin làm đệ tử Ngài."
Ðức thế Tôn hỏi: "Kiều-trần-như, ngươi đã hiểu ta chưả"
Kiều-trần-như đáp: "Con xin qui y Phật, con xin nương theo Phật.
Con xin nương theo Ðức Thánh, Ngài đã giác ngộ hoàn toàn, đã
quán triệt tam thiên đại thiên thế giới; con xin nương theo Ngài có
khả năng giáo hóa chúng sanh như người ta giáo hóa bò mộng ở
rừng hoang, ngôn ngữ của Ngài được cả chư thiên và loài người tiếp
nhận; con xin nương theo Ngài vì Ngài là Ðấng Phật Ðà vô thượng.
Con xin qui y pháp, con xin nương theo giáo pháp. Ðức thế Tôn đã
truyền đạt giáo pháp, đã thuyết giảng giáo pháp một cách rõ ràng;
chánh pháp dẫn đến giải thoát, bậc hiền trí phải nhận ra năng lực từ
bi hỷ xả của giáo pháp. Con sẽ sống theo giáo pháp của Ngài, giáo
pháp tôn quí mà các bậc hiền trí phải theo đó tu tập."
Ðức Thế Tôn nói: "Ngươi đã thông đạt rồi đó; Kiều-trần-như, hãy
đến gần ta thêm tí nữa. Ta đã thuyết giảng giáo pháp rõ ràng. Hãy
sống đời thánh thiện và chịu đựng khổ đau.”
Sau đó, Thập-lực-ca-diếp, Bạt-đề, Ma-ha-nam-câu-lỵ, và Át-bệ cùng
đến bày tỏ đức tin và xin qui y theo Phật. Thế là bấy giờ có sáu
thánh giả trên đời.
Cuộc Ðời Ðức Phật 106
Trong khi Ðức Thế Tôn ở an tịnh tại vườn lộc-uyển thì một thanh
niên tên Da-xá (Yasas) đến. Da-xá là con trai của một thương gia
giàu có tại thành Ba-la-nại. Anh đã sống một cuộc sống trần tục,
nhưng anh cũng đã ý thức được sự trống rỗng vô vị của các lạc thú
trần gian, anh đang tìm kiếm sự an tịnh thiêng liêng giữa cảnh núi
rừng u tịch. Gặp Da-xá, Ðức Thế Tôn thuyết giảng giáo pháp cho
anh nghe và anh tuyên bố là anh quyết định đi theo đường hướng
thánh thiện.
Phụ thân của Da-xá đến vườn lộc-uyển để tìm con. Ông muốn làm
con xiêu lòng, muốn bắt con từ bỏ đường hướng thánh thiện. Nhưng
khi nghe Phật giảng giải, ngôn từ của Ngài đã làm ông cảm kích và
xin qui y theo Ngài. Mẹ và vợ của Da-xá cũng xin tỏ lòng thâm tín
sự thật của giáo pháp, nhưng khi Da-xá xin xuất gia với các sa môn
thì phụ thân, mẫu thân và vợ của anh lại trở về nhà ở Ba-la-nại.
Bốn người bạn của Da-xá là Tỳ-ma-la (Vimala), Tu-bà-hầu
(Subahu), Phù-lan-na ca (Purnajit) và Già-bà-bạt-đế (Gavampati)
đều lấy làm buồn cười cho bước chân lên đường của anh. Họ nói:
"Chúng ta hãy đến vườn lộc-uyển tìm Da-xá. Chúng ta sẽ vạch trần
lỗi lầm cho cậu ấy thấy và cậu ấy sẽ về lại với chúng ta.”
Vào đến tận rừng, họ thấy Phật đang thuyết giảng cho các đệ tử.
Ngài kể:
"Ngày xưa, có một ẩn sĩ lưu trú tại một thung lũng bé nhỏ hiu hắt
trong rừng. Ngài sống kham khổ một mình. Y phục của ngài làm
bằng vỏ cây, ngài chỉ uống nước lã, ăn toàn rễ cây và trái rừng.
Người bạn tâm phúc của ngài là một chú thỏ. Chú thỏ này có thể nói
được tiếng người và thích trò chuyện với ngài ẩn sĩ lắm. Chú học hỏi
được nhiều điều lợi ích ở những lời huấn thị của ngài, chú tích cực
Cuộc Ðời Ðức Phật 107
phấn đấu để đạt đến trí tuệ. Rồi, vào một năm nọ, đại hạn khủng
khiếp xảy ra; các dòng suối ở rừng đều khô cạn, cây cành chả còn
hoa trái gì cả.
Vị ẩn sĩ không thể tìm đâu ra thức ăn nước uống; ngài đâm ra chán
ngán cho cảnh ẩn dật núi rừng, và, một hôm, ngài đành vất bỏ y
phục ẩn sĩ. Chú thỏ thấy thế hỏi: "Này bạn, bạn đang làm gì vậỷ' vị
ẩn sĩ đáp: "Bạn thấy đó, ta không còn dùng y phục này nữá. Chú thỏ
nói: "Ơ kìa! bạn sắp rời khỏi thung lũng này sao? ' "Vâng, ta sẽ đi
giữa dòng nhân thế. Ta sẽ khất thực và họ sẽ cho ta thức ăn chứ
không phải rễ cây và trái rừng như thế này nữá.
Nghe qua, chú thỏ giật mình hoảng hốt như thể một em bé bị cha mẹ
bỏ rơi, chú kêu khóc: "Bạn ơi, đừng đi đâu nữa! Ðừng bỏ ta một
mình! Hơn nữa, biết bao người phải tan hoang khi đến sinh sống ở
thị thành! Chỉ có cuộc sống u tịch ở núi rừng là đáng quí.' Nhưng vị
ẩn sĩ đã dứt khoát, ngài quyết tâm ra đi, ngài muốn đị Chú thỏ van
xin: "Ngài từ bỏ núi rừng thật sao?Thế thì đi! Nhưng xin ngày ban
cho ta một ân huệ: hãy nán lại đây một ngày nữa, chỉ một ngày nữa
thôi. Hãy ở lại đây hôm nay, ngày mai bạn có thể tha hồ lên đường.'
Vị ẩn sĩ suy nghi: "Thỏ là loài giỏi tìm kiếm thức ăn; chúng có kho
lương thực giấu kín đâu đây. Ngày mai có lẽ thỏ mang cho ta chút gì
để ăn.' Thế là vị ẩn sĩ hứa ở lại cho đến ngày hôm sau, chú thỏ sung
sướng vọt chạy mất. Vị ẩn sĩ là một trong những tín đồ thờ lửa
(Agni), ngài cẩn thận, luôn luôn giữ lửa cháy đều trong thung lũng.
Ngài tự nhủ: "ta không có gì để ăn, nhưng ít ra ta có thể sưởi ấm
cho đến khi bạn thỏ trở về.'
Tảng sáng hôm sau, chú thỏ lại về với hai bàn tay trắng. Khuôn mặt
của vị ẩn sĩ lộ hẳn vẻ thất vọng chán nản. Chú thỏ cuối đầu lạy tạ
thưa rằng: "Súc vật chúng tôi không có tri thức hay khả năng nhận
định gì cả; bạch ẩn sĩ tôn quí, nếu ta có gì lỗi lầm, xin ngài hỷ xả
Cuộc Ðời Ðức Phật 108
chọ' Chú thỏ nói xong đột nhiêu nhảy bổ vào lửa. Vị ẩn sĩ thét lên:
"Bạn làm gì thế?' Ngài cũng nhảy đại vào lửa để cứu thỏ. Sau đó
chú thỏ tâm sự với ngài: "Ta không muốn ngài từ bỏ nghĩa vụ; ta
không muốn ngài rời khỏi nơi đây. Không còn gì để ăn cả. Ta
nguyện hiến thân vào lửa; bạn ơi, hãy ăn ta, hãy dùng tạm thịt ta và
ở lại nơi thung lũng nàý. Vị ẩn sĩ vô cùng xúc động. Ngài đáp: "Ta
sẽ không lên đường trở về phố thị; ta sẽ ở lại đây dù ta phải chết
đóí. Chú thỏ sung sướng, ngước mắt nhìn trời, miệng lâm râm cầu
nguyện: "Hỡi thần sấm, ta luôn luôn yêu quí cuộc sống cô tịch. Xin
tưởng đến ta mà mưa đổ xuống'. Thế là mưa tuôn ào ào, không mấy
chốc, vị ẩn sĩ và ông bạn của ngài thấy đầy đủ thức ăn cần thiết cho
họ ở thung lũng.
Sau giây phút yên lặng, đức Thế tôn tiếp:
"Này các thầy tỳ kheo, chú thỏ lúc đó chính là ta đây. Còn vị ẩn sĩ
chính là một trong những thanh niên ác ý vừa vào vườn lộc uyển.
Vâng, người ấy chính là Tỳ-ma-la đó!"
Ngài từ chỗ ngồi đứng lên.
"Này Tỳ-ma-la, ngay khi còn là một chú thỏ rừng trong thung lũng,
ta đã ngăn chận ngươi chạy theo ác đạo, ta còn chỉ đường cho
ngươi đi đến thánh thiện huống hồ là nay ta đã đạt đến quả vị vô
thượng Phật Ðà, tai mắt của ngươi đều nghe thấy điều đó. Vậy mà
ngươi vẫn nỡ ra sức ngăn cản người bạn tâm phúc của ngươi đi tìm
giải thoát!"
Tỳ-ma-la sụp lại dưới chân Ðức Thế Tôn, anh xin qui y theo Ngài và
được Ngài chấp thuận xuất gia tu tập với các đệ tử. Sau đó, Tu-bàhầu,
Phù-lan-na-ca và Già-bà-bạt-đế cũng quyết tâm noi theo thánh
giáo của Ngài.
Cuộc Ðời Ðức Phật 109
Số đệ tử mỗi ngày một gia tăng, chẳng mấy chốc Ðức Thế Tôn đã có
sáu mươi vị sa môn sẵn sàng truyền bá giáo pháp. Ngài khuyên các
đệ tử:
"Này các đệ tử, ta đã giải thoát hết mọi ràng buộc nhơn thiên. Các
ngươi ngày nay cũng thế. Này các đệ tử, các ngươi hãy khởi sự lên
đường, hãy đi đi, hãy vì lòng xót thương nhân thế, hãy vì nguồn
hạnh phúc của nhân gian, hãy đi đi! Chính nhờ các ngươi mà nhân
loại và chư thiên sẽ được an vui hạnh phúc. Hãy đơn độc lên đường.
Này các đệ tử, hãy thuyết giảng, hãy truyền bá giáo pháp rực rỡ huy
hoàng: giáo pháp huy hoàng khi bắt đầu, huy hoàng ngay ở giữa,
huy hoàng lúc sau cùng. Hãy truyền đạt tinh thần của giáo pháp;
hãy thuyết giảng văn tự của giáo pháp; hãy phổ biến nếp sống hoàn
hảo, thanh tịnh, thánh thiện cho những ai muốn nghẹ Có những
người không bị bụi phấn trần gian làm mù quáng, nhưng họ sẽ
không thấy giải thoát nếu họ không được nghe giáo pháp. Vì thế,
này các đệ tử, hãy lên đường, hãy truyền đạt giáo pháp cho họ."
Các đệ tử lên đường du hóa mỗi người một phương, Ðức Thế Tôn
một mình thẳng đến Ưu-lâu-tần-loa (Uruvilva).
Cuộc Ðời Ðức Phật 110
TRUYỆN BÁCH-MA-CA
Ðức Thế Tôn đi được một hồi lâu thì mệt mỏi.
Ngài vào một cánh rừng nhỏ và ngồi nghỉ dưới một gốc cây. Ngài
vừa thiu thiu ngủ thì thấy một đám ba mươi thanh niên vào rừng
Ngài chăm chú quan sát họ.
Theo ngôn ngữ và cử chỉ của họ thì rõ ràng là họ đang tìm một
người nàọ Cuối cùng họ hỏi Phật:
"Ngài có thấy một phụ nữ đi qua đây không?"
"Không, các anh là aỉ"
"Chúng tôi là những nhạc công. Chúng tôi lưu diễn từ thành phố này
đến thành phố khác. Chúng tôi thường trình tấu trước sự hiện diện
của các quốc vương, tài nghệ của chúng tôi được nhiều người hâm
mộ lắm. Hôm nay chúng tôi có đem theo một thanh nữ để giúp vui,
nhưng trong lúc chúng tôi ngủ say ở bên kia vệ đường thì hắn vơ hết
đồ đạc của chúng tôi và trốn mất. Chúng tôi đang truy tìm con nhỏ
đó.
Ðức Phật hỏi: "Việc làm nào tốt đẹp hơn, các anh đi tìm cô phụ nữ
đó hay các anh đi tìm chính các anh?"
Các nhạc công cười ngoặt ngoẹo, ra vẻ châm biếm Ðức Thế Tôn.
Ngài nói với người cười to nhất: "Anh chơi đàn của anh xem nào.”
Cuộc Ðời Ðức Phật 111
Nhạc công khoe tài ngay. Anh chơi hay thật; thảo nào anh dễ dàng
tin tưởng là các vua chúa đều say mê lời ca điệu nhạc của anh. Khi
anh diễn xong, Ðức Thế Tôn nói:
"Cho ta mượn cây đàn của anh."
Ngài dạo qua một bản, các nhạc công lắng nghe sửng sốt. Họ chưa
bao giờ nghe thấy âm điệu ngọt ngào từ cung đàn của họ phát ra
như vậy. Ngay cả gió cũng im lặng phăng phắc, mọi người dường
như nín thở lắng nghe tiếng đàn kỳ diệu của Ngài.
Ðức Thế Tôn ngừng dạo đàn.
Nhạc công thưa: "Bạch Ðức Thế Tôn, chúng con nghĩ là chúng con
đã điêu luyện về nghệ thuật, nhưng thật ra chúng con chưa hiểu tí gì
về nguyên tắc căn bản của nó. Xin Ngài thương tình dạy cho chúng
con những điều mà Ngài đã quán triệt."
Ðức Thế Tôn đáp: "Ðến giờ phút này các anh mới thấy kiến thức âm
nhạc của các anh còn nông cạn, nhưng trước đây các anh cho là các
anh đã bát lãm về nghệ thuật. Vì thế cho nên các anh tưởng là các
anh hiểu được các anh, thật ra sự hiểu biết của các anh còn hời hợt
lắm. Các anh cầu ta dạy cho các anh nhưng các anh lại cười đùa
ngạo nghễ khi ta khuyên các anh đi tìm lại chính các anh!"
Các nhạc công hết dám cười đùa nữa.
Họ thưa: "Bạch Ðức Thế Tôn, chúng con hiểu Ngài, chúng con hiểu
Ngài! Chúng con sẽ đi tìm lại chính chúng con."
Ðức Phật nói: "Tốt lắm, các ngươi sẽ thông đạt giáo pháp của ta.
Rồi đây, như quốc vương Bách-ma-ca (Padmaca), người đã hy sinh
Cuộc Ðời Ðức Phật 112
thân mạng để cứu sống quốc dân, các ngươi cũng sẽ truyền đạt trí
tuệ các ngươi để cứu vớt nhân loại."
Ngài kể lại câu chuyện về vua Bách-ma-ca và các nhạc công chăm
chú lắng nghẹ
"Xưa kia có một quốc vương công minh, uy dũng, tên là Bách-maca,
trị vì tại thành Ba-la-nại. Bấy giờ có một bịnh dịch kỳ dị bỗng
nhiên lan tràn khắp thành phố. Những ai nhiễm bịnh đều vàng cả
người, và, dù phơi dưới ánh mặt trời, họ vẫn bị sốt run cầm cập.
Quốc vương vô cùng xót thương dân chúng, ngài cố tìm phương
cách để cứu chữa họ. Ngài hội ý với các y sĩ lừng danh nhất, ngài
phân phát thuốc men và đích thân giúp đỡ, chăm sóc người bịnh.
Nhưng hết hy vọng, bịnh dịch cứ tiếp tục hoành hành. Bách-ma-ca
vô cùng đau đớn.
Một hôm, có một trưởng lão y sĩ đến tâu vua: "Tâu quốc vương, ha.
thần biết một thứ thuốc có thể cứu chữa dân Ba-la-nại!' Quốc vương
hỏi: "Thuốc gì thế' "Ðó là con cá mập Rô-hy-ta (Rohita). Hãy cho
người bắt nó và phát cho bịnh nhân mỗi người một miếng, dù nhỏ
thế nào chăng nữa, thì bịnh dịch tan biến ngay. ' Quốc vương cuống
quít cảm ơn vị trưởng lão y sĩ đó; ngài ra lệnh cho mọi người giăng
sông chài biển để bắt cá Rô-hy-ta, nhưng họ không tìm đâu ra nó.
Quốc vương đau buồn chán nản. Sáng hoặc tối, thỉnh thoảng ngài
nghe có tiếng khóc than ai oán bên ngoài hoàng cung: "Quốc vương
ơi, chúng tôi khốn khổ lắm. Xin cứu vớt chúng tôi với!' Ngài khóc
nức nở.
Cuối cùng, ngài suy nghĩ: "Giàu sang quyền thế để mà chi, cuộc
sống có ích gì nếu ta không cứu giúp những ai bị khổ đau hành hạ?'
Ngài cho gọi người con trưởng nam của ngài đến, ngài nói: "Con ơi,
cha để lại cho con tài sản và vương quốc này. ' Ðoạn ngài đi thẳng
Cuộc Ðời Ðức Phật 113
lên sân thượng hoàng cung, ngài dâng cúng hương hoa đến chư vị
thiên thần và khấn nguyện: "Ta hân hạnh hy sinh mạng sống mà ta
cho là vô dụng này. Nguyện cầu sự hy sinh này mang lại lợi ích cho
những ai bị khổ đau vây hãm! Ta xin nguyện làm cá Rô-hy-ta theo
sông trôi qua thành này!' Ngài từ sân thượng gieo mình xuống đất
và biến ngay thành cá Rô-hy-ta bơi theo dòng sông. Cá bị bắt, nó
vẫn còn sống khi họ cắt nó thành những mảnh nhỏ để phân phát cho
người bịnh, nó chả thấy bị dao búa cắt xẻ gì cả, nó run run cử động
với lòng thương yêu tất cả chúng sanh.
Chẳng mấy chốc bệnh dịch biến mất, khắp thành Ba-la-nại, đâu đâu
cũng vang lên lời ca tiếng nhạc: "Chính nhờ Bách-ma-ca, đấng
minh quân thánh đức cứu vớt các ngươi! Hãy vui lên nào!' hầu hết
dân cư trong thành đều tôn kính, tưởng nhớ đến Bách-ma-ca.”
Các nhạc công lắng nghe Ðức Thế Tôn, họ hứa qui y theo Ngài để
thọ trì giáo pháp.
Tại Ưu-lâu-tần-loa, Ðức Thế Tôn gặp ba anh em của Ca-diếp
(Kasyapa). Ba đạo sĩ bà-la-môn đức hạnh này có một ngàn đệ tử.
Họ thường bị một con rắn độc nhiễu hại, quấy phá các cuộc tế lễ
của họ, họ đem sự phiền toái đó đến trình Phật. Ðức Phật mỉm cười;
Ngài đón gặp rắn độc và bảo nó từ đó về sau hãy để cho họ an ổn tu
hành. Rắn độc vâng lời, thế là các cuộc tế lễ của họ không bị gián
đoạn nữa.
Ba anh em Ca-diếp mời Phật ở lại với họ vài hôm. Ngài nhận lời.
Ngài muốn tạo sự ngạc nhiên cho các chủ nhân bằng cách phóng ra
vô số phép màu kỳ diệu, bấy giờ hết thảy mọi người đều xin nương
theo giáo pháp của Ngài. Chỉ có người anh cả của ba anh em Cadiếp
là không chịu theo Phật. Người ấy suy nghĩ:
Cuộc Ðời Ðức Phật 114
"Ðúng, đạo sĩ có nhiều thần lực, Ngài phóng ra vô số thần thông
diệu dụng, nhưng ngài chưa thánh thiện bằng ta.”
Ðọc được tư tưởng của Ca-diếp, Ðức Thế Tôn nói:
"Này Ca-diếp, ngươi cho ngươi là người thánh thiện, nhưng ngươi
chưa ở trên đường dẫn đến thánh thiện."
Thấy Phật đoán được ý nghĩ thầm kín của mình, Ca-diếp vô cùng
kinh ngạc. Ðức Thế Tôn nói tiếp:
"Ngươi không biết làm sao tìm ra đường hướng dẫn đến thánh thiện.
Này Ca-diếp, hãy nghe theo lời ta nếu ngươi muốn xua tan màn đêm
vây hãm cuộc sống của ngươi."
Ca-diếp suy nghĩ trong giây lát rồi sụp lạy dưới chân Ðức Thế Tôn
và bạch rằng:
"Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài truyền thọ giáo pháp cho con! Xin cứu
con ra khỏi màn đêm tăm tối."
Sau đó Ðức Thế Tôn lên núi thuyết giảng giáo pháp cho ba anh em
Ca-diếp và môn đệ của họ
Ngài dạy: "Này các thầy tỳ kheo, các pháp ở thế gian đều đang bừng
cháy, nhãn quan đang bừng cháy, tất cả những gì chúng ta nhìn thấy
trên đời đều đang bừng cháy. Vì sao thế? vì ngọn lửa yêu ghét chưa
được dập tắt. Các ngươi si mê mù quáng là vì thứ lửa này, các người
chịu khổ đau, sanh già bịnh chết cũng vì thứ lửa này. Này các thầy
tỳ kheo, mọi vật ở thế gian đều đang bừng cháy! Hiểu ta thì ngọn lửa
đó sẽ được dập tắt cho các ngươi; mắt các ngươi sẽ hết bị thứ lửa đó
làm mù quáng, và các ngươi sẽ hết ham thích cảnh tượng bừng cháy
Cuộc Ðời Ðức Phật 115
mà các ngươi đang say đắm hiện nay. Hiểu ta, các ngươi sẽ thấy hết
luân hồi sanh tử, các ngươi sẽ thấy chúng ta không bao giờ trở lại
trên trái đất này. "
Cuộc Ðời Ðức Phật 116
PHẬT TẠI RỪNG TRÚC-LÂM
Ðức Thế Tôn nhớ rằng quốc vương Tần-bà-sa-la xưa kia đã bày tỏ ý
định học hỏi giáo pháp, Ngài quyết định đến thành Vương-xá
(Rajagriha). Ngài lên đường với trưởng tử Ca-diếp và một vài môn
đệ mới khác. Ngài đến trú tại một khu rừng gần thành.
Chẳng mấy chốc, quốc vương Tần-bà-sa-la hay tin các thầy tỳ kheo
đã đến. Vua quyết định đến viếng các ngài. Cùng với đoàn cận vệ
theo sau hộ tống, quốc vương đi thẳng đến cánh rừng. Nhận ra Ðức
Thế Tôn, quốc vương thưa:
"Bạch Ðức Thế Tôn, Ngài không quên ước nguyện của con chứ; con
xin vô vàn biết ơn và kính lễ Ngài."
Quốc vương sụp lạy, Ðức Thế Tôn đỡ vua đứng lên và người đứng
cách một khoảnh để tỏ lòng tôn kính của mình.
Nhưng trong đám tùy tùng có người nhận ra Ca diếp và coi ngài là
bậc thánh đức tuyệt vời. Họ chưa bao giờ thấy Phật nên họ rất đỗi
ngạc nhiên thấy quốc vương trọng vọng Ngài đến thế.
Một người bà-la-môn nói: "Quốc vương lạy như vậy hẳn là có lỗi; lẽ
ra kính lễ Ca-diếp mới phải."
Một người khác nói: "Ðúng, Ca-diếp là bậc đạo sư vĩ đại."
Người thứ ba tiếp: "Quốc vương đã phạm phải một lỗi lầm kỳ dị, đã
nhầm môn đệ là đạo sư."
Cuộc Ðời Ðức Phật 117
Họ thì thầm với nhau như thế nhưng Ðức Thế Tôn đã nghe hết, bởi
vì có gì qua nổi sự nhận xét của Ngài? Ngài hỏi Ca-diếp:
"Này người xứ Ưu-lâu-tần-loa, ai xúi giục ngươi từ giã nơi ẩn cư
của ngươi? Ai bắt ngươi phải chấp nhận sự nhu nhược của ngươi?
Này Ca-diếp, trả lời xem, làm sao ngươi từ giã được nơi ẩn cư quen
thuộc của ngươỉ"
Hiểu Ðức Thế Tôn muốn nói gì, Ca-diếp đáp:
"Ngày nay con mới biết các pháp môn khổ hạnh của con xưa kia đi
đến đâu; con nhận thấy tất cả những gì con truyền đạt đều rỗng
tuếch. Lời giảng của con là ác pháp, con bắt đầu chán ghét lối sống
trước kia của con."
Ðáp xong, Ca-diếp sụp lạy dưới chân Ðức Thế Tôn, ngài bạch tiếp:
"Con là đệ tử thuần thành của Ngài. Cho con được phép quì lạy
dưới chân Ngài! Ngài là Ðấng Thế Tôn, là đạo sư hướng dẫn chúng
con. Con là môn đệ của Ngài, là thị giả của Ngài. Con sẽ nhứt tâm
vâng phục theo Ngài."
Ca-diếp đảnh lễ Ðức Thế Tôn bảy lần, cả đám tùy tùng đều lên tiếng
thán phục:
"Phi thường thay, đấng đã giáo hóa Ca-diếp thấy rõ vô minh! Cadiếp
coi Ngài là một trong những đạo sư tôn quí nhất, xem Ca-diếp
quì lễ trước mặt người khác kìa! Ồ, phi thường thay, đấng đạo sư
của Ca-diếp."
Sau đó Ðức Thế Tôn thuyết giảng cho họ về bốn sự thật cao quí. Khi
Ngài thuyết xong, quốc vương Tần-bà-sa-la tiến đến gần Ngài, và,
Cuộc Ðời Ðức Phật 118
trước mặt mọi người, dũng mãnh tuyên thệ:
"Con xin qui y Phật, con xin qui y Pháp, con xin qui y Tăng."
Ðức Thế Tôn cho phép quốc vương ngồi bên cạnh Ngài, vua lại tác
bạch:
"Trong đời con, con có năm ước vọng to lớn: ước rằng một ngày
nào đó con sẽ là quốc vương; ước rằng một ngày nào đó Phật sẽ
quang lâm đến đất nước con; ước rằng một ngày nào đó Ngài sẽ
truyền thọ giáo pháp cho con; ước rằng một ngày nào đó con sẽ dốc
lòng tín cẩn theo Ngài. Ngày nay, tất cả những ước vọng đó đều
được thành tựu. Bạch Ðức Thế Tôn, con xin qui y Phật, con xin qui y
Pháp, con xin qui y Tăng."
Quốc vương đứng lên.
"Bạch Ðức Thế Tôn, ngày mai, xin mời Ngài hoan hỷ đến hoàng
cung của con thọ trai."
Ðức Thế Tôn nhận lời. Quốc vương xin ra về với cõi lòng hân hoan
vô bờ bến.
Nhiều người trong đám tùy tùng theo gương quốc vương, họ cũng
xin phát tâm qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng.
Ngày hôm sau, tất cả dân cư tại thành Vương-xá đều bỏ nhà để đến
rừng, họ trông mong thấy được dung nhan của Ðức Thế Tôn. Tất cả
đều thán phục, ca ngợi vẻ huy hoàng uy lực của Ngài.
Ðã đến giờ Ðức Thế Tôn đến vương cung, đường sá đông nghẹt
người xem đến độ không thể nhích thêm một bước. Bỗng nhiên, một
Cuộc Ðời Ðức Phật 119
tanh niên bà-la-môn xuất hiện trước Ðức Thế Tôn. Không ai biết
anh từ đâu đến. Anh nói:
"Ðức Thế Tôn cao cả giữa đoàn người quí tộc, Ngài đem đến sự giải
thoát. Ngài tỏa hào quang sáng ngời như vàng ròng đã đến thành
Vương-xá."
Với giọng nói vui vẻ, anh kêu gọi dám đông tránh đường, họ nhất tề
vâng phục. Anh cất tiếng hát:
"Ðức thế Tôn đã xua tan bóng tối; màn đêm sẽ không bao giờ trở
lại; Ngài chứng đắc vô thượng bồ đề đã đến thành Vương- xá.
Dân chúng tự hỏi: "Anh thanh niên bà-la-môn có giọng nói ngọt
ngào trong sáng kia từ đâu tới?
Anh tiếp tục cất tiếng hát:
"Ngài đã đến rồi, Ngài là Ðức Thế Tôn toàn năng cao cả, là Phật
Ðà vô thượng. Ngài là đấng toàn giác siêu việt trên đời; ta sung
sướng được hầu ha. Ngài. Không phải hầu ha. kẻ thất phu ngu muội
mà là cung kính hầu ha. bậc hiền giả thánh trí, là kính lễ các bậc tôn
túc đức hạnh: có nguồn vui nào trên đời thánh thiện hơn thế? Có tài
nghệ kiến thức, quí nghĩa cử bao dung, bước trên đường công lý: có
nguồn vui nào trên đời thánh thiện hơn thế?"
Anh thanh niên bà la môn tìm cách chen qua đám đông, đưa Ðức
Thế Tôn đến tận cung vua Tần-bà-sa-la rồi đi mất. Dân chúng tại
thành Vương-xá tin đó là một thiên thần hân hạnh hầu Phật và tán
dương đức hạnh cao cả của Ngài.
Vua Tần-ba-sa-la tiếp đón Ðức Thế Tôn rất trọng hậu. Sau bữa ngọ
Cuộc Ðời Ðức Phật 120
trai, quốc vương tâm sự với Ngài:
"Bạch Ðức Thế Tôn, con vô cùng sung sướng trước sự hiện diện của
Ngài. Con phải thường hầu thăm Ngài, thường lắng nghe những lời
cao quí từ kim khẩu Ngài. Giờ đây, xin Ngài nhận cho một phẩm vật
cúng dường. Gần thành Vương- xá hơn cánh rừng Ngài ở, có một
khu rừng mệnh danh là rừng Trúc-lâm. Nó rộng lắm, Ngài và đồ
chúng có thể trụ xứ ở đó thoải mái. Bạch Ðức Thế Tôn, con xin dâng
Ngài khu rừng Trúc-lâm đó; nếu Ngài nhận lời thế là Ngài sẽ ban
cho con một ân huệ cao cả."
Ðức Phật vui cười hoan hỷ. Một chiếc thau vàng đựng đầy nước hoa
thơm ngát được bê tới. Quốc vương bê thau nước hoa rót lên tay
Ðức Thế Tôn. Ngài nói:
"Bạch Ðức Thế Tôn, khi nước từ tay con đổ qua tay Ngài, tương tự
như thế, bạch Ðức Thế Tôn, nguyện cho khu rừng Trúc-lâm này
cũng từ tay con chuyển qua tay Ngài."
Cả trái đất rung chuyển: giáo pháp ngày nay đã có đất cắm rễ.
Cùng ngày hôm đó, Ðức Thế Tôn và cả đồ chúng đến trụ tại rừng
Trúc-lâm.
Cuộc Ðời Ðức Phật 121
XÁ-LỢI-PHẤT VÀ MỤC-KIỀN-LIÊN
Hai thanh niên bà-la-môn, Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên (Sariputra,
Maudgalyayana) bấy giờ cũng đang cư ngụ tại thành Vương-xá. Họ
là bạn tâm giao và cũng là đồ đệ của ẩn sĩ San-xa-da. (Sanjaya). Họ
đã hứa với nhau: "Ai đắc đạo trước thì thông báo ngay cho người
kia cùng biết."
Một hôm, Xá-lợi-phất thấy Át-bệ đang khất thực trong thành Vươngxá.
Ông rất đỗi ngạc nhiên về vẻ mặt phúc hậu hoan hỷ, phong thái
cao quí hiền hòa, cốt cách điềm tĩnh uy nghiêm của Át-bệ. Ông tự
nhủ:
"Ðúng rồi, có một đạo sĩ đã xuất hiện trên đời và đã tìm ra chánh
đạo dẫn đến thánh quả. Ta phải đến gặp ngài ấy, ta phải hỏi xem
đạo sư của ngài ấy là ai và ngài ấy qui ngưỡng theo giáo pháp nào"
Nhưng rồi ông ngẫm nghĩ:
"Giờ này chưa phải lúc để hỏi ngài. Ngài đang khất thực; ta không
nên làm phiền ngài. Ta sẽ theo ngài, đợi ngài khất thực xong, ta sẽ
đến hầu chuyện với ngài."
Tôn giả Át-bệ bấy giờ nghỉ khất thực. Xá-lợi-phất đến gặp ngài và
chào hỏi ngài rất thân mật. Át-bệ cũng khiêm tốn đáp lại lời chào
hỏi của Xá-lợi-phất.
Xá-lợi-phất hỏi: "Này bạn, dung mạo của bạn trầm tĩnh làm sao!
Ánh mắt của bạn sao mà trong sáng thế! Ai đã thuyết phục bạn xuất
giả Bổn sư của bạn là ai? Bạn qui phục theo giáo pháp nàỏ"
Cuộc Ðời Ðức Phật 122
Át-bệ đáp: "Thưa bạn, đức Ðại sa môn, con trai của dòng tộc Thíchca,
là bổn sư của tôi"
"Này bạn, bổn sư của bạn nói gì, Ngài dạy những gì?"
"Thưa bạn, tôi mới xuất gia học đạo, tôi mới lãnh hội giáo pháp chỉ
trong một thời gian ngắn; tôi chưa thể luận giải dài dòng, nhưng tôi
có thể cho bạn biết tóm lược tinh thần của giáo pháp."
Xá-lợi-phất nói: "Này bạn, xin bạn nói ít nhiều gì cũng được, miễn
là bạn cho tôi biết tinh thần của giáo pháp. Ðối với tôi, chỉ có tinh
thần của giáo pháp là quan trọng."
Tôn giả Át-bệ đọc câu:
"Ðấng Toàn Giác thuyết giảng nguyên nhân, Ðấng Toàn Giác thuyết
giảng cứu cánh."
Xá-lợi-phất vô cùng hoan hỷ. Hình như sự thật đã hiển lộ trọn vẹn
trước mắt người. Người suy nghĩ: "Các pháp do duyên sanh ắt phải
do duyên diệt."Người cảm ơn Át-bệ, và, với niềm hy vọng tràn đầy,
người đi tìm Mục-kiền-Liên.
Trông thấy Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên hỏi: "Này bạn, dung mạo của
bạn trầm tĩnh làm sao! Ánh mắt của bạn sao mà trong sáng thế! Bạn
đắc đạo rồi chăng?"
"Vâng, thưa bạn. Gần thành Vương-xá có một đạo sĩ thuyết giảng về
sự giải thoát sanh tử."
Xá-lợi-phất tường thuật lại cuộc hội ngộ của mình và cả hai đều
Cuộc Ðời Ðức Phật 123
quyết tâm đến gặp Ðức Thế Tôn. San-xa-dạ, vị đạo sư của họ, hết
lòng khuyên can họ.
Ông nói: "Hãy ở lại đây với ta, ta sẽ ban cho các ngươi một địa vị
cao sang giữa hàng môn đệ. Các người sẽ là đạo sư như ta."
"Tại sao anh em chúng tôi cần phải ngang hàng với ngài? Tại sao
chúng tôi phải gieo rắc vô minh? Chúng tôi hiểu giả trị của giáo
pháp ngài. Nó chỉ biến chúng tôi thành những đạo sư ngu muội."
San-xa-da. tiếp tục khuyên nhủ họ; bỗng nhiên, máu nóng từ trong
miệng ông vọt ra, Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên hoảng sợ, rút lui.
Họ cùng nhau lên đường đến gặp Phật.
"Ðây rồi, Ðức Thế Tôn nói khi Ngài thấy họ tiến đến gần, đây là hai
vị kiệt hiệt nhất trong hàng đệ tử của ta."
Ngài hoan hỷ đón nhận họ vào Tăng đoàn.
Cuộc Ðời Ðức Phật 124
PHẬT HÓA GIẢI CÁC CUỘC XUNG ÐỘT
CỦA DÂN THÀNH VƯƠNG-XÁ
Tín đồ mỗi lúc một gia tăng, quốc vương Tần-bà-sa-la lại bày tỏ đức
tin và tình bạn sâu sắc của mình với Ðức Thế Tôn. Vua thường thỉnh
Phật đến hoàng cung và mời Ngài ngự tại ngai vàng. Mỗi lần thỉnh
Phật như thế, vua lại ha. lệnh trang hoàng kinh thành sao cho ra vẻ
vui tươi. Hoa giăng khắp phố, cờ bay rợp nhà, hương thơm ngào
ngạt, ai ai cũng chưng diện y phục sặc sỡ. Quốc vương đích thân
cầm lọng vàng đi đầu nghênh đón và che nắng Ðức Thế Tôn.
Nhiều thanh niên quí tộc nghe Ðức Thế Tôn thuyết pháp và nguyện
xin qui y. Họ muốn làm thánh, họ từ bỏ gia đình tài sản, và chẳng
mấy chốc, khu rừng Trúc-lâm đầy ắp những môn đệ thuần thành.
Nhưng cũng có nhiều người tại thành Vương-xá bực tức thấy Phật
hóa độ số người xuất gia quá đông, họ lên tiếng phẫn uất khắp kinh
thành.
Họ tra hỏi: "Tại sao hoàng tử dòng Thích-ca lại có mặt trên đất
nước chúng tả Chưa đủ đạo sĩ thuyết giảng đạo đức cho chúng ta
sao?Họ không quyến rủ thanh niên chúng ta bỏ nhà bỏ cửa như vị
đạo sư đó. Ừa, ngay cả con cái chúng ta cũng đang từ bỏ chúng ta.
Vì hoàng tử dòng Thích-ca mà biết bao phụ nữ phải lâm cảnh góa
bụa! Vì hoàng tử dòng Thích-ca mà biết bao gia đình phải mất con
mất cháu! Chỉ vì đạo sư đó có mặt trên đất nước chúng ta mà đau
khổ sẽ xảy đến cho vương quốc này!"
Ðức Thế Tôn sau đó gặp rất nhiều kẻ thù trong số dân cư trong
thành. Mỗi khi gặp môn đệ của Ngài, họ tấn công hoặc hủy báng
Cuộc Ðời Ðức Phật 125
thậm tệ.
Một người đi qua nói: "Vị đại sa môn đó đến thành Vương-xá và
chiếm trọn khu rừng Trúc-lâm; vị ấy sẽ chiếm cả vương quốc Makiệt-
đà (Magada) này không chừng?"
Một người khác nói: "Vị đại sa môn đó đến thành Vương-xá và đoạt
cả môn đệ của Sa-xa-dạ; ngày nay vị ấy sẽ còn quyến rủ ai nữa đâỷ"
Người thứ ba nói: "Một tai họa dịch hạch còn ít nguy hại hơn là vị
đại sa môn đó, bịnh dịch hạch sát hại trẻ em ít hơn."
Một phụ nữ thở dài nói: "Bịnh dịch hạch gây cảnh góa phụ là bao!"
Các môn đệ im lặng. Họ cảm thấy lòng phẫn uất của quần chúng
đang dâng cao, họ thuật lại những lời thóa ma. mà họ đã nghe thấy
cho Ðức Thế Tôn rõ. Ðức Thế Tôn đáp: "Này các đệ tử, đừng bận
tâm về điều đó. Họ sẽ sớm chấm dứt thôi. Ðối với những ai theo hủy
báng lăng nhục các ngươi, các ngươi hãy nhẹ nhàng từ tốn nói với
họ: "Bởi vì họ hiểu biết sự thật, sự thật chân chính mà các tráng sĩ
tin theo, sự thật chân chính mà các đấng toàn thiện giáo hóa. Ai
dám xúc phạm đến Phật, bậc thánh giả hóa độ bằng uy lực của sự
thật?' Thế là họ sẽ in ngay, và chỉ vài ngày sau đó, khi dạo qua kinh
thành, các ngươi sẽ thấy được tán dương cung kính."
Ðúng như lời Phật dạy. Lời lẽ hủy báng không còn nữa, mọi người ở
thành Vương-xá đều tôn vinh môn đệ của Ðức Thế Tôn.
Cuộc Ðời Ðức Phật 126
TỊNH-PHẠN PHÁI SỨ THẦN
ÐẾN GẶP CON MÌNH
Vua Tịnh-Phạn hay tin con mình đã chứng đắc vô thượng bồ đề và ở
trong rừng Trúc-lâm, tại thành Vương-xá. Quốc vương mong gặp lại
Ngài. Vua phái một sứ giả đến bạch Phật như vầy: "Bạch Ðức Thế
Tôn, phụ vương của Ngài, vua Tịnh-Phạn, mong gặp Ngài."
Khi đến rừng Trúc-lâm, sứ giả thấy Ðức Thế Tôn đang giảng dạy
các môn đệ:
"Có một cánh rừng nối liền với một sườn núi và dưới chân núi là
một khu hồ rộng, sâu. Dã thú sinh sống trên bờ hồ đó. Có một kẻ từ
đâu xuất hiện, hắn muốn hãm hại các loài dã thú đó, muốn làm cho
chúng đau khổ, muốn làm hại chúng. Hắn rào bít con đường thông
thương ra khỏi hồ, con đường lui tới an toàn, và hắn mở ra một
đoạn đường ngụy tạo dẫn vào một cánh đầm lầy khủng khiếp. Dã
thú gặp nạn; chúng sẽ chết từng con một. Trái lại, có một người nào
đó xuất hiện để tìm ra sự an lạc, hạnh phúc, phồn vinh cho dã thú
đó. Người ấy sẽ hủy bỏ lối đi ngụy tạo dẫn vào đầm lầy và mở ra
một lộ trình an toàn dẫn tới đỉnh núi êm đềm. Thế là dã thú sẽ thoát
khỏi nguy khốn, chúng sẽ được phồn vinh phát đạt. Này các đệ tử,
hãy nhận ra những gì ta muốn nói với các ngươi. Ai sống gần lạc
thú trần gian, người ấy như đã thú sống trên bờ hồ sâu rộng đó. Kẻ
hãm hại ta, bức bách ta, tiêu diệt ta, ấy chính là tên ác quỉ Mavương.
Cánh đầm lầy mà tất cả chúng sanh tự trầm mình trong đó là
ái dục, là vô minh. Người mưu cầu hạnh phúc, an lạc và thịnh vượng
cho chúng sanh là Ðấng Toàn giác, là Bậc Thánh Giả, là Ðức Phật
từ bi. Này các đệ tử, Người ấy là ta vậy. Ta mở đường an lành;
chính ta phá hủy lộ trình ngụy tạọ Các ngươi sẽ không vào đầm lầy;
Cuộc Ðời Ðức Phật 127
các ngươi sẽ lên núi, các ngươi sẽ đạt đến đỉnh cao rực rỡ tuyệt vời.
Tất cả những gì Ðức Thế Tôn làm đều là thể hiện lòng từ bi và mưu
tìm hạnh phúc cho môn đệ. Này các đệ tử, ta đã tìm kiếm sự an lạc
cho các ngươi.
Sứ giả sung sướng lắng nghe và rồi sụp lạy dưới chân Ðức Thế Tôn,
bạch rằng!
"Bạch Ðức Thế Tôn, xin nhận con vào hàng đệ tử của Ngài."
Ðức Thế Tôn dang tay nói:
"Này sa môn, hãy đến đây. "
Sứ giả đứng lên, và, bỗng nhiên, y phục cá nhân biến thành hình
dạng và màu sắc y phục của một sa môn. Sứ giả quên hết mọi việc,
quên cả thư tín của Tịnh-Phạn truyền đi.
Quốc vương mệt mỏi đợi chờ sứ giả trở về. Mỗi ngày, lòng mong
mỏi gặp con lại gia tăng. Vua phái một sứ thần khác đến rừng Trúclâm.
Nhưng rồi quốc vương cũng hoài công chờ đợi người ấy trở về.
Quốc vương chín lần phái sứ thần đến gặp Ðức Thế Tôn, chín lần
được nghe thánh ngôn của Phật, các sứ thần quyết tâm ở lại và xin
xuất gia làm sa môn.
Vua Tịnh-Phạn cuối cùng gọi Ưu-đà-di (Udayin) đến.
Quốc vương nói: "Này Ưu-đà-di, như khanh biết, chín sứ giả lên
đường đến rừng Trúc-lâm không một ai trở về, không ai cho trẫm
biết thư tín của trẫm được đón nhận thế nàọ Trẫm chả biết họ có
tiếp xúc được với con trẫm không, họ có gặp con trẫm không. Ưuđà-
di, trẫm sốt ruột lắm! Trẫm già rồi, cái chết đang mai phục trẫm
Cuộc Ðời Ðức Phật 128
đó. Trẫm có lẽ chỉ sống đến ngày mai, nhưng khó mà lường được
những ngày sau đó. Này Ưu-đà-di, trước khi nhắm mắt buông tay,
trẫm muốn gặp mặt con trẫm. Khanh xưa kia là bạn tâm giao của
con trẫm; Giờ đây, mong khanh hãy đến gặp mặt con trẫm. Trẫm
nghĩ không ai có thể được tiếp đón trọng vọng như khanh. Hãy nói
cho con trẫm biết nỗi khổ đau của trẫm; hãy nói cho con trẫm biết
niềm ước vọng của trẫm, nguyện cầu sao con trẫm đừng thờ ơ lạnh
nhạt!"
Ưu-đà-di đáp: "Tâu bệ hạ, ha. thần sẽ đi."
Ưu-đà-di lên đường. Vừa đến rừng Trúc-lâm, Ưu-đà-di đã quyết tâm
làm sa môn, nhưng lời lẽ tâm sự của vua Tịnh-Phạn quá khắc sâu
vào tâm khảm, Ưu-đà-di suy nghĩ: "Ta sẽ báo cho Ðức Thế Tôn biết
nỗi đau khổ của phụ vương Ngài. Ngài sẽ xúc động thương cảm mà
về thăm phụ vương."
Ðức Thế Tôn sung sướng thấy Ưu-đà-di thành một trong những đệ
tử của Ngài.
Mùa đông hầu như đã qua. Một hôm, thấy thời tiết thuận tiện, Ưuđà-
di bạch Phật:
"Cỏ cây đang bừng rộ nở hoa, mai đây chúng sẽ đâm chồi nảy lộc.
Hãy xem những tia nắng mặt trời lung linh qua các cành lá. Bạch
Ðức Thế Tôn, đây là lúc thời tiết thuận tiện để lên đường. Khí hậu
không lạnh, không nóng; và khắp mặt đất bao phủ một màu xanh
mơn mởn. Chúng ta sẽ khỏi bận tâm khất thực dọc đường. Bạch Ðức
Thế Tôn, đây là lúc thời tiết thuận tiện để lên đường."
Ðức Thế Tôn mỉm cười hỏi Ưu-đà-di:
Cuộc Ðời Ðức Phật 129
"Tại sao ngươi giục ta lên đường, Ưu-đà-di?"
"Bạch Ðúc Thế Tôn, phụ vương Ngài, vua Tịnh-Phạn, sẽ sung sướng
gặp lại Ngài."
Ðức Phật suy nghĩ trong giây lát rồi nói:
"Ta sẽ đến thành Ca-tỳ-la-vệ, ta sẽ về thăm phụ vương ta.”
Cuộc Ðời Ðức Phật 130
TRUYỆN CÒ VÀ CÁ
Khi vua Tần-bà-sa-la hay tin Ðức Thế Tôn sắp rời rừng Trúc-lâm để
lên đường vào dịp nào đó, quốc vương cùng con trai của mình là
hoàng tử A-xà-thế (Ajatasatru) đến viếng Ngài.
Ðức thế Tôn nhìn hoàng tử trẻ tuổi, rồi quay sang quốc vương nói:
"Thưa quốc vương, nguyện cầu A-xà-thế xứng hợp với lòng tin yêu
của ngài."
Ðức Thế Tôn lại chăm chú nhìn hoàng tử, Ngài nói:
"Này A-xà-thế, hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ những lời ta nói. Mưu
mẹo không bao giờ thành công, độc ác không bao giờ thắng thế. Có
một câu chuyện sẽ chứng minh điều đó, một câu chuyện đã xảy ra
cách đây rất lâu, một câu chuyện mà chính ta tai nghe mắt thấy.
Thuở nọ, ta đang cư ngụ trong một khu rừng; ta là mộc thần. Cây đó
mọc giữa hai hồ nước, một hồ nhỏ bé, tầm thường; hồ kia rộng lớn,
xinh đẹp. Hồ nhỏ có nhiều cá; hồ lớn sen mọc đầy. Suốt cả mùa hè
oai bức năm đó, hồ nhỏ hầu như bị khô cạn hoàn toàn, còn hồ lớn,
nhờ bóng sen che nắng, luôn luôn đầy nước và mát mẻ êm đềm. Một
con cò băng ngang giữa hai hồ, thấy cá và dừng lại. Ðứng một chân,
hắn bắt đầu suy nghĩ: "Bọn cá này là một phần thưởng hợp pháp.
Nhưng chúng lanh lắm; nếu ta tấn công ồ ạt, chúng sẽ trốn hết. Ta
phải dùng mưụ Bọn cá khốn nạn thật! Chúng bị khủng hoảng trầm
trọng trong khu hồ cạn nước này! Ðằng kia có một khu hồ khác,
nước sâu và mát, chúng có thể nhởn nhơ bơi lội, mặc sức vẫy vùng!'.
Một cậu cá thấy cò đứng tư lự, trông nghiêm trang như một ẩn sĩ, cá
Cuộc Ðời Ðức Phật 131
hỏi: "Bác đang làm gì đó, thưa bác cò? Dường như bác đang suy
nghĩ gì thì phải.' Cò đáp: "Này cá, ta đang suy nghĩ, vâng, thật vậy,
ta đang suy nghĩ. Ta đang tự hỏi làm sao các cậu và bạn bè các cậu
có thể thoát khỏi phận số đau buồn.' "Bác nói sao? Phận số đau
buồn của chúng cháu ư?' "Này cậu cá khốn nạn! Các cậu đành chịu
chết thê thảm trong hồ nước cạn này. Mỗi ngày, độ nóng càng tăng
bao nhiêu thì mực nước lại càng giảm bấy nhiêu, và rồi việc gì sẽ
xảy đến cho các cậu?Bỡi vì rồi đây nước hồ sẽ khô hết, các cậu sẽ
chết sạch! Bọn các cậu khốn nạn khốn nạn lắm! Ta khóc giùm cho
các cậu đó.'
Nghe cò nói như vậy, bọn cá thất kinh, chúng than: "Việc gì sẽ xảy
đến cho chúng cháu?Khi nào hơi nóng sẽ bốc cạn hồ nước?' Chúng
quay sang cò: "Bác cò, bác cò, bác không thể cứu chúng cháu sao? '
Cò lại giả vờ tư lự; cuối cùng, cò đáp: "Ta tin là ta có cách giải cứu
khốn khổ cho các cậụ' Bọn cá chăm chú lắng nghẹ Cò tiếp: "Gần
đây có một khu hồ tuyệt diệu. Nó lớn hơn nhiều so với khu hồ mà các
cậu đang sống, lá sen phủ kín mặt hồ, làm cho nước hồ mùa hè
không bao giờ cạn. Hãy theo lời ta, hãy sang sống ở hồ đó. Ta có thể
cắp các ngươi trong mỏ của ta, mỗi lần cắp một cậu, và rồi mang
hết đến đó. Thế là tất cả các cậu sẽ được cứu thoát.'
Bọn cá sung sướng. Chúng sắp thuận theo lời đề nghị của cò thì tôm
càng lên tiếng: "Ta không bao giờ nghe theo điều gì quái lạ.' Cá hỏi
tôm: "Có gì làm cậu kinh ngạc thế?' Tôm nói: "Kể từ lúc khai thiên
lập địa, ta biết không bao giờ cò quan tâm đến cá trừ phi hắn định
xơi thịt.' Cò tỏ vẻ bất bình nói: "Cái gì! Mày là loài tôm càng ác
độc, mày nghi tao cố tình đánh lừa bọn cá khốn nạn sắp lâm vào cõi
chết này sao! Này cá, ta muốn cứu các cậu; ta muốn tìm hạnh phúc
cho các cậu. Hãy xem lòng chân thật của ta, nếu các cậu muốn. Hãy
chọn đại một cậu cá nào đó, ta sẽ dùng mỏ cắp nó đến hồ sen. Hắn
sẽ thấy mọi việc; hắn sẽ nhởn nhơ bơi lội một lát rồi ta sẽ đưa nó về
Cuộc Ðời Ðức Phật 132
đây. ' Cá nói: "Ðược thế thì hay quá!' Và để thực hiện cuộc hành
trình sang hồ sen, chúng chọn một cậu cá lớn tuổi, dù mờ mắt nhưng
được coi là khôn ngoan hơn cả. Cò mang cá đến hồ, thả cá xuống
nước, và để cho cá tha hồ bơi lộị Cá già khoái lắm, khi về gặp lại
bạn bè, cá hết lời ca ngợi cò.
Bọn cá giờ đây hoàn toàn tin tưởng và dâng cả mạng sống cho cò.
Chúng nói: "Xin bác cứu chúng cháu, xin đưa chúng cháu đến hồ
sen'. "Chiều ý các cậú cò nói. Thế là cò liền dùng mỏ gắp lại cậu cá
già mờ mắt; lần này thay vì mang cá đến hồ, cò lại thả cá trên mặt
đất và dùng mỏ xé xác nó ra; sau đó cò ăn hết thịt cá, bỏ lai bộ
xương tại một gốc cây, gốc cây mà ta là mộc thần trên đó. Làm xong
công việc, cò trở lại hồ nhỏ nói: "Bây giờ cậu nào sẽ đi với tả' Bọn
cá nóng lòng muốn thấy căn nhà mới, và thế là cò ta tha hồ chọn cá
ngon miệng. Sau đó, từng con từng con cò xơi sạch hồ cá, chỉ còn lại
tôm càng. Tôm càng đã bày tỏ thái độ không tin cò, giờ đây tôm tự
nhủ: "Ta không tin là các bạn cá có thể sống được ở hồ sen đó. Ta e
rằng cò đã lợi dụng lòng tin của cá. Nhưng, điều may mắn cho ta là
ta sẽ giã biệt khu hồ khốn khổ này để đến một khu hồ khác rộng rãi
hơn, thoải mái hơn. Cò phải chở ta, nhưng ta không được liều lĩnh.
Nếu cò lừa đảo kẻ khác thì ta phải trả thù cho chúng' Cò đến gần
tôm nói: "Nào, đến lượt cậụ' Tôm nói: "Bác sẽ chở cháu bằng cách
nàỏ' "Trong miệng bác, như các cậu khác.' Cò đáp. Tôm nói:
"Không, không; vỏ cháu trơn lắm; cháu rất có thể tuột khỏi miệng
bác. Tốt hơn hết là cháu bám chặt chân cháu vào cổ bác; cháu sẽ
cẩn thận, không làm đau bác đâụ' Cò chấp thuận.
Cò đáp xuống một gốc cây. Tôm hỏi: "Bác định làm gì thế? Chúng
ta mới đi được nửa đường. Bác mệt rồi sao? Khoảng cách giữa hai
hồ đâu có rộng lắm!' Cò lúng túng không đáp được. Hơn nữa, tôm
bắt đầu siết chặt cổ cò và gằn giọng nói: "Thứ gì đây! Ðống xương
cá tại gốc cây này là bằng chứng hiển nhiên lòng da. phản phúc của
Cuộc Ðời Ðức Phật 133
mi. Mi sẽ không gạt được ta như đã từng gạt nhiều kẻ khác. Ta sẽ
giết mi, dù ta phải chết trong cuộc đọ sức này. ' Tôm siết chặt râu
càng. Cò đau quá; nước mắt ràn rụa; cò van xin: "Cậu tôm ơi, xin
đừng siết cổ tôi nữa. Tôi sẽ không ăn thịt cậu. Tôi sẽ chở cậu đến
hồ!' "Thế thì đí Tôm nói. Cò đi đến bờ hồ và vương cổ dài trên mặt
nước. Thay vì rơi tỏm xuống hồ, tôm siết chặt cổ cò, râu càng siết
mạnh đến độ cổ cò phải đứt ra. Mộc thần không thể không lên tiếng:
"Hay thay, tôm càng!' ". Ðức Thế Tôn tiếp: "Mưu mẹo không bao
giờ thành công. Ðộc ác không bao giờ thắng thế. Không sớm thì
chầy, cò gian phải gặp tôm càng. Hoàng tử A-xà-thế, hãy luôn luôn
ghi nhớ điều đó!"
Cảm hơn Ðức Thế Tôn đã dạy cho con mình một bài học quí giá,
vua Tần bà sa la nói:
"Bạch Ðức Thế Tôn, con xin nguyện một điều.
"Cho biết xem" Ðức Thế Tôn nói.
"Bạch Ðức Thế Tôn, khi Ngài đi rồi, con sẽ không thể nào kính lễ
Ngài, con sẽ không thể nào thường xuyên cúng dường Ngài, và điều
đó làm con buồn lắm. Xin Ngài cho con một lọn tóc, xin Ngài cho
con vài cộng móng tay, con sẽ tôn trí tất cả trong tháp giữa hoàng
cung của con. Thế là con sẽ giữ được chút gì gọi là một phần thân
thể của Ngài, và mỗi ngày, con sẽ kết hoa tươi, đốt hương quí để
trang hoàng lễ bái trong tháp."
Ðức Thế Tôn biếu tất cả những gì mà Tần-bà-sa-la cầu xin, Ngài
nói:
"Hãy tôn trí tóc và móng tay này trong tháp, nhưng trông tâm con,
hãy ghi nhớ những gì thầy dạy. "
Cuộc Ðời Ðức Phật 134
Vua Tần-bà-sa-la hoan hỷ trở lại hoàng cung, Ðức Thế Tôn lên
đường sang thành Ca-tỳ-la-vệ.
Cuộc Ðời Ðức Phật 135
TRUYỆN VÍT-VAN-TA-RA
Ðức Thế Tôn chậm rãi tiến bước trên đoạn đường dài từ thành
Vương-xá đến thành Ca-tỳ-la-vệ. Ưu-đà-di đi trước để báo tin cho
vua Tịnh-Phạn biết là con trai của ngài đang trên đường về thăm
ngài, như vậy quốc vương sẽ an tâm và hết đau buồn.
Về đến hoàng cung, thấy quốc vương đang vô vàn buồn khổ, Ưu-đàdi
nói:
"Tâu bệ hạ, xin bệ ha. hãy lau sạch nước mắt. Lát nữa đây con trai
của bệ ha. sẽ có mặt tại kinh thành Ca-tỳ-la-vệ."
Quốc vương kêu lên: "Ồ, Ưu-đà-di đó à! Trẫm tưởng là khanh cũng
quên đệ trình thư tín của trẫm nên trẫm cũng hết hy vọng gặp lại
người con yêu quí của trẫm. Nay khanh lại mang tin vui về, trẫm sẽ
không khóc nữa; trẫm sẽ vững tâm chờ đợi phút giây hạnh phúc mà
chính mắt này gặp lại con trẫm.
Quốc vương ra lệnh cúng dường Ưu-đà-di một bữa ngọ trai thịnh
soạn.
Ưu-đà-di nói: "Tâu bệ hạ, bần đạo sẽ không thọ trai ở đây. Trước
khi thọ dụng bất cứ một thực phẩm nào, bần đạo phải biết là Thầy
của bần đạo đã được cúng dường đúng pháp chưa. Bần đạo sẽ trở
lại gặp Bổn Sư của bần đạo."
Quốc vương cả quyết:
"Này Ưu-đà-di, chính lòng trẫm muốn cùng đường vật thực cho
khanh mỗi ngày; và cũng chính lòng trẫm muốn cùng dường vật
Cuộc Ðời Ðức Phật 136
thực cho con trẫm mỗi ngày trong suốt cuộc hành trình mà con trẫm
phải trải qua để làm vui lòng trẫm. Xin thỉnh ngài thọ trai, và trẫm
sẽ dâng thực phẩm cho ngài mang đến cúng dường Ðức Thế Tôn."
Ưu-đà-di thọ trai xong, ngài nhận một bát cơm hảo hạng đem cúng
dường con trai của quốc vương. Ưu-đà-di ôm bát, phóng người lên
như bay, và chỉ trong chốc lát ngài đã đến gặp đức Bổn Sư. Mỗi
ngài sau đó, Ưu-đà-di lại đến hoàng cung của vua Tịnh-Phạn để
nhận thức ăn cho Ðức Thế Tôn, Ngài rất lấy làm hoan hỷ cho tấm
lòng hầu ha. chân thành của đệ tử Ngài.
Cuối cùng, Ngài đến thành Ca-tỳ-la-vệ. Ðể đón rước Ngài, cả dòng
tộc Thích-ca tập trung đông đủ tại một hoa viên rực rỡ. Nhiều người
có mặt hôm đó lại tỏ vẻ hiu hiu tự đắc. Họ nghĩ: "Ở đây có nhiều
người lớn tuổi hơn Tất-đạt-đa! Tại sao họ phải đảnh lễ Ngài? Trẻ
em và nam nữ thanh niên lễ Ngài được rồi; người lớn khỏi phải lễ!"
Ðức Thế Tôn vào công viên. Hào quang rực rỡ từ thân Ngài tỏa ra
làm cho mọi người chói lòa cả mắt. Vô cùng xúc động, vua Tịnh-
Phạn bước tới vài bước, kêu lớn: "Con ơi!" Giọng vua run run;
những giọt nước mắt sung sướng chảy dài xuống hai gò má, quốc
vương từ từ cuối đầu đảnh lễ.
Thấy phụ vương đảnh lễ con mình, cả dòng tộc Thích-ca cũng tự
động cung kính ha. mình thi lễ.
Một chỗ ngồi lộng lẫy đã được chuẩn bị sẵn cho Ðức Thế Tôn. Ngài
ngồi xuống. Bầu trời quang đãng mở ra, những cánh hoa hồng từ
trên không lửng lờ rơi xuống khắp cả hoa viên. Hương thơm ngào
ngạt theo gió vươn xa, vươn khắp cả sơn hà đại địa. Quốc vương và
cả dòng Thích-ca đều trố mắt ngạc nhiên. Ðức Thế Tôn nói:
Cuộc Ðời Ðức Phật 137
"Trong một kiếp xa xưa nào đó, ta đã chứng kiến cảnh gia đình quay
quần chung quanh ta và đồng thanh lên tiếng ca ngợi. Lúc đó, quốc
vương Xan-gia-da (Sanjaya) đang trị vì tại thành Gia-da-tua-ra
(Jayatura). Phu nhân của ngài là Phu-Xa-ti (Phusati). Họ sanh được
một trai tên là Vít-van-ta-ra (visvantara). Khi lớn lên, Vít-vanta-ra
kết hôn với Mát-ri (Madri), một công chúa cực kỳ kiều diễm. Nàng
sanh cho Vít-van-ta-ra hai người con: một trai là Gia-linh (Jalin) và
một gái là Cờ-rít-na-gia-na (Krishnajana). Vít-van-ta-ra có một con
voi trắng đầy đủ phép màu kêu mưa gọi gió theo ý muốn.
Bây giờ, vương quốc Ca-linh-ga (Kalinga) xa xôi kia đang gặp nạn
hạn hán khủng khiếp. Cỏ khô, cây héo; người vật chết đói chết khát.
Quốc vương Ca-linh-ga nghe tin con voi của Vít-van-ta-ra có phép
màu kỳ lạ. Vua phái tám đạo sĩ bà-la-môn đến Gia-da-tua-ra thỉnh
voi về xứ hoạn nạn của họ. Các đạo sĩ Bà-la-môn đến nhằm dịp lễ.
Ngồi trên lưng voi, hoàng tử đang trên đường đến đền thần để phát
phẩm vật bố thí. Thấy sứ giả của nước ngoài, hoàng tử hỏi: "Các
ngươi đến đây có việc gì?' Các đạo sĩ Bà-la-môn đáp: "Kính thưa
hoàng tử, quê hương của chúng tôi, vương quốc Ca-linh-ga, đang bị
hạn hán đói khát. Con voi của hoàng tử có thể mang nước mưa đến
cứu sống chúng tôi; chúng tôi xin mượn voi của hoàng tử ít hôm
được chăng?' Vít-van-ta-ra nói: "Chuyện nhỏ mọn đáng gì, các
ngươi có thể mượn cả mắt lẫn thịt của ta nữa kìa! Vâng, các ngươi
cứ tự nhiên dẫn voi đi, cầu nguyện mưa lành sẽ tưới khắp vườn
ruộng các ngươi!' Hoàng tử trao voi cho các đạo sĩ bà-la-môn, họ
hoan hỷ đưa voi về Ca-linh-ga.
Nhưng dân cư Gia-da-tua-ra lại lo lắng đau buồn; họ sợ hạn hán
xảy ra trên chính quê hương của họ. Họ than phiền với quốc vương
Xan-gia-da: "Tâu bệ hạ, việc làm của con ngài đáng trách lắm. Con
voi của hoàng tử che chở thần dân khỏi chết đói. Nếu trời không
mưa thì giờ đây việc gì sẽ xảy đến cho dân chúng? Tâu bệ hạ, hãy
Cuộc Ðời Ðức Phật 138
mặc xác hoàng tử; hãy để Vít-van-ta-ra đem cả thân mạng ra đền
đáp sự ngu xuẩn này. ' Quốc vương khóc rống lên. Vua cố né tránh
họ bằng những lời hứa hẹn; lúc đầu họ không nghe, nhưng rồi họ
cũng nguôi dần và buộc đày hoàng tử đến một sa mạc sỏi đá xa xôi
nào đó. Quốc vương ép phải nhận lợi. Xan-gia-da nghĩ: "Khi hay tin
bị lưu đày, con ta sẽ đau khổ biết chừng nàọ' Nhưng đây không phải
là trường hợp đáng kể. Vít-van-ta-ra khiêm tốn nói: "Tâu phụ
vương, con sẽ ra đi ngày mai, con sẽ không mang theo một bảo vật
nào cả." Sau đó, hoàng tử đi tìm Mát-ri, vợ chàng. Chàng nói: "Mátri,
anh phải rời khỏi kinh thành này; phụ vương đã đày anh đến một
sa mạc độc địa nào đó, một sa mạc khó bề sống được. Em yêu quí
của anh, đừng theo anh làm gì; em sẽ phải gánh chịu nhọc nhằn thê
thảm; em sẽ phải bỏ lại con thơ; em sẽ phải chết mòn vì cô đơn hiu
hắt. Hãy ở lại đây với các con; hãy ngự trên ngai vàng của em; phụ
vương đày anh chứ đâu phải đày em." Công chúa đáp: "Hoàng tử,
nếu hoàng tử bỏ em lại đây, em sẽ tự sát, và tội ác sẽ nằm tại
ngưỡng cửa ra vào của hoàng tử." Vít-van-ta-ra không biết nói saọ
Ðưa mắt nhìn Mát-ri, chàng ôm chặt lấy nàng, nói: "Vậy thì chúng
ta cùng đi" Mát-ri cảm ơn hoàng tử, nàng tiếp: "Em sẽ đưa các cơn
theo em; em không thể bỏ các con lại đây để chết dần trong hiu
quạnh."
Ngày hôm sau, Vít-van-ta-ra đưa Mát-ri, Gia-linh và Cờ-rít-na-giana
lên một chiếc xe ngựa dọn sẵn, họ giong xe ra khỏi thành, quốc
vương Xan-gia-da và hoàng hậu Phu-xa-ti khóc than thống thiết.
Hoàng tử, vợ và các con đi cách kinh thành rất xa thì gặp một đạo sĩ
bà-la-môn đến gần nói: "Thưa du khách, đây là đường đi Gia-datua-
rả" Vít-van-ta-ra đáp: "Vâng, thế ngài đến Gia-da-tua-ra để làm
gì?" Ðạo sĩ bà-la-môn nói: "Ta từ một nước xa xôi đến đây, ta nghe
tại Gia-da-tua-ra có một hoàng tử độ lượng tên là Vít-van-ta-ra.
Hoàng tử trước kia có một con voi kỳ diệu mà chàng đã tặng cho
quốc vương Ca-linh-ga. Người ta bảo hoàng tử từ ái lắm. Ta muốn
Cuộc Ðời Ðức Phật 139
viếng thăm con người nhân từ độ lượng đó; ta muốn hỏi xin hoàng
tử một điều. Ta biết không ai kêu cầu hoàng tử trong vô vọng". Vítvan-
ta-ra nói với Ðạo sĩ bà-la-môn : "Ta là người mà ngài muốn đi
tìm; ta là Vít-van-ta-ra, con trai của vua Xan-gia-da-đây. Vì ta tặng
con voi của ta cho quốc vương Ca-linh-ga nên phụ vương ta lưu đày
ta. Này đạo sĩ bà-la-môn, ta có thể giúp ngài được gì?" Nghe qua
moị việc , đạo sĩ bà-la-môn than phiền cay đắng. Ðạo sĩ nghẹn ngào
nói: "Thế là họ đánh lừa ta! Ta đã từ nhà ra đi, mang theo biết bao
hy vọng, giờ đây chả được gì, ta phải trở về chứ biết làm sao!" Vítvan-
ta-ra ngắt lời đạo sĩ: "Này đạo sĩ bà-la-môn, hãy bình tĩnh, ngài
không bao giờ kêu cầu hoàng tử Vít-van-ta-ra trong vô vọng đâu".
Hoàng tử mở ngựa trao cho đạo sĩ. Ðạo sĩ bà-la-môn cảm ơn vị ân
nhân và ra đị
Vít-van-ta-ra tiếp tục lên đường. Bấy giờ hoàng tử đích thân kéo xẹ
Sau đó chàng thấy một đạo sĩ bà-la-môn khác từ xa đi tơi, trông
người nhỏ bé, lụ khụ, đầu tóc bạc phơ, miệng răng vàng khè. Ðạo sĩ
hỏi hoàng tử: "Thưa du khách, đây là đường đi Gia-da-tua-rả"
Hoàng tử đáp: "Vâng, thế ngài đến Gia-da-tua-ra để làm gì?" Ðạo
sĩ Bà-la-môn nói: "Ta nghe nói quốc vương của thành đó có một
hoàng tử tên là Vít-van-ta-ra, chàng nhân từ lắm; chàng đã cứu
vương quốc Ca-linh-ga khỏi chết đói, và bất cứ ai cầu xin chàng
điều gì, chàng cũng không bao giờ từ chối. Ta sẽ đến gặp Vít-van-tara,
và ta tin là chàng sẽ không từ chối lời thỉnh nguyện của ta.”
Hoàng tử nói: "Nếu ngài đến Gia-da-tua-ra, ngài sẽ không gặp Vítvan-
ta-ra; phụ vương chàng đã đày chàng ra sa mạc." Ðạo sĩ bà-lamôn
rú lên: "Ðau buồn cho ta rồi! Ai sẽ giúp ta trong tuổi già sức
yếu nàỷ vậy là bao nhiêu hy vọng đều tan biến cả, ta sẽ về lại căn
nhà nghèo khổ như khi cất bước ra đi!" Ðạo sĩ khóc sướt mướt. Vítvan-
ta-ra nói: "Ðừng khóc nữa, ta là người mà ngài muốn tìm. Ngài
không gặp ta trong vô vọng. Mát-ri, Gia-linh, Cờ-rít-na-gia-na, hãy
xuống xe! Nó không phải là của ta nữa. ta đã biếu nó cho cụ ông
Cuộc Ðời Ðức Phật 140
này. " Ðạo sĩ bà-la-môn vô cùng sung sướng.
Bốn người lưu đày lại tiếp tục cuộc hành trình. Giờ đây họ phải đi
bộ, và khi các con thấm mệt, Vít-van-ta-na cõng Gia-linh. Mát-ri bế
Cờ-rít-na-gia-na. Một vài ngày sau, họ lại gặp một đạo sĩ bà-la-môn
thứ ba. Ðạo sĩ cũng đang trên đường đến Gia-da-tua-ra để gặp
hoàng tử Vít-van-ta-ra và xin của bố thí. Hoàng tử cởi hết y phục
biếu đạo sĩ để đạo sĩ khỏi phải ra về với hai bàn tay trắng. Hoàng tử
lại tiếp tục đi. Một đạo sĩ bà-la-môn thứ tư đến, người ngợm đen
nám, gương mặt trông hách dịch, dữ tợn. Hắn gắt gỏng nói: "Ðây là
đường đến Gia-da-tua-ra phải không?" Hoàng tử đáp: "Vâng, thế
ngài đến Gia-da-tua-ra để làm gì?" Vị đạo sĩ bà-la-môn muốn gặp
Vít-van-ta-ra, chàng chắc chắn sẽ bố thí cho đạo sĩ một phẩm vật
tuyệt diệu. Khi biết là mình đang đứng trước mặt hoàng tử bị lưu
đày khốn khổ, chả khóc than kể lễ, đạo sĩ cất giọng giận dữ nói: "Ta
từ xa lặn lội đến đây, điều đó hẳn không phải là vô ích. Ngươi hẳn
đã mang theo nhiều châu báu, hãy đưa hết cho ta.” Mát-ri đang đeo
một chiếc vòng vàng, Vít-van-ta-ra hỏi xin nàng chiếc vòng; nàng
tươi cười đưa chàng chiếc vòng, tên đạo sĩ bà la môn chụp lấy và đi
mất.
Vít-van-ta-ra, Mát-ri, Gia-linh và Cờ-rít-na-gia-na tiếp tục lên
đường. Họ vượt qua biết bao ghềnh thác tuôn tràn khủng khiếp; họ
bám xuống những vực sâu phủ đầy bụi gai chằng chịt; họ băng qua
những gò hoang sỏi đá nắng cháy chang chang. Ðôi chân của Mátri
bị đá sỏi cắt xẻ tan tành; hai gót của Vít-van-ta-ra mòn loét tới
xương, họ đi đến đâu là để lại một lằn máu đến đó. Một hôm, vítvan-
ta-ra đi đầu, nghe tiếng người sụt sùi nức nở; chàng quay lại và
thấy Mát-ri đang ngồi bệt xuống đất, khóc than thương tủi cho thân
phận nàng. Bắt gặp cảnh thống khổ, chàng nói: "Em yêu quí của
anh, anh đã van xin em đừng theo anh đi đày, nhưng em không nghẹ
Ði, đứng dậy; dù mệt mỏi đến đâu chúng mình cũng đừng để cho các
Cuộc Ðời Ðức Phật 141
con phải khổ; đừng bận tâm đến những vết thương của chúng mình
làm gì". Mát-ri thấy chân của chàng chảy máu, nàng rú lên: "Ồ, anh
đau đớn hơn em nhiều! Em sẽ khắc phục đau khổ. Nàng cố đứng lên
nhưng tay chân nàng bủn rủn, một lần nữa, nàng lại bật khóc trong
nghẹn nghèo ai oán." Tất cả sức lực trong ta đã hao mòn hết rồi,
ngay cả tình thương ấp ủ của chồng con ta cũng không đủ giúp ta
can đảm. Ta sẽ chết đói chết khát trên mảnh đất khủng khiếp này;
con ta sẽ chết, và có lẽ chồng ta cũng sẽ chết.
Từ thiên giới, Ðế-thích luôn luôn theo dõi Vít-van-ta-ra và gia đình
chàng. Vô cùng xúc động trước cảnh khốn khổ của Mát-ri, Ðế-thích
quyết định giáng trần, cải dạng thành một ông lão vui tính và ngồi
trên lưng con tuấn mã phi như bay đến gặp hoàng tử. Ông lão tới
gần Vít-van-ta-ra và ôn tồn nói: "Kính thưa hoàng tử, theo vóc dáng
của ngài thì rõ ràng là ngài đã trải qua nhiều gian khổ. Cách đây
không xa có một thành phố. Lão sẽ chỉ đường cho hoàng tử. Gia
đình hoàng tử phải đến trọ nhà lão và có thể ở lại bao lâu cũng
được." Ông lão hoan hỷ giục bốn kẻ lưu đày lên ngựa. Vít-van-ta-ra
tỏ vẻ do dự, ông lão nói: "Ngựa này khỏe lắm, quí vị nặng là bao!
Phần lão, lão sẽ đi bộ chả hề gì, chúng ta đâu phải đi xa." Vít-vanta-
ra ngạc nhiên nghe nói thành phố được xây dựng trên sa mạc tàn
nhẫn này; hơn nữa, chàng chưa bao giờ nghe nói đến thành phố.
Nhưng giọng nói của cụ ngọt ngào và Mát-ri yếu đến nỗi chàng phải
quyết định đưa cả vợ con lên ngựa theo lời cụ.
Họ đi khoảng ba trăm bước thì thấy một thành phố huy hoàng xuất
hiện trước mặt. Thành phố rộng bao la. Một con sông lớn chảy qua
thành phố với nhiều vườn hoa xinh đẹp và nhiều vườn cây trái chín
đầy cành. Ông lão đưa du khách đến các cổng chính của một tòa lâu
đài lộng lẫy và nói: "Ðây là nhà lão; ở đây, nếu quí vị muốn, quí vị
có thể lưu lại suốt đời. Xin mời vào.” Trong một căn phòng nguy
nga rộng lớn. Vít-van-ta-ra và Mát-ri ngồi trên ngai vàng; dưới
Cuộc Ðời Ðức Phật 142
chân, các con đang nô đùa trên những tấm thảm dày sặc sỡ, ông lão
biếu họ rất nhiều xiêm y xinh đẹp. Sau đó, những thức ăn thịnh soạn
được dọn lên, cơn đói của họ nhờ thế mà dịu dần. Nhưng Vít-van-tara
cứ trầm tư suy nghĩ mãi. Bỗng nhiên, chàng đứng phắt dậy, ngõ
lời với ông lão: "Thưa cụ, thế này là cháu bất tuân mệnh lệnh của
phụ vương cháu. Phụ vương trục xuất cháu ra khỏi vương quốc Giada-
tua-ra, bắt cháu sống trọn đời trên sa mạc, không được thọ dụng
những tiện nghi thoải mái này, cháu không được phép. Thưa cụ, cho
phép cháu rời khỏi nhà cụ." Ông lão cố thuyết phục chàng, nhưng vô
ích; Vít-van-ta-ra, theo sau là Mát-ri và các con lên đường giã từ
thành phố.
Ra ngoài cổng thành, chàng quay lại nhìn thành phố lần cuối, nhưng
thành phố đã biến mất; nơi đó bấy giờ chỉ còn là bãi sa mạc nóng
cháy. Vít-van-ta-ra sung sướng thấy mình không còn ở lại lâu hơn
nữa. Chàng đến một ngọn núi, chung quanh toàn là rừng đồi bao la,
chàng bắt gặp một túp lều của một ẩn sĩ nào đó xưa kia cư ngụ.
Bằng lá cây, chàng làm một chiếc giường con nho nhỏ cho cả gia
đình; sau cùng, không còn gì ân hận dày vò, chàng đã tìm thấy cảnh
an lạc tại đó. Hằng ngày, Mát ri vào rừng hái trái, họ ăn toàn trái
rừng, họ uống toàn nước suối, một con suối tuôn chảy trong veo mà
họ đã khám phá bên cạnh túp lều của họ.
Bảy tháng trôi qua, họ chả gặp một người nào; rồi một hôm, một
đạo sĩ bà-la-môn đi ngang qua. Mát-ri đã vào rừng hái trái, Vít-vanta-
ra ở nhà chăm sóc các con đang đùa nghịch trước lều. Vị đạo sĩ
bà-la-môn dừng lại quan sát họ rất kỹ. Ðạo sĩ nói với người cha:
"Thưa bạn, bạn vui lòng cho ta xin các cháu được chăng?" Vít vanta-
ra kinh ngạc đến nỗi không nói nên lời. Chàng lo sợ, đưa mắt
nhìn đạo sĩ và rồi tiếp chuyện với người: "Vâng, bạn vui lòng cho ta
xin các cháu được chứ? Ta có một cô vợ trẻ hơn ta nhiều, đúng ra
nàng là một người đàn bà hách dịch. Nàng lười làm công việc gia
Cuộc Ðời Ðức Phật 143
đình, nàng bắt ta tìm cho nàng hai em nhỏ có thể làm nô lệ cho
nàng. Bạn không cho ta xin các cháu thì để làm gì? Hình như bạn
nghèo khổ lắm; bạn phải vất vả lắm mới nuôi nổi chúng. Ở nhà ta,
chúng sẽ có nhiều thức ăn, và ta sẽ cố thuyết phục vợ ta đối xử tử tế
với chúng được chừng nào hay chừng đó." Vít-van-ta-ra ngẫm nghĩ:
"Ta đang bị đòi hỏi một sự hy sinh vô cùng đau đớn. Ta biết làm sao
bây giờ? Dù vị đạo sĩ có nói gì đi nữa thì con mình cũng sẽ chịu
nhiều đau khổ ở nhà họ; vợ của hắn độc ác lắm, mụ ấy sẽ đánh đập
con mình, mụ sẽ thí cho con mình những thức ăn thừa thãi. Nhưng vì
ngài đã hỏi xin con mình, ta có quyền từ chối không?" Suy nghĩ kỹ
trong giây lát, cuối cùng chàng nói: "Này đạo sĩ bà-la-môn, hãy đem
các cháu đi; hãy đưa các cháu đi; hãy đưa các cháu về làm nô lệ
cho vợ ngài." Gia-linh và Cờ-rít-na-gia-na òa lên khóc, mếu máo
theo vị bà-la-môn ra đị
Mát-ri trong lúc đó đang hái lựu, nhưng cứ mỗi lần hái được một
trái thì nó lại tuột khỏi tay nàng. Ðiều này làm nàng lo sợ, nàng hối
hả trở về. Nàng thương nhớ các con; nàng quay sang chồng hỏi:
"Các con đâủ" Vít-van-ta-ra đang nghẹn ngào nức nở. "Các con
đâủ" Vẫn không trả lời. Nàng hỏi lại lần thứ ba: "Các con đâủ"
Nàng nói tiếp: "Trả lời, trả lời mau. Sự im lặng của anh là giết chế
em đó." Bằng một giọng đau thương, Vít-van-ta-ra nói: "Có một đạo
sĩ bà la môn đến, ngài muốn xin các con về làm nô lệ! Anh đã cho
các con theo ngài rồi!" Mát-ri kêu lên : "Em có thể từ chối được
không?" Mát-ri té xỉu, nàng bất tỉnh. Một hồi lâu, sau khi tỉnh lại,
nàng kêu khóc nghe não nuột vô vàn. Nàng nhớ thương kể lể: "Con
ơi, con sẽ làm mẹ đêm đêm giật mình thức giấc; mẹ đã chọn hái cho
con những trái ngon đặc biệt, tên ác độc đó đã đem con đi rồi! Con
vừa lững chững biết đi thì mẹ thấy họ bắt con phải chạy. Ở nhà họ,
các con sẽ đói khát, các con sẽ bị đánh đập tàn nhẫn. Các con sẽ
phục dịch trong nhà của một kẻ xa lạ. Các con sẽ lén nhìn ra đường
nhưng không bao giờ gặp lại mẹ cha. Môi các con sẽ bị khô héo,
Cuộc Ðời Ðức Phật 144
chân các con sẽ bị đau tê vì đá nhọn cắt xẻ; sức nóng của mặt trời sẽ
làm nám cả mặt mũi các con. Con ơi, mẹ cha lúc nào cũng chịu
đựng gian khổ cho con. Cha mẹ đã mang con qua vùng sa mạc hãi
hùng này, lúc đó các con đâu có khổ đau, nhưng giờ đây, việc gì sẽ
làm cho các con đau khổ?"
Trong khi nàng đang vật vã than khóc thì có một đạo sĩ bà-la-môn
khác ngang qua rừng, một cụ ông đi đứng quờ quạng. Ðạo sĩ giương
đôi mắt lèm nhèm nhìn công chúa rồi quay sang bắt chuyện với
hoàng tử Vít-van-ta-ra; "Thưa hoàng tử, như ngài thấy, lão già nua
yếu đuối; lão không có ai ở nhà để sớm hôm giúp lão; lão thức ngủ
một mình; lão chả có con trai con gái gì chăm sóc lãọ Nào, cô này
còn trẻ, nàng trông khỏe mạnh lắm, cho lão xin cô này về làm nàng
hầu. Nàng sẽ đỡ lão thức dậy; nàng sẽ dìu lão đi ngủ; nàng sẽ canh
chừng giấc ngủ cho lãọ Thưa hoàng tử, cho lão xin cô này, và như
vậy là hoàng tử sẽ làm được một việc từ thiện, một việc thánh thiện,
một nghĩa cử sẽ được mọi người ca ngợi khắp thế giới". Vít-van-tara
chăm chú lắng nghe; chàng đắn đo suy nghĩ. Chàng nhìn sang
Mát-ri: "Em yêu quí, em nghe đạo sĩ bà-la-môn nói chứ? Em tính
sao? " Nàng đáp: "Anh đã cho đứt hai con Gia-linh và Cờ-rít-nagia-
na yêu quí rồi, anh có thể bố thí nốt em cho vị đạo sĩ này; em sẽ
không than phiền gì cả."
Vít-van-ta-ra cầm tay Mát-ri đặt vào tay của vị đạo sĩ bà-la-môn.
Chàng không thấy một chút gì ân hận. Chàng chả hề rơi một giọt
nước mắt. Ðưa tay đón nhận người phụ nữ, đạo sẽ bà-la-môn cảm
ơn hoàng tử và nói: "Này Vít-van-ta-ra, nguyện cầu ngài sớm tỏ ngộ
sự huy hoàng cao quí; nguyện cầu ngày kia ngài sẽ thành Phật!"
Ðạo sĩ bà-là-môn ra đi, nhưng đột nhiên ngài quay trở lại nói: "Ta
sẽ tìm nàng hầu ở một xứ khác; ta sẽ gởi cô này ở lại đây với các
thiên thần thánh nữ của núi rừng sông suối; từ nay về sau, ngài
không được biếu nàng cho ai nhé!" Trong khi ông lão bà-la-môn nói
Cuộc Ðời Ðức Phật 145
như vậy thì sắc diện dần dần biến đổi và đẹp hẳn ra, khuôn mặt của
ông lão giờ đây hiện rõ nét hân hoan rạng rỡ.
Vít-van-ta-ra và Mát-ri nhận ra thiên chủ Ðế-thích. Họ sụp lạy dưới
chân ngài; Thiên-chủ nói với họ: "Các ngươi có thể cầu xin ta mỗi
người một điều, ta sẽ ban ân huệ cho các ngươi". Vít-van-ta-ra nói:
"Ồ, nguyện cầu ngày kia con có thể thành Phật để mang sự giải
thoát đến cho những ai bị tử sinh thống khổ trong chốn núi rừng!"
Thiên-chủ đáp: "Nguyện cầu ngươi sớm được huy hoàng, nguyện
cầu ngày kia ngươi sẽ thành Phật!" Mát-ri tiếp lời: "Bạch ngài, xin
ban cho con ân huệ này: Nguyện cầu đạo sĩ bà-la-môn, người đã xin
con chúng con, quyết định bán chúng thay vì giữ chúng trong nhà,
nguyện cầu đạo sĩ tìm được người mua ở xứ Gia-da-tua-ra, và
nguyện cầu ngươi mua chính là Xan-gia-dạ" Thiên-chủ đáp: "Ðược
rồi!" Thiên-chủ thăng thiên. Mát-ri thì thầm: "Ồ, nguyện cầu quốc
vương Xan-gia-da ân xá cho con trai ngài!" Nàng nghe thiên thần
nói: "Ðược rồi!"
Ngay lúc đó. Gia-linh và Cờ-rít-na-gia-na về đến căn nhà mới của
chúng. Vợ của đạo sĩ bà la môn rất hài lòng với hai em bé nô lệ này.
Mụ bắt chúng làm việc ngay. Mụ hí hửng ra lệnh. Các em phải vâng
theo tính khí bất thường không đâu vào đâu của mụ, nhưng mụ là
mụ chủ khắt nghiệt đến nỗi mới đó mà chúng chả còn một chút thiện
chí nào làm hài lòng mụ. Mụ thường xuyên chửi mắng đánh đập
chúng. Mụ càng đối xử chúng tàn tệ bao nhiêu thì chúng càng cảm
thấy chán nản vô vọng bấy nhiêu, cuối cùng mụ nói với đạo sĩ: "Tôi
không cần hai đứa nhỏ này nữa. Hãy bán chúng đi và kiếm cho tôi
vài đứa khác, những tên nô lệ biết cách làm việc và vâng lời kìa".
Ðạo sĩ bà-la-môn dẫn hai đứa nhỏ đi lang thang từ thành phố này
đến thành phố khác, cố bán cho được chúng, nhưng chả ai chịu
mua: giá cao quá.
Cuộc Ðời Ðức Phật 146
Sau cùng, vị ấy đến Gia-da-tua-ra. Một trong các quan ngự sử của
quốc vương thấy họ lang thang trên đường phố, ông chăm chú nhìn
hai em bé, nhìn thân hình tìu tụy và mặt mày rám nắng của chúng,
bỗng nhiên, nhờ hai đôi mắt mà ông nhận ra chúng. Ông chận vị
đạo sĩ bà-la-môn lại hỏi: "Ngài được hai em bé này ở đâủ" Ðạo sĩ
đáp: "Thưa ngài, tôi được chúng trong một khu rừng. Người ta biếu
chúng cho tôi đem về làm nô lệ; chúng ngỗ ngáo lắm, tôi đang đem
bán chúng đó." Quan ngự sự đâm ra lo nghĩ, quay nhìn hai em bé,
quan hỏi: "Cha các cháu mất rồi sao mà các cháu phải chịu cảnh nô
lệ thế nàỷ" Gia-linh đáp: "Thưa không ạ! Cha mẹ chúng cháu còn
sống, nhưng cha bố thí chúng cháu cho đạo sĩ bà-la-môn này. "
Quan ngự sử kêu to lên: "Quốc vương ơi, Vít-van-ta-ra đã cho đứt
cháu nội của ngài, Gia-linh và Cờ-rít-na-gia-na, cho một đạo sĩ bàla-
môn rồị Chúng làm nô lệ cho y. Y không hài lòng với công việc
hầu ha. của chúng nên đem chúng dạo bán từ thành phố này đến
thành phố khác." Quốc vương Xan-gia-da-ra lệnh đưa đạo sĩ bà-lamôn
và hai em nhỏ đến gặp ngài ngay. Chúng được nhận diện liền.
Thấy cảnh khốn khổ của hai em bé thuộc dòng tộc mình, quốc vương
khóc than thê thảm. Gia-linh ngõ lời van xin: "Tâu quốc vương, xin
mua giùm chúng cháu, chúng cháu vô vàn cực khổ trong nhà của
đạo sĩ bà-la-môn, chúng cháu muốn ở với ngài, ngài sẽ thương yêu
chúng cháu. Nhưng xin đừng bắt chúng cháu bằng quyền lực; cha
cháu biếu chúng cháu cho đạo sĩ bà-la-môn và mong rằng nhờ sự hy
sinh đó mà cha chúng cháu sẽ được nhiều phước đức cho bản thân
và cho cả chúng sanh." Quốc vương hỏi đạo sĩ bà-la-môn: "Ngươi
muốn bán hai em bé này bao nhiêủ" Ðạo sĩ bà-la-môn đáp: "Với
chúng thì xin quốc vương cho một ngàn đầu bò". "Tốt lắm". Quốc
vương quay sang quan ngự sử nói: "Giờ đây khanh sẽ là người đứng
sau trẫm ở vương quốc này, hãy biếu đạo sĩ bà-la-môn này một ngàn
đầu bò và trả thêm cho y một ngàn nén vàng." Sau đó quốc vương,
theo sau là Gia-linh và Cờ-rít-na-gia-na, đến gặp hoàng hậu PhuCuộc
Ðời Ðức Phật 147
xa-tị Vừa trông thấy cháu nội, bà sung sướng đến khóc cười lẫn lộn.
Bà mặc y phục sang trọng cho chúng và đeo cho chúng nhiều vòng
nhẫn xinh đẹp. Bà hỏi cha mẹ chúng. Gia linh đáp: "Cha mẹ chúng
cháu sống trong rừng, ở trong một túp lều sơ sài trên một sườn núi.
Cha mẹ chúng cháu bố thí hết sạch tài sản rồi. Cha mẹ chúng cháu
sống nhờ trái cây và nước suối, bạn bè thân thích toàn là dã thú
trong rừng." Phu-xa-ti kêu lên: "Hoàng thượng ơi, sao hoàng
thượng không gọi con của hoàng thượng bị lưu đày về!" Vua Xangia-
da phái một sứ thần đến gặp hoàng tử Vít-van-ta-ra; quốc
vương xin lỗi hoàng tử và lệnh cho hoàng tử về Gia-da-tua-ra gấp.
Khi về gần đến thành, hoàng tử nhìn thấy phụ vương, mẫu hậu và
các con ra đón chàng; theo sau là một đám đông dân chúng đã nghe
nói đến cảnh khốn khổ tột cùng và đức hạnh kỳ diệu của Vít-van-tara,
họ hỷ xả tất cả và ca ngợi chàng hết lời. Quốc vương nói với
hoàng tử: "Con yêu quí của cha, cha đã làm một việc bất công
nghiêm trọng với con; mong con hiểu cho cha sự ân hận này; mong
con thương cha: hãy quên đi lỗi lầm nông nổi của cha; mong con
cảm thương dân chúng kinh thành: hãy quên đi lối cư xử tệ bạc của
họ với con. Những nghĩa cử từ ái của con sẽ không bao giờ làm
phiền lòng cha và dân chúng nữạ" Vít-van-ta-ra sung sướng ôm lấy
phụ vương, trong khi Mát ri ôm chặt lấy Gia Linh và cờ- rít-na-giana,
còn Phu-xa-ti vui mừng đến bật khóc. Khi hoàng tử ngang qua
các cổng hoàng thành, chàng được mọi người đồng thanh ca ngợi.
Này bà con dòng tộc Thích-ca, ta là Vít-van-ta-ra đây! Quí vị vẫn
tán thán ta như ngày nàọ Hãy lên đường đi đến giải thoát."
Ðức Thế Tôn im lặng. Cả dòng tộc Thích-ca chăm chú lắng nghẹ Họ
đảnh lễ Ngài và xin cáo lui. Nhưng chả ai nghĩ đến việc cúng dường
ngọ trai ngày mai cho Ngài.
Cuộc Ðời Ðức Phật 148
TRUYỆN ÐẠT-MA-BA-LA
Ngày hôm sau, Ðức Thế Tôn vào thành khất thực từng nhà. Dân
chúng kinh thành Ca-tỳ-la-vệ nhận ra Ngài và cùng nhau ca ngợi:
"La. thay! Hoàng tử Tất-đạt-đa xưa kia ăn mặc sang trọng, dong xe
qua kinh thành này, nay lại quấn y sa môn bình dị, đó đây khất thực
từng nhà."
Họ đổ xô đến các cửa sổ, leo lên các sân thượng, trầm trồ thán phục
người khất sĩ.
Một trong những thị nữ của Da-du vừa ra khỏi hoàng cung thì nghe
lời tán thán xôn xaọ Nàng hỏi nguyên do và được mọi người cho
biết. Nàng tức tốc trở về báo tin cho công chúa.
Nàng nói: "Tâu công nương, phu quân của công nương, hoàng tử
Tất-đạt-da, đang ung dung đây đó trong thành như một sa môn khất
thực!"
Giật mình, Da-du suy nghĩ: "Xưa kia chàng lộng lẫy trong ánh châu
báu ngọc ngà, nay chàng lại khiêm tốn trong bộ y phục bình dị, nay
chàng lại rực rỡ trong ánh hào quang thiêng liêng." Nàng thì thầm:
"Chàng tuyệt diệu quá!"
Nàng leo lên sân thượng hoàng cung. Với nhiều người vây quanh,
Ðức Thế Tôn đang từ từ tiến đến gần. Nét uy nghi đường bệ từ thân
Ngài tỏa ra, Da-du sung sướng đến run người, nàng cất lời nồng
nàn ca ngợi:
Cuộc Ðời Ðức Phật 149
"Ôi mái tóc bóng ngời mềm mại,
Vầng trán kia rực ánh mặt trời,
Ðôi mắt người rạng rỡ tươi vui,
Chân nhẹ bước như sư tử giữa nắng vàng êm dịu!"
Nàng đến gần phụ vương tâu:
"Tâu phụ vương, con trai của phụ vương đang khất thực trong thành
Ca-tỳ-la-vệ. Có một đám đông người thán phục đang lần theo Ngài,
Ngài đẹp hơn bao giờ hết."
Tịnh-Phạn sửng sốt. Quốc vương rời khỏi hoàng cung, đến gần con
nói:
"Ngài đang làm gì vậỷ Tại sao Ngài phải khất thực? Hẳn Ngài phải
biết là trẫm đang mong Ngài tại hoàng cung, Ngài và cả đệ tử của
Ngài."
Ðức Thế Tôn đáp: "Ta phải khất thực; ta phải vâng theo giáo pháp."
Quốc vương nói: "Ta là dòng Sát-đế-lợi; chưa bao giờ dòng tộc
Thích-ca lại có người khất thực?"
"Phụ vương thuộc dòng họ Thích-ca; còn ta, trong những tiền kiếp
xa xưa, ta đã chứng đắc vô thượng bồ đề; ta đã nhận ra vẻ đẹp của
tâm từ bi; ta đã hiểu rõ nguồn vui cả lòng tự dâng hiến. Khi ta là
đứa bé Ðạt-ma-ba-la (Dharmapala), hoàng hậu mẹ ta, một hôm
đang cùng ta chơi đùa, quên chào phụ vương, quốc vương Bra-mađát-
ta (Brahmadatta) khi ngài đi qua. Ðể trừng phạt hoàng hậu,
ngài ra lệnh cho một trong các vệ binh chặt đứt hai tay ta, ngài nghĩ
làm thế mẹ ta sẽ đau đớn thấy ta đau khổ còn hơn chính bà chịu đau
khổ. Mẹ ta van xin quốc vương, bà nguyện hiến hai tay bà để thay ta,
Cuộc Ðời Ðức Phật 150
nhưng ngài vẫn khăng khăng tàn nhẫn, ngài vẫn ban lệnh thi hành.
Ta vui vẻ như thường, mẹ ta thấy thế cũng hoan hỷ theọ Thế là phụ
vương ta ra lệnh vệ binh chặt đứt hai chân ta. Chặt xong, ta vẫn tươi
cười. Quốc vương nổi giận hét lên: "Hãy cắt đầu nó ra!" Thất kinh,
mẹ ta quì mọp trước mặt phụ vương, bà van xin: "Tâu hoàng
thượng, xin cắt đầu thiếp, xin tha mạng cho con ngài!" Quốc vương
sắp bác lời thì bằng giọng nói thơ ngây, ta lên tiếng: "Mẹ ơi, chính
vì sự giải thoát của mẹ mà con dâng trọn cả đầu này. Khi con chết
rồi, hãy vất xác con trên đường; hãy phơi nó trần trần ra đó; hãy để
nó làm mồi cho chim trời." Và khi tên đao phủ tóm lấy tóc ta, ta nói
tiếp: "Ồ, thế là con có thể thành Phật, con có thể giải thoát cho tất
cả những ai bị sanh tử trên đời! Và giờ đây, hỡi quốc vương Tịnh-
Phạn, rốt cuộc ta đã đạt đến trí tuệ; ta là Phật; ta biết đường dẫn
đến giải thoát. Ðừng than phiền việc làm của ta. Hãy tỉnh giấc; hãy
sáng suốt; hãy noi theo con đường đức hạnh cao quí. Ai sống đời
thánh thiện, người ấy có giấc ngủ an lành, dù ngủ trên mặt đất hay
ngủ ở những thế giới đâu đâu. "
Quốc vương Tịnh-Phạn thán phục đến rơi lệ. Ðức Phật tiếp:
"Hãy biết phân biệt đâu là đức hạnh chân chính và đâu là đức hạnh
hư ngụy. Hãy biết đâu là chánh đạo và đâu là tà đạọ Ai sống đời
thánh thiện, người ấy có giấc ngủ an lành, dù ngủ trên mặt đất hay
ngủ ở những thế giới đâu đâu!"
Sụp lạy dưới chân Phật, quốc vương xin hết lòng tín ngưỡng theo
Ngài. Ðức Thế Tôn hoan hỷ trở về hoàng cung và ngồi vào bàn của
phụ vương mình.
Cuộc Ðời Ðức Phật 151
ÐỨC HẠNH CAO QUÍ CỦA DA-DU
Bấy giờ tất cả phụ nữ ở hoàng cung đều đến đảnh lễ Ðức Thế Tôn.
Chỉ có Da-du là vắng mặt. Quốc vương tỏ vẻ ngạc nhiên. Ma-ha-baxà-
ba-đề hỏi: "Thiếp đã bảo nàng cùng đi", nàng đáp: "Con sẽ
không đi với mẹ, con thiếu duyên thiếu đức; con không xứng đáng
gặp mặt chồng con. Nếu con không làm gì lầm lỗi, chồng con sẽ đích
thân đến gặp con, và rồi con sẽ kính lễ chồng con đúng phép. "
Ðức Thế Tôn rời khỏi chỗ ngồi, đi thẳng đến phòng Da-dụ Nàng đã
vất hết y phục sang trọng, cởi bỏ các tấm màn the, ném cả kiềng
vòng châu báu; nàng khoác một chiếc áo choàng màu ngà may bằng
vải thô. Thấy nàng trang phục như vậy, Ðức Thế Tôn vui cười hoan
hỷ. Nàng sụp lễ dưới chân Ngài.
Nàng nói: "Ngài thấy đó, thiếp muốn mặc y phục như Ngài mặc,
thiếp muốn sống như Ngài sống. Ngài ăn một bữa một ngày, thiếp
dùng mỗi ngày một bữa. Ngài không ngủ trên giường; nhìn quanh
xem: chả có giường chiếu gì cả, thiếp ngủ trên chiếc băng này. Từ
đây, thiếp sẽ không cần hương thơm, thiếp sẽ không cài hoa lên mái
tóc thiếp nữạ"
Ðức Thế Tôn đáp: "Da-du, ta đã thấy đức hạnh cao quí của nàng,
nàng không thiệt đâu, ta tán thán đức hạnh của nàng lắm. Có bao
nhiêu phụ nữ trên thế gian này đã dũng mãnh như nàng?"
Ðức Thế Tôn ngồi xuống, nói:
"Phụ nữ khó tin lắm. Trong số hơn cả ngàn người ngu si ác độc thì
may ra mới có một người thông minh đức hạnh. Phụ nữ bí hiểm hơn
cả lộ trình của cá lội dưới nước; họ tàn nhẫn như kẻ cướp, họ lường
Cuộc Ðời Ðức Phật 152
gạt như kẻ cướp; họ ít khi nói thật, vì đối với họ, láo là thật, và thật
là láọ Ta thường khuyên đệ tử ta hãy tránh xa phụ nữ. Thấy họ tiếp
chuyện với phụ nữ là ta khó chịu rồi. Còn nàng, này Da-du, nàng
không giả dối; ta tin tưởng đức hạnh của nàng. Ðức hạnh là hoa
hương không phải dễ tìm; phụ nữ phải có đôi tay sạch để nắm giữ
đức hạnh. Ma-vương che giấu tên nhọn dưới hoa; ồ, biết bao phụ nữ
yêu hoa bạc ác, hoa gây thương tích không bao giờ lành! Phụ nữ
khốn nạn thay! Hình hài chỉ là bọt bèo, họ đâu nhận ra điều đó. Họ
bám chặt vào cõi đời này, rồi ngày ấy đến thì tử thần kéo họ ra đi.
Hình hài mong manh hơn cả ảo vọng. Ai nhận ra điều đó, người ấy
sẽ bẻ gãy những mũi tên hoa của Ma-vương; ai nhận ra điều đó,
người ấy sẽ không bao giờ gặp mặt tử thần. Thần chết sẽ lôi người
phụ nữ vô ý hái hoa như cơn nước lũ, do bão tố dâng lên, cuốn
phăng cả ngôi làng đang mê ngủ. Này cô, hãy hái hoa, hãy thưởng
thức màu sắc của chúng, hãy ngửi trọn hương vị của chúng; thần
chết đang rình rập cô đó; trước khi cô được thõa mãn thì thần chết
đã mang cô đi rồi. Hãy như con ong kìa; nó bay từ hoa này đến hoa
khác, chỉ lấy mật ngọt chứ không làm tổn thương hương sắc của một
hoa nào.
Cuộc Ðời Ðức Phật 153
NAN-ÐÀ KHƯỚC TỪ VƯƠNG VỊ
Từ khi Tất-đạt-đa ra đi xuất gia, vua Tịnh-Phạn đã chọn Nan-đà
(Nanda), một trong những người con trai khác, kế vị vua lên ngôị
Nan-đà sung sướng nghĩ rằng một ngày kia chàng sẽ là quốc vương,
sung sướng hơn nữa là chàng nghĩ đến cuộc hôn lễ sắp tới với công
chúa Tôn-đà-lị (Sundarika), một Tôn-đà-lị xinh đẹp mà chàng thiết
tha yêu quí.
Ðức Thế Tôn lo sợ cho em mình; Ngài sợ cho Nan-đà sẽ lạc vào ác
đạọ Một hôm, Ngài đến gặp Nan-đà và nói:
"Này Nan-đà, ta đến với ngươi vì ta biết ngươi đang sung sướng
lắm. Ta muốn nghe chính miệng ngươi trình bày nguyên do của sự
sung sướng đó. Này Nan-đà, nói đi, hãy bộc lộ hết tâm tình cho ta
biết."
Nan-đà đáp: "Thưa tôn huynh, em nói ra không biết tôn huynh có
hiểu cho chăng, tôn huynh đã từ bỏ vương vị, tôn huynh đã cắt đứt
ái ân với Da-du!"
"Này Nan-đà, ngươi mong ngày kia ngươi sẽ là quốc vương, thì ra
nguyên do sung sướng là thế!"
"Vâng, điều sung sướng hơn nữa là em yêu Tôn-đà-lị, Tôn-đà-lị mai
đây sẽ là hôn thê của em."
Ðức Thế Tôn kêu lên: "Khốn nạn thay! sống trong đen tối mà ngươi
có thể sung sướng được sao? Ngươi sẽ thấy được ánh sáng
sao?Trước hết ngươi hãy loại bỏ niềm hạnh phúc đó đi: Lo sợ phát
Cuộc Ðời Ðức Phật 154
sanh từ hạnh phúc, kinh hãi và đau khổ. Ai hết lo sợ, hết đau khổ;
người ấy không còn biết đến hạnh phúc. Hãy loại bỏ tình yêu đó đi:
Lo sợ phát sanh từ tình yêu, kinh hãi và đau khổ. Ai hết lo sợ, hết
đau khổ; người ấy không còn biết đến tình yêu. Nếu như ngươi tìm
kiếm hạnh phúc trên cõi đời này thì những nổ lực của ngươi sẽ trở
thành vô ích, lạc thú của ngươi sẽ biến thành đau khổ, cái chết luôn
luôn có mặt, sẵn sàng vồ lấy những kẻ khốn cùng bất hạnh mà khúc
hát nụ cười vẫn còn bừng nở trên môi. Thế gian toàn là lửa khói,
mọi việc trên đời phải chịu cảnh sanh lão tử vong. Kể từ lúc ngươi
mới bắt đầu lang thang thê thảm trong kiếp luân hồi, nước mắt của
ngươi đã đổ nhiều còn hơn là nước của sông biển đại dương. Ngươi
đã gánh chịu khổ đau, ngươi đã tiếc thương cho những ước vọng
không thành, ngươi đã oán than đau đớn khi thấy điều kinh hãi xảy
ra. Cái chết của một người mẹ, cái chết của một người cha, cái chết
của một người anh, cái chết của người chị, cái chết của một đứa con
trai, cái chết của một người con gái; ồ, qua biết bao lần, trải bao
thời đại, những cảnh tượng đó chưa làm ngươi đau lòng sao? Biết
bao lần ngươi chưa tốn hao tài vật? Và mỗi lần đối diện với đau khổ
thì ngươi lại khóc, khóc và khóc; ngươi đã đổ nhiều nước mắt còn
hơn là nước của sông biển đại dương!"
Nan-đà, lúc đầu, ít chú tâm đến những gì Ðức Phật dạy, nhưng khi
bắt đầu lắng nghe, lời lẽ của Ngài đã làm cho chàng xúc động, sâu
sắc. Ðức Thế Tôn tiếp:
"Hãy coi thế gian như bọt bèo; thế gian là mộng huyển, tử thần rồi
sẽ bốc ngươi đi."
Ngài dừng lại.
Nàn-đà thưa: "Bạch Ðức Thế Tôn, bạch Ðức Thế Tôn, con xin
nguyện làm đệ tử Ngài! Xin cho con theo Ngài."
Cuộc Ðời Ðức Phật 155
Ðức Thế Tôn dắt tay Nan-đà rời khỏi hoàng cung. Nhưng Nan-đà lộ
vẻ đăm chiêu suy nghĩ; chàng e rằng mình hấp tấp quá. Có lẽ chàng
đau đớn ân hận điều chàng đã làm. Vì có nói gì đi nữa thì nắm giữ
vương quyền vẫn là điều thú vị, cao quí. Còn Tôn-đà-lị? chàng nghĩ:
"Nàng đẹp biết bao" Chàng thở dài, nói: "Ta sẽ bao giờ gặp lại
nàng?"
Nhưng rồi chàng vẫn theo sau Ðức Thế Tôn. Chàng không dám tâm
sự với Ngài. Chàng sợ ngài khiển trách, chàng sợ Ngài khinh miệt.
Bỗng nhiên, khi Ðức Thế Tôn và Nan-đà quẹo qua một góc đừờng,
chàng bắt gặp một thiếu nữ đi tới. Nàng tươi cười. Nhận ra Tôn-đàlị,
chàng cúi mặt không dám nhìn.
Nàng nói: "Anh đi đâu thế?"
Nan-đà không trả lời. Nàng quay sang Ðức Thế Tôn.
"Ngài dẫn Nan-đà theo Ngài sao? "
"Vâng", Ðức Thế tôn đáp.
"Ngày mai chàng sẽ về chứ?"
Nan-đà muốn đáp lại: "Vâng, anh sẽ về sớm, Tôn-đà-lị! Nhưng
chàng lại e ngại, không nói nên lời; mắt nhìn xuống, chàng lặng lẽ
theo sau Ðức Thế Tôn.
Vậy là Tôn-đà-lị biết Nan-đà không còn của nàng nữa, nàng nức nở
khóc.
Cuộc Ðời Ðức Phật 156
PHẬT RỜI THÀNH CA-TỲ-LA-VỆ
Một hôm, Da-du đôn hậu đứng nhìn con trai La-hầu-la (Rahula) của
nàng.
Nàng ca ngợi: "Con trai của mẹ đẹp làm sao! Ðôi mắt của con long
lanh quá! Cha của con còn nợ con một di sản hiếu đạo; con phải đi
đòi nó lại."
Mẹ con dắt nhau lên sân thượng của hoàng cung. Ðức Thế Tôn từ
hòa nhẹ bước trên đường phố bên dưới. Da-du nói với La-hầu-la:
"La-hầu-la, con thấy vị sa môn kia không?" Cậu bé đáp: "Vâng,
thưa mẹ, thân Ngài đầy cả vàng."
"Ngài đẹp như thiên thần! Chính hào quang thánh thiện từ trong da
thịt Ngài tỏa ra như vàng. Con ơi, hãy quí Ngài, hãy yêu quí Ngài, vì
Ngài là cha của con. Xưa kia Ngài có những bảo vật quí giá. Ngài
có nhiều vàng bạc ngọc ngà rực rỡ; giờ đây, Ngài lại đi khất thực
từng nhà. Nhưng Ngài đã có được một kho tàng tuyệt diệu: Ngài đã
chứng đắc vô thượng bồ đề. Con ơi, hãy đến gặp Ngài; hãy nói cho
Ngài biết con là ai, và đòi lại di sản của con."
La-hầu-la vâng lời mẹ. Cậu đến đứng ngay trước mặt Phật. Cảm
thấy một niềm sung sướng kỳ lạ, cậu nói:
"Bạch Ngài sa môn, thật là hân hạnh cho con được đứng đây, đứng
trong bóng mát của Ngài."
Ðức Thế Tôn ngắm cậu bằng ánh mắt yêu thương, từ ái; La-hầu-la
Cuộc Ðời Ðức Phật 157
bạo dạn chạy đến bên Ngài. Nhớ lời mẹ dặn, cậu nói:
"Thưa cha, con là con của cha. Con biết cha có nhiều bảo vật quí
giá nhất đời. Xin cha trả lại di sản đó cho con."
Ðức Thế Tôn mỉm cười. Ngài không trả lời. Ngài tiếp tục khất thực.
La-hầu-la lẻo đẻo theo sau Ngài, cậu lập lại:
"Thưa cha, xin cha trả lại di sản đó cho con."
Cuối cùng đức Thế Tôn nói;
"Này con, con chưa biết gì về cái kho tàng mà con đã nghe nhiều
người ca ngợi. Khi con đòi lại di sản của con, con nghĩ là con đang
đòi hỏi những đồ vật mang tính chất suy hoại. Những bảo vật duy
nhất theo con là những bảo vật thân thiết với sự trống không hư ảo
của loài người, những bảo vật mà cái chết tham tàn cướp đoạt của
những người giàu có giả tạm. Này La-hầu-la, con có quyền đòi hỏi
di sản của con. Con sẽ được chia phần châu báu; con sẽ thấy bảy
loại đức hạnh, con sẽ biết giá trị đích thực của đức tin và thanh
khiết, khiêm tốn và cẩn trọng, vâng phục, hy sinh và trí tuệ. Ði, cha
sẽ giao con cho tôn giả Xá-lợi-phất; tôn giả sẽ giáo dục con."
La-hầu-la lặng lẽ theo cha, Da-du cảm thấy lâng lâng sung sướng.
Chỉ có quốc vương Tịnh-Phạn là đau buồn; gia đình quốc vương
đang từ biệt quốc vương! Ngài không thể không bộc lộ tâm tình với
Ðức Thế Tôn.
Ðức Thế Tôn đáp: "Ðừng đau buồn gì cả, những ai nghe theo ta sẽ
có được kho tàng cao quí! Không có gì phải đau buồn; hãy như thớt
voi lâm trận bị trúng tên độc của kẻ thù: không ai nghe voi than
phiền bao giờ. Quốc vương khéo điều voi ra trận thế nào thì bậc vĩ
Cuộc Ðời Ðức Phật 158
nhân trên đời cũng khéo tự điều phục mình thế đó, người ấy dằn
được đau khổ. Ai thật tình khiêm tốn, ai chế ngự tham dục như
chúng ta điều khiển ngựa hoang, người ấy sẽ bị thiên thần đố kỵ.
Người ấy không bao giờ làm ác. Không phải trong hang động của
núi rừng, không phải dưới vực sâu của biển cả, quốc vương không
thể trốn đâu được những hậu quả tai hại của một ác nghiệp; chúng
theo Ngài mãi mãi; chúng in vết trong ngài; chúng bắt ngài điên
loạn; chúng cho ngài hưởng được một chút thanh bình! Nhưng nếu
ngài làm việc thiện, khi ngài giã biệt trần gian, ngài sẽ được thiện
nghiệp của ngài đón chào, giống như những người bạn thân đón
ngài từ xa về. Chúng ta sống trong hoàn toàn hạnh phúc, chúng ta
không hận thù giữa một thế giới tràn ngập hận thù. Chúng ta sống
trong hoàn toàn hạnh phúc, chúng ta không tật bệnh giữa một thế
giới dẫy đầy tật bệnh. Chúng ta sống trong hoàn toàn hạnh phúc,
chúng ta không lao nhọc giữa một thế giới dẫy đầy lao nhọc. Chúng
ta sống trong hoàn toàn hạnh phúc, chúng ta không có gì cả. Nguồn
vui là lương thực của chúng ta, chúng ta như những thiên thần rạng
rỡ. Vị sa môn nào sống trong cô đơn, thầy ấy sẽ duy trì được một
tâm hồn tròn đầy an tịnh, thầy ấy sẽ thấy rõ sự thật bằng một cái
nhìn sáng suốt vững vàng, thầy ấy sẽ hưởng được một nguồn hạnh
phúc mà thế nhân không sao hiểu nổi."
An ủi quốc vương Tịnh-Phạn được đôi lời, Ðức Thế Tôn rời thành
Ca-tỳ-la-vệ, Ngài lên đường trở lại thành Vương-xá.
Cuộc Ðời Ðức Phật 159
CẤP-CÔ-ÐỘC CÚNG DƯỜNG
Trong khi Ðức Thế Tôn ở tại thành Vương-xá thì Cấp-cô-độc
(Anathapindika), một trưởng giả giàu có, từ Xá-vệ (Cravasti) đến.
Cấp-cô-độc là một tín đồ sùng đạọ Khi được tin Ðức Thế Tôn trú tại
rừng Trúc-lâm, ông nóng lòng muốn đếp gặp Ngài.
Cấp-cô-độc lên đường vào một buổi sáng, và khi ông vào rừng Trúclâm,
một giọng nói thiêng liêng đã đưa ông đến gặp Ðức Thế Tôn.
Ông được đón chào niềm nỡ; ông cúng dường đại chúng một phẩm
vật tuyệt vời, và Ðức Thế Tôn hứa đến gặp ông tại thành Xá-vệ.
Khi về đến thành, Cấp-cô-độc bắt đầu phân vân không biết tiếp đón
Ðức Thế Tôn tại đâu. Vườn tược của ông hình như không tương
xứng cho việc đón tiếp một thượng khách như vậy. Vườn cây đẹp
nhất trong thành là của thái tử Kỳ-đà (Jeta), Cấp-cô-độc quyết định
mua đứt khu vườn đó.
Kỳ-đà nói với ông: "Ta sẽ bán vườn cây nếu ngươi trải vàng khắp
mặt đất."
Cấp-cô-độc chấp nhận điều kiện giao ước. Ông cho xe chở vàng đến
vườn, và bấy giờ chỉ còn một dãy đất nhỏ còn trống. Kỳ-đà hoan hỷ
ca ngợi:
"Này trưởng giả, vườn cây là của ngươi: Phần ta, ta xin hân hạnh
biếu ngươi dãy đất còn lại đó."
Cấp-cô-độc cho trang hoàng vườn cây, chuẩn bị đón tiếp Ðức Thế
Tôn. Ông phái một gia nhân trung tín nhất đến rừng Trúc-lâm báo
Cuộc Ðời Ðức Phật 160
tin cho Ðức Thế Tôn biết là ông sẵn sàng đón tiếp Ngài tại thành
Xá-vệ.
Sứ giả nói: "Bạch Ðức Thế Tôn, chủ nhân con xin đảnh lễ Ngài.
Người hy vọng Ngài đã thoát khỏi khổ đau, bệnh tật; người hy vọng
Ngài không quên ước hẹn với người. Bạch Ðức Thế tôn, họ đang chờ
đón Ngài tại thành Xá-vệ."
Ðức Thế Tôn không quên lời hứa với trưởng giả Cấp-cô-độc; Ngài
muốn giữ hẹn, Ngài nói với sứ giả: "Ta sẽ đi."
Ngài hoãn lại một vài hôm; rồi Ngài khoác áo, ôm bình, theo sau là
một số đệ tử, Ngài lên đường đi Xá-vệ. Vị sứ giả đi trước để báo cho
trưởng giả biết là Ðức Thế Tôn sắp tới.
Cấp-cô-độc quyết định đi đón Ðức Thế Tôn, vợ con ông xin cùng đi,
những người giàu có nhất thành thấy thế cũng xin tháp tùng theo họ.
Và khi họ nhìn thấy Ðức Thế Tôn, hào quang rực rỡ của Ngài làm
họ chói lòa cả mắt; Ngài hình như đi trên một đoạn đường toàn
vàng.
Họ theo hầu Ngài đến vườn cây của thái tử Kỳ-đà, Cấp-cô-độc thưa
với Ngài:
"Bạch Ðức Thế Tôn, con sẽ làm gì với vườn cây nàỷ"
Ðức Thế Tôn đáp: "Hãy cúng dường cho đại chúng, từ nay và mãi
mãi về sau.”
Cấp-cô-độc sai gia nhân bê đến một bát vàng đầy nước. Ông rửa tay
Ðức Thế Tôn và Bạch rằng:
Cuộc Ðời Ðức Phật 161
"Từ nay mãi mãi về sau, con xin cúng dường vườn cây này cho đại
chúng, những vị sa môn tu tập dưới sự hóa độ của Ðức Thế Tôn."
Ðức Thế Tôn nói: "Lành thay! Ta ghi nhận lễ vật. Vườn cây này sẽ
là nơi an trú tuyệt vời; tại đây, chúng ta sẽ sống êm đềm, chúng ta sẽ
tránh được cảnh oai bức, buốt giá. Không có ác thú vào đây: không
có cả một cánh muỗi vo ve quấy rầt sự yên tịnh; ở đây tránh được
mưa dầm gió rét hay nắng hạn kinh hồn. Vườn cây này thơ mộng
lắm. Tại đây ta sẽ thiền định hằng giờ. Cúng dường đại chúng
những lễ vật như thế thật là đúng pháp. Người thông minh trí tuệ
không nên thờ ơ lạnh nhạt, hãy nên cúng dường nhà cửa, thức ăn,
nước uống, y phục cho các thầy sa môn. Trái lại, các thầy sa môn sẽ
giáo hóa chánh pháp cho họ. Ai giác ngộ chánh pháp, người ấy sẽ
giải thoát khổ đau và đạt đến niết bàn."
Ðức Phật và đồ chúng của Ngài tự ra sức xây dựng nền tảng tại
vườn Kỳ-viên.
Cấp-cô-độc rất lấy làm sung sướng; nhưng, một hôm, một ý nghĩ
nghiêm trọng lại hiện ra trong đầu óc ông.
Ông tự nhủ: "Ta đang được mọi người hết lời ca ngợi, nhưng đối với
những việc làm của ta, việc nào đáng được khâm phục như thế? Ta
dâng lễ vật, cúng dường Phật và cúng dường các thầy sa môn, điều
đó, trong tương lai, ta sẽ được quả phúc; nhưng đức hạnh của ta chỉ
có lợi cho ta! Ta phải giúp người khác cùng chia xẻ cái đặc quyền
đó. Ta sẽ đi khắp kinh thành, ta sẽ quyên góp lễ vật của những ai ta
gặp đem cúng dường Phật và các thầy sa môn. Thế là nhiều người sẽ
tham gia vào công việc phước đức mà ta sắp làm."
Ông đến yết kiến Ba-tư-nặc (Prasenajit), vua nước Xá-vệ, một quốc
vương cương trực, sáng suốt. Ông tâu với quốc vương về những điều
Cuộc Ðời Ðức Phật 162
mà ông đã quyết định làm, quốc vương hoan hỷ chấp thuận. Một
phái viên được lệnh đi khắp kinh thành để phổ biến thông báo của
hoàng triều:
"Ðồng bào Xá-vệ nghe rõ! bảy ngày nữa, trưởng giả Cấp-cô-độc sẽ
cỡi voi qua khắp kinh thành. Ông sẽ quyên góp lễ vật của tất cả mọi
người, sau đó ông đem cúng dường Phật và đồ chúng của Ngài. Vậy
mong các ngươi hãy dâng những gì mà ông có thể chấp nhận."
Ðúng ngày ấn định, Cấp-cô-độc ngồi trên lưng voi đẹp nhất qua
khắp kinh thành, ông quyên góp lễ vật từng người để cúng dường
Ðức Thế Tôn và đại chúng. Dân chúng vây quanh ông: người thì
dâng vàng, kẻ thì biếu bạc; cô này cởi kiềng, o kia cởi xuyến, chị nọ
cởi còng; ngay cả những phẩm vật tầm thường nhất cũng được thâu
nhận.
Bấy giờ, tại thành Xá-vệ có một thiếu nữ quá nghèọ Nàng phải mất
ba tháng trời dành dụm mới đủ tiền mua được một mảnh vải thô mà
nàng vừa may xong cho nàng một tấm áọ Thấy đám người vây
quanh Cấp-cô-độc, nàng nói với một người đứng xem:
"Trưởng giả Cấp-cô-độc hình như đi xin thì phải."
"Vâng, ông đang đi xin," có giọng đáp.
"Nhưng người ta bảo ông là một trưởng giả giàu nhất thành Xá-vệ.
Tại sao ông phải đi xin thế nàỷ"
"Cô không nghe thông báo của hoàng triều được phổ biến khắp
thành cách đây bảy ngày sao? "
"Chả nghe gì cả."
Cuộc Ðời Ðức Phật 163
"Cấp-cô-độc không phải quyên góp phẩm vật cho chính ông. Ông
muốn mọi người cùng tham gia vào công việc phước đức mà ông
đang làm, ông đang quyên góp phẩm vật để cúng dường Phật và đồ
chúng của Ngài. Tất cả những ai cúng dường đều sẽ được quả phúc
mai hậu."
Thiếu nữ tự nhủ: "Mình chưa bao giờ làm được điều gì đáng khen.
Ðiều hay nhất là sắm một lễ vật để cúng dường Phật. Nhưng mình
nghèo quá. Mình phải làm gì bây giờ?" Nàng bỏ đi, chán nản. Nàng
nhìn xuống chiếc áo mới may: "Mình chỉ cúng dường Ngài được
chiếc áo này. Nhưng mình không thể lõa lồ ra đường."
Nàng về nhà cởi áọ Nàng ngồi tại cửa sổ đợi Cấp-cô-độc đến, và khi
ông đi qua trước nhà, nàng ném chiếc áo cho ông. Ông cầm lấy và
đưa nó cho những người giúp việc.
Ông nói: "Người phụ nữ ném chiếc áo này cho ta có lẽ không còn gì
khác để cúng dường. Nàng phải chịu lõe lồ thôi nếu nàng ở nhà và
cúng dường lễ vật theo kiểu này. Ði, hãy cố tìm cho ra nàng và xem
nàng là aỉ"
Bọn gia nhân phải gặp rất nhiều khó khăn trong lúc tìm kiếm cô
thiếu nữ. Cuối cùng họ tìm ra nàng và thấy rằng chủ nhân của họ đã
đoán đúng: Chiếc áo vất ra ngoài cửa sổ là toàn bộ tài sản của một
cô bé nghèọ Cấp-cô-độc vô cùng xúc đông; ông bảo gia nhân đem
những bộ y phục sang trọng, xinh đẹp tặng cho cô thiếu nữ thuần
thành đã hiến ông chiếc áo giản dị của nàng.
Cuộc Ðời Ðức Phật 164
NHỮNG MÔN ÐỆ MỚI
Ðức Thế Tôn lưu lại ở Xá-vệ ít lâu rồi Ngài lên đường đến thành
Vương-xá, nơi mà Tần-bà-sa-la đang đợi Ngài.
Ði được nửa đường, Ngài dừng lại để nghỉ tại một ngôi làng, lúc đó
có bảy người đến. Ngài nhận ra họ. Sáu người là bà con, họ là
những người giàu có và quyền lực nhứt dòng Thích-ca. Ðó là A-nậulâu-
đà (Anuruđha), Bạt-đề (Bhadrika), Bờ-ri-gu (Bhrigu), Kim-tỳ-la
(Kimbala), Ðề-bà-đạt-đa (Devadatta) và A-nan (Ananda). Người thứ
bảy là Ưu-ba-ly (Upali), một gã hớt tóc.
Một hôm, A-nậu-lâu-đà tự nhủ rằng mình là dòng họ Thích-ca mà
không ý thức theo Phật thì thật là điều xấu hổ. Chàng quyết định làm
gương, và vì không một nguyên do nào ngăn cách được ý định của
chàng nên chàng bày tỏ tâm sự trước tiên với người bạn chí cốt của
chàng là Bạt-đề. Bạt-đề suy nghĩ trong giây lát rồi tán đồng ý kiến
và quyết tâm noi theọ Sau đó, cả hai thuyết phục A-nan, Bờ-ri-gu,
Kim-tỳ-la và Ðề-bà-đạt-đa thấy rằng không có tiếng gọi nào cao
hơn tiếng gọi xuất gia làm sa môn.
Thế là sáu hoàng tử lên đường theo Phật. Họ khó mà từ giã thành
Ca-tỳ-la-vệ khi A-nan, liếc nhìn Bạt-đề, than:
"Bạt đề, anh sống đời thánh thiện mà còn giữ châu báu làm gì?"
Bạt đề e thẹn, nhưng thấy A-nan cũng đeo châu báu, chàng cười
đáp:
"A-nan, anh nhìn lại anh xem".
Cuộc Ðời Ðức Phật 165
A-nan bẽn lẽn, đỏ cả mặt.
Bấy giờ họ nhìn nhau, thấy ai cũng đeo châu báu. Họ cả thẹn; họ
đang lặng lẽ cúi mặt đi thì gặp ngay gã hớt tóc Ưu-ba-ly.
A-nan nói: "Này anh hớt tóc, lấy đồ châu báu của ta không, ta biếu
hết cho anh đó".
Bạt-đề nói: "Lấy đồ của ta luôn".
Những vị khác cũng trao hết châu báu cho Ưu-ba-ly. Anh sửng sốt
không biết trả lời thế nàọ Tại sao những vị hoàng tử này chưa bao
giờ gặp anh lại biếu hết bảo vật cho anh thế? Anh phải làm sao đây,
chấp nhận hay từ chối?
Hiểu được lòng do dự của gã hớt tóc, A-nậu-lâu-đà nói:
"Ðừng ngại nhận những châu báu này. Chúng tôi đang trên đường
theo bậc đại sĩ dòng thích ca. Chúng tôi đang trên đường theo Tấtđạt-
đa, người đã thành Phật. Ngài sẽ thuyết giảng giáo pháp cho
chúng tôi, chúng tôi sẽ qui y theo giáo pháp của Ngài".
Gã hớt tóc hỏi: "Thưa các hoàng tử, các ngài sẽ làm sa môn?"
"Vâng," họ đáp.
Anh lấy hết đồ châu báu và bắt đầu tiến về thành phố. Nhưng, bỗng
nhiên, anh suy nghĩ: "Ta đang làm công việc như một thằng khùng.
Ai sẽ tin là các hoàng tử ép ta nhận những châu báu nàỷ Ta sẽ bị bắt
vì tội trộm cướp hay tội giết người không chừng. Tội nhỏ nhất có thể
xảy ra cho ta là ta sẽ gánh chịu sự phẫn uất sâu đậm của dòng tộc
Cuộc Ðời Ðức Phật 166
Thích- ca. Ta sẽ không giữ những châu báu này. Anh máng chúng
trên một cành cây bên vệ đường. Anh suy nghĩ: "Các hoàng tử đó
đang nêu gương cao thượng. Họ can đảm vất bỏ hoàng cung, còn ta,
chả có gì, ta không dám vất bỏ quán hớt tóc của ta sao? Không. Ta
sẽ theo họ. Ta sẽ gặp Phật, và biết đâu Ngài lại nhận ta vào đại
chúng! ".
Ưu-ba-ly theo sau các hoàng tử cách một khoảng xa. Anh xấu hổ
không dám tháp tùng theo họ. Bạt-đề chợt quay lại, thấy Ưu-ba-ly,
chàng gọi lớn:
"Anh thợ cạo kia, sao anh vất hết đồ châu báu của chúng tôi?"
Gã thợ cạo đáp: "Tôi cũng muốn làm sa môn".
"Thế thì cùng đi với anh em chúng tôi", Bạt-đề nói.
Ưu-ba-ly vẫn lúc thúc theo sau. A-nậu-lâu-đà tiếp lời:
"Anh thợ cạo, hãy đi cạnh chúng tôi. Là sa môn thì đâu còn phân
biệt, trừ tuổi tác và đức hạnh. Khi chúng ta đứng trước mặt Phật,
anh phải là người đầu tiên bạch Ngài, anh phải là người đầu tiên xin
Ngài nhận anh vào đại chúng. Vì anh, các hoàng tử sẽ chứng tỏ cho
mọi người thấy rằng họ bỏ hết tính kiêu mạn về dòng tộc Thích-ca
của họ".
Họ tiếp tục lên đường, bỗng nhiên, một con diều hâu từ đâu đáp
xuống đầu của Ðề-bà-đạt-đa và tha đi viên ngọc kim cương mà
chàng đã dấu kín trong búi tóc của chàng. Nó đã vạch trần tính giả
dối của chàng và làm cho các hoàng tử cười òa. Ðề-bà-đạt-đa bấy
giờ không còn một bảo vật nào khác nhưng bạn đồng hành của
chàng, trong thâm tâm, vẫn còn hoài nghi về lòng chân thành trung
tín của chàng.
Cuộc Ðời Ðức Phật 167
TÍNH KIÊU MẠN CỦA NAN-ÐÀ
Ðức Thế Tôn hoan hỷ thấy một số bà con thân thích cùng ở trong
hàng môn đệ, Ngài đưa hết đến Trúc-Lâm.
Tại đó, chỉ có Nan-đà đáng thương là đau khổ. Chàng lúc nào cũng
nghĩ đến Tôn-đà-lỵ; nàng lúc nào cũng vấn vương trong tâm tư
mộng tưởng của chàng, chàng ân hận là đã từ giã nàng. Ðức Phật
hiểu được nỗi khổ đau dằng vặt của Nan-đà, Ngài quyết định chữa
trị cho chàng.
Một hôm, ngài dắt tay chàng đến một gốc cây có một con khỉ gớm
guốc ngồi trên đó.
Ngài nói: "Hãy nhìn con khỉ kìa, nó chả đẹp gì cả phải không?"
Nan-đà đáp: "Con ít khi thấy con khỉ nào xấu xí như thế."
Ðức Thế Tôn nói: "Thật sao? Nhưng nó giống hệt Tôn-đà-lỵ, vị hôn
thê trước kia của ngươi".
Nan-đà thét lên: "Ngài nói sao? Ngài muốn nói con khỉ này giống
Tôn-đà-lỵ, một công chúa duyên dáng, xinh đẹp sao? "
"Chứ khác gì, Tôn-đà-lỵ khác gì? Cả hai không phải là giống cái?
Cả hai không phải là khơi dậy lòng dục vọng của giống đực? Ta tin
là ngươi sẽ sẵn sàng từ bỏ con đường thánh thiện để chạy vào vòng
tay siết chặt của Tôn-đà-lỵ, cũng như trong khu rừng này, tại một
nơi nào đó, có một con khỉ đực bị dục tình mãnh liệt của con khỉ cái
này khêu gợi đến độ mê mẫn điên cuồng. Cả hai rồi sẽ già nua, lụ
Cuộc Ðời Ðức Phật 168
khụ; còn ngươi cũng như con khỉ đực nào đó, sẽ tự thắc mắc không
biết điều gì đã làm mình điên rồ ngu dại như thế. Cả hai rồi sẽ chết,
riêng ngươi và con khỉ đực nào đó có lẽ rồi sẽ nhận ra sự trống rỗng
vô vị của lòng ái dục. Tôn-đà-lỵ chả khác gì con khỉ cái này".
Nhưng Nan-đà không nghẹ Chàng thở dài. Chàng mơ thấy Tôn-đàlỵ
mảnh mai, duyên dáng đang thư thả dạo quanh trong một khu
vườn đầy hoa rực rỡ.
Ðức thế tôn lên giọng sai khiến: "Hãy cầm lấy chéo y của ta!".
Nan-đà vâng lời. Chàng cảm thấy mặt đất ở dưới chàng bỗng nhiên
sụp xuống, một trận cuồng phong quét chàng lên tận trời xanh. Khi
rút chân lên, chàng thấy mình đang ở trong một công viên tuyệt
diệu. Chàng đang dạo bước trên một con đường vàng ròng, hoa lá
toàn là các thứ châu báu làm bằng hồng ngọc và bích ngọc thơm
ngát.
Ðức Thế Tôn nói: "Ngươi đang ở trên cung trời Ðao-lợi, hãy mở
mắt u tối ra mà xem".
Nan-đà thấy một căn nhà bằng bạc sáng choang được vây quanh bởi
một cánh đồng lưu ly rực rỡ. Một tiên nữ kiều diễm hơn Tôn-đà-lỵ
đang đứng tại cửa. Nàng mỉm cười. Ngây ngất vì dục vọng, Nan-đà
chạy bổ đến nàng, nhưng nàng bất thần hoa tay chận chàng lại.
Nàng nói: "Nan-đà, hãy thanh tịnh trên cõi đời này, hãy giữ lời thệ
nguyện. Sau khi qua đời, ngươi sẽ được tái sanh tại đây, rồi ngươi sẽ
đến trong vòng tay ân ái của ta".
Tiên nữ biến mất, Nan-đà và đức Thế Tôn trở lại trần gian.
Cuộc Ðời Ðức Phật 170
Suy tư nghiền ngẫm về những lời dạy của Phật, Nan-đà trở thành
một đệ tử thuần phác nhất, dần dần chàng thanh tẩy được tâm hồn.
Tôn-đà-lỵ không còn lảng vảng trong tâm tưởng của chàng nữa, và
giờ đây, mỗi khi nghĩ đến tiên nữ, chàng lại buồn cười cho cái ý
niệm muốn làm thần thánh chỉ vì nàng. Một hôm, chàng thấy trên
ngọn cây có một con khỉ gớm guốc đang nhìn chàng, chàng lên
giọng hãnh diện nói:
"Ê, Tôn-đà-lỵ không duyên dáng bằng ngươi; ê, so với tiên nữ kiều
diễm nhất thì ngươi còn xinh hơn nữa kìa!".
Chàng tự hào là đã chế ngự được lòng ái dục của mình. Chàng tự
nhủ: "Ta là thánh thật rồi, về đức hạnh, ta sẽ không còn thua kém gì
với sư huynh của ta nữa".
Chàng tự may cho chàng một chiếc y cùng kích thước như y của Ðức
Thế Tôn. Thấy chàng đi từ xa, các thầy sa môn nói:
"Ðức Thế Tôn đến kìa, chúng ta đứng lên chào Ngài".
Nhưng khi Nan-đà đến gần, họ thấy là họ lầm. Họ ngượng ngùng
ngồi xuống và nói:
"Trong khi chúng ta ở đây thì cậu ấy đâu có ở trong hàng đại chúng;
tại sao chúng ta phải đứng lên chào cậu ấỷ"
Nan-đà hý hửng thấy các sa môn đứng lên khi mình đến gần; nhưng
chàng chưng hửng thấy họ ngồi xuống lại. Chàng không dám than
phiền; chàng sợ các thầy khiển trách. Vả lại đó chưa phải là bài học
cho chàng, chàng tiếp tục rảo qua rừng Trúc-lâm, trên mình khoác
chiếc y giống như y Phật. Từ xa, lầm chàng là Ðức Thế Tôn, các
thầy sa môn từ chỗ ngồi đứng dậy, nhưng khi chàng đến gần, các
Cuộc Ðời Ðức Phật 171
thầy cười òa và ngồi xuống lại.
Cuối cùng, một sa môn đến bạch Phật. Ngài than phiền lắm. Ngài
họp các thầy sa môn lại, và trước mặt mọi người, Ngài hỏi Nan-đà:
"Này Nan-đà, con đã thật sự được đắp y cùng kích thước như y của
Phật chưả"
Nan-đà đáp: "Da. được, bạch Ðức Thế Tôn, con được đắp y cùng
kích thước như y của Ngài".
Ðức Thế Tôn nói: "La. nhỉ! Một đệ tử dám đắp y cùng kích thước
như y Phật! Con nghĩ gì với việc làm táo bạo như thế? Hành động
đó không thể khơi dậy đức tin của người ngoại đạo, cũng không thể
củng cố đức tin của hàng tín đồ. Nan đà, con phải thu ngắn y của
con lại và trong tương lai, bất cứ thầy sa môn nào may y cho mình
cùng kích thước như y Phật, hoặc rộng hơn y Phật, đều phạm phải
trọng tội, thầy ấy sẽ bị nghiêm phạt".
Nan-đà tự nhận thấy lỗi lầm, chàng ý thức rằng đã là một thánh giả
chân chính thì phải hàng phục được tính kiêu mạn của mình.
Cuộc Ðời Ðức Phật 172
VUA TỊNH PHẠN THĂNG HÀ
Gần thành Tỳ-xá-lỵ (Vaisali) có một khu rừng rộng bao la mà người
ta đã cúng dường cho Ðức Thế Tôn. Trong khi Ngài lưu ngụ tại đó
thì có tin báo là phụ hoàng của Ngài, quốc vương Tịnh Phạn, ngã
bịnh. Quốc vương già lắm, bịnh tình nguy ngập, rằng quốc vương
sắp qua đời. Ðức Thế Tôn quyết định về thăm phụ hoàng. Ngài lên
đường về thành Ca-tỳ-la-vệ.
Quốc vương nằm buồn hiu trên giường bệnh. Ngài thở thoi thóp, cái
chết sắp cận kề. Nhưng khi nhìn thấy con mình, ngài hoan hỷ vui
cười. Ðức Thế Tôn nói:
"Tâu hoàng thượng, hoàng thượng đã đi được một đoạn đường dài,
hoàng thượng lúc nào cũng nổ lực làm việc thiện. Hoàng thượng
chưa từng để tâm đến những ham muốn đê hèn, lòng da. của hoàng
thượng không bao giờ cưu mang thù hận và sân nhuế cũng không
bao giờ làm đen tối được đầu óc của ngài. Hạnh phúc thay cho ai ra
đời để làm việc thiện! Hạnh phúc thay cho ai nhìn xuống hồ nước
trong xanh và thấy được dung nhan tinh khiết của mình. Nhưng
hạnh phúc hơn nữa là ai tự quán sát tâm trí và thấy nó thanh tịnh
hoàn toàn! Tâu hoàng thượng, tâm trí của hoàng thượng thanh tịnh
lắm, việc ra đi của hoàng thượng cũng bình thản êm đềm như buổi
chiều tàn của một ngày nắng đẹp".
Quốc vương nói: "Bạch Ðức Thế Tôn, ta đã nhận ra lẽ vô thường
của thế gian. Ta đã quét sạch mọi dục vọng, ta đã giải thoát hết mọi
xiềng xích của cuộc đời".
Một lần nữa, quốc vương đảnh lễ Phật. Rồi ngài quay sang đám
Cuộc Ðời Ðức Phật 173
trung thần đã có mặt đầy đủ trong điện, ngài nói:
"Các bạn, hẳn ta đã nhiều lần làm phiền các bạn, nhưng các bạn
chưa bao giờ tỏ vẻ ác cảm với ta. Các bạn nhân từ tốt bụng lắm.
Trước khi ta vĩnh biệt các bạn, mong các bạn hãy tha thứ cho ta.
Những gì ta hành xử sai lầm, mong các bạn bỏ qua cho; hỷ xả cho ta
nghe các bạn!".
Ðám quần thần khóc rống lên, họ thì thào:
"Không, tâu bệ hạ, bệ ha. không bao giờ làm phiền lòng ha. thần!".
Tịnh Phạn vương nói tiếp:
"Còn khanh, hỡi Ma-ha-ba-xà-ba-đề, ái khanh đã là bạn hiền trăm
năm của ta, ta đã thấy ái khanh khổ lụy nhiều rồi, ái khanh hãy trấn
tỉnh đau buồn. Việc ra đi của ta là một sự giã biệt hạnh phúc. Hãy
nghĩ đến sự vinh quang cao quí của người con mà ái khanh đã dày
công nuôi nấng này; hãy sung sướng ngắm nhìn ánh hào quang rực
rỡ của Ngài".
Quốc vương thăng hà, Mặt trời tắt hẳn.
Ðức Thế Tôn nói:
"Hãy nhìn thi thể của phụ hoàng ta xem. Ngài không còn là ngài
nữa. Chưa có ai chinh phục được cái chết. Có sinh ắt có tử, hãy đem
hết tâm tư tình cảm ra làm việc thiện; hãy đi trên lộ trình dẫn đến trí
tuệ. Hãy làm một ngọn đèn trí tuệ, và bóng tối sẽ tan biến vào ánh
sáng của nó. Ðừng chạy theo ác pháp, đừng vun trồng gốc rễ độc
hại; đừng tạo thêm ác trược trên cõi đời này. Kẻ ngu muội lẫn tránh
giáo pháp, một khi rời vào hang động của tử thần thì kêu gào than
Cuộc Ðời Ðức Phật 174
khóc; cũng như phu xe từ bỏ đường quang, chạy vào hiểm lộ gồ ghề,
thấy trục gãy bánh rơi mà đấm đầu mếu máọ Người trí là ngọn đuốc
soi sáng cho người ngu; người trí dẫn đường cho nhân loại, bởi vì
người trí có mắt thấy xa, người khác chả thấy gì cả".
Thi thể của quốc vương được đưa đến một đống củi hỏa táng khổng
lồ. Ðức Thế Tôn châm lửa, và trong lúc những ngọn lửa hồng phủ
kín lên thi thể của phụ hoàng, trong lúc thần dân ở Ca-tỳ-la-vệ đang
khóc than thương tiếc, thì Ngài lập lại những sự thật cao quí này:
"Sanh là khổ, già là khổ, bịnh là khổ, chết là khổ. Ồ, khát vọng là
mãi mãi sanh tử luân hồi! Khát vọng quyền lực, khát vọng lạc thú,
khát vọng sinh tồn, khát vọng là nguồn gốc của mọi đau khổ! Ồ, mọi
khát vọng ác trược thánh nhân thấy rõ, các ngươi chưa thấy, thánh
nhân dập tắt hết mọi dục vọng, thánh nhân chỉ biết có con đường
Bát Chánh".
Cuộc Ðời Ðức Phật 175
MA-HA BA-XÀ-BA-ÐỀ ÐƯỢC VÀO GIÁO HỘI
Ma-ha Ba-xà-ba-đề mãi trầm tư suy nghĩ. Bà nhận thấy sự vô vị
trống rỗng của cõi đời này. Bà muốn thoát khỏi hoàng cung, thoát
khỏi kinh thành Ca-tỳ-la-vệ, và sống một cuộc đời thánh thiện.
Bà nghĩ: "Ðức Thế Tôn hạnh phúc biết bao! Ðồ chúng của Ngài
hạnh phúc biết bao! Tại sao không thể làm như họ? Tại sao ta không
thể sống như họ? Nhưng họ lại khước từ phụ nữ. Chúng ta không
được chấp nhận vào giáo hội, ta phải lưu lại kinh thành ảm đạm
này, ta phải lưu lại hoàng cung thê lương này; ta bơ vơ lạc lõng,
dưới mắt ta, tất cả đều trống rỗng!".
Bà đau khổ. Bà vất hết xiêm y sang trọng; bà phân phát châu báu
ngọc ngà cho các thị nữ, bà khiêm tốn giản dị trước mặt mọi loài.
Một hôm, bà tự nhủ:
"Ðức Thế Tôn từ bi lắm, Ngài sẽ thương xót ta. Ta sẽ đến gặp Ngài,
và biết đâu Ngài sẽ tiếp nhận ta vào giáo hội".
Ðức Thế Tôn đang trú tại một cánh rừng gần thành Ca-tỳ-la-vệ. Maha-
ba-xà-ba-đề đến gặp Ngài, bà rụt rè thưa:
"Bạch Ðức Thế Tôn, chỉ có Ngài và môn đệ của Ngài là thật sự hạnh
phúc. Còn con, giống như Ngài và mọi người theo Ngài, con muốn
đi trên con đường giải thoát. Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài hoan hỷ
cho con được vào giáo hội."
Ðức Thế Tôn im lặng. Bà tiếp:
Cuộc Ðời Ðức Phật 176
"Làm sao con có thể an vui hạnh phúc trong một thế giới mà con
ngao ngán ê chề? Con đã thấy rõ những hoan lạc hào nhoáng của
nó. Con muốn đi trên con đường giải thoát. Bạch Ðức Thế Tôn, xin
Ngài hoan hỷ cho con được vào giáo hội. Con biết có nhiều phụ nữ
cũng muốn theo gương con. Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài hoan hỷ
cho chúng con được vào giáo hội."
Ðức Thế tôn vẫn im lặng. Bà tiếp:
"Hoàng cung của con nay tẻ nhạt u buồn lắm. Kinh thành bị bao
trùm trong một màn đen tối. Những tấm vải thêu sặc sỡ chỉ đè nặng
lên vầng trán con; vương miện, vòng kiềng chỉ làm con thêm đau
nhói. Con phải đi trên con đường giải thoát. Biết bao phụ nữ nhiệt
tình, biết bao phụ nữ thuần thành đang sẵn sàng nối gót con. Bạch
Ðức Thế Tôn, xin Ngài hoan hỷ cho phụ nữ được vào giáo hôi."
Ðến lần thứ ba, Ðức Thế Tôn vẫn im lặng.
Ma-ha-ba-xà-ba-đề trở về hoàng cung u tối với hai hàng nước mắt
ròng ròng.
Nhưng bà không bỏ cuộc. Bà quyết tâm đến gặp Ðức Thế Tôn một
lần nữa để van xin Ngài.
Bấy giờ Ngài an trú trong một khu rừng rộng bao la gần thành Tỳ-
xá-lỵ Ma-ha-ba-xà-ba-đề tự cắt tóc, khoác lên mình một chiếc y thô
sơ màu ngà, bà lên đường đến thành Tỳ-xá-lỵ.
Bà làm cuộc hành trình bằng chân không; bà không hề than phiền
mỏi mệt. Bụi bám đầy người, cuối cùng bà đến ngay tịnh xá Ðức Thế
tôn đang nhập định. Bà không dám vào; bà đúng khóc sướt muớt
Cuộc Ðời Ðức Phật 177
ngoài ngõ. A-nan chợt đi ngang qua, nhìn thấy bà và hỏi:
"Thưa hoàng hậu, vì sao hoàng hậu đến đây; lại ăn mặc như thế nàỷ
Tại sao hoàng hậu lại đứng trước của tịnh xá của Ðức Thế Tôn?"
"Ta không dám vào diện kiến Ngài. Ðã ba lần Ngài từ chối lời thỉnh
nguyện của ta, hôm nay ta đến cầu xin Ngài một lần nữa: Xin Ngài
hoan hỷ cho ta, cho giới phụ nữ được vào giáo hội."
A-nan vào tịnh xá, gặp Ðức Thế Tôn, bạch rằng:
"Bạch Ðức Thế Tôn, Ma-ha-ba-xà-ba-đề, hoàng hậu kính yêu của
chúng ta, đang đứng trước cổng tịnh xá của Ngài. Bà không dám
gặp Ngài, bà sợ Ngài sẽ khước từ lời thỉnh nguyện của bà một lần
nữa. Bạch Ðức Thế Tôn, đó đâu phải là lời thỉnh nguyện của một
phụ nữ điên rồ, bà không đáng cho Ngài ban ân huệ sao? Hoàng
hậu đã một thời là di mẫu của Ngài; lúc nào bà cũng thương yêu
chăm sóc Ngài; bà thật xứng đáng được Ngài chiếu cố. Vì sao Ngài
dứt khoát không chấp nhận phụ nữ vào giáo hội? Có nhiều phụ nữ
rất mực thuần thành, có nhiều phụ nữ can đảm nghiêm trì đường
hướng thánh thiện lắm chứ."
Ðức Thế Tôn nói: "Này A-nan, đừng cầu xin ta cho phép phụ nữ vào
giáo hội."
A-nan cáo lui. Hoàng hậu đang mong gặp A-nan.
Bà lo lắng hỏi: "Ðức Thế Tôn nói sao? "
"Ngài khước từ lời thỉnh nguyện của hoàng hậu. Nhưng đừng thất
vọng."
Cuộc Ðời Ðức Phật 178
Ngày hôm sau, đến gặp Ðức Thế Tôn, A-nan thưa:
"Ma-ha-ba-xà-ba-đề không chịu ra về. Bà đang nghĩ đến những
ngày dài hạnh phúc của thời bà còn son trẻ. Lúc đó Ma-da còn
sống; Ma-da, người phụ nữ diễm kiều nhất; Ma-da, người đã ha.
sanh một bé trai. Em gái của Ma-da là người rất cao thượng; bà
không hề ganh tị: bà yêu thương ngay cả trước khi bé mở mắt chào
đời. Ðến khi bé ra đời, mang nguồn vui đến cho tất cả chúng sanh
thì hoàng hậu khuất núi. Ma-ha-ba-xà-ba-đề đã sớm hôm chăm sóc
đứa bé mồ côi mẹ đó: bé hình như non nớt lắm. Bà đùm bọc che chở
bé; bà tận tụy nuôi dưỡng bé, bà bồng bế bảo hộ bé khỏi bị ảnh
hưởng của bọn tỳ nữ ác tâm; bà hết lòng trông nom chiều chuộng
bé. Ðến khi bé lớn lên, bà vẫn không rời bé. Bà đoán biết những sở
thích vụn vặt nhất của bé; bà tôn thờ bé, người đã đạt đến nguồn
hạnh phúc tối thượng. Người là cây đại thọ che mát các bậc hiền
đức cao minh; và giờ đây, khi bà muốn tìm một nơi an trú khiêm tốn
dưới bóng cây đại thọ của người thì ước vọng bình dị an lành đó lại
bị từ chối. Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài độ lượng, xin Ngài hoan hỷ
thâu nhận Ma-ha-ba-xà-ba-đề vào giáo hội."
Ðức Thế Tôn đắn đo suy nghĩ, rồi trịnh trọng phán rằng:
"Này A-nan, hãy lắng nghẹ Hãy đi gặp Ma-ha-ba-xà-ba-đề và nói
với bà rằng ta sẵn lòng đón nhận bà vào giáo hội, nhưng với điều
kiện là bà phải chấp nhận một số giới luật nghiêm khắc. Ðây là giới
luật mà ta buộc giới phụ nữ phải vâng giữ khi vào giáo hội; một tỳ
kheo ni, dù đã trải qua trăm hạ, cũng phải đứng dậy cung kính trước
sự hiện diện của một tỳ kheo tăng, dù cho vị ấy mới vào đạo được
một ngày; tỳ kheo ni phải đến gặp tỳ kheo tăng để phát lồ sám hối
những điều lỗi lầm và để cầu xin giáo thọ; tỳ kheo ni phạm trọng tội,
trước mặt đại chúng tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni, phải được xử phạt
thích đáng trong vòng mười lăm ngày; trước khi tỳ kheo ni được
Cuộc Ðời Ðức Phật 179
nhận vào giáo hội, đức hạnh và chí hướng của họ phải được thử
thách trong một giai đoạn là hai năm; tỳ kheo ni không được khích
động tỳ kheo tăng. Ðây là giới luật buộc tỳ kheo ni phải giữ cùng với
những giới luật đã được áp dụng cho tỳ kheo tăng."
Ma-ha-ba-xà-ba-đề sung sướng tuyên hứa nghiêm giữ giới luật. Bà
gia nhập giáo hội, và chỉ trong vài tháng sau, nhiều phụ nữ đã nối
tiếp theo gương bà.
Nhưng rồi, một hôm, Ðức Thế Tôn nói với A-nan:
"Này A-nan, nếu không chấp nhận phụ nữ vào giáo hội, chúng ta có
thể duy trì sự tinh khiết trong một thời gian dài, và chánh tín có thể
tồn tại, vững mạnh, thanh tịnh cả ngàn năm. Nhưng, này A-nan, nay
chấp nhận phụ nữ vào giáo hội, sự tinh khiết đó rồi sẽ bị hoen ố và
chánh tín, dù vững mạnh tới đâu, cũng sẽ chỉ tồn tại trong khoảng
500 năm."
Cuộc Ðời Ðức Phật 180
PHẬT ÐIỂM MẶT BỌN GIẢ DỐI
Từ Tỳ-xá-li, Ðức Thế Tôn đến Xá-vệ, rồi Ngài đến Kỳ-viên. Một
hôm, vua Ba-tư-nặc đến hầu thăm Ngài.
Quốc vương nói: "Bạch Ðức Thế Tôn, mới đây có sáu ẩn sĩ đến Xávệ.
Họ không tin giáo pháp của Ngài. Họ cho rằng tri kiến của Ngài
không bằng họ, và họ ra sức làm con ngạc nhiên bằng những phép
mầu kỳ lạ. Con nghĩ là lời lẽ của họ không đúng, nhưng, bạch Ðức
Thế Tôn, nếu như Ngài dẹp được tính táo bạo liều lĩnh của họ thì
hay lắm. Việc giải thoát thế nhân tùy thuộc vào ánh vinh quang rực
rỡ của Ngài. Xin Ngài hãy đối diện với bọn gian manh lường gạt đó
và bắt chúng phải im ngay. "
Ðức Phật đáp: "Này quốc vương, hãy cho xây một tòa đại sảnh gần
kinh thành. Hãy hoàn tất trong bảy ngày. Ta sẽ đến. Hãy triệu tập
đông đủ các ẩn sĩ bịp bợm đó lại, và rồi quốc vương sẽ chứng kiến
ai là người làm được những phép màu cao quí nhất, họ hay tạ"
Quốc vương Ba-tư-nặc ha. lệnh xây gấp một đại sảnh đường.
Trong khi đợi đến ngày so tài, bọn ẩn sĩ láo khoét tìm cách đánh lừa
các Phật tử thuần thành của Ðức Thế Tôn, và những ai không nghe
theo lời lẽ quái đãn của chúng thì phải chuốc lấy những hận thù cay
nghiệt. Bấy giờ, Ðức Thế Tôn không có người bạn thân nào ở Tỳ-xáli
hơn là hoàng tử Ca-la (Kala), em ruột của vua Ba-tư-nặc. Ca-la
ra mặt khinh hẳn bọn ẩn sĩ, và chúng quyết định phục thù.
Ca-la là một hoàng tử hào hoa phong nhã. Một hôm, khi dạo qua
vườn ngự uyển, chàng gặp một trong những vương phi của vua BaCuộc
Ðời Ðức Phật 181
tư-nặc, nàng tinh nghịch ném vào người chàng một tràng hoa. Bọn
ẩn sĩ hay tin đó, chúng báo với quốc vương là em trai của quốc
vương đã cố tình quyến rũ một trong những vương phi của ngài.
Quốc vương đùng đùng nổi giận, không để cho Ca-la có dịp phân
bua, quốc vương ha. lệnh chặt hết tay chân của Ca-la.
Ca-la khốn nạn đau đớn vô vàn. Bạn bè thân thích vây quanh
giường của chàng khóc than thê thảm. Một trong những tên ẩn sĩ
quái ác chợt đi ngang qua.
Họ gọi hắn nói: "Mời ngài đến đây, xin ngài phóng rọi quyền năng.
Ngài biết Ca-la vô tội chứ. Xin ngài cứu Ca-la với:"
Tên ẩn sĩ đáp: "Hắn tin tưởng thằng con của dòng Thích-ca thì bảo
thằng con của dòng Thích-ca cứu nó."
Thế là Ca-la cất tiếng hát:
"Sao Ðức Thế Tôn của nhân thế không thấy nỗi đau khổ của con?
Chúng con xin kính lễ Ngài, người đoạn trừ hết mọi dục vọng:
Chúng con xin tôn thờ Ngài, người xót thương vạn loại hữu tình."
A-nan bỗng nhiên hiện ra trước mặt chàng.
Tôn giả nói: "Này Ca-la, Ðức Thế Tôn đã dạy ta những lời có thể
hàn gắn vết thương của ngươi".
Tôn giả đọc vài câu kệ, tay chân của hoàng tử hoạt động lại như
thường.
Chàng tán thán: "Từ nay về sau, ta sẽ hầu ha. Ðức Thế Tôn! Dầu
Ngài sai ta làm những việc hèn ha. đến đâu, ta cũng sẽ hoan hỷ làm
Cuộc Ðời Ðức Phật 182
đẹp lòng Ngài."
Chàng theo A-nan đến Kỳ-viên.
Ðức Thế Tôn niềm nở đón nhận chàng vào giáo hội.
Ðã đến ngày Ðức Thế Tôn định so tài với các ẩn sĩ. Từ sáng sớm,
quốc vương Ba-tư-nặc đã đến đại sảnh đường. Sáu ẩn sĩ đều có mặt
tại đó. Họ trao đổi cho nhau bằng những ánh mắt và nụ cười hý
hửng.
Một ẩn sĩ nói: "Tâu quốc vương, chúng tôi là những người đầu tiên
đến nơi dự hội."
Một tên khác nói: "Ngài thiết tưởng kẻ mà chúng tôi đang mong đợi
có thật sự đến không?"
Quốc vương nói: "Này các ẩn sĩ, không nên khinh suất người ấy.
Quí vị biết là Ngài đã phái một trong các môn đệ của Ngài đến chữa
cho em ta như thế nào, người mà ta đã trừng phạt bất công đó. Ngài
sẽ đến. Có lẽ Ngài đến đây rồi, trước mặt mọi người mà chả ai hay
biết."
Quốc vương vừa nói xong, một vầng mây trắng bao phủ cả nhà.
Ðám mây càng lúc càng trắng, và dần dần tan biến thành ánh sáng
ban ngày, Ðức Phật xuất hiện trong ánh hào quang rực rỡ; phía sau
Ngài là A-nan và Ca-la. A-nan trên tay cầm một hoa hồng, Ca-la
cầm một hoa vàng, và trong khắp các hoa viên ở Tỳ-xá-li, chưa ai
thấy hai đóa hoa kỳ diệu như thế bao giờ.
Vua Ba-tư-nặc thán phục vô vàn. Bọn ẩn sĩ lếu láo không dám cười
đùa nữa.
Cuộc Ðời Ðức Phật 183
Ðức Thế Tôn nói:
"Ðom đóm tỏa ánh sáng cho mọi người thấy chỉ khi nào mặt trời
lặn, nhưng khi ánh sao vằng vặc xuất hiện thì đom đóm khốn nạn kia
liền dập tắt ánh sáng hiu hắt của nó ngay. Bọn giả dối chỉ ồn ào
trong lúc Phật im lặng, nhưng khi Phật lên tiếng thì chúng lại sợ
khóc và im ngay. "
Bọn ẩn sĩ bị báo động. Thấy quốc vương nhìn chúng bằng ánh mắt
khinh bỉ, chúng cả thẹn cúi đầu.
Bỗng nhiên, mái tòa đại sảnh biến mất,trên vòm trời cao, Ðức Thế
Tôn vạch một đường dài từ đông sang tây, Ngài đi trên đó. Thấy
pháp màu huyền diệu này, tên đối thủ hỗn láo nhất của Ngài sợ hãi
trốn mất. Hắn tưởng tượng một bầy chó săn đang gào thét đuổi theo
hắn, hắn cắm đầu chạy riết đến một bờ hồ. Tại đó, hắn cột một hòn
đá vào cổ và gieo mình xuống nước. Một ngư phủ thấy xác hắn ngày
hôm sau.
Trong lúc đó, Ðức Thế Tôn tự phân thân ra hai hình ảnh giống nhau
và cùng đi song song với nhau trên đoạn đường thiên giới. Người ta
nghe thấy âm vang của Ngài vọng xuống.
"Hỡi các đệ tử của ta, ta sắp lên đến quốc độ của chư thiên. Ma-da,
mẫu hậu của ta đã gọi ta; ta phải thuyết giảng giáo pháp cho người.
Ta sẽ ở lại với người trong ba tháng. Nhưng, ngày ngày, ta sẽ xuống
lại trần gian, và chỉ có Xá-lợi-phất là biết ta ở đâu. Xá-lợi-phất sẽ
hướng dẫn đại chúng tu tập theo giáo pháp của ta. Trong khi ta
vắng bóng ở bầu trời, tức là ta sẽ đi với mẫu thân ta, ta sẽ thuyết
giảng giáo pháp cho người; đây là hình ảnh phân thân của tạ"
Cuộc Ðời Ðức Phật 184
KIỀU NỮ XU-BỜ-RA-BA
Ba tháng trôi qua, Ðức Thế Tôn xuống trần gian và đi thẳng đến
thành Tỳ-xá-li. Khi gần đến Kỳ-viên, Ngài gặp một thiếu nữ. Nàng là
tỳ nữ của một phú hộ trong thành, hôm đó ông làm việc ở ngoài
đồng. Nàng đang bê một thố cơm cho ông dùng bữa. Thấy Phật,
nàng cảm thấy sung sướng la. lùng.
Nàng nghĩ: "Ðức Thế Tôn, đúng Ðức Thế Tôn rồi. Ta được ngắm
Ngài tận mắt; có lẽ ta được sờ Ngài tận tay, Ngài đến gần lắm rồi.
Ồ, cúng dường lễ vật cho Ngài là nguồn vui thánh thiện biết bao!
Nhưng ta chả có gì là của ta cả."
Nàng thở dài. Nàng đưa mắt nhìn xuống thố cơm:
"Cơm này. Phần ăn của chủ tạ.. Không một người chủ nào có thể
bắt làm nô lệ kẻ đã là nô lệ. Ông có thể đánh đập ta, không hề gì!
Ông có thể xiềng xích ta, cũng chả sao! ta sẽ nhẹ nhàng mang chịu
tất cả. Ta sẽ cúng dường phần cơm này cho Ðức Thế Tôn."
Nàng dâng thố cơm cho Phật. Ngài nhận cơm và tiếp tục lên đường
đến Kỳ-viên. Thiếu nữ, mắt long lanh niềm sung sướng, đến gặp chủ
của nàng.
Vừa thấy nàng, người chủ hỏi: "Cơm ông đâủ"
"Con cúng dường cho Phật rồi. Hãy phạt con nếu ông muốn, con sẽ
không khóc; con rất sung sướng về điều mà con đã làm."
Ông không phạt nàng, ông cúi đầu nói:
Cuộc Ðời Ðức Phật 185
"Không, ông sẽ không phạt con. Ông còn ngủ mê thì mắt con đã mở .
Hãy đi đi! Con không còn là con bé nô lệ nữạ"
Thiếu nữ cúi đầu thi lễ.
Nàng nói: "Ông đã cho phép, con sẽ đến Kỳ-viên, con sẽ xin Ðức
Thế Tôn thuyết giảng giáo pháp cho con."
Ông nói: "Hãy đi đi!"
Ðến Kỳ-viên, nàng ngồi dưới chân Phật, và nàng đã trở thành một
trong những nữ tu thánh thiện nhất trong hàng đại chúng.
Trong số những người cầu Phật thuyết pháp cùng lúc với thiếu nữ
nô lệ này có Xu-bờ-ra-ba (Suprabha), ái nữ của một danh gia vọng
tộc trong thành Tỳ-xá-lị Xu-bờ-ra-ba đẹp lắm. Thấy nàng là mê
ngay, bao nhiêu thanh niên hào hoa phong nhã trong thành đều đeo
đuổi nàng. Cha nàng thấy thế không ít lo ngại. Ông tự hỏi đi hỏi lại:
"Ta sẽ gả ái nữ của ta cho ai? Kẻ nào ta từ chối, người ấy sẽ là kẻ
thù cay nghiệt của tạ"
Và mỗi lần tự hỏi như thế, ông lại trầm tư suy nghĩ hằng giờ.
Một hôm, Xu-bờ-ra-ba nói với ông:
"Thưa cha, hình như cha đang bực tâm bực trí điều gì. Có chuyện gì
vậy thưa chả"
Ông đáp: "Con à, chính con là mối lo ngại của cha. Có quá nhiều
người ở thành Tỳ-xá-li muốn hỏi cưới con:"
Cuộc Ðời Ðức Phật 186
Xu-bờ-ra-ba nói: "Cha đang lo chọn người cầu hôn cho con. Họ
đáng thương lắm! Nếu họ biết rõ tâm tư của con! Thưa cha, đừng lo
nữa. Cha bảo họ họp lại và cứ theo tập tục cổ truyền, con sẽ đi giữa
họ, con sẽ tự chọn lấy một người chồng cho con."
"Con à, cha sẽ làm theo ý con."
Cha của Xu-bờ-ra-ba đến gặp quốc vương Ba-tư-nặc và được phép
bảo sứ giả đi thông báo khắp thành.
"Trong bảy ngày nữa, sẽ tổ chức một cuộc họp mặt các thanh niên
muốn cưới Xu-bờ-ra-ba. Thiếu nữ sẽ đích thân chọn chồng trong số
thanh niên đó."
Ðến ngày thứ bảy, nhiều kẻ cầu hôn tập trung trong một khu vườn
lộng lẫy của phụ thân Xu-bờ-ra-ba. Nàng xuất hiện trong một cổ xe,
trên tay cầm một lá cờ màu vàng có vẽ chân dung Ðức Thế Tôn.
Nàng đang cất tiếng hát ca ngợi Ngài. Họ ngạc nhiên nhìn nàng và
tự hỏi:
"Nàng sẽ nói gì với chúng tả"
Cuối cùng nàng bộc lộ tâm tình với các thanh niên:
"Ta không thể yêu ai trong các ngươi, nhưng đừng cho rằng ta cự
tuyệt các ngươi. Ái ân không phải là mục tiêu trong lẽ sống của ta;
ta muốn qui y Phật. Ta sẽ đến vườn Ngài cư ngụ, và Ngài sẽ thuyết
giảng giáo pháp cho tạ"
Ðau buồn, các thanh niên lặng lẽ ra về, Xu-bờ-ra-ba đến kỳ viên.
Nàng nghe Ðức Thế Tôn giảng dạy, nàng được nhận vào giáo hội,
và nàng trở thành một tỳ kheo ni tâm thành nhất.
Cuộc Ðời Ðức Phật 187
CÔNG CHÚA VI-RU-BA
Quốc vương Ba-tư-nặc có một ái nữ tên là Vi-ru-ba (Virupa). Nàng
đã đến tuổi kết hôn. Không may, nàng xấu tệ; không một hoàng tử
võ tướng nào chịu hỏi nàng làm vợ, ngay cả bọn thương gia cũng
khinh rẻ nàng.
Bấy giờ có một khách la. giàu có đến ngụ tại Tỳ-xá-li. Tên hắn là
Găng-ga (Ganga). Quốc vương nghĩ: "Găng-ga chưa bao giờ thấy
con gái ta. Có lẽ hắn sẽ không từ chối kết hôn với nàng". Vua triệu
hắn đến hoàng cung.
Găng-ga được Ba-tư-nặc khen ngợi, ban tặng đủ thứ. Hắn thuộc
dòng thứ dân, và tuy hắn là thương gia, hắn đã tích lũy được một tài
sản kết sù, nhưng hắn chưa bao giờ mơ đến việc kết hôn với một
công chúa. Vì thế, hắn sung sướng nhận lời.
Quốc vương nói: "Thế thì ngay tối nay, khanh hãy đến hoàng cung
đưa ái nữ ta về nhà khanh".
Hắn vâng lời. Ðêm tối như mực, hôn lễ diễn ra mà Găng-ga chả
nhìn thấy dung nhan của vị hôn thê mình. Vi-ru-ba theo chồng về
nhà.
Ngày hôm sau, Găng-ga nhìn vợ, vóc dáng xấu xí của nàng làm hắn
giật mình. Hắn muốn tống cổ nàng ra khỏi nhà, nhưng hắn không
dám, hắn sợ quốc vương trả thù. Hắn giữ nàng trong nhà, nhưng
thật sự nàng là một tù nhân không hơn không kém; nàng không được
phép ra ngoài dù bất cứ lý do gì.
Cuộc Ðời Ðức Phật 188
Nàng đau khổ lắm. Nàng luôn luôn bày tỏ lòng thương yêu chân
thành của nàng với chồng, nhưng vô ích; hắn ra mặt gớm guốc
khinh bỉ nàng. Hắn không bao giờ nhìn nàng. Hắn không bao giờ
động đến nàng nửa lời. Vi-ru-ba cảm thấy cô đơn lạc lõng.
Một hôm, Găng-ga được một số bạn bè mời dự tiệc. Hắn được báo
là: "Ai đến mà không đưa vợ theo đều sẽ bị phạt 500 nén vàng."
Găng-ga quyết định tham dự; bữa tiệc sẽ làm dịu bớt phần nào cuộc
sống tẻ nhạt buồn chán của hắn. Nhưng hắn không muốn trình diện
Vi-ru-Ba với bạn bè; hắn sợ bị chế nhạọ Hắn nghĩ: "Thà trả 500 nén
vàng còn hơn là chúng chế riễu tạ"
Ngày hôm đó, Vi-ru-ba âu sầu hơn thường lệ. Nàng khóc, nàng biết
chồng nàng đã đi đâu. Nàng tự nhủ:
"Tốt đẹp gì một cuộc sống ê chề như tả Ta chưa bao giờ có được
một niềm an ủi. Chồng ta ruồng rẫy ta. Ta nào có than phiền gì
được chàng; ta xấu xí mà, ai ai cũng bảo ta xấu xí mà! Ta chả mang
được niềm an vui gì đến cho ai. Ồ, ta tự hận lắm! chết còn sướng
hơn là sống như thế này; chết được ngọt ngào hơn. Ta sẽ tự vận. "
Nàng lấy một sợi dây và tự treo cổ.
Ngay lúc đó, tại Kỳ-viên, Ðức Thế Tôn thắc mắc: "Trong thành Tỳ-
xá-li hôm nay có ai đau khổ thế? Ta có thể cứu khổ cho ai? Ta có
thể giúp một tay cho kẻ nào bất hạnh?"
Nhờ oai lực nhiệm màu của Ngài, Ngài biết Vi-ru-ba đang đau khổ.
Ngài đến nhà Găng-ga và vào nhà. Vi-ru-ba còn sống. Ðức Thế Tôn
mở sợi dây mà nàng đã tự buộc chặt vào cổ. Nàng thở mạnh và nhìn
quanh. Nhận ra Ðức Thế Tôn, nàng gieo mình đảnh lễ dưới chân
Cuộc Ðời Ðức Phật 189
Ngài. Ngài dạy:
"Này Vi-ru-ba, hãy nhìn vào gương xem."
Vâng lời, nàng nhìn vào gương. Nàng ngạc nhiên và sung sướng reo
lên. Nàng đẹp như ngọc nữ của thiên thần. Nàng muốn đảnh lễ Phật
một lần nữa, nhưng Ngài đã ra đi.
Trong lúc đó, Găng-ga đã sai lời giao hẹn khôi hài của bạn.
Họ hỏi hắn: "Tại sao cậu đến mà không đưa vợ theỏ Bộ cậu sợ bọn
này biết mặt vợ cậu sao? Nàng hẳn là đẹp lắm. Mày là thằng chồng
ghen đáo để!"
Găng-ga lúng túng không biết trả lời thế nàọ Bữa tiệc đã làm hắn
phiền muộn. Một trong những người bạn đưa cho hắn một cốc rượu
mạnh và nói:
"Găng-ga, uống đi mày! Bọn tao thì vui cười ha hả, còn mày thì lệ
tuôn tầm tã. Ðến đây mày! Hãy cười với bọn taọ Dzô! Rượu này sẽ
dạy mày biết cười."
Ðưa tay nâng cốc rượu, Găng-ga cạn chén. Hắn trở nên tươi vui
linh hoạt hẳn ra. Hắn uống nữa. Bấy giờ hơi chuếnh choáng, hắn
tiếp tục nâng cốc cho đến lúc ngủ vùi.
Bạn hắn bàn: "Trong khi nó đang ngủ, chúng ta hãy vội sang nhà
nó. Chúng ta sẽ gặp vợ nó, chúng ta sẽ khám phá lý do tại sao nó
không dám cho ai nhìn thấy mặt nàng."
Chúng vào nhà Găng-ga. Vi-ru-ba trên tay còn cầm chiếc gương;
nàng đang say sưa ngắm nghía dung nhan của nàng. Mắt nàng sáng
Cuộc Ðời Ðức Phật 190
lên niềm hạnh phúc. Bọn khách thán phục nàng; chúng lặng lẽ trở
ra; giờ thì chúng mình biết rõ máu ghen của Găng-ga rồi ".
Găng-ga vẫn còn ngủ. Chúng đánh thức dậy và nói:
"Bạn ơi, bạn có phúc nhỉ! Bạn đã làm gì mà chư vị thiên thần hoan
hỷ ban cho bạn một cô vợ xinh đẹp hy hữu thế?"
Găng-ga thét lên: "Quá lắm rồi nghe! Ông đã làm gì chúng bay mà
chúng bay nhục ma. ông ác thế?"
Hắn nổi giận bỏ đi ngay. Hắn tức chúng cành hông. Về đến nhà, hắn
đạp tung cửa; hắn vừa đi vừa nguyền rủa ôm sòm qua các phòng;
nhưng, đôi môi đang văng tục chửi thề của hắn bỗng nhiên khép lại.
Hắn kinh ngạc, tái mét. Trước mặt hắn là một phụ nữ xinh đẹp tuyệt
vời. Nàng đang đon đả tươi cười. Hắn từ từ hoàn hồn; rồi hắn cũng
tươi cười hỏi:
"Ồ, em đứng trước mặt anh mà anh cứ tưởng là một nữ thần rực rỡ
nào đó vừa từ hoa viên hiện đến, hỡi em yêu quí, ai đã làm em xinh
đẹp như thế?"
Vi-ru-ba kể lại sự tình cho chồng nghẹ Từ đó, nàng và chồng nàng
nhận ra niềm hạnh phúc thật sự, họ tìm mọi cơ duyên để xin qui y
Phật và bày tỏ lòng biết ơn của họ đối với Ngài.
Cuộc Ðời Ðức Phật 191
QUỈ KẾ CỦA CHIẾN-GIÀ
Trong lúc đó, quần chúng ra mặt khinh bỉ hẳn bọn ẩn sĩ gian ác mà
Ðức Phật đã vạch trần âm mưu lường gạt của chúng, ý định báo thù
của chúng do đó mỗi ngày một thêm căng thẳng. Chúng cùng nhau
xây dựng cơ sở gần Kỳ-viên, chúng ra sức ngày đêm rình rập, theo
dõi các hoạt động của Phật và đồ chúng của Ngài. Nhưng tất cả đều
vô ích; chúng không tìm đâu ra một kẻ hở tầm thường nhất để bôi
nhọ giáo hội.
Cuối cùng, một ẩn sĩ nói với đồng bọn hắn:
"Chúng ta đã từ lâu quan sát hành vi của các sa môn này. Ðạo hạnh
của họ không thể phủ nhận được. Tuy nhiên, chúng ta phải xúi giục
quần chúng chống lại họ, ta đã có cách. Ta quen Chiến-già (Sinca),
một thiếu nữ hấp dẫn lắm. Nàng rất có tài thực hiện quỉ kế. Nàng sẽ
không từ chối giúp ta, uy danh Thích-Ca nay mai sẽ bị tan biến.
Bọn ẩn sĩ cho mời Chiến-Già đến.
Nàng hỏi: "Các Thầy gọi con có việc chỉ"
"Con biết tên sa môn ở Ca-tỳ-la-vệ chứ, người được quần chúng Tôn
thờ là Phật đó?"
"Chưa biết, nhưng con nghe nói tiếng tăm Ngài lừng lẫy lắm. Người
ta bảo Ngài làm được vô số phép màu huyền diệu.”
"Chiến-già, hắn là kẻ thù cay nghiệt nhất của các thầy. Hắn ha.
nhục các thầy, hắn muốn tiêu diệt quyền năng của các thầy. Nào,
Cuộc Ðời Ðức Phật 192
con tin các thầy; hãy đến đây, hãy đứng về phía các thầy. Cô nào
hàng phục được người chinh phục, cô ấy sẽ được vô vàn hãnh diện;
cô ấy sẽ được vang danh trong giới nữ nhi, cô ấy sẽ được cả thế giới
lên tiếng ca ngợi."
Chiến-già bị lời lẽ đường mật của bọn ẩn sĩ lôi cuống. Nàng tin chắc
là mai đây Ðức Phật sẽ bị ô nhục, tên tuổi của Ngài sẽ bị nguyền rủa
khắp mặt địa cầu.
Bấy giờ, ngày ngày nàng đến Kỳ viên, mỗi khi thấy tín đồ nghe Ðức
Thế Tôn thuyết pháp sắp ra về, nàng diện một bộ đồ màu hồng rực
rỡ, hai tay ôm một bó hoa. Và nếu có ai tình cờ hỏi nàng: "Cô đi đâu
đó!" nàng đáp: "Việc gì đến người mà người hỏỉ" Khi đến Kỳ viên,
nàng chờ tới lúc vắng vẻ, chỉ còn một mình nàng; rồi thay vì vào trú
xứ của Phật, nàng lại thẳng đến nơi cư ngụ của bọn ẩn sĩ gian ác.
Nàng ngủ đêm tại đó, nhưng tảng sáng là nàng quay lại cổng Kỳ
viên, đến khi gặp mặt tín đồ dậy sớm đi lễ Phật cúng dường thì nàng
mới đủng đỉnh ra về. Và có ai hỏi: "Cô đi đâu về sớm thế?" nàng
đáp: "Việc gì đến người mà người hỏỉ"
Cuối tháng, nàng đổi cách trả lời. Chiều đến, nàng nói: "Tôi đến
Kỳ-viên, nơi Ðức Thế Tôn đang chờ tôi". Sáng ra, nàng nói: "Tôi
vừa từ Kỳ-viên về, nơi tôi đã ngủ đêm với Ðức Thế Tôn". Thế là một
số người khờ khạo, nhẹ da. tin nàng, nghi ngờ Ðức Thế Tôn bất tịnh.
Sáu tháng sau, nàng lấy một khổ vải quấn quanh bụng. Người ta
nghĩ: "Nàng có thai". Và bọn người nông cạn đần độn kia khăng
khăng cho rằng đạo hạnh của Ðức Thế Tôn chỉ là sự giả vờ.
Chín tháng trôi qua, nàng nịt một trái banh gỗ ngay trước bụng,
nàng đi đứng ra vẻ uể oải nặng nề. Cuối cùng, một hôm nọ, nàng
vào thẳng giảng đường Ðức Thế Tôn đang thuyết pháp. Nàng bạo
Cuộc Ðời Ðức Phật 193
dạn ngồi đối diện và cất tiếng sang sảng cắt ngang lời Ngài:
"Ngài thuyết giảng giáo pháp cho quần chúng lời lẽ ngọt như đường
mật. Còn em, mang thai với Ngài, sắp làm mẹ trong nay mai, thì
không có đến một nơi nằm chỗ! Ngay cả dầu mỡ em cần Ngài cũng
lờ luôn. Nếu Ngài sợ xấu hổ không lo cho em thì ít ra Ngài cũng có
thể gởi em cho một đệ tử nào của Ngài chứ; quốc vương Ba-tư-nặc,
hay trưởng giả Cấp-cô-độc chẳng hạn. Nhưng không! Ngài chả đếm
xỉa gì đến em, và cũng chả lo lắng gì cho đứa con sắp ra đời! Ngài
chỉ biết vui hưởng ái tình mà cóc cần cưu mang trách nhiệm!"
Ðức Thế Tôn thản nhiên hỏi: "Này Chiến-già, ngươi nói thật hay vu
khống đó? Chỉ có ta và ngươi biết thôi."
Chiến-già gào lên: "Ngài biết rõ quá mà, em đâu có nói láo".
Ðức Thế Tôn vẫn bình tĩnh. Chiến-già hầm hầm đứng phắt dậy và
định xông đến Ngài, nhưng vì thở mạnh quá nên làm đứt sợi dây
buộc trái banh gỗ. Trái banh rơi đạch xuống đất.
Ðức Thế Tôn cười, nói: "Ðó, con của ngươi sanh rồi đó!".
Ðồ chúng giận dữ ùa đến Chiến-già. Họ nguyền rủa và định khạt
nhổ nước bọt vào mặt nàng thì nàng cắm đầu chạy mất. Nàng vừa
khóc, vừa đau, vừa nhục, vừa hận. Nàng cắm đầu chạy mà không
biết chạy về đâu. Bỗng nhiên, lửa dữ bừng cháy hừng hực phủ trọn
lấy thân nàng, và nàng, kẻ vu khống Phật, đã bị tàn rụi trong ngọn
lửa ác nghiệt khủng khiếp.
Cuộc Ðời Ðức Phật 194
PHẬT THUẦN PHỤC TRÂU ÐIÊN
Ðức Thế Tôn rời Kỳ-viên. Ngài dừng chân tại các thành thị, thôn
quê để thuyết giảng giáo pháp, nhiều người đã bày tỏ lòng tín
ngưỡng chân thành và xin qui y Ngài.
Một hôm, có một cặp vợ chồng già thỉnh Ðức Thế Tôn thọ trai với
họ.
Cụ ông nói: "Bạch Ðức Thế Tôn, chúng con đã từ lâu ước mong
nghe được lời Ngài. Giờ đây chúng con sung sướng lắm, chúng con
sẽ hiểu rõ những sự thật cao quí, và trong số thân hữu của Ngài,
Ngài sẽ thấy mấy ai thuần thành hơn chúng con."
Ðức Phật đáp: "Ta không lấy gì làm ngạc nhiên, ngươi và ta đã là
bà con thân thích ở nhiều đời nhiều kiếp."
Cụ bà nói: "Bạch Ðức Thế Tôn, chồng con và con đã sống với nhau
từ thuở còn xuân; nay thì chúng con đã đến tuổi chín mùi. Cuộc
sống đã thắt chặt tình yêu nồng thắm của chúng con. Chưa bao giờ
chúng con có đến một lời to tiếng. Chúng con vẫn yêu nhau như
ngày còn son trẻ, và bóng chiều tàn của đời chúng con vẫn ngọt
ngào như ánh bình minh vừa ló dạng. Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài
cứu độ chúng con ở kiếp sau cũng yêu nhau tha thiết như ở kiếp này.
"
Ðức Thế Tôn nói: "Ðược rồi; chư thiên đã che chở các ngươi!"
Ngài tiếp tục lên đường. Ngài thấy một cụ bà đang xách nước ở một
cái giếng bên lề đường. Ngài đến gần bà và nói:
Cuộc Ðời Ðức Phật 195
"Ta khát lắm, cụ vui lòng cho ta uống một ít nước được không?"
Cụ bà trố mắt nhìn Ngài. Bà xúc động vô vàn. Bà rưng rưng muốn
khóc. Bà muốn ôm hôn Ðức Thế Tôn, nhưng bà sợ. Nước mắt chảy
dài trên hai gò má nhăn nheo của bà.
Ðức Thế Tôn nói: "Hãy ôm hôn ta đi!"
Cụ bà chạy ôm choàng vào hai cánh tay của Ngài. Bà thều thào nói:
"Nay thì con có thể chết một cách sung sướng. Con đã gặp Ðức Thế
Tôn. Con đã được ôm hôn Ngài."
Ngài lại đi. Ngài đến một cánh rừng rộng bao la, tại đó có một bầy
trâu sinh sống với bọn mục đồng. Trong số đó có một con lực lưỡng
và hung hăng lắm. Nó chỉ chịu kẻ chăn nó, người la. đến là nó tấn
công ngay. Mỗi khi người la. đến gần, nó gằm sừng xốc tới và
thường gây thương tích trầm trọng cho người. Ðôi lúc nó còn giết
chết người ấy nữa.
Bọn mục đồng thấy Ðức Thế Tôn đang bình thản đi tới, chúng la
lên:
"Ai đi đó, hãy coi chừng! Ðừng đến gần chúng tôi, ở đây có trâu
dữ".
Thình lình, con trâu ngước đầu, khịt mũi khì khì; rồi nó gằm sừng
nhào đến Ðức Thế Tôn. Bọn mục đồng run cầm cập. Chúng kêu lên:
"Bọn mình quát thế mà người ấy không nghe". Nhưng, bỗng nhiên,
con vật đứng khựng lại; nó quì mọp trước mặt Ðức Thế Tôn và le
lưỡi liếm chân Ngài, đôi mắt nó hiện rõ nét van xin cầu khẩn.
Cuộc Ðời Ðức Phật 196
Ðức Thế Tôn âu yếm vuốt ve con trâu, Ngài nhỏ nhẹ nói với nó:
"Con hãy tự nhủ rằng mọi vật trên đời đều phù du ngắn ngủi, rằng
an lạc êm đềm chỉ được thấy ở niết bàn. Ðừng khóc. Hãy tin ta, hãy
tin vào lòng từ bi lân mẫn của ta, rồi con sẽ hóa kiếp. Con sẽ không
còn đầu thai giữa loài súc sanh, con sẽ được sanh lên cõi trời với
các chư thiên."
Từ hôm đó, con trâu rất mực hiền ngoan. Còn bọn mục đồng thì hết
lòng thán phục, cung kính cúng dường lễ vật Ðức Thế Tôn. Chúng
được Ngài trao truyền giáo pháp và trở thành những môn đệ trung
kiên trong giới môn đệ trung kiên nhất của Ngài.
Cuộc Ðời Ðức Phật 197
SỰ RẠN NỨT GIỮA TĂNG ÐOÀN
Ðức Thế Tôn đến thành Kiều-thưởng-di (Kausambi). Ở đó, lúc đầu,
ngài rất lấy làm hoan hỷ. Dân chúng nhiệt tình nghe theo lời Ngài,
nhiều người đã trở thành sa môn. Quốc vương Ưu-đà-diên
(Udayana) là một trong số những tín đồ thuần thành, Ngài cho phép
con trai Rát-tra-ba-la (Rashtrapala) xuất gia theo đại chúng.
Tuy nhiên, cũng ngay tại thành Kiều-thưởng-di này mà Ðức Thế Tôn
đã gặp phải một trong những nỗi buồn da diết. Ngày nọ, một sa môn
bị khiển trách về tội vi phạm một lỗi lầm nho nhỏ. Thầy không tự
nhận lỗi nên bị phạt. Thầy lại không chấp nhận sự xử phạt, và vì
thầy là người vui tính, thông minh lanh lợi, học rộng nhớ nhiều, nên
có nhiều người theo phe thầy. Các thầy khác đã hoài công van xin
thầy trở về chánh đạọ
Họ nói với thầy: "Ðừng tỏ vẻ kiêu ngạo, đừng tự cho mình không
vấp phải lỗi lầm. Hãy nghe lời chúng tôi. Hãy bày tỏ tâm tình với
các thầy khác, vì họ cùng chung chí hướng thầy; họ cũng sẽ bộc lộ
tâm tình với thầy, vì thầy cũng cùng một tín ngưỡng như họ. Nếu
như các thầy nghe lời nhau, giáo hội sẽ lớn mạnh, giáo hội sẽ hưng
thịnh."
Thầy ấy đáp: "Tôi không cần thầy dạy tôi những điều phải trái. Xin
đừng trách tôi".
"Ðừng nói thế. Ngôn ngữ của thầy không hợp với giáo pháp. Thầy
đanh đi ngược với giới luật; thầy đang gieo cấy mầm mống bất hòa
trong giáo hội. Ði thầy, hãy sửa lại phong cách ăn ở. Hãy sống an
hòa với đại chúng. Hãy tránh cãi vã, hãy thành tín với giáo pháp".
Cuộc Ðời Ðức Phật 198
Vô ích! Ðại chúng quyết định trục xuất kẻ ương ngạnh, nhưng, một
lần nữa, thầy ấy vẫn không nghẹ Thầy ấy vẫn còn trong giáo hội:
thầy ấy ngu muội quá, khỏi cần phải xử phạt gì nữa.
Cuối cùng, Ðức Thế Tôn đã đứng ra thu xếp. Ngài cố gắng khuyên
giải các thầy sa môn; Ngài cầu mong các thầy hãy quên đi bao nỗi
bất hòa, hãy cùng nhau tu tập êm đềm như xưa, nhưng chả ai để ý
đến Ngài. Rồi một hôm, một sa môn còn bạo dạn đến bạch Phật:
"Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài hãy để yên, xin đừng nói gì cả. Ngài
đã giác ngộ chánh pháp, xin Ngài hãy định tâm vào chánh pháp.
Ngài sẽ an vui trong cảnh định. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ biết
hướng đi của chúng tôi; chúng tôi tranh cãi nhưng không phải
không tìm ra phương hướng. Ngài hãy thiền định và xin đừng nói gì
cả".
Ðức Thế-Tôn không hề nổi giận. Ngài cố khuyên giải nhưng không
được. Ngài thấy là Ngài không thể thuyết phục được các sa môn ở
Kiều thưởng di; họ hình như bị một vài cơn điên đột khởi nào đó dẫn
dắt. Ðức Thế Tôn quyết định từ giã họ, nhưng trước tiên Ngài nói
với họ:
"Hạnh phúc thay cho ai có được người bạn chân tình; hạnh phúc
thay cho ai có được người bạn sáng suốt. Chướng ngại nào mà hai
bạn tài đức không thể vượt quả Người không có bạn tâm giao khác
nào vua không có đất nước: phải lang thang phiêu bạt trong cô đơn
hiu hắt như thớt voi già trong cánh rừng hoang. Nhưng thà đi một
mình còn hơn là chung sống với kẻ ngu muội. Người trí phải một
đường một bóng; người trí phải tránh xa ác đạo; người trí phải giữ
gìn thanh tịnh như thớt voi già trong cánh rừng hoang."
Cuộc Ðời Ðức Phật 199
Ngài ra đi. Không ai cố gắng giữ Ngài lại. Ngài đến một ngôi làng
mà Ngài biết là Ngài sẽ tìm ra Bờ-ri-gu, một môn đệ của Ngài, Bờ -
ri-gu rất sung sướng gặp lại Ngài và Ðức Thế Tôn cũng được an ủi
bội phần. Sau đó, A-nậu-lâu-đà, Nan-đà và Kim-tỳ-la cùng theo
Ngài. Họ hết lòng cung kính và an ủi Ngài, họ cùng nhau chung
sống êm đềm. Ðức Thế Tôn nghĩ: "Trong giới đệ tử của ta, ít ra cũng
có một số yêu quí ta và thuận hòa như thế."
Một hôm, nhân lúc ngồi nghỉ mát dưới một tàng cây, Ngài chợt nhớ
lại những phút giây xáo trộn ở Kiều-thưởng-di thì có một đàn voi
dừng chân để nghỉ gần đó. Voi chúa xuống sông lấy nước mang về
cho những voi khác. Chúng uống no nê; rồi thay vì cảm ơn voi chúa
đã lấy nước cho uống, chúng lại ngược đãi nó, chúng vung vòi đánh
đập nó, và cuối cùng, chúng đuổi nó đi. Ðức Thế Tôn thấy tình cảnh
của Ngài chả khác gì tình cảnh của voi chúa kia: cả hai đều là nạn
nhân của sự vô ơn bạc nghĩa thô bạọ Voi chúa nhận thấy nét buồn
hiện rõ trên khuôn mặt Ngài, nó đến gần, nhìn Ngài một cách trìu
mến; rồi nó lặng lẽ bỏ đi, đi tìm thức ăn nước uống cho Ngài.
Ðức Thế Tôn sau cùng trở về Xá-vệ và an trú tại Kỳ-viên.
Nhưng Ngài vẫn đau buồn nghĩ đến các sa môn thô ác ở Kiềuthưởng-
di. Rồi, bỗng dưng, một hôm nọ, Ngài thấy họ vào Kỳ-viên.
Trông họ âu sầu thê thảm: họ không được mọi người cúng dường, ai
ai cũng phẫn uất về sự ngược đãi Ðức Thế Tôn của họ. Họ đến để
xin Ngài tha lỗi. Vị sa môn phạm tội cũng tự sám hối lỗi lầm của
mình, và hình phạt của thầy cũng nhẹ nhàng thôi. Các bạn thân sơ
của thầy đều nhận khuyết điểm. Mọi người tuyên hứa nghiêm trì giới
luật. Ðức Thế Tôn hoan hỷ lắm: giáo hội không còn ồn ào rạn nứt
nữa.
Cuộc Ðời Ðức Phật 200
VŨ NỮ CU-VA-LA-DA
Một hôm, Ðức Thế Tôn về nước Xá-vệ.
Ngài nhắm đến một người Bà-la-môn tên Ba-rát-va-gia
(Bharadvaja) ở trên một cánh đồng cách thành không xa. Nhằm mùa
gặt hái, người Bà-la-môn và những kẻ giúp việc của ông đang tổ
chức ăn mừng linh đình. Họ vui cười ca hát khi thấy Ðức Thế Tôn đi
qua. Ngài đưa bát khất thực, những ai nhận ra Ngài đều cung kính
đón chào và cúng dường Ngài nhiều lễ vật. Ba-rát-va-gia thấy vậy
không hài lòng. Ông đi thẳng đến Ðức Thế Tôn và lớn tiếng nói:
"Ông đạo, mời ông đi ngay cho; ông làm gương xấu cho mọi người.
Ở đây chúng tôi đang làm việc, chúng tôi đang theo dõi, quan sát
những chuyển biến của mùa màng. Ðến lúc cày, người nhà của tôi
cày; đến lúc gieo, người nhà chúng tôi gieo; tôi cùng cày gieo với
họ. Rồi đến mùa, chúng tôi thu hoạch thành quả lao động của chúng
tôi. Chúng tôi tự cung cấp lương thực cho chúng tôi; đến khi mọi
việc xong xuôi, chúng tôi tha hồ nghỉ ngơi, vui vẻ. Trong khi ông,
ông lang thang khắp nẻo phố phường, ông lê la cùng đường cùng
xóm, ông chỉ mệt một chút là gặp ai ông cũng chìa bình bát ra. Tốt
hơn là ông nên lao động; ông nên cày bừa gieo hạt mà ăn".
Ðức Thế Tôn mỉm cười đáp:
"Này bạn, ta cũng cày bừa gieo hạt như bạn, khi công việc làm
xong, ta dùng bữa".
Ba-rát-va-gia nói: "Ông mà cày bừa gieo hạt à? Làm sao ta có thể
tin được chuyện đó? Trâu bò của ông đâu? Hạt giống của ông
Cuộc Ðời Ðức Phật 201
đâu?Cày bừa của ông đâủ"
Ðức Thế Tôn đáp:
"Hiểu biết trong sạch là hạt giống tuyệt vời mà ta gieo trỉa. Tu tập
thánh thiện là mưa lành tưới trên mặt đất phì nhiêu, hạt giống sẽ
đâm chồi nảy lộc, đơm hoa kết trái và già chín trên đó. Ta cầm cày
kiên cố: lưỡi cày là trí tuệ, chuôi cày là giáo pháp, thành tín là con
bò thiến khỏe mạnh kéo cày. Ta cày đến đâu là ái dục trốc gốc như
cỏ phơi trên đồng đến đó, và sản phẩm vụ mùa ta thu hoạch chính là
niết bàn".
Ngài tiếp tục lên đường. Nhưng người Bà-la-môn Ba-rát-va-gia cứ
lững thững theo sau Ngài; ông muốn nghe được lời cao quí.
Vào thành, Ðức Thế Tôn và ông thấy quần chúng đang chăm chú
thưởng thức các tiết mục trình diễn của đoàn vũ công tại một công
viên. Ái nữ của trưởng đoàn là người hấp dẫn đặc biệt. Họ ít khi
thấy một vũ nữ nào duyên dáng xinh đẹp như thế; mỗi khi nàng xuất
hiện, những ai không dằn được lòng ham muốn dễ nổi máu chiếm
đoạt nàng. Tên nàng là Cu-va-la-da (Kuvalada).
Nàng vừa vũ xong, bao ánh mắt nóng bỏng còn dính chặt vào người
nàng. Nàng biết tài năng của nàng, nàng bạo dạn và cao ngạo lắm,
nàng lớn tiếng gọi đám ông:
"Khâm phục ta chứ, quí vị! Trong cả thành Vương-xá, còn ai đẹp
hơn ta, thậm chí có ai bằng tả"
Người bà-la-môn Ba-rát-va-gia đáp: "Vâng, thưa cô nương. So với
vẻ đẹp của Ðức Thế Tôn thì sắc diện của cô nương đã thấm vào
đâủ"
Cuộc Ðời Ðức Phật 202
Cu-va-la-da nói: "Ta muốn xem vẻ đẹp của Ðức Thế Tôn mà ngươi
ca ngợi, làm ơn đưa ta đến gặp Ngài."
Ðức Thế Tôn nói: "Ðây, Ngài ấy đây. "
Ðức Thế Tôn bước tới trước.
Vũ nữ trố mắt nhìn Ngài.
Sau cùng nàng nói: "Ngài đẹp quá, con sẽ vũ cho Ngài xem."
Cu-va-la-da bắt đầu vũ, điệu vũ khởi đầu từ từ. Nàng choàng quanh
người và phủ lên mặt nàng những tấm vải the rực rỡ, vẻ đẹp của
nàng trước kia sắc sảo kiêu kỳ bấy nhiêu thì giờ đây chỉ còn là một
hứa hẹn lờ mờ. Nàng trông như mặt trăng ẩn hiện trong những ánh
mây bàng bạc trong đêm. Một áng mây trôi qua, hiện ra một tia
sáng yết ớt. Ðiệu vũ mỗi lúc một dồn dập nhanh hơn; từng tấm vải
the rơi dần, hằng nga xuất hiện trong ánh trong ngần rực rỡ của
nàng. Nàng đang xoay vũ tít người thì, bỗng dưng một tia sáng chói
lòa đập vào mắt nàng, nàng dừng lại. Nàng thoát y trọn vẹn. Ðám
đông ngẹt thở, ùa tới trước.
Ðức Phật nói: "Cô ấy khốn khổ thay!"
Ngài chăm chăm nhìn nàng. Bấy giờ đôi má của Cu-va-la-da sệ
xuống, vầng trán của nàng nhăn nheo và đôi mắt của nàng mờ đục
hẳn. Trong miệng chỉ còn lại một vài cái răng xấu xí, trên đầu còn
một vài loạn tóc lơ phơ bạc trắng, nàng già nua lụ khụ. Ðức Thế
Tôn quở nàng như xưa kia Ngài đã quở đám con gái của Ma-vương
khi chúng cố quyến rũ Ngài. Ngài đã biến ả vũ nữ diễm kiều thành
một mụ già hóm hém.
Cuộc Ðời Ðức Phật 203
Nàng thở dài:
"Bạch Ðức Thế Tôn, con đã nhận ra những lỗi lầm nghiêm trọng
của con. Sắc đẹp phù du chả giúp con được gì. Ngài đã dạy con một
bài học cay đắng, nhưng con nghĩ là ngày kia con sẽ sung sướng
đón nhận nó. Xin Ngài thuyết giảng cho con những sự thật cao quí;
con nguyện vĩnh viễn giải thoát thân này, dù nó mua vui thiên ha.
đến đâu, nó cũng chỉ là một xác thân gớm guốc".
Ðức Thế Tôn nhận lời thỉnh nguyện của Cu-va-la-da, nàng trở thành
một trong những đệ tử thuần thành nhất trong giới môn đệ thuần
thành của Phật.
Cuộc Ðời Ðức Phật 204
PHẬT ÐỘ HUNG THẦN A-LA-VA-CA
Tại thành A-ta-vi (Atavi) có một vị vua rất ham mê săn bắn. Một
hôm, vừa thấy một con nai to, ngài đuổi theo ngay. Con nai chạy lẹ
quá, và vì quyết đuổi theo con nai, nhà vua lạc xa các tay săn khác.
Cuối cùng, con mồi chạy mất. Mệt mỏi, chán nản, nhà vua ngồi tựa
vào một gốc cây, thiếp ngủ lúc nào không biết.
Bấy giờ hung thần A-la-va-ca (Alavaka) ở trên cây hiện xuống. Hắn
thích ăn thịt người, hắn sát hại và ngấu nghiến tất cả những ai đến
gần hắn. Thấy nhà vua, hắn ra mặt hớn hở; vì vua ham mê săn bắn
khốn nạn kia sắp bị một quả đấm ác liệt thì, may thay, một tiếng
động làm ngài thức dậy. Thấy mạng sống của mình bị đe dọa, nhà
vua gượng đứng lên, nhưng hung thần đã tóm cố ngài quật xuống.
Nhà vua hết lòng van xin:
"Thưa ngài, xin ngài tha mạng cho con. Nhìn vóc dáng dễ sợ của
ngài, con biết ngài là một hung thần ăn thịt người. Thưa ngài, xin
ngài thương con. Con sẽ không bao giờ quên ơn ngài. Con sẽ dâng
ngài những lễ vật tuyệt diệu".
A-la-va ca đáp: "Ta không cần lễ vật! Ta muốn ăn thịt người; ta đói
lắm rồi".
Nhà vua đáp: "Thưa ngài, cho con về A-ta-vi, con sẽ dâng ngài mỗi
ngày một người để ngài xơi thịt".
"Khi ngươi về nhà, ngươi sẽ quên lời hứa".
Nhà vua đáp: "Không, con không bao giờ quên lời. Hơn nữa, nếu
Cuộc Ðời Ðức Phật 205
như con không dâng ngài lễ vật hằng ngày, ngài cứ đến thẳng hoàng
cung của con mà nguyền rủa, con sẽ theo ngài, ngài sẽ ăn tươi nuốt
sống con".
Hung thần tha cho, nhà vua trở về thành A-ta-vị Nhưng ngài mãi lo
nghĩ về lời hứa ác nghiệt của mình; không có cách nào để tránh,
ngài buộc phải mang danh là một vị vua hung tàn bạo ngược.
Ngài triệu quan tể tướng và trình bày sự việc đã xảy ra. Suy nghĩ
trong giây lát, quan tể tướng tâu vua:
"Tâu bệ hạ, trong ngục A-ta-vi có nhiều tội nhân bị kết án tử hình.
Chúng ta có thể nộp chúng cho hung thần. Khi thấy bệ ha. giữ lời
hứa với hắn, biết đâu hắn sẽ miễn giảm cho ngài."
Vua chấp thuận lời đề nghị. Ngài ra lệnh cho vệ binh đến khám
đường nói với các tên tử tù đã được ấn định từng ngày rằng:
"Cách thành không xa, trên cây đại thọ có một thiên thần rất thích
cơm gạọ Ai đến dâng ngài một đĩa cơm dưới gốc cây thì sẽ được ân
xá".
Sau đó, mỗi ngày, lần lượt từng người hân hoan bê một đĩa cơm đến
đặt dưới cây và không bao giờ trở lại.
Bấy giờ, không còn một tên tử tù nào trong ngục. Quan tể tướng ra
lệnh cho các biện lý án sát triệt để khiêm khắc, không tha bất cứ một
tên tù nào bị truy tố là sát nhân, trừ phi có bằng chứng hiển nhiên là
vô tội, nhưng cũng vô ích thôi; họ phải tìm ra biện pháp khác để
thõa mãn hung thần. Họ bắt đầu hy sinh những tên trộm cướp.
Dù họ ra sức kết tội thế nào thì ngục tù cũng lại trống rỗng, nhà vua
Cuộc Ðời Ðức Phật 206
và quan tể tướng buộc phải tìm các nạn nhân trong đám dân cư
lương thiện trong thành. Các cụ già bị tóm cổ đưa tới gốc cây trước,
và nếu các vệ binh không nhanh chân thì hung thần có lúc cũng
ngấu nghiến họ như các nạn nhân.
Tình cảnh đen tối âu lo bao trùm cả thành A-ta-vị Các cụ già biến
dần đâu hết; không ai hay biết việc gì đã xảy đến cho họ. Và, mỗi
ngày, nỗi ân hận của vua lại càng tăng thêm chua xót. Nhưng ngài
không đủ can đảm hy sinh đời mình cho quốc dân hạnh phúc. Ngài
nghĩ:
"Sẽ không ai đến giúp ta sao? Ta nghe nói, khi thì ở Xá-vệ, khi thì ở
Vương-xá, có một người quyền năng cao siêu, đó là Ðức Phật mà
thần thông diệu dụng của Ngài đã được mọi người Tôn vinh ca ngợi.
Họ bảo Ngài thích vân du đây đó. Vậy sao Ngài không đến vuơng
quốc của tả"
Nhờ uy lực nhiệm màu của Ngài, Ðức Phật biết rõ nguyện vọng của
nhà vua. Ngài đến thẳng cây đại thọ của A-la-va-ca. Ngài ngồi yên
tại đó.
Vừa thấy Ngài, hung thần tức tốc hầm hầm đi tới, nhưng, bỗng
nhiên, hắn mất hết nghị lực, hai đầu gối của hắn run cầm cập. Hắn
lên cơn thịnh nộ.
Hắn giận dữ hỏi: "Ngươi là aỉ"
Ðức Phật đáp: "Người có quyền năng vượt hẳn ngươi."
A-la-va-ca giận tím mặt. Hắn muốn xé người đang ngồi trên đất
trước mặt hắn, người mà hắn không thể nào xúc phạm; hắn muốn
hành ha. Ngài cho đến chết. Ðức Phật vẫn ngồi an nhiên tự tại.
Cuộc Ðời Ðức Phật 207
A-la-va-ca cuối cùng tìm cách tự trấn tỉnh. Hắn nghĩ bạo lực không
thắng nổi, quỉ kế có lẽ thành công hơn, hắn lên giọng vui vẻ nói:
"Thưa Ngài, ta thấy Ngài là một nhà thông thái; hân hạnh cho ta là
luôn luôn được hầu chuyện với các nhà thông thái. Ta hỏi họ bốn
điềụ Nếu đáp được, họ tự do ra về; nếu không đáp được, họ phải ở
lại trong ngục tù ta, và ta sẽ ngấu nghiến họ khi nào cần".
Ðức Phật nói: "Thử hỏi ta bốn điều xem."
A-la-va-ca nói: "Ta phải báo cho ngươi biết là chưa có ai đáp được
bốn điều đó. Ngươi sẽ thấy rải rác quanh đây những mảnh xương
người mà ta đã hỏi họ trong quá khứ".
Ðức Phật lập lại: "Hãy thử hỏi bốn điều gì xem."
A-la-va-ca nói: "Thế thì, làm sao nhân loại có thể tránh khỏi dòng
sông ái dục? Làm sao nhân loại có thể vượt qua biển cả sanh tử, tìm
thấy bến bờ an lành? Làm sao nhân loại có thể thoát khỏi bão tố ác
trược? Làm sao nhân loại có thể không bị giông gió tham nhiễm?"
Ðức Phật ôn tồn đáp:
"Nếu qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng thì nhân loại tránh khỏi
dòng sông ái dục; nếu hiểu được việc thiện thì nhân loại vượt qua
biển cả sanh tử, tìm thấy bến bờ an lành; nếu làm được việc thiện thì
nhân loại thoát khỏi bão tố ác trược; nếu biết thánh đạo dẫn đến
giải thoát thì nhân loại không bị giông gió tham nhiễm."
Nghe lời đáp của Ðức Thế Tôn, A-la-va-ca hết lòng Tôn kính, cuối
đầu đảnh lễ dưới chân Ngài và tuyên hứa thay đổi cách sống man rợ
Cuộc Ðời Ðức Phật 208
của y. Sau đó, Ðức Thế Tôn và A-la-va-ca cùng đến thành A-ta-vi,
đến thẳng cung điện của nhà vua.
Hung thần nói: "tâu bệ hạ, nay ta hủy bỏ lời giao ước với ngài."
Nhà vua sung sướng hơn bao giờ hết. Ðến lúc biết được người cứu
mình, nhà vua reo lên:
"Bạch Ðức Thế Tôn, con xin qui y Ngài, Ngài đã cứu con và cứu cả
quốc dân con; con xin qui y Ngài, con sẽ dâng hiến đời con cho việc
xiển dương Tam bảo, xiển dương ánh sáng huy hoàng rực rỡ của
Phật và Thánh tăng."
Cuộc Ðời Ðức Phật 209
ÐỀ-BÀ-ÐẠT-ÐA BỊ TRỤC XUẤT
KHỎI GIÁO HỘI
Sa môn Ðề-bà-đạt-đa là người tính khí rất kiêu mạn. Y không chịu ai
chi phối. Y có tham vọng thay thế Phật, nhưng y biết các sa môn
không ai muốn theo y nổi loạn. Vì thế, y cần đến sự hậu thuẫn của
vua chúa hay hoàng tử.
Một hôm, y tự bảo lòng: "Quốc vương Tần-bà-sa-la già rồi; hoàng
tử A-xà-thế trẻ trung, dũng cảm, hằng mong thay cha lên ngôi. Ta có
thể khuyên hoàng tử chiếm lấy ưu thế, và rồi chàng có thể đến giúp
ta thống lãnh giáo hội."
Y đến gặp A-xà-thế. Y tâng bốc chàng đủ điều; y ca ngợi chàng nào
là khỏe mạnh, can trường, hào hoa phong nhã!...
Y nói: "Ồ, nếu hoàng tử là vua, ánh vinh quang rực rỡ sẽ đến cho
Vương-xá này biết bao! Hoàng tử sẽ chinh phục các nước lân cận;
tất cả vua chúa trên thế giới sẽ thần phục ngài: ngài sẽ là đương kim
hoàng đế, ngài sẽ được tôn thờ như một thiên thần."
Bằng lời lẽ đường mật, Ðề-bà-đạt-đa đã chiếm trọn lòng tin yêu của
A-xà-thế. Y nhận được nhiều bảo vật và lên mặt kênh kiệu hẳn ra.
Mục-kiền-liên thấy Ðề-bà-đạt-đa thường lui tới với hoàng tử. Thầy
quyết định báo cho Ðức Thế Tôn biết.
Tôn giả thưa: "Bạch Ðức Thế Tôn, Ðề-bà-đạt-đa rất thân thiện với
hoàng tử A-xà-thế".
Cuộc Ðời Ðức Phật 210
Ðức Thế Tôn ngắt lời thầy:
"Hãy mặc cho Ðề-bà-đạt-đa làm gì tùy ý; rồi đây chúng ta sẽ biết sự
thật. Ta biết A-xà-thế quí trọng Ðề-bà-đạt-đa lắm; điều đó không
giúp cho y tiến thêm bước nào trên đường đạo hạnh. Hãy mặc cho
Ðề-bà-đạt-đa tha hồ kiêu mạn! Nó sẽ đốt cháy y lúc nào không
chừng. Một khi chuối ra trái, tre lên măng, thế là chúng sắp tàn;
những vinh dự mà Ðề-bà-đạt-đa đang thọ hưởng cũng sẽ chóng tàn
như thế đó."
Tính kiêu mạn của Ðề-bà-đạt-đa không mấy chốc đã lên đến tột
đỉnh. Y không thể chịu nỗi sự tôn kính dành cho Ðức Phật, và một
hôm, y đánh bạo thưa Ngài.
"Bạch Ðức Thế Tôn, ngài nay tuổi tác khá cao, khó khăn lắm Ngài
mới điều khiển nổi tăng đoàn; Ngài nên nghỉ đi thôi. Hãy an tâm
quán tưởng giáo pháp tối thượng mà Ngài đã khám phá, còn giáo
hội xin để tôi gánh vác."
Ðức Thế Tôn mỉm cười:
"Này Ðề-bà-đạt-đa, đừng bận tâm đến ta làm gì; ngươi tử tế quá. Ta
sẽ biết lúc nào ta nghỉ. Hiện nay, ta còn điều khiển được giáo hội.
Hơn nữa, khi thời điểm đến, ta còn không giáo quyền thống lĩnh
tăng đoàn cho Xá-lợi-Phất hay Mục-kiền-liên, những bậc trí tuệ
minh mẫn như ngọn đuốc sáng ngời, còn ngươi, này Ðề-bà-đạt-đa,
sự hiểu biết của ngươi tầm thường quá, trí tuệ của ngươi không sánh
bằng ánh đèn leo lét trong đêm!"
Ðề-bà-đạt-đa cung kính đảnh lễ Ðức Thế Tôn nhưng y không thể
dấu được ánh lửa sân hận đang bừng cháy trong đôi mắt y.
Cuộc Ðời Ðức Phật 211
Ðức Thế Tôn sau đó mời tôn giả Xá-lợi-Phất đến.
Ngài nói: "Này Xá-lợi-Phất, hãy đi khắp thành Vương-xá và lớn
tiếng thông báo rằng: "Hãy coi chừng Ðề-bà-đạt-đa! Y đã ra ngoài
chánh đạọ Ðức Phật không chịu trách nhiệm về ngôn ngữ và hành
động của y; giáo pháp không còn nhằm nhò gì với y, giáo hội không
còn dính dáng gì với y nữa. Vì thế, Ðề-bà-đạt-đa muốn nói gì tùy ý".
Thật là khổ cho Xá-lợi-phất phải làm một việc đau buồn; nhưng,
hiểu ý Ðức Thế Tôn, tôn giả đi khắp thành công bố điều ô nhục của
Ðề-bà-đạt-đa. Dân chúng dừng lại để lắng nghe, một số suy nghĩ:
"tăng đoàn đố ky. Ðề-bà-đạt-đa kết thân với hoàng tử A-xà-thế."
Nhưng số khác nói:
"Ðề-bà-đạt-đa đã phạm phải một lỗi lầm nghiêm trọng nên Ðức Thế
Tôn mới công khai tẫn xuất y như vậy. "
Cuộc Ðời Ðức Phật 212
MƯU ÐỒ CỦA A-XÀ-THẾ
Ðề-bà-đạt-đa đang trầm tư suy nghĩ:
"Tất-đạt-đa muốn ha. nhục ta bằng cách xem thường trí tuệ của ta.
Ta sẽ vạch trần lỗi lầm của hắn cho hắn thấy. Uy danh của ta rồi
đây sẽ làm lu mờ ánh huy hoàng của hắn; ngọn đèn đêm sẽ thành
ánh mặt trời. Nhưng vua Tần-bà-sa-la là bạn thân của hắn; vua sẽ
bao bọc che chở hắn. Bao lâu nhà vua còn sống là ta chả làm ăn
được gì. Trái lại, hoàng tử A-xà-thế là người tôn vinh kính trọng ta,
chàng đặt hết tin tưởng vào ta, nếu chàng lên ngôi, ta sẽ muốn gì
được nấy. "
Y đến cung điện của A-xà-thế.
Y nói: "Thưa thái tử, chúng ta đang sống trong một thời đại nhiễu
nhương! Những bậc hiền tài đáng ngôi thiên tử thì hình như phải
sống dở chết mòn chứ không bao giờ được lên ngôi để cứu nước.
Ðời người quả thật mong manh! Thọ mạng của phụ vương ngài làm
tôi lo cho ngài không ít."
Y nói thao thao, y khuyên thái tử làm những điều vô cùng ác độc.
Thái tử nhẹ da. nghe theọ Và không mấy chốc, chàng đã quyết định
ha. sát phụ vương chàng."
Bấy giờ, A-xà-thế ngày đêm thường xuyên qua lại hoàng cung, chờ
dịp thuận tiện để lẻn vào ám át phụ vương. Nhưng chàng không thể
qua mặt vệ binh. Sự bồn chồn xao xuyến của chàng làm họ nghi ngờ,
họ tâu vua Tần-bà-sa-la:
"Tâu bệ hạ, thái tử A-xà-thế của ngài mới đây có những cử chỉ kỳ lạ.
Cuộc Ðời Ðức Phật 213
Có thể thái tử đang dự tính làm một điều gì ác độc?"
Nhà vua đáp: "Im đi! Con ta là người tính tình cao thượng. Thái tử
sẽ không bao giờ làm điều tồi bại".
"Tâu bệ hạ, nên triệu thái tử hỏi xem".
"Này quân sĩ, hãy im đi. Ðừng vu khống con tạ"
Vệ binh tiếp tục canh phòng nghiêm mật, và sau vài ngày, họ lại tâu
vua. Ðể họ thấy rõ lỗi lầm, nhà vua triệu A-xà-thế đến.
Thái tử đứng trước phụ vương, run sợ cầm cập thưa:
"Tâu phụ vương, phụ vương đòi con có việc chỉ"
Tần-bà-sa-la nói: "Này con, quân sĩ nói mới đây con có những cử
chỉ kỳ lạ. Chúng tâu với phụ vương là con đang thực hiện điều gì bí
mật; chúng bảo rằng con hay tránh né ánh mắt của mọi người. Con
à, chúng vu khống sao? "
A-xà-thế đáp: "Tâu phụ vương, họ không vu khống đâu.”
Lòng ân hận bỗng dưng dâng nghẹn cả người chàng. Chàng sụp lạy
dưới chân phụ vương, và vì quá tủi nhục, chàng nức nở khóc.
"Tâu phụ vương, con muốn giết phụ vương"
Tần-bà-sa-la giật mình. Ngài lên giọng thống thiết hỏi:
"Tại sao con muốn giết chả"
Cuộc Ðời Ðức Phật 214
"Ðể lên ngôi."
"Thế thì lên ngôi, vương vị đáng gì để con phải hận thù" nhà vua
kêu lên.
Ngày hôm sau, A-xà-thế được công bố lên ngôi vua.
Việc làm đầu tiên của chàng là hết lòng tôn vinh phụ hoàng. Nhưng
Ðề-bà-đạt-đa vẫn lo sợ quyền lực của phụ vương, y quyết định dùng
ảnh hưởng của mình để triệt ha. ngài.
Y kích động A-xà-thế: "Bao lâu phụ vương ngài còn tự do thì ngài
vẫn còn có nguy cơ mất ngôi. Cựu hoàng còn nhiều túc vệ lắm; ngài
phải ra oai để dằn mặt bọn chúng."
Ðề-bà-đạt-đa khuyến dụ A-xà-thế thực hiện ý đồ của mình, thế là
Tần-bà-sa-la khốn nạn kia bị tống giam. Bấy giờ A-xà-thế quyết
định bỏ đói cựu hoàng cho đến chết, chàng không cho phép ai mang
thực phẩm đến ngài.
Tuy nhiên, hoàng hậu Vi-đề-hi (Vaidehi) thỉnh thoảng được phép
đến ngục thăm Tần-bà-sa-la. Bà lén đem cơm đến và ngài dùng
ngon lành. Nhưng chẳng bao lâu, A-xà-thế chận đứng việc làm đó;
chàng ha. lệnh cho vệ binh khám xét bà mỗi khi bà đến thăm tù
nhân. Sau đó bà dấu cơm trong búi tóc, đến khi sự việc vỡ lỡ, bà
phải dùng mọi thiện xảo để cứu cựu hoàng khỏi chết đói. Nhưng rồi
bà cũng bị phát hiện, và A-xà-thế, cuối cùng, không cho bà vào
khám đường nữa.
Trong khi đó, chàng lại ngược đãi môn đệ của Phật. Họ không được
phép trông coi ngôi chùa mà xưa kia Tần-bà-sa-la đã tôn trí vài lọn
tóc và một ít móng tay của Ðức Thế tôn. Hương hoa lễ vật chẳng
Cuộc Ðời Ðức Phật 215
còn, trong điện ngoài chùa chả ai lau chùi quét dọn.
Tại cung điện của A-xà-thế, có một phụ nữ tên là Xờ-ri-ma-ti
(Srimati). Nàng thuần thành lắm. Nàng thấy đau lòng vì không làm
được việc thiện. Trong những lúc đau buồn đó, nàng thắc mắc là
không biết làm sao bày tỏ tín tâm của nàng cho Ðức Thế Tôn thấy.
Mỗi khi nàng ngang qua chùa, thấy cảnh đìu hiu vắng vẻ, thấy cảnh
bụi đất bám đầy, nàng ngậm ngùi than khóc.
Xờ-ri-ma-ti nghĩ: "Rồi Ðức Thế Tôn sẽ biết rằng trong căn nhà này
vẫn còn có một tín nữ tôn kính Ngài. Ðánh liều, nàng vào chùa quét
dọn và chưng cúng một tràng hoa tươi.
Nhìn thấy tràng hoa, A-xà-thế tức lắm, chàng muốn biết ai dám cả
gan vi phạm lệnh chàng. Không cần phải che dấu, Xờ-ri-ma-ti đích
thân ra trước vua nhận tội.
A-xà-thế hỏi:
"Tại sao ngươi dám ngang nhiên cãi lệnh tả"
Nàng đáp: "Nếu như thần thiếp cãi lệnh bệ ha. ấy là thần thiếp vâng
lệnh phụ hoàng Tần-bà-sa-la của bệ hạ."
A-xà-thế khỏi cần nghe thêm nửa lời. Giận tái mặt, chàng nhào đến
đâm Xờ-ri-ma-ti một daọ Bị thương nặng, nàng ngã nhào xuống đất;
nhưng mắt nàng vẫn sáng lên niềm hoan hỷ, nàng sung sướng cất
tiếng hát:
"Mắt ta đã nhìn thấy đấng cứu tinh của nhân thế; mắt ta đã nhìn
thấy ánh hào quang của nhân thế; và để cúng dường Ngài, trong
màn đêm,ta đã thắp lên vô vàn ngọn đèn. Ðể cúng dường Ngài phá
Cuộc Ðời Ðức Phật 216
tan đêm tối, ta đã diệt trừ hắc ám vô minh. Hào quang của Ngài rực
rỡ hơn ánh sáng của mặt trời, tia sáng của Ngài tinh khiết hơn tia
sáng của mặt trời, ta đê mê nhìn ngắm hào quang rực rỡ của Ngài.
Ðể cúng dường Ngài phá tan đêm tối, ta đã diệt trừ hắc ám vô
minh."
Nàng qua đời, toàn thân nàng rực lên một màu sáng thánh thiện.
Cuộc Ðời Ðức Phật 217
CÁI CHẾT CỦA ÐỀ-BÀ-ÐẠT-ÐA
Ðề-bà-đạt-đa nóng lòng muốn thay Phật cầm đầu giáo hội. Một
hôm, y nói với A-xà-thế:
"Tâu bệ hạ, Ðức Phật khinh miệt bệ ha. lắm. Hắn oán ghét bệ ha.
lắm. Vì tiền đồ xán lạn của bệ hạ, bệ ha. hãy trừ hắn đị Bệ ha. hãy
lệnh cho một số vệ binh đến Trúc-lâm giết quách hắn; bần đạo sẽ
dẫn đường."
A-xà-thế bị thuyết phục dễ dàng. Những tay sát nhân đến Trúc-lâm,
nhưng khi thấy Ðức Thế Tôn, chúng sụp lạy tôn thờ dưới chân Ngài.
Sự kiện đó làm cho Ðề-bà-đạt-đa càng giận thêm. Y thẳng đến tàu
voi của hoàng gia, tìm một con voi hung bạo nhất, rồi mua chuộc
đám vệ binh thả voi khi Phật đi qua để nó vung vòi quật Ngài hoặc
dùng chân chà đạp Ngài. Nhưng khi nhìn thấy Ðức Thế Tôn, con voi
trở nên ngoan ngoãn, nó đi đến trước Ngài, đưa vòi phủi những vết
bụi bám trên vạt áo cà sa của Ngài. Ðức Thế Tôn vui cười hoan hỷ
nói:
"Ðây là lần thứ hai, nhờ Ðề-bà-đạt-đa, mà một con voi đã biết kính
lễ tạ"
Sau đó, chính Ðề-bà-đạt-đa quyết tâm hãm hại Ðức Thế Tôn. Thấy
Ngài đang nhập định dưới bóng cây, y bạo gan ném Ngài một cục đá
nhọn, cục đá va vào chân Ngài; vết thương từ từ rỉ máu. Ðức Thế
Tôn nói:
"Ðề bà-đạt-đa, ngươi đã phạm một trọng tội; nghiệp báo rồi đây sẽ
ghê gớm lắm. Những nổ lực hãm hại thân mạng Ðức Thế Tôn đầy
Cuộc Ðời Ðức Phật 218
tội ác của ngươi đều vô ích; Ngài sẽ không qua đời non yếu đâu.
Ngài sẽ ra đi theo hạnh nguyện của Ngài, Ngài sẽ viên tịch theo giờ
giấc Ngài chọn."
Ðề-bà-đạt-đa bỏ đi. Y dứt khoát không theo qui luật của giáo hội
nữa, y dốc lòng tìm kiếm môn đệ riêng của y.
Trong khi đó, vua Tần-bà-sa-la đang chết dần chết mòn vì đói khát.
Nhưng ngài không chết hẳn. Một năng lực huyền nhiệm nào đó đã
duy trì mạng sống của ngài. Cuối cùng, con của Ngài quyết định ha.
thủ ngài, chàng ra lệnh đốt hai lòng bàn chân của ngài, rạch hai
chân ngài rồi đổ dầu muối lên trên vết thương. Tên đao phủ y lệnh,
nhưng hắn cũng rơi lệ khi thấy cụ già bị hành ha. như vậy.
Ngày A-xà-thế ha. lệnh giết phụ hoàng cũng là ngày chàng có một
bé trai ra đời. Nhìn con, chàng cảm thấy vô vàn sung sướng; bớt đi
tính khắc nghiệt phần nào, chàng vội phái vệ binh đến ngục ngăn
cuộc hành hình. Nhưng họ đến trễ quá; vua Tần-bà-sa-la đã chết
trong cảnh thống khổ kinh hồn.
A-xà-thế bắt đầu ân hận. Một hôm, chàng nghe hoàng hậu Vi-đề-hi
bế hoàng tử tí hon tỉ tê:
"Nguyện cầu cha cháu thương cháu như cha của cha cháu thương
cha cháu. Xưa kia, khi cha cháu còn bé, cha cháu bị một cái nhọt
trên đầu ngón tay, nó hành ha. cha cháu đau đớn khóc hoài; không
có một loại thuốc nào chữa khỏi; vì thế, hoàng thượng Tần-bà-sa-la
phải dùng môi ngậm đầu ngón tay mà hút mủ ra, A-xà-thế nhờ vậy
mà ăn chơi vui đùa trở lại. Ồ, cháu ơi, hãy yêu quí cha cháu; đừng
đem lòng độc ác hành ha. cha cháu như cha cháu đã đem lòng độc
ác hành ha. cựu hoàng Tần-bà-sa-lạ"
Cuộc Ðời Ðức Phật 219
A-xà-thế xót xa rơi lệ. Chàng hối hận vô vàn. Ðêm đêm, trong giấc
ngủ, chàng thường thấy phụ hoàng bị thương đổ máu, và nghe tiếng
ngài than oán rợn người. Chàng bị sốt nặng, ngự y Kỳ-bà (Jivaka)
được triệu đến hoàng cung để chữa trị chàng.
Kỳ-bà nói: "Ha. thần không thể làm gì được cho bệ hạ. Thân bệ ha.
không bệnh. Hãy đến gặp Ðấng Ðại Giác, Ðức Thế Tôn, Ðức Phật;
chỉ có Phật mới an ủi và hồi phục sức khỏe cho ngài."
A-xà-thế theo lời khuyên của Kỳ-bà. Chàng đến gặp Ðức Thế Tôn;
chàng bộc lộ hết mọi hành vi thâm độc của chàng, chàng thấy an
tâm trở lại.
Ðức Phật nói: "Phụ hoàng của bệ ha. đã được sanh lên cõi trời
Ðạo-lợi, người đã hiểu lòng ân hận của bệ ha. và đã tha thứ cho bệ
ha. tất cả. Hỡi vua A-xà-thế, hãy nghe ta; hãy đạt ngộ giáo pháp và
đoạn diệt khổ đau.”
A-xà-thế ban hành một quyết định trục xuất Ðề-bà-đạt-đa ra khỏi
nước, lệnh dân chúng đóng cửa tống khứ y nếu thấy y đến xin tá túc.
Bấy giờ Ðề-bà-đạt-đa ở gần thành Xá-vệ, y hy vọng được vua Ba-tưnặc
đón tiếp, nhưng y cũng bị khinh miệt khước từ và buộc phải rời
khỏi nước. Không thể khuyên dụ tín đồ, y cuối cùng phải trở về
thành Ca-tỳ-la-vệ.
Y vào thành lúc màn đêm buông xuống. Ðường phố tối nhem, kinh
thành vắng ngắt; hầu như không ai nhận ra y khi y đi qua, vì làm
sao người ta có thể nhận ra một sa môn gầy gò khốn khổ, men men
theo bóng vách tường, với Ðề-bà-đạt-đa huênh hoang kiêu mạn? Y
đi thẳng đến cung điện của công chúa Da-du, nơi bà sống một mình
trong cô đơn hiu quạnh.
Cuộc Ðời Ðức Phật 220
Y được mời vàọ
Da-du nói: "Thưa thầy, thầy muốn gặp tôi có chuyện chi? Thầy
mang tin vui đến cho tôi phải không? Thầy vâng lệnh chồng tôi sai
đến phải không?"
"Chồng của công chúa à! Ngài ít khi lo cho công chúa! Hãy nghĩ lại
lúc Ngài tàn nhẫn bỏ công chúa!".
"Ngài đã bỏ tôi để giải thoát cho nhân thế".
"Công chúa còn yêu Ngài chứ?"
"Tình yêu của tôi sẽ làm hoen ố sự trong sạch của đời Ngài."
"Thế thì hận Ngài muôn đời là phải."
"Tôi hết lòng tôn kính Ngài."
"Này bà, Ngài đã khinh bỉ ruồng bỏ bà, bà phải báo thù Ngài mới
được."
"Này sa môn, hãy im đi! Lời lẽ của ngươi thô ác quá"
"Em không nhận ra anh sao? Anh là Ðề-bà-đạt-đa, người yêu em
tha thiết đó!"
"Ðề-bà-đạt-đa, Ðề-bà-đạt-đa, ta biết ngươi là người điêu ngoa độc
ác; ta biết ngươi là một sa môn bất tín lọc lừa, nhưng ta không bao
giờ nghi ngờ những mưu sâu hèn ha. của ngươi".
Cuộc Ðời Ðức Phật 221
"Da-du, Da-du, anh yêu em! Chồng em khinh miệt em; hắn tàn nhẫn
lắm! Hãy thù hắn. Hãy yêu anh!"
Da-du giận đỏ mặt. Ðôi mắt dịu hiền của bà bỗng dưng tràn ra
những giọt lệ ô nhục.
"Chính ngươi khinh miệt ta! Tình yêu của ngươi sẽ là một sỉ nhục
nếu nó chân tình, nhưng ngươi lại láo khoét bảo rằng ngươi yêu ta.
Ngươi ít khi để ý đến ta trong những ngày ta còn son trẻ, trong
những ngày ta còn xinh đẹp nõn nà! Nay ngươi gặp ta, một cụ bà
héo gầy chuyên tu khổ hạnh thì ngươi lại bày chuyện yêu đương, lại
tỏ tình ái ân tội lỗi! Ðề-bà-đạt-đa, ngươi là người đáng nguyền rủa
nhất! Hãy cút đi! Cút đi!"
Ðề-bà-đạt-đa nỗi giận nhào đến bà. Bà đưa tay ra đỡ, y ngã nhào
xuống đất, lăn tròn mấy vòng, máu trong miệng y vọt ra xối xả.
Y lặng lẽ bỏ đi. Cả dòng tộc Thích-ca nghe y về thành Ca-tỳ-la-vệ,
họ ra lệnh vệ binh tống khứ y ra khỏi thành, đưa y đến yết kiến Phật
để Ngài quyết định số phận của y. Y giả vờ hối hận, nhưng y đã tẩm
thuốc độc vào móng tay, và khi y sụp lạy dưới chân Ðức Thế Tôn, y
cố tình cào vào mắt cá của Ngài. Ðức Thế Tôn đưa ngón chân cái
đẩy nhẹ y, mặt đất như nứt ra; lửa dữ vọt lên, phủ kín tên Ðề-bà-đạtđa
hèn hạ.
Cuộc Ðời Ðức Phật 222
BA-TƯ-NẶC VÀ A-XÀ-THẾ
Mặc dù Phật đã uốn nắn tính tình của A-xà-thế nhưng có lúc vua
vẫn còn sân hận. Một hôm, vì sự xích mích giữa một người ở Vươngxá
và một người ở Xá-vệ mà vua tuyên chiến với quốc vương Ba-tưnặc.
Vua huy động một binh lực khổng lồ: gồm bộ binh, kỵ binh, chiến xa,
tượng xa, và cung tên giáo mác lấp lánh dưới ánh mặt trời khi họ
tiến quân ra trận.
Quốc vương Ba-tư-nặc cũng tập họp quân đội với nhiều chiến xa,
tượng xa và kỵ binh hùng hậu, ngài tiến tới trước để đối mặt với vua
A-xà-thế.
Ðó là một chiến trận ác liệt kéo dài trong bốn ngày. Ngày thứ nhất,
Ba-tư-nặc mất hết voi; ngày thứ hai, mất hết ngựa; ngày thứ ba, mất
hết chiến xạ; ngày thứ tư, bộ binh bị giết và bị bắt toàn bộ; Ba-tưnặc
bị đại bại kinh hoàng, chui vào chiếc xe duy nhất được giải cứu
trong cơn ác chiến và trốn về Xá-vệ.
Tại đó, trong một căn phòng nhỏ bé, tối om, nhà vua ném mình trên
một chiếc giường con ẩm thấp. Ngài im lặng, nghĩ đến cảnh chiến
bại khốc liệt mà đau đớn ê chề, mặc cho nước mắt tuôn chảy đầm
đìa xuống hai gò má.
Một người bước vào; đó là trưởng giả Cấp-cô-độc.
Người nói: "Tâu bệ hạ, chúc bệ ha. vạn tuế, nguyện phen này thắng
Cuộc Ðời Ðức Phật 223
trận!"
Nhà vua than: "Quân sĩ của ta chết hết rồi, tất cả quân sĩ của ta đều
thiệt mạng hết rồi! Quân sĩ ơi! Quân sĩ ơi!"
"Tâu bệ hạ! Ðừng đau khổ nữa. Hãy gầy dựng đoàn quân khác".
"Ta mất quân sĩ là mất cả sơn hà xã tắc"
Cấp-cô-độc thưa: "Tâu bệ hạ! Ha. thần sẽ cấp vàng cho bệ hạ, bệ
ha. sẽ tất thắng phen này".
Ba-tư-nặc nhảy vọt xuống giường nói:
"Cấp-cô-độc! Khanh đã cứu trẫm, trẫm xin cảm ơn khanh".
Nhờ vàng của Cấp-cô-độc, Ba-tư-nặc thành lập được một binh đoàn
vững mạnh. Ngài ra quân chinh phạt A-xà-thế.
Khi hai đoàn quân giáp mặt, tiếng hò reo vang dội kinh hồn, ma quỉ
thánh thần cũng phải vỡ gan tím mật. Ba-tư-nặc dàn binh theo thế
trận của người xứ khác truyền đạt. Ngài tấn công chớp nhoáng;
không kịp phòng thủ, A-xà-thế phải thất bại và bị tóm gọn.
A-xà-thế nói với Ba-tư-nặc: "Hãy giết ta đi!"
Ba-tư-nặc đáp: "Ta sẽ tha mạng cho ngươi. Ta sẽ đưa ngươi đến
gặp Ðức Thế Tôn, Ngài sẽ quyết định phận số của ngươi."
Ðức Thế Tôn vừa đến Kỳ-viên được ít lâu. Ba-tư-nặc đến bạch:
"Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài nghĩ xem! Vua A-xà-thế là tù binh của
Cuộc Ðời Ðức Phật 224
con. Con không có ác tâm ác ý gì với hắn mà hắn vẫn oán thù con.
Vì một vài nguyên do vặt vãnh, hắn cất binh tấn công và đánh bại
con lần đầu, nhưng nay con hỷ xả cho hắn. Bạch Ðức Thế Tôn, con
không muốn giết hắn. Vì phụ hoàng của hắn, quốc vương Tần-bà-sala,
là bạn thân của con, con muốn trả tự do cho hắn".
Ðức-Thế-Tôn nói: "Thế thì hãy trả tự do cho A-xà-thế. Thắng thì gây
hận thù; bại thì chuốc đau khổ. Những bậc hiền giả sáng suốt không
còn ôm lòng thắng bại. Hủy báng sanh hủy báng, hận thù sanh hận
thù. Những bậc hiền giả sáng suốt không còn ôm lòng thắng bại. Hại
người thì người hại. Ðoạt người thì người đoạt. Những bậc hiền giả
sáng suốt không còn ôm lòng thắng bại."
Trước sự hiện diện của Ðức Thế Tôn, A-xà-thế nguyện hứa là bạn
trung thành với Ba-tư-nặc.
"Và, chúng ta hãy còn hơn là bạn tâm phúc nữa" người nói tiếp. "Ta
có một hoàng tử như ngài biết, ngài có một công chúa Cờ-sê-na
(Kshena) chưa lấy chồng. Ngài vui lòng gả công chúa của ngài cho
hoàng tử của ta được chứ?"
Ba-tư-nặc nói: "Thế thì tốt quá. Mong rằng cuộc tác hợp đậm đà
này sẽ thắt chặt thêm tình bằng hữu thắm thiết của chúng tạ"
Ðức Thế Tôn hài lòng. Hai vị quốc vương từ đó chung sống hòa
bình với nhau. A-xà-thế về sau nổi danh là một vì vua nhân ái.
Cuộc Ðời Ðức Phật 225
PHẬT TRUYỀN GIÁO PHÁP
Ðức Thế Tôn mỗi lúc một già yếu dần. Khi Ngài ở tại Vương-xá,
Ngài tập họp tăng đoàn và thuyết giảng cho họ rất lâu.
"Này các thầy tỳ kheo, đừng quên giáo pháp mà ta đã trao truyền
cho các thầy. Hãy cẩn thận giữ gìn chúng. Các thầy hãy nhóm họp
mỗi tháng hai lần, các thầy sẽ chỉ vẽ lỗi lầm cho nhau. Nếu thầy nào
thấy mình có lỗi mà không phát lồ sám hối, thầy ấy sẽ phạm tội vọng
ngữ. Hãy sám hối: sám hối tất an lạc. Như các thầy biết đó, bốn
trọng tội mà một thầy tỳ kheo có thể phạm phải là: tác hợp với phụ
nữ; trộm lấy bất cứ vật gì; giết người hay xúi người giết; giả có
năng lực siêu nhân mà thật ra vốn mình không có. Tỳ kheo nào
phạm một trong bốn tội đó là phải trục xuất ra khỏi giáo hội. Tỳ
kheo không được dùng lời hoa mỹ hoặc làm hỏng đời phụ nữ. Không
được vu oan cho huynh đệ. Không được gieo mối bất hòa trong hàng
tăng chúng. Không được cố tình tránh né thiện ý phê bình. Không
được vọng ngữ hoặc nhục ma. ai. Này các thầy tỳ kheo, hãy giữ gìn
cẩn thận tất cả những giáo pháp mà ta đã truyền đạt cho các thầy. "
Ngài dạy tiếp:
"Oai nghi tế hạnh là lãnh địa của bất tử trường tồn; cẩu thả buông
lung là cứ điểm của vong thân hoại thể. Oai nghi tế hạnh thì sống;
cẩu thả buông lung thì chết. Thế nên, các bậc hiền trí lúc nào cũng
điềm đạm uy nghi. Các bậc hiền trí đều đạt đến niết bàn vô thượng.
Thầy nào có nghị lực và nhớ nhiều, suy nghĩ thật thà, hành động cẩn
trọng, tiết dục tri túc, sống hợp giáo pháp, đứng đắn trang nghiêm;
thầy ấy sẽ thấy đạo hạnh của mình tăng trưởng rực rỡ. Cẩu thả
buông lung là ngu ngơ đần độn; bậc hiền trí giữ uy nghi như người
Cuộc Ðời Ðức Phật 226
hà tiện giữ vàng. Thầy nào đứng đắn trang ngiêm, thầy ấy sẽ thấy rõ
mối nguy hại của tính buông lung cẩu thả; thầy ấy sẽ đoạn trừ ác
pháp như gió thổi lá rơi; thầy ấy sẽ bẻ nát xích xiềng buộc vào trần
thế; thầy ấy sẽ gần gũi với niết bàn. Ðứng trên lầu cao trí tuệ, giải
thoát hết mọi khổ đau, bậc nghiêm túc uy nghi, người đã hàng phục
thói quen phóng dật, sẽ thấy chúng sanh khốn khổ như kẻ đứng trên
núi cao nhìn xuống đám người lố nhố dưới ruộng.
Cuộc Ðời Ðức Phật 227
ÐỨC PHẬT VÀ GÃ MỤC ÐỒNG
Trước khi Ðức Thế Tôn tịch diệt, Ngài quyết định làm một cuộc
hành trình thật xa. Ngài muốn viếng thăm một số môn đệ và khuyên
nhủ họ cẩn thận, giữ gìn giáo pháp của Ngài. Với một mình A-nan
theo hầu, Ngài lên đường rời thành Vương-xá.
Một hôm, nhân khi ngồi nghỉ trên một bờ ruộng, Ngài nói với A-nan:
"Ðây rồi có lúc người đời sẽ tự hỏi tại sao ta còn phải đầu thai vào
da. đàn bà. Họ sẽ thắc mắc về chuyện đản sanh thanh tịnh tuyệt đối
của ta, họ sẽ hoài nghi uy lực tối thượng nhiệm màu của ta. Những
kẻ phàm phu kém cỏi đó sẽ không bao giờ hiểu rằng ai cống hiến đời
mình cho sự nghiệp thánh thiện thì hình hài đâu còn vướng vào chu
trình cấu uế của việc ha. sanh. Ai muốn chứng đắc vô thượng bồ đề,
người ấy phải vào da. đàn bà; vì lòng xót thương nhân thế, người ấy
phải nguyện sanh vào cỏi nhân gian. Vì nếu người ấy là thiên thần,
làm sao người ấy có thể chuyển vận bánh xe chánh pháp? Này Anan,
nếu Phật là một thiên thần, loài người e không mấy chốc sẽ nản
lòng thối chí. Họ sẽ nói: "Ðức Phật là vị thiên thần, Ngài vốn có
hạnh phúc, thánh đức và hoàn hảo tuyệt vời; còn chúng ta, làm sao
chúng ta có hy vọng đạt đến ngần ấy thứ? Họ sẽ đâm ra chán nản
đau buồn. Ồ, đừng động đến hạng người kém cỏi ấy: Ðừng để chúng
trộm cắp giáo pháp của ta, chúng sẽ làm bệnh hoạn giáo pháp đó.
Hơn nữa, đừng để chúng nhận định Phật tánh là khó hiểu, chúng sẽ
không bao giờ đo lường được sự cao cả siêu việt của ta đâu!"
Một gã chăn cừu đang băng ngang qua ruộng. Y có sắc thái thanh
tịnh của một người đang âm thầm làm việc hoan hỷ.
Cuộc Ðời Ðức Phật 228
Ðức Thế Tôn hỏi: "Ngươi là ai, mục tử?"
"Tôi là Ða-ni-da (Dhaniya)" Mục tử đáp.
"Ngươi đi đâủ" Ðức Thế Tôn hỏi.
"Tôi về nhà với vợ con tôi."
"Mục tử, hình như ngươi có được niềm hạnh phúc trong sạch".
"Cơm tôi đã nấu chín,
Sữa tôi đã vắt xong,
Trên bờ sông tôi ở,
Cùng với vợ con tôi,
Mái nhà lợp kỹ rồi,
Trong nhà đèn sáng rỡ,
Mưa rơi mặc mưa rơi".
Ðức Thế Tôn nói:
"Ta đoạn trừ sân hận,
Ta đốn phá mê lầm,
Một đêm ta chờ đợi,
Trên bờ sông mênh mông,
Nhà ta không có mái,
Lửa dục ta tắt rồi,
Mưa rơi mặc mưa rơi."
Mục tử nói:
"Dê tôi không bị muỗi mòng,
Cừu tôi mặc sức thong dong,
Cuộc Ðời Ðức Phật 229
Bò tôi đầy đồng gặm cỏ,
Mặc cho mưa gió phũ phàng."
Ðức Thế Tôn nói:
"Ta đã làm bè kiên cố,
Chống chèo đến cảnh niết bàn,
Băng qua thác ghềnh tham dục,
Ðến được bến bờ thênh thang,
Thuyền bè ta không cần nữa,
Mặc cho mưa gió phũ phàng."
Mục tử nói:
"Vợ tôi ngoan ngoãn vâng lời,
Tiết trinh đức hạnh mấy đời phôi pha,
Bao năm chung sống hài hòa,
Nhân từ vui tính ấy là vợ tôi,
Gần xa ai cũng mến người,
Mưa rơi thì mặc mưa rơi sá gì."
Ðức Thế Tôn nói:
"Tâm ta ngoan ngoãn vâng lời,
Si mê ràng buộc nhiều đời gỡ xong,
Bao năm tu tập tinh ròng,
Hiền hòa nhu nhuyến tâm ta sáng ngời,
Khổ đau ác trược đoạn rồi,
Mưa rơi thì mặc mưa rơi sá gì."
Mục tử nói:
Cuộc Ðời Ðức Phật 230
"Tôi tự trả lương người giúp việc,
Khẩu phần con cháu nhận nơi tôi,
Không ai lên tiếng than hơn kém,
Mặc sức mưa giăng ngập cả trời."
Ðức Thế Tôn nói:
"Ta không nô lệ cho ai cả,
Ðất trời lồng lộng ta thênh thang,
Với ta không cần người nô lệ,
Mặc sức mưa giăng trải hàng hàng."
Mục tử nói:
"Tôi có bò sữa, nghé tơ và bê con,
Lại thêm một chó theo chăn chúng,
Mưa gió hề chi mưa cứ mưa ."
Ðức Thế Tôn nói:
"Ta không bò sữa, nghé tơ và bê con,
Cũng không có chó theo chăn chúng,
Mưa gió hề chi mưa cứ mưạ"
Mục tử nói:
"Cọc nhọn đóng xuống đất,
Mấy ai nhổ xem nào,
Giây mới bện có chắc,
Trâu bò phá được sao,
Mưa sa mặc mưa sa. "
Cuộc Ðời Ðức Phật 231
Ðức Thế Tôn nói:
"Như chó bứt xiềng xích,
Như voi phá xích xiềng,
Vĩnh viễn ta đoạn tuyệt,
Vào ra cõi ta bà,
Mưa sa mặc mưa sạ"
Mục tử Ða-ni-da đảnh lễ Ðức Thế Tôn và bạch:
"Bạch Ðức Thế Tôn, con biết Ngài là ai rồi; xin mời Ngài ghé đến
nhà con."
Vừa mới vô nhà, trời đổ mưa tầm tã, nước mưa tạo thành những
dòng suối nhỏ chảy dài trên mặt đất. Ða-ni-da nghe mưa rơi mà thốt
lên những lời cảm thán:
"Thật vậy, từ khi gặp Phật, chúng con được nhiều của quí. Bạch
Ðức Thế Tôn, Ngài là nơi nương tựa của chúng con, Ngài đã nhìn
chúng con bằng ánh mắt trí tuệ. Hỡi thánh nhân, xin Ngài mãi mãi
là đấng cứu độ của chúng con! Con và vợ con xin qui y Ngài; nếu
chúng con sống đời thánh thiện, chúng con sẽ đoạn trừ sanh tử,
chúng con sẽ chấm dứt khổ đau.”
Ma-vương, tên ác quỉ, chẳng ai hay biết hắn từ đâu xuất hiện trước
mặt Ðức Thế Tôn và Ða ni da, nói:
"Có con sung sướng vì con,
Có bò sung sướng vì bò;
Sung sướng cho ai lắm của tiền,
Người không tiền của khổ triền miên."
Cuộc Ðời Ðức Phật 232
Ðức Thế Tôn nói:
"Có con khốn khổ vì con,
Có bò khốn khổ vì bò,
Khốn khổ cho ai lắm của tiền,
Người không tiền của sướng vô biên".
Ma-vương trốn mất. Ða-ni-da và vợ lắng nghe Ðức Thế Tôn trao
truyền giáo pháp.
Cuộc Ðời Ðức Phật 233
PHẬT DẠY CÁC THẦY TỲ KHEO Ở TỲ-XÁ-LI
Ðức Thế Tôn đến thành Ba-liên-phất (Pataliputra) đang được xây
cất trên bờ sông Hằng (Gange). Ngài cúi đầu thi lễ những bức tường
vừa nhô lên khỏi mặt đất và tán thán:
"Ngày kia thành này sẽ là nơi lừng danh cao quí; một quốc vương
kiệt xuất sẽ cai trị thành này và nhiều vị anh hùng cái thế sẽ ra đời
tại đây. Hỡi Ba-liên-phất, ngươi sẽ là kinh thành trù mật phú cường,
thế nhân sẽ ca tụng tên ngươi qua bao thời đại."
Ngài băng qua sông. Ngài nhắm đến thành Tỳ-xá-li, nhưng mới đến
thành Bai-va (Bailva) thì Ngài lâm trọng bệnh. Ngài đau ê ẩm cả
người. A-nan khóc sướt mướt, thầy nghĩ là Ngài sắp tịch diệt. Nhưng
Ðức Thế Tôn nhớ đến nhiều môn đệ mà Ngài phải viếng thăm; Ngài
chưa muốn vào niết bàn, Ngài muốn trao truyền giáo pháp cho họ
lần cuối. Nhờ ý chí vững mạnh, Ngài đã khắc phục được con bịnh,
sự sống chưa từ bỏ Ngài. Ngài bình phục trở lại.
Ðến lúc khỏe hẳn, Ngài ra khỏi nhà và ngồi cạnh cửa ra vàọ A-nan
đến ngồi bên Ngài và bạch rằng:
"Bạch Ðức Thế Tôn, con thấy Ngài đã hồi phục sức khỏẹ Hôm Ngài
bịnh nặng, con mất cả nghị lực; con cũng bịnh theo Ngài. Có lúc
con nhận thấy Ðức Thế Tôn không thể nào bịnh được. Con vững tin
là Ngài còn nhớ đến giáo hội. Con biết Ngài không thể vào niết bàn
mà trước tiên không bày tỏ ý định với giáo hội."
Ðức Thế Tôn nói:
Cuộc Ðời Ðức Phật 234
"Này A-nan, giáo hội còn đòi hỏi ở ta điều gì?" Ta đã khai thị chánh
pháp, ta đã truyền đạt chánh pháp; không còn một điểm nhỏ nào ta
chưa giảng giải! Ai nghĩ rằng: "Ta muốn lãnh đạo giáo hội" thì hãy
bày tỏ ý định với giáo hội. Này A-nan, Ðức Thế Tôn không bao giờ
nghĩ "Ta muốn lãnh đạo giáo hội" thì tại sao Ngài phải bày tỏ ý định
với giáo hội? Này A-nan, ta già rồi; tóc ta bạc, thân ta yếu. Ta đã
tám mươi tuổi, ta đã đi đến cuối đoạn đường. Bây giờ mỗi thầy hãy
tự mình là một ngọn đuốc soi đường; không ai có thể mang ánh sáng
đến cho các thầy. Sau khi ta giã từ dương thế, thầy nào tự mình thắp
lên ngọn đuốc cho chính mình thì rõ ràng là thầy ấy đã hiểu được ý
nghĩa lời dạy của ta; này A-nan, thầy ấy sẽ là đệ tử chân chính của
ta; thầy ấy sẽ biết sống theo chánh nghiệp."
Ngài lại lên đường, sau đó Ngài đến Tỳ-xá-li. Ngài khất thực từng
nhà qua kinh thành. Bỗng nhiên Ngài thấy Ma-vương đứng trước
Ngài.
Tên ác quỉ nói: "Bạch Ðức Thế Tôn, đã đến giờ rồi; người hãy vào
niết bàn!"
Ðức Thế Tôn nói: "Không! ta biết khi nào ta phải vào niết bàn; này
ác quỉ, ta biết rõ hơn ngươi. Còn một vài tháng nữa. Ba tháng nữa
Ðức Thế Tôn sẽ vào niết bàn."
Ðức Thế Tôn nói xong, cả trái đất rung chuyển, sấm rền vang bầu
trời: Ðức Thế Tôn đã từ bỏ ý chí lưu lại trần thế; Ngài đã ấn định
thời hạn vào niết bàn. Cả trái đất rung chuyển, sấm rền vang bầu
trời.
Ðêm đó, Ngài tập họp tăng đoàn ở Tỳ-xá-li lại. Ngài dạy:
"Này các thầy tỳ kheo, hãy cẩn thận giữ gìn tri kiến mà ta đã chứng
Cuộc Ðời Ðức Phật 235
đắc và trao truyền cho các thầy, hãy theo chánh đạo cho nếp sống
thánh thiện được trường tồn, vì sự an lạc và giải thoát cho đời, vì sự
an lạc và giải thoát cho chư thiên, vì sự an lạc và giải thoát cho
nhân thế: một vài tháng nữa ta sẽ vào niết bàn. Ta ra đi và các thầy
ở lại. Nhưng, này các thầy tỳ kheo, đừng bao giờ ngừng tinh tiến.
Thầy nào vững bước trên đường chân chính, thầy ấy sẽ thoát khỏi
sanh tử, thầy ấy sẽ vĩnh viễn giải thoát khổ đau.”
Ngày hôm sau, Ngài lại vào thành khất thực; rồi cùng với một vài đệ
tử, Ngài lên đường đến Câu-thi-na (Kusinagara), Ngài quyết định
nhập niết bàn tại đó.
Cuộc Ðời Ðức Phật 236
BỮA NGỌ TRAI TẠI NHÀ THUẦN-ÐÀ
Ðức Thế Tôn và môn đệ của Ngài dừng tại Ba-va (Pava), trong vườn
cây của gã thợ rèn Thuần-đà (Cunda). Thuần-đà đến đảnh lễ Ðức
Thế Tôn và bạch:
"Bạch Ðức Thế Tôn, ngày mai, xin mời Ngài hoan hỷ đến nhà con
thọ trai."
Ðức Thế Tôn nhận lời. Ngày hôm sau, Thuần-đà dọn thịt heo và các
món cao lương khác để đãi khách quí. Ðức Thế Tôn và đồ chúng
ngồi vào bàn. Nhìn thấy thịt heo, Ngài chỉ tay nói:
"Thuần-đà, chỉ có ta là dùng được món này; ngươi phải dành nó cho
ta. Ðệ tử của ta sẽ dùng các thứ khác.
Khi dùng bữa, Ngài nói:
"Hãy chôn sâu xuống đất những gì ta còn chừa lại; chỉ có ta là dùng
được món này. "
Ngài từ giã lên đường. Ðồ chúng lại theo Ngài. Ðức Thế Tôn và đồ
chúng đi cách Ba-va được một đoạn ngắn thì Ngài cảm thấy mệt và
nhuốm bệnh. A-nan đau buồn, thầy nặng lời than trách Thuần-đà,
chú thợ rèn đã cúng dường Ðức Thế Tôn một ngọ trai khốn nạn.
Ðức Thế Tôn nói: "Này A-nan, đừng giận chú thợ rèn Thuần-đà.
Nhờ cúng dường ta thức ăn mà chú ấy sẽ được nhiều phúc báo to
lớn. Trong tất cả các bữa cúng dường ngọ trai cho ta, có hai bữa
đáng được ca ngợi nhất: một là của Tu-xà-đa (Sujata) và hai là của
Cuộc Ðời Ðức Phật 237
chú thợ rèn Thuần-đà".
Ngài khắc phục mệt mỏi và đi đến bờ sông Ca-cút-tha (Kakutstha).
Nước sông chảy êm đềm trong mát. Ðức Thế Tôn xuống sông tắm
mình trong làn nước trong veọ Tắm xong. Ngài uống nước, rồi đi
đến một vườn xoài. Tại đây, Ngài bảo sa môn Cun-đa-ca (Kundaka):
"Hãy xếp hộ y ta làm tư để ta nằm nghỉ"
Cun-đa-ca sung sướng vâng lời: Thầy vội xếp y làm tư và trải trên
mặt đất. Ðức Thế Tôn nằm xuống, Cun-đa-ca ngồi bên cạnh Ngài.
Ðức Thế Tôn nghỉ được vài giờ, rồi Ngài tiếp tục lên đường, cuối
cùng Ngài đến Câu-thi-na. Tại đó, trên bờ sông Hi-ran-da-va-ti
(Hiranyavati), có một khu vườn nhỏ xinh xắn êm đềm.
Ðức Thế Tôn nói:
"A-nan, đi sửa cho thầy một chỗ nằm giữa hai cây song thọ. Hãy
quay đầu về phương bắc. A-nan, Thầy bịnh lắm rồi."
A-nan sửa xong giường, Ðức Thế Tôn đến nằm trên đó.
Cuộc Ðời Ðức Phật 238
PHẬT NHẬP NIẾT-BÀN
Lúc ấy không phải là mùa cây nở hoa, nhưng hai cây che mát Ðức
Thế Tôn lại bừng hoa rực rỡ. Hoa xinh nhẹ trĩu trên chiếc giường
Ngài, và âm điệu ngọt ngào từ trời cao vọng xuống.
Ðức Thế Tôn nói với A-nan trung tín:
"Xem kìa: Không phải mùa cây nở hoa, vậy mà hoa nở tưng bừng,
mưa hoa phủ kín cả hình hài ta. Nghe kìa! Không gian vang khúc
hoan ca, thiên thần tán thán Phật Ðà Như Lai. Nhưng Ðức Phật còn
được tán thán hơn thế nữa. Các tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắt, ưu bà
di; tất cả những ai thấy được sự thật, tất cả những ai sống hợp giáo
pháp, họ là những người hết lòng tôn kính Phật vậy. Thế nên, A-nan,
con phải sống họp với giáo pháp; và ngay trong những vấn đề tế
toái nhất, con cũng phải noi theo chánh đạo cao quí."
A-nan khóc ròng. Thầy lảng ra chỗ khác để dấu đi những giọt nước
mắt chân tình.
Thầy nghĩ: "Ta còn mang nhiều nghiệp chướng, tội lỗi hãy còn chất
đầy. Ta chưa đạt đến thánh quả thì Ðức Thế Tôn, đấng Ðạo sư
thương yêu ta, sắp vào niết bàn."
Ðức Thế Tôn gọi Thầy lại nói:
"A-nan, không nên đau buồn, không nên thất vọng! Hãy nhớ lời
huấn thị của Thầy: những gì ta thích, những gì ta quí, ngày kia cũng
phải chia lìa. Có gì sanh ra mà không bị biến thiên hủy hoại? Có gì
sinh ra mà được mãi mãi trường tồn? A-nan, con theo hầu Thầy đã
lâu, con là bạn hiền tâm phúc của Thầy. Thầy ghi nhận thâm tình
Cuộc Ðời Ðức Phật 239
của con. Con trung hậu cả ý nghĩ, lời nói lẫn việc làm. A-nan, con
đã tạo được một thiện nghiệp cao quí; hãy tiếp tục trên đường chánh
Ðạo, con sẽ giải thoát hết mọi vọng nghiệp lâu đời."
Màn đêm buông xuống. Dân chúng Câu-thi-na nghe tin Ðức Thế
Tôn đang nằm dưới hai cây song thọ, họ lũ lượt kéo nhau đến đảnh
lễ Ngài. Một ẩn sĩ cao niên tên là Tu-bạt-đa-la (Subhadra) cũng đến
đảnh lễ Ðức Thế Tôn và nguyện xin qui y Phật, qui y Pháp, qui y
Tăng; Tu-bạt-đa-la là đệ tử sau cùng và được hân hạnh gặp Phật
lần cuối.
Trời đêm hôm đó đẹp lắm. A-nan ngồi cạnh Ðức Thế Tôn, Ngài nói:
"A-nan, có lẽ con sẽ nghĩ: "Chúng ta không còn Thầy nữa". Nhưng
con không được nghĩ thế. Giáo pháp vẫn còn, giáo pháp mà thầy đã
truyền đạt cho các con đó; A-nan, khi Thầy nhập diệt, các con hãy
lấy giáo pháp làm Thầy. "
Ngài dạy tiếp:
"Thật vậy, này các thầy tỳ kheo, các pháp đã có sanh, tất yếu phải có
diệt. Ðừng bao giờ quên siêng năng tinh tiến."
Ðức Thế Tôn không còn hiện hữu trên thế gian này. Khuôn mặt Ngài
tỏa ra ánh hào quang rực rỡ. Giác tánh Ngài đã về cõi chân như,
Ngài đã nhập Niết-bàn. Cả trái đất rung chuyển, sấm rền vang bầu
trời.
Tảng sáng, gần thành Câu-thi-na, dân chúng chất một đống củi hỏa
táng khổng lồ như thể hỏa táng một đương kim hoàng đế, họ ngậm
ngùi thiêu xác Ðức Thế Tôn tại đó.
Nguyện hồi hướng công đức về
em Andrew Liêu
mất ngày 31 tháng 12 năm 2001,
tức ngày 17 tháng 11 năm Tân Tỵ
sớm vãng sanh Cực Lạc Quốc
và tất cả chúng sanh
đều trọn thành Phật Ðạo
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top