Cuộc chiến bí mật (part 2) haley

Đầu năm 1962, CIA bắt đầu tổ chức lực lượng Dân sự chiến đấu (CIDG), tuyển mộ thanh niên người dân tộc, tổ chức thành những đại đội vũ trang đối đầu với Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. CIA sử dụng quân Mũ nồi xanh huấn luyện cho lực lượng dân sự chiến đấu để trà trộn hay cài cắm người vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Mặt khác, Sở Khai thác địa hình Phủ Tổng thống cũng gửi người đến hai trung tâm hỗ trợ huấn luyện.

Đến tháng 7/1962, cơ quan CIA đã có thể bàn giao chương trình Dân sự chiến đấu cho quân đội Sài Gòn. Việc bàn giao bắt đầu bằng “Kế hoạch Trở lại”, sẽ hoàn tất trong vòng 1 năm và được triển khai đồng thời với những hành động xâm nhập, phá hoại trên lãnh thổ Bắc Việt. Vì lẽ đó, “Kế hoạch Trở lại” còn có tên gọi là “Kế hoạch 34-63”.

Tháng 1/1963, Hải quân Mỹ gửi toán biệt kích biển (SEAL) sang Nam Việt Nam huấn luyện về chiến thuật hành quân biệt kích ở Đà Nẵng. Hai tháng sau, toán biệt kích Mũ nồi xanh từ Okinawa cũng đến huấn luyện cho lực lượng Dân sự chiến đấu tại căn cứ mới của CIA tại Long Thành, cách Sài Gòn khoảng 22km về hướng tây. Căn cứ này có tên là Trại Quyết Thắng, sẽ dần thay thế cho căn cứ Thủ Đức.

Trước khi lập căn cứ ở Long Thành, tất cả những biệt kích tham dự các kế hoạch xâm nhập Bắc Việt đều do CIA huấn luyện trong những mật cứ rải rác ở khắp Sài Gòn. Trên phương diện lý thuyết, nguyên tắc này có vẻ đảm bảo bí mật, vì các toán biệt kích đều ăn, ở, huấn luyện riêng biệt. Căn cứ rộng lớn Long Thành được xem là thực địa lý tưởng cho những khóa huấn luyện kỹ năng phá hoại, sử dụng vũ khí và các loại phương tiện đặc biệt khác.

Toán Mũ nồi xanh đầu tiên đến căn cứ Long Thành là toán A 413, do Đại úy Clinton Hayes làm trưởng toán. Họ huấn luyện cả điệp viên lẫn biệt kích dù. Tháng 10/1963, toán A 413 được thay thế bởi toán A 211 đến từ Okinawa, trưởng toán này là Đại úy Lawrence White.

Tại Sài Gòn, căn cứ vào kế hoạch “Trở lại”, ngày 1/4/1963, Sở Khai thác Địa hình đổi tên thành Lực lượng Đặc biệt - một binh củng của Quân lực VNCH.

Sau nhiều biến cố xảy ra vào cuối năm 1963, cả hai vị tổng thống VNCH và Mỹ đều bị ám sát. Đầu năm 1964, những hoạt động phá hoại trên đều nằm trong kế hoạch 34A. Ngày 3/2, tướng Nguyễn Khánh được tường trình về kế hoạch 34A, ông ta có vẻ hài lòng và hứa sẽ yểm trợ. Kế hoạch 34A vẫn được tiếp tục điều chỉnh, mặc dù tình hình chính trị ở Sài Gòn lúc này rất rối ren.Ngày 24/1, Mỹ thành lập Trung tâm hành quân đặc biệt (SOG), đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Tổng Tham mưu trưởng Quân đội và Tư lệnh lực lượng quân sự Mỹ. Trên lý thuyết, SOG sử dụng chiến thuật chiến tranh ngoại lệ để phá hoại, quấy rối, làm suy yếu nền kinh tế Bắc Việt Nam, vừa tổ chức xâm nhập, bắt cóc con tin khai thác tin tức, phá hoại, tuyên truyền, thu thập tin tức tình báo và phản gián. Chương trình hoạt động của SOG bao gồm bốn hình thức. Một là những trận tập kích bất ngờ. Hai là tập kích, phá hoại những căn cứ, nhà máy quốc phòng và dân sự. Ba là tổ chức những cuộc hành quân từ cấp đại đội đến tiểu đoàn vào lãnh thổ miền Bắc, phá hoại những căn cứ, cơ xưởng, nhà máy lớn ở miền Bắc. Bốn là có thể sử dụng không lực đánh phá, làm suy sụp nền kinh tế Bắc Việt.

Căn cứ vào nhiệm vụ cho phép, SOG tiến hành giai đoạn 1 từ 2 - 5/1964. Tất cả gồm 33 mục tiêu, trong đó có 22 trận tập kích phá hoại. Chỉ huy trưởng đầu tiên của SOG là Đại tá Clyde R. Russell, cựu trung đoàn trưởng một trung đoàn thuộc Sư đoàn Dù 82, nguyên liên đoàn trưởng của Lực lượng đặc biệt. CIA đã bàn giao cho SOG tất cả những gì họ đã xây dựng được, kể cả những chiếc tàu Swift, PTF cho đến các toán biệt kích biển, cùng phi hành đoàn Đài Loan cho Bộ tư lệnh lực lượng dù và căn cứ Long Thành. Trên những cơ sở vật chất, trang thiết bị và nhân lực được CIA giao cho, bộ chỉ huy SOG tiếp tục những hoạt động xâm nhập miền Bắc.

Ngày 23/4/1963, chiếc C123 chở toán biệt kích gồm 3 người, tiếp tục xâm nhập Bắc Việt, nhằm tăng cường cho toán Remus. Theo kế hoạch, chiếc C123 bay tới điểm hẹn là những ngọn đồi gần khu vực lòng chảo Điện Biên Phủ. Phi hành đoàn nhìn thấy đèn hiệu từ dưới đất, bèn bật đèn xanh cho các quân nhân biệt kích nhảy ra khỏi máy bay. Sau đó, Remus báo cáo rằng những biệt kích quân đã đáp đất an toàn. Phi vụ đầu tiên của SOG coi như thành công.

Hai hôm sau, SOG chuẩn bị cho phi vụ thứ hai. Toán biệt kích mang mật danh Attila, gồm 6 lính Việt Nam sẽ nhảy dù xuống phía nam tỉnh Nghệ An. Lần này SOG không nhận được báo cáo, coi như toán Attila mất tích. Đến cuối mùa hè 1963, SOG thả thêm 8 toán biệt kích ra miền Bắc. Trong đó có 3 toán tăng cường cho các toán nằm vùng trước đó mà Phòng 45 còn nhận được điện báo cáo. Năm toán khác nhảy dù xuống mục tiêu mới, nhưng chỉ một toán có điện báo cáo về Sài Gòn.

Trong khi đó, Washington theo dõi sát các hoạt động của SOG. Nhiều vấn đề về các toán biệt kích nằm vùng ở Bắc Việt được đem ra thảo luận như tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm. Toán biệt kích Bell hoạt động ở tỉnh Yên Bái đã hơn 1 năm mà không được tái tiếp tế. Trước khi nhận được tiếp tế trong tháng 7, hiệu thính viên toán Bell báo cáo rằng ba biệt kích quân đã chết vì đói.

Một vấn đề khác nảy sinh trong lãnh đạo, chỉ huy. Theo điện văn ngày 19/1/1963, kế hoạch 34A (xâm nhập Bắc Việt) có hai người chỉ huy. Một là vị Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn; hai là Tư lệnh Phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ (MACV). Thêm vào đó, SOG chỉ nhận lệnh từ Cơ quan Phản gián và Các dịch vụ đặc biệt (SACSA) ở Washington.

Tóm lại, SOG phải xin phép cho mỗi phi vụ xâm nhập, khiến công tác bảo đảm cho từng phi vụ thêm rắc rối, phức tạp. Trước hết, Đại tá Russell, trùm SOG phải gửi chương trình hoạt động lên vị Tư lệnh Thái Bình Dương để báo lên Tổng tham mưu trưởng. Rồi phải được sự chấp thuận của Đại sứ Mỹ, tối thiểu 24h, trước khi thực thi phi vụ. Chưa kể nhiều phi vụ phải được sự chấp thuận của tổng thống Mỹ Johnson. Thêm nữa, những chuyên viên cao cấp của CIA đều có quyền gạch bỏ bất cứ kế hoạch nào do SOG soạn thảo mà không có bản thuyết minh chi tiết, thuyết phục. Chưa kể những vấn đề nảy sinh mang tính chất nội bộ, SOG luôn than phiền rằng những phi công của hãng Air America không chịu hợp tác. Còn các phi công Đài Loan thì từ chối bay tiếp tế cho toán Europa sau vố bị ăn đạn phòng không Bắc Việt. Khi SOG yêu cầu họ tiếp tục bay để tái tiếp tế cho toán Europa, họ liền cáo bệnh.

Vấn đề chọn mục tiêu xâm nhập cũng rắc rối. Toán Attila trong tháng 4/1963 xâm nhập địa bàn tỉnh Nghệ An. Tiếp theo toán Lotus dự kiến xâm nhập lui về phía bắc, nhưng rốt cục cũng lại nhảy dù xuống tỉnh Nghệ An. Toán Scorpion thả dù xuống cùng địa điểm với các toán Bell, Packer, Buffalo. Những toán khác xâm nhập cùng mục tiêu với toán Ruby... Trước thực trạng trên, CIA buộc phải có kế hoạch điều chỉnh và đổ thêm ngân sách huấn luyện.

Đến tháng 8/1963, tại căn cứ Long Thành đã có 16 toán biệt kích được huấn luyện, bình quân mỗi toán có quân số từ 11 đến 15 người. Sở Khai thác địa hình cung cấp nhân lực tuyển chọn từ các đơn vị của Quân đội Sài Gòn, nên phần nào làm cho các toán biệt kích mạnh thêm. SOG nhận được một trong sáu chiếc máy bay C123 cải tiến, cùng 7 phi hành đoàn Đài Loan, cộng 3 phi hành đoàn Nam Việt Nam, tổ chức thành Phi hành đoàn số 1, trực thuộc SOG và dời căn cứ ra Nha Trang.Ngày 14/11/1963, một chiếc máy bay C123 bay ra không phận miền Bắc, thả toán biệt kích tăng cường cho toán Bell, đang nằm vùng tại địa bàn tỉnh Yên Bái, thành công. Trong lúc đó phi hành đoàn Cò Trắng của Nam Việt Nam chuẩn bị phi vụ đặc biệt, thả biệt kích xuống phá cầu Cấm ở phía bắc thánh phố Vinh. Cây cầu quan trọng này dùng cho cả tuyến đường sắt và đường bộ, nếu bị đánh sập sẽ cản trở việc lưu thông, tiếp tế cho chiến trường miền Nam của Bắc Việt. Theo kế hoạch, sau khi phá sập cầu, toán biệt kích sẽ dùng thuyền bơi ra biển, nơi có lực lượng biệt kích biển đợi sẵn để đưa vể miền Nam Việt Nam.

Phi vụ này phức tạp hơn hẳn những phi vụ trước. SOG tổ chức toán biệt kích Centaur gồm 33 người, gấp 3 lần những toán trước đây. Chương trình huấn luyện cho Centaur bắt đầu từ ngày 26/7/1963. Ba tháng sau, SOG điều chỉnh lại mục tiêu, thay vì tấn công cầu Cấm sẽ chuyển sang dàn radar bên bờ biển. Theo kế hoạch, tàu Nasty chở những biệt kích người nhái ra vịnh Bắc Bộ, họ sẽ dùng xuồng cao su bơi vào bờ thám thính. Sau đó chỉ điểm cho chiếc máy bay C123 chở toán biệt kích Centaur nhảy dù xuống tấn công đài radar. Xong nhiệm vụ tất cả sẽ rút lui bằng thuyền ra tàu Nasty. Ngày N được ấn định là ngày 22/12, đúng ngày thành lập của QĐND Việt Nam.

Để chuẩn bị cho cuộc tập kích, ngày 10/12/1963, hai chiếc tàu Nasty chở những biệt kích biển ra đậu ngoài khơi vịnh Bắc Bộ. Rồi toán biệt kích biển lại chèo thuyền vào bờ, đợi ra hiệu chỉ điểm cho chiếc C123, chở toán biệt kích Centaur, đang đến theo kế hoạch. Tại sân bay Đà Nẵng, toán biệt kích Centaur gồm 28 người đã lên chiếc C123, do phi công Hồ Văn Kiệt lái. Không hiểu sao, chiếc máy bay C123 mới cất cánh cách sân bay khoảng 10km, do bị khuất tầm nhìn vì mây che phủ, đã đâm vào vách núi, không một ai còn sống sót. Phi hành đoàn Cò Trắng quả là trắng thật. Cả một phi hành đoàn bị xóa sổ.

Không phải chỉ riêng những toán biệt kích nhảy dù xuống không phận Bắc Việt thất bại, mà cả những trận tập kích trên biển do người nhái thực hiện cũng làm cho SOG mất mặt. Từ tháng 6/1962 đến tháng 1/1964, biệt kích biển đã tổ chức 4 trận tập kích, nhưng duy nhất chỉ có 1 trận không bị tổn thất.

Trưa ngày 15/2/1964, bốn người nhái trong toán Neptune kiểm tra lại hành trang và lên chiếc Swift. Chiếc tàu lại hướng ra vịnh Bắc Bộ. Họ chạy cách xa bờ biển để tránh bị radar phát hiện. Vào lúc 23h, thuyền trưởng người Na Uy cho tàu chạy vào gần bờ. Toán người nhái âm thầm xâm nhập trong màn đêm. Một người trong toán là Vũ Đức Gương, vốn là giáo dân, di cư vào Nam năm 1954. Gương là một trong những người nhái đầu tiên do CIA huấn luyện. Anh ta cũng có mặt trong phi vụ 22/12/1963, từng chứng kiến cảnh chiếc Swift bị tàu Swatow Bắc Việt bắn chìm.

Toán người nhái cùng ba thủy thủ đoàn sẽ dùng xuồng cao su bơi vào bờ. Nhiệm vụ của họ giống toán Vulcan trước đây. Xuồng bơi đến cửa sông Gianh, toán người nhái bơi vào đặt mìn phá hoại, rồi bơi trở về xuồng. Sau đó chạy ra chiếc Swift tẩu thoát về miền Nam. Một thủy thủ trực máy liên lạc với chiếc Swift đậu ngoài khơi đề phòng chuyện bất trắc xảy ra. Kế hoạch sắp đặt sẵn đâu vào đó, nhưng chuyện không may lại xảy ra. Bỗng nhiên gió thổi mạnh, tạo nên những con sóng xô đẩy chiếc xuồng cao su. Khi toán người nhái đang xuống nước, một ngọn sóng lật úp chiếc xuồng, thế là máy móc, đồ đạc, trang bị rớt xuống biển hết, trong đó có cả mìn để gắn vào mấy chiếc Swatow.

Khi toán cảm tử quân lật được chiếc xuồng trở lại, động cơ và máy truyền tin bị ngấm nước không hoạt động được nữa, lại không thể gọi chiế Swift vào cứu, họ chèo xuồng bằng tay trong đêm tối, cố tìm đường trở lại chiếc Swift. Đến gần sáng, chiếc Swift đợi quá lâu nên chạy vào tìm, may gặp được chiếc xuồng cao su bèn lôi tất tả lên tàu, cứu được toán người nhái cùng 3 thủy thủ đoàn.

Ban Cố vấn Hải quân của SOG, đóng tại Đà Nẵng, phải đợi đến đêm không trăng tháng sau mới tổ chức lại phi vụ khác. Chiều 11/3/1964, toán biệt kích Neptune trở lại cửa sông Gianh trên chiếc Swift. Toán trưởng là Nguyễn Văn Nhu, toán phó là Vũ Đức Gương, hai người nhái khác là Phạm Văn Lý, Vũ Văn Giỏi. Phi vụ thực thi có vẻ đúng theo kịch bản: chiếc Swift đậu ngoài khơi, xuồng cao su đưa 4 người nhái đến cửa sông Gianh, rồi đợi họ quay trở lại.

Mặc quần áo lặn, đi chân vịt, toán người nhái chia làm 2 tổ, bơi vào bờ. Hai tổ sẽ gặp nhau tại bến đậu của những chiếc Swatow. Vào đến nơi, Gương và Lý ngoi đầu lên quan sát, không thấy chiếc Swatow nào hết, cũng không thây 2 người trong tổ kia là Nhu và Giỏi đâu. Theo kế hoạch được quán triệt trước lúc lên đường, Gương và Lý bơi đến bến đậu thứ hai, họ phải bơi ngược dòng. Gương để ý thấy bình dưỡng khí sẽ không đủ ôxy để bơi trở lại xuồng cao su nên đã ra hiệu cho Lý lội lên bờ, cả hai tháo bình dưỡng khí, chân vịt ra giấu vào bãi sậy để dễ hành động. Bỗng dưng, có tiếng hô to: “Đứng lại!”. Tiếp theo là ánh đèn pin loang loáng soi khắp nơi, rồi tiếng súng nổ vang. Cả hai liền quay trở lại nơi giấu đồ nhái, nhưng không còn kịp nữa.

Trên chiếc xuồng cao su, mấy thủy thủ ngồi chờ cho đến lúc rạng đông. Không còn cách nào hơn, họ phải quay trở lại chiếc Swift, thiếu mất bốn người nhái.

Tin tổn thất về đến Đà Nẵng. Lần này toán cố vấn Hải Quân phác họa chương trình đánh phá mấy cây cầu dọc theo bờ biển miền Bắc. Toán biệt kích biển được chọn ra từ toán biệt kích Cancer toàn người dần tộc H’mông. Họ ngồi trên xuồng cao su bên hông chiếc Swift hướng về huyện Kỳ Anh tỉnh Hà Tĩnh. Khi chiếc xuồng cao su vào đến gần bờ, hai người ở lại ngoài biển. Vòng A Cầu, Châu Hềnh Xương bước lên trên cát. Một toán tuần tiễu đi ngang qua. Xương chiếu đèn hiệu ra chỗ xuồng cao su báo nguy, sau đó cùng với Cầu chạy lủi vào một bụi rậm, hy vọng sau khi toán tuần tiễu đi qua, họ sẽ cho xuồng vào đón.

Điều đó không diễn ra như dự đoán. Toán tuần tiễu Bắc Việt trông thấy dấu chân in trên cát và tức khắc mở cuộc săn đuổi. Thấy bị động, chiếc xuồng cao su chạy thẳng ra chiếc Swift và quay trở lại Đà Nẵng, thiếu hai người nhái là Vòng A Cầu và Châu Hềnh Xương.

Hai hôm sau, Ban Cố vấn Hải quân (NAD) tổ chức một phi vụ khác, dự định phá cầu ở tỉnh Quảng Bình. Theo kế hoạch cũ, 9 người bơi xuồng cao su vào gần bờ, thả toán người nhái, hai người trong nhóm đi nhầm vào đám ngư dân đánh cá đêm. Thêm lần nữa chiếc Swift trở lại Đà Nẵng, thiếu mất hai người nhái.

Ngày 1/4/1964, lực lượng Phòng vệ Duyên hải được chính thức thành lập tại Đà Nẵng, đặt dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Ngô Thế Linh. Đơn vị mới này tuyển mộ, huấn luyện thêm nhiều toán biệt kích có quân số lên đến 30 người. Không như CIA, SOG có thể tuyển quân từ Quân đội Sài Gòn. Toán Romulus gồm những quân nhân từ binh chủng Thủy quân Lục chiến. Toán Nimbus tuyển từ Biệt động quân và lính dù. Hai toán khác từ Hải quân; toán Vega lấy từ đơn vị tàu biển; toán Athena tuyển từ các hạm tàu.

Tấn công lên bờ khó thành công, Ban Cố vấn dự thảo chương trình khác mang mật danh Loki, bắt cóc ngư dân miền Bắc đem đến cù lao Chàm ngoài khơi Đà Nẵng cho Mặt trận Gươm thiêng ái quốc tuyên truyền.

SOG hy vọng sau khi nhận tàu Nasty, những trận tập kích phá hoại trên đất liền Bắc Việt có cơ hội thành công hơn. Theo đó, SOG lên kế hoạch sử dụng 26 biệt kích biển bố trí trên 3 chiếc xuồng cao su, sẽ tràn lên bờ bắn phá trong vòng 10 phút rồi rút nhanh. Chuyến kế tiếp SOG soạn thảo kế hoạch đánh phá cầu trên quốc lộ 1 thuộc địa bàn tỉnh Thanh Hóa, xa hơn là những mục tiêu thực hiện trước đây, để Bắc Việt khó phán đoán địa điểm tập kích.

Đêm 26/6/1964, SOG cho triển khai vụ tập kích: 7 quân nhân làm nhiệm vụ phá cầu; 22 người khác làm lực lượng bảo vệ, cảnh giới. Trận này họ đã giết được hai người gác cầu và bốn người khác trong lực lượng tuần tra biển. Thanh toán xong mục tiêu, tất cả rút ra xuồng cao su và chạy về chiếc Nasty đang đợi.

Sau vụ tập kích thành công, tưởng dễ ăn, Ban Cố vấn tổ chức tấn công quy mô hơn. Họ sử dụng hai chiếc Nasty, một chiếc chở biệt kích, chiếc thứ hai hộ tống. Mục tiêu trận tập kích này là trạm bơm ở phía bắc Đồng Hới, Quảng Bình. Đêm 30/6/1964, hai chiếc Nasty xâm nhập hải phận Đồng Hới. Trong lúc 2 chiếc PTF-5 và PTF-6 đợi ngoài khơi, 30 biệt kích biển xuống xuồng cao su ập vào bờ, tập kích những mục tiêu đã định.

Bị tổn thất hai vụ trong vòng hai tuần, lần này Bắc Việt đã có kế hoạch “đón khách”. Khi toán biệt kích biển lên đến bờ, họ được chào đón bằng đủ các loại súng. Thấy vậy, chiếc PTF-5 ngoài khơi phải tăng tốc chạy vào bắn yểm trợ cho toán biệt kích rút lui, nhưng vẫn bị kẹt lại hai người. Ngày 15/7, biệt kích tiếp tục tập kích vào cửa sông Ron, để lại thêm hai người nữa. Chứng tỏ Bắc Việt đã mạnh tay hơn trong việc tiêu diệt các toán biệt kích quân Sài Gòn.

Cùng thời điểm trên, Phái đoàn Viện trợ Quân sự Mỹ (MACV) nhận được tin tình báo có 10 chiếc Swatow trên đường vào Đồng Hới, 4 chiếc khác đã đến sông Gianh để đón lõng bất kỳ toán biệt kích nào xâm nhập hải phận Bắc Việt.

Ngày 20/1/1965, dưới ánh trăng vằng vặc, một chiếc máy bay C123 màu xám không phù hiệu cắt ngang không phận phía tây tỉnh Lai Châu, bay vòng trên bầu trời về hướng bắc lòng chảo Điện Biên Phủ. Phi hành đoàn Đài Loan trông thấy lửa đốt sáng trong khu rừng ở dưới đất đúng theo hình dáng đã quy ước. Toán biệt kích 4 người nhảy ra khỏi phi cơ, chiếc C123 bay qua Lào rồi hướng về Nam Việt Nam.

Những biệt kích quân vừa nhảy dù xuống vùng Lai Châu thuộc toán đầu tiên của SOG xâm nhập không phận Bắc Việt trong năm 1965, lẽ ra sẽ tăng cường cho toán Remus đã nằm vùng trước đó trong tháng 4/1962, nhưng do tình hình thay đổi, Remus nhận lệnh đổi sang thực thi những phi vụ phá hoại. Thế nhưng trước đây Remus chỉ được huấn luyện thu thập tin tức tình báo, cộng với không có phương tiện để phá hoại nên ngày 10/8/1963, SOG tăng cường thêm cho Remus hai “sư phụ”. Cả hai “sư phụ” đều là người Tày nên dễ làm việc với Remus và phù hợp với đặc điểm của toán biệt kích. Ba tháng sau, toán Remus báo cáo đã rải mìn trên trục đường chính về hướng Tây Trang, tây nam Điện Biên Phủ, chạy sang Lào.

Sau khi CIA bàn giao các toán biệt kích cho SOG trong tháng 1/1964, thì hoạt động phá hoại là nỗ lực chính của lực lượng biệt kích Sài Gòn trong kế hoạch 34A. Ngày 23/4, SOG thả thêm ba biệt kích người Mường xuống tăng cường cho Remus. Trong tháng 8, Remus báo cáo phá sập thêm 2 cầu nữa ở phía bắc thung lũng Điên Biên Phủ. SOG hứng khởi, thả thêm 4 biệt kích người Mường nữa cho Remus.

Trong tháng 1/1965, SOG dự kiến thả thêm 9 biệt kích quân Việt Nam xuống tăng cường cho Remus. Nhóm này mang theo hỏa tiễn 4.5 inch loại nhỏ, mới chế tạo đem vào chiến trường Việt Nam kiểm nghiệm. Toán Remus được lệnh dùng loại vũ khí mới này bắn phá sân bay Mường Thanh, Điện Biên Phủ. Đây là sân bay được không quân Bắc Việt sử dụng như một căn cứ tiền phương. Ngày 20/1/1965, bốn biệt kích quân Việt Nam nhảy dù xuống nhập vào toán Remus, năm biệt kích quân khác cáo bệnh để khỏi tham dự phi vụ trên. Công điện báo cáo của Remus cho biết, một biệt kích quân bị gãy chân lúc đáp đất, một bị ngã vỡ sọ chết.

Vài tháng sau, SOG đổi chủ. Người đứng đầu SOG từng được xem như là một trong những huyền thoại của Lực lượng đặc biệt Mỹ, đó là Đại tá Donald D. Blackburn. Năm 1965, không quân Mỹ bắt đầu đánh phá Bắc Việt, với chiến dịch “Rolling Thunder”. Quân Mỹ yêu cầu SOG đánh phá đường mòn Hồ Chí Minh nhằm ngăn chặn đường tiếp tế, chuyển quân của Bắc Việt vào chiến trường miền Nam. Để chỉ điểm cho các trận oanh kích, MACV ra lệnh cho SOG tổ chức những toán biệt kích quân Việt Nam do lực lượng biệt kích Mũ Nồi Xanh của Mỹ làm toán trưởng, sẽ xâm nhập, do thám hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh.

Theo đó, những tháng cuối năm 1965, SOG tuyển thêm quân Mũ Nồi Xanh, cùng huấn luyện họ chung với biệt kích quân Việt Nam tại căn cứ Long Thành. Những cuộc hành quân do thám đường mòn Hồ Chí Minh trên đất Lào có tên là “Shining Brass”.

SOG tiếp tục tuyển mộ thêm lính tình nguyện trong Quân đội Sài Gòn, như toán Romeo gồm 5 quân nhân lấy từ Sư đoàn bộ binh 2 và năm thành viên là dân sự. Toán Romeo có 10 người, từng được huấn luyện hơn một năm, có nhiệm vụ do thám đường 103, chạy dọc theo khu phi quân sự, rồi nhập vào hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh.

Trong lúc toán Romeo làm công tác chuẩn bị, SOG tìm phương tiện khác để thả toán biệt kich. Những phi công Đài Loan lái loại máy bay C123 chưa phải là “hạng nhất”, mặt khác nếu nhờ trực thăng Air America sẽ mang tiếng. Hơn nữa, SOG là lực lượng thuần túy quân sự chứ không phải CIA. Cuối cùng, SOG quyết định sử dụng loại máy bay trực thăng H34 của Phi đoàn 219 (King Bee) của Quân đội Sài Gòn. Vả lại, những phi công của Phi đoàn 219 có nhiều kinh nghiệm thả biệt kích và rất liều mạng, khiến người Mỹ cũng phải thán phục.

Thế là 4 chiếc H34 không phù hiệu được biệt phái ra Nha Trang trong tháng 10/1965. Thực thi những phi vụ bay cho cuộc hành quân “Shining Brass”, phi công Việt Nam đều muốn chứng tỏ khả năng của mình. Trong các phi vụ thả, thu hồi những toán biệt kích Việt – Mỹ, phi công Việt Nam được người Mỹ xem là “loại siêu”. Cũng vì vậy SOG quyết định sử dụng loại trực thăng H34 chở toán Romeo xâm nhập không phận Bắc Việt.

Sáng 19/11, theo kế hoạch 34A, 10 biệt kích quân được đưa tới Khe Sanh. Thời điểm đó nơi này chưa nổi tiếng, mới chỉ là một căn cứ của đơn vị biệt kích nhỏ, cách biên giới Việt – Lào 6 km; cách khu phi quân sự 40 km. Ba giờ chiều, toán Romeo lên 3 chiếc trực thăng H34, xuất phát từ Khe Sanh. Chiếc trực thăng đầu có 3 biệt kích quân, sĩ quan SOG, 2 xạ thủ đại liên và 1 phi công phụ người Mỹ. Cơ trưởng là Đại úy Nguyễn Phi Hùng, có biệt danh là “Moustachio”. Số biệt kích còn lại chia đều trên 2 chiếc H34 khác.

Đại Úy Phi Hùng dẫn đầu phi đội trực thăng bay về hướng bắc, khuất dần trong mây. Băng qua khu phi quân sự, đến mục tiêu, phi đội đáp thẳng xuống bãi đáp, thả toán biệt kích Romeo xuống, rồi bốc lên cao bay về phía nam. Chuyến thả biệt kích thành công.

Đến đầu năm 1966, SOG tin rằng mình có tới 9 toán biệt kích nằm vùng trên lãnh thổ Bắc Việt, với tổng quân số là 78 người. Hai toán mới nhất thả tháng 12/1965, tăng cường cho toán Romeo. Toán Kern gồm 9 biệt kích quân nhảy dù xuống gần đèo Mụ Giạ vào tháng 3/1966 đã liên lạc sau khi xâm nhập. Hai toán này có nhiệm vụ thu thập tin tức tình báo theo lệnh của Tư lệnh quân viễn chinh Mỹ ở Thái Bình Dương (CINPAC). Ông ta đinh ninh rằng Hà Nội đang cho sửa chữa gấp những con đường dùng để chuyển quân, chi viện vật chất cho chiến trường miền Nam. Do đó, buộc các toán biệt kích quân phải đếm số xe vận tải Molotova lưu thông trên đường mòn Hồ Chí Minh. SOG nhìn nhận rằng những mệnh lệnh của ông Tư lệnh quân viễn chinh Mỹ ở Thái Bình Dương gửi xuống cho các toán biệt kích đôi khi rất mơ hồ, không rõ ràng.

SOG cũng đã nhận thêm loại máy truyền tin mới Delco 5300 thay cho loại máy cũ cồng kềnh RS-1 phải quay tay. Máy Delco 5300 cũng có thể truyền tín hiệu Morse. Vào thời điểm này, Hà Nội tiếp tục gia tăng hệ thống phòng không, khiến cho các phi công Đài Loan “lạnh gáy” trong những lần bay thả đồ tiếp tế. Lúc đó có hai toán cần được tiếp tế. Một là điệp viên Ares xâm nhập khu vực tỉnh Quảng Ninh năm 1961. Hai là toán Eagle, gồm 6 người nhảy dù xuống phía tây tỉnh Quảng Ninh vào tháng 6/1964. Hai toán này nằm gần thành phố Hải Phòng, nơi có hỏa lực phòng không rất mạnh. Tháng 2/1965, SOG đưa ra kế hoạch thả dù tiếp tế cho toán Eagle, rồi Eagle sẽ chia cho Ares, gộp thành 1 chuyến cho cả hai toán. Kế hoạch bị đình trệ nhiều lần do hệ thống phòng không ở Hải Phòng này có thêm cả tên lửa SAM của Nga. Nghe nói đến tên lửa SAM, những phi công Đài Loan xanh mặt, từ chối bay.

Thế nhưng việc tiếp tế cho hai toán biệt kích vẫn phải thực thi. Để tránh hỏa lực phòng không Bắc Việt, SOG tìm giải pháp khác, dùng loại máy bay có tốc độ nhanh hơn. Lúc này những phi công Việt Nam xem ra được để ý tới. Trong ba phi hành đoàn được huấn luyện bay với cao độ thấp ở Florida năm 1964, có một toán tử nạn trong lúc huấn luyện, một toán bỏ cuộc. Toán thứ ba sau này bị loại vì bay tiếp tế nhiều lần không thành công.

Để lấy lại uy tín, tướng Kỳ đích thân bay chuyến đầu tiên thả biệt kích, cũng là người đầu tiên bay phi vụ oanh kích trong tháng 2/1965, rồi cho phép sử dụng đơn vị nổi tiếng nhất của ông ta là Phi đoàn chiến thuật 83, có biệt danh Thần Phong, chuyên sử dụng loại máy bay Skyraider A-1G, không mang phù hiệu. Phi đoàn này tập hợp những phi công “thượng hạng” của không quân Quân đội Sài Gòn. Tháng 4/1966, một đơn vị A–1G vượt vĩ tuyến 17, bay thẳng đến những ngọn đồi gần đường 103. Khi nhận được tín hiệu của toán Romeo trên mặt đất, viên phi công thả hai quả bom Napalm, bên trong chứa đồ tiếp liệu cho toán biệt kích, theo kế hoạch 34A, gồm quần áo, lương thực, đạn dược.

Tiếp theo đến phiên không quân Mỹ tiếp tay. Phi đoàn chiến đấu 366 đóng tại phi trường Đà Nẵng sử dụng máy bay phản lực F4 Phantom thả tiếp tế cho toán Eagle ở phía tây tỉnh Quảng Ninh. Để tránh tổn thất, người Mỹ đã chuẩn bị kỹ hơn, một phi tuần F4 tấn công vào một mục tiêu gần đó, rồi hai chiếc F4 tách ra, bay về hướng khác. Họ bay cách mặt đất chừng 16 m, khi trông thấy tín hiệu của toán biệt kích Eagle, hai phi công thả những trái bom Napalm chứa đồ tiếp tế. Toán biệt kích Eagle báo cáo đã nhận đầy đủ đồ tiếp tế.

Tiếp theo đến phiên không quân Mỹ tiếp tay. Phi đoàn chiến đấu 366 đóng tại phi trường Đà Nẵng sử dụng máy bay phản lực F4 Phantom thả tiếp tế cho toán Eagle ở phía tây tỉnh Quảng Ninh. Để tránh tổn thất, người Mỹ đã chuẩn bị kỹ hơn, một phi tuần F4 tấn công vào một mục tiêu gần đó, rồi hai chiếc F4 tách ra, bay về hướng khác. Họ bay cách mặt đất chừng 16 m, khi trông thấy tín hiệu của toán biệt kích Eagle, hai phi công thả những trái bom Napalm chứa đồ tiếp tế. Toán biệt kích Eagle báo cáo đã nhận đầy đủ đồ tiếp tế.

Công bằng mà nói, nhờ những trận oanh kích ở Bắc Việt nên SOG được trang bị loại máy bay C130 để phục vụ cho những hoạt động bí mật. Trường hợp có máy bay nào bị bắn rơi trên lãnh thổ Bắc Việt, Mỹ sẽ nhận là của không quân Mỹ. Phi hành đoàn C130 sẽ được huấn luyện đặc biệt trong căn cứ không quân Pope, thuộc tiểu bang North Carolina. Mùa hè 1966, SOG nhận thêm 4 chiếc máy bay loại MC130, được gắn thêm “râu” trước mũi để bốc các toán biệt kích theo kiểu điệp viên James Bond 007 (Fulton Skyhook extraction system).

Tháng 10/1966, bốn chiếc MC130 đã đến Nha Trang, dưới danh nghĩa Phi đoàn Vận tải số 314, nhưng họ chỉ nhận lệnh từ SOG. Sau những lần bay thực tập, họ nhận lệnh xâm nhập không phận Bắc Việt thả truyền đơn và sẵn sàng thực thi những phi vụ đặc biệt. Đêm Noel, họ làm cú đầu tiên, thả 2 biệt kích dù xuống tăng cường cho toán Tourbillon. Cơ trưởng Leon Franklin kể lại: “ Chúng tôi cất cánh từ Nha Trang, bay dọc theo biển, ngang qua Đà Nẵng rồi vào đất liền. Phi hành đoàn gồm hai phi công, một cơ khí viên, hai sĩ quan hoa tiêu và một phi công đồ bản”. Khi chiếc máy bay đến mục tiêu, cơ trưởng Franklin để ý tìm tín hiệu nhưng không thấy gì hết. Họ bay vòng trở lại, lần này thấy lửa đốt lên theo hình chữ L. Đúng mật hiệu, hai biệt kích quân nhảy ra, chiếc phi cơ vòng lại bay về phương Nam.

SOG vẫn tiếp tục tìm kiếm thêm nhiều loại phương tiện để tăng khả năng hoạt động xâm nhập, phá hoại. Những phi công Việt Nam lái loại trực thăng H34 rất có khả năng và đã thành công trong việc thả toán Romeo trước đây. Tuy nhiên, SOG lại thích loại trực thăng CH3 của không quân Mỹ hơn. Loại máy bay này mới xuất hiện trên chiến trường miền Nam Việt Nam, có khả năng bay nhanh hơn, trọng tải lớn hơn so với trực thăng H34.

Trong tháng 10/1965, tám chiếc CH3 đã đến Nha Trang trong đội hình Phi đoàn trực thăng 20. Tháng 4/1966, sáu chiếc máy bay mang biệt danh Pony Express được chuyển đến căn cứ không quân Nakhon Phanom của Thái Lan.

Toán biệt kích đầu tiên xâm nhập bằng loại trực thăng CH3 là toán Hector. Toán Hector được chia làm hai toán nhỏ. Hector-A sẽ xâm nhập Bắc Việt Nam, lập mật cứ do thám đường. Toán Hector-B sẽ xuống sau, có nhiệm vụ móc nối với các cơ sở trà trộn trong dân địa phương.

Ngày 22/6/1966, 15 biệt kích quân trong toán Hector-A lên đường đến phi trường Nakhom Phanom. Nhiệm vụ của họ là thăm dò đường số 137 chạy sát biên giới Việt-Lào. Đây là tuyến giao thông khá lớn, chạy ngang qua đèo Ban Karai, rồi nhập vào đường mòn Hồ Chí Minh. Toán Hector gồm toàn quân nhân Việt Nam tuyển từ các đơn vị trong Quân lực VNCH. Toán trưởng là Đại úy Nguyễn Hữu Luyện, người có cấp bậc cao nhất trong các toán biệt kích xâm nhập Bắc Việt Nam.

Hector-A không phải đợi lâu ở phi trường Nakhon Phanom của Thái Lan. Từ đây, họ lên hai chiếc CH3 đang đợi sẵn. Hai chiếc trực thăng Pony Express bay xuyên qua đất Lào, xâm nhập không phận tỉnh Quảng Bình. Khi mặt trời sắp lặn, họ đến bãi đáp, các biệt kích quân đẩy chiếc thùng đựng đồ của họ xuống trước, rồi nhảy theo. Ít lâu sau, toán Hector báo cáo đã đến vị trí an toàn. Toán Hector-B tiếp tục sang Thái Lan ngày 23/9/1966. Tương tự như toán Hector-A, họ đáp xuống bãi thả. Những biệt kích quân trong toán Hector-B biến mất vào rừng, để sau đó nhập lại với toán Hector-A.

Tại Sài Gòn, SOG đợi điện báo cáo của Hector-B đã nhiều ngày, nhưng không thấy họ lên tiếng. Khi SOG chất vấn Hector-A, được trả lời rằng họ không tìm thấy 11 biệt kích quân cúa toán Hector_B. Không màng tới chuyện Hector-B bị mất tích, SOG chuẩn bị thả toán biệt kích kế tiếp. Đó là toán Samson, có 8 người, gồm đủ thành phần các dân tộc thiểu số. Họ sẽ được trực thăng CH3 đưa đến sát biên giới Việt – Lào, rồi xâm nhập bộ qua biên giới, đến đèo Tây Trang ở hướng nam Điện Biên Phủ. Nhiệm vụ của toán Samson là do thám đường số 4, con đường tiếp vận cho các đơn vị Bắc Việt hoạt động vùng Bắc Lào.

Ngày 5/10, chiếc trực thăng CH3 chở toán biệt kích Samson cất cánh từ Nakhon Phanom, bay về hướng bắc, ghé lại một trạm CIA trên đất Lào để tiếp thêm nhiên liệu, rồi tiếp tục bay đến mục tiêu thả toán biệt kích. Toán Samson gửi tín hiệu về Sài Gòn ngay tức khắc, chứng tỏ họ thành công.

SOG đợi đúng 3 tháng sau rồi tiếp tục thả toán Hadley, gồm 11 biệt kích quân Việt Nam. Cũng như Samson, toán biệt kích sẽ được thả gần biên giới rồi xâm nhập bộ vào Bắc Việt. Toán Hadley có nhiệm vụ do thám đường số 8, con đường này đi qua đèo Nape, rồi chạy sang Lào. Ngoài ra, toán phải đặt máy thăm dò chấn động trên đường. Loại thiết bị này CIA đã thử bên Lào. Đây là thiết bị có thể phân biệt chấn động do người hoặc xe cộ di chuyển. Toán Hadley sẽ thu thập những dữ liệu về lưu lượng xe cộ lưu thông trên con đường này gửi về Sài Gòn.

Ngày 26/1/1967, toán Hadley được đưa đến phi trường Nakhon Phanom. Ngoài các thành viên của toán, còn có Đại úy Nguyễn Văn Vinh, với mật danh March. Hai chiếc CH3 bay ngang không phận tỉnh Khammouane, tiến đến gần biên giới Việt – Lào. Mặt trời lặn thật nhanh, chiếc CH3 dẫn đầu đáp xuống một bãi trống, đổ toán biệt kích quân Hadley xuống, rồi ngóc đầu lên, bay về hướng Nam.

Khi chiếc trực thăng lên cao, Nguyễn Văn Vinh nhìn ra cửa sổ máy bay, cảm giác như tim ngường đập vì bên kia đồi, nơi vừa thả toán biệt kích là con đường đất. Khi được thông qua kế hoạch hành quân, trong tấm ảnh không hề có con đường đất đó. Như vậy họ đã thả toán biệt kích xuống lầm bãi! Chiếc CH3 thứ hai bay theo cũng phát hiện ra sự cố đó, liền lập tức báo cáo. Trung tâm buộc chiếc trực thăng thả toán biệt kích phải quay trở lại. Nguyễn Văn Vinh cùng quân nhân chuyển vận Việt Nam chạy ra khỏi trực thăng vào bìa rừng kêu gọi toán biệt kích. Họ gọi tên từng người, nhưng không ai trả lời, tất cả đã biến mất hút vào rừng.

Trở lại Nakhon Phanom, Vinh ngồi bên cạnh thùng đồ ăn cho toán biệt kích để sẵn sàng tiếp tế. Đã 48h trôi qua, Hadley vẫn biệt tăm. Trở lại Đà Nẵng, Đại úy Vinh ngồi sau chiếc khu trục A-1 do phi công Việt Nam lái. Trong hai ngày kế tiếp, họ bay ba lần ngang qua điểm hẹn với toán Hadley, hy vọng thấy tấm panô báo nguy hoặc tín hiệu của toán biệt kích, song tất cả chỉ hoài công.

Hai hôm sau, Nguyễn Văn Vinh nhận được điện thoại của Đại úy Calisto từ Sài Gòn gọi ra cho biết: CIA bắt được công điện của Bắc Việt báo cáo lên trên rằng đã phát hiện toán biệt kích gần đèo Nape. Như vậy Hadley đã nằm trong tay Bắc Việt. Điều này đúng không? 18 ngày sau, Hadley bỗng báo cáo về trung tâm là đã chạm trán với quân Bắc Việt và hiện vẫn còn lẩn trốn trong rừng. Bức điện đã gây tranh cãi dữ dội ở trung tâm Sài Gòn. Để biết rõ thực hư, SOG tổ chức toán Voi nhảy dù xuống điều tra. Bốn biệt kích trong toán được trang bị ống dòm cực mạnh và máy chụp ảnh xa. Họ được lệnh nằm lại, chụp ảnh bất cứ người nào lấy thùng tiếp liệu thả xuống cho toán biệt kích Hadley. Điều này sẽ chứng minh toán Hadley đã bị bắt hay chưa.

Ngày 18/10, Nguyễn Văn Vinh đi theo toán Voi trên chiếc MC130. Đến Hà Tĩnh, toán biệt kích Voi nhảy ra khỏi phi cơ. Đại úy Vinh (Marc) đã dặn toán Voi khi xuống tới đất phải báo cáo ngay. Nhưng rồi toán Voi cũng biến mất luôn, không một lời báo cáo.

Trong tháng 10/1966, hiệu thính viên toán Romeo gửi về một điện văn ngắn: “Romeo đã bị bắt". Tháng 12 cùng năm, Hà Nội thông báo vụ xử toán Kern, gồm 9 biệt kích quân nhảy dù xuống đèo Mụ Giạ. Toán này xâm nhập từ tháng 3, lần cuối cùng trên lạc là tháng 9/1966. Tháng 3/1967, Hà Nội thông báo tiếp về vụ toán Samson, toán này mất liên lạc từ ba tháng trước. Tháng 6 đến phiên toán Hector-A bị điểm tên trên đài phát thanh Hà Nội, họ bị khép vào tội gián điệp. Cuối cùng đến lượt toán Bell bị đem ra xét xử.

SOG lại tuyển thêm nhân sự, mặc dù kế hoạch 34A (xâm nhập Bắc Việt) không còn là nỗ lực chính nữa, song SOG có thêm nhiệm vụ mới. Đến tháng 1/1967, SOG có 207 nhân viên Mỹ. Riêng lượng nhân viên là người Việt Nam (có 470 người tại thời điểm năm 1964, thì đến đầu năm 1966 tăng lên hơn 1.700 người). Phần lớn những quân nhân này nằm trong đội hình cuộc hành quân Shining Brass (xâm nhập qua Lào). Shining Brass đã bước qua giai đoạn thứ hai, sử dụng trung đội xung kích Hatchet tấn công mục tiêu trên đất Lào, do các toán biệt kích tìm ra.

Một trong những nhiệm vụ mới mà Tư lệnh Thái Bình Dương giao cho SOG là tìm kiếm những quân nhân Mỹ bị mất tích (MIA). Đầu năm 1967, SOG hoạch định chương trình chuyên do thám hệ thống đường Bắc Việt sử dụng đế tiếp tế cho miền Nam, hoặc tìm những mục tiêu ngắn hạn, gọi tắt là Strata. Kế hoạch sẽ sử dụng những biệt kích quân Việt Nam xâm nhập vùng phía nam của Bắc Việt để thu thập tin tình báo và bốc toán biệt kích về khoảng bốn tuần sau đó. Kế hoạch này có vẻ giống như kế hoạch hành quân Shining Brass, nhưng đã đổi tên là Prairie Fire. Francois được chỉ định theo dõi kế hoạch Strata.

Toán Strata đầu tiên xâm nhập Lào là toán Strata 111. Toán xuất phát từ căn cứ hành quân tiền phương Khe Sanh được trực 1 thăng H34 King Bee (Phi đoàn 219) thuộc không quân của Quân đội Sài Gòn đưa đến mục tiêu. Vài giờ sau khi xâm nhập, toán biệt kích phát hiện Bắc Việt có mặt ở khắp nơi. Công điện thu được của Bắc Việt cho biết toán biệt kích nhảy dù đúng căn cứ của Sư đoàn 325 Bắc Việt

Toán biệt kích Strata đội nón cối, mặc quân phục, trang bị AK47 như lính Bắc Việt cho họ thêm yên tâm. Bị lộ, họ chạy xa mục tiêu khoảng năm cây số và yêu cầu được rút lui khẩn cấp. Cố gắng tránh đụng độ với quân Bắc Việt và tìm được bãi đất trống trải, toán biệt kích Strata được trực thăng H34 đến bốc, đưa về Đà Nẵng. Tháng 8/1967, toán Strata 112 tiếp tục xâm nhập Lào từ căn cứ tiền phương ở Đakto (Kontum). Nhiệm vụ của toán là do thám một nhánh trên đường mòn Hồ Chí Minh. Họ đáp xuống mục tiêu an toàn. Ngày hôm sau di chuyển dọc theo con đường, họ khám phá ra vài căn chòi. Sáng hôm sau nữa, Strata bị phát giác. Họ điện về Sài Gòn, yêu cầu được rút lui . Mặc dù có quá nhiều mây che phủ nhưng các phi công H34 vẫn đáp xuống mục tiêu, bốc theo toán biệt kích Strata về tới Đakto an toàn.

Những toán biệt kích Strata kế tiếp chuẩn bị xâm nhập Bắc Việt ngoài trang bị như lính Bắc Việt, họ được mang theo máy truyền tin PRC74, để có thể liên lạc thẳng với máy bay thám thính bao vùng. Toán Strata 111 lần này có nhiệm vụ do thám lượng xe cộ của Bắc Việt di chuyển trên tuyến đường 101 thuộc địa bàn tỉnh Quảng Bình. Đó là một nhánh quốc lộ 12 trước khi đến đèo Mụ Giạ, để nhập vào đường mòn Hồ Chí Minh. Toán biệt kích Strata có đem theo ống nhòm đặt trên giá ba chân để có thể theo dõi lượng xe cộ của Bắc Việt qua lại khu vực núi Khe Sai gần đó.

Rạng sáng ngày 24/9/1967, toán biệt kích Strata lên chiếc trực thăng CH3 tại căn cứ không quân Nakhon Phanom (Thái Lan). Để tránh bị để ý, chỉ có 7 trong số 13 biệt kích quân của toán Strata tham gia phi vụ. Thiếu tá Wilgus lên chiếc C130, đích thân chỉ huy chuyến thả toán biệt kích Strata 111 . Thiếu tá Alton Deviny lái chiếc CH3, sau này kể lại: “Chúng tôi thả họ lúc trời hửng sáng, đỉnh núi chỗ họ đáp xuống quá dốc, mà rừng thì rất rậm rạp". Tuy địa thế hiểm trở, gây khó khăn cho biệt kích quân khi di chuyến, nhưng bù lại, ít thấy bóng dáng quân Bắc Việt. Có lẽ toán biệt kích cảm nhận rõ hơn những trở ngại, vì họ phải theo dõi lượng xe cộ lưu thông trên 6 km đường ở địa thế hiểm trớ, quả là điều rất khó khăn. Cộng thêm nhiều vấn đề mới phát sinh như hết nước uống; hai biệt kích quân bị bệnh. Do đó, ngày 28/9, toán biệt kích Strata yêu cầu được rút quân. Mặc dù toán Strata chẳng đem về được bao nhiêu tin tức, nhưng SOG vẫn tỏ ra hoan hỉ vì lần đầu tiên họ đã thành công trong việc đón được cả toán biệt kích từ đất Bắc trở về.

Chưa đầy một tháng sau, Strata lại chuẩn bị cho phi vụ xâm nhập mới. Vào thời điểm đó Thiếu tá Wilgus đã mãn hạn phục vụ tại Việt Nam. Người thay thế Wilgus là Thiếu tá Victor Calderon. Đến Nam Việt Nam lần thứ hai, Calderon tập hợp toán biệt kích Strata 112 lại, nói rõ nhiệm vụ của họ phải xâm nhập không phận phía bắc tỉnh Quảng Bình, để do thám khu vực ngã ba đường 15 nhập vào đường 12, chạy về hướng nam đèo Mụ Giạ. Địa điểm họ đáp xuống sẽ là khu vực rừng núi, cách mục tiêu 8 km về hướng tây bắc. Lần này họ phải nhảy dù. Đêm 23/10/1967, mười biệt kích quân trong toán Strata 112 lên chiếc máy bay MC130 ở phi trường Tân Sơn Nhất.

Chiếc MC130 bay từ biển vào đến mục tiêu, thả toán biệt kích xuống. Giống như những toán biệt kích nhảy dù xuống trước đây, toán Strata 112 bị phân tán. Khi đáp xuống hiệu thính viên Ngô Phong Hải không nhìn thấy bóng dáng bất kỳ người nào trong toán Strata 112. Chiếc dù của anh ta bị vướng trên một ngọn cây cao. Đợi đến sáng, Hải cắt dây dù, leo xuống, sau đó gặp Mai Văn Hợp, chuyên viên chất nổ trong toán. Cả hai quay trở lại gốc cây Hải vừa xuống hồi đêm đế lấy máy truyền tin. Năm giờ đồng hồ sau, cả toán mới tập hợp lại đầy đủ. Trưởng toán là Thiếu úy Nguyễn Văn Hùng cảm thấy nghi hoặc địa thế xung quanh khu vực thả dù không giống như trên bản đồ. Thêm vào đó một vài thành viên trong toán báo cáo tại khu vực đáp xuống có một làng dân.

Sau khi phối kiểm, đúng là toán Strata 112 bị thả nhầm xuống gần ranh giới tỉnh Hà Tĩnh. Toán biệt kích buộc phải đi chuyên gấp, nếu không dân địa phương sẽ phát hiện ra họ và báo cho lực lượng công an nhân dân vũ trang. Nhưng ngay sáng ngày 31 tháng 10, toán biệt kích đã bị phục kích gần bờ một con suối. Ba biệt kích quân bỏ mạng, một bị thương. Số còn lại chạy về hướng nam tỉnh Quảng Bình. Mặc dù liên lạc được với máy bay Mỹ, nhưng do rừng quá rậm rạp, họ không thể xác định đúng vị trí của toán biệt kích.Trực thăng cấp cứu đành phải quay về.

Hết đồ ăn, toán biệt kích phải tìm cây, củ trong rừng nướng ăn, dân địa phương thấy khói bèn báo công an. Suốt tuần lễ tiếp theo, toán biệt kích Strata 112 bị công an nhân dân vũ trang săn lùng ráo riết. Trên dường tháo chạy, toán Strata 112 bị phân tán mỗi người một ngả. Trưa ngày 4 tháng 10, một nhóm bị bao vây, một số biệt kích quân khác bị bắt. Ngô Phong Hải lẫn trốn thêm được 10 ngày, hy vọng có trực thăng đến cứu. Nhung đợi mãi, hết đạn, bị đói, hết hy vọng, anh ta đành ra hàng. Toán biệt kích Strata 112 đến đây coi như bị xoá sổ.

Chương trình Strata lại có chỉ huy mới là Thiếu tá George “Speedy" Gaspard. Sau khi nghiên cứu tấn thảm kịch Strata 112, Gaspard quyết định chuyển các toán Strata ra Đà Nẵng. Căn cứ này có một lợi thế là máy PRC-74, mà CIA trang bị cho các các toán biệt kích có thể liên lạc thẳng với căn cứ hành quân tiền phương, không phải qua trung gian BUGS ớ Philippin.

Rút kinh nghiệm từ thảm họa Strata 112, lần này các toán biệt kích sẽ xâm nhập không phận Bắc Việt bằng trực thăng CH3, phát xuất từ căn cứ không quân Nakhon Phanom (Thái Lan). Để dễ cơ động, toán biệt kích Strata sẽ gồm từ 4 đến 8 thành viên. Mặt khác, do vóc dáng người Việt Nam nhỏ, không nên đem theo nhiều đồ, chỉ đem đầy đủ thực phẩm đạn dược, nếu cần sẽ được tiếp tế bằng trực thăng CH3.

Với vẻ hài lòng, Thiếu tá Gaspard chuẩn bị cho chuyến xâm nhập Bắc Việt lần thứ nhất trong năm 1968. Toán Strata 111 dự kiến sẽ xâm nhập phía tây làng Mõ, một làng lớn của huyện Lệ Ninh, tỉnh Quảng Bình. Nơi có con đường 196 chạy từ hướng tây nam làng Mõ đến biên giới Việt - Lào, nhập vào đường mòn Hồ Chí Minh. Tại lưu vực sông Gianh, nhiều dấu hiệu cho thấy, Bắc Việt sử dụng cá hai tuyến đường chuyển quân và hàng chi viện cho chiến trường miền Nam. Tin tức thu được tại khu vực này sẽ có giá trị lớn cho Không đoàn số 7 của Mỹ.

Chiều ngày 17 tháng 3 năm 1968, Strata 111 được trực thăng thả xuống khu vực đã định. Sau khi đáp đất, toán biệt kích di chuyển đến mục tiêu. Sáng sớm ngày 18, họ chạm trán với hai tiểu đội tuần tra của Bắc Việt. Hai bên cùng nổ súng khoảng 20 phút, thì toán biệt kích di chuyển vị trí. Đêm 18 tháng 3, họ báo cáo về Đà Nẵng về vụ việc chạm súng với toán toán tuần tiễu Bắc Việt lúc sáng.

Đến 19 tháng 3 (ngày thứ ba), toán biệt kích trớ nên dè dặt, cẩn thận, ba lần Strata 111 trông thấy các toán tuần tiễu của lực lượng an ninh địa phương đang truy lùng. Strata 111 bắt buộc phải điện về trung tâm yêu cầu cho rút quân.

Sau vụ này, Gaspard tiếp tục thứ nghiệm với toán mới Strata 113. Ngày 31/3/1968, toán biệt kích xâm nhập lại mục tiêu trước đó Strata 111 đã xâm nhập. Lần này Strata không thấy dấu hiệu của lực lượng an ninh Bắc Việt. Một tuần sau, Strata 113 được trực thăng đến bốc về.

Gaspard tin rằng mình đã thành công nên đưa tiếp toán Strata 114 xâm nhập Bắc Việt, ngoài nhiệm vụ do thám đường, toán biệt kích còn phải rải truyền đơn của đài Gươm thiêng ái quốc, vừa gài mìn trên đường và khu vực lân cận. Tuy nhiên, đến ngày thứ hai, toán biệt kích chạm trán với một đơn vị tuần tiễu của Bắc Việt. May mà họ chạy thoát.

Di chuyến dọc theo đường 196 về hướng nam, chiều 11/4/1968, Strata 114 báo cáo về Đà Nẵng rằng toán đã đến mục tiêu Rằng họ sẽ quan sát con đường suốt 24 giờ đồng hồ. Ngày 12/4, SOG ra lệnh cho toán biệt kích Strata 114 băng qua đường chụp ảnh, rải truyền đơn, gài mìn. Một giờ đồng sau khi đã thực thi xong phi vụ, toán biệt kích di chuyển đến vị trí an toàn. Họ nghe tiếng mìn nổ, chứng tỏ Bắc Việt có sử dụng con đường. Toán Strata 114 còn hai ngày nữa mới kết thúc phi vụ . Thế nhưng, họ đã hết nước uống, nên đòi rút quân. Nhưng toán biệt kích phải chịu khát và đợi đến ngày 15/4, trực thăng mới đến bốc họ về. SOG rất hài lòng: "có vẻ như biệt kích ra vào sau lưng quân Bắc Việt chẳng khác gì như chỗ không người".

Trong tháng 5/1968, căn cứ SOG ở Đà Nàng có thêm nhiều toán biệt kích mới đến. Họ vừa kết thúc khoá huấn luyện tại căn cứ Long Thành. Toán thứ tư lên đường là toán Strata 120, gồm sáu quân nhân, hai người đã có kinh nghiệm, từng là thành viên toán biệt kích Red Dragon trước đây, hai biệt kích quân người Kinh và hai biệt kích quân là người dân tộc Nùng.

Toán Strata 120 được trang bị giống như những toán nằm vùng dài hạn trước đây, cũng quân phục như bộ đội Bắc Việt, súng không có số. Họ được trực thăng CH3 đưa đến xâm nhập gần làng Mõ. Vài giờ đồng hồ sau, toán biệt kích trông thấy phân đội tuần tiễu của Bắc Việt đang di chuyển trong rừng. Họ báo cáo về Đà Nẵng yêu cầu cho rút quân, nhưng trung tâm ra lệnh cho họ tiếp tục phi vụ, vì quân Bắc Việt chưa phát hiện ra sự hiện diện của toán biệt kích.

Strata 120 di chuyển đến một điểm khác ở phía bắc làng Mõ và biến mất. Trong vòng chín ngày sau, SOG ra sức tìm kiếm Strata 120 bằng các loại phương tiện như máy bay quan sát; gọi Strata 120 trên tần số khẩn cấp mỗi giờ; gọi điện văn trên đài Gươm thiêng ái quốc. Đến ngày 26/5/1968, toán Strata coi như mất tích.

Từ đó, SOG không có bất kỳ thông tin nào về số phận của toán biệt kích Strata 120. Thực ra, định mệnh đến với họ ngày 18/5, tức bốn ngày sau khi xâm nhập. Biệt kích quân Nguyễn Đình Lành nhận “sứ mệnh" do thám một dòng suối mà toán sẽ phải vượt qua. Mấy phút sau, các thành viên của toán nghe tiếng hô to: “Đầu hàng! Đầu hàng ngay!". Tiếp theo là tiếng súng nổ. Lành lĩnh trọn cả băng đạn AK, chết tại trận. Hai biệt kích quân Nùng nổ súng đáp lại, còn ba người khác thì lủi vào bụi cây.

Năm biệt kích quân còn lại phải chạy thục mạng, sau đó mới gặp lại nhau. Trong lúc chạy họ bỏ lại tất cả, chỉ đem theo súng và ít đồ ăn. Đêm đó họ trèo lên đỉnh một ngọn đồi, đốt lửa báo hiệu, hy vọng máy bay quan sát của Mỹ sẽ trông thấy. Do mất máy truyền tin, nên các biệt kích quân không còn cách nào hơn là đốt lửa ra hiệu.

Trốn trên một ngọn đồi nắng cháy, Strata chờ được giải cứu. Trong lúc họ không còn một giọt nước uống. Một biệt kích quân người Nùng là Trịnh Quốc Anh, cùng một cộng sự bèn đi tìm nước. Hai người còn lại trên đồi nghe tiếng súng nổ, sau đó tất cả bị bắt ngày 24/5/1968.

Ngày 14/5/ 1968, cùng lúc với toán Strata 120, toán Strata 111 cũng xâm nhập trở lại khu vực họ dã xâm nhập trước đó hai tháng. Hai ngày sau họ điện báo về Sài Gòn rằng Strata 120 đã tiếp cận mục tiêu an toàn. Thế nhưng đến ngày 17/5, toán biệt kích nghe có tiếng súng và tiếng chó sủa. Mọi người nằm im chờ nguy hiểm qua rồi di chuyển đến vị trí thuận lợi cho việc do thám con đường. Họ tiếp tục quan sát con đường thêm tám ngày và được bốc về ngày 30/5/1968.

Một ngày sau khi toán Strata ra đi, toán Strata 122 xâm nhập ở hướng bắc. Trong toán này có ba anh em. Nhưng đến không phận Lào, Strata không chịu đi tiếp để xâm nhập vào Bắc Việt. Trực thăng đành chở họ về và SOG lập tức sa thải Strata 122 ra khỏi lực lượng đặc biệt. Để thế vào chỗ trống trên, vào cuối tháng 5/1968, Strata 113 được lệnh xâm nhập Bắc Việt lần thứ hai. Lần này họ may mắn trở về bình yên.

Ngày 6/6/1968, toán Strata 114 cũng lần thứ hai xâm nhập tại khu vực gần làng Mõ và gặp ngay đoàn xe quân sự, toàn Molotova của Bắc Việt, đang di chuyến trên đường về hướng đường mòn Hồ Chí Minh. Không quân Mỹ đã để ý mục tiêu này từ lâu. Ngày 10/6, toán biệt kích Strata 114 điện báo về Sài Gòn rằng bom rơi gần chỗ họ đang ẩn núp. SOG phải thông báo cấp tốc cho không quân Mỹ và yêu cầu dành cho toán biệt kích một khu vực an toàn, tránh bị đánh bom. Tuy nhiên, trận đánh bom của không quân Mỹ không có hiệu quả. Strata 114 báo cáo trung tâm: "Bom ném không trúng mục tiêu”. Hai ngày sau, toán biệt kích lại chứng kiến đoàn xe Molotova chở đồ tiếp tế, nặng nề di chuyển trên đường. Sau đó, họ phát hiện ra một binh trạm chứa khoảng 60 xe vận tải giấu kín trong cánh rừng già có cây che phủ rất rậm rạp.

Thế nhưng mọi sự thay mắn cho toán biệt kích Strata 114 đã chấm dứt vào ngày 12/6/1968, cả trướng, phó toán và nhân viên truyền tin đều không trở lại sau một chuyến do thám ngắn. Khi nghe tiếng súng, lựu đạn nổ, bốn biệt kích quân còn lại của toán Strata 114 vắt chân lên cổ chạy thục mạng. Ngày 18/6, họ may mắn được trực thăng bốc về.

Cay cú, ngay ngày hôm sau (19/6), toán biệt kích Strata 115 được lệnh xâm nhập và tìm kiếm mục tiêu mới ớ phía nam tỉnh Hà Tĩnh. Đây là toán phải xâm nhập vào địa bàn xa nhất so với các toán Strata, cũng là toán gồm toàn biệt kích người Khmer. Sau khi đáp đất, toán biệt kích Khmer di chuyển đến mục tiêu, tiến hành do thám khu vực được giao. Hết lương thực, SOG phải nhờ một chiếc khu trục A1 của không quân Sài Gòn thả bom giả Napalm chứa thức ăn cho Strata 115. Ngày 27/6, toán Strata 115 chạm trán quân Bắc Việt, một biệt kích quân bỏ mạng. SOG phải điều trực thăng đến giải cứu toán biệt kích.

Cùng thời điểm này, toán Strata 111 tổ chức xâm nhập chuyến thứ tư. Ngày 20/6, toán xâm nhập sâu 16 km về phía bắc của khu phi quân sự. Trong bốn ngày đầu Strata 111 không thấy sự hiện diện của quân đội Bắc Việt. Nhưng đến ngày 24/6, họ bị phát hiện, bèn điện về Đà Nẵng báo cáo, rồi rải mìn; sau đó đi chuyển đến vị trí khác. Ba hôm sau, Strata 111 một lần nữa chạm trán với quân đội Bắc Việt, một biệt kích quân bị thương. Strata 111 yêu cầu trung tâm cho rút quân. Về tới căn cứ Đà Nẵng, Strata 111 lập tức bị giải tán.

Đến mùa mưa năm 1968, chương trình Strata vẫn tiếp tục triển khai, với mật danh mới là "Kế hoạch 34B". Đối với biệt kích nằm vùng dài hạn mang mật danh là “Kế hoạch 34A". Những toán biệt kích mới được tuyển mộ cho chương trình “Kế hoạch 34B", gồm sĩ quan, hạ sĩ quan trẻ trong Quân đội Sài Gòn. Họ đem lại sinh khí mới cho các toán biệt kích Strata.

Cùng thời điểm trên, toán biệt kích Strata 115 (người Khmer) xâm nhập Bắc Việt lần thứ hai. Sau 18 ngày thực thi phi vụ, họ đụng độ với quân Bắc Việt. Toán biệt kích bị xé lẻ, phân tán. Trực thăng chỉ bốc về được ba người, còn bốn người khác thì mất tích. Toán biệt kích cuối cùng xâm nhập trong tháng 7/1968, là Strata 119, toàn dân Thái. Họ được tuyển mộ từ bên Lào, sau đó đưa về Long Thành huấn luyện cho đến hết năm 1967. Họ được chia làm hai toán. Toán qua không làm nên cơm cháo gì, SOG phải trả họ về Lào. Toán Axe được tăng cường hai hiệu thính viên người Kinh, tổ chức thành toán Strata 119.

Ngày 29/7, Strata 119 được trực thăng đưa vào khu vực gần làng Mõ. Trong tuần lễ đầu, họ không gặp trở ngại nào. Sau đó Strata 119 phát hiện Quân đội Bắc Việt có mặt thường xuyên ở khu vực này. Ngày 10/8/1968, tức hai ngày trước khi kết thúc phi vụ, Strata 119 phát hiện Quân đội Bắc Việt đang đi lùng. Trưởng toán Lò Văn Thông ra lệnh cho các thành viên trong toán nằm im, rồi gọi máy bay trinh sát xin chỉ dẫn. Do rừng cây quá rậm rạp, Thông cùng với một biệt kích quân phải leo lên một cây to để định hướng. Đúng lúc đó, bỗng có tiếng súng nổ chát chúa ở dưới, cả hai phái nằm im trên cây cả tiếng đồng hồ. Trong lúc đó, những biệt kích quân còn lại chạy thoát và được trực thăng bốc đưa sang Thái Lan. Thông cùng đồng sự định tìm đường sang Lào, nhưng đã bị quân đội Bắc Việt bắt sốngTrong mọi nỗ lực phá hoại miền Bắc Việt Nam, để ngăn chặn sự chi viện cho chiến trường miền Nam, từ năm 1961, cơ quan Trung ương tình báo Mỹ (CIA) đã bắt đầu thả những toán biệt kích Sài Gòn (người Việt Nam) xuống đất Bắc. Từ năm 1964, Lầu Năm Góc đã biết chắc rằng những biệt kích quân đó đã bỏ mạng, bị cầm tù hoặc đã hợp tác với quân Bắc Việt. Nhưng Bộ Tống Tham mưu liên quân Mỹ, hay nói cách khác là Lầu Năm Góc vẫn ra lệnh tiếp tục thả thêm những toán biệt kích mới xâm nhập không phận Bắc Việt, thông qua “Kế hoạch 34A".

Nỗ lực mới này do một cơ quan đặc biệt, mang danh: Đoàn Nghiên cứu, quan sát (hay còn gọi là Nha Kỹ thuật) đảm trách. Tính đến năm 1968, đã có khoảng 500 biệt kích mất tích (đồng nghĩa với chết hoặc bị bắt) ở Bắc Việt. Thân nhân của họ chỉ được cơ quan SOG thông báo là họ đã chết. Ngoài ra, SOG chẳng cần quan tâm xem số phận những biệt kích quân ra sao, hoặc chí ít cũng tìm cách cứu họ về.

Phải 20 năm sau, khi trên 300 biệt kích quân được trả tự do từ những trại giam trên đất Bắc, thì những mưu đồ đen tối nhất của Chính phủ Mỹ mới được đem ra ánh sáng. Qua những hồ sơ bị phủ một lớp dày bụi thời gian, được giải mã hay vẫn bảo quản theo chế độ bảo mật, cùng những cuộc tiếp xúc với những biệt kích quân người Việt Nam, nhân viên CIA, SOG, nhân viên tình báo. Ông Sedgwick Tourison, một chuyên viên tình báo của Bộ Quốc Phòng Mỹ đã vén lên bức màn bí mật trong cuộc chiến Việt Nam. Một cuộc chiến đã lấy đi biết bao sinh mạng của người Việt Nam và cả người MỹCó thể những biệt kích quân Sài Gòn không hình dung được họ đã trở thành công cụ, phương tiện chiến tranh cho Mỹ như thế nào trong một mưu đồ đen tối: “Dùng người Việt giết người Việt. Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. CIA đã biến họ, những biệt kích quân của quân đội Sài Gòn thành những đứa con lầm lỡ, quay lưng lại với chính dân tộc, tổ quốc mình. Trong lúc lớp lớp người Việt Nam, có cả những người thân thích, chòm xóm, thân tộc, bạn bè trang lứa, cha chú họ... đã cùng cả dân tộc, đất nước này đứng lên chống Mỹ chỉ với một ước nguyện duy nhất là hoà bình, đất nước thống nhất, núi sông liền một dải.

Khi bị chính quyền Mỹ chối bỏ, những biệt kích quân của Quân đội Sài Gòn nghĩ gì sau bao năm dài bị giam giữ trong các trại giam trên đất Bắc? Trong số họ có kẻ đã phải trả giá quá đắt cho những gì mình đã gây ra cho đất nước bằng 10 năm, 20 năm, thậm chí có người ngồi tới 30 năm, suy ngẫm sau chấn song sắt trại giam. Khi đã luống tuổi họ có gì đế kể cho con cháu mình nghe? Hay có chăng chỉ là những ký ức buồn.

 Cho đến giờ họ vẫn chưa lý giải nổi, vì sao những toán biệt kích quân khi xâm nhập lãnh thổ miền Bắc thường chạm trán các lực lượng vũ trang Việt Nam ngay tại địa điểm thả dù? Mặc dù tọa độ thả các toán biệt kích đúng ra phải được bảo mật. Họ phải bỏ mạng, hoặc may mắn hơn là bị bắt sống. Trong số họ có người đã nhận ra sự thật của “Chủ nghĩa quốc gia” mà CIA nhồi vào đầu họ. Do đó không ít biệt kích quân đã hợp tác với lực lượng an ninh Bắc Việt, gửi đi những bức điện giả để những người lính Sài Gòn nói chung, và biệt kích quân nói riêng bớt đổ máu.

Lời thú nhận của các cựu nhân viên CIA, SOG có thể gây sửng sốt hơn nữa cho nhiều người, đặc biệt là các biệt kích quân người Việt Nam, bởi một sự thật tàn nhẫn là các biệt kích quân Sài Gòn vẫn tiếp tục bị thả xuống lãnh thổ Bắc Việt, rồi bỏ rơi, ngay cả khi chiến dịch phá hoại của CIA đã kết thúc.

II. Ngày về

Sau những năm tháng bị giam cầm trong các trại giam trên đất Bắc, các biệt kích quân lần lượt được trả tự do, có người bị bắt từ năm 1961 khi cơ quan Trung ương Tình Báo Mỹ (CIA) bắt đầu thả những toán biệt kích đầu tiên xuống lãnh thổ miền Bắc. Bài viết này được viết theo cuốn “Secret Army, Secret War", tạm dịch là “Đạo quân bí mật, trận chiến bí mật” của tác giả Sedgwick Tourison.

Bắt đầu cuối năm 1979, những biệt kích quân đang bị giam giữ trong trại giam Thanh Phong, dần dần được trả tự do. Đến mùa mưa năm 1982, phần lớn các biệt kích quân ở trại giam K1 đã được trả tự do, trở về đoàn tụ với gia đình của họ. Trước khi được trả tự do, có cán bộ quản lý từ Hà Nội vào đã nói với nhiều biệt kích quân rằng họ hãy gắng trở thành nhũng công dân hữu ích. Những phạm nhân biệt kích ít chịu cải tạo được thông báo: "Nên chuẩn bị, sẽ có cán bộ đến thăm bất ngờ".

Đến tháng 12, những biệt kích quân chịu án dài hạn ở trại giam K1 đều được chuyển về trại giam Trung ương số 3 (nằm ở huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An). Đến mùa thu năm 1987, bảy phạm nhân biệt kích cuối cùng được trả tự do. Trong số đó có Nguyễn Hữu Luyện, một người theo chủ nghĩa chống cộng đến cùng vẫn được hưởng sự khoan hồng của Chính phủ Nước CHXHCN Việt Nam. Một cựu biệt kích quân từng chịu án tù 15 năm đã kể lại "Ngày Trở  Về" của anh như sau:

"Tôi còn nhớ lúc xuống tới ga xe lửa Sài Gòn thì trời đã tối,  tôi biết không thể nào về thẳng nhà được vì đã không liên lạc với mẹ trong suốt 15 năm. Mặc dù được phép viết thư báo tin cho gia đình từ năm 1976, nhưng tôi lại không chịu tin, và cho rằng đây cũng chỉ  là trò bịp bợm của Bộ Nội vụ. Có người trong nhóm được thân nhân thăm hỏi, đặc biệt là đối với những người có thân quyến ở ngoài Bắc. Hầu hết anh em chúng tôi không muốn gia đình mình phải chi tiêu một số tiền tốn kém cho chuyến đi ra tận ngoài Bắc thăm hỏi. Chúng tôi cũng có thể giấu thư, nhờ người đi thăm đem ra ngoài, gửi về nhà báo tin. Những người đi thăm nuôi thường rất có cảm tình và có vẻ thương xót cho những phạm nhân biệt kích quê ở miền Nam. Riêng cá nhân tôi, không viết gì cả.

Tôi đi bộ từ trung tâm thành phố Sài Gòn về nhà mẹ tôi.Tôi tránh đi trên đường vì sợ gặp phải trạm kiểm soát. Rốt cuộc, tôi vẫn không có giấy tờ tùy thân, mà giấy phép đi đường thì đã quá hạn. Tôi dừng lại trong một quán cà phê bên đường, đối diện với căn nhà năm xưa của mẹ tôi, ngồi im lặng hàng giờ đồng hồ đợi cho đến khi trời sáng.

Rất khó cắt nghĩa được cảm xúc của tôi, vì sau 15 năm ngồi suy ngẫm trong những trại cải tạo lao động, sợ rằng mình sẽ có những hành động, phản ứng khác thường. Trời vừa tảng sáng, mẹ tôi từ trong căn nhà quen thuộc đi ra. Tôi vẫn ngồi yên lặng nhìn mẹ, rồi đảo mắt xung quanh xem có ai ở gần không? (Thói quen đó hình thành trong tôi kể từ khi tôi dấn thân vào con đường làm biệt kích). Khi thấy xung quanh không một bóng người, tôi mới cảm thấy an toàn, bèn bước theo sau mẹ một quãng ngắn, sau đó bước lên đi song song bên cạnh mẹ tôi. Đi được chừng vài bước, tôi vẫn chưa biết mình định sẽ nói gì với người. Mẹ tôi dường như linh cảm có người đi bên cạnh, bà dừng lại vài giây. Tôi nhìn mẹ tôi, thốt lên: “Mẹ! con đây!”.

Sửng sốt, bà nhìn tôi vài giây, rồi nắm  lấy tay tôi dắt trở về nhà. Chuyện xảy ra như ngày xưa, khi tôi còn là đứa trẻ làm điều bậy ngoài đường, bị mẹ lôi về nhà. Vào đến nhà trên, bà dắt tôi đến trước bàn thờ ông bà. Trên bàn thờ, có tấm ảnh của cha tôi và bên cạnh là bức hình của tôi. Mẹ nhìn tôi, nhìn tấm ảnh trên bàn thờ, rồi lại nhìn tôi, lại nhìn tấm ảnh. Sau cùng bà nói khẽ, giọng run run: “Con ơi! Mẹ nghĩ rằng con đã chết rồi!”.

Cuối cùng, tôi đã trở về nhà, tôi không còn biết nói gì thêm nữa."

“Người hùng” biệt kích Nguyễn Văn Hinh quay mặt ra cửa sổ, nghẹn ngào...

Khi Tourison viết cuốn “Đạo quân bí mật, cuộc chiến bí mật” thì hơn 100 cựu biệt kích quân đã đến định cư tại nước Mỹ. Gần 200 người khác vẫn ở Việt Nam cùng hàng trăm cô nhi, quả phụ của những biệt kích quân đã bỏ mạng chỉ vì cái bánh vẽ “Chủ nghĩa quốc gia” mà CIA đã vẽ ra.

Còn Nguyễn Hữu Luyện, người tổ chức, huấn luyện toán biệt kích Hector mặc dù đã trốn trại không thành công vẫn được trả tự do sau 21 năm ngồi đếm song sắt trại giam. Đầu năm 1992, ông ta được trả tự do và được phép rời Việt Nam qua Mỹ định cư.  Hai vợ chồng ông ta sống ở phía đông thành phố Boston, tiểu bang Massachusetts.

Một người khác trong nhóm 7 phạm nhân biệt kích quân được trả tự do cuối cùng là Quách Rạng, vốn là người Mường, đến Mỹ năm 1992, sống tại thành phố Chamblee, tiểu bang Georgia. Vợ ông ta là bà Ngọc Ban, một phụ nữ được cho là rất can đảm, đã nói chuyện với một nhóm 400 người Việt Nam tại Atlanta. Bà kể lại câu chuyện lúc được tin chồng mất tích, nhận khoản tiền tuất của chồng, nhưng vẫn tiếp tục mong chờ người chồng trở về. Bà ta biết ông ấy sẽ trở về.

Những cựu biệt kích quân khác tiếp tục chọn con đường rời bỏ quê hương, xứ sở, vượt Thái Bình Dương đến định cư ở nhiều tiểu bang của nước Mỹ, từ Boston đến Seattle. Trong số họ có Mai Nhuệ Anh, nguyên trưởng toán Hector 2; Quách Nhung, người sống sót duy nhất của toán Horse; Trương Tuấn Hoàng, người cuối cùng xâm nhập lãnh thổ miền Bắc tăng cường cho toán Remus và Hà Văn Chấp, nguyên trưởng toán Castor cùng với Đinh Anh, thành viên toán đầu tiên được CIA thả dù xuống miền Bắc. Lê Văn Bưởi đến Mỹ năm 1993. Khi tác giả đang viết sách này thì ông Bưởi đang điều trị ung thư vòm họng ở Utica, New York. Có lẽ ông ta chẳng sống được lâu để đọc cuốn sách này.

Lê Văn Ngung, nguyên trưởng toán Hadley hiện đang làm khuôn mẫu cho hãng Kirk & Stieff ở thành phố Baltimore, tiểu bang Maryland. Cựu thành viên của ông ta là Vũ Viết Tịnh hiện đang làm hộ lý cho một bệnh viện ở Indiana và đã lập gia đình vào tháng 12/1994. Nguyễn Không, người trôi dạt vào bãi biển Bắc Bộ cùng với thủy thủ đoàn của chiếc Nautilus 7, hiện đang làm ngư dân ngoài khơi vịnh Mexico.

Bùi Minh Thế, cựu thành viên của toán Becassine vượt biên đến định cư ở Henderson, Louissiana. Vài năm trước đây, ông ta gặp lại người vợ sau bao năm xa cách. Hiện giờ ông ta bị bệnh nặng, nằm liệt giường và có lẽ không có dịp đọc những trang viết của tôi về ông.

Đặng Công Trình, nguyên toán phó toán Scorpion, một trong những người tôn thờ chủ nghĩa quốc gia, chống cộng đến cùng, hiện đang làm trong một nhà kho ở California. Bạn đồng đội chắc không biết về “thành tích” quá khứ của ông ta.

Trịnh Văn Truyên, nguyên là thủy thủ chiếc tàu Nautilus 3, có vợ là Thúy, đến định cư với chồng ở Biloxi, tiểu bang Mississippi và Truyên trở lại nghề biển. Thúy bị bắn ở New Orleans, tiểu bang Louisianna ngày 31/7/1990 trong một vụ cướp. Đám cướp chỉ lấy được chiếc bóp đầm không có tiền. Lúc đó bà ta đang có thai 7 tháng, đứa bé chưa chào đời đã phải cùng mẹ đi vào cõi hư vô. Thúy là một người đàn bà cứng cỏi, nhưng không cứng hơn người chồng của mình khi ông ta sống trong trại giam trên đất Bắc. Nhưng cái “chủ nghĩa quốc gia” mà anh ta tôn thờ cũng chẳng bảo vệ được vợ con anh ta ngay trên đất Mỹ vốn được xưng tụng là tự do nhất. Có thể cái chết thảm thương của mẹ con Thúy đã phần nào làm anh ta tỉnh ngộ. Với trái tim tan nát, anh ta thốt lên: “Nếu tôi biết được những chuyện mà giờ đây tôi tin là sự thật, tôi đã cho nhiều kẻ về chầu trời”.

Một trong những cựu biệt kích quân đầu tiên rời tổ quốc mình là Nguyễn Văn Hinh, nguyên là thành viên của toán Atila, anh ta vượt biển đến trại tị nạn của Singapore. Lúc phỏng vấn định cư, người Mỹ tỏ ra không tin câu chuyện về khoảng thời gian Hinh bị cải tạo lao động trên đất Bắc, nên đã nói không với nguyện vọng định cư của anh ta. Không những thế, họ còn nghi ngờ anh là phạm nhân đã tạo dựng nên một nhân vật không có thật. Trong thời gian sống ở trại tị nạn Singapore, anh ta gặp một phụ nữ, nguyên là một nữ tu. Sau đó chị ta phá giới chẳng hiểu vì lý do gì, nhưng cứ đổ nghiến cho “cộng sản không cho phép” để kết hôn với Hinh. Rồi hai người ung dung đến định cư ở Hà Lan. Hinh rất ít viết, vì theo anh ta thì đã viết quá nhiều bản tự khai trong trại giam. Nhưng lý do chính là vợ chồng anh ta muốn quên đi quá khứ của mình. Đó là điều dễ hiểu.

Hai biệt kích quân khác là Trần Văn Tư và Nguyễn Văn Lực đến định cư ở Úc đều cùng tâm trạng như Hinh. Quá khứ chẳng làm họ vẻ vang, cũng không đem lại cơm no, áo ấm cho các cựu biệt kích quân. Tuy nhiên, vẫn còn không ít những “người hùng” biệt kích quân khác chẳng thể quên quá khứ của họ một cách dễ dàng. Như trường hợp của Mai Văn Học, Hoàng Văn Chương trong các toán Strata. Lưu Chí Chấn, Châu Hềnh Xương, Lý Sĩ Lâu, Vũ Đức Gương cùng những cựu biệt kích quân người nhái khác từng xâm nhập hải phận Bắc Việt. Năm 1986, vì cảm thấy quá bất công, Vũ Đức Gương làm đơn khiếu nại, yêu cầu chính phủ Mỹ trả lương cho anh ta trong thời gian suốt 20 năm mà anh ta bị cải tạo lao động ở Bắc Việt. Thế nhưng tòa án Liên Bang lại cho rằng không đủ căn cứ về cuộc hành quân, cộng thêm lý do tài liệu lưu trữ về lực lượng biệt kích của Bộ quốc phòng Mỹ vẫn chưa được giải mã, đang còn trong thời gian bảo mật. Giờ đây lý do này không còn là vấn đề trở ngại. Thế mà những cựu biệt kích quân vẫn bị chính phủ Mỹ chối bỏHầu hết các cựu biệt kích quân đã định cư ở Mỹ đều cố gắng xây dựng cho mình một mái ấm gia đình, có người được xem là thành công, nhưng số đó không nhiều. Thỉnh thoảng, họ gặp lại nhau, bùi ngùi bên ly rượu mỗi khi nhớ về quá khứ nặng nề, về những người đã khuất. Và những người còn lại đều tin vào định mệnh. Khi họ lọt vào mắt CIA, được phong là những “người hùng”, rồi bị bắt và rồi nghiền ngẫm sự đời sau những song sắt trại giam trên đất Bắc, hầu hết lúc đó họ đều rất trẻ. Tuổi đời chỉ khoảng 20 và còn độc thân. Giờ thì đã lên lão, có người nhuộm tóc để đuổi thời gian đi và trẻ lại thêm ít tuổi.

Người viết những trang sách này chẳng có tham vọng nào, chỉ mong sao cho đàn con cháu của họ lớn lên, đọ những trang viết này sẽ hiểu thêm rõ về cha, ông của chúng, những người được cho là may mắn hơn trong nhóm biệt kích. Nhưng không thể không nói đến những biệt kích quân khác kém may mắn như: Hoàng Ngọc Chính, Đoàn Phương, Nguyễn Văn Lý. vì quá chán ngán vì phải chờ đợi phúc đáp của chính phủ Mỹ và nôn nóng đi tìm vận may ở “miền đất hứa”, như lời hứa của CIA, họ tìm cách vượt biên. Phương và Lý đi theo đường biển. Còn Chính theo đường bộ sang đất Campuchia. Rốt cuộc, cả ba “người hùng” đều mất tích cho đến nay.

Lê Trung Tín, nguyên là thành viên của toán biệt kích Red Dragon từ Trung Hoa lục địa quay trở lại xâm nhập lãnh thổ Việt Nam. Hiện Tín đang lo thuyết phục giới chức phỏng vấn của Sở Di trú Mỹ tại Sài Gòn về câu chuyện của mình. Rằng, Tín cùng một chiến hữu nữa là Vòng A Cầu đã trốn khỏi trại giam và họ là hai người đầu tiên sống sót sau khi trốn trại. Thế nhưng Sở di trú Mỹ cho rằng họ ngồi tù cộng sản chưa đủ lâu, nên không hội đủ điều kiện xin cư trú ở Mỹ. Thật không còn gì để nói.

Một người kém may mắn khác là Hoàng Đình Mỹ, nguyên là thành viên của toán biệt kích Hector. Tháng 12/1984, Mỹ đứng trước vành móng ngựa của TAND Tp Sài Gòn lãnh án vì tội tham gia vào tổ chức do Lê Quốc Túy, một Việt kiều Pháp đứng đầu. Vì thế, năm 1995 anh ta vẫn còn thụ án tại một trại giam ở Nha Trang. Thực ra Mỹ đã được trả tự do từ trại giam Thanh Lam trên đất Bắc từ năm 1981. Sau đó Mỹ trở về sum họp với gia đình, nhưng chẳng hiểu ma xui, quỷ khiến thế nào mà Mỹ lại vượt biên sang Thái Lan, gia nhập tổ chức phản động của Lê Quốc Túy. Năm 1982, Mỹ xâm nhập về Việt Nam và bị bắt ngay trong tuần đầu.

Nguyễn Văn Tân, nguyên thành viên của toán biệt kích Romeo, từng tuyệt thực trong trại giam năm 1973 để bảo vệ cho cái gọi là “chủ nghĩa quốc gia”“tinh thần chống cộng đến cùng”. Đến năm 1988, Tân nộp đơn xin trợ cấp thương tật khi đã định cư ở Mỹ, liền bị tay bác sĩ khám bệnh cho Tân khẳng định như đinh đóng cột rằng: “Tâm thần của anh có điều gì đó không hay! (không làm việc bình thường được nữa)”.

Còn Lương Văn Inh, nguyên là thành viên của toán biệt kích God, lại lên vùng Đức Trọng, Lâm Đồng thuộc nam Tây Nguyên lập nghiệp. Đầu tháng 6/1994, Inh bị tái phát bệnh sốt rét. Vị y sĩ địa phương khuyên vợ Inh nên đưa anh ta vào bệnh viện. Giữa cơn mưa bão lúc nửa đêm, hai người con trai của Inh cùng hai người hàng xóm cáng Inh từ trên núi xuống đường quốc lộ, cách nhà Inh khoảng 4 km. Inh đã chết trên đường đến bệnh viện. Vợ Inh, một phụ nữ rất mực yêu chồng đã viết thư cho tác giả Tourison rằng:” Điều duy nhất chồng tôi mong muốn là các con tôi được ăn học tử tế, thành người. Nhưng giờ anh ấy không còn nữa”.

Câu chuyện về số phận các cựu biệt kích quân Sài Gòn có lẽ còn lâu mới kết thúc, cho đến khi nào chính phủ Mỹ thôi bỏ rơi họ.

Trước sự bất bình của các cựu biệt kích quân Việt Nam và áp lực dư luận, ngày 23/3/1995, viên Đại sứ Mỹ tại Thái Lan đã gửi bức công hàm dài 5 trang giấy đến Bộ ngoại giao và Sở di trú nước này đặt câu hỏi: “Tại sao hầu hết các cựu biệt kích quân còn sống sót sau năm 1975 đều bị Sở di trú Thái Lan từ chối?”. Kết quả là tháng 5/1995, Sở di trú Mỹ phải thay đổi điều kiện nhập cảnh cho các cựu biệt kích quân Sài Gòn.

Trước đó, ngày 14/4/1995, tờ New York Times đăng bài viết của Tim Weiner về những cố gắng của viên Đại sứ trong việc sửa chữa việc làm sai trái của Sở di trú. Vài hôm sau, câu chuyện về số phận hẩm hiu của các cựu biệt kích quân Sài Gòn được nhiều người biết đến. Ngay cả cựu Tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam là tướng William C. Westmoreland, rồi Thiếu tướng John Morrison, chuẩn tướng George Gaspard, thượng nghị sĩ Mc Cain cũng viết thư gửi thẳng cho Sở di trú Hoa Kỳ.

Ngày 24/4/1995, John Mattes, một luật sư ở Miami, Florida đưa đơn kiện Chính phủ Mỹ tại tòa án liên bang ở thủ đô Washington, đòi bồi thường cho 281 cựu biệt kích quân Sài Gòn trong các trại cải tạo lao động hoặc đã chết trong các phi vụ xâm nhập lãnh thỗ Bắc Việt Nam. Rằng Chính phủ Mỹ phải trả lương cho họ xứng đáng theo đúng bản hợp đồng tuyển mộ các biệt kích quân Sài Gòn ở Nam Việt Nam.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: