CTAN_VAN 2009
CÂU HỎI
Đề: Anh, chị hãy nêu sơ lược tiểu sử và sự nghiệp sáng tác văn học của Chủ tịch Hồ Chí Minh (2 điểm):
Đề: Anh, chị hãy nêu sơ lược tiểu sử và sự nghiệp sáng tác văn học của nhà thơ Tố Hữu. (2 điểm):
Đề: Anh (chị) hãy trình bày hoàn cảnh ra đời và mục đích sáng tác bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh (đề thi khối D – 2007).
Đề:Phân tích ý nghĩa hình tượng cây Xa Nu trong truyện ngắn RXN của NTT.
Đề:Làm 1 đoạn văn 600 từ nêu suy nghĩa của mình về bức thưc của tổng thống mĩ lincon gửi cho thầy hiệu trưởng của con trai minh: “Xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi rớt còn hơn gian lận khi thi.
Đề:Anh hay chị hãy viết một đoạn văn khoảng 600 từ bàn về vấn đề môi trường cuộc sống con người.
Đề:Bình giảng đoạn trích trong bài thơ “Việt Bắc’ của Tố Hữu:
Đề:Câu 2 (5đ): Anh (chị) hãy phân tích bản Tuyên ngôn độc lập của HCM.
Đề:Phân tích truyện “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành
Đề:Phân tích bài thơ “Sóng” – của Xuân Quỳnh. Từ đó nêu bật được tâm trạng của người phụ nữ đang yêu.
Đề:Phân tích đoạn trích “Đất nước” trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm.
Đề:Phân tích hình ảnh thiên nhiên và cái tôi trữ tình trong đoạn thơ sau:
Đề:Anh hay chị hãy phân tích tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân.
Đề:Phân tích bài thơ “Đây thôn vĩ dạ” của Hàn Mặc Tử
Đề:Hãy viết một bức thư cho một bạn sinh viên ở nước ngoài chứng minh rằng truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chương trình văn học Việt Nam (thí sinh có thể lấy dẫn chứng ở chương trình lớp 12 và cả những phần tự học tự đọc).
Đề: Anh hay chị hãy bình giảng khổ thơ sau trong bài sóng của XQ:
Đề: Phân tích hình tượng nhân vật Tnú trong truyện ngắn RXN của NTT
Đề:Vai trò của Công nghệ thông tin đối thanh niên
ĐÁP ÁN
Câu 1: Anh, chị hãy nêu sơ lược tiểu sử và sự nghiệp sáng tác văn học của Chủ tịch Hồ Chí Minh (2 điểm):
- Chủ tịch Hồ Chí Minh tên thật là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19/5/1890 - mất ngày 02/9/1969.
- Quê hương của Người là làng Sen, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi đây là một miền quê nghèo khó nhưng giàu truyền thống hiếu học và yêu nước,cũng là nơi sản sinh ra những anh hùng hào kiệt, nỗi lạc của lịch sử dân tộc.
- Phụ thân của Chủ tịch HCM là cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, một nhà hán học uyên thâm. Thân mẫu của Người là cụ bà Hoàng Thị Loan - một người phụ nữ Việt Nam nhân hậu giàu lòng vị tha, suốt đời hy sinh vì sự nghiệp của chồng con.
- Kế thừa những truyền thống tốt đẹp của quê hương và của gia đình, chủ tịch HCM phấn đấu trở thành người chiến sỹ cộng sản quốc tế lỗi lạc, là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, đồng thời là một nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc.
- Quá trình hoạt động Cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
+ Năm 1911 Chủ tịch Hồ Chí Minh với cái tên là anh Ba đã lên một chiếc tàu buôn Pháp tên là Laturơ - Tơrêvin ra đi tìm đường cứu nước.
+ Năm 1918 Người trở về Châu Âu làm nhiều nghề để kiếm sống và hoạt động Cách mạng. Nhà thơ Chế Lan Viên đã khắc họa những năm tháng đầy thiếu thốn và gian khổ của người trong giai đoạn này
“Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Balê (Pari),
Một viên gạch hồng người chống cả một mùa băng giá
Và sương mù thành Luân Đôn ngươi có nhớ
Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya”.
- Người đi tìm hình của nước -
- Năm 1920 Người tham dự đại hội Đảng xã hội Pháp ở thành phố Tua và trở thành một trong những người sáng lập Đảng cộng sản Pháp.
- Năm 1924, Người sang Matxcơva dự Hội nghị của Quốc tế cộng sản nhưng năm đó Quốc tế cộng sản đã hoãn họp vì Lênin bị ốm nặng, tại nơi đây người đã được đọc bản luận cương của Lênin về vấn đề các dân tộc thuộc địa và coi đó là kim chỉ nam cho sự nghiệp hoạt động cách mạng của mình.
- Năm 1930, dưới ảnh hưởng và uy tín của Người, 3 tổ chức Cộng sản ở Việt Nam đã hợp nhất và đổi tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Năm 1945, Người đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa tháng Tám thành công và trở thành Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
- Từ năm 1946-1969, Người luôn giữ những cương vị quan trọng nhất trong Đảng và Chính phủ, là Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước.
- Sự nghiệp sáng tác văn học: Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc.
+ Về văn chính luận có các tác phẩm: Bản án chế độ thực dân Pháp viết trong những năm 20 của thế kỷ XX, Tuyên ngôn độc lập là một bản thiên cổ hùng văn được đọc trước quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945, Lời kêu gọi kháng chiến chống mỹ cứu nước - năm 1966, Di chúc - năm 1969 trong suốt hơn 80 năm chúng đô hộ nước ta, đồng thời thể hiện khát vọng, độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam những tác phẩm của Người đã đặt nền móng cho phương pháp sáng tác hiện thực XHCN sau này.
+ Về thơ ca: Tập Nhật ký trong tù, viết từ tháng 8/1942 – 9/1943.
+ Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh: được viết trong kháng chiến chống Pháp.
+ Văn xuôi: Truyện ngắn “Vi hành”, Lời than vãn của bà Trưng Trắc…
- Những sáng tác văn học của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tố cáo tội ác tàn bạo của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam
Câu 2: Anh, chị hãy nêu sơ lược tiểu sử và sự nghiệp sáng tác văn học của nhà thơ Tố Hữu. (2 điểm):
a - Tiểu sử:
- Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành – Sinh năm 1920, mất năm 2002.
- Quê hương ông là làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Quê hương ông cũng là quê hương của chiếc nón bài thơ và tà áo dài tím Huế. Đồng thời, là xứ sở của những làn điệu dân ca nam ai, nam bình man mác buồn thương, trĩu nặng trong tâm hồn của những người xa xứ
- Phụ thân của nhà thơ là nhà nho nghèo thích sưu tầm ca dao, tục ngữ; Thân mẫu là phụ nữ Huế nhân hậu thuộc rất nhiều làn điệu dân ca của xứ Huế.
Từ nhỏ, Tố Hữu đã được cha dạy làm thơ theo lối cổ. Tố Hữu mồ côi từ năm lên 12 tuổi, một năm sau lại phải xa gia đình vào học trường Quốc học Huế. Quê hương, gia đình cũng là ảnh hưởng rất lớn đến tâm hồn thơ Tố Hữu.
- Quá trình hoạt động cách mạng của nhà thơ Tố Hữu:
+ Năm 1938, Tố Hữu được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương khi ông đang hoạt động trong phong trào thanh niên, sinh viên, trí thức Huế.
+ Tháng 4/1939, Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt giam, giam tại nhà lao Thừa Phủ, tỉnh Thừa Thiên sau đó chúng giam cầm ông ở một số nhà lao ở Miền Trung và Tây Nguyên.
+ Năm 1942, Tố Hữu vượt ngục và tiếp tục hoạt động cách mạng.
+ Tháng 8/1945, Tố Hữu lãnh đạo phong trào khởi nghĩa ở thành phố Huế quê hương và trở thành Chủ tịch UB kháng chiến thành phố Huế khi ông mới 25 tuổi.
+ Từ năm 1946 - 1986, Tố Hữu giữ nhiều cương vị quan trọng trong các cơ quan Đảng và Chính phủ, Bí thư trung ương đảng đặc trách công tác văn hóa, văn nghệ, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Ở Tố Hữu con người chính trị và con người nhà thơ thống nhất chặt chẽ, sự nghiệp thơ gắn liền với sự nghiệp CM “là hình thức tươi đẹp của hoạt động CM”. Ông được Nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I năm 1996.
b - Sự nghiệp sáng tác văn học của nhà thơ Tố Hữu:
- Thơ Tố Hữu gắn bó chặt chẽ với cuộc đấu tranh CM nên các chặng đường thơ cũng song hành với giai đoạn đấu tranh ấy, đồng thời thể hiện sự vận động trong tư tưởng và nghệ thuật của nhà thơ.
- Thơ Tố Hữu đã phản ánh chân thực 2 cuộc kháng chiến chống pháp và chống Mĩ, đồng thời ca ngợi sự nghiệp xây dựng CNXH tươi xanh trên miền Bắc, thể hiện những lẽ sống cao đẹp của dân tộc Việt Nam, đồng thời là tiếng hát mê say ca ngợi lý tưởng cộng sản.
- Thơ Tố Hữu có giọng điệu ngọt ngào, đằm thắm, chịu ảnh hưởng sâu sắc của ca dao, dân ca.
- Thơ Tố Hữu tràn ngập cảm hứng lãng mạn và mang đậm khuynh hướng sử thi, thể hiện những vấn đề lớn của lịch sử, thời đại, dân tộc ít chú ý đến số phận cá nhân.
- Những tập thơ chính: Tập thơ “Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”…
============
Anh (chị) hãy trình bày hoàn cảnh ra đời và mục đích sáng tác bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh (đề thi khối D – 2007).
1 – Hoàn cảnh ra đời:
- Ngày 19/8/1945 chính quyền ở HN về tay nhân dân. Ngày 26/8/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc về tới Hà Nội người soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập tại căn nhà 48 phố Hàng Ngang. Ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình – Hà Nội trước hàng chục vạn đồng bào người thay mặt chính phủ lâm thời nước VNDCCH đọc bản Tuyên ngôn độc lập.
- Lúc này là thời điểm bọn đế quốc thực dân nấp sau quân đồng minh vào tước khí giới quân đội Nhật, chúng âm mưu chiếm lại nước ta 1 lần nữa, ở phía Bắc 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch tràn vào, tiền quan của chúng kéo tới thị xã Bắc Giang, ở miền Nam tàn quân Pháp núp bóng quân đội Anh gây hấn ở vùng Sài Gòn, Chợ Lớn.
- Thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là thuộc địa của Pháp bị Nhật xâm chiếm nay Nhật đầu hàng nên Đông Dương phải thuộc quyền Pháp.
2 – Mục đích sáng tác:
- Chính thức tuyến bố trước quốc dân, trước thế giới sự ra đời của nước VNDCCH, khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc VN.
- Tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta trong suốt 80 năm chúng xâm lược VN, tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến, xóa bỏ mọi đặc quyền, đặc lợi của Pháp trên đất nước VN.
- Khẳng định ý chí của cả dân tộc VN, kiên quyết bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc.
- Tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới.
===========
Phân tích ý nghĩa hình tượng cây Xa Nu trong truyện ngắn RXN của NTT.
Đọc “RXN” của Nguyễn Trung Thành viết vào năm 1965 rút từ tập “Trên quê hương anh hùng Điện Ngọc” đều để lại ấn tượng sâu đậm cho độc giả chúng ta không chỉ là nhưng nhân vật như cụ Mết, Tnú, Dít, Mai, những con người Tây Nguyên bất khuất kiên trung, thủy chung với CM mà còn là hình tượng Cây xà nu- một hình tượng độc đáo bao trùm toàn bộ tác phẩm, chính hình tượng CXN đã tạo nên vẻ đẹp hùng tráng, chất sử thi, lãng mạn cho câu chuyện về làng Xôman bất khuất, kiên cường.
Hình tượng CXN đã trở thành một hình tượng chủ đạo xuyên suốt tác phẩm gắn bó với cuộc sống và mọi sinh hoạt của người dân Xôman. Trong bài viết “về truyện ngắn RXN ” tác giả Nguyên Ngọc (bút danh là Nguyễn Trung Thành) đã tâm sự: “Ngay từ năm 1962, trên đường vào miền Nam công tác đến tiỉnh Thừa Thiên, giáp Lào, tôi đượcchứng kiến những RXN bát ngát xanh tít tận chân trời. Đấy là những cây họ thông hùng vĩ và cao hượng, mai dại và trong sạch. Mỗi cay cao vút vạm vỡ nhựa ứa ra, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi”. Những cây xà nu có phẩm chất đặc biệt ấy đã gây ấn tượng mạnh mẽ và khơi nguồn cảm hứng cho tác giả ba nam sau (1965) tạo dựng lên hình tượng cây xà nu đặc sắc này.
Hình tượng cây xà nu được tác giả miêu tả từ nhiều mức độ và đưa lại hiệu quả thẩm mỹ đặc biệt. Trong truyện ngắn RXN, tác giả không chỉ mở đầu mà còn két thúc truyện bằng hình ảnh RXN bát ngát đến chân trời mà đã gần 20 lần nói “RXN”, “cây xà nu”. nhựa xà nu, khói xà nu… Chất sử thi của thiên truyện sẽ không trở thành giọng điệu chính của tcs phẩm nếu thiếu đi hình tượng cây xà nu được khai thác từ nhiều góc độ, được lặp đi, lặp lại nhiều lần đến như vậy, nhất là “các đồi xà nu-4 lần”, “RXN-5 lần”. Thủ pháp điệp trùng điệp khi mô tả cây xà nu đó vừa làm nền cho toàn bộ diễn biến của câu chuyện, vừa gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc về cây xà nu. Nhưng xà nu không chỉ có mặt trong đoạn mở đầu và đoạn kết mà nó còn hiện diện trong suốt câu chuyện về Tnú và làng Xôman của anh. Xà nu gắn bó với cuộc sống sinh hoạt hàng ngày như đã từ “ngàn đời nay thân thuộc với dân làng: ngọn lửa xà nu nấu ăn trong mỗi bếp, đuốc xà nu soi sáng đường rừng đêm, lửa xà nu cháy bập bùng trong nhà Rông tập hợp cả dân làng. Khói xà nu đen nhẻm thân hình lũ trẻ; khói xà nu còn làm tấm bảng đen cho anh Quyết dạy Tnú, Mai học chữ cụ Hồ. Xà nu còn tham dự vào những sự kiện quan trọng của cuộc sống làng Xôman; ngọn đuốc xà nu cháy sáng trong tay cụ mết và cả dân làng đi vào rừng sâu lấy giáo mác đã giấu kỹ về chuẩn bị cho cuộc nổi dậy, đêm đêm cả dân làng thức mài vũ khí dưới ánh đuốc Xà nu. Giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu. Rồi ngọn lửa các đuốc xà nu soi sáng rực cả làng cái đêm khởi nghĩa, soi rõ xác 10 tên lính nằm ngổn ngang quanh đống lửa xà nu…
Hình tượng cây xà nu qua ngòi bút của NTT đã trở thành một nhân chứng về tội ác của chiến tranh hủy diệt, là người chứng kiến cho sự giác ngộ, hy siinh thầm lặng va sự quật khởi của dân làng Xôman. Mở đầu tác phẩm, NTT đã vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh toàn cảnh về nỗi đau thương do bom đạn giặc Mỹ gây ra, cây xà nu vừa là người chứng kiến sự tàn khốc của chiến tranh, vừa là đối tượng hủy diệt của bom đạn kẻ thù “cả RXN hàng vạn cây, không cây nào không bị thương, có những cây bị chặt đứt ngang thân mình, đổ ào như một cơn bão” ở một chỗ khác, NTT tả kỹ hơn “nơi chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề thơm ngào ngạt lonh lanh, nắng hè gay gắt, rồi dần dần hằm lại đen và đặc lại quện thành một cục máu lớn”. Hình ảnh đó cũng gợi lên lòng căm thù, kết tụ ý chí phản kháng. Hình ảnh cây xà nu còn là người chứng kiến sự quật khởi của người dân Xôman: khi khí thế CM ở dân làng dâng lên như thác lũ thì cả rừng Xôman ào ào chuyển động.
Hình ảnh cây xà nu còn là biểu tượng cho ý chí, kiên cường bất khuất của nhân dân Tây Nguyên vững vàng trước mọi thử thách, vững vàng trước mưa bom, bão đạn của kẻ thù. Chính vì hình ảnh cây xà nu mang ý nghĩa tượng trưng nên sự miêu tả loài cây này luôn luôn được NTT đặt trong sự đối chiếu với con người, g ợi ra những liên tưởng về đời sống và số phận cùng phẩm chất của họ. Cây xà nu rất ham ánh sáng và khí trời “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng”. Cũng như Tnú, như dân làng Xôman yêu tự do, bất chấp sự hủy diệt tàn khốc của bom đạn kẻ thù, cây xà nu vẫn vươn lên với một sức sống mãnh liệt không gì tiêu diệt, tàn phá nổi: “bên cạnh mọt cây xà nu mới ngã gục, đã có 4, 5 cây con mọc lên ngọn xanh rờn hình nhọn như mũi tên lao thẳng lên bầu trời”, cũng như các thế hẹ làng Xôman, lớp này ké tiếp lớp khác đứng lên tiếp tục cuộc chiến đấu:
“Tuốt gươm không chịu sống quỳ
Tuổi xanh chẳng tiếc sá chi bạc đầu
Lớp cha trước, lớp con sau
Đã thành đồng chí chung câu quân hành”. – Tô Hữu-
“Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên viết tiếp theo cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Người hôm nay viết tiếp người hôm qua”
- Hoàng Trung Thông viết trong bài thơ “Báng súng”.
Anh Quyết hi sinh thì có Tnú, có Mai. mai ngã xuống giữa tuổi thanh xuân tràn đầy nhựa sống như cây xà nu bị chặt đứt ngay giữa thân mình, thì Dít đã lớn lên và nhanh đến không ngờ trở thành Bí thư chi bộ, chính trị viên xã đội.Rồi những bé Heng thế hệ tiếp theo của Dít cũng đang lớn lên tiếp bước đàn anh. Nhưng ở RXN còn xuất hiện những cây khác vững chãi, không chịukhuất phục trước giông bão, đạn bom của kẻ thù “ưỡn tấm ngực lớn của mình che chở cho xóm làng”. Phải chăng đó là hình ảnh cụMết – hiện thân của tinh thân quật khởi, người đã nuôi ngọn lửa khát vọng tự do, gắn bó bởi CM? “Có những cây xà nu cành lá xum xuê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ, đạn đại bác không giết nổi chúng. Những vết thương của chúng chóng lành như trên một cơ thể cường tráng”. Tất cả nối tiếp nhau tạo thành một đội ngũ trùng trùng, điệp điệp như RXN nuối tiếp chạy đến chân trời.
Hình tượng xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của NTT. Nóđược dùng như một ẩn dụ gợi cho người đọc nghĩ đến con người Tây nguyên yêu tự do, dồi dào sức sống, bất khuất kiên trung thủy chung với CM. Như thế hình tượng Cây xà nu đã được NTT đưa lại cho biết bao ý nghĩa mới mẻ giàu tính chất thẩm mỹ và ỹ nghĩa nhân sinh. Vìvậy tác giả đặt tên cho truyện của mình cái tên thật ý nghĩa “Rừng xà nu” .
==============
Làm 1 đoạn văn 600 từ nêu suy nghĩa của mình về bức thưc của tổng thống mĩ lincon gửi cho thầy hiệu trưởng của con trai minh: “Xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi rớt còn hơn gian lận khi thi.
A/ Đáp án của Bộ GD – ĐT:
1 – Người viết cần hiểu được ý kiến của Tổng thống Lincôn, tổng thống đề nghị nhà trường dạy cho con mình cũng là dạy cho học sinh:
- Biết chấp nhận thi rớt nếu mình chưa đủ tài.
- Tránh gian lận trong thi cử mỗi người cần phê phán đả kích những hiện tượng tiêu cực trong thi cử.
- Ý nghĩa của câu nói ca ngợi cách sống dũng cảm và trung thực.
2 – Nêu ra suy nghĩ của bản thân:
- Quan điểm của Lincon là đúng đắn với mọi thời đại, học để thi đỗ là khát vọng chung của mọi học sinh.
- Nhưng sự trung thực trong học tập, thi cử mới chính là điều quan trọng, mỗi chúng ta cần trân trọng người thực tài, đả kích những kẻ giả dối, háo danh, trân trọng những người trung thực, dũng cảm, đả kích thói giả dối, bất tài vô dụng.
3 – Rút ra bài học cho bản thân:
- Luôn nghiêm khắc với bản thân trong rèn luyện.
- Luôn coi trọng vấn đề thực học để trở thành những con người thực tài.
B/ Bài làm:
Từ xưa tới nay, trong sự phát triển của nhân loại, sự nghiệp giáo dục đào tạo là hết sức quan trọng, giúp cho việc phát triển đất nước cường thịnh cũng như giúp cho học sinh hình thành nhân cách cao đẹp trung thực giàu lòng nhân ái, dường như những nhà lãnh đạo kiệt xuất trên thế giới, những doanh nhân thành đạt đều từng cắp sách tới trường, được các thầy cô truyền thụ những tri thức vàng ngọc thế gian, từ nguyên thủ quốc gia cho tới 1 người nông dân nghèo đều quan tâm tới việc giáo dục dạy dỗ con cái mình trưởng thành, trở thành 1 công dân tốt của xã hội. Tổng thống Mỹ Lincôn đã viết thư gửi cho thầy hiệu trưởng của con trài mình mong mỏi nhà trường giáo dục đức tính trung thực cho học sinh trong thi cử và trong cuộc sống: “Xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi rớt còn vinh dự hơn gian lận khi thi”.
Nước Mỹ là 1 cường quốc trên thế giới, có những trường đại học hàng đầu về chất lượng giáo dục, nơi đào tạo những chính khách, những nguyên thủ quốc gia, những doanh nhân thành đạt. Có được điều đó của ngày hôm nay, chính quyền Mỹ cũng hết sức quan tâm tới việc giáo dục đào tạo ra những thế hệ học sinh trung thực. Trong bức thư gửi cho thầy hiệu trưởng của TT Lincôn ông đã đề nghị nhà trường dạy cho con mình cũng như dạy cho các học sinh biết chấp nhận thi trượt nếu mình chưa đủ tài và tránh những hiện tượng gian lận trong thi cử, từ đó Tổng thống Mỹ đã ca ngợi cách sống dũng cảm và trung thực.
Tại sao lại có hiện tượng gian lận và tiêu cực trong thi cử. Từ khi xã hội loài người xuất hiện trường học, xuất hiện bằng cấp, xã hội loài người luôn có xu hướng sử dụng những người được đào tạo bài bản, có thực tài vào những cương vị quan trọng trong xã hội, từ đó mỗi cá nhân có học vấn, có sự thành đạt nhanh chóng trên con đường công danh, được nhận sự đãi ngộ và tôn vinh của xã hội ở mức độ cao, nhưng trong trường học không phải tất cả mọi học sinh đều giỏi và cách quản lý trong thi cử của nhiều nước ở những thời kỳ lịch sử khác nhau nhiều khi chưa hoàn thiện và vẫn xuất hiện những trường hợp gian lận trong thi cử
Trong xã hội Việt Nam từ ngàn xưa cho tới nay ông cha ta đều hết sức coi trọng sự nghiệp giáo dục nhằm lựa chọn những người hiền tài để phục vụ đất nước. Thân Nhân Trung từng viết trên văn bia của Quốc Tử Giám: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ những năm đầu của nước VNDCCH đã thể hiện sự kỳ vọng đối với sự nghiệp giáo dục đào tạo: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt nam có thể sách vai với các cường quốc năm châu được hay không, đều một phần nhờ vào công học tập của của các cháu”.
Trong nhiều năm trở lại đây, nạn quay cóp tiêu cực trong thi cử, nhất là thi Tốt nghiệp PTTH, đã trở nên nhức nhối trong xã hội, hiện tượng tiêu cực trên có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, có những sai lầm từ triết lý giáo dục của chúng ta, có những sai lầm từ bệnh thành tích của các địa phương, thói háo danh của mỗi cá nhân…
Mỗi chúng ta đều thấy rằng quan niệm của Lincôn là đúng đắn với mọi thời đại, học để thi đỗ là khát vọng chung của mọi học sinh nhưng sự trung thực trong học tập, thi cử mới là điều quan trọng, có thực học thì mới có thực tài để cống hiến cho đất nước, nếu học giả dối thì cương vị càng quan trọng bao nhiêu sẽ càng gây tác hại cho đất nước bấy nhiêu. Như vậy chúng ta phải trân trọng những người có thực tài, phê phán những kẻ giả dối háo danh, trong xã hội phải tạo nên 1 tập quán tốt là trân trọng người trung thực, dũng cảm và phê phán những kẻ bất tài vô dụng và mỗi chúng ta cần rút ra những bài học cho bản thân luôn nghiêm khắc với bản thân trong rèn luyện, luôn coi trọng vấn đề thực học để trở thành những con người thực tài nhằm xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường.
==================
Anh hay chị hãy viết một đoạn văn khoảng 600 từ bàn về vấn đề môi trường cuộc sống con người.
Môi trường là một khái niệm hết sức rộng không khí mà chúng ta hít thở hàng ngày, trái đất mà con người đang sống biển khơi bao la và dòng sông xanh biếc, những cánh rừng nguyên sinh phủ trên bề mặt trái đất đều là những khái niệm thuộc về môi trường. Môi trường thiên nhiên có vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của nhân loại, trong sự phát triển và sự trường tồn của từng dân tộc và của cả thế giới nếu làm đúng những quy luật của thiên nhiên con người sẽ có cuộc sống khá đầy đủ và cả vật chất và tinh thần, con người có thể ko cần tới thiên đường hư ảo xa xôi mà thiên đường chính là hành tinh xanh, trái đất của chúng ta, nếu tàn phá môi trường những nguy cơ sẽ đến với con người thậm trí có nguy cơ diệt vong cho cả nhân loại.
Thực trạng môi trường ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở VN hiện nay có mấy vấn đề nổi bật sau đây:
+ Do nhu cầu tăng trưởng kinh tế và phát triển các ngành công nghiệp hiện nay lượng khí thải hàng ngày đổ vào khí quyển, hàng triệu mét khối khí độc hại gây ra hiệu ứng nhà kính có nguy cơ làm cho trái đất nóng lên làm cho băng ở Bắc Cực tan ra khiến nước biển dâng ảnh hưởng tới việc thay đổi khí hậu của nhiều vùng trên thế giới lũ lụt nước biển dâng, nở đất động đất trong những năm đầu của thế kỉ 21 liên tục diễn ra hàng chục thậm trí hàng trăm nghìn người chết vì con người đã làm cho thiên nhiên nổi giận những hiện tượng như Enninô, Lanian làm thay đổi các quy luật của thiên nhiên khiến hiện tượng lũ lụt sóng thần nước biển dâng cao tàn phá các nước ven biển
một số nước trong khi phát triển nền công nghiệp QP hùng hậu đã phát triển vũ khí nguyên tử một loại vũ khí giết người hàng loạt có ảnh hưởng lâu dài tới sinh thái và môi trường con người, Mĩ đã từng ném 2 quả bom nguyên tử xuống Nhật Bản ở hai thành phố Hirôsima và Nagasaki. Hằng chục năm đã trôi qua nhưng hậu quả về ô nhiễm môi trường hậu quả đối với các thế hệ tương lai của Nhật Bản vẫn còn đó sự cố tại nhà máy nguyên tử Trécnôbưn của nước Nga khiến hàng trăm nghìn người chịu ảnh hưởng bụi phóng xạ lan xa hàng trăm cây số, cho tới ngày nay Trécnôbưn trở thành một vùng đất chết
Trong chiếntranh VN DQ mĩ đã sử dụng chất diệt cỏ màu da cam ở trêncác chiến trường Tây Nguyên và Nam Bộ khiếnhàng chục nghìn ha rừng bị hủy hoại nhưng điều đó không khủng khiếp bằng việc chất độc màu da cam cótác hại ghê gớm với sức khỏe con ngừoi, 3 chục đi qua nhưng vẫn còn nạn nhân chất độc màu da cam có cs ko phải là cuộc sống của những người bình thườngđể lại nỗi đau khủng khiếp trong tâm hồn những người cha, người mẹ sinh ra những đứa con tàn tật vì chất độc khủng khiếp này
Trong khoảng vài chục năm trở lại đây do sự phát triển nóng các ngành CN, do nhiều dự án đô thị chưa tuân thủ nghiêm ngặt những quy định bảo vệ môi trường mà ở VN đã xuất hiện dòng sông chết, thủ đô HN có các dòng sông Tô Lịch, Kim ngưu, sông Nhuệ, nước đen ngòm, cá tôm không sống nổi, ở Đồng Nai nhà máy Vedan trong hàng chục năm đã sả nước thải ra sông thị vải khiến dòng sông bị ô nhiễm nặng nề ảnh hưởng đến đời sống của hàng chục nông dân ơ ven sông, để lấy đất làm nhà nhiều ao hồ ở các TP lớn bị lấp khiến HN, TPHCM mỗi mùa mưa đến những đường phố thành những con sông thật đáng chua xót trong năm 2008 trận lụt lịch sử HN có người dân đã dùng xe hơi kéo lưới đánh cá trên đường Tôn Đức Thắng. Nhiều nhà máy hóa chất, nhà máy xi măng, nhà máy luyện gang thép luôn thải chất nước thải độc hại ra các dòng sông, thải khí độc hại lên bầu khí quyển dẫn tới tình trạng xuất hiện những làn ung thư, những núi đồi trơ chụi cây xanh ko mọc được, các dự án làm đường giao thông, xây dựng khu đô thị mới chưa có cơ chế quản các phương tiện giao thông chở các vật liệu xây dựng khiến HN và nhiều TP khác sống trong bụi ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe của nhân dân, các bệnh dịch xuất hiện dường như nhiều hơn và ngày càng nguy hiểm hơn. Đất nước ta còn nghèo bình quân thu nhập đầu người trong 1 năm mới đạt khoảng 1000 USD nhưng phải xử lý những vấn đề hậu quả của chiến tranh do chất độc màu da cam để lại khiến đã nghèo lại còn nghèo hơn
Trong tập quán sinh hoạt của người dân thói quen xả rác bừa bãi thậm trí có vùng ko xây nhà vệ sinh dẫn tới những cảnh quan của làng quê bị ô nhiễm những làng nghề thủ công truyền thống như làm miến, làm tương,làm nước mắm… Chất thải xả bừa bãi trong thôn xóm, ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống của nhân dân.
3/NN
Ở Việt Nam tình trạng ô nhiễm môi trường trở lên khá trầm trọng trong quá trình công nghiệp hóa đất nước. trong đó có những nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan
Do cơ chế chính sách do kinh phí có hạn mà chúng ta nhập máy móc thiết bị lạc hậu, nhập ôtô cũ, xe máy cũ ko đảm bảotiêu chuẩn môi trường dẫn tới ô nhiễm môi trường. Việc xây dựng hàng loạt các nhà máy xi măng với công nghệ lạc hậu, xây dựng hàng loạt nhà máy đường lạc hậu chạy theo thành tích vừa dẫn tới năng suất lao động kém vừa ô nhiễm nặng nề môi trường xung quanh
Đất nước ta đi từ nền văn minh nông nghiệp đa số người dân chưa có ý thức trong việc bảo vệ và gìn giữ môi trường, nhiều người về kế sinh nhai đã tìm cách phá rừng ở thượng nguồn, khai thác gỗ trái phép bừa bãi khiến các rừng thượng nguồn bị tàn phá dẫn tới lũ lụt, lở đất
Hậu quả của chiến tranh để lại cho môi trường VN cũng hết sức to lớn, người ta cần hàng trăm năm để tẩy độc chất đioxin ở sân bay Đà Nẵng và khắc phục hậu quả của chất độc màu da cam
Cách quản lý của CP trong vấn đề môi trường còn chưa nhạy bén chưa hiệu quả nhất là trong việc nhập các máy móc công nghiệp đảm bảo những yêu cầu an toàn cho môi trường.
Một số kiến nghị các giải pháp:
Tiếp tục truyền thống tết trồng cây của CTHCM, trồng cây bên đường giao thông có ứng dụng công nghệ sinh học trồng nhiều cây cối trong các công viên thành phố rùi các làng sinh thái tạo ra những lá phổi xanh cho TP, có trồng cây, có người chăm sóc để đảm bảo lượng cây tăng dần trong hàng năm
Về chính sách vĩ mô của chính phủ cần đặt ra những cơ quan chuyên trách về môi trường, có hành lang pháp lý, xử phạt thật nặng các doanh nghiệp cá nhân gây ô nhiễm môi trường, có chính sách khuyến khích nhập máy móc công nghệ cao đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh môi trường
CP cần có chương trình dài hơi trong việc cải tạo hệ thống thoát nước của thủ đô HN, trả lại sự trong lành cho các dòng sông ở Thủ đô và dòng sông đã bị ô nhiễm của các tỉnh, cần chú trọng phát triển bền vững của kinh tế hài hòa với môi trường với an sinh xã hội chưa ko phải phát triển KT bằng mọi giá.
Biên soạn SGK nhằm giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh từ bậc tiểu học, giáo dục cho toàn thể nhân dân ý thức bảo vệ môi trường là chính bảo vệ hạnh phúc và bảo vệ chính bản thân mình của tương lai dân tộc mình.
===============
Bình giảng đoạn trích trong bài thơ “Việt Bắc’ của Tố Hữu:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón truốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
“Việt Bắc ” là một trong những đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ này vào tháng 10/1954 khi Chính phủ kháng chiến rời chiến khu Việt Bắc về tiếp quản thủ đô Hà Nội theo tinh thần của Hiệp định Giơnevơ về Việt Nam. Cả bài thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui tươi, hào hùng. Giữa trăm nghìn tình cảm nhớ nhung, da diết ấy tác giả đặc biệt dành những cảm xúc đẹp nhất cho cảnh và người Việt Bắc. “Ta về mình có nhớ ta… Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Trong một đoạn thơ ngắn, Tố Hữu đã thể hiện nỗi nhớ khôn nguôi về hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc nên thơ và nồng đượm trong suốt bốn mùa xuân, hạ, thu đông. Đồng thời, thể hiện nỗi nhớ những con người Việt Bắc cần cù lao động lạc quan yêu đời, thủy chung với lý tưởng cách mạng:
1 - Yếu tố cội nguồn, hoàn cảnh tác giả:
Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, SN: 1920, tại làng Phù Lai, xã Quảng Thọ huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, quê hương ông là quê hương của chiếc nón bài thơ và tà áo dài tím Huế. Sinh ra và lớn lên trên một mảnh đất nắng lắm, mưa nhiều, thiên nhiên nên thơ và lãng mạn đã tạo cho hồn thơ Tố Hữu những tình cảm yêu đời lãng mạn và đắm say, ngọt ngào và đằm thắm.
Mở đầu đoạn thơ là 2 câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ: “Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta” vừa là lời đối thoại, vừa là cái cầu nối xuống câu dưới, và đấy cũng là cái cớ để bày tỏ tấm lòng, nỗi niềm của mình.
Nhà thơ sử dụng cặp đại từ “ta, mình”, sử dụng điệp từ “nhớ” nhằm thể hiện nỗi nhớ lắng sâu về thiên nhiên Việt Bắc và con người Việt Bắc.
Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ “ bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”, mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của hoa cùng người.
Từ xưa đến nay, hoa là và trăng là biểu tượng cho cái đẹp của thiên nhiên tạo vật. ở đây, hoa là biểu tượng dùng để chỉ vẻ đẹp lên thơ và lãng mạn của thiên nhiên Việt Bắc, hình ảnh người dùng để chỉ nhân dân các dân tộc thiểu số Việt Bắc, những người đã nuôi dưỡng, che chở người cán bộ kháng chiến trong suốt những năm tháng gian khổ nhất của cuộc kháng chiến chống Pháp.Hoa ở bên người để mang để mang gương mặt, sắc mặt của hoa, người ở bên hoa để cho hoa mang hồn người. Hoa và người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa, đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên nét đặc sắc của đoạn thơ.
Nhà thơ Tố Hữu đã sử dụng những thi liệu của ca dao, dân ca nhằm tạo lên giọng điệu ngọt ngào, đằm thắm trong bài thơ Việt Bắc. Trong đoạn trích này cũng như trong toàn bộ bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu nhiều lần sử dụng cặp đại từ “ta, mình”; trong ca dao, cặp đại từ “ta, mình” thường được dùng để thể hiện nỗi nhớ nhung của những đôi trai gái yêu nhau:
“Mình nhớ ta như cà nhớ muối
Ta nhớ mình như cuội nhớ trăng
Mình về mình nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”
Khi một nhà báo nước ngoài hỏi nhà thơ Tố Hữu về kinh nghiệm sử dụng những thi liệu của ca dao, dân ca nhà thơ Tố Hữu có trả lời đại ý là tôi yêu tổ quốc tôi, tôi yêu dân tộc tôi cho nên tôi sử dụng giọng điệu say đắm của người tình nhân để viết về Tổ quốc về nhân dân.
Đọc đoạn thơ trên, chúng ta có cảm giác đoạn thơ được tác giả viết không hề trau chuốt mà như cứ tuôn chảy từ một tấm lòng nhớ thương da diết của người cán bộ về xuôi. Qua đấy mà cảnh và người cùng với những hoạt động của nó ở núi rừng chiến khu Việt bắc cứ lần lượt hiện lên có đủ bốn mùa xuân, hạ, thu đông trong năm, mỗi mùa có một màu sắc, âm thanh chủ tạo tạo thành, một bộ tứ hình đặc sắc: khi lắng dịu, khi rực rỡ chói chang, khi rộn ràng náo nức:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Rừng thu trăng rọi hòa bình”
Ở đây ta thấy bức tranh mùa đông hiện về với màu xanh bát ngát, bao la của cánh rừng, có điểm những bông chuối đỏ tươi như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu “đỏ tươi” của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở lên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ, lạnh giá, hiu hắt vốn có của núi rừng.
Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nướng, phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng chiến: “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng” . Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn. Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng, con người như một tụ điểm của ánh sáng; con người ấy cũng xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất, đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi: giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Mùa đông qua đi thì mùa xuân lại về mang bao điều tốt lành cho con người, báo hiệu những niềm vui, sức sống âm thầm đang trỗi dậy. Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trắng trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng”
“”trắng rừng được viết theo lối đổi trật tự cú pháp, và từ “trắng” được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như đã lấn át tất cả màu xanh của lá, làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Điều đó chứng tỏ ở đây là những giờ phút hoa mơ nở rộ nhất:
“Ôi sáng xuân nay, xuân bốn mốt (41)
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng, con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ”
Nổi bật trên nền hoa mơ nở trắng ấy là hình ảnh con người với công việc của mùa xuân: đan lên những chiếc nón tình nghĩa gửi tặng bộ đội, dân công:
“Nhớ người đan nón truốt từng sợi giang”
Hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút và phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.
Bức tranh trong nỗi nhớ của Tố Hữu không chỉ có màu đỏ tươi của hoa chuối, mầu xanh ngắt của núi rừng, màu trắng muốt của hoa mơ mà còn có cả màu vàng rực của rừng Phách đang đổ “Ve kêu rừng phách đổ vàng”. Đổ vàng có nghĩa là đang chuyển sáng màu vàng nhưng nhiều và đậm hơn gợi cảm giác đột ngột. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng, rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.
Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rực rỡ ấy là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cho cung cấp cho bộ đội kháng chiến:
“Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Hái măng một mình mà kkhông gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa mà trái lại rất trữ tình,thơ mộng, gần gũi, thân thương, tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chị khó, chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.
Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh, huyền ảo, lung linh, dịu mát:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
“Trăng rọi hòa bình” là ánh trăng chiếu sáng không khí thanh bình nới chiến khu kháng chiến. Những ai đã từng đi qua những tháng ngày “mưa bom, bão đạn”, đi qua bao đêm “vắng trăng” cũng “quầng lên một vầng lửa máu” thì mới thấy hết sự xúc động của lòng người trong những đêm trăng hòa bình đó. Vì vậy, tả cảnh trăng rừng mà không thấy vắng lặng, lạnh lẽo mà trái lại còn gợi lên không khí rạo rực, đắm say. Bởi giữa ánh trăng rừng ấy đã vang lên tiếng hát mang đậm ân tình thủy chung của ai đó càng làm cho ánh trăng như sáng hơn và cũng lung linh, thấm đượm tình người Việt Bắc hơn.
Tố Hữu sinh trưởng trong một gia đình nho học nghèo yêu nước, phụ thân ông rất thích sưu tầm ca dao, tục ngữ, thân mẫu của nhà thơ thuộc rất nhiều làn điệu dân ca của xứ Huế. Truyền thống yêu văn học của gia đình đã giúp cho Tố Hữu khả năng tiếp nhận kế thừa tinh hoa văn học dân tộc. Là những người yêu văn học mỗi chúng ta từng bồi hồi xúc động trước vẻ đẹp trong sáng tinh khiết của mùa xuân trong thơ của Nguyễn Du – đại thi hào dân tộc:
“Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Thơ Tố Hữu đậm tính dân tộc. Nhà thơ Tố Hữu đã miêu tả đan xen giữa người và cảnh hình ảnh cô gái trẻ hái măng trong rừng xanh là một vẻ đạp lãng mạn bởi lãng mạn có ngay trong tuổi trẻ. Điều này, Tố Hữu đã học từ Nam Trân với những câu thơ viết về chùa Hương và lái đò:
“Thuyền cô trôi nhẹ trên dòng”
Mái chèo khua nhẹ trong lòng sóng sao”
Đây là đoạn trích này vừa sâu sắc về nội dung, vừa độc đáo về nghệ thuật. Nó xứng đáng là đoạn thơ hay nhất “Việt Bắc”. Đoạn thơ cũng thể hiện rõ phong cách thơ của Tố Hữu: trữ tình sâu lắng, tha thiết ân tình và mang đậm tính dân tộc. Những câu thơ lục bát đậm đà âm hưởng ca dao, nhịp nhàng uyển chuyển, câu nọ gợi câu kia, ý nọ gợi ý kia cứ tuôn trào lên dạt dào cảm xúc qua cách xưng hô mình-ta, một cách xưng hô truyền thống thắm thiết tình nghĩa. Nhạc điệu dịu dàng, trầm bổng khiến cho cả đoạn thơ mang âm hưởng bâng khuâng, êm ái như một khúc hát ru kỷ niệm. Đặc biệt từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần, mỗi lần một khác và sắc độ cứ tăng dần làm cụ thể hơn tấm lòng của người ra đi đối với cảnh và người Việt Bắc.
Với 10 câu thơ Tố Hữu đã thể hiện những gì là đẹp nhất của thiên nhiên Việt Bắc, đồng thời ca ngợi những phẩm chất cao đẹp của người dân Việt bắc. Với những nét chấm phá đơn sơ, giản dị, vừa cổ điển, vừa hiện đại, đoạn thơ trên của TH đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu VB. Cảnh và người hòa hợp với nhau, tô điểm cho nhau làm cho bức tranh trở nên gần gũi, thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung, quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.
==================
Phân tích truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu (5 điểm).
A- Đặt vấn đề:
Vào đề trực tiếp: Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, mất năm 1989, quê hương ông là huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, như vậy nhà văn Nguyễn Minh Châu là đồng hương của nữ danh sĩ Hồ Xuân Hương, bà chúa thơ Nôm lừng lẫy một thời, Nguyễn Minh Châu là một nhà văn quân đội suốt cuộc đời cầm bút của mình ông luôn trăn trở về số phận của nhân dân và trách nhiệm của nhà văn. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được Nguyễn Minh Châu sáng tác trong thời kỳ đổi mới. Trong truyện ngắn này, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã kể lại cuộc gặp gỡ giữa nghệ sỹ nhiếp ảnh Phùng với một gia đình hàng chài sống trong bất hạnh, khổ đau mà nạn nhân cay đắng nhất chính là người vợ của lão thuyền chài. Mỗi trang văn tràn ngập những dư vị của xót xa, cay đắng tưởng như ngập lụt cả tâm hồn nhưng đồng thời chúng ta thấy được những tình cảm ấm áp, nhân hậu trong ngần trong tâm hồn của người phụ nữ Việt.
B- Giải quyết vấn đề:
1 - Cảnh thuyền đánh cá thu lưới lúc bình minh đẹp hoàn mĩ trong thời khắc trong ngần của tâm hồn:
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được in trong tập “Bến quê”, xuất bản năm 1987 là một tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cách nhìn nhận đa chiều đối với cuộc sống, nhà văn kể lại việc phóng viên Phùng được trưởng phòng đề nghị đi thực tế chụp một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Phùng đã đi tới một vùng biển miền Trung - nơi anh từng chiến đấu trong kháng chiến chống Mĩ. Sau gần một tuần lễ suy nghĩ và tìm kiếm Phùng đã chọn được một cảnh đắt và trời đất ban tặng, vẻ đẹp và Phùng lựa chọn đầy chất thơ và chất hội họa là biểu tượng cho cuộc sống lao động hướng tới hạnh phúc của con người: “Trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ, mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh sáng mặt trời chiếu vào, vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi in phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh đấy nhìn qua những mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới hình thù y hệt cánh một con dơi”
2 - Cảnh đời đầy ngang trái, cay đắng và xót xa:
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã miêu tả cảnh đời đối lập hoàn toàn với vẻ đẹp tuyệt mĩ của thiên nhiên, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng tình huống truyện kỳ lạ, hết sức độc đáo, hình ảnh lão thuyền chài và mụ đàn bà mặt giỗ đối lập với vẻ đẹp tuyệt mĩ của biển khơi, của bình minh, lão thuyền chài vừa đánh vợ một cách hết sức tàn nhẫn vừa rên rỉ đau đớn “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ”. Người đàn bà chịu đựng trận đòn tàn nhẫn mà không kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn. Thằng Phác như một viên đạn nhảy xổ vào lão đàn ông vung chiếc thắt lưng da quật vào khuôn ngực trần vạm vỡ của lão thuyền chài. Dường như trong cùng một lúc, phóng viên Phùng đã chứng kiến những cảnh ngộ cay đắng nhất, nỗi bất hạnh nhất của một gia đình, chồng đánh vợ, con bênh mẹ đánh lại cha đẻ của nó, Nguyễn Minh Châu đã sử dụng một hình ảnh cũng hết sức đặc biệt để thể hiện tính cách cao đẹp và sự cam chịu của người phụ nữ, đồng thời ca ngợi tình mẫu tử: “Người đàn bà ngồi xệt xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy, vái để rồi lại ôm chầm lấy. Thằng Phác lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ khuôn mặt người mẹ như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”.
3 - Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cách nhìn đa chiều khi xây dựng tính cách người vợ lão thuyền chài với những nét tốt, xấu đan xen:
Thuở nhỏ, mụ là đứa con gái xấu, giỗ mặt, trót có mang với một anh con trai nhà hàng chài nhưng khi có gia đình, mụ là người phụ nữ thương yêu chồng con hết mực có lòng vị tha vô bờ bến, mặc dù bị chồng đánh đập tàn nhẫn 3 ngày một trận nhẹ, 5 ngày một trận nặng, nhưng mụ vẫn xin với tòa “Tòa đừng bắt con bỏ nó”.
Mụ hiểu được những đắng cay trong lòng người chồng, mụ hiểu được những nỗi vất vả mưa nắng trong công việc mưu sinh của người chồng, những ngày biển động người chồng cùng mụ chống chọi lại với phong ba và nuôi hơn một chục đứa con trong cảnh nghèo khó: “Khi ông trời làm động biển hàng tháng cả nhà vợ chồng, con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”, mụ hiểu chồng mụ có bản chất tốt: “lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành không bao giờ đánh tôi”. Vì không muốn các con chứng kiến cảnh bạo lực gia đình mụ xin với chồng được bị đánh ở trên bờ; Niềm hạnh phúc thoáng qua trong cuộc đời mụ là khi chứng kiến các con được ăn no.
4 - Ý nghĩa, nhận thức:
Qua truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” nhà văn Nguyễn Minh Châu đã khẳng định nghệ thuật không thể có được từ những đơn đặt hàng, nghệ thuật chỉ có thể có được khi người nghệ sỹ trang hoàng trong cuộc sống hiện thực, thấu hiểu những nỗi đau nhân thế và vẻ đẹp trong ngần trong tâm hồn con người, nhà văn đã lên án nạn bạo hành gia đình và cảm thông với số phận của người phụ nữ. Nhà văn đã có cách nhìn mới trong nghệ thuật khi xây dựng tính cách nhân vật có những nét tốt, xấu đan xen nhau.
==========================
Đáp án đề số 3: Cảm nhận về vẻ đẹp dòng sông Hương trong bút kí ai đã đặt tên cho dòng sông của HPNT:
1/ giới thiệu chung (Đặt vấn đề) 0.5đ
- Ai đã đặt tên cho dòng sông là 1 tùy bút đặc sắc thể hiện phong cách tài ba uyên bác giàu chất thơ của HPNT, bài kí đã ca ngợi dòng sông hương nhu một biểu tượng của Huế, đặc biệt là đoạn từ thượng nguồn đến TP huế
2/ Cảm nhận về vẻ đẹp của dòng sông (2đ)
Trong đoạn trích nói trên vẻ đẹp của dòng sông được phát hiện ở cảnh sắc thiên nhiên rất đa dạng, dòng sông trữ tình êm ả, hiền hòa như một thiếu nữ dịu dàng và duyên dáng
+ Lúc ở rừng già phóng khoáng và man dại, rầm rộ và mãnh liệt như một bản trường ca của rừng già. Khi ra khỏi rừng dịu dàng và trí tuệ của người mẹ phù sa.
+ Lúc qua 2 dãy đồi sừng sững những thành quách, dòng sông mềm như tấm lụa với vẻ đẹp biến ảo sớm xanh trưa vàng chiều tím.
+ Khi qua ngoại ô Kim Long vui tươi hẳn lên.
+ Khi đến ngoại thành phố Huế sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ, làm cho dòng sông mềm hẳn đi và trôi thực chậm như 1 mặt hồ yên tĩnh.
+ Vẻ đẹp của dòng sông được miêu tả bằng 1 tình cảm thiết tha với Huế với một vốn văn hóa phong phú, một vốn từ giàu có đậm chất thơ và rất sang trọng của nhà văn.
Cảm nghĩ của cá nhân: Dòng sông là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa một vẻ đẹp rất thơ, khơi nguồn cho cảm hứng thơ ca và gắn liền với nền âm nhạc cổ điển Huế tạo nên bề dày lịch sử Văn hóa Huế.
3. Kết luận
Nhờ ngòi bút tài hoa của tác giả sông Hương trở thành dòng sông bất tử chảy mãi trong trí nhớ và tình cảm của người đọc, bồi đắp tình cảm đối với quê hương đất nước.
Câu 5 điểm: Anh hay chị hãy phân tích bút ký “ Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
A/ Đặt vấn đề
Hoàng Phủ Ngọc Tường Sn 1937 tại TP. Huế. Quê hương ông gốc ở huyện Triệu Phong Tỉnh Quảng Trị một mảnh đất miền trung đầy gió lào và cát trắng. Ông tốt nghiệp khoa văn ĐH Huế Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn có phong cách độc đáo, đặc biệt sở trường về thể bút ký, tùy bút. Lời văn của ông sáng như lụa, sang trọng, giàu chất thơ. Bút ký “ Ai đã đặt tên cho dòng sông” được HPNT sáng tác 1951, trong bài tùy bút này đã ca ngợi vẻ đẹp tuyệt mỹ của dòng sông Hương đoạn từ thượng nguồn chảy qua cố đô Huế đồng thời thể hiện vẻ đẹp huyền ảo của dòng sông Hương trong chiều sâu của lịch sử, văn hóa, địa lý. Sông Hương trở thành người bạn tâm tình, trở thành nhân chứng lịch sử cho những buồn vui trong lịch sử đầy thăng trầm của cố đô Huế.
VD: mở bài gián tiêp thì dùng: Bên kia sông đuống, Nhớ con sông quê hương…..
A. Giải quyết vấn đề
HPNT sinh ra và lớn lên ở cố đô Huế, quê hương ông là quê hương của chiếc nón bài thơ và tà áo dài tím huế đồng thời nơi đây có những thành quách, nhưng lăng tẩm cung điện nguy nga soi bóng xuống dòng sông Hương thơ mộng, mảnh đất cố đô lãng mạng trầm mặc và đầy suy tư ấy đã tạo nên một HPNT có lối viết văn hết sức trong sáng sang trọng chan chứa tình yêu đất nước quê hương, điều này được thể hiện trong tp “Ai đã đặt tên cho dòng sông”.
Trong tùy bút này nhà văn HPNT đã ca ngợi vẻ đẹp tuyệt mỹ của dòng sông Hương từ thượng nguồn cho tới khi nó chảy qua kinh thành Huế, nhà văn đã sử dụng tràn ngập các biện pháp tu từ nhân hóa để miêu tả vẻ đẹp phóng khoáng và man dại của sông Hương ở thượng nguồn, sông Hương được ví với vẻ đẹp của 1 cô gái Digan khi nó ở giữa dòng trường sơn, nhà văn HPNT đã thể hiện vẻ đẹp dũng mãnh của dòng sông Hương khi ở thượng nguồn: “Nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”. Dòng sông Hương trong cuộc hành trình gian truân của nó khi chảy suôi về hạ lưu được HPNT ví với vẻ đẹp của 1 cô gái yêu kiều: “Phải nhiều thế kỷ qua đi người tình mong đợi mới đến thách thức người gái đẹp, nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng châu hóa đầy hoa dại”.
Khi gần đến kinh thành Huế sông Hương đẹp ở những khúc quanh đột ngột uốn mình trong những khúc quanh đột ngột và sông Hương trở lên đẹp tuyệt vời với những cảnh vật ở hai bên bờ sông. HPNT đã liệt kê một loạt các địa danh: điện Hòn Chém, vấp Ngọc Chảm, ngã ba Tuần.. HPNT đã đặc tả vẻ đẹp của sông Hương bởi những cảnh vật trên sông nước, bởi màu sắc lộng lẫy của dòng sông chuyển đổi theo màu sắc mây trời: “ Những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé gần bằng con thoi, màu nước sông sớm xanh trưa vàng, chiều tím” Sông Hương đẹp trầm mặc bởi những rừng thông u tịch. Sông Hương nên thơ và trầm mặc bởi tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga trên sóng nước, sông Hương đẹp bởi cầu Trường Tiền như 1 vành trăng non, như 1 tiếng vâng không nói ra của tình yêu.
Sông Hương thơ mộng và đẹp tuyệt vời bởi vị trí địa lý của nó, sông Hương thơ mộng bởi lưu tốc của dòng chạy cực chậm cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh, HPNT đã ví sông Hương với những dòng sông đẹp nhất trên thế giới bởi vị trí độc đáo của những dòng sông ấy là đều chảy qua kinh đô của các nước: đó là dòng sông Xen – pari(pháp), sông Neeva(Xanhpetecbua).
Sông Hương trở lên lung linh trong những đêm hội rằm tháng bảy hàng trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bênh trôi trên sông nước.
2. Nhà văn HPNT đã miêu tả vẻ đẹp của sông Hương thơ mộng trong chiều sâu của văn hóa, lịch sử, âm nhạc, sông Hương gắn liền với nhã nhạc Huế với những làn điệu dân ca của xứ Huế, dòng sông Hương từng là điểm đến của những danh nhân nổi tiếng của những nhà thơ lớn của dân tộc như Nguyễn Du, Tản Đà, Tố Hữu: “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này với một phiến trăng sầu và từ đó những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”. Nếu như sông Hương thiếu những bản đàn của những cô gái hát trên con thuyền trôi nhẹ trên sông thì có lẽ sông Hương cũng trần tục như bao dòng sông khác.
HPNT đã thể hiện một vốn kiến thức uyên thâm về lịch sử khi khẳng định dòng sông Hương là nhân chứng cho những thế kỷ quang vinh oanh liệt của đất nước đồng thời nó cũng chứng kiến những năm tháng thấm đẫm máu và nước mắt trong những cơn giông tố của lịch sử: “Trong sách địa dư của Nguyễn Trãi nó mang tên là Linh Giang, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ, nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỷ 19 với máu của những cuộc khởi nghĩa, nó cổ vũ nồng nhiệt trong mùa xuân Mậu Thân. Như vậy Sông Hương chính là lịch sử của cố đô Huế, lịch sử viết tiếp của dân tộc Việt. Nhà văn HPNT đã sử dụng những hình ảnh hết sức đắt giá trên cơ sở học hỏi ý tưởng của tiến sỹ Nguyễn Siêu, sông Hương là dòng sông ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc.
Sông Hương trở thành nguồn cảm hứng muôn đời của các thi nhân từ Tản Đà, Cao Bá Quát, Nguyễn Du và Tố Hữu
B. Kết luận
Tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được viết dưới nối viết phóng túng nhưng trang nhã và sang trọng, HPNT đã học hỏi ý tưởng của những nhà văn nhà thơ đi trước để sáng tạo tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông” mang vẻ đẹp hoàn mỹ từ đó thể hiện tình yêu thắm nồng với tổ quốc đất nước bởi tình cảm yêu nước yêu dân tộc bao giờ cũng bắt đầu bằng những điều cụ thể đơn giản đúng như đại văn hào Nga Ilya êrenbua từng định nghĩa: “Dòng suối đổ ra sông nhỏ, sông nhỏ đổ ra đại giang, đại giang đổ ra biển cả, tình yêu xóm làng trở lên tình yêu đất nước quê hương”.
================
Đề: Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
A/ Đặt vấn đề:
Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Diệm, sinh năm 1920 tại Đan Phượng, thành phố Hà Nội (Hà Tây cũ). Trong kháng chiến chống Pháp, QD có những bài thơ hay nhất viết về quê hương xứ Đoài, thanh bình và lãnh mạn đồng thời ông đã phản ánh khá chân thật vẻ đẹp phẩm chất của anh bộ đội cụ Hồ trong kc chống Pháp. Bài thơ Tây Tiến được sáng tác năm 1948, là 1 trong những bài thơ tiêu biểu nhất viết về đề tài người lính trong kc chống pháp, trong bài thơ QD đã tái hiện hình ảnh Tây Bắc hoang sơ lãng mạn nhưng cũng dữ dội nguy hiểm, đồng thời nhà thơ đã phản ánh khá trung thực và xúc động về những hy sinh của người lính TT đồng thời ca ngợi những phẩm chất cao đẹp của người lính TT.
B/ Giải quyết vấn đề:
1 – Hình ảnh Tây Bắc
Tây Tiến là 1 đơn vị quân đội thành lập năm 1947, có nhiệm vụ hoạt động trên địa bàn Tây Bắc và Thượng Lào, những chiến sỹ Tây Tiến chủ yếu là những thanh niên trí thức của Hà Nội yêu đời, lãng mạn và hào hoa. Ở vào thời điểm đó Quang Dũng là đại đội trưởng trong binh đoàn Tây Tiến, những người lính Tây Tiến mặc dù phải hành quân qua 1 địa bàn hiểm trở đầy gian khổ và thiếu thốn, đói rét, bệnh tật nhưng họ vẫn phơi phới 1 tinh thần lạc quan cách mạng. Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng là dòng hồi ức nóng bỏng của nhà thơ về những người đồng đội của mình, về mảnh đất Tây Bắc nơi Quang Dũng đã từng đi qua trong cuộc đời quân ngũ và từng để lại biết bao kỷ niệm ân tình.
Mở đầu bài thơ tác giả sử dụng điệp từ nhớ và từ láy chơi vơi nhằm thể hiện nỗi nhớ dâng đầy về 1 miền rừng núi với những kỷ niệm không thể nào quên trong cuộc đời quân ngũ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Điệp từ “nhớ” đã tô đậm cảm xúc ấy. Thơ ca của ta xưa nay có biết bao câu viết rát hay về nỗi nhớ, nhưng nỗi nhớ “chơi vơi” thì hình như là một sáng tạo độc đáo của Quang Dũng. Với từ “”chơi vơi” một từ láy vừa gợi hình, vừa gợi cảm xúc, nỗi nhớ bỗng có hình dáng như một sáng tạo độc đáo của Quang Dũng. Với từ “chơi vơi” một từ láy vừa gợi hình, vừa gợi cảm, nỗi nhớ bỗng có hình dáng như bồng bềnh trong không gian bao la, trong thời gian xa thẳm, bâng khuâng lững lờ mà lưu luyến đầy ắp nhớ thương gây cho người đọc một ấn tượng rất thú vị.
Và cứ thế, thông qua nỗi nhớ da diết, chơi vơi như lan tỏa thấm đượm lên từng dòng chữ, hình ảnh thơ mà khung cảnh núi rừng miền tây vừa dữ dội hiểm trở lại vừa rất đẹp, rất giàu chất thơ, và con đường hành quân gian khổ của người lính cứ lần lượt hiện ra mới sinh động làm sao:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Qua ngòi bút lãng mạn của Quang dũng, hình ảnh sương cũng trở nên rất dữ dội và đầy ấn tượng. Ở Sài Khao sương như lấp cả đoàn quan mỏi đang đi hay sương ở đây như lấp cả Sài Khao trong đó có đoàn quân mỏi đang đi.
Nếu như câu trên tả cái dữ dội của sương dày thì ngay câu dưới ta bắt gặp moọt hình ảnh thật độc đáo mới lạ, như thực như hư. Hoa là hình ảnh tượng trưng cho cái đẹp thi vị của núi rừng Tây Bắc hiện về trong khoảnh khác đêm hơi, nếu không có tâm hồn nhạy cảm như Quang Dũng ghi nhận lấy thì nó sẽ tan biến ngay. Đúng là một hình ảnh thơ đẹp, lung liinh huyền ảo như hiện ra trong cõi mộng của người lính Tây Tiến, làm xua đi ba nỗi mệt mỏi của đoàn quân đang đi trong sương dày. Câu thơ được viết hầu hết là thanh bằng tạo cảm giác lâng lang chơi vơi như sương, như hương, như hoa, như hồn người. Thật là moọt câu thơ rất tài hoa và lãng mạn.
Tiếp tục cái cảm hứng lãng mạn, tài hoa ấy, khung cảnh núi rừng miền Tây với dốc núi, mưa nguồn cứ lần lượt hiện ra như một cuộn phim mầu quay chậm theo bước chân hành quân của người lính Tây Tiến:
“Dốc lên khúc khủy dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người.”
Nhà thơ đã miêu tả thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ hùng vĩ nhưng cũng đầy nguy hiểm đối với con người, hình ảnh thiên thiên Tây Bắc hiện lên với những dốc cao vực sâu với những cơn mưa trắng trời trắng nước ở thượng nguồn, với âm thanh của những thác nước gầm thét và tiếng cọp trêu người trong đêm. Nhà thơ đã liệt kê 1 loạt các địa danh Pha Luông, mường Hịch, Sài Thao, mường Lát, Mai Châu…những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, nhà thơ sử dụng 1 loạt các từ láy như khúc khủy, heo hút, thăm thẳm, sử dụng các biện pháp tu từ nhân hóa như súng ngửi trời, thác gầm thét, cọp trêu người để diễn tả sự dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc và những nguy hiểm luôn rình rập trên chặn đường hành quân của những người lính Tây Tiến.
Hình ảnh Tây Bắc còn hiện lên trong tâm trí của những người lính Tây Tiến với những phong tục tập quán khác lạ:
“ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp”
Địa danh Mai Châu dùng để chỉ 1 huyện của tình Hòa Bình, dân cư sinh sống ở đây chủ yếu là người Thái, người Mường. Người Thái có tập quán sử dụng nếp nương quanh năm, người lính Tây Tiến – những đứa con của vùng châu thổ sông Hồng khi hành quân quan những địa bàn hiểm trở được những người dân Mai Châu nuôi dưỡng. Lúc đầu họ rưng rưng xúc động bởi những bát cơm nóng còn bốc khói, nhưng khi ở lâu họ mới hiểu được tập quán của người Thái sử dụng gạo nếp thường xuyên trong năm.
Trong bài thơ Tây Tiến, hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc nhiều khi hiện lên cũng nên thơ và lãng mạn với hình ảnh hoa lau phất cờ bên đường đi, với hình ảnh dáng người chèo thuyền độc mộc trên sông nước và những loài hoa không tuổi, không tên trôi trên dòng nước lũ:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Trong bài thơ Tây Tiến nhà thơ Quang Dũng đã phản ánh những gian khổ thiếu thốn, hy sinh của những người lính Tây Tiến đồng thời ca ngợi những phẩm chất cao đẹp của người lính Tây Tiến, đó là hình ảnh cả 1 đoàn quân Tây Tiến bị bệnh sốt rét hành hạ đầu rụng hết tóc:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùng”
Căn bệnh sốt rét rừng từng trở đi trở lại trong nhiều bài thơ trong kháng chiến chống Pháp với những triệu chứng như rụng tóc, vàng da, rét run từng cơn…
“Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế”
(Cá nước – Tố Hữu)
Khi đi qua địa bàn Tây Bắc hiểm trở, đói rét bệnh tật hành hạ khiến nhiều người lính Tây Tiến hy sinh trên đường hành quân vì kiệt sức:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Từ láy “dãi dầu” dùng để chỉ những vất vả mưa nắng của người lính Tây Tiến trên đường hành quân. Biện pháp nói giảm “bỏ quên đời” dùng để chỉ những người lính Tây Tiến chết vì kiệt sức.
Khi phản ánh về những mất mát hy sinh của người lính Tây Tiến, nhà thơ Quang Dũng đã thể hiện những cảm xúc đầy xót thương của nhân dân, của đất nước trước sự hy sinh của những người đồng đội, những chàng trai đất Hà thành khi hành quân qua biên giới xa xôi đã nằm xuống vĩnh viễn nơi đất khách quê người:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Nhà thơ đã sử dụng 1 loạt các từ hán Việt: biên cương, viễn xứ, áo bào, độc hành nhằm thể hiện những cái chết bi tráng của người lính Tây Tiến. Tác giả đã tô đậm sự trang trọng thành kính của nhân dân trước sự hy sinh của những ngươi anh hùng. Trong thực tế để chống lại cá giá rét của mùa đông Tây Bắc nhiều người lính Tây Tiến không có áo để chống rét, đồng bào các dân tộc thiểu số đã cho họ chiếu để đắp cho đỡ rét, khi họ chết dùng chiếu để liệm vì không có quan tài.
Nhà thơ Quang Dũng đã ca ngợi những tình cảm lạc quan yêu đời, sự lãng mạn của những người lính Tây Tiến, mặc dù họ phải chiến đấu trong 1 hoàn cảnh gian khổ và ác liệt nhưng trong những giấc mơ họ vẫn nhớ về mảnh đất Hà Nội nghìn năm thanh lịch, nhớ về những cô gái Hà Nội xinh đẹp, yêu kiều:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng ki ều thơm”
Hình ảnh “kiều thơm” là hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng dùng để chỉ những cô gái có vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành, hình ảnh trên đây lấy ý 1 điển tích trong truyện Tam Quốc của Trung Hoa: Tào Tháo đưa 80 vạn quân sang đánh Giang Đông của Tôn Quyền. Tào Tháo từng có mơ ước bắt 2 người con gái đẹp nhất của đất Giang Đông là Đại kiều và Tiểu kiều về để vui thú tuổi già ở đền Đồng Tước.
Hình ảnh những người lính Tây Tiến hiện lên trong bài thơ còn mang vẻ đẹp tâm hồn của những chiến sỹ sống có lý tưởng, sẵn sàng hiến dâng lứa tuổi thanh xuân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc:
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Họ còn là những con người có tinh thần kỷ luật, có lòng quyết tâm vượt qua mọi gian khổ, hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Những người lính Tây Tiến có tình cảm quân dân gắn bó, có lối sống hòa đồng, họ hiểu được vẻ đẹp trong các phong tục tập quán của người dân Tây Băc:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ”
C/ Kết luận:
Cùng với những bài thơ nổi tiếng trong tập thơ “Đôi mắt người Sơn Tây”, bài thơ Tây Tiến đã góp phần tạo nên 1 vị thế vững chãi cho nhà thơ Quang Dũng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Bài thơ này đã xây dựng được bức tượng đài về người lính iuTây Tiến với những phẩm chất cao đẹp và cái chết bi tráng của họ. Trong bài thơ Quang Dũng đã sử dụng những từ láy, tượng trưng, sử dụng từ Hán Việt nhằm khắc họa sắc thái trang trọng, hào hùng trong vẻ đẹp của những người lính Tây Tiến.
Câu 2 (5đ): Anh (chị) hãy phân tích bản Tuyên ngôn độc lập của HCM.
A/ Đặt vấn đề (mở bài gián tiếp):
Như nước Đại Việt ta thuở trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục bắc nam cũng khác
Trên đây là những áng văn chan chứa niềm tự hào dân tộc, khẳng định nền độc lập tự chủ được đại thi hào dân tộc Nguyễn Trãi viết trong Đại Cáo Bình Ngô năm 1428. Trong thế kỷ 20 đất nước VN lại chứng kiến 1 áng thiên cổ hùng văn chan chứa tình cảm yêu nước căm thù giặc, đồng thời khẳng định quyền độc lập tự chủ của dân tộc VN đó chính là tác phẩm chính luận Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch HCM. Tác phẩm TNĐL khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã được Chủ tịch HCM đọc trước hàng chục vạn quốc dân đồng bào tại quảng trường Ba Đình – Hà Nội.
B/ Giải quyết vấn đề:
1 - Tác phẩm Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch HCM ra đời trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt.
Ngày 19/8/1945 chính quyền ở HN về tay nhân dân, ngày 26/8/1945 Chủ tịch HCM từ chiến khu Việt Bắc về tới HN, trong 3 ngày 28, 29, 30/8/1945 Chủ tịch HCM soạn thảo TNĐL tại số nhà 48 phố Hàng Ngang. Ở vào thời điểm TNĐL được công bố cách mạng Việt Nam ở vào thế “Ngàn cân treo sợi tóc”. Ở phía Bắc dưới danh nghĩa quân Đồng Minh 20 vạn quân tàu Tưởng tràn vào nước ta, tiền quân của chúng đã kéo tới thị xã Bắc Giang, ở miền Nam tàn quân Pháp núp bóng quân đội của thực dân Anh gây nhiều tội ác ở vùng Sài Gòn – Chợ Lớn.
Bản tuyên ngôn độc lập đọc tại quảng trường Ba Đình lịch sự được Người viết cho cho đồng bào cả nước và nhân dân thế giới “Hỡi đồng bào cả nước…. chúng tôi trịnh trọng tuyên bố với thế giới”. vì viết cho đồng bào nên lời văn xiết bao xúc động, vì tuyên bố với thế giới nên giọng văn của bản tuyên ngôn sắc bén, lý lẽ đanh thép.
Để tái hiện lại giờ phút thiêng liêng khi Bác đọc bản tuyên ngôn độc lập, trong bản trường ca “theo chân Bác” nhà thơ Tố Hữu đã viết lên những dòng thơ thật chân thực và xúc động:
“Hôm nay sáng mồng hai tháng chín
Thủ đô Hoa, vàng nắng Ba Đình
Muôn triệu tim chờ… chim cũng nín
Bỗng vang lên tiếng hát ân tình
Hồ Chí Minh! Hồ Chí Minh”
Chủ tịch HCM viết TNĐL nhằm khẳng định quyền tự do và bình đẳng của dân tộc ta so với các dân tộc khác trên thế giới, Người đã viện dẫn TNĐL của nước Mỹ, tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp nhằm khẳng định dân tộc VN hoàn toàn có quyền bình đẳng với các dân tộc khác thế giới. Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp là những áng văn chương bất hủ mang ý nghĩa tiến bộ trong quá trình phát triển của nhân loại, cả 2 bản tuyên ngôn này đều khẳng định quyền tự do cá nhân:
“Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng”
(Tuyên ngôn độc lập – Mỹ)
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi”
(Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền – CM Pháp)
Chủ tịch HCM đã kế thừa và phát triển những nội dung tiến bộ của 2 bản Tuyên ngôn trên, người suy rộng ra: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Một lý do khác khi Chủ tịch HCM viện dẫn TNĐL của những nước lớn này là muốn tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của chính giới Mỹ và Pháp, công nhân nền độc lập của VN.
Ý kiến “suy rộng ra” ấy là một đóng góp vô cùng quan trọng của Hồ Chí Minh đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Một nhà văn nổi tiếng của Thế giới đã viết “cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là Người đã phát triển quyền của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy, tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết lấy vận mệnh của mình”; ý kiến “suy rộng ra” của Bác có thể được xem là tiếng chuông khởi đầu cho thời kỳ bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào những năm 60, 70 của thế kỷ 20. Như thế là Bác đã dùng những lý lẽ chính của chính tổ tiên người Mỹ, người Pháp được cả thế giới ghi nhận trong những bản tuyên ngôn được cả thế giới công nhận và từng làm vẻ vang cho truyền thống tư tưởng, văn hóa của những dân tộc đó, cách viết như thế “vừa khéo léo, vừa kiên quyết”, khéo léo vì tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Mỹ, người Pháp, kiên quyết vì ngầm cảnh cáo nếu họ tiến công xâm lược Việt Nam thì chính họ đã phản bội lại tổ tiên mình, làm vấy bẩn lên lá cờ nhân đạo thiêng liêng của những cuộc CM vĩ đại của họ được cả thế giới ngưỡng vọng. Ở đây, Bác đã vận dụng thủ pháp nghệ thuật rất hiệu quả trong việc đánh địch là “gậy ông để đập lưng ông. Nhà thơ Chế Lan Viên cho rằng “những câu tuyên ngôn trích trên kia vừa là quả táo đối với chúng ta, vừa là quả lựu đạn đối với kẻ thù: khạc chẳng ra, nuốt chẳng vào đối với bọn chúng” . Vả lại chính cách viết như vậy Bác đã đặt ra 3 bản tuyên ngôn ngang nhau, đặt 3 cuộc CM ngang nhau? Điều đó làm cho ta gợi lại niềm tự hào của tác giả bài “Cáo bình ngô” nổi tiếng, khi mở đầu tác phẩm bằng hai vế cân xứng như để đặt ngang hàng Triệu, Đinh, Lý, Trần của nước Nam với Hán, Đường, Tống, Nguyên của Trung Quốc (Bác Hồ đặt cân xứng bản tuyên ngôn của ta với bản tuyên ngôn của Mỹ, Pháp cũng phải thôi vì cuộc CM tháng Tám 1945 hầu như đã giải quyết đúng những nhiệm vụ hai cuộc CM của Mỹ (1776) và của Pháp (1789). Bản tuyên ngôn của Bác đã nêu rõ “dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm để gây dựng lên nước Việt nam độc lập”. Đó cũng là yêu cầu đặt ra cho cuộc CM của nước Mỹ đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa Bắc Mỹ ra khỏi ách đô hội của thực dân Anh. Bản tuyên ngôn độc lập cũng viết “Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”, đây cũng là tinh thần cơ bản của cuộc CM nhân quyền, dân quyền của Pháp thế kỷ XVIII.
2 – TNĐL của Chủ tịch HCM đã tố cáo những tội ác dã man và tàn bạo của TDP trong suốt hơn 80 năm chúng xâm lược và đô hộ nước ta.
Chủ tịch HCM đã nêu ra những dẫn chứng hết sức đanh thép vừa cụ thể vừa khái quát về tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân VN trên các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa. Chủ tịch HCM đã tố cáo âm mưu thâm độc của thực dân Pháp khi chúng định chia rẽ tình đoàn kết của người dân VN: “Chúng thi hành những luật pháp dã man, chúng lập 3 chế độ khác nhau ở Trung – Nam – Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết”.
Chủ tịch HCM đã tố cáo những tội ác dã man của thực dân Pháp khi chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu, chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, đặc biệt người đã tố cáo sự hèn nhát phản bội của thực dân Pháp khi thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng Nhật. Thực dân Pháp và phát xít Nhật đã trực tiếp gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945 khiến 2 triệu đồng bào ta từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ chết đói.
Chủ tịch HCM đã khẳng định quyền độc lập tự chủ của dân tộc VN trong bản TNĐL nổi tiếng, người đã nêu ra ý nghĩa to lớn của CMT8 trong việc xóa bỏ chế độ quân chủ chuyên chế kéo dài hàng ngàn năm và xóa bỏ chế độ thực dân kéo dài gần 100 năm. Đại diện cho chính quyền của nước VN mới, Chủ tịch HCM tuyên bố xóa bỏ hết những hiệp ước bất bình đẳng mà triều Nguyễn đã ký kết với Pháp đồng thời tuyên bố xóa bỏ mọi đặc quyền, đặc lợi của thực dân Pháp trên đất nước VN, đồng thời người đã nêu cao truyền thống nhân đạo và chính nghĩa của người VN, khi dân tộc ta đã cứu nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam của Nhật.
3 - Trong TNĐL Chủ tịch HCM kêu gọi chính phủ các nước công nhận nền độc lập của VN, đồng thời thể hiện lòng quyết tâm của cả 1 dân tộc quyết đứng lên bảo vệ nền độc lập trước những âm mưu xâm lược VN của thực dân Pháp: “Nước VN có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành 1 nước tự do độc lập, toàn thể dân tộc VN quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”.
4 – Nghệ thuật của tác phẩm TNĐL.
Tuyên ngôn độc lập được Chủ tịch HCM viết bằng lời văn chính luận đanh thép và hùng hồn, Người đã sử dụng những câu văn có mức độ dài ngắn khác nhau nhằm thể hiện những lập luận đanh thép và vững chắc khi tố cáo những tội ác dã man, tàn bạo của thực dân Pháp. Những nội dung trong bản TNĐL đã kế thừa những nội dung tư tưởng trong truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm của bài thơ “Thần” của Lý Thường Kiệt, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi. Như vậy TNĐL xứng đáng là 1 áng thiên cổ hùng văn trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Bản tuyên ngôn của Bác không chỉ thuyết phục lý trí người đọc bằng lý lẽ chặt chẽ mà còn lay động hàng triệu trái tim độc giả bởi lời văn đầy cảm hứng yêu nước và nhân đạo: khi đanh thép hùng hồn, khi căm giận uất ức, khi lâm ly thống t hiết. Vì là bản tuyên ngôn nên vừa khẳng định quyền của ta vừa vạch trần tội ác của kẻ thù. Trong một đoạn văn ngắn mà Bác láy lại 13 chữ “quyền” và sau đó 14 câu, câu nào chữ “Chúng” nặng như búa tạ, và với mỗi từ “chúng” ấy như trút xuống chữ “ta” làm xúc động lòng người… “Một dân tộc”… hai lần nhấn mạnh chữ “gan góc”, bốn lần nhấn mạnh chữ “dân tộc”, rồi hai câu điệp lại như những nhát dao mỗi lúc chém xuống mạnh hơn “Dân tộc đó… dân tộc đó. Đọc lên sảng khoái biết chừng nào” (Chế Lan Viên).
C/ Kết thúc vấn đề.
Chủ tịch HCM là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc VN, đồng thời là 1 nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc. Tác phẩm TNĐL là 1 sáng tác chính luận nổi tiếng của Người, tác phẩm này đã thể hiện khát vọng độc lập tự do của dân tộc VN, đồng thời thể hiện được truyền thống chính nghĩa và nhân đạo của con người VN. Chúng ta có thể khẳng định tác phẩm TNĐL là 1 mốc son chói lọi trong lịch sử của dân tộc và lịch sử của văn học.
Phân tích truyện “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành
Nguyễn Trung Thành tên khai sinh là Nguyễn Văn Báu, sinh năm 1932, tại huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, mảnh đất thép kiên cường và anh dũng của miền Trung Trung Bộ. Ông thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, trong kháng chiến chống pháp ông nổi tiếng với tiểu thuyết “Đất nước đứng lên” dưới bút danh nguyên Ngọc. Truyện ngắn “Rừng xà nu” được sáng tác trong thời kỳ chống Mĩ. Đúng vào mùa hè năm 1965 khi đế quốc mỹ ồ ạt đổ quân vào miền nam nước ta, trong truyện ngắn này, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã xây dựng thành công hình tượng cây xà xu và hình tượng nhân vật Tnú cùng với một tập thể anh hùng như cụ Mết, Dít, Mai, bé Heng qua những hình tượng ấy nhà văn đã ca ngợi sức sống mãnh liệt của nhân dân Tây Nguyên, ca ngợi ý chí kiên cường bất khuất, tình cảm thủy chung với lý tưởng cách mạng và những tình cảm riêng tư, trong sáng như những hạt ngọc ẩn dấu trong tâm hồn mỗi người Tây Nguyên.
Hình tượng cây xà nu - một sáng tạo độc đáo của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Trong cuộc đời của mỗi nhà văn họ đều mơ ước xây dựng được những nghệ thuật độc đáo từ cây cỏ trong thiên nhiên mang phẩm chất và đời sống tâm hồn của một thế hệ, một dân tộc, hình ảnh cây bạch dương tiêu biểu cho tính cách và tâm hồn dân tộc Nga nhân hậu và thủy chung, hình tượng cây tre tượng trưng cho tính cách con người Việt Nam bền bỉ, kiên cường có sức sống mãnh liệt bất chấp những phong ba, bão táp của lịch sử.Kế thừa lý tưởng của các nhà văn đi trước, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã xây dựng thành công hình tượng cây xà nu tượng trưng cho ý chí kiên cường, bất khuất của nhân dân Tây nguyên.
Cây xà nu là một loại cây họ thông mọc rất nhiều ở Tây Nguyên, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã xây dựng hình tượng cây xà nu thành biểu tượng cho sức sống mãnh liệt, ý chí kiên cường, bất khuất của những người dân Tây Nguyên. Nhà văn đã sử dụng bút pháp đặc tả hình tượng cây xà nu, hình ảnh rừng xà nu ở phần mở đầu của tác phẩm bị bom đạn giặc bắn phá ác liệt chính là biểu tượng có sức thuyết phục tố cáo tội ác tàn bạo của giặc Mỹ xâm lược hủy diệt sự sống và môi trường Tây Nguyên, đồng thời khẳng định sức sống mãnh liệt của thiên nhiên và con người Tây Nguyên. Nhà văn đã sử dụng hình ảnh nhân hóa để thể hiện ý tưởng này: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây, không có cây nào không bị thương, có những cây bị chặt đứt ngang, nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão, nhựa ứa ra tràn trề, đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn, nhưng cũng có những cây vượt lên khỏi đầu người cành lá xum xuê như đủ lông mao, lông vũ đàn đại bác không giết được chúng. Những vết thương của chúng mau lành như trên một thân thể cường tráng”.
Hình ảnh cây xà nu gần gũi, thân thiết với mỗi người dân Tây Nguyên. Cây xà nu chia sẻ những buồn vui cho số phận mỗi con người ở làng Xôman. Đến 20 lần nhà văn nói đến hình ảnh rừng xà nu, cây xà nu, nhựa xà nu, ngọn xà nu, đồi xà nu, khói xà nu, lửa xà nu. Rừng xà nu chứng kiến cảnh Tnú về thăm Tây Nguyên quê hương sau 3 năm tham gia lực lượng giải phóng quân. Ngọn lửa xà nu đã soi sáng những gương mặt thân quen khi anh gặp họ ở ngôi nhà ưng huyền thoại.
Những đứa trẻ làng Xô man mặt mũi lem luốc khói xà nu, ngọn lửa xà nu dẫn dắt cho Tnú cùng dân làng Xô man lên núi Ngọc Linh gùi đá mài về mài giáo, mác, vụ, rựa để chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang khi Tnú chia tay với dân làng Xôman hình ảnh rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời cùng với cụ Mết và Dít tiễn anh lên đường
Hình ảnh cây xà nu còn là biểu tượng cho ý chí, kiên cường bất khuất của nhân dân Tây Nguyên vững vàng trước mọi thử thách, vững vàng trước mưa bom, bão đạn của kẻ thù. Hình ảnh cây xà nu còn mang ý nghĩa biểu tượng cho các thế hệ của dân làng Xôman, những cây xà nu lớn biểu tượng cho thế hệ đã trưởng thành trong cuộc kháng chiến như cụ Mết và Tnú. Nhà văn Nguyễn Trung Thành miêu tả ngoại hình của cụ Mết ví với một cây xà nu vững trãi, những cây xà nu nhỏ là biểu tượng nối tiếp truyền thống cách mạng của dân làng Xôman như Rít, bé Heng điều này đã được nhà thơ Hoàng Trung Thông viết trong bài thơ “Báng súng”:
“Con lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên viết tiếp thay cha”
2 - Hình tượng nhân vật Tnú:
Trong cuộc đời của mỗi nhà văn họ đều mơ ước sáng tạo được những nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Nhân vật điển hình là nhân vật trung tâm trong tác phẩm văn học, nhân vật này mang những nét tính cách chung đại diện cho một lớp người, một thế hệ nhất định trong xã hội, đồng thời có những cá tính, những tính cách nhân vật được thể hiện thông qua ngoại hình, lời nói, cử chỉ, hành động và suy nghĩ nội tâm (tâm trạng, tâm lý)
Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã sử dụng lời nói, cử chỉ của Tnu nằm tô đậm tính cách anh hùng của anh. Những phẩm chất trong sáng, cao đẹp trong tâm hồn anh: “Yêu quê hương, có tình yêu lứa đôi trong sáng, thủy chung, giàu lòng vị tha, mưu trí, thông minh, kiên cường, bất khuất trước kẻ thù”. Tnú là một cậu bé trung thực có hoàn cảnh éo le, Tnú mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, dân làng Xôman nuôi Tnú, cụ Mết có nhận xét về Tnú: “bụng Tnú sạch như nước suối làng ta”.
Tnú đã thể hiện đức tính gan dạ, thông minh và thủy chung với lý tưởng cao đẹp của đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, trong những năm tháng Mỹ - Diệm lê máy chém đi khắp miền nam để khủng bố phong trào cách mạng, Tnú và Mai mặc dù còn nhỏ tuổi đã ra ngoài rừng để bảo vệ anh Quyết, người cán bộ của Đảng. Khi bị bắt, cậu đã nhanh trí nuốt lá thư vào trong bụng, trước sự khủng bố của kẻ thù, cậu bé chấp nhận hy sinh chứ không khai ra những bí mật của cơ sở đảng. Cậu bé nói: “Cụ Mết nói Đảng còn núi nước này còn”. Khi được giao làm liên lạc cho anh Quyết từ xã về huyện, không bao giờ nó đi đường mòn, giặc vây tất cả các ngả đường, nó leo lên một cây cao nhìn quanh một lượt rồi xé rừng mà đi, lọt tất cả các vòng vây, qua sông nó không thích lội chỗ nước êm cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang vượt lên trên mặt nước cưỡi lên thác, băng băng như một con cá kình.
Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã thể hiện vẻ đẹp trong tâm hồn Tnú, một con người có lòng căm thù cháy bỏng đối với quân xâm lược, có khả năng vận động quần chúng. Tnú đã hướng dẫn dân làng lên núi Ngọc Linh gùi đá mài để mài giáo, mác, vụ, rựa chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang. Bọn giặc ở đồn Đắc Hà bao vây làng Xôman, chúng tra tấn vợ con của Tnú cho đến chết . Tnú đã thể hiện lòng căm thù cháy bỏng đối với quân xâm lược: “mắt anh thành 2 cục lửa lớn”. Không một tấc sắt trong tay, Tnú nhảy xổ vào giữa bọn giặc đầy súng đạn. Bắt được Tnú, bọn giặc dùng nhựa xà nu để đốt cháy 10 đầu ngón tay của anh. Hình ảnh bàn tay bị đốt cháy của Tnú vừa tố cáo tội ác dã man, tàn bạo của quân xâm lược, vừa là biểu tượng cho lòng căm thù cháy bỏng của dân làng Xôman đối với tội ác. Đồng thời, thể hiện nghị lực kiên cường, tình cảm thủy chung với lý tưởng của cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Tây Nguyên. Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã sử dụng bút pháp phân tích nội tâm nhân vật kết hợp với kể chuyện và miêu tả nhằm thể hiện tình yêu quê hương sâu nặng trong tâm hồn Tnú. Sau 3 năm tham gia lực lượng giải phóng quân, Tnú trở về thăm quê hương trong tâm trạng bồi hồi xúc động anh nhớ lại những kỷ niệm ngọt ngào và cay đắng trong cuộc đời mình, nhớ cái cây đổ ngang nơi Tnú và Mai gặp nhau lần đầu sau khi anh vượt ngục Kon Tum trở về, anh bồi hồi xúc động khi nghe tiếng chày giã gạo của làng anh: “bây giờ anh chợt hiểu ra rằng hình như cái anh nhớ nhất ở làng, nỗi nhớ day dứt lòng anh suốt 3 năm nay chính là tiếng chày đó. Tiếng chày chuyên cần rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xa xưa”. Khi gặp dân làng trong ngôi nhà ưng huyền thoại, Tnú nhớ lại từng khuôn mặt thân quen của những người đã từng chia ngọt, xẻ bùi với anh từ tuổi ấu thơ cho tới lúc trưởng thành. Tnú còn là người chiến sỹ chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật của đơn vị, đơn vị chỉ cho anh về thăm quê trong một đêm, anh thực hiện nghiêm túc, sáng hôm sau cụ Mết và Dít đã tiễn đưa người chiến sỹ ra trận. Tnú còn là một chàng trai có tình yêu trong sáng, giàu lòng vị tha. Sau khi vượt ngục Kontum trở về, Tnú và Mai trở thành vợ chồng hạnh phúc và có một đứa con trai, không đi chợ Kontum mua vải được, Tnú phải xé tấm dồ của mình ra để cho Mai địu con.
Truyện ngắn “Rừng xà nu” được nhà văn Nguyễn Trung Thành viết vào mùa hè năm 1965 khi đế quốc Mỹ đang đổ quân ào ạt vào miền Nam nước ta. Cuộc cách mạng giải phóng miền nam thống nhất đất nước của dân tộc ta đứng trước những thử thách tưởng chừng như không thể vượt qua được, nhưng các văn nghệ sỹ ở thời kỳ này đã thể hiện được trong các sáng tác của mình lòng quyết tâm của cả dân tộc vượt qua mọi gian khổ, hy sinh để thực hiện nguyện ước của Chủ tịch Hồ Chí minh trong lời kêu gọi không có gì quý hơn độc lập tự do năm 1966 “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố lớn có thể bị tàn phá song nhân dân Việt Nam quyết không sợ, không có gì quý hơn độc lập và tự do. Đến ngày thắng lợi, ta sẽ xây dựng Tổ quốc ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Phân tích bài thơ “Sóng” – của Xuân Quỳnh. Từ đó nêu bật được tâm trạng của người phụ nữ đang yêu.
A/ Đặt vấn đề:
“Em nhớ lại một thời quá khứ
Khúc hát ngây thơ một thời thiếu nữ
Ngôi sao cháy bùng trên sóng nước Nêva
Và tiếng chim kêu trong một buổi chiều tà
Năm tháng đắng cay hơn, năm tháng ngọt ngào hơn
Em mới hiểu bấy giờ anh có lý
Dẫu hạnh phúc đã qua giờ anh xa cách thế
Em hát khác xưa rồi, khóc cũng khác xưa”
Trên đây là những câu thơ đắm say, ngọt ngào của một mối tình không trọn vẹn trong bài thơ “Vô đề” của Onga Bécgôn (nhà thơ Nga). Trong lịch sử thơ ca của nhân loại đề tài về tình yêu đôi lứa luôn là một chủ đề bất tận, tươi xanh trong cuộc sống của nhân gian, trong những năm tháng gian khổ nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, những người yêu thơ Việt Nam đã cảm nhận được vẻ đẹp trong tâm trạng của người phụ nữ đang yêu trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh. Bài thơ được Xuân Quỳnh sáng tác vào năm 1967 tại cửa biển Diêm Điền.
B/ Giải quyết vấn đề:
Xuân Quỳnh sinh năm 1942 mất năm 1988, tên khai sinh là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, quê hương của nhà thơ là thôn La Khê, xã Văn Khê, quận Hà Đông, Hà Nội. La Khê là một trong năm làng La nổi tiếng của Hà Đông chuyên nghề canh cửi. Những cô gái dệt lụa của làng La thường xinh đẹp, chuyên cần và nhân hậu. Học hết lớp 6, do hoàn cảnh gia đình Xuân Quỳnh bỏ học và tham gia đoàn ca múa nhân dân T, Xuân Quỳnh bộc lộ tài năng thơ từ rất sớm, những bài thơ hay nhất của nữ thi sỹ là những bài thơ viết về đề tài tình yêu và tình mẫu tử. Bài thơ “sóng” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ Xuân Quỳnh, giàu lòng trắc ẩn, chân thực và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường. Bài thơ được trích trong tập “Hoa dọc chiến hào” năm 1968.
1 - Hình tượng sóng và tâm trạng của người phụ nữ đang yêu:
Trong bài thơ “Sóng” nhà thơ Xuân Quỳnh đã sáng tạo thành công hình tượng sóng nhằm thể hiện tâm trạng của người phụ nữ đang yêu trước biển khơi xa mênh mông, Xuân Quỳnh chợt cảm nhận được những nét đồng điệu của những làn sóng bất tận của biển khơi với tâm trạng của người phụ nữ đang yêu lúc ồn ào, lúc lặng lẽ, lúc dữ dội, lúc dịu êm:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Sóng tự bộ bạch về những thuộc tính phẩm chất, trạng thái khác thường của mình . Chúng vừa phong phú, đa dạng vừa phức tạp, thậm chí là đối lập nhau“Dữ dội và dịu êm; Ồn ào và lặng lẽ
Trật tự ấy cũng đã làm nổi bật được sự dịu dàng sâu lắng trong tình cảm của người phụ nữ, cũng như trái tim của một người phụ nữ đang cồn cào, khát khao tình yêu, các trạng thái tình cảm muôn màu, nhiều khi trái ngược cứ đắp đổi, chuyển hoácho nhau thật lý thú và bí ẩn:
“Những đêm trăng hiền từ
Biển như cô gái nhỏ
Thầm thì gửi tâm tư
Quanh mạn thuyền sõng vỗ”
“Cũng có khi vô cớ
Biển ào ạt xô thuyền
Vì tình yêu muôn thưở
Có bao giờ đứng yên
Nhưng bí ẩn và quan trọng hơn nữa là sóng mang trong mình nó khat vọng về sự lớn lao. Nếu một khi “sóng không hiểu nổi mình” thì sóng dứt khoát “tìm ra khỏi bể”, dứt khoát từ giã khuôn khổ chật hẹp, tìm đến chân trời cao rộng của tâm hồn. Ra tận bể rộng: con sóng mới thực sự tìm thấy mình, nhận thức được sức mạnh và mọi khát vọng của nó:
“Làm gì có biển mà đi
Sóng đành chau chát thầm thì cùng sông”
- Lâm thị Mỹ Dạ-
Sóng là vĩnh hằng với thời gian, sóng vỗ suốt ngày đêm không ngừng, không nghỉ từ những con sóng ngày xưa cho đến những con sóng ngàn năm sau vẫn vậy không bao giờ chịu đứng yên; cũng như nỗi khát khao tình yêu ngàn đời của nhân loại thật mãnh liệt, cứ xôn xao rạo rực trong lòng ngực của muôn đời đuổi trẻ.
Nhà thơ Xuân Quỳnh đã kế thừa những ý tưởng, sáng tạo của những nhà thơ đi trước khi sử dụng hình tượng sóng trong thơ ca Việt, hình ảnh sóng trước tiên mang ý nghĩa tả thực dùng để chỉ những làn sóng lăn tăn ở ao hồ, những con sóng tràn ngập ánh trăng vàng trên sông nước hay những con sóng dữ dội của biển khơi:
“Sóng biếc theo làn khơi gợn tý”
- Nguyễn Khuyến-
H/ảnh sóng còn được thể hiện tâm trạng đầy sao xuyến của con người khi chia xa:
“Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong”
- Tống biệt hành của Thâm Tâm-
Nhà thơ Xuân Quỳnh đã sử dụng hình tượng sóng dùng để chỉ tâm trạng của người phụ nữ đang yêu, hình tượng sóng được miêu tả khi độc lập, khi đan xen, khi hòa nhập làm một với hình tượng em nhằm thể hiện đời sống tâm hồn phong phú và những cảm nhận sâu sắc về tình yêu trong tâm trạng của người phụ nữ.
2 - Tâm trạng của người phụ nữ đang yêu với rất nhiều nhớ nhung, tình cảm thủy chung, lòng vị tha và đức hy sinh:
Xuân Quỳnh viết bài thơ sóng khi đang day dứt, băn khoăn trong những tình cảm riêng tư, thầm kín nhất của hạnh phúc lứa đôi, nhà thơ nhìn những con sóng của biển khơi bất tận và vĩnh cửu muôn đời, nhà thơ chợt cảm nhận được một điều hết sức thiêng liêng là tình yêu lứa đôi chính là khát vọng muôn đời của tuổi trẻ cũng sẽ vĩnh hằng trong cuộc sống của nhân gian:
“Ôi con sóng của ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng của tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Nhà thơ đã sử dụng điệp từ em nghĩ, sử dụng những câu hỏi tu từ “từ nơi nào sóng lên, gió bắt đầu từ đâu” để thể hiện sự băn khoăn trước những câu hỏi muôn đời của tình yêu, vì sao những đôi lứa ấy yêu nhau, vì một ánh mắt, vì một nụ cười hay vì một sự âm thầm cảm mến, vì duyên tiền định hay là sự khởi đầu của sự cảm thông. Nhà thơ dường như không lý giải nổi:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Tiếp đó nhà thơ sử dụng điệp ngữ con sóng, biện pháp nhân hóa “con sóng nhớ bờ không ngủ được”, sử dụng biện pháp tiểu đối dưới - trên nhằm thể hiện nỗi nhớ nhung không giới hạn vượt qua được mọi thời gian và không gian trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Nỗi nhớ nhung của Xuân Quỳnh cũng là nỗi nhớ của Puskin trong bài “Gửi K”:
Anh nhớ mãi phút giây huyền diệu
Trước mặt anh em bỗng hiện lên
Như hư ảnh mong manh vụt biến
Như thiên thần sắc đẹp trắng trong
Giữa cô quạnh âm u tù hãm
Dòng đời trôi quằn quại hắt hiu
Tiếng em nói bên tai anh văng vẳng
Bóng dáng em anh gặp lại trong mơ
Và trong anh sống dậy đủ điều
Cả tiên thần cả nguồn cảm xúc
Cả đời, cả lệ, cả tình yêu”
Nhà thơ Xuân Quỳnh đã sử dụng điệp từ “dẫu” và các từ chỉ phương hướng: phương bắc, phương nam nhằm thể hiện tình cảm thủy chung của người phụ nữ đang yêu:
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”
Nhà thơ đã sử dụng hình tượng sóng để thể hiện lòng quyết tâm của người phụ nữ đang yêu vượt qua mọi trở ngại trong tình yêu, những trở ngại về gia đình, về tính cách, về sở thích, trở ngại trong dư luận xã hội để đến với người mình yêu dấu:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Trong một bài thơ khác, Xuân Quỳnh từng thể hiện tình yêu chân thành mãnh liệt lòng quyết tâm vô hạn của người phụ nữ đang yêu:
“Núi cao, biển rộng, sông dài
Tôi đi khắp chốn tìm người tôi yêu”
Trong khổ thơ tiếp theo, nhà thơ Xuân Quỳnh cảm nhận được sự ngắn ngủi của đời người, sự ngắn ngủi của tuổi thanh xuân trong cuộc đời của người con gái, trong sự vô hạn thời gian:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Trong khổ thơ kết của bải thơ, Xuân Quỳnh ước nguyện được tan ra thành trăm con sóng nhỏ để đến với một tình yêu lớn và cao đẹp đó chính là lòng vị tha và đức hy sinh của người phụ nữ đang yêu:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để nghìn năm còn vỗ”
Đứng trên biển, con người lại càng có cảm giác về cái nhỏ nhoi, hữu hạn của kiếp người trước cái vĩnh hằng của vũ trụ. Do đó, con người luôn có khát vọng sống trọn vẹn trong tình yêu, khát khao được gắn bó mãi mãi với cuộc sống này, hòa nhập với cuộc đời vĩnh hằng bằng tình yêu của mình. Niềm khát khao ấy, XQ lại gửi vào hình tượng sóng, những con sóng tan ra không phải để biến mất trên đại dương mà để hòa tan, để tồn tại vĩnh hằng trong vô tận những con sóng khác. Cũng thế con người sẽ ra đi nhưng tình yêu ở lại, một tình yêu vô tận, vĩnh hằng như sóng giữa biển khơi. Đây chính là một khát vọng rất con người
C/ Kết luận:
Cách 1: Với tất cả những lẽ trên, bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh là viên ngọc quý trong đề tài tình yêu của thơ ca Việt Nam hiện đại.
C2: Qua hình tượng sóng, bài thơ đã làm tỏa sáng vẻ đẹp và sức soóng của moọt tâm hồn phụ nữ Viẹt Nam trong tình yêu. Đó là một tâm hồn giàu khát khao, luôn luôn vươn tới một tình yêu đắm say, thủy chung, quên mình ở đây, người phụ nữ dã mạnh bạo chủ đoọng bày tỏ tình yêu ấy – một tình yêu giàu nữ tính, rất truyền thống mà cũng rất hiện đại.
Phân tích đoạn trích “Đất nước” trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm.
Đề tài về Tổ quốc với bốn ngàn năm văn hiến luôn bất khuất, kiên cường trong sự nghiệp chống ngoại xâm, luôn kiên trì, sáng tạo, thông minh trong xây dựng đất nước đã trở thành một dòng sống bất tận trôi chảy trong thơ ca Việt Nam 1945-1975. Trích đoạn “Đất nước’ được in trong trường ca “Mặt đường khát vọng” năm 1974. Đoạn tích “Đất nước’ của nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện hình ảnh đất nước trong chiều sâu của lịch sử văn hóa, địa lý, đồng thời ca ngợi truyền thống bất khuất, kiên cường của nhân dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, ca ngợi những người anh hùng vô danh đã sáng tạo ra mọi giá trị văn hóa, vật chất và tinh thần của dân tộc.Đồng thời, khẳng định ý thức trách nhiệm của thế hệ thanh niên thời chống Mỹ trong việc tiếp nối những truyền thống của ông cha.
Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, tại huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Quê ông có dòng sông Hương thơ mộng đẹp yêu kiều như một tiên nữ mơ màng giữa cánh đồng Châu hóa đầy hoa dại. Phụ thân của nhà thơ là nhà phê bình văn học cách mạng Hải Triều (tên thật Nguyễn Khoa Văn). Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống mỹ cứu nước và được đào tạo bài bản dưới mái trường XHCN. Ông tốt nghiệp khoa Văn – Đại học sư phạm Hà Nội năm 1964, sau đó lên đường vào Nam chiến đấu để giải phóng quê hương. Bài thơ “Đất nước” trích phần đầu của chương trường ca “Mặt đường khát vọng”, bản trường ca viết về sự thức tỉnh một thế hệ thanh niên thời chống Mỹ viết về truyền thống lịch sử hào hùng của đất nước
1 - Hình ảnh đất nước thân thương trong phong tục tập quán, trong sinh hoạt hàng ngày:
Trích đoạn “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện đất nước gần gũi trong các phong tục tập quán, trong cuộc sống, trong sinh hoạt hàng ngày. Hình ảnh đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bà ăn. Hình ảnh đất nước có trong những câu chuyện mà cha mẹ ta thường kể thời thơ ấu. Đất nước hiện lên trong truyền thống đạo lý, nghĩa tình và hình ảnh đất nước vất vả, gian khổ cho cuộc sống lao động thường ngày:
“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng”
Ngay trong phần đầu đoạn trích nhà thơ đã sử dụng tràn ngập những thi liệu của văn học dân gian, những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, những thành ngữ rất đỗi thân quen của người Việt. Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” là cụm từ mở đầu cho các câu chuyện cổ tích nuôi dưỡng tâm hồn, nuôi dưỡng ước mơ của những người Việt. Hình ảnh miếng trầu bây giờ bà ăn giúp chúng ta nhớ đến cánh trầu têm cánh phượng trong truyện cổ tích Tấm cám, nhắc chúng ta về câu chuyện trình đầy cảm động trong sự tích “Trầu Cau”, nó cũng giúp ta gợi nhớ sự khiêm nhường của người phụ nữ Việt trong tình yêu đôi lứa qua bài thơ “Mời trầu” của Hồ Xuân Hương:
“Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi”.
Hình ảnh dân mình biết trồng tre và đánh giặc gợi nhớ cho mỗi chúng ta về hình ảnh Thánh Gióng nhổ tre đằng ngà để đánh đuổi quân xâm lược phương Bắc.
2 - Hình ảnh đất nước trong chiều sâu của lịch sử, văn hóa, địa lý:
Hình ảnh đất nước được nhà thơ thể hiện trong không gian và thời gian, trong chiều sâu của lịch sử văn hóa, địa lý đất nước là nơi chúng ta sinh ra và lớn lên, nơi một cộng đồng có cùng chung tiếng nói, phong tục tập quán, đất nước trở lên lãng mạn bởi đó là nơi hò hẹn của những đôi lứa yêu nhau:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm….”
Đất nước là nơi dân bình đoàn tụ, đất là nơi chim về, nước là nơi rồng ở Lạc long quân và âu cơ đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng. “Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện hình ảnh đất nước trong chiều sâu của lịch sử văn hóa, địa lý, trong các truyền thuyết dân gian, trong các câu ca dao, tục ngữ”. Hình ảnh “em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” lấy ý một câu da xưa nói về nỗi nhớ nhung, tình cảm tương tư của những đôi lứa đang yêu. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có nhắc lại truyền thuyết và Lạc Long Quân và Âu Cơ thể thiện niềm tự hào, con rồng cháu tiên, đây là một lối diễn đạt khác nhưng cũng đồng nhất với quan niệm của Nguyễn Trãi về Tổ quốc, đất nước trong Bình Ngô đại cáo: “Như nước đại biệt ta thuở trước vốn xưng nền văn hiến đã lâu, núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc - Nam cũng khác”.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn, thể hiện truyền thống đoàn kết và ý thức trách nhiệm của mỗi một người dân Việt Nam trong việc giữ vững nền độc lập, tự chủ:
“Những ai đã khuất, những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cai
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Hình ảnh chỉ giỗ Tổ Hùng vương ngày 10/3 hàng năm:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng 10 tháng 3”
- Ca dao-
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện thế hệ thanh niên thời chống Mỹ mang trách nhiệm xả thân vì sự trường tồn của Tổ quốc:
“Em ơi em đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời”
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định mỗi tên núi, tên sông, mỗi tên xã, tên làng đều gắn liền với một sự tích hào hùng của dân tộc trong truyền thống dựng nước và giữ nước, gắn liền với những sự tích thể hiện đời sống nghĩa tình của người Việt, gắn liền với bao khát khao hoài bão, mơ ước của những thế hệ ông cha
“Những người vợ nhớ chồng, còn góp cho đất nước những núi vọng phu
Cặp vợ chồng yêu nhâu góp lên hòn trống mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại……”
Hình ảnh “núi vọng phu” dùng để chỉ núi vọng phu một danh lam thắng cảnh nổi tiếng ở đất Lạng Sơn, ca ngợi tình cảm thủy chung của phụ nữ Việt chờ chồng mà hóa đá, hình ảnh “núi bút, non nghiêng” là tên những hòn núi đẹp ở tỉnh Quảng Ngãi thể hiện truyền thống hiếu học của dân tộc Việt, điều này đã được tiến sỹ Nguyễn Siêu thể hiện trong 3 chữ khắc trên đá ở đền Ngọc Sơn-Hà Nội “Tả thiên thanh” (viết lên trời xanh)
4 - Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định đất nước của nhân dân, đồng thời ca ngợi những người anh hùng vô danh trong lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước: “Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Họ đã sống và chết giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước”
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định nhân dân chính là người đã sáng tạo mọi của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, nhân dân đã lưu giữ truyền thống yêu nước bất khuất, kiên cường và những truyền thống đạo lý cao đẹp của con người Việt Nam:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân”
Con người Việt nam trong tình yêu lứa đôi thì thắm nồng mãnh liệt thủy chung trước kẻ thù, biết nhẫn nại chịu đựng chờ thời cơ và bất khuất kiên cường, trong tính cách mỗi con người Việt Nam đều thắm đượm tình cảm lạc quan, yêu đời:
“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại, như vậy Nguyễn Khoa Điềm đã kế thừa những ý tưởng tiến bộ của các danh nhân trong quá khứ về sức mạnh vũ bão của nhân dân, của dân tộc. Nguyễn Trãi từng viết: “lật thuyền mới biết sức dân như nước”
Bài thơ “Đất nước” trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện hình ảnh đất nước trong chiều sâu của lịch sử văn hóa, địa lý. Nhà thơ đã sử dụng tràn ngập những thi tứ của ca dao, dân ca, những hình ảnh của truyện cổ tích, truyền thuyết tạo lên một vẻ đẹp lung linh cho đất nước Việt Nam đúng như lời nhà thơ Huy Cận viết trong bài thơ “Đi trên mảnh đất này”:
“Sống vững trãi bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa
Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa”
=====================
Phân tích hình ảnh thiên nhiên và cái tôi trữ tình trong đoạn thơ sau:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
(Vội vàng – XD – Ngữ văn 11, tập II, NXB GD 2008, tr 22).
A/ Đặt vấn đề:
Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, là nhà thơ lãng mạn nổi tiếng trong văn học VN thời kỳ 1930 – 1945. Ông được mệnh danh là nhà thơ của “mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ”, nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới. Nhiều sáng tác thơ ca của XD được thể hiện bằng ngôn ngữ thơ hiện đại, tinh tế, ảnh hưởng thơ phương Tây khá sâu đậm, đồng thời mang những nội dung vừa truyền thống, vừa hiện đại với cái tôi trữ tình mang nét phong cách riêng của Xuân Diệu. Điều này ta có thể thấy trong đoạn trích sau đây trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu:
“Tôi muốn tắt nắng đi
…………………..
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
B/ Giải quyết vấn đề:
*/ Những yếu tố cội nguồn về gia đình, quê hương…
Quê hương của nhà thơ XD là thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, mảnh đất nơi đây có non xanh nước biếc nhưng là 1 miền quê nghèo khó ở miền Trung, Hà Tĩnh cũng là mảnh đất của những danh nhân hào kiệt lỗi lạc trong lịch sử dân tộc. Phụ thân của nhà thơ tên là Ngô Xuân Thọ, đỗ tú tài kép Hán học, vào Bình Định lấy bà hai tên là Phạm Thị Hiệp và sinh ra XD tại Vạn Gò Bồi, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Kế thừa những truyền thống tốt đẹp của quê hương và của gia đình, XD lại được đào tạo bài bản dưới mái trường Pháp – Việt, điều này đã làm nên 1 hồn thơ XD yêu thiên nhiên, muốn giao cảm với cuộc đời, thơ XD mang đậm 1 cái tôi trữ tình nồng nhiệt, cuống quýt, nhiều ham hố và đắm say.
Mở đầu bài thơ Vội vàng nhà thơ XD mong ươc đoạt quyền của thượng đế để “tắt nắng”, để “buộc gió”, để giữ lại những sắc màu huyền diệu của nhân gian:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Vội vàng là 1 cõi thiên đường của màu sắc, hương vị và âm thanh, nhà thơ đã sử dụng điệp ngữ “tôi muốn”, sử dụng điệp từ “cho”, sử dụng những động từ như “tắt, buộc, bay” nhằm thể hiện ước nguyện được giữ lại những màu sắc lộng lẫy của thiên nhiên, những làn gió huyền diệu của thiên nhiên. Đây chính là 1 quan niệm mới mẻ dường như chưa từng có trong thơ ca truyền thống. Trong văn học phương Đông, con người thường phải cúi đầu trước những thế lực của tôn giáo, của thánh thần, cái tôi cá nhân hiếm khi được bộc lộ. Những hình ảnh thơ trên đây XD ít nhiều học hỏi từ những ý tưởng tiến bộ của văn học Châu Âu. Sếchxpia – nhà viết kịch vĩ đại của nước Anh từng ca ngợi hết lời về con người: “Kỳ diệu thay là con người về vẻ đẹp con người là kiểu mẫu của muôn loài, về trí tuệ con người sánh ngang tài thượng đế”.
Trong đoạn trích trên đây nhà thơ XD đã chứng tỏ mình là ông hoàng của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ, đây là vẻ đẹp của thiên nhiên, mùa xuân, của trần thế bộn bề màu sắc hương vị và âm thanh, mùa xuân vi vu tiếng ong bay, những bông hoa tươi thắm của đồng nội xanh rì, những lá non tơ phơ phất trong những làn gió nhẹ: “Của ong bướm này đây tuần tháng mật – Này đây hoa của đồng nội xanh rì – Này đây lá của cành tơ phơ phất”. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp điệp này đây, từ láy phơ phất và cụm từ “Tuần tháng mật” để thể hiện 1 mùa xuân tràn đầy sức sống trong sáng, tinh khiết, khác với truyền thống con người thường ước mơ tìm hạnh phúc ở chốn bồng lai tiên cảnh, ở thiên đường, ở cõi niết bàn. Nhà thơ XD đã kéo tuột thiên đường xuống mặt đất. Đây chính là 1 quan niệm hiếm thấy trong thơ ca truyền thống của phương đông.
Hình ảnh “Tuần tháng mật” có thể có 2 ý nghĩa khác nhau, thứ nhất dùng để chỉ tuần trăng mật, theo phong tục của người Châu Âu các đôi trai gái yêu nhau sau khi cử hành hôn lễ thường có 1 tuần đi du lịch để cảm nhận những hạnh phúc ngọt ngào của tình yêu lứa đôi, ta thấy hình ảnh “tuần tháng mật” có thể hiểu theo nghĩa thứ 2, người Pháp có thói quan gọi tên từng tháng trong năm dựa trên những đặc điểm của thiên nhiên, tháng mật, tháng sương mù… tháng mật ở đây dùng để chỉ tháng giêng, tháng khởi đầu của mùa xuân, thiên nhiên trong những thời khắc đầu tiên của mùa xuân cũng tinh khôi, tươi trẻ như tâm hồn con người.
Ta thấy hình ảnh thiên nhiên của mùa xuân trong bài thơ Vội vàng của XD chính là hình ảnh mùa xuân của tình yêu, bốn mùa thiên nhiên đều tươi đẹp nhưng đẹp nhất đối với tuổi trẻ, đối với tình yêu đó là mùa xuân khi lá non nhú lộc đâm chồi: “Của yến anh này đây khúc tình si – Và này đây ánh sang hớp hàng mi – Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa – Tháng giêng ngon như 1 cặp môi gần – Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa – Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”, nhà thơ trẻ tuổi cảm nhận từ những hình ảnh của thiên nhiên mùa xuân mang những khúc hát mê say của tình yêu lứa đôi, đó là tiếng chim yến, chim anh đang dạo khúc tình si, nhà thơ sử dụng hình ảnh so sánh hết sức độc đáo và mới mẻ “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” ví thiên nhiên đẹp ngang bằng với vẻ đẹp của con người và sử dụng biện pháp chuyển đổi các giác quan để cảm nhận thiên nhiên, chính là yếu tố nghệ thuật hết sức tinh vi và hiện đại mà XD học hỏi từ thơ ca phương Tây.
Trong văn học phương Đông các nhà thơ xưa thường dùng vẻ đẹp của thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người:
“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Nhà thơ rất nhiều lần sử dụng điệp từ “tôi” thể hiện cảm xúc của cá nhân nhà thơ trước vẻ đẹp tươi non của mùa xuân, của tình yêu nhưng đó chính là sự biểu hiện của sự xuất hiện cái tôi cá nhân, một điều hoàn toàn mới mẻ so với thơ ca phương đông.
2 – Cái tôi trữ tình.
Trong đoạn trích trên đây nhà thơ XD đã thể hiện cảm nhận của cá nhân mình về cai đẹp, thiên nhiên từ ngàn đời vẫn mang vẻ đẹp như thuở nguyên sơ nhưng XD đã nhìn cuộc đời bằng ánh mắt xanh non nên mới phát hiện ra vẻ đẹp huy hoàng ấy, bài thơ mở ra với sự hiện diện của một cái tôi trữ tình đứng giữa đất trời trong lứa tuổi thanh xuân của cuộc đời nhà thơ ngơ ngác và sung sướng phát hiện vẻ đẹp của thiên nhiên.
Nhà thơ XD cũng cảm nhận được những bước đi hết sức lạnh lùng của thời gian và sự cô đơn của con người giữa cuộc đời, cảm nhận về thời gian luôn là mối rung động xôn xao nhất của XD, nhân vật trữ tình xuất hiện với 1 ý muôn ngông cuồng muốn dừng thời gian lại để tận hưởng những năm tháng thanh xuân tươi đẹp nhất của đời người. Trong đoạn thơ sau XD có viết: “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng 2 lần thắm lại”
Trong văn học phương đông, người xưa từng nói nhiều về dòng chảy vô tình của thời gian và sự ngắn ngủi của đời người, nhà thơ Đỗ Phủ (Trung Quốc) sợ thời gian trôi mau, sợ mùa xuân chóng tàn phai nên đã:
“Tiếc xuân đốt đuốc để chơi đêm”
C/ Kết luận:
Bài thơ Vội vàng được trích trong tập “Thơ thơ” xuất bản năm 1938 đã thể hiện được phong cách độc đáo của thơ XD, nhà thơ trẻ tuổi và nhất là trẻ lòng ấy đã ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên mùa xuân, ca ngợi tình yêu và tuổi trẻ, đồng thời thể hiện cai tôi trữ tình đầy ham hố và vồ vập trước những vẻ đẹp quyến rũ của thiên nhiên, của trần thế nhưng trong thơ XD có những cảm nhận về dòng chảy nghiệt ngã của thời gian và nỗi buồn, nỗi cô đơn của 1 thế hệ thanh niên trí thức sống trong thân phận người dân mất nước trước năm 1945.
Anh hay chị hãy phân tích tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân.
A/ Đặt vấn đề:
Nguyễn Tuân – sn 1910, mất năm 1987, quê ở làng Mọc, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Trước CMT8 Nguyễn Tuân là nhà văn nổi tiếng ở 2 thể lại truyện ngắn và tùy bút. Tập truyện ngắn “Vang bóng một thời” xuất bản năm 1940 đã tạo ra vị trí vững chắc cho Nguyễn Tuân trên văn đàn. CMT8 thành công Nguyễn Tuân hăng hái tham gia CM và trở thành 1 cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. Tùy bút Người lái đò sông Đà được trích trong tập tùy bút Sông Đà được Nguyễn Tuân sáng tác năm 1960, trong tùy bút này nhà văn Nguyễn Tuân đã miêu tả hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình trong chiều sâu của lịch sử, văn hóa, địa lý đồng thời ca ngợi người lái đò sông Đà yêu nghề, dũng cảm và tài hoa trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh.
B/ Giải quyết vấn đề:
1 – Hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình trong chiều sâu của lịch sử, văn hóa, địa lý.
Tùy bút Người lái đò sông Đà là kết quả chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958 của nhà văn Nguyễn Tuân. Thiên nhiên tươi đẹp và cuộc sống lao động ở nơi đây đã tạo nên nguồn cảm xúc vô tận cho nhà văn. Nguyễn Tuân đã viết về hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, uy nghiêm, vừa tuyệt vời thơ mộng và ông đã đặc tả con sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình trong chiều sâu của lịch sử văn hóa địa lý.
Với cách quan sát nhạy bén nhà văn đã phát hiện ra vị trí địa lý đặc biệt của con sông Đà khiến dòng sông như 1 hung thần ở miền Bắc Việt Nam. Ông đã trích dẫn thơ của Nguyễn Quang Bích nhằm thể hiện vị trí địa lý đặc biệt này:
“Chúng thủy giai đông tẩu
Đà Giang độc bắc lưu
(Mọi dòng sông đều chảy theo hướng Đông
Duy chỉ sông Đà chảy theo hướng Bắc)
Sông Đà là 1 hung thần gây ra lụt lội ở đồng bằng Bắc Bộ, con sông ấy còn sống trong tâm thức người Việt qua truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh và những câu ca dao xưa:
“Núi cao sông hãy còn dài
Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”
Hình ảnh con sông Đà hung bạo được thể hiện ở những khía cạnh sau: Những vách núi dựng đứng cao vút những hút nước ghê rợn, những ghềnh thác ghê rợn luôn sẵn sàng mọi con thuyền đi qua. NT đã sử dụng biện pháp nhân hóa cường điệu nhằm đặc tả sự hung dữ của thác đá:
Tiếng nước thác nghe như oán trách gì rùi lại như là van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng vằn và chế nhạo”
Nhà văn NT đã sử dụng biện pháp nhân hóa cường điệu để đặt tả các bãi đá ngầm mà nhà văn gọi là thạch trận nơi đây thường trực những mối nguy hiểm cho những người làm nghề đò dọc
NT đã miêu tả hình ảnh con sông đà trữu tinh thơ mộng dòng sông đà tuôn chảy được tác giả ví với áng tóc trữ tình của một nàng tiên ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc: “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng 2 và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”
Vẻ đẹp thơ mộng của dòng sông Đà được thể hiện ở chỗ nước của dòng sông biến đổi theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông đà ko xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô, mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”, dòng sông đà thơ mộng bởi cảnh vật hoang sơ hai bên bờ sông: “Cảnh ven sông lặng cờ, thuyên tôi trôi qua một lương ngô nhú lên mấy là ngô non đầu mùa, một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ ranh đẫm sương đêm, bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, đàn cá dầm xanh nhảy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”.
Nhà văn NT đã ca ngợi dòng sông Đà trong một công trình khảo cứu công phu và đặt hình ảnh dòng sông Đà trong chiều sâu của lịch sử, VH, địa lý, dòng sông trở thành người bạn tâm tình trở thành nhân chứng lịch sử cho những buồn vui trong số phận của người dân Tây Bắc
2/ Hình ảnh người lái đò yêu nghề, dũng cảm tài hoa
Tuy bút người lái đò sông Đà của NT đã ca ngợi người lái đò sông Đà yêu nghề dũng cảm và tài hoa như một người nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác leo nghềnh, ông lái đò đã có thâm niên trong nghề ngoại hình của ông được nhà văn miêu tả phù hợp với nghề sông nước: “Tay ông lêu ngêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi, cái đầu quắc thước đặt lên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun…”
Người lái đò sông Đà là con người yêu nghề, trên dòng sông Đà nguy hiểm thuyền của ông đã xuôi ngược trên 100 lần, nhà văn NT đã sử dụng bút pháp đặc tả người lái đò sông Đà dũng cảm và tài hoa nhu một người nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác leo nghềnh, ông nhớ từng thác nước từng dòng xoáy nước ngầm, từng thạch trận mỗi lần chèo thuyền ông như bước vào cuộc chiến đấu thực sự: “ nước bám lấy thuyền như đô vật, tóm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa người ra giữ nước trời thanh la lão bản, nhưng ông đò cố lén vết thương… ông đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá”
Nhà văn NT đã ca ngợi tình cảm yêu quê hương, đất nước tâm hồn lãng mạn yêu đời của người lái đò sông Đà: “Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lang và toàn bàn về cá Anh Vũ, cá dầm xanh.
Trước CMT8 những nhân vật trong văn NT thường là những nho sĩ phong kiến, những con người tài hoa bất đắc trí, ông khai thác những nét nhân vật dưới góc độ tài hoa nghệ sĩ của họ, với tuy bút người lái đò sông Đà ta thấy có sự chuyển biến trong tư tưởng nhà văn, nhà văn đã sử dụng ngòi bút để ca ngợi thiên nhiên tươi đẹp của TQ, ca ngợi những người lao động bình thường trong XH mới, tuy nhiên ông vẫn hết sức nhất quán trong phong cách viết, ông vẫn khai thác vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ trong mỗi con người.
3, NT đặc sắc của tuy bút người lái đò Sông Đà
Tùy bút người lái đò sông Đà là 1 công trình khảo cứu công phu về con sông Đà từ vị trí địa lý tới màu nước sông, thiên nhiên hai bên dòng sông lai lịch của dòng sôngg đà từ khi nó ở TQ chảy sang VN nhà văn đã sử dụng thủ pháp nhân hóa đặc tả để miêu tả con sông đà hung bạo và trữ tình, mặc dù tác phẩm đượcviết theo thể loại tuy bút, một thể loại văn xuôi sử dụng lối viết ngẫu hứng nhưng tính cách người lái đò sông đà hiện lên khá rõ nét
Tùy bút người lái đò sông Đà là kết tinh chất liệu thực tế trong chuyến đi TB năm 1958 của Nhà văn NT, tác phảm được coi là 1 thiên tùy bút đặc sắc của nền VHVH hiện đại, nó chính là biểu hiện cụ thể tình yêu quê hương đất nước của nhà văn
Phân tích bài thơ “Đây thôn vĩ dạ” của Hàn Mặc Tử
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc chen ngang mặt chữ điền
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trăng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.
A- Đặt vấn đề:
Hàn Mặc Tử (1912-1940) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí, sinh tại làng Lệ Mỹ, thị xã Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình nhưng sau đó gia đình ông chuyển vào Quy Nhơn, Bình Định sinh sống.Trước cách mạng tháng Tám, Hàn Mặc Tử là một nhà thơ lãng mạn, nổi tiếng, tài năng nhưng có cuộc đời bất hạnh. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho sự nghiệp thơ ca của Hàn Mặc Tử, nó được trích trong tập “Thơ điên” xuất bản năm 1938 (sau tập thơ này đổi tên là Đau thương). Trong bài thơ này, Hàn Mặc Tử đã ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên và con người xứ Huế, qua đó thể hiện tâm trạng của một chàng trai đang yêu trong một mối tình có lẽ là đơn phương.
Trong lịch sử thơ ca Việt bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ có khá nhiều ý kiến khác nhau, có những ý kiến cho rằng bài thơ chỉ đơn thuần ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên và con người xứ Huế nhưng chúng ta tán đồng với ý kiến. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã thể hiện được vẻ đẹp của thiên nhiên thôn Vĩ dạ trong bình minh và trong đêm trăng. Đồng thời, thể hiện tâm trạng của một chàng trai đang yêu, trong một mối tình có lẽ là đơn phương với rất nhiều nhớ nhung, hờn giận, trách móc và cả lời thề thủy chung, son sắt.
Thôn Vĩ Dạ là một làng nhỏ nằm ven bở sông Hương, nơi đây có vẻ đẹp trên bến, dưới thuyền, có những ngôi nhà vườn nổi tiếng, đồng thời là nơi ở của gia đình Hoàng Cúc (Hoàng Thị Kim Cúc). Khi còn là nhân viên tập sự của Sở Đạc điền, Thừa thiên Huế. Hàn Mặc Tử đã nhiều lần tới thăm gia đình Hoàng Cúc và đem lòng thầm yêu, trộm nhớ cô con gái của vị chủ sở Đạc Điền. Ở trong khổ thơ đầu tiên của bài thơ “Đây thôn vĩ dạ”, nhà thơ Hàn Mặc Tử đã đặc tả vẻ đẹp trong sáng, tinh khiết của thôn Vĩ dạ trong ánh nắng ban mai:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc chen ngang mặt chữ điền”
Nhà thơ đã sử dụng câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”, có lẽ Hàn Mặc Tử đã mượn lời Hoàng Cúc trách khéo thi nhân đã lâu không tới thôn Vĩ Dạ để tới về những kỷ niệm thuở đầu đời, long lanh như nắng lụa. Trong 3 câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã sử dụng điệp từ “nắng”, biện pháp so sánh xanh như ngọc và hình ảnh tượng trưng mặt chữ điền để ca ngợi vẻ đẹp tinh khôi của thôn Vĩ dạ trong buổi bình minh, hình ảnh thôn Vĩ dạ hiện lên với những hàng cau trong nắng mới, với những vườn cây lá xanh nhung như ngọc và hình ảnh gương mặt nhân hậu của những người dân xứ Huế thấp thoáng bên lá trúc.
Ta thấy, toàn bộ 4 câu thơ trên có lẽ chính là những hồi ức cháy bỏng của Hàn Mặc Tử, về thôn Vĩ dạ và những kỷ niệm xưa bởi khi nhà thơ sáng tác bài thơ này, Hàn mặc Tử đang trốn tránh người đời để chữa bệnh tại xóm Tấn, một làng chài ven biển Quy Nhơn. Hoàng Thị Kim Cúc có gửi một bức thư động viên thi sỹ chữa bệnh cho mau lành, trong bức thư đó nàng có gửi một bức hình 4- 6, chụp ảnh Hoàng Cúc mặc áo dài trắng đứng trước khóm trúc, kèm theo tấm ảnh là một bức bưu thiếp car postal, bên ngoài tấm bưu thiếp là vòng tròn đo đỏ không biết là mặt trời hay mặt trăng. Trong tâm hồn lãng mạn của thi sỹ, Hàn Mặc Tử đã miêu tả vẻ đẹp của thôn Vĩ dạ trong ánh bình minh và trong đêm trăng.
Trong khổ thơ thứ 2, Hàn Mặc Tử đã ca ngợi vẻ đẹp của thôn vĩ dạ trong đêm trăng, thôn Vĩ dạ mang vẻ đẹp của một làng quê trên bến dưới thuyền, hình ảnh dòng sông Hương trong đêm trăng trở nên lộng lẫy nhưng cũng man mác buồn:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Sông hương có gió thổi nhỏ, mây trôi chầm chậm ở phía trên, dòng nước lững lờ ở phía dưới, hoa bắp đôi bờ cũng chỉ khẽ lay, tất cả đều gợi cái thanh, cái nhẹ. Câu thơ nói cảnh mà thể hiện tâm trạng. Hai chữ buồn thiu đã biến dòng sông thành một một sinh thể có hồn, dòng sông mang nỗi nhớ, mang tâm trạng của con người. Tâm trạng của thi sỹ còn được thể hiện qua hình ảnh mây và gió. Câu thơ “gió theo lối gió, mây đường mây” và có sự phi lý về tâm trạng. Lẽ thường gió thổi, mây bay, trôi gió mây cùng chiều nhưng mà ở sông gió mây ngăn cách nhau thật quyết liệt. Gió đóng khung gió (hai chữ gió đóng khung hai đầu gió theo lối gió), mây khép kín trong mây (hai chữ mây khép vòng trở lại mây đường mây).
Rõ ràng ở đây mây và gió đã được cảm nhận qua tâm trạng của người đang soóng trong hoàn cảnh chia ly, cách biệt.
Nhớ sông Hương không thể không nhớ những đêm trăng là vẻ đẹp thơ mộng nhất của hương giang vì vậy hai câu thơ tiếp theo là những trải niệm về soong hương đêm trăng và qua đó là nỗi nuối tiếc của nhà thơ.
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Câu thơ toàn trăng: thuyền trăng, sông trăng, bến trăng, hình ảnh thuyền chở trăng là một hình ảnh đẹp đã từng xuất hiện trong thơ ca gió trăng chứa một thuyền đầy (Nguyễn Công Trứ), “Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền (Hồ Chí Minh)”.
Đặc biệt là hình ảnh sông trưng, một hình ảnh thể hiện được phong cách thơ HMT. Hiện thực mà huyền ảo, nhiều khi huyền ảo đến siêu thực. Sông trăng là ánh trăng tỏa đầy sông hay ánh trăng tuôn chảy thành dòng sông trăng. Hiểu theo cách nào thì dòng sông cũng đã từ cõi thực chảy vào cõi mộng tuy nhiên hiểu theo cách thứ hai thì sẽ thấy được tính chất siêu thực của thơ HMT. Dòng Hương Giang chảy qua Vĩdạ đã thành dòng sông trưng chảy giữa ngân hà.
Nếu hiểu mang nghĩa tả thực thì những hình ảnh gió, mây, biện pháp nhân hóa, dòng nước buồn thiu và hình ảnh hoa bắp lay dùng để chỉ phong cảnh thiên nhiên quen thuộc của những làng quê ven sông, nhưng hình ảnh gió, mây cũng có thể mang theo nghĩa tượng trưng dùng để chỉ số phận của mỗi người đi theo một hướng. Câu hỏi tu từ có chở trăng về kịp tối nay mang ý nghĩa tượng trưng, dùng để chỉ Hoàng Cúc. Khi chữa bệnh tại xóm Tấn ở Quy Nhơn, nhiều lần Hàn Mặc Tử đã nghĩ về cái chết và nguyện ước gặp lại người mình yêu mến là một suy nghĩ hết sức biện chứng.
Trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ’ nhà thơ Hàn M ặc Tử đã thể hiện tâm trạng của chàng trai đang yêu với rất nhiều nhớ nhung, mong ước và cả những trách móc, hờn giận.
Khổ thơ đầu tiên của bài thơ đã thể hiện nỗi nhớ của Hàn Mặc Tử về những kỷ niệm xưa, thôn vĩ dạ những năm tháng tuổi trẻ và gương mặt chữ điền của Hoàng Cúc.
Ở khổ thơ thứ 2, nhà thơ Hàn Mặc Tử đã thể hiện niềm mong ước được gặp người thương trong hoàn cảnh cô đơn, bệnh tật, niềm mong ước gặp gỡ đấy tưởng chừng như hết sức thống thiết:
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Hàn Mặc Tử đã kế thừa thi ca Việt hình ảnh trăng, trăng nhiều khi biểu tượng cho gương mặt đẹp của người con gái
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây khua nước tóc tuyết nhường màu da
- truyện Kiều , Nguyễn Du
Trong sự nghiệp thơ ca của Hàn Mặc Tử, hình ảnh trăng nhiều lần cũng trở thành biểu tượng cho khuôn mặt của những cô gái xinh đẹp, tinh nghịch
“Trăng nằm sõng xoài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi”
- Bẽn lẽn- Hàn Mặc Tử
Trong khổ thơ kết, nhà thơ Hàn Mặc Tử đã thể hiện tâm trạng của một chàng trai đang yêu mong ước những người khách đường xa tới thăm mình, đồng thời thể hiện tình cảm thủy chung đối với người mà mình yêu thương:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trăng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.
Tác giả sử dụng biện pháp điệp ngữ khách đường xa và hình ảnh mơ để thể hiện nỗi nhớ nhung và niềm mong ước gặp mặt. Hình ảnh áo trắng là biểu tượng cho mối tình trong trắng, cho vẻ đẹp thanh cao mà Hàn Mặc Tử nghĩ về Hoàng Thị Kim Cúc. Nhà thơ sử dụng đại từ phiếm chỉ “ai” vừa thể hiện tình cảm thủy chung, vừa như một lời trách móc, hờn giận.
Khi Hàn Mặc Tử mất năm 1940, Chế Lan Viên người bạn thân thiết của Hàn Mặc Tử từng nhận xét về sự nghiệp thơ ca của vị chúa trong trường thơ “Loạn”: “Hàn Mặc Tử như một ngôi sao băng chói lọi bay qua bầu trời thi ca Việt Nam, nếu mai đây tất cả những cái tầm thường trong cõi đời này tan biến đi còn một chút gì đó của thời đại này thì đó chính là Hàn Mặc Tử, Hàn Mặc Tử sống mãi trong đời sống tâm hồn người Việt bởi ông đã ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên và vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam mà bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một điển hình tiêu biểu nhất.
Hãy viết một bức thư cho một bạn sinh viên ở nước ngoài chứng minh rằng truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chương trình văn học Việt Nam (thí sinh có thể lấy dẫn chứng ở chương trình lớp 12 và cả những phần tự học tự đọc).
Bạn Tania, Khoa văn Đại học Matcơva thân mến!
Đầu thư, tôi xin gửi lời kính chúc sức khỏe tới gia đình bạn, chúc bạn mạnh khỏe, học giỏi, thành đạt trong cuộc sống.
Nước Nga cách xa nước Việt Nam hàng vạn dặm nhưng trong trái tim mỗi người Việt Nam chúng tôi, chúng tôi luôn nhớ về những người bạn Nga nhân hậu, thủy chung đã giúp đỡ chúng tôi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Để bạn hiểu hơn nữa về đất nước Việt Nam và con người Việt Nam, trong bức thư nhỏ này tôi muốn nói với bạn về truyền thống yêu nước bất khuất, kiên cường trong sự nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc Việt là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chương trình văn học Việt Nam.
Đất nước Việt Nam trong suốt hơn 4 ngàn năm lịch sử tồn tại và phát triển, dân tộc chúng tôi luôn phải đương đầu với những cuộc chiến tranh xâm lược của bọn phong kiến phương bắc hết sức hung bạo và tàn ác. Chúng tôi phải vừa chiến đấu, vừa phải xây dựng đất nước để giữ được nền độc lập dân tộc,, người Việt đã ghi lại những truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm tinh thần bất khuất kiên cường của dân tộc Việt trong các câu ca dao, tục ngữ, trong các truyền thuyết và những tác phẩm văn học viết. Những tình cảm yêu nước, bất khuất, kiên cường trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm có nhiều biểu hiện cụ thể, yêu nước có nghĩa là yêu một dòng sông quê hương, yêu cây đa, giếng nước sân đình, yêu những người dân thuần hậu, cần cù, lao động và kiên cường bất khuất trong chiến đấu. Những tình cảm yêu nước còn được thể hiện ở niềm tự hào dân tộc, tự hào về truyền thống văn hóa, lịch sử và ý thức bảo vệ độc lập, chủ quyền: “Như nước Đại Việt ta thuở trước vốn xưng nền văn hiến đã lâu núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc-Nam cũng khác từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương, tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau song hào kiệt đời nào cũng có”
Bình Ngô Đại cáo năm 1928, Nguyễn Trãi
Những tình cảm yêu nước bất khuất kiên cường trong lịch sử chống ngoại xâm được thể hiện tràn ngập trong các áng thơ văn, trong các ca dao, tục ngữ, trong truyền thống của văn học dân gian. Sự tích Thánh Gióng ca ngợi anh hùng người làng Phù Đồng mới 3 tuổi đã nghe theo lời kêu gọi của non sông đứng lên đánh tan giặc Ân xâm lược. Sau khi chiến thắng, Thánh Gióng đã cưỡi ngựa sắt bay về trời.
Bạn thân mến!
Trong lịch sử nước tôi, không phải bất cứ khi nào dân tộc tôi cũng chiến thắng. Trước các thế lực ngoại xâm xâm lược, mưu mẹo, xảo quyệt, người Việt Nam đã nhắc nhở con cháu hãy cảnh giác qua câu chuyện An Dương Vương, Thục Phán bị mất nước trước những mưu kế của Triệu Đà:
Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu
Trái tim vô ý để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu
- Tố Hữu-
Tình cảm yêu nước được biểu hiện trong những điều hết sức giản dị, yêu một dòng sông, quê hương, yêu những người dân lao động một sương, hai nắng: “Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước hương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Tỏa nắng xuống dưới dòng sông lấp loáng
Chả biết nước có giữ ngày, giữ tháng
Giữ bao nhiêu kỷ niệm giữa dòng trôi”
- Nhớ con sông quê hương của Tế Hanh-
Những tình cảm yêu nước, bất khuất kiên cường của dân tộc Việt Nam còn được thể hiện ở lòng căm thù cháy bỏng đối với quân xâm lược. Đại thi hào dân tộc Nguyễn Trãi đã tố cáo những tội ác trời không dung, đất không tha của giặc Minh xâm lược:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh, kết oán trải 20 năm”
Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ 2, nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã tố cáo những tội ác dã man, tàn bạo của chúng:
“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều”
- Đất nước -
Những tình cảm yêu nước chống giặc ngoại xâm của dân tộc tôi còn được thể hiện ở truyền thống chính nghĩa, truyền thống nhân đạo của con người Việt Nam, con người Việt Nam trong suốt 4 nghìn năm lịch sử luôn giàu lòng nhân ái nhưng cũng hết sức kiên cường:
“Sống vững trãi 4 nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa
Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa”
- Đi trên mảnh đất này của Huy Cận -
Trong những áng văn thơ bất tử của dân tộc tôi, nhiều nhà thơ đã ca ngợi hình ảnh người lính trong chiến tranh chính nghĩa mang những phẩm chất trong sáng, cao đẹp, dũng cảm, kiên cường trong chiến đấu, giản dị, khiêm nhường, đây là hình ảnh anh giải phóng quân trong bài thơ Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân :
“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng anh gượng đứng lên tỳ súng trên xác trực thăng
và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng
Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân anh tránh đạn
Bởi anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công”
Trước những cuộc chiến tranh xâm lược hung bạo của những thế lực phong kiến đế quốc, hùng mạnh nhất mọi thời đại, người Việt Nam luôn dương cao truyền thống chính nghĩa, trước chính nghĩa của dân tộc tôi quỷ dữ cũng phải cúi đầu. Quân Nguyên đã từng chiếm một nửa Châu Á, đã từng đốt cháy kinh thành Matcova của nước Nga nhưng 3 lần bị thảm bại trước nước Việt Nam chúng tôi. Ở thời hiện đại, Pháp, Mỹ là những cường quốc trên thế giới, nhưng dân tộc chúng tôi đã dùng cả xương máu của chính mình để bảo vệ nền độc lập dân tộc với niềm mong ước sẽ xây dựng được một đất nước hùng cường như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết trong lời kêu gọi kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1966: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố lớn có thể bị tàn phá song nhân dân Việt Nam quyết không sợ, không có gì quý hơn độc lập và tự do. Đến ngày thắng lợi ta sẽ xây dựng tổ quốc ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Đề: Anh hay chị hãy bình giảng khổ thơ sau trong bài sóng của XQ:
“ Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm ko ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
cả trong mơ còn thức”
A/ Đặt vấn đề:
cách 1: XQ tên thật là nguyễn thị XQ sinh năm 1942 tại thôn La khê, xã Văn Khê, Quận Hà Đông, TP HN, XQ thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kc chống Mĩ cứu nước, Bà có những bài thơ hay nhất viết về tình mẫu tử và đề tài TY, bài thơ sóng được XQ sáng tác năm 1967 là 1 trong những bài thơ hay nhất của thơ ca VN hiện đại viết về đề tài TY đôi lứa trong bài thơ này nhà thơ đã sáng tạo thành công hình tượng sóng nhằm thể hiện tâm trạng của người phụ nữ đang yêu với nỗi nhớ nhung tình cảm thủy chung lòng vị tha và đức hi sinh của ng phụ nữ khi đang yêu. đặc biệt khổ thơ sau đây đã thể hiện thành công những nội dung chính của bài thơ:
“ Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm ko ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
cả trong mơ còn thức”
Cách 2: Đoạn trích sau đây trog bài thơ sóng của XQ đã thể hiện tài năng của XQ khi sáng tạo thành công hình tượng sóng nhằm thể hiện nỗi nhớ nhung tình cảm tương tư của người phụ nữ đang yêu:
“ Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm ko ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
cả trong mơ còn thức”
B/ Giải quyết vấn đề
* Thơ ca bao giờ cũng mang ngọn lửa nồng nàn trong cảm xúc của thi nhân, ngọn lửa nồng nàn ấy được thể hiện trong 1 hệ thống thơ cô đọng giàu hình ảnh, nhạc điệu, bài thơ sóng của XQ từng làm rung động trái tim của bao đôi lứa yêu nhau vì nó đã kết hợp hài hòa 2 yếu tố: cảm xúc và ngôn ngữ thơ (chỉ khi phân tích thơ mới cho câu này vào).
bài thơ sóng được XQ sáng tác năm 1967 tại cửa biển diêm điền được in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào năm 1968, XQ đã sáng tạo thành công hình tượng sóng nhằm thể hiện tâm trạng của người PN đang yêu đang tìm cách lý giải những câu hỏi môn đời của tình yêu thể hiện nỗi nhớ nhunng tình cảm thủy chung lòng vi tha và đức hi sinh của người PN.
Trong đoạn trích nhà thơ XQ đã SD hết sức biến ảo hình tượng sóng nhằm thể hiện nỗi nhớ nhung tình cảm tương tư của người pn đang yêu: “Con sóng dưới lòng sâu, con sóng trên mặt nước, ôi con sóng nhớ bờ, ngày đêm ko ngủ được, lòng em nhớ đến anh, cả trong mơ còn thức.
Trog 2 câu thơ đầu tác giả sd điệp ngữ con sóng và biện pháp tiểu đối dưới lòng sâu trên mặt nước nhằm miêu tả những con sóng của biển khơi xa mênh mông:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước”
Trong thơ ca việt hình tượng sóng thường dùng theo nghĩa tả thực dùng để chỉ những làn sóng xao động lăn tăn trên mặt ao hồ đến những làn sóng trùng trùng lớp lớp trên những dòng sông lớn cho tới những con sóng bạc đầu của biển khơi:
“ Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Thu điếu – Nguyễn khuyến
Nhưng hình tượng sóng còn mang ý nghĩa tượng trưng dùng để chỉ tâm trạng đầy xao xuyến của con người khi chia xa:
“ Đưa người ta ko đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều ko thắm ko vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong”
(Tống biệt hành – Thâm Tâm)
Trong đoạn trích trên đây XQ đã miêu tả hình tượng sóng với hình tương yêu để thể hiện nỗi nhớ nhung vượt qua mọi giới hạn time, ko gian nhà thơ sd biện pháp nhân hóa con sóng nhớ bờ ko ngủ được thể hiện nỗi nhớ khôn nguôn trong trái tim người PN đang yêu hình bóng chàng trai mà mình yêu dấu.
Nỗi nhớ nhung t/cảm tương tư là 1 tình cảm thiêng liêng và cao quý trong tình yêu lứa đôi. cách đây 5000 năm trong Kinh thi của TQ:
“ Con người vừa nhã vừa xinh
hẹn anh ra ở góc thành gặp nhau
Đợi mình chẳng thấy mình đâu
Để anh luống những xoa đầu băn khoăn”
Nhà thơ XQ khi nói về nỗi nhớ người mình yêu dấu đang ở trong 1 hoàn cảnh đặc biệt đang đứng trước ngã ba của cuộc đời, đứng trước 1 sự lựa chọn tìm đến 1 ty lớn đích thực có sự rung động chân thành, mãnh liệt và thắm thiết trong TY:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Hình tượng sóng và hình tượng em trong bài thơ sóng của XQ in đậm vẻ đẹp nữ tính là tiếng nói của 1 tâm hồn giàu lòng chắc ẩn, chân thành mãnh liệt ra diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường, nỗi nhớ của XQ cũng giống như những con sóng kia ở mọi cung bậc của nó nỗi nhớ của XQ vượt mọi giới hạn của thời gian và ko gian trong TY lứa đôi các nhà thơ thường sử dụng từ nhớ, mơ để thể hiện nỗi nhớ khôn nguôi của những đôi lứa yêu nhau. Puskin, “mặt trời thi ca” của nước Nga:
“ Anh nhớ mãi phút dây huyền diêu
Trước mặt anh, em bỗng hiện lên
Như hư ảnh mong manh vụt biến.
Như thiên thần sắc đẹp trắng trong”
Bài gửi K (Anna Kenơnơ)
XQ sinh trưởng ở thôn La khê, xã Lã khê 1 trong 5 làng La cũ của Hà Đông cũ. XQ cũng như các cô gái của làng La cần củ chăm chỉ, XQ gặp ít nhiều éo le bất hạnh trog đời tư, mẹ chết sớm, phải tự lập khi mới học hết lớp 6, trước khi đến với sự nghiệp thơ ca XQ từng công tác tại đoàn ca múa TW, những thiếu thốn trong tình mẫu tử và trong tình yêu đã được XQ thể hiện trong những bài thơ cháy bỏng khát vọng trong 2 đề tài này
Trong lĩnh vực thơ ca, XQ còn là 1 tấm gương cho sự nỗ lực tự học để vươn tới sự nghiệp đỉnh cao của thơ ca, bài thơ sóng bài thơ thuyền và biển” là những tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp thơ ca của XQ
C/ KL
Đoạn trích trên đây đã thể hiện khá đầy đủ nghệ thuật làm say đắm lòng người trong thơ của XQ và thể hiện những tình cảm say đắm nhất, chân thành nhất của XQ trong tình yêu và XQ như đang nói giúp những đôi lứa yêu nhau nhưng tình cảm riêng tư sâu kín nhất mang vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ VN.
Đề: Phân tích hình tượng nhân vật Tnú trong truyện ngắn RXN của NTT
A/ Đặt vấn đề
NTT tên khai sinh là Nguyễn Văn Báu sinh năm 1932 tại huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, mảnh đất thép kiên cường và anh dũng của miền Trung Trung bộ ông thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong 2 cuộc kháng chiến chống pháp và chống mĩ, truyện ngắn RXN được NTT sáng tác vào mùa hè năm 1965 khi đế quốc Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền nam nước ta trog truyện ngắn này, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tnú trở thành 1 hình tượng nhân vật điển hình mang những nét tính cách cao đẹp tiêu biểu cho những phẩm chất của người dân Tây Nguyên yêu nước, căm thù giặc, thủy chung với lý tưởng của đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc có tình cảm riêng tư, trong sáng.
Trong cuộc đời của mỗi nhà văn, họ đều mơ ước sẽ xây dựng được những hình tượng nhân vật điển hình trong hoản cảnh điển hình. Hình tượng nhân vật điển hình là nhân vật trung tâm trong tác phẩm văn học. Nhân vật này mang những nét tính cách chung, đại diện cho một lớp người, một thế hệ nhất định trong xã hội. Đồng thời, có những cá tính mà chỉ nhân vật ấy mới có, những nét tính cách nhân vật được thể hiện thông qua ngoại hình, lời nói, cử chỉ và hành động, đặc biệt là suy nghĩ nội tâm của nhân vật. Nhân vật Tnú là hình tượng nhân vật điển hình trong truyện ngắn rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
Trong cuộc đời của mỗi nhà văn họ đều mơ ước sáng tạo được những nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Nhân vật điển hình là nhân vật trung tâm trong tác phẩm văn học, nhân vật này mang những nét tính cách chung đại diện cho một lớp người, một thế hệ nhất định trong xã hội, đồng thời có những cá tính, những tính cách nhân vật được thể hiện thông qua ngoại hình, lời nói, cử chỉ, hành động và suy nghĩ nội tâm (tâm trạng, tâm lý)
Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã sử dụng lời nói, cử chỉ của Tnu nằm tô đậm tính cách anh hùng của anh. Những phẩm chất trong sáng, cao đẹp trong tâm hồn anh: “Yêu quê hương, có tình yêu lứa đôi trong sáng, thủy chung, giàu lòng vị tha, mưu trí, thông minh, kiên cường, bất khuất trước kẻ thù”. Tnú là một cậu bé trung thực có hoàn cảnh éo le, Tnú mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, dân làng Xôman nuôi Tnú, cụ Mết có nhận xét về Tnú: “bụng Tnú sạch như nước suối làng ta”.
Tnú đã thể hiện đức tính gan dạ, thông minh và thủy chung với lý tưởng cao đẹp của đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, trong những năm tháng Mỹ - Diệm lê máy chém đi khắp miền nam để khủng bố phong trào cách mạng, Tnú và Mai mặc dù còn nhỏ tuổi đã ra ngoài rừng để bảo vệ anh Quyết, người cán bộ của Đảng. Khi bị bắt, cậu đã nhanh trí nuốt lá thư vào trong bụng, trước sự khủng bố của kẻ thù, cậu bé chấp nhận hy sinh chứ không khai ra những bí mật của cơ sở đảng. Cậu bé nói: “Cụ Mết nói Đảng còn núi nước này còn”. Khi được giao làm liên lạc cho anh Quyết từ xã về huyện, không bao giờ nó đi đường mòn, giặc vây tất cả các ngả đường, nó leo lên một cây cao nhìn quanh một lượt rồi xé rừng mà đi, lọt tất cả các vòng vây, qua sông nó không thích lội chỗ nước êm cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang vượt lên trên mặt nước cưỡi lên thác, băng băng như một con cá kình.
Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã thể hiện vẻ đẹp trong tâm hồn Tnú, một con người có lòng căm thù cháy bỏng đối với quân xâm lược, có khả năng vận động quần chúng. Tnú đã hướng dẫn dân làng lên núi Ngọc Linh gùi đá mài để mài giáo, mác, vụ, rựa chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang. Bọn giặc ở đồn Đắc Hà bao vây làng Xôman, chúng tra tấn vợ con của Tnú cho đến chết . Tnú đã thể hiện lòng căm thù cháy bỏng đối với quân xâm lược: “mắt anh thành 2 cục lửa lớn”. Không một tấc sắt trong tay, Tnú nhảy xổ vào giữa bọn giặc đầy súng đạn. Bắt được Tnú, bọn giặc dùng nhựa xà nu để đốt cháy 10 đầu ngón tay của anh. Hình ảnh bàn tay bị đốt cháy của Tnú vừa tố cáo tội ác dã man, tàn bạo của quân xâm lược, vừa là biểu tượng cho lòng căm thù cháy bỏng của dân làng Xôman đối với tội ác. Đồng thời, thể hiện nghị lực kiên cường, tình cảm thủy chung với lý tưởng của cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Tây Nguyên. Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã sử dụng bút pháp phân tích nội tâm nhân vật kết hợp với kể chuyện và miêu tả nhằm thể hiện tình yêu quê hương sâu nặng trong tâm hồn Tnú. Sau 3 năm tham gia lực lượng giải phóng quân, Tnú trở về thăm quê hương trong tâm trạng bồi hồi xúc động anh nhớ lại những kỷ niệm ngọt ngào và cay đắng trong cuộc đời mình, nhớ cái cây đổ ngang nơi Tnú và Mai gặp nhau lần đầu sau khi anh vượt ngục Kon Tum trở về, anh bồi hồi xúc động khi nghe tiếng chày giã gạo của làng anh: “bây giờ anh chợt hiểu ra rằng hình như cái anh nhớ nhất ở làng, nỗi nhớ day dứt lòng anh suốt 3 năm nay chính là tiếng chày đó. Tiếng chày chuyên cần rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xa xưa”. Khi gặp dân làng trong ngôi nhà ưng huyền thoại, Tnú nhớ lại từng khuôn mặt thân quen của những người đã từng chia ngọt, xẻ bùi với anh từ tuổi ấu thơ cho tới lúc trưởng thành. Tnú còn là người chiến sỹ chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật của đơn vị, đơn vị chỉ cho anh về thăm quê trong một đêm, anh thực hiện nghiêm túc, sáng hôm sau cụ Mết và Dít đã tiễn đưa người chiến sỹ ra trận. Tnú còn là một chàng trai có tình yêu trong sáng, giàu lòng vị tha. Sau khi vượt ngục Kontum trở về, Tnú và Mai trở thành vợ chồng hạnh phúc và có một đứa con trai, không đi chợ Kontum mua vải được, Tnú phải xé tấm dồ của mình ra để cho Mai địu con.
Câu chuyện bi tráng về cuộc đời Tnú vừa có ý nghĩa cụ thể, cá thể, vừa có ý nghĩa điển hình tiểu biểu của người anh hùng đại diện cho số phận và con đường đi của các dân tộc Tây Nguyên trong thời đại đấu tranh giải phóng. Nhân vậtTnú còn có cái gì đó phảng phấp như những anh hùng trong các trường ca Đam Săn, Xinh Nhã.
=============
Vai trò của Công nghệ thông tin đối thanh niên
XH đã và đang phát triển với sự bùng nổ của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin. Trong thời buổi hiện tại, thông tin là một nguồn tri thức của cải vô giá của loài người. Nói đúng hơn, một nguồn hàng của loài người mà khả năng khai thác nó tùy thuộc vào suy nghĩ khả năng của mỗi cá nhân. Lợi ích của thông tin, của công nghệ đem lại không lấy gì so sánh được. Thế nên việc áp dụng công nghệ thông tin là vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến quyết định thành công của cá nhân và từ đó tác động mạnh đến sự phát triển của xã hội.
Trước tiên ta phải hiểu ntn là áp dụng công nghệ thông tin? Có phải là cho thanh thiếu niên sớm tiếp xúc với máy tính mạng internet cùng những trò chơivô thưởng, vô phạt? Ta cần phân tích, tách biệt rõ giữa cái lợi và cái hại, cái được và cái mất khi thanh niên sử dụng công nghệ thông tin. Đương nhiên, những hứng thú sẽ được giới trẻ khám phá cùng bao tiện ích mới mẻ, lý thúcuốn hút trên mạng: nào chát, game, tin tức, chuyện, phim, một thế giới ảo đắm chìmcon người vào những trò vui vôbổ, phí phạm cả về thời gian, sức khỏe và tiềnbạc. Đâu chỉ cóvậy, đôi khi chính TG ảo thực hư lẫn lộn đâu dễ phân biệt rạch ròi như vậy lại làm ảnh hưởng tai hại đến suy nghĩ, lối sống, khả năng tư duy giao tiếp của mỗi con người mà đặc biệt là giới trẻ, những người luôn bị cuốn hút, lôi cuốn bởi cái mới, lập trường chưa thật vững vàng trước những cạm bẫy rình rập. Sẽ ntn nếu một học sinh giành phần lớn thời gian của mình cho máy tính, nét với bạn ảo, với Game vui, với chuyện phim hấp dẫn chứ không phài cho học tập, cho rèn luyện lối sống, cho những điều quan trọng hơn với bản thân mà đặc biệt là gia đình – điều cốt yếu với tưc cách, suy nghĩ của mỗi học sinh. Trìm đắm trong tg ảo cùng đồng nghĩa với xa rồi cuộc sống thực, xa dần với cách giao tiếp, với tình cảm thân thuộc. điều đó tác hại vô cùng!
Song nói như vậy không phải thông tin, công nghệ cụ thể mà là máycác tính cùng với mạng internet là không có lợi ích. Chỉ có lợi ích tốt với những ai biết khai thác, biết sử dụng đúng hướng tài nguyên vô giá này trong một XH hiện đại.
Từ những yêu cầu đặt ra ừ cuộc sống và ích lợi to lớn của nó, ta dễ dàng nhận ra sự cần thiết của việc áp dụng công nghệ thông tin vào cuộc sống của thanh niên. Công nghệ là những thứ ứng dụng cụ thể trực tiếp của khoa học kỹ thuật trên lý thuyết được áp dụng trong cuộc sống. Và giai đoạn hiện nay thì thực sự thông tin trở thành một ngành công nghệ hiện đại. Vậy thanh niên nên áp dụng công nghệ thông tin vào học tập là ntn? và thực hiện bằng cách nào?
Đưa CNTT vào học tập là giúp thanh niên học tập không chỉ trên sách vở mà học trực tuyến qua mạng cách này đã được sử dụng ở các nước tiên tiến như ANh, Mỹ, Úc và đạt hiệu quả rất cao,, giáo viên có thể thực hiện bài giảng của mình qua bài giảng điện tử, giáo án điện tử cùng với những CNTT hiện đại, như vậy chẳng những làm cho học sinh, sinh viên dễ hiểu, nắm bắt tư tưởng bài học mà còn tạo sự lý thú lôi cuống cho học sinh, sinh viên dễ hiểu, nắm bắt tư tưởng bài học mà còn tạo sự lý thú, lôi cuốn cho học sinh, sinh viên. Những ứng dụng phổ biến của mạng Internet học sinh, sinh viên có thể trực tiếp thực hiện tìm hiểu. Có thể lên mạng tìm kiếm các bài giảng các giáo trình rất thuận lợi cho việc tìm hiểu, nghiên cứu. Và một cách học rất phổ biến hiện nay là học trực tuyến qua mạng, qua một số trang Web có chương trình dạy, học trực tuyến, làm bài tập ra câu hỏi, chủ động tự học tập luôn đạt kết quả cao so với cách học máy móc, thụ động. Và một số ứng dụng quan trọng của công nghệ và có thể trao đổi thông tin, kết nối con người một cách thuận lợi và nhanh nhất. Giáo viên có thể dạy, giảng cho học sinh qua mạng, cho bài tập và thậm chí kiểm tra qua mạng, giảm bớt khó khăn và không gian, thời gian. Có bài tập không hiểu, không giải được có thể nhờ giúp đỡ qua mạng, đưa các bài khó lên một trang Web có diễn đàn nhờ một người cùng suy nghĩ, giúp đỡ, hiệu quả sẽ cao hơn rất nhiều lối học học, học vẹt, học xong mới còn lại chẳng còn gì.
Giới trẻ trong xã hội hiện nay rất nhạy cảm với cái mới mà chưa hiểu biết một cách rõ ràng. Thanh niên phải tự định hướng cho mình, phải tự ý thức trách nhiệm. Khai thác tiện ích công nghệ thông tin một cách hợp lý, không phải là không giải trí, thư giãn mà không được sa đà, quá đắm chìm trong TG hư ảo. Thanh niên cũng phải tự trang bị kiến thức về công nghệ thông tin để khai thác những ứng dụng một cách hiệu quả nhất và đỡ tốn thời gian.
Thực sự vai trò của CNTT đối với thanh niên là vô cùng cần thiết trong xã hội hiện đại. Nhưng song hành với đó là những bất cập cần sự phối hợp, giúp đỡ của các cơ quan để việc học tập, giảng dạy áp dụng đạt kết quả tốt nhất, khai thác tối đa mọi quyền lợi công nghệ thông tin vào giới trẻ hiện nay.
==========
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top