con luan q3c10-12

[Côn Luân] Quyển 3 – Hồi 10

Quyển thứ ba

PHÁ THÀNH QUYỂN

 

HÁN THỦY KINH ĐÀO[1]

Alex dịch

A Truật toan lên ngựa xuất phát, chợt thấy Lương Tiêu đang gom lượm tàn quân, dẫn dắt đồng đội phá vòng vây lao ra thì mừng rỡ vô cùng. Y vốn tin tưởng khả năng của Lương Tiêu, lập tức xuống ngựa, quay trở lại đài chỉ huy. Lúc này đội thuyền chiến của Đại Tống đã kết nối được với nhau, cùng ngược dòng tiến lên. Tướng Nguyên là Trương Hoằng Phạm điều động chiến hạm gắng sức ngăn cản. Thống soái thủy sư là Lưu Chỉnh thì dàn trận dọc hai bờ sông, khởi động nỏ pháo tấn công quân Tống, pháo nổ rền vang, tên bay tới tấp trên dòng Hán Thủy, ưu thế át hẳn địch nhân, khác xa tương quan giao chiến trên bộ.

Thủy quân Tống có chừng một ngàn thuyền chiến, nhưng không phải loại bề thế hay kiên cố gì cho lắm, chỉ có vài chiếc thuyền lớn, xem chừng chở nặng hàng vì mớn nước rất sâu, còn phần đông là thuyền nhẹ, nhìn kỹ có thể nhận ra là thuyền đánh cá cải tiến lại. Thoáng trông thì đội thuyền này không hề có dáng vẻ gì chung với một chiến đoàn thủy sư, tưởng như đánh một trận là tan, nhưng trận thế của chúng rất kỳ lạ, thoạt tiên thì giống vịt bầu xòe cánh, sau lại biến thành cá chép quẫy đuôi, đang giữ hàng ngũ hình vuông bỗng lại đổi sang hình tròn, vừa tiến lui vừa liên tục biến hóa. Mỗi lần Trương Hoằng Phạm xua quân tấn công, người Tống đều để mặc tiên phong của hắn tiến sâu rồi khép chặt hai cánh, cuốn mười mấy cỗ chiến hạm vào giữa trận, chặn đứng các thuyền theo sau bên ngoài, sau đó châm lửa bắn cung, tàn sát một hồi, đập tan hết các tàu chiến vừa bao vây được. Cứ thế, thủy quân Tống y hệt một con cá kình lớn, liên tục há miệng thè lưỡi cuốn nuốt thủy sư Đại Nguyên, dần dần áp sát mười sợi dây xích sắt chăng ngang dòng Hán Thủy.

Thình lình, một nam tử áo trắng giữa thủy trận Tống giơ cao lệnh kỳ. Lập tức một tráng hán lực lưỡng và một lão già tóc bạc chia nhau dẫn mấy mươi hán tử ăn bận nhôm nham cầm rìu ngồi thuyền nhẹ lao ra khỏi trận. Tráng hán rẽ trái, lão già rẽ phải, yểm hộ lẫn nhau, len lỏi giữa tên và đá của người Nguyên, chui xuống dưới xích sắt, vung rìu chém mạnh. Kim loại va nhau tóe lửa, tiếng nghechan chát. Chỉ thoáng chốc, mười sợi xích sắt đều bị chặt đứt. Đã trừ bỏ được chướng ngại trên dòng Hán Thủy, lính Tống hò reo vang dội, cấp tốc xông lên, thủy sư Tương Phàn cũng thừa thế theo dòng xuôi xuống, trong ngoài hợp sức tấn công quân Nguyên.

A Truật thấy tình hình không ổn, vội sai Trương Hoằng Phạm quay lên thượng lưu chống cự thủy sư Tương Phàn, lại ra lệnh khởi động pháo đài giữa sông để phá tan thủy trận của quân Tống.

Pháo đài này và dãy xích sắt chăng ngang sông là do quân Nguyên sắp sẵn từ năm ngoái. Dạo đó, sau khi chiếm được mặt nam Tương Phàn, để đề phòng người Tống cứu viện theo đường thủy, Bá Nhan đã ra lệnh cho quân sĩ lên núi Hiện Sơn kéo mấy chục vạn cân đá tảng xuống lòng Hán Thủy, xây thạch đài cao một trượng, trong đài đặt chín cỗ nỏ lớn và tám khẩu đại pháo, đồng thời đóng bảy tảng đá ngầm dưới lòng nước trước thạch đài và chăng mười dây xích dày nặng ngang sông, tạo thành một thủy trận đồ sộ, cho dù quân Tống có tàu lớn chịu được đạn đá cũng khó lòng tiếp cận thạch đài. Bá Nhan sắp xếp như thế là đã chặt chẽ hết mức. Tống tuy mạnh về thủy chiến hơn Nguyên, nhưng bắt đầu từ năm ngoái, họ đã nhiều lần bị trận thế này ngăn chặn, không thể vào tiếp viện Tương Phàn.

Được lệnh của A Truật, binh sĩ trên đài lập tức khởi động nỏ pháo. Tên lớn và đá tảng vùn vụt bay ra, bắn nát thuyền tiền bộ của quân Tống, lính Nguyên reo hò ầm ĩ.

Lương Tiêu chỉnh đốn đám bại binh, ra lệnh cho họ chặn giữ những chỗ hiểm yếu để đề phòng quân Tống trong thành ra phối hợp tác chiến. Chợt nghe ngoài sông có tiếng hò la rung chuyển trời đất, không biết đang xảy ra chuyện gì, lại đoán chắc là sau đợt giao tranh vừa rồi, Lữ Đức tạm thời chưa dám tái xuất kích ngay, gã bèn dặn dò các Bách phu trưởng ai trông nom bộ hạ người nấy, còn mình và Dương Giác thúc ngựa về soái đài bẩm báo tình hình thiết kỵ Khâm Sát với A Truật, tiện đường xem xem thủy chiến ra sao.

Khi Lương Tiêu tới nơi thì cũng là lúc pháo đài giữa sông đang nhả đạn, thuyền Tống trúng phải vỡ tan tành. Lương Tiêu lên gặp A Truật. Nghe thuật lại sự tình, A Truật không khỏi buồn rầu, nhưng đang lúc thủy chiến kịch liệt, không tiện nói nhiều, y chỉ vỗ vai Lương Tiêu, gật đầu bảo:

- Được rồi, may mà có ngươi…

Thình lình ngoài mặt sông, tuyến tiên phong của quân Tống thụt xuống, trận thế chuyển thành dàn hàng dọc, trườn tới như rắn, miệng rắn há to, lúc ngậm lúc ngoác, biến đổi vô cùng nhanh chóng và phức tạp, khiến cho không chỉ đạn đá của Lưu Chỉnh từ hai bờ sông khó chạm tới nơi, mà pháo đài phía trước cũng toàn bắn trượt. Lương Tiêu chăm chú quan sát, đoạn ngạc nhiên thốt lên:

Thủy cầm ngư long trận!

A Truật ngẩn người, vội hỏi:

- Ngươi biết trận thế này ư?

Lương Tiêu gật đầu:

- Nguyên lý của nó dựa trên ngũ hành, hình thế mô phỏng các động vật như thủy điểu, rùa rắn cá cua, phần tiên phong biến hóa rất ảo diệu, lúc thì như mồm cá, lúc thì như miệng rắn, mỏ chim, dần dần nuốt chửng binh mã đối phương rồi dùng quân tinh nhuệ ở tâm trận đón đánh tiêu diệt. Trước đây tôi đã từng đọc về các biến thể của trận này trong cuốn Ngũ hành thuyên binh[2], nhưng đây là lần đầu chứng kiến ứng dụng thật. Sách còn chú thích: “Thủy cầm ngư long biến hóa tương đối chậm, phù hợp với thủy chiến quy mô lớn hơn là giao tranh thần tốc trên bộ”.

A Truật không hiểu gì về toán số ngũ hành, nay nghe Lương Tiêu thuật lại những lời hàm ẩn trí tuệ cao siêu của các bậc hiền triết trung thổ thì cố nhiên chưa thể nắm bắt được hoàn toàn ý nghĩa, nhưng nghe điều Lương Tiêu mô tả cũng tương đối sát với hiện trạng thì mừng rỡ hỏi:

- Thế có phép phá nó không?

Lương Tiêu nhìn lại trận thế quân Nguyên rồi lắc đầu:

- Tiên phong của họ biến hóa khôn lường, không thể giao đấu chính diện, chỉ còn cách đánh vu hồi vào phía sau kẻ địch mới tìm được cơ hội phá trận. Nhưng hiện giờ thủy sư bên ta đã lui lên thượng du, khó lòng xuôi xuống đánh vòng lại nữa. Cũng may mà còn thạch đài ở giữa sông, đài ấy là đủ để chống đỡ rồi.

Gã vừa dứt lời, chợt thấy hai mươi chiếc khoái đĩnh tách khỏi thủy trận quân Tống, nhanh chóng tản rộng thành hình rẻ quạt, phóng vun vút tới như sắp lao thốc lên thạch đài. Quân Nguyên đâu để kẻ địch hoành hành ngang ngược, nã đạn đá veo véo, lập tức bắn chìm hai chiếc.

Chỉ trong khoảnh khắc, tốp thuyền chiến đã tiêu hao quá nửa. Lương Tiêu bỗng cau mày, lòng gờn gợn nghi ngại:

- Gớm thật, minh tu sạn đạo, ám độ Trần Thương đây mà!

A Truật không biết điển cố ấy, nghe vậy kinh ngạc hỏi:

- Là sao?

Lương Tiêu trỏ về phía sau tốp khoái đĩnh:

- Đại nhân trông kìa!

A Truật dõi mắt nhìn kỹ thì thấy một con thuyền lớn chở máy bắn đá lặng lẽ trôi theo sau toán thuyền nhẹ, thừa lúc đối phương dồn hết sự chú ý vào những chiếc thuyền phía trước thì cấp tốc áp sát thạch đài. Khi tới gần, một người vận đồ trắng, tay cầm sào tre từ sau khoang đi ra, chính là nam tử áo trắng vừa xua quân biến trận. Thân pháp y lanh lẹn vô cùng, vụt một cái đã bật cao hơn năm thước, nhảy lên cỗ máy bắn đá. Khi y điểm chân xuống, năm tên lính Tống đồng thời bật lẫy, người áo trắng lập tức bắn vút đến thạch đài như một mũi tên. Lương Tiêu đã nhìn rõ tướng mạo địch nhân, giận dữ kêu lên:

- Hắn!

Người áo trắng chính là Vân Thù chứ nào phải ai xa.

Vân Thù tận dụng đà bắn của cỗ nỏ, băng qua khoảng không lao tới. Quân Nguyên cùng bất ngờ trước cách thâm nhập ấy, ai nấy kinh ngạc bội phần, nhao nhao hò hét. Trên dãy chiến thuyền phòng vệ quanh đài, các xạ thủ Nguyên triều đang giương sẵn cung chuẩn bị tiếp đón toán khoái đĩnh, lúc này liền chuyển hướng trút tên ào ạt vào Vân Thù.

Vẫn ở trên không, Vân Thù múa tít cây sào tre tạo thành một tấm khiên lớn chu vi đến ba trượng, tầng tầng dày đặc, tên bị chặn rơi hết xuống sông. Tuy thế, do độ nảy của máy bắn đá quá cạn, Vân Thù đã dùng hết sức bật mà vẫn khó lòng bay xa, lại bị làn tên cản trở làm chậm đà lao, chỉ còn cách thạch đài chừng năm trượng mà không sao tiếp tục được, gã rớt xuống sông. Nơi này nhiều đá ngầm lô xô nên dòng chảy xiết vô cùng, người vừa chạm nước là lập tức bị cuốn phăng xuống hạ du. Quân Tống thấy sắp thành công rồi mà còn thất bại, thảy đều thốt lên thất vọng, quân Nguyên thì hoan hô rầm rĩ, chấn động cả mặt sông.

Đúng lúc chạm nước, Vân Thù phóng ngang cây sào tre, cộng thêm chiều dài của cánh tay là vừa vặn chạm tới rìa đài. Gã đẩy mạnh nội kình, cây sào thụ lực oằn lại. Vân Thù mượn sức đàn hồi lộn một vòng, bật lên cao lần nữa, khẽ lắc mình là đã đến được khoảng không bên trên thạch đài. Trước khi đáp xuống, gã vung sào quật ngã hai tên lính Nguyên. Ở đài này, ngoài đám pháo binh thì còn hơn hai mươi vệ binh, trông thấy Vân Thù liền tuốt đao giương mâu rầm rập lao đến tấn công gã.

Vân Thù hét vang, giơ sào nghênh đón, xông xáo như hổ giữa đàn dê. Binh khí tuy chỉ là một cây sào, nhưng vào tay gã thì khác nào trường thương đại mâu. Vân Thù đánh giết dữ dằn, máu địch nhân nhuộm đỏ lòm tấm áo trắng. Thời gian chưa cạn một tuần trà, binh lính trên thạch đài đã bị tiêu diệt quá nửa. Quân Tống thấy không còn đạn pháo uy hiếp nữa, bèn đổi sang Thủy xà hình ngược dòng tiến lên.

Trương Hoằng Phạm vội phái thuyền chiến đến giành lại pháo đài, vừa áp sát vừa trút tên dày đặc về phía Vân Thù. Không ngờ đá tảng chất đống vốn để nạp pháo và bắn nỏ trên đài lúc này lại trở thành bình phong cho Vân Thù. Gã lẩn vào sau đống tên đá, hễ thấy người tới nơi là xông ra giết chết. Liên tục mấy lần như thế, đội thuyền Tống đã đến được gần thạch đài, thủy sư Tương Dương cũng sấn sổ lao vào chém giết, quân Nguyên bị giáp kích hai mặt, chống đỡ rất gian nan.

A Truật không ngờ bên Tống lại có một nhân vật lợi hại dường ấy, càng ngẫm càng kinh ngạc. Lúc này, thạch đài đã bị chiếm cứ, đành quyết một trận sống mái chứ không còn lựa chọn nào khác. Y khua lệnh kỳ, chiêng trống nổi lên vang rền, trợ uy cho thủy quân. Chợt Dương Giác kinh hãi kêu to:

- Lương đại ca!

A Truật giật mình, nhìn theo hướng mắt Dương Giác thì thấy Lương Tiêu đang cưỡi chiến mã phi như bay dọc bờ sông, A Truật ngạc nhiên hỏi:

- Hắn định làm gì vậy?

Dương Giác nói:

- Tên áo trắng nọ là cừu nhân của bọn thuộc hạ, hắn đã đón đường tấn công đội lương, giết chết huynh đệ của thuộc hạ.

- Ra thế! – A Truật nhíu mày.

Trong lúc họ nói chuyện, Lương Tiêu đã tế ngựa chạy xa hơn ba trăm trượng, thình lình gã xoay phắt mình, thúc ngựa lao thẳng lên con dốc cao trên bờ sông. Mọi người nhìn theo không hiểu ý định ra sao, chỉ thấy gã lại đột ngột giật cương xoay ngựa phóng thốc xuống mí nước, gò vàm múa roi. Chiến mã Khâm Sát đau đớn hí dài, giậm mạnh vó sau, chồm mình lướt qua đỉnh đầu đám lính Nguyên bên bờ sông, phi vụt xuống dòng Hán Thủy.

Trong các loài bảo mã từ cổ chí kim thì Đại Uyển[3] và Nguyệt Chi[4] là hai giống thượng phẩm. Quốc đô sản sinh ra chúng cùng nằm trong lãnh địa Khâm Sát. Sử Ký chính nghĩa[5] chép: “Xứ ngoài[6] có ba nước gọi là đông, Trung Quốc[7] đông dân, Đại Tần[8] đông của, Nguyệt Chi đông ngựa”. Những giống danh câu tuyệt thế như hãn huyết, yên chi… đều xuất xứ từ Khâm Sát. Con ngựa Lương Tiêu đang cưỡi là ngựa tuyển trong muôn vàn, khỏe khoắn và dũng mãnh, lại lao từ tầm cao xuống, được đà băng đi trên mặt nước đến mười trượng, đáp xuống một thuyền chiến của quân Nguyên. Chiếc thuyền bị lún mạnh, suýt nữa lật sấp, lính thủy mất thăng bằng, nhốn nháo ngả nghiêng. Lương Tiêu không dừng lại, tiếp tục tế ngựa nhảy sang thuyền khác. Cứ thế, gã biến thuyền chiến của cả quân Tống và quân Nguyên làm điểm tựa đặt chân, thúc ngựa phi nước đại như trên đất bằng, chỉ thoáng chốc đã tới được thạch đài giữa dòng sông. Thủy sư của cả hai bên thấy vậy, kẻ hoảng hốt người vui mừng, tiếng la ó xen lẫn tiếng reo hò ồn ã.

Vân Thù đang giao đấu kịch liệt, vừa phóng cây sào đâm xuyên táo qua họng hai tên lính thì nghe có tiếng vút rất buốt tai, bèn ngoái đầu lại nhìn, thấy bóng tối đổ sầm xuống trước mắt, rồi một con ngựa chiến xé gió bổ nhào tới. Vân Thù vội vàng vặn mình, phóng cây sào đâm thủng bụng ngựa. Chiến mã hí vang đau đớn, rơi thình xuống.

Lương Tiêu nhún một tay xuống lưng ngựa, lấy đà bật khỏi yên cương, tay kia nhấc trường thương nhảy xổ vào Vân Thù. Vân Thù đẩy sào sang, Lương Tiêu xoay nghiêng mình tránh được, rung tít hoa thương gạt cây sào rồi phóng thương đâm Vân Thù.

Thấy thương pháp tuyệt diệu quá, Vân Thù ngạc nhiên nhìn kỹ đối phương, chợt tái người vì giận, thét to:

- Quân ác tặc, lại là ngươi!

Gã trở ngang sào đỡ ngọn thương rồi thi triển tuyệt kỹ chống trả. Kỳ phùng địch thủ gặp nhau, bốn mắt đỏ vằn, cùng vận dụng hết bản lĩnh lăn xả vào đấu đá.

Trương Hoằng Phạm thấy đã có người kiềm chế được Vân Thù, liền bất chấp sự sống chết của Lương Tiêu, lập tức sai thuộc hạ bắn tên giành lại thạch đài. Hai đấu thủ đành đình chiến lo né tránh. A Truật kíp truyền lệnh dừng bắn. Trương Hoằng Phạm hết sức ngạc nhiên, nhưng cũng đành vâng theo. Mưa tên đã tạnh, Lương Tiêu và Vân Thù lại lao vào nhau, bóng sào lay láy, ảnh thương trập trùng, song phương tiến thoái nhanh như chớp, binh lính hoa cả mắt, hò hét vang trời để trợ uy đấu sĩ bên mình.

Đấu được hai ba mươi hiệp, vì sào tre to dài mà thạch đài lại quá hẹp, Vân Thù xoay trở tương đối khó khăn. Cây hoa thương thì vô cùng linh động, chiếm hẳn ưu thế về chiêu số, hiềm nỗi Lương Tiêu bị nội thương chưa khỏi, kình lực giảm sút, hai bên tạm thời không phân thắng bại.

Trong lúc Vân Thù đánh chiếm thạch đài, Cận Phi thay gã chỉ huy thủy chiến. Vì đã luyện tập Thủy cầm ngư long trận nhiều lần, lại đang đà thượng phong, y cũng gượng ứng phó được một lúc, nhưng dần dần, sau mấy đợt bị quân Nguyên xuôi dòng đánh tỉa, trận pháp bắt đầu chệch choạc. Phương Lan vội ngồi thuyền nhẹ đến gần thạch đài, gọi với vào:

- Thù nhi về mau, sư huynh ngươi không cầm cự nổi nữa rồi.

Vân Thù nghe gọi giật mình, đâm nhanh vài nhát đẩy lui Lương Tiêu, đoạn nắm đầu sào chống mạnh xuống đất, thân sào oằn lại rồi bật đánh “tưng”, Vân Thù mượn sức đàn hồi bắn đi xa chừng mười trượng, đáp xuống thuyền Phương Lan. Lương Tiêu thiếu dụng cụ tương tự, không thể nhảy theo, cứ giương mắt ngó địch thủ rút chạy, nghĩ ngợi một hồi, định dùng nỏ pháo để truy kích, khốn thay Vân Thù đã dùng nội kình đập gãy hết các lẫy bắn, trong lúc gấp gáp không sao sửa chữa kịp.

Vân Thù trở về bên quân Tống, nổi trống biến trận. Đội thuyền tiên phong chia làm hai toán, tạo thànhSong đầu ngao hình[9]vòng qua thạch đài tiến dần lên. Lương Tiêu lăm le nhảy xuống thuyền quân Tống, nhưng Phương Lan đã đề phòng sẵn, ra lệnh cho các tay cung nỏ liên tục bắn cản. Lương Tiêu thử mấy lần đều không áp sát được, phủ tạng bắt đầu ngâm ngẩm đau, máu trào lên họng lờ lợ, gã biết nội thương tái phát, đành co mình nấp vào sau đống đạn đá, thở lấy sức.

Trong tiếng chiêng trống vang lừng, người Tống vòng qua thạch đài, hai tốp thuyền nhập lại làm một, biến thành Tê tượng hình[10] với mũi tiên phong nhọn sắc và hai cánh vững vàng. Chỗ tinh diệu của biến thể này là đi qua rồi không để lại vết tích, hệt như tê giác rẽ nước, có thể nói là phần biến hóa lợi hại nhất trong Thủy cầm ngư long trận, mau chóng làm rối tung đội ngũ Nguyên triều, đưa thuyền Tống ngược dòng tiến thêm hai dặm, nhập vào thủy sư Tương Phàn. Hai đạo quân hợp nhất, sức mạnh và uy thế tăng cao bội phần.

Lữ Đức đứng trên đầu thành quan chiến, thấy vậy mừng rỡ vô cùng, phát hiệu thừa thắng tấn công, định tiêu diệt toàn bộ thủy quân Đại Nguyên, phá sạch vòng vây ở mặt nam Tương Phàn. Chiêng trống liền nổi lên rầm rĩ, vị trí hai bên thay đổi, đến lượt quân Tống theo dòng đánh xuôi xuống, quân Nguyên không chống đỡ nổi, thất bại lùi về hạ du.

Trước thế nguy, A Truật ra lệnh cho Lưu Chỉnh pháo kích từ hai bờ sông, nhưng không hiệu quả, đành phái người về trướng soái cấp báo. Bá Nhan hay tin, một mặt cùng A Lý Hải Nha dẫn kỵ binh giáp kích Tương Dương, mặt khác phái Sử Thiên Trạch dẫn thủy quân từ thượng du tràn xuống tấn công quân Tống, buộc thủy sư Tương Phàn phải quay lại cứu viện.

Lữ Đức lập tức truyền lệnh cho binh sĩ bảo vệ chặt chẽ thành trì, lại kê giàn pháo hướng ra sông, bắn xả xuống quân đoàn của Sử Thiên Trạch, đồng thời bày binh bố trận trên cầu nổi giữa hai thành, dùng nỏ pháo tấn công kẻ địch. Trong đợt phản công này, quân Tống sử dụng Phi hỏa thương và Chấn thiên lôi, hai thứ vũ khí khiến quân Nguyên táng đởm kinh hồn. Phi hỏa thương là loại thương chứa thuốc nổ trong ruột rồi châm lửa, bắn xa đến hơn mười trượng, có thể xuyên thủng cả khôi giáp. Chấn thiên lôi là ống bơ sắt đổ đầy thuốc nổ, châm lửa ném ra, có thể làm banh xác cả người và vật trong phạm vi nửa mẫu xung quanh. Giữa những âm thanh ùng oàng như sấm vang động mặt sông, mấy chục vạn binh lính thủy bộ hai bên bất chấp sống chết, lăn xả vào nhau quần thảo dữ dội.

Thủy quân của Sử Thiên Trạch phải chống đỡ khắp ba mặt, thuyền bè bị Chấn thiên lôi bắn vỡ nát. Sử Thiên Trạch bất đắc dĩ phải rút lui lên thượng du. Thủy quân Tương Phàn trừ bỏ được mối lo sau lưng, liền xuôi dòng tổ chức tấn công thần tốc, đập tan rã binh đoàn của Trương Hoằng Phạm.

Quân Nguyên sắp thất bại hoàn toàn, chợt một tiếng nổ lớn phát ra từ pháo đài giữa sông, rồi một hòn đạn khổng lồ rớt bùm xuống giữa thủy trận Tống, đánh chìm một chiến thuyền. Quân Nguyên phấn chấn ngoảnh nhìn thạch đài thì thấy Lương Tiêu đang gồng lực kéo lẫy nỏ đẩy tiếp một hòn đạn nữa, đánh thủng thuyền khác của quân Tống.

Số là nhân lúc đôi bên đại chiến, Lương Tiêu đã đi xem xét tình hình nỏ pháo tổn thất ra sao. May thay Vân Thù mới hủy các lẫy nỏ chứ chưa kịp phá hỏng những bộ phận khác. Vốn nhạy bén với các cơ cấu máy móc, Lương Tiêu lập tức nhặt đao cắt gọt đôi hồi là sửa xong một cỗ nỏ pháo, lắp tên đá khởi động lại. Trương Hoằng Phạm liền phái mấy chục tên lính bơi thuyền đến thạch đài hỗ trợ Lương Tiêu.

Vân Thù bèn dùng cách cũ, biến đổi trận pháp định áp sát thạch đài lần nữa. Lương Tiêu làm ra vẻ không hay biết, mặc gã đến gần mới khai hỏa, bắn vỡ tan chiếc thuyền khiến Vân Thù và bọn đi theo ngã dúi dụi xuống nước. Vân Thù vội lặn sâu xuống, nhưng đạn đá truy đuổi đã tới nơi, bật trúng lưng làm gã hộc máu mồm. Phương Lan vội vàng phái mấy chiến thuyền liều chết len vào cứu. Vân Thù bị thương khá nặng, đành phải quay về trận, Lương Tiêu thấy địch thủ thoát chết trong gang tấc thì giậm chân than tiếc luôn miệng.

Lúc này, Trương Hoằng Phạm đã chỉnh đốn tàn quân, tổ chức một đợt tấn công mới. Thủy chiến kịch liệt trải khắp mặt sông. Lương Tiêu chữa xong tất cả nỏ pháo rồi đứng chỉ huy, mười mấy cỗ nỏ lớn và đại pháo cùng khai hỏa một lúc, bắn tan tành thuyền chiến của đối phương. Quân Nguyên phấn khởi, cất tiếng hò reo theo mỗi đợt tên pháo, khí thế rất rầm rộ. Lữ Đức thấy tình hình không ổn, ra lệnh cho thủy quân rút về. Trương Hoằng Phạm đuổi đến dưới chân hai tòa thành mới hậm hực thu binh.

Trận ác chiến diễn ra từ sáng sớm tới tận lúc mặt trời lặn về tây, thủy bộ của hai bên đều xuất quân, lúc thắng lúc thua, mấy lần đảo chuyển. Kể từ dạo bắt đầu vây hãm Tương Phàn tới nay, quân Nguyên chưa từng tổn thất nặng nề đến mức này. Đội thiết kỵ Khâm Sát của Hợp Xuy Man và đội thủy sư người Hán của Trương Hoằng Phạm thường mang danh là thủy lục song hùng của Nguyên quân, hôm nay đều thất bại thảm hại, riêng Khâm Sát quân còn mất trắng ba Thiên phu trưởng dưới chân thành Tương Dương. Người Tống tuy cũng sứt mẻ lực lượng, nhưng Vân Thù đã cắt đứt được dãy xích chăng ngang sông, đưa một nghìn con thuyền xông phá trùng vây, vận chuyển vô số khôi giáp lương thảo và dụng cụ phòng thủ vào thành, có thể nói tổn thất cũng xứng đáng, tính ra quân Nguyên vẫn thiệt hại nhiều hơn.

Từ hồi Bá Nhan lĩnh ấn nguyên soái tới nay, quân Tống ở Tương Phàn thua trận liên miên, tinh thần bải hoải, đến hôm nay mới cảm thấy được bù đắp phần nào. Trông thấy Trương Hoằng Phạm rút quân, binh sĩ trên thành hò reo ầm ĩ. Lữ Đức mặc nguyên giáp sắt, phấn khởi ra ngoài thành nghênh đón, gặp Cận Phi thì níu tay cười lớn:

- Hay quá, mong mỏi mãi cuối cùng tiếp viện cũng đến! Ngươi là thuộc hạ của ai mà bản lĩnh thế?

Cận Phi vòng tay thi lễ:

- Chúng tôi không thuộc quân đội chính quy, chỉ là nghĩa quân do Lý Đình Chi đại nhân chiêu mộ mà thôi.

Lữ Đức ngẩn người, nhíu mày bảo:

- Thảo nào trong đội ngũ các ngươi còn lẫn cả thuyền chài. Chà, Phạm Văn Hổ và Hạ Quý có mười vạn tinh binh và hàng ngàn chiến hạm mà chẳng làm nên công cán gì. Lần trước họ đến tiếp viện, vừa giao chiến với quân Thát, mới yếu thế một chút là vội vã tháo chạy luôn, khiến binh sĩ của ta kẹp giữa hai mặt địch, bị A Truật đánh cho tơi tả. Quân hèn nước nhục đến thế là cùng! – Y thở dài, lại hỏi. – Tình hình hậu phương ra sao?

Cận Phi chưa kịp trả lời, Vân Thù đã cười nhạt xen vào:

- Có bài từ mô tả đây.

Lữ Đức ngạc nhiên:

- Mô tả thế nào?

Vân Thù hắng giọng đọc:

Tương Phàn bốn hạ nổi can qua, bặt tiếng tiều ca, bặt tiếng ngư ca.

Thành lũy lao đao chẳng còn xa, kho đụn tiêu ma, lương thảo tiêu ma.

Đế đô mê mải khúc tỳ bà, nhắm mắt làm ngơ, ngoảnh mặt làm ngơ.

Cầm ca rộn rã nhịp mau thưa, quốc nạn ơ hờ, dân nạn ơ hờ.[11]

Bài từ lên án sự trụy lạc cuồng hoan của đám quyền quý nơi triều dã trong khi tiền tuyến đang lâm cảnh lửa bỏng nước sôi. Vân Thù đọc xong, không gian bỗng tĩnh lặng đến nỗi nghe thấy cả tiếng lá rơi trên cầu nổi. Từ Lữ Đức trở xuống, tướng sĩ Tương Phàn không ai là không lộ vẻ tuyệt vọng bi phẫn.

Cận Phi thấy tình hình không ổn, bèn giận dữ mắng:

- Bài từ bóp méo sự thật đó chẳng qua là lời ca cẩm rỗi hơi của một tên văn nhân nửa mùa, vốn chẳng đáng tin, sao đệ lại đọc ra để gây rối loạn lòng quân?

Vân Thù hừ khẽ, quay mặt đi. Lữ Đức lắc đầu:

- Thôi, sự thực thế nào thì chẳng hỏi cũng biết, ngươi đừng trách cứ nữa. – Y đưa mắt nhìn khắp đám hào kiệt. – Các vị có vài ngàn người mà lập được công lao không kém gì mấy vạn quân, thật đáng kinh ngạc, thật đáng khâm phục! Phụ lão Tương Phàn cảm kích khôn xiết. Xin nhận của Lữ mỗ một lạy.

Y chực cúi xuống vái, Cận Phi giật mình vội tiến đến đỡ dậy:

- Đại nhân đừng làm thế. Ngài tử thủ Tương Phàn, bảo vệ được hai tòa thành nhỏ bé trước vài chục vạn quân Nguyên, đó mới thực là đáng kinh ngạc, đáng khâm phục.

Lữ Đức cũng chỉ làm bộ thế thôi, thực ra đã biết nhất định đối phương không để mình phải quỳ xuống, y bèn nhân thế đứng dậy cười lớn, truyền lệnh thết yến mừng công. Lần này nghĩa quân đưa đến rất nhiều y giáp gạo lương, bách tính trong thành mừng vui khôn tả, bèn đốt pháo hoa vui vẻ một phen.

Trong khi đó, bên đại doanh Khâm Sát tiếng khóc tiếng hờ váng trời. Quân Nguyên đổi xác quân Tống lấy di thể Hợp Xuy Man và đồng đội đưa về. Hơn hai ngàn hán tử Khâm Sát ôm di thể bấy nát của đồng hương khóc rưng rức. Lương Tiêu buồn rầu vô hạn, không chịu đựng nổi bèn rời doanh trại đi lang thang. Sực nhớ đến nghĩa muội, gã định lại trướng A Lý Hải Nha thăm nom, vừa lúc thân binh của A Truật đến truyền gã lên trướng soái.

Lương Tiêu cưỡi ngựa vào trung quân, nơi đóng đại trướng, thấy mười mấy vị Lạt ma đang ngồi xếp bằng ở khoảng đất trống trước trướng, tay xoay ống chuyển kinh, miệng niệm kinh văn, xung quanh thắp mấy chục ngọn đèn cháy bằng mỡ, khói tỏa lên mùi thơm là lạ. Lương Tiêu đã từng chứng kiến cảnh lễ nghi tương tự, biết rằng họ đang siêu độ cho các vong linh, bất giác nghĩ thầm: “Người chết rồi còn có hồn phách thật chăng? Nếu thế, cha hay Tam Cẩu Nhi ở trên trời vẫn nghe được tiếng ta, trông thấy mặt ta đấy nhỉ?”. Nghĩ đi nghĩ lại, biết chuyện quỷ thần chỉ là hoang đường, gã buồn rầu thở dài, đi vào trong trướng.

Trướng rất rộng, thắp hai cây nến đại bằng mỡ bò mà vẫn chưa đủ sáng. Những người có mặt đều là hạng trọng thần, đại tướng. Tất cả đang ngồi xếp bằng. Lương Tiêu bước vào mà không một ai liếc mắt nhìn. Lương Tiêu bái chào, Bá Nhan gật đầu bảo:

- Chỗ ngươi phía sau hỏa giả Lan Á!

Lương Tiêu đưa mắt tìm, thấy Lan Á ngồi hàng cuối cùng bên trái, cạnh nàng là một lão già người Hồ râu tóc đen nhánh, mắt xanh nước biển, đầu quấn khăn trắng, vận tấm trường bào cũng trắng như tuyết. Bắt gặp ánh mắt gã, mặt nàng lạnh băng. Lương Tiêu im lìm ngồi xuống.

Mọi người im lặng hồi lâu, không khí trong trướng thật nặng nề. Cuối cùng, Bá Nhan chậm rãi lên tiếng:

- Hôm nay xích sắt đã đứt, quân cứu viện đã vào thành, Tương Phàn đã củng cố được lực lượng. Các ngươi còn gì để nói không?

A Truật bước ra khỏi hàng:

- Đều do thuộc hạ chỉ huy không đến nơi đến chốn, xin nguyên soái trách phạt!

Bá Nhan hừ mũi:

- Nhóm Trương Hoằng Phạm thất bại thì còn đi một nhẽ. Bởi đối phương bày trận thế kỳ lạ, ngươi chưa gặp bao giờ, kể cũng khó lòng phá giải. Nhưng Khâm Sát doanh thì sao? Đám khỉ mắt xanh đó được ngươi nuông chiều thái quá, biến thành giống cứng đầu cứng cổ hết rồi! Lại được cái tên Hợp Xuy Man kia, đường đường là Thiên phu trưởng mà hồ đồ nông cạn, chẳng thèm động não cứ xông thẳng vào thành địch. Nếu Tương Dương dễ hạ như thế, việc gì đại quân ta phải hao tâm tổn sức ngần ấy tháng năm? Hắn tưởng hắn là ai, là Thành Cát Tư Hãn ư?

A Truật nín thinh, không phân trần được một tiếng, mồ hôi túa ra đầm đìa. Sử Thiên Trạch đứng lên bước ra khỏi hàng:

- Đại nguyên soái, thứ cho Sử mỗ tham gia đôi câu. Chiến binh Khâm Sát tuy ngang tàng, nhưng đó cũng là ưu điểm của họ. Khí thế lẫm liệt dữ dằn có thể giúp quân ta áp đảo nhuệ khí đối phương, đôi khi không cần đánh cũng tiêu diệt được địch thủ. A Truật đại nhân thuận theo họ, cốt để giữ gìn khí thế ấy.

Bá Nhan trầm tư một thoáng rồi gật đầu:

- Ông nhận xét cũng có lý! A Truật đứng lên đi!

A Truật khẽ khàng lui về chỗ. Bá Nhan nói:

- Binh thư người Hán có câu: kiêu binh tất bại. Tuy không chính xác hoàn toàn, nhưng cũng có chỗ đúng. Binh lính có thể kiêu ngạo, nhưng tướng quân thì phải trầm tĩnh. Binh sĩ xung phong giết địch, đôi khi bộp chộp xốc nổi, nhưng tướng quân luôn phải cân nhắc cho kỹ, lọc từ cảnh hỗn loạn ra cơ hội chiến thắng địch nhân.

A Truật gật đầu vâng dạ. Bá Nhan tiếp:

- Hiện thời Khâm Sát doanh còn lại bao nhiêu quân?

- Theo như Bách phu trưởng Lương Tiêu điểm danh, còn hai ngàn hai trăm ba mươi sáu người.

Bá Nhan lộ vẻ suy tư:

- Bây giờ đại quân đang đổ về tập kết, binh mã của ngươi sẽ càng ngày càng đông, chắc chắn chăm lo không xuể. Ngay như hôm nay nếu ngươi rảnh tay, đích thân thống lĩnh thì làm gì Khâm Sát doanh thất bại nặng nề đến thế? Tuy vậy tục ngữ có câu: khu nào quan lang ấy! Ngươi thử tìm ai đó thích hợp để dẫn dắt bầy khỉ đó xem!

A Truật máy môi, nhưng không nói ngay. Bá Nhan nhìn khắp các tướng, nhắc lại:

- Ai chỉ huy được Khâm Sát doanh?

Trong trướng im phăng phắc. Sử Thiên Trạch chợt đằng hắng:

- Khâm Sát doanh ỷ công to nên kiêu ngạo, xưa nay chẳng coi dị tộc ra gì. Tướng lĩnh Sắc Mục và tướng lĩnh Mông Cổ bình thường đều không thể khiến họ vâng phục. Chỉ những bậc anh kiệt công trùm vũ trụ như nguyên soái hay A Truật đại nhân mới cầm cương họ được.

A Truật nói ngay:

- Cũng không hẳn, thiết kỵ Khâm Sát tuy ngạo mạn nhưng trọng nghĩa khí và luôn khâm phục kẻ mạnh. Đối với một người đã dùng bản lĩnh chế ngự được họ, rồi lại có ơn cứu mạng cả đội, thì việc điều khiển dẫn dắt họ dễ như trở bàn tay thôi.

Không gian lặng ngắt, mọi ánh mắt đổ dồn vào Lương Tiêu. A Truật đứng dậy cất giọng rành rọt:

- Thuộc hạ đài cử Bách phu trưởng Lương Tiêu đảm nhiệm chức thống soái Khâm Sát doanh.

Lương Tiêu kinh ngạc. Trong trướng ồn ào. Tướng quân A Lạt Hãn cố nói to cho át những tiếng xôn xao:

- Không ổn đâu! Hắn mới đến vừa đầy một tháng thôi mà.

Lưu Chỉnh góp lời:

- Hắn chưa từng trải việc quân, hôm nay lập được đại công thật đấy, nhưng e rằng còn hơi đuối so với chức thống soái.

Sử Thiên Trạch cũng tỏ ra đăm chiêu:

- Đúng, hắn còn ít tuổi, khó tránh xốc nổi.

Ngoài A Truật và A Lý Hải Nha, hầu như ai cũng lắc đầu quầy quậy. Nguyên do rất đơn giản, các tướng đã lăn lộn biết bao chiến trận, tạo lập vô vàn công lao mới giành được địa vị hôm nay. Lương Tiêu chẳng qua chỉ là kẻ mới đến, luận về thành tích thì thậm chí không đáng xách dép cho bọn họ, căn cứ vào đâu mà nghiễm nhiên bước lên ghế thống soái của đội kỵ binh tinh nhuệ nhất Đại Nguyên? Làm gì có chuyện cá chép nhảy một bước thành rồng, tốt đen bỗng chốc bằng vai phải lứa với các danh tướng trọng thần? Không ai chấp nhận nổi.

A Truật đợi cho những tiếng ồn ào huyên náo lặng hẳn mới cười nhạt bảo:

- Thế đấy! Các ngươi đều phản đối, vậy ta xin hỏi: ai đột phá được trùng trùng vòng vây của ba ngàn chiến binh Khâm Sát chỉ với sức sáu người? Ai có thể khiến một quân đoàn đang suy sụp phấn chấn tinh thần trở lại? Ai đủ kiến thức để nhận ra trận pháp hôm nay của thủy sư nhà Tống? – Y nhìn Lan Á, mỉm cười. – Và ai bắn đứt được sợi dây vàng xâu chuỗi ngọc ở cách xa một trăm bộ?

Lan Á liếc nhanh Lương Tiêu, khuôn mặt trắng trẻo hằn sắc giận.

Trong trướng lặng ngắt như tờ, mọi người đưa mắt nhìn nhau, giọng A Truật vang lên rõ ràng:

- Nếu có người tự nhận làm được hai trong ba điều đó thôi, ta xin thu lại những lời lúc trước.

Trong trướng vẫn lặng ngắt. A Truật nhìn xoáy vào mặt từng người, cặp mắt sáng quắc:

- Dân Hán có câu: cốt nên đại sự, đừng nệ tiểu tiết. Muốn đánh bại người Tống thì phải nghĩ thoáng ra, chớ ngủ quên trên quá khứ. Các ngươi nam chinh bắc chiến đã nhiều, lập được vô khối công lao, hôm nay chẳng phải cũng thua trận đấy ư? Hồi ta làm Vạn phu trưởng, tuổi chỉ xấp xỉ Lương Tiêu bây giờ, nhưng thành tích có kém sút chút nào so với các ngươi không?

Đám tướng lĩnh im bặt, Bá Nhan cau đôi mày rậm, ngẫm nghĩ một lúc rồi lên tiếng:

- A Truật nói đúng! Ta đồng ý! – Y nhìn sang mé bên, giọng sang sảng. – Lương Tiêu nghe lệnh!

Lương Tiêu đứng dậy. Bá Nhan nói:

- Ngươi tạm giữ quyền Vạn phu trưởng Khâm Sát! Nếu làm việc mẫn cán, lập nhiều chiến tích thì ta sẽ tâu thánh thượng chính thức phong ngươi làm thống soái Khâm Sát doanh.

Lương Tiêu vốn ngang ngạnh cố chấp, bị thái độ phản đối của những người xung quanh kích thích ngạo khí, gã bèn đứng ngay dậy chắp tay, nghênh ngang nhận lệnh.

Bá Nhan bảo gã ngồi xuống, chuyển chủ đề:

- Người Tống đã tăng cường lực lượng phòng thủ, cuộc chiến mà kéo dài thì hết sức bất tiện cho chúng ta, chư vị có kế nào phá thành không?

A Lý Hải Nha đưa ý kiến:

- Chi bằng đợi Hồi Hồi pháo[12] chế tạo xong rồi tấn công một thể.

Bá Nhan nhìn sang lão già mắt xanh:

- Trát Mã Lỗ Đinh, bao nhiêu ngày nữa thì hoàn thành đại pháo?

Trát Mã Lỗ Đinh đáp:

- Ta không rõ lắm, vì hỏa giả Nạp Tốc La Đinh thầy ta, bậc trí tuệ của các trí tuệ, vẽ sơ đồ thiết kế pháo này đã lâu nhưng chưa tiến hành chế tạo thử bao giờ. Tuy vậy theo lời người, đây là loại pháo đá công thành rất đáng sợ, tầm bắn cực xa, sức sát thương vô cùng lớn, bất luận thành trì kiên cố thế nào cũng phải sụp đổ.

Bá Nhan mừng rỡ:

- Ông chắc chắn chứ?

Trát Mã Lỗ Đinh lắc đầu:

- Vũ khí chưa thành hình thì uy lực của nó chỉ thể hiện trong lời nói của thầy ta thôi.

Bá Nhan bối rối, cau mày im lặng. Lương Tiêu đứng dậy cười bảo:

- Tôi không tin trên thế gian có cỗ pháo thần diệu đến thế, bởi máy móc tinh vi cỡ nào cũng có cách phá giải hết. So với việc chế tạo một thứ vũ khí trên giấy thì việc nghĩ ra mưu kế thích hợp còn hữu ích hơn.

Bá Nhan nhướng mày, giọng trầm trầm:

- Ngươi nói rõ xem!

Lương Tiêu nói:

- Hôm nay tôi đứng trên thạch đài quan sát Tương Dương và Phàn Thành, nhận ra rằng tuy chúng ta tấn công một tòa thành, nhưng thực chất phải tác chiến với tướng sĩ của cả hai bên.

Sử Thiên Trạch hỏi xen vào:

- Ý ngươi là dãy cầu nổi nối hai bờ phải không?

- Đúng vậy, – Lương Tiêu đáp. – Hai thành dễ dàng cứu viện cho nhau nhờ dãy cầu nổi ấy, người đời thường bảo: hai đánh một chẳng chột cũng què…

Bá Nhan gật đầu:

- Khá lắm, ngươi mới đến mà đã nhận ra chỗ cốt yếu trong việc tấn công thành lũy ở đây. Chúng ta biết chứ, và từng phái thủy quân đánh phá nhiều lần, nhưng đều thất bại vì người Tống bảo vệ cầu nổi rất chặt chẽ.

Lương Tiêu hỏi:

- Thủy quân không tiếp cận được, vậy nếu lặn ngầm thì sao?

Sử Thiên Trạch cau mày:

- Nói nghe đơn giản quá, hàng bao nhiêu người bơi xa như thế mà không bị quân Tống phát hiện chắc?

A Lý Hải Nha thoáng ngẫm nghĩ rồi nói:

- Nhân gợi lại việc này, tôi bỗng nghĩ ra một cách. Nguyên soái còn nhớ hồi thánh thượng chinh thảo Đại Lý, quân ta đã từng vượt sông Lan Thương thế nào không?

Bá Nhan cười:

- Ý ngươi nhắc đến mớ túi da chứ gì? Ta hiểu rồi! Hay ngươi và Lưu Chỉnh thử nghiệm xem sao.

Sau đó, y dặn dò thêm một số điều về đội ngũ luyện tập, cuối cùng cho mọi người lui. Lương Tiêu cưỡi ngựa về trại, sắp vào cổng lớn liền nghe có người hô:

- Đứng lại!

Lương Tiêu ngoảnh đầu trông thì thấy Lan Á đang hầm hầm phi ngựa tới, gã hơi cau mày. Gần đến nơi, Lan Á gò cương ngựa, tức giận hỏi:

- Ngươi dựa vào đâu mà dám khinh thường người khác?

Lương Tiêu ngạc nhiên:

- Ta khinh thường ai?

- Ngươi chê bai Hồi Hồi pháo do thầy ta thiết kế.

Lương Tiêu điềm tĩnh đáp:

- Ta chỉ nói năng hơi thẳng thắn chút thôi, không hề có ý coi nhẹ ai.

Mặt đỏ lựng, hàng mày liễu nhướng cao, Lan Á hằm hằm mắng:

- Ngươi xem thường thầy ta, ta phải quyết đấu với ngươi.

Lương Tiêu phì cười:

- Đấu cái gì? Cưỡi ngựa hay đánh nhau?

Lan Á hừ mũi:

- Những môn đó ngươi rành rẽ quá mà, ta đấu sao lại? Ta chỉ hỏi thế này thôi, ngươi có hiểu gì về hình học Âu Cơ Lý Đắc[13] không? Có hiểu gì về chiêm tinh, thủy lợi, thuật chế tạo cơ quan không? Có biết dùng cát khai triển ma phương không?

Lương Tiêu nhíu mày, ngoài thủy lợi và thuật tạo cơ quan ra, gã chưa bao giờ nghe đến những môn còn lại, lưỡng lự đôi hồi rồi hỏi:

- Cô nói sao cơ?

Lan Á được thể chì chiết:

- Ngươi không biết chứ gì? Đó là những kiến thức mà thầy ta thông hiểu nhất đấy. Một kẻ vô tri như ngươi mãn kiếp cũng không thấm thía được sự vĩ đại của người. Trí tuệ trác tuyệt của Nạp Tốc La Đinh khác nào gió lớn cuốn khắp mặt đất. Còn ngươi chẳng qua chỉ là một tên nô tài của hoàng đế nhà Nguyên mà thôi.

Nạp Tốc La Đinh là hiền triết người Hồi vĩ đại nhất thời bấy giờ, Lan Á vô cùng tôn kính ông nên không tha thứ bất cứ kẻ nào dám thốt ra những lời khinh mạn. Trong lúc tức giận nàng không cân nhắc cách nói năng, thành ra lăng nhục Lương Tiêu hết mức. Lương Tiêu siết chặt tay trái, máu nóng dồn lên mặt. Lan Á thấy mặt gã đỏ bầm, mắt long sòng sọc thì cũng hơi khiếp sợ, nhưng vì gã đã xúc phạm đến sự tôn nghiêm của bậc thầy Hồi Hồi nên nàng quyết không lui bước, lại quát to:

- Ngoài việc đánh giết và bắt nạt đàn bà con gái, ngươi còn hiểu biết những gì? Được lắm, ngươi lấy cung ra bắn đi, ta không sợ đâu!

Lương Tiêu sững người, hồi tưởng chuyện hôm trước cũng hơi hổ thẹn, bèn từ từ thả lỏng nắm tay:

- Cô là nhà tinh tú học Hồi Hồi?

- Tinh tú học thì sao?

Lương Tiêu nói:

- Nghe nói tinh tú gia Hồi Hồi rất giỏi toán số, biết đặt ra những cơ quan sâu xa ảo diệu, nắm được sự vận hành của sao trời, có thể thay đổi dòng chảy của sông biển, xây dựng nên những ngôi nhà không bao giờ mục nát, phải vậy không?

Lan Á hơi thắc mắc, nhưng vẫn gật đầu:

- Vậy là ngươi cũng biết.

Lương Tiêu cười nhạt, dằn từng tiếng:

- Được, học trò của Nạp Tốc La Đinh, ta nhận lời khiêu chiến. Chúng ta đấu thiên văn, cơ quan và thủy lợi. Những gì liên quan đến toán học thì tùy cô chọn.

Lan Á nghe với vẻ sửng sốt, đoạn bĩu môi vẻ miệt thị, nàng lạnh lùng bảo:

- Đúng là tự chuốc lấy nhục nhã!

[1] Sóng cồn Hán Thủy.

 

[2] Dùng ngũ hành luận binh pháp.

[3] Tên một nước cổ, ngày nay là vùng thung lũng Fergana của Uzbekistan. Nơi này có một giống ngựa dai sức, chạy nhanh, mồ hôi đỏ như máu, gọi là hãn huyết mã.

[4] Tức Indo-sthyc, một tộc cổ phân bố rải rác ở Trung Á. Vào thời điểm của câu chuyện này, vùng họ sống là biên giới Afghanistan ngày nay.

[5] Chú thích và bình giải về Sử Ký Tư Mã Thiên. Tác giả là Trương Thủ Tiết, sống vào những năm Khai Nguyên thời Đường.

[6] Chỉ bán đảo Đông Dương và một phần tiểu lục địa Ấn Độ ngày nay.

[7] Tức Madhya-desa, một vùng thuộc Trung Ấn, nằm ở hạ du sông Hằng.

[8] Tức La Mã.

[9] Hình ba ba hai đầu.

[10] Hình tê giác.

[11] Bài từ theo điệu Nhất tiễn mai, tác giả là một viên thư lại họ Dương thời nhà Tống.

[12] Còn gọi là Tây Vực pháo hay Tương Dương pháo, một loại vũ khí có sức sát thương lớn được người Nguyên cải tiến từ máy bắn đá thông thường, xuất hiện lần đầu trong sáu năm diễn ra trận chiến Tương Phàn (1267 – 1273).

[13] Tức hình học Euclid.

[Côn Luân] Quyển 3 – Hồi 12

Quyển thứ ba

PHÁ THÀNH QUYỂN

 

CÙNG ĐỒ MẠT LỘ

Alex dịch

Hôm sau, Lương Tiêu cắm cọc cách thành Tương Dương chừng hai ngàn bộ, đánh dấu vị trí xây đài. Cùng lúc, quân Tống cũng dỡ nhà lấy gỗ, chế tạo giàn nỏ Thiên Cương phá trận thứ ba để tăng uy lực tấn công. Vân Thù nhìn quân Nguyên lũ lượt chuyển đất đến đắp thì hiểu ngay mục đích của họ, lập tức cho lính đánh phá, hiềm nỗi hai bên cách nhau đến mấy dặm, thay đủ mọi loại tên đạn mà nỏ giàn đều không bắn tới nơi. Lương Tiêu còn phái kỵ binh ra khiêu khích Thiên Cương phá trận nỗ, thử xem cự ly xa nhất đến đâu thì vẽ vạch trắng ở đó, hễ thấy quân Tống vượt qua vạch là xáp lại tấn công, còn chưa thì chỉ đối kháng từ xa bằng cung nỏ.

Trong ba ngày hai bên giằng co, pháo đài cũng được cấp tốc hoàn thành, hiện lên sừng sững trên đồng trống. Đài cao bốn trượng, rộng tám trượng, bên trên còn dựng thêm một bệ gỗ cao bốn trượng, chỉ sáu trượng nữa là ngang bằng với mặt thành. Trát Mã Lỗ Đinh tháo rời Tương Dương pháo, kéo lên đài rồi ráp vào như cũ. Khẩu pháo cao mười trượng, lắp đặt xong đã vượt hẳn bờ tường Tương Dương.

Vân Thù đoán ra ý đồ của quân Nguyên, vội chạy đi báo Lữ Đức. Họ Lữ hoảng hồn dốc hết lực lượng tấn công, Lương Tiêu bèn lập trận chống trả. Hai đạo quân hò hét vang lừng. Chiến binh Khâm Sát dũng mãnh vô song, quân Tống có Vân Thù, Cận Phi và đám hào kiệt phương nam trợ giúp mà vẫn không sao lay chuyển được trận thế của họ. Vân Thù định đưa Thiên Cương phá trận nỗ ra ngoài thành, nhưng giàn nỏ quá kềnh càng, xoay ngang xoay dọc đều không lọt qua cổng. Cấu tạo của nó lại phức tạp, gá lắp rất tốn thời gian, nếu tháo rời đem xuống chân thành ráp lại, chẳng may Lương Tiêu dẫn thiết kỵ lao ập tới như lần trước thì nhất định nỏ sẽ bị phá hủy ngay tại chỗ.

Dưới đồng hai bên lăn xả vào chém giết, trên đài cao pháo đã chuẩn bị xong. Tương Dương pháo đối mặt với Tương Dương thành, vị thế hai bên hoàn toàn đảo ngược. Khẩu pháo ung dung chĩa xuống, thay vì phải ngóc lên cao như xưa.

Trát Mã Lỗ Đinh phát lệnh khai hỏa. Quân Nguyên thả một khúc gỗ nhồi đầy thuốc nổ và phết dày dầu mỡ vào lưới, châm lửa bắn. Khúc gỗ nhẹ vạch một đường sáng rực trên không, băng qua khoảng cách hai ngàn bộ, lao vù về phía thành Tương Dương. Lửa mạnh bắt dầu cháy rất nhanh, xuống gần vọng lâu, nó đã ăn qua lớp vỏ gỗ, liếm vào phần thuốc nổ bên trong. Khúc gỗ kêu “đoành” một tiếng như pháo Tết, vọng lâu bốc cháy phừng phừng.

Lữ Đức vội vã cứu hỏa, nhưng quân Nguyên liên tục bắn pháo, cứu chữa không kịp, ngược lại rất đông binh lính bị thương thêm. Chưa đến một canh giờ, mặt thành Tương Dương đã cháy ngùn ngụt như biển lửa. Ba giàn nỏ Thiên Cương phá trận đều gắn cố định tại chỗ, không di chuyển ngay được, hứng một đợt pháo hỏng mất hai. Vân Thù liều chết dỡ giàn cuối cùng xuống, nhưng phần lẫy đã bị cháy, dễ phải mất nhiều thời gian mới sửa xong.

Pháo kích liên miên mấy ngày, quân Tống thương vong nặng nề. Khi cỗ pháo thứ hai hoàn thành, Lương Tiêu đưa nó vào gần mục tiêu hơn một ngàn bộ, trong lúc đó cỗ thứ nhất vẫn tiếp tục oanh tạc, gây sức ép ngăn cản quân Tống lắp lại Thiên Cương. Với sự bảo vệ của quân Khâm Sát, một đài cao sáu trượng được đắp lên để đặt cỗ pháo mới.

Pháo mới lắp xong liền phát huy tác dụng cao độ. Hàng trăm cân đá tảng cứ tạt thẳng vào thành Tương Dương như sét đánh. Đã mấy lần Vân Thù dẫn bọn hào kiệt phương nam lao ra khỏi thành toan cướp pháo, song phương huyết chiến đến hơn chục trận, nhưng quân Tống mỗi đánh mỗi bại, không tài nào địch nổi thiết kỵ Khâm Sát.

Trước sự chống trả ngoan cường của đối phương, Lương Tiêu quyết định phải dùng biện pháp cứng rắn hơn. Gã cho thợ mộc đẽo những con lăn thật to, khoét rỗng ruột, nhồi đầy thuốc nổ, châm lửa xong bắn vào thành. Thứ đạn bắn này gọi là Mộc phích lịch[1], hễ phát nổ là hủy diệt hoàn toàn sự sống trong phạm vi ba mẫu xung quanh, uy lực khủng khiếp gấp nhiều lần Chấn thiên lôi của quân Tống.

Sau hai ngày đêm tấn công dai dẳng, sáng tinh mơ ngày thứ ba, một phát Mộc phích lịch bắn trúng kho hỏa khí của Tương Dương, đâm thủng mái kho, dẫn nổ toàn bộ quân dụng bên trong. Những tiếng nổ đinh tai nhức óc làm rung chuyển cả thành trì, phá nát mọi vật xung quanh, gây chấn động đến hơn trăm dặm. Lửa được thế gió mau chóng lan rộng, cháy rừng rực khắp thành Tương Dương.

Kho hỏa khí cháy rụi hoàn toàn, kho lương thảo bị thiêu hủy gần hết. Hơn một vạn dân chúng mất nhà mất cửa, rơi vào cảnh ăn gió nằm sương, khóc gào náo loạn. Quân Nguyên thừa thế từ hai hướng tây và nam tiến công Tương Dương, quân Tống chật vật chống cự. May thay, khi bộ binh Nguyên triều sắp leo được lên mặt thành thì Vân Thù đã sửa xong Thiên Cương phá trận nỗ, vừa kịp đem bắn cản bước kẻ thù. Lúc này Dĩnh thành mới nhận được tin khẩn của Tương Dương, Trương Thế Kiệt vội tiến quân cứu viện, nhưng bị A Truật đánh lui hết lần này đến lần khác. Tương Dương lâm vào cảnh ngộ tuyệt vọng hoàn toàn.

Từ lúc thi hành biện pháp mạnh, Lương Tiêu vẫn áy náy không yên. Sau hôm tiêu diệt được kho hỏa khí, nghe tiếng dân chúng khóc than nháo nhác, gã đâm chột dạ, hạ lệnh ngừng dùng Mộc phích lịch, chỉ nạp đá tảng bình thường bắn lên đầu thành. Khổ chiến dằng dai như thế, Tương Dương tiếp tục cầm cự được thêm một tháng.

.

Mùa đông rét mướt tràn tới, thời tiết mỗi ngày một lạnh, tuyết đổ lấp xấp, bay phiêu phất trên đất Tương Phàn. Chỉ sau mấy đêm, không gian đã nhuộm một màu trắng toát. Bị cướp đi mái ấm che thân cũng như lương thực thực phẩm, vô số người chết vì đói, vì rét, nhiều người may mắn sống sót thì nghĩ quẩn, bắt đầu vật các xác chết ra nấu ăn.

Lương Tiêu đánh mãi không hạ được thành, thường băn khoăn tự hỏi không hiểu Tương Dương còn sức mạnh bí mật gì mà vẫn khăng khăng chống cự. Một hôm, gã trèo lên đỉnh pháo nhìn sang quan sát tình hình, chợt chứng kiến hành động rùng rợn đó thì choáng váng như bị sét đánh. Từ lúc hạ quyết tâm công phá tòa thành hòng bắt giết Vân Thù, gã chưa bao giờ ngờ rằng mình sẽ gián tiếp tạo nên một thảm cảnh như vậy. Nhất thời, Lương Tiêu đứng chết trân trên đỉnh pháo, vừa ăn năn vừa căm hờn, đồng thời không lý giải nổi vì sao đã đến nước này mà quân Tống còn ngoan cố tử thủ không hàng. Thẫn thờ hồi lâu, gã tụt xuống khỏi pháo đài, cưỡi ngựa đến gặp Bá Nhan, thỉnh cầu chiêu hàng Lữ Đức.

Bá Nhan nghe Lương Tiêu thuật lại, suy nghĩ một thoáng rồi triệu các tướng vào trướng thương nghị. Lưu Chỉnh vẫn ôm mối hận trúng tên hôm trước, cứ điều một điều hai là phải bắn tan tành Tương Dương, giết sạch dân chúng mới hả dạ. Đa số tướng lĩnh chôn chân ở đất này đã lâu, vất vả đã nhiều, cũng muốn nhân cơ xả giận nên cùng gật đầu hưởng ứng. Chỉ có Sử Thiên Trạch và A Lý Hải Nha là không nói một lời, nét mặt nặng nề.

Lương Tiêu thấy mọi người đều tán đồng Lưu Chỉnh thì rất bức xúc, lớn tiếng hỏi:

- Người sống hữu dụng hay là xác chết đây, hả? Đập vỡ bát sứ thì ai chả làm được, nhưng mấy kẻ biết nặn một cái cho ra hồn? Hủy hoại thành trì sẽ rất nhanh thôi, nhưng bao lâu mới có thể tái kiến thiết?

Các tướng nghe phân tích hợp lý, tự dưng đắn đo.

Lưu Chỉnh thực ra chỉ nói bừa cho đỡ tức, nào ngờ Lương Tiêu còn trẻ, tính tình nóng nảy nên phản ứng gay gắt, khiến họ Lưu ngượng quá hóa giận. Y đường đường là đại tướng, chiến công hiển hách, đời nào cho phép một tên tiểu tử trèo đầu cưỡi cổ mình, bèn sừng sộ mắng ngay:

- Ngươi thì hiểu cái gì? Hôm nay làm cỏ Tương Dương, ngày mai các thành trì khác đều táng đởm kinh hồn, không ai dám chọc giận đại quân ta nữa. Ngươi chẳng qua mới nhập ngũ dăm ba bữa, lập được một dúm công lao mà tưởng mình ghê gớm lắm sao? Hừ, thời lão phu thống lĩnh thiên quân vạn mã đánh đông dẹp bắc, ngươi còn bú tí mẹ kia kìa!

Lương Tiêu cười nhạt:

- Đã nói thì nói rõ hẳn ra, ông thống lĩnh thiên quân vạn mã nào? Tống hay Nguyên? Ông phản bội Đại Tống thì được, mà người khác đầu hàng Nguyên triều thì không được hay sao?

Những lời cay độc ấy làm các tướng tái mặt. Bá Nhan quát:

- Lương Tiêu!

Lương Tiêu giật mình, tạm thời ngừng lại. Lưu Chỉnh nhảy nhổm lên như phải bỏng, mặt mày xanh lét.

- Chỉnh này sống nửa đời người, hôm nay mới biết có thứ hậu sinh vừa nứt mắt mà miệng lưỡi đã đầy nanh nọc! Tre già măng mọc, Lưu mỗ không những già lại còn vô dụng, đành nhường thiên hạ cho người trẻ tuổi vậy! Mong Đại Nguyên soái rón tay làm phúc để thuộc hạ được về quê cày ruộng!

Lưu Chỉnh ngoài miệng nói nhún, thực chất đầy ý hăm dọa: “Hoặc là Lưu Chỉnh này đi, hoặc là Lương Tiêu bị phạt. Bá Nhan, ngươi hãy tự chọn đi!”.

Bá Nhan không trả lời thẳng, chỉ gọi:

- Na Tốc!

Một thân binh đáp lời bước ra. Bá Nhan nghiêm nghị nói:

- Lột mũ áo Lương Tiêu, đánh ba trăm hèo thật nặng rồi treo lên cổng doanh thị chúng một ngày.

Na Tốc vâng lệnh, cùng các thân binh khác chạy lên định bắt giữ. Lương Tiêu một tay chống nạnh, quát to:

- Kẻ nào dám?

Đám quân sĩ biết gã kiêu dũng tuyệt luân nên tạm thời chưa dám đến gần. Bá Nhan biến sắc, lừ lừ đứng dậy:

- Ngươi dám chống lệnh ta ư?

Tất cả đều nín thở. Chống lại quân lệnh, chỉ có một con đường chết!

Lương Tiêu cao giọng:

- Tôi chả làm gì sai cả!

A Truật thấy gã quá ương bướng, chỉ sợ tình hình xấu thêm, vội khuyên nhủ:

- Kẻ cưỡng lệnh Nguyên soái sẽ bị chém đầu, không cân nhắc nhiều.

Lương Tiêu vẫn khăng khăng:

- Tôi chả làm gì sai!

A Truật mắng:

- Ngươi ăn nói ngông cuồng, là kẻ dưới mà vô lễ với người trên, chẳng sai thì đúng vào đâu? Đã tòng quân phải trọng kỷ luật. Thổ Thổ Cáp hiểu, Lý Đình cũng hiểu, vậy mà ngươi không hiểu hay sao?

Lương Tiêu nghe giọng A Truật, hiểu ngay điều y ngầm nhắn nhủ. Gã chết là yên phận gã, nhưng còn A Tuyết và đám bạn bè đang ở trong doanh trại, tất đều bị liên đới.

Lương Tiêu cụp mắt xuống, muôn vàn ý nghĩ quay cuồng trong đầu, sự hung hăng lúc trước dần dần bay biến cả. Đám thân binh chực tiến lại, gã nghiến răng bảo:

- Để ta tự làm lấy! – Đoạn bỏ mũ cởi giáp, bước ra khỏi trướng.

Binh sĩ ùa lại ấn dúi gã xuống, tiếng gậy vụt đen đét vang lên. Bá Nhan lắng nghe một lúc, chợt cau mày bảo:

- Na Tốc, mạnh tay vào, nếu không sẽ bị xử theo quân pháp!

Quả vậy, Na Tốc biết Bá Nhan và A Truật rất yêu mến Lương Tiêu nên cố ý nương nhẹ, ngờ đâu Bá Nhan là cao thủ võ học, vừa nghe đã phân biệt ngay thực giả. Na Tốc vâng lời, đành toàn lực nện xuống.

A Truật nghe tiếng gậy nặng hẳn, chỉ sợ Lương Tiêu có bề gì, vội van nài:

- Bẩm thừa tướng, bây giờ Tương Dương chưa…

Bá Nhan quát:

- Im ngay! Nếu không phải tại ngươi dung túng, tên tiểu tử ấy dám ngang ngược thế không?

A Truật nghe thét, nín thít ngồi xuống. Lưu Chỉnh thấy Bá Nhan giữ thể diện cho mình, cũng hài lòng quay lại chỗ ngồi, nghiêng tai lắng nghe, tự đắc nghĩ: “Đánh mạnh thật! Chịu đủ hình phạt xong chắc cũng thân tàn ma dại. Nhưng hắn là ái tướng tâm phúc của A Truật, chiến công lừng lẫy, rủi có mệnh hệ gì, chỉ e A Truật sẽ để bụng thù mình. Bản thân mình là hàng tướng, vốn đã thiếu bè cánh cội rễ ở triều ca, trong khi gia đình A Truật ba đời danh tướng đánh đông dẹp bắc uy chấn vạn dặm, chẳng may để y đem lòng oán hận, rắp tâm trừ diệt thì mình gay go to”.

Họ Lưu già đời từng trải, suy nghĩ chín chắn, bụng dạ thâm sâu, lập tức vuốt râu lặng lẽ đếm cho đủ một trăm hèo mới từ tốn đứng dậy, vòng tay cười nói:

- Bẩm Nguyên soái, Lương tướng quân trẻ tuổi thiếu kinh nghiệm, khó tránh khỏi có lúc nông nổi. Bây giờ chưa diệt được Đại Tống, còn cần nhiều sức người. Suy cho cùng Lưu Chỉnh cũng có chỗ không phải, mong Nguyên soái tha cho Lương tướng quân lần này.

Bá Nhan không muốn làm họ Lưu bẽ mặt, bèn bảo:

- Lưu đại nhân đã khoan dung độ lượng như vậy, thôi thì tha phạt đòn Lương Tiêu, nhưng nhất định phải treo hắn lên thị chúng một ngày.

Bá Nhan biết Lương Tiêu tâm cao khí ngạo, đem gã ra bêu xấu còn khiến gã khó chịu hơn bị đánh roi gấp bội, nhưng nếu không tỏ ra nghiêm khắc, cái tên cứng đầu cứng cổ coi thường thiên hạ ấy sẽ mỗi ngày một vô kỷ luật, có khi đến lúc bắt buộc phải xử hắn tội chết không chừng. Y bèn sai Na Tốc trói Lương Tiêu lên cột cờ, muốn gã chịu nhục để nhụt bớt ngạo khí đi.

Lưu Chỉnh được thỏa mãn cả hai đằng, vô cùng hả hê, vuốt râu cười nói:

- Vừa rồi quả tình tôi có hơi mất kiềm chế, nghĩ đi nghĩ lại, chiêu hàng vẫn là thượng sách.

Các tướng đều bực: “Đúng là lưỡi không xương trăm đường lắt léo, gió hướng nào lựa hướng ấy che”.

Sử Thiên Trạch lúc này mới lên tiếng, giọng ôn hòa:

- Lưu đại nhân nói rất đúng. Từ cổ chí kim, công thành là hạ sách, công tâm là thượng sách, không đánh mà khuất phục được địch thủ mới là cảnh giới tối thượng của binh gia. Hiện nay lòng người Tương Dương đang dao động, chính là thời cơ tốt để chiêu hàng.

Họ Sử tuổi tác đã cao, công lao cũng lắm, lời nói lại đầy sức thuyết phục, ai nghe cũng phải gật đầu. Lưu Chỉnh phất tay áo, cười nhạt:

- Lưu mỗ kiên quyết không đi.

Bá Nhan trầm ngâm hồi lâu rồi hỏi:

- Muốn Lữ Đức tin thì phải cử một đại tướng có uy tín, ai đồng ý đi?

Sử Thiên Trạch cau mày im lặng. A Truật ngập ngừng. A Lý Hải Nha chợt đứng dậy:

- Tôi đi!

Bá Nhan nhìn sang ra ý hỏi. A Lý Hải Nha nói rành mạch:

- Lần trước tôi vào yết kiến thánh thượng, người có dạy: “Trong những kẻ chinh phục Giang Nam thì Tào Bân thời Tống Thái Tổ là viên đại tướng xuất sắc nhất. Ông ta bình định được dải đất ấy mà giết rất ít người. Nếu ngươi không tàn sát mà vẫn đoạt được Giang Nam thì ngươi cũng chính là Tào Bân của ta vậy”. Tôi nhớ nằm lòng lời thánh thượng, càng ngẫm càng thấm thía. Dân Mông Cổ, Sắc Mục chúng ta, lẽ nào không bằng người Hán?

Bá Nhan gật đầu:

- Thánh thượng dạy rất phải, nhưng chuyến đi này quả thực quá hung hiểm!

A Lý Hải Nha nói ngay:

- Tôi biết. Nhưng nếu đánh đổi sinh tử của bản thân mà cứu sống được cả một thành trì thì cũng chẳng phải công đức to lớn gì cho lắm. – Y mỉm cười. – Hơn nữa, tôi không nghĩ Lữ Đức dám nặng tay với tôi khi đang lâm vào hoàn cảnh bi đát thế kia.

Bá Nhan bóp trán suy nghĩ. A Lý Hải Nha cười:

- Nếu Nguyên soái vẫn chưa yên tâm thì phái thêm một người hộ tống, nhất định hắn sẽ đảm bảo cho tôi bình yên vô sự.

- Ai? – Bá Nhan ngẩng lên.

- Lương Tiêu.

- Thật thế ư? – Bá Nhan ngạc nhiên.

- Mạng tôi còn là nhờ Lương Tiêu vượt bao sống chết cứu khỏi tay người Tống. Với bản lĩnh của hắn, cho dù cả vạn mũi tên từ trên thành trút xuống cũng chưa chắc làm tôi sứt mẻ được.

Bá Nhan ngần ngừ:

- Hắn đang phải chịu hình phạt!

A Lý Hải Nha mỉm cười:

- Vậy thì mong Nguyên soái rón tay làm phúc!

Lưu Chỉnh toát mồ hôi, bụng bảo dạ: “Hú hồn hú vía, thiếu chút nữa là đắc tội cả với A Lý Hải Nha”. Bá Nhan phì cười:

- Ngươi vòng vèo mãi hóa ra cốt xin hộ hắn à? Được, nể mặt bách tính thành Tương Dương, ta tha cho hắn để đi hộ tống ngươi.

A Truật lầu bầu:

- Lĩnh ngần ấy hèo, chả chắc còn cưỡi ngựa nổi không!

Bá Nhan lắc đầu:

- Dăm ba roi thế thì hề hấn gì với hắn! A Lý Hải Nha, ngươi thả Lương Tiêu xuống, dẫn hắn theo sang Tương Dương.

Y bảo A Lý Hải Nha thả Lương Tiêu, ngụ ý là muốn Lương Tiêu cảm ơn đức ấy mà sẵn sàng liều chết báo đáp.

A Lý Hải Nha cưỡi ngựa ra cổng doanh, thấy binh lính đang xúm đông xúm đỏ, một số đứng gần cột cờ, chỉ chỉ trỏ trỏ. Lương Tiêu bị trói trên cao, mắt khép hờ, mặt lầm lì. A Lý Hải Nha than thầm: “Nguyên soái dùng cách này hơi quá đáng, một đại tướng bị lăng nhục trước ba quân thì mai sau làm sao để binh lính khâm phục?”. Y vội bảo thân binh giãn đám đông, tuyên lệnh Bá Nhan thả Lương Tiêu xuống.

Lương Tiêu nội lực thâm hậu, lĩnh đòn roi cũng chẳng đau đớn mấy, chỉ căm giận vì bị làm nhục. Đang lúc hờn oán ngập lòng, nghe tin Bá Nhan chấp nhận kế sách dụ hàng, gã mới cảm thấy dễ chịu đôi chút.

Hai người cưỡi ngựa sang Tương Dương. Bọn Thổ Thổ Cáp nghe nói chuyến đi đầy hung hiểm thì lẵng nhẵng đi theo, nhưng bị Lương Tiêu quát về hết. Khi Lương Tiêu và A Lý Hải Nha đến chân thành, bên trên tên nỏ đã chĩa ra tua tủa, ngắm sẵn vào bọn họ.

A Lý Hải Nha hít một hơi, định thần gọi to:

- A Lý Hải Nha, Hữu thừa Nguyên triều cầu kiến Lữ Đức đại nhân.

Lữ Đức vẫn lấy làm thắc mắc về việc quân Nguyên ngừng pháo kích. Lúc này y đang đứng lẫn trong đám sĩ tốt, nghe A Lý Hải Nha xưng danh thì cau mày, vội giơ tay ngăn Vân Thù bắn tên:

- Ta đây! Hải Nha đại nhân, ông đến dụ hàng chứ gì?

A Lý Hải Nha đáp:

- Đúng, hiện tại Tương Dương hoàn toàn trơ trọi, mọi mối liên lạc với bên ngoài đều bị cắt đứt. Bách tính trong thành đói rét cùng quẫn, người người ăn thịt lẫn nhau, hoàn cảnh tuyệt vọng đến thế, tướng quân không hàng thì còn đợi tới bao giờ?

Lữ Đức trầm giọng:

- Nhà ta đời đời hưởng lộc Đại Tống, nay gánh trọng trách Thái thú Tương Dương, sẵn sàng da ngựa bọc thây, sống chết với thành để báo đáp ơn vua. Hải Nha đại nhân, ta không bắn ông. Hãy về mau đi, chỉ mong khi phá thành, đại nhân nể việc hôm nay mà nhẹ tay với bá tính, đừng giết chóc nhiều! Được thế thì Lữ mỗ cảm kích khôn cùng!

A Lý Hải Nha toan lựa lời thuyết phục thì Lương Tiêu thét lớn:

- Lữ đại nhân, ông đã muốn chết thì chết ngay đi!

Tướng sĩ trên thành nổi giận, A Lý Hải Nha sững sờ tự nhủ: “Thôi hỏng, chữa lợn lành thành lợn què rồi. Ta không nên cho hắn theo mới phải”. Vân Thù chuẩn bị bắn tên, Lữ Đức trầm giọng bảo:

- Khoan, nghe hắn lải nhải xong rồi giết cũng chưa muộn!

Lương Tiêu nói:

- Chắc ông muốn chết mà vẫn được lưu danh sử sách chứ gì? Tính toán hay lắm, ông chết thì còn thanh danh, nhưng dân chúng thành này chết rồi thì còn lại cái gì? Bặt tiếng vợ dịu dàng thủ thỉ, vắng con thơ ríu rít nô đùa, cha mẹ hiền từ mất cả, bạn bè vui vẻ không còn… Họ chết rồi thì chỉ còn xương trắng mà thôi.

Quân dân trên thành cùng biến sắc, không ai nén được nỗi thê lương.

Lữ Đức nổi giận mắng xuống:

- Đồ kẻ cướp chó má kia, ta tha chết mà ngươi lại dám cuồng ngôn để rối loạn lòng quân ta!

Y giơ tay, các cánh cung nhất loạt kéo căng. Lương Tiêu cười nhạt:

- Lòng quân cái con khỉ. Trong vòng mười ngày nữa thôi, Tương Dương sẽ bị phá. Ngươi mắng ta là cướp, nhưng có biết đâu chính bản thân ngươi cũng là một tên kẻ cướp đối với dân đen! Cướp thường chẳng qua chỉ nhằm lúc tối trời mưa gió đào tường khoét ngạch nẫng ít vàng bạc đổi lấy sự phè phỡn nhất thời, còn ngươi mồm hô khẩu hiệu trung hiếu nhân nghĩa, bụng lại rình rình ăn mòn tính mạng muôn dân để đổi lấy tiếng thơm thiên thu vạn tải của mình.

Từ lúc chứng kiến cảnh ăn thịt người gớm ghiếc, Lương Tiêu dằn vặt suốt về quyết định phá thành Tương Dương. Hôm ở núi Phục Ngưu gã đã từng thề độc diệt Tống, nay mà mủi lòng bỏ cuộc thì lại thành nuốt lời thề. Phá hay không phá? Gã đang khổ sở với nan đề ấy thì nghe Lữ Đức quyết ý tử thủ, giận quá không nhịn được bèn tuôn lời khích bác. A Lý Hải Nha tim đập chân run, bụng bảo dạ: “Thôi thôi, hắn đã cứu ta một lần, mạng này đành trả cho hắn vậy!”.

Quân Tống trên thành cũng bị Lương Tiêu tác động, bắt đầu xôn xao bàn tán. Vân Thù nóng nảy xen vào:

- Kẻ này không đáng tin. Mong Lữ đại nhân mau hạ lệnh bắn chết hắn, tránh để hắn nói năng nhăng nhít làm dao động lòng quân.

Lữ Đức thẫn thờ hạ tay xuống, trầm ngâm hồi lâu rồi nói:

- Từ thời Thành Cát Tư Hãn tới nay, quân Nguyên có thói quen cướp bóc tàn sát bằng hết sau khi hạ xong một thành trì. Các ông bị Tương Phàn cầm chân mười năm trời, hao công mất sức, thương vong vô số, ắt không khỏi ôm lòng oán hận. Hải Nha đại nhân, nếu ta đầu hàng, ông có dám đảm bảo rằng đồng đội ông sẽ không giết bất cứ một binh sĩ hay một dân lành nào của Tương Dương không?

A Lý Hải Nha thở phào, đáp:

- Thánh thượng nói hễ các ông chịu hàng, chúng ta sẽ không xâm phạm dẫu là chân tơ kẽ tóc. Lẽ ra ta có thể đưa thánh chỉ ra chứng minh, nhưng trên đường mang về đã bị người áo trắng bên cạnh ông cướp mất, ông hỏi hắn mà xem!

Lữ Đức nhìn Vân Thù. Vân Thù miễn cưỡng thừa nhận:

- Tôi xem thánh chỉ đấy rồi, Hoàng đế Thát quả tình có viết vài lời đẩy đưa xoa dịu để dụ hàng đại nhân!

Lữ Đức cau mày suy nghĩ. Lương Tiêu thấy y đã dao động, bèn rút một mũi tên ra hỏi:

- Ông có biết lời thề độc nhất của người Nguyên là gì không?

Lữ Đức nhìn xuống:

- Là bẻ tên thề!

Lương Tiêu bèn đưa mũi tên cho A Lý Hải Nha. A Lý Hải Nha gật đầu:

- Được! – Y giơ mũi tên lên cao. – A Lý Hải Nha xin thề với trời đất, chỉ cần Lữ đại nhân đầu hàng, ta dùng tính mạng mình đảm bảo sự an toàn cho tất cả quân dân thành Tương Dương. – Nói đoạn y bẻ gãy đôi mũi tên, ném xuống đất.

Lữ Đức hơi đổi sắc mặt, thở dài bảo:

- Để Lữ mỗ suy nghĩ đã, ba ngày nữa ta sẽ có câu trả lời cho đại nhân.

A Lý Hải Nha gật đầu, cùng Lương Tiêu quay ngựa về bẩm báo. Bá Nhan ra lệnh cho các tướng chuẩn bị vũ khí, nếu sau ba ngày mà Lữ Đức không đầu hàng thì dốc toàn lực tấn công, nhất quyết phá thành.

Đêm hôm đó trong thành Tương Dương, tướng lĩnh Tống tranh cãi không dứt, có kẻ cho rằng sự thể đã đến nước này, đành phải đầu hàng, có kẻ khăng khăng kiên cường đến chết để giữ tiếng thơm. Lữ Đức ngồi một mình trên lầu thành nhìn về phía nam, đập vào mắt y là đèn đuốc sáng trưng trong doanh trại quân Nguyên và thuyền chiến san sát trên sông, lòng y buồn khổ khó tả.

Từ khi búi tóc tòng quân tới nay, Lữ Đức đã khổ chiến nửa đời người, đánh từ Hợp Châu đến Tương Dương, di chuyển liên tục mấy ngàn dặm, tử thủ suốt mười năm, tuy biết khó lòng tránh được cục diện hôm nay, nhưng y luôn quyết chí tử thủ với thành. Vậy mà khi ngày ấy đến thực, y lại không biết nên xử sự thế nào. Đầu hàng thì mất tiết tháo, không đầu hàng thì coi như chôn sống hàng vạn dân chúng trong thành. Hàng hay không hàng? Hai ý nghĩ giằng xé tim y. Đột nhiên, chuyện mấy chục năm trước bỗng trở về trong trí óc, nhớ năm xưa sát cánh bên Văn Tĩnh đánh lui cường địch, giết chết đại hãn Mông Cổ dưới chân thành Hợp Châu, nhớ những buổi yến ẩm đối ca, y lại nhướng mày thở dài. Tình thế hiện tại quẫn bách quá đỗi, sống chết hai đằng đều khó quyết.

Y ngửa mặt nhìn trời, không nhịn được nghẹn ngào khóc than: “Hoài An, Hoài An, người ở đâu? Đại Tống vua hèn quan gian, phụ lòng trung của Lữ Đức, muốn báo đền nợ nước cũng chật vật biết bao. Nếu có người ở đây thì làm gì đến nỗi này? Hoài An, người ở đâu? Có nghe thấy Lữ Đức gọi không?”. Nước mắt viên tướng lã chã tuôn rơi, thấm ướt chiến bào.

Chợt có người hỏi:

- Lữ đại nhân phải không?

Lữ Đức luống cuống gạt lệ, quay ra thấy Vân Thù và Cận Phi đang đi tới. Y đứng dậy. Cận Phi vòng tay hành lễ:

- Đại nhân định thế nào?

Lữ Đức lắc đầu im lặng. Cận Phi hạ giọng:

- Đại nhân đừng để bọn chúng lung lạc.

Vân Thù tiếp lời:

- Đúng thế, quân Nguyên hung tàn vô đạo, không nên tin tưởng chúng.

Cận Phi lắc đầu:

- Điều cốt yếu không phải ở quân Nguyên, mà ở bản thân Lữ đại nhân. Người đời có câu: “Sống chết là chuyện nhỏ, tiết tháo là chuyện lớn”. Từ xưa tới nay các bậc trung liệt đều lưu danh sử xanh, những kẻ đầu hàng bị phỉ nhổ đời đời. Trương Công Tuần thời Đường tử thủ Thư Dương, tuy thành bị phá, bản thân ông ta hi sinh, nhưng ngàn năm sau vẫn còn có người tế bái. Bọn phản bội thì có kẻ nào được hậu thế nhớ tới đâu? Đại nhân sống chết với thành đến nay kể cũng đã lập công đức vô lượng cho Đại Tống, tiến một bước thì vẹn danh thơm, lui một bước thì sẽ để lại hai chữ gian thần trong sử sách. Cố gắng tới lúc này rồi, đừng để kiếm củi ba năm thiêu một giờ.

Lữ Đức liếc y, điềm tĩnh nói:

- Nhưng nếu ôm khư khư lấy bó củi ấy thì phải đốt thay bằng bao nhiêu xương máu của nhân dân toàn thành?

Cận Phi cười nhạt:

- Nếu đại nhân lùi một bước thì xương máu của bách tính hậu phương cũng sẽ bị đốt trụi. Thêm nữa, cổ nhân có câu: Khuyên người chớ nhắc chi chức tước, Một tướng danh thành vạn cốt khô[2]. Đại nhân đã là tướng tòng quân, cũng nên hiểu đạo lý này mới phải.

Mắt Cận Phi rực sáng, giọng nói mỗi lúc một gay gắt. Vân Thù siết chặt đốc kiếm, mắt đảo rất nhanh. Lữ Đức giật mình. Bao nhiêu năm ứng biến sa trường đã luyện cho y khả năng cảm nhận hết sức nhạy bén. Nhìn thần sắc hai người, y đã đoán được ba bốn phần. Quả thực, Cận Phi thấy Lữ Đức dao động nên cố ý đến dò xem ý tứ y thế nào, nếu y hé ra nửa chữ “hàng” thôi, họ Cận sẽ lập tức cùng Vân Thù uy hiếp y, buộc y tử thủ.

Lữ Đức cân nhắc rất nhanh, vụt đứng bật dậy, bước vài bước rồi nói:

- Cận Phi huynh nói đúng lắm, Lữ mỗ đã quyết! Tận trung báo quốc, ngọc vỡ còn hơn ngói lành, nhất định sẽ sống chết với Tương Dương. Chỉ có điều…

Cận Phi nghe giọng Lữ Đức dứt khoát thì rất mừng:

- Thái thú có gì khó khăn chăng?

Lữ Đức đáp:

- Thiếu thức ăn áo mặc, khí cụ công thủ cũng sắp cạn rồi. Cứ thế này mãi thì Tương Dương sớm muộn cũng bị phá, mà bị phá thì có khác gì đầu hàng đâu? Ta sở dĩ rầu rĩ không vui chính là vì việc này.

Cận Phi và Vân Thù nhìn nhau, cùng cau mày buồn bã. Lữ Đức lại nói:

- Mấy năm nay ta giữ Tương Dương, chỉ có Vân công tử và Cận môn chủ là vượt được phong tỏa vào thành, hừm… – Y ngừng lại, vẻ lưỡng lự.

Cận Phi khẳng khái nói:

- Việc nghĩa không thể từ nan, tôi cũng có ý đó. Mong Lữ đại nhân viết một bức thư cho đại tướng Dĩnh thành. Tôi và Thù nhi sẽ lập tức dẫn thủy quân ra ngoài, dùng Thủy cầm ngư long trận vận chuyển lương thảo khí giới vào tiếp viện Tương Dương.

Lữ Đức trù trừ:

- Vân công tử là trợ thủ đắc lực của ta, công tử mà đi, coi như Lữ mỗ mất một cánh tay. Vả chăng Lưu Chỉnh đã đặt thủy trận ở Phàn Thành, dòng Hán giang đang bị quân Nguyên khống chế, bơi ra không phải dễ.

Vân Thù nói:

Thủy cầm ngư long trận biến hóa rất vi diệu, phi tôi không ai điều khiển nổi. Nếu đường thủy khó khăn thì chuyển lên bộ, chúng tôi sẽ mang ít người hơn, tận dụng bóng đêm để ra khỏi thành. Mong Thái thú gắng giữ thêm một tháng nữa, đợi tôi luyện xong trận thế.

Lữ Đức lại kê ra một số nguy hiểm khác, hai huynh đệ Thần Ưng môn vẫn kiên quyết ý định đi tìm quân tiếp viện, cuối cùng y đành đồng ý. Vì tình hình khẩn cấp, luôn đêm ấy Cận Phi triệu tập nhân thủ, cùng Vân Thù, Phương Lan thắt dây thừng vào hông, nhảy ra ngoài thành.

Lữ Đức nhìn theo toán người cho đến khi bóng họ tan nhòa trong màn đêm, bỗng thở dài quỳ xuống đất, nghẹn ngào nói:

- Vân công tử, tình thế khốn quẫn không thể cứu vãn được nữa. Lữ mỗ suy nghĩ rất lung, cuối cùng vẫn không nhẫn tâm hãm chết con dân trong thành. An nguy của hậu phương đành giao phó cho công tử vậy.

Nước mắt hai hàng, y lạy theo hướng đám hào kiệt ba lạy, đoạn đứng dậy, nói với tên thân binh đang ngơ ngác:

- Truyền ý ta: niêm phong các kho, phá hủy Thiên Cương phá trận nỗ. Ra lệnh cho ba quân: giờ ngọ ba khắc ngày mai mở cổng thành đầu hàng!

.

Lương Tiêu từ trướng soái trở về doanh trại, lồng ngực trĩu nặng, tâm trạng buồn bực khôn tả. Tiếng khóc than của bách tính Tương Dương cứ văng vẳng bên tai, hễ nhắm mắt là cảnh tượng bi thảm lại lồ lộ hiện lên trước mặt. Gã thầm nghĩ: “Đại Tống có muôn vạn thành trì, lẽ nào mỗi khi công thành đều nổ ra chiến tranh? Trên sa trường, lính đánh lính, tướng đánh tướng, một sống một chết đã đành, nhưng tại sao lại để liên lụy đến những người dân vô tội? Binh thư viết: không đánh mà khuất phục được kẻ địch là cảnh giới tối thượng của binh gia, nhưng thực tế có phương pháp nào không đánh mà thắng, bảo đảm an toàn cho bách tính không?”. Gã vò đầu bứt tai hồi lâu, vẫn không nghĩ ra kế nào toàn vẹn cả. Trong lúc khổ sở, một mối nghi ngại bỗng nhen nhóm: “Ta thề độc diệt Tống, lẽ nào là sai…”. Nhưng mối nghi ngại vừa manh nha đã tắt lịm ngay: “Mẹ thường dạy: đại trượng phu đã nói phải làm, không thể tự xéo lên lời nói của mình, ta đã bẻ cung thề, cũng như A Lý Hải Nha bẻ tên thề, đều là thề độc…”.

Gã buồn phiền, không muốn về doanh chạm mặt quân sĩ, bèn rong ngựa đến lều A Tuyết, nghe thấy bên trong vọng ra tiếng Lan Á trầm bổng, tựa hồ đang kể chuyện gì. Gã bước vào. A Tuyết nằm trên giường, mắt mở to, chăm chú nghe như uống từng lời. Trông thấy Lương Tiêu, cô cười tươi:

- Ca ca đến đúng lúc quá! Lan Á thư đang kể chuyện, nhan đề là Nghìn… nghìn mốt đêm…

Lan Á đỡ lời:

Nghìn lẻ một đêm.

- Đúng rồi, Nghìn lẻ một đêm. – A Tuyết cười xòa.

Lương Tiêu ngắm nụ cười rạng rỡ và vẻ mặt tươi tắn của cô gái, lòng bỗng nhẹ hẳn đi:

- Lan Á, đa tạ cô đã quan tâm em ta.

Lan Á gạt đi:

- Cứ ra vẻ khách sáo làm gì thế! – Nàng xoa vai A Tuyết. – Muội đáng yêu thật, ta mến lắm.

Lương Tiêu cười méo xệch:

- Tiếc rằng dốt kinh khủng, nếu lây được chút thông minh của cô thì đỡ biết bao.

A Tuyết bĩu môi, lại thủ thỉ:

- Muội thích nghe kể chuyện, thư thư kể cho A Tuyết nghe một ngàn lẻ một buổi tối nhé.

Lan Á cười, nụ cười có phần miễn cưỡng, nàng dịu dàng nói:

- Tiếc rằng ta chỉ kể được lẻ một buổi tối thôi.

A Tuyết không hiểu. Lương Tiêu kinh ngạc ra mặt, hỏi:

- Cô định đi đâu à?

Lan Á buồn buồn thở dài:

- Tương Dương pháo đã xong, chỉ nay mai là phá được thành, ta không muốn trông thấy thảm cảnh ba ngày sau, cứ đi trước là hơn.

Lương Tiêu nói:

- Ba ngày sau họ đầu hàng chưa biết chừng.

Lan Á nhìn sâu vào mắt gã, thong thả hỏi:

- Ngươi chắc không?

Lương Tiêu máy môi, nhưng không thốt ra lời. Gã ngồi sững trên thảm một lúc rồi đứng bật dậy, loay hoay đi lại. Lan Á ngậm ngùi:

- Phá thành đồng nghĩa với chém giết, đấy là thông lệ của quân Mông Cổ. Năm xưa khi tây chinh công phá thành Bát Đa, Húc Liệt Ngột Hãn cho lính thả sức chém giết liền ba ngày, tới khi trong thành không còn tráng niên nào mới thôi. Mỗi khi nhắc lại chuyện ấy thầy ta lại đau lòng, nước mắt giàn giụa. – Giọng nàng tuy gắng giữ bình tĩnh, nhưng mắt đã đỏ hoe.

Lương Tiêu ớn lạnh:

- Thầy cô căm thù người Mông Cổ đến thế, vì sao vẫn thiết kế Hồi Hồi pháo cho họ? Vì sao cha con cô lại đến đây?

Lan Á thở dài:

- Hoàng đế Đại Nguyên thống trị cả bốn hãn quốc, một ý chỉ nhỏ nhoi của ông ta truyền xuống Y Nhĩ có thể khiến ánh sáng trí tuệ ở Mã La Gia vĩnh viễn lịm tắt. Lần này lẽ ra thầy đến, nhưng tuổi tác người đã cao, không chịu đựng được một hành trình xa xôi như vậy, cha con ta mới đi thay cho người.

Lương Tiêu lặng thinh. Lan Á nhìn gã đăm đăm, nghiêm nghị nói:

- Tương Dương pháo là cánh tay của ma quỷ, Mộc phích lịch là lửa địa ngục. Ngươi đã để ma quỷ hỏa ngục phục sinh, nếu còn tiếp tục sai lầm đó, sau này khi chết đi, linh hồn sẽ không được yên ổn đâu.

Lương Tiêu hơi giận, to tiếng:

- Cô nguyền rủa ta đấy à?

Lan Á cười buồn:

- Ngươi thông minh tuyệt đỉnh, đừng giả vờ không hiểu lời ta. Nạp Tốc La Đinh tuổi tác đã cao, người bây giờ giống như tuyết đọng trên đỉnh núi, một cơn gió to bất thần thổi qua là lả tả rớt xuống. Ngươi hãy buông thương vứt cung, cùng ta đến Mã La Gia. Ngươi là người xuất sắc nhất trong các toán gia xuất sắc hiện nay, nhất định có thể kế tục sự nghiệp của thầy ta, trở thành bậc trí tuệ của các trí tuệ.

Hai người nói chuyện bằng tiếng Hồi Hồi, A Tuyết không hiểu gì hết, chỉ thấy nét mặt họ nặng nề, bầu không khí trong trướng dường như đông cứng, khiến người ta khó thở. Cô vừa cúi đầu vê vê chéo áo vừa lén liếc mắt nhìn họ, tim đập thình thịch. Trên trán Lương Tiêu, gân xanh đập phập phồng, sắc mặt lúc đỏ lúc trắng, mấy lần định lên tiếng nhưng cuối cùng chẳng thốt ra được một từ. A Tuyết đang thấp thỏm theo dõi, thình lình Lan Á nhướng mày, nhoẻn cười với cô:

- Muội còn muốn nghe chuyện không?

A Tuyết gật đầu.

Lan Á lại kể hai chuyện rất hay. Đêm dần buông, A Tuyết nghe mãi, nghe mãi, đến khi mắt díp lại thì ngủ thiếp đi ngay trong lòng Lan Á. Nàng bèn đặt cô gái nằm ngay ngắn trên giường, đắp chăn thật kín. A Tuyết ngủ say, mặt vẫn vương nụ cười, tựa hồ đang đi vào thế giới kỳ ảo của Nghìn lẻ một đêm.

Lan Á biết A Tuyết chưa lâu nhưng rất mến tính hồn nhiên trong sáng của cô. Nghĩ tới lúc phải rời khỏi đây, lòng chua xót, nàng cúi xuống chạm môi lên má A Tuyết, nước mắt rớt nhẹ xuống mặt cô gái. A Tuyết khẽ ú ớ như thể linh cảm được. Lan Á vội thấm khô cho cô, xong xoay mình đi ra khỏi trướng. Lương Tiêu cũng ra theo:

- Để ta đưa cô về.

Hai người ruổi ngựa đến cổng trại Trát Mã Lỗ Đinh. Lương Tiêu mấy lần ngập ngừng muốn nói, nhưng lại thôi. Khi gã quay ngựa đi, Lan Á gọi:

- Lương Tiêu!

Lương Tiêu ngoái đầu nhìn. Lan Á nhảy xuống ngựa, sắc mặt nàng hiện lên khổ sở dưới ánh trăng. Lương Tiêu hỏi:

- Gì vậy?

Đôi mắt xanh biếc của người thiếu nữ lấp lánh sáng, nàng lặng lẽ nhìn Lương Tiêu, chậm rãi nói:

- Bên đường cái đi về phía đông có một ngôi đình nhỏ, sáng mai ta đợi ngươi ở đó. Mong rằng ngươi thay đổi quyết định.

Tim Lương Tiêu trĩu nặng. Lan Á quay đi, chạy thật nhanh vào trại.

Lương Tiêu đưa mắt dõi theo cho đến khi bóng người thiếu nữ chìm hẳn trong đêm dày, ruột rối như tơ. Gã thốt nhớ đến cảnh cha chết thảm, đến ánh mắt não nề của mẹ lúc biệt li, lát sau lại nhớ tới dáng vẻ mềm yếu nhút nhát của Hiểu Sương, nụ cười duyên dáng của Oanh Oanh. Thời gian dần trôi, vầng trăng từ từ bò lên giữa trời, gió rét căm căm, Lương Tiêu rùng mình vì lạnh, nhận ra khóe mắt ướt nhoèn tự bao giờ. Gã nhảy lên ngựa, nhìn về phía Tương Dương, lòng buồn chán khôn tả: “Ba ngày sau, nếu quân Tống không hàng, tình hình sẽ ra sao đây? Bất kể thế nào, nếu bọn Lưu Chỉnh lạm sát người vô tội, ta chỉ còn cách cùng quân Khâm Sát chém chết chúng mà thôi”.

Ra quyết định xong, trong lòng cũng dễ chịu hơn một chút, Lương Tiêu thúc ngựa quay về đại doanh Bách Trượng sơn. Chưa đến gần đã nghe thấy âm thanh huyên náo, đoán biết trong doanh xảy ra việc lớn, gã bèn thúc ngựa phi nhanh vào. Một kỵ binh chạy ào ra đón:

- Bọn Tống tập kích!

- Có đông không? – Lương Tiêu hỏi.

- Ít thôi, nhưng thân thủ lợi hạ lắm. Thổ Thổ Cáp và mấy người nữa nổi giận, đang truy sát rồi!

Lương Tiêu nhói tim, vội hỏi:

- Đi về hướng nào?

Tên lính giơ tay trỏ về hướng đông nam.

Lương Tiêu không kịp hỏi nhiều, hấp tấp thúc ngựa đuổi theo, chưa đầy hai dặm đã gặp rất nhiều xác người ngựa ngổn ngang dưới đất, đủ cả lính Tống, lính Nguyên, có thi thể găm mười mấy mũi tên tua tủa; có kẻ đang bóp cổ một lính Khâm Sát, phần bụng bị loan đao đối phương đâm thủng, cả hai đã tắt thở, mắt lồi tướng; có kẻ bị trường mâu Khâm Sát xuyên từ người xuống ngựa, ghim cứng một chỗ. Đủ mọi kiểu chết bi thảm, chắc hẳn hai bên đã gặp nhau ở đây rồi diễn ra ác chiến.

Lương Tiêu tế ngựa phi điên cuồng, ruột nóng như lửa đốt, được một quãng thì gặp chừng hai trăm kỵ binh chầm chậm đi ngược lại, người dẫn đầu chính là Thổ Thổ Cáp, Vương Khả đang ẵm một người, thi thoảng lau nước mắt. Lương Tiêu điểm qua hàng ngũ, thấy vắng bóng Dương Giác, tức thì trái tim trĩu nặng. Mọi người vỗ ngựa chạy lại gần chủ tướng, mắt ai cũng sưng húp. Lương Tiêu nhìn người đang nằm trong lòng Vương Khả, nhận ra đúng là Dương Giác, mặt mũi xám ngoét, hẳn đã tắt thở từ lâu.

Lương Tiêu thấy trước mắt tối sầm, đầu óc trống rỗng, trong lúc lơ mơ chỉ nghe Vương Khả nghẹn ngào:

- Lương đại ca, lại… lại tên khốn kiếp đó…

Dù Vương Khả không nói, Lương Tiêu cũng nhận ra. Thanh kiếm trên người Dương Giác xuất phát từ vị trí Đại hữu, lật kính hộ tâm đâm vào huyệt Đản trung, chính là thủ pháp của Quy tàng kiếm.

Thổ Thổ Cáp dộng mạnh trường mâu, gằn giọng nói:

- Nếu không giết được tên khốn đó, Thổ Thổ Cáp này quyết không quay về quê hương.

Lý Đình, Nang Cổ Ngạt và Vương Khả đều quắc mắt, cao giọng:

- Đúng, không trả được thù này, quyết không về quê hương.

Lương Tiêu là đại tướng, không tiện tỏ thái độ yếu đuối trước mặt thuộc hạ, bèn xua xua tay, giục ngựa quay đầu. Nhưng vừa thúc ngựa, gã đã mất kiềm chế, nước mắt ròng ròng tuôn rơi.

Đang canh khuya không kịp chuẩn bị hậu sự, mọi người để tạm xác Dương Giác trong lều Lương Tiêu rồi ngồi im lìm xung quanh, đèn thắp sáng suốt đêm. Giờ ngọ hôm sau, A Tuyết sang, thương xót khóc lóc vật vã một hồi, lại thấy mọi người chưa có hột cơm nào vào bụng bèn nấu nhanh nồi cháo, không ai nỡ chối từ nên đều ăn một ít. Lương Tiêu sực nhớ lời Lan Á nói đêm qua, vội vàng lên ngựa đuổi theo. Gã tưởng nàng đã đi mất rồi, không ngờ đến gần tiểu đình vẫn thấy cha con họ ngồi đợi, bên ngoài có chừng một trăm binh sĩ đang nghỉ ngơi, áng chừng đi theo hộ tống.

Lương Tiêu tần ngần một thoáng, cuối cùng xuống ngựa lùi sang bên đường, dõi mắt quan sát. Lan Á ngồi suy tư, thình lình đứng lên đi đi lại lại. Trát Mã Lỗ Đinh cũng đứng dậy, thì thào với con gái một hồi. Lan Á xoay mặt đi, đôi vai run bần bật. Trát Mã Lỗ Đinh thở dài, lại vỗ vỗ vai nàng, an ủi vài câu. Sau một hồi thẫn thờ, Lan Á đưa tay áo lau nước mắt, nhảy lên con ngựa Ả Rập đi về hướng bắc, nhưng được mấy bước, nàng lại ngoái đầu nhìn phía sau. Cứ thế mười mấy lần cho đến khi khuất hẳn cuối con đường.

Lương Tiêu lên ngựa dướn nhìn theo, bụi vẫn chưa lắng mà bóng người đã xa, nhất thời trong lòng trống rỗng. Gã và Lan Á mới quen biết nhau nhưng ý hợp tâm đầu, cứ nhắc đến toán học là quên hết thời gian. Khổ nỗi Triệu San mất chưa lâu thì lại tới Dương Giác, oán thù mỗi ngày một sâu, gã không thể tìm đường giải thoát như nàng gợi ý. Mà chưa biết chừng, chẳng bao lâu nữa đến lượt gã cũng mất mạng nơi sa trường, vĩnh viễn nằm lặng trong cõi u minh. Nghĩ đến đây, Lương Tiêu chán nản cùng cực, ủ rũ cưỡi ngựa về doanh.

.

Giờ ngọ ngày thứ ba, cổng thành Tương Dương mở rộng, Lữ Đức mặc áo trắng, đội mũ trắng, đi bộ ra khỏi thành. Bá Nhan được tin, đích thân sang tiếp nhận đầu hàng, phong Lữ Đức làm Đô đốc Tương Phàn.

Tin bay vào nội địa, một đám mây u ám bao trùm triều đình Đại Tống, tiếng ai oán chê trách lan rộng khắp nơi. Người đương thời làm bài thơ than rằng:

Lữ tướng quân trấn thủ Tương Dương,

Xương sống mười năm giữ biên cương.

Cầu cứu viện quân không thấy đến,

Căm hờn mạt sát Giả Bình chương.

Giả Bình chương tức Giả Tự Đạo, kết tội hắn không gửi quân tiếp viện Tương Dương kể cũng chưa thỏa đáng, nhưng hắn dụng binh ngu muội, triều đình lại u mê, chẳng lần nào viện binh tới nơi, khiến cả hai thành bị vây hãm, Lữ Đức bị cô lập, chỉ biết vẫy vùng chiến đấu trong tuyệt vọng. Suy cho cùng Giả Tự Đạo lộng quyền làm loạn triều chính, là kẻ tội phạm đầu sỏ đẩy Tương Phàn vào cảnh khốn đốn, bài thơ không trách Lữ Đức dâng thành mà trách Giả Tự Đạo hại nước, đủ thấy thế nhân nhìn nhận rất công bằng.

Đất Tương Phàn xưa rày vẫn được gọi là “xương sống của thiên hạ”, một vai gánh miền nam, một vai gánh miền bắc, mặt bắc dẫn sang Hà Nam, mặt tây nối liền Ba Thục, mặt nam áp sát Hồ Quảng, mặt đông kề cận Giang Hoài. Từ cổ chí kim, trận khởi đầu của các cuộc nam bắc tương tranh đều diễn ra ở đây. Tương Phàn thất thủ làm đứt đoạn hàng phòng ngự biên giới, đất đai trăm dặm vùng Giang Hán tự nhiên phơi ra trước mũi tấn công của quân Nguyên.

.

Tuyết chảy băng tan, trời dần dần ấm lên. Năm thứ mười một nhà Nguyên, tương đương năm Hàm Thuần thứ mười ba theo lịch Tống, Hốt Tất Liệt truyền chỉ chinh thảo miền nam. Tháng ba năm ấy, Sử Thiên Trạch đi tuần doanh trại ban đêm bị cảm hàn, từ đó đổ bệnh nặng. Họ Sử tuổi tác đã cao, khí huyết suy nhược, nằm li bì hai ngày một đêm thì nhắm mắt xuôi tay. Bá Nhan và các tướng đến tế vọng, an ủi gia quyến.

Viếng xong, Lương Tiêu theo mọi người rời Sử phủ, trong lòng rầu rĩ: “Sử Thiên Trạch công toại danh thành là thế, chết đi cũng chỉ hai bàn tay trắng. Thổ Thổ Cáp và Lý Đình đang hăm hở gây dựng sự nghiệp, nhưng một mai lìa đời, liệu có mang công danh theo mình được không?”. Đang mải trầm tư, chợt nghe Bá Nhan gọi:

- Lương Tiêu!

Lương Tiêu ngước mắt nhìn. Cặp mắt uy nghiêm của Bá Nhan xoáy vào mặt gã:

- Cậu lại đây với ta!

Y giật mạnh cương, tế ngựa chạy thẳng ra cổng thành. Lương Tiêu không hiểu ra sao, liền vội vàng thúc ngựa chạy theo.

Bên ngoài thành là đồng ruộng bao la, nhưng chỉ lơ thơ vài nông dân bộ dạng lam lũ đang chậm chạp bước trên luống cày. Mười năm đại chiến Tương Phàn, nhà cửa ruộng vườn quanh vùng bị bỏ hoang, hàng vạn mẫu đất tốt đều biến thành chiến trường.

Đột nhiên, một con thỏ rừng nhảy phóc ra khỏi bụi cây, tung bốn chân chạy như bay, một con sói vàng cong đuôi đuổi theo, thình lình nhún móng trước xuống đất, bắn mình lên chụp lấy đầu con thỏ. Đúng lúc này, một mũi tên rít gió lao tới, cắm phập vào cổ con sói, đâm xuyên xuống cả lưng thỏ.

Bá Nhan bắn xong thở dài, định hạ cung, chợt nghe gió đưa tiếng nhạn kêu trong trẻo, y lại nghiêng người giương cung. Một bầy nhạn xếp thành mũi nhọn bay về phương bắc. Bá Nhan kéo cung hồi lâu nhưng không phát tên, đăm đăm nhìn đàn chim bay đi xa, chùng tay thở dài:

- Cậu bắn chim ưng bao giờ chưa?

Lương Tiêu lắc đầu. Bá Nhan cười:

- Tế ngựa hăng chạy lồng đại mạc, Giương cung bắn tan tác chim muông. Cuộc sống ấy thực là thống khoái! Hiềm nỗi chưa diệt Tống thì chưa trở về bắc được. Không biết đánh trận bao giờ mới xong?

Lương Tiêu lúc này mới hiểu ban nãy Bá Nhan giương cung mà không bắn là vì chạnh lòng nhớ quê hương. Gã chợt xót xa:

- Thế thì đừng đánh nữa. – Vừa dứt lời, chợt cảm thấy không ổn chút nào, lại tự vấn: “Không đánh thì làm sao trả thù được đây?”.

Bá Nhan liếc mắt nhìn gã, cười hỏi:

- Lần trước ta hạ lệnh phạt cậu, còn giận ta không?

Lương Tiêu nhíu mày im lặng, Bá Nhan biết gã vẫn ấm ức chưa nguôi, bèn cười ha hả:

- Thôi, đều tại ta không tốt, nhưng cậu là tiểu tướng mà xúc phạm đại tướng, cũng quá đáng lắm. Lúc đó chỉ có hai lựa chọn, một là xử phạt, hai là xử trảm, đành chọn cách ít tổn thất nhất, nên để cậu phải chịu ấm ức.

Lương Tiêu nghe phân tích hợp tình hợp lý, cũng nguôi nguôi giận. Bá Nhan chợt trỏ roi về một tòa miếu cổ:

- Lại kia xem đi!

Khi tới gần, họ thấy tường miếu đã đổ nát, cổng vào có dựng một tấm bia. Bá Nhan xuống ngựa, cho tả hữu lui ra sau, xoa xoa mặt bia, im lặng trầm ngâm. Tấm bia chạm chi chít chữ, lốm đốm bạc màu, dựng trên lưng một con rùa đá mòn, chừng như niên đại xa xưa lắm rồi.

Bá Nhan chợt hỏi bằng tiếng Hán:

- Cậu biết lai lịch của tấm bia này không?

Lương Tiêu lắc đầu. Bá Nhan trỏ tòa miếu đất trước mặt:

- Đây là miếu Dương Thái phó, nơi thờ Dương Cổ nhà Tấn. Dương Cổ là danh tướng người Hán. Họ Tư Mã diệt Đông Ngô và thống nhất ba nước đều xuất phát từ gợi ý của ông ta. Đáng tiếc, người này soạn kế diệt Đông Ngô mà không sống được tới ngày bình định thiên hạ, thuở sinh tiền đã mấy lần dâng biểu phạt Ngô nhưng đều bị hoàng đế bác đi, ông ta không thỏa tráng chí, mỗi khi nhìn về phương nam đều sa lệ, vì vậy tấm bia này còn gọi là Đọa lệ bi[3]. – Y nhìn Lương Tiêu, nghiêm chỉnh hỏi. – Cậu có biết vì sao trên đời cứ luôn xảy ra chiến tranh không?

Lương Tiêu thần người, cuối cùng thành thật đáp:

- Tôi không biết!

- Đơn giản lắm, cứ nhiều nước cùng tồn tại là sinh chiến sự.

- Nhiều nước cùng tồn tại ư?

Bá Nhan mỉm cười:

- Nhớ năm xưa, các bộ lạc Mông Cổ phân tranh, binh lửa ngùn ngụt ngàn năm không dứt. Mãi cho đến khi Thái Tổ xuất thế, bằng sự anh minh trời phú, cơ trí mưu lược, người đã khắc phục muôn vàn gian khổ, đầu tiên thống nhất Mông Cổ, chấm dứt nội chiến, sau đó mở rộng phạm vi chinh phạt. Chắc cậu cũng biết người Hán đánh nhau dữ dội nhất vào thời các chư hầu cát cứ, trước tiên là Xuân Thu Chiến Quốc, kế đến Tam Quốc Lưỡng Tần, sau thời Đường thì các triều đại thay nhau trị vì nhanh như thay áo, hết Ngũ đại thập quốc đến Tống Liêu giao phong, kế tiếp là chiến tranh giữa năm nước Tống, Kim, Tây Hạ, Đại Lý và Thổ Phồn, chém giết vô cùng thê thảm. Hiện tại, Kim, Tây Hạ, Đại Lý và Thổ Phồn đều đã bị diệt, nhưng Tống Nguyên còn đang tranh hùng. Bốn trăm năm qua liên tục loạn lạc, chưa từng có một ngày bình yên.

Lương Tiêu không kìm được hỏi:

- Tức là phải thống nhất toàn bộ thiên hạ thì mới chấm dứt được chiến tranh?

- Đúng thế! Từ cổ chí kim, những người có chí cứ thích chọc trời khuấy nước, nhưng thực chất, tứ hải một nhà mới đem lại thái bình cho thiên hạ. Dương Cổ rơi lệ không phải vì vinh nhục cá nhân mà vì dân chúng cả nước! Đại Tống hiện nay cũng tương tự Đông Ngô thuở nào, chưa diệt được nó thì chiến tranh giữa hai miền nam bắc còn dai dẳng mãi, và hứng chịu tổn thất trước tiên chính là bách tính đôi bên.

Lương Tiêu cau mày:

- Vì sao phải giết? Vì sao phải đánh? Hòa hảo chẳng tốt hơn ư?

Bá Nhan xua tay:

- Cá lớn nuốt cá bé, ấy là lẽ thường tình ở đời! Cậu đã thấy hổ nào không ăn thịt dê chưa? Dẫu chúng ta để yên cho người Hán, khi họ mạnh lên chắc gì đã tha chúng ta? Tướng Hán là Hoắc Khứ Bệnh từng nói: “Hung Nô chưa diệt, chuyện nhà đáng chi?”. Đại Hán hùng cường, kéo lên bắc tiêu diệt Hung Nô. Đại Đường hưng thịnh, cất quân chinh phạt Đột Quyết, làm cỏ Cao Ly. Ngay thời Tống đây, chẳng phải Thái Tông cũng đã từng tấn công Khiết Đan đấy ư? Chỉ tội hắn không tự lượng sức, đánh không lại người ta mà thôi.

Lương Tiêu băn khoăn:

- Tóm lại là, hễ lắm quốc gia tất chia mạnh yếu, đã có mạnh yếu tất sinh chiến tranh ư?

Bá Nhan không trả lời thẳng vào câu hỏi của gã, nói lảng sang chuyện khác:

- Nghe nói bạn cậu mất.

Lương Tiêu dàu dàu gật đầu. Bá Nhan thở dài:

- Cậu là người trọng tình cảm, cũng tốt. Nhưng tính mệnh một cá nhân so với tính mệnh ức vạn dân lành thì bên nào nặng bên nào nhẹ?

Lương Tiêu ngẩn người. Bá Nhan bước mấy bước, vụt xoay phắt lại nói to:

-  Cuộc đời lắm nỗi đoạn trường, đường đường một đấng nam nhi thân cao bảy thước, nếu giương cánh cung cứng, cưỡi ngựa khỏe bình định thiên hạ thì ngàn năm nữa vẫn còn tiếng thơm lưu truyền. Nếu vì cái chết của một cá nhân mà suốt ngày đau đớn, sụt sùi khóc than rền rĩ thì thử hỏi chỉ trăm năm sau thôi, còn ai nhớ đến Lương Tiêu nữa? – Y trỏ đám nông dân. – Thế thì có khác gì đám thôn phu thô kệch kia đâu?

Lương Tiêu chưa bao giờ ôm chí lớn, làm việc đều theo cảm hứng nhất thời, hoàn toàn hững hờ với những lý tưởng như trị quốc bình thiên hạ, nay nghe những lời này, trong lòng bỗng hoang mang. Bá Nhan càng nói càng sôi nổi:

- Trống da trâu tốt, gõ khẽ là phát ra âm thanh vang rền. Một người thông minh dứt khoát không cần ta phải phân tích quá nhiều. Trong huyết quản cậu có có dòng máu của Thành Cát Tư Hãn, tài năng cậu khiến người đời đố kỵ. – Y xòe tay, cười nhạt. – Một hàng tướng nhỏ nhoi như Lưu Chỉnh thì đáng kể gì?

Lương Tiêu tuổi còn trẻ, máu nóng đương căng, nghe vậy bật thốt:

- Đại Nguyên soái… – rồi họng nghẹn lại, không thốt nên lời.

Bá Nhan xua tay cười:

- Hiểu là được, không cần phải nói ra. Sử Thiên Trạch đã chết, ta giao binh mã của ông ấy cho cậu. Dám nhận không?

Lương Tiêu đáp ngay không nghĩ ngợi:

- Càng nhiều càng tốt.

Bá Nhan cười mắng:

- Tiểu tử nhà ngươi, đúng là đại ngôn không biết ngượng mồm. – Nghĩ sao y lại đưa mắt nhìn về phương nam, buồn bã thở dài. – Chỉ mong lần này thống nhất thiên hạ để ngàn năm vạn năm sau vĩnh viễn không còn chiến tranh nữa.

Lương Tiêu nghe dứt, bỗng rùng mình lẩm bẩm:

- … ngàn năm vạn năm sau vĩnh viễn không còn chiến tranh.

Gã lẩm bẩm câu ấy mấy lần, giọng mỗi lúc một mong mỏi, mắt đăm đăm dõi ra đồng dã nơi xa.

[1] Sấm sét gỗ.

 

[2] Trích bài thơ Kỷ Hợi tuế nhị thủ của Tào Tùng thời Đường.

[3] Bia rơi lệ.

 

RELISHING (GRACIAS A LA VIDA)

BLOGROLL

[community] PHANTIVI

[community] Trần Thu Trang F-Corner

[friend] Chị Ái

[friend] Hồ Thanh Ái

[friend] Hua Bin – Vũ điệu Bếp

[friend] Phicau (Đặng Hải Quang)

[friend] Phim Cổ tích

[friend] Rêu (Vũ Hồng Ánh)

[friend] Trần Thu Trang

[friend] Xuân Như (Vũ Thanh Tùng)

[publisher] IPM

TAG CLOUD

bộ bộ kinh tâmrecaps ipm tản mạn côn luân showcung tỏa tâm ngọc cặp đôi hoàn hảo tru tiên dịch truyện happy camp ngô kỳ longphỏng vấn bbkt bản dịch mới kết cục ngoại truyện nhạc phim sinh nhật tu la đạo xuyên việtđào bạch liên đồng hoa bộ phi yên hậu trườnglời thú nhận của eva lời trái tim ost phicau tiểu thuyết lãng mạn trịnh gia dĩnh tuyển diễn viênung chính vtv vẻ đẹp nguy hiểm xem phim đại mạc dao biểu tượng thất truyền chuyện nhà jean chuyện tình ly và nước cung tỏa châu liêmcửu a ca fanfic hình xăm định mệnh học ngoại ngữ học viện ma cà rồng kỳ án giấc mơ luân hồilâm canh tân lòng yêu nước mùi đu đủ xanhnghe nói anh yêu em nghê khuông nguyễn việt hà ngọc đàn như ý phường nữ bộ khoái pippi tất dài protect the boss qiyi sát thủ đầu mưng mủ thanh trúc thiết kỵ vô song thất kiếm tom yum goong tình yêu đơn giản vậy thôi tịnh thủyviên hoằng việt nhân ca đam mỹ đàn bà uống rượu đấu trường sinh tử để hôn em lần nữa đỗ lạp lạp thăng chức ký ảo ảnh tuổi học trò

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #girl3lkute