Con đường của Phật (Tập 6)
OSHO
Dhammapada: Con đường của Phật
Đây là con đường đi tới chân lí tối thượng
The Dhammapada: The Way of the Buddha
This is the Path to the Ultimate Truth
Tập 6
Mục lục
1. An ninh của bất an
2. Nhiều người được gọi; ít người được chọn
3. Nô lệ trong nhà riêng của bạn
4. Điều này nữa sẽ qua
5. Sống trong vui vẻ
6. Không quay lại
7. Quên lãng, tội duy nhất
8. Mọi thứ đều có thể
9. Tâm trí là giả dối
10. Hạnh phúc: cái chết của bản ngã
Về Osho
Bài nói ngẫu hứng cho các đệ tử và bạn bè của Osho tại Thính phòng Phật Gautam Poona, Ấn Độ
******************************************************
#1An ninh của bất an
Người đó là thức tỉnh.
Thắng lợi là của người đó.
Người đó đã chinh phục thế giới.
Làm sao người đó có thể lạc đường
Người ở ngoài con đường?
Mắt người đó mở.
Chân người đó tự do.
Ai có thể theo sau người đó?
Thế giới không thể cải tạo người đó
hay dẫn người đó đi lạc lối,
lưới độc của ham muốn không thể bắt người đó.
Người đó là thức tỉnh!
Các thần dõi theo người đó.
Người đó là thức tỉnh
Và tìm thấy vui vẻ trong tĩnh lặng của thiền
và trong dịu ngọt của buông xuôi.
Được sinh ra là khó,
Được sống là khó,
Nghe về con đường còn khó hơn,
và vươn lên, đi theo và thức tỉnh là khó.
Vậy mà giáo huấn là đơn giản.
Làm điều phải.
Hãy thuần khiết.
ở cuối con đường là tự do.
dầu vậy, kiên nhẫn.
Nếu ông làm tổn thương hay đau lòng người khác,
Ông đã không học được sự tách rời.
Đừng xúc phạm bằng lời hay bằng hành động.
ăn điều độ.
sống trong tim ông.
tìm tâm thức cao nhất.
Phật Gautama đang nói hôm nay về chính tinh hoa
của phật tính: chiều cao của phật tính và chiều sâu của
nó, niềm vinh quang và sự duyên dáng, tự do vô cùng
mà nó đem tới, ánh sáng mà nó toả ra, tình yêu, vui vẻ,
phúc lạc, thức tỉnh.
Những lời kinh này là hiếm hoi - hiếm hoi nhất
trong những lời kinh hiếm hoi, bởi vì Phật đang mở
trái tim riêng của ông ấy cho bạn. Ông ấy đang mời
bạn trở thành khách trong cốt lõi bên trong nhất của
ông ấy. Ông ấy đang tiết lộ, bằng những lời đơn giản,
hương thơm đã xảy ra cho ông ấy và điều đó là có thể
cho bạn nữa - bởi vì từng con người được sinh ra đều
là vị phật.
Chừng nào người ta chưa trở thành vị phật, người
ta không sống và người ta không biết cuộc sống là gì.
Người ta đã mơ tất nhiên - mơ cả nghìn lẻ một thứ -
nhưng người ta đã ngủ. Và dù bạn mơ giấc mơ đẹp hay
giấc mơ xấu điều đó không thành vấn đề. Đến buổi
sáng của phật tính, tất cả những giấc mơ đó, cả tốt lẫn
xấu, dịu ngọt và cay đắng, mơ vàng và ác mộng, sẽ
được biết là giả, ảo tưởng. Đó là tự lừa dối, và năng
lực tự lừa dối mình là khổng lồ. Thận trọng về nó!
Người ta thậm chí có thể mơ rằng người ta thức tỉnh,
người ta thậm chí có thể mơ rằng người ta đã trở thành
vị phật. Đó là thủ đoạn tối thượng mà tâm trí có thể
giở trò với bạn.
Chuyện đã xảy ra ở Baghdad:
Một người được đưa tới vua Hồi giáo, bởi vì người
này đã tuyên bố rằng mình là sứ giả mới của Thượng
đế. Nhà vua bực dọc, cáu kỉnh, và ông ta nói, "Ngươi
phải điên rồi, bởi vì Mohammed là sứ giả cuối cùng
của Thượng đế và sẽ không có người nào khác tới nữa.
Sứ giả đã tới trong Koran. Ừ, trước Mohammed đã có
các thông điệp khác, nhưng tất cả các thông điệp đó
đều là mảnh mẩu bởi vì con người chưa sẵn sàng và
chưa chín chắn. Mohammed đã mang tới thông điệp
đầy đủ; bây giờ sẽ không có thông điệp nào khác trên
thế giới. Ngươi tự nhận biết đi; bằng không ngươi sẽ
phải chịu khổ vì điều đó!"
Người này bị tống vào nhà tù trong bẩy ngày, bị
tra tấn, đánh đập, bỏ đói. Sau bẩy ngày nhà vua tới.
Người này bị trói vào cột trụ, đầy mình thâm tím, bị
thương. Nhà vua nói, "Bây giờ ngươi phải nhận biết đi.
Bây giờ ngươi nói gì?"
Người này cười và nói, "Mọi tra tấn và mọi đau
khổ đã giáng lên ta đơn giản chứng tỏ rằng ta thực sự
là sứ giả, bởi vì khi Thượng đế phái ta tới thế giới này
ngài đã cảnh báo ta rằng 'Sứ giả của ta bao giờ cũng bị
hành hạ.' Và ta đã hoài nghi, 'Tại sao mọi người không
tra tấn ta nếu ta là sứ giả thực?' Ông đã chứng minh
điều đó! Thượng đế là đúng, không cần hoài nghi."
Nhà vua đâm ra lúng túng - phải nói gì với người
điên này? Nhưng bỗng nhiên một người khác cũng bị
trói vào một cái cột khác bắt đầu cười như điên dại.
Nhà vua hỏi anh ta, "Sao ngươi cười?"
Người này nói, "Thằng cha kia là kẻ lừa đảo - bởi
vì bản thân ta là Thượng đế, và ta chưa bao giờ phái
người này tới thế giới làm sứ giả của ta!"
Người đó đã bị tù từ một tháng trước, cứ tuyên bố
mình là Thượng đế.
Người Mô ha mét giáo rất cuồng tín; họ không thể
cho phép được - đôi khi ngay cả điều đó là chân lí
cũng không được. Khi al-Hillaj Mansoor tuyên bố,
"Ana'l haq! - Ta là bản thân Thượng đế!" điều đó là
chân lí, ông ấy không mơ. Nhưng ông ấy bị đóng đinh.
Khi Sarmad, một nhà huyền môn Sufi khác, tuyên bố,
"Ta là Thượng đế!" đầu ông ấy bị chặt liền. Và những
người này không mơ. Nhưng rất khó cho người ngoài
quyết định được ai đang mơ, ai đã phát điên, ai đang
tưởng tượng, và ai đang tuyên bố chân lí. Bởi vì đôi
khi người mơ tin vào giấc mơ của mình, tin tuyệt đối,
cho nên niềm tin chẳng thế chứng minh được cái gì.
Nó có thể chỉ là trò bản ngã.
Lừa dối cuối cùng mà tâm trí có thể giở trò với bạn
là nói với bạn, "Sao mình phải bận tâm không cần
thiếy làm gì? Mình là vị phật mà!" Và tôi muốn bạn
nhận biết về điều đó, bởi vì điều này sẽ xảy ra cho
nhiều người. Mọi người có thể tin vào bất kì cái gì.
Mới hôm nọ một người đã viết một bức thư cho tôi
nói, "Tôi muốn trở thành sannyasin, nhưng tôi hơi sợ
bởi vì tôi biết rằng tôi là Judas và tôi sẽ chứng tỏ là
Judas với thầy." Mọi người có thể tin họ là Christ, họ
có thể tin họ là Judas. Và người đó phải tin điều đó
thực sự sâu sắc.
Tôi đã gửi cho anh ta một thông điệp rằng "Bạn có
thể trở thành sannyasin. Tôi đã có nhiều Judas khác,
cho nên điều đó đâu có tạo ra khác biệt gì? Một người
nữa được đón chào!" Jesus chỉ có mỗi một Judas: tôi
có nhiều, và có nhiều là tốt hơn - có một có thể chứng
tỏ là nguy hiểm. Nếu bạn có nhiều Judas, trước hết họ
sẽ phải cạnh tranh với nhau. Năng lượng của họ sẽ bị
phí hoài trong họ. Họ sẽ tranh đấu với nhau; họ sẽ
phản bội nhau trước. Và Judas có thể phản bội Jesus
bởi vì Jesus chỉ có mười hai đệ tử; tôi có một trăm
nghìn đệ tử.
Tôi không thể chăm nom quá nhiều xem ai là
Judas và ai là không; và tôi không cần, bởi vì bất kì
điều gì xảy ra đều là ý chí của Thượng đế. Nếu một
Judas được cần tới thì người đó phải tới, đó là cách
Thượng đế muốn nó là vậy. Nhưng tâm trí bạn có thể
giở thủ đoạn với bạn. Bạn không thể là không ai được
- nếu bạn không thể là Christ, ít nhất bạn có thể là
Judas. Bạn không thể chấp nhận sự kiện vô danh.
Và điều đó là rất nền tảng - yêu cầu cơ bản đầu
tiên, để đi vào trong thế giới của tôn giáo: chấp nhận
bản thân mình là vô danh, cứ dường như bạn không có
tên, không hình dạng, không căn cước. Thế thì tâm trí
không thể lừa được bạn. Thế thì tâm trí không thể cám
dỗ được bạn vào ý niệm nào đó, vào tưởng tượng nào
đó.
Phật đang nói về điều xảy ra khi một người trở nên
thức tỉnh. Người thường là ngủ, mọi người đều ngủ.
Bất kể tôn giáo, quốc gia, giống nòi, trên một điểm họ
tất cả đều đồng ý: họ tất cả đều đang ngủ say - mơ
những giấc mơ khác nhau, nhưng ngủ là một. Khác
biệt của mơ không tạo ra khác biệt cho phẩm chất của
ngủ. Người này mơ giấc mơ Ki tô giáo, người kia mơ
giấc mơ Do Thái, người khác mơ giấc mơ Hindu, vân
vân và vân vân, nhưng mơ không thể thay đổi được
tâm thức của bạn. Thực ra chúng là cản trở.
Giấc ngủ phải bị phá vỡ, giấc ngủ phải bị làm tan
tành; bằng không bạn không biết mình là ai, bạn không
biết mình đang làm gì. Bạn không biết mình từ đâu tới,
bạn không biết mình đang đi đâu. Bạn không biết mình
đang nói gì và mình đang làm gì, cho bản thân mình và
cho người khác. Bạn là ngẫu nhiên. Bạn giống như
mẩu gỗ trôi giạt nhờ gió mù quáng - không có định
mệnh. Gió thổi bạn từ bờ này sang bờ kia, nhưng bạn
không phải là người chủ của bản thể riêng của mình.
Bạn là nô lệ, nô lệ của các lực mù quáng.
Điều đầu tiên cần được làm là thoát ra khỏi giấc
ngủ của bạn.
Phật nói... lời kinh đầu tiên:
Người đó là thức tỉnh.
Ông ấy đang định nghĩa phật tính, hay bạn có thể
gọi nó là christ tính; cũng cùng là một cả. Phật và
Christ là đồng nghĩa.
Người đó là thức tỉnh. Đó là phẩm chất tinh tuý
nhất: người đó không còn ngủ nữa, người đó không
còn mơ. Người đó không có ý nghĩ, không kí ức,
không tưởng tượng. Người đó hoàn toàn im lặng và
tỉnh táo. Im lặng của người đó không phải là im lặng
chết, lạnh lẽo; im lặng của người đó tỉnh táo, ấm áp,
sống động.
Người đó là thức tỉnh: bạn thì không - bạn đầy
những đồ đồng nát thế. Chừng nào bạn còn chưa trở
nên trống rỗng các đồ đồng nát bạn sẽ không thức tỉnh.
Và bạn cứ làm cùng những điều lặp đi lặp lại, bạn cứ
lặp lại. Bạn đi theo vòng tròn, chưa bao giờ thấy ra sự
kiện là bạn vận hành như người máy, như cái máy.
Truyền thuyết kể rằng vào thời của Roma cổ đại
một chỉ huy được gọi tham gia chiến tranh đã khoá cô
vợ trẻ đẹp của mình bằng một chiếc thắt lưng khoá
trinh và đưa chìa khoá cho người bạn thân nhất của
mình với lời nhắc nhở, "Nếu tôi không trở về sau một
năm, dùng chìa khoá này. Với anh, anh bạn thân của
tôi, tôi tin cậy nó."
Thế rồi anh ta phi nước đại vào cuộc chiến. Cách
xa nhà mười dặm anh ta nghe thấy tiếng lộp cộp vó
ngựa đằng sau mình và anh ta đợi. Bạn anh ta đang
trên lưng ngựa phi tới nói, "Anh đưa tôi nhầm chìa
khoá rồi!"
Con người vô ý thức sâu thế!
Một đôi say khướt trong quán rược bắt đầu nói về
dục. "Này," người thứ nhất nói, "anh đã bao giờ uống
say tới mức anh hôn rốn của gái điếm không?"
"Đồ say xỉn!" bạn anh ta trả lời.
Quan sát cuộc sống của bạn và bạn sẽ tuyệt đối
đồng ý với anh ta: "Đồ say xỉn!" Bạn đã từng làm gì?
Bạn có thể nói bạn đã sống cuộc sống của mình với
nhận biết không? Bạn có thể nói hành động của bạn có
phẩm chất của nhận biết không? Ai đó xúc phạm bạn:
bạn đáp ứng lại hay phản ứng lại? Nếu bạn phản ứng,
bạn ngủ; nếu bạn đáp ứng, bạn thức.
Và khác biệt giữa phản ứng và đáp ứng là gì? -
khác biệt là lớn.
Có lần Phật bị vài người xúc phạm rất nặng nề. Họ
quát tháo ông ấy, nói đủ mọi loại từ bẩn thỉu với ông
ấy, và ông ấy đứng đó nghe họ một cách toàn bộ nhất
có thể được.
Sau vài phút họ cảm thấy thất vọng, bởi vì ông ấy
đã không nói gì cả, và một người trong số họ hỏi,
"Ông điếc hay là sao vậy? Sao ông không trả lời?"
Phật nói, "Ta đang trả lời đấy, nhưng câu trả lời
của ta là đáp ứng, không phải phản ứng."
Một cách tự nhiên họ hỏi, "Khác biệt giữa phản
ứng và đáp ứng là gì?"
Và Phật nói, "Ngồi xuống và ta sẽ giải thích điều
đó cho các ông."
Và kẻ thù biến thành đệ tử! Họ lắng nghe Phật,
ngồi im lặng; lắng nghe điều ông ấy nói. Họ được cải
tâm. Phật nói, "Nếu các ông mà tới từ mười năm trước,
khi ta còn ngủ như các ông đây, ta đã phản ứng. Các
ông đã nhấn nút của ta."
Khi bạn nhấn nút và quạt quay, đó không phải là
đáp ứng; đó là phản ứng, nó mang tính máy móc. Khi
bạn nhấn nút và đèn bật lên hay tắt đi, đó là phản ứng
không phải đáp ứng. Đèn, quạt, hay bất kì máy móc
nào khác, không có tự do chọn lựa; nó đơn giản phản
ứng. Đáp ứng nghĩa là chọn lựa, đáp ứng nghĩa là
"được chọn lựa có ý thức."
Phật nói, "Mười năm trước nếu các ông đã nói
những lời này ta sẽ chặt đầu các ông - ta thường mang
gươm theo mình. Nhưng bây giờ ta thức tỉnh. Ta nghe
lời các ông và ta cảm thấy từ bi sâu sắc cho các ông -
rằng các ông đã tự hành hạ các ông một cách không
cần thiết. Các ông không thể buộc ta làm điều gì đó
được - ta không phải là máy, bây giờ ta là người. Các
ông không thể buộc ta làm cái gì cả; ta hành động từ
chọn lựa riêng của ta. Do đó nó không phải là phản
ứng, nó là hành động, và hành động là đáp ứng. Ta
nhìn toàn thể tình huống, thế rồi từ ý thức của mình ta
hành động. Tại khoảnh khắc này ta cảm thấy từ bi thế
với các ông, tiếc cho các ông thế, rằng ta không thể nói
cùng ngôn ngữ mà các ông đang nói với ta."
Người đang ngủ thì phản ứng; người đó không biết
gì về hành động cả. Và phản ứng là trói buộc: nó trói
bạn vào nhà tù mới, xiềng xích mới. Đáp ứng bắt
nguồn từ tự do, do đó nó đem tới nhiều tự do hơn.
Phản ứng bắt nguồn từ quá khứ; hành động của bạn
tương ứng với kí ức của bạn, có sẵn bằng kinh nghiệm,
ước định của bạn. Bạn phản ứng không với hiện tại,
không trong hiện tại. Bạn không phản xạ tình huống
thực như nó đang đấy; bạn cứ diễn giải nó theo quá
khứ của mình, theo kinh nghiệm quá khứ của mình.
Người thức tỉnh giống như tấm gương: người đó
phản xạ cái đang trong hoàn cảnh. Người đó là thức
tỉnh.
Thắng lợi là của người đó.
Người đó đã chinh phục thế giới.
Và Phật nói: Chính chỉ bởi thức tỉnh mà người ta
mới trở nên thắng lợi; không phải bởi chinh phục thế
giới mà bởi chinh phục vô ý thức của người ta.
Chỉ có hai loại người trên thế giới: kiểu Alexander
Đại đế và kiểu Phật. Có cả triệu người... thực ra chín
mươi chín phẩy chín phần trăm mọi người thuộc về
kiểu Alexander - các Alexander tiểu và Alexander đại,
nhưng toàn là là Alexander. Mọi người đều cố gắng
chinh phục thế giới theo cách riêng của mình, đại hay
tiểu, qua tiền, quyền, danh. Và mọi người đều mang
ham muốn sâu sắc, khao khát lớn lao để thành công
một ngày nào đó trong việc trở thành người nổi tiếng
nhất trên thế giới, người quyền lực nhất trên thế giới.
Đây là kiểu Alexander, kiểu hướng ngoại, kiểu trần
tục; người đó tích luỹ tiền bạc, của cải, nhưng người
đó đánh mất linh hồn mình.
Và có rất hiếm, rất ít người trên thế giới thuộc vào
kiểu Phật, người không còn quan tâm tới thế giới này,
người có toàn thể mối quan tâm vào việc tự hiểu mình,
vào việc trở nên nhận biết hơn về thực tại họ đang là.
Đây không phải là những kiểu người cố định, họ
linh động. Bất kì ai thuộc vào loại Alexander cũng đều
có thể chuyển sang loại là vị phật. Và tất cả chư phật,
trong quá khứ của họ, đều đã thuộc về loại Alexander,
và tất cả những người là Alexander bây giờ có thể trở
thành chư phật một ngày nào đó. Điều đó tất cả đều
phụ thuộc vào bạn; chọn lựa có ý thức, có chủ định là
cần: rằng bạn chuyển năng lượng của mình từ hướng
ngoại sang hướng nội, rằng bạn trở nên quan tâm nhiều
hơn tới thực tại bên trong, rằng bạn trở nên quan tâm
nhiều tới chủ thể của mình hơn là vào đối thể. Bạn bắt
đầu di chuyển, chìm sâu vào lãnh địa bên trong của
mình để tìm ra trung tâm của bản thể mình.
Và điều kì diệu là, khoảnh khắc bạn tìm thấy trung
tâm của bản thể mình, bạn đã tìm thấy trung tâm của
toàn thể sự tồn tại - bởi vì chỉ có một trung tâm thôi;
trung tâm của tôi và trung tâm của bạn không phải là
hai trung tâm. Bất kì ai đi vào trong cũng đều đi tới
cùng trung tâm này. Ở ngoại vi chúng ta là những
người khác nhau; ở trung tâm chúng ta là một.
Người đó là thức tỉnh. Thắng lợi là của người đó.
Và Phật nói: Người chinh phục thực sự không phải là
người đã chinh phục thế giới mà là người đã chinh
phục bản thân mình. Người đó đã chinh phục thế giới
nữa, không theo cách thấy được mà theo cách rất, rất
không thấy được. Người đó trở thành người chủ.
Phật tới một thị trấn. Vua của thị trấn này ngần
ngại đón tiếp ông ấy, bởi vì vua nói, "Ta là đại vương
còn ông ta chỉ là kẻ ăn xin."
Nhưng tể tướng của nhà vua - một ông già, một
người trí huệ - cứ khăng khăng rằng, "Hoặc là bệ hạ
tới đón Phật hoặc chấp nhận từ nhiệm của hạ thần."
Điều này là quá đáng, bởi vì ông già đó tuyệt đối
cần cho vương quốc. Nhà vua hoàn toàn phụ thuộc vào
ông già này và lời khuyên của ông ấy; nhà vua không
thể để mất ông ấy được. Vua nói, "Nhưng tại sao? Tại
sao khanh cứ khăng khăng thế? Ông ta chỉ là kẻ ăn xin,
và ta là vua!"
Tể tướng nói, "Nói thẳng ra thì ông ấy là vua còn
bệ hạ là kẻ ăn xin! Hoặc bệ hạ tới cùng thần để đón
ông ấy hoặc bệ hạ chấp nhận việc từ nhiệm của thần,
bởi vì thần không thể phục vụ cho người ngu như vậy,
người không thể thấy ra một sự kiện đơn giản: Phật là
người chinh phục thực cả thế giới. Bệ hạ sở hữu cái gì
nào? - vài thứ thôi; chúng sẽ bị lấy đi khi cái chết tới.
Nhưng cái ông ấy sở hữu, không ai có thể lấy đi được,
ngay cả cái chết cũng không thể. Ông ấy đã chinh phục
được bản thân ông ấy, và chinh phục bản thân mình là
chinh phục cả thế giới."
Nhà vua trẻ phải đi đón Phật. Khi ông ta cúi mình
trước Phật, Phật nói, "Không cần cúi lạy người ăn
xin!"
Nhà vua rất choáng: "Làm sao ông ấy lại biết?"
Trong choáng váng đó mắt nhà vua được mở ra. Nhà
vua nhìn Phật: cái duyên dáng đó, cái đẹp đó, cái im
lặng đó, ánh sáng đó, tình yêu đó - ông ta chưa bao giờ
thấy nó ở bất kì đâu khác. Ông ta lại cúi mình lần nữa.
Phật nói, "Bây giờ điều đó là đúng, bây giờ điều
đó là từ trái tim của ông! Bằng không ông mới chỉ theo
lời khuyên của tể tướng thôi. Bây giờ ông mới thực cúi
mình bởi vì ông đã thấy ta."
Hiếm khi tìm ra vị phật và còn hiếm hơn nữa là
nhận ra ông ấy, bởi vì bạn cứ nhìn bằng đôi mắt cũ của
mình, bằng tâm trí cũ, ngu xuẩn của mình. Tâm trí ngu
xuẩn của bạn không có khả năng thấy phật tính. Nó chỉ
có thể thấy sự vật; nó không thể thấy cái phi vật chất,
cái huyền bí. Nó chỉ có thể thấy cái thô thiển, không
thấy cái tinh tế.
Một đêm thứ sáu Bob về nhà sớm hơn thường lệ
và ngạc nhiên cô vợ hấp dẫn đang trong giường cùng
với người đàn ông khác. Phát rồ, anh ta chộp lấy khẩu
súng lục vẫn giấu trong chạn bát đĩa và bắn hai người
yêu tới chết.
Anh hàng xóm cạnh nhà, Jim, đang thảo luận về
thảm kịch này với vài người bạn vài ngày sau đó. Jim
nói, "Ồ, sau rốt, điều đó vẫn không phải là điều tồi tệ
nhất có thể đã xảy ra."
Những người khác nhảy lên anh ta. "Anh ngụ ý gì
thế? Hai người chết, và Bob có thể bị tử hình!"
Jim đáp, "Thế này, tôi vẫn nói điều đó có thể đã là
tồi tệ thôi. Giá mà Bob về sớm vào đêm thứ năm, tôi
đã chết rồi!"
Con người sống trong vô ý thức thế. Người đó cứ
làm những điều do vô ý thức xui khiến. Người đó
không là người chủ của linh hồn riêng của mình.
Người đó không biết ham muốn nảy sinh từ đâu;
chúng đơn giản chiếm hữu người đó. Và khi người đó
bị ham muốn chiếm hữu, người đó hoàn toàn bất lực.
Vị phật là thức tỉnh, thức tỉnh với tất cả những
điều đang xảy ra trong bản thể mình; tỉnh táo tới mức
không cái gì có thể chiếm hữu được ông ấy, tràn đầy
ánh sáng tới mức không bóng tối nào có thể đi vào
trong bản thể riêng của ông ấy. Ông ấy sống trong ánh
sáng đó, ông ấy sống với nhận biết đó. Mọi chuyển
động của ông ấy, mọi hành động của ông ấy, đều bắt
nguồn từ ý thức này. Do đó không bao giờ có ăn năn
trong vị phật. Ông ấy không bao giờ nhìn lại; chẳng có
vấn đề gì. Từng thứ ông ấy đã làm, ông ấy đều làm
một cách toàn bộ và hoàn hảo.
Bạn bao giờ cũng phải nhìn lại, bởi lí do đơn giản
là bạn bao giờ cũng bộ phận, mảnh mẩu. Chỉ một phần
của bản thể bạn tham gia vào, và bạn làm mọi thứ theo
cách bạn không toàn bộ trong nó, chưa bao giờ toàn
thể trong nó. Về sau bạn bắt đầu nghĩ, "Mình đáng
phải làm điều đó chứ," hay "Mình đáng phải làm điều
này," hay "có thể có cách tốt hơn để làm nó mà." Bạn
bắt đầu ăn năn, bạn bắt đầu thấy mặc cảm. Hành động
của bạn không đầy đủ thế, đó là lí do tại sao có bứt rứt
này. Khi hành động nào đó được thực hiện với tính
toàn bộ của bạn, khi bạn là toàn bộ trong nó, thế thì
một khi bạn ra khỏi nó, bạn ra khỏi nói một cách toàn
bộ.
Nhớ luật nền tảng này: nếu bạn ở bên trong cái gì
đó một cách toàn bộ, bạn có thể ở ngoài nó một cách
toàn bộ. Nếu bạn không toàn bộ trong nó bạn sẽ vẫn
còn bị dính líu tới nó ngay cả khi thời gian là quá khứ;
ngay cả khi ngày của nó đã qua rồi bạn sẽ vẫn còn
dính líu vào trong nó. Phần nào đó của bạn sẽ cứ níu
bám lấy quá khứ, và bạn bao giờ cũng cảm thấy khổ.
Bất kì cái gì bạn chọn, khổ nhất định theo sau, bởi vì
sớm hay muộn bạn sẽ nhận ra rằng bạn có thể đã làm
tốt hơn.
Nhưng con người của nhận biết biết rằng không
thể có khả năng nào cho việc làm nó tốt hơn được. Thế
thì phỏng có ích gì mà nhớ nó? Người đó không nhớ
quá khứ. Không phải là người đó không có kí ức -
người đó có kí ức rõ ràng hơn bạn có - nhưng kí ức đó
chỉ là chỗ nhớ im lặng. Nếu người đó cần nó, kí ức đó
có thể được dùng, nhưng người đó không là nô lệ cho
kí ức.
Và người đó chưa bao giờ nghĩ về tương lai.
Người đó chưa bao giờ diễn tập cho tương lai, bởi vì
người đó biết rằng "Bất kì cái gì xảy ra, mình bao giờ
cũng sẽ ở đó với tính toàn bộ của mình. Nhiều hơn
điều đó là không thể được." Cho nên người đó đơn
giản hành động một cách tự phát, không kí ức nào,
không phóng chiếu tương lai. Hành động của người đó
là toàn bộ và của hiện tại - và hành động mang tính
toàn bộ và của hiện tại đem tới tự do.
Làm sao người đó có thể lạc đường
Người ở ngoài con đường?
Mắt người đó mở.
Chân người đó tự do.
Ai có thể theo sau người đó?
Làm sao người đó có thể lạc đường, người ở ngoài
con đường? Bằng việc trở nên nhận biết đầy đủ bạn
được tự do với mọi con đường, mọi phương pháp, mọi
kĩ thuật. Tất cả các kĩ thuật và phương pháp đều chỉ
đem bạn tới con đường - con đường dẫn vào bên trong.
Nhưng một khi bạn đã đạt tới cốt lõi bên trong nhất
của mình, không phương pháp, không kĩ thuật, không
đường nào được cần cả. Bạn đã đi ra ngoài, bạn đã
siêu việt lên trên tất cả. Bây giờ bạn không thể đi lạc
lối được. Làm sao bạn có thể đi lạc lối nếu không có
đường? Bây giờ bạn không thể làm cái gì sai được.
Nếu không có phương pháp, làm sao bạn sẽ làm cái gì
sai được? Làm sao người đó có thể lạc đường, người ở
ngoài con đường?
Đó là trạng thái của vị phật. Ông ấy không thể tụt
khỏi trạng thái đó được, bởi vì nó không phải là cái gì
đó như thành tựu; nó là bản thể tự nhiên, tự phát của
bạn. Một khi được biết tới nó vĩnh viễn là của bạn.
Cho dù bạn muốn thoát khỏi nó bạn cũng không thể
làm được.
Con mắt người đó mở. Nhớ lấy, Phật không nói:
Đôi mắt người đó mở. Ông ấy nói: Con mắt người đó
mở. Chúng ta có hai mắt; hai mắt này nhìn ra ngoài.
Để nhìn vào thế giới khách quan chúng ta cần hai mắt,
bởi vì thế giới khách quan là thế giới của nhị nguyên.
Nhưng có một mắt nữa nhìn vào bên trong; hai mắt
của bạn nhìn vào bên trong trở thành một. Do đó mới
có ý niệm về con mắt thứ ba.
Con mắt thứ ba chỉ là ý niệm siêu hình, nhưng có ý
nghĩa lớn lao - một biểu dụ. Không phải là thực ra có
con mắt thứ ba đâu, rằng nếu bạn mổ sọ mình ra bạn sẽ
thấy con mắt thứ ba bên trong - không. Nhưng có sự
sáng suốt mà không thể chia thành hai được; nó là duy
nhất, độc nhất, nó là một. Do đó Phật nói: Con mắt
người đó mở. Không phải là "đôi mắt" mà "con mắt";
người đó có thể nhìn vào bên trong.
Và lần nữa ông ấy nói: Chân người đó tự do.
Không phải đôi chân người đó, bởi vì vấn đề không
phải là đi ra ngoài mà đi vào trong.
Trong thế giới bên trong, mọi thứ đều là một;
trong thế giới bên ngoài, mọi thứ đều là hai.
Ai có thể đi theo người đó được? Bạn không thể đi
theo vị phật được; bạn có thể hiểu ông ấy. Bạn có thể
học nhiều từ vị phật, nhưng bạn không thể đi theo ông
ấy được. Bạn không thể là tín đồ mù quáng của ông
ấy; bạn không thể đơn giản nói, "tôi tin."
Có vài người, đặc biệt ở Ấn Độ, người tới tôi và
nói, "Chúng tôi không cần thiền nào cả - chúng tôi tin
vào thầy. Chúng tôi không cần đi vào trong bất kì
nhóm trị liệu nào - chúng tôi tin cậy rằng ân huệ của
thầy là đủ." Bây giờ những người này đang dùng
những lời lẽ hay ho, nhưng họ đang tự lừa dối mình.
Phật đã nói: Chư phật có thể chỉ ra con đường,
nhưng ông phải đi nó theo cách riêng của ông. Không
ai khác có thể bước đi hộ ông và không ai khác có thể
nhìn hộ ông. Ông sẽ phải tự mình nhìn vào bản thể bên
trong của mình. Ở đó, tại cốt lõi bên trong nhất của
mình, ông sẽ phải đi một mình, tuyệt đối một mình.
Nhưng bạn có thể học được nhiều từ sự hiện diện
của vị phật. Bạn có thể thấm đẫm tâm linh của ông ấy,
bạn có thể bắt đầu đập rộn ràng cùng năng lượng của
ông ấy. Bạn có thể hoàn toàn im lặng trong hiện diện
của ông tới mức sự hiện diện của ông ấy trở thành việc
biến đổi lớn lao cho bạn. Nhưng chung cuộc bạn phải
đi vào bên trong một mình; ở đó, không ai có thể đi
cùng bạn được.
Phật đã nói: Chư phật giống như chim bay trên trời
– họ không để lại dấu chân nào. Bạn không thể đi theo
họ được, bạn không thể theo sau họ được. Bạn không
thể đơn giản nói, "Tôi tin vào Phật, tôi tin vào từ bi của
ông ấy, và thế là đủ." Không, điều đó là không đủ. Tin
tưởng là không đủ; chỉ việc biết mới có thể đem tới tự
do. Tin tưởng đem tới tù túng - mọi tin tưởng đều đem
lại tù túng.
Thế giới không thể cải tạo người đó
hay dẫn người đó đi lạc lối,
lưới độc của ham muốn không thể bắt người đó.
Một khi bạn đã trở nên thức tỉnh tại trung tâm của
bản thể mình, thế thì vài điều trở thành không thể
được. Thế giới không thể cải tạo người đó...
Toàn thế giới với tất cả những cám dỗ, dụ dỗ của
nó, là tuyệt đối bất lực trong việc gây ấn tượng lên vị
phật. Ông ấy vẫn còn định tâm, ông ấy không thể bị
làm sao lãng. Sao lãng là có thể chỉ khi bạn ngủ. Trong
ngủ bạn có thể quyết định không bị sao lãng, nhưng
bạn sẽ bị sao lãng. Trong ngủ bạn có thể quyết định,
"Mình sẽ không làm điều này," nhưng bạn sẽ phải làm
nó.
Trong ngủ, bao nhiêu lần bạn đã quyết định không
giận nữa? Nhưng khi cơ hội nảy sinh bạn quên hết tất
cả về quyết định của mình; bạn lại giận. Thực ra, trong
khi bạn đang quyết định rằng "mình sẽ không giận
nữa," ngay cả thế trong khoảnh khắc đó, nếu bạn nhìn
sâu xuống, ai đó đang cười đấy, bởi vì ai đó sâu bên
dưới biết rằng đây tất cả đều là vô nghĩa, rác rưởi! Và
nếu ai đó khác cứ khăng khăng, "Không, bạn đã ra
quyết định này nhiều lần trước đây rồi và bạn cứ quên
đi quên lại mãi, và tôi nói với bạn rằng bạn sẽ giận nữa
đấy," bạn có thể trở nên bực mình tới mức bạn trở nên
giận với người đó ngay lập tức - ngay cả điều đó cũng
có thể đủ làm cho bạn giận rồi!
Tôi đã nghe:
Một người quá giận, tới mức người đó giết vợ
mình và ném con mình xuống giếng. Có lần người đó
trở nên giận tới mức người đó đã đốt cả nhà mình.
Điều đó là quá đáng! Và về sau người đó hối hận lắm.
Ngẫu nhiên một sư Jaina đi tới chỗ đó. Ông ta đi
tới sư Jaina này và ông ta nói, "Xin điểm đạo cho tôi,
bởi vì tôi nghĩ rằng tôi sẽ không bao giờ gạt bỏ được
giận của mình nếu tôi không thay đổi triệt để cuộc
sống của mình."
Bây giờ, việc thay đổi "triệt để" cuộc sống của bạn
lại là một cách diễn đạt của giận. Thay đổi triệt để là
thay đổi giận. Nhưng sư Jaina này cũng ngủ như người
này - ông ta rất sung sướng, ông ta được một đệ tử!
Ông ta lập tức điểm đạo cho người này.
Sư Jaina sống trần trụi. Người này lập tức vứt hết
quần áo của mình. Thầy giáo này rất ấn tượng. Ông ta
nói, "Tôi phải mất năm năm dần dần mới vứt được
quần áo của mình. Ông là người hiếm hoi đấy - trong
vòng một khoảnh khắc ông đã vứt hết cả quần áo của
mình rồi!"
Có một thủ tục trong hệ thống Jaina rằng trước hết
bạn giảm quần áo của mình xuống ba, rồi hai, rồi một
bộ và cuối cùng bạn mới vứt nốt một bộ đó đi. Đi từ
từ, thực hành, để cho bạn không cảm thấy xấu hổ về
việc ở trần. Nhưng thứ được thực hành không phải là
thứ thực; tất cả những cái được trau dồi đều là giả.
Thầy giáo này rất bị ấn tượng - nhưng thực ra đó
cũng là một phần của giận của người này... người có
thể đốt nhà mình, người có thể giết vợ mình, người có
thể ném con thơ xuống giếng và giết con. Người này
có khả năng làm bất kì cái gì! Người này có thể vứt bỏ
quần áo và ở trần. Điều đó có vẻ như sự từ bỏ lớn lao -
nó chẳng là gì cả. Nếu bạn nhìn sâu xuống dưới, chính
giận đang đứng lộn đầu; nó là giận chống lại giận.
Chẳng mấy chốc người này trở nên rất nổi tiếng.
Những người như thế có thể trở nên rất nổi tiếng, bởi
vì bất kì điều gì họ làm, họ đều làm với đam mê, với
sự mãnh liệt nào đó, với lửa. Người đó nhịn ăn lâu...
Thầy giáo cho người đó cái tên Shantinath -
shantinath nghĩa là "Đức an bình " - chỉ để nhắc người
đó rằng người đó đã từ bỏ giận, bây giờ an bình phải là
phong cách sống của người đó.
Và trong mười năm người đó đã không giận - thậm
chí không giận lấy một khoảnh khắc. Thực ra không có
nhu cầu, không cơ hội nào nảy sinh. Giận không tới từ
trời xanh; nó cần hoàn cảnh nào đó. Vợ người đó
không có đó, con người đó không có đó, nhà cửa, gia
đình, công việc, mọi người, không ai có đó cả. Và
người đó được kính trọng lắm; cả nước đều biết về con
người vĩ đại này, mahatma này.
Người đó ở New Delhi. Một trong những người
bạn cũ của người đó tới thủ đô, với mục đích kinh
doanh nào đó, nhưng khi người đó đi tới biết rằng bạn
mình đã ở Delhi và người đó đã trở thành một nhân vật
nổi tiếng - cả mảnh đất này tôn thờ người đó - một
cách tự nhiên người này muốn tới gặp ông ta và bày tỏ
lòng tôn kính. Nhưng sâu bên dưới người này có chút
hồ nghi, bởi vì người này đã biết ông ta từ thời thơ ấu
của ông ta; người này không thể nào tin được rằng ông
ta đã thực sự trở thành "Đức an bình." Ông ta là quỉ
hoá thân chứ! Nếu điều đó là có thể - thay đổi như vậy
và bất thần như vậy sao? Người này hồ nghi, nhưng
thay đổi xảy ra trên thế giới. Người này đi tới.
Người này đã hi vọng rằng con người vĩ đại đó ít
nhất cũng nhận ra mình; họ là bạn thời thơ ấu - trong
bốn mươi năm họ đã biết lẫn nhau. Nhưng người vĩ đại
đã trở nên vĩ đại thế bây giờ, làm sao người đó có thể
nhận ra bạn mình? Người đó đã nhận ra - người bạn
lập tức biết rằng người đó đã nhận ra mình - nhưng
người đó lại không nhìn anh ta. Thực ra, người đó né
tránh anh ta; chính việc né tránh đó là chỉ dẫn rằng
người đó đã nhận ra anh ta.
Người bạn nghĩ rằng chẳng cái gì đã thay đổi cả -
giận bây giờ đã trở thành bản ngã của người đó.
Khi tất cả những người khác đều đã về người bạn
còn ở lại đó; anh ta tới gần. Anh ta hỏi, "Thưa ông, tôi
có thể hỏi tên ông được không?"
Shantinath, Đức an bình, hơi chút bối rối. Ngu
xuẩn làm sao! Tất cả các báo chí đều in ảnh ông ta và
tên ông ta. Trên đài phát thanh Toàn Ấn Độ tên ông ta
được phát thanh, ông ta được chiếu hình trên truyền
hình. Mọi người đều biết về ông ta, ông ta là một cái
tên quen thuộc nơi cửa miệng, và kẻ ngu này lại hỏi
tên ông ta! Nhưng ông ta không biểu lộ cái gì trên
khuôn mặt mình. Ông ta đơn giản nói, "Tên tôi là
Shantinath."
Vài đối thoại siêu hình nào đó tiếp theo, và người
này lại hỏi, "Thưa ông, tôi lại quên mất tên ông rồi.
Tên ông là gì vậy?"
Bây giờ lửa đã tới mắy của ông mahatma này!
Nhưng dẫu vậy ông ta vẫn cố gắng kiểm soát, qua
khuôn mặt đang đỏ lên. Ông ta nói, "Ta đã nói với ông
rồi. Ông dường như là thằng ngốc! Ông không thể hiểu
được cái tên đơn giản này sao? Tên ta là Shantinath!"
Lại chút ít thảo luận tâm linh tiếp theo, và người
này nói, "Thưa ông, tôi lại quên mất tên ông rồi."
Shantinath cầm cây thiền trượng trong tay và ông
ta nói, "Đây là lần cuối cùng nhé - thế là đủ rồi! nếu
ông hỏi ta lần thứ tư ta sẽ đánh vỡ sọ ông ra! Tên ra là
Shantinath - Đức an bình."
Và người bạn nói, "Bây giờ tôi đã hiểu rồi. Ông
chắc chắn là Đức an bình đấy - mắt đỏ của ông, khuôn
mặt ông, ngọn lửa của ông và cây thiền trượng trong
tay ông! Không, tôi sẽ không hỏi lần thứ tư đâu. Tôi
biết rằng ông đã giết vợ ông, ông đã giết con ông - ông
có thể giết tôi chứ!"
Mọi người không thay đổi: vô ý thức thế, vô ý
thức sâu thế là những ham muốn, khao khát - giận,
tham, dâm dục - những cái trên bề mặt chúng có thể
dường như thay đổi, nhưng sâu bên dưới chúng không
đổi. Bằng việc thay đổi tính cách của mình bạn không
thể thay đổi được tâm thức của mình, nhưng điều
ngược lại nó thì có thể xảy ra: nếu bạn thay đổi tâm
thức của mình, thế thì tính cách của bạn thay đổi.
Và đó là cách thức của Phật, đó là cách thức của
tôi nữa. Tôi đưa cho bạn chìa khoá để thay đổi tâm
thức bạn từ ngủ sang thức; đó là điều thực cần được
làm. Thế thì tất cả những cái là một phần của việc ngủ
biến mất cùng việc ngủ - giận, tham, sở hữu, ghen tị;
tất cả những điều đó là một phần của việc ngủ biến
mất. Bạn không thể thay đổi được những thứ đó chừng
nào việc ngủ của bạn còn chưa mất đi.
Enrico Caruso là siêu thần tượng của hội nhạc kịch
thế giới vào đầu những năm 1900. Ở chỗ riêng tư ông
ấy cũng là một trong những người được yêu mến thực
sự thời đại ông ấy. Nhận xét sau được cho là của ca sĩ
nổi tiếng giọng nam cao người Italia này: "Tôi chưa
bao giờ làm tình vào buổi sáng," người ta cho là
Caruso đã nói, "Điều đó là xấu cho giọng nói, điều đó
là xấu cho sức khoẻ, và bên cạnh đó bạn không bao
giờ biết mình có thể gặp ai vào buổi trưa."
Bây giờ bạn thấy cái vô ý thức này! Và đây là cách
thức của hầu hết mọi người.
Hai thanh nữ đang buôn chuyện. Một trong họ nói,
"Em chẳng thấy vui gì chị và chồng chị đã đi chơi và
uống say mọi cuối tuần."
Người kia đáp, "Ôi dào, mỗi lần anh ấy chè chén
say sưa anh ấy đều nghĩ em là ai đó khác và lén lút
trốn em về nhà theo lối cửa sau!"
Vâng, khi bạn say bạn thậm chí có thể yêu vợ
riêng của mình. Ngay cả điều không thể cũng trở thành
có thể khi bạn say. Và việc say này không mới; nó rất
cổ đại, cũ hàng triệu năm. Do đó phải làm nỗ lực lớn
để thức dậy. Một khi bạn thức dậy: Thế giới không thể
cải tạo người đó hay dẫn người đó đi lạc lối, mà mạng
lưới độc của ham muốn cũng không thể bắt giữ được
người đó.
Người đó là thức tỉnh!
Phật cứ lặp đi lặp lại: Người đó là thức tỉnh!
Các thần dõi theo người đó.
Khoảnh khắc bạn thức tỉnh toàn thể sự tồn tại hỗ
trợ cho bạn, toàn thể sự tồn tại trở thành thân thiện vô
cùng. Đó là điều Phật ngụ ý bởi "các thần dõi theo
người đó, quan sát người đó " - mọi sự chăm sóc đều
dồn vào người đó. Không phải là có các thần đâu,
nhưng toàn thể bản thân sự tồn tại, tất cả các yếu tố
của tự nhiên, hữu hình, vô hình, đều bắt đầu trở nên rất
thân thiện với người thức tỉnh, bởi vì người đó là kho
báu quí giá nhất. Trong người đó tự nhiên đã trở nên
được hoàn thành, trong người đó sự tồn tại đã nở hoa.
Người đó là mục đích của tất cả sự tồn tại: toàn thể sự
tồn tại đang đi tới phật tính. Và bất kì khi nào một
người trở thành vị phật, cơn rung mình vui vẻ trào lên
khắp vũ trụ... các gợn sóng của vui vẻ, hân hoan lớn
lao.
Người đó là thức tỉnh! Tự nhắc mình lặp đi lặp lại
đi, định nghĩa về vị phật là: Người đó là thức tỉnh! - và
bạn đang ngủ.
Một đôi có tên George và Christine đã yêu nhau
trong nhiều năm và cứ trì hoãn ngày cưới của mình bởi
vì công việc của George quan trọng với anh ta tới mức
anh ta cảm thấy không thể dành thời gian rỗi nào ngay
cả cho tuần trăng mật. Tuy nhiên, cuối cùng kích động
thường xuyên của Christine làm cho anh ta yếu đi và
họ cưới nhau. Họ đã định khởi hành đi Hollywood
trong tuần trăng mật thì George nhận được cú điện
thoại từ ông chủ.
"Vâng, thưa ngài," George nói, "tôi sẽ tới đó."
"Nhưng anh George ơi," Christine rền rĩ, "thế tuần
trăng mật của chúng ta thì sao?"
"Anh tiếc lắm, em yêu," anh ta nói, "chuyện chẳng
thế đừng được. Có tình huống khẩn cấp ở văn phòng
và anh là người duy nhất có thể chăm lo nó. Anh sẽ
bảo em điều cần làm: em lái xe tới Hollywood như
chúng ta đã lên kế hoạch còn anh sẽ đáp máy bay tới
sau khi mọi thứ đã được giải quyết và sẽ gặp em ở đó."
"Nhưng chuyện gì xảy ra nếu em tới trước khi anh
tới?" cô ấy hỏi. "Em có thể làm gì về tuần trăng mật
của chúng ta?"
"Thế này," George đáp, "cứ bắt đầu mà không có
anh."
Con người nghĩ mình đang sống, nhưng không
nhận biết thì không có khả năng sống nào cả. Làm sao
bạn có thể có tuần trăng mật mà không có chồng? Làm
sao bạn có thể bắt đầu nó được?
Chúng ta được sinh ra, điều đó là đúng, nhưng
chúng ta chưa sống - và điều đó còn đúng hơn nhiều.
Chúng ta phải được tái sinh. Mới ngày nào đó một đứa
trẻ ra khỏi bụng mẹ; đó là sinh thành về vật lí... bụng
mẹ là hiện tượng vật lí. Thế rồi một ngày nào đó bạn
phải ra khỏi bụng mẹ của tâm hồn mình, của tâm trí
mình.
Chừng nào bạn chưa ra khỏi tâm trí mình và chưa
trở thành vô trí, bạn sẽ không biết cuộc sống tất cả là
gì, bạn sẽ sống rỗng tuếch. Bạn sẽ không có tuần trăng
mật của mình, điều đó là không thể được. Bạn sẽ
không biết vị ngọt tràn đầy trong sự tồn tại cùng cực
lạc. Đó là tất cả những cái của bạn để đòi hỏi, nhưng
bạn phải làm một điều - bạn phải mạo hiểm.
Đứa trẻ ra khỏi bụng mẹ là mạo hiểm. Mạo hiểm
của nó là lớn, bởi vì trong chín tháng nó đã biết cách
sống nào đó, cách thảnh thơi nhất nó đã từng biết:
không lo lắng, không trách nhiệm. Nó đơn giản tận
hưởng. Đó là kì nghỉ dài, dài, kì nghỉ chín tháng, và
mọi thứ đều được chu cấp. Nó thậm chí đã không thở -
mẹ thở cho nó. Thức ăn được cung cấp, mọi thứ đều
tới nó. Nó cứ lớn lên, nó đơn giản nghỉ ngơi. Bây giờ
ra khỏi bụng mẹ này có mạo hiểm, mạo hiểm lớn: làm
mất đi phong cách sống cũ, thoải mái thế, an toàn thế,
im lặng thế, thảnh thơi mênh mông thế. Nhưng mọi
đứa trẻ đều nhận mạo hiểm, ra khỏi bụng mẹ, đi vào
trong thế giới của lo lắng, trách nhiệm, lo âu, thách
thức. Và những cái đó là cần cho chín chắn của bạn,
cho trưởng thành của bạn.
Một lần nữa bạn sẽ phải ra khỏi bụng mẹ. Bụng
mẹ đó là tâm trí bạn, và việc rời bỏ nó còn khó hơn
nhiều. Và nhiều người chết trong bụng mẹ đó, họ chưa
bao giờ ra khỏi nó. Những người ra khỏi nó là chư
phật.
Cách ra khỏi nó là trở nên ngày một là nhân chứng
của tâm trí riêng của bạn; đó là cách ra khỏi tâm trí
bạn. Việc chứng kiến của bạn tạo ra khoảng cách, việc
chứng kiến của bạn tạo ra tách rời khỏi tâm trí. Giây
rốn của bạn bị cắt. Dần dần, dần dần sự đồng nhất của
bạn với tâm trí bạn bị vứt bỏ. Bạn bắt đầu nhìn vào bản
thân mình như tâm thức; không như tâm trí, không như
ý nghĩ, mà như tâm thức. Đó là sự bắt đầu lớn lao,
cuộc sống thực, tuần trăng mật thực với cuộc sống,
tuần trăng mật với Thượng đế.
Người đó là thức tỉnh! Các thần dõi theo người đó.
Và đừng lo nghĩ rằng ra khỏi tâm trí mình bạn có thể
không được bảo vệ, không an toàn. Toàn thể sự tồn tại
sẽ chăm nom về bạn, bạn sẽ được chăm nom. Toàn thể
sự tồn tại trở thành mẹ của bạn.
Đi vào trong bất an của vô trí và bạn sẽ thấy an
ninh thực: an ninh của bất an. Đó là định nghĩa về tính
chất sannyas: an ninh của bất an.
Người đó là thức tỉnh
Và thấy vui vẻ trong tĩnh lặng của thiền
và trong dịu ngọt của buông xuôi.
Phật cứ lặp đi lặp lại: Người đó là thức tỉnh - bởi
vì đó là phẩm chất tinh tuý nhất. Mọi thứ khác đi theo
nó, mọi thứ khác là phụ.
Người chồng về nhà phát hiện ra vợ mình đang
trong vòng ôm say đắm của anh bạn tốt nhất của mình.
"Em yêu anh ấy, John," cô ta nói với anh chồng
đang sững sờ của mình.
"Nhìn đây," người bạn nói, "chúng ta tất cả đều
quá phức tạp không để cho tình huống như thế này tuột
khỏi tay. Nói cho cậu điều chúng mình sẽ làm - chúng
ta cả hai đều là người chơi thể thao; tớ sẽ chơi với cậu
trò chơi rượu rummy vì cô ấy."
Người chồng nghĩ về điều đó một chốc. "Thôi
được," anh ta nói, "nhưng chúng ta chơi trò lật mặt
đồng xu, chỉ để giữ cho nó hay."
Bạn không thể che giấu vô ý thức của mình được;
nó trồi lên bề mặt. Thực tại của bạn cứ tự bày tỏ nó -
bạn có thể không có khả năng thấy nó, nhưng mọi
người khác đều có thể thấy được nó. Đây là thế giới kì
lạ! Bạn có thể không thấy vô ý thức của mình, nhưng
mọi người đều biết về nó, cũng như bạn biết về vô ý
thức của mọi người khác. Bởi vì chúng ta chú ý nhiều
tới mọi người hơn là chúng ta chú ý tới tâm trí riêng
của mình, chúng ta có khả năng biết về sai sót của họ,
lí do khổ của họ, nguyên nhân địa ngục của họ. Chúng
ta rất khôn khi có liên quan tới người khác và chúng ta
rất không khôn khi có liên quan tới mình - với bản thể
bên trong riêng của mình.
Chúng ta bị hội tụ vào người khác, và điều này tạo
ra hai điều: bạn không thể giúp được người khác, bạn
chỉ có thể kết án họ. Và kết án của bạn sẽ không thay
đổi họ; đến lượt mình họ sẽ kết án bạn.
Cho nên xã hội trở thành trò chơi của việc kết án
nhau. Không ai thấy lỗi riêng của mình cả; ngược lại,
mọi người đều cố gắng che đậy cho chúng. Không
phải là người đó không muốn thấy chúng, người đó
không muốn chúng bị người khác thấy. Nhưng bạn
chẳng thể đừng được điều đó: người khác nhất định
thấy, bởi vì bất kì cái gì có trong vô thức của bạn cũng
đều cứ trồi lên bề mặt.
Doris, Carol và Maria bị bắt và bị đem ra toà đêm.
Chánh án nhìn Doris và cô ta liếc mắt và phơi cặp
giò ra.
"Cô làm việc gì?" chánh án hỏi.
"Này, thưa ông chánh án," cô ta gù gù, "Em là thợ
may nữ phục và ông cớm dễ sợ này..."
"Ba mươi ngày!" chánh án ngắt lời.
Carol được gọi vào và cô ta cố gắng thút thít. "A,
hỡi ông chánh án tôn kính, tôi là người may nữ phục
đáng kính phải nuôi cả gia đình, bà mẹ què và đứa bé
sắp chết."
"Ba mươi ngày!" ông chánh án the thé.
Maria được gọi vào theo thứ tự và ông chánh án
hỏi, "Cô làm việc gì?"
"Tôi là đĩ," cô ta trả lời.
"Làm ăn thế nào?" ông ta hỏi.
"Tệ hại," Maria nói, "còn làm quái gì được với bọn
thợ may này bâu xung quanh!"
Rất dễ, rất, rất dễ nhìn người khác. Mọi người đều
nhìn thấu mọi người khác; chỉ với bản thân mình
người đó hoàn toàn mù.
Và khi Phật nói: Người đó là thức tỉnh, ông ấy ngụ
ý: người đó đã bắt đầu thay đổi sự hội tụ của người đó,
sự chú ý của người đó, từ người khác sang bản thân
mình. Người đó đang quay vào bên trong. Người đó
đang mưa rào toàn thể tâm thức của mình từ bản thể
riêng của mình. Trong chính việc mưa rào đó người đó
được tắm, người đó trở thành mới, người đó được tái
sinh - Và tìm thấy vui vẻ trong tĩnh lặng của thiền.
Và thiền ở phương Đông không phải là điều được
hiểu ở phương Tây theo từ này. Ở phương Tây, thiền
nghĩa là suy tư: thiền về Thượng đế, thiền về chân lí,
thiền về tình yêu.
Mọi người thỉnh thoảng hỏi tôi, "Thầy bảo chúng
tôi thiền, nhưng về cái gì?"
Nếu bạn thiền về cái gì đó, bạn chẳng thiền chút
nào cả, bởi vì bạn lại tập trung vào cái gì đó bên ngoài
bản thân bạn. Nó có thể là tình yêu, nó có thể là chân
lí, nó có thể là Thượng đế, điều đó không khác biệt gì.
Thiền ở phương Đông có nghĩa khác toàn bộ,
chính cái đối lập với nghĩa của phương Tây. Thiền ở
phương Đông nghĩa là không có đối tượng nào trong
tâm trí, không nội dung nào trong tâm trí; không thiền
về cái gì đó mà vứt bỏ mọi thứ; neti, neti, không cái
này chẳng cái nọ. Thiền làm trống rỗng bản thân bạn
khỏi mọi nội dung. Khi không có ý nghĩ di chuyển bên
trong bạn thì có tĩnh lặng; tĩnh lặng đó là thiền, Thậm
chí không một gợn sóng nảy sinh trong chiếc hồ của
tâm thức bạn; cái hồ im lặng đó, tuyệt đối tĩnh lặng, đó
là thiền.
Và trong thiền đó bạn sẽ biết - bạn sẽ biết chân lí
là gì, bạn sẽ biết tình yêu là gì, bạn sẽ biết Thượng đế
là gì. Không bởi thiền về Thượng đế... Thấy ra điểm
này: làm sao bạn có thể thiền về Thượng đế được? Bạn
không biết gì về Thượng đế cả. Tất cả việc thiền của
bạn sẽ chỉ là tưởng tượng, bài tập của tưởng tượng.
Bạn không biết chân lí - bạn định thiền về cái gì? Ý
niệm nào đó được người khác trao cho bạn, tin tưởng
nào đó, khái niệm nào đó! Nó sẽ chẳng ích gì.
Cách thức của Phật là: trước hết trở thành việc
thiền, và thế rồi trong thiền, chân lí, Thượng đế, tình
yêu, và mọi cái siêu việt sẽ được hiển lộ cho bạn.
Thiền mở con mắt và giải phóng chân.
... và trong dịu ngọt của buông xuôi. Và trong
thiền, buông xuôi xảy ra - buông xuôi với cái toàn thể.
Không với ý niệm nào, không với thần tượng nào, mà
với cái toàn thể. Không buông xuôi theo Krishna hay
Christ, mà với toàn thể sự tồn tại. Không cái gì bị loại
trừ, mọi thứ đều được bao hàm trong nó, từ tảng đá tới
ngôi sao, từ nhành cỏ tới mặt trời. Mọi thứ đều được
bao hàm: toàn thể cơ cấu này, lễ hội cực lạc này điều
chúng ta gọi là vũ trụ.
Sao chúng ta gọi nó là vũ trụ - universe? Bởi vì nó
là một - 'uni' nghĩa là một. Mặc dầu chúng ta cứ cư xử
dường như nó là đa trụ - multiverse; nó không phải
vậy, nó là một vũ trụ - universe. Nó là một đơn vị hữu
cơ; nó là đơn vị động và nó là một cơ cấu nữa. Gặp gỡ
và tan chảy vào trong nó là cực lạc vô cùng, làm tan
biến bản thân bạn vào trong nó. Đó là buông xuôi.
Sông chảy vào đại dương là buông xuôi. Hai người
yêu tan biến vào trong nhau là buông xuôi. Nhưng đây
là những buông xuôi nhỏ, chỉ mang tính chỉ dẫn, ngón
tay chỉ trăng.
Buông xuôi tối thượng là tính cá nhân của bạn đi
vào trong tính vũ trụ. Bạn trở thành một phần của cái
toàn thể.
Được sinh ra là khó...
Phật ngụ ý khó được sinh ra là con người. Phải
mất hàng triệu kiếp sống mới đạt tới trạng thái này.
Được sống là khó...
Và cho dù bạn được sinh ra, cuộc sống là không dễ
dàng. Nó là rất khó, nó là khó khăn, gian nan, cả nghìn
lẻ một vấn đề bao giờ cũng bao quanh bạn và không
giải pháp nào dường như là có thể - các vấn đề không
giải được. Nhưng đây chẳng là gì nếu so với điều thứ
ba:
Nghe về con đường còn khó hơn...
Được sinh ra là khó, bởi vì bạn có thể đã là con
chó hay con hổ hay con voi hay con kiến hay bụi hồng.
Có hàng triệu hình dạng; từ tất cả những bình diện đó
bạn không thể bước vào phật tính được. Sau hàng triệu
và hàng triệu lần sinh bạn mới đi tới bước ngoặt này.
Con người là bước ngoặt: từ con người mọi chiều đều
mở ra. Và điều đó là tuỳ bạn di chuyển, tuỳ bạn chọn
lựa, tuỳ bạn là bất kì cái gì bạn muốn là. Trong toàn
thể sự tồn tại chỉ con người mới là sinh linh tự do. Đó
là niềm vinh quang, món quà lớn lao của Thượng đế.
Được sinh ra là khó, và được sống là khó. Cuộc
sống không dễ dàng. Và cuộc sống của vô ý thức - làm
sao nó có thể dễ dàng được? Bạn tạo ra vấn đề riêng
của mình. Bạn đào hố để bạn tự mình ngã xuống, bạn
tạo ra những bức tường trở thành chỗ giam cầm cho
bạn. Bạn là kẻ thù tồi tệ nhất của mình.
Cuộc sống là khó, nhưng điều khó nhất là nghe về
con đường: tìm ra vị phật, thầy - một Christ, một
Zarathustra, một Lão Tử. Rất khó tìm ra vị phật, và
còn khó hơn nữa là nghe ông ấy và hiểu điều ông ấy
đang nói. Hiểu lầm ông ấy là dễ hơn, không nhận ra
ông ấy là dễ hơn. Bạn có thể tìm ra cả nghìn lẻ một
cách hợp lí hoá và phủ nhận ông ấy. Thực ra bạn sẽ cố
gắng, bởi vì bản ngã của bạn bị lâm nguy. Nếu bạn
thừa nhận ai đó là vị phật, điều đó nghĩa là bạn phải
buông xuôi. Việc thừa nhận vị phật và không buông
xuôi theo ông ấy là không thể được. Việc thừa nhận vị
phật và buông xuôi theo ông ấy là hiện tượng tự nhiên.
Một khi bạn thừa nhận ai đó là người thức tỉnh,
chứng ngộ, không có cách nào thoát cả, bạn phải
buông xuôi. Nếu bạn muốn thoát, thế thì tỉnh táo đi.
Từ chính lúc ban đầu đừng thừa nhận, từ chính lúc ban
đầu tạo ra rào chắn - nhiều nhất có thể được. Bóp méo
mọi thứ, đem vào mọi định kiến của bạn. Đừng nhìn -
nhắm mắt lại. Đừng nghe, trở thành người điếc. Đừng
cảm, và trốn thoát khỏi phật trường, bởi vì ai mà biết
được - thỉnh thoảng điều đó xảy ra bất chấp bạn.
Chuyện xảy ra cho nhiều người ở đây bất chấp bản
thân họ. Họ đã không tới đây để ở mãi mãi. Họ đã tới
vì tò mò, hay người bạn đã tới và họ đi cùng người đó,
hay họ chỉ đi qua từ Kabul tới Goa, hay từ Kathmandu
tới Goa... và họ bị mắc bẫy ở Pune! Thế rồi họ quên
mất Kathmandu và Kabul và Goa và tất cả đã biến
mất, toàn thế giới biến mất. Họ đi vào trong một thực
tại khác toàn bộ. Họ có thể không tới một cách có ý
thức, họ có thể đã cưỡng lại, ngần ngại họ có thể đã
quyết định ở lại đây trong vài ngày. Thấy bao nhiêu
người đang tham dự, họ có thể đã nghĩ chắc phải có
cái gì đó.
Khó mà nhận ra vị phật, nghe ông ấy một cách im
lặng, không bóp méo, không đem tâm trí bạn vào. Khó
mà hiểu được ông ấy, bởi vì ông ấy nói từ độ cao khác.
Ông ấy nói từ những đỉnh của Himalaya, và bạn sống
trong thung lũng tối tăm bên dưới. Khoảng cách là lớn.
Ông ấy nói to để cho ông ấy có thể tới được bạn,
nhưng vào lúc lời của ông ấy tới bạn chúng không còn
như cũ nữa. Vào lúc chúng tới trái tim bạn, nhiều
hương vị của chúng, tính đích thực của chúng, chân lí
của chúng, mất đi rồi. Nhưng mặc dù điều đó là khó nó
vẫn xảy ra - và nếu bạn đủ dũng cảm nó có thể xảy ra
cho bạn.
Chưa bao giờ không có vị phật sống trong thế giới
này, ở đâu đó, ở phần nào đó của thế giới. Bao giờ
cũng có cội nguồn, bao giờ cũng có con thuyền sẵn
sàng đưa bạn sang bờ bên kia. Nếu cái gì đó thiếu đấy
chỉ là sự sẵn sàng về phần bạn.
Nghe về đạo còn khó hơn...
Và vươn lên, đi theo và thức tỉnh là khó.
Và điều khó nhất, Phật nói, là: Cho dù bạn nghe vị
phật vẫn khó để vươn lên những đỉnh cao đó. Đó là nỗ
lực lớn vô cùng, cuộc hành trình gian nan, cuộc hành
hương vĩ đại để vươn lên những tầm cao đó... bởi vì
bạn không thể hiểu đúng được vị phật chừng nào bản
thân bạn chưa trở thành vị phật. Cách duy nhất để hiểu
vị phật là trở thành vị phật.
... và vươn lên, đi theo và thức tỉnh là khó. Vâng,
bạn có thể hiểu về mặt trí tuệ, nhưng hiểu về mặt trí
tuệ sẽ không có ích; nó thậm chí có thể còn trở thành
cản trở. Nó sẽ cho bạn ý niệm trong giấc ngủ của bạn
rằng bạn đã hiểu... bây giờ không có nhu cầu bận tâm
nhiều nữa, bạn đã biết rồi.
Về mặt trí tuệ, nhiều người tới đây đã biết điều
Jesus nói, điều Phật nói. Về mặt trí tuệ họ có thể phân
tích, họ có thể thảo luận, nhưng đó không phải là vấn
đề. Việc biết phải mang tính tồn tại, không trí tuệ. Trí
tuệ có thể được dùng như bậc đá, nhưng nó không phải
là ngôi đền thực, nó chỉ là bậc đá bước lên.
Bạn phải kinh nghiệm điều Phật đang nói; điều
Phật dạy phải trở thành kinh nghiệm riêng của bạn.
Bạn phải trở thành nhân chứng cho kinh nghiệm này.
Chỉ thế thì bạn mới theo được, chỉ thế thì bạn mới
vươn lên, chỉ thế thì bạn mới thức tỉnh.
Vậy mà giáo huấn là đơn giản.
Phật nói: Mặc dầu khó tìm thấy và nhận ra thầy,
khó hiểu, khó nhận ra hiểu biết, khó hiện thực hiểu biết
này trong cuộc sống của bạn, vẫn phải nói rằng giáo
huấn là đơn giản. Khó khăn nảy sinh từ bạn; giáo huấn
là rất đơn giản. Nó phải như vậy: chân lí bao giờ cũng
đơn giản.
Phức tạp là ở trong bạn, và chính vì phức tạp của
bạn mà chân lí đơn giản trở thành rất phức tạp. Bạn
không muốn nghe hay bạn muốn nghe cái gì đó khác.
Bạn tới vì an ủi, không vì cách mạng. Bạn tới để được
vỗ về, bạn tới để được bảo rằng bạn hoàn toàn đúng.
Bạn tới để được chấp nhận và được yêu, không phải để
được biến đổi. Bạn tới để được kính trọng. Bạn cũng
tới để cho bạn có thể cảm thấy rằng bạn là quan trọng,
được cần tới.
Nhu cầu sâu nhất của tâm trí là được cần tới. Và
nếu bạn bắt đầu cảm thấy rằng thầy cần bạn, rằng bạn
là không thể thiếu được, điều đó cho bạn bản ngã lớn,
nhưng bạn đã bỏ lỡ toàn thể vấn đề rồi. Bạn tới với đầy
những ý niệm - và những ý niệm đó cứ gây tiếng ồn
thế trong bạn - tới mức khi Phật đang nói to từ nóc
nhà, thậm chí thế bạn cũng chỉ nghe thấy điều bạn
muốn nghe thôi.
Một người bước vào hiệu kem. "Tôi muốn mua cả
bình kem sô cô la."
"Rất tiếc, chúng tôi hết cả sô cô la rồi," nhân viên
nói.
"Trong trường hợp đó tôi muốn mua một phần tư
bình kem sô cô la."
"Nghe đây, chúng tôi không còn sô cô la nào cả."
"Thôi được, trong trường hợp đó tôi mua kem ốc
hai thìa sô cô la vậy."
"Thưa ông, chúng tôi hết sô cô la rồi, hết cả rồi!"
"Thôi được, tôi đoán tôi sẽ có được một cốc kem
sô cô la vậy."
"Đợi một chút!" nhân viên kêu lên. "Ông có thể
đánh vần chữ hấu trong dưa hấu được không?"
"Chắc chắn!" người này nói.
"Ông có thể đánh vần chữ vàng trong cá vàng
được không?"
"Dễ dàng!" người này nói.
"Được, ông có thể đánh vần chữ đéo trong sô cô la
được không?"
"Đợi một chút, đéo có trong sô cô la."
"Đấy là điều tôi đã cố bảo ông mãi rồi!"
Nhưng sẽ rất khó khi bạn bị ám ảnh bởi cái gì đó
để hiểu một điều đơn giản. Vậy mà giáo huấn là đơn
giản.
Làm điều phải.
Và trong con đường của Phật, điều phải là điều
được làm một cách có ý thức. Đó là định nghĩa của
ông ấy về điều phải. Làm điều phải.
Hãy thuần khiết.
Và bởi thuần khiết ông ấy bao giờ cũng ngụ ý hồn
nhiên: trạng thái của không biết, trạng thái của vận
hành như đứa trẻ. Ông ấy hoàn toàn đồng ý với Christ,
rằng: Chừng nào ông còn chưa giống như đứa trẻ nhỏ
ông sẽ không vào được vương quốc Thượng đế của ta.
Lại là đứa trẻ đi. Thông thái của bạn là chướng
ngại lớn trên con đường - loại bỏ nó đi. Hồn nhiên vào.
Ở cuối con đường là tự do.
Và nếu bạn có thể hoàn thành những điều đơn giản
này - nhận biết, đúng đắn, hồn nhiên - chính là ba mặt
của cùng một hiện tượng có ý thức, có tính thiền, thế
thì: ở cuối con đường là tự do. Thế thì bạn sẽ đạt tới tự
do tuyệt đối. Từ của ông ấy là niết bàn. Niết bàn nghĩa
là tự do tuyệt đối: không phải tự do vì bản ngã, mà tự
do khỏi bản ngã; không phải là tự do vì bạn, mà là tự
do khỏi bản thân bạn. Tự do của Phật tương đương với
Thượng đế. Ông ấy chưa bao giờ dùng từ 'Thượng đế',
bởi vì Thượng đế đã trở thành tù túng cho nhiều người.
Ông ấy dùng từ 'tự do' - moksha hay niết bàn.
Niết bàn nghĩa là việc dừng lại của bản ngã; về
nghĩa đen nó ngụ ý thổi tắt ngọn nến. Cũng như bạn
thổi tắt ngọn nến và nó biến mất và không thể tìm lại
được ở bất kì đâu - nó biến mất trong cái toàn thể - bản
ngã của người chứng ngộ cũng biến mất như vậy. Và
trong việc biến mất đó của bản ngã bạn trở thành vô
giới hạn. Giọt sương rơi vào trong đại dương trở thành
bản thân đại dương; thế thì không có giới hạn cho bạn.
Đó là tự do.
Dầu vậy, kiên nhẫn.
Nhưng điều đó có thể không xảy ra hôm nay. Bạn
có thể không ngay lập tức sẵn sàng để lấy cú nhảy.
Mãi cho tới đó, kiên nhẫn là cần thiết. Phật nói: Vậy
mà giáo huấn là rất đơn giản. Ông ấy đã rút gọn nó
thành vài từ: làm điều phải. Tức là, làm mọi thứ một
cách có ý thức. Hãy thuần khiết... hồn nhiên, như trẻ
thơ... và kiên nhẫn. Đừng vội vàng. Đến cuối, tự do là
điều không tránh khỏi; nó là sản phẩm phụ của nhận
biết toàn bộ.
Nếu ông làm tổn thương hay đau lòng người khác,
Ông đã không học được sự tách rời.
Tách rời cũng là một trong những sản phẩm phụ
của nhận biết. Nếu bạn tỉnh táo bạn không thể làm tổn
thương hay đau lòng người khác được, bởi vì bạn biết
không có người khác; nó tất cả là một thực tại. Làm
tổn thương ai đó khác... cũng dường như bạn đang làm
tổn thương bản thân mình - có thể tay phải của bạn làm
bị thương tay trái bạn - và cái đau sẽ là của bạn. Bạn
có thể làm bị thương ai đó, nhưng chung cuộc bạn đã
làm cho mình bị thương bởi vì không có ai khác cả, nó
tất cả là cái một.
Đừng xúc phạm bằng lời hay bằng hành động.
ăn điều độ.
sống trong tim ông.
tìm tâm thức cao nhất.
Những phát biểu đơn giản, không phải là thượng
đế học rất phức tạp mà ông ấy đã trao cho thế giới.
Ông ấy nói: Đừng xúc phạm bất kì ai, tránh điều đó.
Đừng làm thương tổn bất kì ai. Mọi người thích gây
tổn thương, bởi vì bạn càng có khả năng gây tổn
thương, bạn càng cảm thấy có quyền lực hơn. Nhưng
quyền lực này là của bản ngã, và bản ngã đang trở nên,
ngày một nhiều hơn, một tải trọng nặng cho bạn. Đừng
gây tổn thương. Đừng cảm thấy bản ngã.
Ăn điều độ. Phật bao giờ cũng thiên về điều độ:
tránh thái quá trong mọi thứ. Ông ấy không thiên về
nhịn ăn. Ông ấy nói đừng ăn quá nhiều, và ông ấy nói
đừng ăn quá ít - điều độ thôi. Ở giữa, bao giờ cũng ở
giữa. Được cân bằng, giữ thăng bằng. Sống trong tim
ông. Và trượt từ đầu xuống tim, từ tư duy sang cảm
giác, từ logic sang yêu.
Và tìm tâm thức cao nhất. Và chỉ giữ lại một mục
đích: thường xuyên lưu tâm tới nó, nhớ tới nó - rằng
bạn phải trở thành vị phật. Ít hơn thế sẽ không hoàn
thành cho bạn đâu.
Tìm tâm thức cao nhất. Với các yêu cầu đơn giản
này, một ngày nào đó bạn sẽ nở hoa thành hoa sen một
nghìn cánh. Bạn có tiềm năng là vị phật; nếu bạn
không hoàn thành nó bạn sẽ sống trong khổ, bạn sẽ
chết trong khổ, bạn sẽ được sinh ra lần nữa trong khổ,
và bánh xe sẽ tiếp tục.
Đây là cơ hội ở đây cho bạn nhảy ra khỏi bánh xe.
Đừng bỏ lỡ cơ hội này.
Đủ cho hôm nay.
******************************************************
#2Nhiều người được gọi; ít người được chọn
Câu hỏi thứ nhất:
Thưa Thầy kính yêu,
Tôi bị lẫn lộn về tôi đang đi trên con đường nào.
Đôi khi tôi cảm thấy tràn đầy vui vẻ khi chơi đùa,
ca hát, nhảy múa hay đánh nhau với người khác
và tôi chỉ có thể thấy bản thân mình bằng việc
nhìn vào người khác. Vào lúc khác tôi không thể
đứng cùng bất kì ai hay có quan hệ với tất cả; tôi
chỉ hạnh phúc được hoàn toàn ở với bản thân
mình. Khi tôi ở cùng mọi người, tôi phán xét rằng
tôi đang trốn khỏi sự một mình của mình và khi tôi
ở với bản thân mình, tôi phán xét rằng tôi đang né
tránh tình yêu.
Chẳng lẽ không thể ở trên cả hai con đường được
sao, thay đổi giữa chúng được sao? Làm sao tôi có
thể biết được khi nào tôi dùng con đường này để
trốn khỏi con đường kia?
Prem Indivar, không có mục đích và không có con
đường cho những người như bạn - bạn dở hơi đấy!
Phật đang nói về người lành mạnh. Phật là người rất
hợp lí: ông ấy phân chia, phân loại. Nhưng có loại thứ
ba Phật không nhận biết tới. Người Sufi biết về loại
thứ ba này; họ gọi người đó là mastas - người điên.
Không cần bạn phải thay phiên, bởi vì bằng việc
thay phiên giữa con đường này và con đường khác bạn
bao giờ cũng cảm thấy vấn đề này - phán xét. Khi bạn
trên con đường này bạn sẽ nghĩ rằng bạn bỏ lỡ con
đường kia, và điều này sẽ trở thành nỗi khổ không cần
thiết.
Đơn giản ở bất kì chỗ nào bạn đang ở. Tận hưởng
khoảnh khắc này, mọi khoảnh khắc - khoảnh khắc của
yêu và khoảnh khắc của thiền - và đừng bị bận tâm về
cái khác. Trong một khoảnh khắc đặc biệt, là toàn bộ
trong nó. Chơi, yêu, nhảy múa, ca hát, quên đi việc có
con đường khác. Và trong khi bạn đang cảm thấy im
lặng, tĩnh lặng, một mình, và tận hưởng sự một mình
của mình, quên đi việc có con đường tên là yêu.
Đây không phải là vấn đề về thay phiên một cách
có ý thức giữ hai con đường; bằng không bạn sẽ trở
nên bị phân chia, tinh thần phân liệt, và bị tinh thần
phân liệt là rơi xuống dưới sự lành mạnh bình thường.
Mastas, người điên thực, không rơi xuống dưới sự lành
mạnh - họ đi lên trên nó, họ siêu việt lên trên nó. Họ cả
hai trông là điên; cả hai không còn trong thế giới của lí
trí: một người đã rơi xuống dưới nó, một người đã đi
lên trên nó. Theo một nghĩa nào đó họ giống nhau và
theo một nghĩa nào đó họ tuyệt đối khác nhau.
Indivar, bạn là một masta. Hân hoan trong việc là
bất kì cái gì bạn đang là đi. Và đây là điều tốt nhất có
thể xảy ra cho con người, điều đang xảy ra cho bạn.
Điều tự nhiên cho bạn là đôi khi ở cùng với người
khác và tận hưởng việc bầu bạn với họ, và đôi khi ở
với bản thân bạn và tận hưởng việc bầu bạn riêng của
bạn. Nó cũng giống như ngày và đêm với bạn. Bạn
không cần chọn lựa: ngày được tiếp nối bởi đêm theo
cách riêng của nó. Điều đó cũng giống như mùa hè và
mùa đông. Nó không phải là vấn đề chọn lựa về phần
bạn; nó là cái gì đó tự phát và tự nhiên đang xảy ra cho
bạn. Tôi cực kì hạnh phúc với bạn - đơn giản như bạn
vậy. Vứt phán xét này đi.
Cho nên để tôi nói điều đó một cách rõ ràng. Có ba
khả năng: một, thiền; hai, yêu; ba, người ta chỉ có thể
điên rồ - không có vấn đề chọn lựa, không có vấn đề
chủ định đi trên con đường nào đó, ép buộc bản thân
mình trên con đường nào đó.
Và có nhiều người ở đây cùng trong tình huống
này. Ít nhất hai mươi câu hỏi đã tới tôi, và vấn đề là
một. Nếu không có câu hỏi nào cho bạn và bạn có thể
tận hưởng thiền mà không hề lo nghĩ về yêu, thế thì đó
là con đường của bạn. Nếu bạn có thể tận hưởng yêu
mà không hề bị lôi kéo bởi thiền, bị phân tán bởi thiền,
đó là con đường của bạn. Nếu bạn thấy bản thân mình
trong sự tổng hợp sâu sắc, rằng cả hai đang xảy ra, thế
thì đó là con đường của bạn.
Toàn thể nỗ lực của tôi ở đây là để giúp bạn là cái
ta tự nhiên của bạn. Bất kì áp đặt nào cũng đều là bạo
hành. Indivar, hân hoan trong việc là bất kì cái gì bạn
đang là đi. Không có mục đích cho bạn, không có con
đường cho bạn. Hân hoan là mục đích, hân hoan là con
đường.
Thực ra, chúng ta tất cả đều ở nơi chúng ta đáng ở,
chúng ta đã ở đó rồi. Con đường được cần tới để đánh
thức chúng ta. Đừng bị rối loạn bởi từ 'con đường', bởi
vì nó cho bạn ý niệm rằng bạn phải đi đâu đó, đạt tới
chỗ nào đó; đấy chỉ là vì ngôn ngữ thôi. Chúng ta phải
dùng từ, và mọi từ đều mang nặng với các nghĩa trần
tục của chúng ta.
Do đó chư phật bao giờ cũng thấy khó giao cảm
với bạn. Bạn không thể hiểu được im lặng, bởi vì bạn
không thể im lặng được. Đó là điều tốt nhất, nếu bạn
có thể ngồi im lặng cùng vị phật cho dù một phút
thôi... và tất cả đều được truyền đạt.
Ở đây, ở cùng tôi, thông điệp thực của tôi là giữa
các lời - chỗ dừng, khoảng hở - không trong lời. Đọc
tôi giữa các dòng, không trong dòng, và bạn sẽ có khả
năng hiểu tôi nhiều.
Có một câu chuyện hay:
Một nhà huyền môn nhận được một bức thư. Bức
thư tới từ nhà huyền môn khác, nhưng bức thư từ ông
ấy tuyệt đối trống rỗng, không có gì được viết lên nó
cả. Đã có vấn đề: người đã viết bức thư này là già hơn
về tuổi tác, nhưng người nhận bức thư này lại già hơn
trong chứng ngộ; ông ấy đã trở nên chứng ngộ trước.
Cho nên làm sao bắt đầu bức thư?
Ở Ấn Độ, nếu bạn viết thư cho người già hơn bạn
phải rất kính trọng. Cho nên làm sao bắt đầu? Làm sao
đề tên người này? Người này trẻ hơn, về mặt thể chất,
cho nên bạn không thể bầy tỏ kính trọng được, bạn
phải bầy tỏ tình yêu. Nhưng người đó lại già hơn khi
có liên quan tới chứng ngộ, cho nên bạn không thể nói
với người đó cứ dường như bạn đang nói với thanh
niên, người trẻ hơn bạn; bạn phải kính trọng.
Nhà huyền môn này đâm ra phân vân. Và nếu bạn
không thể bắt đầu được bức thư, làm sao bạn có thể
viết ra nó được? Thế là ông ấy gửi tờ giấy trống rỗng.
Nhà huyền môn kia nhận nó. Ông ấy đọc nó, hân
hoan với nó. Ông ấy sung sướng tới mức một đệ tử
đang ngồi cạnh đó hỏi, "Thầy trông sung sướng thế -
tôi cũng có thể đọc bức thư được không?"
Bức thư được chuyển cho đệ tử, thế là anh ta đọc
nó và hân hoan trong nó.
Thế rồi người thứ ba đang hiện diện trở nên quan
tâm - dường như có cái gì đó rất huyền bí! Nhưng
người đó không phải là đệ tử; chỉ vì tò mò mà người
đó đã tới để gặp người này. Người đó nói, "Tôi cũng
có thể xem được chứ?"
Cả thầy và đệ tử đều ngần ngại. Họ nhìn nhau - nói
gì với người đó đây? Người đó càng trở nên mê mẩn
hơn. Người đó nói, "Có cái gì đó rất huyền bí trong nó
sao?"
Họ nói, "Thực sự không có gì trong nó cả! Đó là
bức thư rất hiếm hoi, anh sẽ không hiểu được ngôn
ngữ của nó đâu. Đó là lí do tại sao chúng tôi ngần ngại.
Chúng tôi không muốn xúc phạm anh, nhưng nếu anh
cứ khăng khăng thì anh có thể xem."
Người đó nhìn bên này bên kia - không có gì cả.
Người đó trả lại bức thư mà chẳng nói gì và chạy ra
ngoài - cả hai người này dường như điên rồi!
Chư phật không thể dùng im lặng với bạn được,
bởi vì thế thì bạn sẽ không hiểu; bạn sẽ trốn ngay. Họ
phải dùng lời - lời với nghĩa của bạn, cho nên họ phải
rất, rất tỉnh táo trong việc chọn lời của họ, nhưng cho
dù thế thì những lời đó vẫn không thích hợp.
Từ 'con đường' không thích hợp tới mức Lão Tử
bao giờ cũng dùng "đường vô lộ." Bây giờ nghĩa của
câu nói "đường vô lộ" là gì? Nó là tờ giấy trống rỗng.
"Cổng vô môn," "nỗ lực vô nỗ lực," "hành động trong
bất hành " - vô vi: tất cả những mâu thuẫn này cùng
nhau, ngược đời cùng nhau, chỉ là để lay và gây
choáng cho bạn ra khỏi giấc ngủ của bạn. Bằng không,
không có đường và không có đâu mà đi cả. Bạn đã ở
đó rồi - bạn bao giờ cũng đã ở đó rồi. Mọi điều được
cần tới là: Thức dậy!
Và, Indivar, tôi có thể thấy bạn đang ra khỏi giấc
mơ của bạn, giấc ngủ của bạn. Tôi có thể thấy bạn trở
mình, lật người trên giường! Buổi sáng không còn rất
xa xôi nữa.
Xin đừng lo nghĩ về con đường, bởi vì lo nghĩ đó
có thể giữ bạn ngủ. Đừng phán xét bất kì khoảnh khắc
nào. Đừng so sánh bất kì khoảnh khắc nào với bất kì
khoảnh khắc nào khác, bởi vì mọi so sánh đều là quá
trình suy nghĩ và mọi quá trình suy nghĩ đều giữ bạn bị
gắn với tâm trí. Thảnh thơi đi. Bất kì cái gì xảy ra, cho
phép nó xảy ra. Ở trong buông bỏ.
Và tôi đang nói những điều này cho bạn bởi vì đó
là điều dễ nhất cho bạn; ở trong buông bỏ đi. Thượng
đế sẽ đi tới bạn, bạn không đi tìm thượng đế. Mục đích
sẽ xảy ra cho bạn. Và nó có thể xảy ra ở bất kì đâu;
không có đường dẫn tới nó. Thực ra nó là thực tại
riêng của chúng ta; chúng ta đơn giản phải tỉnh táo để
thấy.
Ở Nhật Bản có một câu chuyện hay về một vị phật
thực sự vĩ đại, Hotei. Ở Nhật Bản ông ấy còn có tên là
Phật Cười, bởi vì khoảnh khắc ông ấy trở nên chứng
ngộ ông ấy bắt đầu cười.
Mọi người hỏi ông ấy, "Sao ông cười?"
Ông ấy nói, "Bởi vì tôi đã trở nên chứng ngộ!"
"Nhưng," họ nói, "chúng tôi không thể nào thấy
quan hệ gì giữa chứng ngộ và tiếng cười cả. Phỏng có
ích gì mà cười?"
Hotei nói, "Tôi cười bởi vì tôi tìm kiếm cái gì đó
đã có trong tôi rồi. Tôi đã tìm kiếm người tìm kiếm;
không thể nào tìm được nó. Ông có thể tìm người tìm
kiếm ở đâu đây? Làm sao ông có thể biết được người
biết? Điều đó giống như con chó đuổi đuôi của nó hay
như ông đi bắt cái bóng của ông; ông không thể bắt
được nó. Điều đó kì khôi thế, toàn thể nỗ lực này là
ngớ ngẩn thế! Đó là lí do tại sao tôi lại cười: Tôi bao
giờ cũng là vị phật rồi! Bây giờ điều có vẻ rất kì lạ là
trong hàng triệu kiếp tôi vẫn còn vô ý thức. Điều đó
dường như không thể nào tin được làm sao tôi đã bỏ lỡ
bản thân mình. Bây giờ tôi đã biết, tiếng cười lớn nảy
sinh trong tôi."
Và tương truyền ông ấy tiếp tục cười cho tới chết;
đó là thông điệp duy nhất của ông ấy cho thế giới. Ông
ấy phải đã là một người như Indivar - dở hơi, lẩm cẩm!
#2Câu hỏi thứ hai:
Thưa Thầy kính yêu,
Liệu ai đó không cởi mở có thể thức dậy được
không?
Deva Ashoka, không thể nào thức dậy được nếu
bạn không cởi mở. Cởi mở với sự tồn tại là điều thức
dậy tất cả là gì: cởi mở với mặt trời, với mặt trăng, với
mưa, với gió, cởi mở với toàn thể lễ hội này của cây,
của đá, đất và sao, của con vật, chim chóc, mọi người.
Sự tồn tại là lễ hội, liên hoan liên tục, ngày hội hoá
trang. Nếu bạn không cởi mở, nếu bạn đóng, nếu bạn
không có cửa sổ và cửa ra vào nào mở tới sự tồn tại,
làm sao bạn có thể thức dậy được? Thức dậy và cởi
mở là đồng nghĩa.
Mọi người vẫn còn đóng trong tâm trí họ. Họ chưa
bao giờ đi ra khỏi tâm trí họ và họ chưa bao giờ cho
phép thực tại thấm vào trái tim họ. Một bức Trường
Thành Trung Quốc trong suốt phân chia họ với thế
giới. Và thế giới là thiêng liêng, sự tồn tại là Thượng
đế. Thế tại sao mọi người vẫn còn đóng? - họ sợ, sợ
cởi mở, bởi vì khi bạn cởi mở bạn bất an, không được
bảo vệ. Khi bạn cởi mở bạn mong manh. Khi bạn cởi
mở bạn không biết cái gì sẽ xảy ra, mọi thứ đều là sự
ngạc nhiên. Bạn đang đi vào trong cái không biết; từng
khoảnh khắc đều đem cái không biết tới cửa nhà bạn.
Tâm trí đóng sợ cái không biết; tâm trí đóng quan
tâm tới cái đã biết. Tại sao? - bởi vì với cái đã biết là
dễ quản lí hơn. Tâm trí biết mọi thứ về nó, nó láu cá và
hiệu quả về điều đó. Nhưng tâm trí đóng thực sự ở
dưới bình thường; nó còn chưa là con người. Nó không
thể thông minh được.
Thông minh cần thách thức thường xuyên, đương
đầu với thực tại, bởi vì chỉ qua việc đương đầu mà
thông minh của bạn được mài sắc; tiềm năng của bạn
trở thành thực tại.
Deva Ashoka, không thể vẫn còn đóng và thức dậy
được. Bạn đang thử điều đó, tôi biết! Nhưng điều đó là
không thể được theo chính bản chất của mọi sự. Tôi
cảm thấy từ bi sâu sắc cho bạn. Tôi muốn giúp bạn,
nhưng bạn không cho phép tôi. Bạn không cho phép
tôi cầm tay bạn trong tay tôi. Bạn không cho phép
năng lượng của tôi chạm vào trái tim bạn, làm nó cảm
động, đem điệu vũ tới cho nó. Bạn vẫn còn tỉnh táo -
bạn vẫn còn tỉnh táo chỉ để canh gác cho bản thân bạn.
Bạn sợ, sợ rơi vào tình yêu sâu sắc, bởi vì khoảnh khắc
bạn rơi vào trong tình yêu sâu sắc bản ngã biến mất.
Nó là một loại cái chết, và người ta không thể nào
được bảo đảm điều gì sẽ xảy ra sau đó.
Phục sinh bao giờ cũng giống như điều huyền
thoại, mặc dầu nó xảy ra, đó là điều không tránh khỏi.
Nếu bạn sẵn sàng chết, phục sinh xảy ra.
Lời cuối cùng của Jesus là, "Xin tha thứ cho những
người này, bởi vì họ không biết điều họ đang làm. Và
con không yêu cầu cái gì từ ngài cả: để ý chí của ngài
được thực hiện, để vương quốc của ngài tới."
Đây là buông xuôi! Đây là cởi mở toàn bộ với
Thượng đế: không phàn nàn, không bực tức, thậm chí
không chống lại những người đang giết ông ấy. Tin
cậy là toàn bộ; chính bởi vì sự kiện này mà phục sinh
xảy ra. Điều có thể không phải là sự kiện lịch sử rằng
Jesus đã sống lại sau ba ngày, nhưng nó là sự kiện siêu
hình. Và sự kiện siêu hình là thực nhiều hơn là sự kiện
lịch sử; nó chỉ ra cái gì đó của chiều sâu của con
người. Nếu bạn có thể chết đi như một bản ngã, bạn sẽ
được phục sinh như vị phật, như một christ.
Thoát ra khỏi tâm trí bạn đi, Ashoka! Nhưng
chúng ta cứ đi theo vòng tròn...
Người mẹ đưa đứa con trai của mình tới nhà tâm
thần và phàn nàn rằng nó bao giờ cũng nghĩ về dục.
Bác sĩ vẽ một hình vuông lên trên mảnh giấy, nhìn
đứa bé và hỏi, "Con trai, cái gì xảy tới trong đầu con
khi con nhìn hình vẽ này?"
Đứa bé trả lời, "Trông như cái cửa sổ ạ."
Bác sĩ nói, "Con nghĩ điều gì đang diễn ra đằng
sau cửa sổ đó?"
"Mọi người ở sau cửa sổ đó," đứa bé đáp. "Họ ôm,
hun và nàm tình."
Bác sĩ vẽ ra một vòng tròn và hỏi, "Cái gì tới trong
đầu con khi con thấy cái này?"
Đứa bé nói, "Đó là lỗ vòm cửa sổ."
"Và con nghĩ điều gì đang diễn ra đằng sau ô cửa
sổ đó?" bác sĩ hỏi.
"A," đứa bé nói, "Có những người đằng sau lỗ
vòm cửa sổ đó không mặc quần áo, uống rượu, làm
tình và khiêu vũ."
Bác sĩ nói, "Này con, con ra khỏi phòng được
không? Bác muốn thảo luận việc với mẹ con."
Đứa trẻ đứng dậy đi ra và khi nó đi tới cửa nó quay
lại và nói, "Này, bác sĩ, cháu có thể lấy những bức
tranh bẩn thỉu bác vẽ được không?"
Tâm trí đóng cứ diễn giải cuộc sống, sự tồn tại,
theo định kiến riêng và quan niệm riêng của người ta,
được thu nhận một cách vô ý thức, và do đó vẫn còn
không sẵn có cho thực tại. Cho dù bạn bắt gặp vị phật,
cho dù bạn gặp Christ hay Krishna hay Khổng tử, bạn
vẫn bỏ lỡ. Họ có thể nói với bạn về điều tối thượng,
nhưng bạn sẽ chỉ nghe về điều trần tục. Họ sẽ nói về
điều thiêng liêng, nhưng bạn sẽ không nghe điều họ
đang nói đâu; bạn sẽ nghe theo tâm trí đóng của mình.
Nó có những ý niệm cố định.
Hôm đó là ngày các y tá nghỉ, và bác sĩ ló đầu vào
phòng đợi để hỏi, "Ai là người tiếp?"
Một anh chàng đứng dậy và nói, "Tôi, thưa bác sĩ."
"Anh có chuyện gì?" bác sĩ hỏi. Thế là anh chàng
này tô tô nói với bác sĩ. Bác sĩ túm lấy cánh tay anh ta,
kéo anh ta vào văn phòng mình và bảo anh ta: "Đừng
bao giờ làm điều đó lần nữa nhé, đặc biệt không làm ở
chỗ đông người. Lần sau nói rằng mũi anh hay mắt anh
làm phiền anh."
Vài tuần trôi qua và anh chàng này quay lại. Y tá
lại nghỉ, và khi bác sĩ hỏi, "Ai là người tiếp?" anh
chàng này nói, "Tôi đây."
Bác sĩ hỏi, "Anh có chuyện gì?"
Anh chàng này đáp, "Tai tôi gây chuyện cho tôi."
"Có gì sai với nó?"
"Tôi không thể đái được từ nó!"
Ngay cả lời khuyên lớn lao cũng vô dụng - bạn sẽ
đi tới kết luận riêng của mình lặp đi lặp lại.
Ashoka, đó là cách bạn đã bỏ lỡ nhiều điều có thể
ở đây. Cởi mở đi - bạn không có gì để mất cả. Cởi mở
đi! Nhìn xem: bạn có thể mất gì nếu bạn cởi mở? Bạn
đã có gì nào? Nhưng mọi người cứ canh giữ cái trống
rỗng của họ, cái không của họ, bình bát xin ăn của họ,
sợ sệt nhiều thế.
Ở Ấn Độ chúng ta có câu chuyện rằng có lần một
người trần trụi được hỏi, "Chúng tôi chưa bao giờ thấy
ông tắm cả."
Ông ta nói, "Tôi chưa bao giờ tắm, bởi vì nếu ông
để quần áo trên bờ sông và ông đi tắm trong sông, ai
đó có thể lấy cắp chúng."
Những người đã hỏi nói, "Nhưng ông ở trần truồng
cơ mà! Sao ông phải lo nghĩ về quần áo?"
Nhưng người này thậm chí không sẵn sàng thấy
rằng mình ở trần truồng. Người đó muốn tin rằng
người đó có áo quần đẹp. Ai muốn thấy sự trần trụi
của mình?
Và, Ashoka, bạn trống rỗng đấy, bạn trần trụi đấy.
Không có gì để mất cả. Thảnh thơi và cởi mở đi. Và
bạn có tất cả để thu lấy, bạn có mọi thứ - toàn thể vũ
trụ để thu lấy. Chỉ bằng việc thức dậy người ta trở
thành người chủ, bằng không người ta vẫn còn là nô lệ.
#2Câu hỏi thứ ba:
Thưa Thầy kính yêu,
Để chúng tôi xem thầy thoát ra khỏi cái một này,
thầy tinh quái thủ đoạn lắm! Thầy thường xuyên
bảo chúng tôi rằng tính chất sannyas không có
nghĩa là từ bỏ thế giới mà từ bỏ bản ngã thôi. Vậy
mà khi chúng tôi quyết định ở cùng thầy chúng tôi
chấm dứt bằng việc từ bỏ gia đình, công việc, tiền
bạc và của cải; không gian riêng của chúng tôi,
đôi khi của gia đình và bạn bè chúng tôi nữa.
Chúng tôi không đưa ra từ bỏ chính thức nào,
nhưng đằng nào điều đó vẫn xảy ra, và chúng tôi
nở hoa và hoàn toàn hạnh phúc. Thầy tinh quái
thế, điều đó thật đẹp!
Tính chất sannyas có thể có hai khả năng. Một là
từ bỏ chính thức. Điều đó nghĩa là kìm nén, điều đó
nghĩa là trốn thoát. Điều đó là xấu. Điều đó đã là cách
thức trong quá khứ. Nó là phủ định cuộc sống; nó là
phản cuộc sống. Nó hứa hẹn cho bạn mọi vui vẻ trên
cõi trời. Thực ra, chính do tham mà bạn từ bỏ thế giới
này. Từ bỏ chính thức là rởm; nó là đồ giả. Nó không
phải là đoá hoa thực, nó không có hương thơm. Ngược
lại, sâu bên dưới nó là tham lớn lao: tham về cuộc sống
khác, về cuộc sống vĩnh hằng, về vui vẻ của cõi trời.
Nhìn vào kinh sách của thế giới và bạn sẽ ngạc
nhiên. Cách họ mô tả cõi trời hay thiên đường chẳng là
gì ngoài giấc mơ của tâm trí rất tham, nhục dục, vật
chất. Nó chẳng liên quan gì tới tôn giáo chút nào.
Trong ý niệm của người Mô ha mét giáo về cõi
trời có đàn bà đẹp; họ bao giờ cũng vẫn cứ còn trẻ mãi.
Và không chỉ đàn bà đẹp đâu. Bởi vì trong các nước
Mô ha mét giáo đồng dục đã từng là một truyền thống
lâu, lâu dài, nam thanh niên cũng sẵn có, con trai đẹp.
Và những dòng sông rượu - bạn không cần tới tiệm
rượu!... những con sông rượu. Uống, bơi, chìm sâu
trong rượu! Và cây bằng vàng, và hoa bằng kim cương
và ngọc lục bảo. Đây là loại mơ gì vậy? Đây là mơ của
ai? Tham được phóng chiếu. Nó không phải là từ bỏ.
Nó có vẻ giống từ bỏ nhưng nó không phải là từ bỏ.
Và cũng điều đó là trường hợp cõi trời của người
Hindu và thiên đường của người Ki tô giáo. Thực ra,
từ Ki tô giáo 'thiên đường - paradise' bắt nguồn từ
firdaus của tiếng A rập. Firdaus nghĩa là khu vườn có
tường của hoan lạc, cũng như các hoàng đế và các vị
vua lớn thường có khu vườn thượng uyển có tường
bao để hoan lạc. Để thu được nó bạn phải từ bỏ thế
giới này.
Nếu bạn nhìn vào nó trong ánh sáng đúng, thế thì
cái gọi là phàm nhân cũng không trần tục thế, không
vật chất thế như cái gọi là người thế giới khác. Chính
bởi vì điều này mà đất nước này, vốn tự nghĩ mình rất
tôn giáo, là không tôn giáo chút nào; nó rất vật chất:
trên bề mặt là tôn giáo, nhưng sâu bên dưới là ham
muốn hoan lạc.
Loại thứ hai của tính chất sannyas - loại tôi đang
đưa vào trong thế giới này - không phải là loại từ bỏ
chính thức. Thực ra, tôi chưa bao giờ dùng từ 'từ bỏ'
chút nào. Tôi nói: tính chất sannyas là hân hoan. Hân
hoan trong cuộc sống, trong tình yêu, trong thiền,
trong những cái đẹp của thế giới này, trong cực lạc của
sự tồn tại - hân hoan trong mọi thứ! Biến đổi cái trần
tục thành cái thiêng liêng đi. Biến bờ này thành bờ kia
đi. Biến trái đất thành thiên đường.
Và thế rồi một cách gián tiếp, từ bỏ nào đó bắt đầu
xảy ra. Nhưng điều đó xảy ra, bạn không làm nó. Nó
không phải là việc làm, nó là việc xảy ra. Bạn bắt đầu
từ bỏ cái ngu xuẩn của mình; bạn bắt đầu từ bỏ rác
rưởi. Bạn bắt đầu từ bỏ những quan hệ vô nghĩa. Bạn
bắt đầu từ bỏ những việc không đáp ứng cho bản thể
bạn. Bạn bắt đầu từ bỏ những chỗ mà trưởng thành là
không thể được. Nhưng tôi không gọi nó là từ bỏ, tôi
gọi nó là hiểu biết, nhận biết.
Nếu bạn đang cầm đá trong tay cứ tưởng rằng
chúng là kim cương, tôi sẽ không bảo bạn từ bỏ những
hòn đá đó đâu. Tôi sẽ đơn giản nói, "Tỉnh táo và có cái
nhìn khác đi!" Nếu bạn tự thấy rằng chúng không phải
là kim cương, có nhu cầu nào từ bỏ nó không? Chúng
sẽ rơi khỏi tay bạn theo cách riêng của chúng. Thực ra,
nếu bạn vẫn muốn mang chúng bạn sẽ phải làm nỗ lực
lớn, bạn sẽ phải mang ý chí lớn, để vẫn mang chúng.
Nhưng bạn không thể mang chúng lâu được; một khi
bạn đã thấy rằng chúng vô dụng, vô nghĩa, bạn nhất
định vứt chúng đi.
Và một khi tay bạn trống rỗng bạn có thể tìm
những kho báu thực. Và kho báu thực không có trong
tương lai - như chúng vẫn thường có trong khái niệm
cổ về tính chất sannyas. Kho báu thực là ngay bây giờ,
ở đây.
Một chàng thanh niên rất đẹp trai vừa mới được
thuê làm trong một công ti kế toán lớn. Được một chốc
anh thanh niên tới ông Diamond, trưởng phòng mình,
và nói, "Tôi rất tiếc phải nói với ông, nhưng một số bà
trẻ trong văn phòng này cám dỗ tôi nhiều lắm."
"Vững vàng lên, anh thanh niên," đó là lời đáp, "và
anh sẽ được thưởng trên cõi trời đấy."
Vài tuần sau chàng trai lại phàn nàn. "Thưa ông
Diamond," anh ta nói, "tôi không biết phải làm gì! Lần
này đó là một cô tóc hoe đỏ đẹp theo đuổi tôi."
"Cưỡng lại đi, con ta, và anh sẽ được phần thưởng
trên cõi trời đấy."
"Tôi không biết tôi có thể cưỡng lại được bao lâu
nữa," chàng thanh niên nói. "Nhân tiện, thưa ông
Diamond, ông nghĩ phần thưởng mà tôi sẽ được trên
cõi trời là gì?"
"Một bó cỏ khô thôi, chàng ngốc ạ!"
Vâng, đó là điều bạn sẽ được đấy! Nếu việc từ bỏ
của bạn là để được cái gì đó trong thế giới kia, bạn sẽ
đơn giản được bó cỏ khô thôi, chàng ngốc ạ! Bởi vì nó
là tham được phóng chiếu, và tham sẽ vẫn còn không
được thoả mãn. Cái gọi là người tôn giáo tham điều
vĩnh hằng - và bạn trở nên mang tính tôn giáo chỉ khi
tham biến mất toàn bộ.
Cõi trời không phải là đâu đó khác: nó là cách
sống. Địa ngục cũng vậy - phong cách sống. Địa ngục
là sống vô ý thức; cõi trời là sống có ý thức. Địa ngục
là sáng tạo riêng của bạn, cõi trời cũng vậy. Nếu bạn
cứ sống một cách vô ý thức, qua ham muốn vô ý thức
của bạn, qua bản năng, động cơ - những cái mà bạn
không là người chủ, chỉ là nạn nhân - thế thì bạn tạo ra
địa ngục quanh bản thân mình đấy. Nhưng nếu bạn bắt
đầu sống một cuộc sống có ý thức, cuộc sống của việc
đem tới ngày một nhiều ánh sáng vào góc sâu, tối của
bản thể bạn, nếu bạn bắt đầu sống đầy ánh sáng, cuộc
sống của bạn là cực lạc từ khoảnh khắc sang khoảnh
khắc.
Không cần cây phải bằng vàng. Chúng hoàn toàn
đẹp như chúng đang đấy. Thực ra, cây bằng vàng sẽ là
cây chết. Và hoa hồng không cần bằng kim cương; hoa
hồng bằng kim cương sẽ không là hoa hồng, chúng sẽ
không sống. Và chỉ người ngu mới cần sông rượu.
Người sống một cách có ý thức thì say sưa thế với vui
vẻ cực kì của việc thở, với vui vẻ cực kì của hiện hữu,
với vui vẻ của chim hót và mặt trời mọc buổi sáng...
người đó say sưa với sự tồn tại tới mức người đó
không cần ma tuý khác - rượu cồn, LSD, mescaline
hay marijuana. Người đó chẳng cần gì! Người đó bao
giờ cũng trong cực lạc phiêu diêu, và cực lạc đó là cái
gì đó toát ra từ bản thể bên trong của người đó; nó là
hương thơm riêng của người đó. Không chỉ người đó
say sưa đâu - bất kì ai tới với người đó, ở với người
đó, đều trở nên say sưa với bản thể người đó.
Tôi là người say đấy! Nếu bạn cho phép bản thân
bạn được ở đây và có sẵn cho tôi, bạn nhất định trở
thành người say.
Đó là điều đã xảy ra. Tôi không quanh co, tôi đơn
giản là người say! Và tôi không cố gắng theo cách
quanh co để làm cho bạn từ bỏ thế giới này; tôi đơn
giản cố gắng làm cho bạn nhận biết về thế giới thực.
Khi cái thực được biết cái giả biến mất. Biết cái thật là
thật là đủ: cái giả biến mất - nó trở thành không thực
chất.
Nếu bạn ở đây cùng tôi, không phải là bạn phải từ
bỏ gia đình mình đâu; trái lại, bạn ở đây cùng tôi bởi vì
bạn đã tìm thấy gia đình bạn ở đây. Nếu bạn đã vứt bỏ
công việc của bạn, đấy không phải là vì bản thể bạn ở
đây đâu; ngược lại, bạn đã tìm thấy tính sáng tạo của
bạn ở đây, bạn đã tìm thấy vui vẻ của bạn ở đây. Bạn
đã tìm thấy công việc thực, đích thực của bạn; do đó
cái giả đã biến mất. Nó là quá trình biến đổi.
Nhưng nhấn mạnh của tôi là đừng bao giờ từ bỏ
bất kì cái gì; nhấn mạnh của tôi là vào hân hoan ngày
một nhiều hơn. Và hân hoan của bạn nhất định thay
đổi hình mẫu cuộc sống của bạn. Bạn không thể vẫn
còn như cũ khi bạn thiền, khi bạn trở nên nhận biết.
Làm sao bạn có thể vẫn còn như cũ được? Làm sao
bạn có thể cứ làm cùng những điều ngu xuẩn được?
Nó là có thể khi bạn vô ý thức; nó là không thể khi bạn
trở nên ý thức.
Một lính vừa trở về từ nước ngoài sau ba năm, tới
một trại đóng ở gần thị trấn quê nhà anh ta. Anh ta tự
nhiên rất lo âu khi gặp vợ mình, nhưng càng cố anh ta
càng không thể cãi để xin hơn hai giờ đi phép của
mình được.
Sau sáu giờ vắng mặt anh ta quay lại trại. "Anh
làm cái chết tiệt gì mà vắng mặt hơn bốn giờ phép
thế?" viên trung sĩ sủa lên.
"Thế này, ông thấy đấy," người lính nói, "khi tôi
về nhà thấy vợ đang trong bồn tắm, và tôi phải mất
bốn giờ để phơi khô bộ quân phục!"
Khi bạn sống cuộc sống vô ý thức, bạn sống theo
cách khác.
Khi Tom, người điều hành cơ quan bảo hiểm trẻ
mới lên, xuất hiện tại nhà của Ed bạn mình vào những
giờ sáng sớm, hỏi xin tá túc qua đêm, Ed lo lắng bởi
dáng vẻ thất thần của anh bạn mình. "Có chuyện gì
vậy, Tom? Anh và vợ anh đánh nhau sao?"
"Ấy a, khi tới về nhà đêm qua tớ đã thực sự bị
đánh, gần chết, cho nên khi cô ấy đòi tớ năm mươi đô
la cho bộ quần áo mới..."
"Thế ư?"
"Thế đấy, tớ đoán tớ phải đã nửa ngủ hay cái gì đó,
bởi vì tớ đã nói, 'Thôi được, nhưng chúng ta kết thúc
việc ra lệnh này trước hết đã.'"
Tất cả các bạn là người Anh, hay cái gì? Bạn
không thể hiểu được chuyện cười đơn giản thế sao?
Sống cuộc sống vô ý thức bạn thậm chí nhất định bỏ lỡ
chuyện đùa rồi!
Khoảnh khắc bạn đổi từ tâm trí sang thiền toàn thể
cuộc sống của bạn sẽ bị ảnh hưởng. Điều đó là tự
nhiên. Nếu nó không bị ảnh hưởng, điều đó sẽ là cái gì
đó phi tự nhiên. Mối quan hệ của bạn nhất định thay
đổi.
Chẳng hạn, một người có thể tin rằng anh ta yêu
vợ mình. Khoảnh khắc anh ta bắt đầu thiền điều đó sẽ
trở nên rõ ràng và minh bạch liệu anh ta có yêu cô ấy
hay không. Anh ta có thể không bao giờ đã yêu cô ấy.
Anh ta có thể đơn giản dùng cô ấy như một đối tượng
dục, hay anh ta có thể dùng cô ấy như cái thay thế cho
người mẹ. Anh ta có thể dùng cô ấy bởi vì anh ta
không thể ở một mình được, nhưng anh ta có thể
không bao giờ đã yêu cô ấy. Anh ta có thể phụ thuộc
vào cô ấy; cô ấy có thể có tiện dụng lớn.
Nhưng dùng người khác là vô đạo đức, xấu xí - và
giả vờ rằng bạn yêu... Và tôi không nói rằng bạn đang
làm điều đó có ý thức; nó có thể chỉ là điều vô ý thức
thôi. Bạn thậm chí không thể nhận biết được rằng bạn
không yêu cô ấy; Bạn cũng có thể nghĩ rằng bạn yêu
cô ấy. Bạn có thể không lừa dối cô ấy một cách có chủ
ý; bạn có thể lừa cô ấy và bạn có thể tự lừa mình nữa.
Nhưng nếu bạn bắt đầu thiền, mọi sự sẽ trở thành
rõ ràng. Bạn sẽ có nhiều ánh sáng hơn trong cuộc sống
của bạn; cũng như khi bạn mang cây nến vào phòng tối
bạn bắt đầu thấy rõ ràng. Trong bóng tối cửa sổ trông
như cửa ra vào; bây giờ nó không còn là cửa ra vào
nữa. Hay bức tranh, khung tranh, trong bóng tối và
nhập nhoạng trông giống như cửa sổ; nó không còn là
cửa sổ. Bởi vì bạn thấy mọi sự rõ ràng bạn không thể
hành xử theo cách cũ được. Bạn sẽ phải thay đổi; bạn
sẽ phải thu xếp lại toàn thể cuộc sống của bạn.
Đó là điều xảy ra cho mọi sannyasin. Nếu tình yêu
của bạn là thực, nó sẽ sâu sắc thêm; nếu nó là giả, nó
sẽ biến mất. Nếu bạn kính trọng bố mẹ bạn chỉ là hình
thức, nó sẽ biến mất; nếu kính trọng của bạn với bố mẹ
bạn là thực tại, nó sẽ trở nên ngày một sâu lắng hơn.
Công việc bạn làm - nếu nó là sự hoàn thành của trái
tim bạn, bạn sẽ đi sâu hơn vào trong nó.
Hoạ sĩ sẽ trở thành hoạ sĩ vĩ đại hơn, nhạc sĩ sẽ có
viễn kiến mới, nhà thơ sẽ có những sáng suốt mới -
nếu nhà thơ thực sự là nhà thơ, chỉ thế thôi. Nếu nhà
thơ chỉ chơi với việc sắp từ và viết thơ chỉ để trở nên
nổi tiếng và thơ không phải là chuyện tình của người
đó, người đó không sẵn sàng hi sinh cuộc sống của
mình cho nó, thế thì thơ ca sẽ biến mất. Nhưng nó
không phải là từ bỏ cái gì cả. Bạn không từ bỏ cái gì
cả! Vài thứ biến mất; vài thứ khác sẽ xuất hiện.
Một điều là chắc chắn: sau thiền, sau tính chất
sannyas của tôi, bất kì điều gì xảy ra đều sẽ cho bạn
nhiều hoàn thành hơn, chín muồi hơn, bắt rễ hơn, định
tâm hơn. Nó sẽ trở thành cuộc sống không chỉ lớn lên
già đi mà còn lớn lên hướng tới các đỉnh cao và chiều
sâu. Bạn sẽ bắt đầu sống không chỉ cuộc sống theo
chiều ngang mà cuộc sống theo chiều đứng nữa. Bạn
sẽ sống theo chiều ngang khi nó được cần tới; bằng
không chín mươi phần trăm năng lượng của bạn sẽ bắt
đầu đi vào trong chiều đứng, hướng tới các đỉnh cao và
chiều sâu.
Thế thì cõi trần này, thế giới này, trở thành cơ hội
duy nhất cho trưởng thành. Và người đang dùng thế
giới, cõi trần, cuộc sống này, như cơ hội cho trưởng
thành là đang trên con đường đúng. Nếu bạn không chỉ
lớn lên về tuổi tác mà bạn còn trưởng thành lên, thế thì
bạn đã sống đúng. Và nó không phải là từ bỏ: nó là
hân hoan, nó là biết ơn Thượng đế.
Xã hội của bạn, cha mẹ của bạn, thầy giáo của bạn,
tu sĩ của bạn, chính khách của bạn, họ tất cả đều cố
gắng áp đặt cái gì đó lên bạn, và bạn đang mang tất cả
những cái đó. Nhưng bất kì cái gì bị áp đặt lên bạn sẽ
vẫn còn là gánh nặng và bạn sẽ bị nghiền nát dưới
trọng lượng của nó, và trọng lượng này sẽ cứ tăng lên
mọi ngày.
Chức năng của thầy là hoàn tác lại điều các thầy
giáo, tu sĩ và chính khách đã làm cho bạn. Ở đây tôi
chỉ làm mọi sự thành rõ ràng cho bạn. Tôi không áp
đặt bất kì kỉ luật nào. Tôi không trao cho bạn bất kì
tính cách nào. Tôi đơn giản cho bạn nhiều tâm thức
hơn, nhiều ánh sáng hơn. Thế rồi bạn phải tìm ra tính
cách của mình. Thế rồi bạn phải tìm ra phong cách
sống của mình, hình mẫu sống của mình.
Tôi cho bạn chỉ một cây nến nhỏ; thế rồi bạn có
thể tìm thấy con đường của bạn trong bóng tối của
cuộc sống. Và ngay cả một cây nến nhỏ cũng đủ. Nếu
một không gian nhỏ quanh bạn trở nên được chiếu
sáng và bạn có thể tiến ba, bốn bước trong ánh sáng
đó, thế là đủ; bởi vì vào lúc bạn đi bốn bước, ánh sáng
đi bốn bước phía trước bạn. Với một cây nến nhỏ
người ta có thể đi qua mười nghìn dặm trong bóng tối.
Và tôi không chống lại cuộc sống chút nào, như
tính chất sannyas cũ đã từng là vậy. Tính chất sannyas
cũ có một ý niệm rất kì lạ: rằng nếu bạn muốn đạt tới
Thượng đế, bạn phải phản cuộc sống - cứ dường như
Thượng đế chống lại cuộc sống. Nếu Thượng đế mà
chống lại cuộc sống, cuộc sống chắc đã không tồn tại
lấy một khoảnh khắc. Ai cứ nuôi dưỡng cuộc sống? Ai
cứ rót năng lượng vào cuộc sống?
Nhà thơ Ấn Độ vĩ đại, Rabindranath, đã nói, "Bất
kì khi nào một đứa trẻ được sinh ra, tôi nhảy múa, tôi
hân hoan. Tại sao? Bởi vì đứa trẻ cho tôi sự chắc chắn
tuyệt đối rằng Thượng đế vẫn chưa trở thành vô vọng,
rằng ngài vẫn còn hi vọng. Từng đứa trẻ mới đều đem
tới sự chắc chắn này cho thế giới, rằng Thượng đế vẫn
quan tâm tới nhân loại, rằng ngài đã không bỏ bẵng dự
án này, rằng ngài vẫn còn hi vọng là chư phật sẽ được
sinh ra, rằng ngài vẫn cứ tạo ra những đứa trẻ mới,
rằng ngài không mệt mỏi, rằng hi vọng của ngài là vô
hạn và kiên nhẫn của ngài là vô hạn."
Thượng đế yêu thế giới. Nó là sáng tạo của ngài.
Phủ nhận nó là phủ nhận ngài. Nếu bạn phủ nhận bức
tranh, bạn đã phủ nhận hoạ sĩ. Nếu bạn kết án bài thơ,
bạn đã kết án nhà thơ. Nếu bạn bác bỏ điệu vũ, bạn đã
bác bỏ vũ công. Và logic ngu xuẩn này đã diễn ra
trong nhiều thế kỉ: chấp nhận Thượng đế, ca ngợi
Thượng đế, và phủ nhận cuộc sống! Và cùng những
người này cứ nói đi nói lại mãi là Thượng đế đã tạo ra
thế giới. Thế thì sao ngài đã tạo ra thế giới? Để cho
bạn có thể từ bỏ nó sao? Để cho bạn có thể bác bỏ nó
sao? Để cho bạn có thể kết án nó và trở thành thánh
nhân lớn sao?
Thượng đế đã tạo ra thế giới này như một cơ hội
để trưởng thành. Trưởng thành cần nhiều, nhiều cơ
hội, thách thức.
Tôi đã nghe một câu chuyện:
Một nông dân, một nông dân già, chín chắn, dày
dạn, một hôm rất, rất giận Thượng đế - và ông ấy là
một người thành tâm lớn lao. Ông ấy nói với Thượng
đế trong lời cầu nguyện sáng của mình, "Tôi phải nói
nó như nó đang đấy - thế là đủ rồi! Ngài không hiểu
ngay cả ABC về nông nghiệp! Khi cần mưa thì lại
không có mưa; khi không cần mưa ngài cứ trút chúng
xuống. Đây là điều vô nghĩa gì vậy? Nếu ngài không
hiểu nông nghiệp ngài có thể hỏi tôi - tôi đã dành cả
đời mình cho nó. Cho tôi một cơ hội: mùa tới, để tôi
quyết định và xem điều gì xảy ra."
Đó là một câu chuyện cổ. Vào những ngày đó mọi
người có tin cậy tới mức họ có thể nói chuyện trực tiếp
với Thượng đế, và tin cậy của họ tới mức câu trả lời
nhất định xảy ra.
Thượng đế nói, "Được rồi, vụ này ông quyết
định!"
Thế là người nông dân này quyết định, và ông ta
rất sung sướng bởi vì bất kì khi nào ông ấy muốn có
mặt trời đều có mặt trời, bất kì khi nào ông ấy muốn
mưa đều có mưa, bất kì khi nào ông ấy muốn mây đều
có mây. Và ông ấy tránh mọi nguy hiểm, mọi nguy
hiểm có thể mang tính phá hoại mùa màng; ông ấy đơn
giản bác bỏ chúng - không gió to, không có khả năng
nào cho bất kì huỷ hoại gì cho vụ thu hoạch. Và lúa mì
của ông ấy bắt đầu mọc cao hơn bất kì người nào đã
từng thấy; nó cao trên chiều cao con người. Và ông ấy
rất sung sướng. Ông ấy nghĩ, "Bây giờ mình sẽ chỉ cho
ngài!"
Và thế rồi cây trồng được chặt đem về và ông ấy
rất phân vân. Chẳng có hạt lúa mì nào cả - chỉ toàn vỏ
trấu trống rỗng mà không có hạt lúa mì bên trong
chúng. Cái gì đã xảy ra? Cây lớn thế - cây lớn đủ để có
hạt mì to hơn hạt lúa mì thường bốn lần - nhưng lại
chẳng có hạt mì nào cả.
Và bỗng nhiên ông ấy nghe thấy tiếng cười lớn từ
trên mây. Thượng đế cười và ngài nói, "Bây giờ ông
nói gì nào?"
Người nông dân nói, "Tôi phân vân quá, bởi vì
không có khả năng nào của huỷ hoại và tất cả những
cái giúp đỡ đều được cung cấp. Và cây cối đã mọc tốt
thế, và cây trồng xanh tươi và đẹp thế! Chuyện gì đã
xảy ra cho hạt mì của tôi?"
Thượng đế nói, "Bởi vì không có nguy hiểm - ông
đã né tránh mọi nguy hiểm - điều đó là không thể được
để hạt mì trưởng thành. Nó cần thách thức."
Thách thức đem tới tính toàn vẹn; bằng không
người ta vẫn còn là hổng hoác, trống rỗng. Nếu mọi
tiện nghi đều được cung cấp cho bạn và không có nguy
hiểm trong cuộc sống của bạn, bạn sẽ vẫn còn hổng
hoác và trống rỗng. Thượng đế cho cuộc sống với mọi
nguy hiểm của nó.
Tính chất sannyas của tôi là chấp nhận thách thức
này. Sống nguy hiểm là điều tính chất sannyas của tôi
tất cả là gì. Bạn càng sống nguy hiểm, bạn càng nhận
nguy hiểm, bạn càng trưởng thành hơn, bạn càng trở
nên được hợp nhất, kết tinh, linh hồn của bạn càng trở
thành hiện tượng rõ ràng, rành mạch hơn. Bằng không
nó vẫn còn mông lung, mù mờ, nghi ngại.
Tôi tất cả đều vì cuộc sống. Nếu bạn hỏi tôi,
Thượng đế và sáng tạo của ngài không phải là hai điều
tách biệt. Đấng sáng tạo đã trở thành việc sáng tạo
riêng của mình. Việc sáng tạo và đấng sáng tạo là một.
Tôi ở trong tình yêu mênh mông với cuộc sống. Và
đây là thông điệp của tôi cho bạn: Yêu cuộc sống một
cách toàn bộ! Được tham gia cùng cuộc sống! Đừng
giữ lại, bởi vì bất kì điều gì bạn giữ lại đều sẽ vẫn còn
trống rỗng. Trở nên được cam kết với cuộc sống: cam
kết đa chiều được cần tới.
Các nhà khoa học nói rằng ngay cả người vĩ đại
nhất chỉ dùng mười lăm phần trăm tiềm năng của họ -
ngay cả người vĩ đại nhất đấy! Nói gì về người
thường? Họ chỉ dùng năm đến bẩy phần trăm tiềm
năng của họ. Nghĩ mà xem: nếu mọi người mà dùng
một trăm phần trăm tiềm năng của minh, nếu từng
người đều là ngọn đuốc bùng cháy từ cả hai đầu cùng
nhau, với sự mãnh liệt, với đam mê, với tình yêu, thế
thì cuộc sống sẽ là lễ hội vô cùng. Và bạn sẽ thấy
nhiều christ thế, nhiều chư phật thế đang bước đi trên
trái đất này! Nhưng bởi vì ý niệm cổ về từ bỏ này mà
chúng ta đã bỏ lỡ nhiều.
Tôi muốn mang tới một khái niệm hoàn toàn mới
về tính chất sannyas cho thế giới này: tính chất
sannyas biết yêu, tính chất sannyas biết cách trở nên
cam kết, tính chất sannyas đi tới cốt lõi sâu nhất của
cuộc sống.
Nhưng không ai khác có thể quyết định được điều
đó cho bạn. Ngay cả tôi cũng không thể quyết định
được cho bạn. Tôi chỉ có thể làm mọi sự rõ ràng cho
bạn thôi. Tôi có thể cho bạn bản đồ, nhưng bạn phải đi,
bạn phải thực hiện cuộc hành trình, bạn phải di
chuyển. Và nhớ một điều: bản đồ của tôi sẽ thực sự là
bản đồ của tôi và nó không thể đích xác là bản đồ của
bạn. Nó có thể cho bạn vài gợi ý, vài chỉ dẫn, nhưng
nó không thể đích xác là bản đồ của bạn được bởi vì
bạn là người khác toàn bộ. Bạn là duy nhất tới mức
không bản đồ nào của bất kì ai khác có thể là bản đồ
của bạn được. Vâng, bằng hiểu biết bản đồ của tôi, bạn
sẽ trở nên nhận biết về nhiều thứ về bản thân bạn,
nhưng bạn không theo nó một cách mù quáng; bằng
không bạn sẽ trở thành người rởm.
Nghe tôi, nghe lời của tôi, nghe im lặng của tôi,
nghe bản thể của tôi. Cố gắng hiểu điều đang xảy ra ở
đây, điều đang được diễn ra ở đây, và thế rồi quyết
định về phần riêng của bạn. Đừng đổ trách nhiệm lên
vai bất kì ai khác. Đây là con đường để trưởng thành.
Đây là con đường để đạt tới.
#2Câu hỏi thứ tư:
Thưa Thầy kính yêu,
Tôi có nhiều bạn bè, nhưng câu hỏi là: ai là bạn
thực? bao giờ cũng nảy sinh trong tâm trí tôi. Xin
thầy nói điều gì về điều đó?
Satyam, bạn đang hỏi từ đầu sai rồi. Đừng bao giờ
hỏi, "Ai là bạn thực của tôi?" Hãy hỏi, "Tôi có là bạn
thực của ai đó không?" Đó mới là câu hỏi đúng. Sao
bạn lại lo nghĩ về người khác - liệu họ có là bạn của
bạn hay không?
Câu ngạn ngữ là: Người bạn khi cần là người bạn
thực. Nhưng sâu bên dưới đó là tham đấy! Đó không
phải là tình bạn đâu, đó không phải là tình yêu đâu.
Bạn muốn dùng người khác như phương tiện, và
không người nào là phương tiện cả, mọi người đều là
mục đích lên chính mình. Sao bạn lo nghĩ về ai là bạn
thực?
Đôi thanh niên đang đi tuần trăng mật trong
chuyến du lịch tới miền Nam Florida và dừng lại ở một
trang trại rắn đuôi kêu dọc đường. Sau khi ngắm cảnh
họ tham dự vào cuộc trò chuyện nhỏ với người buôn
rắn.
"Kì quái chưa!" cô dâu trẻ kêu lên, "Ông chắc chắn
có một nghề nguy hiểm! Ông chưa bao giờ bị rắn cắn
sao?"
"Có chứ, tôi có bị cắn đấy," người buôn trả lời.
"Vậy à," cô ấy nhấn mạnh, "vậy ông làm gì khi
ông bị rắn cắn?"
"Tôi bao giờ cũng mang một con dao sắc như dao
cạo trong túi quần, và ngay khi tôi bị cắn thì tôi đánh
dấu chéo, sâu quanh vết thương có nanh độc rối hút
chất độc từ vết thương ra."
"Cái gì? A, điều gì xảy ra nếu ông ngẫu nhiên ngồi
lên con rắn đuôi kêu?" cô dâu cứ nài nỉ.
"Thưa lệnh bà," người buôn rắn trả lời, "đó sẽ là
ngày tôi biết ai là người bạn thực của tôi!"
Sao bạn lo nghĩ?
Câu hỏi thực phải là: Tôi có thân thiết với mọi
người không? Bạn có biết tình bạn là gì không? Nó là
dạng cao nhất của tình yêu đấy. Trong tình yêu, thèm
khát nào đó nhất định có đó; trong tình bạn mọi thèm
khát biến mất. Trong tình bạn chẳng cái gì thô còn lại;
nó trở thành tuyệt đối tinh tế.
Đó không phải là vấn đề dùng người khác, đó
thậm chí không phải là vấn đề cần tới người khác, đó
là vấn đề chia sẻ. Bạn có quá nhiều và bạn muốn chia
sẻ. Và bất kì ai sẵn sàng chia sẻ vui vẻ của bạn cùng
bạn, điệu vũ của bạn, bài ca của bạn, bạn sẽ biết ơn
người đó, bạn sẽ cảm thấy được gia ơn. Không phải là
người đó được gia ơn từ bạn đâu, không phải là người
đó phải cảm thấy cần cám ơn bạn bởi vì bạn đã cho
người đó nhiều thế. Người bạn chưa bao giờ nghĩ theo
cách đó. Người bạn bao giờ cũng cảm thấy biết ơn
những người cho phép người đó yêu họ, cho họ bất kì
cái gì người đó đã có được.
Tình yêu là tham. Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng
từ tiếng Anh 'yêu-love' bắt nguồn từ từ tiếng Phạn
lobh; lobh nghĩa là tham. Làm sao lobh trở thành yêu
là một câu chuyện kì lạ. Trong tiếng Phạn nó là tham;
gốc rễ nguyên thuỷ nghĩa là tham. Và yêu như chúng
ta biết nó thực sự không là gì ngoài tham đeo mặt nạ
như yêu - nó là tham ẩn kín.
Satyam, làm bạn với ý niệm dùng mọi người là
đang lấy bước sai từ ngay chính ban đầu. Tình bạn
phải là chia sẻ chứ. Nếu bạn có cái gì đó, chia sẻ nó -
và bất kì ai sẵn sàng chia sẻ với bạn đều là người bạn.
Vấn đề không phải là nhu cầu. Vấn đề không phải là
khi bạn lâm nguy thì bạn bè phải tới trợ giúp bạn. Điều
đó là không liên quan - người đó có thể tới, người đó
có thể không tới, nhưng nếu người đó không tới bạn
không có phàn nàn nào. Nếu người đó tới bạn biết ơn,
nhưng nếu người đó không tới, điều đó hoàn toàn được
chứ. Đó là quyết định của người đó để tới hay không
tới. Bạn không muốn thao túng người đó, bạn không
muốn làm người đó cảm thấy mặc cảm. Bạn sẽ không
mang oán hận nào. Bạn sẽ không nói với người đó
rằng "Khi tôi cần anh quay lưng đi - anh là cái loại bạn
bè gì vậy?"
Tình bạn không phải là cái gì đó của bãi chợ. Tình
bạn là một trong những điều hiếm hoi thuộc vào ngôi
đền chứ không thuộc vào cửa hàng. Nhưng bạn không
nhận biết về loại tình bạn đó, bạn sẽ phải học nó.
Tình bạn là nghệ thuật vĩ đại. Tình yêu có bản
năng tự nhiên đằng sau nó; tình bạn không có bản năng
tự nhiên đằng sau nó. Tình bạn là cái gì đó có ý thức;
tình yêu là vô ý thức. Bạn rơi vào tình yêu với người
đàn bà... Sao chúng ta nói "rơi vào tình yêu "? Cụm từ
đó là có ý nghĩa: "rơi vào tình yêu." Không ai đã bao
giờ vươn lên trong tình yêu, mọi người đều rơi vào
trong tình yêu! Sao bạn rơi vào trong tình yêu? - bởi vì
nó là rơi từ ý thức vào vô ý thức, từ thông minh vào
bản năng.
Điều chúng ta gọi là yêu mang nhiều tính con vật
hơn tính người. Tình bạn là tuyệt đối mang tính người.
Nó có cái gì đó mà với nó không có cơ chế dựng sẵn
nào trong sinh học của bạn cả; nó là phi sinh học. Do
đó người ta vươn lên trong tình bạn, người ta không
rơi vào trong tình bạn. Nó có chiều tâm linh.
Nhưng đừng hỏi, "Ai là bạn thực?" Hãy hỏi, "Tôi
có là bạn thực không?" Bao giờ cũng quan tâm tới bản
thân bạn. Chúng ta bao giờ cũng nghĩ về người khác.
Đàn ông hỏi liệu đàn bà có thực yêu anh ta hay không.
Đàn bà hỏi liệu đàn ông có thực yêu cô ấy hay không.
Và làm sao bạn có thể tuyệt đối chắc chắn về người
khác được? Điều đó là không thể được! Anh ta có thể
lặp lại cả nghìn lần rằng anh ta yêu và anh ta sẽ yêu
bạn mãi mãi, nhưng dầu vậy hoài nghi nhất định vẫn
còn dai dẳng: "Ai biết liệu anh ấy đang nói sự thực hay
không?" Thực ra, việc lặp lại cái gì đó cả nghìn lần
đơn giản nghĩa là nó phải là điều dối trá, bởi vì chân lí
không cần được lặp lại nhiều thế.
Adolf Hitler trong cuốn tự tiểu sử của mình nói,
"Không có khác biệt nhiều giữa chân lí và dối trá.
Khác biệt duy nhất là ở chỗ chân lí là dối trá được lặp
lại thường xuyên tới mức bạn đã quên mất rằng nó là
dối trá."
Đó là điều các chuyên gia trong quảng cáo sẽ nói:
cứ lặp lại đi, cứ quảng cáo đi. Đừng lo nghĩ về liệu
người nào nghe hay không. Cho dù họ không chú ý gì,
đừng lo nghĩ; tâm trí tiềm thức của họ đang nghe đấy,
cốt lõi sâu nhất của họ đang bị gây ấn tượng đấy. Bạn
không nhìn vào quảng cáo một cách rất có ý thức,
nhưng chỉ thoáng qua chúng trong phim, trên ti vi hay
trên báo chí, chỉ một thoáng nhìn và có dấu ấn rồi. Và
nó sẽ được lặp lại: "xà phòng Lux đây" hay "Coca-
Cola đây"...
Coca-Cola là một thứ quốc tế rồi. Ngay cả ở nước
Nga Xô viết cũng có: "Coca-Cola...." Mọi thứ của Mĩ
đều bị cấm và bị ngăn cản, nhưng Coca-Cola thì
không. Coca-Cola là thứ quốc tế chứ! Cứ lặp lại nó!
Lúc ban đầu điện đã được dùng cho quảng cáo -
điện tĩnh đã được dùng. Nó vẫn còn là "Coca-Cola."
Nhưng về sau họ phát hiện ra rằng nếu bạn bật nó lên
và tắt nó đi thì hiệu quả hơn nhiều, bởi vì người đi qua
sẽ đọc nó chỉ một lần nếu đèn tĩnh tại. Nhưng nếu nó
thay đổi, cứ bật rồi tắt lặp đi lặp lại, lúc bạn đi qua nó,
ngay cả trong xe hơi, bạn sẽ phải đọc nó ít nhất năm
tới bẩy lần: "Coca-Cola, Coca-Cola, Coca-Cola...."
Điều đó đi sâu hơn. Và sớm hay muộn bạn trở nên bị
ấn tượng.
Đó là cách mọi tôn giáo đã từng sống cho tới giờ:
họ cứ lặp lại cùng những niềm tin ngu xuẩn, nhưng
những niềm tin đó trở thành chân lí cho mọi người.
Mọi người sẵn sàng chết vì chúng! Bây giờ, không ai
đã từng thấy cõi trời ở đâu, nhưng hàng triệu người đã
chết vì cõi trời.
Người Mô ha mét giáo nói rằng nếu bạn chết trong
cuộc chiến tranh tôn giáo bạn sẽ lập tức lên cõi trời và
tất cả tội lỗi của bạn đều được tha thứ. Và người Ki tô
giáo cũng nói rằng trong cuộc chiến tranh tôn giáo,
trong cuộc thập tự chinh, nếu bạn chết bạn lập tức lên
cõi trời; thế thì mọi thứ khác đều được tha thứ. Và
hàng triệu người đã chết và đã giết người khác, cứ tin
rằng đây là chân lí.
Chúng ta đã thấy những điều như vậy xảy ra ngay
trong thế kỉ hai mươi này; điều đó có vẻ chẳng trưởng
thành gì mấy theo cách đó. Adolf Hitler đã lặp lại
trong hai mươi năm liên tục rằng "Người Do Thái là
nguyên nhân của mọi khổ," và một quốc gia rất thông
minh như nước Đức đã bắt đầu tin vào ông ta. Nói gì
tới người thường? - ngay cả những người như Martin
Heidegger, một trong những triết gia vĩ đại nhất mà
nước Đức đã tạo ra trong thế kỉ này, cũng tin rằng
Adolf Hitler là đúng. Ông ta ủng hộ Adolf Hitler.
Một người của thông minh như Martin Heidegger
đi hỗ trợ một người ngu xuẩn, điên khùng như Adolf
Hitler! Bí mật phải là gì? Bí mật là: lặp lại, cứ lặp lại.
Ngay cả người Do Thái cũng bắt đầu tin rằng điều đó
phải đúng: "Chúng ta phải là nguyên nhân; bằng không
làm sao nhiều người thông minh thế tin vào nó? Nếu
nhiều người thế tin vào nó, phải có cái gì đó trong nó
chứ!"
Bạn đã được nuôi dưỡng bằng những niềm tin như
thế, những ý niệm như thế, cái chẳng có nền tảng gì
trong thực tại. Và nếu bạn cứ sống theo chúng bạn sẽ
sống trong vô vọng. Bạn phải đi qua thay đổi triệt để.
Hỏi những câu hỏi về bản thân bạn đi, đừng hỏi về
người khác. Không thể nào chắc chắn được về người
khác và cũng không cần nữa. Làm sao bạn có thể chắc
chắn được về người khác? Người khác là một luồng.
Khoảnh khắc này người khác có thể đáng yêu, và
khoảnh khắc tiếp người đó có thể không đáng yêu.
Không thể có hứa hẹn nào cả. Bạn chỉ có thể chắc chắn
được về bản thân mình thôi, và điều đó nữa cũng chỉ
trong khoảnh khắc này. Và không cần phải nghĩ về
toàn thể tương lai. Nghĩ dưới dạng khoảnh khắc này và
hiện tại. Sống trong hiện tại.
Nếu khoảnh khắc này đầy tình bạn và hương thơm
của tình bạn, sao lo nghĩ về khoảnh khắc tiếp? Khoảnh
khắc tiếp sẽ được sinh ra từ khoảnh khắc này. Nó nhất
định có phẩm chất cao hơn, sâu hơn. Nó sẽ đem cùng
hương thơm đó tới tầm cao hơn. Không cần nghĩ về nó
– chỉ cần sống khoảnh khắc này trong tình bạn sâu sắc.
Và tình bạn không cần hướng tới bất kì ai đặc biệt
cả; đó cũng là ý niệm mục nát, rằng bạn phải là bạn bè
với người nào đó thôi – cứ thân thiết đi. Thay vì tạo ra
tình bạn, thì tạo ra thân thiết. Để nó trở thành phẩm
chất của bản thể bạn, bầu khí hậu bao quanh bạn, để
cho bạn thân thiết với bất kì ai bạn đi tới tiếp xúc.
Toàn thể sự tồn tại này phải được đối xử như bạn
bè! Và nếu bạn có thể là bạn bè với sự tồn tại, sự tồn
tại sẽ là bạn bè với bạn cả nghìn lần hơn. Nó trả lại cho
bạn theo cùng đồng tiền nhưng được nhân lên. Nó
vọng lại bạn. Nếu bạn ném đá vào sự tồn tại bạn sẽ
nhận lại nhiều đá hơn. Nếu bạn ném hoa, hoa sẽ quay
trở lại.
Cuộc sống là tấm gương, nó phản xạ khuôn mặt
bạn. Hãy thân thiết, và mọi thứ của cuộc sống sẽ phản
xạ sự thân thiết này. Mọi người đều biết hoàn toàn rõ
rằng nếu bạn thân thiết với con chó thì ngay cả con
chó cũng trở nên thân thiết với bạn, thân thiết thế. Và
có những người đã biết rằng nếu bạn thân thiết với
cây, cây trở nên thân thiết với bạn.
Thử thực nghiệm lớn trong tình bạn đi. Thử với
bụi hồng, và xem phép màu: dần dần, dần dần, điều đó
sẽ xảy ra, bởi vì con người đã không đối xử với cây cối
theo cách thân thiết; do đó chúng đã trở nên rất sợ hãi.
Nhưng bây giờ các nhà khoa học nói rằng khi bạn
đi tới với chiếc rìu để chặt cây, thậm chí trước khi bạn
bắt đầu chặt nó, cây rùng mình, rùng mình ớn lạnh. Nó
đi vào trong nỗi sợ lớn lao, hoảng loạn. Bạn thậm chí
còn chưa bắt đầu, nhưng chỉ ý định thôi - cứ dường
như cây trở nên nhận biết về ý định của bạn vậy! Bây
giờ họ có những dụng cụ tinh vi như máy đo nhịp tim,
có thể tạo ra đồ thị trên giấy chỉ ra điều cây đang cảm
thấy. Khi cây cảm thấy vui vẻ, có nhịp điệu trong đồ
thị; khi cây cảm thấy sợ, sợ được biểu thị lên đồ thị.
Khi cây thấy người bạn tới nó hân hoan, nó nhảy nhót,
nó múa; đồ thị lập tức chỉ ra điệu vũ. Khi cây thấy
người làm vườn tới...
Bạn đã bao giờ nói lời chào với cây chưa? Thử
điều đó đi, và một ngày nào đó bạn sẽ ngạc nhiên: cây
cũng nói lời chào theo tiếng của nó, theo ngôn ngữ
riêng của nó. Ôm lấy cây, và một ngày nào đó sẽ tới
khi bạn sẽ cảm thấy rằng đó không chỉ là bạn đang ôm
cây - cây đáp ứng, bạn cũng được cây ôm lấy, mặc dầu
cây không có tay. Nhưng nó có cách riêng của nó để
diễn đạt vui vẻ của nó, nỗi buồn của nó, giận của nó,
sợ hãi của nó.
Toàn thể sự tồn tại đều nhạy cảm. Đó là điều tôi
ngụ ý khi tôi nói rằng sự tồn tại là Thượng đế.
Hãy thân thiết đi, Satyam, và đừng lo nghĩ liệu
người nào có thân thiện với bạn hay không - đó là câu
hỏi kiểu kinh doanh. Sao lại lo nghĩ? Sao không biến
đổi toàn thể sự tồn tại thành người bạn hướng tới bạn?
Sao để lỡ vương quốc vĩ đại thế?
#2Câu hỏi cuối cùng:
Thưa Thầy kính yêu,
Sao cả nghìn người từ khắp trên thế giới tới với
thầy?
Đó là câu hỏi rất khó cho tôi trả lời. Làm sao tôi có
thể trả lời nhân danh hàng nghìn người đang tới tôi
được? Họ có những lí do khác nhau.
Vài người tới tôi bởi vì tôi đã gọi họ tới: họ có thể
biết điều đó, họ có thể không biết điều đó. Có nhiều
khả năng là họ sẽ không biết điều đó, ít nhất là không
biết lúc ban đầu. Chỉ về sau, khi họ trở nên được chìm
ngập vào trong công xã của tôi, vào trong thế giới của
tôi thì dần dần, dần dần họ sẽ trở nên nhận biết rằng họ
đã được gọi tới, cũng như Jesus đã gọi Lazarus trong
nấm mồ của ông ta, "Lazarus, ra đi!" và ông ta ra khỏi
nấm mồ.
Cuộc sống mà bạn đã sống đã từng là cuộc sống
trong nấm mồ - và tôi phải gọi bạn. Vài người trong
các bạn là được gọi. Đó là lí do tại sao bạn ở đây. Về
những người này tôi có thể nói tại sao họ ở đây bởi vì
tôi đã gọi họ. Họ đã ở cùng tôi trong nhiều kiếp rồi:
đây là chuyện tình dài, dài với họ. Đây không phải là
lần đầu tiên mà họ ở cùng tôi: chắn chắn đây là lần
cuối cùng, bởi vì tôi sẽ không tới lần nữa. Tôi đã gọi
họ bởi vì những lời hứa nào đó đã nói trong quá khứ.
Nhưng có nhiều loại người. Vài người đã tới chỉ
tình cờ; nhưng ngay cả khi họ đã tới một cách tình cờ
họ vẫn có tiềm năng nào đó trong họ và tiềm năng của
họ trở thành có liên quan với tôi. Họ đã không tới một
cách có ý thức, họ đã không được gọi - họ chỉ đi ngang
qua - nhưng họ bị mắc vào lưới.
Vài người đã tới vì nhu cầu nào đó cần được hoàn
thành. Có vài người đang đi tìm hình ảnh người cha;
bởi vì Friedrich Nietzsche nói, "Thượng đế chết rồi,"
và một khi Thượng đế chết con người cảm thấy trống
rỗng. Phương Tây cảm thấy rất trống rỗng: Thượng đế
chết, và Thượng đế là cha, cha thường hằng, vĩnh viễn.
Không phải ngẫu nhiên mà các linh mục Ki tô giáo
đều được gọi là "cha," mặc dầu điều đó là rất kì lạ bởi
vì họ không có con, họ không lấy vợ. Đó là một thế
giới kì lạ: các linh mục không lấy vợ được gọi là
"cha"! Nhưng điều đó hoàn toàn logic, bởi vì ý niệm
của người Ki tô giáo về Thượng đế cũng là không có
đàn bà. Làm sao họ xoay xở được điều đó? Thượng đế
Cha, Christ con - ít nhất để Thánh thần thiêng liêng là
đàn bà đi! Nhưng họ thậm chí không cho phép Thánh
thần thiêng liêng là điều đó! Tam thể là không đúng:
nó thiếu cái gì đó; nó thiếu cái gì đó - năng lượng nữ
tính bị thiếu.
Nhưng ít nhất Thượng đế có đó. Nếu không có mẹ,
Thượng đế có đó như cha, người bảo hộ. Và mọi người
cảm thấy được bảo vệ - liệu có Thượng đế hay không
không phải là vấn đề, nhưng mọi người cảm thấy được
bảo hộ. Và trên trái đất có cha, linh mục và giáo hoàng
- hay bố - người cha vĩ đại, linh mục cao nhất. 'Giáo
hoàng-Pope' cũng có nghĩa là cha - 'papa', 'popa',
'pope', hay bất kì cái gì bạn gọi ông ấy!
Nhưng Vatican đã mất sự nắm giữ của nó ở
phương Tây; mối quan hệ giữa giáo hoàng và phương
Tây chỉ là hình thức. Ki tô giáo đã trở thành tôn giáo
chủ nhật. Và đích xác hệt như vậy là trường hợp ở
phương Đông: mọi tôn giáo đã trở thành hình thức.
Bây giờ mọi người đi tìm hình ảnh người cha.
Vài người tới bởi vì họ thiếu sự bảo hộ, họ cần bảo
hộ. Hoặc họ sẽ trốn khỏi tôi, bởi vì tôi không cho sự
bảo hộ... ngược lại, tôi lấy đi mọi an ninh. Tôi cho bạn
bất an, bởi vì với tôi bất an là tình huống đúng trong
đó người ta trưởng thành. Nếu không có Thượng đế,
không cha, toàn thể trách nhiệm đè lên vai bạn - và
điều đó là tốt, nó là hoàn toàn tốt.
Tôi tuyệt đối đồng ý với Friedrich Nietzsche. Phật
cũng đồng ý. Phật nói không có Thượng đế, Mahavira
nói không có Thượng đế, bởi lẽ đơn giản là ý niệm về
Thượng đế đã là nguy hiểm - nguy hiểm theo nghĩa
mọi người cảm thấy được bảo vệ và họ dừng trưởng
thành. Nếu bạn không được bảo vệ, nếu bạn ở dưới
bầu trời, thế thì bạn phải tuỳ thuộc vào cái ta riêng của
bạn. Thế thì bạn phải trở nên mạnh hơn, hoà hợp hơn.
Thế thì bạn tự do sống trong địa ngục hay trong cõi
trời; không ai có thể thưởng bạn và không ai có thể
phạt bạn được.
Vài người đang tới bởi vì họ thiếu hình ảnh người
cha. Nếu họ ở cùng tôi, tôi sẽ biến đổi tình huống này
thành hiện tượng tích cực, đẹp; nếu họ trốn đi, thế thì
điều đó là tuỳ họ. Rất dễ cho họ trốn đi, bởi vì họ sẽ
thấy rằng tôi đang phá huỷ họ. Nếu bất kì ý niệm nào
về bảo vệ mà còn lại trong tâm trí họ tôi đều phá huỷ
nó đi nữa. Tôi đang lấy đi mọi hình mẫu, cấu trúc,
chiến lược của tâm trí.
Tôi muốn bạn hoàn toàn một mình, một mình tới
mức bạn phải rơi về bản thân mình - không có nơi nào
khác để đi - rằng bạn phải đứng trên đôi chân riêng của
mình, rằng bạn không thể dùng bất kì cái nạng nào
được.
Vài người khác tới để tìm loại an ủi nào đó. Họ
cũng sẽ bị choáng, bởi vì tôi không cho bất kì loại an
ủi nào.
Một cô người mẫu xinh đẹp đem rắc rối của mình
tới nhà tâm thần. "Bác sĩ ơi, bác sĩ phải giúp em!" cô
ấy cầu xin. "Chuyện xảy ra thường xuyên tới mức mọi
lần đàn ông đưa em đi chơi em đều kết thúc ở trên
giường với người đó, và thế rồi sau đó em cảm thấy
mặc cảm và thất vọng suốt cả ngày dài."
"Biết rồi," nhà tâm thần gật đầu, "và cô muốn tôi
làm mạnh ý chí của cô chứ gì?"
"Trời, không đâu!" cô người mẫu kêu lên. "Em
muốn ông chữa nó để cho em sẽ không cảm thấy mặc
cảm và thất vọng sau đó!"
Mọi người, nhiều người, có ý thức hay vô ý thức,
ở đây để tìm loại an ủi nào đó - loại an ủi để cho họ
không cảm thấy mặc cảm, để cho họ không cảm thấy
đáng khinh. Tôi không ở đây để cho bạn an ủi đâu. Sao
cho an ủi khi tôi có thể cho bạn điều thực? Sao cho bạn
đồ chơi nhựa khi tôi có thể giúp bạn trưởng thành
trong linh hồn?
Vài người khác tới bởi vì họ đang trên bờ của việc
phát điên; tâm lí học, phân tâm học và tâm thần học đã
không giúp ích gì mấy. Nó có thể giúp ích chỉ tới điểm
nào đó thôi. Nó có thể giúp ích cho một người thành
bình thường nếu tính điên khùng của người đó là điên
khùng bình thường, nhưng nó không thế giúp cho
người ta nếu tính điên của người đó có cái gì đó tâm
linh trong nó.
Những người như R.D. Laing đang trở nên nhận
biết về điều đó: rằng nếu tính dở hơi của một người là
bởi vì người đó quá nhạy cảm, quá tỉnh táo và quá
nhận biết về khổ mà mọi người đang sống - và bản
thân người đó đang sống; nếu người đó trở nên nhận
biết về cái vô nghĩa của toàn thể cuộc sống này mà
chúng ta đã tạo ra trên trái đất này, người đó nhất định
sẽ phát rồ. Người đó sẽ không thể nào chịu đựng nổi
nó - điều đó sẽ là không thể chịu đựng nổi. Những
người đó không thể được giúp đỡ bởi tâm thần học hay
phân tâm học. Những người đó chỉ có thể được giúp
đỡ nếu cái gì đó như thiền bắt đầu xảy ra trong bản thể
họ.
Cho nên nếu người không lành mạnh bình thường
mà tới đây tôi phái người đó trở về phương Tây, bởi vì
tâm thần học có khả năng hoàn hảo giúp người đó.
Không cần tôi phải phí thời gian của mình với loại
người đó: có những thợ ống nước khác có thể làm điều
đó! Tôi làm một loại chữa ống nước đặc biệt. Nếu
không lành mạnh của bạn là tâm linh thì tôi ở đây để
giúp bạn. Và không lành mạnh tâm linh thực sự là việc
bắt đầu đẹp; nó có thể trở thành phúc lành lớn nhất
trong cuộc đời bạn. Nó là phúc lành trá hình như tai
hoạ.
Nhưng dầu vậy câu hỏi này vẫn khó bởi vì có
nhiều người thế và từng người đều tới với động cơ
khác nhau. Nhưng tôi không quan tâm mấy tới động cơ
của bạn - tôi biết tại sao tôi ở đây và tôi cứ làm việc
của mình, bất kể tại sao bạn đã tới đây!
Những người có cái gì đó có ý nghĩa đang lớn lên
trong họ nhất định còn lại với tôi - những người đủ
dũng cảm để đi ra ngoài biên giới của tâm trí, bên
ngoài mọi biên giới và mọi giới hạn. Những người
không dũng cảm sẽ bỏ đi theo cách riêng của họ.
Nhiều người sẽ được gọi; vài người sẽ được chọn.
Hàng nghìn người sẽ tới, nhưng chỉ vài người sẽ được
biến đổi. Điều đó tất cả là tuỳ bạn. Bạn có thể dùng cơ
hội này mà tôi đang làm thành sẵn có cho bạn; bạn có
thể bỏ lỡ nó nữa. Tôi không thể bị ép buộc lên bạn
được. Tôi sẵn có; bạn có thể chia sẻ. Bạn có thể nhìn
qua mắt tôi. Tôi đã mở cửa và tôi đang đứng ở cửa đón
chào bạn.
Tại sao bạn đã tới không phải là vấn đề. Vào đi!
Đủ cho hôm nay.
******************************************************
#3Nô lệ trong nhà riêng của bạn
Làm chủ bản thân ông theo luật.
Đây là giáo huấn đơn giản của người thức tỉnh.
Mưa có thể biến thành vàng
và dầu vậy cơn khát của ông sẽ không dịu bớt.
Ham muốn là không thể thoả mãn được
hay nó chấm dứt trong nước mắt, ngay cả trong
cõi trời.
Người muốn thức tỉnh
phá huỷ ham muốn của mình
một cách vui vẻ.
Trong sợ hãi con người có thể trú ẩn
trong núi hay trong rừng,
trong lùm cây thiêng hay trong điện thờ.
Nhưng làm sao người đó có thể trốn khỏi buồn khổ
của mình ở đó?
Người cư ngụ trong con đường
và đi cùng những người theo nó
đi tới thấy ra bốn chân lí lớn.
Liên quan tới khổ,
bắt đầu của khổ,
con đường tám làn,
và kết thúc của khổ.
Rồi cuối cùng người đó an toàn.
Người đó giũ sạch khổ.
Người đó tự do.
Người thức tỉnh là ít và khó tìm thấy.
Hạnh phúc là ngôi nhà nơi người ta thức tỉnh.
Được phúc lành là việc sinh của người đó.
Được phúc lành là giáo huấn về con đường.
Được phúc lành là hiểu biết trong những người
đi theo nó,
và được phúc lành là quyết tâm của họ.
và được phúc lành là những người tôn kính
người thức tỉnh và đi theo con đường.
Họ tự do khỏi sợ hãi.
Họ là tự do.
Họ đã vượt qua dòng sông của khổ.
Làm chủ bản thân ông theo luật.
Đây là giáo huấn đơn giản của người đã thức tỉnh.
Con người có thể hoặc quan tâm tới việc chi phối
và làm chủ người khác, hoặc người đó có thể quan tâm
tới việc làm chủ cái ta riêng của mình. Loại người thứ
nhất là loại người ngu, nhưng họ làm ra phần lớn lịch
sử: Genghis Khan, Tamerlane, Nadirshah, Alexander,
Napoleon, Stalin, Hitler, Mao... Lịch sử đầy những cái
tên của loại thứ nhất. Đó là loại lịch sử sai để dạy.
Loại lịch sử đúng sẽ dạy về chư phật: những người
đã cố gắng và chinh phục bản thân họ. Chinh phục bản
thân người ta là gian nan hơn nhiều. Nó cần thông
minh, nhận biết, mạnh mẽ, ý chí, tin cậy, buông xuôi
hơn nhiều. Nó đòi hỏi tất cả phẩm chất vĩ đại của ý
thức. Về căn bản nó đòi hỏi ý thức. Người ta chỉ có thể
làm chủ bản thân mình nếu người ta tuyệt đối tỉnh táo;
bằng không bạn vẫn còn bị chi phối bởi ham muốn của
mình.
Bạn là kẻ nô lệ trong nhà riêng của mình. Ham
muốn này kéo bạn về phương nam, ham muốn khác
kéo về phương bắc, và bạn bị phó mặc cho những ham
muốn mù quáng đó. Bạn bao giờ cũng bị sụp đổ. Thậm
chí giữ chúng cùng nhau cũng đã khó rồi: nhiều ham
muốn thế, nhiều hấp dẫn thế, nhiều đối tượng quyến rũ
bạn thế. Và bạn đơn giản trong trạng thái điên khùng,
chạy lăng xăng đây đó, chẳng biết tại sao, chẳng biết
liệu nó có xứng đáng chút nào không.
Nhưng con người được sinh ra một cách vô ý thức,
mặc dầu con người có tiềm năng trở nên có ý thức. Và
tiềm năng sẽ vẫn chỉ là tiềm năng chừng nào bạn còn
chưa làm việc cần mẫn để hiện thực nó. Con người
được sinh ra với năng lực bẩm sinh để chinh phục bản
thân mình, nhưng toàn thể năng lượng của bạn trở nên
hướng ngoại. Sống với những người hướng ngoại,
tham vọng, ham muốn cái này cái nọ, đứa trẻ cũng bắt
đầu bắt chước. Nó học từ người khác - từ cha mẹ nó,
thầy giáo, tu sĩ, chính khách - và những người này tất
cả đều trong cùng con thuyền. Ai đó theo đuổi tiền
bạc, ai đó theo đuổi quyền lực, ai đó theo đuổi danh
vọng, nhưng không ai dường như quan tâm tới cái ta
riêng của mình. Không ai dường như sẵn sàng đi tiếp
cuộc hành hương vĩ đại đó của việc tự khám phá mình.
Phật nói: Làm chủ bản thân ông... Nếu bạn quan
tâm tất cả tới việc làm chủ - và ai không quan tâm? -
thế thì trở nên quan tâm tới việc tự làm chủ mình đi.
Đừng phí thời gian của bạn vào việc cố chi phối người
khác. Nỗ lực để chi phối người khác tạo ra xung đột
chính trị; toàn thế giới đầy nó. Ngay cả trong những
quan hệ cá nhân, chính trị cũng len vào và phá huỷ
chúng. Ngay cả khi bạn yêu người đàn bà hay đàn ông,
tâm trí bắt đầu cách tinh ranh của nó để chi phối, để sở
hữu, để phá huỷ tự do của người khác... bởi vì bạn sợ.
Bạn sợ rằng nếu bạn không chi phối, người khác sẽ chi
phối bạn.
Và với tất cả những người muốn chi phối người
khác, Machiavelli là thầy giáo. Ở Ấn Độ cũng có kiểu
người tương tự đã tồn tại; tên người đó là Chanakya.
Người đó đến trước Machiavelli hàng nghìn năm. Cả
hai người này đều là nền tảng của tâm trí hướng ngoại;
họ đã đặt nền móng. Và nền móng đầu tiên của họ là:
cách tốt nhất để bảo vệ bản thân bạn là tấn công. Do
đó, trước khi người khác tấn công bạn, hãy tấn công
người khác. Trước khi vợ bạn bắt đầu chi phối bạn,
bạn chi phối cô ấy, hay trước khi chồng bạn bắt đầu
chi phối bạn, bạn chi phối anh ta.
Một thanh niên sắp sửa lấy vợ. Anh ta hỏi bố
mình, "Bố có lời khuyên gì cho con không?" Và người
bố thì thào điều gì đó vào tai anh ta. Chàng thanh niên
cười và nói, "Con sẽ để tâm tới điều đó."
Anh ta đi vào thị trấn để lấy vợ. Khi đôi vợ chồng
quay trở về làng, con ngựa chở họ từ thị trấn về dừng
lại. Anh thanh niên giận lắm. Anh ta nói với con ngựa,
"Đây là lần thứ nhất - tao có thể tha thứ cho mày,
nhưng nhớ lấy, tao chỉ có thể tha thứ cho mày hai lần
thôi."
Con ngựa đi, nhưng nó lại dừng ở chỗ khác và
không nhúc nhích. Anh thanh niên nói, "Đây là lần thứ
hai đấy - bây giờ tỉnh táo đi!"
Và khi con ngựa dừng lại lần thứ ba, anh thanh
niên xuống xe, rút súng lục ra và bắn con ngựa ngay
lập tức tại đó. Con ngựa ngã lăn quay.
Người vợ không thể nào tin được vào mắt mình -
độc ác làm sao! Cô ấy nói, "Anh làm gì thế?"
Anh ta nói, "Đây là lần thứ nhất... nhớ lấy, em chỉ
còn hai cơ hội nữa thôi."
Và từ ngày đó, tương truyền, vợ anh ta bao giờ
cũng theo anh ta. Còn làm gì khác được?
Điều này đã từng là cách thức xảy ra trong nhiều
thời đại: hoặc chồng chi phối hoặc vợ chi phối. Trong
chín mươi chín phần trăm các trường hợp vợ chi phối,
bởi vì chồng đang cố gắng chi phối thế giới bên ngoài,
ở bãi chợ. Anh ta về nhà mệt mỏi thế, anh ta về nhà
thất vọng thế, anh ta không còn ham muốn, ý chí hay
sức mạnh để tranh đấu với đàn bà. Và đàn bà đã chờ
đợi cả ngày, tích luỹ lại. Năng lượng của cô ấy tươi tắn
và cô ấy chẳng có đâu để mà đi chi phối bất kì ai khác;
chỉ mỗi chồng là thuộc quyền của cô ấy.
Đàn ông đã cầm tù đàn bà trong nhà với cái giá lớn
lao, bởi vì anh ta đã lấy đi mọi khả năng khác của việc
thể hiện bản ngã. Bây giờ chỉ một lối ra còn lại - bản
thân anh ta - và anh ta chịu đựng nhiều. Thực ra,
phong trào Giải phóng phụ nữ không chỉ là giải phóng
của phụ nữ đâu; nếu nó thực sự xảy ra, nó sẽ là giải
phóng đàn ông hơn nhiều. Do đó tôi không thấy đàn
ông thông minh nào chống lại nó; mọi đàn ông thông
minh đều ủng hộ nó, bởi vì họ biết nếu đàn bà thực sự
trở nên tự do thì họ cũng sẽ tự do nữa. Điều đó sẽ là tự
do cho cả hai.
Đó là một trong các luật của cuộc sống: hoặc các
bạn cả hai đều tự do hoặc các bạn cả hai sẽ là nô lệ.
Không thể nào có chuyện người này sẽ là chủ và người
kia sẽ là nô lệ. Luật là ở chỗ người chủ bao giờ cũng là
nô lệ của sự nô lệ riêng của mình, bởi vì tính chủ của
người đó cũng phụ vào nô lệ. Không có nô lệ người đó
sẽ không là người chủ chút nào.
Đứa trẻ tìm thấy tất cả những người này xung
quanh, chạy theo cùng một hướng. Đứa trẻ mong
manh, cởi mở, sẵn sàng bị gây ấn tượng. Rất khó cho
đứa trẻ tìm thấy vị Phật, tìm thấy một Jesus. Nó bao
giờ cũng tìm thấy những người ngu đang sống cuộc
sống của họ trong vô nhận biết tuyệt đối. Nó bắt đầu
bắt chước họ. Đến lúc nó có tuổi nó đã bị cấu trúc hoá,
đã bị lập trình, bị ước định rồi.
Chừng nào bạn còn chưa làm nỗ lực lớn lao để
thoát ra khỏi việc ước định này bạn sẽ không được tự
do đâu. Chừng nào bạn còn chưa ra quyết định lớn lao,
tập trung, kiên quyết rằng bạn phải thoát ra khỏi nó -
cho dù nếu bản thân cuộc sống có lâm nguy, bạn vẫn
sẵn sàng liều cả đời mình vì tự do khỏi mọi loại ước
định - thì không có nhiều khả năng đâu. Nhưng bạn có
thể ra quyết định được.
Đây là điều tính chất sannyas là gì: quyết tâm,
quyết định, cam kết - cam kết với bản thân bạn, món
quà cho bản thân bạn.
Làm chủ bản thân ông... bởi vì làm chủ bản thân
mình bạn đi vào trong vương quốc của Thượng đế, bạn
đi vào trong thế giới thực của an bình và phúc lạc. Bạn
đi vào trong kho báu riêng của mình - chúng là không
thể cạn kiệt. Bạn đi tới biết lần đầu tiên sự giầu có của
bản thể mình, cái đẹp của bản thể mình và niềm cực
lạc của bản thể mình.
Làm chủ bản thân ông theo luật. Bây giờ, có khả
năng bạn có thể hiểu lầm Phật, bởi vì "theo luật" trong
con mắt của người Ki tô giáo và người Do Thái giáo
và người Mô ha mét giáo nghĩa là tương ứng với luật
đã được mô tả sẵn trong sách của họ: Mười lời răn,
Koran, Kinh Thánh. Đó không phải là nghĩa của Phật.
"Theo luật" không ngụ ý luật của quốc gia hay luật do
các tu sĩ trao. "Theo luật" đối với Phật nghĩa là theo
luật tối thượng của cuộc sống và sự tồn tại.
Có hài hoà vô cùng - bất kì ai chỉ với chút ít nhạy
cảm, thông minh, đều có thể cảm thấy điều đó - cuộc
sống là một tổng thể hài hoà. Nó không phải là hỗn
độn, nó là hài hoà. Tại sao nó không phải là hỗn độn? -
bởi vì luật chạy đi chạy lại qua nó như sợi chỉ trong
vòng hoa. Sợi chỉ đó là vô hình, bạn chỉ thấy hoa,
nhưng sợi chỉ đó giữ chúng gắn với nhau. Sự tồn tại là
vòng hoa; có sợi chỉ, lời kinh - sutra nghĩa là sợi chỉ -
một sợi chỉ rất mảnh, gần như vô hình, chạy qua toàn
thể sự tồn tại, cái làm cho nó thành hài hoà thay vì hỗn
độn.
"Theo luật" trong lời của Phật nghĩa là: Trong hài
hoà với tự nhiên, sự tồn tại. Đừng tranh đấu với nó,
đừng đi ngược lại nó. Đừng cố đi ngược dòng, đừng
chảy ngược dòng. Trong buông bỏ theo sự tồn tại là đi
theo luật đấy. Aes dhammo sanantano - đây là luật
không cạn: rằng nếu bạn thảnh thơi, nếu bạn cho phép
luật tiếp quản bạn, sở hữu bạn, bạn sẽ được tràn ngập
với nó. Bạn không cần tiếp tục cuộc hành trình bản
ngã. Dòng sông đã chảy ra đại dương rồi - bạn đơn
giản trôi cùng với dòng sông. Không cần bơi nữa - nổi,
và bạn sẽ đạt tới đại dương.
Làm chủ bản thân ông theo luật. Phật làm điều đó
thành điều kiện, bởi vì nguy hiểm là ở chỗ trong việc
cố gắng làm chủ bản thân mình bạn có thể dùng cùng
chiến lược mà bạn đã dùng trong làm chủ người khác.
Đó là điều biết bao nhiêu sư đã làm trong quá khứ: như
khi họ tranh đấu với người khác họ bắt đầu tranh đấu
với bản thân họ, nhưng tranh đấu tiếp tục. Đối tượng
thay đổi, kẻ thù thay đổi, nhưng cuộc chiến tiếp tục.
Và họ rơi vào trong đống lộn xộn sâu hơn, bởi vì
khi bạn tranh đấu với bản thân mình bạn phải phân
chia bản thân mình thành hai, bạn phải trở thành hai
phe. Bạn phải kết án phần nào đó của bản thể mình là
kẻ thù. Nó có thể là dục, nó có thể là thân thể bạn, nó
có thể là tâm trí bạn, bất kì cái gì, nhưng bạn phải phân
chia bản thân mình thành hai: cái cao hơn và cái thấp
hơn, cõi trời và cõi đất, vật chất và tâm linh, thân thể
và linh hồn... và thế rồi bạn bắt đầu tranh đấu. Thế thì
bạn là linh hồn, và tranh đấu với thân thể. Bạn lại trở
thành hướng ngoại.
Thực ra, người hướng nội không thể tranh đấu
được; không có khả năng nào, bởi vì không có người
khác. Bạn sẽ tranh đấu với ai và ai sẽ tranh đấu, và để
làm gì? Bạn một mình còn lại; khi bạn đi vào bên
trong chỉ tâm thức bạn có đó. Không có lí do, không
có khả năng nào để tranh đấu cả. Và mọi nỗ lực để
tranh đấu với bản thân mình nhất định tạo ra chia chẻ
trong bạn - và đó là điều đã xảy ra cho toàn thể nhân
loại.
Toàn thể nhân loại đã bị thu về trạng thái thần
kinh; đó là tinh thần phân liệt. Mọi người đều bị chia
chẻ. Và cái gọi là người tôn giáo của bạn chịu trách
nhiệm cho thảm hoạ lớn lao này. Con người không vận
hành như một toàn thể, không như một toàn thể hoà
hợp; con người vận hành như một cá tính chia chẻ,
phân chia. Đó là lí do tại sao khó tin cậy vào con người
thế: khoảnh khắc này người đó nói điều này, khoảnh
khắc khác chính điều đối lập lại - bởi vì khoảnh khắc
này người đó có thể nói từ phía này của bản thể mình -
phía linh hồn người đó - khoảnh khắc khác người đó
có thể nói từ phía khác - phía thân thể.
Dù bằng cách nào bạn tự phân chia bản thân mình,
trong thực tại bạn vẫn còn không phân chia được. Bạn
không phải là thân thể và linh hồn; bạn là thân linh,
bạn là hồn thể, bạn là một cá nhân, thực thể không
phân chia được. Do đó Phật nhắc nhở bạn: đừng bắt
đầu tranh đấu với bản thân bạn để trở thành người chủ.
Đó là lí do tại sao nhiều người ngu trong nhiều
thời đại đã từng làm: nhịn ăn; tự hành hạ mình; nằm
trên giường gai; làm thân thể bị thương; chọc mù mắt
mình; cắt bộ phận sinh dục của họ. Hàng triệu người
đã từng làm những điều ngu xuẩn như thế. Nghiên cứu
họ, họ dường như không thể nào tin được.
Ở Nga có một giáo phái, giáo phái Ki tô giáo, có
thánh lễ nền tảng là cắt bỏ bộ phận sinh dục của họ.
Hàng nghìn người đã làm điều đó. Đàn bà sẽ cắt vú họ,
đàn ông sẽ cắt bộ phận sinh dục của họ. Và mỗi năm
có một ngày đặc biệt hàng nghìn người sẽ tụ hội, và
điều đó được thực hiện trong sự điên khùng đám đông.
Một người làm điều đó, người khác sẽ làm theo, và thế
rồi sẽ có sự điên cuồng. Và cả nghìn người bắt đầu cắt
bỏ bộ phận sinh dục của họ và máu loang khắp chỗ đó.
Họ chỉ là những người điên, nhưng họ được tôn thờ.
Bây giờ có vấn đề cho giáo phái này: làm sao tăng
được số lượng người của họ. Thế là họ sẽ đi mua hay
bắt trộn trẻ con. Đó là cách duy nhất; bằng không họ
sẽ không bao giờ có tôn giáo lớn với hàng triệu tín đồ.
Không tôn giáo nào muốn dùng phương pháp kiểm
soát sinh đẻ bởi lí do đơn giản là điều đó làm giảm số
người của họ. Người Cơ đốc giáo chống lại điều đó,
người Mô ha mét giáo chống lại điều đó, người Hindu
chống lại điều đó. Mọi người đều chống lại kiểm soát
sinh đẻ bởi lẽ đơn giản nó sẽ làm giảm số người của họ
- và con số là quyền lực. Càng nhiều người theo nhà
thờ của bạn, bạn càng quyền lực hơn. Đây là một phần
của chính trị, chính trị quyền lực. Họ không quan tâm
tới tương lai của nhân loại, họ không quan tâm tới khổ
của mọi người, họ không quan tâm tới nghèo đói.
Cho sinh thành ra đứa trẻ bây giờ gần như là một
tội ác, bởi vì thế giới đã quá đông đúc rồi. Một nửa
nhân loại đang đói, và đến cuối thế kỉ này nạn đói sẽ
trở thành sắc bén, không thể chịu đựng được tới mức
trái đất sẽ trở thành hành tinh điên. Hoặc tự tử hoặc
giết người sẽ là cách thức duy nhất cho mọi người tồn
tại, và cả hai đều sai.
Và giáo hoàng Cơ đốc giáo và shankaracharya
Hindu và các tu sĩ Hindu, đây sẽ là những người chịu
trách nhiệm, bởi vì họ tất cả đều chống lại việc kiểm
soát sinh đẻ. Họ nói hay, họ hợp lí hoá hay, rằng họ
chống lại kiểm soát sinh đẻ bởi vì kiểm soát sinh đẻ là
chống lại tự nhiên. Nếu kiểm soát sinh đẻ chống lại tự
nhiên thế thì giáo hoàng của Vatican phải chống lại
thuốc men chứ, bởi vì điều đó nữa cũng là chống lại tự
nhiên. Nếu một người sắp chết vì ung thư, cứ để người
đó chết, đừng cho người đó thuốc. Tại điểm đó giáo
hoàng tuyệt đối im lặng. Thực ra, người Ki tô giáo cứ
mở các bệnh viện mới.
Nếu sinh là tự nhiên, thế thì chết là tự nhiên. Nếu
bạn đã khuấy đảo sự cân bằng này bởi việc ngăn cản
không để mọi người chết, thế thì bạn cũng phải chấp
nhận phần kia nữa chứ. Cho phép mọi người được chết
một cách tự nhiên đi; thế rồi để họ cho sinh ra nhiều
trẻ con như họ có thể. Thế thì sẽ không có mất cân
bằng; tự nhiên tự cân bằng nó.
Mới năm mươi năm trước đây ở Ấn Độ, trong số
mười đứa trẻ thì chín đứa sẽ chết trong vòng hai năm,
chỉ một đứa sẽ sống sót. Bây giờ chính điều đối lập lại
là hoàn cảnh: chín đứa sẽ sống, chỉ một đứa sẽ chết.
Làm sao điều đó đã xảy ra trong thời gian năm mươi
năm qua? Y học hiện đại đã làm phép màu đó; nó đã
thay đổi toàn thể sự cân bằng. Nếu bạn chấp nhận
thuốc và nếu bạn chấp nhận bệnh viện và nếu bạn chấp
nhận rằng mọi người phải được cứu khỏi ung thư và
lao, thế thì bạn phải dùng kiểm soát sinh đẻ. Bằng
không làm sao dân số có thể được giữ trong giới hạn
bình thường, chịu đựng được?
Những giáo phái Nga đó bao giờ cũng gặp khó
khăn – kiếm đâu ra người mới? Và khó mà làm việc
cải đạo được vì thực hành của họ; cho nên cách duy
nhất là mua trẻ con của những người nghèo hay bắt
trộm chúng. Cả hai việc này đều được thực hành, trộm
cắp và mua - con người!
Và những loại thực hành này đã từng được theo
đuổi gần khắp nơi trên thế giới. Đã có những người
chọc mù mắt mình, bởi vì mắt làm sao lãng họ hướng
tới cái đẹp, bởi vì mắt sao lãng bạn tới cái đẹp. Chúng
tạo ra dâm dục, cho nên phá huỷ mắt đi. Nhưng bạn có
thể phá huỷ được dâm dục bằng việc phá mắt mình đi
không? Bạn có cho rằng dâm dục tồn tại trong mắt
không? Bạn có cho rằng người mù không có dâm dục
nào không? Thực ra, ngay cả khi bạn cắt bỏ bộ phận
sinh dục bạn vẫn không thể phá huy được dâm dục,
bởi vì dâm dục tồn tại đâu đó sâu bên dưới trong sọ
bạn.
Trung tâm dục không thực sự nằm ở bộ phận dục;
đó là phần bên ngoài nhất của nó. Cốt lõi bên trong
nhất của nó là trong não - có trung tâm trong não. Một
khi trung tâm đó được lẩy cò, bộ phận dục bắt đầu trở
nên sống động, nhưng việc lấy cò phải xảy ra trước hết
trong não. Đó là lí do tại sao bạn có thể có những giấc
mơ dục đẹp, bạn có thể có cực thích trong giấc mơ của
mình - chỉ là tâm trí! Đó là lí do tại sao sách báo khiêu
dâm là có thể; bộ phận dục không thể hiểu được sách
báo khiêu dâm, chính là bộ não. Bây giờ họ đã tìm
thấy đúng trung tâm chỗ của nó và nếu nó bị động
chạm tới bởi điện cực bạn lập tức đi vào cực thích dục
- ngay lập tức!
Mọi người đang làm việc - các nhà hành vi chủ
nghĩa - họ đang sắp cho con người, sớm hay muộn,
một thứ nhỏ bằng bao diêm mà bạn có thể bỏ vào túi
quần; không ai sẽ có khả năng thấy nó. Bạn có thể để
nó bên trong túi quần và nhấn nút và bạn có thể có cực
thích dục khi bước đi trên đường. Và ngay cả ở Ấn Độ
không ai có thể ngăn cản được bạn! Cảnh sát không
thể ngăn được, bởi vì không ai sẽ có khả năng biết tại
sao bạn trông sướng thế, sao lại có nụ cười lớn nở trên
khuôn mặt bạn!
Nhưng nguy hiểm là... và nguy hiểm là lớn; các
nhà hành vi chủ nghĩa đã trở nên nhận biết về nó. Họ
đã thực nghiệm với chuột. Họ đã làm ra một cái máy
nhỏ, điện cực được gắn vào đầu chuột, và chuột được
dạy nếu nó muốn cực thích dục chúng phải nhấn phím.
Những con chuột đó phát rồ! Chúng nhấn phím biết
bao nhiêu lần - sáu mươi nghìn lần liên tục một con
chuột đã làm điều đó! Nó tiếp tục; nó sẽ không ăn, nó
sẽ không uống, nó quên hết mọi thứ, cho tới khi ngã
chết. Nó mệt mỏi thế, nhưng vui thú thế... nó liều tất!
Mắt không có dâm dục, bộ phận dục cũng không
có nó; nó ở đâu đó trong tâm trí.
Tôi đã nghe một câu chuyện ngụ ngôn cổ:
Dường như là khi đấng sáng tạo làm ra thế giới,
ông ấy đã gọi con người đến bên và ban cho con người
cuộc sống dục bình thường trong hai mươi năm. Con
người khiếp hãi: "Chỉ mỗi hai mươi năm thôi sao?"
Nhưng đấng sáng tạo chẳng lay chuyển. Đó là tất cả
những gì ông ấy cho con người.
Thế rồi ông ấy gọi khỉ tới và cho khỉ hai mươi
năm.
"Nhưng tôi không cần hai mươi năm đâu," khỉ
phản đối. "Mười năm là thừa mứa rồi!"
Con người nói toạc ý kiến của mình, "Tôi có thể
được mười năm nữa không?"
Khỉ hào phóng đồng ý.
Thế rồi ông ấy gọi sư tử và cho sư tử hai mươi
năm. Sư tử nữa cũng chỉ cần mười năm. Con người lại
nói, "Tôi có được mười năm nữa không?"
Sư tử gầm lên, "Tất nhiên rồi."
Thế rồi tới lừa. Nó được cho hai mươi năm, nhưng
giống như các con vật khác, mười năm là đủ cho nó.
Con người lại hỏi xin thêm mười năm phụ và được
cho.
Điều này giải thích tại sao con người có hai mươi
năm cuộc sống dục bình thường, mười năm làm trò
khỉ, mười năm như sư tử, và mười năm như con lừa,
làm kẻ ngu xuẩn của chính mình.
Con người dường như là con vật ngu xuẩn nhất
trong tất cả những con này. Họ nói, "Thêm mười nữa
là quá đủ." Con người dường như là trong nắm giữ của
ham muốn nhiều nhất: nữa và nữa.... Bất kì điều gì con
người có cũng đều không đủ, không bao giờ đủ. Điều
này tạo ra nỗi buồn của con người, điều này làm cho
con người thành nô lệ. Cái "nữa" là chủ của bạn. Nhận
biết về cái bẫy được tạo ra bởi ham muốn thường
xuyên này về nữa là lấy bước rất cần thiết hướng tới tự
làm chủ mình.
"Có chuyện gì vậy?" người đứng quầy đối diện với
một khách hàng trẻ, ăn mặc diêm dúa, đang ngồi ủ rũ
bắt đầu uống rượu.
"Hai tháng trước ông nội tôi mất và để lại cho tôi
tám mươi nhăm nghìn đô la," người này nói.
"Điều đó chẳng có vẻ gì là đau khổ cả," người
đừng quầy nói, vừa đánh bóng lại chiếc kính. "Điều đó
đáng xảy ra cho tôi!"
"Vâng," chàng thanh niên cấn cảu nói, "nhưng
tháng trước một ông cậu bên mẹ tôi qua đời. Ông ấy để
lại cho tôi một trăm năm mươi nghìn đô la."
"Thế sao anh ngồi đầy trông bất hạnh thế?" người
đứng quầy hỏi.
"Cho tới tháng này thì chẳng được xu nào!"
Bạn không thể nào được thoả mãn bởi bất kì cái gì,
bởi vì tâm trí bao giờ cũng đòi hỏi nữa. Và ham muốn
về nhiều nữa tạo ra buồn khổ, làm bạn thành nô lệ. Và
ham muốn về nhiều nữa không cho phép bạn sống theo
luật vũ trụ. Bạn bắt đầu tranh đấu vì thêm nữa. Dù nó
là cái gì đó bên ngoài hay bên trong cũng không thành
vấn đề; nếu bạn đang tranh đấu vì cái gì đó thêm nữa,
bạn đang đi ngược lại luật của tự nhiên.
Tin cậy vào tự nhiên đi, được thảnh thơi với nó.
Nó chăm nom. Nó bao giờ cũng cung cấp cho bạn bất
kì cái gì thực sự được cần tới, và nếu nó không cung
cấp cho bạn, điều đó nghĩa là nó không thực sự được
cần tới.
Phật nói: Làm chủ bản thân ông theo luật. Đây là
giáo huấn đơn giản của người thức tỉnh. Một điều cần
được lưu ý: Phật bao giờ cũng nói điều này, "của
người đã thức tỉnh." Ông ấy không nói, "Đây là giáo
huấn của Phật Gautama." Ông ấy đơn giản nói, "của
người đã thức tỉnh" - bất kì ai đã thức tỉnh. Ông ấy
không làm điều đó thành phát biểu cá nhân, ông ấy
làm nó thành một điều phổ quát: Bất kì ai thức tỉnh,
điều này sẽ là giáo huấn của ông ấy. Và điều này rất
hiếm hoi, điều này là duy nhất. Thức tỉnh có thể xảy ra
cho bất kì ai: nó đã xảy ra cho Jesus, nó đã xảy ra cho
Lão Tử, nó đã xảy ra cho Basho - nó có thể xảy ra cho
bất kì ai. Phật đang nói rằng bất kì ai thức tỉnh, điều
này sẽ là giáo huấn của người đó.
Làm chủ bản thân ông theo luật. Đây là giáo huấn
đơn giản của người thức tỉnh. Ông ấy tuyệt đối không
mang tính con người, không có người. Ông ấy chỉ là
sự hiện diện, phương tiện của luật vũ trụ, nói ra không
nhân danh bản thân mình mà nhân danh Thượng đế,
cho phép bản thân mình được Thượng đế dùng như
một trung gian.
Mưa có thể biến thành vàng
và dầu vậy cơn khát của ông sẽ không dịu bớt.
Ham muốn là không thể thoả mãn được
hay nó chấm dứt trong nước mắt, ngay cả trong
cõi trời.
Ham muốn là không thể thoả mãn được. Tại sao? -
bởi vì ham muốn nghĩa là thêm nữa; làm sao bạn có
thể làm dịu nó được? Vào lúc bạn đạt tới, nó đòi hỏi
nhiều hơn. Bạn muốn mười nghìn ru pi; lúc bạn có
mười nghìn ru pi, ham muốn đã đi lên trước bạn - nó
đang đòi một trăm nghìn. Đến lúc bạn đạt tới đó, ham
muốn đã đi rồi. Nó bao giờ cũng đi lên trước bạn;
khoảng cách giữa bạn và ham muốn của mình bao giờ
cũng vẫn còn như cũ.
Khoảng cách giữa người ăn xin và ham muốn của
người đó, và khoảng cách giữa Alexander Đại đế và
ham muốn của ông ấy là như nhau. Cả hai đều nghèo
theo cùng cách. Alexander có thể có nhiều, điều đó
không tạo ra mấy khác biệt - ông ấy không được thoả
mãn với cái ông ấy có.
Tương truyền Diogenes có lần đã nói với
Alexander Đại đế, "Ông đã bao giờ nghĩ về một điều
này không? – suy tư về nó đi: ông muốn chinh phục
toàn thế giới, nhưng ông có nhận biết rằng một khi ông
đã chinh toàn thế giới, thì sao? Không có thế giới
khác. Thế thì ông sẽ làm gì?"
Và tương truyền, chỉ bởi Diogenes nói điều đó,
Alexander đã trở nên rất buồn, và ông ta nói, "Xin
đừng nhắc tới điều buồn đó nữa - cứ để ta trước hết
chinh phục toàn thế giới, thế rồi chúng ta sẽ xem.
Nhưng đừng nói về những điều buồn thế với ta; nó làm
cho ta cảm thấy rất buồn."
Ông ta chưa chinh phục được toàn thế giới, nhưng
chính ý niệm rằng nếu bạn chinh phục toàn thế giới,
thế thì bạn sẽ làm gì? Không có thế giới khác, và bạn
sẽ cảm thấy bị mắc kẹt. Tâm trí sẽ đòi hỏi nhiều hơn.
Tâm trí sống qua thêm nữa, và thêm nữa không thể
được hoàn thành; điều đó là không thể được. Nó chấm
dứt trong nước mắt. Mọi ham muốn đều chấm dứt
trong thất vọng, bởi vì mọi trông đợi đều là bắt đầu
của thất vọng. Tại sao mọi ham muốn đều chấm dứt
trong thất vọng? Chỉ có hai phương án: hoặc bạn đạt
tới đối tượng của ham muốn hoặc bạn không đạt tới
nó, nhưng trong cả hai trường hợp nó sẽ chấm dứt
trong nước mắt. Nếu bạn đạt tới nó bạn sẽ thấy cái vô
tích sự hoàn toàn của nó.
Người giầu thấy cái vô tích sự của sự giầu của
mình - người đó đã lao động nhiều thế, và người đó đã
làm việc vì nó nhiều thế! Và bây giờ, bất kì cái gì
người đó đã đạt tới đều tuyệt đối vô dụng, nó chẳng
hoàn thành cái gì cả. Bạn có thể có hai con ngựa hay
ba con ngựa, một con trong thành phố, một con trên
núi, một con ở bãi biển, nhưng bạn vẫn là cùng con
người đó, vẫn trống rỗng như trước. Bạn có thể sống
trong lâu đài, nhưng làm sao bạn có thể thay đổi cái vô
nghĩa bên trong của mình được? Bạn sẽ vô nghĩa trong
lâu đài như bạn vô nghĩa trong túp lều.
Thực ra, bạn sẽ vô nghĩa nhiều hơn trong lâu đài,
bởi vì trong khi bạn còn trong lều bạn có thể vẫn hi
vọng rằng một ngày nào đó khi bạn đã xoay xở để vào
trong lâu đài, mọi thứ sẽ tốt. Bạn có thể hi vọng,
nhưng người đang ở trong lâu đài rồi, người đó không
có hi vọng nào, người đó cảm thấy hoàn toàn vô vọng.
Và người đó không thể nói điều đó cho người khác
được, bởi vì điều đó sẽ là ngu xuẩn của người đó. Mọi
người sẽ nghĩ rằng bạn đã làm việc vất vả...
Nghĩ về Alexander Đại đế mà xem: ông ta đã dành
cả đời mình để chinh phục thế giới. Và khi ông ấy đã
chinh phục nó, nếu ông ấy đã nói với thế giới rằng
"Điều đó là vô dụng. Tôi đã phí hoài thời gian và cuộc
đời mình," mọi người sẽ nghĩ ông ấy ngu. Ông ấy
không thể thấy được điều đó trước đây sao?
Có một câu chuyện cổ ở Ấn Độ:
Một anh chồng sợ vợ hỏi ai đó, "Phải làm gì đây?
Vợ tôi lấn lướt thế."
Người bạn gợi ý, "Anh đáng ra không nên cho
phép điều đó từ ngay lúc ban đầu, nhưng bây giờ điều
đó khó rồi. Dầu vậy cũng không phải là quá muộn.
Hôm nay anh uống thật say đi, để cho anh có thể có
dũng cảm. Thế rồi về nhà la hét và đập cửa và đi vào
nhà ném lung tung mọi thứ và cho cô ấy thấy rằng anh
là thằng đàn ông. Và đánh cho cô ta một trận, cho cô ta
một trận nhừ tử! Giải quyết điều đó một lần cho mãi
mãi."
Thế là người này uống say, mặc dầu anh ta vẫn sợ
rằng, "Những điều này dường như là không thể được -
mình không thể làm nó được. Nhưng có thể việc say sẽ
giúp ích."
Anh ta say và cảm thấy thực sự lớn lao, phổng
phao, nhưng khi anh ta về gần nhà, dần dần, dần dần
anh ta trở nên tỉnh hơn; ảnh hưởng của cồn biến mất
dần. Nỗi sợ nảy sinh, nhưng anh ta vẫn giữ mình dũng
cảm bằng việc lặp lại, "Đàn ông là đàn ông thông
minh, và ít nhất ta có thể làm điều đó một lần nó sẽ
được chấm dứt mãi mãi. Và điều đó đáng làm."
Thế là anh ta đập cửa, la hét, đi vào bên trong bắt
đầu ném lung tung mọi thứ.
Vợ anh ta giận lắm. Cô ấy giận tới mức cắt phăng
mũi của anh ta bằng con dao. Bây giờ không mũi thì
khó mà sống được trong thị trấn, thế là người này trốn
khỏi thị trấn trong đêm - cũng đêm đó anh ta trốn biệt.
Nhưng anh ta đi bất kì đâu, mọi người đều hỏi,
"Chuyện gì xảy ra cho mũi anh thế?"
Thế là anh ta trở thành một sadhu, anh ta trở thành
sư, anh ta từ bỏ thế giới. Anh ta nói anh ta đã từ bỏ thế
giới, vợ và tất cả. Và anh ta phải tìm là cách hợp lí hoá
cho cái mũi của mình, cho nên anh ta nói, "Đây là kĩ
thuật cuối cùng để đạt tới, để nhận ra Thượng đế.
Khoảnh khắc bạn cắt mũi mình... chính mũi là rào
chắn!" Và anh ta triết lí hoá về cái mũi và anh ta nói,
"Mũi đại diện cho bản ngã." Và điều đó đúng - mũi đại
diện cho bản ngã. Bạn có thể thấy bản ngã trên mũi;
chẳng ở đâu khác nó rõ ràng thế!
Cho nên anh ta đã thuyết phục được vài người. Và
phương pháp dường như đơn giản thế - chỉ cắt mũi
thôi và bạn được chân lí tối thượng và phúc lạc - và
anh thường trong phúc lạc thế. Anh ta giả vờ, nhưng
còn gì khác để làm? - không có mũi anh ta phải cứu
thể diện của mình bằng cách nào đó! Và không có mũi
là khó, nhưng anh ta cười, nhảy múa, và anh ta bao giờ
cũng cực lạc.
Vài người ngu xuẩn trở nên sẵn sàng cắt mũi họ,
cho nên anh ta sẽ đưa một người vào rừng, cắt mũi
người đó, và hỏi người đó, "Anh có thể thấy Thượng
đế không? "
Người này sẽ nói, "Tôi không thể thấy gì cả, và
mũi tôi biến rồi."
Và người này sẽ nói, "Tôi cũng không thể thấy
được, nhưng bây giờ tốt hơn cả là anh đừng nói với ai
cả, bởi vì mũi anh mất theo cùng cách như mũi tôi mất.
Bây giờ anh là một phần của mưu đồ này đi. "Bảo với
người khác... trở nên cực lạc và bảo người khác rằng
anh đã đạt tới Thượng đế."
Còn gì khác có đó để làm bây giờ? Mũi không thể
được chắp lại; vào thời đó không có giải phẫu làm mũi
giả. Điều này dường như là cách hợp lí hoá duy nhất.
Cho nên người này sẽ nhảy múa trong thị trấn và bảo
người khác, "Người đó là bậc thầy vĩ đại nhất - tôi đã
thấy Thượng đế. Kinh nghiệm vĩ đại làm sao! Tôi phúc
lạc thế và phúc lạc cứ mưa rào lên tôi! Hai mươi bốn
giờ tôi cực lạc và Thượng đế ở cùng tôi." Và ông ấy sẽ
nói những điều lớn lao. Và người Ấn Độ rất có khả
năng nói về những điều lớn lao; trong hàng thế kỉ họ
đã nói và nói và nói.
Thêm vài người nữa trở nên quan tâm, và dần dần,
dần dần anh ta có một đám tụ hội. Càng nhiều người ở
cùng anh ta không có mũi, lí thuyết của anh ta càng bắt
đất. Ngay cả nhà vua cũng trở nên quan tâm: "Nếu có
phương pháp đơn giản thế " - gần giống như Thiền
Siêu việt! - "Sao không thử?" Nhưng tể tướng có chút
ít hoài nghi, ngần ngại. Ông ta nói, "Xin bệ hạ đợi đã,
đừng vội. Để thần điều tra trước đã."
Thế là ông ta bắt người này, đánh cho anh ta một
trận nên thân, và bảo anh ta, "Nói sự thật đi, bằng
không chúng ta sẽ giết anh!"
Thế là anh ta phải nói sự thật: "Chính bởi vì vợ tôi
đã cắt mũi tôi, và tôi có thể làm gì khác được? Tôi phải
tìm cách nào đó để cứu thể diện của tôi, và điều này
dường như là cách thức hấp dẫn, đơn giản nhất. Và tôi
hoàn toàn hạnh phúc bây giờ: tôi có người theo, nhu
cầu của tôi được chăm sóc tới, và các ông sẽ ngạc
nhiên - ngay cả vợ tôi người biết rõ rằng cô ấy đã cắt
mũi tôi, cô ấy đã tới gặp tôi một hôm và hỏi tôi, 'Có
chuyện gì vậy?' Và tôi đã nói, 'Mặc dầu em đã cắt mũi
anh... nhưng khoảnh khắc mũi anh bị cắt anh đã thấy
Thượng đế!' Và cô ấy suy tư trở thành tín đồ và tôi chỉ
đợi cô ấy thôi. Tôi muốn cắt mũi cô ấy! Để tôi cắt mũi
cô ấy đã, thế rồi các ông có thể giết tôi hay làm bất kì
cái gì các ông muốn làm với tôi. Để tôi báo thù trước
đã!"
Và cách thức tâm linh để báo thù là thế đấy!
Bạn cứ đi theo người khác, mặc dầu bạn thấy họ
sống trong khổ. Bạn cứ đi theo người có quyền, người
giầu, người có của, mặc dầu bạn thấy khuôn mặt của
họ buồn bã, đôi mắt họ đờ đẫn. Họ dường như không
thông minh; họ không có duyên dáng nào, vui vẻ nào,
cái đẹp nào.
Nếu bạn thành công bạn sẽ trong đau đớn, bởi vì
thành công của bạn sẽ đem chân lí về nhà: rằng toàn
thể cuộc đời bạn đã bị hi sinh chẳng vì cái gì cả. Hay
nếu bạn thất bại bạn sẽ thất vọng, bởi vì bạn sẽ thấy
rằng bạn đã thất bại, rằng bạn không xứng đáng, rằng
bạn không có giá trị gì. Bạn sẽ trở nên tự kết án mình.
Phật đúng. Ông ấy nói: Nó chấm dứt trong nước
mắt. Mọi ham muốn, dù được hoàn thành hay không
được hoàn thành, đều chấm dứt trong nước mắt. Và
không ham muốn nào đơn giản chấm dứt cả; trước khi
nó chấm dứt nó cho sinh thành ra ham muốn khác.
Cho nên nó vẫn còn là sự liên tục: người ta đi từ ham
muốn này sang ham muốn khác, kiếp nọ tới kiếp kia.
Người muốn thức tỉnh
phá huỷ ham muốn của mình
một cách vui vẻ.
Hoặc bạn sẽ bị phá huỷ bởi ham muốn của bạn
hoặc bạn phải phá huỷ ham muốn của bạn. Và Phật
ngụ ý gì bởi việc nói, "phá huỷ ham muốn của mình"?
Ông ấy đơn giản ngụ ý: chứng kiến, quan sát. Toàn thể
câu chuyện là ngu xuẩn.
Người thông minh sống một cách vui vẻ, mãn
nguyện, trong bất kì tình huống nào người đó đang ở,
với bất kì cái gì người đó có. Người đó sống một cách
vui vẻ, cảm ơn, biết ơn. Bạn có thể lấy của cải của
người đó đi nhưng bạn không thể lấy được vui vẻ của
người đó, bởi vì người đó biết cách sống vui vẻ.
Vui vẻ của người đó không phụ thuộc vào cái gì,
không phụ thuộc vào nguyên nhân bên ngoài nào. Vui
vẻ của người đó là hiểu biết bên trong của người đó:
hiểu biết rằng từ bên ngoài người ta chưa bao giờ đạt
tới vui vẻ, rằng từ ham muốn người ta bao giờ cũng đi
tới nước mắt. Thấy bản chất này của ham muốn, ham
muốn của người đó đã biến mất; người đó sống không
ham muốn. Và sống không ham muốn là sống trong
mãn nguyện, chính là sống không có khao khát thêm
nữa. Thế thì bất kì cái gì có đó, cũng là quá đủ rồi.
Hoặc bạn sống trong ham muốn hoặc bạn sống
trong biết ơn: nhớ điều này. Người sống trong ham
muốn không thể biết ơn Thượng đế được, người đó chỉ
có thể phàn nàn và phàn nàn thôi; người đó bao giờ
cũng có bực tức nào đó với Thượng đế. Nhưng người
không có ham muốn chỉ có lòng biết ơn. Ngay cả cái
được trao cho người đó cũng là nhiều hơn - nhiều hơn
người đó xứng đáng. Người đó bao giờ cũng cám ơn;
trong việc cám ơn đó là cái đẹp và phúc lành.
Trong sợ hãi con người có thể trú ẩn
trong núi hay trong rừng,
trong lùm cây thiêng hay trong điện thờ.
Nhưng làm sao người đó có thể trốn ở đó khỏi
buồn khổ của mình?
Bạn có thể trốn lên hang động, lên núi non, vào
rừng rậm, nhưng làm sao bạn có thể trốn khỏi bản thân
mình được? Không thể trốn đâu được khỏi bản thân
mình.
Lối ra duy nhất là được biến đổi, trở nên chứng
ngộ. Quan sát, nhìn, chứng kiến ham muốn của bạn,
dần dần, dần dần đem tới thức tỉnh. Người cư ngụ vào
con đường... Cho nên đừng đi bất kì chỗ nào khác.
Không có chỗ cư ngụ khác ngoại trừ pháp, ngoại trừ
con đường.
Người cư ngụ vào con đường
và đi cùng những người theo nó
đi tới thấy ra bốn chân lí lớn.
Phật nói, không cho tính từ nào cho nó, một cách
đơn giản là "con đường." Đó đích xác là nghĩa của đạo
- "con đường." Đó không phải là người Hindu giáo
không người Mô ha mét giáo không người Ki tô giáo
không Phật tử; đó đơn giản là "con đường." Cư ngụ
vào "con đường."
Dhammam sharanam gachchhami - tôi cư ngụ vào
luật, vào con đường. Đó là cách những người ham
muốn trở thành người thụ giáo Phật thường cầu
nguyện với ông ấy. Ba cư ngụ: cư ngụ vào thầy đã
thức tỉnh, cư ngụ vào công xã của thầy, và cư ngụ vào
luật, vào pháp, vào con đường. Buddham sharanam
gachchhami - đó là cư ngụ đầu tiên - tôi cư ngụ vào
người đã thức tỉnh.
Sangham sharanam gachchhami - tôi cư ngụ vào
công xã những người đã thức tỉnh. Và dhammam
sharanam gachchhami - tôi cư ngụ vào luật, vào con
đường, vào sự hài hoà tối thượng của sự tồn tại. Ba cư
ngụ này là quan trọng vô cùng.
Lời kinh nói: Người cư ngụ vào con đường và đi
cùng những người theo nó... Tôn giáo là cái gì đó
không thể được dạy nhưng chỉ có thể bị bắt giữ. Nó
cũng giống như lây nhiễm: bạn không thể dạy được
nó, nhưng nếu bạn sống cùng người đã bị nhiễm nó, nó
thành lây lan. Thế thì bạn sẽ dần dần, dần dần trở nên
được hài hoà với nó.
Tương truyền rằng trong một trong những kinh
sách Đạo cổ có chuyện là ngay cả một hòn đá cuội
được ném vào trong đống kim cương, sớm hay muộn
hòn đá cuội sẽ trở thành kim cương. Điều đó đúng:
không phải về hòn đá đâu - nó đúng về con người.
Nếu bạn là một phần của công xã nơi nhiều người
đang đi tới mặt trời hay đi tới cội nguồn ánh sáng, tình
yêu, vui vẻ, bạn có thể tụt lại sau được bao lâu? Sớm
hay muộn tinh thần của công xã sẽ chế ngự bạn, ngập
lụt bạn.
Nếu bạn nghe nhạc hay và bạn bắt đầu cảm thấy
nó sâu bên trong mình, một loại đồng bộ nảy sinh. Nếu
bạn thấy một vũ công nhảy múa bạn cảm thấy chân
bạn giậm giật sẵn sàng để nhảy múa; cái gì đó đã được
truyền cho chân bạn. Điều đó không phải là thấy được,
nó không đo được, nó phi vật chất, nhưng rung động
nào đó... bạn đã bắt được rung động; bạn sẽ muốn
đứng dậy và nhảy múa.
Cùng điều đó xảy ra trong công xã của vị phật. Sự
hiện diện của vị phật là nan châm cực kì mạnh. Nó hấp
dẫn tất cả những người dũng cảm, nó hấp dẫn tất cả
những người tìm kiếm thực sự, nó hấp dẫn tất cả
những người đích thực. Và thế rồi công xã dần dần,
dần dần được tạo ra. Nếu bạn trở thành một phần của
công xã bạn bắt đầu đi cùng với công xã vào lãnh thổ
không biết. Đi vào lãnh thổ không biết là dễ dàng hơn
khi bạn thấy nhiều người thế đang đi tới mục đích tối
thượng đó.
Người cư ngụ vào con đường
và đi cùng những người theo nó
đi tới thấy ra bốn chân lí lớn.
liên quan tới khổ,
bắt đầu của khổ,
con đường tám làn,
và kết thúc của khổ.
Toàn thể giáo huấn của Phật có thể được chia
thành bốn phần. Bốn chân lí cao quí (tứ diệu đế) ông
ấy gọi là arya satya - chân lí cao quí. Chân lí thứ nhất
là ở chỗ cuộc sống không được cân nhắc là khổ, cuộc
sống không chứng ngộ là khổ. Đó là chân lí nền tảng
nhất, Phật nói. Những người theo con đường, họ trở
nên nhận biết về điều đó: rằng cuộc sống có thể được
sống theo hai cách, hoặc có ý thức hoặc vô ý thức. Nếu
bạn sống một cách vô ý thức bạn sẽ sống trong khổ,
bạn sẽ bị phó mặc cho bản năng mù quáng.
Một bà quả phụ Mĩ giàu có có ý nghĩ kì quặc về
việc cưới một đàn ông chưa bao giờ có kinh nghiệm
dục với đàn bà.
Bà ta liên hệ với một hãng trinh thám quốc tế, thận
trọng, và trong vòng sáu tháng họ tìm được một quí
ông người Ôxtralia dường hoàn toàn phù hợp cho bà
goá này.
Vào đêm tân hôn bà goá run mình với kích động
khi bà ấy làm vệ sinh xong và đi vào phòng cô dâu để
đón chào chồng mình. Bà ấy chưng hửng, anh ta đã
chất đầy đồ đạc, kể cả giường ngủ vào trong phòng
khách.
"Sao anh bỏ hết đồ đạc ra thế?" bà ta thốt ra trong
ngờ vực.
"Thế này," vị hôn phu mới của bà ta lè nhè, "tôi
chưa bao giờ ngủ với đàn bà trước đây, nhưng nếu đó
là cái gì giống như những con căng gu ru, chúng ta sẽ
cần đủ không gian mà chúng ta có thể có."
Mọi người cứ sống trong suy tưởng kì quặc, suy
tưởng ngớ ngẩn. Bạn nhìn vào những suy tưởng riêng
của mình và chúng tất cả đều lố bịch. Nhưng bạn chưa
bao giờ thấy những suy tưởng riêng của mình là lố
bịch cả; thấy suy tưởng của người khác là lố bịch còn
dễ hơn.
Nhìn vào suy tưởng riêng của bạn đi. Bạn muốn gì
về cuộc sống của mình? Bạn đang sống vì cái gì vậy?
Chương trình của bạn là gì, lịch biểu trên trần gian này
của bạn là gì? Tại sao bạn vẫn muốn sống ngày mai?
Nhìn vào những suy tưởng của bạn đi. Nếu bạn được
cho sống chỉ bẩy ngày thôi, bạn sẽ hoàn thành bẩy
ngày đó như thế nào? Bằng cái gì? Viết ra các suy
tưởng của bạn, đừng tinh ranh và đừng láu cá - chân
thực hoàn toàn. Và bạn sẽ thấy tất cả các suy tưởng
của bạn là lố bịch. Nhưng đây là cách mọi người đang
sống đấy.
Cuộc đời này, Phật nói, không là gì ngoài khổ.
Ông ấy đồng ý với Socrates. Socrates nói: Cuộc sống
không được cân nhắc là không đáng sống. Và Phật nói:
Cuộc sống không được cân nhắc không là gì ngoài
khổ. Đó là chân lí cao quí thứ nhất.
Và chân lí cao quí thứ hai người ta trở nên nhận
biết về nó nếu người ta đi theo con đường là: Bắt đầu
của khổ... nguyên nhân của khổ. Nguyên nhân là ham
muốn - ham muốn về thêm nữa. Đầu tiên người ta kinh
nghiệm rằng toàn thể cuộc đời mình đầy khổ, thế rồi
người ta trở nên nhận biết rằng nguyên nhân là ham
muốn. Những người đã thoát khỏi bánh xe ham muốn
là không khổ, họ hoàn toàn phúc lạc. Nhưng những
người bị mắc trong bánh xe này đều bị nghiền nát bởi
biết bao nhiêu ham muốn.
Chân lí thứ nhất là: cuộc sống là khổ. Chân lí thứ
hai: nguyên nhân của khổ là ham muốn, ham muốn
thêm nữa. Và chân lí thứ ba là con đường tám làn. Phật
nói rằng toàn thể cách tiếp cận của ông ấy về biến đổi
bản thể bạn có thể được chia thành tám bước; điều đó
được gọi là con đường tám làn. Và tất cả những bước
đó không là gì ngoài các chiều khác nhau của một hiện
tượng: chính tâm, sammasati. Bất kì cái gì bạn làm,
làm nó một cách tuyệt đối có ý thức, tỉnh táo, làm nó
với nhận biết. Tám bước này không là gì ngoài việc áp
dụng nhận biết vào trong các khía cạnh khác nhau của
cuộc sống.
Chẳng hạn: nếu bạn đang ăn, Phật nói, ăn với nhận
biết đầy đủ - samyak ahar. Thế thì bất kì cái gì bạn ăn
cũng đều đúng - chỉ là nhận biết. Bây giờ thấy sự khác
biệt: các tôn giáo khác nói, "Ăn cái này, ăn cái kia.
Không ăn cái này, không ăn cái kia." Phật chưa bao
giờ nói cái gì phải ăn, cái gì không phải ăn. Ông ấy
nói, "Bất kì cái gì ông đang ăn, ăn với nhận biết đầy
đủ. Và nếu nhận biết của ông nói không, thế thì đừng
ăn nó." Bạn có thể ăn thịt với nhận biết không? Điều
đó là không thể được; bạn có thể ăn thịt chỉ với vô
nhận biết.
Ở châu Phi vài ngày trước đây, một nhà độc tài
châu Phi, Bokasso, người đã cố gắng là một Napoleon
khác, đã bị truất phế. Điều kì lạ nhất đưa ra ánh sáng là
ở chỗ trong nhà ông ta, trong tủ lạnh của ông ta, người
ta tìm thấy thịt người. Ông ta là kẻ ăn thịt người.
Nghĩ về một người ăn thịt người khác mà xem.
Điều đó là có thể có trong ý thức không? Toàn thể vấn
đề trá hình thế! Người ta nói rằng trẻ em bị đánh cắp
chỉ để chuẩn bị bữa ăn cho Bokasso. Tất nhiên, trẻ nhỏ
có thịt ngon. Hàng trăm đứa trẻ đã biến mất và không
ai có thể đã từng nghĩ rằng con người này, người
thường tự gọi mình là hoàng đế, là nguyên nhân đằng
sau toàn thể sự việc.
Nhưng hoàn cảnh cũng là vậy khi bạn ăn thịt con
vật, không khác gì mấy trong đó. Con vật cũng có
cuộc sống như bạn có vậy. Chúng là anh chúng ta và
chị chúng ta.
Phật chưa bao giờ nói ăn cái gì, không ăn cái gì;
ông ấy chưa bao giờ đi vào chi tiết. Và đó là cách tiếp
cận của tôi nữa: hãy là nhận biết.
Và tương tự như thế ông ấy dùng phương pháp của
nhận biết này cho các điều khác trong cuộc sống:
samyak vyayam - chính nỗ lực. Đừng làm nỗ lực quá
nhiều và đừng làm nỗ lực quá ít. Chính nỗ lực cho mọi
thứ, nỗ lực cân bằng, nỗ lực không làm rối thanh bình
của bạn. Cuộc sống giống như đi trên dây: chính nỗ
lực được cần tới và nhận biết để cho bạn không thể
ngã được. Từng khoảng khắc đều có nguy hiểm: nếu
bạn nghiêng quá nhiều sang bên trái bạn sẽ ngã. Thấy
mình nghiêng quá nhiều sang bên trái bạn phải
nghiêng sang phải để giữ cân bằng. Và khi bạn
nghiêng sang phải một khoảnh khắc tới, bạn bắt đầu
cảm thấy rằng bây giờ bạn sẽ rơi sang phải; thế thì bạn
bắt đầu nghiêng sang trái chỉ để cho cân bằng. Đây là
nỗ lực đúng: giữ được cân bằng.
Tất cả tám bước này đều không là gì ngoài việc áp
dụng một điều - nhận biết. Phật gọi nó là chính tâm.
Đừng làm gì một cách vô ý thức.
Và chân lí thứ tư: và kết thúc của khổ - niết bàn,
việc dừng của khổ. Người đi theo con đường này tìm
ra bốn điều: sống là khổ, nguyên nhân của khổ là ham
muốn, phương pháp gạt bỏ khổ là con đường tám làn,
về căn bản được bắt rễ, về bản chất, trong hiện tượng
nhận biết. Và chân lí thứ tư: rằng nếu bạn đi theo nhận
biết bạn sẽ đạt tới việc chấm dứt khổ, bạn sẽ đạt tới
niết bàn. Phật nói: Đây là bốn chân lí cao quí.
Thế rồi cuối cùng người đó an toàn.
Và người đã đi qua tất cả bốn chân lí này và đã đạt
tới chân lí thứ tư, người đó cuối cùng được an toàn.
Người đó giũ sạch khổ.
Người đó tự do.
Tự do với khổ là được tự do. Nếu bạn vẫn còn
trong khổ bạn không tự do. Nếu bạn vẫn còn buồn, dù
bạn có thể là thánh nhân vĩ đại tới đâu, bạn vẫn không
tự do; bạn vẫn còn xa lắm với mục đích này.
Và cái gọi là các thánh nhân của chúng ta là những
người trông rất buồn. Mọi người nghĩ họ càng buồn,
họ càng vĩ đại. Họ không tự do khỏi khổ, thực ra họ
còn trong khổ nhiều hơn người thường, phàm nhân.
Phàm nhân đôi khi còn cười nữa, còn hưởng thú nữa,
nhảy múa nữa, ca hát nữa, nhưng cái gọi là thánh nhân
nhìn người cười, ca hát, nhảy múa đó với sự kết án.
Ông ta nghĩ họ chỉ giả tạo. Tiếng cười của họ không
phải là tiếng cười cho ông ta, vui vẻ của họ không phải
là vui vẻ cho ông ta. Ông ta có kết án lớn về tất cả
những điều này, bởi vì ông ta đã từ bỏ tất cả những
điều này mà không hiểu biết, không trải qua bốn chân
lí cao quí này. Ông ta đã đơn giản từ bỏ; ông ta đã đi
theo truyền thống, tục lệ, của việc từ bỏ. Ông ta là kẻ
đào tẩu. Ông ta phải kết án mọi tiếng cười, bởi vì ông
ta không thể cười được. Ông ta đã trở nên khô khan,
khô như tảng đá; ông ta không thể nở ra thành hoa
được. Ông ta phải kết án tất cả mùa xuân và ông ta
phải kết án tất cả bụi hồng. Và ông ta tìm cách thức và
phương tiện để kết án bạn.
Nếu bạn đi tới cái gọi là thánh nhân, ông ta nhìn
bạn cứ dường như bạn không phải là con người. Ông
ta nhìn bạn như kẻ bị kết tội, kết tội đầy địa ngục, nhất
định xuống địa ngục, đã sa ngã vào cái hố không đáy
của địa ngục. Ông ta nhìn bạn với sự kết án, với lòng
thương hại. Nhưng thương hại không phải là từ bi, và
kết án đơn giản chỉ ra rằng ông ta đã không biết cái gì
chút nào.
Ông ta chỉ là cùng kiểu người như bạn vậy, chỉ
đứng lộn đầu mình xuống. Bạn tham tiền, ông ấy sợ
tiền. Bạn có quan hệ với tiền qua tham, ông ta có quan
hệ với tiền qua sợ hãi. Nhưng cả hai đều có quan hệ
với tiền, cả hai đều bị ám ảnh với tiền.
Người ta kể là nếu bạn lấy tiền đưa cho Vinoba
Bhave ông ta lập tức nhắm lại - ông ta không thể nhìn
tiền được. Bây giờ điều này có vẻ buồn cười - phải có
nỗi sợ lớn. Chỉ tờ bạc mười ru pi thôi... sao bạn lại sợ
nó tới mức bạn phải nhắm tịt mắt lại? Nhưng bởi vì
ông ta nhắm mắt - ông ta chưa bao giờ chạm vào tiền,
ông ta không muốn thấy tiền - ông ta được kính trọng
như một thánh nhân vĩ đại. Nhưng nỗi sợ tiền này, sự
đối kháng này, là một loại quan hệ. Ông ta không tự do
với tiền, bằng không sao phải nhắm mắt lại? Và mười
ru pi chẳng là gì ngoài mẩu giấy. Bạn không nhắm mắt
khi bạn nhìn vào mẩu giấy - sao cho mẩu giấy này
quan trọng lắm thế? Phải có tham sâu sắc bên dưới
thường trực trong cái đầu rồi.
Có những người chạy theo đàn bà hay theo đàn
ông, và thế rồi có những người chạy khỏi đàn ông hay
hay chạy khỏi đàn bà. Nhưng cả hai đều bị ám ảnh với
giới kia. Sự ám ảnh này không chứng tỏ hiểu biết.
Hiểu biết đem bạn tới tự do khỏi mọi ám ảnh - về sợ
hãi, về tham. Hiểu biết thực đơn giản làm cho bạn tự
do khỏi mọi ham muốn và phản ham muốn. Nó làm
cho bạn tự do khỏi thế giới này và thế giới khác nữa.
Nó đơn giản làm cho bạn tự do.
Người thức tỉnh là ít và khó tìm thấy.
Hạnh phúc là ngôi nhà nơi người ta thức tỉnh.
Phật lặp đi lặp lại điều này, và điều đó cũng xứng
đáng lặp lại để cho bạn trở nên tỉnh táo về hiện tượng
này; nó rất hiếm hoi - Người thức tỉnh là ít và khó tìm
thấy. Vâng, bạn sẽ thấy nhiều người rởm đang giả vờ;
và rất khó đánh giá ai là rởm và ai là thực. Nhưng đôi
điều có thể được ghi nhớ. Người rởm bao giờ cũng
chống lại thế giới; người đó đã thay thế sợ bằng tham.
Người rởm bao giờ cũng là kẻ trốn chạy. Người rởm
bao giờ cũng buồn, người đó không thể cười được;
tiếng cười dường như quá tầm thường, gần như báng
bổ với người đó.
Người thức tỉnh thực sự không ủng hộ thế giới
không chống lại thế giới. Người đó sống trong thế giới
và tuyệt đối tự do với nó. Người đó sống trong thế giới
nhưng thế giới không sống trong người đó. Người đó ở
trong thế giới nhưng không phải là của nó. Người đó
chưa bao giờ là kẻ trốn chạy. Một khi bạn đã trở nên
thức tỉnh, không có đâu mà trốn đi, không có nhu cầu;
thực ra, không có người nào để trốn chạy cả.
Người chưa thức tỉnh, người rởm, người giả vờ là
thầy hay vị phật, nhất định tạo ra phân chia giữa
Thượng đế và thế giới, và người đó sẽ bảo bạn từ bỏ
thế giới nếu bạn muốn được Thượng đế. Thực ra, điều
đó cũng là hệt như: Cắt mũi đi nếu bạn muốn thấy
Thượng đế.
Mũi không ngăn cản bạn thấy Thượng đế mà thế
giới cũng không ngăn cản bạn thấy Thượng đế. Thực
ra, nếu bạn có mắt kém, mũi sẽ giúp bạn - bằng không
bạn sẽ đeo kính vào đâu? Không có mũi điều đó sẽ rất
khó! Mũi không phải thứ cản trở, nó đôi khi có thể
giúp đỡ. Thế giới cũng không là cản trở. Nó là sự giúp
đỡ, là thách thức, việc mài sắc thông minh của bạn,
một cơ hội để trưởng thành, để chín muồi, để tỉnh táo.
Thế giới đầy những cạm bẫy, nhưng những cạm
bẫy đó là có ích bởi vì chúng giữ bạn tỉnh táo. Nếu
không có cạm bẫy bạn sẽ có xu hướng rơi vào giấc
ngủ; khi có nguy hiểm lớn bạn nhất định thức tỉnh.
Một câu chuyện Thiền vĩ đại:
Một hoàng tử tới một Thiền sư; anh ta muốn học
thiền. Anh ta đang vội vàng nữa, bởi vì bố anh ta già
rồi và bố anh ta đã gửi anh ta tới Thiền sư này để học
thiền, bởi vì người bố nói, "Trong cả đời mình ta đã
phí hoài nhiều thời gian không cần thiết, và chỉ về sau
ta mới biết rằng điều xứng đáng duy nhất, điều có ý
nghĩa duy nhất là thiền. Cho nên đừng làm phí hoài
thời gian của con," ông ấy nói với con mình, hoàng tử.
"Con tới thầy này và học thiền trước khi ta rời khỏi
thân thể mình. Ta sẽ hạnh phúc hơn khi rời khỏi thân
thể. Ta sẽ hạnh phúc hơn khi rời khỏi thân thể nếu con
đã học được thiền. Ta không thể cho con cái gì khác.
Toàn thể vương quốc này đều vô giá trị; đây không
phải di sản kế thừa thực của con. Ta sẽ không hạnh
phúc khi cho con chỉ vương quốc này; ta sẽ hạnh phúc
nếu ta có thể giúp cho con thiền."
Thế là hoàng tử tới Thiền sư này và anh ta nói,
"Tôi đang vội lắm. Bố tôi già rồi, ông ấy có thể chết
bất kì lúc nào."
Thầy nói, "Nguyên tắc đầu tiên của thiền là không
vội vã. Nôn nóng sẽ không có tác dụng. Biến đi, cuốn
xéo đi! Đừng bao giờ tới đây lần nữa! Cố tìm thầy rởm
nào đó sẽ cho anh câu mật chú để tụng và sẽ an ủi anh
bằng 'Cứ tụng mười lăm phút vào buổi sáng và mười
lăm phút vào buổi tối và anh sẽ trở nên chứng ngộ.'
"Nhưng nếu anh muốn ở đây, quên thời gian đi,
bởi vì thiền là việc tìm kiếm cái vĩnh hằng. Và quên tất
cả về ông bố già của anh đi - không ai đã bao giờ chết
cả, tin ta đi. Một ngày nào đó anh sẽ thấy rằng điều ta
nói là đúng. Không ai đã bao giờ già đi hay đã bao giờ
chết. Đừng lo nghĩ. Ta biết bố anh, bởi vì ông ấy đã
học thiền từ ta. Ông ấy sẽ không chết đâu - thân thể
ông ấy có thể chết. Nhưng anh sẽ phải quên tất cả về
bố anh đi và vương quốc của anh nếu anh muốn học
thiền. Điều đó cần sự thành tâm vào một mối."
Thầy là như thế đấy, tác động của thầy là như thế
đấy, anh thanh niên này quyết định ở lại.
Ba năm trôi qua. Thầy chẳng hề nói một lời về
thiền. Chàng thanh niên phục vụ thầy theo mọi cách có
thể, chờ đợi và chờ đợi, và anh ta sợ nhắc tới chủ đề
này bởi vì thầy có thể nói, "Biến đi - anh lại vội rồi!"
Thế là anh ta thậm chí không thể nói được điều đó.
Nhưng ba năm là quá nhiều. Chung cuộc một hôm
anh ta nói vào buổi sáng - thầy đang ngồi dước gốc cây
tắm nắng - anh ta nói, "Thưa thầy, ba năm đã qua rồi.
Thầy có nhận biết không? Và thầy thậm chí chẳng nói
cho tôi điều phải làm, thiền là gì."
Thầy nhìn anh ta và nói, "Vậy là anh vẫn còn vội
vàng! Thôi được, hôm nay ta sẽ bắt đầu dạy anh
thiền."
Và thầy bắt đầu dạy theo cách rất kì lạ. Chàng
thanh niên đang lau sàn ngôi đền và thầy sẽ tới từ đằng
sau đánh một cú trời giáng vào anh ta bằng chiếc kiếm
gỗ - thầy sẽ đánh anh ta thực sự mạnh! Chàng thanh
niên đang đọc kinh Phật, và thầy sẽ tới từ đằng sau. Và
thầy là người im lặng tới mức bạn thậm chí không có
khả năng nghe thấy tiếng bước chân của thầy. Và bỗng
nhiên, chả biết từ đâu, cú đánh - chiếc kiếm gỗ sẽ
giáng xuống anh ta.
Chàng thanh niên nghĩ, "Cái loại thiền quái quỉ gì
thế này?" Trong bẩy ngày anh ta cảm thấy mệt mỏi thế
và bị thương và xây xước khắp mình. Anh ta hỏi,
"Thầy làm gì thế? Thầy cứ đánh tôi mãi thế!"
Thầy nói, "Đây là cách dạy của ta. Tỉnh táo vào,
rất có ý thức, để cho trước khi ta đánh anh, anh có thể
né tránh - đó là cách duy nhất."
Không có lối thoát khác, cho nên chàng thanh niên
phải rất tỉnh táo. Anh ta đọc sách nhưng anh ta tỉnh
táo, ý thức. Dần dần, dần dần trong hai, ba tuần, anh ta
bắt đầu nghe thấy tiếng bước chân của thầy - và bước
đi của thầy gần như như bước đi của mèo. Khi mèo
rình chuột nó im lặng thế. Thầy thực sự là con mèo
già!
Nhưng chàng thanh niên đã trở nên đủ tỉnh táo;
anh ta bắt đầu nghe thấy tiếng chân thầy. Trong vòng
ba tháng thầy đã không thể nào đánh được anh ta cho
dù là một lần. Hai mươi bốn giờ một ngày thầy thử,
nhưng chàng thanh niên đều né tránh và nhảy ra, dù
thầy làm bất kì cái gì.
Thế rồi thầy nói, "Bài học thứ nhất xong rồi. Bây
giờ ta bắt đầu bài học thứ hai: bây giờ tỉnh táo trong
giấc ngủ của anh. Cứ để cửa phòng anh mở, bởi vì ta
có thể tới bất kì lúc nào."
Bây giờ đây là điều còn khó hơn! Ban đầu thầy tới
và đánh anh ta dữ lắm. Ông già này không cần ngủ
nhiều nữa; hai giờ là đủ cho ông ấy. Còn đây là một
thanh niên, anh ta cần tám giờ ngủ, và cả đêm là cuộc
vật lộn. Nhiều lần thầy tới và đánh anh ta, nhưng
chàng thanh niên bây giờ chắc chắn rằng nếu bài học
thứ nhất đã từng có giá trị thế... anh ta trở nên tỉnh táo
và an bình tới mức anh không còn hỏi, "Thầy làm gì
vậy? Điều này là vô nghĩa!"
Bản thân thầy cũng nói, "Đừng lo. giữ tỉnh táo
ngay cả trong giấc ngủ của anh. Và ta càng đánh anh
mạnh hơn, càng tốt hơn, bởi vì thế thì anh sẽ thực sự
tỉnh táo. Tình huống phải được tạo ra."
Trong vòng ba tháng anh ta sẽ chồm dậy từ giấc
ngủ. Anh ta sẽ lập tức mở mắt ra và nói, "Đợi đã!
Không cần đâu - tôi tỉnh táo đây."
Sau ba tháng thầy nói, "Anh đã qua được bài học
thứ hai. Bây giờ đến bài học thứ ba và cũng là bài học
cuối cùng."
Chàng thanh niên nói, "Bài học thứ ba còn có thể
là cái gì được, bởi vì chỉ có hai trạng thái - thức, ngủ.
Bây giờ thầy sẽ làm gì nào?"
Thầy nói, "Bây giờ ta sẽ đánh bằng kiếm thật đấy -
đó là bài học thứ ba."
Đánh bằng kiếm gỗ là một điều - bạn biết rằng
nhiều nhất bạn có thể bị thương nhưng bạn không thể
bị giết. Và thầy đem tới một chiếc kiếm thực. Thầy
tuốt kiếm ra khỏi bao, và chàng thanh niên nghĩ, "Đây
là chấm dứt rồi - mình đi đời! Đây là trò chơi nguy
hiểm. Bây giờ thầy có thể đánh bằng kiếm thực. Cho
dù mình lỡ một lần mình đã lỡ mãi mãi!"
Nhưng anh ta thậm chí đã không bỏ lỡ một lần.
Khi nguy hiểm là như vậy, bạn vươn lên đối diện với
nguy hiểm đó. Sau ba tháng, thậm chí không một lần
nào thầy có khả năng đánh anh ta bằng chiếc kiếm
thực. Thầy nói, "Bài học thứ ba của anh đã hoàn tất -
anh đã trở thành thiền nhân. Bây giờ sáng mai anh có
thể ra đi. Anh có thể đi và kể cho bố anh rằng ta tuyệt
đối bằng lòng với anh."
Sáng hôm sau anh ta sẽ ra đi. Lúc đó là buổi tối;
mặt trời đang lặn. Thầy đang đọc kinh dưới gốc cây
trong tia sáng mặt trời cuối cùng. Và chàng thanh niên
nghĩ - anh ta cũng đang ngồi đâu đó đằng sau - "Trước
khi mình ra đi " - ý niệm này đã tới với anh ta nhiều
lần - "một lần mình phải đánh cho ông già này một cú!
Bây giờ là ngày cuối cùng rồi; sáng mai mình sẽ ra đi."
Thế là anh ta chuẩn bị. Anh ta lấy một chiếc kiếm
gỗ, giấu đằng sau cây. Thầy nói, "Dừng lại!" Thầy
không nhìn anh ta chút nào. "Lại đây! Ta là một ông
già, và những ham muốn như thế là không tốt - ham
muốn đánh thầy riêng của mình!"
Chàng thanh niên đâm ra phân vân. Anh ta nói,
"Nhưng tôi đã nói cái gì đâu."
Thầy nói, "Một ngày nào đó khi anh trở nên thực
sự tỉnh táo, ngay cả cái không được nói vẫn sẽ được
nghe thấy. Cũng như một ngày nào đó anh không nghe
thấy tiếng bước chân ta và một ngày nào đó anh trở
nên nhận biết và bắt đầu nghe chúng; cũng như một
ngày nào đó anh đã không có khả năng nghe thấy bước
chân ta trong giấc ngủ của anh... nhưng một ngày sẽ
tới khi anh bắt đầu nghe thấy tiếng bước chân ta, ngay
cả trong giấc ngủ của anh - đích xác điều đó, một ngày
nào đó anh sẽ biết. Khi tâm trí tuyệt đối im lặng anh có
thể nghe thấy lời chưa từng được nói ra. Anh có thể
đọc những ý nghĩ còn chưa được diễn đạt. Anh có thể
đọc được ý định. Anh có thể đọc tình cảm. Không phải
là anh làm nỗ lực nào - anh trở thành tấm gương, anh
phản xạ."
Hiếm và ít người là chư phật để tìm ra. Và Phật
nói: Hạnh phúc là ngôi nhà nơi người ta thức tỉnh. Với
"ngôi nhà" ông ấy ngụ ý thân thể. Hạnh phúc là thân
thể nơi con người thức tỉnh, nơi ngọn lửa của nhận biết
đã nảy sinh. Bạn trở thành ngôi đền.
Được phúc lành là việc sinh của người đó.
Được phúc lành là giáo huấn về con đường.
Được phúc lành là hiểu biết trong những người
đi theo nó,
và được phúc lành là quyết tâm của họ.
và được phúc lành là những người tôn kính
người thức tỉnh và đi theo đạo.
Họ tự do khỏi sợ hãi.
Họ là tự do.
Họ đã vượt qua dòng sông của buồn khổ.
Gặp vị phật là hiếm hoi. Trú ngụ vào vị phật thậm
chí còn hiếm hoi hơn. Đi theo, sống từ giáo huấn của
vị phật thậm chí còn hiếm hoi hơn nữa. Do đó Phật
nói: Được phúc lành là việc sinh của người đó. Được
phúc lành là giáo huấn về con đường. Người mà một
ngày nào đó trở thành vị phật, ngay cả việc sinh của
người đó cũng là được phúc lành. Việc tới của người
đó trong thế giới này là phúc lành cho thế giới, cho
bản thân người đó và cho những người khác nữa.
Được phúc lành là giáo huấn về con đường. Và thế rồi
một cách tự phát người đó bắt đầu dạy; đó là chia sẻ.
Người đó đã về tới nhà và người đó bắt đầu gọi những
người khác, người vẫn đang lang thang trong bóng tối.
Được phúc lành là hiểu biết trong những người đi
theo nó. Và không chỉ vị phật được phúc lành: được
phúc lành là những người đi theo nó. Và được phúc
lành là quyết tâm của họ. Và được phúc lành là sự cam
kết, sự tham gia vào việc theo con đường, theo pháp.
và được phúc lành là những người tôn kính
người thức tỉnh và đi theo đạo.
Họ tự do khỏi sợ hãi.
Họ là tự do.
Tự do khỏi sợ là được tự do. Để tự do khỏi sợ bạn
cần tự do khỏi ham muốn. Ham muốn giữ bạn sợ. Ham
muốn giữ bạn bao giờ cũng vẩn vơ: "Liệu điều đó sẽ
xảy ra hay không? Liệu tôi có làm nó lần này hay
không?" Nếu bạn thành công bạn sợ - ai đó sẽ lấy nó
đi khỏi bạn. Nếu bạn thành công trong việc tích luỹ
của cải bạn lo nghĩ, sợ hãi: bạn có thể bị cướp, chúng
có thể bị đánh cắp đi. Nếu bạn không thành công bạn
thường xuyên trong sợ hãi rằng "mình không có giá trị
nào." Bạn sụp đổ trong con mắt riêng của mình, bạn
run rẩy. Tự do khỏi ham muốn là tự do khỏi sợ hãi.
Thế thì người ta sống trong khoảnh khắc này; quá
khứ không còn là mối quan tâm của người ta mà tương
lai cũng không nốt. Làm sao có thể có sợ hãi nào
được? Và Phật định nghĩa tự do là tự do khỏi sợ hãi.
Họ đã vượt qua dòng sông của buồn khổ. Cuộc
sống không được cân nhắc, không được quan sát,
không chứng ngộ, không là gì ngoài dòng sông của
buồn khổ - và chúng ta tất cả đang chìm trong nó. Chỉ
có một con thuyền để sang bờ bên kia. Tên của con
thuyền này là nhận biết.
Đủ cho hôm nay.
******************************************************
#4Điều này nữa sẽ qua
Câu hỏi thứ nhất:
Thưa Thầy kính yêu,
Mặc cho các thảm hoạ chính trị khủng khiếp, hành
động chính trị dường như là phương tiện duy nhất
để tranh đấu chống lại bất công trên thế giới. Việc
tìm kiếm mà thầy đang gây cảm hứng có loại trừ
hành động chính trị không?
Jean-Francois Held, tôi đang trong tình yêu với
cuộc sống trong tính toàn bộ của nó. Tình yêu của tôi
không loại trừ cái gì; nó bao hàm tất cả. Vâng, hành
động chính trị nữa cũng được bao hàm trong nó. Đó là
điều xấu nhất được bao hàm, nhưng tôi chẳng thể đừng
được điều đó! Nhưng mọi thứ được bao hàm trong
cách nhìn của tôi về cuộc sống là được bao hàm với sự
khác biệt.
Trong quá khứ, con người đã sống mà không có
nhận biết trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Con
người đã yêu mà không có nhận biết và đã thất bại
trong nó, và tình yêu chỉ đem tới khổ và không cái gì
khác. Con người đã làm đủ mọi thứ trong quá khứ,
nhưng mọi thứ đều đã chứng tỏ là địa ngục. Điều đó
cũng xảy ra với hành động chính trị.
Từng cuộc cách mạng đều biến thành phản cách
mạng. Đây là lúc chúng ta phải hiểu cách thức điều
này xảy ra, tại sao điều này luôn xảy ra - rằng từng
cuộc cách mạng, từng cuộc đấu tranh chống lại bất
công, chung cuộc đều tự nó biến thành bất công, trở
thành phản cách mạng.
Trong thế kỉ này điều đó đã xảy ra lặp đi lặp lại -
tôi không nói về chuyện quá khứ xa xăm gì đâu. Nó đã
xảy ra ở Nga, nó đã xảy ra ở Trung Quốc. Nó sẽ xảy ra
nếu chúng ta tiếp tục vận hành theo cùng cách cũ. Vô
nhận biết không thể đem lại nhiều hơn điều đó.
Khi bạn không có quyền lực, dễ dàng tranh đấu
chống lại bất công; khoảnh khắc bạn trở nên có quyền,
bạn quên mất tất cả về bất công. Thế thì những ham
muốn bị kìm nén để chi phối tự khẳng định chúng. Thế
thì vô ý thức của bạn tiếp quản, và bạn bắt đầu làm
cùng những điều đã được kẻ thù làm trước đây để
chống lại những người mà bạn đã từng tranh đấu cùng.
Bạn đã đặt cược chính cuộc sống của mình cho nó!
Quận công Acton nói rằng quyền lực làm hư hỏng.
Điều đó chỉ đúng theo một nghĩa, và theo nghĩa khác
nó tuyệt đối không đúng. Nó là đúng nếu bạn nhìn vào
bề mặt của mọi thứ: quyền lực chắc chắn làm hư hỏng,
bất kì ai trở nên có quyền đều trở nên hư hỏng. Về mặt
sự kiện điều đó là đúng, nhưng nếu bạn chìm sâu vào
trong hiện tượng này thế thì nó không đúng.
Quyền lực không làm hư hỏng: chính những người
bị hư hỏng, họ trở nên bị hấp dẫn tới quyền lực. Chính
con người muốn làm mọi điều mà họ không thể làm
được khi họ không có quyền lực. Khoảnh khắc họ có
quyền, toàn thể tâm trí bị kìm nén của họ tự khẳng
định nó. Bây giờ không có gì ngăn chặn họ, không cái
gì ngăn cản họ; họ có quyền lực. Quyền lực không làm
hư hỏng họ, nó chỉ đem hư hỏng của họ lên bề mặt. Hư
hỏng đã có đó như hạt mầm rồi; bây giờ nó đã đâm
chồi. Quyền lực đã chỉ chứng tỏ là mùa vụ đúng cho
nó nhú ra. Quyền lực chỉ là mùa xuân cho hoa độc của
hư hỏng và bất công trong bản thể họ.
Quyền lực không phải là nguyên nhân của hư
hỏng, mà chỉ là cơ hội cho việc diễn đạt của nó. Do đó
tôi nói: về căn bản, về nền tảng, Quận công Acton là
sai.
Ai trở nên quan tâm tới chính trị? Vâng, với những
khẩu hiệu đẹp đẽ mọi người đi vào trong nó, nhưng
điều gì xảy ra cho những người này? Joseph Stalin đã
tranh đấu chống lại bất công của sa hoàng. Điều gì đã
xảy ra? Bản thân ông ta trở thành sa hoàng lớn nhất mà
thế giới từng biết tới, còn tồi tệ hơn cả Ivan Khủng
khiếp! Hitler thường nói về chủ nghĩa xã hội. Ông ta
đã đặt tên cho đảng của mình là Đảng Quốc gia Xã hội
(Quốc Xã). Điều gì đã xảy ra cho chủ nghĩa xã hội khi
ông ta bước vào quyền lực? Tất cả những điều đó đã
biến mất.
Cùng điều đó đã xảy ra ở Ấn Độ. Mahatma Gandhi
và các tín đồ của ông ấy đã nói về bất bạo hành, tình
yêu, an bình - tất cả những giá trị lớn lao được ca tụng
suốt nhiều thời đại. Và khi quyền lực tới ông ấy trốn
biệt. Bản thân Mahatma Gandhi đã trốn mất bởi vì ông
ấy trở nên nhận biết rằng nếu ông ấy nắm quyền trong
tay ông ấy sẽ không còn là mahatma, là hiền nhân nữa.
Và những tín đồ đi vào quyền lực tất cả đều chứng tỏ
đã bị hư hỏng như bất kì nơi nào khác - và họ tất cả
đều là những người tốt trước khi họ nắm quyền, những
người phục vụ nhân dân lớn lao. Họ đã hi sinh nhiều.
Họ đã không phải là người xấu theo bất kì cách nào;
theo mọi cách có thể họ đều là người tốt. Nhưng ngay
cả người tốt cũng biến thành người xấu - đó là cái gì
đó nền tảng cần được hiểu.
Tôi muốn các sannyasins của tôi sống trong tính
toàn bộ của nó, nhưng với một điều kiện tuyệt đối,
điều kiện rõ ràng: và điều kiện đó là nhận biết, thiền.
Trước hết đi sâu vào thiền, để cho bạn có thể lau sạch
vô ý thức của bạn khỏi mọi hạt mầm độc hại, để cho
không có gì bị hư hỏng và không có gì bên trong bạn
mà quyền lực có thể đem ra được. Và thế rồi làm bất kì
điều gì bạn cảm thấy thích làm.
Nếu bạn muốn trở thành hoạ sĩ, trở thành hoạ sĩ đi.
Tranh của bạn sẽ có khác biệt; nó sẽ không giống như
Picasso. Tranh của Picasso là không lành mạnh - ông
ấy không lành mạnh! Thực ra, nếu ông ấy mà bị ngăn
cản không cho vẽ ông ấy chắc đã ở trong nhà thương
điên. Qua tranh của mình ông ấy làm thanh tâm, tống
cái điên khùng của mình lên vải vẽ, gạt bỏ nó ra.
Vâng, ông ấy cảm thấy tốt hơn - nó là một loại nôn
mửa! Sau khi nôn bạn cảm thấy tốt hơn, nhưng người
khác thì sao khi nhìn vào bãi mửa của bạn! Nhưng thế
giới này ngu xuẩn tới mức nếu Picasso nôn mửa, mọi
người nói, "Bức hoạ vĩ đại làm sao - cái gì đó chưa bao
giờ được thấy trước đây, cái gì đó duy nhất!"
Vincent van Gogh thực sự đã phát điên, phải vào
bệnh viện trong một năm, và thế rồi ông ấy tự tử. Và
ông ấy còn chưa quá ba mươi bẩy tuổi. Bây giờ, con
người này đã làm ra những bức tranh loại gì? Chắc
chắn ông ấy có nghệ thuật, có kĩ xảo, nhưng nghệ thuật
và kĩ xảo ở trong tay người điên, tự tử. Quan sát tranh
ông ấy bạn sẽ cảm thấy bất ổn, không thoải mái. Để
tranh của Picasso trong phòng ngủ của mình và bạn sẽ
có ác mộng!
Thiền nhân có thể trở thành hoạ sĩ, nhưng thế thì
cái gì đó khác toàn bộ sẽ bắt nguồn từ người đó - cái gì
đó của cõi bên kia, bởi vì ông ấy sẽ có khả năng đón
nhận Thượng đế. Ông ấy có thể trở thành vũ công;
điệu vũ của ông ấy sẽ có phẩm chất mới của nó: nó sẽ
cho phép điều thiêng liêng được diễn đạt. Ông ấy có
thể trở thành nhạc sĩ... hay ông ấy có thể đi vào hành
động chính trị, nhưng hành động chính trị của ông ấy
sẽ được bắt rễ trong thiền. Do đó sẽ không có sợ hãi về
một Joseph Stalin hay Adolf Hitler hay Mao Trạch
Đông tới từ đó; điều đó là không thể được.
Tôi không bảo bất kì ai đi theo hướng nào đó; tôi
để cho các đệ tử của tôi tự do toàn bộ. Tôi đơn giản
dạy họ thiền. Tôi dạy họ tỉnh táo hơn, nhận biết hơn,
và thế rồi mọi sự là tuỳ ở họ. Bất kì điều gì là tiềm
năng tự nhiên của họ, họ sẽ tìm thấy nó, nhưng điều đó
sẽ diễn ra cùng nhận biết. Thế thì không có nguy hiểm.
Jean-Francois Held, tôi không chống lại hành động
chính trị - tôi không chống lại bất kì cái gì. Tôi không
phải là người phủ định cuộc sống; tôi khẳng định cuộc
sống, tôi trong tình yêu tuyệt đối với cuộc sống!
Và tất nhiên, khi hàng triệu người ở trên thế gian
này, sẽ có loại chính trị này khác. Chính trị không thể
biến mất đi được. Nó sẽ giống như việc làm mất đi
cảnh sát, bưu điện, đường sắt - nó sẽ tạo ra hỗn độn.
Và tôi không phải là kẻ vô chính phủ và tôi không
thiên về hỗn độn. Tôi muốn thế giới này đẹp hơn, hài
hoà hơn, nhiều tính hoà hợp hơn là hỗn độn. Đôi khi
tôi ca ngợi hỗn độn, chỉ để phá huỷ đi những cái mục
nát. Tôi ca ngợi tính phá huỷ nữa, chỉ để sáng tạo.
Vâng, đôi khi tôi mang tính rất phủ định - tôi chống lại
những tập tục, tuân thủ, truyền thống - chỉ để làm cho
bạn tự do để cho bạn có thể sáng tạo viễn kiến mới, thế
giới mới, để cho bạn không cần vẫn còn bị cầm tù
trong quá khứ, để cho bạn có thể có tương lai và hiện
tại. Nhưng tôi không mang tính phá huỷ. Toàn thể nỗ
lực của tôi là để giúp bạn mang tính sáng tạo.
Vài người trong các sannyasins của tôi nhất định
đi vào hành động chính trị, nhưng tôi sẽ cho phép họ
chỉ khi họ đã hoàn thành điều kiện cơ bản: khi họ tỉnh
táo hơn, nhận biết hơn, khi bản thể bên trong của họ
đầy ánh sáng. Thế thì làm bất kì cái gì bạn muốn làm -
bạn không thể đem cái hại tới cho thế giới được. Bạn
sẽ đem cái gì đó tốt lành, cái gì đó đẹp đẽ; bạn sẽ là
phúc lành cho thế giới này. Không có nó, không có
nhận biết đó, cho dù bạn làm điều gì đó tốt, nó cũng sẽ
biến thành điều gì đó có hại.
Mới vài ngày trước đây, Mẹ Teresa ở Calcutta đã
nhận được giải thưởng Nobel. Bây giờ đây là điều gì
đó cực kì ngu xuẩn! Uỷ ban trao giải thưởng Nobel
chưa bao giờ làm điều gì ngu xuẩn thế trước đây -
nhưng trên bề mặt nó có vẻ như đẹp. Điều đó được ca
ngợi trên khắp thế giới, rằng họ đã làm điều gì đó lớn
lao.
J. Krishnamurti đã không nhận Giải thưởng Nobel
- và ông ấy là một trong những con người hiếm hoi đó,
vài người đó của chư phật, người thực sự đặt nền tảng
cho hoà bình thế giới. Còn Mẹ Teresa đã nhận Giải
thưởng Nobel vì hoà bình thế giới. Bây giờ, tôi không
hiểu bà ấy đã làm gì cho hoà bình thế giới! George
Gurdjieff đã không nhận Giải thưởng Nobel, và ông ấy
đã làm việc vất vả để biến đổi cốt lõi bên trong của
con người; Raman Maharshi đã không nhận Giải
thưởng Nobel - bởi vì công việc của họ là vô hình:
công việc của họ là công việc đem nhiều ý thức hơn
tới mọi người. Khi bạn đem bánh mì tới cho mọi người
điều đó là thấy được, khi bạn đem quần áo tới cho mọi
người điều đó là thấy được, khi bạn đem thuốc men tới
cho mọi người điều đó là thấy được. Khi bạn đem
Thượng đế tới cho mọi người, điều đó tuyệt đối vô
hình.
Mẹ Teresa đang làm cái gì đó tốt chỉ trên bề mặt:
phục vụ người nghèo ở Calcutta, người ốm, người bị
bệnh, người già, trẻ mồ côi, người goá, người hủi,
người què, người mù. Điều quá hiển nhiên là bà ấy
đang làm điều gì đó tốt! Nhưng về căn bản điều bà ấy
làm là an ủi những người này. Và đem lời an ủi tới cho
người nghèo, cho người mù, cho người hủi, cho trẻ mồ
côi, là hành động phản cách mạnh. An ủi họ nghĩa là
giúp cho họ vẫn còn được điều chỉnh với xã hội đang
tồn tại, vẫn còn được hài hoà với nguyên trạng. Điều
bà ấy làm là phản cách mạng. Nhưng các chính phủ lại
sung sướng, người giàu sung sướng, kẻ có quyền sung
sướng, bởi vì bà ấy thực sự không phục vụ người mù
và người nghèo đâu. Bà ấy đang phục vụ những quyền
lợi được đầu tư, bà ấy đang phục vụ các tu sĩ và chính
khách và kẻ có quyền; bà ấy đang giúp cho họ vẫn còn
trong quyền lực của họ. Bà ấy đang làm, đang tạo ra
một bầu không khí mà cái cũ có thể tiếp tục.
Ở Ấn Độ không cuộc cách mạng nào đã từng xảy
ra chống lại kẻ có quyền thế, người giầu, người có của
cải, bởi một lẽ đơn giản chính nước này được gọi là có
tính tôn giáo; có nhiều người an ủi thế. Năm mươi vạn
sư Hindu đang an ủi mọi người, cho họ những giải
thích tại sao họ nghèo, tại sao họ mù, tại sao họ què:
bởi vì nghiệp quá khứ của họ! Họ đã làm cái gì đó xấu
trong những kiếp sống quá khứ của mình, do đó họ
chịu khổ. "Im lặng mà chịu khổ đi, đừng phản ứng," họ
đi và dạy cho những người này, "bởi vì nếu bạn phản
ứng, nếu bạn lại làm điều gì đó, bạn sẽ lại khổ trong
kiếp tiếp đấy. Đừng bỏ lỡ cơ hội này, để cho tài khoản
được đóng lại. Lần này hành xử theo cách tốt lành!"
Và tất nhiên, là người cách mạng không phải là điều gì
đó tốt lành đâu! Vâng lời - cái đó là tốt - đừng bất phục
tùng. Bất phục tùng là ác, nó là tội lỗi. Người Ki tô
giáo gọi nó là tội lỗi nguyên thuỷ.
Tội của Adam và Eve là gì? - chỉ bởi vì họ đã
không vâng lời Thượng đế. Dường như chẳng có mấy
tội trong đó cả. Ăn quả của cây tri thức không phải là
tội. Sao nó phải được gọi là tội lỗi nguyên thuỷ? Nó
được gọi là tội lỗi nguyên thuỷ bởi vì họ đã không
vâng lời. Không vâng lời là tội lỗi lớn nhất trong con
mắt của tu sĩ.
Trong mười nghìn năm ở Ấn Độ các tu sĩ này và
các sư đã từng dạy mọi người, "Hãy vâng theo hệ
thống đang nắm quyền. Đừng bất tuân lệnh; bằng
không ông sẽ khổ trong tương lai của mình." Do đó
không cuộc cách mạng nào đã từng xảy ra, và các sư
và các tu sĩ này được ca ngợi nhiều lắm.
Bây giờ các nhà truyền giáo Ki tô giáo đang làm
cùng việc đó trên khắp thế giới: phục vụ người nghèo,
người què. Họ bảo những người nghèo này, "Chịu
đựng một cách im lặng đi - đó có thể là phép thử cho
con mà Thượng đế đã tạo ra. Con phải vượt qua ngọn
lửa này, chỉ thế thì con mới trở thành vàng ròng." Các
nhà truyền giáo Ki tô giáo là những kẻ phản cách
mạng.
Và tại sao họ đang phục vụ những người nghèo
này? - bởi vì tham! Họ muốn được thiên đường, và
cách duy nhất để được thiên đường là qua phục vụ.
Bây giờ thỉnh thoảng tôi tự hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu
không có ai què quặt, đui mù, nghèo khổ; điều gì sẽ
xảy ra cho các nhà truyền giáo Ki tô giáo? Làm sao họ
sẽ đạt tới thiên đường? Chính chiếc thang sẽ biến mất!
Họ sẽ mất chiếc thuyền, sẽ không có khả năng nào để
sang bờ bên kia cả. Những nhà truyền giáo Ki tô giáo
này sẽ muốn nghèo nàn tiếp diễn, họ sẽ muốn những
người nghèo này vẫn còn trên thế gian. Càng nhiều
người nghèo, càng nhiều cơ hội để phục vụ, và tất
nhiên, nhiều người có thể lên tới cõi trời.
Trao Giải thưởng Nobel cho Mẹ Teresa là trao giải
thưởng Nobel cho hành động phản cách mạng.
Nhưng đó là cách điều đó bao giờ cũng xảy ra: bạn
ca ngợi những người bằng cách nào đó củng cố cho cái
cũ, cái chết, người giúp cho xã hội vẫn còn như nó
vậy.
Công việc của tôi là vô hình. Thực ra, tôi đang dạy
bạn, theo cách gián tiếp, cuộc cách mạng vĩ đại nhất có
thể được. Tôi đang dạy các bạn nổi dậy, và việc nổi
dậy này là đa chiều: dù bạn đi bất kì đâu, việc nổi dậy
này đều có tác động của nó. Nếu bạn đi vào trong thơ
ca bạn sẽ viết thơ ca mang tính nổi dậy. Nếu bạn đi
vào âm nhạc bạn sẽ tạo ra một loại âm nhạc mới. Nếu
bạn nhảy múa, điệu múa của bạn sẽ có hương vị khác.
Và nếu bạn đi vào trong chính trị, bạn sẽ thay đổi toàn
thể khuôn mặt của bản thân hành động chính trị.
Jean-Francois Held, tôi không chống lại hành động
chính trị, nhưng cách thức nó đã là cho tới giờ là hoàn
toàn vô nghĩa. Do đó trên bề mặt, không ai có thể thấy
rằng tôi đang tham gia vào trong hoạt động chính trị
nào, không ai có thể thấy rằng tôi đang tham gia vào
bất kì loại hoạt động thế gian nào.
Tôi đang dạy mọi người ngồi im lặng, quan sát ý
nghĩ của họ, thoát ra khỏi tâm trí của họ. Nhà cách
mạng ngu xuẩn sẽ nghĩ rằng tôi chống lại hành động
chính trị, rằng tôi là kẻ phản cách mạng. Chính điều
ngược lại mới là hoàn cảnh. Từ sự ngu xuẩn của mình
- mặc dầu người đó có thể nói về cách mạng - điều
người đó sẽ làm sẽ là phản cách mạng. Người đó sẽ lôi
xã hội tụt lại.
Tôi không làm cái gì có thể được gọi là mang tính
chính trị, xã hội: tôi không ủng hộ cải cách xã hội hay
hành động chính trị. Ít nhất trên bề mặt tôi trông như
kẻ đào tẩu và tôi đang giúp mọi người trốn đi. Vâng,
tôi đang giúp mọi người thoát tới bản thân họ.
Thoát ra khỏi đủ mọi loại hoạt động không thông
minh đi. Trước hết mài sắc thông minh của bạn. Để
vui vẻ lớn lao nảy sinh trong bạn. Trở nên nhiều tính
quan sát hơn, nhiều tới mức thậm chí không một góc
nào trong bản thể bạn còn tối nữa. Để vô ý thức của
bạn được biến đổi thành ý thức.
Thế rồi làm bất kì cái gì bạn muốn làm. Thế thì
nếu bạn muốn xuống địa ngục, đi với phúc lành của
tôi, bởi vì bạn sẽ có khả năng biến đổi bản thân địa
ngục.
Không phải là thiền nhân lên cõi trời đâu, không:
bất kì chỗ nào họ tới họ đều ở cõi trời và bất kì điều gì
họ làm đều thiêng liêng. Nhưng đây là cách tiếp cận
mới tới mức nó sẽ cần thời gian để được hiểu. Tôi
đang dùng một ngôn ngữ khác tới mức điều tự nhiên là
tôi sẽ bị hiểu lầm.
Một người lập dị chống lại qui ước xã hội chạy
vượt đèn đỏ. Cảnh sát kéo anh ta lại và nói, "Anh
không thấy đèn đỏ à?"
Người lập dị đáp, "Này anh, tôi thậm chí còn
không thấy cả nhà!"
Có những ngôn ngữ khác nhau!
Khi Harry đang cạo râu vào buổi sáng anh ta gọi
với ra, "Em biết đấy, em yêu, anh dường như không
hợp lắm với mấy anh chàng khác ở văn phòng."
Không có lời đáp lại.
"Em yêu, bọn nó coi anh như kẻ hơi hâm."
Vẫn không có lời đáp.
Anh ta cất dao cạo đi và bắt đầu chải đầu.
"Cưng ơi, bọn nó dường như coi anh là kẻ đồng
dục."
Vẫn chẳng có lời đáp lại anh ta cuối cùng hét lên,
"Lạy chúa, John, em không nghe à?"
Tôi đang nói ngôn ngữ này, và mọi người quen với
một ngôn ngữ khác toàn bộ.
Chừng nào bạn còn chưa thiền bạn sẽ không có
khả năng hiểu được điều đang xảy ra ở đây, điều tôi
đang nói và điều tôi đang làm.
Ba người, người Anh, người A rập và người Mĩ,
đang đứng trên góc phố ở Casablanca, thì một người
đẹp phương đông kiêu kì bước qua họ.
"Trời ơi!" người Anh kêu lên.
"Lạy thánh A la!" người A rập thở dài.
"Đến đêm mai nhé!" người Mĩ nói.
#4Câu hỏi thứ hai:
Thưa Thầy kính yêu,
Với nhiều người ở phương Tây, mối quan hệ
thầy/đệ tử là bên ngoài kinh nghiệm của họ. Nó
bao hàm cái gì?
Chris Lister, Allen Jewhurst, Lesley Rogers,
phương Đông đã đóng góp vài điều cực kì có ý nghĩa
cho tâm thức con người. Một trong những điều đẹp đẽ
đó là hiện tượng về mối quan hệ thầy/đệ tử. Nó là
đóng góp phương Đông; cũng như khoa học là hiện
tượng phương Tây, huyền môn là hiện tượng phương
Đông. Khoa học là hướng ngoại, huyền môn là hướng
nội. Khoa học cố biết thực tại khách quan, và huyền
môn là thám hiểm thực tại chủ quan, lãnh thổ của bản
thể bạn.
Trong thế giới của khoa học mối quan hệ thầy
giáo/ học sinh tồn tại, bởi vì khoa học có thể được dạy
- do đó có mối quan hệ thầy giáo/học sinh. Nhưng tôn
giáo, huyền môn, không thể được dạy, nó chỉ có thể bị
mắc vào. Do đó trong huyền môn không có mối quan
hệ như mối quan hệ thầy giáo/học sinh. Một loại quan
hệ khác toàn bộ tồn tại: thầy/đệ tử. Khác biệt là mênh
mông, khác biệt là lớn lao.
Giữa học sinh và thầy giáo, hoài nghi là phương
pháp. Thầy giáo có đó để giúp hoài nghi của bạn biến
mất, thầy giáo có đó để trả lời câu hỏi của bạn; thầy
giáo có đó để thông tin cho bạn, làm cho bạn thông
thái hơn. Học sinh có đó với tất cả những câu hỏi của
mình, tò mò, hoài nghi. Thực ra, học sinh càng thông
minh, học sinh sẽ càng hoài nghi nhiều hơn. Học sinh
giỏi nhất đầy những hoài nghi, và thầy giáo giỏi nhất
là người giúp cho học sinh với những câu trả lời mới,
tri thức mới, để cho hoài nghi của học sinh có thể bị
vứt bỏ. Khoa học dùng hoài nghi làm phương pháp; đó
là phương pháp nền tảng của truy vấn.
Trong thế giới của tôn giáo chính điều đối lập là
hoàn cảnh: tin cậy là phương pháp, không phải hoài
nghi; tình yêu là phương pháp, không phải logic;
buông xuôi là phương pháp, không phải là chinh phục
tri thức. Học sinh, khi về từ đại học, về với bản ngã
lớn bởi vì người đó đã tích luỹ nhiều tri thức, người đó
đã học nhiều. Nhưng đệ tử, khi người đó về từ thầy, về
như không ai cả, vô ngã. Người đó không còn tồn tại
như một thực thể tách biệt khỏi sự tồn tại. Người đó đã
không học gì cả; ngược lại, người đó đã dỡ bỏ bất kì
cái gì người đó đã từng biết trước đây.
Một triết gia lớn đã tới gặp Raman Maharshi - một
triết gia Đức. Ông ấy hỏi Raman, "Tôi đã tới từ xa, xa
lắm, để học nhiều từ ông."
Raman cười và ông ấy nói, "Cuộc hành trình của
ông đã là bài tập trong vô tích sự rồi. Ông đi tới tôi
một cách không cần thiết, bởi vì tôi không ở đây để
dạy ông cái gì cả - nếu ông đã tới để học, ông đã tới sai
chỗ rồi - tôi giúp mọi người dỡ bỏ việc học!"
Thầy giúp cho bạn dỡ bỏ học. Thầy giúp bạn lại
trở thành hồn nhiên, như đứa trẻ.
Jesus nói: Chừng nào ông còn chưa giống như đứa
trẻ, chừng nào ông còn chưa được tái sinh, ông sẽ
không vào được vương quốc Thượng đế của ta. Ông ấy
đang nói ngôn ngữ phương Đông đấy. Jesus đã du
hành tới Ấn Độ; bất kì điều gì ông ấy dạy về sau, ông
ấy đã được thấm đẫm tinh thần đó ở nước này. Thực
ra, đó là một trong những lí do mà ông ấy đã bị đóng
đinh. Đó là một trong những lí do cơ bản tại sao người
nước ông ấy đã không thể hiểu được ông ấy: ông ấy đã
mang một ngôn ngữ mới hoàn toàn, cách tiếp cận mới,
cách nhìn mới.
Phương Đông bao giờ cũng là cội nguồn.
Pythagoras đã tới phương Đông, Jesus đã tới phương
Đông... và bất kì cái gì phương Tây đã từng biết tới về
thầy-và-đệ tử đều đã từng được kinh nghiệm qua
phương Đông, trực tiếp hay gián tiếp.
Mối quan hệ thầy/đệ tử là chuyện tình, chuyện tình
vĩ đại nhất có thể được. Đệ tử buông xuôi bản ngã của
mình theo thầy. Đệ tử cúi mình. Đệ tử nói: Buddham
sharanam gachchhami - tôi cúi mình trước vị phật, tôi
buông xuôi theo vị phật, tôi trú ngụ nơi chân thầy.
Khoảnh khắc người đó vứt bỏ bản ngã của mình người
đó trở thành một phần của thầy.
Và thầy không có đó như một người, thầy chỉ là sự
hiện diện. Và khi hai sự hiện diện gặp gỡ, kinh nghiệm
cực lạc vĩ đại nhất xảy ra, cực lạc vĩ đại nhất. Cực lạc
đó là mục đích của mối quan hệ thầy-và-đệ tử. Cực lạc
đó đã từng xảy ra trong hàng thế kỉ theo cách rất huyền
bí: thầy không nói gì về nó, đệ tử không nghe gì về nó,
nhưng ngồi cạnh thầy, chờ đợi im lặng, kiên nhẫn,
mang tính nguyện cầu, một ngày nào đó có sự đồng
bộ... Một ngày nào đó, bỗng nhiên, đệ tử bắt đầu thở
cùng thầy. Nhịp tim đệ tử không còn tách rời với nhịp
tim của thầy. Họ biến mất như hai và trở thành một.
Kinh nghiệm đó về tính một với thầy là việc mở ra
cánh cửa của ngôi đền của Thượng đế.
#4Câu hỏi thứ ba:
Thưa Thầy kính yêu,
Tình yêu kiểu Platon là gì?
Krishna Deva, tình yêu đơn giản là tình yêu. Nó
không thể có kiểu Platon hay Hegel hay Kant được -
tình yêu đơn giản là tình yêu! Tình yêu kiểu Platon là
cái tên khác cho đồng dục. Plato dường như là người
đầu tiên tin vào đồng dục. Nhiều người phải đã thực
hành điều đó trước ông ấy, nhưng ông ấy là người ủng
hộ đầu tiên cho nó.
Ý niệm Hi Lạp về cái đẹp không phải là ý niệm về
cái đẹp nữ tính - mà là cái đẹp nam tính. Bạn phải đã
thấy trong các bảo tàng các bức tranh, điêu khắc Hi
Lạp và bạn phải đã quan sát: bạn chưa bao giờ bắt gặp
bức tranh vào về đàn bà khoả thân hay bức tượng về
đàn bà khoả thân. Không, đó bao giờ cũng là đàn ông.
Tình yêu kiểu Platon chỉ là cái tên hay cho đồng
dục. Tốt hơn nên gọi nó là điều nó thực thế thay vì cho
nó cái tên mĩ miều.
Nhưng tình yêu không mang tính đồng dục hay dị
dục. Yêu đơn giản là yêu! Thực ra, yêu chẳng có liên
quan gì tới đối tượng cả. Yêu là trạng thái của tâm
thức bạn khi bạn vui vẻ, khi có điệu vũ trong bản thể
bạn. Cái gì đó bắt đầu rung động, toả sáng từ trung tâm
của bạn; cái gì đó bắt đầu đập xung quanh bạn. Nó bắt
đầu đạt tới mọi người: nó có thể đạt tới đàn bà, nó có
thể đạt tới đàn ông, nó có thể đạt tới tảng đá và cây cối
và các vì sao.
Khi tôi nói về yêu, tôi đang nói về yêu này: yêu
không phải là mối quan hệ thân thuộc mà là trạng thái
của bản thể. Bao giờ cũng nhớ: bất kì khi nào tôi dùng
từ 'yêu' tôi đều dùng nó như trạng thái của bản thể,
không như mối quan hệ thân thuộc. Mối quan hệ thân
thuộc chỉ là khía cạnh rất nhỏ của nó. Nhưng ý niệm
của bạn về yêu về căn bản chỉ là về mối quan hệ thân
thuộc, cứ dường như nó là tất cả.
Mối quan hệ thân thuộc được cần tới chỉ bởi vì bạn
không thể một mình được, bởi vì bạn còn chưa có
năng lực của thiền. Do đó, thiền là điều phải có trước
khi bạn có thể thực sự yêu. Người ta phải có khả năng
ở một mình, hoàn toàn một mình, và vậy mà cực kì
phúc lạc. Thế thì bạn có thể yêu. Thế thì tình yêu của
bạn không còn là nhu cầu mà là chia sẻ, không còn là
sự cần thiết. Bạn sẽ không trở nên phụ thuộc vào
người bạn yêu. Bạn sẽ chia sẻ - và việc chia sẻ là đẹp.
Nhưng điều thường xảy ra trên thế giới là: bạn
không có tình yêu, người bạn nghĩ bạn yêu không có
tình yêu trong con người họ nữa, và cả hai đều cầu xin
tình yêu từ nhau. Hai kẻ ăn xin cầu xin lẫn nhau! Do
đó mới có tranh đấu, xung đột, cãi cọ liên tục giữa
những người yêu - về những chuyện vặt vãnh, về
những thứ không quan trọng, về những thứ ngu xuẩn! -
nhưng họ cứ cãi nhau.
Cãi cọ cơ bản là ở chỗ chồng nghĩ anh ta không có
được cái mà quyền anh ta phải được, vợ nghĩ cô ấy
không có được cái mà quyền cô ấy phải được. Vợ nghĩ
cô ấy đã bị lừa và chồng cũng nghĩ rằng anh ta đã bị
lừa. Tình yêu ở đâu? Không ai bận tâm cho, mọi người
đều muốn lấy. Và khi mọi người đều theo đuổi lấy,
không ai lấy được nó cả. Và mọi người đều cảm thấy
lúng túng, trống rỗng, căng thẳng.
Nền móng cơ bản bị thiếu, và bạn đã bắt đầu làm
ngôi đền mà không có móng. Nó sẽ suy sụp và đổ
nhào vào bất kì khoảnh khắc nào. Và bạn biết đã bao
nhiêu lần tình yêu của mình đã sụp đổ, và dầu vậy bạn
vẫn cứ làm cùng một điều lặp đi lặp lại mãi.
Bạn sống trong vô nhận biết thế! Bạn không thấy
điều mình đã từng làm cho cuộc sống của mình và cho
cuộc sống của người khác. Bạn cứ lặp đi lặp lại một
cách máy móc, như người máy, hình mẫu cũ, vẫn biết
hoàn toàn rõ mình đã làm điều này trước đây. Và bạn
biết điều bao giờ cũng là kết quả, và sâu bên dưới bạn
cũng tỉnh táo rằng nó sẽ xảy ra theo cùng cách - bởi vì
không có khác biệt. Bạn đang chuẩn bị cho cùng kết
luận, cùng sự sụp đổ.
Nếu bạn có thể học được cái gì từ thất bại của tình
yêu, thế thì điều đó là: trở nên nhận biết hơn, trở nên
mang tính thiền hơn. Và với thiền tôi ngụ ý năng lực
vui vẻ một mình. Rất hiếm người có năng lực phúc lạc
chẳng bởi lí do nào cả - chỉ ngồi im lặng và phúc lạc!
Người khác sẽ nghĩ họ điên, bởi vì ý niệm về hạnh
phúc là ở chỗ nó phải tới từ ai đó khác. Bạn gặp một
người đàn bà đẹp và bạn hạnh phúc hay bạn gặp một
người đàn ông đẹp và bạn hạnh phúc. Ngồi im lặng
trong phòng bạn và phúc lạc thế, toả phúc lạc ra sao?
Bạn phải dở hơi hay cái gì đó rồi! Mọi người sẽ nghi
ngờ rằng bạn đang dùng ma tuý, say thuốc.
Vâng, thiền là LSD tối thượng đấy! Nó toát ra
quyền năng phiêu diêu riêng của bạn. Nó toát ra sự
huy hoàng bị cầm tù riêng của bạn. Và bạn trở nên vui
vẻ thế, lễ hội nảy sinh trong bản thể bạn tới mức bạn
không cần có quan hệ thân thuộc nào. Dầu vậy bạn có
thể đặt quan hệ với mọi người... và đó là khác biệt giữa
đặt quan hệ và mối quan hệ thân thiết.
Mối quan hệ thân thiết là một điều: bạn níu bám
lấy nó. Đặt quan hệ là một luồng, chuyển động, quá
trình. Bạn gặp một người, bạn yêu, bởi vì bạn có nhiều
tình yêu thế để cho - và bạn càng cho nhiều, bạn càng
có nhiều. Một khi bạn đã hiểu số học kì lạ này của yêu:
rằng bạn càng cho nhiều, bạn càng có nhiều... Điều
này ngược lại với luật kinh tế vận hành trong thế giới
bên ngoài. Một khi bạn đã biết rằng, nếu bạn muốn có
nhiều tình yêu hơn và nhiều vui vẻ hơn, bạn cho và
chia sẻ, thế thì bạn đơn giản chia sẻ. Và bất kì ai cho
phép bạn chia sẻ vui vẻ của bạn với người đó, bạn đều
cảm thấy biết ơn người đó. Nhưng đó không phải là
mối quan hệ thân thuộc; nó là luồng chảy tựa dòng
sông.
Dòng sông đi qua bên cạnh cây, nói lời chào, nuôi
dưỡng cây, đem nước cho cây... và nó chảy tiếp, nhảy
múa tiếp. Nó không níu bám vào cây. Và cây không
nói, "Anh đi đâu thế? Chúng ta cưới nhau rồi! Và
trước khi anh có thể rời khỏi em anh sẽ cần li dị chứ, ít
nhất là phải tách rời ra! Anh đang đi đâu? Và nếu anh
định rời bỏ em, sao anh nhảy múa đẹp thế quanh em
làm gì? Sao ngay chỗ đầu tiên anh đã nuôi dưỡng em?"
Không, cây trút hoa của nó lên dòng sông trong lòng
biết ơn sâu sắc, và dòng sông chảy tiếp. Gió tới và
nhảy múa quanh cây và đi tiếp. Và cây cho hương
thơm của nó lan theo gió.
Đây là đặt quan hệ. Nếu nhân loại có thể trở nên
trưởng thành, chín chắn, đây sẽ là cách yêu: mọi người
gặp gỡ, chia sẻ, di chuyển, phẩm chất không sở hữu,
phẩm chất không chi phối. Bằng không tình yêu trở
thành trò quyền lực.
Đừng lo nghĩ, Krishna Deva, về tình yêu kiểu
Platon là gì. Suy tư tiếp: yêu là gì?
Bà Green và bà hàng xóm, bà Kenyon, một hôm
nói chuyện phiếm với nhau. "Bà Green," bà Kenyon
nói, "có thể điều đó không phải là việc của tôi, nhưng
sau rốt chúng ta là bạn bè từ lâu rồi và tôi quan tâm tới
danh tiếng của bà. Bà đã li dị, điều đó đúng, nhưng
mọi người đang xì xào về bà. Điều có vẻ không phải là
khi cậu con trai mười tám tuổi đêm nào cũng tới thăm
bà mãi tận những giờ quá muộn."
"Thế này," bà Green mỉm cười, "đừng lo nghĩ về
điều đó. Nó thuần tuý là mối quan hệ kiểu platon thôi."
"Làm sao điều đó có thể là kiểu platon được?" bà
Kenyon hỏi.
"Thế này," bà Green nó , "nó là chơi với cậu ta và
nó là đùa với tôi!"
Đó là điều tình yêu kiểu platon là gì: chơi với
người này, đùa với người kia! Hơn thế thì tôi chẳng
biết gì về nó cả!
#4Câu hỏi thứ tư:
Thưa Thầy kính yêu,
Tôi là doanh nhân. Tôi cũng có thể thiền và trở
thành sannyasin được chứ?
Ram Prasad, người ta phải làm cái gì đó trong
cuộc sống chứ. Ai đó là thợ mộc và ai đó là vua, và ai
đó là nhà kinh doanh và ai đó là chiến binh. Đây là
cách kiếm sống, đây là cách kiếm bánh mì và bơ, chỗ
trú ngụ. Chúng không thể thay đổi được bản thể bên
trong của bạn. Dù bạn là chiến binh hay doanh nhân
không tạo ra khác biệt gì: người này phải chọn một
cách nào đó để kiếm sống, người khác phải chọn cái gì
đó khác.
Thiền là cuộc sống, không phải là kiếm sống. Nó
chẳng liên quan gì tới điều bạn làm; nó có mọi thứ liên
quan tới điều bạn là. Vâng, kinh doanh không nên đi
vào trong bản thể bạn, điều đó đúng. Nếu bản thể bạn
cũng đã trở nên giống như kinh doanh, thế thì khó
thiền và không thể là sannyasin được... bởi vì nếu bản
thể bạn đã trở thành như kinh doanh, thế thì bạn đã trở
thành quá tính toán. Và người tính toán là kẻ hèn nhát:
người đó nghĩ quá nhiều, người đó không thể lấy bước
nhảy nào được.
Và thiền là cú nhảy: từ đầu xuống tim, và nhảy tối
thượng từ tim vào bản thể. Bạn sẽ đi ngày càng sâu
hơn, nơi tính toán sẽ phải bị bỏ lại đằng sau, nơi tất cả
logic đều không liên quan. Bạn không thể mang láu cá
của mình vào đó được.
Thực ra, láu cá không phải là thông minh thực đâu;
láu cá là cái thay thế nghèo nàn cho thông minh.
Những người không thông minh học cách láu cá.
Những người thông minh không cần láu cá; họ hồn
nhiên, họ không cần tinh ranh. Họ vận hành từ trạng
thái không biết.
Nếu bạn là doanh nhân, điều đó là tốt. Nếu Jesus
có thể trở thành thiền nhân và sannyasin, và chung
cuộc thành một christ, vị phật... và ông ấy đã là con
của ông thợ mộc, giúp bố mình lấy gỗ, chẻ gỗ. Nếu
con ông thợ mộc có thể trở thành vị phật, sao bạn
không?
Kabir là thợ dệt. Ông ấy liên tục làm việc của
mình trong cả đời; ngay cả sau chứng ngộ ông ấy vẫn
dệt; ông ấy yêu điều đó! Nhiều lần các đệ tử của ông
ấy đã hỏi ông ấy, cầu xin ông ấy với nước mắt lưng
tròng, rằng "Thầy không cần làm việc nữa - chúng tôi
ở đây để chăm nom cho thầy! Biết bao nhiêu đệ tử, sao
thầy cứ dệt, cứ quay tơ trong tuổi già của thầy thế?"
Và Kabir sẽ nói, "Nhưng các ông biết ta đang dệt
cho ai, ta đang quay tơ cho ai không? Cho Thượng đế
đấy! - bởi vì mọi người bây giờ đều là thượng đế với
ta. Đó là cách thức cầu nguyện của ta."
Nếu Kabir có thể trở thành vị phật và vẫn còn là
thợ dệt, sao bạn không thể thành phật được?
Nhưng kinh doanh không nên đi vào trong bản thể
bạn. Kinh doanh nên chỉ là thứ bên ngoài, chỉ là một
trong những cách kiếm sống thôi. Khi bạn đóng cửa
tiệm lại, quên tất cả về kinh doanh của bạn đi. Khi bạn
về nhà, đừng mang cửa tiệm trong đầu bạn. Khi bạn về
nhà với vợ bạn, với con bạn, đừng là nhà kinh doanh.
Điều đó là xấu: điều đó nghĩa là bản thể bạn đang trở
nên bị tô mầu bởi việc làm của bạn. Việc làm là thứ
bên ngoài. Bản thể nên vẫn còn siêu việt lên trên việc
làm của bạn và bạn bao giờ cũng nên có khả năng gạt
việc làm của mình sang bên và đi vào trong thế giới
của bản thể bạn. Đó là điều thiền tất cả là gì.
Một ông mối đang cố gắng thu xếp một cuộc hôn
nhân tương xứng giữa một doanh nhân và một cô gái
trẻ đẹp. Nhưng doanh nhân lại rất láu cá. "Trước khi
tôi mua hàng," doanh nhân nói, "tôi xem qua hàng
mẫu, và trước khi tôi lấy vợ tôi cũng phải có mẫu
chứ."
"Nhưng lạy trời, này ông, ông không thể yêu cầu
một cô gái đáng kính về điều như thế được!" ông mối
đáp.
"Rất tiếc," người kia vẫn cứ khăng khăng, "tôi là
doanh nhân nghiêm chỉnh và tôi muốn điều đó được
thực hiện theo cách của tôi chứ không khác chút nào."
Ông mối thất vọng đi tới nói với cô gái. "Tôi đã
kiếm cho cô một anh chàng hay đấy," ông ta nói, "có
nhiều tiền lắm. Nhưng anh ta là một doanh nhân
nghiêm ngặt, và anh ta chẳng làm gì mù quáng cả. Anh
ta phải có mẫu đã."
"Nghe đây," cô gái nói. "tôi cũng khôn trong kinh
doanh chẳng kém gì anh ta đâu. Hàng mẫu thì tôi sẽ
không cho anh ta đâu - nhưng chứng nhận thì tôi có
đấy!"
Nếu bạn là loại doanh nhân đó, Ram Prasad, thế
thì sẽ khó mà thiền và không thể là sannyasin được.
Nhưng bạn đã tới đây rồi, bạn đã nghe tôi; thậm
chí ham muốn trở thành sannyasin đã nảy sinh trong
bạn. Điều đó là chỉ dẫn tốt rằng kinh doanh còn chưa
đầu độc linh hồn bạn một cách toàn bộ. Một phần của
bạn vẫn sẵn có cho tình yêu, một phần của bạn vẫn sẵn
có cho Thượng đế. Một phần của bạn vẫn không giống
như kinh doanh - bằng không thì bạn đã không ở đây.
Người kiểu kinh doanh không thể tới tôi được; họ
không thể có bất kì giao cảm nào với tôi. Họ không thể
hiểu được một lời nào được thốt ra ở đây - và nói gì về
im lặng đang hiện diện ở đây? Họ sống trong một thế
giới khác toàn bộ, trong thế giới rất trần tục.
Đó là một quán rượu phô trương tại chỗ tốt nhất
trong thị trấn. Người mới tới gọi một chai bia. Trả tiền
bằng tờ một đô la, anh ta ngạc nhiên khi người đứng
quầy trẻ trả lại cho anh ta chín mươi xu. Khi được hỏi
về điều đó người đứng quầy nói rằng một hào là tất cả
số tiền anh ta phải trả.
Khách hàng, đói và hài lòng với giá rõ ràng thấp
của chỗ này, gọi giăm bông và bánh mì đen kẹp pho
mát.
"Cái đó sẽ là mười lăm xu," người đứng quầy nói.
Khách hàng trợn tròn mắt: "Tôi không thể hiểu
nổi. Sao ông có thể bán thứ đó thấp thế?" ông ta hỏi.
"Nghe đây, anh bạn," người đứng quầy nói, "tôi
mới làm ở đây. Tôi không phải là ông chủ. Ông ấy ở
trên tầng với vợ tôi còn tôi đang làm điều đó cho ông
ấy ở dưới đây!"
Có tâm trí nào đó bao giờ cũng vận hành theo cách
kinh doanh; trong mọi chiều của cuộc sống người đó
bao giờ cũng là doanh nhân. Nếu bạn là loại doanh
nhân đó, thế thì đây không phải là chỗ cho bạn.
Đây là chỗ cho những người liều mạng. Đây là chỗ
cho những người có thể mạo hiểm - người có thể liều
mạng tất cả chẳng vì cái gì. Vâng, đích xác tất cả
chẳng vì cái gì, bởi vì thiền sẽ đem bạn tới cái không.
Nhưng những người đạt tới cái không của thiền, lập
tức trở nên nhận biết rằng họ đã đạt tới tính đầy đủ của
Thượng đế nữa. Cái không của bạn là cái đầy của
Thượng đế, đó là khía cạnh khác. Bạn trở thành cái
không, và bỗng nhiên sự tràn đầy lớn lao giáng xuống
bạn - bạn tràn ngập với Thượng đế. Bằng việc trở
thành cái không bạn trở thành không gian, bạn trở
thành người chủ cho vị khách vĩ đại.
Nhưng nếu bạn liên tục tính toán bạn không thể trở
thành cái không được. Làm sao bạn có thể vứt bỏ tất
cả để là cái không được? Bạn bao giờ cũng tính toán:
bạn sẽ đi một cách thận trọng.
Thế thì đây không phải là chỗ cho bạn. Thế thì bạn
đi tới các thầy giáo rởm, cũ rích, truyền thống. Họ sẽ
an ủi bạn. Họ sẽ bảo bạn rằng bạn có thể vẫn cứ là
doanh nhân đi và dầu vậy vẫn có thể mở tài khoản
ngân hàng ở thiên đường. Hãy từ thiện đi, đem cho quà
từ thiện nào đó: cúng cho người nghèo; cúng cho đền
chùa, hay nhà thờ, hay giáo đường; cho bệnh viện; cho
trường học - và bạn sẽ được thưởng trong kiếp sau của
bạn. Làm những điều đức hạnh mà bạn có thể đảm
đương được. Nếu bạn khai thác mọi người, bạn bao
giờ cũng có thể lại quả cho họ một phần.
Tôi đã nghe:
Trong nhà thờ linh mục đang nói với mọi người,
"Toà nhà này cũ quá rồi và chúng ta cần tiền."
Không ai đáp lại - tất cả các doanh nhân! Mọi
người đều nhìn nhau; mọi người đều chờ đợi và trông
đợi ai đó sẽ đủ ngu xuẩn.
Và thế rồi một cô đứng dậy - gái mãi dâm của thị
trấn! - và cô ta nói, "Tôi cúng dường mười nghìn đô la
cho nhà thờ."
Linh mục không thể nào tin được vào tai mình,
mắt mình! Trong một thoáng chốc ông ta sững sờ, và
thế rồi ông ta nói, "Nhưng ta không thể chấp nhận tiền
của cô được - ta không thể chấp nhận được đồng tiền
sai nào."
Một doanh nhân đứng dậy và nói, "Ông đừng lo,
đó là tiền của chúng tôi đấy! Nó chỉ tới qua cô ấy thôi
- ông có thể chấp nhận nó!"
Bạn có thể cúng dường chút ít cho nhà thờ, cho thể
chế từ thiện nào đó, bạn có thể cho người nghèo số
tiền nào đó. Đây là an ủi. Và chỗ của bạn sẽ được dành
sẵn trên cõi trời.
Đừng là kẻ ngu xuẩn như vậy - cõi trời không rẻ
vậy đâu. Thực ra, không có chỗ nào như cõi trời ở bất
kì đâu cả; nó là cái gì đó bên trong bạn. Không việc từ
thiện nào có thể dẫn bạn tới đó được, nhưng nếu bạn
đạt tới đó thì toàn thể cuộc sống của bạn trở thành việc
từ thiện; đó là hiện tượng khác toàn bộ. Nếu bạn đạt
tới đó, toàn thể cuộc sống của bạn trở thành từ bi.
Vẫn cứ là doanh nhân đi, nhưng trong vài giờ quên
tất cả về nó. Tôi không ở đây để nói cho bạn cách trốn
khỏi cuộc sống bình thường của bạn. Tôi ở đây để nói
cho bạn cách thức và phương tiện, giả kim thuật, để
biến đổi cái bình thường thành cái phi thường. Cứ là
doanh nhân trong cửa hàng của bạn đi và không là
doanh nhân ở nhà bạn. Và đôi khi trong vài giờ quên
hết ngay cả nhà cửa, gia đình, vợ con. Trong vài giờ ở
một mình với bản thân bạn. Chìm ngày một sâu hơn
vào trong bản thể riêng của bạn. Tận hưởng bản thân
bạn, yêu bản thân bạn.
Và dần dần, dần dần bạn sẽ trở nên nhận biết, một
vui vẻ lớn lao trào lên, không có nguyên nhân nào từ
thế giới bên ngoài, vô nguyên nhân từ bên ngoài. Nó là
hương vị riêng của bạn, nó là việc nở hoa riêng của
bạn. Đây là thiền.
Ngồi im lặng, không làm gì, xuân tới và cỏ tự nó
mọc lên. Ngồi im lặng, không làm gì, và đợi mùa
xuân. Nó tới, nó bao giờ cũng tới, và khi nó tới, cỏ tự
nó mọc lên. Bạn sẽ thấy vui vẻ lớn nảy sinh trong bạn
chẳng bởi lí do nào cả. Thế rồi chia sẻ nó, thế rồi đem
nó cho mọi người! Thế thì việc từ thiện của bạn sẽ là
cái bên trong. Thế thì nó sẽ không chỉ là phương tiện
để đạt tới mục đích nào đó; thế thì nó sẽ có giá trị bản
chất.
Và một khi bạn đã trở thành thiền nhân, tính chất
sannyas không còn xa xăm nữa! Tính chất sannyas của
tôi đặc biệt không là gì ngoài việc sống trong thế giới
bình thường, nhưng sống theo cách bạn không bị nó sở
hữu; vẫn còn siêu việt, vẫn còn trong thế giới vậy mà
chút ít ở trên nó. Đó là tính chất sannyas.
Đó không phải là tính chất sannyas cổ, Ram
Prasad: trong đó bạn phải trốn khỏi vợ bạn, con bạn,
công việc của bạn, và đi lên Himalayas. Loại việc đó
đã không có tác dụng chút nào. Nhiều người lên
Himalayas, nhưng họ mang theo tâm trí ngu xuẩn của
họ cùng họ. Himalayas đã chẳng giúp đỡ cho họ chút
nào; ngược lại, họ đã phá huỷ cái đẹp của Himalayas,
có vậy thôi. Làm sao Himalayas có thể giúp ích cho
bạn được? Bạn có thể bỏ thế giới, nhưng bạn không
thể bỏ tâm trí của bạn ở đây được. Tâm trí sẽ đi cùng
bạn; nó ở bên trong bạn. Và dù bạn ở bất kì chỗ nào
bạn, cùng tâm trí của bạn sẽ tạo ra cùng loại thế giới
quanh bạn.
Một nhà huyền môn lớn sắp chết. Ông ấy gọi đệ tử
của mình tới, đại đệ tử. Đệ tử này hân hoan lắm rằng
thầy đang gọi mình. Có đám đông lớn và thầy chỉ gọi
anh ta; anh ta phải được cho chìa khoá bí mật nào đó
mà thầy chưa từng trao cho bất kì ai cho tới giờ. "Đây
là cách thầy chọn mình làm người kế tục của thầy rồi!"
Anh ta lại gần.
Thầy nói, "Ta chỉ có một điều để nói cho ông. Ta
đã không nghe lời thầy ta - thầy cũng đã nói cho ta khi
thầy sắp chết, nhưng ta chỉ là đứa ngu và ta đã không
nghe, và ta thậm chí còn không hiểu điều thầy ngụ ý.
Nhưng ta đang nói cho ông từ kinh nghiệm riêng của
ta, thầy là phải, mặc dầu điều đó có vẻ rất ngớ ngẩn
khi thầy nói điều đó cho ta."
Đệ tử này hỏi, "Nó là gì vậy? Xin thầy nói cho tôi.
Tôi sẽ cố gắng tuân theo nó từng lời một."
Thầy nói, "Đó là điều rất đơn giản: đừng bao giờ,
đừng bao giờ trong đời ông nuôi mèo trong nhà nhé!"
Và trước khi đệ tử này có thể hỏi tại sao, thầy đã chết
rồi!
Bây giờ anh ta đâm ra lúng túng - cái loại ngu
xuẩn gì thế này! Và bây giờ biết hỏi ai? Anh ta tìm hỏi
vài người già trong làng, "Có manh mối nào cho thông
điệp này không? Phải có cái gì đó bí ẩn trong này
chứ!"
Một ông già nói, "Có đấy, tôi biết, bởi vì thầy của
ông ấy - thầy của thầy anh ta - cũng đã bảo ông ấy,
'Đừng bao giờ, đừng bao giờ trong đời ông nuôi mèo
trong nhà nhé!' nhưng ông ấy đã không nghe. Tôi biết
toàn bộ câu chuyện này."
Đệ tử này nói, "Xin ông kể lại cho tôi để cho tôi có
thể hiểu được. Cái gì là bí ẩn đằng sau nó? Tôi muốn
nó được giải mã cho tôi để tôi có thể theo được nó."
Ông già cười to. Ông ấy nói, "Đó là điều đơn giản,
nó chẳng ngớ ngẩn gì. Thầy của thầy ông đã cho ông
ấy một thông điệp vĩ đại, nhưng ông ấy chưa bao giờ
hỏi, 'Nghĩa của nó là gì?' Anh ít nhất cũng đủ thông
minh để hỏi về nó. Ông ấy đơn giản quên mất nó.
Thầy của anh còn trẻ khi thông điệp này được trao;
ông ta thường sống trong rừng. Ông ta chỉ có hai bộ
quần áo; đó là mọi thứ ông ta sở hữu. Nhưng có những
con chuột lớn trong nhà và chúng cắn nát quần áo của
ông ta, và ông ta cứ phải lặp đi lặp lại việc hỏi xin dân
làng quần áo mới.
"Dân làng nói, 'Sao anh không nuôi mèo đi? Anh
chỉ cần nuôi một con mèo và mèo sẽ ăn chuột và sẽ
không có vấn đề gì. Bằng không - chúng tôi đều là
người nghèo - làm sao chúng tôi có thể cứ cung phụng
mãi cho ông quần áo mới hàng tháng được?'
"Điều đó logic tới mức anh ta hỏi xin ai đó một
con mèo. Anh ta được một con mèo, nhưng thế rồi vấn
đề bắt đầu nảy sinh. Mèo chắc chắn cứu được quần áo
anh ta, nhưng mèo lại cần sữa bởi vì một khi chuột hết
rồi thì mèo đói. Và người đáng thương này không thể
thiền được bởi vì mèo bao giờ cũng ở đó, kêu gào,
meo meo, đi đi lại lại xung quanh anh ta.
"Anh ta đi tới dân làng và họ nói, 'Đây là việc khó
đây - bây giờ chúng tôi sẽ phải cung cấp sữa cho anh.
Chúng tôi có thể cho anh bò cái. Anh xong việc đi, anh
giữ lấy con bò này. Anh có thể uống sữa, và mèo của
anh cũng có thể sống được. Theo cách đó anh không
cần ngày ngày tới xin thức ăn nữa.'
"Ý niệm nào hoàn toàn đúng. Anh ta nhận con
bò... bây giờ thế giới đã bắt đầu. Đó là cách thế giới
bắt đầu. Bò cần cỏ, và mọi người nói, 'Chúng tôi sẽ
đến vào ngày nghỉ sắp tới và chúng tôi sẽ phát quang
khu rừng, chuẩn bị mảnh đất. Anh bắt đầu trồng ít lúa
mì, các thứ khác, và để một phần cho cỏ.'
"Và dân làng tới theo lời hứa của họ. Họ phát
quang khu rừng, họ dọn sạch mảnh đất, họ trồng lúa
mì. Nhưng bây giờ lại thành vấn đề: bạn phải tưới
nước chứ... Và cả ngày anh chàng đáng thương này
dính líu vào việc chăm sóc cánh đồng. Không còn thời
gian cho thiền, không còn thời gian để đọc kinh sách!
"Anh ta lại đi tới dân làng. Anh ta nói, 'Tôi ngày
một dấn sâu hơn vào khó khăn rồi. Bây giờ câu hỏi là,
khi nào thiền - chẳng còn lại thời gian nào.'
"Họ nói, 'Anh đợi đã. Một phụ nữ vừa mới goá
chồng, và cô ấy còn trẻ và chúng tôi ngại là cô ấy sẽ
cám dỗ thanh niên trong thị trấn. Xin anh đưa cô ấy đi
cùng anh. Và cô ấy đủ mạnh khoẻ - cô ấy sẽ chăm nom
cánh đồng của anh, bò, mèo, và cô ấy sẽ chuẩn bị thức
ăn cho anh, và cô ấy còn rất tôn giáo nữa. Và đừng lo
lắng, cô ấy sẽ không quấy rầy anh đâu.'
"Đó là cách mọi sự đi tới kết luận logic của chúng.
Bây giờ từ mèo, người này đã đi xa làm sao!
"Và người đàn bà tới và cô ấy bắt đầu chăm sóc
anh ta, và anh ta rất hạnh phúc trong vài ngày. Và cô
ấy kì cọ chân anh ta... và dần dần, dần dần điều phải
xảy ra đã xảy ra: họ lấy nhau. Và khi bạn lấy nhau ở
Ấn Độ, ít nhất một tá trẻ con - một tá là tối thiểu! Cho
nên tất cả thiền, tất cả tính chất sannyas, đều biến mất.
"Ông ta chỉ nhớ lại khi ông ta chết. Ông ta nhớ lại
rằng khi thầy mình sắp chết thầy đã bảo ông ta, 'Cẩn
thận với mèo.' Đó là lí do tại sao ông ấy đã nói với
anh. Bây giờ anh nhận biết về mèo đi! Chỉ một bước
theo hướng sai và anh phải đi con đường sai; và tâm trí
anh đi cùng anh tới bất kì chỗ nào anh đi."
Tôi đã đi lên Himalayas. Một lần tôi đã ở trong
phần sâu thẳm của Himalayas cùng hai người bạn.
Chúng tôi đi vào một động rỗng; nó đẹp tới mức chúng
tôi đã ở lại đêm ở đó.
Đến sáng một sư tới và ông ta nói, "Ra ngay khỏi
đây! Đây là động của tôi!"
Tôi nói, "Làm sao động này có thể là của ông
được? Tôi không thấy điều đó - đây là động tự nhiên.
Ông không đòi được nó, ông không thể đòi được nó -
ông có làm ra nó đâu. Và ông đã từ bỏ thế giới này,
nhà ông, vợ ông, con ông, tiền bạc của ông, và mọi
thứ, và bây giờ ông lại đòi, 'Đây là động của tôi - các
ông ra khỏi nó đi!' Đây không phải là động của ai cả!"
Ông ta giận lắm. Ông ta nói, "Các ông không biết
tôi đâu - tôi là con người nguy hiểm! Tôi không thể để
nó lại cho các ông được. Tôi đã sống trong động này
mười ba năm rồi!"
Chúng tôi khích ông ta nhiều nhất có thể được và
ông ta bốc hoả hoàn toàn, sẵn sàng đánh nhau, sẵn
sàng giết người! Và thế rồi tôi nói với ông ta, "Đợi đã -
chúng tôi sẽ ra đi. Chúng tôi chỉ khích ông để chỉ cho
ông rằng mười ba năm đã qua, nhưng ông vẫn có cùng
tâm trí cũ. Bây giờ chiếc động này là 'của ông', bởi vì
ông đã sống ở đây mười ba năm cho nên nó là của ông.
Ông đã không mang nó đi cùng ông trong việc sinh
của ông và ông sẽ không đem nó đi khi ông chết. Và
chúng tôi không định ở đây mãi mãi đâu, chỉ ở qua
đêm thôi. Chúng tôi chỉ là các lữ khách, chúng tôi
không phải là sư. Tôi chỉ tới để xem bao nhiêu người
ngu đang sống trong những nơi này - và ông dường
như là người thượng đỉnh đấy!"
Bạn có thể rời bỏ thế giới... bạn sẽ vẫn còn như cũ.
Bạn sẽ lại tạo ra cùng thế giới, bởi vì bạn mang bản kế
hoạch tổng thể trong tâm trí mình. Vấn đề không phải
là rời bỏ thế giới này, vấn đề là thay đổi tâm trí, từ bỏ
tâm trí. Đó là điều thiền là gì và đó là điều tính chất
sannyas là gì.
#4Câu hỏi cuối cùng:
Thưa Thầy kính yêu,
Vô nhận biết là gì?
Dinkar, ở trong tâm trí, bị đồng nhất với tâm trí, là
vô nhận biết. Nghĩ rằng "Mình là tâm trí," là vô nhận
biết.
Biết rằng tâm trí chỉ là cái máy cũng như thân thể
là cái máy, biết rằng tâm trí là tách rời.... Đêm tới,
sáng tới: bạn không bị đồng nhất với đêm. Bạn không
nói, "Tôi là đêm," bạn không nói, "Tôi là sáng." Đêm
tới, sáng tới, ngày tới, lại đêm tới; bánh xe cứ quay,
nhưng bạn vẫn còn tỉnh táo rằng bạn không là những
điều này. Cùng điều đó là trường hợp cho tâm trí.
Giận tới, nhưng bạn quên mất - bạn trở thành giận.
Tham tới, bạn quên mất - bạn trở thành tham. Ghét tới,
bạn quên mất - bạn trở thành ghét. Đây là vô nhận biết.
Nhận biết là quan sát rằng tâm trí đầy tham, đầy
giận, đầy ghét hay đầy thèm khát, nhưng bạn đơn giản
là người quan sát. Thế thì bạn có thể thấy tham nảy
sinh, trở thành đám mây đen lớn, thế rồi tan tác đi - và
bạn vẫn còn không bị động chạm. Nó có thể còn lại
bao lâu? Giận của bạn là nhất thời, tham của bạn là
nhất thời, thèm khát của bạn là nhất thời. Quan sát một
chút thôi và bạn sẽ ngạc nhiên: nó tới và nó đi. Và bạn
còn lại đó không bị ảnh hưởng, bình thản, điềm tĩnh.
Một nhà vua lớn yêu cầu nhà huyền môn Sufi cho
ông ta cái gì đó dưới dạng viết - một bài kinh, câu
châm ngôn nhỏ sẽ giúp cho ông ấy trong mọi tình
huống có thể, tốt, xấu, điều sẽ giúp ông ấy trong thành
công, trong thất bại, trong sống, trong chết.
Người Sufi cho ông ấy chiếc nhẫn và bảo ông ấy,
"Có một thông điệp. Bất kì khi nào ông thực sự cần
thiết, trong tình huống khẩn cấp thực, mở cái nhẫn ra,
lấy viên kim cương ra, và bên trong ông sẽ thấy thông
điệp - nhưng đừng mở vì tò mò, chỉ khi thực sự nguy
hiểm mà ông không thể đối diện theo cách riêng của
ông và ông cần ta, ông có thể xem thông điệp."
Nhiều lần nhà vua trở nên tò mò cái gì có trong đó,
nhưng ông ấy cưỡng lại cám dỗ của mình: ông ấy đã
hứa, lời của ông ấy. Ông ấy là con người biết giữ lời.
Sau mười năm ông ta bị tấn công và bị thất bại.
Ông ta chạy vào trong rừng, vào vùng núi non, và kẻ
thù đuổi theo ông ấy. Ông ấy có thể nghe thấy tiếng vó
ngựa ngày một tới gần hơn - đó là cái chết đang tới
gần hơn. Họ sẽ giết chết ông ta! Nhưng ông ta đã đi
nhanh nhất có thể được trên ngựa của mình. Ông ta đã
mệt mỏi, ngựa của ông ta cũng mệt mỏi; ông ta bị
thương, ngựa của ông ta cũng bị thương.
Và thế rồi ông ta bỗng nhiên đi vào lối cụt. Đường
chấm dứt; có vực thẳm. Và không có khả năng nào
quay lại bởi vì kẻ thù đang tới gần, mọi khoảnh khắc
đều tới gần hơn. Ông ta không thể nào nhảy vào trong
vực thẳm được; điều đó là cái chết chắc chắn. Ngoại
trừ chờ đợi ở đó không có gì để làm cả.
Bỗng nhiên ông ta nhớ tới cái nhẫn. Ông ta mở
nhẫn ra, bỏ kim cương ra. Bên trong có một mẩu giấy;
trên mẩu giấy chỉ có một câu đơn giản: "Điều này nữa
sẽ qua thôi." Và bỗng nhiên bình thản lớn lao giáng
xuống ông ta: "Điều này nữa sẽ qua thôi."
Và điều đó đã xảy ra đích xác giống điều đó. Ông
ta nghe thấy những tiếng động đó tới gần hơn; dần dần
ông ta bắt đầu nghe thấy họ đi xa hơn. Họ đã lấy lối rẽ
sai. Ông ta đã đi qua ngã tư đường, họ phải đã đi trên
con đường khác nào đó. Thế rồi ông ta tập hợp lại
quân đội của mình, lại chiến đấu với kẻ thù, giành lại
vương quốc của mình. Ông ta đã nhận được vui vẻ lớn
lao, được đeo vòng hoa, được tung hoa lên mình, cả
thủ đô trang hoàng đón chào ông ta.
Bỗng nhiên ông ta cảm thấy bản ngã lớn lao đang
nảy sinh trong mình. Ông ta lại nhớ tới thông điệp,
"Điều này nữa sẽ qua thôi," và bản ngã biến mất. Và
tất cả những vòng hoa và tất cả những đón chào đó đều
trở thành trò chơi trẻ con. Trong thất bại nó giúp ích,
trong thành công nó giúp ích.
Điều đó trở thành việc thiền của ông ta, điều đó trở
thành mật chú của ông ta. Cho nên bất kì điều gì tới
ông ấy sẽ lặp lại sâu bên dưới - không bằng lời, nhưng
cảm giác sẽ có đó trong tim ông ta - "Điều này nữa sẽ
qua thôi."
Nếu bạn có thể nhớ được điều đó, thế thì bất kì cái
gì tới trong tâm trí bạn, bạn đơn giản vẫn còn là nhân
chứng: "Điều này nữa sẽ qua thôi." Việc chứng kiến
đó là nhận biết - nhưng chúng ta bị đồng nhất. Chúng
ta trở nên tham, chúng ta trở nên giận, chúng ta trở nên
thèm khát. Bất kì điều gì tới ngay trước ý thức chúng
ta, chúng ta trở nên bị đồng nhất với nó. Điều đó ngu
xuẩn như khi nó xảy ra cho trẻ con rất nhỏ.
Bạn đã bao giờ thử điều đó chưa? Để tấm gương
trước đứa trẻ rất nhỏ. Nó sẽ nhìn vào trong tấm gương
rất ngạc nhiên, với con mắt mở to nó sẽ nhìn: "Thằng
bé kia là ai vậy?" Nó cố gắng bắt giữ, nhưng nó không
thể bắt giữ được người trong gương. Và thế rồi, nếu
đứa trẻ thông minh, nó sẽ thử đi ra sau gương: "Có thể
đứa trẻ đang trốn đằng sau gương." Nó còn chưa nhận
biết rằng đó chỉ là tấm gương; không có thực tại nào.
Tâm trí chỉ là tấm gương: nó phản xạ đám mây của
thế giới, nó phản xạ mọi thứ xảy ra xung quanh trong
thế giới. Ai đó xúc phạm và có giận - đó là phản xạ. Ai
đó đẹp đi ngang qua và nó phản xạ - đó là thèm khát.
Và bạn lập tức trở nên bị đồng nhất với nó.
Giữ một chút ít khoảnh cách... và dần dần, dần dần
bạn sẽ thấy rằng khoảng cách cứ lớn dần. Một ngày
nào đó tâm trí ở xa thế, xa xăm thế, nó không ảnh
hưởng tới bạn chút nào.
Đây là về nhà, đây là phật tính. Aes dhammo
sanantano: đây là luật không cạn của cuộc sống. Nếu
bạn có thể là nhân chứng bạn sẽ có khả năng đi qua
biến đổi lớn lao: bạn sẽ biết cái ta thực của bạn.
Cô hầu già ngồi vuốt ve đầu con mèo đực yêu quí
của mình và lo lắng về điều cô ấy đã bỏ lỡ cả đời
mình, thì bỗng nhiên, một nàng tiên xuất hiện với
chiếc đũa thần và bảo cô hầu già là nàng tiên sẵn sàng
cho cô ta được thực hiện ba điều ước bất kì. Nàng tiên
yêu cầu là cô ta đừng bị kích động nhưng để thời gian
và quyết định điều muốn của mình một cách cẩn thận.
Điều ước thứ nhất của cô ấy là cô ấy có thân thể
đẹp. Chiếc đũa thần vung lên và điều ước của cô ấy
được ban cho. Khi cô ta kiểm tra lại kết quả trong
gương, điều ước thứ hai của cô ấy sinh ra ngay lập tức:
rằng cô ấy được cho quần áo để trang điểm cho thân
hình tuyệt mĩ này. Điều ước của cô ấy lại được đáp
ứng bằng giá những bộ quần áo đẹp vừa khít hoàn hảo
với cô ấy.
Khi được hỏi tới điều ước thứ ba, cô ấy nói cô ấy
muốn một người đàn ông.
Tiên nói, "Cô có con mèo đẹp đó. Làm ra người
đàn ông từ con mèo đó cho cô được chứ?"
Điều đó hoàn toàn được ưng thuận, và con mèo
đực trở thành người đàn ông. Cô hầu già rất hạnh
phúc. Khi được hỏi liệu cô ấy có hoàn toàn thoả mãn
không, cô ấy nói cô ấy có. Thế rồi nàng tiên hỏi người
đàn ông liệu anh ta có hoàn toàn thoả mãn không
không. "Có chứ," anh ta nói, "nhưng cô ấy sẽ không
thoả mãn đâu."
"Tại sao?"
"Cô ấy quên mất chuyến đi đó tới bác sĩ thú y!"
Bạn cứ làm mọi thứ, vô nhận biết về điều mình
đang làm. Bạn cứ hỏi xin mọi thứ, vô nhận biết điều
mình đang hỏi xin. Nếu tất cả ham muốn của bạn mà
được hoàn thành bạn sẽ là người khổ nhất trên thế
giới; cũng tốt là chúng không được hoàn thành.
Người tôn giáo thực không bao giờ hỏi xin cái gì
từ Thượng đế. Người đó nói, "Ý của ngài sẽ được thực
hiện, vương quốc của ngài tới. Bởi vì tôi có thể hỏi xin
cái gì từ vô nhận biết của tôi được? Bất kì cái gì tôi hỏi
xin cũng đều sẽ sai." Người đó chỉ hỏi xin một điều:
"Ý của ngài sẽ được thực hiện."
Có tính thiền, có tính cầu nguyện đi. Nhớ hai lời
kinh này: "Điều này nữa sẽ qua thôi " - điều đó sẽ giúp
cho bạn thiền - và lời kinh thứ hai, "Ý của ngài sẽ
được thực hiện"; điều đó sẽ giúp bạn mang tính cầu
nguyện. Và khi thiền và lời cầu nguyện gặp gỡ, bạn ở
đỉnh cao nhất có thể có của tâm thức.
Đủ cho hôm nay.
******************************************************
#5Sống trong vui vẻ
Sống trong vui vẻ,
trong tình yêu,
ngay cả giữa những người ghét.
Sống trong vui vẻ,
trong mạnh khoẻ,
ngay cả giữa những người ưu phiền.
sống trong vui vẻ,
trong an bình,
ngay cả giữa những người rối loạn.
sống trong vui vẻ,
không tài sản,
như những người toả sáng.
Kẻ thắng gieo hận thù
bởi vì kẻ thua đau khổ.
buông bỏ thắng và thua
Và tìm thấy vui vẻ.
Không lửa nào như đam mê,
Không tội nào như hận thù,
Không khổ nào như phân tách,
Không ốm nào như đói,
và không vui nào như vui của tự do.
Mạnh khoẻ, mãn nguyện và tin cậy
là của cải vĩ đại nhất của ông,
và tự do là vui vẻ vĩ đại nhất của ông.
Nhìn vào trong.
Tĩnh lặng.
Tự do khỏi sợ hãi và gắn bó
biết vui dịu ngọt của con đường.
Vui làm sao nhìn vào người thức tỉnh
và giữ đồng hành với người trí huệ.
Dài làm sao con đường của người
đi cùng người ngu.
Nhưng bất kì ai đi theo những người theo con
đường
khám phá ra gia đình người đó, và được tràn đầy
vui vẻ.
Đi theo người toả sáng,
người trí huệ, người thức tỉnh, người đáng yêu,
vì họ biết cách làm việc và kiên nhẫn.
theo họ
như trăng đi theo con đường của các vì sao.
Thật là điều ngạc nhiên thú vị được thiền về những
lời kinh này hôm nay. Chúng đi ngược lại ý niệm lan
tràn khắp thế giới về Phật Gautama. Ông ấy được miêu
tả bởi kẻ thù của ông ấy và ngay cả bởi bạn bè và tín
đồ của ông ấy, là người yếm thế đệ nhất. Ông ấy
không phải là người yếm thế chút nào; ông ấy là một
trong những người vui vẻ nhất đã từng có. Những lời
kinh này sẽ cho bạn sự sáng suốt mênh mông trong
tâm điểm của con người thức tỉnh này:
Sống trong vui vẻ,
trong tình yêu,
ngay cả giữa những người ghét.
Vui vẻ là từ khoá của mọi lời kinh này. Vui vẻ
không phải là hạnh phúc, bởi vì hạnh phúc bao giờ
cũng bị trộn lẫn với bất hạnh. Nó chưa bao giờ được
tìm thấy trong thuần khiết, nó bao giờ cũng bị ô nhiễm.
Nó bao giờ cũng có cái bóng dài của khổ đằng sau nó.
Cũng như ngày được theo sau bởi đêm, hạnh phúc
được theo sau bởi bất hạnh.
Thế thì vui vẻ là gì? Vui vẻ là trạng thái của siêu
việt. Người ta không hạnh phúc không bất hạnh,
nhưng hoàn toàn an bình, yên tĩnh, trong cân bằng
tuyệt đối; im lặng và sống động tới mức im lặng của
người đó là bài ca, tới mức bài ca của người đó không
là gì ngoài im lặng của người đó. Vui vẻ là mãi mãi;
hạnh phúc là nhất thời. Hạnh phúc được gây ra bởi bên
ngoài, do đó có thể bị lấy đi từ bên ngoài - bạn phải
phụ thuộc vào người khác. Và bất kì phụ thuộc nào
cũng đều xấu, bất kì phụ thuộc nào cũng đều là tù
túng. Vui vẻ nảy sinh từ bên trong, nó chẳng liên quan
gì tới bên ngoài. Nó không do người khác tạo ra, nó
không có nguyên nhân chút nào. Nó là luồng chảy tự
phát của năng lượng riêng của bạn.
Nếu năng lượng của bạn tù đọng, không có vui vẻ.
Nếu năng lượng của bạn trở thành luồng chảy, chuyển
động, dòng sông, có vui vẻ lớn lao - không vì lí do
nào, chỉ bởi vì bạn trở nên linh động hơn, tuôn chảy
hơn, sống động hơn. Bài ca được sinh ra trong trái tim
bạn, cực lạc lớn lao nảy sinh.
Thật ngạc nhiên khi nó nảy sinh, bởi vì bạn không
thể tìm được nguyên nhân nào cho nó. Nó là kinh
nghiệm bí ẩn nhất trong cuộc sống: cái gì đó không
nguyên nhân, cái gì đó bên ngoài luật nhân quả. Nó
không cần có nguyên nhân bởi vì nó là bản tính cố hữu
của bạn, bạn được sinh ra cùng nó. Nó là cái gì đó bẩm
sinh, nó là bạn trong tính toàn bộ, tuôn chảy của bạn.
Bất kì khi nào bạn tuôn chảy, bạn đều tuôn chảy
tới đại dương. Đó là vui vẻ: điệu vũ của dòng sông
chảy tới đại dương để gặp gỡ người yêu tối thượng.
Khi cuộc sống của bạn là cái ao tù đọng bạn đơn giản
chết. Bạn không di chuyển đi đâu cả - không đại
dương, không hi vọng. Nhưng khi bạn tuôn chảy, đại
dương đang tới gần hơn mọi khoảnh khắc, và dòng
sông càng tới gần, điệu vũ càng có đó, cực lạc càng có
đó.
Tâm thức bạn là dòng sông. Phật đã gọi nó là sự
liên tục. Nó là sự tiếp diễn, sự tiếp diễn vĩnh hằng,
luồng chảy vĩnh hằng. Phật chưa bao giờ nghĩ về bạn
và bản thể bạn như cái gì đó tĩnh tại. Trong cách nhìn
của ông ấy, từ 'đang là' là không đúng. Theo ông ấy,
đang là không là gì ngoài trở thành. Ông ấy phủ nhận
đang là; ông ấy chấp nhận trở thành, bởi vì đang là cho
bạn ý niệm tĩnh tại về cái gì đó bên trong bạn như tảng
đá. Trở thành cho bạn ý niệm khác toàn bộ: như dòng
sông, như bông sen nở, như mặt trời lên. Cái gì đó
thường xuyên xảy ra. Bạn không ngồi đó như tảng đá,
bạn đang phát triển.
Phật thay đổi toàn thể siêu hình: ông ấy thay đang
là bằng trở thành, ông ấy thay sự vật bằng quá trình,
ông ấy thay danh từ bằng động từ.
Sống trong vui vẻ... sống trong bản tính bên trong
nhất riêng của bạn, với chấp nhận tuyệt đối về bất kì ai
bạn đang là. Đừng cố gắng thao túng bản thân bạn theo
các ý niệm của người khác. Là bản thân bạn thôi, bản
tính đích thực của bạn... và vui vẻ nhất định nảy sinh;
nó trào lên từ bên trong bạn.
Khi cây được chăm nom, được tưới nước, được
chăm sóc, nó tự nhiên nở hoa một ngày nào đó. Khi
xuân tới có việc nở hoa lớn lao. Điều đó cũng là vậy
với con người. Chăm nom bản thân bạn đi. Tìm ra
mảnh đất đúng cho bản thể bạn, tìm ra khí hậu đúng,
và đi ngày càng sâu hơn vào trong bản thân bạn. Đừng
thám hiểm thế giới làm gì; thám hiểm bản tính của bạn
ấy. Bởi vì bằng việc thám hiểm thế giới bạn có thể có
nhiều của cải đấy, nhưng bạn sẽ không là người chủ.
Nhưng bằng việc thám hiểm bản thân bạn, bạn có thể
không có nhiều của cải, nhưng bạn sẽ là người chủ.
Làm người chủ của bản thân bạn là tốt hơn là làm
người chủ của toàn thế giới.
Sống trong vui vẻ, trong tình yêu... Và người sống
trong vui vẻ thì sống một cách tự nhiên trong tình yêu.
Tình yêu là hương thơm của hoa của vui vẻ. Bên trong
có vui vẻ; bạn không thể chứa đựng được nó. Nó nhiều
thế, nó không thể nào chịu đựng nổi. Nếu bạn thử keo
kiệt về nó, bạn sẽ cảm thấy đau. Vui vẻ có thể có nhiều
tới mức nếu bạn không chia sẻ nó, nó có thể trở thành
đau khổ, nó có thể trở thành cơn đau.
Vui vẻ phải được chia sẻ; bằng việc chia sẻ nó bạn
được nhẹ gánh, bằng việc chia sẻ nó những nguồn mới
mở ra bên trong bạn, những luồng mạch mới, dòng
suối mới. Việc chia sẻ đó của vui vẻ của bạn là tình
yêu. Do đó một điều phải được ghi nhớ: bạn không thể
yêu được chừng nào bạn còn chưa đạt tới vui vẻ.
Và hàng triệu người cứ làm điều đó: họ muốn yêu
và họ không biết gì về vui vẻ là gì. Thế thì tình yêu
của họ là hổng hoác, trống rỗng, vô nghĩa. Thế thì tình
yêu của họ đem tới thất vọng, khổ, phiền não; nó tạo ra
địa ngục. Chừng nào bạn còn chưa có vui vẻ bạn
không thể trong tình yêu được. Bạn không có gì để
cho, bản thân bạn là kẻ ăn xin. Trước hết bạn cần là
vua đã - và vui vẻ của bạn sẽ làm bạn thành vua.
Khi bạn toả ra vui vẻ... Phật nói: Khi ông đã trở
thành người toả sáng, khi các bí mật ẩn kín của bạn
không còn là bí mật mà là việc nở hoa trong gió, trong
mưa, trong mặt trời; khi sự huy hoàng bị cầm tù của
bạn được thả ra, khi bí ẩn của bạn đã trở thành hiện
tượng mở, khi nó rung động quanh bạn, đập rộn ràng
quanh bạn, khi nó ở trong hơi thở của bạn, trong nhịp
đập tim bạn - thế thì bạn có thể yêu. Thế thì bạn chạm
vào bụi và bụi được biến đổi thành điều thiêng liêng.
Thế thì bất kì cái gì bạn chạm tới đều biến thành vàng.
Đá cuội thường trong tay bạn sẽ được chuyển hoá
thành kim cương, ngọc lục bảo. Đá cuội thường thôi...
mọi người được bạn chạm tới sẽ không còn là người
thường nữa.
Người đã đạt tới vui vẻ trở thành cội nguồn của
biến đổi lớn lao cho nhiều người. Ngọn lửa của người
đó đã được thắp lên, bây giờ người đó có thể giúp
người khác. Những ngọn lửa chưa thắp lại gần người
đã trở nên bắt lửa bởi vui vẻ, cũng có thể trở nên được
thắp sáng.
Đó là điều satsang là gì, đó là điều giao cảm với
thầy là gì: lại gần hơn ngọn lửa của thầy, lại gần hơn
huy hoàng của thầy, lại gần hơn vinh quang của thầy,
lại gần hơn điều đã xảy ra cho thầy. Và chỉ bởi việc lại
gần hơn ngọn lửa nhảy vào trong bạn và bạn không
bao giờ như cũ nữa.
Tình yêu là có thể chỉ khi ngọn lửa của bạn được
thắp sáng. Bằng không bạn là lục địa tối tăm - và bạn
giả vờ đem ánh sáng tới cho người khác sao? Yêu là
ánh sáng, ghét là bóng tối. Bạn tối tăm bên trong và cố
đem ánh sáng cho người khác sao? Bạn sẽ chỉ thành
công trong việc cho họ nhiều tối tăm hơn - và họ đã
trong bóng tối rồi. Bạn sẽ nhân bóng tối của họ lên,
bạn sẽ làm cho họ khổ hơn. Đừng cố gắng làm điều đó,
bởi vì điều đó là không thể được, nó không tương ứng
với bản chất của mọi sự. Nó không thể xảy ra được.
Bạn có thể hi vọng, nhưng tất cả hi vọng của bạn đều
hão huyền. Trước hết được tràn đầy với vui vẻ đi.
Sống trong vui vẻ, trong tình yêu, ngay cả giữa
những người ghét. Và thế thì vấn đề không phải là điều
người khác làm cho bạn. Thế thì người ta có thể yêu
ngay cả những người ghét người đó. Thế thì người ta
có thể sống trong tình yêu và vui vẻ ngay cả giữa kẻ
thù.
Một đệ tử của Phật trở nên chứng ngộ, và Phật nói
với ông ấy, "Bởi vì ông đã vào ngôi đền rồi, đi và lan
toả thông điệp này, vì có nhiều người cần chút giúp đỡ,
có nhiều người đang chìm trong dòng sông của buồn
khổ. Bởi vì ông đã học được cách bơi - giúp người
khác đi. Bây giờ ông có thuyền, ông có thể đưa họ
sang bờ bên kia. Nhớ cách thức ta đã giúp ông; bây giờ
ông đi và giúp người khác."
Đệ tử này nói, "Bất kì điều gì thầy nói tôi sẽ làm;
tôi sẽ đi. Rời khỏi thầy thật đau lòng. Điều đó gây đau,
phải đi xa thầy là nỗi đau trong lòng, nhưng nếu thầy
nói vậy, tôi sẽ đi. Giá mà thầy đã nói cho tôi từ
trước..." Xem tình yêu của đệ tử, của người thành tâm!
Người đó nói, "Giá mà thầy đã nói với tôi trước đây,
thì tôi đã không cố gắng để đạt tới chứng ngộ chút nào,
bởi vì ở cùng thầy còn có ý nghĩa hơn nhiều. Tôi sẽ
liều lĩnh không chứng ngộ, tôi sẽ vứt bỏ chính dự định
này, nếu như tôi mà biết trước rằng tôi sẽ phải ra đi.
Nhưng bây giờ thì quá trễ rồi. Nếu thầy nói vậy, tôi sẽ
đi."
Phật nói với ông ấy, "Ông có thể chọn hướng,
chọn vị trí, nơi ông muốn đi."
Ở Bihar có một chỗ nơi không đệ tử nào của Phật
đã từng đi tới: Suka là tên của chỗ đó. Đệ tử này nói,
"Tôi sẽ đi tới Suka."
Phật trông có vẻ hơi ngạc nhiên. Đệ tử này còn trẻ,
rất trẻ, không chỉ về tuổi mà còn trẻ cả trong chứng
ngộ của anh ta. Anh ta đã không biết các con đường
của thế giới. Phật nói, "Ông không nhận biết, dường
như vậy đấy, rằng mọi người ở Suka là những người
rất nguy hiểm, giết người, ăn trộm, cướp bóc. Đó là lí
do tại sao chưa ai đã chọn đi tới đó."
Anh thanh niên này nói, "Nhưng đó là lí do tại sao
tôi lại chọn đi tới đó, bởi vì họ cũng cần thông điệp
của thầy. Họ cũng cần thầy, và còn cần nhiều hơn
những người khác. Xin ban phúc lành cho tôi để tôi có
thể đi và giúp vài người ở đó."
Phật nói, "Thế thì ông sẽ phải trả lời ba câu hỏi.
Câu hỏi thứ nhất: những người đó tinh quái thế - ta
biết họ - nếu ông tới đó họ sẽ không nghe ông đâu. Họ
sẽ xúc phạm ông, họ sẽ cố gắng làm mất mặt ông, họ
sẽ rất thô tục với ông. Khi họ xúc phạm ông và chửi
tục với ông, ông sẽ đáp ứng thế nào?"
Anh thanh niên nói, "Không cần phải hỏi tôi - thầy
biết tôi sẽ đáp ứng thế nào. Tôi sẽ cám ơn họ, sẽ biết
ơn họ, bởi vì họ là người tốt. Họ chỉ xúc phạm tôi, họ
chỉ làm mất mặt tôi. Họ có thể đã đánh tôi và họ không
đánh tôi. Họ có thể đã ném đá vào tôi và họ không
ném đá vào tôi. Họ là người tốt! Tôi sẽ biết ơn họ rằng
họ đã không làm hại thân thể tôi."
Phật nói, "Và nếu họ bắt đầu đánh ông, làm ông bị
thương, ném đá vào ông, thế thì đáp ứng của ông sẽ là
gì?"
Và thanh niên này nói, "Tôi vẫn sẽ cực kì biết ơn
họ là họ chỉ ném đá vào tôi, đánh tôi, nhưng vẫn để tôi
sống, không giết tôi. Họ có thể đã giết tôi chứ!"
Phật nói, "Bây giờ câu hỏi cuối cùng đây. Nếu họ
giết ông, vào lúc ông chết, trong những khoảnh khắc
cuối cùng đó khi ông sắp chết, phản ứng của ông sẽ là
gì?"
Người thanh niên này nói, "Tôi sẽ vẫn biết ơn họ
bởi vì họ chỉ giết thân thể tôi thôi; họ không thể giết
được tôi. Và sớm hay muộn thân thể tôi đằng nào cũng
mất. Và tôi cũng sẽ biết ơn là họ đã phá huỷ thân thể
tôi và bây giờ họ đã lấy đi từ tôi mọi cơ hội cho việc
phạm bất kì lỗi lầm nào. Tôi sẽ không thể nào phạm
phải sai lầm nào được, tôi sẽ không thể đi lạc lối được.
Tôi sẽ cảm ơn, tôi chết đi với lòng biết ơn lớn lao."
Phật nói, "Bây giờ ông có thể đi bất kì đâu. Ông có
thể đi tới Suka hay bất kì chỗ nào ông chọn, ông đã
sẵn sàng. Nếu đây là đáp ứng của ông, ông đã trở
thành vị phật - ông là người toả sáng."
Không phải là vấn đề yêu những người yêu bạn.
Điều đó rất bình thường, điều đó tựa như kinh doanh,
mặc cả. Tình yêu thực là yêu những người ghét bạn.
Ngay bây giờ thậm chí yêu những người yêu bạn cũng
là điều không thể được, bởi vì bạn không biết vui vẻ là
gì. Nhưng khi bạn biết vui vẻ, phép màu xảy ra, phép
thần thông. Thế thì bạn có khả năng yêu những người
ghét bạn. Thực ra, vấn đề không còn là yêu ai đó hay
không yêu ai đó, bởi vì bạn trở thành tình yêu; bạn
không có gì khác còn lại cả.
Trong Koran, tôi đã nghe, có một phát biểu, "Ghét
quỉ." Một nhà nữ huyền môn Sufi vĩ đại, Rabiya, đã
xoá dòng đó khỏi bản kinh Koran của mình. Hassan,
một nhà huyền môn nổi tiếng khác, đang ở cùng với
Rabiya; ông ấy thấy Rabiya làm điều đó. Ông ấy nói,
"Bà làm gì vậy? Koran không thể được sửa - điều đó là
báng bổ. Bà không thể cắt đi bất kì phát biểu nào trong
kinh Koran; nó hoàn hảo như nó vậy. Không có khả
năng cho bất kì cải tiến thêm nào. Bà đang làm gì
vậy?"
Rabiya nói, "Hassan, tôi phải làm điều đó! Vấn đề
không phải là Koran, nó là cái gì đó khác toàn bộ: vì
tôi đã biết tới Thượng đế tôi không thể ghét được. Vấn
đề không phải là quỉ, tôi đơn giản không thể ghét
được. Cho dù quỉ có tới ngay trước tôi, tôi sẽ yêu nó,
bởi vì bây giờ tôi chỉ có thể yêu được thôi; tôi không
có khả năng ghét - điều đó đã biến mất rồi. Nếu một
người tràn đầy ánh sáng người đó có thể cho ông chỉ
ánh sáng thôi; dù ông là bạn hay là thù cũng không
thành vấn đề.
"Từ đâu," Rabiya nói, "tôi có thể đem bóng tôi để
ném lên quỉ được? Nó không còn ở bất kì đâu cả - tôi
là ánh sáng. Ánh sáng của tôi sẽ chiếu lên quỉ cũng
nhiều như lên Thượng đế. Bây giờ, với tôi, không có
Thượng đế và không có quỉ, tôi thậm chí không thể tạo
ra phân biệt được. Toàn thể bản thể tôi được biến đổi
thành tình yêu rồi; chẳng cái gì còn lại.
"Tôi không chữa Koran - tôi là ai mà chữa nó? -
nhưng phát biểu này không còn liên quan tới tôi. Và
đây là cuốn sách của tôi; tôi không chữa Koran của bất
kì ai khác. Tôi có quyền đặt vào bản sao của tôi điều
đúng theo bản thân tôi chứ. Phát biểu này động chạm
tôi nặng nề bất kì khi nào tôi bắt gặp nó. Tôi không thể
thấy có nghĩa gì từ nó cả; do đó tôi xoá nó đi."
Người đầy vui vẻ và tình yêu không thể đừng được
việc đó. Người đó yêu bạn bè, người đó yêu kẻ thù.
Vấn đề không phải là quyết định về phần người đó;
tình yêu bây giờ là bản tính của người đó, như việc
thở. Bạn có dừng thở nếu kẻ thù tới gặp bạn không?
Bạn có nói, "Làm sao tôi có thể thở được trước kẻ thù
của mình?" Bạn có nói, "Làm sao tôi có thể thở được
bởi vì kẻ thù của tôi cũng đang thở và không khí của
nó, cái đã qua phổi nó có thể vào tôi? Tôi không thể
thở được." Bạn sẽ ngộp hơi, bạn sẽ chết. Điều đó sẽ là
tự tử và cực kì ngu xuẩn.
Trên con đường một khoảnh khắc sẽ tới khi tình
yêu cũng giống như việc thở - việc thở của linh hồn
bạn. Bạn cứ yêu hoài.
Trong ánh sáng này bạn có thể hiểu được phát biểu
của Jesus: Yêu kẻ thù ông như bản thân ông. Nếu bạn
hỏi Phật, ông ấy sẽ nói: Không cần làm điều như vậy
đâu, bởi vì ông không thể làm khác được. Bạn phải
yêu. Thực ra bạn là tình yêu, cho nên dù bạn ở đâu -
trong hoa, trong gai, trong đêm tối, trong đêm trăng
tròn, trong khổ bao quanh bạn như đại dương hay
trong thành công lớn lao - điều đó không thành vấn đề.
Bạn vẫn còn là tình yêu; mọi thứ khác trở thành không
quan trọng. Tình yêu của bạn trở thành cái gì đó của
vĩnh hằng, nó tiếp diễn. Người ta có thể chấp nhận nó,
người ta có thể không chấp nhận nó, nhưng bạn không
thể ghét được; bạn phải là bản tính đúng của mình.
Sống trong vui vẻ, Phật lặp lại,
Trong lành mạnh,
ngay cả giữa những người khổ.
Với lành mạnh Phật ngụ ý tính toàn thể. Lành
mạnh-health tới từ cùng gốc như 'chữa lành-healing'.
Người được chữa lành là người lành mạnh, người được
chữa lành là người toàn thể. Với "lành mạnh" Phật
không ngụ ý nghĩa bình thường, y học của từ này;
nghĩa của ông ấy không mang tính y học, nó mang tính
thiền - mặc dầu bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng các từ
'thiền-meditation' và 'thuốc-medicine' cả hai có cùng
một gốc. Thuốc chữa lành bạn về mặt thể chất, thiền
chữa lành bạn về mặt tâm linh. Cả hai đều là các quá
trình chữa lành, cả hai đều đem tới lành mạnh.
Nhưng Phật không nói về lành mạnh của thân thể;
ông ấy đang nói về lành mạnh của linh hồn bạn. Hãy
toàn thể, hãy toàn bộ. Đừng bị phân mảnh, đừng bị
phân chia. Là cá nhân theo đúng từ này: không phân
chia được, một mảnh.
Mọi người không phải là một mảnh; họ là nhiều
mảnh, bằng cách nào đó giữ gắn chúng lại với nhau.
Chúng có thể rời ra vào bất kì khoảnh khắc nào.
Chúng là tất cả nhân vật Humpty-Dumpties - cậu bé
"quả trứng", chỉ là một đống nhiều thứ. Bất kì tình
huống mới nào, bất kì nguy hiểm mới nào, bất kì bất
an nào, và chúng có thể rã rời ra. Vợ bạn chết hay bạn
phá sản hay bạn thất nghiệp - bất kì điều nhỏ bé nào
cũng đều có thể chứng tỏ là cọng rơm cuối cùng trên
lưng lạc đà. Khác biệt chỉ ở mức độ. Ai đó sôi ở chín
mơi tám độ, ai đó ở chín mươi chín độ; ai đó có thể ở
chín mươi chín phẩy chín độ, nhưng khác biệt chỉ ở
mức độ, và bất kì cái gì nhỏ bé nào cũng đều có thể
làm thay đổi cân bằng. Bạn có thể phát điên vào bất kì
khoảnh khắc nào, bởi vì bên trong bạn đã là đám đông
rồi.
Biết bao nhiêu ham muốn, biết bao nhiêu mơ
mộng, biết bao nhiêu người đang sống trong bạn. Nếu
bạn quan sát cẩn thận, bạn sẽ không tìm thấy một
người ở đó mà nhiều khuôn mặt, thay đổi mọi khoảnh
khắc. Cứ dường như bạn chỉ là bãi chợ nơi biết bao
nhiêu người tới và đi, ồn ào thế, và chẳng cái gì tạo ra
nghĩa cả.
Mới hôm nọ, Subhash đã hỏi một câu hỏi: "Thưa
thầy kính yêu, thầy có bao giờ mơ không?"
Bạn có thể mơ chỉ nếu bạn là nhiều người. Bạn có
thể mơ chỉ nếu bạn có nhiều ham muốn. Tôi chẳng có
ham muốn nào. Mơ là sản phẩm phụ của ham muốn:
điều bạn muốn ban ngày, bạn mơ ban đêm. Việc mơ là
tàn tích; cái gì đó còn lại không đầy đủ trong ngày mà
phải được làm đầy đủ. Tâm trí là kẻ cầu toàn; nó muốn
thử, theo mọi cách có thể, để hoàn tất mọi sự.
Trên đường bạn thấy một nhà hàng đẹp, nhưng bạn
đang vội. Bạn định đi làm việc gì đó và bạn không thể
vào được nhà hàng này. Và mùi thơm phức của thức
ăn hấp dẫn thế và mầu sắc của thức ăn... Bạn muốn
vào những bạn không thể vào được. Bạn sẽ mơ về nhà
hàng này; bạn sẽ phải mơ chỉ để hoàn chỉnh toàn thể
quá trình, để cho nó được vứt bỏ và không còn bám
riết lấy bạn nữa. Nhưng mơ của bạn sẽ phản xạ cái
điên khùng của bạn.
Người lành mạnh không thể mơ được - nhưng với
"người lành mạnh" tôi ngụ ý người toả sáng, vị phật.
Tôi không ngụ ý bởi "lành mạnh" là điều bạn ngụ ý
bởi từ này. Với bạn, người điên là trong nhà thương
điên còn mọi người bên ngoài đều lành mạnh. Điều đó
không phải như vậy. Chỉ bức tường nhà thương điên
không phân chia người lành với người điên. Có người
điên bên trong và có người điên bên ngoài. Những
người ở bên ngoài còn chưa bị bắt hay có thể họ vẫn
trong biên giới của hành vi thông thường. Ít nhất trên
bề mặt họ có thể xoay xở được; trong cốt lõi bên trong
nhất của mình họ có thể điên khùng.
Tôi không thể mơ được cho dù tôi muốn mơ; điều
đó là không thể được. Bất kì khi nào tôi đang ngồi tôi
đơn giản ngồi - không có ý nghĩ. Và khi tôi ngủ tôi
đơn giản ngủ - không có mơ. Nhưng Subhash phải
chịu đựng từ những giấc mơ. Mọi người đều chịu
đựng, hết ngày nọ tới ngày kia.
"Tôi lo lắm. Đêm qua tôi mơ tôi mỗi mình với
hàng trăm cô gái tóc hung đẹp đẽ, hàng trăm cô tóc
nâu và hàng trăm cô tóc đỏ đẹp tuyệt vời. Thật là
khủng khiếp!"
"Trời đất, này anh! Khủng khiếp gì về điều đó?"
nhà tâm thần hỏi bệnh nhân.
"Tôi mơ tôi là con gái nữa!"
Giấc mơ của bạn sẽ phản xạ bạn. Chúng còn có thể
phản xạ ai khác được? Giấc mơ của bạn là chìa khoá;
qua giấc mơ của bạn nhiều điều có thể được biết về
bạn.
Toàn thể phân tâm học phụ thuộc vào giấc mơ của
bạn để lần ra manh mối. Khi bạn thức bạn không thật
đáng tin cậy; điều bạn nói về bản thân bạn là lừa dối.
Trong mơ bạn hồn nhiên hơn, bởi vì không có ai kiểm
soát và kìm nén. Lương tâm đang ngủ say, đạo đức
mất rồi; bạn tự nhiên hơn, bình thường hơn. Trong
giấc mơ bạn là thuần khiết hơn. Do đó phân tâm phải
tuỳ thuộc vào giấc mơ của bạn và qua giấc mơ của bạn
nó đi tới kết luận về bạn.
Đây là trạng thái rất đáng buồn của mọi chuyện:
rằng bạn không thể được tin cậy chút nào, bởi vì bạn
nói điều này và bạn là điều gì đó khác toàn bộ. Và vấn
đề không phải là bạn cố ý chủ định lừa dối; lừa dối đã
gần như trở thành bản tính phụ của bạn. Đó là lí do tại
sao bạn lập tức quên mất giấc mơ của bạn; nó là chiến
lược của tâm trí. Trong vòng năm giây khi thức dậy...
khi bạn thức dậy có chút ít rơi rớt, chút ít kí ức - chỉ
vài mảnh mẩu, những phần cuối cùng của giấc mơ của
bạn. Nhưng trong năm giây chúng mất đi. Tới lúc bạn
ra khỏi giường tất cả giấc mơ của bạn đã biến mất, bạn
đã quên tất cả về chúng. Chừng nào bạn còn chưa làm
nỗ lực rất ý thức bạn sẽ không có khả năng nhớ được
chúng. Đây là chiến lược của tâm trí, nó đơn giản đóng
cánh cửa lại, bởi vì giấc mơ của bạn có thể là sự quấy
rối cho bạn.
Nếu bạn đi tới biết rằng trong giấc mơ của mình
bạn đã giết bố bạn thì điều đó sẽ đè nặng lên bạn, bạn
có thể cảm thấy phạm tội. Nếu bạn là người rất, rất đạo
đức, người thuần đạo đức và bạn thấy rằng trong giấc
mơ của mình bạn đã chạy trốn, lẩn trốn cùng vợ hàng
xóm bạn và bạn thích thú điều đó lắm, bạn sẽ bị bối
rối. Bạn sẽ trở nên hoài nghi về đạo đức của bạn, về
thuần khiết của bạn. Nó sẽ treo lơ lửng trên bạn như
đám mây tối.
Tâm trí đơn giản cắt bạn khỏi các giấc mơ của bạn.
Nó đã tạo ra hai loại thế giới: một thế giới, thế giới
mơ, tách biệt toàn bộ, và một thế giới, cái gọi là thế
giới thức, tách biệt toàn bộ. Bạn sống trong các ngăn.
Khi bạn đi vào mơ bạn quên mất tất cả về thức; khi
bạn đi vào thức bạn quên tất cả về mơ.
Vị phật thức tỉnh ngay cả khi ông ấy ngủ. Ông ấy
không có các ngăn trong bản thể mình. Ông ấy không
phải là nhiều người, ông ấy là một người. Bởi vì ông
ấy là một người và ông ấy không níu bám vào kí ức và
không có ham muốn về tương lai, hiện tại là đủ cho
ông ấy. Thế thì ông ấy sống khoảnh khắc sang khoảnh
khắc trong tính toàn bộ của nó; ông ấy không sống một
cách bộ phận. Giấc mơ của bạn đơn giản chỉ ra rằng
bạn sống một cách bộ phận, và các bộ phận chưa được
sống phải được sống trong mơ của bạn. Nếu bạn sống
một cách toàn bộ từng khoảnh khắc, thế thì không có
khả năng nào của bất kì mơ cả.
Có lần chuyện xảy ra:
Một người Sufi tới tôi, một người rất đẹp, và đang
thực hành thiền Sufi - zikr - anh ta đã trở nên có khả
năng đọc được ý nghĩ của người khác. Một số trong
các đệ tử của anh ta, những người biết tôi, muốn anh ta
tới và đọc ý nghĩ của tôi.
Tôi nói, "Được đấy, đem anh ta tới đi."
Người này thực sự có khả năng. Anh ta sẽ đơn
giản nhắm mắt lại và anh ta sẽ bắt đầu nói ý nghĩ nào
thoáng qua bên trong bạn. Trong cả nửa giờ anh ta vẫn
còn nhắm mắt, rất phân vân. Thế rồi cuối cùng anh ta
từ bỏ. Anh ta nói, "Nhưng tôi chẳng thấy cái gì cả, chỉ
trống rỗng hoàn toàn." Anh ta nói, "Đây là lần đầu tiên
mà tôi không thể đọc được. Ông đã làm cái gì với tôi
thế?"
Tôi đã chẳng làm gì anh ta cả. Tôi nói với anh ta,
"Tôi có làm cái gì đâu. Tôi đơn giản ngồi đây, không
làm gì với anh hay với bất kì ai khác. Nhưng làm sao
anh có thể đọc được nếu không có ý nghĩ? Không phải
là tôi đã làm mất khả năng đọc của anh đâu."
Anh ta cứ tưởng rằng tôi đã làm hư hỏng gì đó cho
việc đọc ý nghĩ của anh ta. Tôi nói, "Tôi có làm gì đâu.
Nếu anh muốn, tôi có thể bắt đầu đem tới vài ý nghĩ.
Nó sẽ là nỗ lực. Như cách tôi nói ra ngoài, tôi sẽ bắt
đầu nói ở bên trong. Tôi sẽ phải nghĩ về các
sannyasins của tôi và tôi sẽ phải nói chúng ra - thế thì
anh có thể đọc được. Năng lực của anh vẫn còn
nguyên si. Nhưng tôi chỉ ngồi im lặng, cách tôi bao giờ
cũng ngồi khi tôi một mình. Ban ngày tôi không nghĩ,
mà ban đêm tôi cũng không mơ. Mọi giấc mơ biến mất
vào ngày ham muốn biến mất. Mọi ý nghĩ đều trở
thành vô nghĩa vào ngày tôi đi tới biết rằng tôi không
là tâm trí. Nhưng tôi hiểu khó khăn của anh, tôi hiểu
lẫn lộn của anh..."
Một ông trùm giầu có đi chơi trên biển trên chiếc
du thuyền khác thường của mình, đem theo mình năm
ông bạn thân, sáu cô gái lộng lẫy và một thuỷ thủ điều
khiển con thuyền. Họ gặp một cơn bão lớn và chiếc
thuyền chìm cùng với ông trùm và các ông bạn thân,
nhưng đàn bà và viên thủy thủ xoay xở làm cho chiếc
thuyền cập vào một đảo hoang cũng với một cái túi
chống thấm chứa chút ít lương thực dự trữ.
Tất cả đều khoẻ trong gần một tuần. Anh bạn thuỷ
thủ của chúng có được thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm,
thứ sáu và thứ bẩy được chăm nom chu đáo. Vấn đề
duy nhất là ở chỗ họ sắp hết thức ăn.
Vào chủ nhật một phụ nữ bản xứ gợi tình tới mang
theo những món quà đầy chuối, dừa và những món ăn
khác. Các cô gái xinh đẹp quá vui mừng. "Chúng ta
được cứu rồi!" họ kêu lên.
Nhưng anh chàng thuỷ thủ nhẫn nhục thì thào với
bản thân mình, "Chủ nhật của mình toi rồi!"
Bạn đang sống bên trong trạng thái rất lẫn lộn. Và
không chỉ thanh niên; ngay cả khi họ trở nên già cùng
trạng thái đó vẫn tiếp diễn - không chỉ tiếp diễn, nó trở
nên ngày một lẫn lộn hơn bởi vì, khi bạn tích luỹ kinh
nghiệm, lẫn lộn của bạn trở nên lớn hơn.
Phỏng vấn nhà vô địch mô tô sáu mươi nhăm tuổi
ở Amarillo, Texas, phóng viên báo New York nhận
xét, "Ông thực sự là người phi thường khi ông là nhà
vô địch mô tô vào độ tuổi ông."
"Quỉ tha ma bắt anh đi," ông chăn bò nói, "Ta còn
chưa được là người như bố ta. Ông ấy vừa mới kí làm
hậu vệ cho đội bóng chuyên nghiệp, và ông ấy tám
mươi tám tuổi."
"Quá ngạc nhiên!" nhà báo há hốc mồm. "Tôi
muốn gặp bố ông."
"Ngay bây giờ thì không thể được. Ông ấy đang ở
Fort Worth phụ rể cho ông nội. Ông nội mai lấy vợ;
ông ấy một trăm mười bốn tuổi."
"Gia đình ông đơn giản không thể nào tin nổi!"
nhà báo nói. "Ông ở đây, nhà vô địch mô tô ở tuổi sáu
mươi nhăm. Bố ông là cầu thủ bóng chầy ở độ tuổi tám
tám. Và bây giờ ông của ông muốn lấy vợ ở tuổi một
trăm mười bốn."
"Chết tiệt, thưa ông, ông nói sai rồi," người Texas
nói, "Ông nội không muốn lấy vợ đâu - ông ấy phải
lấy!"
Bạn cứ tích luỹ. Thời niên thiếu của bạn là gần
nhất với phật tính. Khi bạn già đi bạn tăng thêm điên
khùng. Khi bạn già đi, bạn đi ngày một xa khỏi phật
tính. Đó thực sự là một trạng thái rất kì lạ; nó đáng
phải không thế chứ. Người ta phải trưởng thành hướng
tới phật tính, nhưng mọi người đều lớn lên theo chính
hướng đối lập.
Phật nói: Sống trong vui vẻ, trong lành mạnh, ngay
cả giữa những người khổ.
Đây là lời kinh rất quan trọng cần được ghi nhớ -
quan trọng hơn thế bởi vì người Ki tô giáo đang tạo ra
cách tiếp cận hoàn toàn sai tới cuộc sống. Họ nói: Khi
có nhiều khổ thế trên thế giới này, làm sao bạn có thể
vui vẻ được? Thỉnh thoảng họ tới tôi và họ nói, "Mọi
người đang đói và mọi người nghèo khổ. Làm sao ông
dạy mọi người nhảy múa và ca hát và vui vẻ? Có nhiều
người khổ với bao nhiêu bệnh tật, và ông dạy mọi
người thiền sao? Điều này là ích kỉ!"
Nhưng đó đích xác là điều Phật nói. Ông ấy nói:
Sống trong vui vẻ, trong lành mạnh, ngay cả giữa
những người khổ.
sống trong vui vẻ,
trong an bình,
ngay cả giữa những người rối loạn.
Bạn không thể thay đổi được toàn thế giới này.
Bạn có một khoảng sống nhỏ bé, nó sẽ mất đi chóng
thôi. Bạn không thể làm thành điều kiện rằng "Tôi sẽ
hân hoan chỉ khi toàn thế giới đã thay đổi và mọi
người đều hạnh phúc." Điều đó sẽ không bao giờ xảy
ra cả và nó không trong năng lực của bạn để làm điều
đó.
Mọi người đã quyết định khổ; đó là quyết định của
họ, bằng không không ai buộc họ phải khổ cả. Nghèo
là quyết định của họ, có thể đã lấy một cách vô ý thức,
nhưng nghèo là quyết định của họ. Bạn có thể thấy
điều đó xảy ra.
Mới ba trăm năm trước đây thổ dân châu Mĩ đã
nghèo như người ta có thể tưởng tượng. Họ có đất -
cùng mảnh đất đó - nhưng họ đã chọn một phong cách
sống giữ họ nghèo. Bây giờ Mĩ đã trở thành nước giầu
nhất. Vẫn cùng nước đó, nhưng với kiểu người khác.
Và bạn sẽ ngạc nhiên rằng những người đầu tiên
tới châu Mĩ đã không phải là kiểu người rất đức hạnh,
tôn giáo gì đâu - không. Thực ra người đức hạnh và
tôn giáo vẫn còn khổ. Những người, người đã tới Mĩ
và Ôxtralia, những người tiên phong, là những người
thực tế, người tin vào "Ăn, uống và vui vẻ." Đây là
những người đã biến đổi toàn thể định mệnh của lục
địa châu Mĩ; họ đã biến đổi một nước nghèo thành
nước giầu nhất đã từng có.
Bây giờ cùng điều đó có thể xảy ra cho đất nước
này, nhưng nó đã lấy phong cách sống sai. Và nó đã
sống với phong cách sống này trong nhiều thế kỉ tới
mức điều đó dường như là cách sống duy nhất. Và nó
tôn thờ những người ủng hộ phong cách của nó, bởi vì
họ khớp với ý thức hệ của nó.
Mọi người của đất nước này không thể đồng ý
được với tôi bởi vì tôi đang cố gắng thay đổi chính
phong cách sống, chính hình mẫu, chính cấu trúc của ý
nghĩ của họ, tâm trí họ, bản thể họ. Họ có thể trở nên
giầu có như bất kì nước nào trên thế giới, có thể là
nước giầu nhất, nhưng đầu tiên họ sẽ phải thay đổi
toàn thể phong cách suy nghĩ, sống, hiện hữu. Họ tôn
thờ nghèo nàn - làm sao họ có thể trở nên giầu được?
Họ kết án giầu có - làm sao họ có thể trở nên giầu
được? Họ kết án mọi vui vẻ của trần thế, họ ủng hộ tất
cả cho từ bỏ, họ là phản cuộc sống. Làm sao cuộc sống
có thể mưa rào lên họ ân huệ của nó, phúc lạc của nó,
vui vẻ của nó? Họ không cảm nhận; họ hoàn toàn mù
và điếc.
Nếu cách duy nhất bạn có thể hạnh phúc là làm
cho mọi người khác hạnh phúc, thế thì bạn sẽ không
bao giờ hạnh phúc đâu. Phật đang phát biểu một sự
kiện đơn giản. Ông ấy nói: Sống trong vui vẻ, trong
lành mạnh, ngay cả giữa những người khổ. Ông ấy
không nói đừng giúp họ, nhưng bằng việc bản thân bạn
ốm yếu, bạn không thể giúp được họ. Bằng việc bản
thân bạn nghèo nàn, bạn không thể giúp được người
nghèo, mặc dầu người nghèo sẽ tôn thờ bạn bởi vì họ
sẽ thấy bạn là thánh nhân vĩ đại làm sao. Họ tôn thờ
Mahatma Gandhi bởi mỗi lí do là ông ấy đã cố gắng
sống như người nghèo. Nhưng chỉ bởi việc sống như
người nghèo bạn sẽ không giúp được cho người nghèo
đâu. Nếu bác sĩ cũng ốm để giúp cho bệnh nhân, bạn
có gọi ông ấy là thánh nhân không? Bạn sẽ gọi ông ấy
là ngu xuẩn, bởi vì đây là lúc ông ấy cần tất cả sức
khoẻ của mình để cho ông ấy có thể giúp cho mọi
người.
Đây là logic kì lạ, nhưng nó đã lan tràn suốt nhiều
thế kỉ: rằng nếu bạn muốn giúp người nghèo, thì hãy
nghèo, sống cuộc sống nghèo nàn, sống như người
nghèo. Tất nhiên người nghèo sẽ cho bạn kính trọng
lớn nhất và tôn vinh, nhưng điều đó sẽ không giúp gì
cho người nghèo, nó sẽ chỉ đáp ứng cho bản ngã của
bạn. Và bất kì bản ngã nào được đáp ứng đều tạo ra
khổ cho bạn, không phải vui vẻ.
Sống trong vui vẻ, trong lành mạnh, ngay cả giữa
những người khổ. sống trong vui vẻ, trong an bình,
ngay cả giữa những người rối loạn. Đó là cách duy
nhất để giúp đỡ, cách duy nhất để phục vụ. Trước hết
hãy vị kỉ, trước hết tự biến đổi bản thân bạn. Cuộc
sống của bạn trong an bình, trong vui vẻ, trong lành
mạnh, có thể là cội nguồn nuôi dưỡng lớn lao cho
những người đang đói thức ăn tâm linh.
Mọi người không thực sự đói về những thứ vật
chất. Giầu có vật chất là rất đơn giản: chỉ chút ít công
nghệ thêm, chút ít khoa học thêm, và mọi người có thể
giầu. Vấn đề thực là làm sao giầu có bên trong. Và khi
bạn giầu có bên ngoài bạn sẽ ngạc nhiên - lần đầu tiên
bạn trở nên sắc bén hơn, nhận biết kĩ càng hơn về
nghèo nàn bên trong của mình. Lần đầu tiên tất cả ý
nghĩa trong cuộc sống biến mất khi bạn giầu có bên
ngoài, bởi vì tương phản lại, nghèo nàn bên trong có
thể được nhìn thấy rõ ràng hơn. Bên ngoài có ánh sáng
khắp xung quanh và bên trong bạn là hòn đảo tăm tối.
Người giầu biết cái nghèo của mình nhiều hơn
người nghèo, bởi vì người nghèo không có tương
phản. Bên ngoài có tăm tối, bên trong có tăm tối;
người đó biết tăm tối là điều cuộc sống là gì. Nhưng
khi có ánh sáng bên ngoài bạn trở nên ham muốn một
hiện tượng mới: bạn khao khát ánh sáng bên trong. Khi
bạn thấy rằng giầu có là có thể ở bên ngoài, sao bạn
không thể giầu có bên trong được?
sống trong vui vẻ,
không sở hữu,
như những người toả sáng.
Phật nói: tận hưởng thế giới, tận hưởng mặt trời,
mặt trăng, các vì sao, hoa, trời, đất. sống trong vui vẻ
và an bình, không sở hữu. Đừng sở hữu. Dùng, nhưng
đừng sở hữu - bởi vì người sở hữu không thể dùng
được. Người sở hữu thực sự trở nên bị sở hữu bởi của
cải riêng của mình. Đó là lí do tại sao nhiều người giầu
thế trở nên rất khổ, họ sống cuộc sống nghèo nàn. Họ
có mọi tiền bạc trên thế giới, nhưng họ sống cuộc sống
nghèo nàn.
Người giầu nhất thế giới, mới năm mươi năm
trước đây, là Nizam ở Hyderabad - người giầu nhất
trên thế giới. Thực ra, giầu có của người đó lớn tới
mức không ai đã bao giờ có khả năng ước lượng được
ông ta có bao nhiêu. Kho báu của ông ta đầy những
kim cương; mọi thứ đều được làm bằng kim cương.
Ngay cả cái chặn giấy của ông ấy cũng là viên kim
cương lớn nhất thế giới; ngay cả viên Kohinoor chỉ
bằng một phần ba kích cỡ cái chặn giấy của ông ấy.
Khi ông ấy chết, người ta tìm thấy cái chặn giấy
của ông ấy ở trong giầy ông ấy. Kim cương không
được đếm bởi vì có quá nhiều. Chúng được cân, không
được đếm - bao nhiêu ki lô, không phải bao nhiêu viên
kim cương - ai có thể đếm được?
Mỗi năm kim cương được đem lên từ hầm mỏ.
Ông ấy có lâu đài lớn nhất ở Ấn Độ, nhưng tất cả các
mái là không đủ, bởi vì kim cương của ông ấy trải trên
mái lâu đài chỉ để cho chúng chút ít ánh sáng mặt trời
mọi năm.
Nhưng con người này đã sống cuộc sống khổ thế,
bạn không thể nào tin được vào điều đó đâu; ngay cả
kẻ ăn mày cũng còn sống tốt hơn nhiều. Ông ấy
thường nhặt nhạnh mẩu thuốc lá người khác đã hút và
vứt đi - chỉ những đầu mẩu thuốc lá. Ông ấy không
mua thuốc lá cho mình đâu, ông ấy nhặt nhạnh những
mẩu thuốc lá này và hút chúng. Kẻ keo kiệt thế! Trong
năm mươi năm ông ấy thường chỉ đội mỗi một cái mũ
- nó bẩn thỉu và khắm thế! Ông ấy chết trong cùng
chiếc mũ đó. Ông ấy thường không bao giờ thay quần
áo. Và người ta nói rằng ông ấy hay mua quần áo từ
chợ hàng dùng lại, nơi đồ cũ nát, đồ đã dùng được bán.
Giầy của ông ấy phải đã là loại bẩn nhất trên thế giới,
nhưng ông ấy chỉ thỉnh thoảng mới đưa chúng đi chữa,
ông ấy không mua giầy mới.
Bây giờ, người giầu nhất trên thế giới sống trong
khổ và keo kiệt thế - điều gì đã xảy ra cho con người
này? Tính sở hữu đấy! Sở hữu là bệnh của ông ấy, là
chứng điên gàn của ông ấy. Ông ấy muốn sở hữu mọi
thứ. Ông ấy sẽ mua kim cương trên khắp thế giới; bất
kì chỗ nào có kim cương các nhân viên của ông ấy đều
có đó để mua chúng. Chỉ để có ngày một nhiều hơn!
Nhưng bạn không thể ăn kim cương được - và ông ấy
ăn thức ăn nghèo nàn nhất. Ông ấy sợ rằng ông ấy
không có khả năng ngủ chút nào - nỗi sợ thường xuyên
rằng ai đó có thể đánh cắp của ông ấy.
Đó là cách cái chặn giấy - viên kim cương đắt nhất
mà ông ấy có, nặng gấp ba lần viên Kohinoor - đã
được tìm thấy trong giầy ông ấy. Khi ông ấy sắp chết
ông ấy đã giấu nó vào trong giầy để không ai có thể
đánh cắp được nó - bằng không cái chặn giấy quá dễ
thấy, quá nhiều trong con mắt mọi người. Ngay cả chết
đi ông ấy quan tâm tới kim cương hơn là tới cuộc sống
riêng của ông ấy. Ông ấy không bao giờ có thể cho bất
kì ai bất kì cái gì.
Điều này xảy ra cho những người trở nên mang
tính sở hữu: họ không dùng mọi thứ, họ bị mọi thứ
dùng. Họ không phải là người chủ, họ là kẻ hầu của
những thứ riêng của họ. Họ cứ tích luỹ và họ chết mà
không tận hưởng được tất cả những cái họ có.
Phật nói: Sống trong vui vẻ, không sở hữu, như
những người toả sáng. Sống như chư phật, người
không sở hữu cái gì mà có thể dùng mọi thứ. Thế giới
phải được dùng, không được sở hữu. Chúng ta tới với
hai bàn tay trắng và chúng ta đi với hai bàn tay trắng,
cho nên phỏng có ích gì mà sở hữu cái gì. Có tính sở
hữu là xấu - nhưng dùng mọi thứ đi! Trong khi bạn
còn đó, dùng thế giới đi, tận hưởng mọi thứ mà thế
giới làm thành sẵn có, và thế rồi đi mà không nhìn lại,
không níu bám vào mọi thứ.
Đây là con đường của chư phật. Aes dhammo
sanantano: đây là luật không cạn của chư phật. Thế thì
vị phật có thể là kẻ ăn xin nếu ông ấy chọn là vậy - nếu
đó là con đường của ông ấy - hay vị phật có thể là
hoàng đế. Đã từng có các hoàng đế là chư phật.
Ở Ấn Độ đã từng có một người, Janaka, bố của
Sita, vợ của Rama, đã là vị phật. Ông ấy sống trong
cung điện với mọi giầu sang của vị vua lớn và vậy mà
ông ấy tuyệt đối không có tính sở hữu, ông ấy không
sở hữu cái gì cả. Điều đó cũng hệt như bạn ở trong
khách sạn; bạn không sở hữu cái gì cả. Bạn ở trong vài
ngày và thế rồi bạn qua đi. Bạn dùng.
Người thông minh dùng cuộc sống và dùng nó một
cách đẹp đẽ, thẩm mĩ, nhạy cảm. Thế thì thế giới có
nhiều kho báu cho người đó. Người đó không bao giờ
trở nên bị gắn bó, bởi vì khoảnh khắc bạn trở nên bị
gắn bó bạn đã rơi vào giấc ngủ.
Kẻ thắng gieo hận thù
bởi vì kẻ thua đau khổ.
buông bỏ thắng và thua
Và thấy vui vẻ.
Làm sao tìm ra vui vẻ? Để tham vọng của bạn biến
mất; tham vọng là rào chắn. Tham vọng nghĩa là trò
bản ngã: "Tôi muốn là cái này, tôi muốn là cái kia -
nhiều tiền hơn, nhiều quyền hơn, nhiều danh hơn."
Nhưng nhớ lấy, Phật nói: Kẻ thắng gieo hận thù bởi vì
kẻ thua đau khổ. Buông bỏ thắng và thua và thấy vui
vẻ. Nếu bạn muốn thấy vui vẻ, quên chuyện thắng thua
đi. Cuộc sống là vui chơi, là trò chơi. Chơi nó cho hay
vào, quên tất cả về thắng thua đi. Tinh thần thể thao
thực không phải là tinh thần thắng thua, nó không phải
là vấn đề thực của người đó. Người đó tận hưởng việc
chơi đùa; đó là người chơi thực. Nếu bạn chơi để
thắng, bạn sẽ chơi với căng thẳng, lo lắng. Bạn không
quan tâm tới bản thân trò chơi, vui vẻ của nó và bí ẩn
của nó; bạn quan tâm nhiều hơn tới kết quả. Đây
không phải là cách đúng để sống trong thế giới.
Sống trong thế giới mà không có ý niệm nào về cái
gì sẽ xảy ra. Liệu bạn sẽ là người thắng hay người
thua, điều đó không thành vấn đề. Cái chết lấy đi mọi
thứ. Liệu bạn thua hay thắng là không quan trọng gì.
Điều duy nhất thành vấn đề, và bao giờ cũng thành vấn
đề, là cách bạn đã chơi trò chơi này. Bạn có thích thú
nó không? - bản thân trò chơi đó - thế thì từng khoảnh
khắc đều là vui vẻ. Bạn chưa bao giờ hi sinh khoảnh
khắc này cho tương lai.
Không lửa nào như đam mê...
Phật nói: Thận trọng với thèm khát. Yêu là đẹp,
nhưng thèm khát là lửa. Nó thiêu đốt bạn và đốt bạn
trầm trọng. Nó làm bạn bị thương.
Một trung đoàn lính thuỷ đánh bộ được cho về
nghỉ sau một nhiệm vụ gay go tại mặt trận. Tại căn cứ
họ phát hiện ra một số lính nữ thuộc quân đoàn phụ nữ
WAC đã đồn trú và chờ đợi bổ sung vào các vị trí
khác.
Viên đại tá lính thuỷ đánh bộ đích thân nói với
viên chỉ huy quân đoàn phụ nữ WAC, cảnh báo bà ta
rằng đàn ông ở chiến tuyến một thời gian dài và có thể
không cẩn thận về thái độ của họ đối với quân đoàn
phụ nữ WACS. "Giữ họ được khoá cửa vào," ông ta
bảo viên chỉ huy WAC, "nếu bà không muốn có rắc rối
nào."
"Rắc rối sao?" bà ấy nói. "Sẽ không có rắc rối gì
đâu. Các cô gái của tôi đều có chuyện đó ở đây." Bà ấy
gõ trán một cách có ý nghĩa.
"Thưa bà," viên lính thuỷ đánh bộ sủa lên, "chẳng
khác biệt gì họ có chuyện đó ở đâu - tụi con trai của tôi
sẽ tìm thấy nó. Giữ cho họ được khoá cửa chặt!"
Thèm khát là điên khùng, thèm khát là lửa, thèm
khát là chất độc. Nó giữ mọi người mù với chân lí. Nó
giữ họ ngu si, nó giữ họ vô nhận biết, nó giữ họ say
xỉn.
Đó là lúc mặt trời xuống, và một vận động viên trẻ
đang tập luyện chống tay nhún mình trên bãi biển thì
một người say xuất hiện. Người say đi vòng vèo vài
mét quanh anh thanh niên trẻ đang vã mồ hôi, ngồi
xuống trên cát rồi cứ cười ha hả mãi. "Anh cười cái
quái gì vậy?" anh thanh niên bực dọc hỏi.
Người say cứ cười mãi rồi nói lắp bắp, "Không
nhìn bây giờ à, nhưng đứa nào đã đánh cắp cô gái của
anh rồi!"
Người sống qua thèm khát là sống tuyệt đối vô ý
thức. Bất kì điều gì người đó định làm đều sẽ sai. Bất
kì điều gì người đó định nói và nhìn đều sẽ sai. Người
đó không thể thấy được, người đó mù. Người đó
không thể nghe được, người đó điếc. Không cái gì làm
cho mọi người xấu hơn và giống như con vật hơn là
thèm khát.
Do đó Phật nói: Không lửa nào như đam mê...
Không tội nào như hận thù...
Tại sao không tội nào như hận thù? - bởi vì mọi
thứ khác, các tội khác, nảy sinh từ nó; nó là chính cội
nguồn. Và không có đức hạnh nào như sự thân thiết,
tình yêu, bởi vì tất cả các đức hạnh khác đều nảy sinh
từ nó. Tình yêu là đức hạnh lớn lao nhất và hận thù là
tội lỗi lớn lao nhất.
Không khổ nào như tách rời,
Phật nói: Điều duy nhất làm cho ông buồn khổ là
tách rời khỏi sự tồn tại. Trong vô ý thức của bạn, bạn
đã tin rằng bạn tách rời. Bạn đã bắt đầu sống cuộc
sống của bản ngã. Bạn không theo luật tối thượng,
pháp. Bạn không tuôn chảy cùng dòng sông; bạn đang
chống cự, tranh đấu.
Đừng chống cự, đừng tranh đấu. Tuôn chảy cùng
dòng sông. Đi cùng pháp, luật. Trong hài hoà với cái
toàn thể. Đừng nghĩ bản thân bạn tách rời - bạn không
thế đâu. Không người nào là hòn đảo cả; chúng ta tất
cả đều là một phần của lục địa tâm thức bao la: Không
khổ nào như tách rời... Và một phát biểu rất có ý
nghĩa:
Không ốm yếu nào như đói,
Bây giờ, làm sao Phật có thể ủng hộ cho nghèo
nàn được? Ông ấy không thể thế được. Nếu đói là
bệnh tật tồi tệ nhất trên thế giới, thế thì nghèo nàn là
nguyên nhân của nó. Tất cả các loại tội ác, vô đạo đức,
tội lỗi, đồi bại, đều nảy sinh từ nghèo nàn.
Tôi không kính trọng nghèo nàn; tôi tuyệt đối lên
án nó. Nó là vết thương xấu xí nhất trên linh hồn nhân
loại. Nó phải biến mất. Chúng ta phải làm cho thế gian
này giầu có, và bây giờ điều đó có thể được thực hiện.
Điều đó là không thể được trong quá khứ, bây giờ điều
đó là có thể. Nếu nó không xảy ra đấy chỉ bởi vì các ý
niệm ngu xuẩn cũ rích của chúng ta.
Bây giờ ở Ấn Độ, một trong những nước nghèo
nhất, những ý niệm ngu xuẩn đó vẫn còn thống trị tới
mức mọi người vẫn tin rằng bằng việc vắt quần áo
riêng của mình bạn đang làm điều gì đó tâm linh. Bánh
xe quay đã trở thành biểu tượng của tính thánh thiện.
Tất cả các chính khách Ấn Độ, thỉnh thoảng lại chụp
ảnh mình cùng bánh xe quay. Mỗi lần một năm họ lại
tới lăng mộ của Mahatma Gandhi và thế rồi họ ngồi ở
đó trong một giờ gì đó dưới bánh xe quay để cho ảnh
có thể được chụp.
Tại sao bánh xe quay và sao có nhiều ca ngợi quần
áo do chính tay bạn làm? Nếu bạn thử mặc mỗi quần
áo do chính tay bạn làm thế thì toàn thế giới sẽ vẫn còn
nghèo. Máy có thể làm điều đó theo cách tốt hơn
nhiều. Máy có thể trở thành việc giải phóng lớn lao
cho con người, nhưng chúng phải được dùng đúng.
Nếu bạn không dùng chúng cho đúng, chúng có thể
thành nguy hiểm; chúng có thể làm ô nhiễm tất cả tự
nhiên, chúng có thể phá huỷ toàn thể sự cân bằng -
sinh thái có thể bị rối loạn bởi chúng. Nhưng nếu bạn
dùng chúng một cách có ý thức, có tính thiền, thế thì
mọi sự nô lệ có thể biến mất khỏi thế giới này, bởi vì
máy có thể làm việc mà con người đã từng làm trong
nhiều thời đại. Nó có thể cung cấp thức ăn, quần áo,
chỗ ở.
Do đó tôi ủng hộ tất cả cho khoa học, tôi không
chống lại khoa học. Và tôi ủng hộ tất cả cho tôn giáo
nữa, bởi vì tôi có thể thấy khả năng của sự tổng hợp
lớn lao nảy sinh trong tương lai. Nó phải nảy sinh bây
giờ. Nếu nó không nảy sinh, thế thì con người phải
chịu số phận bi đát và bị kết thúc và con người không
có tương lai, không có hi vọng. Thế giới có thể được
làm giầu có bên ngoài bằng công nghệ và khoa học, và
thế giới bên trong có thể được làm giầu có bằng thiền,
bằng lời cầu nguyện, bằng tình yêu, bằng vui vẻ.
Chúng ta có thể tạo ra con người mới, tràn đầy cả bên
trong và bên ngoài.
Không ốm yếu nào như đói,
và không vui vẻ nào như vui vẻ của tự do.
Phật nói vui vẻ lớn nhất trong cuộc sống là tự do:
tự do khỏi mọi định kiến, tự do khỏi mọi kinh sách, tự
do khỏi mọi khái niệm và ý thức hệ, tự do khỏi mọi
ham muốn, tự do khỏi mọi sở hữu và ghen tị, tự do
khỏi mọi hận thù, giận, cuồng nộ, thèm khát...tóm lại,
tự do khỏi mọi thứ, để cho bạn chỉ là tâm thức thuần
khiết, vô biên, vô giới hạn.
Đó là vui vẻ lớn nhất, và nó là có thể - nó ở bên
trong tầm nắm của mọi người. Bạn chỉ phải mò mẫm
nó một chút. Việc mò mẫn sẽ trong bóng tối, nhưng nó
không xa xăm. Nếu bạn thử, nếu bạn nỗ lực, bạn nhất
định tìm thấy nó. Nó là quyền tập ấm của bạn.
Mạnh khoẻ, mãn nguyện và tin cậy
là của cải vĩ đại nhất của ông,
và tự do là vui vẻ vĩ đại nhất của ông.
Cái toàn thể: đó là lành mạnh. Được mãn nguyện:
đó là vô ham muốn. Và tin cậy: đó là vứt bỏ tách rời
của bạn, cuộc chiến của bạn với tự nhiên. Ba điều này
cần được ghi nhớ: là toàn thể, là một, được mãn
nguyện, vô ham muốn. Bất kì cái gì có đấy, đều hay -
tận hưởng nó tới tính toàn bộ của nó, vắt nước cam lồ
ra từ nó. Từng khoảnh khắc uống thực tại một cách
toàn bộ nhất có thể được, để cho bạn không cần nhìn
lại, bạn thậm chí không cần nghĩ rằng bạn đã bỏ lỡ
khoảnh khắc đó.
Và đừng bao giờ lập kế hoạch cho tương lai, bởi vì
khi tương lai tới, nó sẽ tới. Bạn cứ sống từng khoảnh
khắc một cách toàn bộ nhất có thể được, để cho khi
tương lai trở thành hiện tại bạn có thể sống điều đó
nữa - cũng toàn bộ. Đừng lập kế hoạch cho nó, bởi vì
nó là không thể dự đoán được. Tất cả việc lập kế
hoạch của bạn đều sẽ không liên quan. Và một khi bạn
đã lập kế hoạch cho cái gì đó và nó không xảy ra, thế
thì bạn thất vọng. Và nó không bao giờ xảy ra cả.
Có câu ngạn ngữ: Người đề nghị và Thượng đế
chuẩn y. Vâng, đó là cách nó được cảm thấy, nhưng
thực tại không phải là Thượng đế đang ngồi đó và
chuẩn y bất kì cái gì bạn đề nghị đâu. Lỗi không phải
là của Thượng đế; lỗi là của bạn bởi vì bạn đề nghị. Và
từ vô nhận biết của mình bạn có thể đề nghị cái gì? Bất
kì điều gì bạn phóng chiếu ra từ tâm trí bạn đều sẽ là
cái gì đó khác với cái toàn thể. Nó vẫn là cuộc chiến
với cái toàn thể. Do đó tin cậy đi, không cần tranh đấu.
Chúng ta là một phần của cái toàn thể. Chúng ta nảy
sinh ra từ đại dương của cái toàn thể như một con sóng
và chúng ta biến mất trở lại trong đại dương. Tận
hưởng ánh mặt trời và gió trong khoảnh khắc này và
thế rồi biến mất. Xuất hiện đẹp đẽ, vui vẻ, nhảy múa,
và biến mất đẹp đẽ, vui vẻ, nhảy múa. Sống cùng vui
vẻ mênh mông và chết đi với vui vẻ mênh mông. Đây
là cách sannyasin phải hiện hữu: người đó biết nghệ
thuật sống và người đó biết nghệ thuật và cực lạc của
chết.
Nhìn vào trong.
tĩnh lặng.
Tự do khỏi sợ hãi và gắn bó
biết vui vẻ dịu ngọt của con đường.
Nhìn vào trong. Lời kinh này là đơn giản; về mặt
trí tuệ là đơn giản, nhưng về mặt tồn tại thì khó lắm,
bởi vì chúng ta đã trở nên quá quen nhìn ra ngoài rồi.
Chúng ta đã quên hoàn toàn rằng có cái gì đó như cái
bên trong nữa.
Nhìn vào trong. Tĩnh lặng. Và cách nhìn vào bên
trong là: tĩnh lặng. Học ngồi im lặng, ít nhất trong vài
giờ, không làm gì cả, chỉ hiện hữu, thở, quan sát ý nghĩ
của bạn. Điều đó nữa cũng không có căng thẳng - theo
cách rất thảnh thơi cứ dường như bạn chẳng bận tâm gì
mấy tới điều đang trôi qua; việc quan sát dửng dưng,
xa rời, không liên quan, lãnh đạm. Cứ nhìn vào luồng
giao thông của tâm trí.
Dần dần, dần dần bình thản của bạn sâu sắc thêm,
khi sự dửng dưng của bạn trở nên ngày một lớn hơn,
ngày một kết tinh hơn, các ý nghĩ sẽ trở nên ngày một
ít đi. Và một ngày nào đó bạn đơn giản ngồi đó mà
không có ý nghĩ chút nào. Bạn nhìn quanh: không ý
nghĩ, tâm trí trống rỗng. Trong khoảnh khắc đó của cái
trống rỗng bên trong mọi nỗi sợ biến mất, mọi gắn bó
biến mất, và người ta đi tới biết vui vẻ dịu ngọt của
con đường.
Vui làm sao khi nhìn vào người thức tỉnh
và đi cùng với người trí huệ.
Và nếu bạn may mắn đi cùng toán với người thức
tỉnh, với người trí huệ, với người toả sáng, thế thì
chẳng còn cái gì tốt hơn có thể xảy ra cho bạn. Bởi vì
chỉ đi cùng với chư phật, với người đã thức tỉnh, người
trí huệ, mới có khả năng cho thay đổi của bạn, cho
biến đổi của bạn.
Dài làm sao con đường của người
đi cùng người ngu.
Và chúng ta không đi cùng với một hay hai người
ngu đâu. Chúng ta đang đi cùng với cả đống người
ngu; toàn thể đám đông những người ngu bu quanh
bạn. Với người ngu Phật ngụ ý những người còn chưa
thức tỉnh. Cho dù họ muốn làm điều thiện họ nhất định
làm cái gì đó ác; họ không thể làm điều tốt được.
Người ngu là người ngu; người đó sống trong vô ý
thức. Nhưng bạn tin vào người ngu, bạn tin vào họ còn
hơn bạn tin vào chư phật, bởi lẽ đơn giản là người ngu
nói ngôn ngữ của bạn, bởi vì người ngu dường như
giống bạn.
Một giám quản mới tới nhà thương điên và người
cũ về hưu. Thế là họ có buổi lễ để tống cựu nghênh
tân. Họ thực sự hân hoan, họ nhảy múa.
Giám quản cũ có chút ít ngạc nhiên. Trong toàn bộ
thời gian của ông ấy ở đó ông ấy chưa bao giờ thấy họ
vui vẻ thế. Ông ấy hỏi họ, "Sao các anh vui thế?"
Những người điên đó nói, "Điều đó đơn giản thôi.
Ông không phải là người của chúng tôi, nhưng người
này trông hệt như người chúng tôi. Viên giám quản
mới này trông điên khùng hơn chúng tôi, đó là lí do tại
sao chúng tôi hân hoan. Ông chưa bao giờ thực sự
thuộc vào chúng tôi, ông là người ngoài, nhưng người
này là người bên trong. Trong hai, ba ngày ông ấy ở
đây ông ấy đã trở thành người bạn. Chúng tôi có thể
hiểu được ông ấy, ông ấy có thể hiểu được chúng tôi."
Người điên hạnh phúc với người điên khác. Người
ngu hạnh phúc với người ngu khác. Và khi bạn ở cùng
người ngu bạn cảm thấy rất thoải mái, bởi vì họ không
cao siêu hơn bạn, bản ngã bạn không bị tổn thương.
Nhưng khi bạn sống với vị phật, đôi khi bạn cảm thấy
rất bối rối bởi vì ông ấy cao siêu thế so với bạn, và nếu
bạn bắt đầu cảm thấy bị tổn thương bạn sẽ trốn khỏi
ông ấy hay bạn sẽ phải giết ông ấy.
Tôi nhận thư và điện từ khắp trên thế giới. Mới
hôm nọ Laxmi đem tới một bức điện tín từ Milan,
Italy. Đây là bức thứ ba từ cùng một người, người cứ
gửi một thông điệp rằng "Tao muốn giết chết mày!"
Bây giờ Milan ở xa thế, sao anh ta lại lo nghĩ về tôi
thế? Và anh ta ngụ ý công việc - ba lần trong một
tháng anh ta đã gửi điện tín. Tôi hi vọng rằng đôi khi
anh ta tới.
Bao nhiêu bức thư tới, đều nói, "Chúng tao muốn
giết chết mày." Sao mọi người lại bực mình thế - và bị
bực mình bởi một người chưa bao giờ rời khỏi phòng
mình? Tại sao tôi lại quấy rối người ở Milan và Berlin
và New York và Delhi và Calcutta? Tại sao? - bởi lẽ
đơn giản rằng họ cảm thấy bị tổn thương.
Bây giờ điều đó tuỳ thuộc vào diễn giải của bạn.
Bạn có thể hân hoan trong sự hiện diện của vị phật; thế
thì bạn bắt đầu trưởng thành. Bạn có thể cảm thấy bị
tổn thương trong sự hiện diện của vị phật; thế thì bạn
bắt đầu cảm thấy bị xúc phạm, bị mất mặt, bạn trở nên
giận. Và điều đó xảy ra nhiều lần rồi: Jesus bị đóng
đinh, Socrates bị đầu độc, Mansoor bị xẻo thịt. Cùng
những người đó, cùng loại người đó, đã từng làm cùng
điều đó lặp đi lặp lại. Người ta được vận may nếu
người ta có thể cảm thấy vui vẻ chỉ bởi nhìn vào cách
thức vị phật hiện hữu, và tất nhiên còn may mắn hơn là
những người có thể đi cùng toán với ông ấy.
Tâm trí bạn sẽ gợi ý cho bạn nhiều cách trốn thoát.
Tâm trí bạn tinh ranh, rất xảo trá: nó sẽ tìm ra những lí
do hay thế - bạn thậm chí không thể nào quan niệm nổi
chúng. Chừng nào bạn còn chưa rất tỉnh táo, bạn nhất
định bị lừa bởi tâm trí riêng của mình. Đi cùng với tâm
trí của bạn là đi cùng với kẻ ngu.
Dài làm sao con đường của người đi cùng người
ngu - và bạn đang đi cùng với những người ngu ở bên
ngoài và bạn đang đi cùng với một người ngu - ngu
thật - ở bên trong: tâm trí riêng của bạn.
Nhưng bất kì ai đi theo những người theo con
đường
đều khám phá ra gia đình mình, và được tràn đầy
vui vẻ.
Đó là lí do tại sao tôi nói: là sannyasin là về nhà, là
tìm thấy gia đình bạn. Nhưng bất kì ai đi theo những
người theo con đường đều khám phá ra gia đình
mình... Gia đình thực của bạn không phải là bố bạn,
mẹ bạn, anh bạn, chị bạn, vợ bạn, chồng bạn, con bạn
đâu; họ chỉ là ngẫu nhiên. Gia đình thực của bạn là gia
đình của vị phật.
Nếu bạn đủ may mắn để cảm thấy vui vẻ trong
cùng toán với vị phật, thế thì tan biến vào trong toán
đó - bạn đã tìm thấy gia đình bạn. Đừng bỏ lỡ cơ hội
này, bởi vì cơ hội này là rất hiếm hoi. Thỉnh thoảng ai
đó mới trở nên chứng ngộ.
đi theo người toả sáng,
người trí huệ, người thức tỉnh, người đáng yêu,
vì họ biết cách làm việc và kiên nhẫn.
Sống cùng chư phật, người toả sáng, người trí huệ,
người thức tỉnh, người đáng yêu, bởi vì họ biết cách
làm việc với bạn và họ biết cách kiên nhẫn với bạn. Họ
biết cách biến đổi bạn. Họ đã là đỉnh cao nhất. Họ
quay lại thung lũng tăm tối chỉ để gọi bạn, để đưa bạn
đi cùng họ tới đỉnh cao nhất của cuộc sống, tự do.
theo họ
như trăng đi theo con đường của các vì sao.
Dũng cảm lên, có tính phiêu lưu vào. Mạo hiểm tất
cả đi, bởi vì ít hơn thế sẽ không có tác dụng. Mạo hiểm
tất cả và tin cậy. Và nếu bạn muốn ở cùng vị phật, thế
thì cách duy nhất là: trở nên ngày một có tính thiền
hơn để cho bạn có thể bắt đầu hiểu cách thức của ông
ấy, phương pháp của ông ấy. Trở nên đáng yêu hơn để
cho bạn có thể hiểu được tình yêu của ông ấy - bởi vì
tình yêu của ông ấy là khác toàn bộ với cái bạn đã biết.
Tình yêu của ông ấy mát mẻ; nó không đam mê nồng
cháy đâu, nó là làn gió thoảng mát rượi. Những người
không hiểu, với họ nó sẽ giống như lạnh lẽo. Những
người hiểu, họ sẽ hân hoan trong cái mát rượi của nó.
Họ sẽ được sảng khoái bởi cái mát mẻ của nó, họ sẽ
được làm tươi mát lại, họ sẽ được tái sinh.
Đủ cho hôm nay.
******************************************************
#6Không quay lại
Câu hỏi thứ nhất:
Thưa Thầy kính yêu,
Cực lạc thực, đau đớn thực.
Yoga Sudha, điều đó là tự nhiên. Cực lạc và đau
đớn lớn xảy ra cùng nhau, bởi vì đó là việc sinh thành
mới: vui vẻ của việc được sinh ra, vui vẻ của việc đi
vào cái không biết, cuộc phiêu lưu lớn vào Thượng đế.
Nhưng đau đớn cũng có đó, đau đớn lớn: nỗi đau của
việc bỏ cái cũ, cái quen thuộc, cái đã biết; nỗi đau của
việc bỏ lại cái an ninh, cái an toàn; nỗi đau của việc
chết đi - chết đi như bản ngã. Nếu cực lạc là đúng, điều
nhất định xảy ra là sẽ có nỗi đau lớn lao. Đây là một
trong những tiêu chí qua đó đánh giá liệu cực lạc là
thực hay không.
Điều đó cũng giống như nhổ bật rễ cây từ mảnh
đất đã biết và cấy nó vào bầu khí hậu mới, vào một
nước mới. Cây sẽ phải học lại việc sống từ ABC; việc
dỡ bỏ học là vất vả và việc học lại là vất vả. Nhất định
có đau đớn. Nỗi đau và nỗi khổ lớn đi trước cực lạc
lớn. Nó có thể tiếp diễn trong nhiều tháng, trong nhiều
năm nữa - điều đó tất cả phụ thuộc vào bạn.
Bây giờ, đừng nhìn lại. Cái đã qua rồi là qua rồi,
và qua mãi mãi, không bao giờ quay lại nữa. Bất kì
điều gì bạn làm, bạn không thể đem nó lại được.
Đứa trẻ không thể vào lại bụng mẹ lần nữa được,
dù điều đó đã dễ chịu, thoải mái, thuận tiện, an ninh,
an toàn thế nào. Đứa trẻ có thể có luyến tiếc lớn lao về
bụng mẹ, về chín tháng vĩnh hằng, đẹp đẽ đó. Vâng,
tôi nói vĩnh hằng, bởi vì đứa trẻ cảm thấy chúng như
vĩnh hằng, không như chín tháng. Nó không có ý niệm
gì về tính toán thời gian - chín tháng dài, dài của ấm áp
thế, của bảo vệ thế, của sự tồn tại không lo nghĩ thế,
của nghỉ ngơi và thảnh thơi vô cùng thế. Nỗi luyến tiếc
treo quanh đó. Đứa trẻ sẽ muốn quay lại bụng mẹ,
nhưng điều đó là không thể được.
Quay lại là không thể được chút nào; điều đó
không trong bản chất của mọi sự. Người ta bao giờ
cũng phải đi lên trước. Và khi bạn nhìn về phía trước
mọi thứ là không quen thuộc tới mức nỗi sợ lớn lao
nảy sinh. Người ta không bao giờ biết người ta ở đâu.
Người ta mất căn cước của mình, người ta trải qua
khủng hoảng lớn về căn cước. Cái đã biết không còn
đó để mà níu bám vào, còn cái không biết dường như
là không thể nào hiểu thấu được.
Nhưng đừng nhìn lại; điều không thể xảy ra thì
không thể nào xảy ra được. Nhìn lên trước đi! Và đừng
diễn giải cái mới và cái không biết là không an toàn.
diễn giải nó dưới dạng phiêu lưu, thám hiểm. Diễn giải
nó như tự do lớn lao. Phật nói đi nói lại về tự do. Nó là
tự do khỏi quá khứ, tự do khỏi mẹ, tự do khỏi bố mẹ,
tự do khỏi xã hội, tự do khỏi nhà thờ, quốc gia.
Điều tôi đang trao cho bạn là tự do tuyệt đối.
Vâng, sợ có thể nảy sinh, nhưng sợ nảy sinh bởi vì
diễn giải của bạn. Sâu bên dưới ở đâu đó trong vô thức
bạn vẫn muốn quay lại, nhắm mắt lại với mặt trời mới
lên. Bạn muốn quay lại cho dù không có gì rất giá trị,
chẳng cái gì có ý nghĩa, nhưng ít nhất người ta đã được
an toàn. Lãnh thổ là quen thuộc; người ta đã sống được
bao quanh bởi các bức tường. Chúng ta gọi nó là nhà
tù, nhưng bạn hay gọi nó là nhà bạn; và tôi đã lôi bạn
ra khỏi nhà bạn bởi vì nó không phải là nhà thực của
bạn, nó chỉ là giả vờ. Tự do này, cực lạc này đang nảy
sinh, mới là nhà thực của bạn.
Bây giờ, nếu bạn níu bám lấy quá khứ, cái không
còn có thể nữa, và bạn không cho phép tương lai xảy
ra êm thấm, đau có thể tiếp tục, khổ có thể tiếp tục,
hàng tháng, hàng năm. Và bạn sẽ bị chia chẻ: một
phần của bạn níu bám lấy cái không còn nữa và một
phần của bạn khao khát cái chưa có.
Bây giờ dũng cảm đi. Lấy bước nhảy lượng tử!
Cũng như con rắn tuột ra khỏi bộ da cũ, tuột ra khỏi
cái cũ đi. Nó đã hoàn thành xong chức năng của nó rồi,
nó đã đem bạn tới cái mới. Nói lời tạm biệt nó với lòng
biết ơn và nhào vào việc thám hiểm này, cái đang trở
thành có giá trị cho bạn. Nhào vào trong bất an này,
vào trong nguy hiểm này, bởi vì cuộc sống là nơi bất
an; cuộc sống là nơi nguy hiểm. Không có cách nào
sống một cách toàn bộ chừng nào bạn chưa học sống
một cách nguy hiểm - càng nhiều nguy hiểm, càng
sống động; càng ít nguy hiểm, càng ít sống động.
Và tôi đang làm ra hết đỉnh cao nọ tới đỉnh cao kia
thành sẵn có cho bạn. Đây là dây chuyền không chấm
dứt. Bạn sẽ đạt tới đỉnh này cứ tưởng rằng đây là chỗ
kết thúc và bây giờ bạn có thể nghỉ ngơi, nhưng tới lúc
bạn đã nghỉ ngơi một chút bạn sẽ trở nên nhận biết về
đỉnh cao hơn đang thách thức bạn, vẫy gọi bạn đi tới.
Cuộc hành hương mới bắt đầu. Và điều này cứ tiếp
diễn mãi.
Cuộc sống là cuộc hành hương vĩnh hằng. Không
có mục đích cho nó, nó là cuộc hành trình thuần khiết.
Do đó có vui vẻ của nó. Nếu có mục đích cho nó, điều
đó sẽ có nghĩa là dấu chấm hết cho cuộc sống của bạn.
Thế thì bạn sẽ làm gì? Sau dấm chấm hết chẳng còn gì,
không gì hơn nữa. Cuộc sống không biết tới dấu chấm
hết. Cuộc sống là sự liên tục, bài ca không bao giờ dứt,
câu chuyện cứ mở ra mãi. Từng khoảnh khắc cái gì đó
mới mẻ lại sẵn sàng xảy ra nếu bạn sẵn có.
Quan sát của bạn là đúng. Bạn nói, "Cực lạc không
thể tưởng được, đau đớn không thể tưởng được."
Đó là cách nó bao giờ cũng thế. Tôi không nói
nhiều về nỗi đau, bởi vì điều đó sẽ làm cho bạn sợ tới
mức bạn sẽ không lấy cú nhảy. Tôi nói về cực lạc để
thuyết phục bạn, để dụ dỗ bạn vào việc lấy cú nhảy.
Một khi bạn đã lấy cú nhảy bạn sẽ biết rằng có cả đau
đớn lớn lao nữa, nhưng đau đớn đó là ân huệ trá hình.
Đau đớn đó là đau đớn mà vàng trải qua khi nó đi qua
lửa: nó làm thuần khiết, nó làm cho bạn ngày một hoà
hợp hơn, nó cho bạn việc định tâm, nó tạo ra linh hồn
trong bạn. Không có đau đớn này không có linh hồn,
và không có đau đớn này không cực lạc nào là có thể.
Bạn sẽ muốn bỏ qua đau đớn và đạt tới cực lạc, nhưng
điều đó không thể được thực hiện đâu.
Aes dhammo sanantano: đây là luật và luật phải
được tuân theo; bạn không thể đi ngược lại luật được.
Nhưng một khi bạn đã biết cực lạc, cũng xứng đáng
trải qua tất cả đau đớn. Bạn có thể hi sinh mọi thứ vì
cực lạc, bởi vì cực lạc là cái tên khác cho Thượng đế
tới gần bạn hơn. Việc tan chảy của bạn vào trong
Thượng đế là điều cực lạc tất cả là gì.
Từ 'cực lạc - ecstasy' là hay; nó đơn giản nghĩa là
"đứng ra ngoài." Ngoài cái gì? Đứng ra ngoài bản ngã
của bạn, cá tính của bạn, tâm trí của bạn; thoát ra ngoài
toàn thể cấu trúc mà trong đó bạn đã sống - không chỉ
sống mà với nó bạn đã trở nên bị đồng nhất. Đứng ra
ngoài tất cả những cái này, chỉ là nhân chứng thuần
khiết, người quan sát trên núi - và mọi thứ còn lại sâu
bên dưới trong thung lũng.
Vứt bỏ luyến tiếc đi. Vứt bỏ việc mơ này về thung
lũng. Bạn đã sống trong thung lũng đủ lâu rồi, và bạn
đã thu được cái gì? Trong nhiều, nhiều kiếp sống bạn
đã sống trong thung lũng, trong tất cả những xiềng
xích đó, cứ tưởng rằng chúng là đồ trang sức. Có thể
chúng đã được làm bằng bạc hay bằng vàng, có thể
chúng đã được nạm bằng kim cương và ngọc lục bảo;
nhưng dù xiềng xích được làm bằng sắt hay vàng, điều
đó không khác biệt gì. Thực ra, xiềng xích bằng vàng
còn khó phá hơn nhiều bởi vì bạn trở nên bị gắn bó với
nó nhiều hơn.
Bạn đã sống trong thung lũng lâu thế rồi, trong
biết bao nhiêu kiếp - bây giờ thử sống trên các đỉnh
cao. Và hiện hữu toàn bộ với đỉnh cao. Quên tất cả về
thung lũng đi, bởi vì đó sẽ là rối loạn. Rối loạn đó
đang tạo ra đau đớn. Bạn nhìn đi nhìn lại phía sau: vẫn
có ham muốn nào đó, khao khát nào đó, hi vọng nào
đó rằng bạn có thể quay trở về cấu trúc cũ của bạn lần
nữa.
Nhưng để tôi làm điều đó thành tuyệt đối rõ ràng
cho bạn: không có việc quay lại đâu. Bây giờ bạn đã đi
qua điểm đó rồi, chỗ mà người ta vẫn có thể quay lại,
cho nên chính việc cảm thấy đau đớn về cái gì đó
không còn nữa là bài tập trong vô tích sự. Nhưng nó sẽ
làm cho bạn bận bịu và bạn sẽ bỏ lỡ vui vẻ của đỉnh,
không khí trong lành của đỉnh, bầu không khí không ô
nhiễm của đỉnh, sự gần gũi với mặt trời và mây. Bây
giờ là lúc để thì thào với mây và với mặt trời và với
các vì sao! Nó là khoảnh khắc đẹp.
Quyết định thiên về cực lạc đi, và bất kì đau đớn
nào xảy ra qua quyết định đó, chấp nhận nó với vui vẻ,
với lòng biết ơn. Bạn càng chấp nhận nó với lòng biết
ơn như một phần của sự trưởng thành, nó sẽ càng biến
đi sớm hơn - và nó sẽ không để lại cho dù một dấu vết
lên bạn; bạn sẽ không bị trầy da bởi nó. Nếu bạn níu
bám lấy nó quá lâu, nó sẽ để lại vết thương. Cho dù nó
được chữa lành, dấu vết sẽ còn lại.
Trong những khoảnh khắc này, khi người ta đi từ
giai đoạn này của bản thể sang giai đoạn khác của bản
thể, người ta rất mong manh. Trong những khoảnh
khắc này người ta rất mềm yếu, dễ xúc cảm. Đừng chú
ý quá nhiều vào đau đớn.
Và đó là điều bạn đã làm trong vài tháng nay. Tôi
đã quan sát một cách im lặng. Nhiều lần tôi phải là
người quan sát im lặng, bởi vì tôi ghét việc can thiệp.
Cho dù tôi biết bạn đang cần đấy, dầu vậy tôi vẫn kính
trọng tự do của bạn nhiều tới mức, chừng nào bạn còn
chưa hỏi, tôi sẽ giữ im lặng, tôi sẽ không nói một lời.
Tôi cảm thấy từ bi lớn lao với bạn - tôi hoàn toàn nhận
biết về nước mắt và nỗi khổ mà bạn đang trải qua -
nhưng tôi đã giữ cho bản thân tôi tách rời một cách có
chủ ý, bởi vì đây là cách duy nhất để cho đệ tử cơ hội
trưởng thành.
Nếu tôi cứ can thiệp vào mọi giai đoạn, rồi giúp
đỡ, hỗ trợ, bạn sẽ bắt đầu phụ thuộc vào tôi quá nhiều.
Thế thì bạn sẽ không bao giờ có thể bước đi được trên
đôi chân riêng của mình; bạn bao giờ cũng cần chiếc
nạng. Và tôi không muốn cho bạn chiếc nạng, tôi
không muốn bạn lệ thuộc vào tôi. Món quà duy nhất
tôi có thể cho bạn là món quà tự do toàn bộ, món quà
độc lập.
Do đó tôi đã im lặng, chờ đợi cái ngày bạn sẽ hỏi
câu hỏi. Hôm nay bạn đã hỏi câu hỏi đó. Bây giờ tôi có
thể nói, tôi có thể chia sẻ hiểu biết của tôi với bạn,
nhưng dầu vậy quyết định bao giờ cũng vẫn còn với
bạn. Bạn có thể cứ kêu khóc về sữa bị đổ, hay bạn có
thể thu lấy bản thân bạn và lấy cú nhảy vào thế giới
mới mà tôi đã làm sẵn cho bạn.
Đừng phí thời gian. Thời gian thực sự quí báu, còn
quí hơn tiền bạc nhiều, quí hơn nhiều so với bất kì cái
gì khác trên thế giới này, bởi vì chính qua thời gian mà
bạn có thể tiếp xúc với cái vĩnh hằng. Và những
khoảnh khắc này là hiếm hoi: nếu bạn bỏ lỡ chúng một
lần, bạn không bao giờ biết được khi nào chúng sẽ
quay lại lần nữa. Có thể sau nhiều kiếp bạn sẽ bắt gặp
vị phật lần nữa... và có mọi khả năng bạn sẽ lặp lại
cùng sai lầm, bởi vì tâm trí muốn lặp lại. Tâm trí là
việc lặp lại - cho dù sau nhiều kiếp nó vẫn lặp lại cùng
sai lầm.
Có lần chuyện xảy ra: một hoàng tử xin Phật điểm
đạo cho anh ta làm khất sĩ, làm sannyasin. Phật có chút
ít ngần ngại. Điều này là rất hãn hữu - chư phật chưa
bao giờ ngần ngại, chỉ rất hãn hữu thôi; họ bao giờ
cũng sung sướng nếu ai đó xin điểm đạo.
Ananda, đại đệ tử của Phật, lập tức trở nên nhận
biết rằng Phật có chút ít ngần ngại. Ông ấy nói, "Bạch
Phật, sao thầy lưỡng lự? Tôi chưa bao giờ thấy thầy
lưỡng lự cả. Thầy thuyết phục mọi người, thầy giúp
mọi người, thầy làm mọi thứ có thể để đem họ tới đạo
- và bản thân người này lại đang yêu cầu! Và không
phải là người thường - một hoàng tử lớn, với tiềm
năng lớn. Nếu ông ấy trở thành đệ tử, nhiều người nữa
sẽ theo. Sao thầy lưỡng lự?"
Phật nói với Ananda, "Bởi vì anh thanh niên này
đã được chư phật khác điểm đạo trong quá khứ ít nhất
bẩy lần rồi, và anh ta đã phạm phải cùng sai lầm lặp đi
lặp lại. Và tâm trí có tính lặp lại. Ta biết ta có thể cho
anh ta điểm đạo, nhưng anh ta nhất định lặp lại cùng
sai lầm đó. Nhưng nếu ông nói vậy, ta sẽ điểm đạo cho
anh ta. Bây giờ theo dõi điều xảy ra."
Người thanh niên này đã được điểm đạo... và tất
nhiên toàn thể đối thoại này với Ananda đã xảy ra
ngay trước anh ta, cho nên anh ta rất ý thức không lặp
lại cái gì. Nhưng anh ta lại chẳng nhớ được gì về các
kiếp quá khứ của mình, và khi bạn không nhớ lấy, làm
sao bạn có thể tránh được việc lặp lại? Nếu bạn nhớ
lấy, bạn có thể tránh được.
Anh ta đã hỏi Phật nhiều lần, "Xin nói cho tôi, sai
lầm của tôi là gì mà tôi đã từng lặp đi lặp lại mãi thế?
Và thầy nói tôi đã sống với bẩy vị phật khác? Tôi
không muốn bỏ lỡ cơ hội này."
Phật nói, "Điều đó chẳng ích gì nhiều lắm đâu, bởi
vì ông đã hỏi sáu vị phật cùng câu hỏi và vị thứ năm
nữa, họ đã trả lời. Ta không định làm điều đó. Ta sẽ
nói cho ông chỉ khi thời gian tới."
Và thời gian tới trong vòng vài ngày. Họ đi tới
thành phố khác; họ ở trong một nhà trọ lớn - mười
nghìn sannyasins - không có chỗ. Chỗ đó phải quá
đông đúc như ở đây! Bây giờ khi tôi nhìn vào các bạn,
tôi hoàn toàn quên mất liệu các bạn là sannyasins hay
cá mòi. Tôi cứ phải tự nhủ mình, "Không, đây là
sannyasins của mình."
Các sannyasins già hơn của Phật được cho chỗ tốt
hơn chút ít, chỗ rộng hơn chút ít - họ già rồi, hạng cao
niên. Anh thanh niên này là việc bổ sung cuối cùng
cho tăng đoàn của Phật - thứ tự của anh ta; anh ta lấy
chỗ ở phần chu vi bên ngoài nhất, ngay cạnh cổng vòm
nơi mọi người để giầy dép. Anh ta phải ngủ ở đó. Một
hoàng tử, ngủ ở cổng vòm nơi mọi người để giầy dép
sao? Anh ta bị tổn thương lắm.
Trong đêm anh ta không thể ngủ được, bởi cùng lí
do mà các bạn chịu đựng - muỗi! Chúng là kẻ thù cổ
đại nhất của thiền nhân. Nếu bạn không thiền chúng sẽ
không để ý tới bạn đâu; một khi bạn bắt đầu thiền,
chúng bỗng nhiên trở nên quan tâm tới bạn. Máu của
thiền nhân có vị ngọt nào đó.
Và đã có muỗi và anh ta không thể nào ngủ được;
và nhà trọ lại quá đông đúc, và mọi người cứ tới rồi đi
cả đêm - ai đó tới và ai đó đi. Làm sao bạn có thể ngủ
được ở cổng vòm? Vào giữa đêm anh ta nói, "Điều này
thực ngu xuẩn, điều này chỉ là vô nghĩa! Mình không
trở thành sannyasin vì tất cả những điều này. Mình đã
có cung điện đẹp, đủ mọi tiện nghi. Sáng mai mình sẽ
chào tạm biệt Phật."
Thực ra anh ta đã muốn rời đi ngay chính khoảnh
khắc đó rồi, nhưng lúc đó là buổi đêm. Ít nhất anh ta
cũng phải nói với Phật, "Tôi được kết thúc rồi."
Nhưng trước sáng, Phật tới anh ta và nói, "Bây giờ
thời điểm đã tới. Ta có thể trả lời câu hỏi của ông.
Điều này đã xảy ra cho ông lặp đi lặp lại mãi: ông đã
từng được điểm đạo bẩy lần rồi, nhưng chỉ bởi những
thứ nhỏ bé mà ông bao giờ cũng bị nhiễu loạn tới mức
ông đã bỏ đi. Ông có thể đi - đây là thói quen cũ của
ông. Bởi vì thói quen này ta đã ngần ngại."
Ông ấy đã mang Ananda đi cùng mình và ông ấy
nói, "Trông đấy! Bây giờ ông sẽ nói gì nào? Người này
muốn ra đi vào sáng mai đấy."
Anh thanh niên đã không nói một lời nào. Anh ta
quì xuống dưới chân Phật. Anh ta nói, "Làm sao thầy
đã tới vào giữa đêm này?"
Phật nói, "Đó không phải là việc của anh. Đó là
điều làm ta thành thầy. Đến sáng anh muốn đi; anh có
thể đi, nhưng đi với nhận biết này: rằng đây là cách
anh đã từng bỏ lỡ con đường lặp đi lặp lại."
Anh thanh niên này không bao giờ bỏ đi. Điều đó
là khó - Phật đã cho anh ta nhiều, nhiều tình huống
không thoải mái - nhưng anh ta là con người của tính
toàn vẹn; anh ta thuộc vào một gia đình rất nổi tiếng,
cổ đại, cao quí; anh ta thuộc vào dòng dõi chiến binh.
Rời bỏ Phật là ngược lại với toàn thể việc giáo dưỡng
của anh ta. Và bởi vì Phật đã bảo anh ta cái gì đã là
nguyên nhân trong quá khứ... và khi thiền được sâu sắc
anh ta bắt đầu nhớ tới những mối liên hệ quá khứ của
mình với chư phật khác. Dần dần, dần dần anh ta trở
nên nhận biết rằng đúng, vì nhưng điều nhỏ bé mà anh
ta đã rời bỏ chư phật; vì những điều nhỏ bé như thế mà
anh ta đã lạc đường nhiều lần.
Vâng, Sudha, đau đớn có đó, và điều đó không chỉ
là cho bạn; người khác cũng sẽ trải qua đau đớn này.
Nhiều người đã trải qua nó, nhiều người sẽ phải trải
qua nó. Trải qua nó một cách vui vẻ đi. Để mắt bạn
nhìn vào cực lạc. Đừng tập trung bản thân bạn vào đau
đớn - đó là cách tiếp cận sai. Hội tụ bản thân bạn vào
cực lạc, và nghĩ rằng đau đớn là cái giá chúng ta phải
trả cho cực lạc. Chẳng mấy chốc đau đớn sẽ biến mất.
Và năng lượng thoát ra từ đau đớn sẽ đem bạn thậm
chí tới những cõi giới cao hơn của cực lạc, sẽ đem bạn
tới tầm cao lớn hơn của cực lạc.
Có tính quan sát đi...
#6Câu hỏi thứ hai:
Thưa Thầy kính yêu,
Thầy là nhà ảo thuật đen hay nhà ảo thuật trắng?
Prem Tussir, tôi là nhà ảo thuật mầu cam
Câu hỏi thứ ba:
Thưa Thầy kính yêu,
Làm sao trở nên nhận biết hơn?
Pankaj, bằng việc trở nên nhận biết hơn, người ta
trở nên nhận biết hơn. Không có phương pháp khác
cho nó. Nó là một quá trình đơn giản. Bất kì cái gì bạn
đang làm, làm nó với ý thức cứ dường như đó là vấn
đề sinh tử; cứ dường như lưỡi kiếm đang kề trên bạn.
Có một câu chuyện cổ ở Ấn Độ:
Một hiền nhân vĩ đại phái đại đệ tử của mình tới
triều đình của Vua Janak để học cái gì đó còn thiếu ở
chàng thanh niên này.
Chàng thanh niên nói, "Nếu thầy không thể dạy
được tôi, làm sao con người này, Janak này, có thể dạy
được nó cho tôi? Thầy là hiền nhân vĩ đại, ông ấy chỉ
là vua. Ông ấy biết gì về thiền và nhận biết?"
Hiền nhân vĩ đại này nói, "Anh đơn giản cứ tuân
theo chỉ dẫn của ta. Đi tới ông ấy đi, cúi lạy ông ấy;
đừng bản ngã thế, cứ tưởng rằng anh là sannyasin và
ông ấy chỉ là chủ hộ bình thường. Ông ấy sống trong
thế giới, ông ấy là phàm nhân và anh là người tâm
linh. Quên tất cả về nó đi. Ta phái anh tới ông ấy để
học cái gì đó; cho nên trong khoảnh khắc này, ông ấy
là thầy anh. Và ta biết, ta đã thử ở đây, nhưng anh
không thể hiểu nổi - bởi vì anh cần một hoàn cảnh
khác để hiểu nó. Và triều đình của Janak cùng cung
điện của ông ấy sẽ cho anh đúng hoàn cảnh. Anh đơn
giản đi đi, cúi lạy ông ấy. Trong vài ngày này, ông ấy
sẽ đại diện cho ta."
Rất miễn cưỡng, chàng thanh niên ra đi. Anh ta là
brahmin thuộc đẳng cấp cao, còn Janak này là cái gì?
Ông ta giầu có, ông ta có vương quốc lớn, nhưng ông
ta có thể dạy cho brahmin được không? Brahmin bao
giờ cũng nghĩ rằng họ có thể dạy cho mọi người. Và
Janak lại không phải là brahmin, ông ta là kshatriya,
dòng dõi chiến binh ở Ấn Độ. Họ bị coi là thứ hai sau
brahmin; brahmin là thứ nhất, tiên phong, đẳng cấp
cao nhất. Cúi lạy con người này sao? Điều này chưa
bao giờ được thực hiện cả. Brahmin cúi lạy kshatriya
là ngược với tâm trí Ấn Độ.
Nhưng thầy đã nó vậy thì điều đó phải được thực
hiện. Một cách miễn cưỡng anh ta ra đi, và một cách
miễn cưỡng anh ta cúi lạy. Và khi anh ta cúi lạy, anh ta
thực sự cảm thấy rất giận thầy mình, bởi vì tình huống
anh ta phải cúi lạy Janak là xấu thế trong con mắt anh
ta.
Một cô gái đẹp đang nhảy múa trong triều đình và
mọi người đều uống rượu. Và Janak đang ngồi trong
nhóm này. Chàng thanh niên có kết án thế, nhưng dầu
vậy anh ta vẫn cúi lạy. Janak cười và nói, "Anh không
cần cúi lạy ta đâu khi anh đang mang kết án thế trong
anh. Và đừng bị định kiến trước khi anh đã kinh
nghiệm về ta. Thầy anh biết ta rõ lắm, đó là lí do tại
sao ông ấy đã phái anh tới đây. Ông ấy đã phái anh tới
để học cái gì đó, nhưng đây không phải là cách học."
Chàng thanh niên nói, "Tôi không quan tâm. Thầy
đã phái tôi tới, tôi đã tới. Nhưng đến sáng tôi sẽ quay
về, bởi vì tôi không thể thấy được rằng tôi có thể học
gì ở đây. Thực ra, nếu tôi học được cái gì đó từ ông, cả
đời tôi sẽ bị phí hoài. Tôi không tới để học uống rượu
và xem gái đẹp múa và tất cả những mê đắm này."
Janak vẫn mỉm cười và ông ấy nói, "Anh có thể đi
vào buổi sáng. Nhưng vì anh đã tới và anh mệt mỏi
thế... ít nhất nghỉ ngơi qua đêm đã, và tới sáng anh có
thể đi. Và ai mà biết được - đêm có thể là hoàn cảnh
của việc học mà thầy anh đã phái anh tới ta."
Bây giờ, điều này rất bí ẩn. Làm sao đêm có thể
dạy cho anh ta điều gì được? Nhưng thôi được, anh ta
phải ở đây qua đêm, cho nên chẳng cần làm ồn ào
nhiều về điều đó. Anh ta ở lại. Nhà vua thu xếp cho
anh ta ở căn phòng đẹp nhất trong cung điện, căn
phòng xa hoa nhất. Ông ta đi vào cùng chàng thanh
niên này, chăm nom mọi điều về thức ăn, giấc ngủ và
khi anh ta đã lên giường, Janak ra về.
Nhưng chàng thanh niên này không thể nào ngủ
được cả đêm, bởi vì khi anh ta nhìn lên, anh ta có thể
thấy một chiếc gươm tuốt trần đang treo bằng sợi chỉ
mảnh ngay trên đầu anh ta. Bây giờ, thật là nguy hiểm
là vào bất kì lúc nào chiếc gươm cũng có thể rơi xuống
và giết chết chàng thanh niên. Cho nên anh ta vẫn còn
tỉnh thức cả đêm, quan sát, để cho anh ta có thể tránh
được thảm hoạ nếu nó sắp xảy ra.
Đến sáng, nhà vua hỏi, "Giường có thoải mái
không, phòng có thoải mái không?"
Chàng thanh niên nói, "Thoải mái sao? Mọi thứ
đều thoải mái - nhưng chiếc gươm thì sao? Và tại sao
ông lại giở thủ đoạn như vậy? Nó độc ác thế! Tôi mệt
mỏi, tôi đã đi bộ từ đạo tràng xa xôi của thầy tôi trong
rừng rậm, và ông chơi trò đùa độc ác thế. Đây là cái
loại việc gì vậy, treo lưỡi gươm trần bằng sợi chỉ mảnh
mà tôi sợ rằng một làn gió thoảng nhỏ thôi... và tôi đi
đời, và tôi kết thúc. Và tôi đã không tới đây để tự tử."
Vua nói, "Ta muốn hỏi chỉ một điều thôi: anh mệt
mỏi thế, anh có thể đã rơi vào giấc ngủ rất dễ dàng,
nhưng anh đã không thể ngủ được. Điều gì đã xảy ra?
Nguy hiểm là lớn, đó là vấn đề sống và chết. Do đó
anh đã nhận biết, tỉnh táo. Đây là giáo huấn của ta nữa.
Anh có thể đi, hay nếu anh muốn, anh có thể ở lại
thêm vài ngày để quan sát ta.
"Mặc dầu ta ngồi đó trong triều đình, nơi đàn bà
đẹp đang nhảy múa, ta vẫn tỉnh táo với lưỡi gươm trần
trên đầu ta. Nó là vô hình; tên nó là cái chết. Ta không
nhìn vào đàn bà trẻ đâu. Cũng như anh không thể tận
hưởng được xa hoa của căn phòng, ta không uống
rượu. Ta nhận biết về cái chết có thể tới vào bất kì lúc
nào. Ta thường xuyên nhận biết về cái chết. Do đó, ta
sống trong cung điện và vậy mà ta là ẩn sĩ. Thầy của
anh biết ta, hiểu ta. Ông ấy hiểu về hiểu biết của ta
nữa. Đó là lí do tại sao ông ấy đã phái anh tới đây. Nếu
anh sống ở đây vài ngày, anh có thể quan sát theo cách
riêng của anh."
Bạn hỏi tôi, Pankaj, cách trở nên nhận biết nhiều
hơn. Trở nên nhận biết nhiều hơn về tính bấp bênh của
cuộc sống đi. Cái chết có thể xảy ra vào bất kì lúc nào.
Khoảnh khắc tiếp, nó có thể gõ cửa bạn. Bạn có thể
vẫn còn vô nhận biết nếu bạn nghĩ bạn sẽ sống mãi
mãi. Làm sao bạn có thể sống vô nhận biết nếu cái
chết bao giờ cũng cận kề? Không thể được! Nếu cuộc
sống là nhất thời, bong bóng xà phòng - chỉ một chiếc
kim châm và nó mất đi vĩnh viễn - làm sao bạn có thể
vẫn còn vô nhận biết được?
Đem nhận biết vào từng hành động đi. Bước đi
trên đường, bước đi đầy tỉnh táo; ăn, ăn với nhận biết.
Bất kì cái gì bạn đang làm, đừng để quá khứ và tương
lai can nhiễu vào. Ở trong hiện tại. Đó là điều nhận
biết tất cả là gì. Tắm, chỉ tắm thôi. Đừng để tâm trí lôi
đi xa, vào quá khứ, vào tương lai. Đừng cho phép tâm
trí đi chơi xa xăm, vào những cuộc hành trình này.
Tắm, chỉ tắm thôi.
Bokuju, một Thiền sư lớn, được hỏi, "Giáo huấn
nền tảng của thầy là gì? Công phu nền tảng của thầy là
gì? Thầy đã trở nên chứng ngộ thế nào?"
Ông ấy nói, "Giáo huấn của ta là đơn giản: Khi
đói, ăn; khi buồn ngủ, ngủ."
Người đó đâm ra phân vân. Người đó nói, "Tôi
chưa bao giờ nghe nói công phu như vậy cả. Tôi đang
hỏi về công phu nền tảng còn thầy lại nói về 'Khi đói,
ăn; khi buồn ngủ, ngủ.' Đây là loại giáo huấn gì vậy?"
Bokuju nói, "Điều đó ta không biết, nhưng đó là
cách ta đã trở nên chứng ngộ, và đó là cách nhiều đệ tử
của ta đang trở nên chứng ngộ. Ông có thể đi và hỏi
họ."
Nhưng người đó nói, "Đó là điều chúng ta tất cả
đều làm. Đói, chúng ta ăn. Buồn ngủ, chúng ta ngủ."
Bokuju nói, "Không, có khác biệt và khác biệt lớn
đấy. Khi ta ăn, ta đơn giản ăn và không làm gì khác cả.
Khi ông ăn, ông làm cả nghìn lẻ một điều trong đầu
ông - ngoại trừ việc ăn; ông đang làm mọi điều khác.
Ăn được làm một cách máy móc. Khi ông ngủ, ông có
thực sự ngủ không? Làm sao ông có thể ngủ được khi
ông mơ? Mơ nhiều giấc mơ thế, suốt cả đêm; lớp sóng
mơ nọ tiếp nối lớp sóng mơ kia cứ đổ tới. Chỉ trong
vài phút, đây đó, mơ dừng lại và ông rơi vào trong giấc
ngủ sâu; bằng không, mơ vẫn tiếp diễn. Mơ là sự sao
lãng ngủ: ông bị sao lãng bởi cả nghìn lẻ một thứ.
Nhưng ông không ngủ. Ông không làm chỉ một thứ."
Để nhận biết, Pankaj, người ta cần làm một điều
vào mỗi lúc. Và làm nó với nhận biết đầy đủ, có tính
quan sát.
Một giáo viên nhà trẻ tiến bộ muốn có trách nhiệm
để học về cuộc sống qua kinh nghiệm mắt thấy tai
nghe. Cho nên sau nhiều tệ quan liêu, cô ấy có khả
năng thuyết phục được cấp trên của cô ấy cho phép cô
ấy đưa một lớp toàn con trai tới đường đua ngựa để
học về các cạm bẫy của đánh bạc.
Sau khi họ đã ở đấy được một chốc, nhiều đứa trẻ
xin vào phòng toa lét nam. Cô ấy hộ tống chúng tới đó
dưới sự hướng dẫn của nhân viên đường đua, người
gác cửa cho chúng. Cô ấy thấy điều đó rằng tụi con trai
không có vấn đề gì và trong một số trường hợp phải
giúp chúng cởi khuy quần. Khi cô ấy chuyển tay
xuống dưới tuyến, bỗng nhiên cô ấy thấy cái gì đó làm
cho cô ấy phải nắm lấy gấp đôi. "Ông chỉ năm tuổi
thôi sao?" cô ấy hổn hển.
Đối tượng tranh cãi của cô ấy đáp, "Bà ngụ ý gì
thưa bà? Tôi đang cưỡi con Dandy Charger trong cuộc
đua thứ ba."
Mọi người cứ làm mọi thứ gần như trong giấc ngủ.
Trở nên tỉnh táo hơn chút ít đi. Làm bất kì cái gì bạn
đang làm, nhưng đem phẩm chất của ý thức vào hành
động của bạn - không có phương pháp khác đâu. Và
bạn có thể mang phẩm chất đó vào những việc nhỏ bé
và điều đó là có ích. Ngồi, chỉ quan sát việc thở của
bạn. Hơi thở đi vào, quan sát; hơi thở đi ra, quan sát.
Cứ quan sát việc thở của bạn. Và điều đó là sự giúp đỡ
lớn lao bởi vì nếu bạn quan sát việc thở của bạn, suy
nghĩ dừng lại.
Đây là cái gì đó cần được hiểu. Hoặc bạn có thể
nghĩ hoặc bạn có thể quan sát việc thở của bạn. Bạn
không thể làm được cả hai việc cùng nhau. Thở và
nghĩ là những quá trình mà chỉ một quá trình có thể
tồn tại trong bạn - trong nhận biết. Trong vô nhận biết,
cả hai có thể tiếp tục: bạn có thể thở và bạn có thể cứ
nghĩ. Nhưng nếu bạn trở nên nhận biết, hoặc bạn có
thể nghĩ hoặc bạn có thể thở; và khi bạn thở với nhận
biết, nghĩ biến mất. Toàn thể tâm thức của bạn trở nên
được hội tụ vào thở. Và thở là quá trình đơn giản thế:
bạn không cần làm nó, nó đã xảy ra rồi. Bạn có thể chỉ
đem ý thức của mình vào nó thôi.
Phật trở nên chứng ngộ qua phương pháp đơn giản
này. Ông ấy gọi nó là Vipassana, sáng suốt. Việc thở
đem tới sáng suốt lớn lao và khi bạn nhận biết về việc
thở, toàn thể quá trình ý nghĩ đi tới điểm dừng - và tĩnh
lặng lớn lao nảy sinh. Sau khi quan sát việc thở của
bạn, bạn sẽ dễ dàng quan sát việc nghĩ của bạn một
cách trực tiếp, bởi vì việc thở có chút ít thô.
Suy nghĩ là tinh tế hơn. Ý nghĩ không có trọng
lượng, chúng vô trọng lượng; chúng không thể được
đo, chúng là không đo được. Đó là lí do tại sao các nhà
duy vật không thể chấp nhận được chúng. Vật chất
nghĩa là việc đo - cái mà có thể đo được là vật chất.
Cho nên ý nghĩ không phải là vật chất bởi vì nó không
thể được đo. Nó là vật chất đấy, vậy mà nó không thể
được đo; do đó nó là một hiện tượng phụ. Các nhà duy
vật nói, "Nó chỉ là sản phẩm phụ, hiệu quả phụ, hiện
tượng hình bóng thôi" - cũng như bạn bước trong ánh
mặt trời, cái bóng đi theo bạn. Nhưng cái bóng là cái
không. Bạn bước đi trong cuộc sống và suy nghĩ nảy
sinh, nhưng nó chỉ là cái bóng. Nếu bạn quan sát cái
bóng này, hiện tượng phụ này, những ý nghĩ này và
quá trình của ý nghĩ...nó sẽ là hiện tượng tinh tế hơn
bởi vì nó không thô như việc thở.
Nhưng trước hết, học quá trình nhận biết thông
qua việc thở và thế rồi chuyển sang suy nghĩ. Và bạn
sẽ ngạc nhiên: bạn càng quan sát suy nghĩ của bạn...
lần nữa, hoặc bạn có thể quan sát hoặc bạn có thể nghĩ.
Cả hai không thể được làm đồng thời. Nếu bạn quan
sát, suy nghĩ biến mất.
Nếu suy nghĩ xuất hiện, quan sát biến mất. Khi bạn
đã trở nên đủ tỉnh táo để quan sát ý nghĩ của bạn và để
cho chúng biến mất qua quan sát, thế thì chuyển sang
cảm - điều thậm chí còn tinh tế hơn. Và đây là ba bước
của Vipassana. Thứ nhất thở, thứ hai nghĩ, thứ ba cảm.
Và khi tất cả ba điều này đã biến mất, cái còn lại là
bản thể bạn.
Biết nó là biết tất cả. Chinh phục nó là chinh phục
tất cả.
#6Câu hỏi thứ tư:
Thưa Thầy kính yêu,
Nếu Phật đã không thực sự cần rời bỏ vợ con ông
ấy để đạt tới chứng ngộ, thế thì liệu chứng ngộ có
thể xảy ra ở bất kì đâu cũng được không? Tại sao
tôi cảm thấy rằng tôi cần ở trong phật trường của
thầy?
Deva Surati, Phật cũng đã nhận ra điều đó chỉ khi
ông ấy đã trở thành vị phật - rằng nó có thể xảy ra ở
bất kì đâu. Ông ấy đã không nhận ra điều đó khi ông
ấy chưa là vị phật. Thế thì ông ấy phải ra đi, bỏ lại
cung điện, con, vợ, bố mẹ và đi tới hang động xa xăm
trong núi non, trong rừng thẳm, để sống một mình với
tự nhiên, để cho xã hội và tất cả những ước định của
nó có thể bị bỏ lại đằng sau.
Vâng, khi ông ấy trở thành vị phật thế thì ông ấy
biết rằng điều đó có thể đã xảy ra ở bất kì đâu. Nhưng
khi bạn đã thành vị phật, đó là cảnh quan khác toàn bộ.
Rất dễ nói mọi điều như thế khi bạn đã đạt tới.
Và đó là một trong những vấn đề lớn nhất: điều
chư phật nói, họ nói sau khi họ đã đạt tới, cho những
người còn chưa đạt tới. Giao cảm trở thành khó khăn,
rất khó. Chư phật nói, "Các bạn đã là chư phật rồi"; và
khi bạn nghe rằng "Chúng ta đã là chư phật," bạn nói,
"Thế thì sao phải lo nghĩ về nó? Thế thì sao lại thiền?
Và sao lại là sannyasin?" Thế thì bạn đã bỏ lỡ toàn thể
vấn đề! Và Phật chẳng nói gì sai cả - ông ấy tuyệt đối
đúng - và vậy mà trước khi bạn có thể nhận ra chân lí
của phát biểu của ông ấy, bạn sẽ phải kinh nghiệm nó
theo cách riêng của bạn.
Một ngày nào đó bạn sẽ trở thành phật. Thế thì bạn
cũng sẽ có khả năng nói rằng không cần bỏ cái gì cả.
Thế thì bạn sẽ nói, "Không cần ở trong phật trường của
thầy đâu." Nhưng ngay bây giờ điều đó là nhu cầu, nhu
cầu tuyệt đối.
Phật trường tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều quá
trình, điều có thể xảy ra nếu không có phật trường,
nhưng sẽ đòi nỗ lực gian nan lâu dài, lâu lắm. Nó cũng
hệt như khi gió thổi và đi qua bờ bên kia: bạn không
cần chèo thuyền; bạn có thể đơn giản để thuyền đấy và
gió sẽ đem nó sang bờ bên kia. Trong phật trường gió
thổi hướng tới bờ bên kia; bạn có thể đơn giản buông
xuôi theo gió và không nỗ lực nào bạn vẫn đạt tới bờ
bên kia. Bạn có thể đạt tới bờ bên kia một mình nữa,
nhưng thế thì bạn sẽ phải chèo thuyền. Thế thì bạn sẽ
phải nhận mạo hiểm một mình trong biển cả chưa từng
thám hiểm.
Trong phật trường bạn không một mình, có nhiều
người đang di chuyển. Vài người đi trước bạn, vài
người đi sau bạn; và bạn biết rằng mọi người đều đi,
rằng mọi người đang thu được sáng suốt mới, rằng mọi
người đang tiến hoá, rằng mọi người đang tới gần bờ
bên kia hơn. Và những người đi trước bạn bao giờ
cũng có thể đảm bảo với bạn, "Đừng lo. Cứ đi tới đi.
Đi tiếp đi! Bờ bên kia là thấy được rồi từ trạng thái
chúng tôi; chẳng mấy chốc nó sẽ thấy được với bạn
nữa." Và bạn có thể nói nhiều điều với những người ở
đằng sau bạn. Đó là những người đang cần sự đảm bảo
lớn lao. Đi vào trong cái không biết không phải là quá
trình dễ dàng; phật trường trở thành dây xích.
Vâng, Surati, về căn bản điều đó là đúng - bạn có
thể là phật ở bất kì đâu - nhưng ở trong phật trường
mọi thứ sẽ dễ dàng hơn nhiều. Ở cùng thầy trong tình
yêu sâu sắc và tin cậy, nhiều điều bắt đầu xảy ra, cũng
như xuân tới và hoa bắt đầu nở ra. Trái vụ bạn cũng có
thể xoay xở để đem hoa tới cho thực vật, nhưng thế thì
phải làm nỗ lực lớn lao, nỗ lực không cần thiết. Khi
mùa xuân có đó, mọi sự xảy ra theo cách riêng của nó.
Một khi nó đã xảy ra, thế thì nó có vẻ dễ dàng cho mọi
người.
Khi Copernicus khám phá ra luật nào đó, mọi
người nói, "Chúng tôi có thể đã tìm ra chúng; chúng
đơn giản thế." Nhưng không ai đã tìm ra chúng trước
ông ấy.
Khi Columbus tới châu Mĩ, khám phá ra châu Mĩ
và quay về, mọi người bắt đầu nói, "Đây chẳng phải là
điều lớn lao thế đâu. Đừng làm om sòm về nó. Quả đất
tròn. Bất kì ai cũng có thể đến đó được!"
Hoàng hậu Tây Ban Nha đã mời Columbus tới ăn
tối; cả triều đình được mời. Và mọi người đều ghen tị
với Columbus, cho nên họ nói, "Đây không phải là cái
gì lớn rằng trái đất tròn."
Columbus nói, "Nhưng mới ba năm trước khi tôi
nói trái đất tròn, không ai sẵn sàng nghe tôi cả. Thực
ra, tôi ngạc nhiên khi hoàng hậu đồng ý giúp tôi."
Điều đó đã xảy ra nhiều lần rồi: khi đàn ông không
có khả năng hiểu cái gì đó của cái không biết, đàn bà
lại có khả năng hiểu. Đàn ông đi với quá trình logic,
chậm chạp hướng tới kết luận. Đàn bà có tính trực
giác: cô ấy không đi theo quá trình chậm chạp, cô ấy
đơn giản nhảy vào kết luận. Đó là lí do tại sao khó nói
với đàn bà thế, tranh cãi với đàn bà. Đàn ông bao giờ
cũng thấy bản thân mình bị lúng túng, bởi vì anh ta đi
với logic rất thiện xảo, chuẩn bị toàn thể nền tảng và
từng bước qui trình. Anh ta theo "logic" tới kết luận,
và đàn bà bỗng nhiên nhảy vào mà không có tiền đề,
không có qui trình - cô ấy đơn giản đi tới kết luận. Họ
sống trong các thế giới khác nhau toàn bộ.
Hoàng hậu Tây Ban Nha đồng ý. Bà ấy nói, "Được
rồi, làm đi, và ta sẽ chịu mọi chi phí."
Mọi người đều cười vào hoàng hậu ngu xuẩn, và
mọi người đã nói, "Đàn bà sau rốt vẫn cứ là đàn bà -
điên, khùng! Bà ấy hiểu gì về địa lí, thiên văn? Người
này đã lừa hoàng hậu."
Bây giờ mọi người đều nói rằng điều đó là dễ
dàng. Columbus đã làm một điều: ông ấy lấy một quả
trứng từ trên đĩa và bảo mọi người trong triều đình,
"Ai có thể làm cho nó đứng thẳng trên bàn được
không?"
Mọi người thử, nhưng trứng đều lăn xuống; nó
không đứng thẳng dậy. Họ nói, "Điều này là không thể
được. Điều này không thể làm được. Làm sao ông có
thể làm cho quả trứng đứng được? Nó có hình tròn thế,
nó nhất định lăn xuống."
Khi mọi người đã thử cả và đồng ý rằng điều này
là không thể được, Columbus cầm quả trứng trong tay,
đập mạnh trứng lên bàn để cho phần đáy thành phẳng,
và quả trứng đứng đó. Họ tất cả đều nói, "Đây là gian
lận! Sao ông không nói thế từ trước? Chúng tôi cũng
có thể làm được điều đó!"
Columbus nói, "Bao giờ cũng dễ dàng khi một
việc đã được làm. Tôi có ngăn cản các ông đâu, tôi đã
không nói các ông không thể làm được điều đó, nhưng
không ai trong các ông đã bao giờ tưởng tượng việc
làm nó cả. Bây giờ nó là đơn giản, bây giờ mọi người
đều có thể làm được nó, bây giờ nó chẳng là gì mấy."
Khi bạn trở thành vị phật bạn sẽ ngạc nhiên, toàn
thể hiện tượng này sao đơn giản thế. Bạn sẽ đâm ra
phân vân... sao nó đã không xảy ra từ trước, sao tốn
nhiều thời gian thế, nhiều kiếp thế? Ở Ấn Độ họ nói
hàng triệu kiếp, và họ đúng. "Sao phải mất hàng triệu
kiếp thế? Và quá trình này đơn giản thế!" Người ta đơn
giản cười vào cái ngu xuẩn và lố bịch của con người.
Và vâng, chư phật nhất định nói những điều có thể
nguy hiểm cho những ai còn chưa thức tỉnh.
Chẳng hạn, bạn nghe điều này - rằng Phật có thể
đã trở nên chứng ngộ ở bất kì đâu - bạn có thể tìm ra
cách hợp lí hoá để đi xa khỏi đây. Đó sẽ là thủ đoạn
của tâm trí bạn. Và tôi không nói rằng bạn không thể
trở thành vị phật được - bạn có thể trở thành vị phật ở
bất kì đâu, ngay cả ở California - nhưng điều đó sẽ
ngày một khó khăn hơn. Nếu nó không thể xảy ra được
ở đây sẽ rất, rất khó cho nó xảy ra ở bất kì đâu khác,
mặc dầu tôi không nói rằng điều đó là tuyệt đối không
thể được. Nó không phải là tuyệt đối không thể được -
nó là có thể được - nhưng bất kì cái gì là có thể không
nhất thiết sẽ xảy ra. Thậm chí khả năng này cũng có
thể bị bỏ lỡ nếu bạn không có hoàn cảnh đúng.
Thực ra chính ý niệm về phật tính, về việc trở
thành vị phật, đã nảy sinh trong bạn bởi vì bạn ở đây.
Ở phương tây mọi người tôn thờ Christ, nhưng không
ai nghĩ rằng mình sẽ trở thành một christ. Điều đó là
báng bổ. Chỉ có một Christ thôi, đứa con duy nhất của
Thượng đế! Là người Ki tô giáo là đủ rồi; chính ý
niệm về việc trở thành một christ có vẻ điên khùng.
Chính đóng góp phương Đông cho tâm thức nhân
loại là ở chỗ bạn có thể trở thành Phật, là ở chỗ bạn có
thể trở thành Christ, là bạn có thể trở thành Krishna, là
ở chỗ bạn có thể đạt tới đỉnh cao nhất mà bất kì ai đã
từng đạt tới, là ở chỗ bạn mang điều siêu việt bên trong
bản thể mình như hạt mầm. Nhưng hạt mầm này cũng
cần mảnh đất đúng, cần người làm vườn. Thầy là
người làm vườn, và trường năng lượng của thầy là
mảnh đất đúng.
Thận trọng với thủ đoạn của tâm trí! Nó bao giờ
cũng có thể tìm ra an ủi, hợp lí hoá. Và những người đi
theo con đường này phải nhận biết về việc hợp lí hoá
và an ủi.
Một nông dân lái xe lên thị trấn mang vài sản
phẩm đi bán. Sau đó anh ta quyết định dành cho mình
một thời gian thoải mái bằng việc đi xem buổi biểu
diễn khôi hài. Buổi biểu diễn gây hứng khởi cho anh ta
nhiều tới mức sau đó anh ta quyết định mua cho mình
một bộ quần áo mới tinh, kể cả bộ com lê, mũ và giầy,
để làm cho vợ ngạc nhiên. Anh ta để chúng dưới ghế
ngồi của lái xe và khởi hành về nhà.
Khi anh ta đi tới sông, anh ta đi ra vứt hết quần áo
cũ xuống sông. Quay trở về xe của mình anh ta nhìn
xuống dưới ghế - bộ quần áo mới không cánh mà bay
mất rồi. "Ồ, đồ chết tiệt," anh ta tự nói với mình khi lái
xe đi, "đằng nào thì mình cũng làm cho cô ấy ngạc
nhiên!"
Tâm trí bao giờ cũng có thể an ủi bạn. "Nếu điều
đó không xảy ra ở đó," tâm trí có thể nói, "ai mà biết
được? - nó cũng có thể chẳng xảy ra ở đâu khác nữa.
Nếu nó xảy ra ở đây," tâm trí có thể nói, "nó cũng có
thể xảy ra ở bất kì đâu khác."
Nhưng tôi không thể phủ nhận được chân lí tối
thượng - mặc dầu chân lí tối thượng còn chưa là lãnh
thổ của bạn. Chân lí tối thượng là ở chỗ bạn đã là chư
phật rồi. Vấn đề không phải là về nó xảy ra, cho nên
nó xảy ra ở đâu cũng không thành vấn đề. Nó có thể
xảy ra ở nhà; nó có thể xảy ra ở trong rừng; nó có thể
xảy ra ở bãi chợ; nó có thể xảy ra ở tu viện. Nó có thể
xảy ra với thầy; nó có thể xảy ra không có thầy. Nó có
thể xảy ra cho tội nhân; nó có thể xảy ra ngay cả cho
thánh nhân. Vâng, tôi biết vài thánh nhân mà điều đó
xảy ra cho họ - tin tôi đi! Cho nên khả năng tối thượng
có đó, nhưng để làm khả năng tối thượng thành thực
tại tức khắc là quá trình khác toàn bộ. Làm sao làm nó
thành thực tại ngay tức khắc được?
Thầy là sự giúp đỡ vô cùng, và nếu thầy cũng có
phật trường... Thầy có thể đi một mình, không tạo ra
phật trường. Để tạo ra phật trường, thầy phải tạo ra
hàng nghìn đệ tử. Thầy phải tạo ra năng lượng đa
chiều trong đó mọi loại người cùng đóng góp, đổ năng
lượng của họ vào. Thầy phải làm ra đại dương năng
lượng, mạnh cực kì tới mức bất kì ai bước vào đại
dương đều nhất định được biến đổi - thỉnh thoảng mặc
cho chính bản thân người đó; thỉnh thoảng thậm chí
không biết điều gì đang xảy ra.
Điều đó dễ xảy ra hơn với thầy. Điều đó thậm chí
còn dễ dàng xảy ra hơn với thầy có phật trường. Và nỗ
lực của tôi không chỉ là để tạo ra phật trường ở đây mà
để tạo ra những ốc đảo nhỏ trên khắp thế giới. Tôi
không thích giới hạn khả năng mênh mông này chỉ cho
công xã nhỏ bé này. Công xã này sẽ là cội nguồn,
nhưng nó có chi nhánh khắp trên thế giới. Nó sẽ là gốc
rễ, nhưng nó sẽ trở thành cây to. Nó sẽ đạt tới mọi
nước, nó sẽ đạt tới mọi người tiềm năng. Chúng ta sẽ
tạo ra những ốc đảo nhỏ; chúng ta đã bắt đầu tạo ra
những công xã nhỏ, các trung tâm, trên khắp thế giới.
Gần hai trăm gia đình nhỏ đang vận hành trên
khắp thế giới, nhưng đây chỉ là bắt đầu thôi. Hàng
nghìn công xã nhất định xảy ra một khi công xã này đã
trở nên được thiết lập thực sự và toàn bộ. Nó sẽ tạo ra
sức đẩy tới, nó sẽ tạo ra niềm khao khát trên khắp thế
giới tới mức chúng ta sẽ có nhiều, nhiều công xã trên
khắp thế giới. Và bất kì chỗ nào sannyasins của tôi ở
cùng nhau, tôi đều ở đó. Bất kì chỗ nào họ ngồi thiền,
sự hiện diện của tôi sẽ được cảm nhận thấy.
Cho nên điều đầu tiên chúng ta phải tạo ra gốc rễ,
và thế rồi đến cành. Toàn thế giới không thể tới đây
được, nhưng chúng ta có thể phái các sứ giả của chúng
ta, các tông đồ chúng ta; chúng ta có thể gửi các cành
của mình lan xa và rộng. Chúng ta có thể bao phủ toàn
thể trái đất. Chúng ta sẽ bao phủ toàn trái đất!
Điều này có tầm quan trọng mênh mông ngày nay
tới mức nếu nó không xảy ra, nhân loại không có
tương lai đâu. "Con người cũ" đã chết rồi: bạn đang
mang xác chết. Con người mới tuyệt đối là cần thiết -
chỉ thế thì trái đất này có thể tiếp tục sống; chỉ thế thì
hành tinh này có thể vẫn còn sống.
Và con người có năng lực làm mới lại bản thân
mình - chết đi quá khứ và được tái sinh. Con người có
năng lực phục sinh. Nhưng trái đất gần như sa mạc
ngày nay và những ốc đảo nhỏ được cần tới ở mọi nơi,
để cho những người đang khát này không thể nói,
"Chúng ta có thể làm gì được? Nước không có sẵn.
Làm sao chúng ta có thể làm dịu cơn khát của mình?"
Chúng ta phải làm Thượng đế thành sẵn có cho mọi
người tìm kiếm có thể trên khắp thế giới.
Vâng, ngay cả ở các nước như Trung Quốc, Nga
xô viết, và các nước cộng sản khác, nỗ lực của tôi là để
tạo ra những ốc đảo nhỏ ở đó nữa. Họ đã bắt đầu rồi:
họ đang ngầm ở đó - họ phải ngầm ở đó. Bạn sẽ ngạc
nhiên, nhưng trong một thị trấn Nga chúng ta có hai
mươi nhăm sannyasins - tất nhiên không mặc áo
choàng mầu cam. Họ đã làm ra mala riêng của họ, và
khi họ gặp nhau trong tầng hầm nào đó, họ mặc quần
áo mầu cam, nghe băng, thiền, nghiên cứu sách. Họ đã
dịch vài cuốn sách sang tiếng Nga; bây giờ việc dịch
đó đang diễn ra khắp nơi.
Mới vài ngày trước đây tôi nhận được lá thư từ
một phụ nữ, người đã tổ chức nhóm ngầm đó, bức thư
nói, "Chúng tôi đã sẵn sàng trở thành sannyasins. Chỉ
một hướng dẫn của thầy và chúng tôi sẽ tự khẳng định
bản thân mình, bằng bất kì giá nào." Và tất nhiên, ở
Nga điều đó có thể là nguy hiểm. Nó chỉ có thể có
nghĩa tù đầy hay tù chung thân ở Siberia. Cho nên tôi
đã cho cô ấy một thông điệp nói rằng, "Không cần
ngay bây giờ đâu. Và nếu bạn muốn làm quần áo mầu
cam, đừng làm chúng thành mầu cam, làm chúng
thành đỏ đi - để cho họ trông như người cộng sản! Tôi
có thể vận hành qua mầu đỏ cũng như qua mầu mầu
cam; đừng lo. Tôi không thích đau khổ không cần
thiết. Tôi không muốn tạo ra những kẻ tử vì đạo không
cần thiết, chẳng bởi lí do nào cả. Và liên tục làm việc -
làm việc là quan trọng hơn."
Điều này sẽ lan rộng. Chẳng mấy chốc bạn sẽ thấy
công xã mọc lên ở mọi nơi, và thế thì sẽ có khả năng
cho tôi vận hành trên qui mô rộng hơn. Nhưng công xã
gốc phải ở đây, và công xã gốc cần ít nhất mười nghìn
sannyasins. Đó là tối thiểu để tạo ra đủ năng lượng để
làm cả trái đất đập rộn ràng!
Bạn có thể trở thành vị phật ở bất kì đâu, nhưng
trở thành vị phật ở đây sẽ dễ dàng hơn, sẽ là có thể
trong kiếp này. Trở thành vị phật ở đâu đó khác, chẳng
cái gì có thể được nói - một kiếp, hai kiếp, ba kiếp hay
nhiều kiếp. Bạn sẽ làm việc một mình; bạn sẽ không
có sự giúp đỡ nào.
Có vài người là người thui thủi một mình, họ sẽ
muốn đi một mình. Nếu bạn cảm thấy thích điều đó,
tôi sẽ tuyệt đối hạnh phúc - bạn có thể đi tiếp theo kiểu
riêng của bạn. Nhưng bạn không phải là kiểu người đó.
Đó là lí do tại sao bạn nói, "Tại sao tôi cảm thấy rằng
tôi cần ở trong phật trường của thầy?" - bởi vì bạn quả
thực cần ở đây! Bởi vì bạn không phải là người thui
thủi một mình. Bởi vì bạn yêu cùng kiểu năng lượng
đang đập rộn ràng quanh bạn. Bởi vì con đường của
bạn là yêu và không phải là thiền. Và yêu là có thể chỉ
ở nơi bạn có thể tìm thấy người yêu có phẩm chất cao.
Bạn có thể tìm thấy người yêu ở mọi nơi trên thế giới,
nhưng yêu đó sẽ chỉ là thèm khát.
Ở đây bạn sẽ thấy những người yêu có tình yêu
không phải là thèm khát, những người có tình yêu là
việc chia sẻ vui vẻ, những người có tình yêu là sự giúp
đỡ cho bạn - bàn tay chìa ra cho bạn để cho bạn có thể
được kéo lên khỏi vũng bùn của mình.
#6Câu hỏi thứ năm:
Thưa Thầy kính yêu,
Tôi đang yêu một người đàn bà, nhưng tôi muốn
tuyệt đối chắc chắn rằng cô ấy chưa bao giờ yêu
bất kì ai trước đây. Tại sao tôi lo nghĩ nhiều thế về
điều đó?
Ramprem, chỉ là thái độ gia trưởng đàn ông cũ
thôi. Bạn đã không lo nghĩ về bản thân bạn, liệu bạn có
yêu bất kì người đàn bà nào trước đây hay không. Về
điều đó bạn không lo nghĩ, điều đó là được; con trai là
con trai và mọi thứ đều được tha thứ cho họ. Sao bạn
lo nghĩ về người đàn bà bạn yêu? Thực ra, chính ham
muốn rằng đàn bà không được yêu bất kì ai trước đây
là không thông minh, bởi vì người đàn bà mà không
yêu bất kì ai trước đây sẽ không có kinh nghiệm. Và
cuộc sống - ngay cả với người đàn bà có kinh nghiệm -
là địa ngục. Cho nên còn nói gì về người đàn bà không
kinh nghiệm?
Nếu bạn muốn một người lái xe cho chiếc xe của
bạn, bạn không tìm người chưa bao giờ lái xe. Nếu bạn
muốn có một người đánh máy chữ, bạn không quảng
cáo về ai đó chưa bao giờ là người đánh máy chữ. Nếu
bạn muốn một người nấu ăn bạn yêu cầu ai đó đã có
kinh nghiệm. Thế thì tại sao bạn lại có logic khác về
tình yêu? Điều đó là ngu xuẩn.
Người đàn bà đã yêu vài người có hiểu biết hơn
nhiều; cô ấy sẽ hiểu bạn tốt hơn, cô ấy sẽ tạo ra ít rắc
rối hơn cho bạn, cô ấy sẽ giúp bạn theo mọi cách có
thể để thoát ra khỏi bản ngã riêng của bạn, không
thông minh, tầm thường.
Thực ra, có vài xã hội nguyên thuỷ nơi đàn bà có
kinh nghiệm được cần tới nhiều. Ở Ấn Độ có vài bộ
lạc nguyên thuỷ ở Bastar nơi đàn bà sẽ không lấy
chồng nếu cô ấy chưa được biết tới là người yêu lớn
của nhiều, nhiều người.
Người đàn bà chưa từng được yêu bởi bất kì ai đơn
giản chứng tỏ rằng hoặc cô ấy xấu hoặc cái gì đó về
căn bản sai với cô ấy. Cô ấy phải không có tính hấp
dẫn, bởi vì không ai đã bao giờ cảm thấy bị hấp dẫn tới
cô ấy. Người đàn bà đã được nhiều người yêu đơn giản
chứng tỏ rằng cô ấy có cái đẹp nào đó, từ lực nào đó,
duyên dáng nào đó.
Nhưng tâm trí gia trưởng đàn ông trong nhiều thế
kỉ đã từng ham muốn rằng... bởi một lẽ đơn giản, mà
bây giờ đã trở thành không liên quan. Lí do là ở chỗ
"Tài sản của tôi phải thuộc về con tôi, không thuộc về
con của ai đó khác." Đó là nỗi sợ thực. Mọi người
không quan tâm tới người đàn bà, họ quan tâm nhiều
hơn tới người kế thừa của họ; do đó họ lo nghĩ nhiều
lắm: nếu người đàn bà đã có chuyện tình nào đó trước
đây, ai mà biết được, cô ấy có thể mang con của ai đó
khác.
Hai thanh niên cứ đi đi lại lại trong hành lang của
nhà sản phụ. Người này nói với người kia, "Anh trông
lo lắng thế, có chuyện gì vậy?"
Anh ta nói, "Lo lắng? Tôi đang trong lộn xộn đây!
Đây là kì nghỉ của tôi và đây là lúc vợ tôi đã chọn sinh
con. Toàn thể kì nghỉ của tôi bị phá rồi."
Người kia nói, "Hù! Chưa là gì cả, đây là tuần
trăng mật của tôi! Và vợ tôi sắp sinh con. Tôi phải lo
chứ không phải anh!"
Một thanh niên hỏi bác sĩ, "Điều đó có thường xảy
ra không? Vợ tôi sắp sinh con và chúng tôi mới cưới
nhau được bẩy tháng."
Bác sĩ này phải đã là một ông già trí huệ, kiểu bác
sĩ đó đã biến mất rồi. Bây giờ có các chuyên gia,
chuyên gia tai mũi họng và bác sĩ nha khoa; và ai đó
biết về phần này và ai đó khác biết về phần khác và
không ai biết về toàn thể con người. Bác sĩ già này là
người trí huệ.
Ông già nói, "Vâng, lần đầu tiên nó thường xảy ra,
nhưng không bao giờ có lần nữa."
Mọi người bao giờ cũng rất lo lắng, nỗi sợ là ở chỗ
người vợ có thể mang con của ai đó khác. Điều đó tạo
ra khác biệt gì? Thực ra, khi bạn làm tình với người
đàn bà, hàng triệu tế bào sống được tiết ra; hàng triệu,
và bạn sẽ không có khả năng nhận ra được cái nào là
của bạn và cái nào không phải của bạn. Chúng tí hon
thế, bạn thậm chí không thể nhìn thấy chúng bằng mắt
trần, bạn sẽ cần thiết bị máy móc nào đó, kính hiển vi
hay cái gì đó để nhìn chúng.
Hàng triệu tế bào sống đó bắt đầu cuộc đua đầu
tiên của cuộc sống; chúng vật lộn, chúng bắt đầu chạy
tới trứng của người đàn bà, cái ở sâu bên trong tử
cung. Và một trong những anh chàng đó - kẻ sẽ thắng
trong cuộc đua, kẻ sẽ đạt tới đầu tiên - sẽ chui vào
trong trứng. Và khi một anh chàng đã vào trong trứng
rồi, thế thì trứng đóng lại. Thỉnh thoảng chuyện xảy ra
là anh chị em sinh đôi được sinh ra và đôi khi ba, bốn,
năm, sáu, bẩy tám đứa trẻ nữa, nhưng điều đó xảy ra
rất hãn hữu.
Bạn không biết cái nào, nhưng trong hàng triệu kẻ
này chỉ một kẻ sẽ là con bạn. Tất cả các tế bào khác sẽ
chết đi trong vòng hai giờ, và bạn sẽ không bao giờ
nhận biết những kẻ khác là ai. Người đàn bà có thể cho
sinh thành tới mười hai đứa trẻ trong cả đời mình hay
mười tám là nhiều nhất, nhưng người đàn ông có tiềm
năng tạo ra nhiều trẻ con như có ngần ấy người trên
trái đất ngày nay. Một người đàn ông có nhiều tế bào
sống thế, người đó có thể tạo dân số cho toàn trái đất.
Nếu tất cả tế bào của anh ta có thể tìm thấy một trứng,
đạt tới cuộc sống và được sinh ra - thế thì một người
thôi, chỉ một người, là đủ rót đầy cả trái đất.
Bạn sẽ không bao giờ biết bao nhiêu con bạn đã
chết, hàng triệu và hàng triệu con bạn đã chết. Và có
khác biệt gì liệu nó tới từ thân thể ai khác hay từ thân
thể riêng của bạn? Nó tới từ Thượng đế.
Nhưng cái ngu xuẩn này cứ dai dẳng. Ramprem,
bạn nên vứt nó đi.
"Em yêu," anh ta thì thào một cách đam mê, "anh
có phải là người đầu tiên làm tình với em không?"
"Tất nhiên anh là người đầu tiên," cô ta cắn cảu,
"em không biết tại sao đàn ông nào cũng hỏi cùng câu
hỏi ngu xuẩn này."
Bạn không một mình đâu, cảm thấy thoải mái đi!
Toàn thể trái đất này đầy những kẻ ngu si như thế.
Anh ta ôm cô ấy vào gần mình, sự nồng ấm thoả
mãn bao phủ cả hai người.
"Anh có phải là người đàn ông đầu tiên em làm
tình với không?" anh ta hỏi.
Cô ta nhìn anh ta một cách có suy nghĩ. "Anh có
thể đấy, khuôn mặt anh trông rất quen."
#6Câu hỏi cuối cùng:
Thưa Thầy kính yêu,
Tôi đã nghe người ta nói nhiều lần rằng tình yêu
là Thượng đế, sự tồn tại là Thượng đế, Thượng đế
là sự tồn tại, Thượng đế đã tạo ra thế giới và rằng
Thượng đế là quyền năng siêu nhiên cai quản thế
giới. Tôi đã thử cảm thấy tất cả điều này, nhưng
không thể cảm được. Tất cả những phát biểu này
ngày một lẫn lộn hơn. Xin thầy nói cho tôi Thượng
đế là gì. Và khi thầy dùng từ 'Thượng đế' trong bài
giảng của thầy, nó ngụ ý gì?
Bal Krishna Bharti, đừng cố gắng bắt chước điều
người khác nói. Họ có thể nói chân lí sâu sắc, nhưng
bằng việc bắt chước họ bạn sẽ không bao giờ đạt tới
chân lí đó; bởi vì họ không bao giờ đạt tới chân lí đó
bằng bắt chước. Họ đã đạt tới chân lí đó bằng việc là
nguyên bản.
Jesus nói: Thượng đế là tình yêu. Tôi nói rằng tình
yêu là Thượng đế. Phát biểu của tôi là thấu suốt hơn
nhiền so với điều Jesus nói. Jesus nói: Thượng đế là
tình yêu; điều đó nghĩa là Thượng đế có thể có nhiều
phẩm chất khác, một trong các phẩm chất đó là tình
yêu. Tôi nói tình yêu là Thượng đế, không có phẩm
chất khác, tình yêu là phẩm chất duy nhất là điều
thiêng liêng.
Và bạn nghe những điều này và bạn thử... nhưng
bạn đang làm gì? Bạn có biết tình yêu là gì không?
Bạn trở nên lo nghĩ về Thượng đế - trước hết bạn sẽ
phải biết tình yêu là gì, và tình yêu mà bạn biết không
là gì ngoài thèm khát. Chúng tôi không nói về thèm
khát, Jesus không nói mà tôi cũng không nói, chúng tôi
nói về tình yêu. Và tình yêu là cái gì đó bí ẩn tới mức
không ai đã bao giờ có khả năng định nghĩa nó một
cách chính xác, chỉ ngón tay chỉ trăng thôi.
Bây giờ bạn có thể làm gì được? Nghe nói rằng
tình yêu là Thượng đế bạn nhảy vào cái gọi là tình yêu,
bất kì cái gì bạn nghĩ là tình yêu, và đó chỉ là dâm dục
vô ý thức; thèm khát phô trương là tình yêu. Và bạn sẽ
không tìm thấy Thượng đế đâu; ngược lại, bạn có thể
gặp quỉ - và thế thì bạn đâm ra phân vân.
Bắt chước phải bị tránh ra. Hiểu biết nên là luật
duy nhất, không bao giờ bắt chước.
Cho nên điều đầu tiên, Bal Krishna, chấm dứt bắt
chước đi. Nghe tôi và nghe người khác - nghe Krishna,
nghe Jesus, nghe Phật, nghe Zarathustra - chỉ để hiểu,
nhưng đừng bắt đầu bắt chước. Đừng vội vàng, để hiểu
biết soải cánh bay lên trong bạn; trong vội vàng bạn sẽ
làm điều gì đó sai.
Một người bán hàng rong, khi bị bỏ lại ở miền quê
do thời tiết xấu, đã được phép ở cùng giường với con
trai người nông dân. Đúng lúc hai người đều nghỉ. Cậu
con trai tụt xuống bên cạnh giường, hai tay ôm đầu
trong thái độ cầu nguyện.
Người bán hàng nghĩ về lời trích dẫn, "Và đứa trẻ
nhỏ sẽ hướng dẫn họ." Anh ta cảm thấy tồi tệ, vì đã
không nói lời cầu nguyện nhiều tháng rồi; anh ta tụt
xuống phía bên kia giường và quì xuống.
Đứa trẻ ngẩng đầu lên và nói, "Ông làm gì thế,
thưa ông?"
"Làm cùng điều như con làm đấy," anh ta đáp.
"Này, mẹ sẽ mắng ông đấy, bởi vì bô ở phía bên
này cơ."
Bạn đã bỏ lỡ nó.
Tôi sẽ đợi, để cho bạn có thể hiểu được nó...
Hiểu nó thêm một chút nữa!
Bắt chước sẽ không giúp ích gì cả, bắt chước sẽ
tạo ra rắc rối cho bạn. Hiểu đi! Tại sao vội vàng thế để
thực hành? Để hiểu biết soải cánh bay lên sâu sắc tới
mức nó biến đổi bản thể bạn. Đó là cách duy nhất để
đạt tới chân lí; bắt chước không bao giờ là cách thức
cả.
Và đó là điều bạn đã từng làm. Bạn nói, "Tôi đã
thử để cảm thấy tất cả điều này, nhưng không thể
được."
Làm sao bạn có thể cảm thấy tất cả điều này được?
- vấn đề không phải là cảm, vấn đề không phải là nghĩ;
vấn đề là hiện hữu. Và hiện hữu được đạt tới qua hiểu
biết. Lắng nghe một cách im lặng, chăm chú, cởi mở
như bạn có thể cởi mở được. Cởi mở với tôi đi. Để
không có cản trở, không có chướng ngại.
Bây giờ ý niệm thường xuyên này về thực hành, về
làm cái gì đó ngay lập tức, đang trở thành cản trở giữa
tôi và bạn. Không có vội vàng gì. Tôi nói hiểu biết là
giải thoát. Bạn không cần làm gì chút nào. Nếu bạn
cho phép tôi thấm vào chính cốt lõi của bạn, nếu bạn
để tôi chạm vào trái tim bạn, tôi sẽ cho bạn điệu vũ của
tôi, tôi sẽ cho bạn bài ca của tôi, tôi sẽ cho bạn âm
nhạc của tôi.
Bạn không cần làm gì cả, ở cùng thầy là đủ. Việc
làm được cần tới nếu bạn đi vào kinh sách; thế thì bạn
phải làm điều gì đó, bởi vì hiểu biết không bao giờ có
thể nảy sinh ra từ kinh sách được. Nhưng bằng việc ở
cùng thầy, hiểu biết có thể nảy sinh. Chỉ chút ít cởi
mởi trái tim thêm nữa là được cần tới.
Và bạn hỏi tôi ngụ ý gì bởi từ 'Thượng đế'. Tôi
không ngụ ý người, tôi đơn giản ngụ ý một phẩm chất,
sự hiện diện. Với "Thượng đế" tôi ngụ ý tính thượng
đế; toàn thể sự tồn tại này đầy tính thượng đế. Và khi
bạn trở nên biết, bạn sẽ không thấy thượng đế đứng
trước bạn đâu, bạn sẽ thấy cây như điều thiêng liêng,
tảng đá như điều thiêng liêng, mọi người như điều
thiêng liêng, con vật như điều thiêng liêng. Thượng đế
là sự lan toả ở khắp mọi chỗ, từ viên đá cuội tới vì sao,
từ nhành cỏ tới mặt trời - nó tất cả đều là điều thiêng
liêng.
Bất kì khi nào tôi dùng từ 'Thượng đế' nó không
bao giờ được ngụ ý cho người; nó đơn giản ngụ ý sự
hiện diện, sự hiện diện tuyệt đối im lặng của thông
minh trong sự tồn tại. Nhưng trước hết bạn phải trở
nên nhận biết về thông minh này trong bạn, chỉ thế thì
bạn mới có thể biết thông minh này trong người khác.
Đủ cho hôm nay.
******************************************************
#7Quên lãng, tội duy nhất
Đừng để hoan lạc sao lãng ông
khỏi thiền, khỏi con đường.
Tự giải phóng mình khỏi hoan lạc và đau đớn.
vì trong nài xin hoan lạc hay trong ấp ủ đau đớn
đều chỉ có khổ.
Giống như cái không làm cho ông không mất nó,
nó không đem lại cho ông tiếc nuối và sợ hãi.
Vượt ra ngoài thích và không thích.
Từ đam mê và ham muốn,
phụ thuộc giác quan và thèm khát,
nảy sinh tiếc nuối và sợ hãi.
tự giải phóng mình khỏi gắn bó.
Người đó là thuần khiết, và thấy.
Người đó nói chân lí, và sống nó.
Người đó làm việc riêng của mình,
cho nên người đó được ngưỡng mộ và yêu mến.
Với tâm trí quyết tâm và trái tim không ham muốn
Người đó khao khát tự do.
Người đó được gọi là uddhamsoto -
"Người đi ngược dòng."
Khi lữ khách cuối cùng về tới nhà
từ cuộc hành trình xa xôi,
với vui vẻ làm sao
Gia đình và bạn bè đón mừng người đó!
Ngay cả như vậy hành vi tốt của ông sẽ
đón chào ông như những người bạn
và với sự hân hoan làm sao
khi ông đi từ kiếp này sang kiếp sau!
Một bạn tù tại nhà thương điên đang được kiểm tra
để có thể được thả ra. Câu hỏi thứ nhất bác sĩ kiểm tra
hỏi anh ta là, "Anh định làm gì khi anh rời khỏi viện
này?"
"Tôi sẽ kiếm cho mình một chiếc súng cao su,"
bệnh nhân nói, "và tôi sẽ quay lại đây và bắn vỡ mọi
cửa sổ chết tiệt ở chỗ này!"
Sau sáu tháng điều trị nữa, bệnh nhân lại được
đem tới trước bác sĩ kiểm tra xem có thả được không,
và cùng câu hỏi được đưa ra cho anh ta.
"Ồ, tôi sẽ kiếm việc," bệnh nhân đáp.
"Tốt," bác sĩ nói. "Thế rồi sao?"
"Tôi sẽ thuê một căn hộ."
"Rất tốt."
"Thế rồi tôi sẽ đi gặp một cô gái đẹp."
"Tuyệt vời."
"Tôi sẽ đem cô gái đẹp đó lên căn hộ của tôi và tôi
sẽ kéo váy cô ấy lên."
"Bình thường, hoàn toàn bình thường."
"Thế rồi tôi sẽ đánh cắp nịt tất của cô ấy, làm ra
súng cao su từ đó và quay lại đây là bắn vỡ mọi cửa sổ
chết tiệt ở chỗ này!"
Con người di chuyển gần như trong cùng đường
tròn. Con người như đang vậy, là không lành mạnh,
không thể gọi là lành mạnh được. Nhưng bởi vì không
lành mạnh lan rộng thế, nó quá thông thường tới mức
chúng ta không trở nên nhận biết về nó... Một khi bạn
trở nên thức tỉnh thế thì bạn ngạc nhiên về cách mọi
người đang sống, điều họ đang làm cho mình và cho
người khác. Toàn thể cuộc sống của họ không là gì
ngoài điên khùng cực kì. Ai đó điên vì tiền, ai đó điên
vì quyền, ai đó điên vì danh - và tất cả những điều này
là vô tích sự.
Cái chết tới, và toàn thể dinh thự bạn đã xây lên
với bao nhiêu lao động sụp đổ xuống. Cái chết tới và
đem bạn đi xa, và tất cả những cái bạn đã tạo ra đều
hão huyền.
Người lành mạnh là người tạo ra cái gì đó mà ngay
cả cái chết cũng không thể phá huỷ được. Để điều này
là định nghĩa về người lành mạnh: người biết cái gì đó
của tính bất tử, không chết, vĩnh hằng - người đó là
lành mạnh, người đó là vị phật. Là vị phật đơn giản
nghĩa là người lành mạnh. Người không nhận biết về
tính bất tử và sống trong thời gian và chỉ nghĩ dưới
dạng của thế giới này là không lành mạnh. Người đó
không nhận biết về bản thân mình, làm sao người đó
có thể lành mạnh được?
Chúng ta còn chưa có khả năng tạo ra xã hội lành
mạnh bởi một lẽ đơn giản là chúng còn chưa có khả
năng tạo ra nhiều chư phật. Càng có nhiều chư phật
trên thế giới này, càng có nhiều khả năng cho nhân
loại vươn lên những tầm cao hơn của bản thể, hiểu
biết, tình yêu, từ bi. Bằng không bạn cứ đi từ ác mộng
này sang ác mộng khác.
Một doanh nhân lớn đang cầu nguyện trong giáo
đường, cầu xin Thượng đế giúp ông ta một phi vụ năm
mươi nghìn đô la. Ngay lúc đó một người nghèo bước
vào và bắt đầu cầu nguyện Thượng đế cho hai đô la.
Một cách bực bội doanh nhân lớn này rút ra hai tờ
một đô là, dúi chúng cho anh chàng nghèo và thì thào
với anh ta, "Đây, cầm lấy chúng và xéo ra khỏi đây,
anh ngốc ạ. Chấm dứt làm sao lãng ngài khỏi việc kinh
doanh của tôi!"
Người nghèo và người giầu, người dốt nát và
người thông thái, người nổi tiếng và người vô danh, tất
cả đều trong cùng một con thuyền. Dù bạn xin Thượng
đế hai đô la hay năm mươi nghìn đô la cũng chẳng tạo
ra khác biệt gì. Ham muốn đi tới Thượng đế không
phải là đi tới ngài chút nào đâu, bởi vì chỉ vô ham
muốn mới trở thành chiếc cầu. Ham muốn là tạo ra
bức tường giữa bạn và cái toàn thể.
Khoảnh khắc bạn ham muốn cái gì đó bạn đang
nói rằng "Ta khôn ngoan hơn cái toàn thể." Bạn đang
nói rằng "Ngài không biết cái gì phải được làm và tôi
đã tới để khuyên ngài đây." Bạn đang nói với cái toàn
thể rằng "Cách thức mọi sự đang vậy là không đúng:
chúng phải theo như tôi mới đúng."
Lời cầu nguyện chính là cái đối lập của ham muốn.
Lời cầu nguyện nghĩa là, "Cách thức mọi sự đang đấy
là tuyệt đối hoàn hảo, chúng là như chúng phải thế rồi.
Do đó, tôi không có gì ngoại trừ lòng biết ơn sâu sắc."
Lời cầu nguyện thực là việc cúi lạy sự tồn tại trong
cảm ơn vô cùng bởi vì bất kì cái gì đang vậy, cách
thức nó đang vậy, là cách thức hoàn hảo nhất nó có thể
là vậy rồi. Trái tim cầu nguyện biết rằng vũ trụ là hoàn
hảo từng khoảnh khắc; nó đang đi từ hoàn hảo tới hoàn
hảo hơn.
Thế giới không đi từ không hoàn hảo tới hoàn hảo
đâu, nhớ lấy: nó đang đi từ hoàn hảo tới hoàn hảo hơn.
Đó là hiểu biết của trái tim cầu nguyện. Nhưng chúng
ta đầy những ham muốn.
Và nếu bạn đi tới giáo đường và nhà thờ và đền
chùa bạn sẽ thấy cùng những người đó, với cùng tâm
trí, không khác biệt chút nào. Họ vận hành với cùng
tâm trí trong bãi chợ, họ đi tới đền chùa với cùng tâm
trí đó. Và làm sao bạn có thể đi tới đền chùa với cùng
tâm trí vận hành hoàn hảo ở bãi chợ được? Bãi chợ là
nhà thương điên! Bạn sẽ phải học một ngôn ngữ khác.
Nhưng mọi người cứ lặp lại cùng loại ngu xuẩn. Bạn
thậm chí không thể lay được họ, gây choáng cho họ,
để thoát ra khỏi giấc ngủ của họ, bởi vì họ trở nên rất
giận.
Mulla Nasruddin phàn nàn thấy lạc đà có vằn bất
kì khi nào anh ta cố gắng ngủ.
"Anh đã bao giờ thấy nhà tâm thần chưa?" tôi hỏi
anh ta.
"Không, chưa bao giờ," anh ta nói, "chỉ toàn lạc đà
có vằn."
Mọi người cứ sống trong những thế giới nhỏ bé
riêng của họ, các ý niệm riêng của họ, định kiến. Họ
cứ vận hành trong mọi tình huống theo cùng cách.
Trong đền chùa cũng vậy, họ nói ngôn ngữ họ nói ở
bãi chợ. Trong tình yêu cũng vậy, họ bao giờ cũng như
doanh nhân.
Tôi hỏi Mulla Nasruddin, "Nasruddin, tôi nghe nói
anh vừa bị tai nạn à?"
Anh ta nói, "Vâng, cũng bị hơi nặng, nhưng tôi thu
được hai mươi nghìn ru pi, và vợ tôi cũng trong tai nạn
cùng tôi, được năm nghìn ru pi."
Tôi hỏi anh ta, "Cô ấy có bị thương không?"
Nasruddin cười và nói, "Không, nhưng tôi nhanh
trí đá cho cô ta một cú vào giữa mặt nhân lúc lộn xộn!"
Bây giờ, ngay cả trong tai nạn tâm trí vẫn cứ làm
việc của nó!
Mọi chư phật đều đã từng cố gắng kéo bạn ra khỏi
tâm trí của bạn. Cách thức là đơn giản. Trong những
lời kinh này Phật đang nói về cách thoát ra khỏi tâm trí
ngu xuẩn này.
Đừng để hoan lạc sao lãng ông
khỏi việc thiền, khỏi con đường.
Hoan lạc là kích động tạm thời của thân thể. Nó
không phải là vui vẻ, nó không phải là phúc lạc. Hoan
lạc là bị say sưa trong khoảnh khắc với thể chất, bị
đồng nhất với thể chất.
Khi bạn bị đồng nhất với thân thể và khi bạn bắt
đầu nghe thân thể và bản năng của nó, một loại kích
động nào đó, trạng thái say sưa tạm thời, nảy sinh
trong bạn. Sự say sưa này được tạo ra bên trong hoá
chất thân thể riêng của bạn.
Người ta có thể uống ma tuý từ bên ngoài, bị say
sưa và quên hết mọi lo nghĩ, lo lắng, gánh nặng và
trách nhiệm về thế giới này. Người ta có thể hoàn toàn
quên hết thế giới; đôi khi nó là quá nhiều, nó là quá
nặng nề. Và việc trượt ra qua rượu cồn, mescaline,
marijuana, LSD, cho bạn cảm giác về hoan lạc. Nó
không phải là hoan lạc thực; nó chỉ là thiếu vắng đau
đớn.
Để điều này được hiểu một cách rõ ràng: điều bạn
gọi là hoan lạc chỉ là trạng thái say sưa nơi bạn trở nên
vô ý thức tới mức bạn không thể nhận biết được về đau
đớn. Điều này có thể xảy ra bởi việc dùng ma tuý nào
đó từ bên ngoài; điều này cũng có thể xảy ra bởi việc
tiết chất nào đó vào hệ thống hoá chất thân thể bên
trong của bạn. Đó là điều xảy ra khi bạn bị say sưa về
dục: thân thể bạn tiết ra chất của riêng nó. Điều đó
cũng không khác biệt nhiều.
Thân thể bạn cũng ở bên ngoài bạn. Bạn không
phải là thân thể của bạn, bạn là tâm thức bên trong
thân thể bạn; thân thể bạn chỉ là chỗ nghỉ ngơi, ngôi
nhà. Một ngày bạn đi vào trong nó và một ngày bạn sẽ
phải rời khỏi nó: ngôi nhà trọ, nơi nghỉ qua đêm. Bạn
không phải là thân thể bạn... cuộc hành hương của bạn
là vĩnh hằng. Nhưng ở trong thân thể người ta có thể
trở nên bị đồng nhất, người ta có thể bắt đầu nghĩ,
"Mình là thân thể." Và điều này đang xảy ra nhiều cho
ngày nay hơn là trước đây.
Trong hàng thế kỉ con người đã nhận biết rằng con
người không là thân thể, nhưng trong vòng hai, ba thế
kỉ này, cách tiếp cận khoa học về mọi thứ đã phá huỷ
hiểu biết lâu dài, được ấp ủ từ lâu đó. Khoa học là
phương pháp tốt để biết về vật chất, nhưng nó tuyệt
đối bất lực khi có liên quan tới thế giới tâm thức. Bởi
vì khoa học chỉ có thể biết vật chất nên nó nhất định
phủ nhận tâm thức; điều đó ở bên ngoài hiểu thấu của
nó.
Nếu bạn đang cố gắng nhìn ánh sáng qua tai bạn,
bạn sẽ không thể nào thấy được nó, và tai sẽ nói,
"Không có ánh sáng." Nếu bạn cố gắng nghe nhạc qua
mắt bạn sẽ không thể nghe được, bởi vì chính phương
pháp của bạn loại trừ điều đó. Mắt không thể nghe
thấy âm nhạc được, tai không thể thấy được ánh sáng,
tay bạn không thể ngửi được, mũi bạn không thể nếm
được. Mọi giác quan đều có giới hạn riêng của nó. Nó
hoàn toàn hợp thức bên trong chu vi riêng của nó; bên
ngoài điều đó, nó hoàn toàn không liên quan.
Đó cũng là hoàn cảnh với khoa học và đó là hoàn
cảnh với tôn giáo. Trong quá khứ, tôn giáo đã phủ
nhận - tuyệt đối bị phủ nhận - sự tồn tại là của thân thể,
vật chất và thế giới. Các nhà huyền môn thường gọi
thế giới là ảo tưởng, maya, giấc mơ. Đó là một cực
đoan - tôi không ủng hộ nó. Điều đó vượt ra ngoài
cách tiếp cận tôn giáo, khi nói cái gì đó không tới
trong tầm nhìn của nó. Bây giờ cùng điều đó đang
được khoa học làm, cùng cực đoan đó: rằng tâm thức
là ảo tưởng và thân thể là cái thực duy nhất.
Như tôi thấy nó, cả hai thái độ này đều là chân lí
một nửa - và chân lí một nửa còn tồi tệ hơn nhiều so
với dối trá tuyệt đối: bởi vì với chân lí một nửa đó họ
có thể lừa nhiều, nhiều người. Trong hàng nghìn năm
con người đã bị lừa dối bởi chân lí một nửa: rằng tâm
thức, Thượng đế, Brahman, là thực tại duy nhất, còn
mọi thứ khác chỉ là chất liệu mơ. Bây giờ con lắc đã đi
toàn bộ sang cực đoan kia. Khoa học nói: Tâm thức là
ảo tưởng, thân thể là thực tại duy nhất. Cả ai đều nguỵ
biện.
Chân lí toàn thể là: thân thể có thực tại riêng của
nó, và tâm thức có thực tại riêng của nó. Và phép màu
là, điều bí ẩn là ở chỗ hai thực tại tách rời này là cùng
nhau, ở chỗ hai thực tại tách rời này đang vận hành
trong đồng bộ sâu sắc. Đây là bí ẩn: vật chất đang
nhảy múa trong hài hoà với tâm thức, tâm thức đang
nhảy múa trong hài hoà với vật chất. Bí ẩn này tôi gọi
là Thượng đế, bí ẩn này tôi gọi là chân lí, chân lí toàn
thể.
Nhưng nếu người ta phải chọn giữa hai ảo tưởng -
ảo tưởng tôn giáo và ảo tưởng khoa học - nếu không
có cách khác và bạn phải chọn một trong hai điều này,
thế thì tôi sẽ nói: chọn ảo tưởng tôn giáo, bởi vì ít nhất
nó cũng sẽ đem bạn tới bờ bên kia, tới cái vĩnh hằng.
Nhưng trong ba thế kỉ chúng ta đã quyết định chọn
ảo tưởng khoa học, điều làm cho bạn ngày một bị giới
hạn vào thân thể hơn. Và khi bạn bị giới hạn vào thân
thể, thế thì "Ăn, uống và vui vẻ," trở thành chính mục
đích. Nghĩ về bản thân bạn như một người có toàn bộ
cuộc sống không là gì ngoài "Ăn, uống và vui vẻ."
Điều đó sẽ là vô nghĩa, nó sẽ chẳng có ý nghĩa gì, nó
sẽ hoàn toàn tầm thường. Nó sẽ không có cực lạc nào.
Vâng, sẽ có hoan lạc khi bạn mất hút trong hoá chất
thân thể và sẽ có đau đớn khi bạn phải đi ra khỏi sự
lãng quên đó. Cho nên bạn sẽ cứ di chuyển giữa đau
đớn và hoan lạc.
Hoan lạc là bị mất hút đi, trở nên vô ý thức trong
thân thể; còn đau đớn lại là trở nên có ý thức về thực
tại không thân thể, lại trở nên nhận biết về thế giới bao
quanh bạn. Cho nên hoan lạc nghĩa là quên lãng và đau
đớn nghĩa là hồi tưởng lại. Bạn có quan sát rằng bạn
nhớ chỉ khi có đau không? Nếu bạn bị đau đầu bạn trở
nên nhận biết về đầu, bằng không ai nghĩ tới đầu? Chỉ
đau đầu mới làm cho bạn nhớ tới đầu. Nếu giầy bạn bó
chân, thế thì bạn trở nên nhận biết về chân; nếu giầy
không bó, bạn vẫn còn vô nhận biết về chân. Khi dạ
dầy bạn bị rối loạn, bạn trở nên nhận biết về dạ dầy.
Khi mọi thứ diễn ra tốt lành, trôi chảy, bạn không trở
nên nhận biết.
Đau đem tới nhận biết; nhận biết làm cho bạn biết
về đau. Mất nhận biết cho bạn ý niệm giả tạo rằng
không có đau thêm nữa. Và nhiều người đã tìm ra
nhiều cách để trở nên vô ý thức; đấy tất cả đều là cách
dùng thuốc. Bạn đã tìm ra nhiều thuốc mê - hoá chất,
vật lí, tôn giáo - vâng, cả tính chất tôn giáo nữa.
Nếu một người cứ tụng mật chú nào đó - điều bạn
đã đi tới biết như Thiền Siêu việt - nó là thuốc, được
tạo ra về mặt tâm lí. Nếu bạn nhẩm một từ nào đó lặp
đi lặp lại nó sẽ cứ đánh vào cội nguồn hồn bạn và việc
lặp lại liên tục tạo ra trạng thái vô ý thức. Nó trở thành
giống như lời ru; bạn bắt đầu rơi vào trong giấc ngủ
say. Nó êm dịu, nó yên tĩnh, nhưng nó không phải là
thiền. Nó chính là cái đối lập của thiền; nó là thuốc
tâm lí.
Phật nói: Đừng để hoan lạc sao lãng ông khỏi việc
thiền, khỏi con đường. Thận trọng rằng hoan lạc có thể
làm sao lãng bạn: nó có thể sao lãng bạn khỏi việc
thiền và nó có thể sao lãng bạn khỏi con đường. Và
thiền là gì theo cách nhìn của Phật? Thiền là nhận biết,
cho nên bất kì cái gì làm cho bạn vô nhận biết đều là
sao lãng; dù nó tới từ đâu cũng không thành vấn đề.
Liệu bạn tạo ra nó ở bên trong bản thân mình bằng
việc tụng mật chú hay bằng việc dùng thuốc nào đó,
bằng việc hút thuốc, bằng tiêm chích... cách bạn xoay
xở nó không thành vấn đề. Nếu nó làm sao lãng bạn
khỏi nhận biết... nó có thể tạo ra những giấc mơ đẹp,
nhưng bạn không còn có ý thức. Bạn có thể cảm thấy
thế giới trở thành vàng, cây cối xanh hơn, hoa hồng
hồng hơn, và mọi thứ dường như cực kì đẹp, phiêu
diêu - nhưng bạn vô ý thức, bạn không còn trong ý
thức của mình. Đây là sao lãng.
Vị phật chống lại ma tuý... hay nếu tôi chống ma
tuý, đấy chỉ là bởi lí do này. Không phải vì ma tuý
chống lại cái gọi là đạo đức đâu, không phải vì nó
chống lại tu sĩ và các nhà đạo đức đâu, không phải bởi
vì truyền thống nói vậy. Phật đang chống lại ma tuý
không phải bởi vì ma tuý là tội lỗi mà chỉ bởi vì chúng
đem bạn đi xa khỏi bản thân bạn, chúng làm sao lãng
bạn.
Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng gốc rễ mà từ 'sin -
tội lỗi' bắt nguồn nghĩa là quên lãng - gốc rễ nghĩa là
quên lãng. Nếu bạn có thể nhắc nhở bản thân bạn rằng
quên là tội lỗi, thế thì bạn sẽ có cách tiếp cận rất đúng:
thế thì việc nhớ là đức hạnh. George Gurdjieff thường
gọi nó là tự nhớ. Phật gọi nó là sammasati - chính
định. Krishnamurti gọi nó là nhận biết. Nhưng tất cả
những từ này chỉ có nghĩa một điều: Đừng bị sao lãng
khỏi cốt lõi bên trong nhất của bạn; vẫn còn bắt rễ ở
đó, vẫn còn ý thức ở đó.
Đừng để hoan lạc sao lãng ông khỏi việc thiền,
khỏi con đường.
Và thiền là con đường: không có con đường khác
tới Thượng đế, không có con đường khác tới chân lí.
Chân lí không phải là cái gì đó được làm sẵn. Chân lí
là cái gì đó bạn phải khám phá ra bằng việc trở nên
ngày một nhận biết hơn. Và bạn phải khám phá ra nó
không ở đâu đó khác, mà ở bên trong bản thể riêng của
bạn. Bạn là chân lí bị che phủ bởi vô ý thức, bị che phủ
bởi quên lãng, cho nên bất kì cái gì làm sao lãng, bất kì
cái gì đem bạn đi xa khỏi bản thân bạn, đều là phi tôn
giáo, phi tâm linh.
tự giải phóng mình khỏi hoan lạc và đau đớn.
Bạn sẽ ngạc nhiên... bởi vì ai muốn đau đớn?
Không ai muốn điều đó cả - ít nhất nhìn bên ngoài,
không ai muốn đau đớn. Nhưng điều đó không đúng.
Có hai loại người: những người muốn hoan lạc hay
những người muốn đau đớn. Những người muốn hoan
lạc được gọi là phàm nhân, và những người bắt đầu
muốn đau đớn, họ được gọi là người thế giới khác,
thánh nhân, nhà khổ hạnh, người linh thiêng. Đau đớn
trở thành hoan lạc của họ; họ bắt đầu tận hưởng việc tự
hành hạ mình.
Toàn thể lịch sử nhân loại đầy những kẻ ngu xuẩn
này, và họ đã từng được tôn thờ. Ai đã từng tôn thờ
họ? - những người ham muốn hoan lạc! Với họ, những
người này trông cứ dường như là từ thế giới khác nào
đó, bởi vì họ ham muốn vui thứ còn những người này
trốn khỏi hoan lạc. Ngược lại họ chịu đau đớn gây cho
bản thân họ: họ cứ nhịn ăn, họ cứ ngồi trần khi trời
băng giá hay họ có thể ngồi bên cạnh lửa khi mặt trời
đã đổ lửa xuống khắp chốn rồi. Những kẻ tự bạo này,
những kẻ tự hành hạ mình này, đều bệnh hoạn.
Chín mươi chín phẩy chín phần trăm các thánh
nhân của bạn đơn giản là bệnh hoạn - và bởi vì những
người bệnh hoạn này mà tôn giáo vẫn còn ốm yếu; nó
đã không thể làm cho tôn giáo lành mạnh được. Chư
Phật đã từng cố gắng, nhưng mãi cho tới giờ họ đều
thất bại, bởi vì không ai nghe họ cả.
Tâm trí con người có chiến lược đấy: nó đi sang
cái đối lập của nó rất dễ dàng. Bạn đang chạy theo
tiền, thế rồi một ngày nào đó bạn thấy toàn thể cái ngu
xuẩn của nó và bạn bắt đầu trốn khỏi tiền. Bây giờ
điều này lại vẫn là bị ám ảnh bởi tiền; tiền vẫn còn là
trung tâm của sự tập trung của bạn. Đầu tiên bạn đã đi
tới nó, bây giờ bạn đi khỏi nó, nhưng nó là tham chiếu
của bạn; toàn thể cuộc đời bạn vẫn có hoàn cảnh đó.
Bạn vẫn nghĩ dưới dạng tiền - bạn có bao nhiêu và bạn
đã từ bỏ bao nhiêu, nhưng bạn cứ đếm.
Một lần một người tới Ramakrishna với một túi
đầy những đồng vàng. Người đó đổ những đồng vàng
đó dưới chân Ramakrishna. Có nhiều người ngồi
quanh; họ tất cả đều ngạc nhiên bởi người đó mang tới
nhiều tiền thế, và người đó đổ nó xuống chân của
Ramakrishna. Thành tâm làm sao!
Nhưng Ramakrishna không hạnh phúc. Ông ấy
nói, "Ông đang đổ nó theo cách dường như ông muốn
gây ấn tượng cho mọi người. Ông đang trình diễn thôi!
Cho tiền lại vào túi đi và mang ra sông Hằng" - và
sông Hằng ngay sau ngôi đền của Ramakrishna - "và
ném tất cả số tiền đó xuống sông Hằng đi. Ông đã đem
nó cho ta, ta trao nó cho sông Hằng."
Người đó phân vân lắm, lo nghĩ - ném bao nhiêu
đồng tiền vàng xuống sông Hằng! Và người đó đã tới
với kì vọng lớn rằng Ramakrishna sẽ nói, "Ông là
người tôn giáo vĩ đại. Từ bỏ lớn lao làm sao! Ông
thuần khiết làm sao, thánh thiện làm sao!" ... Và
Ramakrishna đã không lấy đồng tiền nào. Ngược lại,
ông ấy nói, "Đi và ném tất cả những rác rưởi này
xuống sông Hằng." Người đó đã không muốn làm điều
đó, nhưng bây giờ người đó không thể nói không với
Ramakrishna được. Và một khi người đó đã cúng
dường rồi, làm sao người đó có thể nói không được?
Cho nên một cách miễn cưỡng người đó đi ra sông
Hằng.
Nhiều giờ trôi qua và người đó không quay lại.
Ramakrishna hỏi, "Anh ta đâu rồi?" Ramakrishna đi ra
xem. Người đó đã tụ tập được một đám đông lớn. Trên
bờ, trên một tảng đá, đầu tiên người đó tung một đồng
tiền, gây ra nhiều tiếng động, nhìn vào đồng tiền, và
thế rồi ném nó vào sông Hằng. Và nhiều người sẽ nhảy
xuống sông Hằng để tìm đồng tiền này. Người đó đang
làm buổi biểu diễn lớn về điều đó. Hàng trăm người đã
tụ tập lại và người đó đếm, "Một, hai, ba, bốn..."
Ramakrishna tới đó và nói, "Ông ngu thế! Khi
người ta thu thập tiền người ta đếm, nhưng khi người
ta ném nó xuống sông Hằng phỏng có ích gì mà đếm?
Trong hai giờ rưỡi ông đã làm điều đó. Sao phí thời
gian của ông thế? Ném cả túi đi! Phỏng có ích gì mà
đếm?"
Nhưng đây là cách tâm trí con người vận hành:
cho dù nó từ bỏ nó vẫn đếm. Đó là cùng tâm trí đã tích
luỹ; bây giờ nó từ bỏ. Người ta theo đuổi quyền lực,
danh vọng, thế rồi một ngày nào đó người ta trốn lên
núi thật xa thủ đô nhất có thể được. Nhưng thủ đô vẫn
còn là điểm tham chiếu.
Do đó Phật nói: Tự giải phóng mình khỏi hoan lạc
và đau đớn - cả hai. Ông ấy không nói, "tự giải phóng
mình khỏi hoan lạc," bởi vì nếu ông ấy chỉ nói điều đó
thế thì ông ấy biết hoàn toàn rõ - ông ấy hoàn toàn tỉnh
táo về bạn - bạn sẽ chọn đau đớn, và bạn sẽ lại trong
cùng cái bẫy từ cửa sau; bởi vì hoan lạc là của thân thể
và đau đớn là của thân thể. Dù bạn tận hưởng việc ăn
hay bạn tận hưởng việc nhịn điều đó không khác biệt
gì - ăn và nhịn cả hai đều là các hoạt động vật lí. Có
những người tận hưởng ăn và có những người tận
hưởng nhịn, nhưng cả hai đều được bắt rễ trong vật lí.
Họ chưa đưa mắt nhìn tới cõi bên kia. Do đó để nhắc
bạn, ông ấy nói: tự giải phóng mình khỏi hoan lạc và
đau đớn...
vì trong nài xin hoan lạc hay trong ấp ủ đau đớn
đều chỉ có khổ.
Vâng, mọi người cứ làm cả hai điều này. Có
những người cứ tự gây thương tích cho mình.
Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng có một giáo phái
Ki tô giáo, được coi là rất khổ hạnh và ngoan đạo, có
các tín đồ đeo thắt lưng có đinh vào người họ. Đinh cứ
làm thân thể họ bị thương liên tục. Những người này
sẽ đi giầy và bên trong giầy có đinh, và họ cứ để cho
chân họ bao giờ cũng chảy máu. Họ được coi là những
nhà khổ hạnh vĩ đại. Mọi người sẽ đếm vị thánh này có
bao nhiêu đinh trong giầy; bạn càng có nhiều đinh, bạn
càng vĩ đại hơn.
Đã từng có các thánh Ki tô giáo có lời cầu nguyện
duy nhất là tự quất roi vào mình mỗi sáng sớm, và
hàng nghìn người sẽ tụ tập để xem họ tự quất roi. Toàn
thân họ đẫm máu. Và khi cả nghìn người đang nhìn
bạn tự quất roi vào mình, tất nhiên bạn sẽ làm hết sức
có thể được, nhiều nhất có thể được. Mọi người sẽ ngất
xỉu; nhưng chừng nào họ còn chưa ngất xỉu họ sẽ cứ tự
đánh mình. Và những người này được coi là những
người tâm linh đấy!
Đây là những người đang chống lại tôi bởi vì tôi
dạy bạn tôn giáo lành mạnh, tôn giáo không tin vào bất
kì cái gì vô nghĩa.
Nếu bạn cầu xin hoan lạc bạn sẽ trong buồn khổ;
nếu bạn nuôi dưỡng đau đớn bạn sẽ trong buồn khổ.
Và trong buồn khổ là phi tôn giáo. Do đó Phật nói đi
nói lại: Vui vẻ là phẩm chất của người tâm linh thực.
Jesus nói: Hân hoan! Không đau đớn không hoan lạc,
mà vui vẻ. Vui vẻ là cái gì đó tâm linh; nó không tới từ
thân thể bạn. Người ta có thể vui vẻ ngay cả khi thân
thể ốm yếu, người ta có thể hân hoan ngay cả khi chết.
Vui vẻ là cái gì đó bên trong. Đau đớn và hoan lạc cả
hai đều hướng theo thân thể; vui vẻ hướng theo bản
thể.
Giống như cái không làm cho ông không mất nó,
nó không đem lại cho ông tiếc nuối và sợ hãi.
Vượt ra ngoài thích và không thích.
Thích và không thích đơn giản nói rằng bạn nghĩ
bản thân bạn tách rời khỏi sự tồn tại. Người đã vứt bỏ
bản ngã của mình không có thích và không có không
thích. Thế thì bất kì điều gì là hoàn cảnh người đó đều
hân hoan trong nó. Nếu người đó thấy bản thân mình
trong nghèo, người đó hân hoan trong nghèo, bởi vì có
cái đẹp, vài cái đẹp, mà chỉ có thể tìm thấy được trong
nghèo. Nếu người này thấy bản thân mình giầu người
đó hân hoan trong giầu có, bởi vì có vài điều hay mà
chỉ có thể tìm được khi bạn giầu. Nếu người này thấy
bản thân mình trẻ và khoẻ người đó hân hoan trong nó,
bởi vì vài điều là có thể chỉ khi bạn trẻ. Và người này
hân hoan trong tuổi già nữa, bởi vì có vài điều chỉ tuổi
già mới có thể truyền đạt được cho bạn. Một điều là
chắc chắn: rằng người đó không có sở thích, người đó
không khao khát rằng điều này phải như thế và như
thế. Người đó không ra điều kiện nào với sự tồn tại.
Người đó sống một cách vô điều kiện, hân hoan trong
bất kì cái gì xảy ra.
Mang thích và không thích là mang định kiến, và
mọi người cứ mang các định kiến. Đó là lí do tại sao
chẳng cái gì làm cho bạn mãn nguyện.
Ngay cả bố của Phật cũng không hạnh phúc. Ông
ấy bất hạnh bởi vì con ông ấy đã đi theo con đường
sai; thiền với ông ấy là thứ sai. Ông ấy muốn rằng con
ông ấy trở thành hoàng đế vĩ đại; đó là tham vọng sâu
sắc của ông ấy. Phật là con trai duy nhất của ông ấy,
rồi một hôm nào đó Phật trốn mất. Tôi có mọi hoài
nghi rằng lí do cho việc chạy trốn của ông ấy phải là ở
bố ông ấy. Khi bạn chỉ có một con trai và thế nữa, nó
được sinh ra khi bạn rất già... Bố của Phật đã rất già
khi ông ấy được sinh ra. Đó là cơ hội cuối cùng; một
hay hai năm nữa và sẽ không có con trai nào hết cả. Và
mẹ ông ấy đã chết ngay khi sinh ra Phật; bà ấy cũng
già rồi và việc sinh này phải là quá nhiều.
Phật tử đã làm ra một câu chuyện hay về điều đó.
Họ nói rằng bất kì khi nào vị phật được sinh ra mẹ ông
ấy nhất định chết. Đó là cách mọi người tạo ra những
câu chuyện ngu xuẩn. Đã từng có nhiều chư phật. Mẹ
của Mahavira đã không chết, nhưng nếu bạn hỏi Phật
tử họ sẽ nói, "Điều đó đơn giản chứng tỏ rằng
Mahavira không phải là phật." Mẹ của Jesus đã không
chết, mẹ của Lão Tử đã không chết - nhưng với tâm trí
định kiến điều đó đơn giản chứng tỏ rằng những người
này không phải là chư phật. Bất kì khi nào có vị phật
người mẹ đều phải chết; điều đó đã trở thành định
nghĩa.
Lí do thực là: người mẹ già rồi, người bố già rồi;
đây là cơ hội cuối cùng. Và họ đã sống cuộc sống rất
khổ bởi vì họ không có con trai. Và họ đã tạo ra vương
quốc lớn: "Bây giờ vương quốc này sẽ thuộc về ai?"
Và khi bạn có con trong tuổi già bạn níu bám lấy đứa
con nhiều lắm. Người bố phải đã từng có tính sở hữu
nữa: đó là cảm giác của tôi về tại sao Phật phải trốn đi.
Người bố phải đã là nguyên nhân, ông ấy phải đã làm
ra tù túng quá nhiều. Ông ấy đã làm những cung điện
lớn cho Phật và ông ấy sẽ không cho phép Phật rời
khỏi cung điện. Ông ấy đã làm mọi thu xếp trong cung
điện, đủ mọi loại hoan lạc. Thực ra ông ấy đã làm quá
nhiều dàn xếp và Phật đã phát chán rất nhanh chóng;
Phật mới chỉ hai mươi chín khi ông ấy rời bỏ cung
điện.
Mọi người thường trở nên chán ngán lúc cuối đời
họ; phải mất thời gian để kinh nghiệm cuộc sống. Bố
của Phật đã xoay xở để cung cấp cho ông ấy tất cả
những hoan lạc có thể có. Gái đẹp - mọi cô gái đẹp
trong vương quốc đều được mang về cung điện để
phục vụ cho Phật. Rượu ngon nhất, đàn bà đẹp nhất,
cung điện đá cẩm thạch, nhạc công, nhà thơ, vũ công...
cuộc vui miệt mài liên tục. Hai mươi bốn giờ một ngày
Phật chìm đắm trong hoan lạc. Bất kì ai có thông minh
nào cũng đều sẽ trốn đi. Điều đó trở thành quá mệt
mỏi, điều đó trở thành quá nhàm chán, nó trở thành
cảnh tượng xấu xí thế. Ông ấy đã chán nó, cho nên ông
ấy trốn đi.
Bố Phật giận lắm, rất bị tổn thương. Ông ấy đã
muốn con mình trở thành vua mà con ông ấy trở thành
vị phật. Ông ấy không hạnh phúc. Trong tâm trí riêng
của mình, là vua là điều lớn hơn là phật. Có nhiều tiền
hơn và nhiều danh hơn - danh tiếng trần tục - là quan
trọng hơn là thiền nhân và đạt tới samadhi. Những từ
này phải đã có vẻ như vô nghĩa với ông ấy; ông ấy
phải đã là người duy vật thực tế.
Nhưng điều này không chỉ như vậy với Phật; mọi
người chưa bao giờ mãn nguyện với bất kì cái gì. Nếu
con trai bạn biến thành kẻ cắp, bạn giận, nếu nó biến
thành vị phật, bạn giận. Dường như là bạn không thể
nào hạnh phúc được. Nếu vợ bạn quá trung thành bạn
chán, nếu vợ bạn không trung thành bạn giận. Nếu
chồng bạn tuyệt đối vâng lời bạn bị kết thúc với anh ta
rồi; nếu chồng bạn liên tục cãi cọ, đánh nhau, bạn cũng
bị kết thúc với anh ta nữa. Dường như tâm trí con
người có cái thích và không thích tới mức con người
không thể nào trong trạng thái mãn nguyện được.
Một bà già chết và lên trời. Khi bà ấy tới đó Thánh
Peter hỏi bà ấy muốn ở đâu. Bà ấy nói, "Tôi muốn ở
gần đức mẹ Đồng trinh Mary."
Thế là Thánh Peter cho bà ấy vào trong cùng căn
hộ như đức mẹ Đồng trinh Mary. Một hôm bà ấy bước
tới đức mẹ Đồng trinh Mary và nói, "Chỉ có một điều
tôi bao giờ cũng muốn nói với ngài."
Mary nói, "Được, cái gì vậy?"
Bà già nói, "Phải là điều tuyệt vời khi cho sinh
thành ra một người được tuyên bố là thượng đế trên
khắp thế giới!"
Mary nói, "Ôi dào, tôi muốn tốt hơn nếu nó đã là
bác sĩ."
Vâng, đó là cách con người đang vậy - chẳng cái
gì dường như thoả mãn. Chẳng cái gì dường như cho
bạn vui vẻ, bởi vì bạn đã mang thích và không thích
nào đó rồi - và sự tồn tại không có nghĩa vụ phải hoàn
thành chúng. Nó chưa bao giờ hứa hẹn hoàn thành cái
thích và không thích của bạn.
Nếu bạn thực sự muốn phúc lạc bạn phải vứt bỏ
thích và không thích đi. Thế thì bạn phải học ngôn ngữ
khác để giao cảm với sự tồn tại. Bất kì cái gì xảy ra,
tận hưởng nó. Đừng mang cái thích và không thích của
bạn vào. Cuộc sống của bạn có thể là điệu vũ liên tục,
lễ hội; bằng không bạn sẽ sống trong địa ngục.
Giống như cái không làm cho ông không mất nó,
nó không đem lại cho ông tiếc nuối và sợ hãi. Một
điều: nếu bạn thích cái gì đó và bạn có được nó, nhất
định có nỗi sợ lớn - sợ mất nó. Và không cái gì là
thường hằng trong cuộc sống này; mọi thứ bạn có nhất
định bị mất đi. Cho nên sợ nảy sinh, và khi bạn làm
mất nó bạn trong tiếc nuối sâu sắc.
Vượt ra ngoài thích và không thích.
Từ đam mê và ham muốn,
dâm dục và thèm khát,
nảy sinh tiếc nuối và sợ hãi.
tự giải phóng mình khỏi gắn bó.
Tại sao mọi người sống trong khổ thế? - bởi lẽ đơn
giản là họ níu bám lấy mọi thứ. Khoảnh khắc bạn níu
bám bạn đang tạo ra khổ cho bản thân bạn, bởi vì
chẳng cái gì sẽ thường hằng ở đây. Cuộc sống là dòng
sông; nó cứ di chuyển, thay đổi. Bạn thậm chí không
thể tiên đoán được khoảnh khắc tiếp. Cho nên nếu bạn
níu bám lấy cái gì đó và khoảnh khắc tiếp bạn thấy nó
tuột khỏi bàn tay mình, bạn sẽ trong đau đớn lớn lao,
khổ lớn lao.
Và điều mỉa mai là: nếu bạn không làm mất nó và
nó còn lại với bạn, hoàn thành ham muốn của bạn, thì
thế nữa, một ngày nào đó bạn sẽ rất chán... bởi vì tâm
trí bao giờ cũng đòi hỏi cái mới để vẫn còn được sao
lãng. Tâm trí bao giờ cũng tìm cái mới, cái gì đó mới.
Bạn yêu người đàn bà, nhưng dầu vậy, thỉnh thoảng
người đàn bà thông thường, người có thể thậm chí
không đẹp như người đàn bà riêng của bạn, lại hấp dẫn
bạn. Bạn dường như phân vân: "Sao điều đó lại xảy
ra?" Chỉ là tâm trí bao giờ cũng muốn cái gì đó mới.
Tâm trí không thể vẫn còn với một thứ lâu được,
cho nên nếu bạn làm mất nó bạn trong tiếc nuối, nếu
bạn không làm mất nó bạn trong tiếc nuối. Đằng nào
tiếc nuối cũng xảy ra. Phật nói: Tự giải phóng mình
khỏi gắn bó.
Nadine, cô hầu gái xinh, ở một mình trong căn hộ
nơi cô ấy làm việc và quyết định nằm nghỉ một chốc
trên đi văng. Sau vài phút, có tiếng gõ cửa ở cửa ra
vào.
"Ai đấy?" cô ấy hỏi.
"Người bán tạp phẩm đây," là tiếng đáp.
"Ông có gì cho tôi?"
"Vài ghim dập."
"Để chúng trong phòng ấy, được không ông?"
Vài phút sau lại có tiếng gõ cửa khác. "Ai đấy?" cô
ấy hỏi.
"Người bán trứng đây."
"Ồ, ông có gì cho tôi nào?"
"Bốn tá trứng."
"Xin để chúng cùng với hàng tạp phẩm."
Vài phút sau đó, lại tiếng gõ cửa khác. "Bây giờ
cái gì thế?"
"Giám thị đây."
"Ông có gì cho tôi nào?"
"Tôi có thôi thúc."
"Ồ, thế thì vào đi. Điều đó không nên giữ lại."
Và có những thôi thúc và thôi thúc; bạn bùng nổ
các thôi thúc, ham muốn. Bạn không có một ham
muốn, bạn có nhiều ham muốn. Không chỉ là bạn có
nhiều ham muốn đâu, bạn có những ham muốn mâu
thuẫn. Nếu ham muốn này được thoả mãn, ham muốn
khác, cái ngược lại nó, vẫn còn không được thoả mãn
và bạn trong khổ. Nếu ham muốn kia được thoả mãn,
thế thì cái gì đó khác vẫn còn không được thoả mãn.
Một chính khách tới gặp tôi; ông ta muốn an bình
tâm trí. Tôi nói, "Thế thì thoát ra khỏi chính trị đi."
Ông ta nói, "Điều đó khó. Tôi đang ngày càng tới
gần hơn chức bộ trưởng chính của bang tôi. Trong hai
mươi năm tôi đã làm việc vất vả. Bây giờ tôi là bộ
trưởng bộ giáo dục và trong vòng hai hay ba năm nữa
tôi sẽ là bộ trưởng chính - tôi là người tiếp trong chính
phủ, cho nên tôi không thể rời bỏ chính trị bây giờ
được."
Thế là tôi nói, "Vứt ý niệm này về an bình tâm trí
đi, bởi vì là chính khách, thì không thể nào có an bình
tâm trí được."
Ông ta nói, "Thực ra, đó là lí do tại sao tôi cần nó,
đó là lí do tại sao tôi đã tới thầy, bởi vi điều đó đang
trở thành gánh nặng thế đè lên tôi tới mức tôi sắp suy
sụp rồi. Tôi sợ là trước khi tôi trở thành bộ trưởng
chính tôi có thể phát điên. Đó là lí do tại sao tôi đã tới
thầy. Xin giúp tôi, dạy cho tôi phương pháp nào đó để
cho tôi có thể an bình thêm chút ít, thoải mái, thảnh
thơi. Nhưng tôi không thể rời bỏ chính trị được."
Bây giờ, người này muốn hai điều mâu thuẫn nhau
cùng lúc: ông ta muốn an bình và ông ta tham vọng.
Điều đó là không thể được. Nếu bạn tham vọng, thế thì
tâm trí của bạn nhất định vẫn còn bất ổn. Nếu bạn
muốn an bình, thế thì yêu cầu đầu tiên là vứt bỏ mọi
tham vọng. Chừng nào bạn chưa vứt bỏ tham vọng bạn
không thể thoải mái, an bình được, bạn không thể
thảnh thơi được. Ông ta có thể thấy ra mâu thuẫn,
nhưng ông ta nói, "Tôi sẽ nghĩ về nó."
Tôi nói, "Nếu ông có thể thấy ra mâu thuẫn ngay
bây giờ, ông định nghĩ gì về nó? Suy nghĩ của ông sẽ
không tạo ra khác biệt gì đâu."
Điều đó đã tạo ra một khác biệt: ông ấy đã chấm
dứt tới tôi. Kể từ đó tôi đã không gặp ông ấy. Tôi nghe
nói bây giờ là ông ấy đi tới Maharishi Mahesh Yogi,
bởi vì Mahesh Yogi nói cả hai đều có thể được hoàn
thành cùng nhau. Bạn càng trở nên có tính thiền, càng
nhiều khả năng hoàn thành tham vọng của bạn. Bây
giờ điều này hoàn toàn vô nghĩa. Bạn càng trở nên có
tính thiền, bạn sẽ càng ít tham vọng hơn. Không có
vấn đề hoàn thành tham vọng; tham vọng sẽ bắt đầu
biến mất khỏi ý thức của bạn.
Nhưng nếu bạn nhìn quanh tâm trí mình bạn sẽ
thấy nhiều điều mâu thuẫn - phần này đi về phương
nam, phần khác đi về phương bắc. Chính phép mầu là
làm sao bạn cứ xoay xở được là bản thân bạn. Bằng
không một phần của bạn sẽ ở Tokyo, một phần ở
Timbuktu - bạn sẽ ở khắp thế giới trong các mảnh
mẩu! Đó thực sự là phép màu làm sao bạn cứ xoay xở
giữ được bản thân bạn gắn lại. Điều đó thực sự chỉ có
vẻ là cùng nhau thôi; sâu bên dưới bạn bị phân chia và
chia chẻ.
Phật nói: Nếu ông thực sự muốn biến đổi bản thể
mình thành tâm thức an bình, thành thanh thản, thành
phúc lạc, thế thì ông sẽ phải vượt ra ngoài thích và
không thích. Từ đam mê và ham muốn, phụ thuộc giác
quan và thèm khát, nảy sinh tiếc nuối và sợ hãi. Tự
giải phóng mình khỏi gắn bó.
Vài phân biệt phải được thực hiện: khi Phật nói
"phụ thuộc giác quan" ông ấy không ngụ ý tính nhạy
cảm. Thực ra, người phụ thuộc giác quan là người thô
thiển; người nhạy cảm là người tinh tế. Nhạy cảm là
đẹp, phụ thuộc giác quan là xấu. Yêu là đẹp, thèm khát
là xấu. Yêu là nhạy cảm, thèm khát là phụ thuộc giác
quan. Yêu cho cái bạn có, thèm khát cố vồ lấy cái gì
đó từ người khác. Người phụ thuộc giác quan khai thác
người khác, và người nhạy cảm chia sẻ bản thân mình
với người khác.
Nhạy cảm đi nhưng đừng phụ thuộc giác quan.
Yêu nhưng thoát ra khỏi thèm khát. Thèm khát và phụ
thuộc giác quan là có tính con vật; yêu và nhạy cảm là
có tính người.
Và vẫn có một thế giới trên con người - điều
thiêng liêng - nơi ngay cả nhạy cảm, tình yêu, và tất cả
những điều này đều biến mất. Chỉ còn lại một điều:
tâm thức chứng kiến. Đó là trạng thái của phật tính,
christ tính. Người ta trở thành chỉ là tấm gương thuần
khiết của sự tồn tại. Thế thì các vì sao được phản xạ và
hoa được phản xạ. Thế thì bạn thấy Thượng đế trong
khuôn mặt nguyên thuỷ của ngài - toàn thể sự tồn tại
này là khuôn mặt nguyên thuỷ của ngài. Tâm thức tựa
tấm gương này, cái ta chứng kiến này, là mục đích.
Phật nói: Trong trạng thái này, Người đó là thuần
khiết... Người thấy trở thành thuần khiết.
Người đó là thuần khiết, và thấy.
Người đó nói chân lí, và sống nó.
Người đó làm việc riêng của mình,
cho nên người đó được ngưỡng mộ và yêu mến.
Bao giờ cũng nhớ tới mục đích: mục đích là trở
thành nhân chứng thuần khiết. Với thuần khiết Phật
không bao giờ ngụ ý thuần khiết đạo đức; với thuần
khiết ông ấy ngụ ý hồn nhiên như trẻ thơ. Có khác biệt
lớn lao giữa thuần khiết đạo đức và hồn nhiên như trẻ
thơ. Người thuần khiết đạo đức là tinh ranh, láu cá. Nó
không thực là thuần khiết, nó là cái gì đó bị áp đặt. Nó
có động cơ. Người đạo đức đang cố gắng đạt tới cõi
trời, tới vui vẻ thế giới khác; người đó muốn trở thành
bất tử. Người đạo đức không phải là vô ham muốn: đối
tượng của ham muốn của người đó đã thay đổi và
người đó sẵn sàng hi sinh mọi thứ cho đối tượng ham
muốn mới của mình. Người đó áp đặt thuần khiết lên
bản thân người đó, nhưng thuần khiết đó thậm chí
không sâu hơn lớp da. Sâu bên dưới người đó tinh
ranh, thao túng. Thực ra, người đó đang cố gắng thao
túng Thượng đế theo ham muốn của mình.
Người đạo đức cũng là người thông thái; người đó
quá sâu trong kinh sách. Người đó không trí huệ mà
chỉ thông thái. Người đó chẳng biết gì - bởi vì để biết
bạn cần hồn nhiên như trẻ thơ, để biết bạn cần sự ngạc
nhiên và kính nể lớn. Để biết bạn cần vứt bỏ mọi khái
niệm, ý thức hệ, kinh sách. Chỉ thế thì mắt bạn mới
hoàn toàn trống rỗng, trần trụi, và khi mắt bạn trần trụi
chúng có thể thấy.
Người thông thái nghĩ rằng người đó biết bởi vì
người đó đã nghe hay đọc những lời hay; nhưng tri
thức của người đó hoàn toàn hời hợt, vay mượn. Nó
không có gốc rễ nào trong bản thể người đó; thực ra nó
là ngu xuẩn. Mọi người có thể thấy rằng tri thức của
người đó không là gì ngoài ngu si trá hình như tri thức,
bởi vì mọi người đều mù như người đó. Nhưng khi
người đó đi tới vị phật, vị phật có thể thấy điều người
đó nói không phải là của riêng người đó.
Có lần tôi được mời tới một cuộc hội nghị tôn giáo
- nhiều thánh cũng được mời tới đó. Một sư Jaina nói
trước tôi. Ông ấy nói về linh hồn, tự do khỏi mọi gắn
bó, và đạt tới phúc lạc, moksha, niết bàn. Mọi điều ông
ấy nói đều hay, nhưng tôi ngồi đằng sau ông ấy và tôi
có thể thấy thấu suốt rằng con người đó chỉ là con vẹt.
Ông ta lặp lại kinh sách, ông ta chẳng biết gì, nhưng
ông ta rất được người Jaina kính trọng.
Khi ông ấy kết thúc tôi thì thào vào tai ông ấy
rằng, "Tôi phải bảo ông, cho dù điều đó gây tổn
thương, rằng bất kì điều gì ông đã nói tất cả đều vay
mượn, nó tất cả đều ngu xuẩn. Ông không biết đến một
điều. Ông chưa bao giờ thiền, ông chưa bao giờ nếm
trải bất kì phúc lạc nào. Ông chưa bao giờ biết chứng
ngộ là gì, nhưng ông đã mô tả nó một cách hay, ông đã
định nghĩa nó thật hay. Ông là người láu cá, nhưng
thận trọng đấy: láu cá này sẽ không trở thành con
thuyền sang bờ bên kia đâu."
Ông ta bị choáng. Vào buổi chiều một người của
ông ấy tới tôi và nói, "Ông ấy muốn gặp ông, nhưng ở
chỗ tuyệt đối riêng tư."
Tôi nói, "Sao ở chỗ riêng tư? Tôi có nhiều người
của tôi, ông ấy có nhiều người của ông ấy, và họ cả hai
bên đều muốn nghe điều truyền đạt giữa hai chúng tôi.
Cứ để điều đó là công cộng đi!"
Nhưng ông ấy cứ nài nỉ. Dầu vậy, ít nhất hai trăm
người đã tụ tập lại, nhưng ông ấy nói, "Tôi muốn tuyệt
đối riêng tư." Thế là chúng tôi vào một căn phòng; ông
ấy khoá cửa lại, bắt đầu khóc.
Tôi nói, "Sao ông khóc?"
Ông ấy nói, "Ông là người đầu tiên đã thẳng thắn
và chân thực với tôi. Tôi không thể chấp nhận được
điều ông đã nói trước mọi người bởi vì họ kính trọng
tôi. Ông sẽ phá huỷ thành tựu cả đời tôi - đây là thành
tựu của tôi. Nhưng trước ông tôi có thể thú nhận rằng
ông đúng - tôi đã từng đơn giản lặp lại. Bây giờ tôi
phải làm gì?"
Tôi nói, "Điều đầu tiên là, đi ra và thú nhận trước
mọi người rằng 'Các bạn đã từng kính trọng người
sai.'"
Ông ấy nói, "Điều đó thì quá đáng - tôi không thể
làm được điều đó."
"Thế thì," tôi nói, "biến đi! Nếu ông không thể vứt
bỏ được bản ngã của mình, thế thì tôi chẳng thể giúp
ích gì cho ông được bởi vì đó là yêu cầu đầu tiên."
Ông ấy nói, "Tôi sẽ nghĩ về nó."
Ông ấy vẫn đang nghĩ... hai mươi năm đã trôi qua
rồi! Trong hai mươi năm này tôi đã nhiều lần phái
người đi tìm hiểu, "Ông đã đi tới kết luận nào hay
chưa?" Lần cuối cùng khi tôi phái một người tới ông
ấy, ông ấy bảo người này, "Bảo ông ấy, đừng hành hạ
tôi nữa - trong hai mươi năm ông ấy đã hành hạ tôi rồi.
Tôi biết ông ấy đúng, nhưng vào tuổi này" - bây giờ
ông ấy gần bẩy mươi - "tôi không thể liều danh tiếng
của mình được. Tôi phải tiếp tục kiếp này; kiếp tới có
thể tôi sẽ nghe lời khuyên của ông ấy."
Nhưng tôi biết rằng kiếp tiếp nữa ông ấy sẽ không
nghe đâu. Tôi sẽ không có đó, ai đó khác có thể có đó,
nhưng ông ấy sẽ không nghe.
Một bé gái trả lời người gõ cửa của nhà nông dân.
Người gọi, một người cỡ trung tuần, có vẻ bồn chồn,
hỏi gặp bố cô bé.
"Nếu bác tới vì con bò đực," cô bé nói, "nó năm
mươi đô là đấy. Chúng tôi có giấy tờ và mọi thứ và nó
được đảm bảo."
"Thưa bà trẻ," người này nói, "tôi muốn gặp bố
cháu."
"Nếu điều đó là quá nhiều," cô bé đáp, "chúng tôi
có con bò đực khác chỉ hai mươi nhăm đô la thôi, và
nó cũng được đảm bảo, nhưng nó không có giấy tờ."
"Bà trẻ ơi," người này lặp lại, "tôi muốn gặp bố
của cháu cơ!"
"Nếu điều đó là quá nhiều," cô bé nói, "chúng tôi
có con bò khác chỉ mười đô la thôi, nhưng nó không
được đảm bảo."
"Tôi không ở đây vì bò đực đâu," người này giận
dữ nói. "Tôi muốn nói chuyện với anh cháu, Elmer.
Anh ta đã làm cho con gái tôi bị chửa!"
"À, cháu rất tiếc," cô bé nói. "Bác sẽ phải gặp Bố
về điều đó, bởi vì cháu không biết bố đòi gì cho
Elmer."
Bé gái này đơn giản lặp lại điều nó đã nghe. Người
bố lấy năm mươi đô la cho con bò đực, hai mươi nhăm
đô la cho con khác, mười đô la cho con khác. Cô bé
không biết đích xác bố đòi tiền về... cái gì đang diễn
ra, nhưng nó đã nghe. Nó đơn giản lặp lại.
Và đây là cách mọi người đều là người thông thái.
Họ đã nghe nói về Thượng đế, họ đã không nhìn thấy.
Họ đã nghe nói về chân lí, họ đã không kinh nghiệm.
Họ đã nghe nói về tình yêu, họ đã không sống. Họ có
thể nói và họ có thể biện minh và họ có thể chứng
minh bản thân họ là các học giả lớn - nhưng họ là
người ngu. Thận trọng về họ - họ không thuần khiết
đâu. Họ thậm chí có thể áp đặt kỉ luật nào đó lên bản
thân họ từ tri thức vay mượn này, nhưng ý niệm của họ
về thuần khiết cũng sẽ là cái gì đó ngu xuẩn.
Ai đó sẽ ăn chỉ thức ăn chay; đó sẽ là ý niệm của
người đó về thuần khiết. Ai đó sẽ thậm chí không ăn
mọi rau cỏ mà chỉ ăn quả - người đó sẽ là người ăn quả
- và ăn quả chỉ khi chúng đã chín nẫu và rơi xuống
theo cách của chúng để cho không gây hại gì cho cây.
Bây giờ người đó sẽ nghĩ rằng người đó thực sự thuần
khiết. Ai đó sẽ nghĩ rằng chỉ uống sữa là điều thuần
khiết nhất.
Ở Ấn Độ sữa được coi là thức ăn thuần khiết nhất,
sattvik, cái thuần khiết nhất. Bây giờ điều đó là kì lạ,
bởi vì sữa là thức ăn động vật. Nó giống như trứng, nó
bắt nguồn từ thân thể con vật. Và chắc chắn nó không
dành cho bạn - nó dành chon con của con vật. Và nó là
nguy hiểm nữa, bởi vì bò cái cho con nó sữa, và con
nó sẽ trở thành bò đực! Bây giờ ở Ấn Độ mọi người
nghĩ rằng nếu bạn uống sữa bạn sẽ đạt tới vô dục. Điều
đó là hoàn toàn ngu xuẩn - bạn sẽ trở thành bò đực!
Làm sao bạn có thể đạt tới vô dục được? Sữa là thức
ăn có tính dục nhất có thể được.
Nhưng mọi người có thể đi tới các cực đoan. Tôi
đã bắt gặp vài người đang cố gắng sống chỉ bằng nước.
Một lần tôi bắt gặp một người đang cố gắng sống
chỉ bằng nước. Ông ta sắp chết, không sống, nhưng
người ta có thể sống ít nhất ba tháng bằng nước đấy,
bởi vì người ta có đủ thịt cho trường hợp khẩn cấp
được tích luỹ trong thân thể cho nên người ta có thể cứ
ăn nó trong ba tháng. Thực ra sống chỉ bằng nước là ăn
thịt của riêng bạn, bởi vì mọi ngày nửa cân trọng
lượng của bạn sẽ biến mất. "Nó đã đi đâu rồi?" tôi hỏi
người đó. "Ai đã ăn nó?"
Ông ta rất bối rối. Ông ta nói, "Ông là người đầu
tiên quấy rối tôi - bởi vì mọi người đều nói rằng đây là
thứ tốt nhất, sattvic nhất, thức ăn thuần khiết nhất -
nước, và nước sông Hằng đấy, không phải là nước
thường đâu."
Bây giờ, nước sông Hằng là không thuần khiết
nhất ở Ấn Độ, bởi vì mọi người ném xác người chết
vào sông Hằng - và không vào sông nào khác - bởi vì
nếu bạn ném xác vào sông Hằng, người có cái xác đó
sẽ đi thẳng lên trời. Cho nên sông Hằng mang đủ loại
khuẩn, xác chết; họ có thể đã chết vì ung thư, lao, thế
này thế nọ.
Và ông ta nói, "Tôi chỉ uống nước sông Hằng thôi,
và ông đang làm tôi rất sợ. Ông đang nói rằng, 'Ông
đang ăn thịt riêng của mình.' Bây giờ tôi sẽ không yên
tâm được chút nào."
Tôi nói, "Tôi làm gì được? - ông đang ăn nó đấy!
Bằng không, trọng lượng của ông mất đi đâu?"
Nhưng đây là ý niệm mọi người cứ mang theo.
Thuần khiết trở thành cái gì đó rất ngu xuẩn. Hoặc là
bạn thay đổi thói quen ăn uống và bạn nghĩ bạn đã trở
nên thuần khiết, hoặc bạn thay đổi quần áo và bạn bắt
đầu sống trong đống giẻ rách và bạn nghĩ bạn đã trở
nên thuần khiết. Bạn rời khỏi nhà mình và bắt đầu
sống trong hang động và bạn nghĩ bạn đã trở nên thuần
khiết. Hay bạn tắm sớm và bạn nghĩ bạn thuần khiết,
hay bạn tắm bốn, năm lần một ngày và đó là thuần
khiết của bạn, hay bạn không ngủ và đó là thuần khiết
của bạn... Nhưng tất cả những điều này đều là ý niệm
bạn thu thập từ người khác. Bạn có thể áp đặt chúng
lên bản thân bạn và bạn sẽ được tôn thờ, nhưng đây
không phải là điều Phật ngụ ý.
Khi ông ấy nói: Người đó là thuần khiết, ông ấy
ngụ ý người đó hồn nhiên, người đó không thông thái.
Người đó vận hành từ trạng thái của không biết. Người
đó không sách vở, người đó không sống theo sách.
Ông Goldberg, nhà buôn lông thú phát đạt, cho
con gái mình sang châu Âu để được mở mang và có
thể gặp anh chàng giầu có.
Vài tháng sau cô ta viết thư về và xin bố gửi cho
cô ta cuốn sách về xã giao.
"Nó gặp người tốt thực," ông ta tự nhủ mình.
Năm tháng sau cô ta viết xin cuốn sách khác về xã
giao.
"Nó đi với hoàng tử rồi," Goldberg nói và nhảy lên
vì vui vẻ.
Sau hai năm Becky về nhà. Ông Goldberg gặp cô
ấy ở bến tầu và bước giật lùi lại khi cô ấy xuất biện
cùng đứa trẻ trong tay.
"Con ai đấy?" ông ta hỏi.
"Con của con," cô ta đáp.
"Thế bố nó đâu?"
Cô ấy lắc đầu. "Con không biết, bố ạ."
Goldberg khóc trong thất vọng. "Hai cuốn sách về
xã giao con có rồi và con thậm chí không biết hỏi, 'Em
đang hoan lạc với ai đây?'"
Sách chẳng thể có ích; ngay cả hai cuốn sách xã
giao cũng chẳng làm cho bạn có văn hoá. Cả nghìn
cuốn sách về tâm linh và bạn sẽ không trở nên có tính
tâm linh. Vấn đề không phải là trở nên được thông tin
hơn. Vấn đề là biến đổi, không phải thông tin.
Người đó là thuần khiết, và thấy. Khi bạn hồn
nhiên, bạn có mắt để thấy chân lí như nó vậy, bởi vì
bạn không có ý niệm nào để bóp méo. Bạn không có
định kiến nào, không thích, không không thích. Bạn
không là người Hindu không là người Mô ha mét giáo
không là người Ki tô giáo. Bạn đơn giản là tâm thức,
đầy ngạc nhiên, truy hỏi lớn lao. Có thám hiểm; bạn
phản xạ thực tại. Trong hồn nhiên thực tại được phản
xạ và thấy.
Người đó nói chân lí... Và khi bạn biết, bạn không
thể làm khác được. Người đó nói chân lí... bằng bất kì
giá nào. Cho dù bạn có bị giết vì nói chân lí; bạn thà bị
giết nhưng bạn sẽ không dừng nói chân lí.
Socrates được quan toà nói rằng nếu ông ấy có thể
chấm dứt nói về chân lí ông ấy có thể được tha, nhưng
thế thì ông ấy phải hứa trước toà rằng ông ấy sẽ không
bao giờ nói về chân lí.
Socrates nói, "Tôi thà chết đi còn hơn là dừng nói
về chân lí."
Quan toàn phân vân. Họ nói, "Nhưng tại sao?
Cuộc sống quí giá thế."
Socrates nói, "Không quí hơn chân lí được. Nếu
tôi không thể nói ra chân lí, thế thì sống chẳng có ý
nghĩa gì cả. Tôi sống để truyền đạt chân lí. Cuộc đời
tôi chỉ là phương tiện để lan toả bất kì cái gì tôi đã đi
tới biết. Nếu tôi không thể làm được điều đó, thế thì
sống chẳng có ý nghĩa gì - xin giết tôi đi. Và tôi không
thể hứa được bởi một lí do nữa: cho dù tôi muốn dừng
tôi cũng không thể dừng được. Tôi sẽ cứ nói điều tôi
thấy. Tôi sẽ cứ sống nó. Tôi không thể làm khác được.
Việc biết chân lí là việc là nó."
Người đó nói chân lí, và sống nó.
Người đó làm việc riêng của mình,
cho nên người đó được ngưỡng mộ và yêu mến.
Công việc của người đó là gì? Công việc của
người đó là nói to lên. Công việc của người đó là gọi
bạn thoát ra khỏi giấc ngủ của bạn. Công việc của
người đó là đánh thức mọi người dậy. Vâng, những
người hiểu người đó sẽ ngưỡng mộ và yêu mến người
đó. Và sẽ có nhiều người sẽ không hiểu người đó; họ
sẽ kết án người đó, họ thậm chí sẽ giết chết người đó.
Nhưng Phật không tính tới những người đó. Ông ấy
đơn giản tính tới vài linh hồn hiếm hoi người có khả
năng hiểu điều ông ấy đang nói và điều ông ấy đang
sống. Và thực ra chỉ vài người đó mới ngụ ý bất kì
điều gì. Chỉ họ mới xứng đáng được tính tới; đám
đông không đáng tính tới chút nào.
Với tâm trí quyết tâm và trái tim không ham muốn
Người đó khao khát tự do.
Người đó được gọi là uddhamsoto -
"Người đi ngược dòng."
Uddhamsoto là từ hay mà Phật dùng nhiều lần.
Uddham nghĩa là nỗ lực lớn lao; soto nghĩa là cội
nguồn. Từ tiếng Anh 'source - cội nguồn' bắt nguồn từ
cùng gốc như soto. Từ tiếng Phạn là shrot; từ shrot tới
từ tiếng Anh 'source' và từ tiếng Pali 'soto'. Phật nói
tiếng Pali; ông ấy dùng soto. Uddhamsoto nghĩa là
người đang cố gắng, với tất cả bản thể của mình, để
đạt tới cội nguồn, tới chính cội nguồn của bản thể.
Toàn thể nỗ lực của người đó là để biết điều tối
thượng, chính nền tảng của sự tồn tại, bởi vì đó là nơi
chân lí hiện hữu, Thượng đế hiện hữu, niết bàn hiện
hữu.
Nỗ lực lớn lao là được cần tới, lười biếng sẽ không
có tác dụng - và mọi người thực sự lười. Bởi vì mọi
người lười, đó là lí do tại sao các tu sĩ có thể khai thác
họ hàng thế kỉ - và họ đang khai thác bạn nếu bạn tiếp
tục vẫn còn lười. Bởi vì mọi người lười nên họ để điều
đó cho tu sĩ: "Ông làm lời cầu nguyện đi, ông làm việc
tôn thờ hộ chúng tôi nhân danh chúng tôi. Chúng tôi sẽ
trả tiền cho ông, nhưng ông làm điều đó nhân danh
chúng tôi." Họ biết rằng tu sĩ của họ mù cũng như họ
thôi, cũng lười như họ thôi. Họ đã không làm việc trên
bản thể của họ.
Làm việc là gian nan. Nhiều khúc phải được cắt đi
khỏi bạn và vứt bỏ; chỉ thế thì bạn mới có thể đi tới
khuôn mặt nguyên thuỷ của bạn. Điều đó gần giống
như nhà điêu khắc tạc bức tượng từ tảng đá cẩm thạch;
với cái đục và búa trong tay ông ấy cứ đục đẽp tảng đá,
bỏ ra tất cả các mẩu không cần thiết. Dần dần, dần dần
tảng đá vô hình bắt đầu đạt tới hình dạng, tảng đá bình
thường bắt đầu trở thành cái gì đó phi thường, đẹp.
Một Phật có thể được tìm thấy trong nó, một Christ có
thể được tìm thấy trong nó, một Krishna có thể được
tìm thấy trong nó. Nhưng trước khi bạn có thể tìm ra vị
phật trong tảng đá, nhiều điều phải bị phá bỏ đi. Chừng
nào bạn còn chưa sẵn sàng làm công việc lớn lao lên
bản thân bạn, nó sẽ không xảy ra đâu. Bạn không thể
dựa vào các đại lí được.
Các tu sĩ của bạn, các giám mục của bạn, các giáo
hoàng của bạn, tất cả đều là các đại lí - đại lí giữa bạn
và Thượng đế. Bạn không biết Thượng đế, và đại lí cứ
nói, "Đừng lo nghĩ - chúng tôi biết. Chúng tôi sẽ
truyền đạt thông điệp của ông." Họ đâu có biết, họ đơn
giản khai thác dốt nát của bạn thôi.
Nhưng mọi người lười. Lười biếng là một trong
các vấn đề.
Manuel là người mới trong toán thợ làm đường
sắt, cho nên một cách tự nhiên anh ta được việc tồi tệ
nhất quanh khu trại. Trong số những người đàn ông,
việc bị ghét nhất là việc làm anh nuôi cho trại.
Trong ngày đầu tiên làm việc này, Manuel cay
đắng phàn nàn về thức ăn kinh khủng, chỉ được thông
báo rằng bất kì ai mà phàn nàn về thức ăn đều phải làm
anh nuôi. Manuel tranh cãi lâu và to tiếng nhưng quản
đốc không chịu nhân nhượng: Manuel sẽ phải làm anh
nuôi chừng nào còn chưa có ai đó khác phàn nàn.
Ngày hôm sau Manuel nảy ra một ý kiến độc đáo.
Sau khi rửa bát đĩa bữa sáng anh ta ra thảo nguyên và
chẳng mấy chốc tìm đúng điều anh ta tìm - một đống
nhão nhoét lẫn cỏ bùn tươi, phân nai sừng nóng hổi
bốc hơi. Manuel cẩn thận thu mảng đó lại, để của quí
thơm phức trong cái hộp lớn mà anh ta đã mang đi
cùng cho mục đích này, và trở về lều nấu ăn của trại.
Anh ta cẩn thận chuẩn bị một vỏ bánh nướng lớn, thêm
phân nai sừng vào, và nướng chiếc bánh cho tới khi nó
thành mầu nâu vàng.
Đêm đó anh ta vui vẻ phục vụ món bột nhão mềm
như món ăn chủ lực của mình, và chờ đợi lời phàn nàn
bắt đầu. Khuôn mặt của cả nhóm méo mó vui vẻ khi
người ăn ngẹt thở với lễ vật ngon lành.
Cuối cùng một người đứng nhỏm dậy, khuôn mặt
méo mó kinh tởm. "Lạy trời!" anh ta gầm lên với
Manuel. "Đó là món bánh phân nai! Dẫu sao nó chắc
chắn là ngon!"
Con người lười biếng tới mức con người sẽ cứ tiếp
tục như người đó vậy thay vì làm việc và cố gắng thay
đổi - cố gắng đem thay đổi nào đó vào hoàn cảnh của
mình. Dễ dàng hơn cả là vẫn còn toại nguyện, vẫn còn
không nhạy cảm, cứ cố gắng liên tục, bằng cách nào
đó tồn tại. Nhưng đó không phải là cuộc sống. Và điều
đúng với chu vi bên ngoài còn đúng nhiều hơn với bên
trong, bởi vì chu vi bên ngoài không cần nhiều nỗ lực
đến thế để được thay đổi nhưng sự lờ phờ bên trong đã
cổ lỗ hàng thế kỉ rồi. Vô ý thức nguyên thuỷ thế, gốc
rễ của nó sâu tới mức cần có quyết tâm toàn bộ về
phần bạn, quyết tâm vô cùng, sự cam kết, sự tham gia
sâu sắc. Bạn phải liều tất cả. Chừng nào điều đó chưa
xảy ra không thể nào thay đổi được bản thân bạn đâu,
bạn sẽ vẫn còn như cũ. Bạn có thể cứ đọc, bạn có thể
cứ tích luỹ tri thức, bạn có thể đi từ thầy giáo này sang
thầy giáo khác, nhưng sâu bên dưới bạn sẽ không thay
đổi. Đây không phải là cách thay đổi.
Cách thay đổi là: Với tâm trí quyết tâm và trái tim
không ham muốn, người đó khao khát tự do.
Người đó được gọi là uddhamsoto - "Người đi
ngược dòng." Điều đó gần như đi ngược dòng, bởi vì
không theo đám đông, không theo truyền thống, không
theo kinh sách, không theo tôn giáo bạn đã được sinh
vào, nhà thờ bạn đã được sinh vào, là đi ngược lại
dòng. Nỗ lực lớn được cần tới; bằng không bình
thường đi theo đám đông dường như dễ dàng hơn,
thuận tiện và thoải mái hơn - bất kì điều gì họ làm, bạn
cũng làm. Họ sẽ không cho bạn rắc rối, nhưng nhớ lấy,
bạn đơn giản phá hỏng cơ hội lớn. Và cuộc sống này
sẽ biến mất sớm thôi. Sao không đem tất cả năng
lượng của bạn vào điểm tích hợp nơi bạn có thể làm cú
nhảy lượng tử từ cái biết vào cái không biết, từ thời
gian vào vĩnh hằng?
Chừng nào bạn chưa quyết tâm... và đó là điều tính
chất sannyas tất cả là gì: quyết tâm, cam kết, để biến
đổi bản thân mình, không giữ lại cái gì cả. Tôi không
thể thay đổi được bạn chừng nào bạn chưa quyết tâm
toàn bộ để được thay đổi. Bạn không thể đổ trách
nhiệm lên tôi được. Tôi ở đây để giúp đỡ, nhưng tôi
chỉ có thể giúp cho những người thực sự cam kết,
người không nửa vời ở đây.
Fred được nhận vào nhà thương điên bởi vì anh ta
bao giờ cũng cảm thấy mình là chuột và bị hoang
tưởng toàn bộ về mèo.
Sau nhiều nhiều năm chữa trị anh ta cuối cùng đã
được tuyên bố bình thường trở lại và bác sĩ nói, "Vậy
anh biết bây giờ là anh không phải là chuột - anh là
người như tôi và không cần sợ mèo."
Fred đồng ý và được cho ra. Nhưng khi anh ta
bước ra khỏi cổng anh ta thấy một con mèo bước đi ở
bên đường đối diện. Anh ta thất thần toàn bộ và chạy
lùi vào bên trong bị choáng hoàn toàn.
Bác sĩ nói, "Nhưng Fred, tôi nghĩ rằng điều rõ ràng
với anh là anh không phải là chuột."
Fred đáp, "Thưa bác sĩ, bác sĩ biết tôi không phải
là chuột, tôi biết tôi không phải là chuột. Nhưng đồ quỉ
tha ma bắt con mèo kia có biết điều tôi biết không cơ
chứ?"
Không ai có thể giúp được bạn từ bên ngoài. Vâng,
bạn có thể được thuyết phục, nhưng sâu bên dưới bạn
sẽ vẫn còn như cũ. Bạn có thể bị làm im lặng qua tranh
biện, nhưng biện minh không thể thay đổi được bạn.
Bạn sẽ phải mang tất cả năng lượng của mình vào một
điểm, tới quyết tâm tuyệt đối, rằng "Kiếp này mình sẽ
thực hiện nó. Mình sẵn sàng làm bất kì cái gì được yêu
cầu. Mình sẽ không né tránh bất kì trách nhiệm nào.
Mình sẽ không lùi bước khỏi bất kì trách nhiệm nào.
Mình sẽ không tìm bất kì cớ nào, cách hợp lí hoá nào.
Mình sẽ không là nạn nhân thêm nữa của tâm trí cũ."
Một khi quyết tâm này là toàn bộ, biến đổi lập tức
bắt đầu xảy ra. Thực ra quyết tâm toàn bộ đã gần là
nửa cuộc hành trình rồi.
Phật nói:
Khi lữ khách cuối cùng về tới nhà
từ cuộc hành trình xa xôi,
với vui vẻ làm sao
Gia đình và bạn bè đón mừng người đó!
Tôi đang tạo ra gia đình ở đây, gia đình những
người bạn. Ngày bất kì ai trong các bạn sẽ bùng phát
thành ngọn lửa, toàn thể gia đình sẽ hân hoan. Và
không chỉ công xã nhỏ này của các sannyasins sẽ hân
hoan; toàn thể sự tồn tại tham dự trong việc hân hoan.
Bất kì khi nào một người trở thành vị phật, cây, sông,
núi, sao, tất cả đều hân hoan, bởi vì ít nhất một trong
chúng ta đã về tới nhà.
Và Phật nói:
Ngay cả như vậy hành vi tốt của ông sẽ
đón chào ông như những người bạn
và với hân hoan làm sao
khi ông đi từ kiếp này sang kiếp sau!
Và bất kì cái gì bạn đã làm để tự biến đổi bản thân
bạn - ông ấy gọi nó là "hành vi tốt" - đó là đức hạnh
thực. Bất kì cái gì bạn đã làm để biến đổi bản thân bạn,
đó là kho báu của bạn. Và bạn sẽ ngạc nhiên rằng khi
bạn đạt tới bờ bên kia, cõi bên kia, kho báu của bạn sẽ
chờ đợi bạn ở đấy, để hân hoan, để đón nhận, để chào
mừng bạn.
Hoặc bạn có thể thu thập tiền, quyền, danh - cái sẽ
bị bỏ lại trên bờ này - hoặc bạn có thể tích luỹ một loại
kho báu khác toàn bộ: về thiền, về yêu, về phúc lạc, về
hiểu biết, về nhận biết, về tính thượng đế. Nếu bạn đạt
tới kho báu này, bạn sẽ ngạc nhiên: khi bạn đạt tới bờ
bên kia, khi bạn vượt ra ngoài thân thể này, khi cái
chết xảy ra cho thân thể này, bạn sẽ được đón nhận bởi
tất cả những kho báu quí mà bạn đã tích luỹ. Chúng tất
cả đều hân hoan.
Phật ngụ ý rằng có kho báu đi cùng bạn tới điều tối
thượng, và có kho báu nhất thời bị bỏ lại đằng sau.
Những người trí huệ tích luỹ cái sẽ còn là của họ vĩnh
viễn, và những người ngu tích luỹ cái nhất thời, cái sẽ
bị lấy đi khỏi bạn - cái đang bị cái chết lấy đi.
Nhớ lấy, từng khoảnh khắc, điều bạn đang tích luỹ.
Nó có bị cái chết lấy đi không? Thế thì nó chẳng đáng
bận tâm tới. Nếu nó sẽ không bị cái chết lấy đi, thế thì
ngay cả cuộc sống có thể được hi sinh cho nó - bởi vì
một ngày này hay ngày khác cuộc sống sẽ biến mất.
Trước khi cuộc sống biến mất, dùng cơ hội này để tìm
ra cái chưa bao giờ chết.
Trở thành một uddhamsoto đi. Tìm ra cội nguồn
của sự tồn tại, của bản thể riêng của bạn, của tất cả
những cái đang đó. Cội nguồn đó là Thượng đế, cội
nguồn đó là niết bàn.
Đủ cho hôm nay.
******************************************************
#8Mọi thứ đều có thể
Câu hỏi thứ nhất:
Thưa Thầy kính yêu,
Với tôi, đoạn hay nhất trong kinh sách Ki tô giáo
chấm dứt với lời, "và Jesus khóc." Điều đó xuất
hiện khi ông ấy tới Jerusalem lần cuối cùng, nhìn
xuống nó trong từ bi của mình, thấy tất cả những
cái ngu xuẩn, vô tích sự và tính chất bi ai của nhân
loại - và khóc. Thưa Thầy kính yêu, Phật có khóc
không?
Anand Deepesh, nó chắc chắn là một trong những
đoạn hay nhất trong kinh sách của người Ki tô giáo,
bởi vì nó chỉ ra tính người của Jesus, đó là phẩm chất
duy nhất của ông ấy. Phật Gautama không có tính
người đến vậy.
Jesus vừa là con của con người và Con của
Thượng đế. Ông ấy biết thung lũng tăm tối, ông ấy
cũng biết đỉnh cao ánh mặt trời - và ông ấy có trái tim
rất con người. Tính người đó vẫn còn cùng ông ấy cho
tới chính tận cùng. Mọi chư phật đều duy nhất. Trong
cùng tình huống ấy Lão Tử, ngoái nhìn lại sau, chắc đã
cười vào cái ngu xuẩn, cái lố bịch, cái ngớ ngẩn của
con người. Và trong cùng tình huống ấy Phật Gautama
thậm chí chắc sẽ không để tâm mà ngoái nhìn lại sau
đâu; đó là tính duy nhất của ông ấy, ông ấy chưa bao
giờ ngoái nhìn lại, quá khứ không tồn tại chút nào.
Mahavira chắc đã ngoái nhìn lại nhưng chắc không
khóc cũng không cười.
Sự kiện này phải được ghi nhớ: đừng bao giờ so
sánh hai vị phật, bằng không bạn sẽ tạo ra lẫn lộn cho
bản thân bạn. Mặc dầu kinh nghiệm của họ là như
nhau, cách diễn đạt của họ là khác, nhất định khác. Họ
có tính cá nhân khác nhau, họ có các hình thức diễn
đạt khác nhau về kinh nghiệm của họ.
Jesus vẫn còn tính người, rất tính người. Nếu bạn
hỏi một Phật tử, người đó sẽ nói, "Thế thì ông ấy
không phải là vị phật nếu ông ấy khóc." Khi ông ấy
sắp bị đóng đinh và ông ấy bị kéo lên cây chữ thập,
ông ấy nhìn lên trời và nói, "Ngài có tha thứ cho con
không?" Có oán trách lớn, oán trách của trái tim con
người, oán trách với Thượng đế như đứa trẻ sẽ oán
trách với mẹ nó hay bố nó: "Ngài có tha thứ cho con
không? Ngài đang định làm gì con?" Ông ấy giận nữa,
chút ít giận có đó, cái là một phần của tính người; chút
ít giận, chút ít tình yêu, chút ít vui vẻ.
Khi ông ấy đi vào trong ngôi đền lớn của
Jerusalem ông ấy cảm thấy bị xúc phạm bởi sự hiện
diện của những người đổi tiền trong ngôi đền tới mức
ông ấy cầm roi trong tay và, một mình, ông ấy đuổi tất
cả những người đổi tiền ra khỏi ngôi đền, lật nhào bàn
đổi tiền của họ, tạo ra hỗn độn; điều đó nữa cũng rất có
tính người. Đó là điểm riêng biệt của Jesus.
Trong cùng tình huống đó bạn không thể nghĩ
được về Phật nhìn lên trời bởi vì với Phật không có
Thượng đế ở bên ngoài. Thượng đế là ở bên trong, bạn
đang nhìn lên bầu trời trống rỗng, không có ai để đáp
ứng. Thượng đế là ở bên trong người bị đóng đinh,
không có cách nào cầu nguyện Thượng đế. Lời cầu
nguyện là tuyệt đối vô nghĩa với một Phật; ông ấy chắc
sẽ chấp nhận điều đó mà không có phẫn uất nào,
không oán trách nào, không giận nào. Ông ấy là siêu
nhân, cách diễn đạt của ông ấy là tuyệt đối siêu nhân;
không một khoảnh khắc nào ông ấy cho phép yếu đuối
con người đi vào.
Khi ông ấy sắp chết, ông ấy bảo các đệ tử đừng
kêu khóc; ông ấy nói, "Các ông có thể làm điều đó khi
ta đi rồi, các ông sẽ có đủ thời gian, nhưng ngay bây
giờ, ít nhất khi ta vẫn còn sống, đừng làm điều ngu
xuẩn như thế. Không có gì để khóc cả bởi vì không ai
chết cả. Sao các ông khóc?"
Ananda, đệ tử của ông ấy, nói, "Thầy ơi, chúng tôi
đã yêu thầy nhiều thế, làm sao chúng tôi có thể tránh
cảm thấy buồn được?"
Phật nói, "Ông đã yêu cái không cơ mà. Ta chưa
bao giờ là người mà chỉ là sự hiện diện, và ta đã từng
bảo các ông lặp đi lặp lại, đừng nghĩ về ta như một
người. Người đó đã chết vào ngày ta trở thành Phật.
Gautama Siddhartha đã chết vào ngày chứng ngộ xảy
ra. Kể từ đó đã không có ai cả bên trong ngôi nhà, ngôi
nhà hoàn toàn trống rỗng. Do đó không có ai chết,
chấm dứt kêu khóc đi. Về sau khi ta đi rồi các ông có
thể làm bất kì điều gì các ông muốn, các ông sẽ có đủ
thời gian. Đừng phí những khoảnh khắc quí giá này
vào việc khóc."
Đây là cách diễn đạt khác toàn bộ. Thượng đế là
đa chiều. Khi ngài được kinh nghiệm sẽ có nhiều cách
diễn đạt về nó.
Mahavira tuyệt đối dửng dưng với mọi thứ. Ông
ấy sẽ không cười, ông ấy sẽ không khóc nữa, bởi vì
với ông ấy toàn thể thế giới này không là gì ngoài giấc
mơ. Nếu bạn biết cái gì đó là mơ, làm sao bạn có thể
khóc được?
Có câu chuyện ngụ ngôn cổ Trung Quốc. Trang
Tử thường kể chuyện ngụ ngôn đó lặp đi lặp lại.
Một nhà vua lớn chỉ có một con trai và người con
sắp chết - chết vì một bệnh không có thuốc nào chữa
được. Tất cả các thái y đều nói, "Không còn cách nào
cứu hoàng tử cả. Vấn đề chỉ là vài giờ hay nhiều nhất
một hay hai ngày hoàng tử sẽ qua đời."
Nhà vua yêu con trai lắm; hoàng tử là con trai duy
nhất, nhà vua đã già rồi và không còn khả năng có con
trai khác. Nhà vua ngồi cạnh giường cả đêm bởi vì đây
có thể là đêm cuối cùng.
Quãng gần bốn giờ nhà vua rơi vào giấc ngủ và
mơ. Trong giấc mơ nhà vua thấy một cung điện đá
cẩm thạch tuyệt đẹp; ông ấy chưa bao giờ mơ tới cung
điện đẹp thế. Và vương quốc bao la thế; ông ấy đang
ngồi trên ngai vàng nạm kim cương và ngọc lục bảo
lớn. Ông ấy có ngọc lục bảo và kim cương nhưng
không lớn thế, không thuần khiết thế, chẳng có khuyết
tật gì. Và ông ấy có nhiều đàn bà đẹp và mười hai con
trai; có thể ý niệm về mất đứa con duy nhất của mình
đã tạo ra ham muốn mười hai đứa con trai, có thể đó
chỉ là sự phản xạ của trạng thái thực của ông ấy. Giấc
mơ này có thể chỉ là việc hoàn thành ước muốn, nhưng
ông ấy cảm thấy được ân huệ thế. Và tất cả con trai
của ông ấy đều khôn ngoan thế, mạnh khoẻ thế, các
chiến binh vĩ đại thế.
Và thế rồi bỗng nhiên con ông ấy chết trên giường.
Hoàng hậu kêu khóc to tới mức giấc mơ của nhà vua
bị vỡ tan; ông ấy mở mắt ra, nhìn vào xác chết của đứa
con mình và chẳng nói một lời - vẫn còn như bức
tượng. Vợ ông ấy bị choáng, bà ấy lay ông ấy và nói,
"Bệ hạ có hiểu hay không? Con bệ hạ chết rồi!" Nhà
vua nói, "Ta có thể thấy điều đó nhưng bây giờ ta phân
vân - khóc vì ai đây? Mới một phút trước ta đã có
mười hai đứa con trai đẹp đẽ, rất đẹp trai, rất khôn
ngoan, khéo léo mọi đằng. Và bởi vì việc kêu khóc của
hậu mà giấc mơ của ta bị tan vỡ, mười hai đứa con trai
đó đã biến mất; và ngai vàng và cung điện đá cẩm
thạch và vương quốc lớn, tất cả đã mất rồi. Ta phải
khóc cho những đứa đó hay phải khóc cho đứa con này
bởi vì khi ta mơ ta đã hoàn toàn quên mất đứa con
mình, hoàng hậu và vương quốc? "Bây giờ ta thức, ta
đã quên mất giấc mơ và cái đẹp của giấc mơ. Cái nào
là thực, ta phải khóc vì cái nào? Bởi vì khi ta thấy giấc
mơ nó đã là thực, ít nhất nó cũng có vẻ là thực. Bây
giờ ta đang thấy đứa con chết của mình, điều đó có vẻ
thực, nhưng làm sao quyết định được cái nào có vẻ là
thực sự thực?"
Trang Tử, trong một chuyện ngụ ngôn khác, nói
cùng điều này. Ông ấy nói, "Có lần ta đã mơ rằng ta
biến thành bướm, bay từ hoa nọ sang hoa kia, tận
hưởng mặt trời và gió. Và thế rồi ai đó đánh thức ta;
lúc đó là sáng và đã muộn rồi và mặt trời đang chiếu
vào mặt ta. Khi ta mở mắt ra bướm biến mất, ta lại là
Trang Tử. Từ đó trở đi ta đã bị lẫn lộn. Lẫn lộn là, nếu
Trang Tử có thể mơ rằng mình là bướm, sao bướm
không thể mơ rằng nó là Trang Tử?"
Ông ấy dường như rất thấu suốt; sự phân vân này
là cái gì đó đáng thiền. Nếu Trang Tử có thể biến
thành bướm trong giấc mơ... bướm có thể rơi vào giấc
ngủ, đậu trên cây nào đó, dưới bóng cây; bướm có thể
rơi vào giấc ngủ và mơ rằng nó là Trang Tử. Bây giờ
ai đúng và mơ là gì? Cả hai dường như tương tự.
Người như Phật biết cái giả của toàn thể thế giới;
ông ấy sẽ không khóc, ông ấy sẽ không cười, ông ấy sẽ
thậm chí không ngoái nhìn lại. Đó là cách thức diễn
đạt của ông ấy về kinh nghiệm cái toàn bộ. Mahavira
sẽ ngoái nhìn lại bởi vì ông ấy cũng có từ bi lớn -
nhưng khác với Jesus; ông ấy sẽ không khóc, bởi vì
điều đó chẳng giúp được ai cả. Nếu bạn khóc vì thế
giới, điều đó chẳng giúp cho thế giới. Nếu bạn khóc vì
cái ngu xuẩn của mọi người điều đó làm cho bạn có vẻ
ngu si, có vậy thôi. Điều đó không giúp mọi người.
Nhưng Lão Tử chắc chắn cười rồi bởi vì nhìn vào
cái ngớ ngẩn của mọi người, cái lố bịch của họ, bạn có
thể làm gì khác được? Lão Tử thường cưỡi trâu nước,
đi từ chỗ nọ sang chỗ kia. Ông ấy là ông lão vui vẻ, kể
chuyện cười, kể chuyện vui cho mọi người, bao giờ
cũng trong trạng thái cười.
Nếu bạn thấy tượng Phật đã được làm ở Trung
Quốc và ở Nhật Bản, bạn sẽ ngạc nhiên. Chúng không
giống Phật, đặc biệt không giống tượng Ấn Độ, không
giống chút nào. Tượng Phật Ấn Độ có thân hình rất lực
sĩ, Phật có ngực lớn và bụng rất nhỏ, không bụng chút
nào, thân thể ông ấy dường như rất cân xứng.
Nhưng Phật Trung Quốc có bụng lớn; ngực hoàn
toàn bị co lại, bụng lại quá lớn. Và không chỉ bụng
lớn, ngay cả ở tượng đá cẩm thạch bạn cũng có thể
thấy tiếng cười bụng, có những gợn cười trên bụng.
Điều đó đã được quan niệm tương ứng theo ý niệm
Đạo giáo; bởi vì Trung Quốc chỉ có thể hiểu được nếu
Phật được trình bày dưới dạng Lão Tử. Họ biết Lão
Tử, họ quen với con người chứng ngộ này, và ông ấy
bao giờ cũng cười. Với ông ấy không có gì để khóc cả.
Lí do gì có đó để mà khóc vào cái lố bịch của con
người?
Ba cậu sinh viên đại học, cùng vào một quán ưa
chuộng ngồi tại bàn thường lệ của họ, thấy nó bị một
bà già chiếm mất rồi. Sau khi tranh luận phải làm gì về
tình huống này, họ cuối cùng quyết định gây khó dễ
cho bà này phải đi.
Ngồi cạnh bà già, cậu sinh viên thứ nhất bắt đầu...
"Này, John," anh ta nói, "cậu có biết rằng tớ được sinh
ra ba tháng trước khi bố mẹ tới cưới nhau không?"
"Sao, chưa là gì cả," cậu tiếp nói. "Tớ được sinh ra
sáu tháng trước khi bố mẹ tới cưới nhau."
"Các cậu," người cuối cùng của lũ con trai đói đáp
lại, "tớ được sinh ra mà chẳng có việc bố mẹ tới cưới
nhau."
Bà già cuối cùng nhìn lên bàn và hài lòng hỏi,
"Một trong các cậu con hoang chuyển cho tôi lọ muối
được chứ?"
Cuộc sống là khôi hài, bạn không bao giờ biết cái
gì sẽ xảy ra, nó là ngớ ngẩn.
Một người mẫu của nghệ sĩ tới phòng làm việc của
ông chủ cô ấy và đợi ông ấy tới. Khi ông ta bước vào
cửa cô ấy nhắm tới phòng thay quần áo để cởi quần áo
ra.
Nhưng ông ấy nói, "Không, đừng bận tâm phải
thay đồ. Tôi vẫn còn bị váng vất khủng khiếp và thực
sự không cảm thấy thích làm việc hôm nay. Nhưng sao
cô không ở lại và cùng tôi uống cà phê?"
Cô người mẫu nói, "Em thích chứ."
Vừa lúc đó nghệ sĩ nghe thấy tiếng bước chân
quen thuộc tiến tới cửa.
"Trời," ông ta hổn hển. "Vợ tôi tới đấy. Cởi quần
áo ra đi - nhanh lên!"
Lão Tử sẽ cười; Jesus khóc. Bây giờ việc chọn lựa
dành cho bạn. Tôi yêu cả hai con người này; thực ra
cười và khóc là hai mặt của cùng một đồng tiền. Và
bởi vì câu chuyện này mà Jesus khóc, tôi nói điều gì
đó mà người Ki tô giáo đã phủ nhận trong nhiều thời
đại. Người Ki tô giáo đã từng nói rằng Jesus không
bao giờ cười. Bây giờ một người có khả năng khóc thì
nhất định có khả năng cười, khóc là không thể được
nếu bạn không thể cười. Thực ra cười và khóc là
không đối lập, mà là bù cho nhau - hai cực đoan của
cùng một phổ.
Người Ki tô giáo nói Jesus chưa bao giờ cười. Đó
là chuyện bịa, tôi không thể tin được vào điều đó. Bởi
vì Jesus không phải là người khổ hạnh. Vâng, tôi có
thể hiểu thánh nhân khổ hạnh nào đó không bao giờ
cười bởi vì ông ấy như sa mạc thế, khô khan thế, đờ
đẫn thế và chết thế. Nhưng Jesus là người rôm rả, ông
ấy không phải là người khổ hạnh; ông ấy tận hưởng
thức ăn ngon, bạn đồng hành tốt, ông ấy tận hưởng
uống rượu, ông ấy tận hưởng tiệc tùng với bạn bè
mình. Và bạn ông ấy là đủ loại người, bạn ông ấy
không phải là người thuộc tổ chức nghề nghiệp phục
vụ cộng đồng Rotary; họ là những kẻ đánh bạc, trộm
cắp; thậm chí cả gái mãi dâm, Mary Magdalene, là một
phần của toán ông ấy. Ông ấy tận hưởng người thực.
Nếu bạn muốn thấy người không thực bạn có thể
đi tới cuộc họp của người thuộc tổ chức nghề nghiệp
phục vụ cộng đồng Rotary Club. Ở đó bạn thấy người
rởm, tất cả đều đeo mặt nạ, tất cả đều mỉm cười và
chào lẫn nhau. Đây không phải là mặt thật của họ, họ
bao giờ cũng giữ mặt thật của họ được khoá kín trong
tủ, họ chưa bao giờ đem chúng ra. Chỉ thỉnh thoảng
bạn mới có thể có thoáng nhìn về khuôn mặt thật của
họ. Điều đó xảy ra chỉ khi họ vô ý thức; có thể khi họ
đã say quá nhiều bạn có thể thấy khuôn mặt thật của
họ. Vô ý thức có thể cho bạn thoáng nhìn về sự thực
của họ.
Gurdjieff thường cho các đệ tử mới của ông ấy
uống thật nhiều rượu nhất có thể được; ông ấy sẽ cứ ép
uống. Và khi thầy buộc bạn uống... Nghĩ về tôi yêu
cầu bạn uống rượu, và tôi cứ rót và rót mãi - làm sao
bạn có thể nói không được? Và tin cậy là điều đầu tiên.
Gurdjieff sẽ buộc họ ăn và uống nhiều tới mức
khuôn mặt thật của họ sẽ phơi bày ra; đó là tiếp xúc
đầu tiên của ông ấy với đệ tử. Các đệ tử phân vân lắm,
họ chưa bao giờ thấy thầy nào như thế. Họ sẽ ngã lăn
ra đất và sẽ bắt đầu nói những điều không ăn nhập vào
đâu. Thế rồi Gurdjieff sẽ ngồi cạnh bên họ và nghe
điều họ nói, điều khuôn mặt họ phơi bày ra, bởi vì đây
là khuôn mặt thật, đây là thực tại của họ.
Bạn không thể nghĩ về Phật bảo mọi người uống
rượu, nhưng Gurdjieff đã làm điều đó. Tôi không thể
tin được rằng Jesus không bao giờ cười; ông ấy đã
sống với những người sống động thế: ngư dân, thợ
mộc, người nghèo. Ông ấy không cùng toán với giáo
sĩ, bác học, học giả và giáo sư. Ông ấy đi cùng người
thô thiển, người thực trên thế gian. Không thể nào nghĩ
được rằng ông ấy là người buồn, rằng ông ấy không
bao giờ cười; và nếu ông ấy không có khả năng cười,
ông ấy sẽ không có khả năng khóc nữa.
Phát biểu này, rằng ông ấy khóc, chỉ ra điều tuyệt
đối chắc chắn rằng ông ấy phải đã cười nữa. Đó là một
trong những điều đẹp nhất về Jesus; tôi yêu điều ông
ấy rất tính người. Phật có chút ít lạnh lẽo, không có hơi
ấm, ở xa xăm - đó là cái đẹp của ông ấy. Chúng ta cần
mọi loại thầy, chúng ta cần mọi loại hoa trong vườn.
Hoa hồng có cái đẹp của nó và hoa sen có cái đẹp của
nó. Hoa sen sẽ cần hồ, tình huống khác để xảy ra, nó
sẽ có hương thơm khác. Nhưng tất cả các loại hoa đều
làm phong phú cho khu vườn. Vườn của phật tính đầy
những bản thể kì lạ, duy nhất, vô song: Lão Tử,
Zarathustra, Mohammed, Mahavira, Phật, Krishna,
Christ.
Bây giờ, Christ đang trên cây chữ thập. Bất kì khi
nào bạn nghĩ về Christ, bạn nghĩ về cây chữ thập nữa.
Không thể nào nghĩ được về hai điều đó tách rời,
chúng đã trở thành không tách rời được. Nếu bạn thấy
cây chữ thập bạn sẽ nghĩ tới Christ, nếu bạn nghĩ tới
Christ cây chữ thập bao giờ cũng có trong nền tảng.
Với Krishna đó không phải là cây chữ thập mà là cây
sáo. Bây giờ, Krishna là vũ công, là ca sĩ; bạn không
thể nghĩ được về Phật nhảy múa, ca hát, không thể nào
quan niệm nổi. Và điều đó sẽ có vẻ rất lố bịch nữa; với
Krishna điều đó khớp, toàn thể cách nhìn của ông ấy
về cuộc sống là ở chỗ cây sáo khớp với nó.
Nhớ điều này và đừng trở nên quá bị gắn bó với
một dạng của phật tính. Có nhiều dạng của phật tính
như bạn có thể quan niệm. Nhiều chư phật nữa sẽ xảy
ra trong tương lai, người sẽ có phẩm chất khác toàn bộ
mà không bao giờ có sẵn trong quá khứ. Nếu bạn trở
nên bị gắn bó và ám ảnh quá nhiều với dạng nào đó,
bạn sẽ bỏ lỡ chư phật khác.
Ở Hà Lan đã có cuộc hội nghị do các tín đồ của
Krishnamurti thu xếp. Krishnamurti đã tới đó và ở
cùng với mọi người trong bẩy ngày. Đệ tử của ông ấy
đã tụ tập từ khắp thế giới. Một người đàn bà tới từ Ấn
Độ nhưng sau hai, ba ngày cô ấy quay về.
Cô ấy tới gặp tôi. Tôi nói, "Bạn quay về sớm thế?
Hội nghị xong chưa?" Cô ấy nói, "Chưa, hội nghị chưa
kết thúc nhưng tôi bị kết thúc với Krishnamurti rồi."
Tôi nói, "Chuyện gì xảy ra vậy?" Cô ấy nói, "Tôi đã đi
mua sắm và tôi thấy Krishnamurti mua một chiếc cà
vạt, và không chỉ mua cà vạt mà làm ồn ào thế. Ít nhất
hai trăm cà vạt được bầy ra khắp bàn và ông ấy chẳng
vừa ý cái nào. Cái gì đó bị sai với mọi thứ: mầu nào đó
sai, kích cỡ sai, cái này sai, cái nọ sai." Và cô ấy nói,
"Tôi đơn giản quan sát điều ông ấy làm. Ông ấy có là
vị phật không? Vị phật mà đi mua sắm, đi mua hàng
sao? Vị phật trông phải với bình bát ăn xin nhưng vị
phật mua sắm - và mua gì? Cà vạt! Và thế nữa, ông ấy
cũng làm ồn ào nhiều thế."
Krishnamurti rất khó tính về quần áo. Cô ấy trở
nên thất vọng thế, cô ấy đã không dự hội nghị. Bây giờ
phỏng có ích gì? Con người này không phải là vị phật.
Bây giờ, phải làm gì với người đàn bà này - khóc cho
cô ấy hay cười cô ấy? Người ta có thể khóc cho sự ngu
xuẩn của cô ấy bởi vì Krishnamurti là Krishnamurti;
ông ấy không phải là Phật Gautama, ông ấy không
phải là Jesus Christ. Ông ấy có cách sống duy nhất của
ông ấy, cách diễn đạt của ông ấy. Ông ấy không phải
là người từ bỏ, ông ấy sống trong thế giới. Và để thấy
ra vấn đề, rằng ông ấy sống trong thế giới vậy mà
không phải của nó, cần hiểu biết lớn bên trong. Người
đàn bà này đã lỡ.
Phải làm gì với người đàn bà này? Khóc cho cô ấy
sao? Cô ấy đã tới Hà Lan mà thậm chí không nghe lấy
một bài nói của Krishnamurti.... Hay cười vào cái ngu
xuẩn của cô ấy? Và người ta không bao giờ biết được -
Krishnamurti có thể đã xoay xở toàn thể sự việc chỉ vì
người đàn bà này. Thấy rằng cô ấy đang quan sát ông
ấy có thể đã làm ra nhiều ồn ào thế... bởi vì người như
Krishnamurti bao giờ cũng muốn loại bớt kiểu người
rác rưởi, kiển người ngu.
Gurdjieff thường làm nhiều thứ chỉ để gạt bỏ
những người không cần thiết. Thỉnh thoảng ông ấy sẽ
cư xử bất ngờ tới mức người đã tới để gặp ông ấy sẽ
không bao giờ quay lại nữa - cứ nghĩ rằng ông ấy điên.
Một hôm ông ấy đang ngồi uống trà với hai, ba đệ tử
và một nhà báo tới gặp ông ấy. Ông ấy bao giờ cũng
chống lại các nhà báo không cho vào trong đạo tràng
của ông ấy bởi vì đây là hiểu biết của ông ấy: rằng họ
có xu hướng hiểu lầm.
Ông ấy yêu cầu nhà báo này, rất nhã nhặn, ngồi và
uống trà, ăn bánh. Nhà báo này rất sung sướng vì ông
ta đã nghe nói rằng Gurdjieff bao giờ cũng đuổi nhà
báo ra, ông ấy nói với họ bằng những từ chắc chắn để
đuổi cút xéo! Nhà báo rất sung sướng là mình đã được
đón tiếp với tình yêu và từ bi thế.
Và thế rồi Gurdjieff hỏi người đàn bà ngồi cạnh
mình, "Hôm qua là ngày nào nhỉ?"
Cô ta nói, "Thứ sáu."
"Thế hôm nay là ngày nào?"
Thế là nhà báo trở nên hơi lẫn lộn - người này
không thể biết được thế sao! Nếu hôm qua là thứ sáu,
thế thì phỏng có ích gì mà hỏi, "Hôm nay là ngày
nào?"
Người đàn bà nói, "Tất nhiên hôm nay là thứ bẩy."
Và ông ấy quát người đàn bà này, ông ấy nói,
"Làm sao có thể thế được? Nếu hôm qua là thứ sáu,
làm sao hôm nay có thể là thứ bẩy được? Không thể
được! Cô đi và tìm xem hôm nay là ngày nào."
Nhà báo này chuồn mất, cứ tưởng rằng đây là cái
gì đó dở hơi, người này dở hơi; ông ta thậm chí không
bao giờ ngoái nhìn lại. Khi ông ta đi rồi, Gurdjieff mới
có tiếng cười thật lòng, thoải mái. Ông ấy nói với
người đàn bà này, "Cô thấy cách tôi tống khứ người đó
đi. Bây giờ anh ta sẽ không bao giờ quay lại và anh ta
sẽ lan truyền câu chuyện này khắp xung quanh và
nhiều người nữa sẽ bị ngăn cản không tới đâu."
Người ta không bao giờ biết người chứng ngộ sẽ
cư xử thế nào - bằng phương cách gì.
Deepesh, cảm giác của bạn là bạn yêu những từ lời
này, đoạn này hay, là tốt, nhưng nhớ rằng người xứng
đáng cho cả khóc và cười qua rồi. Vâng, ông ấy trong
khổ lớn lao nhưng khổ do bản thân ông ấy tạo ra. Ông
ấy bị mắc bẫy và ông ấy chịu khổ nhiều, nhưng cái bẫy
đó do bản thân ông ấy làm ra. Ông ấy giống như đứa
trẻ nhỏ đang chơi bên ngoài nhà với đống gạch. Nó bắt
đầu làm nhà bằng gạch, đứng ở giữa nó cứ xếp hết
gạch nọ tới gạch kia quanh bản thân nó. Khi gạch cao
lên tới cổ nó trở nên phân vân, thế rồi nó bắt đầu kêu
to lên với mẹ mình, rằng "Con bị cầm tù, lại đây cứu
con với!" Bây giờ nó không thể thoát ra khỏi nó được -
nhưng bản thân nó đã tạo ra nó!
Đây là tình huống của con người, chúng ta tạo ra
khổ của mình, địa ngục của mình. Nếu bạn thấy rằng
chúng ta cứ tạo ra nó, điều đó đáng cười; nhưng nếu
bạn nói, và thấy, rằng "Có thể chúng ta tạo ra nó
nhưng dầu vậy chúng ta đang chịu khổ," thế thì điều
đó đáng khóc.
Nhưng Phật sẽ không làm cả hai điều này. Ông ấy
sẽ vẫn còn tách rời, bình thản. Ông ấy sẽ không khổ
bởi vì bạn đang khổ và ông ấy thậm chí sẽ không nghĩ
khổ của bạn là đáng cười. Ông ấy sẽ giữ sự bình thản
của mình; ông ấy sẽ làm bất kì cái gì ông ấy có thể làm
để giúp bạn và sẽ cứ đi đường của ông ấy. Dù bạn có
được giúp hay không, đấy không phải là việc của ông
ấy. Việc của ông ấy là nói điều đang đó, và ngay cả
điều đó ông ấy cũng đồng ý một cách rất ngần ngại.
Khi ông ấy trở nên chứng ngộ ông ấy vẫn còn im
lặng trong bẩy ngày. Câu chuyện là, các thần trở nên
rất lo nghĩ bởi vì hiếm khi xảy ra điều một người trở
nên chứng ngộ. Bây giờ Siddhartha này đã trở nên
chứng ngộ và ông ấy lại không nói một lời trong bẩy
ngày. Họ nhìn sâu vào tâm thức của Siddhartha và họ
thấy rằng ông ấy không định nói chút nào.
Họ xuống trần gian, cúi lạy Phật và xin ông ấy nói
bởi vì có nhiều người có thể được giúp đỡ. Phật nói
với họ, "Ta đã nghĩ về điều đó nhưng chỉ có hai
phương án thôi. Một là: ta sẽ nói nhưng ta sẽ được rất
ít người hiểu. Đại đa số sẽ không hiểu, có thể chín
mươi chín phần trăm mọi người sẽ không hiểu chút
nào. Cho nên chín mươi chín phần trăm nỗ lực của ta
sẽ là cực kì phí hoài.
"Về một phần trăm những người sẽ có khả năng
hiểu ta, việc nhìn thấu của ta nói rằng cho dù không có
ta, sớm hay muộn họ sẽ tìm thấy con đường riêng của
họ. Thông minh của họ đến thế, dũng cảm của họ đến
thế, việc tìm kiếm của họ đến thế... họ là những người
yêu đam mê chân lí. Đó là lí do tại sao họ sẽ có khả
năng hiểu ta.
"Chín mươi chín phần trăm sẽ không bao giờ hiểu,
một phần trăm những người có khả năng hiểu ta sẽ
hiểu nó dù thế nào đi chăng nữa, dù ta nói hay không.
Thực ra sẽ dễ hơn cho họ hiểu nếu ta không nói. Im
lặng của ta sẽ nhiều tính giao cảm với họ. Cho nên
phỏng có ích gì mà nói?"
Các thần lo nghĩ nhiều lắm về cách trả lời điều
này. Họ tụ tập nhau lại, họ thảo luận giữa họ với nhau,
thế rồi họ lại tới với lập luận mới và họ nói, "Nghe
đây! Thầy là đúng rồi, có những người sẽ không bao
giờ hiểu được thầy và có những người sẽ hiểu cho dù
thầy không nói ra một lời. Nhưng thầy có thể phủ nhận
rằng có những người ở giữa hai loại người này không?
Thầy có thể nói không còn một người nào ở giữa hai
loại này không, loại thứ ba, người sẽ hiểu nếu thầy nói,
và người sẽ không bao giờ hiểu nếu thầy không nói?
Thầy có thể phủ nhận được không - đó có thể là một
thiểu số rất nhỏ, đó có thể là một trong một triệu,
nhưng thầy có thể phủ nhận rằng một người thôi -
người nối giữa đa số kia và thiểu số kia? Những người
không hiểu và những người hiểu... họ được nối lại."
Phật không thể phủ nhận được điều đó. Ông ấy
nói, "Các ông đúng, có vài người; vâng, một trong cả
triệu người sẽ được giúp."
"Thế thì," các thần đó nói, "cho dù nếu đó chỉ là
một trong cả triệu, chính nghĩa vụ của thầy là giúp
người đó."
Chính bởi vì biện luận này mà Phật bắt đầu nói;
bằng không ông ấy sẽ không nói đâu. Và nhớ lấy, đã
từng có nhiều chư phật đã không nói. Họ vẫn còn im
lặng cả đời mình, bạn sẽ không bao giờ nghe nói gì về
họ cả bởi vì họ không bao giờ nói. Không kinh sách
nào tồn tại để mô tả họ.
Một điểm tôi muốn làm rất rõ ràng cho bạn: rằng
từng cá nhân khi người đó trở nên chứng ngộ, đều trở
thành một phần của vũ trụ - nhưng cách diễn đạt của
người đó vẫn còn có tính cá nhân. Kinh nghiệm của
người đó có tính vũ trụ, nhưng diễn đạt của người đó
có tính cá nhân. Nếu người đó là nhà thơ trước đây,
như Kabir, khi ông ấy trở nên chứng ngộ ông ấy sẽ ca
bài ca. Nếu ông ấy là nhà thơ, nếu việc là nhà thơ là
một phần của tính cá nhân của ông ấy - bây giờ biết vũ
trụ, hiểu biết của ông ấy, ánh sáng của ông ấy, sẽ bắt
đầu tuôn chảy vào trong hình mẫu thơ ca cũ. Ông ấy sẽ
giống như Kabir, Nanak, Farid. Nhưng nếu ông ấy là
hoạ sĩ, không phải nhà thơ, và ông ấy trở nên chứng
ngộ, thế thì ông ấy sẽ vẽ - điều đó sẽ là cách diễn đạt
tự nhiên của ông ấy. Nếu ông ấy là nhà điêu khắc thế
thì cách diễn đạt của ông ấy sẽ khác.
Từng vị phật sống trong vũ trụ nhưng diễn đạt bản
thân ông ấy một cách cá nhân. Đây là cách diễn đạt
của Jesus, ông ấy là tất cả tính người nữa. Có thể đó là
sự hấp dẫn của ông ấy - bây giờ gần nửa trái đất đang
trong tình yêu với Jesus. Lí do là tính người của ông
ấy. Phật là ngôi sao xa xăm, Jesus dường như rất gần
với trái tim. Phật hấp dẫn với những người rất phức
tạp, hấp dẫn của Jesus là cho đám đông.
Bất kì khi nào một nước trở nên tinh vi, có văn
hoá, có giáo dục, giầu có, sung túc, hấp dẫn của Jesus
bắt đầu mất đi. Đó là điều đang xảy ra ở Mĩ. Phật trở
nên ngày một mạnh hơn: các trung tân Thiền được mở
ra ngày một nhiều hơn, ngày càng nhiều người đang
trở nên được chuyển từ lời cầu nguyện sang thiền,
ngày càng nhiều người đang trở nên quan tâm tới lời
của Phật.
Jesus đang mất nền tảng ở Mĩ; ông ấy vẫn còn thu
được nền tàng ở Ấn Độ, nhưng ông ấy đang mất nền
tảng ở Mĩ. Mĩ bây giờ trong cùng trạng thái sung túc
như Ấn Độ đã có vào thời Phật. Đất nước này đã giầu
có, mọi người được giáo dục tốt, tinh vi, có văn hoá;
họ biết triết học là gì. Họ biết tất cả các chuyến bay
của siêu hình, họ biết những đỉnh cao nhất - ít nhất về
mặt trí tuệ. Và Phật đã nói cho giới trí thức này; nó đã
là một trao đổi khác toàn bộ.
Jesus nói cho dân làng nghèo, nông dân, người làm
vườn, ngư dân. Ông ấy nói với những người thấp nhất,
người nghèo nhất của người nghèo. Ngôn ngữ của ông
ấy khác, nó rất có tính người, nó phải vậy.
Ngôn ngữ của Phật rất thuần khiết, triết lí, siêu
hình. Nó ít liên quan tới liệu bạn hiểu nó hay không,
nó liên quan nhiều tới việc là thực, là ở gần với chân lí
hơn, gần nhất có thể được. Do đó cách diễn đạt của họ
nhất định khác.
Deepesh, bạn hỏi tôi, "Thưa thầy kính yêu, vị phật
có khóc không?" Một số phật có, một số phật không.
Điều đó tất cả tuỳ vào cá nhân.
Chuyện xảy ra khi thầy của Basho chết - Basho là
vị phật, vị phật làm thơ, vị phật vẽ những bức tranh
đẹp, vị phật rất thẩm mĩ. Thầy của ông ấy chết, cả
nghìn người tụ tập. Thầy ông ấy rất nổi tiếng; còn nổi
tiếng hơn bởi vì Basho, vì Basho là nhà thơ và hoạ sĩ
nổi tiếng và ông ấy là thầy của Basho. Hàng nghìn
người tụ tập và họ rất ngạc nhiên khi thấy Basho khóc,
những giọt nước mắt lớn lăn dài trên gò má ông ấy.
Vài đệ thân tín của thầy tới Basho và nói, "Điều đó
có vẻ không phải. Hàng nghìn người đang tới và họ
đang bị lẫn lộn. Họ nghĩ vị phật phải không kêu khóc,
mà ông là người đã từng nói đi nói lại với họ: Không
có cái chết và cốt lõi bên trong nhất sống mãi mãi. Thế
thì sao ông khóc? Thầy của ông không chết, thầy chỉ đi
từ thân thể nhỏ sang thân thể vũ trụ của Thượng đế.
Vậy sao ông khóc?"
Basho chùi nước mắt và ông ấy nói, "Nghe đây!
Điều này không là việc của mọi người. Ta sống theo
tình cảm bên trong của ta, ta không thể giả vờ được.
Khi cốt lõi bên trong nhất của ta muốn khóc, ta sẽ
khóc, và ta không bận tâm liệu mọi người nghĩ điều đó
là đúng hay không. Nếu họ nghĩ rằng ta chưa chứng
ngộ, điều đó được chứ, nhưng ta không thể giả vờ. Ta
không thể làm cái gì đó mà không thực sự có đó. Và
vâng, ta đã nói rằng linh hồn là bất tử và thầy ta đã
không chết, thầy đã biến vào trong vũ trụ. Đó là lí do
tại sao ta khóc, không khóc rằng thầy chết mà khóc
rằng bây giờ ta sẽ không bao giờ có khả năng thấy
hình dạng của thầy. Bây giờ thầy đã trở thành vô hình
dạng - và thân thể thầy đẹp. Ta sẽ không bao giờ có
khả năng nhìn lại vào đôi mắt sâu thẳm đó, ta sẽ không
bao giờ có khả năng cầm tay thầy và chạm chân thầy.
Ta đã mất hình dạng của thầy - ta đang khóc vì thân
thể thầy, vì hình dạng thầy; ta không khóc vì linh hồn
vô hình dạng. Và ta không quan tâm liệu mọi người
nghĩ ta chứng ngộ hay không chứng ngộ, đó là việc
của họ. Ai lo?"
Không, đây là cách tiếp cận của Basho, và ông ấy
nữa cũng đúng. Nhưng đừng bao giờ so sánh. Cứ để
từng vị phật là một đỉnh Himalaya tách rời khỏi các
đỉnh khác. Cứ để từng vị phật được hiểu theo cách
riêng của ông ấy, đừng bao giờ áp đặt hình mẫu nào
khác lên ông ấy. Điều đó đã được làm lặp đi lặp lại qua
nhiều thời đại rồi. Người Ki tô giáo không thể tin được
rằng Phật là một christ, bởi vì ông ấy không phục vụ
người nghèo, ông ấy không chữa lành người bị thương,
ông ấy không làm người mù thấy được, ông ấy không
làm phép màu như Jesus đã làm. Lazarus chết và Jesus
tới, và sau bốn ngày ông ấy làm sống lại Lazarus. Phật
không làm gì như thế cả; ngược lại, ông ấy làm cái gì
đó tuyệt đối khác.
Có một câu chuyện hay:
Một người đàn bà mất đứa con còn bé; vài ngày
trước chồng cô ấy mới chết. Kissa Gautami là tên cô
ấy, và bây giờ đứa con trai duy nhất của cô ấy đã chết.
Cô ấy tự nhiên bị tuyệt vọng lớn; đứa con đã là niềm
hi vọng duy nhất của cô ấy. Phật đang ở trong thị trấn;
mọi người nói, "Đừng kêu khóc nữa. Sao cô không
đưa đứa con tới Phật? Ông ấy từ bi thế, ông ấy có thể
làm cho nó trở lại với cuộc sống."
Người đàn bà này vội vã đen xác đứa trẻ đi. Phật
nhìn người đàn bà này, bảo người đàn bà để đứa trẻ ở
trước ông ấy và nói với cô ấy, "Vâng, tôi sẽ làm sống
lại nó, nhưng cô sẽ phải hoàn thành một điều kiện."
Người đàn bà này nói, "Tôi sẵn sàng ngay cả việc
hi sinh cả đời mình. Thầy nói bất kì điều kiện nào và
tôi sẽ hoàn thành nó."
Phật nói, "Đó là một điều kiện đơn giản, ta chưa
bao giờ đưa ra yêu cầu lớn với mọi người, chỉ yêu cầu
nhỏ; đây là việc rất đơn giản. Cô đi vào thị trấn và đem
về vài hạt mù tạc. Nhớ một điều: hạt mù tạc phải từ
nhà chưa bao giờ có người chết."
Người đàn bà này đang trong trạng thái rồ dại, cô
ta không thể thấy ra vấn đề. Làm sao bạn có thể tìm
được một nhà mà không ai đã bao giờ chết? Cô ấy vội
vã đi với hi vọng lớn và cô ấy biết rằng mọi nhà đều có
hạt mù tạc bởi vì đó là mùa màng duy nhất mà mọi
người gieo trồng. Cả làng đều làm cùng một việc,
trồng hạt mù tạc - cho nên không có vấn đề gì.
Cô ấy gõ cửa nhiều nhà, mọi người nói, "Vài hạt
mù tạc sao? Chúng tôi có thể cho cả xe hạt mù tạc,
nhưng chúng tôi không thể hoàn thành điều kiện này
được; nhiều người đã chết trong nhà chúng tôi. Cho
nên hạt mù tạc của chúng tôi sẽ không có tác dụng."
Đến tối người đàn bà này đi tới nhận biết của
mình. Cô ấy đã gõ nhiều cửa; dần dần, dần dần cô ấy
thấy ra vấn đề rằng cái chết là không tránh khỏi - nó
xảy ra cho mọi người, rằng không ai có thể thoát khỏi
nó. Cô ấy quay lại, cô ấy đã là một người đàn bà khác
toàn bộ khi cô ấy quay về buổi tối. Đứa trẻ vẫn đó,
Phật đang đợi. Ông ấy nói, "Hạt mù tạc đâu?"
Người đàn bà này cười, quì xuống chân Phật và
nói, "Xin điểm đạo cho tôi vào con đường của thầy,
bởi vì tôi đã hiểu thông điệp của thầy, rằng mọi người
đều phải chết. Hôm nay con tôi đã chết, vài ngày trước
chồng tôi đã chết, vài ngày sau đó tôi sẽ chết. Trước
khi tôi chết tôi muốn thấy cái không chết. Bây giờ tôi
không quan tâm tới đứa con của mình được gọi về từ
cõi chết. Bây giờ tôi quan tâm tới bản thân tôi để thấy
cuộc sống vĩnh hằng."
Phật điểm đạo cho Kissa Gautami.
Bây giờ, những câu chuyện này là như nhau, gần
như nhau. Các chị em của Lazarus hay đệ tử của Jesus,
họ đi mời ông ấy. Ông ấy đi vắng. Ông ấy tới - mất
bốn ngày để ông ấy tới đó - và ông ấy đã gọi Lazarus
về từ cõi chết. Nhưng điều gì đã xảy ra cho Lazarus từ
đó? Ông ta phải đã chết lần nữa bởi vì chúng ta không
thấy ông ta ở đâu cả. Cho nên phỏng có ích gì?
Nếu bạn hỏi Phật ông ấy sẽ nói, "Phỏng có ích gì
mà gọi người này về? Người đó sẽ chết lần nữa. Ông
đơn giản tạo ra cơ hội khác cho chết. Một lần là đủ rồi,
sao hai?" Phật sẽ đáp ứng lại theo cách khác hoàn toàn.
Người Ki tô giáo không thể nào hiểu được điều đó bởi
vì họ bị ám ảnh với ý niệm của Christ. Họ sẽ thích
Phật và Mahavira và Krishna theo cùng cách đó. Điều
đó là không thể được.
Phật tử cũng không thể hiểu được Christ, bởi vì họ
có ý niệm của Phật, hình ảnh của Phật, và Jesus không
hoàn thành điều đó. Thực ra không cần Jesus phải
hoàn thành ý niệm của bất kì ai, hay Phật phải hoàn
thành mong đợi của bất kì ai. Họ là những người duy
nhất. Chúng ta nên chấm dứt việc so sánh liên tục này.
Hàng nghìn cuốn sách được viết mọi năm để so sánh,
và mọi so sánh đều sẽ sai, nó sẽ tạo ra bất công nào đó
cho ai đó này khác. Hoặc bạn sẽ không công bằng với
Phật, hay với Christ. Bạn không thể công bằng cho cả
hai.
Nỗ lực của tôi ở đây là để làm cho bạn nhận biết
về tính đa dạng của phật tính, về tính đa chiều của
chứng ngộ. Thế giới này là phong phú bởi vì có biết
bao nhiêu chim và biết bao nhiêu cây và biết bao nhiêu
hoa. Và cùng điều đó đúng cho thế giới bên trong; biết
bao nhiêu khả năng của trưởng thành, nhiều cách diễn
đạt khác nhau, duy nhất thế khi bạn trở nên chín muồi
- những đoá hoa khác nhau. Thế giới này phong phú
hơn bởi vì có Phật và Christ và Lão Tử. Thế giới sẽ
chắc thực sự rất nghèo nàn nếu chỉ có các Rama, chỉ
Rama; thế giới chắc đã rất nghèo nàn. Trong từng làng
và thị trấn bạn có thể thấy vài Rama, mang cung của
họ. Hay nếu có hàng triệu Christ ở mọi nơi thì điều đó
sẽ không đẹp, nó sẽ chán.
Điều tốt là Jesus có nét con người và Phật có tính
thiêng liêng thuần khiết.
#8Câu hỏi thứ hai:
Thưa Thầy kính yêu,
"Trùng hợp ngẫu nhiên" là gì?
Anand Viramo, có ba điều cần được hiểu. Một là
luật nhân quả. Điều đó áp dụng cho thế giới vật chất và
bởi vì khoa học chỉ tin vào luật nhân quả, nó phủ nhận
mọi thứ khác. Luật nhân quả là máy móc, do đó không
có trùng hợp ngẫu nhiên. Bạn đun nóng nước tới một
trăm độ và nó bay hơi, không có trùng hợp ngẫu nhiên.
Không phải là một ngày nào đó nó bay hơi ở chín
mươi chín độ, ngày khác ở chín mươi độ. Không có
vấn đề về tâm trạng, nước không thể quyết định được,
nước bị cai quản một cách máy móc bởi luật nhân quả.
Những người tin vào luật nhân quả, họ sẽ không
tin vào bất kì trùng hợp ngẫu nhiên nào. Mọi thứ đều
tiền định, không có gì giống như trùng hợp ngẫu nhiên
cả. Mọi thứ đều có tính không tránh khỏi.
Thế rồi có luật khác - Carl Gustav Jung gọi nó là
luật đồng bộ. Hai điều có thể xảy ra cùng nhau mặc
dầu chúng không có liên hệ như nhân quả. Chẳng hạn
nếu ai đó đang hát bài hát hay, sợi dây nào đó trong
tim bạn bị chạm tới, nhưng nó không phải là không
tránh khỏi, nó không là nguyên nhân và hậu quả - nó
có thể xảy ra, nó có thể không xảy ra; nó có thể xảy ra
cho vài người này, nó có thể không xảy ra cho vài
người khác. Nó có thể xảy ra cho bạn hôm nay, nó có
thể không xảy ra cho bạn hôm khác.
Hôm nay bạn cảm thấy hạnh phúc, bạn đã gặp
người đàn bà của mình, bạn mình, bạn đang cưỡi trên
gió. Ai đó đang hát bài ca, bỗng nhiên nó điểm một nốt
vào bạn, bạn cũng cảm thấy thích hát. Ai đó đang múa,
bỗng nhiên chân bạn có cảm giác dậm dịch nhảy múa,
tâm trạng nhảy múa.
Nhưng vợ bạn mới chết, bạn buồn và ai đó hát và
điều đó gây tổn thương. Trăng đã lên trên trời, đêm
trăng tròn, và bạn buồn - trăng cũng trông buồn, không
đẹp. Bạn đang trong trạng thái buồn tới mức đêm trăng
tròn trông như có vẻ lố bịch với bạn; nó có vẻ dửng
dưng thế với bạn, vô tình thế, nghiêm khắc thế. Bạn
đang trong trạng thái buồn thế và trăng vẫn chiếu sáng
theo cùng cách nó vẫn thế, và hoa hồng vẫn nở và
chim vẫn hót. Không ai dường như bận tâm tới bạn,
không ai dường như chăm nom về bạn.
Vũ trụ này dường như rất trung lập, rất lạnh lùng.
Bạn cảm thấy tổn thương, bạn cảm thấy xa lạ, bạn cảm
thấy là người lạ, người ngoài. Bây giờ sẽ không có
đồng bộ.
Luật đồng bộ nghĩa là đôi khi bạn khớp và đôi khi
bạn không khớp. Nó linh động. Luật đồng bộ thuộc
vào thế giới tâm trí; cũng như nhân quả thuộc vào thế
giới vật chất, thân thể, luật đồng bộ thuộc vào thế giới
tâm trí, trái tim. Bên ngoài hai luật này còn có khả
năng về trùng hợp ngẫu nhiên nữa. Điều đó nghĩa là
không luật nào liên quan, hay bạn có thể gọi nó là luật
tự do. Đó là luật tối thượng, luật của cốt lõi bên trong
nhất của bạn, thực ra nó không phải là luật bởi vì nó là
luật của tự do. Mọi sự có thể xảy ra mà không do bất
kì cái gì gây ra và nó không được tạo ra bởi luật đồng
bộ, chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên thôi.
Trùng hợp ngẫu nhiên đơn giản nghĩa là có khả
năng của tự do. Bây giờ có những người ở đây thuộc
về cả ba loại này. Có những người đã tới ứng theo luật
nhân quả; họ phải tới, điều đó là không tránh khỏi,
không thể nào tránh được. Có cái gì đó kéo họ như nan
châm, họ không thể cưỡng lại được nó.
Có những người ở đây đã không tới qua luật nhân
quả, nhưng họ cảm thấy sự đồng bộ, sự hài hoà với tôi,
sự hoà hợp sâu sắc. Nếu họ muốn kháng cự lại họ có
thể đã kháng cự lại rất dễ dàng, nếu họ muốn không tới
họ có thể đã còn lại. Không có lực hấp dẫn nào kéo cả,
họ phải chọn. Chính từ chọn lựa của mình mà họ ở
đây.
Và cũng có loại người thứ ba, người đã tới như sự
trùng hợp ngẫu nhiên, tình cờ. Một người bạn đã ở
đây, và bạn đã tới để gặp bạn mình, không để gặp tôi,
không để nghe tôi, chẳng liên quan chút nào tới tôi cả;
bạn đã tới chỉ để gặp người bạn của bạn - nhưng thế
rồi bạn bị mắc vào. Người bạn có thể không còn ở đây
nữa, người bạn có thể đã trốn rồi. Bây giờ điều này là
trùng hợp ngẫu nhiên.
Chồng bạn đã tới đây, và bạn đơn giản theo anh ấy
như một người vợ biết vâng lời. Bây giờ có nhiều trẻ
con, nhiều đứa bé cũng trùng hợp ngẫu nhiên ở đây.
Bố mẹ chúng ở đây, cho nên chúng ở đây; việc chúng
ở đây không phải là chọn lựa của chúng, chỉ là sự
trùng hợp ngẫu nhiên. Bố mẹ chúng là người Ki tô
giáo, chúng là người Ki tô giáo; bố mẹ chúng là người
Hindu, cho nên chúng là người Hindu; bố mẹ chúng đã
trở thành sannyasins, chúng đã trở thành sannyasins.
Đây là chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên.
Tất cả ba điều này đều xảy ra. Bạn vươn lên càng
cao, tâm thức bạn càng cao, bạn càng có nhận biết thì
bạn càng trở nên tự do. Tại điểm thấp nhất mọi thứ đều
được xác định, tại điểm cao nhất chẳng cái gì được xác
định.
Phật từ bỏ cung điện của mình và ngày đầu tiên,
khi ông ấy bước đi trên bờ sông, ông ấy đã tạo ra nhiều
lẫn lộn trong tâm trí của một nhà chiêm tinh lớn.
Nhà chiêm tinh này tới từ Varanasi; ông ấy đã đạt
tới mức độ cao nhất có thể được trong những ngày đó.
Ông ấy đã trở thành nhà chiêm tinh nổi tiếng nhất; bây
giờ ông ấy đi về lại phần nước của ông ấy. Ông ấy
thấy dấu chân của Phật trên cát ướt; ông ấy không thể
nào tin nổi vào mắt mình, bởi vì nó ngược lại tất cả tri
thức chiêm tinh của ông ấy. Chân của Phật có vài dấu
hiệu rất rõ ràng đó trên cát. Những dấu hiệu đó được
coi duy nhất thuộc vào người cai trị toàn thế giới, một
chakravartin, người cai quản sáu lục địa.
Bây giờ người cai quản sáu lục địa này làm gì
trong cái làng nghèo nàn này, trên bờ sông bẩn thỉu
này? Và tại sao hoàng đế của sáu lục địa phải bước đi
chân trần? Ông ấy không thể tin nổi vào mắt mình.
Ông ấy đã nghiên cứu chúng rất chi li và không có
hoài nghi gì, không nghi ngờ gì. Hoặc là sách chiêm
tinh của ông ấy không đúng hoặc hoàng đế nào đó đã
đi qua từ đây. Ông ấy đi theo dấu chân để tìm người
này và ông ấy thấy Phật đang ngồi dưới gốc cây. Bây
giờ ông ấy còn phân vân hơn; người này trông dường
như ông ta là hoàng đế của sáu lục địa, và vậy mà ông
ta là kẻ ăn xin với bình bát ăn xin.
Ông ấy cúi lạy Phật và ông ấy nói, "Tôi muốn xem
chân ông. Tôi là nhà chiêm tinh, ông có thể đã nghe tới
tên tôi." Ông ấy nhìn vào bàn chân và ông ấy nói, "Bây
giờ ông đã tạo ra lẫn lộn thế trong tâm trí tôi, tôi chưa
bao giờ bị lẫn lộn thế. Trong mười hai năm tôi đã
nghiên cứu chiêm tinh, tôi phải ném kinh sách của tôi
xuống sống và quên tất cả về nó đi sao? Ông phải là
hoàng đế của toàn thế giới. Ông đang làm gì ở đây?
Làm sao ông có thể là kẻ ăn xin được?"
Phật cười và ông ấy nói, "Vâng, không cần ném
sách của ông đi đâu, không cần bị lẫn lộn thế đâu.
Sách của ông đúng đấy. Ta đã được dự định làm vị vua
lớn, nhưng điều đó thuộc vào luật nhân quả. Nếu như
ta đơn giản theo hình mẫu này mà theo đó ta đã được
sinh ra, thế thì ta đã là vua, vua lớn, chakravartin.
Nhưng bởi vì ta từ bỏ, ta đã lấy một bước có chủ ý, có
ý thức chống lại hình mẫu đã được áp đặt, đã được cấy
trong bản thể ta. Ta đã nổi dậy chống lại nó, ta đã nổi
loạn chống lại nó, ta trở nên tự do với nó. Ta trở thành
nhân chứng của nó, ta vứt bỏ sự đồng nhất của ta với
tâm trí ta, và một khi ông vứt bỏ sự đồng nhất với tâm
trí ông thì ông không còn ở dưới luật nhân quả nữa."
Đầu tiên bạn đi vào trong thế giới của đồng bộ và
thế rồi, chung cuộc, bạn đi vào trong thế giới của tự
do. Trong thế giới của tự do chỉ có trùng hợp ngẫu
nhiên. Không cái gì là tuyệt đối chắc chắn, mọi thứ
đều có thể. Không cái gì là không thể được. Napoleon
tương truyền đã nói: Không cái gì là không thể được.
Nhưng Napoleon không thể nói được điều đó, ông ấy
đáng phải không nói điều đó. Vị Phật có thể nói:
Không cái gì là không thể được, mọi thứ đều trở thành
có thể.
Bạn hỏi tôi, Anand Viramo, "'trùng hợp ngẫu
nhiên là gì'?"
Nó đơn giản nghĩa là cuộc sống không chỉ có tính
máy móc. Nó không được xác định bởi số phận và nó
không được xác định bởi lịch sử. Nó không được xác
định bởi quá khứ của bạn hay bởi nghiệp quá khứ của
bạn. Nó không được xác định, như Karl Marx nói, bởi
sự cần thiết lịch sử. Nó được xác định chỉ cho những
người sống vô ý thức; bằng không nó là tự do. Bạn có
thể chọn và bạn có thể chọn là bất kì cái gì. Bạn thậm
chí có thể chọn là cái không, đó là tự do tối thượng.
Và trùng hợp ngẫu nhiên bao giờ cũng xảy ra trong
cuộc sống bình thường nữa. Cuộc sống không logic
như bạn nghĩ, nó rất phi logic. Chỉ trên bề mặt mới có
vẻ logic.
Nhà truyền giáo quyết định liệt kê ra Mười lời răn
cho con chiên của mình.
Khi ông ấy đọc tới "Ngươi sẽ không ăn cắp," ông
ấy để ý tới một anh chàng ở hàng đầu hành động một
cách bồn chồn. Khi nhà truyền giáo đọc tới "Ngươi sẽ
không ngoại tình," ông ấy để ý anh chàng này mắt
sáng lên và mỉm cười. Sau buổi lễ, nhà truyền giáo tiến
tới người này và hỏi anh ta lí do về thái độ không thích
đáng của anh ta - với điều này người hạnh phúc đáp,
"Khi cha nói, 'Ngươi sẽ không ăn cắp,' con phát hiện ra
cái ô của con bị mất. Nhưng khi cha nói, 'Ngươi sẽ
không ngoại tình,' con nhớ ra chỗ con đã để nó."
Một người độc thân có tên Clem ló mặt tại trò chơi
đánh cược quân bài hàng tuần với con mắt tím bầm.
Bạn anh ta Joe hỏi điều gì đã xảy ra cho anh ta.
"Thế này," Clem đáp, "khi tớ mặc quần sáng nay
một cái khuy quần rơi ra. Tớ không biết cách khâu, thế
là tới sang căn hộ bên cạnh và nhờ người đàn bà ở đó
khâu hộ nó cho tớ."
"Ồ, cậu," Joe nói, "cô ấy chắc nghĩ cậu gạ gẫm và
đấm cậu, chứ gì?"
"Không, điều đó không phải thế," Clem nói. "Cô
ấy tốt bụng về khoản đó như cô ấy thế. Kiếm ra kim và
chỉ đây đó, cô ấy ngồi xuống trước tớ và khâu khuy
trong khi tớ đứng đó. Nhưng khi cô ấy làm xong và
đang cắn chỉ cho đứt ra thì chồng cô ấy bước vào."
Cuộc sống không logic. Nó không theo con đường
rõ ràng, nó đi chữ chi. Và điều tốt là nó không logic
đơn giản, bằng không sẽ không có vui vẻ, sẽ không có
ngạc nhiên, bạn đơn giản sẽ là cái máy, không là
người. Trùng hợp ngẫu nhiên chưa bao giờ xảy ra cho
máy móc, chúng không thể xảy ra cho máy móc được,
chúng chỉ có thể xảy ra cho con người. Chính việc có ý
thức của bạn làm cho chúng thành có thể. Loại bỏ con
người khỏi trái đất và mọi trùng hợp ngẫu nhiên sẽ
biến mất, mọi sự sẽ tuân theo luật logic, đơn giản.
Nhưng loại bỏ con người và cuộc sống mất đi mọi cái
đẹp của nó, bởi vì cuộc sống mất đi đỉnh cao tối
thượng của tiến hoá.
#8Câu hỏi thứ ba:
Thưa Thầy kính yêu,
Sao thầy cứ nói chống lại tri thức? Tôi chưa bao
giờ nghe thầy nói chống lại dốt nát.
Sargam, tri thức cản trở, dốt nát chưa bao giờ cản
trở. Tri thức làm bạn thành bản ngã, dốt nát chưa bao
giờ làm điều đó. Tri thức không là gì ngoài việc che
giấu dốt nát của bạn, che đậy nó lại. Nếu không có tri
thức, bạn sẽ biết dốt nát của bạn bởi vì sẽ không có gì
để che giấu nó cả. Và biết rằng "Mình là kẻ dốt nát" là
bước đầu tiên hướng tới trí huệ thực. Do đó tôi chưa
bao giờ nói chống lại dốt nát, dốt nát có cái gì đó đẹp
đẽ về nó. Một điều đẹp về dốt nát là ở chỗ nó có thể
cho bạn chiều hướng đúng để di chuyển.
Socrates nói: Ta chỉ biết một điều, là ta chẳng biết
gì. Nhưng Socrates là một trong những người trí huệ
nhất trên thế giới.
Chuyện xảy ra là vài người đã đi tới ngôi đền ở
Delphi, và nhà tiên tri ở Delphi tuyên bố rằng Socrates
là người trí huệ nhất, người trí huệ vĩ đại nhất đã từng
có. Những người đó hân hoan lắm bởi vì họ đã tới từ
Athens. Họ quay về, họ tới Socrates và họ nói, "Ông
cũng phải hân hoan đi. Ông đã nghe nói hay chưa?
Nhà tiên tri ở ngôi đền ở Delphi đã tuyên bố ông là
người trí huệ nhất trên trái đất."
Socrates nói, "Phải có điều gì đó sai rồi, hiểu nhầm
nào đó rồi, bởi vì ta là người dốt nát nhất; ta chỉ biết
một điều thôi, là ta chẳng biết gì. Các ông quay lại và
các ông bảo với nhà tiên tri rằng Socrates nói ông ấy là
người dốt nát nhất trên thế giới."
Họ quay lại, họ kể cho nhà tiên tri và nhà tiên tri
cười và nói, "Đó là lí do tại sao ta đã tuyên bố ông ấy
là người trí huệ nhất trên thế giới."
Do đó tôi chưa bao giờ nói chống lại dốt nát. Dốt
nát cũng có điều hay khác về nó: rằng nó là của bạn.
Tri thức bao giờ cũng là vay mượn. Và cái gì đó là của
bạn không thể bị lấy đi khỏi bạn được. Nó không thể
bị đánh cắp, bị cướp, nhưng tri thức có thể bị lấy đi
khỏi bạn rất dễ dàng. Nó được vay mượn.
Và khi bạn là người dốt nát bạn không có việc giả
vờ nào, bạn đơn giản, bạn hồn nhiên. Dốt nát có phẩm
chất của hồn nhiên về nó. Đó là lí do tại sao trẻ con
hồn nhiên thế, bởi vì chúng dốt nát thế. Người nguyên
thuỷ hồn nhiên thế bởi vì họ dốt nát thế; họ không tinh
ranh, họ không thể thế được. Họ không có đủ tri thức
để tinh ranh. Trước khi bạn có thể tinh ranh bạn phải
được giáo dục. Trước khi bạn có thể tinh ranh bạn cần
bằng đại học; càng có nhiều đại học, tinh ranh càng có
nhiều trên thế giới. Càng nhiều người trở nên thông
thái, họ càng lừa dối, tinh ranh, áp bức hơn. Và họ cứ
tìm ra mọi cách để khai thác người khác.
Dốt nát là thuần khiết, không pha trộn. Từ dốt nát
đi tới trí huệ, không tới tri thức. Nếu dốt nát trở nên có
tính thiền nó trở thành trí huệ; nếu dốt nát trở nên quan
tâm tới ngày một nhiều thông tin hơn thế thì nó trở
thành tri thức. Là thông thái sẽ không có ích chút nào.
Trí huệ giải phóng. Trí huệ là của bạn cũng nhiều như
dốt nát là của bạn.
Tri thức không chỉ lừa dối người khác, nó lừa dối
cả bạn nữa. Khi bạn biết trả lời như vẹt, bạn bắt đầu
nghĩ rằng bạn thực sự biết. Bởi vì bạn có thể đọc và
bạn có thể viết, bạn bắt đầu nghĩ rằng bạn biết; bởi vì
bạn có thể hiểu lời bạn bắt đầu nghĩ rằng bạn biết; bởi
vì thông minh của bạn bị che phủ bởi tính chất tri thức,
bạn bắt đầu nghĩ rằng bạn thông minh - nhưng bạn
không thông minh, chỉ có năng lực trí tuệ.
Thông minh là một phần của trí huệ, tính chất tri
thức là một phần của tri thức.
Vâng, Sargam, tôi nói chống lại tri thức bởi vì
không có gì nguy hiểm hơn tri thức. Nó cản trở bạn
khỏi việc biết bản thân bạn. Tri thức cản trở bạn khỏi
việc biết, bởi vì nó cho bạn những thứ giả, tổng hợp,
bằng nhựa để chơi và bạn quên tất cả về cái thực.
Đừng bắt đầu tin vào lời; đó là trò chơi nguy hiểm nhất
mà người ta có thể chơi. Đừng là con vẹt, bằng không
bạn sẽ đi ngày một xa hẳn khỏi cội nguồn bên trong
của bạn.
Một ngày trời rất nóng và con chó bước đi dọc
đường thì nó thấy một cửa hàng bán đồ ăn đem về nhà.
Nó đi vào và hỏi xin lon nước chanh.
"Ra ngay!" chủ tiệm nói. "Chó không được phép
vào cửa hàng thức ăn."
"Nhưng trông đây," con chó khát nói, "ông có một
tấm biển hiệu lớn bên ngoài nói rằng, "We Serve Hot
Dogs!" - Chúng tôi phục vụ chó nóng!
Chỉ biết lời là không đủ. Và bạn càng biết nhiều
lời, bạn sẽ càng trở nên lẫn lộn hơn, bởi vì bạn không
biết, lời của bạn chỉ ở trên bề mặt. Nếu ai đó cào xước
chút xíu thêm, dốt nát của bạn nhất định lòi ra. Mọi
người cứ giả vờ.
Khi tôi còn là sinh viên đại học, tôi có một giáo sư,
người thậm chí không phải rất thông thái - trí huệ là ở
ngoài vấn đề này rồi. Nhưng ông ấy có thói quen giả
vờ này. Bất kì khi nào bất kì ai mà nhắc tới bất kì cái
tên nào của một triết gia, tác giả, nhà thơ, nhà huyền
môn hay tên cuốn sách nào đó, ông ấy sẽ lập tức nói,
"Vâng, tôi đã đọc cuốn sách đó, nó hay," hay thế này
thế nọ, ông ấy sẽ đưa ra bình luận nào đó. Nhưng tôi
có thể thấy trong mắt ông ấy rằng câu trả lời ông ấy
đưa ra là hổng hoác, ông ấy đã không đọc cuốn sách
đó, ông ấy chẳng biết gì về người này và không ai đã
bao giờ thấy ông ấy trong thư viện. Tôi đã tới nhà ông
ấy nữa, và tôi đã không thấy cuốn sách nào ở đó cả.
Tôi hỏi ở thư viện - ông ấy đã ở trong đại học này
mười năm rồi - không một cuốn sách nào đã được lấy
ra theo tên ông ấy, và không ai đã từng thấy ông ấy
đọc, ngoại trừ đọc báo. Ông ấy đã không đọc cái gì
khác, và báo nữa, ông ấy thường mượn từ hàng xóm.
Tôi đã hỏi mọi chỗ, và tôi trở nên tuyệt đối chắc chắn
rằng ông ấy đơn giản giả vờ.
Một hôm tôi bịa ra ba cái tên, chỉ là bịa thôi. Tôi
bảo ông ấy, "Thầy đã đọc chưa, thưa thầy, sách của
Nomineo?"
Ông ấy nói, "Có." Bây giờ, chẳng có người nào
như Nomineo cả...
Tôi hỏi ông ấy, "Thầy có thể nói cho tôi tên cuốn
sách được không?"
Ông ấy trông có chút ít phân vân; ông ấy nói, "Tôi
phải đã đọc nó nhiều năm trước rồi, tôi đã quên mất
cái tên. Anh có thể hỏi thư viện."
Tôi nói, "Ông đi cùng đi." Trong thư viện không
có cái tên nào như Nomineo và không có sách nào ông
này đã viết, bởi vì ông này chưa bao giờ có cả - cho
nên làm sao ông này có thể viết sách được?
Tôi bảo ông ấy, "Hai cái tên kia cũng là bịa cả và
thầy đã đồng ý, và vài cuốn sách khác thầy đã đồng ý
rằng thầy đã đọc - chúng không tồn tại!"
Ông ấy kéo tôi sang bên và nói, "Nghe đây, đừng
kể chuyện này cho bất kì ai, tôi chẳng biết điều gì về
những cuốn sách đó cả. Nhưng người ta phải giữ thể
diện cho nhau. Tôi không muốn bị coi là ngu."
Mọi người cứ cố gắng giả vờ là cái họ không là.
Tri thức cho bạn sự giả vờ lớn lao nhất; bạn có thể
trích dẫn Phật, Jesus. Và bạn không hiểu họ đang nói
gì và bạn bao giờ cũng sẽ làm cái gì đó sai. Bạn sẽ
diễn giải họ theo cách sai.
Ở Ấn Độ có hàng nghìn bình chú về Bhagavadgita.
Bây giờ nếu Krishna là điên hay không lành mạnh thế
thì có thể hàng nghìn nghĩa cho lời của ông ấy. Nhưng
Krishna rất đặc biệt về điều ông ấy muốn nói. Vậy thì
làm sao bạn có thể giải thích cả nghìn bình chú này
được? Đây là những người áp đặt nghĩa của họ lên
Krishna. Nếu ông ấy quay lại và nhìn vào những bình
chú này bản thân ông ấy sẽ phân vân, bản thân ông ấy
sẽ khó khăn khi thử quyết định nghĩa của mình thực sự
là gì. Và những người này rất giỏi biện luận.
Bất kì ai cũng có thể chứng minh được bất kì cái
gì. Shankara chứng minh rằng Gita là triết học về từ bỏ
thế giới; thế giới là ảo tưởng, và Gita thuyết giảng từ
bỏ - và ông ấy chứng minh điều đó thực hay. Người
đương đại ông ấy, Ramanuja, chứng minh chính điều
đối lập: rằng Gita dạy người ta sống trong thế giới và
là người thành tâm của Thượng đế. Nó không thuyết
giảng về từ bỏ, nó dạy về nghệ thuật sống trong thế
giới với lời cầu nguyện.
Và Lokmanya Tilak thấy cái gì đó khác; ông ấy
nói Gita thuyết giảng hành động. Tất nhiên với sự tách
rời lớn lao - nhưng bạn phải hành động.
Ba người này là những con đường, con đường cổ
đại. Con đường của vô hành động, bất hành, đó là phát
kiến của Shankara trong Gita. Con đường của hành
động, đó là phát kiến của Lokmanya Tilak trong Gita.
Và con đường thứ ba là con đường của thành tâm;
Ramanuja đang tìm ra con đường thứ ba trong cùng
cuốn sách này. Và thế thì có các biến thể khác nhau
của cùng một chủ đề.
Người thông thái có thể cứ áp đặt ý kiến riêng của
họ về những người đã biết. Cách đúng đắn để bắt gặp
cuốn sách như Kinh Thánh, Gita hay Koran là không
có ý niệm nào, không có tri thức nào. Đương đầu với
chúng bằng im lặng lớn lao, hệt như tấm gương, chỉ
phản xạ, không diễn giải; thế thì bạn sẽ có khả năng
thấy nghĩa thực, nghĩa của chúng - không phải là nghĩa
của bạn áp lên nghĩa của chúng. Và người có thể trở
thành tấm gương không cần đi tới Gita, tới Koran hay
Kinh Thánh, người đó có thể tìm thấy thông điệp này
trong cây cối, trong tiếng chim hót, trong mây, trong
mặt trời, trong mặt trăng. Người đó có thể tìm thấy nó
ở bất kì đâu, bởi vì thông điệp của Thượng đế được
viết ở khắp sự tồn tại. Chữ kí của ngài ở trên từng
chiếc lá; bạn chỉ phải như tấm gương, im lặng, có tính
thiền, không ý nghĩ, không tri thức.
Đó là lí do tại sao tôi nói chống lại tri thức. Chính
tri thức đã trở thành tù túng của bạn.
Betty thường xuyên mất bạn trai bởi vì xu hướng
của bà cô ấy nói điều sai với họ trong nỗ lực của cô ấy
để là người hiện đại.
Một hôm, bạn trai hiện thời của cô ấy tới trong khi
Betty đang trên tầng, và bà già bắt đầu ba hoa về cô
cháu.
"Ta nghĩ Betty thà giao hợp còn hơn ăn," bà huyên
thuyên vui vẻ với anh thanh niên. "Gần như chẳng có
thanh niên nào xung quanh mà nó không giao hợp, và
nó thậm chí còn có sổ ghi lại giao hợp với ai."
Anh thanh niên đỏ mặt, nói lắp bắp, vớ lấy mũ
mình, và xéo thẳng.
Một lúc sau Betty xuống cầu thang, để ý thấy vắng
anh ta và nói, "Thôi được, bà ơi, lần này bà đã nói gì
thế?"
"Có gì đâu," bà già phản đối, "ta chỉ nó với anh ta
cháu thích giao hợp làm sao, thế là nó chạy mất tiêu ra
ngoài cổng."
"Ôi trời ơi, bà ơi, bao nhiêu lần cháu bảo bà rồi, từ
không phải là 'giao hợp', nó là 'giao lưu'!"
Điều xảy ra cho Jesus trong tâm trí bạn, điều xảy
ra cho Phật trong tâm trí bạn đích xác là cái gì đó
giống điều đó. Tâm trí bạn làm cả hai điều, nó giao
lưu, nó giao hợp. Gạt tri thức của bạn sang bên đi, đi
vào trong hồn nhiên sâu sắc, trong dốt nát sâu sắc, và
thế rồi bạn sẽ có khả năng tìm ra chân lí là gì. Chân lí
không được tìm ra bởi tri thức, nó được tìm ra bởi im
lặng. Và tri thức là tiếng ồn.
#8Câu hỏi cuối cùng:
Thưa Thầy kính yêu,
Có thực sự khó hiểu thầy không?
Dhammo, đó là cùng câu chuyện cổ. Bao giờ cũng
khó hiểu những người như tôi. Không phải là bạn
không đủ thông minh để hiểu, nhưng bởi vì bạn quá
thông thái. Bạn đã nghĩ bạn biết và điều đó là rắc rối.
Tới tôi mà không biết gì cả đi, đừng tới tôi như người
Hindu, Phật tử, người Ki tô giáo; bằng không bạn sẽ
hiểu lầm. Tôi đang nói những điều đơn giản, nhưng
nếu bạn đã có tâm trí định kiến, bạn sẽ bỏ lỡ chúng.
"Thật kinh khủng, mẹ ơi," cô thiếu nữ có thân hình
hấp dẫn phàn nàn. "Con phải đổi chỗ ngồi bốn lần
trong rạp chiếu bóng."
"Thằng nào bắt đầu quấy rầy con sao?" mẹ cô ta
hỏi.
"Vâng," cô gái nói. "Thằng cuối cùng."
Một cô gái Mĩ tới thăm nước Anh đi tới buổi tiệc
trang trọng. Cô ta nhảy cùng với một người Anh khá
đứng đắn thì chuỗi vòng cổ của cô ta bị tụt khoá và tụt
vào bên trong sau áo dài của cô ấy. Thế là cô ấy nhờ
bạn nhảy tìm lại nó.
Mặc dầu anh ta cảm thấy khá bất tiện khi cố gắng
với lấy chuỗi vòng cổ. Sau đôi lần thử, cuối cùng anh
ta nói, "Tôi tiếc là vụng về quá, nhưng tôi khó lấy
được nó."
"Thử xuống thêm nữa đi," cô ta chỉ dẫn.
Vừa lúc đó anh ta để ý rằng mọi con mắt trong
phòng đều đổ dồn về mình, và anh ta đỏ mặt như củ cà
rốt. Anh ta thì thào với cô người Mĩ đáng yêu, "Anh
cảm thấy đến đít rồi!"
"Đừng bận tâm về cái đó," cô ta nói. "Lấy cái vòng
cổ thôi!"
Các ngôn ngữ khác nhau... Tôi nói ngôn ngữ này,
bạn nói ngôn ngữ khác. Vào lúc lời đạt tới bạn chúng
có nghĩa khác toàn bộ. Chừng nào bạn chưa lắng nghe
tôi trong cùng không gian im lặng mà trong đó tôi
đang nói với bạn, hiểu lầm là không tránh khỏi. Nhưng
điều đó có thể được tránh. Có tính thiền thêm chút ít
nữa đi, học cách im lặng hơn - và nhiều người trong
các bạn đang học, và nhiều người trong các bạn đã trở
nên nhận biết về nó, và nhiều người trong các bạn
đang nếm trải tôi mà không hiểu lầm tôi chút nào.
Điều đó sẽ xảy ra cho bạn nữa, Dhammo. Bạn là
người mới; để có chút ít mùa vụ, chút ít chín muồi và
chín chắn. Và chỉ người chín chắn được yêu cầu ở đây
mới ngồi cùng tôi tuyệt đối trống rỗng, để cho tôi có
thể vang vọng bên trong bạn, để cho tôi có thể chạm
vào tim bạn, để cho tôi có thể chơi trên chiếc đàn của
trái tim bạn.
Thế thì âm thanh được tạo ra sẽ không tới từ tâm
trí bạn; bằng không, nếu bạn giữ tâm trí giữa tôi và
bạn, thế thì bất kì nghĩa nào bạn đi tới cũng đều là của
riêng bạn; tôi chẳng liên quan gì tới nó cả, nó chẳng
liên quan gì tới tôi cả.
Đợi một chút, Dhammo, trở nên chút ít im lặng
thêm nữa đi, học cách ở trong giao cảm với tôi. Ở với
thầy là chuyện tình, chuyện tình không thể diễn đạt
được bằng lời; nhưng người ta có thể có được sự hoà
điệu, nó là việc làm hài hoà. Dần dần, dần dần đệ tử
rơi vào hoà hợp với trái tim của thầy. Đệ tử thở theo
cách thầy thở, trái tim của của người đó đập theo cùng
nhịp với trái tim thầy. Thế thì hiểu biết tới tự nhiên
thế; cũng như cái bóng theo sau bạn, hiểu biết theo sau
im lặng.
Đủ cho hôm nay.
******************************************************
#9Tâm trí là giả dối
Buông bỏ giận, buông bỏ tự kiêu.
Khi ông không bị gắn với cái gì,
Ông vượt ra ngoài khổ.
Giận giống như chiếc xe ngựa lao điên cuồng.
Người kìm lại giận của mình
là người đánh xe thực.
Người khác đơn thuần giữ dây cương.
Với hoà nhã vượt qua giận,
Với hào phóng vượt qua hèn hạ,
Với chân lí vượt qua giả dối.
Nói ra chân lí,
cho bất kì cái gì ông có thể cho,
Không bao giờ giận.
Ba bước này sẽ đưa ông
vào trong sự hiện diện của Thượng đế.
Người trí huệ không làm hại ai,
Họ là người chủ của thân thể mình
và họ đi tới quốc gia vô biên giới,
Họ vượt ra ngoài khổ.
Những người tìm kiếm hoàn hảo
giữ việc quan sát cả ngày và đêm
cho tới khi tất cả ham muốn tan biến.
lắng nghe, Atula, điều này không mới,
đó là câu ngạn ngữ cổ.
Họ trách ông vì việc im lặng,
Họ trách ông khi ông nói quá nhiều
và khi ông nói quá ít.
Bất kì điều gì ông làm họ đều trách ông.
Thế giới bao giờ cũng tìm ra cách ca ngợi
và cách chê trách.
Nó bao giờ cũng có và nó bao giờ cũng sẽ vậy.
Nhưng ai dám trách người
mà người trí huệ liên tục ca ngợi,
người có cuộc sống đức hạnh và trí huệ,
người toả sáng như đồng tiền vàng ròng?
ngay cả các thần ca ngợi người đó,
ngay cả Brahma ca ngợi người đó.
nhận biết về giận của thân,
làm chủ thân,
để nó phục vụ chân lí.
nhận biết về giận của mồm,
làm chủ lời của ông,
để chúng phục vụ chân lí.
nhận biết về giận của tâm trí,
làm chủ ý nghĩ của ông,
Để chúng phục vụ chân lí.
Người trí huệ đã làm chủ thân, lời và tâm trí,
Họ là người chủ thực.
Lời kinh thứ nhất:
Buông bỏ giận, buông bỏ tự kiêu.
Khi ông không bị gắn với cái gì,
Ông vượt ra ngoài khổ.
Điều quan trọng nhất cần được hiểu là ở chỗ Phật
không nói, "Kìm nén giận, kìm nén tự kiêu." Và ông
ấy không nói, "Vứt bỏ giận, vứt bỏ tự kiêu." Ông ấy
dùng từ buông bỏ giận, buông bỏ tự kiêu. Chìa khoá là
trong từ 'buông bỏ'.
Có những người đầy giận, bị sở hữu bởi giận, bị sở
hữu bởi tự kiêu. Họ là điên khùng. Điên khùng là cực
đỉnh của tự kiêu và giận. Và có những người sợ giận
và tự kiêu; do đó họ kìm nén chúng. Nhưng điên
khùng bị kìm nén là nguy hiểm hơn nhiều, bởi vì nó
tích luỹ. Thế thì bạn đang ngồi trên núi lửa. Nó có thể
bùng phát bất kì khoảnh khắc nào. Nó sẽ phá huỷ bạn.
Nó sẽ phá huỷ người khác, những người có quan hệ
với bạn. Nó là chất độc.
Nếu người ta phải chọn giữa hai điều này, diễn đạt
hay kìm nén, thế thì diễn đạt còn tốt hơn nhiều, bởi vì
ít nhất chất độc không bao giờ tích luỹ. Nó được tống
ra theo liều nhẹ, liều vi lượng. Nhưng nếu bạn tích luỹ,
nó không còn là liệu pháp vi lượng, nó trở thành liệu
pháp đối chứng. Thế thì liều lượng là lớn, sớm hay
muộn, giận bị kìm nén của bạn sẽ mạnh tới mức bạn sẽ
không có khả năng giữ được nó bị kìm nén thêm nữa.
Thế thì nó đơn giản bùng nổ và bạn tuyệt đối bất lực.
Nhân loại đã được dạy kìm nén giận bởi tu sĩ,
chính khách, nhà sư phạm qua nhiều thời đại. Xã hội
không quan tâm tới bạn, nó quan tân chỉ tới dáng vẻ
bên ngoài của bạn. Điều xảy ra cho thế giới bên trong
của bạn không là việc của ai cả; liệu bạn có khổ
không, có sống trong địa ngục bên trong không, điều
đó bị bỏ lại cho bạn. Chỉ cần giữ dáng vẻ đẹp, học
cách xã giao, cư xử theo cách có văn hoá và nếu bạn
đang mang địa ngục đó là vấn đề của bạn.
Nhưng người đang mang địa ngục bên trong, dù
người đó có trở nên được trau dồi, tinh vi, văn hoá thế
nào, người đó vẫn còn là con thú hoang bên trong. Cào
người đó chút ít thôi và tính người của người đó sẽ
biến mất, tính cách của người đó sẽ biến mất và bạn sẽ
thấy loại người đối lập ở bên trong. Đó là điều xảy ra
khi ai đó uống say quá nhiều. Người rất có văn hoá,
một khi người đó bị say, bắt đầu thành rất vô văn hoá.
Đó là cái ta thực hơn của người đó. Rượu cồn đã
không tạo ra nó; nó chỉ loại bỏ rào chắn, nó chỉ loại bỏ
tảng đá đã kìm nén nó.
Ở phương Đông đã từng có một tín ngưỡng bí mật
của những người mật tông, người thực hành thiền - và
đi liền cạnh đó họ cứ dùng ma tuý với lượng ngày
càng lớn hơn bởi lí do nào đó. Họ không quan tâm tới
ma tuý, họ quan tâm tới thiền. Nhưng họ cứ tăng dần
lượng ma tuý dần dần, dần dần để cho họ có thể vẫn
còn tỉnh táo với ma tuý. Mất một thời gian lâu, đó là
quá trình thức tỉnh rất tinh tế.
Trong tay của kẻ ngu nó sẽ có tính huỷ diệt, nó sẽ
có tính tự tử. Do đó nó là truyền thống thiêng liêng.
Chỉ thầy đem nó cho đệ tử - và rất hãn hữu. Nếu thầy
thấy đệ tử nào đó có tính toàn vẹn thế, chỉ thế thì thầy
mới cho quá trình này: "Thiền và cứ tăng lượng ma tuý
lên chậm rãi để cho nó không bao giờ chế ngự ông và
việc quan sát của ông vẫn không bị động chạm tới."
Nhưng ma tuý sẽ bắt đầu loại bỏ đi mọi tảng đá và
nó sẽ đem ra tất cả những điều bạn đã từng kìm nén
qua các thời đại trong nhiều kiếp sống của mình. Quan
sát điều đó bạn sẽ cho phép nó biến mất. Đó là phép
thần của quan sát. Nếu bạn quan sát cái gì đó, hoặc nó
sẽ biến mất toàn bộ khỏi bản thể bạn, hoặc nó sẽ biến
vào trong bản thể bạn. Nếu nó là cái gì đó tự nhiên, tự
phát, nó sẽ bị tan biến vào trong bản thể bạn. Điều đó
nữa cũng đẹp. Nếu nó là cái gì đó không phải là một
phần của bản thể bạn, bắt nguồn từ ngoài - đã tới từ
bên ngoài, là cái bám vào bạn - nó sẽ bay hơi.
Định nghĩa thực về tốt và xấu chỉ có thể là thế này:
tốt là cái trưởng thành cùng thiền, tính quan sát, và xấu
là cái biến mất khi bạn trưởng thành trong quan sát,
khi bạn trưởng thành trong nhận biết. Nhận biết phải là
nhân tố quyết định. Khi bạn trở nên nhận biết về giận
của bạn sẽ xảy ra buông bỏ, bởi vì giận không phải là
một phần của bản thể tự nhiên của bạn, tự kiêu cũng
vậy. Chúng bắt đầu bay hơi. Khi mặt trời của nhận biết
lên trong bạn, chúng bắt đầu bay hơi như giọt sương
trong mặt trời buổi sáng sớm.
Và điều thứ hai cần nhớ: Phật đưa ra hai phát biểu
này cùng nhau, buông bỏ giận, buông bỏ tự kiêu. Tại
sao? Có lí do: tự kiêu là bản ngã, "Ta cao siêu hơn, ta
thánh thiện hơn, ta vĩ đại hơn, ta là cái gì đó đặc biệt,
ta đây." Bản ngã là căn nguyên của giận. Nếu bạn nghĩ
bạn cao siêu hơn, cao hơn, thánh thiện hơn, đặc biệt
hơn, bạn sẽ thường xuyên giận, bởi vì thế giới sẽ
không chấp nhận điều đó. Thực ra mọi người khác
cũng nghĩ theo cùng cách ngu xuẩn này. Và khi có
nhiều người vĩ đại thế, xung đột nhất định nảy sinh. Và
mọi người đều cố gắng chứng minh rằng, "Ta vĩ đại
hơn ông." Làm sao bạn có thể tránh được xung đột?
Và xung đột đó đem tới giận. Chính bản ngã tổn
thương, chính bản ngã cảm thấy đau, chính bản ngã
không thoả mãn tạo ra giận. Và bản ngã của mọi người
đều không thể được thoả mãn, điều đó là không thể
được.
Ngay cả người như Napoleon cũng không thể cảm
thấy bản ngã mình tuyệt đối được thoả mãn, bởi một lẽ
đơn giản là ông ấy không cao lắm - chỉ khoảng mét
sáu lăm. Và điều đó bao giờ cũng đè nặng lên ông ấy,
bởi vì ông ấy có nhiều người hầu, lính gác cao hơn bản
thân ông ấy rất nhiều. Và bất kì khi nào ông ấy thấy
một người cao ông ấy đều trở nên giận. Ông ấy sẽ
không thể tự kiểm soát được bản thân mình.
Nhà lãnh đạo Nga vĩ đại, Lenin, có đùi rất nhỏ.
Thân hình ông ấy lớn hơn, thân trên ông ấy lớn hơn;
thân dưới của ông ấy rất nhỏ, không cân xứng. Điều đó
làm cho ông ấy bao giờ cũng giận. Ngay cả ai đó nhìn
vào chân ông ấy - điều tự nhiên, bởi vì chúng không
cân xứng tới mức bất kì ai cũng sẽ để ý - ông ấy sẽ trở
nên giận ngay lập tức. Bất kì ai nhìn vào chân ông ấy
đều tạo nên giận.
Ông ấy thường ngồi trên chiếc ghế lớn - lớn tới
mức chân ông ấy sẽ không chạm đất - cho nên không
ai nghĩ rằng ông ấy có chân nhỏ. Nhưng mọi người đã
trở nên nhận biết về chiếc ghế lớn của ông ấy; họ sẽ
nhìn gần hơn và điều đó lại tạo ra giận, bởi vì họ sẽ
thấy rằng chân ông ấy không chạm đất chút nào. Bây
giờ, là người độc tài của một nước lớn nhất trên thế
giới, nước Nga Xô viết, nước lớn nhất trên thế giới vậy
mà lại cảm thấy bị tổn thương bởi lí do rất ngu xuẩn...
rằng bạn có đùi nhỏ!
Bạn không thể có tất cả và mọi thứ được. Bạn có
thể thu xếp để có vài thứ, nhưng vào thứ khác sẽ bị
thiếu. Bạn có thể cao, nhưng bạn có thể xấu. Bất kì cái
gì nhỏ là đủ làm tổn thương bản ngã. Bạn có thể rất
cao và rất đẹp trai, nhưng không thông minh - bạn có
thể có tâm trí rất tầm thường. Bạn có thể có tâm trí rất
thông minh, nhưng thân thể rất yếu ớt. Bạn có thể có
thân thể rất mạnh mẽ, thể hình rất tốt, nhưng bạn
không có thông minh nào. Bạn không thể xoay xở tất
cả được. Bạn có thể có thông minh, thân hình đẹp
nhưng không có tiền. Thế giới bao la và có cả nghìn lẻ
một thứ và không ai có thể xoay xở có nó tất cả -
không ai đã bao giờ có khả năng làm điều đó.
Và bản ngã nhất định bị tổn thương; bản ngã rất
nhạy cảm, rất mong manh, bởi vì nó rất giả tạo. Chính
bản ngã tạo ra không gian để giận nảy sinh. Do đó
Phật nói, buông bỏ giận, và ngay lập tức nói thêm,
buông bỏ tự kiêu. Bởi vì chừng nào bạn chưa buông bỏ
bản ngã bạn sẽ không có khả năng buông bỏ giận.
Giận là sản phẩm phụ. Và người ta phải thấy rất rõ
ràng nguyên nhân của mọi sự. Tâm trí bạn lộn xộn thế,
trong hỗn độn thế, bạn không biết cái gì là nguyên
nhân và cái gì là hậu quả.
Một người đàn bà thường từ một làng xa xôi tới
thành phố mỗi năm để sinh con. Khi cô ấy tới lần thứ
mười bẩy bác sĩ nói, "Chúng tôi bao giờ cũng chờ đợi
cô. Cô là người duy nhất chúng tôi có thể tuỳ thuộc
rằng từng năm cô sẽ ở đây. Khi nào cô sẽ tới sang
năm?"
Cô ấy nói, "Tôi sẽ không tới nữa đâu, vì chúng tôi
đã phát hiện ra nguyên nhân của nó tất cả là gì."
Mười bẩy đứa trẻ và họ chỉ mới phát hiện ra
nguyên nhân của nó tất cả! Cô ấy nói, "Tôi sẽ không
tới nữa đâu."
Nhưng điều đó cũng là sớm đấy. Bạn có thể đã
sống hàng nghìn kiếp và bạn vẫn chưa có khả năng tìm
ra nguyên nhân... sao có giận này? Tâm trí chúng ta
trong đống lộn xộn tới mức bạn không thể biết đầu
đuôi của nó ra sao. Bạn không thể phân loại được nó
ra. Mọi thứ bị trộn lẫn với mọi thứ khác: nguyên nhân
giả làm hậu quả, hậu quả giả làm nguyên nhân, mọi sự
không có liên quan chút nào đã trở thành được liên kết
ngẫu nhiên với nhau.
Betty Engrove, ca sĩ, bật radio lên vào một sáng và
chỉnh máy vào hai đài phát một lúc: một đài phát bài
tập thể dục mềm dẻo và đài kia cho thực đơn nấu ăn.
Đây là điều cô ấy nghe thấy: "Đưa tay lên hông, cho
một chén bột lên vai bạn. Chạm ngón chân bạn và trộn
lẫn chúng trong một nửa chén sữa, lặp lại sáu lần. Hít
vào một nửa thìa trà bột bánh, hạ thấp đùi và đánh nát
hai quả trứng luộc kĩ, thở ra trong một bát và thở tự
nhiên. Nằm thẳng ra trên sàn và đun lòng trắng trứng
cho tới khi nó tới điểm sôi. Trong mười phút nâng đầu
bạn lên khỏi lửa và cọ sạch mạnh bằng khăn ráp. Uốn
đầu gối, lắc đường bột lên chúng và dùng nó với súp."
Và tâm trí bạn được điều chỉnh theo nhiều đài phát
thế, không chỉ hai! Đủ mọi loại thứ đang diễn ra bên
trong tâm trí. Một ngày nào đó ngồi xuống và viết ra
bất kì cái gì tới trong tâm trí. Và đừng gian lận, chỉ
viết ra đích xác bất kì cái gì tới và bạn sẽ ngạc nhiên là
đây mà là tâm trí mình, đây là chỗ bạn đã từng sống
cuộc sống mình từ đó. Bạn sẽ thấy nó tuyệt đối điên
rồ.
Cũng tốt là chúng ta không có cửa sổ trong đầu,
bằng không người khác sẽ nhìn vào bên trong và họ sẽ
ngạc nhiên; họ sẽ không thể nào tin được rằng đây là
bạn. Bạn cũng sẽ không có khả năng tin được rằng đây
là điều tâm trí bạn là gì.
Nhưng đây là thực tại. Mọi người chưa bao giờ
nhìn vào bên trong. Thực ra, cứ dường như vô ý thức,
họ nghi ngờ rằng nếu họ nhìn vào bên trong họ sẽ thấy
điên khùng ở đó. Tốt hơn cả là không nhìn; né tránh,
giữ tâm trí trong bóng tối và vẫn còn bận bịu với cái gì
đó trong thế giới bên ngoài. Mọi người giữ cho bản
thân họ bận rộn mà chẳng có việc gì bởi lẽ đơn giản là
điều đó giúp cho họ không nhìn vào trong. Họ đã trở
nên xa lạ với tâm trí riêng của mình.
Nếu bạn nhìn vào trong, lúc ban đầu của tiến trình
tất nhiên nó sẽ là hỗn độn; nhưng nếu bạn bắt đầu quan
sát hỗn độn, dần dần, dần dần mọi sự bắt đầu lắng
đọng và bạn sẽ có khả năng thấy cái gì là nguyên nhân
và cái gì là hậu quả. Một khi bạn đã biết nguyên nhân,
bạn đang trên đường đúng. Nhiều người tranh đấu với
hậu quả. Bạn không bao giờ có thể thắng được, bạn
nhất định thua. Hậu quả chỉ là triệu chứng. Bạn không
thể tranh đấu được với giận, bởi vì nó chỉ là hậu quả -
nguyên nhân là bản ngã.
Bạn không thể tranh đấu được với nguyên nhân
nữa; chừng nào bạn chưa thấy rằng đây là nguyên nhân
tối thượng. Giận là hậu quả; với giận, bản ngã là
nguyên nhân. Nhưng nếu bạn đi sâu xuống dưới, quan
sát bản ngã của bạn, bạn sẽ ngạc nhiên, đến lượt nó, nó
cũng là hậu quả - hậu quả của vô nhận biết. Vô nhận
biết là nguyên nhân.
Bạn có thể đi từ bất kì chỗ nào - từ tham, từ thèm
khát, từ giận, từ ghen tị, từ sở hữu và bạn bao giờ cũng
đi tới nguyên nhân tối thượng: vô nhận biết.
Cho nên cách duy nhất để gạt bỏ đống lộn xộn
này, hỗn độn này, là nhận biết. Và một khi bạn nhận
biết bạn không cần kìm nén cái gì cả, bạn thậm chí
không cần vứt bỏ; mọi sự bắt đầu vứt bỏ theo cách
riêng của chúng, chúng bắt đầu biến mất theo cách
riêng của chúng. Đó là điều Phật ngụ ý khi ông ấy nói:
buông bỏ giận, buông bỏ tự kiêu. Khi ông không bị
gắn với cái gì, ông vượt ra ngoài khổ. Và đây là hai
điều đang giữ bạn bị buộc vào trạng thái điên khùng.
Đây là hai điều đang tạo ra tất cả buồn và khổ của bạn.
Bản ngã, ẩn đằng sau, cứ làm việc, đầu độc bạn. Giận
hoặc được diễn đạt, thế thì nó đầu độc mối quan hệ của
bạn với mọi người, hoặc nó bị kìm nén, thế thì nó đầu
độc bản thể riêng của bạn.
Và dần dần, dần dần bạn thấy bản thân bạn trong
trạng thái mà trong đó nhiều người muốn chết; nhiều
người suy tư về tự tử bởi lí do đơn giản là cuộc sống
đau khổ thế và cái chết dường như là sự giảm nhẹ.
Hàng triệu người trên trái đất suy tư về tự tử - nhiều
người trong số họ thử, nhiều người trong số họ thành
công nữa. Và những người không nghĩ về tự tử thì
nghĩ về giết người; họ nghĩ rằng người khác đang tạo
ra rắc rối của họ, cho nên phá huỷ người khác. Hoặc
họ muốn phá huỷ người khác, hoặc họ muốn phá huỷ
bản thân họ, bởi vì họ không thấy vui vẻ trong cuộc
sống. Khi bạn không thấy vui vẻ trong cuộc sống, khi
bạn không phúc lạc, bạn trở nên có tính phá huỷ, hoặc
là kẻ tàn bạo với mọi người hoặc là kẻ tự bạo với
mình.
Khi cuộc sống của bạn đầy vui vẻ, vui vẻ vô biên,
nó có tính sáng tạo, thế thì tính sáng tạo lớn được sinh
ra trong bạn. Thế thì bạn làm cái gì đó đóng góp cho
tiến hoá nhân loại, cho tiến hoá của toàn thể vũ trụ.
Bạn thêm cái đẹp nào đó cho nó, bạn chia sẻ lễ hội của
bạn với nó. Ít nhất bạn làm cho vài đoá hoa nở ra.
Bạn rời khỏi thế giới trong mãn nguyện lớn lao,
bởi vì sáng tạo đem tới mãn nguyện. Bạn rời khỏi thế
giới này một cách vui vẻ, bởi vì nó đã là cơ hội đẹp thế
để trưởng thành, để chín chắn, để trở nên nhận biết. Nó
đã là vui vẻ thế để tạo ra vài điều và chia sẻ những
điều đó với mọi người; bằng không bạn sống trong khổ
và bạn chết trong khổ.
Giận giống như chiếc xe ngựa lao điên cuồng.
Người kìm lại giận của mình
là người đánh xe thực.
Người khác đơn thuần giữ dây cương.
Nếu bạn nhìn vào mọi người hay vào bản thân bạn,
bạn sẽ thấy rằng giận dường như là chiếc xe ngựa
không có người đánh xe.
Mới hôm nọ tôi đọc một cuốn sách:
Một người đã sống trong sa mạc và người đó viết
nhiều kinh nghiệm người đó có ở đó. Người đó đã thử
một thử nghiệm:
Không có đường, không có người, không cây,
không đá, không núi; chỉ sa mạc, lan rộng hàng nghìn
dặm. Và trong hàng thế kỉ nó đã từng cằn cỗi thế, nó
đã trở thành cứng rắn. Nó không phải là sa mạc cát,
lớp vỏ là rất cứng.
Ông ấy đang lái xe, bỗng nhiên một ý niệm kì quái
nảy sinh trong ông ấy. Ông ấy chuyển sang chỗ ngồi
bên cạnh chỗ người lái xe - ông ấy là người duy nhất
trong xe. Ông ấy bỏ chỗ của người lái và để cho xe
chạy theo cách riêng của nó, bởi vì không đường,
không người, không sợ tai nạn nào cả. Chiếc xe bắt
đầu chạy. Đó là kinh nghiệm hiếm hoi. Thế rồi ông ấy
nhảy ra khỏi xe.
Những ý niệm lớn tới với tâm trí ông ấy... và chiếc
xe vẫn đi tiếp. Thế rồi ông ấy đuổi theo xe, nhảy lại
vào xe, lấy ra chiếc xe đạp và đi đích xác ngược hướng
chiếc xe hơi trên chiếc xe đạp cho tới khi chiếc xe hơi
chỉ là một đốm nhỏ xa xăm trên đường chân trời. Nó
vẫn đi, đi tới không đâu cả, vẫn đi.
Thế rồi ông ấy lại đạp xe theo hướng chiếc xe hơi.
Điều đó thật kì lạ. Ông ấy viết điều xúc động là chiếc
xe vẫn đi, đi tới không đâu cả.
Đọc ghi chú của ông ấy, tôi bỗng nhiên nhớ lời
kinh Phật: Giận giống như chiếc xe ngựa lao điên
cuồng. Người kìm lại giận của mình là người đánh xe
thực. Người khác đơn thuần giữ dây cương. Họ thậm
chí có thể không giữ dây cương - họ có thể đơn giản
ngồi đó. Chiếc xe đang chạy theo cách riêng của nó.
Thân thể bạn đang chạy theo cách riêng của bó, tâm trí
bạn đang chạy theo cách riêng của nó. Bạn không
được cần tới chút nào. Bạn có thể nhảy ra khỏi cửa sổ,
lấy xe đạp, đi xa khỏi xe hơi và nó vẫn đang đi. Và
một ngày nào đó bạn có thể quay về để gặp bản thân
bạn.
Vâng, điều này đã từng được thử. Mọi người trong
nhiều thời đại đã thử kinh nghiệm ra ngoài thân thể;
chúng đích xác là như nhau. Bạn có thể thử nó. Nếu
bạn đi sâu hơn một chút vào trong thiền, một ngày nào
đó bạn có thể tìm ra cách thoát ra khỏi thân thể, để
chạy trong phòng. Thậm chí chạy cũng không được
cần tới, bạn có thể nổi trong không trung, nhìn vào
thân thể đang nằm dưới đó, ngủ, ngáy; bạn có thể nghe
thấy tiếng ngáy. Mọi thứ đều vận hành hoàn hảo, động
cơ chạy rù rù, bạn có thể lại gần trái tim và nghe nhịp
đập. Thân thể đang thở.
Bạn không được cần tới chút nào. Bạn có thể thoát
ra từ cửa sổ, đi quanh nhà hàng xóm, quay lại, đi vào
trong thân thể mình, bạn vẫn ngủ say. Điều đó không
tạo ra khác biệt, dường như thân thể không để ý gì
nhiều liệu bạn ở trong hay ở ngoài.
Thân thể là cái máy rất phức tạp, tinh tế; nó tự
động chạy, nó không cần tới bạn. Bạn đã chẳng làm gì,
đó là lí do tại sao bạn không được cần tới.
Nếu bạn trở thành người đánh xe thực, thế thì bạn
sẽ được cần tới. Nếu bạn là thiền nhân bạn sẽ được cần
tới. Thế thì có vài điều thân thể không thể làm được.
Nó không thể thiền theo cách riêng của nó - điều đó là
không thể được. Nó có thể ngáy, nó có thể ngủ theo
cách của nó, nhưng nó không thể nhận biết theo cách
của nó. Để nhận biết bạn được cần tới.
Nhớ điều đó: mỗi điều đó là xứng đáng làm để với
nó bạn được cần tới. Mọi sự có thể được làm mà
không có bạn đều là những điều không bản chất. Dành
cả đời bạn cho chúng là bỏ lỡ toàn thể vấn đề.
"Đưa tôi ra nhà ga đường sắt," người say nói,
loạng choạng chui vào xe taxi đang đợi.
"Nhìn đi anh bạn, chúng ta đang ở nhà ga rồi," tài
xế nói.
"Cám ơn," người say lầm bầm, đưa ra tờ năm đô
la. "Và lần sau, đừng lái xe nhanh quá thế."
Taxi chưa chạy lấy một li. Cuộc sống của bạn có
thể vẫn còn đích xác ở chỗ nó đã ở khi bạn được sinh
ra. Nó có thể không di chuyển lấy một li. Hàng triệu
người chết đi đích xác như họ được sinh ra. Không
trưởng thành xảy ra, không việc nở hoa nào tới cuộc
sống của họ. Liệu họ hiện hữu hay không hiện hữu đơn
giản không khác biệt gì. Họ tới và đi như cái bóng.
Cuộc sống của họ không đáng gọi là sống; họ đơn giản
sống vô vị.
Một nông dân nhai chiếc bánh đang nhìn một con
gà trống lớn đuổi theo gà mái và đuổi theo sát nút tại
mỗi vòng. Người nông dân ném một mẩu bánh ở trước
đôi đang đuổi nhau.
Con gà trống tới chỗ bánh rơi và kêu cục cục báo
có món ăn ngon.
"Kì cục thật," người nông dân nói, "ta hi vọng ta
không bao giờ bị đói thế."
Nhưng gà trống, sư tử, hổ, chó, mèo và bạn, đều
không khác theo bất kì cách nào - chừng nào cái gì đó
của phật tính chưa bắt đầu nảy sinh trong bạn. Con gà
trống bị chi phối bởi cơn đói của nó, bởi khao khát của
mó; bạn cũng thế.
B.F. Skinner, nhà tiên tri hiện đại của trường phái
hành vi chủ nghĩa trong tâm lí học, nói rằng con người
là cái máy. Và với quãng chín mươi phẩy chín phần
trăm mọi người ông ấy là đúng. George Gurdjieff
thường nói rằng con người là cái máy. Và ông ấy
không phải là nhà tâm lí hành vi. Ông ấy là một trong
những người khổng lồ tâm linh vĩ đại nhất đã từng
bước đi trên trái đất này. Nhưng dầu vậy ông ấy vẫn
hay nói rằng không phải ai cũng có linh hồn. Rất hãn
hữu mà một người có linh hồn.
Và tôi có thể hiểu được B.F. Skinner. Điều không
thể cho ông ấy là bắt gặp được vị phật và nghiên cứu
vị phật. Ông ấy đã nghiên cứu chuột và bạn; và ông ấy
thấy không khác biệt gì. Bản năng của chuột là hệt như
bản năng của người. Tất nhiên người là cái máy phức
tạp hơn, đúng, có chút ít phức tạp hơn, có vậy thôi; cái
máy tính.
Một hôm tôi đọc được một chuyện viễn tưởng về
tương lai, khi các nhà khoa học sẽ có khả năng làm
người máy, robot. Chúng trông đích xác như con
người ngoại trừ rằng chúng không có linh hồn. Nhưng
từ bên ngoài bạn không thể thấy khác biệt gì: chúng
nói, chúng làm tình, chúng ăn, chúng mệt và chúng đi
ngủ. Và nếu bạn gặp một robot - kẻ trông đích xác
giống người - làm sao bạn đánh giá được anh ta có là
robot không? Bạn đang cầm tay robot hay người? Chỉ
thỉnh thoảng bạn mới có khả năng biết: khi hết pin và
robot bắt đầu, "Gừ, gừ, gừ." Bằng không chẳng có
khác biệt gì.
Bạn làm tình với robot và robot nói, "Gừ, gừ, gừ."
Thế thì bỗng nhiên bạn trở nên nhận biết rằng đây
không phải là người! Nhưng mãi cho tới giờ anh ta đã
hoàn toàn phải. Anh ta trích dẫn thơ ca lớn, thảo luận
những ý niệm lớn, triết lí, trích dẫn Socrates và
Aristotle và anh ta ôm bạn và nói với bạn, "Anh yêu
em, và anh sẽ yêu em mãi mãi."
Và đây tất cả đều là những thứ được ghi âm lại mà
anh ta đã từng nói với mọi đàn bà anh ta gặp. Khoảnh
khắc anh ta thấy người đàn bà cái gì đó lảy cò trong
anh ta và anh ta bắt đầu nói có vẻ thơ ca và nói, "Anh
yêu em và anh sẽ chết nếu không có em."
Tôi đã nghe nói về một nhà phân tâm đã rất phân
vân. Ông ấy yêu một người đàn bà, nhưng người đàn
bà này có chút ít kì lạ. Bất kì khi nào ông ấy nói với cô
ấy, "Anh yêu em," cô ấy đều nhìn xuống.
Anh ta hỏi cô ấy, "Có chuyện gì vậy? Bất kì khi
nào anh nói, 'Anh yêu em,' em đều cảm thấy xấu hổ,
bối rối hay cái gì? Sao em bắt đầu nhìn xuống?"
Cô ấy nói, "Em nhìn xuống để xem liệu anh có
thực sự ngụ ý điều đó không... Bởi vì em không thể tin
cậy được vào tâm trí anh. Em chỉ có thể tin cậy vào
thân thể anh."
Rất khó nói dối qua thân thể. Người ta có thể học
điều đó, diễn viên làm điều đó - nhưng rất ít người là
diễn viên. Bằng không đó là nghệ thuật rất khó để làm
cho thân thể nói dối. Tâm trí cực kì dễ dàng nói dối; nó
có thể nói những điều mà nó không ngụ ý. Nhưng thân
thể vẫn đích thực hơn, đúng hơn nhiều. Điều mỉa mai
là thân thể dường như đích thực hơn và tâm trí bạn
dường như đơn giản gian lận!
Bạn có thể đạt tới linh hồn chỉ bởi việc trở nên
ngày một có tính quan sát hơn về mọi điều đang xảy ra
trong thân thể bạn và trong tâm trí bạn. Chừng nào và
cho tới khi nhân chứng chưa nảy sinh trong bạn, bạn là
robot.
Sheela đã viết một câu hỏi cho tôi: "Khi tôi đi xa
khỏi thầy, tôi là chuột cống, nhưng khi tôi trở lại với
thầy, tôi trở thành chỉ là chuột nhắt."
Tôi biết điều cô ấy ngụ ý. Mọi người nghĩ có nhiều
khác biệt giữa chuột cống và chuột nhắt; không có
mấy khác biệt đâu. Chuột nhắt chỉ là chuột phức tạp,
có giáo dục đại học, đạo đức giả. Chuột cống là đích
thực hơn nhiều, chuột cống là bất kì cái gì nó đang là.
Chuột nhắt có mẽ ngoài. Nhưng không có mấy khác
biệt giữa chuột cống và chuột nhắt. Không có mấy
khác biệt giữa chuột nhắt và người, và không có mấy
khác biệt giữa người và máy.
Khác biệt nảy sinh - khác biệt duy nhất tạo ra khác
biệt - là thiền. Trước điều đó, bạn không bao giờ có bất
kì khác biệt nào. Tất cả khác biệt chỉ là hình thức.
Đó là lí do tại sao các nhà tâm lí nghiên cứu về
chuột, đặc biệt chuột bạch, bởi vì chúng là người đơn
giản và dễ hiểu chúng hơn. Một khi bạn đã hiểu tâm trí
của chuột, bạn đã hiểu tâm trí của người nữa. Họ suy
diễn mọi tri thức của họ về con người qua nghiên cứu
về chuột. Điều đó thực sự là việc kết án con người
rằng chuột cung cấp thông tin về bạn. Và thông tin đó
có tác dụng, nó áp dụng hoàn hảo cho bạn - bạn cư xử
theo cùng cách.
Thông tin đó sẽ không áp dụng được cho vị Phật,
cho một Jesus, cho một Krishna. Nhưng B.F. Skinner
sẽ tìm thấy gì ở vị phật? Và cho dù ông ấy có thể tìm
thấy vị phật, ai sẽ nghiên cứu ai? Vị phật sẽ nghiên
cứu Skinner, không có điều ngược lại. Skinner sẽ
không có khả năng nghiên cứu vị phật; ông ấy không
có hoàn cảnh đúng, ông ấy chỉ biết cách nghiên cứu
chuột.
Vị phật sẽ tuyệt đối không thể nào hiểu được với
ông ấy. Và khi cái gì đó không thể hiểu được, bản ngã
đơn giản phủ nhận nó. Đó là cách thức của bản ngã để
tự bảo vệ nó. Cái không thể nào hiểu nổi, cái bí ẩn phải
bị phủ nhận, bị bỏ qua, phớt lờ. Người ta không lưu ý
đến cái không thể hiểu được, bởi vì lưu ý tới cái không
thể hiểu được nghĩa là bạn đang lưu ý tới giới hạn của
tâm trí bạn, và điều đó làm tổn thương bản ngã.
Do đó, thỉnh thoảng chư phật mới được sinh ra,
nhưng không ai lưu ý tới họ. Đó là khác biệt giữa tâm
hồn học phương Đông và phương Tây. Tâm lí học
phương Tây dựa trên việc hiểu về chuột. Tâm hồn học
phương Đông không dựa trên việc hiểu chuột hay
đúng hơn dựa trên việc hiểu người.
Tâm hồn học phương Đông được bắt rễ vào tâm
hồn học chư phật. Chúng ta nghĩ từ chỗ cao nhất và thế
rồi chúng ta đi xuống. Đầu tiên chúng ta nghĩ tới điều
tối thượng và từ đó chúng ta suy ra về những người ở
hạng thấp hơn - điều đó là đáng kính.
Cố quan sát cái thấp nhất và suy diễn về cái cao
nhất là làm nhục; điều đó là xấu và nó sẽ là sai. Nó
cũng giống như nghiên cứu về hạt mầm và suy diễn về
hoa. Bây giờ, nghiên cứu về hạt mầm, làm sao bạn có
thể suy diễn về hoa được? Bạn có thể mổ xẻ hạt mầm,
bạn có thể nhìn vào trong nó; bạn sẽ không thấy mầu
sắc nào và bạn sẽ không thấy cái đẹp nào và bạn sẽ
không thấy hương thơm nào. Mặc dầu nó chứa tất cả
chúng, nhưng chúng vẫn trong cái không hiển lộ.
Và nếu bạn quyết định về hoa theo hạt mầm và
bạn nói rằng hoa không có hương thơm nào - không
thể có được, bởi vì khi nó không có trong hạt mầm,
làm sao nó có thể có trong hoa được? Và hoa không
đẹp, bởi vì hạt mầm không đẹp... thế thì mọi thứ phải
được qui về mẫu số nhỏ nhất; thế thì hoa phải đơn giản
bị phủ nhận - đó chỉ là tưởng tượng thơ ca mà không
gì khác. Đó là điều đã được làm với chư phật. Những
người duy vật cứ phủ nhận sự tồn tại của chư phật, họ
nói đó là tưởng tượng thơ ca. Những người như vậy đã
không tồn tại, không thể tồn tại được; không thể có
chuyện họ tồn tại, bởi vì hạt mầm không biểu lộ bất kì
dấu hiệu nào về họ.
Tâm hồn học của chư phật bắt đầu từ cực đoan
khác. Nó bắt đầu từ chỗ cao nhất: nó nghiên cứu hoa
và thế rồi suy diễn về hạt. Bởi vì hoa có hương thơm,
nó nói hạt mầm phải có điều đó; điều đó là chưa hiển
lộ. Hoa đẹp, hạt mầm phải có cái đẹp trom nó, bị che
phủ, bị giấu kín. Hoa có mầu sắc, hạt mầm phải có nó,
chỉ chờ đợi đến đúng thời điểm, đến mùa xuân, để
bùng nổ thành mầu sắc, thành hương thơm, thành cái
đẹp. Bây giờ đây là cách đúng để hiểu con người:
không qua chuột, thậm chí không qua người thường,
mà qua chư phật.
Đây là khác biệt giữa cách tiếp cận phương Đông
và phương Tây. Cách tiếp cận phương Tây đã thu con
người về một hiện tượng rất xấu. Tâm hồn học phương
Đông đã nâng con người lên chiều cao của thượng đế.
Và thế thì chính quá trình của cả hai tâm hồn học trở
thành khác nhau. Tâm hồn học phương Tây đi qua
phân tích, suy nghĩ - đó là phương pháp của nó. Tâm
hồn học phương Đông đi theo phương pháp của vô trí,
của thiền; của không phân tích, của không suy nghĩ,
mà của im lặng. Bởi vì để thấy cái đẹp của hoa bạn cần
im lặng, không phân tích; cái đẹp không bao giờ có thể
được hiểu qua phân tích. Điệu vũ của đoá hoa trong
gió, trong mặt trời, trong mưa, không thể được hiểu
bởi cái đầu; trái tim phải được mở cho nó.
Với hoà nhã vượt qua giận...
Lời kinh này cũng quan trọng vô cùng. Bây giờ
Phật đang nói... Giận chứa năng lượng. Bạn không thể
đơn giản vứt nó đi được. Nó là năng lượng của bạn.
Vứt nó đi sẽ làm cho bạn yếu. Năng lượng không nên
bị vứt đi, nhưng nên được biến đổi. Với hoà nhã vượt
qua giận... để giận của bạn được biến đổi thành hoà
nhã.
với hào phóng vượt qua hèn hạ,
với chân lí vượt qua giả dối.
Ông ấy đang nói rằng thiền là quá trình giả kim
thuật - nó không phải là đạo đức, nó là giả kim thuật.
Nó là khoa học của linh hồn. Qua thiền giận dần dần,
dần dần biến mất, và năng lượng của nó trở thành sẵn
có và trở thành dịu dàng.
Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng nếu bạn phải chịu
giận lớn bạn có tiềm năng lớn cho dịu dàng. Giận đơn
giản chỉ ra rằng bạn có năng lượng lớn. Người không
có giận là bất lực, người đó không có năng lượng.
Người không thể giận thì không thể dịu dàng được.
Với hào phóng vượt qua hèn hạ. Đừng kìm nén hèn hạ,
đừng phá huỷ hèn hạ, nhưng với hào phóng biến đổi
nó thành ý thức hào phóng, thành sự chia sẻ.
Với chân lí vượt qua giả dối. Đừng tranh đấu với
bóng tối, đem ánh sáng vào. Đó là tinh hoa của lời
kinh này. Đừng tranh đấu với cái tiêu cực, đem cái tích
cực vào. Và cái tích cực tới qua tính quan sát - cái tiêu
cực đã có đó rồi. Xã hội của bạn chuẩn bị cho bạn cái
tiêu cực, xã hội của bạn cần bạn tiêu cực. Xã hội của
bạn muốn bạn giận, đầy giận, để cho bạn có thể bị ép
buộc đi vào chiến tranh, vào thập tự chinh: các xung
đột tôn giáo, chính trị, ý thức hệ; để cho bạn có thể bị
thao túng trong việc giết người. Hay, bạn có thể bị
thao túng trong việc trở thành những kẻ tử vì đạo; phá
huỷ bản thân bạn.
Hàng triệu người Ki tô giáo đã chết, người Mô ha
mét giáo đã chết, giết hại lẫn nhau bởi một lẽ đơn giản
là nhiều giận thế bị kìm nén, nó cần chỗ xả ra nào đó.
Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng Phật giáo là tôn giáo
duy nhất trên thế giới đã không làm đổ máu, tôn giáo
duy nhất trên thế giới đã cải đạo hàng triệu người mà
không bó buộc bất kì loại nào.
Ki tô giáo đã cải đạo hàng nghìn người, nhưng với
bó buộc. Lúc ban đầu đó là bằng lưỡi kiếm. Người Mô
ha mét giáo đã cải đạo hàng triệu người, nhưng đó là
qua lưỡi kiếm, cưỡng bức, bạo hành. Đây không phải
là chuyển đổi, đây là cái gì đó tuyệt đối xấu xí và phi
tôn giáo.
Bây giờ lưỡi kiếm không còn hữu dụng nữa, bởi vì
dùng kiếm trực tiếp sẽ bị kết án trên khắp thế giới, cho
nên phương tiện tinh vi của bó buộc nay được dùng. Ở
nước nghèo bạn có thể đi với bánh mì và bơ, với quần
áo, với tiện nghi tốt hơn cho cuộc sống và bạn có thể
cải đạo mọi người. Các nhà truyền giáo Ki tô giáo
đang làm điều này trên khắp thế giới, đặc biệt ở những
nước nghèo. Đó không phải là cải đạo sang Christ - đó
không phải là cải đạo chút nào - đó đơn giản là mua
mọi người bằng bánh mì và bơ. Mọi người đang chết
đói - bất kì ai có thể cho họ thức ăn, họ đều sẵn sàng đi
với người đó.
Phật giáo là tôn giáo duy nhất trên thế giới mà
thực sự chuyển đổi mọi người không bằng lưỡi kiếm,
không bằng bánh mì và bơ, không có bó buộc nào, tích
cực hay tiêu cực; điều đơn giản đã cải đạo qua việc
hiểu biết của nó về con người, đem tới cho họ nhiều
ánh sáng hơn, đem tới cho họ nhiều hiểu biết hơn về
tâm trí họ, thân thể họ.
Và điều này có tầm quan trọng lớn lao. Đừng bao
giờ tranh đấu với cái tiêu cực. Xã hội của bạn chuẩn bị
cho bạn điều tiêu cực. Biến đổi điều tiêu cực thành tích
cực; việc biến đổi là có thể. Trung gian phải được
dùng là thiền. Trở nên có tính quan sát nhiều hơn về
mọi điều tâm trí của bạn - giận, tham, hèn hạ; bằng
không bạn có thể trau dồi, bạn có thể lừa dối người
khác và bạn có thể tự lừa dối bản thân bạn, nhưng bạn
sẽ vẫn còn tầm thường. Người keo kiệt có thể cúng
dường, cho từ thiện, nhưng người đó cho có tính toán.
Tính keo kiệt của người đó có đó. Bây giờ người đó
mở tài khoản ngân hàng ở thế giới bên kia. Người đó
muốn có số dư tài khoản ở đấy nữa.
Một người mù đang đứng trong hàng đợi xe bus,
thì người cạnh anh ta giật mình khi thấy một con chó
bình thản ngếch chân nó lên và đái vào quần của người
mù.
Khi người mù nhận ra điều vừa xảy ra, anh ta cho
tay vào túi quần mình và rút ra một thanh sô cô la nhử
nhử trước con chó.
"Đó thật là hành động từ thiện cần làm," người bên
cạnh nói.
"Ồ," người mù đáp, "tôi đang tìm xem mồm nó ở
đâu để tôi có thể đá vào hòn của nó."
Cho nên đừng bị lừa về điều mọi người đang làm
bên ngoài, sâu bên trong họ có thể tính toán cái gì đó
khác. Hành động của họ có thể hào phóng, nhưng động
cơ của họ mới là điều thực thành vấn đề; không phải là
hành động, mà là ý định.
Một người đàn ông đón một người đàn bà trong
quán rượu một đêm và đưa cô ấy về nhà tới căn hộ của
anh ta.
Khi họ tới đó, cô ta bắt đầu cởi quần áo, nhưng
anh ta dừng cô ta lại, nói, "Không, chúng ta ngồi đây
trên tràng kỉ cùng nhau, và nếu em để cả hai tay lên
đầu anh trong khi em ở đây, anh sẽ cho em hai mươi
đô la."
Cô gái nghĩ điều này có chút ít bất thường, nhưng
vẫn làm như anh ta yêu cầu. Cuối cùng, cô ta không
thể kìm được tính tò mò thêm nữa và hỏi, "Nhưng anh
có loại xúc động gì khi tay em để trên đầu anh?"
"Chả xúc động gì cả," anh ta trả lời. "Anh chỉ để
có cảm giác an ninh khi biết rằng tay em ở trên đầu
anh và không trong túi anh - vì điều đó xứng đáng với
hai mươi đô la."
Những người keo kiệt sẽ vẫn còn keo kiệt, cho dù
trong việc chia sẻ của họ. Nếu bạn nhìn sâu xuống
dưới bạn sẽ thấy họ đang cố gắng mặc cả vì cái gì đó,
có việc kinh doanh nào đó ẩn nấp trong đó. Các tu sĩ
cứ bảo mọi người, "Nếu ông cho người nghèo ở đây,
ông sẽ được nghìn lần hơn ở thế giới bên kia " - nghìn
lần hơn, điều đó giống như trúng xổ số! Và ai mà
không thích có nó? Cho chút xíu ở đây và bạn sẽ được
cả nghìn lần hơn ở kia.
Các tu sĩ đã từng lừa dối mọi người, bởi vì mọi
người đều bần tiện, bởi vì mọi người đều keo kiệt;
bằng không tu sĩ sẽ biến mất khỏi thế giới này. Nếu
mọi người thực sự hào phóng sẽ không có nhu cầu về
tu sĩ, không ai có thể khai thác được người hào phóng.
Họ cho vì vui vẻ vô cùng của việc cho. Họ không nghĩ
rằng việc cho là phương tiện để đạt mục đích nào đó.
Nếu bạn nghĩ việc cho là phương tiện để đạt mục đích
nào đó, bạn bỏ lỡ toàn thể vấn đề. Chừng nào việc cho
chưa trở thành vui vẻ trong bản thân nó, bạn không
biết nó là gì đâu.
nói ra chân lí,
cho bất kì cái gì ông có thể cho,
đừng bao giờ giận.
Ba bước này sẽ đưa ông
vào trong sự hiện diện của Thượng đế.
Nói chân lí, với bất kì giá nào. Điều đó sẽ tốn kém
cho bạn nhiều, bởi vì thế giới sống trong dối trá. Mọi
người được nuôi dưỡng lớn lên theo cách chân lí chưa
bao giờ bắt chéo qua con đường của họ. Và họ bị buộc
phải tin vào cái gì đó mà xã hội của họ, nhà thờ của
họ, quốc gia của họ muốn họ tin vào; đấy không phải
là vấn đề về chân lí. Mọi người thích dối trá, bởi vì dối
trá rất an ủi. Và mọi người thích dối trá bởi vì người
khác cũng tin vào cùng dối trá - và bạn cảm thấy là
một phần của người khác, bạn cảm thấy một loại
quyền sở hữu, bạn không cảm thấy một mình.
Con người của chân lí cảm thấy một mình. Một
Socrates, một Pythagoras, một Heraclitus thấy bản
thân họ một mình, rất một mình. Trong thế giới này
nếu bạn nói chân lí và bạn sống chân lí, bạn sẽ phải
sống một mình. Bạn sẽ không tìm thấy nhiều người
thích ở cùng bạn. Bạn sẽ không tìm thấy toán đồng
hành lớn trên thế giới. Bạn sẽ thấy vài người là người
yêu chân lí. Và bạn bao giờ cũng trong nguy hiểm, bởi
vì chân lí của bạn sẽ là điều nguy hiểm cho những
người sống trong dối trá. Họ sẽ không dung thứ cho
bạn. Bạn sẽ trở thành hiện tượng không thể chịu đựng
được với họ. Họ sẽ có khuynh hướng tiêu diệt bạn.
Nhưng dầu vậy, cho dù cuộc sống có bị hi sinh,
chân lí vẫn xứng đáng với điều đó. Một khoảnh khắc
của chân lí là giá trị hơn hàng trăm năm của cuộc sống,
bởi vì khoảnh khắc của chân lí làm bạn thành một
phần của vĩnh hằng, một phần của Thượng đế.
Nói ra chân lí, cho bất kì cái gì ông có thể cho.
Vấn đề không phải là bạn phải cho tiền hay bạn phải
cho cái này cái nọ; bất kì cái gì bạn có thể cho, bất kì
cái gì bạn có - nếu bạn có bài ca, hát bài ca, chia sẻ nó.
Nếu bạn có thể nhảy múa, nhảy múa và chia sẻ nó.
Cho bất kì cái gì ông có thể cho. Và, đừng bao giờ
giận, bởi vì mọi người có thể không chấp nhận món
quà của bạn. Đừng giận về điều đó. Mọi người có thể
không bao giờ cám ơn bạn, họ có thể không cảm thấy
biết ơn bạn. Ngược lại, họ có thể cảm thấy bị xúc
phạm bởi bạn.
Nó bao giờ cũng là vậy; họ bị xúc phạm bởi Jesus,
họ bị xúc phạm bởi Phật. Tại sao? - bởi vì những
người đó trông khác với người thường tới mức mọi
người trở nên nhận biết về cái tầm thường riêng của họ
và điều đó gây đau. Họ đem các kho báu lớn để chia sẻ
- nhưng điều đó gây đau, bởi vì họ có kho báu lớn và
chúng ta không có gì. Mọi người sẽ không cám ơn bạn
đây, thực ra họ sẽ không bao giờ có khả năng tha thứ
cho bạn. Họ có thể đóng đinh bạn, họ có thể ném đá
bạn tới chết.
Do đó Phật lại nhắc nhở bạn: nhớ lấy, đừng mong
đợi cái gì, bằng không giận sẽ là tự nhiên. Nếu bạn
mong đợi sự biết ơn từ mọi người và họ không biểu lộ
sự biết ơn nào - ngược lại, họ biểu lộ sự bạc bẽo lớn
lao - bạn có thể cảm thấy giận. Thận trọng vào, vui vẻ
của bạn là trong việc cho. Bạn không phải lo nghĩ về
liệu điều bạn cho có được chấp nhận hay không được
chấp nhận; được chấp nhận với lòng biết ơn hay được
chấp nhận một cách dửng dưng.
Bạn làm điều tốt cho mọi người, họ có thể làm
điều xấu cho bạn... dầu vậy, đừng giận. Nhớ đây là
cách mọi sự đang vậy, đây là cách mọi người đang
vậy. Việc nhớ tới điều đó sẽ giúp bạn không trở nên
phát rồ.
Người trí huệ không làm hại ai... nhưng người ngu
thích làm hại người khác. Và ai là người trí huệ?
Không phải là người biết nhiều, mà là người hiểu
nhiều. Người trí huệ không phải là người có tất cả kinh
sách trên đầu lưỡi mình; người trí huệ là người đã nhìn
thấy thực tại riêng của mình, và việc thấy nó đã trở
thành nhận biết về vũ trụ và cái đẹp của nó và thông
minh của nó. Người trí huệ là người đã nhìn thấy trí
huệ của sự tồn tại; người đó không phải là nhà thông
thái, nhưng người đó tuyệt đối hồn nhiên. Làm sao
người đó có thể làm hại bất kì ai được? - điều đó là
không thể được, bởi vì người đó không thể nhìn người
khác là khác bản thân mình. Người đó thấy cái toàn thể
như là một.
Thận trọng với người thông thái, thận trọng với cái
gọi là người có kinh nghiệm, họ không trí huệ.
Hai người đàn bà đang ngồi trong phòng đợi của
bác sĩ, so sánh các lời chú thích theo sự mất trật tự đa
dạng của chúng.
"Em muốn có em bé hơn bất kì cái gì trên thế
giới," người thứ nhất nói, "nhưng em đoán điều đó là
không thể được."
"Chị cũng hay cảm thấy cùng cách đó," người thứ
hai nói, "nhưng thế rồi mọi sự thay đổi. Đó là lí do tại
sao chị ở đây; chị định có em bé trong ba tháng."
"Chị nói cho em chị đã làm gì!"
"Chị tới thầy chữa về niềm tin."
"Nhưng em đã thử điều đó rồi. Chồng em và em
tới một thầy trong gần một năm và chẳng ích lợi chút
xíu nào."
Người đàn bà kia mỉm cười và thì thào, "Thử đi
một mình lần sau xem, em này!"
Người có kinh nghiệm, người đã sống cuộc sống...
họ dường như trí huệ; họ không trí huệ, họ chỉ là
những kẻ ngốc chín muồi. Kẻ ngốc chín muồi là nguy
hiểm hơn kẻ ngốc chưa chín muồi, bởi vì kẻ ngốc chín
muồi có tất cả các luận cứ để hỗ trợ cho cái ngu xuẩn
của mình, tất cả kinh nghiệm của người đó đều ở trong
việc tuỳ ý sử dụng của người đó.
Giáo sư về luật tội phạm kết luận bài giảng cuối
cùng của mình trước kì nghỉ. "Xin nhớ lấy, thưa các
quí ông, nếu các ông dan díu với một cô dưới mười
tám tuổi, dù có hay không có sự đồng ý của cô ấy, đó
là hiếp dâm! Nếu các ông dan díu với cô đủ tuổi mà
không có sự đồng ý của cô ấy, đó là hiếp dâm; nhưng
nếu các ông dan díu với cô đủ tuổi và có sự đồng ý của
cô ấy, xin chúc mùa giáng sinh vui vẻ!"
Những người này là khôn ngoan theo nghĩa nào
đó, khôn ngoan theo cách của thế giới; họ có thể cho
bạn lời khuyên tốt, nhưng họ không trí huệ theo nghĩa
Phật dùng từ này. Họ là ngu xuẩn như bạn, chỉ kinh
nghiệm hơn chút ít thôi. Và ngu xuẩn không biến mất
cùng kinh nghiệm đâu.
"Con đang tìm kiếm phiêu lưu, kích động, gái
đẹp," chàng thanh niên khóc với bố mình khi anh ta
chuẩn bị rời khỏi nhà. "Đừng cố cản con! Con đi
đường con."
"Ai cố cản con?" người bố kêu lên, "đưa bố đi
cùng!"
Người trí huệ không làm hại ai,
Họ là người chủ của thân thể mình
và họ đi tới quốc gia vô biên giới,
Họ vượt ra ngoài khổ.
Khi bạn trở thành nhân chứng, khi bạn trở nên
nhận biết, bạn đơn giản đi tới biết rằng bạn không là
thân thể, không là tâm trí, thậm chí không là trái tim.
Bạn đơn giản là người quan sát, khác với mọi thứ bao
quanh bạn. Thân thể là biên giới bên ngoài nhất của
bạn; tâm trí là bên trong hơn chút ít, trái tim còn bên
trong hơn, nhưng ở cốt lõi bên trong nhất bạn chỉ là
tâm thức.
Biết điều này bạn trở nên tách rời khỏi thân thể
riêng của bạn, tâm trí của bạn, trái tim của bạn; và sự
tách rời đó đem tới quyền làm chủ. Không phải là bạn
trở nên có tính phá huỷ thân thể đâu - bạn lấy mọi sự
chăm nom cho nó, nó là công cụ hay, nó là món quà
lớn của Thượng đế. Nhưng bây giờ bạn biết rằng nó
chỉ là ngôi nhà bạn sống trong đó. Cũng như bạn chăm
sóc ngôi nhà của bạn, bạn chăm sóc thân thể bạn; nó là
ngôi đền.
Tâm thức của bạn là thực tại của bạn; bạn trở nên
không bị đồng nhất, và không bị đồng nhất là thành
người chủ.
Những người tìm kiếm hoàn hảo
giữ việc quan sát cả ngày và đêm
cho tới khi tất cả ham muốn tan biến.
Phật trông đợi chỉ một điều từ bạn: giữ việc quan
sát ngày và đêm cho tới khi mọi ham muốn tan biến.
Làm cho việc quan sát của bạn được tích hợp, thành
mạnh mẽ, thành vững chắc và kiên định tới mức nó
giúp cho mọi ham muốn bay hơi, tan biến. Ham muốn
không phải bị vứt bỏ đi, nhưng được phép bay hơi.
Buông bỏ giận, buông bỏ tự kiêu. Khi ông không bị
gắn với cái gì, ông vượt ra ngoài khổ.
Lắng nghe, Atula, điều này không mới...
Atula là đệ tử của Phật. Phật đang nói với Atula:
Lắng nghe, Atula, điều này không mới...
đó là câu ngạn ngữ cổ.
Họ trách ông vì việc im lặng,
Họ trách ông khi ông nói quá nhiều
và khi ông nói quá ít.
Bất kì điều gì ông làm họ đều trách ông.
Tại sao Phật bỗng nhiên đề cập tới Atula? Ông ấy
đang nói cho tất cả sannyasin của mình, và chẳng từ
đâu cả bỗng nhiên ông ấy đề cập tới Atula. Bạn có thể
không có khả năng thấy ra điểm này ngay lập tức.
Atula có thể là một người không lắng nghe, người có
nghe đấy, nhưng không lắng nghe. Và khi bạn đang
trong giao cảm với vị phật, ông ấy biết hoàn toàn rõ ai
đang lắng nghe và ai đang chỉ nghe. Điều này xảy ra ở
đây mọi ngày. Khi người mới tới, sự việc rõ ràng tới
mức họ chỉ nghe thôi, không lắng nghe. Khi bạn sống
ở đây lâu hơn chút ít, dần dần, dần dần bạn bắt đầu
lắng nghe.
Lắng nghe là hiện tượng khác toàn bộ việc nghe.
Nghe có tính sinh lí. Bởi vì bạn có tai, cho nên bạn có
thể nghe. Lắng nghe là hiện tượng sâu sắc. Bạn lắng
nghe chỉ khi bạn trong im lặng tuyệt đối. Những người
đã từng ở đây đủ lâu đều rơi vào trong im lặng đó.
Atula phải đã chỉ nghe thôi, phải đã là một đệ tử
mới; do đó Phật đặc biệt nhắc tới tên anh ta, lắng nghe,
Atula... Và cũng có thể là Atula đã nghĩ rằng Phật
đang nói cái gì đó rất mới, rất lạ. Thực ra điều chư
phật nói, theo một cách nào đó, là chân lí vĩnh hằng,
cổ đại như Himalaya, theo một nghĩa nào đó; và theo
nghĩa khác nó tươi tắn như đoá hoa vừa mới nở sáng
nay, tươi tắn như giọt sương và cổ như Himalaya.
Và tất cả chư phật trong quá khứ đều đã nói cùng
một điều; có thể trong các ngôn ngữ khác nhau, với
cách diễn đạt khác nhau, theo những cách khác nhau.
"Không có gì mới dưới mặt trời." Đó là chân lí - nhưng
chỉ một nửa. Nửa kia là, "Có mọi thứ mới dưới mặt
trời." Bởi vì chân lí có khả năng làm mới lại bản thân
nó liên tục, được tái sinh lặp đi lặp lại. Cho nên chư
phật bao giờ cũng nói chân lí cổ đại nhất, và vậy mà
họ nói chân lí có tính nổi dậy nhất có thể được.
Phật nói: Điều này không mới, Atula, nó là câu
ngạn ngữ cổ. Mọi người đều ở mức họ bao giờ cũng
tìm lí do để trách bạn. Họ trách bạn vì việc im lặng -
nếu bạn im lặng họ sẽ trách bạn: "Sao anh im lặng?"
Nếu bạn nói quá nhiều họ sẽ trách bạn: "Sao anh nói
nhiều thế?" Nếu bạn nói quá ít, họ sẽ trách bạn: "Sao
anh nói ít thế?"
Bất kì điều gì bạn làm, họ đều trách bạn, bởi vì với
việc trách bạn, bản ngã họ cảm thấy được thoả mãn.
Không ai nhìn vào lỗi riêng của mình và mọi người
đều có khả năng thấy lỗi của người khác; không chỉ
thấy chúng, mà còn khuếch đại chúng lên nhiều nhất
có thể được.
Mẹ gọi với lên tầng trên, "Caroline, con dừng la
hét đi. Sao con không thể chơi yên tĩnh như Tommy,
nó có làm tiếng động gì đâu?"
"Nó không được gây tiếng động," Caroline nói.
"Chúng con chơi nhà mình. Nó là bố, sau khi về nhà
muộn để ăn tối, và con là mẹ."
Rất đơn giản nhìn lỗi của người khác, bởi vì người
ta muốn nhìn lỗi của người khác. Nếu chúng không có
đó, thế thì người ta bịa chúng ra. Bản ngã của bạn có
thể sống chỉ bằng cảm giác cao siêu; cho nên bạn làm
mọi cách có thể để dùng lỗi của người khác để cảm
thấy cao siêu. Trách người khác không là gì ngoài
chiến lược của bản ngã để cảm thấy cao siêu. Thận
trọng về nó.
Thế giới bao giờ cũng tìm ra cách ca ngợi và cách
chê trách. Nó bao giờ cũng làm điều đó và nó sẽ luôn
làm điều đó. Vâng, đôi khi nó ca ngợi nữa, nhưng nó
ca ngợi chỉ khi bạn giúp cho bản ngã của người khác -
thế thì nó ca ngợi bạn. Chẳng hạn, nếu bạn nói với
người Hindu rằng tôn giáo của họ là tôn giáo vĩ đại
nhất trên thế giới, họ sẽ ca ngợi bạn.
Làm sao họ có thể ca ngợi tôi được? Không thể
được! Bởi vì tôi đơn giản nói chân lí: rằng không tôn
giáo nào lớn hơn bất kì tôn giáo nào khác; rằng tất cả
các tôn giáo đều trong cùng cái bẫy của tu sĩ. Bạn có
thể gọi tu sĩ là shankaracharya, bạn có thể gọi tu sĩ là
giáo hoàng, chẳng thành vấn đề gì cả. Tất cả các tôn
giáo đều trong sự nắm giữ của các chính khách. Người
Hindu và người Ki tô giáo và người Mô ha mét giáo,
họ tất cả đều không còn là tôn giáo, mà chỉ là chính trị
- chính trị quyền lực ẩn nấp đằng sau cái tên tôn giáo.
Không tôn giáo nào lớn hơn bất kì tôn giáo nào khác,
cao siêu hơn bất kì tôn giáo nào khác. Thực ra, người
tôn giáo thực không là người Ki tô giáo, không là
người Hindu, không là người Mô ha mét giáo. Người
đó đơn giản có tính tôn giáo.
Người Ấn Độ sẽ ca ngợi bạn nếu bạn ca ngợi Ấn
Độ: nếu bạn nói rằng đây là mảnh đất vĩ đại nhất thế
giới, mảnh đất tâm linh nhất trên thế giới - thế thì bản
ngã họ được phồng lên, họ sẽ ca ngợi bạn. Họ sẽ chê
trách bạn thổi phồng bản ngã của họ, và họ sẽ ca ngợi
bạn nếu bạn thổi họ lên. Toàn thể trò chơi là của bản
ngã.
Nhưng ai dám trách người
mà người trí huệ liên tục ca ngợi,
người có cuộc sống đức hạnh và trí huệ,
người toả sáng như đồng tiền vàng ròng?
Đừng lo nghĩ về ca ngợi và trách móc của quần
chúng bình thường, của đám đông. Vâng, nếu bạn phải
chú ý, thế thì chú ý tới trí huệ. Nếu họ nói rằng cái gì
đó sai với bạn, lắng nghe cẩn thận, bởi vì họ đang cố
gắng giúp bạn. Họ không có bản ngã để hoàn thành từ
lỗi lầm của bạn. Họ giống hệt tấm gương; họ phản xạ
khuôn mặt của bạn. Nếu bạn có khuôn mặt xấu, đừng
phá huỷ gương; đơn giản cố gắng đổi khuôn mặt bạn.
Và người trí huệ cũng ca ngợi, những họ ca ngợi
không phải để thổi phồng bản ngã bạn. Thực ra họ ca
ngợi bạn chỉ khi họ thấy bạn đang trở thành không ai
cả; việc ca ngợi của họ trút xuống như hoa đổ lên bạn.
Khi bạn trở thành không ai cả, khi bạn đang trở thành
cái không, bạn đang tới ngày một gần hơn với điều
thiêng liêng đang ẩn kín bên trong bạn.
ngay cả các thần cũng ca ngợi người đó,
ngay cả Brahma cũng ca ngợi người đó.
Người được ca ngợi bởi người trí huệ, bởi người
chứng ngộ, là được ca ngợi bởi các thần, được ca ngợi
bởi toàn thể vũ trụ - bởi bản thân đấng sáng tạo, bởi
Brahma. Ca ngợi của họ là xứng đáng... thậm chí mỗi
một vị phật cười với bạn thôi, thế cũng đủ. Toàn thể
thế giới có thể kết án bạn; đừng lo nghĩ về điều đó.
Nếu tất cả người mù của thế giới tụ tập lại và ca ngợi
sắc đẹp của bạn, bạn có sung sướng về điều đó không?
Họ không thể nhìn được, họ không có mắt để nhìn; bạn
sẽ không sung sướng gì bởi việc được người mù ca
ngợi.
Ở Ấn Độ chúng ta có câu ngạn ngữ rằng đôi vợ
chồng tốt nhất là khi chồng điếc và vợ mù. Chồng có
thể cứ làm bất kì cái gì anh ta muốn làm - lừa khắp
xung quanh - và vợ có thể cứ nói bất kì cái gì cô ấy
muốn; chồng điếc và vợ mù. Câu ngạn ngữ đó nói điều
đó xảy ra rất hãn hữu, với ân huệ của Thượng đế. Nó
không xảy ra một cách bình thường. Nhưng phỏng có
ích gì mà được người mù ca ngợi? Họ không thể thấy
được. Và tại sao bị lo nghĩ bởi kết án của họ? Họ
không thể thấy được lỗi của bạn mà.
Nhưng vị phật, người chứng ngộ, nếu ông ấy ca
ngợi bạn, điều đó nghĩa là ông ấy đã thấy bản ngã đang
biến mất. Nếu ông ấy thấy lỗi ở bạn, điều đó đơn giản
chỉ ra ông ấy đang cố gắng giúp bạn để cho bạn có thể
vứt bỏ lỗi đó.
nhận biết về giận của thân,
làm chủ thân,
để nó phục vụ cho chân lí.
Giận có ba tầng. Tầng đầu tiên là giận của thân
thể. Nhận biết về giận của thân. Bạn có thể đã không
quan sát nó: rằng thân thể tích luỹ giận, rằng thân thể
có cách riêng của nó để tích luỹ giận. Khi bạn cảm
thấy giận bạn nghiến răng, bạn siết chặt nắm tay - tại
sao?
Thực ra, ở phương Đông đã từng có phương cách
để giúp bạn. Đó là giúp đỡ tạm thời, nhưng có giá trị
lớn bởi vì chúng có thể làm cho bạn nhận biết về nhiều
điều. Khi bạn cảm thấy giận, nghiến răng, siết nắm tay
và bạn sẽ ngạc nhiên: rằng khi bạn nghiến răng và siết
nắm tay và chỉ đánh nhau với không khí - đấm bóng -
trong vòng năm phút cơn giận qua đi. Cái gì đó đã xảy
ra, cái gì đó đã được xả ra.
Bây giờ, Tích hợp tư thế, Rolfing, và các phương
pháp như thế đang trở nên nhận biết rất nhiều rằng
giận bị kìm nén của bạn, dâm dục, tham và đủ mọi
chất độc tích luỹ vào trong thân thể, trong cơ bắp.
Bằng xoa bóp sâu những chất độc đó có thể được xả
ra. Rolfing thực sự là đóng góp lớn lao. Xoa bóp sâu
thân thể có thể có ích lớn lao. Nó có thể làm cho bạn
nhận biết rằng thân thể bạn đang mang nhiều thứ; và
thân thể bạn lái bạn vào nhiều điều mà bạn có thể đã
không đi vào nếu thân thể không lái bạn tới đó.
Nhận biết về giận của thân, Phật nói, làm chủ
thân, để nó phục vụ cho chân lí.
Làm sao làm chủ thân thể? Điều đầu tiên là học
thảnh thơi. Phật dạy cho các đệ tử của mình cách thảnh
thơi. Ở phương Đông, đặc biệt, trong khoa học về
yoga, có tư thế đặc biệt, shavasana. Đây là tư thế đó:
nằm dài xuống đất cứ dường như bạn chết rồi. Để cho
thân thể dần dần chết đi. Bắt đầu từ chân. Thực ra, trao
đổi với thân thể bạn; nói với chân, "Chết đi, xin chết
đi." Và thế rồi đi lên.
Một nhà phân tâm đã nói với bệnh nhân của ông
ấy, "Mọi điều anh cần là thảnh thơi, cho nên từ đêm
nay anh bắt đầu thảnh thơi đi. Bắt đầu từ chân; nói với
ngón chân anh, 'Ngón chân thảnh thơi, bàn chân thảnh
thơi,' và đi lên, nói với từng chi và rồi cuối cùng bảo
tâm trí anh thảnh thơi."
Người này về nhà. Anh ta rất xúc động bởi ý niệm
này; cả ngày anh ta chờ đợi cho tới đêm. Đêm tới, anh
ta nằm trên giường. Anh ta vừa tắm nước nóng xong
như nhà tâm thần đã gợi ý, đã cảm thấy chút ít thảnh
thơi khi nằm trên giường.
Anh ta bắt đầu: " Ngón chân thảnh thơi, bàn chân
thảnh thơi, cẳng chân thảnh thơi, đùi thảnh thơi," vân
vân và vân vân.
Anh ta vừa đi tới tâm trí để nói, "Tâm trí thảnh
thơi," thì vợ anh ta bước ra khỏi buồng tắm trần
truồng, sẵn sàng đi ngủ. Bỗng nhiên người này hô lên,
"Thức dậy! Mọi người thức dậy!"
Điều này sẽ không ích gì. Do đó Phật không nói
thảnh thơi, đi ngủ, bởi vì thế thì bạn có thể thức dậy và
bạn có thể gọi mọi người khác thức dậy. Ông ấy nói,
"Cảm thấy chết đi. Để thân thể chết đi trong khoảnh
khắc, cứ dường như bạn chỉ là cái xác." Bạn không thể
làm được gì cả. Và kiến bắt đầu bò lên bạn; bạn không
thể làm được gì cả.
Và đó thực sự là một kinh nghiệm lớn, cảm thấy
giống như cái xác, và kiến bò lên mặt bạn hay muỗi
đốt; nhưng bạn không thể làm gì được, bạn đơn giản là
người quan sát. Đó là kinh nghiệm hiếm hoi để trải qua
nó. Dần dần, dần dần bạn trở thành người chủ bởi việc
làm thảnh thơi thân thể mình. Thân thể bạn càng căng
thẳng, nó càng là chủ của bạn.
nhận biết về giận của mồm...
Và khi bạn đã học cách thảnh thơi giận của thân
thể, cuồng nộ của thân thể, thế thì bắt đầu nhận biết về
điều bạn nói. Thỉnh thoảng, một cách vô ý thức, bạn
nói ra một lời. Bạn đã không nhận biết về hậu quả của
lời này. Bạn có thể đã không nghĩ rằng nó sẽ tạo ra rắc
rối cho bạn.
Một thanh niên thu xếp cho vị hôn phu của mình
gặp bố mẹ mình qua buổi tiệc rượu tại một khách sạn
phô trương. Sau khi gia đình anh ta ra về, cô gái hỏi
liệu cô ấy có gây ấn tượng tốt cho họ không.
"Ồ, nói thẳng nhé, em yêu," anh ta nói, "mẹ anh
bảo anh ở chỗ riêng tư rằng mẹ thấy em có chút ít thô
tục."
"Nhưng anh có bảo mẹ là em đã đi học ở một
trong những trường cuối tốt nhất không?" cô ta hỏi.
"Có chứ, tất nhiên là anh nói rồi."
"Và anh có nói với mẹ về mối quan tâm của em về
nghệ thuật và văn hoá không?"
"Chắc chắn có."
"Và anh có bảo mẹ gia đình em là quan trọng thế
nào trong cả vùng không?"
"Tự nhiên là anh đã nói," anh ta đáp.
"Thế thì cái cứt "thô tục" này tất cả là gì?" cô trẻ
tinh tướng hỏi.
Mọi người cứ nói mọi thứ, không thực sự nhận
biết về điều họ đang nói. Thực ra, tâm trí họ giống như
cái máy hát. Họ đơn giản lặp lại.
Bây giờ khoa học đã khám phá ra rằng có thể làm
các lỗ hổng trong đầu bạn và có thể đưa điện cực vào
trong; những điểm nào đó có thể được đẩy vào và một
điều rất kì lạ xảy ra. Chẳng hạn, điện cực được đẩy vào
trong não bạn tại trung tâm nào đó và bạn bắt đầu nói
cái gì đó chẳng bởi lí do nào cả. Không ai đã hỏi điều
đó, không có hoàn cảnh cho nó, nhưng bạn bắt đầu nói
nó. Thế rồi điện cực được lấy ra và bạn dừng việc nói
nó. Điện cực lại được ấn vào; bạn bắt đầu cùng một
điều lặp lại từ chính lúc ban đầu - lại cùng câu đó,
cùng từ đó. Điều đó có thể được thực hiện hàng trăm
lần và mỗi lần bạn sẽ làm điều đó lặp lại, cứ dường
như điện cực không là gì ngoài cái kim của máy hát.
Tâm trí bạn là cái máy ghi lớn. Bạn đã ghi lại đủ
mọi thứ và bạn cứ nói chúng, nghĩ rằng bạn đang nói;
điều đó không đúng. Chừng nào bạn chưa thực sự có
tính quan sát, bạn không nói mọi sự. Tâm trí bạn cứ
lặp lại những hình mẫu cũ và bạn cứ đi vào những vấn
đề cũ, lặp đi lặp lại. Nhận biết về giận của mồm...
làm chủ lời của ông,
để chúng phục vụ chân lí.
nhận biết về giận của tâm trí...
Và cuối cùng, dần dần, thân trước nhất, rồi lời, rồi
tâm trí.
làm chủ ý nghĩ của ông,
Để chúng phục vụ chân lí.
Người trí huệ đã làm chủ thân, lời và tâm trí,
Họ là người chủ thực.
Nếu bạn có thể quan sát thân, tâm và tất cả sự vận
hành của chúng, bạn sẽ trở nên tách rời khỏi chúng tới
mức bạn có thể làm chủ chúng.
Bạn có thể làm chủ cái gì đó chỉ khi bạn có khoảng
cách với nó. Nếu bạn bị đồng nhất với nó bạn không
thể làm chủ nó được. Và Phật nói người là chủ cái ta
riêng của mình là người chủ của toàn thể sự tồn tại;
người đó đã đi vào trong bình diện khác của cuộc
sống. Bạn là nô lệ, người đó là chủ; bạn là máy, người
đó là người thực; bạn vận hành vô ý thức, người đó
vận hành có ý thức.
Và vận hành một cách có ý thức là vượt ra ngoài
tất cả buồn, là vượt ra ngoài tất cả khổ, là vượt ra
ngoài tất cả phiền não, là đi vào cõi bên kia. Các tôn
giáo khác gọi cõi bên kia đó là "Thượng đế"; Phật gọi
nó đơn giản "cõi bên kia." Chuẩn bị cho cõi bên kia
đi... Trở thành người chủ của bản thể riêng của bạn.
Đủ cho hôm nay.
******************************************************
#10Hạnh phúc: cái chết của bản ngã
Câu hỏi thứ nhất:
Thưa Thầy kính yêu,
Tại sao khổ cảm thấy an toàn thế và hạnh phúc
thấy đe doạ thế?
Deva Surabhi, hạnh phúc là đe doạ và khổ là an
toàn; an toàn cho bản ngã. Bản ngã có thể tồn tại chỉ
trong khổ và qua khổ. Bản ngã là hòn đảo bị bao
quanh bởi địa ngục; hạnh phúc là đe doạ cho bản ngã,
tới chính sự tồn tại của bản ngã. Hạnh phúc mọc lên
như mặt trời và bản ngã biến mất, bay hơi như giọt
sương trên nhành cỏ.
Hạnh phúc là cái chết của bản ngã. Nếu bạn muốn
vẫn còn là thực thể tách rời khỏi sự tồn tại như hầu hết
mọi người đang cố làm, bạn sẽ sợ phúc lạc, vui mừng.
Bạn sẽ cảm thấy mặc cảm trong phúc lạc. Bạn sẽ cảm
thấy như tự tử bởi vì bạn đang tự tử ở mức độ tâm lí -
mức độ của bản ngã.
Điều gần như bao giờ cũng xảy ra là mọi người tận
hưởng vài khoảnh khắc và thế rồi sau đó họ cảm thấy
rất mặc cảm. Mặc cảm nảy sinh bởi vì bản ngã. Bản
ngã bắt đầu hành hạ họ, "Mình làm gì thế này? Mình
đã quyết định giết mình sao? Và mình là kho báu duy
nhất. Giết mình sao? Mình sẽ bị tiêu diệt. Giết mình là
phá huỷ bản thân mình."
Chúng ta bị đồng nhất nhiều thế với bản ngã tới
mức khi bản ngã nói những điều như vậy, chúng có
quyến dũ lớn, hấp dẫn lớn, thuyết phục lớn trong
chúng. Thực tại là chính cái đối lập - chúng ta không
phải là bản ngã của mình. Thực ra bởi vì bản ngã mà
chúng ta không trưởng thành, bản ngã giống như tảng
đá ngăn cản sự trưởng thành của bạn. Loại bỏ tảng đá
và bạn sẽ bắt đầu trưởng thành, lớn lên thành cây lớn -
với sự hoàn thành lớn lao, việc nở hoa.
Nhưng lúc ban đầu nó sẽ cảm thấy dường như nếu
vứt tảng đá đi là vứt đi mọi an toàn. Tảng đá đã ngăn
cản nhiều thứ. Nó đã ngăn cản mưa không tới được
bạn và bạn cứ cho nó là an toàn hơn. Thực ra mưa là
việc nuôi dưỡng. Nếu nó đạt tới bạn, bạn sẽ bắt đầu
trưởng thành. Tảng đá đã ngăn cản mặt trời và bạn cứ
cho nó là chỗ cư ngụ: nó ngăn cản nhiệt của mặt trời
không đạt tới bạn. Nhưng nhiệt đó là cần, nhiệt đó là
cuộc sống.
Cái có tính phá huỷ bạn, bạn đã được xã hội bảo
không có tính phá huỷ; không chỉ việc nó không có
tính phá huỷ mà nó còn là chỗ trú ngụ, sự bảo vệ, an
ninh nữa. Ý niệm đó đã trở nên bắt rễ sâu trong bạn.
Do đó, Surabhi, bạn cảm thấy khổ là an toàn. Mọi
người đều cảm thấy giống điều đó. Đó là lí do tại sao
mọi người đều chọn khổ; nó là chọn lựa của bạn. Mọi
người đều chọn địa ngục. Đó là trách nhiệm của bạn.
Nếu toàn thể trái đất đang sống trong địa ngục đó
không phải là trách nhiệm của ai khác cả. Đó là quyết
định của chúng ta - một quyết định có chủ ý để sống
trong địa ngục bởi vì trong địa ngục bản ngã có thể
còn lại.
Bản ngã có thể còn lại khi nó trong tối tăm, buồn
thảm, không mặt trời trên đường chân trời. Khi mặt
trời lên trên đường chân trời, mặt trời của nhận biết,
thế thì bản ngã bắt đầu biến mất như bóng tối. Tất
nhiên nếu bạn cảm thấy bị đồng nhất với bóng tối thế
thì việc mặt trời mọc là đe doạ. Nhưng nếu bạn không
đồng nhất bản thân bạn với bản ngã thế thì bạn sẽ có
khả năng đón chào mặt trời, nó không phải là đe doạ gì
thêm nữa. Nó là xúc động, cuộc phiêu lưu, nó là cuộc
sống mới, sinh thành mới, nó là phục sinh.
Bản ngã là nấm mồ. Bước ra khỏi bản ngã bạn sẽ
cần bước ra khỏi nấm mồ. Đừng nghĩ rằng nấm mồ là
an toàn. Nó có vẻ an toàn bởi vì bạn chưa bao giờ mạo
hiểm ra ngoài nó. Bạn chưa bao giờ có tính phiêu lưu.
Bạn đã không biết tới mùi vị của nguy hiểm, bất an.
Một khi bạn đã nếm trải nguy hiểm và bất an bạn sẽ
không bao giờ quay lại nấm mồ nữa. Sống một khoảnh
khắc một cách toàn bộ còn tốt hơn là nằm dài trong
nấm mồ cả nghìn năm.
Đó không phải là cuộc sống, đó là né tránh cuộc
sống. Bước ra khỏi khổ của bạn đi, Surabhi, bước ra
khỏi bản ngã của bạn, bước ra khỏi nấm mồ của bạn và
chấp nhận hạnh phúc đe doạ. Chấp nhận nguy hiểm
của việc đi tới những đỉnh cao, bởi vì những người đi
tới các đỉnh cao đó có thể ngã - họ đang mạo hiểm.
Liều tất cả đi bởi vì cuộc sống chỉ dành cho những
kẻ liều lĩnh, người có thể liều tất cả. Nhưng bằng việc
liều tất cả bạn trở thành người yêu của sự tồn tại, của
Thượng đế. Bằng việc liều tất cả bạn trở nên xứng
đáng, bằng việc liều tất cả bạn trở thành linh hồn.
Không có liều thì không có linh hồn trong bạn, bạn chỉ
là hổng hoác, không có gì bên trong bạn. Không có
liều thì không có ý nghĩa, không thơ ca, không bài ca,
không điệu vũ, không cực lạc trong cuộc sống của bạn.
Không lễ hội chút nào.
Mở hội, nhảy múa, để vui vẻ tràn ngập trái tim
bạn, để nó chảy tràn. Và nếu bản ngã chết, cứ để nó
chết. Giúp nó chết bởi vì nó không phải là bạn. Bạn là
cái gì đó siêu việt lên trên thân thể, tâm trí, bản ngã và
tất cả. Bạn là một phần của Thượng đế, một phần của
vĩnh hằng.
Đừng lo nghĩ, bạn không thể chết được. Cho dù
bạn muốn chết, bạn cũng không thể chết được - bạn là
vĩnh hằng. Cho nên, thực ra không có sợ hãi, không
cần sợ. Chết là không thể được, chỉ bản ngã có thể
chết. Cho nên nếu bạn vẫn còn bị đồng nhất với bản
ngã thế thì nỗi sợ vẫn còn đó. Một khi bản ngã bị loại
bỏ, chết biến mất và sợ biến mất, lo âu biến mất, phiền
não biến mất; và năng lượng đã tham gia vào sợ hãi, lo
âu, phiền não được thoát ra.
Cùng năng lượng đó trở thành điệu vũ của bạn, lễ
hội của bạn.
#10Câu hỏi thứ hai:
Thưa Thầy kính yêu,
Yêu nghĩa là gì?
Prem Jyoti, yêu có các nghĩa khác nhau cho mọi
người. Với nhà văn, yêu là từ. Với nghệ sĩ, yêu là mầu
sắc. Với diễn viên hài, yêu là tiếng cười. Với đứa trẻ
nhỏ, nó là người mẹ. Với ong, nó là mật hoa. Với hoa,
nó là ánh mặt trời. Và với bò cái, nó là nhiều bò đực.
Điều đó tất cả phụ thuộc vào bạn mà yêu sẽ có
nghĩa gì. Yêu là chiếc thang có nhiều bậc. Tại bậc thấp
nhât nó là sinh lí, sinh học, hoá học. Nó không là gì
ngoài trò chơi của các hoóc môn. Đàn ông bị hấp dẫn
tới đàn bà, đàn bà bị hấp dẫn tới đàn ông. Họ nghĩ họ
đang rơi vào tình yêu, nhưng nếu hoóc môn có thể
cười, chúng phải cười to bên trong bạn - bạn đang bị
lừa. Điều bạn gọi là tình yêu không là gì ngoài sự hấp
dẫn giữa các hoóc môn nam và nữ. Nó là hoá chất
thuần khiết; tại điểm thấp nhất nó không nhiều hơn
điều đó. Nó có tính con vật, nó là thèm khát.
Và hàng triệu người chỉ biết tình yêu ở mức thấp
nhất của nó. Bởi vì những người này đã nảy sinh một
tín ngưỡng lớn về từ bỏ tình yêu. Những người nghĩ
rằng thèm khát là tình yêu đã tạo ra tôn giáo lớn trong
đó tình yêu phải bị từ bỏ. Cả hai đều sai, bởi vì cả hai
đều đã chấp nhận bậc thang thấp nhất dường như nó là
tất cả. Nó không phải vậy.
Nếu bạn đi lên cao hơn chút ít, tình yêu của con
người với âm nhạc không phải là hoá chất, nó không
phải là hooc môn, nó không phải là sinh lí; nó là tâm
lí. Tình yêu của con người với hoa không thể thu về
dâm dục được. Tình yêu của con người với hội hoạ...
đã có những hoạ sĩ đã hi sinh toàn thể cuộc đời mình
chỉ để vẽ.
Vincent van Gogh, một trong những hoạ sĩ vĩ đại
nhất, đã hi sinh bản thân mình toàn bộ chỉ để vẽ: vẽ
còn quan trong hơn chính bản thân cuộc sống. Bởi vì
việc vẽ ông ấy không thể làm việc được; ông ấy liên
tục vẽ cho nên không có thời gian để làm việc. Anh
ông ấy thường cho ông ấy đủ tiền để sống, bởi vì
không ai quan tâm tới việc là hoạ sĩ của ông ấy. Và
ông ấy đã là một hoạ sĩ kì lạ nữa, một thiên tài rất vĩ
đại. Bất kì khi nào có một thiên tài, phải mất hàng trăm
năm để nhận ra người đó. Ông ấy không phải là hoạ sĩ
truyền thống. Ông ấy đã mang vào tranh vẽ cái gì đó
mới, cách nhìn mới.
Cho nên không ai đã có khả năng đánh giá được
tranh của ông ấy, chúng không bán được. Bạn sẽ ngạc
nhiên mà biết rằng thậm chí đến một tranh cũng không
bán được khi Van Gogh còn sống; bây giờ từng bức
tranh của ông ấy đều đáng giá hàng triệu đô la. Chỉ vài
bức còn lại, nhiều nhất là hai trăm bức - ông ấy đã vẽ
cả nghìn bức. Tất cả đều thất lạc, bởi vì không ai quan
tâm gìn giữ chúng.
Ông ấy thường đem tranh của mình đi cho không
bạn bè, bởi vì không ai quan tâm tới tranh ông ấy;
không chỉ họ không quan tâm, họ thậm chí không đủ
dũng cảm để treo tranh của ông ấy trong phòng khách
của họ bởi vì mọi người sẽ cười họ. Cách tiếp cận của
ông ấy tới cuộc sống và tự nhiên là mới thế. Anh ông
ấy thường cho ông ấy đủ tiền hàng tuần chỉ để sống.
Ông ấy sẽ ăn chỉ ba ngày trong tuần; bốn ngày ông ấy
tiết kiệm tiền để vẽ. Bây giờ bạn có thể sống theo cách
này được bao lâu?
Đến lúc ông ấy ba mươi bẩy tuổi, chỉ ba mươi bẩy
thôi, ông ấy tự tử. Và bức thư ngắn ông ấy đã để lại là
cực kì có ý nghĩa. Ông ấy đã viết rằng "Tôi tự tử
không chống lại ai cả - tôi đã không phàn nàn chống
lại bất kì ai hay cuộc sống - cuộc sống đã là sự hoàn
thành lớn cho tôi. Tôi tự tử bởi vì tất cả những gì tôi
muốn vẽ tôi đã vẽ rồi; bây giờ chẳng có ích gì mà sống
nữa. Tôi đã làm điều tôi phải tới làm; công việc của tôi
đã kết thúc."
Ông ấy muốn vẽ mặt trời trong tất cả các khuôn
mặt có thể của nó. Trong một năm ông ấy liên tục vẽ
mặt trời. Ông ấy liên tục đứng dưới mặt trời ngoài
không khí. Dạ dầy ông ấy trống rỗng, ông ấy đói, và
mặt trời nóng... và ông ấy liên tục vẽ bởi vì không mấy
thời gian còn lại. Mặt trời làm ông ấy phát điên, nó đã
là quá nhiều. Và thế rồi ông ấy tự tử, bởi vì ông ấy đã
vẽ mặt trời từ lúc mặt trời mọc tới lúc mặt trời lặn, mọi
khuôn mặt, mọi mầu sắc, mọi mây mù có thể. Ông ấy
đã làm xong việc của mình. Ông ấy chết một cách mãn
nguyện.
Bây giờ, tình yêu này cho việc vẽ, tình yêu này
cho nghệ thuật, là cái gì đó cao hơn - cao hơn sinh học,
cao hơn hoá chất, cao hơn sinh lí. Nó không phải là
thèm khát, bạn không thể gọi nó là thèm khát được. Nó
là đam mê như thèm khát hay còn nhiều hơn thế, bởi vì
rất ít người chết vì người đàn bà và rất ít người chết vì
người đàn ông. Nhưng người này chết vì các bức tranh
của mình. Đây là tâm lí; điều này là tốt hơn nhiều.
Nhưng vẫn có trạng thái cao hơn: tình yêu tâm
linh, tình yêu của vị Phật, tình yêu của một Jesus, tình
yêu của một Krishna. Nó là khác toàn bộ. Nó thậm chí
không thẩm mĩ, tâm lí; nó là tâm linh. Bây giờ tình yêu
có cách diễn đạt của từ bi - đam mê đã biến thành từ
bi. Phật yêu toàn thể sự tồn tại, bởi vì ông ấy có quá
nhiều và ông ấy phải chia sẻ nó. Ông ấy bị nặng gánh
bởi tình yêu thoát ra từ ông ấy; tình yêu phải được chia
sẻ với cây, với chim, với người, với con vật, với bất kì
cái gì đến gần.
Ở mức thấp nhất khi tình yêu chỉ là thèm khát,
sinh lí, nó là việc khai thác người khác, nó là việc dùng
người khác như phương tiện. Chẳng mấy chốc nó bị
kết thúc. Một khi bạn đã khai thác người đàn bà hay
người đàn ông bạn mất mối quan tâm; mối quan tâm
chỉ cho khoảnh khắc thôi. Khoảnh khắc người đàn bà
được biết rõ với bạn thì bạn bị kết thúc với cô ấy. Bạn
đã dùng người khác như phương tiện - điều này xấu,
điều này vô đạo đức. Dùng người khác như phương
tiện là hành động vô đạo đức nhất trong sự tồn tại, bởi
vì từng con người đều là mục đích lên chính mình.
Tình yêu tâm lí biết cách hi sinh. Nghệ thuật, thơ
ca, hội hoạ, âm nhạc, điệu vũ trở thành mục đích,
chúng không còn là phương tiện nữa. Bạn trở thành
phương tiện. Tình yêu sinh học thu người khác thành
phương tiện; tình yêu tâm lí nâng người khác thành
mục đích.
Nhưng trong thế giới tâm linh không có vấn đề
phương tiện và mục đích, không có vấn đề về người
khác; không có hai. Phật yêu sự tồn tại bởi vì Phật đã
trở thành bản thân sự tồn tại. Không có vấn đề về 'ta'
và 'người'; nó không phải là đối thoại. Tại điểm của
tâm thức tối thượng tình yêu không phải là đối thoại;
không có mối quan hệ ta/người, nó không phải là mối
quan hệ. Nó là việc chảy tràn thuần khiết của tình yêu.
Prem Jyoti, đó là nghĩa của tên bạn: Prem nghĩa là
yêu, Jyoti nghĩa là ngọn lửa. Vị phật là ngọn lửa của
tình yêu, chỉ là ngọn lửa thuần khiết không khói. Khói
tới từ thèm khát. Khi không có thèm khát, khi bạn
không muốn lấy cái gì từ tình yêu của bạn, khi bạn đơn
giản muốn cho, khi bạn cảm thấy biết ơn vì người khác
chấp nhận tình yêu của bạn, ngọn lửa là không khói.
Nó là thuần khiết, nó là vàng ròng.
Và bạn có biết không? - tình yêu bao giờ cũng
vươn lên trên, cũng giống như ngọn lửa bao giờ cũng
vươn lên trên. Ngọn lửa chưa bao giờ đi xuống dưới.
Thèm khát giống như nước, nó đi xuống dưới; tình yêu
giống như ngọn lửa, đám lửa, nó bao giờ cũng đi lên
trên. Và giữa hai điều này là hiện tượng tâm lí: cái gì
đó của thèm khát trong nó, đam mê, và cái gì đó của từ
bi trong nó. Nó ở ngay giữa. Nó có phẩm chất nào đó
của cái thấp hơn và phẩm chất nào đó của cái cao hơn
với nó.
Do đó khi nhà thơ trong tâm trạng thơ ca của mình
người đó gần như nhà huyền môn, nhưng đấy chỉ là
vấn đề tâm trạng. Khi người đó không trong tâm trạng
thơ ca người đó chỉ là người thường hay có thể còn
thường hơn cái gọi là người thường. Bạn có thể đã
quan sát điều đó: khi nhạc sĩ chìm ngập bản thân mình
trong âm nhạc người đó vươn tới những đỉnh cao,
những đỉnh cao phù du tới mức bạn có thể cảm thấy sự
hiện diện của điều huyền bí lớn lao. Và cùng nhạc sĩ
đó bạn có thể thấy ngồi trong khách sạn nào đó uống
trà, nói đủ mọi điều vô nghĩa. Người đó có vẻ quá bình
thường; bạn không thể tin được rằng con người này đã
tạo ra âm nhạc hay thế, âm nhạc tinh tú thế!
Nếu bạn đọc thơ, nhà thơ dường như giống người
thấy, một Kahlil Gibran. Nếu bạn đọc Nhà Tiên tri nó
gần như là nhà tiên tri, nhưng nếu bạn gặp Kahlil
Gibran và thấy ông ấy trong tâm trạng bình thường của
ông ấy bạn sẽ ngạc nhiên: ông ấy là người rất hay giận,
ghen tị, cãi lộn. Ông ấy đi vào cơn thịnh nộ rất trẻ con,
ném mọi thứ, rất có tính sở hữu. Nếu bạn gặp Kahlil
Gibran bạn sẽ ngạc nhiên... làm sao người này có thể
viết ra cuốn Nhà Tiên tri được? - bởi vì cuốn sách
vươn lên cùng tầm cao như Kinh Thánh, như Koran.
Nhưng người này không cư ngụ ở những chiều cao
đó; chỉ thỉnh thoảng mây không có đó và nhà thơ có
thể thấy mặt trời, đại dương, có thể thấy bầu trời rộng
mở và có thể cho bạn thoáng nhìn về nó trong thơ ca
của ông ấy, trong âm nhạc của ông ấy. Nhưng chẳng
mấy chốc mây lại kéo tới và mặt trời không còn sẵn có
nữa... và nhà thơ là bình thường như bạn hay thậm chí
còn tầm thường hơn, bởi vì khi bạn rơi khỏi thoáng
nhìn bạn rơi vào chiều sâu, chỉ để giữ cân bằng.
Cho nên bạn có thể tìm thấy một nhà thơ say, nằm
trong cống rãnh như con chó, hét lên những điều vô
nghĩa, và cùng nhà thơ đó đem tới những đoá hoa đẹp
thế từ cái không biết. Cho nên ở giữa cả hai điều này
sẽ có cùng nhau; nó là hiện tượng trộn lẫn. Vươn lên
từ cái thấp, nhưng đừng dừng lại ở giữa. Cứ vươn lên
cái cao nhất.
Khi tôi nói về tình yêu tôi bao giờ cũng ngụ ý cái
cao nhất, với một khác biệt: khi người khác nói về cái
cao nhất họ phủ nhận cái thấp nhất; tôi không phủ
nhận nó, tôi chấp nhận nó. Tôi muốn dùng nó như bàn
đạp. Cái thấp hơn phải được làm thuần khiết bởi cái
cao hơn. Cái thấp hơn phải được biến đổi bởi cái cao
hơn, không bị phủ nhận, không bị bác bỏ. Nếu bạn bác
bỏ nó, nó còn dai dẳng. Nếu bạn bác bỏ nó, nếu bạn
kìm nén nó, nó trả thù. Nó làm cho bạn xấu hơn bạn đã
từng vậy trước đây.
Người đàn bà với đứa trẻ mới đẻ, đứng tiếp trong
hàng trong phòng chờ đông đúc ở trạm của Hội phúc
lợi trẻ em, được đưa vào trong văn phòng của bác sĩ
bởi một cô y tá chịu trách nhiệm.
Bác sĩ khám cho đứa bé, và thế rồi hỏi người đàn
bà này, "Nó ăn bằng sữa mẹ hay ăn bằng chai?"
"Ăn sữa mẹ ạ," cô ấy đáp.
"Cô cởi áo xuống tới eo đi," ông ta ra lệnh. Cô ấy
làm vậy và ông ta kiểm tra cô ấy. Ông ta nhấn vào
từng vú, tăng và giảm sức nhấn. Ông ta vắt và kéo
từng đầu vú. Đột nhiên ông ta nhận xét, "Không có gì
ngạc nhiên đứa trẻ này đang bị suy dinh dưỡng - cô
không có sữa."
"Cũng tự nhiên thôi," cô ấy đáp. "Tôi là cô nó,
Nhưng tôi mừng là tôi đã tới."
Nếu bạn cứ kìm nén mọi thứ, thế thì trên bề mặt
bạn có thể trông như thánh nhân, nhưng chỉ trên bề
mặt thôi. Tốt hơn cả là tội nhân trên bề mặt và là thánh
nhân ở trung tâm hơn là điều ngược lại.
Cô hầu già bước dọc phố dưới ánh đèn mờ thì một
kẻ cướp đường nhảy ra từ bụi cây. "Đưa tiền đây!" hắn
ta ra lệnh.
"Tôi chẳng có đồng nào," cô ấy xoay xở đáp lại.
Hắn ta tiến hành lục soát kĩ càng cô ấy. Mọi chỗ
che giấu đều bị lục soát.
"Tao đoán là mày nói thật," cuối cùng hắn lẩm
bẩm một cách giận dữ. "Mày không có đồng nào theo
mình cả."
"Trời ơi," cô ấy rền rĩ, "đừng dừng lại bây giờ! Tôi
sẽ viết cho ông một séc!"
Tôi không thiên về kìm nén cái thấp hơn. Cái thấp
hơn phải được nâng lên những đỉnh cao, cái thấp hơn
phải được cho đôi cánh. Với sự sáng suốt, với hiểu
biết, điều đó là có thể. Nếu bạn phủ nhận cái thấp hơn
bạn sẽ không bao giờ có khả năng đạt tới cái cao hơn,
bởi vì bậc thấp hơn là bước cần thiết. Vâng, vượt ra
ngoài nó, nhưng bạn có thể vượt ra ngoài nó chỉ nếu
bạn không bác bỏ nó. Dùng nó, nhưng nhớ đừng trở
nên bị ám ảnh bởi nó. Hai điều này phải được ghi nhớ:
một là, không bị ám ảnh bởi nó, không dừng tại nó, và
hai là, không bác bỏ và phủ nhận nó mà dùng nó làm
bàn đạp.
Khéo léo vào. Từ của Phật là upaya - khéo léo. Và
khi ông ấy nói "upaya," ông ấy ngụ ý rất nghệ thuật
trong việc biến đổi cuộc sống của bạn. Nó chỉ là tiềm
năng, hạt mầm, nhưng nó có thể trở thành cây lớn và
nó có thể nở hoa vào thời điểm riêng của nó. Và khi
cây nở hoa, khi hàng nghìn hoa đã nảy sinh trên cành
cây, có vui vẻ lớn trong việc là cây, cực lạc lớn lao.
Bạn cũng là hạt mầm - trở thành cây đi. Hạt mầm
có thể xấu - hạt mầm gần như bao giờ cũng vậy; rễ có
thể xấu, nhưng nhớ lấy, chính là trên rễ mà cây phải
lớn lên. Rễ phải được dùng; không có rễ sẽ không có
việc nở hoa.
Không có hấp dẫn sinh lí sẽ không có trưởng thành
tâm lí. Và không có chuyện tình tâm lí với nghệ thuật,
âm nhạc, điêu khắc, không có khả năng của tình yêu
tâm linh. Nhà thơ và hoạ sĩ và vũ công và nhạc sĩ là
bước cần thiết hướng tới việc trở thành vị phật.
#10Câu hỏi thứ ba:
Thưa Thầy kính yêu,
Tathata là gì - chấp nhận toàn bộ?
Dharmesh, tathata là một trong những đóng góp có
ý nghĩa nhất của Phật cho thế giới. Tathata nghĩa là
chấp nhận toàn bộ: bất kì cái gì đang là tình huống,
đừng tranh đấu với nó. Chấp nhận nó một cách toàn
tâm, bởi vì chính qua chấp nhận toàn bộ mà điều siêu
việt xảy ra. Nếu bạn tranh đấu với nó bạn sẽ làm phí
hoài không cần thiết năng lượng của bạn. Chấp nhận
nó bạn gìn giữ năng lượng của bạn. Chấp nhận nó bạn
trở nên có khả năng hiểu nó, bởi vì chỉ người chấp
nhận mới có khả năng hiểu; người bác bỏ không thể
hiểu được.
Bất kì cái gì bạn bác bỏ, bất kì cái gì bạn trở nên
thù địch, bạn trở nên không có khả năng hiểu - bởi vì
chúng ta né tránh cái bị bác bỏ. Chúng ta thực sự sợ nó
cho nên chúng ta để nó ở sau lưng và chúng ta trốn
khỏi nó; chúng ta tìm cách thức và phương tiện để trốn
khỏi nó. Và nếu bạn cố gắng trốn khỏi cái gì đó, làm
sao bạn sẽ hiểu nó được? Và không hiểu không có giải
thoát, không biến đổi.
Phật nói "tathata" - chấp nhận nó một cách toàn
bộ. Bất kì cái gì đang là hoàn cảnh, chấp nhận mà
không phủ nhận, không kết án, và trong việc chấp
nhận đó nhiều điều xảy ra, nhiều cánh cửa mở ra. Điều
đầu tiên là: năng lượng của bạn được bảo tồn, điều là
ân huệ lớn lao. Trong tranh đấu bạn tiêu tán năng
lượng, năng lượng của bạn dò rỉ, bạn bao giờ cũng vẫn
còn vô năng lượng. Và để đi tới các đỉnh cao bạn sẽ
cần năng lượng lớn, bạn sẽ cần sự sống động. Nếu bạn
muốn đạt tới mặt trời, cuộc hành trình là dài và gian
nan. Bạn không thể đi tới mặt trời được, bạn không thể
bay xa thế được, nếu không có năng lượng trong bạn.
Người tranh đấu với dục, giận, tham, ghen tị, sở
hữu của mình - và có cả nghìn lẻ một thứ để tranh đấu
- vẫn còn vướng mắc trong cuộc đấu tranh của mình;
người đó không thể đi đâu được. Người đó thường
xuyên bị rối loạn và bị sao lãng bởi những điều này.
Người đó tranh đấu với cái này, kìm nén cái này, cái gì
đó khác ngóc đầu lên - bởi vì người đó là một và kẻ
thù là nhiều. Bạn tranh đấu với giận, bạn sẽ trở nên
tham. Toàn thể năng lượng bạn kìm nén từ giận biến
thành tham. Bạn tranh đấu với tham, bạn sẽ trở nên rất
dâm dục. Bạn tranh đấu với dục, bạn sẽ trở nên rất
giận. Bạn kìm nén cái này, và cùng điều đó với khuôn
mặt mới, với mặt nạ mới, lại tới từ cửa sau. Bạn sẽ
phát điên.
Đó là cách toàn thể nhân loại đã phát điên. Sự điên
khùng này khắp chốn thế, đó là lí do tại sao chúng ta
nghĩ rằng mọi người đều điên. Mọi người đều điên!
Rất hãn hữu mới có một người lành mạnh. Lành mạnh
trong xã hội điên khùng này thực sự là công trình vĩ
đại của hiểu biết, dũng cảm, nổi dậy.
Nếu bạn vứt bỏ tất cả các ước định mà xã hội đã
áp đặt lên bạn, chỉ thế thì bạn mới có khả năng vẫn còn
lành mạnh. Bằng không xã hội biến mọi người thành
người điên khùng. Xã hội biến mọi người thành tương
ứng với phương thức, hình mẫu, cấu trúc riêng của nó.
Nó cho bạn ý niệm, ý thức hệ, tôn giáo. Nó đầu độc
bạn từ chính lúc ban đầu; khi bạn đang trong bụng mẹ
việc đầu độc bắt đầu.
Bây giờ họ đang tìm ra những cách thức khoa học
để ước định đứa trẻ vẫn còn trong bụng mẹ. Vâng,
những điều nào đó có thể được làm để ước định đứa
trẻ. Chẳng hạn, họ đã thử dùng kiểu thắt lưng chặt nào
đó ở bụng người mẹ; thắt lưng đó được làm theo cách
nó giữ đứa trẻ trong tình thế chật chội. Và họ đã khám
phá ra rằng những đứa trẻ này rất vâng lời; khi chúng
được sinh ra chúng vâng lời hơn các đứa trẻ khác, bởi
vì trong chín tháng chúng đã sống gần như trong góc
chật, trong nhà tù.
Ở nước Nga Xô viết họ đang thử thắt lưng nhiều
đàn bà. Bây giờ, đứa trẻ đáng thương thậm chí chưa
được sinh ra đã được ước định, được chuẩn bị cho xã
hội nào đó. Nó sẽ vâng lời. Âm nhạc nào đó có thể đạt
tới bụng mẹ. Một loại âm nhạc dịu dàng ru ngủ đứa trẻ
là có ích để tạo ra nô lệ. Và nhiều thuốc thế đang có
sẵn mà có thể đánh thuốc cho đứa trẻ ngay cả trước khi
nó được sinh ra - nó được sinh ra bị đánh thuốc rồi. Nó
sẽ sống toàn bộ cuộc sống của nó theo một loại vô ý
thức; nhưng đó là cách xã hội muốn nó sống. Người có
ý thức đã chứng tỏ là nguy hiểm; một Jesus, một Phật,
một Zarathustra, những người này đã chứng tỏ là nguy
hiểm.
Câu chuyện là ở chỗ điều đầu tiên mà Zarathustra
làm khi ông ấy được sinh ra là ông ấy đã cười to. Bạn
có thể nghĩ được đứa trẻ nào nổi dậy nhiều hơn thế
không? Trẻ con không được cho là cười khi chúng
được sinh ra; chúng được cho là phải khóc, nhưng
không được cho là phải cười. Nó phải đã gây choáng
cho bố mẹ nó và hàng xóm và những người đã nghe
tiếng cười của nó. Sao nó cười? Và người như vậy
không đáng tin, không đáng tin cậy chút nào - đây là
con người nguy hiểm! Người đó đã làm hành động nổi
dậy đầu tiên của mình. Người đó đã nói rằng "Tôi
không định là một phần của đám đông đâu - thế là đủ
rồi. Nhiều đứa trẻ đã khóc, tôi không theo chúng. Tôi
sẽ bắt đầu cuộc sống của tôi bằng tiếng cười."
Dù điều đó có thực sự xảy ra hay không thì cũng
không thành vấn đề. Thực ra khó mà cười ngay sau khi
bạn được sinh ra, nhưng câu chuyện này có ý nghĩa
bởi vì nó nói cái gì đó về toàn thể triết lí sống của
Zarathustra: đó là triết lí về nổi dậy lớn lao.
Zarathustra là một trong những thầy giáo vĩ đại
nhất của thế giới - ông ấy đã chấp nhận cuộc sống
trong tính toàn bộ của nó. Ông ấy không phải là người
từ bỏ, ông ấy chống lại việc từ bỏ. Đó là lí do tại sao
vài tín đồ của Zarathustra đã sống sót phải trốn khỏi
quê hương bản quán của mình, Persia. Họ phải ra đi,
bởi vì người Mô ha mét giáo ép buộc họ, chuyển đạo
họ; họ đã cải đạo cả vùng Persia thành nước của người
Mô ha mét giáo. Persia bây giờ được biết tới là Iran.
Vài người đã trốn đi, người không sẵn sàng chấp
nhận sự ép buộc bạo hành này. Họ tới Ấn Độ; họ sống
ở Bombay và xung quanh Bombay - người Parsis. Họ
là những tín đồ duy nhất của Zarathustra; họ là những
người rất khẳng định cuộc sống. Do đó nhiều người
Parsis đã trở nên quan tâm tới tôi; với họ tôi có sức
hấp dẫn lớn bởi vì tôi cũng khẳng định cuộc sống. Tôi
không thiên về trốn chạy.
Chính bởi vì thái độ khẳng định cuộc sống toàn bộ
của Zarathustra mà Friedrich Nietzsche yêu ông ấy vô
cùng và đã viết cuốn sách lớn của mình, Zarathustra đã
nói vậy. Ông ấy đã viết cuốn sách để ca ngợi cuộc
sống và tình yêu cuộc sống. Ông ấy đã không thể tìm
được thầy nào khác khẳng định cuộc sống thế như
Zarathustra; người bắt đầu cuộc sống của mình bằng
tiếng cười, người có toàn thể cuộc sống của mình là
tiếng cười. Không có bi quan, thậm chí không có
khuynh hướng bi quan trong ông ấy.
Đó đích xác là nghĩa của tathata - chấp nhận toàn
thể cuộc sống như nó vậy. Trong chấp nhận của mình
bạn sẽ gìn giữ năng lượng của bạn, và bạn có nguồn
năng lượng không cạn nếu bạn chấp nhận.
Thứ hai: khi bạn chấp nhận mọi thứ, cuộc sống của
bạn trở thành vui mừng. Không ai có thể làm bạn khổ
được, không cái gì có thể làm bạn khổ được.
Một người có ba sợi tóc trên cái đầu hói của mình
đi vào trong hiệu cắt tóc và yêu cầu gội đầu và tết tóc.
Thợ cắt tóc vào việc nhưng khi anh ta sắp hoàn thành
việc chải tóc, một trong các sợi tóc rơi ra.
Thợ cắt tóc rất bối rối nhưng người này chỉ nói,
"Thôi được, làm gì được? Tôi đoán tôi sẽ phải chia tay
sợi tóc ở giữa!"
Thợ cắt tóc rất cẩn thận chải một sợi tóc sang bên
phải và vừa định chải sợi kia sang bên trái thì một sợi
lại rơi ra nữa. Thợ cắt tóc không thể xin lỗi cho đủ
nhưng người này coi điều đó thực sự bình thản.
"Thôi được," ông ta nói, "tôi đoán bây giờ tôi phải
đi quanh với tóc tôi tất cả đều rơi mất."
Đây là tathata, đây là chấp nhận toàn bộ! Bạn
không thể làm rối loạn người như vậy được. Người đó
bao giờ cũng bằng lòng, người đó bao giờ cũng tìm ra
cách để được mãn nguyện. Đó là nghệ thuật lớn. Và
người bao giờ cũng hài lòng và bao giờ cũng tìm ra
cách vẫn còn được hài lòng có khả năng thấy mọi sự
một cách trong suốt.
Không bằng lòng che mờ mắt bạn và cách nhìn
của bạn; bằng lòng làm cho mắt bạn sáng sủa và cách
nhìn của bạn rõ ràng. Bạn có thể nhìn xuyên thấu, bạn
có thể hiểu mọi sự như chúng vậy.
Tathata cũng được dịch ra là như thế; điều đó nữa
là một trong các nghĩa của nó. Bạn thấy mọi sự như
chúng vậy trong tính như thế của chúng; bạn không áp
đặt ý niệm nào riêng của mình lên chúng.
Và đó là phép màu, chìa khoá thần. Nếu bạn có thể
thấy giận như nó vậy, không phán xét nào, bạn sẽ ngạc
nhiên: nhìn giận mà không phán xét, không kết án,
không nói nó là xấu hay tốt, phải vậy hay không phải
vậy, không đem cái "phải" nào vào... nếu bạn có thể
thấy giận của mình như nó vậy, không định kiến ủng
hộ hay chống đối, phép màu xảy ra: giận biến mất và
năng lượng của nó được hấp thu vào trong bạn. Chỉ
bằng sáng suốt thuần khiết bạn biến đổi giận, tham,
ghen tị. Và tất cả những cái cứ kéo bạn chỗ này chỗ
nọ, giữ bạn chạy, chưa bao giờ cho phép bạn nghỉ ngơi
và thảnh thơi, đều được hấp thu; nhiều năng lượng trở
thành sẵn có cho bạn.
Và dần dần, dần dần khi không có giận - không
phải là bạn đã bác bỏ nó mà bạn đã hấp thu nó, tiêu
hoá nó - không tham, không ghen tị, không sở hữu,
không dâm dục... bạn đã tiêu hoá tất cả các hiện tượng
này trong mình. Bạn đang trở nên ngày một lớn hơn và
bạn có năng lượng sẵn có để vươn lên cao hơn; bạn có
đủ nhiên liệu để giữ cho ngọn lửa của bạn bùng cháy
sáng và không có khói.
Dharmesh, tathata là phương pháp biến đổi năng
lượng của bạn thành bạn bè của bạn. Thông thường
bạn được dạy theo cách ngu xuẩn tới mức năng lượng
riêng của bạn trở thành kẻ thù của bạn và bạn thường
xuyên tranh đấu chống lại bản thân bạn. Bây giờ có thể
không có ngu xuẩn nào lớn hơn điều này; đây là hành
động ngu xuẩn nhất trên thế giới mà mọi người cứ làm
- đánh nhau với bản thân bạn. Bạn không thể thắng
được, bạn không thể đánh bại được. Bạn sẽ vẫn còn cãi
vã với bản thân bạn, bạn sẽ phá huỷ bản thân bạn trong
cãi vã cả đời mình. Bạn sẽ chết, và bạn sẽ không bao
giờ biết cuộc sống là gì. Bạn sẽ không bao giờ biết
vinh quang của cuộc sống, vĩ đại của cuộc sống và
món quà vô cùng là cuộc sống, và có thể đã từng là
món quà nếu bạn đã sống với sự lưu tâm đúng, với
tathata, với sự chấp nhận.
#10Câu hỏi thứ tư:
Thưa Thầy kính yêu,
Tôi muốn ném tâm trí xấu xí này khỏi hệ thống của
tôi. Làm sao làm điều đó?
Narayano, chẳng cái gì phải bị ném đi khỏi hệ
thống của bạn; mọi thứ phải được biến đổi và hấp thu.
Tâm trí không xấu đâu; cách dùng tâm trí của bạn mới
xấu. Đổi cách dùng của bạn đi. Tâm trí không xấu -
bạn vô ý thức. Chiếc xe ngựa là đẹp, nó là chiếc xe
bằng vàng, nhưng người đánh xe say và ngủ say; và
người đó gọi tên xe, kết án xe. Khi người đó thấy bản
thân mình nằm trong rãnh, người đó đánh ngựa, người
đó kết án xe, người đó kết án người làm xe, và người
đó không bao giờ nghĩ rằng đó không phải là lỗi của
xe, không phải là lỗi của ngựa, không phải là lỗi của
người làm xe. Đó là lỗi của người đó - người đó đã
say, người đó đã ngủ say. Nếu xe rơi xuống rãnh điều
đó là tự nhiên, toàn thể trách nhiệm là của bạn.
Vấn đề không phải là phá huỷ tâm trí hay vứt tâm
trí đi. Tâm trí là cái máy hay, cái máy đẹp nhất trong
sự tồn tại, nhưng bạn đã trở thành người hầu của tâm
trí. Bạn là người chủ và người chủ đang vận hành như
người hầu; tâm trí là người hầu và bạn đã làm người
hầu thành người chủ.
Tôi đã nghe một câu chuyện cổ:
Một nhà vua rất hạnh phúc với một trong những
người hầu của mình. Người đó thành tâm thế, thành
tâm toàn bộ với nhà vua thế; người đó bao giờ cũng
sẵn sàng hi sinh cuộc sống của mình cho nhà vua. Nhà
vua hạnh phúc vô cùng, và nhiều lần người đó đã cứu
vua, liều cả mạng sống riêng của mình. Người đó là vệ
sĩ của nhà vua.
Một hôm nhà vua cảm thấy hạnh phúc với người
đó thế, nhà vua nói, "Nếu ngươi muốn điều gì, nếu
ngươi có bất kì điều muốn gì, nói cho ta và ta sẽ hoàn
thành nó. Ngươi đã làm nhiều điều cho ta tới mức ta
không bao giờ có thể bầy tỏ được lòng biết ơn của
mình, ta không bao giờ có thể trả lại cho ngươi được,
nhưng hôm nay ta muốn hoàn thành bất kì ước nguyện
nào của ngươi, dù nó là bất kì cái gì."
Người hầu nói, "Bệ hạ đã cho thần quá nhiều rồi.
Thần được phúc lành thế chỉ bởi việc bao giờ cũng ở
bên bệ hạ - thần không cần gì cả."
Nhưng nhà vua cứ khăng khăng. Người hầu càng
nói, "Không cần," nhà vua càng nài nỉ hơn. Cuối cùng
người hầu nói, "Thế thì được. Bệ hạ làm cho thần
thành vua trong hai mươi bốn giờ và bệ hạ thành lính
gác."
Nhà vua có chút ít e dè, sợ hãi, nhưng nhà vua là
người biết giữ lời mình và nhà vua phải hoàn thành
ước muốn này. Thế là trong hai mươi bốn giờ ông ta
trở thành lính gác và lính gác trở thành nhà vua. Và
bạn có biết lính gác làm gì không? Điều đầu tiên ông
ta làm, ông ta ra lệnh cho nhà vua chết đi, tử hình!
Nhà vua nói, "Ông làm gì vậy?"
Người đó nói, "Ngươi im đi! Ngươi đơn giản là
lính gác và không gì nhiều hơn. Đó là ước muốn của ta
và bây giờ ta là vua!"
Nhà vua bị giết, và kẻ hầu trở thành vua mãi mãi.
Kẻ hầu có cách thức láu cá riêng của mình để trở
thành chủ.
Tâm trí là một trong những cái máy hay nhất, phức
tạp nhất, tiến hoá nhất. Nó đã phục vụ bạn tốt, nó phục
vụ bạn tốt đấy. Bởi vì việc phục vụ của nó bạn đã lặp
lại cùng câu chuyện này trong đời mình, mọi người đã
lặp lại cùng câu chuyện này: bạn đã làm tâm trí thành
người chủ và bây giờ người chủ đối xử với bạn hệt như
kẻ hầu.
Đây là vấn đề, không phải là tâm trí phải bị vứt đi
đâu. Nếu bạn vứt tâm trí đi bạn sẽ phát điên. Không có
tâm trí sẽ chỉ có một nghề bạn có thể làm: đó là chính
trị!
Tôi đã nghe:
Một chính khách đang trải qua ca mổ não. Não của
ông ta được lấy ra, họ chữa não của ông ta và ông ta
đang nằm trên cáng chờ đợi.
Đột nhiên một người bước vào và nói, "Ông đang
làm gì ở đây thế? Ông đã được chọn làm thủ tướng đất
nước rồi!"
Thế là ông ta trở dậy. Bác sĩ giải phẫu nói, "Ông đi
đâu thế? - não ông vẫn còn đây!"
Ông ta nói, "Tôi sẽ làm gì với bộ não bây giờ? Tôi
đã là thủ tướng rồi, tôi không cần nó. Các ông có thể
giữ lấy nó. Khi tôi cần nó tôi sẽ quay lại."
Một khi bạn là thủ tướng bạn không cần tâm trí.
Tôi đã nghe một câu chuyện khác nữa:
Một người - nó phải là câu chuyện tương lai nào
đó - một người tới bệnh viện vì não anh ta bị hỏng
trong tai nạn xe hơi và anh ta muốn có não mới. Thế là
anh ta yêu cầu nhà giải phẫu chỉ cho anh ta tất cả các
loại não sẵn có. Bác sĩ giải phẫu đưa anh ta đi quanh
một vòng; có nhiều não.
Bộ não đầu tiên thuộc về một giáo sư, nhà toán
học. Anh ta hỏi giá - năm mươi đô la. Anh ta ngạc
nhiên: nhà toán học nổi tiếng, người được giải Nobel,
mà chỉ đáng năm mươi đô la thôi! Thế rồi có một nhạc
sĩ và não ông ta chỉ có ba mươi đô la. Thế rồi có não
của một doanh nhân và nó chỉ có hai mươi đô la. Và
cứ thế, cứ thế.
Cuối cùng họ đi tới não của một chính khách - nó
giá năm nghìn đô la! Người này đâm phân vân. Anh ta
nói, "Sao nó đắt quá thế?"
Bác sĩ giải phẫu nói, "Bởi vì nó chưa bao giờ được
dùng cả. Tất cả các não khác đều là thứ dùng rồi, đây
mới là thứ mới toanh."
Narayano, nếu bạn vứt não đi, thế thì bạn sẽ phải
đi vào chính trị, có vậy thôi. Thế thì bạn không thể là
sannyasin được: sannyasin cần nhiều thông minh hơn
bất kì ai khác. Cho nên xin đừng hỏi tôi cách làm điều
đó. Và đừng làm điều đó theo cách riêng của bạn - bởi
vì đôi khi mọi người có làm đấy, và thế rồi chữa lại nó
là rất khó.
William có vấn đề lớn với vợ mình, Lisa. Mọi đêm
trước khi cô ấy đi ngủ cô ấy sẽ dừng ở cửa, bắt đầu
chạy và thế rồi với cú nhảy xa phi thẳng vào trong
giường. Anh ta bực mình thế về thói quen này của cô
ấy tới mức anh ta quyết định làm điều gì đó về nó. Thế
là một đên khi cô ấy đã ngủ anh ta trở dậy, đi tới tủ
lạnh, lấy một miếng gan bò lớn ra khỏi tủ và để nó trên
sàn ngay trước giường.
Sáng hôm sau anh ta dậy và nói, "Trời đất, Lisa,
nhìn điều đã xảy ra - dạ con của em đã rơi ra rồi! Anh
bao giờ cũng bảo em đừng có nhảy mà." Lisa choáng
váng.
Khi anh ta về nhà tối hôm đó từ công việc anh ta
nói, "Bây giờ, Lisa, em thấy điều có thể xảy ra với thói
quen xấu như thế này."
Cô ấy đáp, "Ồ, điều đó cũng không tệ lắm đâu.
Anh phải đã thấy để cho nó vào lại thì rắc rối nhiều thế
nào."
Cho nên Narayano, xin đừng làm điều đó! Dễ dàng
vứt nó đi đấy, rất khó để nó trở lại. Bạn sẽ cần tất cả
tâm trí bạn có. Là người chủ của nó đi. Dùng nó, và
đừng bị nó dùng.
Và đó là điều thiền tất cả là gì: nghệ thuật của việc
đi khỏi tâm trí, ở trên tâm trí, trở nên siêu việt với tâm
trí, vẫn biết rằng "Mình không phải là tâm trí." Điều đó
không ngụ ý rằng bạn phải vứt tâm trí đi. Việc biết
rằng "Mình không phải là tâm trí " làm bạn lại là người
chủ. Bạn có thể dùng tâm trí. Ngay bây giờ, tâm trí
không trong tay bạn. Bạn không phải là người đánh xe
giỏi.
Mới hôm nọ, trong lời kinh của mình, Phật đã nói
về người đánh xe giỏi. Và ông ấy nói: Người khác chỉ
giữ dây cương trong tay và chiếc xe cứ đi tới bất kì
đâu nó muốn tới, ngựa cứ đi tới bất kì đâu chúng muốn
tới. Bạn đơn giản cầm dây dương, nhưng bạn không
thực sự trong kiểm soát.
Là người đánh xe giỏi đi. Và bước đầu tiên là biết
rằng bạn không là tâm trí. Nếu bạn là tâm trí thế thì
bạn không thể là người chủ được, bởi vì không có tách
biệt giữa tâm trí và bạn, không có khoảng cách. Tạo ra
chút ít khoảnh cách đi. Quan sát tâm trí, cách vận hành
của nó, và tạo ra khoảnh cách. Việc quan sát tự động
tạo ra khoảnh cách. Do đó nhấn mạnh của Phật lặp đi
lặp lại: quan sát, quan sát ngày và đêm. Dần dần, dần
dần bạn sẽ thấy rằng bạn có ý thức và tâm trí chỉ là
công cụ sẵn có cho bạn. Thế thì bạn có thể dùng nó khi
được cần tới và khi không được cần tới bạn có thể cho
tắt nó đi. Ngay bây giờ, bạn không biết cách tắt nó đi;
nó bao giờ cũng bật.
Điều đó giống như máy thu thanh trong phòng bạn
luôn luôn bật và bạn không biết cách tắt nó đi, cho nên
bạn phải ngủ với radio vẫn bật và nó cứ kêu đủ mọi
loại quảng cáo và đủ mọi loại bài hát bạn đã nghe cả
nghìn lần, nhưng bạn không biết cách tắt nó đi. Cả
ngày bạn mệt mỏi, nhiều lần bạn muốn gạt bỏ radio,
nhưng bạn không thể gạt bỏ được bởi vì bạn không
biết cách tắt nó đi. Điều đó cũng giống như ngủ với
đèn bật vì bạn không biết cách tắt chúng đi.
Freud nhớ rằng khi điện tới Vienna lần đầu tiên,
một người bạn, một dân làng, tới thăm ông ấy. Freud
chăm sóc ông khách đủ điều, đưa ông ấy vào phòng
ông ấy sẽ ngủ, bỏ lại ông ấy ở đó, nói lời chào tạm
biệt.
Người dân làng này rất phân vân bởi mỗi một điều
- điện, bóng điện. Ông ấy biết cách tắt đèn dầu, làm
sao thổi tắt nến, nhưng làm gì với bóng đèn điện này?
Người đó cố gắng đủ mọi cách mình biết: đứng lên
ghế người đó thổi nó nhiều lần, nhưng chẳng cái gì xảy
ra cho nó. Người đó quan sát nó từ mọi nơi; không có
lỗ hổng nào, không có gì. Và làm sao người đó có thể
tưởng tượng được rằng ngay trên tường có một công
tắc? Người đó không thể nào tưởng tượng được điều
đó, người đó chưa bao giờ thấy điện. Nhưng người đó
lại ngại đi và hỏi Freud hay ai đó khác bởi vì họ sẽ
nghĩ người đó là kẻ ngu... "Ông thậm chí không thể tắt
đèn được sao - ông là loại người gì vậy?"
Thế là, cảm thấy bối rối, người đó cố gắng ngủ với
đèn vẫn bật. Người đó không thể ngủ được. Nhiều lần
người đó đứng lên chiếc ghế, lại thử. Cả đêm điều đó
tiếp diễn; giấc ngủ không tới được vì ánh sáng - quá
nhiều ánh sáng, đèn sáng quá, ông ấy chưa bao giờ
thấy đèn sáng thế. Một cây nến ông ấy đã biết, và bóng
đèn này phải bằng cả trăm cây nến hay hơn. Đến sáng
người đó mệt muốn chết.
Freud hỏi người đó, "Ông trông mệt mỏi quá. Ông
không ngủ được sao?"
Người đó nói, "Bây giờ phỏng có ích gì mà che
giấu, bởi vì tôi sẽ ở ba ngày - cái bóng đèn này sẽ giết
tôi mất! Ngay cả nhìn vào nó cũng làm lạnh ớn xương
sống tôi. Làm sao tắt nó đi được?"
Freud nói, "Ông ngốc thế! Sao ông không hỏi tôi?"
Người đó nói, "Tôi cảm thấy ngại - hỏi chuyện
đơn giản thế thì thật ngu xuẩn!"
Freud đưa người đó tới bức tường, chỉ cho người
đó chiếc công tắc. Người đó thử nó, bật lên và tắt đi,
rồi cười. Và người đó nói, "Điều đơn giản thế, và cả
đêm tôi đã cố gắng mà không thể nào tìm thấy được
nó!"
Người đó có thể đã thử cả đời và có thể đã không
gắn chiếc công tắc với chiếc đèn.
Đây là cách điều đó đang xảy ra cho bạn; tâm trí
bạn liên tục bật. Họ nói rằng tâm trí là cái máy tuyệt
diệu tới mức nó bắt đầu làm việc khoảnh khắc bạn
được sinh ra và nó cứ làm việc cho tới khi bạn đứng
trước khán giả - thế rồi bỗng nhiên nó dừng lại, thế rồi
cái gì đó xảy ra cho nó. Bằng không nó liên tục cho tới
khi bạn chết. Và rất ít người cần đứng trước khán giả,
cho nên tâm trí liên tục không bị cản trở, và nó giữ bạn
hoàn toàn bị mệt mỏi, cạn kiệt, yếu mòn, chán ngán.
Và nó cứ nói cùng điều lặp đi lặp lại. Tại sao mọi
người chán nhiều thế?
Cuộc sống là không chán, nhớ lấy. Cuộc sống bao
giờ cũng là điều bí ẩn vô cùng, nó bao giờ cũng là điều
ngạc nhiên, nó bao giờ cũng mới, nó thường xuyên
làm mới bản thân nó. Lá mới đang tới, lá cũ rụng đi;
hoa mới đang xuất hiện, hoa cũ biến đi. Nhưng bạn
không thể thấy được cuộc sống bởi vì bạn thường
xuyên bị chán bởi tâm trí riêng của mình. Nó cứ nói
những điều nó đã nói cả nghìn lần. Bạn trông mệt mỏi
thế, bởi lẽ đơn giản là bạn không biết cách tắt nó đi.
Tâm trí phải không bị vứt đi, Narayano. Tâm trí
phải được đặt vào chỗ của nó: nó là người hầu đẹp
nhưng là người chủ rất xấu. Bạn nắm dây cương trong
tay mình, bạn là người chủ. Và hành động đầu tiên,
hành động thứ nhất là: trở nên tách rời khỏi tâm trí.
thấy rằng nó không phải là bạn, tạo ra khoảng cách;
khoảng cách càng lớn, khả năng điều chỉnh nó tắt đi
càng nhiều.
Và một phép màu nữa bạn sẽ bắt gặp: khi bạn tắt
tâm trí đi, tâm trí vẫn còn tươi tắn và thông minh hơn;
bởi vì nó cũng mệt. Nghĩ mà xem: từ ngày bạn được
sinh ra nó bắt đầu và cứ tiếp tục làm việc cho tới khi
bạn chết. Và người ta không bao giờ biết được, nó có
thể thậm chí làm việc khi bạn trong mồ, bởi vì vài điều
vẫn tiếp tục xảy ra từ đó. Móng vẫn cứ mọc ra ngay cả
khi bạn trong mồ, tóc vẫn cứ mọc, cho nên một loại cơ
chế nào đó vẫn còn tiếp tục. Ngay cả trong thân thể
chết móng và tóc vẫn cứ mọc, cái gì đó vẫn làm việc,
có thể cơ chế cục bộ nào đó, không phải là bản thân
tâm trí, nhưng thân thể cũng có tâm trí nhỏ, cục bộ để
hỗ trợ cho tâm trí lớn, đại lí của tâm trí lớn. Có thể
chúng chưa biết rằng anh bạn lớn đã chết và chúng cứ
làm điều cũ liên tục. Chúng không biết gì khác cho nên
chúng tiếp tục lặp lại công việc cũ của chúng. Tóc cứ
mọc, móng cứ mọc - chỉ là những tâm trí cục bộ, nhỏ,
tâm trí mini.
Tâm trí phải được đặt vào đúng chỗ của nó, và khi
bạn cần nó bạn dùng nó; cũng như bạn dùng chân khi
bạn cần chúng. Khi bạn không cần bạn không dùng
chân mình. Nếu ngồi trên ghế bạn cứ rung chân, thế thì
mọi người sẽ nghĩ bạn điên. Và đó đích xác là điều
đang xảy ra trong tâm trí và dầu vậy bạn vẫn nghĩ
mình không điên.
Nhận biết có tính thiền đi tới biết chìa khoá. Bất kì
khi nào nó muốn tắt tâm trí đi nó đơn giản nói, "Bây
giờ im đi nhé!" và nó là vậy. Và tâm trí đơn giản giữ
yên tĩnh và im lặng lớn lao lan tràn khắp bên trong. Và
tâm trí cũng có thể nghỉ ngơi trong những khoảnh khắc
đó, bằng không mọi sự trở thành mệt mỏi.
Tôi đã nghe:
Một người đem máy tính của mình tới thợ cơ khí
và nói, "Có chuyện gì với máy tính vậy? Về sau nó
làm việc không tốt."
Chuyên gia nhìn vào bên trong máy tính và nói,
"Kim loại mệt rồi." Cũng như bạn đi tới nhà tâm thần
và ông ấy nói, "Tâm trí mệt rồi," ông này nói, "kim
loại mệt rồi - trường hợp kim loại!"
Mọi thứ đều mệt mỏi, mọi thứ đều bị mệt - ngay cả
kim loại cũng bị mệt. Và tâm trí bạn được tạo nên từ
những mô rất tinh tế, tinh tế tới mức không có gì tinh
tế hơn trong toàn thể sự tồn tại. Trong hộp sọ nhỏ của
bạn có hàng triệu thớ nhỏ đang vận hành; chúng mảnh
mai thế, sợi tóc của bạn, nếu được so với thần kinh vận
hành trong não bạn, còn rất dầy, một triệu lần dầy hơn.
Hiện tượng tinh tế thế, nhưng chúng ta không biết cách
dùng nó. Nó cần nghỉ ngơi.
Do đó người thiền càng trở nên thông minh hơn,
người đó càng trở nên lành mạnh hơn. Bất kì cái gì
người đó làm cũng đều có nghệ thuật bên trong nó. Bất
kì điều gì người đó chạm vào người đó đều biến thành
vàng. Tâm trí là phúc lành với thiền, bằng không nó là
tai hoạ.
Thêm thiền vào bản thể bạn và tai hoạ biến mất, và
bản thân tai hoạ trở thành phúc lành; nó là phúc lành
trá hình. Bạn vẫn chưa học được nghệ thuật về cách là
người chủ. Vấn đề không phải là vứt tâm trí đi; điều đó
sẽ không giúp gì. Điều đó sẽ làm cho bạn thậm chí còn
hổng hoác hơn, vô dụng hơn. Nếu bộ não, nếu tâm trí
bị vứt đi, bạn sẽ chỉ là cải bắp - hay nếu bạn không
thích từ 'cải bắp', thế thì súp lơ. Và họ nói rằng không
có mấy khác biệt giữa cải bắp và súp lơ đâu - súp lơ là
cải bắp có giáo dục đại học thôi. Bạn có thể chọn, bạn
có thể là cải bắp hay súp lơ, nhưng bạn sẽ không là
người. Rất ít người là người trong thực tế. Người thực
là người chủ của tâm trí mình.
Từ tiếng Anh 'man-người' bắt nguồn từ gốc tiếng
Phạn có nghĩa là tâm trí; man - người. Làm chủ tâm trí
của bạn là nghĩa của việc là người. Nếu bạn không là
người chủ của tâm trí mình, không có người bên trong
bạn, chỉ máy tính vận hành, máy vận hành, không có
người chủ nào. Đây là tình huống đó. Đó là lí do tại
sao thế giới này trông nổi đoá thế, điên khùng thế.
#10Câu hỏi thứ năm:
Thưa Thầy kính yêu,
Sao có nhiều người Do Thái ở đây thế?
Harish, người Do Thái là người rất thông minh,
một trong những dân tộc thông minh nhất trên trái đất.
Họ phải thông minh; bằng không họ sẽ không sống sót
được. Và bởi vì họ thông minh nên họ bao giờ cũng
tìm những đồng cỏ mới, thế giới mới, phong cách sống
mới, cách thức mới để nhìn, sống và hiện hữu. Điều đó
làm mọi người ngạc nhiên.
Có gần năm mươi người Do Thái ở đây. Đây có
thể là chỗ duy nhất ở Ấn Độ nơi có nhiều người Do
Thái thế, bởi vì ở Ấn Độ không có người Do Thái,
chẳng có chút nào. Và nếu mọi sự cứ phát triển khi họ
phát triển, chẳng mấy chốc bạn sẽ thấy nước Israel
khác ở đây! Và sao người Do Thái tới? - bởi vì họ
thông minh, họ bao giờ cũng sẵn sàng chấp nhận bất kì
cái gì mới và họ sẵn sàng vứt bỏ cái cũ.
Thực ra, khi thấy thông minh của người Do Thái
dường như không thể nào tin được rằng họ đã giết chết
Jesus. Tôi càng đi vào tiếp xúc với người Do Thái - và
tôi có hàng nghìn người Do Thái là sannyasin của
mình - tôi càng trở nên phân vân hơn về hiện tượng
này. Sao họ không thể chấp nhận được Jesus? Có thể
không thực là người Do Thái đã giết ông ấy mà là
quốc vương La Mã, đế quốc La Mã. Người La Mã bao
giờ cũng độc ác và họ đã không tự chứng tỏ mình là
rất thông minh. Rất có thể là người Do Thái bị dùng
như cái cớ và người La Mã muốn giết Jesus.
Và người Do Thái đã không phải là dân tộc độc
lập vào thời đó, họ là một phần của Đế quốc La Mã.
Có thể là người La Mã đã dùng các tu sĩ Do Thái như
mặt ngoài, bởi vì họ đã không giết Jesus một cách trực
tiếp - điều đó có thể tạo ra cuộc cách mạng trong nước
này, cuộc nổi dậy. Chính ngoại giao đơn giản là dùng
bản thân người Do Thái giết Jesus; thế thì sẽ không nổi
dậy, không cách mạng, không vấn đề nào nảy sinh.
Thực ra, họ giả vờ trên bề mặt rằng họ không quan
tâm tới việc giết Jesus, và từ cửa sau họ đã khăng
khăng muốn vậy. Với công chúng họ chỉ ra rằng
"Chúng tôi tuyệt đối đứng ngoài trò chơi này. Nếu
người Do Thái muốn giết ông ấy, họ có thể giết ông
ấy; nếu họ không muốn giết ông ấy chúng tôi sẵn sàng
tha thứ cho ông ấy." Và từ phía sau họ có thể đã xúi
giục người Do Thái giết Jesus. Điều đó là có thể hơn,
bởi vì người Do Thái không phải là dân tộc không
thông minh tới mức họ phá huỷ việc nở hoa vĩ đại nhất
của riêng họ.
Jesus là việc nở hoa vĩ đại nhất của họ. Ông ấy là
cực đỉnh của cách tiếp cận Do Thái tới cuộc sống.
Jesus được sinh ra là người Do Thái và chết đi là
người Do Thái - ông ấy không phải là người Ki tô
giáo, nhớ lấy; ông ấy thậm chí chưa từng nghe tới từ
'christian'. Và nếu ông ấy quay lại ông ấy sẽ thấy mình
hoà hợp nhiều với người Do Thái hơn với người Ki tô
giáo, bởi vì ông ấy đã sống cuộc sống của một người
Do Thái. Ông ấy đã quen thuộc với kinh sách Do Thái,
ông ấy trích dẫn kinh sách Do Thái. Ông ấy nói đi nói
lại rằng "Bất kì cái gì đã từng được nói trước đây bởi
các nhà tiên tri khác ta cũng đang nói với các ông " -
cho nó cách diễn đạt đương đại hơn, tất nhiên, nhưng
ông ấy không chống lại Moses, Abraham, Ezekiel.
Ông ấy không chống lại các nhà tiên tri cổ; ông ấy
hoàn thành những lời tiên tri của họ, ông ấy là chính
việc hoàn thành.
Tại sao người Do Thái phải giết ông ấy? Có mọi
khả năng là người La Mã đã làm điều đó. Họ sợ sức
mạnh tăng lên của ông ấy.
Những kẻ cầm quyền chính trị bao giờ cũng trở
nên sợ bất kì ai bắt đầu trở nên mạnh mẽ theo bất kì
cách nào. Mặc dầu Jesus không quan tâm tới chính trị,
không quan tâm tới quyền lực chính trị, ngôn ngữ của
ông ấy có thể bị diễn giải sai rất dễ dàng. Ông ấy nói
về vương quốc của Thượng đế, nhưng người La Mã
bắt đầu nghĩ rằng ông ấy đang nói về đem tới vương
quốc của người Do Thái; ông ấy muốn bản thân bạn
trở thành hoàng đế. Họ phải đã sợ hãi về tính phổ biến
đang tăng lên của ông ấy.
Nhiều, nhiều người đã quay sang ông ấy, tới ông
ấy, lắng nghe ông ấy, trở thành đệ tử, trở thành người
được điểm đạo. Tất nhiên đó là tôn giáo bây giờ,
nhưng bất kì tôn giáo tạm thời nào cũng có thể lấy chỗ
ngoặt và trở thành chính trị. Do đó các chính khách
bao giờ cũng rất tỉnh táo và thận trọng.
Họ đang làm cùng điều đó với tôi. Tôi không quan
tâm tới chính trị, tôi không quan tâm tới trò chơi ngu
xuẩn đó chút nào, nhưng họ sợ lắm. Và cách tốt nhất
để giết tôi sẽ là tìm ra một sannyasin, một Judas, để
giết tôi; đó sẽ là cách tốt nhất. Thế thì sẽ không có vấn
đề gì.
Nếu một sannyasin giết tôi, thế thì toàn thể trách
nhiệm rơi vào vai của riêng tôi hay vào vai của các
sannyasin của tôi. Sannyasin này có thể không phải là
sannyasin thực, người đó có thể là một thám tử, một
gián điệp, người của chính phủ, người đã nhận tính
chất sannyas chỉ để giết tôi. Đó sẽ là cách dễ nhất và
cách ngoại giao nhất.
Và có nhiều gián điệp ở đây: gián điệp Đức và
gián điệp Italia và gián điệp Ấn Độ. Một gián điệp Ấn
Độ nhận tính chất sannyas. Tôi cho anh ta tính chất
sannyas - không chỉ tôi cho anh ta tính chất sannyas,
mà tôi đã nói với anh ta, "Bạn trở thành một phần của
đạo tràng. Sao lại sống ở ngoài?" Anh ta có chút ít
phân vân! Không chỉ điều đó, tôi bảo anh ta rằng "Bởi
vì bạn là một LL.B., một luật sư thực hành... và chúng
tôi cần một khoa, khoa luật; có ít nhất hai mươi nhăm
vụ án chống lại tôi ở toà án, cho nên chúng ta cần khoa
luật của riêng chúng ta. Bạn nhận trách nhiệm phụ
trách nó đi!" Tôi đã cử anh ta là trưởng khoa. Anh ta
trốn mất sau một tháng, bởi vì anh ta trở nên ngày một
quan tâm tới tôi, trở nên ngày một quan tâm tới thiền,
và tôi đã cho anh ta truy nhập vào tất cả hồ sơ và mọi
thứ, bởi vì anh ta là trưởng khoa luật. Tôi cho anh ta
mọi truy nhập, cho nên nếu anh ta muốn báo cáo cái gì
cho chính phủ anh ta đều có thể báo cáo - không có gì
che giấu cả! Tin cậy của tôi vào anh ta trở thành gánh
nặng lên con người đáng thương này. Nếu như tôi nghi
ngờ anh ta thì anh ta sẽ vẫn còn ở đây; nhưng bởi vì tôi
đã tin cậy vào anh ta sâu sắc thế, anh ta đã trốn mất.
Anh ta đã nói rằng anh ta sẽ quay lại, nhưng anh ta đã
không tới. Gần tám tháng đã qua rồi.
Anh ta trở nên sợ tôi tới mức anh ta bán nhà mình
nơi anh ta thường sống, bởi vì tôi phái các sannyasin
của tôi tới nhà anh ta ở Patiala, ở Punjab, để tìm xem
điều gì đã xảy ra cho anh ta - chúng tôi cần anh ta!
Anh ta đã bán nhà mình và trốn khỏi Patiala nữa, và
anh ta đã không đưa địa chỉ của anh ta cho bất kì ai ở
Patiala. Nhưng tôi đang tìm kiếm! Tôi sẽ tìm thấy anh
ta, dù anh ta ở bất kì đâu. Bây giờ tôi đã nói với các
sannyasin của tôi ở Delhi để tìm anh ta. Chúng tôi cần
anh ta! Tôi chưa bao giờ cho phép mọi người thoát dễ
dàng thế.
Người Do Thái là người thông minh; do đó họ bao
giờ cũng là người đầu tiên chấp nhận các ý niệm mới,
ý niệm nguyên bản, cách nhìn mới, giấc mơ mới.
Một người Do Thái và người Cơ đốc giáo ở chung
trong cùng một khoang trên tàu hoả. Người Do Thái
lấy ra một quả táo từ va li và ăn nó, ăn cả lõi và tất cả.
Người Cơ đốc giáo nhìn với chút ít ngạc nhiên và hỏi,
"Ông bao giờ cũng ăn cả lõi sao?"
"Tất nhiên rồi," người Do Thái giải thích. "Đó là lí
do tại sao chúng tôi thông minh thế - chúng tôi được
điều đó bằng việc ăn lõi. Và ông tình cờ là anh chàng
may mắn đấy, bởi vì tôi chỉ còn lại một quả táo thôi
mà tôi sẽ bán cho ông với giá năm mươi đô la."
Người Cơ đốc giáo chấp nhận lời chào hàng này,
cứ nghĩ cho mình rằng năm mươi đô la để được thông
minh là một món hời. Ông ta mua quả táo và ăn nó, cả
lõi và tất cả.
Sau khi ngồi im lặng nhìn chăm chăm ra ngoài cửa
sổ một chốc ông ta nói, "Bây giờ tôi nghĩ về điều đó,
với năm mươi đô la tôi có thể đã mua được một thùng
táo."
"Thấy chưa," người Do Thái nói, "nó đã bắt đầu
làm việc rồi!"
Người Do Thái đã tồn tại do thông minh cực kì.
Họ đã sống mà không có đất nước, không có tổ quốc.
Họ đã sống qua đủ mọi loại hành hạ, đủ mọi loại trại
tập trung, phòng hơi độc; dầu vậy họ đã sống sót.
Những người đã bị buộc phải tiêu diệt họ không còn
nữa. Bọn quốc xã đâu rồi? - mất tiêu rồi. Những người
muốn tiêu diệt hoàn toàn người Do Thái, triệt tiêu họ,
không còn ở đâu cả, nhưng người Do Thái vẫn có đó.
Thực ra, tất cả những tra tấn đó, phòng hơi độc,
trại tập trung, nhà tù, tất cả những thứ đó đã cho họ sự
toàn vẹn, sự vững chắc. Thông minh vô cùng được toả
ra trong họ; nó bao giờ cũng được toả ra khi bạn phải
đối diện với thách thức lớn. Thực ra, không giống nòi
khác nào đã từng đối diện với những thách thức lớn
như vậy như người Do Thái.
Một cách tự nhiên họ bao giờ cũng là người đầu
tiên chấp nhận bất kì cái gì mới, họ bao giờ cũng là
người đầu tiên vứt bỏ cái cũ. Đó là dấu hiệu của thông
minh.
Hai người Do Thái gặp nhau trên phố.
"Anh khoẻ chứ, Solomon?" Irving nói.
"Kinh khủng!" Solomon nói. "A, thảm hoạ làm
sao! Con trai tôi đang cải đạo sang Ki tô giáo!"
"Buồn cười thế," Irving nói. "Con trai tôi cũng
đang cải đạo sang Ki tô giáo! Chúng ta tới giáo đường
và cầu nguyện."
Irving và Solomon chạy vào nhà bạn họ Myron,
anh này hỏi họ đi đâu. Khi họ kể cho Myron rằng con
trai họ đang cải đạo sang Ki tô giáo, Myron nói, "Buồn
cười thế, con trai tôi cũng đang cải đạo sang Ki tô giáo
nữa. Tôi sẽ đi cùng các anh tới giáo đường và cầu
nguyện."
Thế rồi, Myron và Irv và Sol gặp bạn họ Herman,
kể cho anh ta câu chuyện của họ và Herman nói,
"Buồn cười thế, con trai tôi cũng đang cải đạo sang Ki
tô giáo! Chúng ta đi và cầu nguyện."
Điều này cứ tiếp diễn một chốc cho tới khi một
nhóm lớn người Do Thái tới giáo đường. Ở đó họ thấy
giáo sĩ đang ngồi trên bậc hai tay ôm đầu. Khi giáo sĩ
nghe thấy câu chuyện của họ ông ấy đáp. "Buồn cười
thế, con trai tôi đang cải đạo sang Ki tô giáo. Tất cả
chúng ta cầu nguyện."
Cả nhóm đi vào trong giáo đường, đưa mắt nhìn
lên trời và giáo sĩ nói, "Ôi Thượng đế, xin giúp chúng
con. Tất cả con trai của chúng con đang cải đạo sang
Ki tô giáo!"
Bỗng nhiên họ nghe thấy tiếng sấm, sét loé ngang
trời, và một giọng trầm ngân nga, "Buồn cười thế..."
#10Câu hỏi cuối cùng:
Thưa Thầy kính yêu,
Thầy thực sự được chúng tôi!! Chúng tôi tất cả
đều chạy quanh như đầu không gà!!! Đó có phải
là tình yêu không - hay đó là thiền? A thầy kính
mến! Cục ta cục tác! Thưa Thầy kính yêu, con
đường là gì ạ?
Prem Maitri, bạn đang thực sự trở thành một
sannyasin bây giờ - cứ kêu cục tác! Đó chính là tính
chất sannyas tất cả là gì.
Trong Trung tâm thiền Osho ở Zurich, Thuỵ Sĩ, có
một cuộc thi làm đồng hồ treo tường. Nhiều đồng hồ
đẹp được làm ra.
Giải ba thuộc về chiếc đồng hồ có con chim cúc cu
thò ra cứ mỗi một giờ nói, "Osho, Osho."
Giải nhì thuộc về chiếc đồng hồ có con chim cúc
cu mặc đồ áo choàng mầu cam với vòng mala quanh
cổ nó, cứ mỗi nửa giờ lại thò ra nói, "Osho, Osho."
Giải nhất thuộc về chiếc đồng hồ có Osho thò ra
cứ mỗi mười lăm phút nói, "Cúc cu, cúc cu."
Đủ cho hôm nay.
END
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top