Con đường của Phật (Tập 4)

OSHO

Dhammapada: Con đường của Phật

The Dhammapada: The Way of the Buddha

Tập 4

Đây là con đường đi tới chân lí tối thượng

Mục lục

1. Tốt hơn một trăm năm

2. Qua siêu việt

3. Chóng làm điều thiện

4. Chân lí rất đơn giản

5. Bụi ngược gió

6. Đây có là con đường không?

7. Thấy bản thân bạn trong người khác

8. Thiền chút ít

9. Thức tỉnh với luật

10. Aes dhammo sanantano

Về Osho

***********************************************************************************************************

#1 Tốt hơn một trăm năm

**Tốt hơn một trăm năm gây hại

là một ngày dành cho suy tư.

Tốt hơn một trăm năm dốt nát

là một ngày trong nghĩ suy.

Tốt hơn một trăm năm nhàn rỗi

là một ngày dành cho quyết tâm.

Tốt hơn nên sống một ngày trong ngạc nhiên

về cách mọi sự nảy sinh và trôi qua.

Tốt hơn nên sống một giờ trong việc thấy

một cuộc sống bên ngoài con đường.

Tốt hơn nên sống một khoảnh khắc

trong khoảnh khắc của con đường bên ngoài con

đường.**

Phật Gautama đã nêu ra câu hỏi quan trọng nhất cho

mọi người có khả năng truy tìm vào chân lí, vào cuộc

sống, vào sự tồn tại. Câu hỏi quan trọng nhất của tất cả

các câu hỏi là: Hạnh phúc thực là gì? Và có khả năng để

đạt tới nó không? Hạnh phúc thực có là có thể có không,

hay mọi thứ đều nhất thời? Cuộc sống chỉ là giấc mơ,

hay có cái gì đó bản chất trong nó nữa? Cuộc sống có

bắt đầu bằng sinh và kết thúc bằng tử không, hay có cái

gì đó siêu việt lên trên sinh và tử? Bởi vì không có cái

vĩnh hằng không có khả năng nào cho hạnh phúc thực

cả. Với cái nhất thời, hạnh phúc sẽ vẫn còn phù du:

khoảnh khắc này nó có đấy, khoảnh khắc khác nó qua

rồi, và bạn bị bỏ lại trong thất vọng và bóng tối lớn lao.

Đó là cách nó hiện hữu trong cuộc sống đời thường,

trong cuộc sống của người chưa thức tỉnh. Có những

khoảnh khắc của phúc lạc và có những khoảnh khắc của

khổ; nó tất cả đều bị trộn lẫn, hẩu lốn. Bạn không thể

giữ cho những khoảnh khắc hạnh phúc đó tới bạn được.

Chúng tới theo cách riêng của chúng và chúng biến mất

theo cách riêng của chúng; bạn không là người chủ. Và

bạn không thể tránh được những khoảnh khắc của khổ;

chúng nữa cũng có sự dai dẳng riêng của chúng. Chúng

tới theo cách riêng của chúng và chúng cứ theo cách

riêng của chúng; bạn đơn giản là nạn nhân. Và giữa hai

điều này - hạnh phúc và bất hạnh - bạn bị giằng xé. Bạn

chưa bao giờ được để lại trong thoải mái.

Việc bị giằng xé này vào đủ mọi loại nhị nguyên...

Nhị nguyên của hạnh phúc và bất hạnh là nền tảng nhất

và có tính triệu chứng nhất, nhưng có cả nghìn lẻ một

nhị nguyên: nhị nguyên của yêu và ghét, nhị nguyên của

sống và chết, ngày và đêm, mùa hè và mùa đông, thanh

niên và tuổi già, và cứ thế mãi. Nhưng nhị nguyên nền

tảng, nhị nguyên biểu thị cho tất cả các nhị nguyên khác,

là nhị nguyên của hạnh phúc và bất hạnh. Và bạn bị

giằng xé, bị co kéo sang các chiều hướng đối lập cực,

khác nhau. Bạn không thể thấy thoải mái được: bạn

đang trong không thoải mái.

Theo chư phật con người là không thoải mái. Không

thoải mái này là tuyệt đối - hay nó có thể được siêu việt

lên?

Do đó câu hỏi cơ sở và nền tảng là: Hạnh phúc thực

là gì? Chắc chắn hạnh phúc mà chúng ta biết không phải

là thực; nó là chất liệu mơ và nó bao giờ cũng biến

thành cái đối lập riêng của nó. Cái có vẻ như hạnh phúc

khoảnh khắc này biến thành bất hạnh khoảnh khắc tiếp.

Hạnh phúc biến thành bất hạnh đơn giản chỉ ra rằng

hai điều này không tách rời - có thể là hai mặt của cùng

một đồng tiền. Và nếu bạn có mặt này của đồng tiền,

mặt kia bao giờ cũng có đó ẩn kín sau nó, chờ đợi cơ hội

của nó để khẳng định - và bạn biết điều đó. Khi bạn

hạnh phúc, sâu bên dưới ở đâu đó là nỗi sợ lẩn lút rằng

nó sẽ không kéo dài, rằng sớm hay muộn nó sẽ trôi qua,

rằng đêm đang hạ xuống, rằng bất kì khoảnh khắc nào

bạn cũng sẽ bị nhận chìm vào trong bóng tối, rằng ánh

sáng này chỉ là tưởng tượng - nó không thể giúp bạn

được, nó không thể đưa bạn sang bờ bên kia.

Hạnh phúc của bạn không thực là hạnh phúc mà chỉ

là bất hạnh ẩn kín. Yêu của bạn không phải là yêu mà

chỉ là mặt nạ cho ghét của bạn. Từ bi của bạn không là

gì khác ngoài giận dữ của bạn - được trau chuốt, được

làm tinh vi, có giáo dục, có văn hoá, có văn minh, nhưng

từ bi của bạn không là gì khác hơn giận dữ. Nhạy cảm

của bạn không thực là nhạy cảm mà chỉ là bài tập tinh

thần, một thái độ và cách tiếp cận nào đó được thực

hành.

Nhớ lấy: toàn thể nhân loại đã được nuôi dưỡng với

ý niệm rằng đức hạnh có thể được thực hành, rằng điều

thiện có thể được thực hành, rằng người ta có thể học

cách hạnh phúc, rằng người ta có thể xoay xở để hạnh

phúc, rằng điều ở bên trong quyền năng của bạn là tạo ra

tính cách nào đó mà đem tới hạnh phúc. Và đó tất cả đều

sai, hoàn toàn sai.

Điều đầu tiên cần được hiểu về hạnh phúc là ở chỗ

nó không thể được thực hành. Nó chỉ phải được phép,

bởi vì nó không phải là cái gì đó bạn tạo ra. Bất kì cái gì

bạn tạo ra đều sẽ vẫn còn là cái gì đó nhỏ hơn bạn, tí

hon hơn bạn. Điều bạn tạo ra không thể lớn hơn bạn

được. Bức tranh không thể lớn hơn bản thân hoạ sĩ được

và thơ ca không thể lớn hơn nhà thơ được. Bài ca của

bạn nhất định là cái gì đó nhỏ hơn bạn.

Nếu bạn thực hành hạnh phúc bạn bao giờ cũng sẽ ở

đó ở đằng sau, với mọi ngu xuẩn của bạn, với mọi trò

bản ngã của bạn, với mọi dốt nát của bạn, với mọi hỗn

độn của tâm trí bạn. Với tâm trí hỗn độn này bạn không

thể tạo ra được hài hoà, bạn không thể tạo ra được

duyên dáng. Duyên dáng bao giờ cũng giáng xuống từ

cõi bên kia; nó phải được đón nhận như món quà trong

tin cậy vô cùng, trong buông xuôi toàn bộ. Trong trạng

thái của buông bỏ, hạnh phúc thực xảy ra.

Nhưng chúng ta đã được bảo phải thành đạt, tham

vọng. Toàn thể tâm trí chúng ta đã được trau dồi để là

tâm trí của kẻ thành đạt. Toàn thể nền giáo dục, văn hoá,

tôn giáo, chúng tất cả đều phụ thuộc vào quan niệm này

rằng con người phải có tham vọng; chỉ người tham vọng

mới có khả năng đạt tới sự hoàn thành. Điều đó chưa

bao giờ xảy ra cả, nó sẽ không bao giờ xảy ra, nhưng dốt

nát là sâu tới mức chúng ta cứ tin vào điều vô nghĩa này.

Không người tham vọng nào đã từng hạnh phúc;

thực ra, người tham vọng là người bất hạnh nhất trên thế

giới. Nhưng chúng ta cứ huấn luyện cho trẻ em tham

vọng: "Là người thứ nhất, đứng đầu, và con sẽ hạnh

phúc!" Và bạn đã bao giờ thấy người nào đứng đầu và

hạnh phúc không? Alexander có hạnh phúc không khi

ông ấy trở thành người chinh phục thế giới? Ông ấy là

một trong những người bất hạnh nhất đã từng sống trên

trái đất này. Nhìn thấy phúc lạc của Diogenes ông ấy đã

trở nên ghen tị. Trở nên ghen tị với kẻ ăn xin...?

Diogenes là người ăn xin; ông ấy chẳng có gì, không

có thậm chí cả bình bát ăn xin. Ít nhất Phật còn có bình

bát ăn xin cùng ông ấy và ba áo choàng. Diogenes ở trần

và không có bình bát ăn xin. Lúc ban đầu ông ấy thường

mang bình bát ăn xin; ông ấy phải đã có ý tưởng này từ

phương Đông. Ông ấy là người đích xác như Phật,

Mahavira - giống Mahavira hơn. Mahavira cũng sống

trần không có bình bát ăn xin; tay ông ấy là bình bát ăn

xin của ông ấy.

Một hôm Diogenes đi ra sông với bình bát ăn xin

của mình. Ông ấy khát, trời thì nóng, và ông ấy muốn

uống nước. Và thế rồi trên đường, ngay khi ông ấy ở

trên bờ, một con chó đi qua ông ấy, chạy tới, thở hồng

hộc, nhảy xuống sông, tắm táp ngon lành, uống nước

thoả thích. Ý tưởng nảy sinh trong tâm trí của Diogenes:

"Con chó này còn tự do hơn mình - nó không phải mang

bình bát ăn xin. Và nếu nó có thể xoay xở được, sao

mình không thể xoay xở mà không có bình bát ăn xin?

Đây là của cải duy nhất của mình, và mình phải để mắt

tới nó bởi vì nó có thể bị đánh cắp. Ngay cả trong đêm

một hay hai lần mình phải cảm xem nó vẫn còn đó hay

mất rồi."

Ông ấy quẳng cái bình bát ăn xin xuống sông, cúi

lạy con chó, cám ơn nó về thông điệp lớn lao mà nó đã

mang tới cho ông ấy từ Thượng đế.

Con người này, người không có gì cả, đã tạo ra ghen

tị trong tâm trí của Alexander. Ông ta phải đã khổ sở

làm sao! Ông ta thú nhận với Diogenes rằng, "Nếu như

Thượng đế cho ta sinh ra, ta sẽ yêu cầu ngài, 'Lần này,

xin ngài đừng làm con thành Alexander nữa - làm con

thành Diogenes.'"

Diogenes cười ngất, và ông ấy gọi con chó tới - bởi

vì họ đã trở thành bạn bè bây giờ, họ đã bắt đầu sống

cùng nhau - ông ấy gọi con chó lại và ông ấy nói,

"Trông đấy, nghe đấy, ông ta đang nói vô nghĩa làm sao!

kiếp sau ông ấy muốn là Diogenes! Sao lại kiếp sau?

Sao trì hoãn? Ai biết về kiếp sau? Ngay cả ngày mai

cũng không chắc chắn, khoảnh khắc tiếp là không chắc

chắn - nói gì tới kiếp sau! Nếu ông thực sự muốn là một

Diogenes, ông có thể là ngay khoảnh khắc này, ở đây

bây giờ. Vứt quần áo của ông xuống sông đi! Quên tất

cả về chinh phục thế giới đi! Điều đó là ngu xuẩn cực kì

và ông biết điều đó.

"Và ông đã thú nhận rằng ông khổ sở, và ông đã thú

nhận rằng Diogenes ở trạng thái tốt hơn nhiều, phúc lạc

hơn. Vậy sao không là Diogenes ngay bây giờ đi? Nằm

ra trên bờ sông nơi ta đang tắm nắng đây! Bờ sông này

đủ lớn cho cả hai ta."

Alexander không thể chấp nhận được lời mời này, dĩ

nhiên rồi. Ông ấy nói, "Cám ơn ông về lời mời. Ngay

bây giờ ta không thể làm điều đó được, nhưng kiếp

sau..."

Diogenes hỏi ông ta, "Ông định đi đâu? Và ông sẽ

làm gì cho dù ông đã chinh phục được thế giới?"

Alexander nói, "Thế thì ta sẽ nghỉ ngơi."

Diogenes nói, "Điều này dường như là tuyệt đối ngớ

ngẩn - bởi vì ta đang nghỉ ngơi ngay bây giờ đây!"

Nếu Alexander không hạnh phúc, nếu Adolf Hitler

không hạnh phúc, nếu Rockefellers và Carnegies không

hạnh phúc, những người có tất cả tiền bạc của thế giới

này, nếu họ không hạnh phúc, những người có tất cả

quyền lực trong thế giới này, nếu họ không hạnh phúc...

Bạn có quan sát ảnh của Jimmy Carter không? Tất

cả nụ cười đã biến mất bây giờ; bây giờ những cái răng

đó không phơi ra. Ông ấy thực sự có nụ cười đẹp, nhưng

nó đã mất đi đâu cả rồi? Ông ấy phải đã hạnh phúc hơn

nhiều so với ông ấy bây giờ. Mọi ngày khuôn mặt ông

ấy đều trở nên ngày một buồn hơn; ngày một lo âu, đau

khổ hơn, đang được biểu lộ.

Mới sáng nay tôi xem tin mới nhất. Khuôn mặt ông

ấy dường như đã trở nên quá già chỉ trong hai năm nay,

cứ dường như ông ấy đã già đi hai mươi tuổi. Ông ấy

phải khổ sở từ những cơn ác mộng. Mọi hi vọng đó ở

đâu rồi, rằng ông ấy sẽ hạnh phúc khi ông ấy trở thành

tổng thống?

Quan sát những người đã thành công trên thế giới và

bạn sẽ vứt bỏ ý niệm về thành công. Không cái gì thất

bại như thành công. Mặc dầu bạn đã được bảo rằng

không cái gì thành công như thành công, tôi nói với bạn

rằng không cái gì thất bại như thành công. Hạnh phúc

không liên quan gì tới thành công, hạnh phúc không liên

quan gì tới tham vọng, hạnh phúc không liên quan gì tới

tiền bạc, quyền lực, danh vọng. Nó là chiều hướng hoàn

toàn khác.

Hạnh phúc có cái gì đó liên quan tới tâm thức bạn,

không với tính cách của bạn. Để tôi nhắc nhở bạn. Tính

cách lại là việc trau dồi. Bạn có thể trở thành thánh nhân

và dầu vậy bạn sẽ không hạnh phúc, nếu tính thánh thiện

của bạn không là gì ngoài tính thánh thiện được công

phu. Và đó là cách mọi người trở thành thánh, Cơ đốc

giáo, Jaina giáo, Hindu giáo. Làm sao họ trở thành

thánh? Họ công phu từng li một, từng chi tiết, thức dậy

khi nào, ăn gì, không ăn gì, đi ngủ khi nào...

Những người này thậm chí thỉnh thoảng tới đây và

hỏi tôi tại sao tôi không cho các sannyasin của tôi kỉ luật

nào đó. Tôi cho họ tâm thức, không tính cách. Tôi

không tin vào tính cách chút nào. Tin cậy của tôi là vào

tâm thức. Nếu một người trở nên ý thức hơn, một cách

tự nhiên tính cách người đó được biến đổi. Nhưng việc

biến đổi đó là khác toàn bộ: nó không bị tâm trí quản lí -

nó là tự nhiên, nó là tự phát. Và bất kì khi nào tính cách

của bạn là tự nhiên và tự phát nó đều có cái đẹp của

riêng nó; bằng không bạn có thể cứ thay đổi... bạn có thể

vứt bỏ giận dữ của bạn, nhưng bạn sẽ vứt nó ở đâu? Bạn

sẽ phải vứt nó vào trong vô thức riêng của bạn. Bạn có

thể thay đổi phía bên này cuộc sống của bạn, nhưng bất

kì cái gì bạn ném đi sẽ bắt đầu tự diễn đạt nó ở góc khác

nào đó. Nó nhất định là như vậy. Bạn có thể chặn dòng

suối bằng tảng đá; nó sẽ bắt đầu chảy từ nơi nào đó khác

- bạn không thể phá huỷ được nó. Giận dữ có đó bởi vì

bạn vô ý thức, tham lam có đó bởi vì bạn vô ý thức, sở

hữu và ghen tị có đó bởi vì bạn vô ý thức.

Cho nên tôi không quan tâm tới việc thay đổi giận

dữ của bạn; điều đó sẽ giống như tỉa lá cây và hi vọng

rằng cây sẽ biến mất một ngày nào đó. Nó sẽ không như

vậy đâu; ngược lại, bạn càng tỉa cây sẽ càng có tán lá

dầy hơn.

Do đó cái gọi là thánh nhân của bạn là những người

không linh thiêng nhất trên thế giới, những kẻ giả vờ,

rởm. Vâng, nếu bạn nhìn từ bên ngoài họ có vẻ rất thánh

thiện - quá thánh thiện, quá nhiều đường saccharin, quá

ngọt, ngọt lợm mồm, phát buồn nôn. Bạn chỉ có thể tới

và bầy tỏ sự kính trọng với họ rồi trốn đi. Bạn không thể

sống được cùng các thánh nhân của mình cho dù hai

mươi bốn giờ - họ sẽ làm bạn chán tới chết! Bạn càng ở

gần họ, bạn sẽ càng bị thách đố, phân vân, lẫn lộn, bởi

vì bạn sẽ bắt đầu thấy rằng từ phía này họ đã ép buộc

giận dữ: nó đã đi vào phía bên kia của cuộc sống của họ.

Người thường thỉnh thoảng mới giận dữ, và giận dữ

của họ rất phù du, rất nhất thời. Thế rồi họ lại cười, họ

lại bạn bè; họ không mang vết thương quá lâu. Nhưng

cái gọi là thánh nhân của bạn, giận dữ của họ trở thành

gần như là chuyện thường xuyên; họ đơn giản giận dữ,

chẳng vào cái gì đặc biệt. Họ đã kìm nén giận dữ nhiều

tới mức bây giờ họ đơn giản giận dữ, trong trạng thái

cuồng nộ. Mắt họ sẽ bầy tỏ, mũi họ sẽ bầy tỏ, khuôn mặt

họ sẽ bầy tỏ, chính cách sống của họ sẽ bầy tỏ...

Lu Ting ăn ở cửa hàng ăn Hi Lạp bởi vì

Papadopoulos, ông chủ cửa hàng, làm món cơm rang

thực ngon. Mọi tối ông ấy sẽ tới và ông ấy gọi "mơm

dang."

Điều này bao giờ cũng làm cho Papadopoulos lăn

lộn ra cười. Thỉnh thoảng ông ấy có hai hay ba người

bạn đứng cạnh chỉ để nghe Lu Ting đặt món "mơm

dang."

Chung cuộc lòng tự hào của người Trung Quốc bị

tổn thương tới mức ông ấy đi học cách phát âm đặc biệt

chỉ để có thể nói "cơm rang" cho đúng.

Lần sau ông ấy tới cửa hàng ăn ông ấy nói rất rõ

ràng, "Cho cơm rang."

Không thể nào tin được vào tai mình, Papadopoulos

hỏi, "Ông nói gì vậy?"

Lu Ting quát lên, "Ông nghe điều tôi nói, déo mẹ

tằng Hi nạp!"

Điều đó cũng chẳng tạo ra khác biệt gì nhiều - từ

"mơm dang" bây giờ nó là "déo mẹ tằng Hi nạp"! Bạn

đóng cửa này, cửa khác lập tức mở ra. Đây không phải

là cách biến đổi.

Thay đổi tính cách của bạn là dễ dàng; công việc

thực bao gồm việc thay đổi tâm thức bạn, trong việc trở

nên có ý thức - ý thức hơn, ý thức mãnh liệt và đam mê

hơn. Khi bạn có ý thức không thể nào giận dữ được,

không thể nào tham lam được, không thể nào ghen tị

được, không thể nào tham vọng được.

Và khi tất cả giận dữ, tham lam, tham vọng, ghen tị,

sở hữu, thèm khát biến mất, năng lượng tham gia vào

chúng được thoát ra. Năng lượng đó trở thành phúc lạc

của bạn. Bây giờ nó không tới từ bên ngoài; bây giờ nó

đang xảy ra bên trong bản thể bạn, trong chỗ thầm kín

bên trong nhất của bản thể bạn.

Và khi năng lượng này sẵn có bạn trở thành trường

cảm nhận, bạn trở thành trường từ. Bạn hấp dẫn cõi bên

kia - bạn có thể gọi nó là "Thượng đế." Phật chưa bao

giờ gọi nó là "Thượng đế," ông ấy gọi nó là "cõi bên

kia"; đó là tên của ông ấy đặt cho Thượng đế. Khi bạn

trở thành trường từ, khi tất cả năng lượng mà đã bị bạn

làm phí hoài không cần thiết trong việc thu thập vô ý

thức của bạn, tích tụ lại bên trong bạn, các vũng bên

trong bạn, khi bạn trở thành cái hồ năng lượng, bạn bắt

đầu hấp dẫn các vì sao, bạn bắt đầu hấp dẫn cõi bên kia,

bạn bắt đầu hấp dẫn bản thân Thượng đế.

Và cuộc gặp gỡ của tâm thức của bạn với cõi bên

kia là điểm của phúc lạc, hạnh phúc thực. Nó không biết

gì về bất hạnh, nó là hạnh phúc thuần khiết. Nó không

biết gì tới chết, nó là sống thuần khiết. Nó không biết gì

tới bóng tối, nó là ánh sáng thuần khiết, và biết nó là

mục đích. Phật Gautama đã đi tìm điều này và một hôm,

sau cuộc vật lộn sáu năm, ông ấy đã đạt tới nó.

Bạn cũng có thể đạt tới nó, nhưng để tôi nhắc bạn:

bằng việc nói rằng bạn có thể đạt tới nó tôi không tạo ra

ham muốn đạt tới nó. Tôi đơn giản phát biểu một sự

kiện: rằng nếu bạn trở thành vũng năng lượng mênh

mông, không bị sao lãng bởi bất kì điều trần tục nào,

điều đó xảy ra. Nó là việc xảy ra nhiều hơn là việc làm.

Và tốt hơn cả nên gọi nó là phúc lạc hơn là hạnh phúc,

bởi vì hạnh phúc cho bạn cảm giác dường như nó là cái

gì đó tương tự như cái bạn biết là hạnh phúc. Cái bạn

biết là hạnh phúc thì không là gì ngoài trạng thái tương

đối.

Benson đi tới hiệu quần áo của Krantz để mua cho

mình bộ com lê. Anh ta thấy đúng kiểu mình muốn, thế

là anh ta lấy chiếc áo ra khỏi giá treo và thử mặc nó.

Krantz đi tới anh ta. "Được đấy, thưa ông. Trông nó

tuyệt với ông lắm."

"Nó có thể trông tuyệt đấy," Benson nói, "nhưng nó

chật khủng khiếp. Vai bó tức."

"Mặc quần vào đi," Krantz nói. "Chúng chật lắm,

ông sẽ quên hết về vai!"

Một hôm tôi thấy Mulla Nasruddin bước đi trên

đường trong thất vọng lớn lao, gần như suýt khóc. Tôi

hỏi anh ta, "Có chuyện gì thế? Sao anh khổ thế?"

Anh ta nói, "Giầy tôi rất nhỏ - tôi cần hai cỡ lớn hơn

- và chúng làm đau như địa ngục."

Tôi nói, "Nasruddin, thế thì sao anh không đổi

chúng đi?"

Anh ta nói, "Điều đó tôi không thể làm được."

Tôi hỏi anh ta, "Sao anh không thể làm được? Anh

có tiền cơ mà."

Anh ta nói, "Tôi có tiền, nhưng có nhiều thứ dính líu

trong nó. Cả ngày tôi chịu khổ bởi những chiếc giầy

này, và đến tối khi tôi về nhà, tôi ném đôi giày đi và tôi

rơi vào giường... Nó nhẹ tênh thế, cứ dường như người

ta đã tới thiên đường! Và đó là niềm vui duy nhất trong

đời tôi! Tôi không thể đổi đôi giầy này được - trong hai

mươi tư giờ đó là khoảnh khắc duy nhất của vui sướng.

Nếu tôi đổi đôi giầy này, khoảnh khắc đó cũng sẽ biến

mất. Thế thì chẳng cái gì còn lại cả."

Điều bạn gọi là hạnh phúc chỉ là vấn đề tương đối

thôi. Điều chư phật gọi là hạnh phúc mới là cái gì đó

tuyệt đối.

Một người Anh, một người Pháp và một người Nga

đang cố gắng định nghĩa hạnh phúc thực.

"Hạnh phúc thực," người Anh nói, "là khi bạn về

nhà mệt mỏi sau công việc và tìm thấy một chút rượu

gin và thuốc bổ đang chờ bạn."

"Anh người Anh chẳng có lãng mạn gì cả," người

Pháp phản đối. "Hạnh phúc thực là khi bạn đi công

chuyện, tìm thấy cô gái xinh xắn giải trí cho bạn, và thế

rồi các bạn chia đôi ngả mà không luyến tiếc gì."

"Cả hai anh đều sai," người Nga kết luận. "Hạnh

phúc thực đúng là khi bạn về nhà trên giường lúc bốn

giờ sáng và có tiếng gõ cửa trước ầm ầm và những thành

viên thường trực của cảnh sát bí mật tới nói với bạn,

'Igor Zhvkovski, anh bị bắt,' và bạn có khả năng đáp,

'Rất tiếc, Igor Zhvkovski sống ở nhà bên cạnh!'"

Hạnh phúc của bạn là hiện tượng tương đối. Điều

Phật gọi là hạnh phúc là cái gì đó tuyệt đối, không có

quan hệ với bất kì ai khác. Nó không trong so sánh với

ai đó khác; nó đơn giản là của bạn, nó là cái bên trong.

Và nó là việc xảy ra: cõi bên kia giáng vào bạn, đại

dương rơi vào trong giọt sương. Và khi đại dương rơi

vào trong giọt sương, giọt sương biến mất, biên giới của

nó biến mất. Nó trở thành vô biên như bản thân đại

dương; nó trở thành đại dương.

Phúc lạc là trạng thái đại dương... khi bạn biến mất

như một bản ngã, bị giới hạn, nhỏ bé, và trở thành

khổng lồ, to lớn, mênh mông và bao la như bản thân vũ

trụ.

Lời kinh:

**Tốt hơn một trăm năm gây hại

là một ngày dành cho suy tư.**

Khi có liên quan tới Phật bất kì điều gì bạn đang

làm cũng đều gây hoạ. Tại sao? Cho dù bạn đang làm

nghi lễ tôn giáo nào đó nó cũng là việc gây hoạ. Cho dù

bạn đang làm cái gì đó mà bạn cho là việc phục vụ quần

chúng, nó cũng là gây hoạ. Thực ra, người phục vụ quần

chúng là những người gây hoạ lớn nhất trên thế giới.

Nếu người phục vụ quần chúng biến mất khỏi thế giới

này, thế giới sẽ là chỗ tốt hơn nhiều để sống. Những nhà

cải cách xã hội và các nhà cách mạng chính trị và các

nhà truyền giáo tôn giáo, đây toàn là những lái buôn tai

hoạ thực. Họ không cho phép bạn sống trong an bình, họ

cứ lôi bạn từ ngu xuẩn này tới ngu xuẩn khác. Tất nhiên

họ giữ cho bạn bận bịu - đó là sự hấp dẫn của họ.

Bạn sợ bị nhàn rỗi bởi vì bất kì khi nào bạn nhàn rỗi

bạn đều phải đối diện với bản thân mình, và điều đó bạn

muốn né tránh, bởi vì bạn đã kìm nén nhiều cái xấu xí

thế trong mình tới mức nhìn vào bên trong là nhìn vào

địa ngục. Bạn không muốn nhìn vào trong. Bạn liên tục

trốn khỏi bản thân mình, cho nên bất kì cách trốn nào

cũng đều tốt.

Ai đó nói, "Trở thành người phục vụ quần chúng.

Để cho việc phục vụ là khẩu hiệu của bạn!" và bạn nói,

"Được rồi, vậy tôi sẽ phục vụ mọi người." Dù họ có

muốn được phục vụ hay không, điều đó không phải là

vấn đề. Cho dù họ không muốn được phục vụ bạn vẫn

phải phục vụ họ chống lại bản thân họ. Dù họ có muốn

chân lí của bạn hay không, điều đó không phải là vấn

đề. Nó phải được trao, nó phải bị áp vào họng họ!

Điều đó đã được những người tôn giáo thực hiện:

dưới mũi kiếm mọi người đã bị cải từ tôn giáo này sang

tôn giáo khác - ngược với ý chí của họ! Họ không muốn

lên thiên đường, ít nhất là không lên thiên đường của

bạn, nhưng bạn bị bắt phải đưa họ phải lên thiên đường -

từ bi của bạn tới mức bạn sẵn sàng giết họ hay bị giết!

Một nhà truyền giáo đang dạy trong một trường nhỏ

và ông ta nói rằng mọi đứa trẻ Ki tô giáo nên có thói

quen ít nhất mỗi tuần nên làm một hành động phục vụ

quần chúng. Một đứa trẻ nhỏ hỏi, "Chẳng hạn, loại việc

gì chúng con nên làm?"

Nhà truyền giáo cho vài ví dụ. Ông ấy nói, "Chẳng

hạn, bà già nào đó muốn đi qua phố mà xe cộ đi lại quá

nhiều - cầm tay bà ấy, giúp bà ấy đi qua phố." Vân vân,

vân vân.

Chủ nhật tới ông ấy hỏi, "Bao nhiêu người trong các

con đã làm hành động phục vụ quần chúng rồi?"

Ba đứa con trai - đứa khoẻ nhất và lớn nhất trong

lớp - đứng dậy. Chúng nói, "Chúng con đã làm một

hành động phục vụ quần chúng."

Nhà truyền giáo rất sung sướng. "Vậy con nói đi..."

Ông ấy hỏi đứa thứ nhất, "Con đã làm gì?"

Nó nói, "Con đã giúp một bà già, một bà rất già đi

qua phố."

Ông ấy vỗ nhẹ đứa trẻ và ông ấy nói, "Con là con

trai tốt. Tiếp tục làm những hành động tốt đó nhé." Ông

ấy hỏi đứa con trai tiếp, "Con đã làm gì?"

Nó nói, "Con cũng giúp một bà rất già đi qua phố."

Nhà truyền giáo có chút phân vân rằng cả hai đứa

nhỏ có thể tìm ra hai bà rất già, nhưng có nhiều bà già

chứ - điều đó là có thể. Ông ấy cũng vỗ nhẹ vào đứa trẻ

thứ hai, nhưng không nhiệt tình cho mấy. Với chút ít

hoài nghi ông ấy nói, "Tốt. Con cứ tiếp tục nhé."

Rồi ông ấy hỏi đứa thứ ba.

Đứa thứ ba nói, "Con cũng giúp một bà rất rất già đi

qua phố."

Bây giờ thế thì quá thể! Trùng hợp ngẫu nhiên như

vậy không thể được, rằng ba bà rất rất già muốn đi qua

phố. Và ông ấy hỏi, "Ngày nào, giờ nào?" Đó là cùng

một ngày, cùng một giờ và cùng một phố! Thế là ông ấy

nói, "Các con giải thích xem - làm sao các con tìm ra ba

bà rất rất già đó?"

Chúng nói, "Họ không phải là ba đâu - chỉ một bà

già thôi, rất rất già. Cả ba chúng con đều giúp bà ấy."

Ông ấy nói, "Điều đó nữa cũng tốt, nhưng phải cần

tới ba người cơ à?"

Chúng nói, "Ba chứ ạ? Mặc dầu bà ấy già, bà ấy làm

ầm ĩ cả lên bởi vì bà ấy chẳng bao giờ muốn đi sang bên

kia! Nhưng chúng con đã làm được. Khi người ta phải

làm hành động vì quần chúng, phục vụ quần chúng nào

đó, người ta phải làm nó chứ. Bà ấy la hét và chửi rủa

tùm lum và gọi cảnh sát, nhưng chúng con đã quyết tâm

làm điều đó và chúng con đã làm điều đó đấy!"

Khi có liên quan tới Phật, bất kì điều gì bạn đang

làm cũng đều gây hại bởi vì bất kì điều gì bạn làm cũng

đều được làm từ vô ý thức. Và bất kì hành động nào

được làm một cách có ý thức đều là đức hạnh.

Cuộc sống của bạn gần như cái vòng luẩn quẩn: điều

hại này dẫn tới điều hại khác và điều đó lại dẫn tới điều

khác nữa. Điều hại phát triển ra từ điều hại - chỉ điều hại

mới có thể phát triển từ điều hại thôi. Và bạn cứ sống và

đi trong vòng tròn và bạn không biết cái gì khác để làm.

Bạn làm điều tốt - ít nhất bạn nghĩ bạn đang làm điều tốt

- nhưng điều tốt không bao giờ xảy ra cả; bằng không

thì thế giới đã tràn ngập với điều tốt rồi.

Biết bao nhiêu người đang làm điều tốt - bố mẹ làm

điều tốt cho con cái, và con cái tốt ở đâu? Chồng đang

làm điều tốt cho vợ - và vợ thực sự theo sau chồng để

biến đổi họ, để thay đổi họ, để làm cho họ thành thánh

nhân. Nhưng những người chồng đó ở đâu và những

người vợ đó ở đâu và những đứa con đó ở đâu? Mọi

người đều cố gắng làm điều tốt theo quan niệm riêng

của mình - và người đó đang sống trong bóng tối sâu

sắc.

Nhưng quan niệm rằng "Tôi đang làm điều tốt" giúp

bản ngã của bạn được làm mạnh thêm, mặc dầu bạn cứ

đi trong cùng vòng tròn - bởi vì thông minh được cần tới

để là cái nguyên bản, để làm cái gì đó mới. Bạn chỉ biết

vài điều, vài thủ đoạn, và bạn càng già, càng khó học

những cái mới.

Họ nói bạn không thể dạy thủ đoạn mới cho con chó

già...

Kramanakis di cư tới New York. Ông ấy kiếm việc

làm qua họ hàng, người dạy ông ấy nói "Bánh táo và cà

phê" bằng tiếng Anh để cho ông ấy có thể gọi món trong

nhà hàng. Hôm sau, Kramanakis vào ăn tối.

"Ông muốn ăn gì?" người phục vụ hỏi.

"Bánh táo-a và-a cà phê," người di cư nói.

Vì đó là mọi điều ông ấy có thể nói nên ông ấy bị

buộc phải ăn bánh táo và cà phê mọi ngày trong cả

tháng. Khi ông ấy phàn nàn với ông anh họ, họ dạy ông

ấy nói "bánh mì kẹp thịt."

"Bằng lúa mì trắng hay đen" cô gái hỏi.

"Bánh táo-a và-a cà phê," người Hi Lạp nói.

Quan sát cuộc sống của bạn: "Bánh táo-a và-a cà

phê, bánh táo-a và-a cà phê..." Bạn cứ làm, lặp lại cùng

một điều, mọi ngày, hết ngày nọ tới ngày kia, năm nọ tới

năm kia. Cả đời bạn là một vòng tròn rất nhỏ: cùng giận

dữ, cùng tham lam, cùng tranh đấu, cùng từ ngữ, cùng lí

do, cùng động cơ. Đây có phải là cách để trưởng thành

không? Đây có phải là cách để trở nên có ý thức không?

Đây có phải là cách để biết khuôn mặt nguyên thuỷ của

bạn không? Bạn có hi vọng rằng đi trong vòng tròn nhỏ

này liên tục, máy móc, bạn sẽ đạt tới phúc lạc không?

Vứt mọi hi vọng đó đi.

Giáo sĩ Glucksman được ngồi cạnh mục sư theo

phái rửa tội Baptist trên chuyến bay tới New York. Cô

chiêu đãi viên tới họ và nói, "Tôi có thể phục vụ các ông

nước cốc tai được chứ?"

"Tôi muốn uống whisky chua," ông giáo sĩ nói.

"Bà trẻ," tu sĩ nói, "trước khi tôi để cho cốc rượu

này chạm môi tôi, tôi sẽ phạm ngay tội ngoại tình."

"Cô ơi," giáo sĩ Glucksman nói, "chừng nào mà có

chọn lựa, tôi sẽ làm điều ông ấy làm."

Bạn không chỉ cứ đi theo cùng vòng tròn nhỏ, bạn

lặp lại, bạn bắt chước người khác và cái ngu xuẩn của

họ. Bạn thường xuyên lặp lại, bạn thường xuyên nhìn

quanh vào điều đang được làm bởi ai. Bạn không sống

một cuộc sống từ bên trong; bạn là kẻ bắt chước. Toàn

thể mối quan tâm của bạn là phô trương: làm sao chỉ ra

rằng bạn tốt hơn người khác, làm sao chỉ ra rằng bạn

giầu hơn người khác, làm sao chỉ ra rằng bạn thông

minh hơn người khác. Thực ra, chỉ người không thông

minh mới tự so sánh mình với người khác. Người thực

sự thông minh không bao giờ so sánh, bởi vì từng cá

nhân đều là duy nhất và việc so sánh là không thể được.

Bà Zimmer thuê một người thiết kế nội thất để làm

trang trí lại ngôi nhà.

"Thôi được rồi," người trang trí nói, "bà thích nó

được làm như thế nào? Kiểu hiện đại chứ?"

"Tôi á, hiện đại sao? Không!" bà Zimmer nói.

"Thế kiểu Pháp vậy?"

"Kiểu Pháp à? Tôi sẽ về ngôi nhà Pháp ở đâu đây?"

"Có lẽ kiểu tỉnh lẻ Italia vậy?"

"Lạy trời đừng làm điều đó!"

"Thôi được, thưa bà, bà muốn thời đại nào?"

"Thời đại nào? Tôi muốn các bạn tôi bước vào, ngó

nhìn, và chết bất đắc kì tử, thời đại đấy!"

Mọi người đang sống chỉ để gây ấn tượng. Họ phải

thực sự rất nghèo bên trong, bởi vì chỉ người đang chịu

phức cảm tự ti mới muốn gây ấn tượng cho người khác.

Người thực sự cao siêu không bao giờ so sánh bản thân

mình với bất kì ai khác. Người đó biết mình là vô song;

không chỉ có thế, người đó biết người khác cũng vô

song như mình. Người đó không cao siêu không thấp

kém.

Cuộc cách mạng vô cùng này là có thể chỉ bởi một

chìa khoá bí mật, và đó là trở nên tỉnh táo hơn. Bạn càng

tỉnh táo, bạn càng ít lặp lại. Bạn càng tỉnh táo, bạn càng

thấy những cách thức mới để làm mọi thứ, bạn tìm thấy

những phong cách sống mới cho cuộc sống của mình.

Bạn càng tỉnh táo, bạn càng sáng tạo hơn, và chỉ người

sáng tạo mới biết hạnh phúc là gì. Điều bạn tạo ra không

phải là vấn đề - vấn đề là có tính sáng tạo. Nó có thể là

thơ ca, nó có thể là âm nhạc, nó có thể là điêu khắc, nó

có thể là bất kì cái gì, nhưng chính quá trình có tính sáng

tạo đem bạn tới điểm bạn gặp Thượng đế.

Mọi tôn giáo của thế giới đều nói Thượng đế là đấng

sáng tạo. Nếu ngài thực sự là đấng sáng tạo, thế thì cách

duy nhất để gặp ngài sẽ là trở thành đấng sáng tạo theo

chừng mực nào đó. Tất nhiên bạn không thể là đấng

sáng tạo như Thượng đế được, nhưng bạn có thể là đấng

sáng tạo nhỏ theo cách riêng của bạn. Khi nhà thơ đang

sáng tạo, khi hoạ sĩ đang sáng tạo, trong những khoảnh

khắc đó của tính sáng tạo, họ là một với Thượng đế. Đó

là những khoảnh khắc khi họ biết Thượng đế là gì.

Nhưng nhà thơ và hoạ sĩ và nhà điêu khắc chỉ ở những

đỉnh cao đó vài khoảnh khắc thôi, chỉ vài khoảnh khắc

họ biết sự viên mãn đó.

Nhà huyền môn, vị phật, thầy, sống ở đỉnh cao đó

hai mươi bốn giờ một ngày, bởi vì tính sáng tạo của ông

ấy là tinh tế; tính sáng tạo của ông ấy là không thấy

được, tính sáng tạo của ông ấy là vô hình. Ông ấy tạo ra

tâm thức. Trước tiên ông ấy tạo ra tâm thức trong bản

thân mình, thế rồi ông ấy bắt đầu tạo ra tâm thức trong

người khác.

Đó là cách thầy và đệ tử tụ hội với nhau, đó là cách

phật trường được tạo ra. Đó là cách hàng nghìn người

tìm kiếm bao quanh vị phật... bởi vì ông ấy tạo ra cái gì

đó mà không thế thấy được nhưng chỉ có thể cảm được

bởi những người mà vị phật đã xuyên thấu vào, trong

trái tim của họ ông ấy đã khuấy động cái gì đó đang ngủ

và đã làm cho nó động lên. Vị phật tạo ra tâm thức trong

bản thân mình trước và thế rồi trong những người đã sẵn

sàng và sẵn có và tin cậy và buông xuôi.

Tốt hơn một trăm năm gây hại là một ngày dành cho

suy tư. 'Suy tư' không phải là từ đúng; nhưng đó là vấn

đề, làm sao dịch sự sáng suốt phương Đông vào ngôn

ngữ phương Tây. Suy tư nghĩa là suy nghĩ về một chủ

đề một cách tập trung. Đó không phải là điều Phật ngụ ý

khi ngài dùng từ thiền dhyana. Dhyana nghĩa là trạng

thái của vô trí, trạng thái vô ý nghĩ; nó chính là cái đối

lập của suy tư. Suy tư không thể là từ đúng để dịch cho

nó. Nhưng tôi có thể hiểu được vấn đề này, khó khăn

của người dịch - không có từ khác. Dhyana thiền là một

trong những từ không thể dịch nổi.

Điều rất thông minh của người dịch Trung Quốc là

họ để từ đó không đổi. Dhyana trở thành ch'an ở Trung

Quốc; họ chưa bao giờ dịch nó. Nó lấy một dạng hơi

khác bởi vì dhyana trong tiếng Phạn. Buddha đã không

dùng tiếng Phạn mà dùng ngôn ngữ địa phương của

Bihar, tiếng Pali. Trong tiếng Pali dhyana là jhan; trong

tiếng Trung Quốc nó trở thành ch'an, được bỏ lại không

dịch bởi vì người dịch tiếng Trung Quốc đã đi tới hiểu

rằng nó không thể được dịch; mô tả nó thì tốt hơn là

dịch nó. Và điều đó cũng xảy ra ở Nhật Bản: khi nó tới

Nhật Bản, ch'an trở thành Zen; đầu tiên jhan và thế rồi

ch'an và thế rồi Zen - nhưng nó đã được để nguyên

không dịch.

Điều tốt nhất đối với các ngôn ngữ phương Tây sẽ là

để lại vài từ không dịch, bởi vì bạn không có từ nào

tương đương, bất kì từ nào bạn có, đều đã có nghĩa riêng

của nó.

Dhyana không phải là suy tư; suy tư là dạng suy

nghĩ thuần khiết nhất. Dhyana vượt ra ngoài ý nghĩ,

thậm chí bên ngoài ý nghĩ thuần khiết nhất, đi tới trạng

thái nơi mọi ý nghĩ đều dừng lại. Bạn hoàn toàn có ý

thức, nhưng không có nội dụng cho tâm thức bạn.

Phật nói: Tốt hơn một trăm năm gây hại là một ngày

dành cho suy tư. Chỉ một ngày là đủ; nếu một người có

thể vẫn còn trong thiền dhyana trong hai mươi bốn giờ

điều đó là đủ - người đó sẽ trở thành vị phật. Nhưng khó

vô cùng để vẫn còn trong thiền trong hai mươi bốn giờ.

Mahavira đã nói: Cho dù người ta có thể vẫn còn

trong thiền trong bốn mươi tám phút - và tính toán của

tôi cũng đích xác như thế - nếu người ta có thể vẫn còn

trong trạng thái vô trí liên tục trong bốn mươi tám phút,

điều đó là đủ để trở nên chứng ngộ.

Nhưng tâm trí thông thường không thể vẫn còn tỉnh

táo ngay cả trong vài giây, nói gì tới vài phút! Thử mà

xem: ngồi im lặng, để đồng hồ ngay cạnh, và bạn sẽ

ngạc nhiên rằng thậm chí không có đến vài giây mà

không có ý nghĩ. Chỉ thỉnh thoảng trong một phần giây

mới không có ý nghĩ. Nhưng khoảnh khắc bạn thấy

không có ý nghĩ, ý nghĩ này nảy sinh: bạn nói, "Aha!" -

xong rồi! Bạn nói, "Không có ý nghĩ!" và tâm trí đã giở

trò với bạn rồi, nó đã tới từ cửa sau. Và nếu bạn nghe

một cách im lặng bạn sẽ thấy tâm trí cười - nó đã lừa

được bạn rồi! Vô ý nghĩ vẫn là ý nghĩ, ý tưởng về vô ý

nghĩ vẫn là một ý nghĩ.

**Tốt hơn một trăm năm dốt nát

là một ngày trong nghĩ suy.**

Với "dốt nát" Phật không ngụ ý thiếu tri thức. Bởi vì

người thông thái không phải là mục đích, cho nên dốt

nát phải được hiểu theo cách mới - theo nghĩa của Phật,

theo mầu sắc của ông ấy, theo hương thơm của ông ấy.

Chúng ta gọi một người là dốt nát bởi vì người đó vô

giáo dục: người đó không đọc được, người đó không

viết được, người đó không biết ba R, người đó không

biết gì cả, người đó rất nguyên thuỷ. Chúng ta gọi người

đó là người dốt nát. Và chúng ta gọi người có bằng đại

học BS, thạc sĩ MS, tiến sĩ PhD... và bạn biết nghĩa này

chứ? BS nghĩa là chuyện nhảm nhí, MS nghĩa là nhiều

nhảm nhí hơn, PhD nghĩa là đống nhảm nhí cao và sâu.

Chúng ta gọi người đó là con người của tri thức. Đây là

những người có đầy trong các đại học của chúng ta. Và

nếu bạn thực sự muốn thấy mặt họ, tới và dự hội nghị

nào đó. Thế thì bạn sẽ thấy mọi anh hề đang phô trương

trong bộ áo choàng đen, trong những cái mũ kì lạ...

Những người này được coi là người thông thái đấy.

Khi Phật nói "dốt nát" ông ấy đơn giản ngụ ý người

không biết tới bản thân mình. Vấn đề không phải là trở

thành biết nhiều hay ít thông tin hơn, được giáo dục hay

vô giáo dục. Kabir không phải là người dốt nát mặc dầu

ông ấy vô giáo dục. Kabir đã nói: Masi kagad chhuyo

nahin - Ta chưa bao giờ chạm tới giấy hay mực. Và đó

là cách nó vậy: ông ấy chưa bao giờ chạm tới giấy hay

mực, ông ấy không có khả năng đọc hay viết.

Khi ai đó hỏi Kabir, "Ông không đọc được - ông

chưa từng đọc Vedas, Upanishads, Gita, và mọi kinh

sách vĩ đại chứ gì?" Kabir cười to và nói, "Likha-likhi ki

hai nahin - chân lí chẳng liên quan gì tới kinh sách cả

bởi vì nó chưa bao giờ được viết và không thể được viết.

Nó không được viết ở đâu cả! Nó là không diễn đạt

được, cho nên phỏng có ích gì mà đọc kinh sách? Bản

thân kinh sách nói: Ta đã nghe rằng điều đó không thể

được diễn đạt. Thế thì phỏng có ích gì?"

Nhưng Kabir không dốt nát. Phật sẽ thừa nhận

Kabirlà vị phật. Kabir là vị phật, Farid cũng thế, Raidas

cũng thế, Mohammed cũng thế, Christ cũng thế. Christ

cũng tuyệt đối vô giáo dục; Mohammed cũng tuyệt đối

vô giáo dục, không được học hành gì.

Thế thì dốt nát có nghĩa hoàn toàn khác: không thiếu

vắng cái gọi là tri thức mà thiếu vắng việc tự biết mình.

Không biết tới bản thân mình là dốt nát. Thế thì bạn có

thể biết tất cả: bạn có thể trở thành cuốn Từ điển Bách

khoa toàn thư biết đi, nhưng điều đó sẽ không ích gì.

Nếu bạn biết tới bản thân mình, thế thì bạn là con người

của trí huệ.

Tốt hơn một trăm năm dốt nát là một ngày trong

phản xạ. Và phản xạ phải được hiểu theo nghĩa đen. Lần

nữa, trong tiếng Anh phản xạ có nghĩa của suy tưởng,

suy nghĩ. Phật ngụ ý phản xạ theo nghĩa đen - như mặt

trăng được phản xạ trong hồ, khuôn mặt bạn được phản

xạ trong tấm gương. Im lặng thế, không con sóng nào,

thậm chí không gợn sóng; để tâm thức bạn trở thành cái

hồ, hoàn toàn im lặng, không rối loạn, để cho toàn trời,

toàn thể bầu trời, có thể được phản xạ trong bạn. Ở trong

trạng thái vô trí bạn trở thành tấm gương, bạn trở thành

việc phản xạ cái đang đó.

Và đó là điều Thượng đế là gì... toàn thể sự tồn tại

này với cái đẹp và phúc lành mênh mông của nó. Nếu

bạn là tấm gương, nó sẽ được phản xạ trong bạn, và điều

đó sẽ làm cho bạn thành trí huệ, điều đó sẽ làm cho bạn

thành thầy, điều đó sẽ làm cho bạn thành người thức

tỉnh.

Nhưng mọi người cứ tin vào điều người khác đã nói.

Tin tưởng sẽ không giúp cho bạn đâu. Tin tưởng có tính

độc hại; chúng giữ bạn mù quáng. Bởi vì tin tưởng của

mình mà bạn chưa bao giờ truy tìm về cái riêng của

mình. Và tin tưởng của bạn là giả, chúng không phải là

tin cậy thực; tin tưởng chỉ có thể là ở bề mặt. Bạn có thể

tin vào Gita hay Koran hay Kinh Thánh, nhưng sâu bên

dưới hoài nghi vẫn còn dai dẳng; không dễ nhổ bật gốc

rễ của hoài nghi.

Hoài nghi bị nhổ bật gốc rễ chỉ khi bạn biết. Làm

sao nó có thể bị nhổ bật gốc rễ nếu Jesus biết? Làm sao

nó có thể bị nhổ bật gốc rễ nếu Mohammed biết? Ông

ấy có thể biết, nhưng ai biết rằng liệu ông ấy đúng hay

sai, và ai biết rằng ông ấy không lừa dối, và ai biết ông

ấy không lừa người khác? Cái gì đảm bảo có đó? Cái gì

là bằng chứng rằng Phật là đúng? Ngoại trừ điều Phật

nói, "Ta đã đạt tới," không có bằng chứng nào khác.

Nhưng điều đó là đi theo vòng tròn, điều đó là chính bản

thân câu hỏi: Làm sao tin được rằng Phật là đúng? Và

chúng ta chỉ có một bằng chứng: Phật nói, "Ta đã đạt

tới." Nhưng làm sao tin được rằng điều ông ấy nói là

đúng?

Sâu bên dưới hoài nghi sẽ còn dai dẳng; tin tưởng

của bạn sẽ chỉ là cái che đậy. Điều đó cũng giống như

bạn có vết thương rỉ mủ ra, bốc mùi, và bạn che đậy nó

bằng hoa hồng - nhưng sâu bên dưới trong hoa hồng mủ

tích luỹ lại. Hoa hồng sẽ không có khả năng biến đổi

được nó. Chúng có thể che giấu nó trong vài khoảnh

khắc, hương thơm của chúng có thể không để cho người

khác biết mùi hôi đang bốc ra từ vết thương, nhưng

được bao lâu...? Sớm hay muộn chúng sẽ bốc mùi nữa!

Thay vì hoa hồng làm thay đổi mủ của bạn, mủ của bạn

sẽ thay đổi hoa hồng. Và đó là điều xảy ra: tin tưởng

không bao giờ biến đổi hoài nghi của bạn, hoài nghi của

bạn biến đổi chính bản thân tin tưởng của bạn.

Giáo sĩ trẻ cuối cùng quyết định rằng mình phải nói

với thành viên giàu có nhất của giáo đoàn, dù điều đó có

gây tổn thương thế nào.

"Tại sao," giáo sĩ hỏi, "ông cứ phải ngủ trong khi tôi

thuyết giảng?"

"Để tôi giải thích điều gì đó," nhà triệu phú trả lời.

"Nếu tôi không tin cậy vào cha, tôi có ngủ được

không?"

Đó là điều đã xảy ra cho hàng triệu người: họ đã rơi

vào giấc ngủ bởi vì họ tin cậy; không cần thức tỉnh. Phật

biết - cần gì cho bạn để thức tỉnh? Christ biết - bạn trở

thành người Ki tô giáo là đủ, không có nhu cầu là một

Christ.

Nhưng tôi nói với bạn: chừng nào bạn chưa là một

Christ không cái gì sẽ xảy ra cả. Bằng việc là người Ki

tô giáo bạn đơn giản tự lừa dối mình và người khác, và

bạn đang làm phí hoài thời gian quí giá, bởi vì trong

cùng thời gian bạn có thể trở thành bản thân Christ.

Đừng vẫn còn được thoả mãn bởi việc là người Ki tô

giáo hay người Hindu hay người Jaina hay Phật tử. Trở

thành một Phật đi, trở thành một Christ, trở thành một

Mohammed, trở thành một Mahavira! Ít hơn điều đó sẽ

không ích gì cả, ít hơn điều đó không phải là giải thoát.

Và điều đó là có thể qua phản xạ. Nếu bạn trở thành

vô trí, cái toàn thể bao quanh bạn sẽ được phản xạ trong

bạn. Và khi bạn sẽ biết, chỉ thế thì bạn mới biết, và việc

biết đó xua tan đi tất cả mọi hoài nghi. Khi mọi hoài

nghi đã mất đi bên trong trái tim bạn, mọi bóng tối biến

mất và bạn đầy ánh sáng, thế thì cuộc sống đã được

sống, cuộc sống đã được biết. Đó là phúc lạc. Cõi bên

kia đã đạt tới bạn, bạn đã đạt tới cõi bên kia. Bây giờ

Thượng đế ở bên trong bạn và bạn ở bên trong Thượng

đế.

**Tốt hơn một trăm năm nhàn rỗi

là một ngày dành cho quyết tâm.**

Lại có khả năng hiểu lầm nào đó bởi vì việc dịch

này. Phật không ngụ ý bởi "quyết tâm" điều được ngụ ý

trong tiếng Anh bởi từ này. Ông ấy ngụ ý quyết định,

không phải là quyết tâm. Quyết tâm cho bạn cảm giác

về ý chí, sức mạnh ý chí. Quyết tâm cho bạn ý tưởng về

quyết định qua tâm trí. Quyết định là hiện tượng hoàn

toàn khác: nó là của trái tim. Không phải là bạn đã quyết

định bởi tâm trí, mà trái tim bạn cảm thấy một loại cam

kết - nó là chuyện tình.

Trong tình yêu bạn không quyết tâm. Bạn không nói

với người đàn bà của mình rằng, "Anh đã quyết tâm yêu

em." Hay bạn có nói điều đó? Nếu bạn nói với người

đàn bà nào đó, "Anh đã kéo tất cả năng lượng của mình

lại; anh đã tạo ra một quyết tâm lớn trong bản thân mình

rằng anh sẽ yêu em," người đàn bà đó sẽ không bao giờ

gặp lại bạn nữa... bởi vì yêu và quyết tâm ngụ ý tình yêu

là giả. Tình yêu có tính quyết định về nó, sự cam kết, và

sự tham gia, nhưng không có quyết tâm. Nó không có ý

chí; thực ra, cho dù bạn muốn quyết tâm chống lại nó

bạn cũng không thể làm được. Nó là điên, thứ điên.

Tôn giáo cũng vậy đấy: vấn đề không phải quyết

tâm, vấn đề là rơi vào tình yêu với cái đẹp vô cùng này

của sự tồn tại. Nó là việc rơi vào tình yêu với thế giới

huyền bí này.

**Tốt hơn nên sống một ngày trong ngạc nhiên

về cách mọi sự nảy sinh và trôi qua.**

Nếu bạn có thể ngạc nhiên, bạn đang rơi vào trong

tình yêu. Từng đứa trẻ được sinh ra đều ngạc nhiên... và

sớm hay muộn chúng ta phá huỷ ngạc nhiên của nó. Vào

lúc đứa trẻ lên bốn chúng ta đã giết chết, đã tàn sát sự

ngạc nhiên của nó. Và phương pháp mà chúng ta dùng

để giết sự ngạc nhiên của nó là: chúng ta bắt đầu nhồi

nhét thông tin vào nó.

D.H. Lawrence, một trong những con người sáng

suốt vĩ đại của thời đại này, đang bước đi trong vườn

với một đứa trẻ nhỏ. Và khi mọi đứa nhỏ hỏi, đứa trẻ

này hỏi, "Bác bảo cháu điều này đi - sao cây lại xanh?"

Bây giờ những câu hỏi như thế có thể được hỏi chỉ

bởi trẻ con hay bởi nhà huyền môn thôi, hoặc bởi trẻ con

hoặc bởi chư phật. Đây là loại câu hỏi gì? Bạn sẽ không

bao giờ hỏi nó, bởi vì nó sẽ có vẻ ngu xuẩn thế khi hỏi

tại sao cây lại xanh. Và thực ra bạn đã biết tại sao chúng

lại xanh rồi; bạn biết, bởi vì chính chất diệp lục làm cho

chúng xanh.

D.H. Lawrence cũng biết về chất diệp lục. Ông ấy

có thể đã nói điều đó cho đứa trẻ này, và trẻ con rất dễ

tin cậy... Nếu bạn nói, "Bởi vì điều này," chúng sẽ nói,

"Vâng." Và thực ra, chúng không chú ý gì mấy tới câu

trả lời; vào lúc bạn trả lời chúng, chúng đã trở nên quan

tâm tới câu hỏi nào đó khác. Chúng bị mê mải bởi cái gì

đó khác - con bướm, đoá hoa, đám mây nổi trên trời.

Chúng đã bỏ qua câu hỏi này.

Khi đứa trẻ hỏi, nó không hỏi để được trả lời, nhớ

lấy. Khi đứa trẻ hỏi, nó đơn giản nói to cho bản thân nó,

nó đang nghĩ to, nó tự hỏi to, có vậy thôi. Khi nó nói,

"Sao cây lại xanh?" nó không nói điều đó ở bên trong,

nó đang nghĩ to thôi. Đấy không thực là câu hỏi. Nó bị

phân vân bởi điều bí ẩn, nó đang ngạc nhiên tại sao cây

lại xanh, nó không chờ đợi bất kì câu trả lời nào; đó là

ngạc nhiên thuần khiết, nó bị mê mải.

D.H. Lawrence là nhà thơ lớn, tiểu thuyết gia lớn -

gần như bên bờ của việc là nhà huyền môn. Giá mà ông

ấy ở Ấn Độ, giá mà ông ấy ở phương Đông, ông ấy chắc

đã trở thành vị phật. Về hai người này tôi cảm thấy rất

chắc chắn họ đã trở thành vị phật nếu như họ đã ở

phương Đông: Friedrich Nietzsche và D.H. Lawrence.

Về hai người này tôi cảm thấy tuyệt đối chắc chắn. Họ

cận kề thế, chỉ thêm một bước nữa thôi...

Lawrence nhìn vào cây, đứng đó trong im lặng với

mắt nhắm trong vài giây, thế rồi nói với đứa trẻ, "Cây

xanh bởi vì chúng xanh." Và đứa trẻ được thoả mãn.

Nhưng Lawrence tiếp tục nghĩ, "Đây là loại câu trả lời

gì mà mình đã cho đứa trẻ này? - cây xanh bởi vì chúng

xanh. Nó là lặp lại. Nó là phi logic!" Nhưng điều đó cực

kì có ý nghĩa. Lawrence đang nói rằng cuộc sống là điều

bí ẩn để được sống, là thực tại để được kinh nghiệm,

không phải là câu hỏi để được trả lời, không phải là vấn

đề để được giải. Nó là vậy.

Đó là cách Phật thường nói điều đó cho đệ tử của

ông ấy: lời của ông ấy là tathata, như vậy. Nếu bạn hỏi

ông ấy cùng điều này ông ấy sẽ nói, "Hoàn cảnh là như

vậy. Cây xanh... Nó là vậy." Không gì nhiều hơn có thể

được nói về nó - bởi vì càng nói nhiều, bạn càng trở nên

được thông tin, thông thái, càng ít có khả năng để biết.

"Nó là vậy" - điều đó không đóng lại cánh cửa với bạn,

nó đơn giản mở ra cánh cửa của bí ẩn.

Phật nói: Tốt hơn là sống một ngày trong ngạc nhiên

làm sao mọi sự nảy sinh và trôi qua. Nếu bạn có thể lại

đạt tới sự ngạc nhiên thơ ấu của mình, bạn sẽ là

sannyasin của tôi. Tôi không ở đây để giúp bạn biết

nhiều hơn, tôi ở đây để giúp bạn ngạc nhiên hơn. Và

cách duy nhất để ngạc nhiên hơn là lấy đi mọi tri thức

của bạn. Tri thức của bạn là nhiễu loạn trong việc ngạc

nhiên của bạn. Nó không cho phép bạn ngạc nhiên, bởi

vì trước khi bạn ngạc nhiên nó lập tức cung cấp cho bạn

câu trả lời. Chính bởi vì tri thức khoa học mà con người

đã đánh mất phẩm chất mênh mông của mình, phẩm

chất lớn lao của mình về ngạc nhiên. Và đó là kho báu

lớn mà con người đã có được. Không con vật nào ngạc

nhiên; chỉ con người mới được cho món quà ngạc nhiên.

Tôn giáo thực được bắt rễ trong ngạc nhiên và tôn

giáo thực giúp bạn ngạc nhiên ngày một nhiều hơn nữa.

Một khoảnh khắc tới trong cuộc sống của nhà huyền

môn khi ông ấy đơn giản trở nên ngạc nhiên. Từng sự

việc nhỏ bé trút đầy người đó với ngạc nhiên vô cùng...

một hòn đá cuội trên bờ biển, một vỏ sò, tiếng kêu của

con chim cúc cu xa xa, ngôi sao cô đơn trong buổi tối,

bất kì cái gì... tiếng trẻ thơ khúc khích, tiếng đàn bà

khóc nấc vì niềm vui, bất kì cái gì... tiếng gió rì rào qua

rặng thông, tiếng nước chảy róc rách, bất kì cái gì... và

người đó đầy ngạc nhiên. Thượng đế tới với người đó

như sự ngạc nhiên, Thượng đế tới người đó như điều bí

ẩn.

Nếu bạn ngồi bên cạnh nhà huyền môn, đừng ngồi

để học thêm từ ông ấy. Ngồi để vứt bỏ mọi tri thức.

Ngồi bên cạnh nhà huyền môn để được trút đầy với sự

ngạc nhiên của ông ấy, để lại trở thành đứa trẻ lần nữa.

Jesus nói: Chừng nào ông còn chưa được sinh ra lần nữa

ông sẽ không vào được vương quốc Thượng đế của ta.

Ông ấy còn nói: Chừng nào ông còn chưa giống như trẻ

nhỏ ông sẽ không vào được trong vương quốc Thượng

đế của ta. Ông ấy đang nói về cùng điều ngạc nhiên đấy.

**Tốt hơn nên sống một giờ trong việc thấy

một cuộc sống bên ngoài con đường.**

Từng lời kinh đều cực kì có ý nghĩa! Suy ngẫm về

từng lời đi. Và Phật đang tiến rất chậm để cho bạn có

thể hấp thu được tinh thần. Trước hết ông ấy nói:

dhyana - thiền, trạng thái của vô trí. Thế rồi ông ấy nói:

phẩm chất tựa tấm gương của tâm thức của bạn, cái là

sản phẩm phụ của dhyana. Thế rồi ông ấy nói: quyết

định - chuyện tình, trái tim bạn rơi vào hoà điệu với sự

tồn tại. Thế rồi ông ấy nói: ngạc nhiên. Và bây giờ ông

ấy nói: thấy.

Mắt có thể thấy sự phát triển trong ngạc nhiên,

không phải tri thức, không qua kinh sách, mà qua hồn

nhiên. Trở nên bị bối rối với sự tồn tại đi!

Toàn thể nền giáo dục của chúng ta đều dựa trên

việc làm sáng tỏ sự tồn tại. Nhà sư phạm tin rằng một

ngày nào đó chúng ta sẽ phá tan toàn thể điều bí ẩn của

sự tồn tại bởi vì chúng ta sẽ thu thập được tất cả mọi câu

trả lời cho mọi câu hỏi. Đây là niềm tin phi tôn giáo nhất

có đó - và nền giáo dục của bạn tạo là phi tôn giáo. Nền

giáo dục của bạn, cho dù nó được gọi là giáo dục tôn

giáo, không phải là tôn giáo bởi vì nó làm sáng tỏ sự tồn

tại, nó cung cấp cho bạn câu trả lời.

Tôn giáo thực lấy đi mọi câu trả lời, làm cho câu hỏi

của bạn ngày một lớn hơn, và chung cuộc biến đổi câu

hỏi của bạn thành ngạc nhiên, thành việc truy tìm. Và

trong ngạc nhiên, nếu bạn có thể sống trong ngạc nhiên,

bạn sẽ đạt tới sự sáng suốt đó, đôi mắt đó, cái có thể

thấy được.

Việc thấy này ở phương Đông đã được gọi là

darshan kiến - thấy với sự hồn nhiên, nhìn với sự hồn

nhiên. Thế thì chỉ hoa cỏ bên lề bãi cỏ cũng đủ... và bạn

được mang vào trong thế giới khác. Thế thì bạn sẽ nhảy

múa khi mây đang mưa, bạn sẽ nhảy múa trong mưa và

bạn sẽ biết cái gì đó về phật tính. Thế thì bạn sẽ nhảy

múa trong đêm trăng tròn và bạn sẽ biết cái gì đó của

phật tính. Thế thì bạn sẽ nhảy múa quanh bụi hồng bởi

vì hoa hồng đã nở, và bạn sẽ biết cái gì đó về phật tính.

Cuộc sống của bạn sẽ trở thành việc hát, việc múa

thường xuyên, thành lễ hội.

Tốt hơn là sống một giờ trong việc thấy cuộc sống

cái một bên ngoài con đường. Thế thì một giờ là đủ,

không có nhu cầu sống cả triệu triệu kiếp, bởi vì vấn đề

không phải là chiều dài lâu, bạn sống bao lâu. Phương

Tây quá bận tâm về chiều dài lâu. Làm cho mọi người

sống lâu hơn: một trăm năm, một trăm năm mươi năm,

hai trăm năm, ba trăm năm. Và điều đó là có thể, bởi vì

có vài người sống...

Ở thung lũng Kashmir có một bộ lạc nhỏ: họ sống

rất dễ dàng tới một trăm năm mươi tuổi. Và ở Nga có

nhiều người đã vượt quá một trăm năm mươi tuổi. Có

vài người lên tới một trăm tám mươi tuổi và một người

hai trăm tuổi. Bây giờ các nhà khoa học đang liên tục

tìm kiếm: bí mật là gì? Sao những người này sống lâu

thế? Họ ăn gì? Họ uống gì? Hình mẫu cuộc sống của họ

là gì? Tại sao họ sống lâu thế? Và sớm hay muộn họ sẽ

tìm ra các bí mật và con người sẽ sống ba trăm năm, bốn

trăm năm, năm trăm năm. Bạn rất may mắn là họ còn

chưa tìm ra bí mật đó! Cứ nghĩ bản thân mình sống ba

trăm năm - bẩy mươi năm là đủ để người ta chán ngán

cuộc sống rồi!

Và nhớ lấy, tự tử chưa được phép ở đâu cả. Tự tử là

tội ác lớn nhất, nếu bạn bị bắt trước khi phạm nó. Tất

nhiên nếu bạn đã phạm tội này, thế thì kết thúc rồi;

chẳng ai có thể bắt được bạn. Họ không thể trừng phạt

hồn ma của bạn được! Nghĩ về bản thân bạn sống bẩy

trăm năm mà xem... Trong vòng bẩy mươi năm tất cả

đều được kết thúc - cuộc sống vô tích sự thế. Sống bẩy

trăm năm sẽ là hành hạ vô cùng và họ không cho phép

bạn chết.

Bây giờ có nhiều người treo lơ lửng giữa sống và

chết, đặc biệt là ở Mĩ và châu Âu - ở Mĩ nhiều hơn. Họ

không sống, bởi vì họ không thể di chuyển được, họ

không thể làm gì được, họ thậm chí không thể nghĩ

được, họ không thể ăn được. Mọi thứ đều do người khác

làm; họ chỉ nằm trên giường, thở ô xi. Họ có thể thậm

chí không có tim của họ - có thể là tim giả đang bơm

máu họ. Họ có thể không có thận; máy móc có thể đang

làm việc của chúng.

Bây giờ, những người này được gọi là sống đấy! Họ

chẳng sống chẳng chết - và điều đó là tốt hơn theo cách

này cách nọ. Treo ở giữa, họ ở trong một loại quên lãng.

Nhưng phương Tây lại rất quan tâm, tâm trí như hiện tại

rất quan tâm, vào việc kéo dài cuộc sống. Nhưng những

người biết, họ không quan tâm tới sống lâu; họ quan tâm

tới việc làm mãnh liệt cuộc sống, vào việc làm cho nó

mãnh liệt hơn, toàn bộ hơn.

Đó là lí do tại sao Phật nói: Tốt hơn một trăm năm

gây hại là một ngày dành cho thiền. Tốt hơn một trăm

năm dốt nát là một ngày trong phản xạ tựa tấm gương.

Tốt hơn là sống một ngày trong ngạc nhiên làm sao mọi

sự nảy sinh và trôi qua. Tốt hơn là sống một giờ trong

việc thấy cuộc sống cái một bên ngoài đạo.

Nếu bạn có thể cho phép ngạc nhiên xảy ra, thế thì

sớm hay muộn từ ngạc nhiên của bạn sẽ phát triển ra đôi

mắt, mắt mới - không phải là mắt có thể thấy chỉ các đối

thể mà mắt có thể thấy cái vô hình, thấy cuộc sống ở bên

ngoài. Gọi nó là cuộc sống thiêng liêng, cuộc sống vĩnh

hằng, hay bất kì cái gì bạn thích đặt tên.

**Tốt hơn là sống một khoảnh khắc ...**

Xem đấy, Phật đang nói liên tục để làm cho điều đó

ngày một ngắn hơn: từ một trăm năm tới một khoảnh

khắc.

**Tốt hơn nên sống một khoảnh khắc

trong khoảnh khắc của con đường bên ngoài con

đường.**

Sống một khoảnh khắc, nhưng toàn bộ ở đây bây

giờ là đủ - không quá khứ, không tương lai - toàn thể

năng lượng của bạn chìm sâu vào trong ở đây bây giờ là

đủ để có hương vị của Thượng đế, để có hương vị của

chân lí: chân lí là của con đường và vậy mà bên ngoài

con đường.

Aes dhammo sanantano - đây là luật vĩnh hằng. Nếu

người ta có thể sống trong ngạc nhiên, thấy, một cách

toàn bộ trong khoảnh khắc, người ta đã về nhà. Phúc lạc

xảy ra, giáng xuống, bạn được tràn ngập với phúc lạc và

phúc lành. Nó không phải là sáng tạo của bạn, nó tới

như món quà từ cõi bên kia.

Đủ cho hôm nay.

***********************************************************************************************************

#2 Qua siêu việt

Câu hỏi thứ nhất:

Thưa thầy kính yêu,

Hoạt động trí tuệ có thể có tính sáng tạo được

không?

Anand Savita, trí tuệ là cái gì đó rởm, cái gì đó giả.

Nó là cái thay thế cho thông minh. Thông minh là hiện

tượng hoàn toàn khác - cái thực.

Thông minh cần dũng cảm vô cùng, thông minh cần

cuộc sống phiêu lưu. Thông minh cần rằng bạn bao giờ

cũng đi vào trong cái không biết, vào trong biển chưa

thăm dò. Thế thì thông minh phát triển, nó trở nên sắc

bén. Nó phát triển chỉ khi nó đương đầu với cái không

biết mọi khoảnh khắc. Mọi người sợ cái không biết, mọi

người cảm thấy bất an với cái không biết. Họ không

muốn đi ra ngoài cái quen thuộc. Do đó họ đã tạo ra cái

thay thế giả, bằng chất dẻo cho thông minh - họ gọi nó

là trí tuệ.

Trí tuệ chỉ là trò chơi tâm trí; nó không thể có tính

sáng tạo được. Trí tuệ có tính tưởng tượng, nhưng không

sáng tạo. Thông minh có tính sáng tạo. Thông minh

sáng tạo bởi vì thông minh làm cho bạn có khả năng

tham gia cùng Thượng đế. Thượng đế là cội nguồn của

mọi sáng tạo. Bạn có thể có tính sáng tạo chỉ khi bạn có

quan hệ với Thượng đế, khi bạn được bắt rễ vào chính

sự tồn tại, khi bạn là một phần của năng lượng thiêng

liêng. Bạn không thể có tính sáng tạo theo cách riêng

của mình được; bạn có thể có tính sáng tạo chỉ như

trung gian của Thượng đế.

Khi nhà thơ sáng tạo ông ấy chỉ là phương tiện, cây

trúc hổng trên môi của Thượng đế. Và bỗng nhiên cây

trúc hổng không còn là cây trúc hổng nữa - nó trở thành

cây sáo. Trống rỗng của cây trúc trở thành đầy bài ca,

điệu vũ, lễ hội.

Tính sáng tạo nghĩa là bạn phải biến mất, bạn phải

cho phép Thượng đế hiện hữu, bạn phải bước ra khỏi

con đường. Trí tuệ có tính bản ngã; thông minh là khiêm

tốn, vô ngã. Khác biệt này là tinh tế; bởi vì cả hai từ này

đều bắt nguồn từ cùng một gốc, do đó người ta có thể dễ

dàng bị lừa. Cẩn thận, tỉnh táo vào! Trí tuệ không phải là

thông minh. Thông minh có tính sáng tạo, trí tuệ chỉ là

kẻ giả vờ. Nhân danh của tính sáng tạo nó cứ tạo ra rác

rưởi.

Bạn có thể đi và nhìn vào các đại học và thấy loại

công việc sáng tạo nào đang diễn ra ở đó. Hàng nghìn

chuyên luận đang được viết ra; luận văn tiến sĩ, tiến sĩ

triết học, tiến sĩ văn chương, những bằng cấp lớn lao

được ban cho mọi người. Không ai đã bao giờ đi tới biết

điều gì xảy ra cho các luận án tiến sĩ của họ; chúng cứ

trở thành đống rác trong các thư viện. Không ai đọc

chúng, không ai đã bao giờ được hứng khởi bởi chúng.

Vâng, vài người có đọc chúng; nhưng họ là cùng kiểu

người sắp viết ra các luận án khác. Các tiến sĩ tương lai

tất nhiên sẽ đọc chúng.

Nhưng các đại học của bạn không tạo ra

Shakespeares, Miltons, Dostoevskys, Tolstoys,

Rabindranaths, Kahlil Gibrans. Các đại học của bạn chỉ

tạo ra đồ đồng nát, vô dụng hoàn toàn. Đây là hoạt động

trí tuệ cứ diễn ra trong các đại học. Thông minh tạo ra

Picasso, Van Gogh, Mozart, Beethoven.

Thông minh là chiều hướng hoàn toàn khác. Nó

chẳng liên quan gì tới cái đầu cả, nó có cái gì đó liên

quan tới trái tim. Trí tuệ là ở trong đầu; thông minh là

trạng thái của sự thức tỉnh trái tim. Khi trái tim bạn thức

tỉnh, khi trái tim bạn nhảy múa trong biết ơn sâu sắc, khi

trái tim bạn trong hoà điệu với sự tồn tại, trong hài hoà

với sự tồn tại, từ hài hoà đó là tính sáng tạo.

Savita này, không có khả năng nào cho bất kì sáng

tạo trí tuệ. Nó có thể tạo ra rác rưởi, nó có tính sản xuất,

nó có thể chế tạo, nhưng nó không thể sáng tạo. Và cái

gì là khác biệt giữa chế tạo và sáng tạo? Chế tạo là hoạt

động máy móc. Máy tính có thể làm được điều đó -

chúng đã làm điều đó rồi, và làm điều đó theo cách hiệu

quả hơn nhiều việc bạn có thể hi vọng từ con người.

Thông minh sáng tạo, nó không chế tạo.

Chế tạo nghĩa là thực hiện lặp lại: điều đã được làm,

bạn cứ làm đi làm lại mãi. Sáng tạo nghĩa là đem cái

mới vào sự tồn tại, tạo ra cách để cái không biết thấm

vào cái biết, làm ra cách cho trời đi tới đất.

Khi có Beethoven hay Michelangelo hay Kalidas,

bầu trời mở ra, hoa mưa rào xuống từ cõi bên kia. Tôi

không nói với bạn điều gì về Phật, Christ, Krishna,

Mahavira, Zarathustra, Mohammed, bởi một lí do nào

đó: bởi vì điều họ tạo ra tinh tế tới mức bạn sẽ không có

khả năng bắt giữ nó. Điều Michelangelo tạo ra là thô;

điều Van Gogh tạo ra có thể nhìn được, là thấy được.

Điều vị phật tạo ra tuyệt đối vô hình. Nó cần một loại

cảm thụ hoàn toàn khác để hiểu.

Để hiểu vị phật bạn phải thông minh. Sáng tạo của

Phật không chỉ thông minh vô cùng, mà nó còn siêu

phàm, phi phàm tới mức để hiểu nó bạn sẽ phải là thông

minh. Trí tuệ sẽ không ích gì ngay cả trong việc hiểu

biết.

Chỉ có hai loại người sáng tạo - nhà thơ và nhà

huyền môn. Nhà thơ sáng tạo trong thế giới thô còn nhà

huyền môn sáng tạo trong thế giới tinh. Nhà thơ sáng

tạo trong thế giới bên ngoài: bức tranh, bài thơ, bài ca,

âm nhạc, điệu vũ; còn nhà huyền môn sáng tạo trong thế

giới bên trong. Sáng tạo của nhà thơ có tính đối thể còn

sáng tạo của nhà huyền môn có tính chủ thể, toàn bộ về

cái bên trong. Trước hết bạn phải hiểu nhà thơ, chỉ thế

thì ngày nào đó bạn mới có thể hiểu được - ít nhất một

ngày nào đó cũng hi vọng hiểu - nhà huyền môn. Nhà

huyền môn là đoá hoa sáng tạo cao nhất. Nhưng bạn có

thể không thấy cái gì nhà huyền môn đang làm.

Phật chưa bao giờ vẽ một bức tranh, chưa bao giờ

cầm chổi vẽ trong tay, chưa soạn một bài thơ, chưa hát

một bài ca, không ai đã từng thấy ông ấy nhảy múa. Nếu

bạn ngắm ông ấy, ông ấy chỉ ngồi im lặng; toàn thể bản

thể ông ấy là im lặng. Vâng, duyên dáng bao quanh ông

ấy, duyên dáng của cái đẹp vô hạn, của cái đẹp thanh

tao, nhưng bạn sẽ cần rất mong manh để cảm thấy nó.

Bạn sẽ phải rất cởi mở, không cãi lí. Bạn không thể là

khán giả với vị Phật; bạn phải là người tham gia, bởi vì

chính bí ẩn là việc được tham gia vào. Thế thì bạn sẽ

thấy điều ông ấy đang sáng tạo. Ông ấy đang sáng tạo ra

tâm thức, và tâm thức là dạng thuần khiết nhất, dạng cao

nhất có thể có, của việc diễn đạt Thượng đế.

Một bài ca hay, một điệu vũ đẹp bởi vì cái gì đó của

điều thiêng liêng đang hiện diện trong nó. Nhưng trong

vị Phật cái toàn thể của Thượng đế hiện diện. Đó là lí do

tại sao chúng ta đã gọi Phật là "Bhagwan," chúng ta đã

gọi Mahavira là "Bhagwan" - cái toàn thể của Thượng

đế đang hiện diện.

Nhưng học sinh sẽ không có khả năng thấy được

điều đó. Đệ tử sẽ có khả năng giải mã một chút ít, và

người thành tâm sẽ có khả năng uống nó.

Hoạt động trí tuệ có thể làm cho bạn thành chuyên

gia trong những điều nào đó, có ích, hiệu quả. Nhưng trí

tuệ là việc dò dẫm trong bóng tối; nó không có mắt, bởi

vì nó còn chưa có tính thiền. Trí tuệ được vay mượn, nó

không có sáng suốt của riêng nó.

Chủ đề là về làm tình. Trong nhiều tuần Arthur đã

trả lời thành công tất cả các câu hỏi nêu cho anh ta trong

các mục thi đố trên truyền hình. Anh ta bây giờ đủ tư

cách để trả lời câu hỏi lớn trị giá một trăm nghìn đô la.

Với một câu hỏi này anh ta được phép mời một chuyên

gia. Arthur tất nhiên chọn một giáo sư nổi tiếng thế giới

về tình dục từ Pháp.

Câu hỏi lớn là, "Nếu anh được làm vua trong năm

mươi năm đầu tiên của đế quốc Assyrian, anh sẽ được

trông đợi hôn vào ba phần nào trong xác ướp của cô dâu

của anh trong đêm tân hôn?"

Hai câu trả lời đầu tiên tới nhanh chóng. Arthur đáp,

"Môi và cổ cô ấy."

Bây giờ, bị bí với câu trả lời cho phần thứ ba của

câu hỏi, Arthur cuống cuồng quay sang vị chuyên gia

của mình. Người Pháp giơ hai tay lên và rên rỉ, "Alors,

mon ami, đừng hỏi tôi. Tôi đã sai hai lần rồi."

Vị chuyên gia này, nhà thông thái này, người trí tuệ

này, chẳng có sáng suốt gì của riêng mình cả. Người đó

phụ thuộc vào tri thức vay mượn, vào truyền thống, vào

qui ước. Người đó mang các thư viện trong đầu, một

gánh nặng lớn, nhưng người đó không có viễn kiến.

Người đó biết nhiều mà lại chẳng biết gì cả.

Và bởi vì cuộc sống không bao giờ như cũ - nó

thường xuyên thay đổi, khoảnh khắc sang khoảnh khắc

nó đều mới - vị chuyên gia này bao giờ cũng bị tụt hậu,

đáp ứng của người đó bao giờ cũng không thích hợp.

Người đó chỉ có thể phản ứng, người đó không thể đáp

ứng, bởi vì người đó không tự phát. Người đó đã đi tới

kết luận, người đó đang mang câu trả lời làm sẵn - và

câu hỏi mà cuộc sống nêu ra bao giờ cũng mới.

Hơn nữa, cuộc sống không phải là hiện tượng logic.

Và trí tuệ sống qua logic; do đó người đó chưa bao giờ

khớp được với cuộc sống và cuộc sống chẳng bao giờ

khớp với người đó. Tất nhiên cuộc sống không lúng

túng, bản thân người trí thức mới lúng túng. Người đó

bao giờ cũng cảm thấy như người ngoài - không phải là

cuộc sống đã xua đuổi người đó; bản thân người đó đã

quyết định vẫn còn ở ngoài cuộc sống. Nếu bạn níu bám

quá nhiều vào logic bạn sẽ chẳng bao giờ có khả năng là

một phần của quá trình sống chính là sự tồn tại này.

Cuộc sống còn nhiều hơn logic: cuộc sống là ngược

đời, cuộc sống là điều bí ẩn.

Gannaway và O'Casey đã dàn xếp cuộc đọ súng tay

đôi. Gannaway béo phục phịch, và khi anh ta thấy đối

thủ còm nhom đối diện với mình anh ta phản đối. "Tước

quyền!" anh ta nói, "Tôi béo gấp đôi anh ta, cho nên tôi

phải đứng xa gấp đôi so với anh ta đứng xa với tôi."

Tuyệt đối logic, nhưng làm sao bạn làm được điều

đó?

"Cứ thoải mái đi," người giúp đỡ của anh ta trả lời.

"Tôi sẽ làm điều đó đúng lại ngay." Rồi lấy một mẩu

phấn từ túi mình anh vẽ ra hai đường thẳng xuôi theo áo

của người béo chừa một khoảng cách giữa chúng.

"Bây giờ," anh ta nói, khi quay sang O'Casey, "bắn

đi, và nhớ rằng bất kì phát nào ra ngoài đường phấn kẻ

đều không được tính đâu nhé."

Toán học hoàn hảo, logic hoàn hảo! - nhưng cuộc

sống không logic thế, cuộc sống không toán học thế. Và

mọi người cứ sống trong trí tuệ của mình một cách rất

logic. Logic cho họ cảm giác dường như họ biết, nhưng

đó là cái "dường như" lớn và người ta có xu hướng quên

mất nó hoàn toàn. Bất kì điều gì bạn định làm qua trí

tuệ, đó chỉ là suy diễn. Nó không phải là kinh nghiệm về

chân lí, mà chỉ là suy luận dựa trên logic của bạn - và

logic của bạn là bịa đặt của bạn.

Cudahy, đã uống nhiều rượu, đứng ngắm nhìn cuộc

diễu hành nhân ngày lễ Thánh Patrick. Một cách vô ý

thức anh vứt mẩu thuốc lá đang cháy vào một chiếc nệm

cũ nằm tại lề đường.

Vừa lúc đó các đội viên tóc xám của Đoàn nữ y tá

khệnh khạng đi qua. Đồng thời, tấm nệm cháy âm ỉ bắt

đầu toả ra mùi kinh khủng.

Cudahy khụt khịt vài lần rồi tuyên bố với viên cảnh

sát đứng gần đó, "Ông sĩ quan ơi, những nữ y tá kia diễu

hành quá nhanh!"

Trí tuệ có thể đạt tới những suy luận nào đó, nhưng

trí tuệ là hiện tượng vô ý thức. Bạn cư xử gần như trong

khi ngủ.

Thông minh là thức tỉnh, và chừng nào bạn còn chưa

thức tỉnh đầy đủ, bất kì điều gì bạn quyết định nhất định

sai ở đâu đó hay này khác. Nó nhất định là như vậy, nó

phải chịu số phận là sai, bởi vì nó là kết luận được đạt

tới bởi tâm trí vô ý thức.

Đem thông minh vào hoạt động đi, bạn không cần

nhiều thông tin, bạn cần nhiều thiền hơn. Bạn cần trở

nên im lặng hơn, bạn cần trở nên vô ý nghĩ hơn. Bạn cần

trở nên ít tâm trí hơn và nhiều trái tim hơn. Bạn cần trở

nên nhận biết về điều kì diệu đang bao quanh bạn: điều

kì diệu đó là cuộc sống, điều kì diệu đó là Thượng đế,

điều kì diệu đó có trong cây xanh và hoa đỏ, điều kì diệu

đó có trong mắt mọi người. Điều kì diệu đang xảy ra ở

mọi nơi! Tất cả đều là điều huyền bí, nhưng bởi vì trí tuệ

của mình mà bạn vẫn còn bị khép chặt bên trong bản

thân mình, níu bám lấy những kết luận ngu xuẩn của

mình đã đạt tới trong vô ý thức, hay được người khác

trao cho bạn, những người cũng vô ý thức như bạn vậy.

Savita này, thông minh chắc chắn có tính sáng tạo,

bởi vì thông minh đem tính toàn bộ của bạn vào vận

hành - không chỉ là một phần, một phần nhỏ, cái đầu.

Thông minh làm rung động toàn thể bản thể bạn; từng tế

bào của bản thể bạn, từng thớ thịt của cuộc sống bạn bắt

đầu nhảy múa và đi vào sự hài hoà tinh tế với toàn bộ.

Đó chính là tính sáng tạo là gì: rung động trong hài

hoà tuyệt đối với cái toàn bộ. Đó là cách người ta trở

thành một Phật, Christ, Zarathustra. Đây là những người

sáng tạo thực.

Cái gì đó giống thế này đang xảy ra ngay bây giờ, ở

đây. Nếu bạn là đệ tử bạn sẽ có khả năng cảm thấy cái gì

đó của nó. Nếu bạn là người thành tâm bạn sẽ có khả

năng uống từ cội nguồn này, cái đã trở thành sẵn có cho

bạn. Và thế thì tính sáng tạo sẽ tới với bạn, mọi sự sẽ bắt

đầu xảy ra theo cách riêng của nó. Trái tim bạn sẽ bắt

đầu rót ra bài ca của vui vẻ, bàn tay bạn sẽ bắt đầu làm

biến đổi mọi thứ. Bạn sẽ chạm vào bùn và nó sẽ trở

thành hoa sen. Bạn sẽ có khả năng trở thành nhà giả kim

thuật. Nhưng điều đó là có thể chỉ qua thức tỉnh lớn lao

của thông minh, thức tỉnh lớn lao của trái tim.

****************************************************

#2Câu hỏi thứ hai:

Thưa thầy kính yêu,

Mọi người đều muốn yêu và được yêu. Tại sao?

"Cái nhìn đầu tiên của tình yêu, cái nhìn cuối cùng

của trí huệ." Điều đó đúng không?

Bal Krishna Bharti, tình yêu là lời cầu nguyện dò

dẫm tới Thượng đế. Tình yêu là thơ ca sinh ra từ niềm

vui vô cùng của bản thể. Tình yêu là bài ca, điệu vũ, lễ

hội: bài ca của lòng biết ơn, điệu vũ của sự cảm ơn, lễ

hội chẳng bởi lí do gì cả... vì món quà vô cùng này cứ

mưa rào lên chúng ta, vì toàn thể vũ trụ này, từ cát bụi

tới điều thiêng liêng. Tình yêu không phải là điều bạn

hiểu nó là vậy, do đó mới có câu hỏi này.

Bạn hỏi, "Mọi người đều muốn yêu và được yêu.

Tại sao?"

Bởi vì tình yêu là tôn giáo ở đỉnh cao nhất của nó;

tình yêu là tôn giáo tối cao. Tình yêu là việc tìm kiếm

Thượng đế - tất nhiên, tìm kiếm vô ý thức lúc bắt đầu,

loạng choạng, dò dẫm trong bóng tối. Chiều hướng có

thể không đúng, nhưng ý định là tuyệt đối đúng.

Tình yêu không phải là điều bình thường mà bạn

vẫn hiểu nó; nó không chỉ là hấp dẫn sinh học giữa đàn

ông và đàn bà. Nó là cái đó đấy, nhưng điều đó chỉ là

bắt đầu, chỉ là bước đầu tiên. Ngay cả ở đó, nếu bạn

nhìn sâu xuống, nó không thực sự là hấp dẫn giữa đàn

ông và đàn bà, nó là hấp dẫn giữa năng lượng nam tính

và năng lượng nữ tính. Nó không phải là hấp dẫn giữa A

và B; những điều bí ẩn sâu hơn nhiều có tham gia vào

ngay cả trong chuyện tình bình thường.

Do đó không ai có thể định nghĩa được tình yêu.

Hàng nghìn định nghĩa đã được thử - tất cả đều thất bại.

Tình yêu vẫn còn không định nghĩa được, rất khó nắm,

rất hay thay đổi. Bạn càng muốn nắm lấy nó, điều đó lại

càng trở nên khó hơn, nó càng đi xa hơn. Bạn không thể

bắt giữ được nó, bạn không thể xoay xở để biết đích xác

nó là gì, bạn không thể kiểm soát được nó. Tình yêu vẫn

còn không thể nào biết được. Con người muốn biết, bởi

vì tri thức cho sức mạnh. Bạn muốn mạnh trên tình yêu,

nhưng điều đó là không thể được; tình yêu lớn hơn bạn

nhiều lắm. Bạn không thể sở hữu nó, bạn chỉ có thể bị

nó sở hữu. Do đó những người muốn sở hữu tình yêu

không bao giờ đi tới biết cái gì về nó.

Chỉ những người đủ dũng cảm, chỉ những người liều

lĩnh, người có thể mạo hiểm chính cuộc sống của họ và

bị sở hữu bởi năng lượng không biết nào đó, mới có khả

năng biết tình yêu là gì.

Tình yêu là bước đầu tiên hướng tới Thượng đế - do

đó nó có vẻ như điên khùng đối với những người bị treo

trong đầu họ. Và bởi vì mọi người không hiểu toàn thể

bí ẩn của tình yêu, bởi vì họ cố gắng hiểu nó qua tâm

trí... Nó có thể được hiểu chỉ qua trái tim. Nhớ lấy: mọi

điều lớn lao đều có sẵn cho trái tim. Trái tim là cánh cửa

tới mọi giá trị lớn lao của cuộc sống, tới mọi giá trị tối

thượng, và cái đầu chỉ là cái máy hữu dụng, một vật

dụng - tốt ở bãi chợ nhưng hoàn toàn vô dụng trong đền

chùa. Và tình yêu là ngôi đền, nó không phải là bãi chợ.

Nếu bạn lái tình yêu vào bãi chợ nó bị thu lại thành dâm

dục xấu xí.

Đó là điều mọi người đã làm: thay vì nâng tình yêu

tới Thượng đế, họ đã thu tình yêu thành dâm dục con

vật, xấu xí. Và điều kì lạ là, cùng những người đó - tu sĩ,

chính khách, nhà đạo đức - cùng những người đã thu

tình yêu thành hiện tượng xấu xa, đều chống lại dục, đều

là kẻ thù của dục. Và họ là những người đã phá huỷ sức

mạnh tiềm năng vô cùng!

Tình yêu là hoa sen ẩn kín trong bùn. Hoa sen được

sinh ra từ bùn, nhưng bạn không kết án hoa sen bởi vì

nó được sinh ra từ bùn; bạn không gọi hoa sen là đồ bùn

nhơ, bạn không gọi hoa sen là bẩn thỉu. Tình yêu được

sinh ra từ dục, và thế rồi lời cầu nguyện được sinh ra từ

tình yêu, và thế rồi Thượng đế được sinh ra từ lời cầu

nguyện. Người ta cứ soải cánh bay lên ngày một cao

hơn, cao hơn.

Nhưng các tu sĩ và nhà đạo đức đã thu toàn thể hiện

tượng này thành dâm dục. Và một khi tình yêu trở thành

dục nó trở thành xấu, người ta bắt đầu cảm thấy mặc

cảm về nó. Và chính bởi vì mặc cảm đó mà có câu tục

ngữ này, câu ngạn ngữ này: Cái nhìn đầu tiên về tình

yêu, cái nhìn cuối cùng về trí huệ... Nếu bạn hỏi tôi, tôi

sẽ đổi nó một chút ít. Tôi sẽ nói: Cái nhìn đầu tiên về

tình yêu, cái nhìn đầu tiên về trí huệ.

Nhưng điều đó tùy thuộc vào cách bạn nhìn nó. Nếu

bạn nhìn vào tiềm năng của nó, ở khả năng cao nhất mà

nó có thể đạt tới, thế thì tình yêu trở thành chiếc thang.

Nếu bạn chỉ nhìn vào bùn và bạn hoàn toàn mù với

tương lai của bùn, thế thì chắc chắn tình yêu trở thành

cái gì đó xấu xí và đối kháng lớn nảy sinh trong bạn.

Nhưng đối kháng với tình yêu là đối kháng với Thượng

đế.

Trở về từ tuần trăng mật, Michael điện thoại cho bố

mình ở văn phòng.

"Con đấy à, con trai. Kể cho bố xem nào, cuộc sống

gia đình thế nào?"

"Bố ơi, con bực mình lắm. Con nghĩ con lấy phải ni

cô cồi."

"Ni cô sao?" người bố hoảng hốt hỏi. "Con ngụ ý

gì?"

"À, bố biết đấy, bố, chẳng cái gì buổi sáng và chẳng

cái gì buổi tối."

"Ồ, cái đó!" người già hơn lẩm bẩm. "Tới ăn tối thứ

bẩy và bố sẽ giới thiệu con với mẹ tối cao."

Một khi tình yêu bị thu về chỉ dâm dục, tất nhiên thế

thì cái nhìn đầu tiên về tình yêu là cái nhìn cuối cùng

của trí huệ. Nhưng điều đó tuỳ thuộc vào bạn: sao thu nó

về dâm dục? Sao không đổi kim loại cơ sở hơn thành

vàng? Sao không học giả kim thuật của yêu? Đó là điều

tôi đang dạy ở đây.

Và các tu sĩ, những người chẳng biết gì về tình yêu -

bởi vì họ chưa bao giờ yêu, họ đã từ bỏ thế giới của tình

yêu - họ cứ làm ra các hệ thống tư tưởng lớn chống lại

nó.

Ông tu sĩ đứng trước một đám đông nín lặng các dân

làng chăm chú và nói với họ, "Quí vị phải không dùng-a

viên thuốc đấy."

Một cô tiểu thư đáng yêu bước lên và nói, "Trông

đây, ông không chơi-a trò chơi, ông không làm-a ra qui

tắc!"

Đây là những người không chơi trò chơi nhưng họ

làm ra qui tắc. Trong nhiều thế kỉ các tu sĩ đã làm ra qui

tắc. Đó là thời giáo hội trên khắp thế giới đã kết án một

nguồn tiềm năng vĩ đại, thực ra là nguồn duy nhất, của

năng lượng. Một khi nó bị kết án, bạn bị kết án; cả đời

bạn sẽ trở thành vô nghĩa. Một khi năng lượng dục

không được phép phát triển tới những chiều cao tự nhiên

của nó, bạn đang sống cuộc sống khổ sở.

Bal Krishna Bharti, tình yêu là món quà lớn lao nhất

của Thượng đế. Học nghệ thuật về nó đi. Học bài ca về

nó, lễ hội về nó đi. Nó là nhu cầu tuyệt đối: cũng như

thân thể không thể sống sót nếu thiếu thức ăn, linh hồn

không thể sống sót nếu thiếu tình yêu. Tình yêu là chất

nuôi dưỡng của linh hồn, nó là cái bắt đầu của mọi điều

lớn lao, nó là cánh cửa của điều thiêng liêng.

****************************************************

#2Câu hỏi thứ ba:

Thưa thầy kính yêu,

Tôi biết rằng Thượng đế là tình yêu, nhưng thế thì

tại sao tôi sợ ngài thế?

Sudharma, bạn không biết rằng Thượng đế là tình

yêu đâu. Bạn đã nghe tôi nói đi nói lại rằng Thượng đế

là tình yêu; do đó bạn đã bắt đầu lặp lại nó. Điều đó là

như vẹt thôi. Tôi biết Thượng đế là tình yêu, do đó

không thể nào sợ Thượng đế được. Làm sao bạn có thể

sợ tình yêu được?

Sợ và yêu không thể cùng tồn tại với nhau được; sự

cùng tồn tại của chúng là không thể được. Thực ra,

chính là cùng một năng lượng trở thành sợ cũng trở

thành yêu. Nếu nó trở thành sợ, không còn năng lượng

sẵn có để thành yêu; nếu nó trở thành yêu, sợ biến mất.

Nó là cùng năng lượng! Cùng năng lượng này ở trạng

thái hỗn độn được gọi là sợ; và khi nó trở thành hài hoà,

khi nó trong hoà hợp sâu, nó được gọi là yêu. Bạn vẫn

chưa biết rằng Thượng đế là tình yêu đâu.

Bạn nói, "Tôi biết rằng Thượng đế là tình yêu..."

Bạn đã nghe nói, nhưng bạn không biết. Đây là

thông tin khi có liên quan tới bạn; nó chưa là việc biết,

nó không phải là kinh nghiệm đích thực riêng của bạn.

Và bao giờ cũng nhớ rằng chừng nào cái gì đó còn chưa

trở thành kinh nghiệm đích thực riêng của bạn, nó sẽ

không biến đổi bạn; do đó có vấn đề này.

Bạn nói, "Tôi biết rằng Thượng đế là tình yêu,

nhưng thế thì tại sao tôi sợ ngài thế?"

Bạn nhất định sợ ngài bởi vì bạn không biết rằng

Thượng đế là tình yêu. Bạn đã được các tu sĩ trong hàng

thế kỉ bảo bạn rằng Thượng đế thường xuyên quan sát

bạn, rằng Thượng đế muốn bạn phải là thế này và không

là thế kia, rằng đây là mười điều răn của Thượng đế,

tuân theo chúng đi. Và nếu bạn không tuân theo chúng,

Thượng đế đã chuẩn bị địa ngục lớn cho bạn. Bố đang

chuẩn bị ngọn lửa địa ngục cho con của riêng mình sao?

- không thể được, ngay cả để quan niệm.

Các tu sĩ đã làm Thượng đế thành xấu thế chỉ để chi

phối mọi người, bởi vì mọi người có thể bị chi phối chỉ

qua sợ hãi. Nhớ điều này: toàn thể bí mật thương mại

của tu sĩ, của người Hin du, của người Ki tô giáo, người

Mô ha mét giáo, người Jaina giáo, phật tử - triết lí của

họ khác nhau nhưng bí mật thương mại của họ là một.

Bí mật thương mại đó là: bao giờ cũng giữ cho mọi

người sợ hãi, run rẩy. Nếu mọi người sợ hãi, họ sẵn sàng

chịu phục tùng. Nếu mọi người sợ hãi, họ sẵn sàng là nô

lệ. Nếu mọi người sợ hãi, họ không thể thu lấy dũng

cảm để nổi dậy. Sợ hãi giữ họ bất lực; sợ hãi là quá trình

tâm lí của việc thiến. Trong nhiều thế kỉ điều đó đã được

làm: sợ hãi đã là vũ khí lớn nhất trong tay của tu sĩ và họ

đã dùng nó rất chủ ý.

Con trai của nhà Goldbergs, Jake, từ chối coi nhà

trường là chuyện nghiêm chỉnh. Nó chưa bao giờ làm

bài tập về nhà và thường xuyên trốn học.

Thầy hiệu trưởng gợi ý họ nên gửi nó tới một trường

Do Thái Yeshiva. Nhà Goldbergs làm điều đó, nhưng

sau vài tuần nó bị đuổi ra.

Nhà Goldbergs biết rằng trường phái thiển cận Cơ

đốc giáo rất chặt chẽ, cho nên họ quyết định gửi Jake tới

một trường giáo xứ. Họ đăng tuyển nó vào Trường

Christ-the-King dành cho con trai, và cảnh báo con họ

cư xử và học bài học của mình, bởi vì đây là cơ hội cuối

cùng của nó. Nếu nó muốn bị tống ra bây giờ thì nó sẽ

bị gửi sang trường dành cho kẻ chểnh mảng.

Sau hai tuần ở trường giáo xứ, Jake về nhà với điểm

xuất sắc. Nó đã được cải sang thành một học sinh

nghiêm chỉnh, tư cách hạnh kiểm tốt một cách huyền bí.

"Làm sao con đã thay đổi được bất thần thế?"

Goldberg hỏi.

"Thế này," nó trả lời, "khi con thấy người nào đó

treo trên cây thánh giá trong mọi phòng, con đã hình

dung ra tốt hơn cả là con không là đứa khôn ngoan thêm

nữa."

Làm cho mọi người sợ, giữ họ bao giờ cũng run rẩy.

Để cho họ biết rằng Thượng đế là Thượng đế độc tài, rất

giận dữ, ghen tị, và tuyệt đối không thể nào tha thứ nếu

bạn không vâng lời. Không vâng lời là tội lỗi lớn nhất

trong mắt của tu sĩ; do đó Adam và Eve mới bị đuổi ra.

Họ đã không làm gì mấy tội cả. Họ đã thực sự làm gì?

Chẳng nhiều nhặn gì để mà nói, nhưng các tu sĩ đã nói

về nó hàng thế kỉ. Và Thượng đế giận tới mức không chỉ

Adam và Eve bị tống ra khỏi Vườn Eden, thiên đường -

cùng với họ là cả nhân loại!

Bạn khổ bởi vì Adam và Eve không vâng lời. Bạn

đã không làm điều gì sai cả; bạn khổ vì tội của họ bởi vì

bạn là con cháu. Tội lỗi này lớn thế - không chỉ những

người này bị trừng phạt, mà trong hàng nghìn và hàng

nghìn năm con cháu họ phải bị trừng phạt nữa.

Và tội lỗi thực sự là gì? Sao nhiều ồn ào về nó được

dựng lên thế? Nó hồn nhiên thế, nó tự nhiên tới mức tôi

không thể quan niệm nổi làm sao Adam và Eve lại có

thể đã né tránh được nó. Nếu bất kì ai chịu trách nhiệm

cho nó, bản thân Thượng đế chịu trách nhiệm. Có cả

triệu cây trong Vườn Eden và chỉ có một cây mà

Thượng đế không muốn Adam và Eve ăn ở đó - chỉ một

cây, cây cấm. Và lí do tại sao nó bị cấm cũng dường như

rất xấu. Lí do là: nếu bạn ăn quả của cây tri thức, bạn sẽ

trở thành giống Thượng đế và Thượng đế rất ghen tị.

Nhìn vào lí do tại sao cây này bị cấm. Lí do là ở chỗ nếu

bạn ăn từ cây này, từ chính cây này, cây tri thức, bạn sẽ

trở thành bất tử, như các thần. Bạn sẽ biết nhiều như

Thượng đế biết - và điều đó không thể tha thứ được!

Cho nên Thượng đế đã bảo vệ cây đó đặc biệt riêng cho

bản thân mình - ngài phải ăn từ cây tri thức chứ - và cấm

Adam và Eve.

Bây giờ đây đích xác là điều mọi người bố đang

làm. Ông ấy hút thuốc và ông ấy cấm trẻ con: "Không

được hút thuốc - điều này là xấu. Điều này là xấu cho

con!" Nhưng bởi vì người bố trông hay thế khi hút

thuốc, trẻ con trở nên bị bỏ bùa. Chúng cũng thích giống

như người bố - và ông ấy trông đàn ông thế khi ông ấy

phì khói từ điếu xì gà, ông ấy trông tự hào thế! Ông ấy

chưa bao giờ trông tự hào thế như khi ông ấy phì khói từ

điếu xì gà, nghỉ trong ghế, đọc báo. Đứa trẻ trở nên bị

hấp dẫn. Khi người bố không có đó chúng cũng ngồi

vào cùng chiếc ghế đó, giang rộng tờ báo ra, mặc dầu

chúng không biết đọc, và bắt đầu phì khói. Và điều đó

cho chúng vui vẻ lớn lao bởi vì điều đó cho chúng bản

ngã lớn.

Thực ra, cấm đoán là mời gọi. Nói với trẻ con,

"Không làm cái đó!" là tìm rắc rối đấy.

Tôi thường sống cùng một gia đình. Có vấn đề:

người bố là người nghiện thuốc lá, người hút liên tục -

một giáo sư rất nổi tiếng ở đại học. Và ông ấy sợ: ông ấy

hỏi tôi, "Phải làm gì?"

Tôi nói, "Làm một điều..." Ông ấy chỉ có một đứa

con trai đang lớn và ông ấy sợ rằng sớm hay muộn đứa

con sẽ bắt đầu hút thuốc. Tôi nói, "Nếu ông nghe tôi,

cách tốt nhất là cho cậu bé thuốc lá, tự ông đem cho nó

thuốc lá và bảo nó hút thật nhiều tuỳ ý."

Ông ấy nói, "Ông nói gì thế? Ông có điên không hay

ông đùa đấy?"

Tôi nói, "Thế thì để điều đó cho tôi - tôi sẽ xoay xở

điều đó."

Tôi tặng cho đứa bé một điếu thuốc. Nó nói, "Nhưng

bác không hút thuốc."

Tôi nói, "Đó là chuyện khác - cháu đừng lo về bác.

Nhưng cháu học đi! Đó là một trong những điều đẹp

nhất trong cuộc sống!"

Nó lại hỏi, "Nhưng thế thì sao bác không hút?"

Tôi nói, "Cháu cứ bỏ bác ra khỏi điều này đi - bác

không phải là người rất thông minh. Nhìn bố cháu kia!

Và nếu bác ngu, cháu có định ngu không?"

Tôi gặp khó khăn lớn trong việc thuyết phục nó bởi

vì câu hỏi nó cứ hỏi mãi là, "Bác bảo cháu hút, nhưng

sao bác không hút?"

Tôi nói, "Cháu thử xem, thế rồi cháu sẽ biết!"

Thế là nó thử, và nó biết, và nó vứt điếu thuốc lá đi.

Và nó nói, "Bây giờ cháu biết tại sao bác không hút rồi.

Thế sao bác cứ khăng khăng bảo cháu hút? Thế thì sao

bác cứ cố gắng thuyết phục cháu? Nó buồn nôn thế, lợm

giọng thế!" Nó ho nước mắt giàn dụa - và thế đấy, câu

chuyện chấm dứt.

Và tôi bảo với bố nó đừng bao giờ nói với con,

"Đừng hút thuốc."

Nhớ lấy câu chuyện cổ về Adam và Eve. Nếu tôi mà

là Thượng đế tôi đã đem Adam và Eve tới cây tri thức

và sẽ buộc họ phải ăn tới mức họ phải bắt đầu nôn ra, và

đó sẽ là chấm dứt của toàn bộ câu chuyện. Nhưng

Thượng đế đã bảo họ không được ăn từ cây này. Đó đã

là lời mời - chẳng cần rắn nào cả.

Rắn là bịa thêm của tu sĩ để cho Thượng đế có thể

được tránh né; trách nhiệm có thể được trút lên rắn đáng

thương. Rắn đơn giản đáng thương; rắn chẳng liên quan

gì tới điều đó, rắn tuyệt đối hồn nhiên. Bạn đã bao giờ

thấy con rắn nào thuyết phục người đàn bà nào về cái gì

không? Và tại sao rắn phải quan tâm? Nếu nó muốn ăn,

chẳng ai cấm nó cả. Sao nó phải dụ dỗ Eve ăn quả của

cây tri thức? Nó được gì nếu Eve và Adam trở nên thông

thái? Không, rắn là bịa đặt để cho trách nhiệm có thể bị

đổ lên nó.

Nhưng nếu bạn đi sâu vào câu chuyện này nó lại

đơn giản: Thượng đế chịu trách nhiệm. Trước hết bạn áp

đặt mệnh lệnh lên mọi người, và chính việc áp đặt đó tạo

ra sự chống đối trong họ, tạo ra thôi thúc lớn để không

vâng lời. Thế thì không vâng lời là tội lỗi; tội lỗi lớn

nhất là không vâng lời. Và thế rồi bạn phải tạo ra địa

ngục và đủ mọi loại trừng phạt, và bạn phải giữ cho mọi

người sợ hãi.

Câu chuyện này được các tu sĩ bịa ra để làm con con

người sợ hãi. Tu sĩ chưa bao giờ muốn con người trở

nên thông minh, bởi vì người thông minh là nguy hiểm -

nguy hiểm cho nguyên trạng, cho thể chế, nguy hiểm

cho các quyền lợi được đầu tư. Tu sĩ muốn mọi người

vẫn còn hoàn toàn dốt nát, không thông minh. Trong

hàng thế kỉ họ đã không cho phép mọi người đọc kinh

sách. Trong nhiều tôn giáo đàn bà vẫn không được phép.

Và vậy mà một âm mưu rất thâm hiểm vẫn diễn ra.

Âm mưu này là ở chỗ tất cả các kinh sách đều viết trong

các ngôn ngữ chết; không ai hiểu chúng, chỉ mỗi tu sĩ

thôi. Tu sĩ vẫn còn mạnh mẽ trong hàng thế kỉ bởi vì họ

là những người duy nhất biết. Kinh sách đã viết trong

tiếng Phạn cổ đại, tiếng Do Thái, A rập, Hi Lạp, Latin -

các ngôn ngữ cổ đại không còn được nói nữa. Thậm chí

có hoài nghi rằng có vài ngôn ngữ còn chưa bao giờ

được nói. Chẳng hạn, tiếng Phạn dường như là một

trong những ngôn ngữ chưa bao giờ là ngôn ngữ nói. Nó

bao giờ cũng là ngôn ngữ của các học giả, không của

mọi người; của các bác học, không của quần chúng.

Ở Ấn Độ đã có hai ngôn ngữ: một có tên là Prakrit;

prakrit nghĩa là "tự nhiên," cái mọi người đều nói. Và

Sanskrit theo nghĩa đen là "có học thức," "quí tộc," ngôn

ngữ chỉ được các học giả và các viện sĩ ở đại học nói.

Tất cả các kinh sách lớn đều được viết trong tiếng Phạn.

Vấn đề bị bỏ lại cho Mahavira và Phật lần đầu tiên

nói theo ngôn ngữ của mọi người - và các brahmins của

Ấn Độ chưa bao giờ có khả năng tha thứ được cho hai

người này về tội đó. Nói theo ngôn ngữ của mọi người

nghĩa là quyền lực của tu sĩ đi đời. Nếu mọi người trở

thành người biết, nếu họ biết điều được viết trong các

kinh sách, họ sẽ không dễ bị lừa thế. Thực ra, bạn có thể

tôn thờ Veda chỉ nếu bạn không hiểu chúng. Nếu bạn

hiểu chúng, chín mươi chín phần trăm chỉ là rác rưởi.

Một phần trăm là vàng ròng, chắc chắn, nhưng chín

mươi chín phần trăm là rác rưởi thuần tuý. Nhưng nếu

bạn không hiểu chúng, tất cả đều là vàng. Trong bóng

tối, bất kì cái gì cũng có thể được trao cho bạn với lời,

"Nó là vàng đấy - tôn thờ nó đi!" Và trong hàng thế kỉ

Veda đã được tôn thờ.

Các tu sĩ muốn bạn tôn thờ kinh sách, không cần

hiểu chúng - bởi vì nếu bạn hiểu kinh sách, sớm hay

muộn, một điều sẽ trở nên rõ ràng với bạn: rằng kinh

sách này không phải là cội nguồn thực. Sớm hay muộn,

bạn nhất định loạng choạng vớ phải chân lí rằng,

"Krishna đang nói từ trạng thái thiền, Christ đang nói từ

trạng thái thiền. Điều ông ấy nói là phụ - từ đâu ông ấy

nói ra mới là chính. Chừng nào mình chưa đạt tới trạng

thái đó của tâm thức mình sẽ không có khả năng hiểu

những lời này, bởi vì những lời này trong bản thân

chúng là trống rỗng; nghĩa chỉ có thể tới qua kinh

nghiệm." Kinh sách đã bị cấm; nó là tội lỗi... Chỉ người

brahmins, các tu sĩ, đẳng cấp cao nhất, mới được phép

đọc chúng - trên toàn thế giới.

Âm mưu này vẫn tiếp tục. Những lời cầu nguyện

vẫn được thực hiện trong ngôn ngữ chết, bạn không biết

mình đang nói gì. Làm sao bạn có thể cảm thấy cái gì

khi bạn không biết điều bạn đang nói? Làm sao điều đó

bắt nguồn từ tình cảm của bạn và từ trái tim của bạn

được? Lời cầu nguyện của bạn trở thành giống như đĩa

hát: 'Giọng Thầy' - sự lặp lại. Và bạn hi vọng rằng bằng

việc lặp lại các nghi lễ chết bạn sẽ đạt tới đâu đó. Bạn sẽ

đơn giản làm phí hoài cuộc sống của mình.

Và thế rồi nỗi sợ lớn nảy sinh: "Mình không biết

mình từ đâu tới, mình là ai, mình đang đi đâu. Tất cả

xung quanh đều tối tăm và tối tăm, tối tăm vô hạn, và

không một ánh sáng trong cuộc sống." Thế rồi bạn phải

đi tới tu sĩ và cúi lạy ông ấy. Bạn phải hỏi xin hướng

dẫn.

Đây là bí mật thương mại: giữ cho mọi người sợ. Và

bạn có thể giữ cho mọi người sợ chỉ nếu bạn giữ họ dốt

nát. Để cho họ vẫn còn run rẩy, thế thì họ bao giờ cũng

sẽ sẵn sàng chạm chân bạn, sẵn sàng vâng lời bạn - bởi

vì bạn đại diện cho Thượng đế, và không vâng lời bạn là

nguy hiểm, rất nguy hiểm. Họ sẽ bị tống xuống địa ngục

vĩnh viễn.

Greenberg, ăn mặc xoàng xĩnh và mang hai túi giấy,

bị thanh tra hải quan chặn lại.

"Anh để cái gì trong các túi kia?" viên quan chức

hỏi.

"Tôi có hai mươi nhăm nghìn đô la ở đây, số tiền tôi

đem sang Israel để tặng."

"Xì," viên quan chức nhạo báng, "anh trông không

đáng giá một bữa ăn; làm sao anh có thể tặng hai mươi

nhăm nghìn đô là cho nhà nước Israel được?"

"Thế này, ông thấy đấy, tôi có việc làm trong phòng

vệ sinh của đàn ông, và khi đàn ông vào tôi nói với họ,

'Giúp cho Israel bằng không tôi sẽ cắt hòn của ông.'"

"Được, vậy là anh kiếm được hai mươi nhăm nghìn

đô la trong túi này, nhưng cái gì trong túi kia?"

"Một số đàn ông không muốn tặng."

Đó là điều các tu sĩ đã từng làm: phá huỷ can đảm

của bạn, phá huỷ dũng cảm của bạn, phá huỷ tự kính

trọng của bạn, phá huỷ tự tin cậy của bạn.

Sudharma, bạn nói, "Tôi biết rằng Thượng đế là tình

yêu, nhưng thế rồi tại sao tôi sợ ngài thế?" Bạn vẫn bị

bao quanh bởi những điều vô nghĩa mà các tu sĩ đã nhồi

nhét vào đầu bạn; bạn đầy những rác rưởi đó. Phải mất

thời gian để gạt bỏ nó, nó thực sự mất thời gian dài, bởi

vì nó đã diễn ra nhiều thế kỉ rồi. Nó đã từng là lịch sử

dài, xấu tới mức tìm ra được một người có thể thoát ra

khỏi nó là hiện tượng hiếm hoi.

Toàn thể nỗ lực của tôi ở đây là để giúp bạn thoát

khỏi nó. Tôi chống lại toàn thể công việc của giới tăng

lữ. Tôi muốn bạn đứng mặt đối mặt với Thượng đế mà

không có tu sĩ nào, không có giới tăng lữ. Thượng đế là

của bạn, bạn là của Thượng đế; không có nhu cầu bất kì

người trung gian nào. Chức năng của thầy không phải là

trở thành người trung gian giữa bạn và Thượng đế.

Chính điều ngược lại: chức năng của thầy là rút đi mọi

cái chen vào giữa bạn và Thượng đế. Bản thân thầy đến

điểm cuối cùng cũng rút đi; giữa bạn và Thượng đế thầy

không còn đứng đó. Thầy chỉ đứng tới mức độ nào đó,

trong khi các thứ khác đang được loại bỏ đi. Khi mọi

thứ khác đã được bỏ đi, thầy tự bỏ bản thân mình đi; đó

là điều cuối cùng thầy làm.

Và khoảnh khắc thầy loại bỏ bản thân mình, thầy

không còn đứng giữa bạn và Thượng đế, đó là khoảnh

khắc bạn biết rằng toàn thể sự tồn tại là tình yêu. Chính

với chất liệu có tên tình yêu mà vũ trụ này được tạo nên.

Jesus nói: Thượng đế là tình yêu. Tôi nói với bạn:

Tình yêu là Thượng đế. Khi Jesus nói: Thượng đế là tình

yêu, có thể Thượng đế còn là nhiều thứ khác nữa; tình

yêu chỉ là một thuộc tính. Khi tôi nói: Tình yêu là

Thượng đế, tôi nói tình yêu là phẩm chất duy nhất.

Không có gì khác trong Thượng đế ngoại trừ tình yêu;

thực ra nó là cái tên khác của tình yêu. Bạn có thể vứt

cái tên "Thượng đế," chẳng cái gì sẽ bị mất cả. Để tình

yêu là Thượng đế của bạn.

Nhưng bạn sẽ phải gạt bỏ các tu sĩ. Bạn sẽ phải gạt

bỏ cái gọi là tôn giáo, nhà thờ, đền chùa, nghi lễ, kinh

sách của bạn. Có nhiều rác rưởi cần phải gạt bỏ đi. Đó là

công việc lớn, bởi vì bạn đã được bảo rằng đây là những

thứ rất quí giá. Rác rưởi đã bị áp đặt vào bạn cứ dường

như nó là vàng và, bởi vì điều đó đã được nói cho bạn

nhiều lần thế, bạn đã trở nên bị ước định.

Mọi người trở nên bị ước định để thấy những cái gì

đó. Khi có ước định nào đó, bạn nhìn vào mọi sự qua

ước định đó và nó có vẻ giống thế.

Hai người đang ngồi dưới gốc cây; một người là

người Hindu giáo, người kia là người Mô ha mét giáo.

Chim chóc ríu rít, lúc đó là sáng xuân đẹp. Họ cả hai

lắng nghe một lúc, rồi người Hindu nói, "Bác có nghe

thấy không? Mọi chim chóc đều vang vọng âm thanh

aum. Tôi có thể nghe thấy nó. Tôi đã thực hành aum từ

ba mươi năm nay, và bây giờ tôi trở nên có khả năng

giải mã nó rất dễ dàng. Tất cả mọi chim chóc đều vang

vọng với cùng một âm thanh: âm thanh vô âm, âm thanh

cổ đại của người Hindus, omkar."

Người Mô ha mét giáo cười và ông ta nói, "Vô

nghĩa! Tôi cũng đã thực hành lời cầu nguyện của tôi.

Chim chóc không nói aum đâu, chúng nói amin đấy."

Lời cầu nguyện của người Mô ha mét giáo, lời cầu

nguyện của người Ki tô giáo, đều chấm dứt với amin;

người Ki tô giáo gọi nó là amen, người Mô ha mét giáo

gọi nó là amin. Lời cầu nguyện của người Hindu kết

thúc bằng aum. Chắc chắn có chân lí ở đâu đó, được

diễn đạt bộ phận bởi cả ba từ này. Khi tâm trí trở nên

tuyệt đối im lặng, âm thanh nào đó được nghe thấy. Nếu

bạn là người Hindu bạn sẽ diễn giải nó là aum, nếu bạn

là người Mô ha mét giáo nó là amin, nếu bạn là người

Ki tô giáo nó là amen, nhưng không ai có thể nói chắc

chắn nó là gì. Thực ra nó có thể được diễn giải theo

nhiều cách thế - chính việc diễn giải của bạn được áp đặt

lên nó.

Nếu bạn hỏi nhà huyền môn thực, người không phải

là người Hindu không là người Mô ha mét giáo không là

người Ki tô giáo, ông ấy sẽ nói, "Ngồi im lặng bên cạnh

ta và nghe. Không có nhu cầu diễn giải nó chút nào, bởi

vì bất kì điều gì chúng ta nói về nó đều sẽ là áp đặt của

chúng ta, nó sẽ là ý niệm của chúng ta được áp đặt lên

âm thanh này. Nghe, nghe một cách im lặng - ta đang

nghe nó, ông cũng nghe. Ta biết nó, ông sẽ biết nó.

Không cần nói gì về nó cả."

Chuyện kể, có lần điều đó xảy ra:

Nhà huyền môn vĩ đại, Farid, gặp Kabir, một nhà

huyền môn vĩ đại khác. Trong hai ngày họ ngồi im lặng

cùng nhau. Vâng, đôi khi họ cười, khúc khích chẳng bởi

lí do nào, và đôi khi họ ôm ghì nhau và hôn, nhưng

không một lời nào được nói. Gần nghìn người đã tụ tập -

các đệ tử của cả hai - với sự trông đợi lớn lao rằng cái gì

đó sẽ được trao đổi, và không ai muốn bỏ lỡ cơ hội lớn

thế. Kabir nói điều gì đó cho Farid nhất định là cái gì đó

hiếm hoi, hay Farid nói cái gì đó cho Kabir nhất định là

cái gì đó chỉ được nghe thấy một lần trong cả thế kỉ.

Nhưng hai ngày trôi qua, và các đệ tử trở nên chán

ngán. Và họ càng chán, các nhà huyền môn càng khúc

khích và cười to và ôm ghì và hôn. Và thế rồi thời gian

ra đi tới; Farid phải đi. Kabir đi ra khỏi thị trấn để tiễn

biệt ông ấy, để nói lời chào tạm biệt. Họ lại ôm, họ lại

khúc khích, và họ ra đi.

Các đệ tử của Farid đi theo Farid và các đệ tử của

Kabir đi theo Kabir trở về nhà. Khi họ còn một mình họ

hỏi, các đệ tử của Farid hỏi, "Cái gì sai thế nhỉ? Thầy

liên tục nói cho chúng tôi - điều gì đã xảy ra? Tại sao

thầy đã trở nên câm? Trong hai ngày sao thầy không

nói, và mọi tiếng khúc khích này là gì?"

Farid nói, "Không cần nói gì cả, bởi vì ta nghe cùng

điều ông ấy nghe, ta thấy cùng điều ông ấy thấy, cho

nên phỏng có ích gì mà nói cái gì với ông ấy? Điều đó

sẽ là tuyệt đối ngu xuẩn về phần ta. Khi ta có thể thấy

ông ấy đang nghe cùng điều, đang thấy cùng điều, đang

là cùng điều, chúng ta đang đương đầu với cùng thực

tại, phỏng có ích gì mà nói nó?"

Thế rồi họ hỏi, "Thế sao các thầy khúc khích cười?"

Và ông ấy nói, "Chúng ta khúc khích bởi vì các ông,

bởi vì các ông chán thế! Chúng ta cười các ông. Các ông

đã tới để nghe chúng ta nói - các ông ngu, các ông bỏ lỡ

cơ hội lớn rồi. Hai thầy có đó, hoàn toàn im lặng; hai

vũng năng lượng im lặng, hai cánh cửa mở đồng thời tới

Thượng đế - và các ông bỏ lỡ. Và các ông muốn lời nào

đó, tiếng động nào đó. Các ông có thể đã ngồi im lặng,

các ông có thể đã trở thành một phần im lặng của chúng

ta. Các ông có thể đã rơi vào mối quan hệ với chúng ta.

Các ông đã không làm điều đó - các ông chán, các ông

ngán, các ông ngáp. Và thấy các ông chúng ta khúc

khích rồi, chúng ta cười vào cái loại người ngu si mà

chúng ta đã tập hợp lại!"

Chẳng cái gì có thể được nói; khi bạn biết, không có

cách nào để diễn đạt nó. Nhưng nếu bạn muốn diễn đạt,

thế thì lời tới gần Thượng đế nhất là 'yêu'. Ngay cả điều

đó cũng chỉ là xấp xỉ, nhưng rất gần. Và lời 'Thượng đế'

đã trở nên bị liên kết với người sai, với khái niệm sai.

Thực ra, nhiều người cảm thấy bị xúc phạm khoảnh

khắc bạn thốt ra lời 'Thượng đế'. Tôi không có gắn bó

với lời đó; bạn có thể vứt bỏ nó.

Nhưng nhớ yêu; tôi không thể bảo bạn vứt bỏ điều

đó được, bởi vì không có yêu bạn sẽ không bao giờ đạt

tới Thượng đế. Không có Thượng đế bạn vẫn có thể yêu,

và Thượng đế nhất định tới dù bạn biết hay không, dù

bạn tin vào Thượng đế hay không. Niềm tin không phải

là yêu cầu: yêu là tuyệt đối cần thiết, cái phải có.

Sudharma, bạn đã nghe tôi nói Thượng đế là tình yêu.

Kinh nghiệm điều đó đi, và thế thì mọi sợ hãi sẽ biến

mất. Và bắt đầu vứt bỏ các tu sĩ và hàng thế kỉ của ước

định sai. Họ đã làm cho bạn sợ.

Thực ra, tu sĩ là kẻ thù của Thượng đế, bởi vì mọi

người càng sợ Thượng đế nhiều, càng ít khả năng cho

họ biết Thượng đế - bởi vì sợ là bức tường, không phải

là cây cầu. Tình yêu là cây cầu, không phải là bức

tường. Tất nhiên, sợ giúp cho các tu sĩ sống và khai thác

bạn, nhưng điều đó tước đi Thượng đế khỏi bạn. Tu sĩ

đang phục vụ cho quỉ. Nếu có ai đó giống quỉ, thế thì tu

sĩ đang phục vụ nó; họ không phục vụ Thượng đế.

Đó là lí do tại sao có nhiều tôn giáo thế, vậy mà thế

gian vẫn còn phi tôn giáo, hoàn toàn phi tôn giáo; nhiều

đền chùa và nhiều nhà thờ tu viện hồi giáo thế, và vậy

mà bạn không thấy hương thơm của tôn giáo. Bạn

không thấy khuôn mặt mọi người đầy duyên dáng, mắt

họ đầy im lặng, chân họ nhảy múa, cuộc sống của họ

biểu lộ rằng Thượng đế hiện hữu. Họ có thể nói rằng họ

tin vào Thượng đế, nhưng cuộc sống của họ nói điều gì

đó khác, hoàn toàn khác. Cuộc sống của họ chỉ ra tính

phi tôn giáo tuyệt đối; không chân thực, không đích

thực, không chân thành, ghét, giận, tham - chẳng có gì

của lời cầu nguyện, chẳng có gì của tình yêu, chẳng có

gì của từ bi, chẳng có gì của tính thiền.

Sudharma, thiền đi, yêu đi - và quên các tu sĩ đi,

tống họ ra khỏi bản thể bạn. Bạn đang chịu đựng khó

chịu đấy.

****************************************************

#2Câu hỏi thứ tư:

Thưa thầy kính yêu,

Định nghĩa về người bi quan là gì?

Shivananda, người bi quan là người lạc quan đã trở

nên bị thất vọng bởi việc lạc quan của mình. Người đó

đã hi vọng quá nhiều và đã thất bại, người đó mơ quá

nhiều và đã không thể đạt tới được cái gì bản chất.

Người bi quan là người lạc quan đứng lộn ngược; họ

không phải là những anh chàng khác nhau - đó là điều

tôi muốn làm rõ ràng cho bạn. Chừng nào bạn còn chưa

là người lạc quan bạn không bao giờ có thể là người bi

quan được. Trước hết bạn phải trở thành người lạc quan.

Và từng đứa trẻ đều được nuôi dưỡng lớn lên với lạc

quan lớn lao. Mọi bố mẹ đều nghĩ rằng họ có những đứa

con vĩ đại. Hỏi bất kì người mẹ nào mà xem: cô ấy nghĩ

cô ấy có đứa con duy nhất; cao siêu, hiếm hoi, vô song

nhất. Từng người mẹ đều ba hoa về đứa con. Bố mẹ

nuôi lớn con cái với lạc quan lớn rằng chúng sẽ là

Alexander Đại Đế hay Jesus Christs hay Phật Gautam.

Nhưng dần dần, dần dần cuộc sống chứng tỏ chính

điều ngược lại. Dần dần, đứa trẻ trở nên nhận biết về cái

bình thường của nó. Nó trở nên nhận biết rằng những

giấc mơ lớn này, rằng những tham vọng lớn này, không

thể được hoàn thành. Và vào lúc người ta tiến gần hơn

tới bốn mươi, bốn hai, bi quan bắt đầu lắng đọng - u ám,

tăm tối...

Bây giờ y học nhận biết rằng phần lớn cơn đau tim

xảy ra ở độ tuổi quãng bốn mươi cho tới bốn tư, giữa

bốn năm này. Phần lớn mọi người đều phát điên giữa

bốn năm này, bốn mươi tới bốn tư. Các nhà tâm lí, nhà

phân tâm, đều nhận biết rằng đó là thời gian nguy hiểm

nhất. Nếu bạn có thể vẫn còn lành mạnh sau bốn mươi

tư, điều đó nghĩa là bạn sẽ vẫn còn lành mạnh. Nhưng

nhiều người thất bại hoàn toàn.

Và đừng cho rằng nếu bạn lành mạnh ngay cả sau

bốn mươi tư... điều đó không có nghĩa là bạn rất thông

minh. Điều đó có thể chỉ là việc bạn rất đờ đẫn và phải

mất thời gian lâu cho bạn hiểu. Điều đó có thể chỉ là bạn

rất không nhạy cảm. Điều đó có thể chỉ là bạn liều lĩnh

dại dột, rằng bạn không lắng nghe cuộc sống, điều cuộc

sống đang nói, rằng bạn cứ hi vọng.

Nhưng sớm hay muộn, người ta bắt đầu cảm thấy

rằng cuộc sống đang mòn mỏi đi. Lạc quan lên men và

trở thành bi quan. Lạc quan, cái hi vọng đó, biến thành

lộn ngược; vô vọng lắng đọng lại. Thế thì mọi thứ có vẻ

tăm tối và buồn nản. Ban đầu bạn quen đếm hoa hồng,

bây giờ bạn bắt đầu đếm gai. Ban đầu bạn quen nói,

"Đoá hoa hồng này đẹp làm sao và kì diệu làm sao! Nó

mọc trong cả nghìn gai." Bạn là nhà thơ, bạn có cảm

giác thẩm mĩ nào đó; bạn vẫn tin rằng cuộc sống sẽ là

việc hoàn thành.

Nhưng chẳng mấy chốc một ngày sẽ tới khi hoa

hồng bắt đầu tàn phai và bạn bắt đầu đếm gai, và bạn

không thể tin được vào hoa hồng thêm nữa. Bạn bắt đầu

nói, "Điều đó là không thể được! Hoa hồng phải là mơ

thôi, hoa hồng phải là maya, ảo tưởng, ảo giác. Làm sao

nó là có thể có trong số hàng nghìn gai, làm sao hoa

hồng có thể có được?" Điều đó có vẻ mâu thuẫn, nó có

vẻ phi logic, nó không thể xảy ra được theo bản chất của

mọi sự. Bạn bắt đầu đếm đêm; trước đây, bạn thường

đếm ngày.

Người lạc quan nói, "Có hai ngày, và giữa hai ngày

chỉ là một đêm nhỏ để nghỉ." Còn người bi quan đếm

đêm; người đó nói, "Có hai đêm dài - ác mộng, những

giấc mơ xấu, hành hạ - và chỉ một ngày nhỏ chen vào

giữa hai đêm này." Cuộc sống vẫn thế: bạn có thể đếm

ngày hoặc bạn có thể đếm đêm. Nếu bạn đếm ngày bạn

là người lạc quan, nếu bạn đếm đêm bạn là người bi

quan, nhưng thực sự không có khác biệt.

Người lạc quan có thể trở thành người bi quan,

người bi quan có thể trở thành người lạc quan. Họ

không phải là trái ngược; họ là hai điểm của cùng một

phổ.

Người ta phải vượt ra ngoài cả hai, Shivananda này.

Sannyasin phải vượt ra ngoài cả hai - không hi vọng

không vô vọng. Không cần đếm ngày, không cần đếm

đêm. Là người quan sát đi! Không cần đếm gai, không

cần đếm hoa hồng. Là người quan sát...

Tôi không dạy bạn lạc quan. Ở phương Tây ngày

nay điều đó rất thời thượng; nó được gọi là "tư duy tích

cực." Đó là cái tên mới cho lạc quan; cái tên cũ đã trở

nên hơi quá lạc mốt, lạc hậu rồi. Cái tên mới là tư duy

tích cực. Tôi không dạy bạn tư duy tích cực, bởi vì tư

duy tích cực mang tiêu cực trong việc thức của nó.

Tôi dạy bạn siêu việt - không tích cực không tiêu

cực. Là người quan sát: chứng kiến cả hai. Khi có ngày,

chứng kiến ngày, và khi có đêm, chứng kiến đêm - và

không bị đồng nhất với cái nào. Bạn không là ngày

không là đêm; bạn là tâm thức siêu việt. Trở nên ngày

một định tâm hơn vào trong siêu việt đó đi.

Tôn giáo thực không tích cực, không tiêu cực. Nó

không thông qua phủ định không qua khẳng định; nó là

qua siêu việt.

Một sáng tháng chín sau Ngày Lao động, Levin và

Ostrow gặp gỡ ăn trưa. Họ đã không gặp nhau trong vài

tháng rồi.

"Tớ vừa sống qua một mùa hè tớ chưa bao giờ nghĩ

tới tớ sẽ thấy," Levin nói. "Tháng sáu là thảm hoạ - tớ

chưa bao giờ thấy tháng sáu nào như thế. Khi tháng bẩy

tới, tớ nhận ra rằng tháng sáu tuyệt vời, bởi vì với tháng

bẩy tớ đi ngay vào hầm rượu. Tháng bẩy cũng tệ thế..."

"Ơn trời!" Ostrow ngắt lời. "Sao cậu tới tớ với

những chuyện tầm thường nhỏ mọn này? Cậu muốn

nghe rắc rối thực không? Tớ có đấy. Hôm qua con trai

duy nhất của tớ về nhà, bảo tới nó sẽ cưới thằng cha

khác. Con trai tớ là đồng dục! Cái gì còn có thể tồi tệ

hơn điều đó?"

"Tớ sẽ bảo cậu," Levin nói, "Tháng tám!"

Đợi đấy! Có những người liên tục tìm cái tiêu cực -

và nếu bạn tìm cái tiêu cực bạn sẽ tìm thấy nó, bởi vì cái

tiêu cực có đó theo cùng tỉ lệ như cái tích cực. Nếu bạn

tìm cái tích cực, bạn sẽ thấy cái tích cực. Nhưng bằng

việc tìm thấy cái tích cực bạn không thể phá huỷ được

cái tiêu cực; cái tiêu cực có đó, bên cạnh. Chúng bao giờ

cũng cùng nhau như các cực âm và dương của điện. Bạn

không thể có điện với một cực được, bạn sẽ cần cả hai.

Cuộc sống cần cả hai: gai và hoa hồng, ngày và

đêm, hạnh phúc/bất hạnh, sinh/tử.

Là nhân chứng cho tất cả nó và bạn sẽ biết cái gì đó

ở bên ngoài sinh, bên ngoài tử; cái gì đó ở bên ngoài

hạnh phúc, bên ngoài bất hạnh. Phật đã gọi nó là an

bình, niết bàn.

****************************************************

#2Câu hỏi cuối cùng:

Thưa thầy kính yêu,

Tôi không thể tin cậy được vào bất kì ai. Sao vậy?

Sargam, tôi sẽ kể cho bạn một câu chuyện. Thiền về

nó đi.

Cậu thanh niên được thuê rủ cô con gái trẻ nhất nhà

trong gia đình nông dân đi vào vựa cỏ khô cùng anh ta.

Cô ta quay lại và kể cho chị mình, "Này, cậu được thuê

ấy chắc chắn biết thủ thuật tốt!"

Cô chị đi vào vựa cỏ khô nữa, và quay lại nói cùng

điều đó, tiếp đó là bà mẹ, và cuối cùng bản thân người

nông dân, người đã nghe vợ mình nhận xét rằng, "Cậu

được thuê ấy chắc chắn biết thủ thuật nào đó."

Khi cậu thanh niên thấy người nông dân tới, cậu ta

nhanh trí và bắt đầu làm trò nhào lộn và leo dây trên

tường kho thóc. Người nông dân quan sát anh ta rồi

quay lại kể cho cả đám vợ và con gái, "Chắc là mọi

người nói đúng. Cậu thanh niên đó chắc chắn biết trò lạ

lùng nào đó."

"Trời!" vợ và con gái kêu ré lên. "Nó đéo cả bố nữa

à?"

Sargam, thiền về nó đi. Nếu bạn không thể tin cậy

được vào bất kì ai điều đó nghĩa là bạn phải lừa dối

người khác. Đó không phải là vấn đề của người khác, đó

là vấn đề của bạn. Ban phải đang lừa dối, và nếu bạn

đang lừa dối, làm sao bạn có thể tin cậy được? Bạn chỉ

có thể tin cậy nếu bạn cho phép người khác tin cậy bạn.

Bị lừa còn tốt hơn là đi lừa, bởi vì nếu bạn lừa, bạn

đánh mất kho báu vĩ đại nhất của cuộc sống mình: bạn

đánh mất năng lực tin cậy. Và để tôi nhắc lại: năng lực

tin cậy là kho báu lớn nhất của cuộc sống, bởi vì không

có nó tình yêu là không thể mà lời cầu nguyện cũng

không thể, Thượng đế cũng không thể có được.

Đủ cho hôm nay.

**************************************************************************************************************

#3 Chóng làm điều thiện

**Chóng làm điều thiện.

Nếu ông chậm,

tâm trí, ham thích trong điều ác,

sẽ bắt giữ ông.

Lánh xa khỏi điều ác.

Lánh xa, lặp đi lặp lại,

trước khi buồn khổ xảy đến cho ông.

Để trái tim ông làm điều thiện.

làm đi làm lại nó,

và ông sẽ được tràn đầy vui vẻ.

Người ngu sướng

khi điều ác của người đó chưa quay lại chống người

đó.

Và người thiện có thể khổ

khi tính thiện của người đó chưa nở hoa.

Đừng làm nhẹ thất bại của ông,

khi nói, "Chúng là gì với tôi?"

Bình đầy bởi từng giọt.

nên người ngu thành đầy ắp những điên rồ.

Đừng xem thường đức hạnh,

bằng việc nói, "Chúng không là gì."

Bình đầy bởi từng giọt.

nên người trí huệ thành đầy ắp đức hạnh.**

Có lần tôi đã ở tại Varanasi. Một giáo sư đại học

Hindu tới gặp tôi. Ông ấy hỏi tôi, "Ông có tin vào địa

ngục không?"

Tôi nói, "Tôi không cần tin vào địa ngục, bởi vì địa

ngục có đấy rồi. Tin được cần tới khi người ta không

thấy cái gì đó là tồn tại. Địa ngục có tính tồn tại thế, địa

ngục nhiều thế, hiện diện nhiều thế, không cần tin vào

điều đó."

Ông ấy nói, "Nó ở đâu?"

Tôi bảo ông ấy, "Ông đang sống trong nó đấy! Ông

được sinh ra trong nó, ông hít thở trong nó, ông sẽ chết

trong nó - nếu ông không làm nỗ lực lớn để thoát ra khỏi

nó."

Con người quên lãng địa ngục bởi vì con người

được sinh ra trong nó. Nó ở khắp chỗ này; con người bị

nó bao quanh. Giống như cá trong đại dương, người

sống trong địa ngục. Cá cũng chẳng bao giờ trở nên

nhận biết về đại dương trừ phi nó bị ném ra khỏi đại

dương bởi điều ngẫu nhiên nào đó hay bị ai đó bắt. Một

khi bị tách rời khỏi đại dương, lần đầu tiên cá đi tới biết

rằng nó đã ở trong đại dương suốt cả.

Chừng nào bạn còn chưa biết điều gì đó về thiên

đường bạn sẽ không bao giờ trở nên nhận biết rằng bạn

đang sống trong địa ngục - không chỉ sống trong địa

ngục mà còn tạo ra nó, giúp cho nó có đó, nuôi dưỡng

nó, làm mạnh cho nó. Bạn là người tạo ra nó và bạn

sống trong thế giới bạn tạo ra, và bạn không thể sống

trong bất kì thế giới nào khác. Chỗ duy nhất để sống là

chỗ bạn tạo ra xung quanh bản thân mình. Và cái mà

bạn tạo ra quanh bản thân bạn trước hết phải tồn tại ở

trung tâm bản thể bạn; chỉ thế thì nó mới có thể trở

thành chu vi.

Địa ngục tồn tại trước hết ở trung tâm bản thể bạn,

thế rồi nó lan toả, trở thành chu vi. Trước hết nó tồn tại

trong bạn, như bạn, thế rồi nó trở thành mối quan hệ của

bạn, thế giới của bạn.

Địa ngục không phải là cái gì đó về địa lí; nó là cái

gì đó về tâm lí. Địa ngục là cái tên khác của tâm trí bệnh

hoạn, của tâm trí trong đau khổ, rối loạn, của tâm trí

đang chịu ác mộng, của tâm trí đang sống về cơ bản

trong vô ý thức. Tâm trí vô ý thức là điều địa ngục tất cả

là gì, và tâm trí có ý thức là vượt ra ngoài địa ngục.

Đừng tin vào chuyện trẻ con cổ rằng địa ngục ở đâu

đó khác; điều đó nữa cũng là chiến lược của tâm trí để

trì hoãn. Tâm trí bao giờ cũng cố gắng trì hoãn; nó dùng

mọi phương pháp, cách thức, và phương tiện để trì hoãn

mọi thứ. Nó nói, "Vâng, địa ngục ở sâu bên dưới trái

đất, xa lắm, xa lắc xa lơ. Mình chẳng cần lo nghĩ - nó

xảy ra chỉ sau cái chết. Ngay bây giờ, không có vấn đề

về nó. Vào lúc chết, mình có thể quyết định nơi đi. Nếu

mình nhớ tới Thượng đế mình sẽ lên cõi trời, nếu mình

không nhớ tới Thượng đế mình sẽ xuống địa ngục."

Và thế rồi bạn đang sống cứ dường như địa ngục ở

đâu đó khác. Nó ở đây bây giờ. Tất cả đều ở đây bây

giờ, địa ngục và cõi trời cả hai.

Vị phật sống trên cõi trời. Ông ấy đi cùng bạn, ông

ấy ngồi giữa các bạn. Ông ấy sống trên thế gian này,

trong chính thân thể này, nhưng với ông ấy nó là kinh

nghiệm khác toàn bộ. Chính thân thể này là vị phật,

chính trái đất này là thiên đường hoa sen - đó là kinh

nghiệm của ông ấy. Đó là kinh nghiệm của mọi chư

phật, của mọi người thức tỉnh.

Nhưng với bạn nó chỉ là mơ, hư cấu, huyền thoại.

Với bạn: chính thân thể này là địa ngục, chính trái đất

này là ngọn lửa địa ngục. Bạn không thể thấy được thiên

đường hoa sen - bạn không có mắt để thấy nó. Những

mắt đó phải được tạo ra; những mắt đó không được trao

cho vào lúc sinh. Chỉ tiềm năng có đó; bạn phải phát

triển chúng, bạn phải nỗ lực để đạt tới chúng, bạn phải

trở thành chúng. Hạt mầm có đó nhưng bạn phải tìm ra

mảnh đất đúng. Và chiến lược cơ bản của tâm trí là giữ

bạn bị lừa dối, là bảo bạn rằng địa ngục và cõi trời tất cả

đều ở bên ngoài, ở đâu đó khác.

Chức năng của thầy là đem bạn về đây và bây giờ

lặp đi lặp lại. Tâm trí cố gắng trượt ra. Có hai khả năng

cho tâm trí trốn khỏi ở đây bây giờ: hoặc là đi vào quá

khứ, vào kí ức - quá khứ vàng và những ngày vàng của

Rama và Krishna, những ngày đẹp đẽ đó - hoặc đi vào

trong tương lai, vào trong cõi không tưởng nào đó, nơi

sẽ có xã hội phi giai cấp trên trái đất hay sẽ có thiên

đường ở đâu đó xa xăm bên ngoài các đám mây. Nhưng

nó giữ bạn xa khỏi khoảnh khắc hiện tại. Và khoảnh

khắc hiện tại là thực tại duy nhất có đó; không có

khoảnh khắc khác. Nó bao giờ cũng là hiện tại.

Quá khứ không còn nữa, tương lai chưa có. Bất kì

cái gì hiện hữu, đều là hiện tại. Và tâm trí đưa bạn đi xa

khỏi hiện tại theo cả nghìn lẻ một cách. Nó bao giờ cũng

đi trên hành trình. Tâm trí chỉ có thể tồn tại trong quá

khứ hay trong tương lai; tâm trí không thể tồn tại trong

hiện tại. Để điều này chìm sâu vào trong tim bạn: tâm trí

không thể tồn tại được trong hiện tại. Nếu bạn hoàn toàn

ở đây bây giờ, tâm trí biến mất và với sự biến mất của

tâm trí, không có địa ngục.

Sự biến mất của tâm trí là điều thiên đường là gì:

sống trong hiện tại, không có tâm trí. Nó không có nghĩa

là sống trong hiện tại một cách đãng trí. Khi tôi nói

"không có tâm trí" tôi không ngụ ý đãng trí đâu - chính

điều ngược lại! Sống có ý thức là sống không có tâm trí,

sống không có ý nghĩ, nhưng với tỉnh táo lớn lao. Và

bạn có thể sống với tỉnh táo lớn lao chỉ khi ý nghĩ đã bị

bỏ đi, bởi vì năng lượng tham gia vào trong ý nghĩ được

xả ra, thành có sẵn. Bạn trở thành tràn ngập với năng

lượng. Thế thì bạn có sinh khí vô cùng, sự mãnh liệt,

đam mê. Cuộc sống của bạn không hờ hững; cuộc sống

của bạn là ngọn lửa mà hiện hữu chỉ một khoảnh khắc

thôi cũng là đủ. Một khoảnh khắc của sự mãnh liệt có ý

thức đó còn dài hơn cả bản thân vĩnh hằng.

Những lời kinh này của Phật là đơn giản nhưng có

ích mênh mông với người tìm kiếm.

Chóng làm điều thiện.

Tâm trí sẽ liên tục nói với bạn, "Hoãn nó lại đi. Mai

cũng được mà. Sao lại phải vội thế? Mình có thể làm nó

ngày mai." Và ngày mai không bao giờ tới cả. Người trì

hoãn bất kì hành động thiện nào cho ngày mai là trì

hoãn nó mãi mãi; người đó sẽ không bao giờ có khả

năng làm điều đó. Nếu bạn trì hoãn nó hôm nay, bạn

đang học thói quen trì hoãn. Hôm nay bạn nói, "Ngày

mai." Bạn đang tạo ra hình mẫu cuộc sống, phong cách

sống. Ngày mai sẽ tới lại như hôm nay và thói quen này

sẽ nói, "Chúng ta sẽ làm nó ngày mai."

Tôi đã nghe một chuyện ngụ ngôn cổ:

Một người tôn thờ Thượng đế trong nhiều, nhiều

năm rồi một hôm Thượng đế xuất hiện cho người đó.

Người đó hỏi xin mỗi một điều thôi. Người đó nói,

"Xin cho con cái gì đó - đó là lí do tại sao con đã từng

tôn thờ ngài - cái gì đó có thể hoàn thành mọi ước mong

của con. Bất kì cái gì con hỏi cũng sẽ được đáp ứng,

ngay lập tức."

Thượng đế cho anh ta chiếc vỏ sò, một chiếc vỏ sò

đẹp, và ngài nói, 'Con hỏi bất kì cái gì từ chiếc vỏ sò này

và ngay lập tức, tức khắc, nó sẽ được đáp ứng."

Người đó thử - quả thế thật. Người đó hạnh phúc vô

cùng. Người đó hỏi một lâu đài lớn và nó có đó. Người

đó hỏi đàn bà đẹp và họ có đó, và người đó hỏi thức ăn

ngon và nó có đó. Từ ngày đó người đó sống trong xa

hoa tuyệt đối.

Nhưng một hôm mọi thứ bị rối loạn. Một sannyasin,

một sư lang thang, tới ở với người đó. Sư lang thang nói

với người đó, "Tôi nghe nói về bí mật của ông, nhưng

cái đó chẳng là gì cả. Tôi cũng đã tôn thờ Thượng đế,

còn lâu hơn ông nhiều, và ông là chủ gia đình, tôi là sư -

tất nhiên ngài còn hào phóng hơn cho tôi. Ngài cũng đã

cho tôi cái vỏ sò lớn. Trông cái vỏ sò đây này. Cái này

gấp đôi cái vỏ sò của ông."

Quả vậy. Và sư nói, "Bất kì cái gì ông hỏi, vỏ sò này

sẽ cho ông gấp đôi. Nếu ông hỏi một lâu đài nó làm cho

ông hai lâu đài. Nó bao giờ cũng cho ông gấp đôi."

Tham lam của con người tới mức người này trở nên

tham. Bây giờ một vỏ sò là đủ; người đó có thể hỏi hai

hay ba lần, chẳng có vấn đề gì. Nhưng người tham lại

mù quáng - hễ tham là mù thôi. Người đó trở nên mê tít.

Người đó nói với sư, "Ông là sư, ông đã từ bỏ thế

giới này, cho tôi vỏ sò của ông đi và ông có thể lấy vỏ

sò nhỏ này của tôi. Với mục đích của ông thế là đủ. Tôi

là chủ gia đình."

Thế là chiếc vỏ sò được đổi cho nhau. Sáng sớm,

sau khi tắm, người này tôn thờ và hỏi xin chiếc vỏ sò

cho ông ta chục vạn ru pi. Chiếc vỏ sò nói, "Sao có chục

vạn? Ta có thể cho ông hai chục vạn!"

Người đó sung sướng tràn ngập. Người đó nói, "Tốt,

cho tôi hai chục vạn đi."

Vỏ sò nói, "Sao hai chục vạn? Ta có thể cho ông

bốn chục vạn."

Bây giờ người đó có chút phân vân, bối rối rồi.

Người đó nói, "Được rồi, cho tôi bốn chục vạn vậy."

Vỏ sò nói, "Ta sẽ cho ông tám chục vạn."

Và cứ thế mãi, cứ thế tiếp diễn - những chả cái gì

được cho cả! Cứ hứa và hứa... và bất kì cái gì người đó

hỏi, lời hứa lại tăng gấp đôi. Người đó chạy xô đi tìm

bắt giữ sư kia lại bởi vì vào buổi sáng, sáng sớm ông ta

đã đi rồi. Ông ta đã rời đi rồi...

Đây là câu chuyện ngụ ngôn hay. Đó là cách tâm trí

vận hành: vỏ sò của nhà sư - gian xảo. Nó bao giờ cũng

cứ cho bạn những hứa hẹn lớn lao, nhưng ngày mai,

không phải hôm nay. Và ngày mai chẳng bao giờ tới cả.

Và dần dần, dần dần việc hi vọng trở thành chính cuộc

sống của bạn, chỉ hi vọng và chờ đợi. Và cái chết tới...

và không hi vọng nào đã bao giờ được hoàn thành.

Tâm trí rất sợ làm điều thiện. Sao tâm trí sợ làm

điều thiện? Bởi hai lí do. Một: làm điều thiện là không

nuôi dưỡng cho tâm trí; tâm trí được nuôi dưỡng bằng

việc làm điều ác, bằng việc làm điều xấu. Chẳng hạn,

nếu bạn nói không, tâm trí được làm mạnh thêm; nếu

bạn nói có, tâm trí không được làm mạnh. Do đó tâm trí

không bao giờ quan tâm tới việc nói có với bất kì cái gì.

Tâm trí về căn bản là vô thần. Nó tận hưởng nói không;

không là quyền năng của nó. Phủ định là thức ăn của nó;

nó ăn phủ định. Khẳng định là cái chết của nó.

Thử nói không và bạn bắt đầu cảm thấy mạnh. Bất

kì khi nào bạn nói không, bất kì khi nào bạn có thể xoay

xở nói không, bạn đều cảm thấy mạnh. Bất kì khi nào

bạn phải nói có bạn đều cảm thấy bị bẽ mặt, cứ dường

như cái gì đó đã được làm chống lại bản thân bạn. Nói

có toàn bộ là tiêu diệt tâm trí toàn bộ, và vẫn còn trong

nói không toàn bộ là vẫn còn trong tâm trí, trong bản

ngã.

Bản ngã là cái tên khác của tâm trí. Bản ngã là trung

tâm của tâm trí; vô ngã là trung tâm của bản thể bạn. Tại

chính cốt lõi của bản thể không có ý tưởng nào về "tôi";

nhưng ở trung tâm của tâm trí, tôi, tôi, tôi... Tiếng ồn

duy nhất cứ diễn ra là tiếng ồn của bản ngã. Bạn càng

nói không, bạn càng cảm thấy cái tôi của mình. "Không"

xác định ra bản ngã của bạn.

Quan sát - và bạn sẽ thấy tính sự kiện của điều tôi

đang nói. Tôi không làm sâu sắc thêm lí thuyết nào; đó

là phát biểu đơn giản về một sự kiện của cuộc sống.

Quan sát đi - đó không phải là vấn đề về tin hay không

tin - quan sát và bạn sẽ biết. Nói có, cảm thấy có, và

bỗng nhiên không có bản ngã.

Điều tốt lớn nhất là nói có với sự tồn tại và cuộc

sống. Đó chính là tôn giáo đấy. Và không lớn nhất là nói

không với Thượng đế, với cuộc sống, với sự tồn tại;

điều đó cho bạn quyền năng lớn, nhưng quyền năng của

bản ngã.

Thực ra, bản ngã tinh ranh, tâm trí láu lỉnh tới mức

ngay cả người tôn giáo cũng bị nó lừa. Người tôn giáo

cứ nói không với cuộc sống. Họ cố gắng nói có với

Thượng đế, nhưng tâm trí thuyết phục họ, "Làm sao

mình có thể nói có với Thượng đế được chừng nào và

cho tới khi mình còn chưa nói không với cuộc sống?

Nói không với cuộc sống đi!"

Đó là cách ý niệm về từ bỏ nảy sinh: "Nói không với

vợ mình, với chồng mình, với con mình. Nói không với

gia đình mình, nói không với xã hội, nói không với thế

giới. Quay lưng lại thế giới và trốn lên Himalaya đi. Chỉ

thế thì mình mới có thể nói có với Thượng đế được."

Tâm trí tinh ranh cứ lừa dối ngay cả cái gọi là tính

tôn giáo. Ngay cả cái gọi là thánh nhân và mahatmas

cũng không là gì ngoài đồ chơi trong tay của bản ngã.

Bản ngã rất tinh vi, rất tinh ranh; láu cá là cách thức của

nó. Chừng nào bạn còn chưa thật thông minh bạn sẽ

không có khả năng thoát khỏi nanh vuốt của nó. Bạn sẽ

thoát khỏi điểm này và nó sẽ bắt giữ bạn ở điểm khác.

Bạn sẽ ném nó đi từ cửa trước, nó sẽ tới từ cửa sau.

Cái gọi là thánh nhân cảm thấy được thoả mãn lớn

khi có liên quan tới bản ngã: người đó là thánh nhân,

người đó là linh thiêng; "linh thiêng hơn ngươi" được

viết khắp trên mặt người đó. Bạn sẽ không tìm thấy

những bản ngã lớn hơn ở bất kì đâu ngoài các tu viện.

Các giáo hoàng và các shankaracharyas, các tu sĩ, những

người đã từ bỏ mọi thứ, một cách tự nhiên họ cảm thấy

lớn lao, bản ngã. Họ đã từ bỏ thế giới - bạn đã làm gì?

Họ đã từ bỏ tiền bạc, quyền lực, danh vọng. Nhưng mọi

từ bỏ này đều không là gì ngoài trò chơi rất láu cá của

tâm trí.

Người tôn giáo thực sự là người nói có với cuộc

sống bởi vì cuộc sống là của Thượng đế, người nói có

với đất bởi vì đất là một phần của trời, người nói có với

thân thể bởi vì thân thể chỉ là chỗ trú ngụ cho linh hồn.

Và nó là chỗ trú ngụ đẹp, nó là nhà đẹp, nó là người

phục vụ đẹp. Người thực sự tôn giáo biết cách nói có với

tất cả. Có của người đó đem tới sự siêu việt, có của

người đó đem tới tính vô ngã, có của người đó đem tới

trạng thái của vô trí.

Nhìn vào nó từ góc độ khác: nếu bạn nói không, tâm

trí lập tức có nhiều điều để làm. Nếu bạn nói không, bạn

sẽ phải tìm luận cứ để hỗ trợ cho cái không của mình.

Không nghĩa là lí lẽ, không nghĩa là logic. Bạn càng nói

không nhiều, bạn càng phải có lí lẽ nhiều. Nếu bạn nói

có, không có nhu cầu về bất kì lí lẽ nào. Có là dấu chấm

hết; không là việc bắt đầu của quá trình logic. Người nói

không trở nên ngày một lí lẽ nhiều hơn. Người biết cách

nói có với cuộc sống, tình yêu, sự tồn tại, trở thành ngày

một ít lí lẽ hơn.

Và ngày càng ít lí lẽ hơn là trở nên hài hoà hơn;

ngày càng nhiều lí lẽ hơn là ngày một nhiều sinh sự hơn,

bạo hành hơn. Lí lẽ đơn giản nghĩa là tâm trí bạn đang

trong bất hoà; không lí lẽ nghĩa là tâm trí đã đạt tới hài

hoà sâu sắc. Và từ hài hoà sâu sắc đó là điều thiện; từ

bất hoà bên trong là điều ác. Bạn làm điều xấu bởi vì

bạn bị phân chia. Bất kì khi nào bạn không bị phân chia,

thiện bắt đầu xảy ra qua bạn; không phải là bạn phải làm

nó - nó bắt đầu xảy ra.

**Phật nói: Chóng làm điều thiện.**

Sao lại "chóng" - làm nó ngay lập tức? Tâm trí sẽ

nói, "Để mai. Đợi đấy. Chúng ta hãy nghĩ về nó đã." Và

việc nghĩ chẳng bao giờ đi tới bất kì kết luận nào, nhớ

lấy; suy nghĩ chưa bao giờ đi tới bất kì kết luận nào.

Mười nghìn năm triết lí và không có tới một kết luận

trong triết lí. Họ đã không đi tới chân lí nào cả; họ vẫn

tiếp tục. Cùng lí lẽ cứ được lặp lại ở các dạng khác nhau

và theo các cách khác nhau, và triết lí cứ đi trong vòng

tròn luẩn quẩn. Triết gia vẫn còn không kết luận, và còn

không kết luận trong cả đời bạn nghĩa là không sống

chút nào.

Cuộc sống là có thể chỉ từ tính quyết định, từ cam

kết, tham dự; bằng không bạn bao giờ cũng là khán giả,

bạn chưa hề tham gia vào bất kì cái gì. Làm sao bạn có

thể tham gia được chừng nào bạn còn chưa chứng minh

cho bản thân mình về mặt logic, cho sự hài lòng của trái

tim mình, rằng đây là như vậy?

Người ta nói về Immanuel Kant, một triết gia lớn,

rằng một người đàn bà đã hỏi ông ấy rằng bà ấy sẽ hạnh

phúc vô cùng nếu ông ấy chấp nhận bà ấy làm vợ. Bà ấy

phải thu lấy nhiều can đảm lắm để hỏi điều này, bởi vì

Immanuel Kant không phải là người lãng mạn chút nào,

rất không lãng mạn, tuyệt đối không lãng mạn. Cuộc

sống của ông ấy không phải là cuộc sống của tự phát;

ông ấy là điển hình về cuộc sống máy móc. Cả đời mình

ông ấy đã tuân theo thường lệ nào đó một cách tôn giáo.

Vào mười giờ đêm ông ấy sẽ đi ngủ; điều đó nghĩa

là đích xác mười giờ, không một phút trước, không một

phút sau. Người phục vụ của ông ấy... ông ấy chỉ có một

người phục vụ. Còn ai khác đồng ý sống với người như

vậy? - chỉ một người phục vụ. Gia đình ông ấy đã bỏ rơi

ông ấy; ông ấy quá máy móc, mòn mỏi thế, việc kéo lê

trên cả gia đình. Người phục vụ này đơn giản nói thời

gian cho ông ấy - không phải "Bây giờ đi ngủ"; ông này

đơn giản tới và tuyên bố, "Mười giờ rồi," và thế là xong.

Ông ấy lập tức nhảy vào giường. Cho dù còn có khách,

ông ấy thậm chí cũng chẳng buồn nói lời chào tạm biệt

họ. Ông ấy sẽ lên giường, chui vào chăn, và người phục

vụ sẽ tuyên bố với khách, "Bây giờ xin mời các ông về.

Ông ấy đã đi ngủ rồi."

Vào đích xác năm giờ ông ấy phải được lôi ra khỏi

giường. Thỉnh thoảng trời quá lạnh và ông ấy quá mệt,

nhưng điều thường lệ vẫn phải được tuân theo - cho dù

ông ấy ốm, thường lệ vẫn phải được tuân theo. Người

phục vụ được dặn đôi khi ông ấy sẽ cảm thấy yếu, định

ngủ thêm chút nữa, nhưng ông ấy không chịu nghe. Ông

ấy phải được lôi ra, cho dù ngược với ý chí của ông ấy.

Cho dù ông ấy nói, "Không, tôi muốn ngủ," người phục

vụ phải kéo ông ấy ra. Đôi khi có đánh nhau, cãi vã.

Người phục vụ phải đánh ông ấy để đem ông ấy ra khỏi

giường - đó là nghĩa vụ của ông này.

Người đàn bà này phải là loại hiếm hoi! - nhưng bạn

bao giờ cũng có thể tìm thấy những người hâm ở mọi

nơi. Bà ấy phải hâm để mà đi yêu con người này. Người

này không phải là người mà là máy. Và bạn có biết

Immanuel Kant đã làm gì không? Ông ấy nghe bà ấy và

ông ấy nói, "Tôi sẽ nghĩ về nó." Và ông ấy đã nghĩ trong

ba năm! - mọi điều ủng hộ và mọi điều chống đối. Ông

ấy đã viết chuyên luận dài, cái gì là ưu điểm của việc lập

gia đình và cái gì là nhược điểm. Và cuối cùng ông ấy

đã đi tới kết luận rất nghèo nàn, gần như là không kết

luận gì cả. Đã có một điểm ủng hộ nhiều hơn, và điểm

đó là bằng việc lập gia đình bạn sẽ biết hôn nhân là gì -

tốt hay xấu - điều đó bạn sẽ biết. Điều đó là điểm hơn

trong việc ủng hộ.

Thế là ông ấy đi, tới gõ cửa nhà người đàn bà này.

Người bố mở cửa và hỏi, "Sao ông lại tới?"

Ông ấy nói, "Tôi đã quyết định, bởi vì một điểm ủng

hộ nhiều hơn. Có ba trăm điểm tất cả: ba trăm điểm

chống, ba trăm lẻ một điểm ủng hộ - cho nên tôi đã

quyết định xây dựng gia đình."

Người bố cười to. Ông ấy nói, "Quá trễ rồi. Nó đi

lấy chồng rồi - và không chỉ lấy chồng, nó có con rồi!

Ông tới hơi bị chậm."

Nhưng đó là cách các triết gia vận hành. Tôi thậm

chí còn tự hỏi về việc ông ấy có thể đi tới kết luận trong

ba năm. Đó là phép màu - các triết gia chưa bao giờ đi

tới kết luận nào cả. Đó phải là khoảnh khắc rất phi triết

lí mà ông ấy đã đi tới kết luận này.

Mười nghìn năm của lịch sử là đủ bằng chứng: triết

học vẫn còn không có tính kết luận. Triết học chỉ biết

cách hỏi - không trả lời. Từng câu trả lời đến lượt nó lại

biến thành mười câu hỏi thêm.

Tâm trí rất sung sướng để cãi lí, để nghĩ ngợi. Tâm

trí rất bất hạnh để kết luận, bởi vì một khi bạn kết luận,

tâm trí không được cần nữa. Kết luận nghĩa là cái chết

của tâm trí. Nếu bạn đã kết luận về chân lí tối thượng,

tâm trí phải tự tử.

Tâm trí rất sợ nói có và tâm trí rất sợ làm việc thiện,

bởi vì việc thiện có thể được thực hiện chỉ trong trạng

thái vô ngã. Việc thiện là sản phẩm phụ của trạng thái

vô trí. Cố hiểu điều đó đi - và khi tôi nói cố hiểu điều đó

tôi không nói cố nghĩ về nó. Tôi đơn giản nói, nghe từ

trái tim, với trái tim yêu thương.

Những lời kinh này có thể được hiểu chỉ qua trái

tim. Chúng đã bắt nguồn từ trái tim vĩ đại nhất đã sống

trên trái đấy này, và chúng có thể được hiểu chỉ bởi trái

tim.

Chóng làm điều thiện. Tâm trí bao giờ cũng nhanh

chóng làm điều xấu. Nếu bạn muốn giận tâm trí không

bao giờ nói, "Ngày mai," nó nói, "Làm điều đó ngay bây

giờ." Nếu bạn muốn cúng tiến, nếu bạn muốn cho người

nghèo cái gì đó, tâm trí nói, "Đợi đã! Trước hết điều tra

xem liệu người đó có thực nghèo không hay người đó có

số dư ngân hàng. Và trước hết hãy nhìn... Người đó

trông mạnh khoẻ thế, sao lại cho người đó?"

Tâm trí keo kiệt trong việc chia sẻ mọi thứ; việc

chia sẻ là rất khó khăn cho tâm trí. Nó tích trữ, nó thu

thập; nó dần dần trở thành đống đồng nát. Nó không thể

bỏ đi cái gì - hữu dụng, vô dụng, nó cứ thu thập lấy. Ai

mà biết được, bất kì cái gì vô dụng hôm nay có thể

thành hữu dụng ngày mai.

Làm việc thiện nghĩa là chia sẻ, là yêu, là phục vụ,

là từ bi. Và đây là những điều mà tâm trí keo kiệt không

thể làm được. Nhưng nó sẽ không nói, "Mình không

muốn làm điều đó," bởi vì điều đó sẽ không thật ngoại

giao lắm. Cách thức ngoại giao là "ngày mai" - là trì

hoãn. Tâm trí là công chức, và không phải là công chức

thường mà là công chức Nga.

Tôi đã nghe:

Tại cuộc hội nghị về giải trừ quân bị ở Geneva, một

đại biểu Mĩ, duỗi chân dưới gầm bàn, ngẫu nhiên đụng

vào đầu gối của bà phiên dịch người Nga ngồi ngay đối

diện với ông ta. Ông ta mỉm cười xin lỗi.

Bà ấy chẳng nói chẳng cười. Bà ấy quay sang nhà

ngoại giao cộng sản ngồi bên cạnh và hỏi ông ta điều gì

đó. Nhà ngoại giao này quay sang cấp trên của mình và

thì thào cái gì đó với ông ta. Viên phụ trách đứng dậy,

rời khỏi bàn họp và đi tới trung tâm điện thoại. Cuộc

họp tạm dừng.

Hai giờ rưỡi sau cuộc họp tiếp tục trở lại. Nhà ngoại

giao hạng cao trở về bàn, nói với viên trợ lí của mình,

người này thì thào cái gì đó cho bà phiên dịch, bà này

nhìn qua đại biểu Mĩ và nói, "Chỗ của ông hay chỗ của

tôi?"

Đây là trực tiếp từ Kremlin đấy! Đây là cách hệ

thống quan liêu làm việc, và đây là cách tâm trí vận

hành. Nó nói, "Đợi đã, để tôi nghĩ về điều đó." Và thế

rồi nó cứ tiếp tục mãi mà không chấm dứt, và trong khi

đó nó cứ hứa hẹn với bạn, "Đợi đấy! Mai mình sẽ làm

điều đó."

Nhưng nhìn: khi đấy là vấn đề làm cái gì đó sai,

cùng tâm trí đó chẳng bao giờ bảo bạn trì hoãn. Nó nói,

"Làm ngay bây giờ đi. Ai biết về ngày mai thế nào?

Người này đã xúc phạm mình - phải giáng trả nó, giáng

trả thật mạnh! Nếu gạch ném vào mình, trả lời bằng đá!"

Gurdjieff nhớ rằng khi ông của ông ấy chết - ông ấy

chỉ mới chín tuổi - người ông gọi cậu bé tới. Ông già

yêu đứa bé này lắm và ông ấy bảo cậu bé, "Ông chẳng

có gì nhiều để cho cháu, nhưng khi từ giã thế giới này

ông muốn cho cháu một thứ. Ông chỉ có thể cho cháu

một lời khuyên, điều đã giúp ích cho ông; nó được trao

lại cho ông từ bố của ông, và ông ấy cũng chết khi ông

ấy trao nó cho ông. Ông sắp chết rồi. Cháu còn quá non

trẻ, cháu có thể không hiểu điều đó ngay bây giờ, nhưng

nhớ lấy, một ngày nào đó sẽ tới khi cháu hiểu. Bất kì khi

nào cháu thấy bản thân mình có khả năng theo lời

khuyên của ông, theo nó đi, và cháu sẽ không bao giờ bị

khổ đâu. Cháu có thể tránh được địa ngục của cuộc

sống."

Và lời khuyên là gì? Chính là lời kinh này đấy -

không đích xác theo những lời này. Ông ấy nói với

Gurdjieff, "Nhớ một điều: nếu cháu muốn làm bất kì

điều gì xấu, hoãn nó lại đến mai đi; và nếu cháu muốn

làm điều gì đó tốt, làm nó ngay lập tức - bởi vì trì hoãn

là cách không làm. Và cái xấu phải không được làm, và

cái tốt phải được làm. Chẳng hạn," ông già nói, "nếu ai

đó xúc phạm cháu và cháu cảm thấy giận dữ, phát rồ,

nói với người đó rằng cháu sẽ quay lại sau hai mươi bốn

giờ và trả lời người đó."

Gurdjieff nhớ, "Lời khuyên đó đã làm biến đổi cả

đời tôi. Mặc dầu tôi còn quá non trẻ, là đứa trẻ mới chín

tuổi, tôi đã thử nó chỉ vì tò mò. Đứa trẻ nào đó sẽ xúc

phạm tôi hay sẽ làm tôi tổn thương hay nói điều gì đó

khó chịu, và tôi lại nhớ tới người ông sắp mất và tôi sẽ

bảo đứa trẻ đó, 'Tôi sẽ phải đợi; tôi đã hứa với một ông

già. Sau hai mươi tư giờ tôi sẽ trả lời bạn.'

"Và điều đó bao giờ cũng xảy ra," Gurdjieff nhớ,

"rằng hoặc tôi sẽ đi tới kết luận rằng người đó là đúng,

rằng bất kì điều gì người đó đã nói có vẻ khó chịu nhưng

điều đó là đúng về tôi... Người đó nói, 'Mày là đồ ăn

cắp,' và điều đó đúng, tôi là kẻ cắp. Người đó nói, 'Mày

giả dối,' và điều đó đúng - tôi giả dối." Cho nên ông ấy

sẽ tới và cám ơn đứa trẻ: "Bạn đã chỉ ra cái gì đó đúng

về tôi. Bạn đã nêu ra một khía cạnh đúng của con người

tôi mà còn chưa rõ ràng cho tôi. Bạn đã làm cho tôi ý

thức hơn về bản thân mình. Tôi biết ơn vô cùng."

Hay, sau suy nghĩ trong hai mươi bốn giờ, ông ấy sẽ

đi tới kết luận rằng, "Người đó hay thằng bé đó là tuyệt

đối sai. Điều đó chẳng liên quan gì tới mình cả." Thế thì

phỏng có ích gì mà trả lời; ông ấy sẽ không đi tới đứa trẻ

kia nữa. Nếu cái gì đó hoàn toàn sai, sao trở nên phát rồ?

Đây là thế giới lớn, cả triệu người có đấy; bạn không thể

trả lời mọi người được, bằng không thì cả đời bạn sẽ bị

phí hoài. Mà cũng chẳng cần nữa.

Đây là một nửa câu chuyện. Nếu bạn có thể trì hoãn

việc xấu tới mai bạn sẽ có khả năng làm điều tốt ngay

lập tức. Và bạn sẽ không bao giờ hối hận - bởi vì nếu

bạn làm điều xấu ngay, bạn sẽ hối hận vào ngày mai;

nếu bạn làm điều tốt hôm nay bạn sẽ không bao giờ hối

hận, không có vấn đề hối hận. Đây là bí mật đơn giản

của việc biến địa ngục bạn đang sống thành thiên đường

hoa sen.

**Chóng làm điều thiện.

Nếu ông chậm,

tâm trí, ham thích trong điều ác,

sẽ bắt giữ ông.**

Đừng chậm chạp, hãy nhanh chóng bởi vì tâm trí rất

nhanh; nó đi nhanh hơn bất kì cái gì khác. Nó đi nhanh

hơn ánh sáng! Các nhà vật lí nói không cái gì đi nhanh

hơn ánh sáng và tất nhiên, dường như không thể nào đi

nhanh hơn ánh sáng được. Ánh sáng đi một trăm tám

mươi sáu nghìn dặm một giây - trong một giây! Nhưng

các nhà vật lí chưa có quan niệm gì về tâm trí. Họ chưa

có thiết bị phức tạp thế để đo tốc độ của tâm trí.

Tâm trí đi nhanh hơn ánh sáng. Bạn phải rất tỉnh

táo, bằng không tâm trí nhất định cho bạn xuống hố ở

đâu đó. Trước khi bạn trở nên tỉnh táo, tâm trí sẽ đem

bạn đi tới đâu đó xa xôi rồi. Tâm trí bao giờ cũng sẵn

sàng tiếp tục cuộc hành trình, bởi vì chỉ trong hành trình

nó mới cảm thấy sống động.

Thiền đơn giản nghĩa là ngồi im lặng, không làm gì,

thậm chí không nghĩ... và tâm trí biến mất. Bởi vì bạn

không trong cuộc hành trình nào, tâm trí không được

cần tới. Tâm trí là người hướng dẫn cho cuộc hành trình

lớn. Nếu bạn định đi đâu đó, tâm trí rất hạnh phúc; trong

việc đi của bạn tới đâu đó, tâm trí có thể cảm thấy được

nâng cao. Nhưng nếu bạn không đi đâu cả, chỉ ngồi im

lặng, không làm gì, tâm trí cảm thấy rất buồn.

Và điều đó gần như bao giờ cũng sẽ xảy ra cho thiền

nhân khi tâm trí cảm thấy buồn, nó bắt đầu tạo ra chán

cho bạn; đó là chiến lược của tâm trí. Tâm trí đang nói,

"Tiếp đi! Mình đi đâu đó, mình làm cái gì đó. Sao mình

cứ ngồi thế này? Chỉ ngồi chẳng làm gì chán lắm!"

Đó là thủ đoạn của tâm trí đấy! Bằng không, chỉ

ngồi chẳng làm gì sẽ đem tới cho bạn nhiều tươi tắn

hơn. Đó là kinh nghiệm của mọi người đã thức tỉnh -

nhưng không của bạn. Đây là kinh nghiệm của tôi.

Trong phòng tôi, tôi làm gì? Ngồi im lặng, chẳng làm gì

cả... xuân tới và cỏ tự nó mọc lên. Chẳng cái gì phải

thực sự làm cả - cỏ tự nó mọc lên. Cuộc sống cứ tự nó

tiếp diễn, cuộc sống tự nó tuôn chảy. Bạn không cần đẩy

dòng sông.

Nhưng lúc ban đầu tâm trí sẽ tạo ra chán; chán là thủ

đoạn của tâm trí. Tâm trí đang nói, "Trông đây, nếu

đằng ấy không theo tớ đằng ấy sẽ cảm thấy chán. Nếu

đằng ấy không theo tớ đằng ấy sẽ cảm thấy cực kì vô

nghĩa. Nếu đằng ấy không theo tớ đằng ấy sẽ chẳng có

gì để mà thích thú cả. Lại đây, lại đây với tớ, và tớ sẽ

đem cho đằng ấy giải trí lớn lao."

Tâm trí bao giờ cũng hối lộ bạn bằng giải trí: bật

radio lên, bật ti vi lên, đi xem phim hay ít nhất tới câu

lạc bộ, buôn chuyện - làm cái gì đó. Chán là trừng phạt

từ tâm trí với bạn nếu bạn không làm gì cả. Và vấn đề

lớn nhất cho thiền nhân là chán.

Nhưng nếu bạn có thể ngồi tuyệt đối không quan

tâm tới chán - kệ chán ở đó - nếu bạn không bị rối loạn

bởi chán, trong vòng thời gian ba tới chín tháng chán sẽ

biến mất. Và thay vì chán, vui bột phát sẽ tới, tươi mát

tới mức bạn chưa bao giờ biết tới trước đây. Và nó

không phải là giải trí bởi vì chẳng có gì cả: bạn đơn giản

ngồi trong trống rỗng tuyệt đối. Và từ trống rỗng đó, sự

tràn đầy, từ cái trống rỗng đó, một loại hoàn thành mới...

**Chóng làm điều thiện.

Nếu ông chậm,

tâm trí, ham thích trong điều ác,

sẽ bắt giữ ông.**

Tâm trí ham thích trong điều ác. Tại sao? - bởi vì đó

là cách duy nhất nó có thể sống. Họ nói rằng bạn không

thể viết ra câu chuyện về người thực sự tốt được bởi vì

sẽ chẳng có gì để viết cả. Chuyện chỉ có thể được viết về

người xấu. Không phải là ngẫu nhiên mà Phật,

Mahavira, Jesus, thậm chí không được nhắc tới trong

sách sử của bạn. Không lịch sử cổ đại nào nhắc tới họ.

Tại sao? Chẳng có gì mà nhắc tới cả! Họ chưa bao giờ

giết người nào, họ chưa bao giờ làm bất kì cái gì thiệt

hại; họ hiện hữu cứ dường như họ không có. Họ tốt thế

cứ dường như họ chưa bao giờ tồn tại cả!

Một trong những cái tên của Phật là 'Tathagata'.

Tathagata nghĩa là: tới như gió thoảng, đi như gió

thoảng - vậy tới, vậy đi - không quấy rối cái gì, ngay cả

tới một chiếc lá khô. Làn gió im lặng tới từ từ không dấu

chân và thế rồi biến mất. Việc tới không tạo ra tiếng ồn

nào mà việc đi cũng không tạo ra cái gì. Cứ dường như

là bạn đã vẽ một đường trong nước; bạn thậm chí đã

không làm ra nó và đã biến mất. Điều đó cũng giống

như chim bay trên trời: họ không để lại dấu chân nào.

Nhưng lịch sử đầy những Genghis Khan,

Tamerlane, Nadirshah, Alexander, Adolf Hitler, Mao

Trạch Đông. Nếu bạn làm nhiều điều ác có nhiều khả

năng tên tuổi bạn còn lại trong lịch sử. Nếu bạn thực sự

muốn là một phần của lịch sử, nếu bạn muốn tạo ra lịch

sử, làm điều ác đi. Chính khách sẽ còn lại trong lịch sử

bởi vì họ là những lái buôn điều ác.

Tâm trí thường xuyên tìm kiếm điều ác; bất kì cơ

hội nào và nó không thể bỏ lỡ điều đó. Ngay cả không

có cơ hội nào nó cũng sẽ cố gắng tạo ra cơ hội.

Chuông cửa vang lên ở nhà thổ. Tú bà ra mở cửa và

thấy một người đàn ông không chân không tay.

"Anh làm gì ở một chỗ như thế này?" tú bà hỏi.

Người què nhìn bà ta và nói, "Tôi rung chuông đấy,

phải không?"

Không tay, không chân, nhưng người đó vẫn sẵn

sàng đi tới nhà thổ!

Berquist ẩn trong buồng riêng khi Frank, chồng của

cô bạn gái của anh ta, bất ngờ trở về. Trong khi treo áo

khoác, Frank nhận ra hòn của Swede giữa các vật dụng

khác.

"Đấy là của quỉ gì thế?" anh ta hỏi vợ mình.

"Ồ... e hèm... chuông Nô en đấy mà," cô ấy đáp.

"Chúng ta nghe chuông của chúng," anh chồng nói.

Anh ta đấm cho chúng một cú khủng khiếp bằng nắm

tay của mình.

Một tiếng nói hổn hển, "Binh boong! Mày là đồ chó

đẻ!"

Nhìn vào cuộc đời mọi người mà xem. Tự quan sát

mình, quan sát người khác. Trở thành người quan sát, và

bạn sẽ ngạc nhiên: mọi người đều đang tìm cơ hội nào

đó. Và cơ hội có đó. Mọi người chỉ chờ đợi các cơ hội.

Nếu họ không làm điều ác nào đó, điều đó không có

nghĩa là họ là người tốt; điều đó có thể chỉ là cơ hội bị

thiếu. Đó là quan sát riêng của tôi.

Khi một chính khách không có quyền lực người đó

là người rất tốt, người công bộc, khiêm tốn; bao giờ

cũng sẵn sàng cúi mình và chạm chân bạn; mở bệnh

viện và trường học. Và một khi người đó có quyền lực,

người đó thậm chí không sẵn sàng nhận ra bạn và mọi

phục vụ công chúng đó biến mất. Một khi người đó có

quyền lực, người đó có cơ hội; bây giờ người đó sẽ làm

mọi thứ mà người đó bao giờ cũng muốn làm nhưng đã

không thể làm được.

Điều này đã xảy ra trên đất nước này theo cách rõ

như pha lê vì nó đã không xảy ra ở bất kì đâu khác.

Trước khi độc lập, mới ba mươi năm trước, mọi chính

khách này, những người đã trở thành mối phiền hà cho

đất nước, đều đã từng là những công bộc vĩ đại, những

người hầu vĩ đại của đất nước, chiến sĩ vì tự do. Họ đã

hi sinh nhiều, họ đã sống cuộc sống nghèo nàn, giản dị,

khiêm tốn, vì tự do của đất nước. Cuộc sống của họ là

tấm gương để noi theo, họ là những người lí tưởng; họ

đã được mọi người tôn thờ.

Và thế rồi quyền lực tới - và trong vài giây toàn thể

mọi sự đã thay đổi. Họ trở thành người đói quyền lực,

họ trở nên bị quyền lực sở hữu. Khuôn mặt họ thay đổi,

mặt nạ của họ biến mất. Bây giờ cơ hội có đó.

Huân tước Acton đã nói: Quyền lực làm hư hỏng.

Tôi đồng ý và tôi không đồng ý. Vâng, bề ngoài dường

như là quyền lực làm hư hỏng, nhưng nếu bạn đi sâu vào

phân tích, không phải quyền lực làm hư hỏng đâu -

người này bao giờ cũng đã bị làm hư hỏng rồi. Quyền

lực chỉ cho cơ hội thôi; quyền lực không thể làm hư

hỏng được. Nếu bạn bị hư hỏng, thế thì quyền lực cho

bạn cơ hội để làm điều mà bạn bao giờ cũng muốn làm

nhưng đã không có khả năng làm.

Mọi người nghĩ chính tiền làm hư hỏng mọi người.

Không, tiền đơn giản cho cơ hội thôi. Người nghèo

trông tốt thế; nó không phải vậy đâu. Cứ để cho họ trở

thành giầu và thế rồi xem... mọi tốt lành của người đó

biến mất. Thực ra người mới giầu còn nguy hiểm hơn

những được sinh ra đã giầu, bởi vì những người được

sinh ra đã giầu đã được quen với giầu có.

Tương truyền một tể tướng của một nhà vua đã tích

trữ nhiều của cải bất hợp pháp, đằng sau lưng nhà vua;

tới mức ông ta trở thành người giầu nhất nước. Thế rồi

vua đi tới biết về điều đó.

Ông ta triệu tể tướng tới và nói, "Khanh đã phục vụ

trẫm tốt tới mức trẫm không thể trừng phạt khanh được

bởi phục vụ của khanh và thành kính của khanh, nhưng

khanh đã lừa dối và khanh đã tích trữ của cải bất hợp

pháp. Trẫm sẽ không trừng phạt khanh đâu - khanh từ

chức đi và rời khỏi đất nước của trẫm và đi tới bất kì

chỗ nào khanh muốn tới."

Tể tướng nói, "Trước khi thần ra đi thần xin đề xuất

một điều. Bây giờ thần đã có tất cả mọi thứ thần cần,

thực ra còn nhiều hơn là thần cần, nếu bệ hạ bổ nhiệm

người khác làm tể tướng, người đó sẽ phải tích trữ của

cải lần nữa. Người đó sẽ làm hại bệ hạ hơn. Bây giờ

thần không cần làm hại bệ hạ chút nào."

Và tương truyền nhà vua hiểu ra vấn đề. Ông ta đã

không loại người này ra nữa. Ông ta nói, "Điều đó đúng,

khanh đã làm bất kì điều gì khanh có thể làm, cho nên

tại sao đem người mới vào? Và người đó sẽ đi qua toàn

bộ quá trình này lần nữa, điều đó đúng."

Cứ để người nghèo trở thành giầu và thế rồi xem

điều xảy ra: mọi giản dị của ông ta biến mất, mọi khiêm

tốn của ông ta biến mất.

Một người có một con chó biết nói. Một hôm khi

ông ta khát ông ta đi tới quán rượu cùng con chó của

mình và cá với người đứng quầy rằng nếu con chó của

ông ta có thể nói thì ông ta sẽ được uống bia không mất

tiền.

Người đứng quầy đồng ý, vẫn biết rằng chẳng có

chuyện chó nói được. Anh ta hỏi con chó ông chủ nó

thích loại bia nào.

"Bia Budweiser," con chó đáp, và người đứng quầy

giật mình phải trả bia.

Thế rồi ba người trong số họ - người đàn ông này,

người đứng quầy, và con chó - mắc vào cuộc đối thoại

náo nhiệt. Con chó ăn lạc trong khi hai người uống

rượu. Đến một điểm nào đó người đứng quầy nói rằng

anh ta bị đau đầu nhưng lại hết mất thuốc aspirins.

"Con chó của ông có biết chạy việc vặt không?" anh

ta hỏi.

"Chắc chắn," người này đáp. Thế là người đứng

quầy đưa cho con chó năm đô la và bảo nó đi ra hiệu

thuốc để mua aspirins.

Con chó không quay về. Hai người này đợi hoài mà

chẳng chó nào quay lại, ông chủ của nó đi ra ngoài tìm

nó. Ông ta đi vào thành phố cho tới khi ông ta phát hiện

ra con chó trong ngõ hẻm tăm tối đang vác trên vai một

con chó khác.

"Trời!" ông chủ kêu lên. "Mày làm cái chết tiệt gì

thế? Đây là lần đầu tiên mày đã làm loại việc này đấy!"

"Tôi biết chứ," con chó hổn hển vẫn vác con chó

kia. "Tôi bao giờ cũng muốn làm, nhưng tôi chưa bao

giờ có tiền trước đây!"

Không phải là quyền lực làm hư hỏng. Quyền lực

đem vô thức hư hỏng của bạn lền bề mặt, quyền lực đem

cái ác cố hữu của bạn vào hành động. Quyền lực phơi

bày bạn, quyền lực không làm hư hỏng bạn. Quyền lực

là điều tốt theo một cách nào đó: nó phơi bày mọi người.

Nó giống như tia X: nó chỉ ra thực tại của bạn, chân lí

trần trụi của bạn.

Tâm trí, ham thích làm điều ác, sẽ bắt giữ ông. Nhớ

điều đó: tâm trí rất nhanh chóng. Nếu bạn không làm

điều thiện ngay lập tức - khoảnh khắc ý tưởng tốt lành

nảy sinh trong bạn, nếu bạn không làm nó ngay lập tức,

tâm trí sẽ lừa bạn, sẽ đem bạn đi lạc lối, sẽ thuyết phục

bạn làm cái gì đó khác.

Feingold di cư tới Mĩ và sau nhiều năm làm việc vất

vả đã trở thành người rất giầu. Bây giờ trên giường chết,

với bà vợ Sarah đứng cạnh, ông ta bắt đầu quyết định về

của cải vật chất của mình.

"Xe Cadillac của tôi cùng với nút phát hiện xe cảnh

sát tôi để lại cho con trai, Sam."

"Anh nên để nó cho Joe thì hơn," vợ ông ta nói. "Nó

là người lái xe cừ hơn."

"Thôi được rồi," ông ta thì thào. "Xe Rolls Royce

của tôi, tôi để lại cho con gái, Linda."

"Anh nên cho cháu anh, Willie, thì hơn" Sarah ngắt

lời. "Nó là người lái xe rất thận trọng."

"Thôi được rồi, trao nó cho Willie. Xe mười hai xi

lanh Jaguar tôi cho cháu tôi, Sally."

"Với tư cách cá nhân, em nghĩ Judy nên được nó."

Feingold ngẩng đầu lên và sẵng giọng, "Sarah, xin

em! Ai đang chết, em hay anh?"

Nếu bạn chờ đợi, tâm trí sẽ cho bạn gợi ý, "Làm cái

này, làm cái nọ." Làm điều thiện ngay lập tức đi - sao

phải đợi? Và ai biết? - khoảnh khắc tiếp sẽ chẳng bao

giờ tới; đây có thể là khoảnh khắc cuối cùng. Hành động

dường như đây sẽ là khoảnh khắc cuối cùng đi! Hành

động với sự khẩn thiết đó, bởi vì cái chết có thể xảy tới

cho bạn vào bất kì khoảnh khắc nào. Đừng nghe tâm trí.

Tâm trí có thể cứ trì hoãn mọi sự và, trước khi tâm trí

cho phép bạn làm bất kì cái gì, cái chết có thể đã hạ đo

ván bạn rồi. Làm điều thiện đi, bởi vì làm điều thiện

ngay lập tức đem lại niềm vui.

**Lánh xa khỏi điều ác.

Lánh xa, lặp đi lặp lại,

trước khi buồn khổ xảy đến cho ông.**

Bởi vì nếu bạn làm điều ác, buồn khổ sẽ đi theo bạn

như cái bóng. Không phải là có Thượng đế ngồi đâu đó

trừng phạt bạn khi bạn làm điều gì đó sai đâu; bản thân

cái sai là sự trừng phạt rồi, nó mang sự trừng phạt cố

hữu của nó.

Đó là toàn thể ý niệm đằng sau lí thuyết về nghiệp.

Không có nhu cầu về bất kì Thượng đế nào để phán xét,

để trừng phạt, để khen thưởng. Và nghĩ mà xem: nếu

như có một Thượng đế phán xét mọi người và mọi hành

động của mọi người và rồi sắp đặt tương ứng - phạt vài

người này, thưởng vài người khác - loại Thượng đế đó

đã phát điên từ lâu rồi!

Không, chẳng có Thượng đế nào sắp đặt thưởng và

phạt cả - ý niệm đó là trẻ con. Có luật, không phải là

Thượng đế, luật kiểu như luật hấp dẫn. Nếu bạn không

bước đúng, nếu bạn say quá nhiều, bạn nhất định ngã ra

đâu đó. Không phải là Thượng đế ra lệnh, "Ngã đi!" -

luật hấp dẫn là đủ. Nếu bạn không bước đúng bạn nhất

định ngã. Luật hấp dẫn chăm nom điều đó. Nếu bạn

bước đi tỉnh táo, có ý thức, bạn không khổ.

Đích xác giống thế, nghiệp là luật khoa học: luật của

hành động. Bất kì điều gì bạn làm đều có thưởng hay

phạt cố hữu của nó. Khi bạn tức giận, không phải là bạn

sẽ chịu khổ trong kiếp sau của bạn đâu. Khi bạn giận dữ,

khi bạn giận dữ, bạn đang khổ rồi; không cần phải có

kiếp khác để cho bạn sự trừng phạt. Khi bạn giận dữ bạn

đang trong lửa rồi, bạn đang đầu độc toàn thân mình,

bạn đang đầu độc toàn thể hệ thống của mình.

Giận dữ là chất độc.

Điều đó có thể làm tổn thương người khác, nó có thể

không làm - điều đó tuỳ thuộc vào người khác - nhưng

nó sẽ làm đau bạn, chắc chắn.

Nếu bạn lăng mạ vị phật điều đó sẽ không làm đau

ông ấy đâu, nhưng trước khi bạn có thể lăng mạ vị phật

bạn sẽ phải trải qua nhiều rối loạn bên trong.

Một người tới và nhổ vào mặt Phật. Phật chùi mặt

và hỏi người này, "Ông muốn nói điều gì đó thêm nữa

không, hay tất cả chỉ có thế này thôi?"

Ananda, đệ tử của ông ấy, bừng bừng nổi giận, cũng

là điều tự nhiên. Người này tới, Phật đã không làm gì

với người này cả, mà ông ta lại đi nhổ nước bọt vào mặt

thầy. Không thể tưởng tượng nổi! Ananda nói với Phật,

"Bạch thầy, xin thầy cho phép tôi dạy cho người này.

Ông ta cần phải bị trừng phạt!"

Phật nói, "Ananda, ông đã trở thành sannyasin rồi,

nhưng ông cứ quên điều đó hoài. Và người đáng thương

này đã khổ quá nhiều. Cứ nhìn vào mặt ông ta, nhìn vào

mắt ông ta mà xem, đỏ đầy máu. Nhìn thân thể ông ta

mà xem, run lên bần bật. Và trước khi nhổ vào ta, ông

có cho rằng ông ta đã từng mở hội và nhảy múa và ca

hát không? Cả đêm ông ta đã không ngủ rồi; cả đêm ông

ta đã trong trạng thái điên khùng. Nhổ vào ta chỉ là kết

quả của điên khùng đó. Cảm thấy từ bi với người đáng

thương này đi. Còn trừng phạt nào hơn nữa được? Thế

không đủ sao? Và ông ta đã làm hại gì tới ta nào? Ta chỉ

phải chùi nó đi thôi. Đơn giản thế. Và ông đừng bị kích

động, bằng không ông đang hành xử ngu ngốc đấy. Với

cái sai của người đó, ông đang tự trừng phạt ông - đây là

ngu ngốc!"

Thấy ra vấn đề đi - cực kì có ý nghĩa đấy. Phật nói,

"Ông ta đã làm điều gì đó sai. Sao ông lại tự trừng phạt

mình thế, Ananda? Ta có thể thấy ông đang sôi lên! Nếu

như ta không ở đây để ngăn cản ông, ông chắc sẽ giết

người này rồi! Ông đang bị điên khùng theo cùng cách

như ông ta đang bị điên khùng."

Người đó nghe thấy toàn thể cuộc đối thoại này.

Ông ta đâm ra phân vân, suy nghĩ; ông ta đã không

trông đợi Phật hành xử theo cách như vậy. Ông ta cứ

tưởng Phật sẽ nổi khùng, tức giận; đó là điều ông ta

muốn. Không có điều đó ông ta cảm thấy rất bị bẽ mặt.

Điều đó không được trông đợi thế, từ bi và tình yêu mà

Phật đã biểu lộ.

Và Phật nói với ông ta, "Về nhà đi, nghỉ ngơi cho đã

vào. Ông trông mệt mỏi quá, ông đã tự trừng phạt mình

đủ rồi. Quên mọi chuyện về nhổ nước bọt đi - điều đó đã

không làm hại gì ta cả. Làm sao nó có thể làm hại ta

được? Và thân thể này được làm từ cát bụi. Sớm hay

muộn, nó sẽ rơi trở lại với cát bụi và mọi người sẽ dẫm

lên nó, nhổ lên nó, và đủ mọi thứ sẽ xảy ra trên thân thể

này. Mọi người sẽ ỉa, đái... Ông đã không làm điều gì rất

nguy hiểm đâu. Về nhà đi, nghỉ ngơi cho đã vào nhé."

Người này về nhà. Lần đầu tiên ông ta tuyệt đối

phân vân: đáp ứng của Phật là không được trông đợi thế,

ông ta không thể nào hiểu được điều đó. Ông ta kêu, ông

ta khóc. Đến tối ông ta quay lại, ông ta phủ phục dưới

chân Phật, và ông ta nói, "Thứ lỗi cho tôi!"

Phật nói, "Không có vấn đề ta thứ lỗi cho ông, bởi vì

ta đã không giận ngay chỗ đầu tiên. Làm sao ta có thể

tha thứ cho ông được? Nhưng điều đó là tốt - ông trông

bình thản và yên tĩnh hơn đấy. Ta sung sướng. Ta không

thể tha thứ cho ông được, rất tiếc, bởi vì ta đã không

giận dữ ngay chỗ đầu tiên. Nhưng ta sung sướng, cực kì

sung sướng, khi thấy rằng ông đã trở nên được hoà hợp,

thấy rằng ông đã đạt tới trạng thái hài hoà, thấy rằng ông

lại thành lành mạnh. Đi một cách hạnh phúc đi, và nhớ

điều đó: đừng bao giờ làm những hành động như thế lần

nữa, bởi vì đó là cách ông cứ tạo ra địa ngục cho bản

thân mình."

Lánh xa khỏi điều ác. Lánh xa, lặp đi lặp lại, trước

khi buồn khổ xảy đến cho ông. Nhiều, nhiều lần tâm trí

sẽ gợi ý cho bạn, "Làm cái này, làm cái nọ." Nhiều,

nhiều lần bạn nhất định quên. Nhiều, nhiều lần bạn sẽ

không có khả năng nhớ điều Phật đã nói, điều tôi đang

nói cho bạn. Cho nên bạn sẽ phải nhớ đi nhớ lại. Từ từ,

từ từ việc nhớ lại sẽ lắng đọng, sẽ trở thành ánh sáng

trong bản thể bạn. Thế thì bạn sẽ không được trông đợi

nhớ nữa; nó sẽ đơn giản có đó. Nó sẽ chiếu lên con

đường của bạn như tia sáng. Nó sẽ chỉ cho bạn con

đường; nó sẽ giúp bạn tránh lối cụt. Và một khi việc nhớ

lại lắng đọng sâu bên trong bạn và điều hại trở thành

không thể được, điều ác trở thành không thể được, và

điều thiện trở thành tự nhiên, tự phát, bạn đã đi vào

trong thiên đường hoa sen.

Nó không phải là ở đâu đó khác - nó là ở đây. Nó là

việc thay đổi thái độ của bạn, cách nhìn của bạn. Chẳng

cái gì khác thay đổi trong thế giới này, mọi thứ vẫn còn

như cũ, nhưng bạn không còn như cũ nữa. Không phải

là bạn được đưa tới thế giới khác đâu - vẫn cùng thế giới

đó tiếp tục thôi, nhưng cách nhìn của bạn không còn như

cũ nữa. Cái nhìn của bạn vào cùng một thứ theo cách

mới, theo phong thái mới. Phong thái đó là tính chất

sannyas, cách thức đó là tính chất sannyas.

**Để trái tim ông làm điều thiện.

làm đi làm lại nó,

và ông sẽ được tràn đầy vui vẻ.**

Dịch chuyển tâm thức bạn từ đầu tới tim đi. Tâm trí

muốn làm điều hại, nó sống từ điều hại; và trái tim

muốn làm điều thiện, nó sống, nuôi dưỡng qua điều

thiện.

Để trái tim ông làm điều thiện. Chú ý khác biệt! Bây

giờ ông ấy không nói đưa tâm trí bạn vào làm điều thiện.

Tâm trí không thể được đưa vào làm điều thiện; ngay cả

bạn cố gắng làm qua tâm trí bạn sẽ vẫn làm điều ác, bạn

sẽ làm điều xấu. Làm điều thiện không nằm bên trong

khả năng của tâm trí.

Bạn có thể thấy điều đó xảy ra trên khắp thế giới.

Các nhà khoa học muốn làm điều tốt; đó là lí do tại sao

họ làm việc miệt mài nhiều năm, nghiên cứu, và tìm ra

nguồn năng lượng nguyên tử. Albert Einstein đã muốn

làm điều tốt. Ông ấy đã viết một lá thư cho tổng thống

Mĩ, Roosevelt, nói rằng "Bây giờ năng lượng nguyên tử

là sẵn có và bom nguyên tử có thể được chế tạo. Và

chính bởi việc làm bom nguyên tử mà Mĩ sẽ mạnh tới

mức sẽ không cần đánh nhau nữa. Chỉ sức mạnh này sẽ

là đủ - kẻ thù sẽ trở nên sợ tới mức Hitler và Tojo và

Mussolini sẽ đầu hàng theo cách riêng của họ."

Đây là điều tâm trí logic nghĩ tới. Nhưng cuộc sống

không tuân theo logic, cuộc sống không tuân theo tâm

trí. Albert Einstein hối hận cả đời, bởi vì sâu bên dưới

ông ấy cảm thấy ông ấy chịu trách nhiệm cho Hiroshima

và Nagasaki. Ông ấy đã viết bức thư đó... và các chính

khách lập tức nhảy vào khám phá này. Và một khi sức

mạnh này vào trong tay của các chính khách, họ chẳng

thèm quan tâm; thế thì họ sẽ không nghe Albert

Einstein. Thế thì ai còn quan tâm? - bây giờ sức mạnh

này là ở trong tay họ.

Và bạn có biết không, thực ra, những người chuyên

vào các vấn đề chiến tranh nói rằng Nagasaki và

Hiroshima không cần chút nào. Nhật Bản sắp sửa đầu

hàng trong vòng một tuần lễ; vấn đề chỉ là một tuần nữa

thôi. Và nếu bạn đã chịu đựng được chiến tranh trong

nhiều năm, vội gì? Nhưng Mĩ muốn phô trương sức

mạnh của mình cho thế giới.

Các chính khách đều rất trẻ con, ấu trĩ. Thực ra, nếu

một người chưa trưởng thành và trẻ con người đó sẽ

không là chính khách ngay chỗ đầu tiên. Khi bạn có cái

gì đó, bạn muốn khoe nó với thế giới; bằng không

phỏng có ích gì mà có nó? Một trăm nghìn người bị giết

ở Hiroshima trong vòng năm giây, không có lí do nào

khác hơn là để phô trương với thế giới rằng Mĩ đã có

bom nguyên tử.

Albert Einstein đã sống và chết trong hối hận sâu

sắc. Khi ông ấy sắp chết ai đó hỏi, "Nếu Thượng đế cho

ông cơ hội khác, ông sẽ làm gì, ông sẽ định là gì? Ông

có lại là nhà khoa học, nhà vật lí học, để cho ông có thể

tiếp tục công trình chưa hoàn thành của mình?"

Einstein mở mắt ra và nói, "Không, không bao giờ!

Thay vì làm nhà vật lí học tôi muốn làm thợ ống nước.

Thế là đủ rồi!"

Khoa học là nỗ lực của tâm trí, cố gắng của tâm trí;

do đó khoa học đã tạo ra quyền năng lớn. Nhưng quyền

năng này đang quay sang chống lại bản thân con người.

Khoa học đã phá huỷ toàn bộ sinh thái, nó đã phá huỷ

toàn thể hành tinh. Nó đang phá huỷ con người - và

nhân danh điều tốt lành! Và nhà khoa học nghĩ họ là

người phục vụ lớn lao của nhân loại, họ đang giúp cho

nhân loại trưởng thành, tiến hoá, trở nên ngày một mạnh

hơn. Họ đơn giản tạo ra tình huống mà trong đó hành

tinh này sẽ trở thành gần như không thể nào sống được

trên nó. Họ đang tạo ra tình huống mà nhân loại có thể

tự tử. Họ có thể phá huỷ toàn thể hành tinh này... bởi vì

toàn thể nỗ lực đều bắt nguồn từ tâm trí.

Chúng ta cần khoa học được bắt rễ trong trái tim và

không trong tâm trí. Chúng ta cần một loại khoa học

hoàn toàn khác được bắt rễ trong thiền và không trong

tập trung. Chúng ta cần một phẩm chất mới toàn bộ cho

khoa học: phẩm chất của tôn giáo.

Chừng nào khoa học còn chưa có hương vị của tôn

giáo, tính thiền, tình yêu, chừng nào nó còn chưa nảy

sinh từ trái tim, nó sẽ không trở thành phúc lành cho

nhân loại hay cho thế giới. Nó sẽ là tai hoạ - bất kể điều

gì các nhà khoa học nghĩ họ đang làm. Họ nghĩ họ đang

làm công việc lớn lao, công việc nhân loại lớn lao. Họ

đang hi sinh cuộc sống của mình vì nhân loại. Và tôi

không nói rằng họ là những người không chân thành -

họ là những người chân thành, nhưng hướng của họ sai.

Phật lập tức thay đổi từ này. Ban đầu ông ấy dùng từ

'tâm trí'. Bây giờ ông ấy nói: Để trái tim ông vào việc

làm thiện. Làm đi làm lại nó, và ông sẽ được tràn đầy

vui vẻ.

Vui vẻ là sản phẩm phụ cũng như buồn khổ là sản

phẩm phụ. Buồn theo sau như cái bóng khi bạn làm điều

gì đó sai và vui theo sau như cái bóng khi bạn làm điều

gì đó thiện. Để những điều này là tiêu chí. Nếu bạn đang

khổ, nhớ lấy - bạn phải đang làm điều gì đó sai.

Nhưng mọi người rất tinh ranh, tâm trí họ rất tinh

ranh. Nếu bạn khổ tâm trí nói, "Người khác đang làm

điều sai với mình, đó là lí do tại sao mình lại khổ." Nó

không phải vậy - chẳng ai có thể làm cho bạn khổ được.

Vâng, họ có thể giết bạn, nhưng không ai có thể làm cho

bạn khổ được. Bạn có thể giết tôi nhưng bạn không thể

làm tôi khổ được. Tôi sẽ chết trong cùng trạng thái phúc

lạc mà tôi đang sống. Sẽ không có khác biệt chút nào.

Bạn có thể đầu độc tôi nhưng bạn không thể đầu độc

tâm thức của tôi được. Bạn có thể phá huỷ thân thể - cái

đằng nào cũng sắp bị phá huỷ sớm hay muộn - nhưng

bạn không thể phá huỷ được tôi. Cái đó ở bên ngoài việc

phá huỷ.

Không ai có thể làm cho bạn khổ được và không ai

có thể làm cho bạn phúc lạc được. Điều đó tất cả đều

phụ thuộc vào bạn, điều đó phụ thuộc toàn bộ vào bạn.

Bạn chịu trách nhiệm cho khổ của bạn và bạn chịu trách

nhiệm cho vui vẻ của bạn. Nhận lấy trách nhiệm này đi,

chấp nhận trách nhiệm này đi. Chấp nhận trách nhiệm

này một cách toàn bộ, một trăm phần trăm, là trở thành

người tôn giáo, là được điểm đạo vào điều tôi gọi là tôn

giáo.

Chính khách bao giờ cũng đổ trách nhiệm lên người

khác và người tôn giáo nhận trách nhiệm toàn bộ lên vai

mình.

**Người ngu sướng

khi điều ác của người đó chưa quay lại chống người

đó.

Và người thiện có thể khổ

khi tính thiện của người đó chưa nở hoa.**

Để nhắc nhở bạn, Phật nói rằng đôi khi bạn có thể

gặp người ác rất sung sướng, và ngược lại: đôi khi bạn

có thể thấy người tốt rất bất hạnh. Nhưng đừng bị lừa

bởi vẻ bên ngoài đó. Người ngu sướng khi điều ác của

người đó chưa quay lại chống người đó.

Phải mất chút thời gian. Nếu bạn gieo hạt mầm, sẽ

mất chút thời gian gian cho chúng mọc lên và đem tới

quả. Điều ác có thể mang vị ngọt lúc ban đầu nhưng bao

giờ cũng chứng tỏ là độc hại lúc cuối. Và hành động

thiện có thể không có vẻ ngọt thế lúc ban đầu bởi vì cần

thời gian để nó nở hoa, cần chút ít thời gian để nó toả ra

hương thơm, nhưng đến cuối cùng nó bao giờ cũng

ngọt.

Phật đã nói: Nếu ông thấy người ác sung sướng, đợi

thêm chút ít; chóng thôi, sớm hay muộn, ông sẽ thấy

rằng người đó đã đào nấm mồ cho bản thân mình. Và

nếu ông thấy người tốt đang khổ, đừng lo: đó là nhiệm

vụ đi lên núi. Khi bạn đi lên núi có chút ít khó khăn,

gian nan; bạn vã mồ hôi, bạn cảm thấy mệt, nhưng một

khi bạn đã lên tới đỉnh bạn có thể thảnh thơi và nghỉ

ngơi.

Nhưng người ngu cứ nghĩ rằng họ sung sướng bởi vì

điều ác của họ. Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng mọi

người rất không thông minh trong việc nhìn vào nguyên

nhân sâu xa của các kiếp sống của họ.

Trong các bộ lạc nguyên thủy ở châu Phi, thậm chí

mãi cho tới bây giờ người ta vẫn tin rằng việc sinh ra

con cái chẳng liên quan gì tới việc làm tình, với giao

hợp - bởi vì lỗ hổng là chín tháng. Trong nhiều thế kỉ họ

đã từng cho sinh con cái, nhưng họ chưa gắn nguyên

nhân với hậu quả. Họ nghĩ đứa con được sinh ra bởi vì

ân huệ của Thượng đế hay bởi nghi lễ tôn giáo mà tu sĩ

đã làm nhân danh họ. Khi họ đi tới biết lần đầu tiên rằng

cả thế giới nghĩ khác, họ cười; họ nghĩ cả thế giới này

ngu. Làm tình có liên quan gì tới sinh con cơ chứ? - bởi

vì mọi lúc bạn làm tình bạn đâu có được đứa con.

Điều đó có vẻ logic! Và bạn làm tình hôm nay và

đứa trẻ tới sau chín tháng - và những người nguyên thuỷ

đó chưa có lịch, chẳng có đồng hồ nào; họ không thể

đếm thời gian được. Chín tháng là không thể tính được;

họ không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua, cho nên

họ chưa bao giờ có khả năng kết nối nguyên nhân với

hậu quả.

Và đây là tình huống về điều ác và kết quả tuyệt đối

không tránh khỏi của nó, buồn khổ. Bạn có thể làm điều

ác hôm nay, và nó là rất tốt và mọi thứ trông đều đẹp, và

bạn không thể thấy được cái gì xấu nảy sinh từ nó. Và

sâu bên dưới bạn biết tất cả chư phật này đều sai - luật

nghiệp ở đâu?

Nhiều lần mọi người tới tôi và họ nói, "Chúng tôi

thấy rằng người ác cứ phát đạt mãi. Sao vậy? Và chúng

tôi thấy rằng người tốt cứ khổ mãi. Sao vậy? Điều đó là

đủ chứng minh rằng không có Thượng đế, điều đó là đủ

chứng minh rằng không có luật nghiệp. Điều đó là đủ

chứng minh rằng mạnh là đúng, bất kì ai mạnh đều

đúng." Nó không phải vậy đâu. Người ta chỉ cần kiên

nhẫn thêm chút ít. Nhưng người ngu có logic riêng của

họ - tính ngu có logic riêng của nó, nhớ lấy.

Gilligan, Frizzoli và Lieberman đang kể chuyện về

cách họ bị nhận lầm là những người vĩ đại.

Người Ai len nói, "Tôi đang bước đi trên phố thì

một anh chàng hét lên, 'Xin chào, Thánh Patrick!'"

Người Italia nói, "Điều đó chưa là gì cả. Tôi đang

đứng ở góc phố, một người đi qua và nói, 'Xin chào,

Mussolini!'"

"Điều đó chưa là gì cả," người Do Thái nói. "Khi tôi

bước qua công viên sáng nay, một cảnh sát la lên với tôi,

'Jesus Christ, bước ra khỏi thảm cỏ ngay!'"

Người ngu có logic riêng của người đó. Thực ra

người ngu có thể còn logic hơn - ít nhất cũng có vẻ logic

hơn - so với người trí huệ, bởi vì người trí huệ sẽ có tính

ngược đời.

Phật nói: Nhớ rằng phải mất chút thời gian để hạt

mầm lớn lên đâm chồi, trở thành cây. Đợi xuân tới, và

thế rồi hoa tới.

Người ngu sướng khi điều ác của người đó chưa

quay lại chống người đó. Điều đó bao giờ cũng quay lại

chống người ngu, nó nhất định quay lại. Đó là luật tự

nhiên, điều đó không thể nào tránh được, bạn không thể

thoát được nó.

Zimmerman, trong chuyến đi kinh doanh tới Tokyo,

đã ăn trưa với một người bạn Nhật Bản.

"Người Mĩ các anh không biết cách làm tình," người

phương Đông nói. "Ở Nhật Bản chúng tôi lên giường

với vợ, bắt đầu làm tình; sau vài phút chúng tôi dừng lại,

trở dậy uống trà nóng. Thế rồi trở lại giường, làm tình

trong mười phút, rồi lại dậy và ăn bát cơm. Rồi làm tình

thêm nữa, lại dậy, đi tắm cùng nhau. Thế rồi cuối cùng

chúng tôi chấm dứt hành động này."

Hai tuần sau, quay trở về Brooklyn, Zimmerman lên

giường với vợ mình và bắt đầu làm tình với cô ấy. Đột

nhiên anh ta dừng lại và nói, "Chúng ta đi uống trà đi."

"Anh có khùng không đấy?" cô ấy nói.

"Tiếp tục đi," anh ta nài nỉ. Chẳng mấy chốc họ trở

lại giường và sau một chốc anh ta dừng lại và nói, "Bây

giờ chúng ta đi ăn bánh mì kẹp thịt bò hun khói."

"Anh có gàn không đấy?" vợ anh ta kêu lên.

Họ trở lại giường và sau vài phút Zimmerman nói,

"Bây giờ chúng đi tắm cùng nhau."

Khi họ kết thúc đôi Do Thái trở lại phòng ngủ và kết

thúc việc làm tình của họ.

"Này," Zimmerman nói, "Em nghĩ gì về điều đó?"

"Tuyệt vời," vợ anh ta đáp. "Nhưng anh đã học giao

cấu như người Nhật Bản ở đâu vậy?"

Bạn có thể cứ tin rằng bạn rất trí huệ nhưng nếu bạn

là người ngu, bạn vẫn cứ là người ngu thôi. Niềm tin của

bạn sẽ bị phá huỷ sớm hay muộn bởi chính bản thân

cuộc sống. Cuộc sống không biết tới ngoại lệ. Và đây là

một trong những luật nền tảng nhất. Aes dhammo

sanantano - đây là luật vĩnh hằng: rằng người ác nhất

định chịu đau khổ sớm hay muộn, và nó sẽ sớm hơn chứ

không muộn hơn; và người tốt sẽ được ân huệ bởi tất cả

mọi phúc lành của sự tồn tại.

**Đừng làm nhẹ thất bại của ông,

khi nói, "Chúng là gì với tôi?"

Bình đầy bởi từng giọt.

nên người ngu thành đầy ắp những điên rồ.**

Đừng làm nhẹ thất bại của bạn. Đừng nói, "Đây là

việc nhỏ thôi. Một việc nhỏ bé không thể có nhiều hậu

quả được." Nhưng từng giọt một bạn có thể tạo ra cả đại

dương đấy! Đại dương không là gì ngoài việc tích luỹ

các giọt nước, cho nên bạn phải nhận biết trong từng

hành động; trong mọi chi tiết của cuộc sống của mình,

bạn đều phải tỉnh táo và nhận biết.

**Đừng xem thường đức hạnh,

bằng việc nói, "Chúng không là gì."

Bình đầy bởi từng giọt.

nên người trí huệ thành đầy ắp đức hạnh.**

Nhớ lấy, cuộc sống bao gồm những điều nhỏ bé,

không có điều lớn lao đâu. Những điều nhỏ bé tích luỹ

lại trở thành điều lớn. Một hành động có thể trông

không mấy ý nghĩa dù là ác hay thiện. Một nụ cười có

thể có vẻ không quan trọng mấy, nhưng nụ cười là một

phần của một quá trình dài lâu. Một đoá hoa không phải

là vòng hoa, chắc chắn, nhưng sẽ không có vòng hoa

nào nếu không có từng đoá hoa được gắn lại với nhau.

Đừng coi thường thất bạn của bạn, đừng coi thường

hành động tốt của bạn. Từng và mọi hành động đều có ý

nghĩa: nếu nó xấu bạn sẽ khổ; nếu nó tốt bạn sẽ tận

hưởng cuộc sống. Và tận hưởng cuộc sống là cách duy

nhất để biết rằng Thượng đế hiện hữu. Chính là chỉ

trong phúc lạc mà bằng chứng mới tới nói lên rằng

Thượng đế hiện hữu. Không có bằng chứng logic cho

Thượng đế, nhưng khi bạn tràn ngập với vui vẻ, khi bạn

có thể nhảy múa với vui vẻ, trong điệu vũ đó lòng biết

ơn nảy sinh theo cách riêng của nó. Việc cảm ơn, lời cầu

nguyện, được sinh ra, và trong lời cầu nguyện đó bạn

được tái sinh. Trong lời cầu nguyện đó không chỉ bạn

được tái sinh đâu, Thượng đế được sinh ra nữa.

Cuộc sống bao gồm những điều nhỏ bé, và bạn phải

biến đổi từng điều nhỏ bé qua nhận biết, quan sát, tỉnh

táo của mình thành hành động đẹp. Thế thì những việc

bình thường có thể trở thành phi thường.

Một Thiền sư được hỏi, "Thầy thường hay làm gì

trước khi thầy trở nên chứng ngộ?"

Ông ấy nói, "Ta hay bổ củi và lấy nước từ giếng."

Và thế rồi ông ấy lại được hỏi, "Bây giờ thầy làm gì

khi thầy đã trở nên chứng ngộ?"

Ông ấy nói, "Ta bổ củi và lấy nước từ giếng."

Người hỏi đâm phân vân. Anh ta nói, "Dường như

thế thì chẳng có khác biệt gì."

Thầy nói, "Khác biệt là trong ta chứ. Khác biệt

không trong hành động của ta, khác biệt là trong ta -

nhưng bởi vì ta đã thay đổi, mọi hành động của ta đã

thay đổi. Ý nghĩa của chúng đã thay đổi: văn xuôi đã trở

thành thơ ca, đá đã trở thành buổi thuyết giảng, và vật

chất đã hoàn toàn biến mất. Bây giờ chỉ có Thượng đế

và không cái gì khác. Cuộc sống bây giờ là giải thoát

cho ta, nó là niết bàn."

Đủ cho hôm nay.

*************************************************************************************************************

#4 Chân lí rất đơn giản

Câu hỏi thứ nhất:

Thưa thầy kính yêu,

Chứng ngộ cảm thấy giống cái gì?

Prem Geetam, chứng ngộ không là ý nghĩ không là

tình cảm. Thực ra, chứng ngộ không phải là kinh

nghiệm chút nào. Khi mọi kinh nghiệm đã biến mất và

tấm gương của tâm thức được bỏ lại không có nội dung

nào, hoàn toàn trống rỗng; không đối thể để nhìn, để

nghĩ về, để cảm; khi không có nội dung nào quanh bạn;

nhân chứng thuần khiết còn lại - đó là trạng thái của

chứng ngộ.

Mô tả nó là khó, gần như không thể được. Nếu bạn

nói nó cảm thấy phúc lạc, đó là cho nghĩa sai về nó - bởi

vì phúc lạc là cái gì đó tương phản với khổ sở và chứng

ngộ không tương phản với bất kì cái gì. Nó thậm chí

không phải là im lặng, bởi vì im lặng có nghĩa chỉ khi có

âm thanh; không có tương phản của âm thanh, không có

kinh nghiệm về im lặng. Và không có âm thanh, không

có tiếng ồn. Đó không phải là kinh nghiệm về một, bởi

vì "một" có thể có nghĩa gì khi chỉ có một còn lại?

Người ta có thể có nghĩa chỉ trong so sánh với cái khác,

với nhiều. Trời không sáng bởi vì trời không tối. Nó

không ngọt bởi vì nó không đắng.

Không lời con người nào là thích hợp để diễn đạt nó

bởi vì mọi lời con người đều bắt rễ trong nhị nguyên...

và chứng ngộ là siêu việt; mọi nhị nguyên đều bị bỏ lại

sau.

Đó là lí do tại sao Phật nói nó là shunya. Khi ông ấy

nói nó là shunya, hư vô, trống rỗng, ông ấy không ngụ ý

rằng nó là trống rỗng; ông ấy đơn giản ngụ ý nó trống

rỗng mọi nội dung.

Chẳng hạn, căn phòng có thể được gọi là trống rỗng

nếu tất cả đồ đạc đã bị bỏ ra, không thứ nào còn lại bên

trong - bạn sẽ gọi căn phòng là trống rỗng. Nó là trống

rỗng mọi cái nó thường chứa trước đây, nhưng nó cũng

đầy - đầy trống rỗng, đầy sự rộng rãi, đầy bản thân nó.

Nhưng chẳng cái gì có thể được nói về tính đầy của nó,

viên mãn của nó, bởi vì ngôn ngữ con người không có

lời cho nó. Chúng ta đã trong hàng thế kỉ đã từng cố

gắng gọi nó là Thượng đế, gọi nó là niết bàn, gọi nó là

moksha, nhưng mọi từ đều thất bại theo cách nào đó.

Khó dịch cái gì đó từ văn xuôi sang thơ ca, càng khó

hơn khi dịch từ thơ ca sang văn xuôi, bởi vì văn xuôi là

ở mức độ thấp, thơ ca là ở mức cao hơn. Khó dịch từ

ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, mặc dầu mọi ngôn

ngữ đều tồn tại trên cùng bình diện. Sao khó dịch? - bởi

vì có sắc thái tinh tế cho từ. Những sắc thái đó bị mất đi

trong việc dịch, và những cái đó là điều thực.

Điều này là không thể được: dịch cái gì đó mà với

nó không tồn tại lời, dịch cái gì đó siêu việt trên các

ngôn ngữ vốn thuộc vào thế giới nhị nguyên. Nó cũng

giống như ánh sáng với người mù; nói về âm nhạc hay

với người không thể nghe được, người điếc; nói về

"ngọt" với người đang chịu đựng cơn sốt và mất vị giác.

Vị ngọt là vô nghĩa; người đó đã mất tất cả vị giác.

Nhưng một chút ít là có thể bởi vì người đó thường nếm

trước rồi; người đó có thể nhớ.

Nhưng bạn thậm chí không thể nhớ được khi nào

bạn nếm trải Thượng đế; bạn đã hoàn toàn quên mất

hương vị này. Có thể trong bụng mẹ bạn có kinh nghiệm

tương tự nào đó - có thể không đích xác cùng điều đó,

nhưng tương tự.

Tôi không thể nói cho bạn nó cảm thấy giống gì,

nhưng tôi có thể chỉ cho bạn cách thức. Tôi có thể đẩy

bạn vào trong vực thẳm... đó là khả năng duy nhất. Bạn

cũng có thể nếm trải nó, và thế thì bạn sẽ trở thành câm

như tôi, bạn sẽ trở thành câm như tất cả chư phật đã

từng vậy.

Chỉ để thấy ra vấn đề của việc dịch.

Rabindranath được tặng giải thưởng Nobel vì cuốn

sách của ông ấy Gitanjali. Ông ấy đã viết nó trong tiếng

mẹ đẻ của mình, tiếng Bengali. Nó có cái hay khác trong

tiếng Bengali. Tiếng Bengali có nhạc điệu cho nó; nó là

một trong những thứ tiếng hay nhất trên thế giới. Nó có

hương vị nào đó của trái tim. Chính kết cấu của nó có

tính thơ ca, nó được làm ra từ thơ ca, bản thân ngôn ngữ

này. Do đó Gitanjali ở dạng nguyên thuỷ của nó là một

kinh nghiệm khác hoàn toàn.

Đích thân Rabindranath đã dịch nó sang tiếng Anh,

nhưng ông ấy cảm thấy rất khổ sở. Trong nhiều năm ông

ấy đã cố gắng. Ông ấy biết tiếng Anh hoàn hảo, nhưng

ông ấy có thể thấy khác biệt - khác biệt là bao la. Trong

khi bản gốc là ở đâu đó trên đỉnh Everest, bản dịch chỉ ở

đất bằng; khác biệt là bao la. Trong việc dịch cái gì đó

đã bị mất đi, cái gì đó thực sự quí giá.

Ông ấy đã nhờ một người Anh rất nổi tiếng, C.F.

Andrews, giúp ông ấy. Andrews bị mê mẩn với cái hay

của cuốn sách này, bởi vì ông ấy chẳng biết gì về bản

gốc cả. Đó là lí do tại sao bạn bị mê mẩm với lời của

chư phật, bởi vì bạn không biết gì về nguyên bản. Nếu

bạn biết cái gì đó về nguyên bản thế thì lời của chư phật

chỉ như rác rưởi khi so với nguyên bản; được so sánh

với những đỉnh trắng ngần của Himalayas lời sẽ có vẻ

trần tục, của bãi chợ. Chúng là của bãi chợ, chúng được

ngụ ý dành cho bãi chợ.

Andrews bị mê mẩn. Rabindranath nói, "Nhưng tôi

đã cho ông xem cuốn sách để ông giúp tôi."

Andrews chỉ gợi ý bốn sửa đổi; chúng là về văn

phạm. Từng ngôn ngữ đều có văn phạm riêng. Ông ấy

nói, "Bốn từ này ông nên đổi đi; chúng có chút ít sai sót

về văn phạm."

Rabindranath lập tức đổi những từ này. Thế rồi ông

ấy sang Anh. Trong cuộc tụ tập của các nhà thơ - một

nhà thơ lớn người Anh, Yeats, đã triệu tập cuộc tụ họp

các nhà thơ, nhà phê bình, và những người yêu thơ, để

nghe bản Gitanjali của Rabindranath - Rabindranath đọc

bài thơ này. Họ tất cả đều bị quyến rũ; nó là cái gì đó

siêu phàm, cái gì đó hiếm được biết tới ở phương Tây,

bởi vì nó có cùng phẩm chất như Upanishads. Nếu bạn

đã đọc Kahlil Gibran... Nó có cùng phẩm chất.

Nhưng Yeats đứng dậy và nói, "Mọi thứ đều đúng

hoàn hảo ngoại trừ bốn chỗ cái gì đó bị sai."

Đó đích xác là bốn từ đã được C.F. Andrews gợi ý.

Rabindranath nói, "Tôi phân vân quá, ngạc nhiên

quá, tôi không thể tin được điều đó. Đây là những từ mà

C.F. Andrews gợi ý. Chúng văn phạm hơn chứ. Những

từ nguyên bản của riêng tôi là thế này..."

Yeats nói, "Những từ nguyên bản của ông mới đúng.

Mặc dầu chúng không đúng văn phạm nhưng chúng có

tính thơ ca trong chúng, có luồng chảy. Những từ được

Andrews gợi ý là đúng văn phạm đấy" - Andrews có

tâm trí của thầy giáo phổ thông - "nhưng chúng như

những tảng đá chắn dòng chảy của suối; chúng không

giúp cho dòng chảy. Ông thì không thạo văn phạm, bởi

vì thơ ca có thể đảm đương được việc không văn phạm,

nhưng thơ ca không thể đảm đương được việc không

tuôn chảy. Luồng chảy phải được duy trì; dòng chảy

càng lớn, thơ ca càng hay."

Ngay cả trong thế giới thường, từ ngôn ngữ này

sang ngôn ngữ khác, nó là vấn đề thế...

"Tên?" quan chức di trú truy vấn.

"Sneeze," người Tầu đáp một cách tự hào.

Viên quan chức nhìn anh ta: "Đấy là tên Tầu của

anh là?" ông ta hỏi. "Sneeze?"

"Không, tên Mẽo đấy."

"Thế thì nói tên cúng cơm của anh ra đi."

"Ah Choo."

Bây giờ "Ah Choo" trở thành "Sneeze"....

Trong ngôn ngữ thường, nữa, việc dịch là hiện

tượng rất khó, một trong những nghệ thuật khó nhất; và

thơ ca càng vĩ đại, việc dịch càng khó hơn. Thơ ca vĩ đại

nhất vẫn còn không dịch được.

Nhưng nói về chứng ngộ là không thể được, bởi

nhiều lí do thế: không nội dung nào có thể được nói tới;

không có ai như một bản ngã để cảm, để nói, để mô tả.

Đối thể biến mất, và với đối thể chủ thể cũng biến mất,

nhớ, bởi vì chúng là một phần của nhị nguyên - đối thể

và chủ thể - chúng là cùng nhau. Nếu không có đối thể,

chủ thể lập tức biến mất. Đó là lí do tại sao Phật nói nó

là trạng thái của anatta, trạng thái của không có bản ngã,

của không có tôi. Không nội dung, không người quan

sát... thế thì cái gì còn lại? Cái toàn thể còn lại, cái toàn

bộ còn lại! Nhưng cái toàn bộ đó chỉ có thể được trỏ tới,

không được mô tả, không được định nghĩa.

Và toàn thể nỗ lực của tôi ở đây là để giúp bạn

hướng tới trạng thái tồn tại đó. Nhưng đừng hỏi nó cảm

thấy thế nào. Không có ai để cảm thấy nó cả, không có

gì để cảm thấy nó; không có gì để được cảm cả. Im lặng

tuyệt đối... và im lặng không phải là trong tương phản

với âm thanh. Yêu thuần khiết, nhưng yêu không biết gì

tới ghét cả. Tràn đầy, nhưng tràn đầy là trống rỗng hoàn

toàn. Đó là cách từ trở thành vô dụng, và phát biểu của

các nhà huyền môn có vẻ rất ngược đời.

Ludwig Wittgenstein đã nói: Không cái gì nên được

nói ra nếu kinh nghiệm là không thể diễn đạt nổi - nếu

nó không thể được nói ra thế thì nó không nên được nói

ra. Nhưng điều đó nữa cũng là vấn đề. Nhà huyền môn

không thể đồng ý được, tôi không thể đồng ý được. Nó

không thể được nói ra, vậy mà nỗ lực vẫn phải được

thực hiện. Không nỗ lực nào sẽ xứng với kinh nghiệm

này - mọi người đã biết đều hoàn toàn nhận biết - nhưng

dầu vậy nỗ lực vẫn phải được thực hiện, nỗ lực không

thực sự mô tả nó nhưng nỗ lực tạo ra khao khát trong

bạn.

Và khao khát thực nảy sinh không phải bởi vì lời

của thầy, mà bởi vì bản thân thầy, sự hiện diện của thầy.

Nếu bạn trong tình yêu với thầy thế thì sự hiện diện của

thầy bắt đầu mở ra những cánh cửa không biết nào đó

trong bạn. Thỉnh thoảng một cửa sổ đột nhiên mở ra và

bạn có thoáng nhìn. Thỉnh thoảng bạn được mang vào

thế giới khác, vào trong chiều hướng khác. Sự hiện diện

của thầy phải được nếm trải - đó là nếm trải chứng ngộ.

Sự hiện diện của thầy phải được cho phép chìm sâu vào

trong bạn; đó là cách duy nhất để biết cái gì đó của nó.

Jesus nói: Ăn ta đi. Đêm cuối cùng, khi ông ấy nói

lời tạm biệt với các đệ tử của mình, ông ấy bẻ chiếc

bánh mì ra và nói, "Đây là ta. Ăn ta đi, tiêu hoá ta đi. Và

bất kì khi nào các ông ăn, và bất kì khi nào các ông bẻ

bánh mì, nhớ lấy." Và thế rồi ông ấy đưa rượu cho các

đệ tử của mình và nói, "Đây là máu của ta - uống ta đi,

và bất kì khi nào các ông uống rượu, nhớ tới ta."

Vâng, nó là chất nuôi dưỡng của linh hồn, do đó là

bánh mì; và vâng, nó là rượu, bởi vì nó làm bạn ngất

ngây với điều thiêng liêng.

lại gần tôi hơn đi, Geetam! Vứt áo giáp của bạn đi,

vứt đề phòng của bạn đi. Vứt tâm trí bạn đi. Quên bản

thân bạn ngày một nhiều hơn để cho bạn có thể tới ngày

một gần hơn. Trong thân mật đó cái gì đó nhất định diễn

ra.

****************************************************

#4Câu hỏi thứ hai:

Thưa thầy kính yêu,

Tôi đã cố gắng cả đời mình để sống cuộc sống tôn

giáo, nhưng thế rồi sao tôi vẫn khổ?

Nand Kishor, cuộc sống tôn giáo không thể nào

được cố gắng. Bất kì cái gì bạn đã từng làm nhân danh

tôn giáo đều phải đã từng là cái gì đó khác rồi. Tôn giáo

không phải là nỗ lực, nó là tâm thức. Nó không phải là

thực hành, nó là nhận biết. Nó không phải là việc trau

dồi; bạn không thể trau dồi nó được - cuộc sống tôn giáo

chẳng liên quan gì tới cá tính.

Cá tính có thể được trau dồi. Cá tính là đạo đức;

ngay cả người phi tôn giáo cũng có thể trau dồi nó. Thực

ra người phi tôn giáo còn có nhiều cá tính hơn cái gọi là

người tôn giáo, bởi vì người tôn giáo cứ tin rằng mình

có thể hối lộ Thượng đế, hay ít nhất người đó có thể hối

lộ tu sĩ của Thượng đế, và người đó sẽ tìm được cách

nào đó để đi vào thiên đường. Nhưng người phi tôn giáo

phải tự chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình, hướng

tới bản thân mình. Không có Thượng đế, không có tu sĩ,

không có ai trả lời cho người đó; người đó trả lời cho

chính bản thân mình. Người đó có nhiều cá tính hơn.

Tôn giáo chẳng liên quan gì tới cá tính cả. Thực ra,

người tôn giáo thực sự là tuyệt đối vô cá tính. Nhưng cố

hiểu từ 'vô cá tính'; nó không ngụ ý không có cá tính, nó

ngụ ý cá tính linh động. Người đó sống từ khoảnh khắc

sang khoảnh khắc, đáp ứng với tình huống mới, thách

thức mới, không có câu trả lời sẵn.

Cái gọi là con người của cá tính có câu trả lời sẵn.

Người đó chẳng bao giờ bận tâm thách thức là gì, người

đó cứ đáp ứng theo cách cũ, đã biết. Do đó người đó bao

giờ cũng thất bại và đó là khổ của người đó. Người đó

chẳng bao giờ hài hoà với sự tồn tại; người đó không thể

thế được, bởi vì người đó quan tâm nhiều tới việc giữ cá

tính của mình hơn là sống hài hoà với sự tồn tại. Điều đã

đúng hôm qua có thể không đúng hôm nay, và điều là

đúng khoảnh khắc này có thể không đúng vào khoảnh

khắc tiếp. Và con người của cá tính đã cố định ý niệm

về cái gì là đúng và cái gì là sai; sự cố định của người đó

là vấn đề.

Nand Kishor, điều đó phải đang làm bạn khổ đấy.

Bạn không linh hoạt, bạn không thể hiện hữu. Cái gọi là

con người của cá tính tuyệt đối không linh hoạt. Người

đó giống như mẩu gỗ khô. Người đó không giống như

cây xanh rung rinh theo gió, nhảy múa cùng gió, cúi

mình để gió thổi qua và rồi đứng dậy.

Con người tôn giáo thực giống như cây xanh - thực

ra, giống cỏ xanh hơn. Đó là cách Lão Tử định nghĩa

con người tôn giáo: người đó giống như cỏ. Để gió tới,

và cỏ uốn mình, nằm rạp trên đất, chẳng tranh đấu gì với

gió cả. Tại sao tranh đấu với nó? Chúng ta là một phần

của một đơn vị hữu cơ; gió không phải là kẻ thù của

chúng ta. Cỏ cúi rạp mình; gió đi qua và cỏ trở lại nhảy

múa. Gió đã là sự giúp đỡ rồi, nó lấy đi mọi bụi bặm. Cỏ

xanh hơn, tươi hơn, nó tận hưởng toàn thể trò chơi cùng

gió.

Nhưng cây lớn, bản ngã, cứng rắn, cứng nhắc,

không thể nào cúi mình được, sẽ đổ kềnh trong gió

mạnh và sẽ không thể nào đứng dậy được nữa; nó nhất

định khổ. Con người của cá tính bao giờ cũng khổ. Sung

sướng duy nhất của người đó là ở chỗ người đó là con

người của cá tính, có vậy thôi. Và cá tính có liên quan gì

tới tôn giáo? Bạn có thể ăn cái gì đó, bạn có thể không

ăn cái gì đó; bạn có thể uống cái gì đó, bạn có thể không

uống cái gì đó; bạn có thể hút thuốc, bạn có thể không

hút thuốc... Những điều tầm thường thế được coi là có

giá trị mênh mông đấy! Và bạn thực hành nó - và bạn

ngụ ý gì bởi việc thực hành nó?

Nand Kishor, đó phải là kìm nén - và người kìm nén

nhất định khổ, bởi vì mọi cái người đó đã kìm nén đang

tranh đấu bên trong người đó để quay lại, để có quyền

lực lần nữa. Và cho dù bạn đã kìm nén nó, nó cứ kéo sợi

dây của bạn từ vô thức. Nó sẽ giữ bạn bao giờ cũng

trong xung đột, rối loạn bên trong; cuộc nội chiến tiếp

diễn bên trong bạn. Bạn sẽ vẫn còn căng thẳng, lo âu, lo

lắng và bao giờ cũng sợ hãi - bởi vì bạn biết kẻ thù có

đó - rằng bạn đã kìm nén và kẻ thù đang cố gắng mọi

khoảnh khắc để báo thù. Và có một điểm bên ngoài mà

bạn không thể kìm nén được thêm nữa bởi vì bạn không

thế chứa được thêm nữa; có giới hạn cho mọi thứ. Thế

thì mọi thứ bạn đã kìm nén bùng nổ, giống như mủ rỉ ra

từ bạn.

Đây là điều chúng ta đã từng nói là trạng thái của

người tôn giáo - cá tính bị kìm nén này.

Cách tiếp cận của tôi là khác toàn bộ. Tôi không nói

rằng bạn có thể thực hành tôn giáo và tôi không nói rằng

tôn giáo có liên quan gì tới ý thức hệ bình thường, đạo

đức, thanh tẩy này.

Một kẻ ăn xin lấm lem, râu ria xồm xoàm, với con

mắt đỏ ngầu và răng đã mất một nửa, hỏi xin Hogan một

hào. "Ông có uống rượu, hút thuốc hay đánh bạc

không?" người Ai len hỏi.

"Thưa ông," kẻ lang thang nói, "Tôi không chạm tới

một giọt rượu, không hút thuốc lá bẩn, hay bận tậm tới

việc đánh bạc xấu."

"Được đấy," Hogan đáp. "Nếu ông về nhà cùng tôi

thì tôi sẽ cho ông một đô la."

Khi họ đi vào nhà, bà Hogan kéo chồng sang bên và

rít lên, "Ông dám đem cái hạng người trông khủng khiếp

đó về nhà mình sao!"

"Em yêu ơi," Hogan nói, "Anh chỉ muốn em thấy

một người sẽ thế nào nếu người đó không uống rượu,

không hút thuốc hay không đánh bạc."

Những người này không phải là người tôn giáo.

Bạn nói, Nand Kishor, "Tôi đã cố gắng cả đời mình

để sống cuộc sống tôn giáo."

Bạn đã làm phí hoài cuộc sống của mình! Đừng làm

phí hoài nó thêm nữa. Tôn giáo không phải là cái gì đó

để được cố gắng. Bạn biết gì về tôn giáo?

Ngoại trừ trong thiền sâu, người ta không bao giờ

bắt gặp tôn giáo. Nó không được viết trong Gita và nó

không được viết trong Koran. Nó không được viết ở đâu

cả - bởi vì nó không thể được viết ra. Cái được viết ra là

đạo đức. Cái được viết ra là, "Bạn phải làm cái này, bạn

phải không làm cái kia" - "phải" và "phải không." Tôn

giáo chẳng liên quan gì với mọi điều đó.

Tôn giáo về căn bản là khoa học của việc tạo ra tâm

thức trong bạn. Trở nên có tính thiền hơn đi, trở nên ý

thức hơn đi. Từ tâm thức đó một cá tính rất linh hoạt, tự

phát được sinh ra, cái thay đổi mọi ngày theo tình

huống, cái không bị gắn với quá khứ, cái không giống

như cái gì đó được làm sẵn. Ngược lại, nó là tính đáp

ứng - khả năng đáp ứng với thực tại từ khoảnh khắc

sang khoảnh khắc. Nó tựa tấm gương; nó phản xạ bất kì

cái gì đang là hoàn cảnh, và từ phản xạ đó, hành động

được sinh ra. Hành động đó là hành động tôn giáo.

Bạn không biết gì về tôn giáo cả, Nand Kishor. Làm

sao bạn có thể thực hành được nó?

Và bạn nói, "Sao tôi vẫn khổ?"

Bất kì cái gì bạn đã thực hành, bạn đều phải thực

hành với tham lam, để đạt tới cái gì đó. Bạn phải chờ

đợi rằng hạnh phúc lớn đang sắp mưa rào lên bạn, rằng

Thượng đế sắp thưởng cho bạn, rằng bạn sẽ được làm

thành người giầu nhất trên thế giới hay bạn sẽ trở thành

rất nổi tiếng - một thánh nhân lớn, cái gì đó kiểu như

thế. Bạn đã không yêu tôn giáo, bạn đã dùng tôn giáo

như phương tiện để đạt tới cứu cánh nào đó khác; bằng

không câu hỏi này chẳng bao giờ nảy sinh.

Người tôn giáo không thể nói, "Sao tôi vẫn khổ?"

bởi vì người đó biết, "Nếu mình khổ, điều đó nghĩa là

mình không có tính tôn giáo."

Khổ là sản phẩm phụ của vô ý thức. Nếu bạn có ý

thức, khổ biến mất. Không phải là nó là phần thưởng; nó

chỉ là kết quả đơn giản của có ý thức. Đem ánh sáng,

đèn, vào nhà, và bóng tối biến mất. Đó không phải là

phần thưởng từ Thượng đế - không phải là ngài thấy

rằng bạn đã đem ánh sáng vào, bây giờ bạn phải được

thưởng và bóng tối phải bị loại bỏ. Không, đó là luật tự

nhiên: aes dhammo sanantano - đây là luật vĩnh hằng.

Đem ánh sáng vào và bóng tối biến mất, bởi vì bóng tối

không có sự tồn tại riêng của nó; nó chỉ là việc thiếu ánh

sáng.

Khổ là việc thiếu ý thức. Cho nên không thể nào có

ý thức mà khổ được; không ai đã bao giờ có khả năng

làm điều đó mãi cho tới giờ. Nếu bạn có thể làm được

điều đó, bạn sẽ làm điều gì đó lịch sử, điều gì đó chưa

từng được nghe tới, điều gì đó không thể nào hiểu được.

Bạn sẽ làm phép màu mà không vị phật nào đã từng có

khả năng làm được. Bạn không thể làm được điều đó;

điều đó là không thể được, điều đó không có trong bản

tính của mọi vật. Làm sao bạn có thể giữ được bóng tối,

nữa, với đèn đang cháy sáng trong phòng bạn? Bạn có

thể giữ bóng tối, thế thì bạn phải tắt đèn đi; bạn không

thể giữ chúng cả hai cùng nhau được, sự cùng tồn tại là

không thể được.

Nếu bạn khổ, điều đó đơn giản chỉ ra bạn đã không

hiểu tôn giáo là gì và bạn đã cố gắng cái gì đó khác nhân

danh tôn giáo. Bạn đã cố gắng là nhà đạo đức, nhà luân

lí. Bạn đã cố gắng tạo ra cá tính. Tại sao? Để làm gì?

Bởi vì cá tính được ca ngợi, bởi vì xã hội kính trọng cá

tính. Nó là trò bản ngã - rất tinh vi, nhưng trò bản ngã tất

cả đều là một.

Và bản ngã tạo ra khổ. Cái gọi là thánh nhân của

bạn tất cả đều khổ. Tôi đã bắt gặp hàng nghìn thánh

nhân của bạn - trong Hindu giáo, Jaina giáo, Phật giáo,

Mô ha mét giáo, Ki tô giáo - và họ tất cả đều khổ. Họ tất

cả đều hi vọng được thưởng sau cái chết.

Tôn giáo thực là ngay tức khắc: ở đây bạn trở nên ý

thức và ngay lập tức khổ biến mất. Bạn không cần chờ

đợi kiếp sống khác, thậm chí bạn không cần chờ đợi tới

ngày mai.

Và đó là điều Phật ngụ ý khi ông ấy nói: Chóng làm

việc thiện. Việc thiện nhất là có ý thức - bởi vì mọi việc

thiện khác đều được sinh ra từ nó. Có ý thức là cội

nguồn của mọi điều thiện, mọi đức hạnh.

****************************************************

#4Câu hỏi thứ ba:

Thưa thầy kính yêu,

Khi tôi nghe thầy nói về yêu và thiền, hay dục và

chết, nói chúng là hai mặt của cùng một năng

lượng, cái gì đó trong tôi biết nó là đúng. Nhưng,

mặc dầu bị hấp dẫn bởi cả hai khía cạnh, tôi cảm

thấy bản thân mình vẫn bị treo vào ý tưởng là tôi chỉ

có thể tiếp cận tới một phía vào mỗi lúc. Thực ra

liệu có cách để ở tại điểm gặp gỡ của các cực này

không nơi chúng có thể được cảm thấy như một?

Prem Asang, lúc bắt đầu bao giờ cũng phải từ một

phía, từ một mặt; lúc bắt đầu bạn không thể xoay xở đi

vào từ cả hai cửa được. Nếu ngôi đền có hai cửa bạn

không thể đồng thời đi vào từ cả hai cửa được.

Bạn sẽ xoay xở điều đó thế nào? Nhưng không có

nhu cầu đi vào từ hai cửa đồng thời; một cửa là đủ. Bằng

việc đi vào qua cửa này bạn đã đạt tới điện thờ bên

trong. Những người đã đi vào từ cửa kia, họ cũng đạt tới

cùng điện thờ bên trong. Sự gặp gỡ xảy ra trong kinh

nghiệm bên trong nhất.

Dù bạn đi vào từ yêu hay từ thiền không thành vấn

đề - bạn đạt tới cùng một điểm. Cùng một điểm của vô

ngã được đạt tới qua yêu và qua thiền. Cùng một điểm

tâm trí biến mất được đạt tới bằng yêu và bằng thiền, và

cùng một điểm của việc vượt ra ngoài thời gian được đạt

tới bằng cả hai. Kết quả tối thượng là một, cho nên bạn

không cần lo nghĩ.

Bạn không đi vào từ cả hai cửa. Nếu bạn cố gắng đi

vào từ cả hai cửa bạn sẽ không có khả năng đi vào thậm

chí từ một cửa, bởi vì bạn sẽ lấy một bước đi vào cửa

này, thế rồi bạn sẽ chạy xô sang cửa kia; bạn sẽ lấy một

bước đi vào cửa kia và bạn sẽ chạy xô lại để đi vào cửa

đầu. Và bạn sẽ cứ chạy giữa hai cửa này ở bên ngoài

đền. Nhưng đây là điều ngớ ngẩn, không cần!

Nếu một người đi vào từ cửa yêu mà bỏ lỡ cái gì đó

mà người đi vào từ cửa thiền thu được, hay ngược lại,

thế thì sẽ có vấn đề - nhưng họ cả hai đều đạt tới cùng

một điểm. Từ cả hai cực họ đều đi tới cùng chỗ giữa...

và điểm giữa đó là điểm của siêu việt.

Đừng lo rằng bạn chỉ có thể tiếp cận từ một phía

mỗi lúc. Bạn đạt tới điện thờ bên trong nhất, thế thì mọi

phía đều là của bạn. Yêu, và bạn sẽ biết thiền là gì;

thiền, và bạn sẽ biết yêu là gì.

Yêu là dành cho những người có năng lượng hướng

ngoại tự nhiên, còn thiền là dành cho những người có

năng lượng hướng nội tự nhiên. Thiền nghĩa là ở với bản

thân bạn trong vui vẻ vô cùng, tận hưởng sự một mình

của bạn. Yêu nghĩa là ở cùng với người khác, tận hưởng

sự cùng nhau. Thiền giống như chơi độc tấu sáo; yêu

giống như hai nhạc cụ cùng chơi với nhau trong nhịp

điệu sâu sắc - sáo với đàn tabla. Đó là jugalbandi - đó là

giao cảm giữa hai nhạc cụ đi cùng nhau tay trong tay,

nhảy múa cùng nhau.

Có những người sẽ thấy dễ dàng đi tới bản thân họ

qua người khác; đó là con đường dài hơn chút ít, yêu là

con đường dài hơn chút ít, nhớ lấy, nhưng đẹp mênh

mông, bởi vì trên đường có cây đẹp và hoa và chim.

Thiền là con đường ngắn nhất có thể có bởi vì bạn

không đi đâu cả; bạn đơn giản nhắm mắt lại và chìm sâu

vào trong bản thể riêng của mình - nơi bạn đã hiện hữu.

Yêu là đi tới bản thân bạn bằng người khác, qua

người khác; thiền là đi tới bản thân bạn một cách trực

tiếp, tức khắc. Nhưng điều đó có hơi khô khan bởi vì

không có đường - không có cây cối trên đường, không

chim chóc, không mặt trời lên, không mặt trời lặn,

không trăng, không sao. Nó có cái đẹp của riêng nó: cái

đẹp của sa mạc. Bạn đã từng tới sa mạc chưa? Cái im

lặng, im lặng vĩnh hằng của sa mạc... cát trải rộng tới

vĩnh hằng... sự thuần khiết, sự sạch sẽ. Vâng, đó là cái

đẹp của thiền.

Điều đó tuỳ thuộc vào bạn: có những người yêu sa

mạc. Nhiều nhà huyền môn Ki tô giáo đã đi ra sa mạc và

đã đạt tới Thượng đế trong sa mạc. Đi tới sa mạc chỉ là

biểu tượng của việc đi vào thiền.

Bạn phải quan sát bản thân mình, bất kì cái gì lôi

cuốn bạn. Trong xem xét tối thượng cả hai là một nhưng

trên đường cả hai lại khác - bài ca khác, âm nhạc khác,

hương vị khác. Nhưng mọi người là khác nhau.

Có hai kiểu người: nam tính và nữ tính. Kiểu nữ tính

sẽ thấy dễ dàng đi qua tình yêu. Và nhớ: với 'nữ tính' tôi

không ngụ ý nữ giới; đàn ông có thể có kiểu nữ tính.

Chaitanya có kiểu nữ tính, cũng giống như Meera;

không có khác biệt trong kiểu của họ. Meera là nữ,

Chaitanya là nam, nhưng kiểu của họ là một; cả hai đều

có kiểu nữ tính, cả hai đều đi qua tình yêu. Cả hai đều

cần Krishna; chỉ qua Krishna họ mới có thể đạt tới bản

thân mình.

Và theo cùng cách, với 'nam tính' tôi không ngụ ý

nam giới. Mahavira và nhà nữ huyền môn vĩ đại của

Kashmir, Lalla, cả hai đều đích xác là một - cả hai đều

có kiểu nam tính. Mahavira sống trần, Lalla cũng sống

trần. Bà ấy là nhà nữ huyền môn duy nhất đã sống trần.

Cả hai đều có cùng kiểu, kiểu thiền.

Kiểu nam sẽ thấy dễ đi trực tiếp vào bản thân mình

hơn; kiểu nữ sẽ thấy dễ đi qua người khác hơn. Không

kiểu nào cao hơn hay thấp hơn bởi vì cả hai đều đạt tới

cùng một nơi.

Cho nên, Asang này, quan sát, tìm ra kiểu riêng của

bạn đi, và đi theo tương ứng. Và đừng lo lắng rằng bạn

không thể xoay xở được cả hai mặt cùng nhau; chẳng ai

đã bao giờ làm được. Vâng, vài người đã thử, nhưng họ

tất cả đều thất bại; không ai đã bao giờ thành công.

Tất nhiên, có một cách... nếu bạn muốn biết cả hai

cách. Thế thì cách có thể duy nhất đã được Ramakrishna

thử: trước hết bạn đi vào mặt này, cửa này, đạt tới điện

thờ bên trong nhất, thế rồi quay lại và đi vào lần nữa từ

cửa kia. Điều đó là tốt khi có liên quan tới thực nghiệm

khoa học, chỉ để chắc chắn liệu người khác cũng đạt tới

cùng chỗ hay không. Ramakrishna đã thử mọi tôn giáo

có thể.

Và một khi bạn đã đạt tới điện thờ bên trong, mọi sự

đều dễ dàng hơn. Nếu bạn phải mất nhiều năm để đạt tới

từ cửa thứ nhất, từ cửa thứ hai sẽ chỉ mất vài ngày, bởi

vì thực ra bạn đã đạt tới đích rồi; bạn đơn giản thử cách

khác, liệu nó có đạt tới hay không.

Nếu bạn làm thực nghiệm nào đó kiểu như

Ramakrishna, Asang này, thế thì điều đó hoàn toàn

được. Nhưng thế nữa ngay cả Ramakrishna cũng không

thể đi vào hai cửa cùng lúc, đồng thời; điều đó là không

thể được. Trước hết bạn đi vào cửa này, đạt tới, kinh

nghiệm; thế rồi, nếu bạn quan tâm... Thực ra, chẳng ai

quan tâm nữa đâu. Tại sao? Để làm gì? Bạn đã đạt tới

rồi - và bạn có thể thấy mọi người đang tới từ cửa kia

nữa; không có nhu cầu cho bản thân bạn đi và thực

nghiệm.

Bạn sẽ gặp ở đó Meera và Mahavira, cả hai ngồi

cùng nhau. Bạn sẽ gặp ở đó Lão Tử và Krishna và

Mohammed và Christ ngồi cùng nhau... nhấm trà và tán

gẫu! Cái gì khác còn lại?

Nhưng nếu bạn quan tâm, nếu bạn muốn thực sự

truy tìm liệu đường khác cũng có đi tới cùng chỗ hay

không, bạn sẽ phải đi ra và đi qua con đường khác. Và

con đường khác bây giờ sẽ dễ dàng hơn bởi vì tâm thức

của bạn đã ở bên trong; chỉ thân thể bạn sẽ đi ra. Và bạn

có thể đi qua người khác và bạn có thể thấy...

Ramakrishna đã làm một thực nghiệm lớn lao: ông

ấy đã chứng minh, về mặt tồn tại, rằng mọi tôn giáo đều

bình đẳng. Điều đó đã được nói trước đây, nhưng không

ai đã chứng minh nó về mặt tồn tại; nó đã là suy luận

logic. Nhưng Ramakrishna đã đi, về mặt thực hành, vào

trong mọi phương pháp có thể và đạt đi đạt lại tới cùng

trạng thái.

Ramakrishna báo trước một viễn kiến mới,

Ramakrishna bắt đầu một pha mới. Sau Ramakrishna,

thực ra, không nên có nhiều tôn giáo thế - cho dù sự đa

dạng là đẹp, sự đối kháng nên biến mất; người Hindu

giáo không nên đánh người Mô ha mét giáo - bởi vì con

người này Ramakrishna đã đạt tới cùng kinh nghiệm từ

mọi tôn giáo.

Asang, nếu bạn quan tâm tới việc làm thực nghiệm

nào đó như Ramakrishna, thế thì điều đó là được; bằng

không sẽ không cần phải lo nghĩ. Đi vào từ một cửa và

bạn đã đi vào từ mọi cửa.

****************************************************

#4Câu hỏi thứ tư:

Thưa thầy kính yêu,

Khi thầy nói về điều thiện, điều ác và nghiệp kết quả

của chúng, thầy có nói rằng hành động có ý thức

mang phúc lạc cố hữu và hành động vô ý thức mang

đau đớn cố hữu, hay có cái gì đó hơn nữa cho nó?

Cũng vậy, liệu nó có tuân theo rằng mọi phúc lạc

đều là kết quả của ý thức và mọi đau khổ đều là kết

quả của vô ý thức không?

Prem Vidya, không có gì hơn cho nó đâu. Nó là hiện

tượng đơn giản: ý thức về bản chất là phúc lạc. Phúc lạc

không phải là kết quả; nó là có sẵn trong tâm thức rồi.

Nó không tới từ bên ngoài; nó nở hoa bên trong tâm

thức. Nó là hương thơm của việc nở hoa tâm thức. Khi

hoa hồng của tâm thức mở ra, hương thơm của nó là

phúc lạc.

Và khi bản thể bạn đóng trong vô ý thức, khí tanh và

chết đó, mùi hôi đó, bóng tối đó là khổ đấy. Điều đó nữa

cũng là bản chất, bởi vì bây giờ không khí trong lành

không thể chảy qua bạn được; cửa ra vào, cửa sổ của

bạn tất cả đều bị đóng lại rồi. Bây giờ tia sáng mặt trời

không thể vào tới bên trong bạn được. Bạn không sẵn có

cho mưa, cho gió, cho mặt trời. Bạn đã trở nên bị biệt

lập với sự tồn tại. Bạn đã trở thành một đơn tử, không

cửa sổ. Bạn đã trở nên bị bao bọc, hoàn toàn bị đóng kín

trong cái ngã riêng của mình, trong bản ngã riêng của

mình. Bạn đã ngắt bản thân mình khỏi sự tồn tại phúc

lạc, đẹp mênh mông này; do đó, có khổ. Nó không thực

là kết quả đâu; nó là bản thân vô ý thức, cái tên khác cho

nó.

Và mọi người đang sống một cách vô ý thức, nhưng

họ không thấy ra điều đó. Họ cứ nói họ đang sống trong

khổ và họ muốn không sống trong khổ, nhưng họ bao

giờ cũng đổ trách nhiệm lên cái gì đó khác, ai đó khác.

Hoặc đó là số mệnh hoặc đó là xã hội, cấu trúc kinh tế,

nhà nước, nhà thờ, vợ, chồng, mẹ - nhưng bao giờ cũng

là ai đó khác.

Tôn giáo bắt đầu trong cuộc sống của bạn khi bạn

nhận lấy trách nhiệm về bản thân mình. Nhận trách

nhiệm về khổ của bạn là bắt đầu của thay đổi, bởi vì

ngay cả chấp nhận rằng "Tôi chịu trách nhiệm về bất kì

cái gì tôi đang là," là bắt đầu của ý thức. Bạn đang thoát

ra khỏi trạng thái say sưa mà bạn đã sống hàng thế kỉ

trong đó.

Poteen là một loại rượu lậu Ai len có thể làm thủng

lỗ tấm kim loại. Sau khi uống nửa lít rượu này Flaherty

thấy nhiều con vật trong phòng mình tới mức anh ta đặt

một biển báo cho ngôi nhà của mình, Vườn bách thúc

của Flaherty.

Viên hạ sĩ cảnh sát địa phương tới để cãi lí với anh

ta và chẳng mấy chốc anh ta đã mời ông ấy uống một

cốc Mountain Dew. Khi viên cảnh sát loạng choạng

bước ra ba mươi phút sau đó, ông ta giơ tay lên để yêu

cầu im lặng mặc dù chẳng có ai cả. "Tất cả đều được

phải không các ngài. Điều tồi tệ nhất qua rồi. Anh ta đã

bán cho tôi nửa số voi."

Bạn đang sống trong trạng thái say mèm. Bạn không

cần rượu - rượu đang tuần hoàn trong máu bạn rồi. Ban

không cần marijuana, LSD, mescaline, không - bạn đã

bị nhồi đầy bằng nó rồi. Bạn được sinh ra vô ý thức!

Nhưng bởi vì mọi người khác đều giống bạn, bạn chưa

bao giờ nhận biết về điều đó.

Chỉ khi việc thức tỉnh bắt đầu xảy ra trong bạn, thế

thì bạn trở nên nhận biết, một cách tương đối, rằng mãi

cho tới giờ bạn đã sống trong một loại giấc ngủ nào đó,

rằng bạn đã từng là người vừa ngủ vừa đi, người mộng

du, rằng bất kì cái gì bạn đã làm cho tới giờ đều đã làm

một cách vô ý thức. Và bởi vì bạn đã làm mọi thứ một

cách vô ý thức và đi một cách mù quáng trong cuộc

sống, như mẩu gỗ trôi dạt, chẳng có cảm giác về chiều

hướng, chẳng có ý tưởng mình đang đi đâu, chẳng có ý

tưởng mình là ai, làm sao bạn có thể hi vọng phúc lạc

được? Bạn chỉ có thể khổ, nhiều hay ít.

Khi bạn ít khổ hơn một chút bạn gọi nó là hạnh

phúc. Nó không thực là hạnh phúc, nhưng ít khổ hơn

bình thường. Khi cái ít đó thành quá nhiều, bạn đi vào

đau khổ. Nhưng đây tất cả đều là mức độ khổ của bạn

thôi, lúc thì ít, lúc thì nhiều, nhưng bạn vẫn còn chưa

biết tới hạnh phúc. Vâng, bạn đã biết tới hoan lạc...

Hoan lạc là khi bạn quên mất khổ của bạn. Khổ vẫn

còn đó - bạn quên nỗi khổ của mình thôi. Bạn đi xem

phim, bạn trở nên bị tập trung vào phim, bạn trở nên

tham gia vào câu chuyện đó, tới mức bạn quên mất bản

thân mình, tới mức trong hai, ba giờ bạn cứ dường như

là không có đó. Nhưng bên ngoài rạp chiếu phim bạn trở

lại cái ta thường lệ của mình và cái khổ thường lệ của

mình.

Ngu xuẩn là ở chỗ bởi vì vô thức của bạn mà bạn

khổ, và khi bạn muốn tránh khổ của mình bạn uống

rượu để cho bạn có thể quên đi nỗi khổ. Chính bởi vì vô

ý thức mà bạn mới khổ; thế rồi bạn cố gắng trở nên vô ý

thức hơn để cho bạn không cần biết rằng bạn khổ. Theo

cách này bạn cứ đi ngày một sâu hơn vào trong vô ý

thức. Và những trạng thái này của cơn mê bạn coi là rất,

rất vĩ đại. Đây chỉ là những khoảng trống khi bạn trở

nên ngủ say, vô nhận biết toàn bộ tới mức bạn không thể

nhớ được rằng bạn đang khổ.

Và trong những trạng thái vô ý thức này, do hoá

chất tạo ra, bạn có thể tin rằng bạn đang có hạnh phúc

nào đó, bạn có thể tưởng tượng; điều đó tất cả phụ thuộc

vào tưởng tượng của bạn. Nhiều người đã thực nghiệm

với LSD - cảm giác phiêu diêu bay bổng nhất có được từ

trước cho tới nay. Và kết quả của nhiều thực nghiệm là

ở chỗ những người đang hi vọng rằng họ sẽ đạt tới phúc

lạc lớn lao đi tới báo cáo họ đã đạt tới thiên đường và họ

thấy các thiên thần và ánh sáng và mầu sắc và những

kinh nghiệm có tính thơ ca tuyệt vời. Và những người đi

vào thực nghiệm với ý tưởng rằng điều này là sai, rằng

điều này không thể cho phúc lạc được, rằng điều này

nhất định cho khổ, quay lại báo cáo rằng họ đã ở trong

địa ngục và họ đã khổ quá chừng - họ đã chịu ngọn lửa

địa ngục.

Lí do thật rõ ràng: bất kì cái gì bạn tưởng tượng đều

bắt đầu có vẻ thật dưới tác dụng của LSD. Nếu bạn

chống lại nó, nếu bạn tin rằng nó là ác, bạn sẽ bắt gặp

quỉ. Nó đơn giản khuếch đại tưởng tượng của bạn, dù

tưởng tượng là bất kì cái gì. Nếu nó là đen tối, thế thì

bạn rơi vào lỗ đen.

Nếu nó là đẹp thế thì, giống như Aldous Huxley, bởi

vì ông ấy tin rằng LSD là khám phá tôn giáo mới nhất,

rằng LSD có thể đưa mọi người tới cực lạc, tới

samadhi.... Điều Buddha đã đạt tới sau sáu năm và

Mahavira đạt tới sau mười hai năm, và Kabir và Nanak

vân vân, sau nhiều năm vật lộn với vô ý thức để trở nên

có ý thức, có thể được đạt tới qua LSD rất dễ dàng – chỉ

phải dùng một lượng LSD rất nhỏ thôi.

Ông ấy đã tin rằng sớm hay muộn chúng ta sẽ tinh

luyện LSD ngày một nhiều hơn và chúng ta sẽ tạo ra

trạng thái phiêu diêu tối thượng mà ông ấy gọi là soma,

trong việc nhớ lại Vedas cổ - bởi vì trong Vedas người

ta nói rằng các nhà tiên tri hay uống nước cam lồ nào đó

có tên là soma raso, và nước cam lồ đó bắc cầu cho họ

tới Thượng đế. Huxley nói trong tương lai sự phiêu diêu

tối thượng sẽ là soma. Bạn có thể tự tiêm nó vào thân

thể mình và bạn sẽ được mang tới thiên đường.

Bây giờ mọi điều này là cực kì ngu xuẩn! Điều này

tất cả đều vô nghĩa. Nhưng Huxley là người chân thành.

Điều ông ấy nói là không giả dối; ông ấy đã kinh

nghiệm nó qua LSD, bởi vì ông ấy đã tin vào nó. Chính

niềm tin của ông ấy được phóng chiếu lên, chính tưởng

tượng của ông ấy được khuếch đại lên.

Một người khác có cùng sự thành thực đó, Rahner,

người chống lại LSD và chống lại mọi nếm trải phiêu

diêu, đã đi tới với báo cáo đối lập: rằng LSD đưa bạn tới

địa ngục, rằng nó tống bạn vào ngọn lửa địa ngục, rằng

nó tạo ra những tra tấn tới mức bạn không thể tưởng

tượng nổi – ngay cả Adolf Hitler cũng không thể mơ

được về chúng. Và ông ấy cũng thành thực. Cả hai đều

đúng bởi vì cả hai đều bị tâm trí riêng của mình lừa dối.

Con người đã vô ý thức rồi; bây giờ những người

này đang cố gắng làm cho mình thậm chí còn vô ý thức

hơn, cứ dường như ngần ấy vô ý thức vẫn còn chưa đủ!

Vidya này, khi có liên quan tới chư phật, khi có liên

quan tới tôi, tâm thức không thể nào được đạt tới bằng

bất kì hoá chất nào. Vô ý thức có thể được hoá chất tạo

ta, bởi vì vô ý thức là hiện tượng rất thô, thấp hơn. Ý

thức là đỉnh cao nhất của sự trưởng thành, của việc mở

ra, của việc đi về nhà; điều đó không thể có được qua

hoá chất. Nó là có thể chỉ nếu bạn cứ mài sắc thêm

thông minh của mình; nếu bạn cứ làm việc trên linh hồn

chứng kiến của mình; nếu bạn ngày càng trở thành nhân

chứng cho mọi điều bạn làm, cho mọi điều bạn nghĩ,

cho mọi điều bạn cảm. Nếu bạn khổ - như mọi người

đều khổ - thế thì nhớ lấy, điều đó đơn giản chỉ ra bạn vô

ý thức.

Đừng tranh đấu với khổ; điều đó sẽ chẳng ích gì.

Bạn có thể đẩy khổ từ chỗ này sang chỗ nọ; nó sẽ vẫn

còn đấy. Đừng đẩy trách nhiệm lên người khác. Đừng

nói, "Bởi vì vợ này mà mình khổ; nếu mình đổi vợ mình

sẽ không khổ." Bạn có thể cứ đổi - chẳng người đàn bà

nào trên thế giới này sẽ làm cho bạn phúc lạc đâu. Nếu

bạn nghĩ, "Chồng này là nguyên nhân của khổ của

mình," bạn có thể thay đổi...

Ở Mĩ mọi người đều thay đổi rất nhanh chóng,

nhưng khổ đang phát triển, không giảm đi. Bạn có thể

đếm nỗi khổ của một người bằng việc biết bao nhiêu lần

người đó đã trải qua li dị. Càng nhiều li dị người đó

càng trở nên khổ hơn, bởi vì càng nhiều li dị, người đó

càng trở nên vô vọng hơn.

Ở một nước như Ấn Độ bạn có thể hi vọng. Bạn

không thể li dị dễ dàng được; phần lớn đất nước thậm

chí không thể quan niệm được về li dị. Cách thức duy

nhất để gạt bỏ vợ bạn là hi vọng vào kiếp sống khác -

ngay cả thế người ta cũng chẳng bao giờ biết! Bạn có

thể trở nên bị móc vào lẫn nhau nhiều tới mức ở kiếp

khác bạn cũng có thể tiếp tục. Và đặc biệt đàn bà cứ cầu

nguyện trong các đền chùa, "Xin cho con cùng người

chồng đó nữa – trong hàng trăm kiếp sống!" Và nếu lời

cầu nguyện của họ mà được đáp ứng thế thì chẳng có hi

vọng nào. Nhưng ít nhất người ta có thể trì hoãn: "Sau

cái chết... Kiếp này bị kết thúc rồi, chẳng thể làm được

gì cả. Bây giờ người đàn bà này hay người đàn ông này

là số phận của mình." Cho nên chấp nhận điều đó đi và

tự an ủi mình. Vẫn còn bằng lòng. Hi vọng điều tốt nhất

và trông đợi điều tồi nhất!

Nhưng ở Ấn Độ mọi người dường như thoải mái

hơn bởi vì họ biết: "Người đàn bà này đang tạo ra rắc

rối." Ít nhất điều này cũng là an ủi lớn: "Người đàn ông

này đang tạo ra rắc rối." Nhưng ở Mĩ ngay cả hi vọng đó

cũng là không thể được – mọi người đã đổi chồng và vợ

nhiều lần thế.

Tôi đã nghe:

Một người đàn ông và một người đàn bà đang ngồi

ăn sáng và con họ chơi trong vườn – và thế rồi đánh

nhau bùng ra giữa lũ trẻ.

Người vợ nói, "Trông kìa! Con anh và con em đã

hợp thành nhóm và chúng đang đánh con chúng ta!"

Một cậu bé, người nhỏ nhắn, đang ba hoa về bố nó,

và nó nói, "Bố tao là người bố vĩ đại nhất có thể có."

Đứa bé khác nói, "Thế chưa là gì cả! Ông ấy đã từng

là bố tao trước đây. Tao biết ông ấy - chúng tao đã đuổi

ông ấy đi. Ông ấy kiểu cổ rồi, lạc hậu rồi; mày đã kiếm

được ông bố dùng lại!"

Tôi đã nghe nói về một người đã đổi vợ đến tám lần,

cứ hi vọng rằng lần này mình sẽ tìm thấy người đàn bà

tốt hơn, người sẽ không tạo ra khổ, nhưng mỗi lần anh ta

đều ngạc nhiên mà biết rằng mình đã tìm thấy cùng loại

đàn bà đó lặp đi lặp lại.

Thực ra, nếu người chọn vẫn như cũ làm sao bạn có

thể chọn cái gì đó khác được? Bạn rơi vào tình yêu với

cùng loại đàn bà lặp đi lặp lại, bởi vì bạn vẫn còn như

cũ. Trạng thái có ý thức hay vô ý thức của bạn vẫn như

cũ, tâm trí bạn vẫn như cũ. Ai sẽ chọn? Bạn rơi vào tình

yêu với loại đàn bà nào đó - người bước đi theo cách

này, người có cái loại mũi nào đó và có loại tiếng nói

nào đó và khuôn mặt thân hình nào đó. Một kiểu đàn bà

nào đó - một kiểu tâm lí nào đó cô ấy có - và bạn trở nên

bị hấp dẫn tới cô ấy. Khi bạn lại gần hơn và sống cùng

nhau bạn thấy khổ. Bạn li dị. Bạn lại bắt đầu nhìn.

Nhưng bạn vẫn là cùng con người đó - bạn sẽ lại tìm

thấy cùng loại đàn bà. Làm sao bạn có thể tìm thấy loại

đàn bà khác được? Bạn sẽ không quan tâm tới loại khác

đâu. Cùng loại đàn bà đó sẽ hấp dẫn bạn, sẽ làm bạn mê

say, và bạn sẽ lại vào trong cùng cái bẫy. Chỉ cái tên

thay đổi thôi, cái bẫy vẫn còn như cũ.

Đừng đổ trách nhiệm lên người khác; đó là điều giữ

cho bạn khổ đấy. Nhận lấy trách nhiệm về phần mình đi.

Bao giờ cũng nhớ, "Mình chịu trách nhiệm cho cuộc đời

mình. Không ai khác chịu trách nhiệm cả. Cho nên nếu

mình khổ thế thì mình phải nhìn vào tâm thức riêng của

mình; cái gì đó là sai với mình, do đó mình tạo ra khổ

quanh mình."

Đây là sự bắt đầu, sự bắt đầu lớn lao, hạt mầm đầu

tiên của biến chuyển. Bạn đang trở nên có ý thức nếu

bạn nhận trách nhiệm lên đôi vai riêng của mình. Bạn đã

trở nên có ý thức; tia sáng đầu tiên đã xảy ra.

Vâng, Vidya: ý thức mang bản chất phúc lạc còn vô

ý thức mang bản chất khổ. Không có gì nhiều hơn điều

đó; điều đó rất đơn giản.

Luật của cuộc sống bao giờ cũng rất đơn giản. Chân

lí bao giờ cũng rất đơn giản. Chân lí không huyền bí,

chân lí không bí truyền. Chân lí rất hiển nhiên - và bởi

vì nó rất hiển nhiên, đó là lí do tại sao mọi người không

thấy nó. Mọi người cứ bỏ lỡ điều hiển nhiên, mọi người

cứ bỏ lỡ điều đơn giản, bởi vì họ nghĩ chân lí phải rất

phức tạp. Do đó họ cứ đi tìm cái gì đó phức tạp - và

chân lí không phức tạp. Họ cứ nhìn ra xa xăm - và chân

lí lại ở rất cận kề bên cạnh. Họ cứ nhìn vào những điều

bí ẩn, vào những giáo lí huyền môn, huyền bí, bí truyền.

Và có những người cứ khai thác bởi vì họ biết có

những người không thể được thoả mãn bởi chân lí đơn

giản. Họ viết rác rưởi nhưng theo cách mà nó có vẻ rất

huyền diệu. Họ viết theo cách bạn không thể nào hiểu

thực sự được điều họ đang viết. Và mọi người nghĩ rằng

nếu họ không thể hiểu được thế thì phải có bí ẩn lớn lao

nào đó trong nó.

Chân lí là rất đơn giản, và bởi vì nó rất đơn giản nên

bạn không nhìn vào nó. Bạn sẽ phải học, bạn sẽ phải trở

nên nhận biết, về tính đơn giản và hiển nhiên của chân

lí. Không có gì nhiều hơn cho nó. Nó đơn giản là thế

này: ý thức là phúc lạc, vô ý thức là khổ.

****************************************************

#4Câu hỏi cuối cùng:

Thưa thầy kính yêu,

Thầy nghĩ gì về chủ nghĩa cộng sản?

Raja, tôi không nghĩ về những điều như thế - thực

ra, tôi không nghĩ chút nào! Tôi chắc chắn quan tâm tới

công xã, nhưng không quan tâm tới chủ nghĩa cộng sản.

Khoảnh khắc cái gì đó trở thành "chủ nghĩa" nó trở

thành nguy hiểm. Quan niệm về công xã là hay: mọi

người sống cùng nhau theo cách không sở hữu, không

sở hữu đồ vật cũng không sở hữu con người; mọi người

sống cùng nhau, sáng tạo cùng nhau, mở hội cùng nhau,

và vẫn cho phép nhau có không gian riêng; mọi người

sáng tạo ra bầu không khí thiền nào đó, bầu không khí

yêu, và sống trong bầu không khí đó.

Tôi chắc chắn quan tâm tới ý niệm về công xã - nó

đơn giản nghĩa là nơi việc giao cảm là có thể. Trong thế

giới này không thể có giao cảm được. Ngay cả trao đổi

cũng không thể có, nói gì tới giao cảm! Trao đổi nghĩa

là đối thoại giữa hai tâm trí - ngay cả điều đó cũng

không có thể được - còn giao cảm nghĩa là gặp gỡ của

hai trái tim. Nơi giao cảm là có thể, có công xã.

Quan niệm về gia đình bây giờ bị mục ruỗng rồi. Nó

đã có tác dụng, nó đã làm xong công việc của nó, nó đã

kết thúc. Không có tương lai cho gia đình. Thực ra, gia

đình đã là một trong những nguyên nhân của thảm hoạ.

Gia đình làm cho bạn bị đồng nhất với một nhóm rất

nhỏ - mẹ, bố, anh, chị, em - một nhóm rất nhỏ trở thành

toàn thể thế giới của bạn. Con người cần trưởng thành

đa dạng hơn.

Công xã nghĩa là đa dạng hơn: không chỉ bố bạn mà

nhiều bác, không chỉ mẹ bạn mà nhiều cô. Công xã

nghĩa là trẻ em sẽ có nhiều người hơn để học, nhiều

người hơn để yêu, nhiều người hơn để trở nên quen

thuộc. Chúng sẽ trở nên giầu có hơn.

Các nhà tâm lí nói rằng khi đứa trẻ sống với mẹ và

bố, đơn vị nhỏ của gia đình, nó biết người mẹ là đại diện

của mọi tính đàn bà và người bố là đại diện của mọi tính

đàn ông - điều này là sai, hoàn toàn sai. Bố nó không đại

diện cho mọi kiểu và mẹ nó không đại diện cho mọi

kiểu. Và nó dần dần trở nên bị hội tụ vào người mẹ;

người mẹ trở thành hoá thân của tính đàn bà.

Bây giờ sẽ có rắc rối! Toàn thể cuộc sống của nó sẽ

đi tìm người mẹ nó trong vợ nó và nó sẽ không thấy

người đó - và điều đó tạo ra khổ. Không người vợ nào sẽ

là mẹ của nó, và điều đó sẽ là tìm kiếm sâu sắc của nó,

tìm kiếm vô ý thức, bởi vì nó chỉ biết một người đàn bà.

Đó là ý niệm của nó về người đàn bà thực, về đàn bà

phải thế nào. Và con gái bao giờ cũng đi tìm người bố,

và không người chồng nào sẽ là bố cho cô ta.

Sự cố định này đang tạo ra căng thẳng và lo âu tâm

lí lớn trên thế giới. Công xã nghĩa là bạn sẽ không bị cố

định nhiều thế. Bạn nhìn cậu bé Siddhartha của chúng

ta! Nhiều ngày nó biến mất khỏi người mẹ; nó sống

cùng các sannyasin khác trong nhiều ngày. Nó có nhiều

bạn, những người bạn người lớn; đàn bà, đàn ông. Nó

quay lại đạo tràng rất muộn ban đêm - hai giờ. Bận rộn

thế! Laxmi đã gọi nó và hỏi nó, "Siddhartha, thế này thì

quá lắm - hai giờ sáng! Con phải về trước mười một

giờ."

Nó nói, "Đây là qui tắc cho con hay cho tất cả? Qui

tắc này áp dụng cho cả người lớn nữa chứ?"

Bây giờ, đây là trưởng thành! Nó đang trở thành

người lớn! Và nó nói, "Vài ngày con phải ở với người

khác nữa - họ mời con!" Bây giờ nó đang sống với nhiều

gia đình. Nó sẽ trở nên nhận biết rằng mẹ nó không phải

là người đàn bà duy nhất trên thế giới; có nhiều người

đàn bà khác. Nó sẽ trở nên quen thuộc với nhiều khía

cạnh của tính đàn bà. Ý tưởng của nó về đàn bà sẽ

phong phú hơn, và có nhiều khả năng hơn là nó sẽ được

hài lòng với người vợ hơn là khác thế. Nó biết nhiều chú

bác và nhiều bố. Cái nhìn của nó về đàn ông không

tuyến tính, đó là đa chiều; nhất định là đa chiều.

Tôi quan tâm tới ý niệm về công xã bởi vì công xã

sẽ giúp cho mọi người gạt bỏ đi nhiều khó chịu tâm lí

mà sự giáo dục của chúng ta đã trao cho chúng ta. Việc

giáo dưỡng mục nát thế, cổ hủ thế! Trong năm nghìn

năm đã chẳng có thay đổi gì. Mọi thứ khác đã thay đổi -

từ xe bò kéo chúng ta đã đi tới máy bay phản lực -

nhưng khi có liên quan tới cuộc sống con người cùng

gia đình mục nát đó vẫn còn lại. Với con người chúng ta

rất chính thống; do đó chúng ta có máy móc tốt hơn

nhưng không có con người tốt hơn. Chúng ta có mọi thứ

tốt hơn - chỉ con người là không tốt hơn; và lí do là ở

chỗ về con người chúng ta rất chính thống và qui ước.

Công xã sẽ thay đổi ý niệm về gia đình; nó sẽ làm

cho gia đình rất linh hoạt.

Mới vài ngày trước đây, Bipin tới từ Mĩ và anh ấy

nói, "Kì lạ thật! - sau mỗi một năm tôi tới và mọi đôi đã

đổi hết! Mà tôi hay nghĩ tới vài đôi bền vững - chẳng

hạn, Satya và Chaitanya, Sheela và Chinmaya. Ngay cả

những đôi mà tôi nghĩ là sẽ còn bền vững, ngay cả họ

cũng không còn đó nữa! Những tổ hợp người mới đã

xảy ra." Anh ấy hỏi, "Thầy kính yêu của chúng ta đang

làm gì vậy?"

Tôi chẳng làm gì cả - đây không phải là việc của tôi!

Điều này nhất định xảy ra trong công xã. Mọi người sẽ

trở nên linh động hơn, sẵn có hơn cho nhau, thương yêu

hơn, có quan hệ hơn, ít sở hữu hơn.

Tôi chắc chắn quan tâm tới ý niệm về công xã,

nhưng không quan tâm tới chủ nghĩa cộng sản. Chủ

nghĩa cộng sản là xấu. Chủ nghĩa cộng sản là bệnh dịch

lớn. Nó biến khỏi thế giới càng sớm càng tốt. Nó đã phá

huỷ những giá trị lớn lao - giá trị lớn lao nhất của tự do

đã bị phá huỷ. Và chủ nghĩa cộng sản là phản tôn giáo.

Nếu chủ nghĩa cộng sản tiếp diễn, không có hi vọng

về chư phật được sinh ra; nó sẽ không cho phép điều đó.

Nếu Phật Gautam được sinh ra ở nước Nga Xô viết ông

ấy sẽ bị buộc phải sống trong nhà thương điên. Đây

không phải là triển vọng tốt! Ngay cả Jesus Christ sẽ

thấy mình gặp khó khăn hơn. Họ sẽ không đóng đinh

ông ấy đâu, chắc chắn không, nhưng họ sẽ đẩy ông ấy

vào nhà thương điên. Ông ấy sẽ bị tuyên bố là thần kinh

hay tâm thần bởi vì ông ấy nghe thấy tiếng nói; ông ấy

nói với quỉ và Thượng đế. Điều này là bệnh thần kinh,

điều này tuyệt đối là người điên! Ông ấy sẽ bị cho sốc

điện, nhớ lấy, không bị đóng đinh thêm nữa đâu.

Nếu Jesus lập kế hoạch quay lại tôi muốn ông ấy

nhận biết về tình huống này. Lần này họ sẽ không giết

bạn đâu, họ sẽ để cho bạn sống, nhưng họ sẽ tiêm hoá

chất vào bạn, họ sẽ cho bạn sốc điện, sốc insulin, và nếu

bạn vẫn còn nguy hiểm thì họ sẽ cho bạn thuốc ngủ, họ

sẽ làm cho bạn rất, rất buồn ngủ. Họ có thể buộc bạn

sống gần như trong cơn mê, sống thực vật, điều còn xấu

hơn nhiều việc đóng đinh một người.

Khi bạn đóng đinh một người bạn không thể làm bẽ

mặt người đó được. Người đó có thể vẫn giữ lòng tự hào

của mình, người đó có thể vẫn giữ đầu ngẩng cao:

"Được rồi, các ông đóng đinh ta, vậy các ông đóng đinh

ta đi - nhưng các ông không buộc được ta phải thay đổi

tâm linh của ta hay ý niệm của ta hay viễn kiến cuộc

sống của ta đâu. Ta sẵn sàng hi sinh đấy."

Người ta có thể chết với chân giá trị - Socrates chết

với chân giá trị, Jesus chết với chân giá trị - nhưng ở

nước Nga Xô viết, nếu Socrates được sinh ra, hay Jesus,

hay Phật, không chân giá trị nào sẽ sẵn có. Thực ra

không ai đã bao giờ nghe nói về họ. Họ sẽ bị buộc phải

sống trong nhà thương điên. Bác sĩ sẽ chăm sóc học, và

không ai sẽ bao giờ nghe tới điều họ muốn nói, thông

điệp của họ là gì.

Hai công nhân Nga đang đi cạnh nhau. Đầu họ cúi

gằm và mặt họ đều buồn bã và u sầu. Họ chẳng nói với

nhau. Bỗng nhiên một trong những người Nga nhổ một

bãi xuống đất và người kia lập tức làm hệt như thế. "Thế

là đủ!" người này nói với người kia. "Nếu chúng ta tiếp

tục, họ sẽ nghĩ chúng ta đang thảo luận chính trị."

Tôi đã nghe một câu chuyện khác:

Ở Nga những người cộng sản đã chỉ đạo một cuộc

thanh trừng. Một bà già tinh quái bị đem tới trước viên

cảnh sát trưởng. "Bà đã trong đảng," viên cảnh sát

trưởng hỏi, "được bao lâu rồi?"

"Nhiều năm rồi, đồng chí cảnh sát trưởng ạ."

"Thế bố của bà?"

"À, ông ấy cũng là đảng viên, mà ông nội tôi và cụ

tôi cũng là đảng viên đấy."

"Này nghe đây," viên cảnh sát trưởng nói một cách

hoài nghi, "vào những ngày đó làm gì đã có đảng."

"À, điều đó đâu có tạo ra khác biệt gì," bà già tinh

quái nói. "Đằng nào thì chúng tôi cũng vẫn ăn cắp!"

Chủ nghĩa cộng sản là câu chuyện về trạng thái bạo

hành, ép buộc. Nó đang biến đổi toàn thể đất nước thành

trại tập trung. Nó không cho phép mọi người có tự do

nào được là chính mình; nó thu họ thành con số. Nó phá

huỷ tính cá nhân - còn tôi ủng hộ tất cả cho tính cá nhân

và tự do của cá nhân, bởi vì nếu tự do của cá nhân biến

mất, thế thì không có khả năng nào truy tìm vào thực tại

của Thượng đế. Và đó là toàn thể mục đích của cuộc

sống.

Định mệnh thực của cuộc sống chỉ có thể được hoàn

thành khi bạn biết rằng Thượng đế hiện hữu, bên trong

và bên ngoài. Ngài là tâm thức của bạn và ngài là vũ trụ

này.

Tôi chống lại chủ nghĩa cộng sản, nhưng tôi ủng hộ

tất cả cho công xã.

Đủ cho hôm nay.

***********************************************************************************************************

#5 Bụi ngược gió

**Như lái buôn giầu với vài người hầu

tránh xa con đường nguy hiểm

và người yêu cuộc sống tránh xa chất độc,

cảnh giác với nguy hiểm của điên rồ và điều ác.

Với tay không bị thương có thể động tới chất độc.

Người hồn nhiên tới không gây hại.

Nhưng khi bụi bị tung ngược gió,

điều ác bị thổi ngược vào mặt

của người ngu, người làm sai điều thuần khiết và vô

hại.

Một số người được tái sinh trong địa ngục,

một số trong thế giới này,

người tốt ở trên trời.

Nhưng người thuần khiết không được sinh chút nào.

Không ở đâu cả!

không trên trời,

không giữa biển,

không sâu trong núi,

Ông có thể trốn đâu khỏi điều ác của riêng mình.

Không trên trời,

không giữa biển,

không sâu trong núi,

không ở đâu cả

Ông có thể trốn đâu khỏi cái chết của riêng mình.**

Cuộc sống không được cho dưới dạng làm sẵn - ít

nhất cũng không cho nhân loại. Đó là chân giá trị của

con người, và cũng là nguy hiểm nữa. Mọi con vật được

sinh ra đều được làm sẵn, được lập trình trước. Toàn bộ

cuộc sống của chúng là việc trải ra đơn giản của cái gì

đó có sẵn đấy. Chúng không cần sống cuộc sống của

chúng một cách có ý thức; cuộc sống của chúng là vô ý

thức, nó có tính máy móc. Nó không thể là tốt, nó không

thể là xấu; nó đơn giản có đấy. Bạn không thể gọi cây là

tội nhân hay thánh nhân, và bạn không thể gọi con hổ

hay con mèo là đức hạnh hay đầy truỵ lạc. Những từ đó

là vô nghĩa khi có liên quan tới sự tồn tại thấp hơn nhân

loại. Chúng trở thành có ý nghĩa vô cùng khi nói tới con

người.

Con người có tình huống đặc biệt. Con người được

sinh ra giống như mọi con vật khác, nhưng với một khác

biệt - khác biệt mà thực sự tạo ra khác biệt. Khác biệt

này có giá trị vô cùng để hiểu, bởi vì người ta có thể cứ

né tránh nó và né tránh nó là né tránh cuộc sống thực

của bạn. Có mọi khả năng vẫn còn bị lãng quên về nó,

bởi vì dường như thuận tiện và thoải mái hơn là không

được nhắc nhở gì về nó. Được nhắc nhở tới nó nghĩa là

một thách thức lớn: thách thức phiêu lưu vào cái không

biết, vào cái không được lập trình trước.

Thượng đế không phải là một khả năng sẵn có; nó là

một cơ hội để mở. Nó có thể xảy ra, nó có thể không

xảy ra. Tất cả đều tùy thuộc vào bạn - cách bạn sống,

phụ thuộc việc bạn đem bao nhiêu ý thức vào cuộc sống

của mình, bạn trở nên không máy móc thế nào.

Hàng triệu người không muốn được nhắc tới chiều

hướng này chút nào; do đó mới có đối kháng của họ với

Phật, Christ, Socrates. Những người này - Phật, Christ,

Socrates - chọc giận bạn, họ không cho phép bạn ngủ

một cách thoải mái. Họ cứ đem đi đem lại vấn đề này

vào nhận biết của bạn rằng đây không phải cách sống

đúng, rằng bạn đang bỏ phí hoài cuộc sống. Đây không

phải là cuộc sống con người mà bạn đang sống, đây là

cuộc sống con vật.

Và thỉnh thoảng bạn có thể còn rơi xuống thậm chí

dưới con vật. Không con vật nào có thể trở thành một

Genghis Khan hay Adolf Hitler hay Joseph Stalin, bởi vì

con vật không có chọn lựa. Chúng không thể trở thành

chư Phật, chúng cũng không thể trở thành các Genghis

Khan. Chúng vẫn còn là bất kì cái gì chúng đang là;

chúng không thể đi bất kì đâu khác. Chúng có cuộc sống

đã được thu xếp; chúng sẽ đơn giản đi theo tiến trình

này.

Cuộc sống của chúng giống như bộ phim: khi bạn

xem nó lần đầu bạn quan tâm lắm, tò mò điều gì sẽ xảy

ra tiếp sau nhưng thực ra, chẳng cái gì sẽ xảy ra cả - bộ

phim đã được lập trình trước. Lần sau bạn không cảm

thấy quan tâm thế bởi vì bạn đã biết điều sẽ xảy ra tiếp

đó. Lần thứ ba bạn chán, và nếu bạn bị buộc phải xem

nó lần thứ tư bạn sẽ nổi loạn, và nếu bạn phải xem nó

lần thứ năm bạn có thể phát điên. Cùng bộ phim ấy...

Bởi vì bây giờ bạn biết mọi thứ đã có đó rồi, chẳng cái

gì xảy ra cả; bộ phim đơn giản lặp lại tiến trình nào đó.

Con vật cũng giống như bộ phim - đã làm sẵn, trải

dần ra bất kì cái gì được làm sẵn. Con người sống trong

thế giới của chọn lựa; do đó con người phải quyết định

mình muốn sống cuộc sống nào. Con người có thể rơi

xuống thấp dưới con vật, con người có thể vươn cao trên

thiên thần. Con người có thể tồn tại một cách ngẫu nhiên

hay con người có thể tồn tại với tính quyết định.

Chính là qua tính quyết định mà linh hồn được sinh

ra. Nếu bạn tồn tại một cách ngẫu nhiên, như mẩu gỗ

trôi dạt, bạn sống mà không có linh hồn; cuộc sống của

bạn không mấy là cuộc sống đâu. Nó là giả, nó hờ hững;

nó không có sự mãnh liệt; nó không có ngọn lửa; nó

không có ánh sáng. Bạn không thể kinh nghiệm được

chân lí. Sống một cách ngẫu nhiên, biết chân lí là điều

không thể được. Người ta phải có tính quyết định, tính

cam kết, tham gia một cách có ý thức vào cuộc sống, có

tính phiêu lưu mãnh liệt tới mức tất cả đều lâm nguy

mọi khoảnh khắc. Người ta phải có tính sáng tạo -

không chỉ trải ra, mà có tính sáng tạo.

Đây là quyền tập ấm của con người, đặc quyền của

con người và cũng là nguy hiểm của con người. Rất ít

người sẽ chọn cuộc sống của chọn lựa, cam kết, tham

gia, bởi vì nó là nguy hiểm, bởi vì biển cả còn chưa

được thăm dò và bạn không có bản đồ nào. Bạn có một

con thuyền rất nhỏ còn biển là rất bão tố và ai biết liệu

bờ bên kia có tồn tại hay không? Sao lại bỏ nơi trú ngụ

trên bờ bên này? Vẫn còn ở đây đi.

Phật nói hàng triệu người đơn giản lên lên xuống

xuống ở bờ bên này, chạy lăng xăng đây đó, chỉ tạo ra

cái vẻ dường như cuộc sống của họ là cuộc hành hương

- và họ đơn giản chạy đôn chạy đáo trên cùng bờ. Nó

không phải là cuộc hành hương; nó đơn thuần là bận

rộn, lừa người khác và tự lừa mình.

Cuộc hành hương bắt đầu khi bạn rời bỏ bờ bên này,

chỗ trú ngụ này, an ninh của nó, thuận tiện của nó, thoải

mái của nó, sự kính trọng của nó, quyền lực, danh vọng.

Bạn bỏ lại con thuyền nhỏ của mình phó mặc cho bão

tố, phó mặc cho đại dương, tin cậy rằng nếu bờ bên này

tồn tại, bờ bên kia phải tồn tại, bởi vì một bờ không thể

tồn tại được...

Với tin cậy này - đi tới bờ bên kia, mạo hiểm tất cả -

cuộc sống thực bắt đầu. Và cuộc sống thực là cuộc sống

tôn giáo. Cuộc sống thực là điều tôi ngụ ý bởi tính chất

sannyas. Cuộc sống được sống một cách có ý thức là

cuộc sống duy nhất; cuộc sống được sống một cách vô ý

thức đơn thuần là tồn tại. Con vật chỉ tồn tại, chúng

không sống; chỉ con người mới có thể sống. Nhưng mọi

người đều không sống; chỉ vài chư phật, vài người thức

tỉnh mới sống thôi.

Trở nên tỉnh táo về điều bạn đang làm với cuộc sống

của bạn đi. Bạn có thực di chuyển một cách có ý thức

không, với cảm giác về phương hướng - lấy từng bước

đi một cách có chủ ý, trong nhận biết đầy đủ về tại sao,

tới đâu? Hay bạn chỉ bắt chước người khác? Nếu họ

chạy, bạn chạy; nếu họ theo đuổi tiền, bạn theo đuổi

tiền; nếu họ theo đuổi quyền, bạn theo đuổi quyền. Bạn

có là kẻ bắt chước không? Thế thì cuộc sống của bạn sẽ

là sự bắt chước. Bạn có đơn giản theo người khác

không? Thế thì cuộc sống của bạn sẽ là bản sao giấy

than thôi. Bạn sẽ chẳng bao giờ biết tới khuôn mặt

nguyên thuỷ của mình.

Và khuôn mặt nguyên thuỷ của bạn là khuôn mặt

của Thượng đế. Nhưng khuôn mặt nguyên thuỷ đó phải

được khám phá ra bằng nỗ lực vô cùng. Với hiểm nguy

lớn lao người ta có thể hiện thực hoá điều chỉ là hạt

mầm trong bạn, người ta có thể làm thành thực tại điều

chỉ là tiềm năng. Và thế thì con người là vô hạn; bằng

không con người là rất nhỏ bé, xấu xí.

Cuộc sống được sống một cách vô ý thức không thể

đẹp được, cuộc sống được sống một cách vô ý thức

không thể có tự do được. Và không có tự do, làm sao có

thể có cái đẹp nào được? Cái đẹp là bóng hình của tự do.

Cuộc sống được sống một cách vô ý thức chỉ có thể là

tầm thường, trần tục, hời hợt. Chỉ với ý thức cuộc sống

của bạn mới bắt đầu sâu sắc; nó đạt tới chiều hướng

mới, chiều hướng của chiều sâu. Và chiều hướng của

chiều sâu là chiều hướng của điều thiêng liêng.

Thượng đế không ở đâu đó khác mà ở trong chiều

sâu riêng của bạn, trong chiều sâu tối thượng của riêng

bạn. Chân lí không được tìm thấy ở đâu đó khác; nó

phải được tìm và nhìn từ bên trong. Chân lí không phải

là cái gì đó của tâm trí; bằng không đã rất dễ dàng đạt

tới nó. Tâm trí là cái máy.

Triết gia phương Tây vĩ đại, người cha của triết học

phương Tây, Aristotle, định nghĩa con người là sinh linh

hợp lí, nhưng định nghĩa của ông ấy không thể áp dụng

được cho hàng triệu người. Nó thậm chí không áp dụng

được cho bản thân ông ấy, bởi vì ông ấy không phải là

vị phật. Một người rất láu lỉnh, rất logic, nhưng chẳng

có ý thức gì. Ông ấy đã sống cuộc sống của mình vô ý

thức như bất kì ai có thể sống. Ông ấy có hai vợ, và ông

ấy viết trong cuốn sách của mình rằng đàn bà có ít răng

hơn đàn ông. Có hai vợ ông ấy có thể đếm được vào bất

kì lúc nào - nhưng đây là mê tín, điều rất thịnh hành ở

Hi Lạp vào những ngày đó. Tâm trí đàn ông gia trưởng

không thể cho phép đàn bà có cái gì bình đẳng với đàn

ông, không bình đẳng thậm chí cả tới răng! Ông ấy chưa

bao giờ bận tâm tới việc đếm - đây là cái loại hợp lí hoá

gì vậy?

Thực ra, chừng nào bạn còn chưa có ý thức, bạn

không thể có tính hợp lí được. Sống một cách hợp lí

nghĩa là sống có ý thức, sống có tính thiền. Và khoảnh

khắc bạn có thể sống có tính thiền, bạn không thể chỉ

sống một cách hợp lí, bạn có thể sống một cách trên hợp

lí - bởi vì cuộc sống không chỉ là lí trí, cuộc sống còn

nhiều hơn điều đó xa. Lí trí chỉ một trong các chiều của

nó, và cuộc sống là đa chiều.

Cuộc sống cộng với ý thức, và bạn bắt đầu trở thành

vị phật. Sự tồn tại cộng với ý thức, và bạn bắt đầu đạt tới

cuộc sống. Ý thức là toàn thể hoá học, giả kim thuật.

Cuộc sống cộng với ý thức, và bạn đi vào trong ngôi đền

của Thượng đế. Sự tồn tại cộng với ý thức và bạn đi vào

trong ngôi đền của Thượng đế. Sự tồn tại cộng với ý

thức, và bạn đi vào trong ngôi đền của cuộc sống.

Nhưng nếu bạn sống không có ý thức bạn không có

cuộc sống đâu, bạn không có Thượng đế đâu. Nếu bạn

có cuộc sống bạn không thể bỏ lỡ Thượng đế lâu được,

bởi vì cuộc sống là tia sáng đầu tiên của Thượng đế.

Nhưng mọi người đơn thuần tồn tại, họ sống thực

vật; họ nghĩ họ đã sống rồi. Niềm tin này ngăn cản họ

không cho tạo ra cuộc sống. Khi bạn được sinh ra, bạn

được sinh chỉ như một cơ hội, như một không gian nơi

cuộc sống có thể phát triển. Nhưng điều đó không phải

là không tránh khỏi - và điều tốt là nó không phải là

không tránh khỏi. Nếu nó là không tránh khỏi, con

người sẽ là cái máy như mọi con vật khác là.

Điều cực kì có ý nghĩa cần nhớ là sự tồn tại đã ban

tặng cho bạn món quà lớn, và món quà đó là việc bạn

được sinh ra như một tabula rasa, không cái gì đã được

viết lên bạn - bạn được sinh ra như một tấm đá sạch.

Bây giờ bạn phải viết cái gì đó lên nó. Bạn có thể viết

cái gì đó bắt chước từ người khác, được vay mượn; bạn

có thể viết Vedas lên nó, Gita, Koran, Kinh Thánh,

nhưng bạn sẽ bỏ lỡ toàn thể vấn đề. Bạn đã phá huỷ cơ

hội lớn lao.

Bạn phải viết bài ca riêng của mình - không phải là

bài ca của Krishna và không phải là bài ca của Christ,

mà là bài ca riêng của bạn! Bạn phải ca trái tim riêng

của mình, chỉ thế thì bạn mới được hoàn thành. Nhưng

mọi người đơn giản lặp lại như con vẹt; do đó họ trở

thành rất thông thái và vẫn còn ngu xuẩn, vẫn còn dốt

nát.

Thánh Augustine phân chia nhân loại thành hai loại;

phân loại đó là có ý nghĩa. Loại thứ nhất ông ấy gọi là

"dốt nát thông thái." Có những người biết quá nhiều và

vậy mà chẳng biết gì cả; tri thức của họ toàn là đồ vay

mượn. Chẳng cái gì đã nảy sinh từ trong họ, chẳng cái gì

đã xảy ra cho họ; họ đơn giản lặp lại người khác. Họ có

thể rất láu lỉnh trong việc lặp lại nó, rất hiệu quả trong

việc lặp lại nó, nhưng họ vận hành như máy tính. Họ

còn chưa là người; tính người còn chưa được sinh ra

trong họ. Tri thức của họ không biết gì, đó là sự giả vờ.

Các đại học đầy những người như vậy, và thế giới

kính trọng những người này rất nhiều bởi vì tri thức là

quyền lực. Họ biết, đó là ý tưởng thịnh hành, và họ có

quyền năng. Và theo nghĩa nào đó ý tưởng này là đúng:

người biết vật lí có quyền năng hơn người không biết,

nhưng khi có liên quan tới cuộc sống riêng của người

đó, người đó dốt nát cũng như bất kì ai khác. Không có

khác biệt giữa dân làng và giáo sư đại học khi có liên

quan tới việc tự biết mình - và đó mới là kho báu thực.

Có tri thức mà không biết, và Augustine nói, cũng

có dốt nát biết. Ông ấy đang nói về dốt nát nào mà lại

biết vậy? Dốt nát của người hồn nhiên. Người hồn nhiên

đã lau sạch mọi tri thức vay mượn khỏi tâm trí mình

hoàn toàn.

Thiền không là gì ngoài phương cách để lau sạch

tâm trí, để làm cơn mưa rào cho bản thể bên trong của

bạn, để cho mọi bụi bặm, cái gọi là tri thức, được xối đi

và bạn còn lại sạch sẽ, tươi tắn, trẻ trung. Đây là điều

Jesus nói: Chừng nào ông còn chưa được sinh ra lần nữa

ông sẽ không vào được vương quốc Thượng đế của ta.

Đây là điều ở phương Đông chúng ta thường gọi là

hiện tượng dwij - sinh ra hai lần. Mọi brahmin không

phải là dwij, nhưng mọi dwij đều là brahmin. Mọi

brahmin không phải là được sinh ra hai lần, nhưng mọi

người sinh ra hai lần đều là brahmin. Christ là một

brahmin, Mohammed là một brahmin. Brahmin là người

đã biết tới Brahman, người đã biết tới cuộc sống tối

thượng, nhưng bí mật là, bạn sẽ phải được sinh ra lần

nữa.

Điều đó nghĩa là gì? Nó nghĩa là bạn sẽ phải làm

chết đi tri thức của mình - những thứ vay mượn, bắt

chước, máy móc - và bạn sẽ phải lại hồn nhiên như bạn

đã từng vậy khi bạn được sinh ra lần thứ nhất. Nhưng

thời thơ ấu đầu tiên nhất định mất đi; không ai có thể

bảo vệ được nó. Chính bản chất của mọi sự là thời thơ

ấu đầu tiên sẽ bị mất. Nhưng thời thơ ấu thứ hai có thể

được đạt tới, và với thời thơ ấu thứ hai cuộc sống bắt

đầu. Trước đó bạn đơn thuần tồn tại. Với lần sinh ra thứ

hai bạn đi vào trong bí ẩn thực của cái đang đó.

Để tôi nhắc bạn: đừng coi cuộc sống là đương nhiên

có đấy. Nó phải được tạo ra, và nó có thể được tạo ra chỉ

bởi việc chọn lựa một cách tự do, bằng việc chọn của

riêng bạn. Vâng, có khả năng bạn có thể đi lạc lối, có

khả năng bạn có thể phạm lỗi, sai lầm. Nhưng chẳng cái

gì phải lo nghĩ tới cả - sai lầm và lỗi và đi lạc lối, chúng

tất cả đều là một phần của sự trưởng thành. Chỉ bằng

việc phạm sai lầm mà người ta mới học, chính là bằng

việc đi lạc lối mà người ta mới quay lại con đường đúng.

Những người chưa bao giờ đi lạc lối vẫn còn bất

lực. Những người chưa bao giờ phạm sai lầm nào do sợ

hãi, họ chẳng bao giờ làm được cái gì - bởi vì nếu bạn

làm, có khả năng bạn có thể phạm phải sai lầm nào đó.

Sợ phạm sai lầm, họ không bao giờ làm cái gì cả. Nhưng

không làm gì, làm sao bạn có thể trưởng thành được?

Bạn sẽ vẫn còn hổng hoác, bạn sẽ không được kết tinh

lại, bạn sẽ không có linh hồn nào. Bạn sẽ chết, bạn sẽ là

cái xác - đi đấy, thở đấy, nói đấy nhưng bạn sẽ là cái xác

bởi vì bạn sẽ không có hương vị của cuộc sống vĩnh

hằng.

Điều đầu tiên cần ghi nhớ là ở chỗ chúng ta chưa

được sinh ra. Một lần sinh xảy ra qua bố mẹ, qua người

mẹ. Lần sinh thứ hai xảy ra khi bạn trong mối quan hệ

thân thiết với một thầy, với vị phật. Lần sinh thứ hai này

xảy ra trong phật trường: vị phật trở thành bụng mẹ.

Thầy là bụng mẹ cho đệ tử. Đệ tử đi vào trong bụng mẹ

của thầy, tan biến vào trong thầy và được sinh ra lần

nữa.

Chính là qua việc sinh mới này mà bạn bắt đầu trở

nên có ý thức. Bạn tin rằng bạn có ý thức... bởi vì bạn có

thể từ văn phòng về nhà mọi tối, cho nên bạn nghĩ mình

có ý thức. Bởi vì bạn có thể làm những điều nào đó, bạn

nghĩ bạn có ý thức. Bây giờ có các robot, người máy, có

thể làm mọi điều điều bạn đang làm đấy.

Bây giờ có khả năng là chẳng bao lâu sẽ có máy bay

- chúng đã có trong sự tồn tại rồi, còn chưa được dùng

thôi; chẳng bao lâu nữa chúng sẽ được dùng - những

chiếc không có phi công nào cả, và sẽ có tàu hoả không

có người lái nào. Về mặt lí thuyết bây giờ chúng là có

thể có rồi. Máy sẽ làm mọi điều đó. Thế rồi bạn sẽ rất

ngạc nhiên: bạn đang từng làm những điều này và bạn

cứ tưởng rằng mình có ý thức bởi vì bạn làm những điều

này. Bằng việc làm điều gì đó người ta không trở nên có

ý thức đâu.

Có ý thức là làm việc với hương vị mới. Làm nó, ở

trong bản thân nó, không phải là có ý thức, nhưng làm

nó với nhân chứng bên trong; theo dõi, quan sát, biết

rằng bạn đang làm nó - đó là có ý thức, và đó là việc tái

sinh.

Bryant bắt được một con cá tí hon và đột nhiên nó

bắt đầu nói. "Ta thực sự là một yêu lùn và nếu ông thả ta

ra ta sẽ ban cho ông và vợ ông ba điều ước bất kì nào."

Thế là người Ai len này thả cá ra, chạy xô về nhà và

kể cho vợ mình nghe. Đôi này đăm chiêu đi vào thị trấn

và nhìn vào những thứ muốn mua, thế rồi cô vợ quyết

định làm bữa ăn tối nhanh từ đậu đóng hộp. Nhưng cô

ấy không tìm đâu ra được cái mở hộp và nói, "Em ước là

em có cái mở hộp." Úi chào! Cô ấy có ngay cái mở hộp.

"Em làm phí hoài một điều ước với cái mở hộp ngu

xuẩn đó," Bryant la lên. "Anh ước là nó bám vào đít

em!"

Và phần đáng buồn của câu chuyện là ở chỗ họ phải

dùng điều ước thứ ba và cuối cùng để lấy nó ra.

Đây là cách bạn đang sống đấy, đây là cách toàn thể

nhân loại đang sống đấy: chẳng biết mình đang nói gì,

chẳng biết mình đang làm gì, chẳng biết gì cả - chỉ loạng

choạng, dò dẫm ngẫu nhiên. Và điều này cứ tiếp diễn từ

đầu đến chính lúc cuối.

Toàn thể cuộc sống của bạn trở thành ngữ pháp của

vô ý thức, ngôn ngữ của vô ý thức. Và qua ngôn ngữ

này, tầng của ngôn ngữ này, bạn nhìn vào cuộc sống - và

mọi thứ đều bị diễn giải sai, bị bóp méo.

Hai đối tác kinh doanh Slutsky và Gross đi câu cá ở

trong một chiếc thuyền nhỏ trên hồ ở Catskills. Bỗng

nhiên cơn giông tố kéo tới, chiếc thuyền bị lật úp, và

trong khi Slutsky bắt đầu bơi, Gross chới với và thở phì

phì một cách bất lực. Anh đang đang chìm.

"Này," Slutsky nói, vừa bơi ra xa, "cậu có thể thả

nổi một mình*

[* alone - một mình phát âm nghe gần giống 'a loan' - món vay.]

được không?"

"Tớ đang chìm đây," Gross lại phì phì, "mà nó lại

nói về kinh doanh!"

Ngôn ngữ cũ, "Cậu có thể thả nổi món vay không?"

- ngôn ngữ của kinh doanh. Anh ta hiểu chỉ một ngôn

ngữ thôi. Bây giờ, ngay cả trong tình huống như thế,

điều được nói với anh ta sẽ được hiểu theo cách anh ta

có thể hiểu. Chúng ta không hiểu điều được nói; chúng

ta hiểu điều chúng ta có thể hiểu. Chúng ta không hiểu

điều chúng ta thấy; chúng ta chỉ thấy điều chúng ta có

thể thấy.

Ông già Bernstein nằm sắp chết. Cả gia đình đã tụ

tập quanh giường chết. Bằng một giọng yếu ớt, ẻo lả,

ông ấy hỏi, "Sol có đây không?"

"Có ạ, thưa bố," người con cả của ông ta nói.

"Lester có đây không?"

"Có ạ, thưa bố!" cậu con trai trả lời.

"Eli có đây không?"

"Con ở ngay đây!" người con trẻ nhất nói.

"Nếu chúng mày tất cả đều ở đây," Bernstein nói,

"ai đang trông cửa hàng?"

Và bây giờ ông ấy sắp chết - những khoảnh khắc

cuối cùng! Ngay cả khoảnh khắc của cái chết ông ấy vẫn

nghĩ tới người trông cửa hàng.

Từ sinh tới tử bạn cứ sống, dò dẫm trong bóng tối

không đèn - và bạn có thể đã tạo ra đèn được. Bạn

không thể tìm thấy nó trong kinh sách đâu; không ai có

thể trao nó cho bạn. Nó không được mua hay bán; nó

không chuyển trao được. Nhưng bạn có thể tạo ra được

nó - bạn có thể kết lại tất cả năng lượng của mình. Bạn

có thể bắt đầu sống một cách có ý thức từ chính khoảnh

khắc này.

Chẳng hạn, bạn đang nghe tôi. Bạn có thể nghe theo

cách buồn ngủ... bởi vì bạn đang ở đây, và tôi đang thốt

ra vài lời, và bạn có tai và tai bạn hoạt động, cho nên

những lời đó đập vào màng nhĩ của bạn và tiếng ồn nào

đó được tạo ra - và tất nhiên bạn nghe. Nhưng đây

không phải là lắng nghe, nó chỉ là nghe thôi. Nó không

phải là lắng nghe.

Lắng nghe nghĩa là bạn tỉnh táo, theo dõi, đứng trên

ngón chân mình, uống lấy mà không bị tâm trí bóp méo;

không có tiếng ồn bên trong, không huyên thuyên, hoàn

toàn im lặng; không buồn ngủ, rất tỉnh, rất thức; cứ

dường như nhà bạn đang cháy, dường như mọi thứ có

thể bị lấy đi vào bất kì lúc nào và đây không phải là lúc

ngủ. Khi nhà bạn bị cháy bạn không thể ngủ được - hay

bạn có thể? Khi nhà bạn bị cháy bạn không thể ngủ

được; bạn sẽ tỉnh táo, rất tỉnh táo.

Phát biểu đầu tiên mà Phật đã đưa ra sau khi ông ấy

rời khỏi cung điện của mình là, "Nhà ta đang cháy. Bây

giờ ta không thể sống trong vô ý thức được thêm nữa."

Không có ai ngoại trừ người đánh xe của ông ấy. Ông

già này nhìn vào cung điện; ông ấy chẳng thấy ngọn lửa

nào ở đó cả, nhà đâu có cháy. Ông ấy nghĩ, "Hoàng tử

điên mất rồi!" Ông ấy là ông già, người hầu già, cùng

tuổi như bố Phật. Ông ấy đã chăm lo cho Phật từ ngày

đầu tiên Phật được sinh ra; Phật thường kính trọng ông

già này.

Ông già nói, "Hoàng tử nói điều vô nghĩa gì vậy!

Cho dù mắt tôi có trở nên kém đi, tôi già rồi, nhưng tôi

chẳng thấy ngọn lửa nào cả. Nhà vẫn hoàn toàn tốt,

không cháy đâu!"

Phật nói, "Vâng, ta thấy - ông có thể không thấy -

nhà ta đang cháy đấy, bởi vì mỗi lúc và mọi lúc cái chết

đều là có thể. Bây giờ ta không thể vẫn còn trong trạng

thái ngủ này thêm nữa được."

Ông già nhún vai. Ông ấy nói, "Hoàng tử toàn nói

điều gở!"

Khi ông ấy phải để lại Phật trong rừng sâu và họ nói

lời tạm biệt, ông già khóc và nói, "Nghe tôi đi - Tôi

cũng như bố hoàng tử vậy. Hoàng tử đi đâu? Hoàng tử

có điên rồ không vậy? Cung điện đẹp thế, vợ đẹp thế,

thoải mái thế, xa hoa thế! Hoàng tử còn đi đâu đây?"

Phật nói, "Ta đi tìm tâm thức." Ông ấy đã không

nói, "Ta đi tìm Thượng đế," bởi vì làm sao bạn có thể

nói về Thượng đế được nếu bạn thậm chí còn chưa có ý

thức? Người tìm kiếm thực sự đi tìm tâm thức, không đi

tìm Thượng đế. Nếu bạn bắt đầu tìm Thượng đế, điều đó

sẽ vẫn còn là tìm kiếm vô ý thức - bởi vì bạn đã nghe

các tu sĩ nói về Thượng đế và tham lam đã nảy sinh

trong tâm trí bạn về Thượng đế.

Người tìm kiếm thực, sannyasin thực, chẳng liên

quan gì tới Thượng đế cả. Toàn thể nỗ lực của người đó,

duy nhất nỗ lực của người đó, nỗ lực dồn vào một điểm,

nỗ lực tập trung của người đó, là để trở nên có ý thức

hơn - làm sao có ý thức mãnh liệt tới mức bạn trở thành

đầy ánh sáng, tới mức toàn thể tâm trí của bạn là ngọn

lửa của ánh sáng bùng cháy, tới mức ngọn đuốc tâm trí

bạn bùng cháy từ cả hai đầu đồng thời. Trong ánh sáng

đó người ta tự nhiên biết rằng Thượng đế hiện hữu.

Thượng đế không phải là để được tìm kiếm tới; cái

được tìm kiếm tới là tâm thức. Người vô ý thức có thể

tin vào Thượng đế, nhưng niềm tin của họ vào Thượng

đế giống như niềm tin của họ vào tiền. Họ tin vào tờ

bạc, họ tin vào Thượng đế, họ tin vào tượng đá, họ tin

vào kinh sách chết. Họ chỉ có thể tin, nhớ lấy: duy nhất

người vô ý thức mới tin.

Người có ý thức biết, cảm, trải nghiệm. Người đó

không tin vào Thượng đế: người đó sống trong Thượng

đế, người đó thở trong Thượng đế, trái tim người đó đập

trong Thượng đế. Đó không phải là vấn đề về tin.

Bạn không tin vào mặt trời khi bạn thấy mặt trời

mọc. Bạn không hỏi mọi người, "Anh có tin vào mặt trời

không?" Nếu bạn hỏi, họ sẽ cười bạn. Bạn không tin vào

trăng khi trăng tròn trong đêm; bạn chưa bao giờ hỏi bất

kì ai. Không có người tin vào trăng và người không tin.

Nó là kinh nghiệm của bạn; không có nhu cầu tin hay

không tin.

Đích xác giống thế, trong tâm thức bạn có mắt để

thấy Thượng đế, bạn có mắt để thấy chân lí của sự tồn

tại. Thế thì nó không còn là vấn đề của niềm tin nữa - nó

là kinh nghiệm của bạn, kinh nghiệm tồn tại. Người có ý

thức biết, người vô ý thức tin.

Sao bạn là người Hindu, sao bạn là người Mô ha

mét giáo, sao bạn là người Jaina, và sao bạn là người Ki

tô giáo? Toàn các niềm tin! - và tu sĩ sống trên vô ý thức

của bạn. Ông ta cứ cho bạn ngày một nhiều niềm tin -

niềm tin đạo đức, niềm tin rằng nếu bạn làm điều này

bạn sẽ được thưởng, nếu bạn làm điều kia bạn sẽ bị

trừng phạt, niềm tin vào địa ngục, niềm tin vào cõi trời.

Ông ta cứ chồng chất ngày một nhiều niềm tin. Bạn bị

chìm trong các niềm tin! Niềm tin của bạn đã trở nên

nặng nề thế lên bạn, như dãy Himalaya đè lên ngực bạn;

chúng không cho phép bạn sống.

Bước đầu tiên hướng tới tâm thức là vứt bỏ mọi

niềm tin. Đừng là người Hindu, đừng là người Mô ha

mét giáo, đừng là người Ki tô giáo... bởi vì tôi nói cho

bạn con đường trở thành một christ! Sao phải là người

Ki tô giáo? Và tôi nói cho bạn con đường trở thành vị

phật - sao được thoả mãn với việc là Phật tử? Sao được

thoả mãn với hoa nhựa khi hoa hồng thực có thể được

mọc lên, khi bạn có thể trở thành vườn hồng? Bạn mua

vài đoá hoa nhựa từ chợ và bạn cứ tôn thờ những hoa

nhựa đó. Điều bạn gọi họ - người Ki tô giáo, người Mô

ha mét giáo, người Hindu - không thành vấn đề; nếu

chúng được vay mượn thì chúng đều là đồ nhựa. Hoa

thực phải được lớn lên bên trong bản thể bạn; nó phải nở

hoa ở đó.

Những người đã biết, họ nói - và tôi xác nhận cho

họ, tôi là nhân chứng - rằng khi tâm thức mở ra trong

tính toàn bộ của nó, nó là hoa sen một nghìn cánh, hoa

sen vàng, vàng với hương thơm. Đó là phép màu tối

thượng. Và chừng nào điều đó còn chưa được đạt tới,

đừng nghỉ ngơi. Từng khoảnh khắc bị mất đi đều là mất

mát lớn lao.

Lời kinh:

**Như lái buôn giầu với vài người hầu

tránh xa con đường nguy hiểm

và người yêu cuộc sống tránh xa chất độc,

cảnh giác với nguy hiểm của điên rồ và điều ác.**

Phật đang nói rằng nếu bạn là lái buôn với kho báu

lớn và bạn đang về nhà từ cuộc hành trình kinh doanh

dài, rất dài - làm kinh doanh ở nhiều, nhiều nơi bạn đã

thu thập được kho báu lớn lao và bạn đang về nhà và

bạn chỉ có vài người hầu đi cùng mình - bạn sẽ tránh

những con đường nguy hiểm, nơi kẻ cướp có thể trấn

đoạt bạn, nơi bạn có thể bị giết, nơi kho báu của bạn có

thể bị lấy đi khỏi bạn.

Con người đã từng trên cuộc hành hương lâu dài.

Bạn không phải là người mới trên trái đất này, bạn là

người hành hương rất cổ đại. Và trong mọi kiếp sống

bạn đã thu thập nhiều kho báu bên trong mình - cho dù

bạn có thể không nhận biết về nó. Bạn đã học nhiều...

bạn không ý thức, bạn không biết mình đang mang theo

kho báu nào bên trong bản thân mình. Bởi vì bạn vô ý

thức nên bạn liên tục đi trên những con đường nguy

hiểm nơi bạn có thể bị cướp, bị cướp mọi ngày. Người

không nhận biết, người đang ngủ, bạn có thể cướp người

đó; người đó thậm chí sẽ không đánh bạn.

Và kẻ cướp không ở bên ngoài, kẻ cướp ở bên trong

bạn. Giận dữ, thù hận, tham lam, ghen tị, sở hữu, đây là

những tên cướp, và trong tâm trí vô ý thức chúng cứ

cướp bóc bạn. Giận dữ đã cướp đi của bạn bao nhiêu

rồi? Nhìn lại đi! Giận dữ đã phá huỷ bạn bao nhiêu rồi?

Nhưng bạn thậm chí không tính toán! Bạn thậm chí

không nhìn lại để có cái nhìn thấu tỏ vào điều bạn đã

từng làm cho bản thân mình. Thèm khát của bạn đã khai

thác bạn bao nhiêu? Nhưng bạn cứ làm cùng những điều

đó lặp đi lặp lại mãi! Cùng giận dữ mà bạn bao giờ cũng

kinh qua như chất độc, điều bạn biết hoàn toàn rõ chỉ có

tính tàn phá - và mỗi lần bạn đã ở trong nó bạn về sau

đều hối hận - bạn đã quyết định, bạn đã tự hứa hẹn với

mình nhiều lần, sẽ không đi vào nó lần nữa. Và bạn cứ

quên đi quên lại lời hứa mình đã tự trao cho mình.

Một người nói với người bạn của mình, "Đêm qua

tớ đã đi xem phim con lợn Do Thái, và đó thực sự là

một kinh nghiệm."

Người bạn hỏi, "Bộ phim Do Thái bẩn thỉu đó giống

cái gì vậy?"

Người này nói, "Nó chỉ kéo dài mười phút thôi: một

phút cho dục và chín phút cho mặc cảm."

Quan sát cuộc sống của bạn và bạn sẽ thấy điều đó:

một phút của giận dữ và bao nhiêu phút của mặc cảm?

Một phút của thèm khát và bao nhiêu phút của mặc cảm,

hay bao nhiêu giờ, hay bao nhiêu ngày?

Brotsky tới Puerto Rico trong cuộc hội nghị kinh

doanh. Một đêm, ngay trước khách sạn của mình, anh ta

bị cám dỗ bởi lời chào mời của một gái mãi dâm đẹp.

"Chào anh người Mĩ," cô ta nói. "Anh có-a muốn mua-a

cái mà em bán hông-a?"

Brotsky đi với cô ta. Mười ngày sau, ở nhà tại New

York, anh ta thấy rằng mình đã bị mắc bệnh lậu.

Năm sau, ngay trước cửa của cùng khách sạn đó,

anh ta lại bị cám dỗ bởi cùng cô gái đó. "Chào anh, anh

người Mĩ. Anh có muốn-a mua cái em đang bán hônga?"

"Nhất định rồi," anh ta nói, "Lần này là cái gì vậy -

ung thư chắc?"

Nếu bạn nhìn vào cuộc sống của mình bạn sẽ thấy

nó đi theo vòng tròn. Bạn cứ làm cùng những điều ngu

xuẩn, cùng những điều ngu xuẩn ấy, và bạn đã làm

chúng nhiều lần thế rồi. Khi nào bạn sẽ thức dậy? Và

bạn lại trở nên mê mẩn với cùng những thứ ngu xuẩn,

bạn cứ bị bắt đi bắt lại vào trong cùng một cái lưới.

Cuộc sống của bạn chẳng có mấy điều mới.

Bạn quan sát cuộc sống của mình trong ba tháng,

ghi lại trong ba tháng, và thế rồi bạn sẽ ngạc nhiên: đây

là mọi điều bạn đã từng lặp đi lặp lại. Và chừng nào bạn

còn chưa trở nên thức tỉnh thì bạn sẽ còn lặp lại cùng

những điều đó trong cả đời mình - mà không chỉ cả đời

bạn đâu, bạn đang lặp lại nó trong nhiều, nhiều kiếp sắp

tới đấy.

Harry, lớn lên ở Philadelphia, làm chuyến đi thăm

đầu tiên tới nước Anh.

Một đêm anh ta phát hiện ra một thanh nữ tóc đỏ

hấp dẫn trong quán rượu, anh ta bước tới cô ta và bắt

đầu tán tỉnh, "Em biết đấy, anh tới từ phía bên kia..."

"Chúng mình lên ngay căn hộ của em đi," cô ấy nói.

"Điều này em đã biết rồi!"

Bạn hiểu nó chứ? Lặp đi lặp lại... "Điều này em đã

biết rồi!" Bạn cứ lặp đi lặp lại mê đắm. Bạn có thể đã

biết nhiều đàn bà, và lại người đàn bà khác, và bạn sẵn

sàng lại ngu xuẩn nữa. Cuộc sống của bạn có tính lặp lại

- bạn thậm chí không phạm phải sai lầm mới!

Có tính sáng tạo chút ít đi. Nếu bạn quan tâm tới

việc phạm sai lầm, ít nhất phạm sai lầm mới. Nếu bạn có

thể làm nó thành vấn đề là "Mình sẽ chỉ phạm sai lầm

mới thôi," chẳng mấy chốc chúng sẽ bị chấm dứt - bởi vì

có được bao nhiêu sai lầm mới? Một ngày nào đó bạn

đơn giản sẽ thấy rằng không có nhiều sai lầm mới còn

lại, và bạn không thể phạm sai lầm nào bởi vì bạn đã

quyết định không lặp lại.

Một lần nên là đủ - nhưng sao nó không đủ? Lí do là

ở chỗ trong khi bạn đang phạm sai lầm đó bạn không có

đó; bạn thậm chí còn làm nó một cách vô ý thức. Nếu

bạn có thể phạm một sai lầm một cách có ý thức, tỉnh

táo toàn bộ, với tràn đầy nhận biết, tuyệt đối hiện diện,

bạn sẽ không lặp lại nó lần nữa.

Con người của thông minh nhất định phạm phải sai

lầm, nhưng mỗi sai lầm chỉ một lần, thế rồi người đó

được kết thúc với nó. Người đó đã biết và hiểu nó.

Nhưng mọi người vẫn còn chưa trưởng thành.

Hai cậu bé da mầu gặp nhau trên phố.

"Tớ năm tuổi. Đằng ấy bao nhiêu tuổi?"

"Tớ hổng biết."

"Đằng ấy có nghĩ tới con gái không?"

"Hổng."

"Thế thì đằng ấy mới bốn thôi!"

Bây giờ, đây là việc có tuổi, sự trưởng thành được

đo, được cân đấy.

Trưởng thành nghĩa là trở nên có ý thức nhiều hơn;

không có cách khác để trở nên trưởng thành. Tôi không

nói đừng phạm phải sai lầm, bởi vì điều đó sẽ chẳng ích

gì. Tôi không nói né tránh sai lầm, không. Tôi nói bất kì

điều gì bạn muốn làm, làm nó đi, nhưng làm nó một

cách rất có ý thức. Đem đầy đủ bản thể của bạn vào

trong nó, để cho một khi được làm rồi bạn có thể quyết

định liệu có đáng làm nó lần nữa hay nó là hoàn toàn vô

nghĩa, vô dụng; cho nên một lần được làm bạn biết liệu

nó là kim cương thực hay chỉ là đá mầu.

Nếu nó là kim cương thực, đi theo nó, đào sâu - bạn

có thể ở gần với kho báu. Và nếu nó chỉ là đá mầu, quên

tất cả về nó đi. Đừng mang đá mầu; chúng trở thành vật

nặng và chúng làm cho cuộc hành trình của bạn ngày

một khó khăn hơn. Khi bạn muốn đi lên núi bạn cần vô

trọng lượng. Và cuộc hành trình hướng tới ý thức là

cuộc hành trình đi lên núi.

Như lái buôn giầu với vài người hầu tránh xa con

đường nguy hiểm và người yêu cuộc sống tránh xa chất

độc, cảnh giác với nguy hiểm của ý nghĩ điên rồ và điều

ác. Trở nên nhận biết đi. Cảnh giác (beware) nghĩa là

nhận biết. Cảnh giác (beware) là tổ hợp của hai từ: be và

aware (cảnh và giác). Cảnh giác với nguy hiểm của ý

nghĩ điên rồ và điều ác. Chúng là hai mặt của cùng một

đồng tiền: điên rồ và điều ác. Điên rồ nghĩa là vô ý thức

- và từ vô ý thức chỉ có điều ác được sinh ra.

**Với tay không bị thương có thể động tới chất độc.

Người hồn nhiên tới không gây hại.**

Nếu bạn trở nên nhận biết về điên rồ và điều ác...

Nhớ lấy, Phật không nói né tránh; ông ấy nói cảnh giác.

Lão Tử nói: Con người của trí huệ bước đi dường

từng bước đều có nguy hiểm. Con người của trí huệ

bước đi dường như trong mùa đông lạnh giá người đó đi

qua dòng suối đóng băng, đó là điều Lão Tử nói. Vâng,

đích xác đấy, nó là vậy: con người của trí huệ bước đi

tỉnh táo. Từng bước đều tràn đầy nguy hiểm, bởi vì tâm

trí bạn có thể khẳng định vào bất kì lúc nào.

Tâm trí bạn rất cổ đại, thói quen của nó được bắt rễ

rất sâu, được cấy vào rất sâu. Chỉ chút ít vô nhận biết và

tâm trí nhất định bắt giữ bạn, và nó sẽ lôi bạn vào trong

điều ác nào đó. Nó sống trên điều ác. Nó nhất định lôi

bạn vào trong cái gì đó mà bạn sẽ hối hận về sau. Nhưng

hối hận chẳng ích gì, đó là việc cực kì lãng phí thời gian.

Trước hết bạn lãng phí thời gian trong việc phạm sai

lầm và thế rồi bạn làm lãng phí thời gian trong hối hận.

Một người có lần tới tôi, một người rất giầu. Ông ấy

có thói quen cả đời là trở nên giận dữ dễ dàng tới mức

chỉ một hơi chút khiêu khích cũng đủ, hay nếu không có

khiêu khích nào ông ấy sẽ tạo ra nó, ông ấy sẽ tưởng

tượng ra cái gì đó. Và ông ấy đã khổ nhiều bởi vì điều

đó: vợ ông ấy bỏ ông ấy, con ông ấy xa lánh ông ấy,

không người hầu nào có thể ở được với ông ấy lâu. Ông

ấy sống cuộc sống rất biệt lập. Ông ấy có tất cả, nhưng

lại rất nghèo theo cách nào đó bởi vì ông ấy chẳng có ai

yêu ông ấy hay để nhận tình yêu của ông ấy.

Ông ấy hỏi tôi, "Làm sao tôi có thể gạt bỏ được giận

dữ? Tôi đã quyết định nhiều lần, tôi đã lấy lời nguyện

trước các thánh nhân vĩ đại rằng tôi sẽ không giận nữa,

nhưng sự việc cứ lặp đi lặp lại, khi tình huống nảy sinh

tôi quên hết mọi thứ về lời nguyện. Nó tới, và nó tới

theo cách thức như trận lụt tới mức tôi đơn giản bị nó

chiếm lĩnh mất. Tôi phải làm gì? Tôi phải tới thầy. Xin

thầy giúp tôi quyết định rằng tôi có thể gạt bỏ được nó."

Tôi nói, "Ông làm một việc. Điều thứ nhất là: vứt bỏ

hối hận. Điều thứ hai là: đừng bao giờ nguyện chống

giận dữ."

Ông ta nói, "Thầy nói gì vậy? Thế thì cuộc đời tôi sẽ

tàn mất thôi!"

Tôi nói, "Ông đã lấy lời nguyện rồi và ông đã từng

hối hận rồi - điều đó có ích theo cách nào không?"

Ông ấy phải thừa nhận rằng điều đó chẳng ích lợi gì.

Thế rồi tôi nói, "Sao ông không thử điều tôi nói đi? - bởi

vì hiểu biết riêng của tôi là ở chỗ hối hận không chống

lại giận dữ; thực ra nó là cách thức của bản ngã để lôi

ông trở lại vị trí cũ thôi."

Khi bạn trở nên giận dữ và về sau bạn nhớ lại, bản

ngã của bạn thấy bị tổn thương là, "Mình đã lại phạm

phải cùng cái ngu xuẩn đó rồi." Bây giờ bản ngã bị

thương này muốn được chữa lành; bạn đã sa ngã trong

con mắt riêng của mình. Bản ngã bị tổn thương của bạn

nói, "Đến đền chùa hay tới thánh nhân nào đó đi. Lấy lời

nguyện rằng, 'Bây giờ mình sẽ không bao giờ làm điều

như vậy nữa.'" Lấy lời nguyện bản ngã cảm thấy dễ

chịu: "Trông xem mình là người tôn giáo làm sao." Lấy

lời nguyện trước một thánh nhân và trước đám đông bạn

cảm thấy cực kì được mạnh mẽ trong bản ngã của mình:

"Trông đây, tôi đã quyết định!" Vết thương lại được

chữa lành.

Bạn trở lại trong tình huống cũ: bản ngã lại được lên

ngôi. Bạn sẽ lại phạm phải cùng sai lầm đó sớm hay

muộn, và bây giờ bạn đã biết cách chữa lành các vết

thương. Hối hận là cách thức, lấy lời nguyện là cách

thức.

Cho nên điều đầu tiên tôi nói với người đó là, "Dừng

chuyện hối hận lại - điều đó là phí thời gian! Cái đã qua

là đã qua rồi, quá khứ là quá khứ. Nó đã được kết thúc

rồi. Ông không cần lo nghĩ về nó. Ông bắt đầu tươi tắn

đi - đừng hối hận. Thay vì hối hận, gợi ý của tôi là: ông

về nhà và giận dữ - điều đầu tiên để làm - giận dữ và

giận dữ một cách có ý thức. Trong khi ông giận dữ, vẫn

còn tỉnh táo rằng ông giận dữ, biết điều ông đang làm:

rằng ông đang ném mọi thứ, rằng ông đang ném ra

những sự lăng mạ. Tỉnh táo vào!"

Ngày hôm sau ông ta tới. Ông ta nói, "Điều đó là

không thể được! Hoặc là tôi có thể giận dữ hoặc tôi có

thể tỉnh táo. Nếu tôi tỉnh táo tôi không thể giận dữ được;

nếu tôi giận dữ tôi không thể tỉnh táo được. Thầy đã cho

tôi một nhiệm vụ không thể được!"

Tôi nói, "Bây giờ chính ông phải quyết định: nếu

ông muốn giận dữ, quên tỉnh táo đi; nếu ông không

muốn giận dữ, thế thì tỉnh táo. Không hối hận, không lấy

lời nguyện nào nữa. Một phương pháp đơn giản!"

Mọi người đã thức tỉnh đều đã từng dạy phương

pháp đơn giản này.

Ai đó hỏi Mahavira, "Ai là thánh nhân thực và ai là

tội nhân?"

Có thể người hỏi này muốn một câu trả lời làm sẵn

đã được cho trong kinh sách, nhưng người như

Mahavira nói từ bản thể riêng của họ. Điều ông ấy nói là

cực kì hay. Định nghĩa mà ông ấy đã cho là duy nhất,

duy nhất trong toàn thể lịch sử của nhân loại. Ông ấy

nói, "Asutta muni - người thức tỉnh, người đó là thánh

nhân. Và sutta amuni - người đang ngủ là tội nhân."

Đơn giản, nhưng cực kì có ý nghĩa! Thức tỉnh là tính

thánh thiện duy nhất có đó, và ngủ, vô ý thức, là tội lỗi

duy nhất có đó; mọi tội lỗi khác đều được sinh ra từ nó.

Chặt tận gốc đi, chặt từ chính gốc! Đừng cứ tỉa lá.

Với tay không bị thương có thể động tới chất độc.

Và thế rồi, khi bạn thức tỉnh, tỉnh táo, quan sát, thế thì

chẳng có vấn đề gì. Thế thì bạn giống như bàn tay

không bị thương, bạn có thể xử trí chất độc. Điều đó

nghĩa là gì?

Để tôi nhắc bạn về một tình huống đã xảy ra trong

đời Jesus. Ông ấy cầm roi và đi vào trong ngôi đền lớn

của Jerusalem. Roi trong tay Jesus sao...? Đây là nghĩa

của điều Phật nói: tay không bị thương có thể xử lí được

chất độc. Vâng, Jesus có thể xử lí được roi, không có

vấn đề gì; roi không thể chế ngự ông ấy. Ông ấy vẫn còn

tỉnh táo, tâm thức của ông ấy là như vậy.

Ngôi đền lớn của Jerusalem đã trở thành chỗ cho kẻ

cướp; việc ăn cướp tinh vi đang diễn ra. Có những người

đổi tiền bên trong ngôi đền và họ đang khai thác toàn

thể đất nước. Jesus một mình đi vào ngôi đền và lật tung

bàn của họ - bàn của những người đổi tiền - ném tiền

của họ tung toé khắp xung quanh và tạo ra rối loạn tới

mức những người đổi tiền phải chạy trốn ra ngoài ngôi

đền. Họ thì nhiều mà Jesus chỉ mỗi mình, nhưng ông ấy

đang trong phẫn nộ thế, trong lửa cháy thế!

Bây giờ, điều này đã từng là vấn đề cho người Ki tô

giáo: giải thích điều đó thế nào đây? - bởi vì toàn thể nỗ

lực của họ là để chứng minh rằng Jesus là chim bồ câu,

biểu tượng của hoà bình. Làm sao ông ấy có thể cầm roi

trong tay được? Làm sao ông ấy có thể giận dữ thế

được, cuồng nộ tới mức ông ấy lật đổ bàn của người đổi

tiền và tống những người đổi tiền ra khỏi ngôi đền? Và

ông ấy phải đã bốc lửa; bằng không, ông ấy có mỗi

mình - ông ấy có thể bị bắt giữ chứ. Năng lượng của ông

ấy phải đã trong cơn bão; họ không thể đối diện ông ấy

được. Các tu sĩ và nhà kinh doanh và người đổi tiền tất

cả đều trốn ra ngoài kêu to, "Người này đã điên rồi!"

Người Ki tô giáo né tránh chuyện này. Không cần

né tránh nó nếu bạn hiểu lời kinh này của Phật: Với tay

không bị thương có thể động tới chất độc. Người hồn

nhiên tới không gây hại. Jesus hồn nhiên thế! Ông ấy

không giận dữ; đó là từ bi của ông ấy. Ông ấy không

bạo hành, ông ấy không có tính tàn phá; đó là tình yêu

của ông ấy. Roi trong tay ông ấy là roi trong tay của tình

yêu, từ bi.

Đây là lí do tại sao ở phương Đông chúng ta có

Krishna, người có thể chiến đấu trong chiến tranh cho

dù ông ấy đã hứa không đánh nhau. Ông ấy đã quên tất

cả về lời hứa của mình. Mọi người cứ nghĩ rằng ông ấy

rất ngoại giao, chính trị; ông ấy không phải vậy. Lời hứa

đó đã được đưa ra trong khoảnh khắc nào đó; bây giờ

khoảnh khắc đó không còn áp dụng được nữa - tình

huống đã thay đổi. Ông ấy không phải là kẻ cơ hội, ông

ấy không chính trị chút nào. Ông ấy đơn giản trung thực,

chân thành, có trách nhiệm cho tình huống đang là hiện

tại. Nó là vậy trong khoảnh khắc đó khi ông ấy hứa rằng

ông ấy sẽ không đi vào chiến tranh; nó không còn là như

vậy nữa, tình huống đã thay đổi rồi. Ông ấy đi vào chiến

tranh mà chẳng hối hận gì cả; ông ấy chưa bao giờ hối

hận về nó. Không có nhu cầu hối hận.

Con người của nhận biết hành động từ nhận biết

riêng của mình, do đó không có hối hận; hành động của

người đó là toàn bộ. Và một trong những cái đẹp của

hành động toàn bộ là ở chỗ nó không tạo ra nghiệp; nó

không tạo ra cái gì cả; nó không để lại dấu vết nào trên

bạn. Điều đó cũng giống như viết lên nước: bạn thậm

chí không kết thúc... Nó đã mất rồi. Nó thậm chí không

viết được lên cát, bởi vì điều đó có thể còn lại trong vài

giờ nếu gió không tới - đó là việc viết lên nước.

Nếu bạn đi tới đền chùa Hindu bạn sẽ thấy Rama

với cung và tên trong tay ông ấy. Bây giờ điều đó đã là

vấn đề cho cái gọi là những người theo Gandhi để giải

thích nó; với Mahatma Gandhi đó là vấn đề. Nếu Rama

có bánh xe quay trong tay ông ấy thì mọi sự đã được rồi

- nhưng cung và tên sao? Gandhi đã cố gắng né tránh

điều đó. Ông ấy đã nhắc tên của Rama mọi ngày; đó là

cái tên cuối cùng trên môi ông ấy khi ông ấy chết. Khi

ông ấy bị bắn chết, lời cuối cùng thốt ra từ môi ông ấy

là, "Này Ram! Ôi Ram!" Nhưng ông ấy đã xoay xở điều

đó thế nào? Về cung và tên thì sao? Ông ấy chưa bao

giờ đương đầu với vấn đền này một cách trung thực,

chân thành - bởi vì Rama đã chiến đấu trong chiến tranh,

phải đã giết nhiều người, chắc chắn đã giết chết Ravana.

Nói gì về bạo hành này?

Lời kinh này sẽ giải thích: Với tay không bị thương

có thể động tới chất độc. Người hồn nhiên tới không có

hại. Nếu bạn có thể tỉnh táo toàn bộ, thế thì không có

vấn đề gì. Bạn có thể xử lí được chất độc; thế thì chất

độc sẽ vận hành như thuốc. Trong tay của người trí huệ,

chất độc trở thành thuốc; trong tay của người ngu, ngay

cả thuốc, thậm chí nước cam lồ, nhất định trở thành chất

độc.

Người hồn nhiên tới không có hại. Nếu bạn vận

hành từ hồn nhiên - không từ thông thái mà từ hồn nhiên

như trẻ con - thế thì bạn không bao giờ có thể đi tới bất

kì cái hại gì, bởi vì nó không để lại dấu vết. Bạn vẫn còn

tự do với hành động của mình. Bạn sống một cách toàn

bộ và vậy mà không hành động nào làm nặng gánh bạn.

**Nhưng khi bụi bị tung ngược gió,

điều ác bị thổi ngược vào mặt

của người ngu, người làm sai điều thuần khiết và vô

hại.**

Nhớ lấy, nếu bạn vận hành từ vô nhận biết, thế thì

toàn thể cuộc sống của bạn sẽ là bụi bị tung ngược chiều

gió. Nó quay lại chui vào mắt bạn. Nó là việc nhổ lên

trời - nước bọt rơi vào mặt bạn thôi.

Bạn khổ không phải vì người khác đâu, bạn khổ bởi

vì hành động ngu xuẩn của riêng mình. Và hành động

ngu xuẩn là gì? Hành động nảy sinh từ trạng thái vô ý

thức của tâm trí.

Nhưng khi bụi bị tung ngược chiều gió, điều ác bị

thổi ngược vào mặt của người ngu, người làm sai điều

thuần khiết và vô hại. Và kết quả thậm chí còn nguy

hiểm hơn cho người ngu nếu điều ác của người đó và

việc sai của người đó là chống lại sự thuần khiết và điều

vô hại. Nếu bạn đánh nhau với người ngu khác không có

mấy vấn đề: người đó nhổ vào bạn, bạn nhổ vào người

đó. Nước bọt của bạn quay lại bạn, nước bọt của người

đó quay lại người đó; mọi thứ được cân bằng. Bạn làm

hại người đó, cái hại của bạn quay lại bạn; người đó làm

hại bạn, cái hại của người đó quay lại người đó.

Nhưng khi bạn làm hại hay làm điều ác cho ai đó

hồn nhiên, thế thì bạn thực sự trong rắc rối bởi vì điều

ác của bạn sẽ quay lại bạn cả nghìn lần hơn. Người hồn

nhiên sẽ không làm điều ác nào với bạn; người đó đơn

giản sẽ dội lại, người đó đơn giản sẽ phản xạ, người đó

sẽ là tấm gương. Nếu bạn xấu, cái xấu của bạn sẽ được

hiện ra - và tất nhiên, tấm gương càng thuần khiết, cái

xấu của bạn sẽ càng được hiện ra rõ ràng hơn.

Và tâm trí có ham muốn lớn lao để làm hại người

hồn nhiên. Nó sợ làm hại người ác bởi vì người ác có

thể chứng tỏ quá nhiều. Người hồn nhiên dường như

hồn nhiên tới mức bạn bị cám dỗ làm hại người đó.

Người hồn nhiên dường như mong manh thế, tinh tế tới

mức bạn nghĩ chẳng có vấn đề gì: bạn có thể làm bất kì

cái gì với người đó, người đó thậm chí sẽ không đáp lại.

Do đó Jesus bị đóng đinh, Socrates bị đầu độc, Phật bị

ném đá.

Nhớ lấy, có cám dỗ lớn để làm hại người hồn nhiên,

bởi vì bạn biết người đó sẽ không đáp lại điều đó theo

kiểu ăn miếng trả miếng. Nhưng rắc rối là, người đó sẽ

không ăn miếng trả miếng, nhưng toàn thể sự tồn tại lại

báo thù nhân danh người đó. Bởi vì người đó sẽ không

báo thù, toàn thể sự tồn tại đứng về phía người đó. Sự

tồn tại bao giờ cũng ở bên phía người thức tỉnh. Bạn

nhất định khổ nhiều, mặc dầu Jesus sẵn sàng tha thứ cho

bạn. Lời cuối cùng của Jesus là: Thưa cha, xin tha thứ

cho mọi người này bởi vì họ không biết điều họ đang

làm. Đây là đáp ứng của ông ấy. Nhưg sự tồn tại không

thể tha thứ cho bạn được.

Sự tồn tại tuân theo một luật rất chính xác: điều ác

nhất định tạo ra điều ác cho bạn, và khổ, nếu bạn tạo nó

cho người khác, nhất định bật trả lại bạn. Và nếu điều đó

được làm để chống lại người vô hại, chống lại người trí

huệ, chống lại vị phật, thế thì bạn sẽ khổ theo cách gấp

nghìn lần hơn.

**Một số người được tái sinh trong địa ngục,

một số trong thế giới này,

người tốt ở trên trời.

Nhưng người thuần khiết không được sinh chút nào.**

Địa ngục và cõi trời không có tính địa lí đâu, nhớ

điều đó. Nó chỉ là biểu dụ để giải thích cái gì đó về tâm

lí. Địa ngục là trạng thái của tâm trí đang trong khổ sâu

sắc - tất nhiên, được tạo ra do việc làm riêng của bạn

thôi. Mọi cát bụi bạn ném ra ngược chiều gió đều sẽ rơi

vào bản thân bạn, đó là địa ngục - mọi điều sai bạn đã

làm cho mọi người sẽ quay lại bạn. Bạn phải thu hoạch

lấy mùa màng bởi vì bạn đã gieo hạt mầm. Nếu bạn gieo

mầm chất độc thì bạn sẽ phải gặt lấy chất độc. Điều đó

đơn giản thế: aes dhammo sanantano - đây là luật vĩnh

hằng.

Không ai có thể được miễn trừ khỏi nó, không có

người nào có thể là ngoại lệ - mặc dầu mọi người đều

nghĩ, "Mình có thể là ngoại lệ, mình có thể tìm ra cách

nào đó thoát khỏi nó." Chắc chắn bạn có thể tìm ra cách

để thoát khỏi luật pháp con người, bạn có thể tìm ra cách

để thoát khỏi bất kì luật pháp nào, bởi vì luật pháp nhân

tạo là luật pháp nhân tạo; chúng có thể bị phá vỡ. Và

bạn có thể tìm ra những người thông minh có thể chỉ

cho bạn cách bỏ qua chúng. Nhưng luật vĩnh hằng, luật

tự nhiên, không thể bị phá vỡ; nếu bạn phá chúng bạn

nhất định khổ. Khổ đó là địa ngục.

Bất kì khi nào bạn đi ngược lại luật của cuộc sống

bạn đều trong địa ngục, và bất kì khi nào bạn đi hài hoà

với luật bạn đều trong cõi trời. Cõi trời nghĩa là trạng

thái vui vẻ. Và bất kì khi nào bạn đang lơ lửng, không

chỗ này chẳng chỗ nọ, không chống đối không ủng hộ,

trong trạng thái lờ phờ, trong trạng thái không quyết

định, chỉ treo ở giữa, thế thì bạn đang trong thế giới này.

Trong kinh sách Phật giáo thế giới này được gọi là

madhyalok - trạng thái ở giữa cõi trời và địa ngục.

Có ba loại người trên thế giới: vài người ở cõi trời,

nhiều người ở giữa, và nhiều người hơn đang ở trong địa

ngục. Và thực ra đây không phải là ba loại người bởi vì

từng người đều trải qua tất cả ba trạng thái này mọi

ngày. Buổi sáng bạn có thể ở cõi trời, buổi trưa bạn ở

trong tình trạng lấp lửng, đến tối, về nhà, bạn ở trong địa

ngục. Bạn cứ thay đổi, dịch chuyển. Đây là những trạng

thái tâm lí.

Việc vượt ra ngoài tất cả ba loại này được gọi là niết

bàn, được gọi là phật tính, được gọi là moksha. Nếu bạn

có thể vượt ra ngoài tất cả ba điều này - điều đó có nghĩa

là nếu bạn có thể vượt ra ngoài mọi tâm trí - thế thì bạn

không chỉ hài hoà với luật... Nếu bạn trong hài hoà với

luật thì bạn ở thiên đường, nếu bạn chống lại luật thì bạn

ở trong địa ngục. Nếu bạn không quyết định, nửa nọ nửa

kia, năm mươi năm mươi, bạn ở thế giới giữa, thế giới

này. Nhưng nếu bạn trở thành một với luật, bạn không

còn tách rời - thậm chí không trong hài hoà, bởi vì trong

hài hoà bạn vẫn tách rời. Nếu bạn trở thành một với luật:

nếu bạn vứt bỏ bản ngã và tâm trí của mình một cách

toàn bộ; nếu bạn trở nên được hội nhập vào trong luật

vĩnh hằng; nếu bạn trở thành đại dương, giọt sương của

bạn biến mất trong đại dương và trở thành nó, thế thì

bạn không được sinh ra thêm nữa. Thế thì không sinh

không tử. Thế thì toàn thể bánh xe của sinh và tử dừng

lại. Thế thì bạn là một với vũ trụ, thế thì bạn là Thượng

đế.

Đây là điều tối thượng phải được đạt tới, đây là điều

tối thượng mà con người có khả năng đạt tới, nhưng

cũng có khả năng bỏ lỡ. Chừng nào nỗ lực lớn lao còn

chưa được thực hiện với tài năng và thông minh, bạn sẽ

không thể nào đạt tới nó được.

**Không ở đâu cả!

không trên trời,

không giữa biển,

không sâu trong núi,

Ông có thể trốn đâu khỏi điều ác của riêng mình.**

Nhớ lấy: không có cách nào để che giấu khỏi điều

ác của bạn. Cho nên đừng cứ tự lừa mình rằng bạn sẽ

tìm thấy cách nào đó: rằng bạn sẽ đi ra sông Hằng và

chìm sâu vào trong sông Hằng và mọi tội lỗi của bạn sẽ

được gột sạch. Đừng tự lừa dối mình - sông Hằng không

thể làm được điều đó đâu. Đừng cho rằng bạn sẽ đi tới

Kaaba và bạn sẽ làm haj, cuộc hành hương lớn lao, và

bạn sẽ trở thành một haji - người đã từng tới Kaaba - và

thế rồi mọi tội lỗi sẽ được gột sạch khỏi bạn, Thượng đế

đã tha thứ cho bạn. Đừng nghĩ rằng bằng việc làm nghi

lễ nào đó - yagna, havan - bạn sẽ được tự do khỏi điều

ác của mình. Chẳng cái gì sẽ có ích đâu.

Không ở đâu cả! Phật nói, không trên trời, không

giữa biển, không sâu trong núi, ông có thể trốn đâu khỏi

điều ác của riêng mình. Nó sẽ theo bạn như cái bóng

của bạn, nó sẽ hành hạ bạn dù bạn đi tới đâu. Tốt hơn cả

là không làm nó - nhưng bạn có thể né tránh được việc

làm nó chỉ nếu bạn trở nên có ý thức, bằng không bạn

nhất định làm nó.

**Không trên trời,

không giữa biển,

không sâu trong núi,

không ở đâu cả

Ông có thể trốn đâu khỏi cái chết của riêng mình.**

Điều ác nhất định đem tới sự trừng phạt riêng của nó

cũng chắc chắn như sinh nhất định đem tới cái chết

riêng của nó. Bạn không thể tránh được cái chết, bạn

không thể tránh được kết quả của hành vi của mình. Cho

nên đừng nghĩ theo kiểu này, bởi vì tất cả thời gian bị

phí hoài trong né tránh, che giấu, đơn giản là bị phí hoài.

Mọi năng lượng đó có thể được đặt vào trong một nỗ

lực: của việc trở nên nhận biết, của việc trở nên có tính

thiền. Điều đó sẽ có ích.

Một người đi ra sông Hằng. Người đó đi tới

Ramakrishna, người đó là tín đồ của Ramakrishna.

Người đó hỏi Ramakrishna, "Paramahansadeva, tôi đi ra

sông Hằng đây - xin ban phước cho tôi. Thầy có cho

rằng mọi tội lỗi của tôi sẽ được rửa sạch không?"

Ramakrishna nói, "Có chứ, chắc chắn, bởi vì sông

Hằng thuần khiết thế; bất kì ai chìm ngập sâu vào trong

nó đều trở thành thuần khiết như sông Hằng. Nhưng có

vấn đề mà ông phải nhớ lấy."

Người này nói, "Đó là vấn đề gì vậy? Thầy nói cho

tôi đi, tôi sẽ ghi nhớ lấy."

Ramakrishna nói, "Ông có thấy những cây lớn mọc

bên bờ sông Hằng không?"

Người đó nói, "Có, tôi có thấy."

Ramakrishna nói, "Ông có biết mục đích của những

cây đó là gì không?"

Người đó nói, "Điều đó tôi chưa bao giờ nghe nói

tới và điều đó cũng không được viết trong kinh sách.

Mục đích của những cây đó là gì? Thầy nói cho tôi đi."

Ramakrishna nói, "Mục đích của những cây đó là ở

chỗ khi ông chìm vào trong sông Hằng, tội lỗi của ông

phải rời bỏ ông bởi vì quyền năng của sông Hằng.

Những tội lỗi đó ngồi lên ngọn những cây cao kia. Khi

ông ra khỏi sông Hằng, chúng lại nhảy vào ông đấy!

Cho nên điều đó thực sự là vô tích sự. Nếu ông muốn tới

thì ông có thể tới, nhưng tránh một điều: nếu ông chìm

vào trong sông Hằng, đừng ra nữa! Thế thì sẽ được đi

mãi mãi; bằng không những tội lỗi kia sẽ không rời bỏ

ông đâu. Và chúng sẽ báo thù đấy, chúng sẽ nhảy lên

ông với sự trả thù."

Và điều này đúng theo từng từ. Người tôn giáo, cái

gọi là người tôn giáo, nghĩ rằng họ có thể làm nghi lễ

nào đó và tội lỗi được chấm dứt, và họ được tự do làm

tội lỗi đó lần nữa! Và một khi bạn biết được thủ đoạn về

cách kết thúc nó, sao bận tâm? Bạn có thể cứ làm thật

nhiều tội lỗi như bạn có thể làm - sông Hằng bao giờ

cũng có đó mà. Và bây giờ chẳng có nhu cầu đi tới sông

Hằng nữa: bạn có thể đem sông Hằng theo đường ống

vào nhà bạn, vậy thì mọi ngày, sáng sớm hay chiều tối,

bạn tắm nước sông. Tối sẽ tốt hơn, cho nên tội lỗi của cả

ngày được kết thúc và bạn lại thuần khiết như hoa sen.

Phật nói chẳng cái gì có thể giúp bạn được. Không

có chỗ nào để che giấu khỏi hai điều: kết quả của hành

vi của bạn và cái chết. Chúng sẽ xảy ra.

Thế thì chúng ta phải làm gì? Trở nên có ý thức, và

trong việc trở nên có ý thức đó cả hai đều biến mất.

Trong việc trở nên có ý thức hành động của bạn tự động

trải qua biến đổi. Con người có ý thức không thể làm

được cái gì sai cả, và con người có ý thức đi tới biết

rằng, "Không có cái chết cho tâm thức của mình. Thân

thể sẽ chết, tâm trí sẽ chết, nhưng bản thể bên trong nhất

của mình sẽ không chết. Mình là vĩnh hằng. Amritasya

putrah - mình là con của vĩnh hằng, mình thuộc vào sự

tồn tại vĩnh hằng."

Tâm thức đem hai chân lí này về nhà. Thứ nhất nó

biến đổi thế giới của bạn bằng việc biến đổi hành động

của bạn; thứ hai nó biến đổi lãnh thổ bên trong của bạn

bằng việc làm cho bạn nhận biết rằng bạn là vĩnh hằng.

Khi bạn biết bạn là vĩnh hằng, khi bạn biết rằng bạn bao

giờ cũng hiện hữu và bạn bao giờ cũng sẽ hiện hữu, mọi

giá trị cuộc sống của bạn lập tức bắt đầu thay đổi. Thế

thì bất kì cái gì đã là quan trọng ngày hôm qua không

còn là quan trọng nữa, và bất kì cái gì chưa bao giờ là

quan trọng trước đây nay trở thành quan trọng - bởi vì

bây giờ bạn nghĩ theo vĩnh hằng và không theo thời

gian.

Nghĩ dưới dạng thời gian là chính trị: nghĩ dưới

dạng vĩnh hằng là tôn giáo.

Đủ cho hôm nay.

************************************************************************************************************

#6 Đây có là con đường không?

Câu hỏi thứ nhất:

Thưa thầy kính yêu,

Với tôi dường như là ở đây với thầy nghĩa là buông

bỏ mọi thứ - không chỉ khổ, sợ, buồn và cái gọi là

chỗ tiêu cực, mà còn cả hạnh phúc, yêu thương, cảm

giác tuôn chảy, cái gọi là chỗ tích cực mà bao giờ

cũng là mục đích của tôi. Thưa thầy kính yêu, đây

có phải là con đường không?

Anand Hareesh, tích cực và tiêu cực, đêm và ngày,

mùa hè và mùa đông, sinh và tử - chúng không tách rời

đâu. Nếu bạn muốn buông bỏ cái này, bạn sẽ phải cho

phép cái kia cũng bị buông bỏ.

Đó là một trong những thế tiến thoái lưỡng nan lớn

nhất: mọi người muốn cái tích cực còn lại với họ -

nhưng nếu cái tích cực còn lại, cái tiêu cực còn lại như

cái bóng của nó. Cái tích cực sẽ không có nghĩa gì nếu

không có cái tiêu cực. Nếu bạn không biết bóng tối là gì

bạn sẽ không có khả năng thấy ánh sáng chút nào đâu.

Nếu bạn muốn thấy ánh sáng bạn sẽ phải sẵn sàng kinh

nghiệm bóng tối nữa. Bạn không thể tránh được chết

nếu bạn níu bám lấy sống. Chính sống đem chết vào.

Và mọi người đều muốn níu bám lấy chỗ tích cực và

mọi người đều muốn né tránh chỗ tiêu cực. Điều này là

không thể được - điều này ngược với luật vĩnh hằng.

Nếu bạn quan sát cẩn thận bạn sẽ thấy rằng nếu điều

tiêu cực đang hành hạ bạn quá nhiều thế thì điều tích

cực chỉ là cái che đậy. Bạn ngụ ý gì khi bạn nói rằng bạn

hạnh phúc? Bạn đơn giản ngụ ý rằng “Tại thời điểm này

bất hạnh của tôi đang bị che đậy.” Bạn ngụ ý gì khi bạn

nói rằng “Bây giờ tôi thảnh thơi?” Nó đơn giản nghĩa là

căng thẳng đã đi sâu hơn vào trong vô thức; bây giờ bạn

quên lãng về chúng.

Nhưng sớm hay muộn chúng sẽ khẳng định, sớm

hay muộn chúng sẽ có thời điểm riêng của chúng. Bạn

không thể còn với điều tích cực mãi mãi được. Tiêu cực

và tích cực bao giờ cũng cân bằng nhau: bạn sẽ có nhiều

hạnh phúc như bạn sẵn sàng có bất hạnh.

Do đó một trong các điều bí ẩn: xã hội càng giàu có,

khổ càng nhiều hơn. Không có nước nào khổ nhiều hơn

Mĩ, bởi lẽ đơn giản là Mĩ bây giờ có đỉnh cao nhất của

hạnh phúc nó không thể tránh được chiều sâu thấp nhất.

Đỉnh núi cao là có thể chỉ cùng với thung lũng - đỉnh núi

càng cao, thung lũng càng sâu.

Ở Ấn Độ mọi người cảm thấy rất thoả mãn. Lí do là

họ không biết tới đỉnh cao của hạnh phúc; do đó họ

không biết tới thung lũng của bất hạnh. Họ sống ít nhiều

trên nền trung lập, không tích cực không tiêu cực. Đây

không phải là mãn nguyện đúng đâu, đây đơn giản là

thiếu chỗ của tích cực - do đó chỗ tiêu cực cũng thiếu

luôn.

Mĩ thực sự là nơi hành hạ về tinh thần, chấn động

tâm lí lớn lao. Không xã hội nào đã từng ở vào trạng thái

như vậy. Cá nhân, tất nhiên, đã từng như vậy.

Phật Gautam là con vua. Ông ấy có đủ mọi vui vẻ -

đó là lí do tại sao ông ấy đã trở nên nhận biết về khổ của

cuộc sống. Không phải ngẫu nhiên mà tất cả hai mươi

bốn tirthankaras của người Jainas đều là vua. Phật là

vua, Rama và Krishna là vua, mọi avatara của người

Hindu đều là vua. Có cái gì đó trong nó, cái gì đó rất

nền tảng. Tại sao người ăn xin không trở thành

tirthankaras, avataras, chư phật? Bởi lẽ đơn giản là họ

không biết hạnh phúc là gì - làm sao họ có thể nhận biết

về khổ của cuộc sống được?

Phật nói: Sống là dukkha - thuần khổ. Chỉ vị phật

mới có thể nói được điều đó bởi vì ông ấy đã biết các

đỉnh. Việc biết đỉnh là đồng thời trở nên nhận biết về

thung lũng. Nếu bạn sống mãnh liệt, đam mê, bạn sẽ

nhận biết về cái chết nhiều hơn là người sống theo kiểu

hờ hững, người sống chỉ làng nhàng, người không mãnh

liệt và đam mê trong cuộc sống của mình. Người đó

không thể rất tỉnh táo về cái chết được. Bạn càng lao sâu

vào trong cuộc sống, nhận biết của bạn về cái chết sẽ

càng lớn hơn. Tích cực và tiêu cực liên tục cân bằng lẫn

nhau.

Người Ấn Độ đã giở thủ đoạn với bản thân họ. Họ

đã trở thành trung lập: "Đừng lên các đỉnh cao của vui

vẻ; đó là cách né tránh chiều sâu của khổ, đau, buồn."

Nhưng đây không phải là cuộc cách mạng đúng. Cuộc

cách mạng đúng không phải là bằng việc trở nên dửng

dưng, bằng việc trở nên hờ hững, bằng việc sống cuộc

sống rất, rất đờ đẫn. Cuộc cách mạng thực xảy ra qua

siêu việt.

Hai từ này phải được hiểu bởi vì sự khác biệt là rất

tinh tế và tinh vi: 'dửng dưng' và 'siêu việt'. Dửng dưng

đơn giản có nghĩa là bạn né tránh cái tích cực để né

tránh cái tiêu cực. Siêu việt nghĩa là bạn không né tránh

cái gì cả, không tránh cái tích cực lẫn cái tiêu cực. Bạn

sống cái tích cực trong tính toàn bộ của nó và bạn sống

cái tiêu cực trong tính toàn bộ của nó, bằng một phẩm

chất mới - và phẩm chất đó là phẩm chất của nhân

chứng. Bạn sống một cách toàn bộ nhưng đồng thời bạn

vẫn còn tỉnh táo, nhận biết một cách im lặng.

Bạn biết hạnh phúc bao quanh bạn nhưng bạn không

phải là nó; bạn biết bất hạnh bao quanh bạn nhưng bạn

không phải là nó. Bạn biết nó là ngày nhưng bạn không

là nó, và bạn biết nó là đêm nhưng bạn không là nó. Bạn

biết bây giờ bạn đang sống động nhưng bạn không là nó;

thế thì khi bạn sẽ chết bạn sẽ biết bạn không là nó. Đây

là siêu việt.

Neti, neti - không cái này không cái nọ - là công

thức bí mật của siêu việt: không tích cực không tiêu cực.

Nhưng điều đó không có nghĩa là không sống điều tích

cực và tiêu cực. Nếu bạn né tránh việc sống bạn sẽ trở

nên đờ đẫn, rất đờ đẫn; bạn sẽ đánh mất mọi thông

minh.

Đó là khác biệt giữa tính chất sannyas cũ và cách

nhìn mới của tôi về tính chất sannyas. Tính chất sannyas

cũ dạy bạn dửng dưng, trung lập: "Đừng đi lên đỉnh núi

cao để ông không cần phải ngã vào chiều sâu." Toán học

đơn giản! "Đừng hạnh phúc, thế thì ông sẽ không bất

hạnh." Làm sao bạn có thể bất hạnh được nếu bạn chưa

bao giờ hạnh phúc? "Đừng hân hoan, thế thì sẽ không có

buồn rầu, và đừng cười, thế thì nước mắt là không thể

được." Đây là toán học đơn giản, nhưng không phải là

chân lí của siêu việt, không phải là chân lí của tính chất

sannyas thực.

Tính chất sannyas thực nghĩa là: cười sâu sắc, nhưng

nhớ bạn không phải là tiếng cười; và khóc và than sâu

sắc, để nước mắt chan hoà, toàn bộ trong nó, và vậy mà

vẫn tỉnh táo, ngọn lửa bên trong quan sát tất cả nó.

Hareesh, bạn là để siêu việt lên, không từ bỏ. Nếu

bạn từ bỏ bạn bỏ lỡ vấn đề. Và khi tôi nói, "Buông bỏ!"

tôi đơn giản ngụ ý không níu bám. Tôi không nói bạn

đừng cố gắng hạnh phúc. Làm mọi nỗ lực có thể được

để hạnh phúc, vui vẻ, nhưng nhớ rằng buồn sẽ theo sau -

điều đó là tự nhiên. Chấp nhận nó, và khi nó tới, đừng

chạy khỏi nó, đừng trốn khỏi nó. Điều đó nữa cũng là

đẹp, một phần của cuộc sống, một phần của trưởng

thành; không có nó sẽ không có chín chắn. Đi sâu vào

trong nó.

Vui vẻ có cái gì đó đóng góp cho trưởng thành của

bạn, và buồn rầu cũng vậy. Vui vẻ đem tới sự tươi tắn,

sự tươi tắn của giọt sương sớm. Vui vẻ đem tới tuổi trẻ,

vui vẻ đem tới điệu vũ cho trái tim bạn. Buồn rầu cũng

đem tới nhiều món quà nhưng bạn trốn khỏi buồn rầu;

do đó bạn chưa bao giờ trở nên nhận biết về những món

quà này. Buồn rầu đem tới im lặng mà không vui vẻ nào

có thể đem tới được. Vui vẻ bao giờ cũng có chút ít ồn

ào; buồn rầu hoàn toàn im lặng. Vui vẻ bao giờ cũng có

chút ít nông cạn; buồn rầu là sâu sắc, nó có chiều sâu.

Vui vẻ bao giờ cũng làm bạn quên đi bản thân mình; sẽ

dễ dàng hơn để nhấn chìm bạn vào vui vẻ, để làm bạn bị

ngất ngây với vui vẻ. Nó giữ bạn vô ý thức. Buồn rầu

đem tới nhận biết bởi vì bạn không thể nhấn chìm bản

thân mình trong nó được. Bạn không thể tham gia được,

bạn phải đứng ở ngoài - bởi vì bạn không muốn nó!

Bài học đầu tiên về chứng kiến xảy ra trong buồn

rầu. Người ta học chứng kiến trong buồn rầu và chỉ thế,

về sau, cùng việc chứng kiến đó có thể được áp dụng

cho những khoảnh khắc của hoan lạc. Nhưng chính bằng

việc chứng kiến mà người ta siêu việt lên.

Và khi tôi nói, "buông bỏ nó tất cả đi, cả cái tích cực

và cái tiêu cực," tôi đơn giản ngụ ý không níu bám,

không bị đồng nhất. Tôi không nói, "Từ bỏ đi!" Sống đi,

và vậy mà sống ở trên. Bước đi trên đất, nhưng không,

đừng để chân bạn chạm đất. Vâng, có nghệ thuật cho

điều đó đấy.

Và đó là điều tính chất sannyas tất cả là gì: nghệ

thuật của việc sống trong thế giới mà không là một phần

của nó, nghệ thuật sống cuộc sống mà không bị đồng

nhất với nó. Đó là buông bỏ thực là gì.

Tính chất sannyas cũ là tính chất của dửng dưng.

Đích xác đó là từ được dùng trong kinh sách cổ: một

sannyasin trở thành udasin - dửng dưng với mọi cái

đang đấy - vairagya. Người đó trở thành lạnh lẽo và tách

rời. Người đó trốn khỏi thế giới nhị nguyên. Người đó đi

vào trong tu viện hay trong hang động Himalaya, sống

một mình, sống không có vui vẻ, không có nỗi buồn.

Người đó sống một loại cái chết: người đó đã trong

nấm mồ của mình, người đó không sống. Cuộc sống của

người đó không đáng gọi là cuộc sống. Người đó đã sa

ngã xuống thấp hơn nhân loại; người đó ở gần với con

vật hơn là với con người. Do đó việc tìm kiếm của

người đó là về hang động, rừng sâu, rừng rậm, núi non,

sa mạc - người đó sợ việc ở cùng con người. Người đó

muốn rơi xuống dưới con người, bởi vì con người nhất

định bị phân chia bởi tính phân cực lớn lao này, tích cực

và tiêu cực, và người đó sợ điều đó.

Nhưng sannyasin thực - sannyasin theo cách nhìn

của tôi - sống trong thế giới, trong sự dầy đặc của nó,

trong thế giới đậm đặc. Người đó không từ bỏ cái gì cả.

Người đó sống cuộc sống toàn bộ nhất có thể được, bởi

vì nếu Thượng đế đã cho cuộc sống điều đó có nghĩa là

có cái gì đó để đạt tới qua nó. Chỉ bằng việc sống nó

người ta mới có thể đạt tới nó được, chỉ bằng việc sống

nó mới có cái gì đó để được học. Siêu việt phải được

học; đó là món quà lớn lao của cuộc sống.

Nếu bạn trở nên ngày một ý thức hơn, việc buông bỏ

sẽ xảy ra và vậy mà bạn sẽ vẫn ở đây và bây giờ, và còn

nhiều hơn cả trước đây. Bạn sẽ ăn và bạn sẽ nếm nhiều

hơn. Bạn sẽ yêu và bạn sẽ có kinh nghiệm cực thích sâu

sắc hơn. Bạn sẽ chơi và trò chơi của bạn sẽ có cái gì đó

tâm linh trong nó. Cuộc sống thường của bạn sẽ trở

thành thiêng liêng.

Chỉ một điều phải được đưa vào: chứng kiến.

****************************************************

#6Câu hỏi thứ hai:

Thưa thầy kính yêu,

Tôi cảm thấy ngày một nhiều là cuộc sống này là cái

gì đó kì diệu. Đây có phải là cách thầy nhìn cuộc

sống không? Đây có phải là điều thầy ngụ ý bởi tính

thượng đế cho mọi điều về chúng tôi không?

Vâng, Anand Nur, điều đó chính xác là điều tôi ngụ

ý đấy. Với "Thượng đế" tôi không ngụ ý một người. Với

"Thượng đế" tôi ngụ ý điều kì diệu đang bao quanh bạn,

điều bí ẩn, điều huyền bí. Với "Thượng đế" tôi không

ngụ ý bất kì người nào đã tạo ra thế giới này, mà là bản

thân việc sáng tạo. Chính quá trình sáng tạo là Thượng

đế.

Do đó bạn không thể tôn thờ Thượng đế được, bạn

không thể cầu nguyện Thượng đế được. Mọi lời cầu

nguyện đều là giả bởi vì chúng đều được đề cập tới một

Thượng đế người - và không có Thượng đế người. Bạn

không thể quan hệ với Thượng đế được, không thể gọi

ngài là "cha," "mẹ." Ngài không phải là người; mối quan

hệ là không thể được. Thế thì làm sao tôn thờ, làm sao

cầu nguyện được? Bạn sẽ phải học cách cầu nguyện và

tôn thờ mới.

Có tính sáng tạo là tôn thờ. Có tính sáng tạo là tham

gia vào quá trình vĩ đại của sáng tạo - và tham gia vào

tính sáng tạo là tham gia vào Thượng đế. Trong một

khoảnh khắc bạn được mang đi. Khi bạn vẽ cái gì đó

bạn không còn đó nữa; bạn đã trở thành chỉ là lực sáng

tạo. Khi bạn đang chơi nhạc, nếu bạn không chỉ là nhà

kĩ thuật mà thực sự là nhạc sĩ, người yêu nhạc, thế thì

bạn biến mất - thế thì bản ngã không còn đó nữa. Ít nhất

trong vài khoảnh khắc hiếm hoi đó, khoảnh khắc tựa

kim cương, cực kì quí giá, cửa sổ nào đó mở ra. Bạn

không còn nữa, không như một bản ngã.

Thượng đế không phải là người, ngài không phải là

bản ngã. Và nếu bạn muốn gặp Thượng đế bạn sẽ phải là

cái gì đó tương tự: một vô ngã, một vô-nhân. Thượng đế

là sự hiện diện. Nếu bạn muốn có bất kì giao cảm nào

với Thượng đế bạn sẽ phải học cách chỉ là sự hiện diện

và không là người; tỉnh táo, tràn đầy tỉnh táo, nhưng

không có ý tưởng nào về "tôi."

Và cách tốt nhất để cho cái "tôi" này biến mất không

phải là qua khổ hạnh, yoga, nhịn ăn - không đâu. Nó là

qua tính sáng tạo. Tôi dạy bạn yoga của tính sáng tạo,

bởi vì với tôi đó là yoga duy nhất. Từ 'yoga' nghĩa là hợp

nhất; khi bạn có tính sáng tạo bạn ở trong trạng thái hợp

nhất với Thượng đế. Đứng trên đầu bạn không ích gì

mấy đâu, thực ra nó sẽ chẳng ích lợi chút nào. Bạn có

thể đứng trên đầu bạn trong nhiều kiếp - điều đó sẽ chỉ

làm một việc thôi: nó sẽ làm cho bạn ngu đi!

Và tôi đang nói một chân lí khoa học, tôi không nói

đùa đâu; tôi rất nghiêm chỉnh về điều đó. Nếu bạn đứng

trên đầu mình trong thời gian dài bạn sẽ trở nên ngu si,

bởi vì não bạn bao gồm hệ thần kinh rất, rất tinh tế.

Những thần kinh đó mảnh dẻ thế... chúng mảnh hơn sợi

tóc. Cái đầu nhỏ bé của bạn chứa hàng triệu thần kinh;

bạn không thể thấy được chúng bằng mắt thường đâu,

chúng mảnh mai thế. Nếu bạn đứng trên đầu mình quá

lâu, máu xô về đầu, và trong sự ngập lụt đó những thần

kinh kia sẽ bị phá huỷ.

Thực ra, các nhà khoa học nói con được đạt tới tâm

trí, não, bởi vì con người đứng trên hai chân - đứng

thẳng. Con vật đã không đạt tới tâm trí bởi vì chúng vẫn

còn song song với đất. Đầu chúng nhận quá nhiều máu;

do đó chúng không thể phát triển được hệ thần kinh tinh

tế. Chính chỉ con người mới có khả năng phát triển hệ

thần kinh tinh tế, cái có thể duy trì tâm thức vĩ đại, cái

có thể duy trì thông minh vĩ đại.

Rất hiếm khi bắt gặp người thông minh, cái gọi là

nhà yoga - tôi chưa bắt gặp một người như vậy! Những

người vặn xoắn thân thể mình và làm đủ mọi loại thủ

thuật xiếc và đứng trên đầu mình, họ có thể có thân thể

khoẻ mạnh - họ có thể có vậy; nhiều thể dục thế nhất

định cho bạn thân thể mạnh khoẻ hơn, giống con vật

hơn - nhưng họ không có thông minh. Tôi chưa bắt gặp

nhà yoga thực sự thông minh, và một trong các lí do là ở

chỗ hệ thần kinh tinh tế, tinh vi của họ bị ngập lụt quá

nhiều với máu.

Bạn không thể ngủ được trong đêm mà không có

gối. Bạn có biết tại sao không? - bởi vì quá nhiều máu đi

vào đầu. Nó giữ cho toàn thể hệ thần kinh của bạn rung

động. Bạn cần chiếc gối. Gối giữ cho luồng máu ít chảy

lên đầu; bạn có thể ngủ, bạn có thể nghỉ ngơi, bạn có thể

thảnh thơi.

Với "yoga" tôi đích xác ngụ ý việc dịch nghĩa đen

của từ này: hợp nhất, giao cảm. Khi bạn đang vẽ hay

chơi nhạc hay nhảy múa hay ca hát, thế thì bạn đang

trong trạng thái của yoga.

Trong công xã của tôi, điều này sẽ là yoga: bạn phải

sáng tạo. Và bạn càng sáng tạo nhiều, bạn càng trở nên

có khả năng sáng tạo hơn. Bạn càng sáng tạo nhiều,

thông minh của bạn càng sắc bén hơn. Bạn càng sáng

tạo nhiều, bạn càng trở nên sẵn có cho cội nguồn vô hạn

của sáng tạo - tức là, Thượng đế. Bạn càng sáng tạo, bạn

càng trở thành phương tiện - phương tiện cho điều kì

diệu tuôn chảy qua bạn.

Vâng, Anand Nur, với "Thượng đế" tôi ngụ ý điều

kì diệu bao quanh bạn đấy. Bạn không thể cảm nhận

thấy điều kì diệu đang bao quanh bạn mọi khoảnh khắc

sao - chính khoảnh khắc này? Chim đang tạo ra âm

thanh... cây hoàn toàn im lặng, trong trạng thái thiền...

và tất cả các bạn ở đây cùng tôi, xa khỏi đất nước... im

lặng tràn khắp. Bạn hoàn toàn hài hoà cùng tôi, thở cùng

tôi, tim bạn đập cùng tim tôi. Bạn không thể thấy được

điều kì diệu của bây giờ, của ở đây sao, và cái đẹp của

nó cùng phúc lành? Đây là Thượng đế đấy!

Thượng đế không thể được tìm trong đền chùa và tu

viện và gurudwaras và nhà thờ đâu. Thượng đế chỉ được

tìm thấy trong bầu đoàn của chư phật, bởi vì chính trong

bầu đoàn chư phật mà bạn mới trở nên nhận biết về sự

tồn tại kì diệu này.

****************************************************

#6Câu hỏi thứ ba:

Thưa thầy kính yêu, sao mọi người chống thầy nhiều

thế?

Sudheer, họ không chống tôi nhiều như họ sợ tôi

đâu. Do sợ mà họ chống đối, như nguyên nhân gốc rễ là

sợ. Và sao họ sợ? - bởi vì họ không hiểu. Đó là hiểu

lầm. Điều đó bao giờ cũng xảy ra, nó nhất định xảy ra;

nó không phải là cái gì mới.

Tôi nói điều này, họ hiểu cái gì đó khác bởi vì tâm

trí của họ mang định kiến. Họ đã được nuôi dưỡng lớn

lên theo những truyền thống nào đó và tôi đang phá tan

mọi truyền thống! Họ đã được nuôi lớn để nghĩ theo

cách thức nào đó, và toàn thể nỗ lực của tôi ở đây là để

đưa bạn ra ngoài suy nghĩ.

Mọi người đều theo tập quán, là người tuân thủ, có

tính truyền thống. Và với tôi tôn giáo là nổi dậy - nổi

dậy chống lại mọi tập quán, chống lại mọi sự tuân thủ,

chống lại mọi truyền thống. Tôn giáo không bao giờ là

truyền thống, không bao giờ có thể là truyền thống

được. Khoa học có thể là truyền thống nhưng tôn giáo

không bao giờ.

Khoa học thực sự là truyền thống. Rút Newton ra -

trong một khoảnh khắc nghĩ cứ dường như Newton chưa

bao giờ sinh ra - thế thì không thể có Albert Einstein

được. Albert Einstein là có thể chỉ nếu Newton xảy ra

trước. Khoa học là truyền thống, nó là sự liên tục. Rút

một viên gạch ra và toàn thể dinh thự sụp đổ.

Nhưng tôi có thể có mà chẳng cần đã có một Christ.

Tôi có thể có không phải bởi vì đã có một Mahavira hay

một Patanjali, không phải bởi vì đã từng có một Phật

hay một Khổng Tử hay Lão Tử. Tôn giáo không phải là

sự liên tục; nó là hiện tượng cá nhân, nó là việc nở hoa

cá nhân. Bạn có thể trở nên thức tỉnh cho dù bạn không

nhận biết về bất kì ai đã từng trở nên thức tỉnh trước

đây. Bạn không có liên quan tới quá khứ theo cùng cách

như khoa học có liên quan.

Đó là lí do tại sao chân lí khoa học, một khi được

phát hiện ra, trở thành tài sản của mọi người khác.

Albert Einstein đã làm việc vất vả trong mười ba năm để

phát hiện ra lí thuyết tương đối; bây giờ bạn có thể đọc

tất cả về nó trong vài giờ - bạn không cần khám phá ra

nó lần nữa. Edisons đã làm việc trong nhiều năm, ít nhất

là ba năm, để khám phá ra bóng đèn điện đầu tiên; bây

giờ bạn có thể cứ sản xuất ra bóng điện - bạn không cần

Edisons sản xuất chúng. Người lao động thường chẳng

biết gì về điện cũng có thể làm được việc này - họ đang

làm nó.

Nhưng chân lí tôn giáo là hoàn toàn khác: bạn phải

khám phá chúng lặp đi lặp lại. Điều Phật đã khám phá ra

không trở thành tài sản phổ dụng. Nó chết đi cùng ông

ấy, nó biến mất cùng ông ấy; nó là hương vị cá nhân. Đó

là cái đẹp của tôn giáo: rằng nó không bao giờ trở thành

hàng hoá ở bãi chợ. Do đó khoa học có thể được dạy

trong trường học, cao đẳng, đại học; tôn giáo không thể

được dạy. Tôn giáo không thể được dạy chút nào; bạn

không thể được cho biết về tôn giáo. Bạn phải khám phá

ra nó theo cách riêng của bạn.

Vâng, bạn có thể được hứng khởi, nhưng hứng khởi

không phải là thông tin. Bạn có thể được hứng khởi bởi

sự hiện diện của vị phật, bạn có thể trở nên bắt lửa. Bạn

có thể đạt tới khát khao bùng cháy được giống như vị

phật, nhưng bạn sẽ phải khám phá ra mọi thứ theo cách

riêng của bạn. Và bạn sẽ không có khả năng trao nó cho

con bạn như một di sản kế thừa. Mọi điều bạn có thể

cho, mọi điều bạn có thể truyền đạt, là khao khát mãnh

liệt về chân lí, có vậy thôi - nhưng không phải là bản

thân chân lí.

Do đó rất khó cho quần chúng hiểu được điều tôi

đang nói. Nó đã là khó khi Phật còn ở đây, nó đã là khó

khi Jesus còn ở đây - nó bao giờ cũng sẽ là khó bởi vì

quần chúng sống theo quá khứ. Họ được nuôi dưỡng,

liên tục nuôi dưỡng, theo cách truyền thống. Họ đã được

bảo cái gì là đúng, cái gì là sai; họ đã được bảo liệu

Thượng đế có tồn tại hay không, và họ đã học mọi điều

này. Và họ đã tích luỹ nhiều thông tin tới mức tâm trí

của họ đầy tri thức; họ nghĩ họ đã biết rồi.

Cho nên khi bất kì ai tới và đem hệ thống tôn giáo

mới vào thế giới này, khi bất kì ai đem sự khải lộ mới,

khi bất kì ai trở nên sẵn có cho Thượng đế, trở thành

phương tiện của Thượng đế, mọi người đều bị bối rối,

định kiến của họ bị tan tành. Quan niệm cũ của họ

không được làm mạnh - ngược lại, họ bắt đầu cảm thấy,

"Nếu người này là đúng thế thì chúng ta tất cả đều sai

sao... mà không chỉ chúng ta mà cả ông cha chúng ta và

ông cha của họ nữa." Điều này đi ngược lại bản ngã của

họ. Họ sẽ thà níu bám lấy bản ngã riêng của mình còn

hơn là nghe chân lí.

Và thế rồi bởi vì định kiến của mình họ cứ nghe

điều gì đó không được nói. Tôi nói một điều, họ lập tức

diễn giải nó theo những ý niệm riêng của họ. Họ không

nghe trong im lặng; họ nghe qua đủ mọi loại rào chắn

của ý nghĩ.

Chẳng hạn, có người Do Thái, người Mô ha mét

giáo, người Hindu, người Ki tô giáo, người Jaina, Phật

tử, người Sikh - đủ mọi loại người tụ hội ở đây. Bạn cho

rằng khi tôi nói điều gì đó người Do Thái nghe cùng

điều như người Jaina nghe, người Mô ha mét giáo nghe

cùng điều như người Ki tô giáo nghe, Phật tử nghe cùng

điều người Hindu nghe sao? Không thể được đâu!

Người Mô ha mét giáo có ý niệm riêng của người đó...

Chẳng hạn, nếu tôi nói về tái sinh, thế thì người Ki

tô giáo, người Do Thái và người Mô ha mét giáo có chút

ít cảnh giác, một cách vô ý thức, bởi vì họ đã được bảo

chỉ có một kiếp sống thôi; họ không thể tin cậy được

rằng có nhiều kiếp sống. Nhưng khi tôi nói về tái sinh

người Hindu sung sướng, tuyệt đối vui lòng. Phật tử vui

lòng, người Jaina vui lòng, tuyệt đối vui lòng. Không có

vấn đề trong tâm trí họ. Không phải là họ đồng ý với tôi

đâu - họ sung sướng bởi vì tôi đồng ý với họ đấy! Và đó

là cách nó là vậy cho từng phát biểu.

Lời không có nghĩa rõ ràng nào - chúng không thể

có được; bằng không thì từng trao đổi sẽ trở thành rất

khoa học. Lời có nhiều nghĩa, nhiều sắc thái, cho nên

khi bạn nghe thấy một lời bạn có thể cho nó mầu sắc của

riêng bạn. Bạn có thể nghe theo cách riêng tư, cá nhân

riêng của mình. Bạn có nghĩa riêng tư của mình.

Khi tôi nói về Thượng đế, việc nghe của Phật tử ở

đây sẽ lập tức dừng nghe, điều đó tuyệt đối tự động. Một

cách tự động người đó sẽ ngãng ra. Thượng đế sao? -

người đó đã được bảo rằng toàn thể ý niệm này là vô

nghĩa. Và khi Phật đã nói rằng toàn thể ý niệm này là vô

nghĩa, thì nó phải vậy rồi. Và không chỉ Phật - trong hai

mươi nhăm thế kỉ nhiều nhà huyền môn khác những

người đã đạt tới điều tối thượng cũng đều nói cho người

đó rằng Thượng đế không có đó. Nhưng người Hindu,

người Mô ha mét giáo, người Ki tô giáo, người Do Thái,

họ tuyệt đối vui lòng, sung sướng vô cùng rằng vâng, tôi

đang nói về Thượng đế - Thượng đế của họ! Người

Jaina và Phật tử sẽ không sung sướng đâu; họ không tin

vào Thượng đế.

Khi tôi nói về linh hồn, người Jaina sẽ sung sướng,

người Hindu sẽ sung sướng, người Mô ha mét giáo,

người Ki tô giáo, người Do Thái - mọi người ngoại trừ

Phật tử. Người này không tin vào linh hồn. Người đó nói

không có thực thể cá nhân, mọi thứ đều là luồng chảy.

Cũng như sông Hằng cứ thay đổi mọi khoảnh khắc,

cũng như bạn không thể bước vào cùng một dòng sông

hai lần, bạn không thể gặp cùng một người lần nữa đâu.

Chẳng có gì thường hằng cả, chẳng cái gì hết cả. Ngoại

trừ thay đổi, mọi thứ đều thay đổi. Phật tử, khoảnh khắc

tôi nói về linh hồn hay Thượng đế, dừng việc nghe lại.

Người đó nói, "Điều này không dành cho tôi." Không

phải là người đó làm điều đó một cách có ý thức đâu -

đây là thói quen vô ý thức, sự ước định.

Không có nhiều người chống lại tôi đâu; thực tại là

họ không hiểu điều tôi đang nói tới, hay họ hiểu điều gì

đó hoàn toàn khác mà không được nói tới. Họ không

nhận biết điều tôi đang làm ở đây. Họ không tới đây, họ

phụ thuộc vào báo chí. Một số nhà báo hạng ba tới và

tường trình cái gì đó - người đó có thể tường trình cái gì

về thiền được? Người đó đã bao giờ thiền đâu.

Nhìn vào cái ngu xuẩn của thế giới này đi! Bạn

không cử nhà báo tới tường trình về cuộc giải phẫu nếu

người đó không biết gì về giải phẫu - hay bạn vẫn cử?

Nếu sẽ có cuộc hội nghị về giải phẫu, bạn cử ai đó quen

thuộc kĩ với thế giới của giải phẫu; chỉ người đó có thể

tường trình được. Nếu các nhà vật lí đang họp, các bài

báo được trình bày và thảo luận và bạn cử ai đó tới, bạn

phải cử một chuyên gia biết vật lí là gì tới chứ. Và vật lí

hiện đại là hiện tượng rất, rất tiến hoá; nó cần nhiều năm

học tập. Người ta phải là nhà vật lí. Bạn không thể phụ

thuộc vào một nhà báo chung chung người cứ tường

trình về các chính khách tầm thường và những diễn văn

ngu xuẩn của họ. Bạn không cử cùng kiểu nhà báo đó

tới tường trình khi các nhà vật lí đang nói; bạn phải cử

một người đặc biệt hay bạn phải chỉ định một nhà vật lí

để tường trình về cuộc hội nghị này, bởi vì chỉ người đó

mới có khả năng hiểu.

Người ta nói rằng khi Albert Einstein còn sống, chỉ

mười hai người thực sự hiểu - trên khắp thế giới - điều

ông ấy nói tới. Bây giờ, ai sẽ tường trình về ông ấy? Chỉ

một trong mười hai người này có khả năng tường trình

về Albert Einstein và lí thuyết tương đối của ông ấy theo

cách mà ít nhất thoáng nhìn nào đó trở thành có thể cho

quần chúng bình thường.

Nhưng khi bạn cử một phóng viên tới đây, bạn

chẳng bao giờ hỏi han, bạn chẳng bao giờ yêu cầu rằng

người đó phải là thiền nhân, rằng người đó phải biết cái

gì đó về thiền, cái gì đó về yoga, cái gì đó về Sufi giáo,

Zen, Đạo, Mật tông. Không, đây không phải là yêu cầu.

Bất kì một Tom, Harry, Dick nào cũng được coi là

hoàn toàn có khả năng tường trình về thiền, về Mật tông,

về Đạo, về Zen, về Sufi giáo. Và mọi người phụ thuộc

vào tường trình của anh ta, còn anh ta không bao giờ

thiền trong đời mình. Anh ta không bao giờ có một

khoảnh khắc của thiền. Anh ta không biết gì về trạng

thái vô ý nghĩ. Anh ta không biết gì về những khoảng hở

đó, những chỗ đó, nơi tâm trí biến mất, bản ngã biến

mất, thời gian biến mất. Làm sao anh ta có thể hiểu

được?

Chỉ bằng việc quan sát mọi người ngồi im lặng, bạn

sẽ có khả năng hiểu cái gì đó sao? Nếu ai đó đang ngồi

im lặng với mắt nhắm...? Bạn có thể chụp ảnh người đó

nhưng bạn sẽ không có khả năng chụp ảnh điều xảy ra

bên trong. Bạn có thể thấy mọi người nhảy múa, bạn có

thể thấy họ giống như người Sufis, thầy tu đạo Hồi quay

tít; bạn có thể thấy họ nhảy múa và bạn sẽ tường trình

rằng bạn thấy mọi người múa, nhảy - nhưng làm sao bạn

sẽ biết thế giới bên trong của họ?

Bạn phải tham gia chứ! Bạn phải đích thân nhảy

múa. Bạn phải nếm hương vị của nó chứ. Chỉ thế thì bạn

mới có khả năng tường trình cái gì đó về nó - chỉ cái gì

đó thôi, không phải tất cả về nó, bởi vì tất cả về nó là

không thể tường trình được, tất cả về nó là không thể

diễn đạt được.

Và khi những người này tường trình, những người

không hiểu, bản tường trình của họ chỉ có tính gây giật

gân. Và thế rồi quần chúng đọc chúng, và họ thậm chí

đọc báo cáo đó theo ý niệm riêng của họ nữa. Thế thì

hiểu lầm chồng chất lên hiểu lầm, hết tầng hiểu lầm nọ

tới tầng hiểu lầm kia! Tôi phải là người bị hiểu lầm

nhiều nhất trên đất nước này vào khoảnh khắc này.

Carolyn, một cô bán hàng rong đẫy đà, đang đợi tới

lượt mình đăng kí vào một motel thì cô ấy nghe lỏm

nhân viên đứng quầy nói với Zabroski, người đứng

trước cô ấy, rằng anh ta đã nhận căn phòng cuối cùng.

Cô ấy chờ cho người Ba Lan rời khỏi bàn và rồi tiến tới

anh ta.

"Không còn motel nào khác trong vòng vài dặm và

tôi mệt gần chết," cô ấy van nài. "Anh trông đấy - anh

không biết em, em không biết anh, họ không biết chúng

ta, chúng ta không biết họ. Thế em nghỉ đêm cùng với

anh có được không?"

"Tôi không quan tâm," Zabroski nói.

Họ đi vào phòng của anh ta; anh ta cởi quần áo ra và

cô ấy cũng làm như vậy. "Nghe đây," cô ấy nói, "anh

không biết em, em không biết anh, họ không biết chúng

ta, chúng ta không biết họ. Chúng ta cùng uống một chút

đi. Em có một chai rượu đây."

Sau khi họ đã đi tới điểm cao hơn một chút, cô ấy

ôm ấp anh ta và thì thào, "Anh không biết em, em không

biết anh, họ không biết chúng ta, chúng ta không biết họ

- chúng ta làm tiệc đảng ăn đi."

"Này," người Ba Lan nói, "nếu anh không biết em

và em không biết anh và họ không biết chúng ta và

chúng ta không biết họ - ai là đồ chết tiệt mà chúng ta

mời vào đây?"

Bây giờ từ ‘đảng - party' đang tạo ra rắc rối! Người

Ba Lan hiểu theo ý tưởng của mình về đảng phái.

Carolyn có cái gì đó khác trong tâm trí mình - bữa tiệc

thực!

Điều tôi đang nói là hoàn toàn khác với điều được

người ngoài hiểu. Nhưng điều đó là tự nhiên và tôi chấp

nhận nó. Tôi không miễn cưỡng, không phàn nàn về

điều đó. Đó là cách nó vẫn diễn ra.

Tôi chỉ có thể được hiểu bởi những người đang

trong tình yêu sâu sắc, người đang trong tin cậy sâu sắc

với tôi. Tôi có thể được hiểu chỉ bởi những người đã sẵn

sàng gạt tâm trí họ sang bên. Trong trạng thái của im

lặng đó, cái gì đó từ tôi có thể khuấy động trái tim bạn,

có thể lẩy cò cho một quá trình hiểu biết.

****************************************************

#6Câu hỏi thứ tư:

Thưa thầy kính yêu,

Nổi dậy và buông xuôi gặp nhau ở đâu?

Prem Rajo, nổi dậy và buông xuôi gặp nhau trong

quan điểm về bản ngã. Vứt bỏ bản ngã và buông xuôi

đồng thời xảy ra, và nổi dậy cũng thế.

Tôi biết điều bạn ngụ ý bởi câu hỏi của bạn. Bạn

ngụ ý rằng nổi dậy và buông xuôi dường như là đối lập

cực - làm sao chúng có thể gặp nhau được? Làm sao

người ta có thể có tính nổi dậy và buông xuôi được? Đó

là câu hỏi của bạn. Đó là cách tâm trí nghĩ về nổi dậy và

buông xuôi; qua tâm trí bạn không thể thấy chúng gặp

nhau ở đâu cả.

Người buông xuôi sẽ có vẻ không nổi dậy. Người có

tính nổi dậy bao giờ cũng không vâng lời - làm sao

người đó có thể buông xuôi được? Người đó có thể chết,

nhưng người đó sẽ không buông xuôi.

Bạn chỉ biết một loại buông xuôi: buông xuôi bị áp

đặt lên bạn, buông xuôi không do bạn làm mà bạn bị

buộc phải làm nó - với đầu mũi dao gí vào bạn bị buộc

phải buông xuôi. Đó không phải là buông xuôi mà tôi

đang nói tới.

Tôi đang nói về một loại buông xuôi hoàn toàn

khác. Bạn không bị ép buộc - bạn thấy ra cái xấu xí của

bản ngã, bạn thấy khổ của bản ngã, bạn thấy bản ngã sặc

mùi, và bạn dùng thầy như cái cớ để vứt bỏ bản ngã.

Thầy bao giờ cũng là cái cớ - nhớ lấy.

Khi bạn buông xuôi theo tôi bạn không buông xuôi

theo bất kì ai nói riêng - bởi vì tôi không có đó như một

người. Và khi bạn buông xuôi tôi không nhận việc

buông xuôi của bạn đâu, nhớ lấy - bởi vì chẳng có gì để

buông xuôi cả, chỉ là ý niệm giả về bản ngã thôi.

Điều đó cũng giống như một người tin rằng mình

giầu có và người đó không thế, và người đó tới tôi và

người đó nói, "Tôi buông xuôi toàn thể vương quốc của

tôi cho thầy." Tôi nói, "Được thôi, tôi chấp nhận."

Tôi chấp nhận để cho bạn có thể gạt bỏ đi điều vô

nghĩa này. Bạn không có nó, cho nên nó sẽ không tạo ra

rắc rối gì cho tôi đâu.

Hai anh chàng hippies đang nghỉ dưới gốc cây. Lúc

đó là đêm trăng tròn, và họ đang thực sự hưng phấn.

Người này nhìn lên trăng rồi nói, "Tôi muốn mua nó, và

tôi sẵn sàng trả với bất kì giá nào."

Người kia nói, "Quên chuyện đó đi, bởi vì tôi không

định bán nó."

Khi bạn buông xuôi bản ngã của mình bạn không

buông xuôi cái gì thực cả, chỉ là ý tưởng thôi. Nếu nó là

cái gì đó thực, thế thì thầy sẽ bị nặng gánh bởi biết bao

nhiêu bản ngã, thầy chắc chết rồi! Thầy sẽ phải mang cả

một Himalaya bản ngã; thầy sẽ không thể nào sống nổi;

thậm chí không thể bước đi được, thậm chí không thể

thở được. Tôi có một trăm nghìn sannyasins trên thế giới

- bây giờ, nếu tôi phải giữ một trăm nghìn bản ngã, thế

thì Vivek sẽ phát điên!

Cô ấy phát điên về các thứ khác mà cô ấy phải thu

xếp. Bao nhiêu quà tặng tới tôi và cô ấy muốn giải quyết

chúng ngay lập tức, bởi vì nó trở thành gánh nặng lên cô

ấy là cứ phải thu thập chúng và theo dõi dấu vết chúng ở

đâu và giữ cho chúng sạch sẽ. Bây giờ cô ấy rất lo lắng

về những cái bút máy của tôi. Ngày nào cô ấy cũng hỏi,

"Khi nào thầy định phân phát những cái bút này?" - bởi

vì nó đang trở thành vấn đề cho cô ấy. Tôi nghĩ tôi phải

có hai trăm cái hay hơn, và tôi đang chờ đợi để cho ít

nhất tôi có thể cho mỗi sannyasin một chiếc bút máy -

tôi đang chờ đợi! Ngay bây giờ nó sẽ là vấn đề cho tôi;

cho ai và không cho ai, cho nên tôi cứ bảo Vivek, "Đợi

chút đã, đợi đã." Và tôi bảo nhiều người, "Cứ đem

chúng tới!" Bây giờ Niranjana đặc biệt sắp đi sang

phương Tây để đem về thật nhiều bút máy có thể được.

Nhưng nếu tôi phải giữ mọi bản ngã này điều đó sẽ là

không thể được - Nhà Lão Tử quá nhỏ!

Tôi chấp nhận bản ngã của bạn một cách hạnh phúc

bởi vì không có vấn đề gì trong việc chấp nhận nó. Bạn

không đưa cái gì cho tôi, tôi không nhận cái gì từ bạn.

Nhưng bạn đang gạt bỏ một ý niệm, một giả tưởng, và

việc gạt bỏ nó của bạn mới là vấn đề. Nó không phải là

việc buông xuôi bị áp đặt lên bạn; nó là việc buông xuôi

từ hiểu biết riêng của bạn.

Và thế rồi nổi dậy xảy ra theo cách riêng của nó, bởi

vì một người không bản ngã là người nổi dậy nhất trên

thế giới. Lại nhớ lấy: khi tôi dùng từ 'nổi dậy' tôi không

ngụ ý nó theo nghĩa chính trị đâu. Người không bản ngã

không thể có chính trị được. Chính trị cần bản ngã lớn;

toàn thể trò chơi của chính trị là trò chơi của bản ngã, nó

là đề cao cá nhân.

Khi bạn không còn bị nặng gánh bởi bản ngã, khi

bạn đã được làm nhẹ gánh, khi thầy đã lấy đi cái gọi là

bản ngã khỏi bạn, cuộc sống của bạn sẽ là cuộc sống của

người nổi dậy, của cách mạng vô cùng. Bạn sẽ không là

người Hindu và bạn sẽ không là người Mô ha mét giáo

và bạn sẽ không là người Ki tô giáo và bạn sẽ không là

người Jaina. Đây là cách mạng. Bạn sẽ không là người

Đức và bạn sẽ không là người Nhật Bản và bạn sẽ

không là người Ấn Độ. Đây là cách mạng. Bạn sẽ không

thuộc vào bất kì tôn giáo nào, bất kì giáo phái nào, bất kì

xã hội nào, bất kì truyền thống nào. Đây là cách mạng.

Và bởi vì không có bản ngã, Thượng đế có thể tuôn

chảy qua bạn; tính sáng tạo lớn lao trở thành có thể. Đây

là cách mạng! Và bạn sẽ sống bây giờ trong buông bỏ

toàn bộ; thực ra Thượng đế sẽ sống qua bạn - không

phải bạn. Và Thượng đế không thể là nô lệ được, và

Thượng đế không thể bị thu thành bất kì cảnh nô lệ nào

được, và bạn không thể bị thu thành bất kì cảnh nô lệ

nào bây giờ.

Prem Rajo, nổi dậy và buông xuôi chắc chắn gặp

nhau - trong việc vứt bỏ bản ngã. Nhưng đừng cứ cố

hiểu những điều này một cách lí thuyết. Làm cái gì đó

có tính tồn tại để cho điều tôi đang nói trở thành kinh

nghiệm của bạn - bởi vì chỉ kinh nghiệm mới giải thoát.

****************************************************

#6Câu hỏi thứ năm:

Thưa thầy kính yêu,

Tôi nghe người Ấn Độ ba hoa quá nhiều về tính tâm

linh của họ. Thầy nói gì về điều đó?

Sahajo, người Ấn Độ chẳng có gì khác để mà ba hoa

cả! Tha thứ cho họ đi, từ bi với họ. Họ không có tiền, họ

không có nhà lớn, họ không có xe ô tô lớn, họ không có

gì về khoa học, công nghệ cả. Rất khó cho họ duy trì

được bản ngã của họ; tâm linh là chỗ nương tựa của họ.

Và tâm linh là hàng hoá. Bạn có thể ba hoa về nó rất dễ

dàng bởi vì chẳng ai có thể chứng minh được rằng bạn

không có nó, mà bạn cũng chẳng thể chứng minh được

rằng bạn không có nó, mà họ cũng không thể chứng

minh được rằng bạn có nó. Nó vô hình tới mức hoặc bạn

chấp nhận nó hoặc bạn không chấp nhận nó - nhưng bạn

không thể chứng minh nó được.

Và tại sao lại đặc biệt, về tâm linh? Điều thỉnh

thoảng xảy ra là nếu bạn rất tham bạn sẽ giả vờ là cái

đối lập, bởi vì đó là cách duy nhất để che giấu tham.

Nếu bạn là người rất giận dữ, bạn có thể giả vờ là người

rất lễ phép, từ bi, yêu thương, bởi vì đó là cách duy nhất

để che giấu giận dữ của bạn. Nếu bạn bị ám ảnh bởi dục,

bạn có thể bắt đầu nói về brahmacharya - vô dục. Cái

đối lập là cách che giấu nó.

Tâm trí Ấn Độ hoàn toàn vật chất, và cách duy nhất

để che giấu nó là nói về, là ba hoa về tâm linh. Vâng, đã

từng có vài người ở đất nước này - một Phật, một

Mahavira, một Patanjali, một Krishna - người hoàn toàn

tâm linh. Nhưng những người như vậy đã từng có ở mọi

nơi! Heraclitus, Pythagoras, Socrates, Plotinus, ở Hi Lạp

- cùng kiểu người đó, cùng phẩm chất đó, cùng hương

thơm đó. Lão Tử, Trang Tử, Liệt Tử, Mencius, ở Trung

Quốc - cùng hương sắc đó. Christ, Eckhart, Francis,

Bohme - cùng chiều hướng đó. Người tâm linh đã từng

có ở mọi nơi; nó không phải là sở hữu của ai cả. Nhưng

người Ấn Độ ba hoa về nó, tôi biết.

Sahajo, tôi có thể hiểu câu hỏi của bạn, bởi vì điều

bạn thấy khắp xung quanh chỉ là cái đối lập thôi. Đó là lí

do tại sao họ ba hoa về tính tâm linh. Từng người Ấn Độ

đều nghĩ rằng chỉ bởi việc là người Ấn Độ người đó là

vị Phật. Không dễ là vị Phật như vậy đâu! Và Phật

chẳng liên quan gì tới việc là người Ấn Độ cả.

Thực ra, Phật không phải là người Ấn Độ, ông ấy là

người Nepal. Ông ấy được sinh ra ở biên giới của Ấn

Độ và Nepal; thực ra, bây giờ phần đó là ở trong Nepal.

Và tượng Phật mà bạn thấy không giống người Nepal,

hay giống? Nó không phải là tượng đúng đâu. Nó không

giống như Bahadur! Người Nepal gần với người Trung

Quốc, người Tây Tạng, người Nhật Bản - kiểu người

Mông Cổ. Tượng Phật không giống người Nepal, chẳng

giống chút nào.

Tượng đã không được làm ra vào thời của Phật mà

cũng không được làm ra khi Phật chết. Tượng đã được

làm ra năm trăm năm về sau. Và bạn sẽ ngạc nhiên mà

biết, chúng đã được làm ra trong việc bắt chước

Alexander Đại đế. Alexander đã tới Ấn Độ vào thời đó,

và ông ấy có khuôn mặt đẹp, các nét Hi Lạp. Bức tượng

về Phật là người Hi Lạp! Bản thân con người này là

người Nepal; bức tượng là người Hi Lạp.

Và mọi kinh sách bạn đọc về Phật đều không phải là

bản gốc. Một số đã được dịch từ tiếng Tây Tạng, một số

từ tiếng Trung Quốc, một số từ tiếng Nhật Bản. Bản gốc

đã bị người Hindu phá huỷ rồi - và bây giờ cùng những

người Hindu đó cứ tuyên bố rằng họ là những người kế

thừa của Phật. Phật tử đã bị người Ấn Độ giết chết!

Một thời tới sau cái chết của Phật, sau bẩy hay tám

trăm năm, khi mọi Phật tử đều hoặc bị giết hoặc họ phải

chạy trốn khỏi Ấn Độ. Ấn Độ đã hoàn toàn sạch bóng

Phật tử. Vâng, họ đã bị giết, bị thiêu sống. Những người

may mắn đã trốn đi. Theo một cách nào đó, điều đó là

phúc lành, bởi vì những người trốn đi, các sư, họ trốn

sang Tây Tạng, sang Trung Quốc. Những người không

quá sợ hãi nhiều, họ trốn sang Tây Tạng - Tây Tạng ở

rất gần. Nhưng người sợ nhiều hơn thì chạy sang Trung

Quốc, sang Mông Cổ, sang Hàn Quốc, sang Đài Loan,

họ đơn giản không bao giờ dừng lại, họ cứ đi tới mãi!

Đó là cách toàn thể châu Á được cải sang Phật giáo.

Toàn thể công lao thuộc về người Hindu. Và bây giờ lại

cũng những người Hindu đó cứ công bố rằng, "Chúng ta

đã cho sinh thành ra Phật." Cảm thấy xấu hổ đi!

Nhưng Ấn Độ nghèo và rất vật chất. Người nghèo

không thể khác được; người nghèo nhất định có tính vật

chất, vật chất thô. Nhưng thế thì nuôi bản ngã của người

ta ở đâu được? Ấn Độ chẳng có gì khác để ba hoa. Tính

tâm linh là món hàng tốt - vô hình, không chứng minh

được. Bất kì ai cũng có thể nói, "Tôi đã kinh nghiệm

Thượng đế." Bạn không thể bác bỏ được điều đó. Có thể

người đó đúng, có thể người đó không đúng, nhưng điều

đó nằm ngoài chứng minh theo cách này cách nọ.

Nhưng đừng lo nghĩ về những người ngu xuẩn cứ

nói hoài về tính tâm linh, mà thậm chí chẳng biết ABC

gì về nó cả. Vâng, họ có thể biết cái gì đó về Veda và

Upanishad. Họ có thể nhồi nhét vài lời kinh, họ có thể

lẩm nhẩm chúng như con vẹt, nhưng họ không hiểu điều

họ đang nói - bởi vì các kiếp sống của họ làm ngược lại

với nó.

"Tôi xin lỗi, thưa ngài," người Ấn Độ nói, "nhưng

ngài chẳng phải là quí ông đã lôi con tôi ra khỏi hồ hôm

qua sao?"

"Sao thế, vâng, tôi là người đó đấy," người cứu bối

rối nói. "Nhưng mọi sự đều ổn thoả cả - chúng ta chẳng

còn gì để nói thêm về điều đó cả."

"Không nói thêm gì về nó sao?" người Ấn Độ la lên.

"Này ông, nói thực mũ của nó đâu rồi?"

Anh ta thậm chí không biết ơn! Anh ta đã không tới

để cám ơn người kia rằng, "Ông đã cứu mạng con tôi."

Anh ta lo nghĩ về chiếc mũ...

Một người Mê hi cô, một người Italia và một người

Ấn Độ thảo luận họ sẽ làm gì nếu họ thức dậy một sáng

khám phá ra rằng mình là triệu phú. Người Mê hi cô nói

người đó sẽ xây một trường đấu bò tót.

Người Italia nói anh ta sẽ thuê ba mươi thuyền đánh

cá nhỏ - dùng mỗi thuyền cho một đêm trong tháng.

Người Ấn Độ nói anh ta sẽ đi ngủ nữa và xem liệu

anh ta có thể làm ra thêm một triệu nữa không.

Nếu bạn quan sát tâm trí Ấn Độ, nó có tính vật chất.

Và không phải là nó chỉ có tính vật chất ngày nay đâu -

nó đã từng vậy rồi, bởi vì hai mươi nhăm thế kỉ trước

Phật đã bảo mọi người đừng là người duy vật, và ông ấy

đã nói về người Ấn Độ. Và thậm chí trước Phật, gần hai

mươi nhăm thế kỉ trước Phật, Parshvanath đã nói người

Ấn Độ không là người duy vật.

Ấn Độ đã đem triết học duy vật vĩ đại nhất tới thế

giới: triết học của Charvakas. Triết học Hi Lạp của

Epicurus không là gì khi so với triết học mà Charvakas

đã đem cho thế giới. Từ charvaka là có ý nghĩa; nó bắt

nguồn từ charuvak. Charuvak nghĩa là thông điệp êm ái,

thông điệp hay. Cái tên khác của triết học của Charvakas

là lokayat. Lokayat nghĩa là phổ biến; trong đó đa số

mọi người đều tin.

Có thể chính bởi vì chủ nghĩa duy vật Ấn Độ mà

một Phật, một Mahavira, một Parshvanath, một

Neminatha, đã là có thể. Khi mọi người quá vật chất, vài

người thông minh nhất định phát chán với toàn thể sự

việc. Điều đó trở thành buồn nôn, điều đó trở thành ốm

yếu! Cuộc sống vận hành theo cách rất kì lạ: khi xã hội

có tính vật chất, vài người tiên phong bắt đầu trở thành

người tâm linh.

Bây giờ phương Tây đang rất có tính vật chất, và

một khao khát lớn về tâm linh nảy sinh ở đó. Đó là lí do

tại sao các bạn đã tới đây. Các bạn không thấy nhiều

người Ấn Độ ở đây. Họ tin họ đã biết. Họ tin họ chẳng

có gì để mà làm nữa - không nghiên cứu thêm, không

truy tìm thêm. Và họ đã trở nên rất tinh ranh. Người

nghèo nhất định trở nên tinh ranh.

Nghèo là căn nguyên gốc rễ của mọi tội lỗi, mọi tội

ác. Cho nên họ bắt đầu học các cách thức láu cá. Họ bắt

đầu trở thành đạo đức giả: họ nói điều này, họ làm điều

khác. Họ bắt đầu học cách đeo mặt nạ. Bạn có thể thấy

điều đó, không chỉ trong người thường, mà trong cái gọi

là các nhà lãnh đạo và thánh nhân, chính trị và tôn giáo.

Bạn sẽ không tìm thấy những kẻ đạo đức giả như vậy ở

bất kì đâu khác.

Một chiếc máy bay bay ngang qua Đại Tây Dương

thì bị trục trặc động cơ. Sau khi vứt bớt mọi hành lí để

làm nhẹ tải trọng, viên phi công thông báo cho các hành

khách rằng ba người sẽ phải nhảy ra để cứu số còn lại.

"Chúng ta cần ba người tình nguyện," viên phi công

tuyên bố.

Ngay lập tức một người Anh rời khỏi chỗ của mình,

hô lên, "Thượng đế cứu Nữ hoàng!" và nhảy ra.

Một chút sau đó một người Pháp đứng dậy và nói,

"Nước Pháp muôn năm!" và nhảy ra.

Năm phút sau đó một chính khách Ấn Độ trong bộ

quần áo thuần tuyết trắng, dệt tay, đứng dậy, hô lên,

"Mahatma Gandhi muôn năm!" và ném người Mê hi cô

ra khỏi cửa.

****************************************************

#6Câu hỏi cuối cùng:

Thưa thầy kính yêu,

Với đe doạ của huỷ diệt hạt nhân, làm sao chúng ta

có thể "vui vẻ và thanh thản” được?

Julia Bradley, bạn có thể làm gì khác được nào?

Thời gian thật ngắn ngủi - nhảy múa, ca hát, vui vẻ đi!

Nếu như không có khả năng huỷ diệt hạt nhân, không có

đe doạ, bạn có thể đã trì hoãn. Bạn có thể đã nói, "Mai

mình sẽ nhảy múa." Nhưng bây giờ có thể không có

ngày mai; bạn không thể trì hoãn được.

Đây là lần đầu tiên mà ngày mai là tuyệt đối đáng

hoài nghi. Nó bao giờ cũng đáng hoài nghi, nhưng lần

này nó là tuyệt đối đáng hoài nghi. Một cách cá nhân nó

bao giờ cũng đáng hoài nghi: ngày mai có thể chẳng bao

giờ tới cả, thậm chí hơi thở tiếp cũng có thể không tới.

Một cách cá nhân cái chết bao giờ cũng sắp xảy ra,

nhưng lần này nó là cái gì đó toàn cầu, thế giới. Toàn

thể quả đất có thể biến mất, có thể bùng nổ; không chỉ

mọi người, chim chóc, con vật, cây cối, toàn thể cuộc

sống trên trái đất có thể mất đi.

Bây giờ điều đó là tuỳ ở bạn, Julia Bradley. Bạn có

thể kêu và khóc và bạn có thể đập đầu mình vào tường;

điều đó sẽ không chấm dứt được sự huỷ diệt hạt nhân và

mối đe doạ của nó. Thực ra nó có thể đem điều đó tới

gần hơn và nhanh hơn bởi vì người buồn, người khổ, là

những người nguy hiểm. Khổ tạo ra tính huỷ diệt.

Nhưng nếu toàn thể nhân loại có thể bắt đầu nhảy

múa, hân hoan, mở tiệc - khi thấy rằng mối đe doạ là rất

cận kề... Chiến tranh thế giới lần thứ ba có thể bắt đầu

bất kì khoảnh khắc nào. Các chính khách ngu xuẩn có

đủ năng lượng nguyên tử chất đống để phá huỷ trái đất

này không chỉ một lần mà bẩy trăm lần. Bom nguyên tử,

bom khinh khí đã tích luỹ lại nhiều tới mức chúng ta có

thể giết từng người bẩy trăm lần - mặc dầu mỗi người

chỉ chết một lần. Nhưng các chính khách muốn lấy mọi

cơ hội, cho nên bạn có thể bị giết bẩy trăm lần. Điều đó

sẽ không được cần tới, chỉ một lần là có tác dụng - bởi

vì chúng ta đã nghe chỉ mỗi một chuyện phục sinh; đó là

Jesus Christ. Và ngay cả nếu Jesus Christ được phục

sinh và mọi người đều qua đời, ông ấy sẽ làm gì? Ông

ấy sẽ phải tự tử thôi.

Hân hoan đi! - bởi vì thế thì có khả năng. Nếu toàn

thể trái đất có thể trở thành tràn đầy vui vẻ sẽ ít có khả

năng huỷ diệt - bởi vì ai sẽ huỷ diệt nó? Chúng ta là mọi

người; vấn đề là tuỳ ở chúng ta quyết định rằng chúng ta

muốn sống hay chúng ta muốn tự tử. Nếu chúng ta bắt

đầu một bầu không khí mới trên thế giới - của hân hoan,

của nhảy múa, của ca hát, của thiền, của lời cầu nguyện

- và nếu mọi người trở nên tràn đầy phúc lạc, hớn hở,

vui cười... Nếu thế giới này đầy tiếng cười, thì sẽ có mọi

khả năng chúng ta có thể tránh được huỷ diệt hạt nhân,

bởi vì người vui vẻ không muốn huỷ diệt, họ muốn sáng

tạo.

Và đằng nào đi nữa, Julia Bradley này, bạn cũng sẽ

chết. Liệu toàn thế giới có còn lại hay không chẳng

thành vấn đề. Bạn sẽ chết, chừng đó thì chắc chắn rồi.

Có thành vấn đề gì cho bạn liệu thế giới này tiếp tục sau

bạn hay không? Nếu nó tiếp tục, tốt; nếu nó không tiếp

tục, tốt. Có thành vấn đề gì cho bạn nào? Bạn sẽ không

ở đây thêm nữa. Khi có liên quan tới bạn, cái chết là

tuyệt đối chắc chắn. Dầu vậy bạn vẫn yêu, dầu vậy bạn

vẫn hát, bạn vẫn nghe nhạc, cho nên điều đó tạo ra khác

biệt gì?

Nếu huỷ diệt đã trở thành toàn cầu, chúng ta phải

làm tiếng cười và nhảy múa cũng thành toàn cầu, theo

cùng tỉ lệ, để trung hoà lại nó. Sao buồn? Và bạn sẽ

được gì bởi buồn? Nó sẽ có ích theo cách nào không?

Nó có thể chỉ là thủ đoạn của tâm trí để giữ cho bạn

buồn, nó có thể chỉ là việc bào chữa. Bạn phải buồn; bây

giờ bạn đang cố gắng để tìm ra ngày một nhiều cách hợp

lí hoá cho việc vẫn còn buồn. Và đây là việc hợp lí hoá

hay, rằng, "Các ông đang nói gì vậy? Nói mọi người

nhảy múa và ca hát và hân hoan, còn thế giới thì đang

bên bờ huỷ diệt sao? Bảo mọi người phải buồn chứ; bảo

mọi người phải kêu khóc và quên đi mọi tiếng cười và

quên đi mọi tình yêu!" Điều đó có ích theo bất kì cách

nào không? Nó sẽ đem vũ trụ tới tự tử gần hơn.

Nhưng ở đâu đó sâu bên dưới trong bạn có nỗi buồn

không muốn rời bỏ bạn, và nỗi buồn đó đang cố gắng

tìm ra sự hợp lí hoá.

David xuất thân từ một gia đình chính thống. Một

hôm anh ta tuyên bố, "Mẹ ơi, con sẽ lấy cô gái người Ai

len tên là Maggie Coyle."

Người đàn bà sững sờ choáng váng. "Điều đó là tế

nhị đấy, David," bà ấy nói, "nhưng đừng nói cho bố con.

Con biết bố con đã bị yếu tim rồi. Và mẹ sẽ không nói

cho chị con, Ida - nhớ lấy chị ấy cảm thấy mạnh mẽ thế

nào về các vấn đề tôn giáo. Và đừng nhắc điều đó với

anh con, Louis - anh ấy có thể cho con cú đấm vào

mồm. Còn mẹ, con nói với mẹ thì được. Đằng nào thì

mẹ cũng đi tự tử đây."

Ở đâu đó sâu bên dưới bạn phải có bản năng tự tử.

Bạn chỉ đang tìm cách hợp lí hoá thôi.

Vâng, tôi biết thế giới đang đối diện với nguy hiểm,

nhưng từng cá nhân bao giờ cũng đã đối diện với nguy

hiểm của cái chết. Dầu vậy Jesus vẫn nói: Hân hoan và

hân hoan! Và tôi lại nói với bạn, hân hoan! Và thực ra,

Jesus đang nói với mọi người, "Thế giới này sớm bị huỷ

diệt thôi. Ngày Phán xử là rất cận kề." Nó chưa bao giờ

gần như nó bây giờ. Jesus đã sai! Hai mươi thế kỉ đã trôi

qua rồi, và ông ấy đang nói với mọi người, "Trong chính

cuộc sống của mình các ông sẽ thấy Ngày Phán xử!" Lời

tiên tri của ông ấy đã không được hoàn thành.

Thực ra ông ấy không phải là nhà tiên tri, ông ấy là

nhà huyền môn. Ông ấy đã nói những điều này theo mục

đích hoàn toàn khác. Ông ấy nói, "Ngày Phán xử là rất

cận kề - tự biến đổi bản thân ông đi! Đừng phí hoài thời

gian, đừng trì hoãn!"

Bây giờ ngày của cái chết vũ trụ đang thực sự cận

kề, cho nên, Julia này, đừng trì hoãn nữa. Hân hoan đi,

hân hoan đi, tôi cứ nói đi nói lại với bạn, hân hoan đi -

bởi vì nếu bạn có thể chết trong hân hoan, bạn sẽ siêu

việt lên trên cái chết, bạn sẽ đi ra ngoài cái chết.

Người có thể chết một cách phúc lạc sẽ không bao

giờ chết, bởi vì trong cái chết người đó đi tới biết cái bất

tử.

Và nếu thời gian là ngắn, thế thì bạn phải lan toả

tiếng cười mầu cam này trên khắp thế giới. Thế thì đó là

lúc chúng ta nên làm cho mọi người ngày một vui vẻ

hơn. Nói cho họ rằng cái chết có thể chiếm lĩnh trái đất

này vào bất kì lúc nào - ngày được đếm - bởi vì các

chính khách đều là kẻ ngu, và kẻ ngu bây giờ có nhiều

quyền lực tới mức chính phép màu vô cùng là chiến

tranh thế giới thứ ba vẫn chưa xảy ra. Nó đáng phải đã

xảy ra rồi. Tại sao nó vẫn chưa xảy ra là điều bí ẩn. Việc

có mọi chính khách ngu xuẩn đó trên khắp thế giới nắm

giữ mọi quyền lực... Chỉ nhấn một cái nút và quá trình

có thể được lẩy cò, và trong vòng mười phút toàn thể

trái đất sẽ bắt lửa - ngọn lửa có thể làm chảy sắt và đá,

ngọn lửa sẽ làm chảy mọi thứ. Toàn thể trái đất có thể

bùng nổ.

Đây là tin mừng! Bạn không có thời gian để mà phí

hoài. Julia, tới đi - cùng tham gia vào điệu vũ này!

Đủ cho hôm nay.

***********************************************************************************************************

#7 Thấy bản thân bạn trong người khác

**Tất cả sinh linh run rẩy trước bạo hành.

Tất cả sợ chết.

Tất cả yêu sống.

Thấy bản thân ông trong người khác.

Thì ông có thể làm tổn thương ai?

Ông có thể gây hại gì?

Người tìm kiếm hạnh phúc

bằng việc làm tổn thương người tìm kiếm hạnh phúc

sẽ không bao giờ tìm thấy hạnh phúc.

Vì anh ông là giống ông.

Người đó muốn hạnh phúc.

Đừng bao giờ làm hại người đó

và khi ông rời bỏ cuộc sống này

ông cũng sẽ thấy hạnh phúc.

Đừng bao giờ nói những lời tàn nhẫn

vì chúng sẽ bật lại vào ông.

Những lời giận dữ gây đau

và cái đau bật lại.

Giống như cái cồng vỡ

tĩnh lặng, im lặng.

Biết tĩnh lặng của tự do

nơi không còn gắng sức nữa.

Giống như người nuôi súc vật đưa bò ra cánh đồng

tuổi già và cái chết sẽ đưa ông tới trước chúng.

Nhưng người ngu trong việc ác của mình quên mất

và người đó đốt lửa

để ngày nào đó người đó phải bị thiêu.

Người làm hại người vô hại

hay làm tổn thương người hồn nhiên

người đó sẽ ngã mười lần -

trong đau khổ hay ốm yếu,

bị thương hay bệnh tật hay điên khùng,

bị kiện cáo hay bị kết tội kinh khủng,

mất gia đình, mất của cải.

lửa từ trời sẽ đánh xuống nhà người đó

và khi thân thể người đó đã bị đánh ngã

người đó sẽ vào trong địa ngục.**

Bí ẩn vĩ đại nhất của sự tồn tại là gì? Nó không phải

là sống, nó không phải là yêu - nó là chết.

Khoa học cố gắng hiểu sống; do đó vẫn còn bộ

phận. Sống chỉ là một phần của bí ẩn toàn bộ, và là một

phần rất tí hon - hời hợt, chỉ trên chu vi. Nó không có

chiều sâu, nó nông cạn. Do đó khoa học vẫn còn nông

cạn. Nó biết nhiều và nó biết vào chi tiết lớn, nhưng mọi

việc biết của nó vẫn còn hời hợt - dường như bạn biết

đại dương chỉ qua các con sóng của nó và bạn chưa bao

giờ chìm sâu vào trong nó, và bạn không biết cái vô hạn

của nó.

Sống là hữu hạn, nhất thời. Khoảnh khắc này nó có

đó, khoảng khắc tiếp nó mất rồi. Nó là làn gió thoảng,

tới rồi đi... Nó không còn lại lâu. Do đó tuyên bố của

khoa học rằng nó biết chân lí là không đúng. Nó chỉ biết

chân lí bộ phận, và tuyên bố cái bộ phận như cái toàn

thể là một trong những điều ngớ ngẩn của cách tiếp cận

khoa học. Điều nó biết là đúng, nhưng điều đó không

phải là chân lí toàn thể. Và khoảnh khắc bạn tuyên bố

rằng bộ phận là toàn thể, bạn thậm chí còn làm sai bộ

phận.

Yêu là ở chặng giữa. Nó ở đích xác giữa sống và

chết. Nó là nửa sống, nửa chết; do đó có sợ của yêu.

Chừng nào bạn còn chưa sẵn sàng chết, bạn không thể

biết yêu được - mặc dầu bằng việc chết bạn trở nên sống

động hơn. Chính là qua chết mà yêu phục sinh bản thân

nó lặp đi lặp lại. Chính là bằng việc biến mất mà nó xuất

hiện đi xuất hiện lại.

Yêu là bí ẩn nhiều hơn là bản thân sống, bởi vì nó

có sống trong nó và có cái gì đó còn hơn nữa: sống cộng

với chết. Năm mươi phần trăm của yêu là sống, năm

mươi phần trăm là chết. Và chỉ những người sẵn sàng

chết sẽ biết sống của yêu. Những người sợ chết sẽ không

bao giờ đi vào được bí ẩn của yêu.

Nghệ thuật làm bùng nổ thế giới của yêu. Do đó

nghệ thuật là đúng hơn khoa học, đi sâu hơn khoa học.

Viễn kiến của nghệ sĩ chứa nhiều hơn tri thức khoa học

có thể chứa, mặc dầu cách thức của nghệ thuật là hoàn

toàn khác với cách thức của khoa học. Nó phải khác

chứ. Khoa học có thể có tính khách quan bởi vì nó là

ngoại vi. Nghệ thuật không thể tuyệt đối khách quan

được; nó năm mươi phần trăm khách quan, năm mươi

phần trăm chủ quan. Nó không thể tự do với người quan

sát được.

Khoa học cố gắng tuyệt đối tự do với người quan

sát; người quan sát phải không đi vào trong nó, phải

không tham gia, phải vẫn còn tuyệt đối trung lập, không

là người tham gia, mà là khán giả. Người đó phải không

được đem bản thân mình vào trong nó. Đó là cái nhìn

khoa học.

Nhưng làm sao bạn có thể tránh được người biết?

Nếu bạn thực sự muốn biết, người biết nhất định đi vào

trong tri thức.

Bây giờ nhiều nhà khoa học nhạy cảm đang trở nên

tỉnh táo với hiện tượng là không thể nào tuyệt đối vô tư

được: người quan sát nhất định bị phản xạ bởi việc quan

sát của mình. Người đó không thể là khán giả thuần

khiết được. Người đó sẽ diễn giải, người đó sẽ lí thuyết

hoá, người đó sẽ tạo ra các giả thuyết và người đó sẽ đi

qua các giả thuyết của mình. Người đó sẽ chọn lựa bởi

vì các chi tiết là vô hạn. Người đó sẽ phải hội tụ.

Ai sẽ quyết định hội tụ vào đâu, chọn cái gì, không

chọn cái gì, đi theo theo hướng nào? Bởi vì sự tồn tại là

đa chiều và bạn không thể đi theo mọi chiều đồng thời

được, bạn chỉ có thể đi theo một chiều thôi, nhất định là

điều bạn biết sẽ bị ảnh hưởng bởi người biết. Nhưng

điều này đã từng là hiểu biết của nghệ thuật từ chính lúc

bắt đầu.

Khi nhà khoa học nhìn vào hoa ông ấy cố gắng chỉ

là người quan sát. Ông ấy đơn giản ghi chép về điều ông

ấy thấy; ông ấy không đem mơ của mình vào, không

đem linh ảnh của mình vào việc quan sát. Nhà thơ có

nhiều tự do hơn, hoạ sĩ có nhiều tự do hơn. Ông ấy đi

sâu hơn vào trong hiện tượng hoa này. Ông ấy tham gia

vào bí ẩn của nó, ông ấy không tách rời; trong vài

khoảnh khắc ông ấy trở thành một với nó. Có những

khoảnh khắc mà nhà thơ nhảy múa cùng hoa - trong gió,

trong mưa, trong ánh mặt trời. Có những khoảnh khắc

mà nhà thơ trở thành hoa, khi người quan sát là vật được

quan sát. Có những khoảnh khắc khi nhà thơ không chỉ

nhìn vào hoa mà nhìn qua hoa, trở thành mắt của hoa.

Một cách tự nhiên, ông ấy chìm sâu hơn khoa học; ông

ấy đem tới viên kim cương lớn hơn nhiều, những đá quí

hơn nhiều.

Thơ ca, hội hoạ, điêu khắc, âm nhạc - chúng tới gần

thực tại hơn bởi vì chúng sẵn sàng để tham gia. Nhưng

chúng chỉ ở lưng chừng.

Tôn giáo về căn bản liên qua tới chết. Chết chứa tất

cả: chết chứa sống, chết chứa yêu, và cái gì đó còn hơn

thế mà cả sống không chứa được nó mà yêu cũng không

thể chứa được. Chết là cực điểm của tất cả, là cao trào,

là đỉnh cao nhất. Sống là cơ sở, chết là đỉnh cao - yêu

nằm đâu đó ở giữa.

Người tôn giáo, nhà huyền môn, cố gắng thám hiểm

bí ẩn này của chết. Trong thám hiểm bí ẩn của chết,

người đó đi tới biết sống là gì, yêu là gì. Những điều đó

không phải là mục đích của người đó. Mục đích của

người đó là xuyên thấu vào chết, bởi vì dường như

chẳng có gì bí ẩn hơn chết. Yêu có bí ẩn nào đó bởi vì

chết, và sống cũng có bí ẩn nào đó bởi vì chết.

Nếu chết biến mất sẽ không có bí ẩn nào trong sống

cả. Đó là lí do tại sao vật chết không có bí ẩn trong nó.

Cái xác không có bí ẩn nào trong nó, bởi vì nó không

thể chết thêm nữa được. Bạn nghĩ nó không có bí ẩn nào

bởi vì sống đã biến mất sao? Không, nó không có bí ẩn

nào bởi vì bây giờ nó không thể chết thêm nữa được.

Chết đã biến mất, và cùng với chết tự động sống biến

mất. Sống chỉ là một trong những cách thức diễn đạt của

chết.

Cái xác không có bí ẩn nào bởi vì, với sự biến mất

của chết, yêu mất đi. Mới khoảnh khắc trước đã có bí ẩn

lớn lao; bây giờ có cái không. Bạn chỉ có thể đi và chôn

người chết hay thiêu người chết. Dấu chấm hết đã tới.

Quá trình này đã dừng lại rồi. Chính chết giữ cho quá

trình này tiếp diễn. Chính chết giữ cho bạn nhận biết về

cái gì đó bí ẩn, huyền diệu, kì diệu.

Tôn giáo được đặt nền tảng trong tìm kiếm vào chết,

và hiểu chết là hiểu tất cả. Kinh nghiệm chết là kinh

nghiệm tất cả, bởi vì trong kinh nghiệm về chết, bạn

không chỉ kinh nghiệm sống ở chỗ cao nhất của nó, yêu

ở chỗ sâu nhất của nó; trong việc kinh nghiệm chết bạn

đi vào trong điều thiêng liêng. Chết là cánh cửa đi tới

điều thiêng liêng. Chết là tên của cánh cửa của ngôi đền

của Thượng đế. Thiền nhân chết đi một cách tự nguyện.

Có hai loại chết. Một là chết thường; mọi người đều

chết nó. Đó không phải là cái chết của nhà huyền môn.

Chết thường xảy ra ngược với bạn; bạn đi vào trong nó

một cách rất ngần ngại. Bạn không muốn đi vào trong

nó, bạn níu bám lấy sống. Bạn không trở thành sẵn có

cho nó, bạn không trở thành cởi mở cho nó. Do đó bạn

cứ bỏ lỡ vấn đề.

Nhiều lần bạn đã chết, nhưng mỗi lần bạn chết có

nhiều ám ảnh với sống tới mức bạn không thể thấy được

chết là gì. Mắt bạn bị hội tụ vào sống, bạn níu bám lấy

sống. Bạn đằng nào cũng bị lôi ra, và cách duy nhất để

lôi bạn ra là làm cho bạn thành vô ý thức.

Khi bác sĩ giải phẫu sắp mổ bạn ông ấy làm cho bạn

thành vô ý thức, ông ấy cho bạn thuốc mê. Đó là điều

cái chết đã làm trong hàng thế kỉ, từ vĩnh hằng. Nếu bạn

không thể đi một cách hân hoan, nhảy múa vào trong nó,

có thuốc mê sẵn đấy: mọi người trở thành vô ý thức

trước khi họ chết. Đó là lí do tại sao bạn không nhớ tới

các kiếp quá khứ của mình, bởi vì bạn trở thành vô ý

thức sâu tới mức trước khi bạn chết chương đó đã trở

nên bị đóng lại.

Nếu một người có thể chết đi một cách có ý thức,

tỉnh táo, người đó sẽ nhớ kiếp sống quá khứ của mình.

Đó là cách Ấn Độ đã khám phá ra rằng không chỉ có

một kiếp sống; hàng triệu lần bạn đã sống rồi. Bạn

không mới, bạn là kẻ hành hương rất cổ đại. Nhưng mỗi

lần bạn chết đi một cách ngần ngại, vô ý thức; do đó bạn

quên mọi thứ.

Nhà huyền môn chết một cách tự nguyện. Nhà

huyền môn chết trước cái chết thực; ông ấy chết trong

thiền. Người yêu biết chút ít về nó bởi vì năm mươi

phần trăm của yêu là chết. Đó là lí do tại sao yêu rất gần

với thiền. Người yêu biết cái gì đó của tính thiền; vô

nhận biết họ đã loạng choạng vào nó. Người yêu biết im

lặng, tĩnh lặng. Người yêu biết vô thời gian, nhưng họ

đã loạng choạng vào nó - nó đã không là việc tìm kiếm

cơ bản của họ.

Nhà huyền môn đi vào trong nó một cách rất có ý

thức, một cách có chủ định. Thiền là cái chết toàn bộ,

cái chết tự nguyện. Người ta chết trong bản thân mình.

Trước khi cái chết tới, nhà huyền môn chết. Ông ấy chết

mọi ngày. Bất kì khi nào ông ấy thiền ông ấy đều đi vào

cái chết. Ông ấy đạt tới những đỉnh cao đó, những chiều

sâu đó, và dần dần, dần dần, khi thiền trở thành tự nhiên,

ông ấy bắt đầu sống cái chết. Thế thì từng khoảnh khắc

sống của ông ấy cũng là khoảnh khắc của chết. Từng

khoảnh khắc ông ấy chết đi quá khứ và vẫn còn tươi tắn,

bởi vì khoảnh khắc bạn chết đi quá khứ bạn trở thành

sống động cho hiện tại.

Ông ấy liên tục chết đi và vẫn còn tươi tắn như giọt

sương hay như lá sen vào buổi sáng sớm mặt trời. Tươi

tắn của ông ấy, trẻ trung của ông ấy, vô thời gian của

ông ấy, tuỳ thuộc vào nghệ thuật chết. Và thế thì khi cái

chết thực tới ông ấy chẳng có gì để sợ, bởi vì ông ấy đã

biết cái chết này cả nghìn lần rồi. Ông ấy xúc động, say

mê; ông ấy nhảy múa! Một cách vui vẻ ông ấy muốn

chết. Chết không tạo ra sợ hãi trong ông ấy; ngược lại, là

hấp dẫn vô cùng, sức hút lớn lao.

Và bởi vì ông ấy chết đi một cách vui vẻ, ông ấy

chết mà không trở nên vô ý thức, và ông ấy biết toàn thể

bí mật của chết. Biết điều đó, ông ấy có chìa khoá chính

có thể mở mọi cánh cửa. Ông ấy có chìa khoá có thể mở

cánh cửa của Thượng đế.

Và bây giờ ông ấy biết rằng mình không là một cá

nhân tách biệt. Chính ý niệm về tách biệt là ngu xuẩn.

Chính ý niệm về tách biệt có đó bởi vì ông ấy đã không

nhận biết về chết. Bạn nghĩ bản thân mình tách biệt như

bản ngã bởi vì bạn không biết chết là gì. Nếu bạn biết

chết, bản ngã sẽ bay hơi. Và khoảnh khắc bản ngã bay

hơi bạn bắt đầu cảm thấy toàn thể sự tồn tại.

Đó là lí do tại sao Phật dạy bất bạo hành. Đó không

phải là giáo huấn đạo đức, không giống như Mahatma

Gandhi. Toàn thể giáo lí của Mahatma Gandhi là đạo

đức, xã hội, chính trị. Điều đó là bình thường; nó không

có huyền môn trong nó. Bất bạo hành của Phật là hoàn

toàn khác, khác về chất. Khi ông ấy dạy bất bạo hành

ông ấy ngụ ý không có ai khác hơn bạn. Làm tổn thương

bất kì ai là làm tổn thương bản thân bạn. Phá huỷ bất kì

cái gì là phá huỷ bản thân bạn. Chống đối lại, thù nghịch

với, đối kháng với bất kì ai là chống lại bản thể riêng

của bạn - bởi vì chỉ có một bản thể xuyên thấu và lan

tràn khắp mọi người.

Phật chưa bao giờ dùng từ ‘Thượng đế’, nhưng bằng

những hướng dẫn tinh tế ông ấy cứ chỉ đi chỉ lại mãi.

Đây là cách chỉ dẫn của ông ấy. Kính trọng của ông ấy

với Thượng đế là mênh mông tới mức ông ấy cảm thấy

dùng từ ‘Thượng đế’ là phạm tội lỗi. Đó là hiểu biết của

tôi về Phật. Ông ấy không dùng từ này bởi vì kính trọng

sâu sắc, tôn kính lớn lao. Ông ấy đã bị hiểu lầm - như

điều đó bao giờ cũng xảy ra. Mọi chư phật đều bị hiểu

lầm, bởi vì những người cố gắng hiểu họ lại không có

sáng suốt, đều mù, điếc.

Phật đã bị coi là kẻ vô thần. Chẳng cái gì có thể xa

hơn khỏi chân lí. Phật đã bị coi là chống lại Thượng đế.

Chẳng cái gì có thể không thật hơn. Sự tôn kính của

Phật tới mức ông ấy không thể khẳng định từ 'Thượng

đế' được. Khẳng định từ ‘Thượng đế’ là tạo ra tách biệt;

cứ dường như "Thượng đế" là tách biệt khỏi "tôi." Sự

không thể tách rời nhiều tới mức, sự thống nhất với

Thượng đế nhiều tới mức là ngay cả từ này cũng không

thể được thốt ra.

Điều đó đã là một truyền thống ở Israel cổ: trong

hàng thế kỉ tên của Thượng đế đã không được nói ra.

Chỉ tu sĩ cao nhất của ngôi đền lớn ở Jerusalem là được

phép, và điều đó nữa trong tính một mình tuyệt đối, và

điều đó nữa cũng chỉ một lần trong năm. Không ai khác

được phép dùng tên của Thượng đế. Một ngày duy nhất,

một lần trong năm, tu sĩ cao nhất, người thuần khiết

nhất, người ngoan đạo nhất, người thánh thiện nhất

trong mọi người Do Thái, sẽ đi vào trong điện thờ, điện

thờ bên trong nhất của ngôi đền này. Mọi cánh cửa đều

bị đóng lại. Cả nghìn người tụ tập quanh ngôi đền chỉ để

hiện diện ở đó trong khi tu sĩ này nói ra tên của Thượng

đế. Không ai nghe thấy điều đó - tu sĩ sẽ thì thào nó.

Bạn không thể kêu to tên của Thượng đế được; nó

chỉ có thể được thì thào trong im lặng - và chỉ một lần.

Đó đã là một truyền thống hay. Điều đó biểu lộ sự tôn

kính. Bằng không, những từ đẹp đẽ như 'Thượng đế' trở

nên bị ô nhiễm, trở thành thiếu tôn kính. Chúng trở

thành xấu.

Ngay cả bây giờ, người Do Thái, bất kì khi nào họ

dùng từ Thượng đế 'God' hay họ viết từ 'God', đều đánh

vần nó khác đi. Họ không dùng đánh vần đầy đủ G-o-d.

Họ đơn giản dùng G-d, họ bỏ chữ 'o' đi, chỉ để chứng tỏ

rằng, "Chúng ta không đủ năng lực để nói ra cái tên đầy

đủ." Phần bản chất, cái lõi ở giữa của nó, chính linh hồn

của nó, bị bỏ ra. Và 'o' đó là đẹp bởi vì nó cũng là biểu

tượng cho số không. Nó không chỉ là 'o' mà còn là số

không nữa, và số không là cốt lõi bên trong nhất của

Thượng đế.

Phật gọi nó là shunyata - trống rỗng, hư không. 'G'

và 'd' chỉ là ngoại vi; điều đó là được, người ta có thể

dùng chúng, nhưng cốt lõi bên trong nhất phải bị bỏ lại

không được diễn đạt. Chính bởi vì tôn kính vô cùng với

Thượng đế, với sự tồn tại mà Phật chưa bao giờ dùng từ

này. Nhưng hướng dẫn có đó; với người dễ cảm nhận,

với người nhạy cảm, có vô hạn hướng dẫn. Trong từng

câu đều có hướng dẫn.

Khoảnh khắc bạn chết đi một cách có ý thức, trong

thiền, Thượng đế được sinh ra - bởi vì bạn biến mất như

một bản ngã. Thế thì cái gì còn lại? Tĩnh lặng, tĩnh lặng

tiềm năng vô cùng, im lặng có tính thai nghén - thai

nghén cái toàn thể. Khi bạn biến mất, các biên giới biến

mất. Bạn tan chảy và hội nhập với mọi người khác.

Nhà thơ, chỉ thỉnh thoảng, trở nên hoà điệu cùng đoá

hoa, hoà điệu cùng mặt trời mọc, hoà điệu cùng con

chim tung cánh. Nhà huyền môn trở thành một với sự

tồn tại mãi mãi. Ông ấy là đoá hoa và ông ấy là đám

mây và ông ấy là mặt trời và ông ấy là mặt trăng và ông

ấy là các vì sao. Ông ấy bắt đầu sống theo cách đa chiều

bởi vì toàn thể cuộc sống là của ông ấy. Ông ấy sống

trong cây cối như chất xanh, và trong hoa hồng như chất

đỏ thắm. Ông ấy ở trên đôi cánh của chim, ông ấy là

tiếng gầm của sư tử và ông ấy là con sóng của đại

dương. Ông ấy là tất cả... làm sao ông ấy có thể bạo

hành được? Làm sao ông ấy có thể làm tổn thương

được? Làm sao ông ấy có thể có tính huỷ diệt được?

Toàn thể cuộc sống của ông ấy trở thành tính sáng

tạo.

Nhà huyền môn hoàn toàn có tính sáng tạo.

Lời kinh:

**Tất cả sinh linh run rẩy trước bạo hành.

Tất cả sợ chết.

Tất cả yêu sống.**

Những phát biểu đơn giản, nhưng với nghĩa lớn lao.

Tất cả sinh linh run rẩy trước bạo hành. Ngay cả

con vật vô ý thức cũng run rẩy trước bạo hành. Cho dù

bạn có thể không làm cho chúng tỉnh táo theo bất kì

cách nào rằng chúng sắp bị giết, nhưng dầu vậy, trước

khi con cừu bị giết, nó run rẩy. Bây giờ các nhà khoa

học đã khám phá ra rằng cùng điều đó cũng đúng cho

cây cối. Khi tiều phu đi vào vườn hay vào rừng cây cối

run rẩy.

Bây giờ có những dụng cụ tinh vi như máy đo nhịp

tim, để ghi lại việc run của tim cây, nó có thể tạo ra đồ

thị về điều xảy ra cho bên trong của cây. Thậm chí việc

tiều phu đi vào trong rừng rậm... Ông ấy không nói gì

cả, ông ấy còn chưa chặt một cành nào của cây, nhưng

run rẩy nảy sinh cứ dường như một nguồn trực giác nào

đó làm cho cây tỉnh táo.

Và các nhà khoa học đã quan sát một phép màu:

cùng tiều phu đó với cái rìu trên vai có thể đi từ rừng

rậm. Nếu người đó không chặt cây nào cả - nếu người

đó chỉ đi qua đường, đi tới chỗ khác nào đó - không cây

nào run rẩy cả. Dường như ý định của tiều phu - chỉ ý

định thôi, không hành động nào - là được tiếp âm,

truyền phát cho cây.

Và một điều nữa họ đã quan sát thấy. Bạn có thể

không chặt cây; thợ săn có thể tới và giết một con hổ -

nhưng mọi cây xung quanh chỗ đó đều run rẩy. Ngay cả

cái chết của hổ cũng đủ làm cho chúng buồn, làm cho

chúng sợ. Điều các nhà khoa học bây giờ mới trở nên

nhận biết trong vòng ba hay bốn năm nay, các nhà

huyền môn đã từng nhận biết từ hàng thế kỉ rồi.

Phật nói: Tất cả sinh linh run rẩy trước bạo hành.

Bạo hành là cái gì đó chống lại tự nhiên. Người tôn giáo

không thể bạo hành được - không phải là người đó thực

hành bất bạo hành đâu, nhớ lấy. Nếu bạn thực hành bất

bạo hành bạn sẽ trở thành một người kiểu Gandhi, đồ

rởm. Người theo Gandhi không phải là người tôn giáo.

Người đó thực hành bất bạo hành, người đó cố gắng trở

thành bất bạo hành - người đó không có hiểu biết. Người

đó tạo ra cá tính, nhưng sâu bên dưới người đó không có

tâm thức điều có thể vận hành như trung tâm của cá tính

đó.

Nhà huyền môn trước tiên tạo ra tâm thức, thế rồi cá

tính theo sau theo cách riêng của nó. Và nhà đạo đức tạo

ra cá tính, nhưng tâm thức không đi theo cá tính. Cá tính

là thứ rất hời hợt. Bạn có thể thấy ở đất nước này... có

hàng nghìn người thực hành bất bạo hành, đặc biệt là

người Jaina.

Phật tử đã quên hết mọi điều Phật đã nói. Cái ngày

Phật giáo phải rời khỏi Ấn Độ, nó bỏ lại sự bất bạo hành

của nó nữa. Bây giờ Phật tử tất cả đều là người ăn thịt -

người Trung Quốc, người Nhật Bản, người Hàn Quốc.

Tất nhiên họ đã hợp lí hoá điều đó. Việc hợp lí hoá là ở

chỗ, "Chúng tôi ăn thịt chỉ những con vật đã chết cái

chết tự nhiên." Cho nên ở Trung Quốc, ở Nhật Bản hay

ở các nước Phật giáo, bạn sẽ thấy các biển đề trên cửa

hiệu, "Ở đây chỉ phục vụ món thịt của các con vật đã

chết cái chết tự nhiên." Bây giờ, chẳng có mấy con vật

chết cái chết tự nhiên mà họ có thể cung cấp cho toàn

thể châu Á. Nhưng điều đó là đủ rồi - mọi người đều

tinh ranh.

Nhưng ở Ấn Độ người Jaina vẫn thực hành bất bạo

hành. Nhưng bởi vì họ thực hành nó, nó vẫn còn là cái

gì đó giả tạo, cái gì đó gần với đạo đức giả hơn. Nó

không biến đổi bản thể bạn, nó không làm cho họ chói

sáng, nó không cho họ duyên dáng và cái đẹp. Và trong

cuộc sống thường của mình họ vẫn giận dữ, đầy tham

vọng - hay thậm chí còn hơn thế - hơn người khác. Và

cái “hơn” đó có thể hiểu được; có lí do.

Họ bằng cách nào đó đã áp đặt lên bản thân mình để

là bất bạo hành. Bây giờ bạo hành của họ sẽ đi đâu? Nó

sẽ phải tìm cách thức mới nào đó, chỗ ra mới nào đó.

Bởi vì thầy của họ, Mahavira, người đương đại với Phật,

đã nói với họ: tạo ra tâm thức được theo sau bởi bất bạo

hành - theo cùng cách như Phật nói điều đó. Theo cùng

cách đó mà Phật tử đã hiểu lầm Phật, họ đã tìm ra con

đường hợp pháp để thoát ra khỏi nó. "Đừng giết hại,"

Phật nói. Và họ nói, "Chúng tôi không giết hại; chúng

tôi chỉ ăn thịt của con vật đã chết một cách tự nhiên."

Đây là chiến lược pháp lí để thoát ra khỏi điều đó.

Người Jaina đã theo cách thức thường lệ, chẳng hiểu

thông điệp của Mahavira... bởi vì Mahavira đã nói:

Đừng giết con vật, đừng chặt cây - ông ấy là người đầu

tiên nói: Đừng chặt cây - cho nên người Jainas đã tuân

theo điều đó, không hiểu chiều sâu và ý nghĩa của nó,

nhưng chỉ như một chữ chết. Họ đã theo đúng từng từ,

cho nên họ đã dừng việc làm nông trại bởi vì trong việc

nông trại bạn sẽ phải chặt hạ cây cối và thực vật.

Họ đã dừng việc là chiến binh. Mahavira được sinh

ra trong dòng dõi chiến binh; tất cả hai mươi bốn

tirthankaras Jaina đều là chiến binh. Tất nhiên điều tuyệt

đối chắc chắn là những người trở nên quan tâm tới

tirthankaras Jaina phải đã tới, ít nhất cũng đa số trong

họ, từ đẳng cấp kshatriyas - dòng dõi chiến binh, võ sĩ

đạo của Ấn Độ. Nhưng họ không thể vẫn còn là chiến

binh thêm nữa, họ phải vứt bỏ chiếc kiếm của mình.

Họ không thể là chiến binh được, họ không thể là

nông dân được, và người brahmin sẽ không cho phép họ

là brahmin. Và họ không quan tâm tới việc là người

brahmin, bởi vì họ không quan tâm tới kinh sách

brahmin - bởi vì những kinh sách đó đầy những bạo

hành.

Trong những kinh sách đó việc hiến tế con vật là

được phép; không chỉ hiến tế con vật mà cả hiến tế

người nữa - rằng tại bệ thờ Thượng đế bạn có thể hiến tế

con người. Thỉnh thoảng, thậm chí cả ngày nay, trong

thế kỉ hai mươi này, điều đó xảy ra ở Ấn Độ: thỉnh

thoảng một đứa trẻ lại bị hiến tế, một người bị hiến tế -

ngay cả bây giờ đấy!

Họ không thể trở thành người brahmins được, họ

không thể vẫn còn là kshatriyas, chiến binh. Họ sẽ

không thích trở thành tiện dân sudras. Trở thành thợ

chữa giầy là không thể được bởi vì điều đó là bạo hành,

và trở thành người quét rác là đi ngược lại bản ngã của

họ. Thế thì khả năng duy nhất cho họ là doanh nhân.

Cho nên tất cả người Jaina đều trở thành doanh nhân, và

toàn thể bạo hành bị kìm nén của họ trở thành tham

vọng của họ, tham lam của họ.

Do đó người Jaina là cộng đồng nhỏ ở Ấn Độ, một

cộng đồng rất nhỏ, nhưng nó xoay xở và kiểm soát đa số

của cải của đất nước này. Nó là cộng đồng giầu có nhất.

Toàn thể bạo hành trở nên được hướng vào một điều -

tiền. Bạn có thể làm tổn thương mọi người bằng việc trở

thành giầu mà không làm tổn thương họ theo bất kì cách

thấy được nào. Bạn có thể bóc lột mọi người. Bạn không

cần giết họ, bạn không cần uống máu họ, nhưng bạn có

thể bóc lột họ tới mức chẳng còn lại máu trong họ. Đó là

điều đã xảy ra với người Jaina. Điều đó bao giờ cũng

xảy ra nếu bạn thử làm điều hời hợt trước hết.

Điều đó ngu xuẩn như khi tôi muốn mời bạn ăn tối -

tôi không cần mời cái bóng của bạn, nó tới cùng với

bạn. Nếu tôi mời cái bóng của bạn, cái bóng sẽ không

tới; nó không thể tới và không có vấn đề về việc tới của

bạn bởi vì bạn không được mời chút nào.

Cá tính là hiện tượng bóng hình, tâm thức là trung

tâm. Cá tính đơn giản phản xạ tâm thức. Cho nên những

lời kinh này phải được hiểu không chỉ như các giáo

huấn đạo đức, mà như những sáng suốt tâm linh. Tất cả

sinh linh run rẩy trước bạo hành. "Tất cả sinh linh"

nghĩa là cây cối, chim chóc, con vật, con người...

Chúng ta tinh ranh tới mức chúng ta cứ nói rằng con

người là chủ. Con vật được tạo ra cho con người tận

hưởng, cây cối được tạo ra cho con người. Không chỉ

việc chúng ta tạo ra phân biệt và khác biệt giữa con

người và con vật khác và các bình diện khác của sự tồn

tại, chúng ta tạo ra khác biệt trong nhân loại nữa.

Chẳng hạn, Adolf Hitler thường cho rằng người

Đức, đặc biệt là người Bắc Âu, người Đức thuần chủng

nhất, là do Thượng đế tạo ra để thống trị toàn thế giới.

Mọi giống nòi khác đều thấp bé hơn chút ít so với giống

người thuần Aryans. Cho nên nếu họ không nhường

nhịn, không qui phục, họ có thể bị tiêu diệt.

Người Do Thái bao giờ cũng nghĩ rằng họ là dân tộc

được chọn. Người Hindu bao giờ cũng nghĩ rằng họ là

người ngoan đạo nhất, người riêng của Thượng đế;

Thượng đế bao giờ cũng lấy việc sinh trong gia đình

Hindu, không ở đâu khác. Người Hindu bao giờ cũng

nghĩ rằng đất nước này, Ấn Độ, là đất nước thiêng liêng

duy nhất. Nhưng sự ngu xuẩn này chẳng có gì đặc biệt

cho người Hindu; mọi người đều nghĩ theo cách đó.

Người Mô ha mét giáo nghĩ rằng Thượng đế đã trao

hệ thống tôn giáo cuối cùng và thực cho Mohammed

trong Koran. Bây giờ không có nhu cầu về bất kì thầy

nào nữa, không cần bất kì Phật nào. Koran là dấu chấm

hết; tiến hoá đã dừng lại tại Koran. Và người Mô ha mét

giáo có đặc quyền và có trách nhiệm biến toàn thể nhân

loại thành người Mô ha mét giáo. Và nếu mọi người

chống lại thì họ phải bị giết chỉ vì ích lợi riêng của họ.

Và đó cũng là trường hợp với người Ki tô giáo, bởi

vì Jesus của họ là Đứa con duy nhất của Thượng đế. Và

mọi người khác là gì - con hoang thôi sao? Chỉ mỗi

Jesus là đứa con duy nhất của Thượng đế, và bạn có thể

lên cõi trời chỉ thông qua Jesus thôi - không qua Phật,

không qua Krishna, không qua Zarathustra. Không,

Jesus là con đường duy nhất, chân lí duy nhất!

Cho nên không chỉ trong con vật và cây cối mà

chúng ta đã tạo ra cấp bậc, chúng ta đang cố gắng tạo ra

cấp bậc trong con người nữa. Mọi người đều như nhau.

Vâng, có sự khác biệt bề ngoài - điều đó là tốt. Sẽ rất

buồn nếu những khác biệt bề ngoài đó biến mất. Chúng

làm cho cuộc sống vui thích hơn; chúng cho cuộc sống

sự đa dạng, màu sắc. Chúng làm cho cuộc sống thành

khu vườn, đầy những màu sắc khác nhau và hương thơm

khác nhau. Những khác biệt nhỏ bé là đẹp; chúng phải

được nuôi dưỡng, chúng phải không bị phá huỷ. Con

người phải không bị làm thành một loại người. Những

khác biệt này - về người Do Thái và người Hindu và

người Mô ha mét giáo và người Ki tô giáo - đều đẹp.

Khác biệt trong tiếng Trung Quốc và tiếng Nhật Bản và

tiếng Đức và tiếng Anh và tiếng Pháp và tiếng Italia, đều

đẹp, nhưng đây là những điều bên ngoài.

Tại cốt lõi, mọi người đều bình đẳng và như nhau.

Để hai người đàn ông và một người đàn bà trên một

hòn đảo hoang vắng và đây là điều chắc chắn sẽ xảy ra:

Nếu họ là người Do Thái, hai đàn ông sẽ chơi bài để

xem ai được người đàn bà.

Nếu họ là người Anh, họ sẽ thảo luận về thời tiết và

bỏ qua người đàn bà bởi vì họ quan tâm tới nhau nhiều

hơn.

Nếu họ là người Pháp, hai người đàn ông sẽ cùng

chung người đàn bà.

Nếu họ là người Italia, người đàn bà sẽ giết một

trong hai người đàn ông.

Nếu họ là người Eskimo, một trong hai người đàn

ông sẽ giành lấy người đàn bà và thế rồi cho người kia

mượn.

Nếu họ là người Mĩ, họ sẽ vẫn thảo luận về vấn đề,

cố gắng tìm ra cách thức thoả đáng và thân ái để giải

quyết vấn đề.

Những khác biệt này có đó, và những khác biệt này

là đẹp và chúng phải được nuôi dưỡng. Chúng là đáng

yêu, chúng làm cho trái đất đẹp; bằng không nó sẽ rất

chán.

Quảng cáo sau đây xuất hiện trong mục nhắn tin của

tờ báo London: "Chồng tôi và tôi có bốn con trai. Ai có

gợi ý gì về cách chúng tôi có thể có con gái không?"

Thư tới tấp đổ về trên khắp thế giới. Một người Mĩ

viết, "Nếu ban đầu các bạn không thành công, thử, thử

lại."

Một người Ai len gửi một chai rượu Scotch với

hướng dẫn uống toàn bộ rượu trước khi về hưu.

Một người Đức tặng bộ sưu tập roi của mình.

Một người Mê hi cô khuyên ăn kiêng món bánh thịt

chiên giòn và đậu rán lại.

Một người Ấn Độ đề nghị tập yoga, đặc biệt là

shirshasana - trồng cây chuối.

Một người Pháp đơn thuần viết, "Tôi có thể phục vụ

được không?"

Những khác biệt này là tốt, hay; chúng nên được

giúp đỡ phát triển. Nhưng bản thể căn bản, nền tảng là

một, không chỉ trong con người mà trong mọi sinh linh.

Cây có một bản thể - chỉ thân thể nó là khác với bạn; và

hổ có một bản thể - chỉ thân thể nó là khác bạn. Khác

biệt chỉ là ở chu vi. Trung tâm bao giờ cũng là như nhau

bởi vì trung tâm là một. Tên của trung tâm là Thượng

đế.

Tất cả sinh linh run rẩy trước bạo hành. Tất cả sợ

chết. Tất cả yêu sống. Không cần chứng minh những

điều này. Đây đơn giản là những quan sát của mọi

người. Nhưng vài kết luận có thể được rút ra từ chúng.

Nếu mọi sinh linh đều run rẩy trước bạo hành, thế thì có

cái gì đó sai trong bạo hành, sai về căn bản. Điều đó

chống lại tự nhiên.

Tính huỷ diệt là không tự nhiên, tính sáng tạo là tự

nhiên. Không bạo hành nhưng từ bi là tự nhiên, không

bạo hành nhưng yêu thương. Không giận dữ, không ghét

bỏ, bởi vì đấy là những điều dẫn tới bạo hành, đấy là

những hạt mầm. Yêu thương, từ bi, chia sẻ, đây là tự

nhiên. Và là tự nhiên là có tính tôn giáo.

Tất cả sợ chết; do đó, đừng giết hại. Thay vì thế,

giúp cho mọi người biết cái chết. Nỗi sợ của họ là vì dốt

nát. Họ sợ chết bởi vì chết là cái không biết lớn nhất.

Không có cách nào biết cái chết chừng nào bạn còn

chưa chết. Giúp mọi người biết chết qua thiền đi, bởi vì

đó là cách chết đi và vẫn còn sống.

Tất cả yêu sống; do đó, yêu đi. Tạo ra hoàn cảnh,

không gian, nơi tình yêu có thể phát triển. Đó là điều tôi

đang làm ở đây: tạo ra không gian nơi năng lượng yêu

của bạn có thể tuôn chảy, nơi chúng không bị cản trở gì,

không chướng ngại gì.

Mọi xã hội của thế giới đều đã hướng quá nhiều tới

chiến tranh, do đó chúng đã không cho phép yêu - bởi vì

nếu bạn cho phép yêu tuôn chảy, chiến tranh biến mất.

Nếu bạn cho phép yêu và giúp đỡ cho yêu và tạo ra hoàn

cảnh cho yêu phát triển và xảy ra, mọi người sẽ không

thể nào đánh nhau và giết nhau được.

Cho nên từ ngay lúc ban đầu chúng ta phải cho họ

việc huấn luyện quân sự. Từ chính lúc ban đầu trẻ con

phải được dạy hận thù. Người Hindu được bảo phải ghét

người Mô ha mét giáo, người Mô ha mét giáo được bảo

phải ghét người Hindu. Người Ki tô giáo ghét người Do

Thái, người Do Thái ghét người Ki tô giáo, vân vân và

vân vân. Từng quốc gia này ghét quốc gia khác, và trong

từng quốc gia cũng có những cộng đồng nhỏ bé, khác

nhau, ghét lẫn nhau: người theo Maharashtrian ghét

người theo Gujaratis, người theo Gujaratis ghét người

theo Maharashtrian.

Ấn Độ là một nước, nhưng miền Bắc ghét miền

Nam, miền Nam ghét miền Bắc. Người nói tiếng Hindu

ghét người không nói tiếng Hindu, và người không nói

tiếng Hindu bao giờ cũng chống lại người nói tiếng

Hindu.

Dường như là chúng ta đã từng được nuôi dưỡng lớn

lên theo cách mà ghét đã trở thành đơn giản, thói quen;

chúng ta được làm quen với nó, và yêu thương đã trở

thành gần như không thể được. Với nhiều hận thù thế,

với nhiều kẻ thù thế, bạn đang ghét gần như mọi người.

Làm sao bạn có thể yêu vợ bạn được? Làm sao bạn có

thể yêu con bạn được? Làm sao bạn có thể yêu bố mẹ

bạn được? Và thế rồi những đòi hỏi không thể nào có

được đã được áp lên bạn: bạn được bảo phải yêu vợ bạn,

phải yêu chồng bạn, và bạn được bảo phải ghét mọi

người khác trên thế giới. Đây là điều mâu thuẫn. Hoặc

bạn có thể yêu tất cả hoặc bạn có thể ghét tất cả; bạn

không thể phân chia.

Người ghét mọi người khác không thể yêu được vợ

mình - điều đó là không thể được. Người đó trở nên

quen với ghét. Ghét chảy trong máu người đó, nó tuần

hoàn trong bản thể người đó. Nếu trong hai mươi ba giờ

trong ngày bạn đều ghét, đánh nhau, tranh đấu, cạnh

tranh, thế thì bạn nghĩ trong một giờ trở về nhà với vợ

mình bạn sẽ yêu sao? Không thể được! Hai mươi ba giờ

đó sẽ tiếp tục chảy ngầm.

Cho nên cảnh sát trở thành cảnh sát hai mươi bốn

giờ. Ngay cả khi anh ta ở nhà với vợ mình anh ta cũng

hành xử dường như anh ta là cảnh sát. Quan toà trở

thành quan toà, thư kí trở thành thư kí hai mươi bốn giờ

- không chỉ trong văn phòng, người đó mang hồ sơ tài

liệu trong đầu mình. Ngay cả khi làm tình với vợ người

đó cũng tính toán, người đó đang làm cả nghìn lẻ một

thứ trong tâm trí mình. Người đó có thể ở văn phòng

hay người đó có thể ở đâu đó khác...

Quan sát khi bạn làm tình với vợ bạn, bạn ở đâu.

Bạn có ở đó không? Thực ra, ai đó khác đang làm tình

với vợ bạn; bạn không có đó - đấy chỉ là hành động máy

móc. Và bạn có nghĩ rằng vợ bạn ở đó không? Cô ấy

cũng không ở đó nốt. Cô ấy có thể đang ở trong bếp hay

đang nghĩ về cách mua tủ lạnh mới - có thể đã đi ra siêu

thị rồi. Cô ấy có thể ở đó; cô ấy có thể không ở cùng bạn

chút nào.

Đó là lí do tại sao tình yêu của bạn lại không thoả

mãn; ngược lại, nó bỏ lại bạn rất thất vọng. Và bạn có

thể yêu được con mình không? Không thể được! Làm

sao bạn có thể yêu bố mẹ mình được? - đây là những

người đã dạy bạn đủ mọi loại hận thù.

Chúng ta cần một thế giới hoàn toàn khác, một sự

giáo dưỡng khác, nơi ghét không được dạy. Đây là thế

giới rất kì lạ mà chúng ta đã tạo ra! Mãi cho tới giờ điều

chúng ta đã làm cho nhân loại thực sự là không thể nào

tin nổi: một mặt chúng ta dạy họ ghét, và mặt khác

chúng ta cứ nói về an bình. Một mặt chúng ta đầu độc

họ và mặt khác chúng ta bảo họ, "Các bạn tất cả đều là

anh em." Chúng ta nói về tình anh em, và chúng ta

chuẩn bị cho chiến tranh; chúng ta nói về hoà bình thế

giới và chúng ta chuẩn bị cho chiến tranh. Điều này cực

kì thần kinh; điều này là không lành mạnh! Con người

cho tới nay vẫn còn mất trí, và lí do là ở chỗ giáo dưỡng

sai.

Chúng ta đã không nghe chư phật. Bây giờ đến lúc

rồi! Chúng ta bây giờ phải nghe chư phật. Nếu chúng ta

không nghe, chỉ thêm vài năm nữa và toàn thể nhân loại

phải chịu số phận bi đát. Chúng ta không thể nào đảm

đương được việc không nghe thêm nữa.

Tất cả yêu sống. Giúp mọi người yêu nhiều hơn.

Yêu bản thân bạn đi. Hân hoan trong yêu đi.

**Thấy bản thân ông trong người khác.

Thì ông có thể làm tổn thương ai?

Ông có thể gây hại gì?**

Thấy ra vấn đề: đây không phải là giáo huấn đạo

đức - đây là phục hưng tâm linh, cuộc cách mạng. Thấy

bản thân ông trong người khác. Không chỉ triết lí - mà

có tính tồn tại. Gạt bản ngã sang bên và bạn sẽ có khả

năng thấy rằng bạn ở trong tất cả, rằng cuộc sống là một.

Thì ông có thể làm hại ai? Ông có thể gây hại gì?

**Người tìm kiếm hạnh phúc

bằng việc làm tổn thương người tìm kiếm hạnh phúc

sẽ không bao giờ tìm thấy hạnh phúc.**

Nếu bạn cố tìm hạnh phúc bằng việc gây tổn thương

cho những người đang tìm kiếm hạnh phúc, bạn không

thể tìm thấy hạnh phúc được, bởi vì bạn thậm chí đã

không hiểu điều nền tảng nhất về cuộc sống. Trong dốt

nát thế làm sao bạn có thể hạnh phúc được?

Nhìn khắp xung quanh, quan sát bằng đôi mắt yêu

thương, nhìn bằng tâm trí không bản ngã, và bạn sẽ thấy

rằng cuộc sống là tuyệt đối chống lại tính huỷ diệt. Cuộc

sống là năng lượng sáng tạo. Cho dù đôi khi người ta tự

tử, họ tự tử không vì phục vụ cái chết mà vì phục vụ

cuộc sống.

Những người tự tử là những người đã từng trong

tình yêu vô cùng với cuộc sống và cảm thấy thất vọng,

vỡ mộng. Trong những khoảnh khắc của tan vỡ ảo

tưởng họ trở nên điên rồ. Những người tự tử đó không

chống lại cuộc sống, nhớ lấy. Bình thường đó là điều

người ta vẫn nghĩ về những người này, rằng họ chống

lại cuộc sống. Không, họ vì cuộc sống quá nhiều; họ ủng

hộ cuộc sống nhiều tới mức cuộc sống không thể hoàn

thành được đòi hỏi của họ. Trong thất vọng cùng cực họ

tự tử.

Mulla Nasruddin chán nản với cuộc sống tới mức

anh ta quyết định tự tử. Một tối anh ta đi về vùng quê,

một ổ bánh mì kẹp nách. Khi anh ta tới chỗ giao đường

tàu hoả anh ta nằm ra trên đường ray tàu. Một nông dân

đi qua ngớ người với cảnh tượng kì lạ này.

"Anh làm cái gì thế," ông ta hỏi, "nằm ra trên đường

tàu sao?"

Mulla nói, "Tôi định tự tử đây."

"Anh cần bánh mì để làm gì?" người nông dân hỏi.

"Ở nước này," Mulla nói, "đợi đến lúc tầu hoả tới

đây thì người ta có thể đã chết đói rồi."

Không ai muốn chết. Điều đó nghĩa là sống muốn

kéo dài mãi mãi. Điều đó nghĩa là sống đang trong tình

yêu với cái vĩnh hằng. Thực ra sống là vĩnh hằng. Chết

chỉ thay đổi hình dạng thôi, nó không phá huỷ - nhưng

điều đó tạo ra nỗi sợ bởi vì đó là hiện tượng không được

biết nhất.

Sợ biến mất chỉ khi, trong thiền sâu, bạn trở nên

quen với chết; khi trong thiền sâu bạn biết rằng "Mình

không là thân thể, không là tâm trí. Thế thì làm sao có

thể có chết được?" Thân thể sẽ trở về với đất - cát bụi về

với cát bụi - nhưng tâm thức bạn sẽ vẫn còn mãi mãi.

Thế thì sợ biến mất. Và khi sợ biến mất trong bạn, ham

muốn lớn lao nảy sinh để giúp người khác để cho họ có

thể làm tiêu tan sợ của họ - bởi vì mọi người sống trong

sợ là sống trong đau khổ. Cuộc sống của họ là cơn ác

mộng bị bao quanh bởi sợ.

Cuộc sống nên được bao quanh bởi yêu, không bởi

sợ. Chính sợ tạo nên giận. Chính giận chung cuộc tạo

nên bạo hành. Bạn có quan sát không? Sợ chỉ là dạng nữ

tính của giận và giận là dạng nam tính của sợ. Sợ là

dạng thụ động của giận và giận là dạng chủ động của sợ.

Cho nên bạn có thể đổi sợ thành giận rất dễ dàng, và đổi

giận thành sợ - rất dễ dàng.

Thỉnh thoảng mọi người tới tôi và họ nói, "Chúng

tôi cảm thấy rất sợ."

Tôi bảo họ, "Bạn đi và đánh gối và giận gối đi."

Họ nói, "Điều đó có tác dụng gì?"

Tôi nói, "Thì cứ thử đi!" Và điều đó trở thành sự

khải lộ ngay cả cho họ. Nếu họ có thể đánh gối trong

giận nóng nảy, thực sự, ngay lập tức sợ biến mất, bởi vì

cùng năng lượng đó biến đổi và trở thành kích hoạt. Nó

đã bất hoạt, thế thì nó là sợ.

Sợ là nguyên nhân gốc rễ của ghét, giận, bạo hành.

Giúp mọi người không sợ đi. Nhưng làm sao bạn có

thể giúp mọi người không sợ khi mà bạn chẳng biết gì

về bạo dạn là gì?

Người tìm kiếm hạnh phúc bằng việc làm tổn thương

người tìm kiếm hạnh phúc sẽ không bao giờ tìm thấy

hạnh phúc. Bạn có thể tìm hạnh phúc chỉ nếu bạn giúp

người khác cũng hướng tới hạnh phúc. Bạn không thể

tìm thấy hạnh phúc một mình được; đó là điều bạn đã

từng cố gắng. Bạn đã từng cố gắng để hạnh phúc một

mình và để cho người khác xuống địa ngục. Bạn không

một mình như vậy được đâu; chúng ta cùng được gắn

với nhau. Nếu mọi người khác mà xuống địa ngục, bạn

không thể lên cõi trời được, nhớ lấy.

Có một câu chuyện ngụ ngôn hay về Phật Gautam:

Ông ấy lên tới cổng trời. Cửa mở ngay cho ông ấy,

âm nhạc vĩ đại vang lên để đón chào ông ấy, và các

thiên thần mang theo những vòng hoa, nhưng Phật từ

chối không vào. Ông ấy nói, "Ta sẽ đợi ở đây. Chừng

nào sinh linh cuối cùng còn chưa vào cõi trời ta không

thể vào được."

Các thiên thần thuyết phục ông ấy, "Điều này sẽ là

vĩnh hằng mất... để cho mọi người - tất cả đàn ông, tất

cả đàn bà, và tất cả voi và kiến và... Nếu ông nghĩ tới

mọi sinh linh phải vào trước, thế thì sẽ phải đến vĩnh

hằng!"

Phật nói, "Chẳng có gì để mà lo nghĩ cả - ta sẽ đợi.

Ta có thể đợi được, ta biết cách đợi. Và ta đã phúc lạc

vĩnh hằng rồi - cõi trời còn có thể cho ta cái gì thêm

nữa? Chẳng có gì nhiều hơn điều đó cả. Cho nên ta sẽ

đợi ở đây, nhưng ta không thể vào cõi trời được chừng

nào mọi người khác còn chưa vào hết."

Và câu chuyện này cứ diễn ra là Phật vẫn đợi ở

cổng; các thiên thần vẫn cố gắng thuyết phục ông ấy. Họ

cứ thử đi thử lại những luận cứ mới, nhưng họ vẫn chưa

thể nào làm cho ông ấy vào và đóng cửa lại. Và cửa vẫn

mở và Phật vẫn đang đợi...

Có thể có cả nghìn lẻ một diễn giải về câu chuyện

ngụ ngôn hay này. Hôm nay tôi muốn nhắc bạn tới một

điều: cho dù Phật có muốn vào một mình, ông ấy cũng

không thể làm thế được. Ông ấy hiểu điều đó, đó là lí do

tại sao ông ấy nói: chừng nào sinh linh cuối cùng còn

chưa vào, ta sẽ không vào đâu - bởi vì ông ấy hiểu rằng

điều đó là không thể được.

Tất cả chúng ta là một, chúng ta không tách rời.

Không thể nào chỉ bàn tay tôi vào cõi trời; cho dù nó có

vào nó sẽ là bàn tay chết, nó sẽ không thực là tay tôi.

Không thể nào chỉ một mắt tôi vào cõi trời và toàn thân

vẫn ở ngoài. Hoặc tôi có thể vào như một sinh linh toàn

thể hoặc không vào chút nào. Đó là điều Phật đang nói.

Phật đang nói, "Ta chỉ là bộ phận - cái toàn bộ đang

ở ngoài. Ta không thể vào được. Ta sẽ vào chỉ cùng với

cái toàn thể."

Nếu bạn hiểu điều này, cách tiếp cận của bạn, mối

quan hệ của bạn với cuộc sống, sẽ có hương vị hoàn

toàn khác. Bạn sẽ thấy tất cả đều là bạn hữu, bạn sẽ thân

thiện với cuộc sống. Trong chính sự thân thiện đó bạn sẽ

bắt đầu trở nên hạnh phúc. Trong tình yêu đó với tất cả,

phúc lạc lớn lao sẽ nảy sinh trong bạn.

**Vì anh ông là giống ông.

Người đó muốn hạnh phúc.

Đừng bao giờ làm hại người đó

và khi ông rời bỏ cuộc sống này

ông cũng sẽ thấy hạnh phúc.**

Lời kinh này đã bị hiểu lầm trong ít nhất hai mươi

nhăm thế kỉ.

Và khi ông rời bỏ cuộc sống này ông cũng sẽ thấy

hạnh phúc. Điều này đã bị diễn giải lặp đi lặp lại cứ

dường như nó nói cái gì đó về cuộc sống sau cái chết:

"Khi ông rời bỏ cuộc sống này, khi ông rời thân thể này,

thế thì ông sẽ tìm thấy hạnh phúc" - cứ dường như hạnh

phúc là cái gì đó chỉ xảy ra sau cái chết; nó không thể

xảy ra trong cuộc sống được. Đây đã từng là cách các

Phật tử diễn giải.

Tôi không phải là Phật tử. Phật tử đã từng diễn giải

nó theo cách phủ định cuộc sống. Diễn giải của tôi là

hoàn toàn khác. Và tôi nói với bạn rằng điều đó đích xác

là điều Phật ngụ ý nó phải là vậy, bởi vì tôi không chỉ

diễn giải nó theo cách triết lí - đây là kinh nghiệm của

tôi nữa. Và khi có liên quan tới kinh nghiệm thì nó

không thể khác được; nó không khác với kinh nghiệm

của Phật.

Khi Phật nói: Và khi ông rời bỏ cuộc sống này... ông

ấy không ngụ ý cái chết đâu. Ông ấy đơn giản ngụ ý

cách sống cuộc sống này, cách sống ngu xuẩn này: cách

thức này của ham muốn, tham vọng, giận dữ, sở hữu,

ghen tị - cách thức ngu xuẩn này của cuộc sống. Và mọi

người không đi sâu hơn vào thiền đều đang sống theo

cách ngu xuẩn cả.

Wiznicki và Polacek đi tới chỗ để xe hơi đã dùng rồi

để mua một chiếc xe. Họ không có đủ tiền để mua một

chiếc nhưng người bán hàng bán cho họ một con lạc đà.

"Thứ này có làm việc không?" Wiznicki hỏi.

"Tất nhiên rồi," người bán hàng nói. "Con lạc đà này

dừng khi đèn đỏ và đi khi đèn xanh."

Wiznicki và Polacek rời đi trên lưng con lạc đà

nhưng hai mươi phút sau họ quay lại mà không còn con

vật này.

"Có chuyện gì vậy?" người bán hàng hỏi.

"Con lạc đà làm đúng điều ông nói," Polacek kêu

lên. "Chúng tôi dừng lại ở đèn đỏ, tụi con trai trong

chiếc xe cũng dừng lại bên cạnh chúng tôi. Một đứa la

lên, 'Nhìn hai thằng ngốc trên con lạc đà kìa!' Chúng tôi

nhảy xuống để xem ai là hai thằng ngốc và con lạc đà đi

mất!"

Nếu bạn nhìn vào cuộc sống của mình, nếu bạn quan

sát một cách kĩ càng, bạn sẽ thấy bạn ngu làm sao, bạn

là đồ ngốc làm sao!

Sống không thiền là ngu xuẩn, bởi vì thế thì bất kì

cái gì bạn làm cũng đều sẽ sai. Bạn không thể làm điều

đúng mà không có thiền bởi vì điều đúng chỉ phát triển

trong mảnh đất của thiền. Trong mảnh đất của tâm trí

tham vọng, ham muốn nảy sinh. Và khi có tham vọng có

cạnh tranh, và khi có cạnh tranh bạn không là bạn với

người khác. Bạn là kẻ thù và người khác là kẻ thù của

bạn. Tâm trí cạnh tranh sống theo cách thù địch, sống

trong hận thù, sống trong ghen tị; toàn thể vận hành của

nó là từ ghen tị. Và bởi vì loại cuộc sống này mà con

người khổ, con người vẫn còn trong khổ.

Khi Phật nói: Và khi ông rời bỏ cuộc sống này ông

cũng sẽ thấy hạnh phúc... ông ấy ngụ ý nếu bạn rời bỏ

cuộc sống này của tham vọng, ghen tị, hận thù, cạnh

tranh, nếu bạn rời bỏ cuộc sống này của bản ngã, bạn sẽ

tìm thấy hạnh phúc - ngay lập tức, tức khắc, ở đây bây

giờ. Nó không phải là vấn đề về sau cái chết. Vấn đề

không phải là sau cái chết bạn sẽ hạnh phúc. Bạn có thể

hạnh phúc ngay chính khoảnh khắc này - bạn chỉ phải

thay đổi hình mẫu cuộc sống của mình.

Và hình mẫu cuộc sống của bạn có thể được thay

đổi theo hai cách: hoặc từ bên ngoài, từ ngoài - cái là cá

tính, cái là đạo đức - hoặc từ bên trong, từ nội tâm, từ

trong - cái là tôn giáo.

Đừng là người đạo đức. Đó không phải là cách thức

của cách mạng thực, nó tất cả đều là mánh khoé. Người

đạo đức là kẻ bản ngã theo cách mới. Người đó sống

trong khổ. Chỉ người đã bắt đầu sống từ trung tâm,

người đi vào trong tính chủ thể riêng của mình trong im

lặng sâu sắc, sẽ có hạnh phúc mưa rào lên mình.

**Đừng bao giờ nói những lời tàn nhẫn

vì chúng sẽ bật lại vào ông.

Những lời giận dữ gây đau

và cái đau bật lại.**

Nền tảng của cuộc sống: bất kì cái gì bạn làm cũng

sẽ bật lại bạn. Nếu bạn dùng những từ thô bỉ, chúng sẽ

bật lại. Nếu bạn làm tổn thương mọi người, điều đó sẽ

quay lại cho bạn.

Có thời tôi đã ở Matheran cùng với vài người bạn.

Chúng tôi tới thăm một lâu đài có tên là Điểm Vọng.

Một người đi cùng chúng tôi bắt đầu sủa lên như chó, và

tất cả thung lũng và núi non bao quanh bắt đầu sủa ầm

lên cứ như cả nghìn con chó có đó.

Tôi bảo người đó, "Sao bạn không hát lên bài ca? -

bởi vì những núi này sẽ chỉ vọng lại nó. Nếu bạn sủa

như chó chúng sẽ trở thành chó. Sao bạn không hát bài

ca?"

Và người đó bắt đầu hát bài ca... và chúng tôi được

mưa rào bởi bài ca hay của người đó. Từ khắp thung

lũng và núi non bài ca bắt đầu vang lại chúng tôi.

Tôi bảo mọi người đang hiện diện rằng cuộc sống

cũng là một Điểm Vọng. Nó cho bạn bất kì cái gì bạn

cho nó. Bạn phải gặt lấy mùa màng, bất kì cái gì bạn đã

gieo trước đó. Gieo hạt mầm chất độc, đừng hi vọng

rằng bạn sẽ gặt cam lồ; bạn sẽ không có khả năng đạt tới

cam lồ bằng hạt mầm chất độc. Chất độc sẽ đem tới chất

độc nhiều hơn. Gieo hạt mầm cam lồ và gặt về mùa

màng cam lồ.

Đừng bao giờ nói những lời tàn nhẫn, vì chúng sẽ

bật lại vào ông. Những lời giận dữ gây đau và cái đau

bật lại.

**Giống như cái cồng vỡ

tĩnh lặng, im lặng.

Biết tĩnh lặng của tự do

nơi không còn gắng sức nữa.**

Đây là lời kinh hàm chứa nhất của mọi lời kinh hôm

nay. Đây là bí mật của thiền, đây là điều thiền tất cả là

gì.

Giống như cái cồng vỡ tĩnh lặng, im lặng. Biết cái

tĩnh lặng của tự do... "Cái tĩnh lặng của tự do" là gì? - tự

do khỏi ham muốn. Chính ham muốn tạo ra ồn ào trong

bạn. Và không chỉ có một ham muốn trong bạn đâu, có

cả triệu ham muốn la lối om sòm đòi chú ý, yêu cầu bạn,

lôi kéo bạn, xô đẩy bạn, để theo chúng. Bạn bị kéo ra xa

bởi vì bạn liên tục bị lôi kéo và xô đẩy theo mọi hướng.

Biết cái tĩnh lặng của tự do... Điều đó nghĩa là tự do

khỏi ham muốn. Thế thì có tĩnh lặng.

...Nơi không còn gắng sức nữa. Khi không có ham

muốn không còn cố gắng thêm nữa. Nơi không có mục

đích nào nữa không có cố gắng thêm nữa. Nơi bạn

không còn tham vọng về bất kì cái gì - thế giới này hay

thế giới khác, vật chất hay tâm linh - khi bạn không

tham vọng chút nào, làm sao có thể có ồn ào trong bản

thể bạn được? Tất cả nhất định trở thành im lặng. Đây là

im lặng thực.

Có một loại im lặng khác nữa. Bạn có thể ngồi trong

tư thế yoga, bạn có thể lấy hơi thở sâu, và bạn có thể

tụng mật chú, và bạn có thể ép buộc tâm trí mình lặp đi

lặp lại hàng tháng, hàng năm. Nếu bạn cứ làm những

điều như thế, sau nhiều năm thực hành bạn có thể đạt tới

sự tĩnh lặng nào đó, cái bị ép buộc, nhân tạo. Và nếu bạn

nhìn sâu vào bên trong bản thân mình bạn sẽ thấy mọi

cái ồn ào chỉ trở nên bị kìm nén; nó vẫn có đó lẩn khuất

ngầm bên dưới bạn. Nó không còn trên bề mặt nữa, nó

đã đi xuống đáy. Và điều đó thậm chí còn nguy hiểm

hơn, bởi vì nếu cái gì đó đang trong ý thức, việc loại bỏ

nó là dễ dàng; nếu cái gì đó trở thành vô ý thức, thế thì

việc gạt bỏ nó trở thành không thể được.

Do đó phân tâm cố gắng đem mọi thứ về ý thức để

cho bạn có thể gạt bỏ được nó. Phân tâm đem giấc mơ

của bạn, các thông điệp vô ý thức của bạn, về ý thức -

bởi vì cách duy nhất để gạt bỏ bất kì cái gì là trở nên ý

thức đầy đủ về nó. Thế thì đó là tuỳ ở bạn giữ nó hay

vứt nó đi, nhưng vẫn còn vô ý thức thì vẫn là nạn nhân.

Cái dây của bạn bị kéo từ đằng sau tấm màn và bạn

không biết ai đang kéo chúng. Bạn chỉ là con rối bị kéo

they cách này cách nọ. Bạn đơn giản tuân theo các ham

muốn vô ý thức.

Phân tâm đem những ham muốn bị kìm nén của bạn

về ý thức, nhưng nó không thể làm điều đó một cách

toàn bộ được - bởi vì ngay cả sự hiện diện của nhà phân

tâm là đủ giữ cho bạn bị kìm nén. Chỉ thiền mới có thể

giúp cho bạn một cách toàn bộ, bởi vì bạn không đem

nó vào sự chú ý của ai đó khác, bạn đem nó vào ngay

trước bản thể riêng của mình. Bạn có thể tuyệt đối tự do.

Bạn không cần phải sợ người khác sẽ nghĩ gì.

Sự hiện diện của người khác bao giờ cũng có tính

kìm nén cho dù nhà phân tâm nói, "Đừng lo, đừng sợ.

Tôi sẽ không tiết lộ điều đó cho bất kì ai đâu - điều này

sẽ vẫn còn là bí mật với tôi, điều này sẽ chết cùng tôi."

Bất kì điều gì người đó nói, sự hiện diện của người đó là

đủ để kìm nén, bởi vì người đó không thể nào không có

tính phán xét được. Nếu bạn nói điều gì đó ngược lại với

tâm trí người đó bạn có thể thấy trong mắt người đó

rằng phán xét đó đã nảy sinh.

Chính bởi vì điều này mà Sigmund Freud thường

ngồi đằng sau một bức màn; ông ấy không bao giờ đối

diện với bệnh nhân. Ông ấy nhận biết đầy đủ về hiện

tượng là khuôn mặt, đôi mắt, điệu bộ, sẽ chỉ ra rằng bạn

đang phán xét, rằng bạn đang phán xử. Và nếu bạn đang

phán xử, nỗi sợ nảy sinh và kìm nén xảy ra. Nhưng cho

dù bạn có ngồi đằng sau tấm rèm, người này biết bạn có

đó, người kia có đó - và người kia có tính kìm nén.

Do đó phân tâm chỉ giúp một phần thôi. Và bạn biết

hoàn toàn rõ rằng nhà phân tâm của bạn cũng ốm như

bạn, hay có thể thậm chí còn ốm hơn bạn. Nhà phân tâm

bản thân họ cũng tới nhà phân tâm khác để được phân

tâm, bởi vì họ đều chịu cùng một vấn đề.

Sigmund Freud và Carl Gustav Jung đã du hành

cùng nhau trên một chuyến tàu hoả, khi Jung vẫn còn là

đệ tử và còn chưa phản bội lại thầy. Nói chuyện về phân

tâm, Jung đột nhiên có một ý tưởng. Ông ấy nói, "Thầy

đã phân tâm tất cả chúng tôi, nhưng bản thân thầy vẫn

chưa được phân tâm. Thầy có muốn một số người trong

chúng tôi phân tâm thầy không? Tôi sẵn sàng! Nếu thầy

muốn, tôi có thể làm việc như nhà phân tâm của thầy."

Sigmund Freud bắt đầu run rẩy, mồ hôi vã ra trên

trán ông ấy mặc dầu lúc đó là sáng mùa đông lạnh. Ông

ấy nói, "Không, không bao giờ!"

Jung hỏi, "Tại sao?"

Sigmund Freud nói, "Điều đó sẽ phá huỷ toàn thể

danh tiếng của ta."

Jung nói, "Thế thì nó đã phá huỷ danh tiếng của thầy

rồi. Nếu thầy sợ, thế thì làm sao thầy có thể nói trước

chúng tôi rằng người khác không nên sợ - nếu ngay cả

thầy cũng sợ?"

Sigmund Freud sợ bởi vì ông ấy mang những kìm

nén lớn. Về vài điều ông ấy bị kìm nén tới mức hiếm khi

tìm ra một người bị kìm nén đến thế. Ông ấy đã làm

công việc lớn lao trong khi đem dục vào ý thức của nhân

loại từ thế giới bị kìm nén. Ông ấy đã làm việc phục vụ

lớn lao cho nhân loại bằng việc phá huỷ điều kiêng kị

chống lại dục, nhưng bản thân ông ấy đã có ý niệm rất

khôi hài về dục. Ông ấy không rõ ràng cho bản thân

mình về dục, về dâm dục. Bản thân ông ấy mang mọi

loại ý niệm mục nát, chết về dục. Ông ấy rất sợ chết

nữa. Thậm chí nhắc tới cái chết một hay hai lần đã làm

cho ông ấy hôn mê đi; chỉ nhắc tới chết và ông ấy ngất

đi, trở nên vô ý thức.

Bây giờ, đây là nhà sáng lập ra phân tâm học đấy -

chết ngất khi nghe nhắc tới từ ‘chết’ và mang những ý

tưởng rất ngu xuẩn, buồn cười về dục. Nói gì tới các nhà

phân tâm khác - họ ở trong cùng một con thuyền như

bệnh nhân của họ, và bệnh nhân của họ biết hoàn toàn

rõ.

Không, không có khả năng thể phơi bầy bản thân

bạn một cách toàn bộ ra trước bất kì ai khác. Do đó ở

phương Đông chúng ta không bao giờ phát triển cái gì

như phân tâm học - chúng ta đã phát triển thiền. Đó là

việc tự phơi bày bản thân mình ngay trước bản thân

mình. Đó là khả năng duy nhất để hoàn toàn thực, bởi vì

không có sợ.

Tự do khỏi ham muốn, tự do khỏi vô ý thức, tự do

khỏi đủ mọi loại mục đích, đem tới một loại tĩnh lặng

khác, tĩnh lặng tự nhiên nảy sinh bên trong bản thể bạn,

bắt đầu tuôn trào. Ngay cả người khác cũng có thể cảm

thấy nó; nó trở thành gần như thấy được.

**Giống như người nuôi súc vật đưa bò ra cánh đồng

tuổi già và cái chết sẽ đưa ông tới trước chúng.**

Chết sẽ tới sớm hay muộn. Trước khi cái chết tới,

học cách chết trong thiền đi.

**Nhưng người ngu trong việc ác của mình quên mất

và người đó đốt lửa

để ngày nào đó người đó phải bị thiêu.**

Người ngu cứ tạo ra hố cho bản thân mình. Bạn tạo

ra khổ riêng của mình, bởi vì bạn hành động từ vô ý

thức, bạn hành động từ tâm trí ồn ào, u ám. Bạn không

hành động từ sự sáng tỏ; hành động của bạn không phải

là từ tự phát; hành động của bạn không phải là từ im

lặng có tính thiền. Nó tạo ra lửa. Bạn có thể nghĩ bạn

đang tạo ra nó vì người khác, nhưng mọi thứ đều bật lại

vào bạn.

Không có lửa địa ngục ở bất kì đâu khác trừ phi bạn

tạo ra nó. Mọi người đều phải mang cõi trời hay địa

ngục ở bên trong bản thân mình - nó là sáng tạo riêng

của bạn.

**Người làm hại người vô hại

hay làm tổn thương người hồn nhiên

người đó sẽ ngã mười lần -

vào đau khổ hay ốm yếu,

bị thương hay bệnh tật hay điên khùng,

bị kiện cáo hay bị kết tội kinh khủng,

mất gia đình, mất của cải.

lửa từ trời sẽ đánh xuống nhà người đó

và khi thân thể người đó đã bị đánh ngã

người đó sẽ vào trong địa ngục.**

Lửa từ trời sẽ đánh xuống nhà người đó... Không

phải là ai đó đang ngồi đó trên trời, người trừng phạt

bạn: bạn nhổ lên trời và nó rơi lên bạn, bạn ném lửa lên

trời và nó rơi vào bạn. Bạn đi ngược dòng - đó là toàn

thể khổ của bạn.

Đi với tự nhiên đi. Đi tuyệt đối trong hài hoà với tự

nhiên, không đi ngược dòng mà đi cùng dòng. Đừng xô

đẩy dòng sông, nổi cùng nó. Và cuộc sống sẽ là phúc

lạc, và cuộc sống sẽ là cực lạc, và cuộc sống sẽ là phúc

lành. Bằng không lửa sẽ đánh xuống nhà bạn. Và khi

thân thể người đó đã bị đánh ngã người đó vào trong

địa ngục. Và điều này xảy ra mọi ngày.

Khi bạn đi ngủ, nhiều người trong các bạn chịu

đựng các cơn ác mộng. Nhiều người viết cho tôi, "Phải

làm gì với các cơn ác mộng đây?" Bạn không thể làm gì

được một cách trực tiếp với ác mộng đâu; bạn sẽ phải

thay đổi hình mẫu cuộc sống của mình. Ác mộng của

bạn được tạo ra bởi điều bạn đang làm và nghĩ ban ngày.

Đêm của bạn đơn giản là sự phản xạ. Nếu ngày của bạn

mà đẹp, phúc lạc, yêu thương, bạn không thể có ác

mộng được. Và nếu ngày của bạn mà im lặng, tĩnh lặng,

hoàn toàn vô ý nghĩ, vô nội dung - thuần khiết tuyệt đối,

toàn thể, không biết tới rối loạn - mọi giấc mơ sẽ biến

mất. Trong đêm bạn sẽ có giấc ngủ không mơ.

Cùng điều đó xảy ra khi cái chết tới. Khi thân thể

chết đi, lập tức hoặc bạn kinh nghiệm cõi trời - nếu bạn

đã sống đúng, có lưu tâm, có tính thiền - hoặc bạn kinh

nghiệm địa ngục. Đây không phải là nơi chốn địa lí ở

đâu đó; đây là khi bạn rời bỏ thân thể. Tâm trí bị bỏ lại

một mình trở nên nổi cáu. Tâm trí bị bỏ lại một mình,

không bận bịu, tạo ra cái gì đó mà qua đó bạn đã gieo

hạt mầm cho toàn thể kiếp sống của mình.

Bây giờ các nhà phân tâm đang đồng ý với điều này,

dần dần thôi, dần dần, rằng khi một người chết đi, ngay

lập tức - thực ra trong khi người đó chết - người đó đã

hoặc đi vào trong cơn ác mộng - đó là địa ngục - hay đi

vào một chỗ rất, rất đẹp - đó là thiên đường.

Điều thứ ba là không địa ngục không cõi trời, không

hạnh phúc không bất hạnh, mà chỉ nhận biết thuần khiết.

Đó là niết bàn, đó là moksha. Không có từ để dịch nó,

bởi vì trong mọi tôn giáo phi Ấn Độ - Ki tô giáo, Do

Thái giáo, Hồi giáo - chỉ hai từ đã được nói tới: cõi trời

và địa ngục. Từ thứ ba bị mất, cái cao nhất bị mất.

Đó là lí do tại sao tôi nói ba tôn giáo này là có chút

ít nguyên sơ nếu so với Phật giáo. Phật giáo đạt tới đỉnh

cao nhất - nó siêu việt lên trên cả cõi trời và địa ngục

nữa.

Người ta có thể chết trong im lặng tuyệt đối - đầy

tỉnh táo, không kinh nghiệm hoan lạc hay đau đớn. Thế

thì người đó sẽ không được sinh ra lần nữa. Thế thì

người đó đã nhảy ra khỏi bánh xe xấu xí của sinh và tử.

Người đó đã trở thành một với vũ trụ. Trở thành một với

vũ trụ là niết bàn. Người đó đã dừng như một cá nhân và

người đó đã trở thành cái toàn thể.

Trở nên tĩnh lặng đi - không phải là tĩnh lặng bị áp

đặt, không phải là tĩnh lặng được thực hành và trau dồi -

trở nên tĩnh lặng một cách tự nhiên. Bằng việc hiểu cái

vô tích sự của ham muốn, bằng việc thấy cái ngớ ngẩn

tuyệt đối của ham muốn, trở nên tĩnh lặng đi - qua hiểu

biết, không qua thực hành.

Giống như cái cồng vỡ tĩnh lặng, im lặng. Biết cái

tĩnh lặng của tự do nơi không còn gắng sức nữa và bạn

đã đi vào trong cõi bên kia và bạn đã trở thành cõi bên

kia...

Đây là mục đích của tính chất sannyas, đây là mục

đích của mọi tôn giáo. Đây là phần cốt lõi bản chất của

mọi tâm linh. Khoa học chỉ biết bộ phận; nghệ thuật biết

nhiều hơn một chút so với khoa học. Tôn giáo biết cái

toàn thể.

Đủ cho hôm nay.

***********************************************************************************************************

#8 Thiền chút ít

Câu hỏi thứ nhất:

Thưa Thầy kính yêu,

Tôi bao giờ cũng nghĩ rằng ý nghĩa của khoa học

nằm trong tính tiện ích của nó cho nhu cầu con

người; trong việc giúp cung cấp đủ thức ăn, tìm ra

cách chữa trị bệnh tật, tạo ra máy móc để đỡ con

người khỏi công việc vất vả và ngu xuẩn, vân vân.

Mãi cho tới giờ tôi bao giờ cũng được thuyết phục

rằng chẳng có gì sai với khoa học, nhưng thay vì thế

là với thái độ phổ biến đối với khoa học: rằng nó có

thể khám phá ra các qui luật bên trong của cuộc

sống. Bây giờ tôi nghe trong lời thầy rằng bản thân

khoa học là gốc rễ của khổ trên thế giới này, bởi vì

nó phá huỷ các bí ẩn của cuộc sống và do đó dẫn tới

thái độ phản tôn giáo. Thầy có chống lại khoa học

không?

Prem Peter, tôi không chống lại khoa học, nhưng tôi

chắc chắn ủng hộ cho một loại khoa học khác, với phẩm

chất khác toàn bộ cho nó. Khoa học như nó tồn tại ngày

nay là rất thiên lệch; nó chỉ tính tới vật chất, nó bỏ tâm

linh ra khỏi vật chất - và điều đó là rất nguy hiểm.

Nếu con người chỉ là vật chất, mọi nghĩa biến mất

khỏi cuộc sống. Cuộc sống có thể có nghĩa gì nếu con

người chỉ là vật chất? Thơ ca nào là có thể, ý nghĩa gì,

vinh quang gì? Ý niệm rằng con người là vật chất thu

con người về trạng thái rất không xứng đáng. Cái gọi là

khoa học tước đi mọi vinh quang của con người. Đó là lí

do tại sao lại có nhiều cảm giác vô nghĩa thế trên khắp

thế giới.

Mọi người đều cảm thấy trống rỗng hoàn toàn.

Vâng, họ có máy móc tốt hơn, công nghệ tốt hơn, nhà

cửa tốt hơn, thức ăn tốt hơn bao giờ. Nhưng mọi sung

túc này, mọi tiến bộ vật chất này, là không có giá trị gì

chừng nào bạn còn chưa có cái nhìn sáng suốt - cái gì đó

siêu việt lên trên vật chất, thân thể, tâm trí - chừng nào

bạn còn chưa nếm trải hương vị của cõi bên kia. Và cõi

bên kia bị khoa học phủ nhận.

Khoa học phân chia cuộc sống thành hai loại: cái

biết và cái không biết. Tôn giáo chia cuộc sốth thành ba

loại: cái biết, cái không biết và cái không thể biết. Nghĩa

tới từ cái không thể biết. Cái biết là cái đã từng là cái

không biết hôm qua, cái không biết là cái sẽ trở nên

được biết ngày mai. Không có khác biệt về chất giữa cái

biết và cái không biết, chỉ là vấn đề thời gian.

Cái không thể biết là khác về chất với thế giới cái

biết/cái không biết. Cái không thể biết nghĩa là bí ẩn vẫn

còn lại; dù bạn đi vào trong nó sâu đến đâu, bạn không

thể giải bí ẩn của nó được. Thực ra, ngược lại, bạn càng

đi sâu hơn, điều bí ẩn càng sâu hơn. Một khoảnh khắc

tới trong cuộc sống của người thám hiểm tôn giáo khi

người đó biến mất vào trong điều bí ẩn như giọt sương

bay hơi trong ánh mặt trời buổi sáng. Chỉ thế thì bí ẩn

còn lại. Đó là đỉnh cao nhất của việc hoàn thành, của

mãn nguyện; người ta đã về tới nhà. Bạn có thể gọi nó là

Thượng đế, niết bàn, hay bất kì cái gì bạn thích.

Tôi không chống lại khoa học - cách tiếp cận của tôi

về căn bản là khoa học. Nhưng khoa học có những giới

hạn, và tôi không dừng nơi khoa học dừng; tôi đi tiếp,

tôi đi vượt ra ngoài. Dùng khoa học, nhưng đừng bị nó

dùng. Điều tốt là có công nghệ vĩ đại; chắc chắn nó giúp

cho con người gạt bỏ công việc ngu xuẩn, chắc chắn nó

giúp cho con người gạt bỏ nhiều loại nô lệ. Công nghệ

có thể giúp cả con người và con vật. Con vật cũng bị

hành hạ; chúng khổ nhiều lắm bởi vì chúng ta dùng

chúng. Máy móc có thể thay thế chúng, máy míc có thể

làm mọi công việc. Con người và con vật cả hai có thể

được tự do.

Và tôi muốn một nhân loại được tự do toàn bộ khỏi

công việc, bởi vì trong trạng thái đó bạn sẽ bắt đầu

trưởng thành - theo nghĩa thẩm mĩ, nhạy cảm, thảnh

thơi, thiền. Bạn sẽ trở nên ngày một nghệ sĩ hơn và bạn

sẽ trở nên ngày một tâm linh hơn bởi vì bạn sẽ có thời

gian và năng lượng sẵn có.

Tôi không chống lại khoa học, tôi không phản khoa

học chút nào. Tôi muốn thế giới có ngày càng nhiều

khoa học hơn, để cho con người có thể trở nên sẵn có

cho cái gì đó cao hơn, cho cái gì đó mà người nghèo

không thể đảm đương được.

Tôn giáo là điều tối thượng trong xa hoa. Người

nghèo phải nghĩ về bánh mì và bơ - người đó thậm chí

không thể xoay xở được điều đó. Người đó phải nghĩ về

chỗ trú ngụ, quần áo, trẻ con, thuốc thang, và người đó

không thể xoay xở được những thứ nhỏ bé này. Toàn thể

cuộc sống của người đó bị nặng gánh bởi những điều

tầm thường; người đó không có không gian, không có

thời gian dành cho Thượng đế. Và cho dù người đó có đi

đền chùa hay tới nhà thờ, người đó đi để hỏi xin các thứ

vật chất. Lời cầu nguyện của người đó không phải là lời

cầu nguyện đúng, nó không phải là lời cầu nguyện của

lòng biết ơn; nó là nhu cầu, ham muốn. Người đó muốn

cái này, người đó muốn cái nọ - và chúng ta không thể

kết án người đó được, người đó phải được tha thứ. Nhu

cầu có đó và người đó thường xuyên ở dưới sức nặng

này. Làm sao người đó có thể tìm ra vài giờ để ngồi im

lặng, không làm gì cả? Tâm trí cứ nghĩ hoài. Người đó

phải nghĩ về ngày mai.

Jesus nói: nhìn vào hoa loa kèn trên đồng; chúng

không làm việc vất vả, chúng không nghĩ tới ngày mai.

Và chúng đẹp hơn nhiều khi so với ngay cả vua

Solomon, nhà vua vĩ đại, trong tất cả sự uy nghi của ông

ấy, đã từng có.

Đúng, hoa loa kèn không làm việc vất vả và chúng

không nghĩ về ngày mai. Nhưng bạn có thể nói điều đó

cho người nghèo được không? Nếu người đó không nghĩ

tới ngày mai, thế thì ngày mai là cái chết. Người đó phải

chuẩn bị cho nó; người đó phải nghĩ người đó đi đâu để

kiếm thức ăn, đi đâu để được thuê làm việc. Người đó

phải nghĩ. Người đó có con và vợ, người đó có mẹ già

và cha già. Người đó không thể giống như hoa loa kèn

trên cánh đồng được. Làm sao người đó có thể tránh lao

động, công việc được? - điều đó sẽ là tự tử.

Hoa loa kèn chắc chắn đẹp và tôi hoàn toàn đồng ý

với Jesus, nhưng phát biểu của Jesus là chưa áp dụng

được cho phần lớn nhân loại. Chừng nào nhân loại còn

chưa trở nên rất giầu có, phát biểu này sẽ vẫn còn chỉ có

tính lí thuyết; nó sẽ không có cách dùng thực tế nào.

Tôi muốn thế giới này giầu có hơn nó đang thế. Tôi

không tin vào nghèo nàn và tôi không tin rằng nghèo

nàn có cái gì đó liên quan tới tâm linh. Trong suốt nhiều

thời đại người ta đã bảo rằng nghèo nàn là cái gì đó tâm

linh; đó chỉ là lời an ủi mà thôi.

Mới hôm nọ, một đôi người Pháp đã viết cho tôi một

bức thứ. Họ phải là những người mới tới đây, họ không

hiểu tôi. Họ phải đã tới với định kiến nào đó. Họ lo lắng,

lo lắm. Họ viết trong bức thư rằng, "Chúng tôi không

hiểu vài điều. Tại sao đạo tràng này lại trông xa xỉ thế?

Điều này ngược lại tính tâm linh. Sao thầy lại lái xe đẹp

thế? Điều này chống lại tính tâm linh."

Bây giờ, trong ba hay bốn ngày này tôi lái xe

Impala. Nó không phải là cái xe rất đẹp đâu; ở Mĩ đó là

cái xe của thợ đường ống nước! Nhưng theo một nghĩa

nào đó tôi cũng là thợ ống nước - thợ bơm của tâm trí.

Tôi chữa những chi tiết cần thiết. Nó là chiếc xe của

người nghèo. Ở Mĩ, những người dùng xe Chevrolet

Impalas, vân vân, hàng xóm của họ được gọi là hàng

xóm Chevrolet - điều đó nghĩa là hàng xóm của người

nghèo.

Nhưng đôi người Pháp này phải có quan điểm cổ

rằng nghèo nàn có cái gì đó tâm linh về nó. Con người

đã sống lâu trong nghèo tới mức con người phải tự an ủi

mình, bằng không điều đó đã không thể dung thứ được.

Con người phải tự thuyết phục mình rằng nghèo nàn là

tâm linh.

Nghèo không phải là tâm linh - nghèo là cội nguồn

của mọi tội ác.

Và tôi muốn nói với đôi đó rằng, "Nếu bạn muốn

níu bám lấy niềm tin và định kiến của bạn, đây không

phải là chỗ cho các bạn. Xin xéo đi! - càng sớm càng

tốt, bởi vì bạn có thể bị biến chất ở đây đấy. Nghe tôi là

nguy hiểm cho các bạn."

Với tôi, tâm linh có chiều hướng hoàn toàn khác. Nó

là xa hoa tối thượng - khi bạn có tất cả và đột nhiên bạn

thấy rằng, mặc dầu bạn có tất cả, sâu bên trong vẫn có

chân không cần phải được lấp đầy, trống rỗng phải được

biến đổi thành tràn đầy. Người ta trở nên nhận biết về

trống rỗng bên trong chỉ khi người ta có mọi thứ ở bên

ngoài. Khoa học có thể làm phép màu đó. Tôi yêu khoa

học, bởi vì nó có thể tạo ra khả năng cho tôn giáo xảy ra.

Mãi cho tới giờ, tôn giáo đã không xảy ra trên trái

đất. Chúng ta đã nói về tôn giáo nhưng nó đã không xảy

ra; nó đã không chạm tới trái tim của hàng triệu người.

Chỉ thỉnh thoảng một người mới có khả năng trở nên

chứng ngộ. Trong khu vườn lớn nơi hàng triệu bụi cây

và cây có đấy, nếu chỉ thỉnh thoảng trong hàng nghìn

năm một đoá hoa trở thành cây, bạn sẽ không gọi nó là

khu vườn. Bạn sẽ không cám ơn người làm vườn. Bạn

sẽ không nói, "Người làm vườn thật vĩ đại, bởi vì nhìn

đấy: sau một nghìn năm, từ hàng triệu cây, một cây đã

nở ra với một hoa." Nếu điều này xảy ra điều đó đơn

giản chỉ ra nó phải đã xảy mặc kệ người làm vườn!

Bằng cách nào đó người đó đã quên mất cây này, bằng

cách nào đó người đó đã quên lãng cây này, bằng cách

nào đó cây này đã thoát khỏi sự nắm giữ của người đó.

Con người đã sống một cách phi tôn giáo: nói về

Thượng đế, chắc chắn rồi - đi tới nhà thờ, tới đền chùa,

tới giáo đường - vậy mà cuộc sống của người đó không

bày tỏ hương vị của tôn giáo.

Viễn kiến của tôi về tôn giáo là khác toàn bộ. Nó

chẳng liên quan gì tới nghèo nàn. Tôi muốn toàn thể trái

đất trở nên giầu có như thiên đường - giầu có hơn thiên

đường - để cho mọi người có thể thôi nghĩ về thiên

đường. Thiên đường được tạo ra bởi người nghèo chỉ để

an ủi bản thân họ rằng, "Ở đây chúng ta đang khổ,

nhưng nó không kéo dài đâu. Chỉ vài ngày thêm nữa,

hay vài năm, và cái chết sẽ tới và chúng ta sẽ được đưa

lên thiên đường." Và thật là lời an ủi làm sao! - rằng

những người giầu ở đây sẽ bị tống xuống địa ngục.

Jesus nói con lạc đà có thể đi qua lỗ trôn kim, nhưng

người giầu không thể đi qua được cổng cõi trời. An ủi

làm sao! Người nghèo phải đã cảm thấy rất được thoả

mãn, bằng lòng, rằng, "Vấn đề chỉ là vài ngày thêm nữa

thôi: thế rồi ông sẽ bị vào ngọn lửa địa ngục và tôi sẽ

ngồi trong lòng của Thượng đế, với đủ mọi thứ xa hoa,

với tất cả giàu có, với mọi vui vẻ mà tôi đang bị cướp đi

ở đây và ông đang tận hưởng." Ý niệm về thiên đường

dường như chỉ là sự trả thù.

Tôi muốn trái đất này là thiên đường - và nó không

thể xảy ra được mà không có khoa học. Cho nên làm sao

tôi có thể phản khoa học được? Peter, tôi không phản

khoa học đâu. Nhưng khoa học không phải là tất cả.

Khoa học chỉ có thể tạo ra chu vi; trung tâm phải là

trung tâm của tôn giáo. Khoa học là bên ngoài, tôn giáo

là bên trong. Và tôi muốn con người giầu có ở cả hai

phía: bên ngoài phải giầu có và bên trong phải giầu có.

Khoa học không thể làm cho bạn giầu trong thế giới bên

trong được; điều đó chỉ có thể được làm bởi tôn giáo.

Nếu khoa học cứ nói không có thế giới bên trong,

thế thì tôi chắc chắn chống lại những phát biểu như vậy

- nhưng điều đó không phải là chống lại khoa học, chỉ

chống lại những phát biểu đặc biệt này. Những phát biểu

này là ngu xuẩn, bởi vì những người đưa ra các phát

biểu này đã không biết cái gì của bên trong cả.

Karl Marx nói tôn giáo là thuốc phiện của mọi

người - và ông ấy chẳng bao giờ kinh nghiệm bất kì việc

thiền nào. Cả đời ông ấy phí hoài trong Bảo tàng Anh

Quốc, suy nghĩ, đọc, thu thập ghi chép, chuẩn bị cho

công trình lớn của ông ấy, Das Kapital - Tư bản luận.

Và ông ấy đã cố gắng nhiều trong việc giành lấy ngày

càng nhiều tri thức tới mức điều đó xảy ra nhiều lần -

ông ấy ngất đi trong Bảo tàng Anh Quốc! Ông ấy đã

phải được người ta mang về nhà khi vô ý thức. Và điều

đó gần như là việc mọi ngày tới mức ông ấy bị buộc

phải rời khỏi bảo tàng - bởi vì bảo tàng thỉnh thoảng

phải đóng cửa, nó không thể mở cả hai mươi bốn giờ.

Ông ấy chưa bao giờ nghe nói về thiền; ông ấy chỉ

biết suy nghĩ và suy nghĩ. Nhưng dầu vậy theo một cách

nào đó ông ấy là đúng, rằng tính tôn giáo cũ đã phục vụ

như một loại thuốc phiện. Nó đã giúp cho người nghèo

vẫn còn nghèo; nó đã giúp cho họ vẫn còn được bằng

lòng như họ đang vậy, cứ hi vọng cái tốt nhất trong kiếp

sau. Theo cách đó ông ấy là đúng. Nhưng ông ấy không

đúng nếu chúng ta tính tới một Phật, một Zarathustra,

một Lão Tử - thế thì ông ấy không đúng. Và đây mới là

những người tôn giáo thực sự, không phải là quần

chúng; quần chúng chẳng biết gì về tôn giáo.

Tôi muốn bạn được giầu có bởi Newton, Edison,

Eddington, Rutherford, Einstein; và tôi muốn bạn cũng

được giầu có bởi Phật, Krishna, Christ, Mohammed, để

cho bạn có thể trở nên giầu có theo cả hai chiều - bên

ngoài và bên trong. Khoa học là tốt như nó đang diễn ra,

nhưng nó không đi đủ xa - và nó không thể đi xa được.

Tôi không nói rằng nó có thể đi và nó không đi. Không,

nó không thể đi vào trong lãnh thổ của bản thể bạn

được. Chính phương pháp luận của khoa học ngăn cản

nó khỏi việc đi vào. Nó chỉ có thể đi ra ngoài, nó chỉ có

thể nghiên cứu một cách khách quan; nó không thể đi

vào bản thân tính chủ quan. Đó là chức năng của tôn

giáo.

Xã hội cần khoa học, xã hội cần tôn giáo. Và nếu

bạn hỏi tôi cái gì nên là ưu tiên đầu tiên - khoa học nên

là ưu tiên đầu tiên. Thứ nhất là bên ngoài, chu vi, thế rồi

tới bên trong - bởi vì bên trong là tinh tế hơn, tinh vi

hơn.

Khoa học có thể tạo ra không gian cho tôn giáo thực

tồn tại trên trái đất này.

****************************************************

#8Câu hỏi thứ hai:

Thưa Thầy kính yêu,

Tại sao người gian trá được mọi người tôn thờ, và

những người như Jesus, Phật và Socrates bị kết án,

ném đá và giết chết?

Saroj, chư phật bao giờ cũng bị kết án bởi quần

chúng bình thường, nhưng quần chúng bình thường

không chịu trách nhiệm cho điều đó. Họ vô ý thức.

Chúng ta không thể làm cho họ chịu trách nhiệm về điều

đó được. Họ không thể đừng được điều đó - họ đang ngủ

say. Và chư phật quấy rối giấc ngủ của họ; chư phật làm

mọi nỗ lực có thể được để đánh thức họ dậy. Không ai

muốn bị quấy rối trong giấc ngủ của mình, và người ta

có thể có những giấc mơ đẹp, những giấc mơ hay, dịu

ngọt...

Mọi người muốn vẫn còn vô ý thức. Ý thức là không

được biết tới với họ và họ tự nhiên sợ cái không biết.

Với cái biết họ an ninh, an toàn và mọi người khác cũng

giống như họ.

Khi chư phật tới, họ tạo ra rối loạn lớn. Họ không

thể đừng được điều đó nữa. Khi họ trở nên thức tỉnh họ

đi tới biết phúc lạc, im lặng, chiều cao cực lạc, vui vẻ

cực thích tới mức nó bắt đầu tuôn trào ra, tới mức lòng

từ bi lớn lao nảy sinh trong họ. Họ có thể thấy mọi

người di chuyển, đi trong giấc ngủ; họ bắt đầu lay mọi

người, gây sốc cho mọi người.

Cho nên điều đó là hiện tượng tuyệt đối tự nhiên.

Mọi người trở nên giận dữ bởi vì bạn đang quấy rối giấc

mơ của họ - giận dữ của họ có thể được hiểu. Chư phật

trở nên từ bi - họ không thể đừng được điều đó. Khi bạn

phúc lạc, từ bi tới như cái bóng, nó theo bạn. Từ từ bi

của mình, họ bắt đầu đánh thức mọi người dậy. Một

cách tự nhiên nảy sinh xung đột.

Và mọi người đơn giản muốn không bị quấy rối. Họ

không muốn thức tỉnh, họ muốn thuốc phiện. Điều đó

cho cảm giác rất dễ chịu; ít nhất nó giữ cho họ không

nhận biết về các vấn đề thực của cuộc sống.

Chư phật biết rất tường tận về điều đó, rằng cố gắng

đánh thức mọi người dậy là lâm vào nguy hiểm. Nhưng

điều đó xứng đáng với nó... Và bởi vì họ bây giờ biết họ

là không thể bị huỷ diệt - họ đã đi tới biết cái vĩnh hằng

trong bản thân mình, mọi người có thể làm được gì?

Mọi người có thể đóng đinh - thì cứ để họ đóng đinh đi.

Thân thể đằng nào cũng sẽ chết. Họ có thể tra tấn,

nhưng tra tấn không thể tới được chư phật được. Đau

khổ vẫn còn ở bên ngoài, nó không thể đi vào được. Chư

phật vẫn còn tỉnh táo, quan sát, chứng kiến. Mọi thứ đều

ở bên ngoài; chẳng cái gì có thể thấm vào cốt lõi bên

trong nhất của họ.

Cho nên họ không cảm thấy rằng họ phải né tránh

việc đánh thức mọi người, quấy rối mọi người. Khoảnh

khắc họ trở nên thức tỉnh họ chạy xô tới quần chúng.

Khi họ không thức tỉnh họ đi vào rừng rậm, lên núi non,

tới chỗ nào đó nơi họ có thể một mình. Mọi chư phật -

Jesus, Mohammed, Mahavira, Gautama - họ tất cả đều

đi vào chốn cô đơn. Họ né tránh quần chúng khi bản

thân họ còn ngủ. Nhưng khoảnh khắc họ trở nên được

thức tỉnh, khoảnh khắc họ thấy cái đẹp và phúc lành của

cuộc sống, khoảnh khắc họ thấy cái đẹp vĩnh hằng của

sự tồn tại, họ chạy xô về bãi chợ - tất cả họ - để trao

thông điệp cho mọi người, bởi vì mọi người đang chết

đói về lương thực tâm linh, mặc dầu họ không nhận biết

rằng họ không được nuôi dưỡng. Linh hồn họ đang ngủ;

họ đang sống nhưng không sống thực.

Và khi chư phật nói với những người này họ đem tới

một loại ngôn ngữ hoàn toàn mới. Mọi người không thể

hiểu được điều đó. Họ chỉ có thể hiểu lầm điều đó - họ

nhất định hiểu lầm điều đó, nó mới thế!

Jacobs đi vào hiệu quần áo của Levine để hỏi giá

của bộ com lê trưng bày trong tủ kính.

"Ông chọn lấy bộ com lê phù hợp nhất tại chỗ đi,"

Levine nói, "và để chỉ cho ông rằng tôi muốn làm kinh

doanh với một người có thị hiếu tốt thế, tôi sẽ cho ông

một giá đặc biệt. Tôi sẽ không đòi ông một trăm đô la

cho bộ com lê đâu. Tôi sẽ không đòi ông chín mươi đâu.

Tôi sẽ không đòi ông bẩy mươi. Sáu mươi đô là là giá

cho ông đấy, ông bạn ạ."

Jacobs đáp, "Tôi sẽ không trả ông sáu mươi đâu, tôi

sẽ không trả ông năm mươi đâu. Đề nghị của tôi là bốn

mươi."

"Bán," Levine nói. "Đó là cách tôi muốn làm kinh

doanh - không lừa đảo."

Mọi người có ngôn ngữ nào đó - ngôn ngữ của họ.

Chư phật nói một ngôn ngữ hoàn toàn khác; nó tới từ

bình diện khác. Mọi người sống trong sợ; chư phật sống

trong tự do. Mọi người sống trong khổ; chư phật sống

trong cực lạc. Làm sao họ có thể trao đổi được? Trao đổi

là không thể được.

Lanagan, tám mươi tám tuổi, đang trên giường chết

và Cha Feeney đang cố làm lễ ban ân huệ lần cuối cùng.

"Mở mắt ra," cha nói, "chúng ta đã cứu linh hồn bất

tử của con."

Lanagan mở một mắt ra, nhắm nó lại, và cố gắng

ngủ lơ mơ. Ông ta đang có giấc ngủ ngon. "Lại đây, bây

giờ!" linh mục kêu lên. "Nếu con không muốn thú tội, ít

nhất trả lời ta điều này: con có từ bỏ quỉ và mọi công

việc của nó không?"

"Thế này, tôi không biết, thưa cha," Lanagan nói

vừa mở mắt ra. "Vào lúc như lúc này sẽ là không khôn

ngoan để đối kháng với bất kì ai!"

Mọi người muốn được để lại một mình - đừng quấy

rối họ. Nhưng chư phật nhất định quấy rối họ. Nếu ai đó

chịu trách nhiệm thế thì chư phật chịu trách nhiệm, bởi

vì họ là những người có ý thức. Và tôi nói điều đó theo

thẩm quyền riêng của tôi: nếu mọi người chống lại tôi,

trách nhiệm là của tôi, không phải của họ - họ đang làm

điều tự nhiên. Nhưng tôi có thể làm gì được? Tôi cũng

làm điều tự nhiên thôi - nhưng chúng ta tồn tại trên bình

diện khác.

Và cuộc tranh đấu này nhất định tiếp diễn mãi mãi.

Bà nhà thám hiểm - một tu sĩ, một doanh nhân và

một người Sufi - đi qua một khu rừng rậm nguy hiểm.

Khi ngày trôi qua, số con vật thù địch hoang dã bao

quanh họ trở nên lớn hơn. Cuối cùng họ phải tìm chỗ trú

ẩn trên cây.

Sau cuộc họp hội đồng chiến tranh họ quyết định

rằng một trong số họ phải đi cầu cứu, vì nếu họ ở lại như

họ đang vậy, sợ, đói và mệt cuối cùng sẽ buộc họ ngã

vào móng vuốt của các con vật đang đói.

Nhưng họ không thể quyết định được ai phải đi.

"Không phải tôi," tu sĩ nói, "vì tôi là người của Thượng

đế, và tôi phải ở lại để an ủi bất kì ai bị bỏ lại đằng sau."

"Không phải tôi," doanh nhân nói, "bởi vì tôi trả tiền

mọi chi phí cho chuyến đi."

Người Sufi chẳng nói gì, nhưng bỗng nhiên xô thầy

tu rơi khỏi cành cây. Ông ta ngã xuống đất, và lập tức

một bầy linh cẩu dữ tợn đón lấy ông ấy, đánh lại mọi

con vật khác, và đặt ông ấy một cách cung kính lên lưng

con linh cẩu lớn nhất trong số chúng. Thế rồi, canh gác

ông ấy cẩn thận, chúng hộ tống ông ấy đi tới chỗ an

toàn.

"Thật là phép màu!" doanh nhân kêu lên. "Sau độc

ác của ông, hướng dẫn thiêng liêng đã can thiệp để cứu

người tốt đó. Từ khoảnh khắc này trở đi, tôi đã được cải

đạo theo cuộc sống tốt lành và linh thiêng."

"Giữ cho chắc vào," người Sufi nói, "vì sau rốt còn

có lời giải thích khác."

"Còn giải thích khác nào có thể có?" doanh nhân

kêu lên.

"Đơn giản thế này: rằng nó lấy một người để biết

một người,” người Sufi nói, “và người nhỏ nhất bao giờ

cũng thừa nhận người lãnh đạo của họ và kính trọng

người đó..."

Saroj, bạn hỏi tôi, "Tại sao người gian trá được mọi

người tôn thờ còn chư phật bị hành hạ?"

Người gian trá được hiểu một cách dễ dàng; họ nói

cùng ngôn ngữ như mọi người. Người gian trá được hiểu

bởi vì người gian trá đang phục vụ mọi người trong giấc

ngủ của họ, họ đang cung cấp cho mọi người thuốc

phiện. Người gian trá được hiểu, được kính trọng, được

tôn thờ, bởi vì người gian trá không quấy rối - không

quấy rối chút nào.

P.D. Ouspensky đã đề tặng cuốn sách vĩ đại của

mình - một trong những cuốn sách vĩ đại nhất đã từng

được viết ra, Đi tìm điều huyền bí - cho thầy mình,

George Gurdjieff, với những lời này: "Tặng thầy tôi,

George Gurdjieff, người đã quấy rối giấc ngủ của tôi

mãi mãi."

****************************************************

#8Câu hỏi thứ ba:

Thưa Thầy kính yêu,

Tôi không biết tôi là ai và tôi chưa bao giờ có thể

biết thầy là ai. Mọi điều tôi biết là ở chỗ ai đó này

khác yêu thầy, dù thầy là bất kì ai. Ô, thưa Thầy

kính yêu - thầy là quả táo ngọt thế để ăn trong bóng

tối.

Prem Anuradha, người ta chẳng bao giờ đi tới biết

mình là ai cả. Nếu người ta đi tới biết mình là ai, thế thì

người đó phải sai - bởi vì cái vô hạn này đang cư ngụ

trong bạn là cái không thể biết được, không phải là cái

không biết. Bạn có thể cứ đi tìm vào nó...

Để đưa bạn vào cuộc phiêu lưu đó, chư phật đã nói

đi nói lại với bạn: Biết bản thân mình. Đừng hiểu lầm họ

- họ đã từng bị hiểu lầm rồi. Bởi vì Socrates nói: biết

bản thân mình, mọi người nghĩ họ có thể biết; bằng

không, sao Socrates nói: biết bản thân mình? Socrates

không nói rằng bạn có thể biết bản thân mình; ông ấy

đang nói cố gắng biết bản thân mình đi. Trong việc biết

bản thân mình bạn sẽ bắt gặp cái không thể biết. Chính

nỗ lực để biết bản thân mình sẽ đem bạn tới đại dương

vô hạn của cuộc sống.

Bạn sẽ không bao giờ biết mình là ai cả, bạn sẽ

không có khả năng trả lời được. Bạn sẽ không có khả

năng nói rằng, "Tôi là A hay B hay C." Bất kì câu trả lời

nào bạn đem tới cũng sẽ sai.

Khi bạn trở nên im lặng, hoàn toàn im lặng - không

câu trả lời, mọi câu trả lời bạn đã có trước đây đều đã bị

tan biến và không câu trả lời mới nào đã tới; không chỉ

câu trả lời đã không tới, thậm chí câu hỏi cũng không

còn được nhớ tới... Khi câu hỏi và câu trả lời cả hai đều

không có đó, trong im lặng sâu sắc đó, trong tĩnh lặng

đó, có một loại biết chưa bao giờ trở thành tri thức - một

loại nhận biết, một loại ánh sáng, làm sáng bạn lên, vậy

mà bạn không thể nào thông báo được cho bất kì ai về

nó. Bạn thậm chí không thể làm ra lí thuyết từ nó cho

bản thân mình. Bạn sẽ hoàn toàn câm tịt.

Anuradha, đây là một kinh nghiệm đẹp. Đây là cách

nó phải vậy. Đây là cách nó cảm thấy dường như bạn tới

ngày một gần hơn với satori, với samadhi.

Bạn nói, "Tôi không biết tôi là ai."

Đây là sự bắt đầu của việc biết thực. Trạng thái này

của dốt nát được thừa nhận là bước đầu tiên đi vào ngôi

đền của Thượng đế.

Bạn nói, "Tôi không biết tôi là ai và tôi chưa bao giờ

có thể biết được thầy là ai."

Điều đó nữa cũng đúng. Nếu bạn không thể biết

được bạn là ai, làm sao bạn có thể biết được tôi là ai? -

bởi vì chúng là như nhau, chúng ta là một. Bạn là điều

không thể biết được, tôi là điều không thể biết được;

chúng ta thuộc vào cùng một bí ẩn, chúng ta là bộ phận

của cùng một toàn thể cực thích.

Đó là cực lạc, phúc lạc. Đó là phúc lành. Bạn có thể

nhảy múa trong nó, bạn có thể ca hát trong nó, bạn có

thể tràn ngập với tình yêu qua nó, nhưng nó chưa bao

giờ trở thành tri thức. Vâng, thỉnh thoảng nó có thể trở

thành bài ca, Bài ca của Solomon...

Thiền về Bài ca của Solomon đi. Nó là một trong

những bài ca hay nhất đã từng được hát - và nó đã

không được người Do Thái và người Ki tô giáo hiểu.

Thực ra, họ cảm thấy chút ít bối rối bởi vì nó có vẻ có

dâm dục thế. Nó chắc chắn có vẻ dâm dục, bởi vì dục là

ngôn ngữ có thể duy nhất tới gần nhất với tâm linh. Nó

là năng lượng dục trở thành năng lượng tâm linh. Cho

nên điều hoàn toàn đúng là Bài ca của các Bài ca, Bài ca

của Solomon, có dâm dục quanh nó. Nó nhục dục thế,

nó mang dâm dục vô song! Chẳng cái gì khác đã từng

được viết ra, được hát bằng dâm dục sâu sắc thế.

Nhưng cái gọi là người tôn giáo nghĩ người tôn giáo

phải tuyệt đối phản giác quan, phản dục; người đó

không thể có cảm giác và người đó không thể có dâm

dục. Điều đó hoàn toàn sai. Người tôn giáo còn có tính

giác quan nhiều hơn bất kì ai khác, bởi vì người đó sống

động hơn. Và khi bạn muốn diễn đạt điều tối thượng,

cách thức có thể duy nhất là diễn đạt nó qua kinh

nghiệm sâu sắc nhất của con người - về cực thích dục.

Cực lạc không thể được diễn đạt theo bất kì cách nào

khác.

Chúng ta là một phần của cái toàn thể hữu cơ, cực

thích. Toàn thể sự tồn tại là trong cuộc chơi sâu sắc, cảm

giác. Vâng, bạn có thể cảm thấy nó, bạn có thể nếm trải

nó, nhưng bạn không thể biết nó được. Quên mọi

chuyện về biết nó đi! Toàn thể nỗ lực là việc tập luyện

trong vô tích sự hoàn toàn.

Điều đó là tốt, Anuradha, rằng bạn hiểu rằng bạn

không thể biết được bản thân mình và bạn hiểu rằng bạn

không thể biết được tôi nữa.

Bạn nói, "Mọi điều tôi biết là ở chỗ người nào đó

này khác yêu thầy, dù thầy là bất kì ai."

Đó là một kinh nghiệm cực kì hay. Anuradha đơn

giản đang nói lên cái gì đó không thể diễn tả được. Diễn

đạt là khó, nhưng cô ấy đã đi tới rất gần; cô ấy đã gần

như chạm vào mục tiêu. Vâng, đây là cách nó được cảm

thấy giữa thầy và đệ tử bởi vì nó là chuyện tình lớn lao

nhất có đó. Nó được cảm thấy đích xác giống thế này:

"Mọi điều tôi biết là ở chỗ người nào đó này khác yêu

thầy, dù thầy là bất kì ai."

Chỉ một tình yêu lớn lao được cảm thấy - tình yêu

đập rộn ràng giữa thầy và đệ tử. Dần dần, dần dần,

không còn thầy không còn đệ tử nữa; chỉ tình yêu còn

lại.

Và bạn nói, "Ô, thưa Thầy kính yêu - thầy là quả táo

ngọt thế để ăn trong bóng tối."

Vâng, tình yêu là thưởng thức - thưởng thức đạo.

Nhưng Anuradha, tại sao lại trong bóng tối?

Tôi nhớ lại:

Một giáo sĩ được hỏi, "Sao vợ người Do Thái nhắm

mắt khi làm tình?"

Giáo sĩ nói, "Trời cấm cô ấy không được nhìn chồng

mình có thời gian thoải mái!"

Anuradha, sao trong bóng tối? Để tôi cũng có thời

gian thoải mái chứ! Để tôi cũng thấy nó và kinh nghiệm

nó chứ.

Nhưng tôi có thể hiểu tại sao cô ấy nói điều đó.

Vâng, trong bóng tối bạn thưởng thức nhiều hơn. Bởi vì

mắt chúng ta không thể làm việc được, năng lượng đi

qua mắt trở thành sẵn có cho các giác quan khác. Trong

bóng tối bạn nghe tốt hơn. Nếu bạn muốn nghe nhạc,

điều tốt là nghe trong bóng tối; bạn sẽ nghe tốt hơn. Bởi

vì mắt không còn vận hành, năng lượng trở thành sẵn có

cho tai.

Trong bóng tối bạn sẽ nếm tốt hơn bởi vì năng

lượng sẽ đi vào lưỡi, và mắt đang dùng tám mươi phần

trăm năng lượng của bạn. Khi bạn ăn, nếu bạn nhìn, thế

thì tám mươi phần trăm được tham dự vào việc nhìn và

chỉ hai mươi phần trăm sẵn có cho bốn giác quan khác -

cho nên với từng giác quan gần năm phần trăm thôi. Đó

là lí do tại sao các giác quan khác của chúng ta đã trở

nên trì trệ. Chúng ta không nếm, chúng ta không nghe,

chúng ta không chạm. Nếu bạn chạm trong bóng tối bạn

sẽ cảm nhiều hơn, bạn sẽ biết đường viền. Và nếu bạn

nghe trong bóng tối, âm nhạc sẽ thấm vào chính trái tim.

Mắt đã trở nên rất áp bức, rất khai thác - chúng đã

trở thành độc tài. Chúng đã hấp thu tất cả năng lượng,

điều không phải là quyền của chúng; năng lượng phải

được phân phối lại. Từng giác quan phải có ít nhất hai

mươi phần trăm năng lượng. Vâng, thỉnh thoảng, khi

bạn muốn đi vào trong một giác quan rất sâu, bạn có thể

làm cho toàn thể năng lượng thành sẵn có cho nó. Bịt tai

lại, nút chúng lại; nhắm mắt lại, che chúng lại; bịt mũi

lại - và thế rồi ăn. Và bạn sẽ ngạc nhiên: sắc thái tinh tế

thế của vị giác bạn chưa bao giờ biết tới trước đây, bởi

vì toàn thể một trăm phần trăm năng lượng của bạn đang

đi vào qua lưỡi.

Cho nên tôi hiểu tại sao Anuradha nói, "Ô, thưa

Thầy kính yêu - thầy là quả táo ngọt thế để ăn trong

bóng tối."

Nhưng, Anuradha này, quả táo là điều nguy hiểm

đấy! Bạn biết điều đã xảy ra cho Adam và Eve... Nhưng

tôi đang làm cũng những quả táo đó thành sẵn có cho

bạn, bởi vì với tôi rắn dụ dỗ Eve ăn táo là kẻ tạo phúc

lành lớn nhất của nhân loại. Không có nó thì đã không

có nhân loại chút nào. Bạn chắc đã không ở đây; không

Phật, không Jesus, không Mohammed, không

Bahauddin, không Mansoor.... Chính tất cả có bởi vì con

rắn này. Rắn là người cha sáng lập thực của nhân loại -

toàn thể công lao dồn cho nó. Quả táo đó đã chứng tỏ ý

nghĩa lớn lao.

Tôi không cấm bạn điều gì - không cấm đoán. Tôi

làm thành sẵn có cho bạn mọi vui vẻ của cuộc sống. Ăn

chúng đi, được nuôi dưỡng bởi chúng. Tôi chống lại ý

niệm kinh thánh về việc tạo ra kiềm chế, kìm nén, kiêng

kị. Tôi chống lại chính ý niệm về Thượng đế bảo Adam

và Eve không được ăn từ cây nào đó. Điều đó chống lại

tự do và nó chống lại trưởng thành và nó chống lại chín

chắn.

Nhưng đó là cách các tôn giáo đã vận hành trong

quá khứ. Những câu chuyện này được cái gọi là các tu sĩ

tạo ra. Toàn thể ý niệm về tôn giáo là ý niệm về kìm

nén, bởi vì chỉ qua kìm nén mà con người có thể bị thu

thành nô lệ. Chính là qua kìm nén mà con người có thể

bị bóc lột, áp bức. Chỉ qua kìm nén mà thông minh của

con người có thể bị phá huỷ.

Ăn mọi quả táo mà cuộc sống làm thành sẵn có cho

bạn đi. Chẳng cái gì bị cấm đoán cả - bởi vì chỉ qua kinh

nghiệm về mọi loại mà người ta trở nên được giầu có.

Và nếu bạn không thực sự giầu có trong kinh nghiệm -

về tốt hay xấu - bạn sẽ không bao giờ trở nên chứng

ngộ. Chứng ngộ là không thể có được cho những người

đã sống chỉ cuộc sống nghèo nàn, thánh thiện. Nó không

dành cho những người đã sống chỉ cuộc sống nghèo nàn

của tội nhân. Nó là dành cho những người đã sống cuộc

sống trong tính toàn bộ của nó, những người đã biết mọi

điều là bóng tối và người đã biết mọi điều là ánh sáng,

người đã đi vào trong mọi cực.

Trưởng thành thực xảy ra chỉ khi bạn học cách

người ta bước đi trên dây: đôi khi nghiêng sang trái chỉ

để giữ cân bằng, và đôi khi nghiêng sang phải chỉ để giữ

cân bằng. Khi người đó cảm thấy rằng mình có thể ngã

sang trái, người đó lập tức nghiêng sang phải. Nếu

người đó nghiêng quá nhiều sang phải, để cân bằng nó

người đó bắt đầu nghiêng sang trái. Nghiêng phải và

trái, người đó giữ cho bản thân mình ở giữa.

Đừng là người nghiêng trái, bằng không bạn sẽ ngã;

và đừng là người nghiêng phải, bằng không bạn sẽ ngã.

Là cả hai, và cả hai trong cân bằng, trong tổng hợp tới

mức bạn có thể vẫn còn bước đi trên dây. Cuộc sống là

cái dây căng giữa hai đỉnh núi. Chừng nào bạn còn chưa

bước đi với nhận biết tràn đầy, nhạy cảm, thông minh,

bạn sẽ không đạt tới bờ bên kia.

Vị phật đang nói về bờ bên kia. Bờ bên kia là sẵn có

chỉ cho những người trưởng thành trong thông minh.

Các tu sĩ muốn bạn vẫn còn ngu xuẩn và chư phật muốn

bạn trở nên ngày một thông minh hơn. Do đó có xung

đột giữa tu sĩ và chư phật.

Jesus bị đóng đinh không phải bởi những kẻ tội

phạm mà bởi các giáo sĩ, bởi các tu sĩ. Socrates bị đầu

độc không phải bởi người xấu mà bởi những người đáng

kính. Tại sao? - bởi vì Socrates đã cố gắng làm cuộc

sống thành sẵn có cho các đệ tử của mình trong tính toàn

bộ của nó. Tội của ông ấy là gì? Tội mà theo đó những

người của thành Athens - những người đáng kính, giai

tầng cao nhất của xã hội - đã lôi ông ấy ra toà là ở chỗ

ông ấy đã làm biến chất thanh niên. Ông ấy đã làm cho

cuộc sống thành sẵn có cho các đệ tử của mình trong

tính toàn bộ của nó - và ông ấy đã bị kết án là kẻ làm

biến chất thanh niên.

Tôi cũng bị kết án là kẻ làm biến chất thanh niên.

Dường như nhân loại đã chưa trưởng thành chút nào;

chúng ta đang đi theo vòng tròn. Nếu Socrates quay lại

ông ấy sẽ không thấy khó hiểu con người. Ông ấy sẽ

thấy rất khó hiểu ô tô hay radio hay máy thu hình; có thể

ông ấy thực sự không quan niệm nổi những thứ này là

gì, chúng vận hành thế nào. Những thứ bình thường mà

bạn chẳng bao giờ nghĩ tới - điện - ông ấy sẽ không có

khả năng hiểu. Nhưng ông ấy sẽ tuyệt đối có khả năng

hiểu con người, bởi vì con người đã không trưởng thành

chút nào. Con người vẫn như vậy - vẫn làm cùng một

điều, vẫn hành xử theo cùng cách ngu xuẩn.

Mọi người chống lại tôi bởi vì tôi đang làm mọi quả

táo thành sẵn có cho bạn. Ăn chúng đi. Sống cuộc sống

trong tính toàn bộ của nó.

Và, Anuradha, chẳng mấy chốc - ngày này không xa

đâu - nhiều người trong các bạn sắp trở nên được chứng

ngộ trong cuộc sống này. Tôi có thể thấy các bạn đang

đi ngày một gần hơn tới điểm từ đó bản ngã biến mất.

Bây giờ Anuradha đang lâm vào khó khăn: kí ức của

cô ấy đang biến mất, cô ấy không thể nhớ được nhiều.

Và tất nhiên Arup lo lắng, bởi vì Anuradha giúp cô ấy

trong việc viết thư và cô ấy không thể nhớ được... Ngay

cả viết một bức thư cô ấy cũng mất ít nhất một giờ.

Nhưng khi có liên quan tới tôi, tôi cực kì hạnh phúc - đó

là vấn đề của Arup! Tôi hạnh phúc vô cùng. Quá khứ

đang biến mất, kí ức đang trở thành khác toàn bộ. Bây

giờ nhiều điều quan trọng đang xảy ra mà phải được

nhớ; điều bình thường, cái tầm thường, không thể được

nhớ lấy.

Và bản ngã đang biến mất. Anuradha đã trở thành

gần trống rỗng. Tôi nói "gần" - chỉ chút ít còn lại thôi.

Một khi cái chút ít đó mất đi, cõi bên kia sẽ bắt đầu mưa

rào lên cô ấy. Những đoá hoa đầu tiên đã bắt đầu mở ra,

mùa xuân đang cận kề.

Anuradha, cảm thấy được ân huệ đi. Mùa xuân rất

cận kề đây, và tôi vui mừng vô cùng với bạn.

****************************************************

#8Câu hỏi thứ tư:

Thưa Thầy kính yêu,

"Ông ấy đã thuần hoá ngựa của mình..." Vâng!

Nhưng làm sao làm điều đó được? Cách thức để

thuần hoá chúng là gì? Tôi hoặc kiểm soát, kìm nén

và dừng bản thân mình, hoặc tôi bị các giác quan

của mình đưa đi và bị lái đi bởi “con vật” của tôi.

Với cả hai điều này tôi cảm thấy không thoải mái và

tôi thường đi từ bên này, kìm nén, sang bên kia - bị

lái đi. Làm sao thoát ra khỏi cái bẫy này? Liệu quan

sát và nhận biết mọi thứ có đó có tác dụng không?

Prem Sohan, bạn có cho rằng quan sát và nhận biết

là việc nhỏ không? Bạn hỏi tôi, "Liệu quan sát và nhận

biết mọi thứ có đó có tác dụng không?"

Làm nó đi! - và bạn sẽ biết rằng chẳng cái gì còn lại

để mà được làm thêm nữa. Đừng triết lí hoá về nó, đừng

cứ nghĩ về nó. Tất nhiên, từ 'nhận biết' không có vẻ gì

lớn lao mấy. Và nếu bạn nhìn vào từ điển thì nghĩa có

đó: nó không to lớn thế, nó không xa xôi gì.

Bạn biết vấn đề của bạn một cách tồn tại, và bạn biết

giải pháp chỉ theo trí tuệ - đó là vấn đề. Bạn sẽ phải biết

giải pháp của bạn một cách tồn tại. Nhận biết chứa mọi

tôn giáo của thế giới, mọi kinh sách của thế giới, mọi

điều đã từng được nói bởi mọi người chứng ngộ. Từ đơn

giản này chứa tất cả; nó giống như chiếc chìa khoá nhỏ.

Đừng ném nó đi"... bởi vì nó nhỏ thế - làm sao nó có thể

mở được cánh cửa, mọi cửa của lâu đài lớn này?" Nó là

chìa khoá chủ đấy! Và chìa khoá không phải là cái lớn;

bạn không phải đem chúng trong xe tải, bạn có thể để

chúng trong túi. Nó chỉ là một thứ nhỏ bé, nhưng nó có

thể mở cánh cửa lớn, nhiều cánh cửa. Nếu nó là chìa

khoá chủ nó có thể mở mọi ổ khoá.

Nhận biết là chìa khoá này.

Bạn nói, "Làm sao để thuần hoá...? Tôi hoặc kiểm

soát, kìm nén và dừng bản thân mình, hoặc tôi bị các

giác quan của mình đưa đi và bị lái đi bởi ‘con vật’ của

tôi. "

Vâng, có hai phương án nếu bạn không đạt tới nhận

biết. Hoặc là bạn sẽ kìm nén và kiểm soát - điều xấu xa,

điều sẽ làm cho bạn thành phi tự nhiên, điều sẽ làm cho

bạn thành ốm yếu khi dễ dàng với bản thân mình, điều

sẽ đưa bạn chung cuộc đi vào một loại điên rồ... bởi vì

bạn đang kìm nén năng lượng riêng của mình, cái cần

được biến đổi, không bị kìm nén. Và năng lượng bị kìm

nén là nguy hiểm; chúng sẽ bùng nổ.

Và giác quan của bạn có sống động riêng của chúng.

Nếu bạn kìm nén chúng bạn sẽ trở nên đờ đẫn, bạn sẽ

trở thành không nhạy cảm. Bạn sẽ trở thành không nhạy

cảm với cái đẹp, với vui vẻ, với âm nhạc, với thơ ca, với

mọi cái đã có giá trị bản chất nào.

Đó là lí do tại sao cái gọi là các sư của bạn, các

mahatmas của bạn, các thánh nhân của bạn, đều hoàn

toàn không nhạy cảm. Họ không thể thấy được cái đẹp

nào ở đâu cả, họ không thể thấy được vui vẻ nào ở đâu

cả. Và nếu bạn sống cùng họ trong vài ngày bạn sẽ biết

họ là những kẻ giết vui vẻ; họ sẽ phá huỷ vui vẻ của bạn

nữa, họ sẽ làm cho bạn bối rối nếu bạn hạnh phúc. Họ sẽ

hỏi những câu hỏi như, "Sao anh hạnh phúc? Cái gì có

đó để mà hạnh phúc trong cuộc sống này? Sống là khổ!

Sao anh cười và khúc khích? Cái gì có đó để mà cười cơ

chứ? Khóc là được, nước mắt là chấp nhận được - chúng

có tính tôn giáo. Nhưng khúc khích cười sao? - cái đó

không có tính tôn giáo đâu."

Mới hôm nọ một người đã viết cho tôi, "Thầy phải

là người chứng ngộ đầu tiên kể chuyện cười." Vâng,

điều đó đúng - ít nhất tôi có thể tuyên bố tính độc đáo

ngần đó! Bằng không rất khó để tuyên bố bất kì cái gì

bình thường trong thế giới này; chẳng có gì mới dưới

mặt trời. Trong hàng triệu và hàng triệu năm con người

đã tồn tại và hàng nghìn và hàng nghìn người chứng ngộ

đã tồn tại; họ đã làm mọi thứ có thể được làm. Tôi đã

thực sự tìm kiếm điều để làm - cái gì đó mới! Thế rồi tôi

vớ được chuyện cười. Tôi nói, "Đúng cái này rồi!"

Nếu bạn kìm nén bạn sẽ trở thành không có tính hài

hước, bạn sẽ mất mọi cảm giác về khôi hài. Các thánh

nhân của bạn không thể cười được, và người không thể

cười được không phải là người; người đó trở thành

ngợm. Ngựa không cười, trâu không cười, lừa không kể

chuyện cười cho nhau. Tiếng cười là tuyệt đối có tính

người; không con vật nào khác cười cả. Và nếu một

sáng, chỉ đi dạo thôi, con lừa đột nhiên bắt đầu cười, bạn

sẽ phát rồ! Bạn sẽ thậm chí không có khả năng kể lại

cho bất kì ai rằng điều này đã xảy ra; họ sẽ nghĩ bạn

điên.

Chính đặc quyền của con người là cười. Tiếng cười

có cái gì đó thiêng liêng về nó; tiếng cười có cái gì đó

sẵn có chỉ cho con người. Chỉ con người mới có thể

cười, bởi vì con người có thể cảm thấy cái ngớ ngẩn, cái

tức cười; bởi vì con người có thể nhìn qua nhìn lại, và

con người có thể thấy mọi thứ ngu xuẩn thế khắp xung

quanh để giả vờ khôn ngoan, kẻ ngu giả vờ là thông

minh, trí tuệ - giới trí thức.

Đừng bao giờ kìm nén. Kìm nén sẽ phá huỷ mọi cái

là người trong bạn. Và một khi người bị phá huỷ bạn

không thể đạt tới điều thiêng liêng được, bởi vì tính

người là cây cầu.

Con người là cây cầu giữa động vật và điều thiêng

liêng. Và động vật cũng đẹp bởi vì động vật có tính sống

động. Điều đó đích xác là nghĩa của từ 'động vật'. Nó bắt

nguồn từ chữ 'động' - sống động, cuộc sống, sinh động.

Thánh nhân của bạn trở thành không sống động bởi vì

họ phá huỷ động vật. Họ không thuần hoá nó, họ phá

huỷ nó - phá huỷ họ thấy dễ dàng hơn.

Thuần hoá cần nghệ thuật, nó cần nghệ thuật lớn.

Giết con hổ là đơn giản. Cưỡi hổ và về nhà... điều đó là

nguy hiểm và nó là việc gian nan và nó cần nghệ thuật

lớn. Và đó cũng là trường hợp với mọi giác quan của

bạn: chúng có nhạy cảm riêng của chúng, chút ít thông

minh riêng của chúng. Bạn có quan sát điều đó không? -

rằng các giác quan của bạn có thông minh riêng của

chúng, tâm trí nhỏ bé riêng của chúng.

Bạn đang ngủ và con gián bắt đầu bò - còn cái gì

khác ở Ấn Độ? - con gián bắt đầu bò lên chân bạn, và

bạn vẫn còn buồn ngủ và chân đơn giản gẩy con gián đi.

Chân có thông minh riêng của nó, tỉnh táo sẵn có riêng

của nó; nó vận hành theo cách riêng của nó. Giấc ngủ

của bạn vẫn còn không bị quấy rối. Bạn ăn - dạ dầy bạn

phải có thông minh riêng của nó; bằng không đó là quá

trình rất phức tạp để tiêu hoá, để biến đổi bánh mì thành

máu. Các nhà khoa học vẫn chưa có khả năng làm điều

đó bằng máy móc. Họ đã không có khả năng tạo ra máy

móc có thể biến bánh mì thành máu. Dạ dầy bạn phải có

thông minh của riêng nó - và nó không hỏi bạn chút nào.

Một khi bạn đã ăn bất kì cái gì xuống dưới cổ họng, bạn

quên tất cả về nó; bây giờ đấy là tuỳ dạ dầy làm toàn thể

công việc. Và công việc này thực sự phức tạp, phức tạp

vô cùng: phân loại các yếu tố khác nhau, chuyển những

yếu tố khác nhau đó sang các bộ phận khác của thân

thể...

Bạn bị thương ở tay. Ngay lập tức tay bạn, tuần

hoàn máu của bạn, thân thể bạn bắt đầu một quá trình

chữa lành. Tâm trí bạn không được cần tới chút nào.

Nhớ rằng việc ép buộc các giác quan của bạn vào

trạng thái kìm nén nào đó sẽ lấy đi tính sinh động của

bạn. Bạn sẽ không tươi tắn, bạn sẽ không trẻ trung, bạn

sẽ không tuôn chảy. Đó là điều đã xảy ra cho nhân loại ở

mức độ lớn: bởi vì các giáo lí tôn giáo sai, mọi người đã

trở nên đờ đẫn, ngu xuẩn.

Có một người đàn bà ở nước Nga Xô viết có thể đọc

được bằng ngón tay - và không phải là chữ Braille cho

người mù đâu; cô ấy có thể đọc được sách thường bằng

ngón tay của mình, với mắt nhắm, bị bịt lại. Cô ấy nói

rằng cô có thể thấy qua ngón tay. Có những người có

ngón tay nhạy cảm thế, bằng việc chạm vào bạn họ sẽ

biết nhiều về bạn tới mức ngay cả bạn cũng có thể

không nhận biết tới. Chỉ bắt tay bạn và họ biết nhiều về

bạn. Tay bạn cho họ một loại thông tin nào đó: liệu nó

lạnh hay ấm, thân thiện hay không thân thiện, hay dửng

dưng. Người nhạy cảm, chỉ bằng việc bắt tay bạn, đã trở

nên nhận biết về nhiều điều về bạn, đã biết nhiều về bạn

rồi.

Từng giác quan đều có cái đẹp của nó và phải đóng

góp cho thông minh của bạn. Cho nên xin đừng kìm

nén, đừng kiểm soát.

Khi lang thang dọc theo đường sắt, Isaac vớ được

hai mươi đô la. Anh ta bước đi xa thêm chút ít và cảm

thấy cái nhói ở chai chân. "Này chân," anh ta nói, "Tớ sẽ

mua cho cậu một đôi giầy mác mới nhé."

Anh ta tiếp tục bước đi, nhưng chẳng mấy chốc cảm

thấy cái nóng mặt trời trên trán mình. "Anh đầu già ơi,"

Isaac hứa hẹn, "Tớ sẽ kiếm cho cậu chiếc mũ râm mát."

Vừa đó thì dạ dầy của Isaac càu nhàu. "Thôi được,

bụng," anh ta nói, "Tớ sẽ mua cho cậu bữa ăn ngon."

Isaac trở lại cuộc hành trình của mình. Năm phút

sau đó, anh ta dừng lại sững sờ. Anh ta nhìn xuống phía

trước quần mình và kêu lên, "Này, anh cứng lớn, ai bảo

anh chúng ta đã kiếm được số tiền lớn đấy?"

Từng giác quan của thân thể đều có thông minh

riêng của nó. Không giác quan nào phải bị cắt xén; từng

giác quan đều phải được cho tự do một cách vui vẻ.

Từng giác quan phải được nuôi dưỡng trong tính sống

động của nó. Chỉ thế thì bạn mới biết rằng mọi giác

quan của bạn tạo ra dàn nhạc, giai điệu lớn.

Nhưng tôi hiểu rắc rối của bạn; đây là rắc rối của

hầu hết mọi người trên thế giới này. Hoặc là bạn kiểm

soát hoặc là bạn bắt đầu mê đắm, và bạn không biết cách

vẫn còn đích xác ở giữa. Mê đắm cũng có tính phá huỷ.

Kìm nén có tính phá huỷ, mê đắm có tính phá huỷ - bởi

vì đây là hai cực đoan. Người này nhịn ăn trong nhiều

ngày; người đó đang cố gắng kiểm soát, kìm nén cơn đói

của mình, nhu cầu của thân thể mình. Người khác ăn

quá nhiều, cứ tọng mãi vào.

Tương truyền là Nero thường có bốn thầy thuốc

điều trị ở quanh mình bởi vì ông ấy là người yêu, người

yêu điên cuồng, với thức ăn; ông ấy bị ám ảnh bởi thức

ăn. Ông ấy ăn quá nhiều, và công việc của thầy thuốc trị

liệu là giúp cho ông ấy nôn ra để cho ông ấy có thể ăn

nữa. Và điều này ông ấy làm nhiều lần trong ngày. Bằng

không bạn có thể ăn chỉ một lần thôi, nếu bạn sống trong

phần cổ xưa nguyên thuỷ của châu Phi... bởi vì trong

hàng thế kỉ họ đã ăn chỉ một lần, và thế là đủ. Nếu bạn

sống ở Ấn Độ bạn sẽ ăn hai lần, nếu bạn sống ở Mĩ năm

lần một ngày. Bây giờ, đây là mê đắm, mê đắm điên

cuồng! Điều này lại sẽ làm đờ đẫn giác quan của bạn.

Bụng người đó phải đã nổi đoá, thân thể người đó phải

đã cảm thấy một loại không lành mạnh.

Người ta phải ở giữa, trung bình vàng. Đó là giáo

huấn của Phật.

Có câu chuyện hay trong đời Phật:

Ông ấy tới Shravasti, một trong những thành phố

lớn nhất vào thời đó. Nó phải đã là cái gì đó tựa như

Paris của Ấn Độ vào những ngày đó, bởi vì cái đẹp của

nó được mô tả nhiều thế trong các kinh sách. Và Phật

cũng phải đã yêu mến thành phố này rất nhiều, bởi vì

trong việc thuyết giảng bốn mươi hai năm của mình ông

ấy đã tới Shravasti ít nhất hai mươi lần; đó là số lần

nhiều nhất ông ấy đã tới thăm bất kì chỗ nào. Sarnath

ông ấy tới chỉ một lần - bởi vì muỗi. Sarnath có muỗi

thực sự to; muỗi Pune không là gì cả, người Pune cũng

chưa là gì!

Khi tôi ở cùng một sư Phật giáo ở Sarnath, chúng tôi

đã phải ngồi trong màn cả ngày - ông ấy trong giường

ông ấy, tôi trong giường tôi - và chúng tôi phải nói

chuyện... Tôi bảo ông ấy, "Đây là lần thăm đầu tiên và

lần cuối cùng. Tôi không quay lại Sarnath nữa đâu."

Ông ấy nói, "Ông biết đấy, bản thân Phật chưa bao

giờ tới thăm lần thứ hai."

Tôi đã không biết điều đó. Tôi nói, "Ông kể cho tôi

đi..."

Ông ấy nói, "Vâng, ông ấy đã tới đây chỉ mỗi một

lần - tới Shravasti hai mươi lần, Sarnath chỉ mỗi một

lần. Lí do là gì?" Và chúng tôi đùa.

Tôi nói, "Lí do là rõ ràng: ông ấy đã không có màn.

Ngay chỗ đầu tiên, những con muỗi này phải đã hành hạ

ông ấy. Và đây là những con quỉ thực, chẳng phải muỗi

đâu - những con rất lớn! Phật đáng thương phải đã trốn

biệt!"

Ông ấy chỉ ở lại một ngày ở đó thôi. Shravasti ông

ấy đã tới hai mươi lần; ông ấy đã ở hai mươi mùa mưa ở

Shravasti. Bây giờ Shravasti đã gần như biến mất rồi;

một ngôi làng nhỏ được coi là nơi Shravasti có thời đã ở

đó. Nó đã từng là một thành phố lớn - mười chục vạn

người - một trong những nơi đẹp nhất trên nước này.

Và vua của Shravasti là Shrona. Ông ấy phải đã yêu

cái đẹp; ông ấy đã làm cho thành phố thành đẹp thế - hồ

và những con đường và cung điện đẹp. Và ông ấy đã

mời đủ mọi loại nghệ sĩ, nhạc sĩ, nhà thơ - triều đình ông

ấy đầy nhưng người tài giỏi. Ông ấy có những người

đàn bà đẹp nhất quanh mình. Ông ấy sống trong xa hoa

hoàn toàn. Ngày của ông ấy được dành cho việc đi từ

hoan lạc này sang hoan lạc khác. Một cách tự nhiên,

chẳng mấy chốc ông ấy phát chán, mệt mỏi, mòn mỏi.

Và thế rồi Phật tới. Ông ấy cảm thấy chán cuộc

sống, Shrona này, tới mức ông ấy đã đi nghe Phật - có

thể ông ấy có cái gì đó để nói. Ông ấy cảm thấy vô

nghĩa thế, vô nghĩa hoàn toàn tới mức ông ấy bắt đầu

suy tư về tự tử. Nhìn Phật và cái đẹp thiêng liêng của

Phật, duyên dáng của Phật - và Shrona là một người rất

có khiếu thẩm mĩ - nhìn Phật ông ấy lập tức rơi vào tình

yêu với Phật.

Ông ấy đã không trở về cung điện của mình. Ông ấy

khoanh tay hỏi Phật, "Xin cho tôi theo sannyas. Điểm

đạo cho tôi."

Phật ngần ngại chút ít bởi vì Phật biết mọi điều về

Shrona và cuộc sống của ông ấy; sẽ khó khăn cho ông

ấy. Ông ấy có thể đã không uống nước nhiều năm rồi;

rượu là thứ duy nhất ông ấy hay uống. Ông ấy mê đắm

nhiều thứ tới mức trong một khoảnh khắc Phật đâm ra

ngần ngại.

Nhưng Shrona nói, "Đừng ngần ngại. Tôi chán ngán

với cuộc sống của mình rồi, tôi bị kết thúc cùng nó! Nếu

thầy không cho tôi tính chất sannyas tôi sẽ tự tử - và đó

sẽ là trách nhiệm của thầy!"

Quan sát của riêng tôi cũng thế này: rằng một người

thực sự trở thành một sannyasin khi người đó đi tới

điểm chỉ có hai khả năng: hoặc tự tử hoặc tính chất

sannyas.

Phật phải điểm đạo cho ông ấy ngay lập tức, bởi vì

Phật không muốn chịu trách nhiệm cho việc tự tử của

ông ấy. Nhưng điều Phật đã không trông đợi bắt đầu xảy

ra. Shrona đã trở thành chính cái đối lập với điều ông ấy

đã từng là từ trước tới giờ. Mãi cho tới giờ ông ấy đã

từng tuyệt đối mê đắm trong mọi thứ, trong mọi thứ có

thể. Bây giờ ông ấy trở thành nhà khổ hạnh lớn, nhiều

tới mức ông ấy bắt đầu hành hạ thân thể mình, ông ấy

trở thành kẻ tự bạo. Ông ấy nằm trên gai, ông ấy đứng

trong ánh mặt trời nóng bỏng. Ông ấy không sống như

các sannyasin khác vẫn sống - ôn hoà, cân bằng, cuộc

sống của trung bình vàng. Không, ông ấy đã đi sang cực

đoan kia. Trong vòng sáu tháng người ta không thể nào

nhận ra được ông ấy, ông ấy đã trở thành gầy nhom thế,

đen sạm thế. Ông ấy đã là một người đẹp; ông ấy đã trở

thành xấu. Ông ấy đã bỏ đói bản thân mình. Các

sannyasin của Phật thường ăn một lần một ngày còn ông

ấy thường ăn ba lần một tuần, và điều đó nữa, cũng ít

thế!

Chuyện xảy ra: mọi người có thể đi sang cực đoan

rất dễ dàng. Tâm trí sống trong cực đoan - từ cực đoan

này người ta có thể nhảy sang cực đoan kia rất dễ dàng.

Điều khó khăn nhất là vẫn còn ở giữa, bởi vì để ở giữa

bạn sẽ cần nhận biết. Đi từ cực đoan này sang cực đoan

khác bạn không cần nhận biết. Bạn đã vô ý thức trước

đây như một kẻ mê đắm, bây giờ bạn vô ý thức như một

kẻ khổ hạnh lớn. Ban đầu bạn tọng vào mình bằng thức

ăn và bạn vô ý thức, bây giờ bạn bỏ đói bản thân mình

và bạn vô ý thức.

Con người của ý thức đứng ở giữa: không quá nhiều

không quá ít. Người đó bao giờ cũng cho thân thể điều

được cần, cho tâm trí điều được cần. Cuộc đời ông ấy có

phẩm chất rất, rất nhịp điệu cho điều đó. Ông ấy đáp

ứng cho các yêu cầu của mình rất có ý thức, có trách

nhiệm, nhưng ông ấy không đi vào theo cách thức điên

rồ thế này thế nọ.

Sau sáu tháng Phật phải đi tới ông ấy. Shrona mang

vết thương trên khắp thân thể bởi vì ông ấy nằm trên

gai. Ông ấy sặc mùi vì ông ấy thôi không tắm; ông ấy

nghĩ điều đó cũng là xa hoa...

Ở Ấn Độ, sư Jaina không tắm đâu, họ không đánh

răng, bởi vì điều đó bị coi là quá vật chất - bạn đang

trang điểm cho thân thể. Rất khó nói với sư Jaina. Họ

thường tới tôi trước, nhưng may mắn là họ không còn

tới đây nữa. Khó nói chuyện với họ thế bởi vì mùi hơi

thở của họ đơn giản không thể nào tin được, mùi thân

thể họ không thể nào chịu được! Nhưng điều đó lại được

coi là từ bỏ lớn lao.

Phật đã tới thăm Shrona. Ông ấy bị ốm, với vết

thương trên khắp thân thể, gần chết. Phật hỏi ông ấy một

câu hỏi: Phật nói, "Shrona, ta đã tới để hỏi ông một câu

hỏi. Ta nghe nói rằng khi ông còn là vua ông thường

chơi đàn sitar hay lắm. Ông là người yêu vĩ đại với đàn

sitar và ông đã chơi cả đời mình."

Shrona nói, "Vâng, điều đó đúng."

Phật hỏi ông ấy, "Vậy ta tới hỏi ông một điều: nếu

dây đàn sitar quá chùng, sẽ có nhạc nào không?"

Shrona nói, "Không, làm sao có thể có nhạc nào

được? Nếu dây quá chùng, nhạc không thể được tạo ra."

Phật nói, "Thế nếu dây quá căng, sẽ có nhạc nào

không?"

Shrona nói, "Không, điều đó nữa cũng không thể

được. Nếu dây quá căng, chúng sẽ đứt."

Phật nói, "Thế thì nói cho ta, khi nào nhạc là có thể

có?"

Shrona nói, "Có một điểm đích xác ở giữa khi thầy

không thể nói dây là chùng và thầy không thể nói dây là

căng. Đó là nghệ thuật lớn để đưa dây tới điểm giữa đó -

đích xác ở giữa, không nghiêng sang bên này không

nghiêng sang bên kia; không nghiêng chút nào, đích xác

ở giữa."

Phật đứng dậy và ông ấy nói, "Shrona, ta chẳng có

gì khác để nói cả. Ta chỉ tới để nhắc ông rằng cuộc sống

tuân theo cùng luật đó. Hãy ở giữa đi. Ông đã chuyển từ

cuộc sống quá chùng sang cuộc sống quá căng rồi. Đó là

lí do tại sao ông lại không đạt tới âm nhạc có tên là niết

bàn, âm nhạc có tên là thiền."

Prem Sohan, chỗ đích xác ở giữa đó không thể được

tìm thấy mà không có nhận biết. Và đừng nói, "Liệu

quan sát và nhận biết mọi thứ có đó có tác dụng không?"

Vâng, nó là tất cả đấy. Nó còn nhiều hơn bạn cần,

nhiều hơn bạn sẽ cần. Nó sẽ hoàn thành mọi nhu cầu của

bạn. Nó sẽ dạy bạn cách không kìm nén và cách không

mê đắm. Nó sẽ làm cho bạn tỉnh táo tới mức bạn sẽ chỉ

là nhân chứng. Và khi người ta chỉ là nhân chứng của

giác quan của mình, người ta tận hưởng và vậy mà

người ta vẫn còn ở trên. Người ta trở thành lá sen, trong

nước và vậy mà không bị dính nước.

****************************************************

#8Câu hỏi cuối cùng:

Thưa Thầy kính yêu,

Tôi là một người rất hay ghen, đặc biệt khi có liên

quan tới vợ tôi. Ngay cả việc cô ấy nhìn bất kì ai, tôi

cũng trở nên phát rồ. Tôi phải làm gì đây?

Gyaneshwar, điều đó chẳng liên quan gì tới vợ bạn

cả. Nếu vợ không có đó bạn sẽ vẫn ghen về cái gì đó

khác.

Bao giờ cũng nhớ: đừng quá quan tâm tới nguyên

nhân bên ngoài, bởi vì nguyên nhân không ở bên ngoài

bạn. Bên ngoài chỉ là cái cớ; nguyên nhân là ở bên trong

bạn. Bạn tràn đầy ghen; vợ đơn giản vận hành như cái

cớ. Đừng quá lo nghĩ về cái cớ, bởi vì điều đó là phí thời

gian. Nhìn vào bên trong bản thân mình: tại sao bạn

ghen?

Ghen nghĩa là bản ngã, ghen nghĩa là vô ý thức.

Ghen nghĩa là thậm chí bạn đã không biết tới một

khoảnh khắc của vui vẻ và phúc lạc; bạn đang sống

trong khổ. Ghen là sản phẩm phụ của khổ, bản ngã, vô ý

thức.

Quên mọi chuyện về vợ đi; bằng không bạn sẽ vẫn

còn bận tâm về vợ, và đó là cách trốn khỏi nguyên nhân

thực. Nguyên nhân thực bao giờ cũng ở bên trong. Và

không chỉ về ghen, nhớ lấy, về mọi vấn đề - tham lam...

Ai đó tới tôi và nói, "Tôi rất tham tiền. Làm sao tôi

có thể gạt bỏ việc tham tiền này được?" Vấn đề không

phải là tiền. Tham là tham. Nếu bạn gạt bỏ tiền bạn sẽ

trở nên tham Thượng đế; tham sẽ vẫn có đó.

Cái đêm Jesus nói lời tạm biệt với đệ tử của mình,

một trong các đệ tử hỏi ông ấy, "Thưa Chúa, ngài sắp

rời bỏ chúng tôi. Có một câu hỏi, và nó ở trong tâm trí

của mọi đệ tử của ngài. Trong vương quốc của Thượng

đế ngài sẽ ngồi bên phải bản thân Thượng đế - hiển

nhiên, ngài sẽ ở bên phải Thượng đế. Và ai sẽ ngồi cạnh

ngài? Trong số mười hai người chúng tôi, ai sẽ là người

thứ hai sau ngài? Đó là điều quan trọng nhất trong đầu

chúng tôi. Xin nói điều gì đó về nó; bằng không, một

khi ngài đi mất rồi chúng tôi sẽ không thể nào quyết

định được và chúng tôi sẽ cãi nhau và đánh nhau về điều

đó."

Bây giờ, đây là ghen tị. Bây giờ, Jesus có loại đệ tử

nào? Cứ như quan sát của tôi, Jesus không thật may mắn

về đệ tử của ông ấy. Phật may mắn hơn nhiều. Trong cả

đời Phật chưa bao giờ có đệ tử nào hỏi câu hỏi ngu xuẩn

thế. Và đây là các tông đồ, mười hai tông đồ - những sứ

giả của ông ấy cho thế giới!

Nhớ lấy, nếu tham lam bị vứt bỏ đối với tiền, ngay

lập tức nó sẽ lấy đối thể khác, nó sẽ trở nên được hội tụ

vào cái gì đó khác. Cho nên điều đầu tiên phải nhớ: vấn

đề không liên quan gì tới vợ bạn, nó có cái gì đó liên

quan tới bản thân bạn. Quên về vợ hoàn toàn đi, để cô

ấy ở bên ngoài vấn đề này. Cô ấy không phải là vấn đề,

bạn là vấn đề! Nhận trách nhiệm đi, và thế thì mọi sự bắt

đầu thay đổi.

Nếu bạn nhận trách nhiệm, nếu bạn nghĩ, "Mình

chịu trách nhiệm, không ai khác," bạn sẽ không giận vợ

đâu. Bạn sẽ không đấu tranh và cằn nhằn, bạn sẽ không

cáu kỉnh với cô ấy. Bạn sẽ bắt đầu nhìn ngày một sâu

hơn. Và trong chính việc tìm kiếm đó bạn sẽ trở nên

nhận biết. Đó là điều nhận biết là gì, đó là cách người ta

trở nên nhận biết.

Và khi bạn đầy nhận biết về ghen của mình bạn sẽ

ngạc nhiên, bạn trong kinh ngạc: khi bạn đầy nhận biết

về nó, nó biến mất. Nó đơn giản biến mất, không để lại

ngay cả một dấu vết đằng sau nó.

Hai người đàn ông đã có đủ thứ của thế giới cho nên

họ quyết định bỏ lại vợ, con và công việc để tìm an bình

và yên tĩnh nơi hoang dã. Họ dừng để lấy đồ cung cấp ở

cửa hàng đồ thể thao do một ông già khôn ngoan sở hữu.

"Lấy cái này đi," ông chủ tiệm già nói với những

người từ bỏ khi ông ấy trao cho họ một tấm biển lót

bằng da chồn, với một khe nhỏ cắt ra ở giữa cũng được

lót bằng da.

"Không còn cách nào đâu!" những người đàn ông

kêu lên. "Chúng tôi biết tấm biển đó dùng để làm gì và

tôi bảo ông chúng tôi đã chán với cái loại đồ đó mãi

mãi!"

Nhưng ông già khôn ngoan vẫn tuồn tấm biển đó

vào một trong các túi trong khi họ không nhìn, và những

người đàn ông ra đi.

Ba năm sau một trong những người đàn ông quay

trở lại cửa hàng thể thao của ông già.

"Nào, xin chào!" ông chủ tiệm kêu lên. "Đối tác của

anh đâu rồi?"

"Chết rồi," người sống sót trở về nói.

"Có chuyện gì vậy?"

"Tôi bắn anh ta rồi."

"Nhưng tại sao?"

"Thế này," người đàn ông nói, "tôi bắt được anh ta ở

trên giường với cái bảng của tôi."

Đấy không phải vấn đề về vợ - ngay cả tấm bảng

cũng có tác dụng: "Bảng của tôi!..." Đấy là vấn đề của

bản ngã, và bản ngã tồn tại chỉ khi bạn sống trong vô ý

thức, trong bóng tối. Bản ngã chỉ tồn tại trong đêm tối

của linh hồn.

Đem chút ánh sáng vào bên trong đi. Thiền chút ít

đi. Ngồi im lặng, không làm gì, nhìn vào trong. Lúc ban

đầu bạn sẽ chỉ thấy rác rưởi. Đừng lo - cứ nhìn đi. Trong

vòng ba tới chín tháng rác rưởi sẽ mất đi, và im lặng sẽ

bắt đầu choàng lên bạn và tĩnh lặng sẽ nảy sinh.

Trong tĩnh lặng đó bạn sẽ trở nên nhận biết về bản

thân mình và về cái toàn thể bao quanh bạn. Trạng thái

đó là samadhi, và biết nó là biết tất cả, là nó là là tất cả.

Đủ cho hôm nay.

*************************************************************************************************************

#9 Thức tỉnh với luật

**Người đi trần trụi,

với tóc rối, bùn bắn,

người nhịn ăn và ngủ trên đất

và bôi bẩn thân mình bằng tro

và ngồi trong thiền vô tận -

chừng nào người đó chưa tự do với hoài nghi,

người đó sẽ không tìm thấy tự do.

Nhưng người sống thuần khiết và tự tin

trong tĩnh lặng và đức hạnh,

người không gây hại hay tổn thương hay trách móc,

cho dù người đó mặc quần áo đẹp,

chừng nào người đó cũng có niềm tin

người đó là người tìm kiếm đúng.

Ngựa quí hiếm khi cảm thấy cái chạm của roi.

Ai có đó trong thế giới này mà không chê được?

Thì giống như ngựa quí

khéo léo dưới roi,

bùng cháy và nhanh nhẹn.

tin tưởng, thiền, thấy.

vô hại, vô chê trách.

thức tỉnh theo luật.

và từ mọi buồn rầu tự giải phóng mình.

Nông dân đào kênh dẫn nước cho đất.

Người gài tên chuốt mũi tên.

Thợ mộc chỉnh gỗ.

Và người trí huệ làm chủ bản thân mình.**

Phật Gautama không có triết lí sống. Ông ấy không

phải là triết gia chút nào. Ông ấy là con người của sáng

suốt, ông ấy trí huệ; ông ấy biết cách nhìn vào cuộc

sống, vào thực tại. Ông ấy có cách nhìn nhưng không

phải là triết lí sống. Ông ấy có cách sống nhưng không

có triết lí sống.

Triết lí sống là cái thay thế giả tạo - nó đang né

tránh biến đổi của bản thể bạn. Bạn có thể học những từ

hay, hệ thống tư tưởng, ý thức hệ, và bạn có thể trở

thành bị choán nhiều trong chúng tới mức bạn có thể

quên toàn bộ rằng bạn thậm chí không biết tới bản thân

mình, rằng bạn không biết cách nhìn thấy bạn mù, rằng

bạn đã không có khả năng tạo ra ánh sáng trong tim

mình, rằng ngọn lửa bị thiếu, rằng bạn đang sống trong

bóng tối sâu sắc; rằng cuộc sống của bạn có thể rất tinh

vi, có văn hoá, nhưng nó không phải là cuộc sống thực.

Bạn sống trên bề mặt; bạn không biết chiều sâu của nó

và chiều cao của nó. Nó có cả thung lũng sâu và những

đỉnh cao, nhưng để đạt tới những chiều sâu đó và chiều

cao đó bạn sẽ phải đi qua quá trình giả kim thuật.

Phật là nhà giả kim thuật. Ông ấy chỉ cho bạn cách

biến đổi năng lượng của bạn từ trung tâm thấp nhất tới

trung tâm cao nhất của việc vận hành, từ bùn tới hoa

sen, từ kim loại cơ sở hơn thành vàng, từ đá thành kim

cương. Ông ấy là nhà khoa học của bên trong. Cách tiếp

cận của ông ấy hoàn toàn khoa học, không triết lí chút

nào.

Đó là lí do tại sao ông ấy lại không khớp với tâm trí

Ấn Độ; tâm trí Ấn Độ quá triết lí. Tâm trí Ấn Độ đã học

quá nhiều biệt ngữ, nó đã trở thành rất khéo trong việc

chẻ sợi tóc. Phật không quan tâm tới mọi cái vô nghĩa

đó. Ông ấy đi thẳng vào vấn đề.

Vấn đề là ở chỗ chúng ta đang sống với bóng tối

trong trái tim - làm sao biến đổi bóng tối này thành sự

chói sáng? Chúng ta có tiềm năng, nhưng chúng ta

không biết cách thay đổi nó trong thực tại. Phật rất thực

dụng, rất thực tế, người đầu tiên thực sự thực chứng về

thế giới bên trong, về tính chủ thể, về tính nội tâm. Mọi

người rất quan tâm tới triết lí sống. Nếu họ không có

một triết lí họ cảm thấy dường như họ bị mất cái gì đó.

Mọi người quan tâm tới những từ rởm bởi vì chúng

chẳng tốn kém gì cả. Bạn có thể là người Hindu, bạn có

thể đọc Vedas và Gita và Upanishads, và bạn có thể trở

thành rất hiểu biết. Bạn có thể trở thành con vẹt lớn, bạn

có thể trở thành bác học, học giả lớn, bạn có thể nói về

những điều lớn lao trong hàng giờ, nhưng cuộc sống của

bạn sẽ vẫn còn bình thường - nó sẽ không có việc động

chạm nào của cõi bên kia.

Bạn có thể là người Mô ha mét giáo hay Ki tô giáo -

có hàng trăm ý thức hệ trên thế giới - bạn có thể là

người Cơ đốc giáo hay người cộng sản. Không thành

vấn đề điều bạn tin vào. Điều thực sự thành vấn đề là:

bạn có khả năng thấy không? Bạn có mắt để thấy bí ẩn

của sự tồn tại không? Bạn có trái tim để cảm thấy điều

kì diệu của nó không? Bạn có cởi mở, sẵn có, mong

manh cho cái không biết không? Và khi cái không biết

vẫy gọi, bạn có đủ dũng cảm để đi vào trong biển chưa

thám hiểm không, không biết điều gì sẽ xảy ra tiếp? Bạn

có kiểu dũng cảm đó không?

Goldberg có cảm giác mơ hồ rằng cái gì đó bị thiếu

trong cuộc sống của mình. Một đêm anh ta đặc biết chán

nản và nói với vợ mình về khao khát của mình về cái gì

đó.

"Nhưng Sam này," cô vợ anh ta tái đảm bảo, "anh có

mọi thứ rồi!"

"Anh biết, anh biết! Nhưng anh không có triết lí

sống - anh muốn cái đó."

"Anh Sam này, anh muốn cái đó để làm gì? Chẳng

hàng xóm nào có một cái."

Nhưng đó thực sự là vấn đề - hàng xóm có. Ai đó là

người Hindu, ai đó là người Mô ha mét giáo, ai đó là

người Ki tô giáo, ai đó là người Do Thái, ai đó là người

cộng sản; ai đó nói về Das Kapital và ai đó nói về Gita

và ai đó nói về Koran, và bạn bắt đầu cảm thấy dường

như bạn thiếu cái gì đó bởi vì bạn không thể nói về

những điều lớn lao. Bạn bắt đầu cảm thấy những người

này phải biết mọi điều họ đang nói tới. Họ chẳng biết gì.

Họ mù như bạn, hay có thể họ còn mù hơn bạn. Ít nhất

bạn còn tự do với các triết lí - đó là một trong những cản

trở cơ bản cho việc thấy.

Điều đầu tiên cần hiểu về Phật và cách tiếp cận của

ông ấy là ở chỗ ông ấy không cho bạn giáo lí. Ông ấy

chắc chắn muốn cho bạn khoa học - ông ấy không quan

tâm chút nào tới việc làm cho tâm trí bạn phức tạp hơn.

Ông ấy muốn bạn vứt bỏ tâm trí. Phức tạp hay không

phức tạp, tâm trí là khối chắn, nó cản trở. Vô trí là khả

năng để thấy; tâm trí là khả năng để tin, nhưng nó không

phải là khả năng để thấy.

Do đó Phật đã cho thiền một nghĩa hoàn toàn mới.

Trước ông ấy, thiền là tập trung lúc ban đầu và suy tư

vào lúc cuối. Nhưng tập trung và suy tư cả hai đều là

một phần của tâm trí; tâm trí có thể chơi những trò chơi

này giỏi một cách hoàn hảo. Tâm trí rất quan tâm tới tập

trung bởi vì qua đó, nó trở nên mạnh hơn. Tập trung là

việc nuôi dưỡng. Và tâm trí quan tâm vô cùng tới suy tư

nữa, bởi vì qua suy tư, thức ăn tinh hơn, chất nuôi

dưỡng tinh hơn, trở thành sẵn có.

Nếu bạn tập trung bạn có thể trở thành nhà khoa học

của thế giới khách quan; nếu bạn suy tư bạn trở thành

triết gia lớn. Nhưng chừng nào bạn còn chưa biết thiền

là gì thì bạn sẽ không bao giờ là nhà huyền môn; và

không là nhà huyền môn, bạn sẽ bỏ lỡ tất cả - toàn thể

cuộc sống của bạn sẽ là sự cực kì phí hoài.

Những lời kinh này cực kì quan trọng. Ở vài chỗ lời

dịch không chính xác, nhưng về toàn thể nó cho bạn

điều bản chất. Bất kì khi nào tôi thấy nó không chính

xác tôi sẽ nhắc bạn. Những chỗ không chính xác này

nhất định xảy ra - bởi vì ở phương Tây không ai đã nói

như Phật; do đó không ngôn ngữ phương Tây nào có

khả năng dịch Phật chính xác, thích hợp.

Jesus là vị phật, nhưng cách nói của ông ấy không

phải là cách nói của Phật. Jesus nói cứ dường như ông

ấy nói cho trẻ con trường tiểu học - và đó đích xác là

hoàn cảnh. Những người ông ấy nói tới đều thực sự là ở

giai đoạn của những người mới, mới bắt đầu. Ông ấy

phải dùng ngụ ngôn, biểu dụ. Ông ấy phải dùng các câu

lấy con người làm trung tâm: vương quốc của Thượng

đế - không có Thượng đế và không có vương quốc. Và

Jesus biết điều đó chứ! - nhưng ông ấy phải nói bằng

những lời mà mọi người có thể hiểu được.

Mọi người có thể hiểu vua - thế thì Thượng đế là

vua vĩ đại nhất. Nhưng khác biệt là về lượng, không về

chất. Vua có vương quốc; do đó Thượng đế, vị vua vĩ

đại nhất, phải có vương quốc vĩ đại nhất. Nhưng lần nữa

khác biệt là về lượng, không về chất. Và bởi vì nó không

phải về chất nên nó làm lỡ toàn thể vấn đề, nó làm lỡ

mục tiêu.

Thượng đế không phải là người mà là sự hiện diện.

Và Thượng đế không có vương quốc bởi vì Thượng đế

là sự hiện diện bao trùm của cuộc sống, của cái đẹp, của

âm nhạc, của thơ ca. Ngài lan toả khắp mọi không gian;

ngài không tách rời khỏi nó. Ngài không là đấng sáng

tạo, ngài là chính hiện tượng bản thân việc sáng tạo.

Nhưng Jesus không thể nói được theo cách đó - Phật có

thể.

Phật đang nói cho những người rất cổ đại, cho

những người rất quen thuộc với những tầm với cao hơn -

ngay cả họ cũng không có khả năng hiểu. Jesus phải

dùng ngôn ngữ có thể được hiểu. Và Jesus là con ông

thợ mộc; bản thân ông ấy biết ngôn ngữ của thường dân.

Phật xuất thân từ gia đình hoàng gia, là con của vua - rất

phức tạp - biết tất cả về triết học và chán ngán với nó;

biết mọi chuyện ngụ ngôn hay, chuyện kể, huyền thoại

hay và đã được kết thúc với mọi cái đó. Ông ấy đã thấy

qua chúng, rằng chúng giữ mọi người bận bịu nhưng

chúng không làm biến đổi họ. Ông ấy đã vứt bỏ tất cả

nhưng cái không bản chất; ông ấy nói chỉ về cái rất bản

chất. Ông ấy là người rất vắn tắt nữa: ông ấy sẽ không

dùng một từ quá mức được cần tới. Trừ phi nó tuyệt đối

được cần tới - chỉ thế thì ông ấy mới dùng nó.

Và tất nhiên, ông ấy đã đổi nghĩa của từ; điều đó

bao giờ cũng xảy ra khi vị phật, người đã thức tỉnh,

dùng từ. Ông ấy cho mầu sắc mới, sắc thái mới, nghĩa

mới cho những từ cổ. Phật đã biến đổi từ 'thiền'. Thiền

bao giờ cũng đã là cái gì đó của tâm trí, và Phật đã đem

tới phẩm chất mới, hoàn toàn mới thế, đối lập hẳn với

nghĩa cũ: ông ấy nói, thiền nghĩa là trạng thái của vô trí.

Nó không phải là tập trung, nó không phải là suy tư. Nó

không phải là suy nghĩ, nó không phải là nghĩ về

Thượng đế. Nó thậm chí không phải là lời cầu nguyện -

bởi vì suy nghĩ là của cái đầu, trí tuệ; lời cầu nguyện là

xúc cảm. Đó là mặt kia của cái đầu, không thật xa xôi

khỏi nó; ngôn ngữ khác được dùng bởi phần khác của

cái đầu.

Bây giờ các nhà khoa học đồng ý về điều đó, rằng

cái đầu có hai bán cầu. Bán cầu trái nói ngôn ngữ của trí

tuệ, logic, số học; còn bán cầu phải nói ngôn ngữ của

xúc động, tình cảm, cảm giác. Nhưng cả hai đều là hai

bên của cùng một cái đầu.

Phật là người đầu tiên chỉ ra điều này: rằng tập

trung, suy tư, thuộc vào một bên của đầu, bán cầu trái;

và cầu nguyện, thành tâm, chúng thuộc về bán cầu phải.

Nhưng cả hai đều là một bên của đầu, và người tìm kiếm

đúng phải vượt ra ngoài đầu; người đó phải siêu việt lên

trên nhị nguyên của đầu, sự phân chia của đầu. Chỉ khi

bạn siêu việt lên trên việc phân chia thì bạn mới có thể

đi tới cái một.

Do đó, ông ấy đem một nghĩa hoàn toàn mới cho

thiền, cho dhyana. Ông ấy làm nó ngụ ý trạng thái vô trí.

Bạn sẽ thường xuyên phải nhớ tới điều đó. Bất kì chỗ

nào từ ‘thiền’ được dùng, nhớ lấy, Phật ngụ ý vô trí.

Điều thứ hai: bất kì chỗ nào bạn bắt gặp từ 'tin

tưởng', thận trọng vào. Phật chưa bao giờ ngụ ý điều bạn

ngụ ý bởi từ 'tin tưởng'. Từ của ông ấy là shraddha.

Shraddha không có nghĩa tin tưởng, nó thậm chí không

có nghĩa đức tin; nó ngụ ý tin cậy, điều là hiện tượng

hoàn toàn khác.

Shraddha nghĩa là trạng thái của tin cậy toàn bộ. Tin

tưởng không phải là tin cậy toàn bộ; hoài nghi vẫn còn

trong nó, bị kìm nén. Tin tưởng là cái vỏ che đậy. Bạn

hoài nghi nhưng bạn đã che đậy nó bằng cái chăn, bằng

tin tưởng. Bạn sợ hoài nghi. Hoài nghi quấy rối, cho nên

bạn níu bám lấy tin tưởng, nhưng tin tưởng không bao

giờ có thể đưa bạn vượt ra ngoài hoài nghi.

Tin tưởng là hoài nghi đứng trên đầu nó, đứng lộn

ngược, có vậy thôi. Người hoài nghi hoài nghi, người tin

tưởng tin tưởng, nhưng cả hai đều mù quáng. Họ ở trong

cùng một con thuyền, có thể ngồi xoay lưng lại nhau,

nhưng trong cùng một con thuyền. Do đó người tin

tưởng bao giờ cũng sợ ai đó khêu gợi cái hoài nghi của

mình ra, còn người hoài nghi bao giờ cũng cảnh giác để

không ai thuyết phục được mình về bất kì tin tưởng nào.

Họ cả hai đều vướng víu vào nhau.

Tin cậy là gì? Tin cậy là đi vượt ra ngoài hoài nghi

và tin tưởng. Tin tưởng bao giờ cũng ở trong một ý niệm

nào đó; tin cậy bao giờ cũng ở trong cái đang hiện hữu -

không ở trong ý niệm mà trong bản thân sự tồn tại, bên

trong và bên ngoài. Và giữa tin tưởng và tin cậy có từ

khác, 'đức tin' - cảnh giác với từ đó nữa. Phật chưa bao

giờ ngụ ý đức tin khi ông ấy dùng shraddha, và ông ấy

bao giờ cũng dùng shraddha. Đức tin là ở giữa: tin tưởng

vào một ý niệm, đức tin vào một người, còn tin cậy vào

bản thân sự tồn tại. Phật chưa bao giờ muốn bạn mang

đức tin bởi vì đức tin tạo ra cuồng tín, đức tin tạo ra thần

kinh.

Mới đêm hôm nọ, một thanh nữ tới để nhận tính

chất sannyas. Cách thức cô ấy tiếp cận tới tôi làm tôi trở

nên nhận biết rằng cô ấy thần kinh. Nhưng tôi không

bao giờ nói không với bất kì ai. Ai mà biết được, bao

giờ cũng có khả năng - người ta không bao giờ có thể

nói được - rằng người thần kinh có thể trở nên bình

thường. Và ít nhất, nếu cô ấy sẵn lòng nhận tính chất

sannyas, cô ấy vẫn có tri giác nào đó còn lại; có thể cô

ấy được giúp đỡ.

Tôi có thể thấy điều đó sẽ là khó khăn - cách cô ấy

tới, cách cô ấy ngồi... Và cuối cùng, khi tôi gọi cô ấy tới

gần tôi, cô ấy từ chối tới gần. Cô ấy đứng dậy hai tay

giơ lên và nói, "Tôi là Jesus Christ!" Tôi chẳng nói gì

với cô ấy cả, mặc dầu tôi muốn nói, "Vậy, anh già, anh

quay lại rồi! Anh đã quên điều đã xảy ra lần trước rồi

sao? Có thể đó là lí do tại sao anh đã tới dưới dạng đàn

bà lần này." Và với việc công bố rằng cô ấy là Jesus

Christ, cô ấy đi mất.

Đức tin tạo ra những kiểu thần kinh này. Ki tô giáo

có nhiều người thần kinh, bởi vì toàn thể ý niệm lệ thuộc

vào đức tin: "Tin vào Jesus Christ, có đức tin vào ngài!

Ngài sẽ cứu ông!" - cứ dường như ông ấy chịu trách

nhiệm cho cảnh nô lệ của bạn! Ông ấy có thể cứu bạn

chỉ nếu ông ấy đã đưa bạn vào tù; bằng không, làm sao

ông ấy có thể cứu bạn được? Ông ấy là cứu tinh và bạn

là kẻ được cứu; ông ấy là người chăn chiên và bạn là

con chiên. Bạn không thấy cái vô nhân phẩm được bao

hàm trong đó sao? Bạn trở thành cừu. Mọi tôn giáo, ít

hay nhiều, đều đã làm điều này. Nếu bạn tin vào người,

bạn sẽ bị thu thành cừu - bạn sẽ không là con người.

Tính người của bạn bị phá huỷ. Bạn bị cầm tù trong

những nhà tù rất tinh vi, vô hình. Bạn không thể thấy

được chúng, chúng trong suốt.

Phật nói: Là ánh sáng lên chính mình. Đừng tin vào

người, đừng tin vào ý thức hệ. Và khi bạn không tin vào

bất kì ý thức hệ nào, và bạn không tin vào bất kì người

nào, tin cậy lớn lao bùng nổ, tin cậy vào bản thân sự tồn

tại - vào cây cối, vào tảng đá, vào mọi người, vào các vì

sao, dòng sông, núi non, vào mọi thứ đang hiện hữu. Tất

nhiên, chư phật là một phần của nó, nhưng bạn không

tin vào Phật nói riêng. Bạn đơn giản tin vào sự tồn tại.

Bạn tin vào hương thơm của Jesus. Nhưng tin tưởng này

không bắt rễ vào bất kì quan niệm nào. Thực ra, nó là

cái gì đó chủ thể, nó chẳng có liên quan gì tới bất kì đối

thể nào.

Nếu bạn tin vào Jesus bạn không thể tin được vào

Krishna. Nếu bạn tin vào Krishna bạn không thể tin

được vào Mahavira. Một cách tự nhiên, nếu bạn tin vào

người này bạn phải không tin vào mọi người khác. Đó là

cách tin tưởng chia rẽ mọi người. Và toàn thể lịch sử

đầy những tắm máu, sát hại, tàn sát. Nó đầy máu và bạo

hành nhân danh tôn giáo, bởi vì bạn đã được bảo tin vào

người này chống lại mọi người khác.

Tin cậy là hoàn toàn khác. Nếu bạn tin cậy sự tồn

tại... sự tồn tại ngụ ý Jesus cũng nhiều như Krishna, như

Phật, như Zarathustra. Họ tất cả đều là một phần của nó.

Và bạn không chỉ tin cậy vào chư phật, bạn tin cậy vào

người thường bao quanh bạn nữa; không chỉ vào người

mà cả con vật, cây cối, đất đá. Vấn đề không phải là

điều bạn tin cậy - đối thể trở thành không liên quan. Bạn

đơn giản có trái tim tin cậy, tin cậy lớn lao rằng chúng ta

thuộc vào sự tồn tại này, chúng ta là một phần của sự

tồn tại huyền bí này, rằng sự tồn tại không thể không

thân thiện với chúng ta được. Nó đã cho sinh thành ra

chúng ta, và làm sao người mẹ có thể không thân thiện

được?

Đây là nghĩa hoàn toàn khác của tin cậy. Nó không

tin tưởng cũng không đức tin. Nhớ hai từ này bởi vì

chúng cứ bị dịch sai hoài.

Lời kinh:

**Người đi trần trụi,

với tóc rối, bùn bắn,

người nhịn ăn và ngủ trên đất

và bôi bẩn thân mình bằng tro

và ngồi trong thiền vô tận -

chừng nào người đó chưa tự do với hoài nghi,

người đó sẽ không tìm thấy tự do.**

Những người này - người đi trần trụi, với tóc rối,

bùn bắn, người cứ nhịn ăn dài, người ngủ trên đất lồi

lõm, hay thậm chí trên gai nhọn, người bôi tro lên thân

mình - những người này trong nhiều thời đại đã từng

được coi dường như họ là thánh nhân. Họ đơn giản là kẻ

tự bạo, họ tận hưởng việc tự hành hạ mình. Họ là những

người rất bạo hành.

Khác biệt giữa họ và Adolf Hitler và Genghis Khan

và Nadirshah chỉ là ở một điều: Genghis Khan,

Nadirshah, Adolf Hitler, họ tận hưởng việc hành hạ

người khác, và cái gọi là các thánh nhân tận hưởng việc

tự hành hạ mình - nhưng cả hai đều thích hành hạ. Bây

giờ, nếu bạn hành hạ người khác điều đó bị kết án, hiển

nhiên, bởi vì "người khác" bao gồm bạn và bạn sợ bị

hành hạ. Nhưng nếu ai đó tự hành hạ mình điều đó lại

được ca ngợi - nó chẳng liên quan gì tới bạn; người đó

tự hành hạ mình.

Thực ra, những người tôn thờ những kẻ tự bạo đều

là kẻ tàn bạo. Bạn muốn hành hạ họ, nhưng họ là những

người tốt thế, họ đang làm việc của bạn. Điều bạn đã

muốn làm, chính họ đang làm. Bạn có thể đi và tôn thờ

họ.

Chủ nghĩa tự bạo là bệnh tật: tự hành hạ mình. Và

chủ nghĩa tàn bạo cũng là bệnh tật: tận hưởng hành hạ

người khác. Nếu bạn đủ dũng cảm, nếu bạn có thể mạo

hiểm... bởi vì mạo hiểm lớn có đó; nếu bạn hành hạ

người khác, họ sẽ trả thù. Adolf Hitler chung cuộc đã

phải tự tử, và Nadirshah đã sống cả đời trong sợ hãi

thường xuyên và run rẩy, bởi vì ông ta đã giết nhiều

người thế. Ông ta đã tạo ra nhiều kẻ thù thế, ông ta

không thể tin cậy vào bất kì ai được. Ông ta thậm chí

không có khả năng ngủ ngon; hơi chút tiếng động và

ông ta sẽ bật dậy - và đó là cách ông ta chết.

Một đêm một con lạc đà lạc đi vào trong trại nơi

Nadirshah hạ trại. Con lạc đà lạc đó đi tới gần trại của

Nadirshah; ông ta nghe thấy tiếng động. Trời thì tối...

Ông ta nhảy ra khỏi giường, cứ tưởng rằng kẻ thù đã tới,

bắt đầu chạy, bị vướng phải dây buộc lều, lên cơn đau

tim và chết.

Những người này, người hành hạ người khác, không

thể sống một cách an bình được - điều đó là không thể

được, bởi vì họ tạo ra nhiều kẻ thù thế. Nhưng họ tận

hưởng hành hạ.

Bây giờ, cách tốt nhất để hành hạ là tự hành hạ

mình; thế thì không có sợ hãi. Không ai chống lại bạn

cả; ngược lại, mọi người tôn thờ bạn như người linh

thiêng. Bây giờ, nhìn vào cái ngu ngốc này đi! Nếu một

người đi trần, thiêng liêng gì trong đó? Bạn có thể đi tới

nơi mà cuộc tụ tập tôn giáo lớn xảy ra ở Ấn Độ, đặc biệt

Kumbh Melas, và bạn có thể thấy những thánh nhân trần

trụi, và bạn sẽ ngạc nhiên! - bạn không thấy tính linh

thiêng nào cả. Ngược lại, bạn sẽ thấy trong mắt họ loại

tội phạm tồi tệ nhất. Bạn có thể đi vào nhà tù và nhìn

vào mắt của kẻ giết người, và bạn sẽ thấy họ hồn nhiên

hơn. Những người phô bầy thân mình trần trụi trên

đường thực sự là ốm yếu tâm lí. Theo thuật ngữ tâm lí

họ là người phô bầy.

Và đây là điều kì lạ, rằng người Hindus đã tôn thờ

những kẻ phô bầy này trong hàng thế kỉ. Và cùng những

người Hindu đó đang chống lại các sannyasin của tôi bởi

vì họ cho rằng các sannyasin của tôi đang chống lại văn

hoá Hindu bởi vì họ không mặc quần áo đúng. Bạn đang

đi ngược lại văn hoá Hindu thì có! Văn hoá của bạn bao

giờ cũng tôn thờ kẻ phô bầy, văn hoá của bạn bao giờ

cũng tôn thờ người đồi bại.

Bây giờ, người rải gai và đá cuội trước khi người đó

đi ngủ - đó là việc dọn giường - bạn tôn thờ người đó là

linh thiêng sao? Người đó phải được cho sốc điện,

không phải hoa, không phải được đeo vòng hoa; người

đó cần trị liệu tâm lí. Người đó bị hư hỏng. Điều này là

không tự nhiên! Không con vật nào đã từng làm điều đó;

ngay cả con vật cũng còn bình thường hơn nhiều. Trước

khi chúng đi ngủ chúng sẽ vứt đá và gai đi và chúng sẽ

chuẩn bị giường êm cho mình, đất mềm, và thế rồi

chúng sẽ đi ngủ. Ngay cả con vật cũng dường như thông

minh hơn nhiều, tự nhiên hơn nhiều so với cái gọi là

thánh nhân của bạn.

Người bôi tro thân mình đơn giản là ngu xuẩn, hay

có thể người đó chỉ là một kẻ bản ngã, bởi vì loại hành

vi này được tôn thờ trên đất nước này. Bây giờ, cùng

kiểu người này đang nêu câu hỏi chống lại tôi: Tại sao

tôi chống lại các thánh nhân? Tôi không chống lại thánh

nhân. Tôi không chống lại Phật và tôi không chống lại

Nanak và tôi không chống lại Kabir và tôi không chống

lại Raidas, nhưng tôi chắc chắn chống lại những kẻ ốm

yếu này, kẻ phô bầy, kẻ tự bạo, kẻ bất thường, kẻ thần

kinh... Tôi không gọi họ là thánh nhân, họ không phải

vậy! Nhưng trong một trăm người, có tới chín mươi chín

phần trăm thuộc vào những loại này.

Chính bởi vì bạn đã tôn thờ họ hàng thế kỉ tới mức

bạn không hỏi: Các ông đang làm gì vậy? Và bạn giận

tôi bởi vì tôi đang nêu ra những câu hỏi đó lần đầu tiên -

những câu hỏi quấy rối bạn. Nhưng Phật cũng đã làm

cùng điều đó, và bạn cũng đã giận ông ấy nữa.

Ông ấy nói: Người đi trần trụi, với tóc rối, bùn bắn,

nhịn ăn và ngủ trên đất và bôi tro thân mình và ngồi

trong thiền vô tận - chừng nào người đó chưa tự do với

hoài nghi, người đó sẽ không tìm thấy tự do. Bạn có thể

cứ làm những điều này trong nhiều năm, cả đời bạn -

bạn sẽ không đạt tới chỗ nào cả. Mọi điều này chỉ là

nghi lễ trống rỗng bạn đang theo bởi vì bạn đã được bảo

rằng đây là điều tính linh thiêng là gì. Bạn không thông

minh tới mức bạn thậm chí không thể thấy được rằng:

Đây là cái loại linh thiêng gì vậy? Làm sao điều này có

thể là linh thiêng được?

Làm sao bôi bụi cát hay tro lên thân thể có thể là

linh thiêng được? Điều đó đơn giản là tự hành hạ mình,

bởi vì thân thể thở... Bạn có biết rằng không chỉ mũi giữ

cho bạn sống, mà có cả triệu cánh cửa nhỏ trên thân thể

mà từ đó bạn thở không? Bạn thậm chí không thể thấy

được chúng bằng mắt trần. Thử mà xem: sơn toàn thân

một người, chừa mũi người đó, sơn toàn bộ để cho mọi

lỗ và chân lông của thân thể bị bít kín. Người đó sẽ chết

trong vòng ba giờ. Người đó có thể thở từ mũi - điều đó

sẽ không giữ cho người đó sống quá ba giờ.

Nếu mọi lỗ chân lông đều bị bít lại... và đó là điều

đang được thực hiện bởi việc bôi tro lên thân mình. Bạn

đang bít các lỗ chân lông của thân thể. Đây là cách tự

hành hạ mình, đây là việc để cho bạn đói ô xi. Và bạn

càng nhận được ít ô xi, bạn càng trở nên ngu xuẩn hơn,

bởi vì ô xi là một trong những chất nuôi dưỡng bản chất

nhất cho thông minh.

Không có ô xi tâm trí bắt đầu trở thành đờ đẫn. Đó

là lí do tại sao ban đêm bạn cảm thấy giấc ngủ tới với

bạn dễ dàng hơn ban ngày, bởi vì ban ngày không khí có

nhiều ô xi hơn trong nó và bạn thở nhiều ô xi hơn. Ô xi

đó giữ cho bạn tỉnh táo, thức tỉnh. Trong đêm lượng ô xi

trong không khí tụt xuống thấp, khí các bô nic nhiều hơn

- điều đó làm cho bạn cảm thấy buồn ngủ. Bằng việc bôi

tro lên thân mình bạn đang cố làm giảm khối lượng ô xi

tới các tế bào não, bạn đang bỏ đói não. Bạn sẽ trở nên

đờ đẫn, xuẩn ngốc. Và đó là lí do tại sao bạn hiếm khi

thấy bất kì sự sắc bén nào, nhận biết nào.

Họ sống như rô bốt. Tất nhiên, họ tuân theo luật nào

đó được viết trong kinh sách và được chuyển cho họ bởi

cùng một loại người ngu xuẩn. Họ tuân theo một luật

nào đó mà không hiểu gì cả, tại sao họ đang làm nó. Tôi

đã hỏi nhiều người bôi tro thân mình, "Sao ông làm điều

đó?" Và họ nói, "Bởi vì điều đó đã được làm từ lúc ban

đầu - các thánh nhân bao giờ cũng làm điều đó."

Tôi đã hỏi họ, "Khoa học đằng sau điều đó là gì?"

Họ có vẻ phân vân. Họ nói, "Khoa học sao...?" Họ

không nhận biết về điều họ đang làm. Họ không nhận

biết rằng họ đang bỏ đói ô xi cho não họ.

Và họ có nhiều chiến lược giống như điều đó: đứng

lộn đầu xuống đất hàng giờ - bởi vì sức hút mà nhiều

máu dồn vào não tới mức nó phá huỷ những thần kinh

tinh tế của não. Toàn thể thông minh của bạn phụ thuộc

vào những thần kinh tinh tế hơn đó. Hay bỏ đói bản thân

bạn - gọi điều đó là nhịn ăn, thế thì nó trở thành điều tôn

giáo. Khi bạn bỏ đói thân thể mình bạn cũng bỏ đói não

bạn, bởi vì não là phần tinh tế nhất của thân thể.

Bây giờ người ta đã chứng minh về mặt khoa học

rằng nếu vài chất vitamins bị thiếu trong thân thể bạn sẽ

mất thông minh. Sớm hay muộn mọi đứa trẻ đều phải

được cung cấp cho những vitamin nào đó, những hoá

chất nào đó, và thông minh của nó có thể được nâng lên

rất cao. Ở nước Nga xô viết họ đã làm điều đó. Nếu bạn

bỏ đói thân thể mình, thế thì một cách tự nhiên não bạn

bị bỏ đói. Bạn không cho phép não có thức ăn đúng, bạn

không cho phép não có khối lượng ô xi đúng... và bạn

cho rằng bạn sẽ có khả năng trở thành thiền nhân lớn,

thành vị phật sao? Bạn đang cố lừa ai vậy? Nhưng bạn

đang theo một luật nào đó, nghi lễ nào đó, mà không

hiểu biết về nó.

Ngài Reginald Farthington bị đưa ra xử trước Toà

Thượng thẩm của Australia về tội quấy nhiễu chim đà

điểu. "Trước khi chuyển qua phán quyết," quan toà công

bố, "ông có điều gì cần nói không?"

"Thưa quí toà," vị người Anh nói, "nếu tôi mà biết

các ông làm nhặng sị lên về nó, thì tôi đã cưới con chim

chết tiệt đó rồi!"

Đây là tâm trí pháp lí. Đây là cách tâm trí pháp lí

vận hành: "Tôi đã cưới con chim chết tiệt đó rồi!" Nó đi

từ ngu xuẩn này sang ngu xuẩn khác.

Nếu bạn bỏ đói thân thể mình về thức ăn đúng, về

khối lượng ô xi đúng, vấn đề sẽ nảy sinh. Và bạn sẽ đi

tới cùng những người đang tạo ra vấn đề cho bạn, và họ

có đơn thuốc viết sẵn.

Một người tới tôi, một thanh niên; anh ta bị bùa của

Swami Shivananda ở Rishikesh.

Shivananda đã bảo anh ta, "Sống chỉ bằng sữa thôi,

bởi vì đó là thức ăn thuần khiết nhất."

Bây giờ, nếu bạn đã thấy bức tranh về Shivananda...

Người ta có thể thấy người này đã không sống chỉ bằng

sữa. Ông ta béo tới mức ngay cả giơ tay mình lên cũng

khó cho ông ta, chúng nặng nề thế. Cho nên ông ta phải

bước đi nhờ có hai người, hai tay ông ta tựa lên vai họ.

Người này phải bị ám ảnh bởi thức ăn, phải ăn quá

nhiều. Ông ta phải đã là một trong những người béo

nhất ở Ấn Độ, và ông ta gợi ý cho chàng thanh niên này

sống chỉ bằng sữa.

Và vấn đề là gì? Tại sao người thanh niên này đã đi

tới ông ấy? Người thanh niên này đã đi tới ông ấy để đạt

tới brahmacharya - vô dục. Anh ta đã đọc trong kinh

sách rằng chừng nào bạn còn chưa tuyệt đối vô dục bạn

không thể đạt tới Thượng đế được. Cho nên anh ta đã

hỏi cách để trở thành tuyệt đối vô dục; bây giờ lời gợi ý

là, "sống chỉ bằng sữa."

Bây giờ điều này hoàn toàn vô nghĩa! Nếu bạn sống

chỉ bằng sữa bạn sẽ nhiều dục hơn trước đây, bởi vì bạn

sẽ lấy sữa từ đâu? Từ bò hay trâu. Sữa đó không được

tạo ra cho người; sữa bò được tạo ra cho bò đực, và bò

đực là con vật dâm dục nhất trên thế giới. Sữa bò có

nhiều hoá chất để làm cho bạn có tính dục hơn bất kì cái

gì khác trên thế giới. Nó là thức ăn không linh thiêng

nhất.

Nhưng ai quan tâm? Ai nghĩ về điều đó?

Chỉ bởi vì kinh sách nói điều đó, Shivananda đã bảo

anh ta, "Anh sống bằng sữa." Bây giờ, đó là duy nhất

con người, duy nhất con người sống bằng sữa khi người

ta còn nhỏ và chỉ trong vài tháng. Một khi người đó đã

trở nên có thể ăn và tiêu hoá thức ăn cứng người đó bỏ

sữa và chuyển sang thức ăn cứng. Sữa được ngụ ý cho

trẻ con.

Và một trong những điều quan trọng nhất đang phát

triển trong trẻ con là tính dục của nó. Nó đang trở nên

ngày một chín muồi và mang tính dục, bởi vì toàn thể

sinh học phụ thuộc vào dục. Và sau một thời gian đứa

trẻ phải chuyển sang thức ăn cứng. Chỉ con người mới

tiếp tục uống sữa. Nó là được trong cà phê hay trong trà,

nhưng chỉ sống bằng sữa - điều đó sẽ là nguy hiểm.

Anh thanh niên này trở nên ngày một nhiều dục hơn,

và yếu hơn. Thân thể trở nên yếu còn tâm trí trở nên

ngày một bị ám ảnh bởi dục. Anh ta lại đi tới cùng vị

thánh đó. Vị thánh đó nói, "Đấy là vì anh đang bị tamas

- anh đang bị chính loại năng lượng thấp nhất có tên là

tamas, kéo anh xuống."

"Thế cần phải làm gì?" anh thanh niên hỏi.

Vị thánh này, cái gọi là thánh nhân này, nói, "Anh

không nên ngủ nhiều như anh vẫn ngủ, bởi vì ngủ tạo ra

tamas" - điều đó nữa cũng được viết trong cùng kinh

sách: ngủ tạo ra tamas - "cho nên ngủ năm tiếng thôi."

Đầu tiên thức ăn bị lấy đi. Anh ta bị đói, bởi vì với

người đã lớn thì sữa là không đủ. Anh ta cần thức ăn

cứng; anh ta không phải là đứa trẻ. Và thế rồi sữa lại bắt

nguồn từ bò - điều được ngụ ý dành cho bò đực, không

cho người - cho nên anh ta trở nên nhiều dục hơn. Bây

giờ giấc ngủ bị giảm đi. Năm giờ ngủ cho thanh niên là

không đúng. Vâng, với ông già điều đó là hoàn toàn

được; khi bạn trở nên già hơn, giấc ngủ ngày càng được

cần ít hơn, bởi vì thân thể sắp chết, nó không cần phục

hồi nữa. Bằng không, thân thể của thanh niên tự khôi

phục nó mọi ngày.

Để khôi phục, để lấy lại sức mạnh đã mất, để tái tạo

lại tế bào đã chết ngày hôm qua, bạn cần giấc ngủ dài -

bẩy hay tám giờ, không ít hơn thế. Năm là không đủ.

Bây giờ anh ta bắt đầu chịu chứng buồn ngủ; cả ngày

anh ta ngáp và cảm thấy buồn ngủ.

Bố anh ta đem anh ta tới tôi và ông ấy nói, "Phải

làm gì đây? Bây giờ nó lại định đi tới Rishikesh, và mỗi

lần nó đi nó đều đem về một vấn đề. Nó hoàn toàn ổn

thoả; đọc những cuốn sách vô nghĩa này nó trở nên quan

tâm tới việc trở thành brahmachari - người vô dục - và

thế rồi toàn thể rắc rối bắt đầu. Bây giờ nó không thể

đọc được, mất quan tâm vào mọi thứ, đang trở nên bị ám

ảnh bởi dục và thức ăn và ngủ. Bây giờ ba điều này là

những thứ nó bị ám ảnh. Nó đang làm cho bản thân nó

phát rồ và cả gia đình nữa."

Tôi nhìn vào cậu thanh niên này - anh ta thực sự là

một đống lộn xộn. Nhưng anh ta nói, "Tôi đang theo

một thánh nhân vĩ đại."

Tôi hỏi anh ta, "Làm sao bạn biết rằng ông ấy là

thánh nhân vĩ đại? Tiêu chí của bạn là gì? Bởi vì ông ấy

lặp lại kinh sách sao? Làm sao bạn biết rằng kinh sách

được viết bởi những người biết?"

Anh ta nói với tôi, "Xin đừng tạo ra hoài nghi trong

tôi! Tôi muốn vẫn còn là người tin, bởi vì không có đức

tin, không có tin tưởng, không có giải thoát."

Tôi nói với anh ta, "Bạn không cần giải thoát nào cả.

Không cần bất kì giải thoát nào. Bạn đã được giải thoát

rồi! Bạn đã trong Thượng đế rồi! Không cần tìm ngài

đâu. Bạn là một phần của chân lí. Cứ sống một cách tự

nhiên, lành mạnh vào, và bạn sẽ có khả năng hiểu bí ẩn

của cuộc sống. Không có nhu cầu trở nên điên rồ. Mọi

cách thức này đều đưa bạn tới điên rồ."

Và thế thì người ta tìm cách này nọ để thoả mãn cho

nhu cầu tự nhiên - người ta trở thành đạo đức giả. Toàn

thể việc huấn luyện tôn giáo của bạn chỉ giúp cho bạn

trở thành đạo đức giả. Nó không làm cho bạn thành linh

thiêng; nó đơn giản làm cho bạn thành rởm, giả dối.

Bạn kìm nén cái gì đó từ phía này và nó bắt đầu

khẳng định từ phía khác.

Fogarty bắt đầu đều đặn xuống xe ở quán rượu

Barney, và đơn hàng của anh ta bao giờ cũng là một: hai

cốc martinis. Sau vài tuần với điều này, Barney hỏi anh

ta tại sao anh ta lại không đặt cốc đúp.

"Đấy là chuyện tình cảm," Fogarty nói. "Một người

bạn rất thân của tôi chết vài tuần trước, và trước khi chết

anh ta đã hỏi rằng khi tôi uống rượu tôi có dành cho anh

ta một cốc không."

Một tuần sau Fogarty tới và đặt một cốc martini.

"Thế với anh bạn thân đã chết của anh thì sao? Sao hôm

nay chỉ một cốc martini thôi?"

"Đây là cốc của anh bạn thân của tôi đấy," câu trả

lời đưa tới. "Tôi đang trên xe kia."

Bạn bao giờ cũng có thể tìm ra cách thức. Tâm trí

rất tinh ranh, cực kì tinh ranh. Bạn không thể gạt bỏ

được tinh ranh của tâm trí bằng những điều ngu xuẩn

thế. Và nếu bạn đang làm những điều ngu xuẩn thế, bạn

có thể ngồi lâu, vô tận, trong thiền... chẳng cái gì sẽ xảy

ra, bởi vì yêu cầu đầu tiên của thiền là thông minh: nhận

biết về tình huống của bạn và về điều bạn đang làm cho

bản thân mình và tại sao - không chỉ tuân theo các kinh

sách chết, không chỉ tuân theo cái gọi là các thánh nhân

bởi vì quần chúng gọi họ là thánh nhân.

Chừng nào người đó chưa tự do với hoài nghi,

người đó sẽ không tìm thấy tự do. Phật ngụ ý gì bởi điều

này? - Chừng nào người đó chưa tự do với hoài nghi...

Làm sao người ta trở thành tự do với hoài nghi? Bạn sẽ

ngạc nhiên: chừng nào bạn còn chưa trở nên tự do với

tin tưởng bạn không thể trở nên tự do với hoài nghi

được. Chính tin tưởng tạo ra hoài nghi. Chẳng hạn, nếu

bạn tin vào Thượng đế thế thì vấn đề nảy sinh liệu

Thượng đế có thực tồn tại hay không. Hoài nghi này

không thể tới trước được; tin tưởng tới trước.

Bạn được bố mẹ bạn, xã hội bạn bảo rằng có

Thượng đế. Bởi vì bạn được bảo có Thượng đế, ngày

này ngày nọ thông minh của bạn khẳng định và bắt đầu

hỏi, "Bằng chứng là gì? Làm sao chúng ta biết chắc

chắn, để đảm bảo, rằng Thượng đế thực sự có?" Bây giờ

hoài nghi đang tới...

Ở nước Nga xô viết, nơi họ không dạy trẻ con rằng

có Thượng đế, chẳng ai hoài nghi về sự tồn tại của

Thượng đế cả - không có vấn đề hoài nghi. Chẳng ai tin

ngay chỗ đầu tiên - sao họ phải hoài nghi? Ở Ấn Độ

nữa, nếu bạn được sinh ra trong một gia đình Jaina bạn

chẳng bao giờ hoài nghi sự tồn tại của Thượng đế. Tại

sao? - bởi vì trong tín ngưỡng Jaina không có Thượng

đế, không có tin tưởng. Nhưng người Jaina hoài nghi về

sự tồn tại của linh hồn, bởi vì người đó được bảo rằng có

linh hồn, vô hình - thân thể sẽ chết nhưng linh hồn sẽ

tiếp tục cuộc hành trình của nó.

Bây giờ hoài nghi nảy sinh: "Linh hồn này ở đâu?

Linh hồn này là gì? Có ai đã bao giờ thấy nó không? Có

ai quay lại thế giới sau cái chết và nói rằng, 'Tôi vẫn

sống! Anh không thể thấy được tôi, nhưng tôi vẫn đây'?"

Người Jaina hoài nghi về linh hồn, không về Thượng đế.

Người Hindu hoài nghi về Thượng đế, người Mô ha

mét giáo hoài nghi về Thượng đế, người Ki tô giáo,

người Do Thái, họ tất cả đều hoài nghi về Thượng đế -

bởi vì Thượng đế là tin tưởng của họ. Người Jaina và

Phật tử không bao giờ hoài nghi về Thượng đế bởi vì đó

không phải là tin tưởng của họ, nhưng người Jaina hoài

nghi về linh hồn. Phật tử không bao giờ hoài nghi về

linh hồn, bởi vì đó không phải là tin tưởng của người đó.

Phật đã lấy đi mọi tin tưởng, để cho bạn không hoài

nghi: không Thượng đế, không linh hồn, không địa

ngục, không cõi trời, không moksha. Phật đã lấy đi mọi

tin tưởng! Nhìn cách tiếp cận khoa học của ông ấy về

việc phá huỷ hoài nghi - rất ngược đời.

Chính điều đối lập lại đã được những người khác

làm. Người khác cũng đã cố gắng lấy hoài nghi của bạn

đi, nhưng phương pháp của họ đã là áp đặt tin tưởng lên

bạn để cho hoài nghi đi sâu hơn vào trong vô thức, trở

nên bị kìm nén - bạn không thấy nó thêm nữa. Nó bị che

phủ bởi tin tưởng, nhưng nó không bao giờ chết; ngược

lại, nó đi sâu hơn vào trong bản thể bạn và càng ngày

càng trở thành một phần của bản thể bạn. Mọi người tin

của bạn đều biết nó rất rõ, rằng có hoài nghi trong trái

tim họ. Tại chính cốt lõi có hoài nghi; chỉ ở chu vi mới

có tin tưởng.

Phật là người đầu tiên trên thế giới đã thực sự thử

phá huỷ hoài nghi. Nhưng cách thức của ông ấy là kì lạ:

cách thức của ông ấy là lấy đi mọi tin tưởng; thế thì bạn

đã lấy đi chính mảnh đất mà hoài nghi phát triển ở đó.

Không có tin tưởng và bạn sẽ không có hoài nghi.

Không có tin tưởng, không có hoài nghi, tâm trí có thể

vẫn còn ở đâu được? Tâm trí cần hai cây cột trụ chống

đỡ cho nó. Đây là hai cánh của tâm trí: hoài nghi và tin

tưởng. Đây là nhị nguyên mà trên đó tâm trí được nuôi

dưỡng và sống. Một khi tin tưởng và hoài nghi cả hai đã

mất rồi, bạn đã phá huỷ chính nền tảng của tâm trí.

Và là vô trí là thiền. Không bằng việc ngủ trên gai,

không bằng việc đi trần trụi, không bằng việc nhịn ăn,

không bằng việc tự hành hạ mình, nhưng bằng hiểu biết

lớn lao về mọi thứ. Hoài nghi này từ đâu tới? Đi vào

trong nó, tìm kiếm, và bạn sẽ thấy nó bao giờ cũng tới

bởi vì tin tưởng nào đó.

Bây giờ tâm trí hiện đại có thể đạt tới thiền dễ dàng

hơn nhân loại đã từng có khả năng, bởi một lí do đơn

giản: rằng tâm trí hiện đại không còn bị nặng gánh quá

nhiều bởi tin tưởng. Do đó không có quá nhiều hoài nghi

nữa. Ngày nay bạn hiếm khi bắt gặp những người đa

nghi, những người đầy hoài nghi, những người vô thần -

bạn hiếm khi bắt gặp những như thế ngày nay. Vào thời

xưa họ có nhiều. Và lí do là đơn giản: bây giờ không ai

tin cả! Cho nên nếu ai đó nói, "Tôi không tin Thượng

đế," bạn sẽ nói, "Vậy sao? Ai tin? Yên đi cho rồi!" Bây

giờ không ai có thể biện luận chống Thượng đế bởi vì

không ai biện luận ủng hộ người đáng thương này!

Đây là tình huống rất mới. Và truyền thống cũ của

bạn không thể chấp nhận được thách thức của tình

huống mới này. Nếu bạn tuyên bố rằng, "Tôi là kẻ vô

thần," mọi người sẽ nói, "Thì cứ cho là vậy đi. Sao ba

hoa về nó làm gì? Sao lại làm nhặng sị lên về nó? Hoàn

toàn tốt, chúng tôi sung sướng - anh là kẻ vô thần." Ai

bận tâm về nhà thờ và ai bận tâm về đền chùa? Ngay cả

những người đi, họ cũng đi như một nghi lễ xã hội; ngay

cả họ cũng không tin.

Đây là cơ hội hiếm hoi cho tìm kiếm; nó chưa bao

giờ thoáng đãng như ngày nay. Tất nhiên, những người

theo truyền thống cổ của bạn lo lắng nhiều lắm; họ nghĩ

đây là loại thời đại tồi tệ nhất đã từng xảy ra. Đây không

phải là loại thời đại tồi tệ nhất - đây là tốt nhất, đỉnh cao

nhất. Đây là thời, đúng thời, thời gian chín muồi đấy.

Chúng ta có thể hỏi với toàn bộ trái tim trong thực tại,

bởi vì không tin tưởng nào cản trở, và bởi vì không có

tin tưởng, không có hoài nghi.

Đây là tự do. Phật gọi nó là tự do. Chừng nào người

đó chưa tự do với hoài nghi, người đó sẽ không tìm thấy

tự do. "Tự do" nghĩa là tự do với tâm trí. Thế thì bạn

đơn giản trong im lặng, và trong im lặng đó bạn tan

chảy, bạn hội nhập với cái toàn thể. Và tan chảy và hội

nhập với cái toàn thể là linh thiêng. Không bằng nhịn

ăn, không bằng hành hạ, mà bằng việc trở thành một với

cái toàn thể, người ta trở thành linh thiêng.

**Nhưng người sống thuần khiết và tự tin

trong tĩnh lặng và đức hạnh,

người không gây hại hay tổn thương hay trách móc,

cho dù người đó mặc quần áo đẹp,

chừng nào người đó cũng có đức tin

người đó là người tìm kiếm đúng.**

Nhưng người sống thuần khiết... Phật ngụ ý gì bởi

"sống thuần khiết"? Ông ấy ngụ ý sống một cách hồn

nhiên, không tin tưởng, không hoài nghi, sống không từ

tâm trí mà từ thiền. Ông ấy có nghĩa riêng của mình về

thuần khiết. Ông ấy không ngụ ý bởi "sống trong thuần

khiết" là những ý niệm cũ kĩ, mục nát. Thuần khiết

không ngụ ý rằng bạn phải ăn thức ăn chỉ do người

brahmin chuẩn bị; thuần khiết không ngụ ý rằng bạn

phải ăn chỉ khi mặt trời còn trên trời; thuần khiết không

ngụ ý rằng bạn chỉ phải mặc cái này và bạn không được

mặc cái kia.

Thuần khiết nghĩa là sống từ vô trí, sống tự phát,

khoảnh khắc sang khoảnh khắc như đứa trẻ, hồn nhiên -

sống từ trạng thái của không biết. Mọi tri thức đều tinh

ranh, và mọi tri thức đều làm biến chất. Sống từ trạng

thái của không biết - đó là thuần khiết.

Socrates nói: Tôi chỉ biết mỗi một điều là tôi không

biết gì cả - đây là thuần khiết.

Phật hay nói với các đệ tử của mình, "Xin đừng bao

giờ hỏi ta các câu hỏi siêu hình, bởi vì ta không biết.

Đừng hỏi ta về Thượng đế và đừng hỏi ta về linh hồn, và

đừng hỏi về cõi trời và địa ngục." Ông ấy có một danh

sách được chuẩn bị về mười một câu hỏi; mười một câu

hỏi đó chứa mọi câu hỏi đầy những triết lí.

Bất kì khi nào ông ấy vào một thị trấn mới, đệ tử

của ông ấy sẽ đi quanh thị trấn và nói với mọi người,

"Xin đừng hỏi mười một câu hỏi này, bởi vì Phật sẽ

không trả lời những câu hỏi này. Phật chỉ quan tâm tới

những câu hỏi thực hành. Hỏi về tham và cách gạt bỏ

nó; hỏi về giận và cách vượt ra ngoài nó. Hỏi về sở hữu

và cách vứt bỏ nó, hỏi về biến đổi. Hỏi về cách các ông

có thể vứt bỏ tâm trí và đạt tới thiền. Nhưng đừng hỏi

câu hỏi siêu hình bởi vì chúng sẽ không giúp cho các

ông chút nào. Chúng tạo ra tin tưởng, và cùng với tin

tưởng hoài nghi tới. Và bị phân chia thành tin tưởng và

hoài nghi các ông trở thành tinh thần phân liệt, các ông

trở thành số không. Các ông mất tính toàn vẹn của

mình."

Nhưng người sống thuần khiết và tự tin... Bây giờ,

từ này 'tự tin' cũng không phải là từ được dịch đúng.

Điều Phật ngụ ý là người tin cậy vào bản thể riêng của

mình - nó không phải là "tự tin." "Tự tin" cho cảm giác

của bản ngã; Phật ngụ ý tin cậy vô ngã. Người tin cậy

vào toàn thể sự tồn tại cũng tin cậy vào bản thân mình,

bởi vì người đó là một phần của cái toàn thể. Người đó

nghe tiếng nói của trái tim mình và tuân theo nó. Không

sợ hãi người đó đi cùng trái tim mình. Người đó tin cậy

vào trực giác của mình. Và một khi bạn đã biết nghệ

thuật của cách nghe theo trực giác của mình, bạn sẽ ngạc

nhiên: trí tuệ có thể sai, trực giác không bao giờ sai - nó

là không thể nào sai được. Nó bao giờ cũng hướng bạn

theo tiến trình hành động đúng.

Trong tĩnh lặng và đức hạnh... "Tĩnh lặng" nghĩa là

thiền, vô ý nghĩ, không ý nghĩ quấy rối, cái hồ tâm thức

tuyệt không có sóng và gợn sóng nào. Và hậu quả của

im lặng như vậy là đức hạnh. Đức hạnh không phải là

cái gì đó do bạn thực hành; bạn không thể thực hành đức

hạnh được. Nếu bạn thực hành đức hạnh, trên bề mặt

bạn sẽ đeo mặt nạ, nhưng đằng sau bề mặt bạn sẽ cứ

sống theo cách luẩn quẩn cũ rích của mình. Tất nhiên,

bạn có thể che giấu người khác, nhưng làm sao bạn có

thể che giấu bản thân mình được?

Đó là điều xảy ra cho các tu sĩ của bạn, cái gọi là

các thánh nhân của bạn; toàn thể cuộc đời họ trở thành

rất tinh ranh - họ nói một đằng, họ sống cuộc sống hoàn

toàn khác. Họ nhất định là như vậy bởi vì đức hạnh là

được trau dồi.

Một nhà xã hội học đang làm cuộc điều tra dựa trên

khuynh hướng dục của các nhóm quốc gia và dân tộc đa

dạng. Ông ấy tới một quí ông người Italia già cả trong

bộ com lê đen, sau những thăm hỏi thông thường mới

hỏi ông này ông ấy có giao hợp dục thường xuyên

không.

"Ồ, có thể mười, mười hai lần trong một năm," ông

già nói.

"Nhưng ông là người Italia và người Italian được

cho là rất dâm dục," lời đáp đưa tới.

"Nghe đây, tôi cho rằng điều đó là không quá tệ đối

với một tu sĩ sáu mươi tuổi mà không sở hữu một chiếc

xe!"

Tu sĩ của bạn, các thánh nhân của bạn, cái gọi là

người đức hạnh của bạn, người đáng kính, họ đều có

cuộc sống kép: trên bề mặt là thứ này, dưới chiều sâu lại

đối lập toàn bộ với nó.

Xơ Semolina về muộn trong chuyến đi vào rừng

rậm. Xơ đang nhận chỉ dẫn của Mẹ Maria, người đã

triệu xơ vào văn phòng mình cuối chiều.

"Ta phải đi lên thủ đô và ta sẽ đi qua đêm," Mẹ

Maria nói. "Ta muốn cảnh báo xơ: nếu Cha Dominique

tới phòng xơ đêm nay đừng cho ông ấy vào, dù ông ấy

có nói gì với xơ."

Ngày hôm sau, Mẹ Maria quay về thấy xơ Semolina

đang đợi trong văn phòng của mình. "Con ở đây để thú

tội," xơ nói đầy nước mắt. "Đêm hôm trước con đã

không tuân theo lệnh của Mẹ. Cha Dominique tới cửa

phòng con, và, ôi Mẹ, cha sao mà thuyết phục thế! Cha

nói với con rằng con là lối cổng vào cõi trời và rằng cha

có chìa khoá vào cõi trời và rằng nếu con để cha đặt chìa

khoá vào cổng bị khoá của con thì chúng con sẽ ở trên

cõi trời cùng nhau."

"Đồ con hoang đó!" Mẹ Maria kêu lên. "Nó đã bảo

ta đó là sừng của Gabriel, và ta đã thổi nó trong mười

lăm năm!"

Nhưng điều này là tự nhiên, nó phải như vậy.

Những chuyện cười này không chỉ là chuyện cười,

chúng có chân lí lớn lao trong chúng. Điều đó là không

tránh khỏi bởi vì toàn thể ý niệm của bạn về đạo đức là

áp đặt lên bản thân mình những phẩm chất tốt, đã được

ca ngợi từ nhiều thế kỉ. Nhưng nếu bạn áp đặt điều gì đó

lên bản thân mình, bạn đang làm gì với bản tính của

mình? Bạn sẽ trở thành hai người, và bản tính chắc chắn

còn mạnh hơn bất kì cái gì bị áp đặt.

Bản tính phải được biến đổi. Cá tính phải không bị

trau dồi; nó phải là sản phẩm phụ của tâm thức. Đó là

đóng góp vĩ đại của Phật cho thế giới.

Trong tĩnh lặng và đức hạnh.... Đức hạnh tới ở số

hai. Tĩnh lặng tới đầu tiên, tính thiền, thuần khiết, hồn

nhiên, tin cậy.

Người không gây hại hay tổn thương hay trách móc,

cho dù người đó mặc quần áo đẹp, chừng nào người đó

có đức tin người đó là người tìm kiếm đúng. Lại đọc

thay vì "đức tin," thì là "tin cậy." Người có tin cậy,

người đó là người tìm kiếm đúng. Người tin không phải

là người tìm kiếm đúng - người đó đã tin rồi! Người đó

là rởm từ chính ban đầu. Nếu bạn đã tin vào Thượng đế,

làm sao bạn có thể tìm và kiếm được? Bạn đã giết chết

việc truy tìm từ chính lúc đầu, bạn đã bỏ việc truy tìm.

Người ta có thể đi vào cuộc truy tìm chỉ khi người ta

không có tin tưởng và không có hoài nghi. Khi người ta

đơn giản cởi mở, không định kiến, không kết luận,

không câu trả lời làm sẵn do người khác trao, khi người

ta đơn giản đi như tấm bảng sạch, như tấm gương, thế

thì người ta bắt gặp chân lí.

Chân lí có thể được biết chỉ bởi tâm trí tựa tấm

gương. Tâm trí tựa tấm gương là vô trí. Nhưng nếu bạn

đã là người tin thì bạn sẽ không bao giờ biết tới chân lí.

Người Ki tô giáo không thể biết được, người Mô ha mét

giáo không thể biết được, người Hindu không thể biết

được, Phật tử không thể biết được. Chừng nào bạn còn

chưa vứt bỏ mọi ý thức hệ này, chừng nào bạn còn chưa

gạt chúng sang bên và đi vào trong cuộc hành trình tuyệt

đối cởi mở, thậm chí không chút định kiến nhỏ lẩn khuất

đâu đó trong tâm trí bạn...

Có lần một giáo sư rất nổi tiếng, Tiến sĩ Bannerji,

tới gặp tôi. Ông ấy nói rằng ông ấy muốn chứng minh

một cách khoa học lí thuyết về đầu thai, lí thuyết về tái

sinh. Ông ấy muốn chứng minh rằng người Ki tô giáo và

người Mô ha mét giáo và người Do Thái đều sai, và ông

ấy muốn chứng minh điều đó một cách khoa học. Ông

ấy đã tới để lấy sự ủng hộ của tôi.

Tôi nói, "Cách ông đang nói nó, việc tìm kiếm là

không khoa học ngay từ đầu!"

Ông ta hỏi, "Tại sao?"

Tôi nói, "Ông đã quyết định rồi rằng người Mô ha

mét giáo, người Ki tô giáo, người Do Thái là sai. Ông đã

không đi vào trong việc tìm kiếm vậy mà quyết định đã

có đó rằng người Hindus và người Jainas và Phật tử là

đúng. Và làm sao ông có thể nói ông muốn chứng minh

nó một cách khoa học được? - làm sao nó có thể là khoa

học được?

"Yêu cầu đầu tiên của tâm trí khoa học là không bắt

đầu bằng kết luận. Ông vứt bỏ kết luận của ông đi. Ông

sẽ phải tỉnh táo hoàn toàn rằng ông không biết thực tại là

gì - thế rồi đi vào trong nó. Và thế rồi hỏi, vẫn còn rất vô

tư. Cho dù nó có đi ngược lại lí thuyết của ông, cứ để nó

đi ngược; cho dù nó đi ngược lại Hindu giáo, cứ để nó

đi. Chân lí phải được khải lộ, không phải là Hindu giáo

được chứng minh. Ông mang quá nhiều tính Hindu," Tôi

bảo ông ta; "ông không thể là nhà khoa học được."

Ông ấy đã tới với tôi trong hai giờ - trong vòng hai

mươi phút ông ấy đi. Ông ấy nói, "Tôi đang vội, tôi phải

đi đâu đó."

Tôi nói, "Ông không vội đâu và ông chẳng đi đâu

cả! Ông đã yêu cầu hai giờ và tôi đã cho ông hai giờ - và

ông không thể rời chỗ này trước khi hết hai giờ! Ông sẽ

phải trả lời tôi trước: Đây là loại cách tiếp cận khoa học

nào vậy?"

Tất nhiên ông ấy không thể trả lời được. Nó rõ ràng,

hiển nhiên tới mức trong khoa học bạn không bắt đầu

bằng kết luận - bạn bắt đầu chỉ bằng giả thuyết: có thể

thế, có thể không thế... có lẽ. Bạn bắt đầu bằng "có lẽ";

cái "có lẽ" giữ bạn cởi mở.

Phật không thể ngụ ý đức tin được, Phật không thể

ngụ ý tin tưởng được. Ông ấy ngụ ý tin cậy - tin cậy

rằng nếu bạn đi mà không có kết luận nào bạn sẽ thấy.

Bởi vì chân lí có đó rồi! Nó không phải là cái gì đó phải

được tạo ra, nó đã có đó rồi! Chân lí không ngụ ý cái gì

đó trên trời; chân lí ngụ ý thực tại ở đây bây giờ. Dù nó

là bất kì cái gì, XYZ, bắt đầu bằng "có lẽ" đi, là người

truy hỏi đi.

Và thế rồi Phật nói: cho dù người đó mặc quần áo

đẹp... Không cần ở trần, không cần từ bỏ, không cần

nhịn ăn. Điều thực cần từ bỏ là kết luận của bạn, tin

tưởng của bạn, định kiến của bạn.

Ngựa quí hiếm khi cảm thấy cái chạm của roi.

Ai có đó trong thế giới này mà không chê được?

Phật là hoàng tử trước khi ông ấy trở nên chứng

ngộ, và khi ông ấy là hoàng tử ông ấy thực sự yêu ngựa.

Ông ấy là người yêu ngựa. Vào thời đó, ngựa là sự hỗ

trợ lớn lao nhất trong chiến tranh. Và đã có những người

yêu ngựa: trong tiếng Anh, tên Philip đơn giản nghĩa là

người yêu ngựa - Phật là một Philip.

Khi ông ấy trở nên chứng ngộ ông ấy nhớ tới ngựa

nhiều lần. Ông ấy nói về ngựa theo nhiều cách. Ông ấy

nói có bốn loại ngựa. Thứ nhất, loại tồi nhất: cho dù bạn

đánh chúng, bạn càng đánh, chúng càng trở nên bướng

bỉnh hơn. Chúng không có tính quí tộc, không duyên

dáng, không chân giá trị. Bạn có thể xúc phạm chúng,

bạn có thể quất roi vào chúng, bạn có thể đánh chúng -

chúng là loại có da rất dầy. Nếu chúng không muốn đi,

chúng sẽ không đi.

Thế rồi loại thứ hai: nếu bạn đánh chúng chúng sẽ

đi; chúng có chút ít chân giá trị, cảm giác tự trọng. Thế

rồi đến loại thứ ba, cao hơn chút ít: bạn không đánh

chúng - chỉ tiếng động của roi là đủ. Và loại cao nhất,

loại thứ tư: thậm chí tiếng động của roi cũng không cần

- chỉ cái bóng của roi là đủ.

Phật nói con người cũng có bốn loại. Loại cao nhất,

người thông minh nhất, người tìm kiếm chân lí thực, chỉ

cần cái bóng của roi thôi; chỉ chút ít hướng dẫn từ thầy

là đủ. Họ không cần bị đánh, họ không cần bị ép buộc.

Ngựa quí hiếm khi cảm thấy cái chạm của roi. Không

cần cho ngựa quí cảm thấy cái chạm của roi - chỉ cái

bóng roi thôi là đủ. Cho nên có bốn loại đệ tử nữa. Loại

cao nhất đơn giản nhận hướng dẫn. Thỉnh thoảng thậm

chí không một lời được thốt ra; thầy chỉ nhìn vào trong

mắt bạn, và điều đó là đủ.

Đó là điều đã xảy ra vài ngày trước đây... Một nhà

trị liệu nổi tiếng tới từ Mĩ, Naomi, đã nhận tính chất

sannyas - một bà già. Tôi có thể nói bà ấy thuộc vào loại

thứ tư: chỉ cái bóng của roi là đủ - tôi mới nhìn vào mắt

bà ấy - và điều đó là đủ. Và bà ấy đã trở thành của tôi và

tôi đã trở thành của bà ấy. Ngay lập tức mối liên hệ đã

xảy ra, mối nối. Bây giờ nó không thể bị phá vỡ.

Hôm qua bà ấy đã viết một lá thư, bởi vì bà ấy ra đi

hôm nay và bà ấy sợ. Trong vài ngày bà ấy đã ở đây bà

ấy đã biết chiều sâu mới của bản thể - bà ấy đã không ở

đây lâu, chỉ vài ngày. Bà ấy đã nhìn tôi chỉ một lần, chỉ

trong hai phút thôi. Bà ấy nói bà ấy đã biết những chiều

sâu lớn lao, những kinh nghiệm tinh tế đã xảy ra; chúng

là rất tinh tế, và bà ấy có chút ít sợ hãi. "Đi về phương

Tây sớm thế, trong bãi chợ thô của phương Tây, tôi liệu

có khả năng tiếp tục trưởng thành không?" Bà ấy hỏi tôi,

"Tôi sẽ ở gần thầy ở đó như tôi ở đây chứ? Tôi sẽ là một

phần của công xã của thầy cho dù tôi ở xa cả nghìn dặm

chứ?"

Naomi, tình yêu không biết tới khoảnh cách. Bạn có

thể ở xa nghìn dặm - nếu trái tim bạn tràn đầy tình yêu,

nếu trái tim bạn nhớ tới tôi, bạn đang ở gần như bất kì ai

cũng đều có thể ở gần.

Công xã của tôi sẽ lan toả trên khắp quả đất. Ở bất

kì chỗ nào bạn thấy một sannyasin, công xã của tôi tồn

tại ở đó. Bất kì chỗ nào bạn tìm thấy một sannyasin, tôi

đều ở đó cùng người đó. Bất kì chỗ nào một sannyasin

nhớ tới tôi, tôi đều hiện diện cho người đó, còn sâu sắc

hơn là tôi có thể hiện diện về mặt vật lí - bởi vì tôi

không còn trong thân thể mình nữa, chỉ bằng cách nào

đó còn treo quanh thân thể thôi. Tôi không còn thân thể

nữa. Nếu bạn yêu tôi bạn sẽ biết rằng tôi là cái gì đó

hoàn toàn khác với thân thể; nó là hiện tượng phi vật lí.

Và, Naomi này, bạn có thể ở trong liên hệ bất kì chỗ

nào bạn ở. Khoảnh khắc bạn nhắm mắt lại bạn sẽ thấy

tôi bên trong bạn. Thầy trở thành một phần của đệ tử.

Dần dần, dần dần thầy không còn ở bên ngoài nữa, thầy

ngày càng ở bên trong nhiều hơn. Và điều đó đã bắt đầu

xảy ra - quá trình này được lẩy cò, và nó là quá trình

không thể nào dừng lại được; ngay cả thế giới vật chất

thô của phương Tây cũng không thể dừng nó lại được.

Và bạn sẽ không ở đó lâu đâu; chẳng mấy chốc bạn sẽ bị

kéo tới đây. Bây giờ đây là nhà của bạn. Bất kì chỗ nào

bạn ở bạn đều sẽ thấy bản thân mình là người ngoài.

Ngựa quí hiếm khi cảm thấy cái chạm của roi. Ai có

trong thế giới này là người không chê được? Phật hỏi.

Ai có trong thế giới này là người không chê được? -

người đó có khả năng trở thành vị phật. Người đó có khả

năng trước hết trở thành đệ tử, thế rồi trở thành thầy.

**Thì giống như ngựa quí

khéo léo dưới roi,

bùng cháy và nhanh nhẹn.**

Giống như ngựa quí - khéo léo, nhận biết, quan sát.

Bùng cháy và nhanh nhẹn. Nếu bạn nhận biết... Nhận

biết là lửa; nó thiêu cháy mọi cái sai trong bạn. Nó thiêu

cháy bản ngã bạn. Nó thiêu cháy tham lam của bạn, nó

thiêu cháy tính sở hữu của bạn, nó thiêu cháy ghen tị của

bạn - nó thiêu cháy mọi cái sai và tiêu cực, và nó nâng

cao mọi cái đẹp, duyên dáng, thiêng liêng.

Và khi cái thô và cái xấu bị thiêu cháy, sắc bén lớn

lao xảy ra cho bản thể bạn, nhanh nhẹn lớn lao tới cho

cuộc sống của bạn, mãnh liệt và đam mê lớn lao, tính

toàn bộ và tính toàn thể vĩ đại.

**tin tưởng, thiền, thấy.**

Để tôi nhắc lại cho bạn: đừng đọc "tin tưởng," đọc

"tin cậy": Tin cậy, thiền, thấy.

Đây là ba bước, đơn giản, rất đơn giản. Điều thứ

nhất là tin cậy: có tin cậy yêu thương với mọi cái đang

đó, thế thì thiền trở thành dễ dàng bởi vì bạn có thể

thảnh thơi. Người tin cậy có thể thảnh thơi trong sự tồn

tại. Người không thể tin cậy được vẫn còn căng thẳng,

vẫn còn lo âu, sợ hãi. Người tin cậy có thể tan chảy, có

thể biến mất, bay hơi. Người đó biết rằng, "Cho dù tôi

có rơi vào đại dương, tôi chỉ là giọt sương..." nhưng

người đó cũng biết rằng, "Như giọt sương tôi sẽ biến

mất, nhưng tôi sẽ tồn tại như đại dương. Tôi sẽ không

mất cái gì cả; tôi sẽ được mọi thứ." Thiền là giọt sương

biến mất trong đại dương.

Và thế thì có việc thấy. Đó là lí do tại sao Phật

không có triết lí nào ngoài ái kiến philosia - ông ấy

không có hệ thống ý nghĩ nào ngoài cách thức, phương

pháp để thấy.

**vô hại, vô chê trách.

thức tỉnh theo luật.**

Vẫn còn hài hoà với luật đó của sự tồn tại đi. Tuôn

chảy cùng dòng sông; đừng cố đi ngược dòng. Để buông

bỏ là lời kinh nền tảng của bạn, và thế thì bạn sẽ là vô

hại và bạn sẽ vô chê trách.

Thức tỉnh theo luật - aes dhammo sanantano - thức

tỉnh với luật vĩnh hằng.

**và từ mọi buồn khổ tự giải phóng mình.**

Buồn khổ nảy sinh bất kì khi nào bạn đi ngược lại

luật của sự tồn tại, và phúc lạc nảy sinh bất kì khi nào

bạn đi cùng nhịp với nó, nhảy múa cùng nó tay trong

tay.

**Nông dân đào kênh dẫn nước cho đất.

Người gài tên chuốt mũi tên.

Thợ mộc chỉnh gỗ.

Và người trí huệ làm chủ bản thân mình.**

Đây là cách thức để là trí huệ và là chủ của bản thân

mình. Không có việc làm chủ của bản thân mình, cuộc

sống là trống rỗng, phù phiếm, vô nghĩa. Nó không thể

có chất thơ nào, nó không thể có vui vẻ nào, nó không

thể có cực lạc nào. Và cực lạc, vui vẻ, là quyền tập ấm

của bạn - nhưng bạn có thể có nó chỉ khi bạn đạt tới sự

xứng đáng này, tới sự đáng trọng này.

Trở nên nhận biết, tin cậy, bắt đầu thấy đi - vứt bỏ

mọi tin tưởng và mọi hoài nghi, và mục đích không còn

xa xôi gì. Bạn không cần đi đâu cả. Nếu bạn có thể tin

cậy, thiền, thấy, nếu bạn có thể thức tỉnh tới luật vĩnh

hằng, bạn là chủ - không phải là chủ của bất kì ai khác

ngoài chủ của bản thân mình. Và đó là việc làm chủ

đúng. Jesus gọi điều đó là Vương quốc của Thượng đế.

Nhưng bạn sẽ phải được tái sinh, bạn sẽ phải học

cách sống mới - cách mới, để tôi nhắc bạn, không phải

triết lí mới. Và Phật đang cho bạn hướng dẫn. Những

hướng dẫn này có thể được dùng nếu bạn nghe một cách

chăm chú, thông minh, có tính thiền.

Đủ cho hôm nay.

***********************************************************************************************************

#10 Aes dhammo sanantano

Câu hỏi thứ nhất:

Thưa Thầy kính yêu,

Làm sao tôi có thể đi sang bờ bên kia khi tôi đang

cố ở đây bây giờ? Nó thành đống lộn xộn trong tâm

trí tôi khi tôi nghĩ về điều đó, nhưng ở đâu đó trong

tim tôi cảm thấy một loại thư thái.

Deva Darpan, "bờ bên kia" chỉ là biểu dụ thôi.

Không có bờ bên kia đâu; đây là bờ duy nhất có đó. Ở

đây bây giờ là đi vào bờ bên kia đấy.

Chúng ta có thể sống theo hai cách: chúng ta có thể

sống theo thời gian hoặc chúng ta có thể sống trong vĩnh

hằng. Nếu chúng ta sống theo thời gian, nói một cách

biểu dụ điều đó được gọi là "bờ bên này"; nếu chúng ta

sống trong vĩnh hằng, nói một cách biểu dụ điều đó

được gọi là "bờ bên kia." Cổng đi vào vĩnh hằng là ở

đây bây giờ. Sống trong thời gian là sống hoặc trong quá

khứ hoặc trong tương lai.

Tâm trí sống theo thời gian - tâm trí là thời gian. Nó

bao giờ cũng dính líu tới quá khứ hoặc với tương lai - và

cả hai đều không có. Quá khứ không còn nữa, tương lai

thì chưa tới, và tâm trí sống trong cái gì đó không có. Sự

tồn tại của tâm trí là sự tồn tại rởm, rất mù mờ; nó chỉ là

sự phản xạ trong tấm gương, mặt trăng được nhìn phản

xạ trong hồ.

Ở đây bây giờ nghĩa là thoát ra khỏi thời gian. Bạn

sẽ phải tự kéo mình ra khỏi quá khứ, bạn sẽ phải đi ra

khỏi quá khứ. Bạn sẽ phải tuồn ra khỏi quá khứ như con

rắn tuồn ra khỏi bộ da cũ. Và bạn sẽ phải rất tỉnh táo

không bị dính líu vào tương lai - phóng chiếu, mơ mộng

tương lai. Nếu bạn có thể tránh được quá khứ và tương

lai bạn tỉnh táo, bạn nhận biết.

Đó là điều Phật ngụ ý bởi sammasati - nhận biết

đúng. Thế thì bạn ở bây giờ và bạn ở đây. Bạn còn có

thể ở chỗ nào khác được? Đó là nơi bạn thực sự hiện

hữu!

Cho dù bạn tiếp tục đi vào quá khứ và vào tương lai,

mọi chuyển động đó đều giống như mơ. Bạn rơi vào

giấc ngủ, bạn vẫn còn trong phòng của bạn, nhưng trong

mơ bạn có thể vẩn vơ khắp trái đất, hay bạn có thể đi tới

các hành tinh, tới mặt trăng, hay tới các vì sao. Nhưng

vào buổi sáng khi bạn thức dậy bạn sẽ không thấy bản

thân mình trên cung trăng. Bạn có thể trong cả đêm đã ở

trong giấc mơ trên cung trăng; bạn thức dậy trong phòng

của bạn. Cho nên khi bạn bước trên trăng trong giấc mơ,

bạn vẫn ở trong phòng của bạn - thực sự bạn vẫn ở trong

phòng của bạn.

Chúng ta bao giờ cũng trong hiện tại; không có chỗ

nào khác để hiện hữu cả. Nhưng chúng ta có thể mơ,

chúng ta có thể tưởng tượng, chúng ta có thể sống lại

những kí ức, chúng ta có thể phóng chiếu trong tương lai

những ảo tưởng lớn... nhưng dầu vậy chúng ta vẫn ở đây

bây giờ! Cái ngày, cái khoảnh khắc bạn trở nên nhận

biết rằng bạn ở đây và bạn không thể ở bất kì chỗ nào

khác được, rằng bạn ở đây và bạn không thể ở đó, bạn

chìm vào trong thực tại, bạn đi tới chiều sâu của bản

thân thực tại, bạn đổi số của mình từ thời gian sang vĩnh

hằng.

Chữ thập theo nghĩa nguyên thuỷ của nó đã biểu thị

cho thời gian và vĩnh hằng. Nó không biểu thị đơn giản

cho việc đóng đinh Jesus; chữ thập là một biểu tượng cổ

hơn Jesus. Thực ra nó chỉ là một phần của biểu tượng

phương Đông cổ đại, swastika, chỉ là một phần của nó.

Swastika ở phương Đông bao giờ cũng biểu thị cho thời

gian và vĩnh hằng; chữ thập cũng biểu thị thời gian.

Thời gian là theo chiều ngang, nó là tuyến tính; nó đi từ

khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác. Và đường

chiều dọc trên chữ thập biểu diễn cho vĩnh hằng - chiều

sâu, chiều cao. Trong thời gian bạn bơi, trong vĩnh hằng

bạn chìm.

Ở đây bây giờ đơn giản nghĩa là lỗ hổng này giữa

quá khứ và tương lai, khoảng hở nhỏ này. Từ khoảng hở

nhỏ này bạn đi vào trong một thế giới hoàn toàn khác -

thế giới đó được gọi là "bờ bên kia."

Darpan, bạn không cần bị phân vân. Nhưng đôi khi

nếu bạn bám lấy các biểu dụ quá mức theo từng chữ bạn

có thể trở nên rất lẫn lộn. Và tôi phải dùng biểu dụ;

không có cách nào để diễn đạt cái không thể thực sự

được diễn đạt, để diễn đạt cái mà về nó tiến trình đúng

duy nhất là trở thành im lặng. Cách thức có thể duy nhất

là dùng biểu dụ, ngụ ngôn, chuyện kể, bởi vì chúng cho

bạn hướng dẫn gián tiếp.

Thực tại là tinh tế và mong manh thế; nó giống như

đoá hoa rất tinh tế. Nếu bạn cố bắt giữ nó một cách trực

tiếp bạn phá huỷ nó. Bạn không thể giữ nó trong nắm

tay của mình được; nó rất linh động. Bạn chỉ có thể đi

vào theo cách rất gián tiếp, và chuyển động của bạn phải

là rất tinh tế - thậm chí tiếng bước chân cũng phải không

được nghe thấy. Bạn chỉ có thể thì thào với thực tại; bạn

không thể gào lên và bạn không thể tranh cãi.

Đó là điều biểu dụ là gì: cuộc đối thoại được thực

hiện trong tiếng thì thầm, cuộc đối thoại được thực hiện

theo cách thơ ca; không theo văn xuôi, không rõ ràng,

không toán học - mơ hồ, huyền bí. Bạn không thể tấn

công thực tại được; bạn chỉ có thể thuyết phục, bạn có

thể quyến dũ thực tại. Nó là chuyện tình, không phải là

cưỡng đoạt.

Đó là chỗ tôn giáo và khoa học khác nhau. Khoa

học là một loại cưỡng đoạt thực tại. Nó cố giằng lấy

chân lí từ thực tại một cách vũ lực, bạo hành; do đó nó

phá huỷ thăng bằng tự nhiên, cân bằng tự nhiên. Nó phá

huỷ sinh thái, nó phá huỷ hài hoà, hoà hợp của sự tồn

tại. Nó là việc cưỡng đoạt, bởi vì khoa học nói theo

ngôn ngữ của chinh phục.

Tôn giáo là chuyện tình, nó không phải là cưỡng

đoạt. Tôn giáo tán tỉnh thực tại, thuyết phục, dần dần,

dần dần theo cách rất gián tiếp. Người ta phải duyên

dáng trang nhã, do đó mới có những biểu dụ này.

"Bờ bên kia" là một biểu dụ đẹp, nhưng để tôi nhắc

bạn: đây là bờ bên kia, cđây là cái kia đấy. Bạn không

đổi bờ đâu, bạn đơn giản dần thay đổi tâm thức của bạn.

Thay đổi phải không xảy ra ở bên ngoài - không phải là

bạn lấy chiếc thuyền, chiếc phà, và bạn đi sang bờ bên

kia đâu. Điều đó sẽ là thay đổi trong hoàn cảnh bên

ngoài. Không, bạn vứt bỏ tâm trí và bạn trở thành tâm

thức, và bờ bên kia đã tới. Bạn đã không đi cho dù một

li, bạn có thể chẳng làm gì cả - bạn có thể đơn giản chỉ

ngồi với mắt nhắm...

Đó là điều Phật đã làm khi ông ấy đạt tới bờ bên kia.

Ở Bodhgaya ông ấy đã ngồi dưới gốc cây bên cạnh dòng

sông Niranjana. Đó là sáng sớm, buổi sáng đẹp, im lặng,

và ông ấy mở mắt ra. Ngôi sao cuối cùng đang biến đi

khỏi bầu trời; ông ấy thấy ngôi sao cuối cùng đang biến

đi, và cái gì đó bên trong, trong ông ấy, cũng biến mất...

dấu vết cuối cùng của bản ngã. Bầu trời trở thành trống

rỗng, ông ấy trở thành trống rỗng, và hai cái trống rỗng

này gặp gỡ, hội nhập, tan chảy vào nhau. Bầu trời đi vào

ông ấy, ông ấy đi vào bầu trời.

Ở phía thấy được, phía bên ngoài, chẳng có gì thay

đổi cả; mọi thứ đều đích xác như cũ. Sông Niranjana

vẫn tiếp tục chảy, chim chóc phải vẫn tiếp tục hót; thậm

chí không một cái lá rụng khỏi cây, chẳng cái gì đã thay

đổi... và tất cả đã thay đổi. Bây giờ Phật không còn là

tâm trí nữa; ông ấy đã trở thành thiền. Ông ấy không còn

trong ý nghĩ; ông ấy đã trở thành nhân chứng thuần

khiết, một sakshin.

Đây là bờ bên kia mà tôi đang nói tới.

Đó là lí do tại sao khi bạn nghĩ, Darpan này, bạn

cảm thấy chút ít bị lẫn lộn, nhưng khi bạn không nghĩ về

nó bạn cũng cảm thấy một loại thư thái. Quan sát đi!

Lẫn lộn phải còn lại trong đầu và thư thái ở trong tim.

Trái tim có lí do riêng của nó, cách thức riêng của nó để

hiểu mọi thứ.

Khi tôi nói với bạn, tôi không chỉ nói cho tâm trí

bạn - đó chỉ là phần bên ngoài thôi. Điều thực sự được

truyền giữa tôi và bạn là cái gì đó của trái tim. Tâm trí

được dùng như bậc đá đi tới trái tim, có vậy thôi. Tôi

đang dùng lời như bậc đá, như phương tiện, không như

mục đích trong bản thân chúng.

Đó là lí do tại sao hai điều này được bạn cảm thấy

đồng thời: lẫn lộn trong đầu và thư thái sâu sắc trong

tim. Trái tim hiểu - trái tim hiểu rằng khoảnh khắc này,

ở đây bây giờ, là bờ bên kia. Nhưng trái tim không thạo

nói; cái đầu rất thạo nói. Đây là một trong những điều

khó xử: cái đầu không thể hiểu được nhưng rất hay nói,

còn trái tim có thể hiểu được nhưng không thạo nói. Nó

hiểu nhưng việc hiểu của nó vẫn còn im lặng; thực ra nó

càng hiểu điều đó nhiều hơn, nó càng trở nên im lặng

hơn. Cái đầu chẳng hiểu gì; thực ra nó càng ít hiểu, nó

càng ồn ào hơn. Bạn phải thấy ra điều này.

Dùng cái đầu để đạt tới trái tim, nhưng đừng trở nên

bị bắt rễ vào đầu. Đừng ở lại đó! Dùng nó làm bậc đá,

làm thang, nhưng đừng làm nhà bạn ở đó; bằng không

cả đời bạn sẽ toàn lẫn lộn, lo âu, đau khổ. Dùng nó, và

quên hết về nó đi. Đi vào trong đầu và nghe điệu vũ im

lặng của năng lượng trái tim. Nghe bài ca thảnh thơi, thư

thái của trái tim, âm thanh vô âm, tiếng vỗ tay của một

bàn tay.

Trái tim rất gần với bí ẩn của sự tồn tại; cái đầu là ở

xa nhất. Cái đầu là bờ bên này và trái tim là bờ bên kia -

nhưng bạn đã ở bờ bên kia rồi. Cái đầu đơn giản mơ mọi

thứ. Khi bạn thoát ra khỏi cái đầu bạn đơn giản thoát ra

khỏi cái gì đó mà chưa bao giờ tồn tại ngay chỗ đầu tiên.

****************************************************

#10Câu hỏi thứ hai:

Thưa Thầy kính yêu,

Thầy liên tục bảo chúng tôi "nhận biết," "là nhân

chứng." Nhưng một tâm thức chứng kiến có thực sự

ca hát, nhảy múa và nếm trải cuộc sống không?

Nhân chứng có phải là khán giả đơn thần của cuộc

sống và không bao giờ là người tham dự không?

Anand Nur, tâm trí nhất định nêu ra câu hỏi này sớm

hay muộn, bởi vì tâm trí rất sợ việc trở thành nhân

chứng của bạn. Tại sao tâm trí sợ việc bạn trở thành

nhân chứng thế? - bởi vì việc bạn trở thành nhân chứng

là cái chết của tâm trí.

Tâm trí là người làm, nó muốn làm mọi thứ, và

chứng kiến là trạng thái của không làm. Tâm trí sợ rằng,

"Nếu mình trở thành nhân chứng, mình sẽ không được

cần tới thêm nữa." Và theo một cách nào đó tâm trí là

đúng...

Một khi nhân chứng nảy sinh trong bạn tâm trí phải

biến mất, cũng giống như nếu bạn đem đèn vào trong

phòng và bóng tối phải biến mất - điều đó là không

tránh khỏi. Tâm trí có thể tồn tại chỉ nếu bạn vẫn còn

ngủ say, bởi vì tâm trí là trạng thái của mơ và mơ có thể

tồn tại chỉ trong ngủ.

Bằng việc trở thành nhân chứng bạn không còn ngủ

nữa, bạn thức. Bạn trở thành nhận biết - trong như pha lê

thế, trẻ trung và tươi tắn thế, sinh động và hiệu nghiệm

thế. Bạn trở thành ngọn lửa - mãnh liệt, bùng cháy từ cả

hai đầu - dường như, trong trạng thái của mãnh liệt đó

của ánh sáng, của tâm thức, tâm trí chết đi, tâm trí tự tử.

Do đó tâm trí sợ.

Và tâm trí sẽ tạo ra nhiều vấn đề cho bạn, nó sẽ nêu

ra nhiều, nhiều câu hỏi. Nó sẽ làm cho bạn ngần ngại lấy

cú nhảy vào cái không biết, nó sẽ cố gắng kéo bạn lại.

Nó sẽ cố gắng thuyết phục bạn rằng, "Với tớ là an toàn,

an ninh; với tớ cậu đang sống dưới chỗ trú ngụ, được

canh gác chu đáo. Tớ sẽ chăm nom mọi bề cho cậu. Với

tớ cậu hiệu quả, khéo léo. Khoảnh khắc cậu rời tớ, cậu

sẽ phải bỏ lại mọi tri thức và cậu sẽ phải bỏ lại mọi an

ninh, an toàn. Cậu sẽ phải vứt bỏ áo giáp của mình và

cậu sẽ đi vào cái không biết. Cậu đang nhận nguy hiểm

một cách không cần thiết chẳng bởi lí do nào cả." Và nó

sẽ cố gắng đem những cách hợp lí hoá hay vào. Đây là

một trong những cách hợp lí hoá mà gần như bao giờ

cũng xảy ra cho mọi thiền nhân.

Không phải là bạn, Anand Nur, người đang hỏi câu

hỏi này; chính tâm trí, kẻ thù của bạn, người đang đặt ra

những câu hỏi này qua bạn. Chính tâm trí đang nói,

"Thưa Thầy kính yêu, thầy liên tục bảo chúng tôi ‘nhận

biết,’ ‘là nhân chứng.’ Nhưng một tâm thức chứng kiến

có thực sự ca hát, nhảy múa và nếm trải cuộc sống

không?"

Có chứ, Anand Nur - thực ra chỉ tâm thức chứng

kiến mới có thể thực sự ca hát, nhảy múa và nếm trải

cuộc sống. Điều đó sẽ có vẻ như ngược đời - nó thế đấy!

Nhưng mọi cái thật bao giờ cũng ngược đời, nhớ lấy.

Nếu chân lí mà không ngược đời thế thì nó không phải

là chân lí chút nào, thế thì nó là cái gì đó khác.

Ngược đời là phẩm chất cơ bản, cố hữu của chân lí -

để điều đó chìm vào trong trái tim bạn mãi mãi! Chân lí

như thế chính là có tính ngược đời. Mặc dầu mọi ngược

đời không phải là chân lí, mọi chân lí đều là ngược đời.

Chân lí phải là ngược đời bởi vì nó phải là cả hai cực -

phủ định và khẳng định - và vậy mà siêu việt. Nó phải là

sống và chết, và thêm nữa. Với "thêm nữa" tôi ngụ ý

siêu việt lên trên cả hai - cả ha và không cả hai. Đó là

ngược đời tối thượng.

Khi bạn ở trong tâm trí, làm sao bạn có thể hát

được? Tâm trí tạo ra khổ; từ khổ không thể có bài ca nào

được. Khi bạn trong tâm trí, làm sao bạn có thể nhảy

múa được? Vâng, bạn có thể làm những cử chỉ trống

rỗng nào đó gọi là điệu vũ, nhưng nó không phải là điệu

vũ thực.

Chỉ một Meera mới biết điệu vũ thực, hay một

Krishna, hay một Chaitanya. Đây là những người biết

điệu vũ thực. Người khác chỉ biết kĩ thuật nhảy múa,

nhưng không có gì tuôn tràn cả; năng lượng của họ là tù

đọng. Những người sống trong tâm trí đang sống trong

bản ngã, và bản ngã không thể nhảy múa được. Điều đó

có thể tạo ra việc biểu diễn nhưng không phải là điệu vũ.

Điệu vũ thực xảy ra chỉ khi bạn đã trở thành nhân

chứng. Thế thì bạn phúc lạc tới mức chính phúc lạc đó

bắt đầu tuôn trào - đó là điệu vũ. Chính phúc lạc bắt đầu

ca hát; bài ca nảy sinh theo cách riêng của nó. Và chỉ

khi bạn là nhân chứng thì bạn mới có thể thưởng thức

được cuộc sống.

Tôi có thể hiểu câu hỏi của bạn, Anand Nur. Bạn lo

lắng rằng bằng việc trở thành nhân chứng người ta sẽ

đơn thuần trở thành khán giả của cuộc sống. Không, là

khán giả là một điều, và là nhân chứng là điều hoàn toàn

khác, khác về chất.

Khán giả dửng dưng, người đó đờ đẫn, người đó

đang trong một loại giấc ngủ. Người đó không tham gia

vào cuộc sống. Người đó sợ, người đó là kẻ hèn nhát.

Người đó đứng bên cạnh đường và đơn giản cứ nhìn

người khác sống. Đó là điều bạn đang làm cả cuộc đời

mình: ai đó khác đóng vai trong phim và bạn xem. Bạn

là khán giả! Mọi người bị dính vào ghế hàng giờ trước

chiếc ti vi - khán giả đấy. Ai đó khác hát, bạn nghe. Ai

đó khác nhảy múa, bạn chỉ là khán giả. Ai đó khác yêu

và bạn chỉ xem. Bạn không là người tham gia. Các nhà

chuyên môn đang làm điều bạn đáng phải làm theo cách

riêng của mình.

Nhân chứng không phải là khán giả. Thế thì nhân

chứng là gì? Nhân chứng là người tham gia vậy mà vẫn

còn tỉnh táo. Nhân chứng là ở trong trạng thái vô vi. Đó

là từ của Lão Tử: nó có nghĩa là hành động thông qua vô

hành động. Nhân chứng không phải là người đã trốn

chạy khỏi cuộc sống. Người đó sống trong cuộc sống,

sống còn toàn bộ hơn nhiều, đam mê hơn nhiều, nhưng

vậy mà vẫn còn sâu bên dưới là người quan sát; cứ nhớ

mãi rằng, "Mình là tâm thức."

Thử điều đó khi đi trên đường: nhớ rằng bạn là tâm

thức. Việc bước đi vẫn tiếp tục - và một điều mới được

thêm vào, sự giầu có mới được thêm vào, cái đẹp mới.

Cái gì đó bên trong được thêm vào cho hành động bên

ngoài. Bạn trở thành ngọn lửa của tâm thức, và thế thì

việc bước đi có vui vẻ hoàn toàn khác cho nó; bạn ở trên

đất và vậy mà chân bạn không chạm đất chút nào.

Đó là điều Phật đã nói: Đi qua sông, nhưng đừng để

nước chạm chân ông.

Đó là nghĩa của biểu tượng phương Đông về hoa

sen. Bạn phải đã thấy tượng Phật, ảnh của ông ấy ngồi

trên hoa sen - đó là biểu dụ. Hoa sen là hoa sống trong

nước vậy mà nước không thể chạm vào nó được. Hoa

sen không trốn lên hang động Himalaya; nó sống trong

nước và vậy mà vẫn còn xa xôi, xa xăm. Sống trong bãi

chợ nhưng đừng cho phép bãi chợ đi vào bản thể bạn,

sống trong thế giới vậy mà không phải là của thế giới -

đó là điều được ngụ ý bởi "tâm thức chứng kiến."

Đó là điều tôi ngụ ý bằng việc nói đi nói lại với bạn:

nhận biết đi! Tôi không chống lại hành động, nhưng

hành động của bạn phải được chiếu sáng bởi nhận biết.

Những người chống lại hành động, họ nhất định có tính

kìm nén - và mọi loại kìm nén đều làm cho bạn bệnh

hoạn, không toàn thể, không lành mạnh.

Các sư sống trong tu viện, Cơ đốc giáo hay Hindu

giáo; các sư Jainas và sư Phật giáo, những người đã trốn

khỏi cuộc sống - họ không phải là sannyasin thực. Họ

đơn giản đã kìm nén ham muốn của họ và họ đã đi khỏi

thế giới này, thế giới của hành động. Bạn có thể là nhân

chứng ở đâu nếu bạn đi ra khỏi thế giới của hành động?

Thế giới của hành động là cơ hội tốt nhất để nhận biết.

Nó cho bạn thách thức, nó vẫn còn thường xuyên là

thách thức.

Hoặc bạn có thể rơi vào giấc ngủ và trở thành người

làm; thế thì bạn là phàm nhân, là tay mơ, là nạn nhân

của ảo tưởng - hoặc bạn có thể trở thành nhân chứng và

vậy mà vẫn sống trong thế giới này; thế thì hành động

của bạn có phẩm chất khác của nó. Nó mới thực là hành

động. Những người không nhận biết, hành động của họ

không thực là hành động mà là phản động; họ chỉ phản

ứng. Ai đó xúc phạm bạn và bạn phản ứng. Thử xúc

phạm Phật mà xem: ông ấy không phản ứng - ông ấy

hành động. Phản ứng phụ thuộc vào người khác - người

đó nhấn nút và bạn chỉ là nạn nhân, là nô lệ; bạn vận

hành như cái máy.

Người thực, người biết nhận biết là gì, không bao

giờ phản ứng; người đó hành động từ nhận biết riêng

của mình. Hành động không tới từ hành động của người

khác; không ai có thể ấn phím của người đó được. Nếu

người đó cảm thấy một cách tự phát rằng đây là đúng để

làm, người đó làm nó; nếu người đó không cảm thấy cái

gì cần thiết cả, người đó giữ yên tĩnh. Người đó không

có tính kìm nén; người đó bao giờ cũng cởi mở, diễn

đạt. Cách diễn đạt của người đó là đa chiều. Trong bài

ca, trong thơ ca, trong điệu vũ, trong tình yêu, trong lời

cầu nguyện, người đó tuôn chảy.

Nếu bạn không trở nên nhận biết, thế thì chỉ có hai

khả năng: hoặc bạn sẽ có tính kìm nén hoặc mê đắm. Cả

hai cách bạn vẫn còn trong tù túng.

Một ni cô bị hiếp bên ngoài tu viện. Khi cô ấy cuối

cùng được người ta tìm thấy, cô ấy được mang vào bên

trong và thầy thuốc gần đó được mời tới.

Ông ta tới, giơ hai tay lên trời và nói, "Đây là công

việc dành cho bác sĩ phẫu thuật tạo hình!"

Bác sĩ phẫu thuật tạo hình được mời tới. Khi ông ta

thấy ni cô đáng thương ông ta kêu lên, "Ồ, lạy Trời! Lộn

xộn thế! Tôi phải bắt đầu từ đâu đây?"

Mẹ tối cao đáp, "Thế này, điều đó dễ thôi. Trước hết

gỡ nụ cười ra khỏi mặt cô ta!"

****************************************************

#10Câu hỏi thứ ba:

Thưa Thầy kính yêu,

Có là gì? Tôi thấy rằng tôi không hiểu biết thực về

nó. Tôi đã thấy rằng bất kì khi nào tôi nói có, đều có

hướng dẫn về ngạc nhiên, cứ dường như tôi cảm

thấy sửng sốt là chẳng có lí do nào để nói không. Có

của tôi bao giờ cũng thay thế cho không. Chỗ của

kinh nghiệm này, của có, là ở đâu...?

Prem Satyamo, có hàm chứa chính bản chất của mọi

tôn giáo. Nói có với sự tồn tại là có tính tôn giáo. Nói

không là chống lại, nói không là xung đột, nói không là

có tính bản ngã. Nói không là giữ cho tách rời của bạn,

giữ cho bản thân bạn xa rời. Nói có là hội nhập, tan chảy

vào trong cái toàn thể. Nói có là mở ra, cũng giống như

nụ nở ra và trở thành hoa. Không là trạng thái đóng của

tâm trí; có là đoá hoa mở.

Khác biệt giữa không và có là sự khác biệt giữa

người chết và người sống. Người sống trong cái không

vẫn còn bị bao bọc, vẫn còn trong thế giới không cửa sổ

nơi mặt trời và mưa và và gió không thể đạt tới được;

nơi Thượng đế có thể cứ gõ cửa hoài nhưng ngay cả

tiếng gõ cửa cũng sẽ không đạt tới; nơi tình yêu không

thể đạt tới được.

Người bị đóng lại, người sống với không, là sống

trong bản ngã. Bản ngã càng lớn, cây cầu càng ít có giữa

người này và sự tồn tại. Khi bản ngã là toàn bộ, người

này hoàn toàn bị đóng bởi tường; người đó sống trong

nhà tù của sự bịa đặt riêng của mình. Người đó không

thể nói có với mặt trăng và người đó không thể nói có

với cây cối và người đó không thể nói có với bất kì cái

gì! Người đó đã quên nói có, và ngay cả đôi khi người

đó nói có, cái có của người đó không là gì ngoài cái

không được nguỵ trang.

Tôi đã nghe một câu chuyện về Joseph Stalin:

Molotov, bộ trưởng ngoại giao của ông ấy, điện

thoại cho ông ấy từ Liên hợp quốc. Vợ ông ấy đang ngồi

bên cạnh trong khi ông ấy nghe điện thoại. Joseph Stalin

nói, "Không, không, không, có, không!"

Bà vợ ngạc nhiên. Không phải bởi các cái không,

nhiều cái không thế - bà ấy biết chồng mình rõ lắm, ông

ấy là con người của không. Ông ấy là một trong những

người bản ngã nhất có thể có. Tên của ông ấy là có ý

nghĩa: 'stalin' nghĩa là người bằng thép. Ông ấy không

thực sự là người mà là người thép, cái máy, robot.

Không là tự nhiên cho ông ấy.

Bà vợ đâm ra phân vân rằng giữa bốn cái không đó

lại có một cái có. Bà ấy hỏi ông ấy, "Em có thể hỏi anh

một câu hỏi được không? Em không muốn can thiệp vào

chuyện chính trị của anh và điều đang diễn ra giữa anh

và Molotov và điều anh đang nói. Chỉ một điều thôi... và

em đã trở nên rất tò mò: anh có thực nói có trong tất cả

bốn cái không đó không, hay em đã nghe lầm anh? Anh

có thực nói có không?"

Stalin nói, "Có, tôi đã nói có."

Bà vợ hỏi, "Thế thì thêm một câu hỏi nữa: Sao anh

lại nói có?"

Ông ta nói, "Khi tôi nói ba cái không, Molotov hỏi,

'Đồng chí nói không phải không?' tôi nói, 'có.'"

Có những người có thể nói có chỉ khi nó không là gì

ngoài không được nguỵ trang. Và cũng có những người,

rất hiếm đấy, có thể nói không chỉ như có được nguỵ

trang. Đây là chư phật. Vâng, đôi khi họ cũng nói

không, nhưng cái không của họ không phải là cái không

phủ định; trái tim của cái không của họ là có. Họ không

có khả năng nói không. Nếu đôi khi họ phải dùng từ,

trong những tình huống nào đó, nó thực sự mang nghĩa

có.

Một người như Phật đôi khi có thể rất nghiêm khắc,

nhưng ông ấy nghiêm khắc bởi vì từ bi và tình yêu của

ông ấy. George Gurdjieff rất nghiêm khắc với đệ tử của

mình chỉ bởi vì từ bi vô hạn của ông ấy, tình yêu toàn bộ

của ông ấy.

Có là chính bản chất của tôn giáo, không là chính

nền tảng của phi tôn giáo. Người vô thần không phải là

người không tin vào Thượng đế đâu; người vô thần là

người tin vào không. Và người hữu thần không phải là

người tin vào Thượng đế đâu; người hữu thần là người

tin vào có - bởi vì đã có những người hữu thần như Phật

và Mahavira người không tin vào Thượng đế, vậy mà

bạn có thể tìm đâu khác ra được người nhiều tính tôn

giáo hơn thế? Và có cả triệu người tin vào Thượng đế,

và cuộc sống của họ chẳng cho chỉ dẫn về tôn giáo nào -

không hương thơm. Họ sặc mùi phi tôn giáo, bạo hành,

hận thù, ghen tị, sở hữu. Hoa của tình yêu không nở

trong cuộc sống của họ.

Có là nền tảng của cuộc sống tôn giáo thực.

Bạn hỏi tôi, "Có là gì?"

Có là vứt bỏ bản ngã.

Có là thoát ra khỏi tâm trí. Có là tin cậy.

Mới hôm nọ Phật đã nói về tin cậy: Tin cậy, thiền và

thấy. Có nghĩa là tin cậy, và tin cậy là bắt đầu của thiền.

Thiền nghĩa là thảnh thơi cùng sự tồn tại. Chừng nào

bạn chưa tin cậy, chừng nào bạn chưa thể nói có với sự

tồn tại, làm sao bạn có thể thảnh thơi được? Mọi người

không thể thảnh thơi được bởi vì họ sợ. Mọi người

không thể thảnh thơi được bởi vì họ sợ rằng nếu họ

thảnh thơi họ có thể bị lừa. Mọi người có thể thảnh thơi

chỉ với những người khác mà họ tin cậy.

Với người lạ trong phòng của mình bạn có thể

không có khả năng ngủ trong đêm. Ai biết được, người

đó có thể cắt cổ bạn. Ai biết được, người đó có thể ăn

cắp tiền của bạn và trốn đi. Nhưng với vợ hay chồng

mình, bạn đi vào ngủ say, bạn có thể tin cậy. Đứa trẻ có

thể đi cùng bố nó hay mẹ nó tới bất kì chỗ nào. Cho dù

bố nó đi vào lửa, đứa trẻ cũng có thể ca bài ca, nhảy

múa, hỏi thăm, truy vấn, không sợ hãi, bởi vì nó biết tay

nó đang trong tay bố nó.

Tin cậy này là có: biết rằng sự tồn tại này là mẹ của

chúng ta, rằng tự nhiên là cội nguồn của chúng ta - nó

không thể chống lại chúng ta, nó không thể thù địch với

chúng ta được. Thấy điều này, hiểu điều này, tin cậy nảy

sinh. Thế thì bạn có thể nói có. Thế thì bạn có thể nói

"Amen"; điều đó đơn giản nghĩa là có.

Và khoảnh khắc bạn có thể nói có và bạn có thể

thảnh thơi, thiền trở thành tự nhiên. Không nỗ lực nào,

không căng thẳng nào, không dồn nén nào, bạn bắt đầu

rơi vào trong không gian có tên là thiền... trống rỗng

mọi rác rưởi và đồ đồng nát, nhưng đầy tràn Thượng đế

- đúng hơn là đầy tràn tính thượng đế; trống rỗng của thế

giới, nhưng tràn đầy cái gì đó mà bạn chưa bao giờ biết

tới trước đây; tràn đầy ánh sáng vốn là phi vật chất, đầy

hương thơm, tới từ không đâu cả, từ trời xanh. Trống

rỗng đấy vậy mà tràn đầy, trống rỗng đấy vậy mà vẫn có

tính đầy - không phủ định.

Và khi có thiền, việc thấy nảy sinh, darshan được

sinh ra - bạn trở nên có khả năng thấy. Mắt bạn trong

trẻo thế, thuần khiết thế; không mây mù, không lẫn lộn,

không ý nghĩ. Mắt bạn có tính cảm nhận, xuyên thấu tới

mức bạn có thể đạt tới cốt cõi sâu nhất của bí ẩn của sự

tồn tại này, tới mức bạn có thể có thoáng nhìn về điều kì

diệu bao quanh bạn, điều kì diệu vĩnh hằng. Aes

dhammo sanantano: bạn có thể có cái nhìn vào luật

không cạn kiệt.

Satyamo, bạn hỏi, "Có là gì? Tôi thấy rằng tôi

không có hiểu biết thực về nó."

Chẳng ai đã hiểu cả! Một khi bạn có hiểu thực về

có, bạn có mọi cái cần thiết cho cuộc hành trình tới bờ

bên kia. Thế thì bạn sẵn sàng đi sang bờ bên kia rồi. Cái

có trở thành con thuyền, và nó có khả năng đi qua mọi

cơn bão. Dù đại dương có thể bão tố thế nào, con thuyền

của có vẫn có khả năng đạt tới bờ bên kia. Nếu bạn có

con thuyền của có, thế thì không ai có thể ngăn cản bạn

đạt tới Thượng đế.

Bạn nói, "Tôi đã thấy rằng bất kì khi nào tôi nói có,

đều có hướng dẫn về ngạc nhiên, cứ dường như tôi sửng

sốt là chẳng có lí do nào để nói không."

Vâng. Bất kì ai bắt đầu nói có, học cách nói có, đều

nhất định bị ngạc nhiên lặp đi lặp lại. Chỗ bạn đã nói

không trước đây, nay bạn đang nói có. Bạn nhất định

ngạc nhiên bởi vì không có lí do để nói không. Sao bạn

đã nói không cả đời mình vậy? Quan sát mọi người, và

bản thân bạn mà xem - gần chín mươi chín phần trăm

của không chỉ là từ bản ngã; không có lí do hợp thức

cho chúng.

Đứa trẻ muốn đi ra và chơi bên ngoài. Trời đang

nắng thế và chim đang hót và gió đang thổi và ong đang

bay vù vù... và đứa trẻ hỏi mẹ nó, "Con ra ngoài chơi

trong vườn nhé?" Cô ta nói "Không" - thậm chí chẳng

nghĩ ngợi gì, thậm chí chẳng nghe điều nó thực sự hỏi,

thậm chí chẳng cho nó một ý nghĩ, một nhận biết về

khoảnh khắc đó. Không đơn giản tới một cách tự động,

cứ dường như nó có sẵn đó rồi. Cô ấy đã không nghĩ, cô

ấy đã không nhìn vào đứa con chút nào. Cô ấy không

nói không với điều đứa con vừa hỏi xin bởi vì cô ấy

đằng nào cũng nói không. Điều đó chẳng nhằm tới đứa

con; nó nhằm tới quyền hành của cô ấy.

Nhiều đàn bà thế không thực sự muốn là người mẹ.

Họ thậm chí không đáng là người mẹ, nhưng họ muốn là

người mẹ, họ ham muốn là người mẹ, bởi lí do hoàn

toàn khác - không phải vì tính mẹ.

Tính mẹ là việc thiền lớn lao. Tính mẹ là một trong

những nghệ thuật vĩ đại nhất: bạn đang tạo ra một con

người sống. Nhà điêu khắc không là gì khi so sánh với

người mẹ, bởi vì người đó sẽ tạo ra chỉ bức tượng đá

cẩm thạch. Hoạ sĩ không là gì, nhà thơ không là gì, ca sĩ

không là gì, nhạc sĩ không là gì, bởi vì họ sẽ chơi với đồ

vật, đối thể. Người mẹ là nhà thơ vĩ đại nhất và hoạ sĩ vĩ

đại nhất và nhạc sĩ vĩ đại nhất và nhà điêu khắc vĩ đại

nhất, bởi vì cô ấy đang tạo ra một tâm thức - bản thân

cuộc sống.

Nhưng đàn bà không quan tâm tới tính mẹ, mối

quan tâm của họ là hoàn toàn sai. Mặc dầu họ nói rằng

họ muốn là mẹ, thực sự điều họ muốn là quyền hành.

Đàn bà cảm thấy rất có quyền hành khi cô ấy có con -

bởi vì đàn ông đã lấy mọi quyền hành khỏi cô ấy. Cô ấy

không được phép ở bãi chợ, cô ấy không được phép ở

nhà thờ, cô ấy không được phép trong chính trị. Cô ấy

không được cho bất kì cơ hội nào ở bất kì đâu để cho

bản ngã của cô ấy được đáp ứng; gần chín mươi phần

trăm các cơ hội đã bị đàn ông chiếm mất. Đàn bà đã bị

buộc phải sống trong nhà; cô ấy chỉ có thể có một loại

quyền hành - đối với con cô ấy.

Do đó mới có chuyện về không. Cô ấy đã không

nghe, cô ấy đã không nhìn đứa trẻ; cô ấy đã đơn giản nói

không. Và điều đó tuyệt đối vô nghĩa! Nếu cô ấy đã

nghe chẳng có lí do nào để nói không cả. Điều này hoàn

toàn đúng: khi mặt trời đang nhảy múa ngoài kia, sao

đứa trẻ phải ở trong nhà, tối tăm và buồn thảm? Và khi

gió đang thổi bên ngoài, đứa trẻ cũng nên được phép

nhảy múa trong gió. Đứa trẻ nên được phép nhảy múa

trong mưa nữa, nhưng người mẹ hợp lí hoá, "Nó có thể

bị cảm lạnh hay nó có thể bị ốm - đó là lí do tại sao

mình lại nói không." Nhưng đấy toàn là hợp lí hoá.

Thực ra, từng đứa trẻ đều có quyền thừa kế để nhảy

múa trong mưa, trong gió, trong mặt trời. Điều đó cho

mạnh khoẻ, điều đó cho sinh động. Điều đó đem nó tới

gần tự nhiên hơn và gần Thượng đế hơn. Người mẹ ép

buộc nó và đưa nó tới nhà thờ hay tới đền chùa nơi nó

không thể thấy được cái gì, không thấy được Thượng đế

chút nào. Và nơi có Thượng đế thì sống động nhiều thế,

đập rộn ràng nhiều thế, trong tự nhiên... Đứa trẻ sẽ

muốn trèo cây, nó là thách thức thế - Thượng đế đang

vẫy gọi nó từ cây, từ ngọn cây!

Mọi đứa trẻ nên được phép trèo cây, trèo núi. Chúng

nên được cho mọi cơ hội để chấp nhận mọi thách thức.

Chúng nên được giúp đỡ để đi vào trong nguy hiểm.

Chúng nên được chuẩn bị, không được bảo vệ; được

chuẩn bị đi vào trong nguy hiểm - được giúp đỡ, thuyết

phục, được thưởng, để đi vào trong nguy hiểm bởi vì

người biết cách đi vào trong nguy hiểm nhất định loạng

choạng vớ phải Thượng đế sớm hay muộn. Nhưng

người mẹ sẽ nói không, người bố sẽ nói không.

Trong nhiều năm một đứa trẻ da đen đã từng cầu

nguyện Thượng đế để làm cho nó thành da trắng. Một

sáng nó thức dậy và thấy rằng da nó đã thành trắng. Nó

nhảy ra khỏi giường rất kích động và kêu lên, "Mẹ ơi,

mẹ! Trông này, con đã thành da trắng rồi!"

Từ nhà bếp, mẹ đáp lại, "Im đi, Tommy, mẹ phát

chán với con. Kể chuyện đó cho bố con đi."

Tom đi vào buồng tắm. "Bố ơi, bố! Trông này, bây

giờ con trắng rồi."

Người bố thậm chí không rời mắt khỏi tấm gương.

Ông ta nói với giọng mệt mỏi, "Ồ Tommy, xin con, bố

không có thời gian đâu. Đi mà kể cho chị con điều vô

nghĩa đó."

Tom càng phân vân hơn. Nó đi tới chị nó. "Chị

Mary, chị Mary này, chị nhìn em chưa? Thượng đế đã

làm phép màu - da em thành trắng rồi!"

Mary trả lời, "Cút xéo ngay, cậu cả! Chị bị muộn

rồi, chị đi đây."

Tại điểm này Tom hoàn toàn bực mình, và nhìn vào

đồng hồ của mình nó nói, "Hay thật, mình đã trắng trong

năm phút nhưng mình không thể chịu đựng được những

kẻ da đen này thêm nữa!"

Không tới dễ dàng, không đã trở thành cách sống

của chúng ta.

Bạn hỏi tôi, Satyamo, "Tôi cảm thấy sửng sốt là

chẳng có lí do nào để nói không. "

Vâng, chẳng có lí do nào để nói không cả. Và nếu

bạn có thể tránh việc nói không máy móc, nếu đôi khi

thực sự có lí do để nói không, cái không của bạn sẽ có

giá trị khẳng định; nó sẽ không phải là phủ định. Người

sống trong bầu không khí của có đôi khi có thể phải nói

không, nhưng cái không của người đó sẽ không có tính

phủ định, nó không thể thế được. Và ngược lại. Người

sống trong bầu không khí của không, cho dù người đó

thỉnh thoảng nói có, nó vẫn không có tính khẳng định,

nó không phải là có thực; nó chỉ là không trá hình. Giá

trị của nó là phủ định.

Bạn nói, "Có của tôi bao giờ cũng thay cho không."

Lúc ban đầu nó nhất định là như vậy. Bạn đã trở nên

quen nói không tới mức có đầu tiên của bạn sẽ là thay

cho không. Nhưng đó chưa phải là có thực, nó chỉ là cái

thế vào; nó sẽ có cái gì đó khác của không trong nó, cái

bẩn thỉu nào đó của không sẽ vẫn còn bám lấy cái có

này. Cứ dường như cốc của bạn bẩn và bạn rót trà vào

trong nó và trà của bạn trở nên bị bẩn. Nếu có của bạn

chỉ là cái thay thế cho không, nếu nó được thay thế cho

không, thế thì nó sẽ có phẩm chất nào đó của không vẫn

còn bám víu vào nó. Nhưng lúc ban đầu nó nhất định là

như vậy, cho nên đừng lo nghĩ về nó. Lau sạch cốc của

bạn thêm chút nữa đi!

Bắt đầu nói có chẳng bởi lí do nào hết cả, cũng như

bạn đã từng nói không mãi cho tới giờ chẳng bởi lí do

nào cả. Nó có thể là một trong những lời tụng hay nhất,

còn tốt hơn nhiều so với lẩm nhẩm "Rama, Rama,

Krishna, Krishna, Jesus, Jesus." Tốt hơn nhiều và ý

nghĩa hơn nhiều, có nghĩa hơn nhiều sẽ là ngồi im lặng

và lặp lại một cách có nghĩa, có ý thức, "Có, có, có." Nó

có thể là một mật chú đi sâu hơn nhiều so với bất kì mật

chú nào đã từng có, bởi vì Rama và Krishna và Jesus đã

ở xa xôi rồi, họ chỉ còn là chuyện kể; bạn không thể

thực sự có quan hệ với họ được. Thế giới đã thay đổi

nhiều tới mức họ không thể nhiều hơn là chuyện kể.

Tôi đã nghe nói rằng Jesus quay lại sau một nghìn

tám trăm năm chỉ để có cái nhìn vào thế giới này, để

xem mọi sự diễn ra thế nào - hi vọng rằng mọi sự phải

đã thay đổi bây giờ rồi. Một nghìn tám trăm năm của Ki

tô giáo, hàng nghìn và hàng nghìn linh mục Ki tô giáo

trên khắp thế giới, hàng nghìn nhà thờ - thế giới phải đã

thay đổi rồi!

Ông ấy tiếp đất trên bờ Hồ Galilee nơi ông ấy có

thời đã bước đi trên nước. Ngẫu nhiên một giáo sĩ đi dạo

buổi sáng tới đó. Jesus muốn gặp giáo sĩ này, xem ông

ta là ai, cho nên ông ấy bước lên nước. Giáo sĩ trông

phân vân chút ít. Jesus quay lại và nói với giáo sĩ, "Ông

có thấy điều ta vừa làm không?"

Giáo sĩ nói, "Có, tôi đã thấy. Sao ông không học bơi

như mọi người khác? Ông có điên hay cái gì không

thế?"

Thế giới đã thay đổi rồi!

Tôi đã nghe nói về một giáo sĩ khác. Ông ta đã từ

Mĩ tới thăm Đất Thánh. Ông ta đi qua Hồ Galilee - ông

ta muốn xem chỗ này nữa - và ông ta hỏi người chèo

thuyền phải tốn bao nhiêu; ông ta muốn có chuyến đi

vòng quanh hồ. "Ông có thể đưa tôi sang bờ bên kia rồi

về không?"

Người chèo thuyền nói, "Năm mươi đô la."

Giáo sĩ nói, "Thế thì nhiều quá! Tôi đã thấy cái hồ

lớn hơn hồ này và tôi chưa bao giờ trả nhiều hơn năm đô

la. Năm mươi sao...?"

Người chèo thuyền nói, "Nhưng ông không nhận ra

sao, thưa giáo sĩ, rằng đây là chỗ Chúa của chúng ta đã

bước đi trên nước!"

Giáo sĩ nói, "Xem cái giá ấy, bất kì ai cũng sẽ bước

đi trên nước! Tôi không thể trả năm mươi đô la được -

và tôi tới từ Mĩ. Con ông thợ mộc nghèo ấy, làm sao ông

ta có thể trả được năm mươi đô la?"

Thế giới đã thay đổi rồi. Nếu những người này,

Jesus và Krishna và Rama, đột nhiên xuống đất bây giờ,

họ sẽ không được thừa nhận đâu, họ sẽ bị coi là điên

khùng. Họ sẽ trông kì dị thế, họ sẽ trông cứ dường như

họ đang tới từ một bộ phim, từ một cuốn phim - phim

kiểu như Mười lời răn! Họ sẽ trông không thực.

Nhưng có có thể là vấn đề hoàn toàn khác.

"Jesus" bạn sẽ lặp lại một cách máy móc, nhưng nói

"Có...," thực sự ngụ ý nó ... cúi mình xuống đất và nói

có... Nằm trên đất trần trụi và nói có với đất cứ dường

như đất là mẹ của bạn, cái đang đó... bơi trong hồ và nói

có với nước, không chỉ nói điều đó, mà cảm thấy nó ở

khắp nơi, từng thớ thịt của con người bạn, từng tế bào

của con người bạn đập rộn ràng với có... tắm nắng và

nói có, không bằng lời đâu, tôi định nói thế, mà bằng sự

tồn tại... hiện hữu trong tâm trạng của có... đón nhận mặt

trời, đón chào mặt trời và cát và đường viền của cát, và

cái mát mẻ của gió... đón chào mọi món quà này của

Thượng đế mà cứ mưa rào hoài lên bạn - và bạn thậm

chí không cảm thấy biết ơn.

Có là biết ơn.

Không là xấu, là vô ơn.

Nhưng lúc ban đầu, Satyamo này, nó sẽ là như thế

đấy: có của bạn sẽ chỉ là cái thay thế cho không. Nhưng

nó là sự bắt đầu tốt. Dần dần, dần dần bạn sẽ đi tới có,

không phải là thay thế cho không mà có gốc rễ riêng của

nó trong bản thể bạn. Khi có đó đã xảy ra cho bạn mà

không có tham chiếu tới không - không phải là nó không

chỉ thay thế cho không mà nó không có tham chiếu nào

tới không, nó không phải là cái đối lập của không, nó

không có âm hưởng của không chút nào; bạn đã quên

mất không, chỉ có tồn tại, cứ dường như không có từ đối

lập cho nó - đó là đỉnh tối thượng của có.

Trong khoảnh khắc đó có trở thành lời cầu nguyện,

trong khoảnh khắc đó có trở thành cây cầu. Bản ngã

biến mất, tách biệt mất đi. Người ta cảm thấy là một với

cái toàn thể.

Bạn hỏi tôi, "Đâu là chỗ của kinh nghiệm này, cái có

này...?"

Trái tim là chỗ đấy. Chỗ của không là cái đầu; chỗ

của có là trái tim. Chúng không tới từ cùng một chỗ,

chúng không tới từ cùng một thế giới. Chúng hoàn toàn

khác. Trong từ điển chúng thuộc về nhau, nhưng trong

bản thân sự tồn tại chúng là hoàn toàn khác nhau - bình

diện khác nhau, chiều hướng khác nhau.

****************************************************

#10Câu hỏi cuối cùng:

Thưa Thầy kính yêu,

Sao mọi người nghĩ khác nhau thế?

Govind, suy nghĩ không bao giờ có thể là như nhau

được. Ở đây có ba nghìn sannyasin ngồi quanh tôi - ba

nghìn sannyasin nghĩa là ba triệu tâm trí. Một sannyasin

không có nghĩa là một tâm trí đâu - nhiều, cả nghìn, đám

đông. Từng người đều là đám đông, và từng người là

đám đông khác nhau, bởi vì từng người đều được nuôi

dưỡng lớn lên theo cách khác nhau.

Ai đó đã được nuôi dưỡng lớn lên như người Ki tô

giáo và ai đó như người cộng sản - làm sao họ có thể

nghĩ theo cách tương tự được? Làm sao họ có thể tránh

được khác biệt? Và không chỉ khác nhau mà còn đối

kháng hướng tới nhau nữa? Ai đó đã được nuôi lớn như

người Ấn Độ và ai đó như người Trung Quốc - làm sao

họ có thể nghĩ theo cùng một nhịp được? Không thể

được.

Suy nghĩ tới từ bên ngoài - giáo dưỡng, giáo dục,

ước định, văn hoá. Và không có cách nào để đặt hai

người vào trong cùng một tình huống - ngay cả anh chị

em sinh đôi cũng không nghĩ theo cùng cách. Không có

cách nào cả để đặt hai người đích xác vào trong cùng

một tình huống. Ngay cả anh chị em sinh đôi trong cùng

một gia đình cũng sẽ có ước định khác nhau, bởi vì

người mẹ có thể yêu đứa con này hơn đứa con kia;

người bố có thể có ưa thích ngược lại. Đứa trẻ này có

thể yếu đuối thể chất, đứa trẻ khác có thể không; đứa trẻ

này có thể ốm nhiều hay ít, đứa trẻ khác có thể mạnh

khoẻ. Đứa trẻ này có thể thích điền kinh bởi vì nó mạnh

khoẻ, đứa trẻ khác có thể tránh điền kinh bởi vì nó còn

ốm. Đứa trẻ chơi điền kinh sẽ có bạn khác với đứa trẻ

chưa bao giờ chơi điền kinh - nó sẽ có bạn khác - vân

vân và vân vân. Những khác biệt nhỏ tạo ra nhiều khác

biệt tới mức bạn không thể hình dung nổi.

Tương truyền là Napoleon vĩ đại vẫn còn sợ mèo cả

đời ông ấy. Ông ấy không sợ sư tử nhưng ông ấy sợ

mèo. Kì lạ! Ông ấy không sợ cái gì cả - ngay cả cái chết

cũng không sợ - nhưng trước con mèo ông ấy đơn giản

không còn ý thức. Khi ông ấy mới là đứa trẻ sáu tháng

tuổi, một con mèo hoang nhảy lên ngực ông ấy, và ông

ấy trở nên kinh hãi và nỗi sợ đi sâu vào trái tim ông ấy,

đi sâu vào vô thức ông ấy tới mức ông ấy không có khả

năng vượt qua nó.

Tương truyền là ông ấy đã bị thất bại chỉ một lần

trong đời mình, trong cuộc chiến cuối cùng với Nelson.

Nelson đem bẩy mươi con mèo tới làm kinh hoàng ông

ấy. Ngay tuyến trước của quân đội... trung đoàn đầu tiên

là mèo! Và khoảnh khắc Napoleon thấy bẩy mươi con

mèo - một con cũng đủ rồi! - ông ấy mất mọi thông

minh. Ông ấy bắt đầu run rẩy và vã mồ hôi.

Ông ấy bảo người chỉ huy thứ hai của mình, "Bây

giờ tôi không thể nghĩ được về quân đội!" - và ông ấy đã

thất bại. Công lao thuộc về mèo, không về Nelson. Các

bức tượng đã được dựng về Nelson và mọi người đã

quên mèo hoàn toàn. Tượng đáng phải được dựng cho

mèo; Nelson không phải là người chinh phục thực.

Những điều nhỏ bé... bây giờ, làm sao bạn có thể

tránh được những khác biệt nhỏ bé thế? Không thể

được. Ngay cả anh chị em sinh đôi cũng khó.

Cho nên hai người không thể được nuôi dưỡng theo

cùng một cách; do đó có khác biệt trong suy nghĩ. Khác

biệt chỉ biến mất khi bạn thiền. Nếu tất cả ba nghìn

sannyasin đều cùng trong trạng thái thiền ở đây - chỉ im

lặng, không ý nghĩ - thế thì không có ba nghìn sannyasin

chút nào, bởi vì ba nghìn số không gắn với nhau trở

thành một số không. Ba nghìn số không không phải là

ba nghìn số không đâu - chúng trở thành một số không.

Và đó là điều đang xảy ra, dần dần, dần dần. Bạn

càng trở nên có tính thiền, khác biệt của các bạn càng bị

rơi rụng đi. Đây có thể là chỗ duy nhất trên cả trái đất

nơi khác biệt đang biến mất. Người Mô ha mét giáo và

người Ki tô giáo và người Hindu và người Jaina và Phật

tử và người Parsis - họ tất cả cùng nhau, thậm chí không

nghĩ người khác thuộc vào tôn giáo nào. Người Thuỵ

Điển và người Đức và người Pháp và người Italia và

người Trung Quốc và người Nhật Bản và người Anh và

người Mĩ, mọi quốc tịch, và không ai để ý gì tới điều đó,

không ai thậm chí nghĩ tới điều đó. Điều này có thể là

giao cảm duy nhất xảy ra trên trái đất, tình anh em thực.

Và lí do không phải là ở chỗ tôi đang dạy bạn là anh

em, học dung thứ... Nhớ lấy, những người học dung thứ

vẫn còn không dung thứ. Chính từ 'dung thứ' là xấu.

Khoảnh khắc bạn nói, "Tôi có thể dung thứ cho người

khác," điều đó chỉ ra sự không dung thứ. Bạn có thể đã

kìm nén việc không dung thứ của mình, nhưng nó là

không dung thứ. Dung thứ người khác nghĩa là không

dung thứ - nó còn có thể ngụ ý gì khác được?

Ở đây, không ai dung thứ cho ai cả. Mọi người đơn

giản đã quên đi khác biệt, bởi vì chúng ta đang đi ra

khỏi tâm trí. Toàn thể nỗ lực của tôi là đem bạn ra khỏi

tâm trí. Nếu bạn vẫn còn trong tâm trí, bạn là khác. Nếu

bạn ra khỏi tâm trí, bạn là một. Thiền đem tới một loại

thống nhất mới mà không phải là sự tổng hợp. Tôi

không quan tâm tới việc tổng hợp Hindu giáo với Ki tô

giáo và Ki tô giáo với Hồi giáo và Hồi giáo với Phật

giáo. Điều đó tất cả là vô nghĩa.

Nỗ lực của tôi là hoàn toàn khác: tôi đang cố gắng

đem bạn ra khỏi tâm trí của bạn. Khi người Ki tô giáo ra

khỏi tâm trí mình người đó không còn là người Ki tô

giáo nữa, và khi người Hindu ra khỏi tâm trí mình người

đó không còn là người Hindu nữa. Nó không phải là sự

tổng hợp, nó là việc vứt bỏ tâm trí. Tâm trí tạo ra mọi

khác biệt.

Bạn hỏi tôi, Govind, "Sao mọi người lại nghĩ khác

nhau nhiều thế?"

Họ đã được giáo dưỡng khác nhau, họ đã được ước

định khác nhau. Họ không thể nghĩ như người khác nghĩ

được - điều đó là không thể được! Họ không thể diễn

giải cách người khác diễn giải. Người Do Thái có thể

đọc Tân Ước, nhưng nó sẽ không là cùng một cuốn sách

- mặc dầu nó vẫn là cùng một cuốn sách thấy được, nó

sẽ không là cùng cuốn sách mà người Ki tô giáo đọc,

bởi vì với người Do Thái, Jesus là kẻ phản bội, Jesus đã

phản bội Do Thái giáo. Bây giờ điều đó bắt rễ rất sâu.

Người Ki tô giáo đọc Tân Ước không phải là đọc cuốn

sách thường đâu - nó là điều linh thiêng nhất của điều

linh thiêng. Jesus là đứa con duy nhất của Thượng đế.

Khi người Hindu đọc cùng cuốn sách đó, người đó

đọc nó một cách dửng dưng; nó chẳng thành vấn đề gì

mấy. Và người đó cứ so sánh nó với Upanishad và Gita

và thấy nó nghèo nàn. Không phải là nó nghèo nàn đâu -

người đó đọc Gita theo cách khác. Đó là bài ca của Trời

và đây chỉ là con ông thợ mộc, Jesus - làm sao ông ta có

thể sánh được với Krishna?

Krishna là hoá thân của Thượng đế, và người này

Jesus dường như là đứa con thông minh. Krishna trực

tiếp tới từ thiên đường thứ bẩy. Krishna là vô song, ông

ấy là thầy hoàn hảo. Jesus là tốt; người ta có thể nói

nhiều nhất, "một người tốt." Việc so sánh từ chính lúc

đầu trở thành không thể được.

Người Jaina đọc Gita, nhưng người đó không thể

đọc nó theo cách người Hindu đọc nó. Mắt họ khác,

cảnh quan của họ khác. Kinh sách của người Jaina nói

rằng Krishna đã rơi vào địa ngục bởi vì ông ấy là

nguyên nhân của cuộc chiến tranh lớn này. Arjuna

dường như ở gần trái tim của người Jaina, bởi vì Arjuna

đã nói, "Tôi không muốn đánh nhau, tôi không muốn

giết hại. Phỏng có ích gì mà đi giết những người này?

Chỉ vì vương quốc sao? Và một ngày nào đó cái chết

của tôi sẽ tới và vương quốc đó sẽ mất đi, cho nên vấn

đề là gì? Tôi sẽ từ bỏ, tôi sẽ trở thành sư."

Và nếu như ông ấy đã trốn đi thì có mọi khả năng

ông ấy trở thành sư Jaina. Nếu bạn thực sự muốn trở

thành sư thế thì cách tốt nhất là trở thành sư Jaina, bởi vì

đó là loại sư tệ nhất có thể có. Các sư khác làng nhàng

thôi; sư Jaina mới thực sự là sư! Bạn không thể nào cải

tiến được điều đó.

Nhưng Krishna đã thuyết phục Arjuna đừng trốn đi.

Ông ấy phải đã là người như tôi, người nói, "Đây là trốn

chạy. Anh là kẻ hèn nhát. Sống trong thế giới đi! Đánh

nhau đi! - bởi vì anh là chiến binh, và đó là kiểu người

của anh. Anh không thể là sư được, đó không phải là

bản tính của anh. Đi theo bản tính của anh."

Krishna nói với Arjuna, "Swadharme nidhanam

shreyah pardharmo bhayawahah." Đừng bao giờ theo ý

niệm của bất kì ai khác - điều đó là rất nguy hiểm bởi vì

anh sẽ trở thành kẻ bắt chước. Bao giờ cũng theo bản

tính riêng của anh, tự tính; chỉ thế thì anh mới đạt tới tự

do. Chết đi mà theo bản tính của người ta còn tốt hơn là

sống theo bản tính của ai đó khác, bởi vì điều đó sẽ là

cuộc sống rởm. Chết đi theo bản tính của người ta là

đẹp, bởi vì cái chết đó nữa sẽ là đích thực.

Krishna đã thuyết phục Arjuna - đó là cách toàn thể

Gita được sinh ra. Nó là đối thoại giữa Arjuna và

Krishna. Arjuna đã cố gắng để trốn đi còn Krishna kéo

anh ta trở lại thế giới - và cuối cùng ông ta đã thành

công.

Người Jaina đã rất giận - họ bị mất một sư tốt. Họ

đã ném Krishna vào địa ngục thứ bẩy trong một thời kì

rất dài, bởi vì ông ấy là nguyên nhân của cái chết của

hàng triệu người. Ấn Độ chưa bao giờ biết tới một cuộc

chiến tranh lớn hơn kể từ đó. Bây giờ, làm sao một

người Jaina có thể đọc Gita với cùng cách diễn giải như

người Hindu được? Không thể được. Từ chính lúc ban

đầu tâm trí đã bị định kiến rồi.

Mọi người nhất định nghĩ khác nhau, bởi vì họ được

nuôi lớn khác nhau, trong các tôn giáo khác nhau, qua

các tu sĩ khác nhau, các trường học khác nhau, các cao

đẳng khác nhau, các đại học khác nhau. Họ đã được

nuôi dưỡng bằng các ý niệm, các ý thức hệ khác nhau -

họ nhất định nghĩ khác nhau. Và không có cách nào làm

cho họ nghĩ tương tự - không thể được.

Cách có thể duy nhất là đem họ ra khỏi tâm trí họ.

Thế thì họ trượt ra khỏi toàn bộ việc giáo dưỡng. Thế thì

đột nhiên có tính một; thế thì bạn nhìn bằng con mắt

thuần khiết, không bị vấy bẩn bởi văn hoá và truyền

thống; thế thì bạn nhìn thực sự mọi thứ như chúng vậy,

không như bạn tưởng là nhìn chúng. Bạn trở thành tấm

gương thuần khiết.

Suy nghĩ không bao giờ có thể tạo ra một thế giới:

chỉ thiền mới có thể tạo ra một thế giới.

Clusky tới thú tội lần đầu tiên trong hai mươi nhăm

năm. "Kể cho ta," linh mục hỏi, "con đã ngủ với đàn bà

phải không?"

"Ấy à, không, thưa Cha," Clusky đáp.

"Bây giờ, con trai," linh mục nói, "ta sẽ lại hỏi con.

Con đã bao giờ ngủ với đàn bà chưa?"

"À, ấy, à - không, thưa Cha!"

"Chỉ có con và ta và Thượng đế nghe thôi. Ta sẽ hỏi

con một lần nữa. Trong hai mươi nhăm năm qua, con đã

bao giờ ngủ với đàn bà chưa?"

"Thế này, e hèm, để con nghĩ về nó, thưa Cha,"

Clusky nói, "con đã ngủ lơ mơ một hay hai lần!"

Bây giờ bạn thấy khác biệt đấy: mọi người nghe

theo ý niệm của họ. Và điều đó là tự nhiên...

Claude đang ngồi tại quán cà phê vỉa hè nhấm nháp

cốc rượu. Vừa lúc đó anh bạn anh ta Rene chạy tới anh

ta.

"Claude," anh ta hổn hển, "tớ vừa thấy một người

đàn ông đi vào nhà cậu."

"Người này là ai thế, Rene? Người đó trông thế

nào?"

"Anh ta cao mét tám và có tóc đen và râu đen,"

Rene tường thuật.

"Và anh ta đội mũ ca rô với chiếc áo sơ mi Basque

kẻ sọc chứ gì?" Claude hỏi.

"Đúng," Rene đồng ý. "Cậu đã mô tả đúng người

này rồi."

"Đó là Pierre," anh ta nói. "Anh ta sẽ làm tình với

bất kì ai!"

Cả hai người đều nghĩ khác. Cách tiếp cận của họ

khác, thái độ của họ khác; thế thì kết luận trở thành

khác.

Foong, thợ giặt, đã ở Mĩ mười năm và vẫn gửi tiền

về cho vợ mình ở Trung Quốc, nói với nhân viên ngân

hàng một cách tự hào rằng vợ mình vừa mới có con mới.

"Nhưng ông Foong ơi," người thư kí nói, "ông đã ở

Mĩ mười năm."

"Vâng, vâng," người Trung Quốc nói một cách hạnh

phúc. "Tôi có lững người bạn dất tốt ở Trung Quốc."

Mọi người đầy những quan niệm khác nhau, triết lí

sống, cách thức nhìn vào mọi thứ; do đó họ nhất định

nghĩ khác. Suy nghĩ làm cho bạn khác với người khác,

tách rời người khác; suy nghĩ là chức năng của bản ngã.

Vô suy nghĩ... bỗng nhiên tất cả khác biệt bay hơi.

Và đó là điều tôi dạy, và đó là toàn thể thông điệp

của Phật là gì: Trở thành vô trí. Trở thành tâm thức

thuần khiết, bầu trời trống rỗng không đám mây ý nghĩ.

Thế thì bạn là ai - người Hindu, người Mô ha mét giáo,

người Ki tô giáo? Người Ấn Độ, người Nhật Bản, người

Đức? Người da đen, người da trắng? Đàn ông, đàn bà?

Bạn là ai? Trẻ, già? Giầu, nghèo? Nổi tiếng, khét tiếng?

Bạn là ai? Mọi khác biệt này biến mất. Bạn là im lặng

thuần khiết.

Im lặng đó là cái ta tối cao của bạn. Đạt tới nó là đạt

tới niết bàn. Đạt tới nó là sẵn có cho phúc lành, cho mọi

ân huệ của Thượng đế.

Thiền ngày một nhiều hơn để cho bạn có thể biến

mất, để cho bạn có thể cho phép Thượng đế hiện hữu.

Khoảnh khắc bạn không có, Thượng đế có - và Thượng

đế là một, và bạn là nhiều. Không chỉ bên ngoài bạn là

nhiều, bên trong bạn cũng là nhiều. Và khi bạn biến mất

- cái nhiều biến mất từ bên trong và từ bên ngoài - thế

thì đây tất cả đều là sóng của cùng một đại dương.

Và biết đại dương, cái ẩn đằng sau mọi con sóng đủ

hình thái, màu sắc, hình dạng khác nhau là biết tới chân

lí.

Và chân lí giải thoát.

Aes dhammo sanantano - đây là luật tối thượng,

không cạn, rằng chân lí giải thoát.

Đủ cho hôm nay.

END

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top