Con đường của Phật (Tập 4)
OSHO
Dhammapada: Con đường của Phật
The Dhammapada: The Way of the Buddha
Tập 4
Đây là con đường đi tới chân lí tối thượng
Mục lục
1. Tốt hơn một trăm năm
2. Qua siêu việt
3. Chóng làm điều thiện
4. Chân lí rất đơn giản
5. Bụi ngược gió
6. Đây có là con đường không?
7. Thấy bản thân bạn trong người khác
8. Thiền chút ít
9. Thức tỉnh với luật
10. Aes dhammo sanantano
Về Osho
***********************************************************************************************************
#1 Tốt hơn một trăm năm
**Tốt hơn một trăm năm gây hại
là một ngày dành cho suy tư.
Tốt hơn một trăm năm dốt nát
là một ngày trong nghĩ suy.
Tốt hơn một trăm năm nhàn rỗi
là một ngày dành cho quyết tâm.
Tốt hơn nên sống một ngày trong ngạc nhiên
về cách mọi sự nảy sinh và trôi qua.
Tốt hơn nên sống một giờ trong việc thấy
một cuộc sống bên ngoài con đường.
Tốt hơn nên sống một khoảnh khắc
trong khoảnh khắc của con đường bên ngoài con
đường.**
Phật Gautama đã nêu ra câu hỏi quan trọng nhất cho
mọi người có khả năng truy tìm vào chân lí, vào cuộc
sống, vào sự tồn tại. Câu hỏi quan trọng nhất của tất cả
các câu hỏi là: Hạnh phúc thực là gì? Và có khả năng để
đạt tới nó không? Hạnh phúc thực có là có thể có không,
hay mọi thứ đều nhất thời? Cuộc sống chỉ là giấc mơ,
hay có cái gì đó bản chất trong nó nữa? Cuộc sống có
bắt đầu bằng sinh và kết thúc bằng tử không, hay có cái
gì đó siêu việt lên trên sinh và tử? Bởi vì không có cái
vĩnh hằng không có khả năng nào cho hạnh phúc thực
cả. Với cái nhất thời, hạnh phúc sẽ vẫn còn phù du:
khoảnh khắc này nó có đấy, khoảnh khắc khác nó qua
rồi, và bạn bị bỏ lại trong thất vọng và bóng tối lớn lao.
Đó là cách nó hiện hữu trong cuộc sống đời thường,
trong cuộc sống của người chưa thức tỉnh. Có những
khoảnh khắc của phúc lạc và có những khoảnh khắc của
khổ; nó tất cả đều bị trộn lẫn, hẩu lốn. Bạn không thể
giữ cho những khoảnh khắc hạnh phúc đó tới bạn được.
Chúng tới theo cách riêng của chúng và chúng biến mất
theo cách riêng của chúng; bạn không là người chủ. Và
bạn không thể tránh được những khoảnh khắc của khổ;
chúng nữa cũng có sự dai dẳng riêng của chúng. Chúng
tới theo cách riêng của chúng và chúng cứ theo cách
riêng của chúng; bạn đơn giản là nạn nhân. Và giữa hai
điều này - hạnh phúc và bất hạnh - bạn bị giằng xé. Bạn
chưa bao giờ được để lại trong thoải mái.
Việc bị giằng xé này vào đủ mọi loại nhị nguyên...
Nhị nguyên của hạnh phúc và bất hạnh là nền tảng nhất
và có tính triệu chứng nhất, nhưng có cả nghìn lẻ một
nhị nguyên: nhị nguyên của yêu và ghét, nhị nguyên của
sống và chết, ngày và đêm, mùa hè và mùa đông, thanh
niên và tuổi già, và cứ thế mãi. Nhưng nhị nguyên nền
tảng, nhị nguyên biểu thị cho tất cả các nhị nguyên khác,
là nhị nguyên của hạnh phúc và bất hạnh. Và bạn bị
giằng xé, bị co kéo sang các chiều hướng đối lập cực,
khác nhau. Bạn không thể thấy thoải mái được: bạn
đang trong không thoải mái.
Theo chư phật con người là không thoải mái. Không
thoải mái này là tuyệt đối - hay nó có thể được siêu việt
lên?
Do đó câu hỏi cơ sở và nền tảng là: Hạnh phúc thực
là gì? Chắc chắn hạnh phúc mà chúng ta biết không phải
là thực; nó là chất liệu mơ và nó bao giờ cũng biến
thành cái đối lập riêng của nó. Cái có vẻ như hạnh phúc
khoảnh khắc này biến thành bất hạnh khoảnh khắc tiếp.
Hạnh phúc biến thành bất hạnh đơn giản chỉ ra rằng
hai điều này không tách rời - có thể là hai mặt của cùng
một đồng tiền. Và nếu bạn có mặt này của đồng tiền,
mặt kia bao giờ cũng có đó ẩn kín sau nó, chờ đợi cơ hội
của nó để khẳng định - và bạn biết điều đó. Khi bạn
hạnh phúc, sâu bên dưới ở đâu đó là nỗi sợ lẩn lút rằng
nó sẽ không kéo dài, rằng sớm hay muộn nó sẽ trôi qua,
rằng đêm đang hạ xuống, rằng bất kì khoảnh khắc nào
bạn cũng sẽ bị nhận chìm vào trong bóng tối, rằng ánh
sáng này chỉ là tưởng tượng - nó không thể giúp bạn
được, nó không thể đưa bạn sang bờ bên kia.
Hạnh phúc của bạn không thực là hạnh phúc mà chỉ
là bất hạnh ẩn kín. Yêu của bạn không phải là yêu mà
chỉ là mặt nạ cho ghét của bạn. Từ bi của bạn không là
gì khác ngoài giận dữ của bạn - được trau chuốt, được
làm tinh vi, có giáo dục, có văn hoá, có văn minh, nhưng
từ bi của bạn không là gì khác hơn giận dữ. Nhạy cảm
của bạn không thực là nhạy cảm mà chỉ là bài tập tinh
thần, một thái độ và cách tiếp cận nào đó được thực
hành.
Nhớ lấy: toàn thể nhân loại đã được nuôi dưỡng với
ý niệm rằng đức hạnh có thể được thực hành, rằng điều
thiện có thể được thực hành, rằng người ta có thể học
cách hạnh phúc, rằng người ta có thể xoay xở để hạnh
phúc, rằng điều ở bên trong quyền năng của bạn là tạo ra
tính cách nào đó mà đem tới hạnh phúc. Và đó tất cả đều
sai, hoàn toàn sai.
Điều đầu tiên cần được hiểu về hạnh phúc là ở chỗ
nó không thể được thực hành. Nó chỉ phải được phép,
bởi vì nó không phải là cái gì đó bạn tạo ra. Bất kì cái gì
bạn tạo ra đều sẽ vẫn còn là cái gì đó nhỏ hơn bạn, tí
hon hơn bạn. Điều bạn tạo ra không thể lớn hơn bạn
được. Bức tranh không thể lớn hơn bản thân hoạ sĩ được
và thơ ca không thể lớn hơn nhà thơ được. Bài ca của
bạn nhất định là cái gì đó nhỏ hơn bạn.
Nếu bạn thực hành hạnh phúc bạn bao giờ cũng sẽ ở
đó ở đằng sau, với mọi ngu xuẩn của bạn, với mọi trò
bản ngã của bạn, với mọi dốt nát của bạn, với mọi hỗn
độn của tâm trí bạn. Với tâm trí hỗn độn này bạn không
thể tạo ra được hài hoà, bạn không thể tạo ra được
duyên dáng. Duyên dáng bao giờ cũng giáng xuống từ
cõi bên kia; nó phải được đón nhận như món quà trong
tin cậy vô cùng, trong buông xuôi toàn bộ. Trong trạng
thái của buông bỏ, hạnh phúc thực xảy ra.
Nhưng chúng ta đã được bảo phải thành đạt, tham
vọng. Toàn thể tâm trí chúng ta đã được trau dồi để là
tâm trí của kẻ thành đạt. Toàn thể nền giáo dục, văn hoá,
tôn giáo, chúng tất cả đều phụ thuộc vào quan niệm này
rằng con người phải có tham vọng; chỉ người tham vọng
mới có khả năng đạt tới sự hoàn thành. Điều đó chưa
bao giờ xảy ra cả, nó sẽ không bao giờ xảy ra, nhưng dốt
nát là sâu tới mức chúng ta cứ tin vào điều vô nghĩa này.
Không người tham vọng nào đã từng hạnh phúc;
thực ra, người tham vọng là người bất hạnh nhất trên thế
giới. Nhưng chúng ta cứ huấn luyện cho trẻ em tham
vọng: "Là người thứ nhất, đứng đầu, và con sẽ hạnh
phúc!" Và bạn đã bao giờ thấy người nào đứng đầu và
hạnh phúc không? Alexander có hạnh phúc không khi
ông ấy trở thành người chinh phục thế giới? Ông ấy là
một trong những người bất hạnh nhất đã từng sống trên
trái đất này. Nhìn thấy phúc lạc của Diogenes ông ấy đã
trở nên ghen tị. Trở nên ghen tị với kẻ ăn xin...?
Diogenes là người ăn xin; ông ấy chẳng có gì, không
có thậm chí cả bình bát ăn xin. Ít nhất Phật còn có bình
bát ăn xin cùng ông ấy và ba áo choàng. Diogenes ở trần
và không có bình bát ăn xin. Lúc ban đầu ông ấy thường
mang bình bát ăn xin; ông ấy phải đã có ý tưởng này từ
phương Đông. Ông ấy là người đích xác như Phật,
Mahavira - giống Mahavira hơn. Mahavira cũng sống
trần không có bình bát ăn xin; tay ông ấy là bình bát ăn
xin của ông ấy.
Một hôm Diogenes đi ra sông với bình bát ăn xin
của mình. Ông ấy khát, trời thì nóng, và ông ấy muốn
uống nước. Và thế rồi trên đường, ngay khi ông ấy ở
trên bờ, một con chó đi qua ông ấy, chạy tới, thở hồng
hộc, nhảy xuống sông, tắm táp ngon lành, uống nước
thoả thích. Ý tưởng nảy sinh trong tâm trí của Diogenes:
"Con chó này còn tự do hơn mình - nó không phải mang
bình bát ăn xin. Và nếu nó có thể xoay xở được, sao
mình không thể xoay xở mà không có bình bát ăn xin?
Đây là của cải duy nhất của mình, và mình phải để mắt
tới nó bởi vì nó có thể bị đánh cắp. Ngay cả trong đêm
một hay hai lần mình phải cảm xem nó vẫn còn đó hay
mất rồi."
Ông ấy quẳng cái bình bát ăn xin xuống sông, cúi
lạy con chó, cám ơn nó về thông điệp lớn lao mà nó đã
mang tới cho ông ấy từ Thượng đế.
Con người này, người không có gì cả, đã tạo ra ghen
tị trong tâm trí của Alexander. Ông ta phải đã khổ sở
làm sao! Ông ta thú nhận với Diogenes rằng, "Nếu như
Thượng đế cho ta sinh ra, ta sẽ yêu cầu ngài, 'Lần này,
xin ngài đừng làm con thành Alexander nữa - làm con
thành Diogenes.'"
Diogenes cười ngất, và ông ấy gọi con chó tới - bởi
vì họ đã trở thành bạn bè bây giờ, họ đã bắt đầu sống
cùng nhau - ông ấy gọi con chó lại và ông ấy nói,
"Trông đấy, nghe đấy, ông ta đang nói vô nghĩa làm sao!
kiếp sau ông ấy muốn là Diogenes! Sao lại kiếp sau?
Sao trì hoãn? Ai biết về kiếp sau? Ngay cả ngày mai
cũng không chắc chắn, khoảnh khắc tiếp là không chắc
chắn - nói gì tới kiếp sau! Nếu ông thực sự muốn là một
Diogenes, ông có thể là ngay khoảnh khắc này, ở đây
bây giờ. Vứt quần áo của ông xuống sông đi! Quên tất
cả về chinh phục thế giới đi! Điều đó là ngu xuẩn cực kì
và ông biết điều đó.
"Và ông đã thú nhận rằng ông khổ sở, và ông đã thú
nhận rằng Diogenes ở trạng thái tốt hơn nhiều, phúc lạc
hơn. Vậy sao không là Diogenes ngay bây giờ đi? Nằm
ra trên bờ sông nơi ta đang tắm nắng đây! Bờ sông này
đủ lớn cho cả hai ta."
Alexander không thể chấp nhận được lời mời này, dĩ
nhiên rồi. Ông ấy nói, "Cám ơn ông về lời mời. Ngay
bây giờ ta không thể làm điều đó được, nhưng kiếp
sau..."
Diogenes hỏi ông ta, "Ông định đi đâu? Và ông sẽ
làm gì cho dù ông đã chinh phục được thế giới?"
Alexander nói, "Thế thì ta sẽ nghỉ ngơi."
Diogenes nói, "Điều này dường như là tuyệt đối ngớ
ngẩn - bởi vì ta đang nghỉ ngơi ngay bây giờ đây!"
Nếu Alexander không hạnh phúc, nếu Adolf Hitler
không hạnh phúc, nếu Rockefellers và Carnegies không
hạnh phúc, những người có tất cả tiền bạc của thế giới
này, nếu họ không hạnh phúc, những người có tất cả
quyền lực trong thế giới này, nếu họ không hạnh phúc...
Bạn có quan sát ảnh của Jimmy Carter không? Tất
cả nụ cười đã biến mất bây giờ; bây giờ những cái răng
đó không phơi ra. Ông ấy thực sự có nụ cười đẹp, nhưng
nó đã mất đi đâu cả rồi? Ông ấy phải đã hạnh phúc hơn
nhiều so với ông ấy bây giờ. Mọi ngày khuôn mặt ông
ấy đều trở nên ngày một buồn hơn; ngày một lo âu, đau
khổ hơn, đang được biểu lộ.
Mới sáng nay tôi xem tin mới nhất. Khuôn mặt ông
ấy dường như đã trở nên quá già chỉ trong hai năm nay,
cứ dường như ông ấy đã già đi hai mươi tuổi. Ông ấy
phải khổ sở từ những cơn ác mộng. Mọi hi vọng đó ở
đâu rồi, rằng ông ấy sẽ hạnh phúc khi ông ấy trở thành
tổng thống?
Quan sát những người đã thành công trên thế giới và
bạn sẽ vứt bỏ ý niệm về thành công. Không cái gì thất
bại như thành công. Mặc dầu bạn đã được bảo rằng
không cái gì thành công như thành công, tôi nói với bạn
rằng không cái gì thất bại như thành công. Hạnh phúc
không liên quan gì tới thành công, hạnh phúc không liên
quan gì tới tham vọng, hạnh phúc không liên quan gì tới
tiền bạc, quyền lực, danh vọng. Nó là chiều hướng hoàn
toàn khác.
Hạnh phúc có cái gì đó liên quan tới tâm thức bạn,
không với tính cách của bạn. Để tôi nhắc nhở bạn. Tính
cách lại là việc trau dồi. Bạn có thể trở thành thánh nhân
và dầu vậy bạn sẽ không hạnh phúc, nếu tính thánh thiện
của bạn không là gì ngoài tính thánh thiện được công
phu. Và đó là cách mọi người trở thành thánh, Cơ đốc
giáo, Jaina giáo, Hindu giáo. Làm sao họ trở thành
thánh? Họ công phu từng li một, từng chi tiết, thức dậy
khi nào, ăn gì, không ăn gì, đi ngủ khi nào...
Những người này thậm chí thỉnh thoảng tới đây và
hỏi tôi tại sao tôi không cho các sannyasin của tôi kỉ luật
nào đó. Tôi cho họ tâm thức, không tính cách. Tôi
không tin vào tính cách chút nào. Tin cậy của tôi là vào
tâm thức. Nếu một người trở nên ý thức hơn, một cách
tự nhiên tính cách người đó được biến đổi. Nhưng việc
biến đổi đó là khác toàn bộ: nó không bị tâm trí quản lí -
nó là tự nhiên, nó là tự phát. Và bất kì khi nào tính cách
của bạn là tự nhiên và tự phát nó đều có cái đẹp của
riêng nó; bằng không bạn có thể cứ thay đổi... bạn có thể
vứt bỏ giận dữ của bạn, nhưng bạn sẽ vứt nó ở đâu? Bạn
sẽ phải vứt nó vào trong vô thức riêng của bạn. Bạn có
thể thay đổi phía bên này cuộc sống của bạn, nhưng bất
kì cái gì bạn ném đi sẽ bắt đầu tự diễn đạt nó ở góc khác
nào đó. Nó nhất định là như vậy. Bạn có thể chặn dòng
suối bằng tảng đá; nó sẽ bắt đầu chảy từ nơi nào đó khác
- bạn không thể phá huỷ được nó. Giận dữ có đó bởi vì
bạn vô ý thức, tham lam có đó bởi vì bạn vô ý thức, sở
hữu và ghen tị có đó bởi vì bạn vô ý thức.
Cho nên tôi không quan tâm tới việc thay đổi giận
dữ của bạn; điều đó sẽ giống như tỉa lá cây và hi vọng
rằng cây sẽ biến mất một ngày nào đó. Nó sẽ không như
vậy đâu; ngược lại, bạn càng tỉa cây sẽ càng có tán lá
dầy hơn.
Do đó cái gọi là thánh nhân của bạn là những người
không linh thiêng nhất trên thế giới, những kẻ giả vờ,
rởm. Vâng, nếu bạn nhìn từ bên ngoài họ có vẻ rất thánh
thiện - quá thánh thiện, quá nhiều đường saccharin, quá
ngọt, ngọt lợm mồm, phát buồn nôn. Bạn chỉ có thể tới
và bầy tỏ sự kính trọng với họ rồi trốn đi. Bạn không thể
sống được cùng các thánh nhân của mình cho dù hai
mươi bốn giờ - họ sẽ làm bạn chán tới chết! Bạn càng ở
gần họ, bạn sẽ càng bị thách đố, phân vân, lẫn lộn, bởi
vì bạn sẽ bắt đầu thấy rằng từ phía này họ đã ép buộc
giận dữ: nó đã đi vào phía bên kia của cuộc sống của họ.
Người thường thỉnh thoảng mới giận dữ, và giận dữ
của họ rất phù du, rất nhất thời. Thế rồi họ lại cười, họ
lại bạn bè; họ không mang vết thương quá lâu. Nhưng
cái gọi là thánh nhân của bạn, giận dữ của họ trở thành
gần như là chuyện thường xuyên; họ đơn giản giận dữ,
chẳng vào cái gì đặc biệt. Họ đã kìm nén giận dữ nhiều
tới mức bây giờ họ đơn giản giận dữ, trong trạng thái
cuồng nộ. Mắt họ sẽ bầy tỏ, mũi họ sẽ bầy tỏ, khuôn mặt
họ sẽ bầy tỏ, chính cách sống của họ sẽ bầy tỏ...
Lu Ting ăn ở cửa hàng ăn Hi Lạp bởi vì
Papadopoulos, ông chủ cửa hàng, làm món cơm rang
thực ngon. Mọi tối ông ấy sẽ tới và ông ấy gọi "mơm
dang."
Điều này bao giờ cũng làm cho Papadopoulos lăn
lộn ra cười. Thỉnh thoảng ông ấy có hai hay ba người
bạn đứng cạnh chỉ để nghe Lu Ting đặt món "mơm
dang."
Chung cuộc lòng tự hào của người Trung Quốc bị
tổn thương tới mức ông ấy đi học cách phát âm đặc biệt
chỉ để có thể nói "cơm rang" cho đúng.
Lần sau ông ấy tới cửa hàng ăn ông ấy nói rất rõ
ràng, "Cho cơm rang."
Không thể nào tin được vào tai mình, Papadopoulos
hỏi, "Ông nói gì vậy?"
Lu Ting quát lên, "Ông nghe điều tôi nói, déo mẹ
tằng Hi nạp!"
Điều đó cũng chẳng tạo ra khác biệt gì nhiều - từ
"mơm dang" bây giờ nó là "déo mẹ tằng Hi nạp"! Bạn
đóng cửa này, cửa khác lập tức mở ra. Đây không phải
là cách biến đổi.
Thay đổi tính cách của bạn là dễ dàng; công việc
thực bao gồm việc thay đổi tâm thức bạn, trong việc trở
nên có ý thức - ý thức hơn, ý thức mãnh liệt và đam mê
hơn. Khi bạn có ý thức không thể nào giận dữ được,
không thể nào tham lam được, không thể nào ghen tị
được, không thể nào tham vọng được.
Và khi tất cả giận dữ, tham lam, tham vọng, ghen tị,
sở hữu, thèm khát biến mất, năng lượng tham gia vào
chúng được thoát ra. Năng lượng đó trở thành phúc lạc
của bạn. Bây giờ nó không tới từ bên ngoài; bây giờ nó
đang xảy ra bên trong bản thể bạn, trong chỗ thầm kín
bên trong nhất của bản thể bạn.
Và khi năng lượng này sẵn có bạn trở thành trường
cảm nhận, bạn trở thành trường từ. Bạn hấp dẫn cõi bên
kia - bạn có thể gọi nó là "Thượng đế." Phật chưa bao
giờ gọi nó là "Thượng đế," ông ấy gọi nó là "cõi bên
kia"; đó là tên của ông ấy đặt cho Thượng đế. Khi bạn
trở thành trường từ, khi tất cả năng lượng mà đã bị bạn
làm phí hoài không cần thiết trong việc thu thập vô ý
thức của bạn, tích tụ lại bên trong bạn, các vũng bên
trong bạn, khi bạn trở thành cái hồ năng lượng, bạn bắt
đầu hấp dẫn các vì sao, bạn bắt đầu hấp dẫn cõi bên kia,
bạn bắt đầu hấp dẫn bản thân Thượng đế.
Và cuộc gặp gỡ của tâm thức của bạn với cõi bên
kia là điểm của phúc lạc, hạnh phúc thực. Nó không biết
gì về bất hạnh, nó là hạnh phúc thuần khiết. Nó không
biết gì tới chết, nó là sống thuần khiết. Nó không biết gì
tới bóng tối, nó là ánh sáng thuần khiết, và biết nó là
mục đích. Phật Gautama đã đi tìm điều này và một hôm,
sau cuộc vật lộn sáu năm, ông ấy đã đạt tới nó.
Bạn cũng có thể đạt tới nó, nhưng để tôi nhắc bạn:
bằng việc nói rằng bạn có thể đạt tới nó tôi không tạo ra
ham muốn đạt tới nó. Tôi đơn giản phát biểu một sự
kiện: rằng nếu bạn trở thành vũng năng lượng mênh
mông, không bị sao lãng bởi bất kì điều trần tục nào,
điều đó xảy ra. Nó là việc xảy ra nhiều hơn là việc làm.
Và tốt hơn cả nên gọi nó là phúc lạc hơn là hạnh phúc,
bởi vì hạnh phúc cho bạn cảm giác dường như nó là cái
gì đó tương tự như cái bạn biết là hạnh phúc. Cái bạn
biết là hạnh phúc thì không là gì ngoài trạng thái tương
đối.
Benson đi tới hiệu quần áo của Krantz để mua cho
mình bộ com lê. Anh ta thấy đúng kiểu mình muốn, thế
là anh ta lấy chiếc áo ra khỏi giá treo và thử mặc nó.
Krantz đi tới anh ta. "Được đấy, thưa ông. Trông nó
tuyệt với ông lắm."
"Nó có thể trông tuyệt đấy," Benson nói, "nhưng nó
chật khủng khiếp. Vai bó tức."
"Mặc quần vào đi," Krantz nói. "Chúng chật lắm,
ông sẽ quên hết về vai!"
Một hôm tôi thấy Mulla Nasruddin bước đi trên
đường trong thất vọng lớn lao, gần như suýt khóc. Tôi
hỏi anh ta, "Có chuyện gì thế? Sao anh khổ thế?"
Anh ta nói, "Giầy tôi rất nhỏ - tôi cần hai cỡ lớn hơn
- và chúng làm đau như địa ngục."
Tôi nói, "Nasruddin, thế thì sao anh không đổi
chúng đi?"
Anh ta nói, "Điều đó tôi không thể làm được."
Tôi hỏi anh ta, "Sao anh không thể làm được? Anh
có tiền cơ mà."
Anh ta nói, "Tôi có tiền, nhưng có nhiều thứ dính líu
trong nó. Cả ngày tôi chịu khổ bởi những chiếc giầy
này, và đến tối khi tôi về nhà, tôi ném đôi giày đi và tôi
rơi vào giường... Nó nhẹ tênh thế, cứ dường như người
ta đã tới thiên đường! Và đó là niềm vui duy nhất trong
đời tôi! Tôi không thể đổi đôi giầy này được - trong hai
mươi tư giờ đó là khoảnh khắc duy nhất của vui sướng.
Nếu tôi đổi đôi giầy này, khoảnh khắc đó cũng sẽ biến
mất. Thế thì chẳng cái gì còn lại cả."
Điều bạn gọi là hạnh phúc chỉ là vấn đề tương đối
thôi. Điều chư phật gọi là hạnh phúc mới là cái gì đó
tuyệt đối.
Một người Anh, một người Pháp và một người Nga
đang cố gắng định nghĩa hạnh phúc thực.
"Hạnh phúc thực," người Anh nói, "là khi bạn về
nhà mệt mỏi sau công việc và tìm thấy một chút rượu
gin và thuốc bổ đang chờ bạn."
"Anh người Anh chẳng có lãng mạn gì cả," người
Pháp phản đối. "Hạnh phúc thực là khi bạn đi công
chuyện, tìm thấy cô gái xinh xắn giải trí cho bạn, và thế
rồi các bạn chia đôi ngả mà không luyến tiếc gì."
"Cả hai anh đều sai," người Nga kết luận. "Hạnh
phúc thực đúng là khi bạn về nhà trên giường lúc bốn
giờ sáng và có tiếng gõ cửa trước ầm ầm và những thành
viên thường trực của cảnh sát bí mật tới nói với bạn,
'Igor Zhvkovski, anh bị bắt,' và bạn có khả năng đáp,
'Rất tiếc, Igor Zhvkovski sống ở nhà bên cạnh!'"
Hạnh phúc của bạn là hiện tượng tương đối. Điều
Phật gọi là hạnh phúc là cái gì đó tuyệt đối, không có
quan hệ với bất kì ai khác. Nó không trong so sánh với
ai đó khác; nó đơn giản là của bạn, nó là cái bên trong.
Và nó là việc xảy ra: cõi bên kia giáng vào bạn, đại
dương rơi vào trong giọt sương. Và khi đại dương rơi
vào trong giọt sương, giọt sương biến mất, biên giới của
nó biến mất. Nó trở thành vô biên như bản thân đại
dương; nó trở thành đại dương.
Phúc lạc là trạng thái đại dương... khi bạn biến mất
như một bản ngã, bị giới hạn, nhỏ bé, và trở thành
khổng lồ, to lớn, mênh mông và bao la như bản thân vũ
trụ.
Lời kinh:
**Tốt hơn một trăm năm gây hại
là một ngày dành cho suy tư.**
Khi có liên quan tới Phật bất kì điều gì bạn đang
làm cũng đều gây hoạ. Tại sao? Cho dù bạn đang làm
nghi lễ tôn giáo nào đó nó cũng là việc gây hoạ. Cho dù
bạn đang làm cái gì đó mà bạn cho là việc phục vụ quần
chúng, nó cũng là gây hoạ. Thực ra, người phục vụ quần
chúng là những người gây hoạ lớn nhất trên thế giới.
Nếu người phục vụ quần chúng biến mất khỏi thế giới
này, thế giới sẽ là chỗ tốt hơn nhiều để sống. Những nhà
cải cách xã hội và các nhà cách mạng chính trị và các
nhà truyền giáo tôn giáo, đây toàn là những lái buôn tai
hoạ thực. Họ không cho phép bạn sống trong an bình, họ
cứ lôi bạn từ ngu xuẩn này tới ngu xuẩn khác. Tất nhiên
họ giữ cho bạn bận bịu - đó là sự hấp dẫn của họ.
Bạn sợ bị nhàn rỗi bởi vì bất kì khi nào bạn nhàn rỗi
bạn đều phải đối diện với bản thân mình, và điều đó bạn
muốn né tránh, bởi vì bạn đã kìm nén nhiều cái xấu xí
thế trong mình tới mức nhìn vào bên trong là nhìn vào
địa ngục. Bạn không muốn nhìn vào trong. Bạn liên tục
trốn khỏi bản thân mình, cho nên bất kì cách trốn nào
cũng đều tốt.
Ai đó nói, "Trở thành người phục vụ quần chúng.
Để cho việc phục vụ là khẩu hiệu của bạn!" và bạn nói,
"Được rồi, vậy tôi sẽ phục vụ mọi người." Dù họ có
muốn được phục vụ hay không, điều đó không phải là
vấn đề. Cho dù họ không muốn được phục vụ bạn vẫn
phải phục vụ họ chống lại bản thân họ. Dù họ có muốn
chân lí của bạn hay không, điều đó không phải là vấn
đề. Nó phải được trao, nó phải bị áp vào họng họ!
Điều đó đã được những người tôn giáo thực hiện:
dưới mũi kiếm mọi người đã bị cải từ tôn giáo này sang
tôn giáo khác - ngược với ý chí của họ! Họ không muốn
lên thiên đường, ít nhất là không lên thiên đường của
bạn, nhưng bạn bị bắt phải đưa họ phải lên thiên đường -
từ bi của bạn tới mức bạn sẵn sàng giết họ hay bị giết!
Một nhà truyền giáo đang dạy trong một trường nhỏ
và ông ta nói rằng mọi đứa trẻ Ki tô giáo nên có thói
quen ít nhất mỗi tuần nên làm một hành động phục vụ
quần chúng. Một đứa trẻ nhỏ hỏi, "Chẳng hạn, loại việc
gì chúng con nên làm?"
Nhà truyền giáo cho vài ví dụ. Ông ấy nói, "Chẳng
hạn, bà già nào đó muốn đi qua phố mà xe cộ đi lại quá
nhiều - cầm tay bà ấy, giúp bà ấy đi qua phố." Vân vân,
vân vân.
Chủ nhật tới ông ấy hỏi, "Bao nhiêu người trong các
con đã làm hành động phục vụ quần chúng rồi?"
Ba đứa con trai - đứa khoẻ nhất và lớn nhất trong
lớp - đứng dậy. Chúng nói, "Chúng con đã làm một
hành động phục vụ quần chúng."
Nhà truyền giáo rất sung sướng. "Vậy con nói đi..."
Ông ấy hỏi đứa thứ nhất, "Con đã làm gì?"
Nó nói, "Con đã giúp một bà già, một bà rất già đi
qua phố."
Ông ấy vỗ nhẹ đứa trẻ và ông ấy nói, "Con là con
trai tốt. Tiếp tục làm những hành động tốt đó nhé." Ông
ấy hỏi đứa con trai tiếp, "Con đã làm gì?"
Nó nói, "Con cũng giúp một bà rất già đi qua phố."
Nhà truyền giáo có chút phân vân rằng cả hai đứa
nhỏ có thể tìm ra hai bà rất già, nhưng có nhiều bà già
chứ - điều đó là có thể. Ông ấy cũng vỗ nhẹ vào đứa trẻ
thứ hai, nhưng không nhiệt tình cho mấy. Với chút ít
hoài nghi ông ấy nói, "Tốt. Con cứ tiếp tục nhé."
Rồi ông ấy hỏi đứa thứ ba.
Đứa thứ ba nói, "Con cũng giúp một bà rất rất già đi
qua phố."
Bây giờ thế thì quá thể! Trùng hợp ngẫu nhiên như
vậy không thể được, rằng ba bà rất rất già muốn đi qua
phố. Và ông ấy hỏi, "Ngày nào, giờ nào?" Đó là cùng
một ngày, cùng một giờ và cùng một phố! Thế là ông ấy
nói, "Các con giải thích xem - làm sao các con tìm ra ba
bà rất rất già đó?"
Chúng nói, "Họ không phải là ba đâu - chỉ một bà
già thôi, rất rất già. Cả ba chúng con đều giúp bà ấy."
Ông ấy nói, "Điều đó nữa cũng tốt, nhưng phải cần
tới ba người cơ à?"
Chúng nói, "Ba chứ ạ? Mặc dầu bà ấy già, bà ấy làm
ầm ĩ cả lên bởi vì bà ấy chẳng bao giờ muốn đi sang bên
kia! Nhưng chúng con đã làm được. Khi người ta phải
làm hành động vì quần chúng, phục vụ quần chúng nào
đó, người ta phải làm nó chứ. Bà ấy la hét và chửi rủa
tùm lum và gọi cảnh sát, nhưng chúng con đã quyết tâm
làm điều đó và chúng con đã làm điều đó đấy!"
Khi có liên quan tới Phật, bất kì điều gì bạn đang
làm cũng đều gây hại bởi vì bất kì điều gì bạn làm cũng
đều được làm từ vô ý thức. Và bất kì hành động nào
được làm một cách có ý thức đều là đức hạnh.
Cuộc sống của bạn gần như cái vòng luẩn quẩn: điều
hại này dẫn tới điều hại khác và điều đó lại dẫn tới điều
khác nữa. Điều hại phát triển ra từ điều hại - chỉ điều hại
mới có thể phát triển từ điều hại thôi. Và bạn cứ sống và
đi trong vòng tròn và bạn không biết cái gì khác để làm.
Bạn làm điều tốt - ít nhất bạn nghĩ bạn đang làm điều tốt
- nhưng điều tốt không bao giờ xảy ra cả; bằng không
thì thế giới đã tràn ngập với điều tốt rồi.
Biết bao nhiêu người đang làm điều tốt - bố mẹ làm
điều tốt cho con cái, và con cái tốt ở đâu? Chồng đang
làm điều tốt cho vợ - và vợ thực sự theo sau chồng để
biến đổi họ, để thay đổi họ, để làm cho họ thành thánh
nhân. Nhưng những người chồng đó ở đâu và những
người vợ đó ở đâu và những đứa con đó ở đâu? Mọi
người đều cố gắng làm điều tốt theo quan niệm riêng
của mình - và người đó đang sống trong bóng tối sâu
sắc.
Nhưng quan niệm rằng "Tôi đang làm điều tốt" giúp
bản ngã của bạn được làm mạnh thêm, mặc dầu bạn cứ
đi trong cùng vòng tròn - bởi vì thông minh được cần tới
để là cái nguyên bản, để làm cái gì đó mới. Bạn chỉ biết
vài điều, vài thủ đoạn, và bạn càng già, càng khó học
những cái mới.
Họ nói bạn không thể dạy thủ đoạn mới cho con chó
già...
Kramanakis di cư tới New York. Ông ấy kiếm việc
làm qua họ hàng, người dạy ông ấy nói "Bánh táo và cà
phê" bằng tiếng Anh để cho ông ấy có thể gọi món trong
nhà hàng. Hôm sau, Kramanakis vào ăn tối.
"Ông muốn ăn gì?" người phục vụ hỏi.
"Bánh táo-a và-a cà phê," người di cư nói.
Vì đó là mọi điều ông ấy có thể nói nên ông ấy bị
buộc phải ăn bánh táo và cà phê mọi ngày trong cả
tháng. Khi ông ấy phàn nàn với ông anh họ, họ dạy ông
ấy nói "bánh mì kẹp thịt."
"Bằng lúa mì trắng hay đen" cô gái hỏi.
"Bánh táo-a và-a cà phê," người Hi Lạp nói.
Quan sát cuộc sống của bạn: "Bánh táo-a và-a cà
phê, bánh táo-a và-a cà phê..." Bạn cứ làm, lặp lại cùng
một điều, mọi ngày, hết ngày nọ tới ngày kia, năm nọ tới
năm kia. Cả đời bạn là một vòng tròn rất nhỏ: cùng giận
dữ, cùng tham lam, cùng tranh đấu, cùng từ ngữ, cùng lí
do, cùng động cơ. Đây có phải là cách để trưởng thành
không? Đây có phải là cách để trở nên có ý thức không?
Đây có phải là cách để biết khuôn mặt nguyên thuỷ của
bạn không? Bạn có hi vọng rằng đi trong vòng tròn nhỏ
này liên tục, máy móc, bạn sẽ đạt tới phúc lạc không?
Vứt mọi hi vọng đó đi.
Giáo sĩ Glucksman được ngồi cạnh mục sư theo
phái rửa tội Baptist trên chuyến bay tới New York. Cô
chiêu đãi viên tới họ và nói, "Tôi có thể phục vụ các ông
nước cốc tai được chứ?"
"Tôi muốn uống whisky chua," ông giáo sĩ nói.
"Bà trẻ," tu sĩ nói, "trước khi tôi để cho cốc rượu
này chạm môi tôi, tôi sẽ phạm ngay tội ngoại tình."
"Cô ơi," giáo sĩ Glucksman nói, "chừng nào mà có
chọn lựa, tôi sẽ làm điều ông ấy làm."
Bạn không chỉ cứ đi theo cùng vòng tròn nhỏ, bạn
lặp lại, bạn bắt chước người khác và cái ngu xuẩn của
họ. Bạn thường xuyên lặp lại, bạn thường xuyên nhìn
quanh vào điều đang được làm bởi ai. Bạn không sống
một cuộc sống từ bên trong; bạn là kẻ bắt chước. Toàn
thể mối quan tâm của bạn là phô trương: làm sao chỉ ra
rằng bạn tốt hơn người khác, làm sao chỉ ra rằng bạn
giầu hơn người khác, làm sao chỉ ra rằng bạn thông
minh hơn người khác. Thực ra, chỉ người không thông
minh mới tự so sánh mình với người khác. Người thực
sự thông minh không bao giờ so sánh, bởi vì từng cá
nhân đều là duy nhất và việc so sánh là không thể được.
Bà Zimmer thuê một người thiết kế nội thất để làm
trang trí lại ngôi nhà.
"Thôi được rồi," người trang trí nói, "bà thích nó
được làm như thế nào? Kiểu hiện đại chứ?"
"Tôi á, hiện đại sao? Không!" bà Zimmer nói.
"Thế kiểu Pháp vậy?"
"Kiểu Pháp à? Tôi sẽ về ngôi nhà Pháp ở đâu đây?"
"Có lẽ kiểu tỉnh lẻ Italia vậy?"
"Lạy trời đừng làm điều đó!"
"Thôi được, thưa bà, bà muốn thời đại nào?"
"Thời đại nào? Tôi muốn các bạn tôi bước vào, ngó
nhìn, và chết bất đắc kì tử, thời đại đấy!"
Mọi người đang sống chỉ để gây ấn tượng. Họ phải
thực sự rất nghèo bên trong, bởi vì chỉ người đang chịu
phức cảm tự ti mới muốn gây ấn tượng cho người khác.
Người thực sự cao siêu không bao giờ so sánh bản thân
mình với bất kì ai khác. Người đó biết mình là vô song;
không chỉ có thế, người đó biết người khác cũng vô
song như mình. Người đó không cao siêu không thấp
kém.
Cuộc cách mạng vô cùng này là có thể chỉ bởi một
chìa khoá bí mật, và đó là trở nên tỉnh táo hơn. Bạn càng
tỉnh táo, bạn càng ít lặp lại. Bạn càng tỉnh táo, bạn càng
thấy những cách thức mới để làm mọi thứ, bạn tìm thấy
những phong cách sống mới cho cuộc sống của mình.
Bạn càng tỉnh táo, bạn càng sáng tạo hơn, và chỉ người
sáng tạo mới biết hạnh phúc là gì. Điều bạn tạo ra không
phải là vấn đề - vấn đề là có tính sáng tạo. Nó có thể là
thơ ca, nó có thể là âm nhạc, nó có thể là điêu khắc, nó
có thể là bất kì cái gì, nhưng chính quá trình có tính sáng
tạo đem bạn tới điểm bạn gặp Thượng đế.
Mọi tôn giáo của thế giới đều nói Thượng đế là đấng
sáng tạo. Nếu ngài thực sự là đấng sáng tạo, thế thì cách
duy nhất để gặp ngài sẽ là trở thành đấng sáng tạo theo
chừng mực nào đó. Tất nhiên bạn không thể là đấng
sáng tạo như Thượng đế được, nhưng bạn có thể là đấng
sáng tạo nhỏ theo cách riêng của bạn. Khi nhà thơ đang
sáng tạo, khi hoạ sĩ đang sáng tạo, trong những khoảnh
khắc đó của tính sáng tạo, họ là một với Thượng đế. Đó
là những khoảnh khắc khi họ biết Thượng đế là gì.
Nhưng nhà thơ và hoạ sĩ và nhà điêu khắc chỉ ở những
đỉnh cao đó vài khoảnh khắc thôi, chỉ vài khoảnh khắc
họ biết sự viên mãn đó.
Nhà huyền môn, vị phật, thầy, sống ở đỉnh cao đó
hai mươi bốn giờ một ngày, bởi vì tính sáng tạo của ông
ấy là tinh tế; tính sáng tạo của ông ấy là không thấy
được, tính sáng tạo của ông ấy là vô hình. Ông ấy tạo ra
tâm thức. Trước tiên ông ấy tạo ra tâm thức trong bản
thân mình, thế rồi ông ấy bắt đầu tạo ra tâm thức trong
người khác.
Đó là cách thầy và đệ tử tụ hội với nhau, đó là cách
phật trường được tạo ra. Đó là cách hàng nghìn người
tìm kiếm bao quanh vị phật... bởi vì ông ấy tạo ra cái gì
đó mà không thế thấy được nhưng chỉ có thể cảm được
bởi những người mà vị phật đã xuyên thấu vào, trong
trái tim của họ ông ấy đã khuấy động cái gì đó đang ngủ
và đã làm cho nó động lên. Vị phật tạo ra tâm thức trong
bản thân mình trước và thế rồi trong những người đã sẵn
sàng và sẵn có và tin cậy và buông xuôi.
Tốt hơn một trăm năm gây hại là một ngày dành cho
suy tư. 'Suy tư' không phải là từ đúng; nhưng đó là vấn
đề, làm sao dịch sự sáng suốt phương Đông vào ngôn
ngữ phương Tây. Suy tư nghĩa là suy nghĩ về một chủ
đề một cách tập trung. Đó không phải là điều Phật ngụ ý
khi ngài dùng từ thiền dhyana. Dhyana nghĩa là trạng
thái của vô trí, trạng thái vô ý nghĩ; nó chính là cái đối
lập của suy tư. Suy tư không thể là từ đúng để dịch cho
nó. Nhưng tôi có thể hiểu được vấn đề này, khó khăn
của người dịch - không có từ khác. Dhyana thiền là một
trong những từ không thể dịch nổi.
Điều rất thông minh của người dịch Trung Quốc là
họ để từ đó không đổi. Dhyana trở thành ch'an ở Trung
Quốc; họ chưa bao giờ dịch nó. Nó lấy một dạng hơi
khác bởi vì dhyana trong tiếng Phạn. Buddha đã không
dùng tiếng Phạn mà dùng ngôn ngữ địa phương của
Bihar, tiếng Pali. Trong tiếng Pali dhyana là jhan; trong
tiếng Trung Quốc nó trở thành ch'an, được bỏ lại không
dịch bởi vì người dịch tiếng Trung Quốc đã đi tới hiểu
rằng nó không thể được dịch; mô tả nó thì tốt hơn là
dịch nó. Và điều đó cũng xảy ra ở Nhật Bản: khi nó tới
Nhật Bản, ch'an trở thành Zen; đầu tiên jhan và thế rồi
ch'an và thế rồi Zen - nhưng nó đã được để nguyên
không dịch.
Điều tốt nhất đối với các ngôn ngữ phương Tây sẽ là
để lại vài từ không dịch, bởi vì bạn không có từ nào
tương đương, bất kì từ nào bạn có, đều đã có nghĩa riêng
của nó.
Dhyana không phải là suy tư; suy tư là dạng suy
nghĩ thuần khiết nhất. Dhyana vượt ra ngoài ý nghĩ,
thậm chí bên ngoài ý nghĩ thuần khiết nhất, đi tới trạng
thái nơi mọi ý nghĩ đều dừng lại. Bạn hoàn toàn có ý
thức, nhưng không có nội dụng cho tâm thức bạn.
Phật nói: Tốt hơn một trăm năm gây hại là một ngày
dành cho suy tư. Chỉ một ngày là đủ; nếu một người có
thể vẫn còn trong thiền dhyana trong hai mươi bốn giờ
điều đó là đủ - người đó sẽ trở thành vị phật. Nhưng khó
vô cùng để vẫn còn trong thiền trong hai mươi bốn giờ.
Mahavira đã nói: Cho dù người ta có thể vẫn còn
trong thiền trong bốn mươi tám phút - và tính toán của
tôi cũng đích xác như thế - nếu người ta có thể vẫn còn
trong trạng thái vô trí liên tục trong bốn mươi tám phút,
điều đó là đủ để trở nên chứng ngộ.
Nhưng tâm trí thông thường không thể vẫn còn tỉnh
táo ngay cả trong vài giây, nói gì tới vài phút! Thử mà
xem: ngồi im lặng, để đồng hồ ngay cạnh, và bạn sẽ
ngạc nhiên rằng thậm chí không có đến vài giây mà
không có ý nghĩ. Chỉ thỉnh thoảng trong một phần giây
mới không có ý nghĩ. Nhưng khoảnh khắc bạn thấy
không có ý nghĩ, ý nghĩ này nảy sinh: bạn nói, "Aha!" -
xong rồi! Bạn nói, "Không có ý nghĩ!" và tâm trí đã giở
trò với bạn rồi, nó đã tới từ cửa sau. Và nếu bạn nghe
một cách im lặng bạn sẽ thấy tâm trí cười - nó đã lừa
được bạn rồi! Vô ý nghĩ vẫn là ý nghĩ, ý tưởng về vô ý
nghĩ vẫn là một ý nghĩ.
**Tốt hơn một trăm năm dốt nát
là một ngày trong nghĩ suy.**
Với "dốt nát" Phật không ngụ ý thiếu tri thức. Bởi vì
người thông thái không phải là mục đích, cho nên dốt
nát phải được hiểu theo cách mới - theo nghĩa của Phật,
theo mầu sắc của ông ấy, theo hương thơm của ông ấy.
Chúng ta gọi một người là dốt nát bởi vì người đó vô
giáo dục: người đó không đọc được, người đó không
viết được, người đó không biết ba R, người đó không
biết gì cả, người đó rất nguyên thuỷ. Chúng ta gọi người
đó là người dốt nát. Và chúng ta gọi người có bằng đại
học BS, thạc sĩ MS, tiến sĩ PhD... và bạn biết nghĩa này
chứ? BS nghĩa là chuyện nhảm nhí, MS nghĩa là nhiều
nhảm nhí hơn, PhD nghĩa là đống nhảm nhí cao và sâu.
Chúng ta gọi người đó là con người của tri thức. Đây là
những người có đầy trong các đại học của chúng ta. Và
nếu bạn thực sự muốn thấy mặt họ, tới và dự hội nghị
nào đó. Thế thì bạn sẽ thấy mọi anh hề đang phô trương
trong bộ áo choàng đen, trong những cái mũ kì lạ...
Những người này được coi là người thông thái đấy.
Khi Phật nói "dốt nát" ông ấy đơn giản ngụ ý người
không biết tới bản thân mình. Vấn đề không phải là trở
thành biết nhiều hay ít thông tin hơn, được giáo dục hay
vô giáo dục. Kabir không phải là người dốt nát mặc dầu
ông ấy vô giáo dục. Kabir đã nói: Masi kagad chhuyo
nahin - Ta chưa bao giờ chạm tới giấy hay mực. Và đó
là cách nó vậy: ông ấy chưa bao giờ chạm tới giấy hay
mực, ông ấy không có khả năng đọc hay viết.
Khi ai đó hỏi Kabir, "Ông không đọc được - ông
chưa từng đọc Vedas, Upanishads, Gita, và mọi kinh
sách vĩ đại chứ gì?" Kabir cười to và nói, "Likha-likhi ki
hai nahin - chân lí chẳng liên quan gì tới kinh sách cả
bởi vì nó chưa bao giờ được viết và không thể được viết.
Nó không được viết ở đâu cả! Nó là không diễn đạt
được, cho nên phỏng có ích gì mà đọc kinh sách? Bản
thân kinh sách nói: Ta đã nghe rằng điều đó không thể
được diễn đạt. Thế thì phỏng có ích gì?"
Nhưng Kabir không dốt nát. Phật sẽ thừa nhận
Kabirlà vị phật. Kabir là vị phật, Farid cũng thế, Raidas
cũng thế, Mohammed cũng thế, Christ cũng thế. Christ
cũng tuyệt đối vô giáo dục; Mohammed cũng tuyệt đối
vô giáo dục, không được học hành gì.
Thế thì dốt nát có nghĩa hoàn toàn khác: không thiếu
vắng cái gọi là tri thức mà thiếu vắng việc tự biết mình.
Không biết tới bản thân mình là dốt nát. Thế thì bạn có
thể biết tất cả: bạn có thể trở thành cuốn Từ điển Bách
khoa toàn thư biết đi, nhưng điều đó sẽ không ích gì.
Nếu bạn biết tới bản thân mình, thế thì bạn là con người
của trí huệ.
Tốt hơn một trăm năm dốt nát là một ngày trong
phản xạ. Và phản xạ phải được hiểu theo nghĩa đen. Lần
nữa, trong tiếng Anh phản xạ có nghĩa của suy tưởng,
suy nghĩ. Phật ngụ ý phản xạ theo nghĩa đen - như mặt
trăng được phản xạ trong hồ, khuôn mặt bạn được phản
xạ trong tấm gương. Im lặng thế, không con sóng nào,
thậm chí không gợn sóng; để tâm thức bạn trở thành cái
hồ, hoàn toàn im lặng, không rối loạn, để cho toàn trời,
toàn thể bầu trời, có thể được phản xạ trong bạn. Ở trong
trạng thái vô trí bạn trở thành tấm gương, bạn trở thành
việc phản xạ cái đang đó.
Và đó là điều Thượng đế là gì... toàn thể sự tồn tại
này với cái đẹp và phúc lành mênh mông của nó. Nếu
bạn là tấm gương, nó sẽ được phản xạ trong bạn, và điều
đó sẽ làm cho bạn thành trí huệ, điều đó sẽ làm cho bạn
thành thầy, điều đó sẽ làm cho bạn thành người thức
tỉnh.
Nhưng mọi người cứ tin vào điều người khác đã nói.
Tin tưởng sẽ không giúp cho bạn đâu. Tin tưởng có tính
độc hại; chúng giữ bạn mù quáng. Bởi vì tin tưởng của
mình mà bạn chưa bao giờ truy tìm về cái riêng của
mình. Và tin tưởng của bạn là giả, chúng không phải là
tin cậy thực; tin tưởng chỉ có thể là ở bề mặt. Bạn có thể
tin vào Gita hay Koran hay Kinh Thánh, nhưng sâu bên
dưới hoài nghi vẫn còn dai dẳng; không dễ nhổ bật gốc
rễ của hoài nghi.
Hoài nghi bị nhổ bật gốc rễ chỉ khi bạn biết. Làm
sao nó có thể bị nhổ bật gốc rễ nếu Jesus biết? Làm sao
nó có thể bị nhổ bật gốc rễ nếu Mohammed biết? Ông
ấy có thể biết, nhưng ai biết rằng liệu ông ấy đúng hay
sai, và ai biết rằng ông ấy không lừa dối, và ai biết ông
ấy không lừa người khác? Cái gì đảm bảo có đó? Cái gì
là bằng chứng rằng Phật là đúng? Ngoại trừ điều Phật
nói, "Ta đã đạt tới," không có bằng chứng nào khác.
Nhưng điều đó là đi theo vòng tròn, điều đó là chính bản
thân câu hỏi: Làm sao tin được rằng Phật là đúng? Và
chúng ta chỉ có một bằng chứng: Phật nói, "Ta đã đạt
tới." Nhưng làm sao tin được rằng điều ông ấy nói là
đúng?
Sâu bên dưới hoài nghi sẽ còn dai dẳng; tin tưởng
của bạn sẽ chỉ là cái che đậy. Điều đó cũng giống như
bạn có vết thương rỉ mủ ra, bốc mùi, và bạn che đậy nó
bằng hoa hồng - nhưng sâu bên dưới trong hoa hồng mủ
tích luỹ lại. Hoa hồng sẽ không có khả năng biến đổi
được nó. Chúng có thể che giấu nó trong vài khoảnh
khắc, hương thơm của chúng có thể không để cho người
khác biết mùi hôi đang bốc ra từ vết thương, nhưng
được bao lâu...? Sớm hay muộn chúng sẽ bốc mùi nữa!
Thay vì hoa hồng làm thay đổi mủ của bạn, mủ của bạn
sẽ thay đổi hoa hồng. Và đó là điều xảy ra: tin tưởng
không bao giờ biến đổi hoài nghi của bạn, hoài nghi của
bạn biến đổi chính bản thân tin tưởng của bạn.
Giáo sĩ trẻ cuối cùng quyết định rằng mình phải nói
với thành viên giàu có nhất của giáo đoàn, dù điều đó có
gây tổn thương thế nào.
"Tại sao," giáo sĩ hỏi, "ông cứ phải ngủ trong khi tôi
thuyết giảng?"
"Để tôi giải thích điều gì đó," nhà triệu phú trả lời.
"Nếu tôi không tin cậy vào cha, tôi có ngủ được
không?"
Đó là điều đã xảy ra cho hàng triệu người: họ đã rơi
vào giấc ngủ bởi vì họ tin cậy; không cần thức tỉnh. Phật
biết - cần gì cho bạn để thức tỉnh? Christ biết - bạn trở
thành người Ki tô giáo là đủ, không có nhu cầu là một
Christ.
Nhưng tôi nói với bạn: chừng nào bạn chưa là một
Christ không cái gì sẽ xảy ra cả. Bằng việc là người Ki
tô giáo bạn đơn giản tự lừa dối mình và người khác, và
bạn đang làm phí hoài thời gian quí giá, bởi vì trong
cùng thời gian bạn có thể trở thành bản thân Christ.
Đừng vẫn còn được thoả mãn bởi việc là người Ki tô
giáo hay người Hindu hay người Jaina hay Phật tử. Trở
thành một Phật đi, trở thành một Christ, trở thành một
Mohammed, trở thành một Mahavira! Ít hơn điều đó sẽ
không ích gì cả, ít hơn điều đó không phải là giải thoát.
Và điều đó là có thể qua phản xạ. Nếu bạn trở thành
vô trí, cái toàn thể bao quanh bạn sẽ được phản xạ trong
bạn. Và khi bạn sẽ biết, chỉ thế thì bạn mới biết, và việc
biết đó xua tan đi tất cả mọi hoài nghi. Khi mọi hoài
nghi đã mất đi bên trong trái tim bạn, mọi bóng tối biến
mất và bạn đầy ánh sáng, thế thì cuộc sống đã được
sống, cuộc sống đã được biết. Đó là phúc lạc. Cõi bên
kia đã đạt tới bạn, bạn đã đạt tới cõi bên kia. Bây giờ
Thượng đế ở bên trong bạn và bạn ở bên trong Thượng
đế.
**Tốt hơn một trăm năm nhàn rỗi
là một ngày dành cho quyết tâm.**
Lại có khả năng hiểu lầm nào đó bởi vì việc dịch
này. Phật không ngụ ý bởi "quyết tâm" điều được ngụ ý
trong tiếng Anh bởi từ này. Ông ấy ngụ ý quyết định,
không phải là quyết tâm. Quyết tâm cho bạn cảm giác
về ý chí, sức mạnh ý chí. Quyết tâm cho bạn ý tưởng về
quyết định qua tâm trí. Quyết định là hiện tượng hoàn
toàn khác: nó là của trái tim. Không phải là bạn đã quyết
định bởi tâm trí, mà trái tim bạn cảm thấy một loại cam
kết - nó là chuyện tình.
Trong tình yêu bạn không quyết tâm. Bạn không nói
với người đàn bà của mình rằng, "Anh đã quyết tâm yêu
em." Hay bạn có nói điều đó? Nếu bạn nói với người
đàn bà nào đó, "Anh đã kéo tất cả năng lượng của mình
lại; anh đã tạo ra một quyết tâm lớn trong bản thân mình
rằng anh sẽ yêu em," người đàn bà đó sẽ không bao giờ
gặp lại bạn nữa... bởi vì yêu và quyết tâm ngụ ý tình yêu
là giả. Tình yêu có tính quyết định về nó, sự cam kết, và
sự tham gia, nhưng không có quyết tâm. Nó không có ý
chí; thực ra, cho dù bạn muốn quyết tâm chống lại nó
bạn cũng không thể làm được. Nó là điên, thứ điên.
Tôn giáo cũng vậy đấy: vấn đề không phải quyết
tâm, vấn đề là rơi vào tình yêu với cái đẹp vô cùng này
của sự tồn tại. Nó là việc rơi vào tình yêu với thế giới
huyền bí này.
**Tốt hơn nên sống một ngày trong ngạc nhiên
về cách mọi sự nảy sinh và trôi qua.**
Nếu bạn có thể ngạc nhiên, bạn đang rơi vào trong
tình yêu. Từng đứa trẻ được sinh ra đều ngạc nhiên... và
sớm hay muộn chúng ta phá huỷ ngạc nhiên của nó. Vào
lúc đứa trẻ lên bốn chúng ta đã giết chết, đã tàn sát sự
ngạc nhiên của nó. Và phương pháp mà chúng ta dùng
để giết sự ngạc nhiên của nó là: chúng ta bắt đầu nhồi
nhét thông tin vào nó.
D.H. Lawrence, một trong những con người sáng
suốt vĩ đại của thời đại này, đang bước đi trong vườn
với một đứa trẻ nhỏ. Và khi mọi đứa nhỏ hỏi, đứa trẻ
này hỏi, "Bác bảo cháu điều này đi - sao cây lại xanh?"
Bây giờ những câu hỏi như thế có thể được hỏi chỉ
bởi trẻ con hay bởi nhà huyền môn thôi, hoặc bởi trẻ con
hoặc bởi chư phật. Đây là loại câu hỏi gì? Bạn sẽ không
bao giờ hỏi nó, bởi vì nó sẽ có vẻ ngu xuẩn thế khi hỏi
tại sao cây lại xanh. Và thực ra bạn đã biết tại sao chúng
lại xanh rồi; bạn biết, bởi vì chính chất diệp lục làm cho
chúng xanh.
D.H. Lawrence cũng biết về chất diệp lục. Ông ấy
có thể đã nói điều đó cho đứa trẻ này, và trẻ con rất dễ
tin cậy... Nếu bạn nói, "Bởi vì điều này," chúng sẽ nói,
"Vâng." Và thực ra, chúng không chú ý gì mấy tới câu
trả lời; vào lúc bạn trả lời chúng, chúng đã trở nên quan
tâm tới câu hỏi nào đó khác. Chúng bị mê mải bởi cái gì
đó khác - con bướm, đoá hoa, đám mây nổi trên trời.
Chúng đã bỏ qua câu hỏi này.
Khi đứa trẻ hỏi, nó không hỏi để được trả lời, nhớ
lấy. Khi đứa trẻ hỏi, nó đơn giản nói to cho bản thân nó,
nó đang nghĩ to, nó tự hỏi to, có vậy thôi. Khi nó nói,
"Sao cây lại xanh?" nó không nói điều đó ở bên trong,
nó đang nghĩ to thôi. Đấy không thực là câu hỏi. Nó bị
phân vân bởi điều bí ẩn, nó đang ngạc nhiên tại sao cây
lại xanh, nó không chờ đợi bất kì câu trả lời nào; đó là
ngạc nhiên thuần khiết, nó bị mê mải.
D.H. Lawrence là nhà thơ lớn, tiểu thuyết gia lớn -
gần như bên bờ của việc là nhà huyền môn. Giá mà ông
ấy ở Ấn Độ, giá mà ông ấy ở phương Đông, ông ấy chắc
đã trở thành vị phật. Về hai người này tôi cảm thấy rất
chắc chắn họ đã trở thành vị phật nếu như họ đã ở
phương Đông: Friedrich Nietzsche và D.H. Lawrence.
Về hai người này tôi cảm thấy tuyệt đối chắc chắn. Họ
cận kề thế, chỉ thêm một bước nữa thôi...
Lawrence nhìn vào cây, đứng đó trong im lặng với
mắt nhắm trong vài giây, thế rồi nói với đứa trẻ, "Cây
xanh bởi vì chúng xanh." Và đứa trẻ được thoả mãn.
Nhưng Lawrence tiếp tục nghĩ, "Đây là loại câu trả lời
gì mà mình đã cho đứa trẻ này? - cây xanh bởi vì chúng
xanh. Nó là lặp lại. Nó là phi logic!" Nhưng điều đó cực
kì có ý nghĩa. Lawrence đang nói rằng cuộc sống là điều
bí ẩn để được sống, là thực tại để được kinh nghiệm,
không phải là câu hỏi để được trả lời, không phải là vấn
đề để được giải. Nó là vậy.
Đó là cách Phật thường nói điều đó cho đệ tử của
ông ấy: lời của ông ấy là tathata, như vậy. Nếu bạn hỏi
ông ấy cùng điều này ông ấy sẽ nói, "Hoàn cảnh là như
vậy. Cây xanh... Nó là vậy." Không gì nhiều hơn có thể
được nói về nó - bởi vì càng nói nhiều, bạn càng trở nên
được thông tin, thông thái, càng ít có khả năng để biết.
"Nó là vậy" - điều đó không đóng lại cánh cửa với bạn,
nó đơn giản mở ra cánh cửa của bí ẩn.
Phật nói: Tốt hơn là sống một ngày trong ngạc nhiên
làm sao mọi sự nảy sinh và trôi qua. Nếu bạn có thể lại
đạt tới sự ngạc nhiên thơ ấu của mình, bạn sẽ là
sannyasin của tôi. Tôi không ở đây để giúp bạn biết
nhiều hơn, tôi ở đây để giúp bạn ngạc nhiên hơn. Và
cách duy nhất để ngạc nhiên hơn là lấy đi mọi tri thức
của bạn. Tri thức của bạn là nhiễu loạn trong việc ngạc
nhiên của bạn. Nó không cho phép bạn ngạc nhiên, bởi
vì trước khi bạn ngạc nhiên nó lập tức cung cấp cho bạn
câu trả lời. Chính bởi vì tri thức khoa học mà con người
đã đánh mất phẩm chất mênh mông của mình, phẩm
chất lớn lao của mình về ngạc nhiên. Và đó là kho báu
lớn mà con người đã có được. Không con vật nào ngạc
nhiên; chỉ con người mới được cho món quà ngạc nhiên.
Tôn giáo thực được bắt rễ trong ngạc nhiên và tôn
giáo thực giúp bạn ngạc nhiên ngày một nhiều hơn nữa.
Một khoảnh khắc tới trong cuộc sống của nhà huyền
môn khi ông ấy đơn giản trở nên ngạc nhiên. Từng sự
việc nhỏ bé trút đầy người đó với ngạc nhiên vô cùng...
một hòn đá cuội trên bờ biển, một vỏ sò, tiếng kêu của
con chim cúc cu xa xa, ngôi sao cô đơn trong buổi tối,
bất kì cái gì... tiếng trẻ thơ khúc khích, tiếng đàn bà
khóc nấc vì niềm vui, bất kì cái gì... tiếng gió rì rào qua
rặng thông, tiếng nước chảy róc rách, bất kì cái gì... và
người đó đầy ngạc nhiên. Thượng đế tới với người đó
như sự ngạc nhiên, Thượng đế tới người đó như điều bí
ẩn.
Nếu bạn ngồi bên cạnh nhà huyền môn, đừng ngồi
để học thêm từ ông ấy. Ngồi để vứt bỏ mọi tri thức.
Ngồi bên cạnh nhà huyền môn để được trút đầy với sự
ngạc nhiên của ông ấy, để lại trở thành đứa trẻ lần nữa.
Jesus nói: Chừng nào ông còn chưa được sinh ra lần nữa
ông sẽ không vào được vương quốc Thượng đế của ta.
Ông ấy còn nói: Chừng nào ông còn chưa giống như trẻ
nhỏ ông sẽ không vào được trong vương quốc Thượng
đế của ta. Ông ấy đang nói về cùng điều ngạc nhiên đấy.
**Tốt hơn nên sống một giờ trong việc thấy
một cuộc sống bên ngoài con đường.**
Từng lời kinh đều cực kì có ý nghĩa! Suy ngẫm về
từng lời đi. Và Phật đang tiến rất chậm để cho bạn có
thể hấp thu được tinh thần. Trước hết ông ấy nói:
dhyana - thiền, trạng thái của vô trí. Thế rồi ông ấy nói:
phẩm chất tựa tấm gương của tâm thức của bạn, cái là
sản phẩm phụ của dhyana. Thế rồi ông ấy nói: quyết
định - chuyện tình, trái tim bạn rơi vào hoà điệu với sự
tồn tại. Thế rồi ông ấy nói: ngạc nhiên. Và bây giờ ông
ấy nói: thấy.
Mắt có thể thấy sự phát triển trong ngạc nhiên,
không phải tri thức, không qua kinh sách, mà qua hồn
nhiên. Trở nên bị bối rối với sự tồn tại đi!
Toàn thể nền giáo dục của chúng ta đều dựa trên
việc làm sáng tỏ sự tồn tại. Nhà sư phạm tin rằng một
ngày nào đó chúng ta sẽ phá tan toàn thể điều bí ẩn của
sự tồn tại bởi vì chúng ta sẽ thu thập được tất cả mọi câu
trả lời cho mọi câu hỏi. Đây là niềm tin phi tôn giáo nhất
có đó - và nền giáo dục của bạn tạo là phi tôn giáo. Nền
giáo dục của bạn, cho dù nó được gọi là giáo dục tôn
giáo, không phải là tôn giáo bởi vì nó làm sáng tỏ sự tồn
tại, nó cung cấp cho bạn câu trả lời.
Tôn giáo thực lấy đi mọi câu trả lời, làm cho câu hỏi
của bạn ngày một lớn hơn, và chung cuộc biến đổi câu
hỏi của bạn thành ngạc nhiên, thành việc truy tìm. Và
trong ngạc nhiên, nếu bạn có thể sống trong ngạc nhiên,
bạn sẽ đạt tới sự sáng suốt đó, đôi mắt đó, cái có thể
thấy được.
Việc thấy này ở phương Đông đã được gọi là
darshan kiến - thấy với sự hồn nhiên, nhìn với sự hồn
nhiên. Thế thì chỉ hoa cỏ bên lề bãi cỏ cũng đủ... và bạn
được mang vào trong thế giới khác. Thế thì bạn sẽ nhảy
múa khi mây đang mưa, bạn sẽ nhảy múa trong mưa và
bạn sẽ biết cái gì đó về phật tính. Thế thì bạn sẽ nhảy
múa trong đêm trăng tròn và bạn sẽ biết cái gì đó của
phật tính. Thế thì bạn sẽ nhảy múa quanh bụi hồng bởi
vì hoa hồng đã nở, và bạn sẽ biết cái gì đó về phật tính.
Cuộc sống của bạn sẽ trở thành việc hát, việc múa
thường xuyên, thành lễ hội.
Tốt hơn là sống một giờ trong việc thấy cuộc sống
cái một bên ngoài con đường. Thế thì một giờ là đủ,
không có nhu cầu sống cả triệu triệu kiếp, bởi vì vấn đề
không phải là chiều dài lâu, bạn sống bao lâu. Phương
Tây quá bận tâm về chiều dài lâu. Làm cho mọi người
sống lâu hơn: một trăm năm, một trăm năm mươi năm,
hai trăm năm, ba trăm năm. Và điều đó là có thể, bởi vì
có vài người sống...
Ở thung lũng Kashmir có một bộ lạc nhỏ: họ sống
rất dễ dàng tới một trăm năm mươi tuổi. Và ở Nga có
nhiều người đã vượt quá một trăm năm mươi tuổi. Có
vài người lên tới một trăm tám mươi tuổi và một người
hai trăm tuổi. Bây giờ các nhà khoa học đang liên tục
tìm kiếm: bí mật là gì? Sao những người này sống lâu
thế? Họ ăn gì? Họ uống gì? Hình mẫu cuộc sống của họ
là gì? Tại sao họ sống lâu thế? Và sớm hay muộn họ sẽ
tìm ra các bí mật và con người sẽ sống ba trăm năm, bốn
trăm năm, năm trăm năm. Bạn rất may mắn là họ còn
chưa tìm ra bí mật đó! Cứ nghĩ bản thân mình sống ba
trăm năm - bẩy mươi năm là đủ để người ta chán ngán
cuộc sống rồi!
Và nhớ lấy, tự tử chưa được phép ở đâu cả. Tự tử là
tội ác lớn nhất, nếu bạn bị bắt trước khi phạm nó. Tất
nhiên nếu bạn đã phạm tội này, thế thì kết thúc rồi;
chẳng ai có thể bắt được bạn. Họ không thể trừng phạt
hồn ma của bạn được! Nghĩ về bản thân bạn sống bẩy
trăm năm mà xem... Trong vòng bẩy mươi năm tất cả
đều được kết thúc - cuộc sống vô tích sự thế. Sống bẩy
trăm năm sẽ là hành hạ vô cùng và họ không cho phép
bạn chết.
Bây giờ có nhiều người treo lơ lửng giữa sống và
chết, đặc biệt là ở Mĩ và châu Âu - ở Mĩ nhiều hơn. Họ
không sống, bởi vì họ không thể di chuyển được, họ
không thể làm gì được, họ thậm chí không thể nghĩ
được, họ không thể ăn được. Mọi thứ đều do người khác
làm; họ chỉ nằm trên giường, thở ô xi. Họ có thể thậm
chí không có tim của họ - có thể là tim giả đang bơm
máu họ. Họ có thể không có thận; máy móc có thể đang
làm việc của chúng.
Bây giờ, những người này được gọi là sống đấy! Họ
chẳng sống chẳng chết - và điều đó là tốt hơn theo cách
này cách nọ. Treo ở giữa, họ ở trong một loại quên lãng.
Nhưng phương Tây lại rất quan tâm, tâm trí như hiện tại
rất quan tâm, vào việc kéo dài cuộc sống. Nhưng những
người biết, họ không quan tâm tới sống lâu; họ quan tâm
tới việc làm mãnh liệt cuộc sống, vào việc làm cho nó
mãnh liệt hơn, toàn bộ hơn.
Đó là lí do tại sao Phật nói: Tốt hơn một trăm năm
gây hại là một ngày dành cho thiền. Tốt hơn một trăm
năm dốt nát là một ngày trong phản xạ tựa tấm gương.
Tốt hơn là sống một ngày trong ngạc nhiên làm sao mọi
sự nảy sinh và trôi qua. Tốt hơn là sống một giờ trong
việc thấy cuộc sống cái một bên ngoài đạo.
Nếu bạn có thể cho phép ngạc nhiên xảy ra, thế thì
sớm hay muộn từ ngạc nhiên của bạn sẽ phát triển ra đôi
mắt, mắt mới - không phải là mắt có thể thấy chỉ các đối
thể mà mắt có thể thấy cái vô hình, thấy cuộc sống ở bên
ngoài. Gọi nó là cuộc sống thiêng liêng, cuộc sống vĩnh
hằng, hay bất kì cái gì bạn thích đặt tên.
**Tốt hơn là sống một khoảnh khắc ...**
Xem đấy, Phật đang nói liên tục để làm cho điều đó
ngày một ngắn hơn: từ một trăm năm tới một khoảnh
khắc.
**Tốt hơn nên sống một khoảnh khắc
trong khoảnh khắc của con đường bên ngoài con
đường.**
Sống một khoảnh khắc, nhưng toàn bộ ở đây bây
giờ là đủ - không quá khứ, không tương lai - toàn thể
năng lượng của bạn chìm sâu vào trong ở đây bây giờ là
đủ để có hương vị của Thượng đế, để có hương vị của
chân lí: chân lí là của con đường và vậy mà bên ngoài
con đường.
Aes dhammo sanantano - đây là luật vĩnh hằng. Nếu
người ta có thể sống trong ngạc nhiên, thấy, một cách
toàn bộ trong khoảnh khắc, người ta đã về nhà. Phúc lạc
xảy ra, giáng xuống, bạn được tràn ngập với phúc lạc và
phúc lành. Nó không phải là sáng tạo của bạn, nó tới
như món quà từ cõi bên kia.
Đủ cho hôm nay.
***********************************************************************************************************
#2 Qua siêu việt
Câu hỏi thứ nhất:
Thưa thầy kính yêu,
Hoạt động trí tuệ có thể có tính sáng tạo được
không?
Anand Savita, trí tuệ là cái gì đó rởm, cái gì đó giả.
Nó là cái thay thế cho thông minh. Thông minh là hiện
tượng hoàn toàn khác - cái thực.
Thông minh cần dũng cảm vô cùng, thông minh cần
cuộc sống phiêu lưu. Thông minh cần rằng bạn bao giờ
cũng đi vào trong cái không biết, vào trong biển chưa
thăm dò. Thế thì thông minh phát triển, nó trở nên sắc
bén. Nó phát triển chỉ khi nó đương đầu với cái không
biết mọi khoảnh khắc. Mọi người sợ cái không biết, mọi
người cảm thấy bất an với cái không biết. Họ không
muốn đi ra ngoài cái quen thuộc. Do đó họ đã tạo ra cái
thay thế giả, bằng chất dẻo cho thông minh - họ gọi nó
là trí tuệ.
Trí tuệ chỉ là trò chơi tâm trí; nó không thể có tính
sáng tạo được. Trí tuệ có tính tưởng tượng, nhưng không
sáng tạo. Thông minh có tính sáng tạo. Thông minh
sáng tạo bởi vì thông minh làm cho bạn có khả năng
tham gia cùng Thượng đế. Thượng đế là cội nguồn của
mọi sáng tạo. Bạn có thể có tính sáng tạo chỉ khi bạn có
quan hệ với Thượng đế, khi bạn được bắt rễ vào chính
sự tồn tại, khi bạn là một phần của năng lượng thiêng
liêng. Bạn không thể có tính sáng tạo theo cách riêng
của mình được; bạn có thể có tính sáng tạo chỉ như
trung gian của Thượng đế.
Khi nhà thơ sáng tạo ông ấy chỉ là phương tiện, cây
trúc hổng trên môi của Thượng đế. Và bỗng nhiên cây
trúc hổng không còn là cây trúc hổng nữa - nó trở thành
cây sáo. Trống rỗng của cây trúc trở thành đầy bài ca,
điệu vũ, lễ hội.
Tính sáng tạo nghĩa là bạn phải biến mất, bạn phải
cho phép Thượng đế hiện hữu, bạn phải bước ra khỏi
con đường. Trí tuệ có tính bản ngã; thông minh là khiêm
tốn, vô ngã. Khác biệt này là tinh tế; bởi vì cả hai từ này
đều bắt nguồn từ cùng một gốc, do đó người ta có thể dễ
dàng bị lừa. Cẩn thận, tỉnh táo vào! Trí tuệ không phải là
thông minh. Thông minh có tính sáng tạo, trí tuệ chỉ là
kẻ giả vờ. Nhân danh của tính sáng tạo nó cứ tạo ra rác
rưởi.
Bạn có thể đi và nhìn vào các đại học và thấy loại
công việc sáng tạo nào đang diễn ra ở đó. Hàng nghìn
chuyên luận đang được viết ra; luận văn tiến sĩ, tiến sĩ
triết học, tiến sĩ văn chương, những bằng cấp lớn lao
được ban cho mọi người. Không ai đã bao giờ đi tới biết
điều gì xảy ra cho các luận án tiến sĩ của họ; chúng cứ
trở thành đống rác trong các thư viện. Không ai đọc
chúng, không ai đã bao giờ được hứng khởi bởi chúng.
Vâng, vài người có đọc chúng; nhưng họ là cùng kiểu
người sắp viết ra các luận án khác. Các tiến sĩ tương lai
tất nhiên sẽ đọc chúng.
Nhưng các đại học của bạn không tạo ra
Shakespeares, Miltons, Dostoevskys, Tolstoys,
Rabindranaths, Kahlil Gibrans. Các đại học của bạn chỉ
tạo ra đồ đồng nát, vô dụng hoàn toàn. Đây là hoạt động
trí tuệ cứ diễn ra trong các đại học. Thông minh tạo ra
Picasso, Van Gogh, Mozart, Beethoven.
Thông minh là chiều hướng hoàn toàn khác. Nó
chẳng liên quan gì tới cái đầu cả, nó có cái gì đó liên
quan tới trái tim. Trí tuệ là ở trong đầu; thông minh là
trạng thái của sự thức tỉnh trái tim. Khi trái tim bạn thức
tỉnh, khi trái tim bạn nhảy múa trong biết ơn sâu sắc, khi
trái tim bạn trong hoà điệu với sự tồn tại, trong hài hoà
với sự tồn tại, từ hài hoà đó là tính sáng tạo.
Savita này, không có khả năng nào cho bất kì sáng
tạo trí tuệ. Nó có thể tạo ra rác rưởi, nó có tính sản xuất,
nó có thể chế tạo, nhưng nó không thể sáng tạo. Và cái
gì là khác biệt giữa chế tạo và sáng tạo? Chế tạo là hoạt
động máy móc. Máy tính có thể làm được điều đó -
chúng đã làm điều đó rồi, và làm điều đó theo cách hiệu
quả hơn nhiều việc bạn có thể hi vọng từ con người.
Thông minh sáng tạo, nó không chế tạo.
Chế tạo nghĩa là thực hiện lặp lại: điều đã được làm,
bạn cứ làm đi làm lại mãi. Sáng tạo nghĩa là đem cái
mới vào sự tồn tại, tạo ra cách để cái không biết thấm
vào cái biết, làm ra cách cho trời đi tới đất.
Khi có Beethoven hay Michelangelo hay Kalidas,
bầu trời mở ra, hoa mưa rào xuống từ cõi bên kia. Tôi
không nói với bạn điều gì về Phật, Christ, Krishna,
Mahavira, Zarathustra, Mohammed, bởi một lí do nào
đó: bởi vì điều họ tạo ra tinh tế tới mức bạn sẽ không có
khả năng bắt giữ nó. Điều Michelangelo tạo ra là thô;
điều Van Gogh tạo ra có thể nhìn được, là thấy được.
Điều vị phật tạo ra tuyệt đối vô hình. Nó cần một loại
cảm thụ hoàn toàn khác để hiểu.
Để hiểu vị phật bạn phải thông minh. Sáng tạo của
Phật không chỉ thông minh vô cùng, mà nó còn siêu
phàm, phi phàm tới mức để hiểu nó bạn sẽ phải là thông
minh. Trí tuệ sẽ không ích gì ngay cả trong việc hiểu
biết.
Chỉ có hai loại người sáng tạo - nhà thơ và nhà
huyền môn. Nhà thơ sáng tạo trong thế giới thô còn nhà
huyền môn sáng tạo trong thế giới tinh. Nhà thơ sáng
tạo trong thế giới bên ngoài: bức tranh, bài thơ, bài ca,
âm nhạc, điệu vũ; còn nhà huyền môn sáng tạo trong thế
giới bên trong. Sáng tạo của nhà thơ có tính đối thể còn
sáng tạo của nhà huyền môn có tính chủ thể, toàn bộ về
cái bên trong. Trước hết bạn phải hiểu nhà thơ, chỉ thế
thì ngày nào đó bạn mới có thể hiểu được - ít nhất một
ngày nào đó cũng hi vọng hiểu - nhà huyền môn. Nhà
huyền môn là đoá hoa sáng tạo cao nhất. Nhưng bạn có
thể không thấy cái gì nhà huyền môn đang làm.
Phật chưa bao giờ vẽ một bức tranh, chưa bao giờ
cầm chổi vẽ trong tay, chưa soạn một bài thơ, chưa hát
một bài ca, không ai đã từng thấy ông ấy nhảy múa. Nếu
bạn ngắm ông ấy, ông ấy chỉ ngồi im lặng; toàn thể bản
thể ông ấy là im lặng. Vâng, duyên dáng bao quanh ông
ấy, duyên dáng của cái đẹp vô hạn, của cái đẹp thanh
tao, nhưng bạn sẽ cần rất mong manh để cảm thấy nó.
Bạn sẽ phải rất cởi mở, không cãi lí. Bạn không thể là
khán giả với vị Phật; bạn phải là người tham gia, bởi vì
chính bí ẩn là việc được tham gia vào. Thế thì bạn sẽ
thấy điều ông ấy đang sáng tạo. Ông ấy đang sáng tạo ra
tâm thức, và tâm thức là dạng thuần khiết nhất, dạng cao
nhất có thể có, của việc diễn đạt Thượng đế.
Một bài ca hay, một điệu vũ đẹp bởi vì cái gì đó của
điều thiêng liêng đang hiện diện trong nó. Nhưng trong
vị Phật cái toàn thể của Thượng đế hiện diện. Đó là lí do
tại sao chúng ta đã gọi Phật là "Bhagwan," chúng ta đã
gọi Mahavira là "Bhagwan" - cái toàn thể của Thượng
đế đang hiện diện.
Nhưng học sinh sẽ không có khả năng thấy được
điều đó. Đệ tử sẽ có khả năng giải mã một chút ít, và
người thành tâm sẽ có khả năng uống nó.
Hoạt động trí tuệ có thể làm cho bạn thành chuyên
gia trong những điều nào đó, có ích, hiệu quả. Nhưng trí
tuệ là việc dò dẫm trong bóng tối; nó không có mắt, bởi
vì nó còn chưa có tính thiền. Trí tuệ được vay mượn, nó
không có sáng suốt của riêng nó.
Chủ đề là về làm tình. Trong nhiều tuần Arthur đã
trả lời thành công tất cả các câu hỏi nêu cho anh ta trong
các mục thi đố trên truyền hình. Anh ta bây giờ đủ tư
cách để trả lời câu hỏi lớn trị giá một trăm nghìn đô la.
Với một câu hỏi này anh ta được phép mời một chuyên
gia. Arthur tất nhiên chọn một giáo sư nổi tiếng thế giới
về tình dục từ Pháp.
Câu hỏi lớn là, "Nếu anh được làm vua trong năm
mươi năm đầu tiên của đế quốc Assyrian, anh sẽ được
trông đợi hôn vào ba phần nào trong xác ướp của cô dâu
của anh trong đêm tân hôn?"
Hai câu trả lời đầu tiên tới nhanh chóng. Arthur đáp,
"Môi và cổ cô ấy."
Bây giờ, bị bí với câu trả lời cho phần thứ ba của
câu hỏi, Arthur cuống cuồng quay sang vị chuyên gia
của mình. Người Pháp giơ hai tay lên và rên rỉ, "Alors,
mon ami, đừng hỏi tôi. Tôi đã sai hai lần rồi."
Vị chuyên gia này, nhà thông thái này, người trí tuệ
này, chẳng có sáng suốt gì của riêng mình cả. Người đó
phụ thuộc vào tri thức vay mượn, vào truyền thống, vào
qui ước. Người đó mang các thư viện trong đầu, một
gánh nặng lớn, nhưng người đó không có viễn kiến.
Người đó biết nhiều mà lại chẳng biết gì cả.
Và bởi vì cuộc sống không bao giờ như cũ - nó
thường xuyên thay đổi, khoảnh khắc sang khoảnh khắc
nó đều mới - vị chuyên gia này bao giờ cũng bị tụt hậu,
đáp ứng của người đó bao giờ cũng không thích hợp.
Người đó chỉ có thể phản ứng, người đó không thể đáp
ứng, bởi vì người đó không tự phát. Người đó đã đi tới
kết luận, người đó đang mang câu trả lời làm sẵn - và
câu hỏi mà cuộc sống nêu ra bao giờ cũng mới.
Hơn nữa, cuộc sống không phải là hiện tượng logic.
Và trí tuệ sống qua logic; do đó người đó chưa bao giờ
khớp được với cuộc sống và cuộc sống chẳng bao giờ
khớp với người đó. Tất nhiên cuộc sống không lúng
túng, bản thân người trí thức mới lúng túng. Người đó
bao giờ cũng cảm thấy như người ngoài - không phải là
cuộc sống đã xua đuổi người đó; bản thân người đó đã
quyết định vẫn còn ở ngoài cuộc sống. Nếu bạn níu bám
quá nhiều vào logic bạn sẽ chẳng bao giờ có khả năng là
một phần của quá trình sống chính là sự tồn tại này.
Cuộc sống còn nhiều hơn logic: cuộc sống là ngược
đời, cuộc sống là điều bí ẩn.
Gannaway và O'Casey đã dàn xếp cuộc đọ súng tay
đôi. Gannaway béo phục phịch, và khi anh ta thấy đối
thủ còm nhom đối diện với mình anh ta phản đối. "Tước
quyền!" anh ta nói, "Tôi béo gấp đôi anh ta, cho nên tôi
phải đứng xa gấp đôi so với anh ta đứng xa với tôi."
Tuyệt đối logic, nhưng làm sao bạn làm được điều
đó?
"Cứ thoải mái đi," người giúp đỡ của anh ta trả lời.
"Tôi sẽ làm điều đó đúng lại ngay." Rồi lấy một mẩu
phấn từ túi mình anh vẽ ra hai đường thẳng xuôi theo áo
của người béo chừa một khoảng cách giữa chúng.
"Bây giờ," anh ta nói, khi quay sang O'Casey, "bắn
đi, và nhớ rằng bất kì phát nào ra ngoài đường phấn kẻ
đều không được tính đâu nhé."
Toán học hoàn hảo, logic hoàn hảo! - nhưng cuộc
sống không logic thế, cuộc sống không toán học thế. Và
mọi người cứ sống trong trí tuệ của mình một cách rất
logic. Logic cho họ cảm giác dường như họ biết, nhưng
đó là cái "dường như" lớn và người ta có xu hướng quên
mất nó hoàn toàn. Bất kì điều gì bạn định làm qua trí
tuệ, đó chỉ là suy diễn. Nó không phải là kinh nghiệm về
chân lí, mà chỉ là suy luận dựa trên logic của bạn - và
logic của bạn là bịa đặt của bạn.
Cudahy, đã uống nhiều rượu, đứng ngắm nhìn cuộc
diễu hành nhân ngày lễ Thánh Patrick. Một cách vô ý
thức anh vứt mẩu thuốc lá đang cháy vào một chiếc nệm
cũ nằm tại lề đường.
Vừa lúc đó các đội viên tóc xám của Đoàn nữ y tá
khệnh khạng đi qua. Đồng thời, tấm nệm cháy âm ỉ bắt
đầu toả ra mùi kinh khủng.
Cudahy khụt khịt vài lần rồi tuyên bố với viên cảnh
sát đứng gần đó, "Ông sĩ quan ơi, những nữ y tá kia diễu
hành quá nhanh!"
Trí tuệ có thể đạt tới những suy luận nào đó, nhưng
trí tuệ là hiện tượng vô ý thức. Bạn cư xử gần như trong
khi ngủ.
Thông minh là thức tỉnh, và chừng nào bạn còn chưa
thức tỉnh đầy đủ, bất kì điều gì bạn quyết định nhất định
sai ở đâu đó hay này khác. Nó nhất định là như vậy, nó
phải chịu số phận là sai, bởi vì nó là kết luận được đạt
tới bởi tâm trí vô ý thức.
Đem thông minh vào hoạt động đi, bạn không cần
nhiều thông tin, bạn cần nhiều thiền hơn. Bạn cần trở
nên im lặng hơn, bạn cần trở nên vô ý nghĩ hơn. Bạn cần
trở nên ít tâm trí hơn và nhiều trái tim hơn. Bạn cần trở
nên nhận biết về điều kì diệu đang bao quanh bạn: điều
kì diệu đó là cuộc sống, điều kì diệu đó là Thượng đế,
điều kì diệu đó có trong cây xanh và hoa đỏ, điều kì diệu
đó có trong mắt mọi người. Điều kì diệu đang xảy ra ở
mọi nơi! Tất cả đều là điều huyền bí, nhưng bởi vì trí tuệ
của mình mà bạn vẫn còn bị khép chặt bên trong bản
thân mình, níu bám lấy những kết luận ngu xuẩn của
mình đã đạt tới trong vô ý thức, hay được người khác
trao cho bạn, những người cũng vô ý thức như bạn vậy.
Savita này, thông minh chắc chắn có tính sáng tạo,
bởi vì thông minh đem tính toàn bộ của bạn vào vận
hành - không chỉ là một phần, một phần nhỏ, cái đầu.
Thông minh làm rung động toàn thể bản thể bạn; từng tế
bào của bản thể bạn, từng thớ thịt của cuộc sống bạn bắt
đầu nhảy múa và đi vào sự hài hoà tinh tế với toàn bộ.
Đó chính là tính sáng tạo là gì: rung động trong hài
hoà tuyệt đối với cái toàn bộ. Đó là cách người ta trở
thành một Phật, Christ, Zarathustra. Đây là những người
sáng tạo thực.
Cái gì đó giống thế này đang xảy ra ngay bây giờ, ở
đây. Nếu bạn là đệ tử bạn sẽ có khả năng cảm thấy cái gì
đó của nó. Nếu bạn là người thành tâm bạn sẽ có khả
năng uống từ cội nguồn này, cái đã trở thành sẵn có cho
bạn. Và thế thì tính sáng tạo sẽ tới với bạn, mọi sự sẽ bắt
đầu xảy ra theo cách riêng của nó. Trái tim bạn sẽ bắt
đầu rót ra bài ca của vui vẻ, bàn tay bạn sẽ bắt đầu làm
biến đổi mọi thứ. Bạn sẽ chạm vào bùn và nó sẽ trở
thành hoa sen. Bạn sẽ có khả năng trở thành nhà giả kim
thuật. Nhưng điều đó là có thể chỉ qua thức tỉnh lớn lao
của thông minh, thức tỉnh lớn lao của trái tim.
****************************************************
#2Câu hỏi thứ hai:
Thưa thầy kính yêu,
Mọi người đều muốn yêu và được yêu. Tại sao?
"Cái nhìn đầu tiên của tình yêu, cái nhìn cuối cùng
của trí huệ." Điều đó đúng không?
Bal Krishna Bharti, tình yêu là lời cầu nguyện dò
dẫm tới Thượng đế. Tình yêu là thơ ca sinh ra từ niềm
vui vô cùng của bản thể. Tình yêu là bài ca, điệu vũ, lễ
hội: bài ca của lòng biết ơn, điệu vũ của sự cảm ơn, lễ
hội chẳng bởi lí do gì cả... vì món quà vô cùng này cứ
mưa rào lên chúng ta, vì toàn thể vũ trụ này, từ cát bụi
tới điều thiêng liêng. Tình yêu không phải là điều bạn
hiểu nó là vậy, do đó mới có câu hỏi này.
Bạn hỏi, "Mọi người đều muốn yêu và được yêu.
Tại sao?"
Bởi vì tình yêu là tôn giáo ở đỉnh cao nhất của nó;
tình yêu là tôn giáo tối cao. Tình yêu là việc tìm kiếm
Thượng đế - tất nhiên, tìm kiếm vô ý thức lúc bắt đầu,
loạng choạng, dò dẫm trong bóng tối. Chiều hướng có
thể không đúng, nhưng ý định là tuyệt đối đúng.
Tình yêu không phải là điều bình thường mà bạn
vẫn hiểu nó; nó không chỉ là hấp dẫn sinh học giữa đàn
ông và đàn bà. Nó là cái đó đấy, nhưng điều đó chỉ là
bắt đầu, chỉ là bước đầu tiên. Ngay cả ở đó, nếu bạn
nhìn sâu xuống, nó không thực sự là hấp dẫn giữa đàn
ông và đàn bà, nó là hấp dẫn giữa năng lượng nam tính
và năng lượng nữ tính. Nó không phải là hấp dẫn giữa A
và B; những điều bí ẩn sâu hơn nhiều có tham gia vào
ngay cả trong chuyện tình bình thường.
Do đó không ai có thể định nghĩa được tình yêu.
Hàng nghìn định nghĩa đã được thử - tất cả đều thất bại.
Tình yêu vẫn còn không định nghĩa được, rất khó nắm,
rất hay thay đổi. Bạn càng muốn nắm lấy nó, điều đó lại
càng trở nên khó hơn, nó càng đi xa hơn. Bạn không thể
bắt giữ được nó, bạn không thể xoay xở để biết đích xác
nó là gì, bạn không thể kiểm soát được nó. Tình yêu vẫn
còn không thể nào biết được. Con người muốn biết, bởi
vì tri thức cho sức mạnh. Bạn muốn mạnh trên tình yêu,
nhưng điều đó là không thể được; tình yêu lớn hơn bạn
nhiều lắm. Bạn không thể sở hữu nó, bạn chỉ có thể bị
nó sở hữu. Do đó những người muốn sở hữu tình yêu
không bao giờ đi tới biết cái gì về nó.
Chỉ những người đủ dũng cảm, chỉ những người liều
lĩnh, người có thể mạo hiểm chính cuộc sống của họ và
bị sở hữu bởi năng lượng không biết nào đó, mới có khả
năng biết tình yêu là gì.
Tình yêu là bước đầu tiên hướng tới Thượng đế - do
đó nó có vẻ như điên khùng đối với những người bị treo
trong đầu họ. Và bởi vì mọi người không hiểu toàn thể
bí ẩn của tình yêu, bởi vì họ cố gắng hiểu nó qua tâm
trí... Nó có thể được hiểu chỉ qua trái tim. Nhớ lấy: mọi
điều lớn lao đều có sẵn cho trái tim. Trái tim là cánh cửa
tới mọi giá trị lớn lao của cuộc sống, tới mọi giá trị tối
thượng, và cái đầu chỉ là cái máy hữu dụng, một vật
dụng - tốt ở bãi chợ nhưng hoàn toàn vô dụng trong đền
chùa. Và tình yêu là ngôi đền, nó không phải là bãi chợ.
Nếu bạn lái tình yêu vào bãi chợ nó bị thu lại thành dâm
dục xấu xí.
Đó là điều mọi người đã làm: thay vì nâng tình yêu
tới Thượng đế, họ đã thu tình yêu thành dâm dục con
vật, xấu xí. Và điều kì lạ là, cùng những người đó - tu sĩ,
chính khách, nhà đạo đức - cùng những người đã thu
tình yêu thành hiện tượng xấu xa, đều chống lại dục, đều
là kẻ thù của dục. Và họ là những người đã phá huỷ sức
mạnh tiềm năng vô cùng!
Tình yêu là hoa sen ẩn kín trong bùn. Hoa sen được
sinh ra từ bùn, nhưng bạn không kết án hoa sen bởi vì
nó được sinh ra từ bùn; bạn không gọi hoa sen là đồ bùn
nhơ, bạn không gọi hoa sen là bẩn thỉu. Tình yêu được
sinh ra từ dục, và thế rồi lời cầu nguyện được sinh ra từ
tình yêu, và thế rồi Thượng đế được sinh ra từ lời cầu
nguyện. Người ta cứ soải cánh bay lên ngày một cao
hơn, cao hơn.
Nhưng các tu sĩ và nhà đạo đức đã thu toàn thể hiện
tượng này thành dâm dục. Và một khi tình yêu trở thành
dục nó trở thành xấu, người ta bắt đầu cảm thấy mặc
cảm về nó. Và chính bởi vì mặc cảm đó mà có câu tục
ngữ này, câu ngạn ngữ này: Cái nhìn đầu tiên về tình
yêu, cái nhìn cuối cùng về trí huệ... Nếu bạn hỏi tôi, tôi
sẽ đổi nó một chút ít. Tôi sẽ nói: Cái nhìn đầu tiên về
tình yêu, cái nhìn đầu tiên về trí huệ.
Nhưng điều đó tùy thuộc vào cách bạn nhìn nó. Nếu
bạn nhìn vào tiềm năng của nó, ở khả năng cao nhất mà
nó có thể đạt tới, thế thì tình yêu trở thành chiếc thang.
Nếu bạn chỉ nhìn vào bùn và bạn hoàn toàn mù với
tương lai của bùn, thế thì chắc chắn tình yêu trở thành
cái gì đó xấu xí và đối kháng lớn nảy sinh trong bạn.
Nhưng đối kháng với tình yêu là đối kháng với Thượng
đế.
Trở về từ tuần trăng mật, Michael điện thoại cho bố
mình ở văn phòng.
"Con đấy à, con trai. Kể cho bố xem nào, cuộc sống
gia đình thế nào?"
"Bố ơi, con bực mình lắm. Con nghĩ con lấy phải ni
cô cồi."
"Ni cô sao?" người bố hoảng hốt hỏi. "Con ngụ ý
gì?"
"À, bố biết đấy, bố, chẳng cái gì buổi sáng và chẳng
cái gì buổi tối."
"Ồ, cái đó!" người già hơn lẩm bẩm. "Tới ăn tối thứ
bẩy và bố sẽ giới thiệu con với mẹ tối cao."
Một khi tình yêu bị thu về chỉ dâm dục, tất nhiên thế
thì cái nhìn đầu tiên về tình yêu là cái nhìn cuối cùng
của trí huệ. Nhưng điều đó tuỳ thuộc vào bạn: sao thu nó
về dâm dục? Sao không đổi kim loại cơ sở hơn thành
vàng? Sao không học giả kim thuật của yêu? Đó là điều
tôi đang dạy ở đây.
Và các tu sĩ, những người chẳng biết gì về tình yêu -
bởi vì họ chưa bao giờ yêu, họ đã từ bỏ thế giới của tình
yêu - họ cứ làm ra các hệ thống tư tưởng lớn chống lại
nó.
Ông tu sĩ đứng trước một đám đông nín lặng các dân
làng chăm chú và nói với họ, "Quí vị phải không dùng-a
viên thuốc đấy."
Một cô tiểu thư đáng yêu bước lên và nói, "Trông
đây, ông không chơi-a trò chơi, ông không làm-a ra qui
tắc!"
Đây là những người không chơi trò chơi nhưng họ
làm ra qui tắc. Trong nhiều thế kỉ các tu sĩ đã làm ra qui
tắc. Đó là thời giáo hội trên khắp thế giới đã kết án một
nguồn tiềm năng vĩ đại, thực ra là nguồn duy nhất, của
năng lượng. Một khi nó bị kết án, bạn bị kết án; cả đời
bạn sẽ trở thành vô nghĩa. Một khi năng lượng dục
không được phép phát triển tới những chiều cao tự nhiên
của nó, bạn đang sống cuộc sống khổ sở.
Bal Krishna Bharti, tình yêu là món quà lớn lao nhất
của Thượng đế. Học nghệ thuật về nó đi. Học bài ca về
nó, lễ hội về nó đi. Nó là nhu cầu tuyệt đối: cũng như
thân thể không thể sống sót nếu thiếu thức ăn, linh hồn
không thể sống sót nếu thiếu tình yêu. Tình yêu là chất
nuôi dưỡng của linh hồn, nó là cái bắt đầu của mọi điều
lớn lao, nó là cánh cửa của điều thiêng liêng.
****************************************************
#2Câu hỏi thứ ba:
Thưa thầy kính yêu,
Tôi biết rằng Thượng đế là tình yêu, nhưng thế thì
tại sao tôi sợ ngài thế?
Sudharma, bạn không biết rằng Thượng đế là tình
yêu đâu. Bạn đã nghe tôi nói đi nói lại rằng Thượng đế
là tình yêu; do đó bạn đã bắt đầu lặp lại nó. Điều đó là
như vẹt thôi. Tôi biết Thượng đế là tình yêu, do đó
không thể nào sợ Thượng đế được. Làm sao bạn có thể
sợ tình yêu được?
Sợ và yêu không thể cùng tồn tại với nhau được; sự
cùng tồn tại của chúng là không thể được. Thực ra,
chính là cùng một năng lượng trở thành sợ cũng trở
thành yêu. Nếu nó trở thành sợ, không còn năng lượng
sẵn có để thành yêu; nếu nó trở thành yêu, sợ biến mất.
Nó là cùng năng lượng! Cùng năng lượng này ở trạng
thái hỗn độn được gọi là sợ; và khi nó trở thành hài hoà,
khi nó trong hoà hợp sâu, nó được gọi là yêu. Bạn vẫn
chưa biết rằng Thượng đế là tình yêu đâu.
Bạn nói, "Tôi biết rằng Thượng đế là tình yêu..."
Bạn đã nghe nói, nhưng bạn không biết. Đây là
thông tin khi có liên quan tới bạn; nó chưa là việc biết,
nó không phải là kinh nghiệm đích thực riêng của bạn.
Và bao giờ cũng nhớ rằng chừng nào cái gì đó còn chưa
trở thành kinh nghiệm đích thực riêng của bạn, nó sẽ
không biến đổi bạn; do đó có vấn đề này.
Bạn nói, "Tôi biết rằng Thượng đế là tình yêu,
nhưng thế thì tại sao tôi sợ ngài thế?"
Bạn nhất định sợ ngài bởi vì bạn không biết rằng
Thượng đế là tình yêu. Bạn đã được các tu sĩ trong hàng
thế kỉ bảo bạn rằng Thượng đế thường xuyên quan sát
bạn, rằng Thượng đế muốn bạn phải là thế này và không
là thế kia, rằng đây là mười điều răn của Thượng đế,
tuân theo chúng đi. Và nếu bạn không tuân theo chúng,
Thượng đế đã chuẩn bị địa ngục lớn cho bạn. Bố đang
chuẩn bị ngọn lửa địa ngục cho con của riêng mình sao?
- không thể được, ngay cả để quan niệm.
Các tu sĩ đã làm Thượng đế thành xấu thế chỉ để chi
phối mọi người, bởi vì mọi người có thể bị chi phối chỉ
qua sợ hãi. Nhớ điều này: toàn thể bí mật thương mại
của tu sĩ, của người Hin du, của người Ki tô giáo, người
Mô ha mét giáo, người Jaina giáo, phật tử - triết lí của
họ khác nhau nhưng bí mật thương mại của họ là một.
Bí mật thương mại đó là: bao giờ cũng giữ cho mọi
người sợ hãi, run rẩy. Nếu mọi người sợ hãi, họ sẵn sàng
chịu phục tùng. Nếu mọi người sợ hãi, họ sẵn sàng là nô
lệ. Nếu mọi người sợ hãi, họ không thể thu lấy dũng
cảm để nổi dậy. Sợ hãi giữ họ bất lực; sợ hãi là quá trình
tâm lí của việc thiến. Trong nhiều thế kỉ điều đó đã được
làm: sợ hãi đã là vũ khí lớn nhất trong tay của tu sĩ và họ
đã dùng nó rất chủ ý.
Con trai của nhà Goldbergs, Jake, từ chối coi nhà
trường là chuyện nghiêm chỉnh. Nó chưa bao giờ làm
bài tập về nhà và thường xuyên trốn học.
Thầy hiệu trưởng gợi ý họ nên gửi nó tới một trường
Do Thái Yeshiva. Nhà Goldbergs làm điều đó, nhưng
sau vài tuần nó bị đuổi ra.
Nhà Goldbergs biết rằng trường phái thiển cận Cơ
đốc giáo rất chặt chẽ, cho nên họ quyết định gửi Jake tới
một trường giáo xứ. Họ đăng tuyển nó vào Trường
Christ-the-King dành cho con trai, và cảnh báo con họ
cư xử và học bài học của mình, bởi vì đây là cơ hội cuối
cùng của nó. Nếu nó muốn bị tống ra bây giờ thì nó sẽ
bị gửi sang trường dành cho kẻ chểnh mảng.
Sau hai tuần ở trường giáo xứ, Jake về nhà với điểm
xuất sắc. Nó đã được cải sang thành một học sinh
nghiêm chỉnh, tư cách hạnh kiểm tốt một cách huyền bí.
"Làm sao con đã thay đổi được bất thần thế?"
Goldberg hỏi.
"Thế này," nó trả lời, "khi con thấy người nào đó
treo trên cây thánh giá trong mọi phòng, con đã hình
dung ra tốt hơn cả là con không là đứa khôn ngoan thêm
nữa."
Làm cho mọi người sợ, giữ họ bao giờ cũng run rẩy.
Để cho họ biết rằng Thượng đế là Thượng đế độc tài, rất
giận dữ, ghen tị, và tuyệt đối không thể nào tha thứ nếu
bạn không vâng lời. Không vâng lời là tội lỗi lớn nhất
trong mắt của tu sĩ; do đó Adam và Eve mới bị đuổi ra.
Họ đã không làm gì mấy tội cả. Họ đã thực sự làm gì?
Chẳng nhiều nhặn gì để mà nói, nhưng các tu sĩ đã nói
về nó hàng thế kỉ. Và Thượng đế giận tới mức không chỉ
Adam và Eve bị tống ra khỏi Vườn Eden, thiên đường -
cùng với họ là cả nhân loại!
Bạn khổ bởi vì Adam và Eve không vâng lời. Bạn
đã không làm điều gì sai cả; bạn khổ vì tội của họ bởi vì
bạn là con cháu. Tội lỗi này lớn thế - không chỉ những
người này bị trừng phạt, mà trong hàng nghìn và hàng
nghìn năm con cháu họ phải bị trừng phạt nữa.
Và tội lỗi thực sự là gì? Sao nhiều ồn ào về nó được
dựng lên thế? Nó hồn nhiên thế, nó tự nhiên tới mức tôi
không thể quan niệm nổi làm sao Adam và Eve lại có
thể đã né tránh được nó. Nếu bất kì ai chịu trách nhiệm
cho nó, bản thân Thượng đế chịu trách nhiệm. Có cả
triệu cây trong Vườn Eden và chỉ có một cây mà
Thượng đế không muốn Adam và Eve ăn ở đó - chỉ một
cây, cây cấm. Và lí do tại sao nó bị cấm cũng dường như
rất xấu. Lí do là: nếu bạn ăn quả của cây tri thức, bạn sẽ
trở thành giống Thượng đế và Thượng đế rất ghen tị.
Nhìn vào lí do tại sao cây này bị cấm. Lí do là ở chỗ nếu
bạn ăn từ cây này, từ chính cây này, cây tri thức, bạn sẽ
trở thành bất tử, như các thần. Bạn sẽ biết nhiều như
Thượng đế biết - và điều đó không thể tha thứ được!
Cho nên Thượng đế đã bảo vệ cây đó đặc biệt riêng cho
bản thân mình - ngài phải ăn từ cây tri thức chứ - và cấm
Adam và Eve.
Bây giờ đây đích xác là điều mọi người bố đang
làm. Ông ấy hút thuốc và ông ấy cấm trẻ con: "Không
được hút thuốc - điều này là xấu. Điều này là xấu cho
con!" Nhưng bởi vì người bố trông hay thế khi hút
thuốc, trẻ con trở nên bị bỏ bùa. Chúng cũng thích giống
như người bố - và ông ấy trông đàn ông thế khi ông ấy
phì khói từ điếu xì gà, ông ấy trông tự hào thế! Ông ấy
chưa bao giờ trông tự hào thế như khi ông ấy phì khói từ
điếu xì gà, nghỉ trong ghế, đọc báo. Đứa trẻ trở nên bị
hấp dẫn. Khi người bố không có đó chúng cũng ngồi
vào cùng chiếc ghế đó, giang rộng tờ báo ra, mặc dầu
chúng không biết đọc, và bắt đầu phì khói. Và điều đó
cho chúng vui vẻ lớn lao bởi vì điều đó cho chúng bản
ngã lớn.
Thực ra, cấm đoán là mời gọi. Nói với trẻ con,
"Không làm cái đó!" là tìm rắc rối đấy.
Tôi thường sống cùng một gia đình. Có vấn đề:
người bố là người nghiện thuốc lá, người hút liên tục -
một giáo sư rất nổi tiếng ở đại học. Và ông ấy sợ: ông ấy
hỏi tôi, "Phải làm gì?"
Tôi nói, "Làm một điều..." Ông ấy chỉ có một đứa
con trai đang lớn và ông ấy sợ rằng sớm hay muộn đứa
con sẽ bắt đầu hút thuốc. Tôi nói, "Nếu ông nghe tôi,
cách tốt nhất là cho cậu bé thuốc lá, tự ông đem cho nó
thuốc lá và bảo nó hút thật nhiều tuỳ ý."
Ông ấy nói, "Ông nói gì thế? Ông có điên không hay
ông đùa đấy?"
Tôi nói, "Thế thì để điều đó cho tôi - tôi sẽ xoay xở
điều đó."
Tôi tặng cho đứa bé một điếu thuốc. Nó nói, "Nhưng
bác không hút thuốc."
Tôi nói, "Đó là chuyện khác - cháu đừng lo về bác.
Nhưng cháu học đi! Đó là một trong những điều đẹp
nhất trong cuộc sống!"
Nó lại hỏi, "Nhưng thế thì sao bác không hút?"
Tôi nói, "Cháu cứ bỏ bác ra khỏi điều này đi - bác
không phải là người rất thông minh. Nhìn bố cháu kia!
Và nếu bác ngu, cháu có định ngu không?"
Tôi gặp khó khăn lớn trong việc thuyết phục nó bởi
vì câu hỏi nó cứ hỏi mãi là, "Bác bảo cháu hút, nhưng
sao bác không hút?"
Tôi nói, "Cháu thử xem, thế rồi cháu sẽ biết!"
Thế là nó thử, và nó biết, và nó vứt điếu thuốc lá đi.
Và nó nói, "Bây giờ cháu biết tại sao bác không hút rồi.
Thế sao bác cứ khăng khăng bảo cháu hút? Thế thì sao
bác cứ cố gắng thuyết phục cháu? Nó buồn nôn thế, lợm
giọng thế!" Nó ho nước mắt giàn dụa - và thế đấy, câu
chuyện chấm dứt.
Và tôi bảo với bố nó đừng bao giờ nói với con,
"Đừng hút thuốc."
Nhớ lấy câu chuyện cổ về Adam và Eve. Nếu tôi mà
là Thượng đế tôi đã đem Adam và Eve tới cây tri thức
và sẽ buộc họ phải ăn tới mức họ phải bắt đầu nôn ra, và
đó sẽ là chấm dứt của toàn bộ câu chuyện. Nhưng
Thượng đế đã bảo họ không được ăn từ cây này. Đó đã
là lời mời - chẳng cần rắn nào cả.
Rắn là bịa thêm của tu sĩ để cho Thượng đế có thể
được tránh né; trách nhiệm có thể được trút lên rắn đáng
thương. Rắn đơn giản đáng thương; rắn chẳng liên quan
gì tới điều đó, rắn tuyệt đối hồn nhiên. Bạn đã bao giờ
thấy con rắn nào thuyết phục người đàn bà nào về cái gì
không? Và tại sao rắn phải quan tâm? Nếu nó muốn ăn,
chẳng ai cấm nó cả. Sao nó phải dụ dỗ Eve ăn quả của
cây tri thức? Nó được gì nếu Eve và Adam trở nên thông
thái? Không, rắn là bịa đặt để cho trách nhiệm có thể bị
đổ lên nó.
Nhưng nếu bạn đi sâu vào câu chuyện này nó lại
đơn giản: Thượng đế chịu trách nhiệm. Trước hết bạn áp
đặt mệnh lệnh lên mọi người, và chính việc áp đặt đó tạo
ra sự chống đối trong họ, tạo ra thôi thúc lớn để không
vâng lời. Thế thì không vâng lời là tội lỗi; tội lỗi lớn
nhất là không vâng lời. Và thế rồi bạn phải tạo ra địa
ngục và đủ mọi loại trừng phạt, và bạn phải giữ cho mọi
người sợ hãi.
Câu chuyện này được các tu sĩ bịa ra để làm con con
người sợ hãi. Tu sĩ chưa bao giờ muốn con người trở
nên thông minh, bởi vì người thông minh là nguy hiểm -
nguy hiểm cho nguyên trạng, cho thể chế, nguy hiểm
cho các quyền lợi được đầu tư. Tu sĩ muốn mọi người
vẫn còn hoàn toàn dốt nát, không thông minh. Trong
hàng thế kỉ họ đã không cho phép mọi người đọc kinh
sách. Trong nhiều tôn giáo đàn bà vẫn không được phép.
Và vậy mà một âm mưu rất thâm hiểm vẫn diễn ra.
Âm mưu này là ở chỗ tất cả các kinh sách đều viết trong
các ngôn ngữ chết; không ai hiểu chúng, chỉ mỗi tu sĩ
thôi. Tu sĩ vẫn còn mạnh mẽ trong hàng thế kỉ bởi vì họ
là những người duy nhất biết. Kinh sách đã viết trong
tiếng Phạn cổ đại, tiếng Do Thái, A rập, Hi Lạp, Latin -
các ngôn ngữ cổ đại không còn được nói nữa. Thậm chí
có hoài nghi rằng có vài ngôn ngữ còn chưa bao giờ
được nói. Chẳng hạn, tiếng Phạn dường như là một
trong những ngôn ngữ chưa bao giờ là ngôn ngữ nói. Nó
bao giờ cũng là ngôn ngữ của các học giả, không của
mọi người; của các bác học, không của quần chúng.
Ở Ấn Độ đã có hai ngôn ngữ: một có tên là Prakrit;
prakrit nghĩa là "tự nhiên," cái mọi người đều nói. Và
Sanskrit theo nghĩa đen là "có học thức," "quí tộc," ngôn
ngữ chỉ được các học giả và các viện sĩ ở đại học nói.
Tất cả các kinh sách lớn đều được viết trong tiếng Phạn.
Vấn đề bị bỏ lại cho Mahavira và Phật lần đầu tiên
nói theo ngôn ngữ của mọi người - và các brahmins của
Ấn Độ chưa bao giờ có khả năng tha thứ được cho hai
người này về tội đó. Nói theo ngôn ngữ của mọi người
nghĩa là quyền lực của tu sĩ đi đời. Nếu mọi người trở
thành người biết, nếu họ biết điều được viết trong các
kinh sách, họ sẽ không dễ bị lừa thế. Thực ra, bạn có thể
tôn thờ Veda chỉ nếu bạn không hiểu chúng. Nếu bạn
hiểu chúng, chín mươi chín phần trăm chỉ là rác rưởi.
Một phần trăm là vàng ròng, chắc chắn, nhưng chín
mươi chín phần trăm là rác rưởi thuần tuý. Nhưng nếu
bạn không hiểu chúng, tất cả đều là vàng. Trong bóng
tối, bất kì cái gì cũng có thể được trao cho bạn với lời,
"Nó là vàng đấy - tôn thờ nó đi!" Và trong hàng thế kỉ
Veda đã được tôn thờ.
Các tu sĩ muốn bạn tôn thờ kinh sách, không cần
hiểu chúng - bởi vì nếu bạn hiểu kinh sách, sớm hay
muộn, một điều sẽ trở nên rõ ràng với bạn: rằng kinh
sách này không phải là cội nguồn thực. Sớm hay muộn,
bạn nhất định loạng choạng vớ phải chân lí rằng,
"Krishna đang nói từ trạng thái thiền, Christ đang nói từ
trạng thái thiền. Điều ông ấy nói là phụ - từ đâu ông ấy
nói ra mới là chính. Chừng nào mình chưa đạt tới trạng
thái đó của tâm thức mình sẽ không có khả năng hiểu
những lời này, bởi vì những lời này trong bản thân
chúng là trống rỗng; nghĩa chỉ có thể tới qua kinh
nghiệm." Kinh sách đã bị cấm; nó là tội lỗi... Chỉ người
brahmins, các tu sĩ, đẳng cấp cao nhất, mới được phép
đọc chúng - trên toàn thế giới.
Âm mưu này vẫn tiếp tục. Những lời cầu nguyện
vẫn được thực hiện trong ngôn ngữ chết, bạn không biết
mình đang nói gì. Làm sao bạn có thể cảm thấy cái gì
khi bạn không biết điều bạn đang nói? Làm sao điều đó
bắt nguồn từ tình cảm của bạn và từ trái tim của bạn
được? Lời cầu nguyện của bạn trở thành giống như đĩa
hát: 'Giọng Thầy' - sự lặp lại. Và bạn hi vọng rằng bằng
việc lặp lại các nghi lễ chết bạn sẽ đạt tới đâu đó. Bạn sẽ
đơn giản làm phí hoài cuộc sống của mình.
Và thế rồi nỗi sợ lớn nảy sinh: "Mình không biết
mình từ đâu tới, mình là ai, mình đang đi đâu. Tất cả
xung quanh đều tối tăm và tối tăm, tối tăm vô hạn, và
không một ánh sáng trong cuộc sống." Thế rồi bạn phải
đi tới tu sĩ và cúi lạy ông ấy. Bạn phải hỏi xin hướng
dẫn.
Đây là bí mật thương mại: giữ cho mọi người sợ. Và
bạn có thể giữ cho mọi người sợ chỉ nếu bạn giữ họ dốt
nát. Để cho họ vẫn còn run rẩy, thế thì họ bao giờ cũng
sẽ sẵn sàng chạm chân bạn, sẵn sàng vâng lời bạn - bởi
vì bạn đại diện cho Thượng đế, và không vâng lời bạn là
nguy hiểm, rất nguy hiểm. Họ sẽ bị tống xuống địa ngục
vĩnh viễn.
Greenberg, ăn mặc xoàng xĩnh và mang hai túi giấy,
bị thanh tra hải quan chặn lại.
"Anh để cái gì trong các túi kia?" viên quan chức
hỏi.
"Tôi có hai mươi nhăm nghìn đô la ở đây, số tiền tôi
đem sang Israel để tặng."
"Xì," viên quan chức nhạo báng, "anh trông không
đáng giá một bữa ăn; làm sao anh có thể tặng hai mươi
nhăm nghìn đô là cho nhà nước Israel được?"
"Thế này, ông thấy đấy, tôi có việc làm trong phòng
vệ sinh của đàn ông, và khi đàn ông vào tôi nói với họ,
'Giúp cho Israel bằng không tôi sẽ cắt hòn của ông.'"
"Được, vậy là anh kiếm được hai mươi nhăm nghìn
đô la trong túi này, nhưng cái gì trong túi kia?"
"Một số đàn ông không muốn tặng."
Đó là điều các tu sĩ đã từng làm: phá huỷ can đảm
của bạn, phá huỷ dũng cảm của bạn, phá huỷ tự kính
trọng của bạn, phá huỷ tự tin cậy của bạn.
Sudharma, bạn nói, "Tôi biết rằng Thượng đế là tình
yêu, nhưng thế rồi tại sao tôi sợ ngài thế?" Bạn vẫn bị
bao quanh bởi những điều vô nghĩa mà các tu sĩ đã nhồi
nhét vào đầu bạn; bạn đầy những rác rưởi đó. Phải mất
thời gian để gạt bỏ nó, nó thực sự mất thời gian dài, bởi
vì nó đã diễn ra nhiều thế kỉ rồi. Nó đã từng là lịch sử
dài, xấu tới mức tìm ra được một người có thể thoát ra
khỏi nó là hiện tượng hiếm hoi.
Toàn thể nỗ lực của tôi ở đây là để giúp bạn thoát
khỏi nó. Tôi chống lại toàn thể công việc của giới tăng
lữ. Tôi muốn bạn đứng mặt đối mặt với Thượng đế mà
không có tu sĩ nào, không có giới tăng lữ. Thượng đế là
của bạn, bạn là của Thượng đế; không có nhu cầu bất kì
người trung gian nào. Chức năng của thầy không phải là
trở thành người trung gian giữa bạn và Thượng đế.
Chính điều ngược lại: chức năng của thầy là rút đi mọi
cái chen vào giữa bạn và Thượng đế. Bản thân thầy đến
điểm cuối cùng cũng rút đi; giữa bạn và Thượng đế thầy
không còn đứng đó. Thầy chỉ đứng tới mức độ nào đó,
trong khi các thứ khác đang được loại bỏ đi. Khi mọi
thứ khác đã được bỏ đi, thầy tự bỏ bản thân mình đi; đó
là điều cuối cùng thầy làm.
Và khoảnh khắc thầy loại bỏ bản thân mình, thầy
không còn đứng giữa bạn và Thượng đế, đó là khoảnh
khắc bạn biết rằng toàn thể sự tồn tại là tình yêu. Chính
với chất liệu có tên tình yêu mà vũ trụ này được tạo nên.
Jesus nói: Thượng đế là tình yêu. Tôi nói với bạn:
Tình yêu là Thượng đế. Khi Jesus nói: Thượng đế là tình
yêu, có thể Thượng đế còn là nhiều thứ khác nữa; tình
yêu chỉ là một thuộc tính. Khi tôi nói: Tình yêu là
Thượng đế, tôi nói tình yêu là phẩm chất duy nhất.
Không có gì khác trong Thượng đế ngoại trừ tình yêu;
thực ra nó là cái tên khác của tình yêu. Bạn có thể vứt
cái tên "Thượng đế," chẳng cái gì sẽ bị mất cả. Để tình
yêu là Thượng đế của bạn.
Nhưng bạn sẽ phải gạt bỏ các tu sĩ. Bạn sẽ phải gạt
bỏ cái gọi là tôn giáo, nhà thờ, đền chùa, nghi lễ, kinh
sách của bạn. Có nhiều rác rưởi cần phải gạt bỏ đi. Đó là
công việc lớn, bởi vì bạn đã được bảo rằng đây là những
thứ rất quí giá. Rác rưởi đã bị áp đặt vào bạn cứ dường
như nó là vàng và, bởi vì điều đó đã được nói cho bạn
nhiều lần thế, bạn đã trở nên bị ước định.
Mọi người trở nên bị ước định để thấy những cái gì
đó. Khi có ước định nào đó, bạn nhìn vào mọi sự qua
ước định đó và nó có vẻ giống thế.
Hai người đang ngồi dưới gốc cây; một người là
người Hindu giáo, người kia là người Mô ha mét giáo.
Chim chóc ríu rít, lúc đó là sáng xuân đẹp. Họ cả hai
lắng nghe một lúc, rồi người Hindu nói, "Bác có nghe
thấy không? Mọi chim chóc đều vang vọng âm thanh
aum. Tôi có thể nghe thấy nó. Tôi đã thực hành aum từ
ba mươi năm nay, và bây giờ tôi trở nên có khả năng
giải mã nó rất dễ dàng. Tất cả mọi chim chóc đều vang
vọng với cùng một âm thanh: âm thanh vô âm, âm thanh
cổ đại của người Hindus, omkar."
Người Mô ha mét giáo cười và ông ta nói, "Vô
nghĩa! Tôi cũng đã thực hành lời cầu nguyện của tôi.
Chim chóc không nói aum đâu, chúng nói amin đấy."
Lời cầu nguyện của người Mô ha mét giáo, lời cầu
nguyện của người Ki tô giáo, đều chấm dứt với amin;
người Ki tô giáo gọi nó là amen, người Mô ha mét giáo
gọi nó là amin. Lời cầu nguyện của người Hindu kết
thúc bằng aum. Chắc chắn có chân lí ở đâu đó, được
diễn đạt bộ phận bởi cả ba từ này. Khi tâm trí trở nên
tuyệt đối im lặng, âm thanh nào đó được nghe thấy. Nếu
bạn là người Hindu bạn sẽ diễn giải nó là aum, nếu bạn
là người Mô ha mét giáo nó là amin, nếu bạn là người
Ki tô giáo nó là amen, nhưng không ai có thể nói chắc
chắn nó là gì. Thực ra nó có thể được diễn giải theo
nhiều cách thế - chính việc diễn giải của bạn được áp đặt
lên nó.
Nếu bạn hỏi nhà huyền môn thực, người không phải
là người Hindu không là người Mô ha mét giáo không là
người Ki tô giáo, ông ấy sẽ nói, "Ngồi im lặng bên cạnh
ta và nghe. Không có nhu cầu diễn giải nó chút nào, bởi
vì bất kì điều gì chúng ta nói về nó đều sẽ là áp đặt của
chúng ta, nó sẽ là ý niệm của chúng ta được áp đặt lên
âm thanh này. Nghe, nghe một cách im lặng - ta đang
nghe nó, ông cũng nghe. Ta biết nó, ông sẽ biết nó.
Không cần nói gì về nó cả."
Chuyện kể, có lần điều đó xảy ra:
Nhà huyền môn vĩ đại, Farid, gặp Kabir, một nhà
huyền môn vĩ đại khác. Trong hai ngày họ ngồi im lặng
cùng nhau. Vâng, đôi khi họ cười, khúc khích chẳng bởi
lí do nào, và đôi khi họ ôm ghì nhau và hôn, nhưng
không một lời nào được nói. Gần nghìn người đã tụ tập -
các đệ tử của cả hai - với sự trông đợi lớn lao rằng cái gì
đó sẽ được trao đổi, và không ai muốn bỏ lỡ cơ hội lớn
thế. Kabir nói điều gì đó cho Farid nhất định là cái gì đó
hiếm hoi, hay Farid nói cái gì đó cho Kabir nhất định là
cái gì đó chỉ được nghe thấy một lần trong cả thế kỉ.
Nhưng hai ngày trôi qua, và các đệ tử trở nên chán
ngán. Và họ càng chán, các nhà huyền môn càng khúc
khích và cười to và ôm ghì và hôn. Và thế rồi thời gian
ra đi tới; Farid phải đi. Kabir đi ra khỏi thị trấn để tiễn
biệt ông ấy, để nói lời chào tạm biệt. Họ lại ôm, họ lại
khúc khích, và họ ra đi.
Các đệ tử của Farid đi theo Farid và các đệ tử của
Kabir đi theo Kabir trở về nhà. Khi họ còn một mình họ
hỏi, các đệ tử của Farid hỏi, "Cái gì sai thế nhỉ? Thầy
liên tục nói cho chúng tôi - điều gì đã xảy ra? Tại sao
thầy đã trở nên câm? Trong hai ngày sao thầy không
nói, và mọi tiếng khúc khích này là gì?"
Farid nói, "Không cần nói gì cả, bởi vì ta nghe cùng
điều ông ấy nghe, ta thấy cùng điều ông ấy thấy, cho
nên phỏng có ích gì mà nói cái gì với ông ấy? Điều đó
sẽ là tuyệt đối ngu xuẩn về phần ta. Khi ta có thể thấy
ông ấy đang nghe cùng điều, đang thấy cùng điều, đang
là cùng điều, chúng ta đang đương đầu với cùng thực
tại, phỏng có ích gì mà nói nó?"
Thế rồi họ hỏi, "Thế sao các thầy khúc khích cười?"
Và ông ấy nói, "Chúng ta khúc khích bởi vì các ông,
bởi vì các ông chán thế! Chúng ta cười các ông. Các ông
đã tới để nghe chúng ta nói - các ông ngu, các ông bỏ lỡ
cơ hội lớn rồi. Hai thầy có đó, hoàn toàn im lặng; hai
vũng năng lượng im lặng, hai cánh cửa mở đồng thời tới
Thượng đế - và các ông bỏ lỡ. Và các ông muốn lời nào
đó, tiếng động nào đó. Các ông có thể đã ngồi im lặng,
các ông có thể đã trở thành một phần im lặng của chúng
ta. Các ông có thể đã rơi vào mối quan hệ với chúng ta.
Các ông đã không làm điều đó - các ông chán, các ông
ngán, các ông ngáp. Và thấy các ông chúng ta khúc
khích rồi, chúng ta cười vào cái loại người ngu si mà
chúng ta đã tập hợp lại!"
Chẳng cái gì có thể được nói; khi bạn biết, không có
cách nào để diễn đạt nó. Nhưng nếu bạn muốn diễn đạt,
thế thì lời tới gần Thượng đế nhất là 'yêu'. Ngay cả điều
đó cũng chỉ là xấp xỉ, nhưng rất gần. Và lời 'Thượng đế'
đã trở nên bị liên kết với người sai, với khái niệm sai.
Thực ra, nhiều người cảm thấy bị xúc phạm khoảnh
khắc bạn thốt ra lời 'Thượng đế'. Tôi không có gắn bó
với lời đó; bạn có thể vứt bỏ nó.
Nhưng nhớ yêu; tôi không thể bảo bạn vứt bỏ điều
đó được, bởi vì không có yêu bạn sẽ không bao giờ đạt
tới Thượng đế. Không có Thượng đế bạn vẫn có thể yêu,
và Thượng đế nhất định tới dù bạn biết hay không, dù
bạn tin vào Thượng đế hay không. Niềm tin không phải
là yêu cầu: yêu là tuyệt đối cần thiết, cái phải có.
Sudharma, bạn đã nghe tôi nói Thượng đế là tình yêu.
Kinh nghiệm điều đó đi, và thế thì mọi sợ hãi sẽ biến
mất. Và bắt đầu vứt bỏ các tu sĩ và hàng thế kỉ của ước
định sai. Họ đã làm cho bạn sợ.
Thực ra, tu sĩ là kẻ thù của Thượng đế, bởi vì mọi
người càng sợ Thượng đế nhiều, càng ít khả năng cho
họ biết Thượng đế - bởi vì sợ là bức tường, không phải
là cây cầu. Tình yêu là cây cầu, không phải là bức
tường. Tất nhiên, sợ giúp cho các tu sĩ sống và khai thác
bạn, nhưng điều đó tước đi Thượng đế khỏi bạn. Tu sĩ
đang phục vụ cho quỉ. Nếu có ai đó giống quỉ, thế thì tu
sĩ đang phục vụ nó; họ không phục vụ Thượng đế.
Đó là lí do tại sao có nhiều tôn giáo thế, vậy mà thế
gian vẫn còn phi tôn giáo, hoàn toàn phi tôn giáo; nhiều
đền chùa và nhiều nhà thờ tu viện hồi giáo thế, và vậy
mà bạn không thấy hương thơm của tôn giáo. Bạn
không thấy khuôn mặt mọi người đầy duyên dáng, mắt
họ đầy im lặng, chân họ nhảy múa, cuộc sống của họ
biểu lộ rằng Thượng đế hiện hữu. Họ có thể nói rằng họ
tin vào Thượng đế, nhưng cuộc sống của họ nói điều gì
đó khác, hoàn toàn khác. Cuộc sống của họ chỉ ra tính
phi tôn giáo tuyệt đối; không chân thực, không đích
thực, không chân thành, ghét, giận, tham - chẳng có gì
của lời cầu nguyện, chẳng có gì của tình yêu, chẳng có
gì của từ bi, chẳng có gì của tính thiền.
Sudharma, thiền đi, yêu đi - và quên các tu sĩ đi,
tống họ ra khỏi bản thể bạn. Bạn đang chịu đựng khó
chịu đấy.
****************************************************
#2Câu hỏi thứ tư:
Thưa thầy kính yêu,
Định nghĩa về người bi quan là gì?
Shivananda, người bi quan là người lạc quan đã trở
nên bị thất vọng bởi việc lạc quan của mình. Người đó
đã hi vọng quá nhiều và đã thất bại, người đó mơ quá
nhiều và đã không thể đạt tới được cái gì bản chất.
Người bi quan là người lạc quan đứng lộn ngược; họ
không phải là những anh chàng khác nhau - đó là điều
tôi muốn làm rõ ràng cho bạn. Chừng nào bạn còn chưa
là người lạc quan bạn không bao giờ có thể là người bi
quan được. Trước hết bạn phải trở thành người lạc quan.
Và từng đứa trẻ đều được nuôi dưỡng lớn lên với lạc
quan lớn lao. Mọi bố mẹ đều nghĩ rằng họ có những đứa
con vĩ đại. Hỏi bất kì người mẹ nào mà xem: cô ấy nghĩ
cô ấy có đứa con duy nhất; cao siêu, hiếm hoi, vô song
nhất. Từng người mẹ đều ba hoa về đứa con. Bố mẹ
nuôi lớn con cái với lạc quan lớn rằng chúng sẽ là
Alexander Đại Đế hay Jesus Christs hay Phật Gautam.
Nhưng dần dần, dần dần cuộc sống chứng tỏ chính
điều ngược lại. Dần dần, đứa trẻ trở nên nhận biết về cái
bình thường của nó. Nó trở nên nhận biết rằng những
giấc mơ lớn này, rằng những tham vọng lớn này, không
thể được hoàn thành. Và vào lúc người ta tiến gần hơn
tới bốn mươi, bốn hai, bi quan bắt đầu lắng đọng - u ám,
tăm tối...
Bây giờ y học nhận biết rằng phần lớn cơn đau tim
xảy ra ở độ tuổi quãng bốn mươi cho tới bốn tư, giữa
bốn năm này. Phần lớn mọi người đều phát điên giữa
bốn năm này, bốn mươi tới bốn tư. Các nhà tâm lí, nhà
phân tâm, đều nhận biết rằng đó là thời gian nguy hiểm
nhất. Nếu bạn có thể vẫn còn lành mạnh sau bốn mươi
tư, điều đó nghĩa là bạn sẽ vẫn còn lành mạnh. Nhưng
nhiều người thất bại hoàn toàn.
Và đừng cho rằng nếu bạn lành mạnh ngay cả sau
bốn mươi tư... điều đó không có nghĩa là bạn rất thông
minh. Điều đó có thể chỉ là việc bạn rất đờ đẫn và phải
mất thời gian lâu cho bạn hiểu. Điều đó có thể chỉ là bạn
rất không nhạy cảm. Điều đó có thể chỉ là bạn liều lĩnh
dại dột, rằng bạn không lắng nghe cuộc sống, điều cuộc
sống đang nói, rằng bạn cứ hi vọng.
Nhưng sớm hay muộn, người ta bắt đầu cảm thấy
rằng cuộc sống đang mòn mỏi đi. Lạc quan lên men và
trở thành bi quan. Lạc quan, cái hi vọng đó, biến thành
lộn ngược; vô vọng lắng đọng lại. Thế thì mọi thứ có vẻ
tăm tối và buồn nản. Ban đầu bạn quen đếm hoa hồng,
bây giờ bạn bắt đầu đếm gai. Ban đầu bạn quen nói,
"Đoá hoa hồng này đẹp làm sao và kì diệu làm sao! Nó
mọc trong cả nghìn gai." Bạn là nhà thơ, bạn có cảm
giác thẩm mĩ nào đó; bạn vẫn tin rằng cuộc sống sẽ là
việc hoàn thành.
Nhưng chẳng mấy chốc một ngày sẽ tới khi hoa
hồng bắt đầu tàn phai và bạn bắt đầu đếm gai, và bạn
không thể tin được vào hoa hồng thêm nữa. Bạn bắt đầu
nói, "Điều đó là không thể được! Hoa hồng phải là mơ
thôi, hoa hồng phải là maya, ảo tưởng, ảo giác. Làm sao
nó là có thể có trong số hàng nghìn gai, làm sao hoa
hồng có thể có được?" Điều đó có vẻ mâu thuẫn, nó có
vẻ phi logic, nó không thể xảy ra được theo bản chất của
mọi sự. Bạn bắt đầu đếm đêm; trước đây, bạn thường
đếm ngày.
Người lạc quan nói, "Có hai ngày, và giữa hai ngày
chỉ là một đêm nhỏ để nghỉ." Còn người bi quan đếm
đêm; người đó nói, "Có hai đêm dài - ác mộng, những
giấc mơ xấu, hành hạ - và chỉ một ngày nhỏ chen vào
giữa hai đêm này." Cuộc sống vẫn thế: bạn có thể đếm
ngày hoặc bạn có thể đếm đêm. Nếu bạn đếm ngày bạn
là người lạc quan, nếu bạn đếm đêm bạn là người bi
quan, nhưng thực sự không có khác biệt.
Người lạc quan có thể trở thành người bi quan,
người bi quan có thể trở thành người lạc quan. Họ
không phải là trái ngược; họ là hai điểm của cùng một
phổ.
Người ta phải vượt ra ngoài cả hai, Shivananda này.
Sannyasin phải vượt ra ngoài cả hai - không hi vọng
không vô vọng. Không cần đếm ngày, không cần đếm
đêm. Là người quan sát đi! Không cần đếm gai, không
cần đếm hoa hồng. Là người quan sát...
Tôi không dạy bạn lạc quan. Ở phương Tây ngày
nay điều đó rất thời thượng; nó được gọi là "tư duy tích
cực." Đó là cái tên mới cho lạc quan; cái tên cũ đã trở
nên hơi quá lạc mốt, lạc hậu rồi. Cái tên mới là tư duy
tích cực. Tôi không dạy bạn tư duy tích cực, bởi vì tư
duy tích cực mang tiêu cực trong việc thức của nó.
Tôi dạy bạn siêu việt - không tích cực không tiêu
cực. Là người quan sát: chứng kiến cả hai. Khi có ngày,
chứng kiến ngày, và khi có đêm, chứng kiến đêm - và
không bị đồng nhất với cái nào. Bạn không là ngày
không là đêm; bạn là tâm thức siêu việt. Trở nên ngày
một định tâm hơn vào trong siêu việt đó đi.
Tôn giáo thực không tích cực, không tiêu cực. Nó
không thông qua phủ định không qua khẳng định; nó là
qua siêu việt.
Một sáng tháng chín sau Ngày Lao động, Levin và
Ostrow gặp gỡ ăn trưa. Họ đã không gặp nhau trong vài
tháng rồi.
"Tớ vừa sống qua một mùa hè tớ chưa bao giờ nghĩ
tới tớ sẽ thấy," Levin nói. "Tháng sáu là thảm hoạ - tớ
chưa bao giờ thấy tháng sáu nào như thế. Khi tháng bẩy
tới, tớ nhận ra rằng tháng sáu tuyệt vời, bởi vì với tháng
bẩy tớ đi ngay vào hầm rượu. Tháng bẩy cũng tệ thế..."
"Ơn trời!" Ostrow ngắt lời. "Sao cậu tới tớ với
những chuyện tầm thường nhỏ mọn này? Cậu muốn
nghe rắc rối thực không? Tớ có đấy. Hôm qua con trai
duy nhất của tớ về nhà, bảo tới nó sẽ cưới thằng cha
khác. Con trai tớ là đồng dục! Cái gì còn có thể tồi tệ
hơn điều đó?"
"Tớ sẽ bảo cậu," Levin nói, "Tháng tám!"
Đợi đấy! Có những người liên tục tìm cái tiêu cực -
và nếu bạn tìm cái tiêu cực bạn sẽ tìm thấy nó, bởi vì cái
tiêu cực có đó theo cùng tỉ lệ như cái tích cực. Nếu bạn
tìm cái tích cực, bạn sẽ thấy cái tích cực. Nhưng bằng
việc tìm thấy cái tích cực bạn không thể phá huỷ được
cái tiêu cực; cái tiêu cực có đó, bên cạnh. Chúng bao giờ
cũng cùng nhau như các cực âm và dương của điện. Bạn
không thể có điện với một cực được, bạn sẽ cần cả hai.
Cuộc sống cần cả hai: gai và hoa hồng, ngày và
đêm, hạnh phúc/bất hạnh, sinh/tử.
Là nhân chứng cho tất cả nó và bạn sẽ biết cái gì đó
ở bên ngoài sinh, bên ngoài tử; cái gì đó ở bên ngoài
hạnh phúc, bên ngoài bất hạnh. Phật đã gọi nó là an
bình, niết bàn.
****************************************************
#2Câu hỏi cuối cùng:
Thưa thầy kính yêu,
Tôi không thể tin cậy được vào bất kì ai. Sao vậy?
Sargam, tôi sẽ kể cho bạn một câu chuyện. Thiền về
nó đi.
Cậu thanh niên được thuê rủ cô con gái trẻ nhất nhà
trong gia đình nông dân đi vào vựa cỏ khô cùng anh ta.
Cô ta quay lại và kể cho chị mình, "Này, cậu được thuê
ấy chắc chắn biết thủ thuật tốt!"
Cô chị đi vào vựa cỏ khô nữa, và quay lại nói cùng
điều đó, tiếp đó là bà mẹ, và cuối cùng bản thân người
nông dân, người đã nghe vợ mình nhận xét rằng, "Cậu
được thuê ấy chắc chắn biết thủ thuật nào đó."
Khi cậu thanh niên thấy người nông dân tới, cậu ta
nhanh trí và bắt đầu làm trò nhào lộn và leo dây trên
tường kho thóc. Người nông dân quan sát anh ta rồi
quay lại kể cho cả đám vợ và con gái, "Chắc là mọi
người nói đúng. Cậu thanh niên đó chắc chắn biết trò lạ
lùng nào đó."
"Trời!" vợ và con gái kêu ré lên. "Nó đéo cả bố nữa
à?"
Sargam, thiền về nó đi. Nếu bạn không thể tin cậy
được vào bất kì ai điều đó nghĩa là bạn phải lừa dối
người khác. Đó không phải là vấn đề của người khác, đó
là vấn đề của bạn. Ban phải đang lừa dối, và nếu bạn
đang lừa dối, làm sao bạn có thể tin cậy được? Bạn chỉ
có thể tin cậy nếu bạn cho phép người khác tin cậy bạn.
Bị lừa còn tốt hơn là đi lừa, bởi vì nếu bạn lừa, bạn
đánh mất kho báu vĩ đại nhất của cuộc sống mình: bạn
đánh mất năng lực tin cậy. Và để tôi nhắc lại: năng lực
tin cậy là kho báu lớn nhất của cuộc sống, bởi vì không
có nó tình yêu là không thể mà lời cầu nguyện cũng
không thể, Thượng đế cũng không thể có được.
Đủ cho hôm nay.
**************************************************************************************************************
#3 Chóng làm điều thiện
**Chóng làm điều thiện.
Nếu ông chậm,
tâm trí, ham thích trong điều ác,
sẽ bắt giữ ông.
Lánh xa khỏi điều ác.
Lánh xa, lặp đi lặp lại,
trước khi buồn khổ xảy đến cho ông.
Để trái tim ông làm điều thiện.
làm đi làm lại nó,
và ông sẽ được tràn đầy vui vẻ.
Người ngu sướng
khi điều ác của người đó chưa quay lại chống người
đó.
Và người thiện có thể khổ
khi tính thiện của người đó chưa nở hoa.
Đừng làm nhẹ thất bại của ông,
khi nói, "Chúng là gì với tôi?"
Bình đầy bởi từng giọt.
nên người ngu thành đầy ắp những điên rồ.
Đừng xem thường đức hạnh,
bằng việc nói, "Chúng không là gì."
Bình đầy bởi từng giọt.
nên người trí huệ thành đầy ắp đức hạnh.**
Có lần tôi đã ở tại Varanasi. Một giáo sư đại học
Hindu tới gặp tôi. Ông ấy hỏi tôi, "Ông có tin vào địa
ngục không?"
Tôi nói, "Tôi không cần tin vào địa ngục, bởi vì địa
ngục có đấy rồi. Tin được cần tới khi người ta không
thấy cái gì đó là tồn tại. Địa ngục có tính tồn tại thế, địa
ngục nhiều thế, hiện diện nhiều thế, không cần tin vào
điều đó."
Ông ấy nói, "Nó ở đâu?"
Tôi bảo ông ấy, "Ông đang sống trong nó đấy! Ông
được sinh ra trong nó, ông hít thở trong nó, ông sẽ chết
trong nó - nếu ông không làm nỗ lực lớn để thoát ra khỏi
nó."
Con người quên lãng địa ngục bởi vì con người
được sinh ra trong nó. Nó ở khắp chỗ này; con người bị
nó bao quanh. Giống như cá trong đại dương, người
sống trong địa ngục. Cá cũng chẳng bao giờ trở nên
nhận biết về đại dương trừ phi nó bị ném ra khỏi đại
dương bởi điều ngẫu nhiên nào đó hay bị ai đó bắt. Một
khi bị tách rời khỏi đại dương, lần đầu tiên cá đi tới biết
rằng nó đã ở trong đại dương suốt cả.
Chừng nào bạn còn chưa biết điều gì đó về thiên
đường bạn sẽ không bao giờ trở nên nhận biết rằng bạn
đang sống trong địa ngục - không chỉ sống trong địa
ngục mà còn tạo ra nó, giúp cho nó có đó, nuôi dưỡng
nó, làm mạnh cho nó. Bạn là người tạo ra nó và bạn
sống trong thế giới bạn tạo ra, và bạn không thể sống
trong bất kì thế giới nào khác. Chỗ duy nhất để sống là
chỗ bạn tạo ra xung quanh bản thân mình. Và cái mà
bạn tạo ra quanh bản thân bạn trước hết phải tồn tại ở
trung tâm bản thể bạn; chỉ thế thì nó mới có thể trở
thành chu vi.
Địa ngục tồn tại trước hết ở trung tâm bản thể bạn,
thế rồi nó lan toả, trở thành chu vi. Trước hết nó tồn tại
trong bạn, như bạn, thế rồi nó trở thành mối quan hệ của
bạn, thế giới của bạn.
Địa ngục không phải là cái gì đó về địa lí; nó là cái
gì đó về tâm lí. Địa ngục là cái tên khác của tâm trí bệnh
hoạn, của tâm trí trong đau khổ, rối loạn, của tâm trí
đang chịu ác mộng, của tâm trí đang sống về cơ bản
trong vô ý thức. Tâm trí vô ý thức là điều địa ngục tất cả
là gì, và tâm trí có ý thức là vượt ra ngoài địa ngục.
Đừng tin vào chuyện trẻ con cổ rằng địa ngục ở đâu
đó khác; điều đó nữa cũng là chiến lược của tâm trí để
trì hoãn. Tâm trí bao giờ cũng cố gắng trì hoãn; nó dùng
mọi phương pháp, cách thức, và phương tiện để trì hoãn
mọi thứ. Nó nói, "Vâng, địa ngục ở sâu bên dưới trái
đất, xa lắm, xa lắc xa lơ. Mình chẳng cần lo nghĩ - nó
xảy ra chỉ sau cái chết. Ngay bây giờ, không có vấn đề
về nó. Vào lúc chết, mình có thể quyết định nơi đi. Nếu
mình nhớ tới Thượng đế mình sẽ lên cõi trời, nếu mình
không nhớ tới Thượng đế mình sẽ xuống địa ngục."
Và thế rồi bạn đang sống cứ dường như địa ngục ở
đâu đó khác. Nó ở đây bây giờ. Tất cả đều ở đây bây
giờ, địa ngục và cõi trời cả hai.
Vị phật sống trên cõi trời. Ông ấy đi cùng bạn, ông
ấy ngồi giữa các bạn. Ông ấy sống trên thế gian này,
trong chính thân thể này, nhưng với ông ấy nó là kinh
nghiệm khác toàn bộ. Chính thân thể này là vị phật,
chính trái đất này là thiên đường hoa sen - đó là kinh
nghiệm của ông ấy. Đó là kinh nghiệm của mọi chư
phật, của mọi người thức tỉnh.
Nhưng với bạn nó chỉ là mơ, hư cấu, huyền thoại.
Với bạn: chính thân thể này là địa ngục, chính trái đất
này là ngọn lửa địa ngục. Bạn không thể thấy được thiên
đường hoa sen - bạn không có mắt để thấy nó. Những
mắt đó phải được tạo ra; những mắt đó không được trao
cho vào lúc sinh. Chỉ tiềm năng có đó; bạn phải phát
triển chúng, bạn phải nỗ lực để đạt tới chúng, bạn phải
trở thành chúng. Hạt mầm có đó nhưng bạn phải tìm ra
mảnh đất đúng. Và chiến lược cơ bản của tâm trí là giữ
bạn bị lừa dối, là bảo bạn rằng địa ngục và cõi trời tất cả
đều ở bên ngoài, ở đâu đó khác.
Chức năng của thầy là đem bạn về đây và bây giờ
lặp đi lặp lại. Tâm trí cố gắng trượt ra. Có hai khả năng
cho tâm trí trốn khỏi ở đây bây giờ: hoặc là đi vào quá
khứ, vào kí ức - quá khứ vàng và những ngày vàng của
Rama và Krishna, những ngày đẹp đẽ đó - hoặc đi vào
trong tương lai, vào trong cõi không tưởng nào đó, nơi
sẽ có xã hội phi giai cấp trên trái đất hay sẽ có thiên
đường ở đâu đó xa xăm bên ngoài các đám mây. Nhưng
nó giữ bạn xa khỏi khoảnh khắc hiện tại. Và khoảnh
khắc hiện tại là thực tại duy nhất có đó; không có
khoảnh khắc khác. Nó bao giờ cũng là hiện tại.
Quá khứ không còn nữa, tương lai chưa có. Bất kì
cái gì hiện hữu, đều là hiện tại. Và tâm trí đưa bạn đi xa
khỏi hiện tại theo cả nghìn lẻ một cách. Nó bao giờ cũng
đi trên hành trình. Tâm trí chỉ có thể tồn tại trong quá
khứ hay trong tương lai; tâm trí không thể tồn tại trong
hiện tại. Để điều này chìm sâu vào trong tim bạn: tâm trí
không thể tồn tại được trong hiện tại. Nếu bạn hoàn toàn
ở đây bây giờ, tâm trí biến mất và với sự biến mất của
tâm trí, không có địa ngục.
Sự biến mất của tâm trí là điều thiên đường là gì:
sống trong hiện tại, không có tâm trí. Nó không có nghĩa
là sống trong hiện tại một cách đãng trí. Khi tôi nói
"không có tâm trí" tôi không ngụ ý đãng trí đâu - chính
điều ngược lại! Sống có ý thức là sống không có tâm trí,
sống không có ý nghĩ, nhưng với tỉnh táo lớn lao. Và
bạn có thể sống với tỉnh táo lớn lao chỉ khi ý nghĩ đã bị
bỏ đi, bởi vì năng lượng tham gia vào trong ý nghĩ được
xả ra, thành có sẵn. Bạn trở thành tràn ngập với năng
lượng. Thế thì bạn có sinh khí vô cùng, sự mãnh liệt,
đam mê. Cuộc sống của bạn không hờ hững; cuộc sống
của bạn là ngọn lửa mà hiện hữu chỉ một khoảnh khắc
thôi cũng là đủ. Một khoảnh khắc của sự mãnh liệt có ý
thức đó còn dài hơn cả bản thân vĩnh hằng.
Những lời kinh này của Phật là đơn giản nhưng có
ích mênh mông với người tìm kiếm.
Chóng làm điều thiện.
Tâm trí sẽ liên tục nói với bạn, "Hoãn nó lại đi. Mai
cũng được mà. Sao lại phải vội thế? Mình có thể làm nó
ngày mai." Và ngày mai không bao giờ tới cả. Người trì
hoãn bất kì hành động thiện nào cho ngày mai là trì
hoãn nó mãi mãi; người đó sẽ không bao giờ có khả
năng làm điều đó. Nếu bạn trì hoãn nó hôm nay, bạn
đang học thói quen trì hoãn. Hôm nay bạn nói, "Ngày
mai." Bạn đang tạo ra hình mẫu cuộc sống, phong cách
sống. Ngày mai sẽ tới lại như hôm nay và thói quen này
sẽ nói, "Chúng ta sẽ làm nó ngày mai."
Tôi đã nghe một chuyện ngụ ngôn cổ:
Một người tôn thờ Thượng đế trong nhiều, nhiều
năm rồi một hôm Thượng đế xuất hiện cho người đó.
Người đó hỏi xin mỗi một điều thôi. Người đó nói,
"Xin cho con cái gì đó - đó là lí do tại sao con đã từng
tôn thờ ngài - cái gì đó có thể hoàn thành mọi ước mong
của con. Bất kì cái gì con hỏi cũng sẽ được đáp ứng,
ngay lập tức."
Thượng đế cho anh ta chiếc vỏ sò, một chiếc vỏ sò
đẹp, và ngài nói, 'Con hỏi bất kì cái gì từ chiếc vỏ sò này
và ngay lập tức, tức khắc, nó sẽ được đáp ứng."
Người đó thử - quả thế thật. Người đó hạnh phúc vô
cùng. Người đó hỏi một lâu đài lớn và nó có đó. Người
đó hỏi đàn bà đẹp và họ có đó, và người đó hỏi thức ăn
ngon và nó có đó. Từ ngày đó người đó sống trong xa
hoa tuyệt đối.
Nhưng một hôm mọi thứ bị rối loạn. Một sannyasin,
một sư lang thang, tới ở với người đó. Sư lang thang nói
với người đó, "Tôi nghe nói về bí mật của ông, nhưng
cái đó chẳng là gì cả. Tôi cũng đã tôn thờ Thượng đế,
còn lâu hơn ông nhiều, và ông là chủ gia đình, tôi là sư -
tất nhiên ngài còn hào phóng hơn cho tôi. Ngài cũng đã
cho tôi cái vỏ sò lớn. Trông cái vỏ sò đây này. Cái này
gấp đôi cái vỏ sò của ông."
Quả vậy. Và sư nói, "Bất kì cái gì ông hỏi, vỏ sò này
sẽ cho ông gấp đôi. Nếu ông hỏi một lâu đài nó làm cho
ông hai lâu đài. Nó bao giờ cũng cho ông gấp đôi."
Tham lam của con người tới mức người này trở nên
tham. Bây giờ một vỏ sò là đủ; người đó có thể hỏi hai
hay ba lần, chẳng có vấn đề gì. Nhưng người tham lại
mù quáng - hễ tham là mù thôi. Người đó trở nên mê tít.
Người đó nói với sư, "Ông là sư, ông đã từ bỏ thế
giới này, cho tôi vỏ sò của ông đi và ông có thể lấy vỏ
sò nhỏ này của tôi. Với mục đích của ông thế là đủ. Tôi
là chủ gia đình."
Thế là chiếc vỏ sò được đổi cho nhau. Sáng sớm,
sau khi tắm, người này tôn thờ và hỏi xin chiếc vỏ sò
cho ông ta chục vạn ru pi. Chiếc vỏ sò nói, "Sao có chục
vạn? Ta có thể cho ông hai chục vạn!"
Người đó sung sướng tràn ngập. Người đó nói, "Tốt,
cho tôi hai chục vạn đi."
Vỏ sò nói, "Sao hai chục vạn? Ta có thể cho ông
bốn chục vạn."
Bây giờ người đó có chút phân vân, bối rối rồi.
Người đó nói, "Được rồi, cho tôi bốn chục vạn vậy."
Vỏ sò nói, "Ta sẽ cho ông tám chục vạn."
Và cứ thế mãi, cứ thế tiếp diễn - những chả cái gì
được cho cả! Cứ hứa và hứa... và bất kì cái gì người đó
hỏi, lời hứa lại tăng gấp đôi. Người đó chạy xô đi tìm
bắt giữ sư kia lại bởi vì vào buổi sáng, sáng sớm ông ta
đã đi rồi. Ông ta đã rời đi rồi...
Đây là câu chuyện ngụ ngôn hay. Đó là cách tâm trí
vận hành: vỏ sò của nhà sư - gian xảo. Nó bao giờ cũng
cứ cho bạn những hứa hẹn lớn lao, nhưng ngày mai,
không phải hôm nay. Và ngày mai chẳng bao giờ tới cả.
Và dần dần, dần dần việc hi vọng trở thành chính cuộc
sống của bạn, chỉ hi vọng và chờ đợi. Và cái chết tới...
và không hi vọng nào đã bao giờ được hoàn thành.
Tâm trí rất sợ làm điều thiện. Sao tâm trí sợ làm
điều thiện? Bởi hai lí do. Một: làm điều thiện là không
nuôi dưỡng cho tâm trí; tâm trí được nuôi dưỡng bằng
việc làm điều ác, bằng việc làm điều xấu. Chẳng hạn,
nếu bạn nói không, tâm trí được làm mạnh thêm; nếu
bạn nói có, tâm trí không được làm mạnh. Do đó tâm trí
không bao giờ quan tâm tới việc nói có với bất kì cái gì.
Tâm trí về căn bản là vô thần. Nó tận hưởng nói không;
không là quyền năng của nó. Phủ định là thức ăn của nó;
nó ăn phủ định. Khẳng định là cái chết của nó.
Thử nói không và bạn bắt đầu cảm thấy mạnh. Bất
kì khi nào bạn nói không, bất kì khi nào bạn có thể xoay
xở nói không, bạn đều cảm thấy mạnh. Bất kì khi nào
bạn phải nói có bạn đều cảm thấy bị bẽ mặt, cứ dường
như cái gì đó đã được làm chống lại bản thân bạn. Nói
có toàn bộ là tiêu diệt tâm trí toàn bộ, và vẫn còn trong
nói không toàn bộ là vẫn còn trong tâm trí, trong bản
ngã.
Bản ngã là cái tên khác của tâm trí. Bản ngã là trung
tâm của tâm trí; vô ngã là trung tâm của bản thể bạn. Tại
chính cốt lõi của bản thể không có ý tưởng nào về "tôi";
nhưng ở trung tâm của tâm trí, tôi, tôi, tôi... Tiếng ồn
duy nhất cứ diễn ra là tiếng ồn của bản ngã. Bạn càng
nói không, bạn càng cảm thấy cái tôi của mình. "Không"
xác định ra bản ngã của bạn.
Quan sát - và bạn sẽ thấy tính sự kiện của điều tôi
đang nói. Tôi không làm sâu sắc thêm lí thuyết nào; đó
là phát biểu đơn giản về một sự kiện của cuộc sống.
Quan sát đi - đó không phải là vấn đề về tin hay không
tin - quan sát và bạn sẽ biết. Nói có, cảm thấy có, và
bỗng nhiên không có bản ngã.
Điều tốt lớn nhất là nói có với sự tồn tại và cuộc
sống. Đó chính là tôn giáo đấy. Và không lớn nhất là nói
không với Thượng đế, với cuộc sống, với sự tồn tại;
điều đó cho bạn quyền năng lớn, nhưng quyền năng của
bản ngã.
Thực ra, bản ngã tinh ranh, tâm trí láu lỉnh tới mức
ngay cả người tôn giáo cũng bị nó lừa. Người tôn giáo
cứ nói không với cuộc sống. Họ cố gắng nói có với
Thượng đế, nhưng tâm trí thuyết phục họ, "Làm sao
mình có thể nói có với Thượng đế được chừng nào và
cho tới khi mình còn chưa nói không với cuộc sống?
Nói không với cuộc sống đi!"
Đó là cách ý niệm về từ bỏ nảy sinh: "Nói không với
vợ mình, với chồng mình, với con mình. Nói không với
gia đình mình, nói không với xã hội, nói không với thế
giới. Quay lưng lại thế giới và trốn lên Himalaya đi. Chỉ
thế thì mình mới có thể nói có với Thượng đế được."
Tâm trí tinh ranh cứ lừa dối ngay cả cái gọi là tính
tôn giáo. Ngay cả cái gọi là thánh nhân và mahatmas
cũng không là gì ngoài đồ chơi trong tay của bản ngã.
Bản ngã rất tinh vi, rất tinh ranh; láu cá là cách thức của
nó. Chừng nào bạn còn chưa thật thông minh bạn sẽ
không có khả năng thoát khỏi nanh vuốt của nó. Bạn sẽ
thoát khỏi điểm này và nó sẽ bắt giữ bạn ở điểm khác.
Bạn sẽ ném nó đi từ cửa trước, nó sẽ tới từ cửa sau.
Cái gọi là thánh nhân cảm thấy được thoả mãn lớn
khi có liên quan tới bản ngã: người đó là thánh nhân,
người đó là linh thiêng; "linh thiêng hơn ngươi" được
viết khắp trên mặt người đó. Bạn sẽ không tìm thấy
những bản ngã lớn hơn ở bất kì đâu ngoài các tu viện.
Các giáo hoàng và các shankaracharyas, các tu sĩ, những
người đã từ bỏ mọi thứ, một cách tự nhiên họ cảm thấy
lớn lao, bản ngã. Họ đã từ bỏ thế giới - bạn đã làm gì?
Họ đã từ bỏ tiền bạc, quyền lực, danh vọng. Nhưng mọi
từ bỏ này đều không là gì ngoài trò chơi rất láu cá của
tâm trí.
Người tôn giáo thực sự là người nói có với cuộc
sống bởi vì cuộc sống là của Thượng đế, người nói có
với đất bởi vì đất là một phần của trời, người nói có với
thân thể bởi vì thân thể chỉ là chỗ trú ngụ cho linh hồn.
Và nó là chỗ trú ngụ đẹp, nó là nhà đẹp, nó là người
phục vụ đẹp. Người thực sự tôn giáo biết cách nói có với
tất cả. Có của người đó đem tới sự siêu việt, có của
người đó đem tới tính vô ngã, có của người đó đem tới
trạng thái của vô trí.
Nhìn vào nó từ góc độ khác: nếu bạn nói không, tâm
trí lập tức có nhiều điều để làm. Nếu bạn nói không, bạn
sẽ phải tìm luận cứ để hỗ trợ cho cái không của mình.
Không nghĩa là lí lẽ, không nghĩa là logic. Bạn càng nói
không nhiều, bạn càng phải có lí lẽ nhiều. Nếu bạn nói
có, không có nhu cầu về bất kì lí lẽ nào. Có là dấu chấm
hết; không là việc bắt đầu của quá trình logic. Người nói
không trở nên ngày một lí lẽ nhiều hơn. Người biết cách
nói có với cuộc sống, tình yêu, sự tồn tại, trở thành ngày
một ít lí lẽ hơn.
Và ngày càng ít lí lẽ hơn là trở nên hài hoà hơn;
ngày càng nhiều lí lẽ hơn là ngày một nhiều sinh sự hơn,
bạo hành hơn. Lí lẽ đơn giản nghĩa là tâm trí bạn đang
trong bất hoà; không lí lẽ nghĩa là tâm trí đã đạt tới hài
hoà sâu sắc. Và từ hài hoà sâu sắc đó là điều thiện; từ
bất hoà bên trong là điều ác. Bạn làm điều xấu bởi vì
bạn bị phân chia. Bất kì khi nào bạn không bị phân chia,
thiện bắt đầu xảy ra qua bạn; không phải là bạn phải làm
nó - nó bắt đầu xảy ra.
**Phật nói: Chóng làm điều thiện.**
Sao lại "chóng" - làm nó ngay lập tức? Tâm trí sẽ
nói, "Để mai. Đợi đấy. Chúng ta hãy nghĩ về nó đã." Và
việc nghĩ chẳng bao giờ đi tới bất kì kết luận nào, nhớ
lấy; suy nghĩ chưa bao giờ đi tới bất kì kết luận nào.
Mười nghìn năm triết lí và không có tới một kết luận
trong triết lí. Họ đã không đi tới chân lí nào cả; họ vẫn
tiếp tục. Cùng lí lẽ cứ được lặp lại ở các dạng khác nhau
và theo các cách khác nhau, và triết lí cứ đi trong vòng
tròn luẩn quẩn. Triết gia vẫn còn không kết luận, và còn
không kết luận trong cả đời bạn nghĩa là không sống
chút nào.
Cuộc sống là có thể chỉ từ tính quyết định, từ cam
kết, tham dự; bằng không bạn bao giờ cũng là khán giả,
bạn chưa hề tham gia vào bất kì cái gì. Làm sao bạn có
thể tham gia được chừng nào bạn còn chưa chứng minh
cho bản thân mình về mặt logic, cho sự hài lòng của trái
tim mình, rằng đây là như vậy?
Người ta nói về Immanuel Kant, một triết gia lớn,
rằng một người đàn bà đã hỏi ông ấy rằng bà ấy sẽ hạnh
phúc vô cùng nếu ông ấy chấp nhận bà ấy làm vợ. Bà ấy
phải thu lấy nhiều can đảm lắm để hỏi điều này, bởi vì
Immanuel Kant không phải là người lãng mạn chút nào,
rất không lãng mạn, tuyệt đối không lãng mạn. Cuộc
sống của ông ấy không phải là cuộc sống của tự phát;
ông ấy là điển hình về cuộc sống máy móc. Cả đời mình
ông ấy đã tuân theo thường lệ nào đó một cách tôn giáo.
Vào mười giờ đêm ông ấy sẽ đi ngủ; điều đó nghĩa
là đích xác mười giờ, không một phút trước, không một
phút sau. Người phục vụ của ông ấy... ông ấy chỉ có một
người phục vụ. Còn ai khác đồng ý sống với người như
vậy? - chỉ một người phục vụ. Gia đình ông ấy đã bỏ rơi
ông ấy; ông ấy quá máy móc, mòn mỏi thế, việc kéo lê
trên cả gia đình. Người phục vụ này đơn giản nói thời
gian cho ông ấy - không phải "Bây giờ đi ngủ"; ông này
đơn giản tới và tuyên bố, "Mười giờ rồi," và thế là xong.
Ông ấy lập tức nhảy vào giường. Cho dù còn có khách,
ông ấy thậm chí cũng chẳng buồn nói lời chào tạm biệt
họ. Ông ấy sẽ lên giường, chui vào chăn, và người phục
vụ sẽ tuyên bố với khách, "Bây giờ xin mời các ông về.
Ông ấy đã đi ngủ rồi."
Vào đích xác năm giờ ông ấy phải được lôi ra khỏi
giường. Thỉnh thoảng trời quá lạnh và ông ấy quá mệt,
nhưng điều thường lệ vẫn phải được tuân theo - cho dù
ông ấy ốm, thường lệ vẫn phải được tuân theo. Người
phục vụ được dặn đôi khi ông ấy sẽ cảm thấy yếu, định
ngủ thêm chút nữa, nhưng ông ấy không chịu nghe. Ông
ấy phải được lôi ra, cho dù ngược với ý chí của ông ấy.
Cho dù ông ấy nói, "Không, tôi muốn ngủ," người phục
vụ phải kéo ông ấy ra. Đôi khi có đánh nhau, cãi vã.
Người phục vụ phải đánh ông ấy để đem ông ấy ra khỏi
giường - đó là nghĩa vụ của ông này.
Người đàn bà này phải là loại hiếm hoi! - nhưng bạn
bao giờ cũng có thể tìm thấy những người hâm ở mọi
nơi. Bà ấy phải hâm để mà đi yêu con người này. Người
này không phải là người mà là máy. Và bạn có biết
Immanuel Kant đã làm gì không? Ông ấy nghe bà ấy và
ông ấy nói, "Tôi sẽ nghĩ về nó." Và ông ấy đã nghĩ trong
ba năm! - mọi điều ủng hộ và mọi điều chống đối. Ông
ấy đã viết chuyên luận dài, cái gì là ưu điểm của việc lập
gia đình và cái gì là nhược điểm. Và cuối cùng ông ấy
đã đi tới kết luận rất nghèo nàn, gần như là không kết
luận gì cả. Đã có một điểm ủng hộ nhiều hơn, và điểm
đó là bằng việc lập gia đình bạn sẽ biết hôn nhân là gì -
tốt hay xấu - điều đó bạn sẽ biết. Điều đó là điểm hơn
trong việc ủng hộ.
Thế là ông ấy đi, tới gõ cửa nhà người đàn bà này.
Người bố mở cửa và hỏi, "Sao ông lại tới?"
Ông ấy nói, "Tôi đã quyết định, bởi vì một điểm ủng
hộ nhiều hơn. Có ba trăm điểm tất cả: ba trăm điểm
chống, ba trăm lẻ một điểm ủng hộ - cho nên tôi đã
quyết định xây dựng gia đình."
Người bố cười to. Ông ấy nói, "Quá trễ rồi. Nó đi
lấy chồng rồi - và không chỉ lấy chồng, nó có con rồi!
Ông tới hơi bị chậm."
Nhưng đó là cách các triết gia vận hành. Tôi thậm
chí còn tự hỏi về việc ông ấy có thể đi tới kết luận trong
ba năm. Đó là phép màu - các triết gia chưa bao giờ đi
tới kết luận nào cả. Đó phải là khoảnh khắc rất phi triết
lí mà ông ấy đã đi tới kết luận này.
Mười nghìn năm của lịch sử là đủ bằng chứng: triết
học vẫn còn không có tính kết luận. Triết học chỉ biết
cách hỏi - không trả lời. Từng câu trả lời đến lượt nó lại
biến thành mười câu hỏi thêm.
Tâm trí rất sung sướng để cãi lí, để nghĩ ngợi. Tâm
trí rất bất hạnh để kết luận, bởi vì một khi bạn kết luận,
tâm trí không được cần nữa. Kết luận nghĩa là cái chết
của tâm trí. Nếu bạn đã kết luận về chân lí tối thượng,
tâm trí phải tự tử.
Tâm trí rất sợ nói có và tâm trí rất sợ làm việc thiện,
bởi vì việc thiện có thể được thực hiện chỉ trong trạng
thái vô ngã. Việc thiện là sản phẩm phụ của trạng thái
vô trí. Cố hiểu điều đó đi - và khi tôi nói cố hiểu điều đó
tôi không nói cố nghĩ về nó. Tôi đơn giản nói, nghe từ
trái tim, với trái tim yêu thương.
Những lời kinh này có thể được hiểu chỉ qua trái
tim. Chúng đã bắt nguồn từ trái tim vĩ đại nhất đã sống
trên trái đấy này, và chúng có thể được hiểu chỉ bởi trái
tim.
Chóng làm điều thiện. Tâm trí bao giờ cũng nhanh
chóng làm điều xấu. Nếu bạn muốn giận tâm trí không
bao giờ nói, "Ngày mai," nó nói, "Làm điều đó ngay bây
giờ." Nếu bạn muốn cúng tiến, nếu bạn muốn cho người
nghèo cái gì đó, tâm trí nói, "Đợi đã! Trước hết điều tra
xem liệu người đó có thực nghèo không hay người đó có
số dư ngân hàng. Và trước hết hãy nhìn... Người đó
trông mạnh khoẻ thế, sao lại cho người đó?"
Tâm trí keo kiệt trong việc chia sẻ mọi thứ; việc
chia sẻ là rất khó khăn cho tâm trí. Nó tích trữ, nó thu
thập; nó dần dần trở thành đống đồng nát. Nó không thể
bỏ đi cái gì - hữu dụng, vô dụng, nó cứ thu thập lấy. Ai
mà biết được, bất kì cái gì vô dụng hôm nay có thể
thành hữu dụng ngày mai.
Làm việc thiện nghĩa là chia sẻ, là yêu, là phục vụ,
là từ bi. Và đây là những điều mà tâm trí keo kiệt không
thể làm được. Nhưng nó sẽ không nói, "Mình không
muốn làm điều đó," bởi vì điều đó sẽ không thật ngoại
giao lắm. Cách thức ngoại giao là "ngày mai" - là trì
hoãn. Tâm trí là công chức, và không phải là công chức
thường mà là công chức Nga.
Tôi đã nghe:
Tại cuộc hội nghị về giải trừ quân bị ở Geneva, một
đại biểu Mĩ, duỗi chân dưới gầm bàn, ngẫu nhiên đụng
vào đầu gối của bà phiên dịch người Nga ngồi ngay đối
diện với ông ta. Ông ta mỉm cười xin lỗi.
Bà ấy chẳng nói chẳng cười. Bà ấy quay sang nhà
ngoại giao cộng sản ngồi bên cạnh và hỏi ông ta điều gì
đó. Nhà ngoại giao này quay sang cấp trên của mình và
thì thào cái gì đó với ông ta. Viên phụ trách đứng dậy,
rời khỏi bàn họp và đi tới trung tâm điện thoại. Cuộc
họp tạm dừng.
Hai giờ rưỡi sau cuộc họp tiếp tục trở lại. Nhà ngoại
giao hạng cao trở về bàn, nói với viên trợ lí của mình,
người này thì thào cái gì đó cho bà phiên dịch, bà này
nhìn qua đại biểu Mĩ và nói, "Chỗ của ông hay chỗ của
tôi?"
Đây là trực tiếp từ Kremlin đấy! Đây là cách hệ
thống quan liêu làm việc, và đây là cách tâm trí vận
hành. Nó nói, "Đợi đã, để tôi nghĩ về điều đó." Và thế
rồi nó cứ tiếp tục mãi mà không chấm dứt, và trong khi
đó nó cứ hứa hẹn với bạn, "Đợi đấy! Mai mình sẽ làm
điều đó."
Nhưng nhìn: khi đấy là vấn đề làm cái gì đó sai,
cùng tâm trí đó chẳng bao giờ bảo bạn trì hoãn. Nó nói,
"Làm ngay bây giờ đi. Ai biết về ngày mai thế nào?
Người này đã xúc phạm mình - phải giáng trả nó, giáng
trả thật mạnh! Nếu gạch ném vào mình, trả lời bằng đá!"
Gurdjieff nhớ rằng khi ông của ông ấy chết - ông ấy
chỉ mới chín tuổi - người ông gọi cậu bé tới. Ông già
yêu đứa bé này lắm và ông ấy bảo cậu bé, "Ông chẳng
có gì nhiều để cho cháu, nhưng khi từ giã thế giới này
ông muốn cho cháu một thứ. Ông chỉ có thể cho cháu
một lời khuyên, điều đã giúp ích cho ông; nó được trao
lại cho ông từ bố của ông, và ông ấy cũng chết khi ông
ấy trao nó cho ông. Ông sắp chết rồi. Cháu còn quá non
trẻ, cháu có thể không hiểu điều đó ngay bây giờ, nhưng
nhớ lấy, một ngày nào đó sẽ tới khi cháu hiểu. Bất kì khi
nào cháu thấy bản thân mình có khả năng theo lời
khuyên của ông, theo nó đi, và cháu sẽ không bao giờ bị
khổ đâu. Cháu có thể tránh được địa ngục của cuộc
sống."
Và lời khuyên là gì? Chính là lời kinh này đấy -
không đích xác theo những lời này. Ông ấy nói với
Gurdjieff, "Nhớ một điều: nếu cháu muốn làm bất kì
điều gì xấu, hoãn nó lại đến mai đi; và nếu cháu muốn
làm điều gì đó tốt, làm nó ngay lập tức - bởi vì trì hoãn
là cách không làm. Và cái xấu phải không được làm, và
cái tốt phải được làm. Chẳng hạn," ông già nói, "nếu ai
đó xúc phạm cháu và cháu cảm thấy giận dữ, phát rồ,
nói với người đó rằng cháu sẽ quay lại sau hai mươi bốn
giờ và trả lời người đó."
Gurdjieff nhớ, "Lời khuyên đó đã làm biến đổi cả
đời tôi. Mặc dầu tôi còn quá non trẻ, là đứa trẻ mới chín
tuổi, tôi đã thử nó chỉ vì tò mò. Đứa trẻ nào đó sẽ xúc
phạm tôi hay sẽ làm tôi tổn thương hay nói điều gì đó
khó chịu, và tôi lại nhớ tới người ông sắp mất và tôi sẽ
bảo đứa trẻ đó, 'Tôi sẽ phải đợi; tôi đã hứa với một ông
già. Sau hai mươi tư giờ tôi sẽ trả lời bạn.'
"Và điều đó bao giờ cũng xảy ra," Gurdjieff nhớ,
"rằng hoặc tôi sẽ đi tới kết luận rằng người đó là đúng,
rằng bất kì điều gì người đó đã nói có vẻ khó chịu nhưng
điều đó là đúng về tôi... Người đó nói, 'Mày là đồ ăn
cắp,' và điều đó đúng, tôi là kẻ cắp. Người đó nói, 'Mày
giả dối,' và điều đó đúng - tôi giả dối." Cho nên ông ấy
sẽ tới và cám ơn đứa trẻ: "Bạn đã chỉ ra cái gì đó đúng
về tôi. Bạn đã nêu ra một khía cạnh đúng của con người
tôi mà còn chưa rõ ràng cho tôi. Bạn đã làm cho tôi ý
thức hơn về bản thân mình. Tôi biết ơn vô cùng."
Hay, sau suy nghĩ trong hai mươi bốn giờ, ông ấy sẽ
đi tới kết luận rằng, "Người đó hay thằng bé đó là tuyệt
đối sai. Điều đó chẳng liên quan gì tới mình cả." Thế thì
phỏng có ích gì mà trả lời; ông ấy sẽ không đi tới đứa trẻ
kia nữa. Nếu cái gì đó hoàn toàn sai, sao trở nên phát rồ?
Đây là thế giới lớn, cả triệu người có đấy; bạn không thể
trả lời mọi người được, bằng không thì cả đời bạn sẽ bị
phí hoài. Mà cũng chẳng cần nữa.
Đây là một nửa câu chuyện. Nếu bạn có thể trì hoãn
việc xấu tới mai bạn sẽ có khả năng làm điều tốt ngay
lập tức. Và bạn sẽ không bao giờ hối hận - bởi vì nếu
bạn làm điều xấu ngay, bạn sẽ hối hận vào ngày mai;
nếu bạn làm điều tốt hôm nay bạn sẽ không bao giờ hối
hận, không có vấn đề hối hận. Đây là bí mật đơn giản
của việc biến địa ngục bạn đang sống thành thiên đường
hoa sen.
**Chóng làm điều thiện.
Nếu ông chậm,
tâm trí, ham thích trong điều ác,
sẽ bắt giữ ông.**
Đừng chậm chạp, hãy nhanh chóng bởi vì tâm trí rất
nhanh; nó đi nhanh hơn bất kì cái gì khác. Nó đi nhanh
hơn ánh sáng! Các nhà vật lí nói không cái gì đi nhanh
hơn ánh sáng và tất nhiên, dường như không thể nào đi
nhanh hơn ánh sáng được. Ánh sáng đi một trăm tám
mươi sáu nghìn dặm một giây - trong một giây! Nhưng
các nhà vật lí chưa có quan niệm gì về tâm trí. Họ chưa
có thiết bị phức tạp thế để đo tốc độ của tâm trí.
Tâm trí đi nhanh hơn ánh sáng. Bạn phải rất tỉnh
táo, bằng không tâm trí nhất định cho bạn xuống hố ở
đâu đó. Trước khi bạn trở nên tỉnh táo, tâm trí sẽ đem
bạn đi tới đâu đó xa xôi rồi. Tâm trí bao giờ cũng sẵn
sàng tiếp tục cuộc hành trình, bởi vì chỉ trong hành trình
nó mới cảm thấy sống động.
Thiền đơn giản nghĩa là ngồi im lặng, không làm gì,
thậm chí không nghĩ... và tâm trí biến mất. Bởi vì bạn
không trong cuộc hành trình nào, tâm trí không được
cần tới. Tâm trí là người hướng dẫn cho cuộc hành trình
lớn. Nếu bạn định đi đâu đó, tâm trí rất hạnh phúc; trong
việc đi của bạn tới đâu đó, tâm trí có thể cảm thấy được
nâng cao. Nhưng nếu bạn không đi đâu cả, chỉ ngồi im
lặng, không làm gì, tâm trí cảm thấy rất buồn.
Và điều đó gần như bao giờ cũng sẽ xảy ra cho thiền
nhân khi tâm trí cảm thấy buồn, nó bắt đầu tạo ra chán
cho bạn; đó là chiến lược của tâm trí. Tâm trí đang nói,
"Tiếp đi! Mình đi đâu đó, mình làm cái gì đó. Sao mình
cứ ngồi thế này? Chỉ ngồi chẳng làm gì chán lắm!"
Đó là thủ đoạn của tâm trí đấy! Bằng không, chỉ
ngồi chẳng làm gì sẽ đem tới cho bạn nhiều tươi tắn
hơn. Đó là kinh nghiệm của mọi người đã thức tỉnh -
nhưng không của bạn. Đây là kinh nghiệm của tôi.
Trong phòng tôi, tôi làm gì? Ngồi im lặng, chẳng làm gì
cả... xuân tới và cỏ tự nó mọc lên. Chẳng cái gì phải
thực sự làm cả - cỏ tự nó mọc lên. Cuộc sống cứ tự nó
tiếp diễn, cuộc sống tự nó tuôn chảy. Bạn không cần đẩy
dòng sông.
Nhưng lúc ban đầu tâm trí sẽ tạo ra chán; chán là thủ
đoạn của tâm trí. Tâm trí đang nói, "Trông đây, nếu
đằng ấy không theo tớ đằng ấy sẽ cảm thấy chán. Nếu
đằng ấy không theo tớ đằng ấy sẽ cảm thấy cực kì vô
nghĩa. Nếu đằng ấy không theo tớ đằng ấy sẽ chẳng có
gì để mà thích thú cả. Lại đây, lại đây với tớ, và tớ sẽ
đem cho đằng ấy giải trí lớn lao."
Tâm trí bao giờ cũng hối lộ bạn bằng giải trí: bật
radio lên, bật ti vi lên, đi xem phim hay ít nhất tới câu
lạc bộ, buôn chuyện - làm cái gì đó. Chán là trừng phạt
từ tâm trí với bạn nếu bạn không làm gì cả. Và vấn đề
lớn nhất cho thiền nhân là chán.
Nhưng nếu bạn có thể ngồi tuyệt đối không quan
tâm tới chán - kệ chán ở đó - nếu bạn không bị rối loạn
bởi chán, trong vòng thời gian ba tới chín tháng chán sẽ
biến mất. Và thay vì chán, vui bột phát sẽ tới, tươi mát
tới mức bạn chưa bao giờ biết tới trước đây. Và nó
không phải là giải trí bởi vì chẳng có gì cả: bạn đơn giản
ngồi trong trống rỗng tuyệt đối. Và từ trống rỗng đó, sự
tràn đầy, từ cái trống rỗng đó, một loại hoàn thành mới...
**Chóng làm điều thiện.
Nếu ông chậm,
tâm trí, ham thích trong điều ác,
sẽ bắt giữ ông.**
Tâm trí ham thích trong điều ác. Tại sao? - bởi vì đó
là cách duy nhất nó có thể sống. Họ nói rằng bạn không
thể viết ra câu chuyện về người thực sự tốt được bởi vì
sẽ chẳng có gì để viết cả. Chuyện chỉ có thể được viết về
người xấu. Không phải là ngẫu nhiên mà Phật,
Mahavira, Jesus, thậm chí không được nhắc tới trong
sách sử của bạn. Không lịch sử cổ đại nào nhắc tới họ.
Tại sao? Chẳng có gì mà nhắc tới cả! Họ chưa bao giờ
giết người nào, họ chưa bao giờ làm bất kì cái gì thiệt
hại; họ hiện hữu cứ dường như họ không có. Họ tốt thế
cứ dường như họ chưa bao giờ tồn tại cả!
Một trong những cái tên của Phật là 'Tathagata'.
Tathagata nghĩa là: tới như gió thoảng, đi như gió
thoảng - vậy tới, vậy đi - không quấy rối cái gì, ngay cả
tới một chiếc lá khô. Làn gió im lặng tới từ từ không dấu
chân và thế rồi biến mất. Việc tới không tạo ra tiếng ồn
nào mà việc đi cũng không tạo ra cái gì. Cứ dường như
là bạn đã vẽ một đường trong nước; bạn thậm chí đã
không làm ra nó và đã biến mất. Điều đó cũng giống
như chim bay trên trời: họ không để lại dấu chân nào.
Nhưng lịch sử đầy những Genghis Khan,
Tamerlane, Nadirshah, Alexander, Adolf Hitler, Mao
Trạch Đông. Nếu bạn làm nhiều điều ác có nhiều khả
năng tên tuổi bạn còn lại trong lịch sử. Nếu bạn thực sự
muốn là một phần của lịch sử, nếu bạn muốn tạo ra lịch
sử, làm điều ác đi. Chính khách sẽ còn lại trong lịch sử
bởi vì họ là những lái buôn điều ác.
Tâm trí thường xuyên tìm kiếm điều ác; bất kì cơ
hội nào và nó không thể bỏ lỡ điều đó. Ngay cả không
có cơ hội nào nó cũng sẽ cố gắng tạo ra cơ hội.
Chuông cửa vang lên ở nhà thổ. Tú bà ra mở cửa và
thấy một người đàn ông không chân không tay.
"Anh làm gì ở một chỗ như thế này?" tú bà hỏi.
Người què nhìn bà ta và nói, "Tôi rung chuông đấy,
phải không?"
Không tay, không chân, nhưng người đó vẫn sẵn
sàng đi tới nhà thổ!
Berquist ẩn trong buồng riêng khi Frank, chồng của
cô bạn gái của anh ta, bất ngờ trở về. Trong khi treo áo
khoác, Frank nhận ra hòn của Swede giữa các vật dụng
khác.
"Đấy là của quỉ gì thế?" anh ta hỏi vợ mình.
"Ồ... e hèm... chuông Nô en đấy mà," cô ấy đáp.
"Chúng ta nghe chuông của chúng," anh chồng nói.
Anh ta đấm cho chúng một cú khủng khiếp bằng nắm
tay của mình.
Một tiếng nói hổn hển, "Binh boong! Mày là đồ chó
đẻ!"
Nhìn vào cuộc đời mọi người mà xem. Tự quan sát
mình, quan sát người khác. Trở thành người quan sát, và
bạn sẽ ngạc nhiên: mọi người đều đang tìm cơ hội nào
đó. Và cơ hội có đó. Mọi người chỉ chờ đợi các cơ hội.
Nếu họ không làm điều ác nào đó, điều đó không có
nghĩa là họ là người tốt; điều đó có thể chỉ là cơ hội bị
thiếu. Đó là quan sát riêng của tôi.
Khi một chính khách không có quyền lực người đó
là người rất tốt, người công bộc, khiêm tốn; bao giờ
cũng sẵn sàng cúi mình và chạm chân bạn; mở bệnh
viện và trường học. Và một khi người đó có quyền lực,
người đó thậm chí không sẵn sàng nhận ra bạn và mọi
phục vụ công chúng đó biến mất. Một khi người đó có
quyền lực, người đó có cơ hội; bây giờ người đó sẽ làm
mọi thứ mà người đó bao giờ cũng muốn làm nhưng đã
không thể làm được.
Điều này đã xảy ra trên đất nước này theo cách rõ
như pha lê vì nó đã không xảy ra ở bất kì đâu khác.
Trước khi độc lập, mới ba mươi năm trước, mọi chính
khách này, những người đã trở thành mối phiền hà cho
đất nước, đều đã từng là những công bộc vĩ đại, những
người hầu vĩ đại của đất nước, chiến sĩ vì tự do. Họ đã
hi sinh nhiều, họ đã sống cuộc sống nghèo nàn, giản dị,
khiêm tốn, vì tự do của đất nước. Cuộc sống của họ là
tấm gương để noi theo, họ là những người lí tưởng; họ
đã được mọi người tôn thờ.
Và thế rồi quyền lực tới - và trong vài giây toàn thể
mọi sự đã thay đổi. Họ trở thành người đói quyền lực,
họ trở nên bị quyền lực sở hữu. Khuôn mặt họ thay đổi,
mặt nạ của họ biến mất. Bây giờ cơ hội có đó.
Huân tước Acton đã nói: Quyền lực làm hư hỏng.
Tôi đồng ý và tôi không đồng ý. Vâng, bề ngoài dường
như là quyền lực làm hư hỏng, nhưng nếu bạn đi sâu vào
phân tích, không phải quyền lực làm hư hỏng đâu -
người này bao giờ cũng đã bị làm hư hỏng rồi. Quyền
lực chỉ cho cơ hội thôi; quyền lực không thể làm hư
hỏng được. Nếu bạn bị hư hỏng, thế thì quyền lực cho
bạn cơ hội để làm điều mà bạn bao giờ cũng muốn làm
nhưng đã không có khả năng làm.
Mọi người nghĩ chính tiền làm hư hỏng mọi người.
Không, tiền đơn giản cho cơ hội thôi. Người nghèo
trông tốt thế; nó không phải vậy đâu. Cứ để cho họ trở
thành giầu và thế rồi xem... mọi tốt lành của người đó
biến mất. Thực ra người mới giầu còn nguy hiểm hơn
những được sinh ra đã giầu, bởi vì những người được
sinh ra đã giầu đã được quen với giầu có.
Tương truyền một tể tướng của một nhà vua đã tích
trữ nhiều của cải bất hợp pháp, đằng sau lưng nhà vua;
tới mức ông ta trở thành người giầu nhất nước. Thế rồi
vua đi tới biết về điều đó.
Ông ta triệu tể tướng tới và nói, "Khanh đã phục vụ
trẫm tốt tới mức trẫm không thể trừng phạt khanh được
bởi phục vụ của khanh và thành kính của khanh, nhưng
khanh đã lừa dối và khanh đã tích trữ của cải bất hợp
pháp. Trẫm sẽ không trừng phạt khanh đâu - khanh từ
chức đi và rời khỏi đất nước của trẫm và đi tới bất kì
chỗ nào khanh muốn tới."
Tể tướng nói, "Trước khi thần ra đi thần xin đề xuất
một điều. Bây giờ thần đã có tất cả mọi thứ thần cần,
thực ra còn nhiều hơn là thần cần, nếu bệ hạ bổ nhiệm
người khác làm tể tướng, người đó sẽ phải tích trữ của
cải lần nữa. Người đó sẽ làm hại bệ hạ hơn. Bây giờ
thần không cần làm hại bệ hạ chút nào."
Và tương truyền nhà vua hiểu ra vấn đề. Ông ta đã
không loại người này ra nữa. Ông ta nói, "Điều đó đúng,
khanh đã làm bất kì điều gì khanh có thể làm, cho nên
tại sao đem người mới vào? Và người đó sẽ đi qua toàn
bộ quá trình này lần nữa, điều đó đúng."
Cứ để người nghèo trở thành giầu và thế rồi xem
điều xảy ra: mọi giản dị của ông ta biến mất, mọi khiêm
tốn của ông ta biến mất.
Một người có một con chó biết nói. Một hôm khi
ông ta khát ông ta đi tới quán rượu cùng con chó của
mình và cá với người đứng quầy rằng nếu con chó của
ông ta có thể nói thì ông ta sẽ được uống bia không mất
tiền.
Người đứng quầy đồng ý, vẫn biết rằng chẳng có
chuyện chó nói được. Anh ta hỏi con chó ông chủ nó
thích loại bia nào.
"Bia Budweiser," con chó đáp, và người đứng quầy
giật mình phải trả bia.
Thế rồi ba người trong số họ - người đàn ông này,
người đứng quầy, và con chó - mắc vào cuộc đối thoại
náo nhiệt. Con chó ăn lạc trong khi hai người uống
rượu. Đến một điểm nào đó người đứng quầy nói rằng
anh ta bị đau đầu nhưng lại hết mất thuốc aspirins.
"Con chó của ông có biết chạy việc vặt không?" anh
ta hỏi.
"Chắc chắn," người này đáp. Thế là người đứng
quầy đưa cho con chó năm đô la và bảo nó đi ra hiệu
thuốc để mua aspirins.
Con chó không quay về. Hai người này đợi hoài mà
chẳng chó nào quay lại, ông chủ của nó đi ra ngoài tìm
nó. Ông ta đi vào thành phố cho tới khi ông ta phát hiện
ra con chó trong ngõ hẻm tăm tối đang vác trên vai một
con chó khác.
"Trời!" ông chủ kêu lên. "Mày làm cái chết tiệt gì
thế? Đây là lần đầu tiên mày đã làm loại việc này đấy!"
"Tôi biết chứ," con chó hổn hển vẫn vác con chó
kia. "Tôi bao giờ cũng muốn làm, nhưng tôi chưa bao
giờ có tiền trước đây!"
Không phải là quyền lực làm hư hỏng. Quyền lực
đem vô thức hư hỏng của bạn lền bề mặt, quyền lực đem
cái ác cố hữu của bạn vào hành động. Quyền lực phơi
bày bạn, quyền lực không làm hư hỏng bạn. Quyền lực
là điều tốt theo một cách nào đó: nó phơi bày mọi người.
Nó giống như tia X: nó chỉ ra thực tại của bạn, chân lí
trần trụi của bạn.
Tâm trí, ham thích làm điều ác, sẽ bắt giữ ông. Nhớ
điều đó: tâm trí rất nhanh chóng. Nếu bạn không làm
điều thiện ngay lập tức - khoảnh khắc ý tưởng tốt lành
nảy sinh trong bạn, nếu bạn không làm nó ngay lập tức,
tâm trí sẽ lừa bạn, sẽ đem bạn đi lạc lối, sẽ thuyết phục
bạn làm cái gì đó khác.
Feingold di cư tới Mĩ và sau nhiều năm làm việc vất
vả đã trở thành người rất giầu. Bây giờ trên giường chết,
với bà vợ Sarah đứng cạnh, ông ta bắt đầu quyết định về
của cải vật chất của mình.
"Xe Cadillac của tôi cùng với nút phát hiện xe cảnh
sát tôi để lại cho con trai, Sam."
"Anh nên để nó cho Joe thì hơn," vợ ông ta nói. "Nó
là người lái xe cừ hơn."
"Thôi được rồi," ông ta thì thào. "Xe Rolls Royce
của tôi, tôi để lại cho con gái, Linda."
"Anh nên cho cháu anh, Willie, thì hơn" Sarah ngắt
lời. "Nó là người lái xe rất thận trọng."
"Thôi được rồi, trao nó cho Willie. Xe mười hai xi
lanh Jaguar tôi cho cháu tôi, Sally."
"Với tư cách cá nhân, em nghĩ Judy nên được nó."
Feingold ngẩng đầu lên và sẵng giọng, "Sarah, xin
em! Ai đang chết, em hay anh?"
Nếu bạn chờ đợi, tâm trí sẽ cho bạn gợi ý, "Làm cái
này, làm cái nọ." Làm điều thiện ngay lập tức đi - sao
phải đợi? Và ai biết? - khoảnh khắc tiếp sẽ chẳng bao
giờ tới; đây có thể là khoảnh khắc cuối cùng. Hành động
dường như đây sẽ là khoảnh khắc cuối cùng đi! Hành
động với sự khẩn thiết đó, bởi vì cái chết có thể xảy tới
cho bạn vào bất kì khoảnh khắc nào. Đừng nghe tâm trí.
Tâm trí có thể cứ trì hoãn mọi sự và, trước khi tâm trí
cho phép bạn làm bất kì cái gì, cái chết có thể đã hạ đo
ván bạn rồi. Làm điều thiện đi, bởi vì làm điều thiện
ngay lập tức đem lại niềm vui.
**Lánh xa khỏi điều ác.
Lánh xa, lặp đi lặp lại,
trước khi buồn khổ xảy đến cho ông.**
Bởi vì nếu bạn làm điều ác, buồn khổ sẽ đi theo bạn
như cái bóng. Không phải là có Thượng đế ngồi đâu đó
trừng phạt bạn khi bạn làm điều gì đó sai đâu; bản thân
cái sai là sự trừng phạt rồi, nó mang sự trừng phạt cố
hữu của nó.
Đó là toàn thể ý niệm đằng sau lí thuyết về nghiệp.
Không có nhu cầu về bất kì Thượng đế nào để phán xét,
để trừng phạt, để khen thưởng. Và nghĩ mà xem: nếu
như có một Thượng đế phán xét mọi người và mọi hành
động của mọi người và rồi sắp đặt tương ứng - phạt vài
người này, thưởng vài người khác - loại Thượng đế đó
đã phát điên từ lâu rồi!
Không, chẳng có Thượng đế nào sắp đặt thưởng và
phạt cả - ý niệm đó là trẻ con. Có luật, không phải là
Thượng đế, luật kiểu như luật hấp dẫn. Nếu bạn không
bước đúng, nếu bạn say quá nhiều, bạn nhất định ngã ra
đâu đó. Không phải là Thượng đế ra lệnh, "Ngã đi!" -
luật hấp dẫn là đủ. Nếu bạn không bước đúng bạn nhất
định ngã. Luật hấp dẫn chăm nom điều đó. Nếu bạn
bước đi tỉnh táo, có ý thức, bạn không khổ.
Đích xác giống thế, nghiệp là luật khoa học: luật của
hành động. Bất kì điều gì bạn làm đều có thưởng hay
phạt cố hữu của nó. Khi bạn tức giận, không phải là bạn
sẽ chịu khổ trong kiếp sau của bạn đâu. Khi bạn giận dữ,
khi bạn giận dữ, bạn đang khổ rồi; không cần phải có
kiếp khác để cho bạn sự trừng phạt. Khi bạn giận dữ bạn
đang trong lửa rồi, bạn đang đầu độc toàn thân mình,
bạn đang đầu độc toàn thể hệ thống của mình.
Giận dữ là chất độc.
Điều đó có thể làm tổn thương người khác, nó có thể
không làm - điều đó tuỳ thuộc vào người khác - nhưng
nó sẽ làm đau bạn, chắc chắn.
Nếu bạn lăng mạ vị phật điều đó sẽ không làm đau
ông ấy đâu, nhưng trước khi bạn có thể lăng mạ vị phật
bạn sẽ phải trải qua nhiều rối loạn bên trong.
Một người tới và nhổ vào mặt Phật. Phật chùi mặt
và hỏi người này, "Ông muốn nói điều gì đó thêm nữa
không, hay tất cả chỉ có thế này thôi?"
Ananda, đệ tử của ông ấy, bừng bừng nổi giận, cũng
là điều tự nhiên. Người này tới, Phật đã không làm gì
với người này cả, mà ông ta lại đi nhổ nước bọt vào mặt
thầy. Không thể tưởng tượng nổi! Ananda nói với Phật,
"Bạch thầy, xin thầy cho phép tôi dạy cho người này.
Ông ta cần phải bị trừng phạt!"
Phật nói, "Ananda, ông đã trở thành sannyasin rồi,
nhưng ông cứ quên điều đó hoài. Và người đáng thương
này đã khổ quá nhiều. Cứ nhìn vào mặt ông ta, nhìn vào
mắt ông ta mà xem, đỏ đầy máu. Nhìn thân thể ông ta
mà xem, run lên bần bật. Và trước khi nhổ vào ta, ông
có cho rằng ông ta đã từng mở hội và nhảy múa và ca
hát không? Cả đêm ông ta đã không ngủ rồi; cả đêm ông
ta đã trong trạng thái điên khùng. Nhổ vào ta chỉ là kết
quả của điên khùng đó. Cảm thấy từ bi với người đáng
thương này đi. Còn trừng phạt nào hơn nữa được? Thế
không đủ sao? Và ông ta đã làm hại gì tới ta nào? Ta chỉ
phải chùi nó đi thôi. Đơn giản thế. Và ông đừng bị kích
động, bằng không ông đang hành xử ngu ngốc đấy. Với
cái sai của người đó, ông đang tự trừng phạt ông - đây là
ngu ngốc!"
Thấy ra vấn đề đi - cực kì có ý nghĩa đấy. Phật nói,
"Ông ta đã làm điều gì đó sai. Sao ông lại tự trừng phạt
mình thế, Ananda? Ta có thể thấy ông đang sôi lên! Nếu
như ta không ở đây để ngăn cản ông, ông chắc sẽ giết
người này rồi! Ông đang bị điên khùng theo cùng cách
như ông ta đang bị điên khùng."
Người đó nghe thấy toàn thể cuộc đối thoại này.
Ông ta đâm ra phân vân, suy nghĩ; ông ta đã không
trông đợi Phật hành xử theo cách như vậy. Ông ta cứ
tưởng Phật sẽ nổi khùng, tức giận; đó là điều ông ta
muốn. Không có điều đó ông ta cảm thấy rất bị bẽ mặt.
Điều đó không được trông đợi thế, từ bi và tình yêu mà
Phật đã biểu lộ.
Và Phật nói với ông ta, "Về nhà đi, nghỉ ngơi cho đã
vào. Ông trông mệt mỏi quá, ông đã tự trừng phạt mình
đủ rồi. Quên mọi chuyện về nhổ nước bọt đi - điều đó đã
không làm hại gì ta cả. Làm sao nó có thể làm hại ta
được? Và thân thể này được làm từ cát bụi. Sớm hay
muộn, nó sẽ rơi trở lại với cát bụi và mọi người sẽ dẫm
lên nó, nhổ lên nó, và đủ mọi thứ sẽ xảy ra trên thân thể
này. Mọi người sẽ ỉa, đái... Ông đã không làm điều gì rất
nguy hiểm đâu. Về nhà đi, nghỉ ngơi cho đã vào nhé."
Người này về nhà. Lần đầu tiên ông ta tuyệt đối
phân vân: đáp ứng của Phật là không được trông đợi thế,
ông ta không thể nào hiểu được điều đó. Ông ta kêu, ông
ta khóc. Đến tối ông ta quay lại, ông ta phủ phục dưới
chân Phật, và ông ta nói, "Thứ lỗi cho tôi!"
Phật nói, "Không có vấn đề ta thứ lỗi cho ông, bởi vì
ta đã không giận ngay chỗ đầu tiên. Làm sao ta có thể
tha thứ cho ông được? Nhưng điều đó là tốt - ông trông
bình thản và yên tĩnh hơn đấy. Ta sung sướng. Ta không
thể tha thứ cho ông được, rất tiếc, bởi vì ta đã không
giận dữ ngay chỗ đầu tiên. Nhưng ta sung sướng, cực kì
sung sướng, khi thấy rằng ông đã trở nên được hoà hợp,
thấy rằng ông đã đạt tới trạng thái hài hoà, thấy rằng ông
lại thành lành mạnh. Đi một cách hạnh phúc đi, và nhớ
điều đó: đừng bao giờ làm những hành động như thế lần
nữa, bởi vì đó là cách ông cứ tạo ra địa ngục cho bản
thân mình."
Lánh xa khỏi điều ác. Lánh xa, lặp đi lặp lại, trước
khi buồn khổ xảy đến cho ông. Nhiều, nhiều lần tâm trí
sẽ gợi ý cho bạn, "Làm cái này, làm cái nọ." Nhiều,
nhiều lần bạn nhất định quên. Nhiều, nhiều lần bạn sẽ
không có khả năng nhớ điều Phật đã nói, điều tôi đang
nói cho bạn. Cho nên bạn sẽ phải nhớ đi nhớ lại. Từ từ,
từ từ việc nhớ lại sẽ lắng đọng, sẽ trở thành ánh sáng
trong bản thể bạn. Thế thì bạn sẽ không được trông đợi
nhớ nữa; nó sẽ đơn giản có đó. Nó sẽ chiếu lên con
đường của bạn như tia sáng. Nó sẽ chỉ cho bạn con
đường; nó sẽ giúp bạn tránh lối cụt. Và một khi việc nhớ
lại lắng đọng sâu bên trong bạn và điều hại trở thành
không thể được, điều ác trở thành không thể được, và
điều thiện trở thành tự nhiên, tự phát, bạn đã đi vào
trong thiên đường hoa sen.
Nó không phải là ở đâu đó khác - nó là ở đây. Nó là
việc thay đổi thái độ của bạn, cách nhìn của bạn. Chẳng
cái gì khác thay đổi trong thế giới này, mọi thứ vẫn còn
như cũ, nhưng bạn không còn như cũ nữa. Không phải
là bạn được đưa tới thế giới khác đâu - vẫn cùng thế giới
đó tiếp tục thôi, nhưng cách nhìn của bạn không còn như
cũ nữa. Cái nhìn của bạn vào cùng một thứ theo cách
mới, theo phong thái mới. Phong thái đó là tính chất
sannyas, cách thức đó là tính chất sannyas.
**Để trái tim ông làm điều thiện.
làm đi làm lại nó,
và ông sẽ được tràn đầy vui vẻ.**
Dịch chuyển tâm thức bạn từ đầu tới tim đi. Tâm trí
muốn làm điều hại, nó sống từ điều hại; và trái tim
muốn làm điều thiện, nó sống, nuôi dưỡng qua điều
thiện.
Để trái tim ông làm điều thiện. Chú ý khác biệt! Bây
giờ ông ấy không nói đưa tâm trí bạn vào làm điều thiện.
Tâm trí không thể được đưa vào làm điều thiện; ngay cả
bạn cố gắng làm qua tâm trí bạn sẽ vẫn làm điều ác, bạn
sẽ làm điều xấu. Làm điều thiện không nằm bên trong
khả năng của tâm trí.
Bạn có thể thấy điều đó xảy ra trên khắp thế giới.
Các nhà khoa học muốn làm điều tốt; đó là lí do tại sao
họ làm việc miệt mài nhiều năm, nghiên cứu, và tìm ra
nguồn năng lượng nguyên tử. Albert Einstein đã muốn
làm điều tốt. Ông ấy đã viết một lá thư cho tổng thống
Mĩ, Roosevelt, nói rằng "Bây giờ năng lượng nguyên tử
là sẵn có và bom nguyên tử có thể được chế tạo. Và
chính bởi việc làm bom nguyên tử mà Mĩ sẽ mạnh tới
mức sẽ không cần đánh nhau nữa. Chỉ sức mạnh này sẽ
là đủ - kẻ thù sẽ trở nên sợ tới mức Hitler và Tojo và
Mussolini sẽ đầu hàng theo cách riêng của họ."
Đây là điều tâm trí logic nghĩ tới. Nhưng cuộc sống
không tuân theo logic, cuộc sống không tuân theo tâm
trí. Albert Einstein hối hận cả đời, bởi vì sâu bên dưới
ông ấy cảm thấy ông ấy chịu trách nhiệm cho Hiroshima
và Nagasaki. Ông ấy đã viết bức thư đó... và các chính
khách lập tức nhảy vào khám phá này. Và một khi sức
mạnh này vào trong tay của các chính khách, họ chẳng
thèm quan tâm; thế thì họ sẽ không nghe Albert
Einstein. Thế thì ai còn quan tâm? - bây giờ sức mạnh
này là ở trong tay họ.
Và bạn có biết không, thực ra, những người chuyên
vào các vấn đề chiến tranh nói rằng Nagasaki và
Hiroshima không cần chút nào. Nhật Bản sắp sửa đầu
hàng trong vòng một tuần lễ; vấn đề chỉ là một tuần nữa
thôi. Và nếu bạn đã chịu đựng được chiến tranh trong
nhiều năm, vội gì? Nhưng Mĩ muốn phô trương sức
mạnh của mình cho thế giới.
Các chính khách đều rất trẻ con, ấu trĩ. Thực ra, nếu
một người chưa trưởng thành và trẻ con người đó sẽ
không là chính khách ngay chỗ đầu tiên. Khi bạn có cái
gì đó, bạn muốn khoe nó với thế giới; bằng không
phỏng có ích gì mà có nó? Một trăm nghìn người bị giết
ở Hiroshima trong vòng năm giây, không có lí do nào
khác hơn là để phô trương với thế giới rằng Mĩ đã có
bom nguyên tử.
Albert Einstein đã sống và chết trong hối hận sâu
sắc. Khi ông ấy sắp chết ai đó hỏi, "Nếu Thượng đế cho
ông cơ hội khác, ông sẽ làm gì, ông sẽ định là gì? Ông
có lại là nhà khoa học, nhà vật lí học, để cho ông có thể
tiếp tục công trình chưa hoàn thành của mình?"
Einstein mở mắt ra và nói, "Không, không bao giờ!
Thay vì làm nhà vật lí học tôi muốn làm thợ ống nước.
Thế là đủ rồi!"
Khoa học là nỗ lực của tâm trí, cố gắng của tâm trí;
do đó khoa học đã tạo ra quyền năng lớn. Nhưng quyền
năng này đang quay sang chống lại bản thân con người.
Khoa học đã phá huỷ toàn bộ sinh thái, nó đã phá huỷ
toàn thể hành tinh. Nó đang phá huỷ con người - và
nhân danh điều tốt lành! Và nhà khoa học nghĩ họ là
người phục vụ lớn lao của nhân loại, họ đang giúp cho
nhân loại trưởng thành, tiến hoá, trở nên ngày một mạnh
hơn. Họ đơn giản tạo ra tình huống mà trong đó hành
tinh này sẽ trở thành gần như không thể nào sống được
trên nó. Họ đang tạo ra tình huống mà nhân loại có thể
tự tử. Họ có thể phá huỷ toàn thể hành tinh này... bởi vì
toàn thể nỗ lực đều bắt nguồn từ tâm trí.
Chúng ta cần khoa học được bắt rễ trong trái tim và
không trong tâm trí. Chúng ta cần một loại khoa học
hoàn toàn khác được bắt rễ trong thiền và không trong
tập trung. Chúng ta cần một phẩm chất mới toàn bộ cho
khoa học: phẩm chất của tôn giáo.
Chừng nào khoa học còn chưa có hương vị của tôn
giáo, tính thiền, tình yêu, chừng nào nó còn chưa nảy
sinh từ trái tim, nó sẽ không trở thành phúc lành cho
nhân loại hay cho thế giới. Nó sẽ là tai hoạ - bất kể điều
gì các nhà khoa học nghĩ họ đang làm. Họ nghĩ họ đang
làm công việc lớn lao, công việc nhân loại lớn lao. Họ
đang hi sinh cuộc sống của mình vì nhân loại. Và tôi
không nói rằng họ là những người không chân thành -
họ là những người chân thành, nhưng hướng của họ sai.
Phật lập tức thay đổi từ này. Ban đầu ông ấy dùng từ
'tâm trí'. Bây giờ ông ấy nói: Để trái tim ông vào việc
làm thiện. Làm đi làm lại nó, và ông sẽ được tràn đầy
vui vẻ.
Vui vẻ là sản phẩm phụ cũng như buồn khổ là sản
phẩm phụ. Buồn theo sau như cái bóng khi bạn làm điều
gì đó sai và vui theo sau như cái bóng khi bạn làm điều
gì đó thiện. Để những điều này là tiêu chí. Nếu bạn đang
khổ, nhớ lấy - bạn phải đang làm điều gì đó sai.
Nhưng mọi người rất tinh ranh, tâm trí họ rất tinh
ranh. Nếu bạn khổ tâm trí nói, "Người khác đang làm
điều sai với mình, đó là lí do tại sao mình lại khổ." Nó
không phải vậy - chẳng ai có thể làm cho bạn khổ được.
Vâng, họ có thể giết bạn, nhưng không ai có thể làm cho
bạn khổ được. Bạn có thể giết tôi nhưng bạn không thể
làm tôi khổ được. Tôi sẽ chết trong cùng trạng thái phúc
lạc mà tôi đang sống. Sẽ không có khác biệt chút nào.
Bạn có thể đầu độc tôi nhưng bạn không thể đầu độc
tâm thức của tôi được. Bạn có thể phá huỷ thân thể - cái
đằng nào cũng sắp bị phá huỷ sớm hay muộn - nhưng
bạn không thể phá huỷ được tôi. Cái đó ở bên ngoài việc
phá huỷ.
Không ai có thể làm cho bạn khổ được và không ai
có thể làm cho bạn phúc lạc được. Điều đó tất cả đều
phụ thuộc vào bạn, điều đó phụ thuộc toàn bộ vào bạn.
Bạn chịu trách nhiệm cho khổ của bạn và bạn chịu trách
nhiệm cho vui vẻ của bạn. Nhận lấy trách nhiệm này đi,
chấp nhận trách nhiệm này đi. Chấp nhận trách nhiệm
này một cách toàn bộ, một trăm phần trăm, là trở thành
người tôn giáo, là được điểm đạo vào điều tôi gọi là tôn
giáo.
Chính khách bao giờ cũng đổ trách nhiệm lên người
khác và người tôn giáo nhận trách nhiệm toàn bộ lên vai
mình.
**Người ngu sướng
khi điều ác của người đó chưa quay lại chống người
đó.
Và người thiện có thể khổ
khi tính thiện của người đó chưa nở hoa.**
Để nhắc nhở bạn, Phật nói rằng đôi khi bạn có thể
gặp người ác rất sung sướng, và ngược lại: đôi khi bạn
có thể thấy người tốt rất bất hạnh. Nhưng đừng bị lừa
bởi vẻ bên ngoài đó. Người ngu sướng khi điều ác của
người đó chưa quay lại chống người đó.
Phải mất chút thời gian. Nếu bạn gieo hạt mầm, sẽ
mất chút thời gian gian cho chúng mọc lên và đem tới
quả. Điều ác có thể mang vị ngọt lúc ban đầu nhưng bao
giờ cũng chứng tỏ là độc hại lúc cuối. Và hành động
thiện có thể không có vẻ ngọt thế lúc ban đầu bởi vì cần
thời gian để nó nở hoa, cần chút ít thời gian để nó toả ra
hương thơm, nhưng đến cuối cùng nó bao giờ cũng
ngọt.
Phật đã nói: Nếu ông thấy người ác sung sướng, đợi
thêm chút ít; chóng thôi, sớm hay muộn, ông sẽ thấy
rằng người đó đã đào nấm mồ cho bản thân mình. Và
nếu ông thấy người tốt đang khổ, đừng lo: đó là nhiệm
vụ đi lên núi. Khi bạn đi lên núi có chút ít khó khăn,
gian nan; bạn vã mồ hôi, bạn cảm thấy mệt, nhưng một
khi bạn đã lên tới đỉnh bạn có thể thảnh thơi và nghỉ
ngơi.
Nhưng người ngu cứ nghĩ rằng họ sung sướng bởi vì
điều ác của họ. Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng mọi
người rất không thông minh trong việc nhìn vào nguyên
nhân sâu xa của các kiếp sống của họ.
Trong các bộ lạc nguyên thủy ở châu Phi, thậm chí
mãi cho tới bây giờ người ta vẫn tin rằng việc sinh ra
con cái chẳng liên quan gì tới việc làm tình, với giao
hợp - bởi vì lỗ hổng là chín tháng. Trong nhiều thế kỉ họ
đã từng cho sinh con cái, nhưng họ chưa gắn nguyên
nhân với hậu quả. Họ nghĩ đứa con được sinh ra bởi vì
ân huệ của Thượng đế hay bởi nghi lễ tôn giáo mà tu sĩ
đã làm nhân danh họ. Khi họ đi tới biết lần đầu tiên rằng
cả thế giới nghĩ khác, họ cười; họ nghĩ cả thế giới này
ngu. Làm tình có liên quan gì tới sinh con cơ chứ? - bởi
vì mọi lúc bạn làm tình bạn đâu có được đứa con.
Điều đó có vẻ logic! Và bạn làm tình hôm nay và
đứa trẻ tới sau chín tháng - và những người nguyên thuỷ
đó chưa có lịch, chẳng có đồng hồ nào; họ không thể
đếm thời gian được. Chín tháng là không thể tính được;
họ không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua, cho nên
họ chưa bao giờ có khả năng kết nối nguyên nhân với
hậu quả.
Và đây là tình huống về điều ác và kết quả tuyệt đối
không tránh khỏi của nó, buồn khổ. Bạn có thể làm điều
ác hôm nay, và nó là rất tốt và mọi thứ trông đều đẹp, và
bạn không thể thấy được cái gì xấu nảy sinh từ nó. Và
sâu bên dưới bạn biết tất cả chư phật này đều sai - luật
nghiệp ở đâu?
Nhiều lần mọi người tới tôi và họ nói, "Chúng tôi
thấy rằng người ác cứ phát đạt mãi. Sao vậy? Và chúng
tôi thấy rằng người tốt cứ khổ mãi. Sao vậy? Điều đó là
đủ chứng minh rằng không có Thượng đế, điều đó là đủ
chứng minh rằng không có luật nghiệp. Điều đó là đủ
chứng minh rằng mạnh là đúng, bất kì ai mạnh đều
đúng." Nó không phải vậy đâu. Người ta chỉ cần kiên
nhẫn thêm chút ít. Nhưng người ngu có logic riêng của
họ - tính ngu có logic riêng của nó, nhớ lấy.
Gilligan, Frizzoli và Lieberman đang kể chuyện về
cách họ bị nhận lầm là những người vĩ đại.
Người Ai len nói, "Tôi đang bước đi trên phố thì
một anh chàng hét lên, 'Xin chào, Thánh Patrick!'"
Người Italia nói, "Điều đó chưa là gì cả. Tôi đang
đứng ở góc phố, một người đi qua và nói, 'Xin chào,
Mussolini!'"
"Điều đó chưa là gì cả," người Do Thái nói. "Khi tôi
bước qua công viên sáng nay, một cảnh sát la lên với tôi,
'Jesus Christ, bước ra khỏi thảm cỏ ngay!'"
Người ngu có logic riêng của người đó. Thực ra
người ngu có thể còn logic hơn - ít nhất cũng có vẻ logic
hơn - so với người trí huệ, bởi vì người trí huệ sẽ có tính
ngược đời.
Phật nói: Nhớ rằng phải mất chút thời gian để hạt
mầm lớn lên đâm chồi, trở thành cây. Đợi xuân tới, và
thế rồi hoa tới.
Người ngu sướng khi điều ác của người đó chưa
quay lại chống người đó. Điều đó bao giờ cũng quay lại
chống người ngu, nó nhất định quay lại. Đó là luật tự
nhiên, điều đó không thể nào tránh được, bạn không thể
thoát được nó.
Zimmerman, trong chuyến đi kinh doanh tới Tokyo,
đã ăn trưa với một người bạn Nhật Bản.
"Người Mĩ các anh không biết cách làm tình," người
phương Đông nói. "Ở Nhật Bản chúng tôi lên giường
với vợ, bắt đầu làm tình; sau vài phút chúng tôi dừng lại,
trở dậy uống trà nóng. Thế rồi trở lại giường, làm tình
trong mười phút, rồi lại dậy và ăn bát cơm. Rồi làm tình
thêm nữa, lại dậy, đi tắm cùng nhau. Thế rồi cuối cùng
chúng tôi chấm dứt hành động này."
Hai tuần sau, quay trở về Brooklyn, Zimmerman lên
giường với vợ mình và bắt đầu làm tình với cô ấy. Đột
nhiên anh ta dừng lại và nói, "Chúng ta đi uống trà đi."
"Anh có khùng không đấy?" cô ấy nói.
"Tiếp tục đi," anh ta nài nỉ. Chẳng mấy chốc họ trở
lại giường và sau một chốc anh ta dừng lại và nói, "Bây
giờ chúng ta đi ăn bánh mì kẹp thịt bò hun khói."
"Anh có gàn không đấy?" vợ anh ta kêu lên.
Họ trở lại giường và sau vài phút Zimmerman nói,
"Bây giờ chúng đi tắm cùng nhau."
Khi họ kết thúc đôi Do Thái trở lại phòng ngủ và kết
thúc việc làm tình của họ.
"Này," Zimmerman nói, "Em nghĩ gì về điều đó?"
"Tuyệt vời," vợ anh ta đáp. "Nhưng anh đã học giao
cấu như người Nhật Bản ở đâu vậy?"
Bạn có thể cứ tin rằng bạn rất trí huệ nhưng nếu bạn
là người ngu, bạn vẫn cứ là người ngu thôi. Niềm tin của
bạn sẽ bị phá huỷ sớm hay muộn bởi chính bản thân
cuộc sống. Cuộc sống không biết tới ngoại lệ. Và đây là
một trong những luật nền tảng nhất. Aes dhammo
sanantano - đây là luật vĩnh hằng: rằng người ác nhất
định chịu đau khổ sớm hay muộn, và nó sẽ sớm hơn chứ
không muộn hơn; và người tốt sẽ được ân huệ bởi tất cả
mọi phúc lành của sự tồn tại.
**Đừng làm nhẹ thất bại của ông,
khi nói, "Chúng là gì với tôi?"
Bình đầy bởi từng giọt.
nên người ngu thành đầy ắp những điên rồ.**
Đừng làm nhẹ thất bại của bạn. Đừng nói, "Đây là
việc nhỏ thôi. Một việc nhỏ bé không thể có nhiều hậu
quả được." Nhưng từng giọt một bạn có thể tạo ra cả đại
dương đấy! Đại dương không là gì ngoài việc tích luỹ
các giọt nước, cho nên bạn phải nhận biết trong từng
hành động; trong mọi chi tiết của cuộc sống của mình,
bạn đều phải tỉnh táo và nhận biết.
**Đừng xem thường đức hạnh,
bằng việc nói, "Chúng không là gì."
Bình đầy bởi từng giọt.
nên người trí huệ thành đầy ắp đức hạnh.**
Nhớ lấy, cuộc sống bao gồm những điều nhỏ bé,
không có điều lớn lao đâu. Những điều nhỏ bé tích luỹ
lại trở thành điều lớn. Một hành động có thể trông
không mấy ý nghĩa dù là ác hay thiện. Một nụ cười có
thể có vẻ không quan trọng mấy, nhưng nụ cười là một
phần của một quá trình dài lâu. Một đoá hoa không phải
là vòng hoa, chắc chắn, nhưng sẽ không có vòng hoa
nào nếu không có từng đoá hoa được gắn lại với nhau.
Đừng coi thường thất bạn của bạn, đừng coi thường
hành động tốt của bạn. Từng và mọi hành động đều có ý
nghĩa: nếu nó xấu bạn sẽ khổ; nếu nó tốt bạn sẽ tận
hưởng cuộc sống. Và tận hưởng cuộc sống là cách duy
nhất để biết rằng Thượng đế hiện hữu. Chính là chỉ
trong phúc lạc mà bằng chứng mới tới nói lên rằng
Thượng đế hiện hữu. Không có bằng chứng logic cho
Thượng đế, nhưng khi bạn tràn ngập với vui vẻ, khi bạn
có thể nhảy múa với vui vẻ, trong điệu vũ đó lòng biết
ơn nảy sinh theo cách riêng của nó. Việc cảm ơn, lời cầu
nguyện, được sinh ra, và trong lời cầu nguyện đó bạn
được tái sinh. Trong lời cầu nguyện đó không chỉ bạn
được tái sinh đâu, Thượng đế được sinh ra nữa.
Cuộc sống bao gồm những điều nhỏ bé, và bạn phải
biến đổi từng điều nhỏ bé qua nhận biết, quan sát, tỉnh
táo của mình thành hành động đẹp. Thế thì những việc
bình thường có thể trở thành phi thường.
Một Thiền sư được hỏi, "Thầy thường hay làm gì
trước khi thầy trở nên chứng ngộ?"
Ông ấy nói, "Ta hay bổ củi và lấy nước từ giếng."
Và thế rồi ông ấy lại được hỏi, "Bây giờ thầy làm gì
khi thầy đã trở nên chứng ngộ?"
Ông ấy nói, "Ta bổ củi và lấy nước từ giếng."
Người hỏi đâm phân vân. Anh ta nói, "Dường như
thế thì chẳng có khác biệt gì."
Thầy nói, "Khác biệt là trong ta chứ. Khác biệt
không trong hành động của ta, khác biệt là trong ta -
nhưng bởi vì ta đã thay đổi, mọi hành động của ta đã
thay đổi. Ý nghĩa của chúng đã thay đổi: văn xuôi đã trở
thành thơ ca, đá đã trở thành buổi thuyết giảng, và vật
chất đã hoàn toàn biến mất. Bây giờ chỉ có Thượng đế
và không cái gì khác. Cuộc sống bây giờ là giải thoát
cho ta, nó là niết bàn."
Đủ cho hôm nay.
*************************************************************************************************************
#4 Chân lí rất đơn giản
Câu hỏi thứ nhất:
Thưa thầy kính yêu,
Chứng ngộ cảm thấy giống cái gì?
Prem Geetam, chứng ngộ không là ý nghĩ không là
tình cảm. Thực ra, chứng ngộ không phải là kinh
nghiệm chút nào. Khi mọi kinh nghiệm đã biến mất và
tấm gương của tâm thức được bỏ lại không có nội dung
nào, hoàn toàn trống rỗng; không đối thể để nhìn, để
nghĩ về, để cảm; khi không có nội dung nào quanh bạn;
nhân chứng thuần khiết còn lại - đó là trạng thái của
chứng ngộ.
Mô tả nó là khó, gần như không thể được. Nếu bạn
nói nó cảm thấy phúc lạc, đó là cho nghĩa sai về nó - bởi
vì phúc lạc là cái gì đó tương phản với khổ sở và chứng
ngộ không tương phản với bất kì cái gì. Nó thậm chí
không phải là im lặng, bởi vì im lặng có nghĩa chỉ khi có
âm thanh; không có tương phản của âm thanh, không có
kinh nghiệm về im lặng. Và không có âm thanh, không
có tiếng ồn. Đó không phải là kinh nghiệm về một, bởi
vì "một" có thể có nghĩa gì khi chỉ có một còn lại?
Người ta có thể có nghĩa chỉ trong so sánh với cái khác,
với nhiều. Trời không sáng bởi vì trời không tối. Nó
không ngọt bởi vì nó không đắng.
Không lời con người nào là thích hợp để diễn đạt nó
bởi vì mọi lời con người đều bắt rễ trong nhị nguyên...
và chứng ngộ là siêu việt; mọi nhị nguyên đều bị bỏ lại
sau.
Đó là lí do tại sao Phật nói nó là shunya. Khi ông ấy
nói nó là shunya, hư vô, trống rỗng, ông ấy không ngụ ý
rằng nó là trống rỗng; ông ấy đơn giản ngụ ý nó trống
rỗng mọi nội dung.
Chẳng hạn, căn phòng có thể được gọi là trống rỗng
nếu tất cả đồ đạc đã bị bỏ ra, không thứ nào còn lại bên
trong - bạn sẽ gọi căn phòng là trống rỗng. Nó là trống
rỗng mọi cái nó thường chứa trước đây, nhưng nó cũng
đầy - đầy trống rỗng, đầy sự rộng rãi, đầy bản thân nó.
Nhưng chẳng cái gì có thể được nói về tính đầy của nó,
viên mãn của nó, bởi vì ngôn ngữ con người không có
lời cho nó. Chúng ta đã trong hàng thế kỉ đã từng cố
gắng gọi nó là Thượng đế, gọi nó là niết bàn, gọi nó là
moksha, nhưng mọi từ đều thất bại theo cách nào đó.
Khó dịch cái gì đó từ văn xuôi sang thơ ca, càng khó
hơn khi dịch từ thơ ca sang văn xuôi, bởi vì văn xuôi là
ở mức độ thấp, thơ ca là ở mức cao hơn. Khó dịch từ
ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, mặc dầu mọi ngôn
ngữ đều tồn tại trên cùng bình diện. Sao khó dịch? - bởi
vì có sắc thái tinh tế cho từ. Những sắc thái đó bị mất đi
trong việc dịch, và những cái đó là điều thực.
Điều này là không thể được: dịch cái gì đó mà với
nó không tồn tại lời, dịch cái gì đó siêu việt trên các
ngôn ngữ vốn thuộc vào thế giới nhị nguyên. Nó cũng
giống như ánh sáng với người mù; nói về âm nhạc hay
với người không thể nghe được, người điếc; nói về
"ngọt" với người đang chịu đựng cơn sốt và mất vị giác.
Vị ngọt là vô nghĩa; người đó đã mất tất cả vị giác.
Nhưng một chút ít là có thể bởi vì người đó thường nếm
trước rồi; người đó có thể nhớ.
Nhưng bạn thậm chí không thể nhớ được khi nào
bạn nếm trải Thượng đế; bạn đã hoàn toàn quên mất
hương vị này. Có thể trong bụng mẹ bạn có kinh nghiệm
tương tự nào đó - có thể không đích xác cùng điều đó,
nhưng tương tự.
Tôi không thể nói cho bạn nó cảm thấy giống gì,
nhưng tôi có thể chỉ cho bạn cách thức. Tôi có thể đẩy
bạn vào trong vực thẳm... đó là khả năng duy nhất. Bạn
cũng có thể nếm trải nó, và thế thì bạn sẽ trở thành câm
như tôi, bạn sẽ trở thành câm như tất cả chư phật đã
từng vậy.
Chỉ để thấy ra vấn đề của việc dịch.
Rabindranath được tặng giải thưởng Nobel vì cuốn
sách của ông ấy Gitanjali. Ông ấy đã viết nó trong tiếng
mẹ đẻ của mình, tiếng Bengali. Nó có cái hay khác trong
tiếng Bengali. Tiếng Bengali có nhạc điệu cho nó; nó là
một trong những thứ tiếng hay nhất trên thế giới. Nó có
hương vị nào đó của trái tim. Chính kết cấu của nó có
tính thơ ca, nó được làm ra từ thơ ca, bản thân ngôn ngữ
này. Do đó Gitanjali ở dạng nguyên thuỷ của nó là một
kinh nghiệm khác hoàn toàn.
Đích thân Rabindranath đã dịch nó sang tiếng Anh,
nhưng ông ấy cảm thấy rất khổ sở. Trong nhiều năm ông
ấy đã cố gắng. Ông ấy biết tiếng Anh hoàn hảo, nhưng
ông ấy có thể thấy khác biệt - khác biệt là bao la. Trong
khi bản gốc là ở đâu đó trên đỉnh Everest, bản dịch chỉ ở
đất bằng; khác biệt là bao la. Trong việc dịch cái gì đó
đã bị mất đi, cái gì đó thực sự quí giá.
Ông ấy đã nhờ một người Anh rất nổi tiếng, C.F.
Andrews, giúp ông ấy. Andrews bị mê mẩn với cái hay
của cuốn sách này, bởi vì ông ấy chẳng biết gì về bản
gốc cả. Đó là lí do tại sao bạn bị mê mẩm với lời của
chư phật, bởi vì bạn không biết gì về nguyên bản. Nếu
bạn biết cái gì đó về nguyên bản thế thì lời của chư phật
chỉ như rác rưởi khi so với nguyên bản; được so sánh
với những đỉnh trắng ngần của Himalayas lời sẽ có vẻ
trần tục, của bãi chợ. Chúng là của bãi chợ, chúng được
ngụ ý dành cho bãi chợ.
Andrews bị mê mẩn. Rabindranath nói, "Nhưng tôi
đã cho ông xem cuốn sách để ông giúp tôi."
Andrews chỉ gợi ý bốn sửa đổi; chúng là về văn
phạm. Từng ngôn ngữ đều có văn phạm riêng. Ông ấy
nói, "Bốn từ này ông nên đổi đi; chúng có chút ít sai sót
về văn phạm."
Rabindranath lập tức đổi những từ này. Thế rồi ông
ấy sang Anh. Trong cuộc tụ tập của các nhà thơ - một
nhà thơ lớn người Anh, Yeats, đã triệu tập cuộc tụ họp
các nhà thơ, nhà phê bình, và những người yêu thơ, để
nghe bản Gitanjali của Rabindranath - Rabindranath đọc
bài thơ này. Họ tất cả đều bị quyến rũ; nó là cái gì đó
siêu phàm, cái gì đó hiếm được biết tới ở phương Tây,
bởi vì nó có cùng phẩm chất như Upanishads. Nếu bạn
đã đọc Kahlil Gibran... Nó có cùng phẩm chất.
Nhưng Yeats đứng dậy và nói, "Mọi thứ đều đúng
hoàn hảo ngoại trừ bốn chỗ cái gì đó bị sai."
Đó đích xác là bốn từ đã được C.F. Andrews gợi ý.
Rabindranath nói, "Tôi phân vân quá, ngạc nhiên
quá, tôi không thể tin được điều đó. Đây là những từ mà
C.F. Andrews gợi ý. Chúng văn phạm hơn chứ. Những
từ nguyên bản của riêng tôi là thế này..."
Yeats nói, "Những từ nguyên bản của ông mới đúng.
Mặc dầu chúng không đúng văn phạm nhưng chúng có
tính thơ ca trong chúng, có luồng chảy. Những từ được
Andrews gợi ý là đúng văn phạm đấy" - Andrews có
tâm trí của thầy giáo phổ thông - "nhưng chúng như
những tảng đá chắn dòng chảy của suối; chúng không
giúp cho dòng chảy. Ông thì không thạo văn phạm, bởi
vì thơ ca có thể đảm đương được việc không văn phạm,
nhưng thơ ca không thể đảm đương được việc không
tuôn chảy. Luồng chảy phải được duy trì; dòng chảy
càng lớn, thơ ca càng hay."
Ngay cả trong thế giới thường, từ ngôn ngữ này
sang ngôn ngữ khác, nó là vấn đề thế...
"Tên?" quan chức di trú truy vấn.
"Sneeze," người Tầu đáp một cách tự hào.
Viên quan chức nhìn anh ta: "Đấy là tên Tầu của
anh là?" ông ta hỏi. "Sneeze?"
"Không, tên Mẽo đấy."
"Thế thì nói tên cúng cơm của anh ra đi."
"Ah Choo."
Bây giờ "Ah Choo" trở thành "Sneeze"....
Trong ngôn ngữ thường, nữa, việc dịch là hiện
tượng rất khó, một trong những nghệ thuật khó nhất; và
thơ ca càng vĩ đại, việc dịch càng khó hơn. Thơ ca vĩ đại
nhất vẫn còn không dịch được.
Nhưng nói về chứng ngộ là không thể được, bởi
nhiều lí do thế: không nội dung nào có thể được nói tới;
không có ai như một bản ngã để cảm, để nói, để mô tả.
Đối thể biến mất, và với đối thể chủ thể cũng biến mất,
nhớ, bởi vì chúng là một phần của nhị nguyên - đối thể
và chủ thể - chúng là cùng nhau. Nếu không có đối thể,
chủ thể lập tức biến mất. Đó là lí do tại sao Phật nói nó
là trạng thái của anatta, trạng thái của không có bản ngã,
của không có tôi. Không nội dung, không người quan
sát... thế thì cái gì còn lại? Cái toàn thể còn lại, cái toàn
bộ còn lại! Nhưng cái toàn bộ đó chỉ có thể được trỏ tới,
không được mô tả, không được định nghĩa.
Và toàn thể nỗ lực của tôi ở đây là để giúp bạn
hướng tới trạng thái tồn tại đó. Nhưng đừng hỏi nó cảm
thấy thế nào. Không có ai để cảm thấy nó cả, không có
gì để cảm thấy nó; không có gì để được cảm cả. Im lặng
tuyệt đối... và im lặng không phải là trong tương phản
với âm thanh. Yêu thuần khiết, nhưng yêu không biết gì
tới ghét cả. Tràn đầy, nhưng tràn đầy là trống rỗng hoàn
toàn. Đó là cách từ trở thành vô dụng, và phát biểu của
các nhà huyền môn có vẻ rất ngược đời.
Ludwig Wittgenstein đã nói: Không cái gì nên được
nói ra nếu kinh nghiệm là không thể diễn đạt nổi - nếu
nó không thể được nói ra thế thì nó không nên được nói
ra. Nhưng điều đó nữa cũng là vấn đề. Nhà huyền môn
không thể đồng ý được, tôi không thể đồng ý được. Nó
không thể được nói ra, vậy mà nỗ lực vẫn phải được
thực hiện. Không nỗ lực nào sẽ xứng với kinh nghiệm
này - mọi người đã biết đều hoàn toàn nhận biết - nhưng
dầu vậy nỗ lực vẫn phải được thực hiện, nỗ lực không
thực sự mô tả nó nhưng nỗ lực tạo ra khao khát trong
bạn.
Và khao khát thực nảy sinh không phải bởi vì lời
của thầy, mà bởi vì bản thân thầy, sự hiện diện của thầy.
Nếu bạn trong tình yêu với thầy thế thì sự hiện diện của
thầy bắt đầu mở ra những cánh cửa không biết nào đó
trong bạn. Thỉnh thoảng một cửa sổ đột nhiên mở ra và
bạn có thoáng nhìn. Thỉnh thoảng bạn được mang vào
thế giới khác, vào trong chiều hướng khác. Sự hiện diện
của thầy phải được nếm trải - đó là nếm trải chứng ngộ.
Sự hiện diện của thầy phải được cho phép chìm sâu vào
trong bạn; đó là cách duy nhất để biết cái gì đó của nó.
Jesus nói: Ăn ta đi. Đêm cuối cùng, khi ông ấy nói
lời tạm biệt với các đệ tử của mình, ông ấy bẻ chiếc
bánh mì ra và nói, "Đây là ta. Ăn ta đi, tiêu hoá ta đi. Và
bất kì khi nào các ông ăn, và bất kì khi nào các ông bẻ
bánh mì, nhớ lấy." Và thế rồi ông ấy đưa rượu cho các
đệ tử của mình và nói, "Đây là máu của ta - uống ta đi,
và bất kì khi nào các ông uống rượu, nhớ tới ta."
Vâng, nó là chất nuôi dưỡng của linh hồn, do đó là
bánh mì; và vâng, nó là rượu, bởi vì nó làm bạn ngất
ngây với điều thiêng liêng.
lại gần tôi hơn đi, Geetam! Vứt áo giáp của bạn đi,
vứt đề phòng của bạn đi. Vứt tâm trí bạn đi. Quên bản
thân bạn ngày một nhiều hơn để cho bạn có thể tới ngày
một gần hơn. Trong thân mật đó cái gì đó nhất định diễn
ra.
****************************************************
#4Câu hỏi thứ hai:
Thưa thầy kính yêu,
Tôi đã cố gắng cả đời mình để sống cuộc sống tôn
giáo, nhưng thế rồi sao tôi vẫn khổ?
Nand Kishor, cuộc sống tôn giáo không thể nào
được cố gắng. Bất kì cái gì bạn đã từng làm nhân danh
tôn giáo đều phải đã từng là cái gì đó khác rồi. Tôn giáo
không phải là nỗ lực, nó là tâm thức. Nó không phải là
thực hành, nó là nhận biết. Nó không phải là việc trau
dồi; bạn không thể trau dồi nó được - cuộc sống tôn giáo
chẳng liên quan gì tới cá tính.
Cá tính có thể được trau dồi. Cá tính là đạo đức;
ngay cả người phi tôn giáo cũng có thể trau dồi nó. Thực
ra người phi tôn giáo còn có nhiều cá tính hơn cái gọi là
người tôn giáo, bởi vì người tôn giáo cứ tin rằng mình
có thể hối lộ Thượng đế, hay ít nhất người đó có thể hối
lộ tu sĩ của Thượng đế, và người đó sẽ tìm được cách
nào đó để đi vào thiên đường. Nhưng người phi tôn giáo
phải tự chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình, hướng
tới bản thân mình. Không có Thượng đế, không có tu sĩ,
không có ai trả lời cho người đó; người đó trả lời cho
chính bản thân mình. Người đó có nhiều cá tính hơn.
Tôn giáo chẳng liên quan gì tới cá tính cả. Thực ra,
người tôn giáo thực sự là tuyệt đối vô cá tính. Nhưng cố
hiểu từ 'vô cá tính'; nó không ngụ ý không có cá tính, nó
ngụ ý cá tính linh động. Người đó sống từ khoảnh khắc
sang khoảnh khắc, đáp ứng với tình huống mới, thách
thức mới, không có câu trả lời sẵn.
Cái gọi là con người của cá tính có câu trả lời sẵn.
Người đó chẳng bao giờ bận tâm thách thức là gì, người
đó cứ đáp ứng theo cách cũ, đã biết. Do đó người đó bao
giờ cũng thất bại và đó là khổ của người đó. Người đó
chẳng bao giờ hài hoà với sự tồn tại; người đó không thể
thế được, bởi vì người đó quan tâm nhiều tới việc giữ cá
tính của mình hơn là sống hài hoà với sự tồn tại. Điều đã
đúng hôm qua có thể không đúng hôm nay, và điều là
đúng khoảnh khắc này có thể không đúng vào khoảnh
khắc tiếp. Và con người của cá tính đã cố định ý niệm
về cái gì là đúng và cái gì là sai; sự cố định của người đó
là vấn đề.
Nand Kishor, điều đó phải đang làm bạn khổ đấy.
Bạn không linh hoạt, bạn không thể hiện hữu. Cái gọi là
con người của cá tính tuyệt đối không linh hoạt. Người
đó giống như mẩu gỗ khô. Người đó không giống như
cây xanh rung rinh theo gió, nhảy múa cùng gió, cúi
mình để gió thổi qua và rồi đứng dậy.
Con người tôn giáo thực giống như cây xanh - thực
ra, giống cỏ xanh hơn. Đó là cách Lão Tử định nghĩa
con người tôn giáo: người đó giống như cỏ. Để gió tới,
và cỏ uốn mình, nằm rạp trên đất, chẳng tranh đấu gì với
gió cả. Tại sao tranh đấu với nó? Chúng ta là một phần
của một đơn vị hữu cơ; gió không phải là kẻ thù của
chúng ta. Cỏ cúi rạp mình; gió đi qua và cỏ trở lại nhảy
múa. Gió đã là sự giúp đỡ rồi, nó lấy đi mọi bụi bặm. Cỏ
xanh hơn, tươi hơn, nó tận hưởng toàn thể trò chơi cùng
gió.
Nhưng cây lớn, bản ngã, cứng rắn, cứng nhắc,
không thể nào cúi mình được, sẽ đổ kềnh trong gió
mạnh và sẽ không thể nào đứng dậy được nữa; nó nhất
định khổ. Con người của cá tính bao giờ cũng khổ. Sung
sướng duy nhất của người đó là ở chỗ người đó là con
người của cá tính, có vậy thôi. Và cá tính có liên quan gì
tới tôn giáo? Bạn có thể ăn cái gì đó, bạn có thể không
ăn cái gì đó; bạn có thể uống cái gì đó, bạn có thể không
uống cái gì đó; bạn có thể hút thuốc, bạn có thể không
hút thuốc... Những điều tầm thường thế được coi là có
giá trị mênh mông đấy! Và bạn thực hành nó - và bạn
ngụ ý gì bởi việc thực hành nó?
Nand Kishor, đó phải là kìm nén - và người kìm nén
nhất định khổ, bởi vì mọi cái người đó đã kìm nén đang
tranh đấu bên trong người đó để quay lại, để có quyền
lực lần nữa. Và cho dù bạn đã kìm nén nó, nó cứ kéo sợi
dây của bạn từ vô thức. Nó sẽ giữ bạn bao giờ cũng
trong xung đột, rối loạn bên trong; cuộc nội chiến tiếp
diễn bên trong bạn. Bạn sẽ vẫn còn căng thẳng, lo âu, lo
lắng và bao giờ cũng sợ hãi - bởi vì bạn biết kẻ thù có
đó - rằng bạn đã kìm nén và kẻ thù đang cố gắng mọi
khoảnh khắc để báo thù. Và có một điểm bên ngoài mà
bạn không thể kìm nén được thêm nữa bởi vì bạn không
thế chứa được thêm nữa; có giới hạn cho mọi thứ. Thế
thì mọi thứ bạn đã kìm nén bùng nổ, giống như mủ rỉ ra
từ bạn.
Đây là điều chúng ta đã từng nói là trạng thái của
người tôn giáo - cá tính bị kìm nén này.
Cách tiếp cận của tôi là khác toàn bộ. Tôi không nói
rằng bạn có thể thực hành tôn giáo và tôi không nói rằng
tôn giáo có liên quan gì tới ý thức hệ bình thường, đạo
đức, thanh tẩy này.
Một kẻ ăn xin lấm lem, râu ria xồm xoàm, với con
mắt đỏ ngầu và răng đã mất một nửa, hỏi xin Hogan một
hào. "Ông có uống rượu, hút thuốc hay đánh bạc
không?" người Ai len hỏi.
"Thưa ông," kẻ lang thang nói, "Tôi không chạm tới
một giọt rượu, không hút thuốc lá bẩn, hay bận tậm tới
việc đánh bạc xấu."
"Được đấy," Hogan đáp. "Nếu ông về nhà cùng tôi
thì tôi sẽ cho ông một đô la."
Khi họ đi vào nhà, bà Hogan kéo chồng sang bên và
rít lên, "Ông dám đem cái hạng người trông khủng khiếp
đó về nhà mình sao!"
"Em yêu ơi," Hogan nói, "Anh chỉ muốn em thấy
một người sẽ thế nào nếu người đó không uống rượu,
không hút thuốc hay không đánh bạc."
Những người này không phải là người tôn giáo.
Bạn nói, Nand Kishor, "Tôi đã cố gắng cả đời mình
để sống cuộc sống tôn giáo."
Bạn đã làm phí hoài cuộc sống của mình! Đừng làm
phí hoài nó thêm nữa. Tôn giáo không phải là cái gì đó
để được cố gắng. Bạn biết gì về tôn giáo?
Ngoại trừ trong thiền sâu, người ta không bao giờ
bắt gặp tôn giáo. Nó không được viết trong Gita và nó
không được viết trong Koran. Nó không được viết ở đâu
cả - bởi vì nó không thể được viết ra. Cái được viết ra là
đạo đức. Cái được viết ra là, "Bạn phải làm cái này, bạn
phải không làm cái kia" - "phải" và "phải không." Tôn
giáo chẳng liên quan gì với mọi điều đó.
Tôn giáo về căn bản là khoa học của việc tạo ra tâm
thức trong bạn. Trở nên có tính thiền hơn đi, trở nên ý
thức hơn đi. Từ tâm thức đó một cá tính rất linh hoạt, tự
phát được sinh ra, cái thay đổi mọi ngày theo tình
huống, cái không bị gắn với quá khứ, cái không giống
như cái gì đó được làm sẵn. Ngược lại, nó là tính đáp
ứng - khả năng đáp ứng với thực tại từ khoảnh khắc
sang khoảnh khắc. Nó tựa tấm gương; nó phản xạ bất kì
cái gì đang là hoàn cảnh, và từ phản xạ đó, hành động
được sinh ra. Hành động đó là hành động tôn giáo.
Bạn không biết gì về tôn giáo cả, Nand Kishor. Làm
sao bạn có thể thực hành được nó?
Và bạn nói, "Sao tôi vẫn khổ?"
Bất kì cái gì bạn đã thực hành, bạn đều phải thực
hành với tham lam, để đạt tới cái gì đó. Bạn phải chờ
đợi rằng hạnh phúc lớn đang sắp mưa rào lên bạn, rằng
Thượng đế sắp thưởng cho bạn, rằng bạn sẽ được làm
thành người giầu nhất trên thế giới hay bạn sẽ trở thành
rất nổi tiếng - một thánh nhân lớn, cái gì đó kiểu như
thế. Bạn đã không yêu tôn giáo, bạn đã dùng tôn giáo
như phương tiện để đạt tới cứu cánh nào đó khác; bằng
không câu hỏi này chẳng bao giờ nảy sinh.
Người tôn giáo không thể nói, "Sao tôi vẫn khổ?"
bởi vì người đó biết, "Nếu mình khổ, điều đó nghĩa là
mình không có tính tôn giáo."
Khổ là sản phẩm phụ của vô ý thức. Nếu bạn có ý
thức, khổ biến mất. Không phải là nó là phần thưởng; nó
chỉ là kết quả đơn giản của có ý thức. Đem ánh sáng,
đèn, vào nhà, và bóng tối biến mất. Đó không phải là
phần thưởng từ Thượng đế - không phải là ngài thấy
rằng bạn đã đem ánh sáng vào, bây giờ bạn phải được
thưởng và bóng tối phải bị loại bỏ. Không, đó là luật tự
nhiên: aes dhammo sanantano - đây là luật vĩnh hằng.
Đem ánh sáng vào và bóng tối biến mất, bởi vì bóng tối
không có sự tồn tại riêng của nó; nó chỉ là việc thiếu ánh
sáng.
Khổ là việc thiếu ý thức. Cho nên không thể nào có
ý thức mà khổ được; không ai đã bao giờ có khả năng
làm điều đó mãi cho tới giờ. Nếu bạn có thể làm được
điều đó, bạn sẽ làm điều gì đó lịch sử, điều gì đó chưa
từng được nghe tới, điều gì đó không thể nào hiểu được.
Bạn sẽ làm phép màu mà không vị phật nào đã từng có
khả năng làm được. Bạn không thể làm được điều đó;
điều đó là không thể được, điều đó không có trong bản
tính của mọi vật. Làm sao bạn có thể giữ được bóng tối,
nữa, với đèn đang cháy sáng trong phòng bạn? Bạn có
thể giữ bóng tối, thế thì bạn phải tắt đèn đi; bạn không
thể giữ chúng cả hai cùng nhau được, sự cùng tồn tại là
không thể được.
Nếu bạn khổ, điều đó đơn giản chỉ ra bạn đã không
hiểu tôn giáo là gì và bạn đã cố gắng cái gì đó khác nhân
danh tôn giáo. Bạn đã cố gắng là nhà đạo đức, nhà luân
lí. Bạn đã cố gắng tạo ra cá tính. Tại sao? Để làm gì?
Bởi vì cá tính được ca ngợi, bởi vì xã hội kính trọng cá
tính. Nó là trò bản ngã - rất tinh vi, nhưng trò bản ngã tất
cả đều là một.
Và bản ngã tạo ra khổ. Cái gọi là thánh nhân của
bạn tất cả đều khổ. Tôi đã bắt gặp hàng nghìn thánh
nhân của bạn - trong Hindu giáo, Jaina giáo, Phật giáo,
Mô ha mét giáo, Ki tô giáo - và họ tất cả đều khổ. Họ tất
cả đều hi vọng được thưởng sau cái chết.
Tôn giáo thực là ngay tức khắc: ở đây bạn trở nên ý
thức và ngay lập tức khổ biến mất. Bạn không cần chờ
đợi kiếp sống khác, thậm chí bạn không cần chờ đợi tới
ngày mai.
Và đó là điều Phật ngụ ý khi ông ấy nói: Chóng làm
việc thiện. Việc thiện nhất là có ý thức - bởi vì mọi việc
thiện khác đều được sinh ra từ nó. Có ý thức là cội
nguồn của mọi điều thiện, mọi đức hạnh.
****************************************************
#4Câu hỏi thứ ba:
Thưa thầy kính yêu,
Khi tôi nghe thầy nói về yêu và thiền, hay dục và
chết, nói chúng là hai mặt của cùng một năng
lượng, cái gì đó trong tôi biết nó là đúng. Nhưng,
mặc dầu bị hấp dẫn bởi cả hai khía cạnh, tôi cảm
thấy bản thân mình vẫn bị treo vào ý tưởng là tôi chỉ
có thể tiếp cận tới một phía vào mỗi lúc. Thực ra
liệu có cách để ở tại điểm gặp gỡ của các cực này
không nơi chúng có thể được cảm thấy như một?
Prem Asang, lúc bắt đầu bao giờ cũng phải từ một
phía, từ một mặt; lúc bắt đầu bạn không thể xoay xở đi
vào từ cả hai cửa được. Nếu ngôi đền có hai cửa bạn
không thể đồng thời đi vào từ cả hai cửa được.
Bạn sẽ xoay xở điều đó thế nào? Nhưng không có
nhu cầu đi vào từ hai cửa đồng thời; một cửa là đủ. Bằng
việc đi vào qua cửa này bạn đã đạt tới điện thờ bên
trong. Những người đã đi vào từ cửa kia, họ cũng đạt tới
cùng điện thờ bên trong. Sự gặp gỡ xảy ra trong kinh
nghiệm bên trong nhất.
Dù bạn đi vào từ yêu hay từ thiền không thành vấn
đề - bạn đạt tới cùng một điểm. Cùng một điểm của vô
ngã được đạt tới qua yêu và qua thiền. Cùng một điểm
tâm trí biến mất được đạt tới bằng yêu và bằng thiền, và
cùng một điểm của việc vượt ra ngoài thời gian được đạt
tới bằng cả hai. Kết quả tối thượng là một, cho nên bạn
không cần lo nghĩ.
Bạn không đi vào từ cả hai cửa. Nếu bạn cố gắng đi
vào từ cả hai cửa bạn sẽ không có khả năng đi vào thậm
chí từ một cửa, bởi vì bạn sẽ lấy một bước đi vào cửa
này, thế rồi bạn sẽ chạy xô sang cửa kia; bạn sẽ lấy một
bước đi vào cửa kia và bạn sẽ chạy xô lại để đi vào cửa
đầu. Và bạn sẽ cứ chạy giữa hai cửa này ở bên ngoài
đền. Nhưng đây là điều ngớ ngẩn, không cần!
Nếu một người đi vào từ cửa yêu mà bỏ lỡ cái gì đó
mà người đi vào từ cửa thiền thu được, hay ngược lại,
thế thì sẽ có vấn đề - nhưng họ cả hai đều đạt tới cùng
một điểm. Từ cả hai cực họ đều đi tới cùng chỗ giữa...
và điểm giữa đó là điểm của siêu việt.
Đừng lo rằng bạn chỉ có thể tiếp cận từ một phía
mỗi lúc. Bạn đạt tới điện thờ bên trong nhất, thế thì mọi
phía đều là của bạn. Yêu, và bạn sẽ biết thiền là gì;
thiền, và bạn sẽ biết yêu là gì.
Yêu là dành cho những người có năng lượng hướng
ngoại tự nhiên, còn thiền là dành cho những người có
năng lượng hướng nội tự nhiên. Thiền nghĩa là ở với bản
thân bạn trong vui vẻ vô cùng, tận hưởng sự một mình
của bạn. Yêu nghĩa là ở cùng với người khác, tận hưởng
sự cùng nhau. Thiền giống như chơi độc tấu sáo; yêu
giống như hai nhạc cụ cùng chơi với nhau trong nhịp
điệu sâu sắc - sáo với đàn tabla. Đó là jugalbandi - đó là
giao cảm giữa hai nhạc cụ đi cùng nhau tay trong tay,
nhảy múa cùng nhau.
Có những người sẽ thấy dễ dàng đi tới bản thân họ
qua người khác; đó là con đường dài hơn chút ít, yêu là
con đường dài hơn chút ít, nhớ lấy, nhưng đẹp mênh
mông, bởi vì trên đường có cây đẹp và hoa và chim.
Thiền là con đường ngắn nhất có thể có bởi vì bạn
không đi đâu cả; bạn đơn giản nhắm mắt lại và chìm sâu
vào trong bản thể riêng của mình - nơi bạn đã hiện hữu.
Yêu là đi tới bản thân bạn bằng người khác, qua
người khác; thiền là đi tới bản thân bạn một cách trực
tiếp, tức khắc. Nhưng điều đó có hơi khô khan bởi vì
không có đường - không có cây cối trên đường, không
chim chóc, không mặt trời lên, không mặt trời lặn,
không trăng, không sao. Nó có cái đẹp của riêng nó: cái
đẹp của sa mạc. Bạn đã từng tới sa mạc chưa? Cái im
lặng, im lặng vĩnh hằng của sa mạc... cát trải rộng tới
vĩnh hằng... sự thuần khiết, sự sạch sẽ. Vâng, đó là cái
đẹp của thiền.
Điều đó tuỳ thuộc vào bạn: có những người yêu sa
mạc. Nhiều nhà huyền môn Ki tô giáo đã đi ra sa mạc và
đã đạt tới Thượng đế trong sa mạc. Đi tới sa mạc chỉ là
biểu tượng của việc đi vào thiền.
Bạn phải quan sát bản thân mình, bất kì cái gì lôi
cuốn bạn. Trong xem xét tối thượng cả hai là một nhưng
trên đường cả hai lại khác - bài ca khác, âm nhạc khác,
hương vị khác. Nhưng mọi người là khác nhau.
Có hai kiểu người: nam tính và nữ tính. Kiểu nữ tính
sẽ thấy dễ dàng đi qua tình yêu. Và nhớ: với 'nữ tính' tôi
không ngụ ý nữ giới; đàn ông có thể có kiểu nữ tính.
Chaitanya có kiểu nữ tính, cũng giống như Meera;
không có khác biệt trong kiểu của họ. Meera là nữ,
Chaitanya là nam, nhưng kiểu của họ là một; cả hai đều
có kiểu nữ tính, cả hai đều đi qua tình yêu. Cả hai đều
cần Krishna; chỉ qua Krishna họ mới có thể đạt tới bản
thân mình.
Và theo cùng cách, với 'nam tính' tôi không ngụ ý
nam giới. Mahavira và nhà nữ huyền môn vĩ đại của
Kashmir, Lalla, cả hai đều đích xác là một - cả hai đều
có kiểu nam tính. Mahavira sống trần, Lalla cũng sống
trần. Bà ấy là nhà nữ huyền môn duy nhất đã sống trần.
Cả hai đều có cùng kiểu, kiểu thiền.
Kiểu nam sẽ thấy dễ đi trực tiếp vào bản thân mình
hơn; kiểu nữ sẽ thấy dễ đi qua người khác hơn. Không
kiểu nào cao hơn hay thấp hơn bởi vì cả hai đều đạt tới
cùng một nơi.
Cho nên, Asang này, quan sát, tìm ra kiểu riêng của
bạn đi, và đi theo tương ứng. Và đừng lo lắng rằng bạn
không thể xoay xở được cả hai mặt cùng nhau; chẳng ai
đã bao giờ làm được. Vâng, vài người đã thử, nhưng họ
tất cả đều thất bại; không ai đã bao giờ thành công.
Tất nhiên, có một cách... nếu bạn muốn biết cả hai
cách. Thế thì cách có thể duy nhất đã được Ramakrishna
thử: trước hết bạn đi vào mặt này, cửa này, đạt tới điện
thờ bên trong nhất, thế rồi quay lại và đi vào lần nữa từ
cửa kia. Điều đó là tốt khi có liên quan tới thực nghiệm
khoa học, chỉ để chắc chắn liệu người khác cũng đạt tới
cùng chỗ hay không. Ramakrishna đã thử mọi tôn giáo
có thể.
Và một khi bạn đã đạt tới điện thờ bên trong, mọi sự
đều dễ dàng hơn. Nếu bạn phải mất nhiều năm để đạt tới
từ cửa thứ nhất, từ cửa thứ hai sẽ chỉ mất vài ngày, bởi
vì thực ra bạn đã đạt tới đích rồi; bạn đơn giản thử cách
khác, liệu nó có đạt tới hay không.
Nếu bạn làm thực nghiệm nào đó kiểu như
Ramakrishna, Asang này, thế thì điều đó hoàn toàn
được. Nhưng thế nữa ngay cả Ramakrishna cũng không
thể đi vào hai cửa cùng lúc, đồng thời; điều đó là không
thể được. Trước hết bạn đi vào cửa này, đạt tới, kinh
nghiệm; thế rồi, nếu bạn quan tâm... Thực ra, chẳng ai
quan tâm nữa đâu. Tại sao? Để làm gì? Bạn đã đạt tới
rồi - và bạn có thể thấy mọi người đang tới từ cửa kia
nữa; không có nhu cầu cho bản thân bạn đi và thực
nghiệm.
Bạn sẽ gặp ở đó Meera và Mahavira, cả hai ngồi
cùng nhau. Bạn sẽ gặp ở đó Lão Tử và Krishna và
Mohammed và Christ ngồi cùng nhau... nhấm trà và tán
gẫu! Cái gì khác còn lại?
Nhưng nếu bạn quan tâm, nếu bạn muốn thực sự
truy tìm liệu đường khác cũng có đi tới cùng chỗ hay
không, bạn sẽ phải đi ra và đi qua con đường khác. Và
con đường khác bây giờ sẽ dễ dàng hơn bởi vì tâm thức
của bạn đã ở bên trong; chỉ thân thể bạn sẽ đi ra. Và bạn
có thể đi qua người khác và bạn có thể thấy...
Ramakrishna đã làm một thực nghiệm lớn lao: ông
ấy đã chứng minh, về mặt tồn tại, rằng mọi tôn giáo đều
bình đẳng. Điều đó đã được nói trước đây, nhưng không
ai đã chứng minh nó về mặt tồn tại; nó đã là suy luận
logic. Nhưng Ramakrishna đã đi, về mặt thực hành, vào
trong mọi phương pháp có thể và đạt đi đạt lại tới cùng
trạng thái.
Ramakrishna báo trước một viễn kiến mới,
Ramakrishna bắt đầu một pha mới. Sau Ramakrishna,
thực ra, không nên có nhiều tôn giáo thế - cho dù sự đa
dạng là đẹp, sự đối kháng nên biến mất; người Hindu
giáo không nên đánh người Mô ha mét giáo - bởi vì con
người này Ramakrishna đã đạt tới cùng kinh nghiệm từ
mọi tôn giáo.
Asang, nếu bạn quan tâm tới việc làm thực nghiệm
nào đó như Ramakrishna, thế thì điều đó là được; bằng
không sẽ không cần phải lo nghĩ. Đi vào từ một cửa và
bạn đã đi vào từ mọi cửa.
****************************************************
#4Câu hỏi thứ tư:
Thưa thầy kính yêu,
Khi thầy nói về điều thiện, điều ác và nghiệp kết quả
của chúng, thầy có nói rằng hành động có ý thức
mang phúc lạc cố hữu và hành động vô ý thức mang
đau đớn cố hữu, hay có cái gì đó hơn nữa cho nó?
Cũng vậy, liệu nó có tuân theo rằng mọi phúc lạc
đều là kết quả của ý thức và mọi đau khổ đều là kết
quả của vô ý thức không?
Prem Vidya, không có gì hơn cho nó đâu. Nó là hiện
tượng đơn giản: ý thức về bản chất là phúc lạc. Phúc lạc
không phải là kết quả; nó là có sẵn trong tâm thức rồi.
Nó không tới từ bên ngoài; nó nở hoa bên trong tâm
thức. Nó là hương thơm của việc nở hoa tâm thức. Khi
hoa hồng của tâm thức mở ra, hương thơm của nó là
phúc lạc.
Và khi bản thể bạn đóng trong vô ý thức, khí tanh và
chết đó, mùi hôi đó, bóng tối đó là khổ đấy. Điều đó nữa
cũng là bản chất, bởi vì bây giờ không khí trong lành
không thể chảy qua bạn được; cửa ra vào, cửa sổ của
bạn tất cả đều bị đóng lại rồi. Bây giờ tia sáng mặt trời
không thể vào tới bên trong bạn được. Bạn không sẵn có
cho mưa, cho gió, cho mặt trời. Bạn đã trở nên bị biệt
lập với sự tồn tại. Bạn đã trở thành một đơn tử, không
cửa sổ. Bạn đã trở nên bị bao bọc, hoàn toàn bị đóng kín
trong cái ngã riêng của mình, trong bản ngã riêng của
mình. Bạn đã ngắt bản thân mình khỏi sự tồn tại phúc
lạc, đẹp mênh mông này; do đó, có khổ. Nó không thực
là kết quả đâu; nó là bản thân vô ý thức, cái tên khác cho
nó.
Và mọi người đang sống một cách vô ý thức, nhưng
họ không thấy ra điều đó. Họ cứ nói họ đang sống trong
khổ và họ muốn không sống trong khổ, nhưng họ bao
giờ cũng đổ trách nhiệm lên cái gì đó khác, ai đó khác.
Hoặc đó là số mệnh hoặc đó là xã hội, cấu trúc kinh tế,
nhà nước, nhà thờ, vợ, chồng, mẹ - nhưng bao giờ cũng
là ai đó khác.
Tôn giáo bắt đầu trong cuộc sống của bạn khi bạn
nhận lấy trách nhiệm về bản thân mình. Nhận trách
nhiệm về khổ của bạn là bắt đầu của thay đổi, bởi vì
ngay cả chấp nhận rằng "Tôi chịu trách nhiệm về bất kì
cái gì tôi đang là," là bắt đầu của ý thức. Bạn đang thoát
ra khỏi trạng thái say sưa mà bạn đã sống hàng thế kỉ
trong đó.
Poteen là một loại rượu lậu Ai len có thể làm thủng
lỗ tấm kim loại. Sau khi uống nửa lít rượu này Flaherty
thấy nhiều con vật trong phòng mình tới mức anh ta đặt
một biển báo cho ngôi nhà của mình, Vườn bách thúc
của Flaherty.
Viên hạ sĩ cảnh sát địa phương tới để cãi lí với anh
ta và chẳng mấy chốc anh ta đã mời ông ấy uống một
cốc Mountain Dew. Khi viên cảnh sát loạng choạng
bước ra ba mươi phút sau đó, ông ta giơ tay lên để yêu
cầu im lặng mặc dù chẳng có ai cả. "Tất cả đều được
phải không các ngài. Điều tồi tệ nhất qua rồi. Anh ta đã
bán cho tôi nửa số voi."
Bạn đang sống trong trạng thái say mèm. Bạn không
cần rượu - rượu đang tuần hoàn trong máu bạn rồi. Ban
không cần marijuana, LSD, mescaline, không - bạn đã
bị nhồi đầy bằng nó rồi. Bạn được sinh ra vô ý thức!
Nhưng bởi vì mọi người khác đều giống bạn, bạn chưa
bao giờ nhận biết về điều đó.
Chỉ khi việc thức tỉnh bắt đầu xảy ra trong bạn, thế
thì bạn trở nên nhận biết, một cách tương đối, rằng mãi
cho tới giờ bạn đã sống trong một loại giấc ngủ nào đó,
rằng bạn đã từng là người vừa ngủ vừa đi, người mộng
du, rằng bất kì cái gì bạn đã làm cho tới giờ đều đã làm
một cách vô ý thức. Và bởi vì bạn đã làm mọi thứ một
cách vô ý thức và đi một cách mù quáng trong cuộc
sống, như mẩu gỗ trôi dạt, chẳng có cảm giác về chiều
hướng, chẳng có ý tưởng mình đang đi đâu, chẳng có ý
tưởng mình là ai, làm sao bạn có thể hi vọng phúc lạc
được? Bạn chỉ có thể khổ, nhiều hay ít.
Khi bạn ít khổ hơn một chút bạn gọi nó là hạnh
phúc. Nó không thực là hạnh phúc, nhưng ít khổ hơn
bình thường. Khi cái ít đó thành quá nhiều, bạn đi vào
đau khổ. Nhưng đây tất cả đều là mức độ khổ của bạn
thôi, lúc thì ít, lúc thì nhiều, nhưng bạn vẫn còn chưa
biết tới hạnh phúc. Vâng, bạn đã biết tới hoan lạc...
Hoan lạc là khi bạn quên mất khổ của bạn. Khổ vẫn
còn đó - bạn quên nỗi khổ của mình thôi. Bạn đi xem
phim, bạn trở nên bị tập trung vào phim, bạn trở nên
tham gia vào câu chuyện đó, tới mức bạn quên mất bản
thân mình, tới mức trong hai, ba giờ bạn cứ dường như
là không có đó. Nhưng bên ngoài rạp chiếu phim bạn trở
lại cái ta thường lệ của mình và cái khổ thường lệ của
mình.
Ngu xuẩn là ở chỗ bởi vì vô thức của bạn mà bạn
khổ, và khi bạn muốn tránh khổ của mình bạn uống
rượu để cho bạn có thể quên đi nỗi khổ. Chính bởi vì vô
ý thức mà bạn mới khổ; thế rồi bạn cố gắng trở nên vô ý
thức hơn để cho bạn không cần biết rằng bạn khổ. Theo
cách này bạn cứ đi ngày một sâu hơn vào trong vô ý
thức. Và những trạng thái này của cơn mê bạn coi là rất,
rất vĩ đại. Đây chỉ là những khoảng trống khi bạn trở
nên ngủ say, vô nhận biết toàn bộ tới mức bạn không thể
nhớ được rằng bạn đang khổ.
Và trong những trạng thái vô ý thức này, do hoá
chất tạo ra, bạn có thể tin rằng bạn đang có hạnh phúc
nào đó, bạn có thể tưởng tượng; điều đó tất cả phụ thuộc
vào tưởng tượng của bạn. Nhiều người đã thực nghiệm
với LSD - cảm giác phiêu diêu bay bổng nhất có được từ
trước cho tới nay. Và kết quả của nhiều thực nghiệm là
ở chỗ những người đang hi vọng rằng họ sẽ đạt tới phúc
lạc lớn lao đi tới báo cáo họ đã đạt tới thiên đường và họ
thấy các thiên thần và ánh sáng và mầu sắc và những
kinh nghiệm có tính thơ ca tuyệt vời. Và những người đi
vào thực nghiệm với ý tưởng rằng điều này là sai, rằng
điều này không thể cho phúc lạc được, rằng điều này
nhất định cho khổ, quay lại báo cáo rằng họ đã ở trong
địa ngục và họ đã khổ quá chừng - họ đã chịu ngọn lửa
địa ngục.
Lí do thật rõ ràng: bất kì cái gì bạn tưởng tượng đều
bắt đầu có vẻ thật dưới tác dụng của LSD. Nếu bạn
chống lại nó, nếu bạn tin rằng nó là ác, bạn sẽ bắt gặp
quỉ. Nó đơn giản khuếch đại tưởng tượng của bạn, dù
tưởng tượng là bất kì cái gì. Nếu nó là đen tối, thế thì
bạn rơi vào lỗ đen.
Nếu nó là đẹp thế thì, giống như Aldous Huxley, bởi
vì ông ấy tin rằng LSD là khám phá tôn giáo mới nhất,
rằng LSD có thể đưa mọi người tới cực lạc, tới
samadhi.... Điều Buddha đã đạt tới sau sáu năm và
Mahavira đạt tới sau mười hai năm, và Kabir và Nanak
vân vân, sau nhiều năm vật lộn với vô ý thức để trở nên
có ý thức, có thể được đạt tới qua LSD rất dễ dàng – chỉ
phải dùng một lượng LSD rất nhỏ thôi.
Ông ấy đã tin rằng sớm hay muộn chúng ta sẽ tinh
luyện LSD ngày một nhiều hơn và chúng ta sẽ tạo ra
trạng thái phiêu diêu tối thượng mà ông ấy gọi là soma,
trong việc nhớ lại Vedas cổ - bởi vì trong Vedas người
ta nói rằng các nhà tiên tri hay uống nước cam lồ nào đó
có tên là soma raso, và nước cam lồ đó bắc cầu cho họ
tới Thượng đế. Huxley nói trong tương lai sự phiêu diêu
tối thượng sẽ là soma. Bạn có thể tự tiêm nó vào thân
thể mình và bạn sẽ được mang tới thiên đường.
Bây giờ mọi điều này là cực kì ngu xuẩn! Điều này
tất cả đều vô nghĩa. Nhưng Huxley là người chân thành.
Điều ông ấy nói là không giả dối; ông ấy đã kinh
nghiệm nó qua LSD, bởi vì ông ấy đã tin vào nó. Chính
niềm tin của ông ấy được phóng chiếu lên, chính tưởng
tượng của ông ấy được khuếch đại lên.
Một người khác có cùng sự thành thực đó, Rahner,
người chống lại LSD và chống lại mọi nếm trải phiêu
diêu, đã đi tới với báo cáo đối lập: rằng LSD đưa bạn tới
địa ngục, rằng nó tống bạn vào ngọn lửa địa ngục, rằng
nó tạo ra những tra tấn tới mức bạn không thể tưởng
tượng nổi – ngay cả Adolf Hitler cũng không thể mơ
được về chúng. Và ông ấy cũng thành thực. Cả hai đều
đúng bởi vì cả hai đều bị tâm trí riêng của mình lừa dối.
Con người đã vô ý thức rồi; bây giờ những người
này đang cố gắng làm cho mình thậm chí còn vô ý thức
hơn, cứ dường như ngần ấy vô ý thức vẫn còn chưa đủ!
Vidya này, khi có liên quan tới chư phật, khi có liên
quan tới tôi, tâm thức không thể nào được đạt tới bằng
bất kì hoá chất nào. Vô ý thức có thể được hoá chất tạo
ta, bởi vì vô ý thức là hiện tượng rất thô, thấp hơn. Ý
thức là đỉnh cao nhất của sự trưởng thành, của việc mở
ra, của việc đi về nhà; điều đó không thể có được qua
hoá chất. Nó là có thể chỉ nếu bạn cứ mài sắc thêm
thông minh của mình; nếu bạn cứ làm việc trên linh hồn
chứng kiến của mình; nếu bạn ngày càng trở thành nhân
chứng cho mọi điều bạn làm, cho mọi điều bạn nghĩ,
cho mọi điều bạn cảm. Nếu bạn khổ - như mọi người
đều khổ - thế thì nhớ lấy, điều đó đơn giản chỉ ra bạn vô
ý thức.
Đừng tranh đấu với khổ; điều đó sẽ chẳng ích gì.
Bạn có thể đẩy khổ từ chỗ này sang chỗ nọ; nó sẽ vẫn
còn đấy. Đừng đẩy trách nhiệm lên người khác. Đừng
nói, "Bởi vì vợ này mà mình khổ; nếu mình đổi vợ mình
sẽ không khổ." Bạn có thể cứ đổi - chẳng người đàn bà
nào trên thế giới này sẽ làm cho bạn phúc lạc đâu. Nếu
bạn nghĩ, "Chồng này là nguyên nhân của khổ của
mình," bạn có thể thay đổi...
Ở Mĩ mọi người đều thay đổi rất nhanh chóng,
nhưng khổ đang phát triển, không giảm đi. Bạn có thể
đếm nỗi khổ của một người bằng việc biết bao nhiêu lần
người đó đã trải qua li dị. Càng nhiều li dị người đó
càng trở nên khổ hơn, bởi vì càng nhiều li dị, người đó
càng trở nên vô vọng hơn.
Ở một nước như Ấn Độ bạn có thể hi vọng. Bạn
không thể li dị dễ dàng được; phần lớn đất nước thậm
chí không thể quan niệm được về li dị. Cách thức duy
nhất để gạt bỏ vợ bạn là hi vọng vào kiếp sống khác -
ngay cả thế người ta cũng chẳng bao giờ biết! Bạn có
thể trở nên bị móc vào lẫn nhau nhiều tới mức ở kiếp
khác bạn cũng có thể tiếp tục. Và đặc biệt đàn bà cứ cầu
nguyện trong các đền chùa, "Xin cho con cùng người
chồng đó nữa – trong hàng trăm kiếp sống!" Và nếu lời
cầu nguyện của họ mà được đáp ứng thế thì chẳng có hi
vọng nào. Nhưng ít nhất người ta có thể trì hoãn: "Sau
cái chết... Kiếp này bị kết thúc rồi, chẳng thể làm được
gì cả. Bây giờ người đàn bà này hay người đàn ông này
là số phận của mình." Cho nên chấp nhận điều đó đi và
tự an ủi mình. Vẫn còn bằng lòng. Hi vọng điều tốt nhất
và trông đợi điều tồi nhất!
Nhưng ở Ấn Độ mọi người dường như thoải mái
hơn bởi vì họ biết: "Người đàn bà này đang tạo ra rắc
rối." Ít nhất điều này cũng là an ủi lớn: "Người đàn ông
này đang tạo ra rắc rối." Nhưng ở Mĩ ngay cả hi vọng đó
cũng là không thể được – mọi người đã đổi chồng và vợ
nhiều lần thế.
Tôi đã nghe:
Một người đàn ông và một người đàn bà đang ngồi
ăn sáng và con họ chơi trong vườn – và thế rồi đánh
nhau bùng ra giữa lũ trẻ.
Người vợ nói, "Trông kìa! Con anh và con em đã
hợp thành nhóm và chúng đang đánh con chúng ta!"
Một cậu bé, người nhỏ nhắn, đang ba hoa về bố nó,
và nó nói, "Bố tao là người bố vĩ đại nhất có thể có."
Đứa bé khác nói, "Thế chưa là gì cả! Ông ấy đã từng
là bố tao trước đây. Tao biết ông ấy - chúng tao đã đuổi
ông ấy đi. Ông ấy kiểu cổ rồi, lạc hậu rồi; mày đã kiếm
được ông bố dùng lại!"
Tôi đã nghe nói về một người đã đổi vợ đến tám lần,
cứ hi vọng rằng lần này mình sẽ tìm thấy người đàn bà
tốt hơn, người sẽ không tạo ra khổ, nhưng mỗi lần anh ta
đều ngạc nhiên mà biết rằng mình đã tìm thấy cùng loại
đàn bà đó lặp đi lặp lại.
Thực ra, nếu người chọn vẫn như cũ làm sao bạn có
thể chọn cái gì đó khác được? Bạn rơi vào tình yêu với
cùng loại đàn bà lặp đi lặp lại, bởi vì bạn vẫn còn như
cũ. Trạng thái có ý thức hay vô ý thức của bạn vẫn như
cũ, tâm trí bạn vẫn như cũ. Ai sẽ chọn? Bạn rơi vào tình
yêu với loại đàn bà nào đó - người bước đi theo cách
này, người có cái loại mũi nào đó và có loại tiếng nói
nào đó và khuôn mặt thân hình nào đó. Một kiểu đàn bà
nào đó - một kiểu tâm lí nào đó cô ấy có - và bạn trở nên
bị hấp dẫn tới cô ấy. Khi bạn lại gần hơn và sống cùng
nhau bạn thấy khổ. Bạn li dị. Bạn lại bắt đầu nhìn.
Nhưng bạn vẫn là cùng con người đó - bạn sẽ lại tìm
thấy cùng loại đàn bà. Làm sao bạn có thể tìm thấy loại
đàn bà khác được? Bạn sẽ không quan tâm tới loại khác
đâu. Cùng loại đàn bà đó sẽ hấp dẫn bạn, sẽ làm bạn mê
say, và bạn sẽ lại vào trong cùng cái bẫy. Chỉ cái tên
thay đổi thôi, cái bẫy vẫn còn như cũ.
Đừng đổ trách nhiệm lên người khác; đó là điều giữ
cho bạn khổ đấy. Nhận lấy trách nhiệm về phần mình đi.
Bao giờ cũng nhớ, "Mình chịu trách nhiệm cho cuộc đời
mình. Không ai khác chịu trách nhiệm cả. Cho nên nếu
mình khổ thế thì mình phải nhìn vào tâm thức riêng của
mình; cái gì đó là sai với mình, do đó mình tạo ra khổ
quanh mình."
Đây là sự bắt đầu, sự bắt đầu lớn lao, hạt mầm đầu
tiên của biến chuyển. Bạn đang trở nên có ý thức nếu
bạn nhận trách nhiệm lên đôi vai riêng của mình. Bạn đã
trở nên có ý thức; tia sáng đầu tiên đã xảy ra.
Vâng, Vidya: ý thức mang bản chất phúc lạc còn vô
ý thức mang bản chất khổ. Không có gì nhiều hơn điều
đó; điều đó rất đơn giản.
Luật của cuộc sống bao giờ cũng rất đơn giản. Chân
lí bao giờ cũng rất đơn giản. Chân lí không huyền bí,
chân lí không bí truyền. Chân lí rất hiển nhiên - và bởi
vì nó rất hiển nhiên, đó là lí do tại sao mọi người không
thấy nó. Mọi người cứ bỏ lỡ điều hiển nhiên, mọi người
cứ bỏ lỡ điều đơn giản, bởi vì họ nghĩ chân lí phải rất
phức tạp. Do đó họ cứ đi tìm cái gì đó phức tạp - và
chân lí không phức tạp. Họ cứ nhìn ra xa xăm - và chân
lí lại ở rất cận kề bên cạnh. Họ cứ nhìn vào những điều
bí ẩn, vào những giáo lí huyền môn, huyền bí, bí truyền.
Và có những người cứ khai thác bởi vì họ biết có
những người không thể được thoả mãn bởi chân lí đơn
giản. Họ viết rác rưởi nhưng theo cách mà nó có vẻ rất
huyền diệu. Họ viết theo cách bạn không thể nào hiểu
thực sự được điều họ đang viết. Và mọi người nghĩ rằng
nếu họ không thể hiểu được thế thì phải có bí ẩn lớn lao
nào đó trong nó.
Chân lí là rất đơn giản, và bởi vì nó rất đơn giản nên
bạn không nhìn vào nó. Bạn sẽ phải học, bạn sẽ phải trở
nên nhận biết, về tính đơn giản và hiển nhiên của chân
lí. Không có gì nhiều hơn cho nó. Nó đơn giản là thế
này: ý thức là phúc lạc, vô ý thức là khổ.
****************************************************
#4Câu hỏi cuối cùng:
Thưa thầy kính yêu,
Thầy nghĩ gì về chủ nghĩa cộng sản?
Raja, tôi không nghĩ về những điều như thế - thực
ra, tôi không nghĩ chút nào! Tôi chắc chắn quan tâm tới
công xã, nhưng không quan tâm tới chủ nghĩa cộng sản.
Khoảnh khắc cái gì đó trở thành "chủ nghĩa" nó trở
thành nguy hiểm. Quan niệm về công xã là hay: mọi
người sống cùng nhau theo cách không sở hữu, không
sở hữu đồ vật cũng không sở hữu con người; mọi người
sống cùng nhau, sáng tạo cùng nhau, mở hội cùng nhau,
và vẫn cho phép nhau có không gian riêng; mọi người
sáng tạo ra bầu không khí thiền nào đó, bầu không khí
yêu, và sống trong bầu không khí đó.
Tôi chắc chắn quan tâm tới ý niệm về công xã - nó
đơn giản nghĩa là nơi việc giao cảm là có thể. Trong thế
giới này không thể có giao cảm được. Ngay cả trao đổi
cũng không thể có, nói gì tới giao cảm! Trao đổi nghĩa
là đối thoại giữa hai tâm trí - ngay cả điều đó cũng
không có thể được - còn giao cảm nghĩa là gặp gỡ của
hai trái tim. Nơi giao cảm là có thể, có công xã.
Quan niệm về gia đình bây giờ bị mục ruỗng rồi. Nó
đã có tác dụng, nó đã làm xong công việc của nó, nó đã
kết thúc. Không có tương lai cho gia đình. Thực ra, gia
đình đã là một trong những nguyên nhân của thảm hoạ.
Gia đình làm cho bạn bị đồng nhất với một nhóm rất
nhỏ - mẹ, bố, anh, chị, em - một nhóm rất nhỏ trở thành
toàn thể thế giới của bạn. Con người cần trưởng thành
đa dạng hơn.
Công xã nghĩa là đa dạng hơn: không chỉ bố bạn mà
nhiều bác, không chỉ mẹ bạn mà nhiều cô. Công xã
nghĩa là trẻ em sẽ có nhiều người hơn để học, nhiều
người hơn để yêu, nhiều người hơn để trở nên quen
thuộc. Chúng sẽ trở nên giầu có hơn.
Các nhà tâm lí nói rằng khi đứa trẻ sống với mẹ và
bố, đơn vị nhỏ của gia đình, nó biết người mẹ là đại diện
của mọi tính đàn bà và người bố là đại diện của mọi tính
đàn ông - điều này là sai, hoàn toàn sai. Bố nó không đại
diện cho mọi kiểu và mẹ nó không đại diện cho mọi
kiểu. Và nó dần dần trở nên bị hội tụ vào người mẹ;
người mẹ trở thành hoá thân của tính đàn bà.
Bây giờ sẽ có rắc rối! Toàn thể cuộc sống của nó sẽ
đi tìm người mẹ nó trong vợ nó và nó sẽ không thấy
người đó - và điều đó tạo ra khổ. Không người vợ nào sẽ
là mẹ của nó, và điều đó sẽ là tìm kiếm sâu sắc của nó,
tìm kiếm vô ý thức, bởi vì nó chỉ biết một người đàn bà.
Đó là ý niệm của nó về người đàn bà thực, về đàn bà
phải thế nào. Và con gái bao giờ cũng đi tìm người bố,
và không người chồng nào sẽ là bố cho cô ta.
Sự cố định này đang tạo ra căng thẳng và lo âu tâm
lí lớn trên thế giới. Công xã nghĩa là bạn sẽ không bị cố
định nhiều thế. Bạn nhìn cậu bé Siddhartha của chúng
ta! Nhiều ngày nó biến mất khỏi người mẹ; nó sống
cùng các sannyasin khác trong nhiều ngày. Nó có nhiều
bạn, những người bạn người lớn; đàn bà, đàn ông. Nó
quay lại đạo tràng rất muộn ban đêm - hai giờ. Bận rộn
thế! Laxmi đã gọi nó và hỏi nó, "Siddhartha, thế này thì
quá lắm - hai giờ sáng! Con phải về trước mười một
giờ."
Nó nói, "Đây là qui tắc cho con hay cho tất cả? Qui
tắc này áp dụng cho cả người lớn nữa chứ?"
Bây giờ, đây là trưởng thành! Nó đang trở thành
người lớn! Và nó nói, "Vài ngày con phải ở với người
khác nữa - họ mời con!" Bây giờ nó đang sống với nhiều
gia đình. Nó sẽ trở nên nhận biết rằng mẹ nó không phải
là người đàn bà duy nhất trên thế giới; có nhiều người
đàn bà khác. Nó sẽ trở nên quen thuộc với nhiều khía
cạnh của tính đàn bà. Ý tưởng của nó về đàn bà sẽ
phong phú hơn, và có nhiều khả năng hơn là nó sẽ được
hài lòng với người vợ hơn là khác thế. Nó biết nhiều chú
bác và nhiều bố. Cái nhìn của nó về đàn ông không
tuyến tính, đó là đa chiều; nhất định là đa chiều.
Tôi quan tâm tới ý niệm về công xã bởi vì công xã
sẽ giúp cho mọi người gạt bỏ đi nhiều khó chịu tâm lí
mà sự giáo dục của chúng ta đã trao cho chúng ta. Việc
giáo dưỡng mục nát thế, cổ hủ thế! Trong năm nghìn
năm đã chẳng có thay đổi gì. Mọi thứ khác đã thay đổi -
từ xe bò kéo chúng ta đã đi tới máy bay phản lực -
nhưng khi có liên quan tới cuộc sống con người cùng
gia đình mục nát đó vẫn còn lại. Với con người chúng ta
rất chính thống; do đó chúng ta có máy móc tốt hơn
nhưng không có con người tốt hơn. Chúng ta có mọi thứ
tốt hơn - chỉ con người là không tốt hơn; và lí do là ở
chỗ về con người chúng ta rất chính thống và qui ước.
Công xã sẽ thay đổi ý niệm về gia đình; nó sẽ làm
cho gia đình rất linh hoạt.
Mới vài ngày trước đây, Bipin tới từ Mĩ và anh ấy
nói, "Kì lạ thật! - sau mỗi một năm tôi tới và mọi đôi đã
đổi hết! Mà tôi hay nghĩ tới vài đôi bền vững - chẳng
hạn, Satya và Chaitanya, Sheela và Chinmaya. Ngay cả
những đôi mà tôi nghĩ là sẽ còn bền vững, ngay cả họ
cũng không còn đó nữa! Những tổ hợp người mới đã
xảy ra." Anh ấy hỏi, "Thầy kính yêu của chúng ta đang
làm gì vậy?"
Tôi chẳng làm gì cả - đây không phải là việc của tôi!
Điều này nhất định xảy ra trong công xã. Mọi người sẽ
trở nên linh động hơn, sẵn có hơn cho nhau, thương yêu
hơn, có quan hệ hơn, ít sở hữu hơn.
Tôi chắc chắn quan tâm tới ý niệm về công xã,
nhưng không quan tâm tới chủ nghĩa cộng sản. Chủ
nghĩa cộng sản là xấu. Chủ nghĩa cộng sản là bệnh dịch
lớn. Nó biến khỏi thế giới càng sớm càng tốt. Nó đã phá
huỷ những giá trị lớn lao - giá trị lớn lao nhất của tự do
đã bị phá huỷ. Và chủ nghĩa cộng sản là phản tôn giáo.
Nếu chủ nghĩa cộng sản tiếp diễn, không có hi vọng
về chư phật được sinh ra; nó sẽ không cho phép điều đó.
Nếu Phật Gautam được sinh ra ở nước Nga Xô viết ông
ấy sẽ bị buộc phải sống trong nhà thương điên. Đây
không phải là triển vọng tốt! Ngay cả Jesus Christ sẽ
thấy mình gặp khó khăn hơn. Họ sẽ không đóng đinh
ông ấy đâu, chắc chắn không, nhưng họ sẽ đẩy ông ấy
vào nhà thương điên. Ông ấy sẽ bị tuyên bố là thần kinh
hay tâm thần bởi vì ông ấy nghe thấy tiếng nói; ông ấy
nói với quỉ và Thượng đế. Điều này là bệnh thần kinh,
điều này tuyệt đối là người điên! Ông ấy sẽ bị cho sốc
điện, nhớ lấy, không bị đóng đinh thêm nữa đâu.
Nếu Jesus lập kế hoạch quay lại tôi muốn ông ấy
nhận biết về tình huống này. Lần này họ sẽ không giết
bạn đâu, họ sẽ để cho bạn sống, nhưng họ sẽ tiêm hoá
chất vào bạn, họ sẽ cho bạn sốc điện, sốc insulin, và nếu
bạn vẫn còn nguy hiểm thì họ sẽ cho bạn thuốc ngủ, họ
sẽ làm cho bạn rất, rất buồn ngủ. Họ có thể buộc bạn
sống gần như trong cơn mê, sống thực vật, điều còn xấu
hơn nhiều việc đóng đinh một người.
Khi bạn đóng đinh một người bạn không thể làm bẽ
mặt người đó được. Người đó có thể vẫn giữ lòng tự hào
của mình, người đó có thể vẫn giữ đầu ngẩng cao:
"Được rồi, các ông đóng đinh ta, vậy các ông đóng đinh
ta đi - nhưng các ông không buộc được ta phải thay đổi
tâm linh của ta hay ý niệm của ta hay viễn kiến cuộc
sống của ta đâu. Ta sẵn sàng hi sinh đấy."
Người ta có thể chết với chân giá trị - Socrates chết
với chân giá trị, Jesus chết với chân giá trị - nhưng ở
nước Nga Xô viết, nếu Socrates được sinh ra, hay Jesus,
hay Phật, không chân giá trị nào sẽ sẵn có. Thực ra
không ai đã bao giờ nghe nói về họ. Họ sẽ bị buộc phải
sống trong nhà thương điên. Bác sĩ sẽ chăm sóc học, và
không ai sẽ bao giờ nghe tới điều họ muốn nói, thông
điệp của họ là gì.
Hai công nhân Nga đang đi cạnh nhau. Đầu họ cúi
gằm và mặt họ đều buồn bã và u sầu. Họ chẳng nói với
nhau. Bỗng nhiên một trong những người Nga nhổ một
bãi xuống đất và người kia lập tức làm hệt như thế. "Thế
là đủ!" người này nói với người kia. "Nếu chúng ta tiếp
tục, họ sẽ nghĩ chúng ta đang thảo luận chính trị."
Tôi đã nghe một câu chuyện khác:
Ở Nga những người cộng sản đã chỉ đạo một cuộc
thanh trừng. Một bà già tinh quái bị đem tới trước viên
cảnh sát trưởng. "Bà đã trong đảng," viên cảnh sát
trưởng hỏi, "được bao lâu rồi?"
"Nhiều năm rồi, đồng chí cảnh sát trưởng ạ."
"Thế bố của bà?"
"À, ông ấy cũng là đảng viên, mà ông nội tôi và cụ
tôi cũng là đảng viên đấy."
"Này nghe đây," viên cảnh sát trưởng nói một cách
hoài nghi, "vào những ngày đó làm gì đã có đảng."
"À, điều đó đâu có tạo ra khác biệt gì," bà già tinh
quái nói. "Đằng nào thì chúng tôi cũng vẫn ăn cắp!"
Chủ nghĩa cộng sản là câu chuyện về trạng thái bạo
hành, ép buộc. Nó đang biến đổi toàn thể đất nước thành
trại tập trung. Nó không cho phép mọi người có tự do
nào được là chính mình; nó thu họ thành con số. Nó phá
huỷ tính cá nhân - còn tôi ủng hộ tất cả cho tính cá nhân
và tự do của cá nhân, bởi vì nếu tự do của cá nhân biến
mất, thế thì không có khả năng nào truy tìm vào thực tại
của Thượng đế. Và đó là toàn thể mục đích của cuộc
sống.
Định mệnh thực của cuộc sống chỉ có thể được hoàn
thành khi bạn biết rằng Thượng đế hiện hữu, bên trong
và bên ngoài. Ngài là tâm thức của bạn và ngài là vũ trụ
này.
Tôi chống lại chủ nghĩa cộng sản, nhưng tôi ủng hộ
tất cả cho công xã.
Đủ cho hôm nay.
***********************************************************************************************************
#5 Bụi ngược gió
**Như lái buôn giầu với vài người hầu
tránh xa con đường nguy hiểm
và người yêu cuộc sống tránh xa chất độc,
cảnh giác với nguy hiểm của điên rồ và điều ác.
Với tay không bị thương có thể động tới chất độc.
Người hồn nhiên tới không gây hại.
Nhưng khi bụi bị tung ngược gió,
điều ác bị thổi ngược vào mặt
của người ngu, người làm sai điều thuần khiết và vô
hại.
Một số người được tái sinh trong địa ngục,
một số trong thế giới này,
người tốt ở trên trời.
Nhưng người thuần khiết không được sinh chút nào.
Không ở đâu cả!
không trên trời,
không giữa biển,
không sâu trong núi,
Ông có thể trốn đâu khỏi điều ác của riêng mình.
Không trên trời,
không giữa biển,
không sâu trong núi,
không ở đâu cả
Ông có thể trốn đâu khỏi cái chết của riêng mình.**
Cuộc sống không được cho dưới dạng làm sẵn - ít
nhất cũng không cho nhân loại. Đó là chân giá trị của
con người, và cũng là nguy hiểm nữa. Mọi con vật được
sinh ra đều được làm sẵn, được lập trình trước. Toàn bộ
cuộc sống của chúng là việc trải ra đơn giản của cái gì
đó có sẵn đấy. Chúng không cần sống cuộc sống của
chúng một cách có ý thức; cuộc sống của chúng là vô ý
thức, nó có tính máy móc. Nó không thể là tốt, nó không
thể là xấu; nó đơn giản có đấy. Bạn không thể gọi cây là
tội nhân hay thánh nhân, và bạn không thể gọi con hổ
hay con mèo là đức hạnh hay đầy truỵ lạc. Những từ đó
là vô nghĩa khi có liên quan tới sự tồn tại thấp hơn nhân
loại. Chúng trở thành có ý nghĩa vô cùng khi nói tới con
người.
Con người có tình huống đặc biệt. Con người được
sinh ra giống như mọi con vật khác, nhưng với một khác
biệt - khác biệt mà thực sự tạo ra khác biệt. Khác biệt
này có giá trị vô cùng để hiểu, bởi vì người ta có thể cứ
né tránh nó và né tránh nó là né tránh cuộc sống thực
của bạn. Có mọi khả năng vẫn còn bị lãng quên về nó,
bởi vì dường như thuận tiện và thoải mái hơn là không
được nhắc nhở gì về nó. Được nhắc nhở tới nó nghĩa là
một thách thức lớn: thách thức phiêu lưu vào cái không
biết, vào cái không được lập trình trước.
Thượng đế không phải là một khả năng sẵn có; nó là
một cơ hội để mở. Nó có thể xảy ra, nó có thể không
xảy ra. Tất cả đều tùy thuộc vào bạn - cách bạn sống,
phụ thuộc việc bạn đem bao nhiêu ý thức vào cuộc sống
của mình, bạn trở nên không máy móc thế nào.
Hàng triệu người không muốn được nhắc tới chiều
hướng này chút nào; do đó mới có đối kháng của họ với
Phật, Christ, Socrates. Những người này - Phật, Christ,
Socrates - chọc giận bạn, họ không cho phép bạn ngủ
một cách thoải mái. Họ cứ đem đi đem lại vấn đề này
vào nhận biết của bạn rằng đây không phải cách sống
đúng, rằng bạn đang bỏ phí hoài cuộc sống. Đây không
phải là cuộc sống con người mà bạn đang sống, đây là
cuộc sống con vật.
Và thỉnh thoảng bạn có thể còn rơi xuống thậm chí
dưới con vật. Không con vật nào có thể trở thành một
Genghis Khan hay Adolf Hitler hay Joseph Stalin, bởi vì
con vật không có chọn lựa. Chúng không thể trở thành
chư Phật, chúng cũng không thể trở thành các Genghis
Khan. Chúng vẫn còn là bất kì cái gì chúng đang là;
chúng không thể đi bất kì đâu khác. Chúng có cuộc sống
đã được thu xếp; chúng sẽ đơn giản đi theo tiến trình
này.
Cuộc sống của chúng giống như bộ phim: khi bạn
xem nó lần đầu bạn quan tâm lắm, tò mò điều gì sẽ xảy
ra tiếp sau nhưng thực ra, chẳng cái gì sẽ xảy ra cả - bộ
phim đã được lập trình trước. Lần sau bạn không cảm
thấy quan tâm thế bởi vì bạn đã biết điều sẽ xảy ra tiếp
đó. Lần thứ ba bạn chán, và nếu bạn bị buộc phải xem
nó lần thứ tư bạn sẽ nổi loạn, và nếu bạn phải xem nó
lần thứ năm bạn có thể phát điên. Cùng bộ phim ấy...
Bởi vì bây giờ bạn biết mọi thứ đã có đó rồi, chẳng cái
gì xảy ra cả; bộ phim đơn giản lặp lại tiến trình nào đó.
Con vật cũng giống như bộ phim - đã làm sẵn, trải
dần ra bất kì cái gì được làm sẵn. Con người sống trong
thế giới của chọn lựa; do đó con người phải quyết định
mình muốn sống cuộc sống nào. Con người có thể rơi
xuống thấp dưới con vật, con người có thể vươn cao trên
thiên thần. Con người có thể tồn tại một cách ngẫu nhiên
hay con người có thể tồn tại với tính quyết định.
Chính là qua tính quyết định mà linh hồn được sinh
ra. Nếu bạn tồn tại một cách ngẫu nhiên, như mẩu gỗ
trôi dạt, bạn sống mà không có linh hồn; cuộc sống của
bạn không mấy là cuộc sống đâu. Nó là giả, nó hờ hững;
nó không có sự mãnh liệt; nó không có ngọn lửa; nó
không có ánh sáng. Bạn không thể kinh nghiệm được
chân lí. Sống một cách ngẫu nhiên, biết chân lí là điều
không thể được. Người ta phải có tính quyết định, tính
cam kết, tham gia một cách có ý thức vào cuộc sống, có
tính phiêu lưu mãnh liệt tới mức tất cả đều lâm nguy
mọi khoảnh khắc. Người ta phải có tính sáng tạo -
không chỉ trải ra, mà có tính sáng tạo.
Đây là quyền tập ấm của con người, đặc quyền của
con người và cũng là nguy hiểm của con người. Rất ít
người sẽ chọn cuộc sống của chọn lựa, cam kết, tham
gia, bởi vì nó là nguy hiểm, bởi vì biển cả còn chưa
được thăm dò và bạn không có bản đồ nào. Bạn có một
con thuyền rất nhỏ còn biển là rất bão tố và ai biết liệu
bờ bên kia có tồn tại hay không? Sao lại bỏ nơi trú ngụ
trên bờ bên này? Vẫn còn ở đây đi.
Phật nói hàng triệu người đơn giản lên lên xuống
xuống ở bờ bên này, chạy lăng xăng đây đó, chỉ tạo ra
cái vẻ dường như cuộc sống của họ là cuộc hành hương
- và họ đơn giản chạy đôn chạy đáo trên cùng bờ. Nó
không phải là cuộc hành hương; nó đơn thuần là bận
rộn, lừa người khác và tự lừa mình.
Cuộc hành hương bắt đầu khi bạn rời bỏ bờ bên này,
chỗ trú ngụ này, an ninh của nó, thuận tiện của nó, thoải
mái của nó, sự kính trọng của nó, quyền lực, danh vọng.
Bạn bỏ lại con thuyền nhỏ của mình phó mặc cho bão
tố, phó mặc cho đại dương, tin cậy rằng nếu bờ bên này
tồn tại, bờ bên kia phải tồn tại, bởi vì một bờ không thể
tồn tại được...
Với tin cậy này - đi tới bờ bên kia, mạo hiểm tất cả -
cuộc sống thực bắt đầu. Và cuộc sống thực là cuộc sống
tôn giáo. Cuộc sống thực là điều tôi ngụ ý bởi tính chất
sannyas. Cuộc sống được sống một cách có ý thức là
cuộc sống duy nhất; cuộc sống được sống một cách vô ý
thức đơn thuần là tồn tại. Con vật chỉ tồn tại, chúng
không sống; chỉ con người mới có thể sống. Nhưng mọi
người đều không sống; chỉ vài chư phật, vài người thức
tỉnh mới sống thôi.
Trở nên tỉnh táo về điều bạn đang làm với cuộc sống
của bạn đi. Bạn có thực di chuyển một cách có ý thức
không, với cảm giác về phương hướng - lấy từng bước
đi một cách có chủ ý, trong nhận biết đầy đủ về tại sao,
tới đâu? Hay bạn chỉ bắt chước người khác? Nếu họ
chạy, bạn chạy; nếu họ theo đuổi tiền, bạn theo đuổi
tiền; nếu họ theo đuổi quyền, bạn theo đuổi quyền. Bạn
có là kẻ bắt chước không? Thế thì cuộc sống của bạn sẽ
là sự bắt chước. Bạn có đơn giản theo người khác
không? Thế thì cuộc sống của bạn sẽ là bản sao giấy
than thôi. Bạn sẽ chẳng bao giờ biết tới khuôn mặt
nguyên thuỷ của mình.
Và khuôn mặt nguyên thuỷ của bạn là khuôn mặt
của Thượng đế. Nhưng khuôn mặt nguyên thuỷ đó phải
được khám phá ra bằng nỗ lực vô cùng. Với hiểm nguy
lớn lao người ta có thể hiện thực hoá điều chỉ là hạt
mầm trong bạn, người ta có thể làm thành thực tại điều
chỉ là tiềm năng. Và thế thì con người là vô hạn; bằng
không con người là rất nhỏ bé, xấu xí.
Cuộc sống được sống một cách vô ý thức không thể
đẹp được, cuộc sống được sống một cách vô ý thức
không thể có tự do được. Và không có tự do, làm sao có
thể có cái đẹp nào được? Cái đẹp là bóng hình của tự do.
Cuộc sống được sống một cách vô ý thức chỉ có thể là
tầm thường, trần tục, hời hợt. Chỉ với ý thức cuộc sống
của bạn mới bắt đầu sâu sắc; nó đạt tới chiều hướng
mới, chiều hướng của chiều sâu. Và chiều hướng của
chiều sâu là chiều hướng của điều thiêng liêng.
Thượng đế không ở đâu đó khác mà ở trong chiều
sâu riêng của bạn, trong chiều sâu tối thượng của riêng
bạn. Chân lí không được tìm thấy ở đâu đó khác; nó
phải được tìm và nhìn từ bên trong. Chân lí không phải
là cái gì đó của tâm trí; bằng không đã rất dễ dàng đạt
tới nó. Tâm trí là cái máy.
Triết gia phương Tây vĩ đại, người cha của triết học
phương Tây, Aristotle, định nghĩa con người là sinh linh
hợp lí, nhưng định nghĩa của ông ấy không thể áp dụng
được cho hàng triệu người. Nó thậm chí không áp dụng
được cho bản thân ông ấy, bởi vì ông ấy không phải là
vị phật. Một người rất láu lỉnh, rất logic, nhưng chẳng
có ý thức gì. Ông ấy đã sống cuộc sống của mình vô ý
thức như bất kì ai có thể sống. Ông ấy có hai vợ, và ông
ấy viết trong cuốn sách của mình rằng đàn bà có ít răng
hơn đàn ông. Có hai vợ ông ấy có thể đếm được vào bất
kì lúc nào - nhưng đây là mê tín, điều rất thịnh hành ở
Hi Lạp vào những ngày đó. Tâm trí đàn ông gia trưởng
không thể cho phép đàn bà có cái gì bình đẳng với đàn
ông, không bình đẳng thậm chí cả tới răng! Ông ấy chưa
bao giờ bận tâm tới việc đếm - đây là cái loại hợp lí hoá
gì vậy?
Thực ra, chừng nào bạn còn chưa có ý thức, bạn
không thể có tính hợp lí được. Sống một cách hợp lí
nghĩa là sống có ý thức, sống có tính thiền. Và khoảnh
khắc bạn có thể sống có tính thiền, bạn không thể chỉ
sống một cách hợp lí, bạn có thể sống một cách trên hợp
lí - bởi vì cuộc sống không chỉ là lí trí, cuộc sống còn
nhiều hơn điều đó xa. Lí trí chỉ một trong các chiều của
nó, và cuộc sống là đa chiều.
Cuộc sống cộng với ý thức, và bạn bắt đầu trở thành
vị phật. Sự tồn tại cộng với ý thức, và bạn bắt đầu đạt tới
cuộc sống. Ý thức là toàn thể hoá học, giả kim thuật.
Cuộc sống cộng với ý thức, và bạn đi vào trong ngôi đền
của Thượng đế. Sự tồn tại cộng với ý thức và bạn đi vào
trong ngôi đền của Thượng đế. Sự tồn tại cộng với ý
thức, và bạn đi vào trong ngôi đền của cuộc sống.
Nhưng nếu bạn sống không có ý thức bạn không có
cuộc sống đâu, bạn không có Thượng đế đâu. Nếu bạn
có cuộc sống bạn không thể bỏ lỡ Thượng đế lâu được,
bởi vì cuộc sống là tia sáng đầu tiên của Thượng đế.
Nhưng mọi người đơn thuần tồn tại, họ sống thực
vật; họ nghĩ họ đã sống rồi. Niềm tin này ngăn cản họ
không cho tạo ra cuộc sống. Khi bạn được sinh ra, bạn
được sinh chỉ như một cơ hội, như một không gian nơi
cuộc sống có thể phát triển. Nhưng điều đó không phải
là không tránh khỏi - và điều tốt là nó không phải là
không tránh khỏi. Nếu nó là không tránh khỏi, con
người sẽ là cái máy như mọi con vật khác là.
Điều cực kì có ý nghĩa cần nhớ là sự tồn tại đã ban
tặng cho bạn món quà lớn, và món quà đó là việc bạn
được sinh ra như một tabula rasa, không cái gì đã được
viết lên bạn - bạn được sinh ra như một tấm đá sạch.
Bây giờ bạn phải viết cái gì đó lên nó. Bạn có thể viết
cái gì đó bắt chước từ người khác, được vay mượn; bạn
có thể viết Vedas lên nó, Gita, Koran, Kinh Thánh,
nhưng bạn sẽ bỏ lỡ toàn thể vấn đề. Bạn đã phá huỷ cơ
hội lớn lao.
Bạn phải viết bài ca riêng của mình - không phải là
bài ca của Krishna và không phải là bài ca của Christ,
mà là bài ca riêng của bạn! Bạn phải ca trái tim riêng
của mình, chỉ thế thì bạn mới được hoàn thành. Nhưng
mọi người đơn giản lặp lại như con vẹt; do đó họ trở
thành rất thông thái và vẫn còn ngu xuẩn, vẫn còn dốt
nát.
Thánh Augustine phân chia nhân loại thành hai loại;
phân loại đó là có ý nghĩa. Loại thứ nhất ông ấy gọi là
"dốt nát thông thái." Có những người biết quá nhiều và
vậy mà chẳng biết gì cả; tri thức của họ toàn là đồ vay
mượn. Chẳng cái gì đã nảy sinh từ trong họ, chẳng cái gì
đã xảy ra cho họ; họ đơn giản lặp lại người khác. Họ có
thể rất láu lỉnh trong việc lặp lại nó, rất hiệu quả trong
việc lặp lại nó, nhưng họ vận hành như máy tính. Họ
còn chưa là người; tính người còn chưa được sinh ra
trong họ. Tri thức của họ không biết gì, đó là sự giả vờ.
Các đại học đầy những người như vậy, và thế giới
kính trọng những người này rất nhiều bởi vì tri thức là
quyền lực. Họ biết, đó là ý tưởng thịnh hành, và họ có
quyền năng. Và theo nghĩa nào đó ý tưởng này là đúng:
người biết vật lí có quyền năng hơn người không biết,
nhưng khi có liên quan tới cuộc sống riêng của người
đó, người đó dốt nát cũng như bất kì ai khác. Không có
khác biệt giữa dân làng và giáo sư đại học khi có liên
quan tới việc tự biết mình - và đó mới là kho báu thực.
Có tri thức mà không biết, và Augustine nói, cũng
có dốt nát biết. Ông ấy đang nói về dốt nát nào mà lại
biết vậy? Dốt nát của người hồn nhiên. Người hồn nhiên
đã lau sạch mọi tri thức vay mượn khỏi tâm trí mình
hoàn toàn.
Thiền không là gì ngoài phương cách để lau sạch
tâm trí, để làm cơn mưa rào cho bản thể bên trong của
bạn, để cho mọi bụi bặm, cái gọi là tri thức, được xối đi
và bạn còn lại sạch sẽ, tươi tắn, trẻ trung. Đây là điều
Jesus nói: Chừng nào ông còn chưa được sinh ra lần nữa
ông sẽ không vào được vương quốc Thượng đế của ta.
Đây là điều ở phương Đông chúng ta thường gọi là
hiện tượng dwij - sinh ra hai lần. Mọi brahmin không
phải là dwij, nhưng mọi dwij đều là brahmin. Mọi
brahmin không phải là được sinh ra hai lần, nhưng mọi
người sinh ra hai lần đều là brahmin. Christ là một
brahmin, Mohammed là một brahmin. Brahmin là người
đã biết tới Brahman, người đã biết tới cuộc sống tối
thượng, nhưng bí mật là, bạn sẽ phải được sinh ra lần
nữa.
Điều đó nghĩa là gì? Nó nghĩa là bạn sẽ phải làm
chết đi tri thức của mình - những thứ vay mượn, bắt
chước, máy móc - và bạn sẽ phải lại hồn nhiên như bạn
đã từng vậy khi bạn được sinh ra lần thứ nhất. Nhưng
thời thơ ấu đầu tiên nhất định mất đi; không ai có thể
bảo vệ được nó. Chính bản chất của mọi sự là thời thơ
ấu đầu tiên sẽ bị mất. Nhưng thời thơ ấu thứ hai có thể
được đạt tới, và với thời thơ ấu thứ hai cuộc sống bắt
đầu. Trước đó bạn đơn thuần tồn tại. Với lần sinh ra thứ
hai bạn đi vào trong bí ẩn thực của cái đang đó.
Để tôi nhắc bạn: đừng coi cuộc sống là đương nhiên
có đấy. Nó phải được tạo ra, và nó có thể được tạo ra chỉ
bởi việc chọn lựa một cách tự do, bằng việc chọn của
riêng bạn. Vâng, có khả năng bạn có thể đi lạc lối, có
khả năng bạn có thể phạm lỗi, sai lầm. Nhưng chẳng cái
gì phải lo nghĩ tới cả - sai lầm và lỗi và đi lạc lối, chúng
tất cả đều là một phần của sự trưởng thành. Chỉ bằng
việc phạm sai lầm mà người ta mới học, chính là bằng
việc đi lạc lối mà người ta mới quay lại con đường đúng.
Những người chưa bao giờ đi lạc lối vẫn còn bất
lực. Những người chưa bao giờ phạm sai lầm nào do sợ
hãi, họ chẳng bao giờ làm được cái gì - bởi vì nếu bạn
làm, có khả năng bạn có thể phạm phải sai lầm nào đó.
Sợ phạm sai lầm, họ không bao giờ làm cái gì cả. Nhưng
không làm gì, làm sao bạn có thể trưởng thành được?
Bạn sẽ vẫn còn hổng hoác, bạn sẽ không được kết tinh
lại, bạn sẽ không có linh hồn nào. Bạn sẽ chết, bạn sẽ là
cái xác - đi đấy, thở đấy, nói đấy nhưng bạn sẽ là cái xác
bởi vì bạn sẽ không có hương vị của cuộc sống vĩnh
hằng.
Điều đầu tiên cần ghi nhớ là ở chỗ chúng ta chưa
được sinh ra. Một lần sinh xảy ra qua bố mẹ, qua người
mẹ. Lần sinh thứ hai xảy ra khi bạn trong mối quan hệ
thân thiết với một thầy, với vị phật. Lần sinh thứ hai này
xảy ra trong phật trường: vị phật trở thành bụng mẹ.
Thầy là bụng mẹ cho đệ tử. Đệ tử đi vào trong bụng mẹ
của thầy, tan biến vào trong thầy và được sinh ra lần
nữa.
Chính là qua việc sinh mới này mà bạn bắt đầu trở
nên có ý thức. Bạn tin rằng bạn có ý thức... bởi vì bạn có
thể từ văn phòng về nhà mọi tối, cho nên bạn nghĩ mình
có ý thức. Bởi vì bạn có thể làm những điều nào đó, bạn
nghĩ bạn có ý thức. Bây giờ có các robot, người máy, có
thể làm mọi điều điều bạn đang làm đấy.
Bây giờ có khả năng là chẳng bao lâu sẽ có máy bay
- chúng đã có trong sự tồn tại rồi, còn chưa được dùng
thôi; chẳng bao lâu nữa chúng sẽ được dùng - những
chiếc không có phi công nào cả, và sẽ có tàu hoả không
có người lái nào. Về mặt lí thuyết bây giờ chúng là có
thể có rồi. Máy sẽ làm mọi điều đó. Thế rồi bạn sẽ rất
ngạc nhiên: bạn đang từng làm những điều này và bạn
cứ tưởng rằng mình có ý thức bởi vì bạn làm những điều
này. Bằng việc làm điều gì đó người ta không trở nên có
ý thức đâu.
Có ý thức là làm việc với hương vị mới. Làm nó, ở
trong bản thân nó, không phải là có ý thức, nhưng làm
nó với nhân chứng bên trong; theo dõi, quan sát, biết
rằng bạn đang làm nó - đó là có ý thức, và đó là việc tái
sinh.
Bryant bắt được một con cá tí hon và đột nhiên nó
bắt đầu nói. "Ta thực sự là một yêu lùn và nếu ông thả ta
ra ta sẽ ban cho ông và vợ ông ba điều ước bất kì nào."
Thế là người Ai len này thả cá ra, chạy xô về nhà và
kể cho vợ mình nghe. Đôi này đăm chiêu đi vào thị trấn
và nhìn vào những thứ muốn mua, thế rồi cô vợ quyết
định làm bữa ăn tối nhanh từ đậu đóng hộp. Nhưng cô
ấy không tìm đâu ra được cái mở hộp và nói, "Em ước là
em có cái mở hộp." Úi chào! Cô ấy có ngay cái mở hộp.
"Em làm phí hoài một điều ước với cái mở hộp ngu
xuẩn đó," Bryant la lên. "Anh ước là nó bám vào đít
em!"
Và phần đáng buồn của câu chuyện là ở chỗ họ phải
dùng điều ước thứ ba và cuối cùng để lấy nó ra.
Đây là cách bạn đang sống đấy, đây là cách toàn thể
nhân loại đang sống đấy: chẳng biết mình đang nói gì,
chẳng biết mình đang làm gì, chẳng biết gì cả - chỉ loạng
choạng, dò dẫm ngẫu nhiên. Và điều này cứ tiếp diễn từ
đầu đến chính lúc cuối.
Toàn thể cuộc sống của bạn trở thành ngữ pháp của
vô ý thức, ngôn ngữ của vô ý thức. Và qua ngôn ngữ
này, tầng của ngôn ngữ này, bạn nhìn vào cuộc sống - và
mọi thứ đều bị diễn giải sai, bị bóp méo.
Hai đối tác kinh doanh Slutsky và Gross đi câu cá ở
trong một chiếc thuyền nhỏ trên hồ ở Catskills. Bỗng
nhiên cơn giông tố kéo tới, chiếc thuyền bị lật úp, và
trong khi Slutsky bắt đầu bơi, Gross chới với và thở phì
phì một cách bất lực. Anh đang đang chìm.
"Này," Slutsky nói, vừa bơi ra xa, "cậu có thể thả
nổi một mình*
[* alone - một mình phát âm nghe gần giống 'a loan' - món vay.]
được không?"
"Tớ đang chìm đây," Gross lại phì phì, "mà nó lại
nói về kinh doanh!"
Ngôn ngữ cũ, "Cậu có thể thả nổi món vay không?"
- ngôn ngữ của kinh doanh. Anh ta hiểu chỉ một ngôn
ngữ thôi. Bây giờ, ngay cả trong tình huống như thế,
điều được nói với anh ta sẽ được hiểu theo cách anh ta
có thể hiểu. Chúng ta không hiểu điều được nói; chúng
ta hiểu điều chúng ta có thể hiểu. Chúng ta không hiểu
điều chúng ta thấy; chúng ta chỉ thấy điều chúng ta có
thể thấy.
Ông già Bernstein nằm sắp chết. Cả gia đình đã tụ
tập quanh giường chết. Bằng một giọng yếu ớt, ẻo lả,
ông ấy hỏi, "Sol có đây không?"
"Có ạ, thưa bố," người con cả của ông ta nói.
"Lester có đây không?"
"Có ạ, thưa bố!" cậu con trai trả lời.
"Eli có đây không?"
"Con ở ngay đây!" người con trẻ nhất nói.
"Nếu chúng mày tất cả đều ở đây," Bernstein nói,
"ai đang trông cửa hàng?"
Và bây giờ ông ấy sắp chết - những khoảnh khắc
cuối cùng! Ngay cả khoảnh khắc của cái chết ông ấy vẫn
nghĩ tới người trông cửa hàng.
Từ sinh tới tử bạn cứ sống, dò dẫm trong bóng tối
không đèn - và bạn có thể đã tạo ra đèn được. Bạn
không thể tìm thấy nó trong kinh sách đâu; không ai có
thể trao nó cho bạn. Nó không được mua hay bán; nó
không chuyển trao được. Nhưng bạn có thể tạo ra được
nó - bạn có thể kết lại tất cả năng lượng của mình. Bạn
có thể bắt đầu sống một cách có ý thức từ chính khoảnh
khắc này.
Chẳng hạn, bạn đang nghe tôi. Bạn có thể nghe theo
cách buồn ngủ... bởi vì bạn đang ở đây, và tôi đang thốt
ra vài lời, và bạn có tai và tai bạn hoạt động, cho nên
những lời đó đập vào màng nhĩ của bạn và tiếng ồn nào
đó được tạo ra - và tất nhiên bạn nghe. Nhưng đây
không phải là lắng nghe, nó chỉ là nghe thôi. Nó không
phải là lắng nghe.
Lắng nghe nghĩa là bạn tỉnh táo, theo dõi, đứng trên
ngón chân mình, uống lấy mà không bị tâm trí bóp méo;
không có tiếng ồn bên trong, không huyên thuyên, hoàn
toàn im lặng; không buồn ngủ, rất tỉnh, rất thức; cứ
dường như nhà bạn đang cháy, dường như mọi thứ có
thể bị lấy đi vào bất kì lúc nào và đây không phải là lúc
ngủ. Khi nhà bạn bị cháy bạn không thể ngủ được - hay
bạn có thể? Khi nhà bạn bị cháy bạn không thể ngủ
được; bạn sẽ tỉnh táo, rất tỉnh táo.
Phát biểu đầu tiên mà Phật đã đưa ra sau khi ông ấy
rời khỏi cung điện của mình là, "Nhà ta đang cháy. Bây
giờ ta không thể sống trong vô ý thức được thêm nữa."
Không có ai ngoại trừ người đánh xe của ông ấy. Ông
già này nhìn vào cung điện; ông ấy chẳng thấy ngọn lửa
nào ở đó cả, nhà đâu có cháy. Ông ấy nghĩ, "Hoàng tử
điên mất rồi!" Ông ấy là ông già, người hầu già, cùng
tuổi như bố Phật. Ông ấy đã chăm lo cho Phật từ ngày
đầu tiên Phật được sinh ra; Phật thường kính trọng ông
già này.
Ông già nói, "Hoàng tử nói điều vô nghĩa gì vậy!
Cho dù mắt tôi có trở nên kém đi, tôi già rồi, nhưng tôi
chẳng thấy ngọn lửa nào cả. Nhà vẫn hoàn toàn tốt,
không cháy đâu!"
Phật nói, "Vâng, ta thấy - ông có thể không thấy -
nhà ta đang cháy đấy, bởi vì mỗi lúc và mọi lúc cái chết
đều là có thể. Bây giờ ta không thể vẫn còn trong trạng
thái ngủ này thêm nữa được."
Ông già nhún vai. Ông ấy nói, "Hoàng tử toàn nói
điều gở!"
Khi ông ấy phải để lại Phật trong rừng sâu và họ nói
lời tạm biệt, ông già khóc và nói, "Nghe tôi đi - Tôi
cũng như bố hoàng tử vậy. Hoàng tử đi đâu? Hoàng tử
có điên rồ không vậy? Cung điện đẹp thế, vợ đẹp thế,
thoải mái thế, xa hoa thế! Hoàng tử còn đi đâu đây?"
Phật nói, "Ta đi tìm tâm thức." Ông ấy đã không
nói, "Ta đi tìm Thượng đế," bởi vì làm sao bạn có thể
nói về Thượng đế được nếu bạn thậm chí còn chưa có ý
thức? Người tìm kiếm thực sự đi tìm tâm thức, không đi
tìm Thượng đế. Nếu bạn bắt đầu tìm Thượng đế, điều đó
sẽ vẫn còn là tìm kiếm vô ý thức - bởi vì bạn đã nghe
các tu sĩ nói về Thượng đế và tham lam đã nảy sinh
trong tâm trí bạn về Thượng đế.
Người tìm kiếm thực, sannyasin thực, chẳng liên
quan gì tới Thượng đế cả. Toàn thể nỗ lực của người đó,
duy nhất nỗ lực của người đó, nỗ lực dồn vào một điểm,
nỗ lực tập trung của người đó, là để trở nên có ý thức
hơn - làm sao có ý thức mãnh liệt tới mức bạn trở thành
đầy ánh sáng, tới mức toàn thể tâm trí của bạn là ngọn
lửa của ánh sáng bùng cháy, tới mức ngọn đuốc tâm trí
bạn bùng cháy từ cả hai đầu đồng thời. Trong ánh sáng
đó người ta tự nhiên biết rằng Thượng đế hiện hữu.
Thượng đế không phải là để được tìm kiếm tới; cái
được tìm kiếm tới là tâm thức. Người vô ý thức có thể
tin vào Thượng đế, nhưng niềm tin của họ vào Thượng
đế giống như niềm tin của họ vào tiền. Họ tin vào tờ
bạc, họ tin vào Thượng đế, họ tin vào tượng đá, họ tin
vào kinh sách chết. Họ chỉ có thể tin, nhớ lấy: duy nhất
người vô ý thức mới tin.
Người có ý thức biết, cảm, trải nghiệm. Người đó
không tin vào Thượng đế: người đó sống trong Thượng
đế, người đó thở trong Thượng đế, trái tim người đó đập
trong Thượng đế. Đó không phải là vấn đề về tin.
Bạn không tin vào mặt trời khi bạn thấy mặt trời
mọc. Bạn không hỏi mọi người, "Anh có tin vào mặt trời
không?" Nếu bạn hỏi, họ sẽ cười bạn. Bạn không tin vào
trăng khi trăng tròn trong đêm; bạn chưa bao giờ hỏi bất
kì ai. Không có người tin vào trăng và người không tin.
Nó là kinh nghiệm của bạn; không có nhu cầu tin hay
không tin.
Đích xác giống thế, trong tâm thức bạn có mắt để
thấy Thượng đế, bạn có mắt để thấy chân lí của sự tồn
tại. Thế thì nó không còn là vấn đề của niềm tin nữa - nó
là kinh nghiệm của bạn, kinh nghiệm tồn tại. Người có ý
thức biết, người vô ý thức tin.
Sao bạn là người Hindu, sao bạn là người Mô ha
mét giáo, sao bạn là người Jaina, và sao bạn là người Ki
tô giáo? Toàn các niềm tin! - và tu sĩ sống trên vô ý thức
của bạn. Ông ta cứ cho bạn ngày một nhiều niềm tin -
niềm tin đạo đức, niềm tin rằng nếu bạn làm điều này
bạn sẽ được thưởng, nếu bạn làm điều kia bạn sẽ bị
trừng phạt, niềm tin vào địa ngục, niềm tin vào cõi trời.
Ông ta cứ chồng chất ngày một nhiều niềm tin. Bạn bị
chìm trong các niềm tin! Niềm tin của bạn đã trở nên
nặng nề thế lên bạn, như dãy Himalaya đè lên ngực bạn;
chúng không cho phép bạn sống.
Bước đầu tiên hướng tới tâm thức là vứt bỏ mọi
niềm tin. Đừng là người Hindu, đừng là người Mô ha
mét giáo, đừng là người Ki tô giáo... bởi vì tôi nói cho
bạn con đường trở thành một christ! Sao phải là người
Ki tô giáo? Và tôi nói cho bạn con đường trở thành vị
phật - sao được thoả mãn với việc là Phật tử? Sao được
thoả mãn với hoa nhựa khi hoa hồng thực có thể được
mọc lên, khi bạn có thể trở thành vườn hồng? Bạn mua
vài đoá hoa nhựa từ chợ và bạn cứ tôn thờ những hoa
nhựa đó. Điều bạn gọi họ - người Ki tô giáo, người Mô
ha mét giáo, người Hindu - không thành vấn đề; nếu
chúng được vay mượn thì chúng đều là đồ nhựa. Hoa
thực phải được lớn lên bên trong bản thể bạn; nó phải nở
hoa ở đó.
Những người đã biết, họ nói - và tôi xác nhận cho
họ, tôi là nhân chứng - rằng khi tâm thức mở ra trong
tính toàn bộ của nó, nó là hoa sen một nghìn cánh, hoa
sen vàng, vàng với hương thơm. Đó là phép màu tối
thượng. Và chừng nào điều đó còn chưa được đạt tới,
đừng nghỉ ngơi. Từng khoảnh khắc bị mất đi đều là mất
mát lớn lao.
Lời kinh:
**Như lái buôn giầu với vài người hầu
tránh xa con đường nguy hiểm
và người yêu cuộc sống tránh xa chất độc,
cảnh giác với nguy hiểm của điên rồ và điều ác.**
Phật đang nói rằng nếu bạn là lái buôn với kho báu
lớn và bạn đang về nhà từ cuộc hành trình kinh doanh
dài, rất dài - làm kinh doanh ở nhiều, nhiều nơi bạn đã
thu thập được kho báu lớn lao và bạn đang về nhà và
bạn chỉ có vài người hầu đi cùng mình - bạn sẽ tránh
những con đường nguy hiểm, nơi kẻ cướp có thể trấn
đoạt bạn, nơi bạn có thể bị giết, nơi kho báu của bạn có
thể bị lấy đi khỏi bạn.
Con người đã từng trên cuộc hành hương lâu dài.
Bạn không phải là người mới trên trái đất này, bạn là
người hành hương rất cổ đại. Và trong mọi kiếp sống
bạn đã thu thập nhiều kho báu bên trong mình - cho dù
bạn có thể không nhận biết về nó. Bạn đã học nhiều...
bạn không ý thức, bạn không biết mình đang mang theo
kho báu nào bên trong bản thân mình. Bởi vì bạn vô ý
thức nên bạn liên tục đi trên những con đường nguy
hiểm nơi bạn có thể bị cướp, bị cướp mọi ngày. Người
không nhận biết, người đang ngủ, bạn có thể cướp người
đó; người đó thậm chí sẽ không đánh bạn.
Và kẻ cướp không ở bên ngoài, kẻ cướp ở bên trong
bạn. Giận dữ, thù hận, tham lam, ghen tị, sở hữu, đây là
những tên cướp, và trong tâm trí vô ý thức chúng cứ
cướp bóc bạn. Giận dữ đã cướp đi của bạn bao nhiêu
rồi? Nhìn lại đi! Giận dữ đã phá huỷ bạn bao nhiêu rồi?
Nhưng bạn thậm chí không tính toán! Bạn thậm chí
không nhìn lại để có cái nhìn thấu tỏ vào điều bạn đã
từng làm cho bản thân mình. Thèm khát của bạn đã khai
thác bạn bao nhiêu? Nhưng bạn cứ làm cùng những điều
đó lặp đi lặp lại mãi! Cùng giận dữ mà bạn bao giờ cũng
kinh qua như chất độc, điều bạn biết hoàn toàn rõ chỉ có
tính tàn phá - và mỗi lần bạn đã ở trong nó bạn về sau
đều hối hận - bạn đã quyết định, bạn đã tự hứa hẹn với
mình nhiều lần, sẽ không đi vào nó lần nữa. Và bạn cứ
quên đi quên lại lời hứa mình đã tự trao cho mình.
Một người nói với người bạn của mình, "Đêm qua
tớ đã đi xem phim con lợn Do Thái, và đó thực sự là
một kinh nghiệm."
Người bạn hỏi, "Bộ phim Do Thái bẩn thỉu đó giống
cái gì vậy?"
Người này nói, "Nó chỉ kéo dài mười phút thôi: một
phút cho dục và chín phút cho mặc cảm."
Quan sát cuộc sống của bạn và bạn sẽ thấy điều đó:
một phút của giận dữ và bao nhiêu phút của mặc cảm?
Một phút của thèm khát và bao nhiêu phút của mặc cảm,
hay bao nhiêu giờ, hay bao nhiêu ngày?
Brotsky tới Puerto Rico trong cuộc hội nghị kinh
doanh. Một đêm, ngay trước khách sạn của mình, anh ta
bị cám dỗ bởi lời chào mời của một gái mãi dâm đẹp.
"Chào anh người Mĩ," cô ta nói. "Anh có-a muốn mua-a
cái mà em bán hông-a?"
Brotsky đi với cô ta. Mười ngày sau, ở nhà tại New
York, anh ta thấy rằng mình đã bị mắc bệnh lậu.
Năm sau, ngay trước cửa của cùng khách sạn đó,
anh ta lại bị cám dỗ bởi cùng cô gái đó. "Chào anh, anh
người Mĩ. Anh có muốn-a mua cái em đang bán hônga?"
"Nhất định rồi," anh ta nói, "Lần này là cái gì vậy -
ung thư chắc?"
Nếu bạn nhìn vào cuộc sống của mình bạn sẽ thấy
nó đi theo vòng tròn. Bạn cứ làm cùng những điều ngu
xuẩn, cùng những điều ngu xuẩn ấy, và bạn đã làm
chúng nhiều lần thế rồi. Khi nào bạn sẽ thức dậy? Và
bạn lại trở nên mê mẩn với cùng những thứ ngu xuẩn,
bạn cứ bị bắt đi bắt lại vào trong cùng một cái lưới.
Cuộc sống của bạn chẳng có mấy điều mới.
Bạn quan sát cuộc sống của mình trong ba tháng,
ghi lại trong ba tháng, và thế rồi bạn sẽ ngạc nhiên: đây
là mọi điều bạn đã từng lặp đi lặp lại. Và chừng nào bạn
còn chưa trở nên thức tỉnh thì bạn sẽ còn lặp lại cùng
những điều đó trong cả đời mình - mà không chỉ cả đời
bạn đâu, bạn đang lặp lại nó trong nhiều, nhiều kiếp sắp
tới đấy.
Harry, lớn lên ở Philadelphia, làm chuyến đi thăm
đầu tiên tới nước Anh.
Một đêm anh ta phát hiện ra một thanh nữ tóc đỏ
hấp dẫn trong quán rượu, anh ta bước tới cô ta và bắt
đầu tán tỉnh, "Em biết đấy, anh tới từ phía bên kia..."
"Chúng mình lên ngay căn hộ của em đi," cô ấy nói.
"Điều này em đã biết rồi!"
Bạn hiểu nó chứ? Lặp đi lặp lại... "Điều này em đã
biết rồi!" Bạn cứ lặp đi lặp lại mê đắm. Bạn có thể đã
biết nhiều đàn bà, và lại người đàn bà khác, và bạn sẵn
sàng lại ngu xuẩn nữa. Cuộc sống của bạn có tính lặp lại
- bạn thậm chí không phạm phải sai lầm mới!
Có tính sáng tạo chút ít đi. Nếu bạn quan tâm tới
việc phạm sai lầm, ít nhất phạm sai lầm mới. Nếu bạn có
thể làm nó thành vấn đề là "Mình sẽ chỉ phạm sai lầm
mới thôi," chẳng mấy chốc chúng sẽ bị chấm dứt - bởi vì
có được bao nhiêu sai lầm mới? Một ngày nào đó bạn
đơn giản sẽ thấy rằng không có nhiều sai lầm mới còn
lại, và bạn không thể phạm sai lầm nào bởi vì bạn đã
quyết định không lặp lại.
Một lần nên là đủ - nhưng sao nó không đủ? Lí do là
ở chỗ trong khi bạn đang phạm sai lầm đó bạn không có
đó; bạn thậm chí còn làm nó một cách vô ý thức. Nếu
bạn có thể phạm một sai lầm một cách có ý thức, tỉnh
táo toàn bộ, với tràn đầy nhận biết, tuyệt đối hiện diện,
bạn sẽ không lặp lại nó lần nữa.
Con người của thông minh nhất định phạm phải sai
lầm, nhưng mỗi sai lầm chỉ một lần, thế rồi người đó
được kết thúc với nó. Người đó đã biết và hiểu nó.
Nhưng mọi người vẫn còn chưa trưởng thành.
Hai cậu bé da mầu gặp nhau trên phố.
"Tớ năm tuổi. Đằng ấy bao nhiêu tuổi?"
"Tớ hổng biết."
"Đằng ấy có nghĩ tới con gái không?"
"Hổng."
"Thế thì đằng ấy mới bốn thôi!"
Bây giờ, đây là việc có tuổi, sự trưởng thành được
đo, được cân đấy.
Trưởng thành nghĩa là trở nên có ý thức nhiều hơn;
không có cách khác để trở nên trưởng thành. Tôi không
nói đừng phạm phải sai lầm, bởi vì điều đó sẽ chẳng ích
gì. Tôi không nói né tránh sai lầm, không. Tôi nói bất kì
điều gì bạn muốn làm, làm nó đi, nhưng làm nó một
cách rất có ý thức. Đem đầy đủ bản thể của bạn vào
trong nó, để cho một khi được làm rồi bạn có thể quyết
định liệu có đáng làm nó lần nữa hay nó là hoàn toàn vô
nghĩa, vô dụng; cho nên một lần được làm bạn biết liệu
nó là kim cương thực hay chỉ là đá mầu.
Nếu nó là kim cương thực, đi theo nó, đào sâu - bạn
có thể ở gần với kho báu. Và nếu nó chỉ là đá mầu, quên
tất cả về nó đi. Đừng mang đá mầu; chúng trở thành vật
nặng và chúng làm cho cuộc hành trình của bạn ngày
một khó khăn hơn. Khi bạn muốn đi lên núi bạn cần vô
trọng lượng. Và cuộc hành trình hướng tới ý thức là
cuộc hành trình đi lên núi.
Như lái buôn giầu với vài người hầu tránh xa con
đường nguy hiểm và người yêu cuộc sống tránh xa chất
độc, cảnh giác với nguy hiểm của ý nghĩ điên rồ và điều
ác. Trở nên nhận biết đi. Cảnh giác (beware) nghĩa là
nhận biết. Cảnh giác (beware) là tổ hợp của hai từ: be và
aware (cảnh và giác). Cảnh giác với nguy hiểm của ý
nghĩ điên rồ và điều ác. Chúng là hai mặt của cùng một
đồng tiền: điên rồ và điều ác. Điên rồ nghĩa là vô ý thức
- và từ vô ý thức chỉ có điều ác được sinh ra.
**Với tay không bị thương có thể động tới chất độc.
Người hồn nhiên tới không gây hại.**
Nếu bạn trở nên nhận biết về điên rồ và điều ác...
Nhớ lấy, Phật không nói né tránh; ông ấy nói cảnh giác.
Lão Tử nói: Con người của trí huệ bước đi dường
từng bước đều có nguy hiểm. Con người của trí huệ
bước đi dường như trong mùa đông lạnh giá người đó đi
qua dòng suối đóng băng, đó là điều Lão Tử nói. Vâng,
đích xác đấy, nó là vậy: con người của trí huệ bước đi
tỉnh táo. Từng bước đều tràn đầy nguy hiểm, bởi vì tâm
trí bạn có thể khẳng định vào bất kì lúc nào.
Tâm trí bạn rất cổ đại, thói quen của nó được bắt rễ
rất sâu, được cấy vào rất sâu. Chỉ chút ít vô nhận biết và
tâm trí nhất định bắt giữ bạn, và nó sẽ lôi bạn vào trong
điều ác nào đó. Nó sống trên điều ác. Nó nhất định lôi
bạn vào trong cái gì đó mà bạn sẽ hối hận về sau. Nhưng
hối hận chẳng ích gì, đó là việc cực kì lãng phí thời gian.
Trước hết bạn lãng phí thời gian trong việc phạm sai
lầm và thế rồi bạn làm lãng phí thời gian trong hối hận.
Một người có lần tới tôi, một người rất giầu. Ông ấy
có thói quen cả đời là trở nên giận dữ dễ dàng tới mức
chỉ một hơi chút khiêu khích cũng đủ, hay nếu không có
khiêu khích nào ông ấy sẽ tạo ra nó, ông ấy sẽ tưởng
tượng ra cái gì đó. Và ông ấy đã khổ nhiều bởi vì điều
đó: vợ ông ấy bỏ ông ấy, con ông ấy xa lánh ông ấy,
không người hầu nào có thể ở được với ông ấy lâu. Ông
ấy sống cuộc sống rất biệt lập. Ông ấy có tất cả, nhưng
lại rất nghèo theo cách nào đó bởi vì ông ấy chẳng có ai
yêu ông ấy hay để nhận tình yêu của ông ấy.
Ông ấy hỏi tôi, "Làm sao tôi có thể gạt bỏ được giận
dữ? Tôi đã quyết định nhiều lần, tôi đã lấy lời nguyện
trước các thánh nhân vĩ đại rằng tôi sẽ không giận nữa,
nhưng sự việc cứ lặp đi lặp lại, khi tình huống nảy sinh
tôi quên hết mọi thứ về lời nguyện. Nó tới, và nó tới
theo cách thức như trận lụt tới mức tôi đơn giản bị nó
chiếm lĩnh mất. Tôi phải làm gì? Tôi phải tới thầy. Xin
thầy giúp tôi quyết định rằng tôi có thể gạt bỏ được nó."
Tôi nói, "Ông làm một việc. Điều thứ nhất là: vứt bỏ
hối hận. Điều thứ hai là: đừng bao giờ nguyện chống
giận dữ."
Ông ta nói, "Thầy nói gì vậy? Thế thì cuộc đời tôi sẽ
tàn mất thôi!"
Tôi nói, "Ông đã lấy lời nguyện rồi và ông đã từng
hối hận rồi - điều đó có ích theo cách nào không?"
Ông ấy phải thừa nhận rằng điều đó chẳng ích lợi gì.
Thế rồi tôi nói, "Sao ông không thử điều tôi nói đi? - bởi
vì hiểu biết riêng của tôi là ở chỗ hối hận không chống
lại giận dữ; thực ra nó là cách thức của bản ngã để lôi
ông trở lại vị trí cũ thôi."
Khi bạn trở nên giận dữ và về sau bạn nhớ lại, bản
ngã của bạn thấy bị tổn thương là, "Mình đã lại phạm
phải cùng cái ngu xuẩn đó rồi." Bây giờ bản ngã bị
thương này muốn được chữa lành; bạn đã sa ngã trong
con mắt riêng của mình. Bản ngã bị tổn thương của bạn
nói, "Đến đền chùa hay tới thánh nhân nào đó đi. Lấy lời
nguyện rằng, 'Bây giờ mình sẽ không bao giờ làm điều
như vậy nữa.'" Lấy lời nguyện bản ngã cảm thấy dễ
chịu: "Trông xem mình là người tôn giáo làm sao." Lấy
lời nguyện trước một thánh nhân và trước đám đông bạn
cảm thấy cực kì được mạnh mẽ trong bản ngã của mình:
"Trông đây, tôi đã quyết định!" Vết thương lại được
chữa lành.
Bạn trở lại trong tình huống cũ: bản ngã lại được lên
ngôi. Bạn sẽ lại phạm phải cùng sai lầm đó sớm hay
muộn, và bây giờ bạn đã biết cách chữa lành các vết
thương. Hối hận là cách thức, lấy lời nguyện là cách
thức.
Cho nên điều đầu tiên tôi nói với người đó là, "Dừng
chuyện hối hận lại - điều đó là phí thời gian! Cái đã qua
là đã qua rồi, quá khứ là quá khứ. Nó đã được kết thúc
rồi. Ông không cần lo nghĩ về nó. Ông bắt đầu tươi tắn
đi - đừng hối hận. Thay vì hối hận, gợi ý của tôi là: ông
về nhà và giận dữ - điều đầu tiên để làm - giận dữ và
giận dữ một cách có ý thức. Trong khi ông giận dữ, vẫn
còn tỉnh táo rằng ông giận dữ, biết điều ông đang làm:
rằng ông đang ném mọi thứ, rằng ông đang ném ra
những sự lăng mạ. Tỉnh táo vào!"
Ngày hôm sau ông ta tới. Ông ta nói, "Điều đó là
không thể được! Hoặc là tôi có thể giận dữ hoặc tôi có
thể tỉnh táo. Nếu tôi tỉnh táo tôi không thể giận dữ được;
nếu tôi giận dữ tôi không thể tỉnh táo được. Thầy đã cho
tôi một nhiệm vụ không thể được!"
Tôi nói, "Bây giờ chính ông phải quyết định: nếu
ông muốn giận dữ, quên tỉnh táo đi; nếu ông không
muốn giận dữ, thế thì tỉnh táo. Không hối hận, không lấy
lời nguyện nào nữa. Một phương pháp đơn giản!"
Mọi người đã thức tỉnh đều đã từng dạy phương
pháp đơn giản này.
Ai đó hỏi Mahavira, "Ai là thánh nhân thực và ai là
tội nhân?"
Có thể người hỏi này muốn một câu trả lời làm sẵn
đã được cho trong kinh sách, nhưng người như
Mahavira nói từ bản thể riêng của họ. Điều ông ấy nói là
cực kì hay. Định nghĩa mà ông ấy đã cho là duy nhất,
duy nhất trong toàn thể lịch sử của nhân loại. Ông ấy
nói, "Asutta muni - người thức tỉnh, người đó là thánh
nhân. Và sutta amuni - người đang ngủ là tội nhân."
Đơn giản, nhưng cực kì có ý nghĩa! Thức tỉnh là tính
thánh thiện duy nhất có đó, và ngủ, vô ý thức, là tội lỗi
duy nhất có đó; mọi tội lỗi khác đều được sinh ra từ nó.
Chặt tận gốc đi, chặt từ chính gốc! Đừng cứ tỉa lá.
Với tay không bị thương có thể động tới chất độc.
Và thế rồi, khi bạn thức tỉnh, tỉnh táo, quan sát, thế thì
chẳng có vấn đề gì. Thế thì bạn giống như bàn tay
không bị thương, bạn có thể xử trí chất độc. Điều đó
nghĩa là gì?
Để tôi nhắc bạn về một tình huống đã xảy ra trong
đời Jesus. Ông ấy cầm roi và đi vào trong ngôi đền lớn
của Jerusalem. Roi trong tay Jesus sao...? Đây là nghĩa
của điều Phật nói: tay không bị thương có thể xử lí được
chất độc. Vâng, Jesus có thể xử lí được roi, không có
vấn đề gì; roi không thể chế ngự ông ấy. Ông ấy vẫn còn
tỉnh táo, tâm thức của ông ấy là như vậy.
Ngôi đền lớn của Jerusalem đã trở thành chỗ cho kẻ
cướp; việc ăn cướp tinh vi đang diễn ra. Có những người
đổi tiền bên trong ngôi đền và họ đang khai thác toàn
thể đất nước. Jesus một mình đi vào ngôi đền và lật tung
bàn của họ - bàn của những người đổi tiền - ném tiền
của họ tung toé khắp xung quanh và tạo ra rối loạn tới
mức những người đổi tiền phải chạy trốn ra ngoài ngôi
đền. Họ thì nhiều mà Jesus chỉ mỗi mình, nhưng ông ấy
đang trong phẫn nộ thế, trong lửa cháy thế!
Bây giờ, điều này đã từng là vấn đề cho người Ki tô
giáo: giải thích điều đó thế nào đây? - bởi vì toàn thể nỗ
lực của họ là để chứng minh rằng Jesus là chim bồ câu,
biểu tượng của hoà bình. Làm sao ông ấy có thể cầm roi
trong tay được? Làm sao ông ấy có thể giận dữ thế
được, cuồng nộ tới mức ông ấy lật đổ bàn của người đổi
tiền và tống những người đổi tiền ra khỏi ngôi đền? Và
ông ấy phải đã bốc lửa; bằng không, ông ấy có mỗi
mình - ông ấy có thể bị bắt giữ chứ. Năng lượng của ông
ấy phải đã trong cơn bão; họ không thể đối diện ông ấy
được. Các tu sĩ và nhà kinh doanh và người đổi tiền tất
cả đều trốn ra ngoài kêu to, "Người này đã điên rồi!"
Người Ki tô giáo né tránh chuyện này. Không cần
né tránh nó nếu bạn hiểu lời kinh này của Phật: Với tay
không bị thương có thể động tới chất độc. Người hồn
nhiên tới không gây hại. Jesus hồn nhiên thế! Ông ấy
không giận dữ; đó là từ bi của ông ấy. Ông ấy không
bạo hành, ông ấy không có tính tàn phá; đó là tình yêu
của ông ấy. Roi trong tay ông ấy là roi trong tay của tình
yêu, từ bi.
Đây là lí do tại sao ở phương Đông chúng ta có
Krishna, người có thể chiến đấu trong chiến tranh cho
dù ông ấy đã hứa không đánh nhau. Ông ấy đã quên tất
cả về lời hứa của mình. Mọi người cứ nghĩ rằng ông ấy
rất ngoại giao, chính trị; ông ấy không phải vậy. Lời hứa
đó đã được đưa ra trong khoảnh khắc nào đó; bây giờ
khoảnh khắc đó không còn áp dụng được nữa - tình
huống đã thay đổi. Ông ấy không phải là kẻ cơ hội, ông
ấy không chính trị chút nào. Ông ấy đơn giản trung thực,
chân thành, có trách nhiệm cho tình huống đang là hiện
tại. Nó là vậy trong khoảnh khắc đó khi ông ấy hứa rằng
ông ấy sẽ không đi vào chiến tranh; nó không còn là như
vậy nữa, tình huống đã thay đổi rồi. Ông ấy đi vào chiến
tranh mà chẳng hối hận gì cả; ông ấy chưa bao giờ hối
hận về nó. Không có nhu cầu hối hận.
Con người của nhận biết hành động từ nhận biết
riêng của mình, do đó không có hối hận; hành động của
người đó là toàn bộ. Và một trong những cái đẹp của
hành động toàn bộ là ở chỗ nó không tạo ra nghiệp; nó
không tạo ra cái gì cả; nó không để lại dấu vết nào trên
bạn. Điều đó cũng giống như viết lên nước: bạn thậm
chí không kết thúc... Nó đã mất rồi. Nó thậm chí không
viết được lên cát, bởi vì điều đó có thể còn lại trong vài
giờ nếu gió không tới - đó là việc viết lên nước.
Nếu bạn đi tới đền chùa Hindu bạn sẽ thấy Rama
với cung và tên trong tay ông ấy. Bây giờ điều đó đã là
vấn đề cho cái gọi là những người theo Gandhi để giải
thích nó; với Mahatma Gandhi đó là vấn đề. Nếu Rama
có bánh xe quay trong tay ông ấy thì mọi sự đã được rồi
- nhưng cung và tên sao? Gandhi đã cố gắng né tránh
điều đó. Ông ấy đã nhắc tên của Rama mọi ngày; đó là
cái tên cuối cùng trên môi ông ấy khi ông ấy chết. Khi
ông ấy bị bắn chết, lời cuối cùng thốt ra từ môi ông ấy
là, "Này Ram! Ôi Ram!" Nhưng ông ấy đã xoay xở điều
đó thế nào? Về cung và tên thì sao? Ông ấy chưa bao
giờ đương đầu với vấn đền này một cách trung thực,
chân thành - bởi vì Rama đã chiến đấu trong chiến tranh,
phải đã giết nhiều người, chắc chắn đã giết chết Ravana.
Nói gì về bạo hành này?
Lời kinh này sẽ giải thích: Với tay không bị thương
có thể động tới chất độc. Người hồn nhiên tới không có
hại. Nếu bạn có thể tỉnh táo toàn bộ, thế thì không có
vấn đề gì. Bạn có thể xử lí được chất độc; thế thì chất
độc sẽ vận hành như thuốc. Trong tay của người trí huệ,
chất độc trở thành thuốc; trong tay của người ngu, ngay
cả thuốc, thậm chí nước cam lồ, nhất định trở thành chất
độc.
Người hồn nhiên tới không có hại. Nếu bạn vận
hành từ hồn nhiên - không từ thông thái mà từ hồn nhiên
như trẻ con - thế thì bạn không bao giờ có thể đi tới bất
kì cái hại gì, bởi vì nó không để lại dấu vết. Bạn vẫn còn
tự do với hành động của mình. Bạn sống một cách toàn
bộ và vậy mà không hành động nào làm nặng gánh bạn.
**Nhưng khi bụi bị tung ngược gió,
điều ác bị thổi ngược vào mặt
của người ngu, người làm sai điều thuần khiết và vô
hại.**
Nhớ lấy, nếu bạn vận hành từ vô nhận biết, thế thì
toàn thể cuộc sống của bạn sẽ là bụi bị tung ngược chiều
gió. Nó quay lại chui vào mắt bạn. Nó là việc nhổ lên
trời - nước bọt rơi vào mặt bạn thôi.
Bạn khổ không phải vì người khác đâu, bạn khổ bởi
vì hành động ngu xuẩn của riêng mình. Và hành động
ngu xuẩn là gì? Hành động nảy sinh từ trạng thái vô ý
thức của tâm trí.
Nhưng khi bụi bị tung ngược chiều gió, điều ác bị
thổi ngược vào mặt của người ngu, người làm sai điều
thuần khiết và vô hại. Và kết quả thậm chí còn nguy
hiểm hơn cho người ngu nếu điều ác của người đó và
việc sai của người đó là chống lại sự thuần khiết và điều
vô hại. Nếu bạn đánh nhau với người ngu khác không có
mấy vấn đề: người đó nhổ vào bạn, bạn nhổ vào người
đó. Nước bọt của bạn quay lại bạn, nước bọt của người
đó quay lại người đó; mọi thứ được cân bằng. Bạn làm
hại người đó, cái hại của bạn quay lại bạn; người đó làm
hại bạn, cái hại của người đó quay lại người đó.
Nhưng khi bạn làm hại hay làm điều ác cho ai đó
hồn nhiên, thế thì bạn thực sự trong rắc rối bởi vì điều
ác của bạn sẽ quay lại bạn cả nghìn lần hơn. Người hồn
nhiên sẽ không làm điều ác nào với bạn; người đó đơn
giản sẽ dội lại, người đó đơn giản sẽ phản xạ, người đó
sẽ là tấm gương. Nếu bạn xấu, cái xấu của bạn sẽ được
hiện ra - và tất nhiên, tấm gương càng thuần khiết, cái
xấu của bạn sẽ càng được hiện ra rõ ràng hơn.
Và tâm trí có ham muốn lớn lao để làm hại người
hồn nhiên. Nó sợ làm hại người ác bởi vì người ác có
thể chứng tỏ quá nhiều. Người hồn nhiên dường như
hồn nhiên tới mức bạn bị cám dỗ làm hại người đó.
Người hồn nhiên dường như mong manh thế, tinh tế tới
mức bạn nghĩ chẳng có vấn đề gì: bạn có thể làm bất kì
cái gì với người đó, người đó thậm chí sẽ không đáp lại.
Do đó Jesus bị đóng đinh, Socrates bị đầu độc, Phật bị
ném đá.
Nhớ lấy, có cám dỗ lớn để làm hại người hồn nhiên,
bởi vì bạn biết người đó sẽ không đáp lại điều đó theo
kiểu ăn miếng trả miếng. Nhưng rắc rối là, người đó sẽ
không ăn miếng trả miếng, nhưng toàn thể sự tồn tại lại
báo thù nhân danh người đó. Bởi vì người đó sẽ không
báo thù, toàn thể sự tồn tại đứng về phía người đó. Sự
tồn tại bao giờ cũng ở bên phía người thức tỉnh. Bạn
nhất định khổ nhiều, mặc dầu Jesus sẵn sàng tha thứ cho
bạn. Lời cuối cùng của Jesus là: Thưa cha, xin tha thứ
cho mọi người này bởi vì họ không biết điều họ đang
làm. Đây là đáp ứng của ông ấy. Nhưg sự tồn tại không
thể tha thứ cho bạn được.
Sự tồn tại tuân theo một luật rất chính xác: điều ác
nhất định tạo ra điều ác cho bạn, và khổ, nếu bạn tạo nó
cho người khác, nhất định bật trả lại bạn. Và nếu điều đó
được làm để chống lại người vô hại, chống lại người trí
huệ, chống lại vị phật, thế thì bạn sẽ khổ theo cách gấp
nghìn lần hơn.
**Một số người được tái sinh trong địa ngục,
một số trong thế giới này,
người tốt ở trên trời.
Nhưng người thuần khiết không được sinh chút nào.**
Địa ngục và cõi trời không có tính địa lí đâu, nhớ
điều đó. Nó chỉ là biểu dụ để giải thích cái gì đó về tâm
lí. Địa ngục là trạng thái của tâm trí đang trong khổ sâu
sắc - tất nhiên, được tạo ra do việc làm riêng của bạn
thôi. Mọi cát bụi bạn ném ra ngược chiều gió đều sẽ rơi
vào bản thân bạn, đó là địa ngục - mọi điều sai bạn đã
làm cho mọi người sẽ quay lại bạn. Bạn phải thu hoạch
lấy mùa màng bởi vì bạn đã gieo hạt mầm. Nếu bạn gieo
mầm chất độc thì bạn sẽ phải gặt lấy chất độc. Điều đó
đơn giản thế: aes dhammo sanantano - đây là luật vĩnh
hằng.
Không ai có thể được miễn trừ khỏi nó, không có
người nào có thể là ngoại lệ - mặc dầu mọi người đều
nghĩ, "Mình có thể là ngoại lệ, mình có thể tìm ra cách
nào đó thoát khỏi nó." Chắc chắn bạn có thể tìm ra cách
để thoát khỏi luật pháp con người, bạn có thể tìm ra cách
để thoát khỏi bất kì luật pháp nào, bởi vì luật pháp nhân
tạo là luật pháp nhân tạo; chúng có thể bị phá vỡ. Và
bạn có thể tìm ra những người thông minh có thể chỉ
cho bạn cách bỏ qua chúng. Nhưng luật vĩnh hằng, luật
tự nhiên, không thể bị phá vỡ; nếu bạn phá chúng bạn
nhất định khổ. Khổ đó là địa ngục.
Bất kì khi nào bạn đi ngược lại luật của cuộc sống
bạn đều trong địa ngục, và bất kì khi nào bạn đi hài hoà
với luật bạn đều trong cõi trời. Cõi trời nghĩa là trạng
thái vui vẻ. Và bất kì khi nào bạn đang lơ lửng, không
chỗ này chẳng chỗ nọ, không chống đối không ủng hộ,
trong trạng thái lờ phờ, trong trạng thái không quyết
định, chỉ treo ở giữa, thế thì bạn đang trong thế giới này.
Trong kinh sách Phật giáo thế giới này được gọi là
madhyalok - trạng thái ở giữa cõi trời và địa ngục.
Có ba loại người trên thế giới: vài người ở cõi trời,
nhiều người ở giữa, và nhiều người hơn đang ở trong địa
ngục. Và thực ra đây không phải là ba loại người bởi vì
từng người đều trải qua tất cả ba trạng thái này mọi
ngày. Buổi sáng bạn có thể ở cõi trời, buổi trưa bạn ở
trong tình trạng lấp lửng, đến tối, về nhà, bạn ở trong địa
ngục. Bạn cứ thay đổi, dịch chuyển. Đây là những trạng
thái tâm lí.
Việc vượt ra ngoài tất cả ba loại này được gọi là niết
bàn, được gọi là phật tính, được gọi là moksha. Nếu bạn
có thể vượt ra ngoài tất cả ba điều này - điều đó có nghĩa
là nếu bạn có thể vượt ra ngoài mọi tâm trí - thế thì bạn
không chỉ hài hoà với luật... Nếu bạn trong hài hoà với
luật thì bạn ở thiên đường, nếu bạn chống lại luật thì bạn
ở trong địa ngục. Nếu bạn không quyết định, nửa nọ nửa
kia, năm mươi năm mươi, bạn ở thế giới giữa, thế giới
này. Nhưng nếu bạn trở thành một với luật, bạn không
còn tách rời - thậm chí không trong hài hoà, bởi vì trong
hài hoà bạn vẫn tách rời. Nếu bạn trở thành một với luật:
nếu bạn vứt bỏ bản ngã và tâm trí của mình một cách
toàn bộ; nếu bạn trở nên được hội nhập vào trong luật
vĩnh hằng; nếu bạn trở thành đại dương, giọt sương của
bạn biến mất trong đại dương và trở thành nó, thế thì
bạn không được sinh ra thêm nữa. Thế thì không sinh
không tử. Thế thì toàn thể bánh xe của sinh và tử dừng
lại. Thế thì bạn là một với vũ trụ, thế thì bạn là Thượng
đế.
Đây là điều tối thượng phải được đạt tới, đây là điều
tối thượng mà con người có khả năng đạt tới, nhưng
cũng có khả năng bỏ lỡ. Chừng nào nỗ lực lớn lao còn
chưa được thực hiện với tài năng và thông minh, bạn sẽ
không thể nào đạt tới nó được.
**Không ở đâu cả!
không trên trời,
không giữa biển,
không sâu trong núi,
Ông có thể trốn đâu khỏi điều ác của riêng mình.**
Nhớ lấy: không có cách nào để che giấu khỏi điều
ác của bạn. Cho nên đừng cứ tự lừa mình rằng bạn sẽ
tìm thấy cách nào đó: rằng bạn sẽ đi ra sông Hằng và
chìm sâu vào trong sông Hằng và mọi tội lỗi của bạn sẽ
được gột sạch. Đừng tự lừa dối mình - sông Hằng không
thể làm được điều đó đâu. Đừng cho rằng bạn sẽ đi tới
Kaaba và bạn sẽ làm haj, cuộc hành hương lớn lao, và
bạn sẽ trở thành một haji - người đã từng tới Kaaba - và
thế rồi mọi tội lỗi sẽ được gột sạch khỏi bạn, Thượng đế
đã tha thứ cho bạn. Đừng nghĩ rằng bằng việc làm nghi
lễ nào đó - yagna, havan - bạn sẽ được tự do khỏi điều
ác của mình. Chẳng cái gì sẽ có ích đâu.
Không ở đâu cả! Phật nói, không trên trời, không
giữa biển, không sâu trong núi, ông có thể trốn đâu khỏi
điều ác của riêng mình. Nó sẽ theo bạn như cái bóng
của bạn, nó sẽ hành hạ bạn dù bạn đi tới đâu. Tốt hơn cả
là không làm nó - nhưng bạn có thể né tránh được việc
làm nó chỉ nếu bạn trở nên có ý thức, bằng không bạn
nhất định làm nó.
**Không trên trời,
không giữa biển,
không sâu trong núi,
không ở đâu cả
Ông có thể trốn đâu khỏi cái chết của riêng mình.**
Điều ác nhất định đem tới sự trừng phạt riêng của nó
cũng chắc chắn như sinh nhất định đem tới cái chết
riêng của nó. Bạn không thể tránh được cái chết, bạn
không thể tránh được kết quả của hành vi của mình. Cho
nên đừng nghĩ theo kiểu này, bởi vì tất cả thời gian bị
phí hoài trong né tránh, che giấu, đơn giản là bị phí hoài.
Mọi năng lượng đó có thể được đặt vào trong một nỗ
lực: của việc trở nên nhận biết, của việc trở nên có tính
thiền. Điều đó sẽ có ích.
Một người đi ra sông Hằng. Người đó đi tới
Ramakrishna, người đó là tín đồ của Ramakrishna.
Người đó hỏi Ramakrishna, "Paramahansadeva, tôi đi ra
sông Hằng đây - xin ban phước cho tôi. Thầy có cho
rằng mọi tội lỗi của tôi sẽ được rửa sạch không?"
Ramakrishna nói, "Có chứ, chắc chắn, bởi vì sông
Hằng thuần khiết thế; bất kì ai chìm ngập sâu vào trong
nó đều trở thành thuần khiết như sông Hằng. Nhưng có
vấn đề mà ông phải nhớ lấy."
Người này nói, "Đó là vấn đề gì vậy? Thầy nói cho
tôi đi, tôi sẽ ghi nhớ lấy."
Ramakrishna nói, "Ông có thấy những cây lớn mọc
bên bờ sông Hằng không?"
Người đó nói, "Có, tôi có thấy."
Ramakrishna nói, "Ông có biết mục đích của những
cây đó là gì không?"
Người đó nói, "Điều đó tôi chưa bao giờ nghe nói
tới và điều đó cũng không được viết trong kinh sách.
Mục đích của những cây đó là gì? Thầy nói cho tôi đi."
Ramakrishna nói, "Mục đích của những cây đó là ở
chỗ khi ông chìm vào trong sông Hằng, tội lỗi của ông
phải rời bỏ ông bởi vì quyền năng của sông Hằng.
Những tội lỗi đó ngồi lên ngọn những cây cao kia. Khi
ông ra khỏi sông Hằng, chúng lại nhảy vào ông đấy!
Cho nên điều đó thực sự là vô tích sự. Nếu ông muốn tới
thì ông có thể tới, nhưng tránh một điều: nếu ông chìm
vào trong sông Hằng, đừng ra nữa! Thế thì sẽ được đi
mãi mãi; bằng không những tội lỗi kia sẽ không rời bỏ
ông đâu. Và chúng sẽ báo thù đấy, chúng sẽ nhảy lên
ông với sự trả thù."
Và điều này đúng theo từng từ. Người tôn giáo, cái
gọi là người tôn giáo, nghĩ rằng họ có thể làm nghi lễ
nào đó và tội lỗi được chấm dứt, và họ được tự do làm
tội lỗi đó lần nữa! Và một khi bạn biết được thủ đoạn về
cách kết thúc nó, sao bận tâm? Bạn có thể cứ làm thật
nhiều tội lỗi như bạn có thể làm - sông Hằng bao giờ
cũng có đó mà. Và bây giờ chẳng có nhu cầu đi tới sông
Hằng nữa: bạn có thể đem sông Hằng theo đường ống
vào nhà bạn, vậy thì mọi ngày, sáng sớm hay chiều tối,
bạn tắm nước sông. Tối sẽ tốt hơn, cho nên tội lỗi của cả
ngày được kết thúc và bạn lại thuần khiết như hoa sen.
Phật nói chẳng cái gì có thể giúp bạn được. Không
có chỗ nào để che giấu khỏi hai điều: kết quả của hành
vi của bạn và cái chết. Chúng sẽ xảy ra.
Thế thì chúng ta phải làm gì? Trở nên có ý thức, và
trong việc trở nên có ý thức đó cả hai đều biến mất.
Trong việc trở nên có ý thức hành động của bạn tự động
trải qua biến đổi. Con người có ý thức không thể làm
được cái gì sai cả, và con người có ý thức đi tới biết
rằng, "Không có cái chết cho tâm thức của mình. Thân
thể sẽ chết, tâm trí sẽ chết, nhưng bản thể bên trong nhất
của mình sẽ không chết. Mình là vĩnh hằng. Amritasya
putrah - mình là con của vĩnh hằng, mình thuộc vào sự
tồn tại vĩnh hằng."
Tâm thức đem hai chân lí này về nhà. Thứ nhất nó
biến đổi thế giới của bạn bằng việc biến đổi hành động
của bạn; thứ hai nó biến đổi lãnh thổ bên trong của bạn
bằng việc làm cho bạn nhận biết rằng bạn là vĩnh hằng.
Khi bạn biết bạn là vĩnh hằng, khi bạn biết rằng bạn bao
giờ cũng hiện hữu và bạn bao giờ cũng sẽ hiện hữu, mọi
giá trị cuộc sống của bạn lập tức bắt đầu thay đổi. Thế
thì bất kì cái gì đã là quan trọng ngày hôm qua không
còn là quan trọng nữa, và bất kì cái gì chưa bao giờ là
quan trọng trước đây nay trở thành quan trọng - bởi vì
bây giờ bạn nghĩ theo vĩnh hằng và không theo thời
gian.
Nghĩ dưới dạng thời gian là chính trị: nghĩ dưới
dạng vĩnh hằng là tôn giáo.
Đủ cho hôm nay.
************************************************************************************************************
#6 Đây có là con đường không?
Câu hỏi thứ nhất:
Thưa thầy kính yêu,
Với tôi dường như là ở đây với thầy nghĩa là buông
bỏ mọi thứ - không chỉ khổ, sợ, buồn và cái gọi là
chỗ tiêu cực, mà còn cả hạnh phúc, yêu thương, cảm
giác tuôn chảy, cái gọi là chỗ tích cực mà bao giờ
cũng là mục đích của tôi. Thưa thầy kính yêu, đây
có phải là con đường không?
Anand Hareesh, tích cực và tiêu cực, đêm và ngày,
mùa hè và mùa đông, sinh và tử - chúng không tách rời
đâu. Nếu bạn muốn buông bỏ cái này, bạn sẽ phải cho
phép cái kia cũng bị buông bỏ.
Đó là một trong những thế tiến thoái lưỡng nan lớn
nhất: mọi người muốn cái tích cực còn lại với họ -
nhưng nếu cái tích cực còn lại, cái tiêu cực còn lại như
cái bóng của nó. Cái tích cực sẽ không có nghĩa gì nếu
không có cái tiêu cực. Nếu bạn không biết bóng tối là gì
bạn sẽ không có khả năng thấy ánh sáng chút nào đâu.
Nếu bạn muốn thấy ánh sáng bạn sẽ phải sẵn sàng kinh
nghiệm bóng tối nữa. Bạn không thể tránh được chết
nếu bạn níu bám lấy sống. Chính sống đem chết vào.
Và mọi người đều muốn níu bám lấy chỗ tích cực và
mọi người đều muốn né tránh chỗ tiêu cực. Điều này là
không thể được - điều này ngược với luật vĩnh hằng.
Nếu bạn quan sát cẩn thận bạn sẽ thấy rằng nếu điều
tiêu cực đang hành hạ bạn quá nhiều thế thì điều tích
cực chỉ là cái che đậy. Bạn ngụ ý gì khi bạn nói rằng bạn
hạnh phúc? Bạn đơn giản ngụ ý rằng “Tại thời điểm này
bất hạnh của tôi đang bị che đậy.” Bạn ngụ ý gì khi bạn
nói rằng “Bây giờ tôi thảnh thơi?” Nó đơn giản nghĩa là
căng thẳng đã đi sâu hơn vào trong vô thức; bây giờ bạn
quên lãng về chúng.
Nhưng sớm hay muộn chúng sẽ khẳng định, sớm
hay muộn chúng sẽ có thời điểm riêng của chúng. Bạn
không thể còn với điều tích cực mãi mãi được. Tiêu cực
và tích cực bao giờ cũng cân bằng nhau: bạn sẽ có nhiều
hạnh phúc như bạn sẵn sàng có bất hạnh.
Do đó một trong các điều bí ẩn: xã hội càng giàu có,
khổ càng nhiều hơn. Không có nước nào khổ nhiều hơn
Mĩ, bởi lẽ đơn giản là Mĩ bây giờ có đỉnh cao nhất của
hạnh phúc nó không thể tránh được chiều sâu thấp nhất.
Đỉnh núi cao là có thể chỉ cùng với thung lũng - đỉnh núi
càng cao, thung lũng càng sâu.
Ở Ấn Độ mọi người cảm thấy rất thoả mãn. Lí do là
họ không biết tới đỉnh cao của hạnh phúc; do đó họ
không biết tới thung lũng của bất hạnh. Họ sống ít nhiều
trên nền trung lập, không tích cực không tiêu cực. Đây
không phải là mãn nguyện đúng đâu, đây đơn giản là
thiếu chỗ của tích cực - do đó chỗ tiêu cực cũng thiếu
luôn.
Mĩ thực sự là nơi hành hạ về tinh thần, chấn động
tâm lí lớn lao. Không xã hội nào đã từng ở vào trạng thái
như vậy. Cá nhân, tất nhiên, đã từng như vậy.
Phật Gautam là con vua. Ông ấy có đủ mọi vui vẻ -
đó là lí do tại sao ông ấy đã trở nên nhận biết về khổ của
cuộc sống. Không phải ngẫu nhiên mà tất cả hai mươi
bốn tirthankaras của người Jainas đều là vua. Phật là
vua, Rama và Krishna là vua, mọi avatara của người
Hindu đều là vua. Có cái gì đó trong nó, cái gì đó rất
nền tảng. Tại sao người ăn xin không trở thành
tirthankaras, avataras, chư phật? Bởi lẽ đơn giản là họ
không biết hạnh phúc là gì - làm sao họ có thể nhận biết
về khổ của cuộc sống được?
Phật nói: Sống là dukkha - thuần khổ. Chỉ vị phật
mới có thể nói được điều đó bởi vì ông ấy đã biết các
đỉnh. Việc biết đỉnh là đồng thời trở nên nhận biết về
thung lũng. Nếu bạn sống mãnh liệt, đam mê, bạn sẽ
nhận biết về cái chết nhiều hơn là người sống theo kiểu
hờ hững, người sống chỉ làng nhàng, người không mãnh
liệt và đam mê trong cuộc sống của mình. Người đó
không thể rất tỉnh táo về cái chết được. Bạn càng lao sâu
vào trong cuộc sống, nhận biết của bạn về cái chết sẽ
càng lớn hơn. Tích cực và tiêu cực liên tục cân bằng lẫn
nhau.
Người Ấn Độ đã giở thủ đoạn với bản thân họ. Họ
đã trở thành trung lập: "Đừng lên các đỉnh cao của vui
vẻ; đó là cách né tránh chiều sâu của khổ, đau, buồn."
Nhưng đây không phải là cuộc cách mạng đúng. Cuộc
cách mạng đúng không phải là bằng việc trở nên dửng
dưng, bằng việc trở nên hờ hững, bằng việc sống cuộc
sống rất, rất đờ đẫn. Cuộc cách mạng thực xảy ra qua
siêu việt.
Hai từ này phải được hiểu bởi vì sự khác biệt là rất
tinh tế và tinh vi: 'dửng dưng' và 'siêu việt'. Dửng dưng
đơn giản có nghĩa là bạn né tránh cái tích cực để né
tránh cái tiêu cực. Siêu việt nghĩa là bạn không né tránh
cái gì cả, không tránh cái tích cực lẫn cái tiêu cực. Bạn
sống cái tích cực trong tính toàn bộ của nó và bạn sống
cái tiêu cực trong tính toàn bộ của nó, bằng một phẩm
chất mới - và phẩm chất đó là phẩm chất của nhân
chứng. Bạn sống một cách toàn bộ nhưng đồng thời bạn
vẫn còn tỉnh táo, nhận biết một cách im lặng.
Bạn biết hạnh phúc bao quanh bạn nhưng bạn không
phải là nó; bạn biết bất hạnh bao quanh bạn nhưng bạn
không phải là nó. Bạn biết nó là ngày nhưng bạn không
là nó, và bạn biết nó là đêm nhưng bạn không là nó. Bạn
biết bây giờ bạn đang sống động nhưng bạn không là nó;
thế thì khi bạn sẽ chết bạn sẽ biết bạn không là nó. Đây
là siêu việt.
Neti, neti - không cái này không cái nọ - là công
thức bí mật của siêu việt: không tích cực không tiêu cực.
Nhưng điều đó không có nghĩa là không sống điều tích
cực và tiêu cực. Nếu bạn né tránh việc sống bạn sẽ trở
nên đờ đẫn, rất đờ đẫn; bạn sẽ đánh mất mọi thông
minh.
Đó là khác biệt giữa tính chất sannyas cũ và cách
nhìn mới của tôi về tính chất sannyas. Tính chất sannyas
cũ dạy bạn dửng dưng, trung lập: "Đừng đi lên đỉnh núi
cao để ông không cần phải ngã vào chiều sâu." Toán học
đơn giản! "Đừng hạnh phúc, thế thì ông sẽ không bất
hạnh." Làm sao bạn có thể bất hạnh được nếu bạn chưa
bao giờ hạnh phúc? "Đừng hân hoan, thế thì sẽ không có
buồn rầu, và đừng cười, thế thì nước mắt là không thể
được." Đây là toán học đơn giản, nhưng không phải là
chân lí của siêu việt, không phải là chân lí của tính chất
sannyas thực.
Tính chất sannyas thực nghĩa là: cười sâu sắc, nhưng
nhớ bạn không phải là tiếng cười; và khóc và than sâu
sắc, để nước mắt chan hoà, toàn bộ trong nó, và vậy mà
vẫn tỉnh táo, ngọn lửa bên trong quan sát tất cả nó.
Hareesh, bạn là để siêu việt lên, không từ bỏ. Nếu
bạn từ bỏ bạn bỏ lỡ vấn đề. Và khi tôi nói, "Buông bỏ!"
tôi đơn giản ngụ ý không níu bám. Tôi không nói bạn
đừng cố gắng hạnh phúc. Làm mọi nỗ lực có thể được
để hạnh phúc, vui vẻ, nhưng nhớ rằng buồn sẽ theo sau -
điều đó là tự nhiên. Chấp nhận nó, và khi nó tới, đừng
chạy khỏi nó, đừng trốn khỏi nó. Điều đó nữa cũng là
đẹp, một phần của cuộc sống, một phần của trưởng
thành; không có nó sẽ không có chín chắn. Đi sâu vào
trong nó.
Vui vẻ có cái gì đó đóng góp cho trưởng thành của
bạn, và buồn rầu cũng vậy. Vui vẻ đem tới sự tươi tắn,
sự tươi tắn của giọt sương sớm. Vui vẻ đem tới tuổi trẻ,
vui vẻ đem tới điệu vũ cho trái tim bạn. Buồn rầu cũng
đem tới nhiều món quà nhưng bạn trốn khỏi buồn rầu;
do đó bạn chưa bao giờ trở nên nhận biết về những món
quà này. Buồn rầu đem tới im lặng mà không vui vẻ nào
có thể đem tới được. Vui vẻ bao giờ cũng có chút ít ồn
ào; buồn rầu hoàn toàn im lặng. Vui vẻ bao giờ cũng có
chút ít nông cạn; buồn rầu là sâu sắc, nó có chiều sâu.
Vui vẻ bao giờ cũng làm bạn quên đi bản thân mình; sẽ
dễ dàng hơn để nhấn chìm bạn vào vui vẻ, để làm bạn bị
ngất ngây với vui vẻ. Nó giữ bạn vô ý thức. Buồn rầu
đem tới nhận biết bởi vì bạn không thể nhấn chìm bản
thân mình trong nó được. Bạn không thể tham gia được,
bạn phải đứng ở ngoài - bởi vì bạn không muốn nó!
Bài học đầu tiên về chứng kiến xảy ra trong buồn
rầu. Người ta học chứng kiến trong buồn rầu và chỉ thế,
về sau, cùng việc chứng kiến đó có thể được áp dụng
cho những khoảnh khắc của hoan lạc. Nhưng chính bằng
việc chứng kiến mà người ta siêu việt lên.
Và khi tôi nói, "buông bỏ nó tất cả đi, cả cái tích cực
và cái tiêu cực," tôi đơn giản ngụ ý không níu bám,
không bị đồng nhất. Tôi không nói, "Từ bỏ đi!" Sống đi,
và vậy mà sống ở trên. Bước đi trên đất, nhưng không,
đừng để chân bạn chạm đất. Vâng, có nghệ thuật cho
điều đó đấy.
Và đó là điều tính chất sannyas tất cả là gì: nghệ
thuật của việc sống trong thế giới mà không là một phần
của nó, nghệ thuật sống cuộc sống mà không bị đồng
nhất với nó. Đó là buông bỏ thực là gì.
Tính chất sannyas cũ là tính chất của dửng dưng.
Đích xác đó là từ được dùng trong kinh sách cổ: một
sannyasin trở thành udasin - dửng dưng với mọi cái
đang đấy - vairagya. Người đó trở thành lạnh lẽo và tách
rời. Người đó trốn khỏi thế giới nhị nguyên. Người đó đi
vào trong tu viện hay trong hang động Himalaya, sống
một mình, sống không có vui vẻ, không có nỗi buồn.
Người đó sống một loại cái chết: người đó đã trong
nấm mồ của mình, người đó không sống. Cuộc sống của
người đó không đáng gọi là cuộc sống. Người đó đã sa
ngã xuống thấp hơn nhân loại; người đó ở gần với con
vật hơn là với con người. Do đó việc tìm kiếm của
người đó là về hang động, rừng sâu, rừng rậm, núi non,
sa mạc - người đó sợ việc ở cùng con người. Người đó
muốn rơi xuống dưới con người, bởi vì con người nhất
định bị phân chia bởi tính phân cực lớn lao này, tích cực
và tiêu cực, và người đó sợ điều đó.
Nhưng sannyasin thực - sannyasin theo cách nhìn
của tôi - sống trong thế giới, trong sự dầy đặc của nó,
trong thế giới đậm đặc. Người đó không từ bỏ cái gì cả.
Người đó sống cuộc sống toàn bộ nhất có thể được, bởi
vì nếu Thượng đế đã cho cuộc sống điều đó có nghĩa là
có cái gì đó để đạt tới qua nó. Chỉ bằng việc sống nó
người ta mới có thể đạt tới nó được, chỉ bằng việc sống
nó mới có cái gì đó để được học. Siêu việt phải được
học; đó là món quà lớn lao của cuộc sống.
Nếu bạn trở nên ngày một ý thức hơn, việc buông bỏ
sẽ xảy ra và vậy mà bạn sẽ vẫn ở đây và bây giờ, và còn
nhiều hơn cả trước đây. Bạn sẽ ăn và bạn sẽ nếm nhiều
hơn. Bạn sẽ yêu và bạn sẽ có kinh nghiệm cực thích sâu
sắc hơn. Bạn sẽ chơi và trò chơi của bạn sẽ có cái gì đó
tâm linh trong nó. Cuộc sống thường của bạn sẽ trở
thành thiêng liêng.
Chỉ một điều phải được đưa vào: chứng kiến.
****************************************************
#6Câu hỏi thứ hai:
Thưa thầy kính yêu,
Tôi cảm thấy ngày một nhiều là cuộc sống này là cái
gì đó kì diệu. Đây có phải là cách thầy nhìn cuộc
sống không? Đây có phải là điều thầy ngụ ý bởi tính
thượng đế cho mọi điều về chúng tôi không?
Vâng, Anand Nur, điều đó chính xác là điều tôi ngụ
ý đấy. Với "Thượng đế" tôi không ngụ ý một người. Với
"Thượng đế" tôi ngụ ý điều kì diệu đang bao quanh bạn,
điều bí ẩn, điều huyền bí. Với "Thượng đế" tôi không
ngụ ý bất kì người nào đã tạo ra thế giới này, mà là bản
thân việc sáng tạo. Chính quá trình sáng tạo là Thượng
đế.
Do đó bạn không thể tôn thờ Thượng đế được, bạn
không thể cầu nguyện Thượng đế được. Mọi lời cầu
nguyện đều là giả bởi vì chúng đều được đề cập tới một
Thượng đế người - và không có Thượng đế người. Bạn
không thể quan hệ với Thượng đế được, không thể gọi
ngài là "cha," "mẹ." Ngài không phải là người; mối quan
hệ là không thể được. Thế thì làm sao tôn thờ, làm sao
cầu nguyện được? Bạn sẽ phải học cách cầu nguyện và
tôn thờ mới.
Có tính sáng tạo là tôn thờ. Có tính sáng tạo là tham
gia vào quá trình vĩ đại của sáng tạo - và tham gia vào
tính sáng tạo là tham gia vào Thượng đế. Trong một
khoảnh khắc bạn được mang đi. Khi bạn vẽ cái gì đó
bạn không còn đó nữa; bạn đã trở thành chỉ là lực sáng
tạo. Khi bạn đang chơi nhạc, nếu bạn không chỉ là nhà
kĩ thuật mà thực sự là nhạc sĩ, người yêu nhạc, thế thì
bạn biến mất - thế thì bản ngã không còn đó nữa. Ít nhất
trong vài khoảnh khắc hiếm hoi đó, khoảnh khắc tựa
kim cương, cực kì quí giá, cửa sổ nào đó mở ra. Bạn
không còn nữa, không như một bản ngã.
Thượng đế không phải là người, ngài không phải là
bản ngã. Và nếu bạn muốn gặp Thượng đế bạn sẽ phải là
cái gì đó tương tự: một vô ngã, một vô-nhân. Thượng đế
là sự hiện diện. Nếu bạn muốn có bất kì giao cảm nào
với Thượng đế bạn sẽ phải học cách chỉ là sự hiện diện
và không là người; tỉnh táo, tràn đầy tỉnh táo, nhưng
không có ý tưởng nào về "tôi."
Và cách tốt nhất để cho cái "tôi" này biến mất không
phải là qua khổ hạnh, yoga, nhịn ăn - không đâu. Nó là
qua tính sáng tạo. Tôi dạy bạn yoga của tính sáng tạo,
bởi vì với tôi đó là yoga duy nhất. Từ 'yoga' nghĩa là hợp
nhất; khi bạn có tính sáng tạo bạn ở trong trạng thái hợp
nhất với Thượng đế. Đứng trên đầu bạn không ích gì
mấy đâu, thực ra nó sẽ chẳng ích lợi chút nào. Bạn có
thể đứng trên đầu bạn trong nhiều kiếp - điều đó sẽ chỉ
làm một việc thôi: nó sẽ làm cho bạn ngu đi!
Và tôi đang nói một chân lí khoa học, tôi không nói
đùa đâu; tôi rất nghiêm chỉnh về điều đó. Nếu bạn đứng
trên đầu mình trong thời gian dài bạn sẽ trở nên ngu si,
bởi vì não bạn bao gồm hệ thần kinh rất, rất tinh tế.
Những thần kinh đó mảnh dẻ thế... chúng mảnh hơn sợi
tóc. Cái đầu nhỏ bé của bạn chứa hàng triệu thần kinh;
bạn không thể thấy được chúng bằng mắt thường đâu,
chúng mảnh mai thế. Nếu bạn đứng trên đầu mình quá
lâu, máu xô về đầu, và trong sự ngập lụt đó những thần
kinh kia sẽ bị phá huỷ.
Thực ra, các nhà khoa học nói con được đạt tới tâm
trí, não, bởi vì con người đứng trên hai chân - đứng
thẳng. Con vật đã không đạt tới tâm trí bởi vì chúng vẫn
còn song song với đất. Đầu chúng nhận quá nhiều máu;
do đó chúng không thể phát triển được hệ thần kinh tinh
tế. Chính chỉ con người mới có khả năng phát triển hệ
thần kinh tinh tế, cái có thể duy trì tâm thức vĩ đại, cái
có thể duy trì thông minh vĩ đại.
Rất hiếm khi bắt gặp người thông minh, cái gọi là
nhà yoga - tôi chưa bắt gặp một người như vậy! Những
người vặn xoắn thân thể mình và làm đủ mọi loại thủ
thuật xiếc và đứng trên đầu mình, họ có thể có thân thể
khoẻ mạnh - họ có thể có vậy; nhiều thể dục thế nhất
định cho bạn thân thể mạnh khoẻ hơn, giống con vật
hơn - nhưng họ không có thông minh. Tôi chưa bắt gặp
nhà yoga thực sự thông minh, và một trong các lí do là ở
chỗ hệ thần kinh tinh tế, tinh vi của họ bị ngập lụt quá
nhiều với máu.
Bạn không thể ngủ được trong đêm mà không có
gối. Bạn có biết tại sao không? - bởi vì quá nhiều máu đi
vào đầu. Nó giữ cho toàn thể hệ thần kinh của bạn rung
động. Bạn cần chiếc gối. Gối giữ cho luồng máu ít chảy
lên đầu; bạn có thể ngủ, bạn có thể nghỉ ngơi, bạn có thể
thảnh thơi.
Với "yoga" tôi đích xác ngụ ý việc dịch nghĩa đen
của từ này: hợp nhất, giao cảm. Khi bạn đang vẽ hay
chơi nhạc hay nhảy múa hay ca hát, thế thì bạn đang
trong trạng thái của yoga.
Trong công xã của tôi, điều này sẽ là yoga: bạn phải
sáng tạo. Và bạn càng sáng tạo nhiều, bạn càng trở nên
có khả năng sáng tạo hơn. Bạn càng sáng tạo nhiều,
thông minh của bạn càng sắc bén hơn. Bạn càng sáng
tạo nhiều, bạn càng trở nên sẵn có cho cội nguồn vô hạn
của sáng tạo - tức là, Thượng đế. Bạn càng sáng tạo, bạn
càng trở thành phương tiện - phương tiện cho điều kì
diệu tuôn chảy qua bạn.
Vâng, Anand Nur, với "Thượng đế" tôi ngụ ý điều
kì diệu bao quanh bạn đấy. Bạn không thể cảm nhận
thấy điều kì diệu đang bao quanh bạn mọi khoảnh khắc
sao - chính khoảnh khắc này? Chim đang tạo ra âm
thanh... cây hoàn toàn im lặng, trong trạng thái thiền...
và tất cả các bạn ở đây cùng tôi, xa khỏi đất nước... im
lặng tràn khắp. Bạn hoàn toàn hài hoà cùng tôi, thở cùng
tôi, tim bạn đập cùng tim tôi. Bạn không thể thấy được
điều kì diệu của bây giờ, của ở đây sao, và cái đẹp của
nó cùng phúc lành? Đây là Thượng đế đấy!
Thượng đế không thể được tìm trong đền chùa và tu
viện và gurudwaras và nhà thờ đâu. Thượng đế chỉ được
tìm thấy trong bầu đoàn của chư phật, bởi vì chính trong
bầu đoàn chư phật mà bạn mới trở nên nhận biết về sự
tồn tại kì diệu này.
****************************************************
#6Câu hỏi thứ ba:
Thưa thầy kính yêu, sao mọi người chống thầy nhiều
thế?
Sudheer, họ không chống tôi nhiều như họ sợ tôi
đâu. Do sợ mà họ chống đối, như nguyên nhân gốc rễ là
sợ. Và sao họ sợ? - bởi vì họ không hiểu. Đó là hiểu
lầm. Điều đó bao giờ cũng xảy ra, nó nhất định xảy ra;
nó không phải là cái gì mới.
Tôi nói điều này, họ hiểu cái gì đó khác bởi vì tâm
trí của họ mang định kiến. Họ đã được nuôi dưỡng lớn
lên theo những truyền thống nào đó và tôi đang phá tan
mọi truyền thống! Họ đã được nuôi lớn để nghĩ theo
cách thức nào đó, và toàn thể nỗ lực của tôi ở đây là để
đưa bạn ra ngoài suy nghĩ.
Mọi người đều theo tập quán, là người tuân thủ, có
tính truyền thống. Và với tôi tôn giáo là nổi dậy - nổi
dậy chống lại mọi tập quán, chống lại mọi sự tuân thủ,
chống lại mọi truyền thống. Tôn giáo không bao giờ là
truyền thống, không bao giờ có thể là truyền thống
được. Khoa học có thể là truyền thống nhưng tôn giáo
không bao giờ.
Khoa học thực sự là truyền thống. Rút Newton ra -
trong một khoảnh khắc nghĩ cứ dường như Newton chưa
bao giờ sinh ra - thế thì không thể có Albert Einstein
được. Albert Einstein là có thể chỉ nếu Newton xảy ra
trước. Khoa học là truyền thống, nó là sự liên tục. Rút
một viên gạch ra và toàn thể dinh thự sụp đổ.
Nhưng tôi có thể có mà chẳng cần đã có một Christ.
Tôi có thể có không phải bởi vì đã có một Mahavira hay
một Patanjali, không phải bởi vì đã từng có một Phật
hay một Khổng Tử hay Lão Tử. Tôn giáo không phải là
sự liên tục; nó là hiện tượng cá nhân, nó là việc nở hoa
cá nhân. Bạn có thể trở nên thức tỉnh cho dù bạn không
nhận biết về bất kì ai đã từng trở nên thức tỉnh trước
đây. Bạn không có liên quan tới quá khứ theo cùng cách
như khoa học có liên quan.
Đó là lí do tại sao chân lí khoa học, một khi được
phát hiện ra, trở thành tài sản của mọi người khác.
Albert Einstein đã làm việc vất vả trong mười ba năm để
phát hiện ra lí thuyết tương đối; bây giờ bạn có thể đọc
tất cả về nó trong vài giờ - bạn không cần khám phá ra
nó lần nữa. Edisons đã làm việc trong nhiều năm, ít nhất
là ba năm, để khám phá ra bóng đèn điện đầu tiên; bây
giờ bạn có thể cứ sản xuất ra bóng điện - bạn không cần
Edisons sản xuất chúng. Người lao động thường chẳng
biết gì về điện cũng có thể làm được việc này - họ đang
làm nó.
Nhưng chân lí tôn giáo là hoàn toàn khác: bạn phải
khám phá chúng lặp đi lặp lại. Điều Phật đã khám phá ra
không trở thành tài sản phổ dụng. Nó chết đi cùng ông
ấy, nó biến mất cùng ông ấy; nó là hương vị cá nhân. Đó
là cái đẹp của tôn giáo: rằng nó không bao giờ trở thành
hàng hoá ở bãi chợ. Do đó khoa học có thể được dạy
trong trường học, cao đẳng, đại học; tôn giáo không thể
được dạy. Tôn giáo không thể được dạy chút nào; bạn
không thể được cho biết về tôn giáo. Bạn phải khám phá
ra nó theo cách riêng của bạn.
Vâng, bạn có thể được hứng khởi, nhưng hứng khởi
không phải là thông tin. Bạn có thể được hứng khởi bởi
sự hiện diện của vị phật, bạn có thể trở nên bắt lửa. Bạn
có thể đạt tới khát khao bùng cháy được giống như vị
phật, nhưng bạn sẽ phải khám phá ra mọi thứ theo cách
riêng của bạn. Và bạn sẽ không có khả năng trao nó cho
con bạn như một di sản kế thừa. Mọi điều bạn có thể
cho, mọi điều bạn có thể truyền đạt, là khao khát mãnh
liệt về chân lí, có vậy thôi - nhưng không phải là bản
thân chân lí.
Do đó rất khó cho quần chúng hiểu được điều tôi
đang nói. Nó đã là khó khi Phật còn ở đây, nó đã là khó
khi Jesus còn ở đây - nó bao giờ cũng sẽ là khó bởi vì
quần chúng sống theo quá khứ. Họ được nuôi dưỡng,
liên tục nuôi dưỡng, theo cách truyền thống. Họ đã được
bảo cái gì là đúng, cái gì là sai; họ đã được bảo liệu
Thượng đế có tồn tại hay không, và họ đã học mọi điều
này. Và họ đã tích luỹ nhiều thông tin tới mức tâm trí
của họ đầy tri thức; họ nghĩ họ đã biết rồi.
Cho nên khi bất kì ai tới và đem hệ thống tôn giáo
mới vào thế giới này, khi bất kì ai đem sự khải lộ mới,
khi bất kì ai trở nên sẵn có cho Thượng đế, trở thành
phương tiện của Thượng đế, mọi người đều bị bối rối,
định kiến của họ bị tan tành. Quan niệm cũ của họ
không được làm mạnh - ngược lại, họ bắt đầu cảm thấy,
"Nếu người này là đúng thế thì chúng ta tất cả đều sai
sao... mà không chỉ chúng ta mà cả ông cha chúng ta và
ông cha của họ nữa." Điều này đi ngược lại bản ngã của
họ. Họ sẽ thà níu bám lấy bản ngã riêng của mình còn
hơn là nghe chân lí.
Và thế rồi bởi vì định kiến của mình họ cứ nghe
điều gì đó không được nói. Tôi nói một điều, họ lập tức
diễn giải nó theo những ý niệm riêng của họ. Họ không
nghe trong im lặng; họ nghe qua đủ mọi loại rào chắn
của ý nghĩ.
Chẳng hạn, có người Do Thái, người Mô ha mét
giáo, người Hindu, người Ki tô giáo, người Jaina, Phật
tử, người Sikh - đủ mọi loại người tụ hội ở đây. Bạn cho
rằng khi tôi nói điều gì đó người Do Thái nghe cùng
điều như người Jaina nghe, người Mô ha mét giáo nghe
cùng điều như người Ki tô giáo nghe, Phật tử nghe cùng
điều người Hindu nghe sao? Không thể được đâu!
Người Mô ha mét giáo có ý niệm riêng của người đó...
Chẳng hạn, nếu tôi nói về tái sinh, thế thì người Ki
tô giáo, người Do Thái và người Mô ha mét giáo có chút
ít cảnh giác, một cách vô ý thức, bởi vì họ đã được bảo
chỉ có một kiếp sống thôi; họ không thể tin cậy được
rằng có nhiều kiếp sống. Nhưng khi tôi nói về tái sinh
người Hindu sung sướng, tuyệt đối vui lòng. Phật tử vui
lòng, người Jaina vui lòng, tuyệt đối vui lòng. Không có
vấn đề trong tâm trí họ. Không phải là họ đồng ý với tôi
đâu - họ sung sướng bởi vì tôi đồng ý với họ đấy! Và đó
là cách nó là vậy cho từng phát biểu.
Lời không có nghĩa rõ ràng nào - chúng không thể
có được; bằng không thì từng trao đổi sẽ trở thành rất
khoa học. Lời có nhiều nghĩa, nhiều sắc thái, cho nên
khi bạn nghe thấy một lời bạn có thể cho nó mầu sắc của
riêng bạn. Bạn có thể nghe theo cách riêng tư, cá nhân
riêng của mình. Bạn có nghĩa riêng tư của mình.
Khi tôi nói về Thượng đế, việc nghe của Phật tử ở
đây sẽ lập tức dừng nghe, điều đó tuyệt đối tự động. Một
cách tự động người đó sẽ ngãng ra. Thượng đế sao? -
người đó đã được bảo rằng toàn thể ý niệm này là vô
nghĩa. Và khi Phật đã nói rằng toàn thể ý niệm này là vô
nghĩa, thì nó phải vậy rồi. Và không chỉ Phật - trong hai
mươi nhăm thế kỉ nhiều nhà huyền môn khác những
người đã đạt tới điều tối thượng cũng đều nói cho người
đó rằng Thượng đế không có đó. Nhưng người Hindu,
người Mô ha mét giáo, người Ki tô giáo, người Do Thái,
họ tuyệt đối vui lòng, sung sướng vô cùng rằng vâng, tôi
đang nói về Thượng đế - Thượng đế của họ! Người
Jaina và Phật tử sẽ không sung sướng đâu; họ không tin
vào Thượng đế.
Khi tôi nói về linh hồn, người Jaina sẽ sung sướng,
người Hindu sẽ sung sướng, người Mô ha mét giáo,
người Ki tô giáo, người Do Thái - mọi người ngoại trừ
Phật tử. Người này không tin vào linh hồn. Người đó nói
không có thực thể cá nhân, mọi thứ đều là luồng chảy.
Cũng như sông Hằng cứ thay đổi mọi khoảnh khắc,
cũng như bạn không thể bước vào cùng một dòng sông
hai lần, bạn không thể gặp cùng một người lần nữa đâu.
Chẳng có gì thường hằng cả, chẳng cái gì hết cả. Ngoại
trừ thay đổi, mọi thứ đều thay đổi. Phật tử, khoảnh khắc
tôi nói về linh hồn hay Thượng đế, dừng việc nghe lại.
Người đó nói, "Điều này không dành cho tôi." Không
phải là người đó làm điều đó một cách có ý thức đâu -
đây là thói quen vô ý thức, sự ước định.
Không có nhiều người chống lại tôi đâu; thực tại là
họ không hiểu điều tôi đang nói tới, hay họ hiểu điều gì
đó hoàn toàn khác mà không được nói tới. Họ không
nhận biết điều tôi đang làm ở đây. Họ không tới đây, họ
phụ thuộc vào báo chí. Một số nhà báo hạng ba tới và
tường trình cái gì đó - người đó có thể tường trình cái gì
về thiền được? Người đó đã bao giờ thiền đâu.
Nhìn vào cái ngu xuẩn của thế giới này đi! Bạn
không cử nhà báo tới tường trình về cuộc giải phẫu nếu
người đó không biết gì về giải phẫu - hay bạn vẫn cử?
Nếu sẽ có cuộc hội nghị về giải phẫu, bạn cử ai đó quen
thuộc kĩ với thế giới của giải phẫu; chỉ người đó có thể
tường trình được. Nếu các nhà vật lí đang họp, các bài
báo được trình bày và thảo luận và bạn cử ai đó tới, bạn
phải cử một chuyên gia biết vật lí là gì tới chứ. Và vật lí
hiện đại là hiện tượng rất, rất tiến hoá; nó cần nhiều năm
học tập. Người ta phải là nhà vật lí. Bạn không thể phụ
thuộc vào một nhà báo chung chung người cứ tường
trình về các chính khách tầm thường và những diễn văn
ngu xuẩn của họ. Bạn không cử cùng kiểu nhà báo đó
tới tường trình khi các nhà vật lí đang nói; bạn phải cử
một người đặc biệt hay bạn phải chỉ định một nhà vật lí
để tường trình về cuộc hội nghị này, bởi vì chỉ người đó
mới có khả năng hiểu.
Người ta nói rằng khi Albert Einstein còn sống, chỉ
mười hai người thực sự hiểu - trên khắp thế giới - điều
ông ấy nói tới. Bây giờ, ai sẽ tường trình về ông ấy? Chỉ
một trong mười hai người này có khả năng tường trình
về Albert Einstein và lí thuyết tương đối của ông ấy theo
cách mà ít nhất thoáng nhìn nào đó trở thành có thể cho
quần chúng bình thường.
Nhưng khi bạn cử một phóng viên tới đây, bạn
chẳng bao giờ hỏi han, bạn chẳng bao giờ yêu cầu rằng
người đó phải là thiền nhân, rằng người đó phải biết cái
gì đó về thiền, cái gì đó về yoga, cái gì đó về Sufi giáo,
Zen, Đạo, Mật tông. Không, đây không phải là yêu cầu.
Bất kì một Tom, Harry, Dick nào cũng được coi là
hoàn toàn có khả năng tường trình về thiền, về Mật tông,
về Đạo, về Zen, về Sufi giáo. Và mọi người phụ thuộc
vào tường trình của anh ta, còn anh ta không bao giờ
thiền trong đời mình. Anh ta không bao giờ có một
khoảnh khắc của thiền. Anh ta không biết gì về trạng
thái vô ý nghĩ. Anh ta không biết gì về những khoảng hở
đó, những chỗ đó, nơi tâm trí biến mất, bản ngã biến
mất, thời gian biến mất. Làm sao anh ta có thể hiểu
được?
Chỉ bằng việc quan sát mọi người ngồi im lặng, bạn
sẽ có khả năng hiểu cái gì đó sao? Nếu ai đó đang ngồi
im lặng với mắt nhắm...? Bạn có thể chụp ảnh người đó
nhưng bạn sẽ không có khả năng chụp ảnh điều xảy ra
bên trong. Bạn có thể thấy mọi người nhảy múa, bạn có
thể thấy họ giống như người Sufis, thầy tu đạo Hồi quay
tít; bạn có thể thấy họ nhảy múa và bạn sẽ tường trình
rằng bạn thấy mọi người múa, nhảy - nhưng làm sao bạn
sẽ biết thế giới bên trong của họ?
Bạn phải tham gia chứ! Bạn phải đích thân nhảy
múa. Bạn phải nếm hương vị của nó chứ. Chỉ thế thì bạn
mới có khả năng tường trình cái gì đó về nó - chỉ cái gì
đó thôi, không phải tất cả về nó, bởi vì tất cả về nó là
không thể tường trình được, tất cả về nó là không thể
diễn đạt được.
Và khi những người này tường trình, những người
không hiểu, bản tường trình của họ chỉ có tính gây giật
gân. Và thế rồi quần chúng đọc chúng, và họ thậm chí
đọc báo cáo đó theo ý niệm riêng của họ nữa. Thế thì
hiểu lầm chồng chất lên hiểu lầm, hết tầng hiểu lầm nọ
tới tầng hiểu lầm kia! Tôi phải là người bị hiểu lầm
nhiều nhất trên đất nước này vào khoảnh khắc này.
Carolyn, một cô bán hàng rong đẫy đà, đang đợi tới
lượt mình đăng kí vào một motel thì cô ấy nghe lỏm
nhân viên đứng quầy nói với Zabroski, người đứng
trước cô ấy, rằng anh ta đã nhận căn phòng cuối cùng.
Cô ấy chờ cho người Ba Lan rời khỏi bàn và rồi tiến tới
anh ta.
"Không còn motel nào khác trong vòng vài dặm và
tôi mệt gần chết," cô ấy van nài. "Anh trông đấy - anh
không biết em, em không biết anh, họ không biết chúng
ta, chúng ta không biết họ. Thế em nghỉ đêm cùng với
anh có được không?"
"Tôi không quan tâm," Zabroski nói.
Họ đi vào phòng của anh ta; anh ta cởi quần áo ra và
cô ấy cũng làm như vậy. "Nghe đây," cô ấy nói, "anh
không biết em, em không biết anh, họ không biết chúng
ta, chúng ta không biết họ. Chúng ta cùng uống một chút
đi. Em có một chai rượu đây."
Sau khi họ đã đi tới điểm cao hơn một chút, cô ấy
ôm ấp anh ta và thì thào, "Anh không biết em, em không
biết anh, họ không biết chúng ta, chúng ta không biết họ
- chúng ta làm tiệc đảng ăn đi."
"Này," người Ba Lan nói, "nếu anh không biết em
và em không biết anh và họ không biết chúng ta và
chúng ta không biết họ - ai là đồ chết tiệt mà chúng ta
mời vào đây?"
Bây giờ từ ‘đảng - party' đang tạo ra rắc rối! Người
Ba Lan hiểu theo ý tưởng của mình về đảng phái.
Carolyn có cái gì đó khác trong tâm trí mình - bữa tiệc
thực!
Điều tôi đang nói là hoàn toàn khác với điều được
người ngoài hiểu. Nhưng điều đó là tự nhiên và tôi chấp
nhận nó. Tôi không miễn cưỡng, không phàn nàn về
điều đó. Đó là cách nó vẫn diễn ra.
Tôi chỉ có thể được hiểu bởi những người đang
trong tình yêu sâu sắc, người đang trong tin cậy sâu sắc
với tôi. Tôi có thể được hiểu chỉ bởi những người đã sẵn
sàng gạt tâm trí họ sang bên. Trong trạng thái của im
lặng đó, cái gì đó từ tôi có thể khuấy động trái tim bạn,
có thể lẩy cò cho một quá trình hiểu biết.
****************************************************
#6Câu hỏi thứ tư:
Thưa thầy kính yêu,
Nổi dậy và buông xuôi gặp nhau ở đâu?
Prem Rajo, nổi dậy và buông xuôi gặp nhau trong
quan điểm về bản ngã. Vứt bỏ bản ngã và buông xuôi
đồng thời xảy ra, và nổi dậy cũng thế.
Tôi biết điều bạn ngụ ý bởi câu hỏi của bạn. Bạn
ngụ ý rằng nổi dậy và buông xuôi dường như là đối lập
cực - làm sao chúng có thể gặp nhau được? Làm sao
người ta có thể có tính nổi dậy và buông xuôi được? Đó
là câu hỏi của bạn. Đó là cách tâm trí nghĩ về nổi dậy và
buông xuôi; qua tâm trí bạn không thể thấy chúng gặp
nhau ở đâu cả.
Người buông xuôi sẽ có vẻ không nổi dậy. Người có
tính nổi dậy bao giờ cũng không vâng lời - làm sao
người đó có thể buông xuôi được? Người đó có thể chết,
nhưng người đó sẽ không buông xuôi.
Bạn chỉ biết một loại buông xuôi: buông xuôi bị áp
đặt lên bạn, buông xuôi không do bạn làm mà bạn bị
buộc phải làm nó - với đầu mũi dao gí vào bạn bị buộc
phải buông xuôi. Đó không phải là buông xuôi mà tôi
đang nói tới.
Tôi đang nói về một loại buông xuôi hoàn toàn
khác. Bạn không bị ép buộc - bạn thấy ra cái xấu xí của
bản ngã, bạn thấy khổ của bản ngã, bạn thấy bản ngã sặc
mùi, và bạn dùng thầy như cái cớ để vứt bỏ bản ngã.
Thầy bao giờ cũng là cái cớ - nhớ lấy.
Khi bạn buông xuôi theo tôi bạn không buông xuôi
theo bất kì ai nói riêng - bởi vì tôi không có đó như một
người. Và khi bạn buông xuôi tôi không nhận việc
buông xuôi của bạn đâu, nhớ lấy - bởi vì chẳng có gì để
buông xuôi cả, chỉ là ý niệm giả về bản ngã thôi.
Điều đó cũng giống như một người tin rằng mình
giầu có và người đó không thế, và người đó tới tôi và
người đó nói, "Tôi buông xuôi toàn thể vương quốc của
tôi cho thầy." Tôi nói, "Được thôi, tôi chấp nhận."
Tôi chấp nhận để cho bạn có thể gạt bỏ đi điều vô
nghĩa này. Bạn không có nó, cho nên nó sẽ không tạo ra
rắc rối gì cho tôi đâu.
Hai anh chàng hippies đang nghỉ dưới gốc cây. Lúc
đó là đêm trăng tròn, và họ đang thực sự hưng phấn.
Người này nhìn lên trăng rồi nói, "Tôi muốn mua nó, và
tôi sẵn sàng trả với bất kì giá nào."
Người kia nói, "Quên chuyện đó đi, bởi vì tôi không
định bán nó."
Khi bạn buông xuôi bản ngã của mình bạn không
buông xuôi cái gì thực cả, chỉ là ý tưởng thôi. Nếu nó là
cái gì đó thực, thế thì thầy sẽ bị nặng gánh bởi biết bao
nhiêu bản ngã, thầy chắc chết rồi! Thầy sẽ phải mang cả
một Himalaya bản ngã; thầy sẽ không thể nào sống nổi;
thậm chí không thể bước đi được, thậm chí không thể
thở được. Tôi có một trăm nghìn sannyasins trên thế giới
- bây giờ, nếu tôi phải giữ một trăm nghìn bản ngã, thế
thì Vivek sẽ phát điên!
Cô ấy phát điên về các thứ khác mà cô ấy phải thu
xếp. Bao nhiêu quà tặng tới tôi và cô ấy muốn giải quyết
chúng ngay lập tức, bởi vì nó trở thành gánh nặng lên cô
ấy là cứ phải thu thập chúng và theo dõi dấu vết chúng ở
đâu và giữ cho chúng sạch sẽ. Bây giờ cô ấy rất lo lắng
về những cái bút máy của tôi. Ngày nào cô ấy cũng hỏi,
"Khi nào thầy định phân phát những cái bút này?" - bởi
vì nó đang trở thành vấn đề cho cô ấy. Tôi nghĩ tôi phải
có hai trăm cái hay hơn, và tôi đang chờ đợi để cho ít
nhất tôi có thể cho mỗi sannyasin một chiếc bút máy -
tôi đang chờ đợi! Ngay bây giờ nó sẽ là vấn đề cho tôi;
cho ai và không cho ai, cho nên tôi cứ bảo Vivek, "Đợi
chút đã, đợi đã." Và tôi bảo nhiều người, "Cứ đem
chúng tới!" Bây giờ Niranjana đặc biệt sắp đi sang
phương Tây để đem về thật nhiều bút máy có thể được.
Nhưng nếu tôi phải giữ mọi bản ngã này điều đó sẽ là
không thể được - Nhà Lão Tử quá nhỏ!
Tôi chấp nhận bản ngã của bạn một cách hạnh phúc
bởi vì không có vấn đề gì trong việc chấp nhận nó. Bạn
không đưa cái gì cho tôi, tôi không nhận cái gì từ bạn.
Nhưng bạn đang gạt bỏ một ý niệm, một giả tưởng, và
việc gạt bỏ nó của bạn mới là vấn đề. Nó không phải là
việc buông xuôi bị áp đặt lên bạn; nó là việc buông xuôi
từ hiểu biết riêng của bạn.
Và thế rồi nổi dậy xảy ra theo cách riêng của nó, bởi
vì một người không bản ngã là người nổi dậy nhất trên
thế giới. Lại nhớ lấy: khi tôi dùng từ 'nổi dậy' tôi không
ngụ ý nó theo nghĩa chính trị đâu. Người không bản ngã
không thể có chính trị được. Chính trị cần bản ngã lớn;
toàn thể trò chơi của chính trị là trò chơi của bản ngã, nó
là đề cao cá nhân.
Khi bạn không còn bị nặng gánh bởi bản ngã, khi
bạn đã được làm nhẹ gánh, khi thầy đã lấy đi cái gọi là
bản ngã khỏi bạn, cuộc sống của bạn sẽ là cuộc sống của
người nổi dậy, của cách mạng vô cùng. Bạn sẽ không là
người Hindu và bạn sẽ không là người Mô ha mét giáo
và bạn sẽ không là người Ki tô giáo và bạn sẽ không là
người Jaina. Đây là cách mạng. Bạn sẽ không là người
Đức và bạn sẽ không là người Nhật Bản và bạn sẽ
không là người Ấn Độ. Đây là cách mạng. Bạn sẽ không
thuộc vào bất kì tôn giáo nào, bất kì giáo phái nào, bất kì
xã hội nào, bất kì truyền thống nào. Đây là cách mạng.
Và bởi vì không có bản ngã, Thượng đế có thể tuôn
chảy qua bạn; tính sáng tạo lớn lao trở thành có thể. Đây
là cách mạng! Và bạn sẽ sống bây giờ trong buông bỏ
toàn bộ; thực ra Thượng đế sẽ sống qua bạn - không
phải bạn. Và Thượng đế không thể là nô lệ được, và
Thượng đế không thể bị thu thành bất kì cảnh nô lệ nào
được, và bạn không thể bị thu thành bất kì cảnh nô lệ
nào bây giờ.
Prem Rajo, nổi dậy và buông xuôi chắc chắn gặp
nhau - trong việc vứt bỏ bản ngã. Nhưng đừng cứ cố
hiểu những điều này một cách lí thuyết. Làm cái gì đó
có tính tồn tại để cho điều tôi đang nói trở thành kinh
nghiệm của bạn - bởi vì chỉ kinh nghiệm mới giải thoát.
****************************************************
#6Câu hỏi thứ năm:
Thưa thầy kính yêu,
Tôi nghe người Ấn Độ ba hoa quá nhiều về tính tâm
linh của họ. Thầy nói gì về điều đó?
Sahajo, người Ấn Độ chẳng có gì khác để mà ba hoa
cả! Tha thứ cho họ đi, từ bi với họ. Họ không có tiền, họ
không có nhà lớn, họ không có xe ô tô lớn, họ không có
gì về khoa học, công nghệ cả. Rất khó cho họ duy trì
được bản ngã của họ; tâm linh là chỗ nương tựa của họ.
Và tâm linh là hàng hoá. Bạn có thể ba hoa về nó rất dễ
dàng bởi vì chẳng ai có thể chứng minh được rằng bạn
không có nó, mà bạn cũng chẳng thể chứng minh được
rằng bạn không có nó, mà họ cũng không thể chứng
minh được rằng bạn có nó. Nó vô hình tới mức hoặc bạn
chấp nhận nó hoặc bạn không chấp nhận nó - nhưng bạn
không thể chứng minh nó được.
Và tại sao lại đặc biệt, về tâm linh? Điều thỉnh
thoảng xảy ra là nếu bạn rất tham bạn sẽ giả vờ là cái
đối lập, bởi vì đó là cách duy nhất để che giấu tham.
Nếu bạn là người rất giận dữ, bạn có thể giả vờ là người
rất lễ phép, từ bi, yêu thương, bởi vì đó là cách duy nhất
để che giấu giận dữ của bạn. Nếu bạn bị ám ảnh bởi dục,
bạn có thể bắt đầu nói về brahmacharya - vô dục. Cái
đối lập là cách che giấu nó.
Tâm trí Ấn Độ hoàn toàn vật chất, và cách duy nhất
để che giấu nó là nói về, là ba hoa về tâm linh. Vâng, đã
từng có vài người ở đất nước này - một Phật, một
Mahavira, một Patanjali, một Krishna - người hoàn toàn
tâm linh. Nhưng những người như vậy đã từng có ở mọi
nơi! Heraclitus, Pythagoras, Socrates, Plotinus, ở Hi Lạp
- cùng kiểu người đó, cùng phẩm chất đó, cùng hương
thơm đó. Lão Tử, Trang Tử, Liệt Tử, Mencius, ở Trung
Quốc - cùng hương sắc đó. Christ, Eckhart, Francis,
Bohme - cùng chiều hướng đó. Người tâm linh đã từng
có ở mọi nơi; nó không phải là sở hữu của ai cả. Nhưng
người Ấn Độ ba hoa về nó, tôi biết.
Sahajo, tôi có thể hiểu câu hỏi của bạn, bởi vì điều
bạn thấy khắp xung quanh chỉ là cái đối lập thôi. Đó là lí
do tại sao họ ba hoa về tính tâm linh. Từng người Ấn Độ
đều nghĩ rằng chỉ bởi việc là người Ấn Độ người đó là
vị Phật. Không dễ là vị Phật như vậy đâu! Và Phật
chẳng liên quan gì tới việc là người Ấn Độ cả.
Thực ra, Phật không phải là người Ấn Độ, ông ấy là
người Nepal. Ông ấy được sinh ra ở biên giới của Ấn
Độ và Nepal; thực ra, bây giờ phần đó là ở trong Nepal.
Và tượng Phật mà bạn thấy không giống người Nepal,
hay giống? Nó không phải là tượng đúng đâu. Nó không
giống như Bahadur! Người Nepal gần với người Trung
Quốc, người Tây Tạng, người Nhật Bản - kiểu người
Mông Cổ. Tượng Phật không giống người Nepal, chẳng
giống chút nào.
Tượng đã không được làm ra vào thời của Phật mà
cũng không được làm ra khi Phật chết. Tượng đã được
làm ra năm trăm năm về sau. Và bạn sẽ ngạc nhiên mà
biết, chúng đã được làm ra trong việc bắt chước
Alexander Đại đế. Alexander đã tới Ấn Độ vào thời đó,
và ông ấy có khuôn mặt đẹp, các nét Hi Lạp. Bức tượng
về Phật là người Hi Lạp! Bản thân con người này là
người Nepal; bức tượng là người Hi Lạp.
Và mọi kinh sách bạn đọc về Phật đều không phải là
bản gốc. Một số đã được dịch từ tiếng Tây Tạng, một số
từ tiếng Trung Quốc, một số từ tiếng Nhật Bản. Bản gốc
đã bị người Hindu phá huỷ rồi - và bây giờ cùng những
người Hindu đó cứ tuyên bố rằng họ là những người kế
thừa của Phật. Phật tử đã bị người Ấn Độ giết chết!
Một thời tới sau cái chết của Phật, sau bẩy hay tám
trăm năm, khi mọi Phật tử đều hoặc bị giết hoặc họ phải
chạy trốn khỏi Ấn Độ. Ấn Độ đã hoàn toàn sạch bóng
Phật tử. Vâng, họ đã bị giết, bị thiêu sống. Những người
may mắn đã trốn đi. Theo một cách nào đó, điều đó là
phúc lành, bởi vì những người trốn đi, các sư, họ trốn
sang Tây Tạng, sang Trung Quốc. Những người không
quá sợ hãi nhiều, họ trốn sang Tây Tạng - Tây Tạng ở
rất gần. Nhưng người sợ nhiều hơn thì chạy sang Trung
Quốc, sang Mông Cổ, sang Hàn Quốc, sang Đài Loan,
họ đơn giản không bao giờ dừng lại, họ cứ đi tới mãi!
Đó là cách toàn thể châu Á được cải sang Phật giáo.
Toàn thể công lao thuộc về người Hindu. Và bây giờ lại
cũng những người Hindu đó cứ công bố rằng, "Chúng ta
đã cho sinh thành ra Phật." Cảm thấy xấu hổ đi!
Nhưng Ấn Độ nghèo và rất vật chất. Người nghèo
không thể khác được; người nghèo nhất định có tính vật
chất, vật chất thô. Nhưng thế thì nuôi bản ngã của người
ta ở đâu được? Ấn Độ chẳng có gì khác để ba hoa. Tính
tâm linh là món hàng tốt - vô hình, không chứng minh
được. Bất kì ai cũng có thể nói, "Tôi đã kinh nghiệm
Thượng đế." Bạn không thể bác bỏ được điều đó. Có thể
người đó đúng, có thể người đó không đúng, nhưng điều
đó nằm ngoài chứng minh theo cách này cách nọ.
Nhưng đừng lo nghĩ về những người ngu xuẩn cứ
nói hoài về tính tâm linh, mà thậm chí chẳng biết ABC
gì về nó cả. Vâng, họ có thể biết cái gì đó về Veda và
Upanishad. Họ có thể nhồi nhét vài lời kinh, họ có thể
lẩm nhẩm chúng như con vẹt, nhưng họ không hiểu điều
họ đang nói - bởi vì các kiếp sống của họ làm ngược lại
với nó.
"Tôi xin lỗi, thưa ngài," người Ấn Độ nói, "nhưng
ngài chẳng phải là quí ông đã lôi con tôi ra khỏi hồ hôm
qua sao?"
"Sao thế, vâng, tôi là người đó đấy," người cứu bối
rối nói. "Nhưng mọi sự đều ổn thoả cả - chúng ta chẳng
còn gì để nói thêm về điều đó cả."
"Không nói thêm gì về nó sao?" người Ấn Độ la lên.
"Này ông, nói thực mũ của nó đâu rồi?"
Anh ta thậm chí không biết ơn! Anh ta đã không tới
để cám ơn người kia rằng, "Ông đã cứu mạng con tôi."
Anh ta lo nghĩ về chiếc mũ...
Một người Mê hi cô, một người Italia và một người
Ấn Độ thảo luận họ sẽ làm gì nếu họ thức dậy một sáng
khám phá ra rằng mình là triệu phú. Người Mê hi cô nói
người đó sẽ xây một trường đấu bò tót.
Người Italia nói anh ta sẽ thuê ba mươi thuyền đánh
cá nhỏ - dùng mỗi thuyền cho một đêm trong tháng.
Người Ấn Độ nói anh ta sẽ đi ngủ nữa và xem liệu
anh ta có thể làm ra thêm một triệu nữa không.
Nếu bạn quan sát tâm trí Ấn Độ, nó có tính vật chất.
Và không phải là nó chỉ có tính vật chất ngày nay đâu -
nó đã từng vậy rồi, bởi vì hai mươi nhăm thế kỉ trước
Phật đã bảo mọi người đừng là người duy vật, và ông ấy
đã nói về người Ấn Độ. Và thậm chí trước Phật, gần hai
mươi nhăm thế kỉ trước Phật, Parshvanath đã nói người
Ấn Độ không là người duy vật.
Ấn Độ đã đem triết học duy vật vĩ đại nhất tới thế
giới: triết học của Charvakas. Triết học Hi Lạp của
Epicurus không là gì khi so với triết học mà Charvakas
đã đem cho thế giới. Từ charvaka là có ý nghĩa; nó bắt
nguồn từ charuvak. Charuvak nghĩa là thông điệp êm ái,
thông điệp hay. Cái tên khác của triết học của Charvakas
là lokayat. Lokayat nghĩa là phổ biến; trong đó đa số
mọi người đều tin.
Có thể chính bởi vì chủ nghĩa duy vật Ấn Độ mà
một Phật, một Mahavira, một Parshvanath, một
Neminatha, đã là có thể. Khi mọi người quá vật chất, vài
người thông minh nhất định phát chán với toàn thể sự
việc. Điều đó trở thành buồn nôn, điều đó trở thành ốm
yếu! Cuộc sống vận hành theo cách rất kì lạ: khi xã hội
có tính vật chất, vài người tiên phong bắt đầu trở thành
người tâm linh.
Bây giờ phương Tây đang rất có tính vật chất, và
một khao khát lớn về tâm linh nảy sinh ở đó. Đó là lí do
tại sao các bạn đã tới đây. Các bạn không thấy nhiều
người Ấn Độ ở đây. Họ tin họ đã biết. Họ tin họ chẳng
có gì để mà làm nữa - không nghiên cứu thêm, không
truy tìm thêm. Và họ đã trở nên rất tinh ranh. Người
nghèo nhất định trở nên tinh ranh.
Nghèo là căn nguyên gốc rễ của mọi tội lỗi, mọi tội
ác. Cho nên họ bắt đầu học các cách thức láu cá. Họ bắt
đầu trở thành đạo đức giả: họ nói điều này, họ làm điều
khác. Họ bắt đầu học cách đeo mặt nạ. Bạn có thể thấy
điều đó, không chỉ trong người thường, mà trong cái gọi
là các nhà lãnh đạo và thánh nhân, chính trị và tôn giáo.
Bạn sẽ không tìm thấy những kẻ đạo đức giả như vậy ở
bất kì đâu khác.
Một chiếc máy bay bay ngang qua Đại Tây Dương
thì bị trục trặc động cơ. Sau khi vứt bớt mọi hành lí để
làm nhẹ tải trọng, viên phi công thông báo cho các hành
khách rằng ba người sẽ phải nhảy ra để cứu số còn lại.
"Chúng ta cần ba người tình nguyện," viên phi công
tuyên bố.
Ngay lập tức một người Anh rời khỏi chỗ của mình,
hô lên, "Thượng đế cứu Nữ hoàng!" và nhảy ra.
Một chút sau đó một người Pháp đứng dậy và nói,
"Nước Pháp muôn năm!" và nhảy ra.
Năm phút sau đó một chính khách Ấn Độ trong bộ
quần áo thuần tuyết trắng, dệt tay, đứng dậy, hô lên,
"Mahatma Gandhi muôn năm!" và ném người Mê hi cô
ra khỏi cửa.
****************************************************
#6Câu hỏi cuối cùng:
Thưa thầy kính yêu,
Với đe doạ của huỷ diệt hạt nhân, làm sao chúng ta
có thể "vui vẻ và thanh thản” được?
Julia Bradley, bạn có thể làm gì khác được nào?
Thời gian thật ngắn ngủi - nhảy múa, ca hát, vui vẻ đi!
Nếu như không có khả năng huỷ diệt hạt nhân, không có
đe doạ, bạn có thể đã trì hoãn. Bạn có thể đã nói, "Mai
mình sẽ nhảy múa." Nhưng bây giờ có thể không có
ngày mai; bạn không thể trì hoãn được.
Đây là lần đầu tiên mà ngày mai là tuyệt đối đáng
hoài nghi. Nó bao giờ cũng đáng hoài nghi, nhưng lần
này nó là tuyệt đối đáng hoài nghi. Một cách cá nhân nó
bao giờ cũng đáng hoài nghi: ngày mai có thể chẳng bao
giờ tới cả, thậm chí hơi thở tiếp cũng có thể không tới.
Một cách cá nhân cái chết bao giờ cũng sắp xảy ra,
nhưng lần này nó là cái gì đó toàn cầu, thế giới. Toàn
thể quả đất có thể biến mất, có thể bùng nổ; không chỉ
mọi người, chim chóc, con vật, cây cối, toàn thể cuộc
sống trên trái đất có thể mất đi.
Bây giờ điều đó là tuỳ ở bạn, Julia Bradley. Bạn có
thể kêu và khóc và bạn có thể đập đầu mình vào tường;
điều đó sẽ không chấm dứt được sự huỷ diệt hạt nhân và
mối đe doạ của nó. Thực ra nó có thể đem điều đó tới
gần hơn và nhanh hơn bởi vì người buồn, người khổ, là
những người nguy hiểm. Khổ tạo ra tính huỷ diệt.
Nhưng nếu toàn thể nhân loại có thể bắt đầu nhảy
múa, hân hoan, mở tiệc - khi thấy rằng mối đe doạ là rất
cận kề... Chiến tranh thế giới lần thứ ba có thể bắt đầu
bất kì khoảnh khắc nào. Các chính khách ngu xuẩn có
đủ năng lượng nguyên tử chất đống để phá huỷ trái đất
này không chỉ một lần mà bẩy trăm lần. Bom nguyên tử,
bom khinh khí đã tích luỹ lại nhiều tới mức chúng ta có
thể giết từng người bẩy trăm lần - mặc dầu mỗi người
chỉ chết một lần. Nhưng các chính khách muốn lấy mọi
cơ hội, cho nên bạn có thể bị giết bẩy trăm lần. Điều đó
sẽ không được cần tới, chỉ một lần là có tác dụng - bởi
vì chúng ta đã nghe chỉ mỗi một chuyện phục sinh; đó là
Jesus Christ. Và ngay cả nếu Jesus Christ được phục
sinh và mọi người đều qua đời, ông ấy sẽ làm gì? Ông
ấy sẽ phải tự tử thôi.
Hân hoan đi! - bởi vì thế thì có khả năng. Nếu toàn
thể trái đất có thể trở thành tràn đầy vui vẻ sẽ ít có khả
năng huỷ diệt - bởi vì ai sẽ huỷ diệt nó? Chúng ta là mọi
người; vấn đề là tuỳ ở chúng ta quyết định rằng chúng ta
muốn sống hay chúng ta muốn tự tử. Nếu chúng ta bắt
đầu một bầu không khí mới trên thế giới - của hân hoan,
của nhảy múa, của ca hát, của thiền, của lời cầu nguyện
- và nếu mọi người trở nên tràn đầy phúc lạc, hớn hở,
vui cười... Nếu thế giới này đầy tiếng cười, thì sẽ có mọi
khả năng chúng ta có thể tránh được huỷ diệt hạt nhân,
bởi vì người vui vẻ không muốn huỷ diệt, họ muốn sáng
tạo.
Và đằng nào đi nữa, Julia Bradley này, bạn cũng sẽ
chết. Liệu toàn thế giới có còn lại hay không chẳng
thành vấn đề. Bạn sẽ chết, chừng đó thì chắc chắn rồi.
Có thành vấn đề gì cho bạn liệu thế giới này tiếp tục sau
bạn hay không? Nếu nó tiếp tục, tốt; nếu nó không tiếp
tục, tốt. Có thành vấn đề gì cho bạn nào? Bạn sẽ không
ở đây thêm nữa. Khi có liên quan tới bạn, cái chết là
tuyệt đối chắc chắn. Dầu vậy bạn vẫn yêu, dầu vậy bạn
vẫn hát, bạn vẫn nghe nhạc, cho nên điều đó tạo ra khác
biệt gì?
Nếu huỷ diệt đã trở thành toàn cầu, chúng ta phải
làm tiếng cười và nhảy múa cũng thành toàn cầu, theo
cùng tỉ lệ, để trung hoà lại nó. Sao buồn? Và bạn sẽ
được gì bởi buồn? Nó sẽ có ích theo cách nào không?
Nó có thể chỉ là thủ đoạn của tâm trí để giữ cho bạn
buồn, nó có thể chỉ là việc bào chữa. Bạn phải buồn; bây
giờ bạn đang cố gắng để tìm ra ngày một nhiều cách hợp
lí hoá cho việc vẫn còn buồn. Và đây là việc hợp lí hoá
hay, rằng, "Các ông đang nói gì vậy? Nói mọi người
nhảy múa và ca hát và hân hoan, còn thế giới thì đang
bên bờ huỷ diệt sao? Bảo mọi người phải buồn chứ; bảo
mọi người phải kêu khóc và quên đi mọi tiếng cười và
quên đi mọi tình yêu!" Điều đó có ích theo bất kì cách
nào không? Nó sẽ đem vũ trụ tới tự tử gần hơn.
Nhưng ở đâu đó sâu bên dưới trong bạn có nỗi buồn
không muốn rời bỏ bạn, và nỗi buồn đó đang cố gắng
tìm ra sự hợp lí hoá.
David xuất thân từ một gia đình chính thống. Một
hôm anh ta tuyên bố, "Mẹ ơi, con sẽ lấy cô gái người Ai
len tên là Maggie Coyle."
Người đàn bà sững sờ choáng váng. "Điều đó là tế
nhị đấy, David," bà ấy nói, "nhưng đừng nói cho bố con.
Con biết bố con đã bị yếu tim rồi. Và mẹ sẽ không nói
cho chị con, Ida - nhớ lấy chị ấy cảm thấy mạnh mẽ thế
nào về các vấn đề tôn giáo. Và đừng nhắc điều đó với
anh con, Louis - anh ấy có thể cho con cú đấm vào
mồm. Còn mẹ, con nói với mẹ thì được. Đằng nào thì
mẹ cũng đi tự tử đây."
Ở đâu đó sâu bên dưới bạn phải có bản năng tự tử.
Bạn chỉ đang tìm cách hợp lí hoá thôi.
Vâng, tôi biết thế giới đang đối diện với nguy hiểm,
nhưng từng cá nhân bao giờ cũng đã đối diện với nguy
hiểm của cái chết. Dầu vậy Jesus vẫn nói: Hân hoan và
hân hoan! Và tôi lại nói với bạn, hân hoan! Và thực ra,
Jesus đang nói với mọi người, "Thế giới này sớm bị huỷ
diệt thôi. Ngày Phán xử là rất cận kề." Nó chưa bao giờ
gần như nó bây giờ. Jesus đã sai! Hai mươi thế kỉ đã trôi
qua rồi, và ông ấy đang nói với mọi người, "Trong chính
cuộc sống của mình các ông sẽ thấy Ngày Phán xử!" Lời
tiên tri của ông ấy đã không được hoàn thành.
Thực ra ông ấy không phải là nhà tiên tri, ông ấy là
nhà huyền môn. Ông ấy đã nói những điều này theo mục
đích hoàn toàn khác. Ông ấy nói, "Ngày Phán xử là rất
cận kề - tự biến đổi bản thân ông đi! Đừng phí hoài thời
gian, đừng trì hoãn!"
Bây giờ ngày của cái chết vũ trụ đang thực sự cận
kề, cho nên, Julia này, đừng trì hoãn nữa. Hân hoan đi,
hân hoan đi, tôi cứ nói đi nói lại với bạn, hân hoan đi -
bởi vì nếu bạn có thể chết trong hân hoan, bạn sẽ siêu
việt lên trên cái chết, bạn sẽ đi ra ngoài cái chết.
Người có thể chết một cách phúc lạc sẽ không bao
giờ chết, bởi vì trong cái chết người đó đi tới biết cái bất
tử.
Và nếu thời gian là ngắn, thế thì bạn phải lan toả
tiếng cười mầu cam này trên khắp thế giới. Thế thì đó là
lúc chúng ta nên làm cho mọi người ngày một vui vẻ
hơn. Nói cho họ rằng cái chết có thể chiếm lĩnh trái đất
này vào bất kì lúc nào - ngày được đếm - bởi vì các
chính khách đều là kẻ ngu, và kẻ ngu bây giờ có nhiều
quyền lực tới mức chính phép màu vô cùng là chiến
tranh thế giới thứ ba vẫn chưa xảy ra. Nó đáng phải đã
xảy ra rồi. Tại sao nó vẫn chưa xảy ra là điều bí ẩn. Việc
có mọi chính khách ngu xuẩn đó trên khắp thế giới nắm
giữ mọi quyền lực... Chỉ nhấn một cái nút và quá trình
có thể được lẩy cò, và trong vòng mười phút toàn thể
trái đất sẽ bắt lửa - ngọn lửa có thể làm chảy sắt và đá,
ngọn lửa sẽ làm chảy mọi thứ. Toàn thể trái đất có thể
bùng nổ.
Đây là tin mừng! Bạn không có thời gian để mà phí
hoài. Julia, tới đi - cùng tham gia vào điệu vũ này!
Đủ cho hôm nay.
***********************************************************************************************************
#7 Thấy bản thân bạn trong người khác
**Tất cả sinh linh run rẩy trước bạo hành.
Tất cả sợ chết.
Tất cả yêu sống.
Thấy bản thân ông trong người khác.
Thì ông có thể làm tổn thương ai?
Ông có thể gây hại gì?
Người tìm kiếm hạnh phúc
bằng việc làm tổn thương người tìm kiếm hạnh phúc
sẽ không bao giờ tìm thấy hạnh phúc.
Vì anh ông là giống ông.
Người đó muốn hạnh phúc.
Đừng bao giờ làm hại người đó
và khi ông rời bỏ cuộc sống này
ông cũng sẽ thấy hạnh phúc.
Đừng bao giờ nói những lời tàn nhẫn
vì chúng sẽ bật lại vào ông.
Những lời giận dữ gây đau
và cái đau bật lại.
Giống như cái cồng vỡ
tĩnh lặng, im lặng.
Biết tĩnh lặng của tự do
nơi không còn gắng sức nữa.
Giống như người nuôi súc vật đưa bò ra cánh đồng
tuổi già và cái chết sẽ đưa ông tới trước chúng.
Nhưng người ngu trong việc ác của mình quên mất
và người đó đốt lửa
để ngày nào đó người đó phải bị thiêu.
Người làm hại người vô hại
hay làm tổn thương người hồn nhiên
người đó sẽ ngã mười lần -
trong đau khổ hay ốm yếu,
bị thương hay bệnh tật hay điên khùng,
bị kiện cáo hay bị kết tội kinh khủng,
mất gia đình, mất của cải.
lửa từ trời sẽ đánh xuống nhà người đó
và khi thân thể người đó đã bị đánh ngã
người đó sẽ vào trong địa ngục.**
Bí ẩn vĩ đại nhất của sự tồn tại là gì? Nó không phải
là sống, nó không phải là yêu - nó là chết.
Khoa học cố gắng hiểu sống; do đó vẫn còn bộ
phận. Sống chỉ là một phần của bí ẩn toàn bộ, và là một
phần rất tí hon - hời hợt, chỉ trên chu vi. Nó không có
chiều sâu, nó nông cạn. Do đó khoa học vẫn còn nông
cạn. Nó biết nhiều và nó biết vào chi tiết lớn, nhưng mọi
việc biết của nó vẫn còn hời hợt - dường như bạn biết
đại dương chỉ qua các con sóng của nó và bạn chưa bao
giờ chìm sâu vào trong nó, và bạn không biết cái vô hạn
của nó.
Sống là hữu hạn, nhất thời. Khoảnh khắc này nó có
đó, khoảng khắc tiếp nó mất rồi. Nó là làn gió thoảng,
tới rồi đi... Nó không còn lại lâu. Do đó tuyên bố của
khoa học rằng nó biết chân lí là không đúng. Nó chỉ biết
chân lí bộ phận, và tuyên bố cái bộ phận như cái toàn
thể là một trong những điều ngớ ngẩn của cách tiếp cận
khoa học. Điều nó biết là đúng, nhưng điều đó không
phải là chân lí toàn thể. Và khoảnh khắc bạn tuyên bố
rằng bộ phận là toàn thể, bạn thậm chí còn làm sai bộ
phận.
Yêu là ở chặng giữa. Nó ở đích xác giữa sống và
chết. Nó là nửa sống, nửa chết; do đó có sợ của yêu.
Chừng nào bạn còn chưa sẵn sàng chết, bạn không thể
biết yêu được - mặc dầu bằng việc chết bạn trở nên sống
động hơn. Chính là qua chết mà yêu phục sinh bản thân
nó lặp đi lặp lại. Chính là bằng việc biến mất mà nó xuất
hiện đi xuất hiện lại.
Yêu là bí ẩn nhiều hơn là bản thân sống, bởi vì nó
có sống trong nó và có cái gì đó còn hơn nữa: sống cộng
với chết. Năm mươi phần trăm của yêu là sống, năm
mươi phần trăm là chết. Và chỉ những người sẵn sàng
chết sẽ biết sống của yêu. Những người sợ chết sẽ không
bao giờ đi vào được bí ẩn của yêu.
Nghệ thuật làm bùng nổ thế giới của yêu. Do đó
nghệ thuật là đúng hơn khoa học, đi sâu hơn khoa học.
Viễn kiến của nghệ sĩ chứa nhiều hơn tri thức khoa học
có thể chứa, mặc dầu cách thức của nghệ thuật là hoàn
toàn khác với cách thức của khoa học. Nó phải khác
chứ. Khoa học có thể có tính khách quan bởi vì nó là
ngoại vi. Nghệ thuật không thể tuyệt đối khách quan
được; nó năm mươi phần trăm khách quan, năm mươi
phần trăm chủ quan. Nó không thể tự do với người quan
sát được.
Khoa học cố gắng tuyệt đối tự do với người quan
sát; người quan sát phải không đi vào trong nó, phải
không tham gia, phải vẫn còn tuyệt đối trung lập, không
là người tham gia, mà là khán giả. Người đó phải không
được đem bản thân mình vào trong nó. Đó là cái nhìn
khoa học.
Nhưng làm sao bạn có thể tránh được người biết?
Nếu bạn thực sự muốn biết, người biết nhất định đi vào
trong tri thức.
Bây giờ nhiều nhà khoa học nhạy cảm đang trở nên
tỉnh táo với hiện tượng là không thể nào tuyệt đối vô tư
được: người quan sát nhất định bị phản xạ bởi việc quan
sát của mình. Người đó không thể là khán giả thuần
khiết được. Người đó sẽ diễn giải, người đó sẽ lí thuyết
hoá, người đó sẽ tạo ra các giả thuyết và người đó sẽ đi
qua các giả thuyết của mình. Người đó sẽ chọn lựa bởi
vì các chi tiết là vô hạn. Người đó sẽ phải hội tụ.
Ai sẽ quyết định hội tụ vào đâu, chọn cái gì, không
chọn cái gì, đi theo theo hướng nào? Bởi vì sự tồn tại là
đa chiều và bạn không thể đi theo mọi chiều đồng thời
được, bạn chỉ có thể đi theo một chiều thôi, nhất định là
điều bạn biết sẽ bị ảnh hưởng bởi người biết. Nhưng
điều này đã từng là hiểu biết của nghệ thuật từ chính lúc
bắt đầu.
Khi nhà khoa học nhìn vào hoa ông ấy cố gắng chỉ
là người quan sát. Ông ấy đơn giản ghi chép về điều ông
ấy thấy; ông ấy không đem mơ của mình vào, không
đem linh ảnh của mình vào việc quan sát. Nhà thơ có
nhiều tự do hơn, hoạ sĩ có nhiều tự do hơn. Ông ấy đi
sâu hơn vào trong hiện tượng hoa này. Ông ấy tham gia
vào bí ẩn của nó, ông ấy không tách rời; trong vài
khoảnh khắc ông ấy trở thành một với nó. Có những
khoảnh khắc mà nhà thơ nhảy múa cùng hoa - trong gió,
trong mưa, trong ánh mặt trời. Có những khoảnh khắc
mà nhà thơ trở thành hoa, khi người quan sát là vật được
quan sát. Có những khoảnh khắc khi nhà thơ không chỉ
nhìn vào hoa mà nhìn qua hoa, trở thành mắt của hoa.
Một cách tự nhiên, ông ấy chìm sâu hơn khoa học; ông
ấy đem tới viên kim cương lớn hơn nhiều, những đá quí
hơn nhiều.
Thơ ca, hội hoạ, điêu khắc, âm nhạc - chúng tới gần
thực tại hơn bởi vì chúng sẵn sàng để tham gia. Nhưng
chúng chỉ ở lưng chừng.
Tôn giáo về căn bản liên qua tới chết. Chết chứa tất
cả: chết chứa sống, chết chứa yêu, và cái gì đó còn hơn
thế mà cả sống không chứa được nó mà yêu cũng không
thể chứa được. Chết là cực điểm của tất cả, là cao trào,
là đỉnh cao nhất. Sống là cơ sở, chết là đỉnh cao - yêu
nằm đâu đó ở giữa.
Người tôn giáo, nhà huyền môn, cố gắng thám hiểm
bí ẩn này của chết. Trong thám hiểm bí ẩn của chết,
người đó đi tới biết sống là gì, yêu là gì. Những điều đó
không phải là mục đích của người đó. Mục đích của
người đó là xuyên thấu vào chết, bởi vì dường như
chẳng có gì bí ẩn hơn chết. Yêu có bí ẩn nào đó bởi vì
chết, và sống cũng có bí ẩn nào đó bởi vì chết.
Nếu chết biến mất sẽ không có bí ẩn nào trong sống
cả. Đó là lí do tại sao vật chết không có bí ẩn trong nó.
Cái xác không có bí ẩn nào trong nó, bởi vì nó không
thể chết thêm nữa được. Bạn nghĩ nó không có bí ẩn nào
bởi vì sống đã biến mất sao? Không, nó không có bí ẩn
nào bởi vì bây giờ nó không thể chết thêm nữa được.
Chết đã biến mất, và cùng với chết tự động sống biến
mất. Sống chỉ là một trong những cách thức diễn đạt của
chết.
Cái xác không có bí ẩn nào bởi vì, với sự biến mất
của chết, yêu mất đi. Mới khoảnh khắc trước đã có bí ẩn
lớn lao; bây giờ có cái không. Bạn chỉ có thể đi và chôn
người chết hay thiêu người chết. Dấu chấm hết đã tới.
Quá trình này đã dừng lại rồi. Chính chết giữ cho quá
trình này tiếp diễn. Chính chết giữ cho bạn nhận biết về
cái gì đó bí ẩn, huyền diệu, kì diệu.
Tôn giáo được đặt nền tảng trong tìm kiếm vào chết,
và hiểu chết là hiểu tất cả. Kinh nghiệm chết là kinh
nghiệm tất cả, bởi vì trong kinh nghiệm về chết, bạn
không chỉ kinh nghiệm sống ở chỗ cao nhất của nó, yêu
ở chỗ sâu nhất của nó; trong việc kinh nghiệm chết bạn
đi vào trong điều thiêng liêng. Chết là cánh cửa đi tới
điều thiêng liêng. Chết là tên của cánh cửa của ngôi đền
của Thượng đế. Thiền nhân chết đi một cách tự nguyện.
Có hai loại chết. Một là chết thường; mọi người đều
chết nó. Đó không phải là cái chết của nhà huyền môn.
Chết thường xảy ra ngược với bạn; bạn đi vào trong nó
một cách rất ngần ngại. Bạn không muốn đi vào trong
nó, bạn níu bám lấy sống. Bạn không trở thành sẵn có
cho nó, bạn không trở thành cởi mở cho nó. Do đó bạn
cứ bỏ lỡ vấn đề.
Nhiều lần bạn đã chết, nhưng mỗi lần bạn chết có
nhiều ám ảnh với sống tới mức bạn không thể thấy được
chết là gì. Mắt bạn bị hội tụ vào sống, bạn níu bám lấy
sống. Bạn đằng nào cũng bị lôi ra, và cách duy nhất để
lôi bạn ra là làm cho bạn thành vô ý thức.
Khi bác sĩ giải phẫu sắp mổ bạn ông ấy làm cho bạn
thành vô ý thức, ông ấy cho bạn thuốc mê. Đó là điều
cái chết đã làm trong hàng thế kỉ, từ vĩnh hằng. Nếu bạn
không thể đi một cách hân hoan, nhảy múa vào trong nó,
có thuốc mê sẵn đấy: mọi người trở thành vô ý thức
trước khi họ chết. Đó là lí do tại sao bạn không nhớ tới
các kiếp quá khứ của mình, bởi vì bạn trở thành vô ý
thức sâu tới mức trước khi bạn chết chương đó đã trở
nên bị đóng lại.
Nếu một người có thể chết đi một cách có ý thức,
tỉnh táo, người đó sẽ nhớ kiếp sống quá khứ của mình.
Đó là cách Ấn Độ đã khám phá ra rằng không chỉ có
một kiếp sống; hàng triệu lần bạn đã sống rồi. Bạn
không mới, bạn là kẻ hành hương rất cổ đại. Nhưng mỗi
lần bạn chết đi một cách ngần ngại, vô ý thức; do đó bạn
quên mọi thứ.
Nhà huyền môn chết một cách tự nguyện. Nhà
huyền môn chết trước cái chết thực; ông ấy chết trong
thiền. Người yêu biết chút ít về nó bởi vì năm mươi
phần trăm của yêu là chết. Đó là lí do tại sao yêu rất gần
với thiền. Người yêu biết cái gì đó của tính thiền; vô
nhận biết họ đã loạng choạng vào nó. Người yêu biết im
lặng, tĩnh lặng. Người yêu biết vô thời gian, nhưng họ
đã loạng choạng vào nó - nó đã không là việc tìm kiếm
cơ bản của họ.
Nhà huyền môn đi vào trong nó một cách rất có ý
thức, một cách có chủ định. Thiền là cái chết toàn bộ,
cái chết tự nguyện. Người ta chết trong bản thân mình.
Trước khi cái chết tới, nhà huyền môn chết. Ông ấy chết
mọi ngày. Bất kì khi nào ông ấy thiền ông ấy đều đi vào
cái chết. Ông ấy đạt tới những đỉnh cao đó, những chiều
sâu đó, và dần dần, dần dần, khi thiền trở thành tự nhiên,
ông ấy bắt đầu sống cái chết. Thế thì từng khoảnh khắc
sống của ông ấy cũng là khoảnh khắc của chết. Từng
khoảnh khắc ông ấy chết đi quá khứ và vẫn còn tươi tắn,
bởi vì khoảnh khắc bạn chết đi quá khứ bạn trở thành
sống động cho hiện tại.
Ông ấy liên tục chết đi và vẫn còn tươi tắn như giọt
sương hay như lá sen vào buổi sáng sớm mặt trời. Tươi
tắn của ông ấy, trẻ trung của ông ấy, vô thời gian của
ông ấy, tuỳ thuộc vào nghệ thuật chết. Và thế thì khi cái
chết thực tới ông ấy chẳng có gì để sợ, bởi vì ông ấy đã
biết cái chết này cả nghìn lần rồi. Ông ấy xúc động, say
mê; ông ấy nhảy múa! Một cách vui vẻ ông ấy muốn
chết. Chết không tạo ra sợ hãi trong ông ấy; ngược lại, là
hấp dẫn vô cùng, sức hút lớn lao.
Và bởi vì ông ấy chết đi một cách vui vẻ, ông ấy
chết mà không trở nên vô ý thức, và ông ấy biết toàn thể
bí mật của chết. Biết điều đó, ông ấy có chìa khoá chính
có thể mở mọi cánh cửa. Ông ấy có chìa khoá có thể mở
cánh cửa của Thượng đế.
Và bây giờ ông ấy biết rằng mình không là một cá
nhân tách biệt. Chính ý niệm về tách biệt là ngu xuẩn.
Chính ý niệm về tách biệt có đó bởi vì ông ấy đã không
nhận biết về chết. Bạn nghĩ bản thân mình tách biệt như
bản ngã bởi vì bạn không biết chết là gì. Nếu bạn biết
chết, bản ngã sẽ bay hơi. Và khoảnh khắc bản ngã bay
hơi bạn bắt đầu cảm thấy toàn thể sự tồn tại.
Đó là lí do tại sao Phật dạy bất bạo hành. Đó không
phải là giáo huấn đạo đức, không giống như Mahatma
Gandhi. Toàn thể giáo lí của Mahatma Gandhi là đạo
đức, xã hội, chính trị. Điều đó là bình thường; nó không
có huyền môn trong nó. Bất bạo hành của Phật là hoàn
toàn khác, khác về chất. Khi ông ấy dạy bất bạo hành
ông ấy ngụ ý không có ai khác hơn bạn. Làm tổn thương
bất kì ai là làm tổn thương bản thân bạn. Phá huỷ bất kì
cái gì là phá huỷ bản thân bạn. Chống đối lại, thù nghịch
với, đối kháng với bất kì ai là chống lại bản thể riêng
của bạn - bởi vì chỉ có một bản thể xuyên thấu và lan
tràn khắp mọi người.
Phật chưa bao giờ dùng từ ‘Thượng đế’, nhưng bằng
những hướng dẫn tinh tế ông ấy cứ chỉ đi chỉ lại mãi.
Đây là cách chỉ dẫn của ông ấy. Kính trọng của ông ấy
với Thượng đế là mênh mông tới mức ông ấy cảm thấy
dùng từ ‘Thượng đế’ là phạm tội lỗi. Đó là hiểu biết của
tôi về Phật. Ông ấy không dùng từ này bởi vì kính trọng
sâu sắc, tôn kính lớn lao. Ông ấy đã bị hiểu lầm - như
điều đó bao giờ cũng xảy ra. Mọi chư phật đều bị hiểu
lầm, bởi vì những người cố gắng hiểu họ lại không có
sáng suốt, đều mù, điếc.
Phật đã bị coi là kẻ vô thần. Chẳng cái gì có thể xa
hơn khỏi chân lí. Phật đã bị coi là chống lại Thượng đế.
Chẳng cái gì có thể không thật hơn. Sự tôn kính của
Phật tới mức ông ấy không thể khẳng định từ 'Thượng
đế' được. Khẳng định từ ‘Thượng đế’ là tạo ra tách biệt;
cứ dường như "Thượng đế" là tách biệt khỏi "tôi." Sự
không thể tách rời nhiều tới mức, sự thống nhất với
Thượng đế nhiều tới mức là ngay cả từ này cũng không
thể được thốt ra.
Điều đó đã là một truyền thống ở Israel cổ: trong
hàng thế kỉ tên của Thượng đế đã không được nói ra.
Chỉ tu sĩ cao nhất của ngôi đền lớn ở Jerusalem là được
phép, và điều đó nữa trong tính một mình tuyệt đối, và
điều đó nữa cũng chỉ một lần trong năm. Không ai khác
được phép dùng tên của Thượng đế. Một ngày duy nhất,
một lần trong năm, tu sĩ cao nhất, người thuần khiết
nhất, người ngoan đạo nhất, người thánh thiện nhất
trong mọi người Do Thái, sẽ đi vào trong điện thờ, điện
thờ bên trong nhất của ngôi đền này. Mọi cánh cửa đều
bị đóng lại. Cả nghìn người tụ tập quanh ngôi đền chỉ để
hiện diện ở đó trong khi tu sĩ này nói ra tên của Thượng
đế. Không ai nghe thấy điều đó - tu sĩ sẽ thì thào nó.
Bạn không thể kêu to tên của Thượng đế được; nó
chỉ có thể được thì thào trong im lặng - và chỉ một lần.
Đó đã là một truyền thống hay. Điều đó biểu lộ sự tôn
kính. Bằng không, những từ đẹp đẽ như 'Thượng đế' trở
nên bị ô nhiễm, trở thành thiếu tôn kính. Chúng trở
thành xấu.
Ngay cả bây giờ, người Do Thái, bất kì khi nào họ
dùng từ Thượng đế 'God' hay họ viết từ 'God', đều đánh
vần nó khác đi. Họ không dùng đánh vần đầy đủ G-o-d.
Họ đơn giản dùng G-d, họ bỏ chữ 'o' đi, chỉ để chứng tỏ
rằng, "Chúng ta không đủ năng lực để nói ra cái tên đầy
đủ." Phần bản chất, cái lõi ở giữa của nó, chính linh hồn
của nó, bị bỏ ra. Và 'o' đó là đẹp bởi vì nó cũng là biểu
tượng cho số không. Nó không chỉ là 'o' mà còn là số
không nữa, và số không là cốt lõi bên trong nhất của
Thượng đế.
Phật gọi nó là shunyata - trống rỗng, hư không. 'G'
và 'd' chỉ là ngoại vi; điều đó là được, người ta có thể
dùng chúng, nhưng cốt lõi bên trong nhất phải bị bỏ lại
không được diễn đạt. Chính bởi vì tôn kính vô cùng với
Thượng đế, với sự tồn tại mà Phật chưa bao giờ dùng từ
này. Nhưng hướng dẫn có đó; với người dễ cảm nhận,
với người nhạy cảm, có vô hạn hướng dẫn. Trong từng
câu đều có hướng dẫn.
Khoảnh khắc bạn chết đi một cách có ý thức, trong
thiền, Thượng đế được sinh ra - bởi vì bạn biến mất như
một bản ngã. Thế thì cái gì còn lại? Tĩnh lặng, tĩnh lặng
tiềm năng vô cùng, im lặng có tính thai nghén - thai
nghén cái toàn thể. Khi bạn biến mất, các biên giới biến
mất. Bạn tan chảy và hội nhập với mọi người khác.
Nhà thơ, chỉ thỉnh thoảng, trở nên hoà điệu cùng đoá
hoa, hoà điệu cùng mặt trời mọc, hoà điệu cùng con
chim tung cánh. Nhà huyền môn trở thành một với sự
tồn tại mãi mãi. Ông ấy là đoá hoa và ông ấy là đám
mây và ông ấy là mặt trời và ông ấy là mặt trăng và ông
ấy là các vì sao. Ông ấy bắt đầu sống theo cách đa chiều
bởi vì toàn thể cuộc sống là của ông ấy. Ông ấy sống
trong cây cối như chất xanh, và trong hoa hồng như chất
đỏ thắm. Ông ấy ở trên đôi cánh của chim, ông ấy là
tiếng gầm của sư tử và ông ấy là con sóng của đại
dương. Ông ấy là tất cả... làm sao ông ấy có thể bạo
hành được? Làm sao ông ấy có thể làm tổn thương
được? Làm sao ông ấy có thể có tính huỷ diệt được?
Toàn thể cuộc sống của ông ấy trở thành tính sáng
tạo.
Nhà huyền môn hoàn toàn có tính sáng tạo.
Lời kinh:
**Tất cả sinh linh run rẩy trước bạo hành.
Tất cả sợ chết.
Tất cả yêu sống.**
Những phát biểu đơn giản, nhưng với nghĩa lớn lao.
Tất cả sinh linh run rẩy trước bạo hành. Ngay cả
con vật vô ý thức cũng run rẩy trước bạo hành. Cho dù
bạn có thể không làm cho chúng tỉnh táo theo bất kì
cách nào rằng chúng sắp bị giết, nhưng dầu vậy, trước
khi con cừu bị giết, nó run rẩy. Bây giờ các nhà khoa
học đã khám phá ra rằng cùng điều đó cũng đúng cho
cây cối. Khi tiều phu đi vào vườn hay vào rừng cây cối
run rẩy.
Bây giờ có những dụng cụ tinh vi như máy đo nhịp
tim, để ghi lại việc run của tim cây, nó có thể tạo ra đồ
thị về điều xảy ra cho bên trong của cây. Thậm chí việc
tiều phu đi vào trong rừng rậm... Ông ấy không nói gì
cả, ông ấy còn chưa chặt một cành nào của cây, nhưng
run rẩy nảy sinh cứ dường như một nguồn trực giác nào
đó làm cho cây tỉnh táo.
Và các nhà khoa học đã quan sát một phép màu:
cùng tiều phu đó với cái rìu trên vai có thể đi từ rừng
rậm. Nếu người đó không chặt cây nào cả - nếu người
đó chỉ đi qua đường, đi tới chỗ khác nào đó - không cây
nào run rẩy cả. Dường như ý định của tiều phu - chỉ ý
định thôi, không hành động nào - là được tiếp âm,
truyền phát cho cây.
Và một điều nữa họ đã quan sát thấy. Bạn có thể
không chặt cây; thợ săn có thể tới và giết một con hổ -
nhưng mọi cây xung quanh chỗ đó đều run rẩy. Ngay cả
cái chết của hổ cũng đủ làm cho chúng buồn, làm cho
chúng sợ. Điều các nhà khoa học bây giờ mới trở nên
nhận biết trong vòng ba hay bốn năm nay, các nhà
huyền môn đã từng nhận biết từ hàng thế kỉ rồi.
Phật nói: Tất cả sinh linh run rẩy trước bạo hành.
Bạo hành là cái gì đó chống lại tự nhiên. Người tôn giáo
không thể bạo hành được - không phải là người đó thực
hành bất bạo hành đâu, nhớ lấy. Nếu bạn thực hành bất
bạo hành bạn sẽ trở thành một người kiểu Gandhi, đồ
rởm. Người theo Gandhi không phải là người tôn giáo.
Người đó thực hành bất bạo hành, người đó cố gắng trở
thành bất bạo hành - người đó không có hiểu biết. Người
đó tạo ra cá tính, nhưng sâu bên dưới người đó không có
tâm thức điều có thể vận hành như trung tâm của cá tính
đó.
Nhà huyền môn trước tiên tạo ra tâm thức, thế rồi cá
tính theo sau theo cách riêng của nó. Và nhà đạo đức tạo
ra cá tính, nhưng tâm thức không đi theo cá tính. Cá tính
là thứ rất hời hợt. Bạn có thể thấy ở đất nước này... có
hàng nghìn người thực hành bất bạo hành, đặc biệt là
người Jaina.
Phật tử đã quên hết mọi điều Phật đã nói. Cái ngày
Phật giáo phải rời khỏi Ấn Độ, nó bỏ lại sự bất bạo hành
của nó nữa. Bây giờ Phật tử tất cả đều là người ăn thịt -
người Trung Quốc, người Nhật Bản, người Hàn Quốc.
Tất nhiên họ đã hợp lí hoá điều đó. Việc hợp lí hoá là ở
chỗ, "Chúng tôi ăn thịt chỉ những con vật đã chết cái
chết tự nhiên." Cho nên ở Trung Quốc, ở Nhật Bản hay
ở các nước Phật giáo, bạn sẽ thấy các biển đề trên cửa
hiệu, "Ở đây chỉ phục vụ món thịt của các con vật đã
chết cái chết tự nhiên." Bây giờ, chẳng có mấy con vật
chết cái chết tự nhiên mà họ có thể cung cấp cho toàn
thể châu Á. Nhưng điều đó là đủ rồi - mọi người đều
tinh ranh.
Nhưng ở Ấn Độ người Jaina vẫn thực hành bất bạo
hành. Nhưng bởi vì họ thực hành nó, nó vẫn còn là cái
gì đó giả tạo, cái gì đó gần với đạo đức giả hơn. Nó
không biến đổi bản thể bạn, nó không làm cho họ chói
sáng, nó không cho họ duyên dáng và cái đẹp. Và trong
cuộc sống thường của mình họ vẫn giận dữ, đầy tham
vọng - hay thậm chí còn hơn thế - hơn người khác. Và
cái “hơn” đó có thể hiểu được; có lí do.
Họ bằng cách nào đó đã áp đặt lên bản thân mình để
là bất bạo hành. Bây giờ bạo hành của họ sẽ đi đâu? Nó
sẽ phải tìm cách thức mới nào đó, chỗ ra mới nào đó.
Bởi vì thầy của họ, Mahavira, người đương đại với Phật,
đã nói với họ: tạo ra tâm thức được theo sau bởi bất bạo
hành - theo cùng cách như Phật nói điều đó. Theo cùng
cách đó mà Phật tử đã hiểu lầm Phật, họ đã tìm ra con
đường hợp pháp để thoát ra khỏi nó. "Đừng giết hại,"
Phật nói. Và họ nói, "Chúng tôi không giết hại; chúng
tôi chỉ ăn thịt của con vật đã chết một cách tự nhiên."
Đây là chiến lược pháp lí để thoát ra khỏi điều đó.
Người Jaina đã theo cách thức thường lệ, chẳng hiểu
thông điệp của Mahavira... bởi vì Mahavira đã nói:
Đừng giết con vật, đừng chặt cây - ông ấy là người đầu
tiên nói: Đừng chặt cây - cho nên người Jainas đã tuân
theo điều đó, không hiểu chiều sâu và ý nghĩa của nó,
nhưng chỉ như một chữ chết. Họ đã theo đúng từng từ,
cho nên họ đã dừng việc làm nông trại bởi vì trong việc
nông trại bạn sẽ phải chặt hạ cây cối và thực vật.
Họ đã dừng việc là chiến binh. Mahavira được sinh
ra trong dòng dõi chiến binh; tất cả hai mươi bốn
tirthankaras Jaina đều là chiến binh. Tất nhiên điều tuyệt
đối chắc chắn là những người trở nên quan tâm tới
tirthankaras Jaina phải đã tới, ít nhất cũng đa số trong
họ, từ đẳng cấp kshatriyas - dòng dõi chiến binh, võ sĩ
đạo của Ấn Độ. Nhưng họ không thể vẫn còn là chiến
binh thêm nữa, họ phải vứt bỏ chiếc kiếm của mình.
Họ không thể là chiến binh được, họ không thể là
nông dân được, và người brahmin sẽ không cho phép họ
là brahmin. Và họ không quan tâm tới việc là người
brahmin, bởi vì họ không quan tâm tới kinh sách
brahmin - bởi vì những kinh sách đó đầy những bạo
hành.
Trong những kinh sách đó việc hiến tế con vật là
được phép; không chỉ hiến tế con vật mà cả hiến tế
người nữa - rằng tại bệ thờ Thượng đế bạn có thể hiến tế
con người. Thỉnh thoảng, thậm chí cả ngày nay, trong
thế kỉ hai mươi này, điều đó xảy ra ở Ấn Độ: thỉnh
thoảng một đứa trẻ lại bị hiến tế, một người bị hiến tế -
ngay cả bây giờ đấy!
Họ không thể trở thành người brahmins được, họ
không thể vẫn còn là kshatriyas, chiến binh. Họ sẽ
không thích trở thành tiện dân sudras. Trở thành thợ
chữa giầy là không thể được bởi vì điều đó là bạo hành,
và trở thành người quét rác là đi ngược lại bản ngã của
họ. Thế thì khả năng duy nhất cho họ là doanh nhân.
Cho nên tất cả người Jaina đều trở thành doanh nhân, và
toàn thể bạo hành bị kìm nén của họ trở thành tham
vọng của họ, tham lam của họ.
Do đó người Jaina là cộng đồng nhỏ ở Ấn Độ, một
cộng đồng rất nhỏ, nhưng nó xoay xở và kiểm soát đa số
của cải của đất nước này. Nó là cộng đồng giầu có nhất.
Toàn thể bạo hành trở nên được hướng vào một điều -
tiền. Bạn có thể làm tổn thương mọi người bằng việc trở
thành giầu mà không làm tổn thương họ theo bất kì cách
thấy được nào. Bạn có thể bóc lột mọi người. Bạn không
cần giết họ, bạn không cần uống máu họ, nhưng bạn có
thể bóc lột họ tới mức chẳng còn lại máu trong họ. Đó là
điều đã xảy ra với người Jaina. Điều đó bao giờ cũng
xảy ra nếu bạn thử làm điều hời hợt trước hết.
Điều đó ngu xuẩn như khi tôi muốn mời bạn ăn tối -
tôi không cần mời cái bóng của bạn, nó tới cùng với
bạn. Nếu tôi mời cái bóng của bạn, cái bóng sẽ không
tới; nó không thể tới và không có vấn đề về việc tới của
bạn bởi vì bạn không được mời chút nào.
Cá tính là hiện tượng bóng hình, tâm thức là trung
tâm. Cá tính đơn giản phản xạ tâm thức. Cho nên những
lời kinh này phải được hiểu không chỉ như các giáo
huấn đạo đức, mà như những sáng suốt tâm linh. Tất cả
sinh linh run rẩy trước bạo hành. "Tất cả sinh linh"
nghĩa là cây cối, chim chóc, con vật, con người...
Chúng ta tinh ranh tới mức chúng ta cứ nói rằng con
người là chủ. Con vật được tạo ra cho con người tận
hưởng, cây cối được tạo ra cho con người. Không chỉ
việc chúng ta tạo ra phân biệt và khác biệt giữa con
người và con vật khác và các bình diện khác của sự tồn
tại, chúng ta tạo ra khác biệt trong nhân loại nữa.
Chẳng hạn, Adolf Hitler thường cho rằng người
Đức, đặc biệt là người Bắc Âu, người Đức thuần chủng
nhất, là do Thượng đế tạo ra để thống trị toàn thế giới.
Mọi giống nòi khác đều thấp bé hơn chút ít so với giống
người thuần Aryans. Cho nên nếu họ không nhường
nhịn, không qui phục, họ có thể bị tiêu diệt.
Người Do Thái bao giờ cũng nghĩ rằng họ là dân tộc
được chọn. Người Hindu bao giờ cũng nghĩ rằng họ là
người ngoan đạo nhất, người riêng của Thượng đế;
Thượng đế bao giờ cũng lấy việc sinh trong gia đình
Hindu, không ở đâu khác. Người Hindu bao giờ cũng
nghĩ rằng đất nước này, Ấn Độ, là đất nước thiêng liêng
duy nhất. Nhưng sự ngu xuẩn này chẳng có gì đặc biệt
cho người Hindu; mọi người đều nghĩ theo cách đó.
Người Mô ha mét giáo nghĩ rằng Thượng đế đã trao
hệ thống tôn giáo cuối cùng và thực cho Mohammed
trong Koran. Bây giờ không có nhu cầu về bất kì thầy
nào nữa, không cần bất kì Phật nào. Koran là dấu chấm
hết; tiến hoá đã dừng lại tại Koran. Và người Mô ha mét
giáo có đặc quyền và có trách nhiệm biến toàn thể nhân
loại thành người Mô ha mét giáo. Và nếu mọi người
chống lại thì họ phải bị giết chỉ vì ích lợi riêng của họ.
Và đó cũng là trường hợp với người Ki tô giáo, bởi
vì Jesus của họ là Đứa con duy nhất của Thượng đế. Và
mọi người khác là gì - con hoang thôi sao? Chỉ mỗi
Jesus là đứa con duy nhất của Thượng đế, và bạn có thể
lên cõi trời chỉ thông qua Jesus thôi - không qua Phật,
không qua Krishna, không qua Zarathustra. Không,
Jesus là con đường duy nhất, chân lí duy nhất!
Cho nên không chỉ trong con vật và cây cối mà
chúng ta đã tạo ra cấp bậc, chúng ta đang cố gắng tạo ra
cấp bậc trong con người nữa. Mọi người đều như nhau.
Vâng, có sự khác biệt bề ngoài - điều đó là tốt. Sẽ rất
buồn nếu những khác biệt bề ngoài đó biến mất. Chúng
làm cho cuộc sống vui thích hơn; chúng cho cuộc sống
sự đa dạng, màu sắc. Chúng làm cho cuộc sống thành
khu vườn, đầy những màu sắc khác nhau và hương thơm
khác nhau. Những khác biệt nhỏ bé là đẹp; chúng phải
được nuôi dưỡng, chúng phải không bị phá huỷ. Con
người phải không bị làm thành một loại người. Những
khác biệt này - về người Do Thái và người Hindu và
người Mô ha mét giáo và người Ki tô giáo - đều đẹp.
Khác biệt trong tiếng Trung Quốc và tiếng Nhật Bản và
tiếng Đức và tiếng Anh và tiếng Pháp và tiếng Italia, đều
đẹp, nhưng đây là những điều bên ngoài.
Tại cốt lõi, mọi người đều bình đẳng và như nhau.
Để hai người đàn ông và một người đàn bà trên một
hòn đảo hoang vắng và đây là điều chắc chắn sẽ xảy ra:
Nếu họ là người Do Thái, hai đàn ông sẽ chơi bài để
xem ai được người đàn bà.
Nếu họ là người Anh, họ sẽ thảo luận về thời tiết và
bỏ qua người đàn bà bởi vì họ quan tâm tới nhau nhiều
hơn.
Nếu họ là người Pháp, hai người đàn ông sẽ cùng
chung người đàn bà.
Nếu họ là người Italia, người đàn bà sẽ giết một
trong hai người đàn ông.
Nếu họ là người Eskimo, một trong hai người đàn
ông sẽ giành lấy người đàn bà và thế rồi cho người kia
mượn.
Nếu họ là người Mĩ, họ sẽ vẫn thảo luận về vấn đề,
cố gắng tìm ra cách thức thoả đáng và thân ái để giải
quyết vấn đề.
Những khác biệt này có đó, và những khác biệt này
là đẹp và chúng phải được nuôi dưỡng. Chúng là đáng
yêu, chúng làm cho trái đất đẹp; bằng không nó sẽ rất
chán.
Quảng cáo sau đây xuất hiện trong mục nhắn tin của
tờ báo London: "Chồng tôi và tôi có bốn con trai. Ai có
gợi ý gì về cách chúng tôi có thể có con gái không?"
Thư tới tấp đổ về trên khắp thế giới. Một người Mĩ
viết, "Nếu ban đầu các bạn không thành công, thử, thử
lại."
Một người Ai len gửi một chai rượu Scotch với
hướng dẫn uống toàn bộ rượu trước khi về hưu.
Một người Đức tặng bộ sưu tập roi của mình.
Một người Mê hi cô khuyên ăn kiêng món bánh thịt
chiên giòn và đậu rán lại.
Một người Ấn Độ đề nghị tập yoga, đặc biệt là
shirshasana - trồng cây chuối.
Một người Pháp đơn thuần viết, "Tôi có thể phục vụ
được không?"
Những khác biệt này là tốt, hay; chúng nên được
giúp đỡ phát triển. Nhưng bản thể căn bản, nền tảng là
một, không chỉ trong con người mà trong mọi sinh linh.
Cây có một bản thể - chỉ thân thể nó là khác với bạn; và
hổ có một bản thể - chỉ thân thể nó là khác bạn. Khác
biệt chỉ là ở chu vi. Trung tâm bao giờ cũng là như nhau
bởi vì trung tâm là một. Tên của trung tâm là Thượng
đế.
Tất cả sinh linh run rẩy trước bạo hành. Tất cả sợ
chết. Tất cả yêu sống. Không cần chứng minh những
điều này. Đây đơn giản là những quan sát của mọi
người. Nhưng vài kết luận có thể được rút ra từ chúng.
Nếu mọi sinh linh đều run rẩy trước bạo hành, thế thì có
cái gì đó sai trong bạo hành, sai về căn bản. Điều đó
chống lại tự nhiên.
Tính huỷ diệt là không tự nhiên, tính sáng tạo là tự
nhiên. Không bạo hành nhưng từ bi là tự nhiên, không
bạo hành nhưng yêu thương. Không giận dữ, không ghét
bỏ, bởi vì đấy là những điều dẫn tới bạo hành, đấy là
những hạt mầm. Yêu thương, từ bi, chia sẻ, đây là tự
nhiên. Và là tự nhiên là có tính tôn giáo.
Tất cả sợ chết; do đó, đừng giết hại. Thay vì thế,
giúp cho mọi người biết cái chết. Nỗi sợ của họ là vì dốt
nát. Họ sợ chết bởi vì chết là cái không biết lớn nhất.
Không có cách nào biết cái chết chừng nào bạn còn
chưa chết. Giúp mọi người biết chết qua thiền đi, bởi vì
đó là cách chết đi và vẫn còn sống.
Tất cả yêu sống; do đó, yêu đi. Tạo ra hoàn cảnh,
không gian, nơi tình yêu có thể phát triển. Đó là điều tôi
đang làm ở đây: tạo ra không gian nơi năng lượng yêu
của bạn có thể tuôn chảy, nơi chúng không bị cản trở gì,
không chướng ngại gì.
Mọi xã hội của thế giới đều đã hướng quá nhiều tới
chiến tranh, do đó chúng đã không cho phép yêu - bởi vì
nếu bạn cho phép yêu tuôn chảy, chiến tranh biến mất.
Nếu bạn cho phép yêu và giúp đỡ cho yêu và tạo ra hoàn
cảnh cho yêu phát triển và xảy ra, mọi người sẽ không
thể nào đánh nhau và giết nhau được.
Cho nên từ ngay lúc ban đầu chúng ta phải cho họ
việc huấn luyện quân sự. Từ chính lúc ban đầu trẻ con
phải được dạy hận thù. Người Hindu được bảo phải ghét
người Mô ha mét giáo, người Mô ha mét giáo được bảo
phải ghét người Hindu. Người Ki tô giáo ghét người Do
Thái, người Do Thái ghét người Ki tô giáo, vân vân và
vân vân. Từng quốc gia này ghét quốc gia khác, và trong
từng quốc gia cũng có những cộng đồng nhỏ bé, khác
nhau, ghét lẫn nhau: người theo Maharashtrian ghét
người theo Gujaratis, người theo Gujaratis ghét người
theo Maharashtrian.
Ấn Độ là một nước, nhưng miền Bắc ghét miền
Nam, miền Nam ghét miền Bắc. Người nói tiếng Hindu
ghét người không nói tiếng Hindu, và người không nói
tiếng Hindu bao giờ cũng chống lại người nói tiếng
Hindu.
Dường như là chúng ta đã từng được nuôi dưỡng lớn
lên theo cách mà ghét đã trở thành đơn giản, thói quen;
chúng ta được làm quen với nó, và yêu thương đã trở
thành gần như không thể được. Với nhiều hận thù thế,
với nhiều kẻ thù thế, bạn đang ghét gần như mọi người.
Làm sao bạn có thể yêu vợ bạn được? Làm sao bạn có
thể yêu con bạn được? Làm sao bạn có thể yêu bố mẹ
bạn được? Và thế rồi những đòi hỏi không thể nào có
được đã được áp lên bạn: bạn được bảo phải yêu vợ bạn,
phải yêu chồng bạn, và bạn được bảo phải ghét mọi
người khác trên thế giới. Đây là điều mâu thuẫn. Hoặc
bạn có thể yêu tất cả hoặc bạn có thể ghét tất cả; bạn
không thể phân chia.
Người ghét mọi người khác không thể yêu được vợ
mình - điều đó là không thể được. Người đó trở nên
quen với ghét. Ghét chảy trong máu người đó, nó tuần
hoàn trong bản thể người đó. Nếu trong hai mươi ba giờ
trong ngày bạn đều ghét, đánh nhau, tranh đấu, cạnh
tranh, thế thì bạn nghĩ trong một giờ trở về nhà với vợ
mình bạn sẽ yêu sao? Không thể được! Hai mươi ba giờ
đó sẽ tiếp tục chảy ngầm.
Cho nên cảnh sát trở thành cảnh sát hai mươi bốn
giờ. Ngay cả khi anh ta ở nhà với vợ mình anh ta cũng
hành xử dường như anh ta là cảnh sát. Quan toà trở
thành quan toà, thư kí trở thành thư kí hai mươi bốn giờ
- không chỉ trong văn phòng, người đó mang hồ sơ tài
liệu trong đầu mình. Ngay cả khi làm tình với vợ người
đó cũng tính toán, người đó đang làm cả nghìn lẻ một
thứ trong tâm trí mình. Người đó có thể ở văn phòng
hay người đó có thể ở đâu đó khác...
Quan sát khi bạn làm tình với vợ bạn, bạn ở đâu.
Bạn có ở đó không? Thực ra, ai đó khác đang làm tình
với vợ bạn; bạn không có đó - đấy chỉ là hành động máy
móc. Và bạn có nghĩ rằng vợ bạn ở đó không? Cô ấy
cũng không ở đó nốt. Cô ấy có thể đang ở trong bếp hay
đang nghĩ về cách mua tủ lạnh mới - có thể đã đi ra siêu
thị rồi. Cô ấy có thể ở đó; cô ấy có thể không ở cùng bạn
chút nào.
Đó là lí do tại sao tình yêu của bạn lại không thoả
mãn; ngược lại, nó bỏ lại bạn rất thất vọng. Và bạn có
thể yêu được con mình không? Không thể được! Làm
sao bạn có thể yêu bố mẹ mình được? - đây là những
người đã dạy bạn đủ mọi loại hận thù.
Chúng ta cần một thế giới hoàn toàn khác, một sự
giáo dưỡng khác, nơi ghét không được dạy. Đây là thế
giới rất kì lạ mà chúng ta đã tạo ra! Mãi cho tới giờ điều
chúng ta đã làm cho nhân loại thực sự là không thể nào
tin nổi: một mặt chúng ta dạy họ ghét, và mặt khác
chúng ta cứ nói về an bình. Một mặt chúng ta đầu độc
họ và mặt khác chúng ta bảo họ, "Các bạn tất cả đều là
anh em." Chúng ta nói về tình anh em, và chúng ta
chuẩn bị cho chiến tranh; chúng ta nói về hoà bình thế
giới và chúng ta chuẩn bị cho chiến tranh. Điều này cực
kì thần kinh; điều này là không lành mạnh! Con người
cho tới nay vẫn còn mất trí, và lí do là ở chỗ giáo dưỡng
sai.
Chúng ta đã không nghe chư phật. Bây giờ đến lúc
rồi! Chúng ta bây giờ phải nghe chư phật. Nếu chúng ta
không nghe, chỉ thêm vài năm nữa và toàn thể nhân loại
phải chịu số phận bi đát. Chúng ta không thể nào đảm
đương được việc không nghe thêm nữa.
Tất cả yêu sống. Giúp mọi người yêu nhiều hơn.
Yêu bản thân bạn đi. Hân hoan trong yêu đi.
**Thấy bản thân ông trong người khác.
Thì ông có thể làm tổn thương ai?
Ông có thể gây hại gì?**
Thấy ra vấn đề: đây không phải là giáo huấn đạo
đức - đây là phục hưng tâm linh, cuộc cách mạng. Thấy
bản thân ông trong người khác. Không chỉ triết lí - mà
có tính tồn tại. Gạt bản ngã sang bên và bạn sẽ có khả
năng thấy rằng bạn ở trong tất cả, rằng cuộc sống là một.
Thì ông có thể làm hại ai? Ông có thể gây hại gì?
**Người tìm kiếm hạnh phúc
bằng việc làm tổn thương người tìm kiếm hạnh phúc
sẽ không bao giờ tìm thấy hạnh phúc.**
Nếu bạn cố tìm hạnh phúc bằng việc gây tổn thương
cho những người đang tìm kiếm hạnh phúc, bạn không
thể tìm thấy hạnh phúc được, bởi vì bạn thậm chí đã
không hiểu điều nền tảng nhất về cuộc sống. Trong dốt
nát thế làm sao bạn có thể hạnh phúc được?
Nhìn khắp xung quanh, quan sát bằng đôi mắt yêu
thương, nhìn bằng tâm trí không bản ngã, và bạn sẽ thấy
rằng cuộc sống là tuyệt đối chống lại tính huỷ diệt. Cuộc
sống là năng lượng sáng tạo. Cho dù đôi khi người ta tự
tử, họ tự tử không vì phục vụ cái chết mà vì phục vụ
cuộc sống.
Những người tự tử là những người đã từng trong
tình yêu vô cùng với cuộc sống và cảm thấy thất vọng,
vỡ mộng. Trong những khoảnh khắc của tan vỡ ảo
tưởng họ trở nên điên rồ. Những người tự tử đó không
chống lại cuộc sống, nhớ lấy. Bình thường đó là điều
người ta vẫn nghĩ về những người này, rằng họ chống
lại cuộc sống. Không, họ vì cuộc sống quá nhiều; họ ủng
hộ cuộc sống nhiều tới mức cuộc sống không thể hoàn
thành được đòi hỏi của họ. Trong thất vọng cùng cực họ
tự tử.
Mulla Nasruddin chán nản với cuộc sống tới mức
anh ta quyết định tự tử. Một tối anh ta đi về vùng quê,
một ổ bánh mì kẹp nách. Khi anh ta tới chỗ giao đường
tàu hoả anh ta nằm ra trên đường ray tàu. Một nông dân
đi qua ngớ người với cảnh tượng kì lạ này.
"Anh làm cái gì thế," ông ta hỏi, "nằm ra trên đường
tàu sao?"
Mulla nói, "Tôi định tự tử đây."
"Anh cần bánh mì để làm gì?" người nông dân hỏi.
"Ở nước này," Mulla nói, "đợi đến lúc tầu hoả tới
đây thì người ta có thể đã chết đói rồi."
Không ai muốn chết. Điều đó nghĩa là sống muốn
kéo dài mãi mãi. Điều đó nghĩa là sống đang trong tình
yêu với cái vĩnh hằng. Thực ra sống là vĩnh hằng. Chết
chỉ thay đổi hình dạng thôi, nó không phá huỷ - nhưng
điều đó tạo ra nỗi sợ bởi vì đó là hiện tượng không được
biết nhất.
Sợ biến mất chỉ khi, trong thiền sâu, bạn trở nên
quen với chết; khi trong thiền sâu bạn biết rằng "Mình
không là thân thể, không là tâm trí. Thế thì làm sao có
thể có chết được?" Thân thể sẽ trở về với đất - cát bụi về
với cát bụi - nhưng tâm thức bạn sẽ vẫn còn mãi mãi.
Thế thì sợ biến mất. Và khi sợ biến mất trong bạn, ham
muốn lớn lao nảy sinh để giúp người khác để cho họ có
thể làm tiêu tan sợ của họ - bởi vì mọi người sống trong
sợ là sống trong đau khổ. Cuộc sống của họ là cơn ác
mộng bị bao quanh bởi sợ.
Cuộc sống nên được bao quanh bởi yêu, không bởi
sợ. Chính sợ tạo nên giận. Chính giận chung cuộc tạo
nên bạo hành. Bạn có quan sát không? Sợ chỉ là dạng nữ
tính của giận và giận là dạng nam tính của sợ. Sợ là
dạng thụ động của giận và giận là dạng chủ động của sợ.
Cho nên bạn có thể đổi sợ thành giận rất dễ dàng, và đổi
giận thành sợ - rất dễ dàng.
Thỉnh thoảng mọi người tới tôi và họ nói, "Chúng
tôi cảm thấy rất sợ."
Tôi bảo họ, "Bạn đi và đánh gối và giận gối đi."
Họ nói, "Điều đó có tác dụng gì?"
Tôi nói, "Thì cứ thử đi!" Và điều đó trở thành sự
khải lộ ngay cả cho họ. Nếu họ có thể đánh gối trong
giận nóng nảy, thực sự, ngay lập tức sợ biến mất, bởi vì
cùng năng lượng đó biến đổi và trở thành kích hoạt. Nó
đã bất hoạt, thế thì nó là sợ.
Sợ là nguyên nhân gốc rễ của ghét, giận, bạo hành.
Giúp mọi người không sợ đi. Nhưng làm sao bạn có
thể giúp mọi người không sợ khi mà bạn chẳng biết gì
về bạo dạn là gì?
Người tìm kiếm hạnh phúc bằng việc làm tổn thương
người tìm kiếm hạnh phúc sẽ không bao giờ tìm thấy
hạnh phúc. Bạn có thể tìm hạnh phúc chỉ nếu bạn giúp
người khác cũng hướng tới hạnh phúc. Bạn không thể
tìm thấy hạnh phúc một mình được; đó là điều bạn đã
từng cố gắng. Bạn đã từng cố gắng để hạnh phúc một
mình và để cho người khác xuống địa ngục. Bạn không
một mình như vậy được đâu; chúng ta cùng được gắn
với nhau. Nếu mọi người khác mà xuống địa ngục, bạn
không thể lên cõi trời được, nhớ lấy.
Có một câu chuyện ngụ ngôn hay về Phật Gautam:
Ông ấy lên tới cổng trời. Cửa mở ngay cho ông ấy,
âm nhạc vĩ đại vang lên để đón chào ông ấy, và các
thiên thần mang theo những vòng hoa, nhưng Phật từ
chối không vào. Ông ấy nói, "Ta sẽ đợi ở đây. Chừng
nào sinh linh cuối cùng còn chưa vào cõi trời ta không
thể vào được."
Các thiên thần thuyết phục ông ấy, "Điều này sẽ là
vĩnh hằng mất... để cho mọi người - tất cả đàn ông, tất
cả đàn bà, và tất cả voi và kiến và... Nếu ông nghĩ tới
mọi sinh linh phải vào trước, thế thì sẽ phải đến vĩnh
hằng!"
Phật nói, "Chẳng có gì để mà lo nghĩ cả - ta sẽ đợi.
Ta có thể đợi được, ta biết cách đợi. Và ta đã phúc lạc
vĩnh hằng rồi - cõi trời còn có thể cho ta cái gì thêm
nữa? Chẳng có gì nhiều hơn điều đó cả. Cho nên ta sẽ
đợi ở đây, nhưng ta không thể vào cõi trời được chừng
nào mọi người khác còn chưa vào hết."
Và câu chuyện này cứ diễn ra là Phật vẫn đợi ở
cổng; các thiên thần vẫn cố gắng thuyết phục ông ấy. Họ
cứ thử đi thử lại những luận cứ mới, nhưng họ vẫn chưa
thể nào làm cho ông ấy vào và đóng cửa lại. Và cửa vẫn
mở và Phật vẫn đang đợi...
Có thể có cả nghìn lẻ một diễn giải về câu chuyện
ngụ ngôn hay này. Hôm nay tôi muốn nhắc bạn tới một
điều: cho dù Phật có muốn vào một mình, ông ấy cũng
không thể làm thế được. Ông ấy hiểu điều đó, đó là lí do
tại sao ông ấy nói: chừng nào sinh linh cuối cùng còn
chưa vào, ta sẽ không vào đâu - bởi vì ông ấy hiểu rằng
điều đó là không thể được.
Tất cả chúng ta là một, chúng ta không tách rời.
Không thể nào chỉ bàn tay tôi vào cõi trời; cho dù nó có
vào nó sẽ là bàn tay chết, nó sẽ không thực là tay tôi.
Không thể nào chỉ một mắt tôi vào cõi trời và toàn thân
vẫn ở ngoài. Hoặc tôi có thể vào như một sinh linh toàn
thể hoặc không vào chút nào. Đó là điều Phật đang nói.
Phật đang nói, "Ta chỉ là bộ phận - cái toàn bộ đang
ở ngoài. Ta không thể vào được. Ta sẽ vào chỉ cùng với
cái toàn thể."
Nếu bạn hiểu điều này, cách tiếp cận của bạn, mối
quan hệ của bạn với cuộc sống, sẽ có hương vị hoàn
toàn khác. Bạn sẽ thấy tất cả đều là bạn hữu, bạn sẽ thân
thiện với cuộc sống. Trong chính sự thân thiện đó bạn sẽ
bắt đầu trở nên hạnh phúc. Trong tình yêu đó với tất cả,
phúc lạc lớn lao sẽ nảy sinh trong bạn.
**Vì anh ông là giống ông.
Người đó muốn hạnh phúc.
Đừng bao giờ làm hại người đó
và khi ông rời bỏ cuộc sống này
ông cũng sẽ thấy hạnh phúc.**
Lời kinh này đã bị hiểu lầm trong ít nhất hai mươi
nhăm thế kỉ.
Và khi ông rời bỏ cuộc sống này ông cũng sẽ thấy
hạnh phúc. Điều này đã bị diễn giải lặp đi lặp lại cứ
dường như nó nói cái gì đó về cuộc sống sau cái chết:
"Khi ông rời bỏ cuộc sống này, khi ông rời thân thể này,
thế thì ông sẽ tìm thấy hạnh phúc" - cứ dường như hạnh
phúc là cái gì đó chỉ xảy ra sau cái chết; nó không thể
xảy ra trong cuộc sống được. Đây đã từng là cách các
Phật tử diễn giải.
Tôi không phải là Phật tử. Phật tử đã từng diễn giải
nó theo cách phủ định cuộc sống. Diễn giải của tôi là
hoàn toàn khác. Và tôi nói với bạn rằng điều đó đích xác
là điều Phật ngụ ý nó phải là vậy, bởi vì tôi không chỉ
diễn giải nó theo cách triết lí - đây là kinh nghiệm của
tôi nữa. Và khi có liên quan tới kinh nghiệm thì nó
không thể khác được; nó không khác với kinh nghiệm
của Phật.
Khi Phật nói: Và khi ông rời bỏ cuộc sống này... ông
ấy không ngụ ý cái chết đâu. Ông ấy đơn giản ngụ ý
cách sống cuộc sống này, cách sống ngu xuẩn này: cách
thức này của ham muốn, tham vọng, giận dữ, sở hữu,
ghen tị - cách thức ngu xuẩn này của cuộc sống. Và mọi
người không đi sâu hơn vào thiền đều đang sống theo
cách ngu xuẩn cả.
Wiznicki và Polacek đi tới chỗ để xe hơi đã dùng rồi
để mua một chiếc xe. Họ không có đủ tiền để mua một
chiếc nhưng người bán hàng bán cho họ một con lạc đà.
"Thứ này có làm việc không?" Wiznicki hỏi.
"Tất nhiên rồi," người bán hàng nói. "Con lạc đà này
dừng khi đèn đỏ và đi khi đèn xanh."
Wiznicki và Polacek rời đi trên lưng con lạc đà
nhưng hai mươi phút sau họ quay lại mà không còn con
vật này.
"Có chuyện gì vậy?" người bán hàng hỏi.
"Con lạc đà làm đúng điều ông nói," Polacek kêu
lên. "Chúng tôi dừng lại ở đèn đỏ, tụi con trai trong
chiếc xe cũng dừng lại bên cạnh chúng tôi. Một đứa la
lên, 'Nhìn hai thằng ngốc trên con lạc đà kìa!' Chúng tôi
nhảy xuống để xem ai là hai thằng ngốc và con lạc đà đi
mất!"
Nếu bạn nhìn vào cuộc sống của mình, nếu bạn quan
sát một cách kĩ càng, bạn sẽ thấy bạn ngu làm sao, bạn
là đồ ngốc làm sao!
Sống không thiền là ngu xuẩn, bởi vì thế thì bất kì
cái gì bạn làm cũng đều sẽ sai. Bạn không thể làm điều
đúng mà không có thiền bởi vì điều đúng chỉ phát triển
trong mảnh đất của thiền. Trong mảnh đất của tâm trí
tham vọng, ham muốn nảy sinh. Và khi có tham vọng có
cạnh tranh, và khi có cạnh tranh bạn không là bạn với
người khác. Bạn là kẻ thù và người khác là kẻ thù của
bạn. Tâm trí cạnh tranh sống theo cách thù địch, sống
trong hận thù, sống trong ghen tị; toàn thể vận hành của
nó là từ ghen tị. Và bởi vì loại cuộc sống này mà con
người khổ, con người vẫn còn trong khổ.
Khi Phật nói: Và khi ông rời bỏ cuộc sống này ông
cũng sẽ thấy hạnh phúc... ông ấy ngụ ý nếu bạn rời bỏ
cuộc sống này của tham vọng, ghen tị, hận thù, cạnh
tranh, nếu bạn rời bỏ cuộc sống này của bản ngã, bạn sẽ
tìm thấy hạnh phúc - ngay lập tức, tức khắc, ở đây bây
giờ. Nó không phải là vấn đề về sau cái chết. Vấn đề
không phải là sau cái chết bạn sẽ hạnh phúc. Bạn có thể
hạnh phúc ngay chính khoảnh khắc này - bạn chỉ phải
thay đổi hình mẫu cuộc sống của mình.
Và hình mẫu cuộc sống của bạn có thể được thay
đổi theo hai cách: hoặc từ bên ngoài, từ ngoài - cái là cá
tính, cái là đạo đức - hoặc từ bên trong, từ nội tâm, từ
trong - cái là tôn giáo.
Đừng là người đạo đức. Đó không phải là cách thức
của cách mạng thực, nó tất cả đều là mánh khoé. Người
đạo đức là kẻ bản ngã theo cách mới. Người đó sống
trong khổ. Chỉ người đã bắt đầu sống từ trung tâm,
người đi vào trong tính chủ thể riêng của mình trong im
lặng sâu sắc, sẽ có hạnh phúc mưa rào lên mình.
**Đừng bao giờ nói những lời tàn nhẫn
vì chúng sẽ bật lại vào ông.
Những lời giận dữ gây đau
và cái đau bật lại.**
Nền tảng của cuộc sống: bất kì cái gì bạn làm cũng
sẽ bật lại bạn. Nếu bạn dùng những từ thô bỉ, chúng sẽ
bật lại. Nếu bạn làm tổn thương mọi người, điều đó sẽ
quay lại cho bạn.
Có thời tôi đã ở Matheran cùng với vài người bạn.
Chúng tôi tới thăm một lâu đài có tên là Điểm Vọng.
Một người đi cùng chúng tôi bắt đầu sủa lên như chó, và
tất cả thung lũng và núi non bao quanh bắt đầu sủa ầm
lên cứ như cả nghìn con chó có đó.
Tôi bảo người đó, "Sao bạn không hát lên bài ca? -
bởi vì những núi này sẽ chỉ vọng lại nó. Nếu bạn sủa
như chó chúng sẽ trở thành chó. Sao bạn không hát bài
ca?"
Và người đó bắt đầu hát bài ca... và chúng tôi được
mưa rào bởi bài ca hay của người đó. Từ khắp thung
lũng và núi non bài ca bắt đầu vang lại chúng tôi.
Tôi bảo mọi người đang hiện diện rằng cuộc sống
cũng là một Điểm Vọng. Nó cho bạn bất kì cái gì bạn
cho nó. Bạn phải gặt lấy mùa màng, bất kì cái gì bạn đã
gieo trước đó. Gieo hạt mầm chất độc, đừng hi vọng
rằng bạn sẽ gặt cam lồ; bạn sẽ không có khả năng đạt tới
cam lồ bằng hạt mầm chất độc. Chất độc sẽ đem tới chất
độc nhiều hơn. Gieo hạt mầm cam lồ và gặt về mùa
màng cam lồ.
Đừng bao giờ nói những lời tàn nhẫn, vì chúng sẽ
bật lại vào ông. Những lời giận dữ gây đau và cái đau
bật lại.
**Giống như cái cồng vỡ
tĩnh lặng, im lặng.
Biết tĩnh lặng của tự do
nơi không còn gắng sức nữa.**
Đây là lời kinh hàm chứa nhất của mọi lời kinh hôm
nay. Đây là bí mật của thiền, đây là điều thiền tất cả là
gì.
Giống như cái cồng vỡ tĩnh lặng, im lặng. Biết cái
tĩnh lặng của tự do... "Cái tĩnh lặng của tự do" là gì? - tự
do khỏi ham muốn. Chính ham muốn tạo ra ồn ào trong
bạn. Và không chỉ có một ham muốn trong bạn đâu, có
cả triệu ham muốn la lối om sòm đòi chú ý, yêu cầu bạn,
lôi kéo bạn, xô đẩy bạn, để theo chúng. Bạn bị kéo ra xa
bởi vì bạn liên tục bị lôi kéo và xô đẩy theo mọi hướng.
Biết cái tĩnh lặng của tự do... Điều đó nghĩa là tự do
khỏi ham muốn. Thế thì có tĩnh lặng.
...Nơi không còn gắng sức nữa. Khi không có ham
muốn không còn cố gắng thêm nữa. Nơi không có mục
đích nào nữa không có cố gắng thêm nữa. Nơi bạn
không còn tham vọng về bất kì cái gì - thế giới này hay
thế giới khác, vật chất hay tâm linh - khi bạn không
tham vọng chút nào, làm sao có thể có ồn ào trong bản
thể bạn được? Tất cả nhất định trở thành im lặng. Đây là
im lặng thực.
Có một loại im lặng khác nữa. Bạn có thể ngồi trong
tư thế yoga, bạn có thể lấy hơi thở sâu, và bạn có thể
tụng mật chú, và bạn có thể ép buộc tâm trí mình lặp đi
lặp lại hàng tháng, hàng năm. Nếu bạn cứ làm những
điều như thế, sau nhiều năm thực hành bạn có thể đạt tới
sự tĩnh lặng nào đó, cái bị ép buộc, nhân tạo. Và nếu bạn
nhìn sâu vào bên trong bản thân mình bạn sẽ thấy mọi
cái ồn ào chỉ trở nên bị kìm nén; nó vẫn có đó lẩn khuất
ngầm bên dưới bạn. Nó không còn trên bề mặt nữa, nó
đã đi xuống đáy. Và điều đó thậm chí còn nguy hiểm
hơn, bởi vì nếu cái gì đó đang trong ý thức, việc loại bỏ
nó là dễ dàng; nếu cái gì đó trở thành vô ý thức, thế thì
việc gạt bỏ nó trở thành không thể được.
Do đó phân tâm cố gắng đem mọi thứ về ý thức để
cho bạn có thể gạt bỏ được nó. Phân tâm đem giấc mơ
của bạn, các thông điệp vô ý thức của bạn, về ý thức -
bởi vì cách duy nhất để gạt bỏ bất kì cái gì là trở nên ý
thức đầy đủ về nó. Thế thì đó là tuỳ ở bạn giữ nó hay
vứt nó đi, nhưng vẫn còn vô ý thức thì vẫn là nạn nhân.
Cái dây của bạn bị kéo từ đằng sau tấm màn và bạn
không biết ai đang kéo chúng. Bạn chỉ là con rối bị kéo
they cách này cách nọ. Bạn đơn giản tuân theo các ham
muốn vô ý thức.
Phân tâm đem những ham muốn bị kìm nén của bạn
về ý thức, nhưng nó không thể làm điều đó một cách
toàn bộ được - bởi vì ngay cả sự hiện diện của nhà phân
tâm là đủ giữ cho bạn bị kìm nén. Chỉ thiền mới có thể
giúp cho bạn một cách toàn bộ, bởi vì bạn không đem
nó vào sự chú ý của ai đó khác, bạn đem nó vào ngay
trước bản thể riêng của mình. Bạn có thể tuyệt đối tự do.
Bạn không cần phải sợ người khác sẽ nghĩ gì.
Sự hiện diện của người khác bao giờ cũng có tính
kìm nén cho dù nhà phân tâm nói, "Đừng lo, đừng sợ.
Tôi sẽ không tiết lộ điều đó cho bất kì ai đâu - điều này
sẽ vẫn còn là bí mật với tôi, điều này sẽ chết cùng tôi."
Bất kì điều gì người đó nói, sự hiện diện của người đó là
đủ để kìm nén, bởi vì người đó không thể nào không có
tính phán xét được. Nếu bạn nói điều gì đó ngược lại với
tâm trí người đó bạn có thể thấy trong mắt người đó
rằng phán xét đó đã nảy sinh.
Chính bởi vì điều này mà Sigmund Freud thường
ngồi đằng sau một bức màn; ông ấy không bao giờ đối
diện với bệnh nhân. Ông ấy nhận biết đầy đủ về hiện
tượng là khuôn mặt, đôi mắt, điệu bộ, sẽ chỉ ra rằng bạn
đang phán xét, rằng bạn đang phán xử. Và nếu bạn đang
phán xử, nỗi sợ nảy sinh và kìm nén xảy ra. Nhưng cho
dù bạn có ngồi đằng sau tấm rèm, người này biết bạn có
đó, người kia có đó - và người kia có tính kìm nén.
Do đó phân tâm chỉ giúp một phần thôi. Và bạn biết
hoàn toàn rõ rằng nhà phân tâm của bạn cũng ốm như
bạn, hay có thể thậm chí còn ốm hơn bạn. Nhà phân tâm
bản thân họ cũng tới nhà phân tâm khác để được phân
tâm, bởi vì họ đều chịu cùng một vấn đề.
Sigmund Freud và Carl Gustav Jung đã du hành
cùng nhau trên một chuyến tàu hoả, khi Jung vẫn còn là
đệ tử và còn chưa phản bội lại thầy. Nói chuyện về phân
tâm, Jung đột nhiên có một ý tưởng. Ông ấy nói, "Thầy
đã phân tâm tất cả chúng tôi, nhưng bản thân thầy vẫn
chưa được phân tâm. Thầy có muốn một số người trong
chúng tôi phân tâm thầy không? Tôi sẵn sàng! Nếu thầy
muốn, tôi có thể làm việc như nhà phân tâm của thầy."
Sigmund Freud bắt đầu run rẩy, mồ hôi vã ra trên
trán ông ấy mặc dầu lúc đó là sáng mùa đông lạnh. Ông
ấy nói, "Không, không bao giờ!"
Jung hỏi, "Tại sao?"
Sigmund Freud nói, "Điều đó sẽ phá huỷ toàn thể
danh tiếng của ta."
Jung nói, "Thế thì nó đã phá huỷ danh tiếng của thầy
rồi. Nếu thầy sợ, thế thì làm sao thầy có thể nói trước
chúng tôi rằng người khác không nên sợ - nếu ngay cả
thầy cũng sợ?"
Sigmund Freud sợ bởi vì ông ấy mang những kìm
nén lớn. Về vài điều ông ấy bị kìm nén tới mức hiếm khi
tìm ra một người bị kìm nén đến thế. Ông ấy đã làm
công việc lớn lao trong khi đem dục vào ý thức của nhân
loại từ thế giới bị kìm nén. Ông ấy đã làm việc phục vụ
lớn lao cho nhân loại bằng việc phá huỷ điều kiêng kị
chống lại dục, nhưng bản thân ông ấy đã có ý niệm rất
khôi hài về dục. Ông ấy không rõ ràng cho bản thân
mình về dục, về dâm dục. Bản thân ông ấy mang mọi
loại ý niệm mục nát, chết về dục. Ông ấy rất sợ chết
nữa. Thậm chí nhắc tới cái chết một hay hai lần đã làm
cho ông ấy hôn mê đi; chỉ nhắc tới chết và ông ấy ngất
đi, trở nên vô ý thức.
Bây giờ, đây là nhà sáng lập ra phân tâm học đấy -
chết ngất khi nghe nhắc tới từ ‘chết’ và mang những ý
tưởng rất ngu xuẩn, buồn cười về dục. Nói gì tới các nhà
phân tâm khác - họ ở trong cùng một con thuyền như
bệnh nhân của họ, và bệnh nhân của họ biết hoàn toàn
rõ.
Không, không có khả năng thể phơi bầy bản thân
bạn một cách toàn bộ ra trước bất kì ai khác. Do đó ở
phương Đông chúng ta không bao giờ phát triển cái gì
như phân tâm học - chúng ta đã phát triển thiền. Đó là
việc tự phơi bày bản thân mình ngay trước bản thân
mình. Đó là khả năng duy nhất để hoàn toàn thực, bởi vì
không có sợ.
Tự do khỏi ham muốn, tự do khỏi vô ý thức, tự do
khỏi đủ mọi loại mục đích, đem tới một loại tĩnh lặng
khác, tĩnh lặng tự nhiên nảy sinh bên trong bản thể bạn,
bắt đầu tuôn trào. Ngay cả người khác cũng có thể cảm
thấy nó; nó trở thành gần như thấy được.
**Giống như người nuôi súc vật đưa bò ra cánh đồng
tuổi già và cái chết sẽ đưa ông tới trước chúng.**
Chết sẽ tới sớm hay muộn. Trước khi cái chết tới,
học cách chết trong thiền đi.
**Nhưng người ngu trong việc ác của mình quên mất
và người đó đốt lửa
để ngày nào đó người đó phải bị thiêu.**
Người ngu cứ tạo ra hố cho bản thân mình. Bạn tạo
ra khổ riêng của mình, bởi vì bạn hành động từ vô ý
thức, bạn hành động từ tâm trí ồn ào, u ám. Bạn không
hành động từ sự sáng tỏ; hành động của bạn không phải
là từ tự phát; hành động của bạn không phải là từ im
lặng có tính thiền. Nó tạo ra lửa. Bạn có thể nghĩ bạn
đang tạo ra nó vì người khác, nhưng mọi thứ đều bật lại
vào bạn.
Không có lửa địa ngục ở bất kì đâu khác trừ phi bạn
tạo ra nó. Mọi người đều phải mang cõi trời hay địa
ngục ở bên trong bản thân mình - nó là sáng tạo riêng
của bạn.
**Người làm hại người vô hại
hay làm tổn thương người hồn nhiên
người đó sẽ ngã mười lần -
vào đau khổ hay ốm yếu,
bị thương hay bệnh tật hay điên khùng,
bị kiện cáo hay bị kết tội kinh khủng,
mất gia đình, mất của cải.
lửa từ trời sẽ đánh xuống nhà người đó
và khi thân thể người đó đã bị đánh ngã
người đó sẽ vào trong địa ngục.**
Lửa từ trời sẽ đánh xuống nhà người đó... Không
phải là ai đó đang ngồi đó trên trời, người trừng phạt
bạn: bạn nhổ lên trời và nó rơi lên bạn, bạn ném lửa lên
trời và nó rơi vào bạn. Bạn đi ngược dòng - đó là toàn
thể khổ của bạn.
Đi với tự nhiên đi. Đi tuyệt đối trong hài hoà với tự
nhiên, không đi ngược dòng mà đi cùng dòng. Đừng xô
đẩy dòng sông, nổi cùng nó. Và cuộc sống sẽ là phúc
lạc, và cuộc sống sẽ là cực lạc, và cuộc sống sẽ là phúc
lành. Bằng không lửa sẽ đánh xuống nhà bạn. Và khi
thân thể người đó đã bị đánh ngã người đó vào trong
địa ngục. Và điều này xảy ra mọi ngày.
Khi bạn đi ngủ, nhiều người trong các bạn chịu
đựng các cơn ác mộng. Nhiều người viết cho tôi, "Phải
làm gì với các cơn ác mộng đây?" Bạn không thể làm gì
được một cách trực tiếp với ác mộng đâu; bạn sẽ phải
thay đổi hình mẫu cuộc sống của mình. Ác mộng của
bạn được tạo ra bởi điều bạn đang làm và nghĩ ban ngày.
Đêm của bạn đơn giản là sự phản xạ. Nếu ngày của bạn
mà đẹp, phúc lạc, yêu thương, bạn không thể có ác
mộng được. Và nếu ngày của bạn mà im lặng, tĩnh lặng,
hoàn toàn vô ý nghĩ, vô nội dung - thuần khiết tuyệt đối,
toàn thể, không biết tới rối loạn - mọi giấc mơ sẽ biến
mất. Trong đêm bạn sẽ có giấc ngủ không mơ.
Cùng điều đó xảy ra khi cái chết tới. Khi thân thể
chết đi, lập tức hoặc bạn kinh nghiệm cõi trời - nếu bạn
đã sống đúng, có lưu tâm, có tính thiền - hoặc bạn kinh
nghiệm địa ngục. Đây không phải là nơi chốn địa lí ở
đâu đó; đây là khi bạn rời bỏ thân thể. Tâm trí bị bỏ lại
một mình trở nên nổi cáu. Tâm trí bị bỏ lại một mình,
không bận bịu, tạo ra cái gì đó mà qua đó bạn đã gieo
hạt mầm cho toàn thể kiếp sống của mình.
Bây giờ các nhà phân tâm đang đồng ý với điều này,
dần dần thôi, dần dần, rằng khi một người chết đi, ngay
lập tức - thực ra trong khi người đó chết - người đó đã
hoặc đi vào trong cơn ác mộng - đó là địa ngục - hay đi
vào một chỗ rất, rất đẹp - đó là thiên đường.
Điều thứ ba là không địa ngục không cõi trời, không
hạnh phúc không bất hạnh, mà chỉ nhận biết thuần khiết.
Đó là niết bàn, đó là moksha. Không có từ để dịch nó,
bởi vì trong mọi tôn giáo phi Ấn Độ - Ki tô giáo, Do
Thái giáo, Hồi giáo - chỉ hai từ đã được nói tới: cõi trời
và địa ngục. Từ thứ ba bị mất, cái cao nhất bị mất.
Đó là lí do tại sao tôi nói ba tôn giáo này là có chút
ít nguyên sơ nếu so với Phật giáo. Phật giáo đạt tới đỉnh
cao nhất - nó siêu việt lên trên cả cõi trời và địa ngục
nữa.
Người ta có thể chết trong im lặng tuyệt đối - đầy
tỉnh táo, không kinh nghiệm hoan lạc hay đau đớn. Thế
thì người đó sẽ không được sinh ra lần nữa. Thế thì
người đó đã nhảy ra khỏi bánh xe xấu xí của sinh và tử.
Người đó đã trở thành một với vũ trụ. Trở thành một với
vũ trụ là niết bàn. Người đó đã dừng như một cá nhân và
người đó đã trở thành cái toàn thể.
Trở nên tĩnh lặng đi - không phải là tĩnh lặng bị áp
đặt, không phải là tĩnh lặng được thực hành và trau dồi -
trở nên tĩnh lặng một cách tự nhiên. Bằng việc hiểu cái
vô tích sự của ham muốn, bằng việc thấy cái ngớ ngẩn
tuyệt đối của ham muốn, trở nên tĩnh lặng đi - qua hiểu
biết, không qua thực hành.
Giống như cái cồng vỡ tĩnh lặng, im lặng. Biết cái
tĩnh lặng của tự do nơi không còn gắng sức nữa và bạn
đã đi vào trong cõi bên kia và bạn đã trở thành cõi bên
kia...
Đây là mục đích của tính chất sannyas, đây là mục
đích của mọi tôn giáo. Đây là phần cốt lõi bản chất của
mọi tâm linh. Khoa học chỉ biết bộ phận; nghệ thuật biết
nhiều hơn một chút so với khoa học. Tôn giáo biết cái
toàn thể.
Đủ cho hôm nay.
***********************************************************************************************************
#8 Thiền chút ít
Câu hỏi thứ nhất:
Thưa Thầy kính yêu,
Tôi bao giờ cũng nghĩ rằng ý nghĩa của khoa học
nằm trong tính tiện ích của nó cho nhu cầu con
người; trong việc giúp cung cấp đủ thức ăn, tìm ra
cách chữa trị bệnh tật, tạo ra máy móc để đỡ con
người khỏi công việc vất vả và ngu xuẩn, vân vân.
Mãi cho tới giờ tôi bao giờ cũng được thuyết phục
rằng chẳng có gì sai với khoa học, nhưng thay vì thế
là với thái độ phổ biến đối với khoa học: rằng nó có
thể khám phá ra các qui luật bên trong của cuộc
sống. Bây giờ tôi nghe trong lời thầy rằng bản thân
khoa học là gốc rễ của khổ trên thế giới này, bởi vì
nó phá huỷ các bí ẩn của cuộc sống và do đó dẫn tới
thái độ phản tôn giáo. Thầy có chống lại khoa học
không?
Prem Peter, tôi không chống lại khoa học, nhưng tôi
chắc chắn ủng hộ cho một loại khoa học khác, với phẩm
chất khác toàn bộ cho nó. Khoa học như nó tồn tại ngày
nay là rất thiên lệch; nó chỉ tính tới vật chất, nó bỏ tâm
linh ra khỏi vật chất - và điều đó là rất nguy hiểm.
Nếu con người chỉ là vật chất, mọi nghĩa biến mất
khỏi cuộc sống. Cuộc sống có thể có nghĩa gì nếu con
người chỉ là vật chất? Thơ ca nào là có thể, ý nghĩa gì,
vinh quang gì? Ý niệm rằng con người là vật chất thu
con người về trạng thái rất không xứng đáng. Cái gọi là
khoa học tước đi mọi vinh quang của con người. Đó là lí
do tại sao lại có nhiều cảm giác vô nghĩa thế trên khắp
thế giới.
Mọi người đều cảm thấy trống rỗng hoàn toàn.
Vâng, họ có máy móc tốt hơn, công nghệ tốt hơn, nhà
cửa tốt hơn, thức ăn tốt hơn bao giờ. Nhưng mọi sung
túc này, mọi tiến bộ vật chất này, là không có giá trị gì
chừng nào bạn còn chưa có cái nhìn sáng suốt - cái gì đó
siêu việt lên trên vật chất, thân thể, tâm trí - chừng nào
bạn còn chưa nếm trải hương vị của cõi bên kia. Và cõi
bên kia bị khoa học phủ nhận.
Khoa học phân chia cuộc sống thành hai loại: cái
biết và cái không biết. Tôn giáo chia cuộc sốth thành ba
loại: cái biết, cái không biết và cái không thể biết. Nghĩa
tới từ cái không thể biết. Cái biết là cái đã từng là cái
không biết hôm qua, cái không biết là cái sẽ trở nên
được biết ngày mai. Không có khác biệt về chất giữa cái
biết và cái không biết, chỉ là vấn đề thời gian.
Cái không thể biết là khác về chất với thế giới cái
biết/cái không biết. Cái không thể biết nghĩa là bí ẩn vẫn
còn lại; dù bạn đi vào trong nó sâu đến đâu, bạn không
thể giải bí ẩn của nó được. Thực ra, ngược lại, bạn càng
đi sâu hơn, điều bí ẩn càng sâu hơn. Một khoảnh khắc
tới trong cuộc sống của người thám hiểm tôn giáo khi
người đó biến mất vào trong điều bí ẩn như giọt sương
bay hơi trong ánh mặt trời buổi sáng. Chỉ thế thì bí ẩn
còn lại. Đó là đỉnh cao nhất của việc hoàn thành, của
mãn nguyện; người ta đã về tới nhà. Bạn có thể gọi nó là
Thượng đế, niết bàn, hay bất kì cái gì bạn thích.
Tôi không chống lại khoa học - cách tiếp cận của tôi
về căn bản là khoa học. Nhưng khoa học có những giới
hạn, và tôi không dừng nơi khoa học dừng; tôi đi tiếp,
tôi đi vượt ra ngoài. Dùng khoa học, nhưng đừng bị nó
dùng. Điều tốt là có công nghệ vĩ đại; chắc chắn nó giúp
cho con người gạt bỏ công việc ngu xuẩn, chắc chắn nó
giúp cho con người gạt bỏ nhiều loại nô lệ. Công nghệ
có thể giúp cả con người và con vật. Con vật cũng bị
hành hạ; chúng khổ nhiều lắm bởi vì chúng ta dùng
chúng. Máy móc có thể thay thế chúng, máy míc có thể
làm mọi công việc. Con người và con vật cả hai có thể
được tự do.
Và tôi muốn một nhân loại được tự do toàn bộ khỏi
công việc, bởi vì trong trạng thái đó bạn sẽ bắt đầu
trưởng thành - theo nghĩa thẩm mĩ, nhạy cảm, thảnh
thơi, thiền. Bạn sẽ trở nên ngày một nghệ sĩ hơn và bạn
sẽ trở nên ngày một tâm linh hơn bởi vì bạn sẽ có thời
gian và năng lượng sẵn có.
Tôi không chống lại khoa học, tôi không phản khoa
học chút nào. Tôi muốn thế giới có ngày càng nhiều
khoa học hơn, để cho con người có thể trở nên sẵn có
cho cái gì đó cao hơn, cho cái gì đó mà người nghèo
không thể đảm đương được.
Tôn giáo là điều tối thượng trong xa hoa. Người
nghèo phải nghĩ về bánh mì và bơ - người đó thậm chí
không thể xoay xở được điều đó. Người đó phải nghĩ về
chỗ trú ngụ, quần áo, trẻ con, thuốc thang, và người đó
không thể xoay xở được những thứ nhỏ bé này. Toàn thể
cuộc sống của người đó bị nặng gánh bởi những điều
tầm thường; người đó không có không gian, không có
thời gian dành cho Thượng đế. Và cho dù người đó có đi
đền chùa hay tới nhà thờ, người đó đi để hỏi xin các thứ
vật chất. Lời cầu nguyện của người đó không phải là lời
cầu nguyện đúng, nó không phải là lời cầu nguyện của
lòng biết ơn; nó là nhu cầu, ham muốn. Người đó muốn
cái này, người đó muốn cái nọ - và chúng ta không thể
kết án người đó được, người đó phải được tha thứ. Nhu
cầu có đó và người đó thường xuyên ở dưới sức nặng
này. Làm sao người đó có thể tìm ra vài giờ để ngồi im
lặng, không làm gì cả? Tâm trí cứ nghĩ hoài. Người đó
phải nghĩ về ngày mai.
Jesus nói: nhìn vào hoa loa kèn trên đồng; chúng
không làm việc vất vả, chúng không nghĩ tới ngày mai.
Và chúng đẹp hơn nhiều khi so với ngay cả vua
Solomon, nhà vua vĩ đại, trong tất cả sự uy nghi của ông
ấy, đã từng có.
Đúng, hoa loa kèn không làm việc vất vả và chúng
không nghĩ về ngày mai. Nhưng bạn có thể nói điều đó
cho người nghèo được không? Nếu người đó không nghĩ
tới ngày mai, thế thì ngày mai là cái chết. Người đó phải
chuẩn bị cho nó; người đó phải nghĩ người đó đi đâu để
kiếm thức ăn, đi đâu để được thuê làm việc. Người đó
phải nghĩ. Người đó có con và vợ, người đó có mẹ già
và cha già. Người đó không thể giống như hoa loa kèn
trên cánh đồng được. Làm sao người đó có thể tránh lao
động, công việc được? - điều đó sẽ là tự tử.
Hoa loa kèn chắc chắn đẹp và tôi hoàn toàn đồng ý
với Jesus, nhưng phát biểu của Jesus là chưa áp dụng
được cho phần lớn nhân loại. Chừng nào nhân loại còn
chưa trở nên rất giầu có, phát biểu này sẽ vẫn còn chỉ có
tính lí thuyết; nó sẽ không có cách dùng thực tế nào.
Tôi muốn thế giới này giầu có hơn nó đang thế. Tôi
không tin vào nghèo nàn và tôi không tin rằng nghèo
nàn có cái gì đó liên quan tới tâm linh. Trong suốt nhiều
thời đại người ta đã bảo rằng nghèo nàn là cái gì đó tâm
linh; đó chỉ là lời an ủi mà thôi.
Mới hôm nọ, một đôi người Pháp đã viết cho tôi một
bức thứ. Họ phải là những người mới tới đây, họ không
hiểu tôi. Họ phải đã tới với định kiến nào đó. Họ lo lắng,
lo lắm. Họ viết trong bức thư rằng, "Chúng tôi không
hiểu vài điều. Tại sao đạo tràng này lại trông xa xỉ thế?
Điều này ngược lại tính tâm linh. Sao thầy lại lái xe đẹp
thế? Điều này chống lại tính tâm linh."
Bây giờ, trong ba hay bốn ngày này tôi lái xe
Impala. Nó không phải là cái xe rất đẹp đâu; ở Mĩ đó là
cái xe của thợ đường ống nước! Nhưng theo một nghĩa
nào đó tôi cũng là thợ ống nước - thợ bơm của tâm trí.
Tôi chữa những chi tiết cần thiết. Nó là chiếc xe của
người nghèo. Ở Mĩ, những người dùng xe Chevrolet
Impalas, vân vân, hàng xóm của họ được gọi là hàng
xóm Chevrolet - điều đó nghĩa là hàng xóm của người
nghèo.
Nhưng đôi người Pháp này phải có quan điểm cổ
rằng nghèo nàn có cái gì đó tâm linh về nó. Con người
đã sống lâu trong nghèo tới mức con người phải tự an ủi
mình, bằng không điều đó đã không thể dung thứ được.
Con người phải tự thuyết phục mình rằng nghèo nàn là
tâm linh.
Nghèo không phải là tâm linh - nghèo là cội nguồn
của mọi tội ác.
Và tôi muốn nói với đôi đó rằng, "Nếu bạn muốn
níu bám lấy niềm tin và định kiến của bạn, đây không
phải là chỗ cho các bạn. Xin xéo đi! - càng sớm càng
tốt, bởi vì bạn có thể bị biến chất ở đây đấy. Nghe tôi là
nguy hiểm cho các bạn."
Với tôi, tâm linh có chiều hướng hoàn toàn khác. Nó
là xa hoa tối thượng - khi bạn có tất cả và đột nhiên bạn
thấy rằng, mặc dầu bạn có tất cả, sâu bên trong vẫn có
chân không cần phải được lấp đầy, trống rỗng phải được
biến đổi thành tràn đầy. Người ta trở nên nhận biết về
trống rỗng bên trong chỉ khi người ta có mọi thứ ở bên
ngoài. Khoa học có thể làm phép màu đó. Tôi yêu khoa
học, bởi vì nó có thể tạo ra khả năng cho tôn giáo xảy ra.
Mãi cho tới giờ, tôn giáo đã không xảy ra trên trái
đất. Chúng ta đã nói về tôn giáo nhưng nó đã không xảy
ra; nó đã không chạm tới trái tim của hàng triệu người.
Chỉ thỉnh thoảng một người mới có khả năng trở nên
chứng ngộ. Trong khu vườn lớn nơi hàng triệu bụi cây
và cây có đấy, nếu chỉ thỉnh thoảng trong hàng nghìn
năm một đoá hoa trở thành cây, bạn sẽ không gọi nó là
khu vườn. Bạn sẽ không cám ơn người làm vườn. Bạn
sẽ không nói, "Người làm vườn thật vĩ đại, bởi vì nhìn
đấy: sau một nghìn năm, từ hàng triệu cây, một cây đã
nở ra với một hoa." Nếu điều này xảy ra điều đó đơn
giản chỉ ra nó phải đã xảy mặc kệ người làm vườn!
Bằng cách nào đó người đó đã quên mất cây này, bằng
cách nào đó người đó đã quên lãng cây này, bằng cách
nào đó cây này đã thoát khỏi sự nắm giữ của người đó.
Con người đã sống một cách phi tôn giáo: nói về
Thượng đế, chắc chắn rồi - đi tới nhà thờ, tới đền chùa,
tới giáo đường - vậy mà cuộc sống của người đó không
bày tỏ hương vị của tôn giáo.
Viễn kiến của tôi về tôn giáo là khác toàn bộ. Nó
chẳng liên quan gì tới nghèo nàn. Tôi muốn toàn thể trái
đất trở nên giầu có như thiên đường - giầu có hơn thiên
đường - để cho mọi người có thể thôi nghĩ về thiên
đường. Thiên đường được tạo ra bởi người nghèo chỉ để
an ủi bản thân họ rằng, "Ở đây chúng ta đang khổ,
nhưng nó không kéo dài đâu. Chỉ vài ngày thêm nữa,
hay vài năm, và cái chết sẽ tới và chúng ta sẽ được đưa
lên thiên đường." Và thật là lời an ủi làm sao! - rằng
những người giầu ở đây sẽ bị tống xuống địa ngục.
Jesus nói con lạc đà có thể đi qua lỗ trôn kim, nhưng
người giầu không thể đi qua được cổng cõi trời. An ủi
làm sao! Người nghèo phải đã cảm thấy rất được thoả
mãn, bằng lòng, rằng, "Vấn đề chỉ là vài ngày thêm nữa
thôi: thế rồi ông sẽ bị vào ngọn lửa địa ngục và tôi sẽ
ngồi trong lòng của Thượng đế, với đủ mọi thứ xa hoa,
với tất cả giàu có, với mọi vui vẻ mà tôi đang bị cướp đi
ở đây và ông đang tận hưởng." Ý niệm về thiên đường
dường như chỉ là sự trả thù.
Tôi muốn trái đất này là thiên đường - và nó không
thể xảy ra được mà không có khoa học. Cho nên làm sao
tôi có thể phản khoa học được? Peter, tôi không phản
khoa học đâu. Nhưng khoa học không phải là tất cả.
Khoa học chỉ có thể tạo ra chu vi; trung tâm phải là
trung tâm của tôn giáo. Khoa học là bên ngoài, tôn giáo
là bên trong. Và tôi muốn con người giầu có ở cả hai
phía: bên ngoài phải giầu có và bên trong phải giầu có.
Khoa học không thể làm cho bạn giầu trong thế giới bên
trong được; điều đó chỉ có thể được làm bởi tôn giáo.
Nếu khoa học cứ nói không có thế giới bên trong,
thế thì tôi chắc chắn chống lại những phát biểu như vậy
- nhưng điều đó không phải là chống lại khoa học, chỉ
chống lại những phát biểu đặc biệt này. Những phát biểu
này là ngu xuẩn, bởi vì những người đưa ra các phát
biểu này đã không biết cái gì của bên trong cả.
Karl Marx nói tôn giáo là thuốc phiện của mọi
người - và ông ấy chẳng bao giờ kinh nghiệm bất kì việc
thiền nào. Cả đời ông ấy phí hoài trong Bảo tàng Anh
Quốc, suy nghĩ, đọc, thu thập ghi chép, chuẩn bị cho
công trình lớn của ông ấy, Das Kapital - Tư bản luận.
Và ông ấy đã cố gắng nhiều trong việc giành lấy ngày
càng nhiều tri thức tới mức điều đó xảy ra nhiều lần -
ông ấy ngất đi trong Bảo tàng Anh Quốc! Ông ấy đã
phải được người ta mang về nhà khi vô ý thức. Và điều
đó gần như là việc mọi ngày tới mức ông ấy bị buộc
phải rời khỏi bảo tàng - bởi vì bảo tàng thỉnh thoảng
phải đóng cửa, nó không thể mở cả hai mươi bốn giờ.
Ông ấy chưa bao giờ nghe nói về thiền; ông ấy chỉ
biết suy nghĩ và suy nghĩ. Nhưng dầu vậy theo một cách
nào đó ông ấy là đúng, rằng tính tôn giáo cũ đã phục vụ
như một loại thuốc phiện. Nó đã giúp cho người nghèo
vẫn còn nghèo; nó đã giúp cho họ vẫn còn được bằng
lòng như họ đang vậy, cứ hi vọng cái tốt nhất trong kiếp
sau. Theo cách đó ông ấy là đúng. Nhưng ông ấy không
đúng nếu chúng ta tính tới một Phật, một Zarathustra,
một Lão Tử - thế thì ông ấy không đúng. Và đây mới là
những người tôn giáo thực sự, không phải là quần
chúng; quần chúng chẳng biết gì về tôn giáo.
Tôi muốn bạn được giầu có bởi Newton, Edison,
Eddington, Rutherford, Einstein; và tôi muốn bạn cũng
được giầu có bởi Phật, Krishna, Christ, Mohammed, để
cho bạn có thể trở nên giầu có theo cả hai chiều - bên
ngoài và bên trong. Khoa học là tốt như nó đang diễn ra,
nhưng nó không đi đủ xa - và nó không thể đi xa được.
Tôi không nói rằng nó có thể đi và nó không đi. Không,
nó không thể đi vào trong lãnh thổ của bản thể bạn
được. Chính phương pháp luận của khoa học ngăn cản
nó khỏi việc đi vào. Nó chỉ có thể đi ra ngoài, nó chỉ có
thể nghiên cứu một cách khách quan; nó không thể đi
vào bản thân tính chủ quan. Đó là chức năng của tôn
giáo.
Xã hội cần khoa học, xã hội cần tôn giáo. Và nếu
bạn hỏi tôi cái gì nên là ưu tiên đầu tiên - khoa học nên
là ưu tiên đầu tiên. Thứ nhất là bên ngoài, chu vi, thế rồi
tới bên trong - bởi vì bên trong là tinh tế hơn, tinh vi
hơn.
Khoa học có thể tạo ra không gian cho tôn giáo thực
tồn tại trên trái đất này.
****************************************************
#8Câu hỏi thứ hai:
Thưa Thầy kính yêu,
Tại sao người gian trá được mọi người tôn thờ, và
những người như Jesus, Phật và Socrates bị kết án,
ném đá và giết chết?
Saroj, chư phật bao giờ cũng bị kết án bởi quần
chúng bình thường, nhưng quần chúng bình thường
không chịu trách nhiệm cho điều đó. Họ vô ý thức.
Chúng ta không thể làm cho họ chịu trách nhiệm về điều
đó được. Họ không thể đừng được điều đó - họ đang ngủ
say. Và chư phật quấy rối giấc ngủ của họ; chư phật làm
mọi nỗ lực có thể được để đánh thức họ dậy. Không ai
muốn bị quấy rối trong giấc ngủ của mình, và người ta
có thể có những giấc mơ đẹp, những giấc mơ hay, dịu
ngọt...
Mọi người muốn vẫn còn vô ý thức. Ý thức là không
được biết tới với họ và họ tự nhiên sợ cái không biết.
Với cái biết họ an ninh, an toàn và mọi người khác cũng
giống như họ.
Khi chư phật tới, họ tạo ra rối loạn lớn. Họ không
thể đừng được điều đó nữa. Khi họ trở nên thức tỉnh họ
đi tới biết phúc lạc, im lặng, chiều cao cực lạc, vui vẻ
cực thích tới mức nó bắt đầu tuôn trào ra, tới mức lòng
từ bi lớn lao nảy sinh trong họ. Họ có thể thấy mọi
người di chuyển, đi trong giấc ngủ; họ bắt đầu lay mọi
người, gây sốc cho mọi người.
Cho nên điều đó là hiện tượng tuyệt đối tự nhiên.
Mọi người trở nên giận dữ bởi vì bạn đang quấy rối giấc
mơ của họ - giận dữ của họ có thể được hiểu. Chư phật
trở nên từ bi - họ không thể đừng được điều đó. Khi bạn
phúc lạc, từ bi tới như cái bóng, nó theo bạn. Từ từ bi
của mình, họ bắt đầu đánh thức mọi người dậy. Một
cách tự nhiên nảy sinh xung đột.
Và mọi người đơn giản muốn không bị quấy rối. Họ
không muốn thức tỉnh, họ muốn thuốc phiện. Điều đó
cho cảm giác rất dễ chịu; ít nhất nó giữ cho họ không
nhận biết về các vấn đề thực của cuộc sống.
Chư phật biết rất tường tận về điều đó, rằng cố gắng
đánh thức mọi người dậy là lâm vào nguy hiểm. Nhưng
điều đó xứng đáng với nó... Và bởi vì họ bây giờ biết họ
là không thể bị huỷ diệt - họ đã đi tới biết cái vĩnh hằng
trong bản thân mình, mọi người có thể làm được gì?
Mọi người có thể đóng đinh - thì cứ để họ đóng đinh đi.
Thân thể đằng nào cũng sẽ chết. Họ có thể tra tấn,
nhưng tra tấn không thể tới được chư phật được. Đau
khổ vẫn còn ở bên ngoài, nó không thể đi vào được. Chư
phật vẫn còn tỉnh táo, quan sát, chứng kiến. Mọi thứ đều
ở bên ngoài; chẳng cái gì có thể thấm vào cốt lõi bên
trong nhất của họ.
Cho nên họ không cảm thấy rằng họ phải né tránh
việc đánh thức mọi người, quấy rối mọi người. Khoảnh
khắc họ trở nên thức tỉnh họ chạy xô tới quần chúng.
Khi họ không thức tỉnh họ đi vào rừng rậm, lên núi non,
tới chỗ nào đó nơi họ có thể một mình. Mọi chư phật -
Jesus, Mohammed, Mahavira, Gautama - họ tất cả đều
đi vào chốn cô đơn. Họ né tránh quần chúng khi bản
thân họ còn ngủ. Nhưng khoảnh khắc họ trở nên được
thức tỉnh, khoảnh khắc họ thấy cái đẹp và phúc lành của
cuộc sống, khoảnh khắc họ thấy cái đẹp vĩnh hằng của
sự tồn tại, họ chạy xô về bãi chợ - tất cả họ - để trao
thông điệp cho mọi người, bởi vì mọi người đang chết
đói về lương thực tâm linh, mặc dầu họ không nhận biết
rằng họ không được nuôi dưỡng. Linh hồn họ đang ngủ;
họ đang sống nhưng không sống thực.
Và khi chư phật nói với những người này họ đem tới
một loại ngôn ngữ hoàn toàn mới. Mọi người không thể
hiểu được điều đó. Họ chỉ có thể hiểu lầm điều đó - họ
nhất định hiểu lầm điều đó, nó mới thế!
Jacobs đi vào hiệu quần áo của Levine để hỏi giá
của bộ com lê trưng bày trong tủ kính.
"Ông chọn lấy bộ com lê phù hợp nhất tại chỗ đi,"
Levine nói, "và để chỉ cho ông rằng tôi muốn làm kinh
doanh với một người có thị hiếu tốt thế, tôi sẽ cho ông
một giá đặc biệt. Tôi sẽ không đòi ông một trăm đô la
cho bộ com lê đâu. Tôi sẽ không đòi ông chín mươi đâu.
Tôi sẽ không đòi ông bẩy mươi. Sáu mươi đô là là giá
cho ông đấy, ông bạn ạ."
Jacobs đáp, "Tôi sẽ không trả ông sáu mươi đâu, tôi
sẽ không trả ông năm mươi đâu. Đề nghị của tôi là bốn
mươi."
"Bán," Levine nói. "Đó là cách tôi muốn làm kinh
doanh - không lừa đảo."
Mọi người có ngôn ngữ nào đó - ngôn ngữ của họ.
Chư phật nói một ngôn ngữ hoàn toàn khác; nó tới từ
bình diện khác. Mọi người sống trong sợ; chư phật sống
trong tự do. Mọi người sống trong khổ; chư phật sống
trong cực lạc. Làm sao họ có thể trao đổi được? Trao đổi
là không thể được.
Lanagan, tám mươi tám tuổi, đang trên giường chết
và Cha Feeney đang cố làm lễ ban ân huệ lần cuối cùng.
"Mở mắt ra," cha nói, "chúng ta đã cứu linh hồn bất
tử của con."
Lanagan mở một mắt ra, nhắm nó lại, và cố gắng
ngủ lơ mơ. Ông ta đang có giấc ngủ ngon. "Lại đây, bây
giờ!" linh mục kêu lên. "Nếu con không muốn thú tội, ít
nhất trả lời ta điều này: con có từ bỏ quỉ và mọi công
việc của nó không?"
"Thế này, tôi không biết, thưa cha," Lanagan nói
vừa mở mắt ra. "Vào lúc như lúc này sẽ là không khôn
ngoan để đối kháng với bất kì ai!"
Mọi người muốn được để lại một mình - đừng quấy
rối họ. Nhưng chư phật nhất định quấy rối họ. Nếu ai đó
chịu trách nhiệm thế thì chư phật chịu trách nhiệm, bởi
vì họ là những người có ý thức. Và tôi nói điều đó theo
thẩm quyền riêng của tôi: nếu mọi người chống lại tôi,
trách nhiệm là của tôi, không phải của họ - họ đang làm
điều tự nhiên. Nhưng tôi có thể làm gì được? Tôi cũng
làm điều tự nhiên thôi - nhưng chúng ta tồn tại trên bình
diện khác.
Và cuộc tranh đấu này nhất định tiếp diễn mãi mãi.
Bà nhà thám hiểm - một tu sĩ, một doanh nhân và
một người Sufi - đi qua một khu rừng rậm nguy hiểm.
Khi ngày trôi qua, số con vật thù địch hoang dã bao
quanh họ trở nên lớn hơn. Cuối cùng họ phải tìm chỗ trú
ẩn trên cây.
Sau cuộc họp hội đồng chiến tranh họ quyết định
rằng một trong số họ phải đi cầu cứu, vì nếu họ ở lại như
họ đang vậy, sợ, đói và mệt cuối cùng sẽ buộc họ ngã
vào móng vuốt của các con vật đang đói.
Nhưng họ không thể quyết định được ai phải đi.
"Không phải tôi," tu sĩ nói, "vì tôi là người của Thượng
đế, và tôi phải ở lại để an ủi bất kì ai bị bỏ lại đằng sau."
"Không phải tôi," doanh nhân nói, "bởi vì tôi trả tiền
mọi chi phí cho chuyến đi."
Người Sufi chẳng nói gì, nhưng bỗng nhiên xô thầy
tu rơi khỏi cành cây. Ông ta ngã xuống đất, và lập tức
một bầy linh cẩu dữ tợn đón lấy ông ấy, đánh lại mọi
con vật khác, và đặt ông ấy một cách cung kính lên lưng
con linh cẩu lớn nhất trong số chúng. Thế rồi, canh gác
ông ấy cẩn thận, chúng hộ tống ông ấy đi tới chỗ an
toàn.
"Thật là phép màu!" doanh nhân kêu lên. "Sau độc
ác của ông, hướng dẫn thiêng liêng đã can thiệp để cứu
người tốt đó. Từ khoảnh khắc này trở đi, tôi đã được cải
đạo theo cuộc sống tốt lành và linh thiêng."
"Giữ cho chắc vào," người Sufi nói, "vì sau rốt còn
có lời giải thích khác."
"Còn giải thích khác nào có thể có?" doanh nhân
kêu lên.
"Đơn giản thế này: rằng nó lấy một người để biết
một người,” người Sufi nói, “và người nhỏ nhất bao giờ
cũng thừa nhận người lãnh đạo của họ và kính trọng
người đó..."
Saroj, bạn hỏi tôi, "Tại sao người gian trá được mọi
người tôn thờ còn chư phật bị hành hạ?"
Người gian trá được hiểu một cách dễ dàng; họ nói
cùng ngôn ngữ như mọi người. Người gian trá được hiểu
bởi vì người gian trá đang phục vụ mọi người trong giấc
ngủ của họ, họ đang cung cấp cho mọi người thuốc
phiện. Người gian trá được hiểu, được kính trọng, được
tôn thờ, bởi vì người gian trá không quấy rối - không
quấy rối chút nào.
P.D. Ouspensky đã đề tặng cuốn sách vĩ đại của
mình - một trong những cuốn sách vĩ đại nhất đã từng
được viết ra, Đi tìm điều huyền bí - cho thầy mình,
George Gurdjieff, với những lời này: "Tặng thầy tôi,
George Gurdjieff, người đã quấy rối giấc ngủ của tôi
mãi mãi."
****************************************************
#8Câu hỏi thứ ba:
Thưa Thầy kính yêu,
Tôi không biết tôi là ai và tôi chưa bao giờ có thể
biết thầy là ai. Mọi điều tôi biết là ở chỗ ai đó này
khác yêu thầy, dù thầy là bất kì ai. Ô, thưa Thầy
kính yêu - thầy là quả táo ngọt thế để ăn trong bóng
tối.
Prem Anuradha, người ta chẳng bao giờ đi tới biết
mình là ai cả. Nếu người ta đi tới biết mình là ai, thế thì
người đó phải sai - bởi vì cái vô hạn này đang cư ngụ
trong bạn là cái không thể biết được, không phải là cái
không biết. Bạn có thể cứ đi tìm vào nó...
Để đưa bạn vào cuộc phiêu lưu đó, chư phật đã nói
đi nói lại với bạn: Biết bản thân mình. Đừng hiểu lầm họ
- họ đã từng bị hiểu lầm rồi. Bởi vì Socrates nói: biết
bản thân mình, mọi người nghĩ họ có thể biết; bằng
không, sao Socrates nói: biết bản thân mình? Socrates
không nói rằng bạn có thể biết bản thân mình; ông ấy
đang nói cố gắng biết bản thân mình đi. Trong việc biết
bản thân mình bạn sẽ bắt gặp cái không thể biết. Chính
nỗ lực để biết bản thân mình sẽ đem bạn tới đại dương
vô hạn của cuộc sống.
Bạn sẽ không bao giờ biết mình là ai cả, bạn sẽ
không có khả năng trả lời được. Bạn sẽ không có khả
năng nói rằng, "Tôi là A hay B hay C." Bất kì câu trả lời
nào bạn đem tới cũng sẽ sai.
Khi bạn trở nên im lặng, hoàn toàn im lặng - không
câu trả lời, mọi câu trả lời bạn đã có trước đây đều đã bị
tan biến và không câu trả lời mới nào đã tới; không chỉ
câu trả lời đã không tới, thậm chí câu hỏi cũng không
còn được nhớ tới... Khi câu hỏi và câu trả lời cả hai đều
không có đó, trong im lặng sâu sắc đó, trong tĩnh lặng
đó, có một loại biết chưa bao giờ trở thành tri thức - một
loại nhận biết, một loại ánh sáng, làm sáng bạn lên, vậy
mà bạn không thể nào thông báo được cho bất kì ai về
nó. Bạn thậm chí không thể làm ra lí thuyết từ nó cho
bản thân mình. Bạn sẽ hoàn toàn câm tịt.
Anuradha, đây là một kinh nghiệm đẹp. Đây là cách
nó phải vậy. Đây là cách nó cảm thấy dường như bạn tới
ngày một gần hơn với satori, với samadhi.
Bạn nói, "Tôi không biết tôi là ai."
Đây là sự bắt đầu của việc biết thực. Trạng thái này
của dốt nát được thừa nhận là bước đầu tiên đi vào ngôi
đền của Thượng đế.
Bạn nói, "Tôi không biết tôi là ai và tôi chưa bao giờ
có thể biết được thầy là ai."
Điều đó nữa cũng đúng. Nếu bạn không thể biết
được bạn là ai, làm sao bạn có thể biết được tôi là ai? -
bởi vì chúng là như nhau, chúng ta là một. Bạn là điều
không thể biết được, tôi là điều không thể biết được;
chúng ta thuộc vào cùng một bí ẩn, chúng ta là bộ phận
của cùng một toàn thể cực thích.
Đó là cực lạc, phúc lạc. Đó là phúc lành. Bạn có thể
nhảy múa trong nó, bạn có thể ca hát trong nó, bạn có
thể tràn ngập với tình yêu qua nó, nhưng nó chưa bao
giờ trở thành tri thức. Vâng, thỉnh thoảng nó có thể trở
thành bài ca, Bài ca của Solomon...
Thiền về Bài ca của Solomon đi. Nó là một trong
những bài ca hay nhất đã từng được hát - và nó đã
không được người Do Thái và người Ki tô giáo hiểu.
Thực ra, họ cảm thấy chút ít bối rối bởi vì nó có vẻ có
dâm dục thế. Nó chắc chắn có vẻ dâm dục, bởi vì dục là
ngôn ngữ có thể duy nhất tới gần nhất với tâm linh. Nó
là năng lượng dục trở thành năng lượng tâm linh. Cho
nên điều hoàn toàn đúng là Bài ca của các Bài ca, Bài ca
của Solomon, có dâm dục quanh nó. Nó nhục dục thế,
nó mang dâm dục vô song! Chẳng cái gì khác đã từng
được viết ra, được hát bằng dâm dục sâu sắc thế.
Nhưng cái gọi là người tôn giáo nghĩ người tôn giáo
phải tuyệt đối phản giác quan, phản dục; người đó
không thể có cảm giác và người đó không thể có dâm
dục. Điều đó hoàn toàn sai. Người tôn giáo còn có tính
giác quan nhiều hơn bất kì ai khác, bởi vì người đó sống
động hơn. Và khi bạn muốn diễn đạt điều tối thượng,
cách thức có thể duy nhất là diễn đạt nó qua kinh
nghiệm sâu sắc nhất của con người - về cực thích dục.
Cực lạc không thể được diễn đạt theo bất kì cách nào
khác.
Chúng ta là một phần của cái toàn thể hữu cơ, cực
thích. Toàn thể sự tồn tại là trong cuộc chơi sâu sắc, cảm
giác. Vâng, bạn có thể cảm thấy nó, bạn có thể nếm trải
nó, nhưng bạn không thể biết nó được. Quên mọi
chuyện về biết nó đi! Toàn thể nỗ lực là việc tập luyện
trong vô tích sự hoàn toàn.
Điều đó là tốt, Anuradha, rằng bạn hiểu rằng bạn
không thể biết được bản thân mình và bạn hiểu rằng bạn
không thể biết được tôi nữa.
Bạn nói, "Mọi điều tôi biết là ở chỗ người nào đó
này khác yêu thầy, dù thầy là bất kì ai."
Đó là một kinh nghiệm cực kì hay. Anuradha đơn
giản đang nói lên cái gì đó không thể diễn tả được. Diễn
đạt là khó, nhưng cô ấy đã đi tới rất gần; cô ấy đã gần
như chạm vào mục tiêu. Vâng, đây là cách nó được cảm
thấy giữa thầy và đệ tử bởi vì nó là chuyện tình lớn lao
nhất có đó. Nó được cảm thấy đích xác giống thế này:
"Mọi điều tôi biết là ở chỗ người nào đó này khác yêu
thầy, dù thầy là bất kì ai."
Chỉ một tình yêu lớn lao được cảm thấy - tình yêu
đập rộn ràng giữa thầy và đệ tử. Dần dần, dần dần,
không còn thầy không còn đệ tử nữa; chỉ tình yêu còn
lại.
Và bạn nói, "Ô, thưa Thầy kính yêu - thầy là quả táo
ngọt thế để ăn trong bóng tối."
Vâng, tình yêu là thưởng thức - thưởng thức đạo.
Nhưng Anuradha, tại sao lại trong bóng tối?
Tôi nhớ lại:
Một giáo sĩ được hỏi, "Sao vợ người Do Thái nhắm
mắt khi làm tình?"
Giáo sĩ nói, "Trời cấm cô ấy không được nhìn chồng
mình có thời gian thoải mái!"
Anuradha, sao trong bóng tối? Để tôi cũng có thời
gian thoải mái chứ! Để tôi cũng thấy nó và kinh nghiệm
nó chứ.
Nhưng tôi có thể hiểu tại sao cô ấy nói điều đó.
Vâng, trong bóng tối bạn thưởng thức nhiều hơn. Bởi vì
mắt chúng ta không thể làm việc được, năng lượng đi
qua mắt trở thành sẵn có cho các giác quan khác. Trong
bóng tối bạn nghe tốt hơn. Nếu bạn muốn nghe nhạc,
điều tốt là nghe trong bóng tối; bạn sẽ nghe tốt hơn. Bởi
vì mắt không còn vận hành, năng lượng trở thành sẵn có
cho tai.
Trong bóng tối bạn sẽ nếm tốt hơn bởi vì năng
lượng sẽ đi vào lưỡi, và mắt đang dùng tám mươi phần
trăm năng lượng của bạn. Khi bạn ăn, nếu bạn nhìn, thế
thì tám mươi phần trăm được tham dự vào việc nhìn và
chỉ hai mươi phần trăm sẵn có cho bốn giác quan khác -
cho nên với từng giác quan gần năm phần trăm thôi. Đó
là lí do tại sao các giác quan khác của chúng ta đã trở
nên trì trệ. Chúng ta không nếm, chúng ta không nghe,
chúng ta không chạm. Nếu bạn chạm trong bóng tối bạn
sẽ cảm nhiều hơn, bạn sẽ biết đường viền. Và nếu bạn
nghe trong bóng tối, âm nhạc sẽ thấm vào chính trái tim.
Mắt đã trở nên rất áp bức, rất khai thác - chúng đã
trở thành độc tài. Chúng đã hấp thu tất cả năng lượng,
điều không phải là quyền của chúng; năng lượng phải
được phân phối lại. Từng giác quan phải có ít nhất hai
mươi phần trăm năng lượng. Vâng, thỉnh thoảng, khi
bạn muốn đi vào trong một giác quan rất sâu, bạn có thể
làm cho toàn thể năng lượng thành sẵn có cho nó. Bịt tai
lại, nút chúng lại; nhắm mắt lại, che chúng lại; bịt mũi
lại - và thế rồi ăn. Và bạn sẽ ngạc nhiên: sắc thái tinh tế
thế của vị giác bạn chưa bao giờ biết tới trước đây, bởi
vì toàn thể một trăm phần trăm năng lượng của bạn đang
đi vào qua lưỡi.
Cho nên tôi hiểu tại sao Anuradha nói, "Ô, thưa
Thầy kính yêu - thầy là quả táo ngọt thế để ăn trong
bóng tối."
Nhưng, Anuradha này, quả táo là điều nguy hiểm
đấy! Bạn biết điều đã xảy ra cho Adam và Eve... Nhưng
tôi đang làm cũng những quả táo đó thành sẵn có cho
bạn, bởi vì với tôi rắn dụ dỗ Eve ăn táo là kẻ tạo phúc
lành lớn nhất của nhân loại. Không có nó thì đã không
có nhân loại chút nào. Bạn chắc đã không ở đây; không
Phật, không Jesus, không Mohammed, không
Bahauddin, không Mansoor.... Chính tất cả có bởi vì con
rắn này. Rắn là người cha sáng lập thực của nhân loại -
toàn thể công lao dồn cho nó. Quả táo đó đã chứng tỏ ý
nghĩa lớn lao.
Tôi không cấm bạn điều gì - không cấm đoán. Tôi
làm thành sẵn có cho bạn mọi vui vẻ của cuộc sống. Ăn
chúng đi, được nuôi dưỡng bởi chúng. Tôi chống lại ý
niệm kinh thánh về việc tạo ra kiềm chế, kìm nén, kiêng
kị. Tôi chống lại chính ý niệm về Thượng đế bảo Adam
và Eve không được ăn từ cây nào đó. Điều đó chống lại
tự do và nó chống lại trưởng thành và nó chống lại chín
chắn.
Nhưng đó là cách các tôn giáo đã vận hành trong
quá khứ. Những câu chuyện này được cái gọi là các tu sĩ
tạo ra. Toàn thể ý niệm về tôn giáo là ý niệm về kìm
nén, bởi vì chỉ qua kìm nén mà con người có thể bị thu
thành nô lệ. Chính là qua kìm nén mà con người có thể
bị bóc lột, áp bức. Chỉ qua kìm nén mà thông minh của
con người có thể bị phá huỷ.
Ăn mọi quả táo mà cuộc sống làm thành sẵn có cho
bạn đi. Chẳng cái gì bị cấm đoán cả - bởi vì chỉ qua kinh
nghiệm về mọi loại mà người ta trở nên được giầu có.
Và nếu bạn không thực sự giầu có trong kinh nghiệm -
về tốt hay xấu - bạn sẽ không bao giờ trở nên chứng
ngộ. Chứng ngộ là không thể có được cho những người
đã sống chỉ cuộc sống nghèo nàn, thánh thiện. Nó không
dành cho những người đã sống chỉ cuộc sống nghèo nàn
của tội nhân. Nó là dành cho những người đã sống cuộc
sống trong tính toàn bộ của nó, những người đã biết mọi
điều là bóng tối và người đã biết mọi điều là ánh sáng,
người đã đi vào trong mọi cực.
Trưởng thành thực xảy ra chỉ khi bạn học cách
người ta bước đi trên dây: đôi khi nghiêng sang trái chỉ
để giữ cân bằng, và đôi khi nghiêng sang phải chỉ để giữ
cân bằng. Khi người đó cảm thấy rằng mình có thể ngã
sang trái, người đó lập tức nghiêng sang phải. Nếu
người đó nghiêng quá nhiều sang phải, để cân bằng nó
người đó bắt đầu nghiêng sang trái. Nghiêng phải và
trái, người đó giữ cho bản thân mình ở giữa.
Đừng là người nghiêng trái, bằng không bạn sẽ ngã;
và đừng là người nghiêng phải, bằng không bạn sẽ ngã.
Là cả hai, và cả hai trong cân bằng, trong tổng hợp tới
mức bạn có thể vẫn còn bước đi trên dây. Cuộc sống là
cái dây căng giữa hai đỉnh núi. Chừng nào bạn còn chưa
bước đi với nhận biết tràn đầy, nhạy cảm, thông minh,
bạn sẽ không đạt tới bờ bên kia.
Vị phật đang nói về bờ bên kia. Bờ bên kia là sẵn có
chỉ cho những người trưởng thành trong thông minh.
Các tu sĩ muốn bạn vẫn còn ngu xuẩn và chư phật muốn
bạn trở nên ngày một thông minh hơn. Do đó có xung
đột giữa tu sĩ và chư phật.
Jesus bị đóng đinh không phải bởi những kẻ tội
phạm mà bởi các giáo sĩ, bởi các tu sĩ. Socrates bị đầu
độc không phải bởi người xấu mà bởi những người đáng
kính. Tại sao? - bởi vì Socrates đã cố gắng làm cuộc
sống thành sẵn có cho các đệ tử của mình trong tính toàn
bộ của nó. Tội của ông ấy là gì? Tội mà theo đó những
người của thành Athens - những người đáng kính, giai
tầng cao nhất của xã hội - đã lôi ông ấy ra toà là ở chỗ
ông ấy đã làm biến chất thanh niên. Ông ấy đã làm cho
cuộc sống thành sẵn có cho các đệ tử của mình trong
tính toàn bộ của nó - và ông ấy đã bị kết án là kẻ làm
biến chất thanh niên.
Tôi cũng bị kết án là kẻ làm biến chất thanh niên.
Dường như nhân loại đã chưa trưởng thành chút nào;
chúng ta đang đi theo vòng tròn. Nếu Socrates quay lại
ông ấy sẽ không thấy khó hiểu con người. Ông ấy sẽ
thấy rất khó hiểu ô tô hay radio hay máy thu hình; có thể
ông ấy thực sự không quan niệm nổi những thứ này là
gì, chúng vận hành thế nào. Những thứ bình thường mà
bạn chẳng bao giờ nghĩ tới - điện - ông ấy sẽ không có
khả năng hiểu. Nhưng ông ấy sẽ tuyệt đối có khả năng
hiểu con người, bởi vì con người đã không trưởng thành
chút nào. Con người vẫn như vậy - vẫn làm cùng một
điều, vẫn hành xử theo cùng cách ngu xuẩn.
Mọi người chống lại tôi bởi vì tôi đang làm mọi quả
táo thành sẵn có cho bạn. Ăn chúng đi. Sống cuộc sống
trong tính toàn bộ của nó.
Và, Anuradha, chẳng mấy chốc - ngày này không xa
đâu - nhiều người trong các bạn sắp trở nên được chứng
ngộ trong cuộc sống này. Tôi có thể thấy các bạn đang
đi ngày một gần hơn tới điểm từ đó bản ngã biến mất.
Bây giờ Anuradha đang lâm vào khó khăn: kí ức của
cô ấy đang biến mất, cô ấy không thể nhớ được nhiều.
Và tất nhiên Arup lo lắng, bởi vì Anuradha giúp cô ấy
trong việc viết thư và cô ấy không thể nhớ được... Ngay
cả viết một bức thư cô ấy cũng mất ít nhất một giờ.
Nhưng khi có liên quan tới tôi, tôi cực kì hạnh phúc - đó
là vấn đề của Arup! Tôi hạnh phúc vô cùng. Quá khứ
đang biến mất, kí ức đang trở thành khác toàn bộ. Bây
giờ nhiều điều quan trọng đang xảy ra mà phải được
nhớ; điều bình thường, cái tầm thường, không thể được
nhớ lấy.
Và bản ngã đang biến mất. Anuradha đã trở thành
gần trống rỗng. Tôi nói "gần" - chỉ chút ít còn lại thôi.
Một khi cái chút ít đó mất đi, cõi bên kia sẽ bắt đầu mưa
rào lên cô ấy. Những đoá hoa đầu tiên đã bắt đầu mở ra,
mùa xuân đang cận kề.
Anuradha, cảm thấy được ân huệ đi. Mùa xuân rất
cận kề đây, và tôi vui mừng vô cùng với bạn.
****************************************************
#8Câu hỏi thứ tư:
Thưa Thầy kính yêu,
"Ông ấy đã thuần hoá ngựa của mình..." Vâng!
Nhưng làm sao làm điều đó được? Cách thức để
thuần hoá chúng là gì? Tôi hoặc kiểm soát, kìm nén
và dừng bản thân mình, hoặc tôi bị các giác quan
của mình đưa đi và bị lái đi bởi “con vật” của tôi.
Với cả hai điều này tôi cảm thấy không thoải mái và
tôi thường đi từ bên này, kìm nén, sang bên kia - bị
lái đi. Làm sao thoát ra khỏi cái bẫy này? Liệu quan
sát và nhận biết mọi thứ có đó có tác dụng không?
Prem Sohan, bạn có cho rằng quan sát và nhận biết
là việc nhỏ không? Bạn hỏi tôi, "Liệu quan sát và nhận
biết mọi thứ có đó có tác dụng không?"
Làm nó đi! - và bạn sẽ biết rằng chẳng cái gì còn lại
để mà được làm thêm nữa. Đừng triết lí hoá về nó, đừng
cứ nghĩ về nó. Tất nhiên, từ 'nhận biết' không có vẻ gì
lớn lao mấy. Và nếu bạn nhìn vào từ điển thì nghĩa có
đó: nó không to lớn thế, nó không xa xôi gì.
Bạn biết vấn đề của bạn một cách tồn tại, và bạn biết
giải pháp chỉ theo trí tuệ - đó là vấn đề. Bạn sẽ phải biết
giải pháp của bạn một cách tồn tại. Nhận biết chứa mọi
tôn giáo của thế giới, mọi kinh sách của thế giới, mọi
điều đã từng được nói bởi mọi người chứng ngộ. Từ đơn
giản này chứa tất cả; nó giống như chiếc chìa khoá nhỏ.
Đừng ném nó đi"... bởi vì nó nhỏ thế - làm sao nó có thể
mở được cánh cửa, mọi cửa của lâu đài lớn này?" Nó là
chìa khoá chủ đấy! Và chìa khoá không phải là cái lớn;
bạn không phải đem chúng trong xe tải, bạn có thể để
chúng trong túi. Nó chỉ là một thứ nhỏ bé, nhưng nó có
thể mở cánh cửa lớn, nhiều cánh cửa. Nếu nó là chìa
khoá chủ nó có thể mở mọi ổ khoá.
Nhận biết là chìa khoá này.
Bạn nói, "Làm sao để thuần hoá...? Tôi hoặc kiểm
soát, kìm nén và dừng bản thân mình, hoặc tôi bị các
giác quan của mình đưa đi và bị lái đi bởi ‘con vật’ của
tôi. "
Vâng, có hai phương án nếu bạn không đạt tới nhận
biết. Hoặc là bạn sẽ kìm nén và kiểm soát - điều xấu xa,
điều sẽ làm cho bạn thành phi tự nhiên, điều sẽ làm cho
bạn thành ốm yếu khi dễ dàng với bản thân mình, điều
sẽ đưa bạn chung cuộc đi vào một loại điên rồ... bởi vì
bạn đang kìm nén năng lượng riêng của mình, cái cần
được biến đổi, không bị kìm nén. Và năng lượng bị kìm
nén là nguy hiểm; chúng sẽ bùng nổ.
Và giác quan của bạn có sống động riêng của chúng.
Nếu bạn kìm nén chúng bạn sẽ trở nên đờ đẫn, bạn sẽ
trở thành không nhạy cảm. Bạn sẽ trở thành không nhạy
cảm với cái đẹp, với vui vẻ, với âm nhạc, với thơ ca, với
mọi cái đã có giá trị bản chất nào.
Đó là lí do tại sao cái gọi là các sư của bạn, các
mahatmas của bạn, các thánh nhân của bạn, đều hoàn
toàn không nhạy cảm. Họ không thể thấy được cái đẹp
nào ở đâu cả, họ không thể thấy được vui vẻ nào ở đâu
cả. Và nếu bạn sống cùng họ trong vài ngày bạn sẽ biết
họ là những kẻ giết vui vẻ; họ sẽ phá huỷ vui vẻ của bạn
nữa, họ sẽ làm cho bạn bối rối nếu bạn hạnh phúc. Họ sẽ
hỏi những câu hỏi như, "Sao anh hạnh phúc? Cái gì có
đó để mà hạnh phúc trong cuộc sống này? Sống là khổ!
Sao anh cười và khúc khích? Cái gì có đó để mà cười cơ
chứ? Khóc là được, nước mắt là chấp nhận được - chúng
có tính tôn giáo. Nhưng khúc khích cười sao? - cái đó
không có tính tôn giáo đâu."
Mới hôm nọ một người đã viết cho tôi, "Thầy phải
là người chứng ngộ đầu tiên kể chuyện cười." Vâng,
điều đó đúng - ít nhất tôi có thể tuyên bố tính độc đáo
ngần đó! Bằng không rất khó để tuyên bố bất kì cái gì
bình thường trong thế giới này; chẳng có gì mới dưới
mặt trời. Trong hàng triệu và hàng triệu năm con người
đã tồn tại và hàng nghìn và hàng nghìn người chứng ngộ
đã tồn tại; họ đã làm mọi thứ có thể được làm. Tôi đã
thực sự tìm kiếm điều để làm - cái gì đó mới! Thế rồi tôi
vớ được chuyện cười. Tôi nói, "Đúng cái này rồi!"
Nếu bạn kìm nén bạn sẽ trở thành không có tính hài
hước, bạn sẽ mất mọi cảm giác về khôi hài. Các thánh
nhân của bạn không thể cười được, và người không thể
cười được không phải là người; người đó trở thành
ngợm. Ngựa không cười, trâu không cười, lừa không kể
chuyện cười cho nhau. Tiếng cười là tuyệt đối có tính
người; không con vật nào khác cười cả. Và nếu một
sáng, chỉ đi dạo thôi, con lừa đột nhiên bắt đầu cười, bạn
sẽ phát rồ! Bạn sẽ thậm chí không có khả năng kể lại
cho bất kì ai rằng điều này đã xảy ra; họ sẽ nghĩ bạn
điên.
Chính đặc quyền của con người là cười. Tiếng cười
có cái gì đó thiêng liêng về nó; tiếng cười có cái gì đó
sẵn có chỉ cho con người. Chỉ con người mới có thể
cười, bởi vì con người có thể cảm thấy cái ngớ ngẩn, cái
tức cười; bởi vì con người có thể nhìn qua nhìn lại, và
con người có thể thấy mọi thứ ngu xuẩn thế khắp xung
quanh để giả vờ khôn ngoan, kẻ ngu giả vờ là thông
minh, trí tuệ - giới trí thức.
Đừng bao giờ kìm nén. Kìm nén sẽ phá huỷ mọi cái
là người trong bạn. Và một khi người bị phá huỷ bạn
không thể đạt tới điều thiêng liêng được, bởi vì tính
người là cây cầu.
Con người là cây cầu giữa động vật và điều thiêng
liêng. Và động vật cũng đẹp bởi vì động vật có tính sống
động. Điều đó đích xác là nghĩa của từ 'động vật'. Nó bắt
nguồn từ chữ 'động' - sống động, cuộc sống, sinh động.
Thánh nhân của bạn trở thành không sống động bởi vì
họ phá huỷ động vật. Họ không thuần hoá nó, họ phá
huỷ nó - phá huỷ họ thấy dễ dàng hơn.
Thuần hoá cần nghệ thuật, nó cần nghệ thuật lớn.
Giết con hổ là đơn giản. Cưỡi hổ và về nhà... điều đó là
nguy hiểm và nó là việc gian nan và nó cần nghệ thuật
lớn. Và đó cũng là trường hợp với mọi giác quan của
bạn: chúng có nhạy cảm riêng của chúng, chút ít thông
minh riêng của chúng. Bạn có quan sát điều đó không? -
rằng các giác quan của bạn có thông minh riêng của
chúng, tâm trí nhỏ bé riêng của chúng.
Bạn đang ngủ và con gián bắt đầu bò - còn cái gì
khác ở Ấn Độ? - con gián bắt đầu bò lên chân bạn, và
bạn vẫn còn buồn ngủ và chân đơn giản gẩy con gián đi.
Chân có thông minh riêng của nó, tỉnh táo sẵn có riêng
của nó; nó vận hành theo cách riêng của nó. Giấc ngủ
của bạn vẫn còn không bị quấy rối. Bạn ăn - dạ dầy bạn
phải có thông minh riêng của nó; bằng không đó là quá
trình rất phức tạp để tiêu hoá, để biến đổi bánh mì thành
máu. Các nhà khoa học vẫn chưa có khả năng làm điều
đó bằng máy móc. Họ đã không có khả năng tạo ra máy
móc có thể biến bánh mì thành máu. Dạ dầy bạn phải có
thông minh của riêng nó - và nó không hỏi bạn chút nào.
Một khi bạn đã ăn bất kì cái gì xuống dưới cổ họng, bạn
quên tất cả về nó; bây giờ đấy là tuỳ dạ dầy làm toàn thể
công việc. Và công việc này thực sự phức tạp, phức tạp
vô cùng: phân loại các yếu tố khác nhau, chuyển những
yếu tố khác nhau đó sang các bộ phận khác của thân
thể...
Bạn bị thương ở tay. Ngay lập tức tay bạn, tuần
hoàn máu của bạn, thân thể bạn bắt đầu một quá trình
chữa lành. Tâm trí bạn không được cần tới chút nào.
Nhớ rằng việc ép buộc các giác quan của bạn vào
trạng thái kìm nén nào đó sẽ lấy đi tính sinh động của
bạn. Bạn sẽ không tươi tắn, bạn sẽ không trẻ trung, bạn
sẽ không tuôn chảy. Đó là điều đã xảy ra cho nhân loại ở
mức độ lớn: bởi vì các giáo lí tôn giáo sai, mọi người đã
trở nên đờ đẫn, ngu xuẩn.
Có một người đàn bà ở nước Nga Xô viết có thể đọc
được bằng ngón tay - và không phải là chữ Braille cho
người mù đâu; cô ấy có thể đọc được sách thường bằng
ngón tay của mình, với mắt nhắm, bị bịt lại. Cô ấy nói
rằng cô có thể thấy qua ngón tay. Có những người có
ngón tay nhạy cảm thế, bằng việc chạm vào bạn họ sẽ
biết nhiều về bạn tới mức ngay cả bạn cũng có thể
không nhận biết tới. Chỉ bắt tay bạn và họ biết nhiều về
bạn. Tay bạn cho họ một loại thông tin nào đó: liệu nó
lạnh hay ấm, thân thiện hay không thân thiện, hay dửng
dưng. Người nhạy cảm, chỉ bằng việc bắt tay bạn, đã trở
nên nhận biết về nhiều điều về bạn, đã biết nhiều về bạn
rồi.
Từng giác quan đều có cái đẹp của nó và phải đóng
góp cho thông minh của bạn. Cho nên xin đừng kìm
nén, đừng kiểm soát.
Khi lang thang dọc theo đường sắt, Isaac vớ được
hai mươi đô la. Anh ta bước đi xa thêm chút ít và cảm
thấy cái nhói ở chai chân. "Này chân," anh ta nói, "Tớ sẽ
mua cho cậu một đôi giầy mác mới nhé."
Anh ta tiếp tục bước đi, nhưng chẳng mấy chốc cảm
thấy cái nóng mặt trời trên trán mình. "Anh đầu già ơi,"
Isaac hứa hẹn, "Tớ sẽ kiếm cho cậu chiếc mũ râm mát."
Vừa đó thì dạ dầy của Isaac càu nhàu. "Thôi được,
bụng," anh ta nói, "Tớ sẽ mua cho cậu bữa ăn ngon."
Isaac trở lại cuộc hành trình của mình. Năm phút
sau đó, anh ta dừng lại sững sờ. Anh ta nhìn xuống phía
trước quần mình và kêu lên, "Này, anh cứng lớn, ai bảo
anh chúng ta đã kiếm được số tiền lớn đấy?"
Từng giác quan của thân thể đều có thông minh
riêng của nó. Không giác quan nào phải bị cắt xén; từng
giác quan đều phải được cho tự do một cách vui vẻ.
Từng giác quan phải được nuôi dưỡng trong tính sống
động của nó. Chỉ thế thì bạn mới biết rằng mọi giác
quan của bạn tạo ra dàn nhạc, giai điệu lớn.
Nhưng tôi hiểu rắc rối của bạn; đây là rắc rối của
hầu hết mọi người trên thế giới này. Hoặc là bạn kiểm
soát hoặc là bạn bắt đầu mê đắm, và bạn không biết cách
vẫn còn đích xác ở giữa. Mê đắm cũng có tính phá huỷ.
Kìm nén có tính phá huỷ, mê đắm có tính phá huỷ - bởi
vì đây là hai cực đoan. Người này nhịn ăn trong nhiều
ngày; người đó đang cố gắng kiểm soát, kìm nén cơn đói
của mình, nhu cầu của thân thể mình. Người khác ăn
quá nhiều, cứ tọng mãi vào.
Tương truyền là Nero thường có bốn thầy thuốc
điều trị ở quanh mình bởi vì ông ấy là người yêu, người
yêu điên cuồng, với thức ăn; ông ấy bị ám ảnh bởi thức
ăn. Ông ấy ăn quá nhiều, và công việc của thầy thuốc trị
liệu là giúp cho ông ấy nôn ra để cho ông ấy có thể ăn
nữa. Và điều này ông ấy làm nhiều lần trong ngày. Bằng
không bạn có thể ăn chỉ một lần thôi, nếu bạn sống trong
phần cổ xưa nguyên thuỷ của châu Phi... bởi vì trong
hàng thế kỉ họ đã ăn chỉ một lần, và thế là đủ. Nếu bạn
sống ở Ấn Độ bạn sẽ ăn hai lần, nếu bạn sống ở Mĩ năm
lần một ngày. Bây giờ, đây là mê đắm, mê đắm điên
cuồng! Điều này lại sẽ làm đờ đẫn giác quan của bạn.
Bụng người đó phải đã nổi đoá, thân thể người đó phải
đã cảm thấy một loại không lành mạnh.
Người ta phải ở giữa, trung bình vàng. Đó là giáo
huấn của Phật.
Có câu chuyện hay trong đời Phật:
Ông ấy tới Shravasti, một trong những thành phố
lớn nhất vào thời đó. Nó phải đã là cái gì đó tựa như
Paris của Ấn Độ vào những ngày đó, bởi vì cái đẹp của
nó được mô tả nhiều thế trong các kinh sách. Và Phật
cũng phải đã yêu mến thành phố này rất nhiều, bởi vì
trong việc thuyết giảng bốn mươi hai năm của mình ông
ấy đã tới Shravasti ít nhất hai mươi lần; đó là số lần
nhiều nhất ông ấy đã tới thăm bất kì chỗ nào. Sarnath
ông ấy tới chỉ một lần - bởi vì muỗi. Sarnath có muỗi
thực sự to; muỗi Pune không là gì cả, người Pune cũng
chưa là gì!
Khi tôi ở cùng một sư Phật giáo ở Sarnath, chúng tôi
đã phải ngồi trong màn cả ngày - ông ấy trong giường
ông ấy, tôi trong giường tôi - và chúng tôi phải nói
chuyện... Tôi bảo ông ấy, "Đây là lần thăm đầu tiên và
lần cuối cùng. Tôi không quay lại Sarnath nữa đâu."
Ông ấy nói, "Ông biết đấy, bản thân Phật chưa bao
giờ tới thăm lần thứ hai."
Tôi đã không biết điều đó. Tôi nói, "Ông kể cho tôi
đi..."
Ông ấy nói, "Vâng, ông ấy đã tới đây chỉ mỗi một
lần - tới Shravasti hai mươi lần, Sarnath chỉ mỗi một
lần. Lí do là gì?" Và chúng tôi đùa.
Tôi nói, "Lí do là rõ ràng: ông ấy đã không có màn.
Ngay chỗ đầu tiên, những con muỗi này phải đã hành hạ
ông ấy. Và đây là những con quỉ thực, chẳng phải muỗi
đâu - những con rất lớn! Phật đáng thương phải đã trốn
biệt!"
Ông ấy chỉ ở lại một ngày ở đó thôi. Shravasti ông
ấy đã tới hai mươi lần; ông ấy đã ở hai mươi mùa mưa ở
Shravasti. Bây giờ Shravasti đã gần như biến mất rồi;
một ngôi làng nhỏ được coi là nơi Shravasti có thời đã ở
đó. Nó đã từng là một thành phố lớn - mười chục vạn
người - một trong những nơi đẹp nhất trên nước này.
Và vua của Shravasti là Shrona. Ông ấy phải đã yêu
cái đẹp; ông ấy đã làm cho thành phố thành đẹp thế - hồ
và những con đường và cung điện đẹp. Và ông ấy đã
mời đủ mọi loại nghệ sĩ, nhạc sĩ, nhà thơ - triều đình ông
ấy đầy nhưng người tài giỏi. Ông ấy có những người
đàn bà đẹp nhất quanh mình. Ông ấy sống trong xa hoa
hoàn toàn. Ngày của ông ấy được dành cho việc đi từ
hoan lạc này sang hoan lạc khác. Một cách tự nhiên,
chẳng mấy chốc ông ấy phát chán, mệt mỏi, mòn mỏi.
Và thế rồi Phật tới. Ông ấy cảm thấy chán cuộc
sống, Shrona này, tới mức ông ấy đã đi nghe Phật - có
thể ông ấy có cái gì đó để nói. Ông ấy cảm thấy vô
nghĩa thế, vô nghĩa hoàn toàn tới mức ông ấy bắt đầu
suy tư về tự tử. Nhìn Phật và cái đẹp thiêng liêng của
Phật, duyên dáng của Phật - và Shrona là một người rất
có khiếu thẩm mĩ - nhìn Phật ông ấy lập tức rơi vào tình
yêu với Phật.
Ông ấy đã không trở về cung điện của mình. Ông ấy
khoanh tay hỏi Phật, "Xin cho tôi theo sannyas. Điểm
đạo cho tôi."
Phật ngần ngại chút ít bởi vì Phật biết mọi điều về
Shrona và cuộc sống của ông ấy; sẽ khó khăn cho ông
ấy. Ông ấy có thể đã không uống nước nhiều năm rồi;
rượu là thứ duy nhất ông ấy hay uống. Ông ấy mê đắm
nhiều thứ tới mức trong một khoảnh khắc Phật đâm ra
ngần ngại.
Nhưng Shrona nói, "Đừng ngần ngại. Tôi chán ngán
với cuộc sống của mình rồi, tôi bị kết thúc cùng nó! Nếu
thầy không cho tôi tính chất sannyas tôi sẽ tự tử - và đó
sẽ là trách nhiệm của thầy!"
Quan sát của riêng tôi cũng thế này: rằng một người
thực sự trở thành một sannyasin khi người đó đi tới
điểm chỉ có hai khả năng: hoặc tự tử hoặc tính chất
sannyas.
Phật phải điểm đạo cho ông ấy ngay lập tức, bởi vì
Phật không muốn chịu trách nhiệm cho việc tự tử của
ông ấy. Nhưng điều Phật đã không trông đợi bắt đầu xảy
ra. Shrona đã trở thành chính cái đối lập với điều ông ấy
đã từng là từ trước tới giờ. Mãi cho tới giờ ông ấy đã
từng tuyệt đối mê đắm trong mọi thứ, trong mọi thứ có
thể. Bây giờ ông ấy trở thành nhà khổ hạnh lớn, nhiều
tới mức ông ấy bắt đầu hành hạ thân thể mình, ông ấy
trở thành kẻ tự bạo. Ông ấy nằm trên gai, ông ấy đứng
trong ánh mặt trời nóng bỏng. Ông ấy không sống như
các sannyasin khác vẫn sống - ôn hoà, cân bằng, cuộc
sống của trung bình vàng. Không, ông ấy đã đi sang cực
đoan kia. Trong vòng sáu tháng người ta không thể nào
nhận ra được ông ấy, ông ấy đã trở thành gầy nhom thế,
đen sạm thế. Ông ấy đã là một người đẹp; ông ấy đã trở
thành xấu. Ông ấy đã bỏ đói bản thân mình. Các
sannyasin của Phật thường ăn một lần một ngày còn ông
ấy thường ăn ba lần một tuần, và điều đó nữa, cũng ít
thế!
Chuyện xảy ra: mọi người có thể đi sang cực đoan
rất dễ dàng. Tâm trí sống trong cực đoan - từ cực đoan
này người ta có thể nhảy sang cực đoan kia rất dễ dàng.
Điều khó khăn nhất là vẫn còn ở giữa, bởi vì để ở giữa
bạn sẽ cần nhận biết. Đi từ cực đoan này sang cực đoan
khác bạn không cần nhận biết. Bạn đã vô ý thức trước
đây như một kẻ mê đắm, bây giờ bạn vô ý thức như một
kẻ khổ hạnh lớn. Ban đầu bạn tọng vào mình bằng thức
ăn và bạn vô ý thức, bây giờ bạn bỏ đói bản thân mình
và bạn vô ý thức.
Con người của ý thức đứng ở giữa: không quá nhiều
không quá ít. Người đó bao giờ cũng cho thân thể điều
được cần, cho tâm trí điều được cần. Cuộc đời ông ấy có
phẩm chất rất, rất nhịp điệu cho điều đó. Ông ấy đáp
ứng cho các yêu cầu của mình rất có ý thức, có trách
nhiệm, nhưng ông ấy không đi vào theo cách thức điên
rồ thế này thế nọ.
Sau sáu tháng Phật phải đi tới ông ấy. Shrona mang
vết thương trên khắp thân thể bởi vì ông ấy nằm trên
gai. Ông ấy sặc mùi vì ông ấy thôi không tắm; ông ấy
nghĩ điều đó cũng là xa hoa...
Ở Ấn Độ, sư Jaina không tắm đâu, họ không đánh
răng, bởi vì điều đó bị coi là quá vật chất - bạn đang
trang điểm cho thân thể. Rất khó nói với sư Jaina. Họ
thường tới tôi trước, nhưng may mắn là họ không còn
tới đây nữa. Khó nói chuyện với họ thế bởi vì mùi hơi
thở của họ đơn giản không thể nào tin được, mùi thân
thể họ không thể nào chịu được! Nhưng điều đó lại được
coi là từ bỏ lớn lao.
Phật đã tới thăm Shrona. Ông ấy bị ốm, với vết
thương trên khắp thân thể, gần chết. Phật hỏi ông ấy một
câu hỏi: Phật nói, "Shrona, ta đã tới để hỏi ông một câu
hỏi. Ta nghe nói rằng khi ông còn là vua ông thường
chơi đàn sitar hay lắm. Ông là người yêu vĩ đại với đàn
sitar và ông đã chơi cả đời mình."
Shrona nói, "Vâng, điều đó đúng."
Phật hỏi ông ấy, "Vậy ta tới hỏi ông một điều: nếu
dây đàn sitar quá chùng, sẽ có nhạc nào không?"
Shrona nói, "Không, làm sao có thể có nhạc nào
được? Nếu dây quá chùng, nhạc không thể được tạo ra."
Phật nói, "Thế nếu dây quá căng, sẽ có nhạc nào
không?"
Shrona nói, "Không, điều đó nữa cũng không thể
được. Nếu dây quá căng, chúng sẽ đứt."
Phật nói, "Thế thì nói cho ta, khi nào nhạc là có thể
có?"
Shrona nói, "Có một điểm đích xác ở giữa khi thầy
không thể nói dây là chùng và thầy không thể nói dây là
căng. Đó là nghệ thuật lớn để đưa dây tới điểm giữa đó -
đích xác ở giữa, không nghiêng sang bên này không
nghiêng sang bên kia; không nghiêng chút nào, đích xác
ở giữa."
Phật đứng dậy và ông ấy nói, "Shrona, ta chẳng có
gì khác để nói cả. Ta chỉ tới để nhắc ông rằng cuộc sống
tuân theo cùng luật đó. Hãy ở giữa đi. Ông đã chuyển từ
cuộc sống quá chùng sang cuộc sống quá căng rồi. Đó là
lí do tại sao ông lại không đạt tới âm nhạc có tên là niết
bàn, âm nhạc có tên là thiền."
Prem Sohan, chỗ đích xác ở giữa đó không thể được
tìm thấy mà không có nhận biết. Và đừng nói, "Liệu
quan sát và nhận biết mọi thứ có đó có tác dụng không?"
Vâng, nó là tất cả đấy. Nó còn nhiều hơn bạn cần,
nhiều hơn bạn sẽ cần. Nó sẽ hoàn thành mọi nhu cầu của
bạn. Nó sẽ dạy bạn cách không kìm nén và cách không
mê đắm. Nó sẽ làm cho bạn tỉnh táo tới mức bạn sẽ chỉ
là nhân chứng. Và khi người ta chỉ là nhân chứng của
giác quan của mình, người ta tận hưởng và vậy mà
người ta vẫn còn ở trên. Người ta trở thành lá sen, trong
nước và vậy mà không bị dính nước.
****************************************************
#8Câu hỏi cuối cùng:
Thưa Thầy kính yêu,
Tôi là một người rất hay ghen, đặc biệt khi có liên
quan tới vợ tôi. Ngay cả việc cô ấy nhìn bất kì ai, tôi
cũng trở nên phát rồ. Tôi phải làm gì đây?
Gyaneshwar, điều đó chẳng liên quan gì tới vợ bạn
cả. Nếu vợ không có đó bạn sẽ vẫn ghen về cái gì đó
khác.
Bao giờ cũng nhớ: đừng quá quan tâm tới nguyên
nhân bên ngoài, bởi vì nguyên nhân không ở bên ngoài
bạn. Bên ngoài chỉ là cái cớ; nguyên nhân là ở bên trong
bạn. Bạn tràn đầy ghen; vợ đơn giản vận hành như cái
cớ. Đừng quá lo nghĩ về cái cớ, bởi vì điều đó là phí thời
gian. Nhìn vào bên trong bản thân mình: tại sao bạn
ghen?
Ghen nghĩa là bản ngã, ghen nghĩa là vô ý thức.
Ghen nghĩa là thậm chí bạn đã không biết tới một
khoảnh khắc của vui vẻ và phúc lạc; bạn đang sống
trong khổ. Ghen là sản phẩm phụ của khổ, bản ngã, vô ý
thức.
Quên mọi chuyện về vợ đi; bằng không bạn sẽ vẫn
còn bận tâm về vợ, và đó là cách trốn khỏi nguyên nhân
thực. Nguyên nhân thực bao giờ cũng ở bên trong. Và
không chỉ về ghen, nhớ lấy, về mọi vấn đề - tham lam...
Ai đó tới tôi và nói, "Tôi rất tham tiền. Làm sao tôi
có thể gạt bỏ việc tham tiền này được?" Vấn đề không
phải là tiền. Tham là tham. Nếu bạn gạt bỏ tiền bạn sẽ
trở nên tham Thượng đế; tham sẽ vẫn có đó.
Cái đêm Jesus nói lời tạm biệt với đệ tử của mình,
một trong các đệ tử hỏi ông ấy, "Thưa Chúa, ngài sắp
rời bỏ chúng tôi. Có một câu hỏi, và nó ở trong tâm trí
của mọi đệ tử của ngài. Trong vương quốc của Thượng
đế ngài sẽ ngồi bên phải bản thân Thượng đế - hiển
nhiên, ngài sẽ ở bên phải Thượng đế. Và ai sẽ ngồi cạnh
ngài? Trong số mười hai người chúng tôi, ai sẽ là người
thứ hai sau ngài? Đó là điều quan trọng nhất trong đầu
chúng tôi. Xin nói điều gì đó về nó; bằng không, một
khi ngài đi mất rồi chúng tôi sẽ không thể nào quyết
định được và chúng tôi sẽ cãi nhau và đánh nhau về điều
đó."
Bây giờ, đây là ghen tị. Bây giờ, Jesus có loại đệ tử
nào? Cứ như quan sát của tôi, Jesus không thật may mắn
về đệ tử của ông ấy. Phật may mắn hơn nhiều. Trong cả
đời Phật chưa bao giờ có đệ tử nào hỏi câu hỏi ngu xuẩn
thế. Và đây là các tông đồ, mười hai tông đồ - những sứ
giả của ông ấy cho thế giới!
Nhớ lấy, nếu tham lam bị vứt bỏ đối với tiền, ngay
lập tức nó sẽ lấy đối thể khác, nó sẽ trở nên được hội tụ
vào cái gì đó khác. Cho nên điều đầu tiên phải nhớ: vấn
đề không liên quan gì tới vợ bạn, nó có cái gì đó liên
quan tới bản thân bạn. Quên về vợ hoàn toàn đi, để cô
ấy ở bên ngoài vấn đề này. Cô ấy không phải là vấn đề,
bạn là vấn đề! Nhận trách nhiệm đi, và thế thì mọi sự bắt
đầu thay đổi.
Nếu bạn nhận trách nhiệm, nếu bạn nghĩ, "Mình
chịu trách nhiệm, không ai khác," bạn sẽ không giận vợ
đâu. Bạn sẽ không đấu tranh và cằn nhằn, bạn sẽ không
cáu kỉnh với cô ấy. Bạn sẽ bắt đầu nhìn ngày một sâu
hơn. Và trong chính việc tìm kiếm đó bạn sẽ trở nên
nhận biết. Đó là điều nhận biết là gì, đó là cách người ta
trở nên nhận biết.
Và khi bạn đầy nhận biết về ghen của mình bạn sẽ
ngạc nhiên, bạn trong kinh ngạc: khi bạn đầy nhận biết
về nó, nó biến mất. Nó đơn giản biến mất, không để lại
ngay cả một dấu vết đằng sau nó.
Hai người đàn ông đã có đủ thứ của thế giới cho nên
họ quyết định bỏ lại vợ, con và công việc để tìm an bình
và yên tĩnh nơi hoang dã. Họ dừng để lấy đồ cung cấp ở
cửa hàng đồ thể thao do một ông già khôn ngoan sở hữu.
"Lấy cái này đi," ông chủ tiệm già nói với những
người từ bỏ khi ông ấy trao cho họ một tấm biển lót
bằng da chồn, với một khe nhỏ cắt ra ở giữa cũng được
lót bằng da.
"Không còn cách nào đâu!" những người đàn ông
kêu lên. "Chúng tôi biết tấm biển đó dùng để làm gì và
tôi bảo ông chúng tôi đã chán với cái loại đồ đó mãi
mãi!"
Nhưng ông già khôn ngoan vẫn tuồn tấm biển đó
vào một trong các túi trong khi họ không nhìn, và những
người đàn ông ra đi.
Ba năm sau một trong những người đàn ông quay
trở lại cửa hàng thể thao của ông già.
"Nào, xin chào!" ông chủ tiệm kêu lên. "Đối tác của
anh đâu rồi?"
"Chết rồi," người sống sót trở về nói.
"Có chuyện gì vậy?"
"Tôi bắn anh ta rồi."
"Nhưng tại sao?"
"Thế này," người đàn ông nói, "tôi bắt được anh ta ở
trên giường với cái bảng của tôi."
Đấy không phải vấn đề về vợ - ngay cả tấm bảng
cũng có tác dụng: "Bảng của tôi!..." Đấy là vấn đề của
bản ngã, và bản ngã tồn tại chỉ khi bạn sống trong vô ý
thức, trong bóng tối. Bản ngã chỉ tồn tại trong đêm tối
của linh hồn.
Đem chút ánh sáng vào bên trong đi. Thiền chút ít
đi. Ngồi im lặng, không làm gì, nhìn vào trong. Lúc ban
đầu bạn sẽ chỉ thấy rác rưởi. Đừng lo - cứ nhìn đi. Trong
vòng ba tới chín tháng rác rưởi sẽ mất đi, và im lặng sẽ
bắt đầu choàng lên bạn và tĩnh lặng sẽ nảy sinh.
Trong tĩnh lặng đó bạn sẽ trở nên nhận biết về bản
thân mình và về cái toàn thể bao quanh bạn. Trạng thái
đó là samadhi, và biết nó là biết tất cả, là nó là là tất cả.
Đủ cho hôm nay.
*************************************************************************************************************
#9 Thức tỉnh với luật
**Người đi trần trụi,
với tóc rối, bùn bắn,
người nhịn ăn và ngủ trên đất
và bôi bẩn thân mình bằng tro
và ngồi trong thiền vô tận -
chừng nào người đó chưa tự do với hoài nghi,
người đó sẽ không tìm thấy tự do.
Nhưng người sống thuần khiết và tự tin
trong tĩnh lặng và đức hạnh,
người không gây hại hay tổn thương hay trách móc,
cho dù người đó mặc quần áo đẹp,
chừng nào người đó cũng có niềm tin
người đó là người tìm kiếm đúng.
Ngựa quí hiếm khi cảm thấy cái chạm của roi.
Ai có đó trong thế giới này mà không chê được?
Thì giống như ngựa quí
khéo léo dưới roi,
bùng cháy và nhanh nhẹn.
tin tưởng, thiền, thấy.
vô hại, vô chê trách.
thức tỉnh theo luật.
và từ mọi buồn rầu tự giải phóng mình.
Nông dân đào kênh dẫn nước cho đất.
Người gài tên chuốt mũi tên.
Thợ mộc chỉnh gỗ.
Và người trí huệ làm chủ bản thân mình.**
Phật Gautama không có triết lí sống. Ông ấy không
phải là triết gia chút nào. Ông ấy là con người của sáng
suốt, ông ấy trí huệ; ông ấy biết cách nhìn vào cuộc
sống, vào thực tại. Ông ấy có cách nhìn nhưng không
phải là triết lí sống. Ông ấy có cách sống nhưng không
có triết lí sống.
Triết lí sống là cái thay thế giả tạo - nó đang né
tránh biến đổi của bản thể bạn. Bạn có thể học những từ
hay, hệ thống tư tưởng, ý thức hệ, và bạn có thể trở
thành bị choán nhiều trong chúng tới mức bạn có thể
quên toàn bộ rằng bạn thậm chí không biết tới bản thân
mình, rằng bạn không biết cách nhìn thấy bạn mù, rằng
bạn đã không có khả năng tạo ra ánh sáng trong tim
mình, rằng ngọn lửa bị thiếu, rằng bạn đang sống trong
bóng tối sâu sắc; rằng cuộc sống của bạn có thể rất tinh
vi, có văn hoá, nhưng nó không phải là cuộc sống thực.
Bạn sống trên bề mặt; bạn không biết chiều sâu của nó
và chiều cao của nó. Nó có cả thung lũng sâu và những
đỉnh cao, nhưng để đạt tới những chiều sâu đó và chiều
cao đó bạn sẽ phải đi qua quá trình giả kim thuật.
Phật là nhà giả kim thuật. Ông ấy chỉ cho bạn cách
biến đổi năng lượng của bạn từ trung tâm thấp nhất tới
trung tâm cao nhất của việc vận hành, từ bùn tới hoa
sen, từ kim loại cơ sở hơn thành vàng, từ đá thành kim
cương. Ông ấy là nhà khoa học của bên trong. Cách tiếp
cận của ông ấy hoàn toàn khoa học, không triết lí chút
nào.
Đó là lí do tại sao ông ấy lại không khớp với tâm trí
Ấn Độ; tâm trí Ấn Độ quá triết lí. Tâm trí Ấn Độ đã học
quá nhiều biệt ngữ, nó đã trở thành rất khéo trong việc
chẻ sợi tóc. Phật không quan tâm tới mọi cái vô nghĩa
đó. Ông ấy đi thẳng vào vấn đề.
Vấn đề là ở chỗ chúng ta đang sống với bóng tối
trong trái tim - làm sao biến đổi bóng tối này thành sự
chói sáng? Chúng ta có tiềm năng, nhưng chúng ta
không biết cách thay đổi nó trong thực tại. Phật rất thực
dụng, rất thực tế, người đầu tiên thực sự thực chứng về
thế giới bên trong, về tính chủ thể, về tính nội tâm. Mọi
người rất quan tâm tới triết lí sống. Nếu họ không có
một triết lí họ cảm thấy dường như họ bị mất cái gì đó.
Mọi người quan tâm tới những từ rởm bởi vì chúng
chẳng tốn kém gì cả. Bạn có thể là người Hindu, bạn có
thể đọc Vedas và Gita và Upanishads, và bạn có thể trở
thành rất hiểu biết. Bạn có thể trở thành con vẹt lớn, bạn
có thể trở thành bác học, học giả lớn, bạn có thể nói về
những điều lớn lao trong hàng giờ, nhưng cuộc sống của
bạn sẽ vẫn còn bình thường - nó sẽ không có việc động
chạm nào của cõi bên kia.
Bạn có thể là người Mô ha mét giáo hay Ki tô giáo -
có hàng trăm ý thức hệ trên thế giới - bạn có thể là
người Cơ đốc giáo hay người cộng sản. Không thành
vấn đề điều bạn tin vào. Điều thực sự thành vấn đề là:
bạn có khả năng thấy không? Bạn có mắt để thấy bí ẩn
của sự tồn tại không? Bạn có trái tim để cảm thấy điều
kì diệu của nó không? Bạn có cởi mở, sẵn có, mong
manh cho cái không biết không? Và khi cái không biết
vẫy gọi, bạn có đủ dũng cảm để đi vào trong biển chưa
thám hiểm không, không biết điều gì sẽ xảy ra tiếp? Bạn
có kiểu dũng cảm đó không?
Goldberg có cảm giác mơ hồ rằng cái gì đó bị thiếu
trong cuộc sống của mình. Một đêm anh ta đặc biết chán
nản và nói với vợ mình về khao khát của mình về cái gì
đó.
"Nhưng Sam này," cô vợ anh ta tái đảm bảo, "anh có
mọi thứ rồi!"
"Anh biết, anh biết! Nhưng anh không có triết lí
sống - anh muốn cái đó."
"Anh Sam này, anh muốn cái đó để làm gì? Chẳng
hàng xóm nào có một cái."
Nhưng đó thực sự là vấn đề - hàng xóm có. Ai đó là
người Hindu, ai đó là người Mô ha mét giáo, ai đó là
người Ki tô giáo, ai đó là người Do Thái, ai đó là người
cộng sản; ai đó nói về Das Kapital và ai đó nói về Gita
và ai đó nói về Koran, và bạn bắt đầu cảm thấy dường
như bạn thiếu cái gì đó bởi vì bạn không thể nói về
những điều lớn lao. Bạn bắt đầu cảm thấy những người
này phải biết mọi điều họ đang nói tới. Họ chẳng biết gì.
Họ mù như bạn, hay có thể họ còn mù hơn bạn. Ít nhất
bạn còn tự do với các triết lí - đó là một trong những cản
trở cơ bản cho việc thấy.
Điều đầu tiên cần hiểu về Phật và cách tiếp cận của
ông ấy là ở chỗ ông ấy không cho bạn giáo lí. Ông ấy
chắc chắn muốn cho bạn khoa học - ông ấy không quan
tâm chút nào tới việc làm cho tâm trí bạn phức tạp hơn.
Ông ấy muốn bạn vứt bỏ tâm trí. Phức tạp hay không
phức tạp, tâm trí là khối chắn, nó cản trở. Vô trí là khả
năng để thấy; tâm trí là khả năng để tin, nhưng nó không
phải là khả năng để thấy.
Do đó Phật đã cho thiền một nghĩa hoàn toàn mới.
Trước ông ấy, thiền là tập trung lúc ban đầu và suy tư
vào lúc cuối. Nhưng tập trung và suy tư cả hai đều là
một phần của tâm trí; tâm trí có thể chơi những trò chơi
này giỏi một cách hoàn hảo. Tâm trí rất quan tâm tới tập
trung bởi vì qua đó, nó trở nên mạnh hơn. Tập trung là
việc nuôi dưỡng. Và tâm trí quan tâm vô cùng tới suy tư
nữa, bởi vì qua suy tư, thức ăn tinh hơn, chất nuôi
dưỡng tinh hơn, trở thành sẵn có.
Nếu bạn tập trung bạn có thể trở thành nhà khoa học
của thế giới khách quan; nếu bạn suy tư bạn trở thành
triết gia lớn. Nhưng chừng nào bạn còn chưa biết thiền
là gì thì bạn sẽ không bao giờ là nhà huyền môn; và
không là nhà huyền môn, bạn sẽ bỏ lỡ tất cả - toàn thể
cuộc sống của bạn sẽ là sự cực kì phí hoài.
Những lời kinh này cực kì quan trọng. Ở vài chỗ lời
dịch không chính xác, nhưng về toàn thể nó cho bạn
điều bản chất. Bất kì khi nào tôi thấy nó không chính
xác tôi sẽ nhắc bạn. Những chỗ không chính xác này
nhất định xảy ra - bởi vì ở phương Tây không ai đã nói
như Phật; do đó không ngôn ngữ phương Tây nào có
khả năng dịch Phật chính xác, thích hợp.
Jesus là vị phật, nhưng cách nói của ông ấy không
phải là cách nói của Phật. Jesus nói cứ dường như ông
ấy nói cho trẻ con trường tiểu học - và đó đích xác là
hoàn cảnh. Những người ông ấy nói tới đều thực sự là ở
giai đoạn của những người mới, mới bắt đầu. Ông ấy
phải dùng ngụ ngôn, biểu dụ. Ông ấy phải dùng các câu
lấy con người làm trung tâm: vương quốc của Thượng
đế - không có Thượng đế và không có vương quốc. Và
Jesus biết điều đó chứ! - nhưng ông ấy phải nói bằng
những lời mà mọi người có thể hiểu được.
Mọi người có thể hiểu vua - thế thì Thượng đế là
vua vĩ đại nhất. Nhưng khác biệt là về lượng, không về
chất. Vua có vương quốc; do đó Thượng đế, vị vua vĩ
đại nhất, phải có vương quốc vĩ đại nhất. Nhưng lần nữa
khác biệt là về lượng, không về chất. Và bởi vì nó không
phải về chất nên nó làm lỡ toàn thể vấn đề, nó làm lỡ
mục tiêu.
Thượng đế không phải là người mà là sự hiện diện.
Và Thượng đế không có vương quốc bởi vì Thượng đế
là sự hiện diện bao trùm của cuộc sống, của cái đẹp, của
âm nhạc, của thơ ca. Ngài lan toả khắp mọi không gian;
ngài không tách rời khỏi nó. Ngài không là đấng sáng
tạo, ngài là chính hiện tượng bản thân việc sáng tạo.
Nhưng Jesus không thể nói được theo cách đó - Phật có
thể.
Phật đang nói cho những người rất cổ đại, cho
những người rất quen thuộc với những tầm với cao hơn -
ngay cả họ cũng không có khả năng hiểu. Jesus phải
dùng ngôn ngữ có thể được hiểu. Và Jesus là con ông
thợ mộc; bản thân ông ấy biết ngôn ngữ của thường dân.
Phật xuất thân từ gia đình hoàng gia, là con của vua - rất
phức tạp - biết tất cả về triết học và chán ngán với nó;
biết mọi chuyện ngụ ngôn hay, chuyện kể, huyền thoại
hay và đã được kết thúc với mọi cái đó. Ông ấy đã thấy
qua chúng, rằng chúng giữ mọi người bận bịu nhưng
chúng không làm biến đổi họ. Ông ấy đã vứt bỏ tất cả
nhưng cái không bản chất; ông ấy nói chỉ về cái rất bản
chất. Ông ấy là người rất vắn tắt nữa: ông ấy sẽ không
dùng một từ quá mức được cần tới. Trừ phi nó tuyệt đối
được cần tới - chỉ thế thì ông ấy mới dùng nó.
Và tất nhiên, ông ấy đã đổi nghĩa của từ; điều đó
bao giờ cũng xảy ra khi vị phật, người đã thức tỉnh,
dùng từ. Ông ấy cho mầu sắc mới, sắc thái mới, nghĩa
mới cho những từ cổ. Phật đã biến đổi từ 'thiền'. Thiền
bao giờ cũng đã là cái gì đó của tâm trí, và Phật đã đem
tới phẩm chất mới, hoàn toàn mới thế, đối lập hẳn với
nghĩa cũ: ông ấy nói, thiền nghĩa là trạng thái của vô trí.
Nó không phải là tập trung, nó không phải là suy tư. Nó
không phải là suy nghĩ, nó không phải là nghĩ về
Thượng đế. Nó thậm chí không phải là lời cầu nguyện -
bởi vì suy nghĩ là của cái đầu, trí tuệ; lời cầu nguyện là
xúc cảm. Đó là mặt kia của cái đầu, không thật xa xôi
khỏi nó; ngôn ngữ khác được dùng bởi phần khác của
cái đầu.
Bây giờ các nhà khoa học đồng ý về điều đó, rằng
cái đầu có hai bán cầu. Bán cầu trái nói ngôn ngữ của trí
tuệ, logic, số học; còn bán cầu phải nói ngôn ngữ của
xúc động, tình cảm, cảm giác. Nhưng cả hai đều là hai
bên của cùng một cái đầu.
Phật là người đầu tiên chỉ ra điều này: rằng tập
trung, suy tư, thuộc vào một bên của đầu, bán cầu trái;
và cầu nguyện, thành tâm, chúng thuộc về bán cầu phải.
Nhưng cả hai đều là một bên của đầu, và người tìm kiếm
đúng phải vượt ra ngoài đầu; người đó phải siêu việt lên
trên nhị nguyên của đầu, sự phân chia của đầu. Chỉ khi
bạn siêu việt lên trên việc phân chia thì bạn mới có thể
đi tới cái một.
Do đó, ông ấy đem một nghĩa hoàn toàn mới cho
thiền, cho dhyana. Ông ấy làm nó ngụ ý trạng thái vô trí.
Bạn sẽ thường xuyên phải nhớ tới điều đó. Bất kì chỗ
nào từ ‘thiền’ được dùng, nhớ lấy, Phật ngụ ý vô trí.
Điều thứ hai: bất kì chỗ nào bạn bắt gặp từ 'tin
tưởng', thận trọng vào. Phật chưa bao giờ ngụ ý điều bạn
ngụ ý bởi từ 'tin tưởng'. Từ của ông ấy là shraddha.
Shraddha không có nghĩa tin tưởng, nó thậm chí không
có nghĩa đức tin; nó ngụ ý tin cậy, điều là hiện tượng
hoàn toàn khác.
Shraddha nghĩa là trạng thái của tin cậy toàn bộ. Tin
tưởng không phải là tin cậy toàn bộ; hoài nghi vẫn còn
trong nó, bị kìm nén. Tin tưởng là cái vỏ che đậy. Bạn
hoài nghi nhưng bạn đã che đậy nó bằng cái chăn, bằng
tin tưởng. Bạn sợ hoài nghi. Hoài nghi quấy rối, cho nên
bạn níu bám lấy tin tưởng, nhưng tin tưởng không bao
giờ có thể đưa bạn vượt ra ngoài hoài nghi.
Tin tưởng là hoài nghi đứng trên đầu nó, đứng lộn
ngược, có vậy thôi. Người hoài nghi hoài nghi, người tin
tưởng tin tưởng, nhưng cả hai đều mù quáng. Họ ở trong
cùng một con thuyền, có thể ngồi xoay lưng lại nhau,
nhưng trong cùng một con thuyền. Do đó người tin
tưởng bao giờ cũng sợ ai đó khêu gợi cái hoài nghi của
mình ra, còn người hoài nghi bao giờ cũng cảnh giác để
không ai thuyết phục được mình về bất kì tin tưởng nào.
Họ cả hai đều vướng víu vào nhau.
Tin cậy là gì? Tin cậy là đi vượt ra ngoài hoài nghi
và tin tưởng. Tin tưởng bao giờ cũng ở trong một ý niệm
nào đó; tin cậy bao giờ cũng ở trong cái đang hiện hữu -
không ở trong ý niệm mà trong bản thân sự tồn tại, bên
trong và bên ngoài. Và giữa tin tưởng và tin cậy có từ
khác, 'đức tin' - cảnh giác với từ đó nữa. Phật chưa bao
giờ ngụ ý đức tin khi ông ấy dùng shraddha, và ông ấy
bao giờ cũng dùng shraddha. Đức tin là ở giữa: tin tưởng
vào một ý niệm, đức tin vào một người, còn tin cậy vào
bản thân sự tồn tại. Phật chưa bao giờ muốn bạn mang
đức tin bởi vì đức tin tạo ra cuồng tín, đức tin tạo ra thần
kinh.
Mới đêm hôm nọ, một thanh nữ tới để nhận tính
chất sannyas. Cách thức cô ấy tiếp cận tới tôi làm tôi trở
nên nhận biết rằng cô ấy thần kinh. Nhưng tôi không
bao giờ nói không với bất kì ai. Ai mà biết được, bao
giờ cũng có khả năng - người ta không bao giờ có thể
nói được - rằng người thần kinh có thể trở nên bình
thường. Và ít nhất, nếu cô ấy sẵn lòng nhận tính chất
sannyas, cô ấy vẫn có tri giác nào đó còn lại; có thể cô
ấy được giúp đỡ.
Tôi có thể thấy điều đó sẽ là khó khăn - cách cô ấy
tới, cách cô ấy ngồi... Và cuối cùng, khi tôi gọi cô ấy tới
gần tôi, cô ấy từ chối tới gần. Cô ấy đứng dậy hai tay
giơ lên và nói, "Tôi là Jesus Christ!" Tôi chẳng nói gì
với cô ấy cả, mặc dầu tôi muốn nói, "Vậy, anh già, anh
quay lại rồi! Anh đã quên điều đã xảy ra lần trước rồi
sao? Có thể đó là lí do tại sao anh đã tới dưới dạng đàn
bà lần này." Và với việc công bố rằng cô ấy là Jesus
Christ, cô ấy đi mất.
Đức tin tạo ra những kiểu thần kinh này. Ki tô giáo
có nhiều người thần kinh, bởi vì toàn thể ý niệm lệ thuộc
vào đức tin: "Tin vào Jesus Christ, có đức tin vào ngài!
Ngài sẽ cứu ông!" - cứ dường như ông ấy chịu trách
nhiệm cho cảnh nô lệ của bạn! Ông ấy có thể cứu bạn
chỉ nếu ông ấy đã đưa bạn vào tù; bằng không, làm sao
ông ấy có thể cứu bạn được? Ông ấy là cứu tinh và bạn
là kẻ được cứu; ông ấy là người chăn chiên và bạn là
con chiên. Bạn không thấy cái vô nhân phẩm được bao
hàm trong đó sao? Bạn trở thành cừu. Mọi tôn giáo, ít
hay nhiều, đều đã làm điều này. Nếu bạn tin vào người,
bạn sẽ bị thu thành cừu - bạn sẽ không là con người.
Tính người của bạn bị phá huỷ. Bạn bị cầm tù trong
những nhà tù rất tinh vi, vô hình. Bạn không thể thấy
được chúng, chúng trong suốt.
Phật nói: Là ánh sáng lên chính mình. Đừng tin vào
người, đừng tin vào ý thức hệ. Và khi bạn không tin vào
bất kì ý thức hệ nào, và bạn không tin vào bất kì người
nào, tin cậy lớn lao bùng nổ, tin cậy vào bản thân sự tồn
tại - vào cây cối, vào tảng đá, vào mọi người, vào các vì
sao, dòng sông, núi non, vào mọi thứ đang hiện hữu. Tất
nhiên, chư phật là một phần của nó, nhưng bạn không
tin vào Phật nói riêng. Bạn đơn giản tin vào sự tồn tại.
Bạn tin vào hương thơm của Jesus. Nhưng tin tưởng này
không bắt rễ vào bất kì quan niệm nào. Thực ra, nó là
cái gì đó chủ thể, nó chẳng có liên quan gì tới bất kì đối
thể nào.
Nếu bạn tin vào Jesus bạn không thể tin được vào
Krishna. Nếu bạn tin vào Krishna bạn không thể tin
được vào Mahavira. Một cách tự nhiên, nếu bạn tin vào
người này bạn phải không tin vào mọi người khác. Đó là
cách tin tưởng chia rẽ mọi người. Và toàn thể lịch sử
đầy những tắm máu, sát hại, tàn sát. Nó đầy máu và bạo
hành nhân danh tôn giáo, bởi vì bạn đã được bảo tin vào
người này chống lại mọi người khác.
Tin cậy là hoàn toàn khác. Nếu bạn tin cậy sự tồn
tại... sự tồn tại ngụ ý Jesus cũng nhiều như Krishna, như
Phật, như Zarathustra. Họ tất cả đều là một phần của nó.
Và bạn không chỉ tin cậy vào chư phật, bạn tin cậy vào
người thường bao quanh bạn nữa; không chỉ vào người
mà cả con vật, cây cối, đất đá. Vấn đề không phải là
điều bạn tin cậy - đối thể trở thành không liên quan. Bạn
đơn giản có trái tim tin cậy, tin cậy lớn lao rằng chúng ta
thuộc vào sự tồn tại này, chúng ta là một phần của sự
tồn tại huyền bí này, rằng sự tồn tại không thể không
thân thiện với chúng ta được. Nó đã cho sinh thành ra
chúng ta, và làm sao người mẹ có thể không thân thiện
được?
Đây là nghĩa hoàn toàn khác của tin cậy. Nó không
tin tưởng cũng không đức tin. Nhớ hai từ này bởi vì
chúng cứ bị dịch sai hoài.
Lời kinh:
**Người đi trần trụi,
với tóc rối, bùn bắn,
người nhịn ăn và ngủ trên đất
và bôi bẩn thân mình bằng tro
và ngồi trong thiền vô tận -
chừng nào người đó chưa tự do với hoài nghi,
người đó sẽ không tìm thấy tự do.**
Những người này - người đi trần trụi, với tóc rối,
bùn bắn, người cứ nhịn ăn dài, người ngủ trên đất lồi
lõm, hay thậm chí trên gai nhọn, người bôi tro lên thân
mình - những người này trong nhiều thời đại đã từng
được coi dường như họ là thánh nhân. Họ đơn giản là kẻ
tự bạo, họ tận hưởng việc tự hành hạ mình. Họ là những
người rất bạo hành.
Khác biệt giữa họ và Adolf Hitler và Genghis Khan
và Nadirshah chỉ là ở một điều: Genghis Khan,
Nadirshah, Adolf Hitler, họ tận hưởng việc hành hạ
người khác, và cái gọi là các thánh nhân tận hưởng việc
tự hành hạ mình - nhưng cả hai đều thích hành hạ. Bây
giờ, nếu bạn hành hạ người khác điều đó bị kết án, hiển
nhiên, bởi vì "người khác" bao gồm bạn và bạn sợ bị
hành hạ. Nhưng nếu ai đó tự hành hạ mình điều đó lại
được ca ngợi - nó chẳng liên quan gì tới bạn; người đó
tự hành hạ mình.
Thực ra, những người tôn thờ những kẻ tự bạo đều
là kẻ tàn bạo. Bạn muốn hành hạ họ, nhưng họ là những
người tốt thế, họ đang làm việc của bạn. Điều bạn đã
muốn làm, chính họ đang làm. Bạn có thể đi và tôn thờ
họ.
Chủ nghĩa tự bạo là bệnh tật: tự hành hạ mình. Và
chủ nghĩa tàn bạo cũng là bệnh tật: tận hưởng hành hạ
người khác. Nếu bạn đủ dũng cảm, nếu bạn có thể mạo
hiểm... bởi vì mạo hiểm lớn có đó; nếu bạn hành hạ
người khác, họ sẽ trả thù. Adolf Hitler chung cuộc đã
phải tự tử, và Nadirshah đã sống cả đời trong sợ hãi
thường xuyên và run rẩy, bởi vì ông ta đã giết nhiều
người thế. Ông ta đã tạo ra nhiều kẻ thù thế, ông ta
không thể tin cậy vào bất kì ai được. Ông ta thậm chí
không có khả năng ngủ ngon; hơi chút tiếng động và
ông ta sẽ bật dậy - và đó là cách ông ta chết.
Một đêm một con lạc đà lạc đi vào trong trại nơi
Nadirshah hạ trại. Con lạc đà lạc đó đi tới gần trại của
Nadirshah; ông ta nghe thấy tiếng động. Trời thì tối...
Ông ta nhảy ra khỏi giường, cứ tưởng rằng kẻ thù đã tới,
bắt đầu chạy, bị vướng phải dây buộc lều, lên cơn đau
tim và chết.
Những người này, người hành hạ người khác, không
thể sống một cách an bình được - điều đó là không thể
được, bởi vì họ tạo ra nhiều kẻ thù thế. Nhưng họ tận
hưởng hành hạ.
Bây giờ, cách tốt nhất để hành hạ là tự hành hạ
mình; thế thì không có sợ hãi. Không ai chống lại bạn
cả; ngược lại, mọi người tôn thờ bạn như người linh
thiêng. Bây giờ, nhìn vào cái ngu ngốc này đi! Nếu một
người đi trần, thiêng liêng gì trong đó? Bạn có thể đi tới
nơi mà cuộc tụ tập tôn giáo lớn xảy ra ở Ấn Độ, đặc biệt
Kumbh Melas, và bạn có thể thấy những thánh nhân trần
trụi, và bạn sẽ ngạc nhiên! - bạn không thấy tính linh
thiêng nào cả. Ngược lại, bạn sẽ thấy trong mắt họ loại
tội phạm tồi tệ nhất. Bạn có thể đi vào nhà tù và nhìn
vào mắt của kẻ giết người, và bạn sẽ thấy họ hồn nhiên
hơn. Những người phô bầy thân mình trần trụi trên
đường thực sự là ốm yếu tâm lí. Theo thuật ngữ tâm lí
họ là người phô bầy.
Và đây là điều kì lạ, rằng người Hindus đã tôn thờ
những kẻ phô bầy này trong hàng thế kỉ. Và cùng những
người Hindu đó đang chống lại các sannyasin của tôi bởi
vì họ cho rằng các sannyasin của tôi đang chống lại văn
hoá Hindu bởi vì họ không mặc quần áo đúng. Bạn đang
đi ngược lại văn hoá Hindu thì có! Văn hoá của bạn bao
giờ cũng tôn thờ kẻ phô bầy, văn hoá của bạn bao giờ
cũng tôn thờ người đồi bại.
Bây giờ, người rải gai và đá cuội trước khi người đó
đi ngủ - đó là việc dọn giường - bạn tôn thờ người đó là
linh thiêng sao? Người đó phải được cho sốc điện,
không phải hoa, không phải được đeo vòng hoa; người
đó cần trị liệu tâm lí. Người đó bị hư hỏng. Điều này là
không tự nhiên! Không con vật nào đã từng làm điều đó;
ngay cả con vật cũng còn bình thường hơn nhiều. Trước
khi chúng đi ngủ chúng sẽ vứt đá và gai đi và chúng sẽ
chuẩn bị giường êm cho mình, đất mềm, và thế rồi
chúng sẽ đi ngủ. Ngay cả con vật cũng dường như thông
minh hơn nhiều, tự nhiên hơn nhiều so với cái gọi là
thánh nhân của bạn.
Người bôi tro thân mình đơn giản là ngu xuẩn, hay
có thể người đó chỉ là một kẻ bản ngã, bởi vì loại hành
vi này được tôn thờ trên đất nước này. Bây giờ, cùng
kiểu người này đang nêu câu hỏi chống lại tôi: Tại sao
tôi chống lại các thánh nhân? Tôi không chống lại thánh
nhân. Tôi không chống lại Phật và tôi không chống lại
Nanak và tôi không chống lại Kabir và tôi không chống
lại Raidas, nhưng tôi chắc chắn chống lại những kẻ ốm
yếu này, kẻ phô bầy, kẻ tự bạo, kẻ bất thường, kẻ thần
kinh... Tôi không gọi họ là thánh nhân, họ không phải
vậy! Nhưng trong một trăm người, có tới chín mươi chín
phần trăm thuộc vào những loại này.
Chính bởi vì bạn đã tôn thờ họ hàng thế kỉ tới mức
bạn không hỏi: Các ông đang làm gì vậy? Và bạn giận
tôi bởi vì tôi đang nêu ra những câu hỏi đó lần đầu tiên -
những câu hỏi quấy rối bạn. Nhưng Phật cũng đã làm
cùng điều đó, và bạn cũng đã giận ông ấy nữa.
Ông ấy nói: Người đi trần trụi, với tóc rối, bùn bắn,
nhịn ăn và ngủ trên đất và bôi tro thân mình và ngồi
trong thiền vô tận - chừng nào người đó chưa tự do với
hoài nghi, người đó sẽ không tìm thấy tự do. Bạn có thể
cứ làm những điều này trong nhiều năm, cả đời bạn -
bạn sẽ không đạt tới chỗ nào cả. Mọi điều này chỉ là
nghi lễ trống rỗng bạn đang theo bởi vì bạn đã được bảo
rằng đây là điều tính linh thiêng là gì. Bạn không thông
minh tới mức bạn thậm chí không thể thấy được rằng:
Đây là cái loại linh thiêng gì vậy? Làm sao điều này có
thể là linh thiêng được?
Làm sao bôi bụi cát hay tro lên thân thể có thể là
linh thiêng được? Điều đó đơn giản là tự hành hạ mình,
bởi vì thân thể thở... Bạn có biết rằng không chỉ mũi giữ
cho bạn sống, mà có cả triệu cánh cửa nhỏ trên thân thể
mà từ đó bạn thở không? Bạn thậm chí không thể thấy
được chúng bằng mắt trần. Thử mà xem: sơn toàn thân
một người, chừa mũi người đó, sơn toàn bộ để cho mọi
lỗ và chân lông của thân thể bị bít kín. Người đó sẽ chết
trong vòng ba giờ. Người đó có thể thở từ mũi - điều đó
sẽ không giữ cho người đó sống quá ba giờ.
Nếu mọi lỗ chân lông đều bị bít lại... và đó là điều
đang được thực hiện bởi việc bôi tro lên thân mình. Bạn
đang bít các lỗ chân lông của thân thể. Đây là cách tự
hành hạ mình, đây là việc để cho bạn đói ô xi. Và bạn
càng nhận được ít ô xi, bạn càng trở nên ngu xuẩn hơn,
bởi vì ô xi là một trong những chất nuôi dưỡng bản chất
nhất cho thông minh.
Không có ô xi tâm trí bắt đầu trở thành đờ đẫn. Đó
là lí do tại sao ban đêm bạn cảm thấy giấc ngủ tới với
bạn dễ dàng hơn ban ngày, bởi vì ban ngày không khí có
nhiều ô xi hơn trong nó và bạn thở nhiều ô xi hơn. Ô xi
đó giữ cho bạn tỉnh táo, thức tỉnh. Trong đêm lượng ô xi
trong không khí tụt xuống thấp, khí các bô nic nhiều hơn
- điều đó làm cho bạn cảm thấy buồn ngủ. Bằng việc bôi
tro lên thân mình bạn đang cố làm giảm khối lượng ô xi
tới các tế bào não, bạn đang bỏ đói não. Bạn sẽ trở nên
đờ đẫn, xuẩn ngốc. Và đó là lí do tại sao bạn hiếm khi
thấy bất kì sự sắc bén nào, nhận biết nào.
Họ sống như rô bốt. Tất nhiên, họ tuân theo luật nào
đó được viết trong kinh sách và được chuyển cho họ bởi
cùng một loại người ngu xuẩn. Họ tuân theo một luật
nào đó mà không hiểu gì cả, tại sao họ đang làm nó. Tôi
đã hỏi nhiều người bôi tro thân mình, "Sao ông làm điều
đó?" Và họ nói, "Bởi vì điều đó đã được làm từ lúc ban
đầu - các thánh nhân bao giờ cũng làm điều đó."
Tôi đã hỏi họ, "Khoa học đằng sau điều đó là gì?"
Họ có vẻ phân vân. Họ nói, "Khoa học sao...?" Họ
không nhận biết về điều họ đang làm. Họ không nhận
biết rằng họ đang bỏ đói ô xi cho não họ.
Và họ có nhiều chiến lược giống như điều đó: đứng
lộn đầu xuống đất hàng giờ - bởi vì sức hút mà nhiều
máu dồn vào não tới mức nó phá huỷ những thần kinh
tinh tế của não. Toàn thể thông minh của bạn phụ thuộc
vào những thần kinh tinh tế hơn đó. Hay bỏ đói bản thân
bạn - gọi điều đó là nhịn ăn, thế thì nó trở thành điều tôn
giáo. Khi bạn bỏ đói thân thể mình bạn cũng bỏ đói não
bạn, bởi vì não là phần tinh tế nhất của thân thể.
Bây giờ người ta đã chứng minh về mặt khoa học
rằng nếu vài chất vitamins bị thiếu trong thân thể bạn sẽ
mất thông minh. Sớm hay muộn mọi đứa trẻ đều phải
được cung cấp cho những vitamin nào đó, những hoá
chất nào đó, và thông minh của nó có thể được nâng lên
rất cao. Ở nước Nga xô viết họ đã làm điều đó. Nếu bạn
bỏ đói thân thể mình, thế thì một cách tự nhiên não bạn
bị bỏ đói. Bạn không cho phép não có thức ăn đúng, bạn
không cho phép não có khối lượng ô xi đúng... và bạn
cho rằng bạn sẽ có khả năng trở thành thiền nhân lớn,
thành vị phật sao? Bạn đang cố lừa ai vậy? Nhưng bạn
đang theo một luật nào đó, nghi lễ nào đó, mà không
hiểu biết về nó.
Ngài Reginald Farthington bị đưa ra xử trước Toà
Thượng thẩm của Australia về tội quấy nhiễu chim đà
điểu. "Trước khi chuyển qua phán quyết," quan toà công
bố, "ông có điều gì cần nói không?"
"Thưa quí toà," vị người Anh nói, "nếu tôi mà biết
các ông làm nhặng sị lên về nó, thì tôi đã cưới con chim
chết tiệt đó rồi!"
Đây là tâm trí pháp lí. Đây là cách tâm trí pháp lí
vận hành: "Tôi đã cưới con chim chết tiệt đó rồi!" Nó đi
từ ngu xuẩn này sang ngu xuẩn khác.
Nếu bạn bỏ đói thân thể mình về thức ăn đúng, về
khối lượng ô xi đúng, vấn đề sẽ nảy sinh. Và bạn sẽ đi
tới cùng những người đang tạo ra vấn đề cho bạn, và họ
có đơn thuốc viết sẵn.
Một người tới tôi, một thanh niên; anh ta bị bùa của
Swami Shivananda ở Rishikesh.
Shivananda đã bảo anh ta, "Sống chỉ bằng sữa thôi,
bởi vì đó là thức ăn thuần khiết nhất."
Bây giờ, nếu bạn đã thấy bức tranh về Shivananda...
Người ta có thể thấy người này đã không sống chỉ bằng
sữa. Ông ta béo tới mức ngay cả giơ tay mình lên cũng
khó cho ông ta, chúng nặng nề thế. Cho nên ông ta phải
bước đi nhờ có hai người, hai tay ông ta tựa lên vai họ.
Người này phải bị ám ảnh bởi thức ăn, phải ăn quá
nhiều. Ông ta phải đã là một trong những người béo
nhất ở Ấn Độ, và ông ta gợi ý cho chàng thanh niên này
sống chỉ bằng sữa.
Và vấn đề là gì? Tại sao người thanh niên này đã đi
tới ông ấy? Người thanh niên này đã đi tới ông ấy để đạt
tới brahmacharya - vô dục. Anh ta đã đọc trong kinh
sách rằng chừng nào bạn còn chưa tuyệt đối vô dục bạn
không thể đạt tới Thượng đế được. Cho nên anh ta đã
hỏi cách để trở thành tuyệt đối vô dục; bây giờ lời gợi ý
là, "sống chỉ bằng sữa."
Bây giờ điều này hoàn toàn vô nghĩa! Nếu bạn sống
chỉ bằng sữa bạn sẽ nhiều dục hơn trước đây, bởi vì bạn
sẽ lấy sữa từ đâu? Từ bò hay trâu. Sữa đó không được
tạo ra cho người; sữa bò được tạo ra cho bò đực, và bò
đực là con vật dâm dục nhất trên thế giới. Sữa bò có
nhiều hoá chất để làm cho bạn có tính dục hơn bất kì cái
gì khác trên thế giới. Nó là thức ăn không linh thiêng
nhất.
Nhưng ai quan tâm? Ai nghĩ về điều đó?
Chỉ bởi vì kinh sách nói điều đó, Shivananda đã bảo
anh ta, "Anh sống bằng sữa." Bây giờ, đó là duy nhất
con người, duy nhất con người sống bằng sữa khi người
ta còn nhỏ và chỉ trong vài tháng. Một khi người đó đã
trở nên có thể ăn và tiêu hoá thức ăn cứng người đó bỏ
sữa và chuyển sang thức ăn cứng. Sữa được ngụ ý cho
trẻ con.
Và một trong những điều quan trọng nhất đang phát
triển trong trẻ con là tính dục của nó. Nó đang trở nên
ngày một chín muồi và mang tính dục, bởi vì toàn thể
sinh học phụ thuộc vào dục. Và sau một thời gian đứa
trẻ phải chuyển sang thức ăn cứng. Chỉ con người mới
tiếp tục uống sữa. Nó là được trong cà phê hay trong trà,
nhưng chỉ sống bằng sữa - điều đó sẽ là nguy hiểm.
Anh thanh niên này trở nên ngày một nhiều dục hơn,
và yếu hơn. Thân thể trở nên yếu còn tâm trí trở nên
ngày một bị ám ảnh bởi dục. Anh ta lại đi tới cùng vị
thánh đó. Vị thánh đó nói, "Đấy là vì anh đang bị tamas
- anh đang bị chính loại năng lượng thấp nhất có tên là
tamas, kéo anh xuống."
"Thế cần phải làm gì?" anh thanh niên hỏi.
Vị thánh này, cái gọi là thánh nhân này, nói, "Anh
không nên ngủ nhiều như anh vẫn ngủ, bởi vì ngủ tạo ra
tamas" - điều đó nữa cũng được viết trong cùng kinh
sách: ngủ tạo ra tamas - "cho nên ngủ năm tiếng thôi."
Đầu tiên thức ăn bị lấy đi. Anh ta bị đói, bởi vì với
người đã lớn thì sữa là không đủ. Anh ta cần thức ăn
cứng; anh ta không phải là đứa trẻ. Và thế rồi sữa lại bắt
nguồn từ bò - điều được ngụ ý dành cho bò đực, không
cho người - cho nên anh ta trở nên nhiều dục hơn. Bây
giờ giấc ngủ bị giảm đi. Năm giờ ngủ cho thanh niên là
không đúng. Vâng, với ông già điều đó là hoàn toàn
được; khi bạn trở nên già hơn, giấc ngủ ngày càng được
cần ít hơn, bởi vì thân thể sắp chết, nó không cần phục
hồi nữa. Bằng không, thân thể của thanh niên tự khôi
phục nó mọi ngày.
Để khôi phục, để lấy lại sức mạnh đã mất, để tái tạo
lại tế bào đã chết ngày hôm qua, bạn cần giấc ngủ dài -
bẩy hay tám giờ, không ít hơn thế. Năm là không đủ.
Bây giờ anh ta bắt đầu chịu chứng buồn ngủ; cả ngày
anh ta ngáp và cảm thấy buồn ngủ.
Bố anh ta đem anh ta tới tôi và ông ấy nói, "Phải
làm gì đây? Bây giờ nó lại định đi tới Rishikesh, và mỗi
lần nó đi nó đều đem về một vấn đề. Nó hoàn toàn ổn
thoả; đọc những cuốn sách vô nghĩa này nó trở nên quan
tâm tới việc trở thành brahmachari - người vô dục - và
thế rồi toàn thể rắc rối bắt đầu. Bây giờ nó không thể
đọc được, mất quan tâm vào mọi thứ, đang trở nên bị ám
ảnh bởi dục và thức ăn và ngủ. Bây giờ ba điều này là
những thứ nó bị ám ảnh. Nó đang làm cho bản thân nó
phát rồ và cả gia đình nữa."
Tôi nhìn vào cậu thanh niên này - anh ta thực sự là
một đống lộn xộn. Nhưng anh ta nói, "Tôi đang theo
một thánh nhân vĩ đại."
Tôi hỏi anh ta, "Làm sao bạn biết rằng ông ấy là
thánh nhân vĩ đại? Tiêu chí của bạn là gì? Bởi vì ông ấy
lặp lại kinh sách sao? Làm sao bạn biết rằng kinh sách
được viết bởi những người biết?"
Anh ta nói với tôi, "Xin đừng tạo ra hoài nghi trong
tôi! Tôi muốn vẫn còn là người tin, bởi vì không có đức
tin, không có tin tưởng, không có giải thoát."
Tôi nói với anh ta, "Bạn không cần giải thoát nào cả.
Không cần bất kì giải thoát nào. Bạn đã được giải thoát
rồi! Bạn đã trong Thượng đế rồi! Không cần tìm ngài
đâu. Bạn là một phần của chân lí. Cứ sống một cách tự
nhiên, lành mạnh vào, và bạn sẽ có khả năng hiểu bí ẩn
của cuộc sống. Không có nhu cầu trở nên điên rồ. Mọi
cách thức này đều đưa bạn tới điên rồ."
Và thế thì người ta tìm cách này nọ để thoả mãn cho
nhu cầu tự nhiên - người ta trở thành đạo đức giả. Toàn
thể việc huấn luyện tôn giáo của bạn chỉ giúp cho bạn
trở thành đạo đức giả. Nó không làm cho bạn thành linh
thiêng; nó đơn giản làm cho bạn thành rởm, giả dối.
Bạn kìm nén cái gì đó từ phía này và nó bắt đầu
khẳng định từ phía khác.
Fogarty bắt đầu đều đặn xuống xe ở quán rượu
Barney, và đơn hàng của anh ta bao giờ cũng là một: hai
cốc martinis. Sau vài tuần với điều này, Barney hỏi anh
ta tại sao anh ta lại không đặt cốc đúp.
"Đấy là chuyện tình cảm," Fogarty nói. "Một người
bạn rất thân của tôi chết vài tuần trước, và trước khi chết
anh ta đã hỏi rằng khi tôi uống rượu tôi có dành cho anh
ta một cốc không."
Một tuần sau Fogarty tới và đặt một cốc martini.
"Thế với anh bạn thân đã chết của anh thì sao? Sao hôm
nay chỉ một cốc martini thôi?"
"Đây là cốc của anh bạn thân của tôi đấy," câu trả
lời đưa tới. "Tôi đang trên xe kia."
Bạn bao giờ cũng có thể tìm ra cách thức. Tâm trí
rất tinh ranh, cực kì tinh ranh. Bạn không thể gạt bỏ
được tinh ranh của tâm trí bằng những điều ngu xuẩn
thế. Và nếu bạn đang làm những điều ngu xuẩn thế, bạn
có thể ngồi lâu, vô tận, trong thiền... chẳng cái gì sẽ xảy
ra, bởi vì yêu cầu đầu tiên của thiền là thông minh: nhận
biết về tình huống của bạn và về điều bạn đang làm cho
bản thân mình và tại sao - không chỉ tuân theo các kinh
sách chết, không chỉ tuân theo cái gọi là các thánh nhân
bởi vì quần chúng gọi họ là thánh nhân.
Chừng nào người đó chưa tự do với hoài nghi,
người đó sẽ không tìm thấy tự do. Phật ngụ ý gì bởi điều
này? - Chừng nào người đó chưa tự do với hoài nghi...
Làm sao người ta trở thành tự do với hoài nghi? Bạn sẽ
ngạc nhiên: chừng nào bạn còn chưa trở nên tự do với
tin tưởng bạn không thể trở nên tự do với hoài nghi
được. Chính tin tưởng tạo ra hoài nghi. Chẳng hạn, nếu
bạn tin vào Thượng đế thế thì vấn đề nảy sinh liệu
Thượng đế có thực tồn tại hay không. Hoài nghi này
không thể tới trước được; tin tưởng tới trước.
Bạn được bố mẹ bạn, xã hội bạn bảo rằng có
Thượng đế. Bởi vì bạn được bảo có Thượng đế, ngày
này ngày nọ thông minh của bạn khẳng định và bắt đầu
hỏi, "Bằng chứng là gì? Làm sao chúng ta biết chắc
chắn, để đảm bảo, rằng Thượng đế thực sự có?" Bây giờ
hoài nghi đang tới...
Ở nước Nga xô viết, nơi họ không dạy trẻ con rằng
có Thượng đế, chẳng ai hoài nghi về sự tồn tại của
Thượng đế cả - không có vấn đề hoài nghi. Chẳng ai tin
ngay chỗ đầu tiên - sao họ phải hoài nghi? Ở Ấn Độ
nữa, nếu bạn được sinh ra trong một gia đình Jaina bạn
chẳng bao giờ hoài nghi sự tồn tại của Thượng đế. Tại
sao? - bởi vì trong tín ngưỡng Jaina không có Thượng
đế, không có tin tưởng. Nhưng người Jaina hoài nghi về
sự tồn tại của linh hồn, bởi vì người đó được bảo rằng có
linh hồn, vô hình - thân thể sẽ chết nhưng linh hồn sẽ
tiếp tục cuộc hành trình của nó.
Bây giờ hoài nghi nảy sinh: "Linh hồn này ở đâu?
Linh hồn này là gì? Có ai đã bao giờ thấy nó không? Có
ai quay lại thế giới sau cái chết và nói rằng, 'Tôi vẫn
sống! Anh không thể thấy được tôi, nhưng tôi vẫn đây'?"
Người Jaina hoài nghi về linh hồn, không về Thượng đế.
Người Hindu hoài nghi về Thượng đế, người Mô ha
mét giáo hoài nghi về Thượng đế, người Ki tô giáo,
người Do Thái, họ tất cả đều hoài nghi về Thượng đế -
bởi vì Thượng đế là tin tưởng của họ. Người Jaina và
Phật tử không bao giờ hoài nghi về Thượng đế bởi vì đó
không phải là tin tưởng của họ, nhưng người Jaina hoài
nghi về linh hồn. Phật tử không bao giờ hoài nghi về
linh hồn, bởi vì đó không phải là tin tưởng của người đó.
Phật đã lấy đi mọi tin tưởng, để cho bạn không hoài
nghi: không Thượng đế, không linh hồn, không địa
ngục, không cõi trời, không moksha. Phật đã lấy đi mọi
tin tưởng! Nhìn cách tiếp cận khoa học của ông ấy về
việc phá huỷ hoài nghi - rất ngược đời.
Chính điều đối lập lại đã được những người khác
làm. Người khác cũng đã cố gắng lấy hoài nghi của bạn
đi, nhưng phương pháp của họ đã là áp đặt tin tưởng lên
bạn để cho hoài nghi đi sâu hơn vào trong vô thức, trở
nên bị kìm nén - bạn không thấy nó thêm nữa. Nó bị che
phủ bởi tin tưởng, nhưng nó không bao giờ chết; ngược
lại, nó đi sâu hơn vào trong bản thể bạn và càng ngày
càng trở thành một phần của bản thể bạn. Mọi người tin
của bạn đều biết nó rất rõ, rằng có hoài nghi trong trái
tim họ. Tại chính cốt lõi có hoài nghi; chỉ ở chu vi mới
có tin tưởng.
Phật là người đầu tiên trên thế giới đã thực sự thử
phá huỷ hoài nghi. Nhưng cách thức của ông ấy là kì lạ:
cách thức của ông ấy là lấy đi mọi tin tưởng; thế thì bạn
đã lấy đi chính mảnh đất mà hoài nghi phát triển ở đó.
Không có tin tưởng và bạn sẽ không có hoài nghi.
Không có tin tưởng, không có hoài nghi, tâm trí có thể
vẫn còn ở đâu được? Tâm trí cần hai cây cột trụ chống
đỡ cho nó. Đây là hai cánh của tâm trí: hoài nghi và tin
tưởng. Đây là nhị nguyên mà trên đó tâm trí được nuôi
dưỡng và sống. Một khi tin tưởng và hoài nghi cả hai đã
mất rồi, bạn đã phá huỷ chính nền tảng của tâm trí.
Và là vô trí là thiền. Không bằng việc ngủ trên gai,
không bằng việc đi trần trụi, không bằng việc nhịn ăn,
không bằng việc tự hành hạ mình, nhưng bằng hiểu biết
lớn lao về mọi thứ. Hoài nghi này từ đâu tới? Đi vào
trong nó, tìm kiếm, và bạn sẽ thấy nó bao giờ cũng tới
bởi vì tin tưởng nào đó.
Bây giờ tâm trí hiện đại có thể đạt tới thiền dễ dàng
hơn nhân loại đã từng có khả năng, bởi một lí do đơn
giản: rằng tâm trí hiện đại không còn bị nặng gánh quá
nhiều bởi tin tưởng. Do đó không có quá nhiều hoài nghi
nữa. Ngày nay bạn hiếm khi bắt gặp những người đa
nghi, những người đầy hoài nghi, những người vô thần -
bạn hiếm khi bắt gặp những như thế ngày nay. Vào thời
xưa họ có nhiều. Và lí do là đơn giản: bây giờ không ai
tin cả! Cho nên nếu ai đó nói, "Tôi không tin Thượng
đế," bạn sẽ nói, "Vậy sao? Ai tin? Yên đi cho rồi!" Bây
giờ không ai có thể biện luận chống Thượng đế bởi vì
không ai biện luận ủng hộ người đáng thương này!
Đây là tình huống rất mới. Và truyền thống cũ của
bạn không thể chấp nhận được thách thức của tình
huống mới này. Nếu bạn tuyên bố rằng, "Tôi là kẻ vô
thần," mọi người sẽ nói, "Thì cứ cho là vậy đi. Sao ba
hoa về nó làm gì? Sao lại làm nhặng sị lên về nó? Hoàn
toàn tốt, chúng tôi sung sướng - anh là kẻ vô thần." Ai
bận tâm về nhà thờ và ai bận tâm về đền chùa? Ngay cả
những người đi, họ cũng đi như một nghi lễ xã hội; ngay
cả họ cũng không tin.
Đây là cơ hội hiếm hoi cho tìm kiếm; nó chưa bao
giờ thoáng đãng như ngày nay. Tất nhiên, những người
theo truyền thống cổ của bạn lo lắng nhiều lắm; họ nghĩ
đây là loại thời đại tồi tệ nhất đã từng xảy ra. Đây không
phải là loại thời đại tồi tệ nhất - đây là tốt nhất, đỉnh cao
nhất. Đây là thời, đúng thời, thời gian chín muồi đấy.
Chúng ta có thể hỏi với toàn bộ trái tim trong thực tại,
bởi vì không tin tưởng nào cản trở, và bởi vì không có
tin tưởng, không có hoài nghi.
Đây là tự do. Phật gọi nó là tự do. Chừng nào người
đó chưa tự do với hoài nghi, người đó sẽ không tìm thấy
tự do. "Tự do" nghĩa là tự do với tâm trí. Thế thì bạn
đơn giản trong im lặng, và trong im lặng đó bạn tan
chảy, bạn hội nhập với cái toàn thể. Và tan chảy và hội
nhập với cái toàn thể là linh thiêng. Không bằng nhịn
ăn, không bằng hành hạ, mà bằng việc trở thành một với
cái toàn thể, người ta trở thành linh thiêng.
**Nhưng người sống thuần khiết và tự tin
trong tĩnh lặng và đức hạnh,
người không gây hại hay tổn thương hay trách móc,
cho dù người đó mặc quần áo đẹp,
chừng nào người đó cũng có đức tin
người đó là người tìm kiếm đúng.**
Nhưng người sống thuần khiết... Phật ngụ ý gì bởi
"sống thuần khiết"? Ông ấy ngụ ý sống một cách hồn
nhiên, không tin tưởng, không hoài nghi, sống không từ
tâm trí mà từ thiền. Ông ấy có nghĩa riêng của mình về
thuần khiết. Ông ấy không ngụ ý bởi "sống trong thuần
khiết" là những ý niệm cũ kĩ, mục nát. Thuần khiết
không ngụ ý rằng bạn phải ăn thức ăn chỉ do người
brahmin chuẩn bị; thuần khiết không ngụ ý rằng bạn
phải ăn chỉ khi mặt trời còn trên trời; thuần khiết không
ngụ ý rằng bạn chỉ phải mặc cái này và bạn không được
mặc cái kia.
Thuần khiết nghĩa là sống từ vô trí, sống tự phát,
khoảnh khắc sang khoảnh khắc như đứa trẻ, hồn nhiên -
sống từ trạng thái của không biết. Mọi tri thức đều tinh
ranh, và mọi tri thức đều làm biến chất. Sống từ trạng
thái của không biết - đó là thuần khiết.
Socrates nói: Tôi chỉ biết mỗi một điều là tôi không
biết gì cả - đây là thuần khiết.
Phật hay nói với các đệ tử của mình, "Xin đừng bao
giờ hỏi ta các câu hỏi siêu hình, bởi vì ta không biết.
Đừng hỏi ta về Thượng đế và đừng hỏi ta về linh hồn, và
đừng hỏi về cõi trời và địa ngục." Ông ấy có một danh
sách được chuẩn bị về mười một câu hỏi; mười một câu
hỏi đó chứa mọi câu hỏi đầy những triết lí.
Bất kì khi nào ông ấy vào một thị trấn mới, đệ tử
của ông ấy sẽ đi quanh thị trấn và nói với mọi người,
"Xin đừng hỏi mười một câu hỏi này, bởi vì Phật sẽ
không trả lời những câu hỏi này. Phật chỉ quan tâm tới
những câu hỏi thực hành. Hỏi về tham và cách gạt bỏ
nó; hỏi về giận và cách vượt ra ngoài nó. Hỏi về sở hữu
và cách vứt bỏ nó, hỏi về biến đổi. Hỏi về cách các ông
có thể vứt bỏ tâm trí và đạt tới thiền. Nhưng đừng hỏi
câu hỏi siêu hình bởi vì chúng sẽ không giúp cho các
ông chút nào. Chúng tạo ra tin tưởng, và cùng với tin
tưởng hoài nghi tới. Và bị phân chia thành tin tưởng và
hoài nghi các ông trở thành tinh thần phân liệt, các ông
trở thành số không. Các ông mất tính toàn vẹn của
mình."
Nhưng người sống thuần khiết và tự tin... Bây giờ,
từ này 'tự tin' cũng không phải là từ được dịch đúng.
Điều Phật ngụ ý là người tin cậy vào bản thể riêng của
mình - nó không phải là "tự tin." "Tự tin" cho cảm giác
của bản ngã; Phật ngụ ý tin cậy vô ngã. Người tin cậy
vào toàn thể sự tồn tại cũng tin cậy vào bản thân mình,
bởi vì người đó là một phần của cái toàn thể. Người đó
nghe tiếng nói của trái tim mình và tuân theo nó. Không
sợ hãi người đó đi cùng trái tim mình. Người đó tin cậy
vào trực giác của mình. Và một khi bạn đã biết nghệ
thuật của cách nghe theo trực giác của mình, bạn sẽ ngạc
nhiên: trí tuệ có thể sai, trực giác không bao giờ sai - nó
là không thể nào sai được. Nó bao giờ cũng hướng bạn
theo tiến trình hành động đúng.
Trong tĩnh lặng và đức hạnh... "Tĩnh lặng" nghĩa là
thiền, vô ý nghĩ, không ý nghĩ quấy rối, cái hồ tâm thức
tuyệt không có sóng và gợn sóng nào. Và hậu quả của
im lặng như vậy là đức hạnh. Đức hạnh không phải là
cái gì đó do bạn thực hành; bạn không thể thực hành đức
hạnh được. Nếu bạn thực hành đức hạnh, trên bề mặt
bạn sẽ đeo mặt nạ, nhưng đằng sau bề mặt bạn sẽ cứ
sống theo cách luẩn quẩn cũ rích của mình. Tất nhiên,
bạn có thể che giấu người khác, nhưng làm sao bạn có
thể che giấu bản thân mình được?
Đó là điều xảy ra cho các tu sĩ của bạn, cái gọi là
các thánh nhân của bạn; toàn thể cuộc đời họ trở thành
rất tinh ranh - họ nói một đằng, họ sống cuộc sống hoàn
toàn khác. Họ nhất định là như vậy bởi vì đức hạnh là
được trau dồi.
Một nhà xã hội học đang làm cuộc điều tra dựa trên
khuynh hướng dục của các nhóm quốc gia và dân tộc đa
dạng. Ông ấy tới một quí ông người Italia già cả trong
bộ com lê đen, sau những thăm hỏi thông thường mới
hỏi ông này ông ấy có giao hợp dục thường xuyên
không.
"Ồ, có thể mười, mười hai lần trong một năm," ông
già nói.
"Nhưng ông là người Italia và người Italian được
cho là rất dâm dục," lời đáp đưa tới.
"Nghe đây, tôi cho rằng điều đó là không quá tệ đối
với một tu sĩ sáu mươi tuổi mà không sở hữu một chiếc
xe!"
Tu sĩ của bạn, các thánh nhân của bạn, cái gọi là
người đức hạnh của bạn, người đáng kính, họ đều có
cuộc sống kép: trên bề mặt là thứ này, dưới chiều sâu lại
đối lập toàn bộ với nó.
Xơ Semolina về muộn trong chuyến đi vào rừng
rậm. Xơ đang nhận chỉ dẫn của Mẹ Maria, người đã
triệu xơ vào văn phòng mình cuối chiều.
"Ta phải đi lên thủ đô và ta sẽ đi qua đêm," Mẹ
Maria nói. "Ta muốn cảnh báo xơ: nếu Cha Dominique
tới phòng xơ đêm nay đừng cho ông ấy vào, dù ông ấy
có nói gì với xơ."
Ngày hôm sau, Mẹ Maria quay về thấy xơ Semolina
đang đợi trong văn phòng của mình. "Con ở đây để thú
tội," xơ nói đầy nước mắt. "Đêm hôm trước con đã
không tuân theo lệnh của Mẹ. Cha Dominique tới cửa
phòng con, và, ôi Mẹ, cha sao mà thuyết phục thế! Cha
nói với con rằng con là lối cổng vào cõi trời và rằng cha
có chìa khoá vào cõi trời và rằng nếu con để cha đặt chìa
khoá vào cổng bị khoá của con thì chúng con sẽ ở trên
cõi trời cùng nhau."
"Đồ con hoang đó!" Mẹ Maria kêu lên. "Nó đã bảo
ta đó là sừng của Gabriel, và ta đã thổi nó trong mười
lăm năm!"
Nhưng điều này là tự nhiên, nó phải như vậy.
Những chuyện cười này không chỉ là chuyện cười,
chúng có chân lí lớn lao trong chúng. Điều đó là không
tránh khỏi bởi vì toàn thể ý niệm của bạn về đạo đức là
áp đặt lên bản thân mình những phẩm chất tốt, đã được
ca ngợi từ nhiều thế kỉ. Nhưng nếu bạn áp đặt điều gì đó
lên bản thân mình, bạn đang làm gì với bản tính của
mình? Bạn sẽ trở thành hai người, và bản tính chắc chắn
còn mạnh hơn bất kì cái gì bị áp đặt.
Bản tính phải được biến đổi. Cá tính phải không bị
trau dồi; nó phải là sản phẩm phụ của tâm thức. Đó là
đóng góp vĩ đại của Phật cho thế giới.
Trong tĩnh lặng và đức hạnh.... Đức hạnh tới ở số
hai. Tĩnh lặng tới đầu tiên, tính thiền, thuần khiết, hồn
nhiên, tin cậy.
Người không gây hại hay tổn thương hay trách móc,
cho dù người đó mặc quần áo đẹp, chừng nào người đó
có đức tin người đó là người tìm kiếm đúng. Lại đọc
thay vì "đức tin," thì là "tin cậy." Người có tin cậy,
người đó là người tìm kiếm đúng. Người tin không phải
là người tìm kiếm đúng - người đó đã tin rồi! Người đó
là rởm từ chính ban đầu. Nếu bạn đã tin vào Thượng đế,
làm sao bạn có thể tìm và kiếm được? Bạn đã giết chết
việc truy tìm từ chính lúc đầu, bạn đã bỏ việc truy tìm.
Người ta có thể đi vào cuộc truy tìm chỉ khi người ta
không có tin tưởng và không có hoài nghi. Khi người ta
đơn giản cởi mở, không định kiến, không kết luận,
không câu trả lời làm sẵn do người khác trao, khi người
ta đơn giản đi như tấm bảng sạch, như tấm gương, thế
thì người ta bắt gặp chân lí.
Chân lí có thể được biết chỉ bởi tâm trí tựa tấm
gương. Tâm trí tựa tấm gương là vô trí. Nhưng nếu bạn
đã là người tin thì bạn sẽ không bao giờ biết tới chân lí.
Người Ki tô giáo không thể biết được, người Mô ha mét
giáo không thể biết được, người Hindu không thể biết
được, Phật tử không thể biết được. Chừng nào bạn còn
chưa vứt bỏ mọi ý thức hệ này, chừng nào bạn còn chưa
gạt chúng sang bên và đi vào trong cuộc hành trình tuyệt
đối cởi mở, thậm chí không chút định kiến nhỏ lẩn khuất
đâu đó trong tâm trí bạn...
Có lần một giáo sư rất nổi tiếng, Tiến sĩ Bannerji,
tới gặp tôi. Ông ấy nói rằng ông ấy muốn chứng minh
một cách khoa học lí thuyết về đầu thai, lí thuyết về tái
sinh. Ông ấy muốn chứng minh rằng người Ki tô giáo và
người Mô ha mét giáo và người Do Thái đều sai, và ông
ấy muốn chứng minh điều đó một cách khoa học. Ông
ấy đã tới để lấy sự ủng hộ của tôi.
Tôi nói, "Cách ông đang nói nó, việc tìm kiếm là
không khoa học ngay từ đầu!"
Ông ta hỏi, "Tại sao?"
Tôi nói, "Ông đã quyết định rồi rằng người Mô ha
mét giáo, người Ki tô giáo, người Do Thái là sai. Ông đã
không đi vào trong việc tìm kiếm vậy mà quyết định đã
có đó rằng người Hindus và người Jainas và Phật tử là
đúng. Và làm sao ông có thể nói ông muốn chứng minh
nó một cách khoa học được? - làm sao nó có thể là khoa
học được?
"Yêu cầu đầu tiên của tâm trí khoa học là không bắt
đầu bằng kết luận. Ông vứt bỏ kết luận của ông đi. Ông
sẽ phải tỉnh táo hoàn toàn rằng ông không biết thực tại là
gì - thế rồi đi vào trong nó. Và thế rồi hỏi, vẫn còn rất vô
tư. Cho dù nó có đi ngược lại lí thuyết của ông, cứ để nó
đi ngược; cho dù nó đi ngược lại Hindu giáo, cứ để nó
đi. Chân lí phải được khải lộ, không phải là Hindu giáo
được chứng minh. Ông mang quá nhiều tính Hindu," Tôi
bảo ông ta; "ông không thể là nhà khoa học được."
Ông ấy đã tới với tôi trong hai giờ - trong vòng hai
mươi phút ông ấy đi. Ông ấy nói, "Tôi đang vội, tôi phải
đi đâu đó."
Tôi nói, "Ông không vội đâu và ông chẳng đi đâu
cả! Ông đã yêu cầu hai giờ và tôi đã cho ông hai giờ - và
ông không thể rời chỗ này trước khi hết hai giờ! Ông sẽ
phải trả lời tôi trước: Đây là loại cách tiếp cận khoa học
nào vậy?"
Tất nhiên ông ấy không thể trả lời được. Nó rõ ràng,
hiển nhiên tới mức trong khoa học bạn không bắt đầu
bằng kết luận - bạn bắt đầu chỉ bằng giả thuyết: có thể
thế, có thể không thế... có lẽ. Bạn bắt đầu bằng "có lẽ";
cái "có lẽ" giữ bạn cởi mở.
Phật không thể ngụ ý đức tin được, Phật không thể
ngụ ý tin tưởng được. Ông ấy ngụ ý tin cậy - tin cậy
rằng nếu bạn đi mà không có kết luận nào bạn sẽ thấy.
Bởi vì chân lí có đó rồi! Nó không phải là cái gì đó phải
được tạo ra, nó đã có đó rồi! Chân lí không ngụ ý cái gì
đó trên trời; chân lí ngụ ý thực tại ở đây bây giờ. Dù nó
là bất kì cái gì, XYZ, bắt đầu bằng "có lẽ" đi, là người
truy hỏi đi.
Và thế rồi Phật nói: cho dù người đó mặc quần áo
đẹp... Không cần ở trần, không cần từ bỏ, không cần
nhịn ăn. Điều thực cần từ bỏ là kết luận của bạn, tin
tưởng của bạn, định kiến của bạn.
Ngựa quí hiếm khi cảm thấy cái chạm của roi.
Ai có đó trong thế giới này mà không chê được?
Phật là hoàng tử trước khi ông ấy trở nên chứng
ngộ, và khi ông ấy là hoàng tử ông ấy thực sự yêu ngựa.
Ông ấy là người yêu ngựa. Vào thời đó, ngựa là sự hỗ
trợ lớn lao nhất trong chiến tranh. Và đã có những người
yêu ngựa: trong tiếng Anh, tên Philip đơn giản nghĩa là
người yêu ngựa - Phật là một Philip.
Khi ông ấy trở nên chứng ngộ ông ấy nhớ tới ngựa
nhiều lần. Ông ấy nói về ngựa theo nhiều cách. Ông ấy
nói có bốn loại ngựa. Thứ nhất, loại tồi nhất: cho dù bạn
đánh chúng, bạn càng đánh, chúng càng trở nên bướng
bỉnh hơn. Chúng không có tính quí tộc, không duyên
dáng, không chân giá trị. Bạn có thể xúc phạm chúng,
bạn có thể quất roi vào chúng, bạn có thể đánh chúng -
chúng là loại có da rất dầy. Nếu chúng không muốn đi,
chúng sẽ không đi.
Thế rồi loại thứ hai: nếu bạn đánh chúng chúng sẽ
đi; chúng có chút ít chân giá trị, cảm giác tự trọng. Thế
rồi đến loại thứ ba, cao hơn chút ít: bạn không đánh
chúng - chỉ tiếng động của roi là đủ. Và loại cao nhất,
loại thứ tư: thậm chí tiếng động của roi cũng không cần
- chỉ cái bóng của roi là đủ.
Phật nói con người cũng có bốn loại. Loại cao nhất,
người thông minh nhất, người tìm kiếm chân lí thực, chỉ
cần cái bóng của roi thôi; chỉ chút ít hướng dẫn từ thầy
là đủ. Họ không cần bị đánh, họ không cần bị ép buộc.
Ngựa quí hiếm khi cảm thấy cái chạm của roi. Không
cần cho ngựa quí cảm thấy cái chạm của roi - chỉ cái
bóng roi thôi là đủ. Cho nên có bốn loại đệ tử nữa. Loại
cao nhất đơn giản nhận hướng dẫn. Thỉnh thoảng thậm
chí không một lời được thốt ra; thầy chỉ nhìn vào trong
mắt bạn, và điều đó là đủ.
Đó là điều đã xảy ra vài ngày trước đây... Một nhà
trị liệu nổi tiếng tới từ Mĩ, Naomi, đã nhận tính chất
sannyas - một bà già. Tôi có thể nói bà ấy thuộc vào loại
thứ tư: chỉ cái bóng của roi là đủ - tôi mới nhìn vào mắt
bà ấy - và điều đó là đủ. Và bà ấy đã trở thành của tôi và
tôi đã trở thành của bà ấy. Ngay lập tức mối liên hệ đã
xảy ra, mối nối. Bây giờ nó không thể bị phá vỡ.
Hôm qua bà ấy đã viết một lá thư, bởi vì bà ấy ra đi
hôm nay và bà ấy sợ. Trong vài ngày bà ấy đã ở đây bà
ấy đã biết chiều sâu mới của bản thể - bà ấy đã không ở
đây lâu, chỉ vài ngày. Bà ấy đã nhìn tôi chỉ một lần, chỉ
trong hai phút thôi. Bà ấy nói bà ấy đã biết những chiều
sâu lớn lao, những kinh nghiệm tinh tế đã xảy ra; chúng
là rất tinh tế, và bà ấy có chút ít sợ hãi. "Đi về phương
Tây sớm thế, trong bãi chợ thô của phương Tây, tôi liệu
có khả năng tiếp tục trưởng thành không?" Bà ấy hỏi tôi,
"Tôi sẽ ở gần thầy ở đó như tôi ở đây chứ? Tôi sẽ là một
phần của công xã của thầy cho dù tôi ở xa cả nghìn dặm
chứ?"
Naomi, tình yêu không biết tới khoảnh cách. Bạn có
thể ở xa nghìn dặm - nếu trái tim bạn tràn đầy tình yêu,
nếu trái tim bạn nhớ tới tôi, bạn đang ở gần như bất kì ai
cũng đều có thể ở gần.
Công xã của tôi sẽ lan toả trên khắp quả đất. Ở bất
kì chỗ nào bạn thấy một sannyasin, công xã của tôi tồn
tại ở đó. Bất kì chỗ nào bạn tìm thấy một sannyasin, tôi
đều ở đó cùng người đó. Bất kì chỗ nào một sannyasin
nhớ tới tôi, tôi đều hiện diện cho người đó, còn sâu sắc
hơn là tôi có thể hiện diện về mặt vật lí - bởi vì tôi
không còn trong thân thể mình nữa, chỉ bằng cách nào
đó còn treo quanh thân thể thôi. Tôi không còn thân thể
nữa. Nếu bạn yêu tôi bạn sẽ biết rằng tôi là cái gì đó
hoàn toàn khác với thân thể; nó là hiện tượng phi vật lí.
Và, Naomi này, bạn có thể ở trong liên hệ bất kì chỗ
nào bạn ở. Khoảnh khắc bạn nhắm mắt lại bạn sẽ thấy
tôi bên trong bạn. Thầy trở thành một phần của đệ tử.
Dần dần, dần dần thầy không còn ở bên ngoài nữa, thầy
ngày càng ở bên trong nhiều hơn. Và điều đó đã bắt đầu
xảy ra - quá trình này được lẩy cò, và nó là quá trình
không thể nào dừng lại được; ngay cả thế giới vật chất
thô của phương Tây cũng không thể dừng nó lại được.
Và bạn sẽ không ở đó lâu đâu; chẳng mấy chốc bạn sẽ bị
kéo tới đây. Bây giờ đây là nhà của bạn. Bất kì chỗ nào
bạn ở bạn đều sẽ thấy bản thân mình là người ngoài.
Ngựa quí hiếm khi cảm thấy cái chạm của roi. Ai có
trong thế giới này là người không chê được? Phật hỏi.
Ai có trong thế giới này là người không chê được? -
người đó có khả năng trở thành vị phật. Người đó có khả
năng trước hết trở thành đệ tử, thế rồi trở thành thầy.
**Thì giống như ngựa quí
khéo léo dưới roi,
bùng cháy và nhanh nhẹn.**
Giống như ngựa quí - khéo léo, nhận biết, quan sát.
Bùng cháy và nhanh nhẹn. Nếu bạn nhận biết... Nhận
biết là lửa; nó thiêu cháy mọi cái sai trong bạn. Nó thiêu
cháy bản ngã bạn. Nó thiêu cháy tham lam của bạn, nó
thiêu cháy tính sở hữu của bạn, nó thiêu cháy ghen tị của
bạn - nó thiêu cháy mọi cái sai và tiêu cực, và nó nâng
cao mọi cái đẹp, duyên dáng, thiêng liêng.
Và khi cái thô và cái xấu bị thiêu cháy, sắc bén lớn
lao xảy ra cho bản thể bạn, nhanh nhẹn lớn lao tới cho
cuộc sống của bạn, mãnh liệt và đam mê lớn lao, tính
toàn bộ và tính toàn thể vĩ đại.
**tin tưởng, thiền, thấy.**
Để tôi nhắc lại cho bạn: đừng đọc "tin tưởng," đọc
"tin cậy": Tin cậy, thiền, thấy.
Đây là ba bước, đơn giản, rất đơn giản. Điều thứ
nhất là tin cậy: có tin cậy yêu thương với mọi cái đang
đó, thế thì thiền trở thành dễ dàng bởi vì bạn có thể
thảnh thơi. Người tin cậy có thể thảnh thơi trong sự tồn
tại. Người không thể tin cậy được vẫn còn căng thẳng,
vẫn còn lo âu, sợ hãi. Người tin cậy có thể tan chảy, có
thể biến mất, bay hơi. Người đó biết rằng, "Cho dù tôi
có rơi vào đại dương, tôi chỉ là giọt sương..." nhưng
người đó cũng biết rằng, "Như giọt sương tôi sẽ biến
mất, nhưng tôi sẽ tồn tại như đại dương. Tôi sẽ không
mất cái gì cả; tôi sẽ được mọi thứ." Thiền là giọt sương
biến mất trong đại dương.
Và thế thì có việc thấy. Đó là lí do tại sao Phật
không có triết lí nào ngoài ái kiến philosia - ông ấy
không có hệ thống ý nghĩ nào ngoài cách thức, phương
pháp để thấy.
**vô hại, vô chê trách.
thức tỉnh theo luật.**
Vẫn còn hài hoà với luật đó của sự tồn tại đi. Tuôn
chảy cùng dòng sông; đừng cố đi ngược dòng. Để buông
bỏ là lời kinh nền tảng của bạn, và thế thì bạn sẽ là vô
hại và bạn sẽ vô chê trách.
Thức tỉnh theo luật - aes dhammo sanantano - thức
tỉnh với luật vĩnh hằng.
**và từ mọi buồn khổ tự giải phóng mình.**
Buồn khổ nảy sinh bất kì khi nào bạn đi ngược lại
luật của sự tồn tại, và phúc lạc nảy sinh bất kì khi nào
bạn đi cùng nhịp với nó, nhảy múa cùng nó tay trong
tay.
**Nông dân đào kênh dẫn nước cho đất.
Người gài tên chuốt mũi tên.
Thợ mộc chỉnh gỗ.
Và người trí huệ làm chủ bản thân mình.**
Đây là cách thức để là trí huệ và là chủ của bản thân
mình. Không có việc làm chủ của bản thân mình, cuộc
sống là trống rỗng, phù phiếm, vô nghĩa. Nó không thể
có chất thơ nào, nó không thể có vui vẻ nào, nó không
thể có cực lạc nào. Và cực lạc, vui vẻ, là quyền tập ấm
của bạn - nhưng bạn có thể có nó chỉ khi bạn đạt tới sự
xứng đáng này, tới sự đáng trọng này.
Trở nên nhận biết, tin cậy, bắt đầu thấy đi - vứt bỏ
mọi tin tưởng và mọi hoài nghi, và mục đích không còn
xa xôi gì. Bạn không cần đi đâu cả. Nếu bạn có thể tin
cậy, thiền, thấy, nếu bạn có thể thức tỉnh tới luật vĩnh
hằng, bạn là chủ - không phải là chủ của bất kì ai khác
ngoài chủ của bản thân mình. Và đó là việc làm chủ
đúng. Jesus gọi điều đó là Vương quốc của Thượng đế.
Nhưng bạn sẽ phải được tái sinh, bạn sẽ phải học
cách sống mới - cách mới, để tôi nhắc bạn, không phải
triết lí mới. Và Phật đang cho bạn hướng dẫn. Những
hướng dẫn này có thể được dùng nếu bạn nghe một cách
chăm chú, thông minh, có tính thiền.
Đủ cho hôm nay.
***********************************************************************************************************
#10 Aes dhammo sanantano
Câu hỏi thứ nhất:
Thưa Thầy kính yêu,
Làm sao tôi có thể đi sang bờ bên kia khi tôi đang
cố ở đây bây giờ? Nó thành đống lộn xộn trong tâm
trí tôi khi tôi nghĩ về điều đó, nhưng ở đâu đó trong
tim tôi cảm thấy một loại thư thái.
Deva Darpan, "bờ bên kia" chỉ là biểu dụ thôi.
Không có bờ bên kia đâu; đây là bờ duy nhất có đó. Ở
đây bây giờ là đi vào bờ bên kia đấy.
Chúng ta có thể sống theo hai cách: chúng ta có thể
sống theo thời gian hoặc chúng ta có thể sống trong vĩnh
hằng. Nếu chúng ta sống theo thời gian, nói một cách
biểu dụ điều đó được gọi là "bờ bên này"; nếu chúng ta
sống trong vĩnh hằng, nói một cách biểu dụ điều đó
được gọi là "bờ bên kia." Cổng đi vào vĩnh hằng là ở
đây bây giờ. Sống trong thời gian là sống hoặc trong quá
khứ hoặc trong tương lai.
Tâm trí sống theo thời gian - tâm trí là thời gian. Nó
bao giờ cũng dính líu tới quá khứ hoặc với tương lai - và
cả hai đều không có. Quá khứ không còn nữa, tương lai
thì chưa tới, và tâm trí sống trong cái gì đó không có. Sự
tồn tại của tâm trí là sự tồn tại rởm, rất mù mờ; nó chỉ là
sự phản xạ trong tấm gương, mặt trăng được nhìn phản
xạ trong hồ.
Ở đây bây giờ nghĩa là thoát ra khỏi thời gian. Bạn
sẽ phải tự kéo mình ra khỏi quá khứ, bạn sẽ phải đi ra
khỏi quá khứ. Bạn sẽ phải tuồn ra khỏi quá khứ như con
rắn tuồn ra khỏi bộ da cũ. Và bạn sẽ phải rất tỉnh táo
không bị dính líu vào tương lai - phóng chiếu, mơ mộng
tương lai. Nếu bạn có thể tránh được quá khứ và tương
lai bạn tỉnh táo, bạn nhận biết.
Đó là điều Phật ngụ ý bởi sammasati - nhận biết
đúng. Thế thì bạn ở bây giờ và bạn ở đây. Bạn còn có
thể ở chỗ nào khác được? Đó là nơi bạn thực sự hiện
hữu!
Cho dù bạn tiếp tục đi vào quá khứ và vào tương lai,
mọi chuyển động đó đều giống như mơ. Bạn rơi vào
giấc ngủ, bạn vẫn còn trong phòng của bạn, nhưng trong
mơ bạn có thể vẩn vơ khắp trái đất, hay bạn có thể đi tới
các hành tinh, tới mặt trăng, hay tới các vì sao. Nhưng
vào buổi sáng khi bạn thức dậy bạn sẽ không thấy bản
thân mình trên cung trăng. Bạn có thể trong cả đêm đã ở
trong giấc mơ trên cung trăng; bạn thức dậy trong phòng
của bạn. Cho nên khi bạn bước trên trăng trong giấc mơ,
bạn vẫn ở trong phòng của bạn - thực sự bạn vẫn ở trong
phòng của bạn.
Chúng ta bao giờ cũng trong hiện tại; không có chỗ
nào khác để hiện hữu cả. Nhưng chúng ta có thể mơ,
chúng ta có thể tưởng tượng, chúng ta có thể sống lại
những kí ức, chúng ta có thể phóng chiếu trong tương lai
những ảo tưởng lớn... nhưng dầu vậy chúng ta vẫn ở đây
bây giờ! Cái ngày, cái khoảnh khắc bạn trở nên nhận
biết rằng bạn ở đây và bạn không thể ở bất kì chỗ nào
khác được, rằng bạn ở đây và bạn không thể ở đó, bạn
chìm vào trong thực tại, bạn đi tới chiều sâu của bản
thân thực tại, bạn đổi số của mình từ thời gian sang vĩnh
hằng.
Chữ thập theo nghĩa nguyên thuỷ của nó đã biểu thị
cho thời gian và vĩnh hằng. Nó không biểu thị đơn giản
cho việc đóng đinh Jesus; chữ thập là một biểu tượng cổ
hơn Jesus. Thực ra nó chỉ là một phần của biểu tượng
phương Đông cổ đại, swastika, chỉ là một phần của nó.
Swastika ở phương Đông bao giờ cũng biểu thị cho thời
gian và vĩnh hằng; chữ thập cũng biểu thị thời gian.
Thời gian là theo chiều ngang, nó là tuyến tính; nó đi từ
khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác. Và đường
chiều dọc trên chữ thập biểu diễn cho vĩnh hằng - chiều
sâu, chiều cao. Trong thời gian bạn bơi, trong vĩnh hằng
bạn chìm.
Ở đây bây giờ đơn giản nghĩa là lỗ hổng này giữa
quá khứ và tương lai, khoảng hở nhỏ này. Từ khoảng hở
nhỏ này bạn đi vào trong một thế giới hoàn toàn khác -
thế giới đó được gọi là "bờ bên kia."
Darpan, bạn không cần bị phân vân. Nhưng đôi khi
nếu bạn bám lấy các biểu dụ quá mức theo từng chữ bạn
có thể trở nên rất lẫn lộn. Và tôi phải dùng biểu dụ;
không có cách nào để diễn đạt cái không thể thực sự
được diễn đạt, để diễn đạt cái mà về nó tiến trình đúng
duy nhất là trở thành im lặng. Cách thức có thể duy nhất
là dùng biểu dụ, ngụ ngôn, chuyện kể, bởi vì chúng cho
bạn hướng dẫn gián tiếp.
Thực tại là tinh tế và mong manh thế; nó giống như
đoá hoa rất tinh tế. Nếu bạn cố bắt giữ nó một cách trực
tiếp bạn phá huỷ nó. Bạn không thể giữ nó trong nắm
tay của mình được; nó rất linh động. Bạn chỉ có thể đi
vào theo cách rất gián tiếp, và chuyển động của bạn phải
là rất tinh tế - thậm chí tiếng bước chân cũng phải không
được nghe thấy. Bạn chỉ có thể thì thào với thực tại; bạn
không thể gào lên và bạn không thể tranh cãi.
Đó là điều biểu dụ là gì: cuộc đối thoại được thực
hiện trong tiếng thì thầm, cuộc đối thoại được thực hiện
theo cách thơ ca; không theo văn xuôi, không rõ ràng,
không toán học - mơ hồ, huyền bí. Bạn không thể tấn
công thực tại được; bạn chỉ có thể thuyết phục, bạn có
thể quyến dũ thực tại. Nó là chuyện tình, không phải là
cưỡng đoạt.
Đó là chỗ tôn giáo và khoa học khác nhau. Khoa
học là một loại cưỡng đoạt thực tại. Nó cố giằng lấy
chân lí từ thực tại một cách vũ lực, bạo hành; do đó nó
phá huỷ thăng bằng tự nhiên, cân bằng tự nhiên. Nó phá
huỷ sinh thái, nó phá huỷ hài hoà, hoà hợp của sự tồn
tại. Nó là việc cưỡng đoạt, bởi vì khoa học nói theo
ngôn ngữ của chinh phục.
Tôn giáo là chuyện tình, nó không phải là cưỡng
đoạt. Tôn giáo tán tỉnh thực tại, thuyết phục, dần dần,
dần dần theo cách rất gián tiếp. Người ta phải duyên
dáng trang nhã, do đó mới có những biểu dụ này.
"Bờ bên kia" là một biểu dụ đẹp, nhưng để tôi nhắc
bạn: đây là bờ bên kia, cđây là cái kia đấy. Bạn không
đổi bờ đâu, bạn đơn giản dần thay đổi tâm thức của bạn.
Thay đổi phải không xảy ra ở bên ngoài - không phải là
bạn lấy chiếc thuyền, chiếc phà, và bạn đi sang bờ bên
kia đâu. Điều đó sẽ là thay đổi trong hoàn cảnh bên
ngoài. Không, bạn vứt bỏ tâm trí và bạn trở thành tâm
thức, và bờ bên kia đã tới. Bạn đã không đi cho dù một
li, bạn có thể chẳng làm gì cả - bạn có thể đơn giản chỉ
ngồi với mắt nhắm...
Đó là điều Phật đã làm khi ông ấy đạt tới bờ bên kia.
Ở Bodhgaya ông ấy đã ngồi dưới gốc cây bên cạnh dòng
sông Niranjana. Đó là sáng sớm, buổi sáng đẹp, im lặng,
và ông ấy mở mắt ra. Ngôi sao cuối cùng đang biến đi
khỏi bầu trời; ông ấy thấy ngôi sao cuối cùng đang biến
đi, và cái gì đó bên trong, trong ông ấy, cũng biến mất...
dấu vết cuối cùng của bản ngã. Bầu trời trở thành trống
rỗng, ông ấy trở thành trống rỗng, và hai cái trống rỗng
này gặp gỡ, hội nhập, tan chảy vào nhau. Bầu trời đi vào
ông ấy, ông ấy đi vào bầu trời.
Ở phía thấy được, phía bên ngoài, chẳng có gì thay
đổi cả; mọi thứ đều đích xác như cũ. Sông Niranjana
vẫn tiếp tục chảy, chim chóc phải vẫn tiếp tục hót; thậm
chí không một cái lá rụng khỏi cây, chẳng cái gì đã thay
đổi... và tất cả đã thay đổi. Bây giờ Phật không còn là
tâm trí nữa; ông ấy đã trở thành thiền. Ông ấy không còn
trong ý nghĩ; ông ấy đã trở thành nhân chứng thuần
khiết, một sakshin.
Đây là bờ bên kia mà tôi đang nói tới.
Đó là lí do tại sao khi bạn nghĩ, Darpan này, bạn
cảm thấy chút ít bị lẫn lộn, nhưng khi bạn không nghĩ về
nó bạn cũng cảm thấy một loại thư thái. Quan sát đi!
Lẫn lộn phải còn lại trong đầu và thư thái ở trong tim.
Trái tim có lí do riêng của nó, cách thức riêng của nó để
hiểu mọi thứ.
Khi tôi nói với bạn, tôi không chỉ nói cho tâm trí
bạn - đó chỉ là phần bên ngoài thôi. Điều thực sự được
truyền giữa tôi và bạn là cái gì đó của trái tim. Tâm trí
được dùng như bậc đá đi tới trái tim, có vậy thôi. Tôi
đang dùng lời như bậc đá, như phương tiện, không như
mục đích trong bản thân chúng.
Đó là lí do tại sao hai điều này được bạn cảm thấy
đồng thời: lẫn lộn trong đầu và thư thái sâu sắc trong
tim. Trái tim hiểu - trái tim hiểu rằng khoảnh khắc này,
ở đây bây giờ, là bờ bên kia. Nhưng trái tim không thạo
nói; cái đầu rất thạo nói. Đây là một trong những điều
khó xử: cái đầu không thể hiểu được nhưng rất hay nói,
còn trái tim có thể hiểu được nhưng không thạo nói. Nó
hiểu nhưng việc hiểu của nó vẫn còn im lặng; thực ra nó
càng hiểu điều đó nhiều hơn, nó càng trở nên im lặng
hơn. Cái đầu chẳng hiểu gì; thực ra nó càng ít hiểu, nó
càng ồn ào hơn. Bạn phải thấy ra điều này.
Dùng cái đầu để đạt tới trái tim, nhưng đừng trở nên
bị bắt rễ vào đầu. Đừng ở lại đó! Dùng nó làm bậc đá,
làm thang, nhưng đừng làm nhà bạn ở đó; bằng không
cả đời bạn sẽ toàn lẫn lộn, lo âu, đau khổ. Dùng nó, và
quên hết về nó đi. Đi vào trong đầu và nghe điệu vũ im
lặng của năng lượng trái tim. Nghe bài ca thảnh thơi, thư
thái của trái tim, âm thanh vô âm, tiếng vỗ tay của một
bàn tay.
Trái tim rất gần với bí ẩn của sự tồn tại; cái đầu là ở
xa nhất. Cái đầu là bờ bên này và trái tim là bờ bên kia -
nhưng bạn đã ở bờ bên kia rồi. Cái đầu đơn giản mơ mọi
thứ. Khi bạn thoát ra khỏi cái đầu bạn đơn giản thoát ra
khỏi cái gì đó mà chưa bao giờ tồn tại ngay chỗ đầu tiên.
****************************************************
#10Câu hỏi thứ hai:
Thưa Thầy kính yêu,
Thầy liên tục bảo chúng tôi "nhận biết," "là nhân
chứng." Nhưng một tâm thức chứng kiến có thực sự
ca hát, nhảy múa và nếm trải cuộc sống không?
Nhân chứng có phải là khán giả đơn thần của cuộc
sống và không bao giờ là người tham dự không?
Anand Nur, tâm trí nhất định nêu ra câu hỏi này sớm
hay muộn, bởi vì tâm trí rất sợ việc trở thành nhân
chứng của bạn. Tại sao tâm trí sợ việc bạn trở thành
nhân chứng thế? - bởi vì việc bạn trở thành nhân chứng
là cái chết của tâm trí.
Tâm trí là người làm, nó muốn làm mọi thứ, và
chứng kiến là trạng thái của không làm. Tâm trí sợ rằng,
"Nếu mình trở thành nhân chứng, mình sẽ không được
cần tới thêm nữa." Và theo một cách nào đó tâm trí là
đúng...
Một khi nhân chứng nảy sinh trong bạn tâm trí phải
biến mất, cũng giống như nếu bạn đem đèn vào trong
phòng và bóng tối phải biến mất - điều đó là không
tránh khỏi. Tâm trí có thể tồn tại chỉ nếu bạn vẫn còn
ngủ say, bởi vì tâm trí là trạng thái của mơ và mơ có thể
tồn tại chỉ trong ngủ.
Bằng việc trở thành nhân chứng bạn không còn ngủ
nữa, bạn thức. Bạn trở thành nhận biết - trong như pha lê
thế, trẻ trung và tươi tắn thế, sinh động và hiệu nghiệm
thế. Bạn trở thành ngọn lửa - mãnh liệt, bùng cháy từ cả
hai đầu - dường như, trong trạng thái của mãnh liệt đó
của ánh sáng, của tâm thức, tâm trí chết đi, tâm trí tự tử.
Do đó tâm trí sợ.
Và tâm trí sẽ tạo ra nhiều vấn đề cho bạn, nó sẽ nêu
ra nhiều, nhiều câu hỏi. Nó sẽ làm cho bạn ngần ngại lấy
cú nhảy vào cái không biết, nó sẽ cố gắng kéo bạn lại.
Nó sẽ cố gắng thuyết phục bạn rằng, "Với tớ là an toàn,
an ninh; với tớ cậu đang sống dưới chỗ trú ngụ, được
canh gác chu đáo. Tớ sẽ chăm nom mọi bề cho cậu. Với
tớ cậu hiệu quả, khéo léo. Khoảnh khắc cậu rời tớ, cậu
sẽ phải bỏ lại mọi tri thức và cậu sẽ phải bỏ lại mọi an
ninh, an toàn. Cậu sẽ phải vứt bỏ áo giáp của mình và
cậu sẽ đi vào cái không biết. Cậu đang nhận nguy hiểm
một cách không cần thiết chẳng bởi lí do nào cả." Và nó
sẽ cố gắng đem những cách hợp lí hoá hay vào. Đây là
một trong những cách hợp lí hoá mà gần như bao giờ
cũng xảy ra cho mọi thiền nhân.
Không phải là bạn, Anand Nur, người đang hỏi câu
hỏi này; chính tâm trí, kẻ thù của bạn, người đang đặt ra
những câu hỏi này qua bạn. Chính tâm trí đang nói,
"Thưa Thầy kính yêu, thầy liên tục bảo chúng tôi ‘nhận
biết,’ ‘là nhân chứng.’ Nhưng một tâm thức chứng kiến
có thực sự ca hát, nhảy múa và nếm trải cuộc sống
không?"
Có chứ, Anand Nur - thực ra chỉ tâm thức chứng
kiến mới có thể thực sự ca hát, nhảy múa và nếm trải
cuộc sống. Điều đó sẽ có vẻ như ngược đời - nó thế đấy!
Nhưng mọi cái thật bao giờ cũng ngược đời, nhớ lấy.
Nếu chân lí mà không ngược đời thế thì nó không phải
là chân lí chút nào, thế thì nó là cái gì đó khác.
Ngược đời là phẩm chất cơ bản, cố hữu của chân lí -
để điều đó chìm vào trong trái tim bạn mãi mãi! Chân lí
như thế chính là có tính ngược đời. Mặc dầu mọi ngược
đời không phải là chân lí, mọi chân lí đều là ngược đời.
Chân lí phải là ngược đời bởi vì nó phải là cả hai cực -
phủ định và khẳng định - và vậy mà siêu việt. Nó phải là
sống và chết, và thêm nữa. Với "thêm nữa" tôi ngụ ý
siêu việt lên trên cả hai - cả ha và không cả hai. Đó là
ngược đời tối thượng.
Khi bạn ở trong tâm trí, làm sao bạn có thể hát
được? Tâm trí tạo ra khổ; từ khổ không thể có bài ca nào
được. Khi bạn trong tâm trí, làm sao bạn có thể nhảy
múa được? Vâng, bạn có thể làm những cử chỉ trống
rỗng nào đó gọi là điệu vũ, nhưng nó không phải là điệu
vũ thực.
Chỉ một Meera mới biết điệu vũ thực, hay một
Krishna, hay một Chaitanya. Đây là những người biết
điệu vũ thực. Người khác chỉ biết kĩ thuật nhảy múa,
nhưng không có gì tuôn tràn cả; năng lượng của họ là tù
đọng. Những người sống trong tâm trí đang sống trong
bản ngã, và bản ngã không thể nhảy múa được. Điều đó
có thể tạo ra việc biểu diễn nhưng không phải là điệu vũ.
Điệu vũ thực xảy ra chỉ khi bạn đã trở thành nhân
chứng. Thế thì bạn phúc lạc tới mức chính phúc lạc đó
bắt đầu tuôn trào - đó là điệu vũ. Chính phúc lạc bắt đầu
ca hát; bài ca nảy sinh theo cách riêng của nó. Và chỉ
khi bạn là nhân chứng thì bạn mới có thể thưởng thức
được cuộc sống.
Tôi có thể hiểu câu hỏi của bạn, Anand Nur. Bạn lo
lắng rằng bằng việc trở thành nhân chứng người ta sẽ
đơn thuần trở thành khán giả của cuộc sống. Không, là
khán giả là một điều, và là nhân chứng là điều hoàn toàn
khác, khác về chất.
Khán giả dửng dưng, người đó đờ đẫn, người đó
đang trong một loại giấc ngủ. Người đó không tham gia
vào cuộc sống. Người đó sợ, người đó là kẻ hèn nhát.
Người đó đứng bên cạnh đường và đơn giản cứ nhìn
người khác sống. Đó là điều bạn đang làm cả cuộc đời
mình: ai đó khác đóng vai trong phim và bạn xem. Bạn
là khán giả! Mọi người bị dính vào ghế hàng giờ trước
chiếc ti vi - khán giả đấy. Ai đó khác hát, bạn nghe. Ai
đó khác nhảy múa, bạn chỉ là khán giả. Ai đó khác yêu
và bạn chỉ xem. Bạn không là người tham gia. Các nhà
chuyên môn đang làm điều bạn đáng phải làm theo cách
riêng của mình.
Nhân chứng không phải là khán giả. Thế thì nhân
chứng là gì? Nhân chứng là người tham gia vậy mà vẫn
còn tỉnh táo. Nhân chứng là ở trong trạng thái vô vi. Đó
là từ của Lão Tử: nó có nghĩa là hành động thông qua vô
hành động. Nhân chứng không phải là người đã trốn
chạy khỏi cuộc sống. Người đó sống trong cuộc sống,
sống còn toàn bộ hơn nhiều, đam mê hơn nhiều, nhưng
vậy mà vẫn còn sâu bên dưới là người quan sát; cứ nhớ
mãi rằng, "Mình là tâm thức."
Thử điều đó khi đi trên đường: nhớ rằng bạn là tâm
thức. Việc bước đi vẫn tiếp tục - và một điều mới được
thêm vào, sự giầu có mới được thêm vào, cái đẹp mới.
Cái gì đó bên trong được thêm vào cho hành động bên
ngoài. Bạn trở thành ngọn lửa của tâm thức, và thế thì
việc bước đi có vui vẻ hoàn toàn khác cho nó; bạn ở trên
đất và vậy mà chân bạn không chạm đất chút nào.
Đó là điều Phật đã nói: Đi qua sông, nhưng đừng để
nước chạm chân ông.
Đó là nghĩa của biểu tượng phương Đông về hoa
sen. Bạn phải đã thấy tượng Phật, ảnh của ông ấy ngồi
trên hoa sen - đó là biểu dụ. Hoa sen là hoa sống trong
nước vậy mà nước không thể chạm vào nó được. Hoa
sen không trốn lên hang động Himalaya; nó sống trong
nước và vậy mà vẫn còn xa xôi, xa xăm. Sống trong bãi
chợ nhưng đừng cho phép bãi chợ đi vào bản thể bạn,
sống trong thế giới vậy mà không phải là của thế giới -
đó là điều được ngụ ý bởi "tâm thức chứng kiến."
Đó là điều tôi ngụ ý bằng việc nói đi nói lại với bạn:
nhận biết đi! Tôi không chống lại hành động, nhưng
hành động của bạn phải được chiếu sáng bởi nhận biết.
Những người chống lại hành động, họ nhất định có tính
kìm nén - và mọi loại kìm nén đều làm cho bạn bệnh
hoạn, không toàn thể, không lành mạnh.
Các sư sống trong tu viện, Cơ đốc giáo hay Hindu
giáo; các sư Jainas và sư Phật giáo, những người đã trốn
khỏi cuộc sống - họ không phải là sannyasin thực. Họ
đơn giản đã kìm nén ham muốn của họ và họ đã đi khỏi
thế giới này, thế giới của hành động. Bạn có thể là nhân
chứng ở đâu nếu bạn đi ra khỏi thế giới của hành động?
Thế giới của hành động là cơ hội tốt nhất để nhận biết.
Nó cho bạn thách thức, nó vẫn còn thường xuyên là
thách thức.
Hoặc bạn có thể rơi vào giấc ngủ và trở thành người
làm; thế thì bạn là phàm nhân, là tay mơ, là nạn nhân
của ảo tưởng - hoặc bạn có thể trở thành nhân chứng và
vậy mà vẫn sống trong thế giới này; thế thì hành động
của bạn có phẩm chất khác của nó. Nó mới thực là hành
động. Những người không nhận biết, hành động của họ
không thực là hành động mà là phản động; họ chỉ phản
ứng. Ai đó xúc phạm bạn và bạn phản ứng. Thử xúc
phạm Phật mà xem: ông ấy không phản ứng - ông ấy
hành động. Phản ứng phụ thuộc vào người khác - người
đó nhấn nút và bạn chỉ là nạn nhân, là nô lệ; bạn vận
hành như cái máy.
Người thực, người biết nhận biết là gì, không bao
giờ phản ứng; người đó hành động từ nhận biết riêng
của mình. Hành động không tới từ hành động của người
khác; không ai có thể ấn phím của người đó được. Nếu
người đó cảm thấy một cách tự phát rằng đây là đúng để
làm, người đó làm nó; nếu người đó không cảm thấy cái
gì cần thiết cả, người đó giữ yên tĩnh. Người đó không
có tính kìm nén; người đó bao giờ cũng cởi mở, diễn
đạt. Cách diễn đạt của người đó là đa chiều. Trong bài
ca, trong thơ ca, trong điệu vũ, trong tình yêu, trong lời
cầu nguyện, người đó tuôn chảy.
Nếu bạn không trở nên nhận biết, thế thì chỉ có hai
khả năng: hoặc bạn sẽ có tính kìm nén hoặc mê đắm. Cả
hai cách bạn vẫn còn trong tù túng.
Một ni cô bị hiếp bên ngoài tu viện. Khi cô ấy cuối
cùng được người ta tìm thấy, cô ấy được mang vào bên
trong và thầy thuốc gần đó được mời tới.
Ông ta tới, giơ hai tay lên trời và nói, "Đây là công
việc dành cho bác sĩ phẫu thuật tạo hình!"
Bác sĩ phẫu thuật tạo hình được mời tới. Khi ông ta
thấy ni cô đáng thương ông ta kêu lên, "Ồ, lạy Trời! Lộn
xộn thế! Tôi phải bắt đầu từ đâu đây?"
Mẹ tối cao đáp, "Thế này, điều đó dễ thôi. Trước hết
gỡ nụ cười ra khỏi mặt cô ta!"
****************************************************
#10Câu hỏi thứ ba:
Thưa Thầy kính yêu,
Có là gì? Tôi thấy rằng tôi không hiểu biết thực về
nó. Tôi đã thấy rằng bất kì khi nào tôi nói có, đều có
hướng dẫn về ngạc nhiên, cứ dường như tôi cảm
thấy sửng sốt là chẳng có lí do nào để nói không. Có
của tôi bao giờ cũng thay thế cho không. Chỗ của
kinh nghiệm này, của có, là ở đâu...?
Prem Satyamo, có hàm chứa chính bản chất của mọi
tôn giáo. Nói có với sự tồn tại là có tính tôn giáo. Nói
không là chống lại, nói không là xung đột, nói không là
có tính bản ngã. Nói không là giữ cho tách rời của bạn,
giữ cho bản thân bạn xa rời. Nói có là hội nhập, tan chảy
vào trong cái toàn thể. Nói có là mở ra, cũng giống như
nụ nở ra và trở thành hoa. Không là trạng thái đóng của
tâm trí; có là đoá hoa mở.
Khác biệt giữa không và có là sự khác biệt giữa
người chết và người sống. Người sống trong cái không
vẫn còn bị bao bọc, vẫn còn trong thế giới không cửa sổ
nơi mặt trời và mưa và và gió không thể đạt tới được;
nơi Thượng đế có thể cứ gõ cửa hoài nhưng ngay cả
tiếng gõ cửa cũng sẽ không đạt tới; nơi tình yêu không
thể đạt tới được.
Người bị đóng lại, người sống với không, là sống
trong bản ngã. Bản ngã càng lớn, cây cầu càng ít có giữa
người này và sự tồn tại. Khi bản ngã là toàn bộ, người
này hoàn toàn bị đóng bởi tường; người đó sống trong
nhà tù của sự bịa đặt riêng của mình. Người đó không
thể nói có với mặt trăng và người đó không thể nói có
với cây cối và người đó không thể nói có với bất kì cái
gì! Người đó đã quên nói có, và ngay cả đôi khi người
đó nói có, cái có của người đó không là gì ngoài cái
không được nguỵ trang.
Tôi đã nghe một câu chuyện về Joseph Stalin:
Molotov, bộ trưởng ngoại giao của ông ấy, điện
thoại cho ông ấy từ Liên hợp quốc. Vợ ông ấy đang ngồi
bên cạnh trong khi ông ấy nghe điện thoại. Joseph Stalin
nói, "Không, không, không, có, không!"
Bà vợ ngạc nhiên. Không phải bởi các cái không,
nhiều cái không thế - bà ấy biết chồng mình rõ lắm, ông
ấy là con người của không. Ông ấy là một trong những
người bản ngã nhất có thể có. Tên của ông ấy là có ý
nghĩa: 'stalin' nghĩa là người bằng thép. Ông ấy không
thực sự là người mà là người thép, cái máy, robot.
Không là tự nhiên cho ông ấy.
Bà vợ đâm ra phân vân rằng giữa bốn cái không đó
lại có một cái có. Bà ấy hỏi ông ấy, "Em có thể hỏi anh
một câu hỏi được không? Em không muốn can thiệp vào
chuyện chính trị của anh và điều đang diễn ra giữa anh
và Molotov và điều anh đang nói. Chỉ một điều thôi... và
em đã trở nên rất tò mò: anh có thực nói có trong tất cả
bốn cái không đó không, hay em đã nghe lầm anh? Anh
có thực nói có không?"
Stalin nói, "Có, tôi đã nói có."
Bà vợ hỏi, "Thế thì thêm một câu hỏi nữa: Sao anh
lại nói có?"
Ông ta nói, "Khi tôi nói ba cái không, Molotov hỏi,
'Đồng chí nói không phải không?' tôi nói, 'có.'"
Có những người có thể nói có chỉ khi nó không là gì
ngoài không được nguỵ trang. Và cũng có những người,
rất hiếm đấy, có thể nói không chỉ như có được nguỵ
trang. Đây là chư phật. Vâng, đôi khi họ cũng nói
không, nhưng cái không của họ không phải là cái không
phủ định; trái tim của cái không của họ là có. Họ không
có khả năng nói không. Nếu đôi khi họ phải dùng từ,
trong những tình huống nào đó, nó thực sự mang nghĩa
có.
Một người như Phật đôi khi có thể rất nghiêm khắc,
nhưng ông ấy nghiêm khắc bởi vì từ bi và tình yêu của
ông ấy. George Gurdjieff rất nghiêm khắc với đệ tử của
mình chỉ bởi vì từ bi vô hạn của ông ấy, tình yêu toàn bộ
của ông ấy.
Có là chính bản chất của tôn giáo, không là chính
nền tảng của phi tôn giáo. Người vô thần không phải là
người không tin vào Thượng đế đâu; người vô thần là
người tin vào không. Và người hữu thần không phải là
người tin vào Thượng đế đâu; người hữu thần là người
tin vào có - bởi vì đã có những người hữu thần như Phật
và Mahavira người không tin vào Thượng đế, vậy mà
bạn có thể tìm đâu khác ra được người nhiều tính tôn
giáo hơn thế? Và có cả triệu người tin vào Thượng đế,
và cuộc sống của họ chẳng cho chỉ dẫn về tôn giáo nào -
không hương thơm. Họ sặc mùi phi tôn giáo, bạo hành,
hận thù, ghen tị, sở hữu. Hoa của tình yêu không nở
trong cuộc sống của họ.
Có là nền tảng của cuộc sống tôn giáo thực.
Bạn hỏi tôi, "Có là gì?"
Có là vứt bỏ bản ngã.
Có là thoát ra khỏi tâm trí. Có là tin cậy.
Mới hôm nọ Phật đã nói về tin cậy: Tin cậy, thiền và
thấy. Có nghĩa là tin cậy, và tin cậy là bắt đầu của thiền.
Thiền nghĩa là thảnh thơi cùng sự tồn tại. Chừng nào
bạn chưa tin cậy, chừng nào bạn chưa thể nói có với sự
tồn tại, làm sao bạn có thể thảnh thơi được? Mọi người
không thể thảnh thơi được bởi vì họ sợ. Mọi người
không thể thảnh thơi được bởi vì họ sợ rằng nếu họ
thảnh thơi họ có thể bị lừa. Mọi người có thể thảnh thơi
chỉ với những người khác mà họ tin cậy.
Với người lạ trong phòng của mình bạn có thể
không có khả năng ngủ trong đêm. Ai biết được, người
đó có thể cắt cổ bạn. Ai biết được, người đó có thể ăn
cắp tiền của bạn và trốn đi. Nhưng với vợ hay chồng
mình, bạn đi vào ngủ say, bạn có thể tin cậy. Đứa trẻ có
thể đi cùng bố nó hay mẹ nó tới bất kì chỗ nào. Cho dù
bố nó đi vào lửa, đứa trẻ cũng có thể ca bài ca, nhảy
múa, hỏi thăm, truy vấn, không sợ hãi, bởi vì nó biết tay
nó đang trong tay bố nó.
Tin cậy này là có: biết rằng sự tồn tại này là mẹ của
chúng ta, rằng tự nhiên là cội nguồn của chúng ta - nó
không thể chống lại chúng ta, nó không thể thù địch với
chúng ta được. Thấy điều này, hiểu điều này, tin cậy nảy
sinh. Thế thì bạn có thể nói có. Thế thì bạn có thể nói
"Amen"; điều đó đơn giản nghĩa là có.
Và khoảnh khắc bạn có thể nói có và bạn có thể
thảnh thơi, thiền trở thành tự nhiên. Không nỗ lực nào,
không căng thẳng nào, không dồn nén nào, bạn bắt đầu
rơi vào trong không gian có tên là thiền... trống rỗng
mọi rác rưởi và đồ đồng nát, nhưng đầy tràn Thượng đế
- đúng hơn là đầy tràn tính thượng đế; trống rỗng của thế
giới, nhưng tràn đầy cái gì đó mà bạn chưa bao giờ biết
tới trước đây; tràn đầy ánh sáng vốn là phi vật chất, đầy
hương thơm, tới từ không đâu cả, từ trời xanh. Trống
rỗng đấy vậy mà tràn đầy, trống rỗng đấy vậy mà vẫn có
tính đầy - không phủ định.
Và khi có thiền, việc thấy nảy sinh, darshan được
sinh ra - bạn trở nên có khả năng thấy. Mắt bạn trong
trẻo thế, thuần khiết thế; không mây mù, không lẫn lộn,
không ý nghĩ. Mắt bạn có tính cảm nhận, xuyên thấu tới
mức bạn có thể đạt tới cốt cõi sâu nhất của bí ẩn của sự
tồn tại này, tới mức bạn có thể có thoáng nhìn về điều kì
diệu bao quanh bạn, điều kì diệu vĩnh hằng. Aes
dhammo sanantano: bạn có thể có cái nhìn vào luật
không cạn kiệt.
Satyamo, bạn hỏi, "Có là gì? Tôi thấy rằng tôi
không có hiểu biết thực về nó."
Chẳng ai đã hiểu cả! Một khi bạn có hiểu thực về
có, bạn có mọi cái cần thiết cho cuộc hành trình tới bờ
bên kia. Thế thì bạn sẵn sàng đi sang bờ bên kia rồi. Cái
có trở thành con thuyền, và nó có khả năng đi qua mọi
cơn bão. Dù đại dương có thể bão tố thế nào, con thuyền
của có vẫn có khả năng đạt tới bờ bên kia. Nếu bạn có
con thuyền của có, thế thì không ai có thể ngăn cản bạn
đạt tới Thượng đế.
Bạn nói, "Tôi đã thấy rằng bất kì khi nào tôi nói có,
đều có hướng dẫn về ngạc nhiên, cứ dường như tôi sửng
sốt là chẳng có lí do nào để nói không."
Vâng. Bất kì ai bắt đầu nói có, học cách nói có, đều
nhất định bị ngạc nhiên lặp đi lặp lại. Chỗ bạn đã nói
không trước đây, nay bạn đang nói có. Bạn nhất định
ngạc nhiên bởi vì không có lí do để nói không. Sao bạn
đã nói không cả đời mình vậy? Quan sát mọi người, và
bản thân bạn mà xem - gần chín mươi chín phần trăm
của không chỉ là từ bản ngã; không có lí do hợp thức
cho chúng.
Đứa trẻ muốn đi ra và chơi bên ngoài. Trời đang
nắng thế và chim đang hót và gió đang thổi và ong đang
bay vù vù... và đứa trẻ hỏi mẹ nó, "Con ra ngoài chơi
trong vườn nhé?" Cô ta nói "Không" - thậm chí chẳng
nghĩ ngợi gì, thậm chí chẳng nghe điều nó thực sự hỏi,
thậm chí chẳng cho nó một ý nghĩ, một nhận biết về
khoảnh khắc đó. Không đơn giản tới một cách tự động,
cứ dường như nó có sẵn đó rồi. Cô ấy đã không nghĩ, cô
ấy đã không nhìn vào đứa con chút nào. Cô ấy không
nói không với điều đứa con vừa hỏi xin bởi vì cô ấy
đằng nào cũng nói không. Điều đó chẳng nhằm tới đứa
con; nó nhằm tới quyền hành của cô ấy.
Nhiều đàn bà thế không thực sự muốn là người mẹ.
Họ thậm chí không đáng là người mẹ, nhưng họ muốn là
người mẹ, họ ham muốn là người mẹ, bởi lí do hoàn
toàn khác - không phải vì tính mẹ.
Tính mẹ là việc thiền lớn lao. Tính mẹ là một trong
những nghệ thuật vĩ đại nhất: bạn đang tạo ra một con
người sống. Nhà điêu khắc không là gì khi so sánh với
người mẹ, bởi vì người đó sẽ tạo ra chỉ bức tượng đá
cẩm thạch. Hoạ sĩ không là gì, nhà thơ không là gì, ca sĩ
không là gì, nhạc sĩ không là gì, bởi vì họ sẽ chơi với đồ
vật, đối thể. Người mẹ là nhà thơ vĩ đại nhất và hoạ sĩ vĩ
đại nhất và nhạc sĩ vĩ đại nhất và nhà điêu khắc vĩ đại
nhất, bởi vì cô ấy đang tạo ra một tâm thức - bản thân
cuộc sống.
Nhưng đàn bà không quan tâm tới tính mẹ, mối
quan tâm của họ là hoàn toàn sai. Mặc dầu họ nói rằng
họ muốn là mẹ, thực sự điều họ muốn là quyền hành.
Đàn bà cảm thấy rất có quyền hành khi cô ấy có con -
bởi vì đàn ông đã lấy mọi quyền hành khỏi cô ấy. Cô ấy
không được phép ở bãi chợ, cô ấy không được phép ở
nhà thờ, cô ấy không được phép trong chính trị. Cô ấy
không được cho bất kì cơ hội nào ở bất kì đâu để cho
bản ngã của cô ấy được đáp ứng; gần chín mươi phần
trăm các cơ hội đã bị đàn ông chiếm mất. Đàn bà đã bị
buộc phải sống trong nhà; cô ấy chỉ có thể có một loại
quyền hành - đối với con cô ấy.
Do đó mới có chuyện về không. Cô ấy đã không
nghe, cô ấy đã không nhìn đứa trẻ; cô ấy đã đơn giản nói
không. Và điều đó tuyệt đối vô nghĩa! Nếu cô ấy đã
nghe chẳng có lí do nào để nói không cả. Điều này hoàn
toàn đúng: khi mặt trời đang nhảy múa ngoài kia, sao
đứa trẻ phải ở trong nhà, tối tăm và buồn thảm? Và khi
gió đang thổi bên ngoài, đứa trẻ cũng nên được phép
nhảy múa trong gió. Đứa trẻ nên được phép nhảy múa
trong mưa nữa, nhưng người mẹ hợp lí hoá, "Nó có thể
bị cảm lạnh hay nó có thể bị ốm - đó là lí do tại sao
mình lại nói không." Nhưng đấy toàn là hợp lí hoá.
Thực ra, từng đứa trẻ đều có quyền thừa kế để nhảy
múa trong mưa, trong gió, trong mặt trời. Điều đó cho
mạnh khoẻ, điều đó cho sinh động. Điều đó đem nó tới
gần tự nhiên hơn và gần Thượng đế hơn. Người mẹ ép
buộc nó và đưa nó tới nhà thờ hay tới đền chùa nơi nó
không thể thấy được cái gì, không thấy được Thượng đế
chút nào. Và nơi có Thượng đế thì sống động nhiều thế,
đập rộn ràng nhiều thế, trong tự nhiên... Đứa trẻ sẽ
muốn trèo cây, nó là thách thức thế - Thượng đế đang
vẫy gọi nó từ cây, từ ngọn cây!
Mọi đứa trẻ nên được phép trèo cây, trèo núi. Chúng
nên được cho mọi cơ hội để chấp nhận mọi thách thức.
Chúng nên được giúp đỡ để đi vào trong nguy hiểm.
Chúng nên được chuẩn bị, không được bảo vệ; được
chuẩn bị đi vào trong nguy hiểm - được giúp đỡ, thuyết
phục, được thưởng, để đi vào trong nguy hiểm bởi vì
người biết cách đi vào trong nguy hiểm nhất định loạng
choạng vớ phải Thượng đế sớm hay muộn. Nhưng
người mẹ sẽ nói không, người bố sẽ nói không.
Trong nhiều năm một đứa trẻ da đen đã từng cầu
nguyện Thượng đế để làm cho nó thành da trắng. Một
sáng nó thức dậy và thấy rằng da nó đã thành trắng. Nó
nhảy ra khỏi giường rất kích động và kêu lên, "Mẹ ơi,
mẹ! Trông này, con đã thành da trắng rồi!"
Từ nhà bếp, mẹ đáp lại, "Im đi, Tommy, mẹ phát
chán với con. Kể chuyện đó cho bố con đi."
Tom đi vào buồng tắm. "Bố ơi, bố! Trông này, bây
giờ con trắng rồi."
Người bố thậm chí không rời mắt khỏi tấm gương.
Ông ta nói với giọng mệt mỏi, "Ồ Tommy, xin con, bố
không có thời gian đâu. Đi mà kể cho chị con điều vô
nghĩa đó."
Tom càng phân vân hơn. Nó đi tới chị nó. "Chị
Mary, chị Mary này, chị nhìn em chưa? Thượng đế đã
làm phép màu - da em thành trắng rồi!"
Mary trả lời, "Cút xéo ngay, cậu cả! Chị bị muộn
rồi, chị đi đây."
Tại điểm này Tom hoàn toàn bực mình, và nhìn vào
đồng hồ của mình nó nói, "Hay thật, mình đã trắng trong
năm phút nhưng mình không thể chịu đựng được những
kẻ da đen này thêm nữa!"
Không tới dễ dàng, không đã trở thành cách sống
của chúng ta.
Bạn hỏi tôi, Satyamo, "Tôi cảm thấy sửng sốt là
chẳng có lí do nào để nói không. "
Vâng, chẳng có lí do nào để nói không cả. Và nếu
bạn có thể tránh việc nói không máy móc, nếu đôi khi
thực sự có lí do để nói không, cái không của bạn sẽ có
giá trị khẳng định; nó sẽ không phải là phủ định. Người
sống trong bầu không khí của có đôi khi có thể phải nói
không, nhưng cái không của người đó sẽ không có tính
phủ định, nó không thể thế được. Và ngược lại. Người
sống trong bầu không khí của không, cho dù người đó
thỉnh thoảng nói có, nó vẫn không có tính khẳng định,
nó không phải là có thực; nó chỉ là không trá hình. Giá
trị của nó là phủ định.
Bạn nói, "Có của tôi bao giờ cũng thay cho không."
Lúc ban đầu nó nhất định là như vậy. Bạn đã trở nên
quen nói không tới mức có đầu tiên của bạn sẽ là thay
cho không. Nhưng đó chưa phải là có thực, nó chỉ là cái
thế vào; nó sẽ có cái gì đó khác của không trong nó, cái
bẩn thỉu nào đó của không sẽ vẫn còn bám lấy cái có
này. Cứ dường như cốc của bạn bẩn và bạn rót trà vào
trong nó và trà của bạn trở nên bị bẩn. Nếu có của bạn
chỉ là cái thay thế cho không, nếu nó được thay thế cho
không, thế thì nó sẽ có phẩm chất nào đó của không vẫn
còn bám víu vào nó. Nhưng lúc ban đầu nó nhất định là
như vậy, cho nên đừng lo nghĩ về nó. Lau sạch cốc của
bạn thêm chút nữa đi!
Bắt đầu nói có chẳng bởi lí do nào hết cả, cũng như
bạn đã từng nói không mãi cho tới giờ chẳng bởi lí do
nào cả. Nó có thể là một trong những lời tụng hay nhất,
còn tốt hơn nhiều so với lẩm nhẩm "Rama, Rama,
Krishna, Krishna, Jesus, Jesus." Tốt hơn nhiều và ý
nghĩa hơn nhiều, có nghĩa hơn nhiều sẽ là ngồi im lặng
và lặp lại một cách có nghĩa, có ý thức, "Có, có, có." Nó
có thể là một mật chú đi sâu hơn nhiều so với bất kì mật
chú nào đã từng có, bởi vì Rama và Krishna và Jesus đã
ở xa xôi rồi, họ chỉ còn là chuyện kể; bạn không thể
thực sự có quan hệ với họ được. Thế giới đã thay đổi
nhiều tới mức họ không thể nhiều hơn là chuyện kể.
Tôi đã nghe nói rằng Jesus quay lại sau một nghìn
tám trăm năm chỉ để có cái nhìn vào thế giới này, để
xem mọi sự diễn ra thế nào - hi vọng rằng mọi sự phải
đã thay đổi bây giờ rồi. Một nghìn tám trăm năm của Ki
tô giáo, hàng nghìn và hàng nghìn linh mục Ki tô giáo
trên khắp thế giới, hàng nghìn nhà thờ - thế giới phải đã
thay đổi rồi!
Ông ấy tiếp đất trên bờ Hồ Galilee nơi ông ấy có
thời đã bước đi trên nước. Ngẫu nhiên một giáo sĩ đi dạo
buổi sáng tới đó. Jesus muốn gặp giáo sĩ này, xem ông
ta là ai, cho nên ông ấy bước lên nước. Giáo sĩ trông
phân vân chút ít. Jesus quay lại và nói với giáo sĩ, "Ông
có thấy điều ta vừa làm không?"
Giáo sĩ nói, "Có, tôi đã thấy. Sao ông không học bơi
như mọi người khác? Ông có điên hay cái gì không
thế?"
Thế giới đã thay đổi rồi!
Tôi đã nghe nói về một giáo sĩ khác. Ông ta đã từ
Mĩ tới thăm Đất Thánh. Ông ta đi qua Hồ Galilee - ông
ta muốn xem chỗ này nữa - và ông ta hỏi người chèo
thuyền phải tốn bao nhiêu; ông ta muốn có chuyến đi
vòng quanh hồ. "Ông có thể đưa tôi sang bờ bên kia rồi
về không?"
Người chèo thuyền nói, "Năm mươi đô la."
Giáo sĩ nói, "Thế thì nhiều quá! Tôi đã thấy cái hồ
lớn hơn hồ này và tôi chưa bao giờ trả nhiều hơn năm đô
la. Năm mươi sao...?"
Người chèo thuyền nói, "Nhưng ông không nhận ra
sao, thưa giáo sĩ, rằng đây là chỗ Chúa của chúng ta đã
bước đi trên nước!"
Giáo sĩ nói, "Xem cái giá ấy, bất kì ai cũng sẽ bước
đi trên nước! Tôi không thể trả năm mươi đô la được -
và tôi tới từ Mĩ. Con ông thợ mộc nghèo ấy, làm sao ông
ta có thể trả được năm mươi đô la?"
Thế giới đã thay đổi rồi. Nếu những người này,
Jesus và Krishna và Rama, đột nhiên xuống đất bây giờ,
họ sẽ không được thừa nhận đâu, họ sẽ bị coi là điên
khùng. Họ sẽ trông kì dị thế, họ sẽ trông cứ dường như
họ đang tới từ một bộ phim, từ một cuốn phim - phim
kiểu như Mười lời răn! Họ sẽ trông không thực.
Nhưng có có thể là vấn đề hoàn toàn khác.
"Jesus" bạn sẽ lặp lại một cách máy móc, nhưng nói
"Có...," thực sự ngụ ý nó ... cúi mình xuống đất và nói
có... Nằm trên đất trần trụi và nói có với đất cứ dường
như đất là mẹ của bạn, cái đang đó... bơi trong hồ và nói
có với nước, không chỉ nói điều đó, mà cảm thấy nó ở
khắp nơi, từng thớ thịt của con người bạn, từng tế bào
của con người bạn đập rộn ràng với có... tắm nắng và
nói có, không bằng lời đâu, tôi định nói thế, mà bằng sự
tồn tại... hiện hữu trong tâm trạng của có... đón nhận mặt
trời, đón chào mặt trời và cát và đường viền của cát, và
cái mát mẻ của gió... đón chào mọi món quà này của
Thượng đế mà cứ mưa rào hoài lên bạn - và bạn thậm
chí không cảm thấy biết ơn.
Có là biết ơn.
Không là xấu, là vô ơn.
Nhưng lúc ban đầu, Satyamo này, nó sẽ là như thế
đấy: có của bạn sẽ chỉ là cái thay thế cho không. Nhưng
nó là sự bắt đầu tốt. Dần dần, dần dần bạn sẽ đi tới có,
không phải là thay thế cho không mà có gốc rễ riêng của
nó trong bản thể bạn. Khi có đó đã xảy ra cho bạn mà
không có tham chiếu tới không - không phải là nó không
chỉ thay thế cho không mà nó không có tham chiếu nào
tới không, nó không phải là cái đối lập của không, nó
không có âm hưởng của không chút nào; bạn đã quên
mất không, chỉ có tồn tại, cứ dường như không có từ đối
lập cho nó - đó là đỉnh tối thượng của có.
Trong khoảnh khắc đó có trở thành lời cầu nguyện,
trong khoảnh khắc đó có trở thành cây cầu. Bản ngã
biến mất, tách biệt mất đi. Người ta cảm thấy là một với
cái toàn thể.
Bạn hỏi tôi, "Đâu là chỗ của kinh nghiệm này, cái có
này...?"
Trái tim là chỗ đấy. Chỗ của không là cái đầu; chỗ
của có là trái tim. Chúng không tới từ cùng một chỗ,
chúng không tới từ cùng một thế giới. Chúng hoàn toàn
khác. Trong từ điển chúng thuộc về nhau, nhưng trong
bản thân sự tồn tại chúng là hoàn toàn khác nhau - bình
diện khác nhau, chiều hướng khác nhau.
****************************************************
#10Câu hỏi cuối cùng:
Thưa Thầy kính yêu,
Sao mọi người nghĩ khác nhau thế?
Govind, suy nghĩ không bao giờ có thể là như nhau
được. Ở đây có ba nghìn sannyasin ngồi quanh tôi - ba
nghìn sannyasin nghĩa là ba triệu tâm trí. Một sannyasin
không có nghĩa là một tâm trí đâu - nhiều, cả nghìn, đám
đông. Từng người đều là đám đông, và từng người là
đám đông khác nhau, bởi vì từng người đều được nuôi
dưỡng lớn lên theo cách khác nhau.
Ai đó đã được nuôi dưỡng lớn lên như người Ki tô
giáo và ai đó như người cộng sản - làm sao họ có thể
nghĩ theo cách tương tự được? Làm sao họ có thể tránh
được khác biệt? Và không chỉ khác nhau mà còn đối
kháng hướng tới nhau nữa? Ai đó đã được nuôi lớn như
người Ấn Độ và ai đó như người Trung Quốc - làm sao
họ có thể nghĩ theo cùng một nhịp được? Không thể
được.
Suy nghĩ tới từ bên ngoài - giáo dưỡng, giáo dục,
ước định, văn hoá. Và không có cách nào để đặt hai
người vào trong cùng một tình huống - ngay cả anh chị
em sinh đôi cũng không nghĩ theo cùng cách. Không có
cách nào cả để đặt hai người đích xác vào trong cùng
một tình huống. Ngay cả anh chị em sinh đôi trong cùng
một gia đình cũng sẽ có ước định khác nhau, bởi vì
người mẹ có thể yêu đứa con này hơn đứa con kia;
người bố có thể có ưa thích ngược lại. Đứa trẻ này có
thể yếu đuối thể chất, đứa trẻ khác có thể không; đứa trẻ
này có thể ốm nhiều hay ít, đứa trẻ khác có thể mạnh
khoẻ. Đứa trẻ này có thể thích điền kinh bởi vì nó mạnh
khoẻ, đứa trẻ khác có thể tránh điền kinh bởi vì nó còn
ốm. Đứa trẻ chơi điền kinh sẽ có bạn khác với đứa trẻ
chưa bao giờ chơi điền kinh - nó sẽ có bạn khác - vân
vân và vân vân. Những khác biệt nhỏ tạo ra nhiều khác
biệt tới mức bạn không thể hình dung nổi.
Tương truyền là Napoleon vĩ đại vẫn còn sợ mèo cả
đời ông ấy. Ông ấy không sợ sư tử nhưng ông ấy sợ
mèo. Kì lạ! Ông ấy không sợ cái gì cả - ngay cả cái chết
cũng không sợ - nhưng trước con mèo ông ấy đơn giản
không còn ý thức. Khi ông ấy mới là đứa trẻ sáu tháng
tuổi, một con mèo hoang nhảy lên ngực ông ấy, và ông
ấy trở nên kinh hãi và nỗi sợ đi sâu vào trái tim ông ấy,
đi sâu vào vô thức ông ấy tới mức ông ấy không có khả
năng vượt qua nó.
Tương truyền là ông ấy đã bị thất bại chỉ một lần
trong đời mình, trong cuộc chiến cuối cùng với Nelson.
Nelson đem bẩy mươi con mèo tới làm kinh hoàng ông
ấy. Ngay tuyến trước của quân đội... trung đoàn đầu tiên
là mèo! Và khoảnh khắc Napoleon thấy bẩy mươi con
mèo - một con cũng đủ rồi! - ông ấy mất mọi thông
minh. Ông ấy bắt đầu run rẩy và vã mồ hôi.
Ông ấy bảo người chỉ huy thứ hai của mình, "Bây
giờ tôi không thể nghĩ được về quân đội!" - và ông ấy đã
thất bại. Công lao thuộc về mèo, không về Nelson. Các
bức tượng đã được dựng về Nelson và mọi người đã
quên mèo hoàn toàn. Tượng đáng phải được dựng cho
mèo; Nelson không phải là người chinh phục thực.
Những điều nhỏ bé... bây giờ, làm sao bạn có thể
tránh được những khác biệt nhỏ bé thế? Không thể
được. Ngay cả anh chị em sinh đôi cũng khó.
Cho nên hai người không thể được nuôi dưỡng theo
cùng một cách; do đó có khác biệt trong suy nghĩ. Khác
biệt chỉ biến mất khi bạn thiền. Nếu tất cả ba nghìn
sannyasin đều cùng trong trạng thái thiền ở đây - chỉ im
lặng, không ý nghĩ - thế thì không có ba nghìn sannyasin
chút nào, bởi vì ba nghìn số không gắn với nhau trở
thành một số không. Ba nghìn số không không phải là
ba nghìn số không đâu - chúng trở thành một số không.
Và đó là điều đang xảy ra, dần dần, dần dần. Bạn
càng trở nên có tính thiền, khác biệt của các bạn càng bị
rơi rụng đi. Đây có thể là chỗ duy nhất trên cả trái đất
nơi khác biệt đang biến mất. Người Mô ha mét giáo và
người Ki tô giáo và người Hindu và người Jaina và Phật
tử và người Parsis - họ tất cả cùng nhau, thậm chí không
nghĩ người khác thuộc vào tôn giáo nào. Người Thuỵ
Điển và người Đức và người Pháp và người Italia và
người Trung Quốc và người Nhật Bản và người Anh và
người Mĩ, mọi quốc tịch, và không ai để ý gì tới điều đó,
không ai thậm chí nghĩ tới điều đó. Điều này có thể là
giao cảm duy nhất xảy ra trên trái đất, tình anh em thực.
Và lí do không phải là ở chỗ tôi đang dạy bạn là anh
em, học dung thứ... Nhớ lấy, những người học dung thứ
vẫn còn không dung thứ. Chính từ 'dung thứ' là xấu.
Khoảnh khắc bạn nói, "Tôi có thể dung thứ cho người
khác," điều đó chỉ ra sự không dung thứ. Bạn có thể đã
kìm nén việc không dung thứ của mình, nhưng nó là
không dung thứ. Dung thứ người khác nghĩa là không
dung thứ - nó còn có thể ngụ ý gì khác được?
Ở đây, không ai dung thứ cho ai cả. Mọi người đơn
giản đã quên đi khác biệt, bởi vì chúng ta đang đi ra
khỏi tâm trí. Toàn thể nỗ lực của tôi là đem bạn ra khỏi
tâm trí. Nếu bạn vẫn còn trong tâm trí, bạn là khác. Nếu
bạn ra khỏi tâm trí, bạn là một. Thiền đem tới một loại
thống nhất mới mà không phải là sự tổng hợp. Tôi
không quan tâm tới việc tổng hợp Hindu giáo với Ki tô
giáo và Ki tô giáo với Hồi giáo và Hồi giáo với Phật
giáo. Điều đó tất cả là vô nghĩa.
Nỗ lực của tôi là hoàn toàn khác: tôi đang cố gắng
đem bạn ra khỏi tâm trí của bạn. Khi người Ki tô giáo ra
khỏi tâm trí mình người đó không còn là người Ki tô
giáo nữa, và khi người Hindu ra khỏi tâm trí mình người
đó không còn là người Hindu nữa. Nó không phải là sự
tổng hợp, nó là việc vứt bỏ tâm trí. Tâm trí tạo ra mọi
khác biệt.
Bạn hỏi tôi, Govind, "Sao mọi người lại nghĩ khác
nhau nhiều thế?"
Họ đã được giáo dưỡng khác nhau, họ đã được ước
định khác nhau. Họ không thể nghĩ như người khác nghĩ
được - điều đó là không thể được! Họ không thể diễn
giải cách người khác diễn giải. Người Do Thái có thể
đọc Tân Ước, nhưng nó sẽ không là cùng một cuốn sách
- mặc dầu nó vẫn là cùng một cuốn sách thấy được, nó
sẽ không là cùng cuốn sách mà người Ki tô giáo đọc,
bởi vì với người Do Thái, Jesus là kẻ phản bội, Jesus đã
phản bội Do Thái giáo. Bây giờ điều đó bắt rễ rất sâu.
Người Ki tô giáo đọc Tân Ước không phải là đọc cuốn
sách thường đâu - nó là điều linh thiêng nhất của điều
linh thiêng. Jesus là đứa con duy nhất của Thượng đế.
Khi người Hindu đọc cùng cuốn sách đó, người đó
đọc nó một cách dửng dưng; nó chẳng thành vấn đề gì
mấy. Và người đó cứ so sánh nó với Upanishad và Gita
và thấy nó nghèo nàn. Không phải là nó nghèo nàn đâu -
người đó đọc Gita theo cách khác. Đó là bài ca của Trời
và đây chỉ là con ông thợ mộc, Jesus - làm sao ông ta có
thể sánh được với Krishna?
Krishna là hoá thân của Thượng đế, và người này
Jesus dường như là đứa con thông minh. Krishna trực
tiếp tới từ thiên đường thứ bẩy. Krishna là vô song, ông
ấy là thầy hoàn hảo. Jesus là tốt; người ta có thể nói
nhiều nhất, "một người tốt." Việc so sánh từ chính lúc
đầu trở thành không thể được.
Người Jaina đọc Gita, nhưng người đó không thể
đọc nó theo cách người Hindu đọc nó. Mắt họ khác,
cảnh quan của họ khác. Kinh sách của người Jaina nói
rằng Krishna đã rơi vào địa ngục bởi vì ông ấy là
nguyên nhân của cuộc chiến tranh lớn này. Arjuna
dường như ở gần trái tim của người Jaina, bởi vì Arjuna
đã nói, "Tôi không muốn đánh nhau, tôi không muốn
giết hại. Phỏng có ích gì mà đi giết những người này?
Chỉ vì vương quốc sao? Và một ngày nào đó cái chết
của tôi sẽ tới và vương quốc đó sẽ mất đi, cho nên vấn
đề là gì? Tôi sẽ từ bỏ, tôi sẽ trở thành sư."
Và nếu như ông ấy đã trốn đi thì có mọi khả năng
ông ấy trở thành sư Jaina. Nếu bạn thực sự muốn trở
thành sư thế thì cách tốt nhất là trở thành sư Jaina, bởi vì
đó là loại sư tệ nhất có thể có. Các sư khác làng nhàng
thôi; sư Jaina mới thực sự là sư! Bạn không thể nào cải
tiến được điều đó.
Nhưng Krishna đã thuyết phục Arjuna đừng trốn đi.
Ông ấy phải đã là người như tôi, người nói, "Đây là trốn
chạy. Anh là kẻ hèn nhát. Sống trong thế giới đi! Đánh
nhau đi! - bởi vì anh là chiến binh, và đó là kiểu người
của anh. Anh không thể là sư được, đó không phải là
bản tính của anh. Đi theo bản tính của anh."
Krishna nói với Arjuna, "Swadharme nidhanam
shreyah pardharmo bhayawahah." Đừng bao giờ theo ý
niệm của bất kì ai khác - điều đó là rất nguy hiểm bởi vì
anh sẽ trở thành kẻ bắt chước. Bao giờ cũng theo bản
tính riêng của anh, tự tính; chỉ thế thì anh mới đạt tới tự
do. Chết đi mà theo bản tính của người ta còn tốt hơn là
sống theo bản tính của ai đó khác, bởi vì điều đó sẽ là
cuộc sống rởm. Chết đi theo bản tính của người ta là
đẹp, bởi vì cái chết đó nữa sẽ là đích thực.
Krishna đã thuyết phục Arjuna - đó là cách toàn thể
Gita được sinh ra. Nó là đối thoại giữa Arjuna và
Krishna. Arjuna đã cố gắng để trốn đi còn Krishna kéo
anh ta trở lại thế giới - và cuối cùng ông ta đã thành
công.
Người Jaina đã rất giận - họ bị mất một sư tốt. Họ
đã ném Krishna vào địa ngục thứ bẩy trong một thời kì
rất dài, bởi vì ông ấy là nguyên nhân của cái chết của
hàng triệu người. Ấn Độ chưa bao giờ biết tới một cuộc
chiến tranh lớn hơn kể từ đó. Bây giờ, làm sao một
người Jaina có thể đọc Gita với cùng cách diễn giải như
người Hindu được? Không thể được. Từ chính lúc ban
đầu tâm trí đã bị định kiến rồi.
Mọi người nhất định nghĩ khác nhau, bởi vì họ được
nuôi lớn khác nhau, trong các tôn giáo khác nhau, qua
các tu sĩ khác nhau, các trường học khác nhau, các cao
đẳng khác nhau, các đại học khác nhau. Họ đã được
nuôi dưỡng bằng các ý niệm, các ý thức hệ khác nhau -
họ nhất định nghĩ khác nhau. Và không có cách nào làm
cho họ nghĩ tương tự - không thể được.
Cách có thể duy nhất là đem họ ra khỏi tâm trí họ.
Thế thì họ trượt ra khỏi toàn bộ việc giáo dưỡng. Thế thì
đột nhiên có tính một; thế thì bạn nhìn bằng con mắt
thuần khiết, không bị vấy bẩn bởi văn hoá và truyền
thống; thế thì bạn nhìn thực sự mọi thứ như chúng vậy,
không như bạn tưởng là nhìn chúng. Bạn trở thành tấm
gương thuần khiết.
Suy nghĩ không bao giờ có thể tạo ra một thế giới:
chỉ thiền mới có thể tạo ra một thế giới.
Clusky tới thú tội lần đầu tiên trong hai mươi nhăm
năm. "Kể cho ta," linh mục hỏi, "con đã ngủ với đàn bà
phải không?"
"Ấy à, không, thưa Cha," Clusky đáp.
"Bây giờ, con trai," linh mục nói, "ta sẽ lại hỏi con.
Con đã bao giờ ngủ với đàn bà chưa?"
"À, ấy, à - không, thưa Cha!"
"Chỉ có con và ta và Thượng đế nghe thôi. Ta sẽ hỏi
con một lần nữa. Trong hai mươi nhăm năm qua, con đã
bao giờ ngủ với đàn bà chưa?"
"Thế này, e hèm, để con nghĩ về nó, thưa Cha,"
Clusky nói, "con đã ngủ lơ mơ một hay hai lần!"
Bây giờ bạn thấy khác biệt đấy: mọi người nghe
theo ý niệm của họ. Và điều đó là tự nhiên...
Claude đang ngồi tại quán cà phê vỉa hè nhấm nháp
cốc rượu. Vừa lúc đó anh bạn anh ta Rene chạy tới anh
ta.
"Claude," anh ta hổn hển, "tớ vừa thấy một người
đàn ông đi vào nhà cậu."
"Người này là ai thế, Rene? Người đó trông thế
nào?"
"Anh ta cao mét tám và có tóc đen và râu đen,"
Rene tường thuật.
"Và anh ta đội mũ ca rô với chiếc áo sơ mi Basque
kẻ sọc chứ gì?" Claude hỏi.
"Đúng," Rene đồng ý. "Cậu đã mô tả đúng người
này rồi."
"Đó là Pierre," anh ta nói. "Anh ta sẽ làm tình với
bất kì ai!"
Cả hai người đều nghĩ khác. Cách tiếp cận của họ
khác, thái độ của họ khác; thế thì kết luận trở thành
khác.
Foong, thợ giặt, đã ở Mĩ mười năm và vẫn gửi tiền
về cho vợ mình ở Trung Quốc, nói với nhân viên ngân
hàng một cách tự hào rằng vợ mình vừa mới có con mới.
"Nhưng ông Foong ơi," người thư kí nói, "ông đã ở
Mĩ mười năm."
"Vâng, vâng," người Trung Quốc nói một cách hạnh
phúc. "Tôi có lững người bạn dất tốt ở Trung Quốc."
Mọi người đầy những quan niệm khác nhau, triết lí
sống, cách thức nhìn vào mọi thứ; do đó họ nhất định
nghĩ khác. Suy nghĩ làm cho bạn khác với người khác,
tách rời người khác; suy nghĩ là chức năng của bản ngã.
Vô suy nghĩ... bỗng nhiên tất cả khác biệt bay hơi.
Và đó là điều tôi dạy, và đó là toàn thể thông điệp
của Phật là gì: Trở thành vô trí. Trở thành tâm thức
thuần khiết, bầu trời trống rỗng không đám mây ý nghĩ.
Thế thì bạn là ai - người Hindu, người Mô ha mét giáo,
người Ki tô giáo? Người Ấn Độ, người Nhật Bản, người
Đức? Người da đen, người da trắng? Đàn ông, đàn bà?
Bạn là ai? Trẻ, già? Giầu, nghèo? Nổi tiếng, khét tiếng?
Bạn là ai? Mọi khác biệt này biến mất. Bạn là im lặng
thuần khiết.
Im lặng đó là cái ta tối cao của bạn. Đạt tới nó là đạt
tới niết bàn. Đạt tới nó là sẵn có cho phúc lành, cho mọi
ân huệ của Thượng đế.
Thiền ngày một nhiều hơn để cho bạn có thể biến
mất, để cho bạn có thể cho phép Thượng đế hiện hữu.
Khoảnh khắc bạn không có, Thượng đế có - và Thượng
đế là một, và bạn là nhiều. Không chỉ bên ngoài bạn là
nhiều, bên trong bạn cũng là nhiều. Và khi bạn biến mất
- cái nhiều biến mất từ bên trong và từ bên ngoài - thế
thì đây tất cả đều là sóng của cùng một đại dương.
Và biết đại dương, cái ẩn đằng sau mọi con sóng đủ
hình thái, màu sắc, hình dạng khác nhau là biết tới chân
lí.
Và chân lí giải thoát.
Aes dhammo sanantano - đây là luật tối thượng,
không cạn, rằng chân lí giải thoát.
Đủ cho hôm nay.
END
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top