Con đường của Phật (Tập 10)

OSHO

Dhammapada: Con đường của Phật

Đây là con đường đi tới chân lí tối thượng

The Dhammapada: The Way of the Buddha

This is the Path to the Ultimate Truth

Tập 10

Mục lục

Chương 1 Bên ngoài hạnh phúc và phúc lạc

Chương 2 Bất kì cái gì xảy ra cũng đều tốt

Chương 3 Thiền yêu cầu dũng cảm

Chương 4 Siêu việt -- trị liệu thực

Chương 5 Phật là quyền tập ấn của bạn

Chương 6 Cuộc sống siêu việt trên logic

Chương 7 Người ngu là kẻ thù riêng của mình

Chương 8 Không cẩm nang mà chỉ tán gẫu

Chương 9 Vui thích trong thiền

Chương 10 Tình yêu là phần thưởng của riêng nó

Chương 11 Tất cả không bị mất, nhưng hết thời gian

Chương 12 Con người mới với cách nhìn mới

Chương 13 Tôn giáo là bài ca, thơ ca, điệu vũ của trái tim bạn

Về Osho

****************************************************************************************************************

#1Bên ngoài hạnh phúc và phúc lạc

Ba mươi sáu dòng nước chảy xô về ông!

Ham muốn và hoan lạc và thèm khát....

Chơi trong tưởng tượng của mình với chúng

và chúng sẽ cuốn ông đi.

Dòng nước mạnh mẽ!

chúng chảy đi mọi nơi.

Rượu mạnh!

Nếu ông thấy nó trào lên,

Cẩn thận!

Nhổ nó tận rễ.

Hoan lạc chảy đi mọi nơi.

Ông nổi trên chúng

và bị mang đi từ kiếp nọ tới kiếp kia.

Giống thỏ bị săn ông chạy,

Bị ham muốn đuổi theo,

Bị quấy rầy hết kiếp nọ tới kiếp kia.

Ô người tìm kiếm!

từ bỏ ham muốn.

Giũ sạch xiềng xích.

Ông đã ra khỏi chỗ trũng

vào chỗ sáng sủa.

Chỗ sáng là trống rỗng.

Sao ông xô lại vào trong chỗ trũng?

Ham muốn là chỗ trống

và mọi người nói, "Trông đấy!

Người đó tự do.

nhưng bây giờ người đó từ bỏ tự do."

Toàn thể tôn giáo của Phật Gautama có thể thu lại

thành một từ. Từ đó là tự do. Đó là thông điệp bản chất

của ông ấy, rất ngát hương. Không ai khác đã từng nâng

tự do lên cao thế. Nó là giá trị tối thượng trong tầm nhìn

của Phật, cái chí thiện; không có gì cao hơn cái đó.

Và điều dường như rất nền tảng là hiểu tại sao Phật

nhấn mạnh tới tự do nhiều thế. Cả Thượng đế không

được nhấn mạnh, cõi trời không được nhấn mạnh, tình

yêu không được nhấn mạnh, nhưng chỉ tự do mới được

nhấn mạnh. Có lí do cho điều đó: mọi thứ có giá trị trở

thành có thể chỉ trong khí hậu của tự do. Tình yêu cũng

trưởng thành chỉ trong mảnh đất của tự do; không có tự

do, tình yêu không thể phát triển được. Không có tự do,

cái lớn lên nhân danh tình yêu không là gì ngoài thèm

khát. Không có tự do không có Thượng đế. Không có tự

do điều bạn nghĩ là Thượng đế chỉ là tưởng tượng của

bạn, sợ hãi của bạn, tham lam của bạn. Không có cõi

trời nếu không có tự do: tự do là cõi trời. Và nếu bạn

nghĩ có cõi trời nào đó mà không có tự do, thế thì cõi

trời đó không có giá trị, không thực tại. Nó là tưởng

tượng của bạn, nó là giấc mơ của bạn.

Tất cả những giá trị vĩ đại của cuộc sống đều trưởng

thành trong khí hậu của tự do; do đó tự do có giá trị nền

tảng nhất và cũng là đỉnh cao nhất. Nếu bạn muốn hiểu

Phật bạn sẽ phải nếm trải cái gì đó của tự do ông ấy

đang nói tới.

Tự do của ông ấy không phải là của bên ngoài. Nó

không có tính xã hội, nó không chính trị, nó không kinh

tế. Tự do của ông ấy là tâm linh. Với "tự do" ông ấy ngụ

ý trạng thái của tâm thức không bị cản trở bởi bất kì

ham muốn nào, không bị xiềng xích bởi bất kì ham

muốn nào, không bị cầm tù bởi bất kì tham lam nào, bởi

bất kì thèm khát nào thêm nữa. Với "tự do" ông ấy ngụ ý

tâm thức không có tâm trí, trạng thái của vô trí. Nó hoàn

toàn trống rỗng, bởi vì nếu có cái gì đó, cái đó sẽ cản trở

tự do; do đó mới có hoàn toàn trống rỗng của nó.

Từ này 'trống rỗng' - shunyata - đã bị mọi người

hiểu lầm rất nhiều, bởi vì từ này có hàm nghĩa tiêu cực.

Bất kì khi nào chúng ta nghe thấy từ 'trống rỗng' chúng

ta đều nghĩ về cái gì đó tiêu cực. Theo ngôn ngữ của

Phật, trống rỗng không tiêu cực; trống rỗng là tuyệt đối

tích cực, còn tích cực hơn cái gọi là tràn đầy của bạn,

bởi vì trống rỗng đầy tự do; mọi thứ khác đã bị loại bỏ.

Nó có tính không gian; mọi biên giới đều đã bị loại bỏ.

Nó là vô biên - và chỉ trong không gian vô biên, tự do

mới là có thể. Trống rỗng của ông ấy không phải là

trống rỗng thường; nó không chỉ là vắng cái gì đó, nó là

sự hiện diện của cái gì đó vô hình.

Chẳng hạn, khi bạn làm rỗng căn phòng của mình:

khi bạn bỏ đồ đạc và tranh vẽ và mọi thứ bên trong ra,

một mặt căn phòng trở thành trống rỗng bởi vì không

còn đồ đạc nào, không còn tranh nào, không còn thứ gì,

không cái gì còn bỏ lại bên trong; nhưng mặt khác, cái

gì đó vô hình bắt đầu rót đầy nó. Cái vô hình đó là "tính

phòng," tính không gian; căn phòng trở nên lớn hơn. Khi

bạn bỏ mọi thứ ra, căn phòng trở nên ngày càng lớn hơn

và lớn hơn. Khi mọi thứ được bỏ ra, ngay cả tường, thế

thì căn phòng lớn như toàn thể bầu trời.

Đó là toàn thể quá trình thiền: loại bỏ đi mọi thứ;

loại bỏ bản thân bạn toàn bộ tới mức không cái gì còn để

lại đằng sau - thậm chí không cả bạn. Trong im lặng

hoàn toàn đó là tự do. Trong tĩnh lặng hoàn toàn đó hoa

sen một nghìn cánh của tự do mọc lên. Và hương thơm

lớn lao được toả ra: hương thơm của an bình, từ bi, tình

yêu, phúc lạc. Hay nếu bạn muốn chọn từ 'Thượng đế'

bạn có thể chọn nó. Nó không phải là từ của Phật, nhưng

chẳng có hại gì trong việc chọn nó.

Thiền về những lời kinh hay này:

Ba mươi sáu dòng nước chảy xô về ông!

"Ba mươi sáu" chỉ là biểu dụ Phật giáo; nó thay thế

cho "nhiều." Nhiều dòng nước đang xô về bạn. Từng

khoảnh khắc bạn đều bị bao quanh bởi cả nghìn lẻ một

ham muốn, và chúng tất cả đều kéo bạn đi theo các

chiều khác nhau. Bạn là nạn nhân và bạn bị rã ra.

Một thanh niên vào khách sạn. Anh ta thấy một

người đàn bà rất đẹp đang ngồi một mình trong góc

phòng uống cà phê. Cô ấy đẹp thế và hấp dẫn thế, anh

thanh niên không thể cưỡng được cám dỗ. Anh ta đi tới

gần cô ấy và hỏi cô ấy, "Tôi có thể cùng cô được

không?"

Người đàn bà nhìn anh ta vài giây và nói, "Anh cho

rằng tôi tan nát sao?"

Nhưng đó đích xác là hoàn cảnh đấy: mọi người đều

tan nát, ngay cả người đàn bà kia. Nếu như tôi mà ở vị

trí của anh thanh niên kia tôi sẽ nói, "Vâng. Cô cần được

gắn lại."

Mọi người đều tan nát. Bạn không là một; bạn đã trở

thành nhiều, nhiều mảnh mẩu, và tất cả các mảnh đó đều

đi theo các hướng khác nhau. Đó là lí do tại sao có nhiều

khổ thế trong con người bạn, bởi vì khi các bộ phận của

bạn, cái về bản chất là các bộ phận cố hữu của bạn, bị

kéo đi theo các hướng khác nhau, bạn cảm thấy cái đau

của nó. Đó chính là khổ: nỗi đau của việc rơi vào các

hướng khác nhau đồng thơi, xô vào các chiều khác nhau

đồng thời. Đó là điều tạo ra mất trí, điên khùng.

Phật nói: Ba mươi sáu dòng nước chảy xô về ông!

Cẩn thận! Không chỉ một mà nhiều dòng nước đang xô

về bạn. Và nếu bạn không cẩn thận, nếu bạn không tỉnh

táo, bạn sẽ bị chúng ám ảnh. Nếu bạn vẫn còn vô ý thức,

nếu bạn vẫn còn ngủ, bạn sẽ bị đánh bại bởi những dòng

nước đó. Những dòng nước đó về căn bản không phải là

kẻ thù của bạn. Chúng là năng lượng thuần khiết, và

năng lượng bao giờ cũng trung lập. Nhưng khi bạn ngủ

những dòng nước đó là nguy hiểm; khi bạn thức, cùng

những dòng nước đó trở thành năng lượng sáng tạo cho

bạn. Chúng xô về chư phật nữa, nhưng trong tay của vị

phật, bụi biến thành vàng. Cái chạm của nhận biết là giả

kim thuật. Trong tay bạn, cho dù tình cờ bạn bắt gặp

vàng, nó cũng biến thành bụi. Bạn ngủ thế, bạn truyền

cho giấc ngủ của mình bất kì cái gì tới với bạn.

Ba mươi sáu dòng nước đó ông ấy đang nói tới là

những món quà của sự tồn tại, món quà của năng lượng

lớn lao. Nó tới từ mọi nơi. Bây giờ, vấn đề tuỳ thuộc bạn

liệu bạn có thể biến đổi những năng lượng đó thành sự

tổng hợp hay không, liệu bạn có thể biến đổi những

năng lượng đó thành một toàn thể tích hợp hay không,

liệu bạn có thể tạo ra dàn nhạc từ tất cả những năng

lượng đó không. Thế thì bạn trở thành bài ca, bạn tạo ra

âm nhạc vĩ đại. Cuộc sống của bạn trở thành giai điệu.

Nhưng nếu bạn không thể biến đổi được những năng

lượng đó, thế thì bạn sẽ là nạn nhân và bạn sẽ bị phân

chia thành nhiều phần. Bạn sẽ mất mọi sự toàn vẹn. Bạn

sẽ trở thành đám đông; bạn sẽ không là cá nhân chút nào

nữa.

Ba mươi sáu dòng nước chảy xô về ông!

Ham muốn và hoan lạc và thèm khát....

Và cứ thế mãi. Ham muốn là gì? Ham muốn nghĩa

là tham thêm nữa. Điều đó không thể nào được hoàn

thành. Không thể nào hoàn thành được tham lam có

thêm nữa bởi vì cái "nữa" đó không có giới hạn. "Nữa"

đơn giản nghĩa là hiện tượng vô giới hạn. Bạn có mười

nghìn rupees, bạn muốn một trăm nghìn rupees. Một

ngày nào đó bạn có một trăm nghìn rupees - bây giờ bạn

muốn nữa. Bạn muốn nữa và nữa và nữa. Bất kì cái gì

bạn có, khoảng cách giữa bạn và mục đích của bạn sẽ

vẫn còn như cũ; nó không bao giờ giảm đi, thậm chí

không giảm đi lấy một li.

Đó là lí do tại sao kẻ ăn xin là kẻ ăn xin, hiển nhiên,

nhưng hoàng đế cũng là kẻ ăn xin. Cả hai vẫn khao khát

thêm nữa. Khác biệt là gì? Không khác biệt khi có liên

quan tới phẩm chất của tâm thức họ. Tất nhiên, kẻ ăn

xin không sở hữu nhiều còn hoàng đế sở hữu nhiều,

nhưng đó không phải là vấn đề. Khoảng cách giữa tài

sản của kẻ ăn xin và điều người đó muốn và khoảng

cách giữa tài sản của hoàng đế và điều ông ta muốn đích

xác là như nhau. Người này là kẻ ăn xin nghèo, người

kia là kẻ ăn xin giầu; khác nhau mức đó bạn có thể tạo

ra được. Nhưng cả hai đều là kẻ ăn xin tất cả như nhau.

Ở trong nắm giữ của "nữa" là thực sự là kì cục, xa

trung tâm. Nếu bạn không thể thấy được nó thế thì bạn

không thông minh chút nào. Chính hiện tượng này đơn

giản tới mức chỉ chút ít thông minh được cần để thấy nó.

Trong cả đời mình bạn đã từng cố gắng và không phải là

bạn bao giờ cũng thất bại; chỉ có vẻ như bạn bao giờ

cũng thất bại. Bạn đã thành công nhiều lần rồi, nhưng

mỗi lần bạn thành công, ham muốn của bạn về thêm nữa

lại được phóng chiếu và bạn vẫn còn ở cùng vị trí: khổ

sở, bất hạnh, thất vọng. Nếu bạn không có được điều

bạn muốn, bạn sẽ bị thất vọng; nếu bạn có được điều

bạn muốn, bạn sẽ bị thất vọng. Dường như thất vọng là

định mệnh, tuyệt đối định mệnh, của con người vô ý

thức.

Nhà tâm thần đi vòng quanh bệnh viện tâm thần.

Ông ấy thấy một người đang tự đánh mình, dứt tóc,

trông rất tự tử. Anh ta bị giam trong một phòng - anh ta

là người nguy hiểm. Ông ấy hỏi viên giám thị, "Chuyện

gì xảy ra cho người này?"

Viên giám thị nói, "Anh ta yêu một người đàn bà,

anh ta yêu cô ấy nhiều lắm, nhưng anh ta không thể lấy

được cô ấy. Cô ấy lấy ai đó khác. Kể từ đó anh ta đã ở

trong tình trạng này. Anh ta muốn tự tử, anh không

muốn sống. Anh ta nói chẳng có nghĩa gì trong cuộc

sống: 'Nghĩa của tôi là ở người đàn bà đó. Nếu tôi không

thể lấy đươc người đàn bà đó, điều đó nghĩa là cuộc đời

tôi bị chấm dứt!'"

Cảm thấy tiếc cho người này - anh ta trẻ và đẹp - họ

đi tiếp. Họ thấy một phòng giam khác và một đàn ông

khác ở bên trong, và anh ta thậm chí còn dữ tợn hơn,

đầy sát khí.

Nhà tâm thần hỏi, "Chuyện gì xảy ra cho người

này?"

Viên giám thị nói, "Đây là người đã lấy cùng người

đàn bà kia! Vì anh ta đã lấy cô ấy anh ta muốn giết cô

ấy, và nếu anh ta không thể giết được cô ấy thế thì anh

ta muốn giết bất kì ai thế vào, nhưng anh ta muốn giết

hại và phá huỷ. Anh ta muốn giết cả thế giới! Người đàn

bà đó đã làm anh ta điên."

Một người điên vì người đó không thể lấy được cô

ấy, người kia điên vì người đó có thể lấy được cô ấy.

Đây là toàn thể lịch sử của mọi con người, nhiều hay ít.

Nó có thể không cực đoan thế, cho nên bạn không thấy

nó, nhưng khác biệt chỉ ở mức độ. Người trong nắm bắt

của ham muốn nhất định trở nên điên.

Và Phật nói: Hoan lạc.... Hoan lạc nghĩa là bạn nghĩ

thân thể là nguồn sướng duy nhất. Điều đó cực kì ngu

xuẩn. Hoan lạc của thân thể là rất nhất thời; chúng

không thực là hoan lạc. Nhưng mọi người bị mắc vào

cái mạng của thân thể. Chúng ta được sinh ra như thân

thể, nhưng chúng ta không chết đi như thân thể. Nếu

chúng ta chết đi như thân thể, toàn thể cuộc sống của

chúng ta là phí hoài cực kì. Bạn phải trưởng thành chứ.

Và nhớ lấy: già đi không phải là trưởng thành. Mọi

người đều già đi, nhưng rất ít người, rất hiếm người

trưởng thành. Người thực sự trưởng thành trở thành vị

phật. Trưởng thành nghĩa là bạn bắt đầu trở nên tỉnh táo

về hoan lạc thân thể - rằng chúng là tạm thời và chúng

có thể thay đổi sang cái đối lập của chúng rất dễ dàng.

Chẳng hạn, bạn thích ăn và bạn có thể cứ ăn quá

nhiều. Thế thì điều đó trở thành đau. Nó là hoan lạc lúc

ban đầu, nhưng có giới hạn cho hoan lạc đó. Người ta

nói về Nero rằng ông ấy thường có bốn bác sĩ điều trị ở

cùng ông ấy. Ngay cả khi ông ấy đi trận bốn bác sĩ đó

cũng đi cùng ông ấy. Khi Nero ăn, toàn bộ công việc

của họ là giúp cho ông ấy nôn ra để ông ấy có thể ăn

nữa. Ông ấy hay thích ăn nhiều tới mức ông ấy sẽ ăn hai

mươi lần, hai mươi nhăm lần một ngày. Bạn sẽ gọi ông

ấy là điên - và ông ấy quả điên.

Bây giờ, hoan lạc của ăn là gì? Có thể chỉ chút ít

hoan lạc của vị giác.... Trên lưỡi bạn có gai nhỏ để nếm

mùi vị. Người ta có thể làm phẫu thuật cắt chúng đi rất

dễ dàng và thế rồi bạn sẽ không cảm thấy gì chút nào.

Thế thì toàn thể hoan lạc của việc ăn biến mất. Đó là

điều xảy ra khi bạn sốt: gai vị giác của bạn trở nên chai

ì, vô cảm, cho nên bạn ăn nhưng bạn không cảm thấy vị

nào. Mọi người đang sống vì ăn; có rất ít người ăn để

sống. Hàng triệu người đang sống chỉ để ăn.

Nhân loại có thể được chia thành hai kiểu người

điên: một kiểu bị ám ảnh với thức ăn, loại kia bị ám ảnh

bởi dục. Và có thảnh thơi sâu sắc giữa hai điều này.

Người bị ám ảnh với dục sẽ không bận tâm mấy tới thức

ăn còn người bị kìm nén dục sẽ trở nên bị ám ảnh với

thức ăn.

Bất kì khi nào một nước kìm nén dục nó đều trở nên

rất bị ám ảnh bởi thức ăn. Đó là điều đã xảy ra trên nước

này: trong hàng thế kỉ nó đã từng kìm nén dục. Đó là lí

do tại sao người Ấn Độ rất hay phát minh về thức ăn -

đồ ngọt mới, cả nghìn đồ ngọt. Thế giới đầy những

người vô nhận biết về mọi đồ ngọt đó! Và thức ăn của

họ có nhiều cay thế.... Khi người nước ngoài tới người

đó không thể ăn được nó; người đó không thể hiểu được

làm sao mọi người có thể ăn được nó. Nó cay cháy

họng! Sao thức ăn nhiều cay thế? Đó là việc kìm nén

dục đấy! Nếu dục của bạn không bị kìm nén bạn sẽ

không ăn thức ăn cay thế.

Mới hôm nọ tôi nhận được hai lá thư, một từ một

sannyasin phương Tây, Mudita. Cô ấy nói, "Thưa Thầy

kính yêu, nghe theo thầy tôi cảm thấy niềm vui lớn,

nhưng thế rồi đột nhiên tôi trở nên bị hưng phấn dục."

Cô ấy phải đã được nuôi lớn lên bằng các ý tưởng

Victoria, bằng giáo dục Victoria - cách nghĩ lạc mốt.

Và bức thư khác đã tới từ Rekha, một sannyasin Ấn

Độ. Cô ấy nói, "Nghe thầy, bỗng nhiên tôi có ham muốn

lớn về ăn đồ cay." Bây giờ, cô ấy là người Ấn Độ đấy!

Đàn bà Ấn Độ không thể nhận ra được ngay trong bản

thân mình rằng cô ấy cảm thấy hưng phấn dục - điều đó

là không thể được. Toàn thể ham muốn phải hướng tới

thức ăn cay. Nhưng cả hai là như nhau, không có khác

biệt.

Thức ăn và dục có một điều chung. Thức ăn được

cần cho sự tồn tại của cá nhân; không có thức ăn bạn sẽ

không tồn tại. Và dục được cần cho sự tồn tại của loài;

không có dục loài sẽ biến mất.

Hiện tượng khác: người sống cuộc sống tự nhiên sẽ

không bị ám ảnh bởi dục cũng không bị ám ảnh bởi thức

ăn. Người đó sẽ không bị ám ảnh chút nào. Nhưng các

tôn giáo không cho phép điều đó: bạn phải bị ám ảnh

bởi cái gì đó này khác. Nếu bạn không bị ám ảnh bạn sẽ

không đi tới đền chùa và tu viện hồi giáo và tới nhà thờ

và tới giáo đường Do Thái. Đó là chính bí mật của

thương mại của họ. Toàn thể việc kinh doanh tôn giáo

này cứ diễn ra mãi mà không có dấu hiệu nào dừng lại,

bởi lí do đơn giản là bạn cứ bị ám ảnh với cái gì đó này

khác.

Người bị ám ảnh bởi dục sẽ ít ích kỉ hơn; người bị

ám ảnh bởi thức ăn sẽ ích kỉ hơn, bởi lẽ đơn giản là thức

ăn nghĩa là sự tồn tại của bạn còn dục nghĩa là sự tồn tại

của loài. Có tính dục và có hoan lạc sau dục còn tốt hơn

là sống chỉ để ăn.

Đất nước này đã trở nên rất ích kỉ bởi lẽ đơn giản là

dục đã hoàn toàn bị phủ nhận; brahmacharya - vô dục -

qua hàng thế kỉ đã được tôn lên như một trong những

giá trị lớn nhất. Và kết quả tối thượng đã là mọi người

đều trở nên bị ám ảnh với thức ăn. Bất kì khi nào mọi

người bị ám ảnh với thức ăn họ đều trở nên ích kỉ - hiển

nhiên, bởi vì họ không còn quan tâm tới giống nòi nữa.

Immanuel Kant, một trong những nhà tư tưởng vĩ

đại của thế giới, nói: Điều này với tôi là tiêu chí nền

tảng cho mọi đạo đức: rằng bất kì nguyên tắc nào, nếu

được tuân theo, đều phá huỷ nhân loại. Nó là vô đạo

đức. Bây giờ, Immanuel Kant sẽ nói gì về brahmacharya

(vô dục)? Nếu brahmacharya được cả nhân loại tuân

theo, nó sẽ phá huỷ nhân loại. Nó sẽ là hiện tượng tự tử.

Theo Immanuel Kant, brahmacharya là vô đạo đức - còn

vô đạo đức hơn ăn cắp, vô đạo đức hơn bất lương, vô

đạo đức hơn nuốt lời, vô đạo đức hơn bất kì cái gì.

Và tôi đồng ý với Immanuel Kant, chứ không đồng

ý với toàn thể truyền thống Ấn Độ. Tiêu chí là thế này:

bạn nên nghĩ cái gì sẽ là kết quả nếu nguyên tắc được

mọi người tuân theo. Nó sẽ là tự tử - nó sẽ là tự tử toàn

cầu. Sẽ không ai còn lại để mà vô dục thêm nữa.

Và cùng điều đó là đúng về cái gọi là tính chất

sannya trốn tránh cổ - từ bỏ; điều đó nữa cũng là vô đạo

đức. Nếu mọi người đều tuân theo ý tưởng trốn tránh và

vứt bỏ mọi thứ và trốn lên Himalayas, toàn thế giới sẽ

chết.

Thực tế, cái gọi là các mahatmas và thánh nhân của

bạn sống bởi vì bạn đang trong thế giới và bạn cứ hỗ trợ

cho họ. Nếu bạn không trong thế giới - nếu bạn cũng ở

Himalayas, đi theo các thánh nhân và mahatmas của bạn

- họ sẽ lúng túng. Ai sẽ nuôi họ? Ai sẽ hỗ trợ họ? Họ sẽ

phải tự tử với các tín đồ của họ - và Himalayas thực sự

là chỗ đẹp nếu bạn muốn tự tử, chỗ tốt nhất trên thế giới.

Nếu bạn không thể sống đẹp được, ít nhất bạn có thể

chết ở chỗ đẹp. Các mahatma của bạn được phàm nhân

hỗ trợ - và dầu vậy họ cứ kết án thế giới. Đó là hành

động vô đạo đức. Trốn bỏ là hành động vô đạo.

Tôi đồng ý với Immanuel Kant; tiêu chí của ông ấy

có cái gì đó thực sự có giá trị về nó.

Hoan lạc nghĩa là hoặc hoan lạc của lưỡi, thức ăn -

điều rất trẻ con - hoặc hoan lạc của dục, điều cũng rất trẻ

con bởi vì bạn không chỉ là thân thể, bạn còn nhiều hơn

thế.

Vươn từ hoan lạc lên hạnh phúc đi. Hạnh phúc có

tính tâm lí, hoan lạc có tính sinh lí. Nghe âm nhạc vĩ đại

hay đọc thơ hay ngắm mặt trời lặn hay chỉ tận hưởng đi

dạo buổi sáng và gió thổi qua rặng thông và âm nhạc nó

tạo ra, âm thanh của nước chảy - điều đó làm xúc động

bạn. Mặc dầu nó tới qua thân thể, nó đạt tới sâu hơn -

sâu hơn thức ăn hay dục. Nó nhiều hoàn thành hơn.

Nhưng điều đó nữa cũng không phải là tận cùng bởi vì

bất kì cái gì có tính tâm lí đều nhất định tạm thời.

Bên ngoài hạnh phúc là phúc lạc, điều thuộc về tâm

linh, điều là hiện tượng vô thời gian. Bạn đi ra ngoài

thời gian, bạn đi ra ngoài tâm trí và thân thể cả hai. Thế

thì bạn biết bạn là ai. Thế thì bạn vận hành từ trung tâm

của mình. Lần đầu tiên bạn không lập dị. Bạn trở nên

được định tâm, bạn không ra ngoài trung tâm. Lần đầu

tiên bạn bắt rễ trong bản thể mình, và những rễ đó nối

bạn với Thượng đế, với cái toàn thể. Bạn trở nên linh

thiêng chỉ khi bạn phúc lạc. Nhưng hoan lạc ngăn cản

bạn; nó ngăn cản bạn ở chỗ thấp nhất.

Tôi không chống lại hoan lạc, nhớ lấy. Tôi không

chống lại cái gì cả. Mọi thứ đều phải được dùng như bàn

đạp để lên đỉnh tối thượng. Thân thể là đẹp và tận hưởng

thức ăn là tốt. Chỉ đừng bị ám ảnh bởi nó. Nhưng nếu

các thánh nhân liên tục kết án nó, bạn sẽ bị ám ảnh bởi

nó.

Ám ảnh được tạo ra bởi cái gọi là thánh nhân của

bạn. Bất kì cái gì họ kết án cũng đều trở thành ám ảnh

của bạn. Thực tế, họ càng kết án nhiều, điều đó càng trở

nên hấp dẫn hơn, nó càng trở nên có từ lực hơn.

Tôi không chống lại dục, nhưng tôi muốn bạn đi ra

ngoài nó. Dùng nó như bàn đạp, dùng nó như chiếc

thang. Nó là đẹp trong bản thân nó, nhưng nó không

phải là chỗ cuối, chỉ là bắt đầu. Đừng dừng lại ở chương

đầu của cuộc sống của bạn; nó có nhiều hơn, nhiều giá

trị ẩn kín hơn mà phải được khám phá ra.

... và thèm khát. Thèm khát thậm chí còn ở thấp hơn

nhiều so với hoan lạc. Hoan lạc ít nhất cũng còn kính

trọng người khác. Nếu bạn yêu người đàn bà, bạn yêu

nhóm của cô ấy, hay người đàn ông... bạn kính trọng

người khác. Nhưng trong thèm khát bạn không có kính

trọng nào; bạn đơn giản dùng người khác. Thèm khát

thậm chí còn đê hèn hơn hoan lạc; nó rơi xuống dưới

tính người. Bạn đơn giản dùng người khác như phương

tiện.

Khi bạn làm tình với người đàn bà mà không có

kính trọng với cô ấy, điều bạn thực sự làm không là gì

ngoài tự dâm. Bạn dùng người đàn bà chỉ để tự lừa

mình. Không có mối nối giữa bạn và cô ấy. Khi bạn đi

tới gái mãi dâm, điều đó không phải là hoan lạc; đó là

thèm khát. Bạn đang trả tiền. Tình yêu không thể được

mua; chỉ thân thể có thể được mua.

Và nhớ lấy, khi bạn mua thân thể, nó là thân thể

chết; linh hồn không có đó. Người đàn bà này bằng cách

nào đó dung thứ cho bạn bởi vì cô ấy cần tiền. Cô ấy

ghét bạn từ tận gan ruột mình; cô ấy muốn giết bạn.

Nhưng cô ấy giả vờ rất đáng yêu, rất trìu mến, bởi vì cô

ấy được trả tiền cho điều đó. Với mắt nhắm cô ấy nghĩ

tới những điều khác; cô ấy đơn giản dung thứ bạn. Bạn

dùng cô ấy như phương tiện, và cô ấy dùng bạn như

phương tiện. Cô ấy muốn tiền, bạn muốn thân thể; đó là

khai thác lẫn nhau.

Lloyd tới thăm một quí bà mình yêu mến vào một

tối. Khi ông ấy bấm chuông chả thấy ai trả lời. Thế rồi

ông ấy đeo kính lên và đọc tờ thông báo đính trên cửa:

"Đang đi nghỉ. Tự làm điều đó cho mình đi."

Điều đó không nhiều hơn thế. Đó là hành động tự

dâm lẫn nhau - xấu. Nó thậm chí không phải là hoan lạc.

Phật nói: Tất cả những dòng nước này đang đổ xô

về ông - ham muốn và hoan lạc và thèm khát....

Chơi trong tưởng tượng của mình với chúng

và chúng sẽ cuốn ông đi.

Và bạn đầy những tưởng tượng. Làm tình với vợ

mình và bạn không làm tình với cô ấy, bạn có thể nghĩ

tới Sophia Loren hay Lollobrigida, và cô ấy có thể nghĩ

tới ai đó khác. Cả hai đều giả vờ. Tưởng tượng của họ là

ở đâu đó khác. Nếu bạn có thể nhìn vào tâm trí của

những người bạn đang làm tình, bạn sẽ ngạc nhiên....

Rất hiếm khi tìm ra chỉ hai người trong cùng một

giường; bạn sẽ thấy đám đông. Ít nhất bốn người là tuyệt

đối chắc chắn. Đó bao giờ cũng là dục theo nhóm, bởi vì

tâm trí họ đang tưởng tượng, hư cấu.

Ngay cả những người đã trưởng thành - cái gọi là

người đã trưởng thành - đều sống trong tưởng tượng.

Không chỉ trẻ con sống trong tưởng tượng; ngay cả

người già cũng sống trong tưởng tượng. Mọi người cứ

chơi với đồ chơi, họ chưa bao giờ thức dậy. Tưởng

tượng của họ tiếp tục giữ họ ngủ.

Một lần nữa chúng ta đi vào chiếc xe hữu dụng, bao

nang thời gian, và du hành trở lại qua những năm sáu

mươi tuổi gợi tình, nhưng năm năm mươi tuổi diện mốt,

những năm bốn mươi tuổi tranh đấu, những năm ba

mươi bẩn thỉu, và đi vào những năm hai mươi tuổi ầm ĩ

nơi chúng ta dừng lại, đội mũ lệch và mặc áo sơ mi

ngoài quần bay từ chuyến đi nhanh chóng và hồ hởi.

Chúng ta ở tại điểm thời gian đó khi việc cấy tuyến thận

của khỉ và những cuộc mổ như vậy để phục hồi sự

cường dương vẫn còn đang thịnh hành.

Giải phẫu để phục hồi thanh xuân mới được thực

hiện trên một ông già bẩy mươi tuổi, người vẫn còn hi

vọng rằng, xem như kết quả, nhiễm sắc thể của mình từ

đó sẽ vụt lên tới trần. Khi ông ta ra khỏi ảnh hưởng của

ê te, ông ta bắt đầu khóc một cách cay đắng.

Bà Bernstein, y tá chăm sóc, nghiêng người qua ông

ấy.

"Thưa ông, ông không cần phải cảm thấy lo lắng

đâu," bà ấy ân cần nói. "Cuộc mổ này là thành công lớn.

Tin lời tôi đi, khi ông ra khỏi đây ông sẽ cảm thấy trẻ

hơn hai mươi tuổi đấy. Có thể còn hơn nữa, ai mà biết

được?"

Nhưng ông già đáng thương này tiếp tục rền rĩ, nước

mắt chảy dài trên má ông ta và mất hút vào chòm râu dài

trắng như cước.

"Xin ông đừng khóc nữa," bà Bernstein cầu xin.

"Cái đau sẽ sớm mất đi thôi."

"Ai khóc vì đau đâu?" bệnh nhân nức nở. "Tôi sợ tôi

sẽ chậm tới trường."

Cứ nhìn sâu xuống dưới vào bên trong bản thân

mình và bạn sẽ thấy đứa trẻ nguyên si; nó đã không lớn

lên. Tuổi tinh thần bình thường của mọi người không

quá mười hai. Về mặt sinh lí bạn có thể tám mươi; về

mặt tâm lí bạn còn treo quanh mười hai. Do đó, thỉnh

thoảng, bạn bắt đầu cư xử như đứa trẻ - mặc cho bản

thân bạn. Nếu bạn bị thúc và đẩy quá nhiều bạn quên

mất rằng bạn là người lớn. Đứa trẻ vẫn ngồi đó, được

bao phủ bởi nhiều kinh nghiệm, nhưng những kinh

nghiệm đó đã không được tiêu hoá; bị bao phủ bởi nhiều

tri thức, nhưng tri thức đó đã không trở thành trí huệ của

bạn bởi vì nó đã không được đạt tới qua nhận biết. Bạn

đã thu thập và tích luỹ nó trong giấc ngủ của mình, cho

nên bạn đã tích luỹ nhiều rác rưởi dọc đường. Vâng,

thỉnh thoảng bạn có thể nhặt được kim cương nữa,

chẳng biết rằng nó là kim cương - chỉ như các viên đá

mầu khác.

Chơi trong tưởng tượng của mình với chúng và

chúng sẽ cuốn ông đi. Nếu bạn cho phép ham muốn và

hoan lạc và tham lam và giận dữ và ghen tị và sở hữu và

bạo hành và tất cả những thứ này xô dòng nước về bạn,

chúng sẽ cuốn bạn đi. Đừng chơi với chúng trong tưởng

tượng của bạn; điều đó làm mạnh chúng, đó là chui vào

ách thống trị của chúng.

Và phép màu là ở chỗ mọi người đều có thể hiểu

tưởng tượng của mọi người khác, ngoại trừ tưởng tượng

của riêng mình. Khi ai đó rơi vào trong tình yêu với ai

đó khác bạn nói, "Ngu làm sao!" Mọi người đều nghĩ họ

đã cuồng si. "Nhìn mặt người đàn bà kia mà xem. Cô ta

trông như tranh Picasso! Và sao người đàn ông này lại si

mê cô ta thế? Anh ta thấy gì trong cô ta?" Còn khi bạn

rơi vào tình yêu, thế thì đó lại hoàn toàn khác. Cô ấy là

một Cleopatra! Không ai khác sẽ đồng ý với bạn; đó là

tưởng tượng của bạn. Và cùng điều đó cứ diễn ra mãi ở

các tầng khác nhau, theo các chiều khác nhau.

Điều vô nghĩa được viết trong kinh sách tôn giáo

của bạn là tuyệt đối đúng; nó có tính khoa học. Điều vô

nghĩa được viết trong kinh sách của người khác là vô

nghĩa rành rành thế; không thể có vấn đề về nó, không

hoài nghi gì về nó cả. Người Hindu có thể thấy tất cả

các loại ngu xuẩn trong Kinh Thánh, và người Ki tô giáo

thấy đủ mọi loại ngu xuẩn trong kinh sách Hindu.

Nhưng điều này dường như thực sự là phép màu: rằng

không người Hindu nào sẽ thấy trong kinh sách riêng

của mình cái gì sai; mọi thứ đều khoa học. Và người đó

không chỉ nghĩ nó là khoa học, người đó cố gắng chứng

minh nó.

Một lần một sư Hindu được đưa tới tôi. Ông ta tới

cùng nhiều tín đồ. Một trong các tín đồ của ông ấy nói,

"Ông ấy là học giả rất vĩ đại; ông ấy đã viết nhiều sách.

Và toàn thể nỗ lực của ông ấy trong đời mình đã là để

chứng minh rằng Hindu giáo là tôn giáo khoa học duy

nhất trên thế giới."

Tôi nói, "Ông ấy có thể cho ví dụ nào không?"

Anh ta nói, "Ông có thể hỏi bất kì cái gì và ông ấy

sẽ nói tại sao nó lại khoa học."

Tôi hỏi ông ấy, "Sao người Hindu cắt hết tóc chỉ

chừa lại một búi nhỏ - cái chỏm - trên đỉnh đầu họ?"

Ông ấy nói, "Đơn giản thôi! Ông đã bao giờ nhìn lên

các toà nhà lớn chưa? Họ để ở đó một cọc sắt."

Tôi không thể hiểu ngay được vấn đề này.

Ông ấy nói, "Đó là để bảo vệ toà nhà khỏi điện.

Người Hindu đã khám phá ra điều đó từ lâu trước đây:

nếu ông để chỏm tóc - một túm tóc nhỏ - mọc trên đầu

ông, nó sẽ cứu ông, bảo vệ ông khỏi điện."

Bây giờ, ông ấy đang nói vô nghĩa làm sao! Nhưng

ông ấy được biết là một mahatma vĩ đại bởi vì ông ấy

đang giúp cho bản ngã của bạn; ông ấy chứng minh rằng

tôn giáo của bạn là khoa học. Ông ấy đã tới gặp tôi với

tất cả các đệ tử của ông ấy. Họ tất cả đều đi guốc gỗ,

dép gỗ - kharaoon - và gây tiếng động lớn. Cách người

Hindu đã dùng những chiếc giầy gỗ này trong hàng thế

kỉ.... Điều đó thực sự khó bởi vì bạn phải giữ giầy bằng

các ngón chân, giữa các ngón chân. Nó lại nặng.

Tôi hỏi ông ấy, "Sao lại đi cái này? Có khoa học gì

ở đó?"

Ông ấy nói, "Nó giữ cho người ta vô dục. Sức ép

của nó tới mức nó giữ cho tuyến dục của người ta không

hoạt động." Hay đấy, thật là hay!

Thế là tôi nói, "Thế thì Ấn Độ chả cần bận tâm về

dân số nữa. Cứ đem giầy gỗ cho mọi người và để họ tất

cả đều để chỏm thì điện không ảnh hưởng tới họ, dâm

dục không ảnh hưởng tới họ. Họ tất cả sẽ là thánh nhân.

Công thức đơn giản thế!"

Nhưng người Hindu nghĩ mình đang làm việc phục

vụ lớn lao cho Hindu giáo. Đó là cách nó là vậy với mọi

tôn giáo. Tưởng tượng của bạn là chân lí; chân lí của

người khác chỉ là tưởng tượng.

Một giáo sĩ và một linh mục đang thảo luận khác

biệt giữa kinh Cựu ước và Tân ước. Lí lẽ của linh mục

là Tân ước cho nhiều bằng chứng về hợp tác thiêng

liêng bởi vì tất cả các phép màu nổi tiếng của nó.

"Nhớ lấy," linh mục biện luận, "Chúa của chúng tôi

đi trên nước, ông ấy đưa người chết sống lại, ông ấy

nuôi hàng trăm người bằng vài lát bánh mì và chút ít cá,

ông ấy biến nước thành rượu, và ông ấy đã thăng lên trời

từ thân thể."

"Vậy điều đó chứng minh cái gì?" giáo sĩ khăng

khăng. "Kinh Cựu ước có những phép màu như tách

Hồng Hải, làm mặt trời đứng im, Moses thăng lên núi

Mount Sinai từ thân thể để nói chuyện cá nhân với

Thượng đế và để nhận Mười lời răn từ chính tay của

Thượng đế."

Linh mục gật đầu. "Tôi tin vào những phép màu đó

nữa," ông ấy thừa nhận. "Nhưng thực thà về điều đó đi -

ông có thực nghĩ phép màu của ông có nhiều thực chất

như phép màu của chúng tôi không?"

Giáo sĩ nhìn thẳng vào ông ấy. "Có chuyện gì với

ông nào?" ông ta cắn cảu gắt gỏng. "Ông không thể

phân biệt được giữa sự kiện và hư cấu sao?"

Hư cấu của chúng tôi là sự kiện còn hư cấu của bạn

là hư cấu - sự kiện của bạn cũng hư cấu nốt.

Cẩn thận về tưởng tượng đi. Nó có thể che mờ tâm

trí bạn. Nó có thể phá huỷ năng lực của bạn để nhìn rõ

ràng. Do đó tôi nói: Chừng nào bạn chưa vứt bỏ việc là

người Hindu giáo, người Mô ha mét giáo, người Ki tô

giáo, bạn sẽ không có khả năng thấy được rõ ràng.

Tưởng tượng của bạn đã bị ô nhiễm hàng thế kỉ. Mọi ý

tưởng và ý thức hệ của bạn đều phải bị gạt sang bên để

cho mắt bạn có thể nhìn được, có thể đương đầu được

với chân lí như nó đang vậy.

Tưởng tượng giữ bạn ngủ. Nếu bạn ra khỏi tưởng

tượng của mình bạn bắt đầu thức dậy.

Gurdjieff hay nói với đệ tử của ông ấy rằng điều

quan trọng nhất cần nhớ trong giấc mơ là "Đây là mơ."

Nhưng làm điều đó thế nào? Điều đó dường như là

không thể được. Làm sao nhớ trong mơ rằng "Đây là

mơ"? Nhưng nếu bạn thực hành phương pháp của

Gurdjieff, một ngày nào đó bạn có thể nhớ được nó.

Phương pháp này đơn giản. Bạn phải cứ nhớ cả

ngày, bất kì cái gì bạn thấy, rằng "Đây là mơ." Bước đi

trên phố, " Đây là mơ"; chó sủa, " Đây là mơ." Cứ nhớ

cả ngày, " Đây là mơ, đây là mơ...." Phải mất ba tới chín

tháng để ý tưởng này chìm vào trong tim bạn. Thế rồi

một hôm, bỗng nhiên trong mơ của mình bạn nhớ và

bạn nói, " Đây là mơ!" - và đó là khoảnh khắc của chói

sáng lớn lao. Ngay lập tức, mơ biến mất. Khoảnh khắc

bạn nói nó là mơ, nó biến mất và bạn thức dậy, hoàn

toàn thức, ngay giữa đêm.

Tất nhiên, những cây này và người trên đường

không phải là mơ cho nên chúng không biến mất. Bạn

có thể cứ nói, " Đây là mơ." Đó chỉ là phương pháp thực

hành. Nhưng khi bạn thực sự nhớ trong mơ rằng "Đây là

mơ," mơ biến mất. Mơ có thể tồn tại chỉ nếu được tin;

mơ biến mất nếu bạn không tin vào nó. Tưởng tượng

của chúng ta đang làm ngất ngây.

Lắng nghe trao đổi này của cuộc đối thoại, vào

khoảng năm 1936, khi Ts. William Goldman còn là giáo

sư tiếng Anh tại Đại học Brandeis.

Hôm đó là ngày tốt nghiệp, và người bố của một

trong các sinh viên đã mở hội, cũng không khôn ngoan

lắm, nhưng tất cả đều tốt. Ông ấy đang ở khu đỗ xe liền

kề khu trường đại học, nhìn săm soi như cú vào các xe,

thì Ts. Goldman xuất hiện.

"Thưa ông," người chủ buổi lễ vẫy gọi. "Xe của tôi

là xe ở bên trái hay bên phải?"

"Xe của ngài là xe ở bên phải, thưa ngài," vị giáo sư

đáp lại. "Xe ở bên trái là hiện tượng chủ quan."

Nó không tồn tại - chỉ là hiện tượng chủ quan. Điều

đó đích xác là nghĩa của từ Ấn Độ maya: hiện tượng chủ

quan, nó không tồn tại. Nhưng nếu bạn tin, nó tồn tại.

Điều đó tuỳ thuộc vào bạn. Bạn có thể làm nó gần như

hoạt động thực. Và có nhiều điều không tồn tại, nhưng

bạn tin vào chúng và với bạn chúng là thực tại. Và bạn

bị bao quanh bởi hư cấu - tôn giáo, tâm linh, siêu hình.

Có nhiều hư cấu bao quanh bạn - và bạn phải thức dậy

từ tất cả những điều này.

Dòng nước mạnh mẽ! Phật nói.

Chúng ở mọi nơi....

chúng chảy đi mọi nơi.

Những dòng nước này là mạnh, và giấc ngủ của bạn

lại say thế. Dường như rất khó đánh thức - nhưng bạn có

thể thức dậy được. Quan sát của riêng tôi là ở chỗ những

dòng suối này chỉ tỉ lệ với mức bạn ngủ. Nếu bạn trở

nên ít ngủ hơn chúng ít mạnh hơn. Nếu bạn trở nên hoàn

toàn thức, quyền lực của chúng biến mất toàn bộ.

Người say đi qua chỗ giao xe bus thì một con chó

Saint Bernard lớn lướt qua anh ta và làm anh ta ngã ra.

Ngay sau đó một chiếc xe thể thao nước ngoài trượt

quanh góc đó và gây thêm tai hại.

Một người ngoài giúp anh chàng đáng thương này

đứng dậy và nói, "Ông có bị thương không?"

"Ối giời," anh ta đáp, "con chó không làm đau mấy,

nhưng cái hộp thiếc kia gắn với đuôi nó gần giết chết

tôi."

Bây giờ, khi bạn không trong ý thức của mình bạn

cứ nhìn mọi thứ không có đó chút nào hay bạn cứ phóng

chiếu mọi thứ. Thế giới trở thành màn ảnh và bạn sống

trong thế giới riêng tư. Điều đó đích xác là nghĩa của từ

'idiot-thằng ngốc': sống trong thế giới riêng tư, sống

trong hiện tượng chủ quan. Đó là nghĩa của 'idiot-thằng

ngốc'.

Sau một chầu rượu ở quán rượu địa phương,

Murphy rút con mèo nhỏ bằng lông từ trong túi ra, đặt

nó lên quầy và nhìn chăm chăm vào nó. Cuối cùng

người đứng quầy không còn kìm được tò mò và hỏi

Murphy anh ta định làm gì.

"Đấy, ông thấy đấy, cách thức đấy," Murphy nói.

"Chừng nào tôi còn có thể thấy con mèo thì mọi sự đều

ổn thoả. Nhưng khi tôi thấy hai con thì tôi phải làm cái

gì đó."

"Như thế nào?"

"Tôi cầm cả hai con, cho chúng vào túi, và về nhà,"

người Ai rơ len nói.

Nếu bạn bị ngất ngây bạn sẽ thấy cùng thế giới đó

theo cách khác. Tưởng tượng của bạn sẽ bị trộn lẫn với

nó. Bạn sẽ không có khả năng phân biệt nổi cái gì là hư

cấu và cái gì là sự kiện. Bạn sẽ không có sức mạnh phân

biệt nào. Đó đích xác là điều làm cho những dòng nước

này mạnh thế. Chúng chảy đi mọi nơi.

Rượu mạnh!

Nếu ông thấy nó trào lên,

Cẩn thận!

Nhổ nó tận rễ.

Cho nên bất kì khi nào bạn thấy tưởng tượng nào đó

nảy sinh trong bạn, hãy tỉnh táo. Đừng để nó phát triển,

đừng để nó trở thành cái cây lớn. Sẽ khó hơn nhiều để

bạn gạt bỏ nó bởi vì bạn có thể trở nên gắn bó với nó;

bạn có thể đã đầu tư nhiều thứ vào trong nó; bạn có thể

đã bắt đầu đi cùng nó; bạn có thể cảm thấy không được

che chở nếu thiếu nó. Tốt hơn cả là cắt nó đi từ chính

gốc rễ ngay lúc ban đầu. Khoảnh khắc bạn thấy nó nảy

sinh trong mình, chú ý, cẩn thận - thận trọng nghĩa là

nhận biết - nhổ nó tận rễ.

Mọi người cứ thay đổi. Họ không nhổ mọi thứ tại

chính gốc rễ của chúng; họ thay thế hư cấu này bằng hư

cấu khác. Điều đó có thể cho bạn sự giảm nhẹ trong một

chốc, nhưng nó không biến đổi cuộc sống của bạn. Ai

đó chạy theo tiền, thế rồi người đó dừng chạy theo tiền;

người đó bắt đầu chạy theo quyền. Thế rồi người đó

dừng chạy theo quyền và bắt đầu chạy theo Thượng đế

hay thiền hay chứng ngộ. Nhưng người đó cứ chạy theo

cái gì đó này khác. Người đó cứ thay thế hư cấu mới vào

chỗ hư cấu cũ; cái cũ không còn vận hành nữa. Người

đó đã thấy nó là hư cấu, nhưng người đó lại chưa nhận

ra vấn đề là người ta phải nhổ tận gốc rễ mọi tưởng

tượng trong bản thể mình.

Vẹt xanh nghĩ nó tận tình với vẹt kia tới mức nếu

con này chết thì con kia cũng chết vì đau lòng. Một

người đàn bà sở hữu một đôi vẹt rất đáng yêu, có đám

cháy trong nhà và một con vẹt bị chết ngạt. Ngay sau đó

con kia bắt đầu tiều tuỵ héo hon. Người đàn bà này tự

hỏi liệu có cách nào đó giữ cho nó sống không cho nên

bà ta đặt một chiếc gương vào trong lồng.

Con vẹt kêu lên vui sướng và ôm ấp cái gương, và

sống trong hai năm. Thế rồi nó chết - vì cái gương bị vỡ.

Người ta có thể trì hoãn - nhưng đừng cứ trì hoãn.

Cuộc sống của bạn rất quí giá. Nếu kẻ si tình này chết

tốt hơn cả là trở về với ý thức của mình thay vì thế vào

đó là tấm gương hay cái gì đó khác.

Hoan lạc chảy đi mọi nơi.

Ông nổi trên chúng

và bị mang đi từ kiếp nọ tới kiếp kia.

Ngắm nhìn xem. Hiện tượng mạo hiểm còn quá bị

gắn bó với hoan lạc của bạn, với tưởng tượng của bạn,

bởi vì đây là cách bạn đã đi từ kiếp này sang kiếp khác.

Nguyên nhân mầm mống của sinh và tử là ham muốn,

tưởng tượng, khao khát thêm nữa. Và nhớ lấy, bạn cảm

thấy không hài lòng thế trong cuộc sống bởi vì tưởng

tượng của bạn. Bạn càng tưởng tượng nhiều, bạn càng sẽ

cảm thấy không hài lòng nhiều.

Nhà thơ là người rất không hài lòng, hoạ sĩ cũng thế,

bởi lẽ đơn giản là họ có thể tưởng tượng rất giỏi. Họ có

thể tưởng tượng thế giới đẹp tới mức thế giới này, nếu

so sánh với nó, bắt đầu giống như địa ngục. Người

thường không hài lòng thế bởi lí do đơn giản là họ

không có nhiều tưởng tượng. Thế giới này dường như

đủ tốt với họ.

Khi tưởng tượng đơn giản biến mất khỏi bạn, thế

giới này - chính thế giới này - là thiên đường hoa sen.

Chính bởi vì tưởng tượng của mình mà bạn cứ kết án thế

giới này. Và nhớ lấy, tưởng tượng của bạn sẽ đi cùng

bạn cho dù bạn được đưa theo lối cửa sau lên cõi trời.

Bạn sẽ kết án nó, bạn sẽ tìm ra lỗi. Bạn sẽ thấy cả nghìn

lẻ một điều không được thế. Bạn sẽ thấy lỗ hổng, khiếm

khuyết. Ngay cả trong thiên đường bạn sẽ vẫn khổ sở.

Và người không có tưởng tượng, không ham muốn, cho

dù trong địa ngục cũng sẽ tìm thấy thiên đường. Thiên

đường hay địa ngục không tồn tại ở ngoài bạn; chúng

tồn tại bên trong bạn.

Nếu tâm trí bạn không bị che mờ, nếu bạn có thể

thấy rõ ràng, thế thì ở mọi nơi bạn đều sẽ thấy phúc lạc

mưa rào xuống. Từng khoảnh khắc bạn sẽ thấy thiên

đường giáng xuống bạn. Từng khoảnh khắc bạn sẽ thấy

bản thân mình được bao quanh bởi Thượng đế. Bạn

không cần đi tới Kaaba, bạn không cần đi tới Kashi, bạn

không cần đi đâu cả. Thượng đế đang tới với bạn trong

ba mươi sáu dòng chảy, nhưng bởi vì bạn ngủ tới mức

điều đáng ra là phúc lành lại trở thành tai hoạ. Nhận biết

và biến đổi tai hoạ của bạn thành phúc lạc đi. Chỉ bởi

nhận biết biến đổi mới xảy ra theo cách riêng của nó.

Giống thỏ bị săn ông chạy,

Bị ham muốn đuổi theo,

Bị quấy rầy hết kếp nọ tới kiếp kia.

Bạn nghĩ bạn là người theo đuổi, bạn nghĩ bạn là thợ

săn; điều đó không đúng. Bạn nghĩ bạn là người sở hữu;

điều đó không đúng. Người sở hữu thực sự bị sở hữu: đồ

vật của bạn bắt đầu sở hữu bạn. Bạn quan sát, và bạn sẽ

thấy sự kiện này trong cuộc sống riêng của mình. Mọi

thứ của bạn bắt đầu sở hữu bạn. Bạn không dùng chúng

- chúng bắt đầu dùng bạn. Và bạn không phải là thợ

săn... thực tế bạn bị ham muốn của mình săn đuổi;

những ham muốn đó mới là thợ săn thực. Và bạn chạy,

đuổi theo cái bóng mà chẳng bao giờ thấy. Và ai đang

đuổi bạn từ sau lưng? Ai làm cho bạn chạy? Quyền lực

thực ở trong tay ham muốn của bạn, trong tưởng tượng,

trong vô ý thức của bạn.

Hỡi người tìm kiếm!

từ bỏ ham muốn đi.

Giũ sạch xiềng xích.

Một hôm bà cô Tilly thấy con mèo đực lớn của mình

đang dồn con gián vào bếp. Nó định giết chết con gián

thì con gián cầu khẩn bà cô Tilly: "Xin bà bảo con mèo

của bà tha mạng cho tôi và tôi sẽ ban cho bà ba điều

ước."

"Một triệu đô la được không?" bà cô hỏi.

"Được!" con gián nói, liền tạo ra tiền.

"Ta muốn trẻ và đẹp!"

"Bà được điều đó!" Và bà ấy thành trẻ và đẹp.

"Bây giờ" Tilly nói, "biến con mèo đực của ta thành

một hoàng tử cao, đẹp trai nằm bên cạnh ta trên

giường!" Điều đó được thực hiện.

"Ta hạnh phúc thế!" bà ấy kêu lên.

"Tôi mừng," hoàng tử bên cạnh bà ấy nói. "Nhưng

bà bây giờ không tiếc là bà đã chọn tôi chứ?"

Cho dù ham muốn của bạn được hoàn thành, cái gì

đó sẽ bị bỏ lỡ.

Hỡi người tìm kiếm! từ bỏ ham muốn đi. Giũ sạch

xiềng xích. Bạn càng ham muốn nhiều, bạn càng trở nên

bị cầm tù hơn. Mọi người bị cầm tù trong mọi thứ, mọi

người bị cầm tù bởi vợ và chồng, mọi người bị cầm tù

bởi quyền lực của họ. Mọi người đang tạo ra nhiều nhà

tù thế - nhà tù trong nhà tù, hộp trong hộp - và dầu vậy

họ vẫn muốn hạnh phúc, họ muốn vui sướng. Làm sao

bạn có thể vui sướng được? Cuộc sống của bạn đang

ngạt thở! Và không ai khác chịu trách nhiệm ngoại trừ

bạn.

Cô gái tốt bụng hỏi, "Thưa người tốt, xin ông cho

biết sao ông uống toàn rượu uýt ski thế?"

"Thưa bà," người đàn ông tốt đáp, "tôi phải làm gì

khác với nó đây?"

Bạn không biết bạn có thể làm cái gì khác với cuộc

đời mình. Bạn chỉ biết cách tạo ra nhà tù. Bạn chỉ biết

cách tạo ra khổ hơn. Bạn đã trở thành thực sự tài nghệ

đấy! Hàng thế kỉ, trong nhiều kiếp rồi, bạn đã làm chỉ

một điều: tạo ra xiềng xích, tạo ra khổ sở, tạo ra đau đớn

cho bản thân mình và cho người khác. Bạn là kẻ bạo ác;

đó là toàn thể nghệ thuật của bạn. Hoặc bạn sẽ hành hạ

người khác hoặc bạn tự hành hạ mình, nhưng bạn sẽ

hành hạ. Bạn không biết rằng cuộc sống có thể là điệu

vũ, lễ hội. Bạn không thể biết được điều đó cho tới khi

bạn vứt bỏ việc ham muốn của mình.

Ham muốn tồn tại như đám mây khói quanh bạn;

bạn không thể thấy được cái gì. Và bạn cứ cho thêm

nhiên liệu, bạn cứ tạo ra ngày một nhiều khói quanh

mình hơn. Mắt bạn đang cháy, mắt bạn đầy nước mắt,

bạn không thể nhìn được, nhưng dầu vậy bạn vẫn nghĩ

điều bạn đang làm sẽ giúp cho bạn một ngày nào đó đạt

tới tất cả những niềm vui của cuộc sống. Điều bạn đang

làm cho bản thân mình chỉ là cho bạn nhiều đau đớn

hơn, nhiều khổ hơn, nhiều chịu đựng hơn.

Ông đã ra khỏi chỗ trũng

vào chỗ sáng sủa.

Chỗ sáng là trống rỗng.

Sao ông xô lại vào trong chỗ trũng?

Thỉnh thoảng, điều đó xảy ra cho bạn nữa; rằng bạn

thoát ra khỏi lỗ đen của mình - lỗ đen của ham muốn -

vào trong sáng tỏ. Thỉnh thoảng bạn có thể thấy.

Ngay bây giờ nhiều người trong các bạn có thể thấy

rằng có... cái có sâu sắc nảy sinh trong bạn. Bạn biết

hoàn toàn rõ rằng bạn đã tạo ra khổ sở của mình, và bạn

không muốn.... Đấy chỉ là bạn đã trở nên rất khéo trong

nghệ thuật này; bạn không biết phải làm gì khác cho nên

bạn cứ làm nó. Không làm nó bạn cảm thấy rất trống

rỗng - và bạn rất sợ trống rỗng.

Trong nhiều thế kỉ trống rỗng đã từng bị kết án.

Trống rỗng là đẹp. Và những người này đã từng bảo

bạn, "Tâm trí trống rỗng là xưởng thợ của quỉ." Tâm trí

trống rỗng là xưởng thợ của Thượng đế chứ! Tâm trí

bận rộn mới là xưởng thợ của quỉ.

Nhưng người ta phải thực sự trống rỗng. Chỉ lười

biếng không có nghĩa là bạn trống rỗng đâu; không làm

gì không có nghĩa là bạn trống rỗng đâu. Cả nghìn ý

nghĩ đang la hét bên trong. Bạn có thể lười biếng ở bên

ngoài, nhưng bên trong nhiều việc đang diễn ra. Nhiều

bức tường được tạo nên, những nhà tù mới được chuẩn

bị, cho nên khi bạn phát chán với cái cũ bạn có thể đi

vào trong cái mới. Xiềng xích cũ có thể vỡ vào bất kì

lúc nào cho nên bạn đang tạo ra xiềng xích mới trong

trường hợp xiềng xích cũ bị vỡ; thế thì bạn sẽ cảm thấy

rất trống rỗng.

Thỉnh thoảng điều đó xảy ra một cách tự nhiên - bởi

vì chính bản tính của bạn là tự do. Cho nên thỉnh thoảng,

mặc bạn... ngắm mặt trời lặn, đột nhiên bạn quên hết

mọi ham muốn của mình. Bạn quên tất cả thèm khát,

mọi khao khát về hoan lạc. Mặt trời lặn đẹp thế, tràn

ngập tới mức bạn quên mất quá khứ và tương lai; chỉ

hiện tại còn lại. Bạn là một với khoảnh khắc đó thế,

không có người quan sát và không có vật được quan sát.

Người quan sát trở thành cái được quan sát. Bạn không

tách rời khỏi mặt trời lặn.

Bạn được bắc cầu; trong giao cảm như vậy bạn đi

vào trong sáng tỏ, và bởi vì sáng tỏ này bạn cảm thấy

vui vẻ. Nhưng rồi bạn lại trở lại trong lỗ đen bởi lẽ đơn

giản là đi vào trong sáng tỏ này bạn cần dũng cảm để

vẫn còn trong bầu trời trống rỗng.

Đó là điều tôi gọi là tính chất sannyas.

Dũng cảm này tôi gọi là sannyas - không trốn chạy

mà đi vào sáng tỏ, nhìn bầu trời không mây, nghe tiếng

hót của chim chóc không bóp méo. Và thế rồi lặp đi lặp

lại bạn trở nên ngày một hoà điệu hơn với cái trống rỗng

và niềm vui của việc là trống rỗng. Và dần dần, dần dần

bạn thấy rằng trống rỗng không chỉ là trống rỗng; nó là

tràn đầy, nhưng tràn đầy của cái bạn chưa bao giờ nhận

biết, tràn đầy của cái bạn chưa bao giờ nếm trải. Cho

nên lúc ban đầu nó có vẻ trống rỗng; đến cuối nó đầy,

đầy toàn bộ, đầy tràn ngập. Nó đầy an bình, nó đầy im

lặng, nó đầy ánh sáng.

Ông đã ra khỏi chỗ trũng vào chỗ sáng tỏ. Thỉnh

thoảng trong khi thiền điều đó xảy ra, thỉnh thoảng trong

khi nghe nhạc điều đó xảy ra, thỉnh thoảng trong khi

nhảy múa điều đó xảy ra, thỉnh thoảng trong khi chỉ

ngồi không làm gì điều đó xảy ra. Đó là điều thiền tất cả

là gì: cho phép những khoảnh khắc này tới ngày một

nhiều hơn, đón chào những khoảnh khắc này, yêu mến

những khoảnh khắc này, để cho bạn trở nên có khả năng

thoát ra khỏi lỗ đen. Và khi bạn trở nên quen thuộc với

sáng tỏ và phúc lành của nó, bạn ngày càng ít đi vào

trong lỗ đen. Rồi một hôm bỗng nhiên bạn bỏ lỗ đen; nó

không còn là nhà bạn nữa. Sáng tỏ trở thành nhà bạn, rõ

ràng trở thành nhà bạn. Đó là ngày của hân hoan lớn lao.

Ham muốn là chỗ trống

và mọi người nói, "Trông đấy!

Người đó tự do.

nhưng bây giờ người đó từ bỏ tự do."

Tôi có thể thấy nó đang xảy ra trong bạn. Nhiều lần

tôi thấy người nào đó tới trong sáng tỏ và thế rồi lại đi

vào trong lỗ đen.

Đây là điều đang xảy ra cho Somendra. Anh ấy đang

đi vào sáng tỏ, anh ấy đã nếm trải cái gì đó của sáng tỏ,

nhưng thế rồi chính kinh nghiệm về sáng tỏ làm cho anh

ấy thành bản ngã. Nó cho anh ấy bản ngã ngoan đạo nào

đó. Anh ấy bắt đầu cảm thấy đặc biệt; do đó, mới hôm

nọ anh ấy đã yêu cầu thừa nhận. Anh ấy thường ngồi ở

đây trên hàng ba; anh ấy muốn ngồi vào hàng đầu. Bây

giờ anh ấy đã biến mất khỏi hàng ba rồi. Anh ấy ngồi

đâu đó ở hàng cuối, và ở đó nữa anh ấy cũng ngồi không

đối diện với tôi; lưng anh ấy quay về tôi! lại đi vào trong

lỗ đen rồi!

Và điều này đang xảy ra cho nhiều người. Nhiều

người đi vào trong sáng tỏ và thế rồi dễ dàng thế họ đi

vào trong lỗ đen. Theo một cách nào đó điều đó dường

như logic, bởi vì họ đã sống trong lỗ đen lâu thế. Kinh

nghiệm này là mới và có tính đe doạ và lỗ đen bắt đầu

khẳng định chúng lặp đi lặp lại.

Điều này đang xảy ra cho Turiya. Cô ấy đang đi vào

sáng tỏ, và bây giờ đi vào trong lỗ đen - theo cách riêng

của cô ấy. Và cái đẹp của toàn thể sự việc là ở chỗ khi

mọi người bắt đầu đi vào trong sáng tỏ họ không cám ơn

tôi chút nào. Họ không viết thư cho tôi nói, "Cám ơn

thầy, Thầy kính yêu." Nhưng khi họ bắt đầu đi vào trong

lỗ đen họ viết những bức thư lớn cho tôi: "Sao thầy làm

điều đó với tôi? Sao thầy lấy nó đi?" Họ chưa bao giờ

cám ơn tôi cả. Ngay chỗ đầu tiên tôi đã không đem nó

cho họ, cho nên làm sao tôi có thể lấy nó đi được?

Những điều này không cho không lấy được.

Những điều này, bạn phải hiểu, xảy ra từ chính

trung tâm của bạn. Và bạn phải học một qui tắc rất nền

tảng: rằng khi chúng xảy ra ở đó sẽ có mọi khả năng trở

lại hình mẫu cũ. Bạn quen thuộc thế với nó, quen nó thế

- bạn đã sống trong nó lâu thế; nó dường như an toàn, an

ninh, ấm cúng, nồng ấm. Còn sáng tỏ dường như lạnh

lẽo, bao la, trống rỗng, bất an ninh. Nhưng trong sáng tỏ

là an ninh thực bởi vì trong sáng tỏ là vĩnh hằng. Lỗ đen

đó chỉ là tâm trí bạn, tâm trí nhỏ. Nhưng với tâm trí nhỏ

bạn quen thuộc.

Bạn phải học yêu cái không quen thuộc, cái không

biết, và chung cuộc một ngày nào đó, cả cái không thể

biết. Thế thì bạn đi vào ngày càng nhiều bí ẩn. Chỉ thế

thì một ngày nào đó bạn có thể nói, "Mình chẳng biết

gì" - bởi vì sự tồn tại không phải là cái biết được; nó là

bí ẩn, không để được giải. Nó không phải là vấn đề để

được giải mà là bí ẩn để được sống, được yêu, được chia

sẻ.

Ham muốn là chỗ trống và mọi người nói, "Trông

đấy! Người đó tự do. nhưng bây giờ người đó từ bỏ tự

do." Và bạn sẵn sàng từ bỏ tự do của mình - bạn sẵn

sàng từ bỏ bất kì cái gì. Bạn sẵn sàng từ bỏ tự do của

mình - vì bất kì đồ chơi nào. Bạn không biết giá trị của

tự do.

Khi cô gái của một gia đình quí tộc người Pháp

tuyên bố đính hôn của mình với một người da đen, Sam

Lớn, cha mẹ cô ấy quyết định họ phải cố gắng chặn

cuộc hôn nhân này lại.

Họ gọi Sam Lớn tới và bảo anh ta rằng con gái họ

quen sống rất xa hoa và phải có ngôi nhà đẹp nhất, to

nhất ở Paris để sống. Người da đen vươn mình dậy và

tuyên bố, "Khi Sam Lớn yêu, Sam Lớn mua," và anh ta

ra đi.

Chắc chắn, anh ta mua ngôi nhà lớn nhất và đẹp

nhất ở Paris.

Thế là cha mẹ lại gọi anh ta tới và bảo anh ta rằng

con gái họ khao khát viên kim cương lớn nhất, chói lọi

nhất ở khắp nước Pháp.

"Khi Sam Lớn yêu, Sam Lớn kiếm," chú rể tương

lai nói, và anh ta ra đi, trở về với viên kim cương lớn

nhất, sáng chói nhất mà cha mẹ chưa từng trông thấy.

Trong nỗ lực cuối cùng để dừng cuộc hôn nhân lại,

bố cô gái bảo ta gặp riêng, và nói với anh ta rằng để làm

con gái họ hanh phúc anh ta dứt khoát phải có chim dài

ba sáu cm.

Người da đen trả lời kiên quyết, "Khi Sam Lớn yêu,

Sam Lớn cắt."

Đủ cho hôm nay.

****************************************************************************************************************

#2Bất kì cái gì xảy ra cũng đều tốt

Câu hỏi thứ nhất:

Thưa Thầy kính yêu,

Các tu sĩ không thể giúp theo cách nào đó này khác

sao?

Veeresh, họ đã từng giúp nhân loại hàng thế kỉ rồi;

do đó mới có trạng thái khổ sở này của mọi thứ. Họ đã

giúp nhiều để tạo ra nhiều dối trá nhất có thể được - dối

trá dường như thoải mái. Nhưng đến cùng, dối trá vẫn

chỉ là dối trá thôi. Có thể với thời hiện tại họ cho bạn

cảm giác ấp áp, ấm cúng, an ninh, nhưng chỉ cho khoảnh

khắc vậy thôi. Chẳng chóng thì chầy bạn lại ở trong

trạng thái tối mù hơn, lạnh lẽo hơn bao giờ.

Các tu sĩ qua nhiều thời đại đã phát minh ra các

chiến lược để giữ bạn vẫn như bạn vậy. Bạn không

muốn thay đổi; bạn đơn giản muốn những dối trá thoải

mái được trao cho bạn để cho bạn có thể cứ sống theo

cách bạn đang vậy. Thay đổi bản thân mình cần dũng

cảm. Các tu sĩ giúp bạn vẫn còn là kẻ hèn nhát. Bạn sợ

chết. Tu sĩ cứ vỗ về bạn, "Đừng lo. Linh hồn con là vĩnh

hằng." Và bạn chẳng có ý tưởng về linh hồn chút nào.

George Gurdjieff hay nói rằng rất hiếm khi bắt gặp

người có linh hồn. Người khác chỉ trống rỗng; không có

gì bên trong cả. Vâng, có tiềm năng để tạo ra linh hồn

trong mọi người, nhưng điều đó không phải là thực tại.

Bạn có thể là một linh hồn, bạn có thể trở thành một

phần của vĩnh hằng đấy, bạn có thể bất tử đấy, nhưng

điều đó chỉ là một khả năng. Nhiều công việc - công

việc vất vả, công việc gian nan - sẽ cần được làm để

biến nó thành thực tế, để hiện thực nó.

Nhưng các tu sĩ đã từng nói với bạn từ hàng thế kỉ

rằng bạn đã có linh hồn rồi. Chỉ thân thể chết đi còn linh

hồn tiếp tục cuộc hành hương vĩnh hằng của nó. Điều đó

an ủi bạn. Điều đó giữ cho bạn gắn lại, theo một nghĩa

nào đó. Bạn không trở nên quá sợ chết. Thực tế, nếu bạn

quá sợ chết thì sẽ là tốt hơn. Chính nỗi sợ đó bắt đầu

hướng dẫn bạn. Chính cú sốc đó có thể làm lẩy cò quá

trình biến đổi trong bạn.

Phật thường hay phái các đệ tử của mình tới xem

các xác chết được đem đi thiêu, để thiền ở đó, cứ quan

sát ngọn lửa ngốn dần cái xác. Và thế rồi đến cuối cùng

chẳng cái gì còn lại, chỉ vài cái xương và tro. Đây là thủ

tục thông thường của ông ấy - để cho các sannyasins

được đưa tới quan sát xác thiêu cháy, ít nhất là trong ba

tháng, để cho họ có thể cảm thấy thực tại của cái chết,

để cho thực tại đó của cái chết chìm sâu vào tim họ. Chỉ

điều đó mới có thể đánh thức được bạn dậy.

Nhưng các tu sĩ đang giúp, bằng việc cho bạn thuốc

an thần, để giữ bạn ngủ thoải mái nhất có thể được. Điều

đó đã từng là phục vụ của họ và chúng ta đã trả tiền cho

họ về phục vụ của họ. Họ dốt nát cũng như bạn, vô nhận

biết như bạn. Họ ở trong cùng tình huống như bạn ở: họ

cũng cần an ủi. Họ nhìn vào kinh sách để tìm an ủi. Họ

cứ đọc kinh sách, liên tục nhắc lại cùng kinh sách lặp đi

lặp lại mãi, bởi vì đó là cách người ta bị tự thôi miên. Tu

sĩ Ki tô giáo cứ đọc cùng Kinh Thánh đó lặp đi lặp lại

mãi, còn tu sĩ Hindu cứ trích dẫn Gita lặp đi lặp lại mãi.

Mọi ngày, mọi sáng ông ta đều trích dẫn cùng kinh sách.

Nó trở thành máy móc. Nó trở thành giống như chiếc

máy hát. Ông ta cứ lặp lại. Nó trở thành một phần kí ức

của ông ta mà chẳng có nghĩa gì, chẳng ý nghĩa gì. Ông

ta chỉ như con vẹt. Nhưng điều đó cho sự an ủi. Lặp đi

lặp lại chân lí nào đó làm thôi miên bạn.

Krishna nói: Khi thân thể chết, linh hồn không chết.

Bạn có thể thiêu thân xác, nhưng lửa không thể thiêu

linh hồn được. Na hanyate hanyamane shareere - ông có

thể giết chết thân thể, nhưng ông không thể giết chết tâm

linh, ông không thể giết chết linh hồn, bởi vì không mũi

tên nào có thể đạt tới nó được, không kiếm nào có thể

chém được nó. Nainam chhindanti shastrani, nainam

dahati pavakah - không vũ khí nào có thể chém được ta

không lửa nào có thể thiêu được ta. Cứ nhắc lại nó lặp đi

lặp lại mãi, hết năm nọ tới năm kia; bạn trở nên bị tự

thôi miên. Bạn bắt đầu tin vào nó, mặc dầu bạn chưa tạo

ra linh hồn nào cả.

Krishna đúng: linh hồn là vĩnh hằng - nhưng ngay

chỗ đầu tiên bạn phải có nó đã. Nó không có đó. Linh

hồn nghĩa là tâm thức, linh hồn nghĩa là tính được tích

hợp. Linh hồn nghĩa là bạn biết qua kinh nghiệm riêng

của mình rằng bạn không là thân thể và không là tâm trí.

Nó nảy sinh chỉ qua chứng kiến cơ chế thân tâm; nó

không được tạo ra bằng việc lặp lại. Lặp lại là thôi miên.

Nó được kinh nghiệm theo cách khác: bạn phải trở nên

được giải thôi miên, bạn phải trở thành không bị ước

định. Bạn phải quên đi mọi kinh sách và mọi tu sĩ và

bạn phải nhìn vào trong bản thân mình. Dù điều đó đáng

sợ thế nào, bạn vẫn phải đương đầu với lãnh thổ của

mình.

Tu sĩ giúp bạn vẫn còn ở chu vi. Họ dường như là

những người bạn lớn, nhưng tính đến cùng họ là kẻ thù

lớn nhất. Không phải Adolf Hitler và Joseph Stalin và

Mao Trạch Đông là kẻ thù thực của tôn giáo. Kẻ thù

thực là các tu sĩ, giáo hoàng, các shankaracharyas, và

vân vân, vân vân. Họ không biết điều họ đang làm. Làm

sao họ có thể giúp bạn được? Họ đơn giản cứ lặp lại

truyền thống, trao cho bạn những qui ước - qui ước cổ

đại, nhưng chết.

Bạn hỏi tôi, Veeresh, "Các tu sĩ không thể giúp theo

cách nào đó này khác sao?"

Vâng, họ có thể giúp chứ... nếu họ biến mất! Chúng

ta không cần họ nữa. Con người đã đến tuổi lớn rồi. Tất

cả những an ủi này đều không cần. Chúng ta cần những

người, người nổi dậy, không phải là các tu sĩ thường.

Chúng ta cần chư phật, người thức tỉnh để đánh thức bạn

dậy. Chúng ta cần chư phật, không phải các tu sĩ này

những người cứ cho bạn đồ chơi mới để chơi. Và họ đã

tạo ra những đồ chơi đẹp, không hoài nghi gì về điều đó.

Họ rất láu cá, tinh ranh. Hàng thế kỉ kinh nghiệm đằng

sau họ, cách khai thác nhân loại, cách khai thác điểm

yếu của nhân loại.

Nhưng nhớ lấy: họ không khác với bạn theo bất kì

cách nào khi có liên quan tới tâm thức. Có thể họ biết

nhiều hơn bạn biết, thông tin của họ nhiều hơn của bạn.

Đó là khác về lượng; đó không phải là khác biệt mà tạo

ra khác biệt. Khác về chất nào đó là cần có.

Và bị người mù dẫn đường là nguy hiểm. Họ đã phá

huỷ toàn thể cái đẹp của con người, họ đã phá huỷ tự do

của con người. Họ đã phá huỷ tất cả những cái có giá trị.

Họ đã để bạn bị như sa mạc, trống rỗng, vô nghĩa. Điều

đó được cảm thấy khắp trên thế giới. Tại sao mọi người

cảm thấy trống rỗng và vô nghĩa thế? Ai đã làm điều

này cho họ? Hàng thế kỉ của giới tu sĩ, của các tôn giáo

khác nhau, đã cho họ an ủi giả tạo. Tất cả những an ủi

giả tạo đó không còn áp dụng được nữa. Con người đã

trở thành người lớn. Cho trẻ con chơi đồ chơi thì tốt,

nhưng khi ai đó đã tới tuổi lớn và bạn cứ cho người đó

đồ chơi để chơi, người đó sẽ bắt đầu cảm thấy cuộc sống

là vô nghĩa. Người đó cần cái gì đó nhiều hơn; người đó

cần cái gì đó thực hơn.

Cẩn thận với việc người mù dẫn đường đấy!

Một thanh nữ, đúng hơn là một cô gái, đi tới giáo sĩ

địa phương. "Cha không biết con," cô ấy bắt đầu nghẹn

trong cổ họng, "nhưng con phải nói với ai đó. Cha thấy

đấy, con không có mẹ hay cha và con không biết mấy về

chuyện thế gian."

"Con không phải nói về thế giới khác," giáo sĩ nói.

"Ta hiểu rõ lắm. Đấy là chuyện đàn ông, đúng không?"

"Vâng, và anh ấy bao giờ cũng cố hôn con. Hôn,

hôn, hôn - đó là tất cả những gì anh ấy đã từng nghĩ tới."

"Con phải vững chãi," giáo sĩ nói một cách nghiêm

nghị. "Cái loại đàn ông đó con không cần. Bảo anh ta

con không cho phép cái loại như thế tiếp diễn."

Khi cô ấy ra về, giáo sĩ nói, "Tuần sau quay lại và

cho ta biết con đã làm thế nào."

Chắc chắn, cô gái quay lại sau một tuần, nhưng lần

này cô ấy thậm chí còn rối loạn hơn trước đây.

"Bây giờ có chuyện gì nào?" giáo sĩ hỏi.

"Con đã làm anh ta chấm dứt mọi trò hôn đó," cô trẻ

bất hạnh nói, "nhưng bây giờ - ồ, con không biết làm sao

đưa nó...."

"Nói, nói!" giáo sĩ thúc giục. "Với ta con chẳng có

gì phải xấu hổ cả."

"Anh ấy cố gắng sờ con bằng tay," cô ấy lắp bắp

trong ngượng ngùng.

Giáo sĩ dướn người trên ghế trong cơn giận chính

đáng. "Con bảo thằng cha mất dạy đó giữ bàn tay bẩn

thỉu cho chính nó!" giáo sĩ sủa lên. "Là cái thá gì mà đối

xử thế với một cô gái Do Thái đoan trang? Bảo nó chấm

dứt ngay, con nghe chưa?"

Nhưng khi cô ấy tới thăm giáo sĩ lần nữa cô ấy gần

như đầy nước mắt. "Con đã làm mọi thứ như cha nói,"

cô gái rền rĩ, "nhưng bây giờ anh ấy khăng khăng anh ấy

muốn ngủ với con."

"Cái gì!" giáo sĩ bị xúc phạm gào lên. "Ta chưa bao

giờ nghe nói về sự trơ tráo như thế trong cả đời ta. Con

về thẳng nhà đi và lần sau con gặp nó ta muốn con đá đít

nó ra khỏi nhà. Con hiểu không? ta ra lệnh cho con đấy!

Tống nó ra!"

Vài ngày sau cô ấy tới thăm giáo sĩ thêm một lần

nữa. Mắt cô ấy đỏ mọng và vì khóc và mặt cô ấy là bức

tranh của khổ sở.

"Con có làm như ta ra lệnh không?" giáo sĩ hỏi.

Cô ấy gật đầu, và vẫn nức nở, cô ấy nói qua nước

mắt, "Bây giờ anh ấy muốn li dị!"

Tu sĩ của bạn vô ý thức cũng như bạn, hay thậm chí

còn hơn. Họ thậm chí còn không nhận biết về tình

huống mà con người đang trải qua. Họ cứ đưa ra những

đơn thuốc cũ, chẳng còn liên quan gì nữa. Họ cứ cho

bạn lời khuyên lớn lao mà có thể đôi khi hữu dụng trong

quá khứ nhưng hoàn toàn ở ngoài hoàn cảnh trong tình

huống hiện tại.

Bạn không cần nhiều tu sĩ và sự giúp đỡ của họ. Bạn

cần vài người thức tỉnh trên thế giới. Bạn cần nhiều

thiền nhân hơn - không phải người trung gian. Các tu sĩ

đã từng là người trung gian giữa bạn và Thượng đế. Bạn

cần nhiều thiền nhân hơn, những người đi sâu hơn vào

trong bản thể của họ, người đã trở nên định tâm, người

biết im lặng bên trong, in lặng trong trắng và cái đẹp vô

cùng của nó. Họ sẽ giúp cho nhân loại, và họ sẽ không

giúp trực tiếp cho nhân loại đâu. Chính sự hiện diện của

họ sẽ toả ra những rung động mới mà có thể làm biến

đổi.

Người thực bao giờ cũng giúp mọi người một cách

gián tiếp. Người đó không hung hăng. Người đó không

chỉ huy bạn, "Làm cái này, không làm cái kia." Người

đó không phá huỷ tự do của bạn theo bất kì cách nào.

Người đó đơn giản sống cuộc sống của mình trong ánh

sáng người đó đã tìm thấy bên trong bản thân mình. Và

ở cùng người đó, cái gì đó xảy ra giữa bạn và người đó.

Thầy thực không bao giờ là tu sĩ. Và tôi chưa bao

giờ nghe nói về tu sĩ là thầy thực cả. Nếu bạn là thầy bạn

dừng là tu sĩ, và nếu bạn là tu sĩ thì bạn không thể nào là

thầy được. Tu sĩ thuộc vào ý thức hệ nào đó - Hindu

giáo, Ki tô giáo, Mô ha mét giáo. Thầy không thuộc vào

ý thức hệ nào cả. Thầy ý thức hơn, không thông thái

hơn. Thầy có nhiều hiện hữu hơn, không nhiều tri thức

hơn. Thầy có nhiều linh hồn hơn, không nhiều kí ức

hơn. Thầy có thể không biết kinh sách - bởi vì bản thân

thầy là kinh sách rồi! Và bạn sẽ không thấy thầy trong

đền chùa và tu viện hồi giáo và nhà thờ đâu.

Tôi đã nghe nói về một người da đen rất tôn giáo,

người muốn đi nhà thờ, nhưng chỉ có một nhà thờ trong

vùng lân cận mà lại thuộc về người da trắng.

Linh mục là một người tốt - vì các linh mục đều

được giả thiết là vậy. Một hôm khi người da đen tới gõ

cửa, linh mục bước ra. Linh mục bị lâm vào trạng thái

bối rối - liệu nói có với anh ta hay nói không. Nói có là

nguy hiểm bởi vì toàn thể giáo đoàn sẽ chống lại điều

đó. Đó là nhà thờ của người da trắng và không người da

đen nào được phép vào; đó là thoả thuận ngầm. Nhưng

làm sao nói không với con người đơn giản này, với đôi

mắt đẫm lệ và nói, "Tôi muốn vào và tôi muốn cầu

nguyện Jesus Christ"?

Nhưng các tu sĩ đều là người tinh ranh. Dù họ có thể

xuất hiện tốt thế nào trên bề mặt, sâu bên dưới họ đều

tinh ranh. Nếu họ không tinh ranh họ sẽ không ở trong

nghề tu sĩ được chút nào, bởi vì nghề đó còn tồi tệ hơn

nhiều so với bất kì nghề nào khác. Ngay cả gái mãi dâm

cũng còn tốt hơn tu sĩ! Ít nhất họ chỉ bán thân thể họ,

còn tu sĩ đang bán thậm chí cả linh hồn họ.

Linh mục này lập tức bịa ra một cách thức nào đó.

Ông ta nói, "Tốt, ông có thể tới, nhưng không ngay bây

giờ. Trước hết hãy làm thuần khiết bản thân mình đã,

chỉ thế thì lời cầu nguyện của ông mới được nghe."

Đó là chiến lược thủ đoạn. Không người da trắng

nào đã từng bị yêu cầu phải làm thuần khiết bản thân

mình trước hết, và thế rồi mới vào trong nhà thờ. Và ai

sẽ quyết định khi nào người này là thuần khiết đủ? Điều

đó sẽ tuỳ linh mục quyết định và ông ta bao giờ cũng cứ

nói, "Ông còn chưa đủ thuần khiết."

Người da đen quay lại. Ông ta thực sự trong chuyện

tình sâu sắc với Thượng đế; ông ta kêu và khóc, và ông

ta cố gắng theo đủ mọi cách có thể để không làm cái gì

sai, để tránh bất kì cái gì có thể làm cho ông ta thành

không thuần khiết. Trong ba tuần ông ta vẫn còn ở biệt

lập, nhịn ăn, cầu nguyện. Và sau ba tuần Thượng đế

xuất hiện cho ông ta: ước muốn của ông ta được hoàn

thành.

Sau kinh nghiệm đó ông ta đi tới nhà thờ. Linh mục

sợ lắm - người này lại tới, và ông ta có vầng hào quang

đẹp thế quanh mình tới mức linh mục rất sợ nói, "Ông

còn chưa thuần khiết." Thuần khiết của ông ta chói sáng;

nó giống như mặt trời lên trên đường chân trời. Điều đó

sáng tỏ tới mức phủ nhận nó sẽ là tội lỗi, và linh mục

này sợ.

Người này tới rất gần cửa ra vào, ngay bậc cửa,

đứng đó, cười to, quay lại và đi về nhà. Linh mục rất

phân vân tại sao ông ấy đã làm điều này. Ông ta chạy

theo ông này, giữ ông này lại và nói, "Sao ông đã làm

điều này? Sao ông không muốn vào nhà thờ?"

Ông ta nói, "Không, tôi không muốn vào nhà thờ.

Tôi vừa mới tới gặp ông và nhà thờ một lần nữa, bởi vì

đêm trước Thượng đế đã hiện ra và tôi đã hỏi ngài - khi

bản thân ngài có đó tôi đã hỏi ngài, 'Con có thể vào nhà

thờ được không? Bây giờ con thuần khiết đủ chưa?'

Thượng đế nói, 'Con thuần khiết rồi, còn thuần khiết

hơn bất kì ai khác đi vào trong nhà thờ đó, thuần khiết

hơn bản thân linh mục. Nhưng đừng đi vào nhà thờ đó.

Họ sẽ không cho phép con vào đâu. Ta biết điều đó từ

kinh nghiệm riêng của ta bởi vì ta đã cố đi vào trong nhà

thờ đó và họ không cho phép ta vào. Nếu họ không cho

phép ta vào trong nhà thờ đó, làm sao họ cho phép con

được? Con vứt toàn thể ý tưởng này đi. Bản thân ta đã

vứt bỏ nó rồi!'"

Nhà thờ của bạn, đền chùa của bạn là trống rỗng.

Chúng là những nấm mồ của tôn giáo. Tôn giáo không

nở hoa ở đó. Vâng, khi một Jesus còn sống có sự nở hoa

vĩ đại, khi Phật còn sống có sự nở hoa vĩ đại, nhưng

không trong đền chùa phật giáo, không trong nhà thờ Ki

tô giáo.

Tu sĩ là những người lấy ưu thế của người đã chứng

ngộ. Một khi người chứng ngộ đi rồi, rời khỏi thân thể

mình, các tu sĩ nhảy lên học thuyết của người đó, bắt

đầu việc kinh doanh lớn từ đó, bắt đầu đưa ra diễn giải

theo bản thân họ.

Ki tô giáo chẳng liên quan gì tới Christ, nhớ lấy, và

Phật giáo chẳng liên quan gì tới Phật, và Jaina giáo

chẳng liên quan gì tới Mahavira. Đó là điều kì lạ, nhưng

nó đã từng xảy ra một cách nhất quán. Không tôn giáo

nào có cái gì liên quan tới cội nguồn nguyên thuỷ. Thực

tế, người Ki tô giáo có tính phá huỷ thông điệp của

Christ hơn bất kì ai khác, và các linh mục là người lãnh

đạo của người Ki tô giáo. Họ không có mối quan hệ gì

với Christ - họ không thể có được. Họ sợ Christ. họ phải

sợ sâu bên dưới rằng nếu đôi khi họ bắt gặp Christ và

ông ấy hỏi, "Ông đã làm gì với thông điệp của ta?" làm

sao họ sẽ trả lời nó được?

Tôi đã nghe:

Có lần một cú điện thoại vang lên trong phòng của

giáo hoàng ở Vatican. Không có ai khác ở đó cho nên

đích thân giáo hoàng nhận cuộc gọi. Đó là lời gọi từ

New York, và vị tăng lữ cao nhất từ New York đang run

rẩy, giọng run lên. Ông ta nói, "Trông này! Nghe này!

Tin tôi đi - một người đã tới trong nhà thờ và ông ta

trông đích xác như Jesus Christ. Bây giờ tôi phải làm

gì?"

Giáo hoàng đắn đo về điều đó trong vài khoảnh

khắc và rồi nói, "Cứ có vẻ bận rộn vào!"

Còn làm gì khác được?

Tu sĩ đã chi phối nhân loại. Họ là các chính khách

của thế giới bên trong, cũng như chính khách là tu sĩ của

thế giới bên ngoài. Và có âm mưu giữa tu sĩ và chính

khách, hiểu biết lẫn nhau, phân công: "Ông cai quản con

người về phần tính chủ quan còn chúng tôi sẽ cai trị con

người từ bên ngoài của họ." Họ đã khai thác, áp bức. Họ

phá huỷ nhiều.

Và, Veeresh, bạn hỏi tôi, "Các tu sĩ có thể giúp cho

nhân loại theo cách này đó nào khác không?"

Cách duy nhất mà tôi có thể quan niệm được là ở

chỗ vì họ không được cần tới nữa, họ nên biến mất.

Điều đó sẽ là việc phục vụ lớn nhất của họ cho nhân

loại.

#2Câu hỏi thứ hai:

Thưa Thầy kính yêu,

Tôi cảm thấy sự thôi thúc về cách diễn đạt nghệ sĩ

và đã được đào tạo cổ điển, có kỉ luật về âm nhạc

phương tây. Thường tôi cảm thấy đào tạo này cầm

tù tính sáng tạo tự phát và tôi đã thấy rất khó thực

hành đều đặn về sau. Tôi không chắc thêm nữa về

cái gì là phẩm chất của nghệ thuật thực và theo quá

trình nào mà người nghệ sĩ tạo ra và chuyển giao

nghệ thuật đích thực. Làm sao tôi có thể cảm thấy

người nghệ sĩ trong mình?

Barbara Limberger, ngược đời của nghệ thuật là ở

chỗ đầu tiên bạn phải học kỉ luật của nó và thế rồi bạn

phải quên toàn bộ đi. Nếu bạn không biết ABC của nó

bạn sẽ không có khả năng đi rất sâu vào trong nó.

Nhưng nếu bạn chỉ biết kĩ thuật của nó và bạn cứ thực

hành kĩ thuật này cả đời mình thì bạn có thể rất giỏi về

kĩ thuật, nhưng bạn sẽ vẫn còn là nhà kĩ thuật; bạn

không bao giờ trở thành nghệ sĩ.

Trong Thiền họ nói, nếu bạn muốn là hoạ sĩ, trong

mười hai năm hãy học cách vẽ và thế rồi trong mười hai

năm quên tất cả về việc vẽ đi. Quên hoàn toàn - nó

chẳng liên quan gì tới bạn cả. Trong mười hai năm

thiền, chẻ củi, gánh nước từ giếng. Làm bất kì cái gì,

nhưng không vẽ.

Và thế rồi một hôm bạn sẽ có khả năng vẽ. Hai

mươi bốn năm huấn luyện: mười hai năm huấn luyện kĩ

thuật và mười hai năm huấn luyện quên kĩ thuật. Và thế

thì bạn có thể vẽ. Bây giờ kĩ thuật đã trở thành một phần

của bạn; nó không còn là tri thức kĩ thuật nữa, nó đã trở

thành một phần máu và xương và tuỷ bạn. Bây giờ bạn

có thể tự phát. Nó sẽ không cản trở bạn, nó sẽ không

cầm tù bạn. Đó đích xác là kinh nghiệm của tôi nữa.

Bây giờ đừng chỉ thực hành. Quên tất cả về âm nhạc

cổ điển đi. Làm các loại việc khác: làm vườn, điêu khắc,

vẽ tranh, nhưng quên về âm nhạc cổ điển đi, cứ dường

như nó không tồn tại chút nào. Trong vài năm để nó vẫn

còn ở sâu bên dưới trong bản thể bạn để cho nó trở nên

được tiêu hoá. Thế thì nó không còn là kĩ thuật nữa. Thế

thì một hôm nào đó một thôi thúc bất thần sẽ sở hữu bạn

- và thế rồi lại bắt đầu chơi nhạc. Và khi bạn lại bắt đầu

chơi, đừng bận tâm quá nhiều về kĩ thuật, bằng không

bạn sẽ không bao giờ tự phát được.

Mang tính canh tân thêm chút ít đi - đó là điều tính

sáng tạo là gì. Đổi cách thức mới, phương tiện mới. Thử

cái gì đó mới mà không ai đã từng làm. Tính sáng tạo

lớn nhất xảy ra trong những người có việc huấn luyện

thuộc về bộ môn khác nào đó.

Chẳng hạn, nếu nhà toán học bắt đầu chơi nhạc ông

ấy sẽ đem cái gì đó mới cho thế giới âm nhạc. Nếu nhạc

sĩ trở thành nhà toán học ông ấy sẽ đem cái gì đó mới

cho thế giới toán học. Tất cả sáng tạo vĩ đại đều xảy ra

qua những người đi từ bộ môn này sang bộ môn khác.

Nó giống như lai giống. Và đứa trẻ tới từ việc lai giống

thường mạnh khoẻ hơn, đẹp hơn nhiều.

Đó là lí do tại sao trong mọi nước trong hàng thế kỉ,

hôn nhân giữa anh em và chị em đã từng bị cấm; có lí do

trong việc đó. Hôn nhân là tốt hơn nếu nó xảy ra giữa

những người có quan hệ rất xa nhau hay có huyết thống

rất xa nhau. Sẽ là tốt nếu mọi người từ giống nòi này lấy

người ở giống nòi khác. Và nếu một ngày nào đó chúng

ta khám phá ra người ở hành tinh khác nào đó, cách tốt

nhất sẽ là lai giống giữa người trái đất và người ở hành

tinh khác. Thế thì các loại mới hơn, người mới hơn sẽ

tới trong sự tồn tại.

Điều cấm đoán, điều kiêng kị chống lại mối quan hệ

anh/chị, hôn nhân của họ, là có ý nghĩa, có ý nghĩa về

mặt khoa học. Nhưng người ta còn chưa làm việc chi tiết

tới cực điểm của nó, tới cực đoan logic của nó. Cực

đoan logic là ở chỗ không người Ấn Độ nào được lấy

người Ấn Độ khác, không người Đức nào được lấy

người Đức khác. Điều tốt nhất là ở chỗ người Đức lấy

người Ấn Độ, người Ấn Độ lấy người Nhật Bản, người

Nhật Bản lấy người da đen, người da đen lấy người Mĩ,

người Do Thái lấy người Ki tô giáo, người Ki tô giáo

lấy người Hindu, người Hindu lấy người Mô ha mét

giáo. Điều đó sẽ là điều tốt nhất. Điều đó sẽ nâng cao

tâm thức của toàn thể hành tinh này. Nó sẽ cho trẻ con

tốt hơn, tỉnh táo hơn, sống động hơn, phong phú hơn

theo mọi cách có thể.

Nhưng chúng ta ngu xuẩn tới mức chúng ta chẳng

thể làm được gì, chúng ta chẳng thể chấp nhận được gì.

Thế thì tôi nói gì đây...?

Chauncey, một thanh niên đẹp trai, gần như xinh

xắn, tha thiết nói với mẹ mình.

"Mẹ ơi, thời gian đã tới rồi - nó thực sự tới rồi - khi

con có cuộc nói chuyện tâm tình với Myron. Thành thực

về điều đó, mối quan hệ của chúng con đã nở hoa thành

- làm sao con nói được điều đó mà không có vẻ thiếu tế

nhị? - thế này, đã nở hoa thành cái gì đó đẹp và tốt và

thậm chí còn thiêng liêng. Sự thực là, mẹ yêu dấu, con

yêu Myron và Myron cũng yêu lại con. Chúng con

muốn lấy nhau sớm nhất có thể được và cả hai chúng

con đều hi vọng mẹ sẽ ban phước lành."

"Nhưng Chauncey này," người mẹ phản đối, "con có

nhận ra điều gì con đang nói không? Con có thể thành

thực trông đợi mẹ tha thứ cho cuộc hôn nhân như thế

sao? Mọi người sẽ nói gì? Bạn bè và hàng xóm chúng ta

sẽ nghĩ gì?"

"A, mẹ ơi, mẹ sẽ buồn đấy - con có thể cảm thấy

điều đó từ trong xương tuỷ. Và sau đó chúng con đã là

những người bạn tốt nữa. Con chưa bao giờ tin điều đó

từ mẹ - từ tất cả mọi người. Con chỉ có thể khóc!"

"Nhưng con ơi, con không thể đi ngược lại tục lệ

như thế này!"

"Thôi được, mẹ ơi, cứ để chúng con có điều đó được

công khai như những người văn minh. Đích xác và

chính xác mẹ hay bất kì ai khác có thể có phản đối nào

về việc Myron và con trở thành chồng và chồng?"

"Con biết hoàn toàn rõ tại sao mẹ phản đối: anh ta là

người Do Thái!"

Bà ấy không phản đối hôn nhân đồng dục; bà ấy

phản đối vì anh ta là người Do Thái. Mọi người chống

nhau nhiều thế. Họ đã bị ước định vì sự đối kháng này

lâu tới mức họ đã quên mất hoàn toàn rằng chúng ta tất

cả đều là con người, rằng chúng ta thuộc vào cùng trái

đất, cùng hành tinh.

Khoảng cách càng lớn giữa vợ và chồng, sản phẩm

của hôn nhân của họ sẽ càng tốt hơn.

Và cùng điều đó xảy ra trong âm nhạc, trong hội

hoạ, trong toán học, trong vật lí, trong hoá học: một loại

lai ghép. Bất kì khi nào một người chuyển từ bộ môn

này sang bộ môn khác người đó đều mang theo hương

vị của bộ môn của mình, mặc dầu bộ môn đó không thể

được thực hành. Bạn có thể làm được gì với âm nhạc khi

bạn đi vào trong vật lí? Bạn phải quên tất cả về nó,

nhưng nó vẫn còn lại trong bối cảnh. Nó đã trở thành

một phần của bạn; nó sẽ ảnh hưởng tới bất kì điều gì bạn

làm. Vật lí xa xôi thế, nhưng nếu bạn đã từng theo bộ

môn âm nhạc, chẳng chóng thì chầy bạn sẽ thấy các lí

thuyết, các giả thuyết, mà bằng cách nào đó có mầu sắc

và hương thơm của âm nhạc. Bạn có thể bắt đầu cảm

thấy rằng thế giới này là hài hoà - không phải hỗn độn

mà là trật tự. Bạn có thể bắt đầu cảm thấy, tìm vào các

cõi vật lí sâu hơn, rằng sự tồn tại là dàn nhạc giao

hưởng. Bây giờ, điều đó là không thể được với người

không biết gì về âm nhạc.

Nếu một vũ công đi vào trong âm nhạc người đó sẽ

đem cái gì đó mới, người đó sẽ đóng góp cái gì đó mới

cho âm nhạc.

Gợi ý của tôi là ở chỗ mọi người nên chuyển từ bộ

môn này sang bộ môn khác. Khi bạn trở nên quen với bộ

môn này, khi bạn trở nên bị giam cầm với kĩ thuật này,

thoát khỏi nó vào bộ môn khác. Chính ý tưởng hay, ý

tưởng lớn là chuyển từ môn này sang môn khác. Bạn sẽ

thấy bản thân mình trở nên ngày một sáng tạo hơn.

Một điều cần phải được ghi nhớ: nếu bạn thực sự

sáng tạo, bạn có thể không trở nên nổi tiếng. Người thực

sự sáng tạo cần thời gian để trở nên nổi tiếng bởi vì

người đó phải tạo ra giá trị - giá trị mới, tiêu chí mới, chỉ

thế thì người đó mới có thể được đánh giá. Người đó

phải đợi ít nhất năm mươi năm; đến lúc đó người đó

chết rồi. Chỉ thế thì mọi người mới bắt đầu đánh giá cao

người đó. Nếu bạn muốn có danh vọng, thế thì quên tất

cả về sáng tạo đi. Thế thì chỉ thực hành và thực hành

thôi, và cứ làm điều bạn đang làm một cách khéo léo

hơn, hoàn hảo về kĩ thuật hơn, và bạn sẽ nổi tiếng - bởi

vì mọi người hiểu điều đó; nó đã được chấp nhận.

Bất kì khi nào bạn đem cái gì đó mới vào trong thế

giới này bạn nhất định bị bác bỏ. Thế giới chưa bao giờ

tha thứ cho người đem cái gì mới vào thế giới. Người

sáng tạo nhất định bị thế giới trừng phạt, nhớ lấy điều

đó. Thế giới đánh giá cao người không sáng tạo nhưng

khéo léo, người hoàn hảo về kĩ thuật, bởi vì hoàn hảo về

kĩ thuật đơn giản nghĩa là hoàn hảo của quá khứ. Và mọi

người đều hiểu quá khứ, mọi người đã được giáo dục để

hiểu nó. Đem cái gì đó mới vào trong thế giới nghĩa là

không ai sẽ có khả năng đánh giá cao nó. Nó mới tới

mức không có tiêu chí nào để dựa vào đó mà nó có thể

được đánh giá. Vẫn chưa có phương pháp nào trong sự

tồn tại mà có thể giúp cho mọi người hiểu nó. Sẽ phải

mất ít nhất năm mươi năm hay hơn; người nghệ sĩ sẽ

chết. Đến lúc đó mọi người sẽ bắt đầu đánh giá cao nó.

Vincent van Gogh đã không được đánh giá cao

trong thời của ông ấy. Thậm chí một tranh cũng không

bán được. Bây giờ tranh của ông ấy được bán hàng triệu

đô la - và mọi người thậm chí không sẵn sàng chấp nhận

những bức tranh đó như món quà từ Vincent van Gogh -

vẫn cùng những bức tranh đó thôi. Ông ấy đã đem

chúng cho bạn bè, cho bất kì ai sẵn sàng treo chúng

trong phòng của họ. Chẳng ai sẵn sàng treo tranh của

ông ấy trong phòng mình bởi vì mọi người đều lo nghĩ.

Người khác sẽ hỏi, "Anh có điên hay cái gì không đấy?

Đây là loại tranh gì vậy?"

Vincent van Gogh có thế giới riêng của ông ấy. Ông

ấy đã đem vào tầm nhìn mới. Phải mất nhiều, nhiều thập

kỉ; dần dần, dần dần nhân loại mới bắt đầu cảm thấy

rằng cái gì đó có đấy. Nhân loại chậm chạp và lờ phờ;

nó tụt lại sau thời đại. Còn người sáng tạo bao giờ cũng

đi trước thời đại mình, do đó mới có lỗ hổng.

Cho nên, Barbara này, nếu bạn thực sự muốn có tính

sáng tạo bạn sẽ phải chấp nhận rằng bạn không thể nổi

tiếng được, bạn không thể nổi danh được. Nếu bạn thực

sự muốn sáng tạo, thế thì bạn phải học hiện tượng đơn

giản: nghệ thuật vị nghệ thuật, không vì động cơ khác.

Thế thì tận hưởng bất kì cái gì bạn đang làm đi. Nếu bạn

có thể tìm thấy vài người bạn để tận hưởng điều đó, tốt;

nếu không ai có đó để tận hưởng, thì tận hưởng nó một

mình. Nếu bạn đang tận hưởng nó, điều đó là đủ. Nếu

bạn cảm thấy được hoàn thành qua nó, điều đó là đủ.

Bạn hỏi tôi, "Tôi không chắc thêm nữa về cái gì là

phẩm chất của nghệ thuật."

Nghệ thuật thực nghĩa là: nếu nó giúp bạn trở nên

im lặng, tĩnh lặng, vui vẻ; nếu nó cho bạn lễ hội; nếu nó

làm cho bạn nhảy múa - liệu có người nào tham gia

cùng bạn hay không là không liên quan; nếu nó trở

thành cây cầu giữa bạn và Thượng đế - đó là nghệ thuật

thực. Nếu bạn trở nên bị hấp thu trong nó, bị hấp thu

toàn bộ tới mức bản ngã biến mất, đó là nghệ thuật thực.

Nghệ thuật thực tới rất gần tôn giáo. Cho nên đừng

lo nghĩ nghệ thuật thực là gì. Nếu bạn hân hoan trong

việc làm nó, nếu bạn cảm thấy mất hút trong việc làm

nó, đó là nghệ thuật thực. Và đừng bận tâm về điều các

nhà phê bình nói. Nhà phê bình không biết gì về nghệ

thuật đâu. Thực tế, người không thể trở thành nghệ sĩ

được thì trở thành nhà phê bình. Nếu bạn không thể

tham gia vào cuộc chạy đua, nếu bạn không thể là vận

động viên chạy Olympic, ít nhất bạn cũng có thể đứng

bên đường và ném đá vào người chạy khác; điều đó bạn

có thể làm dễ dàng.

Đó là điều các nhà phê bình cứ làm mãi. Họ không

thể là người tham gia, họ không thể sáng tạo ra được cái

gì.

Tôi đã nghe nói về một nhà huyền môn Sufi thích

vẽ, và tất cả các nhà phê bình thời ông ấy đều chống lại

ông ấy. Mọi người tới và chỉ cho ông ấy, "Điều này sai,

điều kia sai."

Ông ấy trở nên mệt mỏi với những người này, cho

nên một hôm, ngay trước nhà mình ông ấy treo mọi bức

vẽ của mình lên và ông ấy mời tất cả các nhà phê bình

tới và bảo họ tới mang theo cả chổi vẽ, mầu vẽ, để cho

họ có thể sửa bức tranh của ông ấy, bởi vì họ đã phê

bình đủ rồi; bây giờ là lúc để sửa.

Chẳng nhà phê bình nào tới cả. Phê bình thì dễ, sửa

mới khó. Và kể từ đó các nhà phê bình thôi không tới và

thôi không phê bình tranh ông ấy nữa. Ông ấy đã làm

điều đúng.

Những người không biết cách sáng tạo đều trở thành

nhà phê bình. Cho nên đừng lo nghĩ về họ. Điều quyết

định là cảm giác bên trong của bạn, nhiệt tình bên trong,

sự nồng ấm bên trong. Nếu làm nhạc cho bạn cảm giác

ấm áp, niềm vui nảy sinh trong bạn, bản ngã biến mất,

thế thì nó trở thành cây cầu giữa bạn và Thượng đế. Và

nghệ thuật có thể là điều có tính cầu nguyện nhất, điều

có tính thiền nhất có thể được. Nếu bạn có thể ở trong

bất kì nghệ thuật nào, âm nhạc, hội hoạ, điêu khắc, nhảy

múa, nếu bất kì nghệ thuật nào có thể thu hút bản thể

bạn, đó là cách tốt nhất để cầu nguyện, cách tốt nhất để

thiền. Thế thì bạn không cần thiền nào khác; đó là thiền

của bạn. Điều đó sẽ đưa bạn dần dần, từng bước một vào

trong Thượng đế. Cho nên đây là tiêu chí của tôi: nếu nó

dẫn bạn tới Thượng đế, nó là nghệ thuật thực, nghệ thuật

đích thực.

#2Câu hỏi thứ ba:

Thưa Thầy kính yêu,

Thầy nghĩ gì về cuộc sống sau cái chết?

Sargamo, tôi hoàn toàn đồng ý với Tristan Bernard,

nhà văn Pháp-Do Thái, người có lần đã hỏi cùng câu hỏi

này. Người ta hỏi ông ấy đã nghĩ gì về cuộc sống sau cái

chết. Ông ấy đáp, "Về khí hậu tôi thích cõi trời, nhưng

về bạn đồng hành tôi ưa thích địa ngục."

Câu hỏi thứ tư:

Thưa Thầy kính yêu,

Phải làm gì với sự dai dẳng của chống cự dường

như vô hạn, không phúc lạc?

Amit Prem, chấp nhận nó đi, đừng chống lại nó.

Đừng chống lại sự kháng cự. Đó là điều bạn đang làm.

Sự chống cự đầu tiên không phải là vấn đề chút nào; sự

chống cự thứ hai tạo ra vấn đề. Bạn đang chống lại sự

chống cự của mình. Khổ sở của bạn bị nhân lên không

cần thiết. Bạn vứt bỏ sự chống cự thứ hai và bạn sẽ ngạc

nhiên: nếu bạn vứt bỏ sự chống cự thứ hai, sự chống cự

thứ nhất sẽ bay hơi theo cách riêng của nó.

Jesus nói: Đừng chống lại quỉ. Một phát biểu rất kì

lạ... không người thức tỉnh nào khác đã đưa ra phát biểu

nổi dậy đến thế. Các linh mục Ki tô giáo, các nhà truyền

giáo, không nói về điều đó chút nào. Họ nói về những

điều khác, nhưng họ không nói về phát biểu kì lạ này:

Đừng chống lại quỉ. Dường như điều đó rất phi logic,

phi tôn giáo. Quỉ phải bị chống lại chứ - mà Jesus lại

nói: Đừng chống lại quỉ. Tại sao?

Có bí mật trong đó. Nếu bạn chống quỉ, bạn cho nó

năng lượng. Mọi chống đối đều đem năng lượng cho cái

bị chống đối. "Đừng chống lại quỉ" nghĩa là nếu bạn

không chống lại nó, nó sẽ mất đi theo cách riêng của nó

bởi vì bạn sẽ không nuôi dưỡng nó bằng năng lượng của

bạn; bạn được ngắt ra ngay lập tức.

Amit Prem, bạn nói, "Phải làm gì với sự dai dẳng

của chống cự dường như vô hạn, không phúc lạc?"

Chẳng phải làm cái gì cả. Nếu bạn làm bất kì cái gì

bạn sẽ tạo ra sự chống cự này ngày một nhiều hơn; đó là

cách bạn đã làm nó thành vô hạn. Nó không vô hạn. Chỉ

Thượng đế mới là vô hạn, không cái gì khác. Làm sao

chống cự của bạn có thể vô hạn được? Nhưng bạn đang

làm cho nó thành vô hạn bởi vì bạn đang rót năng lượng

của mình vào trong nó. Bạn đang cố gắng chống lại nó,

tranh đấu với nó, kìm nén nó theo cách tinh tế - cho nên

nó cứ tới đi tới lại mãi.

Gợi ý của tôi là: Chấp nhận nó, và thế rồi xem điều

gì xảy ra. Bất kì cái gì xảy ra cũng đều tốt. Lúc ban đầu

bạn sợ chấp nhận nó. Lúc ban đầu bạn sẽ nghĩ, "Nếu

mình chấp nhận nó thì mình sẽ phải theo nó." Không,

điều đó không phải là chân lí. Nếu bạn chấp nhận nó

toàn bộ bạn sẽ thấy nó chết ngay lập tức - bạn đã chặt

chính gốc rễ. Đó là điều Jesus ngụ ý. Ông ấy muốn tiêu

diệt quỉ toàn bộ; do đó ông ấy nói: Đừng chống lại quỉ.

Nếu ông chống lại ông sẽ cứ nuôi dưỡng nó.

Sự chống cự đầu tiên không bao giờ là vấn đề, sự

chống cự thứ hai mới là vấn đề. Và bạn không thể làm

được gì về điều thứ nhất; bạn có thể làm cái gì đó chỉ

với điều thứ hai, bởi vì cái đó là của bạn. Cái gì có thể

được làm? Nếu chống cự có đó thì nó có đó - chào

mừng nó đi, chấp nhận nó đi. Nhưng bạn đang làm điều

đó theo nhiều cách.

Amit Prem viết thư cho tôi: "Tôi cảm thấy rất buồn,

tôi cảm thấy rất khổ, chán nản. Tôi chịu đựng chứng

phức cảm kém cỏi." Khi tôi đọc thư anh ấy trong đó anh

ấy nói về nỗi khổ của mình về phức cảm tự ti tôi chợt

nhớ tới một chính khách vừa mới trải qua cuộc phân

tâm....

Sau ba năm dành cho một công trình phân tâm lớn,

nhà phân tâm rạng rỡ với niềm vui một hôm đón chào

một chính khách, và ông này nói, "Vào đi. Tôi đã tìm ra

mọi thứ. Bây giờ không cần phân tâm nào thêm nữa.

Vấn đề của ông được giải quyết rồi!"

Chính khách này cũng sung sướng. Ông ta nói,

"Ông đã tìm ra giải pháp nào?"

Và nhà phân tâm nói, "Ông không chịu phức cảm

kém cỏi đâu - ông đơn giản là kẻ kém cỏi rồi, cho nên

không có vấn đề gì cả!"

Đây là việc chấp nhận. Amit Prem này, bạn đơn

giản là kẻ kém cỏi - chấp nhận điều đó đi! Bạn chịu

đựng phức cảm kém cỏi bởi vì có ham muốn lớn để là

siêu phàm. Ham muốn đó về siêu phàm tạo ra việc đánh

thức sự chịu đựng phức cảm kém cỏi. Chấp nhận nó đi.

Tôi kém cỏi - nhìn tôi mà xem! Bạn không thể nào

kém cỏi hơn tôi được. Tôi bình thường thế! Tôi không

thể làm phép màu nào, tôi không thể bước đi trên nước

được. Tôi phải chịu phức cảm kém cỏi - bởi vì Jesus đã

bước đi trên nước. Bạn thấy tôi bình thường làm sao!

Nhưng tôi phúc lạc thế bởi vì tôi cứ nói, "Vậy thì sao?"

tôi không thể bước đi trên nước được, điều đó là đúng.

Tôi không tạo ra vấn đề từ nó. Bạn có thể làm ra vấn đề

từ bất kì cái gì.

Tôi đã nghe:

Khi Moses tới từ Ai Cập và kẻ thù theo sát gót ông

ấy và họ tới gần biển, bây giờ có vấn đề: Phải làm gì?

Biển là rào chắn và kẻ thù đang gần tới. Họ đang mỗi

khoảnh khắc một gần hơn.

Và thế rồi bỗng nhiên phép màu xảy ra: biển bị chia

thành hai phần. Những cột nước khổng lồ ở cả hai phía

và con đường nhỏ....

Moses nhìn lên trời và nói, "Lạy trời, mỗi một điều

con phải hỏi ngài thôi. Tại sao bao giờ con cũng là

người đầu tiên? Bây giờ con phải đi vào trong nguy

hiểm này! Tại sao con bao giờ cũng phải là người đầu

tiên?"

Bạn thậm chí có thể phàn nàn về phép màu của

mình - còn tôi không phàn nàn ngay cả về sự bình

thường của tôi.

Golda Meir, cựu thủ tướng Israel, thường nói đi nói

lại, "Tôi không thể tha thứ cho Moses được. Trong bốn

mươi năm ông ấy đã dẫn người của chúng ta vào sa

mạc, và ông ấy đã tìm ra Israel - chỗ duy nhất không có

dầu! Tôi không thể tha thứ cho con người này được. Và

ông ấy đã đi qua nhiều chỗ có dầu."

Amit Prem, đơn giản chấp nhận cách bạn đang vậy

đi. Bạn không thể là bất kì ai khác được. Bởi vì bạn

đang cố gắng là ai đó khác, điều đó tạo ra rắc rối.

Anh ấy viết cho tôi, "Tôi muốn là người bên trong

trong đạo tràng, và tôi vẫn còn ở ngoại vi." Vậy cái gì

sai với việc ở ngoại vi? Tôi thậm chí còn không ở ngoại

vi! Bạn ít nhất cũng còn ở ngoại vi. Bất kì khi nào bạn

hiện hữu, tận hưởng điều đó đi. Nếu bạn trở nên quen

thuộc với việc tạo ra khổ sở cho bản thân mình, cho dù

bạn ở chính trung tâm bạn vẫn sẽ khổ. Bạn sẽ nói, "Trời

ơi, sao tôi bao giờ cũng phải ở trung tâm và mang toàn

thể trách nhiệm thế này?"

Tôi nói, tôi không ở trung tâm bởi vì tôi không

mang trách nhiện nào cả. Bạn sẽ không tìm thấy người

nào vô trách nhiệm trên toàn thế giới hơn tôi đâu. Tôi

không có trách nhiệm chút nào. Ngay cả ở ngoại vi bạn

cũng có trách nhiệm nào đó. Ngay cả người gác ở cổng

cũng có trách nhiệm nào đó.

Học tận hưởng ở bất kì chỗ nào bạn ở và bất kì cái

gì bạn đang là. Đừng làm nhặng sị lên về nó. Nếu có

chống cự điều đó là tự nhiên, bởi vì toàn thế quá trình

này là về buông bỏ. Tính chất sannyas là buông bỏ.

Chống cự là tự nhiên. Cho nên chấp nhận nó đi, và qua

việc chấp nhận nó sẽ chết cái chết tự nhiên

#2Câu hỏi thứ năm:

Thưa Thầy kính yêu,

Thầy có chống phong trào giải phóng phụ nữ

không?

Shakti, tôi không chống phụ nữ, tôi ủng hộ tất cả

cho họ. Nhưng phong trào giải phóng phụ nữ là cái gì đó

xấu xí - và tôi biết trách nhiệm thuộc về tính gia trưởng

nam. Họ đã làm nhiều điều hại cho đàn bà qua nhiều

thời đại tới mức bây giờ đàn bà muốn trả thù. Nhưng bất

kì khi nào bạn bắt đầu trả thù bạn đều trở nên có tính

phá huỷ. Phong trào này vẫn đang trong pha phá huỷ; nó

đã không trở thành sáng tạo Và tôi chống lại tính phá

huỷ.

Cứ nhìn mãi vào vết thương quá khứ chẳng hữu

dụng gì. Trả thù vì quá khứ cũng không hữu dụng.

Người ta phải học tha thứ và quên đi. Vâng, điều đó đã

là sai rồi - chấp nhận nó đi. Bất kì cái gì đã từng được

làm cho đàn bà từ nhiều thời đại đều tuyệt đối sai. Đàn

ông đã khai thác họ. Đàn ông đã từng rất tàn bạo, rất con

vật. Đàn ông đã làm đàn bà thành nô lệ; thậm chí còn

hơn thế, anh ta đã làm họ thành đồ vật, thành thứ sở

hữu. Nhưng phỏng có ích gì mà trả thù? Thế thì bạn trở

thành kẻ đuổi và đàn ông trở thành kẻ bị đuổi. Thế thì

một loại gia trưởng khác bắt đầu hình thành. Thế thì gia

trưởng nữ được sinh ra. Và điều này sẽ không đưa mọi

sự về đúng. Thế thì đàn bà sẽ bắt đầu gây hại cho đàn

ông, và chẳng chóng thì chầy họ sẽ trả thù. Điều này sẽ

chấm dứt ở đâu? Nó là cái vòng luẩn quẩn.

Và cảm giác của tôi là ở chỗ thay vì đàn ông dừng

nó lại, để đàn bà dừng nó lại còn dễ dàng hơn nhiều, để

bước ra khỏi cái vòng luẩn quẩn này - bởi vì họ đang

ngày một đáng yêu hơn, từ bi hơn. Đàn ông hùng hổ

hơn, bạo hành hơn. Tôi không có mấy hi vọng vào đàn

ông, tôi hi vọng nhiều vào đàn bà. Do đó tôi không thiên

về thái độ hung hăng và cách tiếp cận của phong trào

giải phóng phụ nữ.

Bà Farid tự trình diện ở cổng cõi trời và run rẩy gõ

cửa.

"Thưa bà," Cha Abraham nói, nhìn đầy nghi ngờ

qua lỗ nhỏ, "bà từ đâu tới đây?"

"Tôi tới từ Flatbush," bà Farid đáp với vẻ bối rối,

khi những giọt mồ hôi lớn túa ra trên trán thiêng liêng

của bà ấy.

"Đừng lo, con gái của ta," lão trượng đáp lại một

cách từ bi. "Vĩnh hằng là thời gian dài; con có thể sống

xuôi theo đó."

"Thưa ngài, con có cái gì đó để thú tội," bà ấy tiếp

tục, hiển nhiên là lo nghĩ.

"Trong tôn giáo của chúng ta, chúng ta không có thú

tội."

"Nhưng việc này khác. Nếu ngài nhìn vào bản ghi

của ngài, ngài sẽ thấy rằng có thể con không thuộc vào

đây. Con - con - thế này - con đã đầu độc chồng con và

băm nhỏ em chồng. Mà không chỉ có thế, con...."

Cha Abraham bỗng nhiên trở nên nghiêm nghị.

"Hành vi ngông cuồng của bà quả thực tạo ra vấn đề,

thưa bà. Bà có phải là thành viên của phong trào giải

phóng phụ nữ không?"

"Không."

Ngọc môn và thạch cao tuyết hoa chuyển động nhịp

nhàng mở ra bản lề vàng, tạo ra âm nhạc say đắm nhất,

và trưởng lão cúi mình xuống.

"Xin mời vào nơi nghỉ vĩnh hằng của bà."

Nhưng bà Farid ngần ngại. "Đầu độc, băm vằm,

thế... thế...." bà ấy lẩm bẩm.

"Không có hậu quả gì đâu, tôi đảm bảo cho bà đấy.

Chúng tôi sẽ không khó dễ với quí bà đã không thuộc

vào phong trào phụ nữ. Cầm đàn hạc đi."

"Nhưng tôi đã xin làm thành viên rồi. Họ không cho

tôi vào."

"Cầm hai đàn hạc."

Đừng lo, Shakti. Có nhiều đàn bà ở đây đã từng

thuộc vào phong trào giải phóng phụ nữ. Nhưng khi họ

tới gần tôi hơn, thái độ của họ đã thay đổi, cách tiếp cận

của họ đã thay đổi. Những vấn đề của cuộc sống chỉ có

thể được giải quyết bằng tình yêu, chúng không thể

được giải quyết bằng bất kì cách tiếp cận bạo hành nào.

Đàn ông và đàn bà là những thế giới khác nhau; do

đó khó mà hiểu được nhau. Và quá khứ đã đầy những

hiểu lầm, nhưng điều đó không cần phải như vậy trong

tương lai. Chúng ta có thể học bài học từ quá khứ, và bài

học duy nhất là ở chỗ đàn ông và đàn bà phải trở nên

hiểu biết lẫn nhau nhiều hơn và chấp nhận sự khác biệt

của nhau nhiều hơn. Những khác biệt đó là có giá trị,

chúng không cần tạo ra xung đột nào; thực tế, chúng là

nguyên nhân của hấp dẫn giữa họ. Nếu mọi khác biệt

giữa đàn ông và đàn bà biến mất, nếu họ có cùng loại

tâm lí, tình yêu cũng sẽ biến mất bởi vì cực không có đó.

Đàn ông và đàn bà giống như các cực âm và dương của

điện: chúng hút lẫn nhau về mặt từ; chúng là các cực đối

lập. Do đó, xung đột là tự nhiên. Nhưng qua hiểu biết,

qua từ bi, qua tình yêu, qua việc nhìn vào thế giới của

người khác và cố gắng thông cảm với nó, mọi vấn đề có

thể được giải quyết. Không cần tạo ra nhiều xung đột

hơn - thế là đủ rồi.

Đàn ông cần nhiều giải phóng như đàn bà. Cả hai

đều cần giải phóng - giải phóng khỏi tâm trí. Họ nên

cộng tác với nhau và giúp đỡ lẫn nhau để được giải

phóng khỏi tâm trí. Đó sẽ là phong trào giải phóng thực.

Đó là điều tính chất sannyas tất cả là gì.

#2Câu hỏi cuối cùng:

Thưa Thầy kính yêu,

Thầy có phải là Thượng đế Đấng sáng tạo không?

Sudheer, bạn nghĩ tôi điên chắc?

Trong gần một năm, ông Sulzberg đã từng thường

xuyên lúng túng với gia đình mình. Ông ấy dựng một

chiếc bục ở góc phố và tự tuyên bố mình là đấng cứu

thế. Thế rồi ông ấy tiến hành diễn thuyết cho đám đông

hiếu kì tụ tập lại, tung ra những lời cảnh báo và huấn thị

dữ dội, nhắc nhở họ về những hậu quả khốc liệt của

cách sống ác độc của họ. Trong bộ áo choàng trắng mà

ông ấy đã tạo ra từ ga trải giường, và với bộ râu bạc

chảy dài, ông ấy quả thực trông như một giáo trưởng

kinh thánh.

Ảo tưởng của ông già Sulzberg cứ ngày càng tồi tệ

dần, và chung cuộc con trai và con gái của ông ấy và các

con cháu mới lớn tổ chức cuộc họp và ngần ngại đồng ý

đưa ông ấy tới tổ chức từ thiện. Ở đó, họ hi vọng, được

trị liệu đúng, ông ấy có thể phục hồi lành mạnh và rồi

trở về nhà.

Tại Nhà Li băng Cedars dành cho người bị rối loạn

tinh thần, "đấng cứu thế" lại nổi tiếng với các bệnh nhân

bạn bè. Đến lúc đó, tức là, ông ấy đã phạm sai lầm thúc

đẩy họ bỏ cách thức phi thượng đế của họ.

"Ta là Moses hoá thân đây," ông ta gầm lên như sấm

như nhà tiên tri thời xưa. "Ta là đấng cứu thế!"

"Ồ thế à?" một trong các bệnh nhân la lên. "Ai nói

thế?"

"Ta sẽ nói cho các ông ai nói thế," ông Sulzbergbiến

thành đấng cứu thế nói. "Thượng đế nói thế!"

Và từ nhóm bệnh nhân bên ngoài hơn một giọng nói

phẫn nộ vang lên: "Ta không nói thế!"

Đủ cho hôm nay.

****************************************************************************************************************

#3Thiền yêu cầu dũng cảm

Không phải sắt cầm tù ông

Không phải dây thừng không phải gỗ,

mà hoan lạc ông nhận trong vàng và đá quí,

trong con và vợ.

Cái mềm trói buộc,

vậy mà chúng kìm ông xuống.

Ông có thể chộp chúng được không?

Có những người có thể chộp,

người buông xuôi thế giới,

vì ham muốn, và đi theo đạo.

Ôi nô lệ của ham muốn,

nổi trên dòng suối.

Nhện nhỏ, bám vào mạng nhện của ông.

hay khác đi, từ bỏ buồn khổ của ông vì đạo.

Bỏ hôm qua, và ngày mai,

và hôm nay.

Đi ngang qua bến bờ xa hơn,

bên ngoài sống và chết.

Ý nghĩ có gây rắc rối cho ông không?

Đam mê có quấy nhiễu ông không?

Cẩn thận về những khao khát này

Sợ rằng ước muốn của ông trở thành ham muốn

và ham muốn làm mù ông.

Thông điệp nền tảng nhất của Phật Gautama là

không có Thượng đế, không có linh hồn... đó là tự do: tự

do tuyệt đối, toàn bộ, vô điều kiện. Ông ấy không muốn

cho bạn ý thức hệ, bởi vì mọi ý thức hệ đều tạo ra sự nô

lệ của riêng nó. Ông ấy không muốn cho bạn tôn giáo,

bởi vì tôn giáo trói buộc bạn. Đó đích xác là nghĩa tiếng

Anh của từ 'tôn giáo' - điều trói buộc bạn lại. Tôn giáo là

tù túng, rất tinh vi, tinh vi tới mức chừng nào bạn còn

chưa rất nhận biết bạn sẽ không có khả năng thấy điều

đó. Ông ấy không muốn cho bạn triết lí về cuộc sống,

bởi vì bất kì triết lí nào được ai đó khác trao cho bạn đều

sẽ giam cầm bạn. Bạn phải sống tương ứng theo ánh

sáng riêng của mình, không theo ánh sáng của ai đó

khác.

Toàn thế giới đầy những nô lệ bởi lẽ đơn giản là mọi

người đang sống theo ai đó khác. Ai đó đang sống theo

Jesus, ai đó đang sống theo Mahavira, ai đó đang sống

theo Krishna, ai đó khác đang sống thậm chí theo cả

Phật.

Phật nói: Hãy là ánh sáng lên chính mình. Chừng

nào bạn còn chưa tạo ra ánh sáng bên trong bản thể

mình bạn sẽ vẫn còn là nô lệ, bạn sẽ bị chi phối. Và có

những tu sĩ xảo quyệt, tinh ranh, rất láu cá, rất phàm tục;

và họ biết, họ rất có kinh nghiệm trong việc tạo ra tù

túng mới cho bạn. Nếu bạn thoát khỏi nhà tù này, họ lập

tức tạo ra nhà tù khác. Họ rất láu cá với lời. Họ cứ diễn

giải lời nói theo cách tinh vi mà bạn sẽ không bao giờ có

khả năng hiểu được, làm sao những lời này của chư phật

lại bị thao túng, bóp méo. Lời đáng được ngụ ý cho bạn

tự do đã bị làm thành xiềng xích.

Nhưng con người rất vô nhận biết; do đó con người

cứ còn là nạn nhân - nạn nhân của đủ mọi loại khai thác

tâm lí.

Phật dạy bạn tự do là mục đích tối thượng, summum

bonum, điều tốt lành nhất. Mọi giá trị khác đều là sản

phẩm phụ của tự do; chúng theo sau tự do như hậu quả.

Jesus nói: Trước hết ông hãy tìm vương quốc của

Thượng đế, thế rồi tất cả các cái khác sẽ được thêm vào

cho ông. Phật sẽ không nói điều đó. Ông ấy sẽ nói:

Trước hết ông hãy toàn bộ và tự do tuyệt đối, và thế rồi

tất cả các thứ khác sẽ được thêm vào ông. Nếu ông tìm

Thượng đế ông lại đi tìm nhà tù mới, có thể tốt hơn nhà

tù cũ, có thể bằng vàng, rất quí - nhưng nhà tù vẫn là

nhà tù thôi. Dù xiềng xích của bạn được làm bằng sắt

hay vàng, điều đó chẳng tạo ra khác biệt chút nào. Thực

tế, nếu xiềng xích được làm bằng vàng thì sẽ khó thoát

khỏi chúng hơn nhiều bởi vì bạn sẽ trở nên bị gắn bó.

Bạn sẽ nghĩ xiềng xích đó không phải là xiềng xích mà

là đồ trang sức. Bạn sẽ bảo vệ chúng, bạn sẽ canh giữ

chúng - ai đó có thể đánh cắp chúng từ bạn!

Tự do là hương thơm của toàn thể thông điệp của

Phật. Không người chứng ngộ nào khác đã từng nhấn

mạnh tới tự do nhiều như vậy. Tại sao Phật nhấn mạnh

vào tự do nhiều thế? - bởi lẽ đơn giản là ông ấy đã thấy

tất cả các lí tưởng khác đều bị đổi thành tù túng. Ông ấy

đã thấy tất cả những triết lí đẹp đẽ đều bị các tu sĩ đầu

độc. Cảnh giác với tu sĩ!

Phật không phải là tu sĩ, mà Jesus cũng không,

Mahavira cũng không. Không người chứng ngộ nào là

tu sĩ cả. Tu sĩ sống theo lời của người chứng ngộ và khai

thác những người chưa chứng ngộ. Ông ta chắc chắn láu

cá nhưng không khôn ngoan, thông thái nhưng không

chứng ngộ. Ông ta thành công trong thao túng bạn bởi vì

bạn vô ý thức.

Do đó, điều thứ hai Phật nhấn mạnh là thiền, nhận

biết. Tự do có thể tới chỉ qua việc ngày càng nhiều nhận

biết hơn. Với tự do ông ấy không ngụ ý hiện tượng xã

hội nào hay thay đổi chính trị nào. Có những người...

Tôi đã bắt gặp những cuốn sách do người cộng sản,

người Mác xít, người xã hội viết ra, những người cố

gắng chứng minh rằng tự do của Phật nghĩa là chủ nghĩa

cộng sản, chủ nghĩa xã hội, rằng tự do của ông ấy nghĩa

là cách mạng xã hội, cách mạng chính trị. Điều đó là

hoàn toàn vô nghĩa! Phật chẳng liên quan gì tới thế giới

bên ngoài; mối quan tâm của ông ấy là nội tâm của bạn.

Ông ấy muốn thay đổi vô ý thức của bạn thành có ý

thức, ông ấy muốn thay đổi bóng tối của bạn thành ánh

sáng, ông ấy muốn thay đổi hữu tử của bạn thành cái bất

tử.

Ông ấy thực sự làm công việc của nhà tiên tri của

Upanishads người đã cầu nguyện Thượng đế, "asato ma

sadgamay. Hỡi Thượng đế, hỡi Trời, xin đem chúng con

xa khỏi cái giả dối, khỏi cái không thật, để tới chân lí.

tamaso ma jyotirgamay. Hỡi Thượng đế, hỡi Trời, hãy

đưa chúng con xa khỏi bóng tối vào trong ánh sáng.

Mrityor ma amritamgamay. Hỡi Thượng đế, hỡi Trời,

hãy đưa chúng con xa khỏi cái chết tới cuộc sống vĩnh

hằng." Nhưng họ đã cầu nguyện Thượng đế.

Phật nói: Không lời cầu nguyện nào sẽ có ích.

Chừng nào bạn còn chưa làm điều gì đó, lời cầu nguyện

của bạn là bất lực. Không cần cầu nguyện, nhưng có nhu

cầu lớn để thiền. Tôn giáo của ông ấy không phải là tôn

giáo của lời cầu nguyện. Tôn giáo của ông ấy là rất khoa

học theo nghĩa ông ấy không giả định bất kì niềm tin

nào. Bạn không cần tin vào Thượng đế, bạn không cần

tin vào kiếp sau. Ông ấy nói khi bạn có thể kinh nghiệm,

thế thì sao lại tin? Mọi niềm tin chung cuộc đều thu bạn

thành nô lệ.

Phật chống lại mọi loại tin và không tin. Ông ấy là

người theo thuyết bất khả tri. Ông ấy nói cứ còn cởi mở

đi; nếu bạn tin bạn trở nên bị đóng. Người Hindu bị

đóng, người Mô ha mét giáo bị đóng, người Ki tô giáo

bị đóng: họ đã kết luận rồi. Họ đã chấp nhận niềm tin

nào đó là đúng mà không kinh nghiệm nó. Đây là không

trung thực! Và những người này được coi là người tôn

giáo đấy. Họ thậm chí không đích thực, họ thậm chí

không thật thà - nói gì về tính tôn giáo của họ? Từ chính

lúc ban đầu họ đã không trung thực rồi; đức tin làm cho

bạn thành không trung thực.

Chính quá trình tin là tin vào cái gì đó mà bạn đã

không kinh nghiệm theo cách riêng của mình. Làm sao

bạn có thể tin được nếu bạn chân thành? Nếu việc tìm

kiếm chân lí của bạn là đích thực bạn không thể tin

được; bạn không thể không tin được nữa. Bạn không thể

nói có Thượng đế, bạn không thể nói không có Thượng

đế. Bạn chỉ có thể nói, "Tôi không biết và tôi đang tìm

và tôi đang kiếm và tôi đang kinh nghiệm và tôi đang

thử kinh nghiệm."

Đó là cách thức của thiền.

Lời cầu nguyện yêu cầu tin như một giả định trước;

không có tin thì không có khả năng nào cho lời cầu

nguyện. Bạn sẽ cầu nguyện ai? Bạn sẽ gửi lời cầu

nguyện của mình tới ai? - tới Thượng đế nào đó mà bạn

đã chấp nhận bởi vì điều đó đã được bảo cho bạn từ thời

ấu thơ, bạn đã bị thôi miên.

Mọi niềm tin đều không là gì ngoài thôi miên.

Người này bị thôi miên là người Hindu, người kia bị

thôi miên là người Mô ha mét giáo; cả hai đều sống

trong một loại giấc ngủ say. Thôi miên nghĩa là ngủ;

chính từ này nghĩa là ngủ. Bạn đã bị cho nhiều chất độc

thế, dần dần, dần dần qua niềm tin mà bạn đã rơi vào

giấc ngủ. Bạn không còn nhận biết điều mình đang làm,

tại sao mình làm. Tại sao bạn đi đến đền chùa? Tại sao

bạn cúi lạy tượng đá? Tại sao bạn trích dẫn cái gì đó vô

nghĩa? Tại sao bạn đi tới Kaaba hay Kashi hay Girnar?

Để làm gì? Có cái gì đó tiên nghiệm. Bạn đã tin vào

điều tôn giáo là gì, mà không kinh nghiệm, không truy

tìm.

Đây là cách thức của kẻ hèn nhát, đây là cách thức

của người sống dở chết dở.

Thiền yêu cầu dũng cảm. Nó yêu cầu tính toàn vẹn,

chân thành, kính trọng với bản thể riêng của bạn. Ít nhất

đừng tự lừa dối mình.

Phật nói: Để kinh nghiệm của ông quyết định. Nếu

điều này được hiểu bạn nhất định đi tới thiền thay vì lời

cầu nguyện. Thế thì thiền sẽ đem lại lời cầu nguyện của

riêng nó - tính cầu nguyện thì đúng hơn. Bạn sẽ không

cầu nguyện nhưng bạn sẽ trong lời cầu nguyện, bởi vì

bạn càng trở nên im lặng hơn, bạn sẽ càng trở nên tĩnh

lặng hơn. Bạn càng kinh nghiệm sự hiện diện, sự hiện

diện bí ẩn càng tràn ngập mọi thứ, thấm vào mọi thứ.

Bạn có thể thích gọi nó là Thượng đế, bạn có thể không

thích gọi nó là Thượng đế; chẳng thành vấn đề bạn gọi

nó là gì. Bạn có thể không thích gọi nó là cái gì cả; bạn

có thể im lặng về nó, bởi vì đó là thứ thích hợp nhất để

làm. Nó không thể được đặt vào lời nào; không lời nào

là đủ thích hợp để diễn đạt nó.

Nhưng Phật đã không được ai nghe. Nhân loại vẫn

còn trong cách cũ kĩ của nó, như người sống dở chết dở,

theo cách ngủ. Nó vẫn còn bị thôi miên, vô ý thức.

Howard Rabinowitz, một anh chàng thanh niên lực

lưỡng, như đá granit, cực kì hung hăng, đang uống rượu

whisky trong quán rượu thì anh ta nghe công bố về cuộc

chiến sáu ngày qua radio. Tràn đầy xúc động và lên cơn

sốt Do Thái, anh ta chạy xô ra sân bay và đáp chuyến

bay đầu tiên tới Israel nơi anh ta lập tức gia nhập quân

đội.

Nhưng sự đón tiếp anh ta tại căn cứ quân sự lại khá

lạnh nhạt. Anh ta không đích xác bị lính Israel né tránh,

nhưng họ cũng không làm theo cách của họ để đón chào

anh ta.

"Nghe đây, có chuyện gì với người của ông thế?"

anh ta phàn nàn với viên trung sĩ. "Tôi từ nửa vòng thế

giới tới đây để giúp các anh và tôi thực tế bị bỏ qua. Một

người Mĩ phải làm gì để được chấp nhận vào quân đội

này?"

Viên trung sĩ dướn mắt nhìn anh thanh niên cơ bắp

cuồn cuộn, bằng cách nào đó lén lút đưa mắt nhìn để

cho anh ta không thể bị nghe lỏm, và thế rồi, trong

giọng gần như thì thầm, anh ta nói, "Bí mật và không

được ghi chép gì, nếu anh thực sự muốn là người của

chúng tôi, có ba điều anh phải làm."

"Anh nói tên chúng ra đi," Rabinowitz nói.

"Thứ nhất," viên trung sĩ giải thích, "Anh phải uống

hết một phần tư cốc rượu mạnh nhất mà không dừng hơi

để thở. Thứ hai, anh phải giết một sĩ quan quân đội A

rập. Thứ ba, anh phải làm tình với một người đẹp

Israel."

Thế là Howard Rabinowitz nốc một hơi hết cả cốc

phần tư lít rượu Mount Carmel không dừng giữa chừng.

"Bây giờ,"anh ta hỏi, "tôi có thể kiếm đâu ra viên sĩ

quan A rập?"

"Ngang qua kênh đào Suez ấy," viên trung sĩ nói.

"Tôi sợ anh sẽ phải bơi hai lần - tức là nếu anh vẫn còn

sống."

"Tôi sẽ sống mà," người Mĩ hứa và anh ta lảo đảo

bước đi. "Đồ chết tiệt, tôi là người to lớn nhất, hung bạo

nhất, thô bạo nhất ở bờ Đông. Cuộc phiêu lưu nhỏ này

thấm gì?"

Vài giờ sau anh ta quay về, ướt đẫm từ việc bơi trở

về, quần áo rách mướp còn mặt anh ta bị trầy xước và

chảy máu.

"Được rồi, tôi chăm nom tay sĩ quan A rập kia," anh

ta gầm lên. "Bây giờ, người đẹp Israel ông muốn giết ở

đâu?"

Đó đích xác là tình huống của nhân loại. Bạn không

biết mình là ai, bạn không biết mình đang làm gì, bạn

không biết tại sao mình làm nó ngay chỗ đầu tiên. Bạn

không biết, cho dù bạn thành công, vấn đề tất cả là gì.

Nhưng dầu vậy bạn cứ làm cái gì đó. Nó giữ bạn bị

giam cầm và giữ bạn vô nhận biết về tính vô nhận biết

của mình.

Mọi nghề nghiệp của bạn về căn bản không là gì

ngoài nỗ lực để vẫn còn vô nhận biết về tính vô nhận

biết của bạn - bởi vì điều đó gây động chạm tự ái. Sẽ là

bị động chạm khi biết rằng "Mình là kẻ sống dở chết

dở," bị động chạm khi biết rằng "Mình là kẻ nô lệ." Cho

nên bạn cứ ba hoa về sự nô lệ của mình cứ dường như

nó là cái gì đó rất quí và có giá trị. Bạn cứ ba hoa về

việc là người Ấn Độ hay người Pakistan hay người

Israel hay người Đức hay người Mĩ. Bạn cứ ba hoa về

việc là người Hindu, người Mô ha mét giáo, người Ki tô

giáo, người Jaina giáo - và bạn không biết bạn đang ba

hoa về nhà tù của mình!

Cứ dường như hai tù nhân đang nói: "Nhà tù của tôi

tốt hơn nhà tù của ông. Nhìn cờ kia kìa! Nhà tù của tôi

có cờ tốt nhất trên thế giới, cột cờ cao nhất. Và chớ có

nói lời nào chống lại nhà tù của tôi đấy; bằng không ông

sẽ khổ vì điều đó, ông sẽ phải trả giá cho điều đó."

Quốc gia của tôi, đất nước của tôi, nhà thờ của tôi,

tôn giáo của tôi cao hơn tôn giáo của ông, cao hơn nhà

thờ của ông, cao hơn quốc gia của ông - và chúng ta đều

đang ba hoa về nhà tù của mình. Điều này hoàn toàn ngu

xuẩn. Nhưng sao chúng ta cứ làm nó? - bởi vì đó là cách

duy nhất để giữ thể diện của chúng ta.

Nếu chúng ta thử để thấy ra vấn đề, rằng tất cả

những điều này đều là nhà tù, làm sao chúng ta có thể

tránh việc biết rằng chúng ta là tù nhân - không phải một

mà là nhiều nhà tù, nhà tù bên trong nhà tù? Và điều đó

sẽ phá huỷ bản ngã của chúng ta. Nó giúp cho bản ngã

chúng ta rất nhiều là "Chúng ta là quốc gia vĩ đại," rằng

"Lịch sử của chúng đầy những dũng cảm," rằng "Chúng

ta đã tạo ra những chiến binh vĩ đại nhất"... hay những

thánh nhân vĩ đại nhất, hay bất kì cái gì có đó. "Chúng ta

đã tạo ra xã hội tôn giáo nhất trên thế giới," hay xã hội

dân chủ nhất hay xã hội cộng sản nhất. Điều này giúp

chúng ta bảo vệ bản ngã của mình. Chúng ta thấy theo

đủ mọi cách các phương pháp và phương tiện, phương

cách và chiến lược để cho bản ngã chúng ta vẫn còn

không bị động chạm.

Và bản ngã là hiện tượng giả tạo nhất trong sự tồn

tại; không có gì giả tạo hơn bản ngã. Nó không có bản

chất. Nó là quả bóng đầy khí nóng - hay có thể chẳng có

bóng nào cả, chỉ khí nóng thôi! Nhưng chúng ta đang

sống theo chỉ đạo của thượng đế giả này, bản ngã. Và có

các tu sĩ giúp chúng ta, người cho chúng ta những chiến

lược mới, cách diễn giải mới. Khi thời gian thay đổi, các

tu sĩ sẵn sàng cho chúng ta cách diễn giải mới.

Một đứa bé trong trường ngày chủ nhật ngẩn người

ra khi linh mục nói rằng Thượng đế làm ra mọi thứ. Đứa

trẻ trông ngẩn ra, gần như một câu hỏi trong mắt nó.

Linh mục hỏi nó, "Có chuyện gì thế, Johnny? Con

trông ngẩn người ra."

Johnny nói, "Dạ vâng. Bác nói mọi thứ - bác có thực

ngụ ý mọi thứ không? Thế thì đâu là tài liệu tham khảo

rằng Thượng đế đã làm ra đường ray tầu hoả? Con chưa

bao giờ bắt gặp điều đó."

Và linh mục nói, "Đúng rồi, con phải đã bỏ qua điều

đó. Có sách than khảo đấy. Trong Kinh Thánh có nói

rằng Thượng đế làm ra mọi thứ dần dần; kể cả đường

ray tầu hoả nữa!"

Và không chỉ có việc họ đang lừa trẻ nhỏ đâu; họ

làm cùng điều đó với bạn đấy.

"Giáo sĩ ơi," người cha lo âu nói, "tôi mong ông sẽ

nói cho con trai tôi. Nó đây này, tuổi mười ba, và mọi

thứ nó nghĩ tới chỉ toàn về bóng chày."

Giáo sĩ thở dài với bản thân mình. "Với bao nhiêu

đứa trẻ phạm tội lâm vào rắc rối," ông ta nghĩ, "đây quả

thực là vấn đề nhỏ."

"Tôi tiếc là làm cho ông thất vọng," ông ta nói, vừa

kìm lại ham muốn bầy tỏ bực mình của mình, "nhưng tôi

không thể trách móc con ông về điều gì đó mà chúng ta

người Do Thái đã từng thực hành trong hàng nghìn năm

rồi. Thực tế, có nhiều tham chiếu tới bóng chày trong

Kinh Thánh."

"Ông có nghiêm chỉnh không đấy?" người cha hỏi

một cách hoài nghi. "Chúng là gì?"

"Đây này, chẳng hạn, ông sẽ nhớ ngay rằng Eve ăn

trộm đầu tiên và Adam ăn trộm thứ hai; Gideon gõ lách

cách bình nước; Goliath bị David đẩy ra; và đứa con

hoang toàng làm cú đánh bóng chày!"

Tu sĩ là những người tinh ranh nhất trên thế giới.

Ở Baltimore, vào lúc chuyển thế kỉ, một maggid lưu

động, hay nhà thuyết giảng, đi tìm khắp thế giới một nhà

tiên tri già với bộ râu bạc oai vệ và chảy dài, mặc áo

choàng trắng như tuyết, nhà tiên tri này được mời nói

chuyện ở ngôi đền Sanhedrin. Viên giáo sĩ thường

xuyên của giáo đường bằng cách nào đó vẫn lo sợ về

quan điểm cực chính thống của ông già này, nhưng ông

ta đã tới do được giới thiệu nhiều. Nỗi sợ của giáo sĩ, té

ra là cũng được biện minh. Ông maggid này hô hào giáo

đoàn bằng buổi thuyết giảng nóng bỏng đáng phải ghi

công cho vị thuyết giảng Baptist chính thống theo Kinh

Thánh quá chừng. Khi giáo trưởng đáng kính sắp kết

thúc buổi thuyết giảng của mình ông ta nói to, "Và tôi

nói với các vị, Ngày phán xử cuối cùng trong tầm tay

rồi, và chừng nào các vị còn chưa sống nghiêm túc theo

luật được trao cho chúng ta từ bản thân Mose, sẽ có

khóc lóc và gào thét và nghiến răng!"

Một bà già ngồi ngay hàng trước, hoảng sợ với cách

hiểu nhanh của mình, kêu lên, "Nhưng, thưa ngài, tôi

không có răng!"

"Thưa bà," nhà thuyết giảng gầm lên như sấm, "răng

sẽ được cung cấp!"

Phật không phải là tu sĩ, ông ấy không phải là nhà

tiên tri, ông ấy là một loại người hoàn toàn khác. Ông ấy

là người đã thức tỉnh, ông ấy đã đi tới biết bản thân

mình. Ông ấy không phải là hoá thân của Thượng đế -

ông ấy không có tuyên bố nào như thế. Ông ấy không

phải là sứ giả đặc biệt của Thượng đế; ông ấy không có

bản ngã nào như thế. Ông ấy không tuyên bố rằng "Ta là

con duy nhất." Tất cả những điều này có vẻ ngớ ngẩn

nếu bạn nghĩ về Phật. Ông ấy rất đơn giản và vậy mà

thông điệp của ông ấy lại thực tế nhất, khoa học nhất,

xuyên thấu nhất.

Ông ấy nói, "Ta đã vô ý thức như các ông; bây giờ

ta đã trở nên có ý thức và mọi nỗi sợ và nỗi buồn của ta

đã biến mất. Một ngày nào đó ta đã giống các ông, một

ngày nào đó các ông có thể giống ta; không có sự khác

biệt về chất giữa chúng ta. Ta đã thức tỉnh, các ông còn

ngủ; đó là khác biệt duy nhất. Ta không phải là phi

thường, ta bình thường như các ông thôi. Điều duy nhất

đã xảy ra cho ta là ở chỗ ta đã mở mắt ra còn các ông

vẫn nhắm mắt. Mở mắt ra đi và nhìn bản thân các ông!"

Lời kinh:

Không phải sắt cầm tù ông

Không phải dây thừng không phải gỗ,

mà hoan lạc ông nhận trong vàng và đá quí,

trong con và vợ.

Không phải sắt cầm tù ông... nhà tù của bạn không

phải là thứ thô đó đâu, nó rất tinh vi. Nó không thấy

được vậy đâu, nó rất vô hình. Nó trong suốt. Không phải

là bạn vẫn còn trong nhà tù; ngược lại, nhà tù bao quanh

bạn, bất kì chỗ nào bạn tới nó đều đi cùng bạn. Nó là cái

gì đó trong tâm trí bạn, không phải là cái gì đó bao

quanh thân thể bạn. Nó là cái gì đó trong chính cách tiếp

cận của bạn tới cuộc sống.

Ông ấy nói: Không phải sắt cầm tù ông Không phải

dây thừng không phải gỗ, mà hoan lạc ông nhận trong

vàng và đá quí....

Bây giờ một điều rất có ý nghĩa phải được nhớ: lời

kinh này đã bị diễn giải sai trong hàng thế kỉ. Hai mươi

nhăm thế kỉ diễn giải sai có đó. Lần đầu tiên tôi đang

nói với bạn rằng nó không ngụ ý điều các phật tử đã

từng nói nó ngụ ý vậy. Họ nghĩ nó ngụ ý rằng vàng và

đá quí phải bị từ bỏ; nó không ngụ ý điều đó đâu - nó rõ

ràng thế - mà hoan lạc ông nhận trong vàng và đá quí....

Không phải vàng trói buộc bạn mà hoan lạc bạn nhận

trong nó mới trói buộc. Nếu bạn không nhận hoan lạc

trong nó thì bạn có thể sống trong cung điện và bạn vẫn

tự do như bất kì ai sống trong hang động trên Himalaya.

Nếu bạn nhận hoan lạc trong hang động trên Himalaya

bạn không tự do như bất kì ai sống trong cung điện. Vấn

đề này mang tính tâm lí.

Và một điều thêm nữa: tại sao bạn nhận hoan lạc

trong cung điện, trong vàng, trong đá quí, trong kim

cương? Chúng tất cả đều trang điểm cho bản ngã của

bạn. Bản ngã của bạn trống rỗng trong bản thân nó, nó

là phi tồn tại. Bạn phải liên tục rót các thứ vào trong nó

để cho nó cứ cho bạn cảm giác là nó là cái gì đó thực

chất. Nó liên tục đòi hỏi, "Cho tôi cái này, cho tôi cái

kia." Nó cứ đòi hỏi. Nó tồn tại trong đòi hỏi, nó tồn tại

trong ham muốn.

Cũng giống như khi bạn đi xe đạp: bạn phải đạp liên

tục. Nếu bạn dừng đạp xe, có thể xe đạp còn đi được vài

mét do đà quá khứ, nhưng thế rồi nó nhất định đổ. Bản

ngã cũng giống như xe đạp: bạn phải liên tục đạp. Nếu

bạn dừng đạp là nó đổ kềnh ra đó, nằm dài trên đất.

Cho nên nếu bạn có cung điện nó sẽ đòi hỏi cung

điện lớn hơn và nó sẽ có vui mừng lớn trong cung điện

này. Nó sẽ ba hoa về điều đó, nó sẽ cảm thấy dương

dương tự đắc. Nếu bạn là tổng thống một nước, nó cảm

thấy rất tự đắc. Nếu bạn trở nên nổi tiếng, đáng kính, nó

trở nên rất tự đắc. Và cách thức của bản ngã là rất tinh

vi. Nó đi vào vô ý thức của bạn, vào những tầng tối nhất

của bản thể bạn. Nó có thể lấy hoan lạc trong vàng, nó

có thể lấy hoan lạc trong từ bỏ vàng, nhưng đó là cùng

một điều cả thôi.

Tôi biết nhiều cái gọi là thánh nhân cứ ba hoa mãi

sau ba mươi, bốn mươi năm. Bốn mươi năm trước họ đã

từ bỏ thế giới và họ vẫn cứ nói rằng "Chúng tôi đã từ bỏ

nhiều tiền thế, nhiều vàng thế." Họ vẫn cứ nói về điều

đó mãi! Bốn mươi năm đã qua rồi, nhưng họ vẫn lấy

hoan lạc đó.

Bạn có thấy vấn đề không? Bạn có thể nhận hoan

lạc khi bạn có vàng, bạn có thể nhận hoan lạc khi bạn từ

bỏ vàng. Thực tế, khi bạn có vàng bạn không thể hoan

lạc nhiều thế như khi bạn từ bỏ nó. Tại sao? - bởi vì

hàng triệu người khác cũng có vàng, điều đó chẳng có gì

rất đặc biệt cả. Nhưng khi bạn từ bỏ bạn là người hiếm

hoi: bản ngã của bạn trở thành phi thường hơn, linh

thiêng hơn, siêu phàm.

Tôi biết một người đã là bác sĩ vi lượng đồng cân.

Bây giờ, bạn biết về các bác sĩ vi lượng đồng cân đấy -

họ bằng cách nào đó xoay xở sống. Rất hiếm khi tôi

thấy bệnh nhân nào tới xin khám ở ông ấy. Vâng, vài

người thường tới - họ thường tới để đọc báo! Thực tế,

đó là cách tôi bắt đầu đi tới phòng khám của ông ấy - để

đọc báo và để tán gẫu chút ít, và thế rồi chúng tôi trở

thành bạn bè. Ông ấy bao giờ cũng nói về các rắc rối của

ông ấy và ông ấy rất lo lắng.

Và thế rồi một hôm tôi nghe nói rằng ông ấy đã từ

bỏ thế giới; ông ấy trở thành thánh nhân. Sau ba năm tôi

gặp ông ấy ở Calcutta. Ông ấy được tôn thờ, và mọi

người đều bảo tôi rằng ông ấy có hàng triệu ru pi mà

ông ấy đã từ bỏ. Tôi nói, "Đừng có ngu - tôi biết con

người này! Ông ta chỉ có ba trăm sáu mươi rupi trong

ngân hàng thôi!" Bây giờ chúng đã thành hàng triệu!

Khi bạn từ bỏ bạn có thể làm tăng số tiền của mình;

không ai có thể ngăn cản bạn và không ai có thể kiểm

tra nó được - không việc kiểm toán nào là có thể, Bạn có

thể cứ lan truyền tin đồn bạn đã từ bỏ bao nhiêu.

Khi tôi thấy ông ấy, tôi hỏi ông ấy, "Bác sĩ ơi...."

Ông ta nói, "Tôi không còn là bác sĩ nữa."

Tôi nói, "Ông vẫn như thế. Tôi biết hoàn toàn rõ

rằng ông đã có ba trăm sáu mươi ru pi trong bưu điện!

Ông đang nói tới hàng triệu nào vậy? Ông nên nói đơn

giản là ông đã từ bỏ ba trăm sáu mươi ru pi!"

Ông ta nhìn tôi và ông ta nói, "Đừng nói to thế. Ông

sẽ phá huỷ toàn thể danh tiếng của tôi đấy!"

Danh tiếng phụ thuộc vào người ta đã bỏ lại bao

nhiêu, cho nên khi ông ta đi từ thành phố này sang thành

phố khác, số tiền ông ta từ bỏ tăng lên. Nó đã diễn ra

theo cách đó. Điều này không phải là cái gì mới; điều

này đã xảy ra trước đây nữa.

Ngay cả trong câu chuyện đời Phật, các phật tử đã

viết rằng ông ấy đã từ bỏ nhiều xe vàng thế và nhiều voi

thế và nhiều ngựa và nhiều cung điện thế. Đó là toàn

điều vô nghĩa, bởi vì ông ấy không phải là con của

hoàng đế rất lớn hay cái gì. Vương quốc mà ông ấy

thuộc vào, Kapilvastu, là chỗ nhỏ bé tới mức nó gần như

biến mất khỏi mặt đất, thậm chí không một dấu vết....

Tất cả những cung điện đó đã không còn lại tàn tích nào.

Không có cung điện, và đó chỉ là cái làng nhỏ tới mức

để giữ nhiều xe vàng thế ở đó và nhiều voi nhiều ngựa

thế sẽ là điều không thể được. Nhưng mọi người đã viết

ra câu chuyện này phải cứ làm cho nó ngày một lớn hơn.

Đã có ganh đua lớn giữa người Jainas và phật tử bởi

vì Mahavira và Buddha là người đương đại. Cho nên

bạn có thể nhìn vào trong kinh sách.... Người Jainas viết,

"Bao nhiêu là ngựa, bao nhiêu là voi, bao nhiêu là xe,"

và kinh sách phật giáo cạnh đó làm tuyên bố còn lớn

hơn. Thế rồi tới kinh sách Jaina khác lại đưa ra tuyên bố

lớn hơn kinh sách Phật giáo - và điều này cứ diễn ra

trong hàng trăm năm, mãi tới giờ cứ dường như

Mahavira và Buddha đều là các hoàng đế lớn, cứ dường

như họ đã chi phối toàn thể Ấn Độ.

Sự thật là ở chỗ vào thời Phật ở Ấn Độ có hai nghìn

vương quốc. Hai nghìn vương quốc sao? - điều đó nghĩa

là từng vương quốc không thể lớn hơn một quận được.

nhiều nhất đấy, và bố của Phật không hơn người phó thu

thuế hay người thu thuế... hay, nếu bạn khăng khăng,

người đại diện chính quyền trung ương, nhưng không

nhiều hơn thế.

Mọi người lấy hoan lạc trong vàng, nhiều tới mức

khi họ từ bỏ nó, vẫn còn hoan lạc âm ỉ; người ta cứ nghĩ

về nó. Bản ngã có thể đáp ứng cho bản thân nó hoặc

bằng việc có nhiều tiền hoặc bằng việc từ bỏ nhiều tiền,

nhưng nó bao giờ cũng cần tiền và nó bao giờ cũng cần

nhiều hơn. Nhớ điều đó.

Phật nói: mà hoan lạc ông nhận trong vàng và đá

quí... đó là cầm tù thực; điều đó tạo ra tù túng của bạn -

không phải là vàng, không phải là đá quí. Chúng có thể

làm được gì? Làm sao chúng có thể trói buộc được bạn?

Tôi đã sống trong những chiếc lều nghèo nàn, chúng

không thể trói buộc bạn được; tôi đã sống trong các

cung điện, chúng không thể trói buộc được bạn. Tôi đã

sống như người nghèo - nghèo khó không thể trói buộc

được bạn; tôi đã sống như người giầu - giầu có không

thể trói buộc được bạn. Những điều đó là ở bên ngoài.

Nếu bạn bắt đầu lấy hoan lạc trong chúng, sự vừa lòng

nào đó, thế thì tù túng bắt đầu. Nếu bạn lấy hoan lạc...

trong con và vợ. Điều đó nữa đã bị diễn giải sai: Từ bỏ

vợ bạn và từ bỏ con bạn.

Không cần từ bỏ cái gì; chỉ cần hiểu.

Diễn giải của tôi về Phật là ở chỗ từ bỏ không phải

là vấn đề; hiểu biết mới là vấn đề. Và nếu qua hiểu biết,

cái gì đó bị vứt đi khỏi cuộc sống của bạn, nó không

phải là do bạn từ bỏ; nó đơn giản đã rơi rụng đi như

chiếc lá khô rời khỏi cây. Bạn không thể tuyên bố công

trạng gì về nó cả.

Cứ nhìn vào mối quan hệ của bạn với vợ bạn, với

con bạn, với chồng bạn, và xem sự mong manh của nó

tất cả. Nó không có bản chất nào trong nó. Nó tất cả đều

là thơ ca và hư cấu, nó không phải là sự kiện.

Mới vài ngày trước đây một người đàn ông tới tôi và

anh ta nói, "Tôi muốn trở thành sannyasin, nhưng vợ tôi

nói cô ấy sẽ tự giết cô ấy!"

Tôi nói, "Chúng ta hãy thử, cho việc thay đổi, bởi vì

tôi chưa bao giờ thấy người nào.... Tôi có một trăm

nghìn sannyasins trên khắp thế giới. Không vợ nào đã tự

giết cô ấy cả, không chồng nào đã tự tử, mặc dầu nhiều

người đã nói điều đó."

Mọi người coi những điều này là rất nghiêm trọng.

Vợ bạn hay chồng bạn có thể nói, "Em không thể sống

nếu thiếu anh" - và cô ấy đã sống không có bạn hoàn

toàn tốt trước đây! Mới vài ngày trước cô ấy thậm chí

còn không nhận biết về bạn và cô ấy đã sống hoàn toàn

tốt - thực tế, cô ấy đã sống tốt hơn cô ấy bây giờ! Nhưng

cô ấy nói cô ấy không thể sống thiếu bạn, và bạn tin

điều đó bởi vì nó nuôi dưỡng bản ngã bạn.

Bà Goldfarb đứng khóc cạnh nấm mồ của chồng bà

ấy thì một người lạ lịch sự tiến tới bà ấy.

"Thưa bà, tôi tiếc là trong hoàn cảnh không may này

tôi vẫn phải nói điều này," ông ta bắt đầu một cách kính

trọng, "nhưng tôi phải nó với bà tôi đã yêu bà ngay cái

nhìn đầu tiên."

"Đồ lười nhác! Đồ vô công rồi nghề!" bà Goldfarb

kêu lên một cách phẫn nộ, kinh hãi với sự xấc xược lạ

thường này. "Cút ngay khỏi mắt tôi nếu không tôi sẽ gọi

cảnh sát! Đây mà là lúc nói về yêu sao?"

"Tôi đảm bảo với bà, thưa bà, rằng tôi đã không

định để lộ tình cảm của tôi vào lúc buồn rầu này," người

lạ lịch sự giải thích, "nhưng tôi đơn giản bị choáng ngợp

bởi cái đẹp tinh tế của bà!"

"Nghe đây," bà Goldfarb nói, "ông phải nhìn tôi khi

tôi không khóc chứ!"

Trong một khoảnh khắc mọi thứ thay đổi. Trong thế

giới này, mọi mối quan hệ của bạn chỉ được làm từ chất

liệu như thơ ca được làm ra; chúng thậm chí không phải

là văn xuôi, chúng là hư cấu. Mọi người đang sống trong

hư cấu, và họ cứ vẽ, cứ vẽ lại hư cấu của mình; họ cứ

giữ hư cấu sống.

Bà Saperstein vừa mới đưa con tới trường thì điện

thoại reo.

"Có phải chồng bà tên là Philip Saperstein không?"

một giọng sầu thảm hỏi tới ở đầu bên kia đường dây.

"Cái gì nữa?" bà này đáp lại.

"Đây là văn phòng điều tra tai nạn bất thường. Tôi

tiếc là phải nói với bà điều này, nhưng chúng tôi có

người chết vì giao thông ở đây. Chúng tôi thấy số điện

thoại của bà trong túi ông ấy. Xin bà xuống đây tới nhà

xác và nhận diện cái xác được không?"

Bà Saperstein tới trong vòng nửa giờ và một người

phụ tá hộ tống bà ấy đi tới một hình người được bao phủ

trong tấm vải trắng. Người phụ tá nâng tấm vải lên và để

lộ khuôn mặt nạn nhân. "Người này có phải là chồng bà

không?" ông ta hỏi.

Bà Saperstein dướn mắt mở to. "A-a-a! Ông làm sao

- vâng, đó là chồng tôi - lấy được vải che trắng thế?"

Đừng tin vào hư cấu. Vợ bạn, chồng bạn, con bạn,

cha mẹ bạn, tất cả đều là những hư cấu đẹp. Và tôi

không nói từ bỏ họ; tôi đang nói, đơn giản thôi, hiểu tính

hư cấu của tất cả họ. Sống ở bất kì đâu bạn đang ở,

nhưng đừng bị đồng nhất với những vai trò tưởng tượng

này. Diễn vai, nhưng không bị đồng nhất với vai diễn

của mình.

Đó đích xác là điều Phật ngụ ý:

Cái mềm trói buộc,

vậy mà chúng kìm ông xuống.

Ông có thể chộp chúng được không?

Chúng không phải là những cái cùm rất mạnh,

chúng rất mềm, nhưng ông có thể chộp chúng được

không? Bạn không thể chộp chúng được nếu bạn không

có ý thức; và nếu bạn có ý thức bạn không cần chộp

chúng - chúng không có đó. Bạn đơn giản thấy ra vấn đề

là trong thế giới này chúng ta tới một mình, chúng ta

sống một mình và chúng ta đi một mình. Vâng, chúng ta

chơi nhiều trò chơi - trò chơi chồng hay vợ, bạn hay thù.

Chúng ta chơi nhiều trò chơi bởi vì chúng ta phải

lấp đầy thời gian bằng cái gì đó, hay nói cách khác

chúng ta phải "giết thời gian," như họ nói, bằng việc

chơi bài, chơi cờ.... Và đây là tất cả những cái tên cho

cùng một điều, không cái gì nghiêm chỉnh hơn. Bạn đã

thấy việc chơi bài đấy - con vua và con hậu - và khi bạn

chơi bài chúng trở thành rất thật. Bạn có thể đánh nhau,

mọi người thậm chí giết nhau; chỉ trong chơi bài mới

mới trở thành nghiêm chỉnh thế!

Chúng ta trở nên bị đồng nhất nhiều thế bởi vì

chúng ta không ý thức chút nào. Chính tâm thức mới

giúp cho bạn trở nên không bị đồng nhất.

Thế thì bạn có thể cứ chơi mọi loại trò chơi - tôi

không chống lại trò chơi. Chơi chúng một cách thật

nghệ thuật như bạn có thể làm được. Để cuộc sống của

bạn là vui đùa! Tôi không muốn bạn nghiêm chỉnh, tôi

không muốn bạn có mặt dài. Đủ chuyện đó rồi! Người

tôn giáo đã khổ nhiều; không cần. Bạn có thể cười và

bạn có thể tận hưởng, nhưng nhớ một điều: rằng tất cả

chỉ là trò chơi. Cái chết sẽ tới và tấm màn hạ xuống và

trò chơi biến mất và vở kịch kết thúc.

Có những người có thể chộp,

người buông xuôi thế giới,

vì ham muốn, và đi theo đạo.

Ai là những người có thể chộp được những đồng

nhất này? Họ là những người dũng cảm, thiền nhân:

những người cố gắng đem nhận biết tới cuộc sống của

họ, tới hành động của họ, tới ý nghĩ của họ, tới tình cảm

của họ.

Nỗ lực bền bỉ của Phật là một: làm cho bạn nhận

biết trong mọi thứ bạn đang làm. Nếu bạn đang bước,

bước với nhận biết. Nếu bạn đang ăn, ăn với nhận biết.

Đừng đơn giản tọng vào mình theo cách máy móc. Giải

tự động hoá cho bản thân mình đi. Đừng là máy, hãy là

người.

Và thế thì bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng ham muốn

bắt đầu lánh xa khỏi bạn và đạo mở ra.

Moe và Ike, chín mươi và chín hai tuổi tương ứng,

đã là những người goá vợ trong nhiều, nhiều năm rồi.

Cả hai đều mạnh khoẻ và đẹp lão mặc cho năm tháng

của họ. Khí hậu Florida phù hợp với họ, và nhiều bà goá

đáng yêu vẫn theo họ mặc cho tuổi của họ.

Một hôm Moe nói với Ike, "Ike, tôi thực sự đơn độc.

Điều đó đã kéo dài nhiều năm rồi vì tôi mất Becky và tôi

chưa bao giờ đi bước nữa. Nhưng tôi nghĩ bây giờ đến

lúc rồi và tôi sẵn lòng đi bước nữa - ngay cả vào độ tuổi

tôi đây."

"Điều đó có vẻ là một ý tưởng hay đấy," Moe nói.

"Thực tế, có thể tôi cũng nên lấy vợ mới."

Chẳng bao lâu sau đó, Moe và Ike cả hai đều lấy các

bà đáng yêu - tám mươi chín và chín mươi tương ứng -

và họ cả hai đều đi tuần trăng mật.

Vài ngày sau đó, Moe và Ike gặp nhau bên lối đi lót

ván dọc biển.

"Này," Moe hỏi, "tuần trăng mật của ông thế nào?"

"Nói thực với ông, Moe này, tôi không thể qua được

đêm tân hôn."

"Này," Moe nói, "nói thực với ông, tôi thậm chí còn

không nghĩ về nó!"

Nhưng ngay cả ở độ tuổi chín mươi, mọi người vẫn

muốn tiếp tục trò chơi trẻ con, cũ kĩ. Trẻ con có thể

được tha thứ. Chúng cần chơi, chúng cần bị đồng nhất,

chúng cần đi lạc lối, chúng cần phạm lỗi lầm, sai lầm,

bởi vì đó là cách duy nhất để học và chín chắn. Nhưng

ngay cả trong tuổi già, mọi người hành xử cứ dường như

họ còn chưa trưởng thành chút nào.

Nhớ lấy, bạn trưởng thành theo cùng tỉ lệ bạn trở

nên nhận biết. Bạn trưởng thành chỉ theo tỉ lệ bạn trở

nên không bị đồng nhất với mọi trò chơi mà cuộc sống

làm thành sẵn có cho bạn.

Ôi nô lệ của ham muốn,

nổi trên dòng suối.

Nhện nhỏ, bám vào mạng nhện của ông.

hay khác đi, từ bỏ buồn khổ của ông vì đạo.

Phật gọi những người chỉ là nô lệ cho ham muốn

của họ... họ không là gì ngoài mẩu gỗ trôi giạt, nạn nhân

của các lực mù quáng. Họ không biết định mệnh của

mình, họ không biết nghĩa gì. Họ chỉ là ngẫu nhiên; họ

không kinh nghiệm ý nghĩa bản chất trong cuộc sống.

Từ trò chơi này họ đi sang trò chơi khác. Cả đời họ là

một chuỗi việc giữ cho mình bận rộn bằng cách nào đó

để cho họ không trở nên nhận biết về sự kiện là họ đã

làm phí hoài cơ hội lớn lao của việc trưởng thành, của

việc về nhà, của việc trở thành con người có ý thức, của

việc trở thành cái họ được ngụ ý là. Họ cứ bỏ lỡ.

Nhện nhỏ, Phật nói, bám vào mạng nhện của ông.

Đó là sáng tạo riêng của bạn. Thế giới mà bạn sống

trong đó là sáng tạo riêng của bạn, cũng giống như nhện

tạo ra mạng nhện của nó từ bản thân nó và thế rồi bị mắc

vào trong mạng nhện và không thể rời bỏ nó được. Bạn

phóng chiếu thế giới của mình từ tâm trí của mình, bạn

phóng chiếu cả nghìn ham muốn. Đó là cách bạn tạo ra

mạng nhện và thế rồi bạn bị mắc vào trong nó. Ai đó bị

mắc vào trong ham muốn về tiền, ai đó bị mắc vào trong

ham muốn quyền lực, ai đó bị mắc vào trong ham muốn

từ bỏ, ai đó bị mắc vào trong ham muốn thiên đường -

toàn ham muốn!

Con người thực của hiểu biết không có ham muốn.

Người đó sống trong khoảnh khắc và bất kì cái gì đang

có sẵn, người đó tận hưởng nó tới cái toàn bộ của nó.

Người đó vắt kiệt từng khoảnh khắc, người đó uống

từng khoảnh khắc! Người đó ăn bất kì cái gì sẵn có.

Người đó ngủ, nhưng người đó là toàn bộ trong bất kì

điều gì người đó làm.

Một Thiền sư, Rinzai, được mọi người hỏi, "Thiền

của thầy là gì?"

Ông ấy nói, "Khi ta thấy đói ta ăn và khi ta buồn

ngủ ta ngủ, có vậy thôi. Ta không có thiền nào khác."

Ông ấy là bông hoa thực của Phật! Nhưng bạn sẽ bỏ

lỡ vấn đề nếu bạn không được kể thêm rằng khi ông ấy

nói, "Khi ta thấy đói ta ăn," ông ấy ăn với nhận biết toàn

bộ.

Thực tế, người sống trong nhận biết cũng ngủ trong

nhận biết.

Krishna, trong Gita, nói: Người tìm kiếm thực là

thức tỉnh ngay cả khi người khác ngủ say. Khi trời là

đêm cho người khác nó vẫn là ngày cho ông ấy. Cái gì

đó sâu bên trong ông ấy vẫn còn thường xuyên tỉnh táo.

Cái là đêm cho mọi người khác không phải là đêm

cho người nhận biết, người tỉnh táo, người có tính thiền,

người được cân bằng, người sống trong thăng bằng,

người sống trong im lặng. Cái gì đó sâu bên trong người

đó giữ cho thức tỉnh. Thân thể ngủ, tâm trí ngủ, nhưng

linh hồn bao giờ cũng tỉnh táo. Nó chưa bao giờ mệt mỏi

cho nên nó không cần ngủ chút nào. Nó là bản thân nhận

biết; nó được làm từ nhận biết.

Nhện nhỏ, bám vào mạng nhện của ông.

Hilda và Herman trải qua một buổi tối yên tĩnh ở

nhà. Phải nói là, Herman đang bị mê mải đọc sách một

cách yên tĩnh, nhưng Hilda đang trong tâm trạng muốn

nói.

"Anh yêu," cô ấy bắt đầu, "nếu em phải chết trước

anh, anh có hứa với em điều gì đó quan trọng không?"

"Có chứ," Herman lẩm bẩm, vẫn không rời mắt khỏi

trang sách đang đọc.

"Hứa với em anh bao giờ cũng giữ mồ em xanh

tươi."

"Ấy à, đừng có nghĩ không lành mạnh thế," anh ta

đáp. "Phỏng có ích gì mà nói về chết? Với anh, em trông

khá mạnh khoẻ."

Anh ta chúi mũi vào sách, lại bị cuốn hút hoàn toàn,

hi vọng anh ta sẽ không bị sao lãng nữa.

"Này, vâng, em cảm thấy mạnh khoẻ lắm, anh yêu,"

Hilda lại ngắt sau một phút im lặng ân huệ, "nhưng em

muốn chắc nơi nghỉ cuối cùng của em sẽ không bị quên

lãng. Anh có thể muốn đi bước nữa hay cái gì đó, và

quên hết mọi thứ về em."

"Này, Hilda, anh sẽ nhớ em mãi mãi. Thôi đi chợ

quanh cái ông nhà táng đi và để anh đọc sách!"

Lần này anh ta được thưởng đến vài phút an bình và

yên tĩnh, rồi chị vợ lại khơi mào mạch đối thoại đích xác

ở chỗ nó đã bị ngắt.

"Em ghét bị chồng quên. Em nghĩ vì em quá nhạy

cảm - bởi vì em có nhiều tình cảm thế. Cưng ơi, anh có

khẳng định rằng anh sẽ giữ nấm mồ của em xanh mãi

không?"

"Có chứ, anh khẳng định," anh ta càu nhàu, mắt vẫn

dính vào trang sách.

"Rồi, đó là an ủi lớn. Duy nhất, em thích anh nói

điều đó với nhiều tình cảm hơn.... Anh yêu, anh có tuyệt

đối, khẳng định chắc chắn anh sẽ giữ mồ em...."

"Hilda," người đàn ông khó chịu quát lên, quẳng

cuốn sách sang bên, "anh sẽ giữ cái mồ chết tiệt đó của

em xanh mãi nếu anh phải tự mình vẽ nó!"

Đầu tiên chúng ta tạo ra những quan hệ này - vợ và

chồng... và thế rồi họ bắt đầu khao khát con cái, ham

muốn lớn về con cái nảy sinh... và nó cứ tiếp diễn mãi.

Thế rồi họ muốn con họ xây dựng gia đình; thế rồi họ

muốn con họ có con. Đây là quá trình không chấm dứt.

Họ cứ nghĩ mãi rằng điều này sẽ đáp ứng cho họ; nếu

điều này mà không đáp ứng cho họ, thì cái gì đó khác....

Cả đời bạn bị phí hoài.

Và tôi không nói đừng yêu hay đừng có vợ hay

đừng có chồng hay đừng có con. Điều tôi đang nói là ở

chỗ những điều bản chất nhất phải được nhìn vào trước

nhất. Đầu tiên là nhận biết, có tính thiền, và thế rồi nếu

bạn cảm thấy thích có chút thời gian vui đùa, tận hưởng

chút ít khổ sở, bạn được đón chào! Cứ cưới nhau, có con

và con của con, nhưng đừng quên nhận biết của bạn bởi

vì chỉ điều đó mới đi cùng bạn. Chỉ nhận biết của bạn

mới đi qua ngọn lửa của cái chết; mọi thứ khác sẽ bị bỏ

lại sau.

Và một điều rất quan trọng, Phật nói: hay khác đi, từ

bỏ buồn khổ của ông vì đạo.

Mọi người thấy rất khó bỏ buồn khổ của họ. Trên bề

mặt điều đó bằng cách nào đó có vẻ không đúng. Sao

mọi người lại phải ngần ngại bỏ buồn khổ của họ vì

đạo?

Thầy thực không bao giờ đòi hỏi bạn cái gì ngoại trừ

việc hi sinh buồn khổ của bạn. Ông ấy muốn bạn trao

nỗi buồn khổ của bạn cho ông ấy, không cái gì khác.

Nhưng bỏ buồn khổ của bạn là điều khó nhất bởi vì bạn

đã sống với chúng lâu thế, bạn là bạn bè thế với chúng,

và sống với nỗi buồn quen thuộc cho cảm giác ấm cúng

thế, ấm áp thế - bạn cũ, và bỏ họ.... Và bỗng nhiên tất cả

các bức tường của bạn biến mất và bạn sẽ ở dưới trời

lồng lộng bởi vì các bức tường của bạn không chứa gì

ngoài nỗi buồn khổ của bạn. Nhà tù của bạn sẽ biến mất!

- và bạn đã sống trong tù lâu thế, trong nhiều kiếp tới

mức nó đã trở thành nhà bạn.

Tôi biết nhiều tù nhân. Bất kì khi nào họ được thả ra

từ nhà tù, trong vòng ba hay bốn tháng họ quay lại; họ

sẽ làm cái gì đó và họ sẽ bị đưa trở lại nhà tù. Tôi

thường tới thăm nhà tù và tôi hỏi vài người, những

người cứ quay đi quay lại nhà tù, "Vấn đề là gì?"

Họ nói, "Khi chúng tôi ra khỏi nhà tù điều đó có

cảm giác cứ dường như chúng tôi đang rời khỏi nhà

mình! Chúng tôi đã sống ở đây lâu thế và mọi bạn bè

của chúng tôi đều ở đây." Một người nói, "Không chỉ

bạn bè tôi mà cả gia đình tôi cũng ở đây! Bên ngoài tôi

chỉ là người lạ và tôi bắt đầu cảm thấy nhớ nhà, cho nên

tôi phải làm cái gì đó và quay lại."

Một khi một người bị vào tù rất hiếm khi người đó

sẽ không quay lại lần nữa. Người đó sẽ quay lại bởi vì

nhà tù cho an ninh nào đó, an toàn nào đó. Bạn không

cần bận tâm, bạn không cần lo nghĩ về ngày mai. Vào

đúng giờ thức ăn sẽ được cung cấp, vào đúng giờ bạn sẽ

đi ngủ, vào đúng giờ bạn sẽ được đánh thức dậy buổi

sáng. Cuộc sống có kỉ luật thế - như tu viện!

Thực tế, tu viện và nhà tù không khác gì mấy, chỉ

cái tên là khác. Tu viện có chút vất vả hơn, có vậy thôi!

Nhà tù có chút ít nhân đạo hơn. Và nhà tù hiện đại, đặc

biệt ở các nước đã phát triển, còn tốt hơn nhiều so với tu

viện. Ở trong nhà tù còn tốt hơn ở trong tu viện.

Tôi đã nghe nói về một tu viện của dòng Luyện tâm.

Một người vào và người đó được cha trưởng tu viện nói,

"Nhớ lấy, qui tắc của chúng ta là ở chỗ ông có thể nói

chỉ một lần trong sáu năm." Cho nên trong sáu năm đó

người đó phải im lặng, sôi lên bên trong.

Sau sáu năm cha trưởng tu viện gọi người đó lên và

hỏi, "Ông có gì cần nói không?"

Người đó nói, "Có. Giường cứng quá. Tôi cần cái

giường khác."

Cha trưởng tu viện nói, "Được, điều đó sẽ được làm.

Ông có thể đi."

Trong sáu năm người đó lại sôi sục lên. Sáu năm sau

cha trưởng tu viện lại gọi người đó lên và nói, "Ông có

gì cần nói không?"

Người đó nói, "Có" - người đó thực sự giận dữ.

Người đó nói, "Những người đem giường mới tới đã

làm vỡ kính cửa sổ và trời quá lạnh."

Cha trưởng tu viện nói, "Được, nó sẽ được sửa lại.

Ông về đi."

Trong sáu năm người đó lại sôi lên bên trong. Người

đó được gọi tới và cha trưởng tu viện nói, "Ông có gì

muốn nói không?"

Người đó vừa định nói thì cha trưởng tu viện nói,

"Đợi đã! Trong mười tám năm ông đã chẳng làm gì

ngoài phàn nàn và phàn nàn. Ông cút khỏi tu viện đi!

Ông không được ngụ ý thành sư. Ông muốn sống cuộc

sống dễ dàng và ẻo lả."

Trại giam còn tốt hơn nhiều, và trại giam hiện đại

thực sự đáng sống, có cả tivi mầu và mọi thứ!

Con người đã cải tiến liên tục hàng thế kỉ. Con

người đã cải tiến nhà tù rất tốt. Con người đã trở thành

rất phức tạp, văn hoá, văn minh. Và điều này không là gì

ngoài việc sơn vẽ tường nhà tù, làm cho chúng đẹp lên.

Và bây giờ bỗng nhiên vị phật tới và nói với bạn, "Đi ra

chỗ thoáng đi. Bỏ khổ, bỏ buồn đi." Bạn không thể bỏ

khổ và buồn của của mình dễ dàng thế.

Đó là lí do tại sao mọi người rời bỏ thế giới này, từ

bỏ thế giới, tạo ra khổ mới của riêng mình. Nếu không

có ai khác tạo ra khổ cho họ - nếu bạn không có vợ để

tạo ra nó, nếu bạn không có chồng để tạo ra nó, nếu

không có ai hỗ trợ cho bạn trong khổ của bạn - bạn sẽ tự

mình tạo ra nó. Mọi người đang ngủ trên giường gai...

bây giờ, không vợ nào chuẩn bị nó, bản thân họ làm việc

vất vả trên nó! Mọi người nhịn ăn, gần như tự giết mình.

Bây giờ, không ai làm điều đó cho họ, đó là ý tưởng

riêng của họ.

Các nhà khổ hạnh là tự huỷ diệt; họ là những người

tự tử, tự bạo, đồi bại, nhưng họ được tôn thờ. Họ được

tôn thờ bởi vì họ tạo ra khổ riêng của họ! Bạn tôn thờ

mọi người là thánh nhân, là mahatmas, nếu họ tạo ra khổ

riêng của họ. Họ đáng phải bị đưa vào trong nhà thương

điên, họ phải được điều trị! Họ cần chăm sóc thuốc men.

Họ không phải là mahatmas, họ đơn giản là người tự

bạo. Họ đã từ bỏ thế giới, nhưng họ không thể từ bỏ khổ

được nên họ bắt đầu tạo ra khổ riêng của mình. Và khi

một người tạo ra khổ cho bản thân mình, tất cả các bạn

đều kính trọng người đó. Bạn đã từng được bảo rằng đây

là cái gì đó lớn lao; người đó đang hi sinh cuộc đời mình

cho Thượng đế.

Thượng đế không phải là kẻ tàn bạo. Ngài không

thích khổ của bạn và buồn của bạn. Đừng ngu, đừng

xuẩn! Nhưng lí do là ở chỗ mọi người không thể bỏ

được khổ của mình. Họ có thể từ bỏ vàng và cung điện

và tiền và quyền, họ có thể từ bỏ mọi thứ, nhưng khi tới

việc từ bỏ khổ, điều này trở thành điều khó khăn nhất họ

gặp phải, bởi vì khổ đã từng ở cùng bạn lâu tới mức bạn

không biết kiểu sống khác. Kiểu duy nhất mà bạn đã trở

nên quen thuộc là buồn khổ.

Đó là lí do tại sao các thánh nhân của bạn lại xấu

thế, buồn thế, nghiêm chỉnh thế. Và họ càng nghiêm

chỉnh họ càng buồn, họ càng được tôn thờ, cho nên bản

ngã của họ lại được nuôi dưỡng. Khi bản ngã của họ

được nuôi dưỡng họ tự hành hạ mình thêm; bạn lại tôn

thờ họ thêm, thế thì họ lại tự hành hạ mình thêm nữa.

Điều này trở thành cái vòng luẩn quẩn.

Bỏ hôm qua, và ngày mai,

và hôm nay.

Đi ngang qua bến bờ xa hơn,

bên ngoài sống và chết.

Nếu bạn thực sự muốn đạt tới điều tối thượng, tới

bất tử, tới vô thời gian, bạn sẽ phải bỏ hôm qua. Cái đã

qua rồi là qua rồi mãi mãi. Đừng nhìn lại và đừng nhìn

lên trước. Cái còn chưa có thì vẫn chưa có. Đừng tìm

ngày mai.

Và mọi người ngu thế: họ không chỉ tìm kiếm ngày

mai, họ đang tìm cuộc sống sau cái chết; họ thậm chí

còn nghĩ tới hoan lạc cõi trời. Họ hân hoan trong ý

tưởng rằng sẽ có khả năng hoan lạc vĩnh hằng về cùng

những điều ngu xuẩn mà họ đã từ bỏ ở đây. Logic kì lạ!

Ở đây họ nói, "Đừng uống rượu, đó là phi tôn giáo."

Nhưng trong bahisht, trong thiên đường của người Mô

ha mét giáo, có những dòng sông, dòng suối, thác rượu!

Ở đó bạn có thể uống thoả thích, bạn có thể bơi trong

rượu, bạn có thể chìm sâu trong rượu - và bạn không

phải trả gì cho điều đó cả!

Ở đây họ nói, "Đàn bà là cánh cửa xuống địa ngục";

đặc biệt kinh sách Hindu nói, "Đàn bà là cánh cửa

xuống địa ngục." Và điều gì xảy ra trong cõi trời? Đàn

bà đẹp, liên tục nhảy múa! Làm sao những người đàn bà

này vào đó được? Và họ là cánh cửa xuống địa ngục....

Thượng đế của bạn phải đã đạt tới địa ngục từ lâu trước

đây rồi! Ở đây, từ bỏ đàn bà và thế rồi bạn sẽ được

thưởng bằng đàn bà đẹp trong cõi trời. Và bạn có biết

không? - những đàn bà đó chưa bao giờ già đi cả. Trong

thiên đường Hindu, chẳng cái gì được nói về đàn ông,

liệu họ có già đi hay không, nhưng điều tuyệt đối chắc

chắn là đàn bà bị kẹt lại tuổi mười sáu, họ không thể lớn

vượt ra ngoài điều đó. Đó là ý tưởng Hindu: mười sáu là

cực đỉnh của cái đẹp, theo ý tưởng Hindu. Và những ý

tưởng khác biệt....

Trong thiên đường của người Mô ha mét giáo, ngay

cả coi trai đẹp cũng sẵn có, không chỉ con gái, bởi vì

đồng dục là rất phổ biến vào những ngày Koran được

viết ra. Và tất nhiên, thánh nhân sẽ không được thoả

mãn chỉ với con gái, họ sẽ cần cả con trai đẹp nữa.

Louis Jourdan, ngôi sao điện ảnh Pháp, ở Mĩ tìm

kiếm một kịch bản văn học hay cho bộ phim sắp tới của

mình. Ông ấy tình cờ gặp Budd Schulberg, tác giả và

nhà soạn kịch Mĩ.

"Có cuốn sách mới ra tên là Precocious Paula,"

Schulberg chủ định gợi ý. "Nó sẽ cho ông một đồng vai

diễn chính."

"Tôi chưa bao rờ nghe nói dề cuốn dách của ông

dấy," Jourdan nói.

"Nó là cái gì đó tựa như tiểu thuyết của Nabokov,

Lolita," Schulberg giải thích.

"Thế Lolita này là cái rì?"

"Thế này, nói thẳng nhé, đó là về người đàn ông

trung tuần đi yêu một cô mười hai tuổi."

Người Pháp nhìn trân trân ông ta. "Tôi hông hiểu,"

ông ta nói. "Mười hai tuổi gì?"

Đàn ông, đàn bà, con vật - cái gì? Người Pháp này

có ý tưởng riêng của mình. Tôi không biết cái gì xảy ra

trong thiên đường Pháp - nó phải đáng tới thăm! Không

đáng sống, nhưng đáng tới thăm. Bạn sẽ thấy tất cả mọi

loại suy đồi dục.

Hai giáo sư đang nói, một người Pháp, một người

Mĩ, về có bao nhiêu tư thế làm tình.

Người Pháp nói, "Một trăm mười hai," và người Mĩ

nói, "Một trăm mười ba."

Người Pháp nói, "Ông làm tôi ngạc nhiên, bởi vì

người Pháp chúng tôi là chuyên gia. Ông nói cho tôi tư

thế một trăm mười ba đó là gì."

Và người Mĩ nói, "Thứ nhất, đàn bà nằm ngửa và

đàn ông nằm lên trên cô ấy."

Người Pháp nói, "Đợi đã! Vâng, có một trăm mười

ba tư thế. Tôi chưa bao giờ nghĩ tới điều đó!"

Phải đáng tới thăm thiên đường Pháp này! Và còn

nói gì tới địa ngục Pháp nữa? Cái đó thậm chí có thể còn

đáng sống ở đó hơn! Bạn sẽ thấy nhóm đông người, và

mỗi bước đều có một ngạc nhiên.

Và đây là những người đó... trên khắp thế giới họ

đều đã nghĩ về cùng niềm vui theo cách lớn hơn ở trong

thiên đường - cùng niềm vui họ đang kết án ở đây! Đây

không phải là từ bỏ; đây chỉ là kìm nén.

Từ bỏ thực tới từ hiểu biết. Nó không phải là từ bỏ

chút nào. Từ bỏ thực không phải là từ bỏ chút nào, nó là

hiểu biết thuần khiết. Bạn thấy ra vấn đề, và tất cả

những thứ ngu xuẩn và tất cả những cái giả biến mất, và

bạn bắt đầu sống cuộc sống thông thường của mình với

nhiều nhận biết hơn.

Bỏ hôm qua, bỏ ngày mai, bỏ hôm nay. Phật nói: Bỏ

thời gian - quá khứ, tương lai, hiện tại, bỏ mọi thứ. Quên

thời gian đi; đó là cách đi vào trong không gian vô thời

gian bên trong bản thân bạn. Đó là thiền. Đi ngang qua

bến bờ xa hơn, bên ngoài sống và chết.

Ý nghĩ có gây rắc rối cho ông không?

Nếu chúng gây rắc rối cho bạn, thế thì cái gì đó lập

tức được cần tới. Nếu ý nghĩ của bạn gây rắc rối cho bạn

điều đó nghĩa là bạn vẫn còn chưa có khả năng hoá giải

đồng nhất bản thân mình với tâm trí mình.

Đam mê có quấy nhiễu ông không?

Nếu nó quấy nhiễu bạn, điều đó nghĩa là bạn vẫn bị

đồng nhất với thân thể. Bạn nghĩ, "Mình là thân thể," thế

thì đam mê quấy nhiễu bạn. Nếu bạn nghĩ, "Mình là tâm

trí," thế thì ý nghĩ quấy nhiễu bạn.

Cẩn thận về những khao khát này...

Từ 'khao khát' là việc dịch của từ Phật giáo tanha.

Tanha có nhiều chiều hơn là khao khát; khao khát là

việc dịch theo nghĩa đen. Tanha nghĩa là ham muốn,

ham muốn thêm nữa, ham muốn không dừng, ham

muốn vô tận. Bạn càng được nhiều, bạn càng muốn

nhiều. Nó giống như đổ dầu vào lửa. Điều đó được gọi

là tanha, and tanha là căn nguyên của khổ của bạn.

Cẩn thận về những khao khát này sợ rằng ước muốn

của ông trở thành ham muốn.... Cẩn thận đấy, bởi vì

ham muốn không nảy sinh bất thình lình. Đầu tiên

chúng chỉ là ao ước, thế rồi dần dần chúng kết tụ lại và

trở thành ham muốn. Và một khi chúng trở thành ham

muốn thì còn khó trở nên nhận biết hơn; bạn có thể trở

nên nhận biết dễ dàng hơn khi chúng chỉ là ao ước. Phá

huỷ hạt mầm thay vì đợi chúng lớn thành cả cái cây và

thế rồi mới chặt nó; đó sẽ là việc không cần thiết.

...Sợ rằng ước muốn của ông trở thành ham muốn

và ham muốn làm mù ông.

Ham muốn là sự cầm tù của chúng ta. Người không

muốn gì, người tuyệt đối mãn nguyện như mình vậy, là

tự do khỏi mọi tù túng. Người đó đã đạt tới tự do tối

thượng, niết bàn - và đó là mục đích của cuộc sống. Và

chỉ bằng việc đạt tới tự do đó mà bạn sẽ biết ý nghĩa của

hiện hữu, bài ca của hiện hữu, lễ hội của hiện hữu. Cuộc

sống của bạn sẽ trở thành phúc lạc liên tục, và không chỉ

việc bạn sẽ phúc lạc, bạn sẽ có khả năng ban phúc lành

cho người khác nữa. Toàn thể sự tồn tại sẽ được phúc

lạc bởi bạn, bởi chính sự hiện diện của bạn.

Đủ cho hôm nay.

****************************************************************************************************************

#4Siêu việt -- trị liệu thực

Câu hỏi thứ nhất:

Thưa Thầy kính yêu,

Thầy nói về tâm hồn của chư phật, tâm hồn của siêu

việt, như bản chất của việc đang xảy ra ở đây trong

phật trường. Tính duy nhất của tâm hồn thứ ba này

là gì? Có trị liệu tâm lí của siêu việt không?

Amitabh, Sigmund Freud đã đưa phân tâm vào thế

giới. Nó được bắt rễ trong phân tích tâm trí. Nó bị giới

hạn vào tâm trí. Nó không bước ra ngoài tâm trí, thậm

chí không một li. Ngược lại, nó đi sâu hơn vào trong tâm

trí, vào trong các tầng bị giấu kín của tâm trí, vào trong

vô thức, để tìm ra cách thức và biện pháp để cho tâm trí

của con người ít nhất cũng có thể thành bình thường.

Mục đích của phân tâm theo Freud là không lớn lao gì

mấy.

Mục đích là giữ cho mọi người bình thường. Nhưng

bình thường là không đủ. Chỉ bình thường là không có ý

nghĩa gì. Điều đó nghĩa là thường lệ bình thường của

cuộc sống và khả năng của bạn đối phó với nó. Điều đó

không cho bạn nghĩa, điều đó không cho bạn ý nghĩa.

Điều đó không cho bạn cái nhìn sáng suốt vào thực tại

của mọi thứ. Điều đó không đưa bạn vượt ra ngoài thời

gian, ra ngoài cái chết. Nhiều nhất điều đó là phương

cách có ích cho những người đã trải qua sự bất thường

tới mức họ đã trở nên không có khả năng đối phó được

với cuộc sống hàng ngày - họ không thể sống được với

mọi người, họ không thể làm việc được, họ đã trở nên bị

tan vỡ. Trị liệu tâm lí cung cấp cho họ sự cùng nhau nào

đó - không toàn vẹn, bạn để ý đấy, mà chỉ sự cùng nhau

nào đó. Nó trói họ vào trong một bọc. Họ vẫn còn phân

mảnh. Chẳng cái gì trở nên được kết tinh trong họ,

không linh hồn nào được sinh ra. Họ không trở nên phúc

lạc, họ chỉ kém bất hạnh đi, kém khổ sở đi.

Tâm lí giúp họ chấp nhận khổ. Nó giúp họ chấp

nhận rằng đây là tất cả những gì cuộc sống có thể cho

bạn, cho nên đừng đòi hỏi thêm. Theo một cách nào đó,

nó là nguy hiểm cho trưởng thành bên trong của họ, bởi

vì trưởng thành bên trong chỉ xảy ra khi có sự không

mãn nguyện thiêng liêng. Khi bạn tuyệt đối không được

thoả mãn với mọi sự như chúng vậy, chỉ thế thì bạn mới

đi vào tìm kiếm, chỉ thế thì bạn mới bắt đầu vươn lên

cao hơn, chỉ thế thì bạn mới làm nỗ lực để kéo bản thân

mình ra khỏi bùn.

Jung đi xa thêm chút ít vào trong vô thức. Ông ấy đã

đi vào vô thức tập thể. Điều này làm cho nước ngầu bùn

ngày một nhiều hơn, và điều này cũng sẽ không có ích.

Assagioli đi vào cực đoan khác. Thấy thất bại của

phân tâm ông ấy đã phát minh ra hợp tâm. Nhưng nó lại

bắt rễ trong cùng ý tưởng. Thay vì phân tích ông ấy

nhấn mạnh vào tổng hợp.

Tâm hồn của chư phật không phân tích không tổng

hợp; nó là siêu việt, nó đi ra ngoài tâm trí. Nó không

làm việc trong tâm trí, nó làm việc đưa bạn ra ngoài tâm

trí. Đó đích xác là nghĩa của từ tiếng Anh 'ecstasy' -

đứng ra ngoài.

Khi bạn có khả năng đứng ra ngoài tâm trí riêng của

mình, khi bạn có khả năng tạo ra khoảng cách giữa tâm

trí bạn và bản thể bạn, thế thì bạn đã lấy bước đầu tiên

của tâm hồn chư phật. Và phép màu xảy ra: khi bạn

đứng ra ngoài tâm trí tất cả các vấn đề của tâm trí biến

mất, bởi vì bản thân tâm trí biến mất; nó mất sự nắm giữ

của nó vào bạn.

Phân tâm giống như tỉa lá cây, nhưng lá mới sẽ nhú

ra. Nó không cắt đi rễ. Và hợp tâm là gắn lá rụng trở lại

cây - dám chúng trở lại cây. Điều đó sẽ không cho

chúng cuộc sống. Chúng sẽ đơn giản trông xấu xí;

chúng sẽ không sống, chúng sẽ không xanh, chúng sẽ

không là một phần của cây - nhưng được dán bằng cách

nào đó.

Tâm hồn của chư phật cắt chính rễ của cây, cái tạo

ra đủ loại thần kinh, rối loạn tâm thần, điều tạo ra con

người phân mảnh, con người máy móc, con người như

robot. Và cách thức là đơn giản....

Phân tâm mất nhiều năm, và dầu vậy con người vẫn

còn như cũ. Nó nâng cấp cấu trúc cũ, vá víu đây đó, quét

vôi trắng cho ngôi nhà cũ. Nhưng vẫn cùng ngôi nhà ấy,

chẳng cái gì đã thay đổi triệt để. Nó đã không biến đổi

tâm thức con người.

Tâm hồn chư phật không làm việc trong tâm trí. Nó

không quan tâm tới việc phân tích hay tổng hợp. Nó đơn

giản giúp bạn thoát ra khỏi tâm trí để cho bạn có thể có

cái nhìn từ bên ngoài. Và chính cái nhìn đó là biến đổi.

Khoảnh khắc bạn có thể nhìn vào tâm trí mình như một

đối tượng, bạn trở nên được tách rời khỏi nó, bạn trở

nên không bị đồng nhất với nó; khoảng cách được tạo

ra, và rễ bị chặt đi.

Tại sao rễ bị chặt đi theo cách này? - bởi vì chính

bạn là người cứ nuôi dưỡng tâm trí. Nếu bạn bị đồng

nhất bạn nuôi dưỡng tâm trí; nếu bạn không bị đồng

nhất bạn dừng nuôi dưỡng nó. Nó rơi vào cái chết theo

cách riêng của nó.

Có câu chuyện hay. Tôi thích chuyện này lắm....

Một hôm Phật đi ngang qua một khu rừng. Lúc đó là

ngày hè nóng và ông ấy cảm thấy rất khát. Ông ấy nói

với Ananda, đại đệ tử của ông ấy, "Ananda, ông quay lại

đi. Đi lại ba, bốn dặm chỗ chúng ta đã đi qua dòng suối

nhỏ ấy. Ông đem về chút nước - cầm bình bát của ta đây

này. Ta cảm thấy rất khát và mệt." Ông ấy đã trở nên

già.

Ananda quay lại, nhưng lúc ông ấy tới suối, vài

chiếc xe trâu vừa mới đi qua và họ đã làm cả dòng suối

ngầu bùn. Lá khô trước lắng trong lòng suối nay nổi lên

cả; không còn có thể uống được nước này - nó quá bẩn

rồi. Ông ấy quay về với đôi bàn tay trống rỗng, và ông

ấy nói, "Thầy sẽ phải đợi một chút. Tôi sẽ đi lên trước.

Tôi nghe nói chỉ khoảng hai, ba dặm phía trước có một

con sông lớn. Tôi sẽ đem nước từ đó về."

Nhưng Phật cứ khăng khăng. Ông ấy nói, "Ông đi

trở lại và đem nước từ cùng con suối kia."

Ananda không thể hiểu được sự khăng khăng này,

nhưng nếu thầy nói vậy, đệ tử phải theo thôi. Thấy cái

ngớ ngẩn của nó - rằng ông ấy sẽ phải đi bộ ba, bốn dặm

và ông ấy biết nước đó không đáng uống - ông ấy đi.

Khi ông ấy đi, Phật nói, "Và đừng quay về nếu nước

vẫn còn bẩn. Nếu nó bẩn, ông đơn giản ngồi trên bờ im

lặng. Đừng làm gì cả, đừng đi vào suối. Ngồi trên bờ im

lặng và quan sát. Chẳng chóng thì chầy nước sẽ trong

lại. Và thế thì ông lấy đầy bình nước và quay về."

Ananda đi tới đó. Phật đúng: nước gần như trong

vắt, lá đã trôi đi, bụi đất đã lắng đọng. Nhưng nó vẫn

còn chưa tuyệt đối trong vắt, thế là ông ấy ngồi trên bờ

chỉ quan sát dòng suối chảy qua. Dần dần, dần dần nó

trở thành trong như pha lê. Thế là ông ấy tới vừa nhảy

múa. Thế rồi ông ấy hiểu tại sao Phật lại khăng khăng

thế. Có thông điệp nào đó trong điều đó cho ông ấy, và

ông ấy đã hiểu thông điệp này. Ông ấy đưa nước cho

Phật, và ông ấy cám ơn Phật, chạm chân Phật.

Phật nói, "Ông làm gì vậy? Ta phải cám ơn ông rằng

ông đã mang nước về cho ta."

Ananda nói, "Bây giờ tôi có thể hiểu được. Lúc đầu

tôi đã giận; tôi đã không biểu lộ nó, nhưng tôi đã giận

bởi vì việc quay lại là ngớ ngẩn. Nhưng bây giờ tôi hiểu

thông điệp này. Đây là điều tôi thực tế cần trong khoảnh

khắc này. Cùng điều đó là trường hợp cho tâm trí của tôi

- ngồi trên bờ dòng suối nhỏ đó, tôi trở nên nhận biết

rằng cùng điều đó là trường hợp cho tâm trí tôi. Nếu tôi

nhảy vào suối tôi sẽ làm cho nó bẩn lại. Nếu tôi nhảy

vào tâm trí nhiều tiếng động hơn được tạo ra, nhiều vấn

đề bắt đầu tới, trồi lên. Ngồi bên cạnh tôi đã học được kĩ

thuật này.

"Bây giờ tôi sẽ ngồi bên cạnh tâm trí tôi nữa, quan

sát nó với tất cả những bẩn thỉu và vấn đề của nó và

những lá úa và những vết thương, kí ức, ham muốn.

Không quan tâm, tôi sẽ ngồi trên bờ và chờ cho khoảnh

khắc mà mọi sự trong trẻo."

Và điều đó xảy ra theo cách riêng của nó, bởi vì

khoảnh khắc bạn ngồi trên bờ tâm trí của mình bạn

không còn cho nó năng lượng nữa. Đây là thiền thực.

Thiền là nghệ thuật về siêu việt.

Freud nói về phân tích, Assagioli nói về tổng hợp.

Chư phật bao giờ cũng nói về thiền, nhận biết.

Bạn hỏi tôi, Amitabh, "Tính duy nhất của tâm hồn

thứ ba này là gì?"

Thiền, nận biết, quan sát, chứng kiến - đó là tính duy

nhất. Không cần nhà phân tâm nào cả. Bạn có thể làm

nó theo cách riêng của mình; thực tế, bạn phải làm nó

theo cách riêng của mình. Không cần hướng dẫn nào cả,

nó là quá trình đơn giản thế - đơn giản nếu bạn làm nó;

nếu bạn không làm nó, nó có vẻ rất phức tạp. Ngay cả từ

'thiền' cũng làm nhiều người hoảng sợ. Họ nghĩ nó là cái

gì đó rất khó, gian nan. Vâng, nếu bạn không làm thì nó

là rất khó và gian nan. Nó giống như bơi. Rất khó nếu

bạn không biết cách bơi, nhưng nếu bạn biết, bạn biết nó

là quá trình đơn giản thế. Không cái gì có thể đơn giản

hơn việc bơi. Nó không phải là nghệ thuật chút nào; nó

là tự phát thế và tự nhiên thế.

Nhận biết nhiều hơn về tâm trí của bạn đi. Và trong

nhận biết về tâm trí mình bạn sẽ trở nên nhận biết về sự

kiện là bạn không phải là tâm trí, và đó là bắt đầu của

cuộc cách mạng. Bạn đã bắt đầu tuôn chảy ngày càng

cao hơn. Bạn không còn bị buộc vào tâm trí. Tâm trí vận

hành như tảng đá và giữ bạn lại. Nó giữ bạn trong

trường hấp dẫn. Khoảnh khắc bạn không còn bị gắn với

tâm trí, bạn đi vào phật trường. Khi lực hấp dẫn mất

quyền lực của nó trên bạn, bạn đi vào trong phật trường.

Đi vào phật trường nghĩa là đi vào trong thế giới của bay

lên. Bạn bắt đầu nổi lên. Tâm trí lôi bạn xuống.

Cho nên vấn đề không phải là phân tích hay tổng

hợp. Nó đơn giản là vấn đề trở nên nhận biết. Đó là lí do

tại sao ở phương Đông chúng ta đã không phát triển trị

liệu tâm lí nào kiểu như Freud hay Jung hay Adler - và

có nhiều món thế trong thị trường bây giờ. Chúng ta đã

không phát triển trị liệu tâm lí nào bởi vì chúng ta biết

các trị liệu tâm lí không thể chữa lành được. Chúng có

thể giúp bạn chấp nhận vết thương của bạn, nhưng

chúng không thể chữa lành được. Chữa lành tới khi bạn

không còn bị gắn bó với tâm trí. Khi bạn được ngắt ra

khỏi tâm trí, không bị đồng nhất, tuyệt đối được tháo ra,

khi tù túng được chấm dứt, thế thì chữa lành xảy ra.

Siêu việt là trị liệu đúng, và nó không chỉ là trị liệu

tâm lí. Nó không chỉ là hiện tượng bị giới hạn vào tâm lí

của bạn, nó còn hơn thế nhiều. Nó là tâm linh. Nó chữa

lành bạn trong chính bản thể bạn. Tâm trí chỉ là chu vi

của bạn, không phải là trung tâm của bạn.

#4Câu hỏi thứ hai:

Thưa Thầy kính yêu,

Tôi cảm thấy giống như tôi đã nhảy vào trong đại

dương chẳng biết gì về nước của nó. Tôi thấy thầy

như vệ sĩ. Nỗi sợ của tôi là ở chỗ tôi là người bơi tồi

khủng khiếp và có nhiều người trong chúng tôi ở đó,

thầy sẽ không thấy hay không biết khi nào tôi chết

chìm.

Toàn thể nỗ lực của tôi ở đây là giúp bạn chìm, bởi

vì khoảnh khắc bạn biến mất, Thượng đế xuất hiện. Bị

chìm là đạt tới bờ bên kia.

Vâng, bạn đúng đấy, Mradula. Nếu tôi cố đem mọi

người sang bờ bên kia, đấy sẽ là thực sự khó khăn: một

vệ sĩ và một trăm nghìn người cần được đem sang bờ

bên kia. Điều đó sẽ thực sự mệt mỏi và gần như không

thể nào được, không thể xoay xở được. Thế thì mọi khả

năng là ở chỗ bạn sẽ làm chìm luôn vệ sĩ!

Nhưng cái đẹp của công việc của tôi là ở chỗ vấn đề

không phải là đi sang bờ bên kia. Nếu bạn bị chìm, trong

chính việc chìm đó bạn đã đạt tới bờ bên kia rồi. Cho

nên tôi không cần nhớ mọi người, tên tuổi, khuôn mặt -

không cần tôi bận tâm với tất cả những điều đó. Toàn

thể mối quan tâm của tôi là đẩy bạn vào trong nước, và

thế rồi nước chăm lo. Và thực sự nó là đại dương sâu, và

không có khả năng nào cho bất kì ai đã bao giờ bơi qua

nó - cho nên dù bạn có là người bơi rất kém hay không

thì cũng không thành vấn đề. Nếu bạn bơi kém điều đó

còn tốt hơn, bạn sẽ chìm sớm hơn những người khác!

Những người có thể bơi lâu hơn một chút sẽ vẫn còn

khổ lâu hơn một chút bởi vì họ sẽ tự cứu họ.

Có những người ở đây, vốn là người bơi giỏi, nhưng

họ là người không may. Người may thực sự là những

người không biết ngay cả đến ABC của bơi, cho nên

khoảnh khắc tôi đẩy họ vào nước họ chìm nghỉm luôn!

Và đó là cách đạt tới bờ bên kia - bởi vì chỉ bản ngã của

bạn mới chìm; bạn không thể chìm được. Chỉ bản ngã

của bạn mới chết; bạn không thể chết được. Bạn chưa

bao giờ sinh và bạn sẽ không bao giờ chết. Không đại

dương nào có thể phá huỷ được bạn. Không quyền năng

nào có thể phá huỷ được bạn. Không lửa nào có thể đốt

cháy được bạn. Đó là lí do tại sao tôi cứ đẩy bạn mà

không lo gì về bạn cả - dù bạn biết bơi hay không, dù

bạn sẽ có khả năng đạt tới bờ bên kia hay không. Tôi nói

về bờ bên kia để cho tôi có thể thuyết phục bạn nhảy

vào trong đại dương. Một khi bạn đã nhảy rồi tôi quên

hết mọi điều về bạn! Tôi phải thuyết phục người khác

chứ!

Vậy nên, Mradula này, đừng lo nhé. Bạn may mắn

là bạn không phải là người bơi giỏi. Chẳng mấy chốc

bạn sẽ chìm nghỉm. Và khoảnh khắc bạn mất đi, đó là

khoảnh khắc vĩ đại nhất của cuộc đời bạn, bởi vì trong

chính cái chết đó là phục sinh.

#4Câu hỏi thứ ba:

Thưa Thầy kính yêu,

Thầy ngụ ý gì bởi việc hiểu cái gì đó trong thiền?

Làm sao người ta đi về nó, và phần nào của cái ta

tham gia vào việc hiểu này?

Nigel, thiền và hiểu là đồng nghĩa. Cho nên khi tôi

nói "hiểu trong thiền," tôi đơn giản nói im lặng, yên tĩnh

và thấy. Bạn không làm gì khác, bạn chỉ phải im lặng,

điềm tĩnh và bình thản, và thấy. Và hiểu biết nảy sinh

theo cách riêng của nó. Nó là hương thơm của im lặng.

Hiểu lầm nảy sinh bởi vì tâm trí bạn rất u ám, ồn ào.

Tâm trí bạn chưa bao giờ cho phép bạn thấy cái đang đó,

chưa bao giờ cho phép bạn nghe thấy điều đang được

nói cho bạn. Chư phật tới và đi nhưng bạn vẫn còn như

cũ. Vâng, bạn trở thành người Ki tô giáo và bạn trở

thành Phật tử, và bạn trở thành người Hindu, nhưng bạn

không thay đổi. Đây là chiến lược của bạn để trốn tránh

thay đổi, để né tránh người thức tỉnh.

Bạn hỏi tôi, "Thầy ngụ ý gì bởi việc hiểu cái gì đó

trong thiền?"

Đó không phải là vấn đề lớn. Thiền là hiểu biết. Bạn

đang cố hình dung ra nó theo kiểu trí tuệ, và điều đó là

không thể được. Bạn đang cố nghĩ về nó, điều nó tất cả

là gì. Bất kì kết luận nào bạn đi tới cũng sẽ sai.

Vấn đề không phải là nghĩ cái gì được ngụ ý bởi nó.

Thiền, và kinh nghiệm đi. Nó là cái gì đó cần được kinh

nghiệm.

Bạn nói, "Làm sao người ta đi về nó...?"

Người ta không đi về nó chút nào, bằng không bạn

sẽ cứ đi về đi về hoài. Từ 'về' nghĩa nghĩa quanh quanh,

và bạn sẽ đi quanh và đi quanh trong vòng tròn. Đừng

làm nó thành câu hỏi trí tuệ; nó là cách tiếp cận tồn tại.

Nhưng chính từ 'hiểu' đã cho bạn ý niệm sai, bởi vì với

'hiểu' chúng ta bao giờ cũng nghĩ 'hiểu biết trí tuệ'. Điều

đó không phải vậy. Không có gì giống như hiểu biết trí

tuệ cả. Hiểu biết trí tuệ là rởm. Nó là hiểu lầm giả vờ

hiểu biết. Từ 'hiểu' là hay.

Khi bạn ở trong thiền mọi thứ đứng dưới bạn, bạn là

vậy ở trên nó. Đó là nghĩa của hiểu biết. Mọi thứ đều có

đó xa phía dưới bạn, cho nên bạn có thể thấy... giống

như cái nhìn mắt chim. Bạn có thể thấy toàn thể từ chiều

cao của mình. Trí tuệ không thể thấy được điều đó; nó ở

trên cùng bình diện. Hiểu biết xảy ra chỉ khi vấn đề ở

trên bình diện này còn bạn ở trên bình diện cao hơn.

Nếu bạn cũng ở trên cùng bình diện, hiểu biết là không

thể được. Bạn sẽ chỉ hiểu lầm. Và đó là một trong những

vấn đề lớn nhất mà mọi người tìm kiếm đều phải đương

đầu.

Jesus nói đi nói lại với các đệ tử của ông ấy, "Nếu

các ông có tai, nghe đi; nếu các ông có mắt, nhìn đi."

Ông ấy không nói với người mù hay người điếc, ông ấy

chỉ nói với những người như bạn. Nhưng sao ông ấy cứ

khăng khăng thế? - bởi lẽ đơn giản là việc nghe không

phải là nghe thấy và việc nhìn không phải là nhìn đúng.

Bạn nhìn thứ này và bạn hiểu cái gì đó khác. Tâm trí bạn

lập tức bóp méo nó. Tâm trí bạn bị lộn ngược. Nó làm

mọi thứ thành đống lộn xộn. Nó trong lẫn lộn, và bạn

nhìn qua lẫn lộn đó, cho nên toàn thế giới có vẻ lẫn lộn.

Lão Nugent yêu con mèo của mình, Tommy, cho

nên ông ấy cố dạy nó nói.

"Nếu ta có thể làm cho Tommy đối thoại được với

ta," ông ấy lập luận, "ta sẽ chẳng phải bận tâm với người

thường chút nào."

Đầu tiên ông ấy thử chế độ ăn cá mòi đóng hộp, rồi

một con chim hoàng yến. Tommy thích cả hai - nhưng

nó không học nói. Thế rồi một hôm Nugent có hai con

vẹt cực hay nói được nấu trong bơ và dâng cho Tommy

với món măng tây và khoai tây chiên. Tommy liếm sạch

đĩa, và thế rồi - ngạc nhiên hết sức - bỗng nhiên nó quay

sang ông chủ và kêu to, "Trông kìa!"

Nugent không chuyển động. Trần sập xuống và vùi

ông già này dưới đống mảnh vụn. Tommy lắc đầu và

nói, "tám năm ông ấy để ra để làm cho tôi nói, và thế rồi

hình nhân này chẳng nghe!"

Bạn đi cả nghìn dặm đường tới thầy và thế rồi

"...hình nhân này chẳng nghe."

Tâm trí không thể nghe được, lắng nghe là điều

không thể được với tâm trí; nó không trong trạng thái

cảm nhận. Tâm trí năng nổ, nó nhảy vào kết luận nhanh

chóng tới mức nó bỏ lỡ toàn thể vấn đề. Thực tế, nó đã

kết luận rồi, nó đơn giản chờ đợi kết luận của nó được

chứng minh là đúng.

Nigel, xin đừng cố hiểu; thay vì thế hãy cố thiền.

Bạn phải là người mới ở đây. Nhảy múa, ca hát, thiền đi,

để tâm trí lắng đọng lại chút ít. Để dòng suối này của

tâm trí, vốn đầy lá khô và bùn bẩn, lắng đọng lại chút ít.

Để nó trở thành sạch và trong, trong suốt; chỉ thế thì bạn

mới có khả năng hiểu điều tôi đang nói. Thế thì nó đơn

giản thế. Tôi không nói triết lí rất phức tạp - nó không

phải là triết lí chút nào - tôi đơn giản chỉ tới chân lí nào

đó mà tôi đã kinh nghiệm, và bạn có thể kinh nghiệm

bất kì khoảnh khắc nào bạn quyết định kinh nghiệm.

Nhưng nó phải là cuộc hành trình.

Bạn nói, "Làm sao người ta đi về nó, và phần nào

của cái ta tham gia vào việc hiểu này?"

Vấn đề không phải là phần nào tham gia vào nó.

Tính toàn bộ của bạn được tham gia vào.

Thiền không phải là của thân thể, không phải của

tâm trí, không phải của linh hồn. Thiền đơn giản nghĩa

là thân thể bạn, tâm trí bạn, linh hồn bạn, tất cả vận hành

trong hài hoà thế, trong tính toàn thể thế, rù rù đẹp đẽ;

chúng ở trong giai điệu... một. Toàn thể bản thể bạn -

thân thể, tâm trí, linh hồn, tất cả đều tham gia vào trong

thiền. Đó là lí do tại sao nỗ lực của tôi ở đây là để bắt

đầu mọi việc thiền với thân thể. Đó là cái gì đó mới.

Vào những ngày cổ đại mọi người đã cố gắng bắt

đầu thiền trực tiếp trong cốt lõi bên trong nhất của bạn.

Đó là quá trình khó khăn. Bạn không biết gì về trung

tâm bên trong của mình; làm sao bạn có thể bắt đầu

được cuộc hành trình từ chỗ nào đó nơi bạn chưa bao

giờ ở? Bạn có thể bắt đầu cuộc hành trình chỉ từ chỗ bạn

đang ở. Bạn đang trong thân thể, do đó nhấn mạnh của

tôi là vào nhảy múa, ca hát, thở - để cho bạn có thể bắt

đầu từ thân thể. Khi thân thể bắt đầu trở nên có tính

thiền.... Và đừng bị phân vân bởi việc tôi dùng từ 'tính

thiền' cho thân thể. Vâng, thân thể trở nên có tính thiền.

Khi nó đang trong điệu vũ sâu sắc, khi nó đang vận hành

hoàn hảo, không phân chia, như một toàn thể, nó có

phẩm chất thiền về điều đó, duyên dáng nào đó, cái đẹp.

Thế rồi đi vào trong, thế rồi bắt đầu quan sát tâm trí.

Thế rồi tâm trí bắt đầu lắng đọng. Và khi tâm trí cũng đã

lắng đọng, đã trở thành một với thân thể, thế thì quay lại

hướng về trung tâm - quay một trăm tám mươi độ - và

an bình lớn sẽ giáng xuống bạn. Nó sẽ đập rộn ràng từ

linh hồn bạn tới thân thể, từ thân thể tới linh hồn. Trong

đập rộn ràng đó bạn sẽ là một.

Cho nên đừng hỏi phần nào của cái ta được tham gia

vào trong việc hiểu. Tính toàn bộ của bạn được tham gia

vào. Và chỉ khi tính toàn bộ của bạn được tham gia vào,

mới có hiểu biết. Thân thể bạn biết về điều đó, tâm trí

bạn biết về điều đó, linh hồn bạn biết về điều đó. Thế thì

bạn bắt đầu vận hành trong nhất trí, trong thống nhất.

Bằng không, thân thể nói điều này, tâm trí nói điều

khác, và linh hồn cứ đi theo cách riêng của nó. Và bạn

bao giờ cũng đi vào các chiều khác nhau đồng thời.

Thân thể bạn đói, tâm trí bạn đầy thèm khát, và bạn

đang cố có tính thiền. Đó là lí do tại sao tôi không thiên

về nhịn ăn - trừ phi điều đó được làm một cách thuần

khiết với mục đích lành mạnh, như chế độ ăn uống để

giảm cân, hay có thể thỉnh thoảng chỉ để thanh lọc, để

cho toàn thể dạ dầy được bỏ lại một ngày nghỉ ngơi, để

cho toàn thể hệ thống tiêu hoá đôi khi có thể được ngày

nghỉ. Bằng không, nó liên tục làm việc, làm việc và làm

việc - nó bị quá mệt mỏi.

Bây giờ các nhà khoa học nói ngay cả máy cũng

mệt. Họ gọi đó là mệt kim loại, cũng giống như mệt tinh

thần. Ngay cả kim loại cũng cần nghỉ ngơi, và dạ dầy

của bạn không được làm từ kim loại, nhớ lấy. Nó thậm

chí không được làm bằng nhựa. Nó được làm từ chất

liệu mảnh mai, chất liệu rất mỏng manh. Nhưng nó làm

việc cả đời bạn. Cũng tốt là đôi khi cho nó ngày nghỉ.

Ngay cả Thượng đế cũng phải nghỉ một ngày - sau sáu

ngày làm việc ông ấy nghỉ một ngày. Ngay cả Thượng

đế cũng mệt.

Cho nên đôi khi, chỉ từ lòng tốt với dạ dầy đáng

thương, kẻ liên tục làm việc quần quật cho bạn, nhịn ăn

là tốt. Nhưng tôi không gợi ý điều đó - rằng nó sẽ có ích

trong thiền. Khi bạn đói thân thể bạn muốn bạn đi tới tủ

lạnh.

Tôi chống lại kìm nén dục của bạn, bởi vì nếu bạn

kìm nén dục, bất kì khi nào bạn ngồi im lặng tâm trí bạn

sẽ bắt đầu tưởng tượng về dục. Khi bạn bận bịu với

những thứ khác, tâm trí vẫn tưởng tượng như dòng chảy

ngầm, nhưng khi bạn không làm gì nó nhô lên ánh sáng.

Nó bắt đầu đòi hỏi, nó tạo ra những tưởng tượng đẹp:

người đẹp quyến rũ bao quanh bạn. Làm sao bạn có thể

thiền được?

Thực tế, các truyền thống cổ đều đã tạo ra đủ mọi

loại rào chắn thiền, và thế rồi họ nói, "Thiền rất khó."

Thiền không khó; thiền là quá trình đơn giản, quá trình

tự nhiên. Nhưng nếu bạn tạo ra những cản trở không cần

thiết, thế thì bạn làm nó thành cái gì đó như cuộc đua

vượt rào. Bạn tạo ra rào chắn: bạn đặt đá lên đường...

bạn treo đá quanh cổ mình, bạn giữ cho bản thân mình

bị xiềng xích, bị cầm tù, bị khoá bên trong và chìa khoá

bị vứt đi.... Thế thì tất nhiên nó trở thành ngày một khó

hơn, ngày một không thể được hơn.

Nỗ lực của tôi ở đây là để làm cho thiền thành hiện

tượng tự nhiên. Cho thân thể điều là nhu cầu của thân

thể, và cho tâm trí điều là nhu cầu của tâm trí. Và thế thì

bạn sẽ ngạc nhiên, chúng trở thành rất thân thiện. Và khi

bạn bảo thân thể, "Bây giờ trong một giờ cho phép tôi

ngồi im lặng," thân thể nói, "Vâng. Bạn đã làm nhiều

điều thế cho tôi, bạn đã kính trọng thế với tôi, ít nhất tôi

cũng có thể làm điều này cho bạn."

Và khi bạn nói với tâm trí, "Xin giữ im lặng trong

vài phút nhé. Để tôi có nghỉ ngơi một chút," tâm trí sẽ

hiểu bạn. Nếu bạn đã không kìm nén, nếu bạn đã tôn

trọng tâm trí, kính trọng tâm trí, nếu bạn đã không kết

án nó, thế thì tâm trí cũng sẽ trở nên im lặng.

Tôi đang nói điều này từ kinh nghiệm riêng của tôi.

Kính trọng thân thể, kính trọng tâm trí, để cho chúng

kính trọng bạn. Tạo ra thân hữu. Chúng là của bạn; đừng

đối kháng. Mọi truyền thống cổ đều dạy bạn đối kháng

với thân thể và tâm trí; họ tạo ra thù địch, và qua thù

địch bạn không thể đi vào thiền được. Thế thì tâm trí sẽ

quấy nhiễu bạn nhiều mỗi khi bạn thiền hơn là bất kì lúc

nào khác. Thế thì thân thể sẽ trở thành bất ổn - bất ổn

trong thiền còn nhiều hơn bất kì lúc nào khác. Nó sẽ báo

thù, nó sẽ không cho phép bạn ngồi im lặng. Nó sẽ tạo

ra nhiều vấn đề thế cho bạn.

Nếu bạn đã cố ngồi im lặng trong vài phút bạn sẽ

biết. Các thứ tưởng tượng sẽ bắt đầu xảy ra. Bạn sẽ nghĩ

rằng con kiến nào đó đang bò lên chân bạn, và khi bạn

nhìn chẳng có kiến đâu. Kì lạ.... Khi bạn ngồi với mắt

nhắm bạn cảm thấy tuyệt đối là nó có đó, đang bò, đang

tới, tới nữa, tới nữa... và khi bạn mở mắt ra chẳng có

kiến nào, chẳng có gì. Đấy chỉ là thân thể giở thủ đoạn

với bạn. Bạn đã từng giở thủ đoạn với thân thể. Bạn đã

từng lừa thân thể theo nhiều cách, cho nên bây giờ thân

thể đang lừa bạn. Khi thân thể muốn đi ngủ bạn buộc nó

ngồi trong rạp chiếu bóng. Thân thể nói, "Được. Khi

đúng cơ hội nảy sinh ta sẽ xem điều đó." Cho nên khi

bạn ngồi trong thiền thân thể bắt đầu tạo ra vấn đề cho

bạn. Bỗng nhiên bạn bắt đầu cảm thấy lưng mình cần

gãi... và bạn ngạc nhiên bởi vì thông thường điều đó

chưa bao giờ xảy ra.

Một người đàn bà đem tới cho tôi một bàn tay nhựa

có pin gắn vào nó, để gãi lưng. Tôi nói, "Nhưng sao bạn

lại đem cái này tới cho tôi?"

Cô ấy nói, "Thầy phải ngồi trong thiền rồi.... Bất kì

khi nào tôi ngồi trong thiền vấn đề duy nhất là lưng tôi

bắt đầu... tôi cảm thấy tôi muốn gãi nó quá, mà tôi lại

không thể với được tới chỗ ngứa. Cho nên tôi đã mua

cái tay này. Đây mới chính là tay! Thầy bật nó lên và nó

có thể gãi bất kì chỗ nào. Cho nên tôi mới nghĩ rằng

thầy phải ngồi trong thiền... thầy sẽ cần cái này!"

Tôi nói, "Tôi chưa bao giờ ngồi trong thiền cả. Tôi

đang trong thiền, cho nên tôi không cần ngồi. Bất kì cái

gì tôi làm tôi cũng trong thiền. Nếu lưng tôi cần gãi tôi

sẽ gãi nó một cách có tính thiền. Cái gì sai trong việc gãi

lưng bạn? Bạn không gãi lưng của ai đó khác."

Cứ chăm nom thân thể và thân thể sẽ đền đáp lại bạn

vô cùng. Chăm nom tâm trí bạn và tâm trí sẽ có ích. Tạo

ra tình bạn, và thiền tới dễ dàng. Thay vì cố gắng hiểu...

bởi vì hiểu là không thể được trước khi thiền, chỉ có

hiểu lầm thôi.

Một người bước vào quán rượu một đêm và ngồi

xuống tại quầy để uống bia.

Trong khi anh ta đang mải nói chuyện với người

ngồi ở ghế đẩu bên cạnh mình, một con khỉ trèo xuống

một trong các thùng bia, dừng cốc bia của anh ta và đái

vào cốc bia của anh ta.

Người này để ý điều đó thì quá trễ rồi.

"Này!" ông ta kêu lên. "Anh thấy điều đó không?

Con khỉ kia vừa đái vào cốc bia của tôi!"

"Này, chả ích gì mà nói điều đó cho tôi," anh chàng

bên cạnh nói. "Bảo người bán bia kia - ông ta mới là chủ

chỗ này."

Người này gọi về phía chủ quán rượu.

"Này!" ông ta nói. "Ông có biết rằng trong khi tôi

đang nói chuyện với ông này thì một con khỉ tới và đái

vào cốc bia của tôi không?"

"Chả liên quan gì tới tôi cả," ông chủ nói. "Đi mà có

lời với người chơi piano đằng kia kìa - khỉ của ông ấy

đấy!"

Người này bước lại đó với cốc bia, vỗ vai người

đánh piano và nói, "Này, ông có biết con khỉ của ông

vừa mới đái vào cốc bia của tôi không?"

"Không," người đánh piano nói, "nhưng nếu ông ca

một lời, tôi sẽ chơi theo nó."

#4Câu hỏi thứ tư:

Thưa Thầy kính yêu,

Chẳng phải bản ngã là một phần của trò chơi thiêng

liêng sao? Tôi là ai mà bỏ nó?

Vedant Bharti... vậy xin đừng bỏ nó!

Giáo sĩ già đáng kính, nổi tiếng khắp miền về sự

khôn ngoan của ông ấy, nằm trong cơn mê, sắp chết đến

nơi. Ở phía bên kia giường ông ấy các đệ tử tôn thờ ông

ấy nhất vẫn lảng vảng.

"Rebbenyu," người phát ngôn cho nhóm tụ tập

thương tiếc cầu xin, "xin đừng rời bỏ chúng tôi mà

không một lời trí huệ cuối cùng. Xin hãy nói cho chúng

tôi lần cuối cùng, giáo sĩ yêu mến." Trong vài khoảnh

khắc không có tiếng đáp lại, và khách thăm khóc lóc sợ

rằng ông ấy đã mất để nhận phần thưởng xứng đáng của

ông ấy. Nhưng bỗng nhiên môi giáo sĩ động đậy khe khẽ

thế. Họ nghiêng người lên ông ấy để nghe lời cuối cùng

của ông ấy.

"Cuộc sống là chén trà," ông ấy thì thào trong giọng

lạc đi.

Các đệ tử nhìn nhau bối rối. Ông ấy ngụ ý gì? Bí

mật lớn của cuộc sống bị giấu kìn trong phát biểu huyền

môn đó sao? Gần hết cả giờ họ trao đổi ý kiến, phân tích

câu này từ mọi quan điểm có thể quan niệm được,

nhưng họ không thể giải mã được nghĩa sâu sắc hơn.

"Chúng ta phải hỏi thầy trước khi quá trễ," người

lãnh đạo nói. Một lần nữa, ông ta nghiêng người về cái

hình thể bất động của hiền nhân đáng kính. "Giáo sĩ,

Giáo sĩ," ông ấy gọi khẩn thiết, "chúng tôi cầu khẩn thầy

giải thích. Sao cuộc sống lại là chén trà?"

Với tia năng lượng cuối cùng, giáo sĩ giơ tay lên và

rền rĩ, "Thôi được rồi, vậy cuộc sống không phải là chén

trà."

Vedant Bharti, bạn nói, "Chẳng phải bản ngã là một

phần của trò chơi thiêng liêng sao? Tôi là ai mà bỏ nó?"

Nếu bạn tận hưởng trò chơi thiêng liêng, xin đừng

vứt bỏ nó. Và cũng có sợ: ai đó có thể lấy nó đi. Tốt hơn

cả là bạn giữ cái của mình. Một có một là quá đủ; ai đó

sẽ có hai nếu bạn vứt nó đi.

Và bạn có hiểu trò chơi thiêng liêng nghĩa là gì

không? Nếu bạn hiểu nó, thế thì bản ngã ở đâu? Nếu bạn

hiểu nó tất cả đều là trò chơi thiêng liêng, bản ngã đã

biến mất. Bản ngã chỉ tồn tại khi bạn coi cuộc sống

nghiêm chỉnh. Bản ngã là hiện tượng rất nghiêm chỉnh -

giả tạo, nhưng nghiêm chỉnh. Nếu cuộc sống là trò chơi

thiêng liêng, nếu bạn đã tới trí huệ lớn lao này, thế thì

bản ngã ở đâu? Thế thì bạn chỉ đang chơi một phần, bạn

không cần bị đồng nhất với nó. Bạn chỉ đang diễn kịch.

Bạn không cần trở thành việc diễn của mình. Bản ngã

đơn giản nghĩa là bạn trở nên bị đồng nhất với phần của

mình, nhiều tới mức bạn quên mất rằng bạn tách rời, bạn

quên mất rằng bạn là tâm thức. Bạn trở nên mất hút

trong bản thân việc diễn kịch, bạn trở thành nó - đó

chính là bản ngã là gì.

Bản ngã không phải là cái gì đó bạn phải vứt bỏ.

Bản ngã chỉ là hiểu lầm. Bạn không vứt bỏ hiểu lầm,

bạn đơn giản hiểu và hiểu lầm không có đó nữa. Bạn

không vứt bỏ bóng tối, bạn đơn giản đem ánh sáng vào

và nó chẳng được tìm thấy ở đâu cả. Không phải là

trước hết bạn đem ánh sáng vào, thế rồi bạn bắt lấy bóng

tối và ném nó ra ngoài nhà - không cần. Nếu bạn thực sự

nhận biết đó là trò chơi thiêng liêng, điều đó nghĩa là

ánh sáng đã được đem vào. Thế thì bạn không thể yêu

cầu điều thứ hai được.

Nếu chính hiểu biết của bạn rằng cuộc sống là trò

chơi thiêng liêng, thế thì bạn không thể hỏi, "Tôi là ai

mà vứt bỏ nó?" Thế thì bạn không có, bạn biến mất.

Không có người vứt và không có gì để bị vứt.

Nhưng phần thứ nhất của câu hỏi của bạn không

phải là hiểu biết của bạn. Cho nên xin bạn, nếu bạn đã

vứt nó đi rồi, nhặt lại đi, bởi vì có nhiều người ngu thế,

ai đó có thể nhặt nó đấy.

Bà mẹ giận dữ lôi sềnh sệch đứa con trai chín tuổi

tới văn phòng bác sĩ và hỏi, "Đứa trẻ chín tuổi có khả

năng thực hiện ca mổ ruột thừa không?"

Bác sĩ sủa lên một cách nóng vội, "Tất nhiên là

không!"

Người mẹ nói với đứa con, "Vậy mẹ đã đúng chưa?

Nhặt lại nó đi!"

#4Câu hỏi thứ năm:

Thưa Thầy kính yêu,

Nghe thầy, ham muốn dậy lên về nhận biết; nhưng

chẳng phải chính ham muốn này đối chọi với nhận

biết sao?

Prem Sunderam, nếu lắng nghe tôi, ham muốn dậy

lên về nhận biết, thế thì bạn đã bỏ lỡ vấn đề rồi. Lắng

nghe tôi bạn sẽ trở nên nhận biết. Nếu bạn lắng nghe

đúng, thế thì nhận biết sẽ xảy ra qua việc lắng nghe. Nếu

bạn không lắng nghe, thế thì ham muốn sẽ nảy sinh để

nhận biết. Ham muốn nghĩa là ngày mai bạn sẽ nhận

biết - bạn muốn nhận biết vào ngày mai. Và nếu bạn

thực sự lắng nghe tôi, ai bận tâm về ngày mai? Khoảnh

khắc này là mọi cái đang đó - bạn là nhận biết.

Nhìn đúng bây giờ đi....

Đây là nhận biết: chim kêu chíp chíp, im lặng, ba

nghìn người mất hút trong một thể hữu cơ, sự thống nhất

đại dương, cứ dường như không có ai cả. Đây là nhận

biết, và mùi vị của nó sẽ biến đổi bạn. Và thế thì dù bạn

muốn nhận biết ở bất kì đâu bạn đều có thể nhận biết.

Nó là cái gì đó đang xảy ra trong bạn. Lắng nghe tôi chỉ

là phương cách.

Tôi không ở đây thuyết giảng cho bạn; đây chỉ là

phương cách thiền. Cũng như bạn đang thực hành thiền

khác, đây cũng là cách thiền mà trong đó tôi thực hành

cùng bạn để cho tâm trí bạn có thể trở nên tham gia

cùng tôi, và trái tim bạn có thể trượt sâu vào trong chính

cốt lõi của bạn.

Sunderam, nếu ham muốn nảy sinh về thiền, về

nhận biết, thế thì bạn đã bỏ lỡ toàn bộ vấn đề rồi, bởi vì

ham muốn là rào chắn. Hoặc nhận biết ngay bây giờ -

hoặc bây giờ hoặc không bao giờ! Bạn không thể nói

"Ngày mai...." Khoảnh khắc bạn nói ngày mai bạn đã trì

hoãn nó mãi mãi.

Vâng, ham muốn là đối chọi với nhận biết. Lắng

nghe tôi, hiểu rằng ham muốn là đối chọi lại nhận biết.

Vô ham muốn là nhận biết. Thấy rằng vô ham muốn là

nhận biết, làm sao bạn có thể ham muốn nhận biết

được? Khi, ngồi cùng tôi từng sáng, bạn trở nên im lặng,

điều gì xảy ra? Không có ham muốn im lặng - đó là điều

đang xảy ra. Bởi vì không có ham muốn im lặng, bạn

đơn giản im lặng, và thế thì im lặng đó sẽ cứ bao quanh

bạn cả ngày.

Và nếu bạn thấy ra vấn đề, thế thì không cần tình

huống đặc biệt nào cho bạn để vào nhận biết. Bạn có thể

nhận biết ở mọi nơi. Ở ngay chính bãi chợ bạn bỗng

nhiên có thể trở nên nhận biết. Vấn đề không phải là

ham muốn; nó bất thần trở thành nhận biết. Bất kì

khoảnh khắc nào, lay động bản thân bạn chút ít đi, đánh

thức bản thân bạn chút ít đi.

Hai người say đang đi trên xe lăn thì một người

quay sang người kia và nói, "Chúng ta có thể tạo ra thời

kì thoải mái đây, nhưng tôi cảm thấy rằng chúng ta đang

ở nhầm xe bus rồi."

Nếu bạn trì hoãn đến mai, bạn đang ở nhầm xe bus;

bạn say; bạn vô ý thức.

Một cảnh sát xuất hiện trước toà làm nhân chứng

chống lại Max Loeb, người bị bắt vì say ở chỗ công

cộng.

"Làm sao ông biết người bị kiện đã bị say?" quan

toà truy vấn.

"Không hoài nghi gì về điều đó cả," viên sĩ quan

nói. "Khi tôi thấy ông ta, ông ta thả một xu vào máy trả

tiền đỗ xe. Thế rồi ông ta nhìn lên chiếc đồng hồ lớn của

Toà thị chính và gào lên, 'Trời đất, tôi đã được mười

một đồng!'"

Chỉ chút ít ý thức.... Và điều đó có thể xảy ra chỉ

bây giờ. Thượng đế chỉ biết một thời gian, bây giờ, và

chỉ một chỗ - ở đây. Ngài không biết quá khứ, không

biết tương lai, ngài chỉ biết hiện tại. Nếu bạn muốn có

giao cảm với thực tại bạn phải nhận biết ngay bây giờ.

Vợ: "Anh làm thế nào mà đánh thủng lỗ điện thoại

thế?"

Người say: "Anh đánh nó vào chỗ tự bảo vệ."

Quan sát cuộc sống của bạn, điều bạn đang làm cho

bản thân mình.

Người lính chữa cháy đang kéo người say ra khỏi

chiếc giường cháy. "Anh ngu lắm," người đó quát lên,

"điều đó sẽ dạy cho anh về hút thuốc trong giường!"

Người say đáp, "Tôi không hút thuốc trong giường -

nó đã cháy khi tôi nằm xuống."

Cho nên tự lay mình đi. Đừng nói ngày mai. Bất kì

khi nào bạn nhớ, bất kì khi nào bạn nhớ tôi, bất kì khi

nào bạn nhớ Phật, bất kì khi nào bạn nhớ Jesus, tự lay

mình đi. Thức dậy! Nhìn khắp xung quanh - mọi người,

cây cối, chim chóc. Im lặng, sẵn có cho sự tồn tại, trong

buông bỏ sâu, sâu sắc... và nhận biết, dần dần, dần dần

sẽ thấm sâu hơn vào trong bạn.

Mulla Nasruddin nói với tôi:

"Tôi là kiểu người nhạy cảm - nhà thơ. Khi tôi thấy

đàn bà đẹp tôi muốn kêu lên... hay viết thơ... hay nhảy

lên cô ấy!

"Tôi đang ở một bữa tiệc trong khách sạn và tôi gặp

cô gái này thực sự thú vị, và chúng tôi đã uống rượu săm

pa. Tôi xoay xở đưa cô ấy vào được phòng tôi. Tôi khoá

cửa và bỏ kính đeo ra - tỏ cho cô ấy không có khoan

dung gì! Và tôi nháy mắt... và cô ấy nháy mắt. Và tôi

cởi áo sơ mi ra... và cô ấy cởi áo sơ mi của cô ấy ra. Tôi

cởi quần ra... và cô ấy cởi quần cô ấy ra - và tôi nhào tới

cô ấy. Thế rồi tôi nhận ra tôi đã nhìn vào gương. Tôi bỏ

kính ra khỏi chân tôi trong vài tuần. Tôi phải nói tôi là

người tốt nhất tôi đã từng gặp!"

#4Câu hỏi cuối cùng:

Thưa Thầy kính yêu,

Thầy có phải là người bài Do Thái không?

Levin, tôi á? Bài Do Thái sao? Bạn phải khùng rồi!

Louie Feldman - một người bán rong - đáp chuyến

tàu cuối cùng ra khỏi Ga Lớn trung tâm, nhưng trong

vội vàng anh ta quên đóng gói bộ vật dụng vệ sinh cá

nhân của mình.

Sáng hôm sau anh ta thức dậy lúc tinh mơ và đi ra

nhà vệ sinh ở cuối toa. Bên trong nhà vệ sinh anh ta

bước tới một la va bô chưa có người dùng.

"Tôi xin lỗi," Louie nói với người đang cúi xuống la

va bô bên cạnh mình, "tôi quên mất gói đồ vệ sinh đêm

qua. Ông có phiền gì cho tôi dùng xà phòng của ông

được không?"

Người lạ ngó anh ta một cách thăm dò, lưỡng lự đôi

chút, và rồi nhún vai. "Được, ông dùng đi."

Louie lầm bầm cám ơn, rửa qua, và lại quay sang

người này. "Ông cảm phiền cho tôi mượn chiếc khăn

tắm?"

"Không sao, tôi nghĩ là không vấn đề gì."

Louie lau khô mình, vứt chiếc khăn ướt lên sàn và

ngắm mặt mình trong gương. "Tôi chắc phải cạo râu,"

anh ta bình luận. "Ông có thoải mái không nếu tôi dùng

dao cạo của ông?"

"Chắc chắn ông dùng được," người này nói với

giọng nhã nhặn.

"Ông thu xếp thế nào về kem cạo râu?"

Không một lời, người này đưa cho Louie ống kem

cạo râu.

"Ông có lưỡi dao cạo mới không? Tôi ghét dùng

lưỡi dao ai đó khác đã dùng. Cẩn thận thế cũng không

thừa, ông biết đấy."

Louie được trao cho một lưỡi dao cạo mới. Cạo râu

xong, anh ta quay sang người lạ một lần nữa. "Ông có

lược chứ?"

Sự kiên nhẫn của người này đã căng ra tới mức nguy

hiểm gần điểm đứt, nhưng người đó xoay xở mỉm cười

nhợt nhạt và đưa cho Louie chiếc lược của mình.

Louie xem xét nó một cách kĩ lưỡng. "Ông phải thực

sự giữ cái lược này cho sạch hơn chút ít," anh ta khuyên

nhủ và tiến hành rửa nó. Rồi anh ta chải đầu và lại nói

với người hảo tâm, người có cái mồm bây giờ đang bị

kéo dài ra thành đường thẳng mảnh, căng.

"Bây giờ, nếu ông không băn khoăn, tôi muốn có

chút bột phấn, một chút mĩ phẩm sau khi cạo râu, chút

thuốc đánh răng và bàn chải."

"Thề với Trời, tao chưa bao giờ biết tới thằng thần

kinh khốn nạn nào như thế trong đời mình!" người lạ bất

bình càu nhàu. "Đồ chết tiệt, không! Không ai trên thế

giới có thể dùng bàn chải đánh răng của tao."

Ông ta đóng sầm các vật dụng của mình vào trong

hộp da và đi ngang qua cửa, lầm bầm, "Tao vẽ ra đường

ở chỗ nào đó!"

"Đồ bài Do Thái!" Louie gào lên.

Đủ cho hôm nay.

****************************************************************************************************************

#5Phật là quyền tập ấn của bạn

Làm tĩnh lặng tâm trí ông.

Suy ngẫm.

Quan sát.

Không cái gì trói buộc ông.

Ông tự do.

Ông mạnh mẽ.

Ông đã đi tới chỗ cuối.

Tự do khỏi đam mê và ham muốn,

Ông đã tróc gai ra khỏi thân cây.

Đây là thân thể cuối cùng của ông.

Ông trí huệ.

Ông tự do khỏi ham muốn

và ông hiểu lời

và việc dính lại cùng với lời.

Và ông không muốn gì cả.

"Thắng lợi là của ta,

Tri thức là của ta,

và tất cả thuần khiết,

tất cả buông xuôi.

"Ta không muốn gì.

Ta tự do.

Ta đã tìm thấy đường của mình.

Ta sẽ gọi ai là thầy?"

Món quà của chân lí ở bên ngoài việc cho.

Hương vị cõi bên kia dịu ngọt,

Niềm vui bên ngoài niềm vui.

Tận cùng của ham muốn là tận cùng của buồn khổ

Toàn thể triết lí của Phật Gautam được chứa trong

lời kinh này. Nó có tầm quan trọng vô cùng. Nó không

chỉ được hiểu về trí tuệ, nó phải được sống; chỉ thế thì

bạn mới có khả năng hiểu nó.

Làm tĩnh lặng tâm trí ông.

Phật không thuyết giảng niềm tin nào - tin vào

Thượng đế, cõi trời hay địa ngục. Toàn thể nhấn mạnh

của ông ấy là tạo ra không gian im lặng bên trong bạn.

Bạn đã đầy tri thức; bạn không cần nhiều tri thức nữa.

Bạn cần nhiều hồn nhiêu. Bạn cần hồn nhiên như đứa trẻ

nhỏ. Bạn cần nhiều ngỡ ngàng, nhiều kính nể, nhiều rõ

ràng.

Và tất cả những điều này tới với bạn khi tâm trí im

lặng. Khi tâm trí im lặng bạn trong giao cảm với sự tồn

tại; khi tâm trì ồn ào bạn bị ngắt ra. Ồn ào riêng của bạn

vận hành như bức tường quanh bạn. Im lặng là cây cầu;

tri thức, ồn ào, là rào chắn. Và mọi tri thức đều tạo ra ồn

ào trong bạn. Bạn càng biết nhiều, bạn càng trở nên

được thấm nhuần, bạn càng đầy rác rưởi, đồ đồng nát.

Bạn cần bản thể quang đãng bên trong mình, hoàn

toàn trống rỗng, trống rỗng tới mức ngay cả bạn cũng

không có đó, im lặng tới mức ngay cả ý tưởng về 'tôi'

cũng đã biến mất. Thế thì không có rào chắn giữa bạn và

sự tồn tại. Bạn rơi vào trong hài hoà. Bạn trở thành một

phần của lễ hội mênh mông này vẫn đang diễn ra mãi.

Bạn nhảy múa với các vì sao, bạn nhảy múa với gió, bạn

nhảy múa với các đám mây. Toàn thể bản thể bạn trở

thành điệu vũ, bài ca. Bạn bùng nở thành hàng nghìn

bông hoa. Nhưng bản thể im lặng là điều phải có; trong

bản thể ồn ào, chẳng cái gì là có thể. Tâm trí ồn ào là bất

lực; nó không phải màu mỡ, nó không sáng tạo. Tâm trí

im lặng là mảnh đất đúng cho bản thể của bạn phát triển

- phát triển tới đỉnh cao và chiều sâu tối thượng của nó.

Do đó lời kinh thứ nhất: Làm tĩnh lặng tâm trí ông.

Đôi khi người ta cảm thấy ngạc nhiên về cách Phật

bắt đầu. Cách Phật tiếp cận tới thực tại là duy nhất thế.

Nó cách mạng hoàn toàn, triệt để. Người ta đã nghĩ ông

ấy phải bắt đầu bằng lời cầu nguyện Thượng đế - nhưng

không có Thượng đế. Trong linh ảnh của Phật Thượng

đế không có chỗ. Thượng đế là bịa đặt của người dốt

nát.

Với Phật không có Thượng đế như một người;

không có đấng sáng tạo bởi vì việc sáng tạo là vĩnh

hằng. Vâng, có tính sáng tạo, nhưng không có đấng sáng

tạo. Có tính thượng đế, nhưng không có Thượng đế.

Toàn thể sự tồn tại này tràn ngập với tính thượng đế,

nhưng Thượng đế không phải là người cho nên bạn

không thể cầu nguyện ông ấy được.

Nhớ lấy, lời cầu nguyện là không thể được với Phật.

Lời cầu nguyện giả định trước một Thượng đế, một

Thượng đế con người, người có thể thiên vị bạn nếu bạn

ca ngợi ông ấy, người có thể ghét bỏ bạn nếu bạn chọc

giận ông ấy. Điều này là ấu trĩ - toàn thể cách tiếp cận

này là ấu trĩ; nó không tôn giáo chút nào.

Phật bắt đầu theo một cách rất khoa học. Thay vì nói

về Thượng đế ông ấy nói về bạn và về thực tại của bạn.

Như bạn hiện thế, bạn không là gì ngoài ồn ào. Nhìn vào

bên trong và bạn sẽ thấy tính sự kiện của Phật: bạn chỉ

là ồn ào; thậm chí không có lấy một khoảnh khắc im

lặng xảy ra cho bạn. Do đó các cánh cửa và cửa sổ của

bạn vẫn còn bị đóng. Bạn bị bao quanh bởi rác rưởi

riêng của mình mà bạn cứ tạo ra và tích luỹ, cứ tưởng

rằng nó là kho báu lớn.

Làm tĩnh lặng tâm trí ông ... Và phát biểu này rất có

ý nghĩa, bởi vì khoảnh khắc tâm trí yên tĩnh, tâm trí biến

mất. Tâm trí yên tĩnh nghĩa là vô trí. Tâm trí yên tĩnh

không còn là tâm trí chút nào nữa. Một cách phủ định

bạn có thể gọi là vô trí. Đó là điều Thiền nhân đã làm,

đó là điều các nhà huyền môn như Kabir, Nanak đã làm.

Họ gọi nó là amani - trạng thái của vô trí. Nhưng bạn có

thể dùng thuật ngữ khẳng định nữa. Phật giáo Đại thừa

gọi trạng thái này là bodhichitta - Bồ đề Tâm. Tâm với

chữ T viết hoa, bạn để ý đấy, không phải là tâm trí của

bạn, không phải tâm trí của tôi, mà đơn giản Tâm: Tâm

đại dương, Tâm của cái toàn thể.

Cả hai đều tốt. Nếu bạn thích cách nói tích cực bạn

có thể gọi nó là bồ đề tâm - Tâm của Phật, Tâm phổ

quát. Hay, nếu bạn thích chính xác hơn, thế thì cách nói

phủ định nó còn đúng hơn nhiều; thế thì gọi nó là vô trí,

bởi vì khi ồn ào biến mất, tâm trí biến mất. Cũng như

khi bệnh của bạn biến mất, sức khoẻ còn lại sau - không

phải là bây giờ bạn có bệnh khoẻ. Bệnh tật không bao

giờ là mạnh khoẻ và tâm trí không bao giờ im lặng.

Bệnh là bệnh và tâm trí là ồn ào. Khi không có bệnh thì

có mạnh khoẻ; khi không có ồn ào thì có vô trí.

Nhưng kinh nghiệm mới nảy sinh trong cốt lõi bên

trong nhất của bạn: kinh nghiệm của âm nhạc im lặng,

âm thanh vô âm. Các nhà huyền môn đã gọi nó là

anaphat nad, âm thanh vô âm; hay như Thiền nhân nói,

tiếng vỗ tay của một bàn tay. Nó về căn bản là ngược

đời; do đó mới có cách diễn đạt này, tiếng vỗ tay của

một bàn tay.

Phật nói: Làm tĩnh lặng tâm trí ông. Thực sự ông ấy

nói: Vượt ra ngoài tâm trí, vứt bỏ tâm trí, được kết thúc

với nó. Và con đường là gì? Nó phải được làm như thế

nào?

Phản ánh...

Đó là điều nền tảng thứ nhất. Nhớ lấy, với "phản

ánh" ông ấy không ngụ ý suy tư, suy nghĩ. Không, với

phản ánh ông ấy thực sự ngụ ý phản xạ - như tấm

gương. Tấm gương phản xạ; bất kì cái gì tới trước tấm

gương, nó đều phản xạ. Nó không nghĩ về vật đó, nó

không suy tư về vật nó; nó đơn giản phản xạ. Khi vật đó

dời đi, phản xạ biến mất.

Điều này phải là nền tảng: phản ánh mọi sự, và khi

chúng đã biến mất, để chúng biến mất. Đừng cứ mang

quá khứ. Đừng trở thành kính ảnh; nhớ vẫn còn là tấm

gương. Kính ảnh cũng phản xạ, nhưng nó trở nên bị gắn

với sự phản xạ, nó trở thành bị ám ảnh với sự phản xạ.

Nó níu bám lấy sự phản xạ, nó trở nên bị in với sự phản

xạ. Tấm gương vẫn còn sạch; nó không bị in bởi cái nó

phản xạ. Nó không trở nên đẹp khi khuôn mặt đẹp được

phản xạ; nó không trở nên xấu.

Người tìm kiếm cũng phải như vậy. Khi thành công

tới, phản ánh; không trở nên bị gắn với nó. Khi thất bại

tới, phản ánh; không bị rối loạn bởi nó. Khi bạn ở trong

cung điện, phản ánh cung điện, và khi bạn ở trong lều,

phản ánh lều. Để mọi thứ tới và qua, và bạn đơn giản là

tấm gương.

Nếu bạn là tấm gương bạn không thể mang quá khứ

đi cùng mình, và nếu bạn không mang quá khứ bạn sẽ

còn tươi tắn, bạn sẽ còn trẻ trung, bạn sẽ còn trong quá

trình liên tục của việc sinh. Từng khoảnh khắc bạn sẽ

được sinh mới. Chúng ta trở nên già... tôi không nói về

tuổi sinh lí, tôi đang nói về tuổi tâm lí. Chúng ta trở nên

rất già bởi lẽ đơn giản là chúng ta thu thập quá khứ.

Bạn vẫn mang cái gì đó đã xảy ra ba mươi năm

trước. Ai đó đã xúc phạm bạn và vết thương đó vẫn còn

đó; bạn vẫn khao khát trả thù. Bạn đã giầu năm mươi

năm trước, bạn chưa thể quên được điều đó; hay bạn đã

nghèo và bạn vẫn còn mang điều đó cùng mình.

Đó là cách bạn thấy thế giới đầy những người khổ.

Họ từ đâu tới? Đây là những người nghèo đã trở nên

giầu, nhưng họ vẫn níu bám lấy cái nghèo của họ. Chỉ

trên bề mặt họ có của cải, nhưng sâu bên dưới họ nghèo,

rất nghèo. Họ không thể rời bỏ được cái nghèo của họ -

họ không thể đi khỏi quá khứ của họ. Họ đang mang nó;

nó đã trở thành thói quen, nó đã trở thành bản tính thứ

hai của họ. Do đó mới có níu bám lấy tiền. Họ không

thể tiêu được, họ không thể dùng được tiền của họ.

Tôi biết một người có ít nhất mười toà nhà và kiếm

nhiều tiền nhưng sống trong một ngôi nhà bẩn thỉu thế.

Tất cả các toà nhà của ông ta đều đẹp, nhưng những toà

nhà đẹp đó đã được cho thuê và ông ta sống trong một lỗ

đen bẩn thỉu. Ông ta không vợ, không con; ông ta một

mình.

Lí do tôi trở nên quen biết ông ta, là bất kì khi nào

ông ta đi qua phố nơi tôi sống, ít nhất từ khoảng hai

trăm mét tôi đã biết là ông ta tới, bởi vì ông ta dùng một

chiếc xe đạp cổ tới mức nó phải đã được dùng bởi Adam

và Eve! Nó gây tiếng ồn tới mức tôi trở nên quan tâm tới

người này.

Tôi điều tra, "Người này là ai?" và họ nói, "Ông ta

là một trong những người giầu nhất thành phố. Xe đạp

của ông ta không có phanh, nhưng một điều tốt về xe

của ông ấy: nếu bạn bảo ông ấy mua xe mới ông ấy nói

không, ông ấy có thể bỏ nó ở bất kì chỗ nào - chẳng ai

thèm đánh cắp nó! Ai sẽ lấy cắp nó? Bất kì ai lấy nó...

điều đó sẽ thành nổi tiếng cả thành phố về người đã

đánh cắp nó, nó gây tiếng ồn nhiều thế!"

Tôi bảo một người bạn chung rằng tôi muốn gặp

người này, và tôi hỏi ông ta, "Sao ông sống khổ thế khi

ông có thể sống đẹp đẽ, trong ngôi nhà đẹp? Ông có đủ

tiền, nhiều hơn là ông cần, và một khi ông chết thì chẳng

ai khác hơn ông thu lại tất cả những tiền này."

Ông ta nói, "Tôi biết điều đó, nhưng bằng cách nào

đó tôi không thể tiêu được. Điều đó là không thể được.

Một khi tôi kiếm được tiền, điều khó nhất với tôi là tiêu

nó." Nước mắt trào ra trong mắt ông ta và ông ta nói,

"Tôi cũng cảm thấy, Mình đang làm gì cho bản thân

mình thế này? Nhưng tôi đã sống trong nghèo nàn - bố

mẹ tôi đã chết khi tôi còn rất trẻ. Tôi đã từng là kẻ ăn

xin; dần dần, dần dần tôi đã kiếm được tiền. Tôi đánh

bạc, tôi đã làm đủ mọi thứ, và cái nghèo đó vẫn cứ trong

tôi - tôi vẫn là đứa con mồ côi. Tôi không phải là người

giầu - tôi là người nghèo nhất thị trấn này."

Và tôi có thể thấy điều đó trong mắt ông ta. Đây là

điều xảy ra cho mọi người.

Bạn cứ quan sát tâm trí mình và bạn sẽ thấy hàng

các biến cố quá khứ quay lại, từ xa xăm, vào thời bạn

mới ba hay bốn tuổi. Và tất cả những điều đó đã trở nên

được thu thập; nó thành đè nặng lên bạn.

Phật nói: Nếu ông muốn làm yên tĩnh tâm trí, điều

đầu tiên là học nghệ thuật phản ánh. Chỉ phản ánh và đi

tiếp. Vâng, sống trong khoảnh khắc này, sống một cách

toàn bộ. Phản ánh bất kì cái gì đang đó và rồi để nó đi.

Đừng níu bám lấy nó, để cho bạn lại thuần khiết, lại hồn

nhiên, lại sẵn có, lại trống rỗng, sẵn sàng kinh nghiệm

nữa.

Chính bởi vì quá khứ của bạn mà bạn không thể

kinh nghiệm được hiện tại; quá khứ của bạn bóp méo

mọi thứ. Chính bởi vì quá khứ của mình mà bạn cứ ham

muốn tương lai, bởi vì bạn không muốn lặp lại sai lầm

của quá khứ và bạn muốn có tất cả mọi hoan lạc bạn đã

tận hưởng trong quá khứ lặp đi lặp lại trong tương lai.

Cho nên tương lai của bạn chẳng là gì ngoài quá khứ

được sửa đổi: mọi đau đớn đã bị xoá đi và mọi hoan lạc

đều được nhân lên. Và giữa quá khứ và tương lai của

bạn là hiện tại nhỏ bé - cái đó mới là thực. Giữa hai cái

không thực bạn đang phá huỷ đi cái thực. Nếu bạn học

cách phản ánh, thế thì quá khứ là không liên quan, tương

lai là không liên quan; cái liên quan duy nhất là về hiện

tại.

Hiện diện trong hiện tại - đó là nghĩa của phản ánh.

Và điều thứ hai: làm yên tĩnh tâm trí, Phật nói:

Quan sát.

Bạn sẽ làm gì khi bạn phản ánh? Bạn không phải là

thứ chết, bạn không giống như chiếc gương chết - bạn

sống động. Cho nên bạn sẽ làm gì? Quan sát.

Bạn nghĩ, bạn tưởng tượng, nhưng bạn chưa bao giờ

quan sát. Quan sát là quá trình hoàn toàn khác. Nó nghĩa

là bạn không có cái thích, cái không thích. Bạn không

kết án cái gì, bạn không ca ngợi nữa. Bạn đơn giản nhìn

và bạn nhận biết và bạn tỉnh táo - không chết như tấm

gương. Bạn là nhận biết. Bạn đang quan sát điều đang

xảy ra.

Bạn nhìn bông hồng; bạn phản ánh nó và bạn quan

sát nó. Bạn không nói gì về bông hồng. Bạn không đem

lời vào giữa bạn và bông hồng bởi vì tất cả những lời đó

đều vô dụng. Khi bạn đang trực diện với bông hồng thực

sao lại đem lời vào? Sao phá huỷ thực tại của bông hồng

bằng việc đem diễn giải của quá khứ? Bạn có thể trích

dẫn các nhà thơ lớn - Shelley và Yeats - nhưng bằng

việc trích dẫn họ bạn đang đem vào giữa bạn và bông

hồng này rào chắn. Để mắt bạn hoàn toàn trống rỗng đi -

nhưng đừng rơi vào giấc ngủ. Quan sát, chỉ nhìn im

lặng. Là nhân chứng.

Quan sát nghĩa là nhìn vào mọi sự không có đánh

giá nào, không nói nó tốt không nói nó xấu - bởi vì

chẳng cái gì là tốt và chẳng cái gì là xấu. Mọi sự đơn

giản là điều chúng đang là.

Bông hồng là bông hồng và gai là gai; gai không

xấu mà bông hồng cũng không tốt. Nếu con người biến

mất khỏi trái đất, hoa hồng sẽ có đó, gai sẽ có đó, nhưng

sẽ không có ai để nói rằng hoa hồng là tốt và gai là xấu.

Chính tâm trí chúng ta mới tạo ra các giá trị này. Và

điều này cứ thay đổi.

Mới một trăm năm trước không ai đã bao giờ nghĩ

tới việc để cây xương rồng trong nhà mình. Nếu bạn

mang cây xương rồng vào nhà mình, mọi người nghĩ

bạn điên, cái gì đó đã đi sai với bạn! Nhưng bây giờ

trồng hoa hồng trong nhà bạn là chính thống rồi. Những

người tiên phong trồng xương rồng; họ mới là người văn

hoá thực. Họ để xương rồng trong phòng ngủ của mình

nữa - độc, nguy hiểm, nhưng xương rồng là "ở trong" và

hoa hồng là "ở ngoài." Kiểu mốt thay đổi.

Trong thế kỉ này, những cái xấu đã trở thành đẹp và

những cái đẹp đã trở thành xấu. Picasso có giá trị - một

trong những hoạ sĩ xấu nhất thế giới đã từng biết tới!

Hai hay ba trăm năm trước ông ấy chắc đã bị buộc sống

trong trại tâm thần nếu ông ấy vẽ những thứ như thế

này. Ông ấy đã bị coi là loạn trí, hoàn toàn loạn trí. Bởi

vì thế giới của Michelangelo là thế giới khác hoàn toàn;

việc định giá khác đã tồn tại. Thế giới của Leonardo da

Vinci là thế giới hoàn toàn khác.

Kiểu mốt cứ thay đổi. Mọi ngày con người cứ thay

đổi. Thực tế không cái gì là tốt hay tồi, đẹp hay xấu. Tất

cả đều phụ thuộc vào bạn. Bất kì cái gì bạn bắt đầu nghĩ

là tốt, đẹp, đều trở thành tốt và đẹp. Sư Jaina đi người

trần được người Jaina coi là vĩ đại, nhưng người khác

nghĩ điều đó có chút tục tĩu. Nhiều lần vấn đề nảy sinh.

Mới vài ngày trước đây trong một làng, đã có bạo

loạn bởi vì một sư Jaina đi vào thành phố và những

người không Jaina phải đối người đàn ông trần truồng

đó bước đi trong thành phố.... "Điều này là xấu cho con

em chúng ta và vợ chúng ta và con gái chúng ta."

Tôi không chống lại khoả thân, nhưng tôi cũng

không thiên về sư Jaina đi trần. Lí do của tôi hoàn toàn

khác; lí do của tôi là ở chỗ họ trông xấu thế. Chừng nào

bạn không có thân thể đẹp bạn không có quyền ở trần.

Tôi có thể chấp nhận Mahavira đi trần. Người ta nói

rằng ông ấy có một trong những thân thể đẹp nhất - và

điều đó dường như là vậy bởi vì mọi tượng của ông ấy

đều đẹp thế. Ông ấy phải đã có thân thể rất đẹp, rất cân

xứng. Nếu ông ấy đi trần, điều đó có thể hiểu được. Che

đậy thân thể đẹp của ông ấy bằng quần áo sẽ không

đúng. Nhưng sư Jaina này cố tình huỷ hoại thân thể

mình. Họ là những người tự bạo: họ làm què quặt thân

thể mình theo nhiều cách. Họ làm cho họ thành xấu nhất

có thể được, bởi vì thân thể bạn càng xấu, bạn càng

được kính trọng. Cho nên họ trở thành tranh biếm hoạ.

Họ là tranh biếm hoạ, không phải là người thực. Tốt hơn

cả là che họ bằng quần áo đẹp.

Điều đó tuỳ thuộc vào tiêu chí của bạn là gì, vào giá

trị của bạn là gì. Nhưng trong thực tế, chẳng cái gì tốt và

chẳng cái gì xấu; mọi sự đơn giản là điều chúng đang là.

Nếu bạn chứng kiến thế thì không có vấn đề chọn lựa.

Thế thì nhận biết vô chọn lựa nảy sinh trong bạn.

Đó là điều J. Krishnamurti cứ nói mãi; nó về căn

bản là thông điệp của Phật. Tín đồ của Krishnamurti

nghĩ rằng ông ấy đang giảng cái gì đó rất nguyên bản.

Chẳng có gì nguyên bản trong nó cả; nó về bản chất là

thông điệp của Phật. Nó không phải là phát minh của J.

Krishnamurti. Theo một nghĩa khác thì nó là nguyên

bản; nó là nguyên bản theo nghĩa nó là kinh nghiệm của

ông ấy. Ông ấy cũng biết nó như Phật biết. nhưng nó

không mới - không nguyên bản theo nghĩa là cái mới.

Nó là nguyên bản theo nghĩa rằng nó đã bắt nguồn trong

ông ấy. Ông ấy không lặp lại Phật, điều đó đúng. Ông ấy

không bắt chước Phật, điều đó đúng. Ông ấy đơn giản

nói điều ông ấy đã biết. Nhưng bất kì cái gì ông ấy đã

biết đều là cùng chân lí như chân lí của Phật.

Thực tế, không có hai chân lí trên thế giới này, cho

nên tất cả những người đã thức tỉnh đều biết cùng chân

lí lặp đi lặp lại. Ngôn ngữ của họ là khác, cách diễn đạt

của họ là khác; nó nhất định là như vậy. Hai mươi nhăm

thế kỉ đã qua từ Phật. Làm sao tôi có thể nói cùng ngôn

ngữ được? Và làm sao Phật có thể nói cùng ngôn ngữ

mà tôi nói? Điều đó là không thể được. Nhưng vì các tín

đồ của Krishnamurti cứ nói rằng giáo huấn của ông ấy là

tuyệt đối nguyên bản, mới - điều đó hoàn toàn vô nghĩa.

Về căn bản nó là cùng giáo huấn như của Phật: nhận biết

vô chọn lựa. Đó là cũng nghĩa của "phản ánh" và "quan

sát."

Nhận biết, nhưng không chọn lựa. Nếu bạn chọn,

bạn mất quan sát. Nếu bạn bắt đầu níu bám - bởi vì

khoảnh khắc bạn chọn bạn sẽ bắt đầu níu bám - thế thì

phản ánh bị mất. Và một khi bạn đã hoàn thành hai điều

đơn giản này - phản ánh và quan sát....

Không cái gì trói buộc ông.

Ông tự do.

Những lời kinh đơn giản này là đủ. Nếu bạn có thể

thực hành chỉ hai điều này - phản ánh và quan sát -

không gì khác được cần nữa. Bạn tự do, không cái gì

trói buộc bạn. Bạn thực sự tự do; không cái gì có thể trói

buộc được bạn. Mọi tù túng đều là tưởng tượng. Bạn

nghĩ bạn bị tù túng; do đó bạn trong tù túng. Đó là ý

nghĩ của bạn.

Harvey Pincus, kẻ ăn chơi đam mê ở Công viên

Toàn cảnh, quên mất giới hạn con người, tăng tốc lên

khi anh ta đáng phải đi chậm lại. Với ngạc nhiên và mất

tinh thần, anh ta tỉnh dậy ba ngày sau đó trong bệnh viện

Bellevue nơi anh ta được đặt trong chế độ ăn kiêng

nghiêm ngặt chỉ ăn trứng và hàu sống với mầm lúa mì,

được điểm thêm với gừng và giá đậu tương.

Một tuần sau, ham muốn vật lí của anh ta quay trở

lại và, sau khi đã bị từ chối bởi các y tá Bellevue thuộc

đủ mọi hình dáng, kích thước, tuổi tác và nguồn gốc

quốc gia, anh ta đã yêu cầu được cho ra ngay tức khắc

để cho anh ta có thể trở lại việc đi lảng vảng trong bán

kính Công viên Toàn cảnh.

Pincus chẳng mấy chốc phải đối đầu với bác sĩ

Siegel, nhân viên chữa bệnh tâm thần của bệnh viện.

"Trước khi cho ông ra, ông sẽ phải qua kiểm tra

Rohrschach," bác sĩ giải thích.

"Cái gì thế?" Pincus nghi ngờ hỏi.

"Một cách đo cá nhân. Tôi sẽ chỉ cho ông các dấu in

và ông nói cho tôi mỗi dấu đó gợi ý gì cho ông."

"Vậy làm đi và kiểm nghiệm đi."

Bác sĩ Siegel đưa cho anh ta dấu thứ nhất. "Điều này

đem tới cái gì cho tâm trí?"

"Dễ thế," Pincus lập tức đáp lại, mắt anh ta sáng lên

hài lòng. "Đó là hông cô gái."

"Còn cái này?" nhà tâm thần hỏi, đưa cho anh ta một

vết mực khác.

"Vú đàn bà. Rất đẹp nữa."

"Hừ - thế cái này thì sao?"

"Úi giời, bác sĩ, cặp đùi đẹp làm sao!"

Siegel đã đi tới kết luận hiển nhiên về xu hướng của

bệnh nhân, nhưng ông ta tiếp tục với nửa tá dấu mực chỉ

để cho chắc. Khi Pincus tiếp tục đáp ứng ngay khi mọi

"bức tranh" đều là biểu tượng dục, thì đến vết cuối cùng,

bác sĩ nghiêng người trong ghế của mình và đưa ra chẩn

đoán.

"Anh bạn thân mến của tôi," ông ta bắt đầu, có phần

nghiêm trọng, "trong trường hợp không ai đã nói với

anh, anh có sự cố định bất thường về dục."

"Điều đó nghĩa là gì, nếu tôi có thể mạnh dạn hỏi?"

"Nó nghĩa là thưa ngài," Siegel giải thích thẳng toẹt

ra, "rằng ngài có tâm trí tục tĩu."

"Này, nhìn xem ông đang nói với ai!" Pincus la lên,

bị xúc phạm. "Ông chỉ cho tôi đủ mọi thứ tranh bẩn thỉu

đó và tôi được nhận tâm trí tục tĩu!"

Điều bạn đang thấy trên thế giới không thực sự có

đó; nó là phóng chiếu của bạn. Bạn chỉ có khả năng thấy

thế giới giống cái gì khi tâm trí bạn đã học im lặng, quan

sát, phản ánh. Thế thì bạn sẽ biết cái đang đó. Ngay bây

giờ điều bạn biết không là gì ngoài tâm trí riêng của bạn

được phóng chiếu lên màn ảnh của thế giới. Mọi thứ vận

hành như màn ảnh cho bạn và bạn cứ phóng chiếu các ý

tưởng của mình; do đó mới có sự nhấn mạnh của Phật

về việc làm cho tâm trí tuyệt đối yên tĩnh.

Khi tâm trí im lặng máy chiếu dừng lại, màn ảnh trở

thành trắng trơn, và thế thì lần đầu tiên bạn thấy vinh

quang của sự tồn tại. Thế thì lần đầu tiên bạn trở nên

nhận biết về huy hoàng và phúc lạc và an bình vẫn bao

quanh mọi thứ. Bạn trở nên nhận biết về tính thượng đế

tràn ngập mọi nơi. Mọi thứ đều được biết trong thực tại

đích thực của nó, không bị bạn bóp méo.

Người thuyết giảng đang nói với giáo đoàn của

mình rằng có trên bẩy trăm loại tội lỗi.

Ngày hôm sau ông ấy bị chất vấn dồn dập bởi thư và

điện thoại gọi từ những người muốn biết danh sách đó -

để chắc họ không bỏ lỡ cái gì.

Nếu bạn nói về tội lỗi và bạn muốn mọi người đừng

phạm tội, điều họ nghe thấy là hoàn toàn khác. Họ bắt

đầu cảm thấy rằng họ đang bỏ lỡ cái gì đó: "Bẩy trăm tội

- nghĩ về nó mà xem!" Và bạn cũng sẽ bắt đầu cảm thấy,

"Trời đất, mình bỏ lỡ bao nhiêu! Bẩy trăm, và mình

thậm chí chưa phạm tới bẩy! Mình phạm chỉ vài tội, hai

hay ba tội lặp đi lặp lại thôi - và có bẩy trăm tội! Phí

hoài cuộc sống làm sao!" Bạn thậm chí không biết tới

tên của chúng.

Nhân viên trực đêm tại Khách sạn Algonquin ngạc

nhiên khi thấy một người đàn ông trông méo mó, chẳng

mặc gì ngoài quần đùi, đi vào sảnh tiếp đón từ phố.

Người lạ loạng choạng tới quầy và dừng lại đó, lảo đảo

choáng váng. "Tôi có thể làm gì cho ông?" lễ tân hỏi.

"Tôi muốn được hộ tống lên tầng ba, phòng 302,"

người gần như trần truồng nói.

"Phòng 302," lễ tân lặp lại. Ông ta tra cứu sổ ghi.

"Tôi rất tiếc, thưa ngài, nhưng phòng đó ông Oscar J.

Levine ở Toledo đang ở rồi. Bây giờ cũng khá muộn để

đánh thức khách!"

"Tôi biết mấy giờ rồi, rõ như ông," ông khách say

vặn lại. "Cứ chỉ cho tôi phòng 302 không đối thoại

thêm... không nói thêm."

"Vâng, tên ông là gì?"

"Tên tôi là Oscar J. Levine, và cho ông biết tôi vừa

bị ngã ra ngoài cửa sổ!"

Mọi người gần như ngủ, say với cả nghìn lẻ một

ham muốn. Chẳng có gì say hơn là ham muốn. Và

không chỉ một ham muốn làm say bạn, có nhiều, nhiều

ham muốn - ít nhất bẩy trăm ham muốn! Và chúng tất cả

đều làm bạn say, và chúng không cho phép bạn thấy cái

đang đó. Bạn không thể thấy được cái đó chừng nào bạn

chưa dừng ham muốn.

Ham muốn biến mất theo cách riêng của nó nếu bạn

trở nên im lặng, bởi vì trong tâm trí im lặng không ham

muốn nào có thể phát triển được. Ham muốn có thể phát

triển chỉ trong tâm trí u ám, vụng về và lẫn lộn.

Phật nói:

Ông mạnh mẽ.

Ông đã đi tới chỗ cuối.

Tự do khỏi đam mê và ham muốn,

Ông đã tróc gai ra khỏi thân cây.

Đây là thân thể cuối cùng của ông.

Nếu bạn có thể hoàn thành yêu cầu về im lặng, phản

ánh, chứng kiến, thế thì bạn mạnh mẽ, bạn không còn

yếu nữa. Người sống trong ham muốn bao giờ cũng cảm

thấy yếu bởi vì cả nghìn ham muốn đang kéo người đó

đi theo các hướng khác nhau. Người đó gần như rời ra.

Bằng cách nào đó người đó đang giữ mình gắn lại, xoay

xở, kéo lê. Người đó mệt mỏi, nhưng người đó không

biết cái gì khác để làm. Mọi người khác đều đang làm

cùng điều. Mọi người đều chạy theo ham muốn. Không

ai dường như được hoàn thành, không ai dường như đạt

tới đâu cả, nhưng cái gì khác để làm? Khi mọi người

đều chạy, bạn bắt đầu chạy. Đó là tâm lí đám đông.

Là sannyasin, là người tìm kiếm chân lí, nghĩa là

thoát ra khỏi tâm lí đám đông, tâm tính quần chúng.

Chừng nào bạn còn chưa trở nên nhận biết rằng đám

động đang lôi bạn đi theo bản thân nó và bạn chưa bước

ra khỏi quyền lực của đám đông, bạn sẽ không bao giờ

có khả năng biết chân lí là gì, bạn sẽ không bao giờ trở

thành vị phật. Và là vị phật là quyền tập ấn của bạn.

Ông mạnh mẽ... nhưng ham muốn của bạn cứ làm

cho bạn yếu. Một khi bạn đã trở nên im lặng bạn sẽ có

khả năng thấy điều đó. Trạng thái im lặng của bản thể

bạn là mạnh tới mức bạn biết bạn đã đi tới chính chỗ

cuối, bạn đã đi tới hoàn thành. Người ta đi tới hoàn

thành không bởi việc đạt tới cái gì đó trong thế giới bên

ngoài mà bằng việc đạt tới cốt lõi bên trong nhất của

riêng người ta: điều Jesus gọi là vương quốc của

Thượng đế, điều Phật gọi là niết bàn, điều Mahavira gọi

là moksha.

Khi bạn đã đạt tới cốt lõi bên trong nhất của mình

bỗng nhiên bạn trở nên nhận biết rằng tất cả những điều

bạn đã từng ham muốn đều vô dụng và điều bạn thực sự

cần, điều là cái nuôi dưỡng thực của bạn, đã từng chờ

đợi bạn ở bên trong bạn. Việc tìm kiếm của bạn phải là

bên trong, không phải bên ngoài. Bạn có thể trở thành

Alexander Đại đế, bạn có thể chinh phục cả thế giới, và

vậy mà bạn sẽ chết đi với bàn tay trống rỗng. Đừng bận

tâm tới mọi cái vô nghĩa đó. Là vị Phật, đừng là một

Alexander!

Phật nghĩa là người đã thấy chân lí của mình và

được mãn nguyện, hoàn toàn mãn nguyện với nó. Tự do

khỏi đam mê và ham muốn, ông đã tróc gai ra khỏi thân

cây. Đây là thân thể cuối cùng của ông. Nếu bạn có thể

tự do khỏi đam mê và ham muốn....

Đam mê là trạng thái sốt, nó là trạng thái nóng.

Chúng ta chỉ biết hai trạng thái: hoặc chúng ta rất nóng -

đó là đam mê - hoặc chúng ta rất lạnh - đó là phản đam

mê. Nếu bạn yêu, bạn trở nên rất nóng; nếu bạn ghét,

bạn trở nên rất lạnh. Và đích xác ở giữa là điểm bạn nên

dừng lại. Điểm đó không nóng không lạnh. Nó siêu việt

lên trên cả hai, nó mát mẻ. Và khi bạn thực sự mát mẻ,

im lặng, an bình, các bí ẩn mở ra cánh cửa của chúng

cho bạn. Người sốt, trong trạng thái đam mê, gần như

mù.

Feinberg về nhà từ chuyến đi kinh doanh và vợ anh

ta điềm tĩnh thông báo với anh ta rằng cô ấy đã không

trung thành trong khi anh ta vắng mặt.

"Đó là ai?" Feinberg quát lên, "lại cái thằng thối nát

Goldberg chứ gì?"

"Không," vợ anh ta đáp lại, "đó không phải là

Goldberg."

"Đó có phải là đối tác của tôi không - cái thằng bất

lương, Levy?"

"Không, không phải Levy."

"Tôi biết đó là ai rồi - đó là thằng con hoang,

Shapiro!"

"Không, đó không phải là Shapiro đâu."

Feinberg quắc mắt nhìn vợ. "Có vấn đề gì?" anh ta

sủa lên. "Không thằng bạn nào của tôi là đủ tốt cho cô

sao?"

Mọi người đang sống... không thực sự sống, chỉ di

chuyển một cách máy móc, nạn nhân của các lực mù

quáng. Khi dục chiếm quyền sở hữu bạn, bạn không là

người chủ riêng của mình. Hay khi tham lam chiếm

quyền sở hữu, hay giận dữ, hay ghen tuông, bạn không

là người chủ riêng của mình. Bạn bị lôi đi. Và điều rất kì

lạ là bạn cho phép nó xảy ra - bạn không cảm thấy bị

xúc phạm hay mất thể diện! Từng bản năng của bạn đều

làm bạn thành nô lệ. Bạn không chỉ dung thứ cho sự nô

lệ này; ngược lại, bạn tận hưởng nó. Ngược lại, bạn nghĩ

đây là điều cuộc sống được giả định là vậy. Đây không

phải là cuộc sống mà bạn đang sống. Nó là sinh học, nó

là sinh lí, nó là hoá chất, nhưng nó không phải là cuộc

sống. Sống dưới ảnh hưởng của bản năng không phải là

sống chút nào.

Cuộc sống bắt đầu chỉ khi bạn vươn lên trên bản

năng của mình. Và cách vươn lên là: phản ánh, quan

sát, và bạn sẽ lập tức biết: Không cái gì trói buộc ông.

Ông tự do. Bạn là người chủ. Trong tính quan sát của

bạn, dần dần, dần dần đam mê biến mất, bởi vì người có

tính quan sát không thể nóng được.

Ham muốn bao giờ cũng dẫn bạn đi vào tương lai.

Ham muốn nghĩa là tương lai; nó chỉ có thể xảy ra ngày

mai. Cho nên bạn cứ nhìn vào ngày mai, và trong khi đó

thời gian trôi qua. Và ngày mai chưa bao giờ tới; nó

không thể tới được, trong chính bản chất của mọi sự.

Cho nên toàn thể cuộc sống của bạn chỉ là chờ đợi

không vì cái gì cả - đợi Godot! Và Godot không bao giờ

tới. Thực tế, không ai biết anh chàng Godot này là ai cả.

Nhưng chúng ta cứ chờ đợi cái gì đó xảy ra một

ngày nào đó, và chúng ta biết rằng nó đã không xảy ra

cho ai cả. Nó đã không xảy ra cho bố bạn, cho bố của bố

bạn. Nó đã không xảy ra cho hàng xóm của bạn. Bạn có

thể nhìn quanh các khuôn mặt mọi người: nó đã không

xảy ra. Bạn không thấy rực sáng, bạn không thấy trong

mắt họ sự mãn nguyện, bạn không thấy niềm vui. Bạn

chỉ thấy nỗ lực vô vọng để đạt tới cái gì đó mà họ không

thực nhận biết, đích xác nó là cái gì và liệu nó có là có

thể hay không. Nhưng họ cứ đuổi theo sát - và họ cứ phá

huỷ cuộc sống của mình.

"Bà ơi, bà và ông đã lấy nhau được bao lâu rồi?" cô

cháu gái lãng mạn hỏi.

"Bốn mươi chín năm," bà già đáp lại.

"À, thế ông bà phải đã có cuộc sống thật đẹp," cô

gái thở dài. "Và cháu cá ông bà thậm chí không nghĩ tới

li dị."

"Này," bà nói, "li dị à, không - giết người thì có

đấy!"

Cứ hỏi người già họ đã đạt tới gì, họ đã từng làm gì.

Và nếu họ thực và chân thực, nếu họ chân thành, họ sẽ

nói cho bạn chẳng cái gì ngoài "Cuộc sống đã là một câu

chuyện cổ tích do kẻ ngốc kể lại, đầy những bực tức và

ồn ào, chả có nghĩa lí gì. Và bây giờ cái chết tới, và tất

cả đều chấm dứt." Nhưng với thiền nhân, cái chết không

phải là chấm dứt mà là bắt đầu của cuộc sống mới.

Phật nói: Đây là thân thể cuối cùng của ông. Nếu

bạn đã làm yên tĩnh tâm trí, nếu bạn đã trở nên tự do với

ham muốn và đam mê: Đây là thân thể cuối cùng của

ông. Bây giờ bạn sẽ được sinh ra trong sự tồn tại vô thân

thể. Bây giờ bạn sẽ là một phần của cuộc sống vô hình,

cuộc sống vĩnh hằng không biết tới sinh, không biết tới

tử.

Thân thể là giới hạn, thân thể hạn chế bạn. Bạn là

tâm thức vô giới hạn, nhưng thân thể bạn buộc bạn vào

trong cái hố nhỏ bé, tăm tối. Bạn sống trong hố tối tăm,

trong hang tối tăm. Tất nhiên, điều đó sẽ là khổ. Bạn là

bao la và bằng cách nào đó bạn đã bị buộc phải sống

trong một không gian nhỏ. Không ai đã làm điều đó cho

bạn; bản thân bạn cứ làm điều đó. Mỗi lần bạn chết, bạn

chết với ham muốn. Những ham muốn đó đem bạn trở

lại trong các bụng mẹ mới. Những ham muốn đó cho

bạn thân thể khác.

Nếu bạn có thể chết mà không ham muốn, thế thì

không còn việc sinh nào nữa. Khi không có sinh, cũng

không có tuổi già, không có chết. Và khi không có sinh,

không có thời gian. Bạn đi ra ngoài thời gian. Bạn sống

trong vĩnh hằng, bạn trở thành thiêng liêng. Đó là điều

Phật ngụ ý bởi tính thượng đế - bhagavata.

Ông trí huệ.

Qua im lặng bạn trở thành trí huệ, không qua việc

học, không phải bởi việc trở nên được thông tin nhiều

hơn mà bởi việc trở nên tuyệt đối im lặng. Ông trí huệ...

bằng không bạn sẽ biết chỉ toàn lời - những lời hổng

hoác, lời vô nghĩa. Vâng, bạn có thể tích luỹ nhiều tri

thức. Bạn có thể biết Veda và Koran và Kinh Thánh và

Gita và bạn có thể lặp lại chúng, nhưng bạn sẽ không

hiểu cái gì cả. Nhiều khả năng là bạn sẽ hiểu lầm. Từ

đâu bạn sẽ có được cảnh quan đúng để hiểu chúng? Với

tất cả đam mê và ham muốn của bạn và tất cả lẫn lộn và

tâm trí u ám của bạn, làm sao bạn sẽ hiểu được

Upanishad, Koran? Không thể được. Chúng tới từ

những người đã vượt ra ngoài thân thể. Chừng nào bạn

còn chưa vượt ra ngoài thân thể bạn sẽ không hiểu được

chúng. Bạn có thể hiểu chỉ cái bạn đã kinh nghiệm.

Nhưng người thông thái không chỉ lừa người khác,

họ bắt đầu tự lừa mình - có thể không chủ ý, không định

thế. Nếu bạn cứ lừa người khác cả đời mình, giả vờ rằng

bạn biết, dần dần, dần dần bạn bắt đầu tin vào giả vờ của

riêng mình. Bạn quên mất rằng bạn không biết; bạn

không muốn nhớ nó. Ai muốn biết rằng "Mình là kẻ dốt

nát "? Mọi người đều muốn cảm thấy rằng mình biết.

Hỏi bất kì ai về Thượng đế và rất hiếm khi tìm ra

người sẽ nói với bạn, "Tôi không biết." Rất hiếm khi...

gần như không thể được. Nhiều người sẽ nói, "Vâng, có

Thượng đế, Thượng đế tồn tại." Và họ sẵn sàng đánh

nhau, cãi nhau, giết bạn hay bị giết, vì cái gì đó mà họ

không biết, không biết chút nào. Và có vài người sẽ nói,

"Không, không có Thượng đế." Nhưng rất hiếm khi tìm

ra người sẽ nói, "Tôi không biết " - và đó là người tôn

giáo thực sự.

Bất khả tri là người tôn giáo thực sự - không hữu

thần không vô thần. Người tin mà không biết, người

không tin mà không biết; cả hai đều lừa dối. Nhưng tôi

không hoài nghi chân thành của họ. Họ có thể nghĩ... họ

có thể tuyệt đối được thuyết phục rằng họ biết. Và thế

rồi bạn hỏi các câu hỏi khác về Thượng đế và thế rồi họ

phải bịa ra câu trả lời, bởi vì về căn bản họ đã chấp nhận

rằng họ biết.

Hỏi họ Thượng đế có bao nhiêu đầu, và họ sẽ bảo

bạn ba hay bốn, và họ sẽ làm ra nhiều thứ vô nghĩa. Họ

sẽ nói rằng Thượng đế có bốn đầu bởi vì có bốn hướng

và ngài phải nhìn theo đủ mọi hướng, hay ba đầu vì có

ba chiều và ngài phải nhìn vào mọi chiều. Ngài có bao

nhiêu tay? Và vài người nói ngài có nghìn tay bởi vì

ngài phải làm việc nhiều thế và ngài lại một mình, và

ngài phải tạo ra thế giới này và quản lí toàn thể vở diễn

này toàn một mình. Một nghìn tay... hai tay là không đủ.

Bạn có cho rằng một nghìn tay là đủ để quản lí vũ trụ

bao la này không? Bạn có nghĩ bốn đầu sẽ đủ để nhìn

mọi nơi không?

Nhưng mọi người cứ bịa ra câu trả lời. Bạn hỏi câu

hỏi và họ bịa ra - họ phải bịa ra bởi vì họ không thể chấp

nhận được một điều, rằng họ không biết.

Một cô gái tóc vàng đem con chó của mình tới bác

sĩ thú y, ông này khuyên cô ấy mua thuốc Nair nào đó

để làm rụng lông quá dài quanh mắt và tai của con

Schnauzer.

Cô gái tóc vàng vào hiệu thuốc và hỏi thuốc rụng

lông.

"Dùng nó cả liều cho hết lông chân," dược sĩ nói,

"nhưng pha loãng nó một nửa cho nách."

"À," cô gái nói, "nhưng tôi muốn dùng nó cho

Schnauzer."

"Trong trường hợp đó," dược sĩ nói, "tốt hơn cả cô

nên dùng một phần tư liều và cứ như tôi thì sẽ không đi

xe Honda hai tuần."

Người thông thái không thể hỏi, "Schnauzer này là

gì vậy?" Điều đó chỉ ra dốt nát của ông ấy và ông ấy

không thể chứng tỏ điều đó được. Đôi khi người thông

thái phạm phải những điều ngu xuẩn tới mức không

người dốt nát nào bao giờ lại phạm phải, bởi vì người

dốt nát bao giờ cũng có thể hỏi nó là gì - "Tôi không

biết." Nhưng người thông thái thấy điều đó là không thể

được. Người đó không thể nói ba từ này: "Tôi không

biết." Nếu bạn có thể nói, "Tôi không biết," bạn đã lấy

một bước vĩ đại nhất hướng tới việc biết thực, hướng tới

trí huệ.

Phật nói: Khi tâm trí trống rỗng, im lặng, ông là trí

huệ. Với trí huệ ông ấy không ngụ ý thông thái; với trí

huệ ông ấy ngụ ý hồn nhiên. Tri thức tới từ bên ngoài,

trí huệ nảy sinh từ bên trong. Tri thức tạo ra tiếng ồn, trí

huệ đem tới ngày một nhiều im lặng. Người trí huệ dần

dần, dần dần trở nên hoàn toàn im lặng. Cho dù người

đó nói, lời của người đó mang hương vị của im lặng, âm

nhạc của im lặng.

Với trí huệ ông ấy ngụ ý tự phát, tự phát như trẻ

con, mắt đầy ngạc nhiên. Khi mắt bạn đầy ngạc nhiên

bạn có thể thấy cái đẹp bao quanh bạn. Khi mắt bạn đầy

tri thức bạn không thể thấy được cái đẹp bởi vì bạn đã

giải thích mọi thứ - và việc giải thích chỉ giúp bạn giải

mọi thứ, không gì khác.

Nhưng người thông thái đã từng làm việc kinh

doanh tốt. Họ đã chi phối nhân loại quá lâu rồi; đó là

niềm vui của họ.

"Tôi có vấn đề, bác sĩ ơi," bệnh nhân mới bắt đầu.

"Tất cả chúng ta đều có vấn đề," bác sĩ đáp, mỉm

cười với sự chắc chắn.

"Vấn đề của tôi là thế này, bác sĩ: tôi bị đau nửa đầu

mọi lúc tôi nghĩ tới vợ tôi. Tôi bị phát ban mọi lúc tôi

nghĩ tới việc làm của mình. Tôi đổ mồ hôi lạnh mọi lần

tôi nghĩ tới tài khoản ngân hàng của tôi. Nói về các vấn

đề đó đi! Này anh trai, tôi có các vấn đề đó!"

"Mọi vấn đề đều có câu trả lời của nó, tất nhiên, và

tôi hiểu điều này rõ lắm," nhà tâm thần nói, vừa gật đầu.

"Ông sẽ cần một trăm phiên nằm trên tràng kỉ, mỗi

phiên hai mươi nhăm đô la."

Bệnh nhân thở dài. "Này, bác sĩ," ông ta nói sau khi

dừng lại đau đớn, "điều đó giải quyết vấn đề của ông.

Bây giờ, vấn đề của tôi thì sao?"

Người thông thái đang làm việc kinh doanh tốt. Các

tu sĩ, giáo sư, bác học, nhà thượng đế học, họ đã làm

việc kinh doanh tốt. Không biết gì về Thượng đế, thậm

chí không biết gì về bản thân mình, họ cứ nói về những

vấn đề lớn lao và giải pháp lớn lao. Họ nói về siêu hình,

về triết học. Họ có những câu trả lời làm sẵn cho mọi

thứ.

Cẩn thận về những người này đi! Và họ có khắp

xung quanh, trong nhà thờ, trong nhà thời hồi giáo,

trong đền chùa, trong đại học; bạn sẽ thấy họ ở mọi nơi.

Cẩn thận về họ. Họ là những người sẽ không cho phép

nhân loại được trở nên trí huệ bởi vì một khi nhân loại

trở nên trí huệ, nghề của họ chấm dứt.

Ông trí huệ.

Ông tự do khỏi ham muốn

và ông hiểu lời

và việc dính lại cùng với lời.

Và ông không muốn gì cả.

Phật nói: Khi ông trí huệ... không thông thái, không

biết nhiều, mà khi thiền đã làm thoát ra hương thơm bên

trong của bạn, khi tâm thức bên trong của bạn đã trở

thành hoa sen nở đầy đủ, thế thì bạn sẽ có khả năng hiểu

lời - lời của chư phật - không trước đó. Đừng phí thời

gian của bạn với Gita và Koran và Gurugrantha - chừng

nào bạn còn chưa trở nên có tính thiền.

Một khi bạn biết tới bản thể mình, trong im lặng sâu

sắc bạn đã gặp gỡ bản thân mình, thế thì, tất nhiên, kinh

sách là cực kì hay. Thế thì bạn sẽ có khả năng hiểu bởi

vì bạn sẽ đứng ở cùng vị trí, bạn sẽ có cùng tầm nhìn.

Bây giờ kinh sách sẽ trở thành việc chứng kiến của bạn,

chúng sẽ chứng kiến cho bạn. Khi bạn đã biết cái gì đó

theo cách riêng của mình, đọc trong Gita hay trong

Koran bỗng nhiên bạn sẽ bắt gặp một câu nói đích xác

cùng điều bạn đã kinh nghiệm, và bỗng nhiên bây giờ

nghĩa được hiển lộ ra.

Nghĩa phải tới với bạn trước hết qua kinh nghiệm;

chỉ thế thì bạn mới có thể hiểu được lời - đặc biệt là lời

của chư phật. Trong thế giới thông thường chúng ta

không hiểu ngay cả lời của những người không chứng

ngộ. Bạn có thể thấy điều đó xảy ra ở mọi nơi. Nói với

vợ và bạn sẽ hiểu; các bạn cả hai đều nói cùng ngôn

ngữ, nhưng không đối thoại nào là có thể. Bạn nói điều

này, cô ấy hiểu điều khác. Bạn cố gắng giải thích điều

đó cho cô ấy, cô ấy thậm chí còn đi ra xa hơn. Cô ấy cố

giải thích điều gì đó cho bạn và bạn nhảy vào kết luận

khác nào đó. Dường như là cuộc nói chuyện thành

không thể được. Cả hai đều trong trạng thái điên khùng.

Cả hai đều đầy những ý tưởng của riêng mình tới mức

trước khi người kia nói ra điều gì, người này đã kết luận

về điều người kia ngụ ý.

Không ai nghe bất kì ai khác. Ngay cả khi ai đó im

lặng và giả vờ nghe bạn, người đó cũng không nghe.

Người đó nghĩ cả nghìn lẻ một thứ. Trong khi bạn đang

nói, người đó đang chuẩn bị, để cho khi bạn dừng người

đó bắt đầu nói cái gì đó cho bạn.

Đi qua giáo đường Beth Yisroel ở đảo Staten, vào

những giờ buổi sáng, một người say chú ý tới một biển

hiệu viết là: Rung chuông báo người kéo chuông. Anh ta

làm điều đó, và một ông giả mắt ngái ngủ bước ra cửa.

"Ông muốn gì vào giờ này?" người gác chuông hỏi

một cách cáu kỉnh.

Người say nhìn ông già trâng trâng tới hai mươi

giây và rồi bắt bẻ lại, "Tôi muốn biết sao đích thân ông

không rung cái chuông ngu xuẩn đó!"

Mọi người nhất định hiểu theo tâm trí của họ.

Ông thợ may Tannenbaum đã để dành tiền trong

nhiều năm để cho ông ấy có thể hoàn thành giấc mơ lâu

dài - đi tàu biển trên vùng biển Caribbe. Nhưng ông ấy

lại không tính tới say sóng. Vào ngày thứ hai đi từ cảng,

thuyền trưởng để ý ông ấy, mặt xanh rướt, vịn lan can

tàu.

"Rất tiếc thưa ngài," viên thuyền trưởng lễ phép nói,

"nhưng ông không thể say ở đây được."

"Say sao?" Tannenbaum nói. "Quan sát chứ!"

Giáo sĩ Longbleibt của xứ Far Rockaway nổi tiếng

xứng đáng là người nói dài. Vào dịp nghỉ cuối tuần

Sabbath này, ông ấy đặc biệt đang sung sức. Chủ đề của

ông ấy cho hôm đó là "Nhà tiên tri của Kinh Thánh."

"Từ giờ," ông ấy nói thêm, sau khi nói cả nửa giờ,

"chúng ta đã có các nhà tiên tri chính. Tiếp theo chúng

ta đi tới các nhà tiên tri phụ. Các bạn thân mến, chúng ta

sẽ phân cho họ vào chỗ nào?"

Từ một chỗ ngồi ở cuối đền, một người lạ trong

chán chường đứng dậy. Ông ta vẫy tay giải thích chỉ vào

chỗ ông ta vừa bỏ trống và nói, "Một trong họ có thể

vào chỗ của tôi!"

Không thể nào hiểu được ngay cả những người

giống như bạn. Nói gì về chư phật? Họ nói từ những

đỉnh đầy ánh mặt trời còn bạn sống trong thung lũng

tăm tối. Lúc lời của họ đạt tới bạn chúng không còn là

chúng như cũ nữa. Lúc bạn nghe chúng, diễn giải lớn đã

xảy ra. Tâm trí bạn đã tô mầu cho chúng theo mầu riêng

của nó.

Phật nói: Bây giờ Ông trí huệ. Ông tự do khỏi ham

muốn. Đó là dấu hiệu của trí huệ: tự do khỏi ham muốn.

Chỉ người ngu mới ham muốn. Người trí huệ sống và

sống một cách vui vẻ, nhưng không có ham muốn. Hoặc

bạn có thể ham muốn hoặc bạn có thể sống, bạn không

thể làm cả hai. Nếu bạn ham muốn, bạn trì hoãn sống;

nếu bạn sống, ai bận tâm về ham muốn? Hôm nay là đủ

cho chính nó.

... và ông hiểu lời và việc dính lại cùng với lời.

Đây là lời kinh rất hay. Phật nói: Lời của người thức

tỉnh phải được hiểu theo cách đặc biệt bởi vì chúng được

dính lại theo cách đặc biệt. Giữa hai lời có im lặng; đó là

chất dính. Bạn phải đọc giữa các dòng. Nếu bạn có thể

chỉ hiểu các dòng thôi bạn sẽ bỏ lỡ toàn thể vấn đề. Bạn

phải đọc giữa các dòng. Bạn phải đọc giữa các lời. Bạn

phải đọc cái im lặng, chỗ dừng. Do đó dễ hiểu vị phật

sống hơn là hiểu người đã chết, bởi vì với vị phật sống

bạn có thể kinh nghiệm chỗ dừng của ông ấy, dấu chấm

của ông ấy, khi giữa hai lời bỗng nhiên có lỗ hổng,

khoảng hở, điều còn hàm nghĩa nhiều hơn bản thân lời.

...và việc dính lại cùng với lời.

Và ông không muốn gì cả.

Một khi bạn đã trở nên im lặng và bạn đã hiểu lời

của người chứng ngộ, cái gì có đó để muốn? Bạn đã có

nó rồi. Bạn đã có kho báu không cạn. Bạn đã trở thành

nhà vua.

"Thắng lợi là của ta,

Tri thức là của ta,

và tất cả thuần khiết,

tất cả buông xuôi."

Trong im lặng, mọi thứ đều là của bạn: thắng lợi -

thắng lợi mà vì nó bạn đã từng vật lộn cả đời mình, có

thể nhiều kiếp, bỗng nhiên là của bạn. Và không cần

tranh đấu nào, nó là của bạn rồi bởi vì nó đã từng là của

bạn từ chính lúc ban đầu. Bạn đơn giản chưa bao giờ

nhìn vào bên trong. Bạn không phải là kẻ ăn xin, không

ai là kẻ ăn xin cả; mọi người đều được sinh ra là hoàng

đế. Nhưng nhìn vào bên trong đi. Nếu bạn nhìn ra bên

ngoài bạn là kẻ ăn xin. Thực tế, nhìn ra bên ngoài nghĩa

là trở thành kẻ ăn xin, còn nhìn vào bên trong nghĩa là

trở thành hoàng đế.

"Thắng lợi là của ta, tri thức là của ta...." Và bây

giờ một loại tri thức hoàn toàn khác xảy ra cho bạn. Nó

không tới từ bên ngoài; nó nảy sinh từ chính chiều sâu

của bạn, nó trào lên từ bên trong bạn. Nó không được

vay mượn; nó đích thực là của bạn.

"... và tất cả thuần khiết...."

Im lặng là trinh nguyên. Kinh nghiệm hồn nhiên

nhất và thuần khiết nhất của cuộc sống là biết im lặng

sâu khi mọi thứ dừng lại. Thời gian dừng lại, không gian

biến mất, bản ngã chẳng được tìm thấy ở đâu cả. Không

một ý nghĩ trên tâm trí, chỉ im lặng từ đầu tới cuối. Đây

là thuần khiết.

Với "thuần khiết" Phật không ngụ ý thuần khiết đạo

đức nào. Thuần khiết đạo đức chưa bao giờ là thuần

khiết thực. Nó được tính toán, nó là tham lam. Nó là

tham lam thế giới khác, nó là tham lam hoan lạc cõi trời.

Có ba kiểu người trên thế giới, ba phân loại. Thứ

nhất, tội đồ: họ đã chọn vô đạo đức. Thứ hai, thánh

nhân: họ đã chọn đạo đức. Nhưng cả hai đều một nửa,

không ai là toàn thể. Tội đồ là một nửa, thánh nhân là

một nửa. Tội đồ bị hấp dẫn tới thánh nhân, tội đồ đi và

cúi lạy thánh nhân. Còn thánh nhân liên tục nghĩ trong

tâm trí họ rằng có thể họ đang bỏ lỡ; có thể tội đồ đang

tận hưởng cuộc sống.

Tôi đã nghe nói rằng một thánh nhân lớn và một gái

mãi dâm sống ngay đối diện với ông ta đã chết cùng một

ngày, và các sứ giả từ cõi bên kia tới và bắt đầu lôi

thánh nhân xuống địa ngục còn đưa gái mãi dâm lên cõi

trời.

Thánh nhân này nói, "Đợi đã! Phải có gì sai rồi. Ông

phải đã lầm mệnh lệnh. Tôi là thánh nhân lớn còn người

đàn bà kia là kẻ tội đồ lớn nhất. Ông làm gì vậy?"

Và các sứ giả nói, "Chúng tôi đã hỏi Thượng đế.

Chúng tôi cũng tưởng rằng có hiểu lầm nào đó.... Nhưng

Thượng đế nói, 'Không, không có hiểu lầm. Gái mãi

dâm này liên tục nghĩ cô ấy xấu xa làm sao, cô ấy xấu

làm sao, và cô ấy liên tục nghĩ thánh nhân này thuần

khiết làm sao. Và bất kì khi nào thánh nhân này làm lời

cầu nguyện, tụng kinh, cô ấy đều ngồi im lặng bên cửa

và lắng nghe. Cô ấy chưa bao giờ nghĩ cô ấy có khả

năng vào trong ngôi đền. Cô ấy sẽ ngồi ngoài cửa và

lắng nghe từ đó, và nước mắt sẽ chảy dài từ mắt cô ấy.

Và cô ấy bao giờ cũng nghĩ rằng thánh nhân này đang

sống cuộc sống phúc lạc.

"'Còn thánh nhân này thì sao? Ông ta liên tục nghĩ

tới gái mãi dâm, cô ấy đẹp làm sao. Và bất kì khi nào

khách thăm tới gái mãi dâm ông ta đều khổ sở nhiều

lắm. "Họ phải tận hưởng. Cô ấy tận hưởng cuộc sống,

còn mình đã làm gì cho bản thân mình? Mình đã trở

thành người khổ hạnh. Ai biết được nhưng có thể mình

đã làm cái gì đó sai rồi." Thánh nhân này liên tục bị ám

ảnh bởi gái mãi dâm. Trong giấc mơ ông ấy đã làm tình

với gái mãi dâm. Còn trong giấc mơ của gái mãi dâm có

hương vị hoàn toàn khác: cô ấy bao giờ cũng tôn thờ

thánh nhân này, cúi lạy thánh nhân này - do đó mới có

quyết định này.'"

Thượng đế nói, "Đem tên thánh nhân kia xuống địa

ngục; nó đã sống được kính trọng đủ lâu rồi. Và đem cô

mãi dâm này lên cõi trời; cô ấy đã khổ đủ trên thế giới

rồi."

Tội đồ là một nửa, thánh nhân là một nửa - và họ cả

hai đều được gắn với nhau, cả hai đều nghĩ về nhau. Tôi

biết nhiều thánh nhân, người đã thú nhận với tôi ở chỗ

riêng tư, "Đôi khi câu hỏi nảy ra trong tâm trí chúng tôi

rằng có thể toàn thế giới đúng và chúng tôi sai. Nhưng

bây giờ quá muộn rồi. Chúng tôi có thể đã bỏ lỡ niềm

vui thực để đạt tới cái gì đó trừu tượng mà có thể không

tồn tại chút nào. Ai biết về Thượng đế và ai biết về thiên

đường? Cuối cùng chúng tôi có thể chứng tỏ là kẻ ngu."

Hoài nghi đó nấn ná trong cái gọi là thánh nhân của

bạn; nó nhất định cứ nấn ná. Họ càng cảm thấy hoài

nghi, họ càng kết án tội đồ. Họ kết án tội đồ nhiều hơn,

nên tội đồ nghĩ họ là thánh nhân vĩ đại; tội đồ cứ tôn thờ

họ. Các cái đối lập hấp dẫn nhau.

Nhưng có loại thứ ba nữa: hiền nhân. Ông ấy không

là tội đồ không là thánh nhân; ông ấy vượt ra ngoài cả

hai. Và ông ấy là người bao giờ cũng bị hiểu lầm trong

thiên hạ. Bạn hiểu tội đồ rất rõ: người đó sống trong vô

đạo đức. Bạn hiểu thánh nhân: ông ấy sống trong đạo

đức. Hiền nhân là điều huyền bí; bạn không thể hiểu

được ông ấy. Ông ấy dường như ở bên ngoài hiểu biết;

do đó Jesus bị hiểu lầm, Socrates bị hiểu lầm, Phật bị

hiểu lầm. Đó đã từng là định mệnh của mọi hiền nhân.

Họ đã từng bị hiểu lầm bởi lí do đơn giản là bạn không

thể xếp họ vào phân loại thường được; họ ở bên ngoài

các phân loại.

Khi Phật nói "thuần khiết" ông ấy ngụ ý sự thuần

khiết của hiền nhân, người không biết gì về đạo đức hay

vô đạo, người đã lại trở thành đứa trẻ, người được tái

sinh.

"Thắng lợi là của ta, tri thức là của ta, và tất cả

thuần khiết, tất cả buông xuôi." Khi bạn trở nên tuyệt

đối im lặng, bản ngã biến mất; nó không được tìm thấy

chút nào.

Mới hôm nọ Vedant Bharti đã hỏi, "Sao tôi phải vứt

bỏ bản ngã? Điều đó nữa cũng là một phần của trò chơi

thiêng liêng." Bạn không hiểu trò chơi thiêng liêng là gì,

và bạn không hiểu rằng không vị phật nào đã từng nói

với bạn, "Vứt bỏ bản ngã." Tôi cũng không nói bạn,

"Vứt bỏ bản ngã" đi. Điều tôi nói là: Thử tìm nó đi... và

bạn sẽ không thấy nó chút nào! Đó là cách nó biến mất,

đó là cách nó bị vứt bỏ. Khi bạn không thể tìm được nó,

bạn có thể làm gì với nó? Nó chưa bao giờ được tìm

thấy. Nó tồn tại chỉ khi bạn không tìm nó. Nó tồn tại chỉ

như cái bóng. Nếu bạn nhìn và tìm, thế thì bạn đi tới

hiểu rằng cái bóng là cái bóng; nó không có thực chất

trong nó. Không cần vứt bỏ nó; trong hiểu nó và không

tìm nó, nó bị vứt bỏ.

Đây là buông xuôi. Trong im lặng buông xuôi xảy ra

bởi vì trong im lặng bạn không thể tìm thấy bản ngã

chút nào. Buông xuôi không phải là cái gì đó bạn phải

làm. Nếu bạn làm nó, nó không phải là buông xuôi, bởi

vì nếu bạn là người làm, làm sao điều đó có thể là buông

xuôi được? Ngày này bạn làm, ngày khác bạn có thể

hoàn tác lại nó. Ngày này bạn có thể nói, "Tôi buông

xuôi "; ngày khác bạn có thể tới và bạn có thể nói, "Tôi

rút lại điều đó." Ai có thể ngăn cản bạn? Đó là việc làm

của bạn, bạn có thể rút lại nó. Nhưng buông xuôi không

thể được rút lại, bạn không thể hoàn tác được nó, bởi vì

nó không phải là việc làm của bạn ngay chỗ đầu tiên. Nó

là việc xảy ra. Khi bạn im lặng, bỗng nhiên bạn thấy

không có bản ngã; bản ngã biến mất. Đây là buông xuôi,

đây là thuần khiết, đây là trí huệ, đây là tự do.

"Ta không muốn gì.

Ta tự do.

Ta đã tìm thấy đường của mình.

Ta sẽ gọi ai là thầy?"

Phật nói: Bây giờ, ta có thể gọi ai là thầy ta? Toàn

thể cuộc sống đã từng là việc học, toàn thể cuộc sống đã

từng là thầy ta. Ta đã học qua thất bại, qua thành công,

qua nghèo khó, qua giầu có. Ta đã học qua đau đớn, qua

hoan lạc, ta đã học qua phiền não, qua cực lạc. Ta nên

gọi ai là thầy ta?

Điều đó là không thể được bởi vì toàn thể cuộc

sống, thực tế, là phương cách dạy. Cuộc sống tồn tại để

cho bạn có thể trưởng thành hướng tới trí huệ, để cho

bạn có thể trưởng thành hướng tới tính thượng đế.

Và lời kinh rất hay:

Món quà của chân lí ở bên ngoài việc cho.

Chân lí bao giờ cũng là món quà. Bạn không thể giật

lấy nó đi được, bạn không thể chinh phục được chân lí.

Nó bao giờ cũng là món quà. Khi bạn im lặng nó đơn

giản giáng xuống bạn. Nó rót đầy im lặng của bạn, làm

tràn đầy, bắt đầu tràn ra ngoài.

Món quà của chân lí ở bên ngoài việc cho. Nhưng

khi bạn có nó, vấn đề là bạn không thể trao nó cho bất kì

ai khác. Bạn sẽ muốn, bạn sẽ thích chia sẻ nó, nhưng

làm sao chia sẻ nó được? Người khác phải hoàn toàn im

lặng, chỉ thế thì nó mới có thể được chia sẻ. Nhưng khi

người khác im lặng, người đó cần không chia sẻ chân lí

của bạn; chân lí giáng xuống trong người đó theo cách

riêng của nó. Do đó nó ở ngoài việc cho.

Hương vị bên ngoài sự ngọt ngào....

Nó còn ngọt ngào hơn nhiều so với bản thân sự ngọt

ngào, nó ở bên ngoài sự ngọt ngào.

Niềm vui bên ngoài niềm vui.

Chúng ta có thể gọi nó là phúc lạc, nhưng nó là phúc

lạc đi vượt ra ngoài ý tưởng của chúng ta về phúc lạc.

Thực tế, nó là không thể hiểu được đối với tâm trí.

Không thể diễn đạt được nó trong lời thích hợp. Nếu

chúng ta gọi nó là niềm vui, vâng, chỉ một chút ít của nó

được diễn đạt. Nếu chúng ta gọi nó là ngọt ngào, chỉ

một mảnh mẩu của nó là được diễn đạt; cái toàn bộ vẫn

còn không diễn đạt được. Nó phải được kinh nghiệm,

không có cách khác.

Chấm dứt của ham muốn là chấm dứt của buồn khổ.

Bạn chỉ làm một điều: để ham muốn ra đi. Và ham

muốn sẽ đi thế nào?

Làm tĩnh lặng tâm trí ông.

Suy ngẫm.

Quan sát.

Không cái gì trói buộc ông.

Ông tự do.

Suy tư về những lời kinh này. Thử kinh nghiệm

chúng... bởi vì Phật không phải là người tôn giáo

thường. Ông ấy không quan tâm tới phép màu. Ông ấy

không quan tâm tới cái gì huyền bí, bí truyền. Ông ấy

quan tâm tới biến đổi bạn. Ông ấy ở chính nơi đất bằng.

Moses và Jesus đang chơi một ván golf ở câu lạc bộ

nước tinh tú. Đầu tiên, Jesus phát bóng và làm ra một lỗ

trong một cú đánh. Thế rồi Moses cũng làm ra một hố

trong một cú đánh.

"Được đấy, Moe, đến giờ chúng ta hoà," Jesus nói.

"Bây giờ trông đây, Jake," Moses phản đối. "Chúng

tôi ăn điểm chứ. Bây giờ anh nói gì nếu chúng ta thôi

dùng phép mày và chơi golf chút ít?"

Phật chưa bao giờ làm phép màu nào - đó là phép

màu lớn nhất. Ông ấy không quan tâm tới việc mê hoặc

bạn. Toàn thể nỗ lực của ông ấy là đưa cho bạn chìa

khoá để cho bạn có thể mở cánh cửa của mọi bí ẩn. Ông

ấy là rất tồn tại, phi triết lí, phi trí tuệ trong cách tiếp

cận. Ông ấy không mang tính cái đầu - nhưng rất thực

tế, thực chứng. Toàn thể cách tiếp cận của ông ấy là

thực nghiệm, kinh nghiệm. Cho nên bạn sẽ không có

khả năng hiểu được ông ấy nếu bạn cứ đọc.

Thử thực nghiệm điều ông ấy nói. Thử làm yên tĩnh

tâm trí bạn, phản ánh, quan sát, và tự mình thấy điều xảy

ra: tự do, phúc lạc, chân lí, trí huệ, hồn nhiên, thuần

khiết... hàng nghìn hoa bắt đầu nở trong bạn. Dòng suối

bỗng nhiên oà ra.

Đủ cho hôm nay.

****************************************************************************************************************

#6Cuộc sống siêu việt trên logic

Câu hỏi thứ nhất:

Thưa Thầy kính yêu,

Trong chờ đợi để biết tôi là ai, tôi thường cảm thấy

trong một không gian của cái không. Theo một cách

nào đó điều đó làm tôi sợ, theo cách khác nó lại có

cảm giác hoàn thành. Tôi thường cảm thấy cả hai và

chẳng cái gì. Làm sao cảm thấy điều này hay điều

kia? Và sự phân biệt nằm ở đâu giữa một chân

không - không gian đó của không quá khứ, hiện tại

hay tương lai - và không gian chết sao?

Prabhato, chỉ dẫn đầu tiên về cái không mà đúng,

tích cực là ở chỗ nó sẽ là ngược đời. Nó sẽ được cảm

thấy dường như tất cả và không có gì, cả hai đồng thời.

Thế thì nó sống động. Tất cả những cái sống động đều

ngược đời; chỉ cái chết rồi mới logic. Logic là áp dụng

được chỉ cho những thứ chết; logic chẳng có gì để nói về

cuộc sống. Cuộc sống siêu việt lên trên logic. Cuộc sống

về căn bản phi logic. Đó là điều tôi ngụ ý bằng việc gọi

nó là ngược đời: nó chứa cái đối lập của riêng nó.

Do đó một chỉ dẫn tốt là bạn cảm thấy cả hai tất cả

và không có gì. Nếu bạn cảm thấy chỉ không có gì, thế

thì nó là không gian chết; nếu bạn chỉ cảm thấy tất cả,

thế thì nó toàn là tưởng tưởng. Khi bạn cảm thấy cả hai,

nó không phải là không gian chết không là thuần phóng

chiếu; nó là cái gì đó đúng đích thực.

Bất kì khi nào bạn cảm thấy tất cả và không có gì

cùng nhau, một cách tự nhiên, một mặt bạn sẽ cảm thấy

sợ bởi vì cái không, bởi vì cái không có vẻ như cái

chết.... Nó là cái chết; cái chết của bản ngã, cái chết của

tất cả những cái bạn đã biết cho tới giờ như bản thân

mình. Nó là sự gián đoạn toàn bộ với quá khứ; do đó nỗi

sợ phát sinh. Bạn đang đánh mất căn cước của mình, và

đó là khủng hoảng lớn nhất trong cuộc sống. Người ta

muốn níu bám lấy căn cước của mình; ít nhất người ta

còn biết mình là ai. Cho dù căn cước đó chẳng là gì

ngoài địa ngục, dầu vậy bạn vẫn muốn níu bám lấy nó.

Ít nhất nó cũng là cái gì đó nắm được. Bây giờ tất cả

những cái nắm được đang biến mất và tất cả những cái

bạn đã biết về bản thân mình đều bay hơi. Nỗi sợ lớn vồ

lấy bạn. Dường như bạn sắp chết. Cảm thấy sợ là tự

nhiên.

Nhưng bạn cũng cảm thấy, mặt khác, được hoàn

thành sâu sắc, bởi vì nó là cái chết và phục sinh, đóng

đinh và phục sinh. Khi bạn sẵn sàng mất đi căn cước cũ

của mình bạn được sinh ra mới mẻ. Cuộc sống mới bắt

đầu rung động, trái tim mới bắt đầu đập. Như một bản

ngã bạn biến mất, nhưng bạn biến mất như một phần của

cái toàn thể, của cái bao la mênh mông, của tính toàn bộ.

Đây thực sự là việc sinh của con người linh thiêng,

bởi vì người ta trở thành một phần của cái toàn thể. Đây

là việc sinh thành ra vị phật, ra một christ. Cho nên mặc

tất cả nỗi sợ của bạn, đi vào trong nó, đừng níu bám lấy

quá khứ của bạn. Và nhớ, sợ là rất mạnh bởi vì toàn thể

quá khứ của bạn sẽ hỗ trợ cho nó, và bạn có quá khứ cực

kì lâu dài hàng triệu kiếp. Không chỉ kiếp này mà nhiều,

nhiều kiếp được chứa trong vô thức tập thể của bạn.

Chúng tất cả sẽ kéo bạn lại. Chúng sẽ nói, "Mình đi đâu

đây? Mình có sắp điên không? Quay lại chỗ trú ẩn cũ,

an ninh cũ!" Quá khứ là dài; nó có trọng lượng nặng vô

cùng, sức hút lớn. Và cái mới được sinh ra cũng giống

như chồi mới, rất mảnh mai. Nó có thể bị nghiền nát rất

dễ dàng, nó có thể bị phá huỷ rất dễ dàng.

Nhớ rằng chừng nào bạn còn chưa đi mặc cho mọi

nỗi sợ của mình, bạn sẽ không bao giờ đi vào trong cái

không biết. Và đi vào trong cái không biết là đi vào

trong Thượng đế. Thượng đế chưa bao giờ được biết tới.

Ngài không chỉ không được biết tới, ngài cũng là không

thể biết được. Và bất kì cái gì bạn biết về Thượng đế

cũng chỉ là ý tưởng của bạn về Thượng đế, không phải

là kinh nghiệm của bạn.

Những người đã kinh nghiệm Thượng đế đều lặng

thinh, đều đã giữ hoàn toàn im lặng. Họ đã không thốt ra

một lời nào về Thượng đế. Họ đã chỉ ra con đường. Phật

nói: Chư Phật chỉ cho ông con đường, nhưng họ không

nói gì về kinh nghiệm tối thượng. Họ chỉ ra cách đạt tới

nó, nhưng họ chưa bao giờ nói đích xác nó là gì. Nó là

không thể định nghĩa được, không thể diễn đạt được.

Thượng đế là điều huyền bí. Thực tế, Thượng đế là cái

tên khác cho vũ trụ huyền bí mà trong đó chúng ta đang

sống, đang thở. Chúng ta là một phần của huyền bí vĩ

đại này và không có cách nào để giải huyền bí của nó.

Cho nên bạn sẽ phải đi một cách có chủ ý, có chủ

tâm. Bạn sẽ phải mạo hiểm quá khứ của mình. Bạn sẽ

phải lắng nghe tiếng gọi của cái không biết. Nó là tiếng

gọi xa xăm, xa xôi và không có đảm bảo gì cho nó.

Không ai có thể cho bạn lời đảm bảo, chỉ cho hướng

dẫn.

Tôi có thể nói với bạn: Bạn đã nghe tiếng gọi đúng.

Nhưng điều đó là mạo hiểm bởi vì bạn sẽ mạo hiểm tất

cả những điều bạn biết về bản thân mình vì cái gì đó xa

xôi, vô hình, huyền bí. Người ta không bao giờ có thể

chắc chắn được. Bạn không thể tính toán về Thượng đế

được, bạn không thể tinh ranh và láu cá về Thượng đế

được. Bạn phải đi vào trong hồn nhiên đơn giản, hệt như

trẻ nhỏ cầm tay bố nó có thể đi vào trong rừng sâu mà

không sợ gì. Sư tử có thể gầm, nhưng đứa trẻ không sợ

bởi vì nó biết tay nó đang trong tay bố nó. Bản thân bố

nó có thể run rẩy, nhưng đứa trẻ bị say mê với toàn thể

cuộc hành trình, với toàn thể cuộc phiêu lưu. Sự đơn

giản như vậy được cần tới; chỉ thế thì bạn mới có thể

nhận mạo hiểm.

Đứa trẻ là con người dũng cảm nhất. Khi nó lớn lên

về tuổi tác, về kinh nghiệm, nó bắt đầu trở nên hèn nhát,

nó bắt đầu trở nên tính toán. Nó nghĩ hai lần trước khi

nó lấy bất kì bước nào, và khi bạn nghĩ quá nhiều bạn

không bao giờ lấy bước đi nào. Những người rất tính

toán vẫn còn bị mắc kẹt toàn thể các kiếp sống của họ.

Họ chưa bao giờ di chuyển bởi vì từng khoảnh khắc đều

tạo ra sợ hãi trong họ - và đây là di chuyển vĩ đại nhất.

Prabhato, đi một cách vui vẻ vào trong nó đi. Và

đừng lo nghĩ sự phân biệt là gì giữa không gian trống

rỗng, không gian tiêu cực, và không gian tích cực, hoàn

thành. Đừng bị bận tâm. Đây là cách tâm trí bắt đầu tính

toán, đây là cách tâm trí bắt đầu vận hành. Không cần -

bạn đang đi trên đường đúng.

Bất kì chỗ nào bạn cảm thấy ngược đời xảy ra, nhớ

lấy, đó là tiêu chí rằng bạn đang đi trên đường đúng.

Nếu bạn không bắt gặp điều ngược đời bạn phải đã bỏ lỡ

ở đâu đó, bạn đang đi theo hướng sai.

Cho nên đừng hỏi tôi, "Làm sao cảm thấy điều này

hay điều kia?" Nếu bạn cảm thấy điều này hay điều kia

bạn sẽ sai. Khi bạn cảm thấy cả hai, thế thì bạn cảm thấy

cái toàn bộ. Cái toàn bộ nhất định là cả hai, cái tiêu cực

và cái tích cực. Nó nhất định là cả hai chết và sống, mùa

hè và mùa đông.

Và đó là nơi tâm trí cảm thấy bị trở ngại, bị phân

vân. Tâm trí thích những điều rõ ràng, nhưng chẳng cái

gì có thể được làm về điều đó. Yêu cầu và mong đợi của

tâm trí không thể được hoàn thành. Sự tồn tại không có

nghĩa vụ hoàn thành các yêu cầu và đòi hỏi của tâm trí.

Bạn phải chấp nhận sự tồn tại như nó vậy. Nó là ngược

đời và tâm trí lại không ngược đời. Tâm trí có tính tuyến

tính, logic, không biện chứng. Khi có liên quan tới tâm

trí nó mang tính Aristote, còn khi có liên quan tới cuộc

sống nó mang tính Hegel nhiều hơn là tính Aristote. Nó

là biện chứng: nó đi từ chính đề sang phản đề, vân vân

và vân vân. Toàn thể chuyển động phụ thuộc vào chính

đề và phản đề. Các cực đối lập thực sự không đối lập mà

là phần bù.

Tận hưởng các cực, điều ngược đời đi. Hân hoan

rằng bạn đang trên đường đúng. Và cứ đi mặc cho mọi

nỗi sợ. Chúng là tự nhiên. Tôi không thể nói rằng bạn

không nên cảm thấy những nỗi sợ đó - chúng là tuyệt

đối tự nhiên, nhưng bạn có thể cứ tiếp tục mặc chúng.

Nhớ lấy, sự khác biệt giữa kẻ hèn nhát và người

dũng cảm không phải là kẻ hèn nhát cảm thấy sợ còn

người dũng cảm không cảm thấy sợ. Không, điều đó là

không khác biệt giữa kẻ hèn nhát và người dũng cảm.

Cả hai đều cảm thấy sợ. Sự khác biệt là ở chỗ kẻ hèn

nhát nghe nỗi sợ và dừng đi, còn người dũng cảm không

để ý tới nó, đẩy nó sang bên, và và đi mặc nó.

#6Câu hỏi thứ hai:

Thưa Thầy kính yêu,

Sao thầy nói rằng thiền là đúng còn cầu nguyện là

sai? Theo ý kiến tôi, thiền đem lại bình thản bên

trong sâu sắc cho người ta vì riêng người ta, nhưng

cầu nguyện sâu sắc và bình thản cho người ta kết

nối trực tiếp và mãnh liệt với Thượng đế, và thánh

thần linh thiêng giáng xuống người ta.

Rosemary, tôi đã không nói điều bạn đã nghe. Bạn

phải nghe qua tầng dầy của Ki tô giáo, tầng dầy rác rưởi.

Ngay chỗ đầu tiên bạn nói, "Sao thầy nói rằng thiền

là đúng còn cầu nguyện là sai?" ... Bởi vì thiền là lời cầu

nguyện duy nhất có đó, và lời cầu nguyện là có thể chỉ

trong thiền; bất kì lời cầu nguyện nào khác cũng đều là

giả, rởm. Nếu bạn chưa ở trong thiền sâu, làm sao bạn

biết rằng có Thượng đế? Thế thì ý tưởng về Thượng đế

chỉ là ước định người khác trao cho bạn.

Nghĩ mà xem, Rosemary, nếu bạn được sinh ra ở

nước Nga Xô viết, thế thì bạn sẽ không nói về Thượng

đế chút nào. Bạn sẽ không nói về Kinh Thánh; bạn sẽ

nói về Cương lĩnh cộng sản hay Das Kapital - Tư bản

luận. Bạn sẽ không nói về tam thể linh thiêng gồm

Thượng đế Cha và Con và Thánh thần linh thiêng; bạn

sẽ nói về tam thể không tín ngưỡng Karl Marx, Friedrich

Engels và V.I. Lenin, bởi vì bạn đã được bảo và được

ước định bởi giáo dục cộng sản.

Nếu bạn được sinh ra trong gia đình Jaina bạn sẽ

chẳng bao giờ nghĩ tới lời cầu nguyện, không bao giờ -

bởi vì không có Thượng đế, cho nên cầu nguyện ai? Nếu

bạn được sinh ra trong gia đình Phật tử, mọi sự đã hoàn

toàn khác bởi vì bạn sẽ bị ước định theo cách khác. Đó

không phải là bạn, Rosemary, người đang đang hỏi câu

hỏi này; đó là ước định của bạn. Và mọi ước định đều

sai.

Thiền nghĩa là trạng thái của tâm trí không bị ước

định. Thiền là quá trình hoàn tác lại cái hại mà mọi xã

hội gây cho mọi cá nhân - cộng sản hay Cơ đốc giáo,

Jaina hay Do Thái, không thành vấn đề. Tôi không nói

về bất kì ước định đặc biệt nào là sai; tôi nói ước định

như nó là sai.

Ước định không là gì ngoài quá trình thôi miên mọi

người: lặp lại từ thời thơ ấu, trong nhà thờ, trong trường

chủ nhật.... Bạn đã được nói cho về Thượng đế và lời

cầu nguyện và bạn đã được nói cho từ cha mẹ bạn và

các thầy giáo và các tu sĩ và mọi người có thẩm quyền.

Và đứa trẻ nhỏ đã học cách bắt chước những người đang

có quyền. Bây giờ bạn đã hoàn toàn quên hết sự bắt đầu

của ước định.

Không đứa trẻ nào được sinh ra là người Ki tô giáo

hay Hindu giáo. Không đứa trẻ nào được sinh ra cùng ý

tưởng về sự tồn tại của Thượng đế - liệu Thượng đế tồn

tại hay không tồn tại, liệu có một địa ngục hay bẩy địa

ngục hay bẩy mươi hay bẩy trăm. Không đứa trẻ nào

được sinh ra với bất kì thượng đế học nào.

Thiền nghĩa là quá trình loại bỏ đi tất cả những cái

đã bị ép buộc lên bạn để cho bạn có thể lại trở thành đứa

trẻ. Đó là điều Jesus nói. Ông ấy nói: Chừng nào ông

còn chưa giống như đứa trẻ ông sẽ không vào được

vương quốc của Thượng đế của ta. Ông ấy đang nói về

giải ước định, giải thôi miên đấy. Ông ấy không dùng

những từ này 'giải ước định', 'giải thôi miên', bởi vì

những từ này đã không tồn tại vào thời ông ấy, nhưng

đó là điều thực tế ông ấy đang nói. Ông ấy nói: Chừng

nào ông còn chưa trở thành đứa trẻ lần nữa.... Lặp đi lặp

lại ông ấy nói: Chừng nào ông chưa được sinh ra lần

nữa... bởi vì việc sinh này đã từng bị mọi người làm bẩn;

họ đã đầu độc tâm trí bạn. Bạn cần một sinh thành tâm

linh mới. Và nó là có thể chỉ qua thiền; không có cách

khác.

Lời cầu nguyện nghĩa là bạn sẽ tiếp tục ước định

này. Nếu bạn là người Ki tô giáo, lời cầu nguyện của

bạn sẽ là của người Ki tô giáo. Chính câu hỏi của bạn

nói... nó bốc mùi Ki tô giáo! Người Hindu sẽ không nói

điều này, người đó sẽ không dùng các từ như vậy: "Và

thánh thần linh thiêng giáng xuống người ta." Người

Jaina sẽ không bao giờ dùng thuật ngữ như vậy - không

thể được, bởi vì với người Jaina, chẳng cái gì xuống cả,

mọi thứ đều đi lên! Người đó tin vào trưởng thành lên

thành thượng đế. Thượng đế không phải là ai đó có đó

trên cao, người đi xuống bạn; không có Thượng đế đó.

Bạn có hạt mầm của tính thiêng liêng; nó trưởng thành

lên. Thánh thần linh thiêng giáng xuống bạn đơn giản là

cái gì đó đã được dạy cho bạn.

Bạn nói, "Theo ý kiến tôi...."

Ý kiến chẳng nghĩa lí gì! Nếu bạn có kinh nghiệm

nào đó, thế thì nó là quan trọng. Ý kiến chỉ là ý kiến. Ý

kiến nghĩa là cái gì đó của tâm trí. Bạn đã không kinh

nghiệm cái gì cả; nó chỉ là một ý nghĩ. Mọi người có đủ

loại ý kiến.

Tôi đã nghe:

Hai con lạc đà đi qua sa mạc. Cả hai trông đều rất

mệt mỏi và cả hai đều muốn nói điều gì đó cho nhau,

nhưng bằng cách nào đó chúng vẫn giữ kiểm soát.

Chung cuộc một con bùng ra và nó nói, "Bất kì điều

gì mọi người nói, bất kì ý kiến nào của họ, tôi muốn nói

rằng tôi khát!"

Khát không phải là ý kiến, nó là kinh nghiệm của

bạn. Điều bạn nói có là kinh nghiệm của bạn không?

Nếu nó là kinh nghiệm của bạn, câu hỏi này không thể

nảy sinh, bởi vì thế thì bạn đã hiểu đích xác điều tôi nói.

Thiền là quá trình lau sạch bạn, và khi bạn hoàn

toàn sạch sẽ, hương thơm nảy sinh trong bạn. Đó là lời

cầu nguyện. Lời cầu nguyện là hệ quả của thiền. Tôi

không chống lại lời cầu nguyện; tôi chống lại lời cầu

nguyện của bạn, nhưng không chống lại bản thân lời cầu

nguyện. Lời cầu nguyện của bạn là giả. Lời cầu nguyện

của bạn chỉ là một phần của ước định của bạn. Người

Hindu cầu nguyện theo cách Hindu và người Mô ha mét

giáo cầu nguyện theo cách Mô hat mét giáo, nhưng lời

cầu nguyện thực thì không Hindu giáo không Mô ha mét

giáo. Nó tới từ bản thể không ước định. Làm sao nó có

thể có tính Hindu hay tính Mô ha mét giáo được?

Lời cầu nguyện thực đơn giản là lời cầu nguyện. Nó

không có lời; nó là im lặng thuần khiết. Nó là buông

xuôi trong im lặng sâu sắc. Thực tế nó không gửi tới bất

kì Thượng đế nào; nó là việc cúi mình trước toàn thể sự

tồn tại. Nó không có địa chỉ. Thượng đế ở mọi nơi, tất

cả đều là Thượng đế, cho nên bạn đơn giản cúi mình

trong lòng biết ơn vô cùng, trong cực lạc, trong vui vẻ,

trong tình yêu. Nhưng đầu tiên tình yêu của bạn, cực lạc

của bạn, vui vẻ của bạn phải được toả ra. Bạn chỉ là hạt

mầm, và nói về hương thơm sẽ chỉ là ý kiến nghe được

từ người khác, thứ vay mượn. Và bất kì cái gì vay mượn

cũng đều xấu. Bất kì cái gì vay mượn đều sẽ chỉ là lời

nói.

Và đó là điều đã xảy ra: khi bạn nghe tôi bạn chỉ

hiểu nghĩa đen của lời. Bạn bỏ lỡ ý nghĩa.

Một người bạn tốt... một người bạn Ki tô giáo đã tán

tỉnh Giáo sĩ Berkowitz tới tham dự tại nhà thờ Thánh

Joseph trong thành phố, điều đã làm cho Schlitz nổi

tiếng. Ông giáo sĩ già, trong một thời gian dài đã về hưu,

cuối cùng đồng ý khi được giải thích rằng một chức sắc

thỉnh giảng sẽ nói về ảnh hưởng Do Thái lên sự hình

thành nhà thờ này.

Ở ngay hàng đầu, mắt giáo sĩ Berkowitz mở to khi

vị diễn giả thỉnh giảng này công bố chủ đề của mình:

"Tên tôi là Joseph, Cha của Jesus."

Vào lúc kết thúc bài nói, khi họ đã được giới thiệu,

giáo sĩ này nói một cách khô khan, "Ông bạn ơi, ông đã

có kinh nghiệm bất thường nhất!"

Ông ấy đã hiểu lầm toàn thể sự việc. Ông ấy lấy tiêu

đề của bài nói theo nghĩa từng từ: Tên tôi là Joseph, Cha

của Jesus. Đó chỉ là chủ đề. Người này không nói rằng

mình là Joseph, là cha của Jesus. Ông giáo sĩ nói, "Ông

bạn ơi, ông đã có kinh nghiệm bất thường nhất" - là bố

của Jesus, sau hai nghìn năm. Và Jesus đã là con của

người đàn bà đồng trinh; điều đó chắc chắn là kinh

nghiệm bất thường cho người bố!

Điều đó đã xảy ra cho bạn, Rosemary. Tôi đã không

nói gì chống lại lời cầu nguyện, nhưng tôi đã nói rằng

thiền chuẩn bị con đường. Nó lau sạch bạn - nó lau sạch

bạn khỏi mọi ý nghĩ được người khác trao cho. Nó tạo

ra không gian trong đó lời cầu nguyện có thể nở hoa.

Thiền đem tới mùa xuân - và không có cách khác. Nếu

bạn cầu nguyện mà không thiền, thế thì hoa của bạn sẽ

là hoa nhựa. Hoa thực của lời cầu nguyện chỉ phát triển

trong thiền. Và thế thì lời cầu nguyện không được gửi

tới Thượng đế; thực tế, thế thì không có Thượng đế.

Toàn thể ý tưởng về Thượng đế Cha là trẻ con, và

Sigmund Freud là đúng rằng đó là phóng chiếu của ham

muốn sâu sắc của chúng ta để níu bám lấy bố mẹ. Nó là

phóng chiếu của ý tưởng riêng của bạn về người bố, bởi

vì bố bạn không thể ở cùng với bạn mãi mãi được. Một

ngày nào đó ông ấy chết và bạn mất bảo vệ, an ninh, an

toàn. Và bạn phóng chiếu người bố trên cõi trời, người

có mãi mãi và mãi mãi, người sẽ không bao giờ chết và

bao giờ cũng chăm sóc bạn. Và bạn quì trên đầu gối cầu

nguyện với người bố trên cõi trời. Ý tưởng này là bịa đặt

của bạn, lời cầu nguyện là bịa đặt của bạn. Và bạn làm

điều ngu xuẩn này trong cả đời mình, nghĩ rằng bạn

đang làm cái gì đó tôn giáo lắm.

Và đôi khi điều có thể xảy ra là một số lời cầu

nguyện của bạn có thể được hoàn thành. Điều đó chỉ là

trùng hợp ngẫu nhiên. Nếu bạn cứ cầu nguyện về cả

nghìn thứ, thỉnh thoảng điều đó nhất định xảy ra.

Một người tới tôi và người đó nói, "Tôi chưa bao

giờ tin vào Thượng đế, nhưng bây giờ tôi tin."

Tôi nói, "Chuyện gì xảy ra?"

Người đó nói, "Tôi đã trao tối hậu thư cho Thượng

đế rằng nếu trong vòng mười lăm ngày con trai tôi

không kiếm được việc, tôi sẽ trở thành người vô thần

chắc chắn mãi mãi. Và việc đe doạ đó có tác dụng: trong

vòng mười lăm ngày con trai tôi đã có việc làm. Bây giờ

tôi là người tin vững chắc."

Tôi nói, "Điều đó hoàn toàn tốt, nhưng đừng bao giờ

đưa ra tối hậu thư nữa bởi vì không phải bao giờ nó

cũng có tác dụng. Nó chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên thôi."

Nhưng người đó đã không nghe tôi. Sau hai năm

ông ấy gặp tôi và ông ấy nói, "Thầy đúng. Tôi lại đã đưa

ra tối hậu thư. Vợ tôi rất ốm và tôi bảo ngài rằng phải

phải cứu bà ấy, bằng không tôi sẽ trở thành kẻ vô thần."

Ông ấy cứ tưởng rằng có lần thủ đoạn đó đã có tác dụng;

bây giờ ông ấy biết cách buộc Thượng đế phục vụ ông

ấy.

Đó là điều mọi người đang cầu nguyện đều làm; họ

cố gắng dùng Thượng đế. Họ cố gắng dùng Thượng đế

như phương tiện vì mục đích nào đó.

Và người vợ chết. Chắc chắn ông ấy trở thành kẻ vô

thần.

Lời cầu nguyện đôi khi sẽ được hoàn thành - không

phải là có ai đó ở đó nghe lời cầu nguyện của bạn và

hoàn thành chúng - và đôi khi chúng sẽ không được

hoàn thành. Và các tu sĩ đều rất láu cá. Họ sẽ nói, "Bất

kì khi nào lời cầu nguyện của ông được hoàn thành ông

đã cầu nguyện sâu sắc, chân thực, chân thành." Và bất kì

khi nào lời cầu nguyện của bạn không được hoàn thành

họ nói, "Lời cầu nguyện của ông hời hợt." Và luận cứ

này có nhiều hấp dẫn bởi vì, thực tế, tất cả những lời cầu

nguyện của bạn đều hời hợt cho nên bạn biết hoàn toàn

rõ rằng lời cầu nguyện của bạn là hời hợt. Tu sĩ bao giờ

cũng có thể nói rằng bạn đã cầu nguyện đấy, nhưng sâu

bên dưới có hoài nghi.

Bao giờ cũng có hoài nghi bởi niềm tin của bạn vào

Thượng đế không thể phá huỷ được hoài nghi; nó chỉ có

thể kìm nén hoài nghi. Và hoài nghi bị kìm nén bao giờ

cũng sôi lên bên trong bạn, sẵn sàng bùng nổ.

Cho nên đừng bị lừa nếu đôi khi sự trùng hợp ngẫu

nhiên xảy ra. Đó là cách nhiều điều liên tục trên thế giới,

nhiều thứ có thể tiếp tục trên thế giới. Tất cả đều là trò

bịp bợm!

Chẳng hạn, có nhiều "liệu pháp" thế trên thế giới: vi

lượng đồng cân liệu pháp, thiên nhiên liệu pháp, châm

cứu liệu pháp, và nhiều liệu pháp khác thế. Họ tất cả đều

công bố chữa lành - và lời công bố của họ không sai; họ

chữa được cho nhiều người. Bạn thử mà xem. Cứ cho

mọi người thuốc đường và bạn sẽ ngạc nhiên; nhiều

người được chữa khỏi, cho nên bạn đã phát minh ra liệu

pháp mới. Bẩy mươi phần trăm mọi người đều chỉ ốm

giả, họ không ốm thật. Bẩy mươi phần trăm bệnh tật đều

là bệnh tâm lí, cho nên mọi điều cần là ai đó thuyết phục

họ rằng "Điều này sẽ có ích." Và mọi người cứ đi tới vi

lượng đồng cân liệu pháp và tới các thuốc bí truyền khi

chẳng cái gì khác giúp họ.

Rắc rối với liệu pháp là ở chỗ nó chỉ có thể có ích

nếu bệnh tật của bạn là thực. Nếu bệnh tật của bạn mà

không thật, thế thì thuốc thật sẽ gây hại thay vì giúp bạn.

Cho nên bạn phải tìm loại ông lang nào đó, ai đó có thể

cho bạn thuốc giả để chữa bệnh giả của bạn.

Lời cầu nguyện của bạn là giả, bệnh của bạn là giả.

Đôi khi chúng có ích, và khi chúng giúp ích, bạn trở nên

càng được thuyết phục hơn. Và trong thất vọng, trong

bất lực sâu sắc, bạn không biết chỗ nào khác để đi. Khi

tất cả nỗ lực con người đều thất bại bạn bắt đầu nhìn lên

trời. Điều đó bao giờ cũng là vậy; chẳng có gì mấy đã

thay đổi.

Trong Veda có nói: Khi có sét trong mây, đó là

Thượng đế giận dữ; đó là cơn giận của ngài. Hãy cầu

nguyện Thượng đế. Bây giờ chúng ta biết đấy không

phải là Thượng đế hay cơn giận của ngài; bây giờ chúng

ta biết đấy là điện, điện tự nhiên. Bây giờ chúng ta đang

dùng cơn giận của Thượng đế trong việc cho chạy quạt

và máy móc. Bây giờ không ai cầu nguyện. Ở Ấn Độ,

dầu vậy, khi bạn bật đèn lên buổi tối, những người

Hindu chính thống sẽ lập tức cúi đầu chắp tay - với bóng

điện! Chỉ là ước định cũ.

Thượng đế đã làm nhiều điều; bây giờ khoa học

đang làm tất cả những điều đó. Thượng đế cứ bị tước

dần quyền mọi ngày! Thực tế, chẳng mấy chốc ngài sẽ

thất nghiệp thôi; bạn sẽ thấy ngài xếp hàng đứng trước

văn phòng việc làm nào đó! Thượng đế của bạn là bịa

đặt của bạn. Friedrich Nietzsche là đúng về Thượng đế

của bạn - rằng Thượng đế đó chết rồi. Cho nên đừng quá

ngạc nhiên hay bị thuyết phục khi sự trùng hợp ngẫu

nhiên nào đó xảy ra. Trùng hợp ngẫu nhiên bao giờ cũng

xảy ra.

Trên khoang chuyến bay phản lực của hãng El-Al

tới Israel, một bà mẹ trẻ và hai đứa con vừa ổn định chỗ

thì đứa nhỏ hơn bắt đầu la hét rằng chúng phải đi "nhà

xí." Hai tu sĩ đang đi hành hương tới Đất Thánh, ngồi

ngay trước nhóm gia đình nhỏ này, mỉm cười thích thú

trong khi người mẹ bối rối nhanh chóng đem lũ trẻ vào

phòng vệ sinh trên máy bay. Sau khi ngần ngại một

chốc, cô ta đẩy đứa nhỏ vào trong khoang đánh dấu

"Quí ông," trong khi cô ta vào phòng dành cho quí bà

cùng cô con gái nhỏ.

Đứa con trai nhanh chóng chui ra và một trong hai

tu sĩ bước vào, quên mất không khoá cửa. Vài giây sau,

người mẹ hiện ra từ phòng vệ sinh cho đàn bà và mở hé

cánh cửa kia, cứ tưởng cậu con trai vẫn còn đó. "Đừng

quên kéo phec mơ tuya quần đấy."

Khi tu sĩ trở về chỗ mình ông ta hết lời ca ngợi hãng

hàng không. "Các ông phải trao nó cho các cô phục vụ

viên Do Thái này," ông ta nói với tu sĩ bạn đồng hành.

"Họ nghĩ chu đáo đủ mọi thứ!"

Cẩn thận về sự trùng hợp ngẫu nhiên!

Bạn nói, Rosemary này, "Sao thầy nói rằng thiền là

đúng còn cầu nguyện là sai?"

Cầu nguyện không đúng; ở trong lời cầu nguyện

mới đúng. Cầu nguyện nghĩa là bạn sẽ nói điều gì đó với

Thượng đế. Thượng đế của bạn là bịa đặt của bạn, lời

cầu nguyện của bạn là bịa đặt của bạn. Và bạn sẽ nói gì?

Toàn thứ tầm thường: Làm cái này, làm cái kia, không

làm cái kia. Hay: Ngài vĩ đại. Ngài đã nghe điều đó từ

lâu rồi, ngài phải phát ngán! Ngài phải dùng nút tai để

tránh cái gọi là những người tôn giáo này! Cả triệu

người cầu nguyện và nói đủ mọi thứ với Thượng đế.

Ngài phải phát mệt, hoàn toàn mệt mỏi.

Nhưng ở trong lời cầu nguyện là hiện tượng hoàn

toàn khác. Cầu nguyện là một điều; điều đó ấu trĩ, bắt

nguồn từ tâm trí bị ước định. Nhưng ở trong lời cầu

nguyện nghĩa là ở trong tình yêu với sự tồn tại, ở trong

điệu vũ với sự tồn tại, nhảy múa với các vì sao, hát với

chim chóc, tuôn chảy theo dòng sông. Đó là lời cầu

nguyện. Nhưng lời cầu nguyện đó nảy sinh chỉ khi thiền

đã tạo ra không gian đúng cho nó. Do đó nhấn mạnh của

tôi là vào thiền và tôi không nói nhiều về lời cầu

nguyện, bởi vì khi thiền đầy đủ, lời cầu nguyện tới theo

cách riêng của nó. Không cần nói về nó - bởi vì nếu tôi

nói về lời cầu nguyện có mọi nguy hiểm bạn sẽ hiểu

lầm, bởi vì lời cầu nguyện là dễ còn thiền là khó.

Lời cầu nguyện là dễ dàng, rất rẻ. Bạn có thể tới nhà

thờ, quì dưới đầu gối, khoanh tay lại, nói với Thượng

đế. Điều đó chẳng tốn kém gì. Hay mọi đêm trước khi

bạn đi ngủ bạn cầu nguyện Thượng đế....

Tôi đã nghe về một người rất, rất thông minh, người

đã dán lời cầu nguyện của mình lên tường ngay cạnh

giường nằm. Và trước khi người đó đi ngủ người đó sẽ

nói với Thượng đế, "Ngài đọc nó đi."

Phỏng có ích gì mà nói cùng điều mọi ngày? Và

người ta hi vọng rằng Thượng đế ít nhất cũng phải có

khả năng đọc nó! Điều đó dường như còn rõ ràng hơn,

thông minh hơn nhiều. Sao cứ lặp lại nó như con vẹt

mọi ngày vậy?

Tôi không nói bạn cầu nguyện bởi vì tôi biết rằng

bất kì cái gì bạn làm ngay bây giờ cũng sẽ sai. Tôi dạy

thiền - và lời cầu nguyện tất yếu tới; điều đó không thể

tránh khỏi, nhưng là loại lời cầu nguyện khác toàn bộ,

với hương thơm khác, kết cấu khác cho nó. Nó chỉ là vui

vẻ, vui đùa, lòng biết ơn. Bạn cảm thấy được hoàn

thành, được phúc lạc tới mức toàn thể trái tim bạn nói

cám ơn - không trong nhiều lời thế - toàn thể trái tim

bạn nói có. Toàn thể trái tim bạn trở thành có. Bạn được

buông xuôi. Cuộc sống của bạn là lời cầu nguyện. Thế

thì bạn không cần tới nhà thờ hay đền chùa hay đền thờ

hồi giáo. Bạn sống lời cầu nguyện của mình. Bạn thở,

bạn uống, bạn đi... và tất cả đó là lời cầu nguyện.

Bạn nói, "Theo ý kiến tôi, thiền đem lại bình thản

bên trong sâu sắc cho người ta vì riêng người ta...."

Rosemary, bạn đã bao giờ thiền chưa? Ý kiến đơn thuần

không có giá trị - và nó là ý kiến đơn thuần. Bạn có thể

đã đọc, bạn có thể đã nghe nói về nó, nhưng đừng cho

các ý kiến tầm quan trọng nhiều.

Bạn nói, "Thiền đem lại bình thản bên trong sâu sắc

cho người ta vì riêng người ta...." Bạn không có kinh

nghiệm nào, hương vị nào của thiền. Trong thiền, cái ta

biến mất, bản ngã biến mất. Không có vấn đề về "vì

riêng người ta." Con người không còn là hòn đảo; con

người trở thành một phần của lục địa sự tồn tại bao la.

Thiền nghĩa là bạn biến mất, bay hơi. Bạn không còn đó

nữa, chỉ cái không thuần khiết. Làm sao nó có thể vì

riêng người ta được? Không cái ta nào còn lại. Trong

thiền, không cái ta nào đã bao giờ được tìm thấy cho nên

làm sao nó có thể là ích kỉ được?

Mọi người tới tôi và họ hỏi tôi - đặc biệt các nhà

truyền giáo Ki tô giáo - họ viết thư cho tôi: "Ông đang

dạy mọi người thiền; điều đó là một loại ích kỉ." Họ

không biết họ đang nói về gì.

Thiền là cách duy nhất để gạt bỏ cái ngã. Thiền là

khả năng duy nhất để tạo ra cái không ngã trong thế giới

này. Mọi thứ khác đều ích kỉ. Nhà truyền giáo Ki tô giáo

phục vụ người nghèo, người què - đây tất cả đều ích kỉ.

Mẹ Teresa ở Calcutta và tất cả mọi việc của bà ấy đều

tuyệt đối ích kỉ.

Tại sao tôi gọi những công việc này là ích kỉ? Họ

đang làm phục vụ lớn lao cho nhân loại, nhưng họ đang

làm việc phục vụ nhân loại như phương tiện để lên cõi

trời. Họ đang dùng người nghèo và người mù và người

què và người hủi làm chiếc thang để lên trời.

Cứ nghĩ về một thế giới không ai nghèo, không ai

què, không ai hủi, không ai mù. Thế thì Mẹ Teresa sẽ

làm gì? Bạn sẽ vẫn cho bà ấy giải thưởng Nobel chứ?

Để làm gì? Yêu cầu căn bản là ở chỗ người mù phải có

đó, người nghèo phải có đó, người hủi phải có đó, goá

phụ phải có đó, trẻ mồ côi phải có đó. Hàng nghìn trẻ

mồ côi được cần cho một người đàn bà trở thành người

phục vụ vĩ đại cho nhân loại.

Một trong các tu sĩ Hindu, ông đạo trưởng của các

tu sĩ Hindu, Karpatri, đã viết một cuốn sách, Chống chủ

nghĩa xã hội. Ông ấy đưa ra nhiều lí do chống lại chủ

nghĩa xã hội, nhưng lí do nực cười nhất mà ông ấy đưa

ra là ở chỗ trong kinh sách Hindu có nói: Chừng nào

ông còn chưa ban tặng cho người nghèo ông sẽ không

bao giờ vào được cõi trời. Và chủ nghĩa xã hội đang cố

gắng phá huỷ giai cấp cho nên sẽ không có người nghèo,

người giầu. Một khi không ai giầu và không ai nghèo, ai

sẽ ban tặng cho ai? Và điều gì sẽ xảy ra cho cõi trời? Rất

logic! Và những người này đều là những người phục vụ

lớn lao cho nhân loại đấy! Những người ngu xuẩn này

được coi là thánh nhân!

Trong thiền, bạn biến mất; trong lời cầu nguyện, bạn

có rất nhiều ở đó. Bạn phải ở đó để cầu nguyện; bằng

không ai sẽ cầu nguyện và cầu với ai?

Martin Buber đã viết một trong những cuốn sách vĩ

đại nhất của thời nay, Ta và người. Ông ấy nói rằng lời

cầu nguyện là mối quan hệ giữa ta và người; cả hai đều

được cần tới. "Ta" được cần tới - người sẽ cầu nguyện -

và "người," một khái niệm về Thượng đế. Thế thì lời

cầu nguyện là có thể. Lời cầu nguyện là đối thoại giữa ta

và người. Lời cầu nguyện về căn bản là ích kỉ, lấy cái ta

làm trung tâm.

Nhưng thiền không phải là đối thoại chút nào.

Không cần ta cũng chẳng cần người. Không ta, không

người. Toàn thể ý tưởng về ta-và-người biến mất. Im

lặng bao trùm, im lặng trinh nguyên, không bị quấy

nhiễu bởi bất kì đối thoại nào. Nó không vì cái ta riêng

nào cả. Người ta biến mất; chỉ thế thì thiền mới xảy ra.

Thiền giống như việc mở bông hoa ra, và lời cầu

nguyện là hương thơm của hoa được toả ra theo gió. Tôi

không nói về hương thơm, tôi chỉ dạy cách vun trồng

hoa, Rosemary, nhớ lấy!

#6Câu hỏi thứ ba:

Thưa Thầy kính yêu,

Cái gì là điều bản chất để giữ cho vợ người ta

được hạnh phúc?

Satyam, tôi không biết mấy về vợ. Tôi là người

không lấy vợ. Bạn đang hỏi câu hỏi với người không

đúng. Nhưng tôi đã quan sát nhiều vợ và nhiều chồng.

Cho nên đây không phải là kinh nghiệm của tôi - chỉ là ý

kiến của tôi!

Có hai điều cần để giữ cho vợ người ta hạnh phúc.

Thứ nhất: để cô ấy nghĩ cô ấy có con đường riêng của cô

ấy. Và thứ hai: để cô ấy có nó.

Câu hỏi thứ tư:

Thưa Thầy kính yêu,

Sao chân lí gây đau?

Prem Patipada, chân lí gây đau bởi vì chúng ta sống

trong dối trá. Cả đời chúng ta chỉ gồm toàn dối trá.

Friedrich Nietzsche đã nói: Đừng lấy dối trá khỏi

con người; bằng không con người sẽ không thể sống

được. Sigmund Freud cũng nói đích xác cùng điều này:

rằng con người không thể sống được thiếu dối trá; con

người cần nhiều dối trá - tôn giáo, siêu hình, triết học,

chính trị.

Quan sát bản thân bạn - bạn cần bao nhiêu dối trá để

hỗ trợ cho bản thân mình, để cứ nuôi dưỡng bản ngã của

mình.

Tại sao con người cần nhiều dối trá thế? - bởi vì

cuộc sống cơ bản là bản ngã, và bản ngã có thể tồn tại

chỉ được bao quanh bởi nhiều dối trá để hỗ trợ nó. Bất kì

chân lí nào cũng gây đau bởi vì nó lấy đi vài dối trá, vài

sự ủng hộ, vài sự hỗ trợ, và bản ngã của bạn bắt đầu rã

ra. Và đó là tất cả những cái bạn biết về bản thân mình.

Bạn không biết rằng bạn là cái gì đó siêu việt lên trên

bản ngã.

Ai đó nói với bạn, "Bạn đẹp làm sao!" và bạn tin

điều đó ngay lập tức. Không ai đã bao giờ phản đối. Tôi

đã nói điều đó cho nhiều người; không ai đã bao giờ

phản đối. Tôi chưa bao giờ bắt gặp một người sẽ phản

đối, "Không, ông nhầm rồi bởi vì tôi biết khuôn mặt tôi.

Tôi thấy nó trong gương mọi ngày." Bạn nói điều đó cho

bất kì ai, ngay cả người xấu nhất. Nói điều đó cho con

lạc đà, và nó sẽ gật đầu. Nó sẽ nói, "Đúng. Tôi bao giờ

cũng biết điều đó. Anh là người thông minh đầu tiên đã

thừa nhận điều đó." Ngay cả người xấu nhất sâu bên

dưới vẫn nghĩ mình đẹp. Người đó tin, bằng không sẽ

khó tồn tại, khó sống. Người ngu nhất nghĩ rằng mình

rất thông minh. Do đó bạn cứ cho nhau lời tán tụng. Tất

cả những tán dương đó đều dối trá - và mọi người đều

sẵn sàng tin. Và điều đó không chỉ là trong cuộc sống

thường. Khi bạn đi vào trong cuộc hành trình bên trong

của mình, bạn cũng mong đợi việc thừa nhận.

Mới hôm nọ Somendra đã hỏi, "Sao thầy không cho

tôi sự thừa nhận?" Mọi người đều muốn được thừa nhận,

được nói cho rằng "Bạn đã chứng ngộ," rằng "Bạn đã

đạt tới," rằng "Bạn đã nhận ra" - và bạn sẽ sung sướng

thế! Nhưng sung sướng đó sẽ chỉ tạm thời bởi vì nó

không đúng.

Tôi không thể cho bạn dối trá nào; do đó nhiều lần

tôi xúc phạm bạn, làm tổn thương bạn. Tôi làm bạn đau

- không phải là tôi muốn làm bạn đau, nhưng lấy đi mọi

dối trá khỏi bạn giống như lấy con gấu bông khỏi đứa

trẻ, đứa trẻ không thể ngủ được nếu không có con gấu

bông. Nó cứ mang con gấu bông - bẩn thỉu, nhưng nó sẽ

mang gấu bông đi mọi nơi. Đó là cuộc sống của nó; bạn

không thể lấy gấu bông đi. Và bạn đang mang nhiều gấu

bông, Patipada; đó là lí do tại sao điều đó gây đau.

Bây giờ Somendra rất giận dữ bởi vì tôi nói rằng

anh ấy không thể là ứng cử viên tốt cho Judas. Chẳng

mấy chốc sẽ có lưu ý: "Cần truy nã: một Judas." Và có

nhiều người đủ tư cách. Somendra có thể làm việc đó.

Anh ấy giận thế bởi vì tôi đã nói rằng anh ấy ngồi đằng

sau quay lưng lại tôi, cho nên hôm sau anh về chỗ cũ

của mình.

Hôm nay anh ấy đã biến mất, bởi vì hôm nay anh ấy

đã hỏi câu hỏi rất xấu về giận dữ cực điểm. Đó là lí do

tại sao anh ấy đã biến mất khỏi đây. Cho dù anh ấy đã

từng ngồi đây trong hai hay ba ngày, anh ấy không nhìn

tôi; anh ấy để mắt nhìn xuống. Anh ấy đã không tới

nhóm trị liệu tâm tình nhiều lần. Đêm qua anh ấy đã

xuất hiện, nhưng anh ấy đã không nhìn tôi... sôi lên ở

bên trong. Hôm nay anh ấy đã biến mất bởi vì câu hỏi

này. Anh ấy phải đã sợ. Anh ấy đã đặt câu hỏi này theo

tên của ai đó khác - nhưng bạn không thể lừa tôi được!

Và khoảnh khắc tôi thấy rằng anh ấy không có đó, hoài

nghi của tôi trở nên tuyệt đối chắc chắn rằng đó là câu

hỏi của anh ấy.

Trong câu hỏi của mình anh ấy nói, "Thầy không

phải là người lười sao? Và dầu vậy, với cả gan trơ tráo

nào mà thầy bảo người khác làm việc và sáng tạo." Tôi

không phải là người lười đâu - tôi là người lười nhất

đấy! Và một cách tự nhiên, người lười nhất có thể sống

chỉ nếu người khác làm việc; bằng không làm sao tôi

sống được? Cho nên tôi cứ dạy, "Làm việc đi, sáng tạo

vào! Lau sàn mà thiền vào! Dọn nhà vệ sinh!" Điều đó

là đơn giản. Vấn đề không phải là cả gan trơ tráo, nó

đơn giản là logic! Người như tôi cần ít nhất mười nghìn

người làm việc quanh mình!

Và anh ấy hỏi, "Làm sao thầy có thể bảo người khác

làm việc được?" Với người chưa bao giờ làm bất kì cái

gì, mọi thứ dường như là có thể. Ngay cả điều không thể

được cũng dường như là có thể. Tôi chưa bao giờ làm

việc, không làm đến một ngày. Đó là lí do tại sao tôi có

thể nói với bạn mọi điều, bởi vì tôi không biết rắc rối.

Tôi không có kinh nghiệm nào về nó.

Chân lí gây đau. Và thế thì nó tới theo nhiều cách,

nó tự diễn đạt bản thân mình theo nhiều cách.

Patipada, nhớ lấy, nếu bất kì cái gì gây đau thế thì

thiền về nó đi. Phải có cái gì đó của chân lí trong nó, cái

gì đó đúng. Nếu bất kì cái gì gây đau, kính trọng nó, đi

sâu vào trong nó. Tìm ra tại sao nó gây đau, và bạn sẽ

được thưởng. Bạn sẽ trưởng thành qua điều đó.

Dối trá là dịu ngọt; chúng không gây đau. Cho nên

cẩn thận với dối trá dịu ngọt. Khi cái gì đó không làm

đau bạn nó không thể trở thành sự thúc đẩy cho trưởng

thành; nó là vô dụng, không cần bị bận tâm chút nào.

Nhưng để toàn bộ chú ý của bạn vào bất kì cái gì gây

đau, và đừng giận. Bạn ở đây là để hiểu, để nhận biết,

không để giận dữ.

Mới vài tháng trước tôi đã bảo Somendra rằng anh

ấy đã đạt tới tỏ ngộ đầu tiên. Anh ta chỉ là niềm vui. Bạn

phải đã thấy khuôn mặt anh ấy lúc đó - tất cả là tiếng

cười, tất cả là nụ cười, bùng ra với cực lạc! Điều đó dễ

dàng cho anh ta chấp nhận bởi vì mặc dầu điều đó đúng,

bản ngã nhảy lên nó, vồ lấy nó, cảm thấy rất thoải mái -

và đó là cách anh ấy đã bỏ lỡ nó.

Khi chân lí - bất kì chân lí nào - trở thành thủ đoạn

bản ngã, bạn bỏ lỡ nó, bạn mất dấu vết của nó. Và nhớ

lấy: trước khi samadhi xảy ra, trước khi chứng ngộ xảy

ra, bạn có thể đạt tới hàng nghìn tỏ ngộ - và bạn có thể

bỏ lỡ chúng. Nếu người ta vẫn còn rất tỉnh táo khi tỏ ngộ

xảy ra, chỉ thế thì người đó mới không bỏ lỡ nó. Nếu

bạn trở nên rất hài lòng về nó và bạn bắt đầu ba hoa về

nó theo những cách tinh vi, bạn nhất định bỏ lỡ nó. Và

nhiều người đang làm cùng điều đó.

Đôi khi rất khó cho tôi; cho dù tôi thấy rằng cái gì

đó đẹp đẽ đang xảy ra cho bạn tôi phải tự kiểm soát bản

thân mình để không nói điều đó ra, bởi vì có mọi nguy

hiểm là chỉ bằng việc nói nó bản ngã của bạn có thể cảm

thấy được bơm phồng lên. Và điều đó sẽ là vấn đề khi

bạn mất nó.

Có nhiều người đang ngày một tới gần điều tối

thượng hơn, nhưng tốt hơn cả với tôi là không nói điều

đó cho họ. Tôi cứ ban phúc lành cho họ nhiều nhất có

thể được, tôi cứ yêu mến họ nhiều nhất có thể được,

nhưng tôi không nói điều đó. Việc nói có thể là điều làm

sao lãng; nó có thể đưa họ đi con đường khác, nó có thể

làm sao lãng họ.

Cho nên dối trá là nguy hiểm; đôi khi ngay cả chân

lí cũng có thể nguy hiểm. Nếu nó không gây đau, thế thì

nó có thể là nguy hiểm; nếu nó gây đau, không có nguy

hiểm nào. Nếu nó gây đau, nó sẽ đánh thức bạn; nếu nó

trở thành bài hát ru, thế thì nó nguy hiểm; nó có thể đưa

bạn vào giấc mơ sâu hơn. Bạn có thể bắt đầu mơ về tỏ

ngộ và chứng ngộ và trở thành vị phật. Và tất cả những

điều đó là có thể - nó ở bên trong khả năng của bạn, nó

ở bên trong tầm với của bạn - nhưng bạn có thể đánh

mất sợi chỉ này nhiều lần.

Do đó, đừng đòi hỏi thừa nhận. Nếu tôi cảm thấy

rằng thời điểm chín muồi và bằng thừa nhận điều gì đó

bạn sẽ không bị tụt lại, tôi sẽ cho thừa nhận. Nhưng tại

sao lại khao khát thừa nhận? Điều thực đang xảy ra cho

bạn. Thừa nhận không thành vấn đề chút nào, nó là

không liên quan. Nếu bạn trở thành vị phật, bạn trở

thành vị phật dù tôi nói hay không nói. Đôi khi có thể

cần là tôi sẽ cứ nói, "Không, bạn không trở thành," chỉ

để giúp bạn đi theo hướng đúng.

Patipada, bất kì cái gì gây đau, thiền về nó và bạn sẽ

được làm giầu có mênh mông.

#6Câu hỏi thứ năm:

Thưa Thầy kính yêu,

Sao thầy có nhiều kẻ thù thế?

Gayan, nhớ hai luật nền tảng. Một là: Không hành vi

tốt nào xảy ra mà không bị phạt. Và hai là: Bạn có thể

tới và đi, nhưng kẻ thù tích lại.

Câu hỏi thứ sáu:

Thưa Thầy kính yêu,

Tôi rất hoài nghi vợ tôi. Tôi phải làm gì?

Narayan, vợ không phải là Thượng đế của bạn. Bạn

không cần hoài nghi, bạn không cần tin cậy. Đó là trò

chơi - đừng làm nó thành nghiêm chỉnh thế! Nhưng bạn

đã được bảo phải tin cậy vào vợ bạn, tin cậy vào chồng

bạn. Và bởi vì chính giáo lí này, bất tín nảy sinh. Thực

tế, bạn đã được bảo phải tin cậy. Trong nhiều thế kỉ

người ta đã biết rằng rất khó tin cậy vợ riêng của mình,

rất khó tin cậy chồng riêng của mình; điều đó ở ngay

cạnh điều không thể được.

Nếu vợ bạn quan tâm tới bạn, làm sao bạn có thể tin

cậy vào cô ấy được? Nếu cô ấy vẫn quan tâm tới đàn

ông - và bạn chỉ là một người đàn ông, và có nhiều,

nhiều đàn ông còn đẹp hơn nhiều - làm sao bạn có thể

tin cậy vào vợ mình được? Nếu cô ấy quan tâm tới bạn,

cô ấy phải quan tâm tới người khác nữa. Cô ấy có thể

được tin cậy chỉ khi cô ấy mất đi mọi quan tâm tới bạn

nữa; thế thì, tất nhiên, bạn có thể tin cậy cô ấy. Cô ấy đã

đánh mất tất cả quan tâm về đàn ông - cô ấy gần chết.

Bạn có thể tin cậy vào chồng mình chỉ nếu anh ấy

không còn quan tâm tới thân thể bạn. Nếu anh ấy quan

tâm tới khuôn mặt bạn, thân thể bạn, tầm vóc bạn, sắc

đẹp của bạn, làm sao anh ấy tránh không quan tâm tới

thân thể đàn bà khác, khuôn mặt đàn bà khác, sắc đẹp

của người đàn bà khác? Điều đó là không thể được. Bạn

đang đòi hỏi cái gì đó vô nhân hay cái gì đó siêu nhân.

Và chồng đáng thương của bạn chẳng là cả hai - không

vô nhân không siêu nhân. Anh ấy chỉ là anh chồng đáng

thương, sinh linh đáng thương... hay vợ đáng thương.

Đừng đòi hỏi những điều không thể được. Điều đó

là tự nhiên; vợ bạn nhất định tưởng tượng về người đàn

ông khác. Cô ấy không thể nào chỉ mơ về bạn được, nhớ

lấy. Tôi chưa bao giờ nghe nói về người vợ mơ về

chồng riêng của mình. Ai mơ về chồng riêng của mình

hay vợ riêng của mình? Để làm gì? Cả ngày không đủ

sao? Bạn phải dành đêm của mình và giấc mơ của mình

cho cùng người đàn bà đó, cho cùng người đàn ông đó

sao?

Trong mơ bạn tự do; đó là tự do duy nhất còn lại.

Trong mơ bạn có thế giới riêng tư của riêng mình. Vợ

bạn không thể nhìn trộm được vào giấc mơ của bạn và

nói, "Anh đang làm gì đó? Dừng lại đi!" Trong giấc mơ

bạn có thể vài bữa tiệc với vợ nhà hàng xóm. Và chẳng

có gì sai trong điều đó, chẳng ai bị hại gì. Bạn có giấc

ngủ tốt và đến sáng bạn có nụ cười trên khuôn mặt.

Đừng yêu cầu điều không thể được.

Mulla Nasruddin nói với tôi, "Trong cả mười năm

của cuộc sống gia đình tôi bao giờ cũng tin cậy vào vợ

tôi. Và thế rồi chúng tôi chuyển từ Calcutta tới Pune - và

tôi khám phá ra chúng tôi vẫn có cùng người bán sữa!"

Không cần đâu, Narayan, dù tin cậy hay không tin

cậy. Sao lại đem vào vấn đề tin cậy? Nó chỉ là trò chơi

thôi! Chơi nó cho vui vẻ vào. Bạn làm nó thành quá

nghiêm chỉnh. Và khi bạn bắt đầu đòi hỏi, "Phải trung

thành với anh!" bạn đang tạo ra tình huống trong đó

người đàn bà trung thành với bạn trở thành không thể

được. Cho cô ấy tự do toàn bộ đi; thế thì cô ấy có thể

trung thành với bạn.

Cuộc sống vận hành theo cách rất kì lạ. Nếu bạn cho

cô ấy tự do toàn bộ, bạn xứng đáng tin cậy. Niềm tin lớn

có thể nảy sinh trong cô ấy. Nếu vợ cho chồng tự do

toàn bộ, điều đó chỉ ra cô ấy yêu anh ấy nhiều tới mức

cô ấy sẽ muốn anh ấy hạnh phúc theo mọi cách có thể.

Cho dù đôi khi anh ấy hạnh phúc với người đàn bà khác

nào đó cô ấy sẽ cảm thấy hạnh phúc bởi vì anh ấy hạnh

phúc. Và thế thì một phẩm chất hoàn toàn khác của tin

cậy có thể nảy sinh. Tôi không nói rằng nó nhất định

nảy sinh - nó không phải là điều không thể tránh khỏi.

Tôi đang nói có lẽ, bởi vì về con người chẳng cái gì có

thể tiên đoán được.

Mối quan hệ giữa vợ và chồng là mối quan hệ rất kì

lạ bởi vì có hai thế giới khác nhau. Đàn bà vận hành

theo cách khác, từ trung tâm khác. Cô ấy trực giác hơn

còn đàn ông trí tuệ hơn. Đó là lí do tại sao họ hấp dẫn

lẫn nhau. Không chỉ về mặt sinh lí họ là các cực, nhưng

về mặt tâm lí họ cũng là các cực đối lập. Họ là kẻ thù

thân thiết. Nhất định có chút ít xung đột, và điều đó là

không xấu; nó giữ cho mối quan hệ sống động. Bất kì

khi nào bạn thấy rằng chồng và vợ đã dừng đấu tranh

hoàn toàn, điều đó nghĩa là hôn nhân thực sự chấm dứt;

bây giờ chẳng cái gì còn lại. Ngay cả đấu tranh cũng

không còn lại... mọi sự đều chấm dứt.

Anh hàng thịt và anh bán sữa đang thảo luận về

những điều ủng hộ và chống đối cuộc sống gia đình.

"Anh có thực sự tin cuộc sống gia đình là tốt hơn sống

độc thân không?" Weiss, anh hàng thịt hỏi.

"Theo một cách nào đó thì có," anh hàng sữa nói,

người đang chuộng triết lí. "Sau rốt, nếu như không vì

hôn nhân, chúng tôi đã làm mọi cuộc đánh nhau của

mình với người lạ rồi."

Vâng, điều đó đúng. Điều tốt là đánh nhau với vợ

riêng của bạn; ít nhất thì cũng là đánh nhau với người

bạn. Bằng không bạn sẽ phải đánh nhau với người lạ.

Không cần đòi hỏi những điều này - tin cậy, tin

tưởng. Sống cùng nhau vui vẻ đi. Làm thật nhiều cho

việc ở cùng nhau của bạn thành có thể. Thay vì làm điều

đó, mọi người tạo ra vấn đề thế, những vấn đề vô dụng,

và phá huỷ mọi niềm vui của họ. Vợ không có nghĩa vụ

gì phải tin tưởng vào bạn, mà bạn cũng chẳng có nghĩa

vụ gì phải tin tưởng vào cô ấy. Bạn yêu cô ấy, cô ấy yêu

bạn; vậy là đủ. Đừng đem tin tưởng vào trong nó. Nếu

tình yêu không thể giữ các bạn ở cùng nhau, chẳng cái

gì khác có thể giữ bạn ở cùng nhau được. Và nếu tình

yêu không thể giữ bạn ở cùng nhau được, thế thì bất kì

cái gì có thể giữ các bạn ở cùng nhau cũng đều nguy

hiểm.

#6Câu hỏi cuối cùng:

Thưa Thầy kính yêu,

Mọi lời có phải thực sự vô dụng không?

Dharmendra, không phải mọi lời đâu. Lời của chư

phật có ý nghĩa mênh mông. Chúng là cùng lời như lời

của bạn, nhưng chúng tới từ kinh nghiệm sâu sắc hơn.

Để lời của bạn tới từ kinh nghiệm sâu sắc; thế thì chúng

sẽ có ý nghĩa, thế thì chúng sẽ có hương thơm nào đó

của cái không biết, của cõi bên kia. Nhưng đẩy chư phật

sang bên đi, thế nữa mọi lời cũng không vô dụng. Bằng

không, làm sao bạn cứ trao đổi? Bạn không thể trao đổi

qua im lặng được, bạn không thể trao đổi mà không có

lời.

Để trao đổi không lời bạn sẽ phải trở thành thiền

nhân toàn bộ. Và thế nữa, bạn có thể trao đổi chỉ với

thiền nhân toàn bộ khác, không phải với mọi người khác

đâu. Toàn thể nhân loại sẽ không đi vào trong thiền, ít

nhất là không trong đời bạn, và bạn sẽ phải nói với mọi

người, những người không phải là thiền nhân.

Tôi dùng lời, Phật dùng lời, Jesus dùng lời. Bạn phải

dùng lời. Cứ nỗ lực; đừng dùng lời không cần thiết.

Viễn cảm nhiều hơn, cô đọng hơn. Làm lời của bạn

nhiều nghĩa hơn. Khi bạn dùng chúng, đừng chỉ dùng

chúng để cho bạn vẫn còn bận bịu.

Bé Alma, học sinh lớp một, đi từ trường về nhà hết

cả hơi.

"Bố ơi, bố ơi," nó kêu lên, mắt loé lên kích động,

"chúng con có ngay bài tập đầu tiên hôm nay!"

"Tốt đấy, cưng," anh ta nói vừa mỉm cười. "Bố tin

vào bài tập cháy. Tại vì có lần bố suýt chết trong cháy."

"Ồ, bố kể đi."

"Thế này, nó giống thế này: Bố ngã vào một bể súp

gà lớn. Thế là bố leo lên đỉnh nồi để khỏi chết đuối và la

lên 'Cháy' hết cả hơi trong phổi."

"Cháy à?" Alma kêu lên, "Có cháy nữa chứ?"

"Không," ông bố cười toe toét, vỗ lên tóc quăn của

mình, "nhưng ai sẽ giúp bố nếu bố kêu lên 'súp gà'?"

Lời là có ý nghĩa.

Vào ngày hẹn đầu tiên của họ, cậu con trai đưa cô

gái đi hội hoá trang. Sau khi đi vòng quanh một lúc cô

gái nói với anh bạn hẹn gặp, "Em muốn được cân."

Thế là cậu con trai tìm một người đoán trọng lượng

mọi người. Người này đoán chính xác trọng lượng cô

gái.

Sau khi đi thăm một số chỗ hấp dẫn khác cậu con

trai lại nghe thấy cô gái nói cùng điều, "Em muốn được

cân." Cậu ta lại tìm một gian hàng khác nơi cô ta lại

được đánh giá trọng lượng đúng.

Sau vài chầu kem và kẹo bơ, cô bé lại nói, "Em

muốn được cân."

Cậu con trai nói, "Không, thế này thì quá thể. Anh

đưa em về nhà."

Sau khi được đưa về tới bậu cửa, cô bé đi vào trong

nhà và gặp mẹ mình, bắt đầu khóc và thốt ra, "Ôi, mẹ ơi,

con có thời gian tồi tệ thế!"

Đủ cho hôm nay.

****************************************************************************************************************

#7Người ngu là kẻ thù riêng của mình

Người ngu là kẻ thù riêng của mình.

tìm của cải, người đó phá huỷ bản thân mình.

Thay vì thế tìm bờ bên kia.

Cỏ dại bóp nghẹt cánh đồng.

Đam mê đầu độc bản tính con người,

và hận thù, ảo tưởng và ham muốn.

Tôn kính người không có đam mê,

hận thù, ảo tưởng và ham muốn.

Điều ông cho người đó

sẽ được trao lại cho ông,

và còn nhiều hơn.

Con người sinh ra là thông minh, nhưng xã hội

không cho phép thông minh nở hoa; nó phá huỷ thông

minh. Theo cả nghìn lẻ một cách nó làm mọi nỗ lực để

thông minh trở thành không thông minh. Người không

thông minh dường như vâng lời hơn - vâng lời quốc gia,

nhà thờ, xã hội. Người đó ít có tính nổi dậy - người đó

không thể là người nổi dậy được. Nổi dậy cần thông

minh. Thông minh càng lớn, nổi dậy càng lớn. Người

không thông minh tìm kiến an ninh và an toàn với đám

đông. Người đó không thể là cá nhân được. Người đó

bao giờ cũng khao khát được là một phần của đám đông

- là người Ki tô giáo, người Hindu, người Mô ha mét

giáo. Đây tất cả đều là đám đông. Họ phụ thuộc vào

những người đó, người đã trở thành nạn nhân của chiến

lược xã hội phá huỷ thông minh.

Người thông minh sẽ không đi tới nhà thờ trong tìm

kiếm Thượng đế, hay không đi tới đền chùa. Người

thông minh sẽ đi vào bên trong. Người đó sẽ không đi

tới Kaaba hay tới Kashi, bởi vì nếu Thượng đế không có

ở đây thì ngài không thể ở bất kì chỗ nào khác được - và

nếu ngài ở bất kì chỗ nào khác, thì sao không ở đây?

Nếu Thượng đế không ở trong tôi, ngài không thể ở bất

kì chỗ nào khác được; và nếu ngài ở bất kì chỗ nào khác,

ngài nhất định phải ở trong tôi nữa.

Người thông minh là một cá nhân; người đó không

là một phần của đám đông, tâm lí quần chúng. Người đó

không phải là cừu, người đó là người. Và tất cả những

quyền lợi được đầu tư đều chống lại cá nhân - chống lại

con người. Họ muốn có máy. Họ không thích những

người thông minh, người quyết định theo cách riêng của

mình. Họ muốn mọi người phụ thuộc vào người khác,

vào các nhân vật có quyền lực - vào những nhà lãnh

đạo, vào các tu sĩ, vào các thánh nhân, nhưng bao giờ

cũng vào người khác, không bao giờ vào bản thân mình.

Xã hội đã sống mãi cho tới giờ theo cách thức rất

phá huỷ. Nó phá huỷ chính khả năng của việc là vị phật

hay là christ của bạn. Nó bao giờ cũng chống lại người

trí huệ; nó kính trọng người ngu. Người ngu khớp hoàn

hảo với xã hội. Người ngu bị cắt gọt cho khớp với xã

hội.

Không đứa trẻ nào được sinh ra mà ngu, và mọi đứa

trẻ, chẳng chóng thì chầy, đều biến thành ngu si. Quyền

lực lớn thế, vĩ đại tới mức gần như đứa trẻ không thể

nào chống lại được. Đứa trẻ không thể sống sót được

nếu nó chống lại quá nhiều. Điều thực sự là phép màu là

vài người đã thoát được việc là máy. Vài người này là

người tử tế; họ là hoa duy nhất. Vì có họ, nhân loại có

chút ít hương, chút ít hương thơm; bằng không, tất cả

những người khác đều là người chết đang đi, những cái

xác, bằng cách nào đó lê lết tới nấm mồ.

Cách thức của người ngu phải được hiểu bởi vì chỉ

nếu bạn hiểu nó bạn mới có thể vượt ra ngoài nó. Người

ngu cũng có cách sống. Cách sống của người đó là cách

thức của đám đông. Bất kì điều gì người khác nói, người

đó lặp lại. Cách người khác sống, người đó bắt chước.

Người đó bao giờ cũng nhìn quanh để tìm manh nối

cách hiện hữu, cách cư xử, cái gì là đúng, cái gì là sai.

Người đó không có sáng suốt trong bất kì cái gì. Người

đó lệ thuộc vào lời dạy bảo từ người khác. Trong hàng

nghìn năm người đó cứ tuân theo những lời dạy bảo đã

được cho trong những tình huống khác, cho loại người

khác, với những mục đích khác, nhưng người đó cứ tuân

theo.

Người đó chưa bao giờ tự phát cả; đó là điều đầu

tiên cần nhớ về người ngu. Người đó lặp lại: người đó

lặp lại quá khứ, nhưng người đó chưa bao giờ tự phát.

Người đó chưa bao giờ có trách nhiệm - người đó chưa

bao giờ đáp ứng với tình huống. Người đó có các câu trả

lời làm sẵn. Người đó chưa bao giờ lắng nghe câu hỏi;

người đó không quan tâm tới câu hỏi chút nào. Câu hỏi

đơn giản lẩy cò trong người đó một quá trình kí ức, và

câu trả lời làm sẵn bật ra. Người đó giống như cái máy

tính.

Có trách nhiệm nghĩa là có nhận biết. Chừng nào

bạn còn chưa nhận biết bạn sẽ không có khả năng nhìn

tình huống mà bạn đang đương đầu. Và tình huống đang

thay đổi mọi khoảnh khắc, nó không bao giờ như cũ -

thậm chí hai khoảnh khắc liên tiếp cũng không như

nhau. Do đó người ta phải rất nhận biết, chỉ thế thì

người ta mới có thể đáp ứng với thực tại. Và đáp ứng

với thực tại là giao cảm với Thượng đế.

Người ngu chẳng biết gì về Thượng đế; người đó

chưa bao giờ bắt gặp cái gì thiêng liêng. Người đó vẫn

còn là một phần của tính tập thể ngu xuẩn. Nhớ lấy, xã

hội, tập thể không có linh hồn; linh hồn thuộc về cá

nhân. Do đó, những người thuộc về tập thể đang phá

huỷ mọi khả năng của việc là linh hồn.

George Gurdjieff thường nói rằng rất hiếm khi tìm

thấy một người có linh hồn - và ông ấy đúng. Có linh

hồn nghĩa là có nhận biết, có tính cá nhân, có tự do, có

khả năng đáp ứng - và có khả năng đáp ứng theo cách

riêng của bạn, không theo châm ngôn từ người khác, chỉ

đạo từ người khác.

Người ngu chưa bao giờ tự phát; đó là điều đầu tiên

cần được hiểu về người ngu. Nếu bạn trở nên tự phát

bạn bắt đầu trở nên thông minh. Người ngu chưa bao

giờ học; người đó rất bướng bỉnh về việc học. Người đó

nghĩ người đó đã biết.

Người ngu không nhất thiết là người dốt nát, bạn

phải lưu tâm. Người ngu có thể là học giả lớn; người

ngu có thể là bác học nổi tiếng; người ngu có thể là giáo

sư tiếng tăm; người ngu có thể có bằng tiến sĩ PhD, bằng

tiến sĩ văn chương DLitt. Thực tế, còn ai khác bận tâm

tâm tới bằng tiến sĩ PhD? Người ngu có thể rất am

tường, nhưng điều đó không tạo ra khác biệt cho cái ngu

xuẩn của người đó.

Thông tin không biến đổi bạn. Biến đổi là hiện

tượng hoàn toàn khác hơn thông tin. Biến đổi tới qua

nhận biết, qua việc cởi mở: mở với cuộc sống, mở với

mọi người, mở với mọi thứ có thể. Người ngu sống

trong thế giới đóng; người đó câm và điếc.

Điều đó đích xác là nghĩa của từ tiếng Anh 'idiot -

kẻ ngốc': bị đóng lại. Người đó sống trong thế giới riêng

tư của mình. Người đó chẳng biết gì về thực tại. Người

đó sống trong giấc mơ riêng của mình - và người đó

nghĩ đó chính là thực tại. Người đó sống trong niềm tin.

Người đó sống theo điều mà truyền thống, điều mà tục

lệ đã dạy cho người đó - bất kì cái gì người đó đã từng

được ước định.

Ở nước Cơ đốc giáo người đó sẽ là người Cơ đốc

giáo. Ở nước cộng sản người đó sẽ là người cộng sản -

cùng người đó; không khác biệt chút nào. Dù người đó

trích dẫn từ Kinh Thánh hay từ Tư bản luận Das Kapital,

nó là cùng một thứ: người đó trích dẫn một cách máy

móc. Người đó không thể hiểu được bởi vì người đó

không sẵn sàng học.

Người đó vẫn còn hoàn toàn đóng. Người đó sợ việc

mở cửa sổ của mình, cửa ra vào của mình. Người đó sợ

mở cho gió, cho mặt trời, cho mưa, bởi vì ai mà biết

được? - nếu người đó mở cho cuộc sống, những câu trả

lời làm sẵn của người đó có thể không thích hợp. Người

đó rất sợ mất những câu trả lời làm sẵn của mình; người

đó phụ thuộc vào chúng. Chúng có thể đúng hay sai,

điều đó không quan trọng với người đó. Chừng nào

người đó tin chúng đúng, chúng là đúng cho người đó.

Do đó đặc trưng thứ hai của người ngu là: người đó

câm và điếc. Người đó gạt bỏ. Người đó chưa bao giờ

lắng nghe. Người đó có thể có khả năng nghe đấy,

nhưng người đó không có khả năng lắng nghe. Nghe là

hiện tượng sinh lí; lắng nghe là cái gì đó sâu sắc hơn.

Bạn nghe qua tai; khi trái tim bạn cũng được nối với tai

bạn, lắng nghe xảy ra. Và trái tim của người ngu chưa

bao giờ được nối với tai người đó. Người đó không có

khả năng thấy; người đó cứ thấy điều người đó muốn

thấy. Người đó chưa bao giờ cho phép thực tại được

phản xạ trong người đó; người đó không có khả năng

phản xạ. Người đó không phải là tấm gương.

Sau một ngày tại bờ biển, chiếc xe bus đầy những

người điếc và câm dừng lại ở một quán rượu thôn quê.

Tài xế xe bus đi vào giải thích cho ông chủ quán: "Ông

thấy những người ở kia không? Họ toàn là điếc và câm

cả. Họ có ngôn ngữ dấu hiệu đặc biệt. Hai ngón tay

nghĩa là một panh bia đắng. Ba ngón tay nghĩa là bia

Đức nhẹ; bốn ngón, cốc bia nhẹ; năm ngón, bia đắng

sẫm mầu; lắc đầu, rượu whisky; gật đầu sang trái, rượu

mạnh; và gật đầu sang phải, rượu vốt ca."

Người chủ quán, sau khi nhận tất cả thông tin này,

đồng ý là ông ấy có thể xử lí được tình huống.

Mọi sự diễn ra trôi chảy cho giờ đầu hay đại loại

thế, và thế rồi người chủ quán để ý thấy ba người trong

nhóm đứng tại quầy, hết mở mồm lại khép mồm. Ông ta

cố gắng đoán xem họ muốn gì, thế rồi phải từ bỏ và

quên hết về họ.

Nhưng mười phút sau, một tá người điếc và câm tới

quầy, hết mở lại khép miệng như cá ngáp trong bát. Ông

ta bắt đầu cảm thấy chút ít không thoải mái và giả vờ

không để ý. Nhưng rồi chẳng mấy chốc cả toán từ xe

bus kéo tới quầy, tất cả họ đều mở miệng rồi khép

miệng.

Chẳng biết phải làm gì, ông ta chạy xô ra bên ngoài,

chạy tới chỗ xe bus đang đậu và gõ vào cửa sổ.

"Này, có chuyện gì thế?" tài xế hỏi.

"Đấy, ông biết tất cả nhưng người đang ở kia

không? Đấy, một giờ đầu thì được - ba ngón, hai ngón,

lắc đầu, gật đầu bên trái - nhưng bây giờ cả đám họ đều

tới quầy và tất cả đều mở miệng đóng miệng!"

"À, không," tài xế nói, "họ không hát nữa đâu! Bây

giờ chúng ta sẽ không bao giờ để họ về nhà!"

Người ngu sống trong một thế giới hoàn toàn đóng.

Người đó không sẵn có cho thực tại, người đó cũng

không có khả năng diễn đạt điều gì. Người đó không

sáng tạo bởi vì người đó không thể diễn đạt được.

Do đó đặc trưng thứ ba: người ngu không sáng tạo.

Người đó bắt chước, nhưng tuyệt đối không sáng tạo.

Người đó có thể soạn ra vài điều, người đó có thể đưa

vào vài điều cùng nhau, nhưng điều đó không bao giờ là

sáng tạo. Chưa bao giờ điều mới được sinh ra từ bản thể

người đó - bản thân người đó ương ngạnh. Người đó có

thể trở thành nhà kĩ thuật lớn, nhưng người đó chưa bao

giờ là nghệ sĩ lớn. Người đó có thể biết cách vẽ - và

người đó có thể biết hoàn hảo về cách vẽ - nhưng người

đó sẽ không có khả năng vẽ cái gì mới chân thật, cái

mới lạ đích thực, độc đáo. Người đó tuyệt đối không độc

đáo. Người đó sống như người máy; người đó đã bị thu

lại thành máy.

Nếu con người bị thu về chỗ thấp nhất của mình,

người đó trở thành cỗ máy; nếu người đó được nâng lên

chỗ cao nhất của mình, người đó trở thành thượng đế.

Con người là chiếc thang: ở bậc thấp nhất, con người là

máy; ở bậc cao nhất, con người là thượng đế. Hoặc bạn

có thể là máy hoặc bạn có thể là thượng đế. Nếu bạn vẫn

còn không thông minh, vô nhận biết, bạn sẽ vẫn còn là

máy.

Lương tâm không thể thay đổi được bạn. Bạn đã

được bảo, "Cái này đúng và cái kia sai," nhưng điều đó

đã không thay đổi bạn. Không ai có thể thay đổi được

bạn từ bên ngoài. Bất kì thay đổi nào từ bên ngoài cũng

đều sẽ chỉ hời hợt; sâu bên dưới bạn sẽ vẫn còn như cũ -

và bạn sẽ cứ dai dẳng ở trong cái ngu xuẩn của mình.

Tôi đã thấy các tội đồ ngu xuẩn, tôi đã thấy các

thánh nhân ngu xuẩn, tôi đã thấy các thánh nhân ngu

xuẩn theo cùng cách. Có khác biệt lớn giữa tội đồ và

thánh nhân từ bên ngoài, nhưng cả hai có thể đều là kẻ

ngu. Tội đồ có thể đã rơi vào toán sai, có vậy thôi, và

thánh nhân đã rơi vào toán đúng; đó là khác biệt duy

nhất. Tội đồ đi theo đám đông sai; điều đó là ngẫu

nhiên. Còn thánh nhân đi theo đám đông đúng, nhưng

điều đó nữa cũng là ngẫu nhiên. Sâu bên dưới, cả hai là

như nhau.

Ngu xuẩn có phẩm chất dai dẳng. Nó dai dẳng bởi vì

trong nhiều kiếp bạn đã sống qua nó, bạn vẫn còn bị

đồng nhất với nó. Là người ngu là an toàn. Cứ giả vờ

rằng bạn biết mà thực không biết thì an toàn, vì bạn thừa

biết rằng thế giới đâu có cư xử tốt với người biết. Nó

chẳng đầu độc người ngu nào, nhưng nó đã đầu độc

Socrates - một trong những người trí huệ nhất đã từng

được sinh ra. Nó đã không đóng đinh kẻ ngu nào, nhưng

nó đã đóng đinh Jesus.

Hai kẻ hippies, hết tiền, tìm cách làm tiền. Với râu

và tóc dài, đôi bộ quần áo ngủ và một cây thánh giá làm

tạm, một sáng chủ nhật họ nhắm tới nhà thờ Baptist, tới

vào giữa buổi lễ. Kẻ hippie thứ nhất bước vào, dõng dạc

tuyên bố, "Tránh đường cho Chúa!"

Người thứ hai loạng choạng đi sau, cầm cây thánh

giá.

Những người tôn thờ kều ồ lên. Vài người nằm rạp

úp mặt xuống đất. Tiền xu và tiền giấy mưa rào lên họ

khi họ diễu hành qua bên cánh và bước trở ra trong phố.

Chủ nhật đó họ kiếm được hơn bốn mươi đô la.

Tuần sau họ nhắm tới nhà thờ Cơ đốc giáo địa

phương. "Tránh đường cho Chúa!" Giáo dân giật tóc và

la hét vang trời trong cơn bột phát của cực lạc thiêng

liêng. Sáng đó họ kiếm được hơn trăm đô la.

Tuần tiếp theo, chỉ để cười, họ thử với giáo đường

Do Thái. Kẻ hippie thứ nhất bước vào kêu lên, "Tránh

đường cho Chúa!" và kẻ thứ hai khênh tải trọng theo

sau.

Giáo sĩ già quay sang người bên cạnh và thì thào,

"Moishe, đem búa và đinh ra đi. Hắn quay lại đấy!"

Là kẻ ngu thì an toàn hơn. Là một Jesus là nguy

hiểm. Là vị phật là sống trong không an ninh. Điều đó

sẽ chống lại đám đông, và đám đông lại bao la; điều đó

là đi ngược dòng. Do đó kinh nghiệm của bạn trong

hàng thế kỉ cho bạn biết, "Cứ là kẻ ngu thôi. Giả vờ rằng

mình không ngu." Đó là một phần của ngu. Khoảnh

khắc một người chấm dứt giả vờ, người đó bắt đầu trở

nên trí huệ.

Bắt đầu của trí huệ là biết rằng bạn là kẻ ngu - và thế

thì bạn không là kẻ ngu chút nào; bạn đã chấm dứt là kẻ

ngu. Người ta rất hiếm khi chấp nhận sự kiện rằng

"Mình ngu."

Họ nói rằng nếu người điên biết rằng người đó điên,

người đó không còn điên nữa; lành mạnh đã quay lại.

Nhưng không người điên nào đã từng đồng ý rằng mình

điên; người đó nghĩ người đó là người lành mạnh nhất

trên thế giới. Mọi người khác có thể điên, người đó

không điên. Đó cũng là một phần của việc vẫn còn ngu.

Người ngu giả vờ theo mọi cách có thể. Người đó sẽ giả

vờ rằng người đó biết điều người đó không biết. Người

đó sẽ giả vờ người đó là ai đó mà người đó không phải

vậy. Cuộc sống của người đó trở thành việc diễn kịch.

Cuộc sống của người đó trở thành sự giả bộ hời hợt.

Người đó bao giờ cũng trong một loại phô trương nào

đó; người đó trở thành tủ bày hàng. Người đó có nhiều

khuôn mặt. Người đó đeo mặt nạ và người đó quên mất

hoàn toàn khuôn mặt nguyên thuỷ của mình.

Do đó, Thiền nhân phật giáo nói: Chừng nào ông

còn chưa khám phá ra khuôn mặt nguyên thuỷ (bản lai

diện mục) của mình, ông sẽ không biết mình là ai và ông

sẽ không biết thực tại tất cả đang bao quanh này là gì, và

ông sẽ không biết ân huệ và phúc lành của việc sống

động.

Khám phá ra khuôn mặt nguyên thuỷ đi. Khuôn mặt

nguyên thuỷ của bạn bị mất hút trong bao nhiêu chiếc

mặt nạ. Bạn đã từng giả vờ với người khác, và dần dần,

dần dần bạn đã trở nên bị thuyết phục về giả vờ của

riêng mình.

Vì Jack và Irma đều giầu, họ quyết định thêm chút

văn hoá cho cuộc sống nông cạn mãi tới nay của mình.

Cơ hội đầu tiên tới với họ là họ đi thăm Bảo tàng Nghệ

thuật thành phố và mua một chuyến du lịch có hướng

dẫn đi xem triển lãm.

"Này, đây là bức tượng bán thân đẹp của

Michelangelo," Jack ngưỡng mộ nói.

"Đấy không phải là Michelangelo đâu," người

hướng dẫn giải thích. "Đấy là Leonardo da Vinci."

"Jack," cô ấy rít lên, "sao anh phải mở cái mồn to

của anh ra khi anh không biết lấy một điều về Tân

Ước?"

Bạn sẽ thấy những kẻ giả vờ này ở mọi nơi. Bạn sẽ

thấy những kẻ giả vờ này bên trong mình, bên ngoài

mình. Bạn đang sống cùng họ - bạn là một trong số họ.

Thừa nhận rằng "Mình là kẻ giả vờ," và đó là việc bắt

đầu lớn lao.

Người ngu có thể cố gắng là người tốt, nhưng người

đó không thể tốt được bởi vì chẳng có gì giống như tính

tốt máy móc. Tốt chỉ có thể là từ tâm thức. Tất cả những

gì máy móc đều là xấu. Theo định nghĩa của tôi và theo

định nghĩa của Phật Gautama, làm bất cái gì vô ý thức

cũng đều xấu, đều ác, và làm bất kì cái gì có ý thức cũng

đều tốt, đều đức hạnh. Vấn đề không phải là điều bạn

làm, vấn đề không phải là hành động của bạn nói riêng;

mọi thứ đều phụ thuộc vào nguồn nào nó tới. Nếu nó tới

từ nhận biết sâu sắc của bạn, thế thì dù nó là bất kì cái

gì....

Chẳng hạn, Mohammed tham chiến trong nhiều

cuộc chiến bằng lưỡi kiếm trong tay ông ấy, nhưng tôi

sẽ không gọi cuộc chiến của ông ấy là ác. Không, cuộc

chiến của ông ấy không ác bởi vì chúng bắt nguồn từ

nhận biết sâu sắc, tính thiền sâu sắc. Ông ấy đơn giản

đáp ứng lại tình huống. Tất nhiên, điều ông ấy là là bạo

hành - nhưng cả bạo hành nữa, trong tay của người có ý

thức, tỉnh táo, cũng biến đổi phẩm chất của nó.

Adolf Hitler ăn chay, nhưng việc ăn chay của ông ấy

không tốt. Việc ăn chay của ông ấy là ác, bởi vì nó bắt

nguồn từ tâm trí hoàn toàn vô ý thức. Ông ấy chưa bao

giờ hút thuốc, ông ấy chưa bao giờ uống rượu, ông ấy

sống cuộc sống của người độc thân. Ông ấy gần như sư -

sư Jaina. Nếu bạn nhìn vào cuộc đời ông ấy, ông ấy

sống nó theo cách rất kỉ luật. Ông ấy không phải là

người ác theo bất kì cách nào - chưa bao giờ đánh bạc,

chưa bao giờ chơi bài. Nhưng ông ấy không tốt, ông ấy

không đức hạnh. Tất cả mọi điều đó đều bắt nguồn từ

tâm trí vô ý thức.

Nếu bạn thấy Jesus uống rượu... vâng, ông ấy hay

uống rượu, ông ấy khoái uống rượu. Và tôi không nghĩ

có gì sai trong việc uống rượu nếu bạn có thể uống theo

cách Jesus đã uống, với nhận biết tuyệt đối; thế thì

không có sai trong uống rượu. Thế thì uống rượu nữa

cũng là tốt. Nhưng bạn có thể không phải là người uống

rượu như Adolf Hitler, và điều đó là không tốt. Cho nên

vấn đề không phải là điều bạn làm, mà là cách bạn làm

nó, hành động này từ đâu tới.

Molly O'Brien tới thăm một linh mục trong xứ đạo.

"Thưa cha," cô ấy nói, "Con cảm thấy tồi tệ thế! Đêm

qua con đã gọi một người đàn ông là đồ con hoang."

"Bây giờ, tại sao," linh mục nói, "con muốn làm

điều như thế?"

"Thế này, Cha, cha thấy đấy... anh ta vòng tay ôm

quanh người con."

"Cái gì - như thế này à?"

"Dạ vâng, giống thế ạ."

"Này, thế thì chẳng có lí do gì để gọi anh ta là con

hoang cả."

"Vâng, nhưng thế rồi, thưa cha, anh ta hôn con!"

"Cái gì - giống thế này à?"

"Vâng."

"Này, thế thì chẳng có lí do gì để gọi anh ta là con

hoang cả."

"Con biết, nhưng thế rồi cha xem, anh ấy ấn con

xuống ghế sofa rồi cởi quần áo con ra."

"Con ngụ ý... làm như thế này à?"

"Dạ vâng, thưa cha."

"Này, dẫu thế vẫn chẳng có lí do gì để gọi anh ta là

con hoang cả."

"Vâng, nhưng thế rồi anh ta tụt quần anh ta ra."

"Giống thế này?"

"Vâng."

"Này, điều đó vẫn chẳng có lí do gì để gọi anh ta là

con hoang cả."

"Nhưng thưa cha... thế rồi anh ta làm tình với con."

"Như thế này à?"

"Vâng."

"Và con gọi anh ta là đồ con hoang chỉ vì điều đó

thôi sao?"

"Nhưng cha ơi - cha thấy đấy - thế rồi anh ta bảo

con anh ta bị bệnh lậu."

"Sao thế, đồ con hoang bẩn thỉu!"

Người ngu có thể được tìm thấy trong tội đồ, trong

tu sĩ, trong thánh nhân. Người ngu là hiện tượng rất tinh

vi; nó không thô thế như bạn nghĩ đâu. Bạn không thể

đánh giá được từ bên ngoài liệu một người là trí tuệ hay

ngu xuẩn bởi vì đôi khi hành động của họ có thể như

nhau.

Krishna nói trong Gita với Arjuna, "Đánh nhau đi,

nhưng đánh nhau với buông xuôi tuyệt đối theo Thượng

đế. Trở thành phương tiện đi." Bây giờ, buông xuôi

nghĩa là nhận biết tuyệt đối, bằng không bạn không thể

buông xuôi được. Buông xuôi nghĩa là rơi rụng bản ngã,

và bản ngã là vô ý thức của bạn. Krishna nói, "Vứt bỏ

bản ngã và rồi để nó cho Thượng đế. Thế rồi để cho ý

chí của ngài sẽ được thực hiện. Thế thì bất kì cái gì xảy

ra cũng đều tốt."

Arjuna tranh biện. Lặp đi lặp lại anh ta đem ra các

luận cứ mới và anh ta nói, "Nhưng để giết những người

này - người hồn nhiên này, họ đã chẳng làm gì sai cả -

chỉ vì vương quốc mà giết nhiều người thế, bạo hành

nhiều thế, sát hại nhiều thế, máu chảy nhiều thế... làm

sao điều đó có thể đúng được? Thay vì giết những người

này vì vương quốc, tôi thà từ bỏ và đi vào rừng và trở

thành sư."

Bây giờ, nếu bạn chỉ nhìn từ bên ngoài, Arjuna

dường như tôn giáo hơn Krishna. Arjuna dường như

mang tính Gandhi hơn Krishna. Krishna dường như rất

nguy hiểm. Ông ấy đang nói, "Vứt mọi điều vô nghĩa về

việc là sư và trốn lên hang động Himalaya đi. Điều đó

không dành cho ông. Ông bỏ mọi thứ lại cho Thượng

đế. Ông không quyết định, ông vứt việc quyết định này

đi. Ông đơn giản thảnh thơi, ở trong buông bỏ, và để

ngài giáng xuống ông và để ngài tuôn chảy qua ông. Thế

thì, bất kì điều gì xảy ra.... Nếu ngài muốn trở thành sư

qua ông, ngài sẽ trở thành sư. Nếu ngài muốn trở thành

chiến binh qua ông, ngài sẽ thành chiến binh."

Arjuna dường như đạo đức hơn, thuần đạo đức hơn.

Krishna dường như là hoàn toàn khác. Krishna là vị

phật, người đã chứng ngộ. Ông ấy nói, "Ông đừng quyết

định. Từ vô ý thức của mình, bất kì điều gì ông quyết

định cũng sẽ sai, bởi vì vô ý thức là sai."

Và người ngu sống trong vô ý thức. Cho dù người

đó cố gắng làm điều tốt, thực tế người đó thành công chỉ

trong làm điều xấu.

Paddy NcNaughty tới xưng tội: "Xin cha ban phước

lành cho con vì con đã phạm tội."

"Vậy thì con đã làm cái gì, con trai ta?"

"Con đã làm tình với một cô gái trong làng."

"Chúa ơi!" linh mục nói, "và con đã phạm tội đó với

gái làng nào?"

"A, cha ơi, điều đó con chẳng thể biết được."

"Vậy nếu con không cho ta biết, thì ta sẽ không cho

con xá tội đâu."

"A cha yêu mến ơi!" Paddy nói.

"Đấy có phải là Molly O'Flaherty?" linh mục hỏi.

"Không, đấy không phải là Molly O'Flaherty."

"Thế thì đấy là Flora Fitzgibbons?"

"A không," Paddy nói, "đấy không phải là Flora

Fitzgibbons."

"Đấy là Maggie Muldoon, vậy à?" linh mục vẫn

kiên trì.

"A, chắc chắn không, đấy không phải là Maggie

Muldoon đâu."

"Thế thì nó tên là gì trời ạ?"

"A, chắc rồi, cha ơi - điều đó con không thể nói

được."

"Vậy nếu con không kể lại cho ta, ta sẽ không cho

con xá tội đâu."

"A, cha ơi, điều đó thì quá tệ!" Paddy nói và bước ra

khỏi phòng xưng tội.

Bạn anh ta, Michael, đang đợi ở ngoài. "Này, Paddy,

cậu đã được tha tội chưa?"

"Không," Paddy nói, "nhưng tớ có được tên của vài

gái mãi dâm tốt!"

Nếu bạn vô ý thức bạn có thể tới để nhận tha thứ,

bạn có thể tới xưng tội, nhưng điều đó sẽ không giúp ích

- bạn sẽ vẫn còn như cũ. Ngu xuẩn có xu hướng dai

dẳng. Cẩn thận về những đặc trưng này của ngu xuẩn.

Ngu xuẩn là rất bản ngã. Thực tế, bạn càng thông minh,

bạn càng ít bản ngã. Khi thông minh nở hoa trong hoàn

hảo, bản ngã biến mất. Do đó, ngu xuẩn rất có tính bao

biện; nó bao giờ cũng cố tự bảo vệ nó. Theo cả nghìn lẻ

một cách nó sẽ thuyết phục bạn rằng đây là tiến trình

đúng, đây là điều cần được làm.

Người ta phải rất nhận biết về tất cả những khuynh

hướng sâu này; chúng cứ ép buộc bạn đi lạc lối, chúng

cứ buộc bạn đi khỏi trung tâm. Chúng làm cho bạn

thành lệch tâm. Có ý thức làm bạn định tâm; vô ý thức

đưa bạn ra khỏi trung tâm.

Một người bước vào quán cà phê và gọi một cốc cà

phê và bánh sữa kem. "Rất tiếc," người đứng quầy nói,

"nhưng chúng tôi hết bánh sữa rồi. Sao ông không lấy

bánh rán thay?"

"Trong trường hợp đó," người này nói, "tôi thích

chén trà và bánh sữa kem."

"Tôi vừa bảo ông rồi, thưa ông, chúng tôi hết bánh

sữa rồi. Sao ông không lấy bánh rán?"

"Hừ... vậy trong trường hợp đó, tôi sẽ lấy bánh sữa

nướng và chén trà."

"Này! Bao nhiêu lần tôi đã phải nói với ông rồi?

Chúng tôi không có bánh sữa nào cả - bánh sữa kem hay

bánh sữa nướng, hay bất kì loại bánh sữa nào!"

"Thôi được thế thì," người này nói. "Thế thì cho tôi

bánh sữa nho và sô cô la nóng"

"Trông đây, ông!" người đứng quầy nói, vừa túm

lấy cổ áo và lay anh ta một cách dữ dội, "Chúng tôi

không có bánh sữa nào! Chúng tôi không có bánh sữa

kem nào, chúng tôi không có bánh sữa nho nào, không

bánh sữa chữ thập nóng nào, hay bánh sữa nướng với bơ

- hay bất kì loại bánh sữa nào. Hiểu chưa?"

"Thôi được, thôi được!" người này nói. "Không cần

phải quát lên thế - tôi chỉ cần bánh sữa thôi!"

Phật nói:

Người ngu là kẻ thù riêng của mình.

tìm của cải, người đó phá huỷ bản thân mình.

Người ngu là kẻ thù riêng của mình... với nhiều lí

do. Thứ nhất: người đó sẽ chết đi mà không được sinh

ra. Người đó sẽ chết đi như hạt mầm. Người đó sẽ

không bao giờ nở hoa, người đó sẽ không bao giờ đi tới

hoa và tới quả. Người đó sẽ không bao giờ biết hoàn

thành là gì. Cuộc sống của người đó sẽ là phí hoài vô

cùng. Cuộc sống của người đó sẽ là sa mạc không ốc

đảo nào. Người đó sẽ không biết tới phúc lạc nào, phúc

lành nào, cực lạc nào - điều là quyền tập ấn của người

đó. Người đó sẽ tự huỷ diệt. Không trưởng thành trong

tâm thức là hành động tự tử nhất mà người ta có thể

phạm phải; do đó Phật nói: Người ngu là kẻ thù riêng

của mình. Người đó bỏ lỡ cơ hội lớn.

Cuộc sống là cơ hội quí giá để biết, để hiện hữu,

nhưng người ngu bỏ lỡ. Người đó thậm chí sẽ không

nhận biết mình đã bỏ lỡ cái gì. Người đó sẽ trải qua cuộc

sống như kẻ sống dở chết dở. Toàn thể cuộc sống của

người đó là máy móc. Người đó dậy sớm buổi sáng, ăn

sáng, đi tới văn phòng, làm công việc, lái xe về nhà... và

người đó làm mọi thứ, nhưng dầu vậy người đó vẫn là

người máy. Người đó còn chưa đầy ánh sáng bên trong;

sâu bên trong người đó chỉ có bóng tối. Người đó đang

làm tất cả những điều này bởi vì người đó đã thực hành

làm chúng. Người đó đã trở thành khéo léo.

Các nhà khoa học đã từng làm việc trong hàng thế kỉ

để tạo ra robot. Tôi không thấy tại sao họ phải quan tâm

nhiều thế tới việc tạo ra robot - có nhiều thế, hàng triệu

robot rồi! Và không cần làm robot chút nào; tất cả hàng

triệu robot kia đang tạo ra nhiều robot hơn đấy! Thực tế,

vấn đề là làm sao dừng họ lại khỏi sản sinh ra thêm!

Từng người ngu đều để lại ít nhất một tá người ngu -

đặc biệt ở Ấn Độ - đằng sau người đó. Khi người đó

chết người đó làm cho thế giới này mười hai lần ngu

hơn; người đó để lại một tá người ngu như bằng chứng

rằng người đó đã từng ở đây. Cần gì tạo ra robot?

Tôi đã đọc một câu chuyện rằng robot đã được tạo

ra - đó là câu chuyện của thế kỉ hai mươi mốt - và chúng

đích xác giống như con người tới mức rất khó phân biệt.

Nếu bạn gặp một robot trên đường đang lái xe của nó

bạn sẽ không thể phân biệt được liệu người đó là robot

hay không. Nó sẽ trông đích xác như con người. Chỉ

một khác biệt sẽ có đó: nó sẽ hiệu quả hơn. Ít tai nạn

hơn có trên đường. Nó sẽ chấm dứt công việc của nó

đúng giờ. Nó sẽ không chồng chất hồ sơ trên bàn; bàn

nó sẽ gọn gàng.

Cho nên đó là vài chỉ dẫn để cho bạn có thể đánh giá

được liệu một người có thực sự là robot hay con người.

Thỉnh thoảng bạn sẽ biết ai là robot - khi pin của nó hết.

Chỉ thế thì... nếu nó đang nói với bạn và nó đang đưa

cho bạn luận cứ lớn lao, luận cứ triết lí về sự tồn tại của

Thượng đế, và thế rồi nó bỗng nhiên nói, "Grrr, grrrr,

grrr-rr-rrr...!" và lập tức chạy tới ổ cắm điện và nối bản

thân mình vào điện để nạp cho bản thân mình - thế thì

bạn sẽ biết rằng đây không phải là người thực; bằng

không thì sẽ không có khác biệt gì.

Và điều đó nữa, cũng là có thể vượt qua được chẳng

chóng thì chầy: chúng ta có thể gắn hai pin. Sao chỉ một

pin? Tôi đã nghĩ: sao gắn một pin vào người đáng

thương này? - bạn có thể gắn hai pin để cho trong khi

pin này được dùng, pin kia được nạp tự động. Nếu bạn

có thể tạo ra một robot, bạn không thể tạo ra pin tự động

được sao? Sao làm cho nó trông ngu vậy: "Grrr, grrr,

grrr"? Và điều này có thể xảy ra vào bất kì lúc nào. Nó

có thể đang làm tình với người đàn bà của bạn, và "Grrr,

grrr, grrr!" Và nó phải nói, "Anh xin lỗi, anh đã chạy hết

xăng rồi!" Hay hết điện... hay anh ta sẽ cần xăng.

Người ngu là kẻ thù riêng của mình. Hành động thù

địch đầu tiên với bản thân mình là tính máy móc của

người đó.

"Trông cái gì tôi có được hôm nay đây! Một xe mới

toanh nhé, và nó giá chỉ tám trăm pounds."

"Tám trăm pound à? Nhưng điều đó là không thể

được - xe mới toanh cơ mà?"

"À thế này, anh thấy đấy, nó không có động cơ."

"Không có động cơ à?"

"Đúng rồi. Anh nói với nó, mà xem... anh cứ nói với

nó và nó đi."

"Thật thế sao?"

"Đúng, điều đó đúng đấy. Muốn tới thử đi không?

Chỉ một điều thôi, trước khi chúng ta bắt đầu. Xe này

chỉ hiểu được vài từ. Giống thế này, để làm nó tiến lên

trước anh nói, 'Quái quỉ'; để làm nó dừng lại anh nói,

'Đồ con hoang.'"

"Ô... thật thế sao?"

"Đúng. Chắc chắn. Lại đây, tôi sẽ chỉ cho anh. 'Quái

quỉ' - nó đi đấy, xem đấy, và mọi điều anh phải làm là

quay vô lăng, thổi còi, nháy đèn chỉ thị.... 'Đồ con

hoang' - thấy đấy, nó dừng lại khi anh muốn nữa."

"Úi trời! Tôi chưa bao giờ thấy chiếc xe nào giống

như thế trước đó!"

"Chúng ta hãy đem nó ra về vùng quê. Có thể chúng

ta đi tới mỏm đá cạnh biển. Thấy chưa, đi thẳng nó chạy

tới tốc độ chín mươi, không có vấn đề gì - chín tư, chín

nhăm...."

"Úi... ấy a... tôi nói, chúng ta chẳng tới gần đầu

mỏm đá rồi đó sao?"

"Đi tiếp bây giờ, đừng lo. Cứ quan sát cách nó

phanh."

"Này! Này, cẩn thận đấy! Cái biển kia nói, 'Đường

hết trong năm mươi mét nữa,' và anh đi tốc độ chín

mươi nhăm!"

"Đúng! Nhìn cái này: Đồ con hoang.... Này, lại nữa

bây giờ - nó không muốn dừng! Đồ con hoang! Đồ con

hoang! Đồ con hoang! Chúng ta đã làm điều đó rồi!

Thấy đấy, nó đã dừng."

"Phì, quái quỉ, điều đó đã đóng lại...!"

Người ngu là kẻ thù riêng của mình. Tìm của cải,

người đó phá huỷ bản thân mình. Với "của cải" Phật ngụ

ý cái ở bên ngoài bạn: quyền lực, danh vọng, tiền bạc,

dục - bất kì cái gì ở bên ngoài bạn. Người ngu hướng

ngoại; người đó không bao giờ nhìn vào trong. Người đó

tích luỹ mọi thứ ở bên ngoài. Cả đời người đó dành cho

tiền, quyền, danh, và thế rồi một ngày nào đó cái chết

tới, nhưng thế thì quá trễ rồi. Khi cái chết tới, người đó

nhận ra rằng tất cả những gì mình đã từng làm đơn giản

là ngu xuẩn bởi vì tất cả đều tuột khỏi ngón tay người

đó. Tất cả những thứ người đó đã từng làm đều là làm

lâu đài cát. Chỉ cú thổi của cái chết, và mọi thứ biến mất

như giấc mơ.

Phật nói: Tìm của cải, người đó phá huỷ bản thân

mình. Người đó vẫn còn thường xuyên hướng ngoại; do

đó người đó chưa bao giờ trở nên nhận biết mình là ai,

tại sao mình hiện hữu, mình tới từ đâu, mình sẽ đi đâu,

định mệnh của mình là gì, ý nghĩa của mình là gì, tại sao

sự tồn tại này cần mình, mình được giả định hoàn thành

mục đích gì, hương thơm nào phải được toả ra từ mình.

Người đó chưa bao giờ nhìn vào trong. Người đó cứ

chạy xô đi ngày một nhanh hơn. Khi cái chết lại gần hơn

người đó chạy nhanh hơn để cho người đó có thể tích

luỹ thêm chút ít của cải, thêm chút ít kính trọng, tôn

trọng, để cho người đó có thể trở thành tổng thống hay

thủ tướng.

Nhưng cái chết phá huỷ mọi thứ - tổng thống của

bạn, thủ tướng của bạn. Bạn có thể giầu; cái chết sẽ

không thiên vị bạn đâu. Trước cái chết, mọi người đều

như nhau - giầu hay nghèo, thông thái hay không thông

thái, nổi tiếng hay không nổi tiếng.

Phật nói: Nếu ông đưa năng lượng của mình vào

những dự án như vậy, cái có thể bị cái chết phá huỷ, thế

thì ông đang phá huỷ bản thân mình. Đạt tới cái gì đó

bất diệt đi. Đạt tới cái gì đó mà cái chết không thể giằng

lấy được từ bạn. Nhận ra cái gì đó sẽ ở bên ngoài cái

chết cùng bạn. Nhận ra cái gì đó mà ngay cả lửa cũng

không thể thiêu được, kiếm không thể chặt được, bom

nguyên tử, bom khinh khí không thể phá huỷ được. Chỉ

thế thì bạn mới là người bạn của bản thân mình; bằng

không bạn là kẻ thù.

Ba đôi bị chết trong vụ đâm xe. Thánh Peter đợi họ

ở Ngọc Môn, cuốn sách lớn cặp dưới nách. Đôi thứ nhất

được mời tới.

"Tên?" Thánh Peter quát lên.

"Jones," người chồng đáp.

Thánh Peter mở cuốn sách lớn và bắt đầu lấy ngón

tay lật qua các trang.

"Hừ... Jackson... Johnson... a rồi, Jones! Hừ... Jones,

này? Được rồi bây giờ, Jones, đây không phải là hồ sơ

rất tốt đâu, đúng không? Uống rượu, uống rượu, lại

uống rượu - đó là tất cả những gì anh đã từng là vậy sao

- ngay cả cưới người đàn bà tên là Sherry. Này, Jones,

điều này là không đủ tốt, anh biết đấy. Ta e phải đẩy anh

xuống địa ngục."

Nhà Joneses buột ra tiếng khóc nức nở và ôm ghì

nhau, nhưng hai thần gác kéo họ ra và lôi người đàn ông

tới cổng địa ngục. Người vợ theo sát nút.

"Tiếp!" Thánh Peter gọi và đôi thứ hai lê bước tới.

"Tên!"

"Smith," họ cả hai đáp lại một cách run rẩy.

"Hừ... Sutherland... Spencer... a đây, Smith! Hừ...

rồi, ông và bà Smith, đôi này chẳng có vẻ gì tốt cả. Tiền,

tiền, tiền - đó là tất cả những gì cả hai đã từng theo đuổi

- ngay cả cái gọi là con trai các vị Buck, Frank và Mark,

và con gái, Penny. Bây giờ đó là cái loại cuộc sống gì

vậy! Được, chỉ có một chỗ dành cho những người như

các vị. Các vị phải đi xuống - xuống địa ngục!"

Gia đình Smiths khóc và khuỵ chân xuống, nhưng

phán quyết là cuối cùng không thay đổi.

"Tiếp!" Thánh Peter kêu to, khi thiên thần gác kéo

gia đình Smiths đi xa.

Người chồng tiếp quay sang vợ mình và nói, "lại

đây, Fanny... Anh sẽ không đứng đây và bị sỉ nhục đâu!"

Thay vì thế tìm bờ bên kia.

Phật nói: Đừng quá bận tâm tới bờ bên này; nó là

nhất thời. Ngày mai bạn phải đi. Ngay cả bẩy mươi năm

cũng không phải là thời gian dài; so với vĩnh hằng nó

chỉ là khoảnh khắc. Cuộc đời bạn chỉ kéo dài như bong

bóng xà phòng. Bạn nghĩ nó đủ dài - bẩy mươi năm -

bởi vì bạn so sánh cuộc sống của mình với cuộc sống

của ruồi hay muỗi; thế thì nó có vẻ đủ dài. Nhưng hỏi

muỗi và chúng nghĩ chúng sống hoàn toàn tốt: chúng

làm mọi thứ mà bạn làm và trong khoảng sống ngắn.

Chúng được sinh ra, chúng rơi vào tình yêu, chúng xây

dựng gia đình, chúng có con - và còn nhiều con hơn bạn

có thể có - và chúng hát và chúng nhảy múa. Có thể

chúng có tôn giáo riêng và các tu sĩ và các chính khách

riêng của chúng. Và thế rồi chúng trở nên già và thế rồi

chúng chết. Có thể điều đó kéo dài chỉ vài tuần, nhưng

trong vài tuần đó chúng đã làm đủ mọi thứ rồi!

Có những loài sâu bọ sẽ chỉ sống trong vài giờ,

nhưng trong vài giờ đó cả cuộc sống của bạn được cô

đọng lại: bạn trai và bạn gái, chồng và vợ, và tất cả

những đánh nhau.... Tôi đã nghe chúng thậm chí còn đi

tới cố vấn hôn nhân, họ tư vấn về chuyên gia tình dục!

Một người đàn bà có con mèo và con mèo này tạo ra

nhiều phiền toái cho hàng xóm. Nó là một kẻ ăn chơi và

cả đêm nó đi từ nhà này sang nhà kia, và chúng làm ồn

ào nhiều thế - bởi vì mèo không tin vào làm tình im

lặng. Chúng không phải là người Hindus, không phải là

người Ấn Độ! Chúng tất cả đều là hippies!

Thế là toàn thể hàng xóm bảo người đàn bà này,

"Làm cái gì đó đi. Thật quá thể - chúng tôi không thể

ngủ được! Việc làm tình của con mèo của bà - nó làm

chúng tôi phát điên!"

Cuối cùng người đàn bà phải ôm con mèo tới bác sĩ

thú y và ông ấy thiến nó. Nhưng hàng xóm vẫn bị phiền

toái như trước.

Mọi người hỏi người đàn bà, "Có chuyện gì vậy?

Đây là loại thiến gì vậy? Mèo của bà đã bị thiến rồi, bà

nói thế, nhưng chúng tôi thấy nó vẫn tới."

Người đàn bà nói, "Vâng, nó vẫn đi đấy - bây giờ nó

đi như nhà tư vấn."

Thời gian không thành vấn đề. Trong vài giờ bạn có

thể sống bẩy mươi năm hay bẩy trăm năm theo cách cô

đọng. Trong bẩy phút, bẩy mươi năm có thể được cô

đọng lại. Và bẩy phút có vẻ rất nhỏ khi so với bẩy mươi

năm, nhưng bẩy mươi năm là gì khi so sánh với tuổi của

mặt trời hay mặt trăng hay trái đất hay các vì sao? Và

bẩy mươi năm là gì khi so với vĩnh hằng?

Bờ này bao gồm những hiện tượng tạm thời. Đừng

phí toàn bộ năng lượng của bạn vào những cái tạm thời

đó. Cứ nhớ bờ bên kia. Với "bờ bên kia" Phật ngụ ý cái

ở bên ngoài thời gian và bên ngoài không gian. Bờ bên

này ở bên ngoài bạn và bờ bên kia ở bên trong bạn. Bờ

bên này bao gồm tiền, dục, quyền, danh và bờ kia chỉ

gồm nhận biết, im lặng, an bình, lời cầu nguyện.

Thay vì thế tìm bờ bên kia.

Cỏ dại bóp nghẹt cánh đồng.

Đam mê đầu độc bản tính con người,

và hận thù, ảo tưởng và ham muốn.

Nhưng bạn đầy cỏ dại, do đó bạn không thể mọc hoa

hồng được. Trước khi bạn có thể mọc hoa hồng bạn sẽ

phải loại bỏ đi mọi cỏ dại, bạn sẽ phải chuẩn bị mảnh

đất, bạn sẽ phải chuẩn bị đất. Bạn sẽ phải loại bỏ cỏ dại,

đá, và tất cả những cái có thể là cản trở cho hoa hồng.

Cỏ dại bóp nghẹt cánh đồng.

Và về cỏ dại, một điều phải được ghi nhớ: bạn cần

không phát triển chúng, chúng phát triển theo cách riêng

của chúng. Cho dù bạn nhổ chúng đi chúng sẽ lại phát

triển ra.

Mulla Nasruddin có một bãi cỏ rất đẹp. Một hàng

xóm mới chuyển tới ở cạnh nhà Mulla và anh ta trở nên

rất quan tâm tới khu vườn của Mulla, đặc biệt là bãi cỏ.

Anh ta cũng muốn làm bãi cỏ đẹp và khu vườn. Anh ta

gieo hạt, anh ta trồng cây, nhưng nhiều cỏ dại thế bắt

đầu mọc lên.

Anh ta hỏi Mulla, "Làm sao phân biệt được đâu là

cỏ và đâu là cỏ dại?"

Mulla nói, "Đơn giản. Anh nhổ cả hai lên. Cỏ sẽ

không mọc ra nhưng cỏ dại sẽ mọc ra. Đó là cách người

ta biết, đó là cách người ta có thể phân biệt."

Cỏ dại có một phẩm chất - cùng phẩm chất như

người ngu: chúng dai dẳng, chúng khăng khăng, chúng

không muốn bị loại bỏ. Mọi thứ vĩ đại trong cuộc sống

này đều mong manh và mọi thứ xấu đều như đá, rất

mạnh. Cỏ dại mọc ra theo cách riêng của chúng. Bạn đã

không rèn luyện giận dữ và bạn đã không rèn luyện

thèm khát. Không trường nào dạy bạn dạy cách ghen tị

và cách tham lam. Không thầy giáo nào, không thầy nào

được cần tới để dạy bạn cách vô ý thức. Những thứ này

phát triển theo cách riêng của chúng.

Rơi xuống là dễ dàng; vươn lên là khó khăn - nó đi

ngược lại sức hút.

Bạn phải loại bỏ cỏ dại, bằng không chúng bóp

nghẹt cánh đồng. Bạn đầy giận dữ, tham lam, thèm khát

tới mức chúng làm nghẹt năng lượng của bạn. Bạn sẽ

không thể nào trưởng thành được - chúng sẽ không cho

phép bạn trưởng thành. Chúng sẽ hút mọi năng lượng

của bạn; chúng là kẻ hút bám, chúng là kẻ kí sinh.

Phật nói: Cỏ dại bóp nghẹt cánh đồng. Đam mê đầu

độc bản tính con người, và hận thù, ảo tưởng và ham

muốn.

Đam mê tạo ra nhiều điều trong bạn. Nó tạo ra cơn

sốt, nó làm cho bạn vô ý thức nhiều hơn - vô ý thức

nhiều hơn bạn đã vậy. Nó lôi bạn sâu hơn vào trong bùn.

Và với đam mê, hận thù, ảo tưởng và ham muốn tới - và

thế rồi bạn bị sao lãng khỏi bản tính của mình. Bản tính

của bạn bị đầu độc, hồn nhiên của bạn bị đầu độc. Bạn

đánh mất tất cả mọi đơn giản, mọi khiêm tốn.

Cẩn thận về sự đầu độc của đam mê. Nồng hậu, đằm

thắm - đó là hiện tượng hoàn toàn khác - nhưng đừng

đầy thèm khát. Nồng hậu là có thể với ý thức của bạn.

Vị Phật rất nồng hậu, một Jesus rất nồng hậu, rất đằm

thắm. Đam mê đã biến mất. Đam mê đã trở nên được

biến đổi thành từ bi. Từ bi của họ mưa rào lên bạn như

hoa. Khi đam mê đầu độc bạn, từ bi thanh lọc bạn. Từ bi

là nước cam lồ nếu đam mê là nước độc. Năng lượng

tham gia vào đam mê có thể được thoát ra trong từ bi.

Và cách để thoát ra năng lượng, cách để đổi kênh nó

sang từ bi, là điều Phật gọi là sammasati - nhận biết

đúng, nhớ đúng; điều Gurdjieff gọi là tự nhớ, điều

Krishnamurti gọi đơn giản là nhận biết, điều tôi gọi là

thiền. Chúng tất cả đều là cùng một điều, những cái tên

khác nhau chỉ tới cùng một năng lượng. Bạn phải trở

nên tỉnh táo, có ý thức về điều bạn đang làm.

Thử mà xem, khi bạn giận, có ý thức vào, và bạn sẽ

ngạc nhiên - bạn trong ngạc nhiên lớn lao. Nếu bạn trở

nên có ý thức, giận dữ biến mất. Và bỗng nhiên bạn đã

tìm ra chìa khoá, bạn đã vớ được bí mật. Khi dục chi

phối bạn và bạn đầy thèm khát, nhắm mắt lại, ngồi im

lặng và thiền về năng lượng này đang bao quanh bạn,

thèm khát này đang bao quanh bạn như đám mây. Chỉ

quan sát nó, nhìn nó. Tôi không nói chống lại nó, bởi vì

nếu bạn chống lại nó bạn đã lấy một quan điểm. Bây giờ

bạn có thể quan sát.

Để quan sát, bước cần thiết, cần thiết nhất, là không

lấy định kiến nào, không kết luận trước. Cứ vẫn còn

quan sát im lặng, không ủng hộ không chống đối. Và

trong vòng vài phút bạn sẽ ngạc nhiên rằng cơn bão lớn

kia của thèm khát qua rồi. Và khi cơn bão qua rồi, im

lặng còn lại đằng sau sâu lắng tới mức, lớn lao tới mức,

phúc lành tới mức bạn có thể đã chưa từng bao giờ cảm

thấy nó. Không kinh nghiệm dục nào có thể cho bạn cái

đẹp đó, cái sẽ tới nếu bạn quan sát thèm khát của mình

và qua quan sát thèm khát biến mất. Thế thì im lặng tới

với bạn, cái vốn trinh nguyên, cái thuộc về cõi bên kia,

cái thuộc về bờ bên kia.

Tôn kính người không có đam mê.... Do đó Phật nói:

Nếu ông có thể tìm ra một người không có đam mê - nếu

bạn có thể tìm ra một christ hay vị phật - tôn kính người

đó... bởi lẽ đơn giản là người đó đã làm gần như điều

không thể được: người đó đã thoát khỏi tù túng thông

thường của nhân loại. Người đó không còn là tù nhân,

không còn là nô lệ. Người đó đã khẳng định tính cá nhân

của mình, thông minh của mình. Người đó không còn là

kẻ ngu. Trí huệ đã xảy ra trong bản thể người đó. Người

đó đầy ánh sáng; bóng tối đã biến mất.

Tôn kính người không có đam mê,

hận thù, ảo tưởng và ham muốn.

Và khoảnh khắc đam mê biến mất, hận thù biến mất,

ảo tưởng biến mất, ham muốn biến mất, bởi vì người ta

cảm thấy mãn nguyện thế, người ta cảm thấy được hoàn

thành hoàn toàn. Người ta cảm thấy mình đã về nhà.

Không có đâu mà đi, không cái gì khác để hỏi hay

muốn.

Cứ nghĩ tới những khoảnh khắc đó khi không có

ham muốn, khi không có căng thẳng, khi tâm trí bạn

tuyệt đối yên tĩnh. Chỉ thế thì bạn mới biết Thượng đế

tồn tại - hay đúng hơn phải nói là tính thượng đế tồn tại.

Điều ông cho người đó.... Nếu bạn cho Phật bất kì

cái gì... bạn có thể cho ông ấy cái gì? Bạn có thể cho

ông ấy sự kính trọng của bạn, bạn có thể cho ông ấy sự

tin cậy của bạn, bạn có thể cho ông ấy cái ta của bạn, sự

buông xuôi của bạn.

Điều ông cho người đó

sẽ được trao lại cho ông,

và còn nhiều hơn.

Bất kì khi nào đệ tử buông xuôi bản thân mình theo

một thầy đã thức tỉnh, người đó trở thành người giầu

nhất trên thế giới. Trong chính việc buông xuôi của

người đó là chiến thắng. Trong việc vứt bỏ bản ngã

người đó đạt tới bản thể. Lần đầu tiên người đó hiện hữu

- và theo một cách rất kì lạ, bởi vì người đó đã vứt bỏ

bản thân mình. Nhưng cái người đó đã vứt bỏ là cái ta

giả, và khi cái giả biến mất, cái thực xuất hiện. Khi cái

giả dừng hiện hữu, cái thực bắt đầu chói lên trong tất cả

niềm vinh quang của nó, trong tất cả sự huy hoàng của

nó.

Bất kì cái gì bạn cho vị phật đều quay về bạn cả

nghìn lần hơn.

Đệ tử buông xuôi, đệ tử mở trái tim mình, và vị phật

bắt đầu tuôn chảy vào trong trái tim của đệ tử. Vị phật

giống như đám mây mưa, đầy tình yêu tới mức, đầy

chân lí tới mức nếu bạn mở trái tim mình, nếu bạn sẵn

sàng uống người đó, bạn sẽ, lần đầu tiên, cảm thấy thoả

mãn sâu sắc. Cơn khát của bạn sẽ được dịu đi.

Đó là lí do tại sao Jesus nói: Ăn ta, uống ta. Ông ấy

không bảo bạn trở thành kẻ ăn thịt người đâu! Ông ấy

đang nói với bạn, "Ta sẵn có đây. Mở trái tim ông và để

ta vào."

Khi người thức tỉnh gõ cửa nhà bạn, xin mở cửa ra,

bởi vì bạn có thể bỏ lỡ cơ hội này và bạn có thể bỏ lỡ nó

trong nhiều nhiều kiếp. Rất hiếm khi bắt gặp một Phật,

một Christ, một Krishna, một Mahavira, một

Mohammed. Nếu bạn đủ may mắn bắt gặp một người

thức tỉnh, thế thì đừng keo kiệt. Thế thì vứt bỏ bản thân

mình một cách toàn bộ đi, thế thì hãy được cam kết toàn

bộ.

Mới hôm nọ ai đó đã hỏi, "Thầy nói: Tôi là lối cổng.

Tôi đã tới đây, tôi yêu thầy. Tôi đã tới từ nơi xa xôi,

nhưng tôi không là sannyasin và tôi không được phép

gặp thầy. Thế thì tại sao thầy nói: Tôi là lối cổng nếu tôi

không được phép tới qua thầy?"

Bạn được phép tới qua tôi chứ, nhưng vài điều bạn

sẽ phải bỏ lại ngoài cổng: giầy của bạn, đầu của bạn. Đó

chính là tính chất sannyas là gì. Đây là hai cực đoan của

bạn, hai cực: giầy và đầu. Bỏ cả hai cực đoan đó bên

ngoài đi, thế thì bạn được cân bằng. Chính từ 'sannyas'

nghĩa là trạng thái thăng bằng, cân bằng, tuyệt đối cân

bằng.

Tôi là lối cổng, nhưng tôi là lối cổng chỉ cho những

người sẵn sàng đi qua tôi. Bạn phải trả giá - và tính chất

sannyas là giá. Và nếu bạn yêu tôi, thế thì tình yêu bao

giờ cũng sẵn sàng hi sinh. Và tôi không đòi hỏi tiền của

bạn, tôi không đòi hỏi nhà của bạn; tôi không đòi hỏi cái

gì của bờ bên này từ bạn. Tôi đang đòi hỏi chỉ cái bạn

không có nhưng bạn tin rằng bạn có. Tôi chỉ đòi hỏi cái

giả: niềm tin của bạn, bản ngã của bạn, hận thù của bạn,

đam mê của bạn, ham muốn của bạn, thèm khát của bạn,

tham lam của bạn. Tôi đang đòi hỏi tất cả các bệnh tật

của bạn! Đưa tất cả các bệnh của bạn cho tôi; đó là điều

tính chất sannyas tất cả là gì. Thế thì tôi là lối cổng và

tôi sẵn sàng. Tới qua tôi và bạn sẽ thấy cái bạn đã từng

tìm kiếm trong nhiều kiếp rồi.

Nhưng bạn có thể bỏ lỡ lối cổng nếu bạn keo kiệt

hay hèn nhát tới mức bạn không thể lấy cú nhảy vào tính

chất sannyas. Thế thì bạn đang nói về cái loại tình yêu gì

vậy? Tình yêu biết cách cam kết, biết cách tham dự.

Tình yêu biết cách chết và cách được tái sinh. Tình yêu

sẵn sàng trải qua bất kì lửa nào bởi vì tình yêu biết,

"Không cái gì có thể phá huỷ được ta, ngay cả lửa cũng

không thể đốt cháy được ta." Tình yêu biết cái vĩnh hằng

của nó. Do đó tình yêu bao giờ cũng dũng cảm.

Sannyas là dũng cảm, đó là cuộc phiêu lưu.

Phật nói: Điều ông cho người đó sẽ được trao lại

cho ông, và còn nhiều hơn.

Đừng lo nghĩ và đừng keo kiệt. Cởi mở với tôi,

mong manh, nhạy cảm, để cho tôi có thể rót bản thân

mình toàn bộ vào trong bạn. Tôi sẵn sàng là khách trong

trái tim bạn, nhưng bạn sẽ phải sẵn sàng là chủ và bạn sẽ

phải dọn sạch mọi cỏ dại trong trái tim mình. Bạn sẽ

phải làm trống rỗng trái tim mình mọi thứ đồng nát mà

bạn đã thu thập: của mọi quá khứ, của mọi kí ức, của

mọi hệ thống niềm tin, của mọi triết lí, ý thức hệ - chính

trị, tôn giáo, xã hội.

Khi bạn tuyệt đối trống rỗng bạn có thể tới trong tôi,

tôi có thể tới trong bạn. Gặp gỡ có thể xảy ra. Và gặp gỡ

đó là kinh nghiệm cực thích lớn lao nhất của cuộc sống.

Đủ cho hôm nay.

****************************************************************************************************************

#8Không cẩm nang mà chỉ tán gẫu

Câu hỏi thứ nhất:

Thưa Thầy kính yêu,

Tôi cảm thấy như người-nói-không thế. Có hi vọng

gì cho người-nói-không không?

Prem Jinesh, nói-không là sự bắt đầu tốt, nhưng

không phải là mục đích tốt. Nói-không là hạt mầm; nóicó

là việc nở hoa của nó. Có phải tới qua không - không

là bụng mẹ của có. Nếu bạn không thể nói được không,

có của bạn sẽ bất lực. Nó sẽ không có nghĩa nào hết cả,

nó sẽ không biến đổi cuộc sống của bạn. Nó sẽ chỉ là

trên môi bạn, không trong tim bạn.

Đó là điều đã xảy ra cho toàn thể nhân loại. Mọi

người đã từng bị ép buộc trở thành người nói-có, người

hữu thần, người tin Thượng đế, mà chẳng bao giờ biết

tới hương vị của không. Có đã bị ép buộc lên họ. Họ đã

không đi tới có, có đã bị trao cho họ, nó bị vay mượn.

Nó là niềm tin đơn thuần, và mọi niềm tin đều mù

quáng. Họ giữ bạn mù, họ giữ bạn trong bóng tối. Họ

giữ bạn bị mắc kẹt và tù đọng.

Chẳng có gì sai trong nói không. Không có nhiều cái

đẹp như có. Không là cách đi tới có. Dùng không làm

bậc đá bước lên. Đừng để nó trở thành thói quen; có ý

thức về nó, có vậy thôi. Tôi không thể nói bạn bắt đầu

nói có được, bởi vì điều đó sẽ chưa là việc chín muồi

cho bạn. Cứ nói không chừng nào không vẫn còn có ý

nghĩa cho bạn. Không sẽ phá huỷ tất cả những cái giả,

vay mượn. Nó sẽ phủ định mọi niềm tin. Nó sẽ tạo ra

không gian trống rỗng trong bạn.

Ở phương Đông chúng ta gọi toàn thể quá trình này

là neti, neti - không cái này không cái nọ. Chúng ta chưa

bao giờ kết án nó.

Nó lau sạch bạn mọi rác rưởi, nó làm thuần khiết

bạn. Nó là lửa. Đi qua nó là bước cần thiết bạn không

thể né tránh được. Những người né tránh đi qua nó, cái

có của họ chỉ như vẹt. Bạn có thể dạy vẹt bất kì cái gì và

nó sẽ cứ lặp lại điều đó. Nó không ngụ ý điều đó. Nó

không có trái tim bên trong điều đó, nó đơn giản nói từ

này - những từ trống rỗng, những từ hổng hoác.

Một người mua một con vẹt. Anh ta tới cửa hàng

bán con vật nuôi. Anh ta thích một con vẹt - rất đẹp.

Anh ta hỏi giá. Giá dường như hơi nhiều chút ít: người

này đang đòi một nghìn đô la.

Người mua hỏi, "Con vẹt đó có đáng ngần ấy tiền

không?"

Ông chủ hiệu nói, "Ông có thể hỏi đích thân con

vẹt."

Anh ta hỏi con vẹt, và con vẹt nói, "Không hoài nghi

gì về điều đó."

Nó nói thuyết phục thế. Điều đó dường như tự nhiên

thế. Người này mua con vẹt, và anh ta rất kích động

khoe nó với vợ mình, với con mình. Anh ta đem con vẹt

về nhà.

Anh ta hỏi vẹt, "Tên mày là gì?"

Nó nói, " Không hoài nghi gì về điều đó."

Người này nói, "Cái gì?"

Nó nói, " Không hoài nghi gì về điều đó!"

Người này hỏi, "Mày có biết cái gì khác hay

không?"

Nó nói, " Không hoài nghi gì về điều đó."

Người này nói, "Trời đất, tao phải đã là thằng ngu

mà đi mua mày!"

Con vẹt nói, " Không hoài nghi gì về điều đó!"

Đó là tất cả những gì con vẹt biết. Bạn hỏi bất kì câu

hỏi nào, câu trả lời vẫn là một. Nó chẳng liên quan gì tới

câu hỏi cả, nó chẳng liên quan gì tới thực tại, nó không

phải là đáp ứng. Nó giống như máy ghi âm. Nó cứ lặp

lại một cách vô nghĩa.

Những người đã được ước định để nói có - có với

Thượng đế, có với tôn giáo, có với xã hội, có với cha mẹ

- có của họ là hư huyễn, nó không có thực chất. Nó thậm

chí không có cái bóng. Ngay cả bóng cũng phải có cái gì

đó trong chúng, nhưng có này tuyệt đối vô thực thể. Cha

mẹ dạy bạn kính trọng cha mẹ, nói có với họ, vâng lời.

Tất nhiên, đó là quyền lợi được đầu tư của họ. Và các tu

sĩ nói: Kính trọng tu sĩ, kính trọng Kinh Thánh, Koran,

Gita, kính trọng tín ngưỡng, kính trọng tục lệ. Đó là

quyền lợi được đầu tư của người đó. Vân vân và vân

vân.

Ai đó hỏi George Gurdjieff, "Tại sao kính trọng cha

mẹ lại được nhấn mạnh, trong mọi tôn giáo, trong mọi

nước, trong mọi xã hội? Có cái gì đó thiêng liêng trong

nó sao?" Gurdjieff cười và nói, "Có chứ. Thượng đế biết

hoàn toàn rõ rằng nếu mọi người được huấn luyện nói

có với cha mẹ, chỉ thế thì họ sẽ nói có với Thượng đế.

Ông ấy có quyền lợi được đầu tư trong đó" - bởi vì

Thượng đế là nhân vật người cha, cha tối thượng. Và

Gurdjieff cũng nói, "Cha mẹ chẳng chóng thì chầy rồi sẽ

chết, và thế rồi sẽ có chân không. Bạn kính trọng cha mẹ

mình, bạn vâng lời cha mẹ mình, bạn bao giờ cũng tuân

theo, bắt chước bất kì điều gì họ nói. Bạn chỉ là bản sao.

Bạn sẽ cảm thấy rất trống rỗng - nhiều tới mức bạn

muốn rót đầy cái trống rỗng của mình bằng cái gì đó. Và

đó là chỗ Thượng đế sẽ bắt đầu rót vào bạn."

Ông ấy đang nói đùa đấy. Đó không phải là quyền

lợi được đầu tư của Thượng đế đâu. Tất nhiên nó là

quyền lợi được đầu tư của các tu sĩ. Thượng đế không

có quyền lợi được đầu tư vào cái gì. Thực tế không có

Thượng đế như một người; Thượng đế chỉ là tính

thượng đế.

Người ta không cần tin vào Thượng đế, người ta

không cần là người nói-có. Người ta phải học quá trình

nói không.

Cho nên Jinesh này, đừng lo. Cứ mạnh dạn, dũng

cảm nói không đi. Mạo hiểm mọi thứ vì nói không. Dần

dần, dần dần bạn sẽ trở nên nhận biết rằng cái không là

có giới hạn. Có những điểm mà bạn không thể nói

không được. Khi bạn thám hiểm các khả năng của nói

không, bạn sẽ bắt gặp những chỗ nào đó mà nói không

là không thể được và có nảy sinh bên trong tim bạn theo

cách riêng của nó, không như việc ước định, không phải

bởi vì ai đó đã bảo bạn. Bây giờ nó là việc nở hoa của

riêng bạn. Và thế thì cái có đó có cái đẹp, thế thì cái có

đó có chân lí, cái có đó làm bạn thành người tôn giáo.

Bằng không bạn vẫn chỉ là kẻ bắt chước. Bạn có thể bắt

chước người Ki tô giáo hay người Hindu giáo hay người

Mô ha mét giáo - chả thành vấn đề bạn bắt chước ai.

Tôi đã thấy những người Ki tô giáo trở thành người

Hindu, người Hindu trở thành người Ki tô giáo - họ là

cùng người đó thôi. Mà không chỉ thế, tôi đã thấy người

Cơ đốc giáo trở thành người cộng sản - họ vẫn là cùng

người đó thôi. Tôi đã thấy người cộng sản trở thành

người tôn giáo - nhưng dầu vậy họ vẫn là cùng người

đó. Chỉ đối tượng của việc tôn thờ là thay đổi. Thượng

đế cứ thay đổi. Thượng đế này thất bại, Thượng đế khác

được thay thế vào - nhưng người tôn thờ vẫn là người

cũ. Dù bạn tôn thờ Mohammed hay Marx, Mahavira hay

Moses, điều đó cũng chẳng tạo ra khác biệt gì.

Nếu có của bạn đã không tới như việc trưởng thành

cho bạn, thế thì nó tuyệt đối vô dụng. Đi qua lửa này của

nói-không đi, nhưng nhớ chỉ một điều thôi: đừng để nó

trở thành thói quen. Nó có thể trở thành thói quen, điều

đó là nguy hiểm. Nguy hiểm không phải ở việc nóikhông.

Nguy hiểm là ở chỗ nói-không của bạn có thể trở

thành máy móc. Cho nên nói có một cách có ý thức, đó

là tất cả những gì tôi có thể khuyên bạn - nói có một

cách có ý thức! Đừng cứ nói có bởi vì bạn đã trở thành

quen thuộc. Sẽ là ngu xuẩn khi nói có một cách vô

nghĩa. Nếu bạn nói có như thói quen, nó là vô nghĩa.

Có những người hữu thần và có những người vô

thần, và họ tất cả đều trong cùng một con thuyền. Ai đó

đã được bảo từ chính lúc ban đầu rằng có Thượng đế -

nói có và bạn sẽ được cứu. Và ai đó đã được bảo không

có Thượng đế - nói không và bạn được cứu. Và họ cả

hai đều lặp lại. Bạn đang bắt chước ai là không liên

quan.

Một người vào một nhà hàng và gọi một chén trà.

Ông ta nói, "Xin-xin cho tôi-tôi một chén-chén trà."

Một người khác đang ngồi đối diện qua bàn cũng

lặp lại hệt như vậy, "Xin-xin cho tôi-tôi một chén-chén

trà."

Người thứ nhất nhìn người thứ hai một cách giận dữ

nhưng không nói gì. Thế rồi người thứ ba bước vào và

ông ta yêu cầu đem cho ông ta một chén trà.

Và người thứ hai nói, "Vâng, đem chén trà khác cho

tôi nữa."

Bây giờ người thứ nhất thực sự tức giận. Ông ta nói,

"Ông-ông đã bắt-bắt chước tôi!"

Và người thứ hai nói, "Không-không. Tôi đang bắt

chước ông ấy."

Nhưng bạn đang bắt chước ai? Có thành vấn đề

không? Bắt chước là bắt chước.

Mọi người đều là kẻ bắt chước. Toàn thế giới đầy

những kẻ bắt chước đó. Bạn cho rằng những kẻ bắt

chước đó là người nói-có sao? Bạn cho rằng những kẻ

bắt chước đó là người nói-không sao? Họ chẳng nói gì

cả, họ đơn giản lặp lại bất kì cái gì họ đã được bảo lặp

lại.

Cho nên Jinesh này, cứ nhớ một điều thôi: đừng để

nó thành thói quen. Có ý thức về nó và bạn sẽ được ích

lợi mênh mông.

Tôi đã nghe:

Một cựu đảng viên quốc xã đang cố che giấu sự kiện

là ông ta đã từng là quân xung kích quốc xã. Ông ta

quyết định trở thành ca sĩ nhạc kịch.

Khi đêm trình diễn lần đầu tới ông ta bước lên sâu

khấu, nhìn vào khán giả và tuyên bố, "Tôi sẽ hát - và các

bạn sẽ nghe!"

Những điều này trở thành vô ý thức. Bạn không thể

che giấu được chúng. Mọi người khác sẽ có khả năng

thấy ngoại trừ bạn. Nếu bạn cũng có thể thấy thói quen

của mình, bạn bắt đầu tách rời ra chút ít, không bị đồng

nhất với chúng, một chút ít rời xa. Và chính việc rời xa

đó là siêu việt. Thế thì bạn sẽ có khả năng nói khi nào

không được cần tới - bạn sẽ nói không. Và bạn sẽ có khả

năng nói có khi có được cần tới. Bạn sẽ không bị cố

định.

Bị cố định là không lành mạnh. Tôi không muốn

bạn trở thành người nói-có; tôi muốn bạn có ý thức, tỉnh

táo, quan sát, đáp ứng. Có những khoảnh khắc khi toàn

bộ bản thể bạn muốn nói không. Thế thì nói không. Nếu

mọi thứ phải được mạo hiểm, thì mạo hiểm, nhưng đừng

giả dối với bản thể riêng của mình. Và sẽ có những

khoảnh khắc khi toàn thể bản thể bạn nói, "Nói có." Và

thế nữa, có thể có nguy hiểm lớn trong nói có, nhưng cứ

nói nó. Đó là cách thức của sannyasin, người thực sự tôn

giáo.

Đừng trở nên bị cố định. Bạn có thể đi từ nói-không

sang nói-có, và bạn có thể vẫn còn vô ý thức và bị cố

định. Thế thì chẳng cái gì xảy ra cả. Việc không tin của

bạn đã trở thành niềm tin, nhưng bạn vẫn là cùng con

người cũ.

Ira Schwartzbaum nghĩ mình là Thượng đế. Cha mẹ

lo lắng của anh ta, không thể nào thuyết phục được anh

ta khác đi, chung cuộc đưa anh ta tới gặp một nhà tâm

thần nổi tiếng thế giới. Ira nằm trên tràng kỉ và nhắm

mắt lại.

"Kể cho tôi," nhà tâm thần hỏi anh ta bằng một

giọng thông cảm, động viện, "tất cả những điều đó bắt

đầu thế nào?"

"Thế này," Ira nói, "vào ngày đầu tiên ta đã tạo ra

trái đất, thế rồi...."

Bạn có thể bị cố định. Và một khi bạn bị cố định

vào điều nào đó, khi bạn không thể có cái nhìn tách rời

nó, khi bạn không thể tạo ra khoảng cách giữa nó và bạn

- bạn là không lành mạnh. Việc cố định của bạn là gì

không quan trọng. Bạn có thể là người cộng sản hay

người Cơ đốc giáo, người Hindu hay người Mô ha mét

giáo, người tin/người không tin, nói-không/nói-có - điều

đó tất cả đều như nhau.

Do đó, Jinesh này, đừng lo về việc nói-không của

bạn. Có ý thức về nó đi. Lần sau bạn nói không, đừng

chỉ nói nó từ thói quen, từ hình mẫu quá khứ. Suy ngẫm,

quan sát, chờ đợi... và để đáp ứng nảy sinh trong bạn.

Và bạn có thể ngạc nhiên - có nảy sinh. Và nó sẽ được

sinh ra trong bạn, nó sẽ không bị áp đặt từ bên ngoài.

Tự do của bạn có giá trị tối cao. Không cái gì cao

hơn điều đó. Nhưng tự do của bạn là có thể chỉ nếu bạn

không bị cầm tù trong thói quen của mình, các hình mẫu

vô thức của việc sống. Thay đổi động thái của bạn từ vô

thức sang ý thức đi. Và tôi biết rằng khi bạn trở nên có ý

thức bạn sẽ có khả năng nói có nhiều hơn nói không.

Chung cuộc một khoảnh khắc tới khi cuộc sống trở

thành chỉ có. Nhưng nó không phải là cố định. Bạn vẫn

có khả năng nói không, không phải là bạn đã trở nên

không có khả năng nói không. Thực tế, có của bạn càng

lớn, khả năng của bạn nói không cũng lớn theo cùng tỉ

lệ. Bạn có thể không nói... điều đó có thể không được

cần tới. Hiểu biết của bạn về cuộc sống, chuyện tình của

bạn với cuộc sống có thể đã đem bạn tới niềm vui vô

cùng tới mức bạn có thể không muốn nói không. Bạn có

thể thấy tính trẻ con của nó, cái ngu xuẩn của nó, cái

ương ngạnh của nó. Bạn có thể thấy chất độc của nó và

bạn có thể không nói không, nhưng điều đó không có

nghĩa là bạn đã trở thành không có khả năng nói nó. Bạn

càng có khả năng nói có, theo cùng tỉ lệ bạn sẽ có khả

năng nói không nữa. Nhưng bây giờ mọi thứ sẽ được

quyết định bởi đáp ứng có ý thức của bạn.

Chung cuộc người thức tỉnh dừng nói không. Không

phải là người đó cố ý quyết định không nói không... nó

đơn giản khô héo đi như lá khô rụng khỏi cây.

#8Câu hỏi thứ hai:

Thưa Thầy kính yêu,

Tại sao lại khó thế và sợ bày tỏ tình cảm của mình

và chỉ là bản thân mình?

Prem Deven, khó bày tỏ tình cảm của bạn và chỉ là

bản thân bạn bởi vì trong hàng nghìn năm bạn đã từng

được bảo kìm nén tình cảm của mình. Nó đã trở thành

một phần của vô thức tập thể của bạn. Trong hàng nghìn

năm bạn đã từng được bảo đừng là bản thân mình. Là

Jesus, là Phật, là Krishna, nhưng đừng bao giờ là bản

thân bạn. Là ai đó khác. Trong nhiều thời đại bạn đã

được dạy liên tục tới mức, dai dẳng tới mức nó đã đi vào

trong máu bạn, trong xương bạn, trong chính tuỷ bạn.

Tự bác bỏ sâu sắc đã trở thành một phần của bạn.

Mọi tu sĩ đã từng kết án bạn. Họ đã từng bảo bạn rằng

bạn là tội đồ, bạn sinh ra trong tội lỗi. Hi vọng duy nhất

của bạn là ở chỗ Jesus có thể cứu bạn, hay Krishna có

thể cứu bạn, nhưng không có hi vọng khi có liên quan

tới bạn - bạn không thể tự cứu mình được, ai đó khác sẽ

cứu bạn. Bạn mang định mệnh thất bại, bạn chỉ có thể

cầu Jesus, cầu Krishna, cứu bạn. Khi có liên quan tới

bạn, bạn chỉ là vô dụng, bạn chỉ là cát bụi chứ không gì

nhiều hơn. Bạn không có giá trị, bạn đã bị thu về những

điều xấu xí, thành người kinh tởm. Chính bởi vì điều

này, Deven này, mà người ta thấy rất khó và sợ bầy tỏ

tình cảm thực của mình. Bạn đã được dạy cho thái độ

đạo đức giả.

Thái độ đạo đức giả mang lợi, và bất kì cái gì mang

lợi cũng dường như có giá trị. Họ nói trung thực là chính

sách tốt nhất - nhưng nhớ, chính sách tốt nhất. Ngay cả

trung thực cũng đã trở thành chỉ là chính sách bởi vì nó

mang lại lợi. Nếu nó không mang lợi, thì sao? - thế thì

không trung thực là chính sách tốt nhất. Toàn thể vấn đề

phụ thuộc vào cái gì có tác dụng, cái gì mang lợi, cái gì

làm bạn giầu hơn, đáng kính hơn, cái gì làm bạn thoải

mái hơn, an toàn hơn, an ninh hơn, cái gì cho bạn nhiều

nuôi dưỡng hơn cho bản ngã - đó là chính sách tốt nhất.

Nó có thể là trung thực, nó có thể là không trung thực...

dù nó là bất kì cái gì, dùng nó như phương tiện; nó

không phải là mục đích.

Tôn giáo cũng đã trở thành chính sách tốt. Nó là một

loại bảo hiểm cho thế giới kia. Bạn đang chuẩn bị bằng

việc là đức hạnh, bằng việc đi tới nhà thờ, bằng việc ban

tặng cho người nghèo, cho thế giới kia. Bạn đang mở tài

khoản ngân hàng trên thiên đường, để cho khi bạn tới đó

bạn sẽ được đón nhận với niềm vui lớn, các thiên thần

kêu "Alleluia!", nhảy múa, chơi đàn hạc. Tài khoản

ngân hàng bạn có ở đó lớn bao nhiêu sẽ tuỳ thuộc vào

bao nhiêu hành vi đức hạnh bạn làm.

Tôn giáo nữa cũng đã trở thành kinh doanh, và thực

tại của bạn bị kìm nén. Và người kìm nén đã từng được

kính trọng nhiều thế. Bạn gọi họ là thánh nhân; họ thực

sự bị tinh thần phân liệt. Họ đáng phải được chữa trị, họ

cần trị liệu - và bạn tôn thờ họ. Trong một trăm thánh

nhân của bạn, cho dù chỉ một người là thánh nhân thực,

điều đó sẽ là phép màu. Chín mươi chín người kia chỉ là

kẻ bịp bợm, kẻ giả vờ, kẻ lừa dối. Và tôi không nói họ

đang lừa bạn... họ đang lừa bản thân họ nữa. Họ là

những người kìm nén.

Tôi đã biết nhiều mahatmas trên nước này, được

quần chúng kính trọng như bất kì cái gì. Tôi đã từng rất

thân thiết với những người này, và ở chỗ riêng tư của

mình họ đã cởi mở trái tim họ cho tôi. Họ còn xấu hơn

điều bạn thấy ở người thường.

Tôi thường tới thăm các tù nhân, để dạy họ cách

thiền, và quan sát của tôi là.... Tôi đã ngạc nhiên lúc ban

đầu rằng các tù nhân đó - ngay cả những người bị xử

chung tân - còn hồn nhiên hơn nhiều so với các thánh

nhân của bạn, là những người tốt hơn nhiều so với thánh

nhân của bạn, đơn giản hơn nhiều, hồn nhiên hơn nhiều.

Thánh nhân của bạn tinh ranh, láu cá, và thánh nhân của

bạn chỉ có một phẩm chất: rằng họ có khả năng kìm nén

bản thân mình. Họ cứ kìm nén. Thế thì một cách tự

nhiên, họ trở thành chia chẻ. Thế thì họ có hai loại cuộc

sống: một cuộc sống họ sống ở cửa trước, và cuộc sống

kia họ sống ở cửa sau; một cuộc sống họ sống như

phòng trưng bày hàng, và cuộc sống kia - cuộc sống

thực - cái họ không bày ra cho bất kì ai xem. Họ sợ ngay

cả tự mình thấy nó.

Và đó là trường hợp với bạn nữa, trên qui mô nhỏ

hơn, tất nhiên, bởi vì, Deven này, bạn không là thánh

nhân. Bệnh của bạn còn chưa phải là không chữa được,

nó có thể được chữa lành. Nó còn chưa cấp tính thế, nó

còn chưa kinh niên. Bệnh của bạn cũng giống như cảm

thông thường: nó có thể biến mất dễ dàng.

Nhưng mọi người đều bị ảnh hưởng bởi cái gọi là

thánh nhân này, người thực sự là những người không

lành mạnh. Họ kìm nén quá nhiều - họ đã kìm nén dục

của họ, họ đã kìm nén tham lam của họ, họ đã kìm nén

giận của họ - và họ đang sôi lên bên trong bản thân

mình. Cuộc sống bên trong của họ rất ác mộng. Không

có an bình, không có im lặng. Tất cả nụ cười của họ đều

tô vẽ.

Tôi đã nghe nói về một người đàn bà đẹp tới từ

phương Tây để tìm kiếm an bình. Bà ấy đi lên

Himalayas. Bà ấy đã nghe nói về một thánh nhân lớn

thường sống trong hang động. Khó mà tới được những

hang động đó, nhưng bạn biết người Mĩ đấy: thứ gì càng

khó, họ càng quan tâm hơn; nó trở thành thách thức.

Cho nên bà Mĩ này lên tới đỉnh đó nơi vị thánh

sống. Ông ấy đã sống ở đó ba mươi năm tuyệt đối một

mình. Không một người nào đã từng tới thăm ông ấy

mọi lúc này, bởi vì người Ấn Độ rất lười; họ không bận

tâm đi xa tới đó. Họ đã xoay xở theo cách khác: cứ

mười hai năm họ lại tụ tập ở Allahabad và tất cả thánh

nhân từ mọi hang động đều xuống cho nên họ có thể có

tất cả các thánh nhân cùng nhau. Họ không bận tâm

nhiều tới việc đi lên Himalayas. Những người muốn

được tôn thờ tới theo cách của họ.

Nhưng bà người Mĩ này đã tới với nỗ lực gian nan,

và bà ấy nói với thánh nhân này - ông ấy rất già, cổ đại -

bà ấy bảo thánh nhân này, "Tôi đã tới đây để tìm an

bình. Tôi muốn an bình tâm trí và an bình trái tim."

Thánh nhân nói, "Vâng, bà đã tới đúng chỗ rồi. Bà

sẽ được cho cả hai điều đó. Đừng lo, con gái của ta.

Điều đó không khó. Bà sẽ có an bình của tâm trí và an

bình của trái tim."

Bà ấy rất sung sướng. Ít nhất ai đó cũng là chắc chắn

thế. Bà ấy đã gặp nhiều nhà tâm thần và nhà trị liệu; họ

tất cả đều nói rằng sẽ phải mất bẩy năm, mười năm phân

tích, mà thế nữa cũng chẳng có bảo đảm gì. Người này

chắc chắn thế, và ông ấy trông im lặng thế, hạnh phúc

thế... một người từ thế giới hoàn toàn khác, phi phàm

thế.

Nhưng nửa đêm thánh nhân này nhảy vào giường

của người đàn bà. Bà ấy choáng, trong vài giây bà ấy

không thể thốt ra được lời nào. Và thánh nhân này bắt

đầu làm tình, với tình yêu hoang dã, với người đàn bà.

Và người đàn bà nói, "Ông làm gì thế? Ông đã hứa

làm cho tôi an bình tâm trí và an bình trái tim! Mà ông

lại đang làm gì?"

Ông ta nói, "Điều đầu tiên: giao hợp đã! Chúng ta sẽ

chăm lo các việc khác sau. Người ta phải bắt đầu từ đầu

chứ."

Nếu bạn kìm nén.... Đó là vấn đề của ông ấy. An

bình tâm trí và an bình trái tim không phải là vấn đề của

ông ấy; ông ấy phải đã kìm nén trong ba mươi năm, và

ông ấy đã không gặp ngay cả một người đàn bà. Và tôi

không biết liệu người đàn bà này có thực đẹp hay

không, bởi vì nếu bạn không thấy đàn bà trong ba mươi

năm, bất kì đàn bà nào trông cũng đẹp! Bất kì đàn bà

nào trông cũng như cô ấy tới từ các thần.

Kinh sách Hindu đầy những chuyện rằng bất kì khi

nào một thánh nhân lớn đạt tới rất gần chứng ngộ, đàn

bà đẹp từ các thần tới để quấy rối ông ấy. Tôi vẫn chưa

có khả năng tìm ra tại sao các thần lại quan tâm tới việc

quấy nhiễu những anh chàng đáng thương này. Một số

người khổ hạnh, nhịn ăn nhiều năm, kìm nén, đứng trên

đầu, hành hạ bản thân mình... người đó không gây hại gì

cho bất kì ai ngoại trừ bản thân người đó. Tại sao các

thần lại phải quan tâm thế tới việc làm sao lãng người

đó? Họ đáng phải giúp người đó chứ! Và họ phái đàn bà

đẹp tới... trần truồng... và những đàn bà này nhảy múa

xung quanh và làm những cử chỉ khiêu dâm cho anh

chàng đáng thương này. Một cách tự nhiên anh ta trở

thành nạn nhân, anh ta bị cám dỗ, sa ngã khỏi ân huệ -

cứ dường như các thần chống lại bất kì ai sắp đạt tới gần

chứng ngộ hơn. Điều này dường như lố bịch thế. Họ

đáng phải giúp đỡ chứ. Thay vì giúp đỡ họ tới phá huỷ.

Nhưng những câu chuyện đó không nên được hiểu

theo từng từ; chúng là biểu tượng, chúng là biểu dụ.

Chúng rất có nghĩa. Nếu mà Sigmund Freud bắt gặp

những câu chuyện này, ông ấy chắc đã hoàn toàn thích

thú chúng. Nó sẽ là kho báu cho ông ấy. Nó đã hỗ trợ

cho phân tâm của ông ấy chứ không cái gì khác. Không

ai tới cả; những người bị kìm nén đó đã phóng chiếu.

Đây là ham muốn của họ, ham muốn bị kìm nén - bị kìm

nén lâu tới mức bây giờ chúng đã trở nên mạnh tới mức

ngay cả với mắt mở họ cũng mơ.

Cho nên tôi không biết liệu người đàn bà này có

thực đẹp không, nhưng bà ta phải đã có vẻ đẹp cho cái

gọi là thánh nhân này.

Ở Ấn Độ, nếu người đàn bà ngồi ở một chỗ, các

thánh nhân được dạy chớ có ngồi vào cùng chỗ đó sau

khi người đàn bà này đã đi rồi trong một khoảng thời

gian nào đó, bởi vì chỗ đó rung động với nguy hiểm.

Bạn có thấy cái ngu xuẩn của điều đó không? Và đây đã

là những thầy giáo của nhân loại đấy. Và đây là những

người đã làm cho bạn, Deven này, sợ tình cảm riêng của

bạn - bởi vì bạn không thể chấp nhận được tình cảm

riêng của mình. Bạn bác bỏ chúng, do đó mới có sợ.

Chấp nhận chúng đi, chẳng cái gì sai cả, chẳng cái

gì sai với bạn! Tất cả mọi cái được cần là không kìm

nén hay phá huỷ. Bạn phải học nghệ thuật tạo ra hài hoà

trong năng lượng của mình. Bạn phải trở thành dàn

nhạc. Vâng, nếu bạn không biết cách chơi nhạc cụ, bạn

sẽ tạo ra tiếng ồn, bạn sẽ làm cho hàng xóm của mình

phát điên. Nhưng nếu bạn biết nghệ thuật chơi nhạc cụ

bạn có thể tạo ra âm nhạc hay, bạn có thể tạo ra âm nhạc

tinh tú. Bạn có thể mang cái gì đó của cõi bên kia vào

thế gian.

Cuộc sống cũng là nhạc cụ lớn. Bạn phải học cách

chơi nói. Chẳng cái gì phải bị cắt bỏ, phá huỷ, kìm nén,

bác bỏ. Tất cả mọi cái Thượng đế đã trao cho bạn đều

đẹp. Nếu bạn không có khả năng dùng nó một cách đẹp

đẽ, điều đó đơn giản chứng tỏ rằng bạn còn chưa đủ

nghệ thuật. Chúng ta đã coi các kiếp sống của mình như

được cho không, và điều đó là sai. Chúng ta được cho

chỉ khả năng thô thôi. Chúng ta được cho chỉ một tiềm

năng về cuộc sống; chúng ta phải học cách hiện thực nó.

Đó là điều tính chất sannyas tất cả là gì, Deven này.

Đó là điều tất cả những phương cách này đang là: thiền,

trị liệu - tất cả các nguồn có thể phải được dùng để cho

bạn có thể biết cách dùng giận dữ của mình theo cách nó

trở thành từ bi, cách dùng dục của bạn theo cách nó trở

thành tình yêu, cách dùng tham lam của bạn theo cách

nó trở thành chia sẻ. Mọi năng lượng bạn có đều có thể

trở thành cực đối lập của nó, bởi vì cực đối lập bao giờ

cũng được chứa trong nó.

Thân thể bạn chứa linh hồn, vật chất chứa tâm trí.

Thế giới chứa Thượng đế. Cát bụi chứa điều thiêng

liêng. Bạn phải khám phá nó, và bước đầu tiên hướng

tới khám phá là chấp nhận bản thân mình, hân hoan

trong việc là bản thân mình. Bạn không phải là một

Jesus, không, bạn không phải là một Phật. Bạn không

phải là tôi hay bất kì ai khác. Bạn phải là chính bản thân

mình. Thượng đế không muốn các bản sao; ngài yêu

tính duy nhất của bạn. Và bạn có thể cúng dường bản

thân mình cho Thượng đế chỉ như một hiện tượng duy

nhất. Bạn có thể được chấp nhận như một thứ cúng

dường nhưng chỉ như một hiện tượng duy nhất. Bắt

chước Jesus, Krishna, Christ, Phật, Mohammed - những

người này sẽ không có tác dụng. Những người bắt

chước nhất định bị bác bỏ.

Là bản thân mình, đích thực là bản thân mình. Kính

trọng bản thân mình. Nếu Thượng đế đã trao cuộc sống

cho bạn, ngài kính trọng bạn đấy. Và bạn có chuẩn cao

hơn bản thân Thượng đế không? Yêu bản thân mình đi.

Thượng đế yêu bạn. Và thế rồi bắt đầu quan sát mọi loại

năng lượng trong bạn - bạn là vũ trụ bao la!

Và dần dần, dần dần khi bạn trở nên ý thức nhiều

hơn, bạn sẽ có khả năng để mọi thứ đúng, vào đúng chỗ.

Bạn đang lộn ngược, điều đó đúng, nhưng không cái gì

sai với bạn. Bạn không phải là tội đồ - chỉ chút ít thu

xếp lại và bạn sẽ trở thành hiện tượng đẹp.

#8Câu hỏi thứ ba:

Thưa Thầy kính yêu,

Tôi có bị phí hoài năng lượng bằng việc nhìn vào

huyền bí như cách thám hiểm không gian bên trong

không?

Mark, huyền bí dành cho người ngu. Thượng đế

không bị giấu kín; Thượng đế được biểu lộ rất nhiều.

Ngài ở khắp chốn: việc hót của chim, việc nở trong hoa.

Ngài là mầu lục trong cây cối, mầu đỏ trong hoa hồng.

Ngài đang thở trong bạn. Ngài đang nói qua tôi và đang

nghe qua bạn ngay chính khoảnh khắc này. Nhưng bạn

không muốn thấy điều hiển nhiên.

Con người có mối quan tâm rất bệnh hoạn vào điều

huyền bí. Huyền bí nghĩa là cái bị giấu kín. Con người

muốn quan tâm vào cái bị giấu kín - và chẳng có gì bị

giấu kín cả! Khi có liên quan tới Thượng đế thì chẳng

cái gì bị giấu kín. Cứ mở mắt bạn ra và ngài đang đứng

trước bạn. Im lặng và bạn sẽ nghe thấy tiếng nói tĩnh

lặng, nhỏ bé bên trong bản thân mình. Sao phải đi vào

huyền bí để thám hiểm không gian bên trong? Sao

không đi thẳng vào không gian bên trong? Huyền bí vô

nghĩa nhiều thế, và chẳng có tận cùng cho nó bởi vì nó

tất cả đều là bịa đặt. Nó là hư cấu tôn giáo. Cũng như có

hư cấu khoa học, huyền bí là hư cấu tôn giáo. Nếu bạn

yêu hư cấu, điều đó hoàn toàn tốt. Nhưng thế thì đừng

nghĩ rằng bằng việc đọc hư cấu khoa học bạn đang

nghiên cứu khoa học. Và đừng tin vào hưu cấu khoa

học, và đừng hành động từ niềm tin đó; bằng không bạn

sẽ chấm dứt trong nhà thương điên.

Huyền bí đích xác giống như hư cấu khoa học. Mọi

người thích hư cấu; không có gì sai trong nó, nhưng bạn

nên biết rằng nó là hư cấu. Tận hưởng đi, nhưng đừng

coi nó là nghiêm chỉnh.

Vào thời Phật đã có tám bậc thầy vĩ đại. Mahavira là

người nổi tiếng - ông ấy là bậc thầy chứng ngộ cuối

cùng của tín ngưỡng của người Jainas. Ông ấy thường

nó có ba địa ngục. Một trong các đệ tử của ông ấy trở

thành kẻ phản đạo, đã phản bội ông ấy, tự tuyên bố bản

thân mình là thầy, và ông ta bắt đầu nói về bẩy địa ngục.

Ông ấy hay nói với mọi người, "Mahavira không biết

nhiều; ông ấy chỉ biết có ba địa ngục còn tôi biết bẩy."

Và một cách tự nhiên mọi người bị ấn tượng. Mahavira

chỉ nói ba địa ngục còn ông ấy nói về bẩy!

Một bậc thầy lớn là Sanjay Belattiputta, người

đương đại khác của Phật. Ông ấy phải đã là một người

kiểu gì đó giống tôi - không nghiêm chỉnh. Ông ấy bắt

đầu nói về bẩy trăm địa ngục. Ông ấy nói, "Cái ông

Gosalak này đang nói về cái gì vậy? - chỉ có bẩy thôi

sao? Có bẩy trăm đấy, và có bẩy trăm cõi trời nữa."

Ông ấy đùa, nhưng mọi người rất ấn tượng. Đây

dường như là người đúng, người đã đi sâu thế vào trong

huyền bí.

Có lần một tín đồ của Radhaswami, một giáo phái

nhỏ bị giới hạn trong khu vực gần Agra, tới gặp tôi. Tôi

ở Agra. Ông ta là một loại tu sĩ, và ông ta nói, "Ông có

biết không? - thầy chúng tôi đã nói có mười bốn bình

diện của sự tồn tại."

Tôi nói, "Có mười bốn thôi à?"

Ông ta nói, "Ông ngụ ý gì, 'Có mười bốn thôi à'?

Còn có nữa à?"

Tôi nói, "Chắc chắn."

Ông ta nói, "Nhưng thầy chúng tôi đã nói chỉ có

mười bốn thôi. Mohammed đã đạt tới chỉ tầng mười ba,"

ông ta nói - ông ấy đã mang tới tấm bản đồ - "Kabir và

Nanak đã đạt tới tầng thứ năm. Và Mahavira và Phật lên

tới tầng thứ bẩy," vân vân và vân vân. Nhưng chưa bao

giờ có người khác đã đạt tới tầng thứ mười bốn ngoại

trừ cái gọi là thầy của ông ta.

Tôi nói, "Tôi biết thầy ông. Tôi đã thấy ông ấy đang

vật lộn ở tầng thứ mười bốn. Ông ấy cố vất vả đấy,

nhưng ông ấy không thể ra khỏi tầng đó được. Tôi biết

điều đó bởi vì tôi ở tầng thứ mười lăm. Có mười lăm

bình diện của sự tồn tại."

Ông ta nói, "Nhưng thầy là người đầu tiên...." Và

ông ta ấn tượng lắm. Khi ông ta ra đi ông ta chạm chân

tôi và ông ta nói, "Thầy đã để lộ bí mật mới."

Tôi nói, "Đừng có ngu. Tôi chỉ đùa đấy! Chỉ có hai

loại người: người không nhận biết và người nhận biết.

Người nhận biết không có cấp bậc rằng người này nhiều

nhận biết hơn người khác, rằng ai đó ở tầng thứ năm, ai

đó ở tầng thứ bẩy, ai đó ở tầng thứ chín, ai đó ở tầng

mười bốn. Không có cao hơn và thấp hơn trong nhận

biết. Nhận biết đơn giản là nhận biết."

Nhưng ông ta không mấy quan tâm tới điều đó. Ông

ta quan tâm nhiều hơn tới việc tôi ở bình diện thứ mười

lăm.

Mọi người quan tâm tới hư cấu tôn giáo.

Mark, đừng phí thời gian của bạn vào huyền bí, trừ

phi bạn quan tâm tới tiểu thuyết, hư cấu. Thế thì điều đó

là được, thế thì không có vấn đề gì....

Diễn giả về môn huyền bí đang cảnh báo chủ đề của

mình về biểu hiện siêu nhiên. "A, các bạn ơi," ông ta

kêu lên, một cái nhìn sốt sắng tận tuỵ làm sinh động

khuôn mặt ông ta. "Nếu các bạn có thể được làm cho tin

tưởng! Nếu duy nhất thế giới này dừng việc đùa cợt của

nó và đi tới nhận ra rằng sự trừng phạt từ Bến bờ Huyền

ảo xảy ra mọi lúc."

Diễn giả này nhìn qua các khuôn mặt thính giả để

tìm những linh hồn thông cảm, người đồng ý với triết lí

của ông ta.

"Tôi đã kể cho các bạn về kinh nghiệm riêng của

tôi," ông ta tiếp tục, "nhưng chắc chắn một trong các bạn

cũng đã có trao đổi trực tiếp với linh hồn người đã

khuất. Nếu có người nào như vậy ở đây trong khán giả

này, người đã có tiếp xúc với ma, tôi rất ngưỡng mộ nếu

người đó đứng dậy."

Từ chỗ ngồi của mình ở hàng trước, bà Faigel

Frume đứng lên trên bàn chân mình. "Tôi," bà ấy nói to.

"Kinh nghiệm như thế tôi có mà các ông sẽ không tin

được."

"Điều này rất đáng hài lòng," diễn giả vui sướng nói

khi tiếng vỗ tay đã giảm xuống. "Chú ý, một nhân chứng

tình nguyện; một người hoàn toàn xa lạ với tôi, đứng lên

để đưa ra bằng chứng của người đó. Thưa quí bà thân

mến, tôi hiểu bà nói rằng bà đã trong tiếp xúc với ma

phải không ạ?"

"Tiếp xúc với nó sao?" bà Frume nói vọng lại.

"Thậm chí còn hơn thế. Khi tôi còn là cô gái nhỏ ở Nga

một trong chúng đâm đầu vào tôi làm cho tôi thâm tím

đen."

"Ma đâm vào bà sao?"

"Ma à, ông nói thế à? Kì quái chưa! Tôi tưởng ông

nói con mã!"

Đừng phí thời gian của bạn vào ma và dê. Nếu bạn

muốn thám hiểu không gian bên trong, thì thám hiểm

không gian bên trong. Làm sao huyền bí vào được? Đó

là cách trốn khỏi không gian bên trong, không phải là

thám hiểm nó. Đó là cách giữ bản thân bạn dính líu vào

cái cực kì vô nghĩa! Và thượng đế học, đặc biệt trong

thời đại này, đã để lộ ra nhiều điều vô nghĩa thế: hàng

trăm cuốn sách và đủ mọi thứ ngu xuẩn. Mọi người khờ

dại tới mức họ sẵn sàng tin vào bất kì cái gì.

Con người ngày nay tồn tại trong một loại chân

không. Tôn giáo cũ đã chết hay gần như chết. Hoặc

chúng đã chết hoặc chúng đang hấp hối; do đó những tín

ngưỡng mới đang mọc lên ở mọi nơi, và tất cả những tín

ngưỡng mới này đều cần hư cấu mới để cám dỗ bạn.

Tôi không thể cho bạn hư cấu huyền bí nào được.

Tôi không quan tâm tới bất kì cái gì huyền bí. Tôi là

người ngay trên đất bằng. Tôi đơn giản phát biểu các sự

kiện. Tôi không muốn trang điểm chúng. Tôi không

muốn tạo ra ảo tưởng trong tâm trí bạn; tôi không muốn

tạo ra phóng chiếu trong tâm trí bạn. Nỗ lực của tôi ở

đây là để giúp bạn vượt ra ngoài tâm trí và mọi điều

huyền bí và bí truyền, thượng đế học, nhân loại học - và

có nhiều trường phái thế. Bạn có thể tạo ra trường phái

riêng của mình; không cần tin vào trường phái của bất kì

ai khác, bạn có thể tạo ra trường phái riêng của mình.

Tất cả những gì bạn cần chỉ là bút chì và giấy; bạn có

thể cứ viết ra hư cấu riêng của mình. Điều đó sẽ là

chứng ngộ xa hơn nhiều. Ít nhất nó sẽ là cái gì đó sáng

tạo. Thế rồi đưa bản sao của bạn cho ai đó, và bạn sẽ tìm

thấy vài người tin. Thế thì bạn sẽ biết cách mọi người cứ

tin vào đủ mọi thứ.

J. Krishnamurti được các nhà thượng đế học nuôi

lớn. Ông ấy được cho ăn uống, được bón bằng thìa với

đủ mọi loại huyền bí. Ông ấy trở nên chán ngán tới mức

khi các nhà thượng đế học sắp sửa tuyên bố ông ấy là

thầy giáo của thế giới.... Cái ngày họ tụ tập từ khắp thế

giới - sáu nghìn người lãnh đạo của thượng đế học - khi

họ yêu cầu Krishnamurti tuyên bố, ông ấy đứng dậy và

nói, "Tôi giải tán tổ chức này. Tôi không là thầy giáo

của ai cả. Tôi được kết thúc với nó rồi, và tôi không

muốn nói gì thêm nữa!"

Họ bị choáng, nhưng khi tôi xem xét điều đó, đó là

kết luận logic. Trong nhiều năm ông ấy đã được dạy đủ

mọi loại vô nghĩa bởi đủ mọi loại người ngu. Ông ấy

phát chán với toàn thể vấn đề. Nhưng những bà già, và

đặc biệt những người già về hưu, lại rất quan tâm. Họ

chiếm đa số trong các nhà thượng đế học - người về hưu

và những bà già người bây giờ chẳng có gì khác để làm

- và họ tụ tập lại và nói những điều vô nghĩa về ma và

về các bậc thầy Tây Tạng, người tới từ không trung, và

về các bức thứ mà Thầy K.H.... Bây giờ không ai biết

K.H. này là ai cả. Tên đầy đủ của ông ấy là Koot Humi.

Cái đó nữa, chẳng ai biết nó nghĩa là gì. Bạn càng ít

hiểu, càng tốt.

Koot Humi - viết tắt K.H. - thường hay viết các lá

thư, đến cuối cùng người ta mới tìm ra rằng những thư

đó đã được đích thân bà Blavatsky viết. Một người phục

vụ thường ẩn mình trên mái nhà - cứ nghĩ mà xem, ở

ngay trên mái của Phòng Phật! - và có những lỗ nhỏ từ

đó, khi các nhà thượng đế học đang ngồi với mắt nhắm

chờ đợi Koot Humi, ông ta sẽ thả bức thư xuống.

Bây giờ, mọi người ngu thế.... Chỉ tờ giấy thường -

họ có thể đã thấy nhãn hiệu nó là gì, nó đã được chế tạo

ở xưởng nào - mực thường, và chữ viết tay là của

Blavatsky. Thế rồi bức thư này sẽ được đọc, và những

bức thư đó được thu thập lại, và chúng là kho báu lớn.

Nhưng ở toà thượng thẩm đã có vụ kiện chống lại một

trong những nhà thượng đế học lớn, Leadbeater. Ông ấy

là đồng sự của Annie Besant, và ông ấy đã bị nghi ngờ

đồng dục. Chỉ là lão già dơ dáy, có vậy thôi!

Cho nên có vụ kiện ở toà thượng thẩm chống lại ông

ta, và trong vụ kiện đó người phục vụ của ông ta đã thú

nhận rằng mình là người thường ẩn trên mái nhà. Người

này tới và chỉ cái lỗ và chỗ người đó thường ẩn, và mọi

thứ bị khám phá ra. Dầu vậy, mọi người cứ đọc những

bức thư đó tin rằng Koot Humi đã viết chúng.

Khi mọi người muốn tin, khi họ cảm thấy trống

rỗng, niềm tin nào đó được cần tới. Họ níu bám lấy bất

kì cái gì, họ không lắng nghe... họ không lắng nghe trái

tim riêng của họ. Họ chỉ cần niềm tin; cho nên bất kì ai

đều sẵn sàng cung cấp điều đó. Bất kì chỗ nào có cầu

đều có cung. Mọi người cần hư cấu, cho nên có những

người khác - người láu cá, tinh ranh - người cứ cung cấp

hư cấu.

Ở một trường Cơ đốc giáo, bé Hans được yêu cầu

cho ví dụ về mệnh đề phụ thuộc.

"Mèo nhà con mới đẻ mười mèo con," nó đáp, "tất

cả chúng đều là người Cơ đốc giáo tốt."

"Tuyệt vời," thầy giáo nó. "Con hiểu sâu về văn

phạm cũng như tôn giáo của chúng ta."

Tuần sau giám mục tới thăm trường và thầy giáo gọi

Hans.

"Mèo nhà con mới đẻ mười mèo con," Hans nói, "tất

cả chúng đều là sannyasin tốt."

"Đó không phải là điều con đã nói tuần trước!" thầy

giáo cáu kỉnh nói.

"Dạ vâng," Hans đáp, "nhưng mèo con nhà con bây

giờ mở mắt rồi."

Tỉnh táo hơn chút ít, quan sát hơn chút ít. Có những

người lừa dối khắp xung quanh; bạn có thể dễ dàng bị

lừa.

Morrissey, người có tài nói tiếng bụng, đang trên

đường đi xuống quán rượu để uống rượu thì một con

chó xù lớn đi vào cạnh anh ta.

Họ đi vào, người nói tiếng bụng gọi một cốc rượu

scotch, và để gây cười anh ta nhìn vào con chó và nói,

"Này, mày có thứ uống thường lệ không?"

"Không, cám ơn, tôi đã ăn đủ buổi sáng rồi," con

chó nói.

Ông chủ quán sửng sốt. Ông ấy đề nghị mua con vật

năm mươi đô la.

"Dạ không, thưa ông!" Morrissey nói. "Tôi đã mua

nó từ khi nó là chó con."

"Tôi sẽ mua nó một trăm đô la!" người đứng quầy

nói.

Morrissey lắc đầu. Khi đề nghị lên tới năm trăm đô

là thì người nói tiếng bụng vồ lấy tiền và nhắm ra cửa.

"Thôi được," anh ta nói thêm, "chăm sóc nó cho cẩn

thận vào." Và với cái nhìn cuối cùng vào con chó, "Vĩnh

biệt, anh bạn cũ!" anh ta kêu lên.

"Anh bạn cũ, kẻ lừa đảo ơi!" con chó nói. "Sau điều

anh vừa làm tôi sẽ không bao giờ nói với người khác

chừng nào tôi còn sống!"

Cẩn thận về người tinh ranh, họ ở khắp xung quanh.

Đừng bị khai thác. Nhân loại đã bị khai thác đủ lâu rồi

bởi những người tinh ranh và người láu cá; đã đến lúc

đặt dấu chấm hết cho điều đó. Chín chắn lên thêm chút

ít đi.

Nếu bạn muốn thám hiểu không gian bên trong,

thiền đi. Lắng nghe điều Phật nói: Làm yên tĩnh tâm trí,

phản ánh, quan sát, và mọi bóng tối sẽ biến mất theo

cách riêng của nó, và bạn sẽ đầy ánh sáng.

#8Câu hỏi thứ tư:

Thưa Thầy kính yêu,

Chuyện đùa của thầy làm chúng tôi xa ra các tu sĩ

hơn một chút.

Thưa Thầy kính yêu, tôi hân hoan với sự tồn tại bởi

vì chứng ngộ của thầy! Tôi cảm thấy thoải mái được

ở đây, ở nhà sau nhiều năm tìm kiếm.

Deva Chintana, tôi tiếc nếu điều đó làm tổn thương

bạn. Tôi biết.... Deva Chintana đã từng là một ni. Cô ấy

đã dũng cảm. Cô ấy đã vứt bỏ tu viện và trở thành

sannyasin. Và chuyện đùa của tôi về các tu sĩ phải có vẻ

hơi chút khắc nghiệt với cô ấy, cũng là tự nhiên. Tôi

phải nghĩ tới cô ấy. Tôi sẽ cẩn thận hơn trong tương lai,

Chintana.

Chuyện đùa cho bạn:

Giáo hoàng chết... và một cách tự nhiên được giả

định là ông ấy sẽ lên cõi trời. Cho nên, ăn vận trong bộ

quần áo lộng lẫy của giáo hoàng, ông ấy bước thẳng tới

Ngọc Môn, lướt qua Thánh Peter, và thẳng tới lối vào.

"Này, ông! Ông đi đâu đấy?" Thánh Peter quát lên,

và hai thiên thần gác bước tới cản đường.

"Trông-a đây," giáo hoàng nói. "Ta-a là giáo-a

hoàng và ta...."

"Ai?"

"Giáo-a hoàng!!! Ta-a là giáo-a hoàng nhà-a thờ Cơ

đốc giáo-a và ta muốn lên cõi trời."

"Giáo hoàng á?" Thánh Peter nói. "Chưa bao giờ

nghe thấy ông. Chúng tôi không có ai có tên đó trong sổ,

có không, Gabriel? Không, rất tiếc thưa ngài, ông không

thể vào được."

"Này, lại đây! Ta-a là giáo-a hoàng! Ông để ta vào

đi. Hỏi-a Thượng đế-a Cha mà xem - ông ấy biết ta!"

Thánh Peter gọi Thượng đế Cha: "Này, Thượng đế,

đây là Thánh Peter - bảo vệ gác cổng. Rất tiếc quấy rầy

ông nhưng có một anh chàng ở đây tự xưng mình là giáo

hoàng và muốn vào bên trong - nói xem ngài biết ông ta

không."

"Ai thế?" Thượng đế Cha hỏi.

"Giáo hoàng."

"Ai?"

"Tôi nghĩ đó là điều ông ấy nói."

"Không, chưa bao giờ nghe tới ông ấy."

"Rất tiếc, giáo hoàng - Thượng đế Cha nói ông ấy

không biết ông."

"Cái gì? Nhưng nghe đây, tôi-a là giáo-a hoàng-a.

Ông ấy phải biết tôi chứ! Nhìn-a đây, ông hỏi Thượng

đế Con xem. Chắc chắn ông ấy biết tôi - tôi-a là đại diện

của ông ấy ở thế gian-a - ông ấy phải-a biết tôi!"

Thánh Peter gọi Thượng đế Con, nhưng câu trả lời

vẫn như thế: "Giáo hoàng à? Không, tôi chưa bao giờ

nghe nói về ông ta!"

Giáo hoàng thất vọng: "Thôi-a, ông giúp tôi-a đi.

Gọi-a Thánh thần linh thiêng - chắc là ông ấy biết tôi!

Tôi-a là giáo-a hoàng-a - giáo hoàng của nhà thờ-a Cơ

đốc giáo-a, đại diện tâm linh của Jesus Christ-a ở thế

gian-a!! Ông ấy phải biết tôi!"

Thánh Peter gọi Thánh thần linh thiêng. "Hừmmm,

giáo hoàng, ông nói thế à!" Thánh thần linh thiêng đáp.

"Hừm, vâng, ta đã nghe nói cái tên đó đâu đó trước

đây.... Đợi một phút! Ông ta là đồ con hoang cứ lan

truyền tin đồn về ta và Mary Đồng trinh. Bảo ông ta

xuống địa ngục!"

Chintana, tôi sẽ cố gắng hết sức mình. Nhưng tu sĩ

là tu sĩ; họ là những người xấu nhất trên thế gian, tinh

ranh nhất và thấp kém nhất, mặc dầu dáng vẻ của họ là

hoàn toàn khác.

Và tôi không nói rằng không có vài người tốt. Vài

người tốt cũng bị mắc vào mạng, nhưng những người tốt

đó đều ngây thơ. Những người tốt đó đều khờ dại,

những người tốt đó đều dễ bị khai thác.

Nhân loại phải gạt bỏ giới tu sĩ, chỉ thế thì mới có

thể có tôn giáo. Họ đã rất phá hoại. Chính bởi vì họ mà

thế giới này vẫn chưa có tính tôn giáo. Họ đã phân chia

nhân loại thay vì làm nhân loại thành một toàn thể.

Nhiều máu đã bị chảy ra nhân danh tôn giáo hơn nhân

danh bất kì cái gì khác. Thực tế, tôi không thực khắt khe

với họ đâu, tôi rất mềm mỏng với họ. Họ cần bị đánh

mạnh hơn. Và khi tôi đánh họ, tôi không thực sự đánh

họ đâu, mà chỉ đơn giản đánh vào ước định của bạn.

Tôi phải làm gì với giáo hoàng hay shankaracharya

hay imam hay Ayatollah Khomeiniac? Tôi chẳng có liên

quan gì tới những người này. Nhưng khi tôi đánh họ tôi

đơn giản đánh vào xiềng xích bên trong bạn, điều giữ

bạn trong tù túng. Chuyện đùa của tôi về các tu sĩ chỉ để

giúp bạn thoát ra khỏi nhà tù, cười lên. Tôi không muốn

việc thoát khỏi nhà tù trở thành chuyện nghiêm chỉnh,

bởi vì nếu nó trở thành chuyện nghiêm chỉnh bạn sẽ bị

ảnh hưởng bởi nghiêm chỉnh của mình và bạn sẽ mang

tải trọng đó đi cùng bạn. Và có mọi nguy cơ rằng bạn sẽ

bắt đầu phóng chiếu nghiêm chỉnh của bạn lên tôi.

Tôi có thể giải phóng bạn khỏi tu sĩ rất dễ dàng,

nhưng nguy hiểm là ở chỗ bạn có thể bắt đầu phóng

chiếu mọi thứ bạn đã từng phóng chiếu lên tu sĩ, nay lên

tôi. Điều đó không phải là tự do chút nào; duy nhất

xiềng xích của bạn được thay đổi.

Ai đó khác đã hỏi tôi:

Thưa Thầy kính yêu,

Tôi là kẻ hèn nhát và tôi không thể nhận tính chất

sannyas được. Điều gì sẽ xảy ra cho tôi?

Jesus đang trên cây thánh giá, các kẻ trộm ở bên

cạnh ông ấy. Bỗng nhiên lính gác biến mất và họ có một

mình. Thấy rằng không có ai xung quanh, Jesus nói với

hai tên trộm.

"Ăn năn đi, người anh em của ta!" ông ấy nói. "Ăn

năn đi, và vương quốc của Thượng đế sẽ được mở ra

cho các ông. Ta sẽ đưa các ông đi cùng ta tới Nhà của

Cha ta. Ăn năn đi!"

Một trong những kẻ trộm cúi mình trước Jesus, nói,

"Con ăn năn, lạy Chúa! Xin đưa con đi cùng thầy vào

Vương quốc của Thượng đế!"

Kẻ trộm kia quay đầu đi một cách khinh bỉ. "Chấm

dứt chuyện tào lao này đi!" người đó kêu lên.

Jesus khăng khăng, "Ăn năn đi! Tới chân ta!"

"Đéo cần!" trên trộm đáp.

Jesus nhìn anh ta một cách từ bi, và nói, "Không

may rồi, anh bạn! Ông sẽ không có trong bức tranh lưu

niệm, có vậy thôi!"

Cho nên đừng lo nếu bạn không là sannyasin. Nếu

bạn không thể thu được dũng cảm để là sannyasin, bạn

sẽ không ở trong bức tranh lưu niệm đâu, có vậy thôi.

Đừng coi điều đó là nghiêm chỉnh.

Toàn thể nỗ lực của tôi ở đây là để làm cho tính chất

sannyas là không nghiêm chỉnh nhất có thể được. Tôi

không muốn trở thành giáo hoàng hay shankaracharya.

Tôi không muốn trở thành cái thay thế cho bạn, vật thay

thế cho bạn. Tôi không muốn trở thành hình ảnh người

cha của bạn. Tôi đơn giản là người bạn.

Do đó bài nói của tôi không phải là thuyết giảng tôn

giáo bình thường. Tôi chỉ tán gẫu. Chúng không phải là

cẩm nang, chỉ là tán gẫu!

Đủ cho hôm nay.

****************************************************************************************************************

#9Vui thích trong thiền

Làm chủ giác quan của ông,

điều ông nếm và ngửi,

điều ông thấy, điều ông nghe.

Trong mọi thứ hãy là người chủ

của điều ông làm và điều ông nói và nghĩ.

Tự do.

Ông là người tìm kiếm.

Vui thích trong việc làm chủ

tay ông và chân ông,

lời ông và ý nghĩ của ông.

Vui thích trong thiền

và trong đơn độc.

Bình tĩnh lại, hạnh phúc đi.

Ông là người tìm kiếm.

Tự do là mục đích tối thượng của tôn giáo thực -

không phải Thượng đế, không phải thiên đường, thậm

chí không phải chân lí, mà là tự do. Điều này phải được

hiểu bởi vì đây là thông điệp bản chất của Phật Gautam

cho thế giới. Tự do có giá trị cao nhất theo ông ấy, cái

chí thiện; không có cái gì cao hơn cái đó. Nhưng với tự

do ông ấy không ngụ ý tự do chính trị, tự do xã hội, tự

do kinh tế. Với tự do ông ấy ngụ ý tự do của tâm thức.

Tâm thức chúng ta đang trong tù túng sâu sắc;

chúng ta bị xiềng. Bên trong là nhà tù của chúng ta,

không phải bên ngoài. Các bức tường của nhà tù không

phải ở bên ngoài chúng ta; nó tồn tại sâu trong vô thức

của chúng ta. Nó tồn tại trong bản năng của chúng ta, nó

tồn tại trong ham muốn của chúng ta, nó tồn tại trong vô

nhận biết của chúng ta.

Tự do là mục đích.

Nhận biết là phương pháp để đạt tới mục đích đó.

Và khi bạn thực sự tự do bạn là người chủ; sự nô lệ

biến mất. Bình thường chúng ta có thể có vẻ tự do,

nhưng chúng ta không tự do. Có thể có vẻ chúng ta là

người chọn, nhưng chúng ta không là người chọn đâu.

Chúng ta bị kéo, bị đẩy bởi các lực vô thức.

Khi bạn rơi vào tình yêu với người đàn bà hay đàn

ông, bạn có cho rằng bạn đã quyết định điều đó không,

nó có phải là chọn lựa của bạn không? Bạn biết hoàn

toàn rõ bạn không thể chọn để yêu, bạn không thể buộc

mình yêu ai đó được. Bạn không phải là người chủ, bạn

chỉ là nô lệ của lực sinh học. Đó là lí do tại sao trong

mọi ngôn ngữ cách diễn đạt là 'rơi vào tình yêu' - bạn rơi

vào trong tình yêu: bạn rơi từ tự do của mình, bạn rơi từ

tính ích kỉ của mình. Nếu tình yêu là chọn lựa của bạn,

bạn sẽ vươn lên trong tình yêu, không rơi vào tình yêu.

Thế thì tình yêu sẽ là từ tâm thức, và nó sẽ có phẩm chất

hoàn toàn khác, cái đẹp khác, hương thơm khác.

Tình yêu thông thường bốc mùi - bốc mùi của ghen

tuông, giận dữ, hận thù, sở hữu. Nó không phải là tình

yêu chút nào. Tự nhiên đang buộc bạn hướng tới cái gì

đó không phải là từ chọn lựa của bạn; bạn chỉ là nạn

nhân. Đây là cảnh nô lệ của chúng ta. Ngay cả trong tình

yêu chúng ta cũng là nô lệ, nói gì tới các thứ khác? Tình

yêu dường như là kinh nghiệm lớn lao nhất của chúng

ta; cho dù điều đó chỉ là sự nô lệ, cho dù trong điều đó

chúng ta chỉ khổ.

Mọi người khổ trong tình yêu nhiều hơn trong bất kì

cái gì khác. Khổ lớn nhất là ở chỗ nó lừa bạn - nó tạo ra

ảo tưởng rằng bạn là người chọn, và chẳng mấy chốc

bạn biết rằng bạn không phải là người chọn; tự nhiên đã

giở thủ đoạn ra với bạn. Các lực vô ý thức đã chiếm

quyền sở hữu bạn, bạn bị sở hữu. Bạn hành động không

từ ý riêng của mình; bạn chỉ là phương tiện. Đó là khổ

đầu tiên mà người ta bắt đầu cảm thấy trong tình yêu, và

khổ này lẩy cò cho toàn thể dây chuyền khổ.

Chẳng mấy chốc bạn trở nên nhận biết rằng bạn đã

trở thành phụ thuộc vào người khác, rằng không có

người khác bạn không thể tồn tại được, rằng không có

người khác bạn bắt đầu mất đi mọi ý thức về nghĩa, ý

nghĩa. Người khác đã trở thành cuộc sống của bạn, bạn

hoàn toàn phụ thuộc; do đó những người yêu liên tục

đánh nhau, bởi vì không ai muốn bị phụ thuộc, mọi

người đều ghét phụ thuộc. Không ai muốn bị sở hữu bởi

ai đó khác bởi vì bị sở hữu nghĩa là bị thu lại thành đồ

vật. Toàn thể nhân loại chịu khổ bởi lẽ đơn giản là mọi

mối quan hệ cứ thu bạn lại, cứ làm cho nhà tù của bạn

ngày một nhỏ hơn.

Phật nói: Cuộc sống này không phải là cuộc sống

đúng. Bạn đang bị sống, bạn không thực sống. Bạn đang

bị sống bởi các lực vô thức. Chừng nào bạn còn chưa trở

nên có ý thức, chừng nào bạn còn chưa nắm quyền sở

hữu cuộc sống riêng của mình, chừng nào bạn còn chưa

trở nên độc lập với bản năng của mình, bạn sẽ không là

người chủ. Và không là người chủ thì không có phúc

lạc, không có phúc lành; cuộc sống vẫn còn là địa ngục.

Lời kinh thứ nhất:

Làm chủ giác quan của ông,

điều ông nếm và ngửi,

điều ông thấy, điều ông nghe.

Lời kinh này đã bị hiểu lầm lắm, bị diễn giải sai,

nhiều tới mức các Phật tử đã lấy đích xác nghĩa đối lập

của nó. Làm chủ giác quan của ông không có nghĩa phá

huỷ giác quan của bạn. Nếu bạn phá huỷ chúng, bạn sẽ

làm chủ ai? Và đó là điều đã được làm trong hai mươi

nhăm thế kỉ: các Phật tử đã phá huỷ các giác quan. Điều

đó dễ dàng hơn, do đó mới có sai lầm. Làm chủ giác

quan của bạn là khó khăn, gian nan. Làm chủ giác quan

của bạn cần ý thức lớn lao; phá huỷ chúng chẳng cần gì.

Nếu bạn muốn làm ngôi nhà đẹp bạn sẽ phải học

nhiều điều, nhưng nếu bạn muốn phá huỷ nó bạn không

cần học cái gì. Bất kì ai cũng có thể phá huỷ nó, bất kì

người điên nào cũng có thể làm điều đó. Thực tế, người

điên có thể làm điều đó nhanh hơn bất kì ai khác, chóng

hơn. Bạn không cần kiến trúc để phá huỷ toà nhà. Phá

huỷ không cần nghệ thuật, không cần thông minh.

Và đó là cách lời kinh này đã được diễn giải qua

nhiều thời đại, bởi lẽ đơn giản là phá huỷ dễ hơn, bất kì

người ngu nào cũng có thể làm được điều đó. Và cái gọi

là thánh nhân của bạn gần như bao giờ cũng ngu. Rất

hiếm khi bắt gặp một thánh nhân thực là người sáng tạo.

họ được tôn thờ như thánh nhân bởi vì họ đã từng tự tử

thành công - tự tử chậm, tất nhiên - phá huỷ bản thân

mình chậm rãi, đầu độc bản thân mình chậm rãi. Chúng

ta đã tôn thờ cái chết, huỷ diệt. Chúng ta phải học - bây

giờ là lúc - chúng ta phải học yêu cuộc sống và yêu tính

sáng tạo, sự sáng tạo.

Hiểu biết của tôi về lời kinh này là hoàn toàn khác.

"Làm chủ giác quan của ông" nghĩa là trở nên ý thức

nhiều hơn về giác quan của bạn, trở nên nhạy cảm hơn.

Đừng phá huỷ chúng; bằng không bạn sẽ bị bỏ lại không

có cửa ra vào và cửa sổ vào sáng tạo, vào Thượng đế,

vào chân lí.

Có một câu chuyện về nhà huyền môn Hindu. Tôi

không tin rằng nó là đúng bởi vì tôi đã bị ấn tượng sâu

sắc bởi câu ngạn ngữ vĩ đại của nhà huyền môn đó;

chúng hay tới mức tôi không thể nào quan niệm được

rằng ông ấy có thể đã làm điều như vậy.

Surdas là tên ông ấy. Ông ấy là người mù, không

phải mù từ khi sinh ra; đó là cách câu chuyện diễn ra.

Ông ấy đã tự mình phá huỷ mắt mình bởi vì ông ấy thấy

đàn bà đẹp và bởi vì bị quyến rũ bởi cô ấy. Cô ấy chiếm

tưởng tượng của ông ấy, ông ấy bắt đầu nghĩ về cô ấy -

và ông ấy là sư. Ông ấy đã phá huỷ mắt mình vì ông ấy

nghĩ chính đôi mắt đã làm cho ông ấy nhận biết về cái

đẹp của cô ấy. Nếu đôi mắt này không có đó, ông ấy đã

không bị mê đắm.

Tôi không tin vào câu chuyện này, nhưng nó đúng

cho hàng nghìn người khác. Kinh nghiệm riêng của tôi

là ở chỗ Surdas phải đã mù từ chính lúc ban đầu bởi vì

sáng suốt của ông ấy trong thơ ca là tới mức không thể

quan niệm nổi rằng người như thế lại làm hành động

ngu xuẩn thế.

Bằng phá huỷ mắt mình bạn không thể có được tự

do khỏi đàn bà hay khỏi đàn ông. Bạn có thể nhắm mắt

lại, điều đó sẽ không tạo ra khác biệt gì mấy. Thực tế

với mắt nhắm đàn bà xuất hiện còn đẹp hơn là họ vậy!

Đó là lí do tại sao bất kì khi nào bạn làm tình với

người đàn bà cô ấy đều nhắm mắt; bạn có vẻ đẹp hơn.

Bằng không, nhìn vào bạn cô ấy sẽ trở nên sợ, bởi vì

trên khuôn mặt của bạn, diễn đạt của đam mê và thèm

khát không thể được mô tả là đẹp; nó xấu, nó mang tính

con vật. Đàn ông đầy thèm khát thì không là gì ngoài

con vật. Đàn bà phải đã học nghệ thuật nhắm mắt để

khỏi thấy đi thấy lại đàn ông biến thành con vật.

Tôi thích một giai thoại Thiền:

Hai sư đang trở lại tu viện; họ đã đi vào làng để

thuyết giảng. Lúc đó tối rồi, mặt trời đang lặn; chẳng

mấy chốc sẽ sang đêm. Họ bắt gặp một dòng sông. Một

người đàn bà trẻ, đàn bà đẹp, đang đứng đó trên bờ ngần

ngại liệu có đi qua sông hay không: sông có thể quá sâu,

nó dường như rất sâu.

Sư thứ nhất - sư già hơn - tuân theo qui tắc Phật giáo

không nhìn đàn bà. Nhưng đó là qui tắc rất kì lạ: trước

hết bạn phải nhìn, chỉ thế rồi bạn mới có khả năng thấy

xem liệu cô ấy là đàn bà hay không. Bạn có thể theo qui

tắc này chỉ bằng việc vi phạm nó! Cho nên ông ấy phải

đã nhìn - tất nhiên nhìn lén thôi - và thế rồi ông ấy phải

đã nhìn xuống. Qui tắc Phật giáo là: Không nhìn quá

bốn bước chân phía trước. Sợ thế... và ông ấy phải đã

run rẩy bên trong. Và ông ấy đi qua sông.

Khi ông ấy qua sông và tới bờ bên kia, đột nhiên

ông ấy nhớ anh chàng sư trẻ, người cũng đã tới đằng

sau. Điều gì đã xảy ra cho anh ta? Ông ấy ngoái nhìn lại.

Sư trẻ đang cõng cô gái trên vai! Sư già thực sự phát rồ;

cơn cuồng nộ của ông ấy phải đã là ghen tị nữa; bằng

không sao lại giận?

Sư trẻ cõng cô gái sang bờ bên kia, để cô ấy ở đó, và

cả hai sư đi về tu viện. Suốt một dặm đường sư già

không nói lấy một lời. Thế rồi, khi họ tới cổng tu viện,

sư già quay sang sư trẻ và nói, "Nghe đây, ta sẽ phải

mách điều đó với tu viện trưởng. Điều này là trái luật.

Phật đã nói: Không chạm vào đàn bà, không nhìn đàn

bà. Ông đã không chỉ nhìn cô ấy, ông đã không chỉ

chạm cô ấy, ông còn cõng cô ấy trên vai. Thế này thì

quá thể! Điều này là trái luật."

Tôi không nghĩ rằng Phật đã nói điều đó. Một người

như Phật không thể nói những điều vô nghĩa thế. Nhưng

hai mươi nhăm thế kỉ của những kẻ diễn giải ngu xuẩn

đã gây hại nhiều như họ có thể làm.

Sư trẻ nói, "Nhưng tôi đã bỏ cô ấy lại bờ sông rồi,

mãi đằng sau. Bác vẫn còn mang cô ấy trên vai sao?"

Điều đó có chân lí lớn lao trong đó: người già này

thực sự vẫn mang cô ấy. Bạn có thể thấy mà không có

việc nhìn, bạn có thể mang mà không có việc mang, bạn

có thể chạm mà không có việc chạm. Con người có

tưởng tượng lớn.

Do đó tôi không thể tin được rằng Surdas đã phá

huỷ mắt mình; bằng không thì ông ấy không thể nào cho

những sáng suốt tuyệt vời thế. Ông ấy phải đã là con

người của tầm nhìn bên trong, của con mắt bên trong,

của hiểu biết lớn lao. Cho nên tôi không tin vào câu

chuyện này, nhưng câu chuyện này có ý nghĩa. Nó là

đúng về nhiều cái gọi là thánh nhân. Nó có thể không

đúng về Surdas nhưng nó đúng về gần như tất cả cái gọi

là thánh nhân - của người Hindu, của người Mô ha mét

giáo, của người Ki tô giáo.

Trong Ki tô giáo đã có một giáo phái thường cắt bộ

phận sinh dục của họ - chỉ để siêu việt trên dục. Nếu chỉ

bằng cắt bộ phận sinh dục bạn có thể siêu việt trên dục,

mọi sự sẽ rất dễ dàng. Bạn có thể đi tới Bệnh viện

Sassoon và họ sẽ thực sự làm lò mổ cho bạn! Họ là lò

mổ chính thức, lò mổ chính phủ, được thừa nhận, có

thẩm quyền. Nhưng bằng việc loại bỏ cơ quan sinh dục

của mình bạn sẽ không siêu việt trên dục đâu; bạn có thể

trở nên bị ám ảnh với dục còn nhiều hơn trước đây.

Đó là điều xảy ra cho những người già - do đó mới

có cách diễn đạt, 'lão già dơ dáy'. Bạn không nói 'thanh

niên dơ dáy' - tại sao? Người già được gọi là do dáy bởi

lẽ đơn giản là bây giờ mọi dâm dục của người đó đã đi

vào trong tâm trí. Trung tâm dục của người đó đã

chuyển vào trong tâm trí; nó đã trở thành chuyện bộ não.

Bây giờ người đó chỉ nghĩ về nó, người đó liên tục nghĩ

về nó. Về mặt sinh lí người đó trở nên không có khả

năng; điều đó không có nghĩa là về mặt tâm lí người đó

đã siêu việt lên trên nó, rằng người đó đã làm chủ được

dâm dục của mình - không.

Bằng việc phá huỷ các giác quan của mình bạn

không, bạn không thể trở thành người chủ được. Thế thì

cách trở thành người chủ là gì?

Phật nói: Làm chủ các giác quan của ông.... Ông ấy

có thể đã đơn giản nói: Phá huỷ giác quan của ông.

Nhưng làm chủ là hiện tượng hoàn toàn khác; nó cần

nghệ thuật lớn, kĩ năng, nhận biết, tính thiền, tỉnh táo.

Chỉ thế thì các giác quan sẽ vẫn còn đó. Thực tế, người

chủ còn nhạy cảm hơn nô lệ.

Hiểu biết riêng của tôi là ở chỗ Phật ngửi sâu sắc

hơn; khứu giác của ông ấy sâu sắc hơn nhiều so với

khứu giác của bạn. Khứu giác của bạn bị kìm nén, bị

kìm nén rất nhiều. Trong hàng thế kỉ bạn đã kìm nén

dục, và khứu giác được nối rất nhiều với tính dục của

bạn. Bạn đã kìm nén khứu giác của mình. Bạn dùng

nhiều nước hoa chỉ để che giấu mùi của vùng dục. Bằng

không, khi người đàn bà có kinh nguyệt cô ấy có mùi

khác; bạn có thể ngửi biết cô ấy có kinh. Khi đàn bà dậy

dục cô ấy bắt đầu có mùi khác; bạn có thể biết chỉ bằng

mùi của cô ấy rằng cô ấy đang dậy dục. Và cùng điều đó

đúng cho đàn ông: dậy dục, thân thể người đó bắt đầu có

mùi bởi vì có thay đổi hoá chất lớn đang xảy ra bên

trong người đó. Chúng ảnh hưởng tới thân thể người đó,

việc vã mồ hôi của người đó, việc thở của người đó,

máu của người đó.

Con người sợ nhiều về tính dục của mình: ai đó có

thể trở nên nhận biết, ai đó có thể chú ý điều đang xảy ra

cho người đó. Người đó phải dùng quần áo để che giấu

thân thể mình, người đó đã dùng nước hoa để che giấu

mùi tự nhiên của mình. Người đó đã thử mọi cách có thể

để có vẻ là không dục nhiều nhất có thể được. Và chúng

ta phải đã kìm nén mũi của mình nhiều lắm....

Bạn biết con vật đấy. Chúng biết qua mũi liệu con

cái có sẵn lòng hay không. Chỉ mũi là đủ biết liệu con

cái có nói có không. Chừng nào mũi còn chưa nói con

cái đang nói có, con đực sẽ không tới gần con cái. Điều

đó là hung hăng, điều đó là hiếp dâm. Không con vật

nào đã từng hiếp dâm, nhớ lấy, ngoại trừ con người. Con

người là con vật hiếp dâm duy nhất trên thế giới. Tôi

không tính những con vật sống trong vườn bách thú bởi

vì chúng đã trở nên giống con người hơn. Sống trong

nhóm con người chúng đã bị bóp méo; bằng không

không con vật nào hiếp dâm cả. Yêu xảy ra chỉ khi cả

hai bên đều tuyệt đối sẵn lòng. Nhưng con người đã

đánh mất khứu giác của mình. Điều đó là vì cái gọi là

giáo lí tôn giáo trong nhiều thế kỉ.

Hiểu biết của tôi là ở chỗ khứu giác của Phật còn rõ

ràng hơn nhiều so với khứu giác của bạn bởi vì không

có kìm nén trong ông ấy. Mắt ông ấy nhìn tốt hơn bạn

có thể thấy bởi vì mắt ông ấy không bị che mờ bởi định

kiến nào, bởi bất kì quan niệm nào. Ông ấy nghe tốt

hoàn hảo bởi vì tai ông ấy không đầy tiếng ồn, tâm trí

ông ấy im lặng.

Khi tâm trí hoàn toàn im lặng bạn có khả năng nghe.

Thế thì bạn có khả năng nghe bài ca của chim, tiếng gáy

xa xa của con chim cúc cu. Thế thì bạn có khả năng

nghe ngay cả im lặng. Ngay bây giờ, nghe im lặng đi...

đừng chỉ nghe âm thanh mà vô âm cũng có thể được

nghe. Nhưng bạn phải không ồn ào.

Và bạn có thể bắt đầu ngửi mọi người không chỉ

trong dục của họ, bạn có thể bắt đầu ngửi giận dữ của họ

bởi vì giận dữ cũng làm thay đổi hoá chất thân thể họ.

Bạn có thể bắt đầu ngửi tham lam của họ, ghen tị của

họ, hận thù của họ. Bạn có thể bắt đầu ngửi đủ mọi xúc

động. Khoảnh khắc một người tới với bạn, nếu tâm trí

bạn im lặng và giác quan của bạn rõ ràng, không bị che

mờ, không có sương mù nào, bạn có thể ngửi mọi thứ

mà người này đang mang. Người đó có thể mỉm cười

trên bề mặt, nhưng sâu bên dưới bạn có thể thấy rằng

người đó đang giận dữ, kẻ đạo đức giả. Thử ngửi mọi

người xem - tham lam của họ, giận dữ của họ, độc ác

của họ.

Và nếu bạn có thể học ngửi độc ác, giận dữ, tham

lam, dần dần, dần dần bạn sẽ có khả năng ngửi nhiều

điều tinh tế hơn: từ bi của họ, tình yêu của họ, lời cầu

nguyện của họ. Vâng, ngay cả tính thiền của họ, im lặng

của họ cũng có hương thơm riêng của nó. Khi một

người đầy tham lam, người đó bốc mùi của tham lam;

khi một người đầy im lặng, người đó toả ra cái gì đó của

cõi bên kia, cái gì đó của cái không biết.

Phật không nói phá huỷ các giác quan của bạn. Ông

ấy đang nói làm chủ giác quan của bạn, trở nên nhận

biết hơn về giác quan của bạn. Đem nhận biết tới giác

quan của bạn để cho chúng trở nên nhạy cảm hơn.

Chúng là cánh cửa, cửa sổ, cây cầu với sự tồn tại.

Không có chúng bạn sẽ chỉ là hiện tượng đóng, một đơn

tử Leibniz, không cửa sổ. Bạn sẽ không thấy ánh sáng

mặt trời, mặt trăng, vì sao. Bạn sẽ không cảm thấy gì.

Phá huỷ giác quan sẽ đơn giản nghĩa là bạn đang

giết bản thân mình. Bạn có năm giác quan. Phá huỷ mắt

và tám mươi phần trăm cuộc sống của bạn bị phá huỷ -

tám mươi phần trăm, bởi vì mắt bạn chứa tám mươi

phần trăm cuộc sống của bạn; tám mươi phần trăm nhạy

cảm của bạn phụ thuộc vào mắt bạn. Do đó chúng ta

cảm thấy thông cảm nhiều thế với người mù. Bạn không

cảm thấy mấy thông cảm với người câm hay người điếc.

Tại sao, trên khắp thế giới, chúng ta cảm thấy thông cảm

nhiều thế với người mù? - bởi vì người đó thực sự khổ

nhiều. Người đó không thể thấy mầu sắc, người đó

không thể thấy ánh sáng - và cuộc sống bao gồm ánh

sáng và cuộc sống bao gồm mầu sắc. Nó là cầu vồng.

Người đó sẽ vẫn còn hoàn toàn trong bóng tối. Người đó

sẽ không biết sự tồn tại mầu sắc nào là sẵn có. Người đó

sẽ không biết bướm và hoa hồng và hoa cúc vạn thọ.

Người đó sẽ không biết mầu lục và mầu đỏ và vàng của

cây. Người đó sẽ không biết các khuôn mặt của mọi

người, người đó sẽ không có khả năng nhìn vào mắt mọi

người. Chiếc cầu chính của người đó bị gẫy.

Phá huỷ tai bạn, và cái gì đó nữa chết đi trong bạn.

Phá huỷ lưỡi, và cái gì đó nữa chết đi trong bạn. Khi bạn

đã phá huỷ tất cả các giác quan, bạn chỉ là cái xác, bạn

không còn sống nữa. Cuộc sống nghĩa là sự nhạy cảm:

càng nhiều nhạy cảm và bạn càng có cuộc sống nhiều

hơn. Cho nên tôi không thể nói phá huỷ giác quan của

bạn được - bạn đã phá huỷ chúng rồi. Làm hồi sinh lại

chúng, lại tươi mới lại chúng, rót năng lượng vào chúng

đi. Và phương pháp để rót năng lượng vào chúng là

bằng việc trở nên nhận biết.

Đôi khi chỉ trở nên nhận biết về tai bạn, cứ dường

như bạn chỉ là tai và không cái gì khác, cứ dường như

toàn thân bạn đã trở thành tai. Chỉ là tai, và bạn sẽ ngạc

nhiên rằng bạn trở nên nhận biết về những tiếng động

tinh tế thế, những điều xảy ra tinh tế quanh bạn tới mức

bạn chưa bao giờ nhận biết về chúng. Bạn có thể bắt đầu

nghe thấy hơi thở riêng của mình, nhịp tim đập riêng

của mình. Bạn có thể bắt đầu nghe thấy nhiều thứ - và

bạn đã sống bao giờ cũng giữa nhưng điều này, nhưng

bạn chưa bao giờ nhận biết; bạn bị bận rộn thế trong bản

thân mình.

Phật nói: Điều ông nếm và ngửi, điều ông thấy, điều

ông nghe - Làm chủ giác quan của ông. Đem nhận biết

của bạn vào nếm. Khi bạn ăn, quên mọi thứ khác đi; chỉ

trở thành lưỡi của bạn, chỉ là gai vị giác của bạn. Tồn tại

đó trong tính toàn bộ của bạn. Thưởng thức thức ăn sâu

sắc nhất có thể được, và bạn sẽ trong ngạc nhiên lớn -

không phải một mà nhiều ngạc nhiên.

Đầu tiên bạn sẽ trở nên nhận biết rằng bạn không

thể ăn nhiều hơn mức được cần. Bạn không cần chế độ

kiêng cữ - chỉ người ngu mới ăn kiêng. Và bạn có thể ăn

kiêng vài ngày, và thế rồi bạn nhảy vào thức ăn với sự

báo thù, và bạn còn tăng cân hơn là bạn đã mất cân! Nếu

bạn thông minh, đem nhận biết của bạn vào việc thưởng

thức. Sao bạn ăn nhiều? Lí do đơn giản là ở chỗ bạn

không thưởng thức, và cơn đói về thưởng thức của bạn

vẫn còn, cho nên bạn cứ tọng thêm vào. Nếu bạn thực sự

thưởng thức, chẳng mấy chốc bạn sẽ được thoả mãn, hài

lòng. Chẳng mấy chốc thân thể sẽ nói, "Dừng lại!" Và

nếu bạn tỉnh táo bạn sẽ có khả năng nghe khi thân thể

nói dừng lại.

Ngay bây giờ bạn không có đó chút nào. Bạn ăn

đấy, nhưng bạn không có đó, không hiện diện. Bạn có

thể ở trong văn phòng hay bạn có thể đi đâu đó khác,

làm cả nghìn lẻ một thứ. Một điều là chắc chắn: rằng

bạn không có tại bàn nơi bạn đang ngồi, bạn bao giờ

cũng ở đâu đó khác. Bạn chưa bao giờ ở chỗ bạn đang ở;

bạn không thể được tìm thấy ở chỗ bạn đang ở. Nếu bạn

thực sự ở đó, bị hấp thu toàn bộ vào việc ăn, bạn sẽ ngạc

nhiên. Điều đầu tiên sẽ là ở chỗ lần đầu tiên, thức ăn trở

thành cái gì đó thiêng liêng.

Upanishad nói: annam brahma - thức ăn là Thượng

đế. Một phát biểu hay thế: Thức ăn là Thượng đế.

Những người này phải đã thưởng thức. Không thưởng

thức bạn không thể thấy được Thượng đế trong thức ăn.

Những người này không thể chống lại thức ăn được, họ

không thể ủng hộ nhịn ăn được, họ không thể dạy bạn

bỏ đói thân thể bạn được. Những người đã nói: Annam

Brahma - thức ăn là Thượng đế - không thể thiên về bỏ

đói được. Bỏ đói không thể là cái gì tâm linh được.

Ăn, nhưng ăm một cách có tính thiền, im lặng. Khi

bạn ăn bạn nói nữa. Đừng nói, bởi vì nếu bạn nói bạn sẽ

bỏ lỡ niềm vui của việc hấp thu Thượng đế vào trong

bản thân mình. Bạn sẽ bỏ lỡ niềm vui của việc ăn, và khi

bạn bỏ lỡ niềm vui của việc ăn, cơn đói của bạn về

thưởng thức cứ yêu cầu thêm nữa, cho nên bạn cứ tọng

thêm vào. Và điều đó dường như là không kết thúc. Mọi

người đang tọng vào cả ngày và dầu vậy dường như họ

vẫn không được thoả mãn. Ăn hai lần có thể là đủ hay

nhiều nhất ba lần, nhưng mọi người đang ăn cả ngày -

đặc biệt là người Mĩ! Nếu họ không ăn họ sẽ không biết

phải làm gì khác. Làm cái gì đó với mồm giữ cho họ bận

bịu. Nếu họ không ăn họ nói, nếu họ không nói họ hút,

nếu họ không hút họ nhai kẹo cao su - cứ dường như

mồm phải vẫn còn liên tục bận bịu.

Stan và Sid, cả hai đang trên đường đi buôn không

cạnh tranh nhau, thường đi cùng nhau, đi chung một

chiếc xe và ở chung phòng để tiết kiệm tiềm.

Một buổi tối hai người bạn đăng kí vào một khách

sạn nhỏ ở Schenectady, và Stan lập tức ngồi xuống viết

thư cho vợ.

Sid tình cờ để ý tới lời chào bất thường của anh bạn

thân. "Nói cho tớ điều gì đó đi, Stan," anh ta nói một

cách tò mò. "Làm sao cậu bao giờ cũng đề địa chỉ của

vợ cầu là 'AT&T yêu mến'? Cô ấy là nhà đầu tư lớn à?"

"Không, chẳng có gì như thế cả," Stan trả lời.

"AT&T không viết tắt cho American Telephone &

Telegraph đâu. Nó nghĩa là 'Luôn luôn nói và nói -

Always Talking & Talking'."

Mọi người liên tục nói, đặc biệt là đàn bà nói nhiều

thế - bởi lẽ đơn giản là đàn ông đã lấy đi mọi con đường

khác khỏi họ. Họ bị bỏ lại với một điều thôi - nói; họ

không được phép cái gì khác. Mọi cánh cửa khác đều đã

bị đóng, cho nên toàn thể năng lượng của họ được đưa

vào việc nói. Họ nói bởi vì tâm trí họ quá ồn ào và họ

phải đổ chúng ra: đó là một loại thanh tâm. Ngay cả khi

bạn ăn bạn cũng nói. Làm sao bạn có thể thưởng thức

được thức ăn và làm sao bạn có thể nhạy cảm để thưởng

thức?

Khi bạn đi ra vườn bạn nói. Nếu bạn không nói với

ai đó khác, bạn lại thường xuyên trong đối thoại với bản

thân mình. Bạn tự chia mình thành nhiều người, bạn làm

ra đám đông bên trong bản thân mình. Bạn hỏi và trả lời

bên trong bản thân mình. Bạn không nhìn vào hoa. Bạn

không cảm thấy hương thơm, niềm vui của chim chóc,

lễ hội của cây cối. Bạn không cho phép bản thân mình

có nhạy cảm nào, có cơ hội nào để nhạy cảm hơn, để sẵn

có hơn cho sự tồn tại, để mong manh hơn.

Nhạy cảm nghĩa là cởi mở, mong manh, sẵn có.

Phật nói: Làm chủ giác quan của ông, điều ông nếm

và ngửi, điều ông thấy, điều ông nghe.

Mọi người hoặc nói hoặc đọc báo hoặc nghe radio

hay xem ti vi - thậm chí năm giờ, sáu giờ mỗi ngày, xem

ti vi, phá huỷ mắt mình! Và có nhiều thứ thế để xem, và

bạn đang ngồi trước cái hộp, bị dính chặt vào ghế!

Trong chỗ trú ngụ trên trời, sư tổ Abraham thắp một

cây nến xoàng lên và thế rồi, với qua chén trà chanh,

ông ấy ngồi lại để đọc tờ 'Forvetz'.

Bỗng nhiên, từ bên dưới trái đất, ông ấy nghe thấy

sự náo động khàn khàn.

"Bây giờ, ai có thể báng bổ lễ Sabbath như thế?"

ông ta tự hỏi.

Bằng chiếc viễn vọng kính laser, ông ấy nhìn xuống

và ở đó ông ấy thấy một đám đông ít nhất tám mươi

nghìn người ở Houston Astrodome đang xem trận bóng

chày. Nhẩm đếm nhanh cho ông ta biết rằng trên ba

mươi nghìn người Do Thái có trong số khán giả. Bị xúc

phạm, ông ấy cầm điện thoại lên và quay số THƯỢNGĐẾ.

Sau vài lần rung chuông, ông chủ cầm máy.

"Xin chào," Cha Abraham nói, "ông đấy à, Joe?"

"Bây giờ này, Abe - cái tên phải là Jehovah! Biểu lộ

chút ít kính trọng đi!"

"Được rồi, Jehovah, rồi. Tôi có lời phàn nàn."

"Bây giờ mấy giờ rồi? Những người kia từ Tân ước

có còn kiếm chuyện với ông nữa không?"

"Chẳng có gì như thế. Nhưng ông thực sự phải làm

cái gì đó về tất cả cái trò đang diễn ra trên trái đất. Ông

có biết chính phút này ba mươi nghìn người Do Thái

đang xem trận đấu bóng chày ở Astrodome không?"

"Ông có cái gì chống lại bóng chày à?"

"Không, tất nhiên là không. Nhưng đó không phải là

vấn đề. Bây giờ là tối thứ sáu và với tôi dường như mọi

người phải có chút ít tôn trọng ngày linh thiêng này

hơn."

"Hấp dẫn lớn gì mà tất cả họ đều xem trận đấu thế?"

"Hank Aaron sắp đánh và anh ta sắp phá kỉ lục của

Babe Ruth."

"Ông tuyệt đối đúng, Abe. Không có cớ gì cho họ

hành động như một lũ cộng hoà dại. Gọi lại tôi sau khi

trận đấu kết thúc và tôi sẽ làm điều gì đó về nó.... Và

nhân tiện, nó đang chiếu trên kênh nào vậy?"

Không chỉ con người mà ngay cả Thượng đế cũng bị

dính vào ghế của ngài, xem ti vi!

Phật nói: Bất kì cái gì ông đang làm... những thứ

nhỏ bé - ăn, đi, uống nước, tắm, bơi trong sông - bất kì

điều gì ông đang làm - nằm dưới ánh mặt trời - hoàn

toàn ở đó, toàn bộ ở đó đi. Trở thành giác quan của ông.

Từ tâm trí xuống với giác quan đi, quay lại với giác

quan đi.

Và điều Phật tử đã làm trong hai mươi nhăm thế kỉ

chính là điều đối lập: họ đã đi ngày càng nhiều vào cái

đầu, họ đã phá huỷ các giác quan của mình hoàn toàn.

Họ đã trở thành chết khi có liên quan tới thân thể họ.

Chỉ cái đầu của họ là liên tục làm việc, bận rộn ngày

đêm trong những diễn giải lớn lao. Và họ đã tạo ra nhiều

luật ngớ ngẩn nhân danh Phật tới mức bạn sẽ không tin

vào điều đó. Ba mươi ba nghìn luật và qui tắc phải được

tuân theo; ngay cả nhớ chúng cũng là không thể được.

Ba mươi ba nghìn luật và qui tắc phải được tuân theo!

Phật chỉ biết một luật và đó là nhận biết - và điều đó

là đủ; nó chăm lo cho mọi thứ. Ông ấy cho bạn chìa

khoá chủ; bạn không cần mang ba mươi ba nghìn chìa

khoá theo mình. Bằng không, bất kì khi nào cần để mở

một ổ khoá bạn sẽ bị lúng túng, tìm trong ba mươi ba

nghìn chìa khoá đó! Tôi nghĩ bạn sẽ không có khả năng

tìm ra chìa khoá đúng. Không thể nào tìm ra chìa khoá

đúng được, bởi vì đó là cách mọi sự vận hành. Nếu bạn

được giả định uống hai viên thuốc, mở chai thuốc ra và

chúng bao giờ cũng có ba viên, không bao giờ hai! Nếu

bạn được giả định uống ba viên, chúng sẽ chỉ có hai,

chúng sẽ không bao giờ có ba. Cuộc sống rất bí hiểm!

Ba mươi ba nghìn chìa khoá... và bạn nghĩ bạn sẽ có

khả năng tìm ra chìa khoá đúng khi bạn bắt gặp một ổ

khoá sao? Không thể được... hay sẽ mất ba mươi ba

nghìn kiếp cho bạn tìm ra nó; đến lúc đó ổ khoá cũng đi

đời rồi. Hoặc là bạn sẽ có chìa khoá hoặc bạn sẽ có ổ

khoá, nhưng không bao giờ có cả hai cùng một lúc.

Trong vô thức của mình làm sao bạn có thể mang ba

mươi ba nghìn luật được?

Mulla Nasruddin về nhà muộn trong đêm, hoàn toàn

say. Anh ta đã thử... và anh ta chỉ có một chìa khoá,

nhưng nó lại không chịu chui vào ổ bởi vì anh ta run lẩy

bẩy.

Cảnh sát tới xem bởi vì trong nửa giờ Mulla đã thử

và thử. Và anh ta nói, "Đợi đã! Đưa cho tôi chìa khoá,

tôi sẽ mở nó."

Mulla nói, "Không cần bận tâm tới chìa khoá nữa.

Ông cứ giữ ngôi nhà đứng yên đi và tôi có thể mở nó!"

Trong vô thức của bạn, ba mươi ba nghìn chìa khoá!

Bạn sẽ bị nặng gánh. Đó là điều đã xảy ra cho Phật giáo.

Đó là điều đã xảy ra cho mọi tôn giáo. Cho nên nhiều

luật và nhiều qui tắc tới mức mọi người đã trở nên nặng

gánh với chúng, họ đã quên tất cả về chúng.

Tôn giáo là rất đơn giản. Nó gồm một luật thôi -

nhận biết - và đó là chìa khoá chủ. Làm từng hành động

của cuộc sống bạn đầy nhận biết. Hội tụ nhận biết của

bạn vào từng hành động, và chính việc hội tụ đó biến

đổi nó, bởi vì khi bạn cho nhận biết của mình vào bất kì

cái gì nó đều trở thành sống động; bạn đang rót cuộc

sống của bạn vào trong nó. Các giác quan của bạn sẽ trở

thành nhạy cảm toàn bộ, và bởi vì bạn là nhận biết bạn

sẽ vẫn còn là người chủ. Sự nô lệ nghĩa là vô nhận biết.

Karl Knaidel, vua của thành Kansas, có mọi thứ

trong cuộc sống mà người ta có thể yêu cầu, ngoại trừ

một điều: ông ấy muốn có một đứa cháu kế tục tên tuổi

gia đình, không nói gì tới kinh doanh gia đình. Cho nên

dễ hiểu ông ấy hạnh phúc thế nào khi đứa con độc thân

của ông ấy một tối bảo ông ấy rằng anh ta đã rơi vào

tình yêu và đã lên kế hoạch cưới vợ.

"Điều con đang làm một điều thông minh," Karl

khuyên. "Chừng nào đàn ông còn chưa có vợ anh ta còn

chưa đầy đủ."

Ông ta đắn đo về trí huệ của phát biểu của mình

trong một hay hai khoảnh khắc và rồi nói thêm một cách

long trọng, "Anh ta không chỉ đầy đủ - anh ta còn bị kết

thúc!"

Và bạn không rơi vào một điều - vào tình yêu - bạn

đang rơi vào trong cả nghìn thứ - trong giận dữ, trong

tham lam. Bạn liên tục rơi xuống, rơi thành nạn nhân

của lực vô thức nào đó bên trong bạn mà bạn đã mang từ

việc kế thừa con vật.

Chúng ta phải làm cho vô thức của mình tràn đầy

ánh sáng. Không xó xỉnh hay ngóc ngách nào được bỏ

không có ánh sáng bên trong bạn. Chỉ một phần mười

tâm trí chúng ta là có ý thức; chín phần mười trong bóng

tối, bóng tối sâu sắc. Chúng ta giống như tảng băng: một

phần mười lộ ra, chín phần mười bị ẩn ngầm bên dưới -

và chín phần mười đó là chín lần mạnh hơn.

Cho nên bạn có thể quyết định cái gì đó, nhưng bạn

sẽ không có khả năng đi theo nó; chín phần mười đó sẽ

phá huỷ nó vào bất kì khoảnh khắc nào. Bạn có thể

quyết định dậy sớm ngày mai vào năm giờ sáng, nhưng

quyết định này duy nhất chỉ bởi một phần mười tâm trí

bạn; chín phần mười là hoàn toàn vô ý thức về quyết

định của bạn, tuyệt đối vô ý thức về quyết định của bạn.

Cho nên khi vào buổi sáng chuông báo thức vang lên,

chín phần mười của tâm trí nói, "Vội gì nào? Còn đang

nồng giấc và ấm áp thế, ấm cúng thế. Thiền Động có thể

đợi đấy! Mai chúng ta có thể thiền." Và tất nhiên, mai

chẳng bao giờ tới. Và khi bạn thức dậy bạn sẽ cảm thấy

mặc cảm - nhưng điều này lại không phải là phần tâm trí

đã dừng bạn không cho thức dậy, cảm thấy mặc cảm; đó

là một phần mười kia đang cảm thấy mặc cảm.

Và điều này cứ diễn ra cả đời bạn, trò trốn tìm này.

Phần này quyết định, phần kia xoá bỏ. Và phần xoá bỏ

chín lần mạnh hơn. Bạn đã quyết định nhiều lần không

giận dữ nữa, nhưng mọi quyết định của bạn đều bất lực

bởi vì vô ý thức mạnh chín lần hơn kia bao giờ cũng có

đó và nó sẽ không cho phép một phần mười này chiếm

quyền sở hữu, được mạnh.

Do đó biến đổi không phải qua quyết định, qua lấy

lời nguyện; biến đổi cần cách tiếp cận hoàn toàn khác.

Bạn phải thay đổi vô thức của mình dần dần, dần dần

thành có ý thức. Đó là điều thiền tất cả là gì: nó làm cho

ánh sáng của bạn phát triển lớn hơn, lan toả ánh sáng

sâu hơn, dần dần, dần dần chìm sâu hơn vào trong bản

thể riêng của bạn.

Khi ngày càng nhiều vô thức của bạn được giành lại

bởi có ý thức, các quyết định của bạn sẽ bắt đầu trở

thành sự hoàn thành lớn lao. Thế thì bạn có thể tự hứa

với mình cái gì đó. Ngay bây giờ mọi hứa hẹn của bạn

đều giả; bạn biết chúng sẽ không có tác dụng. Bạn biết

bạn đã thất bại nhiều lần thế và bạn biết bạn sẽ thất bại

nữa; nhưng bạn cứ hi vọng - hi vọng chống lại hi vọng.

Tôn giáo bình thường, được dạy trong đền chùa và

nhà thờ bởi các tu sĩ, dạy bạn cá tính. Tôn giáo thực -

tôn giáo của chư phật, của những người thức tỉnh - dạy

bạn ý thức, không dạy cá tính. Cá tính là sản phẩm phụ;

khi bạn có ý thức, cá tính tới theo cách riêng của nó.

Tôn giáo thông thường dạy bạn lương tâm; điều đó là rẻ

mạt. Chư phật dạy bạn ý thức, không phải lương tâm.

Phật nói:

Trong mọi thứ hãy là người chủ

của điều ông làm và điều ông nói và nghĩ.

Tự do.

Con người có thể được chia thành bốn phần. Chu vi

bên ngoài nhất bao gồm hành động, điều bạn làm. Tầng

thứ hai, sâu hơn hành động của bạn chút ít, bao gồm lời

nói của bạn, điều bạn nói. Chút ít sâu hơn, tầng thứ ba

bao gồm suy nghĩ của bạn, điều bạn thường nghĩ. Và cái

thứ tư không phải là tầng; cái thứ tư là thực tại của bạn,

bản thể bạn. Đó là trung tâm của bạn, trung tâm của cơn

xoáy lốc. Trung tâm của bạn, bản thể của bạn được bao

quanh bởi ba vòng tròn đồng tâm: nghĩ, nói, làm.

Phật nói: Trong mọi thứ hãy là người chủ của điều

ông làm.... Bạn có nhận biết về điều bạn đang làm

không? Bạn có làm nó một cách có ý thức không hay chỉ

bởi vì người khác đang làm nó? Bạn có là người bắt

chước không, chỉ theo đám đông như cừu? Là người,

đừng là cừu! Đừng theo đám đông, hãy là cá nhân. Chỉ

thế thì bạn mới có thể là người chủ; chỉ cá nhân mới có

thể là người chủ. Trong đám đông bạn phải là nô lệ; đám

đông bao gồm các nô lệ. Đám đông muốn bạn vẫn còn

là nô lệ; chỉ thế thì đám đông mới còn mạnh. Mọi chính

khách và mọi tu sĩ của thế giới đều muốn bạn vẫn còn là

nô lệ; chỉ thế thì họ mới có thể là tu sĩ và họ có thể là

những nhà lãnh đạo lớn lao. Bằng không ai sẽ theo

những nhà lãnh đạo ngu xuẩn của bạn? Ai sẽ theo cái

gọi là các tu sĩ tôn giáo của bạn?

Nếu bạn có chút ít tỉnh táo, nhận biết, bạn sẽ có khả

năng thấy hoàn toàn rõ rằng những người lãnh đạo của

bạn đều là kẻ bịp bợm, rằng các tu sĩ của bạn đều rởm,

rằng bạn không cần theo họ, rằng theo họ bạn bị ngã

xuống hố. Ai sẽ theo Adolf Hitler hay Joseph Stalin hay

Ayatollah Khomeini? Ai sẽ theo những người này? Chỉ

những nô lệ, chỉ những người không biết mình đang làm

gì.

Một thanh niên yêu thích xe thể thao đã để dành tiền

đủ để mua mô đen mới nhất của chiếc xe thể thao.

Sau khi thử xe, anh ta đi tới quán rượu ưa chuộng

của mình ba hoa với các bạn bè về chiếc xe. "Cứt thật,

cậu - xe của tớ cừ thế! Tớ mới đi từ London tới

Liverpool trong một giờ!"

Hôm sau anh ta quay lại quán rượu, lại ba hoa với

bạn mình. "Hôm nay," anh ta nói, "Tớ làm cho nó đi từ

London tới Liverpool trong bốn mươi phút!"

Ngày hôm sau, anh thanh niên nhiệt tình với xe thể

thao lại ở quán rượu. "Hôm nay," anh ta nói, "các cậu có

tin được điều đó không? London tới Liverpool trong hai

mươi tám phút!"

Sau khi vắng mặt hai ngày, trước sự ngỡ ngàng của

bạn bè, anh thanh niên đi bộ tới quán rượu.

"Xe cậu đâu?" bạn bè hỏi.

"Tớ bán nó rồi," anh ta buồn rầu đáp.

"Nhưng tại sao?" họ hỏi anh ta một cách hoài nghi.

"Tớ không thể đừng được điều đó," anh ta nói với

họ. "Tớ được giả định làm cái đéo gì ở Liverpool mọi

ngày?!"

Nhưng mọi người cứ làm điều đó! Người này phải

có chút ít thông minh. Họ cứ đi tới Liverpool, chưa bao

giờ nghĩ tại sao. Tại sao bạn đi tới nhà thờ? Tại sao bạn

đi tới giáo đường - hay tới tu viện hồi giáo, hay tới đền

chùa? Sao bạn cứ theo những ý thức hệ ngu xuẩn, các

chính khách lố bịch thế? Tại sao? Bạn chưa bao giờ hỏi

cả.

Tôi nghe nói về một người đi tới toà án và muốn

được đổi tên. Quan toà có chút phân vân, nhưng ông ta

không thể phản đối được. Ông ta phân vân bởi vì cái tên

mới mà người đó đã chọn lại rất kì lạ. Tên mới của

người đó là 'Không người nào ở trên'.

Quan toà nói, "Đây là loại tên gì vậy?"

Người đó nói, "Nhưng đây là điều tôi muốn." Thế là

người đó được phép. Người đó đổi tên mình; người đó

trở thành 'Không người nào ở trên'.

Thế rồi người đó ra ứng cử tổng thống. Thế là bí

mật này được biết tới. Tất cả các ứng cử viên khác,

những người đã ra ứng cử tổng thống, đều phản đối bởi

vì người này là nguy hiểm: tên người đó là 'Không

người nào ở trên'. Bất kì ai đánh dấu tên người đó trên

danh sách bầu, trên phiếu bầu, đều có nghĩa là xoá bỏ

mọi người! Họ phản đối. Người này bị gọi lại toà án.

Toà nói, "Tên ông có chút ít lừa dối."

Ông ấy nói, "Dù nó là cái gì, nó là tên tôi và tôi

muốn thay đổi tổng thống. Tôi muốn cho mọi người một

cơ hội xoá bỏ mọi người khác. Tôi không quan tâm tới

việc bản thân tôi là tổng thống; toàn bộ mối quan tâm

của tôi là xoá bỏ tất cả những người khác, bởi vì mọi

người đều biết họ tất cả đều ngu, nhưng ông vẫn phải

chọn ai đó. Cho nên tôi đơn giản muốn cho họ một cơ

hội: nếu họ muốn bác bỏ tất cả, họ có thể bác bỏ. Họ có

thể đơn giản đánh dấu vào tên tôi: 'Không người nào ở

trên'."

Nếu bạn nhìn vào tình huống của thế giới bạn sẽ có

khả năng thấy điều các chính khách và tu sĩ này đã từng

làm cho nhân loại: họ đã làm nó thành địa ngục. Không

cần hỏi bằng chứng nào cả. Bây giờ không cần hỏi liệu

địa ngục có tồn tại hay không. Các chính khách và tu sĩ,

trong mưu đồ thâm hiểm, đã làm cho nó thành thực tại

trên trái đất. Ai sẽ theo họ? Đó là lí do tại sao họ không

muốn bạn thông minh, họ không muốn bạn nghĩ, họ

không muốn bạn tỉnh táo. Họ muốn bạn sống theo một

loại giấc ngủ say. Họ muốn bạn là máy, không là người.

Phật nói: Trong mọi thứ hãy là người chủ - để cho

bạn không bị thu lại thành máy - của điều ông làm....

Quan sát điều bạn đang làm và tại sao. Nó có đáng

làm không? Nó có đáng phí hoài cuộc sống của bạn và

hơi thở của bạn không? Bạn có đang làm nó bởi vì bạn

không biết cái gì khác để làm không? Không làm gì còn

tốt hơn là làm cái gì đó mà không biết tại sao, không

biết cái gì. ... của điều ông làm và nói và nghĩ.

Bạn cứ nói mọi điều và bạn khổ nhiều bởi vì việc

nói của mình. Và nhiều lần bạn đã quyết định không nói

những điều như thế bởi vì một cách không cần thiết bạn

lâm vào rắc rối; bạn nói điều gì đó và bạn bị rắc rối.

Nhưng dầu vậy bạn sẽ cứ nói cùng điều đó và cứ lâm

vào cùng rắc rối, dường như bạn chưa bao giờ quan sát

bản thân mình, điều bạn đang làm. Bạn đi như kẻ mộng

du trong giấc ngủ của mình.

Và bạn đã bao giờ nhìn vào điều bạn nghĩ không?

Bạn đã bao giờ nhìn vào bên trong chưa? Bạn sẽ ngạc

nhiên: bạn đang mang nhiều, nhiều người điên bên trong

mình. Nhưng không ai nhìn vào bên trong; mọi người

liên tục bận rộn ở bên ngoài. Không ai nghĩ điều mình

làm, điều mình nói, điều mình nghĩ.

Rabbi Isaacs rất thích gia đình Shapiro với các thành

viên đã là giáo dân lâu dài của ngôi đền của ông ấy. Cho

nên cũng dễ hiểu là ông ấy sẽ phản ứng thông cảm khi

họ mời ông ấy tới nói chuyện nghiêm chỉnh với cô con

gái của họ, Rachel, người không lấy chồng nhưng mang

thai tới lần thứ ba.

Ông ấy đối diện với người đàn bà trẻ vào tối hôm

sau. "Tôi có thể hiểu được làm sao một cô gái Do Thái

xinh xắn lại có thể cho phép điều nhục nhã thế xảy ra,"

ông ấy bắt đầu một cách gay gắt. "Ba lần! Tôi cho rằng

trẻ con tất cả đều có bố khác nhau!"

"À không!" Rachel nói. "Vẫn cùng một anh thôi."

"Anh ta vẫn độc thân chứ, người này?"

"Chắc chắn. Ông nghĩ tôi đi với người có vợ chắc?"

"Thế thì sao cô không cưới anh ta đi?" giáo sĩ hỏi.

"Này, nói thẳng nhé," Rachel trả lời với sự thật thà

hoàn toàn, "anh ấy không hấp dẫn tôi."

Cứ nhìn vào bản thân mình và bạn sẽ không cười

Rachel đâu. Mọi người đều sống với nhau mà chẳng biết

tại sao.

Cho nên nhiều người tới tôi, họ viết thư cho tôi. Họ

nói, "Tôi sống với người đàn ông này trong mười lăm

năm. Tôi không biết tại sao bởi vì tất cả những điều anh

ấy cho tôi đều là khổ, khổ sở!" Có thể đó là lí do tại sao

- bởi vì bạn là kẻ tự bạo. Bạn yêu khổ sở, bạn muốn khổ.

Người đàn ông đó đang cho bạn sự phục vụ tốt! Và mọi

người viết cho tôi, "Tôi sống với người đàn bà và đời tôi

là địa ngục." Nhưng tại sao bạn sống với người đàn bà

đó? Không ai buộc bạn cả. Mọi người nói với tôi, "Tôi

đang làm một việc mà tôi ghét " - nhưng tại sao? Thoát

ngay khỏi nó chứ! Bước ra khỏi nó đi!

Tôi đã là giáo sư tại đại học. Một hôm tôi nói với

ông phó giám đốc và tôi bảo ông ấy, "Toàn thể việc này

là vô nghĩa. Cứ đưa cho tôi một mẩu giấy để tôi có thể

viết đơn xin từ nhiệm."

Ông ấy nói, "Thầy làm gì vậy? Thầy có điên không?

Một việc làm tốt thế, ít công việc thế!" Ông ấy nói, "Tôi

hoàn toàn biết rõ rằng thầy thậm chí không làm việc

đó!" Và điều đó đúng! "Sao thầy lại bỏ đi?"

Tôi nói, "Nó chỉ là vô nghĩa. Thế là đủ rồi!"

Ông ấy nói, "Nhưng đợi đã! Tôi đã trong công việc

này ba mươi năm rồi - tôi cũng biết nó tất cả đều vô

nghĩa. Nhưng làm sao thầy có thể bỏ đi như thế này

được? Tôi đã không có khả năng bỏ điều này. Nhiều lần

tôi đã quyết định, nhưng bây giờ nhìn lại - tôi đã thành

công. Tôi đã trở thành phó giám đốc. Một ngày nào đó

thầy cũng có thể trở thành phó giám đốc."

Tôi nói, "Quên mọi thứ về điều đó đi!"

Ông ấy chạy xô lại... khi ông ấy thấy tôi sắp rời khỏi

văn phòng của ông ấy, ông ấy chạy xô lại. Ông ấy kéo

tôi vào bên trong. Ông ấy nói, "Thầy làm gì vậy? Nghĩ

lại đi!"

Tôi nói, "Kết thúc là kết thúc rồi! Tôi không nghĩ

hai lần!"

Ông ấy nghĩ tôi ốm hay cái gì đó, hay tôi đã uống

thuốc gì. Ông ấy nói, "Đợi đã! Tôi không nghĩ thầy ở

trạng thái lái xe về nhà được. Tôi sẽ đi cùng thầy."

Tôi nói, "Ông không phải lo. Thực tế, đây là lần đầu

tiên tôi hoàn toàn lành mạnh! Tôi đã không lành mạnh

khi tôi gia nhập đại học này!"

Nhưng ông ấy đến với tôi chỉ để xem liệu tôi có thể

lái xe về nhà được không. Trong hai hay ba ngày ông ấy

liên tục tới. Ông ấy nói, "Thầy nghĩ đi. Tôi vẫn giữ đơn

từ nhiệm của thầy, tôi vẫn chưa xem nó. Tôi không nói

với ai cả."

Tôi nói, "Điều đó là tuỳ ông thôi. Tôi không quay lại

đâu."

Ngày thứ tư ông ấy nói, "Thầy thực sự là con người!

Tôi cũng đã nghĩ nhiều lần li dị vợ tôi - tôi không thể

làm được. Và bây giờ tôi có bẩy con!" Bẩy con từ người

vợ bạn bao giờ cũng muốn li dị.... Vậy bạn đã làm gì với

cô ấy?

Tôi hỏi ông ấy, "Những đứa trẻ đó có thực là con

ông không? Nếu ông muốn li dị người đàn bà này, sao

ông làm tình với cô ấy?"

Ông ấy nói, "Thầy đúng, nhưng còn gì khác để làm

đâu?"

Và trong ba mươi năm ông ấy đã từng nghĩ tới bỏ

việc, bởi vì ông ấy bao giờ cũng muốn là nhạc sĩ. Và

bây giờ anh chàng đáng thương đó chết rồi - mới hai

năm trước ông ấy đã chết. Ông ấy không bao giờ có thể

trở thành nhạc sĩ được; ông ấy chết đi là phó giám đốc.

Thất bại làm sao! Thất vọng làm sao! Nhưng đó là cách

mọi sự là vậy.

Quan sát cuộc sống của bạn. Phật tất cả ủng hộ cho

tính quan sát. Trong mọi thứ hãy là người chủ của điều

ông làm và nói và nghĩ. Tự do. Nếu bạn có thể là người

chủ, nếu bạn có thể có tính quan sát, tự do tới theo cách

riêng của nó. Tự do là cái bóng của việc là người chủ

cuộc sống của mình.

Ông là người tìm kiếm.

Nhớ lấy, bao giờ cũng nhớ. Phật nói đi nói lại: Nhớ

ông là người tìm kiếm. Bạn đang tìm kiếm nhà thực của

mình; bạn vẫn chưa tìm ra nó. Nhiều kiếp sống bạn đã

từng tìm kiếm, cuộc đời này bạn đang tìm kiếm. Bạn đã

tìm thấy nó chưa? Đừng phí thời gian của mình, đừng đi

lạc lối. Rót toàn thể năng lượng của bạn vào việc tìm

kiếm đi, bởi vì không ai biết về ngày mai. Đây có thể là

ngày cuối cùng của bạn. Tìm nó đi để cho bạn có thể

sống vui vẻ và bạn có thể chết vui vẻ. Ông là người tìm

kiếm.

Vui thích trong việc làm chủ....

Niềm vui thích duy nhất trong cuộc sống là khi bạn

làm chủ cái gì đó. Và khi một người đã làm chủ tất cả

bản thể mình - hành động của mình, lời nói của mình,

suy nghĩ của mình - vui thích của người đó là vô hạn.

Vui thích trong việc làm chủ....

tay ông và chân ông,

lời ông và ý nghĩ của ông.

Phật chưa bao giờ phân chia thân tâm bạn. Ông ấy

nói: Là người chủ của cả hai bởi vì bạn là tâm thân, bạn

là thân tâm. Cho nên là người chủ của thân thể bạn và là

người chủ của tâm trí bạn. Thế thì bạn sẽ biết mình là ai.

Thế thì bạn sẽ biết người chủ là bạn bên ngoài thân tâm.

Thế thì bạn sẽ biết bạn là tâm thức thuần khiết.

Vui thích trong thiền....

Vui thích trong im lặng, tĩnh lặng; đó là thiền.

và trong đơn độc.

Vui thích trong việc một mình. Tận hưởng việc một

mình nhiều nhất có thể được, thực hành nhiều nhất. Vui

thích trong đơn độc.

Ngồi im lặng, không làm gì,

Xuân tới và cỏ tự nó mọc lên.

Nếu bạn có thể ngồi im lặng không làm gì, xuân là

không xa xôi gì, xuân nhất định tới. Nó bao giờ cũng tới

trong im lặng. Nó bao giờ cũng tới khi bạn biết cách vui

thích trong sự một mình của mình bởi vì chỉ thế thì bạn

mới độc lập. Nếu bạn vui sướng trong bầu bạn của

người khác, bạn phụ thuộc. Nếu bạn cảm thấy cô độc

khi bạn một mình, bạn chưa biết tới sự một mình.

Cô độc và một mình là hai điều khác nhau, bất kể

điều từ điển nói. Trong các từ điển chúng là đồng nghĩa,

nhưng trong sự tồn tại chúng là khác biệt hoàn toàn. Cô

độc là tiêu cực. Nó nghĩa là bạn phụ thuộc, bạn đang

khao khát người khác, bạn đang khổ. Việc một mình của

bạn không phải là niềm vui, nó là khổ. Bạn muốn bận

bịu.

Người coi vườn thú hướng dẫn khách thăm tới

chuồng tiếp. "Bây giờ ở đây, thưa quí bà quí ông, chúng

ta có con linh cẩu cười. Bây giờ, linh cẩu cười động dục

chỉ một đêm trong một năm."

"Này, nó có gì để cười chứ?" một chú bé trong

nhóm hỏi.

"Aha! Đấy, đêm nay là đêm đó!"

Mọi người hạnh phúc với người khác, nhưng hạnh

phúc đó là phụ thuộc; nó có thể bị lấy đi. Nó sẽ bị lấy đi,

nó nhất định biến mất. Nó không thể thường hằng được,

nó là nhất thời.

Raleigh Rosenblum, một cử nhân trẻ lãng mạn của

trường Palm Beach, cũng là một tay tiêu tiền lớn, gọi

điện cho cô gái anh ta vừa mới gặp đêm hôm trước. Cô

ấy không chỉ lộng lẫy mà còn đã chứng tỏ là một người

hoạt bát thực. Anh ta muốn có cuộc hẹn hò khác. Tuy

nhiên cô ấy đã khước từ anh ta trước sự ngạc nhiên của

anh ta.

"Làm sao em lại từ chối đi chơi với anh đêm nay?"

anh ta hỏi. "Chỉ mới hôm qua em nói có cái gì đó về anh

mà em yêu mến."

"Đã có đấy, bé con," cô ấy ngân nga trong giọng

khàn khàn, "nhưng anh đã dùng hết nó rồi."

Mọi hạnh phúc mà phụ thuộc vào người khác đều

nhất định biến mất chẳng chóng thì chầy. Nó là tạm

thời, nó là nhất thời, nó là ảo tưởng. Chỉ niềm vui là của

bạn, cái trào lên từ bên trong bản thể riêng của bạn. Do

đó Phật nói: Vui thích trong thiền, vui thích trong đơn

độc.

Một mình là niềm vui của việc chỉ là bản thân bạn.

Nó là vui vẻ với bản thân mình, nó là vui vẻ trong bầu

bạn riêng của mình. Có rất ít người tận hưởng được bầu

bạn riêng của họ. Và đó là một thế giới rất kì lạ: không

ai thích thú bầu bạn của mình và mọi người đều muốn

người khác thích thú bầu bạn của người đó! Nếu họ

không thích thú người đó cảm thấy bị xúc phạm - và

một mình người đó cảm thấy chán ghét bản thân mình.

Thực tế, nếu bạn không thể tận hưởng bầu bạn riêng của

mình, còn ai khác sẽ tận hưởng nó?

Tính một mình, đơn độc là tích cực. Nó tràn ngập

vui vẻ không bởi lí do gì. Nó là chính bản chất của việc

vui vẻ; do đó không cần phụ thuộc vào bất kì người nào.

Không có động cơ khác trong nó, nó đơn giản có đó.

Cũng như nước chảy xuống, bản thể bạn vươn lên. Cho

nó một cơ hội - cho nó sự đơn độc. Và lại nhớ, đơn độc

không phải là cô đơn, cũng như một mình không phải là

cô độc.

Bình tĩnh lại, hạnh phúc đi.

Ông là người tìm kiếm.

Phật nhắc nhở bạn lần nữa: Ông là người tìm kiếm.

Bình tĩnh lại.... Hài hoà, duyên dáng. Học nghệ thuật là

một mình và vậy mà hoàn toàn hạnh phúc. Thế rồi một

hôm, trong sự đơn độc đó, cái gì đó bắt đầu xảy ra mà

bạn chưa bao giờ mong đợi. Cái gì đó mênh mông, cái

gì đó bao la giáng xuống bạn. Cái gì đó của cõi bên kia

thấm vào bạn. Sự nâng lên lớn lao, cảm giác lớn lao của

việc thăng lên nảy sinh trong bạn. Bạn được nâng lên,

bạn bắt đầu vươn tới điều tối thượng. Gọi nó là Thượng

đế, chân lí tối thượng, bất kì cái gì bạn thích gọi nó. Phật

gọi nó là tự do, niết bàn: việc dừng lại của bản ngã, tự

do khỏi bản ngã, tự do khỏi mọi tù túng, tự do khỏi mọi

phụ thuộc vào người khác. Và bạn trở nên vô giới hạn,

bạn trở thành bao la như bầu trời: ngay cả bầu trời cũng

không là giới hạn của bạn.

Làm chủ giác quan của ông,

điều ông nếm và ngửi,

điều ông thấy, điều ông nghe.

Trong mọi thứ hãy là người chủ

của điều ông làm và điều ông nói và nghĩ.

Tự do.

Ông là người tìm kiếm.

Vui thích trong việc làm chủ

tay ông và chân ông,

lời ông và ý nghĩ của ông.

Vui thích trong thiền

và trong đơn độc.

Bình tĩnh lại, hạnh phúc đi.

Ông là người tìm kiếm.

Đủ cho hôm nay.

****************************************************************************************************************

#10Tình yêu là phầnthưởng của riêng nó

Câu hỏi thứ nhất:

Thưa Thầy kính yêu,

Sao tôi coi bản thân mình và mọi thứ nghiêm chỉnh

thế?

Prembodhi, bản ngã chỉ có thể tồn tại nếu bạn coi

bản thân mình và mọi thứ nghiêm chỉnh. Không cái gì

giết chết bản ngã như sự chơi đùa, như tiếng cười. Khi

bạn bắt đầu coi cuộc sống như trò đùa, bản ngã phải

chết, nó không thể tồn tại thêm nữa được. Bản ngã là ốm

yếu; nó cần bầu không khí của buồn để tồn tại. Nghiêm

chỉnh tạo ra buồn trong bạn. Buồn là mảnh đất cần thiết

cho bản ngã. Do đó thánh nhân của bạn mới nghiêm

chỉnh thế, bởi lẽ đơn giản là họ là những người bản ngã

nhất trên thế gian. Họ có thể cố gắng là khiêm tốn,

nhưng họ rất tự hào về sự khiêm tốn của mình. Họ coi

khiêm tốn của mình rất trang trọng.

Thánh nhân thực không thể nghiêm chỉnh được.

Người tôn giáo thực phải là người mở hội. Nhìn quanh

mà xem... nhìn cây cối - chúng có nghiêm chỉnh không?

Nhìn chim chóc, lắng nghe chúng - chúng có nghiêm

chỉnh không? Nhìn các vì sao, mặt trăng, mặt trời -

chúng có nghiêm chỉnh không? Sự tồn tại hoàn toàn

không nghiêm chỉnh; nó cứ nhảy múa. Nó là lễ hội vĩnh

hằng, nó là tính lễ hội.

Chỉ con người là nghiêm chỉnh, bởi vì chỉ con người

mới cố gắng tạo ra tách biệt giữa bản thân mình và sự

tồn tại. Con người không muốn là một phần của cái toàn

thể, bởi vì thế thì người đó biến mất. Người đó muốn

căn cước riêng của mình, tên riêng của mình, hình dạng

riêng của mình, định nghĩa của mình. Cho dù điều đó

tạo ra khổ sở thì cũng được, cho dù người đó phải sống

trong địa ngục người đó cũng sẵn sàng vì nó.

Có lần George Bernard Shaw được hỏi ông ấy thích

đi đâu sau khi ông ấy chết - xuống địa ngục hay lên cõi

trời. Ông ấy nói, "Bất kì chỗ nào tôi có thể là người đầu

tiên, tôi không muốn là người thứ hai " - và trong cõi

trời không có cơ hội nào là người thứ nhất cả, bởi vì bao

nhiêu thánh nhân đã lên tới đó rồi: Jesus và Zarathustra

và Mahavira và Phật. Ai sẽ chú ý tới anh chàng đáng

thương George Bernard Shaw này? Ông ấy sẵn lòng

xuống địa ngục nếu ông ấy có thể là người thứ nhất ở

đó.

Bản ngã muốn là người đầu tiên, bản ngã muốn đẩy

mọi người xuống thấp hơn bản thân nó; do đó nó coi bản

thân nó là nghiêm chỉnh. Do đó nó là kẻ cầu toàn: nó

yêu cầu hoàn hảo, điều là không thể được. Không ai

hoàn hảo cả; không ai có thể tồn tại một khoảnh khắc

nếu người đó hoàn hảo. Bất toàn là cách thức của cuộc

sống, bởi vì chỉ có thể trưởng thành nếu bạn bất toàn.

Nếu bạn hoàn hảo thì không có trưởng thành thêm,

không có tiến hoá thêm. Nếu bạn hoàn hảo bạn bị mắc

kẹt. Hoàn hảo nghĩa là cái chết; bất toàn nghĩa là tuôn

chảy, trưởng thành, năng động.

Bản ngã đòi hỏi hoàn hảo từ bản thân người ta và từ

người khác nữa. Nó đòi hỏi điều không thể được, và bởi

vì điều không thể được không thể nào được đạt tới nên

nó có thể sống. Nó không hạnh phúc với điều bình

thường; nó muốn điều phi thường, và cuộc sống chỉ gồm

điều bình thường. Nhưng điều bình thường là đẹp, điều

bình thường là cực kì đẹp. Không cần cái gì phi thường.

Cuộc sống bình thường là thiêng liêng, nhưng bản ngã

kết án nó là trần tục. Nó đòi hỏi cuộc sống phi thường.

Do đó mọi tôn giáo cứ bịa ra những câu chuyện về

người sáng lập của họ toàn những điều không thực:

Moses tách biển, Jesus đi trên nước... tất cả những

chuyện này đều là bịa đặt, dối trá, được các tín đồ bịa ra

chỉ để chứng minh rằng thầy của họ là phi thường; ông

ta không phải là người bình thường.

Thực tế, chân lí là ở chỗ bạn không thể tìm ra được

người bình thương hơn Phật, Mahavira, Jesus, Moses,

Zarathustra, Lão Tử. Họ đơn giản thế! Họ đã chấp nhận

bản thân mình như họ vậy. Họ sống trong cái như thế,

trong tathata. Họ không khao khát hoàn hảo nào. Họ

hoàn toàn thoải mái với thế giới bất toàn, hoàn toàn hài

lòng với nó. Và họ không coi bản thân mình là nghiêm

chỉnh tới mức họ phải đạt tới những đỉnh cao vĩ đại,

những đỉnh lớn lao, rằng họ phải vượt qua mọi người.

Họ không điên khùng! Họ là những người đẹp, và cái

đẹp của họ chứa trong việc đã chấp nhận cái bình

thường là cái phi thường, cái trần tục là cái thiêng liêng.

Prembodhi, bạn hỏi, "Tại sao tôi coi bản thân mình

và mọi thứ nghiêm chỉnh thế?"

Mọi người đều coi bản thân mình và người khác là

nghiêm chỉnh. Đó là cách thức của bản ngã tồn tại. Bắt

đầu có chút ít chơi đùa đi và bạn sẽ thấy bản ngã bay

hơi. Coi cuộc sống là không nghiêm chỉnh, như chuyện

đùa đi - vâng, như chuyện đùa vũ trụ. Cười thêm chút ít.

Tiếng cười có ý nghĩa hơn nhiều so với lời cầu

nguyện. Lời cầu nguyện không thể phá huỷ được bản

ngã của bạn; ngược lại, nó có thể làm cho bản ngã

thiêng liêng, ngoan đạo, nhưng tiếng cười chắc chắn phá

huỷ bản ngã của bạn. Khi bạn thực sự trong trạng thái

của tiếng cười, bạn có quan sát không? - bản ngã biến

mất trong một khoảnh khắc. Bạn lại là đứa trẻ, cười

khúc khích. Bạn lại đã quên mất rằng bạn là đặc biệt.

Bạn không còn nghiêm chỉnh nữa; trong một khoảnh

khắc bạn đã loại bỏ sự cố định của mình.

Đó là lí do tại sao tôi thích chuyện đùa - chúng là

chất độc cho bản ngã của bạn! Bạn thích tôi nói về

những điều nghiêm chỉnh: bình diện vía và bao nhiêu

thể con người có, bẩy hay chín, và bao nhiêu luân xa. Và

mọi ngày đều có các câu hỏi - bí truyền, huyền bí. Đây

là những người nghiêm chỉnh. Họ rơi vào nhóm sai rồi!

Tôi không nghiêm chỉnh chút nào. Tôi không cười

với bạn bởi vì đó là một phần của việc kẻ chuyện đùa:

người kể phải rất nghiêm chỉnh, người đó không thể

cười cùng bạn được. Mọi tiếng cười của mình tôi đều

phải làm một mình. Nhưng cách tiếp cận của tôi tới cuộc

sống là hoàn toàn không nghiêm chỉnh, chơi đùa, bởi vì

theo kinh nghiệm của tôi đây là cách bản ngã biến mất.

Quan sát khi bạn cười mà xem: bản ngã đâu? Bỗng

nhiên bạn đã tan ra, bỗng nhiên bạn thành chất lỏng,

không cứng rắn nữa, mà tuôn chảy. Bạn không phải là

người thông thái, già cả, có kinh nghiệm.

Nghe câu chuyện đùa này và cố tìm ra xem bản ngã

còn lại hay không.

Ngay sau khi tới nhà nghỉ tuần trăng mật, chú rể dễ

bị kích thích trở nên lo lắng về trạng thái hồn nhiên của

cô dâu. Quyết định theo cách tiếp cận trực tiếp, anh ta

nhanh chóng cởi quần áo ra, trỏ vào cái nam tính phơi

ra, và hỏi cô dâu, "Em có biết nó là gì không?"

Không ngần ngại, cô ấy đỏ mặt và trả lời, "Đó là

chim."

Thích thú với ý tưởng dạy cô vợ ngây thơ, anh

chồng thì thào, "Từ giờ trở đi, em yêu, cái này sẽ được

gọi là dương vật."

"À, đến bây giờ," cô gái trách, "em đã thấy nhiều

dương vật rồi, và em đảm bảo với anh, cái này là chim."

#10Câu hỏi thứ hai:

Thưa Thầy kính yêu,

Hạnh phúc là gì?

Jayananda, điều đó còn tuỳ. Nó tuỳ vào bạn, vào

trạng thái có ý thức hay vô ý thức của bạn, liệu bạn ngủ

hay thức.

Có câu châm ngôn nổi tiếng của Murphy. Ông ấy

nói có hai kiểu người: Một kiểu là những người bao giờ

cũng phân chia nhân loại thành hai kiểu, và kiểu kia,

những người không phân chia nhân loại chút nào.

Tôi thuộc vào kiểu thứ nhất.... Nhân loại có thể

được chia thành hai kiểu: người ngủ và người thức - và

tất nhiên, có phần nhỏ ở giữa.

Hạnh phúc sẽ tuỳ thuộc vào chỗ bạn ở trong tâm

thức của bạn. Nếu bạn ngủ, thế thì hoan lạc là hạnh

phúc. Hoan lạc nghĩa là cảm giác, cố gắng đạt tới cái gì

đó qua thân thể, điều không thể đạt tới được qua thân

thể, buộc thân thể đạt tới cái gì đó mà nó không có khả

năng. Mọi người đều cố, theo mọi cách có thể, để đạt tới

hạnh phúc qua thân thể. Thân thể có thể cho bạn chỉ

hoan lạc tạm thời, và từng hoan lạc đều được cân bằng

bởi đau đớn theo cùng khối lượng, theo cùng mức độ.

Từng hoan lạc đều được tiếp nối bởi cái đối lập của nó

bởi vì thân thể tồn tại trong thế giới nhị nguyên, cũng

như ngày được tiếp nối bởi đêm và chết được tiếp nối

bởi sống và sống được tiếp nối bởi chết. Nó là cái vòng

luẩn quẩn. Hoan lạc của bạn sẽ được tiếp nối bởi đau

đớn, đau đớn của bạn sẽ được tiếp nối bởi hoan lạc.

Nhưng bạn sẽ không bao giờ thấy thoải mái. Khi

bạn sẽ trong trạng thái hoan lạc, bạn sẽ sợ rằng bạn sắp

làm mất nó, và nỗi sợ đó sẽ đầu độc nó. Và khi bạn sẽ

mất trong đau đớn, tất nhiên, bạn sẽ trong khổ, và bạn sẽ

cố gắng mọi khả năng để thoát ra khỏi nó - chỉ để rơi trở

lại trong nó.

Phật gọi đây là bánh xe sinh tử. Chúng ta cứ đi trong

bánh xe này, níu bám lấy bánh xe... và bánh xe cứ

chuyển động. Thỉnh thoảng hoan lạc tới và thỉnh thoảng

đau đớn tới, nhưng chúng ta bị nghiền nát giữa hai tảng

đá này.

Nhưng người ngủ chẳng biết gì khác. Người đó chỉ

biết vài cảm giác của thân thể - thức ăn, dục. Đây là thế

giới của người đó; người đó cứ chuyển động giữa hai

điều này. Đây là hai đầu của thân thể người đó: thức ăn

và dục. Nếu người đó kìm nén dục người đó trở nên

nghiện thức ăn: nếu người đó kìm nén thức ăn người đó

trở nên nghiện dục. Năng lượng cứ chuyển động như

con lắc. Và bất kì cái gì bạn gọi là hoan hoạc, thì nhiều

nhất nó chỉ là giảm nhẹ trạng thái căng thẳng. Năng

lượng dục tích tụ, tích luỹ; bạn trở nên căng thẳng và

nặng nề và bạn muốn xả nó ra.

Người đang ngủ, dâm dục của người đó không là gì

ngoài sự giảm nhẹ, giống như hắt hơi mạnh. Nó không

cho bạn cái gì ngoài sự giảm nhẹ nào đó. Căng thẳng có

đó, bây giờ nó không còn đó; nhưng nó sẽ tích luỹ lại.

Thức ăn cho bạn chỉ chút ít mùi vị trên lưỡi; nó không

nhiều để sống. Nhưng nhiều người đang sống chỉ để ăn;

có rất ít người ăn để sống.

Câu chuyện về Columbus là nổi tiếng. Đó là cuộc

hành trình dài. Trong ba tháng họ chẳng nhìn thấy gì

ngoài nước. Thế rồi một hôm Columbus nhìn ra chân

trời và thấy cây. Và nếu bạn nghĩ Columbus hạnh phúc

thấy cây, bạn phải đã thấy con chó của ông ấy!

Đó là lí do tại sao chó Siberi là nhanh nhất trên thế

giới: bởi vì cây cũng xa thế.

Nhưng đây là thế giới của hoan lạc. Chó có thể được

tha thứ, nhưng bạn không thể được tha thứ.

Trong ngày hẹn đầu tiên, anh thanh niên, tìm đường

để có thời gian thoải mái, hỏi người đàn bà trẻ liệu cô ấy

có thích đi chơi bowling không. Cô ấy đáp rằng cô ấy

chẳng quan tâm tới đi chơi bowling. Thế rồi anh ấy gợi

ý đi xem phim, nhưng cô ấy đáp là cô ấy không quan

tâm tới phim. Trong khi cố gắng nghĩ về cái gì đó khác

anh ta mời cô ấy điếu thuốc là mà cô ấy khước từ. Rồi

anh ta lại hỏi liệu cô ấy có muốn đi nhảy và đi uống ở

tiệm nhảy disco mới không. Cô ấy lại khước từ bằng

việc nói rằng cô ấy không quan tâm tới những thứ đó.

Trong thất vọng anh ta hỏi cô ấy có tới căn hộ của

anh ta để làm tình qua đêm không. Với sự ngạc nhiên

của anh ta cô ấy đồng ý một cách sung sướng, hôn anh

ta một cách nồng nàn và nói, "Anh thấy đấy, anh chẳng

cần những thứ kia làm gì để có thời gian thoải mái!"

Điều có thể được gọi là hạnh phúc tuỳ thuộc vào

mọi người. Với người ngủ, cảm giác hoan lạc là hạnh

phúc. Người đó sống từ hoan lạc này sang hoan lạc

khác. Người đó chỉ chạy xô từ cảm giác này sang cảm

giác khác. Người đó sống với những xúc động nhỏ.

Cuộc sống của người đó rất hời hợt; nó không có chiều

sâu, nó không có phẩm chất. Người đó sống trong thế

giới của số lượng.

Thế rồi có những người ở giữa, người không ngủ

không thức, người ở trạng thái lấp lửng, chút ít ngủ, chút

ít thức. Bạn đôi khi cũng có kinh nghiệm đó vào buổi

sáng sớm: vẫn còn ngủ, nhưng bạn không thể nói bạn

ngủ được bởi vì bạn có thể nghe tiếng động trong nhà,

vợ bạn chuẩn bị trà, tiếng của ấm đun nước và tiếng

người đưa sữa ngoài cổng hay trẻ con dậy đi học. Bạn

có thể nghe thấy những điều này, nhưng dầu vậy bạn

vẫn không thức. Mơ hồ, lờ mờ những tiếng động này

vọng tới bạn, cứ dường như có khoảng cách lớn giữa

bạn và tất cả những điều đang xảy ra quanh bạn. Bạn

cảm thấy cứ dường như nó vẫn là một phần của giấc mơ.

Nó không phải là một phần của giấc mơ, nhưng bạn

đang trong trạng thái ở giữa.

Cùng điều đó xảy ra khi bạn bắt đầu thiền. Người

không thiền ngủ, mơ; thiền nhân bắt đầu đi xa khỏi giấc

ngủ của mình hướng tới thức tỉnh. Ông ấy đang trong

trạng thái dịch chuyển. Thế thì hạnh phúc có nghĩa hoàn

toàn khác: nó trở nên nhiều phẩm chất hơn, ít số lượng

hơn; nó nhiều tâm lí hơn, ít sinh lí hơn. Người đó tận

hưởng âm nhạc nhiều hơn, người đó tận hưởng thơ ca

nhiều hơn, người đó tận hưởng sáng tạo ra cái gì đó.

Người đó tận hưởng tự nhiên, cái đẹp của nó. Người đó

tận hưởng im lặng. Người đó tận hưởng điều người đó

chưa bao giờ tận hưởng trước đây, và điều này kéo dài

lâu hơn nhiều. Cho dù âm nhạc dừng lại, cái gì đó vẫn

cứ nấn ná bên trong bạn. Và nó không phải là việc giảm

nhẹ.

Sự khác biệt giữa hoan lạc và hạnh phúc này là: nó

không phải là việc giảm nhẹ, nó là việc làm giàu thêm.

Bạn trở nên đầy tràn, bạn trở nên tràn ngập đôi chút.

Nghe âm nhạc hay, cái gì đó được lẩy cò bên trong bản

thể bạn, hài hoà nảy sinh trong bạn - bạn trở thành âm

nhạc. Hay múa, bỗng nhiên bạn quên mất bản thân

mình; thân thể bạn trở thành vô trọng lượng. Nắm giữ

của sức hút trên bạn bị mất. Bỗng nhiên bạn ở trong

không gian khác: bản ngã không còn cứng nhắc thế, vũ

công tan chảy và hội nhập vào trong điệu vũ. Điều này

còn cao hơn nhiều, sâu hơn nhiều so với niềm vui bạn

có được từ thức ăn hay dục. Điều này có chiều sâu.

Nhưng điều này cũng không phải là điều tối thượng.

Điều tối thượng xảy ra chỉ khi bạn thức đầy đủ, khi

bạn là vị phật, khi mọi giấc ngủ đều đã qua và mọi việc

mơ đều đã qua, khi toàn thể bản thể bạn đầy ánh sáng,

khi không có bóng tối trong bạn. Mọi bóng tối đều đã

biến mất và cùng với bóng tối đó, bản ngã cũng mất đi.

Mọi căng thẳng đã biến mất, mọi nỗi buồn, lo âu. Bạn ở

trong trạng thái mãn nguyện toàn bộ. Bạn sống trong

hiện tại; không quá khứ, không tương lai nào nữa. Bạn

hoàn toàn ở đây bây giờ.

Khoảnh khắc này là tất cả. Bây giờ là thời gian duy

nhất và ở đây là không gian duy nhất. Và thế thì bỗng

nhiên toàn thể bầu trời rơi vào trong bạn. Đây là phúc

lạc. Đây là hạnh phúc thực.

Tìm kiếm phúc lạc đi, Jayananda; nó là quyền tập ấn

của bạn. Đừng vẫn còn bị mất hút trong rừng rậm của

hoan lạc; vươn lên cao hơn một chút đi. Đạt tới hạnh

phúc và rồi tới phúc lạc.

Hoan lạc có tính con vật, hạnh phúc có tính người,

phúc lạc có tính thiêng liêng. Hoan lạc trói buộc bạn, nó

là cảnh tù túng, nó xiềng xích bạn. Hạnh phúc cho bạn

chút ít trói buộc hơn, chút ít của tự do, nhưng chỉ chút ít

thôi. Phúc lạc là tự do tuyệt đối. Bạn bắt đầu đi lên; nó

cho bạn đôi cánh. Bạn không còn là một phần của đất

thô; bạn trở thành một phần của bầu trời. Bạn trở thành

nhẹ, bạn có thể vui vẻ.

Hoan lạc là phụ thuộc vào người khác. Hạnh phúc

không phụ thuộc thế vào người khác, nhưng dầu vậy nó

vẫn tách rời khỏi bạn. Phúc lạc là không phụ thuộc, là

không tách rời; nó là chính bản thể bạn, nó là chính bản

tính của bạn. Đạt tới nó là đạt tới Thượng đế, tới niết

bàn.

#10Câu hỏi thứ ba:

Thưa Thầy kính yêu,

Vị kỉ là gì?

Yoga Chetana, vị kỉ là cái bóng của ý tưởng về cái

ta tách biệt. Nó là cái bóng của cái bóng, phản xạ của

phản xạ. Cứ dường như bạn nhìn trăng trong hồ và thế

rồi bạn thấy trăng được phản xạ trong hồ qua tấm

gương. Nó ở xa, xa với thực tại lắm. Ngay cả phản xạ

trong hồ cũng là không thật rồi, nhưng phản xạ của hồ

trong gương thì thậm chí còn không thật hơn.

Bản ngã là phản xạ trong hồ của bản thể thực của

bạn. Bản thể thực của bạn là trăng; bản ngã chỉ là phản

xạ trong hồ. Phản xạ trong hồ có thể bị rối loạn ngay cả

bởi viên đá nhỏ bé. Ném viên đá nhỏ và bạn sẽ thấy:

trăng bị nhiễu loạn, bóp méo. Gợn sóng nảy sinh và

trăng bị vỡ thành nghìn mảnh.

Vị kỉ là cái bóng của bản ngã, thậm chí còn không

thật hơn. Bạn không phải là cái ngã. Theo lời Phật, bạn

không phải là atta - cái ngã; bạn là anatta - vô ngã. Do

đó, Phật không dạy bạn vị tha, mà tôi cũng không dạy

bạn vị tha. Điểm này phải được hiểu cho rõ: tôi không

dạy bạn vị tha đâu. Đó là điều các tu sĩ của hầu hết các

tôn giáo vẫn đang làm. Họ nói, "Vị kỉ là xấu." Họ không

nói, "Vị kỉ là giả." Họ nói, "Vị kỉ là xấu, vị kỉ là tội lỗi."

Nhưng họ chấp nhận thực tại của nó, họ không bác bỏ

thực tại của nó. Nếu nó không thực, thế thì họ không thể

kết án nó là tội lỗi được. Làm sao bạn có thể gọi cái gì

không thực là tội lỗi được? Nếu nó không tồn tại ngay

chỗ đầu tiên, làm sao nó có thể là tội lỗi và làm sao nó

có thể xấu được? Cho nên họ cứ nói, "Vị kỉ là xấu, vị kỉ

là tội lỗi." Và để tránh nó họ dạy bạn vị tha: "Phục vụ

người khác, phục vụ nhân loại, là công bộc."

Nhiều lần những người đã bị ước định bởi tu sĩ và

các nhà truyền giáo tới tôi, và tất nhiên, họ bị choáng

bởi vì tôi không bao giờ nói tới vị tha. Và họ hỏi tôi tại

sao tôi không dạy các sannyasins lòng vị tha.

Tôi không thể dạy được, bởi vì ngay chỗ đầu tiên cái

ngã là giả, cho nên bảo họ không vị kỉ là tuyệt đối sai.

Bảo họ phục vụ người khác, có lòng vị tha, là đang đem

họ ngày một vào sâu hơn trong cái không thực.

Nỗ lực của tôi ở đây là để giúp họ thấy rằng cái ngã

là giả. Do đó tôi không chống lại cái ngã - nó không tồn

tại. Làm sao tôi có thể chống lại cái gì đó mà không tồn

tại? Và tôi không dạy bạn vị tha. Nếu bệnh là giả, phỏng

có ích gì cho bạn thuốc nào đó?

Tôi đơn giản nói bạn nhìn vào bên trong bản thân

mình, quan sát một cách im lặng... và bạn sẽ không tìm

thấy bản ngã chút nào. Cái ngã biến mất. Thực tế, nói

"biến mất" là không đúng; nó chưa bao giờ có đó, nhưng

bạn chưa bao giờ nhìn vào. Khi bạn nhìn bạn không thấy

nó.

Điều đó giống như bạn nói, "Trong phòng tôi có

bóng tối," và tôi đưa cho bạn chiếc đèn và tôi bảo bạn,

"Đi và tìm cùng chiếc đèn xem bóng tối ở đâu." Bạn đi

cùng chiếc đèn và bạn tìm - và bạn không thể tìm thấy

nó! Bạn quay lại và bạn nói, "Tôi không thể tìm thấy

nó!" Cho nên tôi nói, "Nó bị kết thúc rồi! Đừng lo về nó.

Bất kì khi nào cái muốn này nảy sinh trong bạn, có thôi

thúc này, hoài nghi này, đem đèn và đi tìm." Dần dần,

dần dần chân lí sẽ lắng đọng trong bạn rằng không có

bóng tối; đó chỉ là thiếu ánh sáng.

Bản ngã là thiếu chú ý của bạn, thiếu nhận biết của

bạn, chứ không gì khác. Nếu bạn đi vào, nếu bạn nhìn

vào, nó chẳng được tìm thấy chút nào. Và với cái ta mất

đi, vị kỉ ở đâu?

Và thế rồi cuộc sống của bạn là cuộc sống của tình

yêu, của từ bi. Thế thì cuộc sống của bạn thực sự là vị

tha. Tôi sẽ không gọi nó là "không vị kỉ," tôi sẽ gọi nó là

"vô vị kỉ," bởi vì trong từ 'không vị kỉ' thực tại của cái

ngã được thừa nhận. Tôi muốn dùng từ Phật giáo, 'vô vị

kỉ' - anatta, vô ngã.

Sáng suốt của Phật là mênh mông, rất có ý nghĩa.

Không cần dạy mọi người không ích kỉ. Cứ để họ biết

rằng không có bản ngã, và thế rồi toàn thể cuộc sống của

họ, không có nỗ lực nào, vẫn trở thành cuộc sống của

tình yêu. Họ sẽ không trở thành nhà truyền giáo bởi vì

họ sẽ không làm gì đặc biệt. Họ sẽ không ba hoa rằng họ

đã làm nhiều thế cho nhân loại; họ đã làm nó bởi vì họ

tận hưởng nó. Họ đã được thưởng hậu hĩ. Phần thưởng

không ở đâu đó trong kiếp sống tương lai, sau cái chết,

trong thiên đường; phần thưởng là trong bản thân tình

yêu. Tình yêu là phần thưởng riêng của nó.

Khi bạn sống từ tình yêu, cuộc sống của bạn là vui

vẻ vô cùng, cực lạc; đó là phần thưởng. Và khi bạn sống

từ bản ngã giả, cuộc sống của bạn là nỗi khổ, nó là việc

chịu đựng, nó là địa ngục; đó là trừng phạt. Không cần

phải đợi - rằng sau cái chết bạn sẽ bị tống xuống địa

ngục. Quên mọi chuyện này đi! Chúng là hay để kể cho

trẻ con bởi vì trẻ con không thể hiểu được cái gì khác;

chúng chỉ có thể hiểu được truyện. Nhưng với người

trưởng thành những câu chuyện đó là không liên quan.

Từng hành động đều hoặc là việc trừng phạt riêng

của nó hoặc phần thưởng riêng của nó. Nếu nó nảy sinh

từ thực tại của bạn, nó đem tới niềm vui, cái đẹp, phúc

lạc, phúc lành. Nếu nó nảy sinh từ ý tưởng giả nào đó nó

đem tới khổ sở, đau đớn, đau khổ. Đó chính là địa ngục

là gì.

Yoga Chetana này, vị kỉ là bóng của cái ngã, cái

không tồn tại chút nào. Nhưng đừng chấp nhận điều tôi

nói chỉ bởi vì tôi nói điều đó. Bạn sẽ phải nhìn vào

trong, để nó trở thành kinh nghiệm của bạn. Bạn sẽ phải

trở nên thức tỉnh thêm chút ít để nhìn vào. Bạn sẽ phải

thoát ra khỏi giấc ngủ của mình.

Đó là con đường đi xuống miền Nam trong một

bang khô ráo. Ga tầu hoả chật ních một nhóm người

đang trên đường đi xem trận bóng đá. Quá một bên của

phòng đợi là Baxter đang đứng, một người nhỏ bé yên

tĩnh, bồn chồn và định tách mình khỏi đám đông.

Nhân viên điều tra liên bang, giám sát làm rượu lậu

của vùng, để ý thấy Baxter có cái gì đó dưới túi áo, từ

đó chốc chốc lại rơi ra các giọt nước. Nhân viên điều tra

này, với niềm hi vọng trong tâm tưởng, bước tới anh ta,

đặt một ngón tay dưới một trong các giọt rơi đó, bắt lấy

một giọt, và nếm nó.

"Rượu Scotch à?" anh ta hỏi.

"Không," Baxter nói. "Con chó con Airedale đấy."

Bạn đã bỏ lỡ nó! Nếm lại nó đi... nó không phải là

rượu Scotch, nó là nước đái của chó con Airedale.

Có một đám tiệc uống rượu lớn ở miền bằng phẳng

ở San Francisco. Mọi thứ đến chỗ say sưa nhất và hoang

dã nhất thì chuyện xảy ra - trận động đất. Ống khói đổ

đầy phố, đường nước vỡ lung tung. Tất cả khách khứa

đổ xô ra ngoài nơi tiệc hoang dã. Nhưng thiếu mất một

người. Người chủ anh hùng dám quay lại và ở đó trong

buồng tắm ông ta thấy người bị thiếu, đang quì sâu trong

nước. Vị khách say rượu chỉ có thể lầm bầm nói, "Thành

thực đấy, Paul ơi, tôi thề mọi điều tôi làm chỉ là kéo cái

tay cầm thôi."

Yoga Chetana, bạn sẽ phải trở nên ý thức hơn chút

ít, có vậy thôi. Thoát ra khỏi cơn say của bạn đi; nó rất

cổ đại. Trong nhiều, nhiều kiếp chúng ta đã sống trong

trạng thái say rồi. Bạn sẽ phải làm chút ít nỗ lực để kéo

bản thân mình ra khỏi vũng bùn của vô thức. Và thế thì

bản ngã biến mất và không gian thuần khiết được bỏ lại

đằng sau.

Từ không gian thuần khiết đó, hoa sen nở ra - hoa

sen của từ bi, của tình yêu, của niềm vui. Không chỉ bạn

được phúc lành, mà bạn trở thành phúc lành cho toàn thể

sự tồn tại.

Đừng tranh đấu với vị kỉ, nhớ lấy. Tranh đấu với nó

là điều bạn đã từng được bảo đi bảo lại. Đừng tranh đấu

với nó. Tranh đấu với nó nghĩa là bạn đã chấp nhận thực

tại của nó; do đó tôi không dạy bạn tranh đấu với bản

ngã của bạn. Nếu bạn tranh đấu với bản ngã của mình

bạn sẽ trở nên khiêm tốn, nhưng thế thì trong khiêm tốn

của bạn bản ngã sẽ ẩn nấp. Thế thì bản ngã sẽ cứ bao

hoa về khiêm tốn của nó. Bản ngã thậm chí có thể nói,

"Mình là người khiêm tốn nhất trên thế giới, người

khiêm tốn vĩ đại nhất trên thế giới."

Ba linh mục Ki tô giáo đang nói chuyện; họ gặp

nhau ở ngã tư đường. Một người thuộc về tu viện dòng

Luyện tâm. Ông ấy nói, "Khi có liên quan tới khổ hạnh,

không ai có thể đua tranh được với chúng tôi. Chúng tôi

là những người khổ hạnh nhất trong toàn thể vương

quốc Ki tô giáo."

Người thứ hai thuộc về một tu viện khác. Ông ấy

nói, "Điều đó có thể là vậy, nhưng khi có liên quan tới

uyên bác, các ông không ở đâu cả. Người của chúng tôi

hi sinh cả đời họ vì kinh sách để tìm ra chân lí và điều

tốt đẹp."

Người thứ ba mỉm cười và nói, "Cả hai ông đều có

thể đúng, nhưng khi có liên quan tới khiêm tốn, chúng

tôi là trên đỉnh!"

"Khi có liên quan tới khiêm tốn, chúng tôi là trên

đỉnh...."

Do đó, Yoga Chetana này, tôi sẽ không nói đánh

nhau với vị kỉ của bạn đâu. Đánh nhau đã từng chẳng

giúp đỡ gì; nó chỉ tạo ra những bản ngã ngoan đạo trên

khắp thế giới. Gợi ý của tôi là quan sát nó, nhìn nó, theo

dõi nó. Theo dõi cách nó vận hành, cách bạn cứ tạo ra

nó - bởi vì nó là bịa đặt của bạn.

Điều đó rất tuỳ tiện. Nó là hư cấu mà bạn duy trì và

kiểm soát. Và việc duy trì này rất tốn kém bởi vì nó giữ

bạn trong địa ngục; nó phá huỷ toàn thể cuộc sống của

bạn chỉ để duy trì cái gì đó giả. Quan sát nó đi. Khoảnh

khắc bạn thấy cái giả của nó, nó mất đi. Bạn không cần

vứt bỏ nó, nó đơn giản vứt bỏ theo cách riêng của nó.

Nó không được tìm thấy chút nào.

Và thế thì một cuộc sống hoàn toàn mới bắt đầu.

Bạn được tái sinh. Đó là điều tôi gọi là tính chất

sannyas.

#10Câu hỏi thứ tư:

Thưa Thầy kính yêu,

Có thực đúng là thầy không bao giờ làm việc trong

cả đời mình không?

Sandesh, điều đó thực đúng đấy. Tôi là kẻ hippie

nguyên thuỷ! Bạn có thể không biết điều đó, nhưng tôi

là sáng lập viên của toàn thể phong trào này!

Ông chủ tiệm, bực mình hiện ra rõ ràng trên khuôn

mặt ông ấy, bước tới Sheldon, kẻ hippie.

"Nghe đây," ông ấy nghiến răng kèn kẹt, "cho tôi và

mọi người khác trong tiệm này một ân huệ lớn và thôi

huýt sáo trong khi anh làm việc."

"Này, ông chủ," Sheldon trả miếng một cách đề

phòng, "ai đang làm việc?"

Tôi đã sống, tôi đã không làm việc! Bất kì cái gì tôi

làm tôi đều tận hưởng nó; nó không phải là việc, nó là

niềm vui của tôi, nó là trò chơi. Tôi thích nó, đó là lí do

tại sao tôi đã làm nó. Tôi không làm phục vụ nào cho

bất kì ai, tôi không làm việc vì bất kì động cơ nào; do đó

nó không phải là công việc chút nào, nó là niềm vui của

tôi.

Tôi đang nói với bạn. Nó không phải là công việc,

nó là niềm vui của tôi. Tôi tận hưởng - yakkety,

yakkety, yakkety... đây không phải là công việc! Tôi

đơn giản thích nó. Gọi nó là công việc sẽ không đúng -

nó là trò vui!

Bất kì cái gì tôi đã từng làm trong đời tôi, nó chưa

bao giờ là công việc cả. Tôi đơn giản thổi sáo mồm!

Câu hỏi thứ năm:

Thưa Thầy kính yêu,

Thầy đích xác là điều tôi đã từng tìm kiếm trong

suốt hai mươi năm qua trong nghiên cứu, chính trị,

yoga, gia đình và cộng đồng. Bây giờ chung cuộc tôi

ở đây. Và điều đó đẹp thế! Và ngài mai tôi ra đi. Và

tôi hạnh phúc nữa. Sao vậy?

Hans Peter Finger, không có ngày mai đâu. Hôm

nay bạn ở đây, và điều đó còn nhiều hơn điều người ta

có thể đòi hỏi. Ai biết về ngày mai? Bản thân tôi có thể

ra đi, ngay cả trước khi bạn ra đi!

Và vấn đề không phải là ở đây. Nếu bạn đã tìm thấy

tôi, thì bạn đã tìm thấy tôi; dù bạn ở đâu bạn sẽ ở cùng

tôi, tôi sẽ ở cùng bạn. Toàn thể vấn đề là một khi bạn đã

tìm thấy đúng người mà bạn khớp với, tìm thấy người

mà bạn thấy tuyệt đối hài hoà, giao cảm, thế thì không

không gian nào có thể phân chia được bạn. Đó là lí do

tại sao bạn cảm thấy hạnh phúc. Tôi có thể hiểu vấn đề

của bạn.

Bạn nói, "Và tôi hạnh phúc nữa. Sao vậy?"

Bình thường, nếu bạn đã rơi vào tình yêu với tôi và

sẽ đi ngày mai bạn sẽ phải nghĩ, trông đợi khổ, bởi vì

"Bây giờ đây là người mình đã từng tìm kiếm, trong

suốt hai mươi năm và bây giờ mình phải ra đi ngày

mai." Nhưng bạn không khổ. Đó là chỉ báo rõ ràng rằng

bạn đã thực sự tìm thấy tôi. Tìm thấy tôi và khổ là

không thể được!

Có vài người ở đây và khổ, bởi vì họ đã không tìm

thấy tôi. Và có những người không ở đây nhưng cực kì

vui vẻ bởi vì họ đã tìm thấy tôi, dù họ ở bất kì đâu.

Bạn sẽ thuộc về tôi từ giờ trở đi.

Một khoảnh khắc của hài hoà sâu sắc là đủ, một

khoảnh khắc của tình yêu là vĩnh hằng.

Thế thì thời gian không thành vấn đề, không gian

không thành vấn đề.

Trái tim bạn biết điều đó, nhưng tâm trí bạn đang

hỏi bởi vì điều đó là phi logic. Tâm trí bạn nói, "Nếu

mình thực sự yêu nhiều thế, thì tại sao mình lại ra đi?

Nếu mình thực sự thích thú, thế thì tại sao đằng nào

mình cũng phải ra đi? Trong hai mươi năm mình đã

từng tìm kiếm! Mình đã phí hoài hai mươi năm và bây

giờ mình đã tìm thấy - và mình lại ra đi! Và dầu vậy

mình vẫn sung sướng! Cái gì xảy ra cho mình?" Đây là

tâm trí của bạn đang tạo ra những dấu hỏi, nhưng trái

tim bạn biết bạn đã tìm thấy tôi. Bây giờ dù bạn ở đâu,

giao cảm này sẽ tiếp tục.

Bất kì cái gì đã truyền qua giữa tôi và bạn đều là cái

gì đó bên ngoài thời gian, bên ngoài không gian. Cho

nên bạn có thể đi một cách hạnh phúc, bạn có thể đi một

cách vui vẻ. Và bất kì khi nào bạn nhắm mắt lại và nhớ

tôi, bạn sẽ ở bây giờ và ở đây.

Phật trường của tôi đã không trở nên bị giới hạn vào

công xã này; nó phải lan khắp trái đất. Cho nên ở bất kì

chỗ nào một người tồn tại mà yêu tôi sâu sắc, người đó

đều tạo ra phật trường nhỏ quanh bản thân người đó.

Hans-Peter, không chỉ bạn sẽ còn có quan hệ với tôi

đâu, mà bạn sẽ trở thành chiếc cầu cho nhiều người

hướng tới tôi. Bạn sẽ trở thành sứ giả - không phải nhà

truyền giáo mà là sứ giả. Nhà truyền giáo là hư huyễn.

Nhà truyền giáo là người mà bản thân người đó đã

không hiểu chút gì, người đã không kinh nghiệm cái gì

cả. Nhà truyền giáo là người chuyên nghiệp: người đó

đã chọn tôn giáo làm nghề, người đó kiếm sống từ việc

đó. Bạn sẽ là sứ giả. Bạn sẽ lan toả lời này cho nhiều

người nữa - cho bạn bè của bạn, cho người bạn biết, bạn

yêu.

Vâng, điều đó là hoàn toàn tốt - đi và chia sẻ tôi với

những người khác. Và bất kì khi nào được cần, bạn sẽ

được gọi tới, bạn sẽ quay lại đây lần nữa. Và nếu được

cần ở đây mãi mãi thì bạn sẽ ở đây mãi mãi. Bất kì cái

gì được cần đều sẽ xảy ra.

Tin cậy đi!

#10Câu hỏi thứ sáu:

Thưa Thầy kính yêu,

Sao không ai để ý gì tới tôi cả?

Bạn phải đi đúng rồi. Mọi người để ý khi cái gì đó

đi sai. Nếu mọi thứ đi tuyệt đối đúng, mọi người không

để ý tới bạn chút nào đâu.

Người ta nói về Mahavira rằng ông ấy muốn từ bỏ

vương quốc của mình. Ông ấy xin phép mẹ mình. Người

mẹ nói, "Chấm dứt điều vô nghĩa này đi - đừng bao giờ

hỏi ta lần nữa! Cho tới khi ta chết ta sẽ không cho phép

con đâu. Nếu con bỏ ngôi nhà này mà không có phép

con sẽ làm điều gì đó rất bạo hành với ta - và con cứ nói

về bất bạo hành. Cho nên nhớ lấy!"

Mahavira không bao giờ hỏi lại bà ấy nữa. Sau hai

năm bà ấy chết. Khi họ quay về từ đám ma, ông ấy nói

với người anh cả trên đường về nhà, "Bây giờ em có thể

ra đi được không? - Em chỉ sống ở đây bởi vì mẹ nói,

'Đừng bao giờ hỏi lần nữa.' Bây giờ, may mắn là mẹ đã

chết - vậy em có thể đi được chứ?"

Người anh nói, "Chấm dứt mọi điều vô nghĩa này

đi! Thảm hoạ thế đã rơi vào chúng ta - mẹ chúng ta đã

chết - và em muốn bỏ anh sao? Cho đến khi anh chết em

không được phép."

Và Mahavira đã vâng lời thế - ông ấy nói được thôi.

Ông ấy bắt đầu sống trong cung điện cứ dường như ông

ấy đã từ bỏ. Ông ấy thiền, ông ấy im lặng, ông ấy đi yên

tĩnh và duyên dáng tới mức dần dần, dần dần ông ấy trở

nên gần như vắng mặt. Đó là câu chuyện hay, rằng gia

đình thôi để ý tới ông ấy.

Thế rồi một hôm bỗng nhiên người anh nhận ra,

"Hàng tháng nay chúng ta đã không để ý gì tới nó." Ông

ta nhớ, "Nó đâu rồi nhỉ?" Ông ta đi tìm Mahavira. Ông

ấy gọi cả gia đình và hỏi họ, "Phải làm gì bây giờ? Nó

đã gần như bỏ đi! Nó đã trở thành im lặng thế, an bình

thế. Nó không gây tiếng động nào, nó chưa bao giờ can

thiệp, nó chưa bao giờ nói cái gì cho bất kì ai. Nó cứ

dường như là không có trong nhà chút nào! Cho nên

phỏng có ích gì mà ngăn cản nó thêm nữa?"

Tất cả họ đều tụ tập lại với nhau và yêu cầu

Mahavira, "Bây giờ em có thể đi. Thực tế, em đã đi rồi

bởi vì chúng ta đã thôi chú ý tới em."

Mahavira nói, "Bây giờ thì chẳng có gì khác biệt.

Nhưng nếu anh nói đi, thì em đi."

Narendra, đừng lo. Mọi người chỉ chú ý khi bạn

đang làm cái gì đó sai. Khi chó cắn người, điều đó

không phải là tin, nhưng khi người cắn chó thì đó là tin

tức! Cho nên nếu bạn muốn trở thành tin tức, cắn chó đi!

Làm điều gì đó ngu xuẩn, trở thành loại phiền toái. Chỉ

người gây phiền toái mới lôi kéo sự chú ý.

Đó là lí do tại sao bạn thấy trong báo chí mọi chính

khách đều được lên trang bìa mọi ngày, bởi lí do đơn

giản là họ có giá trị phiền toái. Bạn có thể hỏi bất kì thủ

tướng hay tổng thống nào trên thế giới về ông ấy chọn

thành phần nội các của mình trên nền tảng nào. Đó là

giá trị phiền toái! Bất kì ai sẽ gây ra phiền toái, nếu

người đó không được chọn thì phải được chọn. Bạn

càng gây phiền toái, bạn sẽ càng được để ý tới, hiển

nhiên. Nếu bạn là người im lặng trong hài hoà sâu sắc

với bản thân mình và sự tồn tại, ai sẽ chú ý tới bạn? Làm

điều gì đó sai đi, bất kì cái gì cũng được!

Đó là lí do tại sao các thánh nhân của bạn cứ làm

những điều ngu xuẩn thế - chỉ để được chú ý tới. Đứng

lộn đầu ở chợ Đường M.G. và đám đông sẽ tụ tập lại.

Mọi người sẽ dừng lại bất kì chỗ nào họ đang đi. Họ có

thể đã đi vì việc khẩn cấp nào đó, nhưng bây giờ việc

lớn hơn đang xảy ra: một người ngu đang đứng lộn đầu!

Họ phải dừng lại, họ phải xem. Làm cái gì đó ngu xuẩn

đi.

Robert Ripley nói rằng một người muốn trở nên nổi

tiếng. Người đó hỏi Ripley phải làm gì. Ripley là người

nổi tiếng; ông ấy đã viết nhiều cuốn sách - Tin điều đó

hay không.... Ông ấy hay tích luỹ đủ mọi thứ điều không

thể tin được; ông ấy là chuyên gia trong những điều

không thể tin được - đúng nhưng không thể tin được.

Mọi người cũng thường hỏi ông ấy... ai đó hỏi ông ấy

làm sao trở nên nổi tiếng.

Ông ấy nói, "Ông làm một điều. Cạo nửa tóc trên

đầu ông và bước im lặng khắp New York. Trong ba

ngày cứ đi thế và không nói gì cả, cứ để mọi người

ngắm."

Và trong ba ngày người đó đã có trên mọi báo! Rằng

một người lạ đang có đó, nửa đầu cạo trọc, bước đi qua

New York, chẳng bao giờ nói cái gì. Bạn hỏi người đó

và người đó giữ im lặng. Rất kì lạ!

Đó là lí do tại sao tôi đã chọn áo da cam cho bạn, để

cho dù bạn ở đâu - New York, Berlin, Paris, Rome, bất

kì chỗ nào bạn ở, mọi người đều phải chú ý tới bạn.

Điều đó giúp cho công việc của tôi! Mọi người bắt đầu

hỏi, "Điều gì đã xảy ra cho anh?" Các sannyasin của tôi

tất cả đều giống như Jesus quay lại!

Narendra, bạn phải đã làm mọi thứ đúng. Hạnh phúc

là không ai để ý tới bạn.

#10Câu hỏi thứ bẩy:

Thưa Thầy kính yêu,

Sao thầy cho các tu sĩ những thời xấu thế? Họ

không bắt thầy thôi uống rượu và thầy chỉ phải nghe

họ một lần một tuần thôi.

Niranjan, thế là đủ đầu độc mọi người rồi nếu họ

phải nghe một lần một tuần đủ mọi loại vô nghĩa. Trong

hàng thế kỉ điều đó đã được tuyên truyền... nó phải tới

từ không trung, nó đã trở thành một phần của bầu không

khí. Vấn đề không phải là nghe họ chỉ một lần một tuần;

rung động của họ ở mọi nơi. Họ cứ nhắc nhở bạn theo

mọi cách có thể. Bất kì chỗ nào bạn đi qua, đều có nhà

thờ hay đền chùa hay tu viện hồi giáo. Bạn có cho rằng

điều đó không nhắc nhở bạn về cái gì đó sao? Và họ cứ

rung chuông ở nhà thờ chỉ để nhắc bạn, "Đừng quên

chúng tôi vẫn đang ở đây!" Và tháp nhà thờ, bạn có thể

thấy chúng từ mọi nơi; chúng đang nhắc nhở bạn. Đây là

những quá trình tinh vi của việc nhắc nhở bạn.

Ở Ấn Độ bạn không thể đi qua phố mà không bắt

gặp đền chùa - đền chùa mọi nơi. Và làm đền chùa ở Ấn

Độ lại đơn giản thế: bạn có thể vẽ lên bất kì tảng đá nào.

Bạn cứ thử mà xem! Đem một tảng đá tới bất kì chỗ

nào, để nói dưới gốc cây, bôi đỏ nó và ngồi bên cạnh với

mắt nhắm. Trog vài phút bạn sẽ thấy mọi người tới. Ai

đó sẽ để hoa, ai đó sẽ cúi lạy tảng đá; họ sẽ nghĩ đây là

bức tượng Hanumanji!

Ấn Độ không tin vào mọi thứ rất tốn kém; nó đã làm

mọi thứ thành rẻ mạt. Nó là nước nghèo, bạn biết đấy,

cho nên mọi thứ đều phải rẻ, trong khả năng của mọi

người. Bạn có thể có nhiều thượng đế tuỳ thích. Bất kì

hòn đá nào cũng có tác dụng; vâng nếu nó tròn tròn thì

nó thành Shankara, Shiva. Nếu nó không tròn, xấu về

hình dạng, tô đỏ nó; nó trở thành Hanuman! cứ ngồi bên

cạnh và chờ, và bạn sẽ thấy những người tôn thờ đã bắt

đầu tới.

Tôi không cho các tu sĩ thời xấu đâu. Thực tế, tu sĩ

thông minh cực kì hài lòng với tôi.

Mới hôm nọ tôi nhận được một tấm thiếp từ một tu

sĩ, người rất sung sướng bởi vì ông ấy đã nghe băng của

tôi, đọc sách của tôi. Ông ấy sung sướng vì tôi ở đây -

một thiếp chúc mừng từ một tu sĩ! Tôi không cho các tu

sĩ thông minh thời xấu đâu. Không, tôi đơn giản chỉ cho

họ lối ra! Và vài người đã thoát. Có nhiều tu sĩ, sư và ni

những người đã trở thành sannyasins. Và có nỗi sợ lớn

bây giờ bởi vì nếu điều này cứ xảy ra thì có nguy hiểm.

Giới thẩm quyền Tin lành ở Đức đã ra lệnh cho tất

cả các nhà thờ Tin lành của Đức rằng tên tôi phải không

được nhắc tới trong bất kì buổi giảng đạo nào. Có một

báo cáo mười tám trang của một uỷ ban đặc biệt được

nhà thờ Tin lành bổ nhiệm để nghiên cứu điều tôi nói.

Họ đã đọc mọi sách... và cảm giác của tôi là một nửa số

họ sẽ bị chuyển đổi bởi vì báo cáo này dường như rất

lẫn lộn! Đôi khi họ dường như thiên về tôi, đôi khi họ

dường như chống lại tôi. Họ không trong tình huống nói

người này là đúng hay sai. Báo cáo của họ rất tiết lộ.

Họ nói, "Người này nói như Jesus - vậy mà phải cẩn

thận về ông ta." Bây giờ tôi nghĩ nhiều tu sĩ, đặc biệt các

linh mục Tin lành ở Đức, sẽ đọc sách. Họ đã trích dẫn

mọi sách. Họ đã nêu tên các sách. Ngay cả linh mục

không biết gì về tôi, sẽ biết về tôi bây giờ! Đây là cách

mọi sự xảy ra trong thế giới. Đây là thế giới rất kì lạ!

Và tôi không cho bất kì ai thời khó khăn cả. Nhiều

nhất, tôi kể vài chuyện đùa về các tu sĩ. Và cảm giác của

tôi là đọc chúng khi họ một mình họ phải thích thú!

Giáo hoàng đứng trước một đám đông im lặng các

dân làng chăm chú nghe và nói với họ, "Các con phải

không dùng thuốc tránh thai!"

Một bà đáng yêu bước lên trước, rung ngón tay.

"Trông đây," bà ấy la rầy giáo hoàng, "ông không chơi

trò chơi-a này, ông không làm-a ra luật!"

#10Câu hỏi cuối cùng:

Thưa Thầy kính yêu,

Chồng tôi điên, nhưng thỉnh thoảng điều anh ấy nói

lại đúng. Liệu người điên có thể làm được điều đó

không?

Neelam, người điên có thể làm bất kì cái gì, hiển

nhiên - họ điên mà! Họ thậm chí có thể nói chân lí.

Chính cái gọi là người lành mạnh mới là người không

thể tin được, người là chuyên gia nói dối. Người điên là

đơn giản; họ có thể nói chân lí. Họ không lo nghĩ, họ

không bận tâm.

Nghe chồng bạn đi. Anh ấy còn lành mạnh hơn

nhiều so với cái gọi là những người lành mạnh khác.

Nếu thỉnh thoảng bạn thấy rằng anh ấy đang nói cho bạn

chân lí, có thể vào lúc khác anh ấy cũng nói cho bạn

chân lí, bạn chỉ không nhận biết về nó.

Người điên là người hay. Họ điên chỉ bởi họ nhạy

cảm tới mức họ không thể sống được trong thế giới điên

này. Thế giới điên này làm họ điên! Họ nhạy cảm và

mong manh tới mức họ trở thành nạn nhân. Họ không

tinh ranh; họ là những người hồn nhiên, chân thành và

trung thực. Tôi biết nhiều người điên - thực tế, tôi chỉ

biết người điên - và tôi kính trọng họ.

Bạn hỏi tôi, Neelam, " Liệu người điên có thể làm

được điều đó không? Liệu có khả năng để người điên

nói ra chân lí không?"

Chỉ người điên mới có thể nói ra chân lí.

Jesus phải đã điên; bằng không ông ấy đã không nói

ra chân lí. Ông ấy mà chơi trò chơi của đám đông và

ông ấy sẽ trở thành giáo sĩ nổi tiếng, không bị đóng đinh

mà được cho vương miện. Nhưng ông ấy đã điên và ông

ấy đã nói chân lí.

Socrates phải đã điên, hoàn toàn điên; bằng không

sao bận tâm về chân lí? Sống như người khác sống, bắt

chước họ; nói dối như họ nói dối, lừa bịp như họ lừa bịp,

đạo đức giả như họ vậy. Sao cố gắng là thực? Sao cứ

khăng khăng về chân lí? Nhưng ông ấy phải đã điên.

Quan toà hỏi ông ấy trong khoảnh khắc cuối cùng...

bởi vì họ cũng cảm thấy tiếc cho người này, họ biết sự

chân thành của ông ấy. Họ bảo ông ấy rằng nếu ông ấy

thực sự rời khỏi Athens ông ấy có thể được tha thứ -

nhưng ông ấy không thể vào lại Athens lần nữa.

Socrates nói, "Điều đó tôi không thể làm được. Tôi

đã sống ở Athens, tôi đã dạy ở Athens, các đệ tử của tôi

đều ở đây, người của tôi ở đây. Bây giờ trong tuổi già

này, tôi sẽ lại bắt đầu kinh doanh của mình ở đâu?"

Vâng, ông ấy thực tế đã dùng từ 'kinh doanh'.

Quan toà hỏi, "Ông ngụ ý gì bởi việc kinh doanh của

ông?"

Ông ấy nói, "Việc kinh doanh nói ra chân lí - đó là

kinh doanh của tôi."

Quan toà thực sự thông cảm. Họ nói, "Thế thì ông

làm một điều này. Ông có thể sống ở Athens, nhưng thôi

nói, im lặng đi."

Ông ấy nói, "Điều đó là không thể được. Tốt hơn cả

là chết đi bởi vì thế thì cái chết của tôi sẽ nói. Và để tôi

nhắc các ông," ông ấy nói với quan toà, "ngay cả sau

nhiều thế kỉ, khi tôi chết rồi, cái chết của tôi sẽ cứ nói

với mọi người về chân lí. Và các ông sẽ được nhớ tới

chỉ bởi vì tôi thôi; bằng không chẳng ai sẽ nhớ các ông

đâu. Tôi không thể dừng việc kinh doanh của mình nói

ra chân lí. Tôi sẵn sàng chết."

Ông ấy phải đã điên! Ngay cả đệ tử của ông ấy cũng

nghĩ rằng ông ấy điên. Cuộc sống giá trị thế! Nhưng với

con người của chân lí, chân lí còn có giá trị hơn.

Và người điên có thể làm bất kì cái gì. Giúp chồng

bạn đi, đừng cản trở anh ấy. Giúp anh ấy là đích thực và

thực và đừng gọi anh ấy là điên. Ai biết ai điên? Thực

tế, không định nghĩa nào tồn tại. Các nhà phân tâm gọi

Jesus là thần kinh. Friedrich Nietzsche nói Phật là điên.

Freud nói Nietzsche là điên. Jung nghĩ Freud là điên. Ai

để mà tin được?

Bác sĩ nổi tiếng mở dạ dầy của bệnh nhân ra và một

bầy bướm bay ra.

"Này," bác sĩ nói, "anh chàng này thực sự nói chân

lí đây!"

Và có thể anh ta chỉ đóng vai, chỉ diễn kịch, bởi vì

đôi khi điều đó thực sự hay.

Tôi biết một người điên. Khi anh ta một mình với tôi

anh ta tuyệt đối lành mạnh, và khi anh về nhà anh ta trở

nên điên. Tôi hỏi anh ta, "Có chuyện gì vậy?"

Anh ta nói, "Ở đây rất thoải mái. Tôi không phải đi

làm, tôi không phải bận tâm về chuyện kinh doanh gia

đình, tôi không phải lo về bất kì cái gì. Tôi tận hưởng!

Tôi bơi trong sông, tôi nằm dưới mặt trời, mọi người

đều nghĩ, 'Nó điên!' Vợ tôi, con tôi, họ tất cả đều có

phần trách nhiệm. Vợ tôi cai quản cửa hàng, con tôi đứa

mà tôi bao giờ cũng lo lắng - bây giờ chúng lo lắng về

tôi! Còn tôi tận hưởng, tôi có thời gian của cuộc đời

tôi!" Anh ta nói, "Tôi đã làm đủ rồi. Bây giờ đây là cách

duy nhất."

Có nhiều người điên, người đơn giản giả vờ điên.

Giúp chồng bạn đi. Có thể đấy chỉ là vì bạn mà anh

ấy giả điên! Neelam, đàn bà là nguy hiểm! Bạn phải

thấy Aseema....

Aseema là một sannyasin đẹp. Tôi đã thấy cô ấy có

hai đời chồng - cả hai đều phát điên! Thế rồi tôi bắt đầu

nghĩ, vấn đề là gì? Và cả hai đều là người đẹp - bạn biết

cả hai. Một người là Sarvesh, người có tài nói tiếng

bụng. Anh ấy hoàn toàn tốt trước khi anh ấy gặp

Aseema. Bây giờ sannyasin đẹp này đã làm cho anh ta

phát điên! Người kia là Nikunj; Nikunj cũng điên. Toàn

thể công lao thuộc vào Aseema đấy! Bây giờ, nếu bất kì

ai khác nghĩ tới yêu Aseema, nghĩ hai lần đi! Và thế rồi

dừng bản thân bạn lại!

Một người đàn bà tới người xem tướng tay.

"Chồng bà sẽ chết một cái chết bạo hành," bà ấy

được bảo vậy.

"Thêm một câu hỏi nữa," bà ấy hỏi. "Tôi sẽ được

trắng án chứ?"

Một nhóm người đi bộ đường trường đi qua một túp

lều vùng sâu vùng xa thì họ thấy người chủ đang ngồi

tựa trong chiếc ghế đá ở hiên. Họ để ý thấy vợ ông ta đi

vào nhà qua cửa trước và là cửa duy nhất. Vài giây sau

họ thấy một con linh miêu nhảy qua cửa sổ mở.

Họ chạy xô tới người vùng núi này. "Làm cái gì đó

đi nhanh lên!" ai đó kêu lên. "Một con linh miêu vừa

nhảy vào trong nhà ông và vợ ông ở trong đó."

"Đó là vận đen của nó rồi," người vùng sâu nói.

"Đằng nào thì tôi cũng chẳng bao giờ thích linh miêu."

Nên, Neelam, thiền chút ít về bản thân bạn đi. Sao

người đàn ông đáng thương này lại cư xử cứ dường như

anh ấy điên?

Tại cao điểm của sự dính líu không may của người

Mĩ ở Đông Á, một thanh niên có vẻ nghiêm nghị tới văn

phòng sĩ quan tuyển quân.

"Tôi phải làm gì để sang Việt Nam sớm nhất có thể

được?" người lính tương lai hỏi.

"Này, trước hết anh phải kí đã," viên sĩ quan kêu lên

với cái cười toe toét.

"Người tình nguyện có phải khám sức khoẻ không?"

"Chắc chắn khám chứ."

"Khỉ gió, điều đó sẽ làm tôi chậm mất. Tôi muốn ra

tiền tuyến ngay bây giờ."

"Trong mọi trường hợp, anh phải vào trại huấn

luyện đã," viên sĩ quan giải thích. "Không ai đi ra nơi

đánh nhau mà không được huấn luyện đúng."

"Thế thì ít nhất quân đội cũng cho tôi bay sang Việt

Nam chứ? Tôi ghét đi tới đó bằng thuyền chậm."

"Anh vô cùng lo lắng về cái gì vậy?" người lính này

càu nhàu. "Anh không hiểu anh có thể bị giết hay bị

thương ở đó à?"

"Vậy là tôi sẽ bị giết hay bị thương. Có gì khác đâu,

chừng nào tôi có được mọi vinh quanh?"

"Nghe đây, anh bạn," người tuyển quân gắt gỏng,

"sao anh không về nhà và quên toàn bộ chuyện này đi?

Anh điên thật!"

Chàng thanh niên bất thần cho tay vào túi áo khoác,

rút ra một tờ giấy và dúi vào tay viên sĩ quan quân đội.

"Đây," anh ta nói nhanh. "Kí đi!"

Đủ cho hôm nay.

****************************************************************************************************************

#11Câu hỏi thứ nhất:

Thưa Thầy kính yêu,

Sao thầy liên tục bị mọi người hiểu lầm và diễn giải

sai?

Rajesh, điều đó tuyệt đối là không tránh được, nó là

không thể tránh được. Nó phải như vậy. Nó là một phần

của định mệnh của những người nói ra chân lí. Họ nhất

định bị hiểu lầm, bị diễn giải lầm. Nếu họ không bị hiểu

lầm, không bị diễn giải lầm, điều đó sẽ là phép màu. Nó

đã không xảy ra cho tới nay và không có hi vọng nào

rằng nó sẽ xảy ra.

Chư phật bao giờ cũng bị hiểu lầm bởi lẽ đơn giản là

họ nói từ tầm nhìn hoàn toàn khác, điều không sẵn có

cho chúng sinh. Họ nói từ kinh nghiệm hoàn toàn khác.

Kinh nghiệm của họ là tới mức nó không thể diễn đạt

được qua lời, vậy mà họ cố gắng diễn đạt nó qua lời - họ

cố gắng làm điều không thể làm được. Nói nó qua lời

tạo ra rắc rối. Họ dùng lời theo cách của họ, họ cho lời

mầu sắc riêng của họ, nhưng khi những lời đó đạt tới

bạn chúng đã mất mọi nghĩa đã từng được cho bởi người

đã thức tỉnh. Lập tức bạn diễn giải chúng, bạn dịch

chúng thành kinh nghiệm của bạn.

Chư phật nói từ đỉnh cao đầy ánh mặt trời còn bạn

sống trong thung lũng tối tăm. Họ nói về ánh sáng còn

bạn chưa bao giờ thấy ánh sáng. Họ nói về mắt và bạn

thậm chí đã không mơ về mắt. Họ nói về vĩnh hằng và

tất cả mọi thứ bạn biết là thời gian; tất cả mọi thứ bạn

biết là tạm thời và họ nói về cái không bao giờ thay đổi,

cái bao giờ cũng như vậy, cái vẫn còn mãi. Điều đó là

không thể bắc cầu qua được, lỗ hổng. Chừng nào bạn

còn chưa trở thành có ý thức thì nó vẫn còn không thể

được bắc cầu qua.

Do đó chỉ vài đệ tử, dần dần, dần dần mới đạt tới

nghĩa của thầy. Rất chậm vài người mới trở nên thức

tỉnh, họ thoát ra khỏi giấc ngủ của mình. Điều đó là gian

nan, nữa, bởi vì tất cả những điều bạn biết về cuộc sống

của mình đều là giấc ngủ của bạn và giấc mơ của bạn.

Bỏ giấc mơ và cuộc sống của bạn lại đằng sau là gian

nan. Nó phá huỷ toàn thể quá khứ của bạn. Nó đi vào

trong lãnh thổ không biết thế và không có bản đồ -

người ta cảm thấy sợ.

Chỉ các đệ tử mới có thể hiểu; quần chúng không thể

hiểu được. Quần chúng có mọi đầu tư vào không hiểu.

Cho dù có khả năng nào đó của việc hiểu họ sẽ né tránh

khả năng đó. Họ sẽ không tới gần chư phật. Họ sẽ cố

theo mọi cách để tạo ra ngày một nhiều rào chắn. Họ sẽ

tạo ra tin đồn, đủ mọi loại tin đồn. Họ sẽ bao quanh chư

phật với nhiều khói do họ bịa ra tới mức chư phật trở

thành gần như vô hình với họ. Họ không muốn nghe -

điều đó gây đau. Toàn thể cuộc sống của họ bị bắt rễ

trong dối trá còn chân lí gây đau, nó làm tan nát.

Và quần chúng là bao la, người mù có cả triệu.

Người có mắt là hiếm, vài người và xa xăm ở giữa. Chỉ

thỉnh thoảng mới có một Zarathustra, một Lão Tử, một

Jesus, một Moses, một Phật tới. Họ làm điều gì đó

không thể hình dung nổi. Họ cố gắng giải thích ánh sáng

cho hàng triệu người mù. Người mù có thể nghe thấy lời

'ánh sáng' nhưng họ không thể hiểu được nó - hay họ sẽ

hiểu nó theo cách riêng của họ, bất kì cái gì là ý tưởng

của họ, ý kiến về ánh sáng. Và họ không chỉ mù; họ có

cả nghìn ý kiến. Họ có nhiều tri thức - mà chẳng biết cái

gì hết cả. Họ có đầy kinh sách. Họ giấu mù loà của mình

đằng sau kinh sách. Họ có thể trích dẫn kinh sách, họ có

thể biện minh. Họ láu cá và khéo léo trong biện luận.

Thực tế, chân lí không thể được luận bàn. Hoặc bạn

biết nó hoặc bạn không biết nó. Chân lí không thể được

chứng minh; hoặc bạn biết nó hoặc bạn không biết. Biết

là tất cả những gì có thể, hay không biết; không có cách

nào chứng minh nó.

Có lần chuyện xảy ra:

Một người mù được đưa tới Phật Gautama. Ông ta

là nhà logic, một triết gia, rất thích tranh cãi. Ông ta đã

từng cãi nhau với cả làng rằng không có ánh sáng, "và

các ông tất cả đều mù, cũng như tôi mù thôi. Tôi biết

điều đó và các ông không biết điều đó, đó là khác biệt

duy nhất." Ông ta nói điều này với những người có mắt!

Và ông ta cũng láu cá trong biện luận tới mức dân làng

đều lúng túng chả biết làm gì với người này.

Ông ta đòi hỏi họ, "Đem ánh sáng của các ông lại

đây. Để tôi nếm nó hay ngửi nó hay sờ nó. Chỉ thế thì

tôi mới tin."

Bây giờ, ánh sáng không thể được sờ, không thể

được nếm, không thể được ngửi. Bạn không thể nghe

thấy nó. Và đây là bốn giác quan sẵn có cho người mù.

Thế rồi ông ta sẽ cười đắc thắng. Ông ta sẽ nói, "Trông

đấy! Làm gì có ánh sáng. Bằng không, đưa cho tôi bằng

chứng!"

Khi Phật tới làng đó, dân làng nghĩ thế này thì tốt:

"Để chúng ta đem người này tới cho Phật."

Họ đem người này tới Phật, Phật nghe toàn thể câu

chuyện và thế rồi ông ấy nói, "Ông ấy không cần ta. Ta

cũng làm việc với người mù, nhưng loại mù khác -

người mù về tâm linh, ta chữa lành họ, ta chữa cho họ.

Nhưng đây là mù vật lí. Các ông đưa ông ta tới ông lang

trị liệu đi. Các ông đưa ông ta tới thầy thuốc riêng của

ta."

Ông ấy có thầy thuốc riêng mà vua đã cho ông ấy.

Thầy thuốc lớn nhất thời đó, Jivaka, đã được trao cho

Phật như món quà để chăm sóc thân thể ông ấy. "Các

ông đưa ông ta tới Jivaka, và ta chắc chắn rằng ông ấy

sẽ có khả năng làm cái gì đó. Ông ta cần lương y điều

trị; ông ta không cần triết lí lớn lao về ánh sáng. Nói về

ánh sáng chỉ là ngu xuẩn. Và nếu các ông tranh luận với

ông ta, ông ta sẽ thắng. Ông ta có thể chứng minh rằng

không có ánh sáng."

Nhớ lấy, chứng minh rằng không có Thượng đế là

rất dễ dàng; chứng minh rằng có Thượng đế là điều

không thể được. Chứng minh cái phủ định là dễ bởi vì

mọi logic đều có xu hướng phủ định. Chứng minh cái

khẳng định là không thể được; logic không có lối mở tới

cái khẳng định. Do đó người vô thần giỏi biện luận hơn

và người hữu thần gần như thua. Người đó không thể

chứng minh được sự tồn tại của Thượng đế hay linh

hồn.

Phật nói, "Các ông đưa ông ta tới Jivaka." Jivaka đã

chữa mắt cho ông ta. Trong vòng sáu tháng người này

đã có khả năng nhìn. Ông ta đi tới Phật vừa nhảy múa

vừa mang nhiều hoa và quả làm quà tặng. Ông ta quì

xuống chân Phật và ông ta nói, "Nếu như thầy không ở

đây thì tôi đã tranh luận cả đời mình chống lại ánh sáng

- và ánh sáng là có! Bây giờ tôi biết!"

Phật nói, "Ông có thể chứng minh được nó không?

Ánh sáng ở đâu? Tôi muốn nếm nó và sờ nó và ngửi

nó!"

Và người mù này - người cựu mù này - nói, "Điều

đó là không thể được. Bây giờ tôi biết nó chỉ có thể

được nhìn; không có cách khác để tiếp cận nó. Tôi xin

lỗi, tôi rất tiếc. Tôi đã mù, hoàn toàn mù, và trong mù

quáng của mình tôi đã nói những điều này. Tôi đã biện

luận chống lại cái gì đó đang tồn tại và là kinh nghiệm

đẹp nhất của cuộc sống. Nếu như thầy mà không có ở đó

thì tôi đã tranh luận cả đời mình chống lại cái gì đó đang

có, và tôi sẽ vẫn còn là người mù. Và thầy đã làm giỏi

lắm khi thầy không nói một lời nào về ánh sáng; bằng

không, tôi đã tới được chuẩn bị, chuẩn bị đầy đủ để

tranh luận với thầy, và bây giờ tôi biết, ngay cả thầy

cũng không có khả năng chứng minh nó. Nhưng sáng

suốt của thầy thực là sâu: thầy có thể thấy rằng tôi đã

không cần chứng minh nào; tôi cần thuốc nào đó. Tôi đã

không cần triết lí, tôi cần thầy thuốc trị liệu. Thầy đã chỉ

tôi tới đúng người. Tôi biết ơn vô cùng."

Và người này không bao giờ rời khỏi Phật. Ông ta

nói, "Điều thầy đã làm cho mắt vật lí của tôi, bây giờ

làm cho mắt tâm linh của tôi nữa."

Ông ta trở thành đệ tử, ông ta trở thành sannyasin.

Là đệ tử nghĩa là sẵn sàng được mổ. Nó là cuộc giải

phẫu, cuộc giải phẫu rất bên trong: giải phẫu tại chính

cốt lõi sâu nhất của bản thể bạn. Chỉ thế thì bạn mới có

thể hiểu tôi, điều tôi đang nói cho bạn.

Nhưng quần chúng không sẵn sàng. Và đừng lo về

họ, Rajesh. Đó không phải là việc của chúng ta. Nếu họ

hiểu lầm, với chúng ta không thành vấn đề gì cả. Nếu họ

hiểu lầm, họ bỏ lỡ cái gì đó. Nếu họ diễn giải lầm, đó là

tổn thất của họ. Cố giúp họ tới gần tôi hơn, nhưng đừng

tranh cãi với họ.

Tôi là thầy thuốc trị liệu, tôi không phải là triết gia.

Công việc của tôi ở đây là công việc của nhà giải phẫu,

không phải là công việc của thầy giáo. Thầy bao giờ

cũng là nhà giải phẫu. Thầy cắt đi tất cả những cái giả

trong bạn, từng chùm một. Dần dần, dần dần thầy phá

huỷ toàn thể dinh thực của cái giả của bạn. Và thế thì cái

còn lại đằng sau là chân lí của bạn, là bản thể bạn. Khi

bạn đã kinh nghiệm nó, chỉ thế thì bạn mới có khả năng

hiểu điều đang được truyền đạt cho bạn qua lời, qua im

lặng, qua giao cảm.

Tôi đang cố theo đủ mọi cách có thể để đạt tới bạn,

nhưng tôi có thể đạt tới bạn chỉ nếu bạn cởi mở với tôi.

Tôi không thể đạt tới quần chúng được; điều đó là

không thể được theo chính bản chất của mọi sự.

#11Câu hỏi thứ hai:

Thưa Thầy kính yêu,

Làm sao tôi trở thành con người mới mà thấy nói

tới?

Bhagwato, Jesus nói: Chừng nào ông còn chưa được

sinh ra lần nữa ông sẽ không vào được vương quốc

Thượng đế của ta. Đích xác đó là điều tôi nói với bạn:

Chừng nào bạn còn chưa được sinh ra lần nữa....

Có hai việc sinh. Một việc sinh được cho bạn bởi

cha mẹ bạn; đó là sinh vật lí. Đó là cơ hội duy nhất cho

lần sinh thứ hai. Nếu bạn nghĩ rằng lần sinh thứ nhất là

tất cả, bạn đã bỏ lỡ toàn thể vấn đề. Lần sinh thứ nhất

chỉ là hạt mầm. Nó có giá trị mênh mông nếu lần sinh

thứ hai xảy ra; nó không có giá trị chút nào nếu bạn bỏ

lỡ lần sinh thứ hai. Bạn phải được sinh ra hai lần. Đó là

cách chúng ta đã định nghĩa chư phật ở phương Đông.

Lần sinh thứ hai phải xảy ra bên trong bạn; nó là của

tâm thức. Nó không của thân thể bạn, nó thậm chí không

của tâm trí bạn; nó là của nhận biết.

Bình thường, sinh lần thứ nhất làm bạn chỉ là cái

máy. Bạn bắt đầu sống theo một cách rất hời hợt; bạn

không có chiều sâu nào, bạn chưa có linh hồn nào. Bạn

ăn, bạn uống, bạn làm việc, bạn ngủ, nhưng tất cả đều

giống như robot. Bạn không thấy cái đẹp của sự tồn tại -

bạn không thể thấy được nó. Bạn không thấy tính

thượng đế của mọi khoảnh khắc; không thể có khả năng

cho bạn kinh nghiệm nó. Điều đó cần sự biến đổi của

toàn thể lãnh địa của bạn. Điều đó cần tính chủ quan

mới, tầm nhìn mới, cảnh quan mới.

Bạn nhìn trong giác quan nào đó, bạn nghe chỉ trong

giác quan nào đó. Vâng, bạn nghe các lời, nhưng nghĩa

lại bị mất. Bạn đọc Kinh Thánh, Koran, Veda, nhưng

giống như vẹt. Ngay cả vẹt cũng còn thông minh hơn

nhiều so với cái gọi là các bác học của bạn, hơn nhiều so

với cái gọi là người thông thái của bạn. Bạn cứ lặp lại

như chiếc máy ghi âm. Và bạn bản ngã tới mức bạn

không thể chấp nhận được, bạn không thể nói được,

"Tôi không biết."

Jascha Heifetz, người chơi violon nổi tiếng, ở

London nơi ông ta có lịch trình diễn buổi hoà nhạc. Vài

giờ trước khi mở màn, ông ấy để ý rằng dây đàn violon

bị đứt, cho nên ông ta vội vàng tới cửa hàng nhạc cụ để

thay thế. Ông ta được một cô gái phục vụ, cô này mới

vào nghề. "Tôi muốn chiếc dây 'E' cho cây đàn violon

của tôi," Heifetz nói.

"Cái gì vậy?" cô gái không hiểu hỏi lại.

"Dây 'E'."

"Rất tiếc, thưa ông," cô ấy đáp lại một cách biện

giải, "nhưng ông sẽ phải tự lấy nó ra. Tôi không thể biết

được cái của ông ấy với cái của bà ấy!"

Mọi người rất ngần ngại chấp nhận sự kiện là họ

không biết. Họ cố gắng theo đủ mọi cách để xoay xở mẽ

ngoài mà họ biết. Đây là sai lầm lớn nhất trong cuộc

sống. Bạn chưa được sinh ra, nhưng nếu bạn nghĩ bạn đã

được sinh ra, nếu bạn nghĩ bạn đã đạt tới cuộc sống, thế

thì toàn thể cơ hội này sẽ bị mất. Nó sẽ tiêu tán đi.

Và bạn có thể học những từ lớn lao; chúng sẵn có

đấy. Bạn có thể học chúng nhiều tới mức nếu bạn gặp

Jesus bạn có thể lặp lại lời của ông ấy còn tốt hơn bản

thân ông ấy nói nó bởi vì bạn đã lặp lại chúng lâu thế.

Bạn có thể đánh bại ông ấy; trong thi tài ông ấy có thể

không đạt được chút nào. Tu sĩ ngu xuẩn nào đó có thể

thắng cuộc thi bởi vì ông ta chỉ lặp lại đích xác từng lời

một. Jesus không thể làm được điều đó; điều đó là

không thể được. Ông ấy phải tự phát. Ông ấy sẽ đáp ứng

với tình huống. Ông ấy có thể nói những điều mới nào

đó - bởi vì hai mươi thế kỉ đã trôi qua rồi. Làm sao ông

ấy có thể cứ nói cùng điều cũ được? Không thể được.

Đó là lí do tại sao những người tin rằng họ biết lại là

người dốt nát nhất thế giới. Dốt nát không phải là xấu,

nhưng tin rằng bạn biết, mà lại không biết, là rất nguy

hiểm.

Dường như là vẹt nói đã trở thành rất thời thượng.

Dễ hiểu, vợ của Mulla Nasruddin quyết định cô ấy phải

mua một con cho mình. Tuy nhiên, mọi cửa hiệu cô ấy

tới đều đã bán hết vẹt rồi. Cuối cùng cô ấy tìm thấy một

cửa hiệu còn mỗi một con.

"Nhưng," người chủ thận trọng, "con chim này trước

đây đã có chủ là một bà ở nhà thổ và ngôn ngữ của nó

có thể rất chát chúa. Có lẽ nếu bà để nó được che đậy lại

trong một tuần, nó sẽ quên điều nó đã thấy và nghe."

Bà Nasruddin mua con chim đó và làm như ông chủ

tiệm bảo. Khi một tuần qua đi và con chim cuối cùng

được mở khăn đậy ra. Nó đầu tiên nhấp nháy mắt và thế

rồi sau khi điều chỉnh theo ánh sáng nó nhìn quanh và

nói, "Hừmm... nhà mới xinh. Hừmm... bà mới xinh.

Hừmm... gái mới xinh nữa."

Vừa lúc đó Mulla Nasruddin bước vào. Con chim

nhìn anh ta và nói, "A, cứt thật! Lại cùng khách hàng cũ.

Chào, Mulla!"

Vâng, ngay cả vẹt cũng tự phát hơn bác học của bạn.

Bạn cứ lặp lại. Cha mẹ bạn tin rằng họ sống và cha mẹ

họ tin rằng họ sống, và họ đã cho bạn ý tưởng rằng bạn

sống. Bạn không sống, bạn chỉ sống vô vị. Sống động

nghĩa là được thức tỉnh.

Bhagwato, khi tôi nói con người mới, tôi ngụ ý con

người có ý thức. Nhân loại không thể được cứu nếu con

người có ý thức không tới. Trong quá khứ điều đó

không cần đến thế, nhưng bây giờ điều đó tuyệt đối cần

thiết, nó là điều phải có. Nếu con người mới không tới

trên trái đất này, nếu ngày càng nhiều người không đi tới

trở thành có ý thức, tỉnh táo, thức tỉnh, thì trái đất này sẽ

diệt vong. Định mệnh của nó đang ở trong tay các chính

khách ngu xuẩn, và bây giờ họ có quyền lực huỷ diệt

mênh mông, điều như thế họ chưa bao giờ có trước đây.

Đó là cái gì đó mới.

Mới năm năm trước đây họ có nhiều quyền lực tới

mức họ có thể đã giết mọi người đến bẩy lần - mặc dầu

bạn không cần giết bất kì người nào bẩy lần, một lần là

đủ. Năm năm trước chúng ta có nhiều năng lượng

nguyên tử - bom nguyên tử, bom khinh khí - tới mức

chúng ta có thể đã huỷ diệt trái đất này bẩy lần. Và trong

năm năm chúng ta đã thực sự tiến bộ - bây giờ nó là bẩy

trăm lần! Chúng ta có thể huỷ diệt bẩy trăm trái đất như

trái đất này, và chúng ta vẫn đang chồng chất thêm....

Và bất kì khoảnh khắc nào, bất kì chính khách điên nào

cũng có thể lẩy cò quá trình tự huỷ diệt.

Hai mươi năm tới sẽ là thời nguy hiểm nhất trong

toàn thể lịch sử nhân loại; chưa bao giờ nguy hiểm thế -

chúng ta đang ngồi trên núi lửa. Chỉ nhận biết hơn, tỉnh

táo hơn mới có thể cứu được nó; không có cách khác.

Chúng ta phải giải tự động hoá con người. Xã hội tự

động hoá bạn. Nó tạo ra máy hiệu quả, không phải con

người.

Nỗ lực của tôi ở đây là để giải tự động hoá cho bạn.

Tôi đang làm điều gì đó tuyệt đối phản xã hội. Xã hội

làm cho bạn thành máy còn nỗ lực của tôi là hoàn tác lại

điều đó. Tôi muốn ngọn lửa này lan rộng và đạt tới mọi

xó xỉnh và ngõ ngách của trái đất, để giúp cho nhiều

người nhất có thể được trở nên có ý thức. Nếu với số

lượng lớn ý thức phát triển trên trái đất, có khả năng, có

hi vọng, chúng ta có thể cứu được nhân loại. Tất cả

không bị mất đi, nhưng thời gian đang ngắn dần. Mọi

thứ đều bị kiểm soát bởi các chính khách và máy tính,

và cả hai đều nguy hiểm. Chính khách điên. Không thể

là chính khách được nếu bạn không đủ điên khùng. Bạn

phải tuyệt đối điên khùng, bởi vì chỉ người khùng mới bị

ám ảnh bởi quyền lực.

Người lành mạnh sống cuộc sống một cách vui vẻ;

người đó không bị ám ảnh bởi quyền lực. Người đó có

thể quan tâm tới âm nhạc, tới ca hát, tới nhảy múa,

nhưng người đó không quan tâm tới chi phối bất kì ai.

Người đó có thể quan tâm tới việc là chủ của bản thân

mình, nhưng người đó không quan tâm tới việc trở thành

người chủ của người khác.

Chính khách là người khùng. Lịch sử có đủ bằng

chứng. Và bây giờ máy tính đang chi phối.

Bạn biết câu ngạn ngữ: Sai lầm là tính người.... Điều

đó đúng, nhưng nếu bạn thực sự muốn tạo ra đống lộn

xộn lớn, người là không đủ - bạn cần máy tính. Bây giờ

máy và người điên đang chi phối toàn thế giới. Chúng ta

phải thay đổi chính nền tảng này. Đó là điều tôi ngụ ý

bởi con người mới.

Con người mới nghĩa là nhiều ý thức hơn, yêu mến

hơn, sáng tạo hơn. Toàn thể quá trình này là có thể qua

việc có tính thiền nhiều hơn. Trở nên nhiều tính thiền

hơn đi, im lặng, tĩnh lặng. Kinh nghiệm bản thân mình

sâu sắc. Trong kinh nghiệm đó, hương thơm sẽ được toả

ra qua bạn. Và nếu nhiều, nhiều người trở thành thiền

nhân, trái đất có thể đầy hương thơm mới.

#11Câu hỏi thứ ba:

Thưa Thầy kính yêu,

Tôi chưa bao giờ biết cái gì sắp tới tiếp.

Không ích gì mà được chuẩn bị.

Thầy đang giết tôi.

Tôi mừng thế, nhưng cũng đáng sợ thế và hoảng thế.

T.B. Đây là vài nét thôi. Xin đừng gây ra thêm rắc

rối nào nữa.

Prem Samarpan, vài nét là đủ gây ra rắc rối rồi. Và

khi bạn hỏi nó, bạn được nó đấy! Thỉnh thoảng người ta

được nó cho dù không hỏi. Bất kì cái gì bạn cần, bất kì

khi nào bạn cần, nó đều được trao cho bạn.

Đau không phải bao giờ cũng là xấu; đôi khi nó là

tuyệt đối cần thiết. Nó là phúc lành trá hình. Bạn trưởng

thành qua nó; bạn không thể trưởng thành được nếu bạn

cố bỏ qua nó. Người ta trở nên được tích hợp, được kết

tinh qua đau. Điều kiện duy nhất cần được hoàn thành là

ở chỗ bạn phải đi vào trong nó một cách có ý thức. Thế

thì đau nữa lại là món quà của Thượng đế, cũng như cái

chết là món quà. Thế thì mọi thứ đều là món quà, nếu

bạn có thể đi một cách có ý thức vào trong nó. Thế thì

mọi thứ chuẩn bị bạn cho lần sinh mới, cho con người

mới.

Bạn nói, "Tôi chưa bao giờ biết cái gì sắp tới tiếp."

Không ai biết và không ai cần biết. Samarpan, điều

tốt là không bị bận tâm tới tương lai. Hiện tại là đủ. Và

sống trong hiện tại, toàn bộ bị hấp thu trong hiện tại, là

cách thức của sannyasin.

Jesus nói với đệ tử của ông ấy, "Nhìn những bông

hoa loa kèn trên cánh đồng, chúng đẹp làm sao!" Và bí

mật của chúng là gì? Bí mật là, chúng chưa bao giờ nghĩ

tới ngày mai, chúng sống trong hiện tại. Toàn thể sự tồn

tại sống trong hiện tại, ngoại trừ con người. Do đó,

ngoại trừ con người, không có lo âu, không có phiền

não. Mọi lo âu, mọi phiền não đều do con người tạo ra;

nó là việc làm riêng của chúng ta. Nó đơn giản tồn tại

trong tâm trí riêng của chúng ta. Hoặc chúng ta lo nghĩ

về quá khứ - điều ngu xuẩn thế bởi vì bạn không thể làm

được gì về nó; bất kì cái gì đã xảy ra đều đã xảy ra rồi,

bạn không thể quay lại được. Nhưng chúng ta cứ nghĩ,

"Giá mà mình làm điều này, giá mà mình nói điều

này...." Bạn đơn giản phí thêm thời gian. Mọi người cứ

ăn năn về quá khứ - cái không còn đáng ăn năn nữa. Mọi

người cảm thấy mặc cảm về quá khứ của họ. Cái đã qua

rồi là qua mãi mãi. Cảm thấy bị ngắt ra đi, trở thành

không liên tục đi.

Từng khoảnh khắc, Samarpan, người ta phải trở nên

không liên tục với quá khứ. Và nếu bạn trở nên không

liên tục với quá khứ, chỉ thế thì bạn mới dừng lo nghĩ về

tương lai, bởi vì tương lai không là gì ngoài phóng chiếu

của quá khứ. Người sống trong quá khứ cũng sống trong

tương lai. Tương lai là phản xạ của quá khứ. Ý tưởng về

tương lai của bạn đích xác là gì? Nó nghĩa là bạn sẽ

không phạm phải sai lầm bạn đã phạm trong quá khứ -

xoá bỏ các sai lầm đó. Và bạn đang tận hưởng tất cả

những cái là hoan lạc trong quá khứ sâu sắc. Đó là điều

tương lai của bạn là gì: làm mạnh thêm hoan lạc của bạn

đã có trong quá khứ và xoá bỏ đi đau đớn của bạn đã có

trong quá khứ.

Nhưng bạn không hiểu cuộc sống. Đau đớn và hoan

lạc được nối với nhau. Nếu bạn muốn cùng hoan lạc mà

bạn đã tận hưởng trong quá khứ và bạn muốn chúng còn

mạnh hơn, bạn đang yêu cầu cả cái đau mà bạn đã chịu

đựng trong quá khứ. Và tất nhiên, đau sẽ mạnh như hoan

lạc. Chúng bao giờ cũng cân bằng nhau, chúng đi cùng

nhau, chúng là không tách rời. Chúng là hai mặt của

cùng một đồng tiền.

Cho nên bạn đơn giản phí thời gian, dù bạn nghĩ về

quá khứ hay tương lai. Và tương lai sẽ không đi theo

bạn đâu. Bạn là ai mà quyết định về tương lai? Vũ trụ

bao la này không thể được quyết định bởi ý chí riêng tư

của bạn, bởi bản ngã của bạn. Bạn phải dừng xô đẩy

dòng sông. Bạn phải học cách đi cùng dòng sông, cách

đi cùng với gió.

Lão Tử nói: Giống lá khô, gió thổi đi đâu, lá đi cùng

gió. Nó không có định mệnh riêng của nó, nó không có

mục đích riêng tư của riêng nó, nó sẽ không có ý chí của

riêng nó. Nó hoàn toàn buông xuôi. Đó là nghĩa của tên

bạn, Samarpan. Samarpan nghĩa là "buông xuôi toàn

bộ": người đã mất ý chí của mình trong ý chí của cái

toàn thể.

Jesus nói trên cây thập tự, "Vương quốc của ngài

tới, ý chí của ngài sẽ được thực hiện." Đó là samarpan,

đó là buông xuôi. "Ý chí của ngài, không phải của tôi."

Đó là lời cầu nguyện cuối cùng của ông ấy và là chính

bản chất của lời cầu nguyện, chính linh hồn của người

tôn giáo.

Không cần chuẩn bị cho tương lai. Sống trong hiện

tại toàn bộ thế, có vậy thôi. Đó là chuẩn bị cho tương lai

mà không chuẩn bị chút nào. Tại sao? - bởi vì khi bạn

sống một cách toàn bộ trong hiện tại, tương lai sẽ được

sinh ra từ hiện tại. Nó sẽ tới từ đâu? Nó sẽ trưởng thành

từ khoảnh khắc này. Nếu bạn đã sống khoảnh khắc này

trong cái đẹp toàn bộ, niềm vui, lễ hội, khoảnh khắc tiếp

sẽ bắt nguồn từ nó và bạn sẽ có khả năng sống nó thậm

chí còn toàn bộ hơn, thậm chí còn vui vẻ hơn. Nhưng

bạn không nghĩ về nó và bạn không chuẩn bị về nó bởi

vì suy nghĩ và chuẩn bị nghĩa là bỏ lỡ khoảnh khắc này.

Và nếu bạn bỏ lỡ khoảnh khắc này bạn sẽ bỏ lỡ khoảnh

khắp tiếp nữa, bởi vì nó sẽ bắt nguồn từ khoảnh khắc

trống rỗng này, điều bạn tuyệt đối bỏ lỡ.

Cho nên một hiện tượng kì lạ xảy ra, một luật rất kì

lạ của cuộc sống: những người chuẩn bị cho tương lại là

những người cứ bỏ lỡ, và những người không chuẩn bị

mà sống trong hiện tại, hoàn toàn buông xuôi cho cái

toàn thể, họ chưa bao giờ bỏ lỡ cái gì. Tương lai của họ

bắt nguồn từ hiện tại, tuôn chảy từ hiện tại. Thế thì cái

toàn thể chăm nom. Khi bạn buông xuôi, cái toàn thể

chăm nom; khi bạn không buông xuôi, bạn phải chăm lo

cho bản thân mình. Và điều đó giống như cố gắng kéo

bản thân mình lên bằng việc kéo dây giầy của mình lên.

Mulla Nasruddin đi chuyến máy bay đầu tiên đời

mình. Khi quay về anh ta trông rất mệt mỏi - và chỉ

chuyến bay mười lăm phút từ Bombay tới Pune - anh ta

run rẩy, mặt tái nhợt.

Tôi hỏi, "Có chuyện gì thế?"

Anh ta nói, "Có chuyện gì à! Hai chuyến bay đó!"

Tôi nói, "Hai chuyến bay nào? Anh mới bay chỉ mỗi

một chuyến."

Anh ta nói, "Hai mà - chuyến đầu tiên và chuyến

cuối cùng của tôi! Tôi được kết thúc với cái vô nghĩa

này! Tôi sợ thế, tôi phải ngồi ngay trên mép ghế."

"Nhưng sao lại ngồi trên mép ghế?" Tôi hỏi anh ta.

Anh ta nói, "Để cho toàn thể trọng lượng của tôi

không dồn vào máy bay, đó là lí do tại sao."

Và đây là cách hàng triệu người đang sống trên thế

giới: cho nên toàn thể trọng lượng của họ sẽ không ở

trên cái toàn thể; bằng không thì cái gì đó có thể đi sai.

Cái toàn thể có khả năng mang bạn. Bạn gần như là

cái không; đó không phải là vấn đề cho cái toàn thể.

Một người đã chấm dứt cuộc sống của mình đi tới

trước Thượng đế. Thượng đế kiểm điểm lại cuộc sống

của anh ta và chỉ cho anh ta nhiều bài học anh ta đã học.

Khi anh ta đã kết thúc Thượng đế nói, "Con ta, còn có gì

con muốn hỏi không?"

Người này nói, "Khi ngài chỉ cho con cuộc đời con,

con để ý rằng vào thời dễ chịu có hai vết dấu chân, và

con biết ngài đã bước bên cạnh con. Nhưng vào thời khó

khăn chỉ có một dấu chân. Sao thế, thưa cha, ngài đã bỏ

con trong thời khó khăn sao?"

Và Thượng đế nói, "Con hiểu lầm ta, con ta. Đúng

là vào thời dễ chịu ta bước bên con và chỉ ra con đường.

Nhưng vào thời khó khăn, ta mang con."

Bạn nói, Samarpan, "Tôi chưa bao giờ biết cái gì

sắp tới tiếp. Không ích gì mà được chuẩn bị."

Chắc chắn, chẳng ích gì mà được chuẩn bị - hay, có

một cách được chuẩn bị hoàn toàn khác. Đó là điều tôi

đang cố chỉ ra cho bạn. Sống khoảnh khắc này một cách

toàn bộ, đầy nhận biết. Đó là cách thực để chuẩn bị mà

không chuẩn bị. Đó là chuẩn bị mà không chuẩn bị. Bạn

sẽ sẵn sàng cho khoảnh khắc tiếp một cách tự nhiên,

không lo nghĩ gì.

Bạn nói, "Thầy đang giết tôi."

Vâng, theo một nghĩa nào đó. Và theo nghĩa khác....

Thiền về câu chuyện này:

Một người đi dạo trong công viên muộn về đêm.

Bỗng nhiên, đằng sau bụi hoa nào đó anh ta nghe thấy

tiếng thở hổn hển kì lạ và tiếng la bị nghẹn. Hoảng hốt,

anh ta kêu lên, "Ai đang bị giết ở đó thế?"

"Không, không," một giọng nói vọng lại. "Chính cái

đối lập!"

Vâng, theo một nghĩa nào đó tôi đang giết chết bạn;

theo nghĩa khác, tôi đang cho bạn việc sinh thành mới.

Tôi đang làm chính điều đối lập.

Thầy là bụng mẹ. Thầy đưa đệ tử vào trong bụng mẹ

của mình. Chúng ta gọi bụng mẹ đó là phật trường. Và

thế rồi đệ tử trưởng thành trong tình yêu của thầy, được

nuôi dưỡng qua tình yêu của thầy, trong ánh sáng của

thầy. Đệ tử được mưa rào liên tục bằng tình yêu của

thầy, bằng hiểu biết của thầy. Và một ngày nào đó đệ tử

ra khỏi bụng mẹ của thầy, một con người mới toàn bộ.

Con người cũ chết đi và con người mới được

#11Câu hỏi thứ tư:

Thưa Thầy kính yêu,

Thầy nói về sự khác biệt giữa 'biết' và 'tri thức'.

Nhưng để trở thành thầy, thầy không phải có 'tri

thức' cũng như 'biết' sao? Với tôi dường như là thầy,

trong bài nói của mình, chỉ ra nhiều tri thức. Điều

này không thể là một phần của đạo cho ai đó sao?

Nicholas Mosley, có khác biệt lớn giữa tri thức và

biết. Và với bạn, biết có thể dường như là tri thức bởi vì

bạn không quen thuộc với biết chút nào; bạn chỉ biết tri

thức. Do đó bạn có thể thấy nhiều tri thức trong điều tôi

đang nói, nhưng nó không phải là tri thức với tôi, nó là

việc biết với tôi. Biết nghĩa là kinh nghiệm riêng của tôi;

tri thức nghĩa là cái gì đó được vay mượn.

Và không nhất thiết là việc biết của tôi phải đi

ngược lại việc biết của Phật hay của Jesus hay của

Krishna. Thực tế, nó không thể đi ngược lại việc biết

của bất kì ai. Việc biết là một, quá trình là một, dù Phật

biết hay Zarathustra. Nó là một.

Biết nghĩa là bạn đi vào trong lãnh thổ riêng của

mình, bạn đi vào trong, bạn đạt tới chính trung tâm của

bản thể bạn. Bạn kinh nghiệm mình là ai... và trong

chính kinh nghiệm đó bạn biết mình là Thượng đế, bởi

vì duy nhất Thượng đế tồn tại. Nói, "có Thượng đế," là

thừa bởi vì Thượng đế nghĩa là "có"; "hiện hữu" là

Thượng đế.

Bất kì cái gì tôi đang nói đây có thể dường như là tri

thức với bạn bởi vì nó có thể được tìm thấy trong Kinh

Thánh, trong Koran, trong Gita, trong Dhammapada. Và

bạn sẽ nghĩ, "Tất nhiên, nó là tri thức." Nó không phải

vậy. Khác biệt là tinh tế và tinh vi.

Người ta có thể biết về tình yêu - thư viện đầy; cả

nghìn cuốn sách về tình yêu đã được viết ra. Bạn có thể

thu thập nhiều tri thức về tình yêu tuỳ khả năng. Bạn có

thể làm ra từ điển bách khoa về tình yêu. Bạn có thể trở

thành cuốn từ điển bách khoa về tình yêu. Dầu vậy, nếu

bạn đã không kinh nghiệm tình yêu, mọi điều bạn biết

đều là rác rưởi, mọi điều bạn biết đều là lời, trí tuệ; nó

không có giá trị tồn tại nào.

Phật hay nói: Giống như một người cứ đếm bò hay

trâu của người khác mọi ngày - và bản thân người đó

không có bò, không có trâu. Đếm bò và trâu của người

khác bạn có thể trở nên rất chuyên gia trong việc đếm,

bạn có thể rất tin cậy, nhưng chừng nào bạn còn chưa có

bò riêng của mình bạn sẽ không được nuôi dưỡng bằng

việc đếm đó.

Biết nghĩa là im lặng, hoàn toàn im lặng, để cho bạn

có thể nghe tiếng nói tĩnh lặng, nhỏ bé bên trong. Biết

nghĩa là vứt bỏ tâm trí. Khi bạn tuyệt đối tĩnh lặng, bất

động, không cái gì vẩn vơ trong bạn, cánh cửa mở ra.

Bạn là một phần của sự tồn tại bí ẩn này. Bạn biết nó

bằng việc trở thành một phần của nó, bằng việc trở

thành người tham gia trong nó. Đó là việc biết.

Và một khi việc biết đã xảy ra, thế thì đọc Kinh

Thánh và Koran và Gita là hay, bởi vì thế thì bạn tất cả

đều trở thành nhân chứng. Bằng không bạn có thể đọc,

bạn có thể lặp lại, nhưng chúng chỉ là lời không có

nghĩa, không có nội dung.

Tri thức là không có nội dung, cái vỏ trống rỗng

không có gì bên trong. Nhưng nếu bạn đã thấy chỉ tri

thức, từ bên ngoài cả hai sẽ có vẻ gần như là một. Tri

thức tới qua nghiên cứu và việc biết tới qua thiền. Các

quá trình là khác nhau. Trong tri thức bạn phải đi vào

trong lời, trong ngôn ngữ, trong kinh sách. Trong việc

biết bạn phải đi vào trong bản thân mình. Các qui trình

này không chỉ khác nhau mà còn đối lập cực với nhau.

Trong việc biết, đầu tiên bạn phải vứt bỏ tri thức bởi vì

điều đó trở thành chướng ngại. Đầu tiên bạn phải biết

rằng "tôi không biết." Bạn phải trở thành hồn nhiên.

Jesus nói: Chừng nào ông còn chưa hồn nhiên như

trẻ nhỏ ông sẽ không vào trong vương quốc Thượng đế

của ta.

Mục sư đang kể cho vị khách của mình một câu

chuyện thì bé gái nhỏ của ông ấy ngắt lời.

"Bố ơi," cô bé hỏi, "điều đó đúng hay nó đơn thuần

là thuyết giảng?"

Có khác biệt lớn liệu cái gì đó là đúng hay chỉ là

thuyết giảng - "thuyết giảng đơn thuần."

Một linh mục già phải rời khỏi làng của mình vào

thứ bẩy - ngày mọi người tới xưng tội. Ông ấy dạy cho

linh mục trẻ mới, người kế tục việc của ông ấy về những

căn bản cần thiết: "Nếu người đàn bà ăn cắp tiền của

chồng mình - ba 'Ave Maria' và hai 'Pater Noster'; nếu ai

đó phạm tội ngoại tình - năm 'Ave Maria' và ba 'Pater

Noster'; với những người nói dối - một 'Ave Maria' và

hai 'Pater Noster', và vân vân."

Linh mục trẻ nghe lần đầu tiên xưng tội của một cô

gái làng xinh xắn.

"Cha ơi, con đã phạm tội," cô gái nói.

"Con đã-a làm gì, con-a ta?" linh mục hỏi.

"Con đã cho đứa con trai cạnh nhà một cú bú chim,"

cô ấy đáp lại một cách bẽn lẽn.

Linh mục trẻ đâm phân vân vì anh ta đã không được

hướng dẫn về tình huống như thế. Vào lúc đó, anh ta

thấy linh mục già đi ngang qua, va li trong tay, chuẩn bị

ra đi. Nhanh chóng anh ta gọi với ra cho ông già, "Cha

ơi, Cha ơi, xin một chút. Có một cô gái-a trẻ-a ở đây.

Con phải cho cô ấy-a cái gì vì bú chim-a?"

"Năm mươi đô la," linh mục già đáp.

Tri thức được vay mượn; việc biết là của bạn, của

riêng bạn. Nó là đích thực. Tri thức là thông tin, việc

biết là biến đổi.

Bạn hỏi tôi, Nicholas, "Thầy nói về khác biệt giữa

biết và tri thức. Nhưng để trở thành thầy, thầy không

phải có tri thức cũng như biết sao?"

Biết là đủ. Là thầy, biết là đủ.

"Với tôi dường như là," bạn nói, "thầy, trong bài nói

của mình, chỉ ra nhiều tri thức."

Tôi không phải là thầy bởi vì tri thức của tôi, nhưng

mặc cho điều đó! Tôi đã là giáo sư trong đại học. Tôi đã

phải vật lộn rất nhiều để thoát ra khỏi tri thức của mình.

Dầu vậy, cái gì đó của nó vẫn cứ nấn ná quanh tôi. Xin

tha thứ cho tôi về điều đó! Nhưng nó chẳng liên quan gì

tới việc là thầy.

Jesus không có tri thức; ông ấy may mắn hơn. Ông

ấy không phải là giáo sư trong đại học, ông ấy chỉ là con

ông thợ mộc nghèo. Mohammed còn may mắn hơn; ông

ấy tuyệt đối thất học. Tôi không may. Tôi đã chịu đựng

nhiều từ tri thức. Toàn bộ vấn đề của tôi là làm sao gạt

bỏ nó đi. Đó là lí do tại sao tôi quan tâm nhiều thế về

bạn và tôi liên tục nhấn mạnh vào nhận biết về tri thức -

đừng trở nên thông thái. Tôi đang nói điều đó bởi vì từ

kinh nghiệm riêng của tôi.

Dễ dàng từ bỏ của cải, dễ dàng từ bỏ quyền lực,

danh vọng, bởi vì chúng là những thứ bên ngoài. Vấn đề

lớn nhất là từ bỏ tri thức của bạn bởi vì nó đi sâu thế. Nó

trở thành gần như một phần của con người bạn, nó trở

thành thâm căn cố đế thế. Bạn có thể trốn lên Himalayas

- vợ, cửa hàng, quyền lực, mọi thứ sẽ bị bỏ lại đằng sau,

nhưng không bỏ lại tri thức. Nó sẽ có đó với bạn ở bất kì

chỗ nào bạn đi. Nó không phải là cái bóng, nó là cái gì

đó bên trong làn da của bạn. Dễ dàng thoát khỏi bộ da

của bạn; khó thoát khỏi tri thức của bạn. Do đó tôi cứ

nói với bạn: Cẩn thận, cẩn thận với việc trở thành thông

thái. Và có xu hướng lớn trong tâm trí để trở thành

thông thái bởi vì điều đó rất đáp ứng cho bản ngã.

Nhưng người ta không cần thông thái để trở thành

thầy. Nếu bạn đã thông thái rồi, thế thì gạt nó sang bên.

Trở lại hồn nhiên để cho bạn có thể biết theo cách riêng

của mình, và khi bạn đã biết, bạn có thể dùng tri thức

của mình. Nó có thể được dùng, nhưng chỉ về sau. Việc

biết tới trước, thế thì bạn có thể dùng tri thức của mình,

nhưng việc dùng tri thức của bạn sẽ hoàn toàn khác với

việc dùng của học giả.

Đó là lí do tại sao diễn giải của tôi về Jesus, Phật,

Mahavira, là khác toàn bộ với diễn giải của các học giả.

Nó nhất định phải như vậy. Diễn giải của họ là lời,

chúng chỉ là diễn giải logic. Họ là những luận sư, láu cá

trong việc chẻ tư sợi tóc.

Diễn giải của tôi không phải là biện luận, không

phải là trí tuệ. Diễn giải của tôi mang tính ngược đời.

Nếu bạn chống lại tôi bạn có thể gọi chúng là phản trí

tuệ; nếu bạn yêu tôi bạn có thể gọi chúng là siêu trí tuệ.

Điều đó tuỳ vào bạn. Nếu bạn chống tôi, chúng là phi lí;

nếu bạn đang trong tình yêu với tôi, chúng là siêu lí.

Nếu bạn chống tôi, chúng là tự mâu thuẫn; nếu bạn yêu

tôi chúng là bí ẩn, ngược đời.

Và khi tôi nói bất kì cái gì tôi không quan tâm liệu

tôi có đúng theo Phật hay không. Quan tâm của tôi là

liệu tôi có đúng với bản thân tôi hay không. Nếu tôi

đúng với bản thân tôi, tôi biết rằng tôi phải đúng với

Phật; nó không thể khác được. Cho nên tôi không để

tâm nhiều liệu tôi có đúng từng từ với Phật, với Jesus,

hay không. Tôi lấy mọi tự do.

Đôi khi tôi đổi câu chuyện bởi vì khi tôi thấy câu

chuyện này là không thể được, nó không thể xảy ra cho

vị phật... đôi khi tôi bịa ra chuyện nữa.

Có lần một học giả Phật giáo lớn, Bhadant Anand

Kausalyayan, tới gặp tôi. Ông ấy nói, "Mọi thứ ông nói

đều hay, nhưng vài câu chuyện tôi bắt gặp mà tôi không

thấy trong kinh sách nào cả."

Tôi hỏi ông ấy, "Ví dụ?"

Ông ấy nói, "Ví dụ, mới hôm nọ tôi đọc một câu

chuyện hay ông đã kể: Phật đi qua một phố, đang nói

với đệ tử của ông ấy, Ananda, và một con ruồi đậu lên

đầu ông ấy. Ông ấy vẫn nói và đưa tay lên đuổi con ruồi,

và thế rồi ông ấy bỗng nhiên dừng lại ở giữa đường. Con

ruồi bay đi rồi, nhưng ông ấy lại đưa tay chậm rãi như

thể con ruồi vẫn đó.

"Ananda phân vân lắm. Ông ấy nói, 'Thầy làm gì

thế? Ruồi đâu còn ở đó nữa!'

"Phật nói, 'Đúng, ta biết, nhưng đây là cách ta phải

làm nó trước đây. Ta tiếp tục nói với ông và một cách tự

động ta đã cho phép tay ta đưa lên. Điều đó là không

đúng cho ta. Ta phải đưa tay với nhiều nhận biết hơn.

Cho nên bây giờ ta đang làm nó như ta đáng phải đã làm

nó.'"

Anand Kausalyayan nói, "Tôi chưa bao giờ bắt gặp

câu chuyện này. Tôi đã đọc mọi kinh sách."

Tôi hỏi ông ấy, "Nhưng ông có cho rằng câu chuyện

này hay không?"

Ông ấy nói, "Chuyện này hay."

Thế rồi tôi nói, "Điều đó hoàn toàn đúng. Thế thì

sao bận tâm về kinh sách? Ông không thấy hương vị

Phật giáo trong nó à?"

Ông ấy nói, "Tôi có thể thấy."

"Vậy đó là toàn bộ vấn đề rồi!"

Tôi không vận hành ở đây như con người của tri

thức, nhưng chỉ là như con người của việc biết.

#11Câu hỏi thứ năm:

Thưa Thầy kính yêu,

Tôi mất trí nhớ và điều đó làm tôi lo đến chết. Tôi

phải làm gì?

Mamta, vô nghĩa! Quên tất cả về nó đi!

Câu hỏi thứ sáu:

Thưa Thầy kính yêu,

Điều thầy nói có sai cho người Ấn Độ không?

Madhuri, gần như mọi thứ!

Câu hỏi thứ bẩy:

Thưa Thầy kính yêu,

Vâng! Tôi không chắc cho tới giờ! Tôi nói cùng lời

đó với Assema một tháng trước đây: "Bạn đã làm

hai người đàn ông khác phát điên. Đừng để điều đó

là tôi." Úi giời! Chúng tôi đã từng yêu nhau trong

có thể là một năm cho tới giờ, và để nói với thầy sự

thực tôi thực sự cho phép cô ấy ảnh hưởng tới tôi

theo mọi cách có thể. Cả hai Nikunj và Sarvesh đều

bị ảnh hưởng bởi cô ấy, và với bản thân mình tôi

thấy nó là gì: Tình yêu với phù thuỷ! Bỏ tôi ra, thưa

Thầy kính yêu. A... Tôi sẽ làm gì?

Narayana, quá trễ rồi! Và tôi không phải là bác sĩ

phù thuỷ! Bây giờ, chẳng thể làm được gì. Thực tế, bạn

đã điên rồi.

Mulla Nasruddin chơi đàn sitar, nhưng anh ta cứ

chơi cùng một nốt trong hàng giờ. Vợ anh ta phát điên,

con anh ta phát điên, cha mẹ anh ta phát điên.

Một hôm anh ta tiếp tục chơi cùng nốt đó, và hàng

xóm hỏi anh ta, "Mulla, chúng tôi đã thấy nhiều người

chơi đàn sitar, nhưng họ đổi nốt."

Nasruddin nói, "Tôi biết họ cứ đổi nốt hoài - bởi vì

họ còn chưa tìm thấy nốt đúng. Còn tôi đã tìm thấy nó

rồi, cho nên sao tôi phải đổi?"

Hàng xóm nói, "Nhưng bây giờ là hai giờ đêm rồi.

Xin anh! Chỉ một giờ nữa và tôi sẽ phát điên đấy. Thôi

đi!"

Nasruddin nói, "Quá trễ rồi bởi vì tôi đã dừng rồi.

Đã gần hai tiếng rồi từ lúc tôi dừng! Anh đang nói về cái

gì vậy?"

Narayana, một năm với Aseema... bạn được kết

thúc! Cô ấy nguy hiểm - mọi đàn bà đẹp đều thế. Mọi

đàn bà đều là phù thuỷ! Thực tế, từ 'witch-phù thuỷ'

nghĩa là trí huệ. Nó đích xác tương đương với 'phật'.

Nếu người đàn bà trở nên chứng ngộ cô ấy thành phù

thuỷ.

Aseema mới ở bên bờ của việc trở nên chứng ngộ,

và vào ngày đó cô ấy cho bất kì sự giúp đỡ nào cô ấy có

thể cho. Bất kì ai gặp cô ấy, cô ấy đều giúp người đó.

Bạn đã được cô ấy giúp đỡ, và không có cách nào cho

bạn được thả ra. Mọi sự bị chấm dứt rồi! Tốt hơn cả là

bạn lắng đọng vào trong nó.

Nikunj và Sarvesh phát điên bởi vì họ cố thoát ra.

Chỉ thế thì họ mới trở nên nhận biết rằng họ đã điên.

Nếu họ vẫn còn cùng với Aseema, đã không có vấn đề

gì.

Cho nên đừng cố thoát khỏi Aseema, đó là lời

khuyên duy nhất của tôi. Cứ ở cùng cô ấy. Cô ấy đẹp và

tôi yêu cô ấy.

#11Câu hỏi thứ tám:

Thưa Thầy kính yêu,

Có phẩm chất tốt trong thể chế hôn nhân hay không

có gì hết cả?

Jagdeesh, kinh sách cổ đại nói... đây là tri thức: Hôn

nhân là một thể chế dạy cho con người tính đều đặn, tính

căn cơ, sự ôn hoà, sự tự chủ kiên trì và nhiều đức hạnh

rất tốt khác mà người đó sẽ không cần nếu người đó vẫn

độc thân.

Một ông già đáng kính đang kỉ niệm ngày sinh thứ

một trăm của mình và được một nhà báo hỏi, "Ông cho

là vì cái gì mà ông tuổi cao vẫn có điều kiện thể chất tốt

đáng kể?"

"Tôi sẽ kể cho anh," người trăm tuổi đáp. "Khi vợ

tôi và tôi cưới nhau lần đầu, viên giáo sĩ thực hiện buổi

lễ gợi ý rằng bất kì khi nào thấy có cãi nhau tới, tôi nên

đi dạo một vòng quanh khu nhà. Tôi đã theo lời của giáo

sĩ và tôi muốn anh biết rằng trong bẩy mươi năm việc

luyện tập thường xuyên đã làm điều kì diệu cho sức

khoẻ của tôi."

Câu hỏi cuối cùng:

Thưa Thầy kính yêu,

Về bài nói này thầy đã nghiêng về hôn nhân trộn

lẫn. Tôi xuất thân từ gia đình người Hà Lan truyền

thống cổ tốt và gần đây đã có được ở cùng với một

người thành thị chất phác, say bia. Kể từ đó tôi đã

nhảy disco, ca hát rock-and-roll, tiệc tùng và rượu

bia. Tôi có khiêu vũ - nhưng thầy có chắc đây là

cách để nâng cao tâm thức trên thế giới không?

Arup, tôi tuyệt đối chắc chắn!

Đủ cho hôm nay.

****************************************************************************************************************

#12Con người mới với cách nhìn mới

Câu hỏi thứ nhất:

Thưa Thầy kính yêu,

Tôi là người vô giáo dục. Tôi có thể vẫn trở thành

người chứng ngộ được chứ?

John, có nhiều khả năng cho bạn hơn là cho người

có giáo dục đấy. Giáo dục vẫn tồn tại trên thế giới này

không phải là giáo dục đúng đâu. Giáo dục đúng sẽ giúp

chứng ngộ tiến lên bởi vì nó làm cho bạn có tính thiền

hơn, im lặng hơn, nhận biết hơn, nhìn vào trong hơn.

Giáo dục đang tồn tại trên thế giới làm cho bạn tham

vọng hơn, nhìn ra ngoài, bản ngã hơn, bề ngoài hơn. Nó

cho bạn mọi loại giá trị sai. Nó là một loại đầu độc. Nó

không giúp bạn theo bất kì cách nào là bản thân mình.

Nó có tính phá huỷ. Nó giúp bạn là ai đó khác, và đó là

chính nền tảng huỷ diệt. Nó là việc đầu độc, nhưng

chậm chạp tới mức bạn không bao giờ trở nên nhận biết.

Nó bắt đầu từ ngày bạn được sinh ra và nó cứ diễn ra từ

từ, từ từ phá huỷ bạn, sao lãng bạn khỏi bản tính của

mình.

Đến lúc bạn ra khỏi đại học bạn không còn là sinh

linh tự nhiên nữa. Bạn là nhân tạo, tuỳ tiện. Đại học

giống như xưởng máy, dây chuyền lắp ráp, nơi con

người bị phá huỷ và máy được tạo ra, nơi con người bị

thu lại thành máy.

Chứng ngộ nghĩa là khám phá ra bản thể bạn. Nó

chẳng liên quan gì tới giáo dục. Thực tế, những người có

giáo dục sẽ phải trở nên vô giáo dục, theo một nghĩa nào

đó. Những người thông tháo sẽ phải thôi là thông thái.

Họ sẽ phải trở thành như trẻ con lần nữa, hồn nhiên, để

mắt họ có thể đầy ngỡ ngàng, ngạc nhiên, để họ lại có

thể nhìn cái đẹp vô cùng của sự tồn tại, niềm vui vĩnh

hằng, lễ hội đang bao quanh bạn. Nhưng người thông

thái là tuyệt đối vô nhận biết bởi vì người đó nghĩ người

đó biết rồi; đó là rào cản của người đó.

Bạn càng biết nhiều, bạn càng ít ngạc nhiên bởi bất

kì cái gì. Bạn càng biết nhiều, bạn càng ít ngỡ ngàng. Và

Thượng đế chỉ dành cho những người có ngỡ ngàng toàn

bộ, người biết tới kinh nghiệm về việc hiện hữu trong

kính nể; người có thể nhảy múa với gió và mặt trời và

mưa; những người mà khi thấy hoa hồng, cũng bị cái

đẹp của nó đập vào mạnh tới mức họ trở nên mất tiếng,

tới mức trong một khoảnh khắc tâm trí họ dừng vận

hành. Chỉ những người đó mới có thể biết tới Thượng

đế. Chỉ vài người đó mới có thể trở nên chứng ngộ.

John, bạn may mắn đấy. Tất nhiên, nếu bạn có giáo

dục bạn sẽ có khả năng kiếm nhiều tiền hơn - nhưng

không nhiều thiền hơn. Bạn sẽ có khả năng có nhiều

quyền lực chính trị hơn bởi vì bạn sẽ tinh ranh hơn, láu

cá hơn - nhưng không sáng suốt trong bản thể riêng của

mình. Bạn có thể có khả năng sở hữu nhiều thứ, nhưng

cái đó sẽ chỉ là lừa dối. Thực tế, đồ vật sẽ sở hữu bạn

bởi vì bạn sẽ không là người chủ riêng của mình. Sở hữu

bản thể riêng của mình còn tốt hơn là sở hữu toàn thế

giới. Là vị phật - kẻ ăn xin - còn tốt hơn là Alexander

Đại đế, bởi vì vị phật sống cuộc sống trọn vẹn và chết

cái chết trọn vẹn, còn Alexander Đại đế sống cuộc sống

trống rỗng, hổng hoác, bằng cách nào đó tống vào trong

nó trong nỗ lực tự thuyết phục mình rằng mình không

trống rỗng, và thế rồi chết đi hoàn toàn trống rỗng.

Khi ông ấy chết, ông ấy nói với các tướng lĩnh của

mình, "Để hai tay ta thò ra ngoài quan tài."

"Sao vậy?" họ hỏi, bởi vì đó không phải là cách

mang xác chết đi.

Ông ấy nói, "Điều đó có thể không theo tục lệ,

nhưng ta muốn hai tay ta thò ra khỏi quan tài để mọi

người có thể thấy rằng ta chết đi với bàn tay trống rỗng."

Đó là cách thân thể ông ấy được mang đi. Hàng

triệu người đã tụ tập lại để xem, và mọi người đều tự

hỏi, "Sao tay ông ấy lại thò ra?" Và, dần dần, dần dần tin

đồn đi khắp rằng Alexander muốn mọi người được biết

rằng ông ấy ra đi với bàn tay trống rỗng. Cuộc sống của

ông ấy đã hoàn toàn vô tích sự.

John, không cần lo nghĩ về giáo dục, tri thức. Trong

thế giới bên trong, giáo dục bình thường không được

cần tới - cái gì đó khác mới được cần, giáo dục thực.

Từ 'education - giáo dục' là hay. Nó nghĩa là "rút ra

cái gì đó ": rút ra cái ở bên trong bạn. Thực tế, chúng ta

không nên dùng nó cho giáo dục thông thường. Thật là

sai mà dùng một từ hay như 'giáo dục' cho hệ thống mục

ruỗng các trường phổ thông, cao đẳng và đại học. Nó

không phải là giáo dục theo đúng nghĩa từ này, bởi vì

thay vì rút ra cái ở bên trong bạn, nó ép buộc mọi thứ từ

bên ngoài lên bạn. Nó là áp đặt.

Giáo dục thực giống như kéo nước từ giếng lên,

không đổ cái gì vào trong giếng. Giáo dục thực kéo từ

bản thể bạn ra để cho sự chói sáng bên trong của bạn bắt

đầu thấm qua thân thể bạn, qua hành vi của bạn.

Tôi nhớ tới một câu chuyện hay. Nó thực sự đã xảy

ra, nó không chỉ là chuyện.

Stosh, một dân nhập cư mới, xuống tàu tại đảo Ellis

và đặt đích cho mình tìm việc. Đi hỏi từng nhà nhưng

chẳng được may mắn, mãi cho tới khi anh ấy rung

chuông một nhà thổ. Một bà thông cảm và sử dụng anh

ta để lau dọn tầng hầm. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ

trong thời gian kỉ lục, Stosh hỏi việc thêm, và bà này gợi

ý rằng anh ta trở thành người quản gia mãi mãi.

Khi Stosh giải thích rằng anh ta không biết đọc

không biết viết, bà này trả cho anh ta mười xu và bảo

anh ta đi với lời chúc tốt nhất của bà ấy.

Với mười xu Stosh mua hai quả táo ở chợ. Anh ta ăn

một quả và bán quả kia ở trung tâm thị trấn được mười

xu. Anh ta trở ra chợ và mua hai quả táo nữa mà anh ta

bán lại được mỗi quả mười xu. Tăng dần trong kinh

doanh theo cách này cuối cùng anh ta trở thành người

chủ của một toa xe quả nhỏ, thế rồi nhiều toa xe, thế rồi

một cửa hiệu quả nhỏ, thế rồi một siêu thị, và chung

cuộc một chuỗi các siêu thị.

Khi nhiều chuỗi cửa hàng thực phẩm quốc gia

khổng lồ đề nghị mua của anh ta, anh ta đã chấp nhận

đấu thầu cao nhất - bẩy triệu rưởi đô la. Hợp đồng được

soạn thảo và vị điều hành công ti cùng Stosh, được bao

quanh bởi một số lớn các luật sư, gặp nhau ở văn phòng

công ti lộng lẫy trên chóp một trong những toà nhà chọc

trời danh giá nhất của Manhattan. Bản hợp đồng được

xem qua, các cái đầu gật lia lịa và cuối cùng vị quan

chức điều hành kí vào đường chấm chấm bên mình. Thế

rồi Stosh cầm lấy chiếc bút máy vàng và cần cù viết

nguệch ngoạc 'X' của ông ấy vào cuối trang.

Viên quan chức điều hành công ti nhảy lên từ ghế

ngồi của mình và kêu to, "Trời đất, ông này! Ông muốn

nói ông đã cóp nhặt kinh doanh này trị giá bẩy triệu rưởi

đô la mà không biết đọc viết sao?"

"Quỉ sứ!" Stosh cười hô hố dứt khoát. "Nếu Stosh có

thể đọc hay viết, Stosh sẽ vẫn là người quản gia trong

nhà thổ thôi!"

#12Câu hỏi thứ hai:

Thưa Thầy kính yêu,

Tốt máy móc là gì?

Gina Goyt, không có gì giống như tốt máy móc cả.

Tốt không thể máy móc được và bất kì cái gì máy móc

cũng không thể tốt. Nó là thuật ngữ mâu thuẫn. Tốt chỉ

có thể là có ý thức, phi máy móc; và cái ác chỉ có thể là

vô ý thức, máy móc.

Nhưng tôi hiểu câu hỏi của bạn. Nó có liên quan,

bởi vì trong hàng thế kỉ cái gì đó giống như tốt máy móc

đã được dạy cho mọi người bởi vì nó dễ dàng. Mọi

người đều máy móc. Đem tốt thực tới các kiếp sống của

họ, đức hạnh thực, bạn sẽ phải biến đổi vô ý thức của họ

thành có ý thức, bạn sẽ phải đổi bóng tối của họ thành

ánh sáng. Đó là nỗ lực gian nan, và xã hội, hơn thế,

không quan tâm chút nào tới nó cả. Thực tế, nó sợ điều

đó bởi vì bất kì khi nào người tốt thực đã xảy ra trên thế

giới, người đó đều tạo ra rắc rối cho xã hội.

Một Jesus, một Lão Tử, một Phật, một Kabir, đây là

những người nổi dậy vĩ đại nhất bởi lẽ đơn giản là họ có

ý thức tới mức họ có thể thấy được qua toàn thể trò chơi

ngu xuẩn điều chúng ta vẫn chơi. Họ có thể thấy qua các

kiếp sống của chúng ta, họ có thể thấy qua lừa dối của

chúng ta. Không thể nào lừa được họ và không thể nào

khai thác được họ và không thể nào bắt họ làm nô lệ.

Không chỉ là không thể bắt họ làm nô lệ, mà họ còn tạo

ra phong trào có ý thức lớn trên thế giới. Họ đã tạo ra

dây chuyền, họ lẩy cò dây chuyền. Nhiều, nhiều người

đã trở nên chứng ngộ qua nỗ lực của họ. Nỗ lực của họ

bị coi là phản xã hội. Đó là lí do tại sao Jesus đã bị đóng

đinh.

Bạn có thể tìm đâu ra một người tốt hơn Jesus? Tội

của ông ấy là gì? Tội của ông ấy là ở chỗ ông ấy thực sự

tốt. Nếu ông ấy đã từng chỉ tốt một cách máy móc thì đã

không có rắc rối rồi. Có nhiều giáo sĩ tốt một cách máy

móc. Xã hội không sợ người máy móc; họ là quản lí

được. Họ phụ thuộc vào xã hội. Họ bao giờ cũng sống

với tập thể, họ bao giờ cũng theo đám đông. Đám đông

rất hạnh phúc với những người này. Và dễ dàng tạo ra

tốt máy móc bởi vì, ngay chỗ đầu tiên, mọi người máy

móc rồi. Bạn chỉ thay thế ý tưởng ác của họ bằng ý

tưởng tốt, không thay đổi chút nào bản thể họ.

Chẳng hạn, địa ngục được tạo ra - ý tưởng về địa

ngục - để tạo ra tốt máy móc. Mọi người sợ, mọi người

sống trong sợ hãi; các tu sĩ trở nên nhận biết về điều đó

ngay lúc bắt đầu của nhân loại, rằng điều đó có thể được

khai thác: làm cho họ sợ hơn. Tu sĩ mô tả địa ngục chi

tiết tới mức, họ đã tạo ra sợ hãi trong mọi người nhiều

tới mức mọi người trở nên bị ước định - từ sợ hãi.

Đó là cùng một kiểu ước định có thể được thực hiện

bây giờ theo cách dễ dàng hơn bởi vì chúng ta có nhiều

công nghệ phát triển. Không cần dạy cho hai mươi nhăm

năm ý tưởng về địa ngục; rồi một người trở thành tốt

máy móc. Bây giờ bạn có thể hỏi Pavlov, Skinner và

những nhà hành vi khác: họ sẽ dạy bạn phương pháp

nào đó. Chỉ sốc điện cũng có tác dụng.

Ai đó hút thuốc và bạn không muốn người đó hút

thuốc - cho người đó cú sốc điện. Bất kì khi nào người

đó hút thuốc cho người đó cú sốc điện. Trong vòng ba

ngày người đó sẽ bỏ hút thuốc bởi vì khoảnh khắc người

đó lấy điếu thuốc ra trong tay người đó sẽ bắt đầu run

bắn. Người đó sẽ trở nên sợ nhiều tới mức bây giờ sốc

đang tới. Đó là cách họ dạy cho chuột, họ dạy cho khỉ

và tinh tinh. Và đó là cách họ cố gắng dạy cho con

người.

Người tôn giáo đã tạo ra địa ngục, chính khách tạo

ra nhà tù - chỉ để hành hạ mọi người. Nếu bạn hành hạ

họ đủ, mọi người trở nên quen. Pavlov gọi điều đó là

"phản xạ có điều kiện." Ông ấy đã làm việc cả đời với

chó; ông ấy ước định chó.

Nếu bạn mang thức ăn tới trước chó, tất nhiên, điều

đó ảnh hưởng tới nước bọt của nó. Nó bắt đầu tiết nước

bọt, lưỡi nó bắt đầu thè ra, nước bọt bắt đầu nhỏ giọt.

Thấy thức ăn ngon, điều đó là tự nhiên. Nhưng nếu bạn

rung chuông điều đó không xảy ra. Không có mối nối

giữa chuông và tuyến nước bọt, nhưng Pavlov đã làm

một điều: bất kì khi nào ông ấy đem thức ăn cho chó

ông ấy đều rung chuông. Bất kì khi nào ông ấy rung

chuông ông ấy đều cho chó thức ăn. Chuông và thức ăn

trở nên được liên kết, móc nối, móc với nhau. Sau mười

lăm ngày ông ấy chỉ rung chuông và chó bắt đầu chảy

nước dãi và lưỡi chúng thè ra. Bây giờ, không có mối

nối tự nhiên giữa chuông và lưỡi, nhưng một mối nối

mới đã được tạo ra.

Pavlov trở thành người sáng lập của tâm lí học cộng

sản. Đó là cách ở nước Nga xô viết, ở Trung Quốc và ở

các nước cộng sản khác, mọi người được ước định. Họ

không nghĩ rằng con người khác gì với chó; có thể phát

triển hơn, chút ít phức tạp hơn, nhưng vẫn là chó.

Skinner tiếp tục công việc trên chuột và cứ tìm cách

ước định chuột, và ông ấy nói cùng điều đó áp dụng

được cho người. Bạn cứ tạo ra sợ và thế thì họ sẽ không

làm điều nào đó; và bạn tạo ra tham lam.... Và đó là lí

do tại sao thiên đường, cõi trời đã được tạo ra. Đây là

những chiến lược đơn giản để chi phối mọi người. Tạo

ra sợ hãi với điều bạn muốn mọi người không làm và tạo

ra ý tưởng về thưởng cho điều bạn muốn họ làm - và

bạn đã tạo ra hành vi máy móc. Họ sẽ không làm điều

xấu và họ sẽ làm điều tốt.

Nhưng đây là loại tốt gì? Nó là việc khai thác của xã

hội, của nhà thờ, của quốc gia - của những quyền lợi

được đầu tư. Nó đã không thay đổi bản thể con người.

Nó đã không làm con người nhận biết hơn, tỉnh táo hơn,

vui vẻ hơn, lễ hội hơn. Nó đã không cho con người bất

kì mùi vị nào của phúc lạc. Nó đã không mở ra bất kì

cửa sổ nào cho con người, từ đó con người có thể có

thoáng nhìn chút ít về Thượng đế. Tôi không gọi nó là

lòng tốt, đức hạnh. Ý tưởng của tôi về đức hạnh là ở chỗ

nó phải là sản phẩm phụ của tâm thức. Bạn phải trở nên

ý thức tới mức bạn không thể làm cái sai được - không

phải bởi vì bạn bị ước định mà bởi vì bạn có thể thấy nó

sai.

Chẳng hạn, tôi được sinh ra trong gia đình Jaina.

Bây giờ, người Jaina là người ăn chay khổ hạnh nhất

trên thế giới. Trong nhà tôi ngay cả cà chua cũng không

được phép bởi vì mầu đỏ của chúng nhắc bạn về thịt và

máu. Ngay cả cà chua đáng thương, hồn nhiên thế!

Trong thời thơ ấu của tôi, chính ý tưởng về ai đó ăn thịt

là đủ làm tôi ốm. Trong gia đình tôi không có khả năng

nào để ăn ban đêm. Người Jaina không ăn vào ban đêm.

Ai muốn chịu ở địa ngục chỉ vì ăn trong đêm?

Khi tôi mười tám tuổi, lần đầu tiên tôi ăn trong đêm.

Điều đó đi ngược toàn thể bối cảnh của tôi, nhưng tôi

phải ăn bởi vì chúng tôi đã đi dã ngoại và tất cả những

đứa con trai khác đều là người Hindu. Cả ngày họ không

quan tâm tới việc chuẩn bị thức ăn, và tôi thậm chí

không biết cách chuẩn bị trà! Cho nên tôi phải phụ thuộc

vào họ. Tôi bảo họ nhiều lần, nhưng họ không quan tâm.

Họ quan tâm tới việc thám hiểm núi chúng tôi đã đi tới,

pháo đài, một pháo đài rất cổ đại, và những bức tượng

và có nhiều thứ khác.

Cả ngày mệt mỏi và đến tối chúng tôi mệt lử. Thế

rồi họ bắt đầu nấu thức ăn. Thức ăn đã sẵn sàng lúc buổi

đêm. Mệt mỏi, đói... và thức ăn ngon họ đã chuẩn bị...

và mùi thơm! Và tôi là người duy nhất chịu khổ thế! Tôi

không thể ăn được bởi vì chỉ lưỡng lự có một đêm và

bạn chịu đoạ địa ngục vĩnh viễn. Nhưng tôi lưỡng lự -

cũng là tự nhiên. Trên bề mặt tôi giữ bình tĩnh và thản

nhiên như tôi vẫn giả định vậy, nhưng họ đã thuyết phục

tôi - và sâu bên dưới tôi sẵn sàng được thuyết phục.

Thực tế, tôi đã hi vọng rằng họ sẽ có khả năng thuyết

phục được tôi! Cuối cùng họ đã thuyết phục tôi và tôi đã

ăn. Nhưng tôi chưa bao giờ chịu khổ nhiều thế. Cả đêm

tôi nôn và mửa. Không ai khác nôn, không ai khác ốm.

Đó chỉ là ước định của tôi.

Bây giờ, loại ăn chay này không phải là tốt. Nó

không bắt nguồn từ ý thức của bạn - nó là máy móc.

Tốt máy móc không phải là tốt thực; nó chỉ là mẽ

ngoài. Thông minh được cần tới để là tốt, nhận biết

được cần tới để là tốt.

Một người Ba lan không cạo râu và có mùi say bị

bắt vì say ở chỗ công cộng, và bây giờ anh ta đứng trước

quan toà.

"Thưa ngài," anh ta bào chữa, "Tôi thành thực

không có ý định uống cả phần tư lít vốt ca ngay một

lúc."

"Thế thì sao anh đã làm điều đó?" quan toà hỏi.

"Tôi đánh mất chiếc nút."

Một nhà thầu làm việc cho chính phủ Mĩ ở Việt

Nam đệ trình hoá đơn lợp mái nhà. Quan chức chính

phủ chưng hửng vì tổng số tiền hai mươi nghìn đô la,

phần lớn trong đó là tiền thuốc được tính vào việc này.

Một trung uý được phái tới bệnh viện để điều tra.

Đây là giải thích của nhà thầu: "Lúc bắt đầu việc tôi

đã gắn một ròng rọc vào cạnh của mái và luồn một dây

thừng qua nó. Một đầu này tôi buộc vào cái thùng lớn;

đầu kia tôi buộc vào cái cọc trên đất. Rồi tôi chất đầy

nửa thùng ngói, tháo dây thừng ra, kéo cái thùng lên tới

mái, buộc lại dây thừng vào cọc, trèo lên thang, dỡ ngói

ra để trên mái, hạ thùng xuống, trèo xuống thang, và lặp

lại quá trình này nhiều lần cho tới khi tất cả ngói đều

được đưa lên mái.

"Gần tối công việc được hoàn thành và tôi bắt đầu

cho các viên ngói không dùng vào thùng. Tôi đã ước

lượng quá số các viên ngói cần dùng và do vậy thừa đầy

một thùng phụ. Tôi trèo xuống thang và tháo móc dây

thừng.

"Thế rồi tôi nhận ra lỗi lầm của mình. Cái thùng,

đầy ngói, nặng hơn tôi và bắt đầu tụt xuống. Bị choáng,

tôi quên mất không bỏ tay - tôi bay tít lên! Đến nửa

đường, cái thùng và tôi đụng nhau, làm gẫy hông phải

tôi. Tôi tiếp tục đi lên, gẫy vài ngón tay và một bàn tay

khi tôi đập vào cạnh mái. Trong khi đó chiếc thùng

chạm đất, lật nghiêng và đổ toé loe gần hết ngói. Cái

thùng, bây giờ nhẹ hơn tôi, đi lên. Tôi đi xuống. Đến

nửa đường chúng tôi lại đụng nhau - lần này xương

sườn tôi bị nghiến. Khi tôi chạm đất chân trái tôi bị gẫy.

"Đó là lúc tôi còn sự hiện diện của tâm trí để bỏ tay

khỏi dây thừng. Vài giây sau chiếc thùng tiếp đất lên

đầu tôi làm cho tôi chấn thương não!"

Thông minh hơn được cần tới, nhận biết hơn được

cần tới, và thế thì cuộc sống trở thành tốt tự nhiên, tốt tự

phát.

#12Câu hỏi thứ ba:

Thưa Thầy kính yêu,

Tôi là người đồng dục. Tôi cảm thấy bị áp bức và bị

tác động khủng khiếp bởi vết nhơ đồng dục. Dường

như tôi sai khi tới đây để tìm cách lại gần hơn với

bản thân mình và đồng thời không có đủ dũng cảm

để biểu lộ bản thân mình theo cách tôi đang vậy.

Thế rồi tôi muốn từ bỏ và trở về nhà để cho tôi

không phải nghĩ về nó thêm nữa. Tôi có thể làm gì?

Hein Steff, không có gì sai trong đồng dục cả. Bạn

không cần cảm thấy mặc cảm về nó. Người ta chắc chắn

phải đi ra ngoài dục, nhưng điều đó áp dụng được cho cả

người dị dục cũng như áp dụng được cho người đồng

dục. Dị dục hay đồng dục chỉ là kiểu cách của cùng một

điều ngu xuẩn! Bạn không cần cảm thấy mặc cảm.

Thực tế, nhìn vào dân số thế giới, đồng dục nên

được hỗ trợ. Ít nhất thì bạn sẽ không làm tăng dân số thế

giới, bạn sẽ không thêm tải cho trái đất. Nó đã tải quá

nhiều rồi. Đồng dục nên được coi là có giá trị, được kính

trọng - nó là vui đùa thuần tuý! Dị dục là nguy hiểm. Và

cái gì sai? Nếu hai người tận hưởng thân thể của nhau,

chẳng có gì sai. Nó nên là mối quan tâm của họ; không

là việc của ai khác để can thiệp vào.

Nhưng xã hội liên tục can thiệp vào mọi thứ; nó

không để bất kì ai ở chỗ riêng tư nào. Nó đi vào trong

giường ngủ của bạn nữa. Xã hội của bạn không phải là

xã hội tự do. Nó nói về tự do và dân chủ và tất cả những

cái mục nát đó, nhưng nó là nô lệ thuần tuý. Nó là nhà tù

lớn. Và các tu sĩ và cái gọi là Thượng đế của bạn toàn là

Toms Dò la. Họ tất cả đều đang nhìn vào cuộc sống

riêng tư của bạn, điều bạn đang làm. Điều đó đáng phải

không là việc của ai cả.

Cái gì sai trong việc yêu đàn ông hay đàn bà? Hai

đàn ông có thể yêu nhau, hai đàn bà có thể yêu nhau.

Tình yêu có giá trị trong bản thân nó. Và vui đùa không

nên bị kết án. Cuộc sống đã nặng gánh thế rồi, đã là việc

kéo lê thế, chán thế. Ít nhất để cái gì đó trong cuộc sống

để mọi người có thể cảm thấy ít bị chán hơn.

Ở đây bạn không cảm thấy sợ biểu lộ bản thân mình

theo cách bạn đang vậy. Toàn thể cách tiếp cận của tôi

là để giúp bạn là cách bạn đang là bởi vì đó là cách duy

nhất giúp bạn siêu việt lên trên nó. Cảm thấy mặc cảm

và bạn sẽ vẫn còn như cũ. Mặc cảm chưa bao giờ biến

đổi bất kì ai.

Và đồng dục là hiện tượng hồn nhiên thế. Sao nó lại

bị kết án nhiều thế? Lí do là ở chỗ nếu nó không bị kết

án, nỗi sợ là ở chỗ gần như mọi người sẽ biến thành

đồng dục bởi vì mọi đứa trẻ đều có xu hướng đó. Mọi

đứa trẻ đều trải qua giai đoạn khi nó là đồng dục. Mọi

con trai, mọi con gái, đều trải qua một thời kì khi con

trai thích con trai và con gái thích con gái. Nỗi sợ là ở

chỗ nếu nhiều người biến thành đồng dục - và đặc biệt

trong quá khứ khi dân số còn chưa lớn và mọi xã hội

đều muốn có nhiều người hơn bởi vì con số nghĩa là

quyền lực.... Cho phép đồng dục là nguy hiểm; nó phải

bị kết án, tuyệt đối kết án, nhiều tới mức trong vài nước

nó là tội lỗi lớn nhất.

Chẳng hạn, ở một nước của Ayatollah Khomeiniac,

Iran, nó là một trong những tội lỗi lớn nhất. Bạn có thể

bị cầm tù chung thân hay bạn có thể thậm chí bị tử hình,

chỉ vì là đồng dục. Điều đó dường như tuyệt đối ngớ

ngẩn, lố bịch, nhưng trong quá khứ đã có lí do nào đó

trong nó. Mọi xã hội đều muốn mạnh hơn. Đó là cuộc

đấu tranh thường xuyên - cuộc đấu tranh giữa các nhóm,

đấu tranh giữa các bộ lạc, đấu tranh giữa các thị tộc -

nhân tố quyết định là số người của bạn, bạn có bao

nhiêu người. Nếu mọi người trở thành đồng dục, thế thì

dân số sẽ giảm; do đó điều đó phải bị kết án là tội lớn

nhất.

Điều đó có thể có nghĩa nào đó nếu bạn nghĩ về quá

khứ, nhưng trong hiện tại nó tuyệt đối vô nghĩa. Thực tế,

toàn thể tình huống đã trở thành chính điều đối lập: bây

giờ dị dục là nguy hiểm; số người ít hơn là được cần tới.

Nếu nhân loại cứ phát triển theo cách này, thế thì chúng

ta không thể hỗ trợ được cho nhân loại, chúng ta không

thể sống lâu hơn được. Đến cuối thế kỉ này dân số sẽ

nhiều tới mức, nghèo đói sẽ nhiều tới mức dường như

không có cách nào ngoại trừ cuộc chiến thế giới thứ ba,

điều sẽ giết chết gần hết mọi người - để cho vài người

có thể bắt đầu lại toàn thể câu chuyện.

Tôi đã nghe một câu chuyện, câu chuyện thế kỉ hai

mươi mốt đấy:

Chiến tranh thế giới thứ ba đã xảy ra, và một con khỉ

đang ngồi trên tảng đá tắm nắng. Một con khỉ cái tới với

quả táo và đưa quả táo cho con khỉ này. Và con khỉ này

nói, "Trời đất, chúng ta lại bắt đầu nó lần nữa à?"

Đồng dục bị kết án bởi vì có mọi khả năng là nếu nó

không bị kết án thì nhiều người hơn sẽ quay sang nó. Xu

hướng bên trong là có đó trong mọi người. Thực tế,

người chống lại nó... người đó càng chống lại nó, người

đó càng có nhiều xu hướng đó. Sâu bên dưới, vô ý thức,

người đó biết nó ở đó. Để kìm nén nó người đó phải rất

chống lại nó; người đó cảm thấy kinh tởm bởi chính ý

tưởng này.

Nhưng không ai bảo người đó trở thành đồng dục.

Nếu người khác cảm thấy bị hấp dẫn, thế thì đấy không

phải là việc của bạn để can thiệp hay để kết án họ. Đó là

tự do của họ, và họ không làm hại ai cả. Đó là trò chơi

vô hại - ngu xuẩn, chắc chắn, nhưng không phải là tội.

Nhưng khi có liên quan tới ngu xuẩn mọi dục đều ngu

xuẩn, bởi lẽ đơn giản là nó là thôi thúc sinh học và bạn

không phải là người chủ của nó, bạn là nạn nhân.

Và bạn không cần quá lo nghĩ về nó, Hein, bởi vì

đồng dục có nguồn gốc rất đẹp: nó bắt nguồn từ trong

các tu viện. Nó là cái gì đó tôn giáo! Những người đồng

dục đầu tiên đều là các sư và ni - Ki tô giáo, Phật giáo,

Jaina giáo; tất cả các tôn giáo lớn đều đóng góp phần

của họ cho nó. Điều đó nhất định là như vậy bởi vì có

các tu viện trong sự tồn tại ngay cả bây giờ mà không

đàn bà nào được vào.

Trong tu viện Cơ đốc giáo ở châu Âu, Mount Athos,

trong một nghìn năm không đàn bà nào đã vào; thậm chí

không bé gái sáu tháng nào đã được cho vào. Loại người

gì đang sống ở đó? Bé gái sáu tháng và họ sợ ngay cả

điều đó! Họ có thể làm gì? Nhưng kìm nén dục tạo ra

sợ, cho nên toàn thể tu viện này đầy đàn ông; và đồng

dục là sản phẩm phụ tự nhiên nếu chỉ con trai ở cùng

nhau hay chỉ con gái ở cùng nhau.

Người tôn giáo đã đóng góp lớn. Các nhà giáo dục

đã đóng góp lớn, bởi vì con trai phải được giáo dục tách

biệt. Chúng phải thường trú trong các kí túc xá đặc biệt

dành cho chúng và con gái phải ở tách xa trong các kí

túc xá khác, trong các trường khác. Nếu bạn để quá

nhiều con gái ở cùng nhau chúng nhất định trở thành

đồng dục nữ, bởi vì khi thôi thúc dục chiếm quyền sở

hữu chúng và chúng không thể tìm được con trai, thì bất

kì cái gì cũng là tốt hơn không có gì.

Trong vườn bách thú mọi con vật đều biến thành

đồng dục - chỉ trong vườn thú, nhớ lấy. Trong trạng thái

hoang dã chúng không trở thành đồng dục. Không có

nhu cầu - con cái có sẵn. Nhưng trong chuồng thú, nếu

con cái không có sẵn, chúng trở thành đồng dục. Vườn

thú đáng để nghiên cứu. Tôi hay nghiên cứu vườn thú vì

vườn thú cho bạn nhiều chỉ dẫn về xã hội con người. Xã

hội con người là vườn thú lớn bởi vì mọi thứ đã trở

thành phi tự nhiên thế.

Tới vườn thú và ngắm các con vật và bạn sẽ có khả

năng thấy nhiều điều. Chúng trở thành đồng dục; chúng

chưa bao giờ trở thành đồng dục trong trạng thái hoang

dã của chúng. Chúng bị buộc trở thành đồng dục. Chúng

phát cuồng, chúng trở thành không lành mạnh, điên.

Trong trạng thái hoang dã chúng chưa bao giờ trở nên

phát cuồng. Không con vật nào đã bao giờ trở nên điên

trong trạng thái hoang dã của nó; nó vẫn còn lành mạnh.

Nhưng lành mạnh của nó cần tự do chút ít.

Sư tử có lãnh thổ lớn trong trạng thái hoang dại,

hàng dặm lãnh thổ, và nó là vua của toàn thể lãnh thổ.

Trong vườn thú nó ở trong cái chuồng nhỏ. Nếu bạn đi

tới vườn thú bạn sẽ thấy sư tử đi lên đi xuống trong

chuồng, lên và xuống, lên và xuống, cả ngày. Điều đó có

thể làm cho bất kì ai cũng phát điên. Nó cần tự do, nó

cần lãnh thổ nào đó. Trong một chỗ nhỏ thế nó bị dồn

vào quá chật. Nó trở nên giận dữ, phát rồ, bạo hành.

Nhiều bệnh chưa bao giờ xảy ra ở chỗ hoang dã.

Chẳng hạn, không con vật nào bị bệnh lao hay ung thư,

nhưng trong vườn thú các con vật lại bị lao và ung thư.

Kì lạ! Ở chỗ hoang dã không có tiện nghi thuốc men cho

chúng còn trong vườn thú mọi loại tiện nghi thuốc men

đều có sẵn. Bác sĩ có đó để chăm sóc chúng, những bác

sĩ lớn, làm điều gì đó lớn lao! Điều chúng không thể

chăm sóc được cho chính bản thân chúng - ung thư, lao -

các bác sĩ giúp chúng. Con vật trở thành nạn nhân của

ốm bệnh mà chúng chưa bao giờ biết trước đây.

Xã hội con người đã từng bị ép buộc nhiều thế để

sống trong hoàn cảnh phi tự nhiên - và tu viện là một

trong những hoàn cảnh phi tự nhiên nhất. Nó là vườn

thú, vườn thú tôn giáo! Đồng dục được sinh ra ở đó, cho

nên bạn không cần cảm thấy rất tồi tệ về nó. Bạn là

người tôn giáo rồi! Và bạn có dòng truyền thừa đồng

dục lớn lao....

Nếu bạn tìm những người đồng dục bạn sẽ ngạc

nhiên. Nhiều nhà thơ, nhiều tác giả, nhiều hoạ sĩ, nhiều

nhạc sĩ, nhiều vũ công, nhiều người vĩ đại, nhiều người

sáng tạo, đều là đồng dục. Nhiều người được giải

thưởng Nobel đã là người đồng dục.

Và đừng lo nghĩ về chứng ngộ nữa, bởi vì ít nhất

một người đồng dục tôi biết đã trở nên chứng ngộ -

Socrates; ông ấy là người đồng dục. Và có hoài nghi về

Jesus. Tôi không thể chứng minh được điều đó, chúng

chỉ là hoài nghi - bởi vì ông ấy bao giờ cũng đi với con

trai. Mười hai tông đồ đó... ai biết được? Nhưng nếu ông

ấy là vậy, cũng chẳng có gì sai trong nó. Socrates chắc

chắn là đồng dục. Plato đồng dục, Aristotle đồng dục.

Người Hi Lạp là người vĩ đại!

Một cô gái Mĩ đi lấy một người Hi Lạp. Người mẹ

lo nghĩ nhiều lắm. Bà ấy nói, "Đợi đã! Nếu con có thể

tránh được cuộc hôn nhân này...."

Cô gái đó phát điên. Cô ấy nói, "Không. Anh ấy

trông đẹp trai thế, giống như thượng đế Hi Lạp!"

Người mẹ nói, "Mẹ biết, nhưng sau chỉ vài ngày thôi

con sẽ biết anh ấy chẳng là gì ngoài một người Hi Lạp

phải gió! Và một điều nữa," người mẹ nói, "nếu con lấy

người này thì nhớ một điều: đừng bao giờ quay lưng con

về phía anh ta, đừng bao giờ! Bất kì cái gì xảy ra cứ ngủ

nằm thẳng lưng cả đêm!"

Cô gái lấy chồng. Cô ấy khăng khăng, và chẳng mấy

chốc cô ấy thấy bà mẹ là phải: thượng đế Hi Lạp chẳng

là gì ngoài người Hi Lạp phải gió! Và cô ấy cũng phân

vân bởi vì anh ấy bao giờ cũng cố bảo cô ấy, "Sao em

không quay người?" - nhưng cô ấy không quay, cô ấy

cũng bướng!

Sau sáu tháng tất cả mọi nỗ lực đều thất bại. Người

Hi Lạp nói, "Nghe đây. Nếu em không quay người em

sẽ không bao giờ có con đâu."

Thế rồi cô gái phải quay vì cô ấy muốn có con.

Người Hi Lạp giở thủ đoạn logic.

Người Hi Lạp đã từng là đồng dục trong hàng thế kỉ.

Tất cả những người vĩ đại của họ đều đã từng là đồng

dục. Cho nên bạn không cần lo nghĩ - bạn có lịch sử lớn

đằng sau mình! Walt Whitman là người đồng dục - một

trong những nhà thơ vĩ đại nhất của mọi thời đại.

Dường như có cái gì đó trong tính đồng dục làm cho

mọi người sáng tạo, hay người đồng dục mang tính sáng

tạo. Có cái gì đó trong nó và tôi có thể thấy vấn đề này.

Khi bạn dừng tạo ra trẻ con, tính sáng tạo của bạn lấy

điểm rẽ mới, chiều hướng mới. Bạn sáng tạo thơ ca, bạn

sáng tạo tranh vẽ.

Và những người đã từng kết án đồng dục trong

nhiều thời đại cũng kết án nó vì một lí do nữa. Khi có

liên quan tới quan hệ đàn ông/đàn bà, mối quan hệ này

bao giờ cũng treo trên đá, bởi vì đàn ông không thể hiểu

được tâm trí đàn bà, đàn bà không thể hiểu được tâm trí

đàn ông. Họ là các cực cách nhau. Đó là sự hấp dẫn của

họ, nhưng đó cũng là xung đột của họ, xung đột thường

xuyên. Nếu đồng dục mà được phép, được chấp nhận,

nỗi sợ là nhiều người sẽ lắng đọng trong nó bởi vì đàn

ông có thể hiểu đàn ông khác dễ dàng hơn - họ có cùng

tâm trí. Và đàn bà có thể hiểu lẫn nhau dễ dàng hơn - họ

có cùng tâm trí.

Đó là lí do tại sao người đồng dục được gọi là người

"gay- hớn hở". Họ thực sự hớn hở! Người dị dục trông

buồn thế. Bất kì khi nào bạn thấy một đôi bạn lập tức

biết liệu họ có lấy nhau hay không: nếu họ buồn họ đã

lấy nhau, nếu họ trông đờ đẫn và chết, họ đã lấy nhau.

Hôn nhân giết chết mọi niềm vui bởi lí do đơn giản là nó

tạo ra nhiều xung đột thế. Do đó mọi xã hội đều kết án

đồng dục, bởi lẽ đơn giản là nếu nó không bị kết án,

điều gì sẽ xảy ra cho sinh sản? Trong quá khứ nó có

nghĩa nào đó, nhưng bây giờ nó không có nghĩa.

Bây giờ thời đại đã tới khi đồng dục có thể được

phép, nên được chấp nhận như lối ra tự nhiên của năng

lượng dục của bạn. Tôi không chống lại nó, tôi không

ủng hộ nó. Tôi đơn giản nói rằng nếu bạn phải sống dục

của bạn, bạn có thể chọn kiểu cách của mình, bạn được

tự do chọn kiểu cách của mình. Nếu bạn quyết định ngu,

ít nhất bạn sẽ được cho tự do để chọn loại ngu bạn

muốn! Tôi cho bạn tự do toàn bộ.

Nỗ lực của tôi ở đây là để giúp bạn vượt ra ngoài nó,

cho nên nếu bạn là đồng dục bạn phải vượt ra ngoài

đồng dục, nếu bạn là dị dục bạn phải vượt ra ngoài dị

dục. Và có những người khác người không là cả hai,

người thủ dâm, tự dục. Họ phải vượt ra ngoài thủ dâm

của mình. Con người phải siêu việt lên trên dục, dù bất

kì loại dục nào, bởi vì chừng nào bạn còn chưa vượt ra

ngoài sinh học của mình bạn sẽ không bao giờ biết linh

hồn của mình. Nhưng trong khi đó - trước khi bạn vượt

ra ngoài - tự do của bạn được là bất kì cái gì bạn muốn

là.

Bạn nói, " Tôi là người đồng dục. Tôi cảm thấy bị

áp bức khủng khiếp và bị tác động bởi vết nhơ đồng

dục."

Không cần "bị áp bức khủng khiếp." Bạn phải chấp

nhận kết án của mọi người. Sâu bên dưới bạn cũng

chống lại điều đó; bằng không thì sao cảm thấy bị áp

bức? Nếu mọi người chống lại, cứ để họ chống lại! Bạn

không cần tuyên bố với mọi người rằng bạn là người

đồng dục. Bạn không cần đi với lá cờ nói rằng bạn là

người đồng dục! Bạn có thể vẫn còn là người đồng dục.

Tất nhiên, bạn không thể che giấu nó bởi vì kiểu cách

dục của bạn làm thay đổi ngôn ngữ thân thể bạn. Cách

người đồng dục bước đi là hoàn toàn khác với người dị

dục; cách người đó nói là hoàn toàn khác. Và người đó

trông hớn hở thế, hạnh phúc thế!

Cho nên bạn sẽ phải vẫn còn chút ít kém hạnh phúc,

có vậy thôi. Đừng trông hạnh phúc thế, và bước đi có ý

thức nhiều hơn một chút, có vậy thôi. Đừng cảm thấy bị

áp bức và đừng cảm thấy bị tác động bởi vết nhơ đồng

dục. Điều đó tất cả đều vô nghĩa!

Và bạn nói, "Dường như tôi sai khi tới đây để tìm

cách lại gần hơn với bản thân mình và đồng thời không

có đủ dũng cảm để biểu lộ bản thân mình theo cách tôi

đang vậy."

Bạn đang nói tới dũng cảm nào vậy? Ở đây không

có vấn đề dũng cảm. Nếu bạn là đồng dục thì bạn là

đồng dục! Ở đây không cần dũng cảm để khai báo điều

đó. Ở đây bạn có thể viết lên áo sơ mi của mình, "Tôi là

người đồng dục." Chẳng ai sẽ để ý tới điều đó. Mọi

người sẽ nói, "Vậy thì sao?"

Đây là một thế giới hoàn toàn khác. Ở đây chúng tôi

chấp nhận đủ mọi loại người: lành mạnh, không lành

mạnh, điên khùng - chúng tôi không có phản đối. Chừng

nào bạn còn chưa bắt đầu làm hại người khác chúng tôi

không có phản đối. Và đồng dục là trò chơi vô hại, tuyệt

đối vô hại. Nhưng bạn nghĩ rằng điều dũng cảm là bạn

đang khai báo rằng bạn là người đồng dục. Ở đây nó

không phải vậy; bất kì chỗ nào khác nó sẽ là vậy. Và tôi

sẽ không gợi ý rằng bạn khai báo điều đó ở bất kì chỗ

nào khác; không cần. Sao đi ba hoa về điều đó? Chấp

nhận nó một cách im lặng, thảnh thơi trong nó.

Nhưng bạn muốn nói nó bởi vì nó đang sôi lên bên

trong bạn. Đừng lo nghĩ điều người khác nói. Cứ nhìn

vào bên trong bản thân bạn, điều bạn đang nói với đồng

dục riêng của mình. Bạn không thoải mái với nó. Xã hội

đã làm biến chất bạn, ô uế bạn. Xã hội đã cho bạn các ý

tưởng. Nó đã tạo ra một lương tâm nào đó trong bạn và

lương tâm đó đang cắn rứt, liên tục cảm thấy đau.

Bây giờ bạn nói, "Thế rồi tôi muốn từ bỏ và trở về

nhà để cho tôi không phải nghĩ về nó thêm nữa. "

Chỉ bằng việc trở về nhà bạn sẽ không gạt bỏ được

nó. Bạn cũng sẽ không gạt bỏ được đồng dục, không gạt

bỏ được vết nhơ này hay cảm giác bị áp bức này. Bạn sẽ

phải vứt bỏ lương tâm của mình, cái đã được xã hội tạo

ra trong bạn. Bạn sẽ phải hiểu bản thân mình và lau sạch

bản thân mình khỏi mọi ý tưởng bị người khác áp đặt;

chỉ thế thì bạn mới có khả năng thảnh thơi.

Bạn hỏi tôi, "Tôi có thể làm gì?"

Hein, đừng làm ra vấn đề từ nó. Chẳng cái gì phải

được làm về nó cả. Tôi không thảo luận các vấn đề cá

nhân. Toàn thể cách tiếp cận của tôi là ở chỗ có hàng

triệu bệnh tật, nhưng chỉ có một cách chữa, và cách chữa

đó là thiền.

Bạn thiền - người đồng dục, người dị dục, người tự

dục.... Bạn thiền. Bạn trở nên tĩnh lặng hơn và im lặng

hơn. Bạn tạo ra cái trống rỗng bên trong. Bạn trở nên

trong suốt hơn, và thế thì mọi sự sẽ bắt đầu thay đổi.

Bạn sẽ có khả năng thấy điều bạn đang làm cho bản thân

mình. Nếu nó đúng bạn sẽ tiếp tục làm nó với vui vẻ

nhiều hơn, với tính toàn bộ hơn, với sự mãnh liệt hơn,

với đam mê hơn. Nếu nó sai nó sẽ đơn giản vứt bỏ,

giống như lá khô rụng khỏi cây.

Cho nên tôi không thể gợi ý phương pháp nào cả bởi

vì với tôi tất cả các vấn đề đều nảy sinh bởi vì chúng ta

đã trở thành tâm trí và chúng ta đã quên mất rằng sâu

bên dưới có không gian bên trong chúng ta mà có thể

gọi là vô trí. Đi vào không gian đó, vô trí, sẽ cho bạn

cảnh quan, cảnh nhìn, sự sáng tỏ.

Thiền đi. Ngồi im lặng quan sát ý nghĩ của bạn -

đồng dục, dị dục, dù chúng là bất kì cái gì, cũng không

thành vấn đề. Bạn quan sát, bạn trở thành nhân chứng.

Dần dần, dần dần một khoảng cách sẽ được tạo ra giữa

bạn và ý nghĩ của bạn. Và một ngày nào đó bỗng nhiên

có việc nhận ra rằng bạn không phải là tâm trí. Và ngày

đó cuộc cách mạng đã xảy ra bên trong bạn. Sau ngày

đó bạn sẽ không bao giờ như cũ nữa. Siêu việt đã xảy ra.

Sau đó, bất kì cái gì bạn làm cũng đều đúng; thế thì bạn

không thể làm cái sai được. Và trước điều đó, bất kì cái

gì bạn làm cũng sai.

Cho nên khi tôi nói tôi không có gì chống lại đồng

dục tôi không hỗ trợ nó, nhớ lấy. Tôi không nói, "là

đồng dục đi." Tôi cũng không có gì chống lại dị dục,

nhưng tôi không hỗ trợ cho dị dục. Tôi không ủng hộ cái

gì. Đây tất cả đều là trò chơi tâm trí - và bạn phải vượt

ra ngoài tất cả mọi trò chơi.

Tâm trí bạn do xã hội tạo ra.

Bobby mười lăm tuổi chạy ra khỏi nhà hát nơi nó

vừa xem một phim khiêu dâm.

Người quản lí dừng nó lại. "Sao cháu chạy vội vàng

thế?"

"Mẹ cháu bảo cháu," Bobby nói, "rằng nếu cháu

nhìn vào cái gì xấu cháu sẽ hoá đá - và cháu đã bắt đầu

rồi!"

Hai thành viên của câu lạc bộ Người thám hiểm của

London đang thảo luận về một người bạn chung qua

những cốc rượu và sô đa lớn.

"Này, tôi chết mất," anh bạn già thứ nhất nói. "Ông

nói Parkhurst đã đi châu Phi và cưới một con khỉ hình

người à?"

"Hẳn thế, ông già ơi."

Có khoảng dừng một lúc và thành viên câu lạc bộ

thứ nhất hỏi bằng giọng dè dặt, "Con khỉ cái hình người

chứ, chắc tự nhiên vậy?"

"Tất nhiên rồi," lời đáp đưa tới. "Không có gì đáng

ngờ về lão Parkhurst cả."

Tâm trí vận hành như tác nhân của xã hội bên trong

bạn.

Đi ra ngoài tâm trí là đi ra ngoài xã hội.

Đi ra ngoài tâm trí là đi ra ngoài toàn thể lịch sử.

Đi ra ngoài tâm trí và đi ra ngoài quá khứ.

Đi ra ngoài tâm trí là đi vào trong Thượng đế.

Và thế thì bất kì cái gì xảy ra cũng đều tốt, đều đức

hạnh.

#12Câu hỏi thứ tư:

Thưa Thầy kính yêu,

Phương Tây dường như bị ám ảnh với dục. Mọi

người bị chất đầy bởi vô hạn kĩ thuật và ảnh khiêu

dâm. Tại sao, trong mọi thời đại, vẫn có những

người bị mắc kẹt và không thể nào đi vào trong kinh

nghiệm mật tông về dục, về tình yêu và về cuộc

sống?

Prem Karin, vấn đề không phải là phương Tây hay

phương Đông. Cả hai đều bị ám ảnh bởi dục - tất nhiên,

theo các cách khác nhau. Phương Tây mê đắm, phương

Đông kìm nén, nhưng ám ảnh là một. Và vấn đề có ý

nghĩa là: Tại sao phương Tây lại mê đắm thế? Chính hai

nghìn năm của Ki tô giáo và phương pháp kìm nén của

nó đã đem tới sự mê đắm này.

Phương Đông kìm nén; chẳng chóng thì chầy, nó sẽ

trở nên mê đắm. Tâm trí con người di chuyển như con

lắc, từ phải sang trái, từ trái sang phải. Và nhớ lấy, trong

khi con lắc đang di chuyển sang phải nó thu lấy đà để đi

sang trái, và ngược lại. Nó có vẻ như đi sang trái, nhưng

nó đang thu lấy đà, năng lượng để đi sang phải. Khi xã

hội bị kìm nén nó thu lấy đà để trở thành mê đắm, và khi

xã hội mê đắm nó đang thu lấy đà để trở thành kìm nén.

Nên một điều kì lạ nhất định xảy ra, và thực tế, nó

đang xảy ra: phương Tây đã mê đắm trong vài thập kỉ

rồi và xu hướng kìm nén đang lại nảy sinh. Có nhiều

giáo phái thuyết giảng về vô dục bây giờ. Phong trào

Hare Krishna thuyết giảng vô dục, brahmacharya, và

hàng nghìn người đã trở nên quan tâm tới nó. Và có

nhiều giáo phái nảy sinh mà tất cả đều đồng ý ở một

điểm: rằng dục phải bị kìm nén. Nhân danh yoga, nhân

danh Thiền, nhân danh Ki tô giáo, nhiều giáo phái đang

nảy sinh mà lại kìm nén. Phương Tây sẽ sớm trở nên

kìm nén.

Và ở phương Đông, số tạp chí khiêu dâm đang tăng

lên mọi ngày; phim khiêu dâm đang tới ngày một nhiều

hơn. Phương Đông có chậm hơn chút ít trong mọi thứ,

có lười hơn chút ít trong mọi thứ, cho nên nó cần lâu

hơn chút ít. Phương Tây đi với tốc độ. Nhưng phương

Đông đang trở thành phương Tây và phương Tây đang

trở thành phương Đông, và đó là một trong những vấn

đề lớn. Nếu điều này xảy ra, thế thì khổ sở vẫn còn như

cũ. Con lắc lại di chuyển và bạn lại sẽ cứ làm cùng mọi

điều.

Điều này đã xảy ra nhiều lần trong quá khứ. Xã hội

kìm nén trở thành mê đắm chẳng chóng thì chầy. Khi

kìm nén đi tới một điểm bạn không thể kìm nén nó được

nữa thì nó bùng nổ: mọi người cáu tiết. Hay khi xã hội

đã rất mê đắm nó bắt đầu thấy cái vô tích sự của điều

đó, sự phí hoài cực kì năng lượng. Và nó không cho mãn

nguyện; thay vì thế nó làm cho người ta cảm thấy ngày

một thất vọng hơn. Thế thì người ta bắt đầu nghĩ tới

brahmacharya - vô dục. Có thể những hiền nhân cổ đại

là đúng!

Ở phương Đông điều đó cũng xảy ra nhiều lần. Tôn

giáo của người Hindu, lúc ban đầu, là rất mê đắm; nó

không phải là tôn giáo kìm nén. Các nhà tiên tri Hindu

là người có gia đình. Họ không chỉ có gia đình, họ được

phép có vài đàn bà khác là vợ lẽ của họ. Họ được phép

thậm chí mua đàn bà - bởi vì vào những ngày đó ở Ấn

Độ, đàn ông và đàn bà bị bán tại chợ cũng như bất kì

món hàng nào.

Cẩn thận với tất cả những người cứ nói về Thời đại

Vàng của Ấn Độ. Chưa bao giờ có thời đại vàng nào cả.

Ngay cả trong những ngày của Rama... Người Hindu nói

rất nhiều về Ramarajya - vương quốc của Rama được

coi là đỉnh cao nhất. Mọi người bị bán như món hàng ở

bãi chợ, và đặc biệt đàn bà bị bán chỉ là tài sản; bất kì ai

cũng có thể bán, bất kì ai cũng có thể mua. Mọi người

hay cho họ như món quà. Vị khách tới nhà bạn và người

đó thích một trong những người đàn bà. Ngay cả cái gọi

là thánh nhân cũng thường có nhiều đàn bà; họ tất cả

đều mê đắm. Mọi câu chuyện về những ngày đó, ngay

cả về các thần, cũng rất mê đắm.

Bạn phải đã thấy các ngôi đền Shiva - đền dành

riêng cho thần Shiva. Tượng không là gì ngoài biểu

tượng dương vật. Nếu bạn nhìn, nếu bạn quan sát chăm

chú, bạn sẽ ngạc nhiên: nó có cả cơ quan sinh dục đàn

ông và đàn bà trong nó. Nó mô tả nghĩa của đàn ông và

đàn bà. Câu chuyện là thế này:

Một hôm Vishnu và Brahma tới gặp Shiva... đây là

tam thể Hindu: Brahma, Vishnu, Shiva. Brahma là thần

sáng tạo, Vishnu là thần duy trì và Shiva là thần phá

huỷ. Cả ba đều được cần để giữ cho thế giới vận hành.

Một người tạo ra, một người duy trì, một người phá huỷ;

thế rồi lại một người tạo ra, người khác duy trì và người

thứ ba phá huỷ. Cho nên nó vẫn còn trong luồng chảy.

Brahma và Vishnu tới gặp Shiva. Khi điều đó xảy

ra, lính gác đang ngủ say, cho nên họ vào mà không xin

phép gì, và Shiva đang làm tình với vợ, Parvati. Ông ấy

đam mê thế trong việc đó, say thế! - ông ấy có thể đã

uống ma tuý nào đó, bởi vì ông ấy được mọi người hoàn

toàn biết rõ là đã dùng ma tuý. Cần sa và dầu gai và

thuốc phiện tất cả đều được ông ấy dùng.

Ông ấy tiếp tục làm tình và hai thần kia đứng đó

xem. Những thần lớn lao! Họ thậm chí không thể nói,

"Chúng tôi xin lỗi," và đi ra. Họ phải tận hưởng cảnh đó

- ảnh khiêu dâm sống! Sáu giờ liên tục, làm tình, và hai

thần này đứng đó trong sáu giờ xem. Một cuốn phim

xanh dài! - và chẳng có gì khác, chỉ toàn làm tình!

Không có sự vụ gì khác, không cái gì khác... chỉ Shiva

làm tình với vợ. Nhưng họ rất giận.

Khi Shiva được kết thúc họ bảo ông ấy, "Chúng tôi

đã đợi ông suốt sáu giờ và ông thậm chí đã không thèm

để ý gì tới chúng tôi. Chúng tôi rất giận và chúng tôi

nguyền rủa ông rằng ông sẽ được người đời nhớ mãi

mãi và mãi mãi bởi bộ phận dục của ông."

Đó là lí do tại sao trong đền Shiva bạn thấy biểu

tượng dương vật: Shiva được nhớ tới bởi bộ phận dục

của ông ta.

Bây giờ, những người Hindu này phải đã rất mê

đắm. Thần của họ nữa, cũng rất mê đắm. Nhưng thế rồi

tới phản ứng, con lắc chuyển đi. Phật giáo và Jaina giáo

nổi dậy chống lại mê đắm này và họ đã tạo ra thế giới

rất kìm nén, đạo đức kìm nén.

Ấn Độ vẫn sống dưới ảnh hưởng đó, nhưng nó đang

chuyển dần dần, dần dần hướng tới mê đắm. Phương tây

đang ảnh hưởng nó - phim phương Tây, tiểu thuyết

phương Tây đang ảnh hưởng nó. Phương Tây bị ảnh

hưởng bởi Phật, bởi Zen, bởi Patanjali, bởi yoga, bởi

thiền, và phương Đông bị ảnh hưởng bởi Playboy! Mọi

người đang đọc Playboy, giấu nó dưới cuốn Gita của họ!

Prem Karin, bạn hỏi, "Phương Tây dường như bị ám

ảnh với dục."

Điều đó không chỉ đúng về phương Tây. Cả nhân

loại, mãi cho tới giờ, đã vẫn còn bị ám ảnh với dục, và

nó sẽ vẫn còn như vậy chừng nào chúng ta còn chưa

thay đổi toàn thể động thái. Mãi cho tới giờ động thái đã

từng là kìm nén/mê đắm, mê đắm/kìm nén, cứ chuyển

giữa hai điều này. Chúng ta phải dừng đích xác ở giữa.

Bạn đã bao giờ thử dừng con lắc đồng hồ ở giữa không?

Điều gì xảy ra? Đồng hồ dừng lại. Thời gian dừng lại.

Đó là nỗ lực của tôi ở đây. Tôi không muốn bạn mê

đắm và tôi không muốn bạn kìm nén. Tôi muốn bạn

được cân bằng, ở chính giữa. Chính ở chính giữa mà

siêu việt là có thể, và chính ở chính giữa mà chúng ta có

thể tạo ra nhân loại, cái không phải là phương Đông

không là phương Tây. Và điều được cần vô cùng, cần

khẩn thiết, là con người tới trên trái đất không là người

phương Đông không là người phương Tây: một loại

người mới với cảnh nhìn mới, tự do khỏi mọi tù túng

của quá khứ.

Bạn hỏi, " Tại sao, trong mọi thời đại, vẫn có những

người bị mắc kẹt và không thể nào đi vào trong kinh

nghiệm mật tông về dục, về tình yêu và về cuộc sống?"

Kinh nghiệm mật tông nghĩa là không kìm nén

không mê đắm. Kinh nghiệm mật tông là có thể chỉ nếu

bạn đi sâu vào trong thiền, bằng không thì không thể.

Khi bạn trở nên rất, rất tĩnh lặng, im lặng, nhận biết, tỉnh

táo, chỉ thế thì mới có khả năng là bạn sẽ biết cái gì đó

của Mật tông. Bằng không, Mật tông cũng có thể trở

thành cái cớ cho mê đắm - cái tên mới, tên tôn giáo. Và

bạn có thể đi vào trong mê đắm nhân danh Mật tông.

Các tên sẽ không làm thay đổi gì mấy; bản thể bạn cần

thay đổi.

Zelda, ngựa vằn Do Thái, đang bước theo làn đường

quê, chỗ nào đó ở vùng hoang vu của Pennsylvania.

Chẳng mấy chốc nó đi tới một bầy cừu.

"U-hu, xin hỏi tôi có thể nói với các bạn được

không?" nó gọi.

Một trong những con cừu tới hàng rào.

"Chị định nói gì?"

"Tôi đại diện cho Hiệp hội ngựa vằn Hadassah Nam

Phi. Anh là cừu Do Thái à?"

"Ôi vâng, chúng tôi tất cả đều là Do Thái ở đây."

"Thế này, tôi đang làm chuyến đi tìm sự kiện. Ngựa

vằn chúng tôi quan tâm tới việc học cách con vật Do

Thái ở Mĩ kiếm sống. Anh cảm phiền nói cho tôi biết

anh đang làm loại việc gì?"

"Tôi làm gì à?" con cừu này kêu lên. "Đó là loại câu

hỏi gì vậy? Tôi cho len, còn gì khác nữa? Mọi năm họ

xén lông và mùa sau họ lại làm cùng điều đó. Có gì khác

ở Nam Phi không?"

"Ồ không, nó cũng hệt vậy. Thế này, tôi phải chạy

đi đây. Ta-ta, và cám ơn lòng tốt của anh."

Zelda tiếp tục sứ mệnh đi tìm sự kiện cho tới khi nó

gặp một con bò cái.

"Tôi xin lỗi, thưa bà, tôi là từ Hiệp hội ngựa vằn

Hadassah Nam Phi. Tôi đang phỏng vấn các con vật nội

địa Do Thái-Mĩ. Xin bà vui lòng mô tả về công việc của

bà?"

"Thật là vui mừng," con bò lẩm bẩm. "Tôi được

người ăn kiêng hàng ngày sử dụng, bản thân tôi là người

chính thống, tất nhiên. Công việc của tôi, chị hỏi à? Thế

này, tôi là giống Guernsey thuần chủng, và tôi cho sữa

loại A. Tôi sống đó trong cái chuồng trắng xinh kia. Rất

tiếc tôi không thể mời chị vào được, nhưng chúng tôi

không mong đợi bạn đồng hành và chỗ này là đống lộn

xộn."

"Điều đó hoàn toàn phải thôi. Cám ơn chị cho thông

tin. Chị giúp ích nhiều nhất đấy. Taaạm-biệt."

Một thời gian ngắn sau, Zelda thấy một chú ngựa

giống trên đồng cỏ, và không có nhầm lẫn gì về tính Do

Thái của nó. Nó tình cờ thấy cô ngựa vằn ngay khoảnh

khắc đó. Nó xông ra hàng rào, trượt tới chỗ dừng cách

bốn bước và đừng lù lù trước ngựa vằn với cái mũi phận

phồng.

"Và anh làm cái gì thế, thưa anh?" ngựa vằn hỏi một

cách bẽn lẽn.

"Em yêu, em cứ tụt cái bộ áo ngủ làm cảnh kia ra

đi," nó nói, "và anh sẽ chỉ cho em điều anh làm!"

Toàn thể nhân loại đang chịu đựng ám ảnh, hoặc

qua mê đắm hoặc qua kìm nén. Toàn thể nhân loại quan

tâm tới dục hai mươi bốn giờ một ngày.

Các nhà tâm lí đã phát hiện ra rằng mọi đàn ông đều

nghĩ tới đàn bà ít nhất một lần trong ba phút, và mọi đàn

bà đều nghĩ tới đàn ông ít nhất một lần trong sáu phút.

Điều đó có thể gây ra đủ vấn đề - sự khác biệt này; điều

đó có thể là toàn thể rắc rối giữa đàn ông và đàn bà.

Dục Mật tông không phải là dục chút nào; nó là

thiền. Thiền phải lan toả khắp cuộc sống của bạn. Bất kì

điều gì bạn làm, làm một cách có tính thiền. Bước đi có

tính thiền, ăn có tính thiền. Nếu bạn làm tình, làm tình

có tính thiền. Thiền phải trở thành cuộc sống của bạn hai

mươi tư giờ một ngày; chỉ thế thì mới có biến đổi. Thế

thì bạn vượt ra ngoài dục, bạn vượt ra ngoài thân thể,

bạn vượt ra ngoài tâm trí. Và lần đầu tiên bạn trở nên

nhận biết về tính thượng đế, về cực lạc, về phúc lạc, về

chân lí, về giải thoát.

#12Câu hỏi cuối cùng:

Thưa Thầy kính yêu,

Tại sao người Ấn Độ là người kiêu hãnh thế?

Paul, Trời biết! Họ chẳng có lí do nào để thế cả. Tôi

cũng ngạc nhiên. Chẳng có gì - nhưng bản ngã níu bám

lấy bất kì cái gì hay nó bịa ra cái gì đó. Ấn Độ cứ bịa ra

quá khứ đẹp. Nó là bịa đặt, thuần bịa đặt. Nó chưa bao

giờ có đó, nó chưa bao giờ tồn tại.

Vâng, đã từng có những người như Krishna và

Mahavira và Phật, nhưng họ không phải là người Ấn Độ

chút nào. Jesus không phải là người Do Thái và Lão Tử

không phải là người Trung Quốc. Những người này là

người phổ quát; không ai có thể giành họ được. Toàn thể

trái đất thuộc về họ; họ là di sản kế thừa chung của

chúng ta, cho nên bạn không thể ba hoa về họ được.

Nhưng mọi nước đều phải bịa ra cái gì đó để cảm

thấy thoải mái. Cũng như cá nhân cần bản ngã, các nước

cần bản ngã, giống nòi cần bản ngã, tôn giáo cần bản

ngã. Và ngườiẤn Độ có bản ngã cực kì lớn. Họ nghĩ họ

là người tâm linh nhất trên trái đất, và đó chỉ là chuyện

phù phiếm! Chính ý tưởng này là phi tâm linh.

Có tính tâm linh nghĩa là khiêm tốn. Có tính tâm

linh nghĩa là là không ai cả. Có tính tâm linh nghĩa là

không thuộc vào nước nào, quốc gia nào. Có tính tâm

linh nghĩa là không là người Hindu, không là người Mô

ha mét giáo, không là người Ki tô giáo. Nhưng thậm chí

tâm linh đang được dùng như một cái giá đỡ.

Điều đó xảy ra mọi ngày: vài người Ấn Độ tới, thỉnh

thoảng thôi, những người không hiểu tôi... bởi vì không

thể hiểu được tôi nếu bạn tới một lần như khách thăm

chỉ nhìn quanh. Bạn không thể hiểu được tôi nếu bạn tới

như khách du lịch. Người Ấn Độ tới, nhưng họ tới chỉ

như khách thăm.

Và vài người Ấn Độ đã trở nên bị cuốn hút trong

công xã của tôi, người đã trở thành sannyasins, tôi

không tính họ là người Ấn Độ nữa. Họ đã trở thành phổ

quát. Đó là tình huynh đệ phổ quát.

Nhưng khi những người Ấn Độ mới tới họ là người

Ấn Độ, rất nhiều tính Ấn Độ. Và họ mang bản ngã làm

sao! Khi tôi đi qua Phòng Phật với tay chắp lại, đầu cúi

xuống phía họ trong tình yêu, trong lời cầu nguyện,

trong lời chào, họ thậm chí không đáp ứng. Họ ngồi như

đá. Thậm chí họ không thể bày tỏ một cử chỉ chính thức.

Họ trông xuẩn thế, ngu thế, và tôi cảm thấy tiếc thế!

Làm sao giúp họ được? Những người này dường như ở

ngoài sự giúp đỡ, ngoài cách tiếp cận. Và họ nhìn toàn

thể đại dương các sannyasins đang chắp tay cúi đầu một

cách vui sướng, đáp lại trong tình yêu, giao cảm, nhưng

họ không thể làm được điều đó. Họ chỉ ngồi đó như tảng

đá chết. Kì lạ... nhưng không kì lạ thế bởi vì sâu bên

dưới họ nghĩ họ đã biết. Sâu bên dưới họ nghĩ họ là

người kế thừa vĩ đại của truyền thống tâm linh. Họ biết

Veda và Gita và Upanishad.

Tôi quan sát họ, tôi quan sát tính tâm linh của họ.

Họ không nhìn tôi - họ nhìn vào xe Rolls Royce của tôi!

Đó là lí do tại sao tôi đã yêu cầu thư kí của tôi đem tới

một xe Rolls Royce: ít nhất với người Ấn Độ phải có cái

gì đó để nhìn! Họ quan tâm nhiều tới chiếc xe hơn - và

họ là người tâm linh, không phải duy vật! Khi họ tới đạo

tràng này, câu hỏi đầu tiên họ hỏi người hướng dẫn ở

đây là, "Xe Rolls đâu rồi?" Họ không quan tâm tới việc

nhìn thiền, họ không quan tâm tới việc nhìn vũ công

Sufi, họ không quan tâm tới việc nhìn Vipassana, họ

không quan tâm tới cái gì. "Xe Rolls đâu rồi?" Toàn thể

tâm trí của họ đều duy vật, nhưng họ cứ giả vờ có tính

tâm linh. Và bạn bao giờ cũng có thể bịa ra cái gì đó này

khác.

Nước này nghèo cho nên họ không thể ba hoa về

giầu có được. Nước này vô giáo dục, họ không thể ba

hoa về giáo dục được. Nước này lạc hậu về công nghệ,

họ không thể ba hoa về công nghệ được. Cho nên họ

xông vào cái gì đó vô hình: tính tâm linh. Bạn bao giờ

cũng có thể ba hoa về tính tâm linh. Chẳng ai có thể bác

bỏ được nó. Tất nhiên, bạn không thể chứng minh được

nó, nhưng một điều tốt về tính tâm linh là ở chỗ nó

không thể bị bác bỏ. Cho nên bạn có thể cứ nói về tính

tâm linh của mình - điều chả tồn tại ở đâu cả, điều chưa

bao giờ tồn tại.

Các cá nhân đã từng là con người tâm linh, xã hội

chưa bao giờ thế. Chúng ta vẫn phải đợi cái ngày vĩ đại

đó khi sẽ có nhiều cá nhân thức tỉnh tới mức xã hội sẽ

bắt đầu có mầu sắc tâm linh. Mãi cho tới giờ, điều đó đã

không xảy ra. Cho tới nay nó đã không xảy ra; nó chỉ là

hi vọng. Nhưng mọi tôn giáo đều tin rằng họ có tính tôn

giáo. Chỉ tin vào ý tưởng nào đó cho bạn cảm giác giả

tạo về việc có tính tôn giáo. Và bất kì khi nào bạn bắt

gặp một người tôn giáo thực bạn đều co lại, bạn trở nên

sợ hãi.

Do đó họ chống lại tôi - họ nhất định chống lại tôi.

Tôi làm tan tành tất cả cấu trúc của họ. Tôi làm tan tành

toàn thể hình mẫu bản ngã của họ. Tôi đang cố gắng

đem họ xuống đất, về thực tại - và điều đó gây đau.

Ấn Độ chưa bao giờ chống lại bất kì ai như Ấn Độ

chống lại tôi, bởi lẽ đơn giản là không ai đã bao giờ làm

tan tành bản ngã của họ. Tôi đang làm mọi nỗ lực để

làm tan tành bản ngã của họ bởi vì đó là hi vọng duy

nhất. Nếu Ấn Độ mất bản ngã của nó, có khả năng của

tái sinh. Nước này có thể được tái sinh. Nó có tiềm năng

lớn. Nó có cùng tiềm năng như khi bạn không dùng

cánh đồng trong nhiều, nhiều năm, bạn không trồng bất

kì mùa màng nào, và cánh đồng trở thành ngày một tiềm

năng hơn mọi năm.

Trong hàng thế kỉ Ấn Độ đã không phát triển bất kì

sáng tạo nào. Nó đã trở thành nước tiềm năng nhất trên

thế giới. Nếu nó bùng nổ trong sáng tạo nó thực sự sẽ là

cái gì đó lớn lao, cái gì đó có hậu quả lớn lao cho toàn

trái đất. Nhưng trước khi điều đó có thể xảy ra cái vỏ

của hạt mầm phải bị đập ra, phải bị vỡ ra.

Tôi sẽ bị kết án, phê phán, bác bỏ; điều đó nhất định

là định mệnh của tôi. Nhưng tôi là niềm hi vọng duy

nhất. Nếu tôi thành công trong việc giúp đỡ vài người

Ấn Độ thông minh thoát ra khỏi bản ngã đóng kín của

họ vào trong chỗ rộng mở, điều đó sẽ giúp đỡ không chỉ

Ấn Độ mà toàn thế giới. Nó sẽ là đóng góp lớn lao cho

sự trưởng thành của tâm thức.

Điều đó là có thể, và các bạn tất cả ở đây là để giúp

cho điều đó xảy ra.

Đủ cho hôm nay.

****************************************************************************************************************

#13Tôn giáo là bài ca, thơ ca, điệu vũ của trái tim bạn

Câu hỏi thứ nhất:

Thưa Thầy kính yêu,

Thầy có cải tâm mọi người sang tôn giáo của riêng

thầy không?

Christina, tôi không có tôn giáo nào hết cả: có một

loại tính tôn giáo nào đó, nhưng không có tôn giáo nói

riêng. Đó là lí do tại sao lại dễ thế cho tôi hấp thu Jesus,

Phật, Lão Tử, Zarathustra, Moses, Mohammed,

Mahavira. Nếu như tôi có tôn giáo, thế thì tôi sẽ không

thể nào phổ quát được như vậy.

Có tôn giáo nghĩa là trở nên bị giới hạn. Có tôn giáo

nghĩa là bạn đã định nghĩa cuộc sống, bạn đã làm ra giáo

điều từ cuộc sống, bạn đã giải bí ẩn của nó. Nó không

còn vô hạn nữa; nó không còn là không biết nữa, không

thể biết nữa. Bạn đã thu nó lại thành hệ thống ý nghĩ.

Toàn thể nỗ lực của tôi ở đây là để làm tan chảy mọi

hệ thống ý nghĩ, làm tan chảy tâm trí của bạn, cái đã trở

thành lạnh như băng, đông cứng thành định kiến, để cho

một loại hơi ấm mới bao quanh trái đất. Nó sẽ là một

loại tính tôn giáo - một cảm giác mơ hồ, không phải là ý

nghĩ xác định. Bạn có thể kinh nghiệm nó, nhưng bạn

không thể giải thích được nó. Nó sẽ không giống như

hoa, nó sẽ giống hương hoa nhiều hơn. Nếu bạn không

bị lạnh bạn sẽ có khả năng cảm thấy nó, hương thơm.

Và cái đầu của mọi người lại quá đầy sự lạnh lẽo; họ

chịu từ cái lạnh, họ đã trở nên bị đông cứng. Người này

là người Hindu, người khác là người Ki tô giáo.

Đó là nghĩa của cái tên của bạn, Christina: Một

Christ.

Là một christ và đừng bao giờ là người Ki tô giáo!

Là vị phật, đừng bao giờ là phật tử! Điều đó đang làm

lắng đọng rác rưởi. Khi bạn có thể tự mình kinh nghiệm

chân lí, sao còn lắng đọng cho tri thức thứ cấp? Mọi tôn

giáo đều là tri thức thứ cấp.

Khi thầy còn sống, thầy có bầu khí hậu nào đó,

không có hoài nghi gì về điều đó, một bầu không khí

nào đó bao quanh thầy, nơi mọi người bắt đầu trưởng

thành - trưởng thành trong bản thân họ. Điều đó là cải

tâm đúng. Cải tâm không có nghĩa là người Hindu trở

thành người Ki tô giáo hay người Ki tô giáo trở thành

người Hindu; điều đó không phải là cải tâm. Điều đó

đơn giản là đổi từ nhà tù này sang nhà tù khác, chuyển

từ hệ thống tư tưởng chết này sang hệ tư tưởng chết

khác - nhưng bạn vẫn còn như cũ.

Cải tâm nghĩa là thay đổi triệt để trong bản thể bạn.

Vấn đề không phải là thay đổi ý thức hệ của bạn, vấn đề

là thay đổi tâm thức bạn. Theo nghĩa đó, mọi người chắc

chắn đang được cải tâm. Và tôi không cải tâm họ, họ

cho phép bản thân mình được cải tâm. Nhớ lấy sự khác

biệt đó. Tôi không quan tâm tới việc cải tâm bất kì ai;

tôi đơn giản tạo ra không gian sẵn có cho những người

muốn trải qua cuộc cách mạng này. Họ có thể trải qua

cuộc cách mạng này. Tôi không cố gắng một cách trực

tiếp hay gián tiếp làm bạn thành một phần của bất kì tôn

giáo nào.

Mới hôm nọ tôi có đọc... ai đó đã viết - một người

Hindu - rằng tôi đang cải tâm mọi người sang Jaina giáo

bởi vì tôi được sinh trong tôn giáo của người Jaina. Và

người Jaina nghĩ rằng tôi đang cải tâm người Jaina vào

tôn giáo của người Hindu bởi vì mầu da cam là mầu của

người Hindu - cứ dường như mầu sắc cũng có thể có

tính chất Hindu hay Mô ha mét giáo! Và người Ki tô

giáo đã viết thư cho tôi, viết các bài báo chống lại tôi,

rằng tôi đang cải tâm người Ki tô giáo sang Hindu giáo.

Đó là một thế giới rất kì lạ! Người Ki tô giáo nghĩ tôi

đang cải tâm bạn sang Hindu giáo, người Hindu nghĩ tôi

đang cải tâm bạn sang Jaina giáo, người Jaina nghĩ tôi

đang cải tâm bạn sang Hindu giáo, người Mô ha mét

giáo nghĩ tôi đang cải tâm bạn sang Phật giáo và Phật tử

nghĩ tôi đang cải tâm bạn sang cái gì đó khác.

Tôi không cải tâm bạn sang bất kì hệ thống tư tưởng

có tổ chức nào, trực tiếp hay gián tiếp. Tôi không quan

tâm tới điều đó chút nào. Nhưng chắc chắn tôi đang làm

ra một chiều hướng sẵn có cho bạn. Nếu bạn quan tâm

đi vào qua cuộc cách mạng, bạn có thể đi. Nếu bạn có

can đảm và dũng cảm bạn có thể có tâm thức mới.

Nhưng tôi có thể hiểu được câu hỏi này, đặc biệt từ

một người Ki tô giáo, bởi vì người Ki tô giáo đã từng

làm kinh doanh này trên khắp trái đất trong hàng thế kỉ,

theo mọi cách có thể được, đúng hay sai. Nếu mọi người

không thể được cải tâm bằng việc thuyết phục họ, thì cải

tâm họ bằng lưỡi kiếm. Nếu kiếm đã trở thành lạc hậu

và trông xấu, thì cải tâm họ bằng tiền, bằng bánh mì và

bơ. Mọi người đều nghèo và chết đói.

Ở Ấn Độ tôi chưa bao giờ bắt gặp một gia đình giầu

đã trở thành người Ki tô giáo. Chỉ người rất nghèo

người bao giờ cũng trên bờ vực của chết vì đói mới trở

thành người Ki tô giáo. Lí do không phải là vì họ quan

tâm tới Christ; họ đơn giản quan tâm tới việc sống sót -

và các nhà truyền đạo Ki tô giáo có tiền. Họ có thể cho

những người này tiền, việc làm, quần áo, thuốc men,

bệnh viện. Và khi đó là vấn đề sống còn, ai bận tâm về

tôn giáo? Bạn thuộc vào tôn giáo nào cũng chẳng thành

vấn đề - yêu cầu đầu tiên là sống còn. Cho nên ở Ấn Độ

mọi người nghèo, người rất nghèo đều đã được cải tâm.

Đây là cải tâm họ bằng hối lộ. Bây giờ thay vì dùng lưỡi

kiếm, một phương pháp luận rất tinh vi đang được dùng

để cải tâm họ.

Nhưng tôi không quan tâm tới việc cải tâm bất kì ai.

Tôi yêu Jesus cũng nhiều như tôi yêu Phật bởi vì tôi

không thấy khác biệt gì. Cả hai đều có tính tôn giáo bởi

vì cả hai đều đã thức tỉnh. Không có khác biệt chút nào

giữa tất cả những người đã thức tỉnh. Nhưng nhà thờ đã

không quan tâm tới việc thức tỉnh hay người thức tỉnh;

mối quan tâm của họ là về số người, và họ dùng mọi

cách có thể, trực tiếp, gián tiếp, thô thiển và tinh vi để

cải tâm mọi người.

Do đó, Christina này, câu hỏi này đã nảy sinh trong

tâm trí bạn: có thể tôi đang làm cái gì đó giống như các

nhà truyền giáo Ki tô giáo. Tôi không phải là nhà truyền

giáo đâu.

Ông và bà Chotnik đã hi vọng rằng con trai họ,

Stanley, sẽ theo con đường của cách thức chính thống

riêng của họ và theo đuổi giáo dục cao hơn tại đại học

Yeshiva. Thay vào đó, mặc cho mối quan tâm nhiều của

họ, anh ta đã vào trường cao đẳng Ki tô giáo. Nhưng khi

anh ta trở về nhà vào kì nghỉ hè, họ được nhẹ nhõm rất

nhiều khi thấy rằng nỗi lo sợ của họ đã không có cơ sở.

Stanley đã không từ bỏ niềm tin do tổ tiên truyền lại,

anh ta đã không bị cải tâm, anh ta đã không, điều đó là

rõ ràng, bị ảnh hưởng dù theo cách nhỏ nhặt nhất bởi

môi trường phi Do Thái của mình. Thực tế, vào chính

ngày thứ sáu tiếp, anh ta sẵn sàng đồng ý đi cùng họ tới

giáo đường.

Tối hôm đó, tại gần buổi lễ ngày nghỉ shabbes, giáo

sĩ, một ông bạn già của gia đình Chotnik, đón chào cậu

sinh viên trẻ với nụ cười lớn. "Thật hay lại được gặp cậu

ở đây trong ngôi đền này, Stanley," giáo sĩ nói, lắc tay

cậu thanh niên. "Nói thẳng, cha mẹ cậu và tôi đã sợ cậu

có thể bị thành người Cơ đốc giáo ở đó tại South Bend."

Lông mày của Stanley nhướn lên trong ngạc nhiên.

"Không thể được!" anh ta tuyên bố. "Không ai đã bao

giờ cải tâm cháu, thưa cha."

Có những cách tinh vi để cải tâm. Người bị cải tâm

không trở nên nhận biết chút nào về điều xảy ra. Bạn cứ

ước định người đó, dần dần, dần dần. Bạn cứ lặp lại sách

phúc âm và dần dần, dần dần không có nhận biết của

người đó, tâm trí người đó trở nên đầy tất cả những điều

đã từng được lặp lại. Người đó bị ước định. Đó là quá

trình thôi miên.

Nỗ lực của tôi ở đây là chính điều đối lập lại: nó là

quá trình giải thôi miên, giải ước định. Tôi giải ước định

bạn, dù bạn là bất kì ai, người Ki tô giáo, người Hindu,

người Mô ha mét giáo. Tôi đơn giản giải ước định bạn

và thế rồi tôi để điều đó cho bạn để bạn có thể là bản

thân mình. Tôi không ước định lại bạn lần nữa. Tôi

dừng lại với việc giải ước định để cho bạn được tự do

khỏi hình mẫu cũ, khỏi động thái cũ mà đã từng bị áp

đặt lên bạn. Một khi bạn được tự do thì công việc của tôi

được kết thúc. Thế thì bạn có thể trưởng thành theo cách

riêng của bạn theo ánh sáng riêng của bạn, theo nhu cầu

bên trong riêng của bạn. Từng cá nhân đều có quyền tập

ấn là bản thân mình.

Thế giới này không cần người Ki tô giáo, người

Hindu và người Mô ha mét giáo; nó chắc chắn cần

người tôn giáo. Và tôi ngụ ý gì khi tôi dùng từ 'người

tôn giáo'? Tôi ngụ ý những người nhận biết rằng thế giới

này không chỉ là vật chất, rằng thế giới này là cái gì đó

hơn nữa, cái gì đó thêm nữa. Nó không kết thúc với vật

chất; vật chất chỉ là chu vi: tâm thức là ở trung tâm. Và

điều này là có thể chỉ khi bạn kinh nghiệm tâm thức ở

trung tâm riêng của mình; thế thì bạn có thể kinh

nghiệm tâm thức ở mọi nơi. Khi bạn bắt đầu cảm thấy

tâm thức ở mọi nơi bạn đã bắt gặp tính thượng đế. Kinh

nghiệm này là tôn giáo.

Tôi chắc chắn quan tâm tới việc đưa bạn vào trong

kinh nghiệm bao la này, nhưng bạn phải tới theo cách

riêng của bạn. Bạn phải tới nó mà không có niềm tin

nào, định kiến nào - cởi mở, mong manh, sẵn sàng nhìn

cái đang đó, thay vì phóng chiếu cái phải thế. Tôi không

cho bạn bất kì cái phải và cái không phải nào, tôi không

cho bạn bất kì lời răn nào. Tôi đơn giản giúp bạn như

người làm vườn giúp hạt mầm. Đấy không phải là làm

ra hoa sen từ bụi hồng hay ngược lại. Người làm vườn

giúp cho hoa hồng là hoa hồng và hoa sen là hoa sen.

Bất kì cái gì là tiềm năng của bạn, bạn phải là cái đó.

Tôi không ở đây để quyết định bạn phải là cái gì; tôi

chỉ có thể cho bạn hướng dẫn cách trưởng thành vào

trong bản thể riêng của bạn. Và đó là cách một người trở

thành một Jesus, một Phật, một Zarathustra.

#13Câu hỏi thứ hai:

Thưa Thầy kính yêu,

Phương Tây quá đông đúc các nhà trị liệu tâm lí và

bệnh nhân của họ, nhưng sao không ai dường như

được giúp đỡ?

Patrick, giúp đỡ là có thể chỉ qua vị phật. Giúp đỡ là

có thể chỉ qua người đã thức tỉnh.

Các nhà trị liệu tâm lí cũng ngủ như bạn vậy; họ ở

trong cùng một con thuyền. Không có khác biệt về chất

giữa bạn và họ - thực tế họ có thể còn điên khùng hơn

bạn. Họ có thể còn trong đống lộn xộn hơn bạn bởi vì họ

thường xuyên phải giải quyết với người điên; hết ngày

nọ tới ngày kia, họ bị bao quanh bởi người điên. Thay vì

giúp người điên trở nên lành mạnh, chính điều đối lập

xảy ra: thường xuyên tiếp xúc với người điên, dần dần,

dần dần tự bản thân họ trở nên điên.

Điều này là tự nhiên. Họ chưa có nhận biết đó, điều

có thể vẫn còn tách rời, không bị ảnh hưởng. Họ không

có khoảng cách đó, sự bình thản đó, sự tách rời đó. Họ

không sống trên đỉnh ánh sáng mặt trời; họ đang dò dẫm

trong thung lũng tăm tối nơi bạn cũng đang dò dẫm. Họ

mù như bạn mù, nhưng họ phải giả vờ rằng họ không

mù - và điều đó còn nguy hiểm hơn.

Nếu một người mù và biết rằng mình mù và chưa

bao giờ giả vờ khác đi, có mọi khả năng người đó sẽ

bước đi thận trọng hơn. Nếu người đó giả vờ rằng người

đó không mù, nếu người đó phóng chiếu rằng người đó

không mù, nếu người đó thuyết phục người khác rằng

người đó không mù, dần dần, dần dần người đó sẽ bị

thôi miên bởi lời nói của riêng mình, tự thôi miên.

Người đó sẽ bắt đầu tin rằng người đó không mù và

người đó sẽ bắt đầu bước đi kém cẩn trọng. Và điều đó

còn nguy hiểm hơn.

Tôi đã nghe:

Có lần một người mù tới thăm một Thiền sư. Khi

người này ra về - lúc đó là đêm, đêm tối, không trăng,

và nhiều mây thế - thầy nói với người mù, "Cầm chiếc

đèn này đi theo ông."

Người mù này cười to. Người đó nói, "Thầy có đùa

không đấy? Cái đèn giúp gì cho tôi? Tôi không thể nhìn

được! Dù tôi có đèn hay không thì cũng vậy cả thôi."

Nhưng thầy nói, "Điều đó ta biết, rằng ông không

thể thấy được, nhưng ít nhất người khác sẽ có khả năng

nhìn trong bóng tối rằng ông đang tới cho nên họ sẽ

không đâm quàng vào ông."

Biện luận này có vẻ đúng. Người mù cầm chiếc đèn,

ra đi. Anh ta mới đi được trăm bước thì một người đâm

sầm vào anh ta. Anh ta nói, "Có chuyện gì thế? Anh

cũng mù sao? Anh không thể thấy được chiếc đèn này

à?"

Và người kia nói, "Tôi không mù. Tôi xin lỗi, nhưng

đèn của ông có thắp đâu; lửa của nó tắt rồi."

Người mù này quay trở lại với Thiền sư và nói,

"Thầy trông đấy, đừng bao giờ đưa đèn cho người mù

khác nữa. Nếu không có đèn tôi đã bước đi thận trọng

hơn. Tôi bao giờ cũng bước đi thận trọng. Bởi vì có đèn

tôi bước đi cứ dường như tôi không còn mù nữa - và

chiếc đèn tắt ngấm. Nhưng làm sao tôi biết rằng chiếc

đèn tắt rồi? Bởi vì chiếc đèn này, lần đầu tiên tôi đã bị

một người làm bị thương. Bằng không, tôi đã bước đi cả

đời mình trong mọi tình huống có thể, nhưng bởi vì tôi

thận trọng thế, bao giờ cũng làm tiếng động với chiếc

gậy trên đường nên mọi người có thể cảm thấy rằng

người mù nào đó có đó, bao giờ cũng dò dẫm bằng chiếc

gậy trong bóng tối nên tôi biết tôi ở đâu, tôi đang đối

diện với tường hay cửa.... Đó là lần đầu tiên tôi bước đi

mà không sợ gì."

Và đó là điều đang xảy ra cho các nhà trị liệu tâm lí

của bạn đấy, Patrick. Họ nghĩ họ biết - họ chẳng biết gì.

Họ được thông tin nhiều, nhưng thông tin không phải là

việc biết. Họ được giáo dục tốt, nhưng họ đã không có

bản thể cao hơn bạn. Và giúp đỡ là có thể chỉ khi ai đó

cao hơn bạn chìa tay cho bạn.

Nhiều nhà trị liệu tâm lí phát điên hơn bất kì nghề

nào khác và nhiều nhà trị liệu tâm lí tự tử hơn bất kì

nghề nào khác. Và điều đó là tự nhiên. Sống cùng người

điên, người ta có thể hiểu được - họ trở nên bị nhiễm.

Vài cảnh sẽ giúp cho bạn....

Cảnh thứ nhất:

Một người bước vào văn phòng của nhà tâm thần.

"Ông phải giúp tôi!" anh ta kêu lên.

"Ông làm gì để sống?" bác sĩ tâm thần hỏi.

"Tôi là thợ cơ khí ô tô."

"Chui xuống dưới gầm tràng kỉ!"

Cảnh thứ hai:

Nhà tâm thần thứ nhất: "Xin chào!"

Nhà tâm thần thứ hai: "Tôi tự hỏi ông ngụ ý gì bởi

điều đó?"

Cảnh thứ ba:

Bệnh nhân: "Tất nhiên tôi bực mình, bác sĩ. Tôi có

mười một đứa con và tôi thấy chồng tôi không yêu tôi."

Bác sĩ: "Bà rất may mắn đấy. Tưởng tượng xem nếu

ông ấy yêu thì sao!"

Cảnh thứ tư:

"Bác sĩ ơi, vợ tôi buộc tội tôi là kẻ chơi bài ép

buộc."

"Điều đó thật nực cười. Bây giờ câm đi và giải quyết

đi!"

Và cảnh thứ năm:

"Bác sĩ ơi, bởi vì bác sĩ đã chữa khỏi cho tôi xu

hướng đồng dục và vì đây là phiên cuối cùng của chúng

ta, tôi có thể hôn bác sĩ để chào tạm biệt được không?"

"Đừng có lố bịch - đàn ông không hôn. Tôi đáng

phải không nằm trên cùng tràng kỉ với anh!"

Bạn hỏi tôi, Patrick, "Phương Tây quá đông đúc các

nhà trị liệu tâm lí và bệnh nhân của họ, nhưng sao không

ai dường như được giúp đỡ?"

Giúp đỡ là có thể chỉ từ nguồn cao hơn. Người trên

cùng mảnh đất như bạn không thể giúp gì được bạn.

Giúp đỡ là có thể chỉ khi một người ý thức đầy đủ cố

gắng giúp cho người vô ý thức. Cũng dường như bạn

đang ngủ; bạn có cho rằng ai đó khác đang ngủ có thể

giúp bạn theo bất kì cách nào được không? Chỉ ai đó

thức mới có thể đánh thức bạn được. Nếu bạn muốn

được thức dậy vào một giờ đặc biệt, bạn không nói với

ai đó khác còn đang ngủ, "Xin hãy thức tôi dậy lúc năm

giờ sáng. Tôi phải đi tập Thiền Động phải gió đó!" Bạn

phải nhờ ai đó thức chứ. Chỉ ai đó thức mới có thể đánh

thức bạn được. Thực tế, người đang ngủ có thể giúp bạn

rơi vào giấc ngủ sâu hơn.

Bạn có thể đã quan sát điều đó xảy ra. Nếu vài

người đang ngồi ngay cạnh bạn mà ngáp, bạn bắt đầu

cảm thấy buồn ngủ. Họ tạo ra rung động nào đó; họ tạo

ra bầu không khí nào đó mà trong đó bất kì ai mong

manh cũng sẽ bắt đầu cảm thấy tốt hơn cả là đi ngủ.

Cùng điều đó xảy ra với người thức tỉnh: vị phật tạo

ra rung động hoàn toàn khác. Ông ấy lay bạn dậy, ông

ấy đánh thức bạn dậy. Ông ấy cứ gây choáng cho bạn

theo nhiều cách; ông ấy tìm ra phương cách để gây

choáng cho bạn.

Kavita đã hỏi, "Thưa Thầy kính yêu, thỉnh thoảng

thầy dùng những lời tới mức tôi cảm thấy choáng - và

tôi hay nghĩ rằng không lời nào bao giờ có thể gây

choáng cho tôi được. Thầy không có lời nào dịu sao?"

Kavita, tôi sẽ cứ dùng những lời này chừng nào bạn

còn chưa thức dậy. Bạn thích nghe điệu ru con - nhưng

bài ru con sẽ không ích gì. Cái hấp dẫn bạn, cái bạn

thích sẽ không giúp ích gì cả. Cái gì đó gây choáng cho

bạn.... Tôi sẽ dùng những lời dữ dội cho tới khi bạn

dừng ngáp.

Bất kì khi nào tôi thấy ai đó ngáp ở đâu đó, lập tức

tôi phải nói cái gì đó gây choáng cho bạn - và tôi có thể

thấy cái ngáp của người đó biến mất. Khoảnh khắc tôi

nói "chuyện nhảm nhí" - lập tức khi tôi nói điều đó

người đó dừng ngáp! Xương sống người đó dựng thẳng

dậy, kundalini của người đó vươn lên!

Chừng nào tất cả các bạn còn chưa thức tỉnh tôi sẽ

không để các bạn yên đâu; tôi sẽ cứ đánh bạn theo đủ

mọi cách có thể.

Giúp đỡ là có thể, Patrick này, chỉ từ người đã thức

tỉnh. Bạn không cần các nhà trị liệu tâm lí, bạn cần chư

phật.

Thứ hai: bạn đi tới nhà trị liệu tâm lí, nhưng bạn

không thực sự muốn được giúp đỡ. Bạn có đầu tư lớn

vào bệnh hoạn của mình.

Lại thêm vài cảnh.

Cảnh thứ nhất:

"Bác sĩ ơi, vợ tôi nghĩ cô ấy là tủ lạnh."

"Sao anh không li dị cô ấy?"

"Tôi muốn đấy nhưng tôi cần đá."

Cảnh thứ hai:

"Bác sĩ ơi, con gái tôi nghĩ nó là thỏ."

"Đem nó tới đi. Tôi sẽ xem tôi có thể làm gì."

"Được, nhưng bất kì điều gì xảy ra, tôi hi vọng ông

không chữa lành cho nó."

Không ai muốn thực sự được giúp. Mọi người chỉ

chơi trò chơi. Họ đi tới nhà phân tâm với hi vọng rằng

ông ta không thể làm gì được, rằng ông ta sẽ không thực

sự thay đổi họ. Không ai muốn bị thay đổi; mọi người

đều muốn vẫn còn như mình vẫn vậy. Bạn đã trở nên

quen thuộc thế với khổ của mình, với bệnh hoạn của

mình... nó là cuộc sống của bạn, nó là cách thức cuộc

sống của bạn.

Nếu bạn muốn được thay đổi bạn sẽ tìm thầy, không

tìm nhà trị liệu tâm lí.

#13Câu hỏi thứ ba:

Thưa Thầy kính yêu,

Có chân lí nào trong triết lí về bất tử thân thể, điều

nói rằng chính là niềm tin của chúng ta vào sự

không tránh khỏi của cái chết mới tạo ra tuổi già,

bệnh tật và cái chết? Ý nghĩ của chúng ta biểu lộ ra

kết quả tới mức độ nào?

John Fisant, con người sợ chết; do đó con người cứ

tạo ra đủ loại ý tưởng ngu xuẩn. Bất tử thân thể là cực kì

vô nghĩa bởi vì cái gì bắt đầu đều nhất định kết thúc. Bất

tử thân thể là có thể chỉ nếu bạn không được sinh ra qua

cha mẹ mà được chế tạo trong xưởng máy. Nếu bạn

được làm bằng nhựa, nếu bạn không là người thực, thế

thì có khả năng. Nhựa dường như là thứ bất tử duy nhất.

Cho nên nếu bạn không có da mà thay vào đó là

nhựa, nếu bạn không có máu thực mà là máu tổng hợp

mà bạn có thể thay đổi bất kì lúc nào - bạn có thể tới

máy bơm xăng - và mọi thứ bạn có trong thân thể -

xương, khớp, mọi thứ - là thay thế được để cho bất kì

khi nào có vấn đề nào đó, mọi thứ có thể được thay thế;

bạn chỉ phải thay vài bộ phận và các bộ phận đều sẵn

có.... Bạn có thể phải tới ga ra một chốc; vài thứ có thể

phải tháo ốc ra và vặn vít lại. Thế thì bạn có thể bất tử

thân thể - nhưng thế thì bạn sẽ không là người, bạn sẽ là

máy.

Nếu bạn được sinh ra bạn nhất định chết. Vâng, có

thể cuộc sống của bạn có thể được kéo dài ra - cuộc

sống đã được kéo dài ra. Khi y học đã tiến hoá, khi công

nghệ khoa học đã tới giúp con người, khi chúng ta trở

nên ngày một nhận biết về các bí mật của cuộc sống,

cuộc sống đã được kéo dài ra. Nó có thể được kéo dài từ

bẩy mươi năm tới bẩy trăm năm, nhưng thế nữa bạn sẽ

không bất tử thân thể đâu.

Và tôi không nghĩ nhiều người sẽ thích sống bẩy

trăm năm; ngay bẩy mươi năm cũng quá nhiều rồi! Mọi

người bắt đầu nghĩ sau một thời gian, "Bây giờ chết đi

chắc tốt hơn." Cái chết là giảm nhẹ, thảnh thơi. Mọi thứ

đều muốn nghỉ; cái chết là đi vào trong nghỉ ngơi. Thân

thể bạn cũng bị mệt mỏi, vật chất cũng bị mệt mỏi. Nó

muốn quay lại cội nguồn nguyên thuỷ của nó: nước về

trong nước và khí về trong khí và đất về trong đất và lửa

về trong lửa. Mọi thứ đều muốn trở lại cội nguồn của nó

để nghỉ ngơi, để làm khoẻ lại bản thân nó, và quay lại

lần nữa. Nhưng con người bao giờ cũng thích thú với

những ý tưởng này - bất tử thân thể. Và không phải là

người thường đâu, ngay cả người được coi là phi

thường, họ cũng cứ có những ý tưởng ngu xuẩn thế.

Sri Aurobindo và mẹ của Sri Aurobindo cả hai đều

tin vào bất tử thân thể - và cả hai đều đã chết! Khi Sri

Aurobindo chết không ai tin vào điều đó, bởi vì tất cả

các đệ tử những người đã tụ tập ở đó đều đã tụ tập lại

với lí do đơn giản là ông ấy biết bí mật của bất tử thân

thể và bằng việc là đệ tử của ông ấy họ sẽ trở nên bất tử

thân thể. Làm sao họ có thể tin được rằng ông ấy đã

chết?

Trong ba ngày người ta giữ bí mật rằng ông ấy đã

chết. Họ chờ đợi: ông ấy có thể đang trong đại định

(samadhi) sâu, ông ấy có thể quay lại. Nhưng sau ba

ngày khi họ không thấy dấu hiệu nào của việc ông ấy

quay lại và thân thể ông ấy bắt đầu bốc mùi, thế thì họ

phải đi chôn nó. Thế rồi họ hi vọng rằng người mẹ sẽ

bất tử. Bà ấy sống cuộc sống lâu, nhưng cuộc sống lâu

không có nghĩa là bất tử thân thể. Khi bà ấy chết, họ lại

bị choáng. Toàn thể triết lí của họ bị lẫn lộn bởi cái chết

của hai người này.

Nhưng một điều là tốt về cái chết: bây giờ bạn

không thể hỏi Sri Aurobindo, "Sao ông đã từng nói cả

đời ông rằng bất tử thân thể là có thể, rằng ông biết bí

mật đó, rằng ông có khả năng đem Thượng đế vào thế

giới vật lí?"

Nhưng những kẻ ngu tụ tập lại. Người ngu bao giờ

cũng trở nên bị hấp dẫn tới những điều lạ. Ngay sâu bên

dưới nỗi sợ có đó - không ai muốn chết. Tại sao? Tại sao

ngay chỗ đầu tiên bạn sợ chết? Chết không phải là kẻ

thù. Với người đã sống thực sự, cái chết là người bạn.

Nó giống như ngủ. Không ai muốn vẫn còn thức hai

mươi bốn giờ một ngày.

Có vài người nghĩ rằng giấc ngủ cũng chỉ là thói

quen cũ và họ cố gắng giảm nó xuống. Trong hàng thế

kỉ họ đã cố gắng. Vâng, nó có thể bị giảm đi, nó có thể

bị giảm xuống hai giờ bởi vì hai giờ là giấc ngủ bản

chất; bạn cũng ngủ chỉ hai giờ theo cách ngủ sâu. Đâu

đó ở giữa hai và bốn giờ hay ba và năm giờ bạn ngủ hai

giờ rất sâu; đó là những khoảnh khắc làm tươi lại. Mọi

mơ biến mất, bạn gần như chết. Do đó người cổ đại hay

nói giấc ngủ là cái chết nhỏ. Nhưng mọi người cũng đã

cố gắng tránh giấc ngủ.

Logic là: nếu bạn có thể tránh ngủ thì một ngày nào

đó bạn có thể tránh cả cái chết nữa. Nếu giấc ngủ là cái

chết nhỏ và bạn đã chinh phục được giấc ngủ, bạn sẽ có

khả năng chinh phục giấc ngủ lớn, cái chết nữa. Nhưng

tại sao? Cái gì sai trong việc chết? Những người sợ chết

là những người đã chưa thực sự sống cuộc sống của họ.

Họ không sợ chết, họ đơn giản sợ rằng họ đã chưa sống

và cái chết đã tới.

Thay vì nghĩ tới bất tử thân thể, nghĩ tới sống cuộc

sống của bạn một cách toàn bộ đi. Trong khi bạn đang ở

đây, sống cuộc sống của bạn trong sự giầu có đa chiều.

Và thế thì khi cái chết tới bạn sẽ cảm thấy nó như cao

trào, như đỉnh, như điều tối thượng - cuộc sống đạt tới

đỉnh cao nhất - và bạn sẽ tận hưởng cái chết nhiều như

bạn đã tận hưởng cuộc sống. Bạn sẽ hoàn toàn được

thoả mãn với cái chết bởi vì nó sẽ cho bạn nghỉ ngơi,

thảnh thơi; nó sẽ làm mới bạn. Nó sẽ lấy đi vỏ bọc cũ và

nó sẽ cho bạn vỏ bọc mới.

Nhưng mọi người cứ triết lí hoá. Họ đã tạo ra những

điều như Khoa học Ki tô giáo, tâm trí trên vật chất. Họ

nghĩ rằng nếu bạn tin rằng bạn sẽ không chết thì bạn sẽ

không chết.

Tôi nghe nói về một người là nhà khoa học Ki tô

giáo. Một hôm ông ấy gặp một thanh niên. Ông ấy hỏi

người thanh niên này, "Có tin gì về bố anh không?"

Anh thanh niên nói, "Ông ấy ốm lắm."

Nhà khoa học Ki tô giáo nói, "Toàn điều vô nghĩa!

Bảo ông ấy, 'Tâm trí trên vật chất.' Ông ấy tin ông ấy

ốm, có vậy thôi; chính niềm tin của ông ấy đang tạo ra

ốm. Đừng tin vào ốm và ông ấy sẽ mạnh khoẻ."

Sau vài ngày lại anh thanh niên đó bắt gặp nhà khoa

học Ki tô giáo này, và nhà khoa học Ki tô giáo hỏi, "Mọi

sự bây giờ thế nào với ông già rồi? Ông ấy thế nào?"

Và anh thanh niên nói, "Bây giờ ông ấy tin rằng ông

ấy chết."

Vấn đề không phải là niềm tin: ốm có thực tại, và

cái chết nữa cũng có thực tại. Vâng, bằng việc tin bạn

cũng có thể tạo ra vài bệnh - toàn bệnh giả, hư huyễn -

và bằng việc giải niềm tin đó trong họ bạn có thể phá

huỷ bệnh đó. Nhưng bạn không thể phá huỷ bệnh thực;

bệnh phải là giả ngay chỗ đầu tiên đã. Nếu bạn tin vào

nó và tạo ra nó, thế thì bằng việc giải niềm tin vào nó,

nó có thể bị vứt bỏ.

Nhưng cái chết không phải là niềm tin của bạn; bằng

không sao con vật chết? Chúng không tin, chúng không

tin rằng chúng sắp chết. Sao cây cối chết? Chúng không

tin rằng chúng sắp chết, chúng không có hệ thống niềm

tin nào. Sao các vì sao và mặt trời và mặt trăng chết?

Sao trái đất chết? Chúng không tin; cái chết là hiện

tượng phổ quát, nó xảy ra ở mọi nơi. Nó là một phần của

cuộc sống; nó là mặt bên kia của đồng tiền.

Tôi không ủng hộ gì cho Khoa học Ki tô giáo. Nó

chẳng là khoa học cũng không Ki tô giáo - nó đơn giản

là vô nghĩa.

Hai người trung tuần đang đi khỏi sân tennis sau vài

phút chơi. Người già hơn, anh chàng to béo đến mức độ

nào đó thở phì phò nặng nhọc.

"Tôi đoán tôi hơi thiếu sức," ông ta thú nhận một

cách buồn rầu.

"Ông chơi được bao lâu rồi, Herbie?" người trẻ hỏi.

"Quãng hai tuần."

"Thế thì để tôi cho ông chút lời khuyên thực hành.

Thử cách khoa học Ki tô giáo xem sao - tâm trí trên vật

chất."

"Tôi đã thử rồi," người béo thú nhận. "Khi đối thủ

của tôi giao bóng cho tôi, tâm trí khoa học Ki tô giáo

của tôi nói, 'Bây giờ, Herbie, mình phải chạy lên tới

lưới, ném quả tiu sắc bén vào góc xa của sân và rồi nhảy

về vị trí.' Điều đó đích xác là điều tâm trí khoa học Ki tô

giáo của tôi bảo tôi....

"Nhưng thân thể Do Thái của tôi nói, 'Herbie, làm

mình thành kẻ ngu à, mình không cần!'"

Thực tế, thân thể và tâm trí không phải là hai thứ:

thân thể là bên ngoài của tâm trí, tâm trí là bên trong của

thân thể. Dùng cụm từ 'thân thể và tâm trí' là không

đúng; bạn là thân tâm, thậm chí không có gạch ngang ở

giữa. Chúng ta phải dùng nó như một từ 'thân tâm', 'tâm

thân'. Cho nên tất nhiên, cái bên trong của bạn ảnh

hưởng tới cái bên ngoài của bạn, cái bên ngoài của bạn

ảnh hưởng tới cái bên trong của bạn - bạn là thân tâm -

nhưng bạn không bị kết thúc với thân tâm. Có nhân

chứng nữa.

John Fisant, thay vì bận tâm tới bất tử thân thể, có

tiếp xúc với việc chứng kiến linh hồn đi, điều quan sát

cả thân thể và tâm trí. Nó quan sát cuộc sống, nó quan

sát cái chết; do đó nó siêu việt trên cả cuộc sống và cái

chết. Chỉ chứng kiến này mới là bất tử vì nó không bao

giờ sinh và không bao giờ chết.

Thiền nhân gọi nó là bản lai diện mục khuôn mặt

nguyên thuỷ. Việc chứng kiến này là khuôn mặt nguyên

thuỷ của bạn. Và thiền không là gì ngoài nghệ thuật

khám phá ra khuôn mặt nguyên thuỷ của bạn. Bạn là bất

tử, nhưng không về thân thể; chỉ trong nhận biết, trong

tâm thức của mình bạn mới bất tử, bạn là phổ quát.

#13Câu hỏi thứ tư:

Thưa Thầy kính yêu,

Phật không phải là nhà thơ sao? Ông ấy không có

tâm trí logic sao? Chúng tôi phải thế nào để là đàn

ông và đàn bà mới, vượt ra ngoài điều thầy đã gọi

là tính một chiều của mình, khi nó dường như là

giáo huấn cơ sở của thầy, cũng như giáo huấn của

Phật, đơn giản là nhận biết?

Roderick, Phật Gautama không là nhà thơ nếu bạn

hiểu ông ấy một cách trực tiếp, nhưng nếu bạn hiểu ông

ấy qua tôi, ông ấy là nhà thơ đấy. Khi tôi nói về Phật

điều rất tự nhiên là mầu sắc của tôi được phản chiếu

trong ông ấy.

Tôi yêu thơ ca và tôi cứ tìm chất thơ ngay cả chỗ nó

không có.

Phật giống như mảnh đất sa mạc - nhưng tôi yêu ốc

đảo và tôi cứ khám phá ra chúng. Nếu bạn đã thấy Phật

bạn chắc đã thấy ngay lập tức rằng ông ấy không thể có

liên quan gì tới thơ ca cả. Thơ ca là hư cấu với ông ấy,

nhiều hư cấu như nó có với Plato. Trong nền Cộng hoà

của mình, Plato nói, nhà thơ sẽ không được phép, bởi lẽ

đơn giản là họ là kẻ dối trá, họ sống trong dối trá. Thơ

ca là gì? Việc nói dối đẹp đẽ! Phật cũng có cùng tâm trí

đó; ông ấy chắc đã đồng ý với Plato. Ông ấy rất nhấn

mạnh vào chân lí.

Cách tiếp cận của tôi là khác. Tôi không nhìn tôn

giáo như thứ khô cứng, chết. Với tôi tôn giáo là bài ca,

điệu vũ. Nếu tôi định tạo ra nền cộng hoà, cõi không

tưởng, thế thì nhà thơ sẽ là công dân duy nhất ở đó; họ

sẽ là người duy nhất được phép - bởi vì cái đẹp còn có

giá trị hơn nhiều so với bản thân chân lí. Và nhà thơ

khám phá ra cái đẹp - không chỉ khám phá, ông ấy tạo

ra. Nhà thơ mang tính sáng tạo.

Chính bởi vì tôi mà trong Phật bạn sẽ thấy thơ ca.

Tôi xin lỗi, tôi không thể làm khác được. Đó là lí do tại

sao Phật tử không sung sướng với tôi; đặc biệt các học

giả Phật giáo không sung sướng chút nào. Họ nói tôi cứ

tìm ra trong Phật những điều không có đó. Tôi không

quan tâm mấy tới liệu chúng có hay không. Tôi dùng

Phật chỉ như cái cớ, cũng như tôi dùng Jesus và tôi dùng

Mahavira và tôi dùng Patanjali. Tôi không phải là nhà

bình luận - tôi có linh ảnh riêng của mình. Tôi dùng

chúng như cái móc để treo bản thân tôi lên.

Khi các bạn nghe Phật qua tôi, nó là hiện tượng

hoàn toàn khác. Bạn đang nhìn qua mắt tôi; do đó Phật

sẽ trông như nhà thơ - nhưng ông ấy không phải là nhà

thơ. Ông ấy là người rất logic; do đó tôi nói ông ấy là

người một chiều. Ông ấy hoàn toàn logic, logic như

Ludwig Wittgenstein.

Wittgenstein nói bạn không nên nói về cái gì đó

không thể được nói ra. Đó đích xác là quan điểm của

Phật; Phật sẽ đồng ý ngay lập tức với Wittgenstein. Đó

đích xác là điều ông ấy đã nói hai mươi nhăm thế kỉ

trước Wittgenstein. Ông ấy chưa bao giờ nói về Thượng

đế bởi vì chẳng cái gì có thể được nói về Thượng đế; do

đó không nói gì cả. Ngay cả nói rằng không gì có thể

được nói về Thượng đế cũng là nói cái gì đó về Thượng

đế rồi; tốt hơn cả là thậm chí không nói điều đó.

Upanishads nói: Không cái gì có thể được nói về

Thượng đế; ngài là không định nghĩa được. Phật sẽ

không nói ngay cả điều đó bởi vì đó là tự mâu thuẫn.

Nói rằng không cái gì có thể được nói về Thượng đế là

tự mâu thuẫn bởi vì bạn đã nói điều gì đó rồi. Ngay cả

nói rằng không cái gì có thể được nói là đang nói cái gì

đó rồi. Phật đã hoàn toàn logic, tuyệt đối logic. Ông ấy

giữ im lặng tuyệt đối.

Bất kì khi nào ông ấy vào một thị trấn, thành phố,

làng, các đệ tử sẽ đi trước ông ấy để công bố, "Đừng hỏi

mười một câu hỏi này với Phật, bởi vì ông ấy sẽ không

trả lời, cho nên đừng phí hoài thời gian của các ông và

của ông ấy." Mười một câu hỏi đó bao gồm mọi thứ mà

triết học, thượng đế học, siêu hình được làm ra. Nếu bạn

không hỏi mười một câu hỏi đó, chẳng cái gì còn lại để

hỏi - chẳng cái gì siêu hình. Thế thì bạn có thể hỏi chỉ

vấn đề thực tại. Bạn có thể hỏi về cơn giận của mình,

tham lam của mình, dục của mình. Bạn có thể hỏi về

khổ của mình, đau khổ, cách gạt bỏ nó, nhưng bạn

không thể hỏi liệu Thượng đế có không. Bạn không thể

hỏi cái gì sẽ xảy ra sau cái chết. Bạn không thể hỏi chân

lí là gì, cái đẹp là gì, tốt là gì; ông ấy không cho phép

điều đó. Ông ấy là người rất logic và một chiều.

Cuộc sống là ba chiều. Và mãi cho tới nay đã có

những người, những người vĩ đại, nhưng họ tất cả đều

một chiều. Chẳng hạn, Phật là logic, Socrates cũng vậy.

Đã có các nhà thơ lớn - Kalidas, Rabindranath, Shelley,

Shakespeare. Họ là người một chiều: đẹp trong thượng

đế của họ. Và đã có những người đạo đức, người tuyệt

đối đạo đức, người đức hạnh có toàn thể cuộc sống được

dành cho việc chỉ là đức hạnh nhất có thể được:

Mahavira, Lão Tử. Nhưng tất cả đều là một chiều.

Nhân loại nay đã đi tới ngã tư đường. Chúng ta đã

sống con người một chiều, chúng ta đã vét cạn nó.

Chúng ta cần bây giờ con người giầu có hơn, ba chiều.

Chúng ta có thể gọi họ là ba C, cũng giống như ba R.

C thứ nhất là tâm thức (consciousness), C thứ hai là

từ bi (compassion), C thứ ba là sáng tạo (creativity).

Tâm thức là hiện hữu, từ bi là tình cảm, sáng tạo là

hành động. Sannyasin của tôi phải là cả ba điều này

đồng thời. Tôi đang cho bạn thách thức lớn lao nhất đã

từng được cho, nhiệm vụ khó khăn nhất cần được hoàn

thành. Bạn phải hiện hữu có tính thiền như Phật, đáng

yêu như Krishna, sáng tạo như Michelangelo, Leonardo

da Vinci. Bạn phải có tất cả những điều này đồng thời.

Chỉ thế thì tính toàn bộ của bạn mới được hoàn thành;

bằng không cái gì đó sẽ vẫn còn thiếu trong bạn. Và cái

còn thiếu trong bạn sẽ giữ bạn bị thiên lệch, không hoàn

thành. Bạn có thể đạt tới đỉnh rất cao nếu bạn là người

một chiều, nhưng bạn sẽ chỉ là một đỉnh. Tôi muốn bạn

trở thành toàn thể rặng Himalayas, không chỉ một đỉnh

mà nhiều đỉnh trên nhiều đỉnh!

Con người một chiều đã thất bại. Nó đã không có

khả năng tạo ra trái đất đẹp, nó đã không có khả năng

tạo ra thiên đường trên trái đất. Nó đã thất bại, hoàn toàn

thất bại! Nó đã tạo ra vài người đẹp, nhưng nó không thể

biến đổi toàn thể nhân loại, nó không thể nâng tâm thức

của toàn thể nhân loại. Chỉ vài cá nhân đây đó mới trở

nên chứng ngộ. Điều đó không giúp ích gì hơn. Chúng

ta cần nhiều người chứng ngộ hơn, và chứng ngộ theo

cách ba chiều.

Đó là định nghĩa của tôi về con người mới.

Roderick, bạn hỏi tôi, "Phật không phải nhà thơ

sao?"

Ông ấy không phải nhà thơ đâu! Nhưng những

người sẽ trở nên thức tỉnh cùng tôi sẽ là nhà thơ. Khi tôi

nói "nhà thơ" tôi không ngụ ý rằng bạn phải làm thơ -

bạn phải có tính chất thơ ca thôi. Cuộc sống của bạn

phải có tính chất thơ ca, cách tiếp cận của bạn phải có

tính chất thơ ca. Logic là khô khan, thơ ca là sống động.

Logic không thể nhảy múa; nhảy múa là không thể được

với logic. Nhìn logic nhảy múa sẽ giống như Mahatma

Gandhi nhảy múa vậy! Nó sẽ trông rất buồn cười. Thơ

ca có thể nhảy múa; thơ ca là điệu vũ của trái tim bạn.

Logic không thể yêu được; nó có thể nói về tình yêu,

nhưng nó không thể yêu được. Tình yêu dường như phi

logic. Chỉ thơ ca mới có thể yêu; chỉ thơ ca mới có thể

nhảy vào trong ngược đời của tình yêu. Logic là lạnh

lẽo, rất lạnh; nó là tốt khi có liên quan tới toán học,

nhưng nó không tốt khi có liên quan tới nhân loại. Nếu

nhân loại trở nên quá logic thì nhân loại biến mất; thế thì

chỉ có con số, không có con người - các con số thay thế

được.

Thơ ca, tình yêu, tình cảm cho bạn chiều sâu, sự

nồng ấm. Bạn trở nên được tan chảy hơn, bạn mất đi cái

lạnh lẽo như băng. Bạn trở nên con người hơn.

Phật là siêu nhân, về điều đó không có hoài nghi gì,

nhưng ông ấy mất đi chiều nhân bản. Ông ấy siêu phàm.

Ông ấy có cái đẹp của việc là siêu phàm, nhưng ông ấy

không có cái đẹp mà Zorba người Hi Lạp có. Zorba trần

tục thế.

Tôi muốn bạn là cả hai cùng nhau: Zorba Phật!

Người ta phải có tính thiền, nhưng không chống lại tình

cảm, vẫn tràn ngập với tình yêu. Và người ta phải có

tính sáng tạo. Nếu tình yêu của bạn chỉ là tình cảm và nó

không được dịch thành hành động, nó sẽ không ảnh

hưởng tới nhân loại lớn hơn. Bạn phải làm cho nó thành

thực tại, bạn phải vật chất hoá nó.

Đây là ba chiều của bạn: hiện hữu, tình cảm, hành

động. Hành động chứa mọi tính sáng tạo, mọi kiểu sáng

tạo: âm nhạc, thơ ca, hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc, khoa

học, công nghệ. Tình cảm chứa tất cả những cái là thẩm

mĩ: tình yêu, cái đẹp. Và hiện hữu chứa thiền, nhận biết,

tâm thức.

Bạn hỏi tôi, "Dường như là giáo huấn cơ sở của

thầy, cũng như giáo huấn của Phật...."

Tôi không có giáo huấn cơ sở nào, tôi không thể có

giáo huấn cơ sở được. Tôi không phải là thầy giáo chút

nào. Tôi không dạy các bạn, tôi đơn giản là sự hiện diện.

Bạn có thể học, nhưng tôi không dạy. Bạn có thể hấp thu

tâm linh tôi, và tâm linh tôi và tác động của nó sẽ phụ

thuộc vào bạn.

Có những người mà từ họ nhận biết sẽ giúp như

giáo huấn cơ sở; họ sẽ học nhận biết từ tôi. Và có những

người mà với họ tình yêu sẽ giúp đỡ; thế thì họ sẽ học

tình yêu như giáo huấn cơ sở từ tôi. Điều đó tuỳ thuộc

vào bạn. Tôi là đa chiều, do đó tôi có thể hấp thu đủ mọi

loại người.

Phật sẽ không chấp nhận tất cả các bạn đâu, nhớ lấy,

mà Jesus hay Mahavira cũng không; họ đã chọn lựa. Vài

người sẽ được chọn bởi Phật và vài người sẽ được chọn

bởi Jesus và vài người đã được chọn bởi ai đó khác.

Nhưng tôi không chọn chút nào, tôi tuyệt đối vô chọn

lựa. Bất kì ai tới tôi đều được chấp nhận, tuyệt đối được

chấp nhận, hoàn toàn được chấp nhận, bởi vì tôi không

có hình mẫu cơ sở. Tôi chỉ có hướng dẫn - và hướng dẫn

cho tất cả, cho mọi loại người.

Nó không phải là giáo huấn; giáo huấn trở thành

cứng ngắc, trở thành bị xác định. Nó chỉ là sự hiện diện.

Tôi chỉ là cửa sổ; qua tôi bạn có thể nhìn vào Thượng

đế. Và một khi bạn đã nhìn vào Thượng đế, thế thì bạn

có thể nhìn vào Thượng đế theo cách riêng của bạn - tôi

không được cần thêm nữa.

#13Câu hỏi thứ năm:

Thưa Thầy kính yêu,

Sao tất cả những người thức tỉnh đều chống lại việc

ham muốn? Cái gì sai với ham muốn?

Sujata, thiền về câu châm ngôn của Murphy: Cẩn

thận về điều bạn muốn, vì bạn có nghĩa vụ nhận nó.

Câu hỏi thứ sáu:

Thưa Thầy kính yêu,

Tại sao tôi bao giờ cũng thấy khó quan hệ với vợ

tôi?

Richard, vì bạn là người Anh, và bạn biết các bà vợ

Anh!

Được phái tới Australia cho chuyến đi kinh doanh

kéo dài, người Anh được hỏi ông ấy có cảm thấy thiếu

vợ mình không, người vẫn ở London.

"À, tôi không thiếu cô ấy nhiều thế đâu," ông ta giải

thích. "Một ngày một tuần tôi thuê một người đàn bà địa

phương tới và chì chiết."

Sau khi họ đã thảo luận vấn đề của mình trong hơn

một giờ, quí bà người Anh khó tính nói với nhà tư vấn

hôn nhân, "Tôi nghĩ điều bất công là gợi ý rằng tôi

không thích dục. Nhưng ông có thể nói gì về người đàn

ông muốn nó chỉ năm hay sáu lần một năm?"

Và chuyện cuối cùng:

"Em đang tập các bài võ công phu để phòng trường

hợp tên quỉ dâm dục nào định hiếp em trong đêm tối nào

đó," người đàn bà Anh với khuôn mặt tỉa gọn bảo ông

chồng chịu đựng của mình.

"Sao bận tâm?" ông chồng nhận xét. "Nó sẽ không

bao giờ làm chỗ tối đó đâu."

Câu hỏi thứ bẩy:

Thưa Thầy kính yêu,

Tất cả chư phật đều nói rằng người ta nên học im

lặng, nhưng cuộc sống thường ngày người ta phải

nói chứ. Thế thì người ta phải làm gì?

Shakti, trước hết thiền về câu châm ngôn của

Murphy: Nghĩ hai lần trước khi bạn nói và thế rồi đừng

nói gì cả.

Nhưng nếu bạn phải nói cái gì đó, thì thiền về điều

này:

Walker, một chủ báo, đang đi nghỉ ở Maine. Ông ấy

bắt gặp một túp lều cô độc và bắt đầu phỏng vấn người

chủ với ý tưởng viết ra câu chuyện tại chỗ.

"Đây là nhà của ai?" phóng viên hỏi.

"Moggs'," người Mainer đáp.

"Nó được dựng bằng cái gì trên thế giới?"

"Gỗ."

"Có con vật tự nhiên nào ở vùng này?"

"Ếch."

"Ông có loại đất nào?"

"Đầm."

"Khí hậu ra sao?"

"Sương."

"Ông sống chính bằng gì?"

"Lợn."

"Ông có bạn bè không?"

"Chó."

Viễn cảm vào!

Câu hỏi thứ tám:

Thưa Thầy kính yêu,

Aha! Tôi nghĩ đã có cái gì đó quen thuộc về ông ấy -

Murphy là người Do Thái! Thường được gọi là

Moshe Kapoyer chứ gì?

Tao, đây là khám phá nổi bật đấy! Tôi tự hỏi làm

sao bạn xoay xở tìm ra được nó. Điều đó đúng. Moshe

Kapoyer là người Do Thái duy nhất ở một thị trấn nhỏ

và vì kinh doanh tồi tệ nên ông ấy quyết định đổi tên.

Cũng có những lí do khác để đổi tên ông ấy: bởi vì ông

ấy là người Do Thái và chỉ người Do Thái, những người

né tránh ông ấy và kinh doanh của ông ấy mới khổ. Và

điều thứ hai bởi vì tên ông ấy, Moshe Kapoyer, nghĩa là

ông Lộn nhào hay ông Lộn ngược, cho nên ông ấy

không thật sướng lắm với cái tên của mình.

Ông ấy tới một quan toà và trở thành ông Jones.

Một tuần sau ông ấy quay lại cũng ông chánh án đó để

yêu cầu đổi tên ông ấy thành Murphy.

"Sao ông muốn đổi tên mình? Tôi vừa mới đổi tên

cho ông tuần trước."

"Để cho khi mọi người hỏi tên tôi là gì trước khi nó

là Murphy, tôi có thể nói đó là Jones."

Câu hỏi thứ chín:

Thưa Thầy kính yêu,

Tôi cũng có thể là một thượng đế chứ?

Krishna, Deva, tôi đã cho bạn cái tên Krishna Deva.

Nó nghĩa là Thượng đế Krishna. Vâng, không có rắc rối

gì về nó. Thực tế bạn là thượng đế; cho dù bạn muốn là

ai đó khác bạn cũng không thể là được. Mọi người đều

cố là ai đó khác, nhưng không ai đã bao giờ thành công

trong việc là ai đó khác. Thượng đế là bản tính của

chúng ta. Bạn có thể quên tất cả về nó, nhưng bạn không

thể thay đổi được nó.

Flaherty và Gluckstein đang thảo luận về công đức

của tôn giáo của họ.

"Trả lời tôi về điều này," người Ai rơ len nói, "một

trong các con trai ông có thể là giáo hoàng được

không?"

"Không," Gluckstein trả lời. "Một trong các con trai

của ông có thể là Thượng đế không?"

"Sao, tất nhiên là không!" Flaherty đáp.

"Đấy," Gluckstein nói, "một trong các con trai của

chúng tôi đã làm điều đó!"

Nếu Jesus có thể làm được điều đó, nếu Phật có thể

làm được điều đó, sao bạn không làm được? Thực tế, họ

có thể làm được điều đó bởi vì nó không phải là cái gì

đó được đạt tới, nó là cái gì đó chỉ được khám phá ra.

Chúng ta đã quên mất nó; nó đã có đó rồi như dòng chảy

ngầm. Tính thượng đế của chúng ta bao giờ cũng có đó;

dù bạn đi đâu nó cũng đi cùng bạn. Nó là bạn. Nó ở

trong tội đồ, nó thậm chí ở trong thánh nhân!

#13Câu hỏi thứ mười:

Thưa Thầy kính yêu,

Tôi thích câu trả lời của thầy hôm nọ cho câu hỏi

của Arup. Rắc rối duy nhất là ở chỗ tôi đã bắt đầu

về nhà sớm và không uống rượu nhiều thế, trong khi

Arup đi tới đám tiệc nhảy disco cùng nhau, đi chơi

và nói chung có thời gian thoải mái. Tôi đang trở

nên có tính thiền, trong khi Arup đang trở nên

phóng đãng như kẻ khờ?

Niranjan, bây giờ bạn biết tại sao tôi nói với Arup

rằng đây tuyệt đối là cách chắc chắn để nâng tâm thức

của nhân loại. Cô ấy đã bắt đầu - cô ấy đã bắt đầu với

bạn. Bạn là nạn nhân đầu tiên của cô ấy!

Câu hỏi cuối cùng:

Thưa Thầy kính yêu,

Hiểu lầm là gì?

Dhyanesh, ba câu chuyện cho bạn:

Anna: "Có đúng là điều tớ nghe thấy về chồng cậu

bỏ hút thuốc không?"

Hannah: "Đúng, bây giờ anh ấy chỉ hút thuốc sau

bữa ăn - bữa ăn của anh ấy, bữa ăn của tớ, bữa ăn của

các con, bữa ăn của mọi người!"

Chuyện thứ hai:

Người bị kiện bị buộc tội bôi nhọ danh dự của một

thiếu nữ thuần khiết, theo sự chứng nhận của một quí bà,

và anh gặp lúc khó khăn để giải thích hoàn cảnh này.

"Tôi vô tội, thưa quan toà," anh ta tuyên bố. "Mọi

điều tôi đã làm là đưa cho cô ấy một cốc rượu scotch và

nước sô đa, và cô ấy đã ngửa ra!"

Và câu chuyện thứ ba và là câu chuyện cuối:

Chàng thanh niên Moishe vừa cưới vợ. Vào ngày

cưới, bố anh ta kéo sang bên và nói, "Trông đây,

Moishe, nếu con muốn có hôn nhân thành công con phải

làm ba điều này rõ ràng ngay từ đầu: con phải chứng tỏ

cho vợ con rằng con là người chủ gia đình, rằng con là

đàn ông, và rằng con độc lập."

Moishe cám ơn bố và đi đám cưới và tuần trăng mật.

Kavita, nếu bạn đang ngủ, thức dậy đi!

Sau khi đôi vợ chồng đã trở về, người bố và người

con trai một mình ở cùng nhau trong một khoảnh khắc

im lặng, người bố hỏi lời khuyên của ông ta có tác dụng

không.

"A, tuyệt vời!" Moishe tươi cười. "Con đưa vào thực

hành ngay đêm đầu tiên của tuần trăng mật. Khi chúng

con một mình trong phòng khách sạn, đầu tiên con xé

toạc quần áo cô ấy để chứng tỏ cho cô ấy ai là chủ; thế

rồi con xé toạc quần áo của con để chứng tỏ cho cô ấy

rằng con là đàn ông; và thế rồi con thủ dâm ngay trước

mặt cô ấy để chứng tỏ cho cô ấy là con độc lập!"

Đủ cho hôm nay.

END

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top